Triệu Khải thấy quân đem thây Thương Dung đi bỏ ngoài đồng nổi giận ra nói lớn:
– Tôi không thể phụ ơn vua trước, nên quyết chết giữa đền để tạ tội với tiên quân.
Nói rồi chỉ vào mặt Trụ Vương mắng:
– Hôn quân, nghe ta hài tội đây: Giết Thừa Tướng, hại quan trung, chư hầu sẽ không còn kính trọng. Mê Ðắc Kỷ giết vợ bỏ con, cơ nghiệp không còn. Làm vua mà không tròn bổn phận làm vua, tam cang ngũ thường đổ nát, như thế còn ai kính phục.
Trụ Vương nổi giận đỏ mặt hét:
– Ðồ thất phu, không còn biết giữ đạo vua tôi là gì nữa. Tả hữu đâu, đem Bào Lạc đốt nó đi cho khuất mắt ta.
Triệu Khải nói:
– Ta chết đi không hại gì, vì tên vua ngu muội sẽ được tiếng trung thần, còn hôn quân mất nước sẽ bị nghìn đời sỉ vả, tiếng xấu thiên thu.
Triệu Khải nói một hồi thì lửa Bào Lạc đã đỏ, quân sĩ bắt Triệu Khải trói lại, lột hết áo mão, xiềng vào Bào Lạc. Phút chốc thịt xương Triệu Khải tan thành tro bụi. Triều thần ai nấy đều thương xót, thở vắn than dài.
Trụ Vương truyền bãi trào về cung, Ðắc Kỷ ra nghênh tiếp, Vua Trụ nói:
– Bữa nay Thương Dung đập đầu tự tử, Triệu Khải bị ta dùng Bào Lạc đốt thành than. Tuy vậy, ta xem lối hành hình ấy chúng nó không ghê, vậy Khanh tính kế nào trị bọn triều thần mới được.
Ðắc Kỷ tâu:
– Xin Bệ Hạ yên tâm, thần thiếp suy tính một hôm sẽ có cách.
Trụ Vương nói:
– Nay mỹ nhân đã làm Hoàng Hậu, không còn ai vô lễ với mỹ nhân nữa, chỉ sợ Khương Hoàng Sở ở Ðông Lỗ cử binh về đánh, trong lúc Thái Sư Văn Trọng chưa về, biết ai chống cự?
Ðắc Kỷ tâu:
– Thần thiếp là phận đàn bà, mưu trí không bao nhiêu, xin Bệ Hạ đòi Bí Trọng vào hỏi xem có mưu gì hay không?
Trụ Vương khen:
– Ái khanh nói rất phải.
Liền đòi Bí Trọng ứng hầu, và nói:
– Trẫm đang lo Khương Hoàng Sở cử binh làm phản, báo cừu cho Khương Hậu, Khanh có kế gì hay để ngăn ngừa mũi giặc ấy hay không?
Bí Trọng quì tâu:
– Khương Hậu đã mất, hai vị HoàngTử bị gió thổi bay mất, Thương Dung đập đầu tự vận, Triệu Khải bị Bào Lạc ra tro, các quan văn võ thế nào cũng oán trách Bệ Hạ, và nhắm vào lực lượng Khương Hoàng Sở có thể báo thù được. Mũi giặc ấy tất không tránh khỏi. Nay Bệ Hạ nên xuống chiếu, triệu bốn Trấn chư hầu về chầu, chém đầu hết. Như vậy, tám trăm Trấn chư hầu nhỏ sẽ không ai làm chủ chẳng khác rắn không đầu, cọp thiếu vây, dù chúng có muốn làm phản cũng không được. Ðó là Bệ Hạ biết lo xa.
Vua Trụ khen:
– Khanh thật là kẻ mưu cao trí rộng. Tô Hoàng Hậu tiến cử không lầm.
Bí Trọng cúi lạy ra về. Trụ Vương liền viết chiếu sai sứ giả đi bốn Trấn. Bốn vị sứ thần tuân lệnh ra đi…
Vị sứ thần đến Tây Kỳ thấy phong tục rất tốt, cảnh vật hiền hòa, từ dân chúng đến các quan đều một lòng yêu nước, tuân theo lề luật quốc gia, không gian tham, không trộm cắp, không một tiếng gây gỗ ngoài chợ.
Sứ thần khen:
– Nghe đồn ông Bá Cơ nhân đức, trị nước ôn hòa, quả nhiên đúng như thuở Thuấn Nghiêu, lời đồn ấy không sai.
Bấy giờ, Tây Bá Cơ Xương đang lâm triều nghị việc với các quan văn võ, bỗng nghe có tin báo:
– Thiên sứ xin vào yết kiến.
Tây Bá liền dẫn bá quan văn võ ra khỏi thành nghênh tiếp.
Sứ thần bước vào trước điện, truyền đặt bàn hương án, và đọc chiếu như sau:
“Biển Bắc dậy loạn, thiên hạ đảo huyền, các quan triều thần đều hết phương hết kế. Trẫm lấy làm lo lắm nên ban chiếu triệu bốn Trấn chư hầu về Triều Ca cùng Trẫm bàn việc binh đao. Nếu được chiếu này, Tây Bá hãy đến cho mau, kẻo Trẫm trông đợi. Như dẹp xong giặc, Trẫm sẽ chia đất phong thêm. Trẫm không quên lời, Khanh chớ trễ bước”.
Tây Bá lạy rồi truyền dọn yến đải sứ và sáng hôm sau sắm lễ vật đưa Thiên sứ lên đường.
Tây Bá nói với Thiên sứ:
– Xin ngài về trước báo tin với Thiên tử hay tôi sắp xếp xong sẽ về Triều Ca liền để kịp họp mặt cùng bốn Trấn.
Sứ thần lên ngựa ra đi.
Tây Bá trở vào kêu Táng Nghi Sanh dặn:
– Ta đi khỏi thì việc trong giao cho quan Ðại phu, việc ngoài giao cho Nam Cung Hoắt và Tân Giáp.
Nói rồi cho đòi Bá Áp Khảo đến dạy rằng:
– Hôm qua Thiên tử đem chiếu đòi cha, cha có bói thử một quẻ thấy chuyến đi này dữ nhiều lành ít. Dẫu không đến chết cũng bị tù nạn bảy năm. Con ở Tây Kỳ phải noi theo lề luật, không nên đổi phép nước, cứ theo đường lối cũ mà làm. Anh em phải hòa thuận, tôi chúa phải yêu thương, muốn làm việc gì phải tính cho kỹ lưỡng. Dân nghèo phải xuất kho cứu giúp, dân no phải dạy dỗ, chớ có hành hạ khắt khe, đợi bảy năm nữa mãn hạn cha sẽ về, chớ nên thăm viếng.
Bá Áp Khảo quì thưa:
– Tâu phụ vương. nếu phụ vương bị bảy năm tai nạn vậy để con đi thế cho.
Tây Bá nói:
– Mỗi người đều có một số mạng do do trời đất an bài, trốn tránh sao được. Con cứ ở nhà làm đúng như theo lời giáo huấn của cha là giữ được hiếu đạo rồi.
Tây Bá vào cung thăm mẹ là bà Thái khuông, thưa rành các việc.
Thái Khương nói:
– Vừa rồi mẹ có gieo quẻ thấy con bị nạn bảy năm, con có biết không?
Tây Bá nói:
– Thiên tử có lệnh đòi con, con vừa gieo quẻ cũng thấy như vậy. Nay mọi việc con đã sắp xếp xong, giao cho triều thần quản lãnh, còn Bá Áp Khảo thay con thế ngôi, con vào thưa cho mẹ rõ, mai sáng con lên đường vào Triều Ca.
Bà Thái Khương căn dặn:
– Con đến Triều Ca phải giữ mình, coi bản thân là trọng.
Tây Bá lạy tạ, nói:
– Con tuân lời mẹ.
Nói rồi từ giả Nguyên Phi Thái Cơ.
(Tây Bá có bốn cái vú và hai mươi bốn người vợ, sinh được chín mươi chín người con. Con trai lớn là Bá Áp Khảo, con thứ là Cơ Phát, sau lên ngôi Thiên tử gọi là Võ Vương).
Bữa sau Tây Bá sắm sửa ra đi đem năm mươi binh mạnh.
Thế tử Bá Áp Khảo cùng quần thần là Táng Nghi Sanh, Nam Cung Hoát, Mao Công Toại, Châu Công Ðán, Thiệu Công Thích, Tất Công, Vinh Công, Tân Giáp, Tân Miễng, đến trường đình dọn tiệc tiễn hành.
Tây Bá uống rượu với các quan và nói:
– Hôm nay ta cùng các quan cách biệt, nhưng bảy năm nữa vua tôi sẽ trùng phùng.
Tây Bá dặn đi dặn lại, Bá Áp Khảo:
– Anh em con nên hòa thuận để cha khỏi nhọc lòng lo.
Các quan đều quyến luyến không nỡ rời. Giờ tiễn hành kéo dài hơn nửa buổi.
Tây Bá lên ngựa đi bảy mươi dặm thì mới đến núi Kỳ Sơn. Lần hồi đi hơn ba mươi dặm nữa mới thấy núi Yên Sơn trước mặt.
Bấy giờ trời đã gần tối, Tây Bá truyền quân dừng lại và nói:
– Trời sắp có mưa to, chúng bay hãy coi có khoản rừng rậm hoặc nhà ai gần đây núp mưa đã.
Quân lính nghe nói ngạc nhiên thì thầm:
– Trời không có chút mây, nắng chang chang như lửa, mưa sao đuợc!
Thế rồi chỉ chốc lát, mây kéo nghịt trời. Tây Bá hối quân sĩ vào rừng rậm cho mau.
Vừa chạy tới cụm rừng đã thấy trời trút nước xuống như thác đổ hơn nửa giờ vẫn chưa tạnh.
Tây Bá lại nói với quân sĩ:
– Hãy ngồi xít vào kẻo có sấm lớn.
Quân sĩ vội nép mình vào trong, xảy nghe một tiếng sấm như xé không gian, như núi lở đất long, làm ai nấy kinh hãi
Trời dứt mưa, quân sĩ uể oải lên đường. Tây Bá ướt cả áo giáp ngồi trên ngựa, nói:
– Sấm lớn quá chắc có tướng tinh ra đời. Chúng bay đi tìm đi tìm tướng tinh xem thử.
Quân sĩ đưa mắt nhìn nhau cười thầm:
– Tướng tinh là ai? Biết đâu mà tìm?
Tuy vậy quân sĩ không dám trái lệnh, phân nhau bốn hướng đi lang thang làm ra bộ tìm kiếm để dạo cảnh luôn.
Bỗng nghe bên gò mả có tiếng con nít khóc oa oa. Quân sĩ xúm lại, thấy một đứa trẻ sơ sinh ai bỏ rơi ở đó. Chúng bàn với nhau:
– Có khi tướng tinh là đứa bé bỏ rơi này chăng?
Bèn bồng đứa bé đến trao cho Tây Bá.
Tây Bá thấy thằng nhỏ mặt như nhụy đào, mắt như sao nháy, mừng lắm, nói với quân sĩ:
– Ta đã có chín mươi chín đứa con, nay nuôi thằng nhỏ này nữa cho đủ một trăm. Tướng mạng nó ngày sau quí lắm. Bây giờ bồng nó vào xóm mướn người nuôi dưỡng, đợi bảy năm nữa ta sẽ rước về.
Tây Bá cùng đoàn quân tìm đến một thôn xóm, bỗng gặp một vị đạo sĩ, tay cầm gậy bước ra cản đường nói:
– Xin chào Chúa công.
Tây Bá liền xuốg ngựa đáp lễ và hỏi:
– Ðạo sư ở động nào, đến đây có việc gì?
Ðạo sĩ nói:
– Tôi ở động Ngọc Trụ, thuộc núi Chung Nam tên là Vân Trung Tử, vì nghe sấm có biết có vì tướng ra đời nên đến đây tìm.
Tây Bá truyền đem hài nhi ra cho Ðạo sĩ xem.
Vân Trung Tử liền bồng xem một hồi rồi nói:
– Tướng tinh đợi đến lúc này mới chịu ra mắt.
Rồi nói với Tây Bá:
– Ðể tôi mang nó về núi nuôi dưỡng, chừng Chúa công trở lại tôi sẽ giao trả.
Tây Bá nói:
– Ðạo sư muốn như thế cũng được. Song tôi muốn đặt cho nó một cái tên, để sau này tôi dễ dàng gặp lại nó.
Vân Trung Tử nói:
– Do tiếng sấm đó mà sinh ra nó, vậy đặt tên nó là Lôi Chấn Tử cho tiện.
Tây Bá khen phải, trao đứa bé cho Vân Trung Tử. Vân Trung Tử từ giã, bồng Lôi Chấn Tử về động.
Còn Tây Bá đi khỏi năm ải qua sông Huỳnh Hà, thẳng đến Triều Ca, vào trạm Kim Ðình đã thấy ba Trấn chư hầu cùng nhau ngồi uống rượu.
Trông thấy. Tây Bá mọi người đều mừng rỡ đón chào, Khương Hoàng Sở hỏi:
– Tây Bá Hầu sao đến trễ vậy?
Tây Bá nói:
– Ðường xa quá, tôi lật đật mà vẫn đến sau.
Kế quân dọn tiệc, bốn vị chư hầu ngối lại uống rượu cho đến tối.
Tây Bá nói:
– Chẵng biết có việc chi quan trọng lắm, nên Thiên Tử cho đòi chúng ta, chớ như giặc Bắc thì đã có Võ Thành Vương thừa sức cán đáng, xếp đặt trong triều thì có Tỉ Can tài ba lỗi lạc, chúng ta về đây chẳng biết việc gì?
Ba trấn chư hầu kia cũng không ai định được duyên cớ, cứ ngồi uống rượu mãi.
Bấy giờ rượu đã ngà ngà say, Nam Bá Hầu Ngạt Sùng Võ lâu nay nghe tiếng Sùng Hầu Hổ bóc lột của dân, tham nhũng nhiều việc, nên ngứa họng nói:
– Này, Bắc Bá Hầu tôi muốn nói với ngài một lời, chẳng biết ngài có giận tôi không?
Bắc Bá Hầu Sùng Hầu Hổ cười lớn:
– Có chuyện gì thì cứ nói ra nghe. Chúng ta cùng là chức hầu cả, chỗ thân tình còn e ngại gì!
Ngạt Sùng Võ nói:
– Nếu thế thì còn gì thân mật bằng. Tôi nghe ông có nhiều tăm tiếng không tốt, mất thể diện đại thần! Ông bóc lột của dân, chia với Vưu Hồn, Bí Trọng là hai tên dua mị. Việc ấy có hay không?
Sùng Hầu Hổ đỏ mặt, nói:
– Ai nói với ông như vậy!
Ngạt Sùng Võ cười lớn:
– Ðó là tiếng đồn, cần gì phải có chứng cớ. Tôi nghe ông lúc làm lầu Trích Tinh đã lấy của nhà giàu, bắt nhà nghèo nai lưng gánh chịu, thật mất lẽ công bình. Lời xưa nói: chứa lành được phước, chứa dữ gặp họa. Tôi với ông là chỗ thân tình, không lẽ cứ để ông mang tiếng xấu ấy mãi sao. Ông nên sửa chữa hành động của mình để chuộc lại tiếng xấu ấy.
Sùng Hầu Hổ ỷ thế Vưu Hồn, Bí Trọng nên tánh tình ngang ngạnh, khi đã chạm tự ái rồi không còn kể gì phải trái nữa, trợn mắt nhìn Ngạt Sùng Võ hét lớn:
– Khốn nạn! Mày dám tìm lời bêu xấu ta truớc mặt chư hầu à?
– Nam Bá Hầu lấy lời phải khuyên nhủ, sao ông lại làm dữ như vậy. Giữa tiệc có chúng tôi, lẽ nào chúng tôi để ông đánh Nam Bá Hầu. Nếu ông có lỗi thì ăn năn, bằng không thì cũng nên thanh minh, rồi bỏ qua, nối lại tình giao hảo với nhau không tốt hơn sao?
Sùng Hầu Hổ muốn đánh Ngạt Sùng Võ, nhưng thấy Tây Bá Hầu can ngăn, đành rút tay về, toan ngồi xuống, chẳng ngờ Ngạt Sùng Võ đã lẹ tay hơn, đánh ngay vào mặt Sùng Hầu Hổ một cái đau thấu xuơng.
Sùng Hầu Hổ không còn nhịn được nữa, xốc tới ôm Ngạt Sùng Võ vật xuống. Hai người bám sát nhau.
Khương Hoàng Sở vội chen vào giữa vẹt hai người ra, nói lớn:
– Ðại thần mà đánh lộn với nhau thì còn gì thể thống nữa! Bắc Bá Hầu ơi đêm đã khuya, nên đi nghỉ là hơn.
Sùng Hầu Hổ nuốt hận đi ngủ.
Có thơ rằng:
Uống rượu bày lời nói thấp cao
Tôi gian toan kế hại anh hào
Loạn ly từ đấy tràn thiên hạ
Dân ở Triều Ca mấy vạn hao.
Sùng Hầu Hổ đi ngủ, chỉ còn ba vị chư hầu ba trấn ngồi nói chuyện suốt đêm.
Có một tên quân hầu thấy vậy lén ngâm nhỏ một câu:
Nửa đêm rượu cúc vui canh lụn
Tảng sáng máu hường nhuốm chợ mai.
Vì đêm khuya, giọng ngâm rất nhỏ, nhưng nghe rất rõ ràng.
Tây Bá Hầu bỗng hỏi lớn:
– Ai vừa ngâm câu thơ đó hãy ra đây ta bảo.
Mấy tên quân hầu đều đến quì trước mặt không ai dám nhận cả.
Tây Bá Hầu nói:
– Ta vừa nghe rõ ràng, chúng bay chối sao được. Nếu không có đứa nào thú nhận ta truyền chém hết.
Bọn quân hầu thất kinh, chỉ vào một tên quân đàng trước nói:
– Tai họa xảy ra thế này là tại tên Dao Phước đó.
Tây Bá liền hỏi tên quân gọi là Dao phước:
– Vì đâu mà ngươi lại ngâm hai câu thơ ấy. Hãy nói thiệt, ta trọng thưởng.
Dao Phước thưa:
– Việc này rất trọng đại và bí mật. Tôi là đứa bộ hạ của quan nội giám nên mới rõ. Sở dĩ Khương Hoàng Hậu thác oan, hai vị Hoàng Tử bị gió thổi bay mất vì Thiên tử đam mê mỹ sắc, không nghe lời can gián của tôi trung, chế hình Bào Lạc hại tôi hiền, do đó Thiên tử sợ chư hầu dấy binh nổi loạn, nên nghe lời kẻ dua nịnh gạt các ngài về đây để chém đầu. Tôi thấy các ngài là những đại thần không nỡ giấu nên mới tiết lộ điều đó.
Khương Hoàng Sở nghe nói hỏi:
– Khương Hậu phạm tội gì mà bị hành hình đến chết?
Dao Phước kể lại mọi việc vừa xảy ra trong cung cấm và ngoài triều thần trong giai đoạn vừa rồi.
Khương Hoàng Sở nghe xong ngã lăn ra chết giấc. Tây Bá thương hại, vội đỡ dậy.
Khương Hoàng Sở quá đau đớn, nói:
– Con tôi bị khoét mắt, đốt tay, thật là một cực hình chưa bao giờ có đối với một vị Hoàng Hậu.
Tây Bá khuyên:
– Người chết rồi không sống đậy được nữa. Hiền hầu có than khóc cũng chỉ làm cho kẻ khác tủi lòng. Ðể mai, chúng ta đồng viết sớ vào triều can gián, may ra Bệ hạ hồi tâm sửa mình, lo việc chánh.
Khương Hoàng Sở nói:
– Trước đây các vị trung thần như Thương Dung, Triệu Khải, Mai Bá chỉ vì can vua mà bỏ mình. Nay các ngài vì tôi dự vào việc này e không khỏi họa. Thôi, cứ để mình tôi dâng sớ mà thôi.
Tây Bá Hầu nói:
– Hiền hầu dâng lên một sớ, còn chúng tôi đứng chung một sớ. Tất cả đều có lời can vua mới phải đạo làm tôi trong lúc quốc biến gia vong này.
Khương Hoàng Sở vừa khóc vừa ngồi lại viết sớ.
Bấy giờ Vưu Hồn, Bí Trọng thấy các trấn chư hầu đã về đủ mặt liền vào cung báo cho Trụ Vương hay.
Trụ Vương mừng lắm hỏi Bí Trọng:
– Trẫm phải làm sao bây giờ?
Bí Trọng tâu:
– Ngày mai bốn chư hầu thế nào cũng dâng sớ can gián, xin Bệ hạ đừng xem đến làm gì, cứ việc truyền đem chém đầu hết.
Vua Trụ nhận lời, sáng hôm sau, Trụ Vương lâm triều Huỳnh Môn quan vào báo:
– Bốn trấn chư hầu được lệnh bệ hạ xin vào ra mắt.
Vua Trụ cho vào. Bốn chư hầu lạy chúc mừng xong, Khương Hoàng Sở dâng lá sớ lên.
Tỉ Can tiếp lấy trải trước long sàng.
Vua Trụ không thèm xem, hỏi Khương Hoàng Sở:
– Khanh đã biết tội chưa?
Khương Hoàng Sở tâu:
– Tôi trấn Ðông Lỗ, bình an một cõi, noi theo lề luật nào có tội gì. Bệ hạ mê sắc, nghe lời nịnh thần không kể đến nghĩa vợ chồng, khoét mắt, đốt tay Hoàng Hậu hành hình một cách ghê gớm như vậy đâu phải luật Thành Thang. Ðã vậy còn ra lệnh chém hai vị Ðiện Hạ, làm Bào Lạc đốt tôi trung. Tôi đội ơn tiên đế không kể mạng sống, liều mình dâng sớ khuyên can. Xin Bệ hạ bỏ tà quy chánh, giết kẻ nịnh thần, xa rời mỹ sắc lo việc trị dân sửa đức thì người sống cũng mang ơn, mà người chết cũng cam tâm nhắm mắt.
Trụ Vương nổi giận mắng lớn:
– Lão tặc! Ngươi dám thông đồng với con gái mưu giết Trẫm soán đoạt ngôi trời. Tội ấy lớn bằng non, không lo chịu tội còn tìm lời mắng Trẫm. Võ sĩ đâu, hãy bắt tên phản tặc này đem phân thây mau.
Võ sĩ áp lại lột hết áo rnão.
Khương Hoàng Sở mắng vãi vào mặt Trụ Vương không dứt.
Ba trấn chư hầu đều quì xuống tâu:
– Khương Hoàng Sở lòng ngay phò chúa, chẳng có hành động thí quân, xin Bệ Hạ xem sớ của chúng tôi rồi xét lại.
Vua Trụ quyết tình giết hết bốn Trấn chư hầu nên không thèm coi sớ.
Ba vị Tổng trấn chư hầu thấy vua chẳng xem sớ, cứ việc truyền chém Khương Hoàng Sở, vội vã quì tâu:
– Chúa là đầu não, bầy tôi như kẻ tay chân. Bệ không xét lẽ phải trái, chém trung thần như chém kẻ thù nghịch, chúng tôi e trăm họ không phục mà sanh biến chăng? Xin Bệ hạ xét lại.
Tỉ Can liền trải tờ sớ ra trước mặt Trụ Vương. Trụ Vương cực chẳng đã phải xem.
Tờ sớ viết:
“Chúng tôi đâng sớ là Ngạt Sùng Võ, Cơ Xương, Sùng Hầu Hổ, cúi đầu trước bệ, cúi xin Bệ hạ nhận lời ngay.
Lời xưa ví: Vua Thánh trị thiên hạ chăm lo việc nước, gần người hiền, xa kẻ dữ chẳng chuộng lâu đài, không ham tửu sắc.
Vua Thuấn, Vua Nghiêu nhờ noi đức ấy mà thiên hạ thái bình.
Ðến nay Bệ Hạ nối ngôi, chưa từng làm việc chính, lại chuộng sắc, gần gian tà, trong thì giết vợ hại con, ngoài làm Bào Lạc hại tôi trung.
Vợ con và tôi thần đều là người gần gũi Bệ hạ, coi như tay chân Bệ Hạ, bệ hạ nỡ chặt bỏ đi tất nhiên Bệ hạ phải suy yếu,
Mối nước mỗi ngày một lầm than. Kẻ nịnh xúi Bệ Hạ làm những việc đó tức là đã dụng tâm đưa Bệ Hạ vào con đường bệnh hoạn để chúng một ngày kia thu đoạt giang san. Mong bệ hạ tỉnh ngộ, tự sửa mình, xa rời tửu sắc, giết Ðắt Kỷ, chém đầu Bí Trọng, Vưu Hồn, để mắt khỏi thấy loài dâm dục, tai khỏi nghe tiếng sàm tấu nịnh thần. Ðược vậy giang sơn sẽ vững bền mãi mãi,
Vua Trụ xem xong tờ sớ nổi giận xé nát, ném luống đất hét lớn:
– Quả là một lũ gian thần, đùa theo đảng nghịch. Võ sĩ đâu, đem chém đầu hết cho Trẫm.
Trong bốn trấn chư hầu này có Sùng Hầu Hổ lâu nay có dính líu với Bí Trọng, Vưu Hồn về việc tham nhũng nên không lẽ để
Sùng Hầu Hổ cùng chết trong đám ấy, cho nên Vưu Hồn, Bí Trọng vội quì tâu:
– Bốn Trấn đều xúc phạm đến uy trời, lẽ ra không được hưởng ân huệ. Tuy nhiên, chúng tôi xét thấy Sùng Hầu Hổ mặc dầu đứng chung trong sớ, chứ thật tình không có ý khi quân. Bằng chứng là trước đây, Sùng Hầu Hổ đã trải lòng ngay giúp nước, cất lầu Trích Tiên, lập cung Thọ Tiên, công đức cao dày, khó nhọc biết bao. Nay chỉ vì nói xuôi theo các trấn mà phạm tội chết, nghĩ cũng oan tình, xin Bệ Hạ xét lại từng người để tha cho Sùng Hầu Hổ. Nếu trắng đen không phân biệt, ngọc đá đều đem đốt một lần kẻ có công cũng như người có tội, chẳng hóa ra Bệ Hạ bất minh sao? Xin Bệ Hạ tha chết cho Sùng Hầu Hổ để đoái công chuộc tội sau này.
Trụ Vương nói:
– Cứ theo lời hai khanh tâu thì Sùng Hầu Hổ là kẻ có công với triều đình. Vậy tha chết cho Sùng Hầu Hổ, còn ba trấn kia khi mệnh trẫm, truyền xử hình lập tức.
Hoàng Phi Hổ, Tỉ Can, Vi Tử, Cơ Tử Vi Tử Khải, Vi tử Ðiền Bá Di và Thúc Tề đều quì xuống một lượt
Tỉ Can thay mặt tâu:
– Khương Hoàng Sở trấn bên Ðông Lỗ công trận rất nhiều, nếu bắt tội thí quân thật là oan ức, vì không có bằng cớ nào cả. Còn Cơ Xương dạ thẳng lòng ngay, một lòng thờ chúa, nhân đức trải khắp miền, ai ai cũng đều cảm mến. Ðến như Ngạt Sùng Võ thân trải đao binh biết bao trận vào sanh ra tử để bảo vệ nhà Thương, một cõi phương Nam bình yên lạc nghiệp. Ba người đều có công lớn với triều đình như vậy xin Bệ Hạ ra ơn tha chết để thiên hạ khỏi dị nghị là Bệ Hạ bất minh.
Trụ Vương nói:
– Khương Hoàng Sở làm phản, Cơ Xương và Ngạt Sùng Võ đều phạm tội mắng vua, hai tội ấy không tha được. Các ngươi chớ can gián nữa.
Hoàng Phi Hổ tâu:
– Khương Hoàng Sở và Ngạt Sùng Võ đều nổi danh một cõi, không phạm tội gì. Còn Cơ Xương là bậc quân tử hiền lành mà bị giết như vậy. Tôi e thiên hạ không phục. Vả lại, xứ Bắc giặc giã chưa yên, nay Bệ Hạ giết các vị Tổng Trấn chư hầu ba phía nữa, thiên hạ nổi loạn. Ðông, Tây, Nam, Bắc đều có giặc, biết làm cách nào dẹp được. Chư hầu bốn Trấn cũng hơn mấy mươi vạn, không phải chuyện thường.
Trụ Vương nghe Hoàng Phi Hổ phân tách điều lợi hại, lại thấy nhiều vị Ðại thần can gián, lòng cũng sợ, vội phán:
– Trẫm nghe tiếng Cơ Xương hiền đức, sao lại nghe theo đường dữ làm gì. Lẽ ra xử tội liên can, song Trẫm vị tình các quan nên tha chết. Còn Khương Hoàng Sở và Ngạt Sùng Võ quả là đáng nghịch, tội chết không thể bỏ được. Các quan chớ can gián nhiều lời.
Quan Ðại phu Dao Cách và Dương Nhậm quì tâu:
– Bốn trấn đều bị một tội mà Bệ hạ tha Cơ Xương và Sùng Hầu Hổ, còn Khương Hoàng Sở và Ngạt Sùng Võ lại không tha sao phải lẽ. Xét Khương Hoàng Sở cũng như Cơ Xương, xưa nay không có gì thất đức, trị dân phải phép, phò chúa một lòng. Còn tội thí vua chẳng qua là chuyện huyền hoặc, không đủ bằng cớ kết tội được. Ngạt Sùng Võ thì dùng lời thẳng can vua. Lời xưa có nói: Vua sáng thì tôi nói thẳng. Lấy lời thẳng mà can trước mặt vua là tôi ngay. Ðã được tiếng tôi ngay mà bị giết sao phải. Xin Bệ Hạ nghĩ lại dung tha cả bốn Trấn chư hầu như thế mới phải tình tôi chúa, vui vẻ trời Nghiêu.
Vua Trụ giận, vỗ án nói lớn:
– Ngạt Sùng Võ mắng vua, Khương Hoàng Sở thí chúa, không chém đầu làm gương thì còn ai tuân phép nước. Trẫm còn thấy kẻ nào xin tội cho hai người ấy tức là kẻ ấy đã hùa theo đảng dữ, phải tội liên can.
Thấy vua Trụ giận dữ, chẳng ai dám tâu dai. Vua Trụ truyền đem Khương Hoàng Sở và Ngạt Sùng Võ ra hành hình lóc thịt.
Võ sĩ tuân lệnh bắt Khương Hoàng Sở và Ngạt Sùng Võ đóng đinh lên cột, rồi lóc thịt gia hình.
Người sau có thơ điếu:
Một dòng Hoàng Sở thảy trung lương
Vua Trụ ham dâm giết thảm thương
Cả họ thác oan trời cũng xót
Hôn quân vô đạo mất nhà Thương
Sau đó Trụ Vương truyền bãi chầu. Tây Bá lạy tạ ơn các quan đã cứu mình và khóc:
– Khương Hoàng Sở vô tội thác oan, Ngạt Sùng Võ can vua bị chém, tôi sợ hai cõi Ðông và Nam sanh loạn.
Các quan lau nước mắt nói:
– Bây giờ chúng ta lo việc mai táng thi hài hai vị chư hầu rồi sau sẽ tính.
Bọn gia tướng của Ðông Bá và Nam Bá thấy chúa mình bị hại đều trốn về hết.
Tỉ Can vào đền tâu với vua Trụ:
– Xin Bệ Hạ cho chôn cất hai thây của hai vị chư hầu, và thả Cơ Xương về nước.
Vua Trụ nhận lời. Bí Trọng hay được việc ấy vào tâu:
– Cơ Xương ngoài mặt hiền lành, song trong lòng gian, trải chuốt ngọt lời nói để gạt các quan. Nếu tha về thế nào va cũng xui con Khương Hoàng Sở là Khương Văn Hoán và con Ngạt Sùng Võ là Ngạt Thuận khởi binh làm loạn để báo cừu, ấy là thả cọp về rừng, cho rong về biển.
Trụ Vương nói:
– Trước triều Trẫm đã tuyên bố tha chết cho Cơ Xương rồi, các quan ai cũng biết. Nay lấy lý do gì mà bắt giết.
Bí Trọng nói:
– Tôi đã tính sẵn một kế, có thể trừ được Cơ Xương.
Trụ Vương hỏi:
– Cớ gì vậy?
Bí Trọng nói:
– Ngày mai thế nào Cơ Xương cũng đến lạy ngoài ngõ mà về, vì các quan thế nào cũng thân hành đưa đón. Tôi sẽ đến trường đình dọ dẩm, nếu cơ xương thật lòng trung nghĩa thì thôi, bằng tỏ ra bất mãn thì Bệ hạ truyền bắt lại, giết quách cho rồi để khỏi sanh hậu họa.
Vua Trụ khen phải, ngầm sai Bí Trọng, Vưu Hồn, lợi dụng cuộc đưa đón dò xét ý tứ của Tây Bá Hầu.
Bấy giờ Tỉ Can sau khi vào chầu vua Trụ, lén qua quán dịch thăm Tây Bá và nói:
– Tôi vào hậu cung xin phép Thiên Tử chôn cất thi thể Ðông và Nam Bá Hầu, nhân tiện tôi có xin cho hiền hầu về nước.
Tây Bá Hầu nói:
– Cám ơn Thừa Tướng thương tình đạy bảo, biết bao giờ tôi mới đền bồi được ơn ấy.
Tỉ Can nắm tay Tây Bá nói nhỏ:
– Triều đình đã loạn, Thiên tử bị mê hoặc, khi không giết hại đại thần, điềm ấy chẳng lành đâu. Ngày mai hiền hầu lạy ngoài ngõ rồi về nước cho mau, nếu nấn ná bọn nịnh thần tìm lời dua mị, nói ra vào e bất tiện.
Sáng hôm sau, Tây Bá đến trước cửa ngọ môn, nhắm về phía ngai lạy xong, đến trường đình, thấy mấy vị đại thần đang chờ đãi tiệc. Các quan mời Tây Bá ngồi lại, rót rượu và nói:
– Nay hiền hầu về nước, chúng tôi xin dâng một tiệc mọn để thưa gởi mấy lời.
Tây Bá khiêm tốn:
– Nếu có việc gì cần xin các ngài chỉ dạy.
Vi Tử nói:
– Tuy Chúa thượng vô đạo, làm mích lòng chư hầu, song hiền hầu nên tưởng tình tiên đế cho trọn đạo vua tôi, chớ đem dạ đổi dời thì chúng tôi rất cám ơn, và muôn dân đều may mắn.
Tây Bá bái, và nói:
– Tôi mang ơn Thiên tử tha tội, là nhờ được quí vị hết lòng bảo vệ, ơn ấy không bao giờ quên được. Tôi nguyện suốt đời không sanh sự.
Các quan cảm mến vô cùng, thi nhau chuốc rượu, Tây Bá uống cả trăm chung.
Kế đó có Vưu Hồn, Bí Trọng bước vào. Các quan thấy vậy không bằng lòng, lui dần về hết.
Tây Bá nói với Vưu Hồn, Bí Trọng:
– Tôi hèn mọn không ra chi, nhọc lòng hai ông đưa đón.
Bí Trọng, Vưu Hồn nói:
– Hôm nav hai tôi bận chút việc nên đến trễ, xin hiền hầu miễn chấp.
Tây Bá thuở nay không gần bọn nịnh, không để ý đề phòng, thấy Vưu Hồn, Bí Trọng làm ra vẻ cúm núm, ngỡ là họ thiệt tình nên đối xử rất tự nhiên.
Vưu Hồn hỏi:
– Tôi nghe hiền hầu có tài bói toán biết được chuyện vị lai chẳng biết có thật linh nghiệm không?
Tây Bá nói:
– Máy âm dương rất đúng, quẻ bói không thể sai được. Tuy vậy người nào bị tai họa mà ăn ở phúc đức thì tai họa cũng qua. Do đó nhiều lúc quẻ không linh là tại duyên cớ ấy.
Bí Trọng hỏi:
– Khí số Bệ hạ, hiền hầu có bói giùm chưa?
Bấy giờ Tây Bá rượu đã xoàng xoàng, nên quên hai thằng nịnh đang kiếm chuyện, nghe hỏi tới việc Thiên Tử liền nhăn mặt thở ra, than:
– Khí số Bệ hạ xấu lắm, sợ chỉ truyền được một đời này thôi. Cuối cùng bị tai nạn khủng khiếp. Ðã vậy Thiên Tử lại làm nhiều việc thất đức, thời gian suy vi đến càng chóng hơn nữa. Mình phận tôi con, không dám nói nhiều.
