Hồi 40: 4 tướng cậy phép đoạt thành

Nam Cung Hoát và Võ Kiết bắt được ba tướng Trụ đưa về dinh nạp cho Tử Nha.

Tử Nha thấy Lỗ Hùng đứng sững không quì.

Còn Vưu Hồn, Bí Trọng thì quì móp dưới đất xin dung mạng.

Tử Nha nói với Lỗ Hùng:

– Bậc anh hùng phải trông thời thế rõ được cơ trời, am tường máy tạo. Nay nhà Thương đã đến lúc suy vi, thiên hạ hai phần đã bỏ Trụ theo Châu, lão tướng không biết hay sao mà làm nghịch lại đến nỗi mang họa?

Lỗ Hùng nói:

– Ngươi trước kia cũng làm tôi cho nhà Thương ăn lộc Ðại phu, nay phản phúc đến đây đầu Châu nghịch Trụ, thế thì người là kẻ tham quyền cố vị, mưu sống cầu vinh, chớ đâu phải bậc hiệu lương quân tử. Ta không chối cãi tội ác Trụ Vương đã làm thiên hạ đảo huyền, muôn dân đồ thán, bằng cớ theo lẽ thì trung thần nếu không can vua được thì chịu chết, chứ không theo phò người khác làm tôi. Ta tuổi đã già rồi, chết đi để tiếng thơm muôn đời thì có gì đáng tiếc.

Tử Nha truyền quân giam giữ ba tướng lại một nơi rồi cầm gươm lên đài làm phép, tức thì mây tạnh giá tan, nắng mùa hè trở lại như cũ. Trong năm vạn binh mã của Trụ chết lạnh hơn bốn ngàn, còn bao nhiêu trốn về Nam ải.

Tử Nha sai Nam Cung Hoát về thành thỉnh Võ Vương đến núi Kỳ Sơn.

Nam Cung Hoát tuân lệnh ra đi về đến nơi ra mắt Võ Vương và tâu:

– Hạ thần vâng lệnh Thừa Tướng về triều thỉnh chúa công ngự đến Kỳ Sơn để luận bàn công việc.

Võ Vương nhậm lời, dẫn bá quan đến chân núi đã thấy Tử Nha đón tiếp.

Võ Vương hỏi Tử Nha:

– Thượng phụ cho rước quả nhân đến đây để làm gì?

Tử Nha thưa:

– Tôi thỉnh chúa công đến đây để làm lễ tế núi Kỳ Sơn.

Võ Vương nói:

– Tế núi sông là chính lẽ, trẫm không từ chối.

Tử Nha đặt văn tế Võ vương ngỡ là tế núi không ngờ cúng đài Phong thần.

Võ vương quì xuống thắp hương, còn Tử Nha truyền Võ Kiết chém đầu Lỗ Hùng, Vưu Hồn, Bí Trọng đem ba thủ cấp đến đặt lên đài cao làm lễ tế.

Võ Vương trông thấy ba thủ cấp thất kinh hỏi:

– Sao lại giết người mà tế núi?

Tử Nha tâu:

– Hai người ấy là Vưu Hồn, Bí Trọng, tôi nịnh của Trụ vương, trước kia gây nhiều tội lỗi, nay phải đền tội với nhân dân.

Võ Vương không muốn giết người làm đồ tế lễ như vậy, song nghe đến Vưu Hồn, Bí Trọng là hai tên đại nịnh thì chết cũng an lòng nên không tỏ ý phàn nàn nữa.

Tế xong, tôi chúa đồng đem gia tướng về thành, còn Bá Dẫm dẫn hồn ba tướng lên đài lập tức.

Người sau có thơ nói đến cái chết của Vưu Hồn, Bí Trọng:

Năm xưa kêu ngạo quẻ Cơ Xương

Bị giá ngày nay nghĩ mới tường

Bí Trọng lạnh lùng rơi cổ rắn

Vưu Hồn run rét rụng đầu lươn

Kẻ gian tợ dựa cây gươm báu

Gần dữ như vào đãy cá ươn

Họ Lỗ liên can thương hại bấy

Kẻ trung người nịnh họa đồ vương.

Tàn binh của Lỗ Hùng sau khi thoát nạn tuyết lạnh chạy trở về ải Tụy Thủy.

Hàng Vinh biết được tin, bèn viết sớ dâng về triều cáo cấp.

Lúc ấy Văn Thái Sư đang ngồi xem tờ biểu của Ðặng Cửu Công gởi về, trong biểu nói việc Nam Bá Hầu Ngạc Thuận đánh không lại kéo binh bại tẩu, thì mừng rỡ nhủ thầm:

– Thể thì an được mối giặc ở phía Nam.

Kế đó Văn Thái Sư xem đến tờ biểu của Hàng Vinh nói việc Lỗ Hùng và Bí Trọng, Vưu Hồn đều tử chiến.

Văn Thái Sư thất kinh than:

– Không ngờ binh Tây Kỳ mạnh đến như vậy. Khương Thượng đã giết Trương Quế Phương, nay lại chém đầu Lỗ Hùng và Vưu Hồn, Bí Trọng nữa. Thế này ta phải thân chinh mới được, ngặt phương Ðông còn giặc, không dám bỏ đi.

Ngẩm nghĩ một lúc. Thái Sư quay qua hỏi Kiết Lập và Dư Khánh:

– Nay nhắm tướng nào có thể đến đẹp loạn Tây Kỳ được?

Kiết Lập thưa:

– Trước đây chúng ta đánh giá nhân vật Tây Kỳ quá thấp nên mới bị hao binh tổn tướng như vậy. Cứ như Trương Quế Phương cầm binh không lại, bốn vị đạo sư ở Cửu Long đảo bỏ mình thì biết binh tướng Tây Kỳ nhiều kẻ đa mưu túc trí lắm. Vậy phải cho người ra ải Giai Mộng truyền bốn tướng họ Ma đem binh chinh phạt mới mong thắng được.

Văn Trọng nói:

– Bốn tướng họ Ma có nhiều phép lạ, song việc giữ ải Giai Mộng cũng quan trọng lắm.

– Xin sai Hồ Thắng, Hồ Lôi ra đó trấn ải thay cho Ma gia tứ tướng. Tôi thiết tưởng bốn tướng bọ Ma cầm binh thì chinh phục Tây Kỳ chẳng bao lâu.

Văn Trọng khen phải liền viết lệnh tiễn, sai anh em họ Hồ ra trấn ải Giai Mộng, và truyền Ma gia tứ tướng đem binh chinh phạt Tây Kỳ.

Ma gia tứ tướng tiếp được công văn, cười ngất nói với nhau:

– Thái Sư đã từng chinh chiến nhiều, sao lại lẩn thẩn như vậy. Bên Tây Kỳ chỉ có lão thầy bói Khương Thượng và đứa tôi loàn là Hoàng Phi Hổ mà thôi, việc gì phải bắt chúng ta bỏ ải mà đi đánh thật là cắt cổ gà lại dùng đến dao mổ trâu.

Bốn anh em bọ Ma cười nói một hồi, rồi giao ải cho Hồ Thắng, Hồ Lôi, rồi điểm mười muôn binh mã, nổi một tiếng pháo lệnh kéo qua Tây Kỳ như vũ bão.

Ngày đi đêm nghĩ, chẳng bao lâu đoàn quân Ma gia tứ tướng đã vượt qua năm ải đến núi Ðào Hoa.

Quân thám mã vào báo:

– Bẩm chúa tướng, nơi đây đã đến địa phận Tây Kỳ rồi, cách phía Bắc thành Tây Kỳ chừng năm mươi dặm.

Ma gia tứ tướng truyền quân đóng trại nghỉ ngơi, rồi sẽ tìm hiểu địch tình.

Bấy giờ, Tử Nha sau khi hô phong hoán võ, dùng tuyết lạnh bắt ba tướng Trụ tế đài phong thần thì khí thế uy hùng, quân ngũ nức lòng đánh giặc, ai nấy tin tưởng vào tài làm tướng của Tử Nha.

Ngày kia có quân thám mã về báo:

– Trụ vương sai Ma gia tứ tướng kéo quân đến thành Bắc đóng trại cách đây năm mươi dặm.

Tử Nha triệu tập các tướng bàn kế hoạch đánh phá.

Hoàng Phi Hổ nói:

– Xin Thừa Tướng phải để phòng. Bốn tướng này tài hay phép lạ không phải tầm thường.

Tử Nha hỏi:

– Ma gia tứ tướng là những kẻ thế nào, xin tướng quân nói rõ cho ta biết?

Hoàng Phi Hổ nói:

– Ma gia tứ tướng là bốn người dòng họ Ma. Cả bốn người đều có phép tà đạo.

Thứ nhứt là: Ma Lễ Thanh, mình cao hai trượng bốn thước gương mặt như loại cua đinh, hàm râu đỏ loét, thường đùng cây giáo đài, không cỡi ngựa, trong mình có cây gươm báu của thần tiên gọi là Thanh Vân kiếm. Gươm này có bùa, giữa có khắc bốn chữ địa, thủy, hỏa, phong. Nếu nó chỉ gươm niệm chú thì lửa và gió cùng nổi lên một lúc. Trong gió ấy có hàng vạn thanh gươm bay tua tủa hễ gió bay đến đâu thì binh tướng thây nằm đến đấy. Còn lửa cháy đến đâu thì binh tướng chết thui đến đấy, không ai chữa nổi.

Thứ nhì là: Ma Lễ Hồng có một cây lọng gọi là Hỗn Nguyên Tán. Cây lọng ấy có kết đủ các thứ hạt châu dính chuyền với nhau. Các hột châu ấy gồm có:

1. Tổ Mẫu Lục

2. Tô Màu Bích

3. Dư Minh châu.

4. Tị Thần châu.

5. Tị Hỏa châu.

6. Tị Thủy châu.

7. Tiêu Lương châu.

8. Cửu Khúc châu.

9. Ðịnh Nhan châu.

10. Ðịnh Phong châu.

Lại còn có những hạt trân châu kết chuyền ra bốn chữ Trang Tải Càn Khôn. Cái lọng ấy vô cớ chẳng dám giương lên, vì hễ giương lên tối tăm trời đất, Càn khôn chuyển động.

Thứ ba là: Ma Lễ Hải sở trường một cây giáo lại có mang theo cây đờn tỳ bà. Bốn dây đờn chia ra: địa, thủy, hỏa, phong. Khảy lên ít tiếng thì gió, lửa nổi dậy như Thanh Vân kiếm.

Thứ tư là: Ma Lễ Thọ có một con chuột trắng gọi là Hoa Hồ Ðiêu. Hễ quăng nó lên cao thì nó lớn bằng của voi trắng, hóa ra hai cánh bay theo ăn thịt tướng binh. Ma Lễ Thọ còn có tài đánh cặp roi hay lắm.

Bởi Ma gia tứ tướng tài phép như vậy nên tôi mới thưa với Thừa Tướng cẩn thận và đề phòng.

Tử Nha hỏi:

– Vì sao tướng quân biết rõ như vậy?

Hoàng Phi Hổ nói:

– Trước kia bốn tướng này là bộ hạ của tôi, giúp tôi đi đánh Ðông hải. Lúc ra trận, bốn tướng có dùng các phép ấy.

Tử Nha nghe rõ, ngồi làm thinh, vẻ mặt buồn bã vô cùng.

Giữa lúc đó bốn anh em Ma gia tứ tướng an cơ hạ trại, cho quân sĩ nghĩ ngơi xong, bàn với nhau:

– Nay chúng ta vâng lệnh Thiên Tử sang đánh Tây Kỳ, đóng trại nơi đây đã ba ngày rồi, cũng nên tính việc động binh trừ quân phản loạn để khỏi phụ lòng Thái Sư tiến cử.

Bốn anh em bàn bạc xong, quyết đinh ngày mai nhổ trại, kéo thẳng đến thành Tây Kỳ khiêu chiến.

Ðạo binh Ma gia tứ tướng kéo đến nơi, an dinh hạ trại xong, phất cờ phát pháo, đến cửa thành Tây Kỳ, gọi Tử Nha ra đối địch.

Quân vào báo, Tử Nha lưỡng lự không dám ra binh.

Kim Tra, Mộc Tra và Na Tra biết ý đồng thưa:

– Sư thúc nghe Hoàng tướng quân kể tài ba anh em họ Ma nên sợ thất trận, không dám ra binh phải không. Chúng tôi thiết nghĩ khí số nhà Châu trị đời thì mọi việc đâu có trời đất che chở, hơi đâu mà sợ!

Tử Nha ngẫm nghĩ một hồi rồi truyền lệnh trương cờ ngũ sắc cùng với các tướng kéo binh ra khỏi thành.

Ma gia tứ tướng thấy Tử Nha dùng binh tề chỉnh, cởi con Tứ Bất Tướng, cầm gươm thư hùng, đội mão đuôi cá, bèn lướt tới trước hỏi:

– Khương Thượng! Ngươi không giữ bổn phận, đem dạ bội quân, lại chứa phản tặc là Hoàng Phi Hổ. Các vị đại thần đến đây vấn tội ngươi lại bêu đầu, ấy là ngươi chẳng nể triều đình, không kiêng phép nước. Nay binh trời đã tới, sao chẳng chịu bó mình. Hay ngươi muốn chống cự với chúng ta, khiến cho binh sĩ Tây Kỳ tiêu tan thành bột chăng?

Tử Nha nói:

– Quí vị nói sai rồi! Chúng tôi là tôi nhà Thương, sắc phong một cõi, hằng giữ phép nước, có làm phản bao giờ đâu. Chỉ vì vua nghe lời các đại thần đem quân đến đánh Tây Kỳ, chúng tôi phải bảo vệ đất đai, giữ gìn cương thổ. Thực ra, chúng tôi chưa hề xâm phạm đến năm ải của nhà Thương, sao lại bảo là phản loạn?

Ma Lễ Thanh nổi giận hét:

– Ngươi dám lộng ngôn, đổ tội cho đại thần sanh chuyện, ngươi không biết cả thành Tây Kỳ sập đổ hay sao?

Nói rồi cầm giáo lướt tới đâm Tử Nha.

Nam Cung Hoát lướt tới đưa siêu đao ra đỡ, và hét lớn:

– Có ta đây, ngươi đừng vô lễ.

Hai người hỗn chiến với nhau.

Ma Lễ Hồng cầm kích xông tới.

Tân Giáp giơ búa đánh liền.

Ma Lễ Hải cầm giáo xốc vào.

Na Tra ngăn lại giao chiến.

Ma Lễ Thọ xách cặp giản lướt lên, thế mạnh như hùm, liền thấy có tướng Châu mặc giáp trắng, cỡi ngựa kim, cầm giáo dài, đội mũ bạc đón Ma Lễ Thọ giao thương, ấy là Võ Kiết.

Tám tướng đánh vùi với nhau một trận rất dữ, kẻ hết lòng phò Minh chúa, kẻ hết sức giúp Thành Thang.

Người sau có thơ rằng:

Vì nước quân thần vẹn chữ trung

Ai binh chúa nấy cũng anh hùng

Bọc thây đã phú cho da ngựa

Trong trận chi sờn sự kiết hung.

Na Tra đánh với Ma Lễ Hải một hồi liền lấy Càn Khôn Quyện liệng lên.

Ma Lễ Hồng trông thấy liền đỡ búa Tân Giáp, rồi nhảy ra ngoài lấy cây lọng Hỗn Nguyên giương lên thâu Càn Khôn Quyện.

Kim Tra thấy vậy liền lấy Ðộn Long Thun quăng lên, cũng bị lọng phép thâu mất.

Tử Nha ném cây roi Ðả Thần Tiên lên quyết đánh bốn tướng.

Ai ngờ roi ấy đánh thần, chớ không phải đánh tiên và kẻ thế, còn Ma gia tứ tướng là con nhà Phật, cách một ngàn năm nữa mới làm thần, cho nên roi ấy đánh không được, cũng bị lộng Hỗn Nguyên thâu mất.

Ma Lễ Thanh bỏ Nam Cung Hoát, nhảy ra ngoài lấy gươm Thanh Vân giá ba cái, tức thì gió mây nổ lên mù mịt, gươm giáo bay tua tủa tối trời.

Có thơ rằng:

Trận gió gươm đao giữa chiến trường

Tướng binh giáp mão nát như tương

Huống chi xương thịt người phàm tục

Dầu kẻ đa đồng cũng bị thương.

Ma Lễ Hồng thấy anh mình dùng gươm phép, liền giương cây lọng Hỗn Nguyên ra, rung rinh ba cái, tức thì trời đất tối tăm, khói lửa ngất trời.

Có thơ rằng:

Lửa cháy tứ bề khó đụt xông

Dẫu cho người đá cũng nung hồng

Tử Nha phép nhiệm không đương lại

Binh tướng Tây Kỳ chẳng đất chôn.

Ma Lễ Hải khảy đờn tì bà trợ chiến, Ma Lễ Thọ giở túi beo thả con Hoa Hồ Ðiêu bay lên nữa lừng trời lớn như con tượng bạch nhăn nanh múa vuốt, ăn thịt tướng binh.

Trận này quân Châu thất điên bát đảo.

Tử Nha cỡi Tứ Bất Tướng bay lên nửa lừng trời, Kim Tra, Mộc Tra độn thổ trốn khỏi.

Na Tra nhờ xe Phong Hỏa bay thẳng vào thành, Long Tu Hồ độn thủy vào dinh, Hoàng Phi Hổ cỡi thần ngưu chạy thoát. Còn các tướng trận dầu khỏi chết cũng bị bắt.

Tử Nha vào thành kiểm điểm binh tướng thì thấy chỉ còn hơn phân nữa, tướng tử trận hết chín người. Người con thân lại Văn vương cũng bỏ mình với ba tên phó tướng.

Tử Nha buồn bã vô cùng vì từ lúc cầm quân đến nay chưa thua trận nào nặng nề như vậy.

Ma gia tứ tướng thắng trận về dinh, cùng nhau mừng rỡ.

Ma Lễ Hồng nói:

– Ngày mai chúng ta kéo binh đến vây thành hỗn chiến một trận nữa, thế nào cũng bắt được Tử Nha mà ban sư về nước.

Ma Lễ Thanh khen phải, bốn anh em đồng uống rượu thâu canh.

Hôm sau, bên tướng dẫn quân đến bên thành khiêu chiến.

Tử Nha không đám ra nữa, truyền quân treo miễn chiến bài.

Ma gia tứ tướng thấy vậy khiến quân vây thành công phá.

Tử Nha sai mấy tướng không bị thương như Na Tra, Mộc Tra, Kim Tra, Hoàng Phi Hổ, Long Tu Hồ đốc quân giữ thành, dùng gỗ đá, nước sôi và cung ná, cố thủ nghiêm ngặt.

Ma gia tứ tướng đốc quân phá thành ba ngày không nổi mà quân sĩ hao hớt cũng nhiều.

Ma Lễ Thanh truyền gióng trống thu quân về trại.

Bốn anh em họ Ma lại bàn tính:

– Khương Tử Nha là lão thầy tu trên núi Côn Lôn bản lãnh không vừa, chúng đã thủ thành thì cũng khó bề phá gấp được, chi bằng chúng ta cứ vây riết ngoài thành, đợi cho trong thành hết lương thảo, bên ngoài không tiếp viện được thì thế nào chúng cũng phải đầu hàng.

Bàn định xong, bốn anh em họ Ma lại kéo binh đến vây nữa, nhưng lần này không công phá mà chỉ chận đường không cho binh tiếp viện, giải lương mà thôi.

Bốn anh em họ Ma vây thành Tây Kỳ ngày đêm không dứt, tính ra đã hai tháng có dư.

Ma Lễ Thanh nóng lòng nói với ba em:

– Văn Thái Sư sai chúng ta đánh Tây Kỳ, nay đã gần ba tháng mà phá thành không nổi, binh lương hao tốn, như sau này Thái Sư khiển trách thì chúng ta còn thể diện gì nữa. Chi bằng tối nay anh em chúng ta dùng bửu bối quăng vào thành, phá thành cho tan hoang, bắt Tử Nha đem về nạp cho sớm.

Ba người em khen phải, đóng chuẩn bị kế hoạch đợi đêm đến phá thành.

Bên kia, Tử Nha đang ngồi bàn luận xảy nghe gió thổi vùn vụt cậy cờ lệnh trước trướng gãy đổ xuống đất. Thất kinh, liền lấy tiền gieo quẻ, mặt biến sắc, vội vàng đi tắm gội đốt hương làm phép đảo hải mà cứu binh Châu.

Tử Nha bỏ tóc xõa, cầm gươm phép, vận nước biển bao thành Tây Kỳ.

Bấy giờ Nguyên Thỉ Thiên Tôn đang ngồi trong động, biết Tây Kỳ mắc họa, tuy Tử Nha đảo hải nhưng cũng cứu không nổi, liền lấy bình lưu ly có nước Tam quan thần thủy rảy xuống thành Tây Kỳ, nước ấy nổi trên mặt biển.

Ðêm ấy Ma Lễ Thanh quăng Thanh Vân kiếm, Ma Lễ Hồng ném Hỗn Nguyên Tán, Ma Lễ Hải khảy đờn tỳ bà, Ma Lễ Thọ quẳng con Hoa Hồ Ðiêu tức thì mây kéo mịt mù, gió gào lửa táp, vũ trụ rung chuyển, hình như trời sập đất long. Quân tướng trong thành đều vỡ mật. Bốn anh em họ Ma chắc là thành Tây Kỳ đã tan nát thành đống gạch vụn, định đến sáng ngày sẽ ban sư.

Ai ngờ:

Nhọc sức hoài công không được việc

Vang trời dậy đất có ra chi.

Ma gia tứ tướng làm phép đến khuya mới thu bửu bối trở về trại.

Còn Tử Nha mượn nước biển cứu thành Tây Kỳ, nội đêm ấy tướng binh không ai ngủ được. Trời rừng đông, Tử Nha trả nước về biển Bắc, thành Tây Kỳ vẫn thấy còn nguyên vẹn không chết một cành cây cọng cỏ nào.

Binh sĩ thấy thành Tây Kỳ vẫn còn y nguyên, vào báo lại với bốn anh em họ Ma.

Ma gia tứ tướng ra xem, thấy quả như vậy lấy làm lạ không hiểu vì cớ gì, chẳng lẽ bảo vật của họ không linh ứng?

Ma gia tứ tướng không còn biết làm cách nào hơn là cứ việc vây riệt, đợi trong thành hết lương thực phải đầu hàng.

Qua trưa ấy rồi, Tử Nha lại truyền các tướng thủ thành nghiêm nhặt. Bên ngoài anh em họ Ma vẫn bao vây, còn bên trong cũng chẳng có cách nào để giải vây.

Ngày kia quan coi kho đến thưa với Tử Nha:

– Kho Tam tế lương đã gần hết rồi, chỉ còn dùng được mười ngày nữa thôi.

Tử Nha kinh hãi nói:

– Bị vây là chuyện nhỏ, hết lương là chuyện lớn. Nếu trong thành mà cạn lương thì chỉ có cách đầu hàng.

Hoàng Phi Hổ nói:

– Xin Thừa Tướng ra yết thị cho những dân chúng giàu có trong thành bảo họ cho vay đỡ lúc nào giải vây xong sẽ trả cả vốn lẫn lời.

Tử Nha nói:

– Không nên làm như vậy. Ngoài thành quân địch đang vây, trong thành báo động hết lương thế nào cũng sanh biến. Liệu còn dùng được mười ngày thì cứ thủng thỉnh sẽ liệu.

Tám ngày nữa trôi qua, mà tình trạng vẫn không thay đổi.

Bấy giờ lương thực chỉ còn có hai ngày nữa là hết.

Tử Nha buồn rầu nghĩ không ra kế.

Trong lúc bối rối bỗng có hai vị đạo đồng một người mặc áo xanh, một người mặc áo đỏ đồng đến trước cửa thành xin vào ra mắt Khương Tử Nha.

Quân canh liền vào báo.

Tử Nha nói:

– Giặc đang vây bên ngoài, chớ nên tin. Phải để ta coi lại cho rõ người nào đã.

Liền bước ra cửa thành hỏi:

– Hai vị ở núi nào, động nào? Có việc chi tìm đến?

Hai đạo đồng thưa:

– Chúng tôi là Hoàng Ðộc Long và Tiết Ác Hổ ở động Ngọc Ốc núi Kim Ðình học trò ông Ðạo Hạnh thiên tôn. Nay vâng lệnh thầy đến vận lương cho sư thúc.

Tử Nha nghe nói mừng rỡ rước vào thành và hỏi:

– Lương thực hiện giờ ở đâu?

Hoàng Ðộc Long thưa:

– Chúng tôi có đem theo đây.

Nói rồi lấy thư đưa ra. Tử Nha mở thư ra xem, và nói:

– Trước kia thầy ta có dặn, lúc nào ngặt nghèo sẽ có người này đến giúp, thật quả không sai.

Liền truyền đạo đồng lấy lương ra, các tướng trông thấy nín cười, nhìn nhau bảo nhỏ:

– Giúp lương thực cho cả thành mà đem đến một vốc gạo như vậy sao?

Khương Tử Nha liền bảo Hoàng Ðộc Long đem gạo đến kho Tam tế.

Hoàng Ðộc Long tuân lệnh đem gạo đổ vào kho.

Vừa được vài giờ sau, quân coi kho đến báo với Tử Nha:

– Kho Tâm tế gạo đã đầy nhóc.

Tử Nha mừng làm. Binh tướng đều vui mừng không ai còn lo chết đói nữa.

Có thơ rằng:

Võ Vương nhân đức đất trời thương

Xui khiến thần tiên đến giúp lương

Thiên Hóa ít ngày qua trợ chiến

Một mình giết hết tứ thiên vương.

Bây giờ Tử Nha lương nhiều tướng mạnh, quân sĩ no đủ nhưng sợ tài phép bốn anh em họ Ma, cứ thủ thành mãi, không dám xuất trận.

Còn Ma gia tứ tướng vây thành gần giáp một năm, mà hãm thành không được, liền viết sớ gởi về Thái Sư Văn Trọng, trong sớ nói:

– Tử Nha đánh cũng hay, thủ thành cũng giỏi nên chúng tôi không thể hãm thành được…

Ngày kia, Tử Nha đang bàn luận việc binh xảy thấy quân canh vào báo:

– Có một ông đạo sĩ đến trước cửa thành xin ra mắt.

Tử Nha cho đòi vào thì thấy đạo sĩ ấy đầu đội mão phiến vân, mình mặc áo bát quái, chân đi giày cỏ, lưng buộc giải tỷ.

Tử Nha hỏi:

– Ðạo sĩ từ đâu đến?

Ðạo sĩ làm lễ ra mắt và thưa:

– Ðệ tử là học trò Ngọc Ðảnh chân nhân họ Dương, tên Tiển vâng lệnh thầy dạy xuống hầu sư thúc sai khiến.

Tử Nha thấy Dương Tiển dung mạo khác thường, lòng mừng thầm, gọi các tướng đến cho biết mặt. Các tướng cùng chào mừng giới thiệu với nhau.

Tử Nha lại dẫn Dương Tiển đến ra mắt Võ Vương.

Võ vương nói:

– Các khanh có lòng đến đây giúp quả nhân, ơn ấy quả nhân không dám quên.

Nói rồi truyền mở tiệc đãi đằng.

Sau bữa tiệc, Dương Tiển hỏi Tử Nha:

– Chẳng hay binh nào vây ngoài thành mà sư thúc không chịu ra quân?

Tử Nha thuật chuyện Ma gia tứ tướng có phép lạ, không ai đánh lại nên phải treo miễn chiến bài.

Dương Tiển nói:

– Nay có đệ tử đến đây, xin sư thúc bỏ miễn chiến bài để đệ tử ra đánh với Ma gia tứ tướng một trận cho biết. Nếu cứ cố thủ thành mãi làm sao tính được mưu kế.

Tử Nha nhận lời, truyền Dương Tiển ra quân.

Quân thám thính thấy thành Tây Kỳ bỏ miễn chiến bài, vội chạy về dinh báo với Ma gia tứ tướng:

– Thành Tây Kỳ bỏ miễn chiến bài rồi.

Ma gia tứ tướng liền nai nịt chỉnh tề, đồn binh đến trước cửa thành khiêu chiến.

Dương Tiển cầm giáo xuất trận, Tử Nha khiến Na Tra theo trợ chiến.

Vừa ra khỏi thành, Dương Tiển thấy bốn tướng:

Oai hùng vùn vụt sanh giông gió

Hơi lửa phừng phừng ngút tận mây.

Còn bốn tướng thấy Dương Tiển cầm giáo bạc, cỡi ngựa kim, dung mạo không phải người tu, cũng không phải kẻ tục thì lấy làm lạ.

Ma Lễ Thanh hỏi:

– Ngươi là ai đó?

Dương Tiển đáp:

– Ta là sư điệt của Khương Thừa Tướng, họ Dương, tên Tiển. Các ngươi tài cán bao nhiêu mà dám hung hăng như vậy. Các ngươi thường dùng phép tà mà hại người, nay ta đã đến đây, e chúng bây không có đất mà chôn thây.

Nói rồi cầm giáo đâm tới. Ma gia tứ tướng lâu ngày không ra trận, nên tay chân đã ngứa ngáy, đồng ra hỗn chiến với Dương Tiển một lượt.

Giữa lúc đó có quan giải lương tại Sở Châu là Mã Thành Long vừa giải lương tới, cỡi ngựa xích thố, cầm siêu đao. Người này tánh nóng như lửa, thấy bốn tướng và Dương Tiển choáng cả đường đi không ngõ đem lương qua, liền trợn mắt nạt lớn:

– Cẩu tặc chớ hành hung, có ta đến đây.

Vừa nói vừa giực ngựa xông vào tiếp tay với Dương Tiển.

Ma Lễ Thọ nổi giận đánh với Mã Thành Long mười hiệp, rồi quăng con Hoa Hồ Ðiêu lên, hóa ra một con vật lớn như con voi trắng, miệng đỏ như chậu máu, nhe nanh bạc như gươm trường, cắn Mã Thành Long đứt nghiến nửa mình và nuốt vào bụng.

Có bài thơ rằng:

Thú ấy lâu năm hứng gió trăng

Âm dương thọ khí đã thâm căn

Biến ra lớn nhỏ tùy theo ý

Nuốt sống ăn tươi cọp chẳng bằng.

Dương Tiển trông thấy nghĩ thầm:

– Nó có nuôi vật dữ giết người, hèn chi tướng Châu đánh không lại. Ta sẽ làm cho nó biết tay.

Còn bốn tướng họ Ma không biết Dương Tiển có Thất thập nhị huyền công nghĩa là bảy mươi hai phép biến hóa; nên Ma Lễ Thọ cũng để con Hoa Hồ Ðiêu cắn nuốt Dương Tiển như đã nuốt Mã Thành Long vậy.

Na Tra trông thấy Dương Tiển chun vào bụng con quái thú, thất kinh chạy vào thành báo với Tử Nha:

– Sư thúc ơi! Dương Tiển bị Hoa Hồ Ðiêu cắn đứt nửa mình nuốt vào bụng rồi.

Tử Nha sững sờ nói không ra tiếng, các tướng đều trợn mắt nhìn nhau không ai nói nửa lời.

Ma gia tứ tướng thắng trận kéo binh về dinh, mở tiệc mừng ăn uống cho đến hết canh hai vẫn chưa ngủ.

Ma Lễ Thọ nói:

– Ðể tôi sai con Hoa Hồ Ðiêu bay vào thành Tây Kỳ cắn chết Võ Vương, nuốt sống Tử Nha, hai người ấy mà chết rồi thì chúng ta đánh một trận là ban sư về nước, chẳng lẽ chúng ta ở đây vây nó cả đời sao?

Ma Lễ Thanh khen:

– Nếu con Hoa Hồ Ðiêu của em sai khiến được như vậy thì bắt tướng không cần phải xuất quân.

Ma Lễ Thọ liền lấy túi da beo ra, bắt con Hoa Hồ Ðiêu, và dặn:

– Bửu bối! Nếu ngươi vào thành cắn chết Võ vương và Tử Nha thì được trọng thưởng.

Nói rồi liệng Hoa Hồ Ðiêu lên không trung.

Con Hoa Hồ Ðiêu tuân lời bay vút ra khỏi trận.

Lúc này Dương Tiển nằm trong bụng con Hoa Hồ Ðiêu, vì Dương Tiển có bảy mươi hai phép biến hóa, nên Hoa Hồ Ðiêu của nuốt vào bụng vẫn không chết, khi nghe Ma Lễ Thọ dặn con quái thú như vậy mừng rỡ nghĩ thầm:

– Tặc tướng! Ðừng hòng bửu bối của ngươi hành động như vậy.

Nói rồi đợi cho con Hoa Hồ Ðiêu bay ra khỏi cửa trại, ở trong bụng hét lớn lên một tràng:

– Quái thú! Mi biết ta là ai không?

Nói rồi rứt đứt trái tim. Con Hoa Hồ Ðiêu ré lên một tràng rồi nhào xuống đất chết tươi.

Dương Tiển hiện hình chui ta ngoài, xé Hoa Hồ Ðiêu đứt làm ba đoạn, rồi về đến cửa thành thì đã canh ba.

Bấy giờ Tử Nha còn thức đang bàn luận với Na Tra, xảy có quân vào báo:

– Dương Tiển trở về thành kêu cửa.

Tử Nha kinh hãi nói:

– Ðã chết đi sao còn sống lại?

Liền khiến Na Tra lên mặt thành xem thử thật hay giả.

Na Tra vâng lịnh đến trước cửa hỏi lớn:

– Dương đạo huynh đã bị con quái thú xé xác sao còn sống lại mà về đây?

Dương Tiển nói:

– Chúng ta đều là đệ tử của thần tiên, mỗi người hay mỗi phép. Thôi, mở cửa cho mau đặng ta vào thưa với sư thúc những việc cần thiết.

Na Tra không nghi ngờ, hối quân mở cửa.

Dương Tiển bước vào ra mắt Tư Nha.

Tử Nha trông thấy quả thật Dương Tiển, sửng sốt hỏi:

– Hỏi sớm mai tướng quân đã bị tử trận, lầm sao bây giờ sống lại được? Hay là tướng quân có phép hồi sinh?

Dương Tiển thưa:

– Ðệ tử vào trong bụng con Hoa Hồ Ðiêu, nghe Ma Lễ Thọ sai con quái thú ấy vào thành ăn thịt Võ Vương và sư thúc, đệ tử đã giết chết con chuột ấy rồi, nên về thưa lại.

Tử Nha nói:

– Nếu tướng quân có tài hóa như vậy còn sợ gì phép lạ của chúng nó.

Dương Tiẽng thưa:

– Bây giờ tôi tính trở qua dinh địch để tìm cách phá rối.

Na Tra hỏi:

– Dương đạo huynh làm thế nào vào dinh nó được?

Dương Tiển đáp:

– Thầy tôi dạy đủ Thất thập nhị huyền công, biến hóa đủ bảy mươi hai cách.

Hãy nghe bài thơ này:

Bảy mươi hai phép thuật biến huyền công

Thày dạy lâu năm luyện đã xong

Dầu nước dầu non dầu sắt đá

Hoặc vàng hoặc bạc hoặc chì đồng

Khi cần biết tới Loan cùng phụng

Tẩu thú hiện ra cọp với rồng

Thấy chết nhiều lần nhưng chẳng chết

Theo phò thánh chúa lập nhiều công.

Tử Nha nghe Dương Tiển khoe tài liền nói:

– Ngươi có phép hay như vậy hãy biến một vài cách cho ta xem thử.

Dương Tiển rùng mình một cái, biến ra con Hoa Hồ Ðiêu nhảy cùng dưới đất.

Tử Nha mừng rỡ cười lớn:

– Thật là thần thông quảng đại.

Dương Tiển thưa:

– Ðể tôi bay sang dinh nó phá phách một hồi cho vui.

Tử Nha nói:

– Không cần phá phách làm chi, ngươi tìm cách nào lấy được các phép mầu của chúng đem về đây, thì chúng nó như gãy mất tay chân không làm gì được.

Dương Tiển vâng lệnh, giả làm con Hoa Hồ Ðiêu bay tuốt qua dinh Ma gia tứ tướng.

Vừa đến nơi Ma Lễ Thọ đưa tay bắt lấy, giở bụng con quái thú xem, thấy bụng không no, biết chưa ăn Khương Thượng, bèn bỏ vào túi da beo.

Bấy giờ đã canh tư, bốn anh em họ Ma đồng đi ngủ.

