Hồi 60: Mã Nguyên xuống núi giúp con vua

Hoàng Phi Hổ đánh với Ân Hồng được hai mươi hiệp, thì Ân Hồng đánh đỡ không kịp vì cây giáo của Hoàng Phi Hổ như thần, đánh nhiều miếng hiểm ác.

Bàng Hoằng lướt tới trợ lực, Hoàng Thiên Lộc xông ra cản trở.

Lưu Phủ múa đao chạy tới bị Hoàng Thiên Tường đón lại giao công.

Tuân Chương nổi nóng nhảy vào vòng chiến.

Một mình Hoàng Thiên Tường mà cự với hai tướng vẫn cầm đồng.

Tất Hoàn cầm cặp búa xông vào, bị Hoàng Thiên Hóa ngăn đỡ.

Bấy giờ Ân Hồng liệu thế một mình không cự lại nên trá bại, Hoàng Phi Hổ đuổi theo bị Ân Hồng dùng Âm Dương kiếng chiếu vào mặt làm cho Hoàng Phi Hổ té nhào xuống ngựa bất tỉnh.

Trịnh Luân lập tức bắt trói Hoàng Phi Hổ.

Hoàng Thiên Hóa nóng lòng, bỏ Tất Hoàn sang cứu Hoàng Phi Hổ.

Ân Hồng thấy Hoàng Thiên Hóa cầm song chùy cỡi kỳ lân biết là người có phép liền lấy kiếng chiếu vào mắt, Hoàng Thiên Hóa mê man té xuống kỳ lân bị quân bắt trói. Còn Tuân Chương thấy Hoàng Thiên Tường nhỏ tuổi khinh khi chẳng đề phòng bị Hoàng Thiên Tường đâm một giáo trúng đùi, Tuân Chương bại tẩu.

Ân Hồng thấy đã bắt được hai tướng, liền gióng kiểng thâu quân về trại.

Quân thua chạy về phi báo, Tử Nha thất kinh hỏi duyên cớ.

Hoàng Thiên Tường kể lại đầu đuôi.

Tử Nha buồn bã vô cùng.

Ân Hồng thắng trận về dinh, truyền dẫn cha con Hoàng Phi Hổ vào rồi dùng kiếng phép chiếu vào mặt cho cha con Hoàng Phi Hổ tỉnh lại.

Cha con Hoàng Phi Hổ mở mắt thấy mình bị trói, tức giận căm gan.

Hoàng Phi Hổ mắng Ân Hồng:

– Ngươi không phải nhị điện hạ.

Ân Hồng nạt lớn:

– Sao ngươi biết không phải?

Hoàng Phi Hổ nói:

– Nếu ngươi là Nhị điện hạ, sao ngươi không biết ta là Hoàng Phi Hổ. Năm trước ta tha hai vị Ðiện hạ tại ngã ba, và tâu với Trụ Vương xin tội, lẽ nào ngươi không nhớ?

Ân Hồng nói:

– Nếu vậy là Hoàng tướng quân đại ân nhân đây sao?

Nói rồi bước xuống mở trói cho Hoàng Phi Hổ, lại truyền tha trói cho Hoàng Thiên Hóa và hỏi:

– Sao tướng quân lại đầu Châu?

Hoàng Phi Hổ nói:

– Tôi xấu hổ quá, không đủ can đảm nói hết nỗi lòng mình với nhị Ðiện. Bởi Trụ vương vô đạo, giởn cợt với vợ tôi lại giết cả em tôi nữa. Tội ác mỗi ngày một dữ, không kể sao cùng. Nay thiên hạ ba phần đã theo nhà Châu hết hai rồi, tôi cũng là kẻ bạc phước, bị Trụ vương phụ bạc nên cũng phải đầu Châu, tránh chỗ dữ, vô vô chổ lành. Nếu Nhị điện hạ tha chết cho tôi thật là ơn sâu nghĩa trọng.

Trịnh Luân cản lại:

– Ðiện hạ không nên tha tội kẻ phản thần.

Ân Hồng nói:

– Ngày trước Hoàng tướng quân ra ơn cứu ta, nếu nay ta giết đi mang tiếng bất nghĩa. Lần này ta trả ơn, nếu lần sao bắt được sẽ gia hình theo phép.

Nói rồi truyền trả y giáp lại, và dặn:

– Hoàng Tướng quân! Hôm nay ta trả ơn, sau này chớ nhắc đến nữa. Nếu ngày sau có ra trận phải giữ gìn để khỏi ăn năn.

Cha con Hoàng Phi Hổ đồng lạy tạ ơn, chạy thẳng về thành ra mắt Tử Nha tỏ mọi việc sau trước.

Tử Nha khen:

– Như vậy thì Ân Hồng tỏ ra là người có đức độ.

Còn Trịnh Luân thấy Ân Hồng tha cha con Hoàng Phi Hổ lòng không vui.

Ân Hồng nói:

– Trước kia người ta cứu mình khỏi chết lẽ nào mình lại quên ơn. Ta nhắm Hoàng Phi Hổ cũng chẳng tài cán bao nhiêu, sau này ta bắt không khó gì.

Trịnh Luân thưa:

– Trước kia tôi đã bắt Hoàng Phi Hổ một lần, cũng vì nó trốn thoát mà sinh ra rối rắm sau này nếu Ðiện hạ bắt được nên chặt đầu lập tức, đừng để nó nói nhiều lời vô ích.

Rạng ngày Ân Hồng dẫn binh tướng đến dưới thành mời Tử Nha ra nói chuyện.

Tử Nha nói với các tướng:

– Hôm nay các ngươi cùng ta ra trận xem cho rõ cái kiếng phép lợi hại thế nào.

Nói rồi dẫn các tướng xuất trận.

Ân Hồng thấy Tử Nha kéo binh ngũ phương ra thành, có các đệ tữ theo hầu hạ liền ngồi trên ngựa cầm kích điểm mặt Tử Nha:

– Khương Thượng! Khi trước ngươi là tôi nhà Thương sau nay lại đầu Châu làm phản?

Khương Thượng nói:

– Từ xưa nay hễ chúa thánh thì tôi hiền, chúa bất minh thì tôi làm loạn. Trụ vương dâm ác không thương dân, không kể xã tắc, thiên hạ ly loạn mười phần, các chư hầu đều bất phục, đâu phãi chỉ mình Tây Kỳ chống lại? Số trời đã định, Ðiện hạ cũng chẳng nên cưỡng lại số trời mà mang họa.

Ân Hồng nổi giận nạt lớn:

– Có tướng nào ra bắt Khương Thượng cho ta.

Bàng Hoằng xách cặp giản vỗ ngựa xông ra, bên kia Hoàng Thiên Hóa cản lại giao công.

Tất Hoàn lướt tới bị Dương Tiển đón lại.

Khi ấy Tô Hộ và Tô Toàn Trung đứng dựa cửa coi Ân Hồng cùng Tử Nha đánh nhau. Hai bên giáp chiến tối trời.

Ðược ba bốn hiệp, Tử Nha quăng Ðả Thần Tiên đánh Ân Hồng, chẳng ngờ Ân Hồng trong áo giáp có mặc tiên y tuy roi đánh nhằm mà không hại.

Tử Nha thấy vậy liền thâu Ðả Thần Tiên lại.

Na Tra đánh với Bàng Hoằng mấy hiệp rồi quăng Càn Khôn Quyện lên, Bàng Hoằng bị Càn Khôn Quyện đánh trúng hạ mã.

Na Tra đâm một giáo chết tươi.

Ân Hồng thấy vậy hét lớn:

– Thất phu, dám giết đại tướng ta.

Nói rồi bỏ Tử Nha, qua đánh với Na Tra để trả thù.

Còn Dương Tiển đánh với Tất Hoàn ít hiệp, bắt Hạo Thiên Khuyển quăng lên, con chó nhảy lên táp vào cổ Tất Hoàn.

Tất Hoàn lính quýnh bị Dương Tiển chém một dao rụng đầu.

Ân Hồng thấy hai tướng mình bị chết, nổi giận lấy kiếng chiếu vào mặt Na Tra, nhưng Na Tra không hề gì hết.

Ân Hồng chiếu luôn bốn lần vẫn không có hiệu nghiệm, liền cất kiếng đánh liều.

Dương Tiển thấy Ân Hồng dùng kiếng Âm Dương lại không bị roi Ðả Thần Tiên đánh trúng, vội nói với Tử Nha:

– Người này có phép hộ thân lại có kiếng phép, xin sư thúc chớ nên lại gần nó.

Tử Nha nghe Dương Tiển nói liền bảo Ðặng Thiền Ngọc:

– Ngươi liệng Ân Hồng một cục đá trợ lực với Na Tra.

Ðặng Thiền Ngọc tuân lệnh ném đá Ngũ Quang trúng nhằm mũi Ân Hồng làm cho Ân Hồng đổ hào quang, hét lên một tràng giục ngựa chạy dài.

Cũng bởi áo tiên không phủ mặt

Cho nên Ðiện hạ mũi sưng vù.

Na Tra thừa dịp đuổi theo, đâm Ân Hồng một giáo, nhưng Ân Hồng trong mình có mặc tiên y, chẳng hề chi cả, Na Tra kinh hãi không dám đuổi theo.

Tử Nha liền thu quân về thành.

Còn Ân Hồng chạy một đổi, nghĩ lại tấm kính phép mình bỗng nhiên không hiệu nghiệm thì buồn bã vô cùng. Ân Hồng có ngờ đâu Na Tra là cốt bông sen, không phải thai phàm.

Rờ vào sóng mũi, Ân Hồng thấy sưng húp, nổi giận nói một mình:

– Khương Thượng! Nếu ta không trả được thù này không phải kẻ trượng phu.

Bấy giờ Khương Thượng về đến trướng phủ, hội các đồ đệ lại để bàn kế.

Dương Tiển nói:

– Lúc nãy tôi thấy Ân Hồng dùng kiếng Âm Dương. Phép này chính là của Xích Tinh Tử. Nếu không phải Na Tra thì đã mất mạng rồi.

Tử Nha nói:

– Lẽ nào Xích Tinh Tử lại có đồ đệ là Ân Hồng.

Dương Tiển nói:

– Việc này rất lạ, xin sư thúc cho đệ tử qua núi Thái Hoa hỏi lại sư bá xem sao.

Tử Nha suy nghĩ hồi lâu rồi mới đồng ý cho đi.

Dương Tiển nóng lòng độn thổ đến núi Thái Hoa, vào động Vân Tiêu ra mắt Xích Tinh Tử.

Xích Tinh Tử hỏi:

– Ngươi đến đây có chuyện gì?

Dương Tiển giả vờ nói:

– Tôi vâng lệnh Thừa Tướng đến mượn kiếng Âm Dương trừ tướng Trụ, xong việc xin trả lại sư bá.

Xích Tinh Tử nói:

– Hôm trước ta đã đưa cho Ân Hồng, đệ tử của ta xuống Tây Kỳ để giúp Tử Nha, lẽ nào nó có phép báu trong mình lại không nói?

Dương Tiển nói:

– Nay tôi đếu cầu sư bá cũng vì Ân Hồng không đến đầu Châu giúp sư thúc, mà lại đem phép báu đánh Tây Kỳ.

Xích Tinh Tử nghe nói, giậm đất than:

– Bởi ta lầm nên giao hết phép báu cho nó, chẳng ngờ thằng khốn đó lại hại ta. Thôi, ngươi về trước, ta sẽ theo chân xuống Tây Kỳ lập tức.

Dương Tiển tạ ơn, độn thổ trở về.

Tử Nha thấy Dương Tiển về đến liền hỏi:

– Ngươi đến hỏi việc ấy, Xích Tinh Tử nói sao?

Dương Tiển thưa:

– Ân Hồng quả là học trò của sư bá. Sư bá sai xuống giúp Tây Kỳ, chẳng ngờ Ân Hồng trở lòng giúp Trụ. Sư bá sắp xuống đến nơi.

Tử Nha nghe nói nóng nảy vô cùng.

Cách ba bữa, có quân vào bảo:

– Xích Tinh Tử lão gia đến phủ.

Tử Nha vội vàng ra tiếp rước.

Xích Tinh Tử vào trước trướng nói:

– Tôi xin chịu tội vì tôi có sai Ân Hồng xuống giúp Châu phạt Trụ, chẳng ngờ nó cãi lời khuấy loạn như vầy.

Tử Nha nói:

– Sao đạo huynh đưa Âm Dương kiếng cho nó làm gì?

Xích Tinh Tử nói:

– Các phép của tôi, tôi đều giao cho nó, chẳng những Âm Dương kiếng mà đến Tử Thọ tiên y tôi cũng đưa cho nó mặc để phòng thủy hỏa, đao binh sau này. Không biết nó nghe lời ai dụ dỗ dọc đường mà trở lòng như vậy. Thôi, để mai tôi bắt nó đem về chịu tội.

Rạng ngày Xích Tinh Tử cầm gươm ra trận kêu quân sĩ bảo:

– Các người vào nói với Ân Hồng ra cho ta dạy việc.

Ân Hồng đang nằm dưỡng bệnh, trông cho mau mạnh để đánh báo cừu xảy nghe quân vào báo:

– Có một đạo nhân gọi Ðiện hạ ra nói chuyện.

Ân Hồng không ngờ thầy mình xuống núi, liền dẫn Tân Chương, Lưu Phủ nổi pháo kéo binh ra trận, thấy Xích Tinh Tử đứng trước mặt thất kinh bái một cái và nói:

– Xin thầy tha tội. Ðệ tử mặc giáp trong mình làm lễ không trọn.

Xích Tinh Tử nói:

– Ngươi đã thề nặng lời với ta trên động sao lại đánh Tây Kỳ? Hễ thề thì mắc, thắt thì rối, ta e xương thịt ngươi sẽ thành tro. Hãy xuống ngựa theo ta về Tây Kỳ chịu lỗi họa may gỡ được lời thề. Còn cãi lời ta họa đến tức thì ăn năn sao kịp.

Ân Hồng nói:

– Xin sư phụ bớt giận cho đệ tử thưa lại vài lời. Ðạo làm con xưa nay cứ lấy theo điều hiếu thảo thì dù cha có lỗi con cũng không nên hỏi tội cha, lẽ nào con lại theo giặc đánh lại cha mình. Dầu Tiên, Phật, Thánh, Thần cũng phải giữ lấy hiếu đạo nếu đạo làm người không tròn thì làm Tiên Thánh sao đặng? Không lẽ thầy dạy con giết cha đầu giặc sao?

Xích Tinh Tử cười lớn, nói:

– Trụ vương bạo ngược, không giữ can thường, giết hại tôi trung, đắm mê tửu sắc, nên trời dứt bỏ nhà Thương mới sanh Châu Võ lên ngôi sửa trị cho trăm họ yên lành. Nếu ngươi phò Châu thì còn nối nghiệp Thương một cõi, bằng cãi lời dạy e đứt họ Ân. Ta chắc Trụ vương quả tàn nhẫn nên di họa đến con cái, khiến con cái chết không được vuông tròn. Hãy mau mau xuống ngựa đặng thầy gỡ họa cho.

Ân Hồng nói:

– Xin thầy về núi tu hành. Con không muốn lỗi tình phụ tử, cũng không lỗi nghĩa thầy trò. Chừng nào con đẹp giặc Tây Kỳ xong sẽ về núi lạy thầy chịu tội.

Xích Tinh Tử nổi giận nói:

– Súc sanh. Dám cãi lệnh thầy buông lời vô lễ.

Nói rồi liền chém một gươm, Ân Hồng đưa kích ra đỡ, và thưa:

– Nỡ nào thầy vị tình Tử Nha mà giết đồ đệ?

Xích Tinh Tử nói:

– Võ Vương là chúa thánh ra đời, Tử Nha là tôi hiền trở mặt, lẽ nào ta dám nghịch thiên, binh vực một đứa học trò bạc nghĩa?

Ân Hồng nói:

– Tình nghĩa thầy trò rất trọng, nỡ nào thầy tuyệt tình. Nếu thầy không châm chế thì còn gì tình cha con, nghĩa sư đệ?

Xích Tinh Tử nổi giận mắng lớn:

– Nghịch đồ vong ân bội nghĩa, chớ nói nhiều lời.

Nói rồi chém một gươm nữa.

Ân Hồng cũng đưa kích ra đỡ và thưa:

– Sư phụ buộc đệ tử bỏ tình cha con, rồi lại buộc đệ tử lỗi tình sư đệ.

Xích Tinh Tử nổi giận chém một gươm nữa.

Ân Hồng nói:

– Con đã kính thầy ba lần mà thầy vẫn buộc con làm một đứa đệ tử bất nghĩa sao? Nếu thầy còn chém con một lần nữa tức thầy đã bắt con tuyệt tình đó.

Xích Tinh Tử nổi giận chém liền.

Ân Hồng đỡ ra và nói:

– Thầy đã coi tình phụ tử không ra gì thì con cũng coi tình thầy trò như cỏ rác. Thôi, con đành lỗi đạo vậy.

Nói rồi đánh Xích Tinh Tử một kích. Hai thày trò giao đấu với nhau một hồi.

Ân Hồng lấy kiếng phép ra, Xích Tinh Tử biết nằm trong thế gậy ông đập lưng ông, nên hóa hào quang bay mất.

Về đến tướng phủ, Xích Tinh Tử ta mắt Tử Nha.

Tử Nha hỏi:

– Công việc ra làm sao?

Xích Tinh Tử thuật hết mọi điều. Các đồ đệ đều không phục, chê Xích Tinh Tử giáo huấn không nghiêm, để cho đồ đệ lộng hành dám đánh thầy như vậy.

Xích Tinh Tử phần buồn bực, phần hổ thẹn, tìm chỗ nghỉ ngơi dưỡng tinh thần.

Còn Ân Hồng thấy thầy mình sợ kiếng phép bỏ chạy thì hiu hiu tự đắc trở lại và thương nghị với Tô Hộ quyết đem binh phá Tây Kỳ.

Giữa lúc đó lại có quân vào báo:

– Có một đạo sĩ đến ngoài dinh, xin vào ra mắt.

Ân Hồng truyền thỉnh vào dinh, thấy đạo sĩ ấy dị hình dị tướng, hai răng nanh mọc dài, miệng như hàm ếch, mặt tợ võ dưa, dùng xương người ta làm hột bề đeo trước cổ, lại lấy một chiếc sọ người làm xái bầu quảy tòn teng, tai mắt mũi họng hơi xông ra như một cái lò đang nấu khói.

Ân Hồng và các tướng thấy vậy đều kinh hải.

Ðạo sĩ ấy bước tới hỏi:

– Nhị Ðiện hạ là ông nào?

Ân Hồng nói:

– Tôi là Ân Hồng nhị điện. Chẳng hay thầy ở núi nào, đến đây có việc gì chỉ dạy?

Ðại sĩ nói:

– Ta là Nhất Trí Tiên, họ Mã, tên Nguyên ở núi Khô Lâu, động Bạch Cốt vì Thân Công Báo đến cầu khẩn nên ta phải đến đây giúp Ðiện hạ.

Ân Hồng mừng rỡ nói:

– Như vậy rất may mắn, chẳng hay đạo sư dùng chay hay mặn?

Mã Nguyên nói:

– Bần đạo dùng mặn đã quen.

Ân Hồng truyền dọn rượu thịt đãi đằng, và kể lại việc chinh chiến nơi Tây Kỳ.

Mã Nguyên nói:

– Bần đạo đã đến đây phải cùng Tử Nha giao đấu một trận.

Ân Hồng nói:

– Thế thì ngày mai Ðạo sư ra binh cũng được.

Rạng ngày Mã Nguyên đến dưới thành mời Tử Nha ra nói chuyện.

Quân vào báo:

– Ngoài thành có một đạo sĩ mời Thừa Tướng ra trận.

Số ta đã bị ba mươi sáu đạo binh đến đánh, thì dù có tránh né cũng chẳng khỏi. Liền dẫn binh tướng ra thành.

Tử Nha thấy hình dạng kỳ quái, tay cầm gươm linh, mình mặc đến đỏ, liền hỏi:

– Chẳng hay đạo nhân danh hiệu là gì?

Mã Nguyên nói:

– Ta là Nhất Tri Tiên, tên Mã Nguyên. Thân Công Báo đã nhờ ta xuống giúp quân hầu, đánh Tây Kỳ bắt Khương Thượng. Bởi các ngươi khoe tài Xiển giáo, khi dễ chúng ta nên ta phải đến đây so tài để rõ ai cao thấp?

Tử Nha nói:

– Thân Công Báo cừu oán với tôi, nên xúi Ân Hồng cải thầy nghịch thiên làm loạn. Ðạo nhân là người tu hành, nghe chi đứa tiểu nhân, giúp người lỗi đạo?

Mã Nguyên cười lớn, nói:

– Ân Hồng là con vua Trụ đem binh phạt Châu, nhà ngươi gọi là nghịch thiên? Nếu Ân Hồng đầu chúng bây, đánh chúa giết cha, chúng bây mới gọi là thuận sao? Các ngươi đòng tiếng là đệ tử cung Ngọc Hư, cao minh đạo đức, nay ta nghe lời nói không chúa không cha này thật chẳng phải kẻ hành đạo. Nay ta không giết các ngươi còn đợi chừng nào nữa?

Nói rồi nhảy chém một gươm, Tử Nha vung roi đánh lại.

Ðược vài ba hiệp, Tử Nha quăng roi Ðả Thần Tiên lên. Song Mã Nguyên không có tên trong bảng Phong Thần nên roi đánh không được.

Mã Nguyên đưa tay cấp lấy cây roi dắt vào lưng.

Tử Nha kinh hải, mặt biến sắc.

Giữa lúc đó có một tướng từ bên ngoài nhảy vào, đầu đội Kim khôi, mình mặc giáp sắt, lưng mang ngọc đái, cầm siêu đao nói lớn:

– Xin Thừa Tướng dừng tay, để tôi trị nó cho.

Tử Nha coi lại thì đó là quan vận lương bên Tầng châu, tên Mạnh hổ tướng quân Võ Vinh.

Võ Vinh giải lương đến, thấy ngoài thành đang giao đấu, nên xông vào trợ chiến với Tử Nha. Võ Vinh lại là một dũng tướng múa siêu đao như thần, Mã Nguyên không sao đánh lại, liền niệm chú lâm râm, tức thì cái sọ người mang sau lưng bỗng hiện ra một cánh tay thần, ngón nào ngón ấy to bằng quả bí, nắm cổ Võ Vinh xách lên cao vật xuống.

Mã Nguyên lướt tới một chân đạp lên đùi Võ Vinh một tay cầm đùi kia xé tét ra làm hai hai móc lấy trái tim cầm ăn ngon lành như ăn một cái bánh.

Lão vừa ăn vừa nói:

– Khương Thượng! Ta bắt được ngươi cũng làm như vậy. Nói cho ngươi biết mà giữ thân.

Ai nấy đều kinh khủng.

Thổ Hành Tôn hét lên:

– Mã Nguyên có ta đây ngươi đừng hành động dã man như vậy.

Nói rồi xách côn vào đánh.

Mã Nguyên thấy thằng lùn chạy tới, cười híp mắt nói:

– Mày làm cái trò gì vậy?

Thổ Hành Tôn nói:

– Ta quyết bắt ngươi trừ bạo.

Nói rồi vung gậy đập liền.

Mã Nguyên nổi giận đánh với Thổ Hành Tôn, nhưng Thổ Hành Tôn lanh lẹ lắm, lòn qua, chụp lại cầm gậy đập vào đít, vào lưng Mã Nguyên, làm cho Mã Nguyên đau quá, tức giận niệm chú lâm râm, chiếc sọ người hóa ra cánh tay thần, nắm đầu Thổ Hành Tôn vật xuống đất.

Chẳng ngờ Thổ Hành Tôn có phép địa hành, chân vừa chấm đất đã biến mất.

Mã Nguyên không thấy Thổ Hành Tôn đâu, tưởng tay thần vật mạnh quá Thổ Hành Tôn đã nát thây rồi.

Ðặng Thiền Ngọc đứng ngoài thấy chồng mình như vậy nóng lòng quăng ra một cục đá, trúng vào mặt Mã Nguyên đổ hào quang.

Mã Nguyên đưa tay phủi mặt, hét lên:

– Ðứa nào đánh lén ta như vậy?

Dương Tiển liền cầm giáo giục ngựa đến, đâm Mã Nguyên.

Mã Nguyên đỡ gạt một hồi rồi lại niệm chú lâm dâm, cái sọ người cũng hiện tay thần, nằm đầu Dương Tiển vật xuống.

Mã Nguyên vừa bị một viên đá của Thiền Ngọc, tức giận xé Dương Tiển, móc trái tim ăn. Ăn xong, Mã Nguyên nói với Tử Nha:

– Bữa nay ta no rồi, trái tim ngươi để dành bữa khác.

Nói rồi trở về dinh.

Ân Hồng ra rước vào dọn tiệc thết đãi.

Mã Nguyên và các tướng đều ăn mừng thắng trận.

Còn Tử Nha về thành rầu rĩ, than:

– Mã Nguyên dữ tợn, ăn sống người ta, thuở nay ta chưa từng thấy người tu hành nào như vậy? Chẳng biết Dương Tiển có phép chi thoát chết không?

Các tướng đều buồn bã không biết sự việc sẽ ra sao.

Bấy giờ Mã Nguyên uống rượu với Ân Hồng và các tướng cho đến canh hai. Bỗng Mã Nguyên cau mày, mồ hôi như tắm.

Ân Hồng hỏi:

– Hình như trong người đạo sư có việc gì đau đớn?

Mã Nguyên nói:

– Ta bị đau bụng.

Trịnh Luân nói:

– Chắc đạo sư vừa ăn thịt sống nên không tiêu. Hay uống rượu cho thật nhiều may ra khỏi bịnh.

Mã Nguyên truyền hâm rượu nóng, uống vào một hồi lại thấy đau thêm, ruột sôi như sấm.

Trịnh Luân nói:

– Hay là đạo sư chột bụng. Xin ra đằng sau trại cho tiện.

Mã Nguyên gượng gạo bước liểng xiểng ra sau dinh.

(Nguyên nhân vì Dương Tiển dùng phép huyền công, biến một viên thuốc xổ thành trái tim người, Mã Nguyên ăn vào mới bị đau bụng như vậy).

Mã Nguyên đi tả suốt ba ngày, chân tay rũ liệt, nằm dài thở hổn hển.

Còn Dương Tiển lúc ấy trở về thành, thuật chuyện với Tử Nha:

– Tôi gạt nó ăn nhằm thuốc xổ, đại tiện ba ngày chưa dứt. Nhắm chừng sáu bảy ngày nữa nó ra trận vẫn chưa nổi. Trong thời gian hoãn chiến, chúng ta sẽ tìm mưu.

Bỗng có Na Tra vào báo:

– Văn Thù quảng pháp Thiên tôn đến.

Tử Nha liền ra nghinh tiếp.

Văn Thù vào phủ chào Xích Tinh Tử và nói:

– Chúng ta chúc mừng Tử Nha gần đến kỳ đăng đàn bái tướng.

Tử Nha nói:

– Nay Ân Hồng cải lời thầy giúp Tô Hộ, lại có Mã Nguyên hung dữ còn đó, tôi không biết làm sao trừ cho được.

Văn Thù nói:

– Tôi đang lo việc Mã Nguyên đến đây quấy rối, làm trể ngày rằm tháng ba là ngày đăng đàn bái tướng nên phải vội đến đây.

Tử Nha mừng rỡ nói:

– Nếu được đạo huynh giúp sức trừ Mã Nguyên, thì còn lo gì nữa. Chẳng biết đạo huynh định liệu thế nào?

Văn Thù nói:

– Muốn bắt Mã Nguyên thì dùng kế mới được.

Nói rồi kề tai Tử Nha dặn nhỏ một hồi.

Tử Nha tuân lệnh truyền Dương Tiển làm theo kế ấy. Còn Tử Nha cũng sắp đặt sẳn sàn. Ðúng vào giờ Thân cỡi Tứ Bất Tướng đến ngoài dinh Thương thám thính, cốt làm cho binh Thương trông thấy.

Quả nhiên, binh Thương vào báo với Ân Hồng:

– Bẩm Ðiện hạ, có Tử Nha đi một mình đến dinh ta dòm ngó.

Ân Hồng vội hỏi Mã Nguyên.:

– Khương Thượng đến dinh ta thám thính chẳng biết có ý gì?

Mã Nguyên nói:

– Hôm trước ta lầm mưu Dương Tiển đến nổi bị kiệt sức, nay tuy chưa phục hồi, song cũng đủ sức bắt Tử Nha để rửa hận.

Nói rồi vội vàng ra khỏi trại, trông thấy Tử Nha đang đứng một mình, Mã Nguyên giận dữ hét lớn:

– Khương Thượng! Ngươi đã đến số rồi chạy đi đâu cho khỏi?

Mã Nguyên vung kiếm chém liền, Tử Nha cũng lướt đến. Ðánh được vài hiệp, Tử Nha trá bại Mã Nguyên đuổi theo.

Hồi 61: Ân Hồng nát thây trên thái cực đồ

Mã Nguyên đuổi theo Tử Nha một lúc nhưng không kịp vì con Tứ Bất Tướng của Tử Nha chạy rất mau còn Mã Nguyên bệnh mới lành, trong người thiếu sức.

Mã Nguyên nghĩ thầm:

– Ta hơi đâu mà rượt nó cho mệt, cứ về dinh an nghỉ ngày mai sẽ bắt nó cũng chẳng muộn.

Tử Nha thấy Mã Nguyên dừng chân không đuổi theo thì quay lại gọi lớn:

– Mã Nguyên, ngươi không dám đuổi theo ta nữa sao?

Mã Nguyên nói:

– Ta tha cho ngươi sống một đêm nữa, ngày mai ta ra trận bắt ngươi cũng chẳng muộn.

Tử Nha nói:

– Nếu ngươi đến chổ đất bằng kia giao đấu với ta ba hiệp thì ta mới phục tài ngươi.

Mã Nguyên trong người hơi mệt, nhưng nghe Tử Nha nói khích không chịu được, ngước mặt đáp:

– Ngươi tài cán gì mà ta không dám đánh.

Nói rồi, rán sức đuổi theo.

Tử Nha đánh hai ba hiệp rồi chạy nữa.

Mã Nguyên nổi giận hét:

– Ngươi định dụ ta sao? Ngươi muốn làm gì vậy?

Tử Nha nói:

– Ta lập kế gạt ngươi đến hòn núi kia bắt ngươi đem về mổ ruột, nếu ngươi sợ thì trở về, đừng đuổi theo ta nữa.

Mã Nguyên giận đỏ mặt nói:

– Tử Nha, ngươi khinh ta thái quá, ta quyết bắt cho được ngươi nếu không chẳng làm người. Dù ngươi có chạy đến cung Ngọc Hư ta cũng theo đến nơi, đừng nói chuyện đến hòn núi nào hết.

Mã Nguyên trợn mắt phồng mang đuổi theo Tử Nha đến một chân núi kia, thấy rừng rậm, cây cao, còn Tử Nha biến đi đâu mất dạng.

Mã Nguyên thấy đã mỏi chân, bèn ngồi trên bàn thạch, dưới cội tùng nghỉ mệt. Vì trời đã tối, định sáng hôm sau sẽ tìm đường về trại.

Qua canh ba, xảy nghe tiếng pháo nổ, tiếng binh ó vang trời, lồng đèn sáng như sao, Mã Nguyên ngó lên núi thấy Tử Nha và Võ vương đang ngồi uống rượu, còn hai bên tướng sĩ hô lớn:

– Ðêm nay Mã Nguyên mắc kế, chết không chỗ chôn thây!

Mã Nguyên nổi giận xách gươm chạy tuốt lên đỉnh núi, nhưng đến nơi thì đèn đuốt tắt hết, trời tối nghịt, không thấy Tử Nha đâu cả, bỗng thấy quân sĩ vây dưới chân núi tở mở, đèn đuốc rạng ngời.

Có tiếng người gọi nhau rất lớn:

– Chớ cho Mã Nguyên chạy trốn.