Nói rồi lau nước mắt. Bí Trọng hỏi:
– Hung tai của Bệ hạ ứng vào năm nào?
T’ây Bá nói:
– Không ngoài hai mươi tám năm, tức là năm Mậu ngũ ngày Giáp tý.
Vưu Hồn, Bí Trọng giả vờ than thở và ép rượu Tây Bá uống mãi.
Qua một lúc, Bí Trọng và Vưu Hồn hỏi:
– Hiền hầu xem giùm quẻ hai ta xem thân phận thế nào?
Tây Bá gieo quẻ ngẫm nghĩ giây lâu rồi nói:
– Quẻ ứng lạ lắm!
Vưu Hồn cười và hỏi:
– Số hai đứa tôi chết về nghiệp gì mà lạ lắm vậy?
Tây Bá nói:
– Người đời có nhiều cách chết, hoặc bị các chứng bệnh, hoặc bị nước, lửa, hoặc bị gươm đao,… Nhưng hai ông không chết vào các trường hợp thường tình như vậy mà chết vì tuyết sa bị chôn trong giá lạnh.
Bí Trọng cười:
– Có lẽ chúng tội thuộc mạng thủy, nên chết chôn dưới tuyết cho mát thân.
Nói rồi rót rượu mời Tây Bá uống nữa. Vưu Hồn hỏi:
– Chắc hiền hầu cũng đã xem số cho hiền hầu rồi chứ?
Tây Bá nói:
– Tôi có xem rồi. Về sau tôi già yếu, mang bệnh mà chết.
Vưu Hồn, Bí Trọng làm bộ mừng, nói:
– Hiền hầu bởi có đức lớn, nên phước thọ song toàn. Cha chả, hai tôi vì mê chuyện vãn nên trễ việc nhà, vậy xin giã từ, chúc hiền hầu vinh qui trị nước.
Hai người nói rồi lên ngựa trở về dinh, vào thẳng hậu cung yết kiến vua Trụ.
Vua Trụ hỏi:
– Cơ Xương có oán trách ta thế nào không?
Vưu Hồn, Bí Trọng tâu:
– Cơ Xương chẳng những oán trách mà còn mắng khéo vua, tội ấy không thể tha được.
Trụ Vương nổi giận hét:
– Ðồ thất phu, ta đã tha chết cho về nước chẳng biết ơn lại còn ám nhục trẫm. Hai khanh thuật lại lời nói của nó cho Trẫm nghe.
Vưu Hồn, Bí Trọng tâu:
– Cơ Xương nói đã coi quẻ cho Bệ hạ thấy chỉ truyền được một đời này thôi. Ðã vậy Bệ hạ sẽ chết rất thảm thiết.
Trụ Vương tái mặt vì giận:
– Sao các ngươi không hỏi thử số nó chết vì nghiệp gì?
Bí Trọng tâu:
– Hai tôi có hỏi việc ấy, Cơ Xương nói là số lão đến già mang bệnh chết. Chúng tôi nghĩ rằng Cơ Xương dùng lời ma mị gạt gẫm mọi người, và dùng quẻ bói để mắng khéo bệ hạ đó thôi. Thực ra tánh mạng của Cơ Xương hiện ở trong tay Bệ hạ, Bệ hạ muốn giết lúc nào chẳng được, sao dám bảo chết già.
Trụ Vương hỏi:
– Theo ý hai khanh có nên giết Cơ Xương trong lúc này chăng?
Vưu Hồn, Bí Trọng tâu:
– Cơ Xương dùng quẻ dịch đối thể mị dân, chửi rủa Bệ hạ đã có hai tôi làm chứng thì đủ bằng cớ để giết Cơ Xương rồi. Xin bệ hạ trừ đi.
Trụ Vương liền sai đòi Triều Ðiền vào, truyền lệnh theo bắt Cơ Xương về chém. Triều Ðiền tuân lệnh ra đi.
Lúc này Tây Bá nói lỡ lời, biết thế nào cũng mang họa liền truyền gia tướng chạy cho mau để lánh nạn. Tây Bá vừa chạy vừa nghĩ:
– Mình có cái nạn bảy năm, lẽ nào bình yên về nước được?
Ngoảnh đầu lại, thấy một tướng cỡi ngựa đuổi theo như bay.
Tây Bá nói:
– Thôi rồi! Tai nạn đến nơi rồi.
Triều Ðiền kêu lớn:
– Tây Bá Hầu, Bệ hạ có lệnh mời Tây Bá Hầu trở lại đã.
Tây Bá Hầu nói:
– Tướng quân ơi tôi đã biết trước rồi.
Liền day lại nói với bọn gia tướng:
– Chúng bay về thưa với Bá Áp Khảo phải giữ gìn phép nước, thảo thuận với anh em, trên kính dưới nhường, không nên dời đổi. Ðợi bảy năm ta mãn hạn sẽ vinh qui.
Bọn gia tướng đều khóc lóc chia tay, còn Tây Bá theo Triều Ðiền trở lại.
Có thơ rằng:
Trường đình thù tạc giả quan viên
Quá chén bầy lời chẳng cữ kiêng
Dũ Lý bảy năm làm sách Diệc
Ouẻ linh rành rẽ để lưu truyền
Quân tuần của Hoàng Phi Hổ thấy Tây Bá bị Triều Ðiền kêu lại lật đật chạy về báo với Hoàng Phi Hổ.
Hoảng Phi Hổ thất kinh, nghĩ thầm:
– Lẽ nào Tây Bá ra đi còn trở lại đây. Có khi hai thằng nịnh kiếrn chuyện cáo gian hại Tây Bá chăng?
Tức thì Hoàng Phi Hổ sai Châu Kỷ mời các quan nhóm họp trước điện.
Các quan văn võ vừa tựu đến thì Tây Bá cũng vừa vào. Hoàng Phi Hổ hỏi Tây Bá:
– Hiền Hầu đã về nước, sao còn lưu lại đây?
Tây Bá nói:
– Không biết việc gì mà có lệnh Bệ hạ đòi trở lại.
Triều Ðiền sau khi bắt Tây Bá lại rồi lập tức vào hậu cung tâu với vua Trụ. Vua Trụ giận nói:
– Hãy dẫn nó vào đây cho mau!
Tây Bá được nội thị dẫn vào quì trước long sàn, tâu:
– Tôi mang ơn bệ hạ tha tội cho về nước, chẳng biết có việc gì bệ hạ chưa cho đi?
Trụ Vương mắng:
– Ðồ thất phu! Trẫm đã cho vinh qui sao không biết nhận, lại còn mắng trẫm.
Tây Bá tâu:
– Tôi dầu ngu muội thế nào trên cũng biết trời, dưới cũng biết đất, giữa cũng biết vua, biết có cha sanh, biết có thầy dạy. Trăm đạo ấy tôi đâu có dám lỗi đạo.
Trụ Vương nói:
– Ngươi chớ điêu ngoa chối lỗi, rõ ràng ngươi dùng việc bói toán, lợi dụng việc thần thánh châm biếm và nhục mạ trẫm lắm lời. Tội ấy không phải gọi là khi quân sao?
Tây Bá tâu:
– Quẻ Tiên thiên do Phục Hy chế ra luận theo Bát quái đồ hình, bói việc dữ lành trong thiên hạ. Tôi học theo phép ấy suy ra các việc, đâu dám đặt điều châm biếm ai. Xin Bệ hạ chớ nghi oan.
Vưa Trụ nói:
– Ngươi thử bói một quẻ xem việc nước và vận mệnh thế nào?
– Việc ấy tôi đã coi quẻ rồi, thấy không tốt, nên tôi có nói với Bí Trọng, Vưu Hồn. Tôi chỉ nói không tốt mà thôi, không hề phạm đến Bệ hạ.
Vua Trụ đứng dậy nói lớn:
– Ngươi chê ta chết một cách thảm thiết, còn ngươi thì lại chết già, như vậy không phải là nhục mạ ta sao? Ngươi quả là đứa lừa đảo, muốn làm cho lòng dân loạn động. Ta sẽ làm cho quẻ của ngươi ứng không linh, để thiên hạ khỏi tin lời nói nhảm của ngươi nữa.
Dứt lời, truyền đao phủ quân đem Tây Bá ra chém tức thì.
Bỗng nghe ngoài cửa có tiếng nói lớn:
– Không nên chém Cơ Xương.
Vua Trụ nhìn ra thấy Hoàng Phi Hổ và bảy vị Ðại thần đồng vào đều quì lạy, tâu:
– Xin Bệ hạ tha cho Cơ Xương về nước, bởi vì quẻ Diệc do Phục Hy đặt ra, không phải Cơ Xương đặt điều dối gạt đâu. Cơ Xương xem bói nói thẳng tỏ ra người quân tử, thấy sao nói vậy, không dua mị. Bệ hạ nào chém người ngay?
Trụ Vương nói:
– Cơ Xương dựa vào quẻ bói, khi quân, mắng chúa, làm cho lòng dân xao động. Như thế không đáng tội à?
– Nếu lời nói thẳng bi vua chém đầu thì có lẽ từ rày về sau hỏi ai còn dám nói thẳng nữa. Xin bệ hạ xét lại hoàn cảnh khó khăn của Cơ Xương.
Trụ Vương lắc đầu:
– Cơ Xương gian trá, dựa vào quẻ để nói xấu trẫm, tội ấy không tha được.
Tỉ Can tâu:
– Chúng tôi không phải vì Cơ Xương mà vì đại sự quốc gia. Cơ Xương là người hiền, có đức hạnh, các chư hầu đều kính phục. Nếu Bệ hạ bảo Cơ Xương bày chuyện bói mắng vua thì Bệ hạ truyền Cơ Xương bói một quẻ, nếu quẻ đúng là Cơ Xương ngay thật, còn nếu quẻ không đúng thì Bệ hạ bắt tội Cơ Xương dối vua.
Vua Trụ thấy nhiều vị Ðại thần can gián, cực chẳng đã nghe lời truyền Cơ Xương bói thử một quẻ:
– Trong trào có việc gì sẽ xảy ra gần nhất ngươi thử bói xem?
Cơ Xương tuân lời rũ quẻ, rồi nói:
– Xin bệ hạ thỉnh vi thần chủ ra nhà kẻo trưa mai lửa cháy nhà Thái miếu.
Vua Trụ hỏi:
– Ngươi đoán chắc giờ nào?
Tây Bá tâu:
– Ðúng giờ Ngọ trưa mai lửa bốc cháy.
Vua Trụ nói:
– Vậy thì ta giam đỡ ngươi một đêm, đợi đến trưa mai ta sẽ xét xử.
Các quan đồng lui ra ngoài. Tây Bá cũng đi theo, nói:
– Nhờ các ngài tâu xin tôi mới khỏi chết, ơn ấy ngàn ngày khó quên.
Hoàng Phi Hổ nói:
– Hiền hầu ơi! Chúng tôi còn lo lắng chưa yên. Không biết ngày mai, may rủi thế nào.
Tây Bá nói:
– Quẻ ứng không thể sai được. Cứ đợi trưa mai sẽ rõ.
Vua Trụ truyền đòi Bí Trọng vào nội cung hỏi:
– Nếu trưa mai lửa cháy nhà Thái miếu thì sao?
Bí Trong nói:
– Bệ hạ truyền cho quan giữ nhà Thái miếu ngàv mai cấm không được thắp hương, lại phải canh phòng cho cẩn mật, thì lửa đâu mà cháy được.
Vua Trụ khen phải, truyền lịnh xong xuôi trở vào cung với Ðắt Kỷ.
Ngày hôm sau, Hoàng Phi Hổ và mấy vị Ðai thần đều nhóm nhau trước phủ. Ðến giờ Ngọ không thấy lửa cháy, ai nấy đều lo cho Tây Bá hết thời. Bỗng một tiếng sấm nổ vang trời, quan giữ nhà Thái miếu vội chạy vào báo:
– Tiếng sét vừa rồi làm cho nhà Thái miếu bốc lửa rồi cháy dữ.
Ai nấy đều thất kinh. Tỉ Can than:
– Lửa cháy nhà Thái miếu là điềm chẳng lành. Sợ cơ nghiệp Thành Thang không còn.
Các quan đều dẫn quân đến cứu chữa. Ngọn lửa cất cao ngùn ngụt.
Khói lửa mù mịt che không thấy mặt trời.
Lủa dậy rần rần trông lòa con mắt.
Một luồng gió thổi, rèm châu cột ngọc ra tro.
Mấy mảnh tàn bay ngói tan thành đống.
Người sau có thơ:
Quẻ linh Tây Bá lậu hiên cơ
Lửa dậy ngày mai dám định giờ
Sự nghiệp Thành Thang gần hóa bụi
Hưng vong loáng mắt đám tro mờ
Bấy giờ Trụ Vương đang ngự tại đền Long Ðức, đang ngóng tin, xảy có quan Phụng Ngự vào tâu:
Ngày kia, Hoàng Phi Hổ nghe tin con trai Khương Hoàng Sở là Khương Văn Hoán lên ngôi Ðông Bá Hầu đem bốn mươi vạn binh mã làm phản đánh ải Du Hồn.
Lại nghe con trai Ngạt Sùng Võ là Ngạt Thuận thế chức Nam Bá Hầu cũng dẫn binh mã năm mươi vạn, đến phá ải Tam So dể báo thù cha.
Hai tổng trấn này khuyên dụ bốn trăm chư hầu theo làm phản.
Hoàng Phi Hổ than:
– Thiên hạ đã loạn hết nửa phần rồi. Ôi, từ đây thế cuộc sinh nhiều rắc rối. Hai cõi can qua biết bao giờ cho yên giặc?
Nói rồi ban cờ lệnh, truyền hai ải thủ thành, đợi cho địch quân phá không nổi kéo quân về, chớ không cho xuất quân đối địch.
Ðây nói về ông Thái Ất ở động Kim Quang, thuộc núi Cát Nguyên là một vị tiên đã sống trên một ngàn rưỡi năm, vì phạm luật sát sinh, nên thầy của ông là Nguyên Thỉ đóng cửa không chịu giảng kinh nữa.
(Ấy bởi luật Thiên Ðình muốn dùng các tiên phạm tội sát sanh ra giúp Khương Tử Nha, chém tướng phong thần cho đủ chức, sau khi nhà Châu diệt nhà Thương xong, đem lại thái bình cho muôn dân, chừng ấy ông Nguyên Thỉ mới giảng kinh và các tiên phạm luật mới được phép tu lại).
Hôm ấy ông Thái Ất đang ngồi trong động bỗng thấy Bạch Hạc đồng tử đến nói:
– Ngài Nguyên Thỉ dạy rằng: Chẳng bao lâu sẽ sai Khương Thượng ra đời, vậy ông phải cho Linh Châu Tử xuống đầu thai kẻo trễ.
Thái Ất thấy có lệnh thầy mình ban xuống liền cúi đầu đón nhận:
– Việc ấy ta đã biết rồi.
Bạch Hạc đồng tử liền giã từ ra về.
Bây giờ tại ải Trần Ðường, quan Tổng Binh ải này là Lý Tịnh vốn học trò của ông Ðộ Ách ở núi Côn Lôn, khi còn nhỏ có đi tu, sau bị đuổi về ra phò vua Trụ. Vợ Lý Tịnh là Ân phu nhân sanh được hai con, hình dung tuấn tú. Con lớn tên Kim Tra, con nhỏ tên Mộc Tra. Ðến nay, Ân phu nhân lại mang thai nữa, nhưng lần này rất lạ, thai nghén đã ba năm rưỡi mà chưa khai hoa nở nhụy.
Lý Tịnh buồn bã, than:
– Thai nghén khác thường như vậy chắc là loại quái thai, nếu không sanh ra yêu cũng sanh ra quỉ.
Ân phu nhân cũng sợ, nhưng không biết làm sao.
Ðêm kia, Ân phu nhân đang nằm ngủ trong phòng thấy một vị đạo sĩ đầu chừa hai vá tay cầm gậy, râu dài đuộc bước đến.
Ân phu nhân nạt lớn:
– Thầy là ai? Không biết phép, dám vào phòng riêng của ta?
Ðạo sĩ nói:
– Phu nhân mau lãnh con quí.
Ân phu nhân chưa kịp trả lời, đã thấy Ðạo sĩ tay cầm vật gì không biết, ném ngay giữa bụng mình, làm cho phu nhân giật mình thức dậy mồ hôi ướt đầm mình.
Phu nhân gọi chồng thuật lại câu chuyện vừa chiêm bao. Lý Tịnh còn đang suy nghĩ thì phu nhân đã chuyển bụng, rên la rất dữ.
Lý Tịnh nghĩ thầm:
– Ðây chắc là một vị tướng đầu thai, nhưng chẳng biết tướng hiền hay tướng dữ đây.
Xảy thấy thế nữ vào thưa:
– Phu nhân đẻ ra một quái thai.
Lý Tịnh nghe nói thất kinh, xách gươm vào phòng, nghe mùi thơm ngào ngạt. Ðến bên giường phu nhân thì chỉ thấy một cái bọc lớn bằng cái bánh xe. Lý Tịnh cầm gươm chém rách cái bọc ấy tức thì bên trong một đứa bé nhảy ra, mình chiếu hào quang, mặt như dồi phấn, tay cầm Càn khôn quyện, lưng buộc Hỗn thiên lăng. (Ấy là Linh Châu Tử đầu thai, sau đi tiên phuông cho Khương Thượng, nên buộc mình dây đỏ, tay cầm vòng vàng. Hai vật ấy là bửu bối của Thái Ất chơn nhơn cho).
Lý Tịnh thấy thằng nhỏ chạy giáp vòng, biết không phải yêu quái liền bắt lại, bồng lên giường, đưa cho phu nhân.
Vợ chồng trầm trồ, cưng như trứng mỏng.
Hôm sau, các quan hay tin đồng đến chúc mừng.
Tiếp đó, có một vị đạo sĩ đến trước ải xin vào ra mắt.
Lý Tịnh trước kia là người tu hành, nên không dám xem thường các Ðạo sư, liền ra rước vào.
Lý Tịnh hỏi:
– Chẳng hay đạo sư ở núi nào?
Ðạo sĩ nói:
– Ta là Thái Ất ở động Kim Quang, núi Càn Nguyên, nghe Tướng quân sanh con quí nên đến chúc mừng. Vậy cho ta xem thử.
Lý Tịnh truyền thế nữ bồng đứa bé ra ngoài. Thái Ất bồng đứa bé vào lòng xem xét và hỏi:
– Sanh vào giờ nào vậy?
Lý Tịnh đáp:
– Ðúng vào giờ Sửu.
Thái Ất nói:
– Không tốt.
Lý Tịnh nói:
– Khó nuôi lắm hay sao?
Thái Ất nói:
– Sanh nhằm giờ ấy thì phạm sát sinh. Nó giết hơn một ngàn bảy trăm mạng. Nhưng Tướng quân đặt tên nó là gì?
Lý Tịnh nói:
– Tôi chưa đặt tên.
Thái Ất nói:
– Ðể tôi đặt tên cho nó,và sau này nó theo tôi làm đệ tử được không?
Lý Tịnh nói:
– Ðược đạo sư thương tình như vậy còn gì quí hơn.
Thái Ất hỏi:
– Tướng quân được mấy vị Công tử?
Lý Tịnh đáp:
– Tôi có ba đứa con trai. Thằng lớn tên Kim Tra đi học với Văn Thù ở núi Ngũ Long. Thằng thứ hai là Mộc Tra đi học với Phổ Hiền ở núi Cửu Cung. Còn thằng thứ ba đó, nếu Ðạo sư muốn thu dùng làm đệ tử xin cứ đặt tên.
Thái Ất nói:
– Ta đặt nó là Na Tra, cũng lấy chữ hai đứa lớn.
Lý Tịnh cảm tạ, rồi truyền dọn cơm chay thết đãi.
Thái Ất nói:
– Ta có việc gấp, xin kiếu về.
Lý Tịnh thân đưa ra khỏi phủ.
Ngày kia, Lý Tịnh nghe hai Trấn nổi loạn, vội củng cố binh lực để giữ ải mình. Nhất là nơi núi Giả Mã, chỗ địa đầu, Lý Tịnh cố đóng quân thật nhiều để ngăn ngừa mũi giặc.
Thời gian trôi rất nhanh, thấm thoát đã bảy năm trôi qua…
Na Tra mau lớn phi thường, mình cao sáu thước, vai rộng dềnh dàng. Mới bảy tuổi mà nghịch không thể tả nổi.
Lý Tịnh vì nghe tin Khương Văn Hoàn khởi binh đánh ải Du Hồn nên ngày đêm lo luyện tập binh mã để phòng, không rảnh để dạy dỗ Na Tra. Na Tra được thế không còn kiêng nể ai.
Một hôm, nhân trời nóng nực, Na Tra vào thưa với mẹ:
– Xin cho con ra ngoài chơi hóng mát.
Ân phu nhân vốn cưng con, không nỡ làm phật lòng, liền bảo:
– Con muốn ra ngoài thì đi một chút rồi về, kẻo cha con hỏi không có nhà sẽ rày la đó.
Na Tra nói:
– Thưa mẹ, con biết mà.
Ân phu nhân khiến một tên gia bộc đi theo. Na Tra ra ngoài, đi chưa đầy hai dặm đã thấy đổ mồ hôi, ráng đi đến một rặng dương liễu đụt nắng. Bên hàng dương liễu lại có một giòng sông lớn, ghềnh đá cheo leo, nước trong leo lẻo.
Na Tra nói:
– Hay lắm! Trời đang nóng nực lại gặp dòng sông, không tắm cho mát thì còn gì thú vị?
Tên gia nô nói:
– Không nên. Công tử tắm ở đâv rủi gặp Tướng công điểm binh về trông thấy thì nguy, chi bằng trở về là hơn.
Na Tra nói:
– Không sao đâu! Ta tắm cho mát dẫu gia gia ta trông thấy, lại cấm ngăn à?
Nói rồi cổi hết quần áo, lội xuống sông, ngồi trên một bực đá, dỡn nước.
Dỡn nước chán rồi, Na Tra lại cởi dây lưng đỏ ra giặt, làm cho mặt sông nước loang màu hồng, cả sông nổi sóng.
Sông Củu Loan chảy vào biển Ðông Hải nên lúc ấy vua Long Vương biển Ðông là Ngao Quảng, đang ngự nơi cung Thủy Tinh thình lình thấy đền đài rung rinh cả, liền hỏi quần thần:
– Việc gì mà cung điện rung rinh như vậy?
Triều thần không ai hiểu việc gì cả. Ngao Quảng liền truyền quỉ Dọa Xoa là Lý Lương lên mé biển tuần hành xem thử vật chi.
Lý Lương tuân lệnh vác búa đến mé biển thấy vàm sông Cửu Loan sóng bủa rập rềnh, liền theo dòng sông thẳng đến.
Khi đến nơi, thấy một thằng nhỏ đang ngồi trên ghềnh đá, cởi dây lưng ra giặt. Lý Lương trồi đầu lên hét lớn:
– Thằng nhỏ kia. Mày giặt cái gì mà làm cho nước sông đỏ rực, đền đài của Long Vương rung chuyển như vậy?
Na Tra trông thấy quỉ Dọa Xoa, cười lớn:
– Cha chả. Mầy ở đâu đến đây làm phách vậy? Lâu đài mầy chỗ nào? Tao giặt dây lưng can hệ gì đến mầy?
Lý Lương nói:
– Tao bắt mầy đem về nạp cho Long Vương hỏi tội.
Vừa nói, Lý Lương vừa xách búa chém sả vào Na Tra.
Na Tra thấy quỉ Dạ Xoa làm dữ liền rút càn khôn quyện liệng đùa. Lý Lương nát óc chết tươi.
Na Tra cười lớn:
– Thằng chó chết báo hại cho dơ càn khôn quyện của ta.
Nói rồi lại đem xuống sông rửa.
Thảm hại, những lâu đài thành quách của Long Vương bị báu vật ấy làm rung chuyển, đổ nghiêng chẳng khác một trận bão trên đất liền.
Ngao Quảng thất kinh hỏi triều thần:
– Lý Lương đi chưa về, không biết cái gì càng ngày càng làm cho lâu đài rúng động dữ vậy?
Xảy có bọn thủy quân chạy về báo:
– Trên bờ sông có một đứa bé giặt dây lưng đỏ. Lý tướng quân đã bị thằng nhỏ đó giết chết rồi.
Ngao Quảng thất kinh la lớn:
– Thủy thần Dạ Xoa là tướng trời phong, ai dám giết?
Bèn truyền quân sắm sửa khí giới theo mình đến đó xem thử.
Bỗng có Thải Tử Ngao Bính bước ra tâu:
– Phụ vương định đem quân đánh ai vậy?
Ngao Quảng thuật lại chuyện đứa bé vừa giết Dạ Xoa cho Thái Tử nghe. Ngao Bính nói:
– Việc nhỏ mọn như vậy phụ vương đi làm gì. Ðể con đến đó bắt nó đem về đây cho phụ vương tra hỏi cũng được.
Ngao Bính nói rồi xách kích, cỡi thú ra đi. Ðến vàm sông quả thấy nước tuôn cuồn cuộn, sóng bổ ầm ầm.
Bấy giờ Na Tra đang mải mê đứng xem sóng bủa. Thình lình thấy một con thú từ dưới nước nhảy vọt lên, trên lưng có một chàng trai tay cầm kích, mình mặc giáp, miệng kêu lớn:
– Thằng nhỏ kia. Có phải mầy vừa giết chết tướng Dạ Xoa của tao không?
Na Tra nói:
– Tao giết nó chớ còn ai nữa.
Ngao Bính hỏi:
– Mầy là thằng con nít ở đâu lại hung hăng như vậy?
Na Tra đáp:
– Tao là Lý Na Tra, con ông Lý Tịnh, hiện làm Tổng Trấn này.
Ngao Bính nói:
– Con ông gì mặc kệ mầy. Mày giết tướng trời tất phải đền tội.
Na Tra nói:
– Thằng phách lối. Tao đang tắm nơi đây, đâu phải là một khúc gỗ trôi sông mà nó vác búa đến bửa vào người tao? Tao đánh nó chết lại tội vạ gì?
Ngao Bính nói:
– Tao bắt mầy đem vào Thủy điện rồi mầy muốn nói gì thì nói.
Na Tra trợn mắt:
– Thủy điện là đâu? Mầy là thằng nào?
Ngao Bính nói:
– Tao là Ngao Bính, con của Ngao Quảng, Ðông Hải Long Vương.
Na Tra cười:
– A, nói vậy thì bay là loài rồng ở dưới nước. Nhưng đừng làm phách, hễ chọc đến tao, tao lột da cả cha mầy nữa chứ không phải chỉ một mình mầy thôi đâu.
Ngao Bính tức giận quá, cầm kích lướt tới đâm đùa. Na Tra sợ hãi, quăng Hỗn thiên lăng ra trói. Ngao Bính té xuống lưng thú, rồi nhảy xổ đến đạp chân vào cổ, lấy Càn khôn quyện đập đầu chết tốt biện nguyên hình một con rồng nhỏ.
Na Tra nói:
– Ðể tao rút lấy gân mầy đem về cho cha tao buộc giáp chơi, nghe nói gân rồng chắc lắm.
Nói rồi làm y như vậy. Xong mặc quần áo lại, trở về ải.
Tên gia nô nãy giờ chứng kiến cuộc tàn sát, mặt không còn chút máu, không dám đi gần Na Tra, cứ lểnh mểnh theo sau cách một khoảng.
Phu nhân thấy Na Tra về, liền hỏi:
– Con đi chơi đâu đến nửa ngày mới về?
Na Tra thưa:
– Con mải mê ngắm cảnh đẹp nên về trễ.
Nói rồi đi thẳng ra sau vườn.
Bấy giờ, đoàn thủy quân theo Ngao Bính thấy Ngao Bính bị đánh chết lật đật trở về báo với Ngao Quảng.
Ngao Quảng thất kinh, la lớn:
– Con ta là một vị thần làm mưa, sao nó dám giết đi. Vả ta với Lý Tịnh trước kia kết tình bằng hữu, sao va lại để con đánh chết Ngao Thái Tử, rút lấy gân? Việc này chẳng những một hận thù mà còn là một nhục nhã nữa.
Nói rồi liền hóa ra một vị tú tài thẳng đến dinh Lý Tịnh.
Bấy giờ Lý Tinh mới điểm quân về, nghe quân báo:
– Có Ngao Quảng xin vào yết kiến.
Lý Tịnh mừng rỡ, vì lâu ngày xa cách, nên lật đật ra rước vào.
Ngao Quảng mặt phừng phừng, nói vói Lý Tịnh:
– Tôi đến đây không còn tình nghĩa gì nữa!
Lý Tịnh ngạc nhiên hỏi:
– Anh em lâu ngày xa cách, được gặp nhau là vui lắm, sao hiền huynh buông lời như vậy?
Ngao Quảng nói:
– Tình nghĩa gì nữa mà anh em. Anh để con anh đánh chết tướng Dạ Xoa của tôi, lại giết con trai tôi rút gân đem về. Con cái hung dữ như vậy anh còn bênh nó à?
Lý Tịnh ngạc nhiên đáp:
– Anh lầm rồi, Tôi chỉ có ba đứa con. Hai đứa lớn đi học chỉ còn thằng nhỏ bảy tuổi không hề ra khỏi cửa, lẽ nào có xảy ra chuyện như vậy!
Ngao Quảng nói:
– Chính là thằng Na Tra, con trai nhỏ của anh. Nó có xưng tên xưng họ rõ ràng, chối làm sao được.
Lý Tịnh nói:
– Thằng Na Tra mới có bảy tuổi mà đánh ai được? Tuy vóc nó lớn thật, song còn nhỏ lắm! Thôi anh chớ giận, để tôi gọi nó ra đây cho anh nhìn mặt.
Lý Tịnh nói dứt lời, để Ngao Quảng ngồi đó, ra hậu phòng gọi vợ hỏi:
– Thằng Na Tra đâu?
Ân phu nhân không rõ chuyện gì, thấy nét mặt chồng có điều quan trọng, liền hỏi:
– Ai ở đằng trước vậy?
Lý Tịnh nói:
– Có Ngao Quảng, bạn của ta đến thăm và trách ta để con giết chết vị Thái Tử, con trai của ông ấy. Ta thiết tưởng rằng con trai ta là Na Tra mới có bảy tuổi, chưa từng ra khỏi cửa, có đâu sanh chuyện với ai, chắc Ngao Quảng lầm, nên ta gọi Na Tra ra cho Ngao Quảng thấy mặt.
Ân phu nhân nghe nói lòng nghi ngại, đứng suy nghĩ, Lý Tịnh hỏi:
– Na Tra ở đâu?
Ân phu nhân đáp:
– Nó chơi đâu ngoài vườn hoa.
Lý Tịnh liền Chạy tuốt ra sau vườn, thấy Na Tra đang thơ thẩn ở đó.
Lý Tịnh hỏi:
– Na Tra con làm gì đó?
Na Tra nói:
– Có mấy sợi gân rồng con mới tìm được, định ôm phơi khô để cha dùng làm dây cột giáp, thứ này tốt lắm.
Lý Tình sững sờ, hỏi:
– Gân rồng ở đâu vậy?
Na Tra kể lại chuyện đi tắm sông giết chết thái tử long vương.
Lý Tịnh đứng chết điếng. Giây lâu mới mở miệng mắng:
– Mầy là đồ oan gia nghiệp báo, Ngao Quảng làm chức Ðông Hải Long Vương trước kia là bạn với tao, sao mầy giết con trai người ta rút lấy gân đem về phơi. Nay bác mầy đến đòi thường mạng, mầy tính sao bây giờ?
Na Tra nói:
– Thưa cha, con không biết cha nó là bạn với cha nên lầm lỡ. Vả lại không biết thì chẳng có tội gì, cha đừng lo, gân rồng còn đó, chưa cắt đứt sợi nào, để con lấy đem trả cho lão là yên chuyện.
Na Tra bèn đến trước mặt Ngao Quảng xá một cái và nói:
– Chào bác. Cháu vì không biết nên lầm lỡ xúc phạm đến đại huynh. Nay gân của đại huynh còn nguyên, chưa đứt khúc nào, xin trả lại bác, mong bác tha lỗi.
Ngao Quảng thấy nắm gân rồng càng đau xót dạ, nhớ đến con, liền ngó sang nói với Lý Tịnh:
– Chú sanh con dữ như vậy mà còn đổ lỗi cho tôi xét lầm. Nay tôi không còn tình nghĩa gì hết, quyết đến trước mặt Thượng đế đầu cáo, thử chú tránh khỏi vạ này không?
Ngao Quảng nói rồi bước ra ngoài đi thẳng. Lý Tịnh ngồi chết điếng, không nói nên lời. Qua một lúc, Lý Tịnh bỗng khóc oà!
Ân phu nhân bước ra hỏi:
– Chuyện gì vậy?
Lý Tịnh nói:
– Con dại cái mang đó là lẽ thường xưa nay. Chúng ta sanh đặng con dữ, không tránh khỏi tai nạn. Ngao Quảng đến trước cửa trời đầu cáo, vợ chồng chúng ta không thể nào toàn thân.
Nói rồi khóc nữa, phu nhân an ủi:
– Công việc chưa biết thế nào, sao Tướng quân vội bi quan?
Lý Tịnh nói:
– Phu nhân không rõ. Lẽ trời không thể tránh được. Tôi trước kia tu luyện không thành, song đã biết được mọi huyền cơ vũ trụ. Trên thượng giới có cả một triều đình. Thượng Ðế có các vì tiên, phật cai quản chia làm hai nghành Xiển Giáo và Triệt giáo. Luật lệ, phép tắc điều định theo lề lối phân minh.
Ân phu nhân nghe chồng giải thích thất kinh, nói với Na Tra:
– Tao có công cưu mang mầy hơn ba năm, mầy không đền đáp lại gây ra tai họa làm hại đến mẹ cha như vậy thật bất hiếu.
Na Tra thấv mẹ mình than vãn, liền quì thưa:
– Nay con không lẽ giấu mẹ cha, con không phải người phàm tục mà chính là học trò của ông Thái Ất ở động Kim Quang. Con có hai món báu vật không ai đánh lại. Ðể con về động thuật lại việc cho thầy con. Nếu Ngao Quảng có làm gì bất quá mạng thế mạng thôi. Quyết không để liên lụy đến mẹ cha.
Nói rồi hốt một nắm đất vãi lên trời, độn vào đất ấy mà bay đi mất.
Vợ chồng Lý Tịnh trông thấy cũng thất kinh, biết con mình là một bậc tướng tài, Thượng Ðế sai xuống đầu thai. Tuy vậy công lý không thể nào trốn tránh được. Giết người vô cớ phải chịu tội mà thôi.
Na Tra độn thổ về đến động Kim Quang. Thái Ất cho đồng tử đòi vào hỏi.
Na Tra đem mọi việc thuật lại một hồi nhờ thầy cứu mạng.
Thái ất nói:
– Ngao Bính số mạng chỉ đến đó thôi. Ngao Quảng là một vị thần mưa lẽ nào không biết, chuyện gì phải đi kiện?
Liền dặn nhỏ Na Tra bảo phải làm y kế rồi họa bùa trên lưng Na Tra, khiến Na Tra đến cửa trời đón đường Ngao Quảng.
Na Tra lạy tạ lui ra, đằng vân thẳng đến cửa trời đứng trước đền Bửu Ðức đợi Long Vương.
Bởi có bùa ẩn thân nên không ai thấy được. Bấy giờ Ngao Quảng mới lểnh mểnh đến, Na Tra trông thấy nổi xung, xách Càn khôn quyện nhắm trên lưng Ngao Quảng đánh xuống. Ngao Quảng bị đánh lén không đề phòng được, té nhào dưới đất. Na Tra lập tức đạp một chân lên lưng, một chân đạp vào cổ, không cho Ngao Quảng ngóc dậy.
Ngao Quảng la ré om sòm nhưng lúc này còn sớm đền Bửu Ðức chưa mở cửa, không một ai can thiệp.
Thương hại cho Ngao Quảng bị Na Tra đạp lên lưng không ngóc đầu dậy nổi, liếc mắt nhìn thấy Na Tra, Ngao Quảng nổi giận mắng lớn:
– Thằng súc sanh vô lễ, mày là đứa nào mà dám giết Dọa Xoa, tướng trời phong, rút gân Ngao Bính là thần làm mưa, lại dám đè đầu ta là một vị chúa Ðông Hải, quần áo lem nhem, không kể gì đến luật trời. Tao kiện đến Ngọc Hoàng, giết cả dòng họ mày cũng chưa hả giận.
