Hồi 80: Trận Ôn Hoàng bị quạt mầu phá tiêu

Na Tra nổi giận, lên xe phong hỏa, đến trước ải kêu lớn:

– Chúng bây vào báo với chủ tướng, gọi Long An Khiết ra đây ta bảo.

Từ Phương liền sai Long An Khiết ra đấu chiến.

Long An Khiết thấy Na Tra đã biết ngay người tài phép song toàn, tính phải ra tay trước liền giục ngựa tới hỏi:

– Ngươi phải Na Tra chăng?

Na Tra chưa kịp trả lời đã thấy Long An Khiết đâm tới một giáo, vội vàng đỡ ra rồi đánh lại.

Long An Khiết quăng Tứ chi tô lên, và nói:

– Na Tra, xem bửu bối của ta kia.

Na Tra ngó lên thấy hai chiếc vòng nẹo lại, nghe tiếng khua rổn rảng, không biết vật gì.

Giây phút Tứ chi tô rớt xuống đất.

Long An Khiết lấy làm lạ, vì không biết Na Tra là cốt bông sen.

Na Tra cười lớn:

– Ngươi làm cái trò gì lạ vậy?

Nói rồi rùng mình một cái, hiện ra ba đầu tám tay, mặt xanh nanh bạc, hình tượng kỳ dị, quăng Càn khôn quyện lên, nói lớn:

– Ðôi vòng của ngươi làm chi ta nổi, vậy ta trả lại cho ngươi một chiếc vòng này.

Long An Khiết tránh không khỏi, bị chiếc vòng của Na Tra đánh trúng nhằm đầu, sa xuống yên, bị Na Tra đâm một thương chết tươi.

Na Tra rút gươm cắt lấy thủ cấp Long An Khiết thâu binh về trại vào ra mắt Tử Nha, thuật hết mọi điều.

Tử Nha mừng rỡ, truyền đem bêu đầu ngoài ngõ dinh.

Quân thua về báo lại, Từ Phương hay được tin than:

– Ải này chỉ còn một mình ta, làm sao giữ cho nổi, tướng tá chết hết, triều đình lại không cho viện binh.

Than rồi viết sớ cho người về Triều Ca cấp báo.

Bỗng có quân vào thưa:

– Ngoài cửa ải có một vị đạo sĩ xin ra mắt.

Từ Phương truyền mời vào.

Ðạo sĩ bước vào là một người có ba con mắt, mặt xanh, tóc đỏ, nanh bạc, tròng vàng.

Từ Phương bước đến chào hỏi, đối đãi như bậc thượng khách.

Ðạo sĩ nói:

– Ta là Lữ Nhạc, ở Cửu Long đảo, trước kia có thù với Tử Nha nên nay đến đây giúp tướng quân rửa hờn.

Từ Phương mừng rỡ nói:

– Cơ nghiệp Thành Thang có phước lớn nên mới khiến có tiên đến giúp.

Nói rồi truyền quân dọn tiệc đãi đằng, và kể các việc bại trận vừa rồi.

Lữ Nhạc an ủi:

– Tướng quân chớ lo, để ngày mai tôi ra trận bắt tướng Châu cho xem.

Rạng ngày, Lữ Nhạc đến bên dinh Châu khiêu chiến.

Quân vào báo lại:

– Ngoài dinh có một ông đạo mặt xanh tóc đỏ mời Nguyên soái ra trận.

Tử Nha không ngờ là Lữ Nhạc nên kéo cả đệ tử ra ngoài chừng nhận ra Lữ Nhạc, cả đệ tử đều nổi giận nghiến răng. Tử Nha nói:

– Lữ Nhạc đạo nhân không biết sức mình, trước đây ngươi đã bại tẩu bỏ trốn, sao nay còn đến đây nạp mạng?

Lữ Nhạc nói:

– Chúng bây chớ khoe tài. Hận thù lúc trước nay ta đến đây để rửa nhục. Ta sẽ quyết với các ngươi một còn một mất.

Lôi Chấn Tử nạt lớn:

– Thất phu! Không biết thân phận lẽ nào chúng ta dung cho ngươi hai lần?

Nói rồi quạt cánh bay đến đánh liền. Mộc Tra, Lý Tịnh, Na Tra, Vi Hộ đồng hét lên một tiếng áp vào trợ chiến.

Lữ Nhạc bị các tướng Châu phủ vây, phải hiện ra ba đầu sáu tay mặt xanh nanh bạc mà chống cự.

Giây phút Lữ Nhạc quăng Liệt ôn ấn lên đánh nhằm Lôi Chấn Tử sa xuống đất.

Các tướng áp lại cứu Lôi Chấn Tử đem về.

Tử Nha quăng roi Ðả thần tiên lên đập nhằm lưng Lữ Nhạc.

Lữ Nhạc chịu không nổi chạy về ải Xuyên Vân.

Từ Phương ra nghênh tiếp và an ủi:

– Ðạo trưởng giao đấu tài lắm chỉ vì chúng ỷ đông còn đạo trưởng có một mình làm sao cự lại.

Lữ Nhạc nói:

– Tại ta nóng nảy nên bị thất cơ, nếu ta đợi vị đạo hữu của ta ít hôm nữa đến đây rồi sẽ ra binh thì không sợ gì chúng nó.

Từ Phương hỏi:

– Ðạo trưởng còn có người bạn nào sắp đến đây sao?

Lữ Nhạc nói:

– Ta đã có hẹn trước với bạn ta rồi.

Bấy giờ Tử Nha trở về dinh thấy Lôi Chấn Tử bị thương, lòng phiền muộn vô cùng, không biết thuốc gì để cứu chữa. Các tướng không được lệnh xuất chinh cứ lóng nhóng mãi.

Còn Lữ Nhạc mấy hôm liền không khiêu chiến đợi người bạn đến.

Hôm nọ, có quân vào báo:

– Ngoài thành có một đạo nhân xin vào ra mắt.

Lữ Nhạc mừng rỡ nói lớn:

– Ðúng là người bạn của ta đã đến.

Nói rồi ra trước cửa thành rước vào.

Ðạo sĩ bước đến làm lễ.

Từ Phương hỏi:

– Vị đạo trưởng này danh hiệu là gì?

Lữ Nhạc nói:

– Người này là Trần Canh bạn của ta, hứa đến đây giúp tướng quân bắt Võ Vương và Khương Thượng.

Từ Phương cảm tạ rồi truyền quân dọn tiệc đãi đằng.

Lữ Nhạc hỏi Trần Canh:

– Sư đệ luyện bửu bối hôm trước nay đã hoàn thành chưa?

Trần Canh đáp:

– Vì tôi cố hoàn thành bửu bối ấy mà đến đây trễ một chút. Ngày mai chúng ta giao đấu với Tử Nha.

Hôm sau Lữ Nhạc sai Trần Canh chọn ba ngàn quân kéo ra trước thành dàn trận, còn mình thì đến trước dinh Châu khiêu chiến.

Tử Nha hay tin triệu tập các tướng dặn:

– Mấy hôm nay Lữ Nhạc im lìm nay đến khiêu chiến chắc có điều lạ, các ngươi phải giữ gìn cẩn thận mới được.

Bỗng có quân báo:

– Dương Tiễn đã giải lương về đến.

Tử Nha truyền cho vào.

Dương Tiễn nói:

– Lương thực tôi giải đúng kỳ và đủ số không trễ.

Tử Nha nói:

– Nay có Lữ Nhạc đến đây ngăn cản làm quân ta không thể tiến được. Nó giúp Từ Phương giữ ải Xuyên Vân…

Dương Tiễn nói:

– Lữ Nhạc trước kia thất bại đã bỏ trốn nay sao còn dám cản đường. Vậy thì Nguyên soái ra trận cho tôi xem thử.

Tử Nha y lời dẫn các tướng ra ngoài dinh bố trận.

Lữ Nhạc kêu Tử Nha nói:

– Ta với ngươi hận chất bằng non, thù sâu tợ biển, quyết một mất một còn mà thôi. Ngươi là đệ tử Ngọc Hư, ta là môn đồ Triệt giáo, hơn thua nhau chỉ về pháp thuật, cần gì đấu sức cho mất công. Ðể ta lập một trận, nếu ngươi biết trận ấy tên là trận gì thì ta tình nguyện theo ngươi đánh Trụ, còn nếu ngươi không biết thì ta với ngươi thử tài cho biết thấp cao.

Tử Nha nói:

– Ðạo hữu không giữ phận tu hành, muốn lập trận gì thì cứ lập, ta làm sao cản trở nổi.

Lữ Nhạc liền trở về trước thành cùng với Trần Canh lập trận độ nửa giờ thì hoàn thành, Lữ Nhạc trở lại trước dinh Châu kêu Tử Nha nói:

– Tử Nha, ta đã lập trận xong, ngươi đến đó xem thử.

Tử Nha dẫn Na Tra, Vi Hộ, Lý Tịnh và Dương Tiễn đến xem.

Dương Tiễn nói với Lữ Nhạc:

– Chúng ta vào xem trận, các ngươi chớ dùng tà thuật hại lén nhé.

Lữ Nhạc cười lớn, mắng:

– Dương Tiễn, ngươi khinh ta là con nít hay sao lại nói lời ấy?

Tử Nha dẫn bốn đệ tử vào trận xem hoài không rõ là trận gì nghĩ thầm:

– Nếu không biết là trận gì thì làm sao phá được?

Bỗng nhớ đến lời Nguyên Thỉ tiên tri rằng đến ải Xuyên Vân có trận Ôn Hoàng, liền nói nhỏ với Dương Tiễn:

– Thầy ta có dặn, chắc đây là trận Ôn Hoàng.

Dương Tiễn thưa:

– Nếu vậy để tôi tìm cách trả lời, dò xét cử chỉ nó ra sao cho biết.

Tử Nha dẫn bốn tướng ra ngoài, Lữ Nhạc đón lại hỏi:

– Các ngươi biết tên trận này hay không?

Dương Tiễn nói hớt:

– Lữ đạo trưởng ơi! Trận ấy nhỏ mọn lắm chẳng có gì đáng gọi là tài năng.

Lữ Nhạc nổi giận nói:

– Ngươi biết trận gì mà nói dóc?

Dương Tiễn cười lớn:

– Ấy là trận Ôn Hoàng, mà các ngươi lập chưa xong. Nguyên soái ta đợi hoàn thành sẽ phá.

Lữ Nhạc nghe nói rụng rời, đứng sững như pho tượng.

Dương Tiễn theo Tử Nha và các tướng vào trại. Ai nấy đều khen Dương Tiễn thông minh, dùng mánh khóe làm cho tướng địch thất thần.

Tử Nha nói:

– Tuy đã trả lời làm cho Lữ Nhạc nản chí, song không biết cách phá trận thì liệu làm sao?

Na Tra thưa:

– Miễn nói cho xong việc, rồi thủng thẳng sẽ tính. Vả lại trận Thập tuyệt, Tru tiên, mà còn phá được thay, huống chi trận nhỏ như vầy lo làm chi cho mệt.

Tử Nha nói:

– Ðành vậy, xong lời xưa có nói: “Không lo xa thì họa tới gần”. Chớ khinh trận nhỏ mà bị hại.

Các tướng đều nói:

– Nguyên soái tính phải lắm.

Mọi người đều lo kế phá trận, xong không ai có ý kiến nào hay.

Bỗng có quân vào báo:

– Có Vân Trung Tử tới.

Tử Nha mừng rỡ nói với các tướng:

– Thật Võ Vương hồng phước tày trời, nên lúc nào lâm nạn đều có kẻ sẳn sàng lo lắng.

Nói rồi đồng ra nghinh tiếp, mời Vân Trung Tử vào trong, Tử Nha hỏi:

– Có phải đạo huynh đến đây phá trận Ôn Hoàng của Lữ Nhạc không?

Vân Trung Tử đáp:

– Chính vì việc ấy mà ta đến đây.

Tử Nha tạ ơn và nói:

– Số tôi mắc nhiều tai nạn, nhờ quý vị đạo huynh nhọc lòng giải cứu. Nhưng chẳng biết trận ấy ra thế nào? Phải làm sao mới phá được?

Vân Trung Tử nói:

– Trận này về phần Nguyên soái phá, chứ chúng tôi không đủ tài lực.

Tử Nha thất kinh hỏi:

– Tôi không biết cách nào để phá trận thì làm sao?

Vân Trung Tử nói:

– Số Nguyên soái mắc nạn một trăm ngày trong trận ấy, chờ mãn hạn có người đến cứu. Còn tôi đến đây chỉ để thay Nguyên soái, tạm giữ ấn Nguyên nhung trong thời gian đó mà thôi.

Tử Nha nói:

– Nếu đạo huynh giúp đỡ như vậy, dầu tôi có mắc nạn cũng chẳng hề chi.

Nói rồi trao ấn soái và cờ lệnh cho Vân Trung Tử.

Các tướng sĩ đem việc ấy nói đến tay Võ Vương, Võ Vương liền đến trướng nói với Tử Nha.

– Ta nghe Thượng phụ muốn phá trận, lòng ta chẳng đành. Nếu tranh đua mà cực khổ như vậy, thà lui về nước để hưởng thanh bình.

Tử Nha làm thinh, Vân Trung Tử nói:

– Xin hiền vương an lòng, số trời đã định, dẫu trốn đi đâu cũng chẳng khỏi, huống chi làm tướng ra trận thì hoạn nạn là chuyện thường, có chi mà sợ.

Võ Vương làm thinh không dám cãi nữa.

Bấy giờ Lữ Nhạc và Trần Canh đem hai mươi mốt cây lộng Ôn hoàng để vào trong trận, chia ra chín cung tám hướng, sắp đặt an bày. Giữa trận lại có lập một cái đài bằng đất, dùng phù ấn án ngữ.

Hai người sắp hoàn thành trận đồ, bỗng có quân vào báo:

– Có một đạo sĩ đến tìm lão gia.

Lữ Nhạc truyền mời vào ra mắt, thấy người đó là Lý Bình, mừng rỡ nói:

– Lý đạo hữu đến đây chắc là giúp tôi đánh Châu bắt Khương Thượng.

Lý Bình nói:

– Không phải như vậy! Tôi đến đây để can đạo hữu, vì khi đi dạo chơi dọc đường, tôi nghe đạo hữu lập trận Ôn Hoàng, nên tôi phải bôn bả đến đây mà khuyên giải. Nay Trụ Vương vô đạo, khí số nhà Thương đã hết, các chư hầu đều phản, thì Trụ Vương mất nước đã đành. Còn Võ Vương là người có đức, trên sánh Thuấn, Nghiêu, dưới vừa lòng dân chúng, ấy là chúa thánh ra đời, thì thu giang sơn nhà Thương cũng là lẽ phải. Vả lại, Tử Nha vâng lệnh thầy phò Châu diệt Trụ, họp chư hầu tại đất Mạnh Tân, giết vua Trụ tại ngày Giáp Tý. Số trời định như vậy, đạo hữu làm trái đi, lẽ nào tôi chẳng can gián? Nếu đạo hữu nghe lời tôi, dẹp trận về non để Võ Vương và Tử Nha chinh phạt, còn mình lo việc tu hành, chẳng tham dự việc can qua, thì khỏi lo gì đường họa phước. Xin lui một bước cho nhân lạc là hơn.

Lữ Nhạc cười rằng:

– Lý đạo huynh nói còn sai lầm! Ai chẳng biết trước đây giáo chủ ta đã họp với tam giáo nghị bảng Phong Thần, giúp Châu diệt Trụ. Ðó là khí số của trời đất, chúng ta là người tu hành lẽ nào chẳng biết? Nhưng, môn đồ Xiển giáo cậy mình hành đạo, khi dễ Triệt giáo chúng ta là bàng môn tả đạo, hiếp bức đủ điều, lắm lời nhục mạ, đạo huynh không biết hay sao. Tôi lập trận này không phải bênh vực Trụ Vương, chống lại vua Võ, mà để cảnh cáo môn đồ Xiển giáo biết rằng Triệt giáo không phải vô dụng, thấp hèn như họ tưởng.

Lý Bình nói:

– Ðạo hữu lấy cớ gì mà cho Xiển giáo khinh chúng ta?

Lữ Nhạc nói:

– Thân Công Báo là môn đồ Xiển giáo, thấy ý khinh miệt của Xiển giáo đối với Triệt giáo còn đem lòng tức tối thay, huống chi chúng ta là người trong giáo hệ. Môn đồ Xiển giáo chẳng những khinh chúng ta, mà còn khinh cả vị giáo chủ của chúng ta nữa. Ðạo huynh không nghe việc Quảnh Thành Tử đến cung Bích Du ăn nói lỗ mãng, khinh Triệt giáo chúng ta là loài có lông, có sừng hay sao? Ðến như vị sư tôn chúng ta là Thông Thiên giáo chủ còn không chịu nổi hành động khinh bỉ ấy phải xuống lập trận Tru tiên nơi ải Giới Bài để răn người Xiển giáo. Chúng ta là môn đồ, dù phải chết cũng cố bảo tồn giáo hệ của chúng ta.

Lý Bình nói:

– Tôi thấy Tử Nha tuy gặp nhiều tai nạn, song đều vượt qua khỏi. Như trận Thập tuyệt, Tru tiên là những trận dữ, mà chưa làm gì được, thì trận Ôn Hoàng của đạo huynh có ích gì. Xe trước đã gãy, xe sau phải lấy đó làm gương, đạo huynh phải xem xét lại.

Lý Bình nói năm bảy lượt, Lữ Nhạc vẫn không nghe, lấy bút hạ chiến thư, sai người đem tới cho Tử Nha.

Chiến thư viết như sau:

“Cửu Long đảo Luyện khí sĩ là Lữ Nhạc, gửi thư cho Nguyên soái Tây Kỳ Khương Tử Nha được rõ:

Thường nghe, kẻ tu hành thì lấy đức làm gốc, người đạo nghĩa lấy khiêm tốn làm đầu. Thế mà nhiều lần Xiển giáo khi dể Triệt giáo chúng tôi, nay tôi lập trận này, nếu môn đồ Xiển giáo liệu không phá được thì kéo nhau ra trước trận hàng đầu, tôi sẽ dẹp trận để binh Châu tiến bước, bằng cứ tưởng mình tài cao phép giỏi liều mạng xông vào trận dữ, thì chắc binh tướng không còn. Ý định thế nào xin cho biết”.

Tử Nha xem chiến thư, phê đàng sau mấy chữ hẹn ngày mai phá trận.

Người đem thơ trở về trình cho Lữ Nhạc xem, Lữ Nhạc mừng rỡ chuẩn bị sẳn sàng.

Ngày hôm sau Vân Trung Tử mời Tử Nha đến, trao cho ba lá bùa, một lá dán trước ngực, một lá dán sau lưng, một lá giắt trên mão, lại cho một hoàn thuốc để trừ lúc lên cơn.

Xảy nghe quân vào báo:

– Có Lữ Nhạc khiêu chiến.

Tử Nha cỡi Tứ bất tướng ra trận, còn Võ Vương và các tướng lược trận đàng sau.

Tử Nha kêu lớn:

– Lữ Nhạc, ngươi lập trận dữ hại ta, ta nguyền với ngươi một trận cho biết sức, chỉ sợ ngày sau ngươi ăn năn không kịp.

Lữ Nhạc giục con lạc đà mắt thau tới, chém Tử Nha một gươm, Tử Nha đỡ ra đánh lại. Hai bên giao chiến, hơn mười hiệp, Lữ Nhạc bỏ chạy vào trận Ôn Hoàng, Tử Nha giục thú đuổi theo, Lữ Nhạc nhảy lên đài Bát quái, quăng lọng phép chụp Tử Nha, Tử Nha thấy cát đen, khói đỏ vãi xuống, liền lấy Hạnh Huỳnh kỳ che thân, và uống hoàn thuốc linh đơn chịu trận.

Lữ Nhạc thấy Tử Nha đã mắc vào trận liền giục lạc đà chạy ra ngoài kêu lớn:

– Tử Nha đã chết trong trận rồi, còn Cơ Phát hãy ra đây nạp mạng.

Võ Vương nghe nói kinh hãi, hỏi Vân Trung Tử:

– Nếu quả Thượng phụ bỏ mình trong trận, thì ta sống làm gì?

Vân Trung Tử nói:

– Không hề gì đâu. Lữ Nhạc nói dối, Tử Nha chỉ mắc nạn trong đó ít lâu, mãn hạn sẽ có người đến cứu.

Lý Tịnh, Vi Hộ, Lôi Chấn Tử, và ba anh em Na Tra đều nổi giận, hét lên một tiếng:

– Chúng ta bắt Lữ Nhạc phân thây, trả thù cho Nguyên soái.

Nói rồi áp tới vây Trần Canh và Lữ Nhạc vào giữa, đánh thôi cát bụi mịt mù, vang trời dậy đất.

Na Tra biến ra ba đầu tám tay đánh Trần Canh một Càn khôn quyện, Dương Tiễn quăng Hạo thiên khuyển lên, cắn cổ Lữ Nhạc đổ máu. Hai người thất kinh chạy vào trận.

Các tướng không dám đuổi theo, cùng nhau trở lại dinh Châu.

Võ Vương sầu thảm, hỏi Vân Trung Tử:

– Thượng phụ bị trận này chừng nào mới ra khỏi?

Vân Trung Tử nói:

– Mãn hạn một trăm ngày mới thoát khỏi được.

Võ Vương thất sắc hỏi:

– Nhịn đói ba tháng mười ngày làm sao sống được?

Vân Trung Tử nói:

– Xin hiền vương chớ ngại. Trước kia tại trận Hồng sa, hiền vương cũng bị nạn một trăm ngày, nhưng vẫn không chết, thì Tử Nha chết sao được?

Tuy có lời Vân Trung Tử khuyên giải, Võ Vương cũng buồn bã không vui, coi một ngày dài hơn một năm vậy.

Còn Lữ Nhạc, mỗi ngày vào trận ba lần, cứ lấy lọng Ôn Hoàng quăng xuống.

Tử Nha nhờ có Hạnh huỳnh kỳ che chở, hào quang chiếu sáng, không đến nỗi hại thân.

Lữ Nhạc thăm trận rồi lại trở vào ải bàn luận với Từ Phương.

Từ Phương hỏi:

– Ðạo trưởng cầm Tử Nha trong trận bao lâu Tử Nha mới chết? Và bao giờ mới triệt thoái được quân Châu?

Lữ Nhạc nói:

– Thủng thỉnh sẽ hay, tướng quân lo việc ấy làm chi cho mệt.

Từ Phương nói:

– Vậy thì phải giải các tướng Châu vừa bị bắt về triều ca cho thiên tử xử trị, đồng thời viện thêm binh tướng đến giữ thành mới khỏi bị hại.

Lữ Nhạc nói:

– Ðó là nhiệm vụ của tướng quân. Tôi thiết tưởng bắt được tướng giặc không nên nhốt trong thành lâu.

Từ Phương nói:

– Nhân dịp này tôi sẽ viết sớ tâu với thiên tử về việc đạo trưởng đến lập trận trừ giặc.

Lữ Nhạc nói:

– Ðừng nói đến việc tôi làm gì, tôi không có ý hưởng lộc triều đình, việc làm của tôi chẳng qua là chuyện riêng giữa cá nhân tôi với Tử Nha thôi.

Từ Phương y lời ấy, viết sớ sai người giải tù nhân về Triều Ca.

Khi ấy viên tướng cạnh là Phương Nghĩa Chân bước ra xin đảm lãnh nhiệm vụ giải tù.

Bây giờ nói về ông Thanh Hư đạo nhân ở động Tử Dương, trong cơn rảnh rang ra ngoài hừng mát, trông thấy Dương Nhậm đang ngoạn kiển, sực nhớ đến công việc, liền nói với Dương Nhậm:

– Lúc này ngươi cũng nên ra mặt cứu bốn tướng Châu, và đến ải Xuyên Vân phá Ôn Hoàng trận.

Dương Nhậm nói:

– Trước kia tôi làm quan văn cho Trụ Vương, chỉ biết việc văn chương chữ nghĩa, từ khi được thầy cứu đem về đây, tôi có được tập luyện võ nghệ gì đâu mà thầy sai đi cứu tướng, phá trận?

Thanh Hư đạo nhân nói:

– Muốn trở thành tướng võ cũng chẳng khó gì. Hễ học thì biết. Ðã mang tiếng tu luyện mà không biết dụng võ thì chưa phải cao.

Nói rồi vào động lấy cây thương Phi điểu đem ra vườn tập cho Dương Nhậm múa men một hồi.

Dương Nhậm là người có tên trong bảng Phong thần, lại thông minh, nên tập chẳng bao lâu đã thuộc.

Thanh Hư đạo nhân nói:

– Ta cho ngươi con thú Vân Hà mà cỡi, và cho một cây quạt Ngũ hỏa thần diệm, hễ vào trận cứ theo cách ta truyền mà làm, lo gì không giết được Lữ Nhạc? Vả lại, Hoàng Phi Hổ và các tướng đang bị nhốt trong tù xa, giải đi dọc đường, ngươi phải cứu những người ấy trước, sau này mới dễ phá ải.

Dương Nhậm lạy tạ thầy, cầm quạt và thương, lên lưng thú, vỗ sừng nó một cái, con Vân Hà bay bổng như chim.

Bay trên mây một hồi, Dương Nhậm trông thấy thú linh sa xuống cách ải Ðồng quan chừng ba mươi dặm, bên đường có một tướng đang giải xe tù, trên cờ có đề mấy chữ: Giải Tây Kỳ phản tướng.

Dương Nhậm liền vỗ thú chạy đến đón đường kêu lớn:

– Hãy đứng lại, có ta đến đây.

Quân sĩ thấy có người đón đường thất kinh chạy trở lại báo với Phương Nghĩa Chân:

– Ðằng trước có một người dị hình, dị tướng, ngăn cản đầu quân. Người ấy hai con mắt có mọc ra cánh tay nhỏ, trong hai bàn tay đều có con mắt, năm chòm râu dài, phất phơ theo gió.

Phương Chân Nghĩa cậy mình võ giỏi, liền xốc ngựa tới, quả thấy Dương Nhậm tướng mạo khác thường, trong lòng kinh hãi, liền nạt lớn:

– Ngươi là ai dám đón đường ta?

Dương Nhậm ôn tồn nói:

– Ta là quan Thượng Ðại phu Dương Nhậm. Tướng quân ơi! Trụ Vương vô đạo lắm, thiên hạ về Châu hết, tướng quân chớ cãi trời mà mang họa.

Phương Nghĩa Chân nói:

– Ta vâng lệnh chủ tướng giải phản tặc về, sao ngươi dám đón đường quân sĩ?

Dương Nhậm nói:

– Ta vâng lệnh thầy ta xuống ải Xuyên Vân phá trận Ôn Hoàng. Ta khuyên ngươi đầu hàng minh chúa, để khỏi mất phong hầu.

Phương Nghĩa Chân thấy Dương Nhậm nói nhỏ nhen, tưởng Dương Nhậm chỉ là một quan văn, trói gà không chặt, liền trợn mắt hét lớn:

– Nghịch tặc! Ðã phản chúa còn muốn dụ dỗ ta sao?

Nói rồi đâm một giáo. Dương Nhậm đỡ ra đánh lại. Hai tướng đánh cầm đồng.

Dương Nhậm sợ để lâu, quân sĩ giết mất bốn tướng, liền lấy quạt Ngũ hỏa thần diệm ra quạt mấy cái tức thì Phương Nghĩa Chân cả người và ngựa đều tiêu ra gió.

Bởi cây quạt này dữ lắm nên có thơ rằng:

Quạt bay ra lửa cháy rần rần,

Cháy núi tiêu non thiệt phép thần

Khói dậy gió tuôn oai tợ sấm,

Dù cho tài giỏi chẳng nên gần.

Dương Nhậm thấy phép báu lạ lùng, ngồi trên lưng thú sững sờ, còn bao nhiêu quân sĩ thất kinh chạy toán loạn.

Hoàng Phi Hổ tưởng Dương Nhậm là thần tiên giáng hạ, ngồi trong tù xa lớn tiếng hỏi:

– Chẳng hay ông là vị thần chi, cứu chúng tôi khỏi họa.

Dương Nhậm nhìn biết Hoàng Phi Hổ, liền xuống lưng thú đáp:

– Hoàng tướng quân! Tôi không phải người lạ cũng không là thần tiên, trước kia là quan Thượng đại phu Dương Nhậm. Bởi Trụ Vương thất chánh, bày cất Lộc đài, tôi hết lòng can gián bị hôn quân khoét mắt, nên mọc ra hai cái tay nhỏ như vầy. Nhờ thầy tôi cứu sống, nay sai tôi xuống cứu bốn tướng và phá trận Ôn Hoàng.

Nói rồi liền mở cửa tù xa. Bốn tướng mừng thoát chết, bước ra ngoài lạy tạ.

Dương Nhậm nói:

– Bốn vị tướng quân khoan về trại, hãy kiếm nhà dân sự mà nương ngụ, đợi tôi phá trận Ôn Hoàng xong, đem quân cướp ải, chừng ấy hễ nghe tiếng pháo nổ thì trà trộn vào thành làm nội công.

Bốn tướng y theo lời dặn. Dương Nhậm cỡi thú Vân hà bay khỏi ải Xuyên Vân, sa xuống trước trại. Binh Châu thấy người dị tướng, đều thất vía kinh hồn.

Dương Nhậm nói:

– Không hề chi đâu. Ta không phải là người của Trụ Vương đâu mà sợ, hãy vào tâu với Võ Vương rằng ta là Dương Nhậm đến xin ra mắt.

Quân vào báo:

– Có một tướng dị hình đến trước ải xin vào yết.

Vân Trung Tử biết Dương Nhậm tới, truyền mời vào.

Dương Nhậm làm lễ rồi thưa:

– Có sư thúc ở đây lo chi phá trận không được?

Vân Trung Tử đỡ Dương Nhậm dậy, giới thiệu với các tướng rồi dẫn vào ra mắt Võ Vương.

Võ Vương kinh hãi hỏi:

– Vì cớ nào mà mặt mày ra thế ấy?

Dương Nhậm tâu lại việc Trụ Vương khoét mắt được tiên nhân cứu chữa vân vân.

Võ Vương mừng rỡ, truyền dọn yến tiệc thết đãi.

Dương Nhậm lại thuật chuyện cứu bốn tướng dọc đường và vâng lệnh thầy dạy đến phá trận Ôn Hoàng.

Vân Trung Tử khen:

– Ngươi đến đây đúng kỳ lắm! Chỉ còn ba ngày nữa Tử Nha mãn hạn một trăm ngày.

Các tướng thấy có thêm được Dương Nhậm, ai nấy mừng vui khôn xiết.

Ðến ngày thứ ba, Dương Nhậm cỡi thú đi trước, Võ Vương, Vân Trung Tử, và các tướng theo sau lược trận.

Dương Nhậm đến trước thành kêu lớn:

– Lữ Nhạc, sao không ra mắt ta?

Lữ Nhạc liền hiện ra ba đầu sáu tay, cầm gươm đến trước trận, thấy Dương Nhậm dị tướng dị hình kinh hãi hỏi lớn:

– Ngươi tên họ là chi?

Dương Nhậm nói:

– Ta là Dương Nhậm, học trò ông Thanh Hư đạo nhân, vâng lệnh xuống phá trận Ôn Hoàng.

Lữ Nhạc cười lớn:

– Ngươi là một đứa tiểu đồng theo hầu hạ dám phách lối như vậy sao.

Nói rồi liền chém một gươm.

Dương Nhậm đỡ ra rồi đâm lại.

Hai tướng đánh được ba hiệp, Lữ Nhạc bỏ chạy vào trận Ôn Hoàng, Dương Nhậm kêu lớn:

– Lữ Nhạc, coi ta vào phá trận.

Nói rồi giục thú xông vào.

Hồi 81: Ải Đồng Quan, họ Dư rải độc

Lữ Nhạc lên đài Bát Quái, lấy lọng Ôn Hoàng quăng xuống, Dương Nhậm quạt một cái, cây lọng cháy ra tro.

Lữ Nhạc nổi xung quăng tiếp hai mươi cây lọng nữa, cũng bị Dương Nhậm quạt cháy hết không còn sót một cây nào.

Lúc này Lý Bình còn ở trong trận, cũng bị Dương Nhậm quạt trúng, tiêu thành gió. Bởi Lý Bình có tên trong bảng Phong Thần, nay mới xui khiến đến đó chịu rủi ro như vậy. Về sau Lý Bình được phong là Ôn Hộ thần kỳ. Phải chi Lý Bình can Lữ Nhạc không được, bỏ đi thì làm gì mang họa.

Trần Canh thấy Dương Nhậm quạt cháy hết lọng, lại giết chết Lý Bình, nổi giận cầm gươm tới chém, Dương Nhậm quạt thêm vài quạt chẳng những Trần Canh cháy tiêu ra tro, mà mô đất làm đài Bát quái cũng bị nung đỏ.

Lữ Nhạc ở trên đài Bát quái, thấy việc không xong, liền niệm chú độn hỏa mà trốn. Chẳng ngờ quạt ấy luyện năm thứ lửa, không phải lửa thường.

Lữ Nhạc độn hỏa không được mà bị phỏng da cong lưng bỏ chạy.

Dương Nhậm quạt thêm ít quạt, bỗng Lữ Nhạc hóa khói bay lên đài Phong Thần.

Có bài thơ rằng:

Cho hay tướng dữ ít làm lành,

Lữ Nhạc tu lâu cũng chẳng thành

Không dập lòng lửa nay bị lửa,

Rõ ràng tam giáo quý vô tranh.

Dương Nhậm giết Lữ Nhạc và phá trận Ôn Hoàng xong, thấy Tử Nha nằm sấp trên lưng Tứ Bất Tướng, tay nắm Hạnh Huỳnh kỳ hào quang che phủ.

Các tướng liền áp lại đỡ dậy, mặt Tử Nha như tờ giấy vàng, không nói năng gì hết.

Võ Kiết kê vai cõng Tử Nha, còn Tứ Bất Tướng nhảy phóng về trại trước.

