Hồi 30: Võ Thành Vương phản Trụ đầu Châu

Quan Ðại phu Dao Trung vào đến lầu Trích Tinh quỳ lạy ra mắt Trụ vương dâng sớ về tâu:

– Nay Văn Vương đã qua đời, con là Cơ Phát lên nối ngôi, không đợi lệnh Thiên tử, tự mình xưng Võ Vương, chư hầu đều tùng phục, thiên hạ thảy kính vì. Nếu Bệ hạ không lo trừ trước e sanh mầm đại họa, vậy xin hưng binh phạt Châu để răn chư hầu.

Trụ Vương nói:

– Cơ Phát là thằng con nít làm được việc gì mà lo.

Giao Trung tâu:

– Cơ Phát tuy trẻ tuổi, song có Khương Thượng trí giả, Nam Cung Hoắt võ nghệ siêu quần, Táng Nghi Sanh văn hay xuất chúng. Ðó là mối họa cho triều đình. Nếu bệ hạ không lo trước sau này khó.

Trụ Vương nói:

– Khanh cho việc ấy là trọng, nhưng trẫm nhắm Khương Tử Nha chỉ là một gã thầy bói có tài, dùng vào việc trị nước thì làm gì được mà sợ.

Dao Trung biết Trụ Vương chỉ muốn ngồi hưởng lạc, không có ý chinh Tây, nên vội cúi lạy xuống lầu, than thầm:

– Chắc là cơ Nghiệp nhà Thương về tay Cơ Phát rồi.

Ngày tháng thoi đưa, chẳng bao lâu Tết xuân lại đến. Năm ấy vào năm thứ hai mươi mốt của niên hiệu Trụ Vương, bá quan đợi đến ngày mồng một là ngày nguyên đán đồng vào lạy mừng. Theo thường lệ, ngày ấy vợ các vị quan lớn đều vào cung chúc mừng Chánh hậu.

Bấy giờ vợ Võ Thành vương tính vào chầu trước để có thì giờ sang Tây cung viếng thăm Hoàng Quí Phi là em ruột của mình. Bởi một năm chị em xa cách, chỉ có ngày ấy mới được gặp nhau, và có dịp tâm tình lâu hơn.

Vợ Võ thành Vương là Giả thị khi đến nơi thì cung nhân vào báo với Ðắt Kỷ.

Ðắt Kỷ vốn có tư thù với Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ, nên nghe Giả thị đến, nhớ thù xưa, nhủ thầm:

– Hoàng Phi Hổ trước đây hung hăng thả Thần oanh quào mặt ta, bận ấy chưa trả. Nay sẵn dịp cũng nên hành hạ vợ nó một phen.

Ngồi rồi truyền cung nữ đòi Giả thị vào.

Giả phu nhân vào làm lễ xong, Ðắt Kỷ hỏi:

– Phu nhân năm nay được mấy xuân xanh?

Giả thị đáp:

– Tôi năm nay đã ba mươi sáu tuổi.

Ðắt Kỷ thấy Giả phu nhân lớn tuổi mà nhan sắc mặn mà, nghĩ ra một kế nói:

– Phu nhân lớn hơn ta tám tuổi vậy ta cùng phu nhân kết làm chị em, có được không?

Giả phu nhân nói:

– Chánh hậu quyền trọng muôn xe, bậc mẫu nghi thiên hạ, còn tôi là vợ của một vị vương có đâu dám lỗi nghi.

Ðắt Kỷ nói:

– Phu nhân nói khiêm nhượng đấy. Ta tuy hưởng phòng tiêu chớ trước kia cũng chỉ là con gái của một chư hầu; còn phu nhân là nguyên phối của Võ Thành Vương, lại thêm quốc thích. Xét như vậy thì thấp cao không phân biệt, nặng nhẹ cũng bằng nhau.

Nói rồi truyền dọn yến tiệc thết đãi. Giả phu nhân giữ lễ ngồi dưới Ðắt Kỷ ngồi trên cùng nhau uống rượu.

Nhưng rượu mới chỉ được vài tuần, thì bên ngoài có quan hoạn vào thưa:

– Thánh giá ngự đến.

Giả phu nhân vội vã hỏi:

– Xin Chánh hậu cho phép tôi lánh mặt chổ nào cho tiện.

Ðắt Kỷ nói:

– Không hề chi đâu! Chị cứ vào cung phòng của tôi tránh đỡ.

Giả phu nhân tuân lệnh, ẩn mặt phía sau, còn Ðắt Kỷ ra ngoài tiếp giá.

Trụ Vương bước vào thấy yến tiệc còn bỏ dở, liền hỏi:

– Ái khanh uống rượu với ai vậy?

Ðắt Kỷ nói:.

– Thần thiếp đang khoản đãi vợ Võ thành Vương là Giả phu nhân.

Trụ Vương nói:

– Ngày nguyên đán, các vị phu nhân đến chúc mừng cũng nên bày tiệc vui vầy cho thỏa tình thần tử.

Nói rồi truyền dọn thêm tiệc để cùng với Ðắt Kỷ giao bôi.

Qua một lúc, Ðắt Kỷ hỏi Trụ Vương:

– Bệ hạ đã thấy nhan sắc của Giả phu nhân chưa?

Trụ Vương nói:

– Sao ái khanh nói trái lẽ như vậy? Vua có bao giờ được quyền thấy mặt vợ bề tôi?

Ðắt Kỷ ngồi mỉm cười, tìm lời đánh vào nhược điểm của Trụ Vương:

– Rất tiếc! Trong đời có một sắc đẹp tuyệt trần như vậy mà bậc chí tôn không có quyền nhìn đến.

Vua Trụ hỏi:

– Giả phu nhân đẹp lắm sao?

Ðắt Kỷ nói:

– Tuy đã có tuổi, nhưng nét mặt thật ít có trong đời. Khi thần thiếp đã khen thì không phải không đặc biệt.

Trụ Vương nói:

– Dù sao trẫm là vua không thể lỗi đạo với quần thần.

Ðắt Kỷ cười:

– Bệ hạ quá câu chấp Giả thị là vợ Võ Thành Vương, mà Võ Thành Vương là anh của Hoàng Quí Phi thì cũng xem như quốc thích rồi. Dù Bệ hạ có gặp mặt cũng vô can. Vả lại ngoài dân giả vợ cậu chồng cô còn được phép ngồi chung ăn tiệc có gì trái lẽ đâu.

Trụ Vương nghe nói Giả phu nhân có sắc đẹp, cũng muốn nhìn tận mặt cho biết, liền hỏi Ðắt Kỷ:

– Trẫm với Hoàng Phi Hổ coi như tình gia đình thì dù gặp mặt Giả phu nhân cũng được. Nhưng phải làm cách nào để cho tiện.

Ðắt Kỷ nói:

– Không khó gì, xin bệ hạ lánh mặt vào nơi nào đó một lát chờ thần thiếp rủ Giả phu nhân lên chơi trên lầu Trích Tinh. Chừng ấy thì bệ hạ giá đến thì Giả phu nhân không còn chỗ ẩn mình.

Trụ vương liền bước ra khỏi cung.

Ðắt Kỷ cho mời Giả phu nhân trở ra tiếp tục tiệc rượu. Uống thêm vài tuần, Ðắt Kỷ nói với Giả phu nhân:

– Một năm mới gặp nhau một lần, chị em ta đến lầu Trích Tinh xem chơi phong cảnh một chút.

Giả phu nhân không dám trái mệnh, liền theo Ðắt Kỷ lên lầu.

Trích Tinh là một cái lầu cao chót vót, phong cảnh rất đẹp, vàng ngọc, gấm vóc nguy nga.

Giả phu nhân chưa từng đến một nơi vàng son như vậy nên chói mắt. Giả phu nhân trông thấy không biết bao nhiêu cái đẹp, nhưng khi trông xuống lầu thấy Sái Bồn rắn bò lúc nhúc, và xương người chất đống, trông rất ghê rợn. Còn bên tả rừng thịt gió thổi phất phơ, lại bên hữu ao rượu hơi bốc lên nồng nực.

Giả phu nhân hỏi Ðắt Kỷ:

– Tâu chánh cung, chẳng hay hầm ấy là hầm gì, chứa đầy rắn độc như vậy?

Ðắt Kỷ nói:

– Các cung nhân phạm tội dùng luật thường xử phạt chúng dễ ngươi, nên phải lập ra Sái Bồn để cho chúng sợ. Kẻ nào phạm tội thì lột hết quần áo, ném thây xuống đó làm mồi cho rắn kia.

Giả phu nhân nghe nói rụng rời tay chân. Ðắt kỷ lại truyền bày tiệc rượu để khuyên mời. Giả phu nhân từ chối vì đã quá chén.

Ðắt Kỷ nói:

– Tôi biết chị đang nóng lòng sang Tây cung, nhưng đã đến đây cũng nên vị tình tôi uống thêm vài chén.

Giả phu nhân không dám cãi lệnh vì Chánh cung là Chúa các vợ quan.

Bấy giờ Hoàng Quí Phi đang ở Tây Cung trông ngóng Giả phu nhân nhưng không thấy, bởi chị em thương yêu nhau lắm mà một năm chỉ được quyền họp mặt một lần, mong có nhiều thì giờ để nói chuyện.

Xảy thấy hoạn quan về báo:

– Giả phu nhân lên chơi lầu Trích Tinh với Hoàng hậu.

Hoàng Quí Phi thất kinh, nhủ thầm:

– Ðắt Kỷ là đứa xảo quyệt lại hay ghen, sao tẩu tẩu lên lầu Trích Tinh với nó làm gì? Lầu Trích Tinh là chỗ vua ngự mà!

Nghĩ rồi liền truyền hoạn quan đến dưới lầu thám thính tin tức Giả phu nhân.

Ðắt Kỷ và Giả phu nhân đang uống rượu trên lầu, bỗng có Thái giám vào tâu:

– Thánh giá đến.

Giả thị kinh hải, không biết đường nào lánh mặt.

Ðắt Kỷ nói:

– Không hề chi. Chị cứ ra ngoài lan can, đợi tôi tiếp bệ hạ rồi chị đến ra mắt, xong xuống lầu cũng chẳng sao.

Giả phu nhân cực chẳng đã phải vâng lời.

Ðắt Kỷ đứng dậy bước ra tiếp kiến vua Trụ.

Trụ Vương vào trong, cố ý hỏi:

– Người nào đứng ngoài lan can vậy?

Ðắt Kỷ tâu:

– Nàng ấy là Giả thị, vợ của Võ Thành Vương.

Giả thị lúng túng đưa cái hốt bằng ngà che mặt thi lễ.

Ðắt Kỷ thấy thế nói:

– Thôi, khanh đứng dậy.

Giả thị vâng lệnh đứng đậy nép qua một bên, Vua Trụ trộm thìn Giả thị để chiêm ngưỡng cái nhan sắc lộng lẫy, hình dung đoan chính. Nhà vua lấy làm hài lòng chỉ ghế mời ngồi.

Giả thị tâu:

– Bệ hạ và Chánh cung là chúa trong trời đất, tôi đứng hầu còn sợ không xứng đáng, dám đâu đến ngồi.

Ðắt Kỷ nói:

– Chị hãy ngồi xuống đi, không có chi phải sợ.

Vựa Trụ thoáng vẻ ngạc nhiên hỏi Ðắt Kỷ:

– Sao ngự thê gọi Giả phu nhơn bằng chị?

Ðắt Kỷ che miệng cười nửa nụ nói với Trụ Vương:

– Tôi mới kết nghĩa cùng Giả phu nhơn, và kiến người làm chị.

Giả phu nhơn nghe qua những lời đáp của Ðắt Kỷ biết mình đã mắc mưu lật đật quỳ xuống tâu:

– Thần thiếp đến đây lạy mừng bệ hạ, cứ lấy lễ vua tôi để kẻ dưới an lòng. Xưa nay vua không thể thấy mặt vợ tôi, xin bệ hạ an nghỉ cho thần thiếp cáo lui, ơn thánh thượng sánh bằng trời biển.

Vua Trụ nói:

– Hoàng di khiêm nhượng đấy thôi, chẳng ngồi thì đứng, để trẫm lấy chung rượu này giả ơn.

Vua Trụ rót rượu đem xuống.

Giả thị giận đứng dậy mặt đỏ tía tai, nghĩ mình là vương phi, không lẽ chịu nhục, lấy cái chết cho trọn nghĩa với chồng.

Trụ Vương bưng chén rượu làm mặt vui đưa cho Giả phu nhơn.

Giả thị thối thác, cớ lui mãi đến khi lưng đụng tường, không còn đường để tránh nữa, giận quá hất chén rượu rớt xuống, thuận tay tát vào mặt vua Trụ nguyền rủa:

– Chồng tôi không nệ gian nguy ngày đêm gìn giữ giang san, lập nhiều chiến công hiển hách, nay hôn quân nghe lời Ðắt Kỷ, điếm nhục vợ công thần. Rồi đây hôn quân và con Ðắt Kỷ dâm loàn sẽ phải chết thảm khốc.

Vua Trụ xấu hổ nổi giận truyền quân sĩ bắt trói, nhưng Giả thị hét lên:

– Dừng lại, đừng ai bắt ta cả.

Ðoạn chạy ra lan can than:

– Hoàng tướng quân ôi! Thiếp thề trọn trinh tiết với chàng, nhưng ba đứa con thơ từ đây lấy ai săn sóc.

Ðoạn nhảy xuống lầu. Thương cho tấm thân bồ liễu phải chết thảm thiết nát thịt, giập xương.

Có thơ đề:

Vào cung chầu chực họa vì đâu

Giả thị kiên trinh nhảy xuống lầu

Lỗi đạo hôn quân bày chén rượu

gieo mình. tiết phụ hận thâm bâu

Lỗi lầm làm mất giang san Trụ

Ðêm ấy gây nên sự nghiệp Cllâu?

Phi Hổ đau lòng mang tiếng phản

Sấp sau loàn hết tám trăm hầu.

Vua Trụ thấy Giả phu nhơn liều mình chết, thì nghĩ:

– Ðất bằng vì đâu bỗng dâng sóng gió, lòng hối hận khôn cùng.

Khi ấy bọn hoạn quan giục ngựa như bay về báo tin với Hoàng Quí Phi:

– Không rõ vì đâu mà Giả phu nhơn đã té lầu chết.

Nghe tin thảm khổ như vậy Hoàng Quí Phi khóc lớn:

– Ðắt Kỷ là con khốn nạn, thù anh ta lập kế báo thù, hại chị dâu ta chết ức oan.

Thương anh thương chị Hoàng Quí Phi không dằn được cơn lửa giận phi ngựa đến lầu Trích Tinh, điểm mặt Trụ Vương mắng:

– Hôn quân có biết cơ nghiệp Thành Thang còn tồn tại nhờ ai đó không? Có phải anh ta ngày đêm băng rừng lội suối dẹp loàn, Ðông đánh Hải khấu, Nam dẹp Man di? Há ngại gian lao giữ ngôi vua vững như bàn thạch. Hoàng Cổn cha ta, trấn ải Giới Bài, nằm gai nếm mật để giúp chúa. Cả nhà xả thân vì nước. Ngày nay Tết nguyên đán, chị ta vào chầu, để tỏ lòng kính chúa, lẽ nào hôn quân nghe lời Ðắt Kỷ gạt chị ta lên lầu, giục lòng háo sắc, chẳng kể thế nào là tôi chúa, gây tiếng xấu cho tiên vương, bêu danh nhơ cho sử sách.

Vua Trụ làm thinh chẳng đáp.

Hoàng Quí Phi day nhìn thấy Ðắt Kỷ ngồi đó đùng đùng nổi giận mắng luôn:

– Còn con Hồ mi lăng loàn này nữa, bày đều cho chúa làm sằng bậy, chị dâu ta chết cũng tội mi.

Như để trút cơn giận dữ Hoàng Quí Phi lôi lệch Ðắt Kỷ đấm hơn ba mươi đấm.

Hoàng Quí Phi là con nhà võ nên sức mạnh có thừa, đối với Ðắt Kỷ, tuy là yêu quái song thấy vua Trụ ngồi đó nên chẳng dám trổ tài thú vật để phản đòn chỉ giả vờ kêu la van vua Trụ:

– Xin bệ hạ cứu thần thiếp với…

Vưa Trụ nghe tiếng van nài cứu tử của Ðắt Kỷ thì đau khổ nên bước tới khuyên:

– Tại chị dâu của Quí Phi xúc phạm trẫm, rồi liều mình chết như vậy, chớ Ðắt Kỷ có tội gì đâu mà đánh đập như thế.

Hoàng Quí Phi trong cơn nóng giận đưa cao tay đánh Ðắt Kỷ nhưng không ngờ nhầm mặt Trụ vương mà còn lớn tiếng nói:

– Hôn quân còn bênh vực cho con dâm loạn, quyết đánh cho chết đứa bất nhơn, mà thế mạng người thác vô tội.

Vua Trụ giận quá vỗ bàn thét:

– Con khốn nạn này dám cả gan đánh trẫm.

Như muốn ăn tươi nuốt sống, vua Trụ tay trái nắm tóc Hoàng Quí phi tay phải nắm áo, bởi vua Trụ là người giỏi võ và có sức mạnh hơn người, nhắc bổng Hoàng Quí Phi, quăng xuống lầu Trích Tinh.

Hương tiêu ngọc nát hồn theo gió

Lá rụng hoa rơi máu ướt mình.

Nhìn lại hành động vừa rồi của mình, vua Trụ lấy làm khổ sở chẳng buồn ngó đến Chánh cung.

Mấy con thế nữ đi với Giả phu nhơn, chẳng hề hay biết việc gì xảy ra đứng ngoài đợi mãi, đến tối nội thị bước ra hỏi:

– Chúng bây đi đâu đây?

Các thế nữ thưa:

– Chúng tôi đi với Giả phu nhơn, đợi chủ ra để hầu về phủ.

Nội thị thương hại nói:

– Giả phu nhơn té lầu Trích tinh chết rồi! Hoàng Quí Phi lên mắng vua, vua giận quăng xuồng lầu cũng không còn. Thôi chúng bây về cho xong việc.

Bọn thế nữ nghe hung tin đồng chạy về Vương phủ báo tin.

Hoàng Phi Hổ đang ngồi uống rượu với hai em ruột của mình là: Hoàng Phi Bưu, Hoàng Phi Báo với bốn người em bạn: Hoàng Minh, Châu Kỷ, Long Hoàn, Ngô Khiêm, và ba con trai: Hoàng Thiên Lộc, Hoàng Thiên Tước, Hoàng Thiên Tường.

Ðoàn thế nữ hơ hải chạy vào tâu:

– Thiên tuế ôi! Tai họa lớn lắm!

Hoàng Phi Hổ kinh ngạc hỏi:

– Tai họa gì?

Thế nữ quì thưa:

– Phu nhơn vào chầu thiên tử không rõ vì đâu đã té lầu Trích Tinh chết, Hoàng nương nương cũng bị vua ném xuống lầu chết rồi.

Lúc ấy Hoàng Thiên Lộc mới mười bốn tuổi, Hoàng Thiên Tước mười hai tuổi, Hoàng Thiên Tường bảy tuổi nghe tin mẹ té xuống lầu chết. Ba anh em khóc than thảm thiết.

Có bài thơ:

Xảy nghe tin dữ cả nhà kinh

Con khóc vang tai cũng động tình

Ngơ mặt vì vua sanh mặt bạc

Hết tình vì vợ giữ lòng trinh

Xem qua bốn bạn đều câm tức

Ngó lại ba con rất bực mình

Hổ nghẹn trân trân khôn mở miệng

Vì chưng tai họa đến thình lình!

Hoàng Phi Hổ ủ mặt suy nghĩ, tiếng khóc của ba con thêm bởi đoạn.

Hoàng Minh nói:

– Anh còn ngờ vực gì nữa chớ! Trụ Vương đã nhúng tay vào việc này còn ai khác hơn. Trước sắc đẹp của chị, vua Trụ động tình, buông lời chọc ghẹo. Tẩu tẩu là người đàn bà trọng trinh tiết với chồng, nên liều chết để bảo tồn tiếng sạch giá trong. Riêng về Quí phi nóng ruột xúc phạm đến Ðắt Kỷ, Trụ Vương mới ra tay rửa hờn. Anh hãy bình tĩnh suy xét lại coi. Theo ý em khi vua bất minh thì tôi đầu ngoại quốc, cạn lẽ mà suy, chúng ta định Ðông dẹp Bắc ngựa chẳng rời yên, phá Ðông, phạt Tây người không lìa giáp. Công ơn ấy hôn quân đãi ngộ như thế sao. Còn mặt mũi nào nhìn anh hùng bốn bể. Vì thế tiễu đệ, Châu Kỷ, Long Hoàn, và Ngô Khiêm đồng lòng phản chúa.

Bấy giờ tâm sự xong, bốn tướng cầm thương lên ngựa đi ngay.

Hoàng Phi Hổ thấy bốn người đã khuất dạng, lòng bàng hoàng đắn đo suy tính, mới nói một mình nghe:

– Không lẽ vì một con ác phụ, mà mình sanh lòng bội phản. Người đời sẽ nghĩ sao về hành động của Hoàng Phi Hổ này.

Nghĩ thế, Phi Hổ vội vàng chạy theo gọi bốn tướng:

– Các em hãy trở về về suy nghĩ cho chín chắn đã. Chớ bốc đồng đi như thế, vậy thì mình phải phò vua nào, ở nơi đâu, còn lương thực đem theo dùng trong lúc đi đường.

Bốn người cho là phải nên quày ngựa trở về dinh.

Bất giác Hoàng Phi Hổ rút gươm khỏi vỏ hét lớn:

– Bốn tên giặc, các ngươi muốn hại cả nhà ta hay sao? Vợ ta té lầu chết oan can chi đến các ngươi. Lũ ngươi có biết dòng họ Hoàng có hơn hai trăm năm lẻ giúp vua đã bảy đời, bây giờ các người lấy cớ vợ ta chết mà xúi ta phản chúa ư! Các ngươi lợi dụng đục nước béo cò làm chuyện bất lương sao. Các người không nhìn lại lưng vàng buộc bụng đọc chữ trung vương.

Bốn người cúi đầu nghe Hoàng Phi Hổ mắng nhiếc chẳng nói lấy một câu.

Hoàng Minh cười nói:

– Anh mắng đúng lắm, chuyện ấy không phải của bọn này.

Nói đoạn bốn người cười cởi mở và tiếp tục uống rượu như xưa.

Ðàng kia Hoàng Phi Hổ bừng bừng lửa giận bên này bốn tướng cười, bên kia ba con ôm mặt khóc thảm thiết.

Lửa giận cứ trào dâng, Hoàng Phi Hổ nói lớn:

– Chúng bây vui lắm sao, cười như vậy?

Hoàng Minh nói:

– Anh có chuyện nhà buồn bực, bọn nay vô sự, nhân ngày tiết uống rượu vui cười anh cấm nữa sao, mà anh lại tra vấn?

Hoàng Phi Hổ nói:

– Ðược nhà ta nay gặp chuyện ma chay khổ sở. các ngươi lại cười.

Châu Kỷ nghiêm ngay nét mặt nói:

– Thật tình chúng tôi cười anh đó

Hoàng Phi Hổ hỏi lại:

– Ta có gì mà các ngươi lại cười?

Châu Kỷ phân:

– Anh là người đứng đầu trên các tướng trong triều. Kẻ hiểu biết thì anh nhờ công lớn làm nên sự nghiệp, nhưng kẻ khác lại nghĩ phần lớn sự nghiệp này là do sắc đẹp của chị mà nên.

Châu Kỷ nói chưa dứt lời thì Hoàng Phi Hổ vỗ bàn nạt lớn:

– Ta không còn chịu nổi các ngươi được nữa? Ta chết mất đi thôi.

Truyền gia tướng gấp rút cuốn đồ tế nhuyển và ra roi giục ngựa khỏi Triều Ca.

Hoàng Phi Bưu thấy anh mình thật sự phản chúa liền sắm sửa bốn trăm cỗ xe, ngàn gia tướng, dọn cả bạc vàng, lương thảo đâu đó xong xuôi.

Hoàng Phi Hổ quay đầu hỏi:

– Bây giờ ta đầu nước nào?

Hoàng Minh nói:

– Hễ tôi hiền phải phò chúa thánh, trong thiên hạ nay đã chia ba, Châu Võ vương chiếm được hai phần, ta đầu Tây Kỳ thì không mất phần vinh hiển.

Ðứng ngoài Châu Kỷ nghĩ thầm:

– Mình nói khích, nếu anh tự ái làm phản, biết đâu chốc nữa đây cơn giận tiêu tan anh sẽ hồi tâm quay về. Hay ta làm một kế mọn để gài anh mình không còn dịp nào trở lại nữa.

Trong bụng nghĩ vậy, Châu Kỷ lấy làm thích thú tươi nét mặt nói:

– Muốn qua Tây Kỳ phải vượt qua năm ải, và đem quân về phục thù cho tẩu tẩu thì phải trễ lắm. Chi bằng sẵn đây ta kéo nhau qua hỏi tội Trụ, dò phản ứng y như thế nào?

Hoàng Phi Hổ lên ngựa giục gió theo Châu Kỷ.

Hoàng Minh vào ngọ môn tìm Trụ, Phi Bưu, Phi Báo dắt ba cháu và Long Hoàn, Ngô Khiêm tất cả bảy người truyền gia tướng đẩy xe về phía Tây môn đi trước.

Trời vừa rựng sáng, Châu Kỷ đã đến Ngọ môn gọi lớn:

– Quan đương giá! Gọi Trụ vương ra đây nói chuyện cho mau, như cãi lời ta đừng trách ta sao vô lễ.

Trong khi đó Trụ vương trong cơn bối rối, liền nghĩ đến hành động vừa qua, làm cho Giả thị nhào xuống lầu chết, ném Hoàng Quý Phi tan xương nát thịt, lòng buồn lo, bỗng từ ngoài quan đương giá vào tâu:

– Hoàng Phi Hổ đã phản bệ hạ, đang chờ ngoài, gọi bệ hạ khiêu chiến.

Nghe qua Vua Trụ nổi cơn thịnh nộ, mắng lớn:

– Ðồ thất phu, dám cả gan khi trẫm.

Truyền quân lấy giáp gọn gàng, cầm siêu lên yên ngựa ra ngõ.

Khi ấy Hoàng Phi Hổ đứng ngoài nhận thấy mặt Trụ vương cũng thẹn.

Châu Kỳ hiễu ý liền lớn tiếng hỏi Trụ:

– Trụ vương là hôn quân vô đạo, làm chúa hiếp vợ tôi là Vua vô liêm sỉ, thì còn để làm gì cho bẩn mắt.

Nói rồi thúc ngựa tới đưa búa ra chém Trụ Vương, vua Trụ cũng nổi xung đưa đao ra đỡ. Hoàng Minh thấy vua Trụ mạnh quá cũng sảy ngựa tiếp ứng. Nhìn cảnh hỗn loạn Hoàng Phi Hổ thấy tức quá, không để cho mình hỏi phân minh. Nhưng tới nước liều cũng phải ra tay, một rồng ba cọp quấn lấy nhau trước ngọ môn.

Có thơ đề:

Trụ vương chẳng giữ đạo bề trên

Rồng cọp đua tranh trước cửa đền

Khiến nỗi trung lương tìm một cõi

Làm cho hào kiệt tránh hai bên

Muôn dân khó chịu vua sâu độc

Năm ải không ngăn tướng dạn tên

Nguồn nước không trong dòng phải độc

Sử xanh ghi chép việc hư nên.

Trận đấu tranh nhau có trên ba mươi hiệp. Trụ vương đánh siêu đao hay lắm, biến hóa như rồng. Nhưng làm sao cự lại ba con hùm từng vẫy vùng trong bốn bể. Lượng sức mình không cự nổi nên Trụ vương phải nhịn thua bỏ chạy.

Hoàng Minh thừa thắng thúc ngựa đuổi theo.

Hoàng Phi Hổ can lại nói:

– Không nên rượt theo vua, chúng ta hãy trở ra cho kịp.

Ba người ra roi giục ngựa bay biến theo gia quyến ở Tây môn.

Ðoàn người gặp nhau tiến về một nước.

Trụ vương vào đền nghỉ mệt, lòng căm tức vô cùng. Tất cả nhà trong Triều Ca đều đóng cửa, ai ai cũng sợ tai bay họa gởi.

Tin Trụ Vương đánh với Võ Thành vương tới tai các quan trong triều, họ đều vào thăm và hỏi:

– Hoàng Phi Hổ vì sao lại phản chúa?

Vua Trụ kiếm thế chạy chối.

– Nhân ngày tết Giả thị đến chầu long thể, nhưng lại xúc phạm Chính cung, phải tội chết, nên đã gieo mình xuống lầu chết chớ nào phải tại ai giết. Trẫm chẳng rõ nguyên do nào khiến cho Hoàng Phi Hổ làm phản, để đến ngọ môn khiêu chiến. Chuyện trái lẽ như vậy bá quan nghĩ thế nào?

Trong lúc bá quan còn đang luận bàn, thì thấy quân thám thính vào báo:

– Văn Thái Sư dẹp Ðông Hải xong rồi, dẫn binh về gần đến.

Bá quan nghe báo mừng rỡ khôn cùng, đồng leo lưng ngựa tiếp nghinh.

Thái Sư cỡi Hắc kỳ lân đi đến cửa cùng nhau chào hỏi. Rồi đồng vào chào thiên tử.

Khi làm lễ xong Văn Thái Sư không thấy Hoàng Phi Hổ đâu sanh nghi tâu:

– Chẳng hay Võ Thành Vương đi đâu vắng mặt?

Vua Trụ nói:

– Hoàng Phi Hổ phản trẫm rồi.

Văn Thái Sư kinh khiếp hỏi:

– Vì cớ nào vậy bệ hạ?

Vua Trụ phán:

– Ngày nguyên đán, Giả thị vào chầu đã cố ý xúc phạm Chính cung, nên sợ tội đã nhào xuống lầu chết, Hoàng Quí Phi hay tin đến hành hung đả thương Hoàng hậu, còn sỉ nhục quả nhân, trẫm vô tình nắm tay đẩy ra nhưng rủi thay té lầu theo chị dâu một thể. Hoàng Phi Hổ không hiểu căn cội ỷ mạnh đến đây khiêu chiến, ba anh em đánh trẫm chẳng chút nương tay, trẫm cố hết sức mới tránh được. Bây giờ thì Hoàng Phi Hổ đã ra khỏi Tây môn, trẫm bối rối chưa biết phải làm sao trừ con giặc ấy. Bất ngờ Thái Sư về đến, vậy Thái Sư theo đuổi bắt trị tội phản thần.

Nghe rõ câu chuyện Thái Sư tâu lớn:

– Tôi đã nghĩ chuyện này, chắc tại vua phụ phàng thần tử, chớ lâu nay Hoàng Phi Hổ đã nêu gương ái quốc trung quân. Xét Giả thị vào chầu thiên tử cũng không tội gì, có đâu chết vô cớ. Vả lại lầu Trích Tinh là chốn bệ hạ ngự cách cung cấm xa lắm lẽ nào Giả thị tự ý lên. Chắc có kẻ dỗ dành nên vua mang tiếng bất nghĩa. Bệ hạ không cân phân khiến cho người tiết liệt liều mình, Hoàng nương nương thương chị chết oan uổng. Bệ bạ vì tư vị Hoàng hậu mà ra nông nỗi này. Bệ hạ có nhớ câu: “Vua chẳng minh thì tôi đầu nước ngoài. Nghĩ lại Hoàng Phi Hổ là vị tướng có công lớn với nước, trọn lòng thờ kính quân vương, cơ nghiệp ấy vợ không được hưởng, con chẳng nhờ ơn, lại chết thê thảm. Xin bệ hạ tha tội cho Hoàng Phi Hổ, xuống lá chỉ chiêu an đại thần để cho cơ nghiệp yên bền, quốc gia mới vững.

Bá quan nghe nói đồng tâu:

– Văn Thái Sư xử như vậy rất công bình, xin Bệ bạ truyền chỉ xá tội cho Hoàng Phi Hổ, để Hoàng Phi Hổ trở về đoái công chuộc tội.

Văn Thái Sư quay qua nói với triều thần:

– Tôi tâu với Thiên tử xá tội cho Hoàng Phi Hổ chỉ vì tôi cho rằng Thiên tử đã phụ kẻ bề tôi. Còn như ai thấy Hoàng Phi Hổ có lỗi gì với vua cũng nói ra đây cho minh bạch.

Quan Hạ đại phu Từ Vinh thưa:

– Vua tuy phụ Hoàng Phi Hổ mà Hoàng Phi Hổ cũng phụ vua.

Văn Thái sư hỏi:

– Hoàng Phi Hổ phụ vua chỗ nào?

Từ Vinh thưa:

– Vua hiếp vợ tôi là lỗi đạo, xô Tây cung xuống lầu là bất nghĩa. Nhưng Hoàng Phi Hổ đến ngọ môn đánh vua là phản phúc. Ðạo làm tôi, dù vua có lỗi cũng không nên đối xử như vậy.

Văn Thái Sư nghe nói, liền dặn các quan:

– Xin các ông nói vua có lỗi mà thôi, đừng nói Hoàng Phi Hổ có lỗi.

Văn Thái Sư dặn rồi liền gọi Kiết Cập và Dư Khánh dạy rằng:

– Hai ngươi mau đem trát văn ra hai ải Minh Tân và Ðồng Quan truyền các quan trấn ải giữ gìn đừng cho Hoàng Phi Hổ qua ải. Ðợi ta đuổi theo bắt rồi sẽ lấy công bình mà xét xử.