Na Tra nghe Ngao Quảng rủa mắng mình, muốn đập một Càn Khôn Quyện cho chết phứt, ngặt không dám trái lời thầy dặn, nên cứ đạp lên cổ, mắng lại:
– Mày xưng là Ðông Hải Long Vương, nhưng đối với tao không kể mày vào đâu cả. Mày biết tao là ai không? Tao là Linh Châu Tử, học trò của ông Thái Ất chơn nhơn, vâng lệnh ông Nguyên Thỉ xuống đầu thai giúp nhà Châu diệt vua Trụ. Tao đi tắm, đâu có chọc ghẹo gì đến mầy mà mày sai bọn bộ hạ vác búa đến bửa. Tao giết chết hai đứa ấy cũng chẳng có tội bao nhiêu, việc gì mày đi kiện Ngọc Hoàng. Nếu mày không bỏ ý định ấy thì tao đánh mày đến chết.
Ngao Quảng ỷ mình là kẽ đang nắm giữ trọng trách, quyền hành do trời ban, nên thách:
– Mầy giỏi cứ đánh tao thử?
Na Tra nói:
– Mày bảo tao đánh thì tao đánh cho mày biết tay.
Nói rồi cầm cú thoi lia lịa.
Ngao Quảng thấy Na Tra làm hỗn, nhưng mắc kẹt không sao dậy được, đành nằm la hoảng.
Na Tra nói:
– Da mày dày lắm, tao đánh mầy bất quá như đấm lưng thôi, ăn nhằm gì. Lời xưa nói: Cọp sợ rút gân, rồng sợ gỡ vẩy. Ðể tao lấy phép đó trị mầy.
Nói rồi xé vạt áo Ngao Quảng lên, vén hông bên tả lên, gỡ lối bốn năm chục cái vảy làm cho Ngao Quảng đau đớn đến thấu xương. Ngao Quảng thất kinh, lớn tiếng van xin tha mạng.
Na Tra nói:
– Mầy muốn chết thì đừng thưa kiện nữa, hãy theo ta về ải Trần Ðường, bằng cãi lại ta đập một Càn Khôn Quyện chết tức thì.
Ngao Quảng đang lúc thất thế, và biết Na Tra là Linh Châu Tử đầu thai, được ông Nguyên Thỉ là chúa tể các vì tiên bảo vệ, nếu lôi thôi nó đánh chết, rồi kiếm chuyện nói dối với Ngọc Hoàng, ta ắt thiệt mạng.
Nghĩ như vậy, Ngao Quảng thuận lời, theo Na Tra về ải.
Na Tra bước xuống, Ngao Quảng liền ngồi dậy. Na Tra nói:
– Rồng thì hay biến hóa. Muốn lớn thì nằm chật cả bầu trời, muốn nhỏ thì trốn trong hột cải cũng vừa. Tao e mầy biến mất không biết đâu mà kiếm, vậy thì hóa ra con rắn nhỏ đặng ta bỏ vào túi mang về dinh cho tiện.
Ngao Quảng khó chối từ, phải hóa ra con rắn nhỏ.
Na Tra bỏ vào túi áo rồi đằng vân về ải Trần Ðường.
Quân sĩ trên ải thấy Na Tra trở về, cho báo với Lý Tịnh:
– Ðệ tam công tử đã trở về trước ải.
Lý Tịnh nghe tin chẳng vui, truyền quân dẫn vào.
Na Tra thấy cha mình mặt châu mày nhăn nhíu, tỏ sắc thái buồn bã vội bước đến tạ lổi.
Lý Tịnh hỏi:
– Mày đi đâu về đây?
Na Tra thưa:.
– Con đến cửa trời đón bác, xin bác nên bãi việc kiện thưa. Bác đã bằng lòng, và con đã rước bác về đây.
Lý Tịnh cười cay đắng:
– Mày đâu phải thần thánh mà đến được cửa trời. Con nói dối cha mẹ như vậy thật là đứa con ngỗ nghịch.
Na Tra thưa:
– Xin cha đừng nóng giận. Việc này có bác làm chứng ạ!
Lý Tịnh càng giận hơn:
– Mày còn nói dối nữa? Bác mầy ở đâu?
Na Tra thưa:
– Bác ở trong túi con đây nè. Liền trút con rắn lục trong túi áo ra.
Ngao Quảng tức thì hiện nguyên hình lại.
Lý Tịnh thất sắc, lật đật cúi mình xin lỗi Ngao Quảng và hỏi:
– Vì sao hiền huynh lại ra nông nỗi?
Ngao Quảng giận quá thuật lại câu chuyện Na Tra đến trước cửa đền làm hỗn, và đưa bụng cho Lý Tịnh xem, rồi nói:
– Anh sanh nhằm loài quái thai, Ðể tôi hội đủ tứ hải Long Vương đến cửa trời đầu tố xem anh có trốn khỏi tội không?
Nói rồi nổi cơn gió lớn, bay vụt ra khỏi ải Trần Ðường biến mất.
Lý Tịnh giậm đất kêu trời nói:
– Chuyện này rất quan hệ, biết tính làm sao? Ðã giết con người ta còn đánh người ta trọng thương. Ngao Quảng là vị Long Vương, vâng lệnh Ngọc Hoàng trấn Ðông Hải, đâu phải nhỏ.
Na Tra quì lạy thưa:
– Xin cha mẹ yên tâm. Thầy con nói rằng con vâng lệnh Ngọc Hư đầu thai giúp chúa, dẫu đánh chết Long Vương bốn biển cũng chẳng có tội gì. Nếu có điều chi thầy con chịu hết.
Lý Tịnh là người đã tu tiên, thông hiểu thiên cơ, thấy Na Tra đến được cửa trời biết quyền lực Na Tra không phải nhỏ. Tuy nhiên, ỷ vào quyền lực tác hại mọi người là điều cấm kỵ, dù cho thầy các vị tiên cũng không thoát khỏi tội lỗi.
Ân phu nhân vốn thương con thấy Na Tra đứng nói vòng vo sợ Lý Tịnh nổi xung đánh cho một trận, nên nháy Na Tra và nói:
– Mầy là con bất hiếu, theo báo hại mẹ cha, đi cho khuất mắt còn đứng đó làm gì?
Na Tra vâng lời mẹ bước ra phía sau hoa viên không dám nói lời nào nữa.
Thấy mình làm phiền đến cha mẹ, Na Tra có ý buồn, một mình thẩn thơ mãi. Bỗng ngó thấy một cái lầu cao trong khu vườn coi bộ mát mẻ lắm, Na Tra nghĩ thầm:
– Thuở nay ta chưa dạo lên lầu ấy, nay sẵn địp buồn lòng trèo lên đó giải khuây.
Nghĩ rồi liền mở cửa vườn, trèo lên vọng đài. Bốn bề mát mẻ, gió thổi hây hây, xa xa trông phong cảnh rất đẹp.
Na Tra thầm nhủ:
– Nếu mình biết chỗ này mát mẻ, lâu nay lên đây hóng gió cũng vui.
Ngó quanh quất một hồi, Na Tra nhát thấy trên tường vọng đài có treo một cây cung lớn chạm ba chữ Càn Khôn Cung, lại có ba mũi tên khắc ba chữ Chấn Thiên Tiễn.
Na Tra thầm nghĩ:
– Thày mình có nói ngày sau mình sẽ làm chức tiên phuông, thu giang sơn Vua Trụ. Vậy thì nay có sẵn Cung tên, tập luyện cho nhuần nhã để ngày sau dùng đến.
Liền lấy cung, lấp tên, kéo thẳng cánh nhắm bắn qua hướng Tây Nam. Bỗng nghe một tiếng nổ vang trời, hình như tiếng sấm, hào quang chói mắt, oai khí ghê mình. Na Tra hoảng hồn, không dám bắn nữa.
(Nguyên cung tên ấy là của Hoàng Ðế trước kia dùng đánh với Xí Vưu. Dư ba mũi tên thần lưu truyền lại đến đời sau, lâu lắm rồi, không ai kéo cung thần ấy nổi, nên dùng làm vật báu để tại ải Trần Ðường).
Bây giờ nói về câu chuyện xảy ra tại núi Khô Lâu, động Bạch Cốt có bà chủ là Thạch Cơ nương nương. Hôm ấy học trò của Thạch Cơ là Bích Vân đồng tử, xách giỏ hoa đi hái thuốc, thơ thẩn ở chân đồi, thình lình bị một mũi tên bay vào đến găm trúng cổ họng chết tươi. Người học trò thứ hai là Thê Vân đồng nhi vừa đi đến thấy vậy vội chạy về báo với Thạch Cơ rằng:
– Thưa sư phụ, chẳng biết sao Bích Vân đang đi hái thuốc bỗng bị tên chết.
Thạch Cơ nương nương nổi giận, nói:
– Kẻ nào cả gan dám bắn lén học trò của ta vậy?
Liền theo chân Thể Vân đến nơi, thấy trên mũi tên có khắc hai chữ “chấn thiên”, lòng hậm hực, nói:
– Chấn thiên là báu tiễn để tại ải Trần Ðường, người giữ ải này là Lý Tịnh. Nếu Lý Tịnh không bắn thì còn ai vào? Trước đây Lý Tịnh tu hành không được, nhờ ta nói giùm với Ðộ Ách chơn nhơn cho về hưởng công danh nay được làm quan trấn ải, đã chẳng báo ơn ta còn bắn học trò ta đến chết. Ta quyết bắt Lý Tịnh đem về động trị tội.
Liền truyền Thể Vân giữ động, một mình cỡi Thanh Loan đến ải Trần Ðường.
Khi đến nơi, Thạch Cơ nương nương đứng trên không kêu lớn:
– Lý Tịnh, ra đây ta bảo.
Lý Tịnh nghe kêu không rõ tiếng ai, liền chạy ra xem thử, thấy trên cao màu vàng muôn trượng, sắc đỏ một vần, nhìn rõ là Thạch Cơ đang cỡi con Loan xanh, liền cúi đầu làm lễ, và thưa:
– Tôi không hay nương nương đến nên tiếp đón chậm trễ, xin nương nương tha thứ.
Thach Cơ nổi giận hét:
– Ngươi là đứa vong ân, khéo chuốc ngọt lời nói.
Liền lấy cái khăn choàng gọi là Bát Quái Vân quang quăng xuống truyền Huỳnh Kim lực sĩ lấy khăn phép vấn vào mình Lý Tịnh bắt đem về động tức thì.
Huỳnh Kim lực sĩ tuân lệnh.
Thạch Cơ cỡi Loan về động.
Chẳng bao lâu, Huỳnh Cân lực sĩ đã dẫn Lý Tịnh đến nơi giao nạp.
Thạch Cơ ngồi giữa động, truyền đem Lý Tịnh vào, nạt lớn:
– Ngươi tu hành không thành nhờ ai mà được hưởng vinh hoa phú quí. Ngươi đã không trả ơn còn gây thù oán. Ta đến bắt ngươi, ngươi làm bộ như là người vô tội là ý làm sao?
Lý Tịnh nghe Thạch Cơ nói không hiểu gì cả, chẳng khác người đang lạc vào cõi mê, liền cúi đầu thưa:
– Nương nương dạy điều gì, kẻ hèn này thực không hiểu!
Thạch Cơ nghiến răng nói:
– Ngươi trả ơn ta bằng cách bắn chết Bích Vân, đứa học trò của ta phải không? Ngươi đừng giả bộ ngây ngô.
Lý Tịnh nói:
– Tôi ở mãi tận ải Trần Ðường không đi đâu hết, suốt ngày đêm lo luyện tập binh mã, làm sao bắn chết Bích Vân đồng tử. Xin nương nương xét lại kẻo oan tình.
Thạch Cơ nói:
– Chính ngươi dùng tên Chấn Thiên bắn từ ải Trần Ðường đến đây, tang chứng đã rõ ràng, tại sao còn chối?
Lý Tịnh nói:
– Xin cho tôi xem mũi tên ấy thử.
Thạch Cơ truyền đem mũi tên ấy đến, và nói:
– Tên này là báu vật của ải Trần Ðường, nếu ngươi không bắn thì làm sao tên bay đến đây?
Lý Tinh xem thấy thất kinh, nói lớn:
– Cha chả, cung Càn Khôn, tên Chấn Thiên là báu vật của vua Huỳnh Ðế từ xưa lưu lại, để trấn ải Trần Ðường, từ xưa đến nay không ai kéo nổi cung ấy. Nay chẳng biết vì đâu tai bay vạ gởi đến với tôi như vậy. Xin nương nương cho tôi về ải tra xét kẻ bắn tên, nếu tôi không tra ra xin đến đây chịu chết.
Thạch Cơ nói:
– Thôi được ta cho ngươi về tra xét, nếu việc này không giải quyết cho xong thì sẽ kiện đến thầy ngươi đấy.
Lý Tinh từ giã Thạch Cơ cầm tên, độn thổ về ải.
Ân phu nhân từ khi thấy chồng bị bắt đem lên trời, không hiểu chuyện gì, than khóc suốt buổi, nay thấy Lý Tịnh trở về lòng mừng khấp khởi, hỏi:
– Chẳng hay phu quân vì sao lại bị bắt đem lên trời như vậy? Thiếp không rõ nguyên nhân, run sợ quá.
Lý Tịnh thở dài, nói:
– Phu nhân ơi, ta làm quan đã hai mươi lăm năm nay không xảy ra điều gì đáng tiếc. Ðến nay thời suy, nên xui khiến lắm tai nạn. Vừa rồi chẳng biết kẻ nào đã dùng hai vật báu Càn Khôn Cung và Chấn Thiên Tiễn, bắn chết người học trò của bà Thạch Cơ ở động Bạch Cốt. Bà ấy bắt ta đòi thường mạng.
Ân phu nhân nói:
– Hai báu vật ấy để trên vọng đài, từ xưa nay không một ai bắn nổi, nay trong ải cũng chẳng có tướng nào mạnh, lẽ đâu dùng được?
Lý Tịnh nói:
– Ta nghi thằng Na Tra tinh nghịch, đã dùng tên thần sát hại.
Ân phu nhân nói:
– Thằng Na Tra mới có bảy tuổi lẽ nào có đủ sức mạnh dùng thần tiễn?
Lý Tinh nói:
– Phu nhân không biết chứ Na Tra là một tướng trời đầu thai làm con mình, tuổi nhỏ nhưng tài cao, sức mạnh vô địch. Chính nó đã dùng sức mạnh đánh cả Ðông Hải Long Vương vừa rồi, phu nhân không thấy sao?
Ân phu nhân thở dài:
– Chuyện kia chưa dứt, chuyện nọ đã dây. Chưa chắc thằng Na Tra đã gây nên chuyện này.
Lý Tịnh ngồi nghĩ một lúc, rồi khiến quân đòi Na Tra đến.
Quân vào tìm Na Tra suốt buổi mới gặp.
Na Tra đến trước mặt Lý Tịnh vòng tay thưa:
– Cha có việc gì sai bảo con?
Lý Tịnh nói:
– Thầy con đã dặn con sau này giúp nước phò vua đồ binh bố trận, vậy nay sẵn dịp thong thả, Sao con không tập cầm cung cỡi ngựa?
Na Tra nói:
– Việc ấy cha không dạy con cũng phải lo. Vừa rồi con lên chơi viễn vọng đài thấy đó để cung tên, con bắn chơi một mũi mà khói đen mù mịt, hào quang chói sáng ngời nghe tiếng sấm vang tai, mũi tên đâu mất?
Lý Tịnh nghe nói ngồi chết điếng. Giây lâu mới thốt lên:
– Mầy là thằng nghiệp báo. Việc giết chết Thái Tử Long Vương còn đó chưa gỡ xong, nay lại chọc giận đến Thạch Cơ, việc càng trói thêm nữa!
Ân phu nhân ngồi nhìn sững.
Na Tra không hiểu gì liền hỏi:
– Chẳng hay có chuyện gì mà song thân kinh hãi như vậy?
Lý Tinh nói:
– Mày dùng tên thần bắn chết học trò của Thạch Cơ, bà ấy vừa bắt tao đến động Bạch Cốt buộc phải thường mạng. Mầy tính lẽ nào thì tính.
Na Tra nói:
– Bạch Cốt là động nào? Học trò bà Thạch Cơ đi đâu mà bị tên vậy? Nếu có thì đó là chuyện rủi ro, do số mạng chứ con đâu cố ý hại người!
Lý Tịnh nói:
– Nhưng tên ấy là tên thần, ai cũng biết báu vật của ải Trần Ðường còn chối cãi vào đâu?
Na Tra nói:
– Xin cha dẫn con đến đó con sẽ đối nại trước mặt bà Thạch Cơ cho. Không liên hệ gì đến cha mẹ cả. Con làm con chịu thôi.
Lý Tinh nói:
– Ừ nếu mầy có giỏi thì đến gặp Thạch Cơ nương nương tạ tội.
Na Tra vâng lời. Hai cha con cùng nhau độn thổ đến núi Khô Lâu động Bạch Cốt.
Lý Tịnh bảo Na Tra đứng ngoài chờ còn mình thẳng vô trong yết kiến Thạch Cơ nương nương.
Thạch Cơ nương nương thấy Lý Tinh đến liền hỏi:
– Sao? Ngươi đã tra ra người bắn tên chưa?
Lý Tịnh thưa:
– Kẻ gây chuyện chính là Na Tra, con trai của tôi đó. Nó là đứa con bất hiếu, tuy nhiên, con dại cái mang, tôi không thể tránh khỏi tội.
Thạch Cơ nói:
– Ngươi có dẫn nó đến đây không?
Lý Tịnh thưa:
– Có, tôi dẫn nó theo để xin lỗi nương nương. Hiện nó còn đứng trước động chờ lệnh.
Thạch Cơ nói:
– Ngươi sanh con dữ không dạy được. Thôi để ta trừng trị nó cho.
Nói rồi liền sai Thể Vân đồng tử ra ngoài gọi Na Tra vào.
Na Tra thấy có người ra gọi mình biết Thạch Cơ sai khiến, liền nghĩ thầm:
– Ðây là ổ hang của chúng, nếu ta chẳng ra tay trước để lọt vào sào huyệt của nó thì khó mà đối phó sau này.
Nghĩ rồi liền ném Càn Khôn Quyện lên đánh Thể Vân. Thể Vân thờ ơ không đề phòng, bị Càn Khôn Quyện đánh trúng té nhào xuống đất, thở hoi hóp.
Thạch Cơ nương nương ở trong động, nghe tiếng Thể Vân la lên biết ngay Na Tra đã sanh sự với học trò mình, mặt giận hầm hầm, xách gươm chạy ra hét lớn:
– Thằng quỷ dữ, mày dám đánh học trò của ta nữa à?
Na Tra mặt lầm lì thấy Thạch Cơ cầm gươm chạy ra liền thâu Càn Khôn Quyện, rồi ném tới đánh Thạch Cơ nữa.
Thạch Cơ biết đó bửu bối của Thái Ất chơn nhơn, lợi hại lắm vội vã đưa tay ra bắt lấy và nói:
– Thái Ất dạy học trò ăn cướp đây mà.
Na Tra thấy Càn Khôn Quyện bị mất thất kinh, quăng luôn sợi dây lưng bảy thước là Hỗn Thiên Lăng lên định trói Thạch Cơ, chẳng ngờ Thạch Cơ đưa tay áo rộng lên hứng, Hỗn Thiên Lăng riu ríu chun vào tay áo.
Thạch Cơ liền kêu Na Tra nói:
– Hãy đem hết các phép của thày mầy quăng ra hết đi.
Na Tra chỉ còn mình không, hết làm mặt dữ, vội co giò bỏ chạy.
Thạch Cơ gọi Lý Tịnh nói:
– Ngươi là người vô tội, ta cho về nghỉ ngơi. Còn thằng con của ngươi ta sẽ bắt để trị tội.
Nói rồi đuổi theo Na Tra như mẹ rượt con, chẳng khác mây bay gió thổi.
Na Tra chạy đã giỏi mà Thạch Cơ rượt theo cũng không chậm. Hai người cút bắt một hồi đã đến trước động của Thái Ất chơn nhơn.
Na Tra quen thuộc đường ngõ nên chạy tọt vào trong đóng cửa lại.
Thái Ất thấy Na Tra chạy vội về, mặt mày hơ hải, liền hỏi:
– Chuyện gì vậy?
Na Tra thuật lại mọi việc, mình bắn tên thần rủi trúng học trò của Thạch Cơ nương nương, bị bà ta thu hết phép màu và còn đuổi theo bắt nữa.
Thái Ất nói:
– Mầy gây ra lắm chuyện bực mình. Việc Ðông Hải Long Vương dàn xếp chưa xong đã đến chuyện Thạch Cơ nữa
Na Tra năn nỉ:
– Con đâu cố tình bắn chết học trò của Thạch Cơ, tên thần bay lạc, chắc là số mạng của học trò bà ấy…
Thái Ất nói:
– Thôi được, hãy ra sau vườn, để ta đối phó với mụ ấy.
Thái Ất bước ra đứng dựa ngoài hiên, thấy Thạch Cơ mặt giận hàm hầm, cầm gươm xông vào động, cử chỉ rất hung dữ.
Thái Ất cười lớn, hỏi:
– Nương nương đến đây có việc gì mà bộ dạng khó coi như thế?
Thạch Cơ xá Thái Ất một cái, và nói:
– Lão huynh dạy học trò không kỹ càng, phép tắc gì hết.
Thái Ất hỏi:
– Học trò tôi làm điều gì phạm đến nương nương?
Thạch Cơ nói:
– Nó đã dùng tên thần bắn chết học trò tôi là Bích Vân, sau đó lại dùng Càn Khôn Quyện đánh Thể Vân đến ngất ngư, tôi ra can thiệp, nó ỷ có phép của đạo huynh, đánh luôn đến tôi nữa. Nếu đạo huynh muốn tình chúng ta không sứt mẻ thì hãy bảo nó ra đây cho tôi trị tội.
Thái Ất nói:
– Na Tra có mặt trong động, gọi nó ra không khó khăn gì. Song nó là người của cung Ngọc Hư, vâng lệnh Giáo Chủ xuống đầu thai giúp Chúa. Nếu nương nương muốn trừng trị hắn thì hãy đến nói với Giáo Chủ, chừng nào Giáo Chủ dạy ta giao nó cho nương nương thì ta giao liền. Ta không phải tư vị.
Thạch Cơ cười lớn:
– Lão huynh đừng mượn uy của Giáo Chủ dọa dẫm đàn bà. Lão huynh thả học trò ra giết người, phá phách kẻ khác, công lý dù là kẻ quyền uy cũng không thể trốn tránh được. Sát nhân phải đền mạng, đừng đem Giáo Chủ ra dọa tôi.
Thái Ất nói:
– Ðạo nào cũng vậy người dưới phải tôn trọng kẻ trên, nương nương đã là kẻ tu hành lẽ nào không rõ lề luật?
Thạch Cơ nói:
– Tuy cùng là đạo nhưng tôi ở khác ngành, lẽ nào chịu tùng phục Giáo chủ của Ðạo huynh?
Thái Ất chơn nhơn cười lớn:
– Nương nương ý muốn nói người Triệt giáo không tuân tệnh Xiển giáo chứ gì? Theo tôi nghĩ, Xiển Giáo hay Triệt Giáo cũng chịu dưới sự điều khiển của Ngọc Hoàng, không nên có ý ấy. Nương nương cũng biết lúc này số trời đã định, tam giáo phải đồng ghi bảng phong thần cho đủ số. Giáo chủ ta truyền cho chư tiên các động phải sai đệ tử xuống trần giúp nhà Châu, Na Tra cũng vâng lệnh đầu thai, sau làm tiên phuông cho Khương Thượng. Dầu nó lầm lỗi bắn trúng học trò của nương nương thì cũng tại số trời, không phải cố ý sát nhân mà bắt đền mạng. Xét như nương nương đã là kẻ tu niệm, tránh điều lo lắng thì cũng chẳng nên mua cừu chuốc oán làm chi cho lỗi phép đạo?
Thạch Cơ nổi giận nói:
– Tam giáo, đạo nào cũng trọng sao lại có ý chê Triệt Giáo của tôi?
Thái Ất nói:
– Ðạo tuy là một, song có thấp cao, chánh tà phải phân biệt.
Thạch Cơ không còn nhịn được nữa, chém Thái Ất một gươm.
Thái Ất vội né sang một bên tránh, rồi chạy thẳng vào động, rút gươm báu và đãy phép, quì lạy về hướng Ðông, vái:
– Ngày nay cực chẳng đã phải phạm tội sát sanh, đệ tử không đám giấu thầy, xin chịu tội trước.
Vái lạy rồi, Thái Ất ra trước động, điểm mặt Thạch Cơ nói:
– Ngươi còn non nớt lắm, sao chẳng lo tu niệm lại muốn đua tranh, muốn đến cửa lành làm dữ?
Thạch Cơ không nhịn, vung gươm chém đùa. Thái Ất đỡ ra và nói:
– Ngươi là cục đá nhờ âm dương soi sáng, nhật nguyệt thắm nhuần, tuy hóa hình ngàn năm, nhưng chưa đắc quả. Nay số trời đã đến nên khiến ngươi đem chút tài mọn của tà đạo chống với chánh đạo, ta e uổng công tu luyện ngàn năm, không được thành tiên lại trở thành đá.
Thạch Cơ nương nương nghe Thái Ất đem gốc tích mình châm biếm lại càng giận hơn, đôi mày dựng ngược, hai mắt tròn xoe, múa kiếm chém Thái Ất không ngớt.
Thái Ất đưa gươm đối địch. Ðánh nhau được mười hiệp, sức gái không sánh nổi tài trai, Thạch Cơ ra tay trước, liền ném khăn Bát Quái lên, chiếu hào quang sáng chói.
Thái Ất cười lớn:
– Phép tà cự sao lại chánh?
Liền đưa tay chỉ chiếc khăn Bát quái, miệng niệm lâm râm, tức thì khăn Bát quái sa xuống đất.
Thạch Cơ thấy phép mình không hại nổi Thái Ất tức giận múa kiếm như bay, màu trắng tủa ra phủ một vùng.
Thái Ất nói:
– Ngươi đã cố tình không hối cải, quyết làm dữ với ta, lẽ nào ta dung thứ.
Nói rồi bước tránh sang một bên, lấy Cửu Long Thần hóa trạo vụt lên. Bửu bối này có hình một chiếc nơm úp cá.
Thạch Cơ thấy chiếc nơm phép thất kinh bỏ chạy, nhưng không sao tránh khỏi chiếc nơm úp nhằm đầu, Thạch Cơ bị chui vào đấy.
Na Tra thấy thày mình dùng phép úp Thạch Cơ mà đốt, vội chạy ra lớn tiếng nói:
– Phải chi lúc nãy mình được chiếc nơm ấy thì khỏi mất công thầy mình phải ra tay.
Thái Ất ngó ngoái lại thấy Na Tra, nghĩ thầm:
– Thằng quỷ này ý muốn chiếm nơm phép của ta. Nhưng nếu cho nó ngay bây giờ thì gây họa không ít, chi bằng để lúc nó theo Khương Tử Nha làm tướng, ta sẽ cho nó cũng chẳng muộn.
Nghĩ rồi liền gọi Na Tra bảo;
– Na Tra, nay bốn vị Long Lương vâng lệnh Ngọc Hoàng đang bắt tội thân phụ ngươi dưới ải, ngươi hãy trở về cho mau.
Na Tra nghe nói khóc lớn:
– Xin thầy ra ơn cứu con một phen. Con làm lỗi gây tội cho cha mẹ thật lòng con hối hận vô cùng.
Thái Ất thấy Na Tra khóc than lạy lục, liền kề miệng dặn nhỏ vài câu, bảo làm y kế ấy mới cứu được cha mẹ khỏi tội.
Na Tra tuân lệnh, độn thổ trở về ải Trần Ðường.
Còn Thạch Cơ bị chín con rồng lửa trong chiếc nơm thần vấn vít chặc cứng, hơi nóng phừng phừng, khói tỏa mù mịt.
Thương thay! Uổng công mấy ngàn năm tu luyện! Thạch Cơ bị hiện nguyên hình thành một cục đá xanh. Cũng bởi tại lửa trong tâm không dằn được nên mới bị lửa bên ngoài đốt ra tro.
Cục đá xanh tan. Thái Ất thấy Càn Khôn Quyện và Khổn Thiên Lăng không cháy, liền thâu hai vật báu ấy đem cất.
Na Tra độn thổ trở về đến ải Trần Ðường có quân vào báo cho Lý Tịnh hay. Bấy giờ vợ chồng Lý Tịnh đều bị trói còn bốn vị Long Vương là Ngao Quảng, Ngao Thuận, Ngao Nhuận, Ngao Khâm đều ngồi trước mặt, bàn cách xử án.
Khi nghe quân báo có Na Tra về, bốn vị Long Vương đều nghiến răng giận dữ. Na Tra vào ải, thấy cha mẹ bị trói, hét lớn:
– Sao quí vị làm ngang như vậy? Kẻ nào làm không phải kẻ ấy chịu tội thôi. Tôi đã đánh chết Lý Lương và Ngao Bính thì một mình tôi thế mạng, không việc gì bắt trói song thân tôi?
Bốn vị Long Vương đều nhìn Na Tra. Ngao Quảng nói:
– Ngươi giết người, gây nhiều việc đại ác, lại bỏ trốn, không biết xấu còn nói chuyện hiếu đạo!
Na Tra nói:
– Giết người đền mạng. Nay tôi bằng lòng mổ ruột, lóc thịt, chặt xương của tôi ra để đền tội với song thân, trả ơn sanh thành. Quí vị không được làm phiền đến song thân tôi nữa. Nếu quí vị bằng lòng như vậy thì tôi thi hành, bằng không, tôi cùng quí vị đến cửa trời, yết kiến Ngọc Hoàng, nhờ phân xử phải trái.
– Như vậy mới là con có hiếu. Ngươi làm được vậy ta cũng khen ngươi đấy.
Nói rồi mở trói cho vợ chồng Lý Tịnh.
Na Tra lấy gươm ra, tay mặt chặt tay trái, lóc hết thịt, rồi mổ bụng lòi ruột cả đùm. Chỉ chốc lát hồn lìa xác.
Thương ôi, máu me lai láng, xương thịt tan tành, lòng thảo dạ ngay, hồn bay phách lạc.
Người sau có thơ điếu Na Tra:
Mình làm mình chịu dám nài bao
Ðể họa song thân dạ nỡ nào
Lóc thịt quyết đền ơn nhũ bộ
Liều thân đành trả nghĩa cù lao
Lòng bền như đá lăn không núng
Máu chảy như vòi thác chẳng nao
Riêng thẹn phận hèn coi mạng lớn
Nghĩ càng hổ mặt với anh hào
Bốn vị Long Vương thấy Na Tra chết rồi không còn lý nào làm khó Lý Tịnh nữa, đồng lui về hết.
Vợ chồng Lý Tịnh tẩn liệm hài cốt của Na Tra đem chôn, lòng buồn khôn khuây.
Nguyên Na Tra là trái Châu Linh, không hồn phách, bởi đầu thai nên mới có hồn. Nay hồn Na Tra theo gió phất phơ trở về động.
Hồn Na Tra phưởng phất bay về núi Càn Nguyên, Kim Hà đồng tử trông thấy vào thưa với Thái Ất:
– Không hiễu anh tôi vì sao hồn phách dật dờ bay về đây.
Thái Ất đã biết trước việc ấy, liền ra trước động nói với Na Tra:
– Chốn này không phải chỗ ngươi nương thân. Hãy về mách bảo với mẹ ngươi đến ải Túy Bình, cách ải Trần Ðường bốn mươi dặm lập một cái miếu cho ngươi ở. Ngươi hưởng được ba năm hương lửa tự nhiên trở lại hình người. Ngày sau cứu nước phò vua, danh vang bốn biển. Hãy nghe lời ta chớ chậm trễ.
Na Tra nghe lời thầy dạy, liền trở về ải Trần Ðường, nhân lúc canh khuya vào phòng ứng mộng.
Ðêm ấy, Ân phu nhân đang ngủ, bỗng thấy Na Tra đứng trước mặt kêu nói:
– Thưa mẹ, con là Na Tra, vì chết oan uổng nên vong hồn không siêu thoát, vậy xin mẹ lập miễu tại núi Túy Bình, để con nhờ hương khói siêu rỗi linh hồn. Nếu được vậy ơn đức mẹ tày trời, con mang ơn tợ biển.
Ân phu nhân thức dậy, thương nhớ Na Tra, khóc mãi không thôi.
Lý Tịnh thấy vậy hỏi đuyên cớ. Phu nhân thuật lại câu chuyện trong mộng vừa rồi.
Lý Tịnh nói:
– Bởi phu nhân lòng thương con nên sanh ra chiêm bao mộng mị như vậy. Ðừng khóc lóc nữa.
Ân phu nhân làm thinh, không dám cãi.
Ðêm sau, Ân phu nhân lại nằm mộng, và cũng thấy Na Tra kêu nói như vậy nữa. Rồi bảy đêm liền, không đêm nào không thấy Na Tra. Ân phu nhân sợ Lý Tịnh, không dám nói lại.
Còn Na Tra thấy mẹ mình bỏ qua, không kể lời mình, tức giận nói:
– Con năn nỉ với mẹ đã mấy đêm liền, nếu mẹ không thương tưởng đến con, lập miễu cho con ở, con sẽ phá nhà cho mẹ coi.
Na Tra lúc sống tánh hung hăng, lúc chết chắc cũng không vừa.
Phu nhân sợ hãi không dám bỏ qua nữa, lén sai người lên núi Túy Bình cất miễu, chạm cốt Na Tra bằng gỗ, như người sống. Chỉ trong mười bữa hoàn thành.
Na Tra từ lúc ấy linh thiêng, tiếng đồn dậy núi. Dân chúng bảo gì được nấy, trăm việc trăm thành. Vì hiển thánh như vậy nên bá tánh tự động góp tiền góp của, sửa sang miễu Na Tra rực rỡ, ngày ngày thường cúng tế, đêm đêm không ngớt hương đèn.
Bấy giờ Lý Tịnh nghe tin Ðậu Dung trấn ải Du Hồn cự không lại Khương Văn Hoàn, nên ngày đêm lo luyện tập binh mã ở núi Giả Mã để phòng giữ ải mình.
Ngày kia, Lý Tịnh kéo binh đi ngang qua núi Túy Bình, thấy thiên hạ dâng hương đông như hội liền hỏi quân sĩ:
– Thiên hạ đi đâu đông như vậy?
Quân lính thăm dò một lúc rồi trở về báo:
– Núi này có một cái miễu, trong miếu có vị thần linh lắm, hễ cầu phước thì được phước, cầu may thì được may, thiên hạ được khắp chốn, ai nấy lũ lượt đến đó dâng hương, lúc nào cũng đông như ngày hội.
Lý Tịnh hỏi:
– Ông thần đó thiên hạ gọi là thần gì?
Quân lính thưa:
– Họ gọi là Thần Na Tra.
Lý Tịnh nghe nói nỗi giận truyền quân đóng binh lại, rồi một mình cỡi ngựa lên núi xem thử.
Khách dâng hương thấy Lý Tịnh lên núi đều tránh đường cho Lý Tịnh để Lý Tịnh đến nơi, thấy có một cái miễu thắp nhang khói tỏa mịt mù, trước cửa có treo một tẩm biển đề bốn chữ lớn: “Na Tra hành cung “.
Bước vào trong, Lý Tịnh thấy trên bàn, một cốt tượng bằng gỗ, tạc hình giống Na Tra như lúc sống, hai bên lại có hai tên quỉ sứ đứng hầu, trông có vẻ oai nghi lắm.
Lý Tịnh lấy roi chỉ vào mặt Na Tra hét:
– Nghịch tử! Lúc sống mày báo mẹ báo cha, lúc chết lại làm quỉ gạt gẫm dân chúng, khuấy rối thiên hạ.
Mắng rồi vung roi đập nát pho tượng, nổi lửa đốt miễu cháy tan tành. Lại nói với đân chúng hành hương:
– Nó không phải thần thánh gì đâu, đừng cúng tế nữa. Nó là đứa con ngỗ nghịch, gạt gẫm đồng bào đấy.
Khách dâng hương thất kinh, tản ra về hết, vì ai cũng sợ Na Tra linh hiển, lụy đến thân mình.