Mã Nguyên tức giận xách gươm chạy xuống chân núi thì lại thấy tối mò, đèn đuốc tắt hết, không có một bóng người, nhìn lên chót núi thì thấy Tử Nha đang ngồi uống rượu với Võ vương như lúc nãy.

Báo hại Mã Nguyên cứ xách gươm chạy lên chạy xuống suốt đêm, cố tìm bắt Tử Nha nhưng không được, sức đã gần kiệt, mệt đến le lưỡi, hai chân rũ liệt không còn muốn bước nữa.

Bấy giờ trời đã sáng, Mã Nguyên không còn thấy ánh đèn, bèn nằm trên tảng đá, nghĩ thầm:

– Ta về dinh Thương dưỡng sức rồi sẽ xuất quân vây thành bắt Tử Nha cũng chẳng muộn.

Song chưa kịp cất bước thì Mã Nguyên lại nghe gần đây có tiếng rên rỉ rất thảm thiết.

Mã Nguyên lần đến chổ có tiếng rên chợt thấy một người đàn bà nằm trên thảm cỏ, đôi mắt nhắm riệt cứ lăn lộn mãi.

Mã Nguyên hỏi:

– Ngươi là ai? Tại sao nằm đây rên rỉ?

Người đàn bà nghe hỏi mở mắt thưa:

– Xin thầy làm phước cứu tôi.

Mã Nguyên nói:

– Ngươi bị tai nạn gì? Ta phải làm sao để cứu ngươi?

Người đàn bà rên rỉ:

– Tôi là vợ của một dân giả, về thăm nhà cha mẹ, đi đến đây rủi bị đau bụng thình lình. Nhờ thầy làm ơn vào xóm xin cho tôi chút nước nóng uống đỡ, nếu không chắc tôi phải chết.

Mã Nguyên nhìn bốn phía rồi nói:

– Ở đây không có nhà ai, làm sao có nước nóng uống?

Người đàn bà nói:

– Thầy ơi, ráng làm phước cứu tôi với. Thày là kẻ tu hành. Lời xưa có nói: cứu sống một người hơn lập một trăm ngôi chùa. Thày cứu tôi, cũng như cha mẹ tôi sanh ra lần nữa.

Mã Nguyên suốt đêm chạy đã mệt, phần đói bụng, này ra một ý kiến, nói với người đàn bà:

– Thế nào ngươi cũng chết, vậy thì xin giúp cho ta một bửa no lòng, tròn vẹn cả hai.

Ngươi đàn bà nói:

– Nếu thầy cứu tôi khỏi chết tôi sẽ đải thầy một bữa chay.

Mã Nguyên nói:

– Không phải ta muốn bắt người làm tiệc, ta muốn ăn thịt ngươi đó. Suốt đêm ta bị Khương Thượng phỉnh gạt nên đói lắm. Nay ngươi sống đi cũng chẳng ích gì, thà giúp ta một bụng.

Người đàn bà nói:

– Thày đừng dọa người bệnh. Thầy là kẻ tu hành đâu phải cọp mà ăn thịt người?

Mã Nguyên lúc này đã đói quá, không thèm cải lẩy nữa, cứ việc theo ý mình làm, đạp chân lên đùi người đàn bà, nắm chân xé ra móc lấy trái tim ăn.

Nhưng lạ lùng làm sao, người ấy bên trong trống rỗng, không có bộ đồ lòng. Tuy vậy Mã Nguyên cứ việc mò hoài. Xảy thảy một vị đạo sĩ cầm gươm bước đến.

Mã Nguyên biết là Văn Thù quảng pháp Thiên Tôn, tính rút tay ra chống cự. Ai ngờ hai bàn tay dính vào trong bụng người đàn bà rút không ra. Túng thế Mã Nguyên định rinh cả cái tử thi chạy trốn, nhưng hai chân lại dính liền với tử thi nữa, không biết làm sao được, dãy dụa một lúc té nhào xuống đất.

Xem lại thì không phải tử thi của đàn bà, mà Mã Nguyên bị dây Khổn Tiên trói vào một tảng đá lớn.

Mã Nguyên túng thế phải năn nỉ:

– Xin Ðạo huynh ra ơn dung tánh mạng.

Văn Thù nói:

– Ngươi là đứa ác tâm, ăn thịt người không biết tanh thì để làm gì không giết.

Nói rồi đưa gươm lên muốn chém, xảy nghe đàng sau có tiếng nói lớn:

– Ðạo huynh khoan chém đã.

Văn Thù quay lại thấy một vị Ðạo sĩ mặt vàng, ít râu, mình mặc đạo bào, đầu chừa hai vá.

Ðạo sĩ chào Văn Thù.

Văn Thù đáp lễ và hỏi:

– Chẳng hay đạo huynh từ đâu đến, có việc gì chỉ dạy xin cho biết?

Ðạo sĩ nói:

– Nếu Ðạo huynh không biết tôi, xin nghe bài thơ này:

Lòng ở từ bi đã bấy chầy

Thanh nhàn Cực lạc tại phương Tây

Một lòng đạo đức hằng khuyên dỗ

Sáu ngả luân hồi khỏi chuyển vây

Lặn lội vớt người sa biển khổ

Dắt dìu cứu thế bước thang mây

Ðã nguyền tế độ ơn lâm nạn

Vì việc nhân gian mới đến đây.

Ngâm xong, đạo sĩ nói tiếp:

– Bần đạo là Chuẩn Ðề, làm Tây phương Giáo chủ. Mã Nguyên là người ngoại ngạch không có tên trong bản Phong Thần. Xin đạo huynh cho tôi đem về Tây Phương đặng làm đệ tử, ấy là ân đức của đạo huynh đó.

Văn Thù nghe nói cười lớn:

– Tôi từng nghe tiếng ngài là Giáo chủ Tây phương, thương người như thương thân, muốn kẻ dữ sửa nét làm lành, ngài đã dạy như vậy tôi đâu dám cãi.

Chuẩn Ðề lấy dao cạo thí phát cho Mã Nguyên, rồi hỏi:

– Ðạo hữu vì học theo môn phản ác nên mắc nạn này. Chi bằng bỏ tư tưởng ấy, theo ta về Tây phương lần chuỗi bồ đề tránh khỏi kiếp trầm luân.

Mã Nguyên thưa:

– Nhờ ơn Phật từ bi cứu nạn, tôi xin cải ác tùng thiện.

Nói vừa dứt tiếng đã thấy tảng đá biến mất. Ấy là phép huyền công của Dương Tiển.

Mã Nguyên gởi Ðả Thần Tiên trả lại cho Tử Nha, rồi theo Chuẩn Ðề về Tây phương tu niệm.

Văn Thù thấy Mã Nguyên đã theo Chuẩn Ðề rồi, liền trở về thành.

Tử Nha ra rước vào trướng hỏi thăm các việc.

Văn Thù đưa trả roi phép lại cho Tử Nha rồi thuật rõ việc Chuẩn Ðề thu đồ đệ.

Tử Nha nửa mừng nửa lo. Mừng là Mã Nguyên đã trừ được, còn lo là lo Ân Hồng ngăn trở, e trễ kỳ bái tướng đăng đàn.

Xảy thấy quân vào báo:

– Có Từ Hàng chơn nhơn đến ra mắt.

Tử Nha lật đật ra rước vào trong, lễ phép hỏi:

– Ðạo huynh đến dạy việc chi?

Từ Hàng nói:

– Tôi nghe Ân Hồng cãi lời thầy, phá rối Tây Kỳ sợ trể ngày bái tướng, nên phải xuống đây tính kế.

Xích Tinh Tử nghe nói mừng rỡ, hỏi:

– Ðạo huynh tình dùng phép gì mà trị nó?

Từ Hàng hỏi Tử Nha:

– Khi phá trận Thập tuyệt, sư đệ có mượn Thái Cực Ðồ của Ðại Lão gia nay còn đó hay trả rồi?

Tử Nha nói:

– Lúc phá trận xong tôi có sai người đến trả nhưng Ðại Lão gia không nhận, bảo sau này có việc dùng đến. Vì vậy Thái Cực Ðồ vẫn còn nơi đây.

Từ Hàng nói:

– Có Thái Cực Ðồ thì bắt Ân Hồng chẳng khó gì.

Ðoạn quay qua nói với Xích Tinh Tử:

– Ðạo huynh phải làm theo kế này mới được.

Xích Tinh Tử nói:

– Xin đạo huynh chỉ dạy.

Từ Hàng bàn luận với Xích Tinh Tử một hồi.

Xích Tinh Tử y lời, song thấy kế ấy quá tàn nhẫn lòng không nỡ.

Từ Hàng biết ý nói:

– Kỳ bái tướng của Tử Nha đã đến, nếu chúng ta để trể việc, ta mang tội với Thiên tiên.

Xích Tinh Tử cực chẳng đã phải nghe theo kế ấy, nói với Tử Nha

– Sư đệ ra thành dụ Ân Hồng đến đây để tôi bắt nó.

Tử Nha tuân lệnh sửa soạn ra đi.

Lúc này Ân Hồng thấy Mã Nguyên đi biệt không về, lòng không vui nói với Tuân Chương và Lưu Phủ:

– Mã đạo trưởng không về e dữ nhiều lành ít. Ngày mai ta phải ra binh đánh với Khương Thượng để dò tin tức Mã đạo trưởng mới được.

Trịnh Luân nói:

– Nếu không tính kế ra binh thì biết bao giờ mới trừ được Tây Kỳ.

Hôm sau, Ân Hồng sắp sửa xuất quân, đã có quân vào báo:

– Tử Nha một mình đến trước dinh khiêu chiến.

Ân Hồng nói:

– Như vậy thằng này đã đến số rồi.

Liền cầm kích xông ra, thấy Tử Nha cởi Tứ Bất Tướng đứng chờ.

Ân Hồng nói:

– Hôm nay ta quyết cùng ngươi tranh tài cao thấp.

Tử Nha chỉ mặt Ân Hồng nói:

– Ân Hồng! Ngươi cãi lời thầy ngày nay thân thể ngươi phải hóa ra tro bụi. Còn ăn năn sao kịp?

Ân Hồng nổi giận đâm Tử Nha mặt giáo.

Tử Nha đưa gươm báu ra đỡ. Hai đàng đánh nhau được ít hiệp.

Tử Nha trá bại, nhưng không chạy về thành mà chạy ra phía mé rừng.

Ân Hồng lập tức truyền Lưu Phủ, Tuân Chương đuổi theo để vây bắt.

Xích Tinh Tử đang đứng phía Nam, thấy học trò mình theo đuổi Tử Nha biết thế nào cũng mang họa, động lòng rơi lụy than:

– Ngươi cãi ta mắc lời thề. Số ngươi không trốn khỏi.

Nói rồi trương bức họa đồ ra, Thái Cực Ðồ biến thành một cái cầu vồng.

Tử Nha giục thú lên cầu chỉ Ân Hồng nói:

– Ngươi có giỏi thì lên cầu này đánh với ta ba hiệp.

Ân Hồng nói:

– Dầu trăm hiệp ta cũng chẳng sợ gì ngươi.

Nói rồi giục ngựa chạy lên cầu.

Tử Nha cởi Tứ Bất Tướng chạy mất, chỉ còn một mình Ân Hồng trên cầu mà thôi.

Ân Hồng hoảng hốt tâm ý mê loạn, hễ tưởng gì thấy nấy, Ân Hồng nghi có phục binh tức thì binh phục áp tới, Ân Hồng ra sức đánh một hồi, binh phục tan hết. Ân Hồng quyết đi tìm Tử Nha cho được, xảy thấy Tử Nha đến đánh một trận rồi biến đi.

Ân Hồng lại mơ ước:

– Phải chi ta trở về được Triều Ca thăm viếng thân phụ kẻo lâu ngày mong nhớ.

Xảy thấy Triều Ca trước mặt. Ân Hồng nhớ đến Hoàng quí phi là người thương mình như con đẻ, thì lại thấy mình đang đứng ở Tây cung, Hoàng quí phi đứng trước cửa.

Ân Hông xuống ngựa làm lễ, rồi nghĩ rằng:

– Phải đến Hình Khánh cung viếng Dương quí phi.

Tức thì thấy mình đang đứng ở Hình Khánh cung và Dương quí phi đứng trước mặt.

Ân Hồng chào hỏi, Dương quí phi chẳng nói gì hết.

Ân Hồng lại nhở đến mẹ mình, xảy nghe bà Khương hậu kêu lớn:

– Ân Hồng, ngươi biết ta chăng?

Ân Hồng nhìn rõ mẹ mình, liền kêu lớn:

– Mẹ ơi! Hay là con chết xuống âm ti nên gặp mẹ.

Khương Hoàng hậu nói:

– Oan gia! Ngươi chẳng nghe lời thầy nên phò Trụ đánh Châu. Hễ thề thì mắc, thắt thì rối, nay ngươi lên Thái Cực Ðồ thì xương thịt hóa thành tro, còn sống sao được nữa.

Ân Hồng nghe nói khóc lớn:

– Xin mẹ cứu con với.

Khương Hoàng hậu biến mất.

Ân Hồng giật mình như tĩnh lại, nghe tiếng Xích Tinh Tử nói:

– Ân Hồng! Ngươi biết ta là ai chăng?

Ân Hồng nghe tiếng thầy hỏi liền thưa:

– Con ở đâu thế này?

Xích Tinh Tử thấy học trò mình như vậy cũng động lòng thương nói:

– Bởi con không nghe lời ta nên ngày nay phải chết trong Thái Cực Ðồ rồi.

Ân Hồng nói:

– Thầy ơi! Ðệ tử xin chịu đầu Châu, mong thầy cứu mạng.

Xích Tinh Tử nói:.

– Bây giờ ăn nữa thì đã muộn, thầy biết cứu làm sao. Trước kia ai đã xui cho đánh Châu cho mắc lời thề độc.

Ân Hồng thưa:

– Tôi lầm nghe lời Thân Công Báo nên cãi lời thầy, xin thày cứu mạng.

Xích Tinh Tử thấy vậy lòng không nỡ.

Từ Hàng ở trên mây kêu lớn:

– Số trời định như vậy, dám cãi hay sao nếu để trể giờ lên đài Phong Thần không kịp.

Xích Tinh Tử rơi lụy, cuốn bức họa đồ. Giây phút giũ một cái người ngựa đều nát ra tro, duy có mấy món bửu bối còn lại mà thôi.

Ân Hồng hóa ra trận gió, bay lên đài Phong Thần.

Có bài thơ rằng:

Ân Hồng nghe tiếng họ Thân bày

Muốn đánh Tây Kỳ cậy phép hay

Quên nghĩa thầy trò day mũi bạc

Ngày nay xương thịt hóa tro bay.

Xích Tinh Tử thấy học trò tan nát như tro, tủi lòng khóc lớn:

– Thiên hạ thấy ta giết đệ tử như vậy, chắc không ai dám theo ta học đạo nữa.

Từ Hàng khuyên:

– Ðạo huynh nói sai rồi. Mã Nguyên không có tên trong bảng Phong Thần nên có Phật cứu, còn Ân Hồng trời đã định số chết non, khóc lóc làm gì.

Ba vị tiên trưởng trở về tướng phủ.

Tử Nha tạ ơn ba vị đều nói:

– Ðợi đến ngày bái tướng chúng tôi sẻ đạo đưa Thừa Tướng chinh Ðông. Bây giờ chúng tôi xin trở về động.

Nói rồi ba vị tiên trưởng đều hóa hào quang bay đi hết.

Bấy giờ quân thám thính chạy về báo với Tô Hộ:

– Ân điện hạ đuổi theo Tử Nha, xảy thấy hào quang sáng lòa bao trùm Ân điện hạ. Sau đó chúng tôi không thấy nữa. Còn Trịnh Luân, Tuân Chương và Lưu Phủ không biết đi đâu.

Tô Hộ bàn với con:

– Chúng ta mau lợi dụng việc này bắn thơ vào hành Tây Kỳ tin cho Tử Nha đến cướp dinh, rồi chúng ta dẫn gia quyến đến đầu Châu.

Tô Toàn Trung thưa:

– Nếu không có Lữ Nhạc và Ân Hồng thì cha con mình đầu Châu đã lâu rồi.

Tô Hộ viết thư xong sai Tô Toàn Trung thừa đi đêm tối bắn vào thành Tây Kỳ.

Ðêm ấy nhằm phiên Nam Cung Hoát đi tuần, bắt gặp mũi tên có buộc phong thơ liền đem đến trình với Tử Nha.

Trong thơ đại khái như sau:

“Tây chinh nguyên soái, Ký châu hầu Tô Hộ trăm lạy dâng thơ cho Khương Thừa Tướng.

Từ trước tôi đã muốn đầu Châu, nay được chiếu chỉ sai đi chinh phạt. Tôi sẳn lòng xếp giáp quyết chí dâng binh, ngặt vì Trịnh Luân và Lữ Nhạc ra sức giao công, kế gặp Ân Hồng và Mã Nguyên chống chế. Bây giờ những người ấy đã đền tội, chỉ còn có một Trịnh Luân chưa chịu phục tùng. Vậy mai này xin Thừa Tướng cướp dinh, để cha con tôi có dịp trở về ánh sáng, phạt Triều Ca, giết Ðắt Kỷ, kẻo để họ Tô mang tiếng với đời.

Tô Hộ kính dâng thơ.”

Tử Nha xem xong mừng rỡ, rạng ngày truyền năm cha con Hoàng Phi Hổ đi tiên phuông, Na Tra đi hậu tập, Nam Cung Hoát đi phía tả, Ðặng Cửu Công đi phía hữu, sắp đặt xong xuôi đợi canh hai xuất trận.

Ngày hôm ấy, Trịnh Luân, Tuân Chương và Lưu Phủ trở về gặp Tô Hộ bàn:

– Ðiện hạ rủi mất rồi, chúng ta phải dâng sớ về triều viện binh mới được.

Tô Hộ ậm ừ, đợi đến đêm tối Tử Nha đến cướp dinh. Binh tướng không ai hay biết, riêng gia đình Tộ Hộ lén gói ghém đồ đạc gọn gàng.

Vào nửa đêm hôm ấy, các đạo binh Châu đã mai phục, một tiếng pháo lớn nổ vang, năm cha con Phi Hổ áp vào.

Nam Cung Hoát đánh thốc vào phía tả, Ðặng Cửu Công đốc chiến nơi hữu dinh.

Trịnh Luân thất kinh cỡi thú mắt lửa tròng vàng, cầm gián ma xử ra cự địch, gặp ngay cha con Hoàng Phi Hổ đánh nhau kịch liệt.

Lưu Phủ thấy Ðặng Cửu Công vào dinh hữu thì xua binh chận lại đánh nhầu.

Tuân Chương gặp Nam Cung Hoát ở tả dinh, vội ra uy đối địch.

Trong lúc dinh Thương bị náo loạn, Tử Nha lại sai quân tiếp ứng đánh nhau lở đất long trời.

Riêng cha con Tô Hộ thì không tham gia đến chiến cuộc, dẫn trọn gia quyến mình vào cửa thành Tây Kỳ.

Bấy giờ Ðặng Cửu Công đánh với Lưu Phủ, Lưu Phủ cự không lại bị Ðặng Cửu Công chém bay đầu.

Còn Tuân Chương đánh không lại Nam Cung Hoát, liền giục ngựa bỏ chạy, rủi gặp Hoàng Thiên Tường đâm một thương nhào xuống ngựa, binh Châu thừa thắng tràn vào phá dinh Thương như vào chỗ không người.

Ðặng Cửu Công rảnh tay đến trợ chiến với Hoàng Phi Hổ, vây Trịnh Luân vào giữa.

Trịnh Luân một mình cự với sáu tướng làm sao cho lại, bị Ðặng Cửu Công nắm trúng dây đai vật xuống đất.

Binh Châu bắt trói đem vào thành đặng lập công.

Rạng ngày, Tử Nha ra khách, các tướng vào hầu, thưa lại các việc cướp dinh bắt tướng, kế đó, có quân vào báo:

– Cha con Tô Hộ xin đến hầu.

Tử Nha mời vào.

Tô Hộ và Toàn Trung chưa kịp thi lễ, Tử Nha đã bước đến mời ngồi và nói:

– Quân hầu nhơn đức và khẳng khái, thiên hạ ai cũng biết. Nay thuận cơ trời, bỏ chỗ tối về chỗ sáng, chừng cậy thế thần tiên, thiệt là tay hào kiệt. Tôi yêu kính biết chừng nào.

Tô Hộ thưa:

– Cha con tôi tội nặng, nhờ ơn Thừa Tướng rộng dung.

Tử Nha truyền dẫn Trịnh Luân vào.

Trịnh Luân đứng làm thinh, trợn hai con mắt nhìn Tô Hộ và Toàn Trung như muốn ăn tươi nuốt sống.

Tử Nha nói:

– Trịnh Luân! Người tài phép bao nhiêu mà dám nghịch mạng. Nay đã bị trói sao chẳng quỳ xuống hàng đầu!

Trịnh Luân nạt lớn:

– Thất phu! Ta với ngươi là hai nước cừu địch, nay rủi kế chủ ta, nên ta mới bị ngươi bắt. Ta quyết lòng chịu chết, đừng khi ta nhiều lời.

Tử Nha truyền dẫn ra ngoại thành xử trảm.

Tô Hộ quỳ xuống thưa:

– Trịnh Luân nghịch mệnh trời, Thừa Tướng giết cũng phải, song nghĩ người ấy trung nghĩa, tài phép cũng cao, nay đang lúc dụng người, một tướng hay không dễ kiếm. Xin Thừa Tướng rộng dung.

Tử Nha bước xuống đỡ Tô Hộ dậy, vừa cười vừa nói:

– Ta cũng rõ Trịnh Luân trung nghĩa, nên lấy oai để quân hầu có cớ mà dụ dỗ nó. Nay quân hầu đã xin, lẽ nào ta hẹp lượng.

Tô Hộ mừng rỡ, vội ra ngoài dụ dỗ Trịnh Luân.

Trịnh Luân thấy Tô Hộ bước tới, cúi mặt làm thinh.

Tô Hộ nói:

– Trịnh tướng quân ơi! Lời xưa nói: Biết thời là kẻ hào kiệt, sáng trí mới gọi hùng anh. Nay Trụ vương vô đạo không kể đến giang sơn xã tắc làm cho nước nhà điên đảo, thiên hạ lầm than, chúng ta là lũ tôi thần lẽ nào cớ cắm đầu phò một bạo chúa mà không thấy cái hại trước nhân dân. Chỉ có những vì vua nhân đức mới làm cho nước mạnh dân giàu, Võ vương nhân đức có thừa, bốn biển anh hùng đều dốc lòng phò trợ. Cơ trời đã vậy, chúng ta chống lại làm sao. Nếu tướng quân chịu đầu thì ta thưa với Thừa Tướng dùng vào việc cử binh phạt Trụ cứu dân lành, như vậy là nghĩa, là nhân, là biết thời biết vận.

Trịnh Luân nghe nói thở ra, làm thinh ngẩm nghĩ.

Tô Hộ xem chừng Trịnh Luân đã hồi tâm, liền nói tiếp:

– Sở dĩ ta ép tướng quân là thấy tướng quân là bậc anh hùng trung liệt, không nỡ để thác oan, nếu tướng quân chịu chết vì một ông vua bạo ngược thì thiên hạ chẳng gọi tướng quân là trung đâu. Cũng như hiện nay các chư hầu đều bỏ Trụ đầu Châu, chẳng lẽ họ là những người bất trung cả sao? Lời xưa nói nói: Chim khôn chọn cây lành mà đổ, tôi hiền tìm chúa thánh mà phò, nếu phò vua Trụ mà được tiếng trung, thì ta đây là hàng quốc thích ngồi hưởng giàu sang, lấy triều đình điều khiển thiên hạ chẳng sướng hay sao mà đi đầu một đứa khác để phải cúi luồn. Tướng quân phải xét kỷ kẻo uổng thân.

Trịnh Luân nghe Tô Hộ nói dường như tĩnh giấc chiêm bao, thở dài một tiếng đáp:

– Nếu không nhờ quân hầu dạy dỗ thì tiểu tướng đã liều mạng rồi. Ngặt vì tôi vừa xúc phạm với Thừa Tướng, e Thừa Tướng không dung.

Tô Hộ nói:

– Thừa Tướng là người rộng lượng, đức độ cao dầy, lẽ nào chấp nhứt việc nhỏ, Tướng quân đừng nghi nan, để ta vào thưa lại.

Nói rồi vào bái Tử Nha, thuật lại mọi điều.

Tử Nha cười lớn:

– Trong lúc chiến chinh, ai vì chủ nấy, nay đã quy hàng thì coi như người một nhà, đâu còn cố chấp.

Nói rồi truyền tả hữu ra mở trói cho Trịnh Luân.

Trịnh Luân vào quỳ lạy thưa:

– Tôi không biết cơ trời nên nhọc lòng Thừa Tướng. Nay Thừa Tướng ban ơn không giết, tôi lẽ nào không phục tùng.

Tử Nha bước xuống đỡ Trịnh Luân dậy, an ủi:

– Ta biết tướng quân trung nghĩa, trong đời ít kẻ sánh bằng. Chỉ tại vua thất đức, không phải tại tướng quân bất trung. Nay chúa ta trọng hiền đãi sĩ, Tướng quân phải hết lòng phò tá, chớ nên nghi ngờ.

Trịnh Luân mừng rỡ tạ ơn.

Tử Nha dắt Tô Hộ đến ra mắt Võ vương và tâu:

– Ký châu hầu Tô Hộ nay đã về Châu, xin vào ra mắt.

Võ vương mời Tô Hộ đến, và khuyên:

– Ta ở Tây Kỳ giữ đạo làm tôi, không dám phạm luật, chẳng biết vì cớ nào mà thiên tử đem binh chinh phạt mãi. Nay khanh về với nước ta thì ta với khanh đối với nhà Thương cũng vẫn giữ niềm thần tử, đợi thiên tử tu nhơn tích đức, ta sẽ tính việc với khanh.

Nói rồi quay lại bảo Tử Nha:

– Tướng phụ thay mặt ta dọn yến tiệc thết đãi Tô hầu.

Tử Nha vâng lệnh cùng Tô Hộ lui gót.

Hồi 62: Trương Sơn kế tiếp việc chinh Tây

Nói về ải Tị Thủy, Hàng Vinh nghe tin Tô Hộ đầu Châu thì thất kinh, liền viết biểu dâng về Triều Ca cấp báo.

Ngày ấy gặp lúc quan đại phu Phương Kiển Xuân thâu sớ, xem thất kinh mắng lớn:

– Tô Hộ chịu ơn vua, lẽ nào bán chúa cầu vinh, thật không phải kẻ nhân nghĩa trên đời vậy.

Mắng rồi ôm sớ vào cung, tìm hỏi quan thị ngự:

– Chẳng hay Thiên Tử ngự tại đâu?

Quan Thị Ngự thưa:

– Thiên tử đang ở tại lầu Trích Tinh.

Phương Kiển Xuân đến dưới lầu đợi chỉ. Tả hữu xem thấy tâu lại.

Trụ vương truyền đòi vào.

Kiển Xuân vào làm lễ ra mắt.

Trụ Vương phán hỏi:

– Khanh có chuyện gì cần tâu với trẫm đó?

Phương Kiển Xuân tâu:

– Quan Tổng binh ải Tị Thủy là Hàng Vinh vừa dâng sớ về triều báo tin Ký châu hầu Tô Hộ đã đầu Cơ Phát rồi. Hạ thần trộm nghĩ Tô Hộ chịu ơn thiên tử rất dày, nay lại đầu hàng địch, tội không phải nhỏ.

Trụ vương tiếp lấy tờ sớ, xem xong nổi giận hét lớn:

– Tô Hộ là hàng quốc thích, được trẫm trọng đãi mười phần mà còn bỏ trẫm đầu giặc thì biết còn ai tin được nữa. Thôi, khanh hãy lui ra, để trẫm liệu định.

Lúc ấy Ðắt Kỷ núp sau màn, hiểu rõ sự tình, đợi Phương Kiển Xuân đi rồi, liền bước ra quì mọp trước mặt Trụ Vương khóc lớn nói:

– Thiếp ở chốn thâm cung, nhờ ơn vua yêu dấu, dẫu nghiền xương, lóc thịt đền bù vẫn chưa xứng đáng. Nay chẳng biết cha thiếp nghe lời ai mà đầu Châu, thật tội đáng tru di cả họ. Xin bệ hạ chém đầu thần thiếp bêu ngoài cửa thành mà chịu tội với thiên hạ, họa may bá quan, trăm họ thấy được đức công minh của Bệ hạ mà trọng xã tắc trải lòng trung. Ðó là thần thiếp đem chút ơn mọn đáp lại thâm ân.

Nói rồi cúi mặt trên đầu gối của Trụ vương khóc thảm thiết.

Trụ vương xem thấy động lòng, đỡ Ðắt Kỷ dậy và nói:

– Ái khanh ơi! Tô Hộ đầu Tây Kỳ chẳng liên can gì tới khanh cả, vì ái khanh lâu nay ở trong thâm cung, làm sao rõ được lòng cha. Ái khanh hãy đứng dậy, đừng buồn rầu mà hao tổn tinh thần. Dầu trẫm có mất hết giang sơn cũng không phải do ái khanh mà sợ.

Ðắt Kỷ lau nước mắt đứng dậy tạ ơn.

Sáng hôm sau, Trụ vương lâm triều phán hỏi bá quan văn võ:

– Tô Hộ phản trẫm đầu Châu, tội rất trọng. Ai dám thay mặt trẫm đem binh đến Tây Kỳ bắt Tô Hộ gia hình.

Quan đại phu Lý Ðịnh tâu:

– Khương Thượng nhiều mưu trí, khéo dụng binh nên những tướng cầm binh chinh phạt Tây Kỳ, nếu không tử trận thì cũng hàng đầu, chưa ai có thể rửa nhục Triều đình. Nay phải dùng tướng giỏi mới mong thắng giặc. Tôi xin tiến cử Trương Sơn, người này chinh chiến đã lâu, tánh tình cẩn thận, nếu cầm binh chinh phạt có thể dẹp loạn ban sư.

Vua Trụ nghe nói mừng rỡ liền hạ chiếu sai người đem đến ải Tam Sơn, phong Trương Sơn làm Nguyên soái cử binh đánh Tây Kỳ.

Thiên sứ vâng lệnh đến ải Tam Sơn thì trời đã tối, bèn vào quán trọ nghỉ ngơi, rạng ngày mới sai quân vào báo tin cho Trương Sơn biết.

Trương Sơn nghe có chiếu vua đến, vội dẫn hai tướng là Lý Cẩm và Tiên Báo đồng đến quán trọ rước thánh chỉ đem về phủ, đặt bàn hương án quỳ nghe Thiên sứ tuyên đọc:

“Chinh phạt là quyền thiên tử, thành công nhờ chức Nguyên nhung. Cơ Phát xưng vương tại Tây Kỳ, nghe lời Tử Nha nghịch mạng. Binh triều thường thất trận, quân giặc lại lớn oai. Quả nhân muốn thân chinh, nhưng triều thần can gián chỉ rằng sức tướng còn có thể đạp nổi Tây Kỳ, không muốn động đến xe rồng làm cho muôn dân khổ sở.

Nay ý định tiến cử Trương Sơn thay mặt quả nhơn đem binh vấn tội. Vậy khanh rán sức để trẫm an lòng. Hễ ban sư trẫm sẽ chia đất thưởng công, chẳng quên lời bái tướng.

Nay chiếu.”

Trương Sơn nghe đọc chiếu xong đứng dậy lạy tạ rồi đãi đằng Thiên sứ.

Tiệc mãn, thiên sứ từ giã ra về, Trương Sơn đợi Hồn Cẩm đến, giao ải cho Hồng Cẩm trấn giữ rồi mới cử binh ra đi.

Ngày ấy, Trương Sơn khiến Tiên Báo và Lý Cẩm làm tả hữu tiên phuông, dẫn mười vạn binh đi trước. Tang Nguyên và Mã Ðức là hai viên tướng cạnh theo sau. Binh thế mạnh như rồng, sức người như gió bão.

Trương Sơn ngày đi đêm nghỉ, chẳng bao lâu đã đến Tây Kỳ, liền truyền quân đóng trại nơi cửa thành phía Bắc, rồi họp chư tướng bàn kế ra binh.