Hồi 31: Văn Thái Sư đuổi theo Phi Hổ

Thái Sư Văn Trọng truyền hịch cho ba trấn Thanh Long, Lâm Ðồng và Giai Mộng, ngăn đón Hoàng Phi Hổ xong, liền tự mình quản lãnh binh tướng ra khỏi Tây môn, đuổi theo kịp tới.

Tiếng trống khua vang trời, tiếng quân reo dậy đất.

Còn cha con và anh em Hoàng Phi Hổ sau khi qua khỏi sông Mạnh Tân rồi vội vàng qua sông Hoàng Hà, lần đến sông Dẩn Tri là địa hạt của Trương Khuê trấn đóng.

Hoàng Phi Hổ biết Trương Khuê có phép địa hành sánh tài thiên tướng, nên chẳng dám đi ngang qua cửa, phải chạy tránh ngoài vòng thành, phải qua huyện Dẫn Tri, lên tới ải Lâm Ðồng.

Bấy giờ Hoàng Phi Hổ mới vừa an lòng thì bỗng ngó ngoái lại thấy cát bụi bay mù mịt, quân ó vang tai một đoàn người ngựa kéo đến như bay, đằng trước có cây cờ hiệu rất lớn, để chữ “Văn”.

Hoàng Phi Hổ giật mình, vỗ yên ngựa than:

– Văn Thái Sư đem binh đuổi theo, chúng ta làm sao cự lại. Chắc mười phần phải chết rồi.

Hoàng Phi Hổ lại nhìn thấy đứa con út là Hoàng Thiên Tường mới bảy tuổi, ngồi trên yên ngựa chưa vững, cảm động đến ứa nước mắt, than thầm:

– Thương thay! Con nhỏ dại, chưa biết gì mà cũng lâm nạn.

Xảy có gia tướng chạy đến báo:

– Phía bên tả cũng có một đạo binh kéo tới nữa.

Hoàng Phi Hổ xem kỷ thì là đạo binh của Trương Quế Phương hiện trấn ải Thanh Long.

Trong lúc đang lúng túng thì gia tướng lại chạy đến báo nữa.

– Bên hữu cũng có một đạo quân rầm rộ kéo đến, cờ để là quan Tổng trấn ải Giai Mộng.

Hoàng Phi Hổ quýnh như đang đứng trước một vòng vây của thiên binh thiên tướng vậy. Chợt nhìn tới trước, lại thấy có Trương Phong là quan Tổng Binh ải Lâm Ðồng kéo binh đến đón đầu. Thế là bốn phía đều thọ địch, dẫu có cánh bay lên trời cũng chẳng kịp

Hoàng Phi Hổ ngước mặt lên trời, thở dài một tiếng khí uất lên tận mây xanh.

Giữa lúc ấy có ông Thanh Hư Ðạo nhân ở núi Thanh Phong, động Tử Dương, cũng là một vi tiên phạm tội sát sinh, đợi qua hội Phong Thần sẽ tu lại, nhân lúc thành thơi, đằng vân đi dạo, vừa tới ải Lâm Ðồng, gặp khí uất của Hoàng Phi Hổ xông lên cản lại Thanh Hư đạo nhân nhìn xuống thấy Hoàng Phi Hổ mắc nạn thì động lòng, liền lấy lá phướng Hổ Nguyên che lại rồi sai Huỳnh cân lực sĩ đem phướng phép ấy bọc hết cả người ngựa của đoàn người Hoàng Phi Hổ đưa qua núi, đoạn làm phép đuổi đạo binh của Văn Trọng trở về Triều Ca.

Huỳnh Cân lực sĩ tuân lệnh thi hành.

Trong lúc đó đạo binh của Thái Sư Văn Trọng vừa đuổi theo kịp, xảy có quân chạy về báo:

– Có quan Tổng binh ở ải Thanh Phong xin vào yết kiến.

Văn Trọng truyền vời đến, quan Tổng binh ải Thanh Phong là Trương Quế Phương đến trước đầu ngựa Văn Thái Sư xá dài một cái thưa:

– Tôi vì mang giáp trụ trong người, không làm trọn lễ xin Thái Sư tha tội.

Văn Thái Sư hỏi:

– Hoàng Phi Hổ phản chúa bỏ trốn, chắc qua ải này, quan Tổng binh có thấy không?

Trương Quế Phương thưa:

– Tôi được lệnh, tuần hành rất nghiêm mật mà chẳng thấy một ai qua ải cả.

Văn Trọng nói:

– Tổng binh hãy mau mau trở về ải ngăn đón.

Trương Quế Phương vâng lệnh từ giã kéo quân về.

Kế có Ma gia tướng ải Giai Mộng xin ra mắt.

Văn Trọng cho đòi bốn tướng họ Ma đến, và hỏi:

– Hoàng Phi Hổ có đến ải Giai Mộng không?

Bốn tướng thưa:

– Chúng tôi đón hoài mà không thấy.

Văn Trọng truyền bốn tướng trở lại ải quan ngăn đón.

Bốn tướng tuân lệnh kéo binh về.

Xảy nghe quân báo nữa:

– Có quan Tổng binh ải Lâm Ðồng là Trương Phụng đến hầu.

Văn Trọng cho mời vào. Lão tướng Trương Phụng vào ra mắt.

Văn Trọng hỏi:

– Lão tướng có gặp Hoàng Phi Hổ chăng?

Trương Phụng thưa:

– Tôi tiếp được tờ hịch, biết được việc Hoàng Phi Hổ làm phản nên đem quân đến chận đường, song không biết kẻ phản thần ấy đi ngả nào mà không thấy.

Văn Trọng truyền về ải ngăn ngừa, bắt cho được Hoàng Phi Hổ. Trương Phụng vâng lệnh từ giã lui binh.

Văn Trọng ngồi trên ngựa nghĩ thầm Hoàng Phi Hổ ra cửa Tây, đã qua sông Mạnh Tân, tại sao cả ba đạo quân đón bị ngả đường vẫn không gặp? Thật là chuyện lạ lùng. Thuở nay ta không nghe Hoàng Phi Hổ có tài độn thổ, thăng thiên mà? Thế này thì ta phải đóng binh ở đây để tìm cho ra duyên cớ. Hay Hoàng Phi Hổ sợ binh theo, còn lẩn trốn đâu đây chưa dám qua ải?

Nghĩ rồi truyền đóng quân, cho thám mã tủa ra bốn phía tìm kiếm.

Bấy giờ Huỳnh cân lực sĩ tuân lệnh Thanh Hư đạo nhân dùng lá phướng tóm đoàn người của Hoàng Phi Hổ đem bỏ bên kia núi Nghi Tịnh, tất cả mấy anh em như say mới tỉnh, chẳng hiểu gì cả.

Hoàng Phi Hổ dụi mắt nhìn bốn phía thấy binh tướng bao vây không còn nữa, thì mừng rỡ nói với mấy người em:

– Bốn đạo binh kéo đến, sao bây giờ biến đi đâu? Vậy thì chúng ta phải gấp rút qua khỏi ải Lâm Ðồng để tị nạn.

Hoàng Minh nói:

– Ðó là trời giúp người lành nên chúng ta mới thoát được tai nạn tày trời như vậy.

Nói rồi cùng nhau giục ngựa thẳng đến ải Lâm Ðồng.

Thanh Hư đao nhân đứng trên cao thấy Thái Sư Văn Trọng không chịu lui binh, nghĩ thầm:

– Nếu Văn Trọng không chịu lui binh thì Hoàng Phi Hổ khó lòng qua năm ải được. Ta phải lập kế làm cho lão già này kéo quân về Triều Ca mới xong.

Nghĩ rồi lấy thần sa trong bầu phép vãi một nắm qua hướng Ðông Nam, tức thì hóa ra một đạo binh mã. Quân thám thính trông thấy liền chạy về báo với Văn Trọng

Võ Thành Vương kéo binh mã trở về Triều Ca.

Văn Trọng nghe báo tức tốc truyền quày binh lại. Xa xa trông thấy một nhóm người ngựa nhắm hướng Triều Ca tiến tới, Văn Trọng nhủ thầm:

– Võ Thành Vương bị chận bốn mặt không đi được nên liều mạng trở về đánh Triều Ca, cố tình làm phản rồi.

Nghĩ chắc như vậy, nên Văn Trọng truyền quân cấp tốc vượt sông Mạnh Tân, trở về.

Nhờ vậy mà Hoàng Phi Hổ đến ải Lâm Ðồng thì đạo binh của Văn Trọng không còn đuổi theo sau nữa.

Khi Hoàng Phi Hổ đến trước ải Lâm Ðồng lão tướng Trương Phụng cầm đao, cỡi ngựa, dẫn binh lướt tới, mặt hầm hầm, nói lớn:

– Hoàng Phi Hổ, ta được lệnh Thái Sư đón ngươi ở đây đã lâu để bắt tên phản thần bội chúa.

Hoàng Phi Hổ xá dài một cái và lễ phép nói:

– Cháu mặc giáp trong mình không làm trọn lễ, xin chú miễn chấp.

Trương Phụng nói:

– Hoàng Phi Hổ! Ông già ngươi với ta là tình bằng hữu, còn ngươi tuy lớp nhỏ chớ thuộc vào hàng quốc thích, làm đến bậc vương hầu. Cảnh họ Hoàng mấy đời trung liệt, phò nhà Thương lập nhiều công khó, để tiếng trung lương. Dầu sao đi nữa, chẳng lẽ vì trả thù cho một con đàn bà mà ngươi đã gắn cho dòng họ mình tiếng xấu muôn đời sao? Ta rất tiếc hành động của ngươi thiếu suy nghĩ, nếu ngươi biết phục thiện, nghe lời già thì mau trói mình nạp mạng, để ta giải về Triều Ca, giữa có đủ mặt văn võ bá quan, tâu rõ đục trong, xét tình oan ức. Như vậy Thiên tử sẽ nghĩ tình quốc thích mà tha tội phản thần. Còn nếu không nghe lời ta thì ngươi đến đây chẳng khác lũ chuộc sa vào đáy giếng, chết một cách nhục nhã mà chẳng ích.

Hoàng Phi Hổ thưa:

– Tánh cháu xưa nay chắc chú cũng biết. Sở dĩ cháu phải phản Trụ đầu Châu là vì tình thế không thể chịu được nữa. Trụ vương đam mê tửu sắc, trung thần lần lượt chết oan, hết kẻ này đến kẻ khác. Vua không thương bầy tôi thì bầy tôi làm sao phò. Ðạo vua tôi đổ nát đã đành, đạo cương thường cũng không còn nữa. Trụ vương nghe lời Ðắt Kỷ hại vợ, giết con, mổ gan Tỉ Can là vị Hoàng thúc để cho vừa lòng Ðắt Kỷ. Vừ rồi Trụ vương lại hiếp vợ Ðại thần, ném xác Quí Phi xuống lầu Trích Tinh. Nếu cứ vì chữ trung nhắm mắt làm ngơ, phò một ông vua tàn ác như vậy phỏng có ích gì, trăm họ đều oán vọng, binh tướng đều kêu rêu. Tôi tưởng đạo làm tôi, nếu không can gián được vua dữ thà bỏ đi đi nơi khác nơi là hơn. Nếu chú đứng vào hoàn cảnh của cháu chắc chú cũng không khỏi đau lòng khi thấy vợ bị chết oan, em gái mình bị chết ức. Thật uổng công tôi trải thân hơn hai trăm trận nơi biển Ðông, phơi gan cùng xã tắc, cầm binh dạy tướng mà trị chư hầu. Nay chúa đem lại đem đem dạ phụ phàng, bảo tôi trơ mặt chịu sao nổi. Ngửa mong chú mở lòng đại độ, giúp đỡ kẻ nhất thời, mở cửa ải cho chúng qua để thoát nạn thì ơn ấy sánh bằng trời bể.

Trương Phụng nổi giận nói:

– Ngươi khinh khi ta già cả, không ngăn nổi ngươi nên ngươi mới buông lời nói như vậy. Ta làm Tổng binh trấn ải này, dễ gì để một kẻ phản thần qua lọt.

Nói rồi vung đao chém Hoàng Phi Hổ.

Hoàng Phi Hổ đưa giáo ra đỡ và nói:

– Xin chú đừng nóng giận. Tôi với chú là tôi một trào, việc quấy phải còn có người đời xét nghiệm. Nếu chú bị oan ức như tôi lẽ đâu lại không đầu nước khác. Lời xưa nói: Vua bất minh thì tôi tắc luạn. Ai cũng muốn có được một minh quân mà phò.

Trương Phụng nói:

– Phản thần! Ngươi khéo già mồm bào chữa. Ta không muốn nghe ngươi lý luận nữa, mà chỉ muốn bắt ngươi đem về nạp cho Thái Sư phân xử mà thôi.

Nói rồi chém tiếp một đao nữa. Hoàng Phi Hổ cực chẳng đả phải cử thương lên tiếp chiến. Một trẻ một già giao đấu với nhau hơn ba mươi hiệp.

Trương Phụng tuy bản lãnh cao cường, nhưng làm sao cự lại Võ Thành Vương là người có sức mạnh siêu quần được. Bị yếu thế, Trương Phụng vội giục ngựa bỏ chạy. Hoàng Phi Hổ thừa thắng giục trâu đuổi theo.

Trương Phụng lén lấy tử nhung thần bá là sợi dây có cột cọc chùy treo sau lưng, vụt Hoàng Phi Hổ một cái.

Hoàng Phi Hổ lanh mắt, lấy gươm chặt đứt sợi dây. Rồi đưa tay bắt lấy trái chùy.

Trương Phụng thất kinh chạy vào thành đóng cửa.

Hoàng Phi Hổ trở lại nói với anh em:

– Lão tướng Trương Phụng thất bại vào thành, chúng ta mau định liệu cách nào để qua ải.

Mấy anh em xúm lại đàm đạo nhưng không ai tìm được kế hay để qua ải cho được.

Trong lúc đó, Trương Phụng vào thành, ngồi ngẫm nghĩ:

– Hoàng Phi Hổ sức mạnh như thần lại võ nghệ siêu quần, địch sao cho lại. Nếu đấu với nó, rủi ro bề nào, nó qua ải được thì tội ta chẳng nhỏ.

Nghĩ rồi liền gọi Phó tướng là Tiêu Ngân đến nói:

– Hoàng Phi Hổ là tướng tài của triều đình không dễ gì bắt va được, nếu để va thoát khỏi thì chúng ta không khỏi mang tội với Thái Sư. Vậy đêm nay ngươi tuyển lựa ba ngàn quân thiện xạ, mang cung tên thật nhiều, đợi đến canh ba nghe tiếng mõ lệnh thì áp vào trại Hoàng Phi Hổ, bắn chết va lấy đầu đem về nạp.

Tiêu Ngân tuân lệnh ra ngoài điểm binh, nhưng khi ra đến giáo trường lại nghĩ thầm:

– Trước kia ta làm bộ hạ Võ Thành Vương, được Võ Thành Vương dạy dỗ đối xử với ta rất nhân đạo, không bao giờ có một cử chỉ khắc bạc. Về sau ta cũng nhờ Võ Thành Vương mà vinh thăng làm chức Phó tướng trấn ải này. Ơn đức ấy ta chưa đền bồi, lẽ lào ham lập công mà phụ tình ân nhân?

Nghĩ rồi liền thay đổi y phục, đợi hết canh một lén sang trại Hoàng Phi Hổ kêu quân canh hỏi:

– Có ai ở trong trại không?

Quân canh hỏi lại:

– Ngươi là ai vậy?

Tiêu Ngân nói:

– Ta là bộ hạ của Võ Thành Vương trước kia, tên Tiêu Ngân, đến xin yết kiến Võ Thành Vương trình mật sự. Nhờ các ngươi vào thưa lại.

Quân vào báo với Hoàng Phi Hổ.

Hoàng Phi Hổ cho mời vào, Tiêu Ngân vào lạy và thưa:

– Tôi là Tiêu Ngân, tướng cũ, nhờ lão gia cho bổ nhậm chức phó Tổng binh ải Lâm Ðồng nay Trương Phụng sai tôi thừa lúc canh ba dẫn ba ngàn xạ thủ lén bắn lão gia, lấy thủ cấp đem về nạp lãnh thưởng. Tôi mang ơn lão gia rất trọng, không đành phản bội, nên mặc thường phục lén đến đây báo tin cho lão gia hay trước.

Hoàng Phi Hổ nghe qua thất kinh, nói:

– Nếu không có tướng quân thì chắc ta vong mạng rồi. Thật ta cảm nghĩa, khó nỗi đáp đền.

Tiêu Ngân nói:

– Việc cần thiết là Lão gia phải qua ải để thoát nạn, vậy lão gia nên dẫn nhân mã theo tôi tức thì để tôi mở cửa ải đón rước. Nếu chậm trễ lậu tiếng thì bất tiện.

Hoàng Phi Hổ mừng rỡ truyền lệnh gia tướng đồng một loạt theo Tiêu Ngân vào ải, thế mạnh như cọp dữ.

Khi ấy mới đầu canh hai, binh tướng Trương Phụng thờ ơ không để phòng.

Tiêu Ngân mở khóa cửa rồi, Hoàng Phi Hổ và mấy anh em cầm thương xốc vào, quân trong thành náo loạn, vỡ chạy hết

Trương Phụng đang ngồi trong trướng hay tin liền la lớn:

– Lỗi này do ta vụng tính. Tiêu Ngân là tướng cũ của Hoàng Phi Hổ, nay nó mở cửa cho Hoàng Phi Hổ vào thành là phải lắm. Nếu ta tính trước, sai tướng khác thì đã lấy đầu Hoàng Phi Hổ được rồi.

Tức giận vô cùng, Trương Phụng liền lên ngựa cầm thương đuổi theo, quyết bắt bọn Hoàng Phi Hổ lại.

Bấy giờ Tiêu Ngân núp bên vách tường, thấy Trương Phụng đuổi theo Hoàng Phi Hổ, liền đâm lén Trương Phụng một kích nhào xuống ngựa chết tươi.

Người sau có thơ khen Tiêu Ngân.

Vì nghĩa nào tham lợi

Ðền ơn chẳng tiếc công

Mưu cơ trừ chước quỉ

Trí rộng mở chim lồng

Một mình lên khai ải

Cứu sống được ân nhân

Trương Phụng vương một kích

Phi Hổ vượt Lâm Ðồng.

Tiêu Ngân đâm chết Trương Phụng rồi liền giục ngựa chạy theo Hoàng Phi Hổ, kêu lớn nói:

– Xin Lão gia thủng thẳng mà đi. Tôi đã giết Trương Phụng rồi, không còn ai dám cản ngăn mà sợ. Bây giờ tôi trở về ải lấy ván đóng kín cửa thành, phỏng có truy binh, đợi tháo xong ván cửa thì cũng lâu lắm, lão gia có đủ thời giờ cao bay xa chạy rồi. Ngày nay tớ thầy chia tay, chẳng biết bao giờ mới được gặp nhau lại.

Hoàng Phi Hổ tạ ơn, và nói:

– Tình nghĩa tướng quân đối với tôi rất trọng, biết bao giờ đền đáp thâm ân?

Ðoàn người Hoàng Phi Hổ ra khỏi ải Lâm Ðồng, đi chừng tám mươi dặm thì đến ải Ðồng Quan. Tướng giữ ải này là Trần Ðồng đang ngồi trong trướng, xảy nghe quân báo:

– Hoàng Phi Hổ dẫn gia binh gia tướng đến đóng trước ải.

Trần Ðồng mỉm cười, nói:

– Hoàng Phi Hổ là đứa phản thần, ta được lệnh đón tại đây bắt giải về Triều Ca xử tội. Nay nó đã qua được ải Lâm Ðồng đến đây mà nạp mạng.

Nói rồi truyền bày binh bố trận để ngăn đường, còn mình thì nai nịt hẳn hòi, cầm thương lên ngựa, quyết bắt cho được Hoàng Phi Hổ trả thù xưa, và lập công.

Hoàng Phi Hổ đồn binh xong, hỏi gia tướng ải Ðồng Quan do tướng nào trấn giữ?

Châu Kỷ nói:

– Quan Tổng trấn ải Trần Ðồng.

Hoàng Phi Hổ ngẫm nghĩ một lúc rồi than:

– Trần Ðồng trước kia phạm tội, ta đánh giết nhưng các tướng năn nỉ xin tha để cho va lập chiến công đền tội. Nay va làm đến chức Tổng binh thế nào cũng nhớ thù xưa mà rửa hờn, chúng ta khó lòng qua ải.

Các tướng nói.

– Trần Ðồng tài cán gì mà dám đương cự chúng ta. Xin đại vương chớ lo.

Còn đang bàn luận với nhau thì đã nghe quân ó vang trời Trần Ðồng dẫn quân đến bắt. Hoàng Phi Hổ lật đật cỡi thần ngưu ra trận.

Trần Ðồng chỉ mặt Hoàng Phi Hổ nói:

– Ta chào Hoàng tướng quân đó. Ngươi là vì vương không nhỏ, tại sao đến ải ta làm chi? Ta vâng lệnh Thái Sư đón ngươi ở đây đã lâu. Nếu muốn toàn thây thì mau xuống ngựa bó mình đặng ta giải nạp về Triều Ca trị tội, đừng nói nhiều lời vô ích.

Hoàng Phi Hổ nói:

– Trần tướng quân chớ khi dễ ta. Trong đời người sao khỏi có lúc suy lúc thạnh, cũng như trong vũ trụ, trời có khi nắng khi mưa. Xưa, ngươi cùng ta chẳng khác tay chân cật ruột, đến nỗi ngươi phạm lỗi nặng mà ta không giết, để cho ngươi lập công chuộc tội, ấy là ta làm ơn, sao nay ngươi cho việc ấy là cừu hận, nhục mạ ta mà trả thù? Ngươi liệu đấu thương với ta nổi ba hiệp hay không mà dám lên mặt?

Trần Ðồng không đáp, cầm kích nhắm ngang đầu Hoàng Phi Hổ đâm tới. Hoàng Phi Hổ đưa thương gạt ra rồi đâm lại. Hai đàng đánh nhau hơn mười hiệp.

Trần Ðồng yếu sức, liền quất ngựa chạy dài.

Hoàng Phi Hổ quyết bắt cho được Trần Ðồng để mau qua ải nên giục trâu đuổi theo rất gấp.

Trần Ðồng thấy Hoàng Phi Hổ đuổi theo thì mừng thầm, liền lấy Hỏa Long Phiêu là phép tiên truyền thụ quăng lên, tức thì khói tỏa mịt mù. Hỏa Long Phiêu thuộc vào loại phép dữ đánh mười lần không sai một.

Hoàng Phi Hổ tối cả mày mặt, bị Hỏa Long Phiêu đánh trúng nhằm sườn, nhào xuống trâu thần chết tốt.

Hoàng Minh và Châu Kỷ thấy vậy nóng ruột, giục ngựa xốc tới hét lớn:

– Trần Ðồng, ngươi chớ dùng tà thuật hại người, có chúng ta đây.

Ba tướng đánh nhầu. Còn Hoàng Phi Bưu vội xốc tới vác thây Hoàng Phi Hổ đem về trại, thì thấy Hoàng Phi Hổ đã tắt thở tự lúc nào rồi.

Lúc này, Hoàng Minh và Châu Kỷ cố giết cho được Trần Ðồng báo thù cho Hoàng Phi Hổ.

Trần Ðồng cự không lại giục ngựa chạy dài. Hai tướng giục ngựa đuổi theo, Trần Ðồng lấy Hỏa Long Phiêu quăng lên, đánh nhằm Châu Kỷ té xuống ngựa, còn Hoàng Minh thất kinh bị con ngựa nhảy vòng chạy bậy. Trần Ðồng toan rút gươm chém Châu Kỷ, may nhờ Hoàng Minh xông đến kịp, cản lưỡi gươm Trần Ðồng lại, và đánh nhầu.

Trần Ðồng thấy Hoàng Minh liều mạng, nên sợ hãi bỏ chạy vào thành đóng cửa lại.

Hoàng Minh đem thây Châu Kỷ về đến trại xem lại thì Châu Kỷ đã chết.

Hoàng Minh than khóc một hồi, sắp thây của Châu Kỷ nằm song song với thây của Hoàng Phi Hổ.

Ba đứa con Hoàng Phi Hổ thấy cha mình chết thảm đều khóc rống lên, gia binh gia tướng ai nấy động lòng sụt sùi không ráo lệ.

Thật là một thảm cảnh! Không ai còn biết tính lẽ nào nữa, lui tới đều bất tiện, chỉ biết ngồi nhìn nhau chờ chết.

Bấy giờ tại núi Thanh Phong, động Tử Dương, có ông Thanh Hư đạo nhân đang ngồi trên giường Bích Vân, bỗng thấy lòng mình hồi hộp, đánh tay xem biết Hoàng Phi Hổ mắc nạn, vội truyền Bích Vân đồng tử vào động đòi Hoàng Thiên Hóa đến.

Hoàng Thiên Hóa tuổi mới hai tám mà mình cao chín thước, mắt sáng như sao, mặt tròn và trong như mỡ, hai chân mày dài quá mắt, lưng thắt đai bố, chân đi giày rơm, đến ra mắt thầy và nói:

– Sư phụ sai gọi đệ tử có việc chi?

Thanh Hư nói:

– Ngươi phải xuống núi cứu cha ngươi đang mắc nạn.

Hoàng Thiên Hóa ngơ ngác hỏi:

– Thưa sư phụ, cha của đệ tử là ai, lâu nay không nghe sư phụ nhắc đến?

– Cha ngươi là Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ, hiện đang bị hạn Hỏa Long Phiêu mà thác tại ải Ðồng Quan. Ngươi đến đó cứu cha ngươi, sau giúp nhà Châu cho toàn trung hiếu.

Hoàng Thiên Hóa hỏi:

– Thưa sư phụ, nguyên nhân vì đâu mà đệ tử được đến hầu sư phụ ở động này?

Thanh Hư đạo nhân nói:

– Cách mười ba năm trước, ta đằng vân đi dạo tại xứ Triền Ca, gặp luồng hào quang của ngươi xông lên, đón vừng mây ta lại. Ta thấy ngươi có quý tướng, và có nhân duyên chi đây khiến ta gặp được. Ta liền nổi trận gió, đưa ngươi về núi truyền thụ võ nghệ và phép lành, để sau này ngươi có cơ hội lập thân. Nay chưa phải là lúc ngươi xuống trần, nên ta chỉ trao cho ngươi bầu linh dược, đem xuống ải Ðồng Quan cứu cha ngươi xong, thì phải cấp tốc trở về đây. Ngày sau, cha con sẽ gặp nhau tại Tây Kỳ.

Dặn dò xong, Thanh Hư trao gươm báu và giỏ hoa lam cho Hoàng Thiên Hóa, hối đi lập tức.

Hoàng Thiên Hóa muốn hỏi nữa, Thanh Hư chiều ý bảo nhỏ nấy câu và nói:

– Phải làm theo cách ấy thì cha ngươi mới qua khỏi ải được.

Hoàng Thiên Hóa tuân lệnh lạy tạ ra đi, độn thổ đến ải Ðồng Quan trong nháy mắt.

Hồi 32: Hoàng Thiên Hóa gặp cha tại Đồng Quan

Hoàng Thiên Hóa độn thổ đến ải Ðồng Quan vừa lúc canh năm, lật đật tìm đến trại. Bấy giờ trời thanh trăng tỏ, Hoàng Thiên Hóa thấy bên ngoài có một số quân canh, bên trong lố nhố một đoàn người đang ngồi than khóc.

Vài tên quân canh thấy Hoàng Thiên Hóa, thất kinh hét lớn:

– Ngươi là ai? Ðến đây có việc gì?

Hoàng Thiên Hóa nói:

– Ta là đệ tử của Thanh Hư đạo nhân, ở núi Thanh phong, động Tử Dương. Vì biết Ðại vương mắc nạn đến giải cứu, chớ không phải địch quân đến đây thảm thính mà sợ. Ngươi mau vào thưa lại.

Quân canh vội vào báo.

Hoàng Phi Bưu vội bước ra xem thử, thấy một đạo đồng vạm vỡ, chân đi giầy rơm, mình mặc áo rộng, vai mang bửu kiếm, tay xách giỏ hoa lam, xem hình dung giống anh mình như hệt.

Hoàng Phi Bưu đón tiếp vào trại. Các tướng đều ra chào.

Hoàng Phi Bưu nói:

– Nếu đạo nhân cứu sống được anh tôi thì ơn ấy như trời biển.

Hoàng Thiên Hóa hỏi:

– Ðại vương hiện nằm ở nơi đầu?

Hoàng Phi Bưu dắt Thiên Hóa vào trong.

Thiên Hoa thấy cha mình nằm ngửa trên tấm nệm, hai mặt nhắm cứng, gương mặt tái xanh, thì than thầm:

– Cha mình làm đến tước Vương, quyền uy tại trào, chẳng biết vì đâu lại ra nông nỗi này?

Lại thấy một vị tướng để nằm bên xác cha mình.

Thiên Hóa liền hỏi:

– Còn ông nào chết đó?

Hoàng Phi Bưu nói:

– Người ấy là bạn thân của anh tôi, cũng bị Trần Ðồng đánh Hỏa Long Phiêu mà thác.

Hoàng Thiên Hóa truyền bọn quân hầu xuống khe múc nước, lấy bầu thuốc trong giỏ trút ra, hòa với nước suối, rồi lấy gươm cạy răng hai người đổ vào miệng mỗi người hai hớp thuốc còn dư thì thoa chỗ bị thương.

Chẳng bao lâu, Hoàng Phi Hổ tỉnh đậy trước, la lớn lên:

– Ðau chết đi!

Ấy là lúc thuốc thấm vào ngũ tạng, chạy khắp châu thân nên Hoàng Phi Hổ mới biết đau, la hoảng như vậy.

Khi Hoàng Phi Hổ đã hồi tỉnh, mở mắt ra trông thấy một gã đạo đồng ngồi bên mình, liền hỏi:

– Ta đã bị Hỏa Long Phiêu đánh chết rồi, đâu có thể còn sống lại. Ðây có phải cõi âm phủ chăng?

Hoàng Phi Bưu nói:

– Nếu không nhờ đạo nhân dâng linh dược cứu chữa thì chắc vương huynh đã thọ tử rồi.

Hoàng Phi Hổ nhe nói vùng đứng dậy chắp tay xá Thiên Hóa một cái và nói.

– Tôi may mắn mới được đạo nhân cứu tử hoàn sanh.

Hoàng Thiên Hóa vội và quì xuống, vừa khóc vừa nói:

– Thưa cha, con là Hoàng Thiên Hóa đây. Hồi nhỏ con đi dạo vườn hoa bị gió thổi mất biệt cho đến nay.

Ai thấy nghe nói đều kinh hãi.

Hoàng Phi Hổ giật mình, rồi lại mừng rỡ nói:

– Nếu vậy thì con đến cứu cha mà cha không biết. Tính từ ngày ấy đến nay thì con đã mười sáu tuổi rồi. Vậy thời gian qua, con ở núi nào, thầy con là ai?

Hoàng Thiên Hóa lạy rồi đứng dậy thưa:

– Thầy con là Thanh Hư đạo nhân, ở núi Thanh Phong, động Tử Dương, mấy năm trước đi đạo chơi ở Triều Ca, thấy con có số tu hành lên nổi gió đưa con về động luyện tập võ nghệ và truyền thụ phép tắc. Nay thầy con biết cha mắc nạn, nên dạy con xuống cứu. Nhờ dịp này con gặp mặt được ba anh em, và cả ba chú con nữa.

Bấy giờ Châu Kỷ cũng đã tỉnh dậy, nghe rõ đầu đuôi, chú cháu vui mừng, anh em chào hỏi.

Hoàng Thiên Hóa nhìn quanh, không thấy mẹ mình đâu buồn bã hỏi:

– Cả gia đình đều rời bỏ Triều Ca, tại sao thân mẫu không cùng đi?

Hoàng Phi Hổ nghe nhắc đến vết thương lòng, giậm chân khóc lớn nói:

– Con chưa hiểu vì cớ nào cha phản Trụ đầu Châu hay sao? Bởi ngày Nguyên đán, mẹ con vào cung chầu Ðắt Kỷ, Trụ vương làm điều ô nhục, mẹ con giữ tiết trinh mắng vua rồi nhảy xuống lầu dập xương. Nếu không có việc phủ phàng như vậy lẽ nào cha lại phản chúa!

Hoàng Thiên Hóa nghe rõ đầu đuôi, nghiến răng hét lên một tiếng, rồi té xuồng đất chết ngất. Lòng thương mẹ của Hoàng Thiên Hóa khiến ai nấy động lòng khóc rống lên.

Giây lâu Hoàng Thiên Hóa mới tỉnh lại nói với Hoàng Phi Hổ:

– Thầy con dặn cứu cha xong phải trở về núi tiếp tục tu hành, nhưng hoàn cảnh này con không muốn trở về núi nữa, quyết lòng trở về Triều Ca giết vua Trụ và Ðắt Kỷ trả thù cho mẹ và cô của con.

Cha con đang sụt sùi than thở thì ngoầi trại có liếng quân reo, và quân canh vào báo:

– Trần Ðồng dẫn quân ra khiêu chiến.

Hoàng Phi Hổ mặt tái ngắt vì nghĩ đến Hỏa Long Phiêu lợi hại của địch thủ vừa rồi.