Người sau có thơ rằng:
Binh mả ngang cảnh Túy Bình
Gặp dân dua cúng miễu anh linh
Roi đưa vun vút thần tan rã
Chân đá đùng đùng quỷ hãi kinh.
Lửa đốt miếu thiêng, trời đỏ mặt
Khói un cây cỏ núi đen mình
Vì hờn một chút gây nên chuyện
Khiến nổi cha con dứt nghĩa tình
Lý Tịnh kéo binh trở về đến ải Trần Ðường bố trí canh đâu đó xong xuôi, vào hậu đường nói với Ân phu nhân:
– Nghịch tử đã chết thì thôi, bày chuyện lập đền lập miếu thờ cúng làm gì cho sanh chuyện.
Ân phu nhân thuở nay vốn nể chồng không dám nói. Cực chẳng đã phải thở than:
– Dù sao nó cũng là con mình mang nặng đẻ đau. Nay nó liều chết để khỏi lụy đến mẹ cha cũng là chuyện hiếu. Tôi nằm rnộng thấy nó về gọi mãi, xin lập miễu để vong hồn nó an hưởng, lẽ nào nỡ bỏ qua.
Lý Tịnh nói:
– Lập mấy miễu cũng được, chuyện đó không ăn nhằm gì. Nhưng báo hại, dân chúng rủ nhau đến đó cúng tế dập dìu làm náo động cả một vùng Túy Bình, thật là điều bất tiện.
Ân phu nhân nói:
– Cúng tế là do lòng ngưỡng mộ của chúng dân, có can gì đến tướng quân.
Lý Tịnh thở dài:
– Sao lại không. Tôi thuở nay không ưa hối lộ với Vưu Hồn, Bí Trọng, chúng thường để ý bươi móc những sơ hở của tôi để sàm tấu. Nếu hai thằng nịnh ấy biết được việc này tất chúng tâu với Thiên tử, vu cho tôi tội mị đân. Như vậy mang tiếng với triều đình. Nay tôi đập pho tượng đốt miễu rồi, không để cho dân chúng tụ họp cúng tế nữa.
Ân phu nhân nghe nói buồn thiu, nhưng không dám cãi.
Bấy giờ, Na Tra đi chơi vắng, không có ở miễu, lúc trở về thấy miễu cháy tan hoang, tượng thần bể nát, hai tên quỷ sử khóc mếu máo, chạy ra nghênh đón.
Na Tra hỏi:
– Vì cớ sao miễu cháy tan tành như vậy?
Quỉ sứ thưa:
– Lý Tổng binh kéo quân đi ngang qua núi, chẳng biết vì sao lại đốt miễu, đập phá tan tành.
Na Tra nỗi giận nói:
– Xương thịt ta đã trả lại rồi, còn tình nghĩa cha con gì nữa. Nỡ nào đập tượng, đốt miễu, ta biết nương dựa vào đâu. Việc này ta phải trở về núi thưa lại với thầy ta kẻo oan ức quá.
Bấy giờ hồn Na Tra đã hưởng được nửa năm hương khói, nên có vẻ cứng cáp lắm rồi. Khi Na Tra bay về tới động, Kim Hà đồng tử trông thấy vội dắt vào yết kiến. Thái Ất hỏi:
– Sao ngươi không ở miễu, trở về động làm gì?
Na Tra thưa:
– Cha tôi kéo binh đến đập phá tượng cốt, đốt miễu tan tành, đệ tử không có chỗ nương thân nên phải về đây xin sư phụ chỉ dạy.
Thái Ất nghĩ thầm:.
– Việc này lỗi tại Lý Tịnh. Là tình cha con, việc gì lại khắc bạc đến thế. Nếu không nhờ hương lửa cho thành hình thì làm sao ra đời phò vua giúp nước? Vả lại lúc này Khương Tử Nha cũng gần ra mặt, mà Na Tra hiện hình chưa kịp thì biết làm sao tính chuyện chiến chinh? Thế này ta phải dùng cách khác cứu nó mới xong.
Nghĩ rồi liền truyền Kim Hà đồng tử đi hái hai cái bông sen và ba chiếc lá sen nguyên cọng.
Kim Hà đồng tử tuân lệnh hái bông lẫn sen đem về. Thái Ất bẻ ra làm ba trăm sáu mươi khúc (cọng sen), sắp cọng sen làm xương, lấy bông sen làm thit, đắp ba lá sen làm da, rồi để hột thuốc kim đơn vào giữa.
Sắp đặt xong xuôi, Thái Ất niệm chú, thâu hồn Na Tra xô nhập vào hình sen, hét lớn lên một tiếng:
– Hãy hoàn hồn nhập xác.
Bỗng nghe có tiếng ư, rồi một xác người ngồi dậy, mặt tợ dồi phấn, môi thể thoa son, hai con mắt sáng ngời, mình cao mười sáu thước, hình hài tuy cao lớn, nhưng không khác gì Na Tra trước kia mấy.
Thái Ất nói:
– Lý Tịnh đánh cốt đốt miễu là chuyện khắt khe, tuy nhiên đệ tử chớ lấy đó mà hận lòng.
Na Tra tánh hung hăng, nghĩ đến hành động Lý Tịnh đối xử với mình không sao dằn lòng được, nói lớn:
– Thân xác con đã trả lại cho cha mẹ con rồi, tình cha con không còn gì nữa, Thưa thầy hận cừu này không trả không thể an lòng được.
Thái Ất bảo:
– Thôi chuyện đã qua đừng nhắc đến làm gì. Hãy theo thầy ra vườn luyện tập võ nghệ.
Na Tra theo Thái Ất ra vườn. Thái Ất giao cho Na Tra một cây giáo dài, lưỡi có uốn khúc như lưỡi con rắn liu điu đỏ lòm như lửa gọi là Hỏa Tiên thương.
Na Tra rất thông minh chỉ học qua một lượt đã thuộc hết các phép. Thái Ất nói:
– Phép đánh giáo của con đã tinh thông, vậy thầy cho con thêm một bánh xe gió và một bánh xe lửa làm chân thế ngựa.
Nói rồi truyền mấy câu chú. Lại giao một túi da beo, có đựng các phép báu như: Càn Khôn Quyện, Hổn Thiên Lăng, và một cục Kim Chuyên.
Giao xong các báu vật, Thái Ất lại bảo:
– Thầy cho con xuống ải Trần Ðường ra mắt vợ chồng Lý Tịnh để cởi mở hận lòng.
Na Tra cầm giáo lên xe trở về ải Trần Ðường.
Thật ra đối với Lý Tịnh, Na Tra có cái hận trong lòng, nếu không cởi mở, Na Tra sẽ trở thành độc dữ hơn, vì vậy Thái Ất cũng muốn cho hận thù ấy kết toán.
Na Tra nghĩ mình đã lóc thịt xương trả lại công sanh thành nên không còn là con của Lý Tịnh nữa, vì vậy khi đến ải Trần Ðường, Na Tra đứng ngoài thành gọi lớn:
– Quân bay vào bảo Lý Tịnh ra ta nói chuyện.
Quân sĩ thấy Na Tra cầm giáo dài, mặt mày giận dữ, lại kêu tên Lý Tịnh mà nói như vậy thất kinh vào báo:
– Có đệ tam công tử trở về mời gia gia ra ngoài thành nói chuyện.
Lý Tịnh nạt:
– Bây chớ nói xàm. Ðời nào chết đi còn sống lại được!
Lý Tịnh nói vừa dứt tiếng đã có tên quân khác vào thưa:
– Xin chủ tướng ra mau kẻo công tử xông vào không ngăn kịp.
Lý Tịnh nói:
– Việc này rất lạ. Na Tra đã chết lẽ đâu còn trở lại hình người. Ðây chắc vong hồn nó hiện quỉ về phá rối chăng?
Nói rồi cầm kích lên ngựa ra trước ải, quả thấy Na Tra cao lớn hơn xưa, đang đứng trên hai bánh xe, tay chàng ngang ngọn giáo.
Lý Tịnh thất kinh hỏi:
– Nghịch tử! Khi sống làm yêu, lúc chết hiện quỉ, trở về đòi nợ hay sao?
Na Tra nói:
– Ta với ngươi không còn tình cha con gì nữa. Xác thịt ta đã trả lại công sanh thành rồi. Bây giờ ta với ngươi chỉ là hai kẻ thù. Tại sao ngươi đập tan cốt tượng, đốt miễu của ta. Thù nãy chưa trả ta quyết không đạp đất đội trời.
Vừa nói Na Tra vừa xông tới, dùng giáo dài đâm Lý Tịnh.
Lý Tịnh nổi giận cầm kích đỡ ra rồi chém lại. Hai đàng đánh nhau được hai mươi hiệp, chẳng ngờ Na Tra sức mạnh phi thường, càng đánh càng hăng, còn Lý Tịnh mồ hôi ướt giáp, hơi thở khò khè, tay chân run rẩy, liệu thế đánh không lại phải quày ngựa chạy dài.
Na Tra gọi lớn:
– Chạy đi đâư cho khỏi? Phen này ta quyết giết chết được ngươi mới nghe!
Vừa nói vừa rượt theo.
Lý Tịnh hoảng hốt độn thổ tức thì.
Na Tra cười lớn nói:
– Ðối với thế gian thì độn thổ là phép lạ còn đối với tiên gia, độn thổ là chuyện tầm thường, làm sao trốn được?
Nói rồi đạp hai bánh xe Phong Hỏa nghe gió dậy lửa hừng đi theo như mây bay gió táp.
Lý Tịnh chết điếng không biết liệu cách nào, than:
– Ta không ngờ sanh con lại tạo cho mình một nghiệp báo?
Giữa lúc đó bỗng có một người đi tới, miệng ca mấy câu:
Trăng chiếu lên khe nước bích
Gió đưa dựa cánh hoa dào
Ngàn dặm non xanh trải khắp
Một vầng mây bạc bay cao
Lý Tịnh thoáng thấy một tên đạo đồng, mình mặc áo tràng, đầu đội mũ đảnh. Nhìn kỹ thì đó là Mộc Tra, con trai của Lý Tịnh, học trò của ông Phổ Hiền ở động Bạch Hạc.
Lý Tịnh thấy Mộc Tra, lòng bớt sợ gọi lớn:
– Con ơi, cứu cha với.
Mộc Tra thưa:
– Cha đừng sợ, có con đến đây.
Bấy giờ Na Tra đã rượt theo kịp, thấy Lý Tịnh đang nói chuyện với tên Ðạo đồng, liền xốc đến làm dữ, Mộc Tra cản lại nạt lớn:
– Nghịch tử! Mầy dám làm chuyện vô đạo, rượt đánh cha, trời đất nào dung cho mày. Hãy xin lỗi thì ta dung thứ.
Na Tra hỏi:
– Mầy là ai mà phách lối như vậy?
Mộc Tra nói:
– Té ra mầy chưa biết tao sao? Ta là Mộc Tra, anh ruột của mầy mà. Lâu nay chưa lần nào gặp nhau nên mầy không biết cũng phải.
Na Tra nói:
– Anh Mộc Tra, anh chưa biết câu chuyện này. Ðể tôi nói lại cho anh nghe.
Ðoạn Na Tra kể lại các việc vừa xảy ra và nói:
– Tình cha con đã hết thì thù hận phải trả cho rành.
– Dù sao thiên hạ cũng nói mầy là con của Lý gia gia. Nếu mày hành động như vậy thì mang tiếng con nhà vô giáo dục.
Na Tra nói:
– Nhưng cha làm quấy tất nhiên con không thể kính vì.
Mộc Tra nói:
– Lẽ thường xưa nay, cha mẹ không làm quấy bao giờ.
Na Tra nói:
– Xương thịt đã trả lại rồi, không còn cha con gì nữa.
Mộc Tra giận quá, mắng lớn:
– Mày quả là đứa nghịch tử, không để làm chi.
Nói rồi chém Na Tra một gươm. Na Tra vung giáo đỡ, và nói:
– Tôi với anh không thù oán gì. Hãy tránh ra để tôi trả mối thù cùng Lý Tịnh.
Mộc Tra hét:
– Ðừng nói bậy. Hãy ngửa cổ chịu chết cho rồi.
Na Ta không nhịn, cầm giáo dài đâm Mộc Tra. Mộc Tra đỡ ra rồi rượt đánh. Hai anh em đánh với nhau lối ba mươi hiệp, Na Tra nóng lòng trả thù Lý Tịnh, sợ Lý Tịnh trốn mất, nên tính giải quyết với Mộc Tra cho sớm, liền lấy cục Kim Chuyên ném lên. Bửu bối này có hình như cái bánh ú, rơi nhằm lưng Mộc Tra làm cho Mộc Tra chống không lại, nhào lăn xuống đất.
Na Tra nói:
– Mầy muốn thế mạng cho Lý Tịnh đấy.
Nói rồi bỏ Mộc Tra nằm đấy, múa giáo đâm Lý Tịnh, Lý Tịnh sợ hãi cong lưng chạy riết.
Na Tra vừa cười vừa nói:
– Dù ngươi có chạy đến góc bể đầu non nào ta cũng quyết lấy thủ cấp cho được để trả thù việc đập cốt, đốt miễu ngày trước.
Lý Tịnh nghe Na Tra nói lại càng hoảng sợ, chạy trốn chẳng khác con chim bị ná, con cá vừa thoát lưới.
Ðàng sau, Na Tra đạp xe phong hỏa đuổi theo rất gấp.
Lý Tịnh than dài:
– Mình đầu thai lỡ kiếp, đi tu tiên không thành, trở về với công danh thì lại bị loài quỉ dữ vương nghiệp báo. Nhục nhã quá sống cũng chẳng làm chi, thà chết cho mát ruột.
Than rồi muốn dùng gươm đâm họng tự vận. Bỗng nghe có tiếng gọi:
– Lý Tướng quân chớ chạy, có bần đạo đến đây.
Lý Tịnh dừng chân, nghe người ấy ngâm bốn câu thơ:
Ngoài nội ngọn dông đưa liễu
Trong ao mặt nước trôi hoa
Hỏi thử: Non xanh phải động
Ðáp rằng: mây hạc là nhà
Người vừa ngâm bốn câu thơ là một đạo nhân, hiệu Văn Thù Quảng Pháp Thiên Tôn thầy của Mộc Tra đó.
Văn Thù tay cầm phủ phất từ từ đi tới bảo Lý Tịnh:
– Tướng quân hãy vào động nghỉ, để ta xử trị với nó cho.
Lý Tịnh thấy Văn Thù Thiên Tôn, vội cầu cứu:
– Xin Ðạo sư ra ơn cứu tôi với.
Vừa nói vừa chạy tọt vào động.
Na Tra mặt hầm hầm, tay cầm giáo dài chân đạp hai bánh xe vừa đến nơi, không thấy Lý Tịnh đâu, chỉ thấy một ông đạo sĩ đầu chừa hai vá, mình mặc áo nịt một dây đang đứng bên bàn thạch, liền hỏi:
– Ông đạo có thấy một vị tướng vừa chạy qua đây không?
Văn Thù nói:
– Lý Tổng binh đã chạy vào động Vân Tiêu rồi, ngươi hỏi làm gì?
Na Tra nói:
– Ðạo sư chưa rõ, người ấy chính là thù nhân của tôi đấy.
Văn Thù cười lớn:
– Con mà gọi cha mẹ là thù nhân à?
Na Tra trợn mắt nói:
– Tại sao ông biết? Tôi đã lóc hết xương thịt trả lại rồi, còn cha con gì nữa?
Văn Thù nói:
– Lóc thịt xương chỉ mới là thể xác, còn tinh thần thì sao?
Na Tra hỏi:
– Tinh thần là cái gì?
Vản Thù đáp:
– Tinh thần là mối liên hệ giữa tình thương, là cái đạo của con người đối với con người.
Na Tra nóng lòng gắt:
– Tôi không muốn nghe những lời ấy. Nếu ông muốn yên ổn thì giao cừu nhân cho tôi, còn không tôi đâm ông ba giáo.
Văn Thù cười gằn:
– Mầy là giống gì mà phách lối như vậy? Ðừng khoác lác lỗ miệng mà hại đến thân.
Na Tra không biết Văn Thù là bậc Ðạo sư có địa vị khá cao, nên hùng hổ nói:
– Ta là Na Tra, học trò của ông Thái Ất chơn nhơn. Nếu người còn không biết điều, trẻ nít không giữ lễ.
Văn Thù nói:
– Ta không nghe Thái Ất có học trò là Na Tra. Mầy ngông cuồng như vậy ắt mang khốn. Ta sẽ bắt treo ngược lên không, đánh đòn ba trăm gậy.
Na Tra tánh ương ngạnh đã quen, không kể đến ai, liền vung giáo đâm Văn Thù.
Văn Thù giả thua bỏ chạy, Na Tra đắc ý đuổi theo, Văn Thù lấy Ðộn Long Thung (dây nọc cột rồng) trong túi quăng lên tức thì bốn bề nổi gió, tám hướng mịt mù, bụi đất tối trời. Na Tra mù mịt, không còn biết đâu là đâu nữa, mê man một lúc.
Khi tỉnh dậy thì thấy mình bị trói vào ba cái khoen bằng vàng, hai cái khoen niềng hai bắp vế, một cái khoen niềng ở cổ, buộc cứng vào một cái nọc.
Văn Thù mắng lớn:
– Mày quen thói ngang tàng, gặp ta, ta trị cho một bữa.
Nói rồi khiến Kim Tra đem gậy ra đánh Na Tra một chập. Na Tra bị trói trong cột, đau quá toát mồ hôi mặt đổ lửa, mũi ra hơi nóng.
Ðánh được vài trăm gậy, Văn Thù khiến Kim Tra thôi đánh, bỏ vào trong động.
Na Tra ngồi một mình tức bực khó chịu, đã không trả thù Lý Tịnh được, lại bị ông đạo sĩ này hành hình, rêm mình rêm mẩy.
(Nguyên vì Thái Ất chơn nhơn biết Na Tra tánh hung hăng nên gạt Na Tra đến động Vân Tiêu, nhờ tay Vân Thù trừng trị cho chừa tánh lỗ mãng).
Bởi vậy, trong lúc Na Tra đang hậm hực, mặt nhăn mằy nhó, ngồi ủ rũ nơi chiếc cột thì Thái Ất đi ngang qua.
Na Tra trông thấy vội kêu cứu.
Thái Ất không thèm ngó lại, cứ đi thẳng vào động.
Văn Thù mở cửa ra tiếp vừa cười vừa nói:
– Anh để học trò nghinh ngang quá, làm tôi nhọc công dạy dỗ.
Thái Ất nói:
– Tôi biết tánh nó hung lắm nên mượn tay anh răn dạy một lần.
Văn Thù liền khiến Kim Tra ra mở trói cho Na Tra.
Kim Tra tuân lệnh ra mở trói, và nói:
– Thầy dạy ngươi vào ra mắt.
Na Tra nói:
– Ta không ngờ thầy ta lại sợ cái lão sói đầu này, nếu biết trước ta không sanh sự với lão làm gì?
Kim Tra nói:
– Ngươi phải bỏ tánh hung hăng, nếu không thầy ta còn trừng trị nhiều cách khác nữa.
Na Tra lườm mặt:
– Ðã có thầy ta trong đó ta còn sợ gì lão sói.
Kim Tra dẫn Na Tra vào trong.
Na Tra thấy Văn Thù ngồi bên tả, Thái Ất ngồi bên hữu. Hai người có vẻ thân mật như anh em.
Thái Ất bảo Na Tra:
– Hãy ra mắt Bá Bá của mầy đi.
Na Tra không dám cãi lời, liền quỳ xuống ra mắt Văn Thù.
Thái Ất lại gọi Lý Tịnh ra.
Lý Tịnh bước đến lạy mừng hai vị Ðạo sư.
Thái Ất nói:
– Về sau, cha con phải thuận hòa, cha đừng khắc khe với con, con chớ vô lễ với cha nữa, được như vậy mới tốt đẹp.
Lý Tịnh tuân lời, lạy tạ lui ra. Na Tra vẻ mặt không vui, đôi mắt chứa đầy uất khí.
Thái Ất thấy vậy mỉm cười nói với Lý Tịnh:
– Thôi! Lý Tướng quân trở về ải an nghỉ.
Lý Tịnh cáo từ ra khỏi động, Na Tra đưa mắt nhìn theo với cử chỉ hậm hực.
Thái Ất nói:
– Ta bảo ngươi từ nay một lòng hòa thuận để giữ đạo làm người, tại sao ngươi không tuân?
Na Tra thưa:
– Không trả thù được, lòng đệ tử không an.
Thái Ất biết tánh Na Tra hung dữ, khó nguôi được liền bảo:
– Hãy trở về giữ động, để ta chơi với bác mày vài ván cờ rồi sẽ về sau.
Na Tra nghe nói mừng quýnh, vội cúi lạy, ra khỏi động Vân Tiêu, đạp hai bánh xe phong hỏa, đuổi theo Lý Tịnh tức khắc.
Lý Tịnh đang độn thổ trở về ải bỗng nghe có tiếng Na Tra gọi lớn:
– Lý Tịnh, trốn đi đâu cho khỏi, có ta theo lấy đầu ngươi, trả thù đây!
Lý Tịnh ngó ngoái lại thấy Na Tra trợn mắt đuổi theo gần kịp, kinh hãi, nghĩ thầm:
– Ông Thái Ất dạy học trò dữ đã không ráng dạy nó còn ngầm khiến nó theo hại ta nữa. Mới bảo ta trở về, lại sai học trò theo đánh. Ngoài mặt giả nhân giả nghĩa, trong lòng chứa đựng gươm đao. Thầy bất nhân, trò làm sao không thất đức?
Vừa nói, Lý Tịnh vừa chạy trối chết, Na Tra cứ đuổi theo mãi, Lý Tịnh không biết làm sao trốn thoát.
Trong cơn bối rối, bỗng thấy một đạo sĩ đứng dựa lưng bên cội tòng, hỏi:
– Phải Lý Tịnh chạy đó không?
Lý Tịnh đáp:
– Chính tôi là Lý Tịnh đây.
Ðạo sĩ nói:
– Việc gì mà chạy? Cứ bình tĩnh đi cho khoẻ.
Lý Tịnh nói:
– Na Tra rượt theo quyết giết tôi, xin đạo sĩ làm ơn cứu mạng.
Ðạo sĩ nói:
– Không hề gì đâu. Cứ núp sau lưng ta đây, nó không dám làm gì mà sợ.
Lý Tịnh vâng lời chạy đến núp sau lưng đạo sĩ, thở hào hển.
Na Tra rượt đến thấy vậy nhủ thầm:
– Tại sao mấy lão này cứ theo bênh vực cừu nhân của ta mãi. Chẳng lẽ lần này bị đòn nữa?
Liền xông đến bắt Lý Tịnh.
Ðạo sĩ cản lại hỏi:
– Vì cớ gì ngươi đuổi theo Lý Tịnh?
Na Tra kể lại câu chuyện thù hận của mình, đạo sĩ nói:
– Nơi núi Cửu Long ngươi đã bằng lòng thảo thuận với cha mẹ anh em, sao bây giờ ngươi không tôn trọng lời hứa?
Na Tra nói:
– Thầy tôi dạy bảo, tôi không dám không tuân, thật ra hận thù không thể quên được.
Ðạo sĩ nói với Lý Tịnh:
– Thằng nhỏ phách lối. Nó đã cố ăn thua với ngươi, ngươi sợ gì không đánh với nó ít hiệp cho nó kinh hoàng?
Lý Tịnh nói:
– Nó đã mạnh và hung hăng lắm, tôi đánh không lại.
Ðạo sĩ liền thổi vào mặt Lý Tịnh một hơi rồi đánh sau lưng một phát, nói:
– Cứ đánh nó đi, bề nào đã có ta đây! Ðừng sợ.
Lý Tịnh tuân lệnh cầm kích xông ra, Na Tra được dịp báo thù, mừng quýnh, cầm giáo dài đâm tới. Hai cha con đánh nhau một lúc, ước có hơn năm mươi hiệp. Na Tra đánh không lại, mệt thở khò khè, mồ hôi nhỏ giọt, mắt lòa đom đóm, nghĩ thầm:
– Trước đây lão thua mình, sao bây giờ lão mạnh dữ vậy? Hay lão nhờ đạo sĩ thổi một hơi, đập một cái sau lưng chăng? Chi bằng ta đuổi đạo sĩ này đi chỗ khác, rồi mới giết Lý Tịnh sau.
Nghĩ như vậy, Na Tra thôi đánh với Lý Tịnh, tiến đến truớc mặt đạo sĩ, xuất kỳ bất ý đâm một giáo. Chẳng ngờ đạo sĩ lanh lẹ phi thường, hả mồm phun ra một cái bông sen, cản mũi giáo của Na Tra lại.
Ðạo sĩ nói:
– Thằng quỉ! Mầy đánh với Lý Tịnh sao lại trở giáo đâm tao? Tao với mầy có thù oán gì đâu?
Na Tra nói:
– Lý Tịnh trước kia đánh với tôi thua liểng xiểng, bởi ông thổi một hơi, vỗ sau lưng một cái, làm tôi đánh không lại. Tôi thù ông lắm.
Ðạo sĩ cười lớn:
– Thằng con nít ăn nói hồ đồ. Mầy thử đâm tao một giáo nữa xem sao?
Na Tra vốn hung hăng, lỗ mãng đã quen, đâu còn kể gì, nghe đạo sĩ nói nổi xung, nhảy tới đâm thêm một giáo nữa.
Ðạo sĩ nhảy trái sang một bên, rũ tay áo một cái, tức thì môt luồng hào quang tung ra sáng chói nửa lừng. Hào quang hiện ra một cái tháp chụp Na Tra nhốt vào trong ấy. Ấy là đạo sĩ dùng Lung Linh Tháp, bắt Na Tra trị tội.
Ðạo sĩ đưa tay vỗ vào tháp một cái, Na Tra thấy bốn bề lửa dậy phừng phừng, nóng như muốn tiêu cả xương thịt.
Na Tra kêu lớn:
– Xin tha tội tôi lần thứ nhất.
Ðạo sĩ cười khúc khích hỏi:
– Mầy đã chịu nhìn cha mầy chưa?
Na Tra nói:
– Ông ơi! Tôi xin tuân lời. Xin thả tôi ra.
Ðạo sĩ nói:
– Ngươi đã có ý tốt, ta tha ngươi đó.
Nói rồi niệm chú, tháp Lung Linh tự động giở lên. Na Tra mừng quá nhảy ra, xem lại quần áo không cháy chút nào, nghĩ:
– Lạ lùng chưa! Nóng như cháy thịt, mà quần áo vẫn nguyên vẹn là thế nào?
Ðạo sĩ nói:
– Ngươi đã chịu nhìn cha sao không cúi lạy ra mắt?
Na Tra có ý giục giặc. Ðạo sĩ cầm tháp giơ lên, Na Tra hoảng hồn cúi lạy đỡ, chứ thực lòng không phục.
Ðạo sĩ thấy vậy, bảo:
– Ngươi đã lạy sao không xin lỗi?
Na Tra đứng nhăn mặt làm thinh. Ðạo sĩ nói:
– Nếu ngươi không gọi Lý Tịnh bằng cha và xin lỗi, ta đốt.
Na Tra sợ quá, phải cúi mình, nói:
– Xin cha tha lỗi, từ nay con không dám ngỗ nghịch với cha.
Tuy ngoài miệng nói vậy, song trong lòng Na Tra vẫn nghi lão này không lẽ theo mãi Lý Tịnh, bắt ta gọi bằng cha? Ta chịu đỡ cho qua cơn nguy, rồi sẽ bắt Lý Tịnh trả thù.
Chẳng ngờ Ðạo sĩ biết rõ ý định của Na Tra, liền bảo Lý Tịnh.
– Ngươi quỳ xuống đây ta truyền phép này cho. Nếu thằng con đó còn trở lòng, ngươi dùng phép này đốt xác.
Na Tra không còn dám hung hăng nữa, nghĩ đến phép lạ giật mình.
Ðạo sĩ nói:
– Từ nay con thảo cha lành, sau cũng tôi hiền, chúa thánh, đổ đồng làm quan một triều, đừng có chấp nhau nữa. Chuyện cũ bỏ qua, mưu đồ việc sắp tới.
Na Tra thấy Ðạo sĩ trao phép báu cho Lý Tịnh phải chịu phép, cúi đầu từ giã lui về động.
Lý Tịnh quì lạy thưa:
– Nhờ thầy ra ơn cứu mạng, xin thầy cho biết quí danh để đệ tử có dịp đền ơn.
Ðạo sĩ nói:
– Ta là Nhiên Ðăng ở núi Linh Tựu, động Nguyên Giác. Ngươi vốn tu hành chưa được, phải hưởng việc giàu sang. Nay vua Trụ bất nhân, cơ nghiệp Thành Thang sắp mất. Ngươi hãy từ quan về núi ẩn thân, lánh họa, đợi vua Võ nhà Châu ra đời ngươi sẽ theo phò, gắng sức lập công, hưởng công danh phú quí.
Lý Tịnh vâng lời, từ tạ. Nội ngày hôm ấy trở về ải Trần Ðường, làm sớ xin từ chức Tổng binh, dẫn vợ con lên non ẩn tích.
(Việc này do Thái Ất cậy Nhiên Ðăng đến đó trị Na Tra, làm cho Na Tra bỏ oán bỏ thù với Lý Tịnh, cha con hòa thuận nhau. Sau này Lý Tịnh cũng đi tu thành chánh quả và được trời phong chức Thác Tháp Thiên Vương).
Nói về tại núi Côn Lôn, cung Ngọc Hư, có ông Nguyên Thỉ làm Giáo chủ Xiển Giáo, có mười hai người đệ tử đều là tiên phạm luật sát sanh, nên bị đọa, ngày sau phải xuống trần để gánh chịu tai nạn.
Bởi cớ ấy nên ông Nguyên Thỉ không dạy nữa, đóng cửa động không giảng kinh.
Hơn nữa Thượng đế đã có lệnh truyền mười hai vị tiên phạm tội ấy xuống trần, làm tôi nhà Châu. Và, cả hai giáo phái: Xiển giáo và Triệt giáo, số người tu hành phạm tội gom có hơn ba trăm sáu mươi lăm người, đều được biên tên vào bảng Phong Thần để đủ số cho Trời sai khiến.
Bảng Phong Thần này chia ra làm tám bộ.
Bốn bộ trên là: Bộ Lôi, Bô Hoa, Bộ Ôn, Bộ Ðẩu.
Bốn bộ dưới là: Thần Mây, Thần Mưa, Thần Sao, Thần Núi.
Nhân khi Trụ Vương mất nước vua Võ ra đời, ông Nguyên Thỉ được Thượng đế ủy nhiệm phong thần, xét ông hiền, ông dữ, ngôi cao, ngôi thấp mà định đoạt.
Nguyên Thỉ định cho học trò mình là Tử Nha xuống làm tướng, vì vậy ông sai Bạch Hạc đồng tử đi đòi Tử Nha (Khương Thượng) đến dạy việc.
Bạch Hạc đồng tử tuân lệnh đến đòi. Tử Nha ứng hầu lập tức.
Ðợi Tử Nha làm lễ xong xuôi. Nguyên Thỉ truyền:
– Ngươi lên núi này được mấy năm?
Tử Nha thưa:
– Ðệ tử tu hồi hai mươi ba tuổi đến năm này đã được bảy mươi hai rồi.
Nguyên Thỉ nói:
– Số ngươi thành tiên chưa được, còn vương vấn công danh. Nay Thành Thang ra hết vận Tây Châu ra đời vậy ngươi phải thay mặt ta xuống trần ra công giúp nước. Sống làm tướng, chết làm thần, như vậy công tu luyện của ngươi mấy mươi năm trời không uổng. Còn chỗ này không phải là chổ ngươi ở được lâu.
Tử Nha năn nỉ:
– Ðệ tử cố bỏ nhà lên núi. Dốc lòng lánh tục tìm tiên bốn chục năm dư nguyện bỏ đời theo đạo. Vẫn biết tu hành là khổ, muốn thành chánh quả không phải một sớm một chiều, nhưng đệ tử đã theo thầy học lâu nay, xin thầy làm ơn cứu rỗi, nỡ nào đuổi đệ tử trở lại phàm trần.
Nguyên Thỉ nói:
– Vẫn biết ý muốn ngươi như vậy, song số phần ngươi không được toại nguyện, ta biết làm sao? Thần tiên đều một cõi như nhau, ngươi chớ tị hiềm việc ấy.
Tử Nha năn nỉ:
– Xin sư phụ thương con, tìm cách cho con được lánh cõi trần này.
Nam Cực tiên ông khuyên:
– Số ngươi đã không thành tiên đạo mà lại từ bỏ công danh thì hai đàng đều hỏng. Chi bằng xuống giúp thế gian, sau được phong thần rồi sẽ lên non giữ đạo mới yên.
Tử Nha không còn biết nói sao hơn, đành sửa soạn ra đi, và hỏi Nguyên Thỉ:
– Nay đệ tử vâng lời về chốn phàm trần, chẳng hay việc sắp đến ra thế nào, xin thầy chỉ giáo.
Nguyên Thỉ nói:
– Ta có tám câu kệ, chỉ rõ trọn đời ngươi. Ngươi hãy nhớ lấy.
Nói rồi ngâm rằng:
Mười năm chịu túng áo còn bâu
Gượng gạo mua vui chớ chác sầu
Ngồi đá Bàn Khê câu đợi vận
Chờ xe vương giả rước về lầu
Tám mươi lẻ nửa mang đai ngọc
Chín chục dư ba buộc ấn hầu
Mậu ngũ chư hầu trăm trấn phục
Phong Thần chín tám bốn xuân thu
Nguyên Thỉ ngâm kệ rồi nói:
– Tuy bây giờ ngươi xuống đời, nhưng ngày sau cũng về núi.
Tử Nha lạy thầy giã bạn, ra khỏi cung Ngọc Hư.
Nam Cực tiên ông theo đưa ít dặm, đến núi Kỳ Lân dặn Tử Nha:
– Mấy lời thầy đã dạy hiền hữu chớ bôn chôn. Ngày nay xa cách, nhưng có lúc gặp nhau. Xin tạm biệt.
Tử Nha lạy tạ, cáo từ Nam Cực tiên ông rồi một mình thơ thẩn, nghĩ thầm:
– Mình bỏ nhà lên núi tu tiên đã lâu, nay không còn mẹ cha, con cháu, bà con, họ hàng cũng chẳng còn ai, biết trú ngụ vào đâu. Mình xuống trần chẳng khác chim lìa rừng cá xa vực, lẻ loi, cô độc.
Suy đi nghĩ lại, Tử Nha sực nhớ đến một người anh em bạn ở Triều Ca, trước kia thường lui tới tên Tống Dị Nhân. Nhưng chẳng biết mấy mươi năm qua, người ấy còn hay mất. Thế sự có đổi dời chăng? Nhưng nếu không đến với Dị Nhân thì biết trú ngụ vào đâu?
Tữ Nha đành nhắm hướng Triều Ca lần đến tìm người xưa cảnh cũ.
Ðến nơi thấy nhà cửa Tống Dị Nhân vẫn như thường, tường rêu lóm đóm, khung cửa trang viện màu hồng tuy có vẻ phai nhạt hơn trước, song không khác mấy. Tử Nha bước đến gọi gia nhân, nói:
– Có viên ngoại ở nhà không?
Gia nhân hỏi:
– Ông là ai xin cho biết tên họ để chúng tôi tiện bề thưa lại.
Tử Nha nói:
– Ngươi vào thưa với Tống viên ngoại có ta là Khương Tử Nha đến viếng.
Tống Dị Nhân đang tính sổ, nghe có Khương Tử Nha đến thăm, hồi tưởng lại tình bạn thuở xưa, liền buông viết bước ra nghênh tiếp mời vào đối diện dùng trà.
Dị Nhân hỏi:
– Vì sao mấv chục năm biền biệt đã không lui tới, lại chẳng có thư từ. Tôi trông hiền hữu đến mỏi mắt. Ngày nay hiền hữu ở đâu, đến thăm tôi hay nhân tiện việc gì ghé chơi?
Tử Nha nói:
– Từ thuở quen nhau dạo ấy, tôi bỏ nhà lên núi tu tiên. Chẳng may số kiếp tôi không thành nên trở về đây nối lại tri kỷ.
Dị Nhân nói:
– Hiền hữu bây giờ ăn chay hay ăn mặn, cho tôi biết để sai trẻ dọn cơm.
Tử Nha nói:
– Ðã mang tiếng tu hành, đâu dám dùng rượu thịt?