Võ Vương thấy Võ Kiết cõng Tử Nha về đến khóc lớn:

– Thượng phụ vì nước vì dân mà mang tai họa.

Vân Trung Tử đổ thuốc cho Tử Nha lần lần tỉnh dậy.

Tử Nha mở mắt, nói với Vân Trung Tử:

– Vì tôi mà nhọc lòng quý vị.

Võ Vương mừng rỡ nói:

– Xin Thượng phụ lo tịnh dưỡng, để các tướng được vui.

Tử Nha dưỡng bệnh vài ngày, thấy trong người đã bình phục.

Vân Trung Tử nói:

– Trận Ôn Hoàng đã phá xong, tôi xin về động, đợi đến trận Vạn Tiên sẽ hội kiến.

Tử Nha không dám giữ lại, tạ ơn rồi đưa ra khỏi cửa trại.

Vân Trung Tử đằng vân về núi.

Tử Nha trở lại trướng phủ, hội họp các tướng và nói:

– Ngày mai phải lo lấy ải.

Dương Nhậm thưa:

– Vừa rồi tôi có cứu bốn tướng, dặn ẩn mình trong xóm mà chờ nội công.

Tử Nha nghe nói hỏi hết các việc, Dương Nhậm thuật chuyện cướp tù xa tại ải Ðồng Quan cách đây ba mươi dặm.

Tử Nha mừng rỡ. Rạng ngày điểm tướng kéo đến ải Xuyên Vân.

Bấy giờ Từ Phương thấy Ôn Hoàng trận bị phá, Lữ Nhạc cháy ra tro, lại có quân giải tù xa về báo:

– Phương Nghĩa Chân bị một người đón đường giết chết rồi, còn bốn tướng trong tù xa đi đâu không biết.

Từ Phương kinh hãi, chưa biết liệu làm sao, bỗng nghe quân ó ngoài thành vang dậy, chiên trống rền trời.

Từ Phương lên mặt thành, xem thấy binh Châu lớp thì bắc thang vào thành, lớp thì dùng gươm đao chọt vách, còn Lôi Chấn Tử bay cao vòi vọi, đập bể nửa nóc lầu.

Từ Phương thất kinh chạy xuống, Lôi Chấn Tử đã chiếm cứ mặt thành, Na Tra giục xe bay vào, chặt ống khóa mở cửa ải. Binh Châu tràn vào như nước lũ.

Từ Phương liều mình xông ra hỗn chiến, bị các tướng vây phủ.

Lúc này, Hoàng Phi Hổ, Hồng Cẩm, Nam Cung Hoát, Từ Cái, bốn tướng nghe binh ó, và pháo nổ, biết binh Châu hãm thành, đồng đi bộ xách gươm tới ải, thấy Từ Phương chẳng khác nào như một cục đường đang bị kiến bu.

Hoàng Phi Hổ hét lên một tiếng, nói lớn:

– Từ Phương, có ta đến đây, đố ngươi chạy ngả nào cho khỏi?

Từ Phương đang mắc kẹt trong vòng vây, một mình với một cây thương đánh đỡ không hở, thấy bốn tướng xông vào lại càng quýnh quáng.

Hoàng Phi Hổ chém một gươm, Từ Phương tránh khỏi, nhưng lưỡi gươm chém trúng đầu ngựa làm Từ Phương sa xuống đất, bị quân sĩ bắt trói.

Quân trong thành hỗn loạn, thấy chủ tướng bị bắt đều xếp giáp đầu hàng.

Tử Nha lấy được thành rồi truyền treo bảng an dân.

Bốn tướng bị bắt vội vào ra mắt Tử Nha tạ tội.

Tử Nha nói:

– Bốn tướng bị lao khổ, nhờ trời phù hộ đổi họa ra phước, lòng ta không gì vui hơn.

Nói rồi truyền quân dẫn Từ Phương tới.

Từ Phương đứng sững không quỳ, Tử Nha mắng:

– Từ Phương, ngươi nỡ bắt anh ngươi mà lập công, thật lỗi đạo nhơn luân, dứt tình thủ túc. Còn ngươi làm tướng trấn ải, bất tài để cho mất thành trì, thật không phải anh hùng, sao còn chưa chịu phục?

Nói rồi sai tả hữu dẫn Từ Phương ra chém.

Tả hữu vâng lệnh dẫn Từ phương ra ngoài chém đầu bêu trước ải, còn Võ Vương truyền dọn tiệc thưởng tướng khao binh.

Ngày hôm sau Tử Nha cất binh đi tám mươi dặm, đến ải Ðồng Quan truyền đóng trại nghỉ ngơi, đợi bàn luận với các tướng rồi sẽ lo kế lấy ải.

Chủ tướng ải Ðồng Quan là Dư Hóa Long, có năm người con trai tên Dư Ðạt, Dư Triệu, Dư Quang, Dư Tiên và Dư Ðức.

Dư Ðức đi tu ngoài biển, chỉ còn năm cha con ở nhà trấn ải Ðồng Quan.

Khi ấy Dư Hóa Long nghe quân báo:

– Binh Châu kéo đến cắm trại ngoài ải.

Dư Hóa Long thất kinh nói với các con:

– Binh Châu nhiều tướng lấy thành như chẻ tre, chẳng phải giặc tầm thường, nay đến ải ta các con liệu thế nào cho tiện.

Bốn người con đồng thưa:

– Xin cha an lòng. Chẳng qua Khương Thượng cậy đông, kéo binh ồ ạt như vậy. Còn các ải trước binh la mã liệt không chống nổi. Chớ ải Ðồng Quan chúng ta Tử Nha tài gì đoại nổi.

Dư Hóa Long nói:

– Tuy vậy các con chớ nên khinh địch, phải hết lòng chiến thủ mới xong.

Hôm sau, Tử Nha thăng trướng, Thái Loan thưa:

– Hôm nay mạt tướng xin ra tài lập công đầu.

Tử Nha nhậm lời, Thái Loan dẫn binh mã kéo đến trước thành khiêu chiến.

Quân vào báo, Dư Hóa Long sai con lớn là Dư Ðạt giao binh.

Dư Ðạt vâng lệnh mở cửa ải dẫn binh ra trận.

Thái Loan thấy một cây cờ đề sáu chữ: “Ðồng Quan thủ tướng Dư Ðạt”, là một tướng nhỏ đầu đội kim khôi, giắt lông trĩ, mặt như dồi phấn, áo đỏ như son, cỡi ngựa Kim, cầm giáo bạc, liền hỏi lớn:

– Thằng nhỏ kia, tài cán chi ngươi, mà dám xưng là thủ tướng?

Dư Ðạt nói:

– Ta là con lớn của Dư Tổng binh, cầm đầu các tướng trong ải, sao không gọi là thủ tướng được?

Thái Loan nói:

– Nay binh trời đã đến đây, ngươi dám cản lại sao?

Dư Ðạt nói:

– Khương Thượng làm phản, Cơ Phát khi quân, dám đem thân đến ải này thì thật gan dạ. Ta sẽ bắt hết chúng bay, phá Tây Kỳ như bình địa thì tội chúng bay mới đáng.

Thái Loan nói:

– Nay tám trăm chư hầu đều hội nơi Mạnh Tân vấn tội, sớm muộn chúa tôi nhà ngươi không đất chôn thây, đã không biết phận mình còn nói dóc. Thôi hãy xuống ngựa hàng đầu ta dung tha tánh mạng.

Dư Ðạt nổi giận đâm một thương, Thái Loan đỡ ra chém lại.

Kẻ đao người giáo đánh đến ba mươi hiệp vẫn cầm đồng.

Dư Ðạt trá bại, Thái Loan thừa thắng đuổi theo, Dư Ðạt lấy Thiết tiên vụt nhằm mặt, Thái Loan sa xuống ngựa, bị Dư Ðạt quày ngựa lại đâm một giáo trúng yết hầu.

Dư Ðạt cắt thủ cấp đem về ải, Dư Hóa Long truyền bêu đầu làm hiệu lệnh.

Binh Châu bỏ chạy về ải báo tin.

Tử Nha nghe tin Thái Loan tử trận, lòng thương xót mười phần.

Hôm sau Tô Hộ xin xuất binh, Tử Nha nhậm lời.

Tô Hộ dẫn binh đến trước thành mắng chửi ầm ỉ.

Dư Hóa Long nổi giận sai đứa con thứ ba là Dư Triệu khai thành giao công.

Tô Hộ thấy tướng nhỏ liền hỏi:

– Ngươi tài cán gì mà dám ra đây?

Dư Triệu nói:

– Ta là con thứ của Dư Tổng binh, tên Dư Triệu. Còn ngươi là ai cho ta biết thử?

Tô Hộ nói:

– Ta là Ký Châu hầu Tô Hộ.

Dư Triệu thưa:

– Mạt tướng không biết lão tướng quân, xin hoàng thân miễn chấp. Lão tướng quân là Quốc thích, hưởng lộc Hoàng gia, lẽ phải giữ nước giữ thành, xin trả ơn vua đền nợ nước, sao lại quên đi hoàng hậu đang nương thân ở tiên phòng, trợ giặc làm phản quân vương. Thật tôi không phục lão tướng quân. Nếu Võ Vương sa cơ tướng quân bị bắt, thì không khỏi tiếng xấu muôn đời, ăn năn sao kịp? Xin tướng quân xét lại, trở về chúa cũ, cho thuận nhơn luân.

Tô Hộ nói:

– Thiên hạ về Châu hết tám chín phần, cơ nghiệp nhà Thương đã dứt. Trụ Vương độc ác như vậy, dù con gái ta làm hoàng hậu ta cũng không thể theo đứa bất nhơn, hưởng lộc triều đình. Còn ngươi là một đứa nhỏ tuổi, bản lãnh bao nhiêu mà dám ra chiến trường cho bỏ mạng. Thôi, ta tha mạng cho ngươi, hãy vào thành kêu Dư Hóa Long ra đánh với ta.

Dư Triệu nổi giận đâm một giáo, Tô Hộ đỡ ra đánh lại.

Hai bên đánh được ít hiệp, Dư Triệu xổ ngọn cờ vàng hào quang chói sáng, không còn thấy Dư Triệu đâu nữa.

Tô Hộ đưa mắt nhìn bốn phía, không thấy địch thủ đâu, thất kinh toan quày ngựa bỏ chạy, bị Dư Triệu đâm một giáo chết liền, hồn bay lên đài Phong Thần.

Dư Triệu cắt lấy thủ cấp đem vào thành.

Dư Hóa Long truyền bêu đầu làm lịnh, rồi dọn tiệc ăn mừng.

Tử Nha nghe tin Tô Hộ tử trận, ứa nước mắt than thầm.

Tô Toàn Trung khóc lớn, nói:

– Cừu cha chẳng đội trời chung, xin Nguyên soái cho tôi ra báo oán.

Tử Nha không cản được, đành phải cho đi.

Tô Toàn Trung đến ải Ðồng Quan khiêu chiến.

Quân vào báo lại, Dư Hóa Long sai đứa con thứ ba là Dư Quang ra trận.

Tô Toàn Trung thấy tướng mặt nhỏ, nghiến răng hỏi:

– Ngươi là Dư Triệu phải không? Hãy ra đây cho mau mà chịu chết.

Dư Quang nói:

– Không phải! Ta là Dư Quang, con thứ ba của Dư Tổng binh.

Tô Toàn Trung liền đâm một kích, Dư Quang đưa giáo ra đỡ.

Hai người đánh được hai mươi hiệp, Dư Quang bại tẩu.

Tô Toàn Trung nóng cừu cha, hét vang như sấm:

– Ta giết không đặng chúng bay thề không về ải.

Liền giục ngựa đuổi theo, Dư Quang lấy Ma hoa phiến đánh nhằm Tô Toàn Trung ba gậy gần nhào xuống ngựa, Tô Toàn Trung mới chịu ôm đầu chạy về dinh.

Dư Quang thu binh về ải thuật lại mọi điều, Dư Hóa Long nói:

– Ngày mai ta ra giáp trận với Khương Thượng xem thử thế nào cho biết.

Rạng ngày năm cha con Dư Hóa Long kéo binh ra thành khiêu chiến.

Quân vào báo lại, Tử Nha dẫn binh tướng ra ngoài.

Dư Hóa Long xem thấy binh Châu tề chỉnh khen:

– Người ta đồn Tử Nha dụng binh như thần, quả không sai.

Khen rồi giục ngựa tới hỏi:

– Tôi chào Khương Nguyên soái.

Tử Nha đáp lễ và nói:

– Tôi mang giáp trong mình, làm lễ không trọn. Tuy bất tài, song tôi vâng lệnh trời cứu dân phạt Trụ, vì vậy đến đâu cũng đều được thần tiên giúp sức. Nay tướng quân cũng nên thấy cơ nghiệp nhà Thương đã suy mà về Châu cho sớm, lẽ nào còn trợ kẻ ác, làm khổ muôn dân.

Dư Hóa Long nói:

– Bởi ngươi làm quan nhà Thương chưa được mấy ngày, nên không nghĩ đến ơn vua lộc nước chứ ta đây là rường cột của xã tắc lẽ đâu gặp nước loạn lại theo giặc bỏ vua. Dầu ta có chết cũng không thể bỏ thành này được.

Nói rồi quay qua hỏi các tướng:

– Có ai bắt Khương Thượng cho ta!

Bốn người con đồng xông ra một lượt.

Bên kia các tướng Châu cũng lướt ra ngăn cản.

Tô Toàn Trung đánh với Dư Ðạt, Võ Kiết cự với Dư Kiệt, Ðặng Tú hỗn chiến với Dư Quang, Hoàng Phi Hổ được đấu với Dư Tiên, còn Dư Hóa Long đứng thị chiến.

Tám tướng hỗn chiến với nhau một hồi bên nào cũng quyết thắng nhưng chưa bên nào thủ thắng được.

Dư Ðạt trá bại, Tô Toàn Trung thừa thắng đuổi theo bị Dư Ðạt vụt Thiết tiên, trúng nhằm kiếng hộ tâm bể nát.

Thấy Tô Toàn Trung sa xuống ngựa, Dư Ðạt lướt tới đâm, may nhờ Lôi Chấn Tử bay tới kịp đỡ thương.

Quân Châu cứu Tô Toàn Trung đem về dinh.

Dư Hóa Long thấy con mình thủ thắng, lập tức múa đao đến chém Tử Nha, Tử Nha đỡ ra đánh lại.

Hai bên giao đấu nghịt trời.

Bỗng Dương Tiễn giải lương về tới, thấy mười người giao đấu với nhau đồng sức, nghĩ thầm:

– Ðể ta thả chó cắn chúng cho bỏ ghét, và trợ lực với Nguyên soái.

Liền quăng con Hạo Thiên Khuyển lên. Con chó nhảy cắn vào cổ người này đến người khác, cha con Dư Hóa Long thất kinh, giục ngựa bại tẩu.

Na Tra quăng Càn Khôn Quyện, đánh nhằm vai Dư Quang, mấy cha con họ Dư vừa la vừa chạy vào ải.

Trận này quân Châu đại thắng, chém giết binh Thương vô số.

Tử Nha thu binh về, mở tiệc ăn mừng.

Trong lúc đó mấy cha con Dư Hóa Long bị chó cắn, ngày đêm rên nhức ăn ngủ không ngon.

Dư Hóa Long truyền lệnh đóng chặt mấy cửa thành, đợi dưỡng lành bệnh sẽ ra quân.

Thời may lúc này Dư Ðức trở về ải thăm cha vào giường thấy cha và các anh mình đang nằm rên rỉ, liền hỏi:

– Tại sao có chuyện lạ lùng?

Dư Hóa Long thuật lại mọi chuyện, Dư Ðức thưa:

– Chó cắn mà ăn nhằm gì, để con lấy thuốc xức thì hết.

Nói rồi mở bầu thuốc lấy mấy viên xức vào các vết thương, mấy cha con Dư Hóa Long đều lành mạnh như xưa. Cha con gặp nhau phỉ tình mừng rỡ mở tiệc ăn mừng, và tính mưu kế đánh Tử Nha.

Sáng hôm sau Dư Ðức dẫn binh đến trước dinh Châu, kêu Tử Nha ra nói chuyện.

Quân vào báo lại, Tử Nha dẫn binh tướng ra khỏi trại, thấy một đạo đồng đầu chừa hai vá, mình mặc áo đạo, chân đi giày rơm, liền hỏi:

– Ðạo đồng ở đâu đến đây?

Dư Ðức đáp:

– Ta là Dư Ðức, con út của Dư Tổng binh. Bởi Dương Tiễn thả chó cắn trộm cha và các anh ta, nên ta quyết đến đây bắt nó đánh vài gậy cho đã giận.

Dương Tiễn nghe nói đến tên mình, lướt tới nhe răng cười:

– Thằng nhỏ phách lối! Hãy trở về kẻo ta thả chó cắn chết.

Dư Ðức nổi giận liền lướt tới chém Dương Tiễn.

Dương Tiễn múa đao đánh lại. Na Tra hiện ba đầu tám tay xông vào trợ chiến.

Kim Tra, Mộc Tra, Lôi Chấn Tử, Vi Hộ đồng áp lại một lượt, vây Dư Ðức vào giữa, đánh đến nỗi Dư Ðức không rảnh tay mà dùng phép.

Còn Dương Tiễn thấy nơi mình Dư Ðức càng đánh càng có khói phảng phất bay lên, biết là người có phép tà đạo, liền quày ngựa ra ngoài, lấy viên đạn vàng bắn nhằm Dư Ðức.

Dư Ðức la lên một tiếng độn thổ trốn về thành.

Tử Nha thâu binh về thành, Dương Tiễn thưa:

– Dư Ðức là người có tà thuật, nên tà khí bốc đầy mình. Phải đề phòng kẻo mang họa.

Tử Nha than:

– Trước kia trong bài kệ thầy ta có dặn: “Phải phòng Ðạt, Triệu, Quang, Tiên, Ðức”. Nay gặp Dư Ðức chẳng biết phải nó không?

Hoàng Phi Hổ thưa:

– Ngày thứ nhất Dư Ðạt ra trận chém Thái Loan, ngày thứ nhì Dư Triệu hạ Tô hầu, ngày thứ ba Dư Quang đánh Tô Toàn Trung, sau đó năm cha con đều ra trận, nay lại có Dư Ðức là con út nữa, thế thì câu kệ ấy nhằm vào năm đứa con của nhà họ Dư rồi.

Tử Nha nghe nói kinh hãi, chau mày ủ mặt.

Còn Dư Ðức tuy bị thương bại tẩu, song chỉ uống một viên thuốc là lành bệnh ngay, liền nói với bốn người anh:

– Xin các anh tắm gội cho sạch sẽ, đặng làm phép với tôi. Chỉ trong bảy ngày binh tướng bên Châu sẽ chết hết.

Bốn người anh y lời, theo kế Dư Ðức mà làm.

Ðến đầu canh hai, Dư Ðức lấy năm cái khăn, chia làm năm sắc, trải dưới mặt đất, rồi đứng lên trên khăn ấy, bảo bốn người anh mỗi người đứng lên trên mỗi cái, xong lấy năm cái hủ nhỏ đựng năm sắc đậu, chia cho mỗi người cầm mỗi hủ, và dặn:

– Hễ tôi hô vãi thì phải hốt đậu mà vãi, tôi bảo trút thì hãy trút. Chúng ta không cần dùng đến binh tướng, mà địch quân vẫn phải thiệt mạng.

Dặn rồi làm phép, tức thí gió dậy đùng đùng. Những chiếc khăn đưa năm người bay bổng lên nửa lừng trời, chia ra làm năm hướng: Ðông, Tây, Nam, Bắc và trung ương, Dư Ðức truyền hốt đậu vãi xuống dinh Châu. Vãi được hai phần hủ thì truyền trút hết.

Năm người làm phép cho đến canh tư mới trở về thành.

Bấy giờ bên dinh Châu, binh tướng đều phát nóng lạnh, người nằm thiếp, ngóc đầu dậy không nổi.

Tử Nha cũng vậy, nằm im lìm. Sáu mươi vạn binh, kẻ trước người sau đồng một chứng bệnh.

Ðến ngày thứ ba, các đệ tử tiên gia cũng phát nóng, ai nấy mọc mụt đầy mình, nằm rên như sấm. Không còn một tên quân nào dậy được để nấu cơm hâm nước, trừ Na Tra là cốt bông sen, Dương Tiễn có huyền công biến hóa, nên không bị tà phép mà thôi.

Qua bữa sau, những mụt trong mình Tử Nha đều bầm đen, rồi binh tướng kẻ màu này người màu khác.

Na Tra nói với Dương Tiễn:

– Chuyện này xem giống như chuyện Lữ Nhạc trước kia.

Dương Tiễn nói:

– Khi trước Lữ Nhạc đánh Tây Kỳ, binh tướng cũng đau như vậy, nhưng nhờ có thành Tây Kỳ nương dựa. Nay đồn quân đóng trại giữa đồng, mà binh tướng nằm liệt, nếu cha con họ Dư thừa lúc này kéo binh đến đây, thì chúng ta không còn một người nào cầm thương chống lại nổi. Chắc chết hết cả lũ.

Hai người bàn luận, không biết tính sao.

Trong lúc cha con Dư Hóa Long lên mặt thành xem thử, thấy dinh Châu không có khói, cờ giáo ngã xiên ngã xó.

Dư Ðức cười lớn chỉ tay về phía dinh Châu, nói:

– Hiện giờ sáu mươi vạn binh tướng không còn đứa nào ngóc đầu dậy nổi.

Dư Ðạt nói:

– Nếu vậy chúng ta thừa dịp này đem binh đến giết hết cho rồi, để làm chi nữa!

Dư Ðức nói:

– Cần gì phải giết. Chỉ vài ngày nữa chúng nó chết đầy đồng, thây nằm chật đất. Như vậy thiên hạ mới thấy phép thần thông của chúng ta. Nếu kéo binh đến giết còn ai khen nữa?

Năm cha con đồng nghe lời Dư Ðức nên không khởi binh. Ấy cũng nhờ hồng phước của Võ Vương, nếu nghe theo kế Dư Ðạt thì binh tướng Tây Châu không còn một mạng.

Tuy vậy Dương Tiễn và Na Tra nơm nớp trong lòng, thức suốt đêm ngày, lo Dư Ðức kéo binh đến giết.

Thấy bịnh Tử Nha càng ngày càng nặng, Dương Tiễn nói:

– Sư thúc thở chẳng ra hơi, chúng ta biết tính làm sao.

Bỗng thấy Huỳnh Long chơn nhơn cỡi hạc bay xuống, Na Tra và Dương Tiễn vội ra tiếp đón, Huỳnh Long chơn nhơn hỏi:

– Dương Tiễn, thầy ngươi đã đến chưa?

Dương Tiễn thưa:

– Chưa thấy.

Huỳnh Long chơn nhơn nói:

– Lạ chưa! Ngọc Ðảnh chơn nhơn hứa với ta đến trước phá trận Vạn Tiên mà!

Nói chưa dứt lời, Ngọc Ðảnh chơn nhơn đến.

Dương Tiễn và Huỳnh Long chơn nhơn vội ra rước vào, Ngọc Ðảnh chơn nhơn đến xem bệnh Tử Nha, rồi nói với Dương Tiễn:

– Ngươi phải qua Hỏa Vong động cầu xin thuốc một lần nữa mới được.

Nói rồi viết một tờ sớ trao cho Dương Tiễn.

Dương Tiễn vâng lệnh độn thổ đến non tiên.

Vừa đến nơi, Dương Tiễn gặp Thủy hỏa đồng tử trước cửa động, liền bái dài và nói:

– Cảm phiền sư huynh vào tâu với lịnh Hoàng gia, có Dương Tiễn đến xin ra mắt.

Thủy Hỏa đồng tử đáp lễ và dặn:

– Sư huynh đứng đây chờ tôi một chút.

Nói rồi bước vào trước điện quỳ tâu:

– Có Dương Tiễn xin vào bái yết Hoàng gia.

Phục Hy Thánh đế phán:

– Hãy cho nó vào ra mắt.

Thủy Hỏa đồng tử truyền chỉ, Dương Tiễn bước vào quỳ lạy, rồi dâng sớ.

Lời sớ viết như sau:

“Ðệ tử là Huỳnh Long và Ngọc Ðảnh, cúi lạy Khai Thiên Tịch Ðịa Thái Hạo Hoàng thượng đế.

Ðệ tử noi theo tiên đạo, học phép trường sinh, nhằm giữ việc tu hành, dám đâu đèo bồng tâu cáo? Bởi chúng tôi lỗi đạo, phạm tột sát sanh, nên phải giúp thánh chúa, phạt người vô đạo, để lập công. Nay tới ải Ðồng Quan, bị Dư Ðức làm phép tà, binh tướng đều bị trúng độc, mê man bất tỉnh, hơi thở khò khè, cơm nước bỏ liều, mạng sống muốn dứt. Cực chẳng đã phải đến lạy trước bệ, xin Hoàng gia mở lượng hải hà, nhỏ đức từ bi hỉ xả”.

Phục Hy xem sớ rồi nói với Thần Nông.

– Nay Võ Vương thuận lòng phạt kẻ vô đạo, sáu mươi vạn binh rủi lâm chứng độc, ngự đệ cũng nên ra tay giải cứu.

Thần Nông tâu:

– Hoàng huynh nói phải lắm.

Liền lấy ba hoàn thuốc đưa cho Dương Tiễn và dặn:

– Ba hoàn thuốc này một viên cho Tử Nha, một viên cho Võ Vương uống, còn một viên hòa với nước rảy cho binh tướng, hơi độc tiêu thì bệnh lành.

Dương Tiễn quỳ lạy tâu:

– Chẳng hay bệnh ấy là bệnh gì mà độc hại như vậy?

Phục Hy phán:

– Ấy là chứng đậu chẩn, có tánh truyền nhiễm nhiều người. Nếu để trễ không toàn mạng.

Dương Tiễn lạy tâu:

– Nếu ngày sau thế gian bị bệnh ấy truyền nhiễm, thì lấy thuốc gì mà trị?

Thần Nông khiến Dương Tiễn theo mình, ra đến núi Tử Vân, nhổ một cây cỏ đưa cho Dương Tiễn và dặn:

– Ðây là vị thuốc trị bệnh đậu chẩn.

Dương Tiễn hai tay tiếp lấy cây cỏ, rồi quỳ tâu:

– Cỏ này tên gọi là gì xin cho trần gian biết.

Thần Nông phán:

– Ngươi hãy nhớ mấy câu này:

Nhành tía rẽ vàng tám cánh hoa,

Ấy là vị thuốc gọi Thăng ma,

Tánh hay giải độc trừ bông trái,

Trị đậu như thần mát thịt da.

Thần Nông lại phán:

– Nếu ai mới phát nóng, mau mau sắc cây cỏ này mà uống thì hết liền, còn để nóng lâu ngày sẽ bị thúi thịt.

Dương Tiễn từ tạ độn thổ về dinh thưa lại các việc, Huỳnh Long chơn nhơn tán thuốc hòa với nước đổ cho Võ Vương, Ngọc Ðảnh chơn nhơn đổ cho Tử Nha.

Dương Tiễn, Na Tra tán thuốc hòa với năm ba chậu nước, lấy cành dương rảy cho binh tướng. Hơi độc tan biến. Ai nấy đều lành bệnh. Tuy nhiên bệnh ấy sau này rải rác mãi truyền cho đến ngày nay.

Thấy mọi người lành bệnh, Tử Nha nói:

– Chúng ta phải ráng sức đánh Ðồng Quan mà báo thù.

Các tướng đều thưa:

– Chúng tôi xin quyết một trận thư hùng để rõ tài cao thấp.

Hồi 82: Trận Vạn Tiên Triệt Giáo sa cơ

Nói về năm cha con Dư Hóa Long cãi lời Dư Ðạt, tin phép Dư Ðức, nên không sợ binh Châu, cứ ăn tiệc, uống rượu, chờ quá bảy bữa quân Châu chết hết.

Qua đến ngày thứ tám không có tin tức gì cả.

Dư Hóa Long nói với các con:

– Nay đã tám ngày sao không thấy tin gì cả. Chúng ta lên lầu xem thử thế nào?

Bốn người con khen phải, đồng kéo nhau lên lầu nhìn qua dinh Châu thì thấy người qua kẻ lại tấp nập, cờ xí hẳn hoi, khói bốc lên nhiều chỗ, không còn im lìm như mấy ngày trước.

Dư Hóa Long ngạc nhiên hỏi Dư Ðức:

– Vì cớ gì binh Châu không chết mà lại hết bịnh, sống như xưa?

Dư Ðức không trả lời thì Dư Ðạt nổi giận nói:

– Dư Ðức! Tại ngươi cãi lời ta nên hư hết công chuyện thấy chưa? Qua bảy ngày thì chúng nó chết đâu? Có nước bảy ngày chúng ta chết hết cả nhà mà thôi.

Dư Ðức nổi giận không nói nên lời, ngẫm nghĩ:

– Thầy ta dạy phép này mầu nhiệm lắm, sao hôm nay lại hết linh nửa chừng. Ðây chắc là có duyên cớ gì đây. Ta đến xem thử.

Nghĩ rồi nói với Dư Hóa Long:

– Việc đã đến thế này thì dầu chúng ta có bàn, có cãi cũng chẳng ích gì. Chi bằng nhân cơ hội này, quân sĩ đau mới dậy, sức lực kém sút, chúng ta đem binh đánh úp chắc là thắng trận. Nếu để chậm trễ chúng lành mạnh như trước thì khó mà thắng chúng.

Dư Hóa Long khen phải, liền dẫn binh tướng cùng năm con ra khỏi thành kéo đến dinh Châu. Binh sĩ kéo đi la ó vang trời, vẻ mặt kiêu căng, khinh địch lắm.

Tử Nha nghe tin cha con Dư Hóa Long kéo quân đến khiêu chiến, liền dẫn binh tướng ra khỏi thành. Hai bên dàn trận đối diện nhau.

Dương Tiễn đưa mắt quan sát rồi nói với Tử Nha:

– Tôi xem Dư Ðức quá sức khinh địch, chắc mười phần chúng thất bại rồi.

Tử Nha nghe nói, lòng an đi phần nào, liền giục Tứ Bất Tướng đến trước, nói lớn:

– Dư Hóa Long! Hôm nay là ngày tận số của cha con chúng bây rồi đó.

Lúc này, Kim Tra, Mộc Tra nổi nóng, Vi Hộ nghiến răng trèo trẹo, Dương Tiễn giận đổ hào quang mặt, Lôi Chấn Tử vỗ cánh hét vang như sấm, Lý Tịnh đưa mắt nhìn thấy cha con Dư Hóa Long như muốn ăn tươi nuốt sống, Long Tu Hổ bộ tịch chẳng khác thần trùng, nhảy dựng lên, hai tay ném đá vào binh sĩ Dư Hóa Long như mưa.

Các tướng Châu lớn nhỏ đều áp vào, sáu cha con họ Dư tả xông hữu đột.

Na Tra hiện ra ba đầu tám tay lên xe xông vào ải đánh quân sĩ chạy tan vỡ.

Sáu cha con Dư Hóa Long tuy trông thấy, nhưng bị các tướng vây phủ, không làm sao trở về cứu thành được, tất cả đều rủn lòng nản chí, vì nếu Na Tra chiếm ải rồi, cha con họ Dư chẳng khác nào bầy chim mất ổ.

Ðang lúc bối rối, Lôi Chấn Tử từ trên cao đáp xuống, đập Dư Quang một gậy bể đầu, Dư Ðạt trông thấy hét lớn:

– Thất phu, ngươi dám giết em ta sao?

Liền xông lại đánh Lôi Chấn Tử. Chẳng ngờ bị Vi Hộ quăng Gián ma xử trúng đầu chết ngay.

Còn Dương Nhậm lấy quạt, quạt Dư Tiên một cái cháy thành tro, quạt Dư Triệu một cái hóa gió.

Dư Ðức thấy anh em đều bị chết, nổi giận chém Tử Nha.

Tử Nha quăng Ðả Thần Tiên lên đánh Dư Ðức té nhào xuống đất, Lý Tịnh đâm bồi một kích, hồn Dư Ðức bay về đài Phong Thần.

Lôi Chấn Tử bay theo Na Tra đón đường Dư Hóa Long, vì sợ Dư Hóa Long vào ải. Dư Hóa Long thấy năm con đều tử trận, ải Ðồng Quan cũng bị mất rồi, liền ngửa mặt lên trời nói lớn:

– Bệ hạ ôi! Tôi không đủ tài phò được chúa, thiếu sức báo thù con, xin liều thân cho trọn nghĩa.

Nói rồi dùng gươm tự vận.

Có bài thơ rằng:

Binh giặc hằng hà khó đụt công,

Cha con Dư thị cũng anh hùng

Liều thân sống thác phò vua Trụ,

Chém tướng bền gan giữ ải Ðồng

Dạ sắt, thù non trương mắt trắng,

Lòng son lưỡi kiếm nhuộm màu hồng

Ngàn năm người mất danh không mất,

Dòng cọp sanh hùm giống tạc lông.

Tử Nha thấy Dư Hóa Long tử tiết, liền dẫn quân vào ải chiêu an bá tánh, kiểm điểm lương tiền.

Thấy sáu cha con họ Dư trung nghĩa, Tử Nha truyền quân chôn cất tử tế.

Những binh tướng chưa được lành mạnh, Tử Nha cho ở lại ải Ðồng Quan dưỡng bệnh, còn những binh tướng mạnh mẽ đều được lệnh sửa soạn tấn binh.

Huỳnh Long chơn nhơn và Ngọc Ðảnh chơn nhơn bước ra nói:

– Ðằng trước kia là trận Vạn Tiên, phải để Võ Vương ở lại đây an nghỉ, các tướng ở lại phò hộ, chỉ riêng các đệ tử tiên gia tham chiến mà thôi, Nguyên soái nên cho người đến gần trận cất một cái Lư Bồng, để rước chư tiên và mấy vị Tây phương. Lần này nữa thì dứt anh em chúng tôi về núi tu hành. Nguyên soái cũng đã tai qua nạn khỏi.