Hoàng Thiên Hóa thấy vậy thưa:

– Xin cha chớ sợ, có con theo bảo vệ thì nó không làm gì nổi đâu.

Hoàng Phi Hổ nghe nói vững lòng, lên lưng thần ngưu, cầm đao xông ra khỏi trại, kêu Trần Ðồng nói:

– Trần Ðồng, ngươi chớ hung hăng. Hôm nay ta ra đây trả thù ngươi đấy.

Trần Ðồng thấy Hoàng Phi Hổ thất kinh, nhủ thầm:

– Hỏa Long Phiêu ta đã đánh trúng nó, vì cớ gì nó lại không chết. Từ xưa đến nay ta chưa từng thấy trường hợp nào như vậy.

Nghĩ rồi nạt lớn:

– Hoàng Phi Hổ, ngươi là đưa phản thần, không biết nhục còn giao đấu cùng ta hay sao?

Hoàng Phi Hổ nói:

– Ngươi cố tình xử ác với ta, nhưng trời không hại anh hùng.

Nói rồi vung đao đâm Trần Ðồng một nhát. Trần Ðồng đưa giáo ra đỡ. Hai bên đánh nhau hơn hai mươi hiệp.

Trần Ðồng quất ngựa chạy, Hoàng Phi Hổ giục ngựa đuổi theo, Trần Ðồng dùng kế hoạch cũ, vung Hỏa Long Phiêu lên khí tỏa mịt mù.

Hoàng Phi Hổ thất kinh, muốn quảy ngựa bỏ chạy, thì Hoàng Thiên Hóa đã biết trước, lấy giỏ hoa lam đưa lên, thâu Hỏa Long Phiêu của Trần Ðồng vào đấy.

Trần Ðồng thấy mất phép, mặt biến sắc. Còn Hoàng Phi Hổ quay thần ngưu lại đánh với Trần Ðồng. Lần này Hoàng Phi Hổ không còn sợ sệt như trước nữa nên đánh rất hăng.

Hoàng Thiên Hóa muốn cho cha mình sớm rảnh tay, liền bước tới gọi Trần Ðồng mắng:

– Thất phu, tài phép của ngươi bao nhiêu mà dám xúc phạm tới thân phụ ta. Ta lấy đầu ngươi để rửa hận.

Dứt lời cầm cây gươm thần gọi là Mật Tà đưa lên, tức thì thanh gươm xẹt ra một luồng thanh quang sáng chói, chiếu vào cổ Trần Ðồng, chiếc đầu Trần Ðồng rơi tức khắc.

Hoàng Thiên Hóa vừa giết Trần Ðồng xong, Hoàng Minh, Châu Kỷ và các tướng theo phò Hoàng Phi Hổ đều phá cửa ải xông vào.

Quân sĩ ải Ðồng Quan thấy chủ tướng bị chết, kiếm chỗ ẩn mình không ai dám ra chống cự.

Hoàng Thiên Hóa lạy cha, thưa rằng:

– Lúc nãy vì nghe mẹ chết, nóng lòng nên con nói như vậy, bây giờ nghĩ lại lời thày dặn không dám trái, xin cha cho con trở về núi tu luyện thêm, ngày sau sẽ đoàn tụ.

Hoàng Phi Hổ nói:

– Con tuân lời đến của thầy là phải, nhưng mười mấy năm trời cha con mới gặp nhau, sao vội chia ly như vậy.

Hoàng Thiên Hóa rơi lụy nói:

– Cũng không bao lâu nữa gia đình ta sẽ đoàn tụ nơi Tây Kỳ, xin cha cho trẻ dời gót.

Cha con, chú cháu, anh em đồng gạt lệ giã từ.

Hoàng Thiên Hóa độn thổ về núi, còn Hoàng Phi Hổ cùng gia binh gia tướng qua khỏi ải Ðồng Quan, đi hơn tám mươi dặm nữa đến ải Xuyên Vân.

Quan Tổng trấn ải này là anh ruột của Trần Ðồng, tên Trần Ngô.

Khi nghe quân báo Hoàng Phi Hổ giết em ruột mình qua ải, Trần Ngô nổi giận lập tức truyền điểm tướng, dẫn binh đi đánh báo thù.

Có viên tướng cạnh là Hạ Thân can:

– Xin chủ tướng chớ nóng nảy mà hỏng việc. Hoàng Phi Hổ là bậc dõng tướng, lại có các gia binh gia tướng theo phò, đến đổi Nhị gia, tài cao phép lạ mà còn bị hại thay, huống hồ trong thành ta tướng yếu binh suy, chủ tướng muốn dùng sức kiệt trói hùm sao được.

Trần Ngô nói:

– Hoàng Phi Hổ là đứa phản thần, đã có tội với vua bỏ trốn qua ải lại còn giết tướng, không kể đến nghĩa tình. Trần Ðồng là em ruột ta, trấn ở Ðồng Quan bị chết về tay nó ta không giết nó trả thù sao?

Hạ Thân nói:

– Muốn bắt Hoàng Phi Hổ để trả thù không cần dùng sức, mà chỉ đùng mưu kế thôi.

Trần Ngô nghe nói như vậy sáng mắt, khen:

– Ta quá nóng lòng, suýt làm hư đại sự. Hạ tướng quân nói phải làm. Vậy bây giờ biết tính mưu chi?

Hạ Thân nói:

– Phải dụng kế như vầy thì trừ Hoàng Phi Hổ không khó.

Ðoạn Hạ Thân nói nhỏ với Trần Ngô một hồi.

Trần Ngô đắc ý khen:

– Hạ tướng quân mưu cao. Phen này nhất định theo kế ấy mà làm.

Bỗng có quân vào báo:

– Hoàng Phi Hổ và cả gia quyến đã đến ải.

Trần Ngô lập tức truyền gióng chiêng nổi trống, triệu tập các tướng đi tiếp nghinh.

Hoàng Phi Hổ thấy Trần Ngô đội mảo lớn, mặc áo dài, mình không mang giáp, tay không khí giới, tướng binh cũng đều như vậy cả, nên không chút nghi ngờ.

Trần Ngô lướt ngựa tới khép nép thưa:

– Tiểu tướng xin bái yết Ðại vương.

Hoàng Phi Hổ đáp lễ và nói:

– Tôi mắc nạn là Hoàng Phi Hổ, phạm tội với triều đình, lánh thân ra quan ải nay nhờ ơn tướng quân có lòng chiếu cố, không trừng phạt mà đón rước như vầy, tình rất trọng. Còn như lịnh đệ bị thác vì ngăn đón chiến trường, nên rủi ro bị thác. Như tướng quân nghĩ tình tôi oan ức, cho qua khỏi ải này, chúng tôi nguyện suốt đời mang ơn.

Trần Ngô nói:

– Tôi biết đại vương là người trung nghĩa, mấy đời phò vua giúp nước, trải mật nằm gai. Nay xảy ra cơ sự này là tại vua phụ bề tôi, chớ đâu phải bề tôi phụ vua. Còn em tôi ta Trần Ðồng không rõ tình đời, không trông xa hiểu rộng, chỉ khư khư làm theo mệnh lệnh của triều đình, đem sức khuyển ưng mà chống oai hùm thì làm sao toàn mạng. Em tôi chết tôi cũng đau lòng thật, nhưng nghĩ lại vì trí thiển tài nông của nó nên không dám trách. Ðại vương vào ải để tôi mở tiệc tẩy trần cho thỏa lòng hoài vọng.

Hoàng Minh cất tiếng khen:

– Lời xưa nói: Cây một cội trái chua trái ngọt, nước một nguồn dòng đục dòng trong. Xem thế thì tầm hiểu biết của tướng quân cao hơn lệnh đệ nhiều lắm.

Ai nấy nghe lời Trần Ngô chuốc đều xuống yên.

Trần Ngô cũng xuống ngựa, rước cả gia binh gia tướng Hoàng Phi Hổ vào ải.

Ðến nơi Trần Ngô mời ngồi theo thứ tự, truyền dọn cơm nước đãi đằng.

Hoàng Phi Hổ cảm lòng tri ngộ đứng dậy tạ rằng:

– Tôi mắc nạn, được tướng quân trọng đãi biết ngày nào đáp đền được thâm ân?

Trần Ngô đứng dậy nói:

– Tôi biết đại vương nóng lòng sang Tây Kỳ đầu Minh chúa, tuy vậy tôi muốn cùng tướng quân dự bữa tiệc chia ly. Sau này nếu gặp gỡ tôi sẽ đi chung đường để phò đại vương luôn thể. Mong đại vương không từ chối.

Hoàng Phi Hổ nói:

– Trần tướng quân thương chúng tôi là kẻ mắc nạn, bảy tiệc khoản đãi, người đã có tình lẽ nào chúng tôi từ chối.

Trần Ngô thấy Hoàng Phi Hổ đã thuận ý liền truyền quân nổi nhạc tưng bừng, cổ bàn dọn lên, các tướng đều được mời vào tiệc, ăn uống cho đến lúc hoàng hôn.

Tiệc mản, Hoàng Phi Hổ đứng dậy nói:

– Nhờ ơn người hiền trọng đãi, mai này mới được hiển vinh, tôi chẳng quyên ơn đền đáp.

Trần Ngô nói:

– Xin đại vương đừng ngại tôi biết đại vương và chư tướng không cởi giáp, ăn không ngon bữa, ngủ không yên giấc. Nay tôi nhắm không có binh theo mà nghỉ nán lại đây một đêm, sáng sớm sẽ đăng trình tôi nhắm không có binh theo mà ngại.

Hoàng Phi Hổ nghe Trần Ngô nói ngọt, lòng còn lưỡng lự.

Hoàng Minh trong người mỏi mệt thấy vậy xen vào:

– Trần tướng quân đã có lòng tốt đối xử với chúng ta như vậy chúng ta nghỉ lại đây một đêm mai sớm lên đường cũng chẳng sao

Hoàng Phi Hổ không nỡ trái lòng các tướng, nên gật đầu ưng thuận.

Trần Ngô ngồi nán lại, uống thêm vài chung rượu, rồi nói:

– Ðáng lẽ tôi hầu thêm đại vương vài chung, nhưng sợ đại vương ngồi lâu mỏi mệt. Vậy xin mời đại vương đi nghỉ, ngày mai tôi sẽ dâng chén tiễn hành.

Hoàng Phi Hổ đứng dậy tạ ơn, theo đưa Trần Ngô vào phủ, rồi dạy gia tướng đẩy xe vào, sắp đặt khắp nơi, chong đến đuốc sáng lòa, truyền quân binh an nghỉ.

Ðoàn binh tướng của Hoàng Phi Hổ trải mấy ngày mỏi mệt, nay lại được một tiệc no say, nên người nào mặt cũng lừ đừ, đặt lưng xuống là ngủ thiếp lúc nào không biết.

Riêng Hoàng Phi Hổ lòng buồn bực, nằm ngồi không yên, suy nghĩ hết chuyện này sang chuyện khác, và than:

– Giòng họ Hoàng bảy đời trung liệt phò Thương, không ngờ đến lúc này lại mang tiếng phản phúc! Tấm lòng tôi ngay thẳng xin trời đất chứng tri. Bởi hôn quân vô đạo, hại vợ giết em gây thù chuốt oán. Nếu Châu Võ vương thương đến thì sau này tôi sẽ viện binh đánh Trụ mà bảo thù.

Than rồi nghiến răng cau mày, lấy bút để thơ giải muộn:

Trung nghĩa bảy dời có ích chi

Vì vua lánh nạn đến Tây Kỳ

Muốn qua năm ải đều ngăn trở

Giao chiến ba phen chịu hiểm nguy

Chim đã lúc bầy đành bõ ổ

Vua đã phụ tôi nghĩ ách gì

Trời chẳng phụ lòng còn có thuở

Ðem binh vấn tội cũng có khi.

Hoàng Phi Hổ làm xong bài thơ thì trống lầu đã điểm tàn canh một. Thế mà Hoàng Phi Hổ vẫn thao thức vì không ngủ được, cứ nằm nghĩ mãi những kỷ niệm xa xưa nơi các phụng đền rồng, gấm treo vàng thiếp, vợ con đoàn tụ hạnh phúc tràn trề. Rồi đến nay tấm thân lưu lạc, bơ vơ bốn biển không nhà.

Trống điểm canh hai, Hoàng Phi Hổ thấy trong lòng hồi hộp, chợp mắt lim dim, bỗng nghe trận gió lạnh lùng thổi tới, cả mình rởn ốc. Rồi có một luồng khói trắng từ ngoài chập chùng bay vào dinh, trong luồng khói trắng ấy lại ló ra một cánh tay, quạt tắt ngọn nến, và có tiếng kêu văng vẳng:

– Tướng quân ôi! Thiếp không phải yêu ma, chính là hồn của Giả thị, vì thương các con theo dõi đến đây. Trần Ngô độc ác, sắp dùng lửa đốt cả gia binh gia tướng trong căn phòng này. Tướng quân phải mau thức dậy, dìu dắt ba đứa con thơ lánh nạn kẻo không còn kịp nữa. Thiếp xin giã biệt.

Hoàng Phi Hổ giật mình thức giấc, nhìn lại ngọn nến vẫn tỏ rạng như thường, liền vỗ ghế ầm ầm kêu binh tướng.

Hoàng Minh, Châu Kỷ và các tướng nghe kêu, đồng giật mình ngồi dậy hỏi lớn:

– Anh kêu gì vậy?

Hoàng Phi Hổ thuật lại chuyện vừa rồi, các tướng đều kinh hải.

Hoàng Phi Bưu nói:

– Việc rất nên hiển hách, không thể không tin.

Hoàng Minh vội vàng bước lại mở cửa, thì bên ngoài đã khóa chặt cũng, xô không ra, liền la lớn:

– Nguy rồi! Ngoài cửa chúng đã khóa chặt.

Long Hoàn, Ngô Kim, vội xách búa lại bửa cửa ra, thì thấy bốn phía củi chất trùng trùng, cao ngùn ngụt. Long Hoàn và Ngô Kim họp lực với bọn gia binh dọn sạch một đường củi rồi đẩy lẹ ra. Các tướng cùng lên yên theo ra khỏi phủ.

Lúc này Trần Ngô đang đốc binh sĩ nổi lửa đốt dinh, chợt nghe có quân chạy đến báo:

– Hoàng Phi Hổ dẫn gia binh gia tướng ra khỏi cửa thành rồi.

Trần Ngô nổi giận vểnh râu hét:

– Tội chúng bay trễ quá, nên nó mới thoát được.

Nói rồi cầm thương lên ngựa đuổi theo.

Hoàng Phi Hổ nghe tiếng vó ngựa quay lại thấy Trần Ngô, liền trách rằng:

– Trần Ngô, tình nghĩa ta với ngươi lúc ban ngày đã trôi theo dòng nước rồi, ngươi nỡ nhẫn tâm làm kế bất nhơn như vậy!

Trần Ngô biết cơ mưu đã lậu, trợn mắt mắng lớn:

– Phản tặc! Ý ta muốn đào rễ bứng chồi, khá khen ngươi cũng cao mưu lớn trí. Tuy khỏi vòng binh lửa, chưa hẳn đã thoát được cửa quan. Ta quyết lấy đầu ngươi trả thù cho em ta đó. Nói rồi cầm thương đâm tới.

Hoàng Minh cầm búa lướt tới đỡ liền.

Hoàng Phi Hổ cũng xông vào hỗn chiến. Hai bên đánh nhau một hồi, Hoàng Phi Hổ đâm trúng Trần Ngô lòi ruột, rồi thừa thắng mở cửa ải Xuyên Vân, cả đoàn người thoát ra một lúc.

Qua khỏi ải rồi bọn gia binh gia tướng đều mừng rỡ nói với Hoàng Phi Hổ:

– Nếu không có hồn linh của Phu nhơn theo mách bảo thì chúng ta đã chết thui với mưu kế của lão Trần Ngô rồi.

Bây giờ đoàn người thẳng qua ải Giới Bài.

Hoàng Minh vừa đi vừa nói:

– Ải này là ải của bác trấn đóng, người trong gia đình, khỏi phải lo chinh chiến nữa.

Quan trấn ải Giới Bài là Hoàng Cổn, cha ruột của Hoàng Phi Hổ. Khi nghe con mình phản chúa, chém giết các quan Tổng trấn các ải. Hoàng Cổn lòng không vui, xảy nghe quân vào báo:

– Có Ðại lão gia, Nhị gia, Tam gia, và bộ hạ đồng đến trước ải.

Hoàng Cổn lập tức truyền ba ngàn binh bố trận, và dọn mười chiếc tù xa, quyết bắt anh em Hoàng Phi Hổ, và bọn gia binh gia tướng giải về Triều Ca trị tội.

Hồi 33: Hoàng Phi Hổ đánh ải Tụy Thủy

Hoàng Minh nhìn xa xa thấy Hoàng Cổn dẫn binh bố trận, liền nói với Long Hoàn:

– Lão gia bố trận và để tù xa trước ải, tôi đoán chắc không phải điềm lành.

Long Hoàn nói:

– Ðể đợi ra mắt lão gia, xem lão gia dạy lẽ nào rồi sẽ tính.

Mấy anh em đồng giục ngựa đến trước ải.

Hoàng Phi Hổ bái Hoàng Cổn một cái, và thưa:

– Con bất hiếu là Phi Hổ xin ra mắt phụ thân. Vì mặc giáp trong mình, làm lễ không trọn, xin phụ thân dung thứ.

Hoàng Cổn trợn mắt hỏi:

– Ngươi là ai đó?

Hoàng Phi Hổ thưa:

– Con là Phi Hổ đây. Cha hỏi gằn làm gì vậy?

Hoàng Cổn nạt lớn:

– Nhà ta phò Thiên tử bảy đời, lòng trung có một, chỉ biết ngay chúa thảo cha. Nay ngươi vì báo thù một con vợ mà làm hư tiếng bảy đời, mất giống trâm anh, nhơ danh hào kiệt, ngươi đã không nhìn chúa còn kể gì cha? Ngươi sống thì hổ với nhân gian, chết thì nhục với ông bà giòng giống. Ta không nhìn đứa phản loạn là con, ngươi đừng gọi la là cha nữa.

Hoàng Phi Hổ bị cha mắng, ngồi trên lưng trâu làm thinh không dám nói lại.

Hoàng Cổn thấy vậy nạt lớn:

– Súc sanh! Ngươi muốn làm con thảo tôi ngay, hay muốn làm tôi loàn con giặc

Hoàng Phi Hổ thưa:

– Xin cha cắt nghĩa hai điều ấy cho con rõ.

Hoàng Cổn nói:

– Như ngươi muốn làm tôi ngay con thảo thì mau xuống yên, nạp mình đặng ta bỏ vào tù xa, giải về Triều Ca trị tội, chuộc lại tiếng xấu muôn đời, còn như ngươi muốn làm tôi loàn, con giặc thì cứ đâm ta một giáo, khi ta chết rồi, mặc ý cho ngươi muốn phản Trụ đầu Châu, làm nhơ danh xú tiết.

Hoàng Phi Hổ nghe nói liền thưa:

– Xin cha đừng bắt tội con, để trẻ xuống yên để cha giải về kinh đô cho đẹp lòng cha.

Dứt lời toan nhảy xuống lưng thần ngưu.

Hoàng Minh lật đật cản lại nói lớn:

– Đừng xuống yên mà mang họa. Bởi Trụ vương vô đạo chẳng kể đến tôi trung, làm nhiều điều thất đức nên bất đắt dĩ chúng ta mới phải như vầy. Ai lại không muốn ngồi hưởng giàu sang, giữ lấy quyền quí, bỏ cái đã có, đi tìm cái chưa có, thật là chuyện đau lòng. Lời xưa nói: Hễ chúa lấy lễ đãi tôi, thì tôi tận ngay thờ chúa. Nay vua chẳng chánh mà bắt tôi phải giữ trung làm sao? Chúng ta đã qua khỏi năm ải, khổ cực đủ điều, lẽ nào chịu chết oan ức.

Hoàng Phi Hổ nghe Hoàng Minh nói, lòng lưỡng lự, ngồi cúi mặt làm thinh.

Hoàng Cổn mắng lớn:

– Hoàng Minh! Ngươi là đứa nghịch tặc. Ta chắc con ta không có lòng quấy, chúng bây xúi giục con ta mới làm phản. Rất đỗi trước mặt ta, các ngươi còn dám cản trở không cho Phi Hổ xuống yên, ấy là các ngươi chọc tức ta đó.

Nói rồi lướt ngựa tới chém Hoàng Minh một đao.

Hoàng Minh giơ búa ra đỡ, và nói:

– Xin Lão tướng quân xét lại, hễ tôi trung phải thờ chúa thánh chứ chúa đã lỗi đạo, trở thành một hôn quân, mà chúng ta cớ theo phò, chẳng những đã mù quáng, mà còn giúp hôn quân có thế lực để hại nước hại dân. Làm một vị tôi thần cúi đầu phò một ông vua hôn ám không xấu hổ sao? Vả lại hôn quân đã giết con gái mình, hại con dâu mình phủ phàng như vậy mà lão tướng không thấy tủi nhục trong lòng là cớ gì?

Hoàng Minh còn muốn nói nữa, nhưng Hoàng Cổn nói giận hét lớn:

– Phản tặc! Ngươi đừng đem ba tấc lưỡi khiêu gan ta.

Hét rồi chém tiếp một đao.

Hoàng Minh đứa búa ra đỡ, và nói:

– Ba anh em Hoàng Phi Hổ là con, ba anh em Hoàng Thiên Lộc là cháu, lão tướng muốn nói thì nói, còn như bọn chúng tôi đây không phải là con cháu gì hết, lão tướng không thể ngăn cấm chúng tôi được.

Dứt lời vung búa đánh với Hoàng Cổn.

Châu Kỷ thấy vậy cũng xốc vào nói:

– Tôi cũng xin chịu lỗi, không lẽ bỏ Hoàng Minh.

Long Hoàn và Ngô Khiêm cũng nóng mặt xông vào đánh tiếp.

Bốn tướng bốn góc vây Hoàng Cổn vào giữa.

Hoàng Phi Hổ thấy bốn tướng vây đánh cha mình, nóng lòng nghĩ thầm:

– Bọn này thật vô lễ, trước mặt ta mà nó dám vây đánh cha ta như vậy?

Bỗng nghe Hoàng Minh kêu lớn:

– Chúng tôi đã cầm chân bác tại đây, sao anh không qua cho khỏi ải, đợi chừng nào nữa?

Hoàng Phi Hổ nghe nói như vậy, hiểu ý bốn tên gia tướng của mình, liền giục thần ngưu khiến bọn gia đinh đẩy xe ra cửa ải.

Hoàng Cổn thấy con cháu mình đi hết, tức giận nhào xuống yên rút gươm toan tự vận. Hoàng Minh liền nhảy xuống ngựa, ôm lấy Hoàng Cổn và nói:

– Xin bác đừng làm vậy.

Hoàng Cổn trợn mắt mắng:

– Chúng bay là quân ăn cướp, xúi giục con tao làm phản, còn làm bộ phui pha.

Hoàng Minh nói:

– Xin bác bớt giận để tôi nói rõ sự tình. Thật chúng tôi đã ngăn cản Võ Thành vương hết sức, nhưng Võ Thành vương cứ một mực làm phản mà thôi. Nếu chúng tôi không theo phò, Võ Thành vương giết chúng tôi đi, nên chúng tôi phải chịu đỡ đợi ra đến ải trước mặt bác, chúng tôi sẽ lập mưu bắt lại đưa về Triều Ca. Lúc nãy tôi nháy bác hoài mà bác không thèm để ý, tôi sợ lậu kế nên hối Võ Thành vương đi cho khuất mắt, để thưa với bác cho tường tận.

Hoàng Cổn nghe nói vội hỏi:

– Bây giờ các ngươi tính kế làm sao?

Hoàng Minh nói:

– Bác lên ngựa chạy theo Võ Thành vương bảo trở lại ải quan rồi cha con sẽ cùng đến Tây Kỳ một thể. Như vậy thế nào Võ Thành vương cũng trở lại.

Hoàng Cổn cười gằn:

– Ngươi là đứa súc sanh, mưốn lừa phỉnh ta nhập bọn.

Hoàng Minh nói:

– Không phải tôi khuyên bác đầu thật, ấy là nói gạt cho Hoàng Phi Hổ trở về thành, rồi bác dọn cơm nước đãi đằng, bốn anh em tôi sắm dây xiềng cho sẵn. Lúc nào bác gõ ly rượu, chúng tôi sẽ ra tay, trói tất cả bỏ vào tù xa, giải về kinh là xong chuyện.

Hoàng Cổn khen:

– Tướng quân thật là người tử tế, không hổ mặt trung lương.

Khen rồi nhảy lên ngựa chạy theo, gọi lớn:

– Bớ Hoàng Phi Hổ, hãy trở lại đây để cha thu góp đồ đạc cùng nhau đến Tây Kỳ luôn, chớ một mình cha ở lại đây thế nào cũng mang tội.

Hoàng Phi Hổ nghe kêu nói nhỏ với hai em:

– Lẽ nào cha mình lại đổi ý mau như vậy?

Hoàng Phi Bưu nói:

– Chắc là kế của Hoàng Minh, chứng ta nên trở lại xem sự việc như thế nào?

Bàn luận xong, Hoàng Phi Hổ truyền đẩy xe trở về thành.

Hoàng Cổn thấy con cháu mình trở về giả cách làm mặt vui truyện dọn cơm nước thết đải, và nói:

– Cha nghĩ lại lời Hoàng Minh nói rất phải. Lẽ nào chúng ta lại đem cái trung mà thờ một bạo chúa. Thôi để cha thu góp đồ đạc rồi cùng theo mấy cha luôn thể.

Sàu người ngồi lại ăn uống, còn bốn tướng hầu hạ hai bên.

Hoàng Cổn đang nâng ly thấy Hoàng Minh đứng gần Hoàng Phi Hổ, bèn gõ vào ly rượu hai lần theo kế hoạch đã định, nhưng Hoàng Minh cứ việc làm lơ không hành động gì cả.

Lúc đó Long Hoàn hỏi nhỏ Hoàng Minh:

– Chúng ta liệu lẽ nào?

Hoàng Minh đáp nhỏ:

– Ngươi và Ngô Khiêm dọn đồ đạc bác lên xe, rồi đốt hai kho lương thảo, đợi ăn uống xong xả chúng ta sẽ đề huề lên ngựa ra đi. Chừng nào bác có hỏi ta, ta sẽ kiếm lời phân giải.

Hai tướng lật đật làm y theo kế. Còn Hoàng Cổn thấy Hoàng Minh không chịu bắt trói Hoàng Phi Hổ, lừa dịp kêu Hoàng Minh đến bên án hỏi riêng:

– Ta gõ vào chung rượu đã hai lần, sao ngươi không ra sức?

Hoàng Minh nói:

– Bốn tướng không đồng một lượt, nếu tôi hành động trước việc không xong.

Xảy thấy quân vào báo:

– Hai kho lương thảo đều bị lửa cháy ngất trời…

Rồi trong lúc lộn xộn, gia binh gia tướng của Hoàng Phi Hổ đều kéo nhau ra khỏi ải, chi còn lại một mình Hoàng Minh.

Hoàng Cổn chắt lưỡi than:

– Ta mắc mưu bọn súc sanh này rồi!

Hoàng Minh nói:

– Cháu thưa thiệt với bác, Trụ vương vô đạo, thường hại kẻ tôi trung. Những kẻ tận trung trước sau gì cũng phải chết. Nếu chúng ta ở lì đợi đến ngày hôn quân giết đi, té ra chúng ta là lũ mất trí sao? Châu Võ vương là kẻ đại nhơn đại độ, đáng mặt minh quân, chúng ta qua đó mà phò tức là bỏ chỗ tối tìm chỗ sáng, kẻ thức thời không thể chê trách chúng ta được. Hiện giờ chúng ta qua đầu Châu coi như là những kế đi lánh nạn mà thôi.

Hoàng Cổn ngẫm nghĩ rồi than:

– Tôi không phải thả con đi làm phản, ngặt vì bạo chúa lỗi đạc không còn bào chữa vào đâu được, nếu tôi có theo con tôi thì cũng chỉ là đi lánh nạn, chớ không phải có lòng phản chúa.

Nói rồi lạy về Triều Ca tám lạy, treo ấn Nguyên soái tại dinh, dẫn ba ngàn tinh binh của mình ra khỏi ải Giới Bài.

Người sau có thơ rằng:

Làm kế đồng ra ải Giới Bài

Hoàng Minh rộng trí lại cao tài

Nào hay Tụy Thủy lừng oai thế

Ðến nỗi anh hùng mắc nạn tai

Tướng giở phép mầu hay bắt chúng

Phận già yếu sức phải thua trai

Na Tra ví chẳng trừ Dư Hóa

Ðâu có vua tôi phá Lộc đài.

Hoàng Cổn dẫn binh mã theo con, ngồi trên ngựa nói với Hoàng Minh:

– Ngươi ngỡ là cứu con ta nhưng thực ra ngươi làm hại cả dòng họ ta hết.

Hoàng Minh hỏi:

– Bác nói vậy là có ý gì?

Hoàng Cổn nói:

– Chúng ta không thể nào thoát khỏi mảnh lưới của Trụ vương được. Cách đây tám mươi dặm có ải Tụy Thủy, tướng giữ ải này là Hàng Vinh, có một người bộ hạ tên Dư Hóa tài phép phi thường ai cũng kiêng nể, nên gọi là Thất thủ Tướng quân. Người này cởi con thú mắt lửa tròng vàng, thường cầm cây Phương thiên họa kích. Ðánh trăm trận trăm thắng. Chúng ta đến đó thế nào cũng bị bắt.

Hoàng Cổn nói dứt lời, nhìn thấy Hoàng Thiên Tường mới lên bảy tuổi, ngồi khóc mếu máo trên lưng ngựa, thì mủi lòng than:

– Kẻ lớn khôn mắc nạn đã đành, đứa con nít chưa rời vú mẹ cũng lâm vào thảm trạng như vậy.

Ðoàn quân của Hoàng Phi Hổ đi gần tới ải Tụy Thủy thì Hoàng Cổn truyền dừng quân lại. Quân thấy vào báo với Hàng Vinh:

– Hoàng Cổn và Võ Thành Vương kéo qua từ ải Giới Bài đến đây.

Hàng Vinh ngồi ngẫm nghĩ cười thầm:

– Hoàng Cổn làm tới chức nguyên soái, chức lớn hơn người thế mà để cho con làm phản, xét cũng nực cười.

Nghĩ rồi truyền nổi trống nhóm chư tướng lại để thương nghị.

Các tướng ứng hầu đủ mặt, Hàng Vinh nói:

– Cha con Hoàng Cổn làm phản, kéo binh mã đến đây. Vậy các tướng phải đem binh ra ngoài thành chận đường chúng nó.

Chư tướng vâng lệnh đi liền.

Bấy giờ Hoàng Cổn nhìn con cháu than:

– Hôm nay con cháu đứng hầu hai bên, ngày mai chẳng biết ai còn ai mất.

Ai nấy nghe nói đều buồn bã vô cùng.

Trời rừng sáng đã có quân vào báo:

– Dư Hóa đem binh khiêu chiến.

Hoàng Cổn liền hỏi:

– Ai dám đi đánh trận này?

Hoàng Phi Hổ thưa:

– Con xin ra trận.

– Nói rồi cầm giáo lên lưng trâu ra khỏi trại gặp một người dữ tợn râu tóc đỏ ngoe, mặt mũi vàng lườm, chân mày rô, con mắt lộ.

Dư Hóa chưa biết mặt Hoàng Phi Hổ, thấy Hoàng Phi Hổ cởi trâu năm sắc, năm chòm râu dài đuột, mắt phụng mày tằm, mão vàng giáo bạc, liền hỏi:

– Tướng nào xuất trận đó?

Hoàng Phi Hổ nói:

– Ta là Võ Thành vương Hoàng Phi Hổ nay Trụ vương lỗi đạo nên ta định sang Tây Kỳ tị nạn. Còn ngươi tên họ là chi?

Dư Hóa đáp:

– Tiểu tướng là Dư Hóa thuở nay chưa biết mặt đại vương, song cũng nghe tiếng đại vương là tôi của Thành Thang, làm quan cực phẩm. Nghĩ lại họ Hoàng giàu sang quyền quý hơn ai hết. Có điều chi không vừa ý mà làm phản Triều Ca.

Hoàng Phi Hổ nói:

– Tướng quân nói cũng phải, song luận đạo quân thần thì chúa phải lấy lễ đãi tôi, tôi phải hết lòng thờ chúa. Chớ nay thiên hạ ai cũng biết Trụ vương là một hôn quân, làm tôi một hôn quân ai mà không xấu hổ. Ðã vậy vua lại ưa nịnh ghét trung, kẻ trung thần lần lượt bị tiêu diệt hết, cho nên lòng người tiêu tán, thiên hạ đảo huyền. Tôi thần nào càng có quyền uy phú quý thì lại càng thấy cảnh đau lòng nhiều hơn. Nay nếu tướng quân lấy tình rộng rãi, cho chúng tôi đến Tây Kỳ lánh nạn thì ơn ấy sau này chẳng quên.

Dư Hóa aói:

– Ðại vương nói sai rồi. Bổn phận tôi giữ ải, đâu dám tư tình? Nếu đại vương không phản, tôi mở cửa rước vào, nhưng nay đại vương đã trở lòng, tôi lẽ nào dám thả? Ðại vương cũng biết phép, tôi không lẽ nói nhiều, xin đại vương xuống yên để chủ tướng tôi giải về Triều Ca cho bệ hạ phân xử, may ra bá quan bảo tấu, lấy công xưa mà chuộc tội ngày nay. Chứ như đại vương muốn qua khỏi ải này, chẳng khác leo cây tìm cá.