Dương Tiển thấy bốn tướng ngủ khì, liền ở trong túi nhảy ra, hiện hình người như cũ, lại quơ trúng cây lọng đụng nhằm gươm Thanh Vân rơi xuống đất kêu lẻng kẻng.

Dương Tiển sợ chúng hay, đớp cây lọng phép đi mất.

Ma Lễ Hồng giật mình thức dậy đưa mắt nhìn quanh, không thấy có ai, chỉ thấy cây gươm rơi xuống đất thì chắt lưỡi nói:

– Ðem gươm vô ý để rớt như vậy.

Liền lấy gươm móc lên vách như cũ, rồi lật đật nằm xuống ngủ nữa.

Dương Tiển trở về dinh đem cây Hỗn Nguyên Tán dâng cho Tử Nha.

Ba anh em Kim Tra đồng xúm lại xem lọng báu.

Còn Dương Tiển từ giả bay qua dinh Thương, chun nằm vào túi da beo như cũ.

Rạng ngày bốn anh em họ Ma thức dậy.

Ma Lễ hồng không thấy cây lọng phép, thất kinh nói lớn:

– Lạ quá! Cây Hỗn Nguyên Tán đâu mất.

Bốn anh em tìm kiếm một hồi, rồi hỏi bọn quân tuần và lính gát cửa.

Bọn quân canh thưa:

– Bụi bay không lọt vào dinh, có gian tế nào vào đây mà lấy cho được.

Ma Lễ Hồng chắt lưỡi than:

– Ta nhờ cây lọng này mà lập công dẹp giặc, nay mất đi biết tính làm sao?

Bốn anh em thấy mất phép báu đều buồn bã không bàn đến chuyện chinh chiến nữa.

Ðây nói về động Tử Dương núi Thanh Phong, ông Thanh Hư đạo nhân đang ngồi tu luyện xảy thấy lòng mình hồi hộp, biết Tây Kỳ có việc, và đã đến lúc đưa đệ tử xuống trần, liền sai Kim Hà đồng tử gọi Hoàng Thiên Hóa đến dạy.

Hoàng Thiên Hóa nghe đòi vội bước vào làm lễ:

– Sư phụ cho đòi đệ tử có việc chi?

Thanh Hư nói:

– Ngươi ra sau vườn đào để ta truyền phép, sai xuống Tây Kỳ, trước là đoàn tụ gia đình sau phò vua giúp nước.

Nói rồi dắt Hoàng Thiên Hóa ra vườn đào, trao cặp song chùy cho Hoàng Thiên Hóa tập trận.

Khi đã thuần thục, Thanh Hư nói với Hoàng thiên Hóa:

– Thầy cho con Ngọc Kỳ Lân mà cỡi và đem Hóa Long Phiêu xuống Tây Kỳ. Con khá kính thành, chớ quên cội rễ.

Hoàng Thiên Hóa lạy thầy giã bạn, lên lưng Ngọc Kỳ Lân, đưa tay vỗ vào gạc một cái, tức thì bốn cẳng sanh mây, bay mau như gió. Bởi con kỳ lân này là của Thanh Hư cỡi, dùng để dạo chơi ba núi năm non nên nó bay đi mau lắm.

Chỉ phút chốc, Hoàng Thiên Hóa đã đến Tây Kỳ xin vào thành.

Quân vào báo:

– Có một đạo đồng đang ngoại thành xin ra mắt Thừa Tướng.

Tử Nha truyền lệnh mời vào.

Hoàng Thiên Hóa quỳ lạy thưa:

– Tôi là Hoàng Thiên Hóa vâng lệnh thầy xuống Tây Kỳ, hầu dưới trướng sư thúc để lập công.

Tử Nha hỏi:

– Ngươi ở động nào, núi nào?

Không đợi cho Hoàng Thiên Hóa trình bày, Hoàng Phi Hổ bước ra thưa:

– Hoàng Thiên Hóa là con trai lớn của tôi, đệ tử ông Thanh Hư đạo nhân ở núi Thanh Phong, động Tử Dương.

Tử Nha mừng rỡ khen:

– Tướng quân có con học đạo ta có lòng mừng cho đấy.

Cha con Hoàng Thiên Hóa gặp nhau, đồng vào vương phủ, mở tiệc vui vầy

Khi trước Hoàng Thiên Hóa ở núi ăn chay, nay về thế gian lại ăn mặn.

Tiệc mãn, Hoàng Thiên Hóa cổi bỏ quần áo tu hành, bới tóc đội mão vàng, trong mặc hồng bào, ngoài mang kim giáp, nịt đai ngọc, theo thể thống con vua.

Rạng ngày Hoàng Thiên Hóa vào chầu dưới trướng.

Tử Nha trông thấy lối ăn mặc như vậy trách rằng:

– Hoàng Thiên hóa, ngươi là đệ tử của thần tiên, sao lại đổi thay y phục. Ta tuy làm Thừa Tướng, vẫn phải mặc đồ tu còn ngươi mới về thế gian đã vội quên cội rễ.

Hoàng Thiên Hóa bị trách liền thay áo mão, bỏ đai ngọc, cột dây tơ và thưa:

– Tôi không dám quên nguồn gốc, bởi vâng lệnh thầy ra đấu tứ tướng, phải nai nịt theo thế thường.

Tử Nha nói:

– Ma gia tứ tướng có phép tài, ngươi phải cẩn thận đề phòng mới được.

Hoàng Thiên Hóa thưa:

– Thầy tôi đã dặn kỹ, xin sư thúc chớ lo.

Nói rồi cỡi Ngọc kỳ lân ra ngoài thành khiêu chiến.

Hồi 41: Văn Trọng đi ngang Huỳnh Hoa trại

Ma gia tứ tướng đang buồn rầu vì việc mất lọng báu không còn bàn tính đến chuyện chinh chiến nữa. Bỗng nghe quân báo:

– Có tướng Châu đến khiêu chiến.

Bốn tướng nổi giận liền phát pháo khai dinh, dẫn quân ra trước trại. Ðến nơi thấy một tướng nhỏ cỡi Ngọc kỳ lân, Ma Lễ Thanh hỏi:

– Thằng con nít, tên họ là gì?

Hoàng Thiên Hóa nói:

– Ta là Hoàng Thiên Hóa, con trai lớn của Võ Thành vương, vâng lệnh Khương Thừa Tướng ra trận giết mấy người.

Ma Lễ Thanh nghe nói nổi xung cầm giáo lướt tới đâm một nhát.

Hoàng Thiên Hóa đưa song chùy ra đỡ. Hai tướng đánh vùi với nhau hơn hai mươi hiệp vẫn không thắng bại.

Ma Lễ Thanh liền quăng chiếc Bạch ngọc kim cương lên, hào quang chiếu sáng lòa, đánh trúng lưng Hoàng Thiên Hóa, làm cho Hoàng Thiên Hóa té nhào xuống Ngọc kỳ lân.

Ma Lễ Thanh xông tới toan chém đầu, nhờ có Na Tra đứng trước cửa thành, thấy Hoàng Thiên Hóa thất cơ, vội giục xe tới đã thương và hét lớn:

– Có ta đến trợ chiến, ngươi đừng giết đạo huynh ta.

Ma Lễ Thanh mắc cự với Na Tra, nên binh Châu đoạt thây Hoàng Thiên Hóa đem vào thành.

Còn Na Tra ra sức đánh với Ma Lễ Thanh một hồi, cây giáo đâm vun vút chẳng khác vũ bão.

Ma Lễ Thanh quăng chiếc Bạch ngọc kim cương lên nữa.

Na Tra lấy Càn Khôn Quyện quăng trả.

Hai bửu bối gặp nhau, Càn Khôn Quyện đập Bạch ngọc kim cương tan nát, vì ngọc bở hơn vàng.

Ma Lễ Thanh và Ma Lễ Hồng đồng hét lớn:

– Na Tra, ngươi phá bửu bối của ta, ta quyết rửa hờn cho được.

Bốn anh em đều áp tới, đánh nhầu với Na Tra.

Na Tra thấy bốn tướng làm hung, phải nhịn thua mà chạy.

Ma Lễ Hải lấy đờn tỳ bà khảy lên, nhưng Na Tra đã chạy tuốt vào thành, anh em họ Ma lui về dinh, buồn bã vì mất thêm một bửu bối nữa.

Hoàng Phi Hổ thấy quân đem thây Hoàng Thiên Hóa về thành thất kinh, khóc lớn:

– Không dè cha con mới gặp nhau chưa nhìn tận mặt đã cách biệt.

Tử Nha xem thấy cũng động lòng, nhưng không biết làm cách nào cứu chửa.

Hoàng Phi Hổ đem thây Hoàng Thiên Hóa về dinh mình.

Bổng nghe quân báo:

– Có một đạo đồng đến trước cửa thành xin ra mắt.

Tử Nha truyền mời vào hỏi:

– Ngươi từ đâu đến đây?

Ðạo đồng cúi đầu làm lễ và nói:

– Tôi là Bạch Vân đồng tử, học trò Thanh Hư đạo nhân, ở động Tử Dương, núi Thanh Phong. Nay thầy tôi sai xuống cõng sư huynh tôi là Hoàng Thiên Hóa về núi.

Tử Nha mừng rỡ dẫn Bạch Vân đồng tử đến dinh Hoàng Phi Hổ chỉ thây Hoàng Thiên Hóa cho Bạch Vân mang về.

Bạch Vân cõng Hoàng Thiên Hóa đến trước cửa động Thanh Hư đạo nhân bước ra xem, thấy Hoàng Thiên Hóa mắt nhắm khít rịt, da mặt vàng lườm, liền sai Bạch Vân múc nước hòa với tiên đơn, rồi lấy gươm cạy răng đổ thuốc.

Giây lâu Hoàng Thiên Hóa tỉnh lại mở mắt nhìn thấy Thanh Hư đạo nhân liền ngồi dậy thưa:

– Vì sao đệ tử lại về đây? Xin sư phụ dạy cho biết?

Thanh Hư quở rằng:

– Súc sanh! Ngươi mới rời khỏi non tiên đã ăn mặn, đó là tội thứ nhất. Thay đổi y phục không nhớ cội căn, đó là tội thứ hai. Nếu ta không vị tình Tử Nha thì để cho ngươi chết quách.

Hoàng Thiên Hóa biết tội liền vập đầu xuống đất lạy thầy xin tha lỗi.

Thanh Hư đạo nhân lấy một cái đãy gấm đưa cho Hoàng Thiên Hóa và dặn:

– Ngươi đem báu vật này xuống Tây Kỳ mà trừ Ma gia tứ tướng, chẳng bao lâu ta cũng sẽ đến giúp Châu.

Hoàng Thiên Hóa lạy thầy giã bạn, rồi độn thổ trở lại Tây Kỳ.

Vừa đến nơi, quân trên thành trông thấy vào báo với Tử Nha:

– Hoàng Thiên Hóa đã trở về.

Tử Nha đòi vào, Hoàng Thiên Hóa đến trước trướng, kể lại mọi việc.

Hoàng Phi Hổ thấy con sống lại thì lòng mừng khấp khởi.

Rạng ngày, Hoàng Thiên Hóa cỡi Ngọc Kỳ lân, xách song chùy ra trận, gọi lớn:

– Ma gia tứ tướng! Hãy mau ra đây chịu chết.

Quân vào báo, Ma Lễ Thanh mắng thầm:

– Thằng khốn kiếp đó hôm qua đã chết rồi, sao còn sống lại.

Bốn tướng cùng kéo binh ra, thấy Hoàng Thiên Hóa mặt hằm hằm, tay cầm song chùy lướt tới.

Ma Lễ Thanh liền đâm một giáo.

Hoàng Thiên Hóa đỡ ra, đánh lại.

Hai tướng giao đấu được năm hiệp, Hoàng Thiên Hóa giả cách bại trận bỏ chạy.

Ma Lễ Thanh thừa thắng đuổi theo.

Hoàng Thiên Hóa mở túi gấm ra, thấy một cây đinh dài bảy tấc rưỡi hiện hào quang chói sáng ngời.

Hoàng Thiên Hóa dùng cây đinh ấy phóng lên, báu vật nhanh như chớp đâm thủng trái tim Ma Lễ Thanh trong nháy mắt.

Ma Lễ Thanh rên lên một tiếng, nhào xuống đất tắt thở máu phụt ra đỏ ói.

Ma Lễ Hồng thấy anh mình tử nạn, liền cầm kích rượt theo Hoàng Thiên Hóa.

Hoàng Thiên Hóa thâu đinh thép lại rồi phóng tới nữa.

Ma Lễ Hồng tránh không kịp bị đinh đâm thủng đến sau lưng. Báu vật ấy cứ đâm ngay trúng tim, nên Ma Lễ Hồng chỉ kịp la lên một tiếng rồi chết.

Ma Lễ Hải thấy hai anh mình bị chết trong nháy mắt, liền nổi xung hét lên như sấm:

– Súc sanh! Ngươi đùng vật gì mà sát hại hai anh ta như vậy?

Nói rồi xông tới. Hoàng Thiên Hóa lại phóng đinh thép đâm thủng trái tim, Ma Lễ Hải chết tươi.

Chỉ còn có Ma Lễ Thọ đứng một mình chơi vơi, giận căm gan, liền mở túi da beo thò tay bắt Hỏa Hồ Ðiêu thả ra để ăn thịt Hoàng Thiên Hóa.

Chẳng ngờ mới thò tay vào miệng túi bị Dương Tiển cắn cho một cái, đau đớn thấu xương.

Ma Lễ Thọ la lên:

– Báu vật, sao hôm nay ngươi phản ta như vậy?

Nói rồi trút túi da beo ra.

Dương Tiển giả hình con Hỏa Hồ Ðiêu nhảy ra và biến thành con voi trắng, nhưng không ăn thịt Hoàng Thiên Hóa mà lại chờn vờn nhảy tới muốn cắn Ma Lễ Thọ.

Ma Lễ Thọ thất kinh bỏ chạy, bị Hoàng Thiên Hóa phóng đinh thần xuyên thủng trái tim té nhào xông đất.

Thế là Ma gia tứ tướng đã cùng chết một lượt trong một trận.

Dẫu tài tinh tế không toàn mạng,

Vì bảng Phong thần có đứng tên.

Hoàng Thiên Hóa đánh chết bốn anh em họ Ma xong toan dùng đinh phép giết luôn con quái thú. Không ngờ con quái thú ấy lại hiện hình ra một đạo sĩ, đứng chần ngần trước mặt.

Hoàng Thiên Hóa thất kinh hãi lớn:

– Ngươi là ai vậy?

Dương Tiển đáp:

– Ta là Dương Tiển vâng lệnh sư thúc ẩn mình trong túi da beo làm nội công nay thấy đạo huynh đã giết bốn tướng rồi, nên hiện hình ra mặt.

Giữa lúc đó có Na Tra đạp xe chạy tới, nói với Dương Tiển và Hoàng Thiên Hóa:

– Hai anh thành công trận này, em rất sung sướng.

Hoàng Thiên Hóa lấy bốn thủ cấp, rồi cả ba cùng kéo nhau về thành ra mắt Tử Nha.

Tử Nha thấy Hoàng Thiên Hóa một mình phóng đinh thép giết luôn bốn tướng thì khen ngợi chẳng cùng, truyền bêu bốn thủ cấp trên mặt thành và tâu với Võ Vương hay.

Chúa tôi mở tiệc đải đằng, binh tướng vui vầy suốt ngày đêm không dứt.

Bấy giờ bọn tàn binh của Ma gia tứ tướng bỏ chạy về ải Tụy Thủy, bảo tin cho Hàng Vinh hay, rồi kéo về ải Giai Mộng.

Hàng Vinh được tin Ma gia tứ tướng tử trận thất kinh, vội làm sớ gởi về Triền Ca báo tin khẩn cấp.

Lúc bấy giờ, Thái Sư Văn Trọng vừa xem biểu chương của hai ải Du Hồn và Tam Sơn.

Nơi Du Hồn, Ðậu Dung đánh đuổi được Ðông Bá Hầu bại tẩu. Còn nơi Tam Sơn, Ðặng Cửu Công nhờ có con gọi là Ðặng Thiều Ngọc đuổi Nam Bá Hầu lui binh.

Tin mừng ấy chưa được bao lâu thì đã có sớ của Hàng Vinh gởi về.

Văn Thái Sư xem sớ, thấy bốn anh em Ma gia tử trận, nổi giận vỗ án hét:

– Không dè Tử Nha hung hăng như vậy, dám giết cả Ma gia tứ tướng bêu đầu trước ải. Thật là một hành động khiêu khích!

Giận quá, Văn Thái Sư trợn con mắt giữa, hào quang chiếu sáng lòa hơn hai thước.

Qua một hồi ngẫm nghĩ, Văn Thái Sư tự nhủ:

– Nay Ðông, Nam hai cõi đã yên, việc nước có thể giao cho triều thần coi giữ. Ngày mai ta vào tâu với vua tự giá thân chinh mới được.

Nghĩ rồi viết sớ, đợi rạng ngày vào dâng.

Hôm sau, Văn Thái Sư vào chầu rất sớm, quì trước Kim Loan dâng biểu xuất sư.

Trụ vương xem biểu, phán:

– Thái Sư vì Trẫm mà lo việc đánh Tây Kỳ, Trẫm cấp búa Việt vàng, cờ Mao trắng, để Thái Sư thay mặt trẫm định liệu mọi việc.

Văn Thái Sư tạ ơn, rồi chọn ngày tốt làm lễ xuất quân.

Trụ vương dọn tiệc, hội các quan đưa đón.

Trụ vương rót một chén rượu đầy ban cho Văn Thái Sư.

Văn Thái Sư bưng chén rượu tâu:

– Tôi đi chuyến nãy mong đẹp yên bờ cõi, xây dựng non sông xin bệ hạ ở nhà nghe theo lời quan gián nghị, đừng để vua tôi cách mặt, trên dưới xa nhau. Lâu lắm là nửa năm, mau lắm là ba tháng cũng trở về chầu bệ hạ.

Trụ Vương nói:

– Thái Sư đã thân chinh dẹp loạn thì thế nào cũng thắng trận ban sư, lòng trẫm không còn lo lắng gì nữa, trẫm chỉ chờ Thái Sư trở về vua tôi chung hưởng thái bình.

Văn Thái Sư uống rượu rồi lên Hắc kỳ lân.

Bỗng con thú nhảy chồm tới, la lên một tràng, làm cho Văn Thái Sư té nhào xuống đất.

Tả hữu vội vàng đỡ dậy,Văn Thái Sư vội sửa y mão chỉnh tề.

Khi ấy có quan Hạ Ðại phu là Văn Tiếp tâu rằng:

– Thái Sư vừa xuất quân mà té như vậy đã là điềm chẳng lành. Xin Bệ hạ sai tướng khác.

Văn Thái Sư nói:

– Quan Ðại phu nói sai rồi. Làm tôi phò chúa thì không phải làm tướng ra trận thì không kể mạng. Lẽ thường một tướng cầm quân không chết cũng bị thương, đó là lẽ đương nhiên, có ai mà sợ. Ta xem con thú này lâu nay không ra trận, ở không lâu cũng yếu đi, nên khó cỡi một chút, xin quan Ðại phu đừng bàn nữa.

Dứt lời, Văn Trọng nhảy lên lưng Hắc kỳ lân đi ngay.

Từ đấy Vua tôi không thấy mặt

Sắp sau hồn phách đã lên trời.

Văn Thái Sư một điểm lòng son ba năm chinh phạt, trên vì chúa dưới thương dân.

Thật là:

Những tưởng lòng trung phò nghiệp chúa

Nào hay máy tạo dứt nhà Thương.

Văn Thái Sư kéo ba vạn binh ra khỏi Triều Ca, đến sông Huỳnh Hà, rồi đến huyện Dẫn Trì. Quan Tổng binh huyện ấy là Trương Khê ra thành nghênh tiếp.

Trương Khuê làm lễ ra mắt xong, Văn Thái Sư hỏi:

– Ðường qua Tây Kỳ ngõ nào gần hơn?

Trươrg Khuê thưa:

– Ði qua ngũ quan thì xa, nếu đi tắt qua ải Thanh Long thì gần hơn hai trăm dặm.

Văn Thái Sư bèn truyền binh tướng đi qua ải Thanh Long.

Quân sĩ tuân lệnh, kéo cờ, gióng trống inh ỏi.

Người sau có thơ như vầy:

Mù mịt bụi hồng lộng khói xanh

Ào ào cờ đỏ chiếu rêu xanh

Vì tham đường tắt vài trăm dặm

Lên suối trèo non chịu nhọc nhằn.

Khi đại binh qua khỏi Thanh Long rồi, đường sá gập ghềnh, rất hiểm trở, cứ đi một bước lại phát chồn chân, đôi khi đi một bước lại trợt chân thành ba bốn bước, có lúc đồn lại thành đống, có lúc phải chạy cả đoàn.

Văn Thái Sư thấy đường đi khổ cực bằng hai, hối hận vô cùng.

Văn Thái Sư nói với chúng tướng:

– Nếu biết đường tắt nguy hiểm như vầy thà đi qua ngũ quan còn nhanh hơn.

Ngày kia, đại binh Thái Sư đến núi Huỳnh Hoa đường sá đi càng chật hẹp khó đi hơn nữa; non núi chập chùng, dãy này tiếp giáp với dãy khác liên miên tưởng không bao giờ dứt.

Văn Thái Sư truyền quân đóng trại nghỉ ngơi, rồi cỡi hắc kỳ lân bay lên không, dò lần phía trước xem có gì nguy hiểm chăng?

Văn Trọng đi một hồi đến một khoảng đất bằng phẳng, cây cối xinh tươi, có suối có hoa, có hang có động. Cảnh thiên nhiên trông đẹp mắt lạ lùng.

Văn Trọng ngắm nghía một hồi rồi nghĩ thầm:

– Hòn núi này xinh đẹp quá, ước gì việc nước thanh bình, ta ở nơi đây hưởng thú thanh nhàn.

Văn Trọng nhìn xa hơn nữa, cách chân núi một dặm đường, thấy tre xanh dờn dợn, ngô đồng cao mịt, rồi tiếng thanh la nổi lên inh ỏi, có một đoàn người khá đông kéo đến một vùng đất trống lập trận. Tướng đi đầu là một người tóc đỏ hung hung, da mặt xanh lét, hình dạng như quỷ sứ, cởi ngựa ô, cầm búa đồng mặc hồng bào, mang kim giáp.

Thấy lạ, Văn Trọng vỗ kỳ lân lướt đến gần, bọn lâu la đang tập trận chợt thấy một ông già có ba con mắt, mặt áo đỏ, cầm roi vàng, cỡi con Kỳ lân đen, liền chạy vào báo với chủ trại:

– Có một ông già đứng trên núi cao đang lén xem Ðại vương lập trận.

Viên chủ trại nhìn lên trông thấy nổi giận, truyền dẹp trận đồ, cỡi ngựa bôn ba lên núi.

Văn Thái Sư thấy tướng ấy mạnh bạo đáng mặt anh hùng, khen thầm:

– Phải chi ta thâu đặng tướng nay đi đánh Tây Kỳ thì tốt lắm.

Tướng ấy vừa đến nơi đã hét lớn hỏi:

– Ngươi là ai mà dám đến đây thám thính núi ta?

Văn Thái Sư nói trớ rằng:

– Bần đạo thấy núi này tốt lắm, muốn tìm một cái động an thân để tụng kinh huỳnh đình, chẳng biết tướng quân chịu hay không?

Tướng ấy nổi giận mắng:

– Yêu đạo dám cả gan đến đây đùa cợt.

Nói rồi chém xuống một búa.

Văn Thái Sư đưa roi vàng ra đỡ.

Hai người đánh nhau trên núi cao.

Văn Thái Sư là tay đã từng chinh chiến nhiều năm, gặp biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt nữa mặc dầu tướng ấy hung hăng.

Văn Thái Sư không hề nao núng, chỉ muốn thâu làm bộ hạ, để giúp đỡ mình mà đánh Tây Kỳ.

Ðánh được vài mươi hiệp, Văn Thái Sư trá bại chạy qua hướng Ðông, người ấy đuổi theo làm dữ. Văn Thái Sư nghe lạc ngựa sau lưng đã gần, liền chỉ ngọn roi xuống đất, hóa ra một cái thành vàng, ấy là phép độn kim, nhốt viên chúa trại trong thành ấy.

Văn Trọng trở lại chỗ cũ, xuống yên kỳ lân ngồi dựa cội tòng.

Ðoàn lâu la trở về báo với hai viên chủ trại khác rằng:

– Có một ông đạo sĩ mặc đại hồng bào, dụ đại thiên tuế vào trận gì bằng vàng không biết.

Hai tướng hỏi lâu la:

– Ðạo sĩ ấy bây giờ ở đâu?

Lâu la thưa:

– Còn đang ngồi trên bàn thạch, hóng mát trên cội tòng.

Hai tướng nghe nói nổi giận, cầm khí giới lên ngựa dẫn lâu la kéo đến chân núi.

Văn Thái Sư xem thấy lập tức lên lưng hắc kỳ lân.

Hai tướng vừa lên đến nơi thấy vị đạo sĩ có ba con mắt, thất kinh hét lớn:

– Yêu đạo ở chốn nào dám đến đây làm dữ. Giấu anh ta ở đâu hãy mau trả lại, thì đặng toàn thân.

Văn Thái Sư nói dối rằng:

– Hồi nãy người mặt xanh xúc phạm ta đánh một roi đã chết rồi. Nay hai ngươi đến đây làm gì nữa? Ta không có ý gì hết, chỉ muốn ở núi này tu luyện mà thôi, hai ngươi có bằng lòng hay không thì nói.

Hai tướng nổi giận kẻ thương người giản chém đùa.

Văn Thái Sư múa cặp roi vàng đỡ vẹt ra, đánh vài hiệp bèn giục kỳ lân bại tẩu qua phía Nam. Hai tướng đuổi theo, Văn Thái Sư chỉ một roi hóa thủy độn một tướng, rồi chỉ một roi nữa, hóa mộc độn một người.

Ðoạn trở ra cội tòng ngồi hóng mát như cũ.

Lâu la chạy về bảo với viên chủ trại thứ nhì rằng:

– Nhị thiên tuế ơi! Chúng ta mắc họa lớn rồi!

Viên chủ trại này là Tân Hoàn nghe báo tin liền hỏi:

– Chuyện gì mà mang họa?

Lâu la thưa:

– Ba vị thiên tuế ở trại thứ nhất bị một đạo sĩ già đánh chết hết rồi..

Tân Hoàn la lên một tiếng, và nói:

– Yêu đạo ở đâu mà dám lộng hành.

Liền một tay xách dùi, một tay xách lưỡi tầm sét, quạt hai cánh như chim bay ầm ầm như sấm.

Ðến chót núi Tân Hoàn thấy Văn Trọng đang ngồi, liền hét lớn:

– Yêu đạo! Ngươi giết mất ba người anh em ta, ta quyết không để cho ngươi toàn mạng.

Văn Thái Sư mở con mắt giữa, thấy một tướng như thiên lôi:

Trên đội mão đầu tròn

Mình mang áo chiến bào

Môi đỏ như trái táo

Miệng nhọn tợ cây đao

Sắt lẽm bốn nanh bạc

Săng ngời cặp mắt sa

Cánh bay như phụng múa

Tầm sét búa giơ cao.

Văn Thái Sư xem thấy khen thầm:

– Anh hùng hào kiệt thường là kẻ dị hình dị tướng, nếu thâu đặng người này làm bộ hạ tay chơn thì rất được việc.

Tân Hoàn đáp xuống đánh Thái Sư một dùi.

Thái Sư đưa roi ra đỡ, và hỗn trận một lúc. Thấy Tân Hoàn múa dùi và tầm sét thật lợi hại, Văn Thái Sư liền giả cách bại tẩu qua phía Ðông.

Tân Hoàn hét lớn:

– Yêu đạo mi chạy đi đâu cho khỏi.

Nói rồi vỗ cánh đuổi theo.

Văn Thái Sư nghĩ thầm:

– Nếu dùng phép độn ngũ hành thì bắt người này không được, bởi người này không ở dưới đất, bay lượn như chim.

Nghĩ rồi lấy roi chỉ cục đá trên đỉnh núi cao, làm phép sai Huỳnh Cân lực sĩ xô đá ấy đè lưng Tân Hoàn.

Huỳnh Cân lực sĩ tuân lệnh tức thì.

Tân Hoàn không ngờ Văn Thái Sư có phép tiên, sai khiến quỷ thần như vậy, nên thờ ơ bị hòn đá đè chặt cứng.

Văn Thái Sư quay kỳ lân lại, giơ roi muốn đập đầu.

Tân Hoàn sợ chết kêu lớn:

– Ðệ tử không biết nên phạm đến oai trời, xin thầy từ bi rộng lượng, tôi mang ơn như trời biển.

Văn Thái Sư để roi trên đầu Tân Hoàn, và nói:

– Ngươi không rõ, chớ ta là Văn Thái Sư ở tại Triều Ca vâng lệnh đi dẹp Tây Kỳ, vừa tới núi này gặp người mặt xanh vô lễ. Thực ta không muốn sanh sự. Nay ngươi muốn sống, hay muốn chết thì nói?

Tân Hoàn thưa.

– Chúng tôi không ngờ Thái lão gia đi qua đây, nếu biết, chúng tôi đã nghênh tiếp.

Văn Thái Sư nói:

– Nếu ngươi thuận tình theo ta đi đánh Tây Kỳ, thì ta tha ngươi khỏi chết, mà sau khi thắng trận về triều, ngươi còn được hưởng giàu sang phú quý nữa.

Tân Hoàn thưa:

– Thái Sư đã có lòng thương, tôi xin theo hầu dưới trướng.

Văn Thái Sư cầm roi chỉ vài cái.

Huỳnh Cân lực sĩ tuân lệnh mở đá cho Tân Hoàn ra.

Bấy giờ Tân Hoàn gần gãy xương, ngồi dậy không nổi phải gần một giờ mới đứng được.

Văn Thái Sư đỡ dậy, rồi ngồi trên bàn thạch còn Tân Hoàn đứng hầu hạ một bên.

Văn Thái Sư hỏi:

– Tại núi Huỳnh Hoa nhơn mã được bao nhiêu?

Tân Hoàn thưa:

– Núi này chu vi sáu mươi dặm, lâu la hơn một vạn, và lương thảo cũng nhiều.

Văn Thái Sư nghe nói mừng rỡ vô cùng, vì binh lương rất cần thiết cho việc chinh Tây.

Tân Hoàn khóc sụt sùi thưa:

– Như Thái Sư ra ơn cứu sống được ba người anh em tôi lúc lấy thì chúng tôi cùng theo làm bộ hạ để Thái Sư sai khiến.

Văn Thái Sư nói:

– Ngươi muốn tha chúng nó làm gì?

Tân Hoàn thưa:

– Tuy anh em chúng tôi khác họ mà tình thương đối với nhau như thể tay chân.

Vãn Thái Sư nói:

– Theo lời ngươi nói thì các ngươi là những kẻ trọng nghĩa.

Nói rồi liền vỗ tay một cái, nghe sấm dậy ầm ầm, dường như đất lở, núi lở lớn.

Ba viên tướng trước đây bị độc mê mang, nay nghe sấm giật mình tỉnh dậy, dụi con mắt nhìn lơ là.

Người thứ nhất tên Ðặng Trung không còn thấy vách tường vàng nữa lồm cồm ngồi dậy. Người thứ hai là Trương Tiết không còn thấy biển cả nữa. Người thứ ba là Ðào Vinh không thấy đám rừng già, cảnh cũ trở về trước mắt, cả ba mừng rỡ giục ngựa về trại.

Khi đi qua đỉnh núi, thấy Văn Trọng ngồi trên bàn thạch, Tân Hoàn đứng hầu một bên, Ðặng Trung nói giận hét lên một tiếng bảo Trương Tiết và Ðào Vinh:

– Nhị đệ hãy bắt yêu đạo cho ta.

Cả ba người đồng giục ngựa lên núi một lượt.

Hồi 42: Văn Thái Sư thâu được 4 tướng thần

Thấy ba tướng giận dữ kéo nhau lên núi, Tân Hoàn liền bước xuống cản lại và nói:

– Các anh đừng vô lễ. Lão gia là Thái Sư Văn Trọng ở triều Thương, hiện đang cầm quân đánh Tây Kỳ lẽ ra chúng ta phải tiếp đón Thái Sư mới phải.

Ba người nghe nói đều xuống ngựa, đến trước mặt Văn Trọng quì thưa:

– Chúng tôi nghe danh lão gia đã lâu, không nghênh tiếp mà còn xúc phạm, tội chúng tôi thật đáng chết, xin lão gia dung tình.

Văn Thái Sư nói:

– Vì các ngươi không biết nên xúc phạm đến ta thì chẳng có tội chi, nay ta muốn các ngươi theo ta đi dẹp giặc Tây Kỳ để sau này được vinh hiển.

Cả bốn anh em đồng quì lạy tuân lời, và thỉnh Văn Thái Sư về trại để đãi trà nước.

Văn Thái Sư theo bốn người đến nơi, thấy dinh trại cất hai dãy, lâu la đông nghẹt, lương thảo đầy kho.

Văn Thái Sư nói:

– Nay các người đã bằng lòng theo ta thì phải hỏi bọn lâu la, đứa nào muốn theo thì theo, đứa nào không muốn theo thì chia của đã tích trữ bấy lâu nay cho chúng nó về xứ.

Tân Hoàn tuân lệnh truyền lại với lâu la. Ðứa thì muốn theo, đứa lại không muốn.

Tân Hoàn chia của, mỗi đứa lãnh một phần, chúng mừng rỡ vô cùng.

Tính lại số lâu la chịu theo hơn bảy ngàn người, lương thảo được ba vạn.

Sắp đặt xong, bốn anh em đồng ra lệnh đốt trại, nhập vào đội quân triều đình, kéo một lượt qua khỏi núi Huỳnh Hoa.

Người sau có thơ rằng:

Rực rỡ cờ hồng như ngọn lửa

Ruổi đong ngựa chiến tợ bào hao

Tây Kỳ hào kiệt đường mây nhóm

Văn Trọng binh gia tợ sóng xao.

Văn Thái Sư đang kéo binh đi, nhìn thấy trước mặt có một tấm bia khắc ba chữ là: Tuyệt Long lãnh thì dừng kỳ lân cả buổi, buồn bực làm thinh.

Ðặng Trung thấy vậy hỏi:

– Chẳng hay Thái Sư có việc chi nghĩ vậy mà vẻ người bơ phờ?

Văn Thái Sư nói:

– Thuở trước ta học đạo tại cung Ðức Du, lúc chân tài đã năm mươi tuổi. Thầy ta là bà Kim Linh thánh mẫu sai xuống phò cơ nghiệp Thành Thang. Khi ra đi ta có hỏi một lời số mạng. Thày ta bảo là ta không nên gặp chữ Tuyệt. Nay kéo binh đến đây lại gặp chữ ấy, nên lòng ta chẳng vui.

Ðặng Trung và ba tướng đồng thưa:

– Thái Sư đa nghi quá! Lẽ nào một chữ ấy mà định họa phước chung thân cho kẻ trượng phu? Vả lại người lành thì trời giúp. Thái Sư tài cao đức trọng lo gì không dẹp nổi Tây Kỳ.

Tuy có lời khuyên giải, nhưng Văn Thái Sư vẫn chẳng nguôi ngoai. Các tướng thúc quân đi đến. Quân sĩ lướt tới như mây gió, giáo gươm chơm chởm, tiếng chân người dội cả một góc trời.

Ngày kia, trong lúc đại binh đang tiến bước có thám mã trở lại thưa:

– Binh đã gần đến cửa Nam thành Tây Kỳ rồi.

Thái Sư truyền quân đóng trại. Tướng sĩ vào lịnh phát pháo đồn binh.

Bấy giờ bên Tây Kỳ, quân thám thính được tin vội về báo với Tử Nha:

– Văn Thái Sư dẫn ba mươi muôn binh đóng trại phía Nam thành.

Tử Nha nói:

– Trước kia ta có ở Triều Ca, song chưa biết mặt Thái Sư Văn Trọng, nay người đã kéo binh đến đây, để ta xem thử thế nào cho biết.

Nói rồi dẫn các tướng lên mặt thành.

Tử Nha thấy binh Thái Sư nghiêm trang tề chỉnh, chắt miệng khen thầm:

– Văn Thái Sư nổi danh bốn biển thật xứng đáng. Cứ như lối cầm binh thế này thì tiếng đồn quả không sai.