Tử Nha nghe nói liền truyền Dương Tiễn và Lý Tịnh ra cất Lư Bồng.

Vài hôm sau Lư bồng đã cất xong, Dương Tiễn trở về báo lại.

Huỳnh Long chơn nhơn nói:

– Phải truyền các tướng đồn binh cách xa Lư Bồng bốn mươi dặm, không ai đựợc đến Lư Bồng, chỉ trừ các đệ tử tiên gia mà thôi. Ðợi phá trận xong sẽ tấn binh lấy ải.

Các tướng đều tuân lệnh. Hai vị chơn nhơn cùng với Tử Nha dẫn các đồ đệ đến Lư Bồng, thấy hương đốt thơm tho, hoa đèn rực rỡ, bốn bề kéo gấm, bốn cửa có thang.

Chẳng bao lâu đã thấy Quảng Thành Tử, Xích Tinh Tử, Văn Thù Quảng pháp thiên tôn, Phổ Hiền đạo nhơn, Từ Hàng đạo nhơn, Thanh Y đạo nhơn, Thái Ất chơn nhơn, Linh Bửu đại pháp sư, Ðạo Hạnh thiên tôn, Cù Lưu Tôn, Vân Trung Tử, Nhiên Ðăng đạo nhơn, tất cả đều đến Lư Bồng một lượt.

Tử Nha ra ngoài nghênh tiếp, các tiên đáp lễ và nói:

– Qua hội này mới xong việc một ngàn rưỡi năm nay.

Tử Nha hỏi thăm Nhiên Ðăng:

– Trận này ra sao?

Nhiên Ðăng đáp:

– Phải đợi Tôn sư xuống mới biết được.

Bấy giờ Kim Linh thánh mẫu ở trong trận Vạn Tiên, thấy Lư Bồng có hào quang chói sáng, biết các đệ tử cung Ngọc Hư đã đến, liền vỗ tay sấm nổ, hiện ra một trận Vạn Tiên.

Bởi vì, tuy trận Vạn Tiên đã lập, nhưng ngút tỏa khói che, không ai thấy được.

Các tiên lên Lư Bồng trông thấy ngồi ngó sững sờ. Trong trận hiện nhiều biển nọ non kia không biết bao nhiêu mà kể. Lại có nhiều vị tiên dị hình thuở nay chưa từng thấy lần nào, từng dưới từng trên chen nhau không lọt.

Nhiên Ðăng nói với các tiên:

– Hôm nay chúng ta mới thấy Triệt giáo là đông, chẳng biết mấy ngàn mà kể.

Huỳnh Long chơn nhơn đáp:

– Từ nguyên thỉ đến nay, đạo gia phải coi là trọng, nên lựa người đức hạnh mới truyền, không ngờ Triệt giáo khác hơn, đụng ai truyền nấy. Tuy là đông, nhưng ít người có đức. Những kẻ dữ như hùm cũng xen vào đó, làm sao thành chánh quả, khỏi đọa luân hồi?

Ðạo Hạnh thiên tôn nói:

– Một ngàn rưỡi năm mới gặp một hội, chúng ta xuống Lư Bồng xem thử.

Nhiên Ðăng nói:

– Chúng ta chẳng nên coi trước, đợi tôn sư đến sẽ hay.

Quảng Thành Tử nói:

– Chúng mình không phá trận, cũng chẳng khiêu khích ai, đứng xa coi can chi lại sợ.

Các tiên đều khen lời nói của Quảng Thành Tử là đúng, đồng kéo xuống Lư Bồng. Nhiên Ðăng không cản được, túng thế phải theo sau, vì sợ các tiên sinh sự.

Các tiên xem thấy trận nhiều cửa lắm, hào quang muôn trượng, sát khí ngàn trùng, đều lắc đầu tự nhủ:

– Thật là trận dữ, lắm kẻ hung hăng.

Nhiên Ðăng nói:

– Quý vị xem cho kỹ, trong trận có người nào chơn tu từ thiện hay không?

Các tiên đều lắc đầu lui gót. Bỗng nghe trong trận chuông khua inh ỏi, có một vị tiên Triệt giáo từ trong trận bước ra ngâm lớn:

Người cười Mã Toại thiệt tiên ngây,

Mới tiết tiên ngây có phép này

Ngày có phép này ai hiểu thấu?

Nầy ai hiểu thấu cự cùng đây.

Mã Toại ngâm xong kêu lớn:

– Các tiên Xiển giáo coi thường giáo đạo ta! Ðã xem trận ta thì phải thử tài cao thấp.

Nhiên Ðăng trách các tiên:

– Tại quý vị cãi lời tôi, lén xem chi sinh sự.

Huỳnh Long chơn nhơn bước tới nói:

– Mã Toại, đừng khoe tài cậy phép. Nay ta chẳng hơn thua cao thấp với ngươi, đợi thầy ta tới đây rồi sẽ phá trận, ngươi chớ nóng nảy làm gì.

Mã Toại nhảy tới chém Huỳnh Long chơn nhơn một đao.

Huỳnh Long chơn nhơn đỡ ra chém lại.

Ðánh được vài hiệp, Mã Toại quăng Kim Cô rớt xuống, niền đầu Huỳnh Long chơn nhơn lại làm cho Huỳnh Long chơn nhơn nhức đầu té xỉu xuống đất, ôm đầu la chết.

Các tiên vội đến đỡ Huỳnh Long về Lư Bồng, lột Kim Cô ra, nhưng không làm sao gỡ được, gỡ chừng nào Kim Cô bóp chặt chừng nấy. Ðến nỗi Huỳnh Long chơn nhơn lòi con mắt, đổ hào quang.

Các tiên không biết làm sao, ngồi chùm nhum mà ngó.

Bấy giờ Nguyên Thỉ đã định xuống phá trận Vạn Tiên, nên sai Nam Cực tiên ông cầm Ngọc phù đi trước.

Nam Cực tiên ông cỡi hạc đến nơi, vừa sa xuống, Mã Toại trông thấy đằng vân lên mây đón đường. Nam Cực tiên ông nói lớn:

– Mã Toại, đừng làm dữ, chưởng giáo tôn sư đi sau.

Mã Toại không tin, muốn trổ tài với Nam Cực tiên ông, bỗng nghe mùi hương bay tới, lại nghe tiếng nhạc đến gần, biết có Nguyên Thỉ thiên tôn, mới chịu đằng vân về trận.

Nam Cực tiên ông xuống Lư Bồng, tin cho chư tiên hay trước, chư tiên đều xuống Lư Bồng đồng lạy nghênh tiếp.

Nguyên Thỉ nói:

– Huỳnh Long mắc nạn Kim Cô, hãy lại đây thầy giải cứu.

Huỳnh Long chơn nhơn bước tới, Nguyên Thỉ họa bùa, Kim Cô rớt xuống tức thì. Huỳnh Long chơn nhơn lạy tạ rồi đứng một bên.

Nguyên Thỉ nói:

– Phá trận này rồi, các ngươi khỏi nạn thì lo về núi tu hành, nghe giảng dạy như xưa, chớ nên xuống hồng trần mà mắc đọa.

Các tiên đồng cúi đầu, đứng hầu hạ hai bên.

Bỗng nghe tiếng nhạc vang trời, mùi hương ngát mũi, Nguyên Thỉ biết Lão Tử giáng hạ, liền dắt đệ tử ra ngoài nghinh tiếp.

Lão Tử bước xuống Thanh ngưu, lên Lư Bồng ngồi giữa.

Các tiên làm lễ xong, Lão Tử vỗ tay nói:

– Nhà Châu bất quá tám trăm năm sự nghiệp mà ta phải xuống thế bốn lần. Tuy là bậc thần tiên vẫn còn mắc khí số.

Nguyên Thỉ nói:

– Khí số thần tiên phật tổ còn không tránh khỏi, huống chi học trò tôi phạm tội sát sanh, làm sao khỏi đọa. Tôi xuống đây một chuyến cho xong sát kiếp thì thôi.

Hai vị nói rồi ngồi làm thinh cho đến tối.

Qua đến giờ tí, hai đạo hào quang xông lên, nhểu xuống như mưa không dứt.

Kim Linh thánh mẫu ở trong trận Vạn tiên thấy hai đạo hào quang, biết nhị vị sư bá đã đến, thầm nhủ:

– Sư bá đã đến rồi, sao thầy mình chưa thấy?

Rạng ngày nghe giọng đàn thánh thót, tiếng ngọc leng keng, Thông Thiên giáo chủ dẫn các tiên tới trận.

Kim Linh thánh mẫu cùng các tiên ra ngoài rước, Thông Thiên giáo chủ lên ngồi trên đài Bát quái, các tiên làm lễ rồi đứng hầu.

Kim Linh thánh mẫu thưa:

– Hai vị sư bá đã đến rồi.

Thông Thiên giáo chủ nói:

– Nay trăng khuyết khó tròn. Ðã lập trận Vạn Tiên phải làm cho biết thấp cao để rửa lòng mình cho sạch.

Nói rồi sai Trường Nhĩ Ðịnh Quang Tiên đem thơ dâng cho hai vị sư bá.

Ðịnh Quang Tiên vâng lệnh đem thơ đến dưới Lư Bồng, Na Tra hỏi:

– Ngươi là ai đến đây có việc chi?

Ðịnh Quang Tiên nói:

– Tôi đi hạ chiến thơ cho hai vị sư bá, cảm phiền thưa giúp một lời.

Na Tra lên Lư bồng nói lại, Lão Tử truyền cho vào.

Ðịnh Quang Tiên bước tới, làm lễ dâng thơ, Lão Tử khai thơ xem rõ nói:

– Ta đã biết rồi. Ngày mai phá trận.

Ðịnh Quang Tiên lạy tạ lui về, thuật chuyện lại với Thông Thiên giáo chủ.

Hôm sau, Lão Tử và Nguyên Thỉ dẫn các đồ đệ đến xem trận Vạn Tiên.

Lão Tử xem rồi nói với Nguyên Thỉ:

– Ta xem trận này thấy Triệt giáo dùng nhiều người kỳ quái. Triệt giáo chỉ dạy người cho đông không chọn người đức hạnh cho nên không mấy người thành chánh quả.

Bỗng thấy Thông Thiên giáo chủ cỡi Khuê ngưu lướt tới, bái một cái và nói:

– Tôi xin chào hai vị sư huynh.

Lão Tử trách:

– Sư đệ thật quá tệ, không biết ăn năn sửa lỗi, làm sao gọi là giáo chủ được? Trước kia đã thất trận Tru Tiên, đáng lẽ ẩn mình tu luyện, sửa tánh rèn tài, lại còn lập trận này nữa, muốn cho đệ tử mình chết hết hay sao?

Thông Thiên giáo chủ nói:

– Nhị vị sư huynh đừng ỷ mình hiếp đáp tôi. Tôi và hai vị sư huynh cùng học một thầy, đạo cùng một gốc, tuy có chia hai phái hệ, nhưng vẫn là tình anh em. Trước hết, hai vị sư huynh để môn đồ mình khi dễ Triệt giáo chúng tôi, mà không có một lời răn dạy. Như vậy hai vị sư huynh có tự cho mình là khỏi phải cần ăn năn sửa lỗi hay không? Còn bảo là tôi dạy học trò bừa bãi, không chọn người thì thật không đúng, vì đã là đạo, chủ trương mở rộng từ bi, giúp người cứu thế thì dù kẻ ác người thiện vẫn có quyền hành đạo, không cấm ngăn ai cả. Ðạo là khung cửa mở rộng thênh thênh cho những ai muốn vào. Hai vị sư huynh tự cho môn đồ mình có đạo đức ư? Chưa chắc như vậy đâu! Thân Công Báo không phải là môn đồ Xiển giáo sao, đã vậy lại đi xúi giục môn đồ của tôi xuống trần làm loạn cho bỏ thân, hành động của môn đồ mình như vậy, hai vị sư huynh dám cho mình là toàn vẹn không? Ðã có một Thân Công Báo làm bậy, thì một Quảng Thành Tử khi dễ Triệt giáo chúng tôi không phải là chuyện không có. Còn nói đến việc tôi lập trận Tru Tiên, chẳng qua để cảnh cáo môn đồ Xiển giáo, làm cho chúng thấy rằng Triệt giáo không phải bất tài, hèn hạ như chúng tưởng, nếu hai vị sư huynh đáng mặt đạo đức, cầm quyền chưởng giáo thì phải tự thấy lỗi mình trước, răn dạy môn đồ, lại ỷ mạnh hiếp đáp chúng tôi nữa. Nhưng nếu hai vị sư huynh cùng tôi xếp xử, trong nhà đóng cửa dạy nhau, thì cũng chẳng có gì ân hận, đàng này hai sư huynh lại thỉnh Chuẩn Ðề đến, dùng Gia Trì xử đánh tôi nữa. Tại sao hai sư huynh nhờ người ngoài đến đánh bạn mình mà không thấy xấu hổ. Tôi với hai sư huynh cùng học một thầy, cùng một đạo, Chuẩn Ðề đánh tôi cũng như đánh hai sư huynh, lẽ nào sư huynh không thấy việc nhục nhã. Hai sư huynh bảo tôi về núi ăn năn sửa tánh, nhưng theo tôi, chính hai sư huynh phải ăn năn sửa tánh mới phải.

Nguyên Thỉ cười nói:

– Sư đệ đừng cãi lẽ làm chi. Ðã lập trận rồi thì cứ trổ tài cho biết cao thấp.

Thông Thiên giáo chủ nói:

– Nay tôi đã quyết báo cừu cho đã giận, đem trận này rửa lòng cho sạch, thì trừ ra tôi không làm giáo chủ nữa tôi mới dẹp trận này mà thôi.

Thông Thiên giáo chủ nói dứt lời quay vào trận, lập thành một cái trận nhỏ, ba dinh dính liền nhau, rồi cỡi Khuê ngưu trở ra nói:

– Hai sư huynh biết trận này chăng?

Lão Tử cười ngất nói:

– Trận này trong tay ta, lẽ nào ta lại không biết. Ấy là trận Thái cực sanh lưỡng nghi, tứ tượng.

Thông Thiên giáo chủ hỏi:

– Tuy biết tên trận, song dám phá hay không?

Nguyên Thỉ nói:

– Ngươi hãy nghe đây:

Mới chia hỗn độn đạo là cao,

Trong đục phân hai có khó nào

Thái cựa, lưỡng nghi sanh tứ tượng,

Trong tay tóm lại nhẹ như phao.

Lão Tử nói:

– Ai dám phá trận Thái cực?

Xích Tinh Tử bước đến thưa lớn:

– Ðệ tử xin ra sức.

Nói rồi bước ra ngâm:

Mừng nay tai nạn đã gần qua,

Sửa soạn về non dạo cỏ hoa,

Thái cực trận này vào chẳng khó,

Một mình lướt tới sẽ xông ra.

Xích Tinh Tử ngâm xong, xách gươm vào trận thì gặp một vị tiên râu dài, mặt đen, mặc áo Huyền quân, ấy là Ô Vân tiên chủ trận Thái Cực.

Ô Vân tiên trông thấy Xích Tinh Tử hỏi lớn:

– Xích Tinh Tử! Ngươi dám phá trận ta chăng?

Xích Tinh Tử mỉm cười nói:

– Ô Vân Tiên! Ngươi đừng có kêu ngạo, trận Thái Cực này là nơi chôn ngươi đó.

Ô Vân Tiên nổi xung, chém tới một gươm, Xích Tinh Tử đỡ ra chém lại.

Hai bên đánh được bốn hiệp thì Ô Vân Tiên quăng Hỗn nguyên chùy lên, Xích Tinh Tử té nhào xuống đất.

Quảng Thành Tử thấy vậy hét lớn:

– Chớ hại đạo huynh ta! Có Quảng Thành Tử đến bắt ngươi đây!

Nói rồi xông vào hỗn chiến. Nhưng đánh vài hiệp, Ô Vân Tiên cũng quăng Hỗn nguyên chùy lên, Quảng Thành Tử cũng nhào xuống cát, nhưng gượng đứng dậy được chạy qua hướng Bắc.

Thông Thiên giáo chủ thấy Quảng Thành Tử chạy trốn, liền nói lớn:

– Ô Vân Tiên! Ngươi phải bắt cho được Quảng Thành Tử đem về đây nạp cho ta.

Ô Vân Tiên vâng lệnh, đuổi theo.

Quảng Thành Tử chạy một mạch đến chân núi ngó ngoảnh lại thì thấy Ô Vân Tiên vẫn còn đuổi theo bén gót.

Quảng Thành Tử thất kinh sửa soạn chạy nữa, nhưng may thay vừa lúc đó có Chuẩn Ðề từ trong núi bước ra, chận Ô Vân Tiên lại nói:

– Tôi xin chào đạo hữu.

Ô Vân Tiên biết mặt Chuẩn Ðề, tức giận hét lớn:

– Chuẩn Ðề! Ngày xưa ngươi phá trận Tru Tiên làm nhục thầy ta, hôm nay lại cản đường không cho ta bắt Quảng Thành Tử, thật thù này chẳng đội trời chung với ngươi.

Nói rồi vung gươm chém tới.

Chuẩn Ðề hả miệng, tức thì một bông sen bay ra cản lưỡi gươm lại rồi ngâm:

Sen xanh trên lưỡi ngăn gươm lại,

Phướng trắng trên tay dắt bạn về.

Ngâm xong nói tiếp:

– Ô Vân Tiên! Ngươi có phận làm bạn với ta, nên hôm nay ta đón ngươi về cực lạc.

Ô Vân Tiên tức giận, hai mắt đỏ ngầu, hét:

– Chuẩn Ðề! Ngươi khi ta quá lắm rồi. Vậy hãy đỡ.

Nói vừa dứt lời, lưỡi gươm trên tay đâm thẳng vào mặt Chuẩn Ðề.

Chuẩn Ðề đưa tay chỉ một cái, hiện ra một bông sen trắng đỡ gươm vẹt ra, rồi ca:

Trong tay sen trắng đỡ trường gươm,

Muốn đọ Ô Vân phải chịu nhường,

Ở chốn hồng trần xem chẳng thú,

Quyết đem đạo hữu lại Tây phương.

Ô Vân Tiên nghe ca tức lồng lên, hét:

– Chuẩn Ðề! Ðừng có nói xàm, ta chẳng nghe đâu.

Ðoạn chém một gươm.

Chuẩn Ðề chỉ tay một cái, hiện ra bông sen đỡ gươm và nói:

– Ô Vân Tiên! Ta lấy lòng từ bi tế độ, không nỡ cho ngươi hiện nguyên hình. Nếu không nghe lời cứ làm tới thì thật uổng công tu luyện. Vậy hãy suy nghĩ kỹ lại đi, có theo ta về miền cực lạc Tây phương hay không?

Ô Vân Tiên chẳng khác nào lửa đổ thêm dầu, không nói năng gì cả bay tới đâm nhầu. Chuẩn Ðề liền đưa Phất thủ ra đỡ làm cho gươm của Ô Vân Tiên bay mất lưỡi, chỉ còn cái cán nằm trong tay.

Ô Vân Tiên thất kinh liền quăng Hỗn Nguyên chùy lên.

Chuẩn Ðề trông thấy bỏ chạy.

Ô Vân Tiên không bỏ một cơ hội nào đuổi theo bén gót.

Chuẩn Ðề liền kêu lớn:

– Vậy chớ đồ đệ ở đâu?

Tức thì Thủy Hỏa đồng tử cầm Lục căn thanh tịnh trước, tức là cần câu chạy đến.

Hồi 83: Phá trận dữ, tiên thú hiện hình

Khi ấy Thủy Hỏa đồng tử cầm cần câu phép thòng xuống, chiếu muôn đạo hào quang, chụp Ô Vân Tiên chạy ra không khỏi.

Chuẩn Ðề kêu lớn:

– Ô Vân Tiên chưa hiện nguyên hình còn đợi chừng nào?

Ô Vân Tiên rùng mình một cái, hiện ra một con cá ngao râu vàng, Thủy Hỏa đồng tử thấy cá ngao mắc câu vùng vẫy mạnh lắm, liền buông cần câu nhảy lại đè đầu cá gỡ lưỡi câu ra rồi cỡi cá ngao bay về ao Bát Ðức.

Chuẩn Ðề thấy Thủy Hỏa đồng tử đã trở về Tây phương liền đến Vạn Tiên trận.

Thông Thiên giáo chủ thấy Chuẩn Ðề đến, giận đỏ mặt hét lớn:

– Chuẩn Ðề nay ngươi đến phá trận Vạn Tiên ta nữa, ta với ngươi quyết một còn một mất.

Chuẩn Ðề nói:

– Ô Vân Tiên có công tu luyện nên ta đã rước về Tây phương nuôi trong ao Bát Ðức rồi. Ở đó thong thả, thảnh thơi hơn chốn hồng trần.

Thông Thiên giáo chủ nổi giận muốn đánh với Chuẩn Ðề, bỗng có một người từ trong trận Thái Cực bước ra ngâm lớn:

Chánh đạo hơn phàm đạo,

Thiên tiên khác địa tiên

Nếu ai thông phép ấy,

Chẳng thánh cũng là hiền.

Người vừa ngâm là Cù Thủ Tiên.

Dứt lời ngâm, Cù Thủ Tiên hỏi lớn:

– Ai thần thông thì đến trận ta mà phá.

Chuẩn Ðề nói:

– Văn Thù, đạo sĩ này có phần với ngươi đấy, hãy đi phá trận và thâu về.

Văn Thù nghe nói bước tới. Chuẩn Ðề chỉ lên đầu Văn Thù một cái hiện ra ba đạo hào quang.

Nguyên Thỉ đưa cho Văn Thù một cây phướng Bàng Cổ và dặn:

– Cầm phướng này vào trận.

Văn Thù lãnh phướng ngâm lớn:

Cho hay trận ấy cướp càn khôn,

Hai mây âm dương đã chứa dồn

Biến hóa thấp cao sanh vạn vật,

Tạo nên vũ trụ dựng trường tồn.

Văn Thù vừa ngâm dứt tiếng, Cù Thủ Tiên đã lướt tới chém một gươm, Văn Thù đỡ rồi chém lại.

Ðánh được ít hiệp, Cù Thủ Tiên trá bại chạy về trận, Văn Thù cầm phướng đuổi theo, Cù Thủ Tiên quăng Phù ấn lên trận biến thành bốn vách sắt thành đồng, bốn phía đao binh tợ núi.

Văn Thù cầm phướng Bàng cổ phất vài cái, biến hình thành mặt xanh tóc đỏ, hào quang hiện trên đầu, bông sen nở dưới chân, tay cầm Gián ma xử.

Cù Thủ Tiên thấy Văn Thù hiện pháp thần rất dữ, xem lại trận đã tan, nhắm thế cự không lại, vội tìm đường chạy.

Văn Thù quăng Khổn nguyên thằng lên, sai Huỳnh Cân lực sĩ trói Cù Thủ Tiên đem về bỏ dưới Lư Bồng rồi thâu phép trở ra thuật chuyện với Nguyên Thỉ.

Nguyên Thỉ sai Nam Cực tiên ông xuống Lư Bồng bắt Cù Thủ Tiên phải hiện nguyên hình.

Nam Cực tiên ông vâng lệnh xuống thấy Cù Thủ Tiên bị trói liền niệm thần chú và hét lớn:

– Sao chẳng hiện nguyên hình còn đợi chừng nào?

Cù Thủ Tiên lắc đầu vài cái nhào xuống đất hiện nguyên hình là con sư tử lông xanh, vác mặt, ngoắc đuôi coi bộ rất dữ tợn.

Nam Cực tiên ông lên Lư Bồng thưa lại với Nguyên Thỉ.

Nguyên Thỉ treo đính bài lên cổ, trên đính bài đề ba chữ: “Cù Thủ Tiên”. Rồi cho Văn Thù cỡi.

Hôm sau Lão Tử và Nguyên Thỉ dẫn các đồ đệ ra trận, hỏi:

– Thông Thiên giáo chủ ở đâu?

Thông Thiên giáo chủ được tin liền dẫn đệ tử ra trận, Lão Tử chỉ con sư tử râu xanh của Văn Thù cỡi và nói:

– Ðệ tử ngươi như vậy mà ngươi còn làm cao, ta cũng nực cười.

Thông Thiên giáo chủ vừa thẹn vừa giận đáp:

– Tuy vậy lòng nó không độc dữ bằng lòng con người, hình dáng nó không xấu xa hơn hình dáng con người.

Nguyên Thỉ nổi giận hét:

– Ngươi muốn nói gì vậy?

Thông Thiên giáo chủ nói:

– Tôi không nói con vật không có gì là xấu, cái xấu là ở chỗ người hành hạ nó. Nhưng thôi, các người có giỏi thì vào phá trận Lưỡng nghi này.

Lão Tử chưa kịp đáp lại đã thấy Linh Nha Tiên ở trong trận Lưỡng nghi bước ra nói lớn:

– Ai dám phá trận thì vào đây?

Nguyên Thỉ bảo Phổ Hiền:

– Ngươi lãnh phù Thái Cực, đi phá trận Lưỡng nghi.

Phổ Hiền vâng lệnh đến trước hỏi lớn:

– Linh Nha Tiên! Ngươi tu luyện lâu năm mới thành hình người, sao không giữ bổn phận? Nay đã sinh sự chắc ăn năn không kịp.

Linh Nha Tiên nổi giận múa song kiếm đến đánh Phổ Hiền.

Phổ Hiền đỡ rồi đánh lại.

Ðược ba hiệp, Linh Nha Tiên chạy vào trận Lưỡng nghi.

Phổ Hiền thừa thắng đuổi theo, Linh Nha Tiên làm phép sấm nổ, Phổ Hiền hiện pháp thân, coi tướng hung hăng lắm, mặt đỏ tợ son, răng trắng như bạc, bông sen dưới chân, hào quang chiếu trên đầu, sáu tay đều giơ lên, ba đầu đều ngó tới, cầm cây Gián ma xử đánh với Linh Nha Tiên, rồi lấy dây Trường hồng và phù Thái Cực sai Huỳnh Cân lực sĩ trói Linh Nha bỏ xuống Lư Bồng.

Phá trận lưỡng nghi xong, Phổ Hiền trở lại, thì thấy Lão Tử và Nguyên Thỉ đã trở về Lư bồng rồi.

Phổ Hiền bước vào thưa lại, Lão Tử đưa Tam bảo ngọc như ý sai Nam Cực tiên ông xuống đánh Linh Nha.

Nam Cực tiên ông vâng lời, lướt tới đánh vài cái. Linh Nha nhào xuống, hiện ra con bạch tượng dưới hồng trần.

Lão Tử cho Phổ Hiền cỡi, và cũng truyền đem đính vào cổ đề chữ “Linh Nha Tiên” rồi dẫn các đệ tử ra trận.

Thông Thiên giáo chủ thấy Phổ Hiền cỡi Bạch tượng, Văn Thù cỡi Thanh sư, lấy làm tức giận muốn xông tới đánh nhưng Kim Hoa Tiên ở trong trận Tứ tượng đã xông ra nói lớn:

– Các đệ tử Xiển giáo đừng kêu ngạo, có ta đến đây.

Nói rồi ngâm rằng:

Phép nhiệm Thông Thiên đã dạy truyền,

Trận đồ tứ tượng phép liên miên

Hỡi người Xiển giáo đừng khoe giỏi,

Phá được ta nhờ đứng đại tiên.

Nguyên Thỉ thấy Kim Hoa Tiên mạnh bạo lắm, liền sai Từ Hàng đạo nhơn vào phá trận, và dặn nhỏ:

– Ngươi lãnh ngọc Như ý vào làm phép như ta dặn, thì mới phá được.

Từ Hàng tuân lệnh, cầm ngọc Như ý bước ra ngâm lớn:

Ẩn núi Phổ Ðà tự thuở nay,

Ngặt vì Tứ tượng phải ra tay

Từ nay khỏi đến trường chinh chiến,

Dạo kiểng xem hoa cậy thú này.

Kim Hoa Tiên nghe ngâm nổi giận nhảy đến hét lớn:

– Từ Hàng đạo nhơn! Ngươi dám buông lời vô lễ ta e ngươi chết trong trận Tứ tượng này có đâu về núi mà ngao du.

Nói rồi chém Từ Hàng một gươm.

Từ Hàng đỡ ra đánh lại. Ðược ba hiệp Kim Hoa Tiên chạy vào trận Tứ tượng.

Từ Hàng đạo nhơn đuổi theo.

Kim Hoa Tiên đốt bùa đánh ấn, biến hóa vô cùng.

Từ Hàng vỗ đầu một cái hóa một vừng mây che thân, rồi hiện ra pháp thân, môi tợ thoa son mặt như dồi phấn, hai con mắt chiếu hào quang như hai ngọn đèn, hai trái tay chuyền bông sen như chuỗi, một tay cầm cây Bửu Xử, một tay cầm Tam bửu Như ý.

Kim Hoa Tiên trông thấy khen:

– Học trò Xiển giáo phần đông phép thần hung dữ, chỉ có Từ Hàng hiện tướng hiền lành.

Kim Hoa Tiên liệu bề khó cự muốn lui trước cho xong.

Từ Hàng biết trước, quăng Tam bửu Như ý lên cao, sai huỳnh Cân lực sĩ bắt Kim Hoa Tiên dẫn về Lư Bồng còn mình phá trận Tứ tượng xong mới trở lại.

Bấy giờ Nam Cực tiên ông đã vâng lệnh Lão Tử đứng đợi dưới Lư Bồng thấy Kim Hoa Tiên từ trên cao nhào xuống liền vỗ đầu vài cái và nói:

– Chưa hiện nguyên hình còn đợi ngày nào nữa?

Kim Hoa Tiên không dám cự, nhào một cái hiện nguyên hình. Coi lại là con Hẩu lông vàng.

Lão Tử và Nguyên Thỉ về Lư bồng truyền giao Kim mao hẩu cho Từ Hàng cỡi, và cũng đeo đính bài vào cổ nó, đề ba chữ “Kim Hoa Tiên”.

Lão Tử và Nguyên Thỉ lại dẫn các đệ tử ra trận nữa.

Thông Thiên giáo chủ thấy Xiển giáo bắt học trò mình hiện nguyên hình và cỡi, lòng đau như cắt.

Bỗng có một người đệ tử ở sau lưng nói lớn:

– Thưa tôn sư! Chẳng cần buồn giận làm chi. Ðể tôi ra bắt chúng nó.

Thông Thiên giáo chủ xem lại thì đó là Quy Linh thánh mẫu.

Quy Linh thánh mẫu bước đến ngâm:

Ngàn năm tịch cốc lắm công phu,

Học đạo theo thầy cung Bích Du

Nay xuống Tây Kỳ mong báo oán,

Làm cho rõ mặt kẻ chân tu.

Cù Lưu Tôn thấy Quy Linh thánh mẫu bước tới toan chém Nguyên Thỉ, liền đón lại hét:

– Yêu nghiệt! Ðừng vô lễ.

Nguyên Thỉ cười khích khích, nói với Lão Tử và Chuẩn Ðề:

– Con rùa cũng muốn khoe tài, không biết tu đời nào cho thành chánh quả.

Còn Quy Linh thánh mẫu thấy Cù Lưu Tôn đón đường, nổi giận giao chiến. Vừa đánh được ba hiệp, Quy Linh thánh mẫu lấy Nhựt Nguyệt châu quăng lên, Cù Lưu Tôn chưa biết phép ấy như thế nào, bại tẩu chạy về hướng Tây.

Thông Thiên giáo chủ ra lệnh:

– Quy Linh! Hãy theo bắt Cù Lưu Tôn cho ta.

Quy Linh thánh mẫu vâng lệnh đuổi theo.

Bởi Cù Lưu Tôn thành Phật tại Tây phương, nên khiến chạy về hướng ấy.

Lão Tử và Nguyên Thỉ biết rõ như vậy, nên không sai đệ tử theo tiếp ứng.

Cù Lưu Tôn chạy trước, Quy Linh thánh mẫu đuổi theo sau.

Xảy gặp một người đầu chừa hai vá, tránh đường cho Cù Lưu Tôn chạy, rồi đón Quy Linh thánh mẫu lại nói:

– Ðừng đuổi theo đạo hữu ta nữa. Ngươi đã tu thành người, đánh lẽ thủ phận mới phải, sao làm việc trái ngược? Nếu cãi lời ta, ăn năn không kịp. Thôi, ngươi trở lại cho mau, đặng ta rước Cù Lưu Tôn là phước đức về cõi Tây phương, đồng hưởng cực lạc.

Quy Linh thánh mẫu nghe nói nổi giận, hét:

– Ngươi là tín đồ Tây phương, sao không ở Tây phương, lại đến đây sinh sự?

Nói rồi quăng Nhựt Nguyệt châu lên đánh.

Chẳng ngờ người ấy là Tiếp Dẫn đạo nhơn, rất thần thông phép tắc.

Tiếp Dẫn đạo nhơn đưa tay chỉ một cái, ngón tay hiện ra hào quang, trong hào quang hiện ra bông sen xanh, đỡ trái châu Nhựt Nguyệt rồi nói:

– Bông sen xanh, đỡ bửu bối, chúng sanh có biết không?

Quy Linh thánh mẫu chưa từng thấy, còn tánh háo thắng, ngỡ Tiếp Dẫn đạo sư chỉ biết đỡ gạt, chớ không có phép gì hại mình được, liền thâu trái châu về rồi liệng nữa.

Tiếp Dẫn đạo nhơn than:

– Xem thế này thì dung tha không được. Chẳng phải quên lòng từ bi, chỉ vì số mạng.

Nói rồi lấy xâu chuỗi quăng lên. Xâu chuỗi đè nhằm lưng Quy Linh hiện nguyên hình con rùa rất lớn, nằm sải bốn giò và ngay cổ.

Cù Lưu Tôn xách gươm đến nói lớn:

– Con rùa quạ này hãy coi bửu kiếm của ta.

Tiếp Dẫn đạo nhơn nói:

– Ðạo hữu đừng phạm sát sinh nữa. Nếu còn như vậy thì oan báo nối hoài, làm sao thành chánh quả?