Hoàng Phi Hổ nghe nói nổi giận mắng:

– Bốn ải kia ta còn qua khỏi, huống chi một Tụy Thủy quan? Nếu ngươi có tài thì cứ giao đấu với ta.

Nói rồi đâm Dư Hóa một giáo. Dư Hóa đưa kích ra đỡ. Hai tướng đành vùi với nhau bụi bay ngất trời bốn phương mù mịt.

Hoàng Phi Hổ đang giận, nên rán sức bình sanh múa cây giáo bạc tít mù, Dư Hóa đánh không lại giục ngựa chạy dài. Hoàng Phi Hổ đuổi theo gần kịp.

Dư Hóa liền lấy cây phướng trong túi phất lên. Cây phướng ấy là Lục Hồn Phang, phép của ông tiên Nhất Khí ở Bồng Lai truyền cho Dư Hóa.

Cây phướng vừa liệng lên cao liền hóa ra một ngọn khói đen bắt Phi Hổ đi mất. Dư Hóa lại quăng cây phướng ấy vào ải, các tướng bắt Hoàng Phi Hổ trói tức thì.

Thắng trận, Dư Hóa liền rút quân về.

Hàng Vinh hay tin Dư Hóa đã bắt được Hoàng Phi Hổ, liền truyền quân dẫn đến trướng.

Hoàng Phi Hổ vào đứng sững không quỳ.

Hàng Vinh hỏi:

– Triều đình không dám mích lòng ngươi việc gì mà ngươi hành động như vậy?

Hoàng Phi Hổ cười mỉa đáp:

– Ngươi là tướng trấn ngoài ải, quen thói mượn lệnh triều đình làm oai hiếp dân chúng, chớ không rõ trong trào rối loạn đến bực nào. Nay ngươi đã bắt được ta muốn làm gì thì làm, lựa phải nói chi cho nhiều chuyện.

Hàng Vinh nói:

– Ta trấn ải này thì phải giữ bổn phận đón kẻ gian, bắt tôi nghịch, hơi đâu mà nói chuyện với ngươi.

Nói rồi truyền quân giam Hoàng Phi Hổ vào ngục hình, chờ bắt hết cả đoàn sẽ giải về Triều Ca một lượt.

Bên kia Hoàng Cổn sai Hoàng Phi Hổ ra trận, lòng lo lắng không an, đang ngồi trông tin. Bỗng nghe quân báo:

– Dư Hóa bắt đại vương đem về ải rồi.

Hoàng Cổn thất kinh than:

– Súc sanh! Bởi không nghe lời ta lên lập công cho chúng nó.

Kế Dư Hóa lại đem binh đến khiêu chiến, Hoàng Cổn hỏi:

– Có tướng nào dám ra quân chăng?

Hoàng Minh, Châu Kỷ đồng thưa:

– Hai tôi xin xuất trận.

Hai tướng nói rồi xách búa lên ngựa ra khỏi trại điểm mặt Dư Hóa hét lớn:

– Thất phu, ngươi cậy phép tà bắt anh ta, thù sâu như biển.

Nói rồi xốc ngựa tới chém đùa. Dư Hóa đưa kích ra đỡ. Ba tướng đánh nhầu một trận hơn ba mươi hiệp.

Dư Hóa chống cự không lại quay ngựa bỏ chạy. Hoàng Minh, Châu Kỷ đuổi theo, bị Dư Hóa quăng Lục Hồn Phang lên bắt hết đem về dâng cho chủ tướng.

Hàng Vinh truyền đem nhốt vào ngục chung với Hoàng Phi Hổ.

Quân thất trận chạy về báo với Hoàng Cổn hay.

Hoàng Cổn cúi đầu than thở.

Bỗng có quân vào báo:

– Dư Hóa đem quân đến khiêu chiến trước trại.

Hoàng Cổn hỏi:

– Tướng nào dám ra trận nữa chăng?

Hoàng Phi Bưu, Hoàng Phi Báo thưa:

– Hai con xin ra sức báo thù anh.

Hai tướng liền cầm thương lên ngựa, ra trước trận gọi Dư Hóa mắng:

– Dư Hóa! Ngươi cậy có tà thuật bắt anh ta, hai ta nguyện ra đây lấy đầu ngươi mà trả thù.

Nói rồi hiệp lực đánh Dư Hóa hơn hai mươi hiệp, làm cho Dư Hóa bại trận chạy dài. Hai tướng đuổi theo. Dư Hóa cũng dùng phép cũ bắt nạp.

Hàng Vinh truyền giam lại hết.

Còn Hoàng Cổn hay tin hai con bị bắt lòng buồn bực vô cùng. Suốt đêm không hề nhắm mắt.

Trời vừa mờ sáng đã nghe quân vào báo:

– Dư Hóa dẫn quân đến khiêu chiến nữa.

Hoàng Cổn hỏi:

– Ai dám xuất trận?

Long Hoàn và Ngô Khiêm đồng thưa:

– Hai tôi không sợ tà thuật. Xin ra trận báo cừu.

Nói rồi cầm kích lên ngựa xông ra trận, thấy mặt Dư Hóa, nổi giận mắng lớn:

– Tặc tử đừng cậy phép tà hung hăng. Trận này chúng ta quyết xé xác ngươi mà bảo thù.

Ba tướng đánh nhau ba mươi hiệp, Dư Hóa chạy dài, hai tướng đuổi theo cũng bị Dư Hóa dùng phướng bắt sống đem về nạp.

Hàng Vinh truyền đem giam lại một chỗ. Dư Hóa đánh thắng bốn trận liên tiếp bắt được bảy tướng, Hàng Vinh mừng rỡ, dọn tiệc ăn uống, và hiu hiu tự đắc thế nào phen này giải bọn Hoàng Phi Hổ về triều cũng được triều đình thưởng công.

Bấy giờ Hoàng Cổn nghe tin hai tướng vừa ra trận cũng bị bắt nữa. Lòng bối rối nhìn ba đứa cháu đang đứng hầu hạ mình. Ðộng lòng rơi lụy, thầm nhủ:

– Ta tưởng bọn gia tướng họ Hoàng cũng có chút ít tài năng, ngờ đâu chẳng có đứa nào thắng nổi thằng Dư Hóa cả, thế thì có hy vọng gì qua ải Tụy Thủy. Hoàng Phi Hổ thật bất trí, không lượng trước sức mình. Nay đến nỗi này còn biết tính sao đây.

Lại nghe Dư Hóa đến khiêu chiến nữa.

Thứ tôn Hoàng Thiên Lộc bước ra bái ông nội mình, thưa:

– Cháu xin ra trận để trả thù cha, thù chú.

Hoàng Cổn nói:

– Con còn nhỏ tuổi, đánh sao lại Dư Hóa! Rất đỗi cha con mà còn bị chúng bắt kia.

Hoàng Thiên Lộc nói:

– Nay cha, chú con đã bị chúng bắt hết, con còn sống cũng chẳng ích gì, xin ông cho con ra liều sanh tử giữa chiến trận còn hơn.

Hoàng Cổn nhìn cháu, khuyên:

– Cháu có đi phải cẩn thận lắm mới được.

Hoàng Thiên Lộc vâng lệnh cầm thương lên ngựa, ra trước trận mắng lớn:

– Thất phu, ngươi ỷ có phép tà bắt cả gia đình ta, ta quyết với ngươi một còn một mất.

Nói rồi đâm một giáo, Dư Hóa đưa kích ra đỡ liền.

Hoàng Thiên Lộc tuy tuổi nhỏ, nhưng là con nhà tướng, múa cây giáo tợ chong chóng làm cho Dư Hóa không biết đường nào mà đỡ. Thật là một tiểu anh hùng trong thiên hạ vậy.

Người đời sau có thơ khen:

Trên đời xem có một

Dưới thế vẫn không hay

Râu đỏ đừng khoe phép

Mây xanh mới trổ tài

Nghé tơ nào sợ cọp

Beo nhỏ cũng ăn nai

Ðâm xẻ đùi Dư Hóa

Mất vía lại kinh oai.

Hoàng Thiên Lộc thương pháp như rồng, sức mạnh như cọp, đánh Dư Hóa ngẩn ngơ. Vừa đấu được vài mươi hiệp, Hoàng Thiên Lộc trổ tài đâm trúng đùi Dư Hóa một nhát, Dư Hóa kinh hãi giục ngựa chạy ngay.

Hoàng Thiên Lộc nóng trả thù cha, nên đuổi theo lập tức.

Dư Hóa tuy bị thương, song phướng phép hãy còn liền giở miếng cũ, bắt Hoàng Thiên Lộc đem về nạp cho chủ tướng.

Hàng Vinh truyền giam lại một đoàn.

Lúc ấy Hoàng Phi Hổ đang ngồi trong ngục thất buồn bã vì bảy anh em đều bị bắt hết. Bỗng thấy quân gát ngục đưa Hoàng Thiên Lộc vào nữa.

Hoàng Phi Hổ rơi lụy, nói:

– Không ngờ cả gia đình ta đều bị một tay Dư Hóa.

Mọi người đều nghiến răng, hận Dư Hóa vô cùng, còn Hoàng Cổn nghe thì Hoàng Thiên Lộc bị bắt, lòng rối như tơ vò không biết kế gì thoát nạn được, nhắm lại còn có ba ông cháu, khó nỗi xông ra quan ải mà cũng khó lòng trở lại Triều Ca, liền gọi ba ngàn quân sĩ của mình lại, nói:

– Chúng bay hãy góp hết tiền bạc lương thực của ta đem theo hối lộ cho Hàng Vinh, để nó thả chúng bay qua khỏi ải dung thân nơi khác, còn ba ông cháu ta bề nào cũng chết.

Quân sĩ đồng thưa:

– Xin lão gia chớ phiền. Người lành không lẽ trời phụ.

Hoàng Cổn nói:

– Dư Hóa có phép tà chúng ta cự sao lại. Nếu ra trận cho nó bắt thì mất cả thanh danh bấy lâu nay.

Ai nấy đều ngậm ngùi, không biết kế gì bàn tính nữa.

Hoàng Cổn thấy hai đứa cháu mình đứng một bên ủ rũ, lòng không nỡ, liền nói:

– Thôi hai cháu chớ buồn, để ông hạ mình năn nỉ với Hàng Vinh xin tha mạng sống cho hai cháu. Ðược như vậy ông có chết cũng đành, dòng họ Hoàng còn người hương hỏa.

Nói rồi cất mão, thay áo trắng mặc đồ hèn, dắt hai đứa cháu tới cửa ải, gọi quân giữ cửa nói:

– Chúng bay vào bẩm với Hàng Tổng binh, có ta là Hoàng Cổn xin vào ra mắt.

Quân vào báo.

Hàng Vinh cười thầm:

– Hoàng Cổn trước đây quyền cao chức trọng, lão là ngoại thích của vua, nhưng nay lão thả con làm phản triều đình thì lão có tội liên can. Ðã là một tội lớn thì còn quyền lực gì nữa. Dù lão có đến đây nói gì ta cũng chẳng cần đếm xỉa đến lời nói của lão nữa.

Nói rồi dàn binh nghiêm chỉnh, bước ra cửa ải mà xem, thấy Hoàng Cổn quì trước, hai cháu quì sau, mặt mày ủ dột.

Bài 34: Võ Thành Vương ra mắt Tử Nha

Hoàng Cổn dẫn hai đứa cháu đến trước ải quì lạy, nói với Hàng Vinh:

– Hoàng Cổn cúi ra mắt quan Tổng binh mà chịu tội.

Hàng Vinh đáp lễ rồi nói:

– Lão tướng quân! Việc này là việc triều đình, rất trọng tôi chẳng dám tự chuyên. Lão tướng có điều gì muốn nói, xin trình bày thử.

Hoàng Cổn nói:

– Họ Hoàng tôi phạm tội chết đã đành, không thể dung được. Nhưng có việc này quan Tổng binh có thể châm chế được. Nếu quan Tổng binh mở lòng nhân đức thì cha con tôi dầu chết cũng mang ơn.

Hàng Vinh nói:

– Lão tướng muốn xin gì cứ tỏ bày nghe thử.

Hoàng Cổn nói:

– Con tôi gây nên tội, tôi làm cha có chết cũng đành lòng. Song nghĩ họ Hoàng mấy đời trung nghĩa, có công lao với nước nhà, nay chẳng may mắc nạn, nếu để chết tuyệt tộc cũng thảm thương. Bởi vậy tôi đến mong nhờ Tướng quân xin thương trẻ thơ ngây vô tội rộng dung cho đứa cháu bảy tuổi của tôi qua khỏi ải để sau này hương lửa cho họ Hoàng.

Hàng Vinh đáp:

– Lão tướng quân nói lầm rồi, vả tôi cầm quyền quan ải, trấn thủ địa đầu, lẽ nào đi vị tình riêng mà quên phép chánh? Nếu tôi muốn được lòng lão tướng thì phạm luật triều đình. Hễ thương người thì hại mình, thà chịu mất lòng lão tướng để khỏi tội sau này.

Hoàng Cha nói:

– Xin Tổng binh xét lại, cứ nạp bốn cha con tôi và thằng cháu lớn về Triều Ca cũng đũ rồi, còn thằng Thiên Tường là đứa con nít mới lên bảy tuổi, tha nó cũng chẳng can chi.

Hàng Vinh nói:

– Tôi chỉ có quyền bắt mà không có quyền tha. Lão tướng muốn gì thì cứ đợi về Triều Ca trước mặt vua mà xin.

Hoàng Cổn thở dài nói:

– Tổng binh nở nào hẹp lượng như vậy. Lời xưa có nói: Kẻ có quyền cao mà hẹp lượng ví như vào núi báu mà lại về không. Người đời mấy ai được vô sự trăm năm. Vả chăng họ Hoàng tôi không phải khi không mà tạo phản. Tôi e chẳng bao lâu tai nạn sẽ đến bất cứ một kẻ nào hiện là trung liệt, thờ vua.

Hàng Vinh nói:

– Lão tướng không cần phải chỉ dạy tôi nhiều. Chừng nào tôi làm phản qua đất Tây Kỳ sẽ thả Hoàng Thiên Tường ra.

Hoàng Cổn năn nỉ hết sức, Hàng Ving cũng nhất định không nghe.

Hoàng Cổn nổi giận nói với hai cháu:

– Vì thương hai cháu, ông đã hạ mình năn nỉ hết lời, nhưng Hàng Vinh là đứa mặt người dạ thú. Thôi ba ông cháu chúng ta cứ vào ngục, để nó giải về triều, dù chết cũng thơm danh hơn là xin xỏ quân thất phu vô đạo.

Hoàng Phi Hổ thấy cha mình dắt hai đứa cháu vào ngục vùng khóc lớn lên:

– Không dè hôm nay lại đúng như lời cha nói hôm trước. Thật tội con đáng chết làm hư tiếng trọn mấy mươi năm.

Hoàng Cổn nói:

– Ngươi đã làm lỡ việc, còn ăn năn làm gì nữa. Thân làm một vị vương ở tại triều, cầm đầu các tướng lảnh trong nước, dù muốn phản Trụ đầu Châu ít ra cũng phải sắp đặt trong ngoài cho gọn, đưa những tướng tâm phúc của mình ra trấn ải ngoài để lúc ra đi khỏi bị ai ngăn trở. Ðàng này ngươi chỉ biết tức tối hôn quân giết vợ mình vụt ra đi, không nghĩ gì nguy hiểm như thế còn gì bất trí hơn.

Hoàng Phi Hổ nghe cha mắng, biết lỗi làm thinh, lòng thầm trách các gia tướng:

– Cũng tại bọn này đốc thúc, trong lúc bối rối ta đã quên tất cả. Ðến nay mới rõ lời cha ta là đúng.

Còn Hàng Vinh sau khi bắt trọn gia đình Hoàng Phi Hổ liền cướp hết báu vật, đoạt hết quân lương, làm mấy chiếc tù xa sắp đặt giải về Triều Ca lãnh thưởng. Quan quân dọn tiệc ăn mừng, suốt ngày đêm vui cười không dút.

Hôm sau, Hàng Vinh chọn tướng giải tù xa.

Dư Hóa nói:

– Từ đây đến Triều Ca đường sá xa xôi tôi phải ra tay giải tù mời chắc chắn.

Hàng Vinh nói:

– Nếu tướng quân chịu khó với ta phen này thì ta yên lắm không còn lo lắng gì nữa.

Nói rồi vào trướng nghỉ ngơi.

Rạng ngày, Hàng Vinh cấp ba ngàn nhân mã theo Dư Hóa, giải mười một phạm nhân. Các tướng canh dọn tiệc tiễn hành đồng theo đưa Dư Hóa hai dặm đường.

Dư Hóa kéo quân ra đi giữa bầu không khí tưng bừng náo nhiệt.

Ði khỏi tám mươi dặm thì đến ải Giới Bài. Hoàng Cổn ngồi trong tù xa thấy quan ải của mình thì ngậm ngùi rơi lụy. Dân chúng trong thành đều kéo nhau ra xem, ai nấy thương tình che mắt khóc.

Dư Hóa truyền tấn binh, thẳng đến ải Xuyên Vân.

Nói về núi Càng Nguyên, động Kim Quang, ông Thái Ất đang ngồi trên giường Bích du, cảm thầy trong lòng hồi hộp, liền đánh tay xem thử việc gì, thấy gia quyến họ Hoàng mắc nạn, thì nghĩ:

– Họ Hoàng phản Trụ đầu Châu là thuận theo lẽ trời, nay rủi mắc nạn, lẽ nào ta biết mà làm ngơ không cứu.

Liền gọi Kim Hà đồng tử truyền rằng:

– Hãy mời sư huynh ngươi ra đây cho ta dạy việc.

Kim Hà đồng tử tuân lệnh, thẳng đến vườn đào, thấy Na Tra đang tập võ liền gọi lớn:

– Thầy cho mời sư huynh đến lập tức.

Na Tra vội vào lạy trước giường, thưa:

– Chẳng hay thầy dời đệ tử đến dạy việc chi?

Thái Ất nói:

– Cha con Hoàng Phi Hổ đều mắc nạn tại ải Xuyên Vân, ngươi mau xuống đó cứu người đưa qua ải Tụy thủy rồi trở về đây.

Na Tra tánh ưa chinh chiến, nghe thầy sai đi đánh người thì mừng lắm, liền cầm giáo lên xe Phong Hỏa, thẳng xuống ải Xuyên Vân.

Người sau có bài thơ nói việc Na Tra xuống Xuyên Vân ải như sau:

Chân đạp xe linh thấu chín trùng

Càng nguyên phép báu tặng anh hùng

Ào ào gió lửa bay như chớp

Thẳng đến Xuyên Vân lẹ chẳng cùng.

Chẳng mấy chốc Na Tra đã đáp xuống trước ải Xuyên Vân, đứng trên một gò ruộng, nhìn quanh bốn phía, thấy một đạo quân cờ xí rộn ràng, gươm giáo lởm chởm.

Na Tra nghĩ thầm:

– Mình là kẻ vô can, đón đánh chúng mà không có duyên cớ thì lạt lẽo lắm. Vậy phải kiếm chuyện gây rắc rối cho chúng nổi xung rồi mới đánh thì thú vị hơn.

Nghĩ rồi đạp xe ra đón giữa đường, hát nghêu ngạo:

Sống lâu như núi mấy muôn đời

Chỉ sợ thầy ta chẳng sợ trời

Hôm trước lão quân đi lỡ bước

Cục vàng mãi lộ tặng cầm hơi.

Na Tra đón đường ca hát, quân sĩ không đi được trở lại báo với Dư Hóa:

– Có một tướng đứng trên xe đón đường, chúng tôi không qua được.

Dư Hóa truyền lệnh đồn binh giục thú chạy đến xem.

Na Tra liền hỏi:

– Tướng nào đến làm gì vậy?

Dư Hóa nói:

– Sao ngươi chặn đường không cho quân ta đi?

Na Tra nói:

– Ta chiếm cứ đất này đã lâu, bất luận vua quan hay dân sự ai đi qua cũng phải nạp tiền mãi lộ. Nếu ngươi muốn cho đoàn quân đi qua đây thì cứ đếm đầu người mà tính tiền.

Dư Hóa cười ngất nói:

– Ta là quan Tiên phuông, họ Dư tên Hóa, là bộ hạ của Hàng Vinh làm chức Tổng binh tại ải Tụy thủy. Nay ta vâng lệnh giải mấy tên phản tặc họ Hoàng về Triều ngươi tài cán chi mà dám đón đường chận ngõ. Mau tránh ra kẻo mất mạng.

Na Tra nói:

– Ôi chà, ta tưởng ngươi kéo quân đi đánh giặc, chớ ngươi là quan giải tội nhân thế nào cũng ăn nhiều của hối lộ, vậy thì cứ tính đầu người trả gấp hai tiền mãi lộ ta mới chịu.

Dư Hóa nổi giận hét lớn:

– Súc sanh, ta hơi đâu mà nghe ngươi nói xàm.

Nói rồi đâm Na Tra một kích. Na Tra cầm giáo gạt ngang, đánh được ít hiệp. Na Tra sức mạnh như thần, Dư Hóa thất kinh không dám chống cự, quay thú chạy dài.

Na Tra hét lên:

– Ngươi trốn đàng nào cho khỏi?

Vừa nói vừa đạp xe đuổi theo. Dư Hóa mừng thầm lấy Lục Hồng Phang quăng lên, quyết bắt Na Tra, chẳng ngờ Na Tra đưa tay túm lấy cây phướng phép giắt vào lưng gọn trơn.

Dư Hóa mặt biến sắc, Na Tra kêu lớn:

– Dư Hóa, ngươi còn phép chi nữa không?

Dư Hóa mất phép, túng thế phải quay lại đánh liều.

Na Tra nghĩ thầm:

– Thầy ta dặn xuống đây cứu họ Hoàng, nếu ham giao đấu để chúng giết mất cả gia quyến họ Hoàng thì nguy.

Nghĩ rồi lấy Kim Chuyên quăng lên.

Dư Hóa thấy hào quang chói sáng thất kinh chưa biết tránh né ra sao thì đã bị Kim Chuyên đánh vào mặt, phun máu, ôm lưng thú chạy dài.

Na Tra không đuổi theo, quay xe lại đánh đuổi đoàn quân giải tù xa chạy tán loạn.

Na Tra thấy mấy người ngồi trong tù xa, tóc bay phất phới, lệ nhỏ dầm dề, liền gọi lớn:

– Ai là Hoàng tướng quân?

Hoàng Phi Hổ hỏi lại:

– Ân nhân là ai vậy?

Na Tra nói:

– Tôi là học trò của ông Thái Ất ở núi Càng Nguyên, động Kim Quang. Thầy tôi biết các ông mắc nạn, nên sai tôi xuống giải cứu.

Hoàng Phi Hổ mừng rỡ tạ ơn.

Na Tra lấy Kim Chuyên đập bể tù xa, cứu các nạn nhơn ra khỏi. Ai nấy đều tạ ơn.

Na Tra nói:

– Các ông thủng thỉnh mà đi. Tôi sẽ theo đưa các ông qua khỏi ải Tụy thủy.

Các tướng nói:

– Ơn tướng quân giải cứu, chúng tôi chẳng bao giờ dám quên.

Na Tra nói:

– Chúng ta ngày nay chưa quen biết. Nhưng sau nay còn nhiều gặp gỡ.

Mừng được thoát nạn, các tướng đều hăm hở cầm thương lên ngựa trở lại ải Tụy Thủy.

Bấy giờ Dư Hóa bị Na Tra đánh một Kim Chuyên, hộc máu chạy trở về ải Tụy Thủy. Nhờ con thú chạy mau nên đến nơi chẳng mấy chốc.

Hàng Vinh đang ngồi uống ruợu trong dinh, bàn chuyện họ Hoàng với chúng tướng, xảy nghe báo Dư Hóa trở lại thì kinh hải nghĩ thầm:

– Dư Hóa mới đi sao lại trở về, chắc có việc gì biến loạn.

Liền đòi Dư Hóa vào dinh hỏi:

– Sao Tướng quân trở lại? Ta xem hình như Tướng quân bị thương.

Dư Hóa quì thưa:

– Chúng tôi giải phạm nhân gần đến ải Xuyên Vân, xảy gặp một người đứng trên hai bánh xe. Người ấy không xưng họ tên, chỉ ca lảm nhảm trong miệng và đón đầu binh đòi tiền mãi lộ. Tôi tức giận giao đấu với người ấy mấy hiệp, chẳng ngờ người ấy sức mạnh phi thường, tôi đánh không lại, phải dùng Lục Hồng Phang ra bắt. Nhưng người ấy có tài thâu mất phép báu của tôi. Tôi trở lại đánh nữa bị gã liệng phép mầu đánh tôi gần bể mặt, nhờ con thú của tôi chạy nhanh tôi mới về được đến đây, chớ nếu là ngựa thường thì bỏ mạng rồi.

Hàng Vinh hỏi:

– Còn cha con Hoàng Phi Hổ thì thế nào?

Dư Hóa thưa:

– Thân tôi chạy thoát chết, không hiểu thế nào nữa.

Hàng Vinh giậm chân than:

– Công lao chúng ta rất nhiều nhưng lại không cầm được phản thần. Nếu Thiên tử hay được việc này thì tội chúng ta chẳng nhỏ.

Các tướng đồng thưa:

– Chúng tôi nhắm sức Hoàng Phi Hổ không thể qua khỏi ải, cũng không dám trở lại Triều Ca. Xin Tổng binh cho lệnh thủ thành, kẻo quân gian thừa cơ đoạt ải.

Các tướng đang bàn tính, bỗng có quân vào báo:

– Ngoài thành có một tướng cỡi xe, cầm giáo, gọi Dư tướng quân ra đấu chiến.

Dư Hóa nói:

– Ấy là người đã đánh tôi chạy đó.

Hàng Vinh nổi giận truyền quân đồng kéo ra thành, bổn thân cầm gươm đi trước.

Na Tra xem thấy Hàng Vinh đội mão vàng, cỡi ngựa kim, cầm thương sắt, mặc áo đỏ, nịt đai ngọc, liền giục lẹ đến.

Hàng Vinh hỏi:

– Ngươi là người nào mà dám đến cửa ải?

Na Tra nói:

– Ta là Na Tra, học trò của ông Thái Ất, vâng lệnh thày xuống cứu họ Hoàng. Vì ta chưa đánh chết Dư Hóa nên phải đến đây.

Hàng Vinh nói:

– Ngươi cả gan dám cướp tù xa, còn dám đến đây sanh sự?

Na Tra nói:

– Nhà Thương đã hết số, chúa Tây Kỳ sắp ra đời. Dòng họ Hoàng phản Trụ đầu Châu là hợp với khí số trời đất, sao ngươi dám bắt.

Hàng Vinh nổi giận lướt ngựa tới đánh liền. Cờ phất trống rung tướng vây, binh ó, làm rộn cả chiến trận.

Na Tra thương pháp thần, múa giáo vù vù không hề nao núng.

Hàng Vinh đang đánh với Na Tra, xảy thấy anh em Hoàng Phi Hổ xốc tới quyết bắt cho được Hàng Vinh để rửa hận.

Dư Hóa gượng gạo đưa binh ra cự.

Na Tra thấy Hoàng Phi Hổ theo tới liền quăng cục Kim Chuyên lên, đánh trúng vào kính hộ tâm của Hàng Vinh bể nát.

Hàng Vinh kinh hãi chạy dài.

Dư Hóa hét lớn:

– Na Tra chớ hiếp chủ ta.

Nói rồi xông vào hổn chiến.

Na Tra quăng Càn Khôn Quyện lên, đập Dư Hóa gãy tay, lòi xương cánh. Dư Hóa gần sa xuống đất, liền giục thú tìm đàng chạy trốn.

Na Tra lấy ải Tụy Thủy, còn Hoàng Phi Hổ và các tướng rượt quân chạy như ong.

Vào ải rồi, anh em Hoàng Phi Hổ kiểm điểm quân lương, thâu lại những báu vật và lương thảo mà mình đã bị mất, tuyển lại ba ngàn binh đã theo mình từ ải Giới Bài, cùng nhau đề huề lên đường sang Tây Kỳ.

Na Tra đưa tới núi Kim Kê thì từ giã.

Hoàng Phi Hổ và các tướng đồng nói:

– Chúng tôi nhờ ơn Công tử giải nạn, nếu sau này gặp nhau, nguyện kết cỏ ngậm vành.

Na Tra nói:

– Các tướng nay về đầu Châu, ngày sau chúng ta còn gặp gỡ. Tôi cũng sẽ xuống Tây Kỳ phò Châu chúa, khi ấy sẽ xum vầy.

Các tướng từ biệt. Na Tra đạp xe Phong Hỏa trở về núi Càng Nguyên.

Hoàng Phi Hổ dẫn ba ngàn gia binh, gia tướng cũ, bảo hộ cha già con trẻ hiệp đoàn trải qua non nước xa xôi.

Có bài thơ người sau như vầy:

Ðã qua năm ải chẳng lo chi

Lặn suối trèo non có ngại gì?

Từ ấy Tử Nha binh đã động

Ðể xem các nẻo phạt Tây Kỳ.

Ðoàn người của Hoàng Phi Hổ đi khỏi núi Thú Dương, qua núi Ðào Hoa, núi Yên Sơn, rồi đến núi Tây Kỳ. Từ đó đến Tây Kỳ còn chỉ có bảy mươi dặm.

Hoàng Phi Hổ truyền đóng trại lại nghỉ ngơi và thưa với cha:

– Con xin vào Tây Kỳ trước yết kiến Tử Nha xem sự việc thế nào. Nếu Võ Vương dùng chúng ta thì con trở lại dẫn binh tướng vào thành, còn không cha con mình sẽ tính phương khác.

Hoàng Cổn nói:

– Con tính như vậy phải lắm.

Hoàng Phi Hổ mặc đồ trắng, lên yên thẳng đến Tây Kỳ, dọc đường ngắm phong cảnh tốt tươi nhân dân thuần hậu, già trẻ kính vì, phong tục thanh cao.

Hoàng Phi Hổ nhủ thầm:

– Nhiều người khen đất Tây Kỳ có Thánh nhân, thật quả không sai. Ấy là đất Thuấn trời Nghiêu.

Hoàng Phi Hổ vào thành, hỏi thăm dinh Khương Thừa Tướng.

Quân trong thành trông thấy liền dẫn Hoàng Phi Hổ đến nơi.

Hoàng Phi Hổ nói với những tên quân gác cổng:

– Các ngươi vào bẩm giùm với Thừa Tướng có Hoàng Phi Hổ từ Triều Ca đến đây xin ra mắt.

Nói rồi đưa một lá đơn đệ nạp. Quân hầu vào báo.

Tử Nha xem rồi, nghĩ thầm:

– Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ có việc gì đến đây ra mắt?

Liền sửa soạn áo mão chỉnh tề ra đón vào.

Hoàng Phi Hổ trông thấy Tử Nha liền làm lễ ra mắt, Tử Nha đáp lễ và nói:

– Ðại vương đến phủ tôi trễ tiếp nghinh, xin rộng lòng miễn chấp.

Hoàng Phi Hổ nói:

– Tôi là người mắc nạn, nay bỏ Thương về Châu khác nào chim đã mất rừng, xin đỗ nhờ một nhánh, như Thừa Tướng chẳng bỏ, tôi nguyện cảm đức vô cùng.

Tử Nha mời ngồi.

Hoàng Phi Hổ nói:

– Tôi là kẻ mạt tướng của nhà Thương ruồng bỏ, dám đâu sánh vai cùng Thừa Tướng.

Tử Nha nói:

– Tôi tuy nay làm Thừa Tướng nhưng trước kia là người dưới tay của Ðại Vương. Ðại Vương chớ nên khiêm nhường thái quá.

Hoàng Phi Hổ thấy Tử Nha thiệt tình hậu đãi, xá một cái, rồi ngồi ghé sang một bên.

Tử Nha hỏi:

– Ðại Vương có điều gì bực tức mà bỏ Trụ Vương?

Hoàng Phi Hổ nói:

– Trụ Vương mồi ngày mỗi vô đạo không còn kể gì đạo thần tử nữa, vừa rồi nghe lời Ðắt Kỷ hiếp vợ tôi bỏ mình, Hoàng Quí Phi đến can gián cũng bị Trụ Vương bênh Ðắt Kỷ ném xác xuống Lộc đài. Tôi nghĩ rằng vua chẳng chính thì tôi đầu ngoại quốc. Ấy cũng là lẽ thường, nên tôi bỏ Triều Ca thoát qua năm ải đến đây xin làm trâu ngựa. Nếu Thừa Tướng mà dùng, không chê kẻ bất tài thiếu trí thì chúng tôi xin đội ơn.

Tử Nha mừng rỡ nói:

– Nếu Ðại Vương bằng lòng ở đây giúp sức thì Võ vương may mắn biết chừng nào. Vậy xin đại vương ra nghỉ đỡ ngoài công quán, chờ tôi vào tâu lại.

Hoàng Phi Hổ từ giã lui ra ngoài quán dịch, còn Tử Nha vào đền Hiển thánh ra mắt Võ vương.

Bấy giờ Võ vương ra ngồi trên điện, thấy có quan đương giá vào tâu:

– Có Thừa Tướng đến hầu việc.