Nói rồi xuống thành thương nghị.

Hoàng Phi Hổ thưa:

– Xin Thừa Tướng đừng lo. Rất đổi Ma gia tứ tướng còn phải rơi đầu, huống chi Thái Sư Văn Trọng tuổi tác đã già, sức lực bao nhiêu mà ngại.

Tử Nha nói:

– Tuy vậy mặc lòng, song ta buồn vì quân dân Tây Kỳ phải nạn chiến tranh, rơi xương đổ máu, biết chừng nào cho được thái bình.

Các tướng đang bàn luận, có quân vào báo:

– Văn Thái Sư sai sứ đến hạ chiến thư.

Tử Nha cho vào.

Quân giữ cửa tuân lệnh khai thành đón sứ.

Tử Nha tiếp lấy chiến thư, trong thơ đại ý viết như sau:

“Thái Sư nhà Thương gồm chức Chinh Tây Nguyên soái là Văn Trọng, gởi cho Thừa Tướng Tử Nha rõ.

Nghe rằng: Hễ làm tôi phản chúa thì mang tội nghịch thiên. Nay chúa trị chín Châu, oai vang bốn biển, mà Tây Kỳ làm loạn. Cơ Phát xưng vương, lại chứa kẻ phản thần chẳng kiêng quốc pháp. Vua sai binh vấn tội, ngươi nghịch lại thiên oai, dám bêu đầu đại thần, chẳng vị lòng thượng quốc. Dẫu bằm da xé thịt tội ấy chưa đền, lấy nước phá thành cũng chưa xứng đáng.

Nay ta vâng chiếu chỉ đến phá thành trì, như ngươi thương xót mạng dân thì vua tôi hàng đầu thọ tội. Còn không tính trước, đợi cháy núi lở non thì không chừa ngọc đá.

Chiến thư đã tới, thương nghị cho mau”.

Tử Nha đọc chiến thơ xong hỏi sứ thần:

– Ðại tướng tên chi?

Tưởng ấy thưa:

– Tôi là Ðặng Trung

Tử Nha nói:

– Ðặng tướng quân về thưa lại với Văn Thái Sư rằng ta kính lời với Văn Thái Sư trong ba ngày sẽ ra trận.

Ðặng Trung từ giã ra khỏi thành về đến dinh thưa lại với Văn Trọng.

Cách ba hôm sau, Văn Thái Sư phát pháo, dẫn binh ra trước mặt thành.

Giữa lúc đó trong thành Tây Kỳ cũng nổi lên một tràng pháo, tức thì cửa phía Nam mở toạc, bốn cây cờ xanh ra trước, bốn tướng cỡi ngựa theo sau đứng sang hướng Chấn.

Có bài thơ rằng:

Bốn tướng cớ xanh áo mão xanh

Hướng Ðông binh đóng chặt như thành

Cầm thương vác giáo oai như cọp

Một tướng điều binh thảy rạng danh.

Tiếng pháo thứ nhì nổ, bốn cây cờ đỏ ra trước, bốn vị tướng theo sau kéo sang cung Ly bố trận.

Có bài thơ thư vầy:

Cờ đỏ áo điều cỡi ngựa Kim

Khác nào ngọn lửa cháy không trung

Sơn son cung ná thương ngù thắm

Bố trận phương Nam vững tợ đồng.

Tiếng pháo thứ ba nổ, bốn ngọn cờ trắng kéo ra, bốn viên tướng mặc bạch bào bước tới án bên hướng cung Ðoài.

Có bài thơ rằng:

Bạch giáp ngân khôi cỡi ngựa hồng

Gươm trần tợ tuyết rất oai nghiêm

Hướng Tây bố trận trông ghê gớm

Cờ trắng phau phau tuyệt áo xiêm.

Tiếng pháo thứ tư nổ, bốn ngọn cờ đen kéo tới, bốn vị tướng xông ra, dẫn binh trấn tại cung Khảm.

Có bài thơ rằng:

Ngựa Ô tướng giữ phất cờ đen

Tướng Bắc bày binh thật đáng khen

Như thế than hầm cùng khói tỏa

Ngựa xe đông nghẹt chẳng nơi chen.

Tiếng pháo thứ năm nổ, bốn cây cờ vàng phất phới giương ra. Bốn tướng kim khôi kim giáp xuất trận, chiếm cứ trung ương.

Có bài thơ rằng:

Kim khôi kim giáp kéo cờ vàng

Lập trận trung ương thấy rõ ràng

Sai khiến ngũ phương theo hiệu lịnh

Tử Nha bày bố rất nghiêm trang.

Khi ấy Thái Sư Văn Trọng thấy Tử Nha lập trận Ngũ Phương nghiêm trang tề chỉnh, binh tướng có thứ lớp, trận đồ sắp đặt oai nghiêm.

Na Tra cầm giáo đứng trên xe gần một bên. Dương Tiển, Kim Tra, Mộc Tra, Hoàng Ðộc Long, Tiết Át Hổ, Hoàng Thiên Hóa, Võ Kiết,… đồng bảo hộ Tử Nha cỡi con Tứ Bất Tướng đứng giữa trận. Bên hữu lại có Hoàng Phi Hổ cỡi con thần ngưu.

Tử Nha xem thấy Thái Sư Văn Trọng mặt như vàng bạc, râu đài đậm đuộc, gió thổi phất phớt tay cầm cặp Kim tiên oai phong lắm liệt, liền giục thú tới bái một bái và nói:

– Kính mừng Thái Sư! Tôi làm lễ không trọn, xin miễn chấp.

Văn Thái Sư hỏi:

– Ta nghe Khương Thừa Tướng là danh sĩ núi Côn Lôn, sao không biết trọng lẽ phải?

Tử Nha đáp:

– Tôi là đệ tử cung Ngọc Hư, hằng trọng niềm đạo đức, lẽ đâu dám nghịch mạng trời. Tôi phò vua giúp nước trên tuân lời chúa, dưới phụng lòng dân, biết kính người hiền, không ưa kẻ nịnh, giữ gìn bờ cõi, trấn giữ thành trì, trăm họ yên vui, sao gọi là không biết phải?

Văn Thái Sư nói:

– Ngươi chỉ biết trau chuốt lời nói mà không biết lỗi mình, nhà ngươi tôn Võ vương không có lệnh Thiên tử, ấy là tội khi quân tiếm mị. Chứa phản thần là tội đại nghịch. Vua sai tướng hưng binh vấn tội, ngươi dám chém giết muôn binh, ấy là tội phản. Nay ta đến đây ngươi cũng không phục, lựa lời xảo trá chống cự với thiên triều mà còn tưởng mình vô tội sao?

Tử Nha cười nhạt, nói:

– Thái Sư nói sai rồi. Tôi tôn Võ vương chưa kịp tâu với Thiên tử, song xét lại con thế chức cha là việc thường, nào có lỗi chi? Nay chư hầu trong thiên hạ đều phản lại nhà Thương, ấy không phải lỗi tại chư hầu, bởi thiên tử không kỷ cang, nên kẻ có trí không muốn thờ một bạo chúa. Còn việc Võ Thành vương thì quân bất chánh thần đầu ngoại quốc, ấy cũng là lẽ thường. Luận đến việc giết quân binh triều đình, là tại đại thần đem binh đến phá phách bờ cõi, giết tướng công thành, nên tôi phải chống đỡ chớ tôi chẳng hề đem một tên lính nào phạm đến ngũ quan, lại cũng chẳng giúp một chư hầu nào làm nghịch. Thái Sư danh vang bốn biển, oai dậy tám phương, nay đem binh đến đây e không khỏi mang tiếng vô cớ mà khinh địch, chứ tôi nào dám cự với Thái Sư. Nếu Thái Sư không cho lời tôi là dốt nát, xin Thái Sư lui binh về phủ, ai giữ nước nấy, cho trăm họ thái bình. Bằng chẳng xét ý trời, thì việc binh thắng bại không lấy gì làm chắc, xin Thái sư nghĩ lại.

Văn Thái Sư nghe Tử Nha nói cứng, nổi giận phừng phừng, lại thấy Hoàng Phi Hổ đứng gần đó liền nạt lớn:

– Nghịch thần Hoàng Phi Hổ, hãy đến ra mắt ta.

Hoàng Phi Hổ không biết làm sao lẩn mặt, túng phải giục trâu tới bái một bái và thưa:

– Tôi cách mặt đã mấy năm nay, may gặp được Thái Sư mà giải điều oan ức.

Văn Thái Sư hét lớn:

– Dòng họ Hoàng của ngươi giàu sang trong đại quốc, nay phụ vua phản chúa, phò Tây Kỳ mà giết đại thần. Tội đáng chết mười phần, còn tìm lời nói đớ.

Mắng rồi quay lại nói với các tướng:

– Hãy ra tay bắt phản tặc cho mau.

Ðặng Trung giục ngựa lướt ra vung búa chém Võ Thành vương.

Hoàng Phi Hổ đưa gươm ra đỡ.

Trương Tiết cầm gươm giục ngựa tới trợ lực với Ðặng Trung.

Nam Cung Hoát cản lại giao chiến.

Ðào Vinh lướt ngựa ra trước tiếp ứng, Võ Kiết cầm giáo đón lại giao phong.

Sáu tướng chia nhau thành ba cặp hỗn chiến, kẻ qua người lại búa chém thương đâm cát bụi đầy trời, binh reo dậy đất.

Tân Hoàn thấy ba tướng mình khó thắng, liền quạt cánh bay lên cao, cầm dùi sắt đánh vào đầu Khương Tử Nha.

Hoàng Thiên Hóa thấy vậy giục Ngọc kỳ lân bay theo, đưa song chùy đánh tới Tân Hoàn.

Các tướng Châu thấy Tân Hoàn có cánh bay cao, đội mão đầu cọp, mặt đỏ bầm như trái táo ai nấy đều kinh hải.

Còn Văn Thái Sư thấy Hoàng Thiên Hóa cỡi Ngọc kỳ lân cự với Tân Hoàn biết là người có phép tiên, liền giục hắc kỳ lân tới giơ roi đánh với Tử Nha.

Tử Nha đưa gươm thư hùng ra đỡ. Hai người cỡi hai con thú, đánh với nhau nổi gió sanh mây.

Văn Thái Sư quăng cây roi trống lên trời, bởi cặp roi ấy là rồng hóa ra nên sấm sét vang dậy, cây roi trống đánh nhằm vai Tử Nha té nhào luống đất.

Văn Thái Sư xông tới toan lấy thủ cấp, chẳng ngờ có Na Tra giục xe đến giơ thương ra đỡ và nói lớn:

– Không được hại sư thúc ta.

Nói rồi đâm một giáo, Văn Thái Sư đưa roi mái ra đỡ.

Tân Giáp thừa dịp ấy cứu Tử Nha vào thành.

Văn Thái Sư đánh với Na Tra được bốn năm hiệp, rồi cũng liệng roi trống lên, cây roi đánh trúng Na Tra nhào xuống đất.

Kim Tra lướt tới vung gươm đánh với Thái Sư.

Văn Thái Sư, thâu roi lại cự chiến, Mộc Tra và Hoàng Ðộc Long đồng xông đến một lượt trợ lực với Kim Tra.

Văn Trọng nổi giận, quăng cả cặp roi lên, cặp roi bay lượn như chim, đánh cả ba người nhào xuống đất một lúc.

Dương Tiển thấy vậy cầm thương giục ngựa lướt vào.

Văn Thái Sư thấy Dương Tiển dung mạo khác thường nghĩ thầm:

– Tây Kỳ có người lạ như vầy không làm phản sao được. Liền thâu roi đánh được ít hiệp, rồi cũng liệng roi lên trời. Cặp roi đánh nhằm đầu Dương Tiển văng lửa, mà đầu Dương Tiển vẫn trơ trơ.

Văn Thái Sư kinh hãi than:

– Thật là thần tiên, không phải người phàm tục.

Còn Ðào Vinh đánh với Võ Kiết thấy các tướng cầm đồng, liền lấy tụ phong phan rung rung vài cái, tức thì mây tuôn gió thổi, đá chạy, cát bay, ban ngày mà tối như ban đêm, trên trời đen như mực.

Quân Châu thất kinh tìm đường mà chạy, liệng chiêng bỏ trống, ném giáo quăng cờ không biết Ðông Tây Nam Bắc, giày xéo nhau mà chết.

Văn Thái Sư thắng trận thâu binh về trại, mở tiệc thưởng tướng khao quân cầm chắc trong vài ngày nữa sẽ lấy được Tây Kỳ.

Bên kia Tử Nha vào thành kiểm điểm binh mã thấy hao hơn phân nữa, liền thở dài than:

– Mới đánh trận đầu mà đã bại, bốn tướng bị thương, nay biết phải làm sao?

Dương Tiển thưa:

– Xin Thừa Tướng tịnh dưỡng vài ngày rồi sẽ tính kế ra binh. Tôi chắc Văn Trọng đắc thắng, thế nào cũng thờ ơ tự phụ.

Tử Nha khen phải, truyền binh tướng nghỉ ngơi, dưỡng sức hai ngày.

Ngày thứ ba, Tử Nha truyền phát pháo khai thành kéo quân ra trận.

Quân thám thính về báo với Văn Thái Sư.

Văn Thái Sư dẫn bốn tướng dàn binh bố trận.

Tử Nha lướt tới kêu Thái Sư Văn Trọng nói:

– Tôi với Thái Sư bữa nay quyết phân cao thấp.

Nói rồi rút song kiếm đánh liền. Văn Thái Sư múa song tiên cự địch.

Na Tra và Dương Tiển trợ chiến với Tử Nha.

Ðặng Trung xông vào, Hoàng Phi Hổ cản lại.

Trương Kiết, Ðào Vinh lược trận, bị Võ Kiết và Nam Cung Hoát cản ngăn.

Tân Hoàn xách dùi bay lên, bị Hoàng Thiên Hóa đón lại.

Năm cặp vừa sức hỗn chiến với nhau.

Văn Thái Sư đánh một hồi liệng cặp thư hùng lên.

Tử Nha liền quăng roi Ðả Thần Tiên cự lại.

Cây roi mái của Văn Trọng cự không lại cây roi Ðả Thần Tiên bị gãy làm đôi rơi xuống.

Văn Thái Sư hét lớn:

– Khương Thượng, ngươi phá phép báu của ta, ta quyết với ngươi một còn một mất.

Nhưng vừa dứt tiếng, Văn Thái Sư đã bị roi Ðả Thần Tiên của Tử Nha đánh nhào xuống kỳ lân, may nhờ có Kiết Lập, Dư Khánh lướt tới đỡ thương, nên Văn Thái Sư mới độn thổ trở về được dinh.

Tử Nha và các tướng Châu thừa thắng đánh binh Trụ tan rồi cùng nhau trở về thành.

Dương Tiển thưa:

– Ðêm nay chúng ta đi cướp trại thế nào cũng thắng.

Tử Nha khen phải, truyền các tướng lui về chuẩn bị sẳn sàng đợi đến canh hai sẽ xuất quân cướp trại.

Bấy giờ Văn Thái Sư bị thua trận trở về ngồi trước trướng buồn bã.

Các tướng vào ra mắt, Văn Thái Sư nói:

– Ta thường đánh Nam đẹp Bắc, chưa hề đại bại. Nay roi phép bị Tử Nha đánh gãy, ta nghĩ lại từ khi thầy ta truyền cặp giao long kim tiên cho đến nay chưa bao giờ bị mất danh tiếng. Nay bị gãy một cây, còn mặt mũi nào ra mắt thầy ta nữa.

Bốn tướng thưa:

– Việc binh thắng bại là lẽ thường, xin Thái Sư đừng phiền, thủng thẳng mà tính kế.

Còn bên thành Tây Kỳ.

Tử Nha chuẩn bị sẳn sàng, vừa hết canh một các tướng đều đến trước trướng nghe dạy việc.

Tử Nha truyền:

– Hoàng Phi Hổ, Hoàng Phi Bưu, Hoàng Minh phá dinh bên tả. Nam Cung Hoát, Tân Miễn, Tân Giáp phá dinh bên hữu. Na Tra, Hoàng Thiên Hóa phá cửa trước. Kim Tra, Mộc Tra, Hoàng Ðộc Long, Tiết Át Hổ, Long Tu Hồ với Võ Kiết đồng theo bảo hộ mình. Dương Tiễn đi đốt lương thảo. Lão tướng Hoàng Cổn thủ thành.

Sắp đặt xong ai lo phận sự nấy.

Bấy giờ Văn Thái Sư đang ngồi nghiệm kế, nhìn thấy hơi dữ ve vãn trước mắt, lòng sanh nghi lấy tiền gieo quẻ, biết đêm nay quân giặc đến cướp dinh. Nhưng Văn Thái Sư cho đó là việc thường không lấy gì làm sợ, bèn truyền:

– Ðặng Trung, Trương Tiết giữ tả dinh. Tân Hoàn, Ðào Vinh giữ hữu dinh. Dư Khánh, Kiết Lộc coi lương thảo.

Còn mình án ngự phía trước để cự địch.

Ðến canh hai, Tử Nha ra hiệu lịnh, các tướng Châu đồng áp vào dinh Thương một lượt theo kế hoạch đã vạch sẳn.

Hồi 43: Văn Thái Sư thất trận cầu tiên giúp

Ðêm ấy Tử Nha điều khiển các tướng cướp dinh.

Na Tra và Hoàng Thiên Hóa xông vào cửa trước Văn Thái Sư cỡi kỳ lân vung roi trống giao phong, phía đỡ giáo Na Tra, phần đỡ song chùy Hoàng Thiên Hóa, Kim Tra, Mộc Tra cầm gươm trợ chiến. Hoàng Ðộc Long, Tiết Ất Hồ cũng vung kiếm xông vào, sáu tướng hùm phủ vây một mình Thái Sư Văn Trọng.

Bên tả, cha con, anh em Hoàng Phi Hổ áp vào, Trương Tiết, Ðặng Trung đồng ra cự chiến.

Bên hữu, Nam Cung Hoát, Tân Giáp, Tân Miễn lướt tới.

Tân Hoàn, Ðào Vinh hiệp lực đón ngăn.

Ba phía dinh đều có tướng binh hổn chiến.

Còn Dương Tiển đi bọc hậu ra sau dinh, dùng tam muội nhơn hỏa là lửa phép trong mình, biến thành một con muỗi, bay thẳng đến kho lương. Tại đó có Dư Khánh và Tiết Lộc, song hai người này làm sao thấy nổi phép thần thông của Dương Tiển.

Kho lương bốc cháy, lửa dậy trùng trùng, làm đỏ rực cả bầu trời.

Bấy giờ Văn Trọng một mình đang đánh với sáu tướng, thấy kho lương cháy bừng như một hòn núi lửa, biết không thể nào thủ thắng được nữa, nên đỡ gạt cầm chừng, chờ cơ hội rút quân.

Bỗng đâu Tử Nha cỡi Tứ Bất Tướng lướt tới, quăng roi Ðả Thần Tiên lên, Văn Thái Sư bị một roi, thất kinh giốc thú bỏ chạy phía tả, cha con anh em Hoàng Phi Hổ đánh với Ðặng Trung, Trương Tiết.

Hai tướng này thấy Văn Thái Sư bại tẩu liền bỏ chạy theo để hộ vệ.

Bên hữu, Nam Cung Hoát, Tân Giáp, Tân Miễn đang đánh với Tân Hoàn, Ðào Vinh, xảy có Dư Khánh và Tiết Lộc đến tiếp chiến.

Hai tướng này giữ kho lương thảo, bị Dương Tiển đốt cháy, không biết làm sao phải qua dinh hữu trợ lực.

Tuy vậy, Ðào Vinh, Dư Khánh, Tiết Lộc thấy Văn Thái Sư đã chạy thì không còn lòng nào giao tranh nữa, vội chém bậy một nhát rồi quất ngựa chạy theo.

Tân Hoàn một mình không đương cự nổi cũng quạt cánh bay bổng lên trời.

Thế là dinh trại binh Thương bị tan vỡ, binh sĩ lớp chết lớp đầu hàng, còn một số đông bỏ chạy vào rừng hợp nhau thành nhóm để chờ tin chủ tướng.

Bấy giờ tại núi Chung Nam, động Ngọc Trụ. Vân Trung Tử đang ngồi trên giường Bích Du, bỗng nhớ đến việc Văn Thái Sư đang kéo binh chinh phạt Tây Kỳ, lúc này cũng nên sai Lôi Chấn Tử xuống lập công đền nợ nước liền gọi Kim Hà đồng tử bảo:

– Ngươi đòi sư huynh ngươi ra cho ta bảo.

Kim Hà đồng tử vâng lệnh ra vườn gọi Lôi Chấn Tử vào.

Vân Trung Tử thấy Lôi Chấn Tử vào quỳ trước mặt, liền nói:

– Ngươi hãy xuống Tây Kỳ ra mắt Võ vương Cơ Phát và sư thúc Khương Tử Nha để phò Châu diệt Trụ, chớ nên trễ nải. Nếu ngươi đi đọc đường, gặp người có cánh, thì phải đánh nó mà lập công đầu.

Lôi Chấn Tử tuân lệnh lạy thầy giã bạn, cầm búa vàng ra khỏi động, vỗ cánh bay cao.

Bay tới địa phận Tây Kỳ, xa xa trông thấy binh Thương bại tẩu.

Lôi Chấn Tử mừng rỡ nghĩ thầm:

– Gặp dịp này may lắm! Ta trổ tài một trận thần oai.

Nghĩ rồi đón đầu binh tướng Văn Thái Sư mà đánh.

Văn Thái Sư đang chạy với các tướng, bỗng thấy một người có cánh bay nửa lừng trời, tóc đỏ, mắt vàng, mắt xanh, nanh bạc liền kêu Tân Hoàn nói:

– Ta xem người có cánh kia rất dữ, đang chú ý bay về phía chúng ta.

Văn Trọng nói chưa dứt lời Lôi Chấn Tử đã bay đến hét lớn:

– Có ta đến đây!

Nói rồi vung búa đánh liền.

Tân Hoàn lấy lưỡi tầm sét ta đỡ.

Hai tướng giao phong giữa không trung, bốn cánh quạt gió ầm ầm.

Tân Hoàn đánh không lại Lôi Chấn Tử, thất kinh bay qua núi Tây Kỳ.

Lôi Chấn Tử nghĩ thầm;

– Không cần đuổi nó làm gì, ta đi ra mắt sư thúc và Hoàng huynh trước đã, sau này sẽ còn gặp nó.

Nghĩ rồi vỗ cánh bay thẳng đến thành Tây Kỳ.

Lúc này Tử Nha trọn thắng, thâu binh vào thành khao thưởng tướng sĩ.

Tử Nha nói:

– Chúng ta thắng được trận nay là nhờ hồng phước chúa công, và cũng như công của các tướng.

Các tướng đều thưa:

– Ấy là hồng phước của quân vương và tôi ước của Thừa Tướng, khiến xui Văn Trọng hơ hỏng.

Bỗng có quân vào báo:

– Có đạo đồng xin ra mắt Thừa Tướng.

Tử Nha truyền mời vào. Lôi Chấn Tử bước đến làm lễ.

Tử Nha hỏi:

– Ngươi là đệ tử động nào?

Lôi Chấn Tử thưa:

– Ðệ tử ở núi Chung Nam, động Ngọc Trụ, học trò Vân Trung Tử. Nay vâng lệnh đến hầu sư thúc, và ra mắt Hoàng huynh.

Tử Nha hỏi:

– Hoàng huynh ngươi là ai?

Lôi Chấn Tử thưa:

– Hoàng huynh tôi là Võ vương.

Các tướng nghe nói đều lấy làm lạ.

Tử Nha gọi các vị điện hạ đứng hai bên, hỏi:

– Có ai biết mặt Lôi Chấn Tử hay không?

Các điện hạ đều nói:

– Chúng tôi đều không biết người này.

Lôi Chấn Tử nói:

– Tôi là Lôi Chấn Tử ở tại núi Yên Sơn. Hồi bảy tuổi tôi có đưa cha tôi là Văn vương qua khỏi năm ải.

Tử Nha sực nhớ lại, nói với các tướng:

– Phải rồi! Tiên vương thường nói Lôi Chấn Tử có cứu người qua khỏi ngũ quan. Nay Chấn Tử về đến đây thật là hồng phước của chúa công.

Nói rồi đưa Lôi Chấn Tử vào cung để ra mắt Võ vương.

Quan chấp điện vào tâu:

– Có Thừa Tướng xin ra mắt.

Võ Vương cho vào.

Tử Nha đến trước long sàng làm lễ và tâu:

– Có Ngự đệ của Ðại vương xin vào hầu.

Võ vương hỏi:

– Ngự đệ ta là ai?

Tử Nha tâu:

– Năm trước tiên vương đi qua núi Yên Sơn, thâu được Lôi Chấn Tử, cho đi học tại núi Chung Nam, nay người ấy về đây bệ kiến.

Võ vương cho mời vào.

Lôi Chấn Tử bước đến làm lễ, Võ Vương nói:

– Thôi, Ngự đệ hãy đứng dậy. Việc này ta đã có nghe tiên vương thuật lại mấy năm trước, nhớ công Ngự đệ đưa tiên vương qua khỏi ngũ quan. Nay anh em ta gặp mặt, còn gì vui hơn.

Tuy thâm tình, nhưng Võ vương thấy Lôi Chấn Tử hình tượng kỳ dị, không dám cho vào lạy mẹ, sợ bà Thái Cơ kinh hãi, mà lỗi đạo làm con, bèn truyền lệnh cho Tử Nha:

– Thượng phụ thay mặt ta đãi yến Ngự đệ.

Tử Nha tâu:

– Lôi Chấn Tử không dám ăn mặn, xin đại vương cho ở với tôi thì tiện hơn.

Võ Vương y tấu, Lôi Chấn Tử và Thừa Tướng từ tạ về dinh.

Nói về Văn Thái Sư bại binh chạy cách núi Kỳ Sơn bảy mươi dặm mới đám dừng lại kiểm điểm tàn quân, thấy binh sĩ hao quá hai muôn.

Văn Thái Sư than:

– Ta đánh giặc đã lâu năm, chưa hề bại binh. Nay tình thế như vầy, ta muốn triệu tướng khác đem binh tiếp cứu, ngặt vì sai tướng thì không lấy ai trấn ải.

Giận quá, Văn Thái Sư trợn con mắt giữa hào quang sáng lòa.

Kiết Lộc thưa:

– Xin Thái Sư chớ lo, đạo hữu trong núi non còn rất nhiều, tài năng mưu trí không ai có thể lường được, chúng ta chỉ cứ thỉnh một vài vị đến trợ chiến thì có thể thành công.

Văn Thái Sư ngẫm nghĩ một hồi rồi nói:

– Ngươi tính điều ấy rất phải.

Nói rồi truyền Ðặng Trung, Tân Hoàn giữ trại, một mình cỡi hắc kỳ lân bay thẳng ra biển Ðông, tìm đến Kim Ngao đảo.

Văn Thái Sư bay một hồi thấy non cao cảnh lạ, biển rộng, rừng xanh, lòng già lại mến miền yên tịnh, liền cất tiếng than:

– Ta chịu ơn Tiên vương phó thác, hằng lo việc nước, biết ngày nào thanh bình để trở về núi non ngồi trên bàn thạch, tụng kinh huỳnh đình cho thỏa lòng ao ước.

Văn Thái Sư đến Kim Ngao đảo, bước xuống Kỳ lân, không thấy bóng một ngươi nào qua lại, các cửa động đều đóng chặt và vắng tanh.

Cảnh hoang vu ấy làm cho Văn Thái Sư ngao ngán, không hiểu vì cớ nào chốn tu hành lại thay đổi?

Trầm ngâm một lúc Văn Thái Sư định sang núi khác, nhưng mới vừa bước lên lưng kỳ lân, bỗng nghe cô tiếng người ở sau lưng kêu lớn:

– Ðạo huynh đi đâu vậy?

Văn Thái Sư nhìn lại thấy Ham Chi tiên cô liền bái dài và hỏi:

– Sao tiên cô có mặt nơi đây? Chốn này tại sao lại trở thành hoang vu như vậy?

Ham Chi tiên cô mỉm cười, nói:

– Cũng vì đạo huynh mà các đạo hữu đều bỏ động hết.

Văn Thái Sư ngạc nhiên, trố mắt hỏi:

– Tại sao vậy?

Ham Chi tiên cô nói:

– Hiện nay các Ðạo hữu quyết lòng theo giúp đạo huynh, nên bỏ động cùng nhau đến tại Bạch Lộc đảo tập luyện trận đồ. Trước đây, Thân Công Báo có đến thỉnh chúng tôi, và tin cho tất cả giáo phái của chúng ta đồng biết. Các giáo phái của chúng ta đã họp mặt và đồng ý qua Tây Kỳ giúp đạo huynh.

Văn Trọng nghe nói mừng rỡ, nói:

– Thế thì hiện giờ tất cả các đạo hữu đang có mặt tại Bạch Lộc đảo sao?

Ham Chi tiên cô nói:

– Ðúng vậy! Ðạo huynh đến đó thì gặp.

Văn Trọng lại hỏi:

– Còn Tiên cô sao lại ở đây?

Ham Chi tiên cô nói:

– Tôi bây giờ đang luyện một phép trong lò bát quái chưa xong, ít hôm nữa tôi cũng qua đó.

Văn Thái Sư mừng rỡ từ giã Ham Chi tiên cô thẳng đến Bạch Lộc đảo quả thấy một số đông đạo sĩ, kẻ bịt khăn chữ nhật, người chừa vá âm dương, kẻ đội mão bạc, mão vàng, bao đánh xanh, người đội mão đuôi cá ngồi trên bàn thạch nói chuyện với nhau.

Văn Thái Sư kêu lớn:

– Các đạo huynh thật thanh nhàn lắm!

Các đạo sĩ thấy Văn Thái Sư đến, đồng đứng dậy chào hỏi:

Tân Hoàn đừng trước, lên tiếng:

– Chúng tôi biết Văn đạo huynh kéo binh chinh phạt Tây Kỳ có lòng lo. Vì trước đây Thân Công Báo có đến thỉnh anh em chúng tôi trợ chiến. Thân Công Báo lại tổ chức một cuộc họp mặt các quần tiên, non một ngàn người trong giáo phái đều đồng ý ra tài. Riêng chúng tôi có mười người ở Kim Ngao đảo họp nhau luyện trận Thập Tuyệt, để sau này dùng đến. Hôm nay trận tập đã xong, thì may mắn gặp được đại huynh.

Văn Thái Sư hỏi:

– Trận Thập Tuyệt ý nghĩa làm sao?

Tân Hoàn nói:

– Thập Tuyệt gồm có mười trận, do mười chúng tôi lập ra. Những cái huyền diệu không thể nói hết được. Nay mai tới Tây Kỳ anh sẽ thấy.

Văn Thái Sư hỏi:

– Sao ở đây có chín anh em, còn một người nữa đâu vắng.

Tân Hoàn nói:

– Còn Kim Quang Thánh mẫu hiện đi qua Bạch Vân đảo luyện trận Kim Quang, vậy nên không đủ số.

Ðồng Toàn nói:

– Trận Thập Tuyệt chúng ta đã tập xong, vậy thì chúng ta cứ đi trước sang Tây Kỳ, để Văn Thái Sư ở lại đây đợi Kim Quang Thánh mẫu về, rồi đi sau cũng được.

Văn Thái Sư nói:

– Như quí vị đạo huynh có lòng thương tôi như vậy tôi rất cảm ơn.

Chín vị đạo sĩ giã từ Văn Thái Sư, đồng độn thủy qua Tây Kỳ một lượt.

Có bài thơ rằng:

Dạo khắp bầu trời nội nửa trăng

Ðông Tây Nam Bắc dễ ai bằng

Phép tiên độn thủy nhanh như chớp

Giết tướng thâu thành khó cản ngăn.

Chín vị tiên đi rồi, Văn Thái Sư ngồi trên bàn thạch đợi không đầy một giờ, đã thấy một vị tiên cô cỡi ngựa có vằn, đầu đội mão đuôi cá, mình mặc áo bát quái đỏ, lưng nịt dây tơ, vai mang túi của beo, tay cầm song kiếm từ phía Nam phi ngựa tới như gió, thẳng đến hướng Bạch Lộc.

Gần đến nơi, tiên cô không thấy bọn mình, lại thấy đạo sĩ râu mọc năm chồm, có ba con mắt da mặt vàng ngoắt, mặc áo đỏ ngòm, tiên cô xem rõ biết là Thái Sư Văn Trọng, vội xuống ngựa chào mừng.

Văn Thái Sư đáp lễ và nói:

– Kính mừng Kim Quang Thánh mẫu. Tôi đợi Thánh mẫu ở đây đã lâu.

Kim Quang Thánh mẫu nói:

– Chín vị đạo huynh ở đây đi đâu hết?

Văn Thái Sư đáp:

– Chín vị ấy đã đi trước sang Tây Kỳ, đặn tôi ở nán lại đây chờ Thánh mẫu.

Kim Quang Thánh mẫu nói:

– Thế thì chúng ta cũng đi cho kịp.

Nói rồi kẻ cỡi ngựa, người cỡi kỳ lân thẳng đến Tây Kỳ lập tức.

Chẳng bao lâu Văn Trọng và Kim Quang Thánh mẫu cũng theo kịp quý vị đạo sư về trước trại.

Kiết Lộc và các tướng hay tin đồng ra khỏi dinh nghênh tiếp.

Tân Hoàn hỏi Văn Trọng:

– Thành Tây Kỳ cách đây bao xa?

Văn Trọng nói:

– Bởi hôm trước tôi bại binh nên phải chạy đến chốn này đồn trú. Nơi ấy là núi Tây Kỳ, cách đây bảy mươi dặm.

Các đạo sĩ đều nói:

– Vậy thì chúng ta đồng kéo binh đến bên thành để áp đảo địch quân.

Văn Thái Sư theo lời, truyền Ðặng Trung đi tiền đạo. Phát pháo tấn binh đến trước thành Tây Kỳ hạ trại.

Bấy giờ Tử Nha đang vui đắc thắng, cùng các tướng chuyện trò bỗng nghe quân tướng ó vang trời, Tử Nha nói:

– Chắc là Văn Thái Sư viện được binh các ải, kéo đến báo thù.

Dương Tiển thưa:

– Văn Thái Sư bại trận đã nửa tháng nay, bây giờ lại hăm hở kéo tới, tôi nghe Văn Thái Sư là người Triệt Giáo, thế nào cũng thỉnh Tà đạo bàng môn đến trợ giúp. Xin Thừa Tướng đề phòng.

Tử Nha nghe nói cũng nghi ngờ, đồng kéo lên mặt thành xem thử. Quả nhiên thấy dinh trại Thái Sư khác xưa nhiều lắm, hào quang sáng rực, gió dữ rạt rào, khí bốc trùng trùng, mây giăng mịt mịt lại có khói đen mười ngọn, lên thấu nửa lừng.

Tử Nha xem thấy kinh hãi, các tướng đều cau mặt làm thinh.

Ai nấy lặng lẽ xuống dinh, không nói với nhau một lời nào nữa.

Lúc này Văn Thái Sư ngồi nơi đại trại, cùng với mười vị đạo sĩ bàn kế phá Tây Kỳ.

Viên Giác nói:

– Tôi nghe Tử Nha là học trò ông Nguyên Thỉ, ở núi Côn Lôn. Nhưng dù tu đạo nào cũng gồm vào một lý. Trước đây hội quần tiên, Thân Công Báo có nói cung Ngọc Hư ỷ mình Xiển Giáo, chê Triệt Giáo chúng ta là Tà đạo, có ý tìm cách áp chế để sai khiến, lấy quyền phép của mình làm xáo trộn thế gian, rồi bảo đó là lý số trời đất. Xét ra lời nói đó chỉ là một ngụy biện để giành ảnh hưởng cho giáo hội mình, mà Triệt Giáo chúng ta không thể nào cúi đầu tuân theo mệnh lệnh của họ được. Ðã là kẻ tu hành sao lại có chân tu và tà tu. Sao lại có đạo cao đạo thấp? Sao lại có đạo này muốn sai khiến đạo khác? Nay chúng ta đã sẵn có mười trận này thì cứ cùng nhau đấu phép, xem cái chính đạo của Xiển Giáo lợi hại đến bực nào cho biết.