Tiên Báo thưa:

– Quân ta đi đường xa ngàn dậm, mới đến nơi còn mệt mỏi, nếu Nguyên soái xuất quân gấp khó thắng trận đầu.

Trương Sơn khen:

– Tướng quân nói phải lắm, song cũng không nên chểnh mảng làm nhục lòng quân. Vậy thì cho quân sĩ canh phòng cẩn mật, đề phòng Tử Nha cướp trại.

Bấy giờ Tử Nha đang sai Tân Giáp sắm thêm khí giới cho kịp ngày bái tướng đăng đàn, lại truyền Hoàng Phi Hổ bảo thợ may làm một số cờ đỏ thật nhiều để dùng trong quân ngũ không để lộ một sắc cờ nào khác.

Hoàng Phi Hổ lấy làm lạ hỏi:

– Cờ xí là con mắt của quân binh. Xưa nay ra trận ai cũng dùng cờ ngũ sắc để phân biệt trước sau tả hữu, và nhờ đó hàng ngũ khỏi lộn xộn. Nếu Thừa Tướng dùng một màu đỏ thì quân sĩ sẽ không phân biệt được Nam, Bắc, Ðông, Tây, khó bề tấn thối. Hay là Thừa Tướng có mưu kế gì khác xin chỉ rõ cho tôi biết?

Tử Nha vừa cười vừa nói:

– Vì tướng quân chưa hiểu: Màu đỏ thuộc hỏa, mà chúa ta ở phương Tây thuộc kim. Loài kim không có lửa rèn thì chẳng thành khí được. Ấy là ngũ hành tương khắc mà tương sanh. Tuy ta dùng một màu cờ, nhưng ngù cờ thì lại có đủ năm sắc vàng, xanh, trắng, đỏ, đen, quân binh ta sẽ nhìn vào ngù cờ mà phân biệt được Ðông, Tây, Nam, Bắc. Ta nghĩ không hại chi mà sợ.

Hoàng Phi Hổ khen:

– Ý kiến Thừa Tướng rất hay.

Bỗng có tám trăm chư hầu đều dâng biểu đến xin Võ vương hội tề tại Mạnh Tân để họp binh đánh Trụ.

Tử Nha nói với các tướng:

– Việc này cần phải dè dặt, vì ta e chúa công còn kính nhà Thương, không nỡ đem binh phạt Trụ.

Giữa lúc Tử Nha và các tướng đang bàn luận thì có quân thám mã vào báo:

– Trụ vương sai Trương Sơn làm Nguyên soái đem binh phạt Tây Kỳ, hiện đã kéo đến nơi và đóng trại ở Bắc môn.

Tử Nha hỏi Ðặng Cửu Công:

– Trương Sơn dụng binh như thế nào?

Ðặng Cửu Công thưa:

– Trương Sơn làm Nguyên soái, trước đây thay tôi trấn Tam Sơn. Người này chỉ có sức mạnh, chớ không có phép tắc gì hết.

Qua bữa sau có tin Trương Sơn kéo quân đến trước thành khiêu chiến.

Tử Nha hỏi các tướng:

– Ai muốn ra đánh trận đầu?

Ðặng Cửu Công xin xuất trận.

Tử Nha nhận lời, Ðặng Cửu Công kéo binh ra thành, thấy một tướng mặt đỏ, tay cầm siêu đao, xem lại là Tiên Báo.

Ðặng Cửu Công kêu lớn nói:

– Tiên tướng quân, hãy về nói với Trương Sơn ra đây cho ta nói chuyện.

Tiên Báo điểm mặt Cửu Công mắng rằng:

– Phản tặc! Thiên tử không phụ ngươi, phong làm đại tướng, ngươi không biết đền ơn đáp nghĩa lời đầu giặc đánh vua, còn mặt mũi nào sống trong trời đất

Ðặng Cửu Công bị mắng hổ thẹn, không biết lời nào cãi lẽ, túng thế phải nói đùa:

– Tiên Báo! Ngươi là đứa thất phu, biết chi mà nói phách, rất đỗi Văn Thái Sư còn không bảo tồn tánh mạng, huống chi các ngươi là lũ chuột, sức mấy mà dám phạt Tây Kỳ.

Nói rồi vung đó tới chém, Tiên Báo rán hết sức chống đỡ.

Ðánh được ba mươi hiệp Tiên Báo thương pháp rối loạn bị Ðặng Cửu Công chém một đao rơi đầu. Binh Thương vỡ loạn, Ðặng Cửu Công xách đầu Tiên Báo về nạp cho Tử Nha, Tử Nha mừng rỡ truyền dọn tiệc khao thưởng.

Trương Sơn hay tin Tiên Báo bị Ðặng Cửu Công chém giữa trận, nổi giận kéo quân đến thành khiêu chiến, quyết giết Ðặng Cửu Công trả thù cho Ðại tướng.

Quân vào báo lại với Tử Nha, Ðặng Cửu Công xin xuất trận.

Ðặng Thiền Ngọc xin theo cha lược trận.

Ðặng Cửu Công vừa ra khỏi cửa thành.

Trương Sơn trông thấy mắng lớn:

– Phản tặc! Triều đình chẳng phụ ngươi, sao ngươi trở lòng đầu giặc. Ta quyết bắt ngươi đưa về Triều Ca cho vua xử tội.

Ðặng Cửu Công nói.

– Ngươi làm đại tướng mà không biết thời vận, khác chi trâu ngựa mặc áo quần, Trụ vương thất đức ham dâm vô đạo, các chư hầu phản Trụ đầu Châu. Còn ngươi khư khư treo phò một kẻ bạo ngược, trái lòng trời nghịch ý dân, sao gọi là chính nghĩa. Nếu nghe lời ta nói, xuống ngựa đầu Châu cũng không mất công hầu mà giữ tròn tánh mạng bằng cãi lời ta ăn năn không kịp.

Trương Sơn nổi giận mắng:

– Thất phu! Ðã phản vua phản nước còn dụng lý lẽ dụ người. Ta không bắt ngươi nghiền xương, ta không phải tài làm đại tướng.

Nói rồi đâm một giáo. Ðặng Cửu Công đưa thương ra đỡ. Ðánh được ba mươi hiệp, Ðặng Cửu Công toát mồ hôi, không sao bì lại sức mạnh của Trương Sơn.

Thiền Ngọc biết cha mình yếu sức, liền ném vào mặt Trương Sơn một cục đá.

Trương Sơn bị Ngũ quang thạch trúng nhằm sống mũi, gần té xuống yên, thất kinh quất ngựa chạy dài.

Cha con Ðặng Thiền Ngọc đại thắng thâu quân vào thành.

Trương Sơn mặt sưng húp, về đến dinh nằm lì một đống, lòng căm tức không sao vui được.

Bỗng có quân vào báo:

– Có đạo sĩ đến trước dinh xin ra mắt.

Trương Sơn truyền mời vào thấy người ấy là một đạo nhân, đầu chừa hai vá, vai mang một lưỡi gươm, bước tới thi lễ. Trương Sơn gượng ngồi dậy cúi chào.

Ðạo sĩ thấy mặt Trương Sơn sưng vù sống mũi bầm đen, liền hỏi nguyên do.

Trương Sơn nói:

– Tôi ra trận đánh với Cửu Công, bị nữ tướng lén quăng vào mặt tôi một cục đá, làm cho mặt mày đổ lửa phải bại tẩu chạy về.

Ðạo sĩ mỉm cười nói:

– Ðể tôi cho một chút thuốc lành liền.

Nói rồi lấy thuốc hòa với nước xức vào mặt Trương Sơn. Giây lát mặt Trương Sơn không còn đau đớn gì nữa.

Trương Sơn mừng quá hỏi thăm:

– Ðạo sư từ đâu đến?

Ðạo sĩ nói:

– Ta là Võ Dực tiên ở Bồng Lai đảo đến đây giúp sức với tướng quân.

Trương Sơn mừng rỡ nói:

– Nếu vậy thì thật may mắn.

Rạng ngày Võ Dực tiên đến thành mời Tử Nha ra nói chuyện.

Quân vào báo.

Tử Nha nói:

– Ta bị ba mươi sáu đạo binh đến đánh Tây Kỳ, nay tính đã được ba mươi hai đạo rồi, còn bốn đạo nữa không lẽ từ chối.

Nói rồi truyền các tướng kéo binh ra thành.

Na Tra với Hoàng Thiên Hóa đi một cặp, Kim Tra với Mộc Tra đi một cặp, Vi Hộ với Lôi Chấn Tử đi một cặp, Dương Tiển và Thổ Hành Tôn đi sau cùng.

Tử Nha đến trước trận vòng tay chào Võ Dực tiên, và nói:

– Chẳng hay đạo hữu danh hiệu là chi? Ðến đây dạy lẽ nào xin cho biết?

Võ Dực tiên nói:

– Bần đạo ở núi Bồng Lai, hiệu là Võ Dực. Còn ngươi có phải là Tử Nha, học trò của Nguyên Thỉ tại núi Côn Lôn không? Ta không can hệ gì đến ngươi, sao ngươi dám hăm ta, đòi rút gân và nhổ lông cánh. Ngươi cậy quyền phép nào mà khinh ta như vậy?

Tử Nha bái và thưa:

– Ðạo hữu nghe lầm, trách oan tôi như vậy, chớ thực tình tôi chưa từng quen với đạo hữu bao giờ, chưa biết đạo hữu là ai, làm gì có chuyện hăm dọa.

Võ Dực tiên nghe Tử Nha nói, cúi đầu ngẫm nghĩ:

– Tử Nha nói cũng phải, có lẽ Thân Công Báo đã gạt ta chăng!

Liền ngó Tử Nha tỏ ý dò xét:

– Ngươi nói nghe cũng có lý, song chẳng lẽ người ta đặt chuyện vu vơ? Ta cho ngươi biết, lần sau chớ vô lễ như vậy. Nếu không chừa thói ấy, chắc ta không dung tình. Thôi ngươi hãy về thành, ta cũng trở về núi.

Tử Nha chưa kịp truyền lịnh lui binh.

Na Tra nghe giọng nói tự cao tự đại của Võ Dực tiên không sao chịu nổi lướt tới nói lớn:

– Yêu đạo! Ngươi dám khi dễ sư thúc ta như vậy à!

Vừa nói vừa đâm Vô Dực tiên một giáo.

Võ Dực tiên trợn mắt nhìn Tử Nha:

– Nếu vậy ngươi ỷ có thằng oắt con này khinh bỉ ta.

Nó rồi vung gươm chém lại.

Hoàng Thiên Hóa giục kỳ lân đến đánh tiếp một chùy, Lôi Chấn Tử quạt cánh bay lên trời giáng xuống một côn, Thổ Hành Tôn cũng chạy về trợ chiến. Rồi Dương Tiển giục ngựa vào chém một đao, áp vây Võ Dực tiên chẳng khác kiến bâu cục đường.

Na Tra quăng Càn Khôn Quyện đánh nhằm vai Võ Dực tiên, Hoàng Thiên Hóa phóng Toàn Tâm đinh khoan lủng cánh tay mặt.

Thổ Hành Tôn đập trên đùi một gậy, Dương Tiển quăng Hạo Thiên Khuyển cắn cổ.

Võ Dực tiên la lên một tiếng vội vàng độn thổ đi mất.

Tử Nha cũng thâu binh về thành thưởng công các tướng.

Võ Dực tiên về đến trại Trương Sơn ra nghênh tiếp và an ủi:

– Ðạo trưởng hôm nay vì mắc kế nên mới bị thương. Việc binh gia thắng bại lẽ thường, có gì lo lắng.

Võ Dực tiên nói:

– Ta sơ ý không để phòng, bị chúng nó ỷ đông làm hỗn.

Nói rồi lấy thuốc trong giỏ hoa lam uống vào ít hoàn, chẳng bao lâu thương tích đều lành mạnh.

Võ Dực tiên nói với Trương Sơn:

– Ta vì lòng từ bi không nỡ sát hại, thế mà bọn này cố xúc phạm, ta không thể bỏ qua. Thôi, hãy đem rượu ra đây cho ta uống rồi đêm nay ta dùng phép làm cho thành Tây Kỳ hóa ra biển lửa, không một người nào sống sót nổi.

Trương Sơn mừng rỡ, hối quân dọn tiệc đãi đằng Võ Dực tiên cho đến lúc mặt trời lặn.

Bấy giờ Tử Nha ngồi trong trướng phủ, xảy thấy một trận gió thổi tới làm rơi miếng ngói trước thềm liền đánh tay xem, biết thành Tây Kỳ có nạn, liền vội tắm rửa cầm gươm làm phép đảo hải, đem nước biển Bắc đổ vào thành Tây Kỳ.

Còn Nguyên Thỉ hay việc ấy cũng vội lấy bình lưu ly đựng nước Tam quang thần thủy đổ trên biển Bắc, trợ lực Tử Nha.

Ðến canh ba, Vô Dực tiên hiện thành hình chim đại bàng, xòe hai cánh che khuất nửa khung trời, xem thấy trên thành Tây Kỳ đầy nước biển, thì cười ngất, nói:

– Khương Thượng dốt nát, không rõ sức lực của ta. Dẫu nước bốn biển dồn lại đây ta tát một hồi cũng hết, sá gì một biển mà đỡ được cả thành sao?

Nói rồi rán sức bình sanh, hai cánh quạt một lượt. Quạt bảy tám chục cái, xem lại không cạn chút nào.

Võ Dực tiên cứ tát mãi cho đến canh năm, coi lại trời đã sáng mà nước vẫn y nguyên.

Báo hại Vỡ Dực tiên lông lá ướt đẫm, mệt muốn đứt hơi, lòng đói như cào, thở dài:

– Ta không ngờ có chuyện lạ lùng như vậy. Nay trân thế ta ra nổi này, nếu trở vào dinh, tướng sĩ trông thấy sẽ chế nhạo ta không ít, chi bằng tìm nơi nào thanh vắng, kiếm vật thực lót lòng, đợi mình mẩy khô khan rồi sẽ tính kế khác.

Nghĩ rồi vỗ cánh bay sang một hòn núi kia, thấy một đạo sĩ đang ngồi dưới chân núi, hình như lâm dâm tụng niệm gì đó.

Võ Dực tiên vì đói quá sanh ra bạo tàn, tính bắt lấy đạo sĩ ấy ăn cho đỡ dạ.

Ðạo sĩ ngồi đưới chân núi, thấy một con chim Ðại bàng giơ vút nhọn bay xớt qua tính bắt mình, liền chỉ một cái, tức thì Ðại bàng sa xuống đất.

Ðạo sĩ đưa tay lau mặt, và nói:

– Ðại bàng điểu! Ngươi dám toan xợt ta sao?

Võ Dực tiên thưa:

– Không dám giấu đạo sư, tôi đi đánh Tây Kỳ đói quá, không có vật gì lót lòng, tính làm hổn, không dè thầy pháp thuật cao siêu, xin rộng tình dung thứ.

Ðạo sĩ nói:

– Nếu đói bụng sao không nói cho ta biết đặng ta chỉ chỗ cho, lại đi làm chuyện vô đạo như vậy. Nhưng thôi, ngươi có đói bụng thì hãy bay xuống núi Tử Vân cách đây hai trăm dậm, hiện có các thầy tu đang làm chay, không thiếu chi đồ ăn. Vậy ngươi hãy đi mau kéo trể.

Võ Dực tiên lạy tạ liền vỗ cánh bay bổng rồi sa xuống núi Tử Vân, hiện nguyên hình thì thấy các đạo sĩ đang ngồi nói chuyện, xảy có một đạo đồng bưng nước đi lên.

Vô Dực tiên bước đến nói:

– Tôi mới đi đến.

Ðạo đồng nhìn vào mặt Võ Dực tiên nói:

– Ðạo sĩ thật xui xẻo, phải chi đến sớm một chút nữa thì cỗ bàn còn, bây giờ thì cỗ bàn hết, biết làm sao.

Võ Dực tiên hầm hầm nói.

– Ðừng bào chữa, ngươi lựa người mà đãi thì sao gọi là công bình.

Ðạo đồng nói:

– Nay lỡ bữa hết, xin thầy mai đến sớm.

Võ Dực tiên trợn mắt cãi lại.

Một đạo sĩ trông thấy hỏi, đạo đồng thưa:

– Có một đạo sĩ đến muộn, cỗ bàn hết không còn đãi đằng, nên đạo sĩ này la lối chớ không có chuyện gì xảy ra cả.

Ðạo sĩ hỏi đạo đồng:

– Ngươi hãy xem lại coi còn bánh trái gì không?

Ðạo đồng nói:

– Dạ. Bánh thì còn.

Võ Dực tiên nói:

– Nếu còn bánh thì đem đây cũng được.

Ðạo đồng đi vào bưng ra một mâm bánh.

Võ Dực tiên ngồi xuống ăn hết tám chục cái bánh.

Ðạo đồng lại hỏi:

– Ðạo sĩ dùng nữa thôi?

Võ Dực tiên nói:

– Nếu còn đem thêm càng tốt.

Ðạo đồng liền đem bánh ra.

Vô Dực tiên ăn đến một trăm lẻ tám cái mới thôi.

Ăn uống no nê, Võ Dực tiên hiện hình chim bay đi, ý muốn về Tây Kỳ đánh phá, nhưng khi bay ngang qua lão đạo sĩ lúc nãy, bị ông ta chỉ tay một cái, Võ Dực tiên không còn bay được nữa nên sa xuống và la lớn:

– Ôi! Ðứt ruột tôi! Chắc chết quá đạo sĩ ơi!

Vừa la Võ Dực tiên vừa lăn lộn, ôm bụng kêu gào, vẻ mặt thật đáng thương hại.

Hồi 63: Thân Công Báo khuyên nhất điện hạ đánh Tử Nha

Khi ấy đạo sĩ bước đến nói:

– Ăn uống no say rồi về đây trêu ta đó hay sao?

Võ Dực tiên nói:

– Bẩm đạo sĩ! Tôi chỉ ăn có ba cái bánh sao bây giờ đau bụng quá chắc phen này tôi chết mất.

Ðạo sĩ vẫn điềm nhiên nói:

– Nếu ăn vào không chịu thì mửa ra, có gì đâu mà rên la.

Võ Dực tiên nghe nói vội moi cổ cho mửa ra. Nhưng lạ lùng tay khi mửa ra thì cục nào cục nấy như trứng gà, dính liền nhau như dây chuỗi khiến cho Võ Dực tiên thất kinh, mặt cắt không còn chút máu.

Bỗng đạo sĩ lau mặt hét lớn:

– Võ Dực tiên! Thật là đồ quái tặc. Ngươi đã nhìn ra ta chưa?

(Ðạo sĩ ấy là Nhiên Ðăng, khi nãy sợ Võ Dực tiên biết nên phải lau mặt giả hình, nay lau mặt hiện nguyên hình lại).

Võ Dực tiên thất kinh, sửng sốt nhìn Nhiên Ðăng không nói một lời.

Nhiên Ðăng điểm tay vào mặt mắng:

– Ngươi là loài yêu nghiệt! Tử Nha vâng lệnh Nguyên Thỉ xuống phạt Trụ phò Châu để cứu muôn dân trong cảnh binh lửa, sao ngươi dám cãi mệnh trời, đánh Tử Nha, lại còn muốn ăn thịt ta nữa.

Mắng rồi, phất tay áo bảo Huỳnh Cân lực sĩ:

– Ðem treo cổ thằng này vào cội tòng chờ khi phạt Trụ rồi phân xử nó sau.

Võ Dực tiên nghe nói, khóc lóc, năn nỉ:

– Xin đạo sư tha tội cho kẻ lầm đường. Bởi tôi nghe lời xúi giục nay quá ăn năn, không dám phá Tây Kỳ nữa.

Nhiên Ðăng nói:

– Nếu ngươi đã biết ăn năn. Vậy ngươi chịu làm đệ tử ta thì ta tha tội cho.

Võ Dực tiên cúi lạy nói:

– Ðệ tử xin theo thầy tu niệm cho thành chánh quả.

Nhiên Ðăng chỉ tay một cái, xâu chuỗi rơi xuống đất.

Võ Dực tiên mới hay một trăm lẻ tám cái bánh mình vừa ăn đó là xâu chuỗi hột.

Nhiên Ðăng thâu chuỗi xong dẫn Võ Dực tiên về núi Linh Tựu.

Nói về núi Cửu Tiên, động Ðào Nguyên, ông Quảng Thành Tử bấy giờ đang ngồi trong động, bỗng thấy Bạch Hạc đồng tử đem trát đến.

Quảng Thành Tử lật ra xem thì thấy Nguyên Thỉ viết: Tử Nha gần bái tướng, các đệ tử phải đến Tây Kỳ mà đưa.

Quảng Thành Tử xem xong tạ ơn, Bạch Hạc đồng tử bay về động.

Quảng Thành Tử thầm nghĩ:

– Nay Tử Nha gần đem binh đánh năm ải, ta nên cho Ân Giao xuống Tây Kỳ giúp đỡ Tử Nha trước thăm xứ sở, sau giết Ðắt Kỷ trả thù cho mẹ.

Nghĩ rồi, kêu lớn:

– Ân Giao đâu, ra ta dạy việc.

Ân Giao đang ở sau động, nghe thầy kêu vội chạy vào quì thưa:

– Thầy đòi con dạy việc chi?

Quảng Thành Tử ân cần nói:

– Võ Vương nay hội chư hầu tại Mạnh Tân để phạt Trụ. Vậy nay đã đến lúc con trả được thù. Thầy muốn sai con xuống Tây Kỳ giúp Tử Nha phạt Trụ, ý con nghĩ thế nào?

Ân Giao thưa:

– Cha con nghe lời Ðắt Kỷ và gian thần giết vợ lại còn làm cho mẹ con phải thác oan. Thù ấy không bao giờ nguôi. Nay thầy cho đi, con đâu dám trái.

Quảng Thành Tử vui vẻ nói:

– Vậy con hãy ra sau động Ðào Nguyên, dựa gành Sư Tử tìm một binh khí đem về đây đặng thầy truyền võ nghệ và phép tắc đặng xuống núi lập công báo thù.

Ân Giao vâng lịnh ra đi. Ði đến cầu đá, bỗng thấy một cái động như đền đài lầu các.

Ân Giao nghĩ thầm:

– Xưa nay thầy không cho ta đến chốn này, nay sai đến tìm binh khí, thật là chuyện lạ. Nhưng chẳng lẽ thầy lại hại ta. Cứ nhắm mắt ta vào đại thử xem sao.

Nghĩ rồi, Ân Giao bước qua cầu đá, từ từ đẩy cửa bước vào, thấy trong động có bốn ghế đá và một cái bàn, trên bàn có bảy hột đậu hơi thơm bốc lên nghi ngút.

Ân Giao không thể nhịn được, liền đưa tay bóc ăn thử một hột, thấy thơm ngon khác thường, nên Ân Giao ăn hết không còn một hột. Ăn uống xong, Ân Giao ngồi nghĩ:

– Thầy sai đi tìm binh khí, ta lại trái lời vào đây phá phách, thật là tội lớn.

Nghĩ rồi liền lên bước ra khỏi động, trở lại cầu đá. Bỗng nơi vai Ân Giao kêu rắc một tiếng, Ân Giao giật mình nhìn lại thấy vai mình mọc thêm hai cánh tay. Tiếp đó bốn cánh tay mọc thêm nữa, và hai cái đầu ở cổ lòi ra cộng tất cả là ba đầu sáu tay.

Ân Giao sảng sốt, không biết vì cớ gì, bỗng nghe trước có tiếng Bạch Vân đồng tử gọi lớn:

– Sư huynh! Thầy cho đòi anh vào hầu lập tức.

Ân Giao trợn con mắt nhìn Bạch Vân đồng tử chẳng ngờ lại có thêm một con mắt giữa trán nữa, tức là Ân Giao có ba đầu mà ba con mắt.

– Sư huynh hiện quỷ rồi!

Quảng Thành Tử bước ra thấy Ân Giao như vậy đã không quở trách lại vỗ tay khen:

– Nhà Châu có phước lớn nên mời khiến tướng dữ ra phò. Việc này lạ lắm, nhưng chưa hề chi.

Nói rồi dắt Ân Giao ra động Ðào Nguyên dạy nghề đánh kích.

Khi Ân Giao đã thành thuộc, Quảng Thành Tử lại trao các bửu bối như Phiên Thiên Ấn, Lạc Hồn Chung, Thư Hùng kiếm cho Ân Giao và nói:

– Ngươi xuống Tây Kỳ trước, ít ngày nữa ta cũng đến sau.

Ân Giao lãnh các báu vật, lạy tạ.

Quảng Thành Tử nói:

– Ta còn một lời này cần dặn dò ngươi. Ta đã trao hết bửu vật cho ngươi tức là ta mong ước ngươi giúp Võ vương, thâu năm ải phạt Trụ cứu dân, nếu một mai người cãi lời ta, làm khác đi sẽ bị tru diệt.

Ân Giao thưa:

– Công sư phụ dạy dỗ bao nhiêu năm trời, lẽ nào con dám cải mạng, vả lại cha tôi bạo ngược, giết vợ hại con, thù Ðắt Kỷ chưa phai trong lòng, con quyết chí xuống đầu Châu hiệp lực với sư thúc đánh năm ải, phá Triều Ca, bắt Ðắt Kỷ bằm xương trả oán.

Quảng Thành Tử nói:

– Nhưng tình đời hay thay đổi, trần thế ảnh hưởng xấu xa, thì chỉ sợ xa thầy, con bị sa ngã.

Ân Giao nói:

– Nếu con đổi lòng, con sẽ bị lưỡi cày cầy nát thây.

Quảng Thành Tử nghe nói mừng rỡ.

Ân Giao từ giã độn thổ xuống thành Tây Kỳ.

Ði được một đỗi, Ân Giao trồi đầu lên gặp một hòn núi lớn, hoa quả xanh tươi, bả tòng rậm rạp. Ân Giao chưa biết đây là đâu, lơ láo nhìn thì nghe trong rừng rậm có tiếng thanh la khua vang, rồi bên rừng xuất hiện một tướng cỡi ngựa hồng, có ba con mắt, tay cầm cặp bản lang nha xông tới hét lớn:

– Người ba đầu tên chi, dám đến đây dọ thám dinh trại ta!

Ân Giao nói.

– Ta là Thái tử Ân Giao có việc đi ngang qua đây, sao ngươi dám vô lể.

Tướng ấy nghe nói liền bước xuống ngựa chấp tay tung hô vạn tuế và hỏi:

– Ðiện hạ có việc gì lại đi qua núi Bạch Long này?

Ân Giao nói:

– Ta vâng lịnh sư phụ xuống Tây Kỳ giúp Tử Nha.

Nói chưa dứt lời đã thấy một tướng khác cũng ba con mắt, nhưng có ba chòm râu dài, mặt tợ dồi phấn, đầu đội ngân khôi, mang bạch giáp cỡi ngựa kim, cầm giáo xông đế hỏi lớn:

– Ai đó vậy?

Người mặt xanh đến trước nói:

– Ân Ðiện hạ đấy, hãy xuống ngựa ra mắt cho mau.

Người mặt trắng liền xuống yên làm lễ, rồi nói:

– Xin mời Ðiện hạ về trại.

Ân Giao thấy hai người đối xử thâm tình như vậy, không từ chối, theo về trại lập tức. Ðến nơi, hai người mời Ân Giao ngồi lên cao, rồi cùng nhau quì móp dưới đất.

Ân Giao vội đỡ hai người dậy, và nói:

– Nhị vị tướng quân tên họ là chi?

Người mặt xanh thưa:

– Tôi là Ôn Lương, còn người ấy là Mã Thiện, lâu nay chiếm cứ núi này làm kế mưu sinh.

Ân Giao nói:

– Ta xem hai vị đều là tay hào kiệt, tại sao không giúp nước lập công, hưởng lộc triều đình, mà sống với núi non hư danh tiết. Nếu hai vị theo tôi xuống Tây Kỳ, phò Châu đánh Trụ, tôi hết lòng hướng dẫn.

Người mặt trắng thưa:

– Ðiện hạ là dòng dõi Thành Thang, tại sao lại phò Châu đánh Trụ, xin dạy cho chúng tôi biết.

Ân Giao nói:

– Khí số nhà Thương đã hết, Châu Võ vương ra đời. Vả lại cha ta bạo ngược, làm nhiều việc thất đức, nên vận nước đổi dời. Ta không thể cãi mệnh trời theo phò kẻ dữ.

Mã Thiện và Ôn Lương đều khen phải, hối quân dọn tiệc đãi.

Ân Giao, khen điểm binh mã, dựng cờ Châu, cùng nhau kéo đi một lượt.

Ðoạn quân đi được hai mươi dậm, qua khỏi núi Bạch Long thì bỗng có tiền quân chạy trở lại báo tin:

– Có một đạo sĩ cỡi cọp đến đây, xin ra mắt điện hạ.

Ân Giao truyền quân đóng trại, rồi mời đạo sĩ vào.

Ðạo sĩ xuống lưng hùm, vào yết kiến Ân Giao.

Ân Giao hỏi:

– Ðạo trưởng từ đâu đến, có điều gì chỉ dạy?

Ðạo sĩ nói:

– Ta là đệ tử núi Côn Lôn, họ Thân, tên Công Báo, vì thấy điện hạ đi ngang đây nên phải vào yết kiến. Chẳng hay điện hạ kéo binh đi đâu vậy?

Ân Giao nói:

– Tôi vâng lệnh sư phụ xuống Tây Kỳ giúp đỡ Tử Nha.

Thân Công Báo vừa cười vừa nói:

– Ðiện hạ nói gì ta không rõ. Vua Trụ là người thế nào đối với điện hạ?

Ân Giao nói:

– Trụ vương là cha đẻ của tôi.

Thân Công Báo cười mỉa mai:

– Thật là chuyện lạ lùng! Trên thế gian ta chưa thấy người con nào lại giúp người dưng đánh cha mình. Ai bày ngươi làm cái chuyện ngỗ nghịch ấy?

Ân Giao nói:

– Tuy Trụ vương là cha tôi, song khi số nhà Thương đã hết. Võ Vương là vua chân chánh, thiên hạ đều phục tùng, mệnh trời định, tôi đâu dám cãi lại.

Thân Công Báo nói:

– Cha ngươi làm những việc gì gọi là ác!

Ân Giao nói:

– Cha tôi ham dâm vô đạo, giết vợ hại con, không lo việc trị dân, chỉ nghĩ đến tửu sắc.

Thân Công Báo nói:

– Trụ vương thất đức đã đành, nhưng kẻ sai ngươi xuống trần giết cha, phản chúa thì kẻ ấy còn vô đạo hơn Trụ vương nhiều. Cha mẹ là tình thiêng liêng, dù có lỗi đạo với con, con cũng không nên trách, huống hồ lại giúp cho người dưng đi giết cha mình thì còn đạo lý gì nữa. Trời nào lại bảo con phải giết cha là thuận theo lẽ trời!

Ân Giao làm thinh có vẻ nghĩ ngợi.

Thân Công Báo thấy Ân Giao có vẻ xiêu lòng, nói tiếp:

– Cha ngươi tuổi đã già, không bao lâu nữa cái cơ nghiệp kia sẽ về tay ngươi sửa trị, ngươi dại khờ tin theo lời phỉnh phờ của bọn vô đạo, giúp người khác để đoạt lấy cơ nghiệp mình thì không còn gì dại dột hơn.

Ân Giao nói:

– Ðạo trưởng luận cũng có lý, song thầy tôi đã dạy, tôi không thể trái lời.

Thân Công Báo nói:

– Ngươi đừng mê muội, tưởng những kẻ dạy dỗ ngươi là nhơn đức. Họ không có gì nhơn đức cả. Nếu họ nhân đức thì không khi nào họ sai ngươi xuống giết cha ngươi, không khi nào họ đem Thái Cực Ðồ đốt em ngươi là Ân Hồng thành tro bụi, trong lúc Ân Hông đã ăn năn hối lỗi trước giờ chết.

Ân Giao nghe nói thất kinh hỏi:

– Em tôi vì sao mà chết?