Nói rồi quay lại hỏi lớn:

– Ðồng tử ta đâu?

Vừa dứt tiếng đã thấy Bạch Liên đồng tử đến ngồi trước mặt.

Tiếp Dẫn đạo nhơn nói:

– Ta mắc đi với vị đạo hữu này đến rước người phước đức về phương Tây. Ngươi đem con rùa ấy về trước.

Dặn rồi đi cùng với Cù Lưu Tôn đến Lư Bồng phá trận.

Còn Bạch Liên đồng tử mở đãy nhỏ, xảy thấy một bầy muỗi bay ra, có bài thơ rằng:

Tiếng kêu thành trống nhỏ như kim,

Chun sáo qua màn đục áo xiêm

Mê mặc máu tươi cành khó đuổi,

Lánh hơi khói độc ỷ khôn tìm

Ưa mùa Xuân Hạ mừng xòe cánh,

Sợ tiết Thu Ðông lạnh thấu tim

Nay gặp Quy Linh đương lúc đói,

Ðồng bu lại đớp, chích tợ kim.

Bạch Liên đồng tử mở đãy muỗi ra, định thả một mớ để cắn Quy Linh yếu đi mà đem về, chẳng ngờ bầy muỗi đói bay ra, ngăn cản không được.

Bạch Liên đồng tử cố đuổi mà đuổi không hết.

Giây phút muỗi hút máu hết, con rùa quạ chỉ còn lại một cái vỏ khô.

Bạch Liên đồng tử đem đãy lại thâu muỗi té ra thâu không được, mà muỗi bay ào về Tây phương, đậu lên ba tòa sen, làm hư hại rất nhiều.

Ấy cũng tại Quy Linh tới số, nên khiến như vậy.

Nguyên Tiếp Dẫn đạo nhơn có mười hai tòa sen, đến sau phá trận Vạn Tiên rồi, coi lại chỉ còn chín tòa, còn ba tòa kia bị bầy muỗi hút hết nước, và làm lủng nát. Chừng ấy mới thâu muỗi vào đãy được, ăn năn thì chuyện đã lỡ.

Nói về Tiếp Dẫn đạo nhơn và Cù Lưu Tôn đến Lư Bồng, không thấy ai hết, liền thẳng đến trận Vạn Tiên.

Chuẩn Ðề đạo nhơn thấy hào quang trên trời đỏ rực, biết Tiếp Dẫn đã đến, liền nói cho Nguyên Thỉ và Lão Tử hay. Ba người đều ra nghinh tiếp.

Còn Thông Thiên giáo chủ thấy Tiếp Dẫn đến, cười cay đắng nói:

– Tiếp Dẫn đạo nhơn! Ðạo sư là người tu hành ở Tây phương sao lại đến đây nhúng tay vào việc sát kiếp? Trước kia đã đến phá trận Tru Tiên một lần, nay còn đến nữa?

Nói rồi giục Khuê ngưu tới chém liền. Tiếp Dẫn đạo nhơn hiện trên đầu ba hột xá lợi, chiếu muôn đạo hào quang.

Thông Thiên giáo chủ chém hoài không trúng, nổi giận lấy bửu bối quăng lên, Chuẩn Ðề chỉ một cái, hiện bông sen vàng ra đỡ, làm cho bửu bối không sao xuống được.

Lão Tử và Nguyên Thỉ nói:

– Xin hai vị đừng tranh đua, bữa nay hãy lui về Lư Bồng đàm đạo đã.

Xích Tinh Tử nghe nói liền rung chuông vàng, Quảng Thành Tử đánh hồi khánh ngọc. Bốn vị giáo chủ đồng trở lại Lư Bồng.

Thông Thiên giáo chủ bực mình nói lớn:

– Bữa nay ta nhường cho hai ngươi lui gót, đến mai sẽ hay.

Nói rồi lên đài Bát quái ngồi tham thiền.

Hai vị giáo chủ Xiển giáo cùng Chuẩn Ðề và Tiếp Dẫn về đến Lư Bồng ngồi vào giữa, các đệ tử đứng hầu xung quanh.

Nguyên Thỉ nói:

– Hai vị sư huynh đến giúp Châu diệt Trụ, ấy là thuận lòng trời. Vậy ngày mai chúng ta phá trận Vạn Tiên, phải trừ cho dứt đạo Triệt giáo, kẻo người sau theo nó mà lầm.

Tiếp Dẫn đạo nhơn nói:

– Bần đạo đến đây để độ người phước đức, cứu kẻ tu hành, song thấy trong trận Vạn Tiên kẻ tà mỵ thì nhiều, người chân tu lại ít, nhắm rước về Tây phương chẳng có bao nhiêu.

Lão Tử nói:

– Ðệ tử của anh em chúng tôi gần mãn kiếp sát sanh, ngày mai ráng một bữa cho rồi để trở về non tu luyện.

Nguyên Thỉ kêu Tử Nha hỏi:

– Ngày trước phá trận Tru Tiên ta có lấy được bốn cây gươm báu, nay còn đó hay không?

Tử Nha thưa:

– Ðệ tử còn cất đó.

Nguyên Thỉ truyền đem ra lập tức, rồi kêu Quảng Thành Tử, Xích Tinh Tử, Ngọc Ðảnh chơn nhơn, Ðạo Hạnh thiên tôn dặn rằng:

– Ngày mai, bốn ngươi thấy chúng ta vào trận rồi thì cầm bốn cây gươm ấy xông vào trước đài Bát quái để bốn cây gươm ấy lên chiếc tháp báu trước cửa. Nghĩa là dùng vật độc của nó mà giết học trò nó, chớ chẳng phải mình độc dữ chi.

Dặn rồi lại nói với Tử Nha:

– Ngày mai phá trận, các tướng Châu và các đệ tử ai muốn vào trận đều cho vào hết, ấy là trời khiến cho đủ số Phong Thần, ngươi chớ nên cản trở.

Tử Nha vâng lệnh xuống Lư Bồng truyền lệnh trong binh tướng:

– Ngày mai phá trận Vạn Tiên ai muốn vào cũng được.

Các đệ tử nghe nói đồng hăm hở trông cho mau sáng để trổ tài.

Các tướng tại ải Ðồng Quan cũng vậy, nghe nói Tử Nha truyền lệnh cho vào phá trận Vạn Tiên, ai nấy đều muốn đến xem trận lạ.

Hồng Cẩm nói với vợ:

– Ta là đệ tử Triệt giáo còn phu nhân là Công chúa Diêu Trì lẽ nào trận lạ thế này lại nằm đây không vào xem?

Long Kiết Công chúa nói:

– Tướng quân nói rất phải. Ngày mai hai ta vào trận xem thử.

Hôm sau, Nguyên Thỉ truyền đệ tử gióng chuông vàng khánh bạc cùng nhau xuống khỏi Lư bồng, đến trước trận vạn tiên chờ đợi.

Bên kia Thông Thiên giáo chủ truyền chỉ cho Ðịnh Quang Tiên:

– Ta giao chiến với hai vị sư bá và hai vị giáo chủ Tây phương, ngươi phải rung phướng Lục Hồn luôn luôn chớ nên nghỉ tay.

Ðịnh Quang Tiên vâng lời. Nhưng trong lòng đã có ý khác, vì Ðịnh Quang Tiên kính mến Xiển giáo về tài phép lại thấy hai vị giáo chủ Tây phương giúp sức thần thông quảng đại lạ thường.

Thông Thiên giáo chủ bắt đầu tuyên bố:

– Ai muốn vào trận xin mời vào.

Nói chưa dứt đã thấy vợ chồng Hồng Cẩm xông vào trận.

Tử Nha không dám ngăn trở. Long Kiết Công chúa và Hồng Cẩm vừa vào xảy thấy khói đen nghi ngút, mây tỏa mịt mù.

Kim Linh thánh mẫu đang ngồi trên xe Thất Hương bố trận nghe tin vợ chồng Hồng Cẩm xông vào liền nhảy xuống xe lấy cái tháp Tứ tượng quăng lên đánh Long Kiết Công chúa bể đầu chết tươi.

Hồng Cẩm thấy vợ té xuống bị chúng lấy thủ cấp nổi giận xông vào đánh Kim Linh thánh mẫu.

Kim Linh thánh mẫu lại quăng Long hổ như ý lên đánh nhằm đầu Hồng Cẩm nát tan, cả hai vợ chồng linh hồn về đài Phong Thần và dây tình duyên đã hết.

Nguyên Thỉ thấy vợ chồng Hồng Cẩm tử trận, liền than với hai vị giáo chủ Tây phương:

– Người con gái vừa tử trận là công chúa Long Kiết, con bà Diêu Trì Kim mẫu số trời đã định, không lẽ cãi được.

Xảy thấy trận vạn tiên kéo cây cờ xanh, có bốn vị đạo nhơn mặc áo xanh bước ra.

Bốn người ấy là:

Danh hiệu: Về sau phong: Tướng tinh

1. Bá Lâm: Giác mộc giao: con sấu

2. Dương Tín: Ðầu mộc trại: con giải trai

3. Lý Hùng: Khuê mộc lan: con chó sói

4. Thẩm Canh: Tỉnh mộc ngạn: con bê ngạn.

Kế đó lại thấy một tốp cờ đỏ kéo ra, tiếng chuông vang rền, bốn vị đạo nhơn mặc đồ đỏ xuất hiện, diện mạo hung hăng.

Bốn vị ấy là:

Danh hiệu: Về sau phong: Tướng tinh

5. Châu Chiêu: Vi hỏa hổ: con cọp

6. Cao Chấn: Thất hỏa trư: con heo

7. Phường Quý: Chỉ tỏa hầu: con khỉ

8. Vương Giáo: Dực hỏa xà: con rắn

Kế đó lại nghe một hồi chuông nữa, một đạo cờ trắng kéo ra bốn vị đạo nhơn mặc đồ trắng xuất hiện.

Lão Tử xem thấy nói với Nguyên Thỉ:

– Những loài thú thành tinh lâu năm nay đã tới số.

Bốn vị ấy là:

Danh hiệu: Về sau phong: Tướng tinh

9. Lý Ðạo Thông: Cang kim long: con rồng

10. Lý Hoằng: Ngưu kim ngưu: con trâu

11. Triệu Bạch Cao: Quý kim dương: con dê

12. Trường Hùng: Lâu kim cậu: con muông

Khi ấy bốn vị giáo chủ thấy Thông Thiên cầm gươm chỉ về hướng Bắc tức thì cây cờ đen dẫn đầu bốn vị đạo nhơn khác mặc áo đen bước theo sau.

Bốn vị ấy là:

Danh hiệu: Về sau phong: Tướng tinh

13. Dương Chơn: Cơ thủy báo: con beo

14. Tôn Tường: Sấm thủy viên: con vượn

15. Hồ Ðạo Nguyên: Chuẩn thủy dẫn: con trùn

16. Phương Tiết Thanh: Bích thủy du: con cừu dư

Nguyên Thỉ nói:

– Bốn người ấy cũng không đức hạnh làm sao khỏi nạn này?

Xảy thấy trong trận kéo cờ vàng, bốn đạo nhơn mặc đồ vàng bước ra.

Bốn vị ấy là:

Danh hiệu: Về sau phong: Tướng tinh

17. Trịnh Nguyên: Nữ thổ bức: con dơi

18. Tống Canh: Vị thổ trị: con trĩ

19. Ngô Khôn: Liễu thổ chướn: con cheo

20. Cao Bính: Dê thổ lạc: con nhím

Nguyên Thỉ và Lão Tử bàn luận với hai vị giáo chủ Tây phương:

– Bốn người ấy tuy là danh tiên, song cũng cốt tục, không phải kẻ tu hành.

Xảy thấy hồng kỳ chuyển động, bốn đạo nhơn mặc đồ đỏ kéo ra.

Bốn người ấy là:

Danh hiệu: Về sau phong: Tướng tinh

21. Lữ Năng: Tinh nhựt mã: con ngựa

22. Huỳnh Thương: Mao nhựt kê: con gà

23. Châu Bửu: Hư nhựt thử: con chuột

24. Dao Công Bá: Phòng nhựt thố: con thỏ

Xảy thấy Thông Thiên giáo chủ truyền phất bạch kỳ, tức thì bốn vị đạo sĩ mặc đồ trắng cầm khí giới xông ra, coi bộ dữ dằn.

Bốn vị đó là:

Danh hiệu: Về sau phong: Tướng tinh

25- Kim Thằng Dương: Tất nguyệt ô: con quạ

26. Hầu Thái Ất: Nguy nguyệt yến: con én

27. Tô Nguyên: Tâm nguyệt hồ: con cáo

28. Tiết Dụng: Trương nguyệt lộc: con nai

Ðó là nhị thập bát tú, sau phong hai mươi tám vì sao: Giác, Cang, Ðê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, Ðẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Ngu, Bích, Khuê, Lân, Vị, Mão, Tất, Chỉ, Sâm, Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn.

Thông Thiên giáo chủ dẫn nhị thập bát tú đứng bao quanh, người nào cũng cầm khí giới và hào quang chiếu sáng, oai phong lẫm liệt.

Hồi 84: Kéo binh lang đánh ải Lâm Đồng

Bấy giờ Thông Thiên giáo chủ đã duyệt qua khắp trận và các tiên cũng đã xuất hiện đầy đủ.

Lão Tử nói:

– Ta quyết một trận cho biết thấp cao, song lại thương hại cho những kẻ tu hành không được thành tiên, bị Phong Thần nhiều lắm, không phải tại chúng ta.

Thông Thiên giáo chủ nói lớn:

– Ta quyết phen này cho chúng bây biết sức.

Nói rồi giục Khuê ngưu tới chém Lão Tử.

Lão Tử đưa gậy ra đỡ, cười và nói:

– Sức ngươi ta biết rồi. Chắc hôm nay ngươi phải mang tai ách quá.

Nói rồi vung gậy hỗn chiến, cát bụi bay nghịt trời.

Bấy giờ Nguyên Thỉ kêu mười hai vị đệ tử đến nói:

– Hôm nay quyết một trận cho thành công, các ngươi phải ráng hết để đoạt lấy thành công. Vậy hãy mau xông vào phá trận Vạn Tiên.

Các đệ tử Xiển giáo mừng rỡ, đồng xông vào một lượt phá trận.

Văn Thù cỡi Thanh sư, Phổ Hiền cỡi Bạch tượng, Từ Hàng cỡi Kim mao hẩu, ba người này vỗ thú bay vào giữa trận.

Linh Bửu đạo pháp cầm gươm báu xông vô, Thái Ất chơn nhơn cầm binh khí lướt tới, Cù Lưu Tôn, Huỳnh Long chơn nhơn, Nhiên Ðăng đạo nhơn đồng cầm binh khí và bửu bối vào trận.

Sau hết là Tử Nha dẫn các đệ tử theo sau trợ chiến.

Bỗng lại thấy Lục Yểm từ trên mây sa xuống, cũng nhảy vào trận luôn.

Còn bên trận Vạn tiên thì có Kim Linh thánh mẫu, Võ Ðương thánh mẫu, Tì Lư Tiên, Kim Cô Tiên, Thân Công Báo, Khưu Dẫn,…

Hai bên hỗn chiến với nhau, không còn phân biệt gì nữa.

Lão Tử, Nguyên Thỉ đánh với Thông Thiên giáo chủ.

Kim Linh thánh mẫu bị Từ Hàng, Văn Thù, Phổ Hiền phủ vây.

Kim Linh thánh mẫu cầm ngọc Như ý cự với ba vị đạo sĩ một hồi lâu rồi liệng mão xuống đất, bỏ tất cả, ra lực giao tranh.

Rủi gặp Nhiên Ðăng vừa tới. Thấy vậy quăng xâu chuỗi Ðịnh hải châu lên, trúng nhằm Kim Linh thánh mẫu bể đầu, hồn bay lên đài Phong thần.

Quảng Thành Tử thấy hỗn chiến liền quăng gươm Tru tiên lên, Xích Tinh Tử quăng gươm Lục tiên lên, Ðạo Hạnh thiên tôn quăng gươm Hãm tiên, Ngọc Ðảnh chơn nhơn quăng gươm Tuyệt tiên lên.

Bốn cây gươm phép tỏa khói đen ngùn ngụt, bao phủ cả trận Vạn Tiên. Những người có tên trong bảng Phong Thần đều bị bốn cây gươm này chém hết.

Thông Thiên giáo chủ trông thấy thở dài than:

– Thật tàn nhẫn! Ta không ngờ chúng nó lại dùng bốn cây gươm phép của ta mà hại bọn môn đồ ta.

Còn Tử Nha lúc ấy quăng Ðả Thần Tiên lên đánh phụ với mấy gươm báu.

Na Tra hiện ba đầu tám tay chém giết rất hung hăng.

Dương Tiễn múa đao chém người như chém chuối.

Lý Tịnh cầm kích phóng tới như phóng lao. Kim Tra, Mộc Tra quăng gươm linh lên sát phạt.

Vi Hộ quăng Gián ma xử lên đánh chết cũng nhiều.

Lôi Chấn Tử bay lên cao đụng ai đập nấy.

Dương Nhậm mở quạt báu quạt địch thủ tiêu xương.

Tiếp Dẫn đạo nhơn mở túi Càn khôn ra, nhắm những người nào có phước thì thâu vào.

Thông Thiên giáo chủ thấy đệ tử mình gần chết hết, nổi giận hét lớn:

– Trường nhĩ Ðịnh Quang Tiên đâu, sao không rung phướng lục hồn trợ chiến?

Thông Thiên giáo chủ kêu mãi mà chẳng thấy phướng rung. Bởi vì Ðịnh Quang Tiên thấy Xiển giáo nhiều phép, đã cuốn phướng lạc hồn đến núp dưới Lư Bồng ẩn mặt để khỏi chết oan.

Thông Thiên giáo chủ kêu không thấy, biết Ðịnh Quang Tiên đã trốn, tức mình muốn qua Lư Bồng mà kiếm, song bị bốn vị giáo chủ ngăn đón, Thông Thiên giáo chủ ý muốn lui về non tiên lại sợ hổ mặt với môn đồ mình, túng phải đánh liều tới đâu hay tới đó.

Ðánh được một lúc, Thông Thiên giáo chủ bị lão Tử đập xuống một gậy, nổi xung lấy trái Chùy Tử Lôi quăng lên.

Lão Tử cười lớn:

– Báu vật ấy hại ta sao được.

Tức thì trên đầu Lão Tử hiện ra một cái tháp đỡ Tử Lôi chùy.

Thông Thiên giáo chủ thất kinh, bị Nguyên Thỉ đánh một ngọc Như ý trúng vai gần té. Liền gượng dậy ráng sức giao công, nhìn lại thấy nhị thập bát tú đã chết sạch.

Thân Công Báo và Võ Ðương thánh mẫu biết tình thế không xong liền bỏ chạy trước, Khưu Dẫn thấy thế chạy theo sau.

Lục yểm giở bầu gươm phép chém Khưu Dẫn rụng đầu.

Tì Lư Tiên chui vào túi Càn khôn, sau về Tây phương thành Tì Lư phật. Còn nhiều người khác phước đức cũng chui vào túi Càn khôn hết.

Bây giờ Chuẩn Ðề hiện hai mươi bốn đầu mười tám tay, cầm đủ các phép đánh Thông Thiên giáo chủ.

Thông Thiên giáo chủ chém một gươm.

Chuẩn Ðề cầm nhành cây thất bửu gạt ngang, gươm của Thông Thiên gãy từng đoạn. Thông Thiên giáo chủ giục Khuê ngưu bại tẩu, ba trăm tiên Triệt giáo còn lại chạy theo thầy.

Bốn vị giáo chủ không đuổi truyền hồi chuông vàng khánh ngọc, đồng nhau kéo về Lư Bồng.

Về đến nơi, Nguyên Thỉ thấy Ðịnh Quang Tiên núp dưới Lư Bồng lấy làm lạ hỏi:

– Ngươi là môn đồ Triệt giáo, sao lại trốn nơi đây?

Ðinh Quang Tiên quỳ lạy thưa:

– Thầy tôi có luyện cây phướng Lục Hồn, đề tên hai vị sư bá, hai vị giáo chủ Tây phương, Châu Võ Vương và Khương Nguyên soái, dặn tôi chờ lúc hỗn chiến rung phướng ấy. Song tôi nghĩ thầy tôi hay nghe lời học trò, làm nhiều điều trái lẽ, nên chẳng nỡ làm, cuốn phướng ấy qua ẩn mặt nơi đây.

Nguyên Thỉ nói:

– Lạ thật! Ngươi học trò Triệt giáo sao lại có nhơn đức như vậy? Hay là ngươi muốn theo Xiển giáo? Nếu không có cốt tiên lẽ nào đừng lương tâm.

Nói rồi truyền Ðịnh Quang Tiên theo lên Lư Bồng.

Lão Tử bảo Ðịnh Quang Tiên:

– Ngươi đưa cây phướng Lục Hồn xem thử.

Ðịnh Quang Tiên tuân lệnh dâng lên.

Tiếp Dẫn đạo nhơn nói:

– Chúng ta xé tên Võ Vương và Khương Thượng, rồi xổ phướng ấy ra rung thử.

Sau khi xé tên xong, Ðịnh Quang Tiên phất qua phất lại ít lần, thấy trên đầu Nguyên Thỉ hiện vừng mây ngũ sắc, trên đầu Lão Tử hiện cái tháp Lung linh, trên đầu Chuẩn Ðề hiện hào quang, trên đầu Tiếp Dẫn hiện xá lợi, Ðịnh Quang Tiên rung mãi không thấy gì, liền quăng cây phướng lạy bốn vị giáo chủ và thưa:

– Như vậy thầy tôi đã làm việc vô ích, hại mạng môn đồ.

Tiếp Dẫn đạo nhơn nói:

– Ngươi nghe thử bài kệ này:

Cảnh Tây phương sắc sảo,

Nước Cực lạc bình yên

Châu ngọc như đá sỏi,

Loan phụng đậu thường xuyên

Bông sen thay xác tục,

Tòa báu đãi người tiên

Ai có công tu niệm,

Từ bi mới gặp duyên.

Ngâm rồi nói:

– Ðịnh Quang Tiên là người hiền, nên rước về Phật cảnh.

Nguyên Thỉ nói:

– Ngươi có phước đức mới gặp đạo huynh. Hãy lạy mà thọ giáo.

Ðịnh Quang Tiên y lời, lạy hai vị giáo chủ Tây phương nguyện theo về Cực lạc.

Bấy giờ Tử Nha đứng dưới Lư Bồng, nói với các đệ tử:

– Nay trận Vạn Tiên phá rồi, khỏi lo Triệt giáo ngăn trở nữa.

Ai nấy đều vui mừng.

Thông Thiên giáo chủ từ khi trận Vạn Tiên bị phá, các đệ tử có đức hạnh đều chun vào đãy Càn khôn về Tây phương, những người chưa đáng thành tiên hồn lên đài Phong Thần hết thảy. Duy còn ba trăm đệ tử mới tu, không có tên trong bảng Phong Thần còn sót lại chạy theo thầy.

Thông Thiên giáo chủ chạy đến chân núi kia ngồi nghỉ, nhìn lại ba trăm môn đệ ứa nước mắt nói:

– Ta bị Ðịnh Quang Tiên trở lòng, lấy phướng Lục Hồn trốn mất, lại bị Nguyên Thỉ và Lão Tử dùng bốn cây gươm báu của ta sát lại môn đồ. Hai lẽ đó làm cho ta bại trận. Nay mặt mũi nào về cung Bích Du nữa. Ta muốn trở lại lập một trận nữa, giết môn đệ chúng nó để trả thù.

Các đệ tử đồng nói:

– Tôn sư định lập trận gì?

Thông Thiên giáo chủ nói:

– Ta định lập trận Ðịa thủy hỏa phong.

Các đệ tử hỏi:

– Trận ấy so với Tru Tiên và Vạn Tiên như thế nào?

Thông Thiên giáo chủ nói:

– Trận Tru Tiên và Vạn Tiên ta lập đó chẳng qua là để cảnh cáo. Dầu sao ta với hai vị sư bá của các ngươi cũng là bằng hữu, trước kia cùng học một thầy, giận nhau không nỡ dùng độc thủ. Thế mà hai người ấy cậy đông, ỷ sức, làm nhục ta hai lần. Trận Ðịa thủy hỏa phong này không phải chỉ giết môn đệ của chúng mà thôi, mà giết cả hai vị giáo chủ của Xiển giáo nữa.

Các môn đệ nghe nói mừng rỡ reo lên:

– Nếu vậy xin thầy ra tay một trận, để cứu lấy danh dự giáo phái chúng ta.

Thông Thiên giáo chủ buồn bã nói:

– Ðó là một việc lớn, có thể làm chấn động đến cơ trời, chẳng phải tầm thường. Vì trận ấy là một trận dữ, mà suốt đời tu hành ta đã luyện được. Ta tính đến cung Tử Tiêu, thưa với thầy ta là Hồng Quân lão tổ, rồi mới dám lập.

Dứt lới Thông Thiên giáo chủ ngồi yên trong trầm lặng, hình như đang tìm một cơ năng huyền diệu trong người để phát động một năng lực mới.

Giữa lúc đó, nơi hướng Nam có một vừng mây năm sắc hiện ra, hào quang chiếu sáng lòa, gió quyện mùi hương thơm nực.

Rồi có một ông lão đi đến ngâm lớn:

Từ đời Bàn cổ ẩn trong rừng,

Dạy được ba trò dạ rất ưng

Xiển giáo chia ra cùng Triệt giáo,

Cho hay cũng một gốc Hồng quân.

Thông Thiên giáo chủ giật mình, biết Hồng Quân lão tổ đến, liền quỳ mọp xuống đất nghinh đón và thưa:

– Ðệ tử không hay sư phụ đến, nên nghinh tiếp trễ. Xin sư phụ tha tội.

Hồng Quân lão tổ hỏi:

– Sao ngươi lập trận Vạn Tiên thiệt hại môn đồ ngươi nhiều như vậy?

Thông Thiên giáo chủ thưa:

– Bởi hai vị sư huynh khi dễ Triệt giáo, để học trò mắng nhiếc đệ tử quá lời, chẳng nghĩ đến tình thầy, khinh thường bạn hữu.

Hồng Quân lão tổ nói:

– Sao ngươi không tự trách mình, mà tìm lời trách bạn? Ngươi không nhớ lời giao ước khi mới lập bảng Phong Thần sao? Việc danh lợi là chỉ kẻ phàm, việc giận dữ là phần con gái. Nếu không dằn tánh ấy sao gọi là tiên? Vả lại ba anh em ngươi tu luyện từ thuở hỗn độn đến nay không phải một kiếp. Chẳng lẽ vì việc nhỏ nhen mà dứt nghĩa đồng song. Ta biết Lão Tử, Nguyên Thỉ cũng có nhiều điều trái lẽ, làm cho môn đồ Triệt giáo ngậm hờn, song hai người ấy thuận theo mà quấy động đạo trời. Ðã biết mỗi phái hệ có một đường tu, song đường tu nào kết cuộc cũng phải về lẽ chánh. Nếu ngươi thù hiềm mãi, cố lập trận Ðịa thủy hỏa phong, làm khó dễ cho hai vị sư huynh ngươi, thì phần ngươi cũng không an được. Ta lấy tình sư đệ xuống đây giải hòa. Ðạo nào lo dạy đạo nấy.

Thông Thiên giáo chủ thưa:

– Sư phụ quở trách đệ tử không dám cãi, nhưng xét ra Triệt giáo không làm gì hại đến Xiển giáo mà Xiển giáo cố áp bức, gây sát kiếp. Như hai trận vừa rồi, Xiển giáo mời hai vị giáo chủ Tây phương xuống đánh đệ tử, rồi chia nhau bắt môn đồ đệ tử một số hiện nguyên hình để sai khiến một số bắt đem đi để dùng riêng. Như vậy còn gì ức hiếp bằng. Sư phụ không nghĩ điều ấy quở trách đệ tử thật oan ức.

Hồng Quân lão tổ nói:

– Thì ta đã bảo hai bên đều có lỗi lầm cả. Nay phải bỏ lỗi lầm để hòa thuận với nhau. Nếu các ngươi có đứa nào không nghe lời, ta không nhìn là đệ tử nữa.

Nói rồi quay lại bảo ba trăm môn đồ Triệt giáo:

– Các ngươi hãy về động tiếp tục tu luyện, đừng nghĩ đến oán cừu nữa.

Thông Thiên giáo chủ thấy thầy mình nói gắt như vậy, nuốt hận thưa:

– Sư phụ đã dạy, đệ tử không dám cãi lời, nhưng thật không còn mặt mũi nào nhìn thấy ai nữa.

Hồng Quân lão tổ dắt Thông Thiên giáo chủ tới Lư Bồng.

Na Tra đứng ngoài đang bàn luận với các tiên, thấy Thông Thiên giáo chủ với một ông già tóc bạc chống gậy đến, hào quang chói mắt, vội chạy vào nói lớn:

– Có Thông Thiên giáo chủ và một lão sư đến đây.

Nguyên Thỉ và Lão Tử biết sư phụ mình đến, liền ra khỏi Lư Bồng quỳ mọp xuống đất nghinh đón.

Các đệ tử tiên gia thấy vậy thất kinh, ai nấy quỳ thành một hàng dài, sau hai vị giáo chủ.

Lão Tử và Nguyên Thỉ thưa:

– Chúng tôi không hay tin sư phụ đến, nên nghinh tiếp trễ tràng, xin sư phụ từ bi hỉ xả.

Hồng Quân lão tổ nói:

– Bởi các ngươi dạy đệ tử không nghiêm, nên sanh ra sát kiếp, Xiển giáo và Triệt giáo tranh nhau. Nay ta xuống đây lo việc giải hòa. Tai ta không muốn nghe cãi lý, mắt ta không muốn thấy tranh hành. Hai bên đều có những lỗi lầm, từ nay phải ăn năn chừa lỗi.

Lão Tử và Nguyên Thỉ đồng cúi đầu dạ một tiếng và thưa:

– Chúng tôi không dám cãi lệnh.

Nói rồi rước Hồng Quân lão tổ lên Lư Bồng.

Tiếp Dẫn và Chuẩn Ðề xin làm lễ, Hồng Quân lão tổ xua tay nói:

– Ba đứa học trò tôi là đệ tử, phải giữ lễ với thầy, còn quý vị đạo hữu xin cho tôi miễn điều ấy.

Tiếp Dẫn và Chuẩn Ðề bái một cái, rồi ngồi hầu hạ hai bên.

Các đệ tử lạy ra mắt, rồi đồng đứng hầu tả hữu.

Hồng Quân lão tổ nói:

– Ba đệ tử ta lại đây cho ta bảo.

Thông Thiên giáo chủ, Nguyên Thỉ và Lão Tử đều đến quỳ trước mặt, Hồng Quân lão tổ phán:

– Bởi khí số nhà Thương đã dứt, nhà Châu ra đời, nên hội chư tiên phải thuận theo lòng trời mà vạch bảng Phong Thần, dứt đời thịnh trị. Trên bước đường hành đạo, vì giáo lý của hai bên khiếm khuyết nên mới có cuộc tranh hành. Nhưng cũng do mệnh trời định, gấp rút cho đủ số Phong Thần. Song về lỗi lầm, ta xét Thông Thiên lỗi nhiều hơn, không phải ta thiên vị.

Tiếp Dẫn và Chuẩn Ðề đồng khen:

– Tôn sư xử đoán công bình lắm.

Hồng Quân lão tổ nói:

– Tuy vậy ta đến đây không phải luận phải quấy, mà chỉ hy vọng giảng hòa. Vì phải quấy không ích gì, chỉ có hòa thuận mới là quý. Hai bên phải nhịn nhau một ít, rời bỏ những khí tánh của mình, trở về núi tu hành, đừng sinh sự lôi thôi.

Ba vị đệ tử đồng cúi đầu. Hồng Quân lão tổ trút trong bầu thuốc lấy ra ba viên, chia cho ba người và nói:

– Chúng bây hãy nuốt mỗi đứa một viên thuốc này rồi ta sẽ giảng cho nghe.

Ba vị đệ tử nuốt mỗi người một hột.

Hồng Quân lão tổ nói:

– Thuốc này không phải là thuốc bổ mà là thuốc bịnh. Bịnh ấy là bịnh nóng giận. Hãy nghe bài kệ này:

Bởi vì ba gã khiến đua tranh,

Lỗi đạo làm em, lỗi phận anh

Từ ấy còn mang lòng cự địch,

Thuốc linh khắc phạt mạng tan tành.

Ba vị đệ tử đồng tạ ơn thầy.

Hồng Quân lão tổ đứng dậy, từ giã Tiếp Dẫn và Chuẩn Ðề, rồi bảo Thông Thiên theo chân mình về cung Tử Tiêu, đừng dạy ai học nữa.

Thông Thiên giáo chủ vâng lời.

Cùng lúc đó, Tiếp Dẫn, Chuẩn Ðề cùng từ giã trở lại Tây phương, còn các đệ tử đều lạy đưa Hồng Quân lão tổ.

Xong việc, Lão Tử và Nguyên Thỉ nói với Tử Nha:

– Nay hai ta và mười hai vị tiên trưởng đệ tử đâu về động đó tu hành. Còn ngươi lo việc phạt Trụ. Hoàn thành bảng Phong Thần, rồi mới trở về tu luyện được.

Nói rồi xuống Lư bồng, Tử Nha quỳ lạy thưa:

– Chẳng hay từ nay việc chinh phạt lành dữ thế nào xin sư phụ cho biết?

Lão Tử nói:

– Hãy nghe bài kệ này thì rõ:

Việc muốn xong rồi lựa hỏi ra?

Nạn dầu có gặp, gặp liền qua

Chư hầu gần hội tám trăm vị,

Các cuộc Phong thần vốn chẳng xa.

Lão Tử ngâm rồi đi về với Nguyên Thỉ.

Mười hai vị tiên ông cũng từ giã Tử Nha, nói:

– Nay chúng ta lui về, không gặp mặt nhau nữa.