Văn Thái Sư khen phải, liền khiến Ðặng Trung giàn binh bố trận theo kế hoạch đã định.

Rạng ngày, Văn Thái Sư cỡi Ngọc kỳ lân, đến trước cửa thành, mời Tử Nha ra nói chuyện.

Quân vào báo, Tử Nha dẫn tướng kéo binh hai ngàn, cờ chia năm sắc, ra khỏi cửa thành, thấy Văn Trọng cầm roi vàng đứng trước, chín vị đạo sĩ theo sau, trong đó có một vị đạo cô mặt đẹp như hoa, mắt sáng ngời ngồi trên lưng ngựa. Còn tám vị đạo sĩ kia kẻ mặt xanh, mặt đỏ, người mặt vàng, tướng mạo phi thường, đều ngồi trên lưng quái thú.

Tân Hoàn giục hươu tới, dùng lễ xá Tử Nha một cái và hỏi:

– Chúng tôi xin chào đạo huynh.

Tử Nha cũng trả lễ và hỏi:

– Chẳng hay các vị đạo huynh ở núi nào, động nào mới đến?

Tân Hoàn nói:

– Tôi là Tân Hoàn và tám anh em chúng tôi đồng ở Kim Ngao đảo, và ông là người Côn Lôn, đệ tử cung Ngọc Hư, thuộc về Xiển Giáo, lấy đạo đức mà răn lòng, lấy chính lý mà tu nguyện, tại sao các ông lại khinh Triệt Giáo của chúng tôi là tà đạo, muốn dùng quyền lực mà sai khiến chúng tôi, tưởng như vậy có thể gọi là chánh đạo được không?

Khương Tử Nha nói:

– Chúng tôi đã làm gì mà các ông gọi là khi dễ?

Tân Hoàn nói:

– Không cần chối cãi. Thân Công Báo đi khắp năm non bốn bể, kể rõ tư tưởng của Xiển Giáo khinh dễ Triệt Giáo của chúng tôi, giáo hội chúng tôi ai nấy đều ngậm hờn, uất hận. Vừa rồi đạo huynh lại giết bốn dòng họ Ma ở Giai Mộng, và bốn vị đạo sĩ của phái chúng tôi ở Cửu Long đảo, có phải là các ông đã khiêu khích chúng tôi hay không? Giáo phái các ông cho mình là chính đạo, thế mà cho người gây việc đao binh, hại mạng sinh linh, gây nhiều ác sát. Chúng tôi bị các ông chê là tà đạo, nhưng không bao giờ chủ trương gây khổ ải cho nhân loại như vậy. Nếu các ông có tài thì cứ cũng chúng tôi tranh phép thuật, không cần dụng đến đao binh. Hãy để riêng những người trần thế ra, họ không tội gì mà bắt họ phải chết vì chúng ta vô ích.

Khương Tử Nha nói:

– Ðạo huynh phép mầu, đức trọng, học rộng, trí dày, lẽ nào không thông hiểu huyền cơ vũ trụ. Nay Trụ vương lỗi đạo bỏ việc kỷ cang, khí số Thành Thang mờ mịt, còn Võ vương là vua Thánh Tây Kỳ phước đức chói ngời, lẽ nào lập không hướng phần vinh hiển. Chúng tôi thuận theo lòng trời, thuận theo lòng người, phò Châu diệt Trụ đó là chính lý. Còn Ma gia tứ tướng và bốn vị đạo sĩ Cửu Long đảo đi nghịch với lý số trời đất, nên phải diệt vong.

Tân Hoàn nói:

– Cái mà các ông gọi là lý số trời đất chẳng qua là một tấm chiêu bài để các ông dùng nó sai khiến kẻ khác, làm xáo trộn nhân gian. Chúng tôi thừa nhận vua Châu nhân đạo, vua Trụ bạo tàn. Nhân đạo bao giờ cũng thắng bạo tàn. Nhưng trừng trị kẻ bạo tàn không phải dùng chiêu bài của mình làm cho nhân gian chịu tai biến. Các ông lấy đạo đức răn mình, mà trị một ông vua bạo tàn, các ông gây thành binh biến, chém giết sinh linh không biết bao nhiêu mà kể. Sinh linh nào có tội gì? Họ đã khổ vì một ông vua mà còn khổ vì hành động gây rối của các ông nữa. Chủ trương như vậy, các ông dám tự cho mình là chân chính sao?

Tử Nha nói:

– Máy tạo nhiệm mầu, làm sao nói cho hết được. Thuận theo khí số của trời đất, chẳng những một ông vua tàn bạo bị tiêu trừ, mà tất cả những ai chống lại chính lý đều phải bị tiêu trừ như vậy cả. Mọi trầm luân khổ ải, mọi sinh diệt trong trời đất đều phát sinh ở chính lý mà ra. Tôi vâng lệnh cung Ngọc Hư không thể làm khác hơn được.

Tân Hoàn nói:

– Thôi, dầu các ông có cho chúng tôi là tà đạo nghịch thiên nghịch địa gì cũng được, chúng tôi không cãi làm gì, và chúng tôi cũng không muốn cuộc đua tài giữa chúng tôi với các ông tổn thương đến sinh mạng của muôn dân. Chúng tôi có mười trận pháp, sẽ lập cho các ông xem, nếu các ông liệu phá được thì phá, không phá nổi thì nói cho chúng tôi biết, đừng bắt người trần tục phải liều mình thác oan.

Tử Nha nói:

– Quý vị đã nói như vậy, chúng tôi đâu dám cãi.

Mười vị đạo sĩ nghe Tử Nha thuận tình phá trận đồng lui về bố trí một hồi xong xuôi.

Tân Hoàn lại giục hươu đến trước cửa thành gọi Tử Nha nói:

– Bần đạo lập trận rồi, đạo hữu hãy đến xem thử.

Tử Nha liền dắt Na Tra, Hoàng Thiên Hóa, Lôi Chấn Tử, Dương Tiển đồng đến xem trận.

Bấy giờ Thái Sư Văn Trọng đứng ngoài cửa trận để xem thái độ của Tử Nha.

Dương Tiển gọi Tân Hoàn nói:

– Chúng tôi vào xem trận, các ông chớ nên dùng phép báu mà hại chúng tôi. Như vậy mới đúng trượng phu.

Tân Hoàn nói:

– Mặc dầu các ông cho chúng tôi là Bàng môn tả đạo, chúng tôi vẫn không bao giờ có hành động tiểu nhân như vậy đâu. Ðừng quá khinh người, và cũng đừng sợ hãi một cách vô ích như vậy

Na Tra thấy Tân Hoàn khéo miệng như vậy tức giận xen vào:

– Lời nói chẳng ai tin, hành động sẽ chứng tỏ ai là quân tử.

Bốn tướng phò Tử Nha vào xem đủ mười trận, thấy mỗi trận đều treo một tấm bản để ba chữ:

1. Thiên Tuyệt trận.

2. Ðịa Liệt trận.

3. Phong Hầu trận.

4. Hàn Băng trận.

5. Kim Quang trận.

6. Hỏa Huyết trận.

7. Li Diệm trận.

8. Lạc Hồn trận.

9. Hồng Thủy trận.

10. Hồng Sa trận.

Tử Nha và bốn tướng cạnh xem khắp nơi, rồi kéo nhau ra ngoài.

Tân Hoàn hỏi:

– Tử Nha biết mười trận ấy không?

Tử Nha nói:

– Mười trận quí vị vừa lặp tôi đã rõ hết.

Tân Hoàn hỏi:

– Tuy đã biết rõ mà liệu dám phá trận không?

Tử Nha nói:

– Chúng tôi cũng học phép tiên, lẽ nào không phá được?

Viên Giác đứng sau xen vào hỏi:

– Chừng nào đạo huynh mới phá trận?

Tử Nha nói:

– Mười trận ấy chỉ mới là hình thức, chưa được hoàn thành. Ðợi chừng nào quí vị lập xong, tôi sẽ đến phá. Bây giờ xin giã biệt.

Dứt lời, Tử Nha dẫn bốn tướng vào thành, còn mười vị đạo sĩ cũng dẫn nhau vào dinh.

Tử Nha vào thành ngồi ôm đầu buồn bã, Dương Tiển thấy vậy bước đến hỏi:

– Khi nãy sư thúc xem các trận ấy thế nào?

Tử Nha nói:

– Mười trận ấy do Triệt Giáo chế ra phép màu báu lạ, ta chưa từng thấy bao giờ.

Dương Tiển nói:

– Sao sư thúc nói với chúng nó là sư thúc đã rõ hết, và hẹn ngày phá trận.

Tử Nha nói:

– Tuy không biết, song ta không thể để mất thể diện Xiển Giáo chúng ta trước mặt mọi người.

Dương Tiển ngồi làm thinh.

Tử Nha ngồi chau mày rầu rĩ.

Hồi 44: Khương Tử Nha bị trù, hồn bay về trời

Văn Thái Sư cùng mười vị Ðạo sĩ trở về đến dinh ăn uống vui vầy.

Văn Trọng hỏi Tân Hoàn:

– Mười trận phép quý huynh vừa lập có thể cầm chắc chiến thắng Tây Kỳ không?

Tân Hoàn nói:

– Riêng về trận Thiên Tuyệt thì thầy tôi truyền phép Thiên Tiên gây máy tạo hóa. Trong trận có ba cây phướng: Thiên, Ðịa, Nhân gọi là tam tài. Nếu ai vào trận ấy nghe một tràng sấm tức thì mình mẩy ra tro, dù cho thần tiên cũng phải nát thành bột.

Có bài thơ khen trận Thiên Tuyệt rằng:

Thâu hết tam tài đã đắn đo

Ít ai bàn được thấu căn do.

Thần tiên vào phá Thiên Tuyệt trận

Xương thịt tan tanh hóa bụi tro.

Văn Thái Sư nghe nói, liền hỏi:

– Còn trận Ðịa Liệt ra thế nào?

Triệu Giang nói:

– Trận này thuộc thổ, biến hóa vô cùng. Bên ngoài thấy bình thản nhưng bên trong rất hoạt động. Có một cây phướng đỏ, hễ rung rinh phướng ấy thì lửa dậy sấm vang. Dẫu thần tiên hay phàm tục mà vào trận ấy đều không sống được, dẫu có phép độn ngũ hành cũng không trốn khỏi.

Có thơ khen trận Ðịa Liệt rằng:

Trận tên Ðịa Liệt há tầm thường

Lửa dưới sấm trên không có đường

Biết độn ngũ hành không trốn khỏi

Bước vào nát thịt lại tan xương.

Văn Thái Sư hỏi tiếp:

– Trận Phong Hầu ra làm sao?

Ðồng Toàn nói:

– Trận Phong Hầu có: địa, thủy, hỏa, phong. Nhất là gió và lửa. Gió thì sanh ra muôn vạn binh đao, không phải như gió thường, còn lửa là lửa Tam Muội, dầu cho thần tiên vào trận này cũng ra tro, dầu có tài di sơn đảo hải cũng không thoát được.

Có bài thơ rằng:

Phong Hầu trận tiên gớm bực nào

Lửa thần rần rật gió đùa cao.

Thần tiên phàm tục sa vào đấy,

Thịt nát xương tan sống được sao?

Văn Thái Sư hỏi:

– Còn trận Hàn Băng phép tắc thế nào?

Viên Giác nói:

– Trận Hàn Băng luyện dày công mới đặng. Trong trận có gió, bên trong có núi giá, bên dưới có băng tuyết lởm chởm như gươm. Dẫu thần tiên vào trận cũng phải bỏ mình.

Có bài thơ rằng:

Dày công luyện đặng trận Hàn Băng

Từng dưới từng trên tuyết tợ răng

Dẫu bậc thần tiên vào chốn ấy

Giá đè nát thịt chết nhăn răng.

Văn Thái Sư hỏi trận Kim Quang biến hóa ra làm sao?

Kim Quang Thánh mẫu nói:

– Trận Kim Quang của tôi chứa hơi linh của âm dương, cướp ánh sáng của nhật nguyệt. Trong trận có hai mươi mốt tấm kiếng, treo hai mươi mốt tấm cờ. Mỗi một kiếng đều có che vỏ ngoài, trong vỏ có cột dây để kéo. Dẫu thần tiên mà vào trận thì cứ cầm dây kéo vỏ cho bày mặt kiếng ra, tức thì sấm vang chớp sáng, sức nóng trong kiếng chiếu nhắm phải thịt rữa, xương tan.

Có bài thơ rằng:

Chẳng dụng thủy ngân, chẳng dụng đồng

Luyện nên kiếng báu thật thần thông

Kim Quang chiếu sáng coi như chớp

Vào trận dầu tiên cũng chết chùm.

Văn Thái Sư hỏi:

– Trận Hóa Huyết màu nhiệm thế nào?

Tống Lương nói:

– Trận này dụng khí thiên nhiên, trong có sông gió và miếng hắc sa. Dẫu thần tiên vào trận bị sấm vang gió thổi, hắc sa bay tới cũng hóa thành máu tức thì.

Có bài thơ rằng:

Gió vànq vụt vụt cát đen bay

Trời đất tối tăm sấm nổ ngay

Dẫu bậc thần tiên vào trận ấy

Mình tiêu ra máu lạnh lùng thay.

Văn Thái Sư lại hỏi:

– Trận Liệt Diệm lợi hại dường nào?

Bạch Lễ nói:

– Trận ấy không phải tầm thường, có tam mụi hỏa, không trung hỏa, thạch trung hỏa, ba thử lửa ấy nhập thành một, tụ vào ba cây phướng đỏ. Hễ có ai vào trận, thì rung các cây phướng ấy lên dẫu là bực thần tiên biết đọc tị hỏa chân ngôn cũng phải cháy ra tro bụi.

Có bài thơ rằng:

Toại nhân mới có lửa khinh công

Lò phép thâu vào luyện nhọc công

Làm chủ cung Ly truyền rất trong

Phướng rung người cháy lửa thành công.

Văn Thái Sư hỏi:

– Trận Lạc Hồn ra làm sao?

Giao Tân nói:

– Trận này không phải nhỏ, bế cửa sanh mở cửa tử, thâu hơi độc của trời đất mà lập ra. Trong trận có cây phướng trắng vẽ bùa và đóng ấn. Hễ thần tiên vào trận, bị cây Phướng ấy rung lên thì tiêu hồn lạc phách.

Có bài thơ rằng:

Lạc hồn trận ấy cũng nên khen

Phướng trắng rung lên dậy khói đen

Mấy vị thần tiên vào trận ấy

Hồn tiêu phách lạc rả như sen.

Văn Thái Sư hỏi:

– Trận Hồng Thủy lợi hại thế nào?

Vương Diệt nói:

– Trong trận ấy có đài bát quái, trên đài để ba cái bầu, trong bầu có những nước đỏ. Như người vào trận thì liệng bầu nước xuống, chảy ra lai láng mênh mông. Một chút nước đỏ dính vào người cũng đủ làm cho người ấy tan thành huyết. Dẫu thần tiên cũng chẳng thoát được.

Có bài thơ rằng:

Trong lò tạo hóa máy âm dương

Luyện nước màu hồng thuộc Bắc phương

Dầu kẻ da đồng hay sắt đá

Tuông nhằm nát thịt lại tan xương.

Văn Thái Sư hỏi:

– Còn trận Hồng Sa có gì lạ chăng?

Trương Thiệu nói:

– Trận Hồng Sa gồm có phép báu tinh rồng. Có ba thùng cát đỏ, vãi vào mình như gươm giáo đâm. Trên không thấy trời, dưới không thấy đất, giữa không thấy người. Thần tiên mà lạc vào trận bị gió cát vãi vào mình thì thịt nát xương tan.

Có bài thơ rằng:

Dày công bày bố trận hồng sa

Tiên phật đi vào khó nổi ra

Khi trước luyện trong lò bát quái

Phép màu Triệt giáo chẳng sai ngoa.

Văn Thái Sư nghe rõ đầu đuôi mừng rỡ nói:

– Nay nhờ quý vị đến đây giúp sức, chắc không bao lâu thành Tây Kỳ sẽ bị phá. Dầu cho Tây Kỳ trăm binh ngàn tướng cũng không thể chống lại phép mầu.

Giao Tân nói:

– Tôi nhắm thành Tây Kỳ ví như viên đạn, còn Khương Tử Nha là kẻ rủi ro. Tài phép bao nhiêu mà nó dám phá hết mười trận. Ðể tôi dùng phép mọn, giết riêng Tử Nha, cho binh tướng trong thành vỡ mật. Lời xưa nói: Binh mất tướng như rắn không đầu.

Văn Thái Sư hỏi:

– Nếu đạo huynh có phép thần thông, giết được Tử Nha thì khỏi mất công chinh chiến. Quân sĩ hai bên tránh được nạn thác oan. Chẳng hay đạo tluynh định dùng phép gì vậy?

Giao Tân nói:

– Phép của tôi không cần điều binh khiển tướng, tranh giành trận mạt làm chi. Cứ ngồi trong dinh, nội trong hai mươi mốt ngày, thì Tử Nha phải chết. Dầu tiên phật cũng không tránh khỏi.

Văn Thái Sư lấy làm lạ hỏi:

– Xin cắt nghĩa cho tôi biềt phép ấy thế nào.

Giao Tân kề tai nói nhỏ với Văn Trọng một hồi, Văn Thái Sư mừng quá nói với các vị đạo sĩ:

– Nay Giao đạo huynh ra tay làm phép giết Tử Nha, hễ Tử Nha mà chết rồi thì các tướng Tây Kỳ phải tan rã. Thật Thiên tử có phước lắm mới được anh em đến giúp tôi.

Các đạo sĩ nói:

– Việc giết Tử Nha chỉ là phép mọn của Giao hiền đệ có phải kể công.

Bấy giờ Giao Tân từ giã bạn hữu, một mình vào trận Lạc Hầu, truyền lập một cái đài đất, trên đài để một bàn hương án, một bên dựng con bù nhìn bằng cỏ, trước bụng đề tên Khương Thượng

Trên đầu con bù nhìn có treo ba ngọn đèn, dưới chân thắp bảy ngọn. Ba ngọn trên gọi là Thôi Hồn đăng, bảy ngọn dưới là Tróc Phách đăng.

Giao Tân bỏ tóc xõa, cầm gươm niệm chú, đốt bùa. Cứ mỗi ngày làm phép ba lần như vậy, cho đến lúc Tử Nha chết đi mới thôi. Ðó là phép trù của Giao Tân.

Bấy giờ Tử Nha ngồi trong thành Tây Kỳ, đang lo tính việc phá trận, bị Giao Tân trù đến ngày thứ bốn thì đầu óc lỉnh lảng, ngồi làm thinh chẳng nói rằng.

Dương Tiển thấy Tử Nha mặt mày buồn bực, diện mạo khác hơn xưa, thì sanh nghi nghĩ thầm:

– Thừa Tướng ở cung Ngọc Hư xuất thân, nay ra phò Châu diệt Trụ, thuận lòng trời, ứng theo vận nước, lẽ nào lại có sắc thái tầm thường, coi bộ kinh hãi như vậy.

Các tướng thấy Tử Nha lầm lầm lì lì, cũng buồn bã không dám hỏi han.

Qua đến ngày thứ tám, Giao Tân thâu được hai vía một hồn, Tử Nha càng rối trí hơn nữa, cứ bần thần ngủ mãi, không ngó tới việc binh. Các tướng lấy làm lạ, không hiểu vì sao Thừa Tướng lại ra thế ấy. Có kẻ nghi rằng:

– Thừa Tướng không mưu kế phá trận nên rối trí.

Có người lại bàn:

– Chắc là Thừa Tướng dưỡng tinh thần để mưu việc lớn.

Ðến ngày thứ mười lăm, Giao Tân bắt thêm một hồn hai vía nữa.

Tử Nha nằm ngáy như sấm ngủ như mê.

Na Tra bàn với các tướng:

– Nay giặc tới bên thành, lập trận ngoài ải, mà sư thúc không lo gì hết, cứ nằm ngủ hoài, chắc có nguyên nhân gì đây.

Dương Tiển nói:

– Theo ý tôi tưởng, chắc Thừa Tướng bị ai trù, nên ngủ mê man, không lo việc nước. Cứ xem cách ăn lối ở khác hẳn trước kia thì đủ biết.

Các tướng đồng nói:

– Ðạo huynh nghi như vậy phải lắm! Bấy giờ chúng ta đồng vào phòng mời Thừa Tướng ra khách, hỏi xem Thừa Tướng định phá trận làm sao, sẳn dịp dò ý luôn thể.

Các tướng bàn luận xong, kéo vào phòng, thấy mấy người hầu còn, liền hỏi:

– Thừa Tướng đâu?

Kẻ tả hữu thưa:

– Thừa Tướng đang ngon giấc.

Các tướng đều mời Thừa Tướng ra khách. Tả hữu vâng lời và mời Tử Nha dậy.

Tử Nha bước ra ngoài phòng. Võ Kiết thưa:

– Thầy ngày nào cũng ngủ, không lo việc quốc gia nên các tướng lo sợ. Xin thầy nghĩ lại, để cỏi Tây Kỳ được yên.

Tử Nha vẫn ngồi làm thinh không nói. Các tướng hỏi về việc phá trận. Tử Nha vẫn như câm như điếc chẳng thèm trả lời. Xảy có một trận gió thổi đến.

Na Tra hỏi Tử Nha:

– Trận gió ấy lớn lắm không hay sư thúc luận hung kiết ra sao!

Tử Nha đánh tay rồi nói:

– Bữa nay có giông chớ không phải điềm họa phước.

Các tướng không dám hỏi nữa. Ấy là Tử Nha bị Giao Tân câu hồn bắt vía gần hết, nên coi lãng quẻ.

Các tướng không biết làm sao, ngồi nhìn nhau một lúc lâu rồi lui về hết.

Ðến ngày thứ hai mươi, Giao Tân thâu được hai hồn sáu vía.

Tử Nha chỉ còn lại một hồn một vía mà thôi, cho nên ngày ấy hồn vía Tử Nha xuất khỏi xác.

Các tướng xem thấy Tử Nha đã chết, liền vào tâu với Võ vương.

Võ vương đến bên trướng phủ, thấy các tướng đứng bao quanh xác Tử Nha, sụt sùi khóc lóc, thì động lòng than:

– Thượng phụ lo việc nước, chưa được thảnh thơi, nay đã qua đời, ta đau lòng lắm.

Các tướng nghe Võ vương nói đồng khóc lớn lên.

Dương Tiển lau nước mắt, rờ vào ngực Tử Nha thấy còn hơi ấm, mừng rỡ tâu:

– Xin đại vương chớ phiền, trái tim Thừa Tướng còn nóng, nhắm chưa hề chi. Xin cứ để nằm yên trên giường, họa may Thừa Tướng còn có cơ may sống lại.

Võ Vương y lời không tẩm liệm, để Tử Nha nằm nguyên trên giường và van vái.

Nói về hồn vía Tử Nha bay phiêu diêu gần tới đài Phong thần.

Thanh Phước thần là Bá Dẫm xem thầy liền đưa ra khỏi đài. Tử Nha là người có cội rễ tiên nhân, nên hồn phách còn nhớ nuối, bay phất phới về núi Côn Lôn.

Khi ấy Nam Cực tiên ông đi hái thuốc nơi ven đồi, thấy hồn phách Tử Nha dật dờ bay đến, kinh hãi la lên:

– Tử Nha mgươi chết rồi sao?

Liền bắt hồn phách Tử Nha bỏ vào bầu đậy lại, để đem về thưa với thầy là Nguyên Thỉ.

Bỗng nghe có người kêu:

– Nam Cực tiên ông! Khoan đi đã.

Nam Cực tiên ông dừng tại thì thấy Xích Tinh Tử, vị tiên tu ở núi Thái Hòa, động Vân Tiêu.

Nam Cực tiên ông thi lễ và hỏi:

– Ðạo hữu đi đâu vậy?

Xích Tinh Tử nói:

– Nay rảnh việc nên đến mời đạo huynh đi dạo núi và đánh cờ chơi một bữa.

Nam Cực tiên ông đáp:

– Hôm nay tôi mắc việc, xin hẹn bữa khác sẽ gặp nhau.

Xích Tinh Tử nói:

– Lúc này thày nghỉ dạy, chúng ta được rảnh rang, nếu để khi khác còn dịp nào tốt hơn nữa?

Nam Cực tiên ông nói:

– Tôi có chuyện gấp, nên không thể nào làm vừa lòng đạo huynh được.

Xích Tinh Tử nói:

– Công việc gấp của đạo huynh có lẽ là việc hồn phách của Tử Nha chưa nhập xác chớ gì?

Nam Cực tiên ông hỏi:

– Vì sao đạo huynh biết rõ như vậy?

Xích Tinh Tử đáp:

– Nãy giờ tôi trêu tức đạo huynh đó thôi. Sở dĩ tôi đến đây cũng vì việc ấy. Vừa rồi tôi có đi dạo núi, đến đài phong thần gặp Bá Dẫm thuật chuyện hồn phách của Tử Nha vừa bay đến, muốn dựa vào đài, Bá Dẫm lật đật đưa ra khỏi, nên hồn phưởng phất bay về núi Côn Lôn. Tôi theo dõi đến đây, nhưng không gặp.

Nam Cực tiên ông nói:

– Tôi đang hái thuốc dưới chân núi, thấy hồn vía Tử Nha dật dờ, tôi bắt đựng trong bầu, có ý đem về cho tôn sư rõ, không ngờ lại gặp anh.

Xích Tinh Tử nói:

– Chuyện nhỏ mọn chúng ta cần gì phải làm nhọc lòng giáo chủ. Ðạo huynh cứ trao bầu ấy cho tôi để tôi đi cứu Tử Nha.

Nam Cực trao bầu cho Xích Tinh Tử.

Xích Tinh Tử vội vã độn thổ đi liền.

Chẳng bao lâu, Xích Tinh Tử vào thành Tây Kỳ.

Dương Tiển ra nghinh tiếp và thưa:

– Nay sư bá đến đây chắc là đi cứu sư thúc?

Xích Tinh Tử nói:

– Phải! Ngươi mau vào tâu lại với Võ vương.

Dương Tiển vào tâu mọi việc.

Võ vương ra nghinh tiếp, đãi Xích Tinh Tử theo bậc thầy.

Xích Tinh Tử nói:

– Tôi vì việc Tử Nha mà đến đây, xin cho tôi gặp mặt Tử Nha.

Võ Vương và các tướng dẫn Xích Tinh Tử vào phòng.

Xích Tinh Tử thấy Tử Nha nằm nhắm mắt, liền nói:

– Ðể tôi cho một hoàn thuốc thì hồn hoàn lại ngay.

Nói rồi trở ra phòng ngoài.

Võ vương hỏi:

– Ðạo trưởng dùng thuốc gì mà cứu Thượng phụ?

Xích Tinh Tử nói:

– Tôi không dùng thuốc gì cả, chỉ dùng một phép riêng mà thôi.

– Như vậy chừng nào sư bá mới cứu?

Xích Tinh Tử nói:

– Có lẽ phải đến canh ba thì Tử Nha mới sống lại được.

Các tướng nghe nói đều mừng rỡ.

Ðến canh ba Dương Tiển theo Xích Tinh Tử nhắc nhở việc giải cứu cho Tử Nha.

Xích Tinh Tử liền xốc áo ra ngoài thành, thấy mười trận phép hơi dữ mịt mù mây đen tối nghịt, sương bay phấp phới, gió thổi rào rào, tiếng quỷ khóc vang tai giọng thần rên rởn óc.

Xích Tinh Tử liền chỉ một cái, hiện ra hai bông sen trắng, hai chân Xích Tinh Tử đứng trên bông sen bay đi như gió.

Có bài thơ rằng:

Dưới chân đạo sĩ trổ liên hoa

Trên trán hào quang chiếu sáng lòa

Ðến trận lạc hồn không dộng dạng.

Mới hay phép thuật của tiên gia.

Xích Tinh Tử đứng trên không trung thấy Giao Tân đang xõa tóc cầm gươm làm phép, lại thầy ngọn đèn trên đầu hình nhơn tờ mờ, ngọn đèn dưới chân hình nhơn leo lét.

Bấy giờ Giao Tân cầm lịnh bài đập xuống một cái, nhưng hai ngọn đèn chưa tắt ngọn nào, còn hồn phách của Tử Nha ở trong bầu tung lên một cái rất mạnh, may nút bầu đậy chặt, nên hồn phách của Tử Nha không thoát ra được.

Giao Tân làm như vậy mấy lần mà đèn cùng không tắt. Hễ đèn chưa tắt thì hồn chưa dứt.

Giao Tân nổi xung, cầm lịnh bài đập xuống ghế hét lớn:

– Hai hồn sáu vía đã về hết, còn một hồn một vía đi đâu?

Xích Tinh Tử đứng trên cao thừa lúc Giao Tân vừa cúi xưống lạy, đáp nhanh xuống giựt lấy hình nộm.

Giao Tân ngước mắt lên, trông thấy nói lớn:

– Xích Tinh Tử! Ngươi lén vào trận ta lấy vía Khương Thượng sao.

Nói rồi vãi một lá hắc sa.

Xích Tinh Tử thất kinh bỏ chạy làm rớt hai bông sen trong trận Mê Hồn, nên phải độn thổ vào thành Tây Kỳ.

Dương Tiển ra ngoài thành nghênh tiếp, thấy Xích Tinh Tử mặt mày hơ hải, lấy làm lạ hỏi:

– Chẳng hay sư bá đã đem được vía của sư thúc về chưa?

Xích Tinh Tử lắc đầu than:

– Bọn ấy dữ quá! Thiếu chút nữa ta sa vào trận Lạc Hồn tiêu xác rồi. May ta mau chân chạy khỏi, nhưng làm rơi cặp bông sen xuống trận.

Võ Vương nghe nói khóc lớn:

– Ðạo trưởng nói như vậy chắc là Thượng phụ phải chết rồi.

Xích Tinh Tử nói:

– Xin đại vương chớ ưu phiền. Tôi nhắm không hề chi mà ngại, chẳng qua số kiếp Tử Nha còn mắc nạn, nên khiến công việc trễ nãi mà thôi. Bây giờ tôi phải ra đi một lát mới được.

Võ vương hỏi:

– Bây giờ đạo trưởng đi đâu?

Xích Tinh Tử nói:

– Xin chớ hỏi thăm mà lộ chuyện. Cứ ở đây giữ xác Tử Nha. Tôi đi một lúc sẽ trở lại

Dặn dò xong, Xích Tinh Tử liền độn thổ qua núi Côn Lôn.

Khi đến cung Ngọc Hư, Nam Cực tiên ông xem thấy vội hỏi:

– Anh lấy vía Tử Nha được chưa?

Xích Tinh Tử thuật lại mọi chuyện và nói:

– Xin đạo huynh thưa lại cho Giáo chủ rõ, tìm cách cứu Tử Nha.

Nam cực Tiên ông vào ra mắt Nguyên Thỉ, thưa hết mọi điều.

Nguyên Thỉ nói:

– Ta tuy làm giáo chủ, nhưng về chuyện trù yếm ta không rõ được. Vậy ngươi bảo Xích Tinh Tử qua Bát Cảnh cung mà hỏi thăm Ðại lão gia về việc ấy.

Nam Cực tiên ông vâng lệnh trở ra nói với Xích Tinh Tử rằng:

– Tôn sư dạy anh phải đến cung Bắt Cảnh, cầu cứu với Ðại lão gia mới được.

Xích Tinh Tử từ giả Nam Cực tiên ông, đằng vân qua động Huyền Ðô Bát Cảnh cung là chỗ Lão Tử ở. Ðến nơi thấy phong cảnh tốt tươi, đẹp hơn các núi, Xích Tinh Tử đứng ngoài cửa động chẳng dám bước vào. Ðợi một buổi mới thấy Huyền Ðô đại pháp sư bước ra cửa, chào Xích Tinh Tử và hỏi:

– Ðạo hữu đến đây có việc gì quan hệ?

Xích Tinh Tử thưa;

– Nếu không có việc trọng đại tôi chẳng dám đến đây.

Nói rồi thuật chuyện Tử Nha bị mắc nạn, và nói:

– Nay tôi vâng lệnh giáo chủ, đến ra mắt đại lão gia, xin đạo huynh thưa giúp.

Huyền Ðô đại pháp sư nghe rõ, liền vào thưa lại với Lão Tử:

– Có Xích Tinh Tử xin ra mắt.

Lão Tử truyền đòi vào.

Xích Tinh Tử vào lạy ra mắt xong, Lão Tử nói:

– Số các ngươi bị nạn, trận Lạc Hồn Khương Thượng mang tai. Còn bửu bối của ta cũng vì trận ấy mà mang họa. Số trời đã định, các ngươi phải giữ gìn.

Nói rồi truyền Huyền Ðô đại pháp sư lấy Thái Cực Ðồ đưa cho Xích Tinh Tử và dạy:

– Ðem bức họa đồ này đến cứu Khương Thượng.

Xích Tinh Tử lãnh Thái Cực Ðồ tạ từ lui gót, ra khỏi cảnh Ðại La, độn thổ về thành Tây Kỳ.

Võ Vương và các tướng thấy Xích Tinh Tử trở lại, đồng ra nghinh tiếp vào thành.

Võ vương hỏi:

– Ðạo trưởng đi đâu về vậy?

Xích Tinh Tử nói:

– Hôm nay thế nào cũng cứu được Tử Nha.

Ai nấy nghe nói đều mừng rỡ.

Dương Tiển nói:

– Bao giờ mới cứu được?

Xích Tinh Tử đáp:

– Phải chờ đến canh ba.

Nửa đêm hôm ấy, các tướng vào ra mắt Xích Tinh Tử thì thấy Xích Tinh Tử đã sửa soạn ra đi, một tay ôm bầu phép, một tay cầm Thái Cực Ðồ.

Khi đằng vân đến giữa trận! Xích Tinh Tử thấy Giao Tân đang thâu hồn, thâu vía, liền giở Thái Cực Ðồ ra.

Nguyên bức họa đồ này là của ông Thái Thượng Lão Quân, dùng để mở đất chia trời, lóng trong gạn đục, thâu gồm môn phép: Ðại Thủy, Hỏa, Phong, nên khi Xích Tinh Tử giở ra thì họa đồ biến thành cái cầu vàng, chiếu hào quang năm sắc.

Xích Tinh Tử tay tả cầm Thái Cực Ðồ sa xuống, tay mặt giựt lấy hình nhơn.

Giao Tân trông thấy nổi giận hét:

– Xích Tinh Tử thiệt lớn mật! Hai lần vào Lạc Hồn trận cướp giựt hình nhơn.

Nói rồi bưng thùng hắc sa, hắt lên một cái.

Xích Tinh Tử vội đưa Thái Cực Ðồ ra che, rồi lật đật đằng vân bay lên để tránh những luồng cát đen, làm cho Thái Cực Ðồ bị rơi xuống đất. Giao Tân đoạt được bửu bối.

Bởi vậy Xích Tinh Tử tuy giựt được hình nhơn mà Thái Cực Ðồ bị mất, lòng kinh hãi liền giở bầu thâu hồn phách trong hình nhơn, rồi chăm chỉ lui về trướng phủ.

Dương Tiển thấy Xích Tinh Tử về, vội ra nghinh tiếp và hỏi:

– Sư bá lấy được vía của sư thúc rồi chứ?

Xích Tinh Tử nói:

– Chuyện Tử Nha tuy xong, song ta làm mất bửu bối của Ðại lão gia, ta e không khỏi họa.

Các tướng nghe nói cứu được Tử Nha đều mừng rỡ.

Xích Tinh Tử xách bầu lại bên giường, truyền rẽ tóc Tử Nha, đặt miệng bầu vào nơi Nê Hoàn cung gõ đít ba cái, tức thì hồn nhập xác.

Giây phút Tử Nha tỉnh lại, mở con mắt nhìn mọi người và nói:

– Tôi ngủ mê quá.

Khi nhìn thấy Võ vương, Xích Tinh Tử và các tướng đồng đứng vây bên giường, Tử Nha lấy làm lạ hỏi:

– Ðại vương đến đây có việc gì chỉ dạy?

Võ vương nói:

– Nếu không có đạo trưởng ra công khó nhọc thì Thượng phụ đâu còn!

Tử Nha lạ lùng nhìn Xích Tinh Tử thuật lại đầu đuôi mọi việc.

Tử Nha vội vã tạ ơn, và nói:

– Nay đạo huynh làm mất họa đồ của đại lão gia, biết liệu làm sao?