Võ Vương truyền chỉ mời vào.

Tử Nha làm lễ xong, Võ vương phán:

– Tướng Phụ ra mắt quả nhơn có việc chi?

Tử Nha tâu:

– Chúa Công có việc vui mừng lắm! Nay Võ Thành vương Hoàng Phi Hổ bỏ Trụ đầu Châu ấy là điềm Tây Kỳ làm chúa thiên hạ.

Võ Vương hỏi:

– Hoàng Phi Hổ có phải là dòng quốc thích nơi Triều Ca không?

Tử Nha tâu:

– Ðúng vậy. Xưa tiên vương thường nói, khi ở Dũ Lý ra nhờ ơn Hoàng Phi Hổ mới thoát nạn, nay Hoàng Phi Hổ về đầu phải lấy lễ mà hậu đãi.

Võ vương nhớ lại lời Văn vương trước kia liền truyền chỉ cho mời.

Hoàng Phi Hổ được lệnh mời vào, vội quì lạy, tâu:

– Tôi là Hoàng Phi Hổ kẻ mắc nạn, xin chúc đại vương muôn tuổi.

Võ vương đáp lễ và nói:

– Quả nhơn mộ danh tướng quân đã lâu, vì tướng quân danh vang trong thiên hạ, ân trải bốn phương, ai cũng mến đức, khen tài. Ngày nay quả nhơn được gặp mặt thì may mắn biết chừng nào.

Hoàng Phi Hổ tâu:

– Nhờ đức Ðại Vương dung nạp người cô thế, lánh dữ tìm lành, chúng tôi nguyện rán sức mà báo đền ơn chúa.

Võ Vương phán hỏi Tử Nha:

– Xưa Hoàng tướng quân làm chức gì?

Tử Nha tâu:

– Làm chức Trấn quốc Võ Thành vương.

Võ vương phán:

– Nay quả nhơn cải đi một chữ, phong làm Khai quốc Võ Thành vương.

Hoàng Phi Hổ quỳ lạy tạ ơn.

Võ vương truyền yến tiệc thết đãi.

Trong bữa tiệc, Hoàng Phi Hổ thuật lại chuyện Trụ Vương lỗi đạo cang thường.

Võ vương nói:

– Vua tuy chẳng ngay, tôi cũng phải chính. Ta cốt ở cho trọn đạo thì thôi.

Kế đó Võ vương truyền Tử Nha xây cất dinh thự cho Hoàng Phi Hổ.

Tử Nha tuân lệnh thi hành.

Tiệc mãn ai nấy ra về.

Hôm sau, Hoàng Phi Hổ vào đền lạy tạ và tâu với Võ vương:

– Cha tôi là Hoàng Cổn, em ruột tôi là Phi Báo, Phi Bưu, con tôi là Thiên Lộc, Thiên Tước, Thiên Tường, em bạn tôi là Hoàng Minh, Châu Kỷ, Long Hoàn, Ngô Khiêm, độ ngàn gia đinh và ba ngàn nhơn mã, còn đang đóng trại ngoài Kỳ Sơn, chưa dám vào một lượt.

Võ Vương phán:

– Nếu có Lão tướng quân theo nữa, xin rước vào vào thành, còn các binh tướng tùy tùng, y như chức cũ.

Hồi 35: Triều Điền đem binh thám thính

Nhắc lại Thái Sư Văn Trọng từ khi theo Hoàng Phi Hổ đến ải Lâm Ðồng, bị Thanh Hư đạo nhân vải thần sa lừa phỉnh nên kéo binh trở lại.

Khi Văn Trọng theo đuổi gần đến Triều Ca thì đạo nhơn thâu sa biến mất.

Bá quan ra tiếp đón, hỏi thăm công việc Võ Thành vương, Thái Sư Văn Trọng thuật lại đầu đuôi câu chuyện, ai nấy đều ngơ ngác không rõ vì sao cả.

Văn Trọng nghĩ thầm:

– Dầu Hoàng Phi Hổ có trốn ở đâu nữa thì bên tả có ải Thanh Long, do Quế Phương ngăn trở. Bên hữu có ải Giai Mộng, do tứ tướng trấn giử, còn đường đi Tây Kỳ phải qua năm ải là ải Lâm Ðồng, Ðồng Quan, Xuyên Vân, Giới Bài và Tụy Thủy. Hoàng Phi Hổ dầu có cánh bay lên trời cũng khó lắm.

Bỗng nghe quân báo:

– Tiêu Ngân mở ải Ðồng Quan, chém Trương Phụng, đưa Hoàng Phi Hổ ra khỏi cửa.

Văn Trọng nghe báo thất kinh, kế một tốp khác vào báo nữa:

– Hoàng Phi Hổ giết Trần Ðồng, ra khỏi ải Lâm Ðồng.

Lại có một số quân khác vào báo:

– Hoàng Phi Hổ giết Trần Ngô vượt ải Xuyên Vân rồi.

Thái Sư Văn Trọng ngồi chết điếng chưa kịp mở miệng thì đã nghe quân vào báo nữa:

– Hoàng Cổn theo làm phản, bỏ ải Giới Bài rồi.

Rồi lại thấy quân ở Tụy Thủy chạy về trình một phong thư của Hàng Vinh.

Văn trọng vội xé thư ra xem, rồi nổi giận nói lớn:

– Tiên vương thác cô ta gìn giữ giang sơn, không dè đến nay vua bất minh, thần bất chánh, làm loạn bốn phương. Ðông Bá Hầu, Nam Bá Hầu làm phản trước, rồi đến giặc dậy trong thành, khiến Võ Thành vương bội quân phản chúa. Ấy là điềm trời đã định, nay hưng vong chưa chắc, thành bại khó lường. Tuy nhiên bổn phận ta không thể phụ lời thác cô của thiên tuế.

Nói rồi truyền quân gióng trống nhóm họp các tướng luận bàn. Các tướng ứng hầu đủ mặt. Văn Trọng nói:

– Nay Hoàng Phi Hổ đầu Châu ắt sanh loạn. Ý ta muốn đem binh vấn tội, các quan tính lẽ nào?

Quan Tổng binh Lỗ Hùng thưa:

– Ðông Bá Hầu đang đánh ải Du Hồn, Ðậu Dung chống cự không nổi. Nam Bá Hầu đánh ải Tang Sơn, Cửu Công ngồi đứng không yên. Nay Hoàng Phi Hổ đầu Châu tuy có thể thêm một mũi giặc, nhưng Thái Sư chớ nên nóng giận mà gây thêm việc can qua. Ðang lúc này kho lẫm chưa đầy lương tiền chẳng đủ Nếu Cơ Phát có cất binh thì đã có bảy ải ngăn ngừa. Xin Thái Sư xét lại cần phải cân nhắc lúc tiến lúc thủ thì mới trị an thiên hạ.

Văn Trọng nói:

– Tướng quân luận cũng phải, song Tây châu thế đang mạnh, lại có Khương Tử Nha cầm đầu, nếu không liệu trước để đến chừng chúng nó đủ cánh đủ vi khó mà trừ được.

Lỗ Hùng thưa:

– Nếu Thái Sư nghi ngại xin sai vài tướng đi thám thính Tây Kỳ. Nếu thấy chúng êm đi thì thôi, còn muốn cử sự thì ta sẽ tính trước.

Văn Trọng khen phải và hỏi các tướng:

– Ai dám đến Tây Kỳ thám thính?

Cựu thánh tướng quân là Triều Ðiền bước ra thưa:

– Mạc tướng xin lĩnh mạng đến Tây Kỳ thăm dò tình hình, vì tôi có một người em là Triều Lôi chẳng sợ hang hùm nọc rắn.

Văn Trọng thấy anh em Triều Ðiền tình nguyện, liền cấp cho ba muôn binh mã và lương thực để tùy nghi ứng dụng.

Người sau có thơ rằng:

Muốn dọ binh tình tại cõi Tây

Cất quân ba vạn kéo như mây

Tử Nha kế nhiệm ngừa đôi nẻo

Bắt quách hai chàng trói một dây.

Triều Ðiền, Triều Lôi dẫn ba vạn binh thám thính, vượt khỏi năm ải, đến Tây Kỳ đóng trại.

Tử Nha đang ngồi trong phủ bỗng có quân thám thính về báo:

– Binh Triều Ca kéo đến ba vạn, đóng cách Tây môn mười dặm không rõ việc chi.

Tử Nha cũng ngạc nhiên, không rõ vì đâu có chuyện lạ lùng như vậy, liền tập chư tướng và nói:

– Không biết việc gì Trụ vương sai tướng kéo binh đến chiếm đóng nước ta.

Các tướng đều ngơ ngác, không ai đoán hiểu ra sao cả.

Tử Nha ngồi làm thinh bấm trán suy nghĩ.

Bấy giờ Triều Ðiền truyền quân đóng trại xong, bàn luận với em rằng:

– Nay chúng ta vâng lệnh Thái Sư, đến dò xem hư thiệt. Té ra chúng nó thờ ơ không phòng thủ, ta thừa cơ đánh thốc vào thành, nếu thắng trận thì lập được công to.

Triều Lôi khen:

– Anh tính vậy phải lắm.

Hai anh em liền cầm đao lên ngựa, kéo binh đến trước thành khiêu chiến.

Ðang ngồi ngẫm nghĩ, có quân vào báo:

– Có tướng Trụ đến ngoài thành khiêu chiến.

Tử Nha hỏi:

– Có ai thay mặt ta ra trận để chất vấn việc này cho minh bạch?

Nam Cung Hoát thưa:

– Tôi xin làm nhiệm vụ ấy cho.

Tử Nha liền cấp một đạo binh mã.

Nam Cung Hoát cầm đao lên ngựa kéo quân ra khỏi cửa thánh hỏi lớn:

– Tây Kỳ chúng tôi không có lỗi gì, sao thiên tử vô cớ sai tướng đến chinh phạt?

Triều Lôi lướt ngựa tới, nói:

– Ta vâng chỉ Thiên tử, phụng mệnh Thái Sư đến vấn tội Cơ Phát, vì lẽ nào đám tự ý xưng vương, lại dung nạp Hoàng Phi Hổ là tôi phản chúa. Ngươi hãy vào thưa với chúa ngươi mau đi dẫn Hoàng Phi Hổ ra đây mới khỏi tội.

Nam Cung Hoát cười lớn nói:

– Triều Lôi! Tội Trụ Vương kể sao cho hết nào giết Hoàng Sở phụ người có công trận, chém Nguyên Tiến xử tệ công thần, làm Sái Bồn hại cung nga, chế Bào Lạc đốt quan gián nghị. Mổ tim chú làm thuốc, cất Lộc đài hại dân, hiếp vợ tôi bỏ mạng, quăng thứ hậu dập xương, can thường đổ nát, tôi chúa loạn luân. Còn chúa ta ngồi trấn Tây Kỳ, giữ theo phép nước, vua lành tôi thảo chia ba phần thiên hạ, nhập hai cõi giang sơn. Nếu ngươi cất binh đánh vô cớ, ta e phải thiệt mạng nhơ danh.

Triều Lôi nổi giận vỗ ngựa tới chém Nam Cung Hoát.

Nam Cung Hoát đưa đao ra đỡ.

Ðánh được ba chục hiệp, Triều Lôi đuối tay bị Nam Cung Hoát bắt sống quăng xuống ngựa truyền quân trói.

Nam Cung Hoát kéo binh vào thành ra mặt Tử Nha và thưa:

– Triều Lôi đến đánh Tây Kỳ, tôi đã bắt sống được, xin đem nạp cho Thừa Tướng định liệu.

Tử Nha truyền dẫn tới, quân sĩ vâng lịnh dẫn Triều Lôi đến trước đền.

Triều Lôi vào đứng chẳng chịu quỳ.

Tử Nha nói:

– Ngươi đã bị bắt sao không quỳ xuống mà chịu tội bảo toàn tánh mạng.

Triều Lôi trợn mắt nói:

– Ngươi bất quá là đứa bán bột, đan gàu, còn ta là một bậc đại tướng đường đường, lẽ đâu quỳ lạy ngươi để cầu khẩn.

Tử Nha sợ để Triều Lôi nói dai, truyền đem chém.

Các tướng nghe Triều Lôi nói: biết được dĩ vãng của Tử Nha đều cười thầm.

Tử Nha biết ý chúng tướng khinh mình, liền nói:

– Triều Lôi chê ta là kẻ đan gàu bán bột không phải là nhục ta đâu. Ðời xưa ông Y Doãn là người cày ruộng ở Sàng Dã mà sau giúp vua Thành Thang dựng nên cơ nghiệp. Ấy là tại kẻ anh hùng không sớm gặp thời chớ nào phải nhục vinh.

Nói rồi truyền chém Triều Lôi tức khắc.

Hoàng Phi Hổ thưa:

– Triều Lôi hôm nay chỉ biết có Trụ, không biết có Châu. Xin cho tôi khuyên gã vài lời, nếu gã hàng thì chúng ta có thêm người đánh Trụ.

Tử Nha y lời.

Hoàng Phi Hổ ra trước cửa phủ thấy Triều Lôi đang quỳ đợi chém liền gọi lớn:

– Triều tướng quân ơi!

Triều Lôi ngoảnh mặt thấy Võ Thành vương liền cúi đầu chẳng nói.

Hoàng Phi Hổ khuyên:

– Ngươi không biết thời vận, không thông thuận nghịch nên mới cố thủ như vậy. Nay thiên hạ kêu oan, Võ vương chiếm hết hai phần. Nam, Bắc, Ðông, Tây không ai theo Trụ. Trụ tuy còn sống gượng, nhưng chẳng khác nào ngọn đèn trước gió, sức mạnh của một ông già. Trụ vương lỗi đạo đã nhiều, thiên hạ đâu đâu cũng biết, mầm loạn lạc sắp dấy lên bốn phương tám hướng, rõ ràng là cơ nghiệp nhà Thương đến ngày diệt vong rồi. Còn Võ vương nhân đức rất cao dày, biết trọng tôi trung, biết thương dân chúng. Trọng người hiền, mến kẻ sĩ, ấy là sự nghiệp đang lên. Như ta khi trước làm Trấn quốc Võ Thành vương, nay Võ vương chỉ sửa lại một chữ là Khai quốc Võ Thành vương. Bởi vậy ai cũng đành bỏ Trụ, người người đều muốn theo Châu. Còn nói đức hạnh Võ vương chẳng thua Thuấn, Nghiêu đời trước. Nay ta đã năn nỉ với Thừa Tướng xin tội cho ngươi, nếu ngươi hàng đầu thì được hiển vinh, còn nghịch mạng thì chắc phải chết.

Triều Lôi nghe Hoàng Phi Hổ nói điều lợi hại, liền đáp:

– Hoàng tướng quân ôi! Lúc nãy tôi xúc phạm đến Tử Nha, e Tử Nha không dung thứ.

Hoàng Phi Hổ nói:

– Như ngươi thiệt tình đầu hàng, ta sẽ hết lòng bảo lãnh cho.

Triều Lôi nói:

– Nhờ tướng quân cứu mạng, coi như đức tái sanh. Tôi xin nghe lời dạy.

Hoàng Phi Hổ trở vào phủ thuật lại mọi điều với Tử Nha.

Tử Nha nói:

– Giết kẻ đầu hàng là bất nghĩa, Hoàng tướng quân bảo cứu ta cũng bằng lòng.

Nói rồi truyền quân mở trói.

Triều Lôi vào quỳ lạy Tử Nha và thưa:

– Mạt tướng buông lời lỗ mãng, tội đáng gia hình. Nay nhờ lượng hải hà, tôi xin đội ơn trời bể.

Tử Nha nói:

– Tướng quân đã thật lòng đầu chúa, quyết ý phò vua thì tôi với tướng quân là tôi đồng trào, là dân một nước, có bao giờ hẹp lượng mà oán trách lẫn nhau. Vậy thì tướng quân hãy dẫn binh vào nạp.

Triều Lôi nói:

– Anh tôi là Triều Ðiền còn ở ngoài trại, xin cho tôi đi thuyết hàng

Tử Nha nhận lời.

Triều Lôi từ giã ra ngoài thành.

Bây giờ Triều Ðiền nghe tin Triều Lôi bị bắt, lòng rồi như vò, đang ngồi tìm mưu tính chước. Bỗng nghe quân báo Triều Lôi đã trở về, Triều Ðiền lấy làm lạ nghĩ thầm:

– Thái Sư sai chúng ta đi thám thính, chúng ta làm sai ý nghĩa đem quân đánh thành nên em ta mới bị bằt, nay chẳng biết vì sao mà về được.

Nghĩ rồi truyền quân mời vào.

Triều Lôi đến ra mắt Triều Ðiền và nói:

– Em bị Nam Cung Hoát bắt được đem nạp cho Tử Nha, em mắng Tử Nha là kẻ đan gàu bán bột, nên Tử Nha nổi giận truyền đem chém, may nhờ có Hoàng Phi Hổ can gián, và cắt nghĩa cho em nghe nhiều điều lợi hại. Bởi vậy em đã chịu đầu dưới trướng và ra đây xin mời anh nhập thành.

Triều Ðiền nghe nói miệng lớn:

– Ðồ thất phu! Ðáng tội chết! Lẽ nào nghe lời Hoàng Phi Hổ chịu đầu Khương Tử Nha? Ngươi là một đảng với bọn phản thần, còn mặt mũi nào nhìn thấy Thái Sư nữa.

Triều Lôi nói:

– Anh không rõ nên tức mới nói như vậy, chớ nay thiên hạ đều đầu Châu hết thảy, chẳng riêng một mình chúng ta mà thôi đâu.

Triều Ðiền nói:

– Ta há không biết tội ác của Trụ Vương làm cho thiên hạ điêu linh, bốn phương đều gây loạn, người người đều bỏ Trụ đầu Châu hay sao, nhưng nếu anh em ta bắt chước họ thì cha mẹ chúng ta ở Triều Ca bị vua giết hết, ngươi đành quên chữ hiếu hay sao?

Triều Lôi than:

– Bây giờ biết tính làm sao?

Triều Ðiền nói:

– Em hãy lên ngựa vào thành tỏ bày như thế này thì mới lập được công cao, và mới có thể trở về ra mắt Thái Sư được.

Tiếp đó Triều Ðiền dặn nhỏ Triều Lôi một hồi. Triều Lôi y kế, lên ngựa về tướng phủ ra mắt Tử Nha, thưa rằng:

– Tôi về trại nói thiệt hơn, anh tôi cũng chịu đầu hàng, nhưng chỉ ngại có một điều là anh tôi vâng lệnh chinh Tãy, nếu bó tay quy thuận, e tướng chê quân sĩ cười. Xin Thừa Tướng cho người đến mời để anh tôi còn chút thể diện.

Tử Nha vừa cười vừa nói:

– Việc ấy cũng chẳng khó gì.

Liền quay lại hỏi:

– Có tướng nào tình nguyện đi chăng?

Hoàng Phi Hổ bước ra thưa:

– Tôi xin lãnh mạng.

Triều Lôi và Hoàng Phi Hổ đi rồi, Tử Nha lập tức đòi Tân Giáp, Tân Miễn đến và viết hai lá thiệp, cắt nghĩa rõ ràng, dạy hai tướng ấy coi theo thiệp mà hành động. Rồi lại viết một lá thiệp khác sai Nam Cung Hoát ra đi.

Còn Hoàng Phi Hổ theo Triều Lôi đến trại thì Triều Ðiền đã sắp đặt sẳn sàng, thân hành ra tận cửa nghênh đón, và nói:

– Xin mời thiên tuế vào trại.

Hoàng Phi Hổ vào đến nơi, vừa ngồi xuống ghé, thì Triều Ðiền trợn mắt hét lên một tiếng, quân phục hai bên nổi dậy, áp tới bắt Hoàng Phi Hổ trói lại.

Hoàng Phi Hổ giận mắng:

– Quân khốn nạn! Ta làm ơn lại mắc oán.

Triều Ðiền nói:

– Ta không mang ơn đứa phản thần. Ta quyết chí bắt ngươi giải về Triều Ca để cho Thái Sư trị tội.

Anh em Triều Ðiền dùng mưu bắt được Hoàng Phi Hổ rồi thì mừng rỡ, truyền quân nhổ trại, rón rén kéo nhau về dẹp trống cất chiêng chạy mau như tên bắn.

Ði được ba dặm đường vừa tới chân núi Long Sơn bỗng thấy hai ngọn cờ phất phới, trong rừng xông ra hai tướng hung hăng nạt lớn:

– Triều Ðiền! Phải trả Vô Thành vương lại cho mau. Ta là Tân Giáp, Tân Miễn vâng lệnh Thừa Tướng phục binh ở đây đã lâu.

Triều Ðiền nổi giận nói:

– Ta không hạ tướng tá Tây Kỳ, sao dám đón đường đoạt khâm phạm, vung đao chém tới Tân Giáp đưa búa ra đỡ. Hai tướng đánh nhau được hai mươi hiệp.

Tân Miễn liền xốc ngựa tới cứu Hoàng Phi Hổ.

Triều Lôi thấy Tân Miễn lòng và liền vung đao cản lại. Hai tướng lại đánh nhau, giáo gươm khua lẻng kẻng Tân miễn sức mạnh như thần, Triều Lôi đánh một hồi mồ hôi ra ướt giáp liệu thế cự không lại, liền chém bậy một đao, quất ngựa chạy vào rừng trốn mất Miễn đuổi giết quân Trụ tan tành, và mở trói cho Hoàng Phi Hổ.

Hoàng Phi Hổ tạ ơn cứu mạng, rồi ra trước trận thấy Tân Giáp đang đánh với Triều Ðiền, lòng giận như lửa đốt, nhìn Triều Ðiền hét lớn:

– Ta làm ơn cho ngươi, ngươi lại bạc tình phản phúc.

Nói rồi cầm gươm xông vào đánh, bắt sống Triều Ðiền trói lại và mắng lớn:

– Ngươi là đứa nghịch tặc, trời nào để ngươi sống! Như không nhờ Thừa Tướng biết trước lòng của bọn ngươi, bố trí binh phục, thì ta đã bị hại về tay ngươi rồi.

Tân Giáp, Tân Miễn liền lôi cổ Triều Ðiền về thành.

Còn Triều Lôi hoảng kinh chạy vào rừng rậm, không biết đường nẻo nào ra, lính quýnh cho đến canh ba mới thoát ra đến mé rừng, nhìn thấy đèn đuốc tỏ rạng, lòng sanh nghi, bèn giốc ngựa tìm đường chạy riết.

Nhưng chỉ chạy được một đoạn đường, bỗng nghe một tiếng pháo nổ vang, có một viên đại tướng dẫn binh ra đón đường. Tuy ánh sáng mập mờ, Triều Lôi cũng nhìn thấy tướng đó là Nam Cung Hoát, bèn năn nỉ:

– Xin tướng quân rộng tình tha tội. Tôi nguyện ơn trả nghĩa đền.

Nam Cung Hoát cười hi hi nói:

– Thôi xuống ngựa chịu trói cho rồi, đừng nói nhiều chuyện.

Triều Lôi nổi giận chém Nam Cung Hoát một đao.

Nam Cung Hoát né khỏi, rồi hét một tiếng, nắm đầu Triều Lôi kéo xuống yên, khiến quân trói lại giải về dinh.

Sáng hôm sau Tử Nha ra khách, Hoàng Phi Hổ vào lạy tạ ơn, và thưa:

– Nếu Thừa Tướng không cứu tôi thì tôi đã lầm tay phản tặc rồi.

Tử Nha nói:

– Tôi coi ý Triều Lôi lúc trở về có vẻ khác thường, nên mới sinh nghi, truyền hai ngả phục binh, kết quả đúng như vậy.

Tân Giáp bước tới kể chuyện bắt Triều Ðiền và cứu Võ Thành vương.

Tiếp đến Nam Cung Hoát vào thưa:

– Tôi vâng lệnh mai phục tại Kỳ sơn bắt được Triều Lôi giải về trưuớng phủ.

Tử Nha truyền dẫn Triều Ðiền và Triều Lôi ra trước trướng, mắng rằng:

– Thất phu! Chúng bây dụng mưu gian gạt ta sao được?

Nói rồi truyền quân sĩ dẫn ra chém hết cả hai.

Ðao phủ quân vâng lệnh kéo hai người ra khỏi cửa.

Triều Lôi lớn tiếng kêu oan.

Tử Nha vừa cười vừa nói:

– Anh em nó là đồ phản phúc, ngoài miệng nói một đường, trong lòng nghĩ một nẻo, chết là đáng lắm.

Triều Lôi vẫn cứ kêu oan mãi.

Tử Nha truyền quân dẫn Triều Lôi lại hỏi:

– Anh em ngươi bày mưu độc bắt người trung, ngỡ là về nước nạp Võ Thành vương mà ăn công hưởng lộc, chẳng ngờ ta biết trước phục binh bắt lại. Tội ấy chém đã đành, còn kêu oan gì nữa.

Triều Lôi thưa:

– Anh em tôi cũng muốn về Châu, song sợ cha mẹ ở Triều Ca bị tội. Cũng vì chữ hiếu mà chúng tôi mới lập mưu gian. Nếu Thừa Tướng không xét lại thì tội nghiệp cho anh em chúng tôi lắm.

Tử Nha hỏi:

– Nếu ngươi còn cha mẹ tại Triều Ca sao không nói trước cho ta biết, đặng ta tìm cách rước hết gia tướng đem về, lại nỡ dùng kế độc hại người ơn?

Triều Lôi thưa:

– Chúng tôi tài hèn, trí thấp, không biết tính xa, nếu thưa trước với Thừa Tướng biết, thì có đâu mắc họa.

Nói rồi cất tiếng khóc vang.

Tử Nha nói:

– Ngươi nói thiệt như vậy sao?

Triều Lôi thưa:

– Nếu tôi không còn cha mẹ mà dối gạt để gỡ tội thì Võ Thành Vương cũng biết.

Tử Nha hỏi Hoàng Phi Hổ:

– Triều Lôi còn cha mẹ chăng?

Hoàng Phi Hổ thưa:

– Hai người này quả còn cha mẹ tại Triều Ca.

Tử Nha nói:

– Nếu vậy thì thật tình hiếu đạo kể cũng khá thương.

Liền truyền quân mở trói cho hai anh em một lượt.

Triều Lôi, Triều Ðiền lạy tạ ơn.

Tử Nha giữ Triều Ðiền ở lại Tây Kỳ, rồi viết một lá thiệp trao cho Triều Lôi và dặn:

– Ngươi về Triều Ca cứ theo lời trong thiệp mà làm thì cứu được gia quyến.

Triều Lôi tuân lệnh, lãnh binh ra đi.

Hồi 36: Quế Phương vâng chiếu chinh Tây

Triều Lôi vâng mật lệnh của Tử Nha kéo quân trở về phục lệnh tới dinh của Thái Sư Văn Trọng.

Thái Sư Văn Trọng hay tin, cho đòi vào hỏi:

– Tây Kỳ động tĩnh thế nào?

Triều Lôi thưa:

– Chúng tôi đến Tây Kỳ thì Nam Cung Hoát dẫn quân ra khiêu chiến. Tôi ra đánh ba mươi hiệp sức vẫn cầm đồng. Vì trời tối nên hai bên phải thâu quân. Rạng ngày anh tôi ra binh, đánh Tân Giáp chạy dài, kế bữa sau tướng khác xuất quân, chưa phân thắng bại. Kể ra thì Tây Kỳ cũng chẳng khó đánh lắm đâu, ngặt một điều là Hàng Vinh không chịu phát lương, nên quân sĩ chẳng an. Lương thảo là tánh mạng nhơn mã, mà người không lương, ngựa không cỏ, còn đánh giặc làm sao được? Cực chẳng đã tôi phải về bẩm với Thái Sư, xin phát thêm lương thảo và tăng cường quân lính. Ðược như vậy mới thắng nổi Tây Kỳ.

Văn Trọng ngẫm nghĩ một lúc lúc rồi hỏi:

– Ngươi đi có hỏa bài, lệnh tiễn, vì sao Hàng Vinh chẳng chịu phát lương? Thôi, ngươi hãy đi xin thêm ba ngàn quân và một ngàn lương thảo qua Tây Kỳ ứng tiếp. Ta sẽ cho tướng theo sau.

Triều Lôi tuân lệnh cứ làm y như vậy, không hề trễ nải, rồi lén đem gia quyến ra khỏi năm cửa ải thẳng đến Tây Kỳ.

Người sau có thơ rằng:

Ý niệm mưu cao ít ai bằng

Khen ông Khương Thượng thiệt tài năng

Gạt toi Văn Trọng thâu lương thảo

Gia quyến Triều Lôi khỏi họa căn.

Khi Triều Lôi ra đi được bốn ngày, Thái Sư Văn Trọng mới sực nghĩ lại, nhủ thầm:

– Hàng Vinh lẽ nào không phát lương thảo? Chắc cũng có duyên cớ chi đây?

Liền lấy tiền xủ quẻ. Khi đoán ra được các việc, tức tối vô cùng vỗ án hét:

– Quân phản phúc gạt ta. Ta không ngờ nên bị lầm rồi!

Liền cho quân đến tư dinh hai tướng, thì quả nhiên gia quyến của hai tướng đã đi hết.

Văn Trọng muốn đem binh rượt theo, nhưng nhắm Triều Lôi đi đã xa, không còn đuổi theo kịp nữa liền triệu tập các tướng lại, tỏ bày mọi việc, và nói:

– Triều Ðiền, Triều Lôi đã làm phản thì kế hoạch đề phòng của ta đối với Tây Kỳ đã bại lộ rồi. Nay phải động binh, chinh Tây mới kịp. Nhưng chưa biết nên sai tướng nào có đủ khả năng làm việc này.

Kiết Lập và Dư Khánh đồng thưa:

– Nếu muốn định Tây Kỳ trọn thắng thì chỉ có Trương Quế Phương, quan Tổng trấn ải Thanh Long cầm binh mới mong thành công.

Văn Trọng khen phải, liền sai quân hỏa bài cầm lệnh tiễn ta ải Thanh Long, truyền Trương Quế Phương cất binh chinh phạt Tây Kỳ, lại sai Thần Oan đại tướng quân là Khưu Dẫn ra trấn ải Thanh Long thế cho Trương Quế Phương.

Nói qua Triều Lôi đem gia quyến đến Tây Kỳ, vào tướng phủ ra mắt Tử Nha, thưa:

– Tôi nhờ Thừa Tướng liập kế thần nên đem được cha mẹ vợ con đến đây hết, nay đã vào thành, chúng tôi xin đến tạ ơn Thừa Tướng.

Kế đó thuật lại mấy lời Thái Sư Văn Trọng dặn.

Tử Nha nói:

– Ta liệu chắc Văn Thái Sư sẽ cử binh đến đánh Tây Kỳ vậy phải đề phòng mới được.

Giữa lúc ấy, tại ải Thanh Phong, Trương Quế Phương tiếp được hỏa bài của Thái Sư tức thì điểm mười muôn binh mã, khiến Phong Lâm làm Tiên phuông, chuẩn bị chinh Tây. Ðến lúc Khưu Ðẩu tới. Trương Quế Phương giao việc xong xuôi mới phát binh ra đi.

Ðoàn quân tiến nhanh như gió, không bao lâu đã đến Tây Kỳ an dinh hạ trại.

Tử Nha đang bàn luận với các tướng, bỗng nghe quân báo:

– Trương Quế Phương dẫn mười muôn binh hạ trại cách cửa Nam mười dặm.

Tử Nha hỏi Hoàng Phi Hổ:

– Trương Quế Phương dụng binh thế nào?

Hoàng Phi Hổ thưa:

– Thừa Tướng đã hỏi tôi đâu dám giấu.

Tử Nha nói:

– Tướng quân với tôi cùng phò một chúa, ngại gì mà chẳng dám cạn lời?

Hoàng Phi Hổ nói:

– Trương Quế Phương là tướng giỏi, võ nghệ siêu quần. Nhưng việc đó không đáng kể, chỉ sợ nó có tà thuật mà thôi.

– Nó dùng phép gì mà gọi là tà thuật?

Hoàng Phi Hổ nói:

– Phép ấy lạ lắm! Lúc xông ra trận, hai bên đấu chiến với nhau, nếu Quế Phương biết được tên địch thủ thì nó kêu lên một tiếng, tức thì địch thủ nhào xuống ngựa mê man bất tỉnh. Vì vậy, nó ra trận bắt tướng như lấy đồ trong túi. Xin Thừa Tướng dặn những người nào ra trận chớ nên xưng tên, vì hễ nó biết tên là bị nó bắt sống ngay.

Tử Nha nghe nói cau mày. Nhưng các tướng không ai tin cả, đồng nói rằng:

– Có lẽ nào kêu tên mà làm cho đối phương chết ngất được? Nếu quả như vậy, nó kêu trăm tiếng cũng đủ bắt hết tướng Tây Kỳ này rồi?

Kẻ này xầm xì, người kia cười châm biếm.

Bấy giờ Quế Phương đã an dinh hạ trại xong, sai Phong Lâm ra trận.

Phong Lâm vâng lệnh cầm đao lên ngựa đến thành khiêu chiến.

Quân vào báo Tử Nha hỏi các tướng:

– Ai dám ra đánh trận đầu.

Cơ Thúc Càng là con thứ mười hai của vua Văn vương tánh nóng nảy, lại không tin có phép lạ như vậy, nên bước ra thưa:

– Tôi xin xuất trận đầu cho.