Thân Công Báo nói:

– Người ta biểu em ngươi đi giết cha ngươi, em ngươi không chịu làm việc bất hiếu, nên đã bị Tử Nha dùng Thái Cực Ðồ đốt ra tro.

Ân Giao nghe nói rối lòng, hỏi:

– Chuyện ấy quả thật như vậy sao?

Thân Công Báo nói:

– Ta không bao giờ nói dối, việc ấy thiên hạ ai cũng biết. Bây giờ Trương Sơn đang cầm binh đánh Tây Kỳ, nếu không tin ngươi xuống đó hỏi Trương Sơn thì rõ.

Ân Giao nghe nói tủi lòng khóc lớn.

Thân Công Báo nói:

– Ngươi cứ xuống Tây Kỳ, nếu quả Ân Hồng không bị giết thảm thiết như vậy, thì ngươi sẽ đầu Châu, còn đúng như lời ta nói, thì ngươi phải giữ bổn phận làm con, làm anh, đem thân giúp nước rửa thù, thì mới gọi là nghĩa là nghĩa. Ta sẽ đi tìm một người tài phép xuống giúp ngươi.

Nói rồi cỡi cọp đi thẳng.

Ân Giao ngại ngùng, tuy kéo binh xuống Tây Kỳ mà lòng ngổn ngang trăm mối:

– Em ta không cừu oán với ai, lẽ nào người ta xử tệ như vậy? Nếu Tử Nha quả thiệt giết em ta, ta quyết rửa thù cho hả giận.

Khi Ân Giao đến Tây Kỳ đã thấy dinh trại binh Thương đóng tại đó.

Ân Giao sai Ôn Lương đến hỏi, thì quả là trại của Trương Sơn.

Bấy giờ Trương Sơn trông ngóng Võ Dực tiên đã hai ngày mà không thấy trở lại, lòng buồn bực không yên, bỗng thấy quân vào báo:

– Có một vị tướng đến mời Nguyên soái ra mắt Ðông cung điện hạ.

Trương Sơn ngồi ngẫm nghĩ:

– Ðông cung điện hạ là Ân Giao mất tích đã lâu, sao nay có mặt nơi Tây Kỳ?

Nghĩ rồi truyền tướng ấy vào trại.

Ôn Lương bước vào ra mắt, Trương Sơn hỏi:

– Tướng quân từ đâu đến, có việc chi cần dạy?

Ôn Lương đáp:

– Tôi vâng lịnh điện hạ Ân Giao, mời tướng quân ra mắt.

Trương sơn nói:

– Ðông cung trước kia bị gió bay mất, lẽ nào còn Ðông cung sao?

Lý Cẩm ngồi một bên quay lại nói với Trương Sơn:

– Có lẽ là sự thật, xin Nguyên soái đến đó xem thiệt hư lẽ nào cho biết.

Trương Sơn y lời cùng Lý Cẩm theo Ôn Lương ra khỏi trại.

Ôn Lương vào trước thưa với Ân Giao:

Trương Sơn đã tuân lệnh điện hạ đến đây.

Ân Giao truyền cho vào, Trương.Sơn vào đến nơi thấy một người ba đầu sáu tay ngồi trước điện, liền hỏi:

– Chẳng hay điện hạ thuộc tông phái nào?

Ân Giao nói:

– Ta là Nhứt điện Ân Giao.

Rồi thuật các chuyện cũ xảy ra tại Triều Ca cho Trương Sơn nghe.

Trương Sơn mừng rỡ, làm lễ bái yết.

Ân Giao nói:

– Tướng quân có rõ chuyện Ân Hồng chăng?

Trương Sơn thưa:

– Nhị điện đem binh chinh phạt Tây Kỳ, bị Tử Nha dùng Thái Cực Ðồ đốt nát thành tro rồi.

Ân Giao khóc rống lên một tiếng, nhào xuống đất chết ngất. Các tướng đỡ dậy khuyên giải.

Ân Giao nói:

– Em ta tình cốt nhục làm sao quên thù này được.

Nói rồi bẻ gãy cây cờ lịnh tiễn, thề rằng:

– Nếu ta không giết Khương Thượng để báo thù cho em ta thì ta sẽ như cây cờ này.

Sáng hôm sau, Ân Giao kéo binh ra trận kêu tên Tử Nha ra thành hội kiến.

Quân vào báo, Tử Nha dẫn binh tướng ra thành, Na Tra thấy hai tướng theo hầu và Ân Giao đều có ba con mắt, liền nói nhỏ với Tử Nha:

– Ba người này có chín con mắt, cộng thành bốn người rưỡi.

Ân Giao lướt tới hỏi lớn:

– Tử Nha là ai?

Tử Nha giục Tứ Bất Tướng đến đáp:

– Ta là Thừa Tướng Tử Nha đây, còn ngươi tên họ là chi?

Ân Giao hét:

– Ta là Nhất điện Ân Giao. Sao ngươi dám dùng Thái Cực Ðồ hại em ta thành tro.

Tử Nha nói:

– Ấy là lỗi tại Ân Hồng, không phải ta muốn sát hại.

Ân Giao nổi giận, gầm lên một tiếng, không thèm tranh luận với Tử Nha, lướt tới đâm Tử Nha một kích.

Na Tra vung giáo cản lại, nói:

– Có ta cùng ngươi đối địch, chớ làm hỗn với sư thúc ta.

Ân Giao đánh với Na Tra được ít hiệp, lấy Phiên Thiên Ấn quăng lên đánh nhằm vai Na Tra một cái gần muốn sụm, Na Tra té xuống xe. Hoàng Thiên Hóa vung song chùy đến cản lại, các tướng Châu cứu Na Tra về thành.

Hoàng Thiên Hóa đánh với Ân Giao được ít hiệp bị Ân Giao dùng chuông Lạc Hồn rung lên, Hoàng Thiên Hóa tâm thần hỗn loạn nhào xuống đất, bị Trương Sơn lanh tay bắt trói.

Hoàng Phi Hổ thấy con bị bắt nóng lòng giục Thần ngưu đến đánh.

Ân Giao không thèm giao tranh, lấy Lạc Hồn rung vài cái, Hoàng Phi Hổ mê man té xuống lưng trâu, bị Mã Thiện, Ôn Lương bắt trói nữa.

Dương Tiển thấy Ân Giao dùng Lạc Hồn chung sợ Tử Nha lâm nguy, liền giống chiêng thu quân về thành.

Tử Nha bại trận, về trước trướng ngồi buồn bã, Dương Tiển bước đến thưa:

– Thật là lạ lùng.

Tử Nha hỏi:

– Chuyện gì vậy?

Ân Giao dùng Phiên Thiên Ấn đả thương Na Tra, phép ấy là của Quảng Thành Tử sư bá, tại sao Ân Giao có được?

Tử Nha nói:

– Chẳng lẽ Quảng Thành Tử cho Ân Giao mượn bửu bối đánh ta?

Dương Tiển nói:

– Thừa Tướng đã quên câu chuyện Ân Hồng rồi sao. Biết đâu trong trường hợp này cũng xảy ra câu chuyện đáng buồn như vậy.

Tử Nha ngồi làm thinh ngẩm nghĩ không nói.

Bấy giờ Ân Giao thắng trận về dinh, truyền đem cha con Hoàng Phi Hổ đến trước trướng, hỏi:

– Ngươi là ai đó?

Hoàng Phi Hổ nói:

– Ta là Võ Thành vương Hoàng Phi Hổ.

Ân Giao lấy làm lạ, hỏi lại:

– Tây Kỳ cũng có Hoàng Phi Hổ sao?

Trương Sơn nói:

– Chính là Hoàng Phi Hổ ở Triều Ca, phản chúa đầu Châu, gây ra chinh chiến. Nay cha con nó bị Ðiện hạ bắt, thật lưới trời lồng lộng thưa mà chẳng lọt.

Ân Giao nghe rõ, vội bước xuống mở trói cho Hoàng Phi Hổ và nói:

– Người này là ân nhân của ta. Trước kia nếu không nhờ Võ Thành Vương thì anh em ta đã mất mạng rồi, đâu còn sống đến ngày nay

Hoàng Phi Hổ hỏi:

– Ðiện hạ trước kia bị gió thổi bay đi mất, sao ngày hôm nay trở về được?

Ân Giao không dám nói rõ tên thầy mình, sợ đối phương biết được nguồn gốc, nên nói trớ rằng:

– Hai đó ta được một vị tiên ở Hải đảo cứu đem về nuôi, nay ta xuống đây quyết rửa hờn cho em ta. Còn tướng quân sao lại đầu Châu.

Hoàng Phi Hổ nói:

– Trụ vương càng ngày càng vô đạo, sát hại trung thần, ham dâm lạc họa, đến nhị vị Ðiện hạ là tình máu mủ mà Trụ Vương còn đem chém đi, huồng hồ chúng tôi chỉ là lũ bộ hạ.

Ân Giao không đợi Hoàng Phi Hổ nói hết ngắt lời:

– Thôi được, ta không hạch hỏi việc đó làm gì, mỗi người có một ý muốn riêng, phản Trụ hay phò Trụ là do lòng ngưỡng mộ của Tướng quân, trước kia Tướng quân tha anh em ta khỏi chết, nay ta đáp đền ơn ấy. Vậy từ nay Tướng quân đừng ra trận giao tranh với ta nữa, vì nếu bắt được lần thứ hai ta sẽ chiếu quân luật xử trị.

Cha con Hoàng Phi Hổ không dám nói nhiều lời, cúi đầu tạ ơn, trở về dinh thuật lại mọi việc với Tử Nha.

Hôm sau, Ân Giao nóng lòng ra binh bắt Tử Nha báo thù.

Mã Thiện thưa:

– Xin cho tiểu tướng ra binh bắt Tử Nha cũng được, cần gì phải nhọc sức Ðiện hạ.

Ân Giao nhậm lời, Mã Thiện kéo quân ra thành khiêu chiến.

Quân vào báo, Tử Nha hỏi:

– Có tướng nào đám ra bắt Mã Thiện chăng?

Ðặng Cửu Công liền cầm đao lên ngựa kéo binh ra khỏi thành, thấy viên tướng có ba con mắt, đang diệu võ dương uy, liền nỏi:

– Ngươi tên họ là chi mà dám vô lễ như vậy?

Mã Thiện nói:

– Ta là đại tướng quân Mã Thiện.

Ðặng Cửu Công không xưng tên, lướt ngựa tới chém đùa.

Mã Thiện đưa thương ra đỡ. Ðánh được vài hiệp, Ðăng Cửu Công dùng sức mạnh áp đảo cây thương của Mã Thiện rồi bắt sống Mã Thiện ném xuống đất hối quân trói lại dẫn về thành.

Tử Nha thấy bắt được tướng địch, truyền dẫn vào.

Mã Thiện đứng trợn ba con mắt nhìn Tử Nha.

Tử Nha nạt lớn:

– Thất phu, đã bị ta bắt sao không chịu quỳ?

Mã Thiện cười lớn, mắng:

– Phản tặc! Ngươi là đối thủ của ta, kẻ thù của chủ tướng ta, nay bắt được ta muốn làm gì thì làm, tại sao nghĩ đến chuyện quỳ lạy.

Tử Nha nổi giận truyền Nam Cung Hoát đem ra ngoài xử trảm.

Nam Cung Hoát tuân lệnh, đem Mã Thiện ra ngoài chém một đao, chẳng ngờ đầu Mã Thiện không rụng, lưỡi đao chém xong thì đầu Mã Thiện liền lại như cũ.

Nam Cung Hoát thất kinh, vào báo lại với Tử Nha:

– Thật là quái gở. Tôi vâng lệnh chém Mã Thiện một nhát, nhưng nó không rơi đầu.

Tử Nha lấy làm lạ liền dắt các tướng ra khỏi dinh, đến pháp trường xem thử.

Các tướng không tin mỗi người chém một nhát, nhưng không ai chém đứt đầu Mã Thiện được. Cứ lưỡi đao vừa xớt qua cái đầu của Mã Thiện liền lại như cũ. Vi Hộ nổi xung giơ Gián ma xử đập trên đầu Mã Thiện một cái, Mã Thiện vẫn như không. Ai nấy le lưỡi lắc đầu, không biết dùng cách gì giết Mã Thiện cho được.

Tử Nha nói:

– Các ngươi hãy đùng lửa Tam muội mà đốt thế nào đến cũng tan xác, ta xem chắc là loại yêu quái gì đây.

Na Tra, Mộc Tra, Kim Tra, Lôi Chấn Tử họp lực dùng lửa Tam muội đốt một hồi, Mã Thiện thấy lửa cháy cười lớn nói:

– Thôi ta kiếu các ngươi trở về kẻo đã làm mất thì giờ các ngươi nhiều lắm rồi.

Lời nói vừa dứt, Mã Thiện đã biến mất.

Tử Nha xem thấy chẳng vui, trở vào trướng cùng các tướng thương nghị.

Dương Tiển thưa:

– Tôi xin qua núi Cửu Tiên hỏi thăm sư bá Quảng Thành Tử về việc Ân Giao, sẳn tiện đến núi Chung Nam mượn kiếng chiếu yêu của Vân Trung Tử đem về đây rọi thử Mã Thiện là giống gì hóa xác thì mới trừ nó được.

Tử Nha nhậm lời, Dương Tiển liền độn thổ qua núi Cửu Tiên vào động Ðào nguyên làm lễ Quảng Thành Tử.

Quảng Thành Tử nói:

– Ta vừa sai đệ tử ta là Ân Giao đến giúp Tây Kỳ, không biết nó đã tới chưa?

Dương Tiển nói:

– Phải Ân Giao là người trẻ tuổi có ba đầu sáu tay không?

Quảng Thành Tử nói:

– Chính là nó đó. Ta sai nó xuống trước còn ta thì đợi ngày Tử Nha đăng đàn bái tướng đem binh phạt Trụ ta sẽ đến tiển hành.

Dương Tiển nói:

– Thế thì rối lắm!

Quảng Thành Tử hỏi:

– Chuyện gì vậy?

Dương Tiển nói:

– Ân Giao không vâng lời sư bá xuống giúp Tây Kỳ, mà cầm binh đánh lại Khương Thừa Tướng, dùng Phiên Thiên Ấn đánh Na Tra gần sụm vai, nội thành không ai dám cự, nên tôi phải lên đây hỏi thăm sư bá dạy lẽ nào.

Quảng Thành Tử nghe nói hét lớn:

– Súc sinh! Nó cải lời ta chắc sanh họa ra! Ta giao hết bửu bối cho nó để giúp Tây Kỳ, ngờ đâu nó lại làm loạn.

Dương Tiển nói:

– Trước kia Ân Hồng cũng cải lời Xích Tinh Tử sư thúc, và cuối cùng cũng mang họa.

Quảng Thành Tử nói:

– Thôi, ngươi về trước, ta sẽ theo chân xuống Tây Kỳ ngay bây giờ.

Dương Tiển từ tạ độn thổ thẳng sang núi Chung Nam, vào yết kiến Vân Trung Tử, thưa:

– Nay có một người đánh Tây Kỳ gọi là Mã Thiện, chém, đốt đều chẳng chết, không biết vật gì hóa hình, nên tôi phải đến mượn kiếng chiếu yêu của sư thúc đem về rọi thử, xong việc xin trả lại.

Vân Trung Tử nhậm lời, trao kiếng phép cho Dương Tiển.

Dương Tiển tạ ơn độn thổ thẳng về thành Tây Kỳ.

Tử Nha thấy Dương Tiển trở về mừng rỡ hỏi:

– Ngươi đến hỏi thăm Quảng Thành Tử việc ấy ra sao?

Dương Tiển thuật hết mọi chuyện, và nói:

– Ðệ tử đã muợn được kiếng chiếu yêu của sư thúc Vân Trung Tử, ngày mai thế nào cũng bắt được Mã Thiện.

Tử Nha mừng rỡ, liền sai Dương Tiển dẫn binh đến dinh Thương khiêu chiến để tìm tông tích Mã Thiện.

Dương Tiển kéo binh đến trước cửa dinh, gọi lớn:

– Mã Thiện, chớ khoe tài, hôm nay ta đến lấy đầu ngươi đây.

Quân vào báo, Ân Giao sai Mã Thiện cầm binh.

Mã Thiện mới ra khỏi trại, Dương Tiển đã lấy kính chiếu yêu rọi vào mặt, thấy trong kiếng hiện lên một ngọn đèn đỏ rực, mỉm cười nghĩ thầm:

– A, té ra nó là ngọn đèn hiện thân, hèn chi chém không đứt, đốt không sợ.

Nghĩ rồi cầm giáo lướt tới đâm liều.

Mã Thiện rước đánh được ba mươi hiệp.

Dương Tiển trá bại chạy dài, Mã Thiện không đuổi theo, trở về dinh thưa với Ân Giao:

– Dương Tiển đánh một lúc bỏ chạy, tiểu tướng sợ chúng dùng mưu nên không đuổi theo.

Ân Giao nói:

– Ðại tướng cầm binh phải biết tùy thời tùy lúc, biết người biết ta, đó mới là người trí.

Nói rồi truyền quân mở tiệc vui vầy, khao thưởng tướng sĩ.

Còn Dương Tiển thấy Mã Thiện không đuổi theo cũng thu binh vào thành.

Tử Nha hỏi:

– Mã Thiện là vật gì biến hình?

Dương Tiển nói:

– Nó hiện ra trên mặt kiếng một ngọn đèn sáng rực, không rõ lý lịch thế nào.

Vi Hộ nói:

– Theo tôi biết thì có ba ngọn đèn lâu năm, một ngọn nơi cung Huyền Ðô, một ngọn nơi cung Ngọc Hư, một ngọn tại núi Linh Tựu. Chưa chắc ngọn nào thành hình, xin Dương huynh đi dò xét mới biết được.

Tử Nha nói:

– Như vậy Dương tướng quân phải ra công một lần nữa, đến các nơi ấy hỏi thăm.

Dương Tiển tuân lệnh, tức thì độn thổ đến cung Ngọc Hư trước.

Ðến nơi thấy Bạch Hạc đồng tử đứng trước động, Dương Tiển hỏi:

– Chẳng hay ngọn đèn trong cung Ngọc Hư còn hay tắt?

Bạch Hạc đồng tử chạy vào trong xem lại. rồi đáp:

– Ngọn đèn lưu ly của Thiên Tôn vẫn còn cháy.

Dương Tiển biết không phải, liền giã từ Bạch Hạc đồng tử đến núi Linh Tựu, vào động Huyền Giác làm lễ Nhiên Ðăng.

Nhiên Ðăng hỏi:

– Ngươi có chuyện gì đây?

Dương Tiển hỏi:

– Ngọn đèn lưu ly của đạo trưởng còn cháy không?

Nhiên Ðăng nhìn lên bàn thấy đèn tắt, liền nói lớn:

– Con yêu này trốn đi rồi.

Dương Tiển trình hết các việc, Nhiên Ðăng nói:

– Ngươi về trước, ta sẽ theo sau.

Dương Tiển từ tạ Nhiên Ðăng, độn thổ trở về.

Tử Nha được Dương Tiển thưa hết các việc, mừng rỡ vô cùng.

Bỗng có quân vào báo:

– Quảng Thành Tử đạo nhân đến xin ra mắt.

Tử Nha liền ra rước vào.

Quảng thành Tử chịu lỗi, và nói:

– Bần đạo không ngờ sự đại biến. Ân Giao tắc tệ, tội ấy thật do bần đạo thất trách. Ðể bần đạo gọi nó vào đây tạ tội.

Tử Nha nói:

– Nhờ Ðạo huynh giúp đỡ tôi kẻo công việc trể tràng.

Quảng Thành Tử liền đến trước dinh Thương gọi lớn:

– Ân Giao ra đây cho ta bảo.

Hồi 64: La Tuyên nổi lửa đốt Tây Kỳ

Ân Giao nghe quân vào báo:

– Có một vị đạo trưởng mời điện hạ ra trước dinh.

Ân Giao nghĩ thầm:

– Chắc sư phụ ta đến đó rồi.

Liền nai nịt cỡi ngựa ra, thấy Quảng Thành Tử đang đứng chờ, Ân Giao cúi đầu thưa:

– Ðệ tử mang giáp trong mình, làm lễ không trọn xin thầy tha cho.

Quảng Thành Tử thấy Ân Giao mặc vương phục, nổi giận hét:

– Súc sanh! Ngươi thề trên núi với ta như thế nào mà bây giờ ngươi trở lòng như vậy?

Ân Giao khóc và nói:

– Xin sư phụ cho phép con thưa vài lời. Con đã thề với sư phụ chẳng bao giờ dám đổi ý. Khi xuống trần con có gặp Mã Thiện và Ôn Lương, sau đó lại gặp Thân Công Báo khuyên con phò Trụ. Tuy nhiên con không kể lời ấy, vì biết cha mình là người bạo ngược, mắc tội với thiên hạ đã nhiều. Con chỉ hận có một điều là Tử Nha đem Thái Cực Ðồ đốt Ân Hồng là em trai con thành tro bụi. Em con thù oán gì, mà Tử Nha đối xử như vậy? Sư phụ bảo con phải theo phò kẻ thù, đánh lại cha con, thì dù lòng con có là đất đá, không biết tri giác, cũng không thể nhịn nổi. Thầy hiểu cho tâm trạng con.

Quảng Thành Tử nói:

– Ngươi không rõ, Thân Công Báo là kẻ thù của Tử Nha nên kiếm lời nói gạt. Chuyện ấy do em ngươi liều lĩnh, không chịu nghe lời thầy, và cũng do số trời định cả.

Ân Giao mỉm cười cay đắng:

– Xin sư phụ nghĩ lại. Con không kể lời nói của Thân Công Báo làm gì. Chẳng lẽ em con tự nhiên chạy vào Thái Cực Ðồ cho chết hay sao? Còn số trời định thì số trời có bảo Tử Nha đem Thái Cực Ðồ giết em con không? Tại sao Tử Nha tạo ra chuyện ác tâm như vậy? Rồi bảo là do trời định? Nay lòng con thảm thiết quá, không thể nào khác hơn là giết Tử Nha để rửa hận. Xin thầy về núi nghỉ ngơi, để con liều mình giết Tử Nha rồi sẽ đầu Châu lấy năm ải.

Quảng Thành Tử nói:

– Ngươi không nhớ lời thề của ngươi hay sao?

Ân Giao nói:

– Ðệ tử nào không nhớ, song chết vì lời thề cũng đành, sống làm chi một mình cho đời thêm tủi nhục.

Quảng Thành Tử nỗi giận chém một gươm.

Ân Giao đưa kích ra đỡ và nói:

– Sư phụ bênh Tử Nha, không kể đến nghĩa thầy trò, sao gọi là nhân đạo, thiên đạo?

Quảng Thành Tử chém tiếp một gươm nữa. Ân Giao cũng đỡ ra và nói:

– Sư phụ cố tình buộc con vào thế bí, phải mang tiếng thất lễ với thầy ư? Sư phụ muốn có một đứa đệ tử hèn hạ, quên tình cha con, anh em theo phò một kẻ thù không?

Quảng Thành Tử nói:

– Ấy là số trời đã định. Nếu ngươi không biết ăn năn hối cải thế nào cũng uổng công ta dạy dỗ.

Ân Giao nói:

– Nếu trời bắt con phải bỏ thù em, bỏ hiếu cha, để cúi đầu vâng theo mệnh lệnh của một kẻ giết em, đánh cha mình thì thà con cãi lại mệnh trời để bị bỏ xác còn hơn.

Quảng Thành Tử nổi giận chém bồi một gươm nữa, Ân Giao khóc lớn:

– Thầy đã không tưởng tình thầy trò, thì đệ tử làm saogiữ được đạo kính vì. Thôi thì đành chịu làm đứa thất phu vậy.

Nói rồi đâm Quảng Thành Tử một kích.

Quảng Thành Tử cũng hét lên một tiếng, hai thầy trò đánh nhau một lúc.

Ân Giao liền móc túi lấy Phiên Thiên Ấn quẳng lên.

Quảng Thành Tử kinh hãi, biết Phiên Thiên Ấn là một báu vật lợi hại, liền hóa ra hào quang bay về thành.

Trước đây Quảng Thành Tử trao Phiên Thiên Ấn cho Ân Giao đi đánh giặc, không ngờ Ân Giao lại dùng chính Phiên Thiên Ấn đánh thầy.

Quảng Thành Tử chạy vào thành, mặt mày buồn xo, Tử Nha trông thấy hỏi:

– Ân Giao đã chịu phép chưa?

Quảng Thành Tử nói:

– Nó bị Thân Công Báo mê hoặc, tôi khuyên không được, nổi giận chém nó vài gươm, nó lấy Phiên Thiên Ấn ném trả nên tôi phải chạy về đây.

Tử Nha không rõ Phiên Thiên Ấn là báu vật lợi hại như thế nào mà Quảng Thành Tử phải kinh hãi như vậy thì có quân vào báo:

– Có Nhiên Ðăng đại sư đến.

Tử Nha và Quảng Thành Tử ra cửa rước vào, Nhiên Ðăng nói:

– Cái đèn lưu ly của tôi nó cũng đi khuấy ông thật là thiên số.

Tử Nha nói:

– Trời khiến sao chịu vậy, biết trốn vào đâu.

Nhiên Ðăng nói:

– Ân Giao là chuyện lớn, còn Mã Thiện là chuyện nhỏ, để bần đạo thâu Mã Thiện về cho rảnh rang rồi sẽ tính đến việc Ân Giao.

Tử Nha nói:

– Xin tuân theo ý kiến quyết định của đạo trưởng.

Nhiên Ðăng nói:

– Muốn bắt Mã Thiện, ngươi phải làm kế này giúp ta mới được.

Liền kề tai dặn nhỏ Tử Nha một hồi, Tử Nha vâng lời cầm roi, lên lưng Tứ Bất Tướng, đến trước cửa trại Thương kêu lớn.

– Mã Thiện hôm nay ta quyết chém đầu ngươi.

Quân vào báo lại Ân Giao nghĩ thầm:

– Hôm qua sư phụ ta vừa bỏ chạy, nay lại Tử Nha đến khiêu chiến một mình, e chúng lập mưu giết ta như giết Ân Hồng trước kia chăng?

Nghĩ rồi sai Mã Thiện ra trận xem thử thế nào.

Mã Thiện tuân lệnh cầm thương ra trận, thấy Tử Nha vểnh râu chửi mắng.

Mã Thiện nói:

– Thằng già hỗn quá! Sao dám chửi ta nhiều lời như vậy?

Tử Nha nói:

– Ngươi có tài phép chém không bay đầu, ta chửi một chập cho ngươi mất đầu chơi.

Mã Thiện giận quá, khua đao tới chém, Tử Nha đánh được ít hiệp rồi bỏ chạy về hướng Nam, Mã Thiện dừng ngựa không đuổi theo, Tử Nha thấy vậy quay ngựa lại chửi nữa. Mã Thiện giận quá chịu không nổi, quất ngựa đuổi theo. Chừng hai dặm đường đến một cội dương, Mã Thiện không thấy Tử Nha đâu, thấy một đạo sĩ bước ra chặn mặt, nói:

– Mã Thiện, ngươi biết ta chăng?

Vì Nhiên Ðăng làm phép ẩn mặt nên Mã Thiện không biết, liền đâm Nhiên Ðăng một giáo.

Nhiên Ðăng lấy đèn lưu ly trong tay áo quăng lên, Mã Thiện xem lại biết là thầy mình, kinh hãi ẩn mình không kịp, bị đèn lưu ly hút vào.

Nhiên Ðăng cười lớn, sai Huỳnh Cân lực sĩ đem đèn về núi trước.

Bấy giờ quân thua chạy về báo với Ân Giao:

– Mã tướng quân theo đuổi Tử Nha thấy một luồng hào quang xông lên, rồi Mã tướng quân biến mất chỉ còn con ngựa mà thôi!

Ân Giao nghe nói lấy làm lạ, liền dẫn quân đến thành khiêu chiến.

Tử Nha liền mời Nhiên Ðăng và Quảng Thành Tử đến thương nghị.

Nhiên Ðăng hỏi Quảng Thành Tử:

– Ân Giao bị Thân Công Báo xúi giục làm loạn, nay đạo huynh tính lẽ nào?

Quảng Thành Tử nói:

– Tôi trao hết báu vật cho nó rồi, nay không biết cách nào để thu hồi lại.

Bỗng có quân vào báo nữa:

– Ân Giao gọi quyết tên Thừa Tướng ra trận.

Tử Nha sợ Phiên Thiên Ấn, không biết có nên xuất trận hay không.

Nhiên Ðăng nói:

– Tử Nha có Hạnh Huỳnh Kỳ vật che thân rất bảo đảm, Phiên Thiên Ấn làm gì được mà lo.

Tử Nha nghe lời liền dẫn quân ra thành nói với Ân Giao:

– Ân Giao! Ngươi cãi lời thầy dạy, không nhớ lời thề thế nào cũng bị lưỡi cày đâm trúng bụng. Nếu thuận theo ta, xuống ngựa hàng đầu may ra thoát nạn.

Ân Giao cười lớn:

– Nếu ta theo phò ngươi mà tránh lời thề thì ta chết còn hơn. Ngươi tàn nhẫn đốt em ta ra thành tro bụi, thù ấy ta quyết không đội trời chung.

Nói rồi đâm Tử Nha một kích.

Tử Nha đưa gươm báu ra đỡ.

Hai người đánh với nhau một hồi, Ôn Lương xông vào trợ chiến, Na Tra đón lại giao công.

Ôn Lương quăng Bạch Ngọc hoàn đánh Na Tra, Na Tra quăng Càn Khôn Quyện lên nghe một tiếng chát tai.

Bạch Ngọc hoàn vỡ vụn, nát như tro.

Ôn Lương hét lớn:

– Ngươi phá phép báu của ta, ta không thể dung ngươi được.

Nói rồi hỗn chiến với Na Tra. Na Tra quăng Kim chuyên lên đánh nhằm lưng Ôn Lương gần sa xuống đất.

Dương Tiễn thừa thế bắn Ôn Lương một viên đạn bể đầu chết tốt.

Ân Giao thấy Ôn Lương bị chết, nổi giận ném Phiên Thiên Ấn lên đánh Tử Nha.

Tử Nha thất kinh, xổ Hạnh Huỳnh Kỳ ra, lập tức muôn đạo hào quang chiếu sáng loà, hàng ngàn bông sen rơi xuống, che chở khắp mình Tử Nha, Phiên Thiên Ấn không dám rơi xuống.

Tử Nha liền quăng roi Ðả Thần Tiên lên, đánh trúng lưng Ân Giao, Ân Giao sa xuống ngựa, Dương Tiễn bước tới chém đầu, may nhờ Trương Sơn, Lý Cẩm lanh tay đỡ thương.

Ân Giao độn thổ chạy mất.

Tử Nha thắng trận thâu quân về thành, Nhiên Ðăng nói với Quảng Thành Tử:

– Phiên Thiên Ấn khó thu về được, mà ngày bái tướng đăng đàn của Tử Nha gần đến, nếu để trễ tội của đạo huynh không tránh khỏi.

Quảng Thành Tử nói:

– Xin đạo trưởng tìm kế gì trừ nó kẻo tôi mắc tội oan.

Nhiên Ðăng nói:

– Ở đây không có phép gì trị được nó biết tính làm sao?

Quảng Thành Tử ngồi làm thinh buồn bã.

Lúc này Ân Giao cũng về dinh, trong người đau đớn vì vừa bị một roi chí tử, không biết làm cách nào giết Tử Nha để trả thù cho Ân Hồng.

Bỗng có quân vào báo:

– Có một đạo sĩ xin vào ra mắt.

Ân Giao truyền mời thì thấy một vị đạo sĩ mặt đỏ như trái táo, râu tóc cũng đỏ hoe mình mặc áo đỏ, đội mão đuôi cá, bước đến xá Ân Giao.

Hỏi ra thì hay đó là La Tuyên ở Hỏa Long động, hiệu là Diêm Trung tiên. Do Thân Công Báo đến thỉnh cầu nên đến giúp Ân Giao.

Ân Giao mừng rỡ vô cùng, dọn tiệc đãi đằng.