Xích Tinh Tử nói:

– Sư đệ hãy lo dưỡng binh, việc này tính sau

Cách vài ngày sau Tử Nha mới thiệt mạnh, vội mời Xích Tinh Tử đến luận bàn.

Tử Nha nói:

– Mười trận phép của các vi tiên Triệt giáo rất lợi hại, chúng ta làm cách nào phá được?

Xích Tinh Tử nói:

– Tôi xem mười trận ấy không phải tầm thường, nếu muốn phá phải nhờ đến sức các cao tiên mới được.

Xích Tinh Tử vừa nói dứt tiếng đã thấy Dương Tiển bước vào thưa:

– Có Huỳnh Long chân nhân ở núi Nhị Tiên động Ma Cô cỡi hạc bay đến.

Tử Nha liền ra rước vào trướng phủ, và hỏi:

– Chẳng hay chân nhân đến đây có điều chi dạy bảo?

Huỳnh Long chân nhân nói:

– Nay tôi tới Tây Kỳ trợ lực với chư tiên phá trận Thập Tuyệt. Chúng ta kẻ nặng người nhẹ đều phạm tội sát sinh, nên không bao lâu các anh em đều đến đây nữa. Chúng tôi cảm thấy ở chung với người phàm bất tiện nên đến đây trước mà thương nghị việc này.

Tử Nha hỏi:

– Chư tiên hạ san bao nhiêu người, và cần phải tiếp đón thế nào, xin cho chúng tôi biết?

Huỳnh Long nói:

– Chắc là trên mười người. Ðạo huynh phải cất một ngôi nhà mát nơi cửa Tây thành, treo đèn kết hoa để chư tiên có chỗ nghỉ ngơi thanh tịnh mà tính việc phá trận. Nếu không tiếp đón như vậy e mang tội bất kính.

Tử Nha nói:

– Chư tiên đã đến đây giúp đỡ chúng tôi mang ơn rất nặng, đâu dám trái lời.

Liền khiến Nam Cung Hoát và Võ Kiết sắp đặt y lời. Lại sai Dương Tiển coi cửa và dặn rằng:

– Mỗi khi có vị tiên trưởng nào đến phải vào báo cho ta hay.

Chẳng bao lâu, Nam Cung Hoát và Võ Kiết cất đài xong vào báo với Tử Nha, đặt tên tòa nhà ấy là Lư Bồng, mời Hoàng Long chơn nhơn, Xích Tinh Tử và dẫn các đệ tử đến đó để chờ nghênh tiếp các vị đạo hữu.

Bởi Võ vương là chúa Thánh ra đời, nên các vị thần tiên lần lần giáng hạ. Chư tiên đến Lư Bồng gồm có thập nhị đại tiên, xin kể sau đây:

1. Quảng Thành Tử động Vân Tiêu, núi Thái Hòa.

2. Huỳnh Long chơn nhơn động Ma Cô, núi Nhị Tiên.

3. Xích Tinh Tử, động Ðào Nguyên, núi Cửu Tiên.

4. Cù Lưu Tôn, động Phi Vân, núi Giáp Long.

5. Thái Ất chơn nhơn, động Kim Quang, núi Càng Nguơn.

6. Linh Bửu đại pháp sư, động Nguyên Dương, núi Không Ðộng.

7. Văn Thù quảng pháp thiên tôn, động Vân Tiêu, núi Ngũ Long.

8. Phổ Hiền chơn nhơn, động Lạc Ðà, núi Phổ Ðà.

9. Từ Hàng đạo nhơn, động Bạch Hạc, núi Cửu Cung.

10. Ngọc Ðảnh chơn nhơn, động Kim Hà, núi Ngọc Tuyền.

11. Ðạo Hạnh thiên tôn, động Ngọc ốc, núi Kim Ðình.

12. Thanh Hư đại đức chơn quân, động Tử Dương, núi Thanh Phong.

Tử Nha nghênh tiếp các vị thần tiên lên tòa Lư Bồng.

Quảng Thành Tử nói:

– Các vị đạo hữu nay đã đến đây chứng tỏ lòng tận tâm với Giáo chủ, vậy ông Tử Nha định ngày nào phá trận để chúng tôi ra sức?

Tử Nha liền đứng dậy bái và thưa:

– Tôi tu luyện mới có bốn mươi năm, tài hèn, đức mỏng, không dám đương nổi trách vụ lớn lao, xin các vị đạo huynh thương tôi cử ra một người để cầm quyền điều khiển. Ðược vậy, tôi mang ơn vô cùng.

Quảng Thành Tử nói:

– Chúng tôi tuy có công học đạo, song chưa chắc đã phá nổi mười trận này. Mỗi người lo giữ lấy thân còn chưa trọn, huống chi việc điều khiển là trọng đại?

Ai nấy đều khiêm nhường, không người nào lảnh quyền điều khiển cả.

Giữa lúc ấy bỗng nghe có tiếng hươu kêu trên trời, hương bay thơm ngát.

Hồi 45: Nhiên Đăng phá trận thập tuyệt

Rạng ngày Nhiên Ðăng dắt mười hai vị đại tiên ra trận, đánh chuông vàng, khánh bạc.

Xảy nghe bên dinh Thương phát một tiếng pháo, Thái Sư Văn Trọng dẫn tướng ra ngoài đặng xem chư tiên phá trận Phong Hầu.

Vị tiên lập trận Phong Hầu là Ðồng Toàn, cỡi Bạch Lộc ra trước ca rằng:

Gặp hội thanh bình chẳng biết lo

Ðất trời hòa thuận vững khuôn lò

Xưa nay hết loạn thời trống thị

Thiên hạ từ đây thấy ấm no.

Ðồng Toàn ca rồi lướt ra khiêu chiến.

Nhiên Ðăng tìm người lót trận chưa được, nên chưa dám sai ai.

Xảy thấy Hoàng Phi Hổ đem Phương Bậc, Phương Tướng ra mắt Tử Nha và thưa:

– Tôi đi giải lương thâu được hai tướng là Phương Bậc và Phương Tướng, đồng làm chúa Trấn điện đại tướng quân của Trụ vương.

Tử Nha mừng rỡ thâu nhận.

Nhiên Ðăng thấy hai tướng, liền than:

– Số trời đã định, dầu muôn vật cũng khó tránh.

Liền sai Phương Bậc xuống phá trận Phong Hầu.

Thương thay Phương Bậc là người trần tục, nghe bảo phá trận tưởng là phá trận thường, có ngờ đâu trận phép lợi hại dường ấy.

Phương Bậc cầm kích cả kêu:

– Yêu đạo! Có ta đến phá trận đây.

Nói rồi đâm một kích.

Ðồng Toàn thấy một tướng cao vòi vọi, cặp mắt lau láu, hàm râu rìa, mặt trùng táo, vung kích đâm mình, vội đưa gươm ra đỡ. Ðánh được vài hiệp, Ðồng Toàn bỏ chạy vào trận, Tử Nha truyền giục trống, Phương Bậc nghe tiếng trống vội vã đuổi theo. Ðồng Toàn liền lên đài rung cây phướng đen, gươm đao trong gió bay ra, chặt khúc Phương Bậc đứt thành muôn đoạn.

Ðồng Toàn truyền quân kéo Phương Bậc ra ngoài trận, lớn tiếng kêu các vì tiên Xiển giáo mắng lớn.

– Quí vị đạo hữu cung Ngọc Hư có thi phép thì vào trận thi, tại sao lại sai một kẻ phàm tục vào trận cho uổng mạng. Tôi tưởng hành động như vậy thật không phải là kẻ đại nhân đại độ, không phải lương tâm của bậc chân tu.

Nhiên Ðăng liền truyền Từ Hàng đạo nhân lãnh Ðịnh Phong châu vào phá trận.

Từ Hàng tuân lệnh, tay cầm trái châu miệng hát:

Từ ẩn Huyền đô biết mấy năm

Ruộng dâu biển thắm đổi dư trăm

Ðền vàng cung ngọc từng qua lại

Phủ tía non hồng rảnh viếng thăm

Mây bạc lừng phen êm ái cỡi

Núi xanh nhiều lúc thảnh thơi ngồi

Nay đà được phép trường sanh ấy

Chẳng muốn cho đời biết tiếng tăm.

Từ Hàng ca rồi nói với Ðồng Toàn:

– Chúng ta gặp lúc nay phạm tội sát sanh rất nhiều, còn các ngươi là kẻ tiêu diêu vô sự, sao còn xuống hồng trần bày chuyện làm chi?

Ðồng Toàn nói:

– Bởi các ngươi ỷ Xiển giáo cao kỳ, nên hằng khi dễ chúng ta, nên anh em chúng ta buộc lòng phải xuống núi lập trận thử tài cho thấp. Nếu đạo hữu thấy lòng mình cần cởi mở thì đừng vào trận làm gì, hãy để cho người khác chịu khổ não.

Từ Hàng nói:

– Người giữ mình không được, đừng lo đến thân ta.

Ðồng Toàn nổi giận lướt tới chém một gươm, Từ Hàng đưa kiếm ra đỡ và khen:

– Thật khá lắm.

Hai người giao đấu với nhau một hồi, Ðồng Toàn bỏ chạy vào trận. Từ Hàng đuổi theo Ðồng Toàn chạy lên đài rung cây phướng đen, Từ Hàng lấy Ðịnh Phong châu giơ lên tới thì giông gió đều yên lặng. Hễ gió không thổi thì gươm giáo không bay.

Từ Hàng liền lấy bình Lưu ly quăng lên, trong bình khói đen bay ra ngất trời, Từ Hàng sai Huỳnh Cân lực sĩ trúc bình xuống, khói đen chiếu vào người Ðồng Toàn, hút Ðồng Toàn vào bình ấy.

Từ Hàng truyền Huỳnh Cân lực sĩ đem bình ra ngoài trận. Ðến trước mặt chư tiên.

Từ Hàng nói lớn:

– Tôi đã phá trận Phong Hầu rồi

Vừa nói vừa lấy bình Lưu ly trút ra, thì thấy:

Vớ giày áo mão còn nguyên vẹn

Xương thịt, ruột gan đã nát tan.

Văn Thái Sư trông thấy nổi giận xách roi đến đánh.

Huỳnh Long chân nhân bước ra can:

– Văn huynh chớ nóng giận, mười trận chúng tôi mới chỉ phá được ba, thắng bại chưa phân, sao đã vội dùng vũ lực.

Bỗng nghe trong trận Hàn Băng nổi lên một tràng chuông. Vị tiên chủ trận này là Viên Giác bước ra nói lớn:

– Văn Thái Sư, đừng tranh hành, cứ để mặc tôi

Nói rồi ngâm rằng:

Trận đồ mầu nhiệm có ai hay

Luyện tập công lao tính đã dày

Biến hóa vô cùng nhiều phép lạ

Nực cười những kẻ muốn thày lay.

Viên Giác ca rồi nói lớn:

– Các đệ tử Xiển giáo dám vào trận ta chăng?

Nhiên Ðăng sai Tiết Ác Hổ phá trận.

Tiết Ác Hổ tuân lệnh cầm gươm xông ra.

Viên Giác xem thấy cười lớn, nói:

– Thằng con nít bị chúa lợi dụng máu xương. Ta tha chết cho ngươi đấy, hãy về gọi thầy ngươi ra đây.

Tiết Ác Hổ nổi giận, hét:

– Ta đã vâng lệnh đạo trưởng phá trận này, ngươi chớ làm phách.

Nói rồi vung kiếm chém tới Viên Giác giận quá, đánh vài hiệp rồi bỏ chạy vào trận.

Tiết Ác Hổ đuổi theo, Viên Giác rung cây phướng, tức thì hòn núi giá ở trên sa xuốrg, đè Tiết Ác Hổ xẹp lép, mình nát như tương.

Ðạo Hạnh Thiên Tôn thấy trong trận có một luồng khói đen bay lên biết Tiết Ác Hổ đã bỏ mình rồi liền chặt lưỡi than:

– Có hai đứa đồ đệ thì mỗi đứa bỏ mình trong mỗi trận.

Lại thấy Viên Giác cỡi hươu xông tới hỏi:

– Mười hai vị đại tiên không ai dám phá trận hay sao lại khiến đệ tử vào chết thế cho mình?

Nhiên Ðăng sai Phổ Hiền nhơn nhơn vào phá trận.

Phổ Hiền tuân lệnh cầm gươm bước ra ca:

Giữ lòng đạo đức phải khiêm nhường

Trận giá dường như nắng tuyết sương

Tánh lửa không dằn sao khỏi họa

Nội trong giây phút mát thiên đường.

Viên Giác nghe ca nổi xung, cầm gươm lướt tới.

Phổ Hiền nói:

– Viên Giác, ngươi cố tình sát sanh mới lập trận ấy. Nay ta đến đây, một là ngươi phạm tội sát sanh, hai là ngươi vong mạng. Ngươi nên thấy hai điều tai hại ấy mà lui trước thì hơn.

Viên Giác nói:

– Trong đời người ta chỉ thấy việc giết người nhỏ mọn trước mắt mà không thấy kẻ chủ trương giết người to tát hơn. Ta lập trận tuy là phạm sát sanh, nhưng lại để cản ngăn những kế chủ trương sát sanh khác.

Phổ Hiền nói:

– Ngươi nói ai là kẻ chủ trương sát sanh?

Viên Giác nói:

– Xiển giáo các ngươi chủ trương lập bảng Phong Thần, giết các vị tiên đối lập để thống trị, lại chủ trương sai các đệ tử xuống trần, viện cớ phò Châu diệt Trụ, quấy rối muôn dân, làm cho nạn binh đao thêm nguy hiểm, như thế không phải là chủ trương sát sanh sao?

Phổ Hiền nói:

– Viên Giác! Ngươi nói sai rồi. Giáo chủ chúng ta chỉ thuận theo mệnh trời, làm những việc theo khí số của trời đất. Các ngươi không thông khí số nên mới chống lại điều ấy.

Viên Giác nổi giận chém tới một gươm.

Phổ Hiền đưa bửu kiếm ra đỡ. Ðánh được ít hiệp, Viên Giác bỏ chạy vào trận.

Phổ Hiền đuổi theo, Viên Giác lên đài rung phướng, Phổ Hiền liền chỉ một cái, hào quang hiện ra như sợi chỉ, trên có một vừng mây cao hơn hai trượng, vừng mây có ba góc, mỗi góc có một ngọn đèn, hào quang tủa xuống như mưa đổ. Núi giá bị đèn nóng, tan ra nước chảy ngay.

Viên Giác biết trận hư rồi, tìm đường thoát thân, Phổ Hiền lẹ tay phóng gươm Ngô câu ra chém Viên Giác tại trận, rồi thủng thỉnh thu phép trở ra ngoài.

Văn Thái Sư thấy trận Hàn Băng bị phá, toan giục kỳ lân tới đánh quần tiên, bỗng thấy Kim Quang Thánh mẫu cỡi ngựa lướt tới ngâm rằng:

Cho hay đạo cả chẳng nhiều lời

Một trận thần thông thấu đất trời

Liếc mắt xem qua cơ tạo hóa

Một câu thuận nghịch để muôn đời.

Kim Quang Thánh mẫu ngâm xong, hỏi lớn:

– Trong Xiển giáo có ai dám phá trận của ta?

Nhiên Ðăng xem hết các tướng hai bên, không biết nên sai ai đi trước dọn đường, xảy thấy trên mây sa xuống một vị đạo nhân môi tợ thoa son, mặt như dồi phấn.

Các vị tiên nhìn kỹ thì thấy đạo sĩ ấy là Tiêu Trăng, cũng là đệ tử của Nguyên Thỉ.

Tiêu Trăng bái các tiên và nói:

– Tôi vâng lệnh thày dạy, xuống phá trận Kim Quang.

Nói vừa dứt tiếng đã nghe Kim Quang Thánh mẫu nói lớn:

– Ðệ tử cung Ngọc Hư, lãy mau đến phá trận.

Tiêu Trăng lướt tới. Kim Quang Thánh mẫu hỏi:

– Ngươi là ai đó?

Tlêu Trăng đáp:

– Ngươi thật không biết ta sao? Ta là Tiêu Trăng, đệ tử cung Ngọc Hư.

Kim Quang thánh mẫu nói:

– Ngươi thần thông lợi hại bao nhiêu mà dám vào phá trận ta?

Nói rồi giơ gươm Phi Hùng chém tới. Tiêu Trăng đưa bửu kiếm ra đỡ. Hai người đánh nhau chưa đầy năm hiệp. Kim Quang Thánh mẫu bỏ chạy vào trận, Tiêu Trăng đuổi theo.

Kim Quang Thánh mẫu lên đài kéo dây mở kiếng, vỗ tay một cái, sấm nổi vang trời, hai mươi mốt mặt kiếng chiếu hào quang sáng giới.

Tiêu Trăng la lên một tiếng cả mình mẩy ra tro.

Kim Quang thánh mẫu lại lên ngựa ra ngoài hỏi lớn:

– Tiêu Trăng đã tiêu rồi, còn ai dám vào phá trận nữa?

Nhiên Ðăng mời Quảng Thành Tử ra trận.

Quảng Thành Tử tuân lệnh bước tới ca:

Có phước tự nhiên được có duyên

Non năm năm trước được thầy khuyên

Dạy câu bảo mạng say mùi đạo

Luyện phép trường sanh chứng phẩm tiên

Nhựt nguyệt phủ che trong áo rộng

Càn khôn chất chứa một bầu riêng

Trời cao vòi vọi xuân không dứt

Ẩn chốn sơn lâm lánh thị thiền.

Kim Quang thánh mẫu thấy Quảng Thành Tử đến, liền kêu lớn:

– Quảng Thành Tử! Ngươi dám phá trận Kim Quang ta sao?

Quảng Thành Tử nói:

– Trận này như đồ chơi trẻ con, có khó gì mà không phá.

Kim Quang thánh mẫu nổi giận chém liền, Quảng Thành Tử đưa gươm ra đỡ.

Ðánh được năm hiệp, Kim Quang Thánh mẫu bỏ chạy vào trận, Quảng Thành Tử lấy áo tiên ra bao khắp mình mẩy, hai mươi mốt tấm kính trong trận không làm sao chiếu trúng mình được. Hơn một giờ mà sức nóng trong trận vẫn không làm cho Quảng Thành Tử bị hại.

Quảng Thành Tử lén lấy Phiêu thiên ấn lòn tay dưới áo liệng lên, trong trận nghe có tiếng kêu reng rẻng, mười chín mặt kính trong trận bể nát.

Kim Quang Thánh mẫu thất kinh, cầm hai tấm kiếng còn lại chiếu vào Quảng Thành Tử, nhưng Quảng Thành Tử nhờ có áo phép che kín mít, hơi nóng không phạm đến.

Quảng Thành Tử thừa dịp lấy Phiêu thiên ấn liệng lên nữa, trúng nhằm hai miếng kiếng còn lại bể nát, chiếc ấn lại sa nhằm đầu Kim Quang Thánh mẫu chết tươi.

Hồn Kim Quang Thánh mẫu bay lên đài Phong thần.

Còn Quảng Thành Tử thì ung dung trở ra ngoài trận.

Văn Thái Sư thấy Kim quang Thánh mẫu đã thác, liền hét lớn:

– Quảng Thành Tử, ta quyết đánh ngươi báo thù cho Kim Quang Thánh mẫu.

Bỗng có tiếng Tôn Lương ở trong trận Hóa Huyết kêu lớn:

– Văn huynh chớ giận, để tôi bắt nó báo cừu cho mấy vị đạo huynh.

Nói rồi giục nai lướt tới.

Nhiên Ðăng thấy Tôn Lương đầu đội mão đuôi cọp, mặt trùng táo, râu rìa, xông tới khiêu chiến thì chưa biết nên sai ai vào trận này lót đường.

Bỗng thấy một đạo sĩ từ đâu bước đến bái chào:

– Tôi xin ra mắt các vị tiên trưởng.

Nhiên Ðăng nói:

– Ðạo sĩ ở núi nào, tên họ là gì xin cho ta biết?

Ðạo sĩ nói:

– Tôi là Kiều Khôn ở núi Ngũ Di, động Bạch Vân, nghe nói trong trận Thập Tuyệt có trận Hóa Huyết rất lợi hại, lên đến đây trợ chiến.

Tôn Lương không thấy ai ra phá trận, một lần nữa kêu lớn:

– Có ai dám ra phá trận hay không?

Kiều Khôn liền xách gươm lướt tới nói:

– Các ngươi tuy theo Triệt giáo chứ cũng là kẻ tu hành sao lại ác tâm mở trận Hóa Huyết mà hại người?

Tôn Lương nói:

– Ðã cầm gươm đến đây tranh đấu đừng nói chuyện đạc đức, nếu đủ tài thì vào phá trận, còn không thì lui về kẻo thiệt mạng.

Kiều Khôn giận quá mắng:

– Tôn Lương, ngươi chớ khoe tài, ta quyết lấy đầu ngươi cho thiên hạ thấy.

Tôn Lương mặt phừng phừng lửa dậy giục hươu đến chém liền.

Kiều Khôn ra tài đánh được năm hiệp.

Tôn Lương liền chạy vào trận.

Kiều Khôn đắc thắng đuổi theo, Tôn Lương lên đài hốt hắc sa vãi Kiều Khôn một cái.

Thương thay:

Bao nhiêu xương thịt tiêu ra huyết

Phong thần tiếp nhận một linh hồn.

Tôn Lương giết Kiều Khôn rồi bước ra trận nói lớn:

– Nhiên Ðăng! Các ngươi hèn hạ lắm! Nếu phá trận nổi thì vào phá, còn không thì lui về, sao lại sai những kẻ tu hành còn non nớt vào thế mạng?

Nhiên Ðăng nói:

– Những kẻ ấy do mệnh trời đã dành riêng cho họ.

Tôn Lương cười lớn:

– Tại sao mệnh trời không dành riêng cho kẻ có danh vọng, những rủi ro như vậy? Chính là các ngươi sợ chết đã làm cái vô nhân đạo đó.

Nhiên Ðăng liền sai Thái Ất chơn nhơn vào trận.

Thái Ất chơn nhơn bước đến ngâm:

Năm xưa dốc học đạo trường sanh

Mới biết ngày nay phép đã tinh

Vận chuyển càn khôn đà quảng đại

Ðổi dời nhật nguyệt cũng quang minh

Ngũ hành thuận nghich càng màu nhiệm

Bát quái âm dương rất hiển linh

Ẩn động Kim Quang thanh tịnh ấy

Ngặt còn phạm sát phải cầm binh.

Thái Ất ca vừa đứt, Tôn Lương nói:

– Ðạo huynh dám phá trận này sao?

Thái Ất nói:

– Trận này ta vào như dạo mát, có gì nguy hiểm mà không dám phá.

Tôn Lương nổi giận cầm gươm báu chém liền. Thái Ất đưa gươm đỡ. Ðánh nhau độ vài hiệp, Tôn Lương lùi vào trận. Thái Ất nghe chuông giục đàng sau, vội lướt vào cửa trận.

Tôn Lương leo lên đài, lấy hắc sa vãi tới.

Thái Ất chỉ một cái hóa ra hai bông sen xanh, hai chân đứng lên hai bông sen ấy, rồi tay trái chỉ lên một cái, hiện ra năm đạo hào quang cao hơn hai trượng, trên đầu hiện mây lành năm sắc che phủ cả mình.

Tôn Lương vụt hắc sa đến, hào quang che kín mình, không trúng vào người Thái Ất.

Tôn Lương thấy phép không linh, biết nguy đến nơi, liền tìm đường tẩu thoát, nhưng không kịp bị Thái Ất ném Cửu Long thần hỏa trạo lên, chín con rồng lửa quấn vào mình Tôn Lương đốt cháy thành tro.

Văn Thái Sư thấy Thái Ất phá trận Hoá Huyết, và đốt cháy Tôn Lương thành tro, liền đón tại cửa trận kêu lớn:

– Thái Ất, không về được! có ta đây!

Huỳnh Long chơn nhơn cỡi hạc bay đến nói:

– Người lớn giao ước với nhau lẽ nào thất tín. Nay mười trận, mới đánh được sáu, chưa rõ thấp cao. Xin Thái Sư lui về dinh thu binh tướng về dinh.

Văn Thái Sư giận quá nhưng không biết nói sao, đành phải thu binh tướng về dinh.

Khi về đến trướng phủ, Văn Trọng cho mời bốn vị tiên chủ trận đến bàn bạc, và nói:

– Tôi chịu ơn vua, làm quan đến cực phẩm, liều chết trả ơn đã đành, quí hữu chỉ vì tôi mà chết vô cớ, lòng tôi không nỡ, vậy xin bốn vị trở về hải đảo tu hành, để tôi liều sanh tử với Khương Thượng.

Bốn vị Ðạo sĩ thấy Văn Trọng buồn bã, tìm lời an ủi.

– Xin Văn huynh chớ thối chí, chúng tôi sẽ có kế hay để đối địch.

Nói rồi đồng về giữ trận.

Văn Trọng ngồi một mình lo lắng, ngồi tính không ra kế, sực nhớ đến Triệu Công Minh là đạo hữu ở núi Nga Mi, động La Phù, nghĩ thầm:

– Nếu được người này giúp mình chắc làm nên việc.

Liền bảo Kiết Lập và Dư Khanh giữ dinh, một mình cởi hắc kỳ lân qua động La Phù.

Khi đến chân núi, Văn Thái Sư trông thấy phong cảnh tốt tươi, tòng bá mịt mù, thật là một nơi thanh tịnh.

Văn Trọng xuống kỳ lân, đến trước cửa động hỏi lớn:

– Có ai trong động không?

Ðồng tử bước ra hỏi lại:

– Lão gia từ đâu đến?

Văn Trọng hỏi:

– Có thầy ngươi ở nhà không?

Ðồng tử thưa:

– Thầy tôi đang xem sách trong động.

Văn Thái Sư nói.

– Ngươi vào thưa với Triệu đạo trưởng có ta là Văn Trọng đến viếng.

Ðạo đồng vào thưa lại.

Triệu Công Minh liền bước ra cửa động đón tiếp và nói:

– Lâu nay cách mặt, tôi tưởng đạo huynh mải lo phú quý quên cả bạn bè trên núi non hiu quạnh rồi chớ?

Hai người dắt tay nhau vào động.

Triệu Công Minh mời ngồi đối diện, Văn Trọng đã thở dài một tiếng Triệu Công Minh nói:

– Anh có việc lo lắng sao?

Văn Trọng nói:

– Tôi vâng lệnh vua Trụ lãnh chiếu chinh Tây, không ngờ học trò Xiển giáo là Tử Nha có nhiều trí mưu, thông ròng tài phép, tôi đánh luôn mấy trận vẫn không thắng nổi, cực chẳng đã phải nhờ đến mười anh em ở Kim Ngao đảo đến giúp. Các anh em ấy đến lập trận Thập Tuyệt, gồm phép tam tài, chẳng ngờ Tử Nha hội chư tiên, phá mất sáu trận, giết mất sáu anh em. Tôi cùng phương hết kế phải đến đây chẳng biết đạo huynh có vui lòng chỉ cho một mưu kế không?

Triệu Công Minh nói:

– Tại Văn huynh không đến đây sớm, nếu tôi biết được sự việc như vậy không để cho Văn huynh đại bại. Thôi Văn huynh về trước, tôi sắp xếp công việc rồi sẽ đến trợ giúp Văn huynh.

Vãn Thái Sư mừng rỡ từ giã, cỡi kỳ lân trở về.

Còn Triệu Công Minh kêu học trò là Triệu Cửu Công, Dao Thiếu Tư là hai kẻ tùy tùng đem theo sai khiến, còn động thì giao cho một tên tiểu đồng, và dặn:

– Ngươi ở nhà coi chừng động phủ. Ta đi ít hôm sẽ trở về.

Dặn rồi ba thầy trò đều độn thổ. Khi đi đường qua đến một hòn núi, xảy nghe một trận gió lạnh ghê mình.

Triệu Công Minh nhô đầu lên, thấy một con cọp mun rất dữ, gầm lên một tràng chấn động cả núi rừng.

Có bài thơ rằng:

Gầm lên mặt tiếng dậy non sông

Ðen bóng như than cặp mắt tròn

Giơ vút như dao hình giống đá

Nhăn nanh dường kiếm miệng dường son

Người kinh bởi giọng rền vang núi

Cỏ rẹp võ oai gió véo von

Cầm thú nghe hơi đều bặt dấu

Sơn quân chữ tặng đến nay còn.

Triệu Công Minh trông thấy con cọp đen chạy đến, mừng rỡ cười lớn:

– Ta đang đi chân không, chẳng biết dùng con vật gì cho tiện nay gặp con cọp này, bắt cỡi đi đường núi thì tiện biết bao.

Nói rồi đưa hai ngón tay để lên mình cọp, lấy đây cột cổ leo lên lưng cỡi. Con cọp vùng vẫy, Triệu Công Minh đưa tay vẽ một điệu bùa sau ót, tức thì cọp ngoan ngoãn tuân theo lời sai khiến, bốn chân hóa bốn vừng mây, bay một hồi đến dinh Văn Trọng.

Hai người đệ tử cũng độn thổ theo kịp.

Triệu Công Minh bước xuống lưng hùm.

Quân sĩ trong dinh trông thấy con cọp đen đều thất kinh la lớn:

– Cọp dữ! Cọp dữ!

Triệu Công Minh nói:

– Không phải cọp rừng. Con vật ta nuôi đấy. Hãy mau về báo với Văn Trọng có ta đến đây trợ lực.

Văn Thái Sư nghe rõ, liền bước ra khỏi dinh nghinh tiếp.

Bốn vị tiên ở Kim Ngao đảo cũng bước ra mừng rỡ chào hỏi.

Triệu Công Minh nói:

– Quí đạo huynh lập mười trận đồ, đã không hại được Tử Nha lại thiệt mạng mất sáu người, tôi nghe việc ấy tức tối vô cùng.

Bốn vị tiên đồng nói:

– Có đạo huynh đến đây giúp sức với chúng tôi may ra trừ được Tử Nha.

Triệu Công Minh nhìn sang thành Tây Kỳ, thấy có một cái đài cao nơi cửa Tây thành, trên đài có treo một người, liền hỏi:

– Ðài đó là đài gì? Ai bị treo lủng lẳng như vậy?

Bạch Lễ nói:

– Chúng tôi lập trận Thập Tuyệt, các vị tiên Xiển giáo hội đến đây để phá trận. Ðài ấy do Tử Nha để chư tiên ở gọi là Lư Bồng và người bị treo là Triệu Giang chủ trận Ðịa Liệt, do chúng bắt được hôm trước.

Triệu Công Minh nổi giận nói:

– Tam giáo cũng như một, đã là kẻ tu hành tại sao còn kiêu ngạo với nhau? Ðể tôi bắt bên nó một người treo lại mà rửa nhục.

Nói tôi cỡi cọp cầm roi lướt tới bên thành.

Hồi 46: Quảng Thành Tử phá trận Kim Quang

Rạng ngày Nhiên Ðăng dắt mười hai vị đại tiên ra trận, đánh chuông vàng, khánh bạc.

Xảy nghe bên dinh Thương phát một tiếng pháo, Thái Sư Văn Trọng dẫn tướng ra ngoài đặng xem chư tiên phá trận Phong Hầu.

Vị tiên lập trận Phong Hầu là Ðồng Toàn, cỡi Bạch Lộc ra trước ca rằng:

Gặp hội thanh bình chẳng biết lo

Ðất trời hòa thuận vững khuôn lò

Xưa nay hết loạn thời trống thị

Thiên hạ từ đây thấy ấm no.

Ðồng Toàn ca rồi lướt ra khiêu chiến.

Nhiên Ðăng tìm người lót trận chưa được, nên chưa dám sai ai.

Xảy thấy Hoàng Phi Hổ đem Phương Bậc, Phương Tướng ra mắt Tử Nha và thưa:

– Tôi đi giải lương thâu được hai tướng là Phương Bậc và Phương Tướng, đồng làm chúa Trấn điện đại tướng quân của Trụ vương.

Tử Nha mừng rỡ thâu nhận.

Nhiên Ðăng thấy hai tướng, liền than:

– Số trời đã định, dầu muôn vật cũng khó tránh.

Liền sai Phương Bậc xuống phá trận Phong Hầu.

Thương thay Phương Bậc là người trần tục, nghe bảo phá trận tưởng là phá trận thường, có ngờ đâu trận phép lợi hại dường ấy.

Phương Bậc cầm kích cả kêu:

– Yêu đạo! Có ta đến phá trận đây.

Nói rồi đâm một kích.

Ðồng Toàn thấy một tướng cao vòi vọi, cặp mắt lau láu, hàm râu rìa, mặt trùng táo, vung kích đâm mình, vội đưa gươm ra đỡ. Ðánh được vài hiệp, Ðồng Toàn bỏ chạy vào trận, Tử Nha truyền giục trống, Phương Bậc nghe tiếng trống vội vã đuổi theo. Ðồng Toàn liền lên đài rung cây phướng đen, gươm đao trong gió bay ra, chặt khúc Phương Bậc đứt thành muôn đoạn.

Ðồng Toàn truyền quân kéo Phương Bậc ra ngoài trận, lớn tiếng kêu các vì tiên Xiển giáo mắng lớn.

– Quí vị đạo hữu cung Ngọc Hư có thi phép thì vào trận thi, tại sao lại sai một kẻ phàm tục vào trận cho uổng mạng. Tôi tưởng hành động như vậy thật không phải là kẻ đại nhân đại độ, không phải lương tâm của bậc chân tu.

Nhiên Ðăng liền truyền Từ Hàng đạo nhân lãnh Ðịnh Phong châu vào phá trận.

Từ Hàng tuân lệnh, tay cầm trái châu miệng hát:

Từ ẩn Huyền đô biết mấy năm

Ruộng dâu biển thắm đổi dư trăm

Ðền vàng cung ngọc từng qua lại

Phủ tía non hồng rảnh viếng thăm

Mây bạc lừng phen êm ái cỡi

Núi xanh nhiều lúc thảnh thơi ngồi

Nay đà được phép trường sanh ấy

Chẳng muốn cho đời biết tiếng tăm.

Từ Hàng ca rồi nói với Ðồng Toàn:

– Chúng ta gặp lúc nay phạm tội sát sanh rất nhiều, còn các ngươi là kẻ tiêu diêu vô sự, sao còn xuống hồng trần bày chuyện làm chi?

Ðồng Toàn nói:

– Bởi các ngươi ỷ Xiển giáo cao kỳ, nên hằng khi dễ chúng ta, nên anh em chúng ta buộc lòng phải xuống núi lập trận thử tài cho thấp. Nếu đạo hữu thấy lòng mình cần cởi mở thì đừng vào trận làm gì, hãy để cho người khác chịu khổ não.

Từ Hàng nói:

– Người giữ mình không được, đừng lo đến thân ta.

Ðồng Toàn nổi giận lướt tới chém một gươm, Từ Hàng đưa kiếm ra đỡ và khen:

– Thật khá lắm.

Hai người giao đấu với nhau một hồi, Ðồng Toàn bỏ chạy vào trận. Từ Hàng đuổi theo Ðồng Toàn chạy lên đài rung cây phướng đen, Từ Hàng lấy Ðịnh Phong châu giơ lên tới thì giông gió đều yên lặng. Hễ gió không thổi thì gươm giáo không bay.

Từ Hàng liền lấy bình Lưu ly quăng lên, trong bình khói đen bay ra ngất trời, Từ Hàng sai Huỳnh Cân lực sĩ trúc bình xuống, khói đen chiếu vào người Ðồng Toàn, hút Ðồng Toàn vào bình ấy.

Từ Hàng truyền Huỳnh Cân lực sĩ đem bình ra ngoài trận. Ðến trước mặt chư tiên.

Từ Hàng nói lớn:

– Tôi đã phá trận Phong Hầu rồi

Vừa nói vừa lấy bình Lưu ly trút ra, thì thấy:

Vớ giày áo mão còn nguyên vẹn

Xương thịt, ruột gan đã nát tan.

Văn Thái Sư trông thấy nổi giận xách roi đến đánh.

Huỳnh Long chân nhân bước ra can:

– Văn huynh chớ nóng giận, mười trận chúng tôi mới chỉ phá được ba, thắng bại chưa phân, sao đã vội dùng vũ lực.

Bỗng nghe trong trận Hàn Băng nổi lên một tràng chuông. Vị tiên chủ trận này là Viên Giác bước ra nói lớn:

– Văn Thái Sư, đừng tranh hành, cứ để mặc tôi

Nói rồi ngâm rằng:

Trận đồ mầu nhiệm có ai hay

Luyện tập công lao tính đã dày

Biến hóa vô cùng nhiều phép lạ

Nực cười những kẻ muốn thày lay.