Tử Nha bịn rịn; ngâm mấy câu tiễn đưa:

Khi đến Lâm Ðồng gặp gỡ nhau,

Nay chia hai ngã nghĩ càng đau

Từ rày cách mặt bao giờ thấy?

Kẻ tục người tiên đã khác màu.

Các tiên lui về hết.

Lục Yểm nắm tay Tử Nha nói:

– Việc chinh phạt bình yên, không có gì mà sợ. Dầu gặp nguy hiểm cũng có người cứu. Song còn vài chỗ khó khăn, nên ta để bầu gươm phép lại cho mà dùng. Từ nay ta về núi tu hành, chắc ít khi gặp mặt.

Tử Nha tạ ơn, lãnh bầu phi đao.

Lục Yểm giã từ đằng vân biến mất.

Khi Nguyên Thỉ đi một lúc, Bạch hạc đồng tử thấy Thân Công Báo cỡi cọp chạy ngang, Bạch Hạc đồng tử thưa:

– Thân Công Báo nhập theo Triệt giáo trong trận Vạn Tiên, nay trận bị phá Thân Công Báo tìm đường trốn thoát.

Nguyên Thỉ nghe nói liền trao ngọc Như ý và truyền Huỳnh cân lực sĩ bắt Thân Công Báo giam tại núi Kỳ Sơn để trị tội.

Huỳnh Cân lực sĩ lãnh ngọc Như ý chạy theo kêu lớn:

– Thân Công Báo! Ngươi chạy đi đâu cho khỏi? Ta vâng lệnh Thiên Tôn bắt ngươi đem về núi Kỳ Sơn.

Nói rồi dùng ngọc Như ý bắt Thân Công Báo tức thì.

Nguyên Thỉ đi xe trầm hương, đến chân núi Kỳ Sơn thì Huỳnh Cân lực sĩ đã đem nạp Thân Công Báo, Nguyên Thỉ nói:

– Khi trước ngươi thề làm sao, thì bây giờ ta làm như vậy.

Thấy Thân Công Báo cúi mặt làm thinh, Nguyên Thỉ lấy tấm nệm quăng ra, truyền Huỳnh Cân lực sĩ bó Thân Công Báo như cuốn kèn, đem nhận đầu xuống biển Bắc.

Có bài thơ rằng:

Cũng là Xiển giáo phải tầm Thương,

Công Báo vì đâu giúp Trụ Vương,

Quấy bạn rủ ren ba mươi sáu đạo,

Bây giờ chết đuối chẳng ai thương.

Huỳnh Cân lực sĩ nhận Thân Công Báo xuống biển Bắc, bị cái nệm phép nên độn không ra được, uống nước đầy bụng, thở chẳng ra hơi. Huỳnh Cân lực sĩ trở về thưa lại với Nguyên Thỉ mọi việc.

Bấy giờ Tử Nha đem các tướng về ải Lâm Ðồng ra mắt Võ Vương.

Võ Vương nói:

– Nay Thượng phụ đã về, tướng sĩ đủ mặt, xin kéo binh qua ải Lâm Ðồng để hội chư hầu kẻo trễ.

Tử Nha vâng lệnh truyền tấn binh, đến cách ải Lâm Ðồng tám mươi dặm hạ trại.

Chủ tướng ải Lâm Ðồng này là Âu Dương Thuần nghe tin Tử Nha kéo binh đến cướp ải, liền bàn với Biện Kim Long, Quế Thiên Lộc và Công Tôn Ðạt:

– Nay Khương Thượng kéo đại binh đến cướp ải, so với quân nó thì quân ta chẳng bằng một phần thì làm sao chống lại.

Các tướng nói:

– Ngày mai ta ra quân đánh với chúng một trận xem sao, nếu thắng thì cướp dinh chúng luôn nếu bại thì vào bế thành rồi viết sớ về triều ca xin viện binh.

Âu Dương Thuần khen phải, trong lòng đỡ lo.

Rạng ngày, Tử Nha ra khách hỏi:

– Tướng nào muốn đánh ải Lâm Ðồng?

Hoàng Phi Hổ xin đi.

Tử Nha nhận lời, Hoàng Phi Hổ kéo binh đi đến dinh thương khiêu chiến.

Quân vào báo.

Âu Dương Thuần hỏi các tướng:

– Tướng nào dám ra trận bắt nó?

Tiên phuông Biện Kim Long lãnh mạng kéo quân đi ra khỏi trại kêu Hoàng Phi Hổ hỏi:

– Tướng Châu tên họ là chi?

Hoàng Phi Hổ nói:

– Ta là Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ.

Biện Kim Long nổi giận mắng:

– Phản tặc! Dòng họ ngươi hưởng lộc vua thế mà không biết lo trả ơn lại đi phò giặc làm phản. Chuyến này gặp Kim Long này thì đừng thoát chết.

Hoàng Phi Hổ nổi giận đâm một thương.

Biện Kim Long đưa búa đồng ra đỡ. Ðánh được ba mươi hiệp thì Biện Kim Long bị Hoàng Phi Hổ đâm một giáo nhào xuống ngựa chết tươi.

Hoàng Phi Hổ cắt lấy thủ cấp rồi truyền thu binh về dinh, và đem thủ cấp dâng cho Tử Nha.

Âu Dương Thuần nghe tin Biện Kim Long tử trận thất kinh liền cho người báo tin cho vợ của Biện Kim Long là Từ Thị hay.

Từ Thị hay tin khóc lóc thảm thiết.

Lúc này con trai lớn của Biện Kim Long là Biện Kiết đang ở sau vườn nghe mẹ khóc vội chạy vào hỏi ra thì biết cha mình bị Hoàng Phi Hổ chém chết, Biện Kiết mím chặt hai môi, bỏ vào phòng nai nịt chỉnh tề, ra thưa với mẹ:

– Xin mẫu thân đừng khóc lóc vô ích. Ðể con ra trận báo thù cho cha.

Từ Thị không nghe lời can của con cứ khóc mãi, Biện Kiết nóng lòng vội bước ra ngoài thì thấy trời tối, liền vào phủ Âu Dương Thuần:

– Nay lỡ trời tối, xin để mai báo cừu.

Nói rồi trở về nha sai gia binh khiêng một cái cũi màu đỏ ra ngoài cửa ải, trước cửa dựng một cây phướng cao năm trượng rồi mở tủ lấy đầu phướng treo lên. Phướng này dùng một trăm cái sọ người xâu lại như xâu chuỗi được gọi là Bá cốt phang.

Người sau có bài thơ rằng:

Phướng kết sọ người thấy bắt ghê,

Ai đi qua đó cũng hôn mê,

Ví bằng Vua Võ không hồng phước,

Ngàn tướng muôn binh khó trở về.

Ðêm ấy Biện Kiết vẽ bùa, cho mỗi gia tướng mình giắt một lá trên mão.

Rạng ngày, Biện Kiết dẫn gia tướng đến trước dinh Châu múa kích kêu lớn:

– Tướng nào giỏi hôm qua bữa nay ra đánh thử.

Quân vào báo. Tử Nha hỏi:

– Tướng nào muốn xuất quân?

Nam Cung Hoát lãnh mạng ra trận. Ðến nơi thấy một tướng nhỏ mặt mày hung dữ.

Biện Kiết thấy Nam Cung Hoát kéo binh ra liền hỏi:

– Tướng Châu tên họ là gì?

Nam Cung Hoát cười lớn nói:

– Ngươi là thằng con nít miệng còn hôi sữa, không biết ta là đại tướng Nam Cung Hoát cũng phải.

Biện Kiết nói:

– Thôi ta chẳng giết ngươi là kẻ vô can hãy về kêu Hoàng Phi Hổ ra đây chịu chết. Vì nó giết cha ta thì ta phải hại mạng nó trước rồi mới đến phiên các ngươi.

Nam Cung Hoát nổi giận múa đao đến chém liền.

Biện Kiết đưa kích ra đỡ. Ðánh được ba mươi hiệp, Biện Kiết giục ngựa bỏ chạy, Nam Cung Hoát thừa thắng đuổi theo.

Nhưng Nam Cung Hoát vừa chạy đến chỗ cây phướng thì hôn mê bất tỉnh sa xuống ngựa.

Bọn gia tướng bắt trói lại kéo Nam Cung Hoát qua khỏi cây phướng thì Nam Cung Hoát tỉnh hồn mở mắt ra mới hay mình bị bắt.

Biện Kiết vào thưa với chủ tướng đã bắt được tướng Châu là Nam Cung Hoát, Âu Dương Thuần truyền dẫn vào.

Nam Cung Hoát vẫn đứng sững, Âu Dương Thuần nổi giận mắng:

– Phản tặc đã bị bắt sao không chịu quỳ van xin tha mạng, tới đây còn ngang ngạnh với ai? Ðao phủ đâu, mau dẫn ra chém và bêu đầu trước ải.

Công Tôn Ðạt vội can rằng:

– Hiện ở triều ca bọn nịnh thần tâu dối vua rằng chúng ta bịa ra chuyện giặc giã để chu cấp binh lương, cho nên đã dâng sớ, Thiên Tử chẳng những không thêm binh mà còn chém sứ. Ý tôi muốn giam Nam Cung Hoát chờ bắt Hoàng Phi Hổ rồi giải về Triều Ca cho gian nịnh trổ mòi và thiên tử hết nghi ngại.

Âu Dương Thuần khen phải, truyền giam Nam Cung Hoát sau dinh.

Tử Nha nghe tin Nam Cung Hoát bị bắt thì lo ngại.

Bữa sau quân vào báo:

– Biện Kiết đến khiêu chiến và kêu quyết Võ Thành Vương ra trận.

Hoàng Phi Hổ dẫn Hoàng Minh, Châu Kỷ kéo binh xông ra.

Biện Kiết chống kích hỏi:

– Ai là Hoàng Phi Hổ?

Hoàng Phi Hổ nói:

– Ta đây!

Biện Kiết nổi giận mắng:

– Mi là đứa phản chúa, cả gan giết cha ta, ta quyết bằm thây ngươi ra trăm mảnh để rửa hờn.

Nói rồi đâm một kích, Hoàng Phi Hổ vung giáo đỡ ra rồi đánh lại.

Hai bên giao chiến hơn ba mươi hiệp, Biện Kiết trá bại chạy dài.

Hoàng Phi Hổ giục ngựa đuổi theo vừa tới cột phướng liền hôn mê và cũng bị bắt như Nam Cung Hoát.

Biện Kiết đem đại tướng nạp cho Âu Dương Thuần và xin chém Hoàng Phi Hổ báo thù cha.

Âu Dương Thuần nói:

– Tuy tiểu tướng nóng báo cừu, nhưng Hoàng Phi Hổ là một tên đại phản, cần phải giải về Triều Ca cho thiên tử trị tội. Làm như vậy tiểu tướng đã báo được phụ cừu, mà còn được thiên tử ghi ơn.

Nói rồi truyền quân đem Hoàng Phi Hổ giam vào hậu dinh.

Biện Kiết ứa nước mắt bước ra ngoài.

Còn Châu Kỷ với Hoàng Minh xông vào cứu Hoàng Phi Hổ, đã không được lại suýt bị bắt, sợ hãi chạy về báo lại với Tử Nha.

Tử Nha nghe hai tướng bị bắt một lúc, kinh hãi hỏi:

– Tướng địch đánh cách nào mà một trận bắt đến hai người?

Châu Kỷ thuật lại mọi việc. Tử Nha than:

– Ðó cũng là phép tà đạo! Ðể ngày mai ta ra trận sẽ hay.

Hôm sau, Tử Nha dẫn các tướng ra trận, thấy cây phướng khói đen bay mù mịt, hơi lạnh ghê hồn.

Na Tra thấy mỗi cái sọ có vẽ bùa bằng châu sa, liền hỏi Tử Nha:

– Sư thúc có thấy bùa vẽ trên những cái sọ kia chăng?

Tử Nha nói:

– Ta thấy rồi. Ðó là phép tà đạo, các tướng đừng chạy qua cây phướng ấy thì chẳng hại gì.

Quân trong thành thấy Tử Nha xuất hiện, liền vào báo với Âu Dương Thuần.

Âu Dương Thuần dẫn quân đi nép một bên cửa, bước ra.

Tử Nha nói với các tướng:

– Rất đỗi chủ tướng còn không dám đi gần cây phướng, các ngươi không thấy sao?

Các tướng đều gật đầu tuân lệnh.

Tử Nha bước tới hỏi Âu Dương Thuần:

– Ngươi có phải là chủ tướng ải Lâm Ðồng không?

Âu Dương Thuần đáp:

– Ngươi không biết ta sao?

Tử Nha nói:

– Ngươi không biết thời trời. Năm ải chỉ còn có một, sao ngươi dám cự lại?

Âu Dương Thuần nổi giận nạt:

– Ngươi tài chi mà khoe khoang như vậy.

Nói rồi bảo Biện Kiết:

– Hãy bắt Khương Thượng cho ta.

Biện Kiết và các tướng xông tới.

Lôi Chấn Tử đón lại hét lớn:

– Tặc tướng đừng làm hỗn, có ta đây.

Nói rồi vỗ cánh bay lên cầm côn đập xuống.

Ðánh được ít hiệp, Biện Kiết trá bại bỏ chạy.

Lôi Chấn Tử nghĩ thầm:

– Cái phướng kia độc quá, chi bằng ta bay lên cao, đánh Biện Kiết thì lợi hơn.

Nghĩ rồi quạt cánh bay bổng. Chẳng ngờ trên ngọn phướng cũng có khí yêu, Lôi Chấn Tử mới giá côn lên, liền rơi xuống đất như chim bị đạn.

Quân của Biện Kiết bắt được tréo cặp cánh của Lôi Chấn Tử lại như tréo cánh gà rồi dùng dây trói cả hai tay.

Vi Hộ thấy vậy nổi nóng quăng Gián ma xử lên cố đánh phướng yêu cho nát chẳng ngờ Gián ma xử bị khí yêu chiếu vào rơi xuống đất.

Vi Hộ thấy Gián ma xử bị rớt chắt lưỡi than thầm, các tướng đều nhìn nhau mặt mày ngơ ngẩn.

Biện Kiết giục ngựa chạy ra kêu lớn:

– Tử Nha, hãy chịu trói cho sớm thì được toàn mạng.

Na Tra nổi giận giục xe xông tới hiện ba đầu tám tay hét lớn:

– Thất phu, đừng làm phách! Có ta đến đây.

Nói rồi đâm một giáo.

Biện Kiết thấy Na Tra dị tướng thì hết hồn nên chỉ đánh vài hiệp chưa kịp trá bại đã bị Na Tra quăng Càn khôn quyện đập vào mình gần sa xuống ngựa.

Biện Kiết kinh hãi bỏ chạy.

Lý Tịnh xốc tới Âu Dương Thuần.

Quế Thiên Lộc múa đao xông ra cản lại. Ðánh được ít hiệp, Lý Tịnh đâm Quế Thiên Lộc một kích nhào xuống ngựa chết tươi.

Âu Dương Thuần nổi giận xách búa đồng xông vào đánh Lý Tịnh.

Lý Tịnh đưa kích đỡ không muốn nổi. Tử Nha truyền giục trống trợ uy. Tân Giáp, Tân Miễn, Mao Công Toại, Châu Công Ðáng, Thiên Công Thích đồng vào tiếp chiến.

Âu Dương Thuần bị vây vào giữa tuy có sức mạnh như thần, song một mình cự sao cho lại.

Hồi 85: Hai vị chư hầu đầu thánh chúa

Âu Dương Thuần bị vây, đánh đỡ không kịp, khôi giáp tơi tả, mồ hôi ướt đầm, biết tướng Châu ỷ đông ăn hiếp mình nếu đánh lâu mang hại liền giục ngựa nhảy vụt ra chạy riết về thành đóng cửa lại.

Còn binh Châu binh tướng rất đông mà để Âu Dương Thuần chạy vụt, đều ngơ ngác nhìn nhau bẽn lẽn.

Tử Nha thâu binh về trại thầm lo cho Lôi Chấn Tử không biết lành dữ thế nào.

Âu Dương Thuần chạy về thành, thấy Biện Kiết bị thương, liền cho về nhà dưỡng bệnh rồi viết sớ sai người đem về Triều Ca xin cứu viện.

Người dâng sớ đến Triều Ca nhằm lúc quan trung Ðại phu Ác Lai thâu sớ.

Ác Lai coi biểu xong, Vi Tử Khải bước vào, Ác Lai đưa cho Vi Tử Khải xem.

Vi Tử khải thất kinh than:

– Khương Thượng kéo binh đến ải Lâm Ðồng còn cách Triều Ca có mấy trăm dặm mà Thiên Tử vẫn ăn ngon ngủ yên là cớ làm sao.

Than rồi ôm sớ vào dâng cho vua Trụ.

Bấy giờ gặp lúc vua Trụ đang uống rượu với ba con yêu trên Lộc đài, nghe nội thị vào tâu, liền đòi Vi Tử khải đến hỏi:

– Hoàng huynh có việc gì dâng sớ?

Vi Tử Khải tâu:

– Khương Thượng phò Cơ Phát, đoạt hai ải bìa là Thanh Long và Giai Mộng tiếp đến lấy luôn bốn ải chính là Tỵ Thủy, Giới Bài, Xuyên Vân và Ðồng Quan. Nay đương đánh ải Lâm Ðồng giết binh chém tướng thế mạnh như hòn núi đè trứng gà, tợ con hùm ăn thịt thỏ. Âu Dương Thuần viết sớ về viện binh, xin bệ hạ lâm triều, xem xã tắc là trọng.

Tâu rồi dâng sớ, vua Trụ xem thấy kinh hãi nói:

– Không lẽ Khương Thượng mạnh mẽ như vậy. Nếu trước không lo trừ, sau sẽ mang họa. Phán rồi truyền dọn xe lâm triều, gióng trống dọng chuông, bá quan chầu chực đủ mặt. Bởi Trụ Vương ít khi lâm triều nên mỗi lần lâm triều bá quan đều mừng rỡ.

Trụ Vương phán:

– Nay Khương Thượng hưng binh trợ Cơ Phát làm phản, lấy hai ải bìa và bốn ải chính, nay lại phá ải Lâm Ðồng. Nếu không dùng đại binh trừ khử thì họa đến chẳng sai. Các khanh có kế nào thương nghị chăng?

Quan Ðại phu Lý Thông tâu:

– Bình thường bệ hạ không coi việc nước là trọng, say sưa tửu sắc, bỏ việc triều đình làm cho quỷ giận thần hờn, trời sầu đất thảm, bốn phương ly loạn, trăm họ điêu linh. Nay sấm dậy mới bùng tai, khát nước mới đào giếng thật là tai họa. Tuy vậy Triều Ca cũng còn người hiền, chư hầu cũng có kẻ tài năng, chỉ tại bệ hạ không trọng dụng nên bây giờ kẻ trung lương không phò bệ hạ. Nay phía Ðông có Khương Văn Hóa đánh ải Du Hồn ngày đêm không nghỉ, phía Nam Ngạt Thuận đánh ải Tam Sơn binh tướng hao mòn, phía Bắc Sùng Hắc Hổ vây ải Trần Ðường đã thất thủ gần một tháng. Cơ Phát đánh ải Lâm Ðồng nhắm lấy thành cũng chẳng bao lâu. Ví như lửa cháy cả lò, nửa chén nước tưới sao cho tắt? Lầu cao ba trượng, cột một cây dầu có cứng cũng phải xiêu. Tôi liều thác mới tỏ lời ngay, bệ hạ nên hồi tâm xét lại. Như cho lời tôi là phải, xin bệ hạ bỏ điều tửu sắc lo việc triều đình. Vì bỏ tửu sắc chính là bệ hạ đã thắng được một mũi giặc lớn bên trong. Ðược vậy tôi xin tiến cử hai người hào kiệt ra ngăn trở binh Châu họa may trời thương cơ nghiệp Thành Thang khỏi mất.

Vua Trụ hỏi:

– Khanh tiến cử hai người nào vậy?

Lý Thông tâu:

– Có hai vị chư hầu ở gần đây, tên Nhuế Kiết và Ðặng Côn vốn là kẻ trung nghĩa lại có tài năng là thủ thành được.

Vua y tấu truyền đòi hai người đến lập tức.

Nhuế Kiết và Ðặng Côn đều vào đền yết kiến.

Vua Trụ phán:

– Nay có quan đại phu Lý Thông tiến cử hai khanh là trang trung nghĩa trí dõng vẹn toàn nên trẫm ban búa việt cờ mao, hai khanh phải hết lòng ngoài trận ra trấn ải Lâm Ðồng. Nếu bắt được Khương Thượng và Cơ Phát, dẹp được binh Châu thì trẫm cắt đất phong vương cho hai khanh.

Ðặng Côn và Nhuế Kiết tạ ơn, tâu:

– Bệ hạ hậu đãi như vậy, chúng tôi phải ráng sức đền ơn.

Vua Trụ truyền dọn yến tại đền, sai Vi Tử coi đãi tiệc rồi trở lại Lộc đài.

Trong lúc đãi tiệc, Vi Tử, Cơ Tử rót chén rượu dâng cho hai vị, vừa khóc vừa nói:

– Nước nhà còn mất lúc này do nơi hai vị. Xin hết sức đỡ ngăn.

Ðặng Côn và Nhuế Kiết thưa:

– Xin hai ngài đừng lo. Chúng tôi trọng nghĩa thuở nay không lẽ bây giờ đổi dạ. Dám đâu trên quên ơn bệ hạ tin cậy, dưới phụ tình bạn tiến cử hay sao.

Mãn tiệc, Ðặng Côn và Nhuế Kiết từ giã lui về kéo binh ra Mạnh Tân, rồi qua sông Huỳnh Hà lần đến ải Lâm Ðồng.

Nói qua việc Thổ Hành Tôn đi vận lương mới về, thấy dưới cửa thành có cây phướng, dưới cây phướng lại có treo hai món binh khí là Huỳnh Kim côn của Lôi Chấn Tử và Gián ma xửa của Vi Hộ thì thấy làm lạ, nghĩ thầm:

– Sao hai vật này lại ở đó?

Ngẫm nghĩ một lúc rồi về trước dinh vào ra mắt Tử Nha thưa:

– Ðệ tử kỳ này vận lương đủ số, khi đi ngang trước cửa thành thấy dưới cây phướng có treo Gián ma xử và Kim côn, chẳng biết có gì lạ vậy?

Tử Nha thuật chuyện, Thổ Hành Tôn tuy không dám nói nhưng không tin có chuyện lạ lùng.

Na Tra bấm Thổ Hành Tôn ra ngoài nói nhỏ:

– Biện Kiết bị ta đánh một Càn khôn quyện mấy bữa nay không dám ló ra ngoài.

Thổ Hành Tôn nói:

– Ðể ta đi lấy hai món binh khí và thăm tin các tướng ra thế nào?

Na Tra nói:

– Không được đâu! Cây phướng ấy mà lại gần thì hôn mê bất tỉnh, chắc khỏi đi vận lương nữa.

Thổ Hành Tôn mím môi bỏ đi. Ðợi đến lúc đỏ đèn độn thổ đến dưới cây phướng.

Thổ Hành Tôn vừa ở dưới đất ló lên nơi chân phướng, liền bị hôn mê bất tỉnh nằm ngủ như điên.

Binh Châu thấy vậy liền về báo với Tử Nha.

Tử Nha họp các tướng hỏi:

– Nay Thổ Hành Tôn lén đi lấy trộm binh khí bị hôn mê nằm dưới cột phướng, ai có kế gì giải cứu chăng.

Các tướng nghe nói đều sợ sệt.

Tử Nha cũng buồn bã làm thinh.

Quân thám thính trên thành trông thấy một thằng lùn nằm dưới cây cột phướng, liền vào báo với Âu Dương Thuần:

– Có một thằng lùn chẳng biết ở đâu tới nằm mê dưới cột phướng.

Âu Dương Thuần mừng rỡ, truyền quân mở cửa ra bắt. Chẳng ngờ bao nhiêu quân sĩ đến đó cũng đều mê man nằm một đống với Thổ Hành Tôn.

Mấy tên lính đi sau thấy vậy liền vào báo lại.

Âu Dương Thuần hồ nghi vội cho người mời Biện Kiết đến.

Biện Kiết đang dưỡng bệnh, nghe đòi phải ráng vào hầu.

Âu Dương Thuần thuật lại chuyện, Biện Kiết thưa:

– Phướng ấy ai đến gần cũng bị hôn mê. Muốn bắt thằng lùn sao chủ tướng không hỏi tôi. Nói rồi truyền gia tướng của mình ra thả bọn binh sĩ trong ải và trói tướng lùn lại.

Tướng lùn bị dẫn vào, Âu Dương Thuần hỏi:

– Ngươi là người gì, phải khai thiệt?

Thổ Hành Tôn nói:

– Tôi là người đi ăn trộm của rơi, muốn lấy cây côn vàng, bởi ngủ quên nên mới bị bắt. Biện Kiết nổi giận mắng:

– Thất phu dám cả gan giỡn cợt với ta.

Nói rồi truyền quân đem chém. Ðao phủ quân tuân lệnh dẫn ra ngoài.

Thổ Hành Tôn cười lớn, rồi độn thổ trốn mất.

Tả đao thấy vậy kinh hãi, vào báo:

– Chúng tôi đưa đao toan chém, thì thằng lùn nhào xuống đất biến mất.

Âu Dương Thuần nói với Biện Kiết:

– Chắc tướng lùn ấy là Thổ Hành Tôn. Chúng ta phải đề phòng kẻo nó thừa cơ vào thích khách.

Trong thành nghe nói ai nấy cũng kinh hoàng.

Còn Thổ Hành Tôn động thổ về dinh, vào ra mắt Tử Nha nói:

– Cây phướng ấy thiệt độc, nếu tôi không có phép địa hình chắc mất mạng rồi.

Tử Nha thấy Thổ Hành Tôn trở về được cũng bớt nỗi buồn lo.

Bấy giờ Biện Kiết đã hết bịnh, liền đến bên dinh Châu khiêu chiến.

Quân vào báo, Tử Nha hỏi:

– Tướng nào muốn ra trận?

Na Tra lên xe cầm giáo ra khỏi dinh, thấy Biện Kiết đang diệu võ dương uy, liền xốc tới đánh liền.

Biện Kiết thấy Na Tra như con chim sợ tên, không dám đánh, cứ ngó chừng Càn khôn quyện, sợ rủi một lần nữa thì bỏ mạng.

Ðánh được ít hiệp, Biện Kiết bỏ chạy về phía cây phướng quyết dụ Na Tra.

Na Tra đã biết cây phướng độc, nên không thèm đuổi theo.

Dù Na Tra có đuổi theo cũng chẳng hề gì, vì Na tra là cốt bông sen, nhưng tánh Na Tra thận trọng, không muốn liều lĩnh cầu may.

Biện Kiết thấy Na Tra không đuổi đến, liền vào thành thưa lại với Âu Dương Thuần:

– Tôi có dụ Na Tra đến bên cây phướng, nhưng nó không dám, thu binh trở về dinh.

Âu Dương Thuần nói:

– Bây giờ biết làm cách nào thắng địch?

Biện Kiết trầm ngâm nghĩ kế, nhưng chưa tìm ra cách nào.

Bỗng có quân vào báo:

– Ngoài thành có hai người xưng là Ðặng hầu, Nhuế hầu đem binh đến tiếp.

Âu Dương Thuần dẫn các tướng ra ngoài rước vào, nhường cho hai vị chư hầu ngồi trên, còn Âu Dương Thuần ngồi dưới.

Ðặng Côn hỏi:

– Thiên Tử xem sớ của Tướng quân, nên sai hai tôi ra đây tiếp chiến. Bởi Khương Thượng dấy binh hùng tướng mạnh, đoạt ải lấy thành rất lợi hại, không phải Tướng quân bất tài. Tuy vậy Lâm Ðồng là ải quan trọng, coi như bức bình phong của triều ca, phải có nhiều binh tướng trấn giữ, mới mong chống lại địch quân được. Chẳng hay việc chinh chiến mấy bữa nay ra sao?

Âu Dương Thuần nói:

– Trận thứ nhất Biện Kim Long bị Hoàng Phi Hổ đâm chết, nhờ con Biện Kim Long là Biện Kiết dùng cái phướng phép gọi là U hồn bách cốt phang mới ngăn quân địch được. Trận thứ nhì Biện Kiết bắt Nam Cung Hoát, trận thứ ba bắt Hoàng Phi Hổ, trận thứ tư bắt Lôi Chấn Tử. Những tướng bị bắt hiện đang bị cầm ngục.

Ðăng Côn nghe nói Hoàng Phi Hổ bị bắt, liền hỏi vội:

– Có phải phản thần Võ Thành Vương Hoàng Phi Hổ trước kia bỏ Trụ đầu Châu chăng?

Âu Dương Thuần nói:

– Chính là kẻ phản thần ấy.

Ðặng Côn nói:

– Tướng quân bắt được phản thần công lao rất lớn.

Chẳng ngờ Hoàng Phi Hổ là dượng của Ðặng Côn, vì Ðặng Côn kêu Giả Thị bằng dì ruột. Ðặng Côn tuy ngoài miệng nói gượng, song trong lòng không vui.

Âu Dương Thuần liền bày tiệc thết đãi.

Mãn tiệc, Ðặng Côn trở về phòng ngồi suy nghĩ:

– Không biết làm sao để cứu Hoàng Phi Hổ. Ta nghĩ lại, Hoàng Phi Hổ là kẻ trung liệt mấy đời, sở dĩ bỏ Trụ đầu Châu cũng vì Trụ Vương vô đạo. Kẻ vô đạo lúc bát loạn cần người hiền, đến lúc thái bình thì xem người hiền như kẻ thù địch. Hiện nay, tám trăm chư hầu đã theo Châu bỏ Trụ, phần ta cũng chỉ là kẻ cầm đầu một trấn chư hầu, đâu phải người hưởng lộc nhà Thương mà buộc phải đem thân hy sinh cho người thiếu đức. Binh Châu đã lấy hết bốn ải lớn rồi, còn một cái ải này làm sao giữ nổi, chi bằng phò Châu thuận theo chư hầu là hay hơn. Song chưa rõ Nhuế Kiết ý nghĩ thế nào. Thôi, để ngày mai ra đánh một trận xem thử thế địch ra sao sẽ quyết định.

Hôm sau, hai vị chư hầu ra khách, các tướng đứng hầu hai bên, Nhuế Kiết nói:

– Chúng ta vâng lệnh đến đây tiếp chiến, vậy phải ra binh trừ Khương Thượng cho sớm, để khỏi làm khổ lê dân.

Âu Dương Thuần truyền dẫn binh ra trận.

Biện Kiết thưa với hai vị chư hầu:

– Xin hai vị lão gia đem binh đi phía tả, đừng đến gần cây phướng phép.

Nhuế Kiết gật đầu, rồi dẫn quân đi nép một bên.

Quân Châu xem thấy vào báo với Khương thượng:

– Có hai đại tướng đem binh cứu viện ải Lâm Ðồng, nay kéo binh đến trước dinh, mời chúa công ra nói chuyện.

Tử Nha nghĩ thầm:

– Hai người này là hai vị chư hầu, nếu mời chúa công ra trận chắc có ý gì riêng.

Nghĩ rồi sai tướng đi mời Võ Vương. Võ Vương theo Tử Nha lên xe, phát pháo khai dinh, các tướng đều theo hộ giá.

Nhuế Kiết và Ðặng Côn xem thấy Tử Nha oai phong lẫm liệt, tướng binh chỉnh tề, lại thấy dưới cây tàn lọng đỏ có một người, biết là Võ Vương, liền lướt tới hỏi lớn:

– Người ngồi dưới lọng kia có phải là Võ Vương chăng?

Tử Nha đáp:

– Chính là Chúa công ta đấy. Còn hai ngươi là ai?

Ðặng Côn đáp:

– Ta là Ðặng Côn, còn người này là Nhuế Kiết. Tướng nước Tây Châu không biết nhân nghĩa lễ trí mới dám tự ý xưng vương, đã chứa phản thần lại cướp đoạt ải chúa, giết binh tướng triều đình, cướp đất đai Thiên tử. Sao chẳng nghĩ đạo vua tôi lại hành động táo bạo như vậy?

Còn Nhuế Kiết cũng chỉ vào mặt Võ Vương mắng:

– Tiên vương của ngươi thật có đức tuy bị bảy năm Dũ Lý không một tiếng oán hờn, giữ đạo làm tôi một niềm thảo thuận. Bởi vậy Thiên Tử mến người hiền phong đến tước vương, lại ban búa Việt, cờ Mao cho về quê như cũ. Ðáng lẽ các ngươi phải cám ơn Thiên tử, báo nghĩa quân vương. Song Văn Vương chết chẳng bao lâu, các ngươi nghe lời Tử Nha làm phản chúa, chấp phản thần, giết tướng triều đình, chiếm đất đoạt thành bêu nhục cho tổ tông, làm xấu hổ cho dòng họ. Nếu nghe lời ta khuyên, lui binh về ải giữ nước xưng thần, ấy là tự ăn năn cải hóa, còn cứ đi trên lối cũ, ta e không đất chôn thây, chạy trời không khỏi nắng.

Tử Nha cười lớn:

– Hai vị hiền hầu chỉ luận đúng với lẽ thường mà không thông cuộc biến. Lời xưa nói: Ngôi trời không chừng, ai có đức thì được. Nay Trụ Vương bất nhân, ham mê tửu sắc, giết hại vợ con, trên chẳng tế tiên vương, dưới không trọng hiền sĩ, bốn phương chẳng phục, trăm họ oán hờn nên tám trăm chư hầu đều về Châu, can qua phạt Trụ hội nơi Mạnh Tân để vấn tội hôn quân. Hai vị hiền hầu đối với Trụ Vương như người ở đậu, chưa biết ai là chủ mình, sao không xem thời thế bỏ tà về chánh, còn dùng miệng lưỡi làm chi?

Ðặng Côn làm bộ giận dữ hét lớn:

– Biện Kiết hãy ra bắt lão tặc đó cho ta.

Biện Kiết tuân lệnh cầm kích xông ra.

Triệu Thắng múa gươm xông ra, ngăn Biện Kiết lại đánh.