Nói rồi cầm thương lên ngựa khai thành thấy một tướng đứng dựa bên cây Thanh kỳ, tóc đỏ như máu, mặt xanh như chàm, râu hồng đầy mép, ngồi trên ngựa cao, tay cầm cây giáo rất lớn.

Cơ Thúc Càng thấy tướng dữ dằn như vậy, liền hỏi:

– Ngươi có phải là Trương Quế Phương không?

Phong Lâm đáp:

– Không! Ta là Tiên phuông Ðại tướng, họ Phong tên Lâm, vâng chiếu triều đình bắt loài phản loạn, chúa ngươi tiếm xưng vương hiệu lại dung nạp phản thần, nay binh trời đã đến không biết chịu tội còn muốn chống lại sao. Hãy xưng tên họ cho mau, đặng ta lấy đầu đem nạp.

Cơ Thúc Càng nổi giận mắng:

– Nay chư hầu thiên hạ đều về nhà Châu, đó là lòng trời đã định. Ngươi thờ bạo chúa, quen thói hung hăng đã đem mạng đến đây nộp mà còn không biết. Ta dung cho ngươi trở về gọi Trương Quế Phương ra trận.

Phong Lâm giận quá mắng lớn:

– Phản tặc dám khi dễ ta thái quá!

Nói rồi cầm đao đâm tới, Cơ Thúc Càng đưa giáo ra đỡ. Hai tướng đánh với nhau trên ba mươi hiệp, Cơ Thúc Càng vận giáo như thần, múa vun vút, đâm chém liền không hở, Phong Lâm lúng túng đỡ gạt không nổi, bị Cơ Thúc Càng đâm một thương trúng đùi bên tả phải quay ngựa bỏ chạy.

Cơ Thúc Càng rượt theo, không ngờ Phong Lâm dùng phép, miệng niệm chơn ngôn, tức thì hai lỗ mũi xịt khói ra, luồng khói có hình tựa như một mành lưới, biến thành một trái châu to bằng miệng chén, đánh vào mặt Cơ Thúc Càng.

Thương ôi! Người con thứ mười hai của Văn vương bị trái châu đánh trúng nhào xuống ngựa.

Phong Lâm thừa dịp lấy gươm cắt thủ cấp rồi thâu binh về trại.

Trương Quế Phương thấy Phong Lâm đem thủ cấp của địch về liền truyền hiệu ngoài cửa ải.

Quân thua vào báo lại, Tử Nha thất kinh.

Võ vương than khóc một hồi, không nói ra tiếng.

Chư tướng đều nghiến răng, chặt lưỡi thở dài.

Bữa sau Trương Quế Phương dẫn binh tới trước thành, kêu đích tên Tử Nha ra trận.

Tử Nha nói:

– Nếu chẳng vào hang hùm làm sao bắt hùm được.

Liền truyền các tướng nai nịt chỉnh tề theo hầu tả hữu, kéo binh ra ngoài ải, trông thấy Trương Quế Phương đội mão bạc như tuyết, mặc giáp trắng, cỡi ngựa kim, đeo giáp bạc, đứng dưới cây bạch kỳ, uy phong lẫm liệt.

Thấy cửa thành mở, quân tướng ồ ạt kéo ra.

Trương Quế Phương thấy Tử Nha râu bạc trắng, hai mắt long lanh như ngọc, mình mặc áo bát quái, tay cầm gươm thư hùng, buộc đai bằng tơ, đội mão đuôi cá, lại thấy Hoàng Phi Hổ cầm giáo ngồi trên thần ngưu đi một bên, liền gọi Tử Nha nói:

– Khương Thượng! Ngươi cũng là tôi nhà Thương, ăn lộc thiên tử, triều đình không bạc đãi ngươi, sao ngươi lại phò Cơ Phát tiếm xưng vương hiệu chứa chấp phản thần, dùng kế xảo buộc Triều Ðiền bỏ chúa, lập mưu gian bày Triều Lôi cướp lương. Tội đáng chết mười phần. Nay ta vâng lệnh đến đây chinh phạt, khuyên ngươi xuống ngựa nạp mình, ăn năn hối lỗi. Bằng chống cự thì trúc chẻ ngói tan, ngọc đá không còn.

Tử Nha ngồi trên ngựa cười lớn:

– Ông nói sai rồi! Chim khôn chọn cây lành mà đỗ, tôi hiền chọn chúa thánh mà thờ. Kẻ bất trí là những kẻ cúi đầu thờ một ông vua hung bạo, không biết thương dân, không sợ mất nước, muốn giết ai thì giết, cả ngày chỉ biết tửu sắc mà thôi. Nay cả thiên hạ đều bỏ Trụ vương, chẳng phải một mình Tây Kỳ mà thôi. Tuy vậy chúa tôi hằng giữ đạo trung thần, chúng tôi không có lòng xâm đoạt. Nay ông đem binh đến đánh Tây Kỳ, thật là nước trên phạm nước dưới, chẳng phải nước dưới phạm nước trên. Xét lại việc binh, thắng bại lẽ thường, nếu ông rủi ro một trận thì hổ thẹn ngàn ngày. Chi bằng ông thu quân về, bờ cõi ai nấy giữ.

Trương Quế Phương nói:

– Ta nghe ngươi học đạo tại núi Côn Lôn, lẽ nào ngươi không biết trong vũ trụ rất nhiều người tài phép. Lời ngươi nói đó chẳng phải là kẻ tài trí.

Nói rồi truyền tiên phuông Phong Lâm ra binh bắt Khương Thượng.

Phong Lâm giục ngựa tới đánh với Tử Nha, xảy có một tướng cỡi ngựa hồng, cầm siêu đao cản lại, xem lại tướng ấy là Nam Cung Hoát. Hai tướng hỗn chiến một hồi.

Trương Quế Phương thấy Hoàng Phi Hổ ngồi trên thần ngưu thì giận lắm, lướt ngựa tới, cầm giáo đâm đùa.

Hoàng Phi Hổ giơ gươm ra đỡ.

Hai tướng đánh được mươi lăm hiệp, Trương Quế Phương kêu lớn:

– Hoàng Phi Hổ chưa hạ mã qui hàng còn đợi chừng nào!

Hoàng Phi Hổ thất kinh, liền sa xuống ngựa, quân Thương vừa áp đến muốn bắt trói, thì có Châu Kỷ cầm búa cản lại đánh với Trương Quế Phương còn Hoàng Phi Báo và Hoàng Phi Bưu thì xông ra cướp được Hoàng Phi Hổ đem về dinh.

Trương Quế Phương thấy tướng Châu đông quá, sợ bắt không được Châu Kỷ, nên giả cách trá bại chạy dài. Châu Kỷ đuổi theo được nửa dặm.

Trương Quế Phương quay lại kêu lớn:

– Châu Kỷ chưa té xuống ngựa còn đợi chừng nào!

Tức thì Châu Kỷ sa xuống, quân Châu tiếp cứu không kịp bị quân Thương áp lại bắt trói dẫn về dinh.

Bấy giờ Phong Lâm hỗn chiến với Nam Cung Hoát một hồi, Phong Lâm đánh không lại, giục ngựa chạy ngay. Nam Cung Hoát thừa thắng đuổi theo, Phong Lâm niệm chú, tức thì trong lỗ mũi xịt ra hai luồng khói xám biến thành cục châu đánh Nam Cung Hoát té xuống ngựa. Quân Thương bắt trói Nam Cung Hoát đến về dinh.

Còn Trương Quế Phương cũng thâu binh về trại truyền dẫn Nam Cung Hoát và Châu Kỷ vào.

Trương Quế Phương hỏi:

– Chúng bây đã bị bắt sao chưa chịu quì?

Nam Cung Hoát hét lớn:

– Ta đã đem thân thờ chúa còn sợ chết hay sao? Ngươi dùng tà thuật bắt được ta thì cứ giết đi cho rồi.

Quế Phương truyền đem hai tướng cầm tại tù xa, đợi phá Tây Kỳ xong giải về Triều Ca xử tội.

Bữa sau, Trương Quế Phương đồn binh đến thành khiêu chiến.

Tử Nha truyền treo miễn chiến bài, không dám sai ai ra trận.

Trương Quế Phương cười lớn nói:

– Khương Thượng mới ra binh một trận đã sợ khiếp vía rồi.

Nói rồi thâu binh về trại.

Bấy giờ ông Thái Ất chơn nhơn đang ngồi trong động thấy lòng hồi hộp liền đánh tay biết rõ Tây Kỳ đang nguy, liền sai Kim Hà Ðồng tử đòi Na Tra đến dạy việc.

Kim Hà vâng lệnh chạy đến vườn đào gọi Na Tra nói:

– Sư huynh! Thầy cho đòi sư huynh đến lập tức.

Na tra vội vào yết kiến.

Thái Ất nói:

– Nay đã đến lúc lập công, ta cho ngươi xuống thế. Hiện nay Tây Kỳ đang nguy cấp, tướng Trụ đến hoành hành, ngươi xuống đó theo sư thúc của ngươi là Khương Tử Nha mà lập công danh sự nghiệp. Ngươi phải rán hết lòng phò tá minh trung.

Na Tra nghe nói mừng rỡ, lạy thầy giã bạn mang túi phép, cầm giáo dài lên xe Phong Hỏa thẳng xuống Tây Kỳ.

Người sau có thơ khen:

Hai bánh xe linh gió cuốn cờ

Ði cùng thế giới một đôi giờ

Na Tra nay xuống phò vua Võ

Gặp hội rồng mây dựng cõi bờ.

Na Tra đạp xe phép đi nửa lừng, đến Tây Kỳ liền sa xuống đất hỏi thăm tướng phủ, rồi tìm đến nơi, gọi quân vào báo với Tử Nha.

Quân hầu vâng lệnh vào thưa:

– Có một đạo đồng đến trước cửa phủ muốn ra mắt Thừa Tướng.

Tử Nha vốn trọng đạo, nghe nói bèn truyền binh sĩ mời vào.

Na Tra vào trước án thi lễ và nói:

– Tôi xin ra mắt sư thúc.

Tử Nha hỏi:

– Ngươi ở động nào ta chưa rõ?

Na Tra thưa:

– Ðệ tử ở núi Càng Nguyên, động Kim Quang, tên Na Tra, học trò của ông Thái Ất. Nay tôi vâng lịnh thầy đến hiệp lực với sư thúc giúp chúa lập công.

Tử Nha nghe nói mừng rỡ khôn cùng.

Hoàng Phi Hổ thấy Na tra vội bước tới tạ ơn cứu tử ngày trước.

Na Tra hỏi Tử Nha:

– Chẳng hay tướng nào đám đến đánh thành trì ta vậy?

Tử Nha nói:

– Trương Quế Phương là tướng trấn ải Thanh Long. Tướng này rất lợi hại, dùng tà thuật bắt luôn hai tướng trong một trận, nên ta phải treo miễn chiến bài.

Na Tra nói:

– Tôi đã vâng lịnh thày xuống đây trợ chiến, chẳng lẽ ngồi không, xin cho tôi ra trận đánh thử với Quế Phương xem sao.

Tử Nha nhận lời, truyền quân dẹp bảng treo miễn chiến bài.

Quân thám thính thấy vậy về bảo với Trương Quế Phương:

– Tây Kỳ đã gỡ bỏ bảng treo miễn chiến bài rồi.

Trương Quế Phương nói với Phong Lâm:

– Mấy hôm nay Tử Nha không dám ra binh, nay chắc có cứu binh đến tiếp cứu, nên mới dự tính giao tranh như vậy, ngươi dẫn ba ngàn quân ra khiêu chiến.

Phong Lâm vâng lệnh cầm thương lên ngựa đến cửa thành mắng chửi.

Na Tra cầm giáo dài, lên xe thẳng ra trận, Tử Nha gọi lại dặn:

– Ngươi phải đề phòng mới được, vì Phong Lâm có tà thuật lợi hại lắm.

Na Tra thưa:

– Ðệ tử sẽ tùy cơ ứng biến, xin sư thúc đừng lo.

Na Tra ra khỏi ải.

Phong Lâm xem thấy hỏi lớn:

– Ngươi là ai dám ra đây chịu chết?

Na Tra nói:

– Ta là sư điệt của Khương Thừa Tướng, họ Lý tên Na Tra, còn ngươi có phải là Trương Quế Phương, con cú độc miệng kêu tên làm cho người ta té hay không?

Phong Lâm đáp:

– Không phải. Ta là tiên phong Ðại tướng tên Phong Lâm.

Na Tra nói:

– Thôi ta tha ngươi khỏi chết, hãy về kêu Trương Quế Phương ra đây cho ta bảo.

Phong Lâm nổi giận vung giáo đâm liền. Na Tra cũng ra tài cự địch. Xe ngựa xông pha, đánh trên hai mươi hiệp

Phong Lâm nghĩ thầm:

– Lối đánh của Na Tra kỳ lạ lắm thế nào cũng có phép thần thông. Nếu ta không ra tay trước ắt phải lụy.

Nghĩ rồi quầy ngựa chạy dài. Na Tra giục xe đuổi theo như gió.

Phong Lâm thấy Na Tra theo gần đến liền phun khói lỗ mũi hóa ra trái châu.

Na Tra trông thấy cười lớn:

– Phép ấy dở lắm!

Tức thì đưa tay chỉ một cái, tự nhiên trái châu tan mất.

Phong Lâm thấy Na Tra phá mất phép mình, nổi giận quày ngựa trở lại đánh liều, bị Na Tra quăng Càng Khôn Quyện đập trúng vai bên tả, vỡ thịt lòi xương, đau quá gần rơi xuống ngựa. Phong Lâm gắng gượng ôm cổ ngựa chạy thẳng về dinh.

Na Tra đuổi theo kêu Quế Phương ra trận.

Phong Lâm về đến dinh thuật lại các việc cho Quế Phương nghe.

Quế Phương nổi giận, cầm cương giục ngựa ra khỏi trại, trông thấy Na Tra, liền hỏi:

– Tên súc sanh đứng trên xe đó có phải Na Tra không?

Na Tra đáp:

– Ta là Na Tra đây.

Quế Phương nói:

– Ngươi vừa đánh tên tướng Tiên phuông của ta khi nãy phải không?

Na Tra cười lớn đáp:

– Ta nghe ngươi có tài kêu tên ai thì ngươi ấy té nên ta đến đây bắt ngươi.

Nói rồi cầm giáo đâm liền.

Trương Quế Phương đưa thương ra đỡ. Hai tướng đánh vùi với nhau được bốn mươi hiệp, Na tra múa thương hay lắm, chẳng khác mưa bay gió bão, Trương Quế Phương đánh không lại, bèn cất tiếng kêu lớn:

– Na Tra không té xuống xe còn đợi chừng nào?

Na Tra nghe kêu thất kinh, hai chân kềm cứng trên xe, song coi bộ tự nhiên, thư bình vô sự.

Trương Quế Phương lấy làm lạ nghĩ thầm:

– Thầy ta dạy phép thâu hồn này, hễ kêu lên là đối phương phải hôn mê bất tỉnh. Từ trước đến nay hiệu nghiệm lắm, bây giờ sao lại hết linh.

Nghĩ rồi lại kêu nữa.

Na Tra không thèm nói lại, Quế Phương kêu đến ba lượt, Na Tra nổi xung mắng lớn:

– Ngươi là đứa thất phu! Ta đã không chịu xuống xe, ngươi gọi mãi mà làm chi?

Trương Quế Phương giận lắm vung giáo đánh tiếp một hồi, nhưng cự với Na Tra không lại, mồ hôi ướt giáp, hơi thở phì phào.

Na Tra liền lấy Càn Khôn Quyện quăng lên, đánh trúng cánh tay trái của Trương Quế Phương đứt gân gãy xương, gần nhào xuống ngựa.

Hồi 37: Tử Nha về núi cầu Nguyên Thỉ

Na Tra thấy Quế Phương bại tẩu liền trở vào thành, đến tướng phủ ra mắt Tử Nha.

Tử Nha hỏi:

– Ngươi cùng Trương Quế Phương giao chiến thắng bại lẽ nào?

Na Tra thưa:

– Trương Quế Phương bị đệ tử đánh cho một Càn Khôn Quyện, gãy tay, lọi xương chạy tuốt về dinh.

Khương Tử Nha nói:

– Nó có dùng tà thuật gọi tên ngươi hay không?

Na Tra thưa:

– Nó có gọi tên tôi ba lần, nhưng tôi không thấy ứng nghiệm gì cả.

Các tướng ghe Na Tra nói lấy làm lạ.

Nguyên phép thu hồn của Trương Quế Phương lợi hại lắm, nhưng chỉ tác dụng đối với những người thường, có khí huyết, có thịt xương do bào thai sinh ra, còn Na Tra thân thể kết tụ bằng bông sen, cho nên phép thu hồn của Trương Quế Phương không linh ứng.

Khi ấy, Trương Quế Phương đã gãy cánh tay, Phong Lâm cũng bị thương, cả Nguyên soái và tiên phuông đều không thể ra quân được nên túng thế phải sai người về nước, trình với Thái Sư Văn Trọng xin binh tiếp viện.

Còn Tử Nha tuy thắng được một trận, song lòng hồi hộp không an, sợ Trương Quế Phương viện binh đến đánh, thì Tây Kỳ nhỏ hẹp không chống ngăn nổi, bèn tính trở về núi cầu cứu thầy mình là Nguyên Thỉ chỉ giáo.

Sáng hôm sau, Tử Nha dậy sớm thay đổi áo quần theo lối đạo sư ra mắt Võ Vương.

Võ Vương thấy lạ, hỏi:

– Thượng phụ hôm nay có việc gì cho ra mắt quả nhân sớm như vậy?

Tử Nha tâu:

– Xin Chúa công cho phép hạ thần trở về núi một phen.

Võ vương nói:

– Quân địch đóng ngoài ải, binh tướng trong thành đang lo việc chống ngăn.Thượng phụ ra đi việc binh cần gấp ai điều khiển?

Tử Nha nói:

– Tôi tính Trương Quế Phương vừa thua một trận bị thương nặng, chưa dám động binh, nên tính việc xa hơn. Tôi đi lâu lắm là ba hôm sẽ trở lại, việc nhà tôi đã sắp đặt xong, xin Chúa công chớ lo.

Võ Vương nói:

– Nếu vậy Thượng phụ về cho sớm, chớ dần dà trên non cao mà quả nhân trông đợi.

Tử Nha tuân lệnh, từ tạ về dinh, gọi Na Tra đến dặn:

– Ngươi cùng Võ Kiết thủ thành, chẳng nên ra trận, đợi ta trở về sẽ tính việc ra quân.

Sắp đặt đâu đó xong xuôi, Tử Nha độn thổ thẳng đến núi Côn Lôn.

Có thơ khen rằng:

Tự nhiên biến hóa nhiệm vô cùng.

Bay khỏi non cao biết mấy trùng

Phép độn ngũ hành đi quá lẹ

Gió thanh một trận thấu tiên cung.

Tử Nha độn thổ giây phút đã ra khỏi núi Kỳ Lân, bèn trồi lên mặt đất, thấy núi Côn Lôn vui vẻ tốt tươi, bất giác thở dài than:

– Mình mới rời khỏi núi này mười năm mà phong cảnh khác xưa rất nhiều.

Thực vậy, bên đầu cầu các cây kiễng đã sum xuê, trước cửa động mấy cội tùng xanh biếc, trên núi đào tươi như dệt gấm, dưới khe nước trong vắc, chảy róc rách như tiếng nhạc xa vời, ngàn chim đua hót, thú rừng chạy từng đoàn.

Tử Nha đến trước cửa cung Ngọc Hư, nhưng không dám vào phải đứng bên ngoài đợi lệnh.

Xảy thấy Bạch Hạc đồng tử bước ra, Tử Nha hỏi:

– Có sư phụ trong động không?

Bạch Hạc đồng tử nói:

– Có, chẳng hay sư huynh về động có việc chi?

Tử Nha nói.

– Xin vào báo với thầy có Tử Nha trở về ra mắt.

Bạch Hạc đồng tử vào động, đến trước đài bát quái quì thưa:

– Có Khương Thượng xin vào ra mắt.

Nguyên Thỉ gật đầu nói:

– Ta cũng đang trông nó tới.

Bạch Hạc đồng tử ra ngoài cửa động truyền rằng:

– Thầy cho mời sư huynh vào cung.

Tử Nha đến trước đài bát quái quì lạy thưa:

– Ðệ tử là Khương Tử Nha đến ra mắt tôn sư.

Nguyên Thỉ nói:

– Nay ngươi lên đây đúng lúc lắm. Ðể ta sai Nam Cực tiên ông trao bảng phong thần cho ngươi đem về Tây Kỳ lập một cái đài phong thần mà treo bảng ấy thì xong công việc của ngươi.

Tử Nha nói:

– Nay Trương Quế Phương có phép tà thuật, đem quân đến đánh Tây Kỳ, đệ tử tài năng còn kém, không cự lại, xin thầy ra ơn trợ giúp đệ tử.

Nguyên Thỉ nói:

– Ngươi làm quan đến chức Thừa Tướng, hưởng lộc triều. Võ vương phải kêu ngươi bằng Thượng phụ, thế mà ngươi sợ tà đạo, đến đây cầu cứu nỗi gì?

Tử Nha năn nỉ:

– Nhưng Trương Quế Phương ỷ phép thuật hoành hành, không người chống nổi.

Nguyên Thỉ cười lớn:

– Chúa Tây Kỳ có đức, không đến nỗi gì mà lo. Ngươi đừng sợ tà đạo cứ về đi. Lúc nào gặp việc hiểm nghèo sẽ có người tài đến giúp.

Tử Nha không dám nói nữa liền cúi lạy bước ra khỏi cửa thì Bạch Hạc đồng tử đã bước theo gọi lại:

– Sư huynh, thầy gọi lại có việc.

Tử Nha vội bước vào quì dưới đài.

Nguyên Thỉ nói:

– Ngươi về dọc đường, nếu gặp ai kêu đừng đứng lại, nếu ngươi nói chuyện với người ấy ngày sau sẽ có ba mươi sáu đạo binh đến đánh ngươi,còn tại Ðông Hải có một người đang chờ ngươi đó, ngươi đến đó sẽ gặp. Ta nói trước cho ngươi hay để khỏi ân hận. Thôi, hãy về đi.

Tử Nha lạy tạ ra khỏi cửa động, bỗng gặp Nam Cực tiên ông đón lại, trao bảng phong thần và theo đưa đón.

Tử Nha than:

– Sư huynh ơi! Tôi về đây cầu thầy giúp sức, cho tôi phép mầu để trị Trương Quế Phương nhưng thầy không nhận lời, tôi chẳng biết tính làm sao được.

Nam Cực tiên ông nói:

– Số trời đã định, không thể lậu thiên cơ, sư đệ phải nhớ lời thầy dậy, trên đường về nghe ai kêu đừng dừng lại nói chuyện với họ là mọi việc xong luôn. Nay tôi đưa sư đệ đến đây thôi, còn theo xa hơn nữa bất tiện.

Tử Nha từ giã ôm bảng phong thần đi đến núi Kỳ Lân toan độn thổ mà đi, xảy nghe có tiếng gọi cheo chéo sau lưng:

– Bớ Khương Tử Nha!

Tử Nha nghĩ thầm:

– Thật quả có người kêu ta. Nhưng thầy đã dặn không nên dừng lại nói chuyện với ai.

Nghĩ rồi lầm thinh lầm lũi đi tới.

Tiếng gọi đàng sau lại khẩn thiết hơn:

– Khương Tử Nha ơi! Ði đâu vậy? Hãy dừng lại ta nói câu chuyện này.

Tử Nha làm thinh không đáp.

Tiếng gọi lại gần hơn:

– Này Khương Tử Nha Thừa Tướng, coi bộ anh làm cao làm sao.

Khưong Tử Nha cứ làm thinh.

Người ấy gọi đến năm lần thấy Khưọng Tử Nha không quay lại nổi giận trách:

– Khương Thượng! Anh làm đến chức Thừa Tướng rồi quên cả tình xưa bạn cũ hay sao? Anh quên hẳn trước đây bốn mươi năm, tôi cùng anh đồng tu luyện tại cung Ngọc Hư sao?

Tử Nha nghe nói liền quay lại xem thử người nào, thì thấy người ấy cỡi trên lưng cọp, đầu bịt bao đánh xanh, mình mặc áo rộng, tay cầm gươm báu sáng ngời. Nhìn kỹ Tử Nha nhận ra là Thân Công Báo nên mừng rỡ nói:

– Ủa sư đệ đây mà! Bởi thầy tôi có dặn trên đường về nếu gặp ai kêu hỏi đừng trả lời, vì vậy tôi sợ trái lời thầy, chẳng ngờ lại gặp sư đệ. Vậy xin miễn chấp.

Thân Công Báo hỏi:

– Anh cầm bức tượng gì vậy?

Tử Nha nói:

– Ðây là bảng Phong Thần, không phải bức tượng.

Thân công Báo hỏi:

– Bây giờ anh đem đi đâu?

Tử Nha nói:

– Tôi đem về Tây Kỳ làm đài Phong Thần mà treo bảng ấy.

Thân Công Báo mỉm cười hỏi:

– Sau này anh tính phò ai?

– Sư đệ hỏi gì vậy? Tôi đang làm Thừa Tướng Tây Kỳ, được Văn vương thác cô phò Võ Vương thế thì tôi còn tính phò ai nữa?

Thân Công Báo nói:

– Cần gì phải câu chấp. Ðại trượng phu trong trời đất muốn làm gì thì làm, muốn chọc trời khuấy nước lúc nào không được, tại sao lại phải buộc mình trong nghĩa vụ thác cô?

Tử Nha nói:

– Nay thiên hạ chia ba, giang sơn đã về nhà Châu hai phần rồi, tám trăm chư hầu đều bỏ Trụ, vả lại Võ Vương ân đức cao dày sánh với bậc Nghiêu, Thuấn. Khi số đã định, phụng gáy tại non Kỳ, Thánh chúa ra đời là vua Võ còn cơ nghiệp Thành Thang tối tăm, chỉ truyền được một đời này nữa là đứt, há sư đệ không biết hay sao? Bởi vậy tôi phò Châu diệt Trụ là thuận theo lòng trời, đúng theo đạo chính.

Thân Công Báo nói:

– Anh bảo là khí số nhà Thương đã dứt, vậy thì anh cứ xuống phò Châu, tôi phò Trụ xem thử thế nào cho biết.

Tử Nha nói:

– Sao sự đệ lại nói bừa như vậy? Lẽ nào cải mạng trời?

Thân công Báo nói:

– Theo tôi thì không phải khí số gì cả. Nói đến khí số chẳng qua lời gạt gẫm của giáo phái độc tài muốn dùng chiêu bài để tác yêu tác quái trong thế gian này thôi.

Tử Nha nói:

– Trong trời đất có luật tuần hoàn, trong mỗi người chúng ta đều có số mệnh, trong thế gian phải có vận khí. Ðó là lẽ chánh trong càn khôn. Anh nói như vậy thì dựa vào đâu mà hành đạo.

Thân Công Báo nói:

– Sư huynh còn non nớt lắm, chỉ chết chìm trong giáo điều của các giáo hệ độc tài về tư tưởng. Tôi hỏi anh khí số là gì? Ðinh mệnh là gì? Ai tạo ra những điều ầy? Chẳng lẽ ý muốn của một nhóm người nào đó tạo ra rồi bảo là vận mạng, khí số sao?

Tử Nha cãi:

– Vận mạng, khí số là quy luật tự nhiên của càn khôn, vũ trụ, sự chuyển vận của trời đất, chúng ta làm sao phủ nhận được.

Thân Công Báo nói:

– Chúng ta có thể tìm hiều quy luật tự nhiên ấy, và cải biến đi được. Cũng như chúng ta đang tu luyện tức là sửa đổi lại con người của chúng ta.

Tử Nha nói:

– Như vậy là sư đệ theo tà đạo rồi.

Thân Công Báo nói:

– Tà đạo hay chính đạo vẫn là đạo, không có cái nào xấu tốt. Nói cho đúng hơn kẻ nào chống lại các giáo hệ độc tài thì gọi là tà mà thôi. Tôi nói thật với sư huynh tôi sẽ xuống phò Trụ diệt Châu. Nếu sư huynh muốn cho tình anh em chúng ta sau này khỏi xích mích thì cùng tôi phò Trụ.

Tử Nha nói:

– Sư đệ luận sai rồi. Tại sao chúng ta đi phò một hôn quân mà bỏ một chúa thánh?

Thân Công Báo nói:

– Vua Trụ là hôn quân, nhưng nhà Thương không phải là những ông vua bạo ngược cả. Cũng như Võ Vương nhân đạo, nhưng các đời vua nối tiếp vẫn còn nhân đạo hay không? Như vậy từ một hôn quân trở thành một thành chúa, rồi từ một thánh chúa trở thành một hôn quân, chẳng qua chỉ qua chỉ là một thể tướng chớ không phải là một chân tướng. Chúng ta chạy theo thể tướng mà không hiểu gì đến chân tướng ư?

Tử Nha nói:

– Sư đệ có ý như vậy, nhưng tôi không thể trái lời thầy. Vả lại lúc nào tôi cũng phục tùng thiên mệnh.

Thân Công Báo nổi giận nói:

– Tử Nha ngươi tu luyện có bốn mươi năm, công lực bao nhiêu mà dám phò Châu. Ngươi hãy nghe ta biểu dương công lực của ta đây.

Nói rồi ngâm lớn:

Ngũ hành biến hóa đã tinh thông

Trút biển dời non chẳng nhọc công

Lừng lẫy Nam sơn mình cỡi cọp

Nghinh ngang Bắc hải sức thâu rồng

Hào quang ánh sáng ba ngàn trượng

Bửu kiếm hơi lòa chín khúc sông

Chân đạp rừng mây chơi khắp xứ

Muôn năm thong thả dạo Tây Ðông.

Khương Tử Nha nói:

– Công phu của ngươi thì ngươi biết, công phu của ta thì ta hay cần gì phải luận cao thấp.

Thân Công Báo nói:

– Ngươi chẳng qua học thông ngũ độn, di sơn đảo hải mà thôi, sánh với ta sao được. Ta chặt thủ cấp liệng lên trời, đi chơi muôn dặm rồi mây đỏ chở thủ cấp đem ráp lại như thường, vậy mới đáng công học đạo. Chớ như ngươi tài phép gì mà dám cự cùng ta. Nếu nghe lời ta, cùng xuống Triều Ca, đốt bản Phong thần đi thì cũng chẳng mất công hầu khanh tướng.

Tử Nha nghĩ thầm:

– Lẽ nào lại có thể cắt đầu quăng lên trời cho bay một hồi rồi lắp lại được?

Nghĩ rồi liền nói với Thân Công Báo:

– Nếu quả sư đệ làm được như vậy, tôi xem tỏ tường, sẽ đốt bảng phong thần xuống phò Trụ Vương.

Thân Công Báo nói:

– Ngươi phải giữ lời, chớ nên thất tín.

Tử Nha nói:

– Ðấng trượng phụ đã nói ra thì nhớ, lẽ nào lại quên.

Thân Công Báo liền mở hồ bao lấy ra một thanh gươm, tay trái nắm tóc mình, tay mặt cứa lưỡi gươm vào cổ, cắt đứt cái đầu, quăng bỗng lên trời, mà cái mình vẫn trơ trơ không ngã xuống.

Tử Nha trông thấy thất kinh, không hiểu tại sao có chuyện lạ lùng như vậy.

Bấy giờ Nam Cực tiên ông, sau khi đưa Tử Nha ra khỏi cửa, thơ thẩn mải chưa vào cung, thấy Thân Công Báo cởi beo chạy theo Tử Nha đến núi Kỳ Lân lại múa tay múa chân mà nói chuyện. Xảy thấy đầu của Thân Công Báo bay qua bay lại trên trời. Nam Cực tiên ông nghĩ rằng:

– Tử Nha tánh tình thật thà e lầm mưu gian trá.

Liền gọi Bạc hạc đồng tử nói:

– Ngươi hãy hiện nguyên hình, tha đầu Thân Công Báo đem qua Nam hải cho ta.

Ðồng tử vâng lệnh hóa ra con hạc trắng bay nửa lừng trời tha đầu Thân Công Báo.

Có thơ than rằng:

Phép tà quyết ý nghịch lòng trời

Bạch hạc tha đầu khó dạo chơi

Sống lại rước binh băm sáu đạo

Làm cho thiên hạ chết tơi bời.

Tử Nha thấy Bạch hạc tha đầu Thân Công Báo bay qua Nam hải thì thất kinh, giậm chân kêu lớn:

– Ðồ yêu nghiệt từ đâu đến tha đầu người bay mất.

Nam Cực tiên ông hiện đến vỗ vào lưng Tử Nha một cái, làm Tử Nha bất thần quay đi hỏi:

– A! Sư huynh! Chẳng hay sư huynh theo tôi có việc chi dạy bảo không?

Nam Cực tiên ông chỉ Tử Nha nói:

– Ngươi điên cuồng hay sao mà tin nhảm như vậy. Thân Công Báo là tà đạo, dùng tà thuật, ngươi tưởng thật à? Chỉ nội trong một giờ ba khắc mà không ráp đầu được, nó sẽ tuôn máu ra mà chết. Thầy dặn ngươi không được nói chuyện với ai, sao ngươi không tuân lời. Nó sẽ kêu ba mươi sáu đạo binh đến đánh ngươi đó. Ta nghe ngươi giao ước với nó đốt bảng phong thần xuống Triều Ca phò vua Trụ, ngươi tưởng bản Phong Thần dễ đốt lắm sao? Ta thấy vậy nên sai Bạch hạc tha đầu nó quăng xuống Nam hải đặng quá giờ nó chết cho rồi. Hễ nó chết là ngươi khỏi lo.