La Tuyên nói:

– Bần đạo lâu nay ăn chay đã quen nên không dùng đồ mặn.

Ân Giao truyền đem cơm chay đãi La Tuyên rất hậu.

La Tuyên ở lại dinh đã ba hôm mà không nhắc gì đến việc giao tranh.

Ân Giao hỏi:

– Ðạo trưởng đến giúp tôi sao không tính kế đánh Khương Tử Nha.?

La Tuyên nói:

– Ta có hẹn với một người bạn. Ðợi người ấy đến đây rồi tính ra binh cũng chẳng muộn.

Ngày hôm sau quân vào báo:

– Có một đạo sĩ tìm đến trước cửa dinh.

Ân Giao và La Tuyên truyền ra nghinh tiếp, thấy đạo nhân này mọc râu quai nón, mặt vàng, thân thể vạm vỡ.

Ân Giao liền mời ngồi và tiếp đãi rất hậu.

La Tuyên hỏi đạo sĩ:

– Vì sao hiền đệ đến trễ vậy?

Ðạo sĩ đáp:

– Tiểu đệ cần luyện thêm một phép nữa cho hoàn bị rồi mới đến đây hiệo lực với sư huynh.

Ân Giao hỏi:

– Chẳng hay nhị đạo sư danh hiệu là gì?

Ðạo sĩ mới đến đáp:

– Bần đạo là Lưu Hoàn ở Cửu Long đảo.

Ân Giao truyền dọn tiệc đãi đằng hai vị đạo sư rất hậu.

Rạng ngày La Tuyên và Lưu Hoàn đến trước thành Tây Kỳ kêu quân mời Tử Nha ra nói chuyện.

Quân vào báo, Tử Nha dẫn quân ra ngoài thành, thấy La Tuyên khác thường, liền nói với các đồ đệ:

– Người này xem chẳng khác cục lửa đỏ.

Các đồ đệ thưa:

– Ðạo Triệt giáo nhiều người dị tướng, trông mà ghê.

La Tuyên giục ngựa tới hỏi:

– Ngươi phải Khương Tử Nha chăng?

Tử Nha nói:

– Phải. Còn đạo huynh từ đâu đến, xin cho biết danh hiệu?

La Tuyên nói:

– Ta là La Tuyên, hiệu Diêm Trung Tiên ở Hỏa Long đảo, bởi ta nghe ngươi ỷ tài phép cung Ngọc Hư làm nhục Triệt giáo ta nhiều lắm, nên ta phải đến đây tranh tài cao thấp. Ta thiết tưởng chỉ cần ta và ngươi tranh tài mà thôi, đừng sai học trò nhỏ ra múa men làm gì cho mất công, uổng mạng.

Nói rồi liền chém tới một gươm, Tử Nha múa gươm xông vào giao đấu.

Ðánh được một lúc, Na Tra nổi nóng xông vào, Lưu Hoàn bước ra cản lại.

Dương Tiễn, Hoàng Thiên Hóa, Lôi Chấn Tử, Thổ Hành Tôn, Vi Hộ đồng áp tới trợ chiến với Tử Nha, La Tuyên đỡ không kịp, chuyển mình một cái biến thành ba đầu sáu tay cự với các tướng.

Ðánh một hồi, La Tuyên đập Hoàng Thiên Hóa một bánh xe nhào xuống đất, Kim Tra và Mộc Tra vội lướt tới cứu Hoàng Thiên Hóa đem về thành.

Tử Nha quăng Ðả Thần Tiên lên đánh La Tuyên gần hạ mã, vội độn thổ trốn mất.

Còn Na Tra quăng Càn Khôn Quyện đánh Lưu Hoàn đổ hào quang.

Lưu Hoàn thất kinh lui về trại.

Trương Sơn khi ấy lược trận, quan sát thấy sức mạnh của các tướng Châu vô cùng lợi hại, nên thở dài:

– Cơ nghiệp Thành Thang sau này thế nào cũng về tay Võ Vương rồi.

Khi Trương Sơn trở vào dinh thì Lưu Hoàn và La Tuyên cũng về đến, người nào bộ tướng cũng xơ rơ, La Tuyên ân cần tiếp đãi và tìm lời an ủi.

La Tuyên nói:

– Vì ta vô ý bị Tử Nha đánh một roi gần hạ mã.

Liền lấy thuốc trong bầu ra uống, và nói với Lưu Hoàn:

– Ta không muốn giết nhiều mạng, thế mà chúng nó quyết tranh tài, biết làm sao? Ðêm nay ta sẽ đốt hết thành Tây Kỳ, không để sống sót một tên lính nào thì chúng nó mới thấy được phép thuật màu nhiệm của ta.

Lưu Hoàn nói:

– Nếu không trổ tài chúng tưởng thế gian này chỉ có Xiển giáo là thần thông hơn hết.

Ðêm ấy vào lối canh ba, La Tuyên và Lưu Hoàn lấy Vạn Lý Vân Yên là thứ tên lửa, đem ra bắn mù mịt vào thành Tây Kỳ, lửa dậy phừng phừng.

Thầy trò Tử Nha thấy thắng trận không đề phòng, đến chừng bá tánh trong thành kêu la mới hay.

Nhiên Ðăng và Quảng Thành Tử đồng ra ngoài quan sát.

Riêng Võ Vương thấy lửa thất kinh, quỳ dưới đất lạy trời van vái rằng:

– Cơ Phát có tội nên trời trừng phạt thế này, xin đốt toàn gia quyến tôi mà thôi còn bá tánh xin dung tha kẻo tội.

Võ Vương vừa vái vừa khóc òa, nhưng lửa mỗi lúc mỗi cháy dữ hơn biến thành Tây Kỳ thành một hòn núi lửa cao ngất.

La Tuyên và Lưu Hoàn chưa hài lòng, còn làm phép đổ cả bầy quạ lửa cả muôn con bay vào đốt khắp thành, còn trên không trung thì sai hai con rồng lửa phun lửa xuống.

Thật là một trận chiến ác liệt. Nhân dân thành Tây Kỳ kinh khiếp.

Bấy giờ Long Kiết Công chúa tại núi Phụng Hoàng đã có lòng giúp Tử Nha đánh Trụ, nay thấy La Tuyên hóa phép dữ đốt thành, liền thừa dịp này chữa lửa làm ơn, liền sai Bích Vân đồng nhi quăng lưới Vụ Lộ càn khôn mà bắt bầy quạ lửa. Vụ Lộ là sương mù, thuộc thủy, khi bủa ra thì bầy quạ lửa sa vào chết hết, nên lửa tắt tức thì.

La Tuyên không rõ nguyên nhân nào mà bầy quạ lửa biến mất hết, nhìn lên trời cao thấy một vị tiên cô đang cỡi loan xanh, mặc áo đỏ đầu đội mão đuôi cá, nhan sắc thoát trần, liền kêu lớn:

– Ai cỡi chim loan đó? Sao dám bắt quạ lửa của ta?

Long Kiết công chúa cười lớn:

– Ta là Long Kiết công chúa, ngươi tài phép bao nhiêu mà dám sanh ác tâm như vậy? Ngươi nên xa lánh chốn này kẻo mang họa.

La Tuyên nổi giận quăng bánh xe Ngũ Long lên.

Long Kiết công chúa cười lớn:

– Phép tắc ngươi chỉ chừng đó thôi sao?

Nói rồi lấy bình Tứ Hải đưa ra, thâu bánh xe vào đó, tức thì rồng lửa ra biển.

La Tuyên nổi giận lấy tên lửa bắn Long Kiết công chúa.

Long Kiết công chúa dùng Nhị Long kiếm phóng lên, chém Lưu Hoàn đứt làm hai khúc.

La Tuyên thấy bạn mình bị hại, hiện ba đầu sáu tay, lấy ấn Chiếc Thiên quăng công chúa.

Long Kiết cầm gươm chỉ một cái, ấn sa xuống tức thì, rồi quăng luôn gươm nhị long lên.

La Tuyên biết cự không lại, giục ngựa Xích yên chạy dài.

Gươm Nhị long bay theo chém con ngựa Xích yên một cái, ngựa té nhào.

La Tuyên rơi xuống đất độn thổ trốn đi.

Long Kiết công chúa bèn hóa mưa chữa lửa cho thành Tây Kỳ.

Dân chúng trong thành thấy lửa tắt hết, đồng reo mừng nói lớn:

– Thật nhờ hồng phước của minh quân, mới khiến trời mưa cứu cả thành khỏi chết.

Bá quan dầm mưa đến thăm nhau suốt đêm không ai ngủ được.

Trờo mờ sáng có quân vào báo:

– Một vị Tiên cô giáng trần, xin vào thành thăm viếng.

Tử Nha mừng rỡ ra rước vào, thì thấy cô nương ấy là Long Kiết công chúa.

Nhiên Ðăng và Quảng Thành Tử ra mắt tạ ơn.

Tử Nha hỏi:

– Vì đâu công chúa đến nơi này, xin chỉ dạy.

Long Kiết công chúa nói:

– Trước kia ta phạm lỗi tại hội bàn đào, nên mẹ ta là Diêu Trì kim mẫu bị đày xuống Phụng Hoàng san. Nay ta thấy La Tuyên đốt thành Tây Kỳ, nên làm mưa giải cứu, nhân dịp ở lại đây giúp Thừa Tướng chinh Ðông, lập công đền tội, để sau này trở lại cung tiên.

Tử Nha nghe nói mừng rỡ, truyền a hoàn dọn một nhà riêng cho công chúa ở.

Bấy giờ thành Tây Kỳ tuy dân chúng thoát nạn hỏa tai, nhưng thành quách hư hại rất nhiều, phải tốn công phu mới sửa chữa được như xưa.

Còn La Tuyên chạy đến núi, mệt thở không ra hơi, ngồi xuống bàn thạch, dựa vào gốc tùng ngẫm nghĩ:

– Ta bị Long Kiết công chúa thâu hết phép, thù này biết thuở nào nguôi.

Giữa lúc đó đàng sau có tiếng người ngâm:

Lánh chốn hồng trần khỏi thị phi,

Nửa đời áo mão ở thành trì

Kích dài một trượng người kiêng sức,

Tháp nặng ngàn cân cọp khiếp uy

Ẩn mặt trước còn nương thạch động,

Trổ tài nay mới xuống Tây Kỳ

Biết thời Trụ mạt, Châu đương thịnh,

Cái mạng La Tuyên cũng hiểm nguy.

La Tuyên nghe ca ngó lại thấy một người đội mão kim khôi mình mặc đạo phục, tay cầm kích liền hỏi:

– Ngươi là ai mà dám ngạo nghễ ta như vậy?

Người kia đáp:

– Ta là Lý Tịnh nay xuống Tây Kỳ giúp Tử Nha đoạt thâu năm ải. Ta không thể làm lễ ra mắt nên mới mượn tạm cái đầu của ngươi.

La Tuyên nổi giận đứng dậy chém một gươm, Lý Tịnh liền đâm lại.

Hai người hỗn chiến một hồi lâu, Lý Tịnh quăng Huỳnh Kim bửu tháp kên, và kêu lớn:

– La Tuyên! Ngươi trốn đâu cho thoát.

La Tuyên tránh không kịp bị bửu tháp sa xuống đầu.

Giết La Tuyên rồi, Lý Tịnh liền đằng vân xuống Tây Kỳ, tìm vào trướng phủ.

Kim Tra, Mộc Tra thấy cha mình đến, mừng rỡ vào bẩm với Tử Nha:

– Có cha tôi là Lý Tịnh xin vào ra mắt.

Nhiên Ðăng nói với Tử Nha:

– Người này trước kia là tôi vua Trụ, làm đến chức Tổng Binh.

Tử Nha nghe nói mừng rỡ, rước vào thành hậu đãi, ai nấy đều vui vẻ.

Riêng Quảng Thành Tử thấy Ân Giao ngăn trở, sợ trễ kỳ bái tướng đăng đàn, liền hỏi Nhiên Ðăng:

– Nay Ân Giao không chịu phép, biết liệu làm sao?

Nhiên Ðăng nói:

– Phiên Thiên Ấn là bửu bối lợi hại, nếu không có cờ Ly Ðịa diệm quang tại cung Huyền Ðô, cờ Thanh Liên bửu sắc bên Tây Phương, và cờ Hạnh Huỳnh thì khó bắt Ân Giao được. Nay cờ Hạnh Huỳnh đã có, nếu mượn được hai cây cờ nữa là xong.

Quảng Thành Tử nói:

– Học trò tôi làm bậy, tôi phải ráng sức đi mượn cho được hai cây cờ đó.

Nói rồi lập tức độn thổ đến cung Huyền Ðô, song không dám vào, cứ đứng ngoài cửa mà chờ.

Bỗng có Huyền Ðô đại pháp sư bước ra.

Quảng Thành Tử bái chào và nói:

– Xin đạo huynh làm ơn bẩm lại với sư bá lão gia, tôi xin vào ra mắt.

Huyền Ðô đại pháp sư vào thưa lại.

Lão Tử nói:

– Ðừng bảo Quảng Thành Tử vào đây mất công, ngươi đem cây cờ Ly Ðịa diệm quang cho nó mượn.

Huyền Ðô pháp sư vânh lệnh đem cờ trao cho Quảng Thành Tử và nói:

– Thầy dạy đạo huynh khỏi vào, đem cờ về kẻo trễ.

Quảng Thành Tử bái tạ trở về Tây Kỳ, giao cờ lại cho Tử Nha.

Hồi 65: Ân Giao mắc lời thề bỏ mạng

Quảng Thành Tử giao cờ cho Tử Nha rồi hóa hào quang lập tức bay sang tận Tây phương Cực Lạc quốc.

Nơi đây hoa cảnh tốt tươi, cỏ hoa như vẽ. Có bài thơ khen Cực Lạc Tây phương:

Non bồng phong cảnh đẹp như mơ,

Hoa cỏ bốn mù gió phất phơ

Nước gối sườn non như lụa trải,

Mây đùn mặt nước đá xây bờ

Cá nghe chuông mõ ngừng bơi lội,

Chim lắng mùi hương cánh ngẩn ngơ

Ðây cảnh Tây phương miền Cực lạc,

Xa mùi thế tục lánh mùi nhơ.

Quảng Thành Tử đến trước cửa chùa nhưng không dám vào, chờ một lúc thấy có một đạo đồng bước ra hỏi:

– Ðạo sĩ từ đâu đến.

Quảng Thành Tử nói:

– Xin làm ơn vào thưa với thầy có Quảng Thành Tử đến xin ra mắt.

Ðồng tử vào một lúc rồi trở ra, nói:

– Thầy tôi xin thỉnh đạo huynh vào.

Quảng Thành Tử bước vào thấy một vị sư mình cao một trượng sáu, da mặt vàng lườm, đầu trọc lóc. Ðó là vị Tiếp Dẫn đạo nhân.

Tiếp Dẫn đạo nhân bái chào Quảng Thành Tử và hỏi:

– Nghe tiếng đạo huynh là người cung Ngọc Hư, lòng hằng ước vọng nay được gặp mặt, còn gì may mắn bằng?

Quảng Thành Tử nói:

– Ðệ tử vì phạm tội sát sinh, bị đày xuống thế. Nay Ân Giao cãi mệnh trời, đánh Khương Thượng làm lễ kỳ đăng đàn bái tướng, nên tôi đến đây yết kiến cao sư, mượn cờ Thanh Liên bửu sắc để trị nó.

Tiếp Dẫn đạo sư nói:

– Bần đạo là vô vi thanh tịnh, dưỡng tánh tại Tây phương, không nghĩ đến chuyện chinh phạt, hằng lo độ thế chúng sinh. Nay đạo huynh mượn cờ ấy làm việc hồng trần, thật tôi không dám.

Quảng Thành Tử nói:

– Chúng tôi và đạo tuy khác đạo mặc lòng, song cùng một tông chỉ là thuận theo thiên hành đạo. Nay Châu Võ là chân chúa, phạt Trụ cứu dân, số trời đã định, chúng ta tuy ở trong tam giáo cũng như ở một nhà, lẽ phải giúp nhau, xin cao sư mở lòng từ bi rộng lượng.

Tiếp Dẫn đạo sư nói:

– Không phải tôi hẹp hòi, song chốn từ bi không nhúng tay vào việc sanh sát. Công việc hồng trần là của hồng trần, chúng tôi chỉ tế độ mà không có trừng phạt.

Quảng Thành Tử nói:

– Nếu cao sư không ra tay từ bi cứu độ vua nhân đức, diệt vua bạo ngược thì làm sao tế độ chúng sanh.

Tiếp Dẫn đạo sư mỉm cười đáp:

– Ðó là chủ trương quý phái, còn chúng tôi thiết tưởng chỉ có tế độ người ta khỏi bến mê thôi, chứ không trừng phạt người trong bến mê. Vả lại cờ Thanh Liên bửu sắc không chịu nhuốm hồng trần, biết làm sao được?

Hai người còn đang bàn luận, xảy thấy Chuẩn Ðề đại sư đến.

Tiếp Dẫn mời ngồi và thuật chuyện lại.

Chuẩn Ðề nói với Quảng Thành Tử:

– Ðạo huynh đi mượn, vì việc đó trái với chính nghĩa Từ bi của chúng tôi. Song có một điều chúng tôi có thể giúp đạo huynh được.

Nói rồi quay qua bàn với Tiếp Dẫn đạo sư:

– Trước đây tôi có nói với đạo huynh là phía bên Ðông, và phía bên Nam hiện có ba ngàn trượng hào quang chiếu sáng, đó là những người có duyên phận về với Tây phương. Họ là những người lương thiện, cần được chúng ta tiếp dẫn họ. Nhân dịp này, chúng ta cũng nên cho mượn cờ, để Khương Thượng chinh Ðông, và chúng ta có dịp đến đó rước họ về cực lạc. Tuy chúng ta là người phương Tây, song cũng nên đón những người phương Nam và phương Ðông mới phải.

Tiếp Dẫn đạo sư nói:

– Ðạo sư dạy như vậy cũng phải.

Liền lấy cờ trao cho Quảng Thành Tử và dặn:

– Xin đạo huynh đem trả gấp cho chúng tôi, đừng để nhuốm hồng trần nhiều.

Quảng Thành Tử tạ ơn, bái biệt, trở lại Tây Kỳ vào ra mắt Nhiên Ðăng, thuật hết các việc.

Nhiên Ðăng nói:

– Nếu vậy thì xong rồi. Nay hướng Nam dùng cờ Ly Ðại Diệm quang, hướng Ðông dùng cờ Thanh Liên bửu sắc, hướng Tây dùng cờ Tô Sắc vân giới, chính giữa dùng Hạnh Huỳnh Kỳ, chừa hướng Bắc cho Ân Giao vào thì trị được.

Quảng Thành Tử hỏi:

– Ðạo sư dùng phép ấy dụng ý thế nào.

Nhiên Ðăng làm thinh không đáp.

Quảng Thành Tử buồn bã, còn các tướng đều lui về hết.

Nhiên Ðăng lại nói với Quảng Thành Tử:

– Chúng ta chỉ có ba cây cờ, còn thiếu một chưa biết tính làm sao?

Quảng Thành Tử hỏi:

– Cờ Tô Sắc ở đâu mà có?

Nhiên Ðăng buồn bã ngồi lặng thinh.

Thổ Hành Tôn thấy vậy trở về phòng mình, nói với Ðặng Thiền Ngọc.

– Chúng ta còn lâu mới ra binh.

Ðặng Thiền Ngọc hỏi:

– Tại sao vậy?

Thổ Hành Tôn nói:

– Còn thiếu một cây cờ Tô Sắc vân giới nữa mới lập trận bắt Ân Giao được, nhưng Nhiên Ðăng đạo sư không biết cờ ấy ở đâu.

Long Kiết công chúa ở sát vách tường Ðặng Thiền Ngọc, nghe Thổ Hành Tôn nói như vậy, liền bước sang nói với Ðặng Thiền Ngọc:

– Cờ Tô Sắc là cờ của mẹ ta, người khác không có được. Cờ ấy cũng gọi là Tụ Tiên kỳ. Khi nào mẹ ta làm hội Diêu Trì thì dựng cờ ấy lên cho các tiên tựu đến.

Ðặng Thiền Ngọc nói:

– Thế thì may lắm, nay Khương Thừa Tướng đã mượn được hai cây rồi còn thiếu một cây Tô Sắc nữa, để tôi đến trình Thừa tướng biết.

Long Kiết công chúa nói:

– Cờ ấy không ai mượn được chỉ trừ Nam Cực tiên ông mới mượn được mà thôi.

Thổ Hành Tôn vội vàng đến trướng phủ thưa với Nhiên Ðăng:

– Ðệ tử bàn luận với Ðặng Thiền Ngọc về việc mượn cờ Tô Sắc, Long Kiết công chúa có nói cờ ấy là của mẹ nàng, chỉ có Nam Cực tiên ông mới mượn được thôi.

Nhiên Ðăng nghe nói liền sực nhớ đến cờ Tụ Tiên của Tây vương mẫu, liền sai Quảng Thành Tử cậy Nam Cực tiên ông mượn giùm.

Quảng Thành Tử tuân lệnh, hiện hào quang đến núi Kỳ Lân, vào viếng Nam Cực tiên ông thuật rõ mọi điều.

Nam Cực tiên ông nói:

– Ðạo huynh cứ về núi nghỉ để việc ấy tôi lo cho.

Quảng Thành Tử cảm tạ rồi trở về Tây Kỳ. Còn Nam Cực tiên ông thay đổi y quan, mặc triều phục, cầm cái hốt đeo chuỗi ngọc, cỡi hạc, bay qua cung Diêu Trì, thấy cửa đóng kín, liền quỳ xuống trước thềm tâu:

– Tôi là Nam Cực tiên ông xin trình tấu một việc. Hiện nay non Kỳ phụng gáy, thánh chúa ra đời, các tiên phải phạm tội sát sanh, nên các giáo chủ hội nhau lập bản phong thần và xuống phò Châu diệt Trụ. Chẳng ngờ Ân Giao cãi lời thầy, nghịch lòng trời, đem binh đánh Khương Thượng, làm trễ kỳ bái tướng, lỡ cuộc phong thần, nên tôi vâng lệng cung Ngọc Hư đến cầu vương mẫu, xin mượn cờ Vân Giới đặng trị tội Ân Giao.

Tâu rồi cứ quỳ đợi lệnh.

Giây phút nghe có tiếng nhạc nổi lên, bốn nàng tiên mở cửa, đem cờ Vân Giới đưa cho Nam Cực tiên ông và truyền rằng:

– Vương mẫu bảo xong thì phải đem trả gấp, không nên để nhẹ thể cờ tiên.

Nam Cực tiên ông tạ ơn, lãnh cờ trở lại Tây Kỳ.

Khi đến trước trướng phủ, Dương Tiễn trông thấy liền chạy vào báo với Tử Nha.

Tử Nha và Quảng Thành Tử đều ra ngoài đón rước và tạ ơn.

Nam Cực tiên ông nói:

– Ngày bái tướng của Tử Nha đã gần đến, phải lo trừ Ân Giao cho sớm.

Nói rồi giã biệt trở về động, các tiên đưa ra khỏi thành.

Nhiên Ðăng trở về trướng hội các tướng bàn luận:

– Nay đã có cờ Tụ tiên, song phải nhờ ba vị chơn nhơn, thì mới đủ sức bắt Ân Giao.

Bỗng có Na Tra từ ngoài cửa chạy vào báo:

– Có Xích Tinh Tử đến ra mắt.

Tử Nha mừng rỡ ra đón rước, và nói với Nhiên Ðăng:

– Việc này nhờ Xích Tinh Tử một tay thì tiện lắm.

Xích Tinh Tử vào đến nơi, Quảng Thành Tử nói:

– Tôi và anh đều mắc cái họa để học trò làm bậy, vậy anh phải giúp tôi trận này.

Bỗng thấy Dương Tiễn chạy vào báo:

– Có Văn Thù đến nữa.

Tử Nha cũng ra rước vào.

Văn Thù cười ha hả nói với Tử Nha:

– Tôi kính chúc mừng ông đây.

Tử Nha nói:

– Tôi định chinh phạt mấy năm nay, ngày đêm ăn ngủ không yên, biết chừng nào về núi cho hưởng thanh nhàn?

Văn Thù nói:

– Ðã gần đến ngày đăng đàn bái tướng thì ông sắp thành công lớn rồi.

Nhiên Ðăng nói:

– Hãy gác việc tâm tình để lo công việc đã.

Quảng Thành Tử nói:

– Nay đã có đủ các vị đạo huynh, xin đạo trưởng phân công chỉ dạy.

Nhiên Ðăng nói:

– Nay Văn Thù đạo hữu đem cờ Thanh Liên bửu sắc dựng bên phía Ðông núi Tây Kỳ, Xích Tinh Tử dựng cờ Ly Ðịa diệm quang ở bên phía Nam, còn tôi cầm cờ Hạnh Huỳnh ở giữa. Còn cờ Tụ Tiên nơi phía Tây phải nhờ đến Võ Vương mới được.

Tử Nha biết ý Võ Vương, nếu hay việc bắt được Ân Giao sẽ không bằng lòng, nên đành phải nói dối:

– Xin Ðại vương đi với tôi đến Tây Kỳ lược trận, vì trận này cần nhờ có hồng phúc của chúa công mới được.

Võ Vương nói:

– Thượng phu đã dùng đến lẽ nào ta từ chối.

Tử Nha truyền các tướng gióng trống, kiểm điểm binh mã, sai Hoàng Phi Hổ phá cửa trại Ân Giao, Ðặng Cửu Công phá trại lương bên tả, Nam Cung Hoát phá phá trại lương bên hữu. Na Tra, Dương Tiễn đồng tiếp ứng tả dinh, Vi Hộ, Lôi Chấn Tử tiếp ứng hậu dinh, Kim Tra, Mộc Tra và Lý Tịnh theo sau làm hậu tập.

Ðiều binh khiển tướng xong, Tử Nha qua phía Tây dựng cờ với Võ Vương.

Bấy giờ Trương Sơn, Lý Cẩm đang ngồi trong dinh bàn luận xảy nghe hơi dữ vương vất trước thềm, liền vào bẩm với Ân Giao:

– Binh đóng tại đây đã lâu mà không thắng, xin điện hạ lui về Triều Ca, chỉnh đốn thực lực rồi sẽ chinh phạt.

Ân Giao nói:

– Ta chưa được lệnh phụ vương ta giao sứ mệnh chinh phạt Tây Kỳ, để ta viết biểu xin viện binh, phá thành rồi sẽ trở về Triều Ca yết kiến.

Trương Sơn nói:

– Khương Thượng dùng binh rất giỏi, lại có chư tiên trợ lực, tôi e một mình điện hạ không hạ nổi.

Ân Giao nói:

– Chẳng sợ gì! Thầy ta mà còn sợ Phiên Thiên Ấn, huống chi những tay tầm thường.

Ba người bàn luận đến hết canh hai, bỗng nghe một tiếng pháo nổ vang trời, cha con Hoàng Phi Hổ xông vào cửa trước, Ân Giao cầm kiếm lên ngựa thúc quân ùa ra.

Ân Giao gọi Hoàng Phi Hổ nói lớn:

– Hoàng Phi Hổ! Ngươi dám cướp dinh ta thật tới số rồi.

Hoàng Phi Hổ nói:

– Tôi vâng lệnh chủ tướng không dám cãi lời.

Nói rồi đâm Ân Giao một giáo, Ân Giao đỡ ra rồi đánh lại.

Mấy cha con Hoàng Phi Hổ cùng xáp chiến lại một lượt vây Ân Giao vào giữa.

Còn Ðặng Cửu Công, Thái Loan, Ðặng Tú, Triệu Thăng, Tôn Diệm Hồng đồng thời xông vào phá dinh bên tả chỉ gặp một mình Trương Sơn ra sức chống lại.

Bên phía hữu, Nam Cung Hoát, Tân Giáp, Tân Miễn, Thái Ðiên, Hoàng Yêu đều xông vào một lượt, chỉ gặp một mình Lý Cẩm một người một ngựa đón chặn.

Tiếp đó Na Tra và Dương Tiễn vào trợ lực với cha con Hoàng Phi Hổ đánh Ân Giao, Ân Giao thấy Na Tra hành hung, liền lấy chuông Lạc Hồn rung lên hai ba lượt song Na Tra vẫn đứng yên.

Ân Giao ngỡ phép ấy hết linh cất chuông phép múa kích giao đấu.

Dương Tiễn xông vào, dùng giáo dài đâm túi bụi, Ân Giao nổi giận lấy Phiên Thiên Ấn quăng lên chẳng ngờ Dương Tiễn có Thất thập nhị huyền công, Phiên Thiên Ấn đánh không phỉ, Ân Giao quăng chuông Lạc Hồn lên nữa, Na Tra liệng cục Kim Chuyên đánh chuông đổ hào quang làm cho Ân Giao kinh hãi.

Bấy giờ, Nam Cung Hoát chém được Lý Cẩm, nên dẫn binh vào giữa tiếp ứng, đánh Ân Giao.

Bên tả Trương Sơn cầm cự với Ðặng Cửu Công, bị Tôn Diệm Hồng phun lửa vào mặt lính quýnh bị Ðặng Cửu Công chém một đao rụng đầu.

Ðặng Cửu Công cũng dẫn các tướng xông vào giữa vây Ân Giao.

Thương hại một mình Ân Giao mà bị binh tướng vây nhiều lớp, dẫu có ba đầu sáu tay đánh đỡ cũng không kịp.

Ân Giao thấy binh mình hỗn loạn, Lý Cẩm và Trương Sơn đều chết hết, dẫu liều mình chống cự cũng chẳng ích chi, liền đưa chuông Lạc Hồn ngay mặt Hoàng Thiên Hóa rung một cái, Hoàng Thiên Hóa té xuống ngọc kỳ lân, tạo thành một chỗ trống.

Ân Giao thoát ra nơi ấy chạy về núi Kỳ Sơn.

Các tướng kéo binh đuổi theo hơn ba mươi dặm mới trở về dinh.

Còn Ân Giao chạy riết một hồi, xem thấy trời đã rạng Ðông, quân sĩ quanh mình chỉ còn một số ít, mình mẩy đều bị thương.

Ân Giao than:

– Ta không dè thình lình bị thất trận, tổn tướng hao binh như thế này. Nay phải vượt năm ải, trở về Triều Ca, ra mắt phụ vương, chỉnh đốn binh lực, rồi sẽ tính kế báo thù.

Nghĩ rồi giục ngựa chạy về phía chân núi, theo con đường trở về ải Tị Thủy.

Vừa đi được mấy dặm.

Bỗng có Văn Thù chạy đến đón đường và nói:

– Ân Giao! Ngươi trốn đi đâu được?

Ân Giao bái và thưa:

– Sư thúc! Nay đệ tử trở về triều, sư thúc đón đường làm chi?

Văn Thù nói:

– Ngươi đã bị sa vào lưới hãy mau xuống ngựa mà chịu tội để khỏi bị lưỡi cày xoi thủng bụng.

Ân Giao nghe nói nổi xung, đâm Văn Thù một kích.

Văn Thù đưa gươm ra đỡ.

Ân Giao quăng Phiên Thiên Ấn lên, Văn Thù xổ cờ Thanh Liên bửu sắc, chiếu muôn đạo hào quang, hiện ra hột xá lợi.

Có bài thơ rằng:

Muôn đạo hào quang thấu chín trùng,

Mới hay xá lợi phép vô cùng

Ngọn cờ tế độ Tây phương Phật,

Cái ấn Phiên thiên khó vẫy vùng.

Khi ấy hột xá lợi đánh Phiên Thiên Ấn sa xuống, Ân Giao thất kinh thâu ấn lại chạy qua phía Nam, bỗng thấy Xích Tinh Tử kêu lớn:

– Ân Giao! Ngươi chạy đi đâu? Ngươi đã phụ lời thầy, thề sao được vậy.

Nói rồi xông vào hỗn chiến, Ân Giao đưa kích ra đỡ, rồi quăng Phiên Thiên Ấn lên, Xích Tinh Tử liền xổ cờ Ly Ðịa diệm quang. Vật này là báu vật của cung Huyền Ðô, trị ngũ hành các phép, hào quang muôn trượng cản Phiên Thiên Ấn lại.