Nhuế Kiết cầm siêu đao lướt tới, Tôn Diệm Hồng đưa búa ra ngăn, còn Võ Kiết nhảy ra trợ chiến.

Na Tra hiện ra ba đầu tám tay, bộ như quỹ dữ xông vào, đánh Ðặng Côn.

Ðặng Côn ngỡ là yêu quái hiện lên không dám chống cự truyền gióng kiểng thâu binh vào thành.

Tử Nha thấy vậy cũng thâu binh về trại.

Ðặng Côn, Nhuế Kiết vào trại, Âu Dương Thuần dọn tiệc đãi đằng, ai nấy đều khen binh tướng Châu tài phép song toàn, anh hùng thượng thủ.

Khi mãn tiệc, trời đã tối, Ðặng Côn về phòng nghĩ thầm:

– Trụ Vương bạo ngược, khó giữ giang sơn, Châu Võ nhân từ chắc được thiên hạ. Ta xem cốt cách Võ Vương tướng mạo phương phi, còn Tử Nha oai phong lẫm liệt, trí dõng toàn tài, lại thêm nhiều tướng kỳ tài trợ lực, ải Lâm Ðồng không thể giữ được lâu, chi bằng cứu dượng theo Châu, cho hợp với chư hầu bốn biển. Song chưa hiểu ý kiến Nhuế Kiết thế nào.

Giữa lúc ấy, Nhuế Kiết về phòng, cũng nghĩ riêng:

– Thiên hạ đồn không sai. Quả thật Tây Kỳ tôi hiền chúa thánh, đáng mặt trị thiên hạ. Nay chư hầu đã quy phục, ta làm sao đi ngược lại lòng dân. Thế tất phải về Châu mới thuận.

Tuy nghĩ như vậy song còn dò ý Ðặng Côn, không biết thế nào.

Rạng ngày, Ðặng Côn và Nhuế Kiết ra khách, các tướng đều ứng hầu, Ðặng Côn nói:

– Hôm qua ra trận xem Khương Thượng quả thật tài năng, dụng binh phải phép, vả lại nhiều thần thông phò tá, lắm tướng võ nghệ cao cường, chúng ta biết tính làm sao đuổi binh Châu cho được?

Biện Kiết thưa:

– Làm tôi phải hết lòng thờ chúa, đem thân đền nợ nước trong lúc lâm nguy. Còn việc được thua phần lớn là do hồng phước của Thiên tử. Nếu Thiên Tử đang còn thạnh trị thì sẽ có người tài ra giúp, sợ gì binh Châu đông, tướng Châu giỏi?

Ðặng Côn nói:

– Biện tướng quân nói cũng phải, song người hào kiệt ra giúp thì không thấy đâu, còn quân giặc ngày đêm đóng ngoài thành, chúng ta không có kế gì lui binh thì ải Lâm Ðồng làm sao giữ được?

Biện Kiết nghe mấy lời, biết ý Ðặng Côn muốn đầu Châu, nhưng mình là tiểu tướng, đâu dám dùng lời phải trái nói nhiều, liền thưa:

– Nay có phướng ngăn đường, quân Châu không thể nào lấy ải được, xin cứ chậm rãi sẽ có nhân tài ra mặt thối lui binh Châu.

Ðặng Côn không nói lại. Nhuế Kiết biết ý Ðặng Côn rồi, nên tối về phòng, sai người tâm phúc mời Ðặng Côn đến uống rượu.

Ðặng Côn được tin mừng rỡ, liền đến hội kiến tức thì.

Bấy giờ Khương Thượng thấy hai tướng mới đến đều là hai vị chư hầu, tài năng không có mấy, ý muốn lấy ải Lâm Ðồng cho sớm, ngặt cái phướng phép của Biện Kiết chưa có cách nào phá nổi, phần các tướng bị bắt trong thành chưa rõ hung kiết lẽ nào, Tử Nha lại có cảm giác như trong thành Lâm Ðồng có gì khác lạ, liền gọi Thổ Hành Tôn đến bảo:

– Ðêm nay ngươi dùng thuật địa hành vào trong ải Lâm Ðồng thám thính xem các tướng bị nhốt hiện tình ra sao?

Thổ Hành Tôn vâng lệnh chờ đến canh hai, độn thổ vào thành, mò đến chỗ đề lao, thấy quân canh còn thức không dám gây tiếng động, liền đến chổ khác ẩn thân. Bỗng đi ngang qua một căn phòng, nghe hai người ngồi uống rượu và đàm đạo. Ðó là Ðặng Côn và Nhuế Kiết.

Lúc này Ðặng Côn và Nhuế Kiết truyền bọn tả hữu ra ngoài hết, trong phòng chỉ còn hai người.

Thổ Hành Tôn lắng tai nghe thử, thấy Nhuế Kiết nốc xong chén rượu, cười và nói:

– Tôi đố hiền hầu cuộc chiến này Thương thắng hay Châu thắng?

Ðặng Côn nói:

– Chúng mình đều là bạn thân, mỗi người giữ một khoảng đất nhỏ của nhà Thương. Thế cuộc nay đã đổi dời, cần gì phải bàn luận.

Nhuế Kiết nói:

– Nhưng đây là tình bạn với nhau, chúng ta nói riêng nghe thử, can chi mà sợ?

Ðặng Côn nói:

– Lẽ nào tôi dám nói thẳng. Dù biết cũng không dám cạn lời. Nếu luận bàn lấy có thì hiền hầu sẽ chê tôi dốt nát, còn nói cho cạn lẽ thì địa vị mình không cho phép.

Nhuế Kiết nói:

– Hai ta tuy tình bạn, song coi như nghĩa tay chân. Nếu đã thân nhau mà không dám tỏ nỗi lòng, sao gọi là tri kỷ?

Ðặng Côn nói:

– Hiền hầu đã thật dạ, tôi đâu dám phụ tình. Theo tôi tưởng Trụ Vương lỗi đạo đã nhiều, không thể nào giữ nổi cơ nghiệp nhà Thương nữa. Còn Võ Vương nhân đức, tiếng rãi muôn phương, tám trăm chư hầu đều tuần phục, cố lòng phạt Trụ. Lòng dân là ý trời. Dù cho Trụ Vương có bao nhiêu tướng tài đi nữa cũng không chống lại nổi, huống chi hiện nay triều đình đã tàn tạ, nhân tài không còn ai ra sức đảm đương. Lúc này đối với Trụ Vương chẳng qua như ngọn đèn hết dầu, chỉ chờ ngày tắt lụn.

Nhuế Kiết nói:

– Hiền hầu luận như vậy thì hoàn cảnh chúng ta phải làm sao?

Ðặng Côn giả bộ nói:

– Chúng ta đã lãnh trách nhiệm trước mặt Thiên Tử thôi thì đành liều một thác cho hết tiếng thị phi chớ còn biết sao hơn.

Nhuế Kiết nói:

– Chúng ta chỉ là hai trấn chư hầu nhỏ, nếu theo phò Vua Trụ sao này Trụ Vương mất chúng ta không khỏi bị Thiên hạ chê cười là bất trí. Sao chúng ta không noi gương các trấn chư hầu phò Châu phạt Trụ cho rạng danh nghĩa, thuận lòng trời?

Ðặng Côn nói:

– Ý tôi cũng muốn như vậy, nên mới có cuộc đàm đạo hôm nay và cũng để dò lòng hiền hầu một thể.

Nhuế Kiết nói:

– Nếu hiền hầu đã cố tình về Châu tôi xin một dạ. Chỉ ngặt thiếu một người nói giúp chúng ta một lời cho Võ Vương biết.

Ðặng Côn nói:

– Việc đó không khó gì. Nếu chúng ta đã quyết lòng sớm muộn cũng tìm ra phương kế.

Bấy giờ Thổ Hành Tôn ở dưới đất nghe đã rõ ràng, nghĩ thầm:

– Gặp dịp này mình cũng nên ra mặt giúp hai người để khỏi uổng công thám thính.

Nghĩ rồi trồi đầu lên núp sau xó cửa bước tới chào hai người và nói:

– Tôi xin ra mắt hai vị. Nếu hai vị muốn đầu Châu thì tôi sẽ giúp cho.

Ðặng Côn và Nhuế Kiết nghe nói sững sờ. Không biết Thổ Hành Tôn là người nào từ đâu đến.

Thổ Hành Tôn biết ý nói:

– Xin hai vị hiền hầu đừng ngại. Tôi chính là quan vận lương của Khương Nguyên soái tên Thổ Hành Tôn đây.

Hai người nghe nói bước tới hỏi:

– Ban đêm giờ canh nghiêm ngặt, sao tướng quân vào ải được?

Thổ Hành Tôn nói:

– Tôi không dấu với hai vị hiền hầu, vì tôi có phép địa hành nên Nguyên soái sai tôi vào đây thám thính. Nãy giờ tôi ở dưới đất nghe hai vị nói chuyện đã rõ ràng, hai vị muốn đầu Châu, ngặt thiếu người giúp sức, nên tôi mới ra mặt lãnh nhiệm vụ ấy, hai vị chớ nghi ngờ. Nguyên soái tôi là kẻ trọng hiền đãi sĩ, mọi người có ý tìm ánh sáng trở về đều được Nguyên soái tôi trọng dụng.

Hai người mừng rỡ, đồng đứng dậy bái và nói:

– Anh em chúng tôi không biết tướng quân đến, nên không nghinh tiếp, xin rộng lượng bao dung.

Thổ Hành Tôn đáp lễ và nói:

– Hai vị hiền hầu dạy quá lời, tôi đâu dám như vậy?

Ðặng Côn cầm tay Thổ Hành Tôn nói:

– Bởi Võ Vương phước lớn, nên mới được nhiều người tài ra phò. Tôi thấy Võ Vương và Nguyên soái trong lòng cảm mến mười phần, có ý muốn theo phò, nên mới bàn luận, không ngờ gặp được tướng quân, thật may mắn biết chừng nào.

Thổ Hành Tôn nói:

– Vậy thì không nên để lâu, hai vị viết thơ để tôi đem về dâng cho Nguyên soái, thừa lúc nào tiện dịp hai vị dâng ải đầu hàng, chúng tôi ở bên ngoài tiếp ứng.

Ðặng Côn y lời, viết một bức thư trao cho Thổ Hành Tôn và dặn:

– Xin tướng quân dâng thơ cho Nguyên soái tính mưu phá ải, còn tướng quân cũng thường qua lại để chúng tôi có dịp hẹn hò.

Thổ Hành Tôn từ giã, cầm thơ nhào xuống đất một cái, biến mất.

Ðặng Côn và Nhuế Kiết trông thấy khen thầm.

Có bài thơ rằng:

Lên ải Lâm Ðồng lúc tối đen,

Ðặng Côn, Nhuế Kiết sợ rồi khen

Ðem thơ trao lại, làm nên việc,

Công Thổ Hành Tôn thật chẳng hèn.

Thổ Hành Tôn về đến trại thì đã hết canh tư, thấy Tử Nha còn thức, liền ghé qua dinh ra mắt.

Tử Nha trông thấy Thổ Hành Tôn liền hỏi:

– Ngươi đi thám thính việc ấy như thế nào?

Thổ Hành Tôn thuật lại hết mọi chuyện rồi dâng thơ cho Tử Nha.

Tử Nha xem thơ xong, mừng rỡ nói:

– Thật là hồng đức của chúa công quá lớn. Thôi, ngươi hãy trở lại dinh an nghỉ, để ta tính kế sáng lấy ải.

Thổ Hành Tôn vâng lệnh trở về dinh.

Sáng hôm sau, Ðặng Côn và Nhuế Kiết ra khách, các tướng đến hầu đông đủ.

Ðặng Côn nói:

– Ta vâng lệnh Thiên Tử ra trấn ải này, hôm trước ra quân bị bại. Ta lấy làm hổ thẹn. Vậy ngày mai các tướng phải ra hết sức, đánh chúng một trận cho vỡ mật, tan ra không còn một mảnh giáp, đặng ban sư cho sớm.

Âu Dương Thuần nói:

– Ðặng tướng công tính phải lắm.

Các tướng ai nấy đều vâng lệnh, sửa soạn binh khí đặng rạng ngày ra quân.

Rạng ngày, Ðặng Côn và Nhuế Kiết dẫn binh ra.

Ðến trước cửa ải, Ðặng Côn truyền:

– Quân bây! Hãy đem dẹp cây phướng này đi cho rảnh.

Biện Kiết nghe nói thất kinh, thưa:

– Nhờ phướng ấy mà đón được binh Châu. Nếu bỏ đi ắt là ải Lâm Ðồng sẽ lọt vào tay quân giặc.

Nhuế Kiết nói:

– Ta là một vị chư hầu, vâng lệnh Thiên Tử chinh phạt, trong tay có búa Việt cờ Mao, nếu cứ nẹp mình đi cửa tả, còn ngươi là tướng cạnh mà đi cửa chánh, thì binh Châu xem thấy cười chê, dẫu thắng cũng nhục nhã. Ta bảo ngươi dẹp đi là phải lắm.

Biện Kiết nghĩ thầm:

– Mình là hộ tướng, không lẽ cãi lệnh hai vị chư hầu. Dầu sao họ cũng thay mặt Thiên Tử đến đây điều khiển. Nhưng lấy phướng đi, binh Châu ào tới thì cừu cha đã không trả được mà tánh mạng cũng không còn. Hay là ta đừng tiếc điệu bùa, giao cho họ mỗi người một lá thì tiện hơn.

Nghĩ rồi thưa:

– Xin đừng bỏ phướng ấy, mời hai vị hiền hầu vào thành thương nghị, và muốn đi cửa chánh cũng chẳng khó gì.

Hai người bằng lòng vào ải, Biện Kiết vẽ ba lá bùa, một lá đưa cho Nhuế Kiết, một lá đưa cho Ðặng Côn, còn một lá đưa cho Âu Dương Thuần và nói:

– Giắt bùa này vào trong mão thì đi qua phướng tự nhiên.

Ba người làm y lời. Quả nhiên đi ngang qua phướng ấy vô sự.

Ba người mừng rỡ kéo đến trại Tử Nha khiêu chiến.

Quân vào báo, Tử Nha dẫn binh tướng ra ngoài.

Hai người kêu lớn:

– Tử Nha! Nay chúng ta quyết đánh với ngươi một trận cho biết thấp cao.

Nói rồi lướt tới đánh liền. Hoàng Phi Báo, Hoàng Phi Bưu xông ra trợ chiến.

Biện Kiết thấy vậy đứng yên không được liền cầm kích xông vào, nói:

– Xin hai vị hiền hầu ráng sức, có tiểu tướng trợ lực đây.

Võ Kiết liền đón Biện Kiết lại giao công.

Ðánh một hồi, Biện Kiết trá bại, Võ Kiết sợ mắc kế không theo.

Tử Nha truyền gióng kiểng thâu quân.

Âu Dương Thuần và hai vị chư hầu lui binh về ải.

Về đến trại Tử Nha lấy làm lạ, nghĩ thầm:

– Trước kia có một mình Biện Kiết đi ngang qua phướng ấy, còn ai nấy đều đi tránh một bên, sao hôm nay cả ba người này cũng đi ngang qua chỗ ấy được?

Tử Nha đem ý kiến ấy nói với các tướng.

Thổ Hành Tôn thưa:

– Nếu vậy để đệ tử lén vào thành hỏi thăm hai vị chư hầu thì rõ.

Tử Nha nói:

– Nếu được vậy thì hay vô cùng. Ngươi phải đi hỏi lập tức.

Vào lúc hết canh một, Thổ Hành Tôn dùng phép địa hành vào ải.

Hai vị chư hầu trông thấy mừng rỡ, nói:

– Chúng tôi đang trông tướng quân.

Thổ Hành Tôn nói:

– Có chuyện gì quan hệ không?

Hai vị chư hầu nói:

– Chúng tôi vừa biết được cây phướng đó gọi là U hồn bạch cốt, lợi hại phi thường. Chúng tôi buộc Biện Kiết bỏ đi, để binh Châu thừa dịp đoạt thành, nhưng Biện Kiết lại không chịu, chỉ cho chúng tôi ba lá bùa giắt trên mão. Lá bùa ấy mà giắt lên thì qua lại như không.

Thổ Hành Tôn nói:

– Xin hai vị đưa hai bùa ấy cho tôi đem về dâng cho Nguyên soái.

Nguyên soái sẽ lấy họa thật nhiều bùa, phát cho binh tướng thì cây phướng ấy vô dụng.

Hai vị chư hầu mừng rỡ, lấy hai lá bùa trao cho Thổ Hành Tôn và nói:

– Tướng quân về thưa với Nguyên soái, chúng tôi sẽ tìm cách nội công để dâng ải.

Thổ Hành Tôn từ giã, độn thổ về dinh, dâng hai lá bùa cho Tử Nha và thuật hết mọi việc.

Tử Nha mừng rỡ, dùng châu sa bắt chước theo lá bùa của Biện Kiết vẽ thật nhiều bùa phát cho binh tướng.

Hồi 86: Ngũ Nhạc trở về thiên tào

Tử Nha viết thật nhiều bùa phát cho các tướng truyền giắt vào tóc hoặc trong mão và sắp xếp ngày hôm sau ra trận đuổi Biện Kiết chạy đến đó rồi đoạt cây phướng quăng đi dẫn binh tràn vào lấy ải.

Bên trong Ðặng Côn và Nhuế Kiết đã sẳn sàng nội ứng.

Các tướng đều tuân lệnh chuẩn bị đâu đó sẳn sàng.

Rạng ngày Tử Nha dẫn quân đến khiêu chiến.

Ðặng Côn và Nhuế Kiết sai Biện Kiết ra thành nghênh địch.

Biện Kiết tuân lệnh kéo quân ra, hét lớn:

– Tử Nha! Hôm nay ta quyết với chúng bay một trận.

Nói rồi giục ngựa lướt tới, vung kích đâm Tử Nha.

Các tướng Châu một loạt ùa ra vây phủ, Biện Kiết chỉ có một mình tả xông hữu đột, đỡ người này hết người khác, không lúc nào rảnh.

Tuy vậy, Biện Kiết cũng ráng hết sức mình chống cự trên ba mươi hiệp.

Giữa lúc đang giao tranh, Biện Kiết thừa cơ Võ Kiết vô ý phóng đến một kích, Võ Kiết tràn ngang tránh khỏi để trống một chỗ, Biện Kiết giục ngựa nhảy vọt ra chỗ trống ấy chạy về.

Các tướng ùa nhau đuổi theo.

Biện Kiết đứng dựa cửa thành, chờ các tướng chạy ngang cây phướng hôn mê té xuống mà bắt, chẳng ngờ tướng nào tướng nấy lướt tới gần cửa thành mà vẫn vô sự.

Biện Kiết lấy làm lạ, ngỡ là trời khiến mất nước nên số phép hết linh liền chạy vào thành truyền quân đóng cửa lại.

Các tướng không phá ải, giật ngã cây phướng và lấy Kim côn, Gián ma xử đem về.

Biện Kiết vào đến trướng, Nhuế Kiết làm bộ hỏi:

– Nay tướng quân bắt được mấy người?

Biện Kiết thưa:

– Một mình tôi bị hai mươi mấy tướng Châu vây phủ. May tôi giải vây được chạy về, có ý dụ chúng tới phướng mà bắt, không rõ vì cớ nào mà cây phướng hết linh, tướng Châu đi qua không người nào bị hại. Thật không phải tội tôi rõ là trời khiến cơ nghiệp Thành Thang đến hồi như vậy.

Nhuế Kiết cười gằn nói:

– Khi trước sao phướng linh bắt luôn bốn tướng, bây giờ lại hết linh?

Ðặng Côn nói:

– Có gì lạ đâu mà hỏi! Chắc Biện Kiết thấy trong thành binh ít, giữ ải không nổi, nên tư thông với giặc, trá bại dẫn giặc vào thành. May mà quân sĩ đóng cửa kịp, nếu không chúng ta bị bắt hết rồi.

Dứt lời truyền võ sĩ bắt Biện Kiết ra ngoài xử trảm. Võ sĩ tuân lệnh trói Biện Kiết dẫn ra chém liền.

Còn Âu Dương Thuần trông thấy sững sờ, ngồi rưng rưng nước mắt.

Ðặng Côn và Nhuế Kiết nói:

– Biện Kiết không biết thời trời, muốn hại cả thành này cho chết dẫu xử tử cũng không oan. Nay thiên hạ đã về Châu, chúng ta giữ thành này không nổi. Bởi Trụ Vương vô đạo, nên xã tắc phải đổi dời, chúng ta liều thân phò hôn quân đã chẳng ích lợi còn làm cho khổ dân nữa. Xin tướng quân xét lại.

Âu Dương Thuần nghe nói nổi giận mắng lớn:

– Biết ăn lộc vua mà quên ơn nước, dâng ải, đầu giặc, bán nước cầu vinh, đã giết oan kẻ trung thành còn ép trí người nghĩa sĩ. Thật chúng bây là cầm thú, không phải loài người. Thây ta có thể nát, đầu ta có thể rơi, nhưng lòng ta không thể nhuộm mực. Ðừng đem lời gian ác mà nói với ta.

Ðặng Côn, Nhuế Kiết nổi giận hét lớn:

– Nay thiên hạ phản Trụ đầu Châu, chẳng lẽ trong bầu trời này ai cũng bất trung hết cả sao? Trụ Vương không phải chúa, chỉ là một người dữ hại dân. Còn Võ Vương là đấng vua hiền, cứu trăm họ trong nước lửa, chúng ta lại bỏ người hiền mà phò người dữ là sao?

Âu Dương Thuần ngửa mặt lên trời kêu lớn:

– Bệ hạ ôi! Bởi bệ hạ dùng lầm hai tên phản tặc nên mất ải Lâm Ðồng. Nay tôi liều chết giết hai tên nghịch thần, gọi là đền ơn chúa.

Nói rồi rút gươm xốc tới. Ðặng Côn, Nhuế Kiết cũng vung gươm hỗn chiến. Ðánh được một lúc Âu Dương Thuần đuối sức, bị Nhuế Kiết chém đầu.

Giết Âu Dương Thuần xong, Ðặng Côn liền ra sau dinh thả bốn tướng.

Hoàng Phi Hổ gặp Ðặng Côn mừng rỡ vô cùng. Hai bên trò chuyện với nhau một hồi rồi bốn tướng về trước thông tin với Tử Nha, sau đó Ðặng Côn và Nhuế Kiết thi hành đến dinh Châu yết kiến.

Tử Nha ra ngoài ngõ đón tiếp hai vị chư hầu.

Hai người làm lễ xong, Tử Nha đỡ dậy an ủi.

– Nay hai vị về Châu thật là đại trí.

Hai người thưa:

– Xin thỉnh Nguyên soái vào ải chiêu an bá tánh kẻo lòng dân mong chờ.

Tử Nha truyền quân kéo vào ải.

Võ Vương thấy bá tánh đem rượu đón rước đầy đường.

Tử Nha kiểm điểm lương tiền, rồi truyền bày tiệc khao quân.

Cách vài hôm, Khương Thượng dẫn binh đến huyện Dẫn Trì, cách thành hai dặm hạ trại.

Quan Tổng binh huyện Dẫn Trì là Trương Khuê nghe tin binh Châu hạ trại gần thành vội vàng triệu tập hai tướng tiên phuông là Vương Tá và Trịnh Xuân đến thương nghị. Trương Khuê nói:

– Nay binh Châu qua khỏi năm ải rồi, chỉ còn cách con sông Huỳnh Hà nữa là tới triều ca. Huyện Dẫn Trì chúng ta tuy nhỏ, thành lũy đơn sơ, song chúng ta phải cố thủ, nếu để địch quân qua được sông Huỳnh Hà thì khó lòng ngăn trở lắm.

Các tướng tuân lời, kiểm điểm binh mã, canh phòng nghiêm ngặt.

Ngày hôm sau Khương Thượng ra khách, định kế đánh Dẫn Trì bỗng có quân vào báo:

– Ðông Bá Hầu sai sứ đem thơ.

Tử Nha truyền vào lấy thư đọc, rồi nói với các tướng:

– Nay Ðông Bá Hầu Khương Văn Hoán xin viện binh ta không lẽ từ chối.

Hoàng Phi Hổ thưa:

– Chư hầu đều theo Châu nay cầu cứu, chúng ta phải phân binh ứng tiếp.

Tử Nha nói:

– Tướng nào muốn giúp Ðông Bá Hầu ra đánh ải Du Hồn?

Kim Tra, Mộc Tra đồng thưa:

– Chúng tôi xin kéo binh ra đó trợ chiến cho.

Tử Nha nhậm lời lấy cho hai tướng năm ngàn quân kéo ra ải Du Hồn.

Tử Nha hỏi lại:

– Ai muốn ra đánh trận đầu lấy thành Dẫn Trì mà lập công?

Nam Cung Hoát lãnh mạng đem binh ra khiêu chiến.

Trương Khuê nghe tin báo có tướng Châu dẫn binh kéo đến liền hỏi các tướng:

– Ai dám ra binh?

Vương Tá lãnh mạng mở cửa thành kéo ra.

Nam Cung Hoát thấy Vương Tá liền trợn mắt hỏi:

– Ngũ quan đã về Châu, còn cái huyện Dẫn Trì bé nhỏ này tài chi mà chống cự? Mau dâng ải kẻo lụy thân.

Vương Tá cũng trợn mắt mắng:

– Phản tặc đã tới số nên đến nạp mình.

Nói rồi múa siêu đao tới chém. Hai tướng đánh với nhau được ba mươi hiệp, Nam Cung Hoát chém Vương Tá một đao đứt làm hai khúc rồi chặt lấy thủ cấp đem về dinh.

Quân Thương vào báo lại, Trương Khuê hay tin buồn bực cả ngày.

Bữa sau lại có Hoàng Phi Hổ đến khiêu chiến.

Trịnh Xuân xin ra trận. Hai người đánh được hai mươi hiệp, Trịnh Xuân bị Hoàng Phi Hổ đâm chết, cắt đầu đem về nạp dâng công.

Trương Khuê nghe tin càng buồn bã hơn nữa.

Còn Tử Nha thắng luôn hai trận, giết luôn hai tướng, thừa thế kéo quân phá thành.

Bấy giờ Trương Khuê đang ở sau dinh, bàn luận với người vợ là Cao Lan Anh.

Trương Khuê than:

– Hai ngày mất luôn hai tướng, e thành này khó giữ.

Cao Lan Anh nói:

– Tướng quân có phép địa hành, lại thêm cỡi con thú Ðộc giác ô yên, chạy mau như gió, lẽ nào không thắng giặc.

Trương Khuê nói:

– Các tướng anh hùng năm ải, thiếu gì người tài phép hơn mình, thế mà còn cự không lại thay. Như vậy cũng đủ thấy lòng trời dời đổi, Thiên Tử lại không chừa tửu sắc, không nghĩ đến giang sơn, chúng mình biết làm sao được.

Xảy nghe quân báo:

– Binh Châu phá thành rất gấp, quân sĩ giữ không nổi.

Trương Khuê liền nai nịt, cầm đao cỡi thú thăng hành.

Cao Lan Anh đem binh lượt trận.

Trương Khuê kêu lớn:

– Khương Thượng, đừng làm hỗn, có ta đây.

Tử Nha nói:

– Trương tướng quân là người trí dõng sao không biết cơ trời. Hãy về Châu thì công danh chẳng mất, còn cự địch chắc gãy theo vết xe của năm ải.

Trương Khuê vừa cười vừa nói:

– Ngươi đoạt năm ải đừng tưởng là tài. Ta e đến đây không còn trông mong.

Tử Nha nói:

– Sao tướng quân không biết việc thịnh suy. Từ đây đến Triều Ca chỉ còn vài trăm dặm, mà tám trăm chư hầu bốn phía phủ vây. Cái huyện nhỏ này thủ sao được, chẳng khác một sợi chỉ mành treo đá.

Trương Khuê nổi giận hét một tiếng, giục thú tới chém Tử Nha.

Hai vị điện hạ là Cơ Thúc Minh, Cơ Thúc Thăng đồng lướt tới đỡ.

Một mình Trương Khuê cự với hai người. Cơ Thúc Minh, Cơ Thúc Thăng thấy Trương Khuê sức mạnh như thần, tính bề đâm bậy một thương rồi trá bại.

Chẳng ngờ con thú Ðộc ô yên của Trương Khuê chạy mau như chớp nhoáng. Trương Khuê vỗ sừng nó một cái, nó đã nhảy tới bên lưng.

Hai vị điện hạ không kịp trở tay đều bị Trương Khuê chém rụng đầu hết.

Tử Nha kinh hãi truyền thâu quân về trại.

Võ Vương nghe tin hai em tử trận khóc rống một hồi. Tử Nha khuyên giải cả ngày chưa nguôi sầu thảm.

Còn Trương Khuê thắng trận, vợ chồng dẫn binh về dinh, viết sớ sai người về Triều Ca viện thêm binh tướng.

Hôm sau Tử Nha ra khách nói với các tướng:

– Ta không ngờ cái huyện nhỏ như vầy mà mất hai vị điện hạ.

Các tướng thưa:

– Chỉ tại con thú của nó cỡi chạy lẹ như chớp nên trở tay không kịp.

Bỗng có quân vào báo:

– Có Bắc Bá Hầu Sùng Hắc Hổ xin vào nghị việc.

Tử Nha nghe Sùng Hắc Hổ đến mời vào. Sùng Hắc Hổ, Vân Sinh, Khôi Anh, Tưởng Hùng, bốn người đồng ra mắt.

Tử Nha đáp lễ mời ngồi, và hỏi:

– Quân hầu đến Mạnh Tân đã bao lâu?

Sùng Hắc Hổ nói:

– Tôi lấy ải Trần Ðường, vào đồn binh ở Mạnh Tân đã vài tháng nay. Nghe Nguyên soái đã kéo đại binh đến đây, nên tìm đến ra mắt cầu cho Nguyên soái sớm hội chư hầu.

Tử Nha vui vẻ hối đem trà nước đãi đằng.

Hoàng Phi Hổ tạ ơn Sùng Hắc Hổ và nói:

– Khi trước nhờ ơn quân hầu giúp sức, giết chết Cao Kế Năng, ơn ấy đối với tôi rất trọng.

Mãn tiệc trà, Tử Nha truyền dọn tiệc rượu để cùng nhau hoan hỉ.

Sáng hôm sau, quân vào báo:

– Có Trương Khuê đến khiêu chiến.

Sùng Hắc Hổ thưa:

– Nay có tôi đến đây xin ra giúp sức một trận.

Tử Nha nhận lời.

Sùng Hắc Hổ dẫn Vân Sinh, Thôi Anh, Tưởng Hùng và toàn binh mã của mình ra trận.

Sùng Hắc Hổ giục thú tới vung cặp búa nói lớn:

– Có tôi đến trợ giúp đây.

Năm tướng vây Trương Khuê đánh đến bốn mươi hiệp không phân thắng bại.

Sùng Hắc Hổ thấy Trương Khuê mạnh quá, tính trá bại dùng phép thả ó ra nên đang đánh bỗng bỏ chạy. Bốn tướng biết ý cũng chạy theo.

Trương Khuê đợi cho năm người chạy hơn trăm thước mới đưa tay vỗ đầu con thú. Con thú phóng lên như điện giật vút đến Văn Sinh, Trương Khuê vớt một đao Văn Sinh bay đầu, Sùng Hắc Hổ chưa kịp giở bầu phép bị Trương Khuê chém đứt làm hai đoạn.

Thôi Anh, Tưởng Hùng, Hoàng Phi Hổ đồng quay ngựa hỗn chiến với Trương Khuê.

Cao Lan Anh xông vào lược trận lấy cái bầu đỏ mở nút quăng lên bốn mươi chín cây kim bay ra đâm vào mắt ba tướng.

Trương Khuê lướt tới chém ba tướng bay đầu một lúc.

Bấy giờ Dương Tiễn vận lương về đến trại, vào thưa với Tử Nha:

– Tôi vận lương đủ số và không trễ ngày.

Tử Nha nói:

– Nay đã lấy được ngũ quan, gần đến Mạnh Tân hội chư hầu, việc đốc lương không cần nữa, sư điệt nên ở lại đây giúp sức với các tướng mà lập công.

Dương Tiễn tuân lời.

Kế đó quân vào báo:

– Năm tướng ra trận bị Trương Khuê chém hết.

Tử Nha thất kinh hỏi:

– Nó dùng phép gì mà giết hết năm tướng một lúc?

Quân thưa:

– Ban đầu năm vị trá bại, bị con thú của Trương Khuê đuổi theo như chớp, Văn Sinh, Sùng Hắc Hổ trở tay không kịp bị chém bay đầu.

Hoàng Phi Hổ, Thôi Anh, Tưởng Hùng hiệp lực chống cự một hồi cũng bị giết hết.

Tử Nha than:

– Thương hại cho nhà Võ Thành Vương chưa trả được thù mà chết gần hết.

Bỗng có quân vào báo:

– Trương Khuê lại đến trước dinh khiêu chiến.

Hoàng Phi Bưu nóng máu thù cha bước ra xin xuất trận.

Tử Nha sai Dương Tiễn đi theo trợ lực.

Hoàng Phi Bưu ra đánh với Trương Khuê gần ba mươi hiệp.

Trương Khuê mạnh quá, Hoàng Phi Bưu đánh không lại, nhưng quyết trả thù cha. Hoàng Phi Bưu vẫn đánh liều không chạy, bị Trương Khuê chém đầu.

Dương Tiễn thấy con ngựa của Trương Khuê cỡi, biết là loài thú lạ, vì nó có mọc sừng, nên tính trừ con ngựa có sừng ấy trước.

Dương Tiễn liền giục ngựa đến, nạt lớn:

– Trương Khuê chạy đi đâu cho khỏi. Có ta đến đây.

Trương Khuê hỏi:

– Ngươi là ai đó? Muốn chết hay sao?

Dương Tiễn xưng tên, rồi nói:

– Thất phu dùng tà thuật hại người, nay gặp ta chắc không sống nổi.

Nói rồi chém một đao. Trương Khuê đỡ ra đánh lại.