Dị Nhân nói:
– Lâu ngày gặp nhau, tình tri kỷ không có rượu sao tìm thấy thú vị. Vả lại rượu là đồ chay, các vị tiền bối gọi là Quỳnh tương, sao hiền hữu không dùng?
Tử Nha hỏi:
– Hiền huynh đã có lòng đoái tưởng, tiểu đệ đâu đám từ chối.
Dị Nhân hỏi:
– Hiền hữu đi tu được bao lâu?
Tử Nha nói:
– Ðã bốn mươi năm.
Dị Nhân chắc lưỡi:
– Bốn mươi năm ẩn thân trên núi, kể cũng lâu quá rồi, chẳng biết hiền hữu đã học được phép tắc gì chưa?
Tử Nha nói:
– Nếu không học được phép tiên thì ở núi làm gì!
Dị Nhân hỏi:
– Phép tiên thế nào xin nói cho tôi rõ.
Tử Nha nói:
– Gánh nước tưới cây, chụm lửa nấu thuốc.
Dị Nhân tức cười:
– Tiên tìm tiên học phép mà lại gánh nước, chụm lửa, thì ở thế gian lại không có chuyện gánh nước, chụm lửa hay sao? Ðó là cái nghiệp làm đầy tớ, đâu phải làm tiên?
Tử Nha thấy Dị Nhân không thông đạo lý, nên chẳng giải thích làm gì, chỉ cười nửa miệng.
Dị Nhân nói tiếp:
– Tôi với hiền hữu trước kia là bạn nay tình ấy chưa phai, vậy hiền hữu ở đây với tôi chung hưởng giàu sang, không phải gánh nước chụm lửa như lúc tu tiên nữa, hiền hữu bằng lòng chứ?
Tử Nha thấy Dị Nhân thật tình lòng cũng được an ủi phần nào nói:
– Hiền huynh đã có lòng tưởng đến, tiểu đệ lẽ nào dám trái.
Dị Nhân nói:
– Trong đời không gì bất hạnh bằng không con nối hậu. Tôi sẽ lo việc vợ con cho hiền hữu, để dòng họ Khương khỏi mai một.
Tử Nha khoát tay nói:
– Tuổi đã chừng này, anh đừng tính chuyện ấy.
Hai người chuyện vãn cho đến nửa đêm mới đi nghỉ.
Ngày hôm sau Dị Nhân cỡi lừa, lén sang nhả họ Mã lo việc hỏi vợ cho Tử Nha.
Khi đến trang viện. Mã viên ngoại hay tin mừng rỡ ra rước vào trà nước. Mã viên ngoại nói:
– Lâu lắm mới gặp anh. Lâu nay anh làm gì bên ấy mà không sang chơi?
Dị Nhân nói:
– Bấy lâu mắt lo kế sinh nhai, không thì giờ rảnh nếu không vì chút việc quan hệ chắc cũng chưa ghé thăm anh được.
Mã viên ngoại hỏi.
– Cha chả! Việc gì mà quan hệ vậy?
Di Nhân nói:
– Tôi tính đến trước thăm anh, sau làm mai ái nữ cho một người tử tế…
Mã viên ngoại ngắt lời:
– Người nào cậy anh vậy. Chỗ anh em cứ nói thiệt tình đừng ngại gì cả.
Dị Nhân nói:
– Không ai xa lạ. Người này chính là bạn thân của tôi lúc truớc, quê ở Hứa Châu,. thuộc Ðông Hải, họ Khương tên Thượng, tên chữ là Tử Nha, biệt hiệu là Phi Hùng. Thật là đấng anh hùng thời nay.
Mã viên ngoại nói:
– Tôi với ông là chỗ thâm tình, con tôi chẳng khác con ông, ông đã định trước, tôi chẳng lẽ không vâng.
Tống Dị Nhân được lời liền lấy bốn nén bạc trao cho Mã viên ngoại làm lễ cầu hôn.
Mã viên ngoại nhận lãnh rồi hối gia đinh dọn tiệc đãi đằng rất hoan hỉ.
Tiệc mãn, Dị Nhân từ tạ ra về.
Bấy giờ Tử Nha ở nhà một mình thấy Dị Nhân đi vắng suốt ngày không về, lòng ái ngại, hỏi bọn gia đinh:
– Viên ngoại đi đâu suốt ngày vậy?
Bọn gia đinh thưa:
– Gia gia chúng tôi ra đi từ sáng sớm, chắc đi đòi nợ đâu xa.
Tử Nha còn đang hoài nghi thì có bóng người từ ngoài ngõ bước vào, Tử Nha chạy ra thấy Dị Nhân đã về, mừng rỡ hỏi:
– Anh đi đâu suốt ngày, tôi tìm mãi không thấy?
Dị Nhân nói:
– Mừng cho hiền đệ đấy!
Tử Nha ngạc nhiên, hỏi:
– Tôi có việc gì đâu mà mừng?
Dị Nhân bảo gia đinh dắt lừa vào chuồng, rồi theo Tử Nha vào sảnh đường nói:
– Tôi đi tìm vợ cho hiền đệ. Duyên thắm đã đượm rồi. Quả thật nợ ba sinh nên tình giai ngẫu.
Tử Nha mỉm cười hỏi:
– Anh đến nói con gái ai vậy?
Dị Nhân tỏ bày Mã Hồng. Cô này tài sắc vẹn toàn, nết na có tiếng.
Tử Nha nói:
– Nay tôi tuổi đã già, ngoài bảy mươi, biết người ta có chịu không?
Dị Nhân nói:
– Sao lại không chịu. Nhà họ Mã đã nhận tiền sính lễ rồi. Vả lại con gái nhà họ Mã tuy còn trinh, nhưng tuổi hơn sáu mươi, sánh với hiền đệ xứng đôi lắm. Có lẽ trời dành riêng cho hiền đệ đấy.
Nói rồi truyền gia đinh dọn tiệc ăn mừng, hai anh em bạn vui cười không ngớt. Hôm sau, Dị Nhân chọn ngày lành, sắm sanh lễ vật, bảo Tử Nha đi cưới vợ.
Tử Nha nói:
– Anh đã thương tình, cố lòng bao bọc thì anh muốn thế nào tôi cũng nghe theo.
Dị Nhân bảo vợ sửa soạn đâu đó đàng hoàng, dọn phòng huê chúc để Tử Nha cùng cô gái họ Mã đẹp duyên.
Ngày cưới vợ của Tử Nha cũng rất rộn rịp, trai già đi cưới nàng tóc bạc. Nếu đời loài người là một trăm năm thì đôi vợ chồng này còn hưởng dư hai mươi năm tình ái cũng không phải ngắn ngủi gì?
Ðời sau có thơ nói về Tử Nha có vợ muộn:
Tu chẳng thành tiên tiếc Tử Nha
Về trần cưới vợ cũng vui nhà
Sáu mươi tám tuổi, cành dâu xế
Bảv chục dư hai chú rể già
Xem đuốc hàm râu e táp lửa
Soi gương mái tóc tợ sương sa
Lá lay Nguyệt Lão xe tơ muộn
Dẫu đến trăm năm nhắm chẳng xa!
Tử Nha tuy cưới vợ mặc lòng, song lòng hoài vọng núi non xưa cũ, quen kiếp tu hành, nên việc ái ân không nồng thắm. Mã thị không rõ tánh chồng, ngỡ anh chàng vô dụng, không phải khách đa tình.
Ngày kia, Mã thị hỏi chồng:
– Lang quân định ở như thế này mãi sao?.
Tử Nha hỏi:
– Hiền thê nghĩ gì mà hỏi tôi như vậy?
Mã thị nói:
– Tôi thường nghe nói: Dầu anh em ruột mà ở chung nhau lâu ngày không lo sinh kế thì cũng mất lòng nhau, không thể hòa thuận nhau được. Lang quân đối với Tống huynh chỉ là tình bằng hữu, sao không lo tính chuyện làm ăn, cứ ăn nhờ ở đụt với Tống huynh mãi coi sao được.
Tử Nha nói:
– Hiền thê nói cũng phải. Song tôi từ nhỏ đến lớn lo việc tu hành không biết nghề nghiệp gì cả. Nay phải mưu kế thì biết tính thế nào.
Mã thị nói:
– Phải tìm cách sanh nhai mới được. Trước kia phu quân không có gia đình chưa vợ con, thì việc ấy chưa cần, nay đã thành gia thất, chuyện trăm năm đâu phải nhỏ.
Tử Nha suy nghĩ một lúc rồi nói:
– Lúc nhỏ tôi có biết đan gàu giai, chẵng biết ngày nay có thể dùng sinh sống được không?
Mã thị nói:
– Ðó cũng là một nghề sanh sống. Ðã là nghề nghiệp thì dầu lớn dầu nhỏ cũng có thể kiếm ra tiền. Vả lại sau vườn nhiều tre phu quân có thể dùng tre này đan gàu giai đem xuống chợ bán, vợ chồng giả ăn cũng đủ.
Tử Nha nghe lời Mã thị đan một gánh gàu giai, gánh xuống chợ Triều Ca, ngồi từ sớm mai đến chiều vẫn không thấy ai hỏi đến. Tử Nha sợ trời tối, gánh gàu chạy riết về nhà.
Con đường xa hơn ba mươi lăm dặm, Tử Nha đi về ngót bảy chục dặm, bụng đói như cào chân mỏi rũ rượi, không có một đồng xu trong túi để vào quán uống nước.
Về đến nhà, sắc mặt Tử Nha đượm buồn. Mã thị thấy chồng gánh gàu về không mất cái nào, lòng không đẹp, hỏi:
– Không bán được cái nào sao?
Tử Nha nỗi xung càn nhằn với vợ:
– Mụ bất nhân tâm, cứ để tôi ở không cho rảnh, bày chuyện buôn bán thêm phiền. Từ sáng đến chiều tôi ngồi giữa chợ không ai hỏi đến tên, báo hại tôi sưng vai, mỏi gối mà chẳng ích gì.
Mã thị háy chồng:
– Gàu giai là vật dụng cần thiết của mọi người, tại sao không ai mua. Buôn bán đã không xong lại trở về mắng vợ.
Hai vợ chồng tiếng lại, la ó vang nhà. Tử Nha đứng vuốt râu. Mã thị ngồi trề miệng, hai người không ai nhịn ai.
Tống Dị Nhân nghe được vội bước ra hỏi:
– Việc gì mà vợ chồng gây gỗ nhau vậy?
Tử Nha thuật lại mọi điều, Dị Nhân lắc đầu nói:
– Thôi, hiền đệ không cần tính chuyện bán buôn nữa. Dẩu có mười miệng ăn đi nữa tôi cũng nuôi hết. Hãy dẹp bỏ bất bình vợ chồng thuận hòa nhau mới vui.
Mã thị nói:
– Vẫn biết lòng anh chị đối với vợ chồng chúng tôi tốt như vậy, song chúng tôi đã thành vợ chồng dĩ nhiên phải lập nghiệp, không thể sống nhờ vả mãi cho đến trọn đời.
Dị Nhân nói:
– Nếu muốn làm ăn thì thiếu gì chuyện, cần chi phải bán gàu giai? Trong vựa tôi có sẵn lúa mì, thiếm xoay bột cho chú đem đi bán.
Mã thị nghe lời xúc lúa đem ra xay bột, phơi thật khô. Tử Nha lại gánh xuống chợ Triều Ca bán.
Tử Nha ngồi suốt ngày vẫn không có người nào hỏi đến. Tử Nha nghĩ thầm:
– Hay là ta không miệng lưỡi, mời mọc khách hàng như những kẻ khác, nên họ chê?
Nghĩ như vậy. Tử Nha thấy ai đi qua cũng mời mua hàng.
Mặc dù Tử Nha đã mời đến khan giọng, gánh bột vẫn còn nguyên.
Tử Nha ngồi một hồi lâu thấy trời đã về chiều, vội cất gánh lên vai trở về kẻo tối.
Tử Nha vừa bước đi một quảng không xa lắm, bỗng có người gọi lại mua:
– Ông già bán bột, hãy để tôi mua.
Tử Nha mừng quá, đoán chừng mình gặp may bạn hàng chiều. Nào ngờ người ấy chỉ mua có một đồng tiền, thế mà cũng làm Tử Nha mất công gánh lên để xuống.
Mặc dù vậy Tử Nha cũng không phiền, vì có bán hơn về không, Tử Nha lay hoay múc bột trong gánh gói lại trao cho khách hàng, bỗng đàng sau có tiếng vó ngựa chạy đến rầm rập. Tử Nha thất kinh quay lại thì thấy một con ngựa chạy đến, trên lưng có một vị quan lại, hình như đang đi việc gì khẩn cấp.
Hai thúng bột của Tử Nha bị con ngựa ấy vướng vào vó mang đi, đổ rải rác cùng đường.
Tử Nha la lên chói lói con ngựa vẫn không dừng lại.
Tiếc của quí, Tử Nha chạy theo, bột dính đầy cả quần áo mốc xếnh.
Người mua bột thấy vậy bỏ đi, không mua nữa.
Tử Nha biết ngựa của nhà quan, không thể bắt đền được, đành nhặt thúng gánh không, lểnh mểnh trở về mặt buồn như ma đói.
Mã thị thấy chổng quảy gánh không về, mặt hớn hở, ngỡ chồng bán đắt, bước ra tận ngoài sân đón rước.
Tử Nha ném gánh xuống đất mắng vợ:
– Mụ bày chuyện không xong!
Mã thị cười mơn:
– À, hôm nay chẵc là bán đắt nên lên mặt với tôi chứ gì.
Tử Nha nói:
– Không thâu được đồng điếu nào. Suốt buổi không ai hỏi đến, lúc ra về bị ngựa máng đổ hết cả gióng gánh giữa đường. Từ chợ Triều Ca về đây đói quá đi không nổi.
Mã thị mặt nhăn lại:
– Thiệt tốt phước! Già đầu mà làm gì cũng chẳng nên trò, chỉ biết ăn thôi. Quả đời tôi gặp nghiệp báo.
Tử Nha bị vợ mắng, giận quá toan bước tới nắm đầu đánh cho một trận. Nhưng không may, Mã thị cũng chẳng vừa, Tử Nha vừa bước đến đã bị mụ nắm râu chặt cứng. Hai vợ chồng té nằm một đống.
Dị Nhân và Tôn thị bước ra can:
– Một gánh bột giá đáng là bao nhiêu, vợ chồng đối xử với nhau như vậy sao phải!
Tôn thị đỡ Mã thị dậy, còn Dị Nhân dắt Tử Nha vào thư phòng nói nhỏ:
– Hiền đệ chớ nên nóng giận như vậy. Nghĩa vợ chồng ấm lạnh có nhau.
Tử Nha nói:
– Thân trai vô dụng, chừng này tuổi mà không làm nên việc nhỏ mọn như vậy để vợ mắng tôi thấy hổ thẹn quá.
Dị Nhân nói:
– Hoa nở có mùa, người nên có vận. Lúc chưa gặp vận thì đủ có tài giỏi đến đâu cũng chẳng làm gì nên. Hiền đệ hiện giờ tuy nghèo khó, nhưng lúc gặp thời cũng vinh hoa phú quý như ai. Hiền đệ đừng nản lòng. Tôi có nhiều phương tiện giúp đỡ hiền đệ được.
Tử Nha nói:
– Ðược anh đùm bọc, ơn ấy không biết lúc nào mới trả nổi.
Di Nhân nói:
– Vợ chồng hiền đệ dẫu ở không suốt đời cũng chẳng hại gì. Nhà tôi đủ nuôi tất cả. Song để làm vui lòng hiền đệ, tôi sẽ giúp hiền đệ việc này, chắc chắn không sợ thất bại.
Tử Nha hỏi:
– Anh định việc gì vậy?
Dị Nhân nói:
– Tôi có ba mươi lăm cái quán bán rượu tại chợ Triều Ca. Ðể tôi mời các chủ quán đến đây chơi cho biết mặt hiền đệ rồi bảo họ nhường quán cho hiền đệ bán mỗi quán một ngày. Cứ luân phiên như vậy mà làm. Việc này họ đã tổ chức sẵn sàng nhân công trong mỗi quán đều có sẳn, hiền đệ chỉ đến đó thu tiền thôi.
Tử Nha nói:
– Nếu thế tôi nhờ ơn anh nhiều quá!
Hôm sau, Dị nhân mời các chủ quán đến để bày tỏ sự tình.
Ai nấy đều bằng lòng, định ngày mai khởi sự nhường cho Tử Nha bán tại quán họ Trương là chỗ đông khách nhất, vì quán này ở ngay tại ngã ba đường, chỗ nhiều người qua lại. Ðã vậy ngày nào quân lính ở Triều Ca đi tập cũng vào quán ấy ăn uống.
Chủ quán họ Trương truyền cho bọn giúp việc trong quán theo thường lệ làm thịt heo, thịt dê, dọn bày đặc biệt, để Tử Nha có cơ hội đắt hàng.
Rượu thịt ê hề, Tử Nha đứng làm chủ quán thu tiền, ai nấy cũng đinh ninh Tử Nha sẽ thu lợi một ngày gấp bội. Nào ngờ hôm ấy trời mưa xối xả, Hoàng Phi Hổ ra lệnh quân binh nghỉ tập, còn bộ hành lo đụt mưa chẳng ai vào quán cả.
Ðợi cho đến chiều tối, trời vẫn còn mưa lai rai, đồ ăn nguội hết. Tử Nha sợ thiêu thối, nên bảo những người làm công trong quán đem ra ăn, còn lại cho những người làm công ở quán khác.
Thấy thời vận không thông Tử Nha mặt buồn ủ rũ. Ðến tối trở về nhà. Dị nhân hỏi:
– Hôm nay hiền đệ thu được bao nhiêu tiền?
Tử Nha nói:
– Trời mưa, quân binh không đi tập, bộ hành không một người vào quán. Ðồ ăn thiu hết, tôi phải cho những người làm công thanh toán cho xong. Ðã không có lời lại bị lỗ vốn.
Dị Nhân tươi cười nói:
– Hiền đệ chớ lo, bởi chưa đến thời nên mới khiến xui như vậy.Ngày mai tôi sẽ sai bọn gia đinh đi mua cho hiền đệ một số heo, dê để hiền đệ đem ra chợ bán lấy lời. Những con vật sống nếu bán không được thì đem về chờ ngày khác không lỗ đâu mà sợ.
Tử Nha tuy tuân lời, song đã thất bại nhiều phen, lòng không tin việc gì có thể thành công được.
Bấy giờ Trụ vương càng mê say Ðắt Kỷ hơn trước, làm lắm điều lỗi đạo vua tôi, trăm họ thán oán. Ðã vậy trời lại sanh tai biến nơi Triều Ca nửa năm không được một giọt mưa, Trụ vương nghe lời Bí Trọng, Vưu Hồn bày chuyện đảo võ, cấm sát sanh yết thị khắp nơi, cấm dân chúng không được làm thịt súc vật trong ngày ấy.
Tử Nha không hề hay biết, hôm ấy đem heo dê, ra chợ. Vừa ló mặt đến đã bị bọn lính tuần nạt lớn:
– Lão già này trái lệnh cấm, hãy bắt trói lão giải về triều.
Tử Nha thất kinh chưa biết làm sao đã thấy một bọn lính tay cầm giáo mác, đuổi đến, làm Tử Nha phải bỏ cả heo dê thoát thân.
Tuy Tử Nha trốn được, nhưng bầy heo, dê bị lính triều bắt hết, chỉ còn mình không chạy về nói với Di Nhân:
– Thôi thôi, công việc chẳng ra sao, tôi làm phiền anh quá sức.
Dị Nhân thấy Tử Nha mặt mày tái ngắt, bộ tịch xụi lơ, liền hỏi:
– Có việc gì chẳng lành xẩy ra vậy?
Tử Nha kể lại đầu đuôi câu chuyện, Di Nhân cười lớn:
– Ðã không kiếm được tiền, thôi thì cứ lấy rượu giải khuây, đợi chừng nào thuận tiện sẽ tính chuyện buôn bán.
Dứt lời truyền gia đinh bưng rượu thịt lên, mời Tử Nha cùng ngồi ăn uống với mình, chuyện trò rất thân mật.
Thấy Tử Nha không vui vì ám ảnh những việc vừa rồi, Dị Nhân sai gia đinh đem rượu thịt ra vườn hoa để Tử Nha cùng mình vừa ngắm cảnh, vừa uống rượu cho tiêu sầu.
Tử Nha theo Dị Nhơn ra dạo vườn hoa xem thấy phong cảnh rất đẹp. Tường cao vòi vọi, vườn rộng thênh thênh, bên tả một khóm dương xanh, tỏa tản mát rượi, bên hữu có mấy cụm tòng lá xanh dờn. Chính giữa có lầu ngoạn cảnh, trồng đủ màu hoa lạ, phía trước là một cái ao sen, cá lội lăn tăng. Tử Nha xem một hồi thấy, cách khung nhà hóng gió và ao cá còn một khoảng đất trống, liền nói:
– Chỗ này rất tốt, sao anh không xây cất một ngôi lầu?
Dị Nhân hỏi:
– Cất lầu làm gì?
Tử Nha nói:
– Theo địa lý thì nơi đây có khí tụ rất nhiều, Nếu cất năm căn nhà lớn thì sẽ có ba mươi sáu người làm quan. Tôi có biết về địa lý nên tỏ bày với anh để đền ơn.
Dị Nhân hỏi:
– Hiền đệ thạo về địa lý thì đó cũng là một nghề sinh sống đấy. Nhưng tôi không giấu gì hiền đệ, chỗ này đã nhiều lần tôi dựng lên gian nhà, và sau đó bị cháy liền. Tôi chắc đó là lửa ma, không thể nào làm được, nên tôi đành bỏ qua, chừa đất trống vậy.
Tử Nha nói:
– Ðể tôi chọn ngày tốt cho anh xây cất. Anh cứ lo tiệc để đãi đằng thợ thầy, còn phần lửa ma để mặc em ếm cho. Nhất định nó không làm gì nổi.
Dị Nhân nói:
– Hiền đệ cũng biết khoa ếm tà trừ ma nữa à?
Tử Nha nói:
– Việc đó tôi rành lắm, anh đừng ngại.
Dị Nhân vui vẻ nói:
– Nếu vậy tôi cho thợ thầy làm ngay. Ý tôi muốn đã lâu nhưng không sao thực hiện được.
Mấy hôm sau, Dị Nhân đi kêu thợ, trong nhà sẵn cây cối nên dựng lên chẳng mấy chốc.
Tử Nha núp trong nhà mát để theo dõi sự tình.
Nửa đêm hôm ấy bỗng nghe gió thổi ào ào, cát bụi bay mịt mù, trong hơi gió có hiện ra năm con yêu mặt xanh, mặt trắng, mặt đỏ, mặt vàng, mặt đen.
Tử Nha vội bỏ tóc xõa cầm gươm chỉ mặt hét lớn:
– Năm con yêu không sa xuống còn đợi chừng nào?
Nói vừa dứt, Tử Nha bắt ấn, tức thì một tiếng sấm vang lên, năm con yêu sa xuống một lúc, quỳ trước mặt Tử Nha năn nỉ:
– Chúng tôi không ngờ có tiên ông đến đây, xin lấy lượng khoan hồng tha cho chúng tôi khỏi chết.
Tử Nha nói:
– Bây quen thói hành hung, đốt nhà người ta mấy lượt. Nay có ta đến đây để chúng bay sống làm chi?
Nói rồi cầm gươm đến chém. Năm con yêu thất kinh khóc than:
– Chúng tôi ra công tu luyện nên mới được như ngày nay, tiên ông nỡ nào dứt bỏ cho đành, chúng tôi nguyện từ nay về sau chẳng dám làm càn.
Tử Nha nói:
– Thôi, ta cũng tha cho chúng bây một lần làm phước. Chúng bay không được ở đây nữa phải đi núi Kỳ Sơn tạm trú, chờ lúc chiến chinh ra cho ta sai khiến, ta sẽ phong Thần.
Năm yêu cúi lạy rồi hóa gió bay mất.
Bấy giờ Mã thị và Tôn thị đang rình xem Tử Nha trừ yêu, ếm quỉ, nhưng không thấy yêu quỉ đâu cả, chỉ thấy Tử Nha đứng xõa tóc, cầm gươm một mình như một người điên.
Mã thị nói với Tôn thị:
– Chị coi ông lão điên kìa. Một mình đứng láp nháp mãi.
Nói rồi, xốc tới nắm áo Tử Nha kéo lại, hỏi:
– Ông làm gì vậy?
Tử Nha đáp:
– Ðàn bà mà biết gì? Tôi đang trừ ma ếm quỉ.
Mã thị cười lớn:
– Khéo kiếm chuyện lừa phỉnh. Làm những chuyện tầm thường chưa nên, lại còn muốn làm thầy thiên hạ.
Tử Nha nói:
– Coi bói, coi quẻ, trừ ma ếm quỉ là sở trường của tôi.
Mã thị nói:
– Sao không lấy đó làm nghề sinh nhai?
Tử Nha nói:
– Nếu tôi có một căn phố tại chợ thì có thể lập ra một phòng xem bói, xem tướng được.
Mã thị không tin:
– Tôi chỉ sợ ông nói bậy không đúng, người ta nhổ răng, đập đồ nghề, xé sách thì xấu.
Vợ chồng đang tranh luận thì Dị Nhân bước ra hỏi:
– Mấy lần trước hễ gió lớn như vậy tức thì nhà bị cháy, nhưng lần này lửa ma không thấy phá phách nữa.
Tử Nha nói:
– Năm con yêu nổi gió đến đốt phá, chúng gặp tôi không dám hung hăng. Tôi bắt chúng rời khỏi vùng đất này, từ nay không được phá phách nữa.
Di Nhân mừng rỡ nói:
– Nhờ phép của hiền đệ, từ nay tôi có thể dựng căn lầu lên được. Hiền đệ có tài như vậy thật không uổng công tu luyện hơn bốn mươi năm.
Tôn thị nói với chồng:
– Hiền thúc vừa than không có một căn phố tại chợ để mở phòng coi bói. Vậy nhà mình có phố nhiều, cũng nên nhường cho hiền thúc một căn.
Dị Nhân nói:
– Muốn việc ấy thì chẳng khó gì. Nhà tôi có bảy tám mươi căn phố tại chợ Triều Ca. Tôi cho hiền đệ một căn muốn dùng làm việc gì cũng được.
Dứt lời sai gia đinh đến chợ Triều ca dọn dẹp một căn phố chỗ đông người nhất, giao cho Tứ Nha sử dụng.
Tử Nha mừng rỡ, chọn ngày tốt mở phòng coi bói. Ngày đêm ở luôn nơi chỗ làm việc.
Từ hôm ấy, người qua đường đều thấy một phòng coi bói bày biện rất lịch sự. Trước cửa dẫn một đôi liễn đỏ chót, đề rằng.
Ðã thông cao thấp trăm điều thiệt
Chẳng nói tầm thường nửa tiếng sai
Ðôi liễn kế bên trong viết rằng:
Miệng nói như ghi, biết khắp nhân gian lành dữ
Mắt xem tợ kiếng, soi cùng thiên hạ thạnh suy
Dựa nơi bàn ngồi lại có đôi liễn đề rằng:
Tay áo đựng càn khôn
Cái bầu thâu nhật nguyệt
Tuy vậy ngót ba tháng trời, không một người khách nào vào hàng xem quẻ cả.
Tử Nha ngồi buồn, ngày nào cũng ngáp dài ngủ gật.
Mã thị cằn nhằn:
– Bỡi ông xem bói không hay nên người ta không đến!
– Chưa có một người nào vào xem thì làm sao biết thầy hay hay dỡ? Chẳng qua thời vận tôi chưa đến, nên khiến làm ăn không xong.
Mã thị lườm chồng:
– Mấy người bất tài đều đổ thừa thời vận. Tôi chẳng biết ông đến bao nhiêu tuổi nữa mới tới thời. Trên đầu tóc đã bạc phơ mà chẳng làm gì nên hình cả.
Tử Nha đành nhịn vợ, không biết phải giải thích làm sao hơn.
Ngày kia, có một ông tiều đi ngang qua, tên Lưu Càng, để gánh củi ngoài sân, bước vào vỗ bàn nói lớn:
– Chào thầy.
Tử Nha đang gục mặt trên bàn ngủ, bỗng giật mình mở mắt, thấy một người cao lớn phi thường, hai con mắt lồ lộ, tướng mạo hung hăng.
Tử Nha hỏi:
– Anh đi bói quẻ hay xem số?
Lưu Càng không đáp hỏi lại:
– Thầy tên họ là gì?
Tử Nha nói:
– Tôi họ Khương tên Thượng, tên chữ là Tử Nha biệt hiệu Phi Hùng.
Lưu Càng hỏi:
– Ðôi liễn thầy viết trên cột đây có ý gì xin thầy cắt nghĩa cho tôi nghe thử?
Tử Nha hỏi:
– Ba câu liễn của tôi ông muốn hỏi câu liễn nào?
Lưu Càng chỉ tay vào câu liễn gần nhất, hỏi:
– Tay áo đựng càn khôn, cái bầu thâu nhật nguyệt là nghĩa gì vậy?
Tử Nha giải thích:
– Tay áo đựng càn khôn là biết cả những việc đã qua và sắp tới. Cái bầu thâu nhật nguyệt là biết phép tiên, sống hoài không chết.
Lưu Càng nói:
– Thầy khoe biết cả những việc đã qua và chưa tới, vậy tôi xin bói một quẻ, hễ trúng thì tôi thưởng thầy hai chục đồng tiền, còn trật thì tôi sẽ tặng thầy vài đấm, bảo dọn đồ về xứ, không cho ở chợ Triều Ca này lừa phỉnh thiên hạ.
Tử Nha thở dài nghĩ thầm:
– Mấy tháng trời không gặp một khách hàng nay lại có thằng tướng dữ này vào phá đám, nếu coi không trúng chắc nguy với nó chớ chẳng chơi.
Nghĩ rồi, Tử Nha hỏi Lưu Càng:
– Ông muốn xem việc gì cứ nói.
Lưu Càng nói:
– Tôi là người tiều phu đi bán củi. Vậy ông chỉ cho tôi nên đi ngả nào, bán củi được bao nhiêu tiền.
Tử Nha gieo quẻ xong, viết bốn câu như vầy:
Ði qua bên phía Nam
Gặp ông già cội liễu
Bán được một trăm hai chục đồng
Bốn bánh lót lòng vài chén rượu
Lưu Càng cãi lại:
– Thầy bói quẻ này chắc không trúng rồi. Tôi đi bán củi đã mấy mươi năm, không ai cho uống rượu bao giờ.
Tử Nha nói:
– Cớ đi thử rồi sẽ biết.
Lưu Càng nghe theo lời, gánh củi nhắm phía Nam đi thẳng.
Ði một lúc xa xa, bỗng gặp một ông già đang đứng dưới một gốc dương liễu gọi lại, bảo:
– Hãy đem củi đây ta mua.
Lưu Càng khen thầm:
– Quẻ linh thật.
Ông già hỏi:
– Gánh củi ông bán chắc giá bao nhiêu?
Lưu Càng cố ý thử quẻ, liền nói:
– Nhất định một trăm đồng, không đòi lên xuống gì cả.
Ông già nói
– Gánh củi nặng và khô tốt lắm. Tôi không trả thiếu làm gì, hãy gánh vào nhà tôi đưa tiền cho.
Lưu Càng mừng thầm, gánh củi vào nhà ông lão.
Tánh Lưu Càng lại thích sạch sẽ, nên trước khi chất củi vào nhà chứa, quét dọn rất tươm tất.
Ông lão bước ra thấy sạch sẽ, khen:
– Hôm nay lũ trẻ ở nhà quét dọn vừa mắt lắm.
Lưu Càng nói:
– Thưa ông, ông lầm rồi, chính tôi mới quét dọn giùm cho ông đó.
Ông già rất hài lòng, khen:
– Bữa nay là ngày cưới vợ cho con trai tôi. Tôi mua được củi tốt lại gặp người tử tế như ông thật ít có.
Nói rồi ông lão vào nhà trong sai một tên gia đinh đem ra cho Lưu Càng một dĩa bánh và một chai rượu nhỏ, nói:
– Viên ngoại bảo ông ăn bánh lót lòng rồi sẽ về.
Lưu Càng khen:
– Ông thầy bói họ Khương quả thần thánh. Ðể ta rót rượu xem có y như vậy không?
Quả nhiên, ve rượu chỉ rót vừa hai chén thì cạn.
Lưu Càng ăn uống xong, thấy ông lão buớc ra, liền nói:
– Tôi cảm ơn viên ngoại nhiều lắm.
Ông lão liền trao cho Lưu Càng hai gói tiền, một gói lớn, một gói nhỏ, và nói:
– Ðây là một trăm tiền củi. Còn đây là hai mươi đồng tiền thưởng riêng, vì hôm nay gặp ngày hỉ sự, ông cầm lấy uống rượu cho vui.
Lưu Càng mừng rỡ, vội từ tạ ra về, vừa đi vừa nghĩ:
– Nay đất Triều Ca có thần tiên ra mặt, chẳng biết thế gian có gì đổi mới chăng?
Nghĩ rồi xăm xăm trở lại chợ, để trả tiền coi bói.
Trong lúc đó, từ sáng sớm, nhiều người thấy Lưu Càng hăm đánh Tử Nha, sợ Tử Nha sẽ mang họa với con người cộc cằn ấy
Vì vậy, khi Lưu Càng đi rồi, có nhiều người vào nói với Tử Nha:
– Lưu Càng là quân hoang, khét tiếng ở chợ Triều Ca này, không nên đánh cuộc với nó. Liệu bề quẻ không linh thì trốn mất cho xong.
Tử Nha nói:
– Tôi làm thầy có sách vở đâu phải chuyện phỉnh phờ. Cứ chờ xem thì biết.
Mọi người thấy Tử Nha già cả cũng thương, đợi Lưu Càng trở về nếu có xảy ra bề nào sẽ can gián giùm.
Ðược một lúc thấy Lưu Càng từ đầu phố chạy bon bon về, vào thẳng cửa hàng Tử Nha.
Tử Nha hỏi:
– Sao? Quẻ có linh không?
Lưu Càng nói lớn:
– Tôi phục thầy là ông Thánh sống rồi. Quẻ đúng y ngay, không sai một chút nào. Thầy về ở chợ Triều Ca này thì thiên hạ rất may mắn, lánh dữ, tìm lành.
Tử Nha nói:
– Quẻ đúng thì phải trao tiền cho tôi chứ.
Lưu Càng nói:
– Tôi hứa thưởng ông hai chục đồng tiền, trong túi tôi có sẵn, tôi không gạt ông đâu. Nhưng chậm rãi, để tôi làm việc này đã.
Lưu Càng đứng trước thềm, giây phút thấy một người mặc áo vải mang đai da, chạy như tên bắn.
Lưu Càng liền đuổi theo níu lại.
Người ấy trợn mắt nói:
– Anh kéo tôi làm gì?
Lưu Càng nói:
– Phố này có ông thầy coi bói rất thần tình. Mời anh ghé vào xem một quẻ, bỏ qua uổng lắm.
Người kia trố mắt nhìn Lưu Càng lấy làm lạ, nói:
– Coi bói hay không mặc tôi, tại sao anh bắt buộc tôi?
Lưu Càng nói:
– Chỉ thầy bói giỏi, mách thuốc hay là việc làm ơn, tôi đâu phải ác ý với anh mà anh phàn nàn.
Người kia lắc đầu:
– Nhưng tôi không muốn xem.
Lưu Càng giật mạnh vạt áo:
– Tại sao lại không xem. Thầy bói này hay lắm.
Người kia mở to đôi mắt nhìn Lưu Càng, thấy Lưu Càng tợn mạnh khỏe lòng cũng sợ, nhưng ỷ mình là công sai của triều đình, nên lên tiếng gắt:
– Tôi không xem thì anh làm gì tôi chớ?
Lưu Càng nghiến răng nói:
– Nếu anh không coi, tôi nhận nước anh rồi tôi cùng chết luôn.
Vừa nói, Lưu Càng vừa lôi người công sai ra bể nước.
Mọi người biết Lưu Càng tuy là gã tiều phu, nhưng có tánh bướng bỉnh, hễ nói là làm, nên xúm nhau khuyên người công sai.
Người công sai cằn nhằn:
– Tôi không có chuyện gì, coi bói làm sao được?
Lưu Càng nói coi đi. Hễ không đúng tôi trả tiền cho, còn quẻ đúng anh phải mua rượu cho tôi uống.