Ân Giao thất kinh thâu ấn cắm đầu chạy vào giữa.

Nhiên Ðăng thấy Ân Giao chạy đến, quát lớn:

– Ân Giao! Bởi ngươi cãi lời thầy nên một trăm cái cày chờ sẵn ngươi đàng kia đó.

Ân Giao nói:

– Tôi chưa hề phạm gì vị sư tôn, sao hôm nay đón khắp nẻo đường không cho tôi đi?

Nhiên Ðăng nói:

– Trước kia ngươi thề cùng trời đất, nên hôm nay ta bắt ngươi trị tội.

Ân Giao nổi giận giục ngựa xông vào đánh, Nhiên Ðăng đưa gươm ra đỡ và khen:

– Hay lắm!

Ðánh được ba hiệp, Ân Giao quăng Phiên Thiên Ấn lên.

Nhiên Ðăng xổ cờ Hạnh Huỳnh ra, tức thì hàng trăm hoa sen rớt xuống, làm cho Phiên Thiên Ấn lửng lơ trên trời.

Ân Giao thấy vậy, sợ Nhiên Ðăng thâu hồi mất ấn, vội thâu lại và cắm đầu chạy nữa.

Vừa chạy vừa nghĩ thầm:

– Các nơi đều có người mai phục cả, chỉ còn có hướng Tây mà thôi. Vậy ta cứ theo hướng đó xem sao.

Nghĩ rồi liền quay ngựa chạy theo hướng Tây, thì thấy Tử Nha đứng dưới cờ Long Phụng, Ân Giao gặp được cừu nhân, nổi giận, giục ngựa xông đến:

– Khương Thượng có ta đến đây ngươi đừng hòng chạy thoát.

Võ Vương thấy Ân Giao ba đầu sáu tay, cầm kích xông đến, không biết lành dữ thế nào, kinh hãi than:

– Hôm nay chắc ta bỏ mạng tại đây rồi!

Tử Nha nói:

– Ðại vương đừng sợ, người ấy là Ân Giao điện hạ!

Võ Vương nói:

– Ðã gặp từ quân, ta phải mau xuống ngựa ra mắt kẻo mang tội!

Tử Nha cản lại nói:

– Nay đang ở giữa chiến trường đại vương đừng làm vậy mà mang họa vào thân. Hơn nữa đã có tôi đây thì có gì mà đại vương lo sợ.

Tử Nha nói dứt lời thì Ân Giao từ đàng xa phóng ngựa đến đánh liền.

Tử Nha đưa gươm ra đỡ. Ðánh được bốn hiệp thì Ân Giao quăng Phiên Thiên Ấn lên, Tử Nha xổ cờ Tụ Tiên ra, mùi hương thơm ngào ngạt, chiếu hào quang cản Phiên Thiên Ấn lại và quăng roi Ðả Thần Tiên lên.

Ân Giao thất kinh, vội thâu ấn lại, và cắm đầu chạy trối chết về hướng Bắc.

Nhiên Ðăng thấy vậy liền vỗ tay một cái, sấm nổ vang rền, các tướng đuổi theo sát gót.

Ân Giao chạy một lúc thì cùng đường, quay lại thì thấy binh tướng đuổi theo quá đông, than:

– Nếu phụ vương tôi còn trị thiên hạ, thì tôi quăng Phiên Thiên Ấn lên núi nứt làm hai có đường cho tôi thoát. Còn nếu nhà Thương hết thì núi không nứt hai.

Dứt lời Ân Giao quăng Phiên Thiên Ấn lên, tức thì hòn núi nứt làm hai, Ân Giao mừng quá nói:

– Thế thì số nhà Thương ta chưa dứt!

Nói rồi liền xuống ngựa, một mình chạy theo đường tắt. Chạy được một lúc, Ân Giao quay đầu lại thì thấy tướng đã tới chân núi cùng với Nhiên Ðăng, Ân Giao liền hốt một nắm đất quăng lên độn thổ bay mất. Nhưng không ngờ khi ló đầu lên khỏi núi thì Nhiên Ðăng vỗ tay một cái, hai bên núi khép lại, kẹp Ân Giao chỉ còn cái đầu ló ra ngoài thôi.

Hồi 66: Hồng Cẩm đẹp số se duyên

Bấy giờ binh tướng Châu đều kéo lên núi, Võ Vương thấy Ân Giao bị núi kẹp, liền xuống ngựa quỳ lạy bẩm rằng:

– Tiểu thần là Cơ Phát, vâng theo phép nước gìn giữ Tây Kỳ, chẳng dám khi quân phạm thượng, nay Thừa Tướng làm cho Ðiện hạ ra thân thể này, khiến tiểu thần mang tiếng muôn đời.

Tử Nha vội đỡ Võ Vương dậy và nói:

– Ân Giao cãi mệnh trời, chết là do số mạng. Ðại vương giữ đạo làm tôi như vậy, cũng đã đủ lắm rồi.

Võ Vương nói:

– Thượng phụ kẹp điện hạ trong núi, tội ấy về ta. Xin các tiên trưởng mở lòng từ bi, tha cho điện hạ khỏi nạn.

Nhiên Ðăng cười lớn:

– Hiền vương không biết số trời, Ân Giao bị trời phạt cứu làm sao được?

Võ Vương nằng nặc năn nỉ hai ba phen. Tử Nha làm mặt nghiêm nói:

– Tôi thuận theo lòng trời cứu thiên hạ chẳng dám trái mệnh trời để làm hại chúa công.

Võ Vương không biết làm sao, quỳ lạy khóc lớn:

– Tôi hết lòng cầu khẩn, xin tha cho điện hạ, ngặt các vị tiên trưởng cứ bảo là thuận theo mệnh trời, tôi không biết làm sao hơn.

Nhiên Ðăng thấy Võ Vương lạy rồi liền mời xuống núi, lại truyền Võ Kiết đem cày lên.

Quảng Thành Tử thấy học trò như vậy động lòng rơi lụy.

Võ Kiết dùng cày cày vào đầu Ân Giao, làm cho Ân Giao lủng đầu chết.

Có bài thơ rằng:

Vì em bỏ xác nghĩ càng thương,

Ơn mẹ chưa đền nát thịt xương

Tuy chưa trả thù Tô Ðắt Kỷ,

Cũng đà đáp nghĩa Võ Thành Vương

Lưỡi cày bạc mệnh thề linh hiển,

Cái ấn khi sư tội chán chường

Chớ trách họ Thân bày phản phúc,

Thiệt là vua Trụ để tai ương.

Võ Kiết giết Ân Giao rồi, thần Bá Giám đem phướng rước Ân Giao lên đài phong thần.

Hồn Ân Giao chưa chịu phép, hóa thành một trận gió bay về Triều Ca, nhằm lúc vua Trụ đang uống rượu trên Lộc Ðài với Ðắt Kỷ.

Trụ Vương nghe thấy trận gió ngần ngật nằm mê, thấy một người ba đầu sáu tay đến trước mặt tâu:

– Con là Ân Giao vì nước bị lưỡi cày đâm chết, xin phụ vương tu nhơn tích đức, lánh dữ tìm lành, để cho cơ nghiệp Thành Thang không rơi vào tay kẻ khác. Nay nên lựa tướng hiền tài, phong làm Nguyên soái, đi dẹp Tây Kỳ, nếu không chẳng bao lâu Khương Thượng vào lấy năm ải. Ðợi binh Châu đến Triều Ca thì ăn năn không kịp. Con muốn tâu cho hết ý, song sợ trễ giờ không vào được đài Phong Thần, vậy xin bái biệt.

Vua Trụ giật mình tỉnh dậy nói:

– Lạ quá! Ta vừa thấy điềm chẳng lành.

Ðắt Kỷ nói:

– Bệ hạ mộng thấy điều gì mà lạ?

Vua Trụ thuật lại điều chiêm bao.

Ðắt Kỷ tâu:

– Hễ trong bụng nghĩ gì thì chiêm bao thấy việc ấy. Xin bệ hạ chớ nghi.

Vua Trụ trấn an lòng mình bằng những chén rượu của Ðắt Kỷ dâng mãi cho đến tận đêm khuya.

Bấy giờ Hàng Vinh trấn ải Tị Thủy, hay tin sai người đem sớ về triều, nhằm lúc Vi Tử xem sớ.

Vi Tử thất kinh, ôm sớ lên Lộc Ðài làm lễ, rồi dâng cho vua Trụ.

Vua Trụ nói:

– Trương Sơn tử trận. Ân Giao chết tại Tây Kỳ thật là chuyện chẳng lành.

Nói rồi lâm triều hội các tướng.

Văn võ bá quan đến chầu đủ mặt, vua Trụ phán:

– Cơ Phát xưng Võ Vương lại giết tướng triều đình, sanh lòng soán nghịch. Nay nên cử ai làm đại tướng thay Trương Sơn cầm binh chinh phạt?

Quan đại phu Lý Ðăng thưa:

– Ðã mười mấy năm bốn phương dấy loạn, dẹp mãi không yên. Tuy vậy các mũi giặc khác không đáng kể, chỉ ngặt Tây Kỳ Khương Thượng trợ Cơ Phát làm loạn, mà các tướng tài đều một dạ quy hàng. Binh thế Tây Kỳ đánh mạnh, nội Triều Ca tôi nhắm chừng không tướng nào cự nổi, xin bệ hạ sai Hồng Cẩm hiện làm Tổng Binh trấn ải Tam Sơn cầm binh dẹp loạn. Tôi biết Hồng Cẩm tài cao phép lạ, có hy vọng dẹp loạn Tây Kỳ.

Vua Trụ liền giáng chỉ, sai sứ ra Tam Sơn.

Thiên sứ vâng chiếu, đến nơi thì trời đã tối, bèn vào quán trọ nghỉ ngơi.

Rạng ngày có quân vào báo, Hồng Cẩm dẫn hai tướng ra tiếp thánh chỉ đem về dinh.

Ðọc chiếu xong Hồng Cẩm tạ ơn, giao ải cho Khổng Tiên trấn giữ, còn mình kéo binh mười vạn, sai Quý Khương và Bá Hiển Trung làm chánh phó tiên phong, thẳng đến Tây Kỳ đóng trại.

Hôm sau Hồng Cẩm ra khách nói với Quý Khương và Bá Hiển Trung.

– Nay ta vâng chiếu chỉ chinh Tây, các ngươi phải hết lòng báo quốc. Khương Thượng là người tài cao trí rộng, chẳng phải tầm thường, đừng để chúng khinh dễ mà nhẹ uy Thiên tử.

Rạng ngày, Quý Khương vâng lệnh đến thành khiêu chiến.

Tử Nha nghe quân vào báo, mừng rỡ nói:

– Ba mươi sáu đạo quân đã đủ rồi, trừ được tướng này nữa là hết giặc. Nay ai muốn trổ tài?

Nam Cung Hoát xin ra trận. Tử Nha nói:

– Tướng quân phải cẩn thận lắm mới được.

Nam Cung Hoát vâng lời dẫn quân ra, thấy tướng Thương mặt đen như than hầm, liền hỏi:

– Tướng kia tên họ là chi?

Quý Khương nói:

– Ta là Quý Khương, bộ tướng tiên phong của Hồng Nguyên soái, vâng lệnh chiếu chỉ chinh Tây. Ngươi là phản tặc, sao chưa xuống hàng đầu?

Nam Cung Hoát cười lớn:

– Tây Kỳ đã giết bao nhiêu tướng Trụ, sao các ngươi không sợ mà dám đến đây?

Quý Khương nghe nói nổi giận, chém một đao.

Nam Cung Hoát đưa gươm ra đỡ rồi rước đánh.

Hai tướng đánh ba mươi hiệp vẫn cầm đồng.

Quý Khương niệm thần chú, hiện trên đầu một khóm mây đen, khóm mây ấy lại hiện thành một con chó nhảy táp vào lưng Nam Cung Hoát một miếng.

Nam Cung Hoát bị rách áo, đứt dây đai, thất kinh bại tẩu về thưa lại các việc với Tử Nha, Tử Nha buồn bã vô cùng.

Còn Quý Khương về thưa với Hồng Cẩm.

Hồng Cẩm khen:

– Trận này thắng ắt sẽ gây uy tín cho chúng ta nhiều lắm.

Hôm sau, Bá Hiển Trung vâng lệnh khiêu chiến.

Tử Nha sai Ðặng Cửu Công ra trận.

Ðặng Cửu Công vốn biết mặt Bá Hiển Trung, nên trông thấy liền hét lớn:

– Bá Hiển Trung! Nay thiên hạ đều đầu Châu chúa, sao ngươi chưa chịu phép, còn bẻ nạng chống trời.

Bá Hiển Trung đáp:

– Ta không phải là đứa thất phu như ngươi, quên nghĩa quên ơn, bỏ vua đầu giặc.

Ðặng Cửu Công nổi giận đâm Bá Hiển Trung một giáo. Hai tướng đánh vùi với nhau một trận, tối tăm trời đất. Ðược ba mươi hiệp, Ðặng Cửu Công chém trái một đao, Bá Hiển Trung đỡ không kịp bị đứt làm hai đoạn.

Ðặng Cửu Công chặt lấy thủ cấp về nạp cho Tử Nha.

Tử Nha truyền bêu đầu trước mặt thành làm lệnh.

Hồng Cẩm hay tin Bá Hiển Trung bị giết, lòng nóng như lửa đốt, muốn bắt Tử Nha báo thù, nên rạng ngày dẫn binh đến thành khiêu chiến.

Quân vào báo, Tử Nha lật đật dẫn binh tướng ra nghinh địch.

Lúc Tử Nha đi chưa tới, Hồng Cẩm đã thấy xa nhiều hổ tướng theo phò, uy phong lẫm liệt, thì biết nay không phải dễ thắng. Ðợi Tử Nha đến gần, Hồng Cẩm ôn tồn nói:

– Ngươi có phải là Khương Thượng không?

Tử Nha nói:

– Phải! Còn ngươi là ai?

Hồng Cẩm nói:

– Ta là Hồng Cẩm, lãnh chức Ðại nguyên soái chinh Tây. Bởi các ngươi chẳng giữ gìn bổn phận, lỗi đạo làm tôi, kháng cự với binh trời, nên ta quyết giết các ngươi cho hết loài phản phúc.

Tử Nha cười lớn:

– Hồng Cẩm! Ngươi xưng là đại tướng sao chẳng biết thời cơ. Nay tướng tài đều quy tụ về Châu, chư hầu một lòng phò Minh Chúa. Sức ngươi một gáo nước, lẽ nào chống nổi muôn xa? Tám trăm chư hầu chẳng bao lâu sẽ họp tại Mạnh Tân kéo về Triều Ca vấn tội. Nếu ngươi trái ý trời, phò kẻ nịnh e mang họa tức thì.

Hồng Cẩm nổi xung, múa siêu đao xông tới.

Cơ Thúc Minh hét lên một tiếng, cầm thương giục ngựa xông ra đánh với Hồng Cẩm.

Hai tướng hỗn chiến một hồi.

Cơ Thúc Minh là con thứ bảy mươi hai của Văn Vương, tánh nóng như lửa, sức mạnh như hùm, đánh ba chục hiệp Hồng Cẩm tay chân luýnh quýnh, liền giục ngựa chạy trái qua một bên, rút cây cờ giắt sau lưng rung lên một cái. Cờ ấy hóa ra cái cửa nhỏ, còn Hồng Cẩm đứng đàng sau.

Cơ Thúc Minh xông vào cửa đuổi theo, bị Hồng Cẩm chém một đao rơi đầu xuống đất.

Tử Nha xem thấy thất kinh hồn, Hồng Cẩm thâu cờ giục ngựa lướt tới kêu lớn:

– Kẻ nào có tài thì ra đánh với ta?

Ðặng Thiền Ngọc lướt tới, vung kiếm chém Hồng Cẩm, nói:

– Có ta đây ngươi đừng khoe giỏi.

Hồng Cẩm thấy tướng nữ, liền chém trái một đao.

Ðặng Thiền Ngọc đánh được vài hiệp, Hồng Cẩm lại rung cờ làm theo thói cũ. Chẳng ngờ Hồng Cẩm không đuổi, ném cục đá vào sống mũi Hồng Cẩm kêu một tiếng bốp.

Hồng Cẩm mặt mày đổ hào quang, thất kinh thâu cờ bại tẩu.

Tử Nha thâu binh về thành, nghĩ đến cái chết của Ðiện hạ, lòng buồn bực vô cùng, sai người ra ngoài thành lượm xác Cơ Thúc Minh đem vào mai táng.

Hồng Cẩm bị thương về dinh lấy thuốc thoa lên sống mũi.

Rạng ngày đem binh đến thành khiêu chiến, quyết bắt cho được nữ tướng báo thù, nên kêu đích danh Ðặng Thiền Ngọc.

Quân vào báo, Tử Nha không biết tính làm sao phải sai quân thông tin với Ðặng Thiền Ngọc khiến Ðặng Thiền Ngọc ra trận.

Thổ Hành Tôn dặn vợ:

– Hồng Cẩm có cây cờ phép, nếu nó có dùng miếng cũ chớ nên đuổi vào cửa cờ.

Ðặng Thiền Ngọc nói:

– Thiếp đánh giặc tại ải Tam Sơn đã hơn mấy năm lẽ nào không biết bản lĩnh của tướng Trụ. Kẻ nào muốn bỏ mạng mới vào cửa cờ ấy, tướng quân không cần dặn thiếp làm chi.

Long Kiết công chúa ở sát vách nghe được, liền bước qua nói:

– Hai vợ chồng trù tính chuyện gì đó?

Thổ Hành Tôn nói:

– Ðại tướng bên Thương là Hồng Cẩm, dùng cờ biến thành cửa dinh, điện hạ Cơ Thúc Minh xông vào bị nó chém chết. Vợ tôi sắp ra giao chiến, nên tôi phải dặn dò.

Long Kiết công chúa mỉm cười:

– Ấy là Kỳ môn độn pháp, phép ấy cũng chẳng hay gì, để ta ra bắt nó.

Thổ Hành Tôn mừng rỡ vào thưa với Tử Nha.

Tử Nha liền mời Long Kiết công chúa ra trướng phủ, tỏ ý cảm ơn.

Long Kiết công chúa bái Tử Nha, nói:

– Xin cho tôi mượn một con ngựa ra trận bắt tướng.

Tử Nha truyền đem ngựa hồng để công chúa lên yên xuất trận.

Hồng Cẩm xem thấy không phải tướng cũ, liền hỏi:

– Nữ tướng là ai vậy?

Long Kiết công chúa nói:

– Ngươi hỏi làm gì? Ta có xưng tên ngươi cũng không biết. Hãy xuống ngựa chịu trói cho rồi.

Hồng Cẩm nổi giận mắng:

– Con a hoàn này khinh ta dường ấy?

Nói rồi chém một đao, Long Kiết công chúa đưa song kiếm ra đỡ.

Ðánh được bốn năm hiệp, Hồng Cẩm cũng lấy cờ ra rung, Long Kiết công chúa liền lấy cây cờ trắng vụt tới, cầm gươm chỉ một cái, hóa ra một khung cửa ngoài, rồi độn thổ vào cửa trong theo chủ.

Hồng Cẩm không thấy Long Kiết công chúa đâu, đang kinh hãi, bị Long Kiết công chúa độn thổ theo sau lưng chém vào vai một nhát.

Hồng Cẩm thất kinh bỏ phép chạy dài.

Long Kiết công chúa thấy Hồng Cẩm chạy về phía Bắc liền đuổi theo gọi lớn:

– Hồng Cẩm hãy xuống yên chịu chết. Ta là Long Kiết công chúa, con gái bà Diêu Trì kim mẫu, xuống đây trợ lực với Tử Nha. Dẫu ngươi chui xuống đất, hay bay lên trời, ta cũng quyết theo lấy đầu cho bằng được.

Nói rồi đuổi theo mãi.

Hồng Cẩm thất kinh chạy đến xơ xác, phần bị thương đau quá, phần mệt đã hết hơi, liền độn thổ mà trốn.

Long Kiết công chúa cười ngất nói:

– Ta lạ gì năm phép độn thổ mà ngươi biểu diễn với ta.

Nói rồi độn thổ đuổi theo. Hai người chạy một đỗi thì ra đến biển Bắc.

Mặt biển mông mênh, sóng vỗ ầm ĩ.

Hồng Cẩm nhớ lại phép báu của mình, mừng thầm tự nhủ:

– May ta có báu vật kình long, nếu không ắt mang khốn.

Nói rồi quăng Kình long xuống biển, hóa ra một con cá to lớn phi thường.

Hồng Cẩm cỡi con Cá kình lội ra giữa biển.

Long Kiết công chúa cười lớn:

– Tài mọn mà cũng đem khoe.

Nói rồi lấy Thần kinh trong túi quăng xuống biển, Thần kinh hiện ra một hòn núi to như núi Thái Sơn nổi trên mặt nước. Long Kiết công chúa leo lên hòn núi, đuổi theo Hồng Cẩm.

Kình long thấy Thần kinh thì sợ hãi, vì nhỏ phải thua lớn, phàm phải sợ thần.

Long Kiết công chúa đuổi theo gần đến quăng dây Khổn long ra trói Hồng Cẩm, sai Huỳnh Cân lực sĩ đem về nộp Tây Kỳ.

Huỳnh Cân lực sĩ tuân lệnh xách Hồng Cẩm về thành ném xuống trước sân.

Tử Nha và các tướng xem thấy mừng rỡ.

Hồi 67: Đàn Kim Đài, Tử Nha bái tướng

Tử Nha thấy Hồng Cẩm bị trói từ trên sa xuống biết là Long Kiết công chúa đã bắt được đem về.

Chẳng bao lâu, Long Kiết công chúa vào phủ, Tử Nha đứng dậy thưa:

– Nhờ công chúa cứu độ, xã tắc và muôn dân đều mang ơn.

Long Kiết công chúa nói:

– Từ lúc tôi xuống Tây Kỳ đến nay chưa lập được công chi, nay bắt Hồng Cẩm về đó, tùy ý Thừa tướng xử trí.

Nói rồi vào phòng an nghỉ. Tử Nha truyền dẫn Hồng Cẩm đến và nói:

– Những tướng nghịch mạng như ngươi chẳng tướng nào trở về được.

Liền truyền Nam Cung Hoát đem ra pháp trường xử trảm.

Nam Cung Hoát vâng lệnh vừa dẫn ra, bỗng có một ông già vừa chạy đến thở hổn hển, la lớn:

– Hãy khoan chém đã.

Nam Cung Hoát thấy ông lão ấy dung mạo như một đạo sĩ, nên không dám trái lời, vội chạy vào phủ thưa với Tử Nha:

– Có một vị đạo nhân đến ngăn cản, không cho chém Hồng Cẩm, xin Thừa Tướng quyết định lẽ nào?

Tử Nha truyền mời đạo sĩ vào. Ðạo sĩ nói với Tử Nha:

– Tôi là Nguyệt Hiệp lão nhân Nguyệt lão đến đây vì Phù Nguyên tiên ông có nói Long Kiết công chúa và Hồng Cẩm trời định mối lương duyên và Thừa Tướng sẽ có thêm một tướng phá năm ải, vì vậy lão phu đến đây, xin Thừa Tướng chớ cãi lời.

Tử Nha nghĩ thầm:

– Long Kiết công chúa là một vị tiên cô trên thượng giới, lẽ nào sánh duyên với một kẻ phàm tục?

Nghĩ rồi truyền Ðặng Thiền Ngọc đến kể hết mọi điều, và dạy Ðặng Thiền Ngọc trao lời lại với Long Kiết công chúa, xem Long Kiết công chúa quyết định như thế nào.

Ðặng Thiền Ngọc tuân lệnh, mời công chúa qua phòng mình đàm đạo.

Long Kiết công chúa hỏi Ðặng Thiền Ngọc:

– Cô nương mời ta qua đây nói chuyện chi?

Ðặng Thiền Ngọc nói:

– Nay Nguyệt lão đến đây bảo Long Kiết công chúa có nhân duyên với Hồng Cẩm, vì tơ duyên đã buộc chân, Thừa Tướng và Nguyệt lão đang bàn luận trong trướng.

Long Kiết công chúa hỏi:

– Vì sao cô nương lại nói chuyện ấy với ta?

Ðặng Thiền Ngọc nói:

– Thừa Tướng cho đòi tôi đến, bảo tôi thưa lại với công chúa, xem ý kiến Long Kiết công chúa quyết định lẽ nào cho niết.

Long Kiết công chúa than:

– Vì ta phạm tội, bị đày xuống núi Phụng Hoàng không được về cung Diêu Trì hầu hạ mẹ ta là Vương mẫu. Nay xuống đây giúp Thừa Tướng chinh Ðông, lập công chuộc tội để sớm được về cõi tiên, không ngờ lại mắc dây oan nghiệt!

Ðặng Thiền Ngọc không dám nói nữa.

Bỗng có Tử Nha và Nguyệt lão bước tới, Long Kiết công chúa và Ðặng Thiền Ngọc ra chào.

Nguyệt lão nói:

– Bởi công chúa vương chút duyên trần nên phải đọa vào cảnh tục, nợ trần thế xong rồi thì mai sau cũng trở về tiên. Vả Tử Nha cũng gần bái tướng đăng đàn, vào lấy Ngũ quan, Long Kiết công chúa và Hồng Cẩm đều có sức giúp đỡ, lưu tiếng ngàn thu, cũng nên lập một chút công cho tiêu tội, mai sau Diêu Trì kim mẫu sẽ có chiếu chỉ rước về. Số trời định như vậy chẳng lẽ trái được. Bần đạo tuân lệnh Phù Nguyên tiên ông đến đây tác hợp, nếu trễ chút nữa, Hồng Cẩm bị chém đầu thì cuộc nhân duyên lỡ làng, chúng tôi mang tội và công chúa vẫn còn dai dẳng nợ hồng trần

Long Kiết công chúa nói:

– Không ngờ dây oan trái tìm đến vấn vương. Tiên ông là người coi việc nhân duyên trong thiên hạ, ta làm sao cãi được.

Nguyệt lão và Tử Nha mừng rỡ, liền tha Hồng Cẩm, đem thuốc tiên đơn xức các vết thương, định ngày phối ngẫu.

Hồng Cẩm được xe duyên cùng Long Kiết công chúa, còn gì sung sướng hơn, vội ra ngoài thành bảo Quý Khương đem binh đến hàng Châu.

Ðêm Hồng Cẩm và Long Kiết công chúa động phòng hoa chúc vào ngày mồng ba tháng ba, năm thứ hai mươi của niên hiệu vua Trụ.

Rạng ngày Võ Vương lâm triều, bá quan chầu chực, Tử Nha dâng biểu như sau:

“Tôi dâng sớ là Thừa tướng Khương Thượng, trộm nghe trời đất là cha mẹ muôn loài, con người khôn ngoan hơn vạn vật. Làm vua trị nước, làm thầy dạy dân, giúp Thượng Ðế trấn bốn phương, vỗ an trăm họ.

Nay Ân Thọ bỏ nghiệp Thành Thang, bá tánh không an, trời đất đều giận. Trụ Vương giết tôi can gián, bỏ đạo luân thường, xa kẻ trung lương, mê đường tửu sắc, cứ việc ăn chơi, sống trên đau khổ của trăm họ. Tám trăm chư hầu quyết hội nơi Mạnh Tân. Cầu chúa thượng kéo binh hùng qua Tị Thủy. Người vô đạo phải trị, dân bất hạnh cũng nên thương, xin chọn ngày tốt buông cương kẻo chư hầu hoài vọng.

Xin trên xuống lệnh để dưới thi hành.

Nay sớ.”

Võ Vương nghe xong, ngẫm nghĩ một lát rồi nói:

– Thượng phụ kết tội Trụ vương vô đạo, bất nhân, cũng nên chinh phạt, song Tiên vương lúc chết có di ngôn: Làm con không được cãi cha, làm tôi không được đánh chúa. Ta không thể trái lời tiên vương được. Vậy chư hầu ai muốn phạt Trụ mặc họ, ta với Thượng phu cũng nên giữ lời di chúc cho tròn đạo là hơn.

Tử Nha tâu:

– Tôi không dám cãi lời Tiên vương di chúc, song hiện nay chư hầu đều họp mặt tại Mạnh Tân, quyết mời chúa công dấy binh phạt Trụ, cứu dân, nếu chư hầu nào chẳng nghe theo, chư hầu sẽ cho kẻ ấy là đồng đảng của vua Trụ, và họ sẽ đem binh chinh phạt nước nghịch trước rồi mới phạt hôn quân sau. Tôi e nước ta mắc tội với mấy trăm chư chư hầu, nên phải làm biểu xuất sư.

Võ Vương nói:

– Những chư hầu đòi phạt Trụ là những chư hầu nào?

Tử Nha tâu:

– Cả tám trăm chư hầu, trong đó có ba trấn chư hầu lớn như Ðông Bá hầu, Nam Bá hầu, Bắc Bá hầu.

Võ Vương nói:

– Ðã có ba chư hầu lớn ấy thì họ thay mặt ta chinh phạt Trụ cũng được rồi. Thượng phụ cần phải chinh phạt làm gì cho nhọc công, đã trái lời Tiên Vương, lại không tròn niềm thần tử. Ta xét thấy các chư hầu sẽ không hẹp hòi vấn tội ta đâu.

Tử Nha tâu:

– Trời đất là cha mẹ loài người. Nơi trần gian kẻ có đức, có tài được ủy nhiệm chăm dân, làm cha mẹ thiên hạ. Nay Trụ Vương độc ác, làm hại muôn dân, trời muốn đưa chúa công lên trị vì thiên hạ đem lại ấm no cho muôn dân. Nếu chúa công trái ý trời đất, không đổi loạn làm yên, chắc sau này tội ấy về chúa công gánh chịu.

Táng Nghi Sanh tâu:

– Thừa Tướng luận rất phải. Hiện nay các chư hàu họp mặt ở Mạnh Tân, truyền hịch phạt Trụ, nếu chúa công không tham dự tỏ ra chúa công khinh dễ chư hầu lắm. Như vậy e tám trăm chư hầu sẽ không phục và còn đổ lỗi cho chúa công giúp Trụ làm loạn, và đem binh đến chinh phạt Tây Kỳ thì chừng đó chúa công có ăn năn cũng không kịp. Vả lại Trụ Vương nghe lời sàm tấu đem binh phạt Tây Kỳ làm cho ta hao binh tổn tướng và nhiều phen suýt bỏ mạng. Nay thái bình một buổi, mai giặc giã ngàn ngày, biết chừng nào Trụ hết đánh Châu, và để cho muôn dân an cư lạc nghiệp. Theo ý hạ thần thì chúa công nên nghe theo lời Thừa Tướng mà đến Mạnh Tân họp chư hầu. Trước thị oai để cho Trụ Vương khiếp sợ cải thiện, sau không làm hạ nhuệ khí của muôn dân và tiếng tăm của Tiên vương. Xin chúa công xét lại cho, đừng để mất cơ hội.

Võ Vương ngồi suy nghĩ một lúc rồi gật đầu, nói:

– Quan đại phu bàn rất chí lý. Nhưng hôm nay muốn xuất quân phải dùng bao nhiêu nhân mã?

Táng Nghi Sanh tâu:

– Chúa công muốn kéo quân qua ngũ ải thì phải phong Thừa Tướng làm Ðại Nguyên soái, cấp cờ mao, ban búa việt, cai trị muôn binh như vậy mới đi được.

Võ Vương nói:

– Theo lời quan đại phu thì phải phong Tướng phụ là làm Ðại tướng quân đặng cầm quyền chinh phạt.

Táng Nghi Sanh tâu:

– Ngày xưa vua Huỳnh Ðế phong chức ấy cho Phong Hậu, có làm lễ bái tướng nhu có lập một cái đài cao để tế trời đất cùng non sông thánh thần. Xin chúa công làm theo đó.

Võ Vương nói:

– Mọi việc đều nhờ ở quan đại phu định đoạt giùm Trẫm.

Nói rồi truyền bãi chầu.

Táng Nghi Sanh liền đến dinh Tử Nha báo tin mừng. Các tướng nghe tin hoan hỉ vô cùng.