Hai bên đánh được bốn mươi hiệp, Dương Tiễn liệu bề khó thắng, cố ý chém hụt một đao cúi xuống, Trương Khuê thừa thế nắm dây đai xách hỏng lên, ném Dương Tiễn xuống đất truyền quân trói lại dẫn về thành.

Sau khi đã nghỉ ngơi lại sức, Trương Khuê lên ngồi trên trướng, truyền dẫn Dương Tiễn tới.

Dương Tiễn đứng sững trợn mắt nhìn.

Trương Khuê hét:

– Ngươi đã bị bắt sao còn nghịch mạng không quỳ?

Dương Tiễn mắng lại:

– Thất phu! Ngươi là người gì mà phách lối như vậy?

Trương Khuê nổi giận truyền quân đem chém. Tả đao vâng lệnh, chém Dương Tiễn bêu đầu.

Giây phút, tên giữ ngựa vào báo với Trương Khuê:

– Bẩm lão gia, có việc lạ lùng!

Trương Khuê hỏi:

– Chuyện gì vậy?

Tên quân giữ ngựa thưa:

– Con ngựa Ô yên đang không bị rơi đầu, hình như ai chém.

Trương Khuê nghe nói thất sắc, giậm chân than:

– Ta nhờ con thú Ô yên thắng luôn mấy trận, nay sao có chuyện lạ lùng như vậy.

Bỗng có quân vào báo:

– Cái đầu Dương Tiễn treo trước ải biến thành cái đầu con ngựa Ô yên.

Trương Khuê rối lòng, ngồi chết điếng.

Lại có quân vào báo:

– Viên tướng mới bị chém lúc nãy bây giờ sống lại, đang khiêu chiến ngoài thành.

Trương Khuê biết Dương Tiễn không chết, dùng tà thuật để giết con ngựa Ô yên nên tức giận cỡi ngựa cầm đao ra trận hét lớn:

– Nghịch tặc! Ngươi hại con Ô yên của ta, ta quyết giết ngươi rửa hận.

Dương Tiễn cười nói:

– Ngươi nhờ con ngựa ấy mà giết tướng Châu, nên ta phải giết con ngựa ấy để báo thù cho các tướng. Ta nói cho ngươi biết ngươi còn động đến ta nữa thì ăn năn.

Trương Khuê nghiến răng hậm hực:

– Ðố ngươi chạy đi đâu cho khỏi.

Trương Khuê giận quá trổ thần lực đánh với Dương Tiễn một hồi rồi bắt sống Dương Tiễn đem vào thành truyền quân lấy dây trói cho thật chặt, bỏ ngoài nắng cho lại gan.

Cao Lan Anh bước ra nhà khách, thấy mặt Trương Khuê hầm hầm liền hỏi:

– Tướng quân vừa ra trận về, sao khi giận chưa nguôi.

Trương Khuê than:

– Mấy hôm nay ta nhờ con Ô yên thắng luôn mấy trận. Vừa rồi bắt được Dương Tiễn sai quân đem chém nó, nhưng nó không chết mà con Ô yên rụng đầu.

Cao Lan Anh nói:

– Chắc là Dương Tiễn có phép thần thông biến hóa. Nếu lần sau có bắt được nó phải dùng phép mới chém nó được.

Trương Khuê nói:

– Ta đã bắt được nó lần nữa dẫn về thành trói bỏ phơi nắng trước dinh kia.

Cao Lan Anh truyền dẫn Dương Tiễn tới xem qua rồi nói:

– Tôi có phép trừ được. Trước phải dùng xương cổ, sau làm phép yêu trên đầu, rồi lấy máu chó mực, gà ô hòa lộn phân và nước tiểu đổ lên đầu nó thì nó không biến hóa hoặc thế hình được. Sau đó chém nó thì nó mới thiệt chết.

Trương Khuê nghe lời làm theo phép ấy, rồi chém Dương Tiễn rụng đầu. Vợ chồng đắc ý ngồi trong trướng phủ.

Bỗng có bọn a hoàn hơ hải chạy tới khóc và thưa:

– Thái phu nhơn đang ngồi trong phòng, không biết máu và phân ở đâu đổ xuống đầy đầu rơi xuống như bị ai chém.

Trương Khuê nghe nói khóc rống lên, chạy vào hậu dinh ôm xác mẹ nói:

– Dương Tiễn đã hại mẹ ta rồi! Ơn cúc dục cù tao chưa đền, con xin chịu tội bất hiếu.

Khóc hơn nửa ngày rồi mới lo chuyện chôn cất.

Còn Dương Tiễn về thưa với Tử Nha:

– Lần trước tôi trừ ngựa báu, làm cho Trương Khuê sầu thảm, lần sau tôi giết mẹ nó, cho nó đau đớn đến quẩn trí, sau này tôi bắt nó như chơi.

Tử Nha khen:

– Tướng quân nhiều mưu trí lắm.

Hôm sau, Trương Khuê nóng trả thù mẹ, cầm đao lên ngựa đến trước dinh Châu, kêu Dương Tiễn ra chịu chết.

Hồi 87: Vợ chồng Thổ Hành Tôn tử trận

Tử Nha đương lúc thương nghị với các tướng, xảy có quân vào báo:

– Trương Khuê đến khiêu chiến.

Na Tra lãnh mạng ra đi, kéo quân đến trước dinh, hiện ra ba đầu tám tay, giục xe chống giáo, gọi Trương Khuê nói:

– Trương Khuê, nếu ngươi chẳng hàng đầu, ăn năn không kịp.

Trương Khuê trông thấy Na Tra làm dữ, nổi giận đánh một hồi.

Na Tra cự không lại, liền quăng Cửu long thần hỏa lên, chụp Trương Khuê vào chiếc nom lửa mà đốt.

Na Tra vỗ vào nom một cái, lửa dậy rần rần, chẳng ngờ Trương Khuê có phép địa hành, độn thổ trốn mất.

Na Tra giở nom ra, không thấy Trương Khuê, ngỡ Trương Khuê đã cháy thành tro rồi nên kéo binh về dinh, thuật lại với Tử Nha.

Tử Nha ngỡ Trương Khuê chết thiệt, mừng rỡ khôn cùng.

Còn Trương Khuê trốn về thành thuật chuyện với vợ.

Cao Lan Anh nói:

– Vậy thì đêm nay tướng quân lén vào dinh Châu giết Võ Vương và các khanh cần gì ra trận đấu thương cho mệt.

Trương Khuê nói:

– Bởi ta bị Dương Tiễn giết chết mẹ già nên lòng bối rối không tìm ra kế, phu nhơn nói rất phải, ta cần gì phải ra trận tranh hùng, cứ một phép địa hành của ta vào dinh địch giết mấy người không được.

Giữa lúc đó, bên trại Châu, Tử Nha ngỡ Trương Khuê đã bị nom thần đốt chết, nên truyền quân sĩ canh ba nấu cơm, canh tư ăn uống, canh năm hãm thành.

Qua căn hai, Trương Khuê độn thổ đến ngoài dinh, còn núp dưới đất chưa ló đầu lên, bỗng gặp Dương Nhậm đi tuần trại.

Bởi Dương Nhậm có con mắt mọc trong hai bàn tay nhỏ, nên trông thấy ngàn dặm, dù trên trời, dưới đất cũng trông thấy rõ được.

Dương Nhậm trông thấy Trương Khuê cầm kiếm, đi dưới đất liền nói:

– Trương Khuê, ta đã trông thấy ngươi rồi. Ðừng hòng làm lén.

Trương Khuê nghe Dương Nhậm nói thất kinh nghĩ thầm:

– Bên dinh Châu nhiều người thần thông, thấy cả trên trời dưới đất, ta biết làm sao hành thích được. Song ta đi dưới đất mau dù nó có chạy vào báo tin cũng không kịp. Ta giết Tử Nha rồi sẽ tính?

Dương Nhậm thấy Trương Khuê cắm đầu chạy vào trại như bay, liền vỗ đầu thú nhảy qua ba vòng binh khắc sanh hiệu la lớn:

– Có thích khách vào dinh, các tướng phải bảo vệ Chúa công và Nguyên soái.

Tử Nha nghe la truyền quân rút gươm khỏi vỏ, thắp thêm đèn lên cho sáng và hỏi:

– Thích khách đi ngõ nào? Nó làm sao vào trại được?

Dương Nhậm nói:

– Trương Khuê cầm đao đi dưới đất, nó đã đến trước cửa phủ của Nguyên soái.

Tử Nha kinh ngạc hỏi:

– Trương Khuê đã bị Na Tra đốt cháy bận chiều rồi sao bây giờ lại còn Trương Khuê nào đến đây thích khách?

Các tướng đều kinh hãi. Cả dinh náo động.

Dương Tiễn nói:

– Nếu quả vậy chúng ta chỉ nên canh phòng nghiêm ngặt đợi ngày mai sẽ tính.

Ðêm ấy dinh Châu không một tên quân nào dám ngủ, nơm nớp lo sợ Trương Khuê ám sát mình.

Còn Trương Khuê thấy dinh Châu đề phòng không làm gì được, cầm gươm lơ láo trở về.

Trương Khuê về đến thành, Cao Lan Anh hỏi:

– Ðêm nay tướng quân đi công việc thế nào?

Trương Khuê nói:

– Chẳng được việc gì, bên dinh Châu nhiều người tài phép quá, hèn chi đánh lấy năm ải như chẻ tre là phải.

Nói rồi thuật hết mọi việc cho vợ nghe.

Cao Lan Anh nói:

– Nếu vậy tướng quân phải viết sớ dâng về Triều Ca viện binh nếu để cái thành con này cô thế thì khó giữ.

Trương Khuê y lời viết sớ dâng về triều lập tức.

Rạng ngày Dương Tiễn đem binh đến khiêu chiến kêu tên Trương Khuê ra đối địch. Trương Khuê nai nịt ra khỏi thành trông thấy Dương Tiễn liền mắng lớn:

– Thất phu, ngươi giết mẹ ta, ta với ngươi quyết không chung đội trời.

Nói rồi cùng hỗn chiến với Dương Tiễn.

Ðánh được ít hiệp Dương Tiễn quăng Hạo Thiên Khuyển lên, Trương Khuê sợ chó cắn nhảy xuống ngựa độn thổ đi mất.

Dương Tiễn thâu binh về trại, Tử Nha hỏi:

– Bữa nay tướng quân ra trận thế nào?

Dương Tiễn thưa:

– Trương Khuê tài lắm, có phép địa hình còn hơn Thổ Hành Tôn nữa. Nếu đêm hôm không có Dương Nhậm thì chúng ta bị nguy với nó rồi.

Nói rồi thuật các chuyện vừa giao chiến. Tử Nha nói:

– Nếu vậy từ nay phải giao trách nhiệm tuần phòng cho Dương Nhậm.

Còn Trương Khuê bại tẩu về thành nói với vợ:

– Dương Tiễn tài cao phép lạ, vừa rồi thả chó cắn ta, ta phải dùng thuật địa hành về đây. Nhắm vợ chồng ta thủ thành này không nổi, chi bằng bỏ huyện Dẫn Trì chạy về Triều Ca sẽ tính kế.

Cao Lan Anh nói:

– Tướng quân tính như vậy không được đâu. Vợ chồng mình trấn ải này lâu lắm, nay lẽ nào bỏ mà đi, thiên hạ chê cười. Vả lại, thành này cũng như cái bình phong của triều ca, nếu bỏ thành này thì binh Châu tràn qua sông Huỳnh Hà không khó. Tướng quân an nghỉ, ngày mai thiếp ra quân một bữa xem sao.

Hôm sau Cao Lan Anh khai thành khiêu chiến, Tử Nha nghe báo hỏi các tướng:

– Ai dám ra binh cự với nữ tướng?

Ðặng Thiền Ngọc xin đi, Tử Nha dặn:

– Phải cẩn thận lắm mới được.

Ðặng Thiền Ngọc tuân lời, phát pháo kéo cờ, ra trước dinh hỏi lớn:

– Nữ tướng kia tên họ là chi?

Cao Lan Anh đáp:

– Ta là vợ của Trương tướng quân, trấn thành Dẫn Trì, gọi là Cao Lan Anh. Còn ngươi là ai?

Ðặng Thiền Ngọc nói:

– Ta là Ðặng Thiền Ngọc, vợ quan vận lương Thổ Hành Tôn.

Cao Lan Anh nghe nói nổi giận mắng:

– Ngươi là đứa khốn nạn! Cha ngươi vâng lệnh chinh Tây, lại đầu giặc. Còn ngươi lại lấy giặc làm chồng, nay còn mặt nào nhìn thấy quê hương?

Ðặng Thiền Ngọc vung đao hỗn chiến.

Cao Lan Anh mặc đồ trắng, Ðặng Thiền Ngọc mặc đồ hồng, hai nàng đánh với nhau như hai đóa hoa sen trắng hồng lẫn lộn.

Ðược vài mươi hiệp, Ðặng Thiền Ngọc trá bại, Cao Lan Anh đuổi theo, Ðặng Thiền Ngọc nghe tiếng lạc ngựa đến gần, liền quăng Ngũ quang thạch, trúng mặt Cao Lan Anh, miệng mũi sưng vù.

Cao Lan Anh giục ngựa chạy về thành.

Còn Ðặng Thiền Ngọc về báo tin thắng trận.

Tử Nha mừng rỡ ghi công.

Kế có quân vào báo:

– Thổ Hành Tôn vận lương về xin ra mắt.

Tử Nha đòi vào.

Thổ Hành Tôn đến làm lễ và thưa:

– Tôi vận lương đã đủ số, và mãn kỳ, xin nạp ấn lại.

Tử Nha nói:

– Ðây đã khỏi ngũ quan, lương thực có chư hầu trợ giúp. Từ nay việc vận lương không cần thiết nữa.

Thổ Hành Tôn thấy vắng Hoàng Phi Hổ liền hỏi thăm.

Na Tra nói:

– Cái huyện Dẫn Trì này nhỏ hơn hết, thế mà vừa đến nơi đã chết mất năm viên đại tướng là Hoàng Phi Hổ, Sùng Hắc Hổ, Văn Sính, Thôi Anh, Tưởng Hùng.

Thổ Hành Tôn hỏi:

– Tướng địch có tài gì mà hành động như vậy?

Na Tra nói:

– Ban đầu nó có con ngựa một sừng, đuổi địch như chớp nhoáng, năm tướng vì chạy không kịp nên bị nó giết.

Thổ Hành Tôn hỏi:

– Chúng ta không có cách nào trừ con ngựa một sừng sao?

Na Tra nói:

– Con quái thú đã bị Dương Tiễn giết mất rồi.

Thổ Hành Tôn vỗ đùi cười lớn:

– Thế thì nó còn gì nữa mà sợ nó? Sao không lấy thành cho sớm?

Na Tra nói:

– Hồi hôm thiếu chút nữa giết hết cả dinh chứ đừng nói chuyện lấy thành.

Thổ Hành Tôn trợn mắt hỏi:

– Sao lạ vậy?

Na Tra nói:

– Trương Khuê có phép địa hành còn hay hơn tướng quân nữa. Nó lén vào thích khách, may nhờ Dương Nhậm trông thấy. Suốt đêm binh tướng trong dinh không ai dám ngủ.

Thổ Hành Tôn nghĩ thầm:

– Trước kia thầy truyền phép ấy cho ta, nói là thiên hạ không ai biết địa hành cả, sao bây giờ có kẻ lại như mình? Ðể mai ra trận cho biết.

Nghĩ rồi vào phòng hỏi Ðặng Thiền Ngọc xem có quả thật như vậy không.

Ðặng Thiền Ngọc nói:

– Trương Khuê quả biết phép địa hành, không phải Na Tra nói dối đâu.

Thổ Hành Tôn lấy làm lạ, thao thức cả đêm, sáng ngày xin đi khiêu chiến.

Ðặng Thiền Ngọc, Dương Tiễn, Na Tra, cùng đi theo lượt trận.

Trương Khuê nghe quân báo, liền phát pháo khai thành, dẫn binh tướng ứng chiến.

Vừa ra đến nơi thấy một tướng lùn, liền hỏi:

– Ngươi là ai vậy?

Thổ Hành Tôn nói:

– Ta là Thổ Hành Tôn đây.

Vừa nói vừa vác gậy sắt đánh với Trương Khuê, Na Tra, Dương Tiễn đồng áp vào trợ lực.

Na Tra quăng Càn khôn quyện lên, Trương Khuê trông thấy nhào xuống đất độn thổ. Thổ Hành Tôn lập tức nhào theo.

Trương Khuê xem thấy kinh hãi nghĩ thầm:

– Nếu bên Châu có người biết địa hành như mình thì thật khó chịu lắm.

Chạy được một lúc, Trương Khuê trồi đầu lên giao chiến với Thổ Hành Tôn.

Hai bên đánh nhau ít hiệp, Trương Khuê bỏ chạy về thành.

Thổ Hành Tôn về thưa lại với Tử Nha:

– Phép địa hình của Trương Khuê hay lắm, tôi đuổi theo không kịp nên phải trở về. Nó giữ thành này thật khó mà phá.

Tử Nha nói:

– Lúc trước Cù đạo huynh dùng phép chỉ đất cứng mà bắt ngươi. Nay phải dùng phép ấy trị Trương Khuê mới được.

Thổ Hành Tôn thưa:

– Nếu vậy Nguyên soái viết thư đặng tôi đem về núi Hiệp Long cầu cứu thầy tôi mới được.

Tử Nha liền viết thơ thăm bạn, trao cho Thổ Hành Tôn.

Thổ Hành Tôn vào thành từ giã vợ, rồi độn thổ qua núi Hiệp Long.

Còn Trương Khuê trở về thành, tâm trí rối loạn, ngồi than với vợ:

– Bên Châu nhiều tướng kỳ dị, chúng ta đánh không lại đâu.

Cao Lan Anh hỏi:

– Tướng kỳ dị là ai?

Trương Khuê nói:

– Thổ Hành Tôn cũng biết địa hành như ta. Nếu có kẻ tài năng như mình thì thật khó hành động.

Cao Lan Anh thưa:

– Hay vợ chồng mình bế thành mà chịu, đợi binh triều tiếp viện sẽ hay.

Bỗng có một trận gió thổi hắt ngọn cờ trước dinh, Cao Lan Anh kinh hãi, nói với Trương Khuê:

– Ấy là điều bất lợi.

Nói rồi dọn bàn hương án, gieo quẻ rồi nói:

– Ðiềm ứng Thổ Hành Tôn qua núi Hiệp Long cầu cứu Cù Lưu Tôn, dùng phép chỉ đất cứng mà bắt tướng quân. Vậy chúng ta phải lo trước mới được.

Trương Khuê nghe nói kinh hãi, vội nai nịt chỉnh tề, cầm gươm độn thổ thẳng đến núi Hiệp Long đón đường Thổ Hành Tôn.

Thuật địa hành của Trương Khuê giỏi hơn nên đi sau mà đến trước. Khi đến núi Hiệp Long, Trương Khuê núp vào gành Mãnh thú, đợi Thổ Hành Tôn đến.

Còn Thổ Hành Tôn đến sau, chun lên khỏi đất thấy phong cảnh như cũ, chẳng có gì khác xưa, liền lên đến chân núi để vào động. Nhưng khi đi ngang gành Mãnh thú, Trương Khuê nhảy ra thộp được hét lớn:

– Thổ Hành Tôn, ngươi cố hại ta sao?

Dứt lời chém Thổ Hành Tôn một gươm rơi đầu.

Có bài thơ rằng:

Ðầu Châu thuở trước ít ai bì,

Nai ải vận lương chẳng trễ kỳ

Cướp trại cứu người đà lắm lúc,

Vào thành trộm báu cũng nhiều khi

Na Tra, Dương Tiễn đều yêu chuộng,

Nhuế Kiết, Ðặng Côn rất kính vì

Nay chết thình lình do tại số,

Uổng công trong sổ mấy lần ghi.

Trương Khuê xách thủ cấp Thổ Hành Tôn độn thổ về thành khoe với vợ rồi truyền bêu trước ải làm lịnh.

Binh Châu trông thấy vào báo với Tử Nha:

– Không rõ vì cớ nào trên thành Dẫn Trì lại có bêu thủ cấp Thổ Hành Tôn.

Tử Nha nghĩ thầm:

– Thổ Hành Tôn đi qua Hiệp Long sơn thỉnh phép, không phải ra trận giao chinh, tại sao bị giặc bêu đầu.

Nghĩ rồi đánh tay xem thử, vỗ án nói lớn:

– Thổ Hành Tôn chết thiệt rồi!

Ðặng Thiền Ngọc nghe tin chồng chết khóc òa và xin ra đánh báo thù.

Tử Nha nói:

– Chớ nên nóng lòng, phải thủng thỉnh tính kế mới được.

Thiền Ngọc không nghe giục ngựa đến trước thành khiêu chiến.

Cao Lan Anh nghe báo có nữ tướng cầm binh biết là Ðặng Thiền Ngọc nghĩ thầm:

– Ta ra giết ngươi đặng báo thù việc quăng đá hôm trước.

Nói rồi cầm đao lên ngựa xông ra.

Hai người đánh được ít hiệp, Cao Lan Anh trút bầu kim vãi lên Ðặng Thiền Ngọc bị đâm đui mắt không thấy gì cả bị Cao Lan Anh chém rụng đầu.

Quân binh Châu trông thấy về báo với Tử Nha.

Tử Nha chắt lưỡi nói với các tướng:

– Cao Lan Anh có binh khí bắn vào mắt người. Các ngươi ra trận phải đề phòng mới được.

Nam Cung Hoát thưa:

– Huyện Dẫn Trì rất nhỏ, thành Dẫn Trì là một thành rất sơ sài, nếu cứ giao tranh với Trương Khuê mãi biết chừng nào lấy được. Chi bằng dùng áp lực đem đại binh vây bốn phía giẫm nát bờ thành ào vô một lượt, Trương Khuê dù có tài cũng phải bỏ chạy, chứ làm sao giữ nổi.

Tử Nha cho đó là ý kiến hay.

Bấy giờ vợ chồng Trương Khuê ráng sức thủ thành nên binh Châu bốn phía phủ vây vẫn không sao xông vào được.

Qua hai ngày hỗn chiến, Tử Nha thấy phá không được thành, phải thu binh về trại.

Trương Khuê thấy trong thành binh sĩ ít oi liền viết sớ sai một tên quân đem về Triều Ca. Tên quân ấy qua khỏi sông Huỳnh Hà thấy bốn trăm chư hầu dồn binh tại Mạnh Tân chật ních liền lén lút qua khỏi Mạnh Tân, về đến Triều Ca dâng sớ.

Bữa ấy nhằm phiên Vi Tử thâu biểu.

Vi Tử xem xong đem đến Lộc đài dâng cho vua Trụ.

Trụ Vương hỏi:

– Hoàng bá dâng sớ gì vậy?

Vi Tử tâu:

– Võ Vương đánh thành Dẫn Trì, vợ chồng Trương Khuê cự không lại, nên dâng sớ xin cứu binh. Nếu không tiếp ứng để giữ thành Dẫn Trì thì vợ chồng Trương Khuê phải liều mình đền ơn chúa. Từ huyện Dẫn Trì đến thành đô chỉ có năm trăm dặm mà bệ hạ còn yến ẩm trên Lộc đài, không xem xã tắc mất còn. Vả lại bốn trăm chư hầu hiện đồn binh tại Mạnh Tân đợi binh Võ Vương tới, đồng kéo nhau về Triều Ca vấn tội. Việc chẳng khác chi lửa cháy, tôi nóng nảy vô cùng. Xin bệ hạ mau chọn hiền tài giúp nước ăn năn sửa mình, kẻo họa đến nơi rồi.

Vua Trụ xem sớ kinh hãi nói:

– Không dè Cơ Phát dẫn binh tới Dẫn Trì. Trẫm phải thân chinh mới được.

Quan đại phu Phi Liêm tâu:

– Không nên! Nay bốn trăm chư hầu đồn binh tại Mạnh Tân nếu bệ hạ thân chinh chư hầu sẽ mở vòng binh, chờ bệ hạ kéo quân qua khỏi sẽ chận ngõ về thì trước sau đều có giặc. Chi bằng bệ hạ phong bảng chiêu hiền cầu người tài giúp sức. Hễ trọng thưởng thì có người hiền tài ra giúp sức. Cần gì bệ hạ phải thân chinh.

Trụ Vương truyền ủy thác cho Phi Liêm thảo bảng cầu hiền treo khắp nơi. Nếu ai chịu đánh giặc thì phong quan trọng thưởng.

Bảng cầu hiền được dán khắp nơi. Cả Triều Ca đều nô nức.

Chẳng bao lâu có ba người đến lãnh bảng cầu hiền.

Quân lính đưa vào dinh ra mắt Phi Liêm.

Ba người ấy thưa:

– Chúng tôi biết mình tài non trí cạn, song Thiên Tử đã chiêu hiền giúp nước thì phải liều chết với non sông.

Phi Liêm thấy ba người mạnh bạo không phải kẻ tầm thường, liền trọng đãi và nói:

– Xin mời ba vị anh hùng ngồi đây đàm đạo.

Ba người thưa:

– Chúng tôi là dân dã, lẽ nào dám ngồi cùng với quan đại phu?

Phi Liêm nói:

– Nay Thiên Tử cầu anh hùng dẹp loạn, thỉnh hào kiệt cứu dân, không phải là việc nhỏ. Tôi tuy làm quan nhưng trong lúc ly loạn, không cứu dân cứu nước được, thì giá trị đâu bằng quý vị anh hùng? Xin quý vị chớ khiêm nhượng.

Ba người bái và ngồi xuống. Phi Liêm hỏi:

– Chẳng hay ba vị ở đâu, xin cho hạ quan biết danh hiệu.

Ba người đưa ba tấm thiệp ra. Phi Liêm xem thấy một người họ Viên tên Hồng, một người họ Ngô tên Long, một người họ Thường tên Hạo, cả ba đều ở núi Mai Sơn.

Phi Liêm liền dẫn ba người vào đền Hiển thánh.

Vua Trụ đang đánh cờ với Ác Lai, nghe báo có Phi Liêm hầu chỉ, thì truyền vào.

Phi Liêm quỳ tâu:

– Nay có ba người hào kiệt ở núi Mai Sơn, xin tình nguyện ra giúp nước, hiện còn đứng ngoài chờ lệnh.

Vua Trụ mừng rỡ đòi ba vị vào. Ba người lạy mừng xong đứng hầu hai bên. Vua Trụ phán:

– Ba khanh định dùng chước chi mà bắt Khương Thượng?

Viên Hồng tâu:

– Khương Thượng dùng mánh khóe hại người khiến chư hầu làm phản. Nay chỉ cần bắt Khương Thượng, rồi bệ hạ xuống chiếu tha tội tám trăm chư hầu, thì ai nấy cũng sẽ mang ơn bệ hạ, kéo binh về nước.

Trụ Vương nghe tâu đẹp lòng, phong Viên Hồng làm Nguyên soái, Ngô Long và Thường Hạo làm tả hữu tiên phuông, lại sai Ân Phá Bại làm tham quân, Lôi Khai làm đô đốc, Ân Thành Tú, Lôi Khôn, Lôi Bàng, Lỗ Nhân Kiệt làm bộ tướng tùy tùng, rồi truyền đãi yến tại đền Gia Khánh.

Trong số đó Lỗ Nhơn Kiệt là người tài trí, nhìn thấy Viên Hồng biết không phải là tướng tài, song cũng làm thinh để coi cho biết.

Rạng ngày Viên Hồng tập binh, Lỗ Nhơn Kiệt dòm ngó, thấy Viên Hồng còn lắm vụng về, biết không thể nào đánh lại Tử Nha được.

Hôm sau, Viên Hồng vào chầu, Trụ Vương phán:

– Nguyên soái mau đem binh ra thành Dẫn Trì giúp Trương Khuê đánh Khương Thượng.

Viên Hồng tâu:

– Tôi nhắm thế binh chẳng nên đi xa.

Vua Trụ hỏi:

– Vì cớ nào vậy?

Viên Hồng tâu:

– Nay tại Mạnh Tân có binh bốn trăm chư hầu đồn ở đó. Nếu tôi đem binh ra cứu Dẫn Trì thì bốn trăm chư hầu chận kín ngõ sau, không đường vận lương, trước sau đều có giặc, dù không ai đánh cũng phải chịu thua, bởi lương thực là việc quan hệ đứng đầu, thiếu một ngày cũng sanh loạn. Chi bằng đem hai mươi vạn binh mã cản đường Mạnh Tân, thì giặc vào triều ca không được. Nếu nó đánh thì nó sẽ thất bại, vì đồn quân lâu ngày thế phải hết lương. Ðợi chúng nó hết lương, ta phá một trận thì chư hầu chạy hết.

Vua Trụ phán:

– Nguyên soái luận phải lắm thật đáng tướng tài. Vậy tự ý khanh toan liệu.

Viên Hồng tạ ơn rồi dẫn binh tướng đi đón nơi Mạnh Tân.

Hồi 88: Tử Nha độ binh vượt Huỳnh Hà

Trương Khuê thủ thành trông mãi không thấy quân Triều Ca tiếp viện, bỗng có quân thám mã về báo:

– Thiên Tử vừa phong Viên Hồng làm Nguyên soái, dẫn hai mươi vạn binh đón chư hầu tại Mạnh Tân, không thấy tiếp cứu huyện Dẫn Trì.

Trương Khuê nghe báo thất kinh, nói:

– Không cứu viện Dẫn Trì thì ta làm sao giữ thành nổi? Còn đồn binh tại Mạnh Tân đón chư hầu làm gì? Nếu Tử Nha lấy được thành này rồi, hiệp binh với bốn trăm chư hầu thì dù có thiên binh ngàn tướng đón ở Mạnh Tân cũng chẳng ích gì cả.

Cao Lan Anh nói:

– Nhắm lại vợ chồng ta thủ thành này cũng đủ, nay có Viên Hồng đón chư hầu tại Mạnh Tân, chư hầu không dám đánh bọc hậu, chúng ta cứ bế thành, chờ cho Viên Hồng đuổi chư hầu xong, chúng ta sẽ khai thành giao chiến, thì ấy thế địch bị phân hóa thì không đáng sợ.

Trương Khuê tuy làm theo ý vợ mình, nhưng lòng buồn bã, không hy vọng một thành công nào.

Bấy giờ Tử Nha thấy phá không được thành Dẫn Trì mà hao binh tổn tướng quá nhiều, ngày đêm tính mãi không ra kế.

Bỗng có quân vào báo:

– Ngoài dinh có một đạo đồng xin vào ra mắt.

Tử Nha truyền mời vào. Ðạo đồng vào làm lễ rồi thưa:

– Tôi là học trò Cù Lưu Tôn. Bởi sư huynh tôi bị Trương Khuê đón giết tại gành Mãnh thú, thầy tôi không cứu, sợ lỗi số trời, nên sai đệ tử đem thơ này dâng cho sư thúc.

Nói rồi dâng thơ.

Tử Nha xem rõ thấy có một lá bùa và mấy lời dặn làm kế bắt Trương Khuê.

Tử Nha tạ ơn, cho đạo đồng về núi, rồi trao bùa và thiệp cho Na Tra cứ theo đó mà làm.

Tử Nha lại kêu Dương Nhậm, Dương Tiễn, Vi Hộ đến phân phối công tác và dặn cứ làm y theo kế.

Hôm sau, vào cuối giờ Ngọ, Tử Nha đem binh phá thành, làm rộn Trương Khuê một chặp rồi thâu binh về.

Hôm sau nữa, Tử Nha tâu với Võ Vương:

– Xin Chúa công đi với tôi xem địa thế lấy thành.

Võ Vương tánh chơn chất, bảo sao hay vậy.

Võ Vương lên ngựa, Tử Nha cỡi Tứ Bất Tướng đồng đi dạo một vòng khắp thành và chỉ chỗ này chỗ kia nói với Võ Vương:

– Phía này binh mỏng, dùng đại pháo bắn vào thì lấy được thành.

Trương Khuê ở trên thành, đi tuần các cửa, bỗng có quân báo:

– Tử Nha đi với một người mặc áo bào, vòng quanh thành chỉ chỏ.

Trương Khuê liền lên mặt thành thấy Tử Nha đi với Võ Vương, đang quan sát địa thế, chỉ chỏ lăng xăng, Trương Khuê nghĩ thầm:

– Tử Nha thấy ta thủ thành không ra trận nên khi dễ ta đến trước thành vua tôi đàm đạo như vậy.

Nghĩ rồi vào trong bàn với vợ.

Cao Lan Anh nói:

– Ðó là chúng nó lập kế dụ địch, tướng quân chớ nóng nảy.

Trương Khuê nói:

– Ðể ta ra thành bắt Võ Vương và Khương Thượng, phu nhân cố gắng giữ thành cũng đủ. Nói rồi cầm thương lên ngựa dẫn quân ra.

Cao Lan Anh không yên lòng, nên lên trên mặt thành ngó chừng theo.

Trương Khuê giục ngựa ra ngoài nói lớn:

– Cơ Phát và Khương Thượng! Hôm nay chúng bây chắc chết.

Khương Tử Nha làm bộ kinh hãi chạy trước, Võ Vương thất sắc giục ngựa theo sau. Trong dinh Châu không thấy tướng nào ra tiếp, Trương Khuê thấy vậy giục ngựa đuổi nà tới, Tử Nha giục Tứ Bất Tướng chạy về phía Tây, Võ Vương cũng chạy theo bén gót.

Trương Khuê đuổi được vài mươi dặm, bỗng nghe quân ó vang tai, trống khua dậy đất, nhìn lại thấy binh Châu chia nhau bốn phía hãm thành.

Trương Khuê biết mình mắc mưu “điệu hổ ly sơn”, ngước mặt lên trời than:

– Bởi ta không nghe lời vợ, nên mới lầm mưu chúng.

Than rồi quày ngựa lại, không đuổi theo nữa, cố trở về cứu thành.

Bấy giờ Cao Lan Anh đang ngóng theo chồng mình đề phòng nguy hiểm, bỗng thấy một tiếng pháo nổ rất lớn, bốn phía thành quân Châu bủa vây đông nghẹt.