Người công sai thấy Lưu Càng ngang ngạnh quá, túng phải theo vào phòng coi bói.
Người công sai nói với Tử Nha:
– Tôi là công sai của triều đình, đi ngang đây không có việc gì để xin quẻ, bởi anh em ép nên phải vào nhờ thầy một chút.
Tử Nha hỏi:
– Anh muốn nhờ việc chi?
Người công sai nói:
– Tôi nhờ thầy bói một quẻ xem tôi đi thâu tiền được bao nhiêu?
Tử Nha gieo quẻ rồi viết ra bốn câu như vầy:
Quẻ Cấn, thâu không vẹn
Tiền lương chúng còn hẹn
Nếu chẳng đợi chờ lâu
Một trăm lẻ ba nén
Người công sai hỏi:
– Tiền quẻ bao nhiêu?
Lưu Càng không đợi Tử Nha nói, xen vào:
– Quẻ này linh lắm không phải giá thường. Cứ mỗi quẻ phải trả năm chỉ bạc.
Người công sai lườm mắt ngó Lưu Càng nói:
– Anh không phải làm thầy sao lại ra giá?
Lưu Càng nói:
– Anh đừng lo đắt. Nếu quẻ không đúng tôi trả bạc lại cho.
Người công sai sợ ở lâu trễ việc quan, liền móc túi lấy năm chỉ bạc trao rồi lật đật dời gót.
Lưu Càng cũng từ giã ra đi, Tử Nha nói:
– Cám ơn anh rất lớn.
Lưu Càng nhe răng cười:
– Có gì đâu. Tôi đền ơn thầy đó.
Nói rồi quảy đòn gánh lên vai, bôn bả vào núi,
Dân chúng thấy Lưu Càng níu kéo viên công sai xúm nhau xem đông nghẹt. Chừng rõ được câu chuyện, ai nấy thấp thỏm đợi người công sai trở về xem quẻ bói có linh không.
Chẳng bao lâu, người công sai trở về, ghé vào phố Tử Nha khen:
– Tuy tốn năm chỉ bạc, nhưng quẻ linh đáng giá ngàn vàng. Thầy quả thật là tiên. Tôi thu đúng một trăm lẻ ba nén.
Từ ấy Tử Nha nổi tiếng, nội Triều Ca kéo đến xem bói rất đông, cứ mỗi lần xem năm chỉ bạc.
Mã thị thấy chồng làm được nhiều tiền, trọng chồng quá sức.
Phòng xem bói Tử Nha đông nườm nượp, được nửa năm thì các khách xa cũng tìm đến.
Bây giờ, nói về ngoài cửa Nam, tại mã Huỳnh Ðế, có con Ngọc Thạch Tỳ bà, trước kia là bạn với Ðắt Kỷ, lâu ngày xa cách, nên tìm đến Triều Ca thăm Ðắt Kỷ.
Ðắt Kỷ mừng lắm, tiếp đón rất ân cần ngày đêm ở trong cung vui đùa không ngớt. Tuy vậy, Ngọc Thạch Tỳ bà vốn là loài yêu quái tánh ăn thịt người đã quen, không thể nhịn lâu được. Cứ mỗi đêm, Ngọc Thạch Tỳ bà lại hiện nguyên hình yêu, bắt bọn cung nữ trong cung ăn thịt, bỏ xương tại mé Thái Hồ cả đống.
Hôm nọ, Ngọc Thạch Tỳ bà từ giã Ðắt Kỷ tàng hình trở về động. Khi băng ngang đến trước phố Tử Nha, thấy thiên hạ vào ra rất đông, cười nói xôn xao, ai cũng đồn thầy xem bói tài tình lắm.
Tỳ bà nghĩ thầm:
– Khéo kiếm chuyện lừa gạt dân gian. Bói quẻ có gì mà linh như vậy. Ðể ta giả hình người vào coi thử xem cho biết.
Nghĩ rồi liền hóa ra một thiếu nữ, mặc tang phục, bước vào gọi Tử Nha nói:
– Xin thầy làm ơn bói giùm tôi một quẻ.
Mọi người nhìn lại thấy một thiếu nữ sang trọng và xinh đẹp phi thường, liền tránh ra chừa lối cho nàng vào.
Tử Nha thoáng thấy khí yêu hiện trên nét mặt người đàn bà, mỉm cười thầm nhủ:
– Loài yêu nghiệt, dám đến trước mặt ta mà chọc tức. Nếu ta gặp yêu mà không trừ đi thì đâu phải kẻ có bản lãnh cao cường?
Nghĩ rồi liền nói với khách hàng mình:
– Xin các ngài tránh ra để tôi xem cho người đàn bà này trước, kẻo nam nữ đứng gần nhau lâu bất tiện.
Khách hàng nghe theo lời, chừa chỗ cho Tỳ bà tiến đến trước bàn.
Tử Nha nói với Tỳ bà tinh:
– Cô đưa bàn tay tôi xem thử.
Tỳ bà tinh hỏi:
– Thầy chuyên coi bói mà cũng biết xem tướng nữa sao?
Tử Nha nói:
– Nghề gì tôi cũng biết. Trường hợp của cô đặc biệt hơn, nên phải coi tướng trước rồi coi bói sau nói mới đúng được.
Tỳ bà tinh không ngờ Tử Nha đã rõ chân tướng mình liền mỉm cười xòe bàn tay ra đưa trước mặt.
Tử Nha nắm lấy cổ tay ấn vào bộ mạch, dùng phép âm không cho yêu quái biến hình. Tỳ bà tinh vẫn không hiểu, tưởng Tử Nha muốn chọc ghẹo mình, vội nói:
– Thầy xem không nói gì lại nắm cườm tay tôi mãi như vậy?
Khách hàng ngồi xung quanh thấy Tử Nha có cử chỉ bất lịch sự ấy, liền la lớn:
– Ông thầy đã già mà còn hiện quỉ, nắm tay con gái làm chuyện trêu đàm. Nếu có một quan chức đi ngang đây trông thấy thì tội không nhỏ.
Tử Nha thấy mọi người nhao nhao, liền thanh minh:
– Nó không phải đàn bà con gái đâu. Nó là giống yêu tinh giả hình vào quấy rối.
Không ai tin lời nói của Tử Nha, người này nhìn mặt người kia với vẻ bất bình.
Tử Nha không để ý đến cử chỉ phản đối của mọi người cứ nắm chặt lấy cổ tay của Tỳ bà tinh, không cho biến xác. Qua một lúc, Tử Nha thấy không có vật gì có thể giết được yêu quái trừ nghiên mực để trên bàn, liền thò tay lấy nghiên mực đập mạnh vào đầu Tỳ bà tinh.
Tỳ bà tinh ré lên một tiếng, máu chảy đỏ ối. Tuy vậy, Tỳ bà tinh vẫn còn mạnh, giãy dụa lung tung, mà không sao biến đi được.
Thiên hạ trông thấy Tử Nha đánh người đàn bà đổ máu, đều ra mặt phẫn nộ.
– Lão thầy bói quái gở, đã chọc ghẹo đàn bà con gái lại còn giở trò hung hăng. Chúng ta đi báo với quan địa phương.
Một số người nắm giữ Tử Nha lại, còn một số đi trình quan.
Tử Nha vẫn nắm chặt tay Tỳ bà tinh không thả.
Vừa lúc ấy có Tỉ Can cỡi ngựa đi qua đấy, thấy dân chúng xôn xao liền hỏi:
– Thiên hạ làm gì đông vậy?
Mọi người đồng hô lớn:
– Kéo cổ Tử Nha ra đây cho quan Thừa Tưởng xử.
Tỉ Can không rõ việc gì, hỏi:
– Chuyện gì vậy?
Dân chúng thưa:
– Có lão thầy bói tên Tử Nha làm chuyện phạm pháp, lợi dụng nghề coi bói nắm tay con gái đàn bà. Cô ả không chịu, lão thầy bói lại làm ngang, lấy nghiên mực đánh nàng đổ máu.
Tỉ Cang nghe nói nổi xung, truyền bắt Tử Nha dẫn đến.
Tử Nha bị lôi ra trước mặt Tỉ Cang, nhưng ông ta vẫn không chịu thả tay Tỳ bà tinh ra.
Tỉ Can trông thấy tận mắt, lớn tiếng mắng Tử Nha:
– Trên đầu ngươi đã hai thứ tóc, sao lại không biết xét mình, làm chi chuyện xấu xa như vậy?
Tử Nha quỳ thưa:
– Tôi là người có học, lẽ đâu không biết phép vua? Dẫu có lì lợm đến đâu cũng không thể đối xử với đàn bà như vậy. Quả thật người này là yêu quái trá hình. Tôi thấy tại Triều Ca khí yêu quá lộng, e không trừ thì sớm tối nước nhà không yên. Tôi dẫu là dân, đã ăn ngọn rau tấc đất của Thánh Hoàng chẳng lẽ bỏ qua, không trừ quỷ dữ. Xin Thừa Tướng xét lại.
Tỉ Cang nhìn người đàn bà đang nằm mê man như chết, hỏi:
– Người đàn bà ấy bị ngươi đánh đã chí tử, ngươi còn tiếc gì còn nắm tay?
Tử Nha thưa:
– Không, nó làm bộ yếu đó. Nếu tôi thả tay nó biến mất còn đâu bằng cớ? Thừa Tướng dầu không xét, chém đầu tôi, tôi cũng không dám thả tay ra.
Tỉ Cang suy nghĩ hồi lâu nói:
– Việc này ta không thể nào xét xử được. Ðể ta vào Triều tâu với Thiên tử đã.
Nói rồi liền khiến quan sở tại dẫn Tử Nha đến trước đền, còn mình cỡi ngựa về thẳng hoàng cung, vào ra mắt Trụ vương tâu mọi việc.
Trụ vương ngỡ ngàng, không hiễu cớ sự ra sao, Ðắt Kỷ đã rõ ngọn ngành, nghiến răng thầm trách:
– Khổ quá. Em đi về sao lại không về cho đến nơi, ghé vào xem bói làm gì cho chúng đánh. Việc này chị phải báo thù cho em mới được.
Nghĩ rồi liền tâu với Trụ vương:
– Việc ấy nghe mơ hồ quá. Xin Bệ hạ truyền Tử Nha vào bệ kiến mới rõ được.
Trụ vương nghe lời liền truyền dẫn Tử Nha vào.
Tử Nha kéo thây Tì bà cùng với mình vào quì trước bệ.
Trụ vương hỏi:
– Nhà ngươi là ai đó?
Tử Nha tâu:
– Tôi là Khương Thượng, quê ở Hứa Châu, trước đây có học phép thần tiên nên rõ được yêu quái. Nay tôi đang xem bói, gặp con yêu nay giả hình vào quấy rối, nên tôi bắt nó để đền ơn Bệ hạ.
Trụ vương nói:
– Nó là người đàn bà rõ ràng, sao ngươi bảo là yêu quái.
Tử Nha nói:
– Con mắt người thường không thể phân biệt được. Nếu Bệ hạ muốn thấy tận mắt xin cho phép tôi dùng lửa đốt nó. Nó sẽ hiện nguyên hình cho bệ hạ xem.
Trụ vương y tấu, truyền quân đem củi lửa đến chất lên nghi ngút trước sân chầu.
Tử Nha liền họa bùa trên xoáy Tỳ bà tinh, lôi quăng nó vào lửa.
Lạ thay, lửa đốt đến hai giờ đồng hồ mà xác con yêu vẫn còn nguyên không hề bị cháy. Quân sĩ lấy làm lạ, triều thần ngơ ngác.
Vua Trụ nói với Tỉ Cang:
– Ðốt không cháy thì nó quả thật là yêu quái rồi?
Tỉ Cang tâu:
– Ðúng vậy. Song không biết nó là giống gì thành yêu.
Trụ vương phán:
– Ngươi xuống dưới sân chầu hỏi Khương Thượng xem yêu này là giống gì vậy?
Tỉ Cang vâng lệnh đến hỏi Tử Nha.
Tử Nha nói:
– Nếu muốn bắt nó hiện nguyên hình cũng chẳng khó gì.
– Ta không cừu oán gì với ngươi sao ngươi nỡ dùng lửa thần đốt xác?
Tử Nha nói:
– Ngươi là giống yêu quái, tác hại mọi người, ta giết ngươi để cứu dân, cần gì phải thù oán.
Vua Trụ thấy người đàn bà đã chết lại còn lồm cồm ngồi dậy nói như thế thì sợ, mình mọc ốc, trán đổ mồ hôi, lập cập đứng dậy vào trong.
Tử Nha tâu:
– Xin Bệ hạ vào trong cung cho mau kẻo có sấm nổ.
Ðợi cho Trụ vương khuất bóng sau rèm, Tử Nha đưa hai tay vỗ nhẹ một cái, tiếng sấm nổi lên rền trời. Lửa tam muội cháy rần rật. Chừng lửa tắt, không ai còn thấy xác người đàn bà coi bói nữa mà chỉ thấy một cây đờn tỳ bà bằng ngọc thạch, nằm giữa sân triều.
Các quan thấy vậy vỗ tay cười lớn, chúc mừng tài Tử Nha.
Các hoạn quan vội chạy vào báo với Trụ vương:
– Yêu quái đã hiện hình ra cây đờn tỳ bằng ngọc thạch rất đẹp.
Vua Trụ sửng sốt nói với Ðắt Kỷ:
– Ðờn tỳ bà bằng ngọc thạch cũng có thể thành yêu sao?
Ðắt Kỷ không trả lời, mặt buồn dàu đàu, lòng đau xót.
Nàng nghiến răng trách thầm:
– Sao muội mnội đến thăm ta rồi không chịu trở về, chọc chi chúng nó cho sanh tai vạ như vậy. Ta quyết lấy đầu Khương Thượng cho rõ mặt hồ ly.
Nghĩ rồi gượng cười chúm chím nhìn Trụ vương nói:
– Thần thiếp nghe nói cây đờn tỳ bà bằng ngọc thạch thì thích lắm, vậy bệ hạ cho thần thiếp để đánh đờn cho bệ hạ nghe. Khương Thượng có tài trừ yêu quái đáng được trọng dụng, xin Bệ hạ phong quan cho Khương Thượng để giúp việc triều chính.
Trụ vương nói:
– Phong quan cho Khương Thượng không có gì trở ngại, còn đem đờn tỳ bà vào cung, rủi nó thành yêu tinh trở lại, Trẫm sợ lắm.
Ðắt Kỷ nói:
– Nó đã bị đốt xác thành cây đờn, còn trở thành yêu tinh sao được, xin Bệ hạ chớ lo.
Vua Trụ nghe theo lời, truyền lấy cây đờn tỳ bà trao cho Ðắt Kỷ.
Ðắt Kỷ cúi lạy tạ ơn, liền đem cây đờn tỳ bà để trên lầu Trích Tinh, lấy hơi sương nắng. Vì Ðắt Kỷ biết rằng với hơi sương nắng ấy, chỉ trong sáu năm, Tỳ bà tinh có thể hiện lại nguyên hình.
Kế đó Trụ vương truyền đòi Tử Nha vào triều phong làm chức Tư Thiên trông coi việc thiên văn.
Tử Nha tuân lệnh, lãnh áo mão, rồi từ tạ Trụ vương trở về trang viện của Dị Nhân sắp xếp việc ra làm quan.
Dị Nhân thấy Tử Nha trở về, có cả áo mão hiển vinh thì mừng rỡ khôn cùng.
Ðêm ấy đôi bạn mở tiệc mừng, ăn uống say tưởng không còn gì vui hơn.
Ngày hôm sau, Tử Nha từ tạ Dị Nhân đến đài Thiên văn nhận việc. Từ chỗ một gã thầy bói trở thành một viên triều thần không có gì khó khăn cả.
Ngày kia Trụ vương truyền tam cung lục viện đến lầu Trích Tinh hầu rượu.
Ðắt Kỷ đến ca múa hát tưng bừng, Trụ vương như say như tỉnh ngồi ngất ngưởng trên long sàn.
Ðắt Kỷ múa hát môt hồi, liếc mắt nhìn thấy các cung nga ai cũng vui tươi chỉ có một nhóm cung nữ hơn bảy mươi người mặt ủ mày châu, không có một nụ cười tiếng nói.
Bấy giờ Ðắt Kỷ đã lên ngôi vị Chánh cung, đủ quyền chế ngự tam cung lục viện, không còn sợ ai nữa, nên thấy bọn cung nga khác thường kia, liền bước đến hỏi:
– Chúng bay hầu hạ ở cung nào mà có thái độ như vậy?
Bọn cung nga ấy thưa trước kia là cung nữ hầu hạ Chánh cung họ Khương.
Ðắt Kỷ nổi giận nói:
– Chúng bay oán trách ta hả? Chủ bây làm phản, toan hại Thánh hoàng, tội ấy đáng lẽ các ngươi có liên quan, ta đã vì nhân đạo không nói đến, các ngươi không biết ơn ta?
Một vài cung nga không nhịn được lối hống hách của Ðắt Kỷ đáp:
– Khương Hoàng hậu nào có tội gì, chẳng qua Bệ hạ nghe lời dua mị, hành hạ Khương hậu đến thác oan.
Ðắt Kỷ tâu với Trụ Vương:
– Bệ hạ trừ kẻ phản mà để tiếng ác lại cho thần thiếp. Thần thiếp nghĩ mình lên chức Chánh cung chưa làm được gì mà chịu phải tiếng oan.
Nói rồi khóc nức nở. Vua Trụ giận quá, đòi đem bảy mươi hai cung nga ấy ra ngoài đập chết hết.
Ðắt Kỷ can:
– Lũ cung nga phạm tội xin chớ giết vội, hãy giam vào lãnh cung chờ thần thiếp chế ra một hình phạt đã.
Quan Phụng Ngự tuân lệnh, dẫn 72 cung nga đem giam vào lãnh cung hết.
Ðắt Kỷ tâu với Trụ Vương:
– Xin Bệ hạ truyền nhân công đào một cái hầm giáp vòng quanh lầu Trích Tinh. Dài 200 thước, sâu 50 thước. Xong lại truyền cho dân chúng ở Triều Ca mỗi nhà nạp vào cung năm con rắn độc. Rắn đó sẽ thả xuống hầm gọi là Sái Bồn.
Trụ Vương hỏi:
– Hậu định lập Sái Bồn để làm gì?
Ðắt Kỷ nói:
– Nếu không dùng Sái Bồn để làm hình phạt thì cung nhân còn sợ uy của thần thiếp sao được. Cung nhân phạm tội sẽ bị lột hết xiêm y quăng xuống Sái Bồn cho rắn xé xác. Làm như vậy bệ hạ sẽ thấy thích thú khi thấy loài rắn đói ăn thịt người và sức kháng cự của những kẻ gần cái chết.
Trụ Vương nói:
– Chánh cung bày phép lạ như vậy trị bọn cung nga mới yên.
Liền truyền quân sĩ ngày đêm đào hầm, và ra chiếu chỉ cho dân chúng quanh Triều Ca mỗi nhà phải nạp rắn độc.
Lệnh vua ban hành, chẳng ai dám trái. Vì vậy dân chúng tấp nập vào triều.
Ngày kia, quan Ðại phu Dao Cách đang xem sổ sách trong đền,thấy dân chúng di dập dìu, trên tay có xách một giỏ rắn đem vào nộp, lấy làm lạ, hỏi viên quan thu rắn:
– Thiên tử dùng vật ấy làm gì mà thu nạp nhiều như thế?
Viên quan thu rắn thưa:
– Tôi chỉ được lệnh thu rắn đem nạp chứ không rõ.
Dao Cách hoài nghi bước ra ngoài hỏi đám dân lành.
– Chúng bay bắt rắn ở đâu nạp nhiều như vậy?
Dân chúng thấy quan cận thần Dao Cách hỏi, vội khúm núm thưa:
– Lệnh vua truyền dân chúng Triều Ca mỗi người nạp bốn con rắn độc. Tại Triều Ca không có rắn độc, chúng tôi phải đến mãi tận vùng rừng núi đặt mua đem về đây.
Dao Cách hỏi:
– Các ngươi có biết loại rắn độc ấy dùng làm gì không?
Dân chúng lăc đầu:
– Chúng tôi là kẻ ngu phu làm sao hiễu được.
Dao Cách liền vào đại điện tìm Tỉ Can, Hoàng Phi Hổ, Cơ Tử, Vi Tử và Dương Nhậm để hỏi ý kiến. May mắn, vừa đến nơi thấy đã các vị đại thần này cũng hội đủ mặt.
Dao Cách nói:
– Các ông có biết Bệ hạ truyền nạp rắn vào cung để làm việc chi không?
Hoàng Phi Hổ nói:
– Hôm qua tôi đi tập quân, thấy dân chúng than thở về việc triều đình bắt nạp rắn, chẳng rõ duyên cớ nên định đến hỏi các ngài đây.
Tỉ Can và Cơ Tử đồng lắc đầu nói:
– Trong cung lại truyền dân nạp rắn độc thật là chuyện phi thường, thuở nay chưa thấy. Chúng tôi nghiệm không ra lẽ.
Hoàng Phi Hổ liền đòi viên quan thâu rắn đến dặn:
– Ngươi cố dọ xét thử Bệ hạ dùng số rắn nhiều như vậy để làm gì rồi báo cho ta biết, ta sẽ trọng thưởng.
Viên quan thu rắn tuân lệnh lui ra.
Qua bảy hôm, số rắn dân chúng đến nạp đã nhiều, viên quan thu rắn liền vào cung tâu với vua Trụ:
– Rắn độc không còn chỗ chứa nữa, chúng đói muốn phá giỏ ra, hạ thần phải truyền quân giữ rất khó nhọc, xin bệ hạ chỉ dạy.
Trụ Vương hỏi Ðắt Kỷ:
– Khanh định liệu thế nào?
Ðắt Kỷ truyền đem rắn thả hết xuống hầm, và chấm dứt việc thu nhận rắn. Bây giờ rắn độc đầy hầm, bò qua bò lại, chồng chất lên nhau, cất đầu le lưỡi trông rất sợ.
Trụ Vương nói:
– Khanh còn định gì nữa?
Ðát Kỷ nói:
– Thế là Sái Bồn đã hoàn thành. Xin Bệ hạ truyền chỉ bắt 72 cung nga phạm tội, lột hết xiêm y, bỏ xuống từng người cho rắn độc phân thây. Ðứa sau thấy cái chết của đứa trước, chúng mới kinh sợ.
Trụ Vương gật gù nói:
– Khanh lập các hình phạt rất hay. Nhưng trẫm thấy gớm ghiếc quá!
Ðắt Kỷ mỉm cười nói:
– Bệ hạ là đấng uy quyền nhất vũ trụ, xưa nay các vì vua chúa đã ai được thấy cảnh ấy, thần thiếp thiết tưởng bệ hạ trông thấy sẽ thích thú không gì bằng.
Trụ Vương nói:
– Thấy rắn thì gớm chứ sao lại thích thú?
Ðắt Kỷ nói:
– Thích thú ở chỗ bầy rắn ăn thịt người. Ðó là một nghệ thuật xé mồi, không phải như những con thú khác. Trước khi xe nát từng miếng thịt, mỗi con rắn trườn tới, dùng nọc độc cắn tội nhân. Có những thứ nọc độc làm cho tội nhân tê đi, có những thứ nọc độc làm cho tội nhân đau đớn giảy giụa khổ sở… Những cái ấy trông thấy còn thích hơn là xem một tuồng hát độc đáo nhứt trong cung vàng điện ngọc này.
Trụ Vương cười nói:
– Nếu không có khanh giảng giải, Trẫm làm sao biết được.
Liền truyền chỉ dẫn 72 cung phi đến Sái Bồn lột hết quần áo, cứ từng người xô xuống. Bầy rắn đói gặp thịt người, đổ tới như gió, cắn, đớp… chỉ loáng mắt, từng miếng thịt của cung nhân vào bụng rắn.
Bọn cung nga còn lại trông thấy sợ hãi khóc rống lên. Tiếng khóc thảm thiết hòa thành một điệu vang dội cả nội cung.
Bây giờ Dao Cách đang theo dõi hành động của Trụ Vương bỗng nghe trong cung có tiếng khóc. Kế viên quan thu rắn chạy ra thét:
– Ngài ơi! Ghê gớm quá! Bệ hạ đựng rắn đầy hầm, lại bắt cung nhân xô xuống cho rắn độc xé xác.
Dao Cảnh nổi nóng, vội chạy thẳng lên lầu Trích Tinh, thấy một số đông cung nhân lõa thể, quần áo bị lột hết, không còn một mảnh vai che thân, tóc thả bù xù, đang khóc than thảm thiết.
Trước mắt Dao Cách như một cảnh địa ngục ma quái.
Dao Cách hét quân sĩ bảo không được xô cung nhân xuống hầm nữa, và chạy đến trước mặt Trụ Vương tâu:
– Xin Bệ hạ hồi tỉnh lại, nỡ nào bày ra chuyện quái gở như vậy.
Trụ Vương đang ngồi với Ðắt Kỷ xem rắn ăn thịt người thấy Dao Cách đến quỳ trước mặt, liền hỏi:
– Trẫm không cho đòi, sao khanh dám đến?
Dao Cách vừa khóc vừa nói:
– Bệ hạ di vào con đường dữ, càng làm cho thiên hạ oán hờn. Chẳng hay cung nga có tội gì mà Bệ hạ hành hình độc ác như thế?
Trụ Vương nói:
– Nước có giềng mối, đạo có quân thần. Trong cung nhiều người làm sai phép nước, nếu không lập Sái Bồn răn chúng thì cơ nghiệp khó giữ. Khanh làm quan Ðại phu lại không rõ hay sao?
Dao Cách thở dài:
– Ôi! Bệ hạ nghĩ sai rồi, cơ nghiệp bị mất là do hành động tàn nhẫn của Bệ hạ chứ không phải do đám cung nhân phạm kỷ luật đâu. Dân chúng vừa qua cảnh bảo lụt tai ương, lại phải khổ sở tốn tiền mua rắn độc để dâng Bệ hạ bày chuyện bất nhơn xưa nay chưa từng thấy. Xưa thời Nghiêu Thuấn, không dùng đến hình phạt mà thiên hạ vẫn thái bình, bốn phương đều an lạc, cơ nghiệp vững bền. Thế thì việc giữ nước trị dân đâu phải là hình phạt mà chính là nhân đức. Xin bệ hạ xét lại.
Trụ Vương nói:
– Ta há không biết sao mà ngươi phải giảng dạy. Song trong đời không phải ai cũng thấy đức mà sợ. Có kẻ chỉ sợ hình phạt thôi. Ðối với hạng người ấy, nếu không dùng hình phạt thì không thể dạy được.
Dao Cách nói:
– Cung nga là những tay chân, hầu hạ, đâu có lỗi gì nặng đến đâu nữa cũng chưa phải quan hệ lắm, việc gì phải bày hình pháp? Tôi thiết tưởng, những kẻ có lòng nhân mới làm được việc nhân. Bệ hạ xô người xuống hầm cho rắn xé thịt mà bệ hạ không ghê rợn thì bệ hạ đâu có lòng nhân. Dại khờ nhất là đám tôi thần vô dụng này, đòi hỏi một ông vua bất nhân phải làm điều nhân là chuyện không thể có…
Trụ vương không kịp nghe hết lời can gián của Dao Cách, nổi giận đùng đùng, mắng:
– Loài thất phu, dám mắng vua, nghịch mạng. Ðáng chết! Quân, hãy cởi hết quần áo nó rồi ném xác nó xuống Sái Bồn lập tức.
Dao Cách đứng dậy điểm mặt Trụ Vương nói:
– Ta không ngờ hôn quân ngày hôm nay đến nỗi này. Kẻ dại khờ là những kẻ mê muội, chỉ biết nghe lời bên gối, trông những sắc đẹp bên mình mà không thấy gì xa hơn. Ta đoán chắc ngày kia lúc hôn quân sáng mắt lên thì đã muộn. Ta, bọn tôi thần bất trí, thờ nhằm một hôn quân thì chết cũng cam, nhưng ta đâu phải chết vì Sái Bồn, ta là một Giám Nhị, có chết cũng tìm chỗ trong sạch.
Nói dứt lời, nhào xuống lầu Trích Tinh tự vận. Lầu Trích Tinh là một cái lầu cao chót vót. Dao Cách nhảy xuống thì còn gì thịt xương. Tuy vậy, Trụ vương vẫn chưa hết giận, truyền xô hết 72 cung nga xuống Sái Bồn, rồi lượm thây Dao Cách ném luôn xuống hầm cho rắn ăn luôn.
Người sau có thơ khóc Dao Cách:
Mặt đỏ lòng son chẳng lợt màu
Họ Dao nhảy xuống thác bên lầu
Phải dè cơ nghiệp Thành Thang dứt
Cơn giận làm chi đến dập đầu…
Cuộc hành hình trông rất khủng khiếp. Nếu Trụ Vương còn một chút ít nhân tính, không thể nào nhìn cảnh dã man ấy được.
Bọn cung nhân kêu khóc một hồi rồi cũng đến lúc oán hận, không còn sợ chết, không kể đến thân xác, chỉ vào mặt Ðắt Kỷ ngâm nghiến:
– Chúng ta sống không ăn thịt người được, chết nguyện làm ma quỉ hóp hồn ngươi…
Số cung nhân bị xô xuống Sái Bồn một lượt, đàn rắn đói cất cổ phùng mang, con thì cắn, con thì xé, con thì chun vào bụng, con thì quấc ngoài da, quang cảnh không thể nói cho cùng.
Ðắt Kỷ nói với Trụ vương:
– Nếu không dùng cách ghê gớm thì khó trị được loài ngang nghạnh.
– Nhưng bình phạt nặng quá chúng sẽ oán ta.
Ðắt Kỷ nói:
– Oán trách mà không hành động chống lại thì nước không mất. Còn hơn là để chúng khi quân, nay mắng, mai chửi bệ hạ, làm cho phép nước rối loạn, quân phản nghịch do đó nổi dậy. Bệ hạ không thấy sao? Từ khi lập Bào Lạc, đốt Mai Bá, triều thần khiếp vía, không còn ai dám đem những giáo điều nhân nghĩa đến trước mặt Bệ hạ nguyền rủa nữa. Như vậy kết quả của trừng phạt là tuyệt đối.
Vua Trụ nghe Ðắt Kỷ nói mùi tai, gật đầu:
– Khanh thật là người thông thái có thể giúp trẫm trị nước được.
Ðắt Kỷ được khen rất hài lòng, tâu với Trụ Vương:
– Làm vua phải có gì cao cả trong đời mình. Nay bệ hạ tuy quyền đã có nhưng sức giàu sang chưa phô diễn tuyệt đỉnh.
Trụ Vương hỏi:
– Sức giàu sang như thế nào mới tuyệt đỉnh?
Ðắt Kỷ nói:
– Sức giàu sang tuyệt đỉnh là sức mà thiên hạ không bao giờ tưởng tượng đến.
Trụ Vương hỏi:
– Trẫm có tiền bạc đầy kho cung điện nguy nga, vàng son lộng lẫy, như vậy thiên hạ chưa tưởng tượng được sao?
Ðắt Kỷ nói:
– Tiền bạc, vàng son, cung điện, các nước chư hầu cũng có. Họ vẫn được cảnh sung mãn ấy.
Trụ Vương hỏi:
– Thế thì Trẫm phải có thứ gì mới gọi là giàu sang?
Ðắt Kỷ tâu:
– Nay Bệ hạ đã lập Sái Bồn nuôi rắn rồi. Rắn dữ đầy hầm, đó là chuyện ít ai có. Nhưng nếu bên tả Bệ hạ làm một hòn núi hèm, để ủ rượu, đống hèm luôn luôn cao chót vót, dùng những cành cây cắm lên, rồi lấy thịt móc vào làm đá! đặt tên là Nhục Lâm (núi thịt). Bên hữu, Bệ hạ khiến xây một hầm sâu, đổ đầy rượu như một hồ nước mênh mông, gọi là Tửu Trì. Ðược như vậy hỏi trong thế gan này ai dám sánh?
Vua Trụ đắc ý khen:
– Khanh chế cách chơi như vậy sang trọng lắm. Nếu không thông minh làm sao nghĩ được chuyện to tác như vậy?
Vua Trụ liền truyền bọn Thái giám đốc suất ngự lâm quân làm trong một khoảng thời gian ngắn thì xong. Công việc hoàn thành, vua Trụ và Ðắt Kỷ ngự ra Nhục Lâm và Tửu Trì xem xét.
Trụ Vương khoái chí, truyền Ðắt Kỷ đờn ca múa hát cho vui.
Ðắt Kỷ tâu:
– Ðờn ca múa hát mãi cũng chán xin Bệ hạ tìm thú vui mới lạ đẹp mắt hơn.
Trụ vương hỏi:
– Khanh có thú nào vui chăng?
Ðắt Kỷ tâu:
– Trong cung có một số thái giám và cung nữ, vây bệ hạ truyền bọn thái giám và cung nữ chia làm hai phe, vật lộn nhau, kẻ nào thắng thì được ăn Nhục Lâm, uống Tửu Trì, còn kẻ nào bại thì quăng thây xuống Sái Bồn cho rắn dữ.
Vua Trụ nghe theo, truyền thái giám và cung nga vật lộn làm vui
Ai nấy sợ lệnh vua không dám cãi, kết cuộc có một số cung nga vì yếu sức, bị Ðắt Kỷ truyền quân xô xuống hầm rắn, làm mồi cho giống độc.
Sở dĩ Ðắt Kỷ bày ra chuyện này là để giết bớt một số cung nga làm cho thâm cung vắng vẻ, thừa lúc nửa đêm hiện hình ra đống hèm ăn thịt người, uống rượu.
Người sau có thơ than:
Gặp thịt như rừng rượu cả ao
Trụ nghe Ðắc Kỷ độc chừng nào
Sái Bồn nuôi rắn thương chi xiết
Bào Lạc thành tro thảm biết bao
Văn võ hết lo nền xã tắc
Quan quân không trổ chí anh hào
Lòng dân nhen nhúm hờn bạo ngược
Sắc đẹp mê hồn, chẳng biết sao?
Trụ Vương với Ðắt Kỷ mê man trong Nhục Lâm, Tửu Trì, bao nhiêu công việc triều chính không hề để mắt đến.
Ngày kia, Ðắt Kỷ nhớ lại mối thù với Tử Nha, chưa có cơ hội kết toán, nên nghĩ ra một kế, vẽ ra một bức họa đồ cất trong tay áo rộng, thừa lúc vua Trụ say, quì tâu:
– Thần thiếp vừa vẽ ra một bức họa đồ rất công phu, xin bệ hạ xem thử.
Trụ vương tiếp lấy, trải lên long sàng xem một hồi rồi hỏi:
– Ðây là họa đồ của một lâu đài tráng lệ, ái khanh có ý định gì mà vẽ họa đồ này?
Ðắt Kỷ tâu:
– Ðây là họa đồ xây một Lộc đài theo kiểu Bồng Lai. Bệ hạ giàu có muôn xe, uy trải bốn biển, nếu không thụ hưởng Lộc đài thì uổng lắm.
Ðắt Kỷ chỉ từng chỗ, giải thích cho Trụ vương nghe, Lộc đài bề cao 49 thuớc, cột vàng kèo bạc, chạm trổ rất công phu, chổ nào cũng có gắn hạt châu, mã não, hổ phách, ban đêm chiếu sáng ngời, chẳng khác lầu Ngọc Khuyết.
Trụ vương mê man, hỏi:
– Lầu cao và đẹp như thế sẽ tốn rất nhiều của kho, chẳng biết Trẫm ngự ở đấy sẽ tìm được thú vui nào đặc biệt?
Ðắt Kỷ nói:
– Bệ hạ ngự ở Lộc đài khác nào cảnh thượng giới, ban đêm sẽ có tiên ông, tiên nữ xuống chơi, bệ hạ sẽ làm quen với tiên nga, ngắm nhiều tuyệt sắc. Ðã vậy, bệ hạ được sống lâu gần gũi mãi với thần thiếp, hưởng lộc trời…
Trụ vương nói:
– Trẫm có nghe hễ được gần tiên thì tuổi thọ, nay ái khanh tính lập Lộc đài tức là nghĩ đến tuổi già của Trẫm đó. Nhưng chẳng biết tiên có xuống chơi Lộc đài với trẫm không?
Ðắt Kỷ nói:
– Nếu có một Lộc đài cao quý như vậy, thần thiếp dám chắc tiên nga sẽ đến đờn ca múa hát, chầu bệ hạ suốt đêm.