Viên Giác ca rồi nói lớn:

– Các đệ tử Xiển giáo dám vào trận ta chăng?

Nhiên Ðăng sai Tiết Ác Hổ phá trận.

Tiết Ác Hổ tuân lệnh cầm gươm xông ra.

Viên Giác xem thấy cười lớn, nói:

– Thằng con nít bị chúa lợi dụng máu xương. Ta tha chết cho ngươi đấy, hãy về gọi thầy ngươi ra đây.

Tiết Ác Hổ nổi giận, hét:

– Ta đã vâng lệnh đạo trưởng phá trận này, ngươi chớ làm phách.

Nói rồi vung kiếm chém tới Viên Giác giận quá, đánh vài hiệp rồi bỏ chạy vào trận.

Tiết Ác Hổ đuổi theo, Viên Giác rung cây phướng, tức thì hòn núi giá ở trên sa xuốrg, đè Tiết Ác Hổ xẹp lép, mình nát như tương.

Ðạo Hạnh Thiên Tôn thấy trong trận có một luồng khói đen bay lên biết Tiết Ác Hổ đã bỏ mình rồi liền chặt lưỡi than:

– Có hai đứa đồ đệ thì mỗi đứa bỏ mình trong mỗi trận.

Lại thấy Viên Giác cỡi hươu xông tới hỏi:

– Mười hai vị đại tiên không ai dám phá trận hay sao lại khiến đệ tử vào chết thế cho mình?

Nhiên Ðăng sai Phổ Hiền nhơn nhơn vào phá trận.

Phổ Hiền tuân lệnh cầm gươm bước ra ca:

Giữ lòng đạo đức phải khiêm nhường

Trận giá dường như nắng tuyết sương

Tánh lửa không dằn sao khỏi họa

Nội trong giây phút mát thiên đường.

Viên Giác nghe ca nổi xung, cầm gươm lướt tới.

Phổ Hiền nói:

– Viên Giác, ngươi cố tình sát sanh mới lập trận ấy. Nay ta đến đây, một là ngươi phạm tội sát sanh, hai là ngươi vong mạng. Ngươi nên thấy hai điều tai hại ấy mà lui trước thì hơn.

Viên Giác nói:

– Trong đời người ta chỉ thấy việc giết người nhỏ mọn trước mắt mà không thấy kẻ chủ trương giết người to tát hơn. Ta lập trận tuy là phạm sát sanh, nhưng lại để cản ngăn những kế chủ trương sát sanh khác.

Phổ Hiền nói:

– Ngươi nói ai là kẻ chủ trương sát sanh?

Viên Giác nói:

– Xiển giáo các ngươi chủ trương lập bảng Phong Thần, giết các vị tiên đối lập để thống trị, lại chủ trương sai các đệ tử xuống trần, viện cớ phò Châu diệt Trụ, quấy rối muôn dân, làm cho nạn binh đao thêm nguy hiểm, như thế không phải là chủ trương sát sanh sao?

Phổ Hiền nói:

– Viên Giác! Ngươi nói sai rồi. Giáo chủ chúng ta chỉ thuận theo mệnh trời, làm những việc theo khí số của trời đất. Các ngươi không thông khí số nên mới chống lại điều ấy.

Viên Giác nổi giận chém tới một gươm.

Phổ Hiền đưa bửu kiếm ra đỡ. Ðánh được ít hiệp, Viên Giác bỏ chạy vào trận.

Phổ Hiền đuổi theo, Viên Giác lên đài rung phướng, Phổ Hiền liền chỉ một cái, hào quang hiện ra như sợi chỉ, trên có một vừng mây cao hơn hai trượng, vừng mây có ba góc, mỗi góc có một ngọn đèn, hào quang tủa xuống như mưa đổ. Núi giá bị đèn nóng, tan ra nước chảy ngay.

Viên Giác biết trận hư rồi, tìm đường thoát thân, Phổ Hiền lẹ tay phóng gươm Ngô câu ra chém Viên Giác tại trận, rồi thủng thỉnh thu phép trở ra ngoài.

Văn Thái Sư thấy trận Hàn Băng bị phá, toan giục kỳ lân tới đánh quần tiên, bỗng thấy Kim Quang Thánh mẫu cỡi ngựa lướt tới ngâm rằng:

Cho hay đạo cả chẳng nhiều lời

Một trận thần thông thấu đất trời

Liếc mắt xem qua cơ tạo hóa

Một câu thuận nghịch để muôn đời.

Kim Quang Thánh mẫu ngâm xong, hỏi lớn:

– Trong Xiển giáo có ai dám phá trận của ta?

Nhiên Ðăng xem hết các tướng hai bên, không biết nên sai ai đi trước dọn đường, xảy thấy trên mây sa xuống một vị đạo nhân môi tợ thoa son, mặt như dồi phấn.

Các vị tiên nhìn kỹ thì thấy đạo sĩ ấy là Tiêu Trăng, cũng là đệ tử của Nguyên Thỉ.

Tiêu Trăng bái các tiên và nói:

– Tôi vâng lệnh thày dạy, xuống phá trận Kim Quang.

Nói vừa dứt tiếng đã nghe Kim Quang Thánh mẫu nói lớn:

– Ðệ tử cung Ngọc Hư, lãy mau đến phá trận.

Tiêu Trăng lướt tới. Kim Quang Thánh mẫu hỏi:

– Ngươi là ai đó?

Tlêu Trăng đáp:

– Ngươi thật không biết ta sao? Ta là Tiêu Trăng, đệ tử cung Ngọc Hư.

Kim Quang thánh mẫu nói:

– Ngươi thần thông lợi hại bao nhiêu mà dám vào phá trận ta?

Nói rồi giơ gươm Phi Hùng chém tới. Tiêu Trăng đưa bửu kiếm ra đỡ. Hai người đánh nhau chưa đầy năm hiệp. Kim Quang Thánh mẫu bỏ chạy vào trận, Tiêu Trăng đuổi theo.

Kim Quang Thánh mẫu lên đài kéo dây mở kiếng, vỗ tay một cái, sấm nổi vang trời, hai mươi mốt mặt kiếng chiếu hào quang sáng giới.

Tiêu Trăng la lên một tiếng cả mình mẩy ra tro.

Kim Quang thánh mẫu lại lên ngựa ra ngoài hỏi lớn:

– Tiêu Trăng đã tiêu rồi, còn ai dám vào phá trận nữa?

Nhiên Ðăng mời Quảng Thành Tử ra trận.

Quảng Thành Tử tuân lệnh bước tới ca:

Có phước tự nhiên được có duyên

Non năm năm trước được thầy khuyên

Dạy câu bảo mạng say mùi đạo

Luyện phép trường sanh chứng phẩm tiên

Nhựt nguyệt phủ che trong áo rộng

Càn khôn chất chứa một bầu riêng

Trời cao vòi vọi xuân không dứt

Ẩn chốn sơn lâm lánh thị thiền.

Kim Quang thánh mẫu thấy Quảng Thành Tử đến, liền kêu lớn:

– Quảng Thành Tử! Ngươi dám phá trận Kim Quang ta sao?

Quảng Thành Tử nói:

– Trận này như đồ chơi trẻ con, có khó gì mà không phá.

Kim Quang thánh mẫu nổi giận chém liền, Quảng Thành Tử đưa gươm ra đỡ.

Ðánh được năm hiệp, Kim Quang Thánh mẫu bỏ chạy vào trận, Quảng Thành Tử lấy áo tiên ra bao khắp mình mẩy, hai mươi mốt tấm kính trong trận không làm sao chiếu trúng mình được. Hơn một giờ mà sức nóng trong trận vẫn không làm cho Quảng Thành Tử bị hại.

Quảng Thành Tử lén lấy Phiêu thiên ấn lòn tay dưới áo liệng lên, trong trận nghe có tiếng kêu reng rẻng, mười chín mặt kính trong trận bể nát.

Kim Quang Thánh mẫu thất kinh, cầm hai tấm kiếng còn lại chiếu vào Quảng Thành Tử, nhưng Quảng Thành Tử nhờ có áo phép che kín mít, hơi nóng không phạm đến.

Quảng Thành Tử thừa dịp lấy Phiêu thiên ấn liệng lên nữa, trúng nhằm hai miếng kiếng còn lại bể nát, chiếc ấn lại sa nhằm đầu Kim Quang Thánh mẫu chết tươi.

Hồn Kim Quang Thánh mẫu bay lên đài Phong thần.

Còn Quảng Thành Tử thì ung dung trở ra ngoài trận.

Văn Thái Sư thấy Kim quang Thánh mẫu đã thác, liền hét lớn:

– Quảng Thành Tử, ta quyết đánh ngươi báo thù cho Kim Quang Thánh mẫu.

Bỗng có tiếng Tôn Lương ở trong trận Hóa Huyết kêu lớn:

– Văn huynh chớ giận, để tôi bắt nó báo cừu cho mấy vị đạo huynh.

Nói rồi giục nai lướt tới.

Nhiên Ðăng thấy Tôn Lương đầu đội mão đuôi cọp, mặt trùng táo, râu rìa, xông tới khiêu chiến thì chưa biết nên sai ai vào trận này lót đường.

Bỗng thấy một đạo sĩ từ đâu bước đến bái chào:

– Tôi xin ra mắt các vị tiên trưởng.

Nhiên Ðăng nói:

– Ðạo sĩ ở núi nào, tên họ là gì xin cho ta biết?

Ðạo sĩ nói:

– Tôi là Kiều Khôn ở núi Ngũ Di, động Bạch Vân, nghe nói trong trận Thập Tuyệt có trận Hóa Huyết rất lợi hại, lên đến đây trợ chiến.

Tôn Lương không thấy ai ra phá trận, một lần nữa kêu lớn:

– Có ai dám ra phá trận hay không?

Kiều Khôn liền xách gươm lướt tới nói:

– Các ngươi tuy theo Triệt giáo chứ cũng là kẻ tu hành sao lại ác tâm mở trận Hóa Huyết mà hại người?

Tôn Lương nói:

– Ðã cầm gươm đến đây tranh đấu đừng nói chuyện đạc đức, nếu đủ tài thì vào phá trận, còn không thì lui về kẻo thiệt mạng.

Kiều Khôn giận quá mắng:

– Tôn Lương, ngươi chớ khoe tài, ta quyết lấy đầu ngươi cho thiên hạ thấy.

Tôn Lương mặt phừng phừng lửa dậy giục hươu đến chém liền.

Kiều Khôn ra tài đánh được năm hiệp.

Tôn Lương liền chạy vào trận.

Kiều Khôn đắc thắng đuổi theo, Tôn Lương lên đài hốt hắc sa vãi Kiều Khôn một cái.

Thương thay:

Bao nhiêu xương thịt tiêu ra huyết

Phong thần tiếp nhận một linh hồn.

Tôn Lương giết Kiều Khôn rồi bước ra trận nói lớn:

– Nhiên Ðăng! Các ngươi hèn hạ lắm! Nếu phá trận nổi thì vào phá, còn không thì lui về, sao lại sai những kẻ tu hành còn non nớt vào thế mạng?

Nhiên Ðăng nói:

– Những kẻ ấy do mệnh trời đã dành riêng cho họ.

Tôn Lương cười lớn:

– Tại sao mệnh trời không dành riêng cho kẻ có danh vọng, những rủi ro như vậy? Chính là các ngươi sợ chết đã làm cái vô nhân đạo đó.

Nhiên Ðăng liền sai Thái Ất chơn nhơn vào trận.

Thái Ất chơn nhơn bước đến ngâm:

Năm xưa dốc học đạo trường sanh

Mới biết ngày nay phép đã tinh

Vận chuyển càn khôn đà quảng đại

Ðổi dời nhật nguyệt cũng quang minh

Ngũ hành thuận nghich càng màu nhiệm

Bát quái âm dương rất hiển linh

Ẩn động Kim Quang thanh tịnh ấy

Ngặt còn phạm sát phải cầm binh.

Thái Ất ca vừa đứt, Tôn Lương nói:

– Ðạo huynh dám phá trận này sao?

Thái Ất nói:

– Trận này ta vào như dạo mát, có gì nguy hiểm mà không dám phá.

Tôn Lương nổi giận cầm gươm báu chém liền. Thái Ất đưa gươm đỡ. Ðánh nhau độ vài hiệp, Tôn Lương lùi vào trận. Thái Ất nghe chuông giục đàng sau, vội lướt vào cửa trận.

Tôn Lương leo lên đài, lấy hắc sa vãi tới.

Thái Ất chỉ một cái hóa ra hai bông sen xanh, hai chân đứng lên hai bông sen ấy, rồi tay trái chỉ lên một cái, hiện ra năm đạo hào quang cao hơn hai trượng, trên đầu hiện mây lành năm sắc che phủ cả mình.

Tôn Lương vụt hắc sa đến, hào quang che kín mình, không trúng vào người Thái Ất.

Tôn Lương thấy phép không linh, biết nguy đến nơi, liền tìm đường tẩu thoát, nhưng không kịp bị Thái Ất ném Cửu Long thần hỏa trạo lên, chín con rồng lửa quấn vào mình Tôn Lương đốt cháy thành tro.

Văn Thái Sư thấy Thái Ất phá trận Hoá Huyết, và đốt cháy Tôn Lương thành tro, liền đón tại cửa trận kêu lớn:

– Thái Ất, không về được! có ta đây!

Huỳnh Long chơn nhơn cỡi hạc bay đến nói:

– Người lớn giao ước với nhau lẽ nào thất tín. Nay mười trận, mới đánh được sáu, chưa rõ thấp cao. Xin Thái Sư lui về dinh thu binh tướng về dinh.

Văn Thái Sư giận quá nhưng không biết nói sao, đành phải thu binh tướng về dinh.

Khi về đến trướng phủ, Văn Trọng cho mời bốn vị tiên chủ trận đến bàn bạc, và nói:

– Tôi chịu ơn vua, làm quan đến cực phẩm, liều chết trả ơn đã đành, quí hữu chỉ vì tôi mà chết vô cớ, lòng tôi không nỡ, vậy xin bốn vị trở về hải đảo tu hành, để tôi liều sanh tử với Khương Thượng.

Bốn vị Ðạo sĩ thấy Văn Trọng buồn bã, tìm lời an ủi.

– Xin Văn huynh chớ thối chí, chúng tôi sẽ có kế hay để đối địch.

Nói rồi đồng về giữ trận.

Văn Trọng ngồi một mình lo lắng, ngồi tính không ra kế, sực nhớ đến Triệu Công Minh là đạo hữu ở núi Nga Mi, động La Phù, nghĩ thầm:

– Nếu được người này giúp mình chắc làm nên việc.

Liền bảo Kiết Lập và Dư Khanh giữ dinh, một mình cởi hắc kỳ lân qua động La Phù.

Khi đến chân núi, Văn Thái Sư trông thấy phong cảnh tốt tươi, tòng bá mịt mù, thật là một nơi thanh tịnh.

Văn Trọng xuống kỳ lân, đến trước cửa động hỏi lớn:

– Có ai trong động không?

Ðồng tử bước ra hỏi lại:

– Lão gia từ đâu đến?

Văn Trọng hỏi:

– Có thầy ngươi ở nhà không?

Ðồng tử thưa:

– Thầy tôi đang xem sách trong động.

Văn Thái Sư nói.

– Ngươi vào thưa với Triệu đạo trưởng có ta là Văn Trọng đến viếng.

Ðạo đồng vào thưa lại.

Triệu Công Minh liền bước ra cửa động đón tiếp và nói:

– Lâu nay cách mặt, tôi tưởng đạo huynh mải lo phú quý quên cả bạn bè trên núi non hiu quạnh rồi chớ?

Hai người dắt tay nhau vào động.

Triệu Công Minh mời ngồi đối diện, Văn Trọng đã thở dài một tiếng Triệu Công Minh nói:

– Anh có việc lo lắng sao?

Văn Trọng nói:

– Tôi vâng lệnh vua Trụ lãnh chiếu chinh Tây, không ngờ học trò Xiển giáo là Tử Nha có nhiều trí mưu, thông ròng tài phép, tôi đánh luôn mấy trận vẫn không thắng nổi, cực chẳng đã phải nhờ đến mười anh em ở Kim Ngao đảo đến giúp. Các anh em ấy đến lập trận Thập Tuyệt, gồm phép tam tài, chẳng ngờ Tử Nha hội chư tiên, phá mất sáu trận, giết mất sáu anh em. Tôi cùng phương hết kế phải đến đây chẳng biết đạo huynh có vui lòng chỉ cho một mưu kế không?

Triệu Công Minh nói:

– Tại Văn huynh không đến đây sớm, nếu tôi biết được sự việc như vậy không để cho Văn huynh đại bại. Thôi Văn huynh về trước, tôi sắp xếp công việc rồi sẽ đến trợ giúp Văn huynh.

Vãn Thái Sư mừng rỡ từ giã, cỡi kỳ lân trở về.

Còn Triệu Công Minh kêu học trò là Triệu Cửu Công, Dao Thiếu Tư là hai kẻ tùy tùng đem theo sai khiến, còn động thì giao cho một tên tiểu đồng, và dặn:

– Ngươi ở nhà coi chừng động phủ. Ta đi ít hôm sẽ trở về.

Dặn rồi ba thầy trò đều độn thổ. Khi đi đường qua đến một hòn núi, xảy nghe một trận gió lạnh ghê mình.

Triệu Công Minh nhô đầu lên, thấy một con cọp mun rất dữ, gầm lên một tràng chấn động cả núi rừng.

Có bài thơ rằng:

Gầm lên mặt tiếng dậy non sông

Ðen bóng như than cặp mắt tròn

Giơ vút như dao hình giống đá

Nhăn nanh dường kiếm miệng dường son

Người kinh bởi giọng rền vang núi

Cỏ rẹp võ oai gió véo von

Cầm thú nghe hơi đều bặt dấu

Sơn quân chữ tặng đến nay còn.

Triệu Công Minh trông thấy con cọp đen chạy đến, mừng rỡ cười lớn:

– Ta đang đi chân không, chẳng biết dùng con vật gì cho tiện nay gặp con cọp này, bắt cỡi đi đường núi thì tiện biết bao.

Nói rồi đưa hai ngón tay để lên mình cọp, lấy đây cột cổ leo lên lưng cỡi. Con cọp vùng vẫy, Triệu Công Minh đưa tay vẽ một điệu bùa sau ót, tức thì cọp ngoan ngoãn tuân theo lời sai khiến, bốn chân hóa bốn vừng mây, bay một hồi đến dinh Văn Trọng.

Hai người đệ tử cũng độn thổ theo kịp.

Triệu Công Minh bước xuống lưng hùm.

Quân sĩ trong dinh trông thấy con cọp đen đều thất kinh la lớn:

– Cọp dữ! Cọp dữ!

Triệu Công Minh nói:

– Không phải cọp rừng. Con vật ta nuôi đấy. Hãy mau về báo với Văn Trọng có ta đến đây trợ lực.

Văn Thái Sư nghe rõ, liền bước ra khỏi dinh nghinh tiếp.

Bốn vị tiên ở Kim Ngao đảo cũng bước ra mừng rỡ chào hỏi.

Triệu Công Minh nói:

– Quí đạo huynh lập mười trận đồ, đã không hại được Tử Nha lại thiệt mạng mất sáu người, tôi nghe việc ấy tức tối vô cùng.

Bốn vị tiên đồng nói:

– Có đạo huynh đến đây giúp sức với chúng tôi may ra trừ được Tử Nha.

Triệu Công Minh nhìn sang thành Tây Kỳ, thấy có một cái đài cao nơi cửa Tây thành, trên đài có treo một người, liền hỏi:

– Ðài đó là đài gì? Ai bị treo lủng lẳng như vậy?

Bạch Lễ nói:

– Chúng tôi lập trận Thập Tuyệt, các vị tiên Xiển giáo hội đến đây để phá trận. Ðài ấy do Tử Nha để chư tiên ở gọi là Lư Bồng và người bị treo là Triệu Giang chủ trận Ðịa Liệt, do chúng bắt được hôm trước.

Triệu Công Minh nổi giận nói:

– Tam giáo cũng như một, đã là kẻ tu hành tại sao còn kiêu ngạo với nhau? Ðể tôi bắt bên nó một người treo lại mà rửa nhục.

Nói tôi cỡi cọp cầm roi lướt tới bên thành.

Hồi 47: Triệu Công Minh ra sức phò Văn Trọng

Triệu Công Minh cầm roi cỡi cọp đến trước cửa thành Tây Kỳ kêu lớn, nói:

– Ðã có ta đến đây, Tử Nha mau ra thành trói mình nạp mạng.

Quân trong thành thấy một đạo sĩ cỡi cọp, bộ hung hăng, tiếng nói như sấm, thất kinh chạy vào cấp báo.

Na Tra liền đến Lư Bồng thuật lại với Tử Nha:

– Có một đạo sĩ cỡi cọp đen, mời sư thúc ra thành nói chuyện.

Nhiên Ðăng nói:

– Người ấy là Triệu Công Minh ở núi Nga Mi, động La phù, Tử Nha phải hết sức đề phòng mới được.

Tử Nha tuân lệnh cởi Tứ Bất Tướng ra khỏi thành, Na Tra, Lôi Chấn Tử, Hoàng Thiên Hóa, Dương Tiển, Kim Tra và Mộc Tra đều treo sau ủng hộ.

Tử Nha thấy Triệu Công Minh cỡi cọp, liền giục thú tới bái một bái và nói:

– Chẳng hay đạo hữu ở động nào, đến đây có việc gì chỉ giáo?

Triệu Công Minh nói:

– Ta là Triệu Công Minh ở núi Nga Mi, động La Phù, vì thấy ngươi phá sáu trận giết chết sáu vị Ðạo hữu của ta nên ta đau lòng lắm. Ðã vậy ngươi còn bắt Triệu Giang treo nơi Lư Bồng, làm nhục giáo phái chúng ta, vì vậy, dầu ta là kẻ ưa thanh tịnh, thích thú thanh nhàn cũng không thể vào ngồi chễm chệ trên non cao mà làm lơ được. Ta đến đây quyết cùng với ngươi tranh tài cao thấp.

Nói rồi vỗ vào đâu con cọp đen một cái, lướt tới chém Tử Nha.

Từ Nha đưa gươm ra đỡ. Hai người đấu chiến với nhau một hồi.

Triệu Công Minh liệng roi phép lên cao, hào quang sáng giới, Tử Nha tránh không kịp. bị roi phép đánh trúng lưng, té nhào xuống đất.

Na Tra xông ra đỡ thương. Kim Tra lướt tới cứu Tử Nha đưa vào thành coi lại thì Tử Nha đã tắt thở.

Còn Na Tra đánh với Triệu Công Minh ít hiệp, cũng bị Triệu Công Minh quăng roi phép đánh ngã xuống xe. Hoàng Thiên Hóa xách song chùy vào trận đỡ thương, Lôi Chấn Tử bay đến cứu Na Tra đem vào thành.

Dương Tiển sợ một mình Hoàng Thiên Hóa cự không lại, nên xông vào trợ lực.

Hai người đánh với Triệu Công Minh tối tăm trời đất.

Dương Tiển thừa lúc hỗn chiến, lén thả con Hạo Thiên Khuyển ra nhảy chồm lên cắn Triệu Công Minh.

Có thơ rằng:

Muông thần tập luyện gọi tuế yêu

Hình như voi trắng lẹ như diều

Da đồng thịt sắt không ngăn trở

Tướng dữ đến đâu cũng cắn liều.

Triệu Công Minh bất ý, không đề phòng bị con chó thần nhảy đến táp trúng cổ. May thay chỉ rách áo và trày trụa mà thôi, không đến nỗi bị thương nặng.

Triệu Công Minh thất kinh, giục hùm bay về trại.

Văn Thái sư thấy Triệu Công Minh thất trận vì con thần khuyển cắn vội an ủi vài lời.

Triệu Công Minh nói:

– Con chó ấy lợi hại lắm! Tuy vậy cũng chẳng hề chi.

Liền lấy thuốc rít vào vết thương, chờ giây lát lành như cũ.

Nhắc lại Tử Nha bị Triệu Công Minh quăng roi đánh chết, quân sĩ khiêng về phủ, ai nấy đều thất kinh.

Võ vương nghe tin đến thăm, buồn bã vô cùng.

Quảng Thành Tử nói:

– Không bề gì mà sợ. Chẳng qua Tử Nha mắc nạn một buổi thôi.

Liền lấy thuốc tiên đơn hòa với nước, cạy răng Tử Nha đổ vào. Qua một lúc, Tử Nha thấm thuốc tỉnh lại, Tử Nha thấy Võ vương và Quảng Thành Tử đừng bên mình, liền nhớ lại sự việc vừa qua, liền gượng dậy tạ ơn.

Quảng Thành Tử xua tay nói:

– Không cần khách sáo như vậy. Cứ nằm im tịnh dưỡng, để ta ra Lư Bồng xem Triệu Công Minh có đến khiêu chiến nữa chăng?

Dứt lời trở lại Lư Bồng thuật hết mọi việc cho Nhiên Ðăng rõ.

Hôm sau, Triệu Công Minh lại cỡi cọp đến dưới Lư Bồng, mời Nhiên Ðăng ra nói chuyện.

Na Tra vào báo lại.

Nhiên Ðăng dắt mười hai vị Ðạo sĩ cùng ra trận, thấy Triệu Công Minh ngồi trên lưng cọp, mặt hầm hầm sát khí, tướng không phải kẻ tu hành.

Nhiên Ðăng bái chào và nói:

– Ðao hữu mời bần đạo có việc chi?

Triệu Công Minh nói:

– Các ngươi khinh dễ giáo phái ta lắm. Triệt giáo và Xiển giáo cùng là đạo tu hành, Giáo chủ ta và Giáo chủ các ngươi địa vị cũng ngang nhau, tại sao các ngươi bắt Triệu Giang treo trên Lư Bồng làm nhục chúng ta như vậy.

Nói rồi, Triệu Công Minh ngâm lên một bài thơ:

Măng thấp tre cao cách chẳng xa

Ðạo người xét lại cũng như ta

Lá xanh ngó trắng, bông sen thắm

Tam giáo xưa nay cũng một nhà.

Nhiên Ðăng hỏi:

– Khi lập bản Phong thần, đạo huynh có mặt nơi cung Bích Du chăng?

Nhiên Ðăng nói:

– Lúc đó thầy ngươi có nói cho đệ tử biết là trong bản Phong thần có nhiều tên người đạo, lại đặt một đôi liễn để ngoài cửa cung Bích Du, việc này chắc ngươi cũng thấy, sao nay dám cãi lời thầy đến đây tìm họa. Ta tu từ đời Thiên Hoàng đến nay đã thành chánh quả cũng bởi các ngươi sanh sự, nên ta phải xuống đây.

Nói rồi ngâm lên một bài thơ:

Tu đời Bàn Cổ biết bao lâu

Hai khí âm dương luyện một bầu

Ðổi thịt thay da bền tựa đá

Gìn lòng dưỡng tánh sáng như châu

Còn trời còn đất còn thân thể

Mến nước mến non mến nhiệm màu

Ðoái lạ thương người không giữ phép

Hoài công học đạo có hay đâu?

Triệu Công Minh nghe Nhiên Ðăng ngâm như vậy nổi giận nói lớn:

– Ta lại kém gì ngươi sao? Hãy nghe đây.

Nói rồi ngâm một bài thơ:

Xô núi Côn Lôn muốn ngã nghiêng

Dẫu cho Nhật nguyệt cũng theo quyền

Từ khi mới có ta ra mặt

Chưa thấy kẻ nào đáng bậc tiên.

Huỳnh Long chơn nhơn nghe nói nổi giận, cỡi hạc đến hét lớn:

– Triệu Công Minh, ngươi chắc có tên trong bản Phong thần nên khiến ngươi đến đây nạp mạng.

Triệu Công Minh trợn mắt, vội đánh Huỳnh Long một roi, Huỳnh Long đưa gươm ra đỡ. Ðánh đặng ít hiệp, Triệu Công Minh quăng dây Phược Long lên, trói quách Huỳnh Long chơn nhơn thâu về trại.

Xích Tinh Tử thấy Triệu Công Minh bắt Huỳnh Long chơn nhơn đem đi, liền đuổi theo, hét lớn:

– Triệu Công Minh, ngươi chớ vô lễ, hãy nghe ta nói đây:

Luyện đặng trường sanh lánh thị phiền

Chẳng lam danh lợi chẳng ưu phiền

\/ui say trong núi cùng hoa cỏ

Thong thả trên đời bạn với tiên

Cái túi càn khôn thâu mọi vật

Ngọn đèn nhật nguyệt sáng liên miên

Chẳng qua gặp hội Phong thần bảng

Phạm sát từ đây phải dụng quyền.

Xích Tinh Tử ca dứt cầm gươm chém Triệu Công Minh. Ðánh chừng ít hiệp, Triệu Công Minh lấy ra một xâu chuỗi gồm có hai mươi bốn hột gọi là Ðịnh Hải Châu ném lên, chiếu hào quang năm sắc dầu thần tiên có con mắt ngọc cũng phải lòa.

Xích Tinh Tử bị Ðịnh Hải Châu sa nhằm, tinh thần mê loạn, nhào xuống đất.

Triệu Công Minh xông đến quyết đánh một roi, kết liễu tánh mạng, may có Quảng Thành Tử đến kịp, cầm gươm đỡ ra, và nói:

– Triệu Công Minh! Có ta đến đây ngươi hại mạng bạn ta sao được.

Triệu Công Minh thấy Quảng Thành Tử mạnh lắm, nên vừa đánh được vài hiệp cũng quăng Ðịnh Hải Châu lên, khiến Quảng Thành Tử phải nhào xuống đất.

Ðạo Hạnh Thiên tôn trông thấy thất kinh, liền lướt tới cản roi và tiếp ứng, nhưng cũng bi Triệu Công Minh quăng Ðịnh Hải Châu đánh nhào.

Ngọc Ðảnh chơn nhơn và Linh Bửu đại pháp thấy vậy vội xông vào đối địch. Hai người này cũng bị Ðịnh Hải Châu đánh trúng, thất kinh bỏ chạy hết.

Triệu Công Minh nhờ có xâu chuỗi mà một lúc thắng luôn năm vị đại tiên, liền thong thả trở về dinh.

Văn Thái Sư hay tin thắng trận mừng rỡ ra đón tiếp.

Triệu Công Minh nói:

– Tôi vừa bắt được một người bên Xiển giáo, xin phép cho tôi treo nó lên trên một cây cột cao để rửa nhục.

Nói rồi liền vẽ một điệu bùa, giắt trên ót Huỳnh Long chơn nhơn sai quân đem treo lên cột phướng.

Văn Thái Sư dọn tiệc, mời Triệu Công Minh và bốn vị đạo sư chủ trận ăn mừng.

Bên kia, Nhiên Ðăng trở lại Lư Bồng, thấy năm vị đạo tiên theo phò mình đều bị thương, lòng rất hổ thẹn.

Nhiên Ðăng hỏi:

– Năm vị bị vật gì đánh trúng mà mang thương tích?

Linh Bửu đại pháp sư nói:

– Tôi thấy ánh sáng chói lòa và rất nặng sa xuống, không rõ vật chi.

Bốn vị Ðại tiên kia cũng đều nói như vậy.

Nhiên Ðăng trong lòng buồn bực, nhìn qua cột phướng phía trại địch thấy Huỳnh Long chơn nhơn lại bị treo, thật thảm hại.

Ngọc Ðảnh chơn nhơn nói:

– Việc Huỳnh Long chơn nhơn bị treo nhắm không hề chi, để đêm nay tôi sẽ tính.

Mặt trời vừa chen lặn, Ngọc Ðảnh chơn nhơn kêu Dương Tiển:

– Ðêm nay ngươi qua cột phướng tìm cách cứu cho được Huỳnh Long chơn nhơn.

Dương Tiển tuân lệnh, đến canh hai hóa ra một con mối có cánh bay qua đậu bên lỗ tai Huỳnh Long chơn nhơn nói nhỏ:

– Tôi là Dương Tiển vâng lệnh thầy tôi sai qua cứu sư thúc, sư thúc định lẽ nào xin dạy cho tôi rõ.

Huỳnh Long chơn nhơn nói:

– Không khó gì, Triệu Công Minh dán lá bùa nơi ót ta. Ngươi gỡ lá bùa ấy tự nhiên ta trở về được.

Dương Tiển làm y theo lời dạy, Huỳnh Long thoát ra khỏi bùa linh, liền biến hình cùng với Dương Tiển bay về Lư Bồng.

Vào đến nơi, Huỳnh Long chơn nhơn đến tạ ơn Ngọc Ðảnh chơn nhơn.

Các đạo hữu trông thấy đều mừng rỡ.

Còn Triệu Công Minh đang ăn tiệc, xảy thấy Ðặng Trung vào báo:

– Ðạo sĩ bị treo trên cây phướng bỗng nhiên biến mất rồi.

Triệu Công Minh liền đánh tay hiệu rõ sự việc, cười lớn nói:

– Mi trốn bây giờ, nhưng ngày mai không thể nào thoát khỏi tay ta.

Văn Thái Sư nói:

– Chẳng biết Huỳnh Long dùng cách gì trốn thoát?

Triệu Công Minh nói;

– Có kẻ đến cứu nó. Tuy vậy, nó bị tôi bắt trói một ngày cũng đã rửa nhục được.

Hết canh hai tiệc mãn, ai về dinh nấy.

Rạng ngày, Triệu Công Minh lại cỡi cọp đến trước Lư Bồng gọi Nhiên Ðăng ra nói chuyện.

Nhiên Ðăng nói với chư tiên:

– Hôm nay quí vị không nên ra trận chỉ để mình tôi gặp Triệu Công Minh mà thôi.

Chư tiên không hiểu Nhiên Ðăng chủ trương làm sao, nhưng không dám hỏi.

Nhiên Ðăng liền lên lưng hươu, một mình lướt ra, các vị đại tiên đứng trên Lư Bồng không an lòng, chú ý theo dỏi chiến trận.

Triệu Công Minh thấy một mình Nhiên Ðăng cỡi hươu ra, lòng hung hăng cũng giảm bớt phần nào, ôn tồn hỏi:

– Dương Tiển có tài biến hóa, giải cứu được Huỳnh Long, sao ngươi không bảo ra đây cho ta xem thử?

Nhiên Ðăng nói:

– Ðạo hữu độ lượng hẹp lắm. Việc ấy không phải tại Dương Tiển tài năng, mà do hồng phước của Võ vương, và đức lớn của Khương Thượng.

Triệu Công Minh nổi giận nói:

– Ngươi đặt điều mê hoặc thiên hạ. Những câu giáo điều ấy thật đáng ghét lắm.

Nói rồi đánh tới một roi, Nhiên Ðăng đưa gươm ra đỡ. Ðánh chừng vài hiệp, Triệu Công Minh quăng Ðịnh Hải Châu lên.

Nhiên Ðăng xem thấy hào quang năm sắc, không rõ vật gì, biết là bửu bối lợi hại, liền giục hươu chạy về hướng Tây Nam.

Triệu Công Minh cỡi hùm đuổi theo.

Nhiên Ðăng chạy một lúc thì đến chân núi kia, thấy có hai vị Ðạo sĩ trẻ tuổi. Một người mặc áo xanh, một người mặc áo đỏ, đang ngồi dưới cội tòng mà đánh cờ.

Hai người thấy Nhiên Ðăng cỡi hươu chạy như trối chết liền gạn hỏi sự tình.

Sau khi nghe trình bày mọi việc, đạo sĩ áo xanh nói:

– Ðừng sợ gì cả. Ðạo trưởng hãy đứng đây mà nghỉ, để chúng tôi đón Triệu Công Minh cho.

Bỗng thấy Triệu Công Minh cởi cọp đuổi theo như tên bắn, đạo sĩ áo đỏ bước ra cản lại và ngâm:

Khá thương da thịt chẳng lâu đời

Một điểm hồn linh chẳng đổi dời

Tính tục dường như bèo dưới nước

Lòng tiên khác thể nguyệt trên trời

Tinh thần gẩm lại là phần thiệt

Danh lợi xem qua hẳn cuộc chơi

Ðức hạnh không gìn sao trọn đạo?

Hoài công tu luyện thả dòng khơi.

Triệu Công Minh nghe bài ca liền hỏi:

– Hai người là ai vậy?