Rạng ngày Táng Nghi Sanh bàn với Tử Nha, sai Nam Cung Hoát và Tân Giáp qua Kỳ Sơn coi lập tướng đài. Hai tướng vâng lệnh ra Kỳ Sơn xem lập đài xong về báo lại với Tử Nha.

Táng Nghi Sanh nghe tin vào tâu với Võ Vương:

– Tướng đài đã lập xong, hạ thần định ngày rằm tháng ba chúa công bái tướng.

Võ Vương nói:

– Ðược, các khanh lo cho chu đáo để đến ngày bái tướng.

Ðến ngày mười ba tháng ba, Tử Nha sai Tân Giáp đi treo bảng điều lệ.

Bản điều lệ gồm có mười sáu khoản kể sau:

1. Nghe trống chẳng tới, nghe chiêng chẳng lui, dỡ cờ chẳng dậy, hạ cờ chẳng mọp. Ấy là lờn phép, phạm thì xử trảm.

2. Kêu tên chẳng dạ, hỏi tên không đứng dậy. Ấy là khí phép, phạm là xử trảm.

3. Ðêm canh nghe hiệu lệnh đẩu phải đánh tiếp theo. Nếu đến trái giờ, hoặc không đúng phép, làm cho việc tuần hàng bị trễ nãi, bắt được xử trảm.

4. Buông lời thù oán, chê bai chủ tướng, không nghe theo lời dạy, ấy là ngang ngạnh, bắt được xử trảm.

5. Cười reo giỡn cợt trước dân chúng, đánh lộn ngoài đường. Ấy là khinh phép, phạm thì xử trảm.

6. Khí giới không chịu chăm sóc, cung đứt quăng không thay, tên hết khôn sắm, gươm giáo bỏ mặc không mài, cờ rách không may. Lấy tiền công qũy đem về xài. Ấy là quân tham lam biếng nhác, bắt được xử trảm.

7. Ðặt lời ca diễu, đặt điều để gạt dân chúng, bày chuyện tà mị làm loạn lòng binh. Ấy là quân yếu, phạm xử trảm.

8. Thày lay sinh chuyện, xúi giục người làm bậy. Ấy là quân thầy lây bắt xử trảm.

9. Tới đâu hiếp dân tới đó, khuấy phá đàn bà con gái. Ấy là dâm ô, bắt xử trảm.

10. Ðứng rình bên rèm nghe trộm việc người khác, bắt được xử trảm.

11. Ðem cơ mưu mật lệnh mật báo cáo giặc biết, đó là đồ phản, bắt được xử trảm.

12. Có việc cần đến thì rút cổ co đầu không chịu phục tùng. Ðó là đồ nhát, phạm đến xử trảm.

13. Binh sĩ không hàng ngũ, la ó, đánh lộn làm ồn ào, đó là loạn quan, phạm xử trảm.

14. Không đau giả bịnh, giả bị thương để khỏi đi đánh giặc, giả chết để trốn đi. Ðó là quân gian, phạm thì xử trảm.

15. Phát lương không đều. Thuế má thì người ngoài thu nhiều người trong họ thu ít làm cho quân sĩ, dân chúng oán thán. Ðó là quân tệ, phạm là xử trảm.

16. Thám thính không rõ về báo không rành thấy ít nói nhiều thấy nhiều lại nói ít, giặc chưa tới thì nói giặc tới, tới sát đến nơi mà nói chưa tới. Ðó là quân xớn xác, phạm đến thì xử trảm.

Qua ngày thứ mười bốn tháng ba, Táng Nghi Sanh vào chầu thưa:

– Sáng ngày mai xin chúa công thỉnh Thừa Tướng lên đài đặng bái tướng.

Võ Vương hỏi:

– Bái tướng phải làm như thế nào?

Táng Nghi Sanh tâu:

– Xin chúa công cứ làm như Huỳnh Ðế bái tướng Phong Hậu thì được.

Võ Vương nói:

– Như thế thì tốt lắm.

Rạng ngày rằm tháng ba, Võ Vương đem bá quan đến ngoài trướng phủ. Xảy nghe lạc đổ ba lần, pháo nổ ba tiếng, cánh cửa từ từ mở ra, Táng Nghi Sanh từ trong bước ra hộ giá vào trong.

Trong lúc đó thì quân vào báo với Tử Nha:

– Bẩm Thừa tướng! Có Ðại vương đem xa giá đến thỉnh Thừa Tướng.

Tử Nha vội mặc áo bát quái rồi bước ra, Võ Vương bái và nói:

– Trẫm xin thỉnh Nguyên soái lên xe.

Tử Nha đáp lễ rồi theo Võ Vương ra ngoài cửa trướng phủ.

Ðến đây, Võ Vương lại bái Tử Nha lần nữa rồi truyền quân đỡ Tử Nha lên xe.

Táng Nghi Sanh đứng ở sau nói nhỏ với Võ Vương:

– Chúa công nhớ truyền quân đẩy xe đi ba vòng nhé.

Võ Vương gật đầu.

Người sau có làm bài thơ khen Tử Nha hiển vinh như sau:

Vua Võ chinh Ðông cậy tướng tài,

Tử Nha mày bạc rỡ cân đai

Ðầy trời phảng phớt mùi hương khói,

Rợp đất cờ treo phỉ chí trai

Bái tướng hiển vinh thêm tuổi hạc,

Cầm binh rạng rỡ khách mày ngài

Tám trăm năm lẻ gây từ đấy,

Trần thế anh hùng ai biết ai.

Tử Nha xem thấy cờ đỏ cắm ở hai hàng, từ cửa thành đến trướng đài suốt bảy mươi dặm trai gái già trẻ, đông nức kéo nhau đến xem.

Tử Nha đến Kỳ Sơn, thấy trên trướng đài có treo một câu đối.

Ba ngàn xã tắc về Châu chúa

Một mối sơn hà thuộc Võ Vương.

Võ Vương thấy đài cao ba trượng, rộng đến hai mươi bốn trượng, gồm có ba từng lầu. Từng thứ nhất, chính giữa có hai mươi lăm người mặc áo vàng, cầm phướng vàng, bên trong có hai lăm người mặc áo xanh, cầm phướng xanh. Bên Tây có hai lăm người mặc áo trắng, cầm phướng trắng. Bên Bắc có hai lăm người mặc áo đen, cầm phướng đen.

Từng thứ nhì có ba trăm sáu mươi người, mỗi người cầm một cây cờ đỏ.

Từng thứ ba có bảy mươi hai tướng mạnh, cầm gươm giáo đao chùy. Mỗi từng có bàn hương án và đồ lễ.

Táng Nghi Sanh liền thỉnh Võ Vương xuống kiệu rồi dặn Võ Vương đến mời Tử Nha xuống xe.

Võ Vương đến trước xe Tử Nha bái và thưa:

– Xin mời Nguyên soái đăng đàn.

Tử Nha lên đài.

Táng Nghi Sanh đóng vai trò lễ bộ, đọc bản văn cáo với thần linh năm non bốn biển, rằng:

“Hỡi ôi! Trời sanh muôn loài. Xưa Thành Thang mở vận, nay truyền ngôi đến Ân Thọ, khí số đã mỏi mòn.

Ân Thọ nghe lời vợ dữ, trợn khách khinh hiền, giết hại bá tánh tôi ngay, coi mạng người như cỏ rác.

Trời buồn đất thảm, trăm họ như rơi vào đống bùn nhơ, té trong lửa đỏ.

Nay Cơ Phát chuộng hiền lánh dữ, đem nhân đức mà hủy bỏ bạo tàn, cậy Tử Nha là anh hùng ra công giúp thế.

Cầu thần linh ngưỡng mộ, ra giúp phò trì. Non nước chứng tri nhờ ơn cổ võ.

Cúi xin nhận lễ”.

Khi Táng Nghi Sanh đọc bản văn tế xong, Châu Công Ðáng thỉnh Tử Nha lên tầng thứ hai, rồi cùng xướng lên một bài văn như sau:

“Năm thứ mười ba, tháng ba, ngày vọng, Tây Bá khiến Châu Công Ðáng cáo với Nhật Nguyệt, Tinh tú, Thần gió, Thần mưa và các vị Hoàng đế thuở xưa.

Hỡi ôi! Càn khôn che muôn vật, Nhật Nguyệt sáng muôn loài.

Nay Ân Thọ chẳng thờ Thượng đế thần tri, lại không tế tiên tông miếu:

Ham mê tửu sắc, không biết trọng tôi hiền, chỉ lo trang điểm lâu đài cho hoan lạc, lại chọn những tôi nịnh cho muôn dân điêu đứng.

Chẳng biết thương vợ con, đem hành hình thảm thiết. Thuế má thâu rất nặng làm cho muôn dân đói khổ.

Chẳng những thế lại còn hung hăng sai tướng đem binh phạt nơi này nơi khác gây cho dân cảnh màn trời chiếu đất, vợ xa chồng, cha lìa con, mẹ mất con.

Nay Cơ Phát động lòng, phong Tử Nha làm Nguyên soái, noi theo Y Doãn thay mình dẹp loạn để cứu muôn dân trong cảnh lầm than.

Cúi xin Thượng đế ban ơn mưa móc, bốn biển thanh bình, gương nhật nguyệt chói lòa bốn biển.

Cúi xin nhận lễ.”

Châu Công Ðáng đọc văn tế xong, rước Tử Nha lên lầu trên.

Mao Công Toại bước ra tay cầm vợt vàng, cờ trắng chúc:

– Từ nay Nguyên soái phải lấy hết mình ra giúp dân, vâng lệnh trời trừ bạo chúa và ban phước cho khắp dân chúng.

Tử Nha quỳ xuống lãnh búa việt cờ mao rồi trao cho tả hữu.

Quan lễ nói:

– Xin Nguyên soái quay mặt về hướng Bắc đặng lãnh ấn.

Tử Nha quỳ xuống xong, tức thì kèn trống trổi lên.

Triệu Công Thích đọc bài văn tế như sau:

“Năm thứ mười ba, tháng ba, Tây Bá Hầu khiến Triệu Công Thích cáo cùng Hoàng thiên, hậu thổ cùng Thần Kỳ.

Hỡi ôi!

Hễ người làm lành thì trời ban phước đức.

Nay Trụ Vương bất cần ông bà, không thèm cúng tế, không biết tu thân.

Khoét mắt chánh cung hoàng hậu, phanh thây quốc trượng tức là phạm tội cang thường, mổ bụng Hoàng thúc đặng chữa bệnh cho Ðắt Kỷ là diều bạo ngược.

Lại xuất kho tiêu xài những chuyện phung phí gây cho binh sĩ, dân chúng nhiều điều phiền toái.

Nay Trụ Vương lỗi đạo với dân, vô nghi với trên trước, nên Cơ Phát vâng lệnh thiên công, Khương Thượng đem hết tài mưu lược để giành lại sự ấm no cho dân chúng.

Vậy cúi xin Thượng đế giúp vận giải nạn cho dân, chỉ dạy đường đi nước bước.

Cúi xin Thượng đế chứng kiến”.

Triệu Công Thích đọc văn tế xong, ba từng đồng đốt sớ một lượt, Tử Nha đứng giữa, liền giống trống dựng cờ.

Tân Giáp bưng mâm sơn đỏ có mão kim khôi, hồng bào.

Kim Giáp dâng ngọc đái lên cho Nguyên soái.

Tử Nha đội mũ, mặc áo, nai nịt đàng hoàng, liền đứng giữa đài đợi dâng kim ấn.

Tân Giáp lại đem lên một cái giám, có móc ba món đồ là ba món báu vật của thiên tử dùng để hiệp với chư hầu:

Thứ nhất lịnh Thiên Tử kỳ.

Thứ nhì lịnh Thiên Tử ấn.

Thứ ba lịnh Thiên Tử kiếm.

Kế đó Tân Giáp cầm ấn, gươm dâng lên cho Tử Nha. Tử Nha cầm gươm ấn đưa lên ngang mày.

Táng Nghi Sanh nhắc Võ Vương bái tướng. Võ Vương làm lễ lạy hai lạy dưới đài.

Có bài thơ rằng:

Ấn vàng vuông vức lớn bằng đồng,

Chinh phạt thần kinh qủy cũng sầu.

Lữ Vọng từ nay làm chủ soái,

Giang san tay Trụ thuôc về Châu.

Võ Vương lạy rồi, Khương nguyên soái lấy cờ lịnh thiên tử trao cho Tân Giáp, truyền đem cờ ấy xuống thỉnh Võ Vương.

Tân Giáp vâng lệnh, cầm cờ xuống đài kêu lớn:

– Tôi vâng lệnh Nguyên soái thỉnh Võ Vương lên đài.

Võ Vương y lịnh.

Nguyên soái truyền Tân Giáp mở gươm và ấn ra, rồi thỉnh Võ Vương ngồi giữa, Tử Nha quỳ lạy tạ ơn, và tâu:

– Trị nước không bắt đầu từ bên ngoài, cầm binh không bắt đầu từ bên trong. Hai lòng thì khó thờ vua, nghi ngại thì khó đánh giặc. Tôi đã lãnh cờ mao búa việt nên phải ráng đền ơn tri ngộ chúa công.

Võ Vương nói:

– Thượng phu nay làm Nguyên soái chinh Ðông, còn ta chỉ đến Mạnh Tân hội chư hầu rồi trở về nước.

Tử Nha tạ ơn, Võ Vương xuống đài. Các tướng đều làm lễ ra mắt.

Tử Nha truyền lệnh rằng:

– Ba hôm nữa các tướng sẽ tựu tại diễn trường để nghe hiệu lệnh, còn hôm nay ta mắc tiếp rước bằng hữu, vì các vị tiên trưởng đến đưa ta.

Võ Vương và các tướng ở lại kim đài, còn Tử Nha đến Lư Bồng họp mặt các vị tiên.

Hai mươi vị tiên trưởng thấy Tử Nha đến, vỗ tay cười lớn:

– Tướng già mà oai nghi thay! Ăn mặc lại càng mạnh.

Tử Nha bái và thưa:

– Nhờ các vị tiên trưởng trợ giúp tôi mới được thế này.

Các vị tiên bàn rằng:

– Chờ giáo chủ đến đây chúng ta sẽ rót rượu tiễn hành mới phải.

Bỗng nghe tiếng hạc vang trời, mọi người biết Nguyên Thỉ thiên tôn giáng hạ, liền xuống khỏi Lư Bồng quỳ lạy nghinh tiếp.

Nguyên Thỉ lên ngồi giữa Lư Bồng, đệ tử đồng làm lễ.

Tử Nha quỳ lạy đợi lời chỉ dạy, Nguyên Thỉ nói:

– Khương Thượng! Công ngươi ở núi bốn mươi năm chứa nhiều âm đức, bây giờ làm thầy một bậc đế vương không phải chuyện nhỏ. Nhờ phước lâu dài, phạt Trụ có công, sau được vinh hoa phú quý, con cháu triền miên toại hưởng. Nay bần đạo tiễn hành ba chén rượu.

Nói rồi truyền Bạch Hạc đồng tử rót một chén trao cho Tử Nha và nói:

– Chén này khuyên ngươi có công phò chúa.

Tử Nha tiếp lấy chén rượu uống cạn.

Nguyên Thỉ truyền rót thêm chén nữa và nói:

– Chén này khuyên ngươi trị nước cho công minh.

Tử Nha cũng lãnh lấy và uống.

Nguyên Thỉ truyền rót chén thứ ba, rồi nói tiếp:

– Chén này khuyên ngươi sớm họp mặt chư hầu.

Thấy Tử Nha đã uống hết ba chén rượu mà chưa đứng dậy, Nguyên Thỉ hỏi:

– Ngươi còn muốn hỏi điều chi?

Tử Nha thưa:

– Nhờ ơn sư phụ dạy dỗ, đệ tử mới dám lãnh ấn chinh Ðông, song chẳng biết đường đi hung kiết lẽ nào, xin sư phụ chỉ dạy.

Nguyên Thỉ nói:

– Ngươi đừng ngại gì cả, hãy nhớ bài kệ này là đủ.

Nói rồi ngâm rằng:

Ải Giới Bài, Tru tiên lập trận,

Xuyên Vân sao khỏi gặp Ôn Hoàng

Giữ gìn Ðạt, Triệt, Quang, Tiên, Ðức,

Qua trận Vân tiêu thân mới an.

Tử Nha nghe xong tạ ơn:

– Ðệ tử không dám quên bài kệ.

Nguyên Thỉ nói:

– Thôi các ngươi ở lại mà đưa đón, ta trở về cung.

Nói rồi đằng vân lên không trung, các đệ tử đồng lạy đưa.

Tiếp đó Nam Cực tiên ông tới, mỗi ông tiên đồng rót ba chén rượu đưa Tử Nha lên đường. Tử Nha vị tình uống hết.

Còn các trò nhỏ thấy Tử Nha hỏi Nguyên Thỉ về số mệnh cũng bắt chước theo, hỏi thầy mình.

Kim Tra lạy Văn Thù thưa:

– Chẳng hay đệ tử đi chinh chiến hung kiết thế nào?

Văn Thù ngâm:

Ðã sẵn có công về tám cõi,

Lo chi không thoát khỏi năm thành.

Na Tra cũng lạy và hỏi Thái Ất:

– Chẳng hay đệ tử đi chinh chiến hung kiết thế nào?

Thái Ất ngâm:

Khi vào ???????? càng thêm phép,

Mới biết liên hoa lại hóa hình.

Mộc Tra cũng lạy thầy và hỏi như vậy, Phổ Hiền ngâm:

Gươm báu Ngô câu là phép mạnh,

Ðường trường quan ải dễ ai ngăn.

Vi Hộ cũng lạy thầy và hỏi như vậy, Ðạo Hạnh ngâm:

Dẫu bao nhiêu bạn tu hành kỹ,

Có một mình ngươi quả vị thành.

Lôi Chấn Tử cũng lạy thầy và hỏi như vậy, Vân Trung Tử ngâm:

Rõ ràng trái hạnh sanh hai cánh,

Bảo hộ nhà Châu đặng tám trăm.

Dương Tiễn cũng lạy thầy và hỏi như vậy. Ngọc Ðảnh chơn nhơn cười và nói:

– Ngươi khác người ta xa lắm.

Tập luyện huyền công ai sánh kịp,

Tung hoành thế giới bực nào hơn?

Lý Tịnh cũng lạy Nhiên Ðăng hỏi về số mạng, Nhiên Ðăng đáp:

– Ngươi lại khác người ta xa lắm.

Nói rồi ngâm rằng:

Thành luôn phần xác về tiên cảnh,

Hẳng những phần hồn đến Ngọc kinh.

Hoàng Thiên Hóa cũng lạy thầy hỏi như vậy. Ðạo Ðức chơn nhơn biết học trò mình chết non, nhưng chẳng nỡ nói, ngồi làm thinh một lúc, thầm nghĩ:

Nếu không nói cũng không tránh khỏi số trời. Liền ngâm rằng:

Tài giỏi thì xông tới,

Phép cao khá chạy ngay

Gà vàng không biết gáy,

Ong nghệ lại ưa bay

Một trận ghi công trọng,

Ngàn năm để tiếng hay

Nếu quen nghề tự phụ,

Ðâu chắc rủi cùng may?

Tuy Ðạo Ðức chơn nhơn căn dặn mặc dù, song Hoàng Thiên Hóa ỷ tài không lấy gì làm sợ.

Thổ Hành Tôn cũng lạy thầy hỏi như vậy. Cù Lưu Tôn biết học trò mình vào được ải, sau bị Trương Khuê giết đi, nên cũng ngâm một bài kệ rằng:

Ðịa hành phép ấy cũng là thông,

Song chớ gây hơn đặng lập công

Bắt được con heo liền cắn cổ,

Trước non thú dữ huyết rơi hồng.

Cù Lưu Tôn ngâm rồi, Thổ Hành Tôn lạy tạ.

Các tiên từ giã về non.

Khi ấy Tử Nha xuống Lư bồng, trở lại tướng đài mời Võ Vương về cung, còn các quan ai về dinh nấy.

Rạng ngày Tử Nha làm sớ vào tạ ơn vua, và tâu:

– Thần nhờ ơn Tiên vương đem về, chưa đền bồi mảy may. Nay cảm ơn đại vương bái tướng, tri ngộ mười phần, dầu thịt nát xương tan, phải đem thân làm trâu ngựa, tôi cũng quyềt không sờn lòng. Vậy xin dâng lá biểu này, xin chúa công thuận theo lòng trời, cho đẹp lòng thiên hạ.

Võ Vương nói:

– Ta đã trao quyền Nguyên soái cho Thượng phụ định đoạt việc binh lẽ nào dám cãi lời?

Nói rồi liền xem sớ. Trong sớ đại khái như sau:

“Ðại Châu năm thứ mười ba, tôi là Nguyên soái Khương Thượng từng nghe đạo thánh, hưng vong là máy tuần hoàn.

Nay Ân Thị chẳng noi Nghiêu, Thuấn vô đạo lỗi nghi, nên Tây Châu phải học theo Thang, Y cứu dân phạt Trụ. Chư hầu gần mở đại hội, chúa công phải thân chinh, làm cho bốn biển thái bình, muôn dân lạc nghiệp”.

Võ Vương xem sớ xong hỏi:

– Thượng phụ định ngày nào xuất binh?

Tử Nha tâu:

– Ðể thần tập binh xong, lựa ngày tốt sẽ tâu lại.

Võ Vương truyền tả hữu dọn yến tiệc đãi đằng.

Hôm sau, Tử Nha đến diễn trường điểm tướng, truyền Tân Giáp đòi Nam Cung Hoát, Võ Kiết, Na Tra, Hoàng Thiên Hóa bốn tướng đồng lên đài.

Khương Tử Nha nói:

– Binh ta sáu mươi vạn, nên phải phong bốn tướng đi tiên phong, chia ra làm tiền, hậu, tả, hữu. Các ngươi ai bắt thăm trúng nhiệm vụ nào thì lãnh ấn thi hành.

Bốn tướng vâng lệnh bốc thăm, Hoàng Thiên Hóa bắt trúng tiền đội tiên phong, Nam Cung Hoát làm tả tiên phong, Võ Kiết làm hữu tiên phong, Na Tra làm hậu đội.

Tử Nha ban ấn tiên phong cho bốn tướng, thưởng mỗi người ba chung rượu.

Bốn tướng tạ ơn.

Tử Nha đòi Dương Tiễn, Thổ Hành Tôn, Trịnh Luân cho ba người này làm chức đốc lương, cũng bắt thăm nhất, nhì, ba cho biết. Dương Tiễn bắt được số một, Thổ Hành Tôn số hai, Trịnh Luân số ba. Tử Nha thưởng mỗi người ba chén rượu.

Kế đó Tử Nha đem sổ bộ ra, kiểm tướng.

Các tướng Tây Kỳ hiện có như sau:

Hoàng Phi Hổ, Hoàng Phi Bưu, Hoàng Phi Báo, Hoàng Minh, Châu Kỷ, Long Hoàn, Ngô Khiêm, Hoàng Thiên Tước, Hoàng Thiên Lộc, Hoàng Thiên ường, Tân Miễn, Thái Ðiền, Hoàng Yên, Kỳ Công, Doãn Công.

Ngoài các tướng ấy còn có Tứ Hiền và Bát Tuấn.

Tứ hiền là Châu Công Tráng, Triệu Công Thích, Mao Công Toại, Tất Công Cao.

Bát tuấn là:

Bát Ðạt, Trọng Hối, Quý Tòa, Bá Hoát, Thục Dạ, Quý Hoa.

Bát tuấn gồm có tám người, nhưng đã mất hết hai nay chỉ còn sáu.

Còn các vị điện hạ con Văn Vương là:

Cơ Thúc Khiên, Cơ Thúc Khôn, Cơ Thúc Khương, Cơ Thúc Chánh, Cơ Thúc Khải, Cơ Thúc Ðảng, Cơ Thúc Nguyên, Cơ Thúc Trung, Cơ Thúc Liêm, Cơ Thúc Ðức, Cơ Thúc Mỹ, Cơ Thúc Kỳ, Cơ Thúc Thuận, Cơ Thúc Bình, Cơ Thúc Quảng, Cơ Thúc Trí, Cơ Thúc Dõng, Cơ Thúc Kỉnh, Cơ Thúc Sùng, Cơ Thúc An.

Cộng là hai mươi người có võ nghệ. Nguyên Văn Vương có chín mươi chín người con, tính thêm Lôi Chấn Tử là một trăm chẵn. Tuy vậy, chỉ có ba mươi sáu người, nay chỉ còn hai mươi vị.

Còn các tướng hàng đầu là:

Ðặng Cửu Công, Thái Loan, Ðặng Tú, Trịnh Thăng, Tô Diệm Hồng, Triều Ðiền, Triều Lôi, Hồng Cẩm, Quý Khương, Tô Hộ, Tô Toàn Trung, Triệu Bính, Tôn Tử Võ.

Có hai nữ tướng là Long Kiết công chúa, Ðặng Thiền Ngọc.

Tử Nha gọi tên các tướng đủ mặt rồi đòi Hoàng Phi Hổ, Ðặng Cửu Công, Hồng Cẩm lên đài, nói:

– Khí số Trụ Vương tuy đã kiệt, song tướng năm ải có tài, ta chẳng nên khinh địch, phải tập luyện binh cơ đồ trận cho tinh thông.

Nói rồi truyền Tân Giáp đem binh thư lên đài, truyền bá tướng theo cách thức tập luyện các trận sau:

1. Nhứt tự trường xà trận.

2. Nhị long xuất thủy trận.

3. Tam sơn nguyệt nhi trận.

4. Tứ môn đẩu để trận.

5. Ngũ hổ ba sơn trận.

6. Lục giáp mê hồn trận.

7. Thất túng thất cầm trận.

8. Bát quái âm dương tử mẫu trận.

9. Cửu công bác môn trận.

10. Thập đại minh vương trận.

Và hai trận bí hiểm là:

11. Thiên địa nhơn tam tài trận.

12. Bao la vạn tượng trận.

Tử Nha lại nói tiếp:

– Trong mười hai trận có sáu thao ta đã giảng nghĩa rõ ràng, ba vị tướng quân cứ theo đó tập quân tiến thối. Bắt đầu từ trận thứ nhứt đến trận thứ mười hai.

Ba tướng vâng lệnh xuống đài, truyền quân lập trận, từ trận trường xà đến trận Ngũ hổ hàng ngũ rất chỉnh tề, qua đến trận Lục giáp mê hồn trận binh ngũ lộn xộn.

Tử Nha đòi ba tướng lên đài dạy:

– Việc chinh Ðông không phải dễ, nếu hàng ngũ không chỉnh tề thì không thể nào thắng giặc nổi. Các tướng phải tập luận cho tinh mới được.

Ba tướng tuân lệnh xuống đài ngày đêm cố công luyện tập.

Còn Khương Tử Nha trở về trướng phủ.

Hồi 68: Núi Thú Dương nghĩa sĩ cầm cương

Vài hôm sau, Khương Thượng vào chầu, tâu với Võ Vương:

– Binh tướng đã kiểm điểm xong, xin Ðại vương ngự giá thân chinh!

Võ Vương hỏi:

– Thượng phụ định bao giờ xuất chinh và việc nước giao cho ai coi sóc?

Tử Nha tâu:

– Tôi nhắm Táng Nghi Sanh là người đủ mưu trí, có thể đảm đương việc ấy.

Võ Vương hỏi:

– Còn việc binh bị trong nước thì giao cho ai?

Tử Nha tâu:

– Hoàng Cổn là tướng từng trải việc, có thể tin cậy được.

Võ Vương nói:

– Thượng phụ chọn rất đúng. Thế thì ta an lòng.

Kế đó Võ Vương vào cung tâu với Thái Tỷ rằng:

– Nay Tử Nha hội chư hầu tại Mạnh Tân để phạt Trụ, con phải thân chinh đến đó cho đủ mặt, chừng nào xong việc, con xin trở về gấp không dám trễ nãi, và không dám trái lời di chúc của phụ vương.

Thái Tỷ dạy rằng:

– Thượng phụ đã được tiên vương ủy thác, mỗi con phải nghe theo lời thượng phụ mới được, vì thượng phụ là người mưu trí, lại từng trải.

Nói rồi dọn tiệc tiễn hành.

Rạng ngày Võ Vương và Khương Thượng kéo sáu mươi muôn binh thẳng đến trường đình thấy các vị đệ ngự đã sẳn sàng dọn tiệc đưa đón. Anh em chúa tôi ăn uống xong giã biệt lên đường, quan quân tiền hô hậu ủng, tướng sĩ hăng say dưới cờ phạt Trụ. Lúc đó vào ngày hai mươi bốn năm thứ ba mươi của vua Trụ.

Ðoàn quân qua khỏi núi Yên Sơn, đến núi Thú Dương bỗng gặp Bá Di, Thúc Tề chặn đường, không cho binh mã đi tới. Quân sĩ thấy hai người không khí giới, đứng cản đường không hiểu việc chi, mặt ngơ ngác.

Bá Di và Thúc Tề nói:

– Bây hãy báo với chúa công, hai ta là Bá Di và Thúc Tề xin ra mắt!

Võ Vương và Tử Nha nghe báo đồng đến trước xem, và hỏi:

– Hai vị đón đường nói chuyện chi?

Bá Di và Thúc Tề hỏi:

– Hiền hầu cùng ông Tử Nha kéo binh đi đâu vậy?

Tử Nha thay lời Võ Vương đáp:

– Vua Trụ vô đạo, chẳng sợ oai trời, làm hại muôn dân, giết tôi trung đãi kẻ nịnh, không kể đến giềng mối Thành Thang, coi chư hầu như cừu địch. Chúa công nay hội chư hầu nơi Mạnh Tân, đồng kéo đến Triều Ca vấn tội.

Bá Di và Thúc Tề đồng nói:

– Chúng tôi có nghe nói đạo làm người thì con không hài tội cha, tôi không kể lỗi của chúa, Hễ chúa sai thì tôi gián, cha không phải thì con can, thà chứa đức cho cảm động lòng vua chứ nên lấy oai làm tội vua. Xưa Văn Vương vì một lòng thờ chúa nức tiếng nhân đạo, không có lòng tham quyền quý nên thiên hạ mới theo về, nay Võ Vương đem quân phạt Trụ, tỏ cho thiên hạ thấy mình thiếu đức, muốn chiếm đoạt cơ nghiệp Thành Thang, bao nhiêu tình cảm của thiên hạ đối với nước Châu ta trước kia sẽ vì thế mà mất hết. Hễ có nhân thì dân phục, thất đức thì dân chẳng ưa. Xin chúa công nghe lời chúng tôi kéo binh trở về, kẻo sau này mang tiếng với thiên hạ.

Võ Vương dừng ngựa làm thinh, Tử Nha nói:

– Hai ông nói cũng phải, song ý kiến hai ông chưa được cầu xa. Sở dĩ thiên hạ phục Châu là vì thấy chúa công ta nhân đức, có thể đem lại cho họ một đời sống thịnh vượng, ấm no. Nếu chúa công không đem đức độ mình trừ kẻ bạo loạn, cứu dân độ thế thì chẳng há ra chúa công ta đã phụ công thiên tử hay sao? Thiên hạ đang ra trong nước lửa, cố cầu cạnh người hiền đứng ra giúp vớt mà mình cứ tị hiềm bo bo giữ chút lòng trung nhỏ hẹp, thì sao gọi là nhân đạo.

Tử Nha vừa nói vừa kéo Võ Vương đi.

Bá Di và Thúc Tề thấy vậy vội nắm cương ngựa của Võ Vương níu lại và nói:

– Con cãi cha là bất hiếu, tôi đánh chúa là bất trung. Tôi e đời sau làm nhơ tiếng hiền đức của chúa công, nên nhất định can ngăn, không cho chúa công làm chuyện ấy.

Tả hữu nổi giận muốn đâm chết hai người ấy, Tử Nha không cho và nói:

– Hai người này chính là nghĩa sĩ trên đời này phải trọng họ.

Nói rồi truyền quân gỡ tay Bá Di và Thúc Tề ra cho Võ Vương qua.