Trụ vương nghe nói đắc ý, bảo:
– Tiền bạc tốn phí Trẫm không ngại gì, chỉ khó ở chỗ tìm người có đủ tài năng mới điều khiển đuợc thợ khéo làm đúng theo họa đồ của ái khanh.
Ðắt Kỷ nói:
– Bệ hạ dạy rất đúng. phải cần kẽ thông thiên văn, am địa lý mới thấu rõ huyền cơ của ngôi Lộc đài được. Nội trong triều thần thiếp chỉ thấy một mình Khương Thượng có đủ tài năng cáng đáng việc này. Xin Bệ hạ phong cho Khương Thượng làm Ðốc công thì thế nào cũng vừa ý.
Vua Trụ nghe theo, liền khiến quan thái giám đến dinh Tỉ Can đòi Khương Thượng vào dinh dạy việc.
Khương Thượng được lệnh, bói một quẻ, biết trước tai bay vạ đến chẳng lâu, liền nói với viên Thái giám.
– Ngài về trước tâu với bệ hạ rằng ta sẽ vào chầu lập tức.
Viên Thái giám đi rồi, Tử Nha nói với Tỉ Can:
– Tôi vói ngài lâu nay khuya sớm có nhau, tình nghĩa khắng khít. Nếu vì một duyên cớ nào hai ta cách trở thì biết bao giờ mới gặp nhau?
Tỉ Can nói:
– Vì cớ gì ông lại nói câu này?
Tử Nha nói quẻ, hôm nay vào chầu vua dữ nhiều lành ít, họa gởi tai bay.
Tỉ Can nói lần xem việc thiên văn đâu phải quan giám nghị mà lo tội vạ. Nếu vào chầu Bệ hạ có hỏi gì ông cứ nói không biết là xong. Vả lại, va mới phong chức cho ông, lẽ nào cách chức.
Tử Nha nói:
– Tôi có một phong thư để dưới nghiên mực, trong đó có nói lời tiên tri. Nếu sau này ngài có điều gì trắc trở nên theo đó mà làm may tránh khỏi vạ. Ðó là tôi đền ơn ngài vậy.
Dứt lời, Tử Nha tỏ ý giã biệt.
Tỉ Can quyến luyến nói:
– Ông đừng vội bi quan, nếu ông có điều gì rắc rối tôi nguyện đem thân ra bênh vực.
Tử Nha nói:
– Trời đã định mỗi người có một số mệnh riêng, ngài chớ lo mà nhọc tinh thần. Tôi e cứu vớt tôi không được mà ngài bị chìm luôn trong tai họa. Chi bằng xuôi theo vận mệnh tốt hơn.
Tỉ Can đưa Tử Nha ra khỏi phủ.
Tử Nha đến trước Trích Tinh lầu, thấy Trụ Vương đang cùng Ðắt Kỷ uống rượu.
Tử Nha xin vào yết kiến. Trụ Vương đòi vào phán:
– Nay trẫm muốn lập Lộc đài, nhưng trong triều không ai đủ tài giúp trẫm. Nếu khanh chịu khó thay mặt Trẫm hoàn thành thì công của khanh chẳng nhỏ.
Khương Tử Nha tiếp lấy họa đồ xem thử, thấy công trình rất nhọc, không biết làm mấy năm cho rồi, bèn nghĩ thầm:
– Triều Ca là chốn tạm của ta, lẽ đâu ta dốc sức làm việc này để mang tiếng theo hùa với hôn quân hại dân hại nước. Chi bằng tìm lời thối thác, nếu hôn quân giận, ta sẽ đào tẩu trước cho rồi, đừng để lụy thân.
Nghĩ như vậy, Tử Nha cứ cầm bản đồ xem hoài, không nói gì cả.
Vua Trụ chờ lâu, hỏi:
– Khanh nhắm họa đồ này làm bao nhiêu thời gian thì hoàn tất?
Tử Nha tâu:
– Ðài cao 49 thước, lại dùng châu ngọc gắn khắp nơi, đâu đâu cũng chạm trỗ rất tinh tế, hạ thần nhận thấy muốn hoàn thành phải ít nhất trong vòng 35 năm.
Trụ Vương thở dài quay sang Ðắt Kỷ nói:
– Khương Thượng trù tính 35 năm mới xong, như thế trẫm cất Lộc đài làm gì cho hao tốn. Người không trăm tuổi, mà trẫm đã nửa đời người, sống tạm như vậy hưởng cảnh thanh nhàn cũng được, cần gì tính đến chuyện trồng cây, xây núi.
Ðắt Kỷ nói:
– Lão thầy bói này quen tánh nói dối. Cất một cái đài dầu có lâu đến đâu cũng không thể qua ba năm. Tử Nha đã có ý khi quân, không muốn làm tôi, Bệ hạ xin đem xử Bào Lạc cho rồi.
Trụ Vương còn đang lưỡng lự, Tử Nha nói tiếp:
– Tôi xin Bệ hạ chớ nghĩ đến chuyện lạc thú ở đời mà quên cái khổ của muôn dân. Trong lúc kho tàng trống rỗng, thiên hạ gặp nhiều hạn hán, lúa thóc không đủ ăn, tôi trung vì chán nản việc triều chánh, kẻ nịnh lợi đụng tình thế dèm pha, cái nguy vong của nước nhà đã thấy rõ. Xưa vua Kiệt lập cung Quỳnh Dao mà mất nước. Nay Bệ hạ lập Lộc đài chẳng khác dẫm chân lên con đường ấy, e cơ nghiệp sẽ về tay một chư hầu khác. Tuy đã muộn, nhưng vẫn còn có thể cứu nguy được nếu Bệ hạ biết tự sửa mình chinh phục nhân tâm, lo cho xã tắc. Tôi tri ân Bệ hạ nên có lời tâm huyết, không nỡ lấy mắt nhìn.
Trụ Vương nổi giận mắng lớn:
– Ðứa già miệng, dám mắng vua. Nếu không dùng hình phạt trị tội thì còn ai kính nể trẫm nữa. Quân bây, đem Bào Lạc ra đốt lão già này cho thành tro để làm gương kẻ khác.
Võ sĩ chưa kịp áp tới Tử Nha đã co chân nhảy xuống lầu. Vua Trụ cười lớn, nói:
– Người nhát như thỏ mà giở thói ngang tàng, dẫu có lẹ chân như nai cũng không thể chạy trốn được.
Nói rồi truyền ngự lâm quân đuổi theo bắt lại.
Tử Nha nhảy xuống lầu, chạy một mạch đến cầu Cửu Long, thấy đàng sau quan quân theo bắt, liền nói lớn:
– Các ngươi đừng bắt ta làm gì cho mệt. Vua truyền đem Bào Lạc đốt ta, tánh ta không ưa lửa, nên thà chết nước cho mát thân.
Nói rồi nhảy ùm xuống sông mất xác. Quan quân chạy đến, không còn thấy Tử Nha đâu nữa, ngỡ là Tử Nha đã mượn dòng nước quyên sinh, có ngờ đâu Tử Nha bản lĩnh đầy mình, độn thủy trở về xứ.
Quan quân đứng nhìn một hồi, rồi trở về tâu lại với vua Trụ:
– Khương Thượng đã liều mình nhẩy xuống sông tự vận rồi.
Trụ vương nói:
– Số lão chết nước, không muốn chết lửa. Thôi, bề nào lão cũng chết thì thôi.
Bây giờ có vài viên quan vì mến Tử Nha nên đứng mãi trên cầu than thở, xảy có quan Thượng Ðại phu là Dương Nhậm đến hỏi:
– Việc gì mà các ông buồn bã đứng đây?
Các quan thưa lại mọi việc, Dương Nhậm thở dài trở về thư phòng, lòng rối như tơ vò.
Xong việc Khương Thượng rồi, Trụ Vương lại hỏi Ðắt Kỷ:
– Ái khanh còn có ý lập Lộc đài chăng?
Ðắt Kỷ nói:
– Lộc đài là nguồn sống của Bệ hạ thần thiếp tưởng không nên bỏ qua.
Trụ Vương hỏi:
– Khương Thượng đã chết nay sai ai làm Ðốc công?
Ðắt Kỷ nói:
– Sùng Hầu Hổ là người tận tâm với Chúa, nên bổ nhậm chức ấy.
Trụ Vương theo lời, sai sứ triệu Sùng Hầu Hổ về triều.
Thiên sứ tuân lệnh, vừa ra khỏi đền, gặp Dương Nhậm đón lại hỏi:
– Khương Thượng phạm tội gì mà phải nhào xuống sông tự tận?
– Bệ hạ sai Khương Thượng làm Ðốc công, cất Bá Lộc đài theo họa đồ của Hoàng Hậu. Khương Thượng đem lời ngay can gián. Bệ hạ truyền xử Bào Lạc. Khương Thượng thất kinh nhảy xuống lầu chạy đến Cửu Long kiều tự vẫn.
Dương Nhậm hỏi:
– Nay Bệ hạ sai ông đi đâu vậy?
Thiên sứ thưa:
– Bệ hạ sai tôi triệu thỉnh Sùng Hầu Hổ về triều để tiếp tục ý định xây Lộc đài.
Dương Nhậm hỏi:
– Lộc đài ra thế nào?
Thiên sứ nói:
– Bề cao tới bốn mươi chín thước, làm toàn ngọc ngà châu báu, có thể sánh với cung Quỳnh Dao đời vua Kiệt thuở xưa. Nếu làm đúng như vậy thì tốn kém của dân không biết bao nhiêu mà kể. Quan Ðại phu là người hưởng lộc lâu nay, tôi tưởng cũng nên có ít lời can gián may ra cứu dân khỏi nạn này.
Dương Nhậm nói:
– Thôi, ông khoan đi đã, để tôi vào yết kiến bệ hạ can gián vài lời. Xem có kết quả gì không.
Nói rồi thẳng đến đến trước lầu Trích Tinh, vòng tay đứng mãi. Trụ Vương trông thấy, gọi đến hỏi:
– Khanh đến đây có việc gì chăng?
Dương Nhậm tâu:
– Tôi nghe trong đạo thiên hạ hễ dân loạn thì nước hư, nước hư thì vua mất. Nay Khương Văn Hoán thù cha, cử binh bốn mươi vạn dánh ải Du Hồn, quan Tổng Trấn chống cự đã ba năm, tướng tổn người hao. Ngạt Thuận quyết lòng báo hiếu, kéo hai mươi vạn quân đánh ải Tìm Sơn. Ðặng Cửu Công cự địch hơn mấy năm đã không sao dẹp được. Trong lúc đó, Thái Sư Văn Trọng cầm quân dẹp Bắc Phiên mười mấy năm chưa thấy trở về. Tuy bên trong ổn mà bên ngoài chứa đầy mầm loạn lạc. Thế mà Bệ hạ không lo cứ ngày đêm đam mê tửu sắc, lập Bào Lạc hại tôi ngay, lập Sái Bồn giết cung nữ, chế Nhục Lâm, Tửu Trì để vui chơi… Rồi lại đòi lập Lộc đài cao bốn muơi chín thước để sánh với cung Quỳnh Dao thời vua Kiệt thật là chuyện phi thường. Hạ thần e Lộc đài hoàn thành, bệ hạ chưa hưởng được lạc thú mà cái khó đã đến bên mình. Muốn tránh những cái hại gần phải lo những cái hại xa. Lời nói của hạ thần ngày nay tưởng cũng thừa, vì trước đây đã nhiều vị quan triều tận trung can gián và bỏ mạng rồi. Tuy nhiên, hạ thần làm tôi bệ hạ, ngày nào Bệ hạ còn lầm lỗi là còn phải can ngăn.
Trụ Vương nói:
– Ngươi một đời theo sáo ngữ mà không biết cái nghĩa uyên thâm của một bậc minh quân sửa trị ngôi trời. Trẫm dùng luật nghiêm trị những đứa phản loạn thì mầm phản loạn làm sao sanh ra được. Bốn phương tuy có giặc, những đứa phản vua tuy hành động điên cuồng, song ngày nào đó chúng sẽ chịu trừng trị trước hình pháp của trẫm.
Dương Nhậm cười lớn:
– Bệ hạ nhờ ai nắm vững ngôi vua? Giặc đến, bệ hạ phải nhờ tướng tài, quân mạnh để chống lại. Thế mà Bệ hạ lại bạc đãi quân tướng mình thì ai chịu ra sức phò bệ hạ, chống giặc?
Vua Trụ nói:
– Binh tướng sẽ khiếp sợ trước luật pháp triều đình mà xả thân đánh giặc. Còn lấy nhân đạo đối với chúng chẳng khác nào đưa chúng đến chỗ dễ ngươi, khi quân phản quốc. Thí dụ, ta đã lấy lòng thương đãi ngươi, gọi ngươi vào đây, ngươi dám đem lời khi quân mắng vua, chứ nếu ta cấm ngặt không cho ngươi vào thì ngươi dám vào không?
Dương Nhậm nghe nói cười to:
– Thế Bệ hạ cho lũ quan triều này đều sợ chết mà phục tùng Bệ hạ sao?
Trụ Vương nói:
– Nếu ta đưa ngươi đến Bào Lạc, ngươi có dám nói lời khuyên can ta không?
Dương Nhậm ngửa mặt lên trời nói:
– Dù Bệ hạ có khoét mắt, cắt lưỡi, hạ thần vẫn nói. Lời nói của hạ thần vì sự nghiệp của tiền nhân, vì nhiệm vụ của một tôi thần đâu phải vì lẽ sống cá nhân. Bệ hạ nên thấy khác biệt giữa lời nói của kẻ nịnh, người trung thì mới rõ.
Trụ Vương bị Dương Nhậm mắng liền một lúc, tức quá nạt lớn:
– Ta khoét mắt ngươi xem ngươi còn dám nói lời nào nữa không?
Dứt lời truyền quân đè cổ Dương Nhậm xuống khoét mắt. Dương Nhậm vẫn nói oang oang không nín. Ðến lúc Dương Nhậm đau quá chết điếng mới thôi.
Quân đem tròng mắt của Dương Nhậm dâng lên trước long sàng.
Trụ vương chưa nguôi giận mắng:
– Xảo ngôn! Sao nằm im đấy không mắng nữa ta nghe thử.
Trụ vương vừa dứt lời thì bỗng một luồng gió thổi đến như bão, đá cát bụi bay ngất trời. Vua Trụ phải bỏ chạy vào trong lánh mặt. Dương Nhậm tuy chết giấc mà tâm gan trung liệt vẫn không sờn, hồn oan lên đến tận mây xanh.
Bấy giờ ông Thanh Hư đạo nhân ở núi Thanh Phong, trông thấy oán khí bốc lên đánh tay hiễu rõ sự tình, liền sai Huỳnh Cân lực sĩ xuống trần, nổi trận gió thâu hốt xác của Dương Nhậm đem về núi, bỏ trong động Tử Dương.
Luồng gió dữ vừa rồi chính là do Huỳnh Cân lực sĩ tạo ra đó.
Trụ vương sợ gió chạy vào trong một lúc, khi gió tạnh, quan Phụng Ngự chạy vào báo:
– Dương Nhậm bị gió thổi bay đâu mất rồi.
Trụ vương nói:
– Lúc trước trẫm chém hai vị Thái tử cũng bị gió bay. Như vậy là chuyện thường không có gì đáng ngại.
Tiếp đó Trụ vương quay sang nói với Ðắt Kỷ:
– Dương Nhậm bị gió bay mất, Sùng Hầu Hổ chắc cũng gần tới triều vậy phải lo gấp chuyện lập Lộc đài kẻo mất thì giờ, thời xuân không chờ ai để trễ không hưởng được thú thần tiên thì uổng lắm.
Ðắt Kỷ nói:
– Bệ hạ cương quyết như vậy thì làm gì sự nghiệp không vững bền. Thần thiếp tưởng chỉ có hình phạt mới đem lại yên vui cho một ông vua, khỏi bị những kẻ tự phụ cho mình là thông thái đem những sáo ngữ ra chỉ trích xàm xàm.
Trụ vương gật đầu hỏi:
– Do đâu mà ái khanh có một tầm hiểu biết cao xa như vậy?
Ðắt Kỷ nói:
– Làm vua chẳng khác nào như cha mẹ. Cha mẹ dạy con bằng lối chiều chuộng thì không bao giờ làm vừa lòng con cái. Vì mỗi đứa con có mỗi tánh khác nhau. Còn nếu dùng uy lực trừng trị thì không đứa con nào không sợ. Ðó là đạo trị người vậy.
Vua Trụ nghe Ðắt Kỷ nói lòng ngất ngây, truyền quân đem rượu đến, uống say mèm.
Bấy giờ Huỳnh Cân lực sĩ đem thây Dương Nhậm bỏ ở động Tử Dương, rồi vào thưa lại với Thanh Hư đạo nhân.
Ðạo nhân liền xuất động, sai Bạch Vân đồng tử đem hai hạt linh đơn bỏ vào lỗ mắt của Dương Nhậm bị khoét. Tức thì, trong lỗ mắt ấy mọc ra hai cánh tay, có hai con mắt thần, sáng ngời như sao, xem thấu rõ trên trời dưới đất, thấu cả việc đời.
Tuy vậy, Dương Nhậm vẫn còn mê man chưa tỉnh, Bạch Vân đồng tử liền hớp một hơi sinh khí thổi vào mặt Dương Nhậm hét:
– Dương Nhậm không tỉnh lại còn chần chờ gì.
Dương Nhậm cựa mình, lồm cồm ngồi dậy, thấy quang cảnh trước mặt biết không phải là chốn phàm trần, lại thấy một tiên ông đứng trước cửa, Dương Nhậm liền bước đến quì thưa:
– Có phải ngài là ân nhân đã cứu tôi?
Thanh Hư đạo nhân nói:
– Ta thấy ngươi lòng ngay can chúa mà thác oan nên động lòng sai lực sĩ xuống trần hóa gió cứu ngươi đem về đây. Ngày sau ta sẽ cho ngươi xuống trần phò vua Võ, lập công, hưởng phú quí.
Dương Nhậm lạy tạ ơn và nói:
– Tôi nhờ tiên ông cứu tử hoàn sanh, ơn ấy rất trọng. Tôi xin tôn tiên ông làm Tôn sư và theo làm đệ tử.
Thanh Hư đạo nhân nói:
– Ðược. Ta nhận ngươi làm đệ tử, nhưng số ngươi chưa dứt hết nợ trần, chỉ gần ta một thời gian, sau này ngươi phải trở về phò vua giúp nước.
Dương Nhậm bái tạ, theo Bạch Vân đồng tử ra sau động học tập.
Nói về Sùng Hầu Hổ tuân lệnh Trụ vương xây cất Lộc đài tốn công, tốn của không biết bao nhiêu mà nói. Dân chúng các vùng lân cận bắt buộc phải đi làm sưu dịch, người đào đất, kẻ khiêng cây, dải nắng dầm sương, khổ cực trăm bề.
Người giàu có thì dùng tiền bạc lo lót để khỏi làm sương, kẻ nghèo khó phải nai lưng ra gánh chịu. Những kẻ nghèo thì đông, người giàu thì ít, vì vậy dân chúng đói rách không chịu nổi cảnh khổ cực bỏ trốn rất nhiều. Có một số người chết vì mang bệnh, lại có một số người vì tai nạn lao công.
Sùng Hầu Hổ rất trung thành trong việc xây cất Lộc đài nên thi hành ráo riết, dùng lệnh Thiên tử rất nghiêm, ai trễ đều bị đem ra xử tử giữa chợ làm gương kẻ khác.
Bấy giờ Tử Nha độn thủy về trang viện của Dị Nhân. Vợ Tử Nha là Mã thị nghe tin chồng về vội ra đón tiếp. Nàng ngỡ Tử Nha còn đang làm quan nên trọng vọng lắm.
Tử Nha nói:
– Nay ta đã thôi làm quan rồi.
Mã thị sững sốt hỏi:
– Vì cớ sao vây?
Tử Nha nói:
– Thiên tử bảo tôi làm Ðốc công xây cất Lộc đài, làm việc này tốn của tốn công dân chúng không biết bao nhiêu mà nói. Trong lúc đó Thiên tử lại chỉ nghĩ đến sắc đẹp, không kể đến việc mất còn thiên hạ, như thế bảo ta nghe theo sao được? Ta tìm lời can gián, thiên tử truyền đem ta xử Bào lạc, ta bỏ chức chạy về đây.
Mã thị giận nói:
– Ông là lão thầy bói, thời may được vua thương phong chức, vinh hiển một thời, lẽ ra phải đem thân khuyển mã thờ vua, đền lại ơn thâm nghĩa trọng, khéo bắt chước người ta học đòi lý sự, ra mặt can vua để đến nỗi suýt vong mạng. Nay ông trở về đây là mang tội với triều đình, còn trốn ngỏ nào được nữa để trở lại đời lão thầy bói già trước kia.
Khương Tử Nha nói:
– Làm trai chọn chúa mà thờ. Trụ vương đã không phải chúa thánh, ta không thể làm một tôi hiền. Vậy vợ chồng ta nên trốn sang Tây Kỳ, tìm kế sanh nhai, đợi lúc gặp chơn chúa ra phò cũng không mất vinh hoa phú quý đâu.
Mã thị nguýt chồng nói:
– Công danh trước mặt mà chưa biết hưởng lại đi tìm một ảo vọng xa xôi. Vua sai làm Ðốc công xây Lộc đài đã vừa lợi vừa danh giá, mấy người được vua tín nhiệm phú thác việc lớn. Lợi không biết lợi, danh không biết danh, nay mất cả rồi, khéo làm tướng phách lối.
Tử Nha nói.
– Ðàn bà chỉ biết cái lợi trước mắt mà không thấy cái hại về sau, công danh không chính đáng là công danh hão huyền. Tôi muốn tự tài tôi lập nên chức vị, không cần phải ở may mắn nào. Bà hãy theo tôi sang Tây Kỳ, bỏ chốn Triều Ca này cũng chẳng hại.
Mã thị giận nói:
– Tôi là dân Triều Ca không phải kẻ trôi sông lạc chợ mà quên tổ quên tông, bỏ quê bỏ xứ. Nay đã xui cớ sự như vầy ông không thể ở đây được nữa, còn tôi cũng không thể theo ông đi xứ khác, vậy từ đây ai làm nấy ăn, ai sang ấy hưởng.
Tử Nha nói:
– Xưa nay hễ đàn bà con gái xuất giá tùng phu, chồng sang thì nhờ, chồng khó thì cam chịu, chồng đi đâu phải theo đó, vinh nhục có nhau, tại sao bà lại có ý như vậy?
Mã thị nói:
– Ông là kẻ có tội với triều đình, đang tìm nơi trốn tránh. Tôi là người ngay thẳng, không ai có quyền buộc tôi phải theo người có tội cả. Tốt hơn ông viết cho tôi một tờ ly dị, từ đây cầm sắt phân đôi.
Tử Nha đau lòng nhìn vợ, nói:
– Bà đừng nói quấy. Tài tôi không phải với chức Ðại phu nhỏ bé như vậy đâu. Ngày nay tuy khổ, nhưng ngày mai nhất định hiển vinh. Tôi không nỡ lúc khó vợ chồng có nhau, đến lúc hiển vinh mình tôi riêng hưởng.
Mã thị nói:
– Ông được hiển vinh thì nhờ, phần tôi nghèo khó tôi chịu. Ông cưới vợ khác để sau này phong làm nhất phẩm phu nhân.
Tử Nha không biết nói sao đành năn nỉ. Tuy vậy, Mã thị đã cố tình oán ghét, một hai nằng nằng đòi làm tờ ly dị để tìm kế sinh nhai, không theo Tử Nha nữa.
Tống Dị Nhân thấy vậy bước ra nói với Tử Nha:
– Chuyện nay một phần do tôi gây nên. Bởi tôi làm mai không đúng chỗ nên ngày nay mới xảy ra lắm chuyện xích mích như vậy. Thôi, người vợ đã cố tâm dứt bỏ thì nguời chồng dầu muốn chung sống cũng chẳng có gì hạnh phúc, hiền đệ nay trong tai nạn, phải trốn vua, sang nơi khác lánh thân, trong đời cũng chẳng thiếu đàn bà, cứ ly dị nhau cho ổn thỏa.
Tử Nha nói:
– Thưa anh, tôi nghĩ lúc vợ chồng khó nhọc có nhau, đến lúc hiển vinh một mình riêng hưởng e mang tiếng phụ tình. Thế mà vợ tôi khinh tôi đến nước ấy chẳng còn làm sao nữa? Nay có lời anh dạy, tôi xin làm theo cho mát lòng vợ.
Tử Nha cầm viết tay tờ ly hôn, trao cho Mã thị, và nói:
– Nếu bà quyết lòng từ bỏ tôi thì cầm giấy này, còn nếu vì giận nhau thì hãy nén giận rồi theo tôi. Tôi không còn thì giờ nào chểnh mãng nữa.
Mã thị vội lãnh tờ ly hôn, thái độ không một chút nuối tiếc.
Tử Nha thở dài, buồn bã ngâm bốn câu thơ:
Miệng con rắn hà nàm
Nọc con ong vò vẽ
Hai món độc vừa vừa
Bụng đàn bà quá lẽ.
Mã thị không nhìn mặt Tử Nha, đút tờ ly hôn vào túi rồi bưng rổ may về xứ kiếm chồng.
Tử Nha cũng vội sửa soạn hành trang lên đường đến Tây Kỳ ẩn mặt, và thưa với Tống Dị Nhân:
– Nhờ ơn anh chị hết lòng đùm bọc lâu nay, tôi chưa trả được ơn sâu mà phải lên đường cách biệt.
Tống Dị Nhân tìm lời an ủi, làm tiệc tiễn hành và hỏi:
– Bây giờ hiền đệ định đi đâu?
Tử Nha nói:
– Trụ Vương là một hôn quân, không thể giữ nổi giang sơn được. Tây Kỳ nhân hòa khí thuận, dễ sanh Chúa thánh tôi hiền. Tôi muốn qua đó ẩn mặt, chờ ngày tiến thân.
Di Nhân nói:
– Nếu trời thương, cho hiền đệ được sớm gặp hội rồng mây thì gởi thư về cho tôi biết kẻo lòng tôi mong đợi.
Tử Nha tạ ơn rồi từ biệt lên đường, Dị Nhân theo đưa đón hơn hai dặm đường mới trở lại.
Ði khỏi sông Mạnh Tân, Tử Nha qua thuyền vượt sông Hoàng Hà đến Ðồng Quan ải. Nơi đây là địa đầu của xứ Tây Kỳ. Bỗng thấy một số người rất đông, trai có, gái có vừa dắt vừa đi vừa than thở. Trông lối ăn mặc, Tử Nha biết họ là dân Triều Ca, liền gọi lại hỏi:
– Các ngươi ở Triều Ca, sao lại đến nơi đây than khóc?
Trong nhóm ấy có vài người biết Tử Nha, liền đến gần thưa:
– Chúng tôi thật là dân Triều Ca, nhân vì Thiên tử xây cất Lộc đài khiến Sùng Hầu Hổ làm Ðốc công. Sùng Hầu Hổ quá khắc nghiệt, ăn của nhà giàu, bắt nhà nghèo chúng tôi làm thục mạng. Dân chúng chết vì đói khát vì nạn lao công. Chúng tôi chịu không nổi phải bỏ trốn, vì nghĩ rằng ở Triều Ca thì sớm muộn cũng bỏ thây.
Tử Nha hỏi:
– Các ngươi đã trốn được đến đây coi như thoát nạn, tại sao còn than thở?
Dân chúng thưa:
– Trương Tổng binh trấn ải này không rõ hoàn cảnh của chúng tôi nên đuổi chúng tôi trở về, không cho qua ải để tỵ nạn. Nếu chúng tôi trở về chắc phải chết.
Tử Nha nói:
– Thôi, các ngươi chớ than khóc làm gì, để ta vào nói với Trương Tổng binh cho.
Dân chúng mừng rỡ nói:
– Nếu lão gia thương tưởng như vậy chúng tôi nguyện biết ơn suốt đời.
Tử Nha đưa cho dân chúng coi giữ gói hành trang mình, rồi đến trước cửa thành kêu quân gát cửa nói:
– Chúng bây vào thưa với Trương Tổng binh có ta là Hạ Ðại phu Khương Thượng xin vào ra mắt.
Quân vào báo, Tổng binh Trương Phụng nghĩ thầm:
– Tử Nha là quan văn tại triều, còn ta là quan võ trấn ải ngoài. Nếu không trọng vọng hắn, hắn tìm cách tâu ra tâu vào với Thiên tử, e mang hại.
Nghĩ rồi truyền quân mở cửa ải đón Tử Nha vào thính đường trà nước. Nhưng khi Tử Nha vừa vào, Trương Phụng thấy Tử Nha không mặc triều phục, lại mặc áo nhà tu, lấy làm ngạc nhiên.
– Sao quan Ðại phu lại ăn mặc như vậy?
Tử Nha nói:
– Tôi đến đây không phải vì việc công, chỉ vì Thiên tử khiến Sùng Hầu Hổ làm Ðốc công xây Lộc đài, Sùng Hầu Hổ ăn của hối lộ nhà giàu, bắt dân Triều Ca làm sưu quá nặng nề, dân chúng chịu không nổi phải bỏ trốn. Nhưng quan Tổng binh lại không rõ sự tình, không cho chúng qua ải tỵ nạn. Tôi tưởng việc này quan Tổng binh nên làm ơn cho chúng một phần, để tiếng nhân đức về sau.
Trương Phụng ngạc nhiên nói:
– Khương Ðại phu nói sao khó nghe vậy. Nếu Sùng Hầu Hổ làm việc không công bình, hiếp đáp dân lành thì còn có triều thần minh oan cho dân chúng lẽ nào để dân chúng trốn ra khỏi biên thùy mà gọi là nhân nghĩa, ông làm chức Ðại phu, sao không có một lời tâu với vua, lại theo đám dân trốn tránh ấy?
Tử Nha nói.
– Tôi không giấu gì Trương Tổng binh, chính chuyện xây cất Lộc đài trước kia bị bệ hạ ủy nhiệm cho tôi, nhưng tôi thấy việc làm tổn phí, đã hao của kho, lại nhọc dân chúng, mà chẳng lợi gì cho quốc gia, vì vậy tôi tỏ lời hơn thiệt can ngăn. Bệ hạ nghe lời Ðắt Kỷ cách chức tôi, đuổi về quê quán. Hôm nay trên đường về quê, tôi gặp đám dân lành này tị nạn, tôi thiết tưởng trong triều không còn ai đủ sức đứng ra bênh vực dân chúng nữa, Trương Tổng binh nên xét tình trạng ấy làm ơn cho dân lành.
Bấy giờ, Trương Phụng mới biết Tử Nha là kẻ có tội, đi lẩn trốn, nên ra mặt khinh bỉ nói:
– Chú là kẻ trôi sông lạc chợ, may nhờ lộc nước ơn vua mà hiển vinh, lẽ ra phải đáp đền ơn Chúa. Ðã không biết điều, bị cách chức âm mưu trốn đi, còn muốn cầm đầu cho đám đân chúng hờn trách Bệ hạ nữa. Tôi nói thật, tôi trấn nơi ải này không để một kẻ nào lợi dụng. Lẽ ra tôi bắt chú đem về nạp cho Bệ hạ xử tội, song mới gặp nhau lần đầu, làm như vậy cũng quá bạc bẽo.
Nói rồi truyền quân đuổi Tử Nha ra lập tức. Tử Nha hổ thẹn bước ra cửa ải, thấy dân chúng đang ngồi một nhóm rất đông, mắt ngong ngóng chờ tin.
Tử Nha buồn bã bước đến nói:
– Không xong rồi, tôi đã hết lời năn nỉ mà Trương Tổng binh chẳng chút vị tình, còn đòi bắt tôi đem về triều dâng nạp.
Dân chúng nghe nói khóc òa. Tiếng khóc hòa vào nhau làm rúng động cả bầu trời ảm đạm.
Tử Nha thấy thương hại, nói:
– Dầu Trương Tổng binh có ác ý chúng ta cũng chẳng hại gì. Ðể ta tìm cách đưa các ngươi đến Tây Kỳ tìm sinh kế.
Dân chúng không tin, nói:
– Cửa ải đóng chặt, lão gia làm sao đưa một số hơn tám trăm người chúng tôi đi qua được?
Tử Nha nói:
– Trước kia ta làm thầy bói, ta có phép lạ trừ yêu, nay thế lại không có cách gì đưa các ngươi qua ải sao? Các ngươi cứ yên tâm, ngủ một giấc cho đến canh ba, hễ nghe có gió thổi thì nhắm mắt lại, kẻ nào mở mắt ra mang họa đừng trách ta không nói trước.
Nghĩ đến việc Tử Nha dùng phép lạ trừ yêu trước kia, dân chúng đều mừng rỡ, riu ríu nghe theo.
Qua đến canh ba, Tử Nha hướng về núi Côn Lôn quỳ lạy một hồi, rồi niệm chú. Tức thì gió dông nổi dậy, cát bụi mịt mù. Tử Nha bảo dân chúng nhắm mắt lại. Trận gió thần hốt đám dân chúng lôi đi chẳng mấy chốc đã vượt qua năm ải là: Lâm Ðồng, Ðồng Quan, Xuyên Vân, Tị Thủy và Giới Bài.
Khi đến núi Kim Kê lãnh, Tử Nha thâu phép lại, dông gió lặn yên mới bảo dân chúng mở mắt.
Dân chúng ngồi chùm nhum dưới đất nhìn nhau trong lúc trời chưa sáng.
Tử Nha nói:
– Ðây là núi Kim Kê, thuộc về nước khác, thành Tây Kỳ ở trước mặt chúng ta không xa, đợi sáng chúng ta sẽ tìm vào.
Bấy giờ nói về tám trăm dân chúng ngồi đợi sáng, khi ánh dương ló dạng, mọi người đều xem rõ cõi Tây Kỳ núi sông tươi đẹp. Ai nấy đều vui mừng, qua khỏi Kim Kê lãnh thì tới Yên Sơn. Ði đến núi Thu Hương, qua làng Bạch Liễu. Mọi người mở cơm khô ra ăn uống nước suối, đoạn đi thêm bảy chục dặm đường nữa thì đến thành Tây Kỳ. Nơi đây người thanh cảnh lịch, nước biếc non xanh, quả là một nước giàu mạnh. Dân chúng tuy đông, nhưng sống trong trật tự, người khỏe nhường người yếu, kẻ mạnh kính người già, chợ búa không tiếng cai vã, thành quách, dinh thự không có quân canh. Thật là trời Nghiêu đất Thuấn, nước Thánh vua Hiền.
Mấy trăm dân Triều Ca đến nơi làm đơn xin được tị nạn.
Quan Ðại phu Táng Nghi Sanh chấp đơn đệ vào trình với Giám Quốc Bá Ấp Khảo.
Bá Ấp Khảo xem đơn xong, truyền rằng:
– Bởi vua Trụ độc ác, không lòng thương dân, bắt dân làm xâu nặng nhọc, nên dân không chịu nổi phải lìa bỏ quê hương đến xin tị nạn. Nước ta cốt làm việc nghĩa nhân không thể từ chối được. Vì ta đối đãi với họ như dân bản xứ, kẻ nào không tiền giúp tiền, kẻ nào không lúa giúp lúa, cốt tạo cho họ một đời sống ấm no.
Táng Nghi Sanh tuân lời, đưa mấy trăm dân Triều Ca vào ở nơi nội thành, và giúp đỡ hết sức nồng hậu.
Cách đó ít hôm Bá Ấp Khảo lâm triều, bá quan ứng hầu đủ mặt, Bá Ấp Khảo nói:
– Nay vua cha bị cầm tù tại thành Dũ Lý đã hơn bảy năm, ta muốn đem lễ vật đến cống Thiên tử để chuộc tội vua cha trở về các ngươi nghĩ sao?
Táng Nghi Sanh thưa:
– Khi Chúa công ra đi có coi quẻ, thấy mình mắc nạn bảy năm, dặn Công tử ở lại Tây Kỳ chăm lo việc nước, không cho đến Triều Ca, chờ Chúa công hết nạn sẽ trở về. Nay nếu Công tử muốn tỏ tình hiếu đạo thì sai người vào Triều Ca thăm viếng cũng đủ, không nên cãi lời Chúa công đã ủy thác.