Tử Nha nói:

– Nếu sư huynh biết quá giờ mà không ráp được đầu nó sẽ chết thì xin tha cho một phen. Lòng đạo ai cũng lấy tình thương làm trọng. Thân Công Báo tu luyện đã lâu năm, chẳng lẽ vì biểu diễn công lực cho bạn bè xem mà hại nó như vậy?

Nam Cực tiên ông nói:

– Ngươi có tình thương đối với nó, nhưng nó không có tình thương đối với ngươi đâu. Ngày nay tha nó, ngày sau có ba mươi sáu đạo binh đến đánh ngươi, ngươi đừng than thở.

Tử Nha nói:

– Chừng nào nó bất nghĩa sẽ hay, nay vì tình bạn, nó biểu diển công lực cho xem mà lại giết nó, lòng tôi không nỡ.

Nam Cực tiên ông thấy Tử Nha năn nỉ mải liền ngoắt Bạch hạc về.

Còn Thân Công Báo bị Bạch Hạc tha đầu, cái mình đứng trơ trơ mà đợi, sợ quá giờ khắc thì tánh mạng không còn. Kế Bạch hạc tha đầu về thả xuống, cái đầu rớt nhằm chỗ mà trở mặt ra sau lưng.

Thân Công Báo đưa tay sửa lại, mở con mắt ra, nhìn Nam Cực tiên ông chứa đầy thù hận.

Nam Cực tiên ông hét lớn:

– Ngươi là yêu nghiệt, theo cám dỗ Tử Nha, bảo đốt bảng Phong thần bỏ Chậu phò Trụ. Lẽ ra ta bắt ngươi dẫn đến cung Ngọc Hư cho thầy ta trị tội, nhưng nghĩ tình ngươi tu luyện không nỡ ác tâm.

Thân Công Báo cau mày nói:

– Mỗi người có một hướng đi, không ai bắt buộc ai được cả.

Tử Nha sợ Thân Công Báo cãi lẩy sanh chuyện, nên nói:

– Thôi, sư đệ hãy trở về núi cho yên. Chúng ta đều là bạn tu hành cả, tranh đua nhau làm chi.

Thân Công Báo hậm hực lên lưng beo, còn quay đầu nói lại:

– Rồi đây sẽ thấy pháp thuật của tà đạo lợi hại đến mức nào.

Thấy Thân Công Báo giục beo đi khuất rồi, Tử Nha giã biệt tiên ông độn thổ đi về ngang Ðông hải, thấy nơi ven biển non cao lởm chởm, cây mọc tốt tươi, tiếng gió thổi rì rào vào các khóm hoa bốc mùi thơm phức.

Tử Nha than thầm:

– Biết ngày nào ta mới dứt được nợ đời vào núi này tu luyện. Nhìn vào mặt biển, xảy thảy sóng dậy ầm ầm, gió giông nổi dậy, sấm chớp bủa giăng, chỉ trong khoảnh khắc sắc thái của không gian thay đổi cả.

Tử Nha giật mình kinh hãi, không rõ vì đâu lại có hiện tượng lạ lùng.

Ngoái nhìn xuống đáy biển thấy có một người trần truồng đang cố nhoi lên trên mặt nước, cất giọng gọi lớn:

– Ðại tiên ôi! Hồn oan lạnh lẽo ngàn năm chưa được siêu rỗi, ngày trước tôi vâng lệnh Thanh Hư đạo nhân đợi nơi đây, chờ pháp sư đến cầu xin ra ơn cứu nạn trầm luân. Nay gặp được pháp sư xin ra ơn tái tạo, ơn đức bằng non.

Tử Nha nói:

– Ngươi là ai? Bị oan ức làm sao mà ở Ðông hải làm sóng, hãy nói cho ta rõ đã.

Người ấy nói:

– Tôi là Bá Dẫm, giữ chức Tổng binh, phò vua Quỳnh đế Hiên Viên đi đánh giặc Xi Vưu, bị nhâm hỏa nổ phải sa xuống biển mà chết. Hồn tôi ở đây hơn ngàn năm chưa được siêu thăng. Xin pháp sư cứu tôi làm phước.

Tử Nha nói:

– Ngươi là Bá Dẫm thì hãy nghe theo sắc chỉ Ngọc Hư, hãy về ở Tây Kỳ mà hầu sai khiến.

Nói rồi vỗ tay như sấm nổ, Bá Dẫm lên khỏi biển Ðông.

Bá Dẫm mừng thoát nạn, lạy Tử Nha tạ ơn rồi độn thổ theo Tử Nha về Tây Kỳ.

Hai người đến núi Kỳ Sơn, nghe gió thổi ào ào, thấy Ngũ Lôi thần đến nghinh tiếp, Năm vị thần ấy thưa:

– Xưa chúng tôi đều ở Triều Ca, nhớ ơn thầy dạy đến Kỳ Sơn mà đợi. Nay thấy thầy đi ngang qua đây nên chúng tôi nghênh tiếp.

Tử Nha nói:

– Ta chọn ngày tốt lập đài Phong thần, ủy nhiệm Bá Dẫm làm đốc công, các ngươi cố sức giúp việc. Chừng nào xong ta sẽ treo bảng Phong thần.

Nói rồi truyền Bá Dẫm ở lại Kỳ Sơn, sai Ngũ Lôi thần làm đài. Sáu người vâng lệnh.

Còn Tử Nha độn thổ trở về tướng phủ.

Võ Kiết và Na Tra hay tin vội ra nghênh tiếp.

Tử Nha hỏi:

– Mấy hôm nay Trương Quế Phương có đến khiêu chiến chăng?

Vỏ Kiết thưa:

– Từ bữa Sư phụ đi vắng đến nay chúng cố thủ dinh trại, không thấy hành động gì cả.

Tử Nha vào ra mắt Võ Vương.

Võ Vương mời ngồi, và hỏi:

– Thượng phụ về núi công việc thế nào?

Tử Nha không dám nói rõ việc thầy mình quở trách, nên tâu:

– Các việc đều xong cả.

Võ Vương nói:

– Thượng phụ vì ta mà đau khổ, lòng ta chẳng yên.

Tử Nha tâu:

– Tôi lo cho lợi nước yên nhà, miễn sao làm trọn lời thác cô của Tiên vương, dầu lao khổ đến đâu cũng chẳng nài.

Võ Vương truyền dọn tiệc đãi đằng, Tử Nha dự tiệc xong lui về tướng phủ.

Hôm sau, Tử Nha thăng trướng, các tướng nghe trống lệnh lập tức ứng hầu.

Tử Nha liền viết lịnh tiễn trao cho Hoàng Phi Hổ, Na Tra và Tân Giáp, Tân Miễn, dặn các tướng cứ theo mật lệnh mà thi hành.

Nói về Trương Quế Phương bị Na Tra đánh xụi một cánh tay nằm mãi trong dinh đợi binh tướng Triều Ca đến tiếp ứng. Bỗng vào lúc canh ba đêm ấy nghe tiếng pháo nổ vang, bốn phía binh reo tở mở.

Trương Quế Phương và Phong Lâm vội mang giáp lên ngựa ra đến cửa dinh thấy binh Châu đèn đuốc sáng ngời, giáo gươm lởm chởm.

Na Tra đứng trên xe Phong Hỏa, cầm giáo dài xông vào, thế mạnh như cọp.

Trương Quế Phương thấy Na Tra chẳng khác gà chạy độ, không dám giao phong.

Còn Phong Lâm thấy Hoàng Phi Hổ cỡi ngũ sắc thần ngưu xông tới, nổi giận mắng:

– Phản tặc! Ðừng hòng lợi dụng đêm tối đến cướp dinh ta.

Nói rồi giục ngựa vung thương đánh với Hoàng Phi Hổ. Hai tướng ra tài hỗn chiến.

Giữa lúc đó. Tân Giáp, Tân Miễn xông vào dinh bên hữu, binh tướng Trụ không ai chống lại. Hai tướng thừa thắng đánh riết vào hậu dinh, tháo tù xa cứu Nam Cung Hoát và Châu Kỷ

Nam Cung Hoát và Châu Kỷ bị cầm tù mấy bữa nay như cọp xổ lồng, giựt gươm chém binh Thương chạy tán loạn, thây nằm rợp đất máu chảy đầy chơn.

Trương Quế Phương và Phong Lâm thấy quân ngũ vỡ tan, biết không thể nào cầm cự nổi, liền giục ngựa bôn tẫu.

Thương hại cho binh Trụ lớp chết lớp bị thương, thây chồng lên nhau một số còn lại tìm đường chạy thoát.

Trương Quế Phương và Phong Lâm chạy riết một hồi đến núi Kỳ Sơn mới dám dừng lại, thu góp tàn quân thì thấy còn không đầy một nửa.

Trương Quế Phương than:

– Thuở nay ta cầm binh chưa bao giờ biết bại trận, thế mà hôm nay bị hao binh tổn tướng thế này!

Than rồi ngồi viết biểu sai người về Triều Ca cáo cấp.

Thái Sư Văn Trọng tiếp được tờ biểu của Trương Quế Phương kinh hãi triệu tập các tướng đến thương nghị, và nói:

– Trương Quế Phương thất trận hao binh, lão phu phải thân chinh mới được. Ngặt vì hai cỏi Ðông và Nam chưa yên, trong triều lại không còn tướng giỏi, nếu bỏ ra đi dẹp loạn thì ai coi việc Triều Ca.

Kiết Lập nghe nói, thưa:

– Chinh phạt là việc nhỏ, giữ nước là việc lớn. Nay trong triều chỉ còn Thái Sư điều khiển mọi việc, nếu Thái Sư cầm binh chinh phạt tôi e trong triều sinh biến, chi bằng cử một vài vị sư hữu qua Tây Kỳ trợ lực với Quế Phương, trừ Khương Thượng thì tiện hơn.

Hồi 38: Tứ Thánh phò Trụ đánh Tây Kỳ

Thái sư Văn Trọng nghe Kiết Lập nhắc đến bằng hữu, liền nhớ lại bốn người bạn ở Hải đảo, nên đắc ý vỗ tay nói lớn.

– Ta mải lo việc nước nên quên mất mấy người bạn thân. Nếu không có ngươi nhắc đến thì biết bao giờ thiên hạ thái bình.

Nói rồi ra lệnh cho Kiết Lập và Dư Khánh giữ gìn trướng phủ, và nói:

– Các ngươi ở nhà trông coi mọi việc, ta đi ba bữa sẽ về.

Văn Trọng sửa soạn xong, cỡi hắc kỳ lân, đưa tay vỗ vào đầu nó một cái, con kỳ lân bốn chân chúm lại, bay thẳng lên mây.

Người sau có thơ khen rằng:

Hắc kỳ lân vật báu cõi đời này

Vỗ gạc chân sanh bốn cụm mây

Bay khắp cỏi trần trong một lát

Phép tiên mầu nhiệm ở trong tay.

Văn Thái Sư bay đến Cửu Long đảo thấy khói un cuồn cuộn, sóng bủa trùng trùng, liền giục kỳ lân sa xuống trước cửa động

Xem thấy phong cảnh rất xinh, bá tòng rậm rạp.

Thật là:

Chỉ có người tiên chơi cảnh ấy

Vốn không thoát tục đến nơi đây.

Văn Thái Sư đang xem hoa, bỗng có đồng tử bước ra.

Văn Thái Sư hỏi:

– Có thầy ngươi ở nhà không?

Ðồng tử đáp:

– Thầy tôi đang đánh cờ trong động.

Văn Trọng nói:

– Ngươi vào thưa có Thái Sư ở trào Thương đến ra mắt.

Ðồng tử vào báo. Bốn vị đạo sĩ hay tin liền ra trước cửa động đón tiếp.

Văn Thái Sư gặp bạn mừng rỡ đi theo vào động.

Một trong bốn vị đạo sĩ nắm tay Văn Trọng nói:

– Chúng tôi ẩn mặt tại bốn cù lao này đã lâu vắng bạn bè, nay hiền hữu có việc gì tìm đến?

Văn Thái Sư nói:

– Tôi chịu ơn vua và lời thác cô của Tiên đế nên mải lo việc nước, không có dịp đến thăm quý hữu. Vừa rồi tại Tây Kỳ có Khương Thượng, vốn là học trò tu tại núi Côn Lôn, cậy phép thần thông giúp Cơ Phát làm loạn. Tôi sai Trương Quế Phương đi đánh dẹp, nhưng Trương Quế Phương cự không lại. Tôi muốn đem binh thảo phạt ngặt vì trong nước không có ai, nên phải đánh liều đến đây cầu cứu quý hữu giúp giùm một tay trừ loài cường bạo cứu kẻ suy vi thì thật may cho tôi lắm.

Ông đạo sĩ ngồi trước cất tiếng lanh lảnh nói:

– Ðạo huynh đã đến đây, bần đạo lẽ nào không ra giúp Trương Quế Phương mà trừ Khương Thượng cho an xã tắc.

Ba vị đạo sĩ ngồi sau đồng nói:

– Vương đạo huynh đã vì Văn đạo huynh mà ra sức, ba tôi lẽ nào lại ngồi yên.

Văn Thái Sư nghe cả bốn vị đạo sư đều tỏ ý giúp mình, lòng mừng khôn xiết.

Bốn vị đạo sĩ ấy là:

1. Vương Ma

2. Dương Sum

3. Cao Hữu Càng

4. Lý Hưng Bá

(Bốn vị này sau phong thần làm tứ Thánh, chầu tại đình Linh Tiêu. Tất cả những vị tu tiên mà ít phước đều phải thành thần).

Khi ấy Vương Ma nói với Văn Trọng:

– Ðạo huynh về trước. Chúng tôi sẽ sửa soạn đến sau.

Văn Trọng căn dặn:

– Quý hữu đã thương tình, xin đừng để trễ việc.

Vương Ma nói:

– Ðể tôi sai đồng tử đưa các con thú đến Tây Kỳ trước, chúng tôi sẽ tới Triều Ca gặp đại huynh.

Văn Thái Sư tạ ơn rồi giã biệt. Cỡi Hắc kỳ lân ra khỏi động.

Bốn vị đạo sĩ sắp đặt xong đều độn thổ qua Triều Ca nội trong ngày ấy.

Ngươi sau có thơ khen:

Ngũ hành độn thổ rất linh thiêng

Chẳng dụng ngựa xe chẳng dụng thuyền

Trời đất giáp vòng đi một khắc

Trong đời ai sánh phép thần tiên.

Bốn vị đạo sĩ đến Triều Ca, quân dân trong thành trông thấy khiếp vía. Vì Vương Ma mặt tròn như mặt nguyệt, mình mặc áo đen. Dương Sum mặt đen như lọ, râu đỏ như máu, cặp chân mày vàng, hình dung cổ quái. Cao Hữu Càng mặc áo điều, mặt và tóc đỏ trên đầu chừa hai vá, còn Lý Hưng Bá thì đầu đội mão đuôi cá, mình mặc áo huỳnh bào, mắt đỏ như trùng táo, râu dài đến rún, mình cao một trượng rưỡi.

Vương Ma đến trước cửa thành gọi quân canh hỏi:

– Dinh Văn Thái sư ở đâu?

Quân trong thành không dám ló đầu ra, chỉ lên tiếng đáp:

– Ði thẳng qua hướng Nam, đến cầu Nhị long thì tới.

Bốn vị đạo sĩ tìm đến trướng phủ.

Văn Thái Sư mừng rỡ đón chào, rước vào dinh dọn tiệc đãi đằng, vì mấy vị này thuộc về Triệt Giáo, không ăn chay.

Sáng hôm sau, Văn Thái Sư vào chầu vua Trụ và tâu:

– Tôi vừa thỉnh được bốn vị đạo sư ở Cửu Long đảo, nhờ họ đến Tây Kỳ chinh phạt Võ vương.

Vua Trụ phán.

– Các vị ấy có lòng giúp quả nhơn, sao Thái Sư không đưa họ vào ra mắt ta?

Văn Thái Sư vâng chỉ, vội vã về dinh dắt bốn vị đạo sĩ vào chầu.

Vua Trụ xem thấy thất kinh, mặt mày tái mét.

Bốn đạo sĩ nói:

– Chúng tôi đồng ra mắt thánh thượng.

Vua Trụ phán:

– Trầm cảm ơn bốn vị tiên trưởng. Nhờ Thái Sư thay mặt trẫm dọn tiệc tại đền Hiển Thánh đãi đằng.

Vua Trụ phán rồi lui vào cung.

Tiệc mở tưng bừng, Văn Thái Sư mời bốn vị đạo sĩ vào đãi yến.

Vương Ma nói:

– Nay ăn uống chưa vui, đợi chúng tôi đến Tây Kỳ trừ Khương Tử Nha xong sẽ về đây vui say một bữa cho phỉ tình.

Nói rồi bốn người đồng ra khỏi.

Văn Thái Sư đưa đi hơn bốn dặm đường mới trở về trướng phủ.

Còn bốn vị đạo sĩ độn thổ đi một lát đã tới Tây Kỳ, đồng tìm đến trại Trương Quế Phương.

Quân vào báo, Trương Quế Phương vội ra ngoài nghênh tiếp, thỉnh bốn vị vào nội dinh làm lễ ra mắt.

Vương Ma thấy Trương Quế Phương và Phong Lâm trong người có vẻ đau đớn, liền hỏi:

– Chắc hai ngươi bị thương gì đó phải không?

Phong Lâm đưa chả vai ra, thuật chuyện giao tranh vừa rồi bị Na Tra đánh trúng.

Vương Ma xem xét vết thương một hồi rồi nói:

– Ấy là Càn Khôn Quyện, bửu vật của Thái Ất chơn nhơn đánh nhằm.

Liền lấy viên thuốc trong bầu nhai nhỏ, thoa vào vết thương, tức thì vết thương lành lại như trước.

Trương Quế Phương thấy vậy mừng rỡ, cởi áo đưa cánh tay ra xin điều trị.

Vương Ma cũng thoa thuốc như vậy, rồi hỏi:

– Khương Tử Nha đóng quân cách bao xa?

Trương Quế Phương thưa:

– Tử Nha đóng quân tại thành Tây Kỳ cách đây bảy mươi dặm. Bởi tôi thất trận, bị chúng cướp trại nên mới lui về chốn này.

Vương Ma truyền tấn binh.

Trương Quế Phương tuân lệnh, đốt một tiếng pháo lớn làm hiệu, kéo binh đến đóng trại tại Ðông môn.

Quân thám mã trông thấy vào báo với Tử Nha:

– Ðại binh Trương Quế Phương kéo tới Ðông môn, đang hạ trại.

Tử Nha đang bàn luận việc binh, nghe tin ấy, liền hỏi các tướng:

– Quế Phương vừa bại trận, nay lại kéo đến đây chắc là có binh viện. Chúng ta phải đề phòng mới được.

Nói rồi truyền các tướng quân phòng đâu đó nghiêm nhặt.

Bên ngoài Trương Quế Phương cũng chỉnh đốn binh mã, đợi lệnh giao tranh.

Vương Ma nói với Trương Quế Phương:

– Ngày mai ngươi đem binh ra khiêu chiến, gọi cho được Tử Nha ra ngoài thành, chúng ta núp dưới cờ để nói chuyện với nó một chút.

Dương Sum lại nói với Phong Lâm:

– Ta cho mấy đạo bùa này ngươi đem giăng trên cổ ngựa, kẻo ngựa của ngươi thấy con thú ta cỡi sẽ bị rũ liệt bốn chân.

Phong Lâm theo lời dặn, đem bùa giắt trên các cổ ngựa.

Rạng ngày Trương Quế Phương kéo binh ra trận, đến trước cửa thành kêu lớn:

– Tử Nha! Hãy ra đây ta nói chuyện cho mau!

Quân vào báo:

– Trương Quế Phương gọi đích danh Thừa Tướng ra trận.

Tử Nha liền kéo cờ năm sắc, tay cầm gươm báu chói lòa, kéo quân ra khỏi thành, gọi Trương Quế Phương mắng lớn:

– Ngươi là tướng bại trận, còn mặt mũi nào đám đến đây.

Trương Quế Phương nói:

– Việc binh thắng bại là lẽ thường, có gì mà xấu hổ.

Trương Quế Phương vừa dứt tiếng thì đã nghe trống lệnh nổ ầm ầm, bốn vị đạo sư cỡi bốn con thú dữ xông ra.

Vương Ma cỡi con Bê Ngang, Dương Sum cỡi con Ton Nghê, Cao Hữu Càng cỡi con Beo gấm, Lý Hưng Bá cỡi con Trạnh Nanh.

Tử Nha và các tướng vừa trông thấy đều té nhào xuống ngựa.

Bởi các con ngựa chiến thấy bốn con thú dữ, đều rũ chân ngã lăn xuống, duy có Na Tra đứng trên xe và Hoàng Phi Hổ cỡi thần ngưu nên không té.

Bốn vị đạo sĩ thấy Tử Nha té đến nỗi sập mão đều cười lớn và nói:

– Không hề gì đâu! Cứ thủng thẳng mà dậy.

Tử Nha sửa áo mão ngay thẳng, nhìn bốn vị đạo sĩ thấy một người mặt đen, một người mặt trắng, một người mặt đỏ, một người mặt vàng, cỡi bốn con quái thú, liền hỏi:

– Chẳng hay bốn vị đạo huynh ở núi nào, động nào đến đây có việc chi chỉ bảo?

Vương Ma nói:

– Chúng ta ở Cửu Long đảo tên Vương Ma, Dương Sum, Cao Hữu Càng, Lý Hưng Bá, vốn là người tu về đại tiên. Bởi Văn Thái Sư cầu khẩn, nên đến đây tỏ vài ý kiến với ngươi.

Tử Nha hỏi:

– Quí vi đại huynh muốn nói gì xin cho biết?

Vương Ma nói:

– Chúng ta muốn tỏ ba điều, mong rằng ngươi không từ chối.

Thứ nhất: Võ vương phải làm tôi vua Trụ.

Thứ nhì: phải xuất của kho mà khao quân

Thứ ba: phải giao Hoàng Phi Hổ cho Trương Quế Phương giải về Triều Ca.

Tử Nha nói:

– Ðiều thứ nhất chúa công tôi là Võ vương luôn luôn giữ phận không bao giờ có ý khi quân, chưa bao giờ có hành động tạo phản thì vẫn là tôi của nhà Thương. Còn điều thứ hai và thứ ba tôi chưa thể quyết định ngay bây giờ được, xin hẹn lại ba hôm để về tâu với chúa công tôi quyết định liệu.

Nói rồi truyền lui binh vào thành. Bên này Quế Phương cũng thâu binh vào trại.

Sau khi Tử Nha vào thành xong, Hoàng Phi Hổ đến trước quỳ thưa:

– Xin Thừa Tướng đem gia đình tôi nạp cho Trương Quế Phương để Võ vương khỏi lụy.

Tử Nha đỡ dậy và nói.

– Hoàng tướng quân đừng nghĩ như vậy. Sở dĩ ta phải dùng kế hoãn binh là vì chúng nó có những con quái thú chưa từng thấy. Nếu giao binh phần thất lợi hãy về chúng ta, ta định vào thành cùng các tướng tìm mưu đối địch.

Hoàng Phi Hổ lạy tạ và lui về.

Chiếu hôm ấy Tử Nha tắm gội xong xuôi, gọi Na Tra và Võ Kiết đến dặn:

– Hai ngươi ở lại giữ thành, ta phải về núi Côn Lôn một lần nữa. Nói rồi độn thổ đi liền.

Khi về đến trước cửa động, gặp Bạch Hạc đồng tử đi ra, Tử Nha đón lại nói:

– Ngươi vào thưa với thầy, có ta về đây xin ra mắt.

Bạch Hạc đồng tử vào báo.

Nguyên Thỉ đòi Tử Nha vào, nói:

– Bốn anh em Vương Ma đánh ngươi, ngươi sợ gì mà chạy về?

Tử Nha thưa:

– Bốn người ấy dùng bốn con quái thú làm cho các ngựa chiến trông thấy đều bị rũ liệt, té lăn xuống đất. Thật là chuyện phi thường, đệ tử chưa từng thấy.

Nguyên thỉ nói:

– Ta cũng có dùng một con thú sống từ thuở khai thiên lập địa đến nay gọi là con Tứ Bất Tướng.

Nói rồi truyền Bạch Hạc vào vườn đào dắt con thú ấy ra. Con thú ấy hình dạng như vầy:

Ðầu lân đuôi trại vóc như rồng

Chân đạp hào quang thấu chín trùng

Bốn biển mười châu đi nhứt khắc

Ba non năm núi đến như không.

Bạch Hạc đồng tử dắt con Tứ Bất Tướng ra, Nguyên Thỉ nói:

– Khượng Thượng, bởi ngươi tu bành bốn mươi năm khó nhọc lại thay ta lo việc phong thần, nên ta cho ngươi con thú này, cỡi về Tây Kỳ mà đấu với các con quái thú ở Cửu Long đảo.

Nói rồi truyền Nam Cực tiên ông lấy ra cho Tử Nha một cây roi dài ba thước năm tấc sáu phân, có hai mươi sáu mắc, mỗi mắc có bốn điệu bùa. Roi ấy gọi là Ðả Thần Tiên.

Nam Cực tiên ông đưa roi cho Tử Nha.

Tử Nha quỳ xuống nhận lãnh, rồi lạy Nguyên Thỉ và thưa:

– Còn việc gì khác xin thầy làm ơn chỉ dạy.

Nguyên Thỉ nói:

– Ngươi đi qua biển Bắc, có một người đang đợi ngươi. Vậy ta cho ngươi một cây Hạnh Quỳnh Kỳ. Cờ này thuộc thổ, trong cờ có thẻ mà không có chữ. Khi có việc gì nguy hiểm nó sẽ hiện chữ ra, ngươi cứ xem đó thì biết.

Tử Nha mừng rỡ, lãnh cờ và từ giã.

Ra khỏi cửa động, Nam Cực tiên ông theo đưa đến núi Kỳ Lân rồi mới trở về cung Ngọc Hư.

Tử Nha leo lên lưng Tứ Bất Tướng, vỗ lên gạc nó một cái, tức thì nó bay lên mây, chỉ chốc lát nó lại sa xuống núi bên kia gần mé biển.

Núi ấy mặt trước cao vòi vọi, tòng bá mịt mù, cỏ hoa thơm ngát. Dưới chân núi là biển lớn, sóng vỗ bao la.

Tử Nha xem thấy phong cảnh khen rằng:

– Núi này có long mạch rất tốt, chắc có anh hùng ẩn dật.

Nói vừa dứt tiếng, thấy dưới chân núi nổi lên một lùm mây, một ngọn gió thổi tạt qua làm cho vầng mây ấy tan đi, và hiện ta một vật rất kỳ dị, ghê gớm:

Ðầu giống lạc dà dữ tợn thay

Cổ cao như ngỗng lúc co ngay

Tai bằng trâu nước che lên sợ

Râu tợ tôm càng gió lắc lay

Chân tợ móng hùm mà một cẳng

Tay như vút ó đủ hai tay

Mắt lồi sáng chói dường sao Ðẩu

Vảy cá cùng mình nhảy thật hay!

Tử Nha xem thấy con quái ấy nhảy chồm tới thất kinh, mồ hồi toát ra đầy mình.

Con quái ấy hét lớn:

– Ăn một miếng thịt của Khương Thượng sống cả ngàn năm. Ðố ngươi chạy đi đâu cho khỏi.

Tử Nha quýnh quáng hỏi:

– Vốn không thù oán gì sao ngươi lại muốn ăn thịt ta?

Cơn quái ấy nói:

– Ăn một miếng thịt sống ngàn năm, cần gì phải nói đến chuyện thù oán?

Tử Nha không biết tính lẽ nào, nhớ đến cây Hạnh Quỳnh Kỳ vội giở ra xem. Quả nhiên cây cờ ứng chữ rõ ràng.

Tử Nha xem xong bình tĩnh nói với con quái vật:

– Số ta bị ngươi ăn thịt thì dù có chạy đi đâu cũng không khỏi. Nhưng ta thách ngươi một điều, nếu ngươi nhổ được cây cờ ta lên thì ta nộp mạng cho ngươi, còn nhổ không được thì đừng hòng làm bậy.

Nói rồi dựng cây cờ xuống đất, con quái vật thấy cây cờ cao chừng hai trượng, tưởng đó là một trò chơi, làm phách bước đến đưa tay trái giở thử, nhưng giở không lên, nó đổi sang tay mặt giở cũng không nổi, nó giận lắm dùng cả hai tay nhưng vẫn không nhúc nhích.

Tử Nha liền vỗ tay một cái, nghe tiếng sấm nổ vang, hai tay con quái dính trong cán cờ, lấy ra không được.

Tử Nha rút gươm báu cầm tay nói lớn:

– Ta chém quách đồ yêu nghiệt.

Con quái liền năn nỉ:

– Xin Thượng tiên lấy lòng từ bi dung mạng cho tôi. Vốn tôi không biết, tại Thân Công Báo lừa phỉnh tôi.

Tử Nha nghe nói đến Thân Công Báo, lấy làm lạ hỏi:

– Ngươi hung dữ muốn ăn thịt ta, chớ Thân Công Báo có can hệ gì trong việc này?

Con quái thưa:

– Tôi là Long Tu Hồ, sanh nhằm đời vua Thiếu Hạo, cha là rồng, mẹ là heo. Tôi luyện khí âm dương cầu trường sanh bất tử, không có ác tâm, nhưng vì hôm trước Thân Công Báo đi ngang qua đây có nói với tôi là hễ ai ăn được thịt Khương Tử Nha thì sống lâu ngàn tuổi. Tôi nghe lầm lời ấy, nên mới hành động thế này, không dè ngài đức trọng đạo cao, xin mở lòng hà hải, dung cho tôi một chuyến.

Tử Nha nói:

– Nếu ngươi chịu làm đệ tử của ta thì ta dung tha tánh mạng.

Long Tu Hồ nói:

– Tôi xin kính ngài làm sư phụ.

Tử Nha truyền Long Tu Hồ nhắm mắt lại, rồi vỗ tay một cái.

Long Tu Hồ nghe một tiếng sấm vang, hai tay không còn dính trong cây cờ nữa, vội quỳ xuống làm lễ tạ ơn.

Tử Nha hỏi:

– Ngươi có tài phép gì không?

Long Tu Hồ thưa:

– Ðệ tử có tài quăng tay không mà ra đá chẳng khác nào mưa vãi, dầu quăng mấy ngày cũng không hết.

Tử Nha nghe nói mừng rỡ nghĩ thầm:

– Nếu dùng người nay đi cướp dinh trại địch thì hay lắm.

Liền lên lưng con Tứ Bất Tướng đem Long Tu Hồ về Tây Kỳ.

Khi Tử Nha vào đến trướng phủ, Long Tu Hồ cũng theo sau.

Các tướng trông thấy kinh hãi thầm thì với nhau:

– Hôm nay Thừa Tướng dẫn yêu tinh ở đâu về như vậy!

Tử Nha thấy các tướng sợ sệt, liền cười lớn nói:

– Người này là Long Tu Hồ ở Bắc hải, ta mới thâu về làm đệ tử.

Các tướng đồng đến gần ra mắt.

Tử Nha hỏi:

– Mấy hôm nay công việc thế nào?

Võ Kiết thưa:

– Binh tướng bên Thương không đến nữa.

Tử Nha truyền quân phòng bị đợi đến lúc thuận tiện sẽ tính việc giao chiến.

Bấy giờ Trương Quế Phương đợi đến năm ngày, không thấy Tử Nha khai binh, và nạp Hoàng Phi Hổ, liền vào thưa với bốn vị đạo sư:

– Nay đã quá kỳ sao chưa thấy Tử Nha đến trại, chắc là nó gạt chúng ta đấy.

Vương Ma nói:

– Nếu Tử Nha không tuân lệnh thì chúng ta sẽ làm cho thành Tây Kỳ máu chảy thành sông, xương phơi tợ núi.

Qua đến ngày thứ tám.

Dương Sum nói với Vương Ma:

– Khương Tử Nha đến hôm nay vẫn chưa thấy trả lời, vậy chúng ta phải hỏi nó cho giáp mặt.

Vương Ma bảo Trương Quế Phương:

– Ngươi chuẩn bị dẫn quân ra trước thành, kêu Khương Tử Nha ra mà hỏi, nếu nó còn ấm ứ, chúng ta đánh cho một trận rồi ban sư cho sớm.

Trương Quế Phương vâng lệnh khiến Phong Lâm phát pháo kéo binh ra.

Tử Nha nghe quân báo liền truyền Na Tra, Long Tu Hồ và Hoàng Phi Hổ đồng kéo binh ra thành.

Vương Ma thấy Tử Nha cởi Tứ Bất Tướng thì giận mắng lớn:

– Khương Thượng, ngươi là đứa thất phu, hứa hẹn với ta để có thì giờ đi mượn con Tứ Bất Tướng. Ấy là ngươi quyết tình giao đấu với chúng ta rồi.

Dứt lời giục Bê Ngang đến, vung gươm chém.

Na Tra cản lại và nói:

– Không được phạm đến Sư thúc ta.

Liền vung giáo dài ra đỡ. Hai người đồng ra sức đánh với nhau gươm giáo như bay, chém đâm tở mở.

Vương Sum sợ Vương Ma đùng gươm ngắn không cự nổi với giáo dài, liền lấy hột châu Khai Thiên trong túi da beo liệng vào mặt Na Tra một cái.