Người mặc áo xanh và người mặc áo đỏ nghe hỏi cười ha hả.

– Triệu Công Minh. Ngươi thật không xứng đáng với chữ thần tiên tí nào cả, gặp hai ta mà không biết sao.

Nói rồi hai người ngâm bài thơ:

Nực cười họ Triệu gọi tiên gia

Tìm đến non thần chẳng biết ta

Lửa đỏ sen vàng âu hẳn phép

Núi xây mây bạc ấy là nhà

Một bầu rượu cúc ngồi xem nguyệt

Ba thước tơ đồng khảy nhám hoa

Khi rảnh cuộc cờ tranh thắng bại

Cỡi rồng có lúc dạo phương xa.

Ngâm xong hai người lại nói:

– Hai ta ở núi Ngũ Di, tên là Tiêu Thăng và Tào Bửu. Anh em ta đang đánh cờ giải muộn, xảy thấy Nhiên Ðăng hơ hải chạy đến nói rằng, ngươi ỷ thế đuổi người, nên anh em ta ra đây hỏi xem ngươi tài cán bao nhiêu mà dárn nghịch ý trời đánh chơn chúa?

Triệu Công Minh nổi giận hét:

– Hai ngươi được bao nhiêu sức lực mà dám tỏ lời khinh miệt ta như vậy?

Nói rồi quất tới một roi. Hai anh em Tiêu Thăng vào Tào Bửu cũng rút gươm ra đỡ.

Hai bên đánh nhau được năm hiệp.

Triệu Công Minh quăng dây Phược Long lên.

Tiêu Thăng trông thấy cười ha hả nói:

– Sợi dây ở đâu mà đẹp thế?

Dứt lời liền lấy đồng tiền vàng trong túi liệng lên. Nguyên đồng tiền này gọi là Lạc Bửu có hai cạnh, khi Tiêu Thăng liệng lên thì sợi dây Phược Long rớt xuống ngay.

Tào Bửu xem thấy bước đến lượm sợi dây lên.

Triệu Công Minh tức giận hét:

– Yêu nghiệt! Ngươi cả gan dám phá phép báu của ta à?

Dứt lời lấy Ðịnh Hải Châu quăng lên.

Tiêu Thăng cũng quăng Lạc Bửu lên đánh Ðịnh Hải Châu rơi xuống đất.

Tào Bửu cũng bước đến lượm xâu chuỗi báu bỏ vào bọc.

Triệu Công Minh mất hai báu vật một lúc, tức giận vô cùng liền lấy roi thần quăng lên hào quang sáng lòa.

Tiêu Thăng cứ tưởng báu vật này cũng như hai món trước, nên không đề phòng, chỉ việc ném Lạc Bửu lên. Không ngờ roi thần là một loại báu vật, Lạc Bửu tiền không làm gì được, nên roi thần rơi xuống quất trúng đầu Tiêu Thăng bể hai.

Tào Bửu thấy bạn chết, máu giận sôi lên, quyết đem hết sức mình ra báo thù cho bạn. Nhiên Ðăng thấy vậy than:

– Hai người đang vui cuộc, vì ta mà sanh lụy.

Dứt lời quăng Càn Khôn Xích lên đánh với Triệu Công Minh.

Hai người đánh nhau được hai mươi hiệp, Triệu Công Minh bị Càn Khôn Xích đánh trúng đầu suýt nhào xuống ngựa, nén bỏ chạy về dinh.

Nhiên Ðăng quay ngựa lại, đến chỗ Tiêu Thăng bước xuống hươu, nói:

– Bần đạo nhờ hai đạo huynh cứu mạng, nhưng chẳng may người mặc áo đỏ bỏ mạng. làm cho bần đạo đau đớn vô cùng. Xin đạo huynh cho bần đạo biết danh hiệu.

– Tôi là Tào Bửu, anh bạn tôi là Tiêu Thăng, cùng nhau ở núi Ngũ Di. Chúng tôi thấy việc bất công nên ra sức cản lại chẳng ngờ Tiêu Thăng bỏ mạng làm cho tôi căm tức vô cùng.

Nhiên Ðăng nói:

– Lúc nãy Tiêu Thăng quăng báu vật thâu được hai bửu bối của Triệu Công Minh, nhưng không biết hai vật đó là hai món gì?

Tào Bửu nói:

– Báu vật của Tiêu Thăng là Lạc Bửu tiền, còn hai món của Triệu Công Minh là thứ gì tôi không biết.

Nói rồi, Tào Bửu thò vào túi lấy hai báu vật của Triệu Công Minh đưa cho Nhiên Ðăng.

Nhiên Ðăng trông thấy xâu chuỗi, vỗ tay mừng rỡ nói:

– Nay thấy báu vật này thì ta thành đạo rồi!

Tào Bửu ngơ ngác hỏi:

– Vì cớ gì đạo huynh mừng rỡ quá vậy?

Nhiên.Ðăng nói:

– Báu vật này gọi là Ðịnh Hải Châu, xưa chiếu sáng cung Huyền Ðô nơi Thái Thượng lão quân ở, về sau mất tích không biết lọt về tay ai. Không ngờ nó lại lọt vào tay Triệu Công Minh. Nhưng rất may được Tiêu Thăng thâu về, khiến cho bần đạo mừng vô hạn.

Tào Bửu nói:

– Nếu vậy thì xin đạo huynh cất nó mà dùng.

Nhiên Ðăng khiêm tốn nói:

– Nhưng tôi nào có công gì mà được cất báu vật ấy.

Tào Bửu nói:

– Của nào có chủ nấy, quí vật tìm quí nhơn. Ðạo huynh biết sử dụng thì cất nó mà dùng, chứ tôi có cất cũng vô ích.

Nhiên Ðăng mừng rỡ, cất Ðịnh Hải Châu vào túi da, rồi cùng Tào Bửu chôn cất Tiêu Thăng.

Chôn cất xong, Nhiên Ðăng mời Tào Bửu về Tây Kỳ với mình.

Hai người về đến Lư Bồng, các tiên mừng rỡ đồng ra nghênh tiếp.

Nhiên Ðăng đem mọi chuyện thuật lại cho các tiên nghe rồi nói:

– Phép báu mà Triệu Công Minh quăng lên làm cho tất cả các người đều tiêu hồn lạc phách đó là xâu chuỗi này. Nó được gọi là Ðịnh Hải Châu.

Vừa nói, Nhiên Ðăng vừa lấy xâu chuỗi đưa cho mọi người xem.

Nói về Triệu Công Minh bị Nhiên Ðăng đánh trúng đầu, lại bị mất Phược Long sách và Ðịnh Hải Châu, lòng kinh hãi cỡi cọp về đến trại đã gặp Văn Trọng ra đến và hỏi:

– Mọi việc như thế nào?

Triệu Công Minh thở dài, cúi mặt xuống đất không nói.

Văn Thái Sư ngạc nhiên, đến sát bên dò hỏi đôi ba lần.

Triệu Công Minh hét lớn:

– Từ xưa đến giờ nay ta mới biết thất trận. Khi ta đuổi theo Nhiên Ðăng, bỗng gặp hai đạo sĩ tên là Tiêu Thăng và Tào Bửu ra đón đường đánh lấy mất Phược Long sách và Ðịnh Hải Châu. Xưa nay ta luyện được phép là nhờ Ðịnh Hải Châu. Nay báu vật bị mất thì chắc là ta không còn sử dụng thứ gì được. Vậy Trần Cửu Công và Dao Thiếu Tư ở đây chờ ta đi Tam Tiên Ðảo vài ngày sẽ trở lại.

Văn Thái Sư hỏi:

– Xin đại huynh về sớm kẻo chúng tôi mong đợi.

Triệu Công Minh nói:

– Chừng ba tiếng đồng hồ là ta trở lại đây ngay.

Nói rồi vỗ vào tai cọp bay thẳng lên mây nhắm Tam Tiên Ðảo thẳng tới.

Chỉ trong một giờ Triệu Công Minh đã đến Tam Tiên Ðảo, bước xuống lưng cọp, đến trước cửa động đằng hắng vài tiếng. Tức thì cửa động mở ra và một tiểu đồng bước ra mừng rỡ nói:

– Tưởng ai xa lạ, nào ngờ đại lão gia.

Nói rồi chạy vào trong bảo với ba vị nương nương.

Ba tiên cô đồng ra tiếp rước, và nói:

– Xin mời huynh trưởng vào thính đường

Triệu Công Minh cùng hai em gái mình vào động.

Vân Tiêu tiên cô thưa:

– Ðại huynh đi đâu ghé vào đây?

Triệu Công Minh nói:

– Văn Thái Sư phạt Tây Kỳ không nổi, nên thỉnh ta trợ chiến ra đánh thắng mấy trận, dùng Ðịnh Hải Châu thắng luôn sáu vị đại tiên một ngày. Sau đó Nhiên Ðăng đại nhơn ra khoe tài. Ta cũng dùng Ðịnh Hải Châu đánh nữa. Nhiên Ðăng kinh hãi bỏ chạy ta rượt đến cùng đường, xảy gặp Tiêu Thăng và Tào Bửu là hai tên vô danh, ta khinh thường nên Ðịnh Hải Châu và Phược Long sách bị rơi vào tay chúng. Ta nghĩ lại báu vật ấy mà mất đi thì uổng lắm.

Nên phải đến ba em mượn Kim Dao Tiên, hoặc Hỗn Nguyên Ðấu để đoạt báu vật lại.

Vân Tiêu tiên cô lắc đầu nói:

– Ðại huynh ơi! Việc này chẳng nên tranh đấu. Trước đây Tam giáo ghi bản Phong thần trong đó Triệt giáo ta bị biên tên nhiều lắm, nên vị giáo chủ ta có dán đôi liễn ngoài cửa Cung Bích Liêu, khuyên tín đồ Triệt giáo phải lấy đức răn mình. Như vậy, anh em ta không nên tranh với các chúa, đợi Tử Nha phong thần rồi sẽ luận việc thấp cao. Anh nên tạm lui về núi Nga Mi, còn xâu chuỗi sau này sẽ bảo Nhiên Ðăng trả lại. Tuy tình ruột thịt, em không muốn cho anh mượn báu vật của em.

Triệu Công Minh nói:

– Chúng ta là anh em ruột thịt, lẽ nào anh đến mượn mà em không cho.

Vân Tiêu tiên cô nói:

– Chẳng phải em dám tiếc, sợ anh nóng nảy chống lại mọi định đoạt của giáo chủ ta mà gây việc chẳng lành trong lúc hội Phong Thần đang mở.

Triệu Công Minh nói:

– Em luận sai rồi. Sở dĩ có hội Phong thần này là vì Xiển giáo độc tài, cho mình là chính đạo, muốn áp đảo các giáo khác. Vì giáo chủ chúng ta bị hai giáo hệ kia lấn áp, thực tình không thể nào nhân nhượng như vậy được. Em thử nghĩ, giới tiên gia cùng là những kẻ tu hành, đi tìm huyền cơ của tạo hóa thì kẻ tu trước, người tu sau cùng đi một con đường thành đạo. Tại sao lại đặt ra hội Phong thần, sát hại một số người non nớt mà Xiển giáo gọi là thiếu đức hạnh, bắt phải làm thần để họ sai khiến? Như thế thật là trái với lẽ công bình. Còn nếu muốn bắt một số người để sai khiến thì ba giáo đạo phải đưa ra một số người bằng nhau, tại sao lại bắt giáo đạo của chúng ta gánh chịu hai phần, có phải là Xiển giáo đã khinh miệt Triệt giáo của chúng ta không?

Vân Tiêu tiên cô nói:

– Ðó là công việc của vị Giáo chủ chúng ta. Vị Giáo chủ chúng ta đã họp bàn với tam giáo, và đã thỏa thuận thư vậy, chẳng lẽ chúng ta chống lại.

Triệu Công Minh cười lớn nói:

– Không có một vị giáo chủ nào muốn cho tín đồ mình thua sút các giáo phái khác. Việc này anh chắc chắn rằng vị Giáo chủ chúng ta bị hai giáo phái kia áp chế, buộc lòng phải để tín đồ mình thiệt hại. Vả lại chúng ta không chống với Giáo chủ chúng ta mà chỉ chống lại sự bất công, áp bức mà thôi.

Vân Tiêu tiên cô nói:

– Anh bướng bỉnh lắm, sau này sẽ không hối hận được nữa.

Triệu Công Minh than:

– Anh em một nhà mà tư tưởng còn chống đối nhau như vậy huống chi người ngoài.

Dứt lời làm mặt giận quay lưng ra đi. Ðến cửa động, Triệu Công Minh ngâm:

Cơn ngặt thà nhờ tay bạn khác

Thời suy khó mượn của anh em.

Ba vị tiên cô nghe anh mình than thở như vậy cũng động lòng. Bích Tiêu tiên cô nửa muốn cho mượn, nhưng lại sợ chị mình khiển trách, nên phải làm thinh nhìn theo.

Triệu Công Minh hằn học cỡi cọp phóng ra khỏi động, cách vài dặm đường, bỗng nghe sau lưng có tiếng người réo:

– Triệu đạo huynh!

Triệu Công Minh quay đầu lại thấy người gọi mình là Hạm Chi tiên cô, liền hỏi vội:

– Tiên cô gọi tôi có việc gì chỉ giáo?

Hạm Chi tiên cô hỏi:

– Ðạo huynh đì đâu mà coi bộ giận dữ vậy?

Triệu Công Minh thuật chuyện mất Ðịnh Hải Châu, và đi mượn bửu bối của ba em mình, cũng không được, đành phải sang núi khác để tìm cách báo thù.

Hạm Chi tiên cô cau mày, hé hàm răng ngọc, đôi mắt lay láy nhìn Triệu Công Minh nói:

– Có lẽ nào như vậy! Của trong nhà không mượn lại đi tìm của người dưng. Vậy thì đạo huynh theo tôi vào động, tôi vì đạo huynh mà can thiệp thử.

Triệu Công Minh đi với Hạm Chi tiên cô trở về động Tam cô. Ðồng nhi trông thấy vào báo:

– Ðại lão gia trở lại nữa.

Ba chi em đồng ra nghinh tiếp, và rước Hạm Chi tiên cô vào động.

Hạm Chi tiên cô hói:

– Ðạo huynh là anh cả của ba vị nương nương, nay có việc lẽ nào ba vị nương nương bỏ tình cốt nhục? Người ta đã đoạt hai báu vật của đạo huynh, lẽ ra ba vị nương nương phải ra sức lấy về cho anh mình mới phải, tại sao lại ngoảnh mặt làm ngơ? Nếu để đạo huynh đi mượn phép người khác mà thâu hai báu vật kia, thì sau ba chị em còn nhìn mặt anh mình sao được? Cốt nhục mà chẳng thương nhau, người ngoài ai tưởng đến.

Bích Tiêu nói với Vân Tiêu:

– Thôi chị cho đại huynh mượn Kim Ðao Tiển đề thâu Ðịnh Hải Châu về.

Vân Tiêu ngồi ngẫm nghĩ rồi nói:

– Người ta đoạt báu vật của mình, mình đòi lại là phải lẽ, nhưng đại huynh giúp Thái Sư Văn Trọng, phò Trụ diệt Châu trái lý, vì Trụ là vua bạo ngược, Châu là vị Minh quân.

Triệu Công Minh cãi:

– Anh không phò Trụ diệt Châu mà anh giúp cho muôn dân nhà Thương khỏi sa vào vòng binh lửa.

Vân Tiêu tiên cô nói:

– Anh lý luận thế nào em không hiểu?

Triệu Công Minh nói:

– Rất giản dị! Trụ vương là một hôn quân, bỏ đi là phải, nhưng dân chúng nhà Thương không phải là đám người bạo tàn như vua Trụ, tại sao giúp một Võ vương mà phải gây việc chiến tranh làm cho trăm họ thác oan, muôn dân đổ máu, giày xéo cỏi trần cho tan nát? Nếu kẻ nào tự cho mình là thần thông quảng đại thích nhơn đạo, ưa công bình thì chẳng bao giờ chủ trương như vậy. Cho nên, chúng ta đem tài đấu tranh không phải giúp Trụ, mà chống lại mọi chủ trương làm xáo trộn thế gian.

Hạm Chi tiên cô xen vào nói:

– Triệu đại huynh nói phải lắm. Rất đỗi tôi là đàn bà, còn luyện phép để giúp Văn Thái Sư.

Vân Tiêu tiên cô thở dài, ngồi làm thinh một lúc, cực chẳng đả phải đưa Kim Dao Tiển cho Triệu Công Minh và dặn:

– Anh đem Kim Dao Tiển về nói với Nhiên Ðăng, nếu Nhiên Ðăng chịu trả Ðịnh Hải Châu lại thì thôi, bằng không sẽ quăng Kim Dao Tiển để tranh tài. Tôi đoán chắc đại huynh phân phải trái thì Nhiên Ðăng không đời nào không nghĩ đến thiệt hơn.

Triệu Công Minh gật đầu lấy Kim Dao Tiển cất vào túi miệng chúm chím cười.

Hạm Chi tiên cô nói:

– Ðạo huynh đi trước, tôi luyện xong phép rồi cũng đến sau.

Triệu Công Minh từ giã, cỡi cọp ra khỏi động, nhắm thành Tây Kỳ thẳng tới.

Ðến nơi, Văn Thái Sư ra tiếp đón, và hỏi:

– Ðạo huynh đi mượn phép gì ở đâu vậy?

Triệu Công Minh nói:

– Tôi đi qua Tam Tiên Ðảo mượn Kim Dao Tiển của em tôi, báu vật này lợi hại lắm, thế nào ngày mai tôi cũng lấy Ðịnh Hải Châu lại.

Văn Thái Sư mừng rỡ dọn tiệc đãi đằng.

Hai người uống rượu cho đến hết canh hai mới đi ngủ.

Rạng ngày, Văn Thái Sư truyền phát pháo, dẫn tướng ra trước dinh, còn Triệu Công Minh đến trước mặt thành gọi Nhiên Ðăng ra nói chuyện..

Na Tra vào báo Nhiên Ðăng đánh tay đoán trước được sự việc nên nói với chư tiên:

– Triệu Công Minh đã mượn được Kim Dao Tiển trở lại đây phục thù. Quý đạo hữu chớ ra trận, để mình tôi định liệu.

Nói rồi cỡi hươu xông ra.

Triệu Công Minh thấy mặt Nhiên Ðăng hầm hầm nổi giận, hét to:

– Nhiên Ðăng! Trả Ðịnh Hải Châu cho ta thì muôn việc đều yên, còn không ta quyết với ngươi một còn một mất.

Nhiên Ðăng nói:

– Xâu chuỗi ấy là báu vật của thần, nên nay khiến về tay ta. Còn ngươi là tả đạo bàng môn, có uy đức gì mà dùng nó.

Triệu Công Minh nói:

– Ngươi không trả xâu chuỗi ấy, ta e rằng khó tròn.

Nói rồi giục cọp tới chém Nhiên Ðăng.

Nhiên Ðăng đưa gươm ra đỡ, hai người đánh nhau nhưng vẫn cầm đồng.

Triệu Công Minh nổi giận quăng Kim Dao Tiển lên trời, hào quang muôn trượng chiếu sáng lòa, thật là một báu vật chưa từng thấy.

Hồi 48: Lục Yểm lập kế bắt Triệu Công Minh

Triệu Công Minh quăng Kim Dao Tiển là một vũ khí lợi hại, do cặp cù vàng luyện thành. Hai con cù vàng hai đầu giao lại thành hai lưỡi kéo sắc bén phi thường, dầu thần tiên mà bị kéo ấy xắt nhằm thì cũng phải bỏ mạng.

Nhiên Ðăng trông thấy Kim Dao Tiển từ trên không sa xuống hào quang sáng lòa, thất kinh bỏ con hươu mình cỡi, nhảy xuống đất độn thổ chạy trốn.

Kim Dao Tiển bay xuống, hai lưỡi cắt đứt đầu con hươu chết tươi.

Triệu Công Minh thấy Nhiên Ðăng bỏ trốn, giận quá chửi rủa một hồi, rồi trở về dinh.

Nhiên Ðăng độn thổ về đến Lư Bồng, chư tiên xúm lại hỏi thăm.

– Kim Dao Tiển ra thế nào?

Nhiên Ðăng lắc đầu nói:

– Bửu bối nay quả thật lợi hại. Nó từ trên không sa xuống, hai lưỡi kéo như hai con rồng, hào quang sáng lòa. Ta độn thổ bỏ chạy kéo ấy xắt đứt đầu con hươu ta cỡi.

Các tiên nghe nói ai nấy đều kinh hãi, không biết làm cách nào để cự với Triệu Công Minh.

Bỗng có Na Tra đến trước Lư Bồng xin ra mắt, và thưa:

– Có một đạo sĩ không biết từ động nào đến đây, xin vào ra mắt chư tiên.

Nhiên Ðăng lập tức mời vào.

Ðạo sĩ bước đến xá mọi người và nói:

– Tôi xin chào quí đạo hữu.

Nhiên Ðăng đáp lễ và hỏi:

– Chẳng hay đạo hữu ở động nào, núi nào?

Ðạo sĩ nói:

– Tôi là người thong thả ở núi Côn Lôn, họ Lục tên Yểm. Bởi Triệu Công Minh ra phò Trụ, đánh phá Tây Kỳ, nên tôi đến đây giúp sức trừ cho được Triệu Công Minh.

Chư tiên nghe nói đều mừng rỡ, còn Lục Yểm không nói năng gì cả cứ ngồi yên đó đến sáng.

Sáng ngày, Triệu Công Minh cỡi cọp đến trước Lư Bồng khiêu chiến, gọi tên Nhiên Ðăng nói khích:

– Nhiên Ðăng. Ngươi khoe mình tài cao, phép lạ sao hôm nay trốn thục mạng như vậy?

Na Tra liền vào bảo với Nhiên Ðăng.

Lục Yểm nói:

– Xin cho tôi ra trước, xem Triệu Công Minh hung dữ thế nào.

Nhiên Ðăng nhậm lời.

Lục Yểm ra khỏi Lư Bồng; Triệu Công Minh đang diệu võ dương oai, bỗng trông thấy một đạo sĩ lùn tịt, mình mặc hồng bào, đầu đội mão đuôi cá, tay cầm gươm bước ra ca:

Chẳng mến công danh ở cõi trần

Vui chơi nước thánh với non thần

Ngâm thơ, đọc phú, thông cơ tạo

Dâu bể từng xem biết mấy lần.

Triệu Công Minh hỏi:

– Ðạo sĩ lùn kia là ai?

Lục Yểm nói.

– Triệu Công Minh! Ngươi không biết ta cũng phải. Hãy nghe mấy lời này.

Luyện nên phép nhệm rất anh linh,

Chẳng phải thần tiên phong phải tinh

Không đến Ngọc Hư cầu đạo thuật

Chẳng theo Lão Tử học trường sinh

Hạc, nai, rồng, cọp hằng nâng gót

Thơ, rượu, đờn, ca cũng phỉ tình

Ngươi chửa tỏ tường không lẽ giấu

Ta nay tìm đến hại Công Minh.

Triệu Công Minh nghe nói ngơ ngác hỏi:

– Nói như vậy ngươi không phải Xiển giáo cũng không phải Lão giáo, vậy ngươi là ai?

Lục Yểm nói:

– Ngươi không cần biết căn cội ta làm gì. Ta đứng ngoài tam giáo, tên Lục Yểm.

Triệu Công Minh nói:

– Nếu vậy tôi cùng đạo hữu không có thù hận gì, xin chớ làm mất lòng nhau. Hãy để Nhiên Ðăng ra đây đấu phép với tôi.

Lục Yểm nói:

– Ta đã xuống đây hại ngươi, sao lại gọi là không thù hận?

Triệu Công Minh nổi giận hét:

– Tài cán chi ngươi mà dám khua môi? Tiếc rằng ta không biết ngươi là đệ tử của giáo phái nào?

Nói rồi vung gươm chém tới. Lục Yểm đưa gươm ra đỡ. Ðánh được năm hiệp, Triệu Công Minh quang Kim Dao Tiển lên cao, hào quang muôn trượng chiếu thẳng vào mình Lục Yểm.

Lục Yểm nói lớn:

– Lợi hại thật!

Nói rồi hóa thành một cái mống dài, bay mất.

Triệu Công Minh chửi thầm:

– Yêu quái! Sao không đứng đó mà chịu chết!

Nói rồi giục cọp trở về dinh.

Thật ra, trận này không phải Lục Yểm cố tình ra đấu chiến với Triệu Công Minh. Nên lúc về đến Lư Bồng, chư tiên hội lại hỏi thăm.

Lục Yểm nói:

– Tôi ra trận coi cho biết mặt Triệu Công Minh, để làm đồ hình, giúp Tử Nha hại nó cho chết mà thôi. Không cần phải giết nó ngoài trận.

Nói rồi gọi Tử Nha đến, lấy trong giỏ hoa ra một cuốn sách có bùa chú ấn giải rõ ràng, dặn:

– Ngươi hãy đến cất một cái dinh nhỏ tại núi Kỳ Sơn, trong dinh đắp một cái đài cho tử tế, rồi bện một con bù nhìn bằng cỏ, viết ba chữ: Triệu Công Minh để trước bụng. Trên đầu, dưới chân đều thắp đèn, làm phép, đốt bùa mỗi ngày ba bận. Ðúng hai mươi mốt ngày ta sẽ tới trợ ngươi giết chết Triệu Công Minh.

Tử Nha vâng lệnh, sai Nam Cung Hoát và Võ Kiết dẫn ba ngàn quân đến núi Kỳ Sơn lập đài, bện bù nhìn để trù yếm.

Công việc hoàn thành, Tử Nha lên đài, bỏ tóc xõa, cầm gươm, đốt bùa, niệm chú, làm theo lời dạy của Lục Yểm.

Ðược ba ngày, Triệu Công Minh ở tại dinh Thương cảm thấy lòng nóng như lửa đốt, gan tợ dầu sôi, nóng nảy trong người ngồi đứng không an, cứ đi lẩn quẩn, hết chỗ này đến chỗ khác. Văn Thái Sư không rõ cớ gì, lòng buồn bực.

Khi ấy, vị chủ trận Ðịa Liệt là Bạch Lễ vào ra mắt Văn Thái Sư nói:

– Tôi coi Triệu đạo huynh lòng hoảng hốt không an, vậy xin để Triệu đạo huynh ở trong dinh dưỡng bệnh. Tôi bày trận Liệt Diệm cho họ phá.

Văn Thái Sư nói:

– Xin đạo huynh hoãn lại việc lập trận, để tôi tìm mưu kế khác.

Bạch Lê không vui, nói:

– Chúng tôi lập mười trận, bị chúng phá hết sáu, nay còn bốn trận, chẳng lẽ ngồi nhìn.

Nói rồi về trận gióng chuông cỡi hươu đến Lư Bồng khiêu chiến.

Nhiên Ðăng được tin, vội họp chư tiên bàn luận.

Bên ngoài, Bạch Lễ đợi lâu, kêu lớn:

– Ðệ tử cung Ngọc Hư không ai dám ra phá trận của ta sao?

Các tiên lẳng lặng làm thinh.

Nhiên Ðăng bối rối vì không biết sai ai vào trận hy sinh trước.

Lục Yểm thấy vậy hỏi:

– Bạch Lễ lập trận gì đó?

Nhiên Ðăng nói:

– Trận ấy là trận Liệt Diệm.

Lục Yểm cười rằng:

– Ðể tôi đi phá thử.

Nhiên Ðăng chưa có ý kiến gì, thì Lục Yểm đã cầm gươm bước xuống Lư Bồng, ca rằng:

Khói đen ráng đỏ chói không trung

Quá giấc xem qua nhật đã hồng

Trưa dạo năm non qua biển Bắc

Chiều chơi bốn biển dạo non Bồng

Gió làng phơ phất ngoài muôn dặm

Trăng rạng làu làu, ngập mấy sông

Danh lợi trần ai, ai bó buộc?

Nương rồng cỡi hạc dạo Tây Ðông.

Bạch Lễ nghe ca, liền hỏi:

– Ngươi là ai đó?

Lục Yểm nói:

– Bần đạo là Lục Yểm, vào phá trận Liệt Diệm của ngươi đây.

Bạch Lễ nổi giận vung gươm đến chém. Ðánh được mười hiệp, Bạch Lễ chạy vào trận.

Lực Yểm nghe tiếng chuông thúc trên đài Lư Bồng, mỉm cười đuổi theo.

Bạch Lễ thấy Lục Yểm vào trận, liền lên đài rung phướng đỏ, tức thì trong trận lửa dậy phừng phừng.

Lục Yểm là lửa sinh ra, không sợ lửa, cho nên lửa tam muội cháy rần rật suốt hai tiếng đồng hồ vẫn như không.

Ðã vậy Lục Yểm còn ngâm lớn:

Thân thể sanh thành lớp Toại nhân

Ở trong Tam muội dưỡng tinh thần

Xem qua Liệt Diệm như lầu cát

Bạch Lễ rung cờ mát thấu gân.

Bạch Lễ nghe ca thất kinh, xem lại thấy Lục Yểm ngồi xếp bằng trong lửa, tay cầm bầu phép gì không biết mà phát ra ba trượng hào quang, trên ngọn hào quang có một vật chừng bảy tấc, đủ cả chân tay, mặt mày. Hai con mắt vật ấy chiếu ra hai luồng ánh sáng chụp lên đầu Bạch Lễ, làm cho Bạch Lễ hôn mê bất tỉnh, ngã xuống, Lục Yểm bái một cái, Bạch Lễ rụng đầu.

Lục Yểm cầm hồ lô bước ra khỏi trận, thung dung như không có việc gì xảy ra hết.

Xảy nghe có tiếng gọi lớn sau lưng:

– Lục Yểm chớ trốn chạy, có ta đến đây.

Lục Yểm quay lại thấy người gọi mình là Dao Tân, chủ trận Mê Hồn, mặt vàng như nghệ, tay cầm gươm đuổi theo.

Nhiên Ðăng thấy vậy nói với Tử Nha:

– Trận Mê Hồn lợi hại lắm, phải sai Phương Tướng vào trước mới được.

Tử Nha y lệnh, truyền Phương Tướng phá trận.

Phương Tướng tay cầm kích xông ra hét lớn:

– Ta vâng lệnh Thừa Tướng vào phá trận Mê Hồn của ngươi đây.

Dao Tân thấy Phương Tướng người cao lớn, mạnh bạo nên chẳng dám cự lâu, đánh qua loa vài, hiệp rồi bỏ chạy vào trận.

Phương Tướng nghe chuông giục vội vàng giục ngựa đuổi theo, Dao Tân liền lên đài hốt hắc sa vãi xuống, Phương Tướng chỉ kịp ré lên một tiếng hồn phách bay lên đài Phong thần.

Dao Tân giết Phương Tướng rồi cỡi hươu ra trận gọi lớn:

– Nhiên Ðăng! Ngươi là kẻ thần thông phép tắc, nỡ nào sai kẻ phàm tục vào trận chết oan. Nếu có giỏi thì sai người của Xiển giáo vào đây so tài cao thấp.

Nhiên Ðăng liền sai Xích Tinh Tử ra phá trận.

Xích Tinh Tử tuân lệnh, lướt lới ngâm rằng:

Cớ nào nay được bậc thần tiên

Kiếp trước tu hành lẽ tự nhiên

Ðạo hạnh thấm nhuần không trái luật

Tánh tình rèn tập quyết không thiên

Minh minth biển khổ nương bể báu

Vòi vọi cao xanh thấu cửa hiền

Ðược phép trường sanh ngoài thế sự

Chân trời mặt bể thú vui riêng.

Xích Tinh Tử ca rồi gọi Dao Tân:

– Hôm trước ngươi thu hồn phách của Tử Nha ta có vào trận này lấy vía hai lần. Nay ngươi giết Phương Tướng nữa, tội ấy ta không thể bỏ qua.

Dao Tân cười lớn:

– Thằng ăn cướp! Thái cực đồ là báu vật của Lão Tử còn phải vào tay ta thay, huống hồ phép tắc của Cung Ngọc Hư, ta không sợ.

Xích Tinh Tử nói:

– Ngươi không sợ sợ oai hùm, chính là số trời định ngươi phải mang họa lớn đấy.

Dao Tân nổi xung đánh một giản, Xích Tinh Tử khen:

– Hay lắm!

Ðánh được ít hiệp. Dao Tân chạy vào trận Mê Hồn, Xích Tinh Tử nghe tiếng chuông thúc sau lưng liền xông vào cửa.

Vì Xích Tinh Tử ba lần đến trận dữ này nào phải chủ ý đề phòng liền hiện mây lành che đầu, vào mặc áo tiên che thân.

Dao Tân lên đài bưng một đấu hắc sa vãi vào mặt Xích Tinh Tử.

Xích Tinh Tử nhờ có áo phép che thân, mây lành che mặt nên hắc sa không sao trúng vào mình được.

Dao Tân thấy phép không hiệu nghiệm, muốn nhảy xuống giao công, chẳng ngờ Xích Tinh Tử chiếu kiếng âm dương vào mặt Dao Tân làm cho Dao Tân hôn mê.

Xích Tinh Tử chấp tay vái về núi Côn Lôn và nói:

– Ngày nay đệ tử phạm tội sát sanh.

Nói rồi cầm gươm linh chém lấy thủ cấp, rồi xách luôn Thái cực đồ ra khỏi trận, đem trả cho Lão Tử.

Bấy giờ Thái Sư Văn Trọng thấy Triệu Công Minh mê mà không để ý đến việc binh cơ, nên hai trận bị phá một lượt mà Văn Trọng không hay. Ðến chừng nghe quân báo, Văn Trọng mới giậm chân chắt lưỡi than:

– Không dè các bạn vì ta mang họa.

Liền cho mời hai vị tiên chủ trận còn lại là họ Trương và họ Vương đến.

Khi hai vị tiên đến nơi, Văn Trọng buồn bả nói:

– Tôi vâng lệnh chúa, quyết trả ơn vua, chứ các đạo hữu có can chi má phải lâm nạn. Tôi đau lòng lắm, khôn sao chịu nổi.

Bấy giờ Triệu Công Minh nằm ngủ mê man ngáy pho pho.

Tử Nha làm phép đã nửa tháng rồi nên Triệu Công Minh mới thấy trong người bị quyện như vậy, Văn Trọng vào gọi mấy lần, Triệu Công Minh mới cựa mình.

Văn Trọng hỏi:

– Ðạo huynh là bậc thần tiên, sao lại ngủ mê man như thế?

Triệu Công Minh nói:

– Tôi có ngủ đâu?

Hai vị chủ trận thấy Triệu Công Minh mê sảng như vậy liền nói với Thái Sư Văn Trọng:

– Chúng tôi thấy Triệu đạo huynh mê man, hình như bị ai trù yếm là phải. Văn Thái Sư hãy xủ quẻ xem thử.

Văn Thái Sư nghe nói lấy tiền gieo quẻ, rồi thất kinh nói:

– Lục Yểm dùng sách Ðinh Ðầu Bất Thư làm phép tại Kỳ Sơn, quyết bắt Triệu đạo huynh cho chết. Bây giờ biết tính làm sao?

Vương Diệc nói:

– Nếu Lục Yểm trù yếm thế nào cũng lập đàn ở Kỳ Sơn, chúng ta đến đó cướp đoạt Thất Thư thế nào cũng cứu Triệu đạo huynh được.

Thái Sư Văn Trọng nói:

– Không được đâu. Chúng nó đã làm phép thì việc gìn giữ trù đài nghiêm ngặt lắm, nếu chúng ta đương trường đến cướp làm sao đánh cho lại chúng nó.

Nói rồi vào gọi Triệu Công Minh nói:

– Nay Lục Yểm lập đàn trù tại núi Kỳ Sơn mà bắt đạo huynh, chúng tôi không có mưu kế gì hay, vậy đạo huynh có ý kiến gì cao siêu xin chỉ dạy.

Triệu Công Minh thất kinh nói:

– Tôi nay đang bị nạn, còn tinh thần nào nghĩ được mưu. Tôi đến đây cũng vì giúp đỡ đạo huynh, xin đạo huynh cố gắng giải cứu cho tôi.

Văn Trọng lúng túng không biết phải tính làm sao.

Trương Thiệu nói:

– Văn Thái Sư chớ lo. Tối nay sai hai đồ đệ của Triệu đạo huynh là Trần Cửu Công và Dao Thiếu Tư độn thổ đến đó diệt lấy Tiên Thơ thì cứu Triệu đạo huynh dễ lắm.