Khi Tử Nha kéo quân đến Kim Kê lãnh, quân thám thính thấy một đạo quân xông ra đón đường đàng trước có hai cây cờ đỏ, liền báo với Tử Nha:

– Trước mặt có một đạo binh ngăn đón.

Tử Nha truyền quân đóng trại và tìm kế đối phó. Nhưng chưa bao lâu đã có tin:

– Tướng giặc dẫn binh đến khiêu chiến.

Tử Nha không rõ đạo binh nào liền hỏi các tướng:

– Có ai dám ra binh để biết tướng giặc ấy là ai không?

Tả tiên phong Nam Cung Hoát xin đi.

Tử Nha nhận lời và dặn:

– Trận đầu phải giữ gìn cho chu đáo kẻo nhẹ uy quân ta.

Nam Cung Hoát vâng lệnh kéo quân đi, vừa ra trước dinh thấy một tướng uy vũ phi thường, liền hỏi lớn:

– Ngươi là ai mà dám kéo binh đến đón đường quân ta?

Người kia đáp:

– Ta là Ngụy Bôn. Còn ngươi là tướng gì và cử binh đi đâu đó?

Nam Cung Hoát nói:

– Ta là tiên phong của Khương Nguyên soái đem binh phạt Trụ cứu dân. Ngươi tài cán gì mà dám đón đườn nhân mã?

Nói rồi chém một đao.

Ngụ Bôn đưa thương ra đỡ.

Hai tướng đánh được ba mươi hiệp.

Nam Cung Hoát toát mồ hôi tay chân bủn rủn, nghĩ thầm:

– Binh hùng vừa kéo ra đã gặp tướng dữ đón đường. Nếu nhịn thua bỏ chạy, thì phạm quân luật, bằng đánh nữa chắc phải chết.

Trong lúc đang lúng túng, Nam Cung Hoát bị Ngụ Bôn chém một đao, Nam Cung Hoát đỡ không nổi rơi thương xuống đất.

Ngụy Bôn nắm Nam Cung Hoát vật xuống ngựa và nói:

– Ta không cần giết ngươi, hãy về kêu Tử Nha ra đây nói chuyện.

Nam Cung Hoát ôm đầu chạy về dinh chịu tội, thuật lại mọi điều.

Tử Nha nổi giận hét lớn:

– Ngươi dẩn đầu sáu mươi muôn binh, mới ra trận đầu đã bị bắt còn gì uy vũ của chúa công. Sao không tự sát còn về ra mắt ta làm gì?

Nói rồi truyền quân đem Nam Cung Hoát ra ngoài xử trảm.

Quân sĩ tuân lệnh dẫn Nam Cung Hoát ra trước cửa dinh toan chém.

Bỗng Ngụy Bôn lướt ngựa tới kêu lớn:

– Ðừng chém tiên phong. Hãy mời Khương Nguyên soái ra đây đặng ta bàn luận.

Quân vào báo, Tử Nha nổi giận mắng thầm:

– Quân thất phu! Ðã không chém tướng ta, cũng lại cản ngăn không cho ta chém tướng. Thật lạ lùng.

Nói rồi dẫn các tướng ra trận. Ngụy Bôn xem thấy Tử Nha cỡi Tứ Bất Tướng, áo mão chỉnh tề liền hỏi lớn:

– Tướng kia có phải là Khương Tử Nha không?

Tử Nha đáp:

– Ngươi là ai đó? Mời ta ra có việc gì?

Ngụy Bôn liền xuống ngựa, quỳ dưới đất thưa:

– Tôi nghe Nguyên soái hưng binh phạt Trụ cứu dân muốn theo phò dưới trướng, song chưa thấy mặt nên chưa biết uy đức thế nào. Nay xem hàng ngũ nghiêm trang, đáng mặt làm đầu muôn tướng. Tôi xin hết sức theo phò, đánh một người vô đạo cứu trăm họ lầm than.

Tử Nha nghe nói mừng rỡ liền thâu binh vào trại.

Ngụy Bôn theo vào, quỳ trước trướng thưa:

– Lâu nay tôi chiêu dụ một số binh mã, rèn tập đao thương chờ lúc cứu dân nhưng chưa gặp chúa. Bây giờ được Nguyên soái thu dùng theo chúa thánh, tôi rất phỉ nguyền. Còn Nam Cung Hoát rủi ro thất trận, xin Nguyên soái rộng lượng khoan dung, để không mang tiếng mới ra binh đã giết tướng.

Tử Nha nói:

– Tuy Nam Cung Hoát ra binh thất trận mà được Ngụy tướng quân, ấy là điềm tiền hung hậu kiết.

Nói rồi truyền tha Nam Cung Hoát.

Nam Cung Hoát vào lạy tạ ơn, Tử Nha nói:

– Ngươi là tướng tiên phong, mới ra trận đầu đã bại, xử trảm rất đúng, song có Ngụy Bôn đầu Châu, lại xin lỗi cho ngươi, ngươi mới khỏi chết. Như vậy ngươi phải giao ấn soái cho Ngụy Bôn để theo hầu sai khiến. Chừng nào đoái công chuộc tội sẽ hay.

Nam Cung Hoát vâng lịnh, giao ấn tả tiên phong cho Ngụy Bôn.

Tử Nha truyền lịnh tiến binh.

Nhắc lại từ khi Hồng Cẩm đầu Châu, quân về báo lại với Hàng Vinh nơi ải Tị Thủy, Hàng Vinh vội tiếp sớ sai người đem về Triều Ca khẩn tấu.

Vi Tử đưa sớ vào trình với Trụ Vương.

Trụ Vương xem thấy thất kinh, liền lâm triều hội bá quan thương nghị.

Bá quan chầu chực đủ mặt, Trụ Vương phán:

– Nay Cơ Phát làm phản, càng ngày càng bất tuân chính lệnh, lại có ý muốn xâm lấn bờ cõi, các khanh biết mưu gì hay trừ Tây Kỳ, thì Trẫm sẽ gia ân không nhỏ.

Quan Ðại phu Phi Liêm quỳ tâu:

– Khương Thượng là người có phép tiên, lại được các đệ tử tiên gia giúp sức. Tướng thường không thể ngăn nổi. Xin bệ hạ xuống chiếu sai Khổng Tuyên, hiện trấn tại ải Tam Sơn cử binh đi chinh phạt Tây Kỳ. Người này biết độn thổ hành, lại có học phép tiên chắc trừ được Khương Thượng.

Vua Trụ nghe nói liền viết chiếu sai sứ giả đem đến ải Tam Sơn ngay lập tức.

Sứ thần đem chiếu đến ải Tam Sơn, Khổng Tuyên đặt bàn hương án, và quỳ nghe đọc chiếu như sau:

“Thiên Tử cầm quyền chinh phạt. Nguyên Nhung có trách nhiệm trông thành. Nay Khương Thượng hoành hành, phò vương phản nghịch. Tướng trào không ai cự lại, quân giặc mỗi lúc một thêm uy. Nghe khanh là người có phép tài lại thấm nhuần mưu lược, nên Trẫm ban gươm ấn, khanh khá trổ tài ra sức dẹp Tây Kỳ, nếu đặng ban sư, Trẫm sẽ phong vương cho. Nay chiếu”.

Khổng Tuyên tạ ơn mở tiệc đãi đằng thiên sứ, kiểm điểm binh mã mười vạn kéo qua Tây Châu.

Khi đến ải Tị Thủy, Hàng Vinh ra rước vào mở tiệc khoản đãi và nói:

– Nguyên soái đến đây trễ lắm rồi!

Khổng Tuyên hỏi:

– Cớ nào mà tướng quân gọi là trễ.

Hàng Vinh nói:

– Võ Vương có ý vượt qua năm ải, xâm phạm Triều Ca, nên đã đăng đàn bái tướng, phong Tử Nha làm Nguyên soái, điều khiển quân viễn chinh. Hiện nay, Tử Nha đã kéo đại binh qua khỏi Tây Kỳ không bao lâu cũng đến ải Tị Thủy này.

Khổng Tuyên nói:

– Ta nhắm Khương Thượng cũng chẳng tài năng gì mấy. Ðể ta bắt hết chúa tôi Cơ Phát giải về triều ca, kẻo lâu nay nó đã nhiều phen làm nhục Thiên triều.

Nói rồi truyền mở cửa ải, kéo binh thẳng đến Tây Kỳ, nhưng mới đi được hai bữa, đến Kim Kê lãnh thì có quân thám mã về báo:

– Ðại binh Tây Kỳ đang kéo tới, cách đây hai dặm.

Khổng Tuyên truyền đóng trại đón đường.

Hồi 69: Khổng Tuyên ra tài bắt tướng

Bấy giờ Tử Nha đang kéo quân đi, bỗng nghe quân thám mã về báo:

– Có một đạo binh Thương kéo đến đón tại Kim Kê lãnh.

Tử Nha truyền quân hạ trại, và ngẫm nghĩ:

– Ba mươi sáu đạo binh đã đủ rồi sao còn có kẻ chặn đường? Hay còn thiếu số nên đạo binh này bổ khuyết chăng?

Bỗng có quân vào báo:

– Tướng Thương đến trước dinh khiêu chiến.

Tử Nha hỏi các tướng:

– Ai dám ra binh?

Hoàng Thiên Hóa xin ra trận, Tử Nha dặn:

– Phải đề phòng chớ nên khinh địch.

Hoàng Thiên Hóa tuân lệnh, cỡi kỳ lân cầm song chùy xông ra thấy tướng Thương đang chống kích đứng chờ, Hoàng Thiên Hóa hét lớn:

– Nghịch tặc! Ngươi là ai mà dám ngăn cản binh trời?

Tướng Thương nói:

– Ta là Trần Canh bộ tướng của Khổng Nguyên soái, vâng lệnh thiên tử đến đây trừ loài phản tặc. Còn ngươi tên họ là gì mà dám khoe khoang như vậy?

Hoàng Thiên Hóa nói:

– Ta là tiên phong của Khương Nguyên soái tên Hoàng Thiên Hóa. Nếu ngươi đã nghe tên thì cũng nên xuống ngựa để quân sĩ ta bắt trói cho rồi khỏi nhọc công ta ra sức.

Trần Canh nổi giận đâm Hoàng Thiên Hóa một kích, Hoàng Thiên Hóa đỡ ra rồi rước đánh, đánh được ba mươi hiệp, Hoàng Thiên Hóa trá bại chạy dài, Trần Canh đuổi theo bị Hoàng Thiên Hóa lấy Hỏa Long Phiêu vụt một cái, trúng nhằm vai bất tỉnh, rơi xuống ngựa.

Hoàng Thiên Hóa cắt lấy thủ cấp đem về dinh.

Tử Nha thấy Hoàng Thiên Hóa trở về ra mắt liền hỏi:

– Ngươi ra trận thắng bại ra sao?

Hoàng Thiên Hóa thưa:

– Nhờ uy nguyên soái, tôi đã lấy được thủ cấp tướng tiên phong của địch là Trần Canh đem về trước dinh.

Tử Nha mừng rỡ liền lấy bút ghi Hoàng Thiên Hóa công đầu. Nhưng vừa rút nắp viết ra thì ngòi viết rơi xuống lòng thòng, Tử Nha cắm chặt ngòi bút vào mới ghi công được.

Ðó là điềm Hoàng Thiên Hóa bị chết non, chỉ lập công được trận này mà thôi.

Binh Thương thua trận, về báo lại với Khổng Tuyên:

– Tiên phong thất cơ bị Hoàng Thiên Hóa chém đầu bêu ngoài cửa.

Khổng Tuyên cười cay đắng, nói:

– Ðứa thất phu, bất tài thì chết cũng đáng.

Hôm sau, Khổng Tuyên lại sai Tôn Hiệp ra trận.

Quân vào báo, Tử Nha chưa định sai ai đi thì Võ Kiết bước đến thưa:

– Ðệ tử xin ra trận.

Nói rồi cầm thương lên ngựa phát pháo dẫn binh ra thành, thấy Tôn Hiệp mặc áo đỏ, cầm siêu đao, cỡi ngựa đạm liền hét lớn:

– Tướng nào đó?

Tôn Hiệp nói:

– Ta là bộ hạ của Khổng Nguyên soái. Còn ngươi có phải là kẻ giết tướng tiên phong của ta không?

Võ Kiết nói:

– Ta là hữu tiên phong của Nguyên soái, tên là Võ Kiết.

Tôn Hiệp cười lớn:

– A, té ra Tử Nha là ông câu còn ngươi là lão tiều thuở xưa. Hai thầy trò đứng chung một bức họa đồ thì xứng lắm.

Võ Kiết nổi giận mắng:

– Ngươi là đứa thất phu sao dám giỡn cợt.

Nói rồi đâm Tôn Hiệp một thương, Tôn Hiệp đưa đao ra đỡ.

Hai người đánh nhau được ba mươi hiệp chưa phân thắng bại.

Võ Kiết giả thua bỏ chạy, Tôn Hiệp khinh Võ Kiết là gã tiều phu đốn củi ở bàn khê nên đuổi theo. Chẳng ngờ Võ Kiết trước kia nhờ Tử Nha rèn luyện võ nghệ tinh thông, thấy Tôn Hiệp đuổi theo liền đâm trái một thương.

Tôn Hiệp bất ngờ đỡ không nổi, nhào xuống ngựa chết tươi.

Võ Kiết cắt lấy thủ cấp mang về. Tử Nha khen ngợi vô cùng.

Na Tra thấy Hoàng Thiên Hóa và Võ Kiết đều được ghi công đầu nên sớm lòng muốn sớm được lập công.

Bấy giờ binh Thương về báo với Khổng Tuyên:

– Tôn tướng quân sa cơ, bị Võ Kiết đâm chết ngoài trận.

Khổng Tuyên nổi giận thét:

– Ta vâng lệnh chinh Tây, không ngờ bị đánh hai trận mà thiệt mất hai tướng.

Liền quay lại hỏi thủ hạ:

– Có ai muốn ra trận lập công chăng?

Tướng hậu tập là Cao Kế Năng xin ra đánh.

Khổng Tuyên dặn:

– Ngươi phải đề phòng chẳng nên khinh địch.

Cao Kế Năng tuân lệnh cầm thương lên ngựa đến dinh Châu đứng trước cửa khiêu chiến.

Quân vào báo lại, Na Tra xin đi, liền lên xe, lướt ra cửa trại kêu Cao Kế Năng mắng lớn:

– Thất phu! Không sợ chết hay sao mà còn dám đem đầu nạp mạng.

Cao Kế Năng nói:

– Na Tra ngươi đừng có ỷ tài, có ta đến đây thì mạng ngươi khó giữ.

Na Tra nói:

– Ngươi đã biết tên ta sao còn chưa xuống ngựa?

Cao Kế Năng cười ngất, nói:

– Ta nghe đồn ngươi tài cao phép giỏi nhưng gặp ta thì danh tiếng ấy không còn.

Na Tra nổi giận vung giáo đánh nhàu.

Cao Kế Năng sợ Na Tra dùng phép trước, liền trá bại bỏ chạy, có ý nhử Na Tra vào kế. Chẳng ngờ Na Tra lẹ tay, quăng Càn Khôn Quyện lên đánh trúng bả vai.

Cao Kế Năng thất kinh chạy thẳng về trại.

Na Tra tức giận vì không giết được địch, buồn bã trở về thuật chuyện với Tử Nha.

Còn Cao Kế Năng ôm vai chạy về soái phủ, thưa lại với Khổng Tuyên.

Khổng Tuyên ngồi làm thinh đưa cho Cao Kế Năng vài viên thuốc bảo Cao Kế Năng xức vào vết thương cho lành.

Rạng ngày, Khổng Tuyên dẫn quân ra trận khiêu chiến:

– Các ngươi vào bảo với Tử Nha, bảo nó ra đây cho ta dạy việc.

Quân vào báo, Tử Nha nai nịt chỉnh tề, dẫn binh tướng ra trận, thấy sau lưng Khổng Tuyên chiếu hào quang ngũ sắc.

Khổng Tuyên hỏi:

– Ngươi phải Khương Tử Nha không?

Tử Nha đáp:

– Phải!

Khổng Tuyên hỏi:

– Trước kia ngươi là tôi nhà Thương, sao nay trở lòng làm phản, đã không giữ bổn phận lại còn cất quân muốn lấy ngũ quan? Nay ta vâng lệnh đến đây, nếu ngươi nghe lời ta kéo quân trở về thì yên nhà lợi nước, bằng trái lời thì ắt Tây Kỳ bị hại, ăn năn không kịp.

Tử Nha nói:

– Ai có đức thì được thiên hạ. Trụ Vương vô đạo dân chúng khổ sở, trời giận đất hờn, tám trăm chư hầu đồng ý hưng binh vấn tội, tướng quân là kẻ cầm binh phải thông việc nưóc, sao không quy thuận cho sớm?

Khổng Tuyên nói:

– Ngươi phò nước nhỏ đánh nước lớn, đó là tội nghịch thiên, đừng dùng lời xảo quyệt mà phỉnh phờ thiên hạ.

Nói rồi chém một đao.

Hồng Cẩm lướt tới đỡ thương và nói:

– Có ta đây Khổng Tuyên đừng vô lễ.

Khổng Tuyên thấy mặt Hồng Cẩm thì nổi giận mắng lớn:

– Phản tặc dám cự với ta sao?

Hồng Cẩm nói:

– Tám trăm chư hầu đều theo Châu, dẫu một mình ngươi có đem lòng trung nghĩa vùi xương trải mật thì cũng chẳng ích chi.

Khổng Tuyên chém Hồng Cẩm một đao, Hồng Cẩm cự lại được năm hiệp liền thò tay vào túi lấy cờ phép ra rung. Khổng Tuyên cười lớn nói:

– Phép đó của ngươi chẳng khác hạt thóc, tài phép bao nhiêu mà khoe.

Nói rồi chiếu đạo hào quang ra, tức thì Hồng Cẩm và cờ lịnh đâu mất.

Các tướng đột nhiên thấy mất Hồng Cẩm ai nấy đều ngơ ngác.

Khổng Tuyên thừa thắng lướt tới vung đao chém Tử Nha. Tử Nha đưa gươm ra đỡ.

Ðặng Cửu Công xông vào trợ chiến.

Ba người quần nhau đánh ba mươi hiệp Tử Nha quăng roi Ðả Thần Tiên lên, không ngờ vừa quăng lên thì đã bị năm đạo hào quang của Khổng Tuyên thâu mất.

Tử Nha kinh hãi vội thâu binh về trại.

Tử Nha về đến trướng phủ trong lòng buồn bực nghĩ thầm:

– Chẳng biết Khổng Tuyên là người như thế nào mà có năm đạo hào quang lợi hại đến thế. Nay Hồng Cẩm bị nó thâu mất không biết hung kiết thế nào. Ta chỉ có cách tối nay thừa lúc nó ơ hờ cướp trại e mới thắng nổi.

Nghĩ rồi liền truyền gọi Na Tra, Hoàng Thiên Hóa, Lôi Chấn Tử vào dặn:

– Tối nay ba ngươi đến cướp trại địch, Na Tra đánh vào ngõ trước, Hoàng Thiên Hóa cướp dinh bên tả, Lôi Chấn Tử lướt đánh thốc ở dinh bên hữu.

Ba tướng vâng lệnh đem binh kéo đi.

Nói về Khổng Tuyên sau khi thắng trận trở về dinh chiếu hào quang sáng lòa, Hồng Cẩm té xuống đất nằm ngay như chết. Roi Ðả Thần Tiên cũng rớt nằm bên Hồng Cẩm.

Khổng Tuyên bước tới lấy roi cất vào túi rồi truyền quân đem Hồng Cẩm giam vào tù xa.

Bỗng một trận gió từ đâu thổi đến làm cuốn ngọn cờ lại.

Khổng Tuyên giật mình đánh tay xem quẻ biết được tối nay binh Châu đến cướp trại nên sai Cao Kế Năng mai phục bên tả, Châu Tín mai phục bên hữu rồi nói với các tướng:

– Ðêm nay binh Châu đến cướp trại nhưng không có Tử Nha thật là uổng!

Qua canh hai bỗng pháo nổ vang trời, ba tướng xông vào, Na Tra đánh thốc vào cửa dinh thì thấy Khổng Tuyên ngồi trước cửa cười lớn nói:

– Na Tra! Ðêm nay ngươi đến cướp dinh chắc phải bỏ mạng tại đây quá.

Dứt lời Khổng Tuyên lên ngựa xông ra. Na Tra chưa biết Khổng Tuyên lợi hại thế nào nên mắng:

– Ðêm nay ta quyết bắt ngươi về dâng cho Nguyên soái, ngươi đừng hòng chạy thoát.

Nói rồi giục xe đến quyết chiến.

Lúc này Lôi Chấn Tử cũng vỗ cánh bay vào thì gặp Châu Tín liền xà xuống lấy gậy đập vào đầu châu Tín.

Châu Tín thấy thế không tránh né kịp bị một gậy nhào xuống ngựa đầu lìa khỏi xác.

Lôi Chấn Tử thừa thắng xông vào trợ chiến với Na Tra.

Khổng Tuyên trông thấy nhắm chừng không cự lại nên chiếu hào quang bắt Lôi Chấn Tử, Na Tra trông thấy thất kinh bỏ chạy. Nhưng không còn kịp nữa bị hào quang chiếu vào người bắt đi.

Lúc này Hoàng Thiên Hóa không hay biết gì cả cứ giao đấu với Cao Kế Năng.

Hoàng Thiên Hóa có cặp song chùy khá nặng, nên khi đánh tới Cao Kế Năng vung giáo ra đỡ, hai vũ khí chạm vào nhau té hào quang.

Cao Kế Năng thất kinh bỏ chạy, Hoàng Thiên Hóa thừa thắng vung chùy đánh bồi thêm một chùy nữa không ngờ Cao Kế Năng chạy kịp khiến chùy đập vào đầu kỳ lân bể nát ngã ra chết, Hoàng Thiên Hóa nhào xuống bị Cao Kế Năng xông đến đâm chết.

Khổng Tuyên thừa thắng xua quân giết quân Châu vô số kể, không còn một mạng. Rồi chiếu hào quang xuống Na Tra, Lôi Chấn Tử rơi xuống nằm mê man.

Khổng Tuyên truyền quân sĩ đem Na Tra, Lôi Chấn Tử giam vào tù xa cùng Hồng Cẩm.

Ðêm ấy Tử Nha không sao nhắm mắt được, nằm nghe trên núi binh tướng la hét inh trời.

Rạng ngày thì có quân vào báo:

– Trước cửa dinh Thương có treo đầu Hoàng Thiên Hóa, còn Lôi Chấn Tử, Na Tra mất tích không thấy đâu cả.

Tử Nha thất kinh ngồi cúi mặt làm thinh.

Còn Hoàng Phi Hổ nghe tin khóc lớn:

– Ta chưa lấy được một tấc đất nhà Thương mà Hoàng Thiên Hóa đã bỏ mạng.

Tất cả gia quyến Hoàng Phi Hổ khi nghe hung tin ai nấy đều khóc thảm thiết.

Nam Cung Hoát thấy vậy khuyên:

– Xin Hoàng tướng quân đừng quá bi lụy, Hoàng Thiên Hóa chết như thế danh tiếng vang khắp đó đây. Hoàng tướng quân phải bình tĩnh báo thù chứ khóc mà có ích gì. Hiện giờ Hoàng tướng quân nên đi mời Sùng Hắc Hổ đến thì ắt bắt được nó.

Hoàng Phi Hổ nghe nói nín khóc, liền bước đến xin phép Tử Nha đến thỉnh Sùng Hắc Hổ.

Tử Nha thấy Hoàng Phi Hổ quá nóng lòng vì con nên vị tình thông cảm.

Hoàng Phi Hổ lên lưng thần ngưu nhắm hướng Sùng thành đi thẳng.

Ði được nửa đường thì đến núi Phi Phụng xảy gặp ba người đang quây quần đánh nhau cát bụi mù trời. Nhưng cả ba người đánh nhau cả trăm hiệp bất phân thắng bại. Ðánh một lúc không ai thắng ai họ nhìn nhau cười ngất.

Hoàng Phi Hổ thấy lạ nên nghĩ thầm:

– Vì cớ gì lại có chuyện lạ thế này? Ta hãy làm bạn hỏi nguyên cớ xem sao.

Nghĩ rồi Hoàng Phi Hổ cho thần ngưu đi tới. Tức thì người cầm chĩa quay lại, thấy Hoàng Phi Hổ dung mạo khác thường, lại mặc triều phục, nên kêu hai người kia nói:

– Hai em hãy dừng tay, khoan tranh cao thấp.

Nói rồi bước tới bái Hoàng Phi Hổ và nói:

– Có phải ngài là Võ Thành Vương chăng?

Hoàng Phi Hổ đáp lễ hỏi lại:

– Vì cớ gì mà các người biết tên tôi?

Hoàng Phi Hổ nói chưa dứt lời thì cả ba người kia vội xuống ngựa và nói:

– Chúng tôi nghe thiên hạ đồn ngài, nên hồ nghi vậy thôi, chẳng ngờ lại thật. Vậy xin mời đại vương ghé vào dinh trại chúng tôi đàm đạo cho vui.

Hoàng Phi Hổ bước xuống lưng thần ngưu theo ba người vào trại, và hỏi:

– Vì cớ gì mà ba ông đánh với nhau quá lâu như vậy?

Ba người thưa:

– Ba anh em chúng tôi ở đây buồn quá không có chuyện gì làm nên đấu võ với nhau giải sầu. Chẳng ngờ đại vương qua đây chúng tôi cam thất lễ.

Hoàng Phi Hổ nói:

– Chẳng hay danh tánh ba người là chi?

Một nguời thưa:

– Tôi là Văn Sinh. Người này là Thôi Sinh. Còn người này là Trương Hùng.

Về sau ba người này hợp với Hoàng Phi Hổ và Sùng Hắc Hổ thành năm vị thần gọi là thần Ngũ nhạc.

Văn Sinh truyền dọn tiệc thiết đãi và hỏi thăm:

– Chẳng hay đại vương đi đâu đây.

Hoàng Phi Hổ nói:

– Ta vâng lệnh Khương Nguyên soái đến cầu Sùng Hắc Hổ giúp binh phạt Khổng Tuyên tại núi Kim Kê.

Văn Sinh nói:

– Tôi e Sùng Hắc Hổ không đi được.

Hoàng Phi Hổ hỏi:

– Vì sao tướng quân biết trước?

Văn Sinh nói:

– Sùng Hắc Hổ đang luyện binh tướng, lo lấy ải Trần Ðường để kịp hội chư hầu tại Mạnh Tân, nếu đi giúp thì sẽ trễ việc.

Hoàng Phi Hổ nói:

– Nếu không nhờ các ông cho biết, tôi đến đó uổng công.

Thôi Sinh nói:

– Tuy vậy song Sùng Hắc Hổ muốn vào Mạnh Tân cũng phải đợi Võ Vương. Nếu Võ Vương chưa đến thì Sùng Hắc Hổ đến trước cũng chẳng ích lợi gì. Vậy thì đại vương nghỉ đỡ nơi đây một đêm, sáng mai anh em tôi cùng đi với, may ra Sùng Hắc Hổ bằng lòng trợ chiến.

Hoàng Phi Hổ bằng lòng lưu lại trại Văn Sinh một đêm.

Rạng ngày bốn người đồng lên yên đến trước thành.

Quân trên thành trông thấy kiền vào báo với Sùng Hắc Hổ:

– Có ba vị tướng ở núi Phi Phụng đến thăm.

Sùng Hắc Hổ vội truyền mời vào. Ba tướng bước đến ra mắt.

Thôi Anh nói:

– Có Võ Thành Vương chờ ngoài ngõ.

Sùng Hắc Hổ vội vàng ra rước vào, mời ngồi nơi trướng phủ, và nói:

– Tôi không hay Ðại vương đến đây, nên không kịp đón tiếp, xin đại vương rộng lượng.

Hoàng Phi Hổ nói:

– Tôi được gặp mặt hiền hầu thật may mắn biết chừng nào.

Sùng Hắc Hổ truyền quân dọn tiệc thiết đãi.

Trong bữa tiệc Văn Sinh thuật chuyện Võ Thành Vương đi cầu viện.

Sùng Hắc Hổ thở ra không nói.

Thôi Anh hỏi:

– Có lẽ Sùng hầu đang tính chuyện vào ải Trần Ðường chăng? Dẫu hiền vương có đến Mạnh Tân trước cũng phải đợi Võ Vương đến đó mới khai hội được. Nay Khương Nguyên soái bị Khổng Tuyên cầm chân tại Kim Kê lãnh, tốt hơn hiền hầu qua đó giết Cao Kế Năng rồi về lấy ải Trần Ðường cũng không trễ.

Sùng Hắc Hổ gật đầu nói:

– Nếu vậy thì mai sáng chúng ta sẽ đi.

Rạng ngày năm người vội vã lên yên. Hơn mấy ngày mới tới núi Kim Kê.

Hoàng Phi Hổ vào thưa với Tử Nha:

– Tôi đi thỉnh một người mà được bốn người, hiện đang đứng trước cửa dinh chờ lệnh.

Tử Nha truyền đem cờ lịnh rước vào.

Bốn vị vào làm lễ ra mắt Tử Nha.

Tử Nha mời ngồi và nói:

– Nay Khổng Tuyên đón đường, phải cây đến hiền hầu giúp sức. Tôi thật mang ơn.

Sùng Hắc Hổ yêu cầu Tử Nha đưa đến ra mắt Võ Vương.

Võ Vương tiếp đãi Sùng Hắc Hổ rất trọng.

Sùng Hắc Hổ nói:

– Nay đại vương đem binh phạt Trụ, cứu dân ơn đức vô cùng. Khổng Tuyên đón đường chỉ là chuyện nhỏ.

Võ Vương nói:

– Ta tài mọn, đức mỏng, được các vị đại vương khuyên bảo nên mới cất nghĩa binh. Nay đi chưa khỏi nước đã có sự ngăn trở. Ta chắc lòng trời chẳng thuận, nên muốn lui binh để sửa mình tu nhân tích đức.

Sùng Hắc Hổ nói:

– Ðại vương nghĩ sai rồi. Nay Trụ vương đáng tội thiên hạ đều oán thán, tám trăm chư hầu đều ước vọng có một minh quân, sá gì Khổng Tuyên mà làm ngã lòng các tướng, thất vọng mọi người.

Võ Vương nghe nói mừng rỡ vội rót rượu đãi Sùng Hắc Hổ.

Sùng Hắc Hổ uống thêm ít chén rồi ra ngoài.

Hôm sau Sùng Hắc Hổ họp lực cùng ba tướng ở núi Phi Phụng kéo binh ra trận gọi tên Cao Kế Năng ra ứng chiến.

Khổng Tuyên nghe quân báo liền sai Cao Kế Năng ra trận.

Cao Kế Năng thấy mặt Sùng Hắc Hổ nổi giận mắng:

– Sao ngươi lại trợ Tây Kỳ? Té ra chúng bay muốn gom lại một chỗ để ta dễ bắt.

Sùng Hắc Hổ nói:

– Thất phu! Không biết lợi hại. Nay bốn cõi đều một lòng bỏ Trụ, ngươi tài năng gì mà dám chống mệnh trời? Có phải hôm trước ngươi đâm chết Hoàng Thiên Hóa không?

Cao Kế Năng cười lớn:

– Chẳng phải một Hoàng Thiên Hóa không đâu, chúng bây cũng không có đứa nào khỏi rơi đầu.

Nói rồi đâm một thương, Sùng Hắc Hổ đưa búa ra đỡ.

Ðánh được ít hiệp, Văn Sinh cầm chĩa ba lướt tới, Thôi Anh, Trương Hùng vào trợ lực, vây Cao Kế Năng vào giữa.

Bấy giờ Tử Nha nghe binh ó, gọi Hoàng Phi Hổ đến nói:

– Sùng quân hầu đến giúp ta sao tướng quân chẳng ra trợ chiến?

Hoàng Phi Hổ thưa:

– Tôi buồn bực đứa con nên quên mất công việc.

Nói rồi cỡi thần ngưu ra trận gọi lớn:

– Sùng quân hầu! Có tôi trợ chiến đây, quyết giết cho được cừu nhân.

Nói rồi xông vào hỗn chiến.