– Vua cha bị cầm nơi Dũ Lý đã bảy năm, không người quen thuộc viếng thăm, đạo làm con chẳng lẽ cũng mãi nơi đây sao đành, phụ vương ta có chín mươi chín người con, nay đã khôn lớn, thế mà vô dụng không giúp ích gì được cho cha già. Thôi thì ta liều thác đem báu vật của ông bà để lại đến Triều Ca dâng cho Trụ Vương chuộc tội, may Trụ Vương ham báu vật thả phụ vương ta về nước chăng?
Táng Nghi Sanh can:
– Không nên đâu. Lúc ra đi Chúa công đã dặn dò mọi việc, nay Công tử vì thương cha làm trái ý, tình thương ấy đã không làm cho Chúa công vui, còn làm cho Chúa công giận nữa là khác.
Bá Ấp Khảo nói:
– Làm vua một nước chư hầu, triều thần đông đũ, con cái hơn trăm người, lúc bị hoạn nạn không một ai gần gũi, ta không đành để phụ vương ta như vậy. Thôi ngươi chớ can gián nữa, ta đã quyết hy sinh mình ta, may chuộc tội cho phụ vương ta.
Táng Nghi Sanh không làm sao cản được, phải im lặng lui ra.
Bá Ấp Khảo vào cung kể lại ý định mình với mẹ. Bà Thái Cơ hỏi:
– Nếu con đi thăm cha con thì việc nước giao lại cho ai?
Bá Ấp Khảo thưa:
– Em con là Cơ Phát tánh tình thuần hậu, khí tiết chói ngời, có thể thay con lo việc nước rất dễ. Vả lại trong triều việc văn đã có Táng Nghi Sanh, việc võ đã có Nam Cung Hoát, con chẳng còn phải bận tâm. Con đi chuyến này nếu may mắn con sẽ cứu phụ vương con khỏi vòng lao lý, còn rủi con có bề nào cũng chẳng hại gì cho giang sơn Tây Kỳ này cả.
Bà Thái Cơ thấy Bá Ấp Khảo đã quyết lòng, không dám can ngăn liền dặn dò:
– Con có đi thì mọi việc phải cẩn thận lắm mới được.
Bá Ấp Khảo lạy mẹ bước ra, đến dinh Cơ Phát tự tình:
– Em ơi! Nay anh định vào Triều Ca dâng báu vật chuộc tội cho phụ vương, em phải ở nhà thay mặt anh lo việc trị nước. Công việc trong nước anh đã xếp đặt xong, với tài trí của em, anh không còn lo lắng gì nữa.
Cơ phát hỏi:
– Anh định đi bao lâu thì trở về?
Bá ẤpKhảo nói:
– Lâu lắm là ba tháng. Nếu công việc không có gì trắc trở thì hai tháng rưỡi anh về đến.
Hai anh em tâm sự một hồi, Bá Ấp Khảo từ giã Cơ Phát trở về cung, chọn ngày tốt khởi hành.
Ba ngày sau, Bá Ấp Khảo lên đường, chín mươi tám người em và triều thần đều tựu đến đủ mặt, đưa đón, Bá Ấp Khảo tỏ lời cảm ơn. Nhìn quê cũ, rồi lên yên từ giã Tây Kỳ. Ðàng trước có cờ hiệu, đàng sau quân sĩ khiêng lễ vật hộ tống. Tuy là một cuộc ra đi không lấy gì quan trọng, nhưng lòng hiếu đạo của Bá Ấp Khảo làm cho dân chúng Tây Kỳ ai nấy đều cảm mến.
Ðoàn người trải gió dầm sương, đi một thời gian mới đến ải Tị Thủy. Quân giữ cửa vào thưa với quan trấn ải là Hàn Vinh, Hàn Vinh lập tức hối quân mở cửa ải đón tiếp.
Bá Ấp Khảo qua năm ải như vậy mới qua sông Huỳnh Hà, đến Mạnh Tân. Nơi đây Ấp Khảo ngồi thuyền vượt sóng sang sông, rồi đi một thời gian nữa mới đến Triều Ca.
Bây giờ gặp lúc trời tối, Bá Ấp Khảo phải vào ở đỡ nơi trại Hoàng Hoa, mai sáng mới đến dinh Thừa Tướng tìm gặp Tỉ Can.
Rủi thay, Tỉ Can đi vắng đã năm ngày, Bá Ấp Khảo lóng nhóng mãi, tuy vậy Bá Ấp Khảo vẫn không lấy thế làm buồn lòng.
Ngày kia, Bá Ấp Khảo đang đứng ngoài cửa dinh chờ đợi, bỗng nghe tin Tỉ Can về, Bá Ấp Khảo vội vã quỳ xuống nghênh đón.
Tỉ Can giục ngựa về đến thấy Bá Ấp Khảo liền hỏi:
– Tướng quân là ai?
Bá Ấp Khảo nói:
– Tôi là con trai của Cơ Xương, tên Bá Ấp Khảo, từ Tây Kỳ đến đây xin ra mắt Thừa Tướng.
Tỉ Can nghe nói vội xuống ngựa đỡ Bá Ấp Khảo dậy, hai người cùng đứng ngang nhau nói chuyện, Tỉ Can hỏi:
– Công tử từ Tây Kỳ sang đây có việc chi?
Bá Ấp Khảo nói:
– Cha tôi bi Thiên tử kết tội, cầm nơi Dũ Lý nay đã bảy năm, tuổi tác đã già, không được hưởng cảnh thanh nhàn, thật đau xót. Tôi thiết tưởng trời có khi nắng khi mưa, Thiên tử sao khỏi có lúc vui 1úc buồn. Ðạo làm con lấy hiếu làm trọng, nên tôi không nài khó nhọc, không sợ oai búa rìu, đem ba báu vật từ Tây Kỳ đến đây yết kiến Thừa Tướng, nhờ Thừa Tướng tìm cách tâu với vua tha cho cha tôi được đem nắm xương tàn về xứ thì ơn của Thừa Tướng, cha con tôi suốt đời không dám phụ.
Tỉ Can hỏi:
– Công tử đem vật gì đến cống sứ?
Bá ấp Khảo thưa:
– Tôi có ba vật báu tổ truyền là xe Thất Hương, nệm Tỉnh Tửu, và con vượn bạch, mặt tợ da người. Ngoài ra tôi còn chọn thêm năm cặp mỹ nữ dẫn đến đây nữa.
Tỉ Can hỏi:
– Gái đẹp thì ta đã biết ở Tây Kỳ không thiếu gì, nhưng ba món bửu bối kia có gì quí?
Bá Ấp Khảo nói:
– Ba vật báu di lưu từ đời ông thủy tổ chúng tôi tức là ông Ðăng Phù. Như Thất Hương xa là xe của vua Huỳnh Ðế dùng để vượt Bắc Hải đánh giặc Xi Vưu, kẻ nào dùng xe ấy thì chẳng cần người đẩy, hễ muốn đi đâu xe ấy tự động đi ngay. Còn Tỉnh Tửu chiên là nằm giã rượu. Lúc đang say mà nằm trên nệm ấy thì tức khắc tỉnh liền. Lại như con vượn bạch, mặc dù loài thú, nhưng thông minh đáo để, nó thuộc hơn tám trăm bản đàn, biết ba ngàn bài hát tiếng ca nó lảnh lót như tiếng chim, trong lúc yến tiệc nó vừa múa vừa hát trên bàn tay, dịu dàng như một cành liễu.
Tỉ Can nghe nói cau mày:
– Ba báu vật ấy trên đời này hiếm có thật, song Công tử đem đến đây cống sứ ta thấy chẳng vui.
Bá Ấp Khảo hỏi:
– Vì sao Thừa Tướng dạy như vậy?
Tỉ Can nói:
– Trụ Vương lâu nay ham tửu sắc, không kể đến xã tắc, suốt ngày đêm đờn ca múa hát, tìm thú vui để trốn mặt quần thần. Nước mất nhà tan cũng vì vậy. Nay Công tử lại đem đến những món phụ họa vào thú tiêu khiển của vua thì cơ nghiệp nhà Thương càng sớm tiêu tan hơn nữa.
Bá Ấp Khảo nghe nói thở dài:
– Nếu không có báu vật làm cho vua thích thì không bao giờ vua chịu tha tội cho cha tôi, xin Thừa Tướng rộng lòng, nghĩ lại…
Tỉ Can nói:
– Làm tôi phải thấy trước những tai hại mà can vua. Lẽ ra ta không chấp nhận những báu vật này, nhưng thấy Công tử là người chí hiếu, từ ngàn dặm đến đây chuộc tội cho cha, lẽ nào ta không giúp. Thôi, hãy theo ta vào đền, ta tâu giúp cho.
Bá Ấp Khảo lạy tạ, theo Tỉ Can đến trước đền Trích Tinh.
Huỳnh Môn quan trông thấy vào báo.
Trụ Vương kêu lên lầu phán hỏi:
– Ta không có lệnh đòi, sao Thừa Tướng tự ý vào đây?
Tỉ Can tâu:
– Nay có con trai Cơ Xương là Bá Ấp Khảo đem dâng ba vật báu chuộc tội cho cha, nên tôi phải dẫn vào ra mắt.
Trụ Vương hỏi:
– Bá Ấp Khảo dâng báu vật gì?
Tỉ Can liền trao tờ sớ của Bá Ấp Khảo cho Trụ vương xem. Trụ vương lập tức đòi Bá ấp Khảo lên lầu.
Bá Ấp Khảo quì mọp dưới sàng, tâu:
– Tôi là Bá Ấp Khảo, con kẻ phạm tội, xin chúc Bệ hạ sống lâu muôn tuổi.
Trụ Vương nói:
– Cơ Xương nghịch mạng nên bị trẫm làm tội, nay ngươi đem báu vật đến dâng quả là con chí hiếu đó.
Bá Ấp Kbảo tâu:
– Cha tôi phạm tội, Bệ hạ không giết lại đày nơi Dũ Lý, ơn ấy cha con tôi ghi nhớ muôn đời. Vậy tôi xin dâng chút vật mọn, nhờ bệ hạ mở lòng thương cho phép cha tôi được đem nắm xương tàn về cố quốc.
Nói đến đây, Bá Ấp Khảo khóc òa.
Trụ vương nghe tiếng khóc của người con chí hiếu cũng phải động lòng, liền truyền Bá Ấp Khảo đứng dậy.
Bá Ấp Khảo lạy tạ rồi cúi đầu đứng hầu dưới các.
Lúc ấy, Ðắt Kỷ núp trong rèm nhìn ra thấy Bá Ấp Khảo răng ngọc môi son, mày tằm mắt phụng, gương mặt sáng rở; giọng nói thanh tao, liền truyền thế nữ khoác rèm châu, bước ra xem cho rõ mặt.
Vua Trụ liền nói với Ðắt Kỷ:
– Ái khanh ơi! Nay có Bá Ấp Khảo, con trai của Tây Bá Hầu đến đây dâng báu vật chuộc tội cha. Người này rất hiếu hạnh.
Ðắt Kỷ tâu:
– Thần thiếp nghe tiếng Bá Ấp Khão ở Tây Kỳ đàn hay lắm, trên đời này có một không hai.
Vua Trụ gạn hỏi:
– Sao ái khanh biết?
Ðắt Kỷ tâu:
– Lúc thần thiếp còn ở Ký Châu, tuy phận gái không bước khỏi khuê môn, nhưng tiếng đồn dội vào cung cấm. Trên đời, hễ có mùi hương sao khỏi gặp gió thoảng. Nay muốn biết tiếng đồn ấy đúng hay không xin bệ hạ truyền Bá Ấp Khảo đờn thử thì biết.
Vua Trụ truyền Bá Ấp Khảo ra mắt Chánh cung. Ấp Khảo tuân lệnh quì lạy Ðắt Kỷ.
Ðắt Kỷ nói với Bá Ấp Khảo:
– Thiên hạ đồn khanh có nghề cầm ca tuyệt diệu, vậy thì đờn vài bản cho ta nghe được chăng?
Bá Ấp Khảo nói:
– Xin Chánh cung tha tội cho tôi. Tôi trộm nghe làm con gặp lúc cha mẹ có bệnh ăn chẳng biết mùi, nay cha tôi mắc tội, bị đày nơi Dũ Lý, tôi làm con nào vui sướng gì mà khảy đờn cầm, vì vậy lúc này lòng tôi đang bối rối như tơ vò, việc chọn cung lựa ngón khó đúng được. Tôi e đờn lỗi nhịp mang tội khi quân.
Trụ Vương nghe nói, mỉm cười phán:
– Bá Ấp Khảo, ngươi chớ lo. Trong lúc ngươi đang rối lòng rnà đờn được một bản cho thật hay thì trẫm sẽ tha tội cho cha ngươi về nước.
Bá Ấp Khảo mừng rỡ quá không còn e đè gì nữa, bao nhiêu hứng thú nổi lên trong lòng người trai trẻ. Vua Trụ truyền nội thị đem cây đàn cầm đến, Bá Ấp Khảo tiếp lấy, ngồi xếp bằng trên sàng để cây đàn trên đầu gối, so dây chọn tiếng.
Tiếng đàn lảnh lót, cất lên khúc nhạc vui tươi.
Cành dương dùi dụi gió rung rung
Ðào quế đơm bông ửng sắc hồng
Hoa cỏ bên đường như rải gấm
Ðiểm trang xe cộ khắp Tây, Ðông.
Bá Ấp Khảo đờn xong bản nhạc mà hơi đàn chưa dứt, âm thanh vang vang như tiếng trúc thiên thai, gieo vào lòng người tục.
Vua Trụ miên man, quay lại nói với Ðắt Kỷ:
– Thiên hạ đồn không sai. Bá Ấp Khảo với tài đờn cầm trên đời này chỉ có một.
Ðắt Kỷ mỉm cười tâu:
– Nếu không bảo va trổ tài làm sao thấy được tài năng?
Vua Trụ truyền nội thị dọn tiệc trên lầu thết đãi. Trong lúc đó Ðắt Kỷ lén xem trộm dung nhan, thấy Bá Ấp Khảo rõ ràng nước da như tuyết nhuộm, gương mặt tợ trăng rằm, thân mình tròn trịa, hình vóc trẻ măng, so với Trụ Vương ngày nay thì Trụ Vương hàm râu đã quăn riết, da thịt khô cằn, thân hình tóp vì khí lực không còn bao nhiêu nữa.
Trụ Vương là một vì vua, có nhiều quí tướng nhưng ham mê sắc dục gần gũi Ðắt Kỷ quá nhiều, nên ngày nay thân thể ra thế ấy.
Ðắt Kỷ là loài hồ mi, chê tre già, ham măng tươi, thầm nghĩ:
– Con người khỏe mạnh, tươi đẹp thế kia, nếu ta không tìm cách chung tình thì đời ta còn gì sung sướng. Ta mượn kế cầm Bá Ấp Khảo ở lại dạy đờn đem rơm để gần lửa, thế nào cũng toại nguyện.
Nghĩ như vậy, Ðắt Kỷ tâu với Trụ vương:
– Nay Bệ hạ tha cho cha con Tây Bá Hầu về nước thì ơn ấy có thể cảm hóa muôn người. Chỉ tiếc bản đàn cầm hay ho của Bá Ấp Khảo vừa rồi chúng ta không còn bao giờ được nghe nữa.
Trự Vương nói:
– Thật ra trẫm cũng tiếc lắm, nhưng không biết phải làm sao bây giờ.
Ðắt Kỷ nói:
– Thần thiếp có một cách làm vẹn cả đôi bên.
Trụ vương hỏi:
– Ái khanh có cách gì vậy?
Ðắt Kỷ nói:
– Xin bệ hạ lưu Bá Ấp Khảo lại ít ngày, chờ thần thiếp học xong bản đàn cầm ấy sẽ cho cha con Tây Bá Hầu về nước. Như vậy thần thiếp có thêm được một nghề nữa để hầu bệ hạ.
Trụ vương nghe nói vuốt lưng Ðắt Kỷ khen:
– Ái khanh thông minh lắm mới nghĩ ra cách ấy. Trước sau cha con Tây Bá cũng được về nước thì lưu lại ít ngày có hại gì.
Ðắt Kỷ nũng nịu:
– Thần thiếp học bản đàn này vì bệ hạ chứ không phải vì thần thiếp mong muốn đâu.
Trụ Vương cười âu yếm:
– Ái khanh vì trẫm cố gắng học cho thật rành, để sau này đàn hát cho trẫm thưởng thức. Ngón đờn ấy mà vào tay ái khanh, trẫm tin chắc còn hấp dẫn hơn nữa. Nhưng chẳng hay khúc đàn ấy gọi là gì vậy?
Ðắt Kỷ nói:
– Ðó là bản “phong nhập tòng” đồ.
Trụ Vương khoái chí:
– Bản nhạc gió thổi vào cụm tòng hèn chi nghe êm tai là phải.
Dứt lời Trụ Vương liền truyền chỉ, lưu Bá Ấp Khảo ở lại trong cung dạy đờn Ðắt Kỷ.
Ðắt Kỷ mừng thầm, tính dùng kế phục rượu Trụ vương cho say mèm để tiện bề làm chuyện mưa Sở mây Tần, nên khiến quân bày tiệc rượu, mời hôn quân vào trong dự yến.
Trụ vương ngỡ thật, có ngờ đâu lương tâm loài hồ ly quen thói nguyệt hoa. Vào tiệc, Ðắt Kỷ rót rượu ép mời Trụ Vương mãi, Trụ vương vị tình uống đến không còn biết gì trời nghiêng đất ngửa nữa.
Ðắt Kỷ truyền cung nhân bồng nhà vua để nằm nơi long sàng, rồi khiến quan Thái giám đem đến hai cây đờn cầm trao cho Bá Ấp Khảo một cây, và nói:
– Công tử đã có lệnh Thiên Tử, vậy thì mau mau truyền lại bản nhạc cho ta để được mau về nước.
Bá Ấp Khảo tuân lệnh cầm đàn ngồi dưới sàn, và nói:
– Xin Hoàng hậu nghe cho rõ: đờn cầm có sáu luật, năm tiếng, lại có sáu điều kỵ, và bảy diều không nên đờn.
Ðắt Kỷ nói:
– Sáu luật năm tiếng thì ta đã có nghe, còn sáu điều kỵ thì ta chưa hiểu.
Bá Ấp Khảo nói:
– Sáu điều kỵ gồm có:
1) Nghe khóc kể
2) Mình rơi lụy
3) Mắc lo lắng
4) Ðang giận hờn
5) Ðang kinh hăi
6) Tưởng việc tà
Sáu điều này phải kiêng cữ.
Ðắt Kỷ lại hỏi:
– Còn bảy điều không dám đờn là bảy điều gì?
Bá Ấp Khảo nói:
1) Mưa vạy gió may
2) Có tang than khóc
3) Áo mão chẳng ngay
4) Say rượu rối trí
5) Nhơ uế không sạch
6) Chẳng xông huơng là khinh lờn
7) Không kẻ biết nghe là tục.
Bảy điều ấy chẳng nên đờn. Bởi đờn cầm là tiếng chánh, xưa cho ra là ngăn cấm lòng tà, chẳng phải như các món nhạc khác muốn đờn cách nào cũng được.
Ðắt Kỷ nghe Bá Ấp Khảo giảng giải ngồi mỉm cười không nói.
Bá Ấp Khảo so dây lấy giọng, rồi nói tiếp:
– Xin chánh hậu coi theo đây mà tập.
Tiếng đàn vừa khảy lên, nghe rẻo rắc, bổng trầm, khiến cảnh vật xung qnanh biến thành huyền ảo. Ai nghe thấy đàn cũng mê man tâm thần đường đang thoát tục, đuy có Ðắt Kỷ lòng chứa tà ma, không có ý nghe đờn, chỉ lo giỡn mặt, vì vậy Ðắt Kỷ làm bộ mắc cỡ, liếc mắt cười duyên, nhìn Bá Ấp Khảo chăm chăm như mưốn ăn tươi nuốt sống. Bá Ấp Khảo là đứa con chí hiếu, đường xa ngàn dậm, một thân lặn lội đến Triều Ca, cố tìm cách chuộc tội cha già, lòng như sắt đá, lo gì nghĩ bướm ong, do đó, Bá Ấp Khảo không hề ngẩng nhìn Ðắt Kỷ, chỉ lo dạy cho mau rồi.
Ðắt Kỷ làm đủ mánh khóe dâm tà, Bá Ấp Khảo vẫn không để ý.
Ðắt Kỷ thấy phương pháp ấy không thành, gọi Bá Ấp Khảo nói:
– Ông thầy này dạy khó lắm! Vả lại tiếng đàn vừa nghe đã muốn điên, nếu không mượn rượu mạnh để trấn tĩnh tinh thần thì không thể học cho thuộc được.
Nói rồi khiến cung nữ bày tiệc để cùng Bá Ấp Khảo vui vầy.
Bá Ấp Khảo nói:
– Xin Chánh hậu tha cho tôi khỏi hầu tiệc.
Ðắt Kỷ nhất thiết không nghe, gọi cung nữ nhắc ghế để bên mình, truyền Bá Ấp Khảo ngồi dự.
Bá Ấp Khảo thất kinh, thưa:
– Tôi là con kẻ có tội, được Chánh cung tha không giết là may còn Chánh cung là bậc mẫu nghi, mẹ chung thiên hạ, tôi đâu dám vô lễ.
Ðắt Kỷ nói:
– Ngươi nghĩ sai rồi. Cứ như đạo vua tôi thì ngươi chẳng thể cùng ta ngồi chung được, nhưng xét về nghĩa thầy trò, ta với ngươi ngồi chung một bàn có sao đâu?
Bá Ấp Khảo cúi đầu thầm nghĩ:
– Con này chứa tà dâm, muốn làm cho ta mất nhân đức. Ta dòng dõi ông Hậu Tắc xưa phò tá vua Nghiêu truyền lại mấy đời, rạng danh trung nghĩa, lẽ đâu chiều đứa lăng loàn lỗi nghĩa tôi chúa. Ta nói thiệt dù có chết cũng phải chết cho thơm danh, không để nhục dòng họ Cơ mấy đời trung liệt.
Nghĩ như vậy, Bá Ấp Khảo cứ cúi mặt nhìn xuống đất không chịu vào tiệc, Ðắt Kỷ thấy Bá Ấp Khảo chắc gan như vậy không làm gì được, liền nghĩ:
– Ta đã cố tình đeo đuổi, nhưng nó quá dại khờ, không biết thưởng thức những gì tinh hoa vũ trụ. Thôi, để ta tìm kế khác, dắt lửa gần rơm, thì dù tiên phật cũng không thể gìn lòng son sắt nổi.
– Bá Ấp Khảo hãy đứng dậy. Khanh không muốn dự tiệc thì phải dạy đờn.
Bá Ấp Khảo vâng lời, cầm đàn dạy như trước.
Giây lâu Ðắt Kỷ lại nói:
– Không xong rồi. Ta thấy khó học lắm. Khanh ngồi đưới đất ta ở trên cao, ngón đờn đã không thấy rõ, tiếng nhạc lời giảng đi. Khanh hãy đến ngồi gần ta thì ta mới học mau thuộc.
Bá Ấp Khảo nói:
– Xin Chánh hậu chớ nóng lòng, cứ tập lâu sẽ thuộc.
Ðắt Kỷ nói:
– Không! Khanh phải đến ngồi sau lưng choàng tay chỉ ngón, làm được như vậy chỉ trong khoảnh khắc ta thuộc ngay. Nếu cứ kéo dài tình trạng thế này, sáng mai Thiên tử hỏi lại ta không thuộc chút nào không khỏi bị quở trách.
Bá Ấp Khảo hồn vía lên mây, thầm nghĩ:
– Ta đã đem thân vào hang cọp rồi, bề nào cũng bị diệt vong. Thôi thà chết trong sạch còn hơn sống nhục.
Nghĩ rồi cất giọng phân trần:
– Nếu Chánh hậu dạy như vậy tôi thà chết chẳng đám vâng lời. Chánh hậu là bậc mẫu nghi, tiếng tăm rất trọng, lẽ nào vì chuyện học đờn tiểu tử mà để thiên hạ cười chê. Dầu Chánh hậu có trong sạch tận đâu mà hành động như vậy sử sách đời sau cũng không thể bỏ qua, ghi lại những vết nhơ trong cung điện. Xin Chánh hậu nghĩ lại sửa mình.
Ðắt Kỷ bị Bá Ấp Khảo dùng lời ngay nhục mạ, mặt sượng sùng ngồi chết điếng. Biết mình có lỗi Ðắt Kỷ không nói nữa, chỉ thở dài một hơi, rồi nói:
– Thôi ngươi hãy lui về nghỉ.
Bá Ấp Khảo tuân lệnh, xuống lầu trở về quán dịch.
Ðắt Kỷ cau đôi mày liễu, nét hoa ủ rũ, nửa giận nửa hờn, ngồi trước đèn thầm nhủ:
– Hoa đã sẳn lòng chờ bướm, bướm không đoái tưởng đến hoa. Nếu chẳng vừa lòng thì thôi, nó lại lên mặt dạy đời nói nhiều câu vô lễ. Ta phải làm cho nó nát thịt tan xương, nó mới thấy cái khôn của nó.
Buồn bã một lúc, Ðắt Kỷ nghiến răng chui vào long sàng nằm ngủ với vua Trụ.
Sáng hôm sau, vừa mở mắt vua Trụ đã hỏi:
– Ðêm hôm ái khanh học đờn dã thuộc câu nào chưa.
Ðắt Kỷ sụt sùi bên gối tâu:
– Bá Ấp Khảo không cố ý dạy đờn, tỏ nhiều cử chỉ trêu hoa nghẹo nguyệt, thần thiếp thấy vậy không muốn học nữa.
– Loài thất phu! Ta đã không giết, ban ân cho còn dám ý khi quân sao?
Lập tức ngồi dậy, truyền quan thị thần đến quán dịch đòi Bá Ấp Khảo.
Bá Ấp Khảo tuân lệnh thẳng đến lầu Trích Tinh ra mắt vua Trụ.
Vua Trụ hỏi:
– Sao ngươi dạy đờn không hết lòng, cố dần dai cho mất thì giờ vậy?
Bá ấp Khảo tâu:
– Phép học đàn cầm chẳng có gì khó chỉ cần người học phải đứng đắn, chuyên cần.
Ðắt Kỷ sợ Bá Ấp Khảo nói toạc ra câu chuyện đêm vừa rồi, vội ngăn đón:
– Nếu ngươi cố tình chỉ dạy thì ta thông hiểu rồi. Bởi ngươi nói không rành rẽ, còn nghe đờn cầm ta chưa biết nên không hiểu nổi.
Vua Trụ nghĩ đến cử chỉ Bá Ấp Khảo trêu chọc Ðắt Kỷ đêm vừa rồi tức giận lắm, song không thể nào mở miệng nói thẳng được, liền truyền Bá Ấp Khảo đờn ca một bản, nếu lời ngay lẽ chánh thì thôi, bằng có ý tà bậy sẽ vịn vào đó để trị tội.
Bá Ấp Khảo tuân lời, ngồi dưới sàn so phím, vừa đàn vừa hát lên một bản, dụng ý thanh minh tiết liệt của mình.
Bản hát:
Một tấm lòng ngay chói thấu trời
Cầu cho Hoàng thượng sống muôn đời
Mưa hoà gió thuận muôn dân thạnh
Một mối giang san chẳng đổi dời.
Vưa Trụ nghe tiếng đàn trong vắc, chứa đựng lời ngay ý thẳng chẳng chút tà tâm. Lòng vua bắt đầu khuây khỏa, bao nhiêu hờn giận bỗng tan biến hết.
Ðắt Kỷ thấy Trụ Vuơng ngồi làm thinh hiểu ngay tiếng đờn Bá Ấp Khảo đã chấn chỉnh được lòng vua, liền tìm một kế khác, đến tâu với Trụ Vương:
– Bá Ấp Khảo có dâng một con vượn bạch biết múa hát rất hay sao bệ hạ không cho thần thiếp xem thử?
Vua Trụ nghe nói nhớ lại, bảo Bá Ấp Khảo:
– Hồi hôm trẫm mải nghe đờn, quên con vượn bạch. Bây giờ ngươi đem nó đến đây ca múa một bài xem hay dở.
Bá Ấp Khảo tuân lệnh trở về quán dịch xách lồng vượn bạch đem đến trước mặt Trụ Vương mở ra.
Con vượn bạch ra khỏi lồng ngồi bẹp dưới sàn.
Bá Ấp Khảo trao cặp sanh, khiến nó hát.
Con vượn Vừa nhịp vừa ca, tiếng như tiêu thiều, hơi nghe lảnh lót, giọng cao như phượng gáy giọng thấp như loan kêu, khiến ngươi tỉnh cũng phải mơ, trẻ khóc cũng phải nín. Người lo lắng nghe tiếng hát thì vui vẻ, kẻ buồn rầu nghe tiếng hát cũng mỉm cười. Trụ Vương nhìn mê man, Ðắt Kỷ say sưa đến gục đầu, bọn cung nữ mừng vui quá sức, cả chốn cung vi yên lặng như tờ, chỉ có tiếng hát và tiếng sanh của vượn bạch lúc ngân dài, lúc trầm bổng mà thôi.
Vì quá say sưa Ðắt Kỷ không giữ mình, tâm hồn như ngây như dại, khiến khí yêu xuất ra. Con vượn bạch là giống vật đã sống trên ngàn năm, hai con mắt như mạ vàng, hai tròng như hai than lửa đỏ coi thấu loài yêu ma. Lúc đang ca hát, vượn bạch thoáng thấy con hồ ly ngồi bên Trụ Vương, liền nhảy chồm đến chụp.
Ðát Kỷ giật mình nhảy trái sang một bên, trong lúc ấy Trụ vương lanh tay, giật lấy cây bửu kiếm bên vách đâm vượn bạch một nhát lòi ruột chết ngay.
Cung nga đỡ Ðắt Kỷ dậy. Ðắt Kỷ giận đỏ mặt tâu với Trụ vương:
– Bá Ấp Khảo đem con vượn này theo làm thích khách. May mà bệ hạ giết nó được, nếu không tánh mạng thần thiếp không còn.
Trụ Vương hơi giận chưa nguôi, truyền tả hữu lôi Bá Ấp Khảo xuống Sái Bồn cho rắn xé xác.
Bá Ấp Khảo la lớn:
– Hạ thần nào có tội gì. Bệ hạ giết rất oan ức.
Vua Trụ nạt:
– Ngươi đem con vượn bạch theo vào cung suýt hại mạng Chánh cung, tội ấy đã rõ ràng sao còn kêu oan?
Bá Ấp Khảo nói:
– Con vượn là loài thú, thích ăn trái cây, thấy trên bàn có nhiều quả ngon nên nhảy đến ăn, đâu phải cố ý làm hại Hoàng hậu. Xin bệ hạ xét lại. Vả chăng, tôi mong ơn Bệ hạ tha tội cho cha tôi, nay mai cha con tôi được về xứ, ơn ấy ngàn ngày chẳng quên lẽ nào tôi lại tính chuyện thí quân để mang hại vào thân.
Vua Trụ nghe Bá Ấp Khảo nói cũng có lý, liền đổi giận làm vui, quay lại nói với Ðắt Kỷ:
– Chánh cung. Lời Bá Ấp Khảo cỏ vẻ ngay thẳng lắm, ái khanh chớ nên nghĩ lầm.
Thấy Ðắt Kỷ làm thinh. Bá Ấp Khảo vội quỳ lạy tạ ơn Trụ Vương.
Ðắt Kỷ liếc nhìn Vua, tâu:
– Lòng người nham hiểm khó lường. Nếu muốn biết ngay gian xin Bệ hạ truyền Bá Ấp Khảo đờn ca một bài, xem tiếng nhạc có thực tình ngay thẳng hay không thì biết.
Trụ vương nói:
– Phải! Ái khanh định như vậy rất minh, vì tiếng đàn bao giờ cũng xuất phát từ tâm trạng con người. Nói rồi truyền Bá Ấp Khảo đờn ca một bản nữa.
Bá Ấp Khảo thở dài, nhủ thầm:
– Thân ta đã vào chốn hang hùm nọc rắn. Ðắt Kỷ đã cố tình hãm hại thì dù có giữ mình cách nào cũng không khỏi chết. Chi bằng lấy lời ngay can vua, để cái chết được rạng đanh còn hơn.
Nghĩ rồi liền bấm phiến vừa đờn vừa ca lên một bản:
Vua sáng thì đức rộng thênh thênh
Vua tối thì dùng nhiều cực hình…
Chế Bào Lạc đốt xương thịt cháy
Lập Sái Bồn nuôi rắn sát sinh…
Thâu thuế dân cho rừng thịt kia ngùn ngụt
Vét của tiền cho ao rượu nọ mênh mông.
Lập đài cao tốn máu xương bá tánh
Làm cầu lớn đau đớn dân tình…
Xin vua minh, việc chính sửa mình
Ðuổi tôi nịnh, xa bề tửu sắc.
Bá Ấp Khảo đờn xong mà vua Trụ ngẩn ngơ vì tiếng nhạc, nghe không kịp.
Ðắt Kỷ chỉ vào mặt Bá Ấp Khảo mắng:
– Ngươi là đứa lớn mật, dám mượn tiếng đàn tiếng hát mắng vua tội chết đã đành, đừng kêu oan ức.
Trụ Vương hỏi Ðắt Kỷ:
– Trong bản nhạc có gì khi quân, trẫm nghe không rõ.
Ðắt Kỷ giải nghĩa từng chữ. Trụ vương giận lắm, liền truyền bắt Bá Ấp Khảo ném xuống Sái Bồn.
Bá Ấp Khảo tâu:
– Tôi còn một bản nhạc rất hay, trước khi chết tôi muốn gảy hầu bệ hạ.
Nói rồi, đờn tiếp một bản nữa. Bản đàn ấy như sau:
Xin vua lánh sắc, giử đạo can thường
Xa chánh cung mới tránh được tai ương
Dứt khí chư hầu tùng phục
Hết dâm tà thì xã tắc quật cường
Ấp Khảo chết có cần gì thân xác
Giết hồ ly mới giữ đạo quân vương
Hát vừa dứt tiếng thì Bá ấp Khảo cầm đờn phang vào mặt Ðắt Kỷ.
Ðắt Kỷ đã để ý trước nên tràn qua một bên né khỏi, cây đờn rơi vào một chồng ly ngà chén ngọc vỡ tan tành.
Mấy tên cung nga vội chạy lại đỡ Ðắt Kỷ dậy.
Trụ vương giận quá hét lớn:
– Quân khốn kiếp! Lúc nãy con vượn thích khách người tìm lời chối quanh, bây giờ đến việc ngươi ám sát Chánh hậu, tội ấy ngươi còn chối đi đâu nữa?
Nói rồi truvền cung nhân bắt Bá Ấp Khảo xô xuống hầm rắn.
Ðắt Kỷ tâu:
– Bá Ấp Khảo hai lần muốn giết thần thiếp tội ấy xin giao cho thiếp gia hình.
Trụ vương y lời, giao Bá Ấp Khảo cho Ðắt Kỷ tùy ý trả thù.
Ðắt Kỷ truyền lấy bốn cây đinh lớn, đóng hai tay hai chân Bá Ấp Khảo lên một cây cột, lột hết áo quần, xẻo từng miếng thịt. Bá Ấp Khảo không hề nói một tiếng đành cắn răng cho đến hơi thở cuối cùng.
Trong lúc đó, Ðắt Kỷ rất hài lòng, vì đã trả thù được kẻ làm nhục mình.
Thương hại cho một kẻ tận trung tận hiếu chỉ trong nửa tiếng đồng hồ đã trở thành bộ xương trắng hếu.
Trụ Vương truyền đem thịt xương của Bá Ấp Khảo ném xuống Sái Bồn cho rắn độc ăn.
Ðắt Kỷ cản lại:
– Tôi nghe người ta đồn Tây Hầu Cơ Xương là ông Thánh biết rõ đường họa phước, thông hiểu mọi âm dương. Nay thần thiếp dùng thịt này làm bánh cho ngon, bệ hạ sai người đem tặng. Nếu Cơ Xương không biết, ăn thịt con thì Cơ Xương chỉ là kẻ phàm phu tục tử, không có gì đáng kể, bệ hạ tha tội cho về nước để được tiếng nghĩa nhân. Còn nếu Cơ Xương quả biết thịt con mà không ăn, thì Bệ hạ cũng nên giết phứt đi để trừ hậu họa.
Vua Trụ nói:
– Ái khanh là người cơ trí, nói rất hiệp ý trẫm.
Liền truyền đem thịt Bá Ấp Khảo làm bánh đưa sang tặng Tây Bá Hầu.