Nói về Nhiên Ðăng đang ngồi trong nhà mát với các tiên, bỗng thấy trong lòng hồi hộp, liền đánh tay xen quẻ rồi nói với các tiên:

– Các đạo huynh! Hiện giờ Văn Thái Sư bàn luận sai người lén vào cung giựt Tiên Thơ. Nếu để chúng thi hành xong kế đó thì chúng ta khó mà sống yên với chúng. Vậy hãy mau ai người đến báo tin cho Thừa Tướng hay để canh phòng nghiêm nhặt.

Nhiên Ðăng liền sai Dương Tiển và Na Tra ra Kỳ Sơn báo tin cho Tử Nha hay.

Hai người vâng lịnh ra đi. Nhưng Na Tra đi xem mau hơn, nên đến trước. Còn Dương Tiển đi ngựa lểnh mểnh đi một mình.

Nói về hai người học trò của Triệu Công Minh đằng vân đến núi Kỳ Sơn thì đã canh hai.

Trần Cửu Công và Dao Thiếu Tư ở trên mây ngó xuống, thấy Tử Nha bỏ tóc xõa, cầm gươm phép, đốt bùa niệm chú, còn Tiên thơ để trên án.

Hai người thừa lúc Tử Nha vừa cái đầu xuống lạy, đáp xuống giật sách rồi chạy như bay.

Tử Nha ngẩng đầu lên, chỉ nghe một làn gió vụt qua, thấy Tiên thơ bị mất mà không biết lý do nào, đứng suy nghĩ mãi.

Qua một lúc, thấy Nam Cung Hoát đến thưa:

– Có Na Tra xin ra mắt.

Tử Nha cho đòi đến hỏi, Na Tra nói:

– Tôi vâng lệnh Lục Yểm đến thưa với Thừa Tướng nên cẩn thận gìn giữ Tiên thơ, vì Văn Thái Sư đã biết được, sẽ sai người đến lấy. Nếu sách ấy mà mất đi, chúng ta khó sống.

Tử Nha thất kinh nói:

– Ta đương làm lễ, nghe một làn gió thổi vụt qua, Tiên thư trên án đâu mất, ta không hiểu vì cớ gì. Vậy thì ngươi mau đuổi theo chúng đặng giựt lại.

Na Tra tuân lệnh cầm giáo lên xe, chạy riết về hướng dinh Thương.

Lúc đó Dương Tiển đi trễ, đến sau, nghe một trận gió vụt qua, Dương Tiển nghi người của Văn Trọng đã đến đoạt Tiên thơ, và độn thổ bay về, nên xuống ngựa hốt một nắm đất vãi lên làm phép tiên thiên biến thuật.

Trần Cửu Công và Dao Thiếu Tư đang độn thổ trở về, bỗng thấy dinh trại mình hiện ra trước mặt, hai người liền trồi lên, thẳng đến trướng phủ ra mắt Văn Trọng và nói:

– Chúng tôi thấy Tử Nha đang làm phép, chờ lúc nó bất ý sa xuống giật Tiên thơ chạy biến về đây.

Văn Thái Sư nghe nói mừng rỡ, truyền trao Tiên thơ, xem thử thế nào.

Hai người dâng tiên thơ lên Văn Thái Sư lật xem vài trang, rồi bỏ vào tay áo, nói:

– Thôi hai người về dinh an nghỉ, để ta vào trình lại với thày ngươi.

Nói rồi quày quả vào dinh, còn hai người cùng xuống trại.

Bỗng nghe một tiếng sấm nổ bên tai, hai người thấy mình đứng sững giữa đồng, bốn bề bát ngát, không có dinh trại gì cả.

Hai người đứng chết điếng, không hiểu vì cớ gì, bỗng thấy một người cỡi ngựa kim, cầm kích, chạy đến nói:

– Trả Tiên thơ lại cho mau.

Hai người nổi giận giơ gươm lên hỏi lớn:

– Người là ai mà dám vô lễ?

Người cỡi ngựa đáp:

– Ta là Dương Tiển đến giết hai tên ăn cắp.

Nói rồi cầm kích cự với hai thanh gươm của hai tướng. Hai bên đánh nhau giây lát thì có Na Tra xông đến trợ lực. Hai người đánh đã không lại Dương Tiển, bây giờ lại thêm Na Tra nữa thì làm sao chống cự nổi. Na Tra chuyển thần lực đâm Dao Thiếu Tư một giáo chết ngay. Còn Dương Tiển chém Trần Cửu Công một nhát. Hồn hai người này lên đài phong thần một lượt.

Dương Tiển nói với Na Tra:

– Tiên thơ ta đã lấy lại rồi.

Na Tra hỏi:

– Sư huynh làm cách nào lấy lại được?

Dương Tiển nói:

– Ta nghe trận gió thoáng qua, nghi có kẻ trộm sách đem về, nên làm phép hóa dinh cơ, giả hình Văn Trọng gạt lấy sách lại, rồi hiện nguyên hình đánh với chúng, may nhờ đạo huynh đến trợ giúp. Nay đã giết được hai đứa, vậy chúng ta mau trở lại Kỳ Sơn trao Tiên thơ lại cho Thừa Tướng.

Nói rồi, hai người cùng nhau nhắm hướng Kỳ Sơn thẳng đến dinh của Tử Nha thì trời đã sáng.

Tử Nha đang ngồi rầu rĩ. Bỗng Na Tra và Dương Tiển đã về.

Tử Nha cho mời vào và hỏi:

– Hai người đã lấy Tiên thơ lại được không?

Dương Tiển thuật hết mọi chuyện, Tử Nha mừng rỡ khen:

– Dương Tiển quả là người xuất chúng biến hóa không lường.

Dương Tiển dâng Tiên thơ cho Tử Nha rồi hai người từ giã về Lư Bồng.

Còn Tử Nha sau khi đã bị mất một lần thất kinh ngày đêm lo canh giữ, ngặt vì Tiên thơ không được phép cất cứ để trên bàn, nên Tử Nha vất vả ngày đêm đợi cho được hai mươi mốt ngày rồi giao lại cho Lục Yểm.

Nói về Văn Thái Sư ngồi chờ hai người học trò của Triệu Công Minh cho đến trưa mai vẫn không thấy về, liền sai Tân Hoàn.

Tân Hoàn tuân mạng, xách búa ra đi một hồi rồi trở lại thưa.

Trần Cửu Công và Dao Thiếu Tư đã chết vì tôi tìm thấy xác bỏ hai bên đường và cũng không rõ ai giết cả.

Văn Trọng tức giận vỗ ghế hét:

– Hai người ấy chết rồi thì làm sao ai lấy được Tiên thơ.

Dứt lời, hai tay đấm vào ngực ầm ầm khóc rống thảm thiết, khiến cho hai vị chủ trận đang bàn luận, thất kinh chạy vào hỏi nguyên do.

Văn Trọng kể lại mọi chuyện cho hai vị chủ trận nghe.

Hai người nghe qua buồn bã chắt lưỡi than thầm rồi cùng Văn Trọng vào thăm Triệu Công Minh.

Vào đến nơi, Văn Trọng thấy Triệu Công Minh đang ngủ mê, ngáy vang như sấm, lau nước mắt bước đến bên giường kêu.

Triệu Công Minh mở mắt thấy Văn Trọng và hai vị chủ trận:

– Ðã trộm sách được chưa?

Văn Thái Sư không thể nào giấu được, liền thuật lại việc hai người học trò của Triệu Công Minh không trộm được sách mà đã bỏ mạng dọc bên đường.

Triệu Công Minh đang nằm bật ngồi dậy, hai mắt trợn tròn, than:

– Ôi! Bởi ta không nghe lời ba em nên ngày nay mới phải thác như vầy.

Văn Thái Sư nghe nói thất kinh chưa biết tính sao thì Triệu Công Minh đã nói tiếp:

– Ta thành tiên hồi lớp Thiên Hoàng, luyện phép trường sinh bất tử, không ngờ nay chỉ vì Lục Yểm mà chết. Ðã đến nước này ăn năn không kịp. Lúc ta chết rồi, xin cởi áo mà gói Kim Dao Tiển để cho em ta đến nhận. Thế nào ba em ta cũng đến thăm. Nó thấy gói áo cũng như thấy mặt.

Dặn rồi lại khóc lớn, và than:

– Em Vân Tiêu! Nếu anh nghe lời em can, thì có đâu mang họa.

Văn Thái Sư trông thấy đau lòng, cau mày trợn mắt. Còn Vương Diệc nổi nóng, liền bỏ ra ngoài, cởi hươu ra trận, cầm gươm đứng trước Lư Bồng mắng lớn:

– Các đệ tử cung Ngọc Hư, dám ra phá trận Hồng Thủy không?

Na Tra liền vào báo với Nhiên Ðăng.

Nhiên Ðăng liền họp các tiên kéo xuống Lư Bồng, sai Tào Bửu đi phá trận.

Tào Bửu nói:

– Ðã ra phò chúa thánh, đâu dám từ nan.

Nói rồi cầm gươm lướt tới, gọi Vương Diệc nói:

– Có ta đến phá trận ngươi đây.

Vương Diệc biết một Tào Bửu, liền nói:

– Tào huynh là người ưa thanh nhàn, sao không ẩn mình trên núi non đến đây làm gì cho mang họa.

Tào Bửu nói:

– Bởi ngươi nghịch thiên hành sự, phò giả diệt chơn, cãi trời chống giáo phái, nên ta mới phải ta đây. Rất đỗi Triệu Công Minh nhiệm mầu phép thuật, cãi ý trời còn phải mang tai, huồng hồ chi ngươi?

Vương Diệc nổi giận, vung gươm chém tới, Tào Bửu đánh vài hiệp bị Vương Diệc dụ vào trận, rồi lên đài cầm báu nước đỏ đổ xuống, đất bằng dậy sóng, nước độc hại người hiền.

Tào Bửu bị hồng thủy tạt vào mặt, xương thịt đều rã rời.

Thương ôi trận Hồng Thủy áo xiêm bỏ đó, đài Phong thần hồn lên đài.

Vương Diệc giết Tào Bửu xong cởi hươu ra trận thách Nhiên Ðăng:

– Ngươi nở lòng nào sai kẻ phàm phu thế mạng! Thiếu gì người tài phép sao chẳng dám ra.

Nhiên Ðăng liền sai Ðạo Ðức chơn quân đi phá trận.

Hồi 49: Trận Hồng Hà, Võ Vương đành lâm nạn

Ðạo Ðức chơn quân vâng lệnh cầm gươm đến trước trận kêu lớn:

– Vương Diệc! Ngươi quen thói hung hăng, không thuận cơ trời. Mười trận đã bị phá hết tám rồi mà ngươi còn chưa chịu dẹp.

Vương Diệc nổi giận giơ gươm báu chém liền.

Ðạo Ðức chơn quân đưa gươm ra đỡ.

Vương Diệc đánh ít hiệp rồi chạy vào trận lên đài đổ bầu nước đỏ ra như cũ.

Ðạo Ðức chơn quân giơ tay áo phất một cái, hiện ra một cánh bèo sen rất lớn chẳng khác chiếc thuyền, rồi ngồi lên thuyền ấy lướt sóng xông tới.

Vương Diệc thấy vậy nổi giận, còn một bầu Hồng Thủy nữa vội trút hết ra.

Ðạo Ðức chân quân hiện vừng mây cản lại, đứng cả giờ trên chiếc thuyền sen.

Vương Diệc đã hết phép, không biết làm sao, tính trong ba mươi sáu chước không có chước nào hay hơn là đào tẩu, nên nhảy luồng đài.

Ðạo Ðức chơn quân sợ Vương Diệc túng thế hiềm ra kế hay, liền lấy cây quạt ngũ bảo thất cầm quạt Vương Diệc một cái.

Vương Diệc kêu lên một tiếng, té xuống tiêu thành tro, hồn phách bay về đài Phong Thần.

Có bài thơ rằng:

Khen cho quạt báu của tiên ông

Chẳng phải cầm tay lúc quạt nồng

Rực rỡ hào quang năm thứ lửa

Long lanh kết đủ bảy loài lông

Quạt lên một cái tiêu non núi

Phất xuống vài hồi cạn biển sông

Vương Diệc tuy là tiên hải đảo

Chịu hầu một quạt hóa tro hồng.

Ðạo Ðức nhơn quân phá trận Hồng Thủy rồi, bèn trở lại Lư Bồng với các tiên.

Bấy giờ Thái Sư đương buồn rầu về việc Triệu Công Minh bị trù yếm, nên không ra trận. Qua một lúc nghe quân vào báo:

– Trận Hồng Thủy bị phá, Vương Diệc tử nạn rồi.

Văn Thái Sư càng thêm buồn khổ. Vì hôm nay đã đến ngày thứ hai mươi, nếu không cách gì cứu nạn, Triệu Công Minh chắc phải chết

Hôm ấy Triệu Công Minh tỉnh lại, gọi Văn Thái Sư nói:

– Hôm nay tôi còn thấy mặt Văn huynh, nhưng qua giờ ngọ ngày mai chúng ta sẽ cách biệt mãi mãi.

Văn Thái Sư khóc ngất, nói:

– Tôi làm hại anh, chẳng biết lúc nào lòng tôi hết ân hận.

Trương Thiệu vào thăm, cũng khóc và nói:

– Giận kẻ bày ra việc trù yếm quá độc ác, nếu còn sống trên đời tôi chẳng quên thù này.

Còn Tử Nha làm phép đã hai mốt ngày, khi đến lúc giờ Tỵ thì có Võ Kiết vào báo:

– Lục Yểm lão gia đã đến dưới đài.

Tử Nha vội ra nghinh tiếp.

Lục Yểm nói:

– Chúng ta phá trận Hồng Thủy rồi, còn tánh mạng Triệu Công Minh thì giờ Ngọ này là hết.

Tử Nha bái một bái và nói:

– Triệu Công Minh phép thuật cao cường, hung hăng quá sức, nhờ đạo huynh thần thông quảng đại mới trừ được.

Lục Yểm vừa cười vừa thò tay vào giỏ hoa lấy ra một cái cung và ba mũi tên đưa cho Tử Nha dặn:

– Không cần phải bắn nhiều, chỉ nội ba mũi tên này cũng đủ kết thúc sinh mạng Triệu Công Minh rồi.

Giây phút tới giờ Ngọ, Tử Nha rửa tay thật sạch và cầm cung tên.

Lục Yểm nói:

– Trước nhất bắn vào con mắt bên tả của hình nhơn, rồi đến con mắt bên hữu, cuối cùng sẽ bắn vào trái tim.

Lúc ấy Triệu Công Minh đang nằm, vùng ré lên một tiếng. Nhắm một con mắt bên tả. Văn Thái Sư ôm Triệu Công Minh khóc tức tửi.

Triệu Công Minh lại ré lên một tiếng nữa, nhắm con mắt bên hữu, rồi sau đó tắt thở.

Có bài thơ than rằng:

Tu hành đừng nghĩ việc hồng trần

Nghĩ việc hồng trần lụy đến thân

Cái động La Phùng thôi vắng chủ

Thành tiên không được phải thành thần.

Văn Thái Sư ôm Triệu Công Minh khóc lóc một hồi, rồi tẩn liệm quàng sau trại.

Các tướng thấy Triệu Công Minh chết ai nấy đều nản lòng.

Vì vậy binh trại bên Thương không còn tề chỉnh như xưa.

Bấy giờ Tử Nha đi với Lục Yểm về đến Lư Bồng, mọi người đều khen nếu không có Lục đại huynh đến đây thì chẳng ai trừ Triệu Công Minh nổi.

Bỗng trong trận Hồng Sa chuông reo inh ỏi, Nhiên Ðăng nói với Tử Nha:

– Trận Hồng Sa lợi hại lắm nếu không dùng một người phước đức vào trận thì chúng ta không thể phá nổi

Tử Nha nói:

– Ðạo trưởng muốn đùng người nào?

Nhiên Ðăng nói:

– Phải dùng Võ vương mới phá trận này được. Vì Võ vương là kẻ có đức lớn.

Tử Nha nói:

– Thánh chúa là người hoàng tộc, không luyện võ nghệ, làm sao phá trận được?

Nhiên Ðăng nói:

– Việc ấy chẳng sao, chỉ cần người có đức mà thôi. Vậy hãy mau mời Võ vương đến, ta đã có sẵn phương pháp.

Tử Nha sai Võ Kiết vào thành triệu Võ vương.

Chẳng bao lâu Võ Vương đến nơi.

Tử Nha ra rước lên Lư Bồng, các tiên đều làm lễ.

Võ Vương hỏi:

– Chẳng hay quí vị mời trẫm đến đây dạy bảo việc chi?

Nhiên Ðăng nói:

– Nay mười trận đã phần hết chín, chi còn một trận Hồng Sa, nhưng trận này lợi hại lắm, phải nhờ đến phúc đức chí tôn, chúng tôi mới phá nổi, chẳng biết đại vương có thuận chăng?

– Quý vị vì ta mà đến, cứu dân trong lầm than. Nay việc đến ta, lẽ nào ta từ chối.

Nhiên Ðăng mừng rỡ mời Võ vương cởi áo cẩm bào, rồi dùng ngón tay giữa họa bùa trước mặt và sau lưng, lại giắt trên mão cửu long một lá bùa. Rồi sai Lôi Chấn Tử, Na Tra bảo vệ Võ vương vào trận.

Võ vương vừa xuống khỏi Lư Bồng, đã thấy trong trận Hồng Sa một đạo nhân đội mão đuôi cá, râu đỏ mặt xanh, cầm song kiếm, cỡi hươu, lướt tới ca:

Triệt giáo truyền ra phép nhiệm mầu

Càn khôn tại hóa một ta thâu.

Ðất trời rút lại trên năm ngón

Nhật nguyệt gồm vô đựng nửa bầu.

Trương Thiệu ca rồi kêu lớn:

– Ðệ tử Cung Ngọc Hư hãy ra mà phá trận.

Na Tra và Lôi Chấn Tử bảo vệ Võ vương xông ra.

Trương Thiệu hỏi:

– Ai ra trận đó?

Na Tra đáp:

– Chân chúa ta là Võ vương.

Võ Vương thấy Trương Thiệu hình dung cổ quái, mặt mày hung hãn, kinh hãi ngồi trên lưng ngựa không dám nói lời nào.

Trương Thiệu vung gươm chém đùa, Na Tra lướt tới đỡ gươm và đánh với Trương Thiệu được ít hiệp thì Trương Thiệu bỏ chạy vào trận.

Na Tra và Lôi Chấn Tử đồng bảo vệ Võ vương đuổi theo.

Trương Thiệu vãi một nắm Hồng Sa trúng nhằm ngực Võ vương, làm cho Võ vương cả người ngựa sa xuống hầm.

Na Tra cỡi xe phong hỏa bay thẳng lên cao, bị Trương Thiệu vãi hồng sa cũng phải nhào xuống.

Lôi Chấn Tử bay chưa khỏi trận, Hồng Sa ào tới liền nhào xuống nằm yên, thế là cả ba người đều mắc vào trong trận.

Tử Nha đứng bên ngoài thấy trong trận nổi lên một vùng khói đen liền hỏi Nhiên Ðăng:

– Ba người vào trận đạo trưởng liệu có bề gì không?

Nhiên Ðăng nói:

– Tuy bị mắc nạn nhưng không hề chi. Vì Võ vương là người có phước lớn.

Tử Nha hỏi:

– Chừng nào thì ba người mới ra được?

Nhiên Ðăng nói:

– Phải quá một trăm ngày.

Tử Nha buồn bã than:

– Võ vương là vua nhân đức, mình vàng trăm ngày sao nổi.

Nhiên Ðăng nói:

– Một vị chân chúa không bao giờ sợ phép tà. Ngươi đừng kinh hãi, hãy lui về an nghỉ.

Tử Nha sai người báo tin trong cung.

Thái Cơ và Thái Nhậm đều sai người đến hỏi thăm.

Tử Nha nói:

– Thánh chúa mắc nạn một trăm ngày, không hề chi mà sợ.

Nói rồi lên Lư Bồng cùng các vị đại tiên thương nghị.

Bấy giờ Trương Thiệu trở về dinh nói với Văn thái Sư:

– Võ Vương, Na Tra và Lôi Chấn Tử đều bị tôi cầm trong trận Hồng Sa.

Văn thái Sư tuy ngoài miệng vui mừng nhưng trong lòng đang buồn rầu việc Triệu Công Minh.

Trương Thiệu chiều ý, trở về trận mỗi ngày vãi hồng sa lên lưng Võ vương, đau đớn như dao cắt ruột nhưng nhờ có bùa phép, không đến nỗi nguy hiểm đến tánh mạng.

Ðây nhắc lại Thân Công Báo từ khi bất đồng ý kiến với Tử Nha, cố tình dạo khắp các non cao, rừng rậm, biểu dụ tín đồ Triệt giáo, gợi cho hai giáo phái có một ý thức mâu thuẩn sâu sắc, và cổ động Triệt giáo chống lại chủ trương của Xiển giáo.

Ngày kia, Thân Công Báo đứng trước cửa động gọi đồng nữ nhờ vào thưa lại.

Ba vị tiên cô hay tin Thân Công Báo đến thăm, liền ra khỏi động đón chào.

Vân Tiêu hỏi:

– Ðạo huynh ghé động chúng tôi có điều gì chỉ dạy chăng?

Thân Công Báo nói:

– Tôi đến đây cũng chỉ vì việc lệnh huynh.

Vân Tiên hỏi:

– Anh tôi cậy đạo huynh đến đây?

Thân Công Báo nói:

– Triệu đạo huynh bị Tử Nha đùng phép Ðinh Ðầu Thất Tiễn bắn chết tại Kỳ Sơn lẽ nào ba vị tiên cô không hay?

Huỳnh Tiêu và Bích Tiêu nghe nói giậm chân khóc rống lên:

– Không ngờ anh chúng tôi lại bị Khương Thượng sát hại tàn nhẫn như vậy! Uỗng công tu luyện bấy lâu nay, chúng tôi thật đau đớn.

Thân Công Báo nói

– Lịnh huynh mượn Kim Dao Tiển chưa lấy lại được Ðịnh Hải Châu, bị người ta hãm hại một cách hèn hạ như vậy, chúng tôi nghĩ tủi hờn.

Vân Tiêu hỏi:

– Ðạo huynh nghe tin ấy bao giờ?

Thân Công Báo nói:

– Tôi dạo khắp năm non bốn bể, việc gì cũng rõ hết. Triệu đạo huynh bị Tử Nha cất đài trên nói Kỳ Sơn trù yểm hai mươi mốt ngày rồi bắn chết. Trước khi chết, Triệu huynh có lấy một chiếc áo gói Kim Dao Tiển lại để gởi trả cho quí nương nương, và nói quí nương nương trông thấy áo ấy cũng như thấy anh. Hiện nay chiếc áo và báu vật còn để tại dinh Văn Thái Sư. Rất đổi chúng tôi tình bạn mà còn không chịu nổi, huống chi quí nương nương là tình ruột thịt, lẽ nào ngồi yên không báo thù.

Vân Tiêu nói:

– Giáo chủ chúng ta có lời truyền, cấm các đệ tử Triệt giáo không được đến Kỳ Sơn, trừ kẻ nào có tên trong bản Phong thần mới chống lại lời ấy. Nay anh tôi bị nạn, chắc là do số trời xui khiến.

Thân Công Báo cười lớn nói:

– Anh mình bị người ta giết chết mà cứ bảo là số mạng thì thật buồn cười. Số mạng là cái gì? Nó chỉ là một cái chiêu bài để che giấu tội ác của những kẻ có quyền thế tự cho mình nắm lấy vận mệnh các giáo hệ, muốn làm gì cũng được.

Huỳnh Tiêu và Bích Tiêu nghe Thân Công Báo nói như vậy cũng nổi nóng, nhìn Vân Tiêu nói:

– Chị thật vô tình, không tưởng gì đến cốt nhục. Triệu đại ca trước khi chết để áo lại tức là muốn bảo chị em ta trả thù đó. Nay hai chị em chúng tôi quyết xuống Tây Kỳ thăm hài cốt đại ca, như vậy chắc chị cũng tưởng rằng hai chị em chúng tôi có tên trong bản phong thần chớ gì?

Huỳnh Tiêu và Bích Tiêu nói dứt lời, người cỡi chim Hồng hộc. Kẻ cởi chim rằn bay ra khỏi động.

Vân Tiêu đứng nhìn theo và thầm nghĩ:

– Hai đứa nó xuống Tây Kỳ thể nào cũng dùng Hỗn nguyên đấu mà bắt đệ tử cung Ngọc Hư, làm lớn chuyện. Ta phải theo để điều khiển chúng nó mới được.

Nghĩ rồi truyền đồng tử giữ động, cỡi chim loa xanh bay theo gọi lớn:

– Hai em chậm lại, đợi chị đi với.

Huỳnh Tiêu và Bích Tiêu hỏi:

– Chị theo hai em để làm gì?

Vân Tiêu nói:

– Chị sợ hai em nóng nảy sanh chuyện khó lòng, nên phải theo hai em để dìu dắt.

Nói rồi giục thanh loan bay tới.

Xảy nghe phía sau có tiếng kêu lớn:

– Ba vị nương nương chậm lại đợi tôi với.

Vân Tiêu ngó lại thấy Hạm Chi tiên cô, liền hỏi:

– Hiền muội từ đâu đến?

Hạm Chi tiên cô nói:

– Em đi theo ba chị đồng xuống Tây Kỳ.

Cả bốn người cùng nhau họp đoàn.

Ði được một lúc, lại nghe có tiếng kêu lanh lảnh:

– Ðợi tôi theo với quí cô nương ơi.

Bốn người quay lại thì thấy Thể Vân tiên cô, liền hỏi:

– Thể Vân nương nương gọi tôi có việc gì:

Thể Vân hỏi:

– Vừa rồi tôi có gặp Thân Công Báo cho biết quí nương nương đồng xuống Tây Kỳ. Chúng mình là bạn thân với nhau, lẽ nào trong lúc nguy biến lại bỏ nhau.

Cả năm người cùng nhìn nhau trao đổi mối tình thắm thiết.

Khi năm vị tiên cô đến trước dinh Thương, quân sĩ trông thấy liền hỏi thăm tự sự, vào báo với Văn Trọng.

Văn Trọng lật đật ra ngoài đón rước vào đại điện trà nước.

Vân Tiêu hỏi:

– Ngày trước Thái Sư thỉnh anh tôi đến đây trợ lực, chẳng ngờ Tử Nha làm phép bắn chết anh tôi, vậy hài cốt anh tôi ở đâu xin cho chúng tôi mai táng.

Văn Trọng khóc lớn nói:

– Tôi mang ơn triều đình, hưởng giàu sang phú quí, đến lúc quốc biến gia vong, dầu chết đi đền nợ nước cũng đành. Còn Triệu đạo huynh chỉ vì tình bạn mà bỏ mạng thật lòng tôi đau đớn lắm. Vừa rồi Tử Nha làm phép trù yểm tại Kỳ Sơn, bắn chết lịnh huynh, xác lệnh huynh tôi còn quàng sau trại. Lịnh huynh trước khi chết cởi áo nói Kim Dao Tiển gởi lại cho ba vị tiên nương, và trối rằng:

– Ba vị tiên nương thấy áo cũng như thấy mặt anh.

Ba chị em Vân Tiêu nghe nói thảm thiết không cầm được giọt lệ, hai người bạn gái cũng che mặt khóc sụt sùi.

Văn Thái Sư lấy gói áo để ra trước bày ba chị em mở áo ra, trông thấy di vật, nhìn nhau khóc òa.

Bích Tiêu nóng lòng hỏi Văn Trọng:

– Thi hài anh tôi quàn nơi đâu?

Văn Thái Sư nói:

– Tôi quàng sau dinh để giao lại cho quí vị tiên cô theo lời trăn trối cửa Triệu đạo huynh.

Huỳnh Tiêu nói:

– Chúng ta ra sau dinh xem thi thể anh chúng ta ra thể nào?

Vân Tiêu nói:

– Ðại ca đã chết còn coi làm gì nữa chỉ thêm đau đớn.

Bích Tiêu nói:

– Ðã đến đây phải coi cho thấy mặt.

Hai chị em kéo nhau ra sau trại. Vân Tiêu túng thế phải theo sau.

Huỳnh Tiêu và Bích Tiêu giở nắp áo quan ra, thấy Triệu Công Minh bị chảy máu nơi tim, và hai con mắt.

Bích Tiêu nổi giận nói lớn:

– Ác nhân ác nghiệt! Giết người như vầy mà bảo là chính đạo?

Huỳnh Tiêu nói:

– Không cần giận dữ làm chi, chị em ta bắt chúng nó cũng bắn vào qua tim và hai con mắt để trả thù.

Vân Tiêu nói:

– Chúng ta không oán hận Tử Nha mà chỉ trả thù Lục Yểm, kẻ đã bày phép lạ, sát hại anh ta tàn nhẫn mà thôi.

Giữa lúc đó có vị đạo sĩ, chủ trận Hồng Sa bước vào chào hỏi.

Năm vì tiên cô cũng ôn tồn đáp lễ, và hỏi thăm mọi việc trong quân binh.

Văn Thái Sư truyền dọn tiệc đãi đằng.

Hôm sau, năm vị tiên cô đến trước Lư Bồng gọi Tử Nha ra nói chuyện.

Tử Nha liền dẫn bốn tướng đi theo lược trận.

Vân Tiêu cỡi Thanh loan đến trước nói lớn:

– Ta không cần nói với Tử Nha, hãy kêu Lục Yểm ra đây cho ta bảo.

Dương Tiên vội vào báo với Lục Yểm

Lục Yểm nói với Tử Nha:

– Cứ để bần đạo ra trận xem chúng nó làm trò gì cho biết.

Nói rồi cầm bửu kiếm xuống khỏi Lư Bồng.

Vân Tiêu thấy Lục Yểm người lùn tịt, đầu chừa hai vá, thì nói lớn:

– (bị mất câu này)

Lục Yểm nói:

– Ngươi chớ khinh ta lùn. Tuy lùn nhưng tài hơn ngươi tưởng.

Hãy nghe đây:

Thường nương mây bạc tụng huỳnh đình

Cửa động thường thường hứng gió thanh

Tiên cảnh thanh nhàn tìm thú vắng

Phồn hoa dù đẹp chẳng say tình

Càn khôn dồn cả vào tay áo

Nhựt nguyệt treo đầu một gậy linh

Uống thuốc kim đơn vài hột nhỏ

Cơ trời hiểu thấu mọi uy linh.

Lục Yểm ca rồi xá Vân Tiêu một cái.

Huỳnh Tiêu hỏi:

– Ngươi có phải là Lục Yểm đạo nhân không?

Lục Yểm đáp:

– Chính là ta.

Huỳnh Tiêu nói:

– Tại sao ngươi làm phép trù yểm, bắn chết anh ta?

Lục Yểm nói:

– Nếu ba vị tiên cô đồng ý cho tôi thanh minh việc sẽ nói rõ, bằng không muốn làm gì tôi mặc ý.

Vân Tiêu đáp:

– Ngươi cứ nói ra cho ta nghe thử.

Lục Yểm đáp:

– Người tu hành cần phải thuận thuận theo lẽ, chiều theo cơ mầu của tạo hóa. Cho nên người chánh thì được thành, kẻ tà thì phải đọa. Tôi học đạo từ thời Thiên Hoàng đến nay, thấy biết bao nhiêu chuyện cũ, hãy thuận thì còn, nghịch thì mất. Bởi Triệu Công Minh chẳng giữ bổn phận, giúp vua dữ hại dân lành, ỷ mình có phép thần thông không kể đến lẽ phải. Hễ nghịch trời thì mắc họa, nên trời sai tôi giết kẻ nghịch, há lại đổ lỗi cho tôi sao? Xét lại ba vị nương nương chớ nên chuốc lấy thù hận mà đến chỗ này. Nơi đây là biển lửa núi đao, không phải chổ an thân của người tu luyện. Nếu rủi ro bề nào ăn năn không kịp. Xin ba vị nương nương xét lại.

Vân Tiêu nghe nói làm thinh ngẫm nghĩ.

Huỳnh Tiêu nạt lớn:

– Yêu đạo! Ðừng đem ba tấc lưỡi mà gạt gẫm chúng ta. Kẻ giết người phải đền tội. Ngươi bắn chết anh ta, ta không thể để cho ngươi ung dung sống sống mãi. Nói rồi giơ bửu kiếm chém liền.

Lục Yểm đưa gươm ra đỡ. Hai người đánh được ít hiệp. Bích Tiêu lấy Hổn Nguyên Ðấu quăng lên, múc Lục Yểm đem về trước dinh, thì Lục Yểm đã hôn mê, không còn biết gì nữa.

Có bài thơ rằng:

Báu ấy từ hồi mới tạo tiên

Bích Du cung nọ để lưu truyền

Tam tài thâu hết không ai giỏi

Ðem xuống Tây Kỳ bắt các tiên.

Bích Tiêu trói Lục Yểm lại, vẽ bùa yếm tại cung Mê Hoàn, truyền quân treo lên cột cờ, rồi nói với Văn Thái Sư:

– Tôi lấy đầu nó không khó gì, song tôi muốn trả thù cho anh tôi. Ðể tôi bắn nó cho hả giận.

Liền truyền năm trăm quân xạ thủ trương cung bắn vãi vào mình Lục Yểm như mưa.

Bấy giờ Lục Yểm đã tỉnh lại liền làm phép che thân, bao nhiêu tên bắn đến mình đều hóa ra tro hết.

Quân xạ thủ thấy vậy thất kinh, Văn Thái Sư cũng hoảng vía.

Bích Tiêu nổi giận nói:

– Yêu đạo! Ngươi làm phép gì gạt ta đó?

Nói rồi quăng Kim Dao Tiển lên chém Lục Yểm.

Lục Yểm xem thấy nói lớn:

– Thôi, tôi xin kiếu ba vị nương nương.

Nói rồi hóa mống ba vị nương nương.

Các đạo hữu trông thấy mừng rỡ.

Nhiên Ðăng hỏi:

– Ðạo hữu bị Hổn Nguyên Ðấu bắt đi, làm sao mà về được?

Lục Yểm đáp:

– Nó không biết lý lịch tôi, nên mới dùng tên mà bắn để báo cừu cho anh nó. Cuối cùng nó lại quăng Kim Dao Tiển lên, tôi hóa mống bay về đây.

Nhiên Ðăng khen:

– Phép thuật của đạo hữu hay lắm!

Lục Yểm nói:

– Ngày nay bần đạo có việc, xin giã từ. Ít hôm sẽ trở lại.

Nói rồi đằng vân đi mất.

Hôm sau ba vị tiên cô lại đến khiêu chiến.

Tử Nha cởi Tứ Bất Tướng, dẫn các đệ tử ra khỏi Lư Bồng, thấy Vân Tiêu cởi thanh loan đứng trước, trên đấu chừa hai vá, mình mặc hồng bào.

Tử Nha thi lễ.

Vân Tiêu nói:

– Ta ở Tam Tiên Ðảo, ưa điều thanh tịnh, lánh việc thị phi. Song giận vì ngươi dùng Thất Tiên Thơ bắn anh ta chết. Anh ta thù oán gì mà ngươi nỡ ác tâm như vậy. Tuy Lục Yểm bày kế, song cũng do ngươi yểm đối. Lẽ thường, hễ giết người tất bị giết lại. Người tài cán bao nhiêu mà đám cả gan như vậy. Dầu cho Nhiên Ðăng cũng không thể khi dễ chị em ta.

Tử Nha nói:

– Nương nương nói sai rồi! Không phải chúng tôi tìm đến lệnh huynh mà gây oán, tại lịnh huynh đến đây gây sự, dấn thân vào chỗ hiểm sao tránh được tai ương.

Huỳnh Tiêu nổi giận nói:

– Người giết anh ruột ta, chúng ta phải báo thù. Dù là người giáo đạo nào cũng phải thừa nhận là lẽ phải.

Nói rồi chém xuống một gươm. Tử Nha đưa gươm ra đỡ.

Hoàng Thiên Hóa giục kỳ lân đến vung song chùy đánh tiếp với Tử Nha.

Dương Tiển giục ngựa kim, cầm thương bạc lướt tới trợ chiến.

Bên kia Bích Tiêu giục kim loan xông vào.

Thể Vân tiên cô tay một nắm Lục Mục Châu trong bầu phép vãi ra.