Na Tra bị Khai Thiên Châu trúng mặt, không thấy đường nào đánh đỡ nữa, té nhào xuống xe.

Vương Ma lướt tới muốn chém, Hoàng Phi Hổ kịp thời cản lại, quân sĩ khiêng Na Tra về thành.

Vương Ma đang đánh với Hoàng Phi Hổ, Dương Sum lại quăng trái châu ra nữa, Hoàng Phi Hổ tối mặt té xuống thần ngưu.

Long Tu Hồ nhẩy ra đỡ thương, quân Châu cứu Hoàng Phi Hổ về được.

Long Tu Hồ hét lớn:

– Ðừng giết Ðại tướng, có ta đến đây.

Vương Ma xem thấy tướng kỳ dị, ngỡ là yêu quái hiện đến.

Có bài thơ nói về Long Tu Hồ như vầy:

Ðầu lạc đà nên lớn

Cổ tiên hạc quá dài,

Cả mình như vảy cá

Cặp mắt tợ sao mai

Mười dấu tai quăng đá

Một giò cứ nhảy nai

Gặp Long Tu Hồ tới

Không chết cũng mang tai!

Cao Hữu Càng thấy tướng quái gở, liền lấy Hỗn Nguyên Bửu Châu quăng lên.

Long Tu Hồ bị trái châu đập nhằm vai, đau quá chạy riết vào thành.

Vương Ma và Dương Sum đồng giục thú đến đánh với Tử Nha.

Tử Nha đưa gươm ra đỡ, song thấy tướng tá của mình bị thương hết nên lòng kinh hãi. Bị Lý Hưng Bá quăng Tinh Ðại Châu trúng nhằm ngực, suýt nhào xuống đất.

Tử Nha giục con Tứ Bất Tướng chạy như bay về hướng Bắc hải.

Vương Ma giục Bê Ngang đuổi theo, quyết bắt Tử Nha cho được, nên người chạy như tên bắn, kẻ đuổi theo lẹ tợ gió bay.

Tử Nha đã bị thương lại bị đuổi nà đến, thất kinh vỗ vào đầu con Tứ Bất Tướng bay thẳng lên trời.

Vương Ma cười lớn nói:

– Ðó là phép thường không có gì là lạ.

Nói rồi vỗ đầu con Bê Ngang bay vút lên mây đuổi theo như vũ bão.

Bởi số Tử Nha phải chịu bầm dập, nên trốn không khỏi tai nạn.

Vương Ma lấy cục Khai Thiên Châu quăng tới, trái châu đánh nhằm lưng. Tử Nha nhào xuống đất chết tươi. Con Tứ Bất Tướng cũng sa xuống, đứng một bên giữ thây chủ.

Vương Ma cho thú đáp xuống quyết lấy thủ cấp.

Xảy nghe trong rừng có tiếng ca vọng ra:

Liễu mùa gió đưa phưởng phất

Hoa trôi nước chảy là đà

Ướm hỏi ở đâu cho biết,

Vừng mây vốn thật là nhà.

Vương Ma trông thấy người vừa ca biết ngay đó là Văn Thù quảng pháp thiên tôn ở động Vân Tiêu, liền hỏi:

– Ðạo huynh đi đâu vậy?

Văn Thù nói:

– Vương đạo hữu! Bần đạo vâng lệnh Ngọc Hư cung đến đây gặp đạo huynh để có vài lời. Ðạo huynh không nên giết Tử Nha vì năm lẽ sau đây:

Thứ nhất: khí số thành Thang đã dứt.

Thứ hai: Tây Kỳ chân chúa ra đời.

Thứ ba: đạo Xiển Giáo của ta phải phạm sát sinh.

Thứ tư: Tử Nha được hưởng giàu sang trên thế gian.

Thứ năm: Tử Nha thế cho Ngọc Hư cung lo việc Phong thần.

Vì năm điều ấy nên sai Tử Nha xuống thế. Còn đạo hữu là người tu Triệt Giáo, thân hưởng thanh nhàn, lẽ đâu ngừng tay làm việc dữ, há chẳng nhớ đôi liễn trên cung Bích Du có nói:

Ðóng cửa tụng huỳnh đình, thiệt bực cố thành ngôi chánh quả.

Tách mình qua Tây thổ là người tên đứng bảng phong thần.

Tuy đạo hữu đánh chết Tử Nha mà còn có thể an toàn được, như đạo hữu nghe lời khuyên của bần đạo trở về Cửu Long đảo quyết chí tu thân. Như vậy coi như trăng chưa khuyết, đá chưa mòn, còn nếu cãi lời bần đạo thì ăn năn muộn lắm.

Vương Ma nghe nói nổi xung hét lớn:

– Văn Thù chớ khoe tài trí. Ngươi với ta cùng một thể sao dám buông lời trăng khuyết trăng tròn. Ngươi có Danh sư, ta cũng có Giáo chủ, ai dám khi dễ ai?

Nói rồi cầm gươm chém Văn Thù một nhát.

Ngay lúc đó có một đạo đồng mặc áo vàng, chừa hai vá, ở sau lưng Văn Thù cầm song kiếm lướt tới, kêu lớn:

– Chớ vô lễ với thầy ta. Có ta là Kim Tra đấu sức.

Nói rồi hỗn chiến với Vương Ma.

Có bài thơ rằng:

Hai người ba kiếm quyết giao phong

Chuyển động bên sườn núi Ngũ Long

Cũng bởi Thành Thang cơ nghiệp dứt

Xui người bạc phước khó dằn lòng.

Văn Thù thấy hai người giao đấu không phân thắng bại, liền lấy Ðộn Long Thun là vật báu của Phật, kêu là Thất Bửu Kim Liên hình giống như một cây nọc, có ba cái khoen, quăng lên, tức thì hiện ra ba cái vòng lớn tròng lấy Vương Ma.

Vương Ma bị xiềng một vòng nơi cổ, một vòng nơi lưng, và một vòng nơi chân, đứng chết cứng bên chiếc nọc vàng.

Hồi 39: Hai nịnh bị giá lạnh nằm co

Kim Tra thấy Vương Ma bị trói trong Ðộn Long Thun liền vung kiếm chém một nhát rụng đầu, hồn Vương Ma bay lên đài phong thần, Bá Dẫm là Thanh Phước Thần cầm cây phướng Bá Linh mà rước.

Còn Văn Thù thâu Ðộn Long Thun lại, lạy về núi Côn Lôn tám lạy vái rằng:

– Ðệ tử phạm sát sanh, cam thọ tội.

Lạy rồi truyền Kim Tra cõng Tử Nha lên núi, đổ nước kim đơn vào miệng.

Một lúc lâu, Tử Nha mới hoàn hồn tĩnh dậy, thấy Văn Thù tôn sư liền hỏi:

– Chẳng hay tôi vì sao ở chốn này?

Văn Thù nói:

– Ðó là vận mệnh của ngươi chứ không phải ngẫu nhiên.

Còn Văn Thù trao Ðộn Long Thun cho Kim Tra, và dặn rằng:

– Nay con theo sư thúc đến Tây Kỳ trợ chiến, lo giúp nhà Châu, chẳng bao lâu thầy cũng xuống theo.

Kim Tra từ giã lạy thầy, rồi cùng Tử Nha lên lưng Tứ Bát Tướng bay về thành Tây Kỳ.

Còn Văn Thù đem xác Vương Ma chôn nơi sườn núi.

Bấy giờ tại Tây Kỳ ai nấy bỗng thấy Tử Nha trở lại đều kinh hãi.

Võ vương hay tin đến phủ thăm viếng, và truyền quân thám mã đi lùng kiếm khắp nơi, xảy thấy Tử Nha dắt Kim Tra về phủ.

Võ vương mừng rỡ hỏi:

– Tướng Phụ chạy đi đâu mà quả nhân truyền quân thám mã tìm khắp nơi không gặp?

Tử Nha tâu:

– Như hạ thần không gặp thầy trò Kim Tra thì không còn tánh mạng.

Kim Tra bước đến làm lễ Võ Vương, thuật lại việc giải cứu Tử Nha, giết Vương Ma, rồi nhìn Na Tra là em ruột mình cùng nắm tay hoan hỉ.

Võ Vương mừng rỡ, truyền quân mở tiệc ăn mừng ngày hội ngộ.

Bên kia, Dương Sum thấy Vương Ma rượt Tử Nha mãi đến tối không thấy về lòng nghi ngại, đánh tay xem thử rồi vùng ta lớn:

– Thôi rồi! Còn gì đâu!

Cao Hữu Càng và Lý Hưng Bá đồng hỏi:

– Chuyện gì vậy?

Dương Sum giậm chân nói:

– Uổng công danh ngàn năm tu luyện, nay bỏ mình tại núi Ngũ Long.

Ba anh em tức tối, đêm ấy ngủ khôn an.

Rạng ngày ba người dẫn binh đến bên thành khiêu chiến, gọi Tử Nha ra trận.

Quân vào báo với Tử Nha.

Tử Nha bị thương chưa lành nên có ý buồn bực, Kim Tra liền bước tới thưa:

– Có đệ tử bảo hộ xin sư thúc ra thành.

Tử Nha nghe lời, dẫn quân xuất trận. Ba vị đạo sĩ thấy Tử Nha nổi giận mắng:

– Khương Thượng ngươi giết anh ta, ta quyết xé xác ngươi!

Vừa nói vừa ào tới đánh liền.

Kim Tra và Na Tra đồng một lượt giốc tới cản lại, giao chiến.

Năm người biểu diễn một trận thư hùng, thật là:

Tiếng đao rang rảng vang trời đất

Khí giận ùn ùn toả núi sông.

Tử Nha trông thấy cuộc chiến không phân thắng bại, cố tìm cách rút ngắn thời gian, vùng nhớ đến cây roi Ðả Thần Tiên của Nguyên Thỉ cho, liền rút roi ấy ném lên không, tức thì roi thần tỏa hào quang như chớp nhoáng, đánh bể đầu Cao Hữu Càng, linh hồn lên đài Phong thần.

Dương Sum thấy Cao Hữu Càng tử nạn, tức mình hét lên một tràng, lướt đến đánh Tử Nha, chẳng ngờ bị Na Tra quăng Càn Khôn Quyện, Dương Sum lo bắt Càn Khôn Quyện bị Kim Tra quăng Ðộn Long Thun lên nữa tròng cổ Dương Sum trói cứng vào cây nọc vàng.

Kim Tra lướt tới chém Dương Sum một gươm đứt làm hai khúc, linh hồn Dương Sum cũng bay lên đài Phong thần họp bạn.

Trương Quế Phướng và Phong Lâm thấy hai vị đạo sĩ bị chết một cách chớp nhoáng như vậy, đồng xông vào trợ chiến với Lý Hưng Bá, giao đấu với Kim Tra và Na Tra.

Xảy nghe trên thành Tây Kỳ, một tiếng pháo nổ vang có một viên tướng nhỏ mình mang giáp bạc, cỡi ngựa kim, cầm giáo dài. xông ra giữa trận. Mọi người xem lại thì thấy tướng ấy là Hoàng Thiên Tường, con út của Hoàng Phi Hổ.

Hoàng Thiên Tường tuy còn nhỏ tuổi, nhưng con nhà tướng, sức mạnh như thần. Vừa đến nơi đã đâm trúng Phong Lâm một giáo lòi ruột, nhào xuống đất chết tươi.

Trương Quế Phương và Lý Hưng Bá rối loạn, nhắm bề cự không lại bỏ chạy về dinh.

Sau khi thu góp tàn quân, Trương Quế Phương thấy quân sĩ hao hụt quá nhiều, lòng buồn khôn tả.

Lý Hưng Bá nói với Trương:

– Bốn anh em chúng tôi đến đây trợ giúp tướng quân, không ngờ rủi ro chết mất ba người, nay chỉ còn một mình tôi, liệu thế khó bề chiến thắng. Vậy tướng quân nên viết biểu về Triều Ca báo với Văn Thái Sư liệu định.

Trương Quế Phương tuân lời, viết chiếu sai hỏa tốc đem về triều trình với Văn Trọng.

Còn Tử Nha trọn thắng, kéo quân vào thành khao binh thưởng tướng ai nấy cũng khen tài uy dũng của Hoàng Thiên Tường, mới bao nhiêu tuổi đầu đã dám ra trận đâm chết đại tướng

Kim Tra thưa với Tử Nha:

– Chúng ta vừa thắng trận, không nên bỏ qua dịp tốt, ngày mai nên lựa binh ra ngoài thành đoạt ải, đuổi Trương Quế Phương chạy khỏi Tây Kỳ, thì mới khỏi lo về sau.

Tử Nha khen phải, truyền các tướng chỉnh đốn đội ngũ, đợi rạng ngày xuất quân.

Ngày hôm sau, Tử Nha dẫn các tướng đến trại Thương khiêu chiến.

Quân vào báo, Trương Quế Phương mắng lớn:

– Phản tặc dám khinh dễ Nguyên soái thiên triều. Ta quyết trận này một còn một mất.

Nói rồi kéo binh ra khỏi trận, gặp tiểu tướng Hoàng Thiên Tường đang diệu võ dương oai.

Trương Quế Phương hét:

– Tiểu tặc! Hôm qua ngươi lên đâm chết được Phong Lâm, ngươi tưởng tài ngươi vô địch sao? Ta lấy đầu ngươi cho ngươi biết.

Nói rồi xông lại đánh với Hoàng Thiên Tường.

Hai tướng hổn chiến với nhau hơn ba mươi hiệp không phân thắng bại.

Tử Nha truyền quân giống trống, tức thì có tám viên tướng Tây Kỳ, gọi là bát tuấn, cùng một lượt áp vào trận.

Tám tướng này là: Bá Ðạt, Bá Hoạt, Trọng Ðột, Trọng Hốt, Thúc Dạ, Thúc Hạ, Quí Tòa, Quí Hoa.

Lại thêm một số tướng cạnh của Tử Nha là: Mao Công Toại, Châu Công Ðáng, Thiện Công Tích, Nam Cung Hoát, Tân Giáp, Tân Miễn, Thái Ðiền, Hoàng Yên, Hoàng Minh, Châu Kỷ đều áp vào phủ vây Trương Quế Phương vào giữa.

Trương Quế Phương như hùm mây gặp gió, một mình xông đột múa giáo như tên bay, không hề khiếp sợ tí nào.

Khi ấy, Lý Hưng Bá thấy Trương Quế Phương bị vây liền vỗ thú xông vào giải cứu.

Tử Nha trông thấy liền khiến Na Tra và Kim Tra đón đánh. Ba người giao phong một hồi.

Tử Nha thấy không nên kéo dài trận chiến, liền quăng roi Ðả Thần Tiên lên, Lý Hưng Bá xem thấy thất kinh vỗ đầu con Tranh Nanh bay bỗng lên không trung trốn thoát.

Na Tra và Kim Tra thấy Lý Hưng Bá bỏ chạy, liền quay lại trợ lực với các tướng vây thêm Trương Quế Phương một vòng nữa.

Triều Ðiền gọi Trương Quế Phương nói:

– Binh tướng của ngươi đã tan tành, ngươi liệu sức phá nổi vòng vây hay không mà liều chết như vậy? Mau xuống ngựa qui hàng, đã cứu được mạng sống còn hưởng được vinh hoa phú quí.

Trương Quế Phương đỏ mặt mắng lớn:

– Phản tặc! Nói càn mà không biết xấu! Ta liều mình chết tại chiến trận, đem thân đền nợ nước, há như lũ bay chỉ biết có phú quí mà quên cả nhục vinh?

Mắng rồi lại đánh với các tướng Tây Kỳ từ giờ thìn đến giờ ngọ, mà giải vây không được, tay chân rũ liệt, liền ngửa mặt lên trời than:

– Bệ hạ ôi! Hạ thần không thể lập công đền nợ nước thì đành liều thân mà trả ơn Vua.

Than rồi trở giáo đâm vào bụng mình tự vận.

Có bài thờ điếu Trương Quế Phương rằng:

Làm tướng như vầy vẹn chữ trung

Quế Phương dầu thác cũng anh hùng

Tử Nha hồi trước không đương lại

Châu Kỷ khi xưa khó địch cùng

Chịu trận nữa ngày không hoảng hốt

Liều thân một giáo giữa gian truân

Kêu lên một tiếng đầy trung liệt

Thấu đến mây xanh, tận chín từng.

Binh Thương thấy chủ tướng liều mình rồi đều vỡ tan bỏ chạy, lớp bị bắt, lớp đầu hàng, lớp trốn vào rừng núi.

Tử Nha đắc thắng dẫn binh tướng vào thành, truyền đem thủ cấp của Trương Quế Phương bêu tại cửa Ðông, mở tiệc khao quân, khen tài các tướng:

– Trận này ai nấy đều ra tài làm cho binh Thương vỡ mật.

Giữa lúc ấy, Lý Hưng Bá cỡi Trạnh Nanh bay đến núi Cửu Cung mới dám dừng lại, xuống đất ngồi bên một gốc tòng nghỉ ngơi và nghĩ thầm:

– Ta tu luyện tại Cửu Long đảo đã lâu nay, tài trí mọi người đều nể. Nay thất trận tại Tây Kỳ thì còn mặt mũi nào trở về nhà thấy bạn bè. Ta phải trở lại Triều Ca báo tin với Văn Trọng tìm cách đến đây báo oán một trận để cứu lấy thể diện.

Nghĩ rồi toan lên lưng quái thú trở lại Triều Ca, bỗng nghe trong rừng tòng có nhiều tiếng hát vọng ra:

Trời khiến người phàm được phẩm tiên

Thành tiên mới thấy ý Hoàng thiên

Chớ chê ta nói lời ngang dọc

Bền chí thời nên lẽ tự nhiên.

Lý Hưng Bá ngoảnh lại thấy một đạo đồng lệnh mệnh bước ra.

Ðạo đồng đến trước mặt Lý Hưng Bá cúi chào, và hỏi:

– Chẳng hay đạo sư ở núi nào, có việc gì dừng chân nơi đây mà vẻ mặt lo âu buồn bã?

Lý Hưng Bá nói:

– Ta là Lý Hưng Bá ở Cửu Long đảo đến Tây Kỳ trợ chiến với Trương Quế Phương, bởi thất trận nên đến đây nghỉ mệt.

Ðạo đồng nghe nói mừng rỡ, đáp:

– Thế thì tôi khỏi phải nhọc công tìm kiếm.

Lý Hưng Bá hỏi:

– Ngươi tìm ai?

Ðạo đồng nói:

– Tôi là Mộc Tra, học trò Phổ Hiền chân nhân ở núi Cửu Cung, động Bạch Hạc. Nay tôi vâng lệnh thày tôi xuống Tây Kỳ ra mắt sư thúc tôi là Tử Nha để giúp nhà Châu. Thầy tôi có dặn đi dọc đường nếu gặp Lý Hưng Bá thì bắt đem nạp cho Tử Nha. Bây giờ mới rõ lời thầy tôi rất đúng.

Lý Hưng Bá vừa cười vừa nói:

– Thằng nhỏ điên khùng! Mấy khi dễ ta đến mức đó sao?

Nói roi cầm gươm chém liền.

Mộc Tra có hai cây gươm phép gọi là cặp gươm Ngô Câu, gồm có một cây trống, một cây mái. Thấy Lý Hưng Bá làm dữ, Mộc Tra liền rút cây gươm mái ra đỡ và chém lại.

Hai người đánh nhau được ít hiệp, Mộc Tra uốn mình ném cây gươm trống lên.

Số Lý Hưng Bá sau này làm Tứ thánh, không tránh khỏi bảng phong thần, nên thờ ơ bị gươm phép chém một nhát bay đầu.

Than ôi!

Ngàn năm tu luyện miền Tây hải

Một phút rơi đầu tại Cửu Cung.

Mộc Tra chém Lý Hưng Bá xong, đem chôn xác nơi mé núi, rồi độn thổ tìm đến Tây Kỳ, vào yết kiến Khương Tử Nha.

Quân trong thành thấy một đạo đồng còn nhỏ tuổi vào xin ra mắt, vội đến báo với Tử Nha.

Tử nha truyền mời vào.

Mộc Tra vào làm lễ gọi Tử Nha bằng sư thúc.

Tử Nha hỏi:

– Ðạo đồng ở tại núi nào?

Mộc Tra chưa kịp đáp thì Kim Tra trông thấy đã ứng tiếng nói:

– Người này là em ruột của tôi học trò của ông Phổ Hiền ở núi Cửu Cung động Bạch Hạc, tên Mộc Tra đó.

Tử Nha khen:

– Ba anh em đồng ra phò chúa Thánh, lập công để tiếng muôn đời.

Nói rồi bèn dọn tiệc đãi đằng.

Từ ấy Tây Kỳ rất đông binh đông tướng, mạnh mẽ vô cùng.

Nói về Thái Sư Văn Trọng ở tại Triều Ca đang lo việc chánh. Chỉnh đốn bởi những tàn bạo của Trụ Vương, xảy thấy quan Toan trấn ải Tụy Thủy là Hàng Vinh sai người về dâng sớ.

Văn Thái Sư xem sớ xong tức giận vỗ ghế, hét:

– Các vị đạo huynh ta vì ta mà thác oan thật tội nghiệp. Ta mải lo việc nước, không rảnh để đem quân chinh phạt Tây Kỳ, bao nhiêu binh tướng đến đó đều thảm bại là tại làm sao?

Liền truyền nổi trống đền triệu tập các tướng lại thương nghị.

Chư tướng nghe hiệu trống ứng hầu đủ mặt.

Văn Trọng nói:

– Vừa rồi ta có nhờ bốn vị đạo huynh ở Cửu Long đảo sang Tây Kỳ giúp Trương Quế Phương dẹp loạn nhưng chẳng biết tình thế ra sao mà ba vị đạo huynh đã bỏ mình, Phong Lâm là tướng tiên phuông cũng tan xác, chỉ còn lại Lý Hưng Bá và Trương Quế Phương. Vậy nay có tướng nào thay mặt ta kéo binh đến đó rửa hờn chăng?

Lão tướng Lỗ Hùng bước ra thưa:

– Tôi tuy tuổi cao tác lớn, song cũng vì triều đình, xin gánh trách nhiệm ấy cho.

Văn Thái Sư thấy Lỗ Hùng đầu đã bạc trắng, râu đã hoa râm liền nói:

– Lão tướng sức yếu tuổi già sợ không đủ sức chống với giặc dữ.

Lỗ Hùng cười, nói:

– Trương Quế Phương tuy có sức mạnh, ỷ phép thần thông, thực ra chưa biết cầm binh, chưa đủ tài làm tướng, còn Phong Lâm hữu dõng vô mưu, nên phải bỏ mình nơi chiến địa.

Văn Trọng hỏi:

– Ý lão tướng phải thế nào mới thắng giặc?

Lỗ Hùng nói:

– Theo tôi thì đạo làm tướng trước phải xét thời trời, chiếm thế đất và dụng nhân hòa, trong hiểu nghề văn ngoài hiểu việc võ, hễ tịnh thì thủ, hễ động thì công, đổi mất ra còn, biến suy ra mạnh, tính xa ngàn dặm, chiếm may nửa giờ. Việc nào cũng phải cẩn trọng, phải rõ cái lý tự nhiên, phải biết kinh quyền mới già mưu trí, ấy là đạo làm tướng, cầm binh. Tôi tuy tuổi già chớ mưu trí chưa lẩm cẩm, nếu Thái Sư cho tôi hai vị Tham quân theo giúp đỡ, thì có thể đương đầu với mũi giặc Tây Kỳ được.

Văn Thái Sư thấy Lỗ Hùng nói thông lắm, nên chẳng dám chê già xét lại cũng là người trung nghĩa, nên đồng ý cho đi.

Tuy nhiên việc chọn hai người tài trí, phong chức Tham quân là việc khó.

Thái Sư nghĩ một hồi nhớ đến Bí Trọng, Vưu Hồn, liền cho người đòi đến.

Từ khi Văn Thá Sư về triều, Vưu Hồn, Bí Trọng không dám xu nịnh, khiến Trụ vương làm điều bạo ngược nữa, cả hai đều đóng cửa dinh kín mít, ngày tối không hề ló ra ngoài, nay được lệnh Văn Thái Sư đòi.

Bí Trọng, Vưu Hồn đều tái mặt.

Khi hai người này đến lạy dưới trướng, Văn Thái Sư nói:

– Nay Trương Quế Phương thất trận. Phong Lâm bỏ mình, Lỗ Hùng xin cầm binh đến trợ chiến, ta cần tới tướng giữ chức Tham quân. Ta xem chỉ có hai ngươi mới xứng với chức ấy. Vậy phải đồng tâm hiệp lực ra dẹp Tây Kỳ, nếu thắng trận về trào sẽ được gia phong tước lộc

Vưu Hồn, Bí Trọng nghe nói thất kinh, quỳ lạy thưa:

– Chúng tôi chỉ biết về văn, chưa từng nghiệp võ, e làm không xong việc mang tội với triều đình.

Văn Thái Sư nói:

– Hai ngươi có tài quyền biến, rộng trí nhiều mưu, làm chức Tham quân là lo bày mưu kế, còn việc võ thì đã có Lỗ Hùng. Nay nước nhà bối rối. Không lẽ hai ngươi cứ ngồi hưởng thái bình sao?

Nói rồi gọi tả hữu đem hai cái ấn ra. Bí Trọng, Vưu Hồn từ chối không được, đành phải lãnh án đeo vào người, cùng với Lỗ Hùng sắp đặt việc Tây chinh.

Văn Thái Sư mời Lỗ Hùng đến dinh đãi rượu.

Ba người dẫn năm vạn binh nhắm Tây Kỳ thẳng tiến.

Người sau có thơ rằng:

Lỗ Hùng lão tướng thật trung can

Bí Trọng, Vưu Hồn rối ruột gan

Mùa hạ kéo binh hơi nóng nực

Quan văn cỡi ngựa dạ kinh hoàng.

Bày mưu với chúa nên ly loạn

Trả nợ cho dân dám thở than?

Tế bảng Phong thần còn thiếu lễ

Tử Nha mưu tính bắt quân gian.

Lỗ Hùng cùng với Vưu Hồn, Bí Trọng vừa kéo binh ra khỏi ngũ quan, đã nghe quân thám thính về báo Trương Tổng binh thất cơ tử trận, bị Khương Tử Nha cắt thủ cấp bêu tại Ðông môn.

Lỗ Hùng nghe báo thất sắc, nói với Vưu Hồn, Bí Trọng:

– Trương Quế Phương đã tử trận, binh ta chẳng nên kéo tới gần.

Liền quay lại hỏi quân thám tử:

– Ðây là núi gì?

Quân thám tử thưa:

– Ðây là núi Tây Kỳ cách thành hơn bảy mươi dặm.

Lỗ Hùng truyền quân đóng trại bên rừng rậm, rồi sai người đem thơ trở về dâng cho Văn Thái Sư rõ.

Quân thám thính ở Tây Kỳ biết được Lỗ Hùng kéo binh đến, vội về thám báo với Tử Nha:

– Tại núi Tây Kỳ có binh Thương đến đóng trại

Tử Nha nghe báo nghĩ thầm:

– Nay thần Thanh Phước là Bá Dẫm làm đài phong thần đã xong, ta phải lo lễ phật mà tế đài. Vậy thì mượn vài cái thủ cấp của tướng Trụ mà dâng lễ.

Nghĩ rồi truyền Nam Cung Hoát và Võ Kiết đem năm ngàn quân đóng tại Kỳ Sơn để ngăn cản quân Lỗ Hùng.

Hai tướng vâng lệnh phát pháo dẫn binh mã ra khai thành kéo đến Kỳ Sơn đồn binh đóng trại.

Lúc này vào mùa hè trời nóng như đốt, Võ Kiết nói với Nam Cung Hoát.

– Chúng ta nên tìm nơi mát để mà đóng quân, lợi dụng chỗ có bóng cây cho đỡ nắng thì quân sĩ mới giữ gìn được sức khõe.

Nam Cung Hoát y lời đóng binh cách xa chân núi vài dặm.

Chẳng ngờ ngày hôm sau, Tử Nha lại sai Tân Giáp đến dinh nói với Nam Cung Hoát và Võ Kiết:

– Thừa Tướng dạy phải đóng quân trên đỉnh núi.

Nam Cung Hoát và Võ Kiết lấy làm lạ, sửng sốt nhìn nhau than:

– Trời mùa hạ nóng như đốt mà đồn binh lên núi, chắc là Thừa Tướng muốn cho ta mau chết.

Tân Giáp nói:

– Lệnh Thừa Tướng truyền như vậy chúng ta dám cãi lời sao?

Hai tướng phải vâng lời kéo binh lên núi. Quân lính bị nắng hè thiêu đốt, ai nấy thở dốc.

Ðến khi đóng trại xong, tìm khắp bốn phía các suối đều khô cạn, không tìm đâu ra một gánh nước để nấu cơm.

Quân sĩ đều than oán.

Còn Lỗ Hùng đồn binh dưới mé rừng cây cối rậm rạp mát mê vô cùng, trông thấy binh Châu đóng trại trên núi thì cười lớn:

– Mùa này mà đóng trại trên đỉnh núi thì chỉ trong ba ngày không ai đánh cũng phải chết khô.

Lỗ Hùng an lòng đợi quân triều đến tiếp viện rồi sẽ giao phong.

Hôm sau Tử Nha dẫn ba ngàn quân đến nơi Kỳ Sơn, Nam Cung Hoát và Võ Kiết đồng xuống núi nghinh tiếp.

Tử Nha dẫn binh lên núi sát nhập thành một đoàn, kéo vải làm trại cho mát, rồi sai Võ Kiết đắp đài đất cao ba thước sau trại, để Tử Nha lên đài ấy làm phép hô phong, hoán vũ.

Võ Kiết tuân lệnh.

Lại thấy Tân Miễn chở nón lá và áo ấm đến cho Tử Nha.

Tử Nha truyền đem đến phát cho binh tướng.

Ba quân xem thấy sững sờ mỗi người lãnh một cái nón và một cái áo ấm cười ngất, nói nhỏ với nhau:

– Mùa này mà Thừa Tướng bắt đội nón mặc áo ấm như thế này, chắc muốn quay xác chúng ta cho ra mỡ.

Tối hôm ấy, đài đắp xong, Võ Kiết vào báo với Tử Nha.

Tử Nha xõa tóc cầm gươm lên đài, trở mặt về phía núi Côn Lôn lạy tám lạy, rồi đốt bùa phun nước niệm chú một hồi. Trời đang nắng chang chang bỗng nổi lên gió lớn.

Có thơ rằng:

Tử Nha cầm kiếm đến đài cao

Gọi gió kêu mưa giỏi bực nào

Xõa tóc đốt bùa rồi niệm chú

Một giây giông tố nổi ào ào.

Bên kia Lỗ Hùng thấy nổi cơn gió lớn, quân sĩ mát mẻ nghĩ thầm:

– Nếu Văn Thái Sư đem binh ra nhằm lúc mát mẻ này thì dễ đánh lắm.

Vưu Hồn, Bí Trọng cũng nói:

– Bởi Thiên tử hồng phước cao dày, nên có gió mát trợ lực.

Chẳng ngờ giông gió nổi lên một hồi, mưa rơi tới tấp, chỉ cách một hai giờ, tuyết sa lộp độp.

Binh sĩ của Lỗ Hùng bị rét lạnh, than:

– Chúng ta áo thưa giáp sắt, chịu đựng sao nổi cảnh lạnh lùng.

Lỗ Hùng nói với Vưu Hồn, Bí Trọng:

– Ðầu tháng bảy mà mưa tuyết thình lình, thật là lạ lắm?

Lỗ Hùng lớn tuổi chịu lạnh không nổi. Còn còn hai ông tham mưu cũng run cầm cập. Quân mã ai nấy dồn lại từng đống.

Quân của Tử Nha đóng trên núi được cấp phát nón và áo ấm, không còn ai than van nữa, lại tỏ ý cảm ơn Thừa Tướng.

Tuyết rơi được hai ngày Tử Nha hỏi Võ Kiết:

– Nước cao được mấy thước?

Võ Kiết thưa:

– Ở trên núi tuyết đông chừng hai thước, còn ở chân núi thì gió đùa tuyết xuống nên cao quá năm thước.

Tử Nha liền xõa tóc cầm gươm lên đài làm phép nữa. Chốc lát mây tan gió tạnh, mặt trời nắng chang chang như lửa. Tuyết tiêu ra nước chảy xuống chân núi ồ ồ.

Tử Nha đợi cho tuyết trên núi tan chảy xuống hết thì đốt bùa niệm chú, nổi gió kéo mây, cảnh mưa rơi tuyết đổ mù mịt như cũ, bao nhiêu nước tuyết đông lại thành giá dưởi chân núi Tây Kỳ.

Bấy giờ nơi dinh Lỗ Hùng không còn một bóng ngựa, không nghe một tiếng người, cờ xí ngã rạp, dinh trại chìm trong bể tuyết.

Tử Nha sai Nam Cung Hoát và Võ Kiết dẫn vài chục tên quân đến dinh Lỗ Hùng mà bắt tướng.

Hai người vâng lịnh dẫn binh xuống núi, đi đến dinh Thương, thấy quân địch chết lạnh rất nhiều.

Lỗ Hùng nằm cù queo một đống với Vưu Hồn, Bí Trọng, tuyết đóng xung quanh như ướp xác.

Nam Cung Hoát truyền quân moi tuyết bắt sống ba người đem lên núi mà nạp cho Tử Nha.