Trước nhất, Na Tra đạp xe Phong hỏa bay lên mặt thành, hiện ba đầu tám tay, Cao Lan Anh liền ra sức cự địch.

Nhưng đánh được ít hiệp, Cao Lan Anh cự không lại phải bại tẩu, chạy xuống thành, Na Tra đuổi theo bén gót.

Còn Lôi Chấn Tử lúc ấy bay lên mặt thành giết quân sĩ vô số, lại mở bét các cửa, cho quân Châu ùa vào.

Cao Lan Anh thấy tình thế rối loạn, thành Dẫn Trì sắp mất không phương giải cứu, còn Na Tra cứ đuổi theo mãi, không biết làm sao, túng phải hốt một nắm kim phép vãi lên để giết Na Tra trước, chẳng ngờ trong cơn hoảng hốt, không kịp lấy kim phép, bị Na Tra quăng Càn khôn quyện lên, đánh trúng đầu nhào xuống đất.

Na Tra lướt tới đâm bồi một giáo chết tươi.

Binh Thương thấy chủ tướng tử trận đều bó tay đầu hàng hết.

Na Tra giao cho Lôi Chấn Tử thủ thành, còn mình chạy theo tiếp cứu với Tử Nha.

Nhắc lại, Trương Khuê lúc nghe pháo nổ, ngoảnh đầu lại thấy binh Châu vây phủ thành trì, biết mình mắc kế, toan quay về cứu. Tử Nha gọi lớn:

– Trương Khuê, ngươi đã bị mất thành sao chẳng chịu hàng đầu cho toàn tánh mạng?

Trương Khuê không thèm nói, cứ giục ngựa chạy riết về thành, vừa đến nửa đường thì gặp Na Tra.

Na Tra đón lại mắng:

– Nghịch tặc, chưa chịu trói còn đợi chừng nào?

Trương Khuê nổi xung hỗn chiến.

Ðánh chừng ba hiệp, Na Tra quăng nơm phép chụp Trương Khuê, Trương Khuê nhào xuống ngựa độn thổ trốn đi, Na Tra thấy Trương Khuê dùng phép địa hành, chạnh nhớ đến Thổ Hành Tôn lòng buồn khôn xiết.

Kế đó Na Tra đến rước Võ Vương và Tử Nha vào thành.

Võ Vương truyền đem thủ cấp các tướng Châu chôn cất tử tế.

Còn Trương Khuê đi dưới đất chạy ra ngã Huỳnh Hà, vì biết thành Dẫn Trì đã mất, có trở lại cũng chẳng ích gì, chẳng ngờ Tử Nha đã sai Dương Nhậm và Vi Hộ đón sẳn. Dương Nhậm đứng bên trên, trông thấy Trương Khuê đi dưới đất, liền chỉ tay nói với Vi Hộ:

– Kia kìa, Trương Khuê đang chạy dưới đất kìa. Chúng ta phải theo cho kịp. Cứ theo ngón tay tôi chỉ mà phóng Gián ma xử.

Trương Khuê đang chạy, thấy Dương Nhậm cỡi thú Vân Hà đuổi theo mãi thì thất kinh chạy sảng.

Còn Dương Nhậm cứ ngó Trương Khuê mà chỉ, Vi Hộ cầm Gián ma xử nhắm hướng Dương Nhậm chỉ mà quăng.

Trương Khuê chắt lưỡi than:

– Nó thấy được ta chạy dưới đất thì biết đường nào trốn được. Vậy thì chạy về Triều Ca rồi sẽ liệu.

Nghĩ rồi chạy thẳng ra mé sông Huỳnh Hà.

Bấy giờ Dương Tiễn đã được lệnh cầm búa chỉ đất cứng đứng chờ sẳn, bỗng thấy Dương Nhậm giục thú đến nói lớn:

– Trương Khuê chạy đã gần đến mé sông ấy.

Dương Tiễn nghe nói liền đốt bùa.

Trương Khuê đang chạy đến vùng đất ấy tự nhiên dừng lại, vì xung quanh đất cứng như sắt.

Trương Khuê kẹt dưới đất chẳng khác bị trói, cựa quậy không được nữa.

Dương Nhậm chỉ chỗ cho Vi Hộ, Vi Hộ nhắm ngay đó phóng mạnh Gián ma xử xuống, Trương Khuê bể đầu.

Dương Nhậm nói:

– Trương Khuê chết rồi.

Ai nấy nghe nói mừng rỡ, đồng trở về thành Dẫn Trì thưa với Tử Nha, Tử Nha truyền dưỡng binh hai ngày rồi kéo qua sông Huỳnh Hà.

Lúc này vào tiết Ðông, khí trời lành lạnh, binh Châu đến mé sông đóng trại.

Tử Nha truyền quân đi khắp ven sông, mướn thuyền của bá tánh để chở quân sĩ sang sông. Trong số các thuyền mướn được, lựa một chiếc sang trọng hơn, để Võ Vương và Tử Nha dùng, còn quân sĩ thì cứ tùy theo sức thuyền chở mà xuống thuyền.

Ðoàn thuyền bồng bềnh trên mặt sóng, lướt ra đến giữa dòng.

Võ Vương chưa từng qua sông lớn, thấy sóng gió rất lo sợ, nhìn chân trời mặt nước mênh mông, không biết đâu bờ bến.

Tử Nha thấy Võ Vương có ý sợ sệt, tìm lời khuyên giải.

Khi thuyền ra đến giữa sông, bỗng có một con cá trắng như bạc nhảy lên thuyền, Võ Vương càng giật mình hơn nữa. Con cá lớn phi thường, dài đến năm sáu thước mộc. Nó lăn lộn trong thuyền, nhảy từ khoang này đến khoang kia, nhưng không nhảy khỏi be thuyền để trở về với dòng sông.

Võ Vương lấy làm lạ hỏi:

– Cá bạc nhảy vào thuyền chẳng biết điềm lành dữ?

Tử Nha tâu:

– Mừng Ðại vương phạt Trụ được, nên trời ứng điềm lành. Bởi Trụ Vương trọng sắc trắng nên khiến cá bạc nhảy vào thuyền nạp mình. Trời khiến sự nghiệp nhà Thương về nhà Châu đó.

Nói rồi truyền bọn đầu bếp đem cá làm thịt, Võ Vương không bằng lòng, bảo thả cá xuống sông làm phước.

Tử Nha nói:

– Trời đã cho mà Ðại vương không dùng e mắc tội.

Liền hối quân làm thịt cá dâng cho Võ Vương, còn dư thì đãi các tướng.

Giây phút sóng êm gió lặng, thuyền qua khỏi sông Huỳnh Hà, bốn trăm chư hầu đang sửa soạn nghênh tiếp.

Tử Nha nghĩ thầm:

– Võ Vương tánh nhân đức, chẳng chịu phản vua, e chư hầu tôn Vương, Võ Vương sẽ giật mình từ chối. Nếu để chư hầu thối chí thì uổng công mình biết chừng nào, vậy ta phải liệu trước mới được.

Nghĩ rồi tâu với Võ Vương:

– Tuy thuyền đã tới bến song Ðại vương chớ nên rời thuyền hãy ở nán lại đây để tôi lên trước, sắp đặt quân ngũ cho chỉnh tề, rồi đến rước Ðại vương.

Võ Vương nói:

– Tùy ý Thượng phụ định liệu.

Tử Nha lên bờ kéo quân đến Mạnh Tân đóng trại.

Bốn trăm chư hầu đồng vào ra. Tử Nha đón tiếp và dặn:

– Xin chư vị hiền hầu lúc ra mắt Võ Vương chớ nói đến việc điếu dân phạt Trụ, cứ nói là đi xem chính lệnh nhà Thương mà thôi, đợi phá Trụ xong sẽ thương nghị.

Các chư hầu đều y lời.

Tử Nha sai Dương Tiễn, Na Tra đem binh đi rước Võ Vương.

Hai trăm chư hầu Tây phương cũng theo Võ Vương nữa, cộng hết là sáu trăm chư hầu. Chỉ còn thiếu hai trăm chư hầu phương Ðông, vì Khương Văn Hoán chưa phá được ải Du Hồn nên chưa dẫn đến họp mặt.

Khi ấy Võ Vương đi gần đến trại, Tử Nha dẫn chư hầu ra nghênh tiếp.

Năm vị chư hầu lớn và sáu bá kể ra sau.

Năm vị chư hầu là:

– Nam Bá hầu Ngạc Thuận.

– Bắc Bá hầu Sùng Ứng Loan.

– Ðông Bá hầu Chung Chí Minh.

– Tây Nam Dự châu hầu Dao Sở Lượng.

– Ðông Bắc Cổn châu hầu Bành Tổ Thọ.

Còn sáu vị Bá là:

– Di Môn Bá Võ Cao Quì.

– Tả Bá Tông Trí Minh.

– Hữu Bá Dao Thứ Long.

– Viễn Bá Thường Tín Nhân.

– Cận Bá Tào Tông.

– Bân châu Bá Ðinh Kiến Thiết.

Tuy chưa đủ tám trăm chư hầu, song sáu trăm chư hầu và các bá lớn nhỏ cũng đông lắm.

Có bài thơ rằng:

Hết thảy chư hầu nhóm Mạnh Tân,

Bụi bay mù mịt khắp xa gần

Lọng, cờ đủ vẻ đông như hội,

Gươm giáo đầy tràn cắm tợ rừng

Binh nhạn oai phong như địa sát,

Tướng hùm khí dữ tợ thiên thần

Sáu trăm mão áo đồng nghênh tiếp,

Rõ mặt Tây châu đến cứu dân.

Các chư hầu và các bá đều mời Võ Vương vào ngồi giữa trướng để mọi người ra mắt. Võ Vương khiêm nhượng nhiều lần, song bị ép quá không lẽ từ chối hoài, phải đáp lễ rồi ngồi giữa.

Chư hầu đồng quỳ tâu:

– Nay Ðại vương đến đây hội diện, chúng tôi được thấy thiên nhan, xin Ðại vương ra ơn cứu thiên hạ trong nước lửa, chúng tôi rất đội ơn.

Võ Vương nói:

– Tôi nối nghiệp tiên vương, hằng thẹn mình chưa đủ tài đức, cảm ơn chư vị hiền hầu đoái tưởng mời đến, tôi chẳng dám cãi nên phải bái tướng vào đây, để ngõ cùng Thiên tử, ăn năn cần mẫn việc chánh, xin các hiền hầu đừng xem tôi là chủ hội này, vì tôi chỉ vâng lời mời đến cho đủ mặt mà thôi.

Dự chư hầu là Dao Sở Lượng tâu:

– Trụ Vương vô đạo, giết hại vợ con,, bỏ việc cúng tế, dùng gian nịnh hại trung lương, mắc tội trời nên khiến mất nước. Xin Ðại vương phạt một kẻ dữ, cứu trăm họ dân lành, để muôn phương cảm đức.

Võ Vương nói:

– Thiên Tử lỗi đạo chỉ tại nghe lời Ðắt Kỷ và gian thần. Chúng ta đến đây coi việc chánh, bắt bọn ấy đi thì Thiên Tử sẽ ăn năn sửa lỗi.

Cổn châu hầu là Bành Tổ Thọ tâu:

– Ngôi trời không chừng, ai có đức thì được. Xưa vua Nghiêu không nhường ngôi con mình là Ðơn Châu, lại truyền cho Ðế Thuấn, còn vua Thuấn không nhường ngôi cho con mình là Thương Quân, lại truyền cho Ðại Võ. Ấy là tại con vua Nghiêu, vua Thuấn thiếu đức. Sau vua Ðại Võ truyền cho con là vì con có đức, nối dòng đến vua Kiệt. Vua Kiệt lại thất đức bỏ việc nhà Hạ, bạo ngược với muôn dân, nên vua Thành Thang đuổi vua Kiệt qua đất Nam Sào, cứu dân trong nước lửa, nên chư hầu mới tôn vua Thành Thang làm Thiên tử, gây cơ nghiệp nhà Thương, truyền đến đời vua Trụ. Nay vua Trụ lỗi đạo hơn vua Kiệt thuở xưa, trời khiến Ðại vương cứu dân trong nước lửa, xin Ðại vương phạt Trụ cho đẹp dạ chư hầu, chẳng nên khiêm nhượng.

Võ Vương cứ việc từ chối mãi, Tử Nha nói:

– Xin quý vị chư hầu đợi xem việc chánh nhà Châu xong sẽ luận.

Chư hầu đồng khen phải.

Võ Vương truyền mở tiệc đãi đằng.

Bấy giờ Viên Hồng đồn quân tại Mạnh Tân, nghe quân báo:

– Nay Võ Vương và Khương Thượng đã vượt sông Huỳnh Hà, hội chư hầu ở Mạnh Tân.

Ân Phá Bại nói:

– Cơ Phát cầm đầu hội chư hầu này, binh tướng mạnh như hùm, xin Nguyên soái chớ dễ ngươi, phải cố gắng phòng thủ.

Viên Hồng nói:

– Tham quân thấy quân chư hầu đông và mạnh như vậy lo lắng cũng phải, song tôi thấy các chư hầu chỉ có Khương Thượng là đáng kể mà thôi. Tuy nhiên, đối với Khương Thượng thì cũng chỉ là một gã câu cá, chưa đủ tài làm tướng. Tham quân sẽ xem tôi đánh Khương Thượng một trận không còn một manh giáp.

Hôm sau Tử Nha ra khách, Di Môn Bá là Võ Cao Quì nói:

– Lâu nay mấy trăm chư hầu đồn binh tại Mạnh Tân này mà chưa dám phạt Trụ, vì đợi Võ Vương đến đặng ra binh. Nay không bắt Viên Hồng thì đứa thất phu ấy khi dễ người tài trí.

Tử Nha nói:

– Luận như vậy cũng phải. Thôi để tôi hạ chiến thơ, rồi bắt đầu giao tranh.

Nói rồi lấy bút viết một phong thơ, sai Dương Tiễn đem trao cho Viên Hồng.

Dương Tiễn đến dinh Thương kêu lớn:

– Ta vâng lệnh Khương Nguyên soái đến hạ chiến thơ.

Quân vào báo lại, Viên Hồng cho đòi vào, mở thơ ra xem rồi nói với Dương Tiễn:

– Ta không cần viết thơ trả lời. Ngươi về thưa lại cho Khương Thượng chuẩn bị ngày mai giao chiến.

Dương Tiễn về thưa lại.

Tử Nha tin cho chư hầu hay để sửa soạn giao công.

Rạng ngày Tử Nha truyền phát pháo kéo binh ra, bên tả có Nam Bá Hầu Ngạc Thuận, bên hữu có Bắc Bá Hầu Sùng Ứng Loan, đằng sau dàn mấy trăm chư hầu coi thế như vũ bão, đồng kéo đến trước trại.

Quân vào báo lại, Viên Hồng kéo binh tướng ra, Tử Nha hỏi:

– Có phải Thương triều Nguyên soái Viên Hồng chăng?

Viên Hồng gật đầu hỏi lại:

– Còn ngươi có phải là Khương Tử Nha không?

Tử Nha nói:

– Nay Trụ Vương lỗi đạo, thiên hạ về Châu, sức ngươi như một gáo nước làm sao tưới muôn xe cho được? Nếu hàng đầu thì còn mạng bằng cự lại phải lụy thân.

Viên Hồng cười lớn:

– Khương Thượng! Ngươi có tài bắt cá biết nước cạn sâu chớ làm sao biết đến chuyện cầm binh khiển tướng mà nói phách. Bởi năm ải không có tướng tài nên ngươi mới lọt đến đây. Ðã vậy sao không lấy đó làm may còn cố đem thân vào cõi chết?

Dứt lời, Viên Hồng quay lại hỏi các tướng:

– Tướng nào chịu ra sức bắt gã ngư phủ cho ta?

Thường Hạo ứng tiếng nói lớn:

– Ðể tôi bắt nó cho.

Nói rồi cầm đao lướt tới. Hữu Bá Dao Thứ Long nổi giận xách búa giục ngựa tới hét:

– Thất phu đừng phách lối! Có ta lấy đầu ngươi đây!

Nói rồi hỗn chiến.

Thường Hạo thấy Dao Thứ Long múa búa như bay nhắm bề cự không lại tính chạy trước cho êm.

Dao Thứ Long liền giục ngựa đuổi theo lập tức.

Hồi 89: Vua Trụ chặt chân lương dân để xem tủy

Dao Thứ Long đuổi theo Thường Hạo bỗng thấy khói tỏa mịt mù, làm mờ một khoảng lớn. Ấy là Thường Hạo hiện khói đen làm cho người ngoài không thấy rồi hóa hình mãng xà phun hơi độc.

Dao Thứ Long bị hơi độc té nằm ngay dưới đất, Thường Hạo hiện lại hình người, vung đao chặt đầu Dao Thứ Long.

Giây phút khói tan, mọi người trông thấy Thường Hạo cầm đầu Dao Thứ Long giơ cao nói lớn:

– Ta bắt được Khương Thượng cũng chặt đầu như thế này.

Cổn chư hầu là Bành Tổ Thọ nổi giận hét lớn:

– Thất phu, cả gan dám giết Hữu bá.

Ngô Long cầm song đao giục ngựa lướt ra đón đầu giao chiến.

Hai người đánh được mười hiệp, Ngô Long liền hóa khói đen mù mịt, hiện hình một con rít chúa, phà hơi độc.

Bành Tổ Thọ bị hơi độc hôn mê, Ngô Long hiện lại hình người, chém đầu Bành Tổ Thọ.

Các chư hầu đều lấy làm lạ, không biết khói đen ở đâu trong trận như vậy.

Dương Tiễn nói với Na Tra:

– Hai tướng ấy không phải người thật, chắc là loài yêu mỵ. Anh em mình phải ra tay mới được.

Ngô Long chém Bành Tổ Thọ rồi giục ngựa đến trước nói lớn:

– Ai muốn chết thì ra đây nạp mạng?

Na Tra mắng lớn:

– Quái vật, ngươi chớ quen dùng tà thuật hại người.

Nói rồi đâm một giáo, Ngô Long đưa song đao ra đỡ và hỏi:

– Ngươi là tướng chi đó?

Na Tra không thèm xưng tên, lướt tới chém liền, rồi hiện ra ba đầu tám tay đánh Ngô Long đỡ không kịp.

Chư hầu thấy Na Tra hiện hình như vậy đều lấy làm lạ.

Còn Na Tra đánh được bốn mươi hiệp, liền lấy Cửu long thần hỏa quăng lên chụp Ngô Long. Ngô Long thất kinh hóa gió bay mất.

Na Tra vỗ chiếc nơm phép đốt không người thật uổng công.

Thường Hạo xem thấy nổi xung, giục ngựa tới hét lớn:

– Na Tra đừng làm dữ! Có ta đến đây.

Vừa nói vừa chém Na Tra. Dương Tiễn thấy vậy giục ngựa vào trợ chiến.

Thường Hạo cự không lại hai người, quày ngựa bỏ chạy.

Na Tra không đuổi theo.

Dương Tiễn lấy đạn bắn một viên ngay sau lưng Thường Hạo, nhưng viên đạn bay gần tới thì tan mất.

Na Tra nổi giận quăng nơm phép chụp liền.

Thường Hạo hóa hào quang bay mất. Ai nấy trông thấy đều kinh hãi.

Viên Hồng thấy hai vị tiên phuông chạy hết, nổi giận lướt tới hét lớn:

– Khương Thượng! Ngươi có giỏi thì tranh thắng phụ với ta.

Dương Nhậm cỡi thú Vân Hà lướt tới đánh với Viên Hồng.

Hai bên đánh được bảy hiệp, Dương Nhậm nhảy trái sang một bên, dựng cây giáo Phi Vân xuống đất, rồi lấy quạt Ngũ hỏa ra quạt.

Nhưng Dương Nhậm quá chậm chạp, Viên Hồng đã nhảy xuống ngựa biến mất.

Dương Nhậm quạt một cái con ngựa Viên Hồng cháy tiêu ra tro.

Tử Nha truyền thâu binh về trại.

Các trấn chư hầu đều hội đủ mặt, Khương Thượng than:

– Thương thay cho hai vị chư hầu.

Dương Tiễn thưa:

– Tôi coi ba người ấy cốt yêu, không dễ gì hại chúng được.

Các chư hầu đều bàn luận về ba người ấy có phép lạ lùng.

Còn Viên Hồng về dinh ngồi trước trướng, Ngô Long, Thường Hạo cũng vào hầu.

Viên Hồng nói:

– Cái nơm của Na Tra, cây quạt của Dương Nhậm thật là hai vật dữ không phải phép thường.

Ngô Long cười, nói:

– Nó nơm quạt ai, chớ hại chúng mình sao được? Hôm nay quyết bắt Khương Thượng, té ra giết có hai vị chư hầu, tưởng lại cũng không thắng.

Viên Hồng liền viết sớ về Triều Ca báo tiệp, tâu cho vua Trụ biết đã giết được hai vị chư hầu.

Bấy giờ Lỗ Nhơn Kiệt nói riêng với Ân Thành Tú, Lôi Côn, Lôi Bàng:

– Hôm nay anh em đã thấy Viên Hồng, Ngô Long, Thường Hạo đánh với Tử Nha chưa? Ấy là điềm mất nước, nên có yêu quái ra đời. Nay sáu trăm chư hầu hội binh không phải chuyện nhỏ, lẽ nào ba con yêu ấy cự nổi sao?

Ân Thành Tú nói:

– Anh chớ nóng lòng. Cứ để xem chúng nó hành động thế nào cho biết.

Lỗ Nhơn Kiệt nói:

– Ta chịu ơn nhà Thương đã ba đời, bề nào cũng liều thân báo chúa.

Bấy giờ công sai dâng biểu đến Phi Liêm.

Phi Liêm xem xong mừng rỡ, đem vào dâng vua Trụ và tâu:

– Viên Hồng mới cự với Khương Thượng một trận mà chém được hai vị chư hầu. Thuở nay chưa thấy vị Nguyên soái nào thắng trận như vậy. Nhờ hồng đức bệ hạ, chắc dẹp được giặc Tây Kỳ.

Vua Trụ mừng rỡ nói:

– Khanh tiến cử Viên Hồng, mới đánh một trận mà giết luôn hai tướng, thật đáng bực công thần. Trẫm truyền chỉ ban cho Viên Hồng một cái áo gấm, vàng bạc và thịt rượu, đợi dẹp yên giặc sẽ chia đất phong vương.

Phi Liêm lãnh chỉ ra khao thưởng.

Viên Hồng và các tướng đều tạ ơn.

Ðắt Kỷ hay tin ấy, bước ra tâu với vua Trụ:

– Thiếp mừng bệ hạ dùng Viên Hồng làm tôi xã tắc. Thế nào cũng dẹp yên chư hầu, trừ Khương Thượng. Bệ hạ hưởng thái bình, thần thiếp cũng nhờ phước lớn. Xin dọn tiệc ăn mừng.

Vua Trụ phán:

– Ái khanh nói rất hiệp ý trẫm.

Liền truyền quân dọn yến trên Lộc đài, vua Trụ, Ðắt Kỷ, Hồ Hỷ Mỵ, Ngọc Mỹ Nhơn đồng ngồi vào tiệc.

Ba con yêu luân phiên nhau dâng rượu, và chúc tụng mãi.

Bỗng thấy tuyết xuống dầm dề, gió lạnh tạt vào cửa.

Trụ Vương liền cuốn rèm lên, để xem phong cảnh trời Ðông, nhìn thấy thành Triều Ca như bịt bạc.

Vua Trụ truyền Ðắt Kỷ ca múa một chặp, để uống rượu vui say.

Giây phút mặt trời lên cao, tuyết tan thành nước, cảnh vật như tan biến trong thủy tinh. Vua Trụ nhìn xuống Lộc đài, thấy gần cửa Tây môn, nước trong kinh chảy ra cuồn cuộn.

Bởi vua Trụ lấy đất đắp Lộc đài, nên mới có con kinh ấy. Bây giờ tuyết tan ra nước liền chảy xuống kinh, ai đi ngang qua cũng phải vén quần mà lội.

Xảy thấy một ông già, xăng quần lội qua trước, đi đứng rất ung dung, tiếp đó một chàng trai theo sau, thấy nước thì sợ không dám lội, dùng dằng mãi mới qua khỏi con kinh, chân rung cầm cập.

Trụ Vương liền nói với Ðắt Kỷ:

– Việc này thật kỳ quái. Già lại không sợ lạnh, mà trẻ lại co ro. Có phải trái lẽ không?

Ðắt Kỷ tâu:

– Bởi ông già ấy được sinh ra lúc cha mẹ đương mạnh, nên tủy xương tràn đầy, tuy già cả mà vẫn có sức mạnh như thường. Còn chàng trai kia sanh ra trong lúc cha mẹ nó già yếu, khí huyết đã suy, bẩm thọ bạc nhược, tủy trong ống xương chẳng có bao nhiêu, nên tuổi nhỏ mà sợ lạnh.

Vua Trụ cười rằng:

– Khanh nói gạt trẫm, lẽ nào có chuyện như vậy. Hễ con người ta trai tráng phải mạnh hơn già cả mới đúng lẽ.

Ðắt Kỷ tâu:

– Nếu bệ hạ không tin xin cho đòi hai người ấy vào đây thì biết.

Trụ Vương sai quân ra bắt ông già và chàng trai ấy vào, quân sĩ tuân lệnh, chạy đến thộp cổ hai người ấy.

Hai người ấy sợ sệt thưa:

– Chúng tôi có tội gì mà bắt?

Quân sĩ nói:

– Không phải có tội. Bệ hạ đòi lên lầu để nói chuyện.

Nói rồi dắt hai người đến dưới đài.

Trụ Vương truyền chặt mỗi người một chân lên xem thử. Quả nhiên ống chân chàng trai tủy lưng, còn ống chân ông già tủy đầy hơn.

Vua Trụ xem xong truyền quân kéo thây hai người bỏ ngoài đồng nội.

Thương hại hai người dân vô tội bị thác oan.

Có bài thơ rằng:

Chẳng sợ chư hầu tại Mạnh Tân,

Nghe lời Ðắt Kỷ chặt chân dân

Nếu không Châu Võ đem binh phạt,

Trăm họ gần xa bị giết lần.

Trụ Vương thấy Ðắt Kỷ nói trúng liền vuốt lưng khen:

– Ái khanh thật thông minh, thấu hiểu mọi việc.

Ðắt Kỷ tâu:

– Tuy tôi phận gái, nhưng có học sách âm phủ, đoán việc cao không sai. Tủy trong ống xương người là việc dễ hiểu, còn như coi đàn bà mà biết có thai mấy tháng, con trai hay con gái, đứa nhỏ trong bụng quay mặt về phía nào, thì tôi nói trăm người không trật một.

Trụ Vương phán:

– Ái khanh luận việc tủy xương người đã trúng thì nói việc có thai cũng chắc không sai.

Liền truyền thị thần ra ngoài chợ Triều Ca bắt ít người có chửa đem vào đền xem thử. Thị thần vâng lệnh bủa vây khắp chợ bắt đàn bà có thai.

Thương hại dân chúng kêu chẳng thấu trời, khóc than tở mở:

– Chúng tôi không phạm phép nước chẳng thiếu thuế vua, sao bắt người có thai đem vào cung cấm làm cho con lìa mẹ vợ xa chồng.

Mặc cho tiếng than khóc của dân. Bọn thị thần bắt hơn mười người đàn bà chửa dẫn đi. Vừa đến ngọ môn, gặp Cơ Tử, Vi Tử, Vi Tử Khải, Vi Tử Ðiển và Tôn Vinh đang bàn luận việc nước, nghe tiếng khóc lấy làm lạ đồng bước ra ngoài xem thử.

Bọn thị thần trông thấy đình lại, không dám níu kéo nữa.

Cơ Tử bước tới hỏi bọn thị thần:

– Mấy người này vì sao bị bắt?

Số đàn bà chửa khóc lóc nói:

– Chúng tôi chẳng phạm tội chẳng biết Thiên Tử sai bắt làm gì. Lão gia là vị đại thần, xin cứu chúng tôi làm phước.

Cơ Tử nổi giận nói:

– Giặc đến bên thành, hôn quân không lo việc nước, cứ nghe lời yêu phụ vô cớ giết dân. Thôi các ngươi đứng dậy để tôi vào can vua đã.

Nói rồi đi trước, các quan đồng theo sau đến Lộc đài.

Vua Trụ đang chờ thị thần bắt đàn bà chửa về mổ bụng xem thai bỗng thấy quan đương giá vào tâu:

– Có Cơ Tử xin hầu chỉ.

Vua Trụ đòi vào.

Cơ Tử quỳ lạy vừa khóc vừa nói:

– Chẳng ngờ cơ nghiệp Thành Thang vì bệ hạ vô đạo mà dứt. Bệ hạ chẳng ăn năn chừa lỗi lại mù quáng hại dân. Một mai chết xuống suối vàng mặt mũi nào trông thấy tiên đế.

Vua Trụ nổi giận mắng:

– Cơ Phát làm phản đã có Nguyên soái Viên Hồng đánh dẹp, chẳng bao lâu cũng hết loạn. Nay trẫm xem tuyết thấy chuyện quái gỡ nhờ Hoàng hậu cắt nghĩa thông minh, chuyện ấy cũng không có tội gì. Còn việc thử xem thai nghén cho biết gái trai cũng không là đại sự, sao ngươi dám mắng vua và nói động đến tiên vương.

Cơ Tử vừa khóc vừa tâu:

– Tôi nghe làm cha mẹ dân thì coi dân như con, chưa từng nghe làm cha mẹ dân mà coi dân như kiến. Chặt chân không thể nối liền lại được, mổ bụng không thể không hại mạng người. Ở đời ai lại không sợ chết. Mình sợ chết mà không kể đến mạng sống của người chết sao gọi là nhân? Nay bệ hạ không sợ phép trời, không lo việc chánh, chặt chân dân lành, mổ bụng đàn bà có thai nghén. Gieo sầu thảm trong dân gian, nếu chư hầu đến được Triều Ca, trăm dân bỏ theo giặc, thì xã tắc của bệ hạ cò còn không. Sao bệ hạ chỉ biết có hoàng hậu mà không biết đến tổ tiên, không biết đến triều đình, không biết đến dân, đến nước.

Trụ Vương giận quá mắng lớn:

– Thất phu! Ngươi khinh trẫm quá lẽ, trẫm như người mất nước còn tội nào lớn hơn.

Liền truyền vệ sĩ kéo Cơ Tử xuống lầu đập chết.

Cơ Tử nói lớn:

– Tôi chết cũng an thân, chỉ e hôn quân sẽ bị hành hình, còn để tiếng xấu muôn đời.

Võ sĩ kéo Cơ Tử xuống đài.

Vi Tử, Vi Tử Khải, Vi Tử Ðiển trông thấy la lớn:

– Hãy khoan! Ðể chúng ta can vua đã.

Nói rồi đồng lên đài khóc lớn và tâu:

– Cơ Tử là trung thần, có công lớn với xã tắc, nay can vua mà chết thật không đáng tội. Xin bệ hạ xét lại. Vả lại giặc gần đến bên thành mà bệ hạ đối xử với trung thần như vậy chẳng khác nào mở cửa cho giặc vào. Xin bệ hạ tha tội cho Cơ Tử, thương xót tôi dân, gần lành tránh dữ.

Vua Trụ thấy vậy, phán:

– Trẫm vì lời thần bá, hoàng huynh, tha Cơ tử khỏi chết, song phải cách chức đuổi Cơ Tử về làm dân.

Ðắt Kỷ ở sau bình phong đứng ra quỳ tâu:

– Cơ Tử mắng vua, tội khi quân đã đáng chết nếu tha về dân dã sao khỏi oán hờn? Thần thiếp e Cơ Tử qua đầu Võ Vương, bộc lộ việc binh cơ, hoặc mộ dân phản nghịch thì hại ấy chẳng nhỏ.

Vua Trụ hỏi:

– Theo ý Hoàng hậu thì thế nào?

Ðắt Kỷ tâu:

– Thần thiếp tưởng nên cạo đầu Cơ Tử, giam vào ngục cho rõ phép nước, như vậy tôi dân mới sợ, kẻ khi quân không còn dám dùng miệng lưỡi mắng vua.

Trụ Vương y lời.

Vi Tử thấy vua nghe lời Ðắt Kỷ, nhắm tâu nữa cũng uổng công, liền lui xuống đài, vừa khóc vừa nói với Vi Tử Ðiển và Vi Tử Khải:

– Cơ nghiệp Thành Thang hơn sáu trăm năm, nay bị hôn quân làm mất. Ấy cũng tại trời khiến, biết cứu làm sao? Vậy thì ta với hai ngươi lén đến nhà Thái miếu, đội hai mươi tám vị thần chủ trốn đi, cải tên đổi họ nương náu cõi ngoài, họa may còn hương lửa.

Vi Tử Khải, Vi Tử Ðiển đều nghe theo.

(Việc này về sau đức Khổng Tử khen nhà Thương có ba người nhơn là Vi Tử, Cơ Tử và Tỷ Can).

Kế đó vua Trụ truyền dẫn đàn bà chửa lên đài.

Ðắt Kỷ chỉ từng người nói:

– Người này chửa con trai, thằng nhỏ ngồi day mặt phía hông bên tả.

Cứ mỗi người như vậy, Trụ Vương truyền mổ bụng ra xem, quả y như lời Ðắt Kỷ không sai tí nào.

Trụ Vương truyền mổ một lúc mười người, và khen Ðắt Kỷ:

– Ái khanh đoán thiệt như thần, dầu thầy bói hay cũng đoán không lại.

Từ đấy các trung thần đều xa lánh, tôi trong triều chẳng còn ai, Trụ Vương càng ngày càng lộ, hại dân Triều Ca không kể xiết.

Có bài thơ rằng:

Coi tuyết vui say tại Lộc đài,

Nghe lời yêu nghiệt chẳng thương ai

Trung thần xa lánh triều thần vắng,

Tiếng trống không khua bụi mốc ngai.

Ngày vua Trụ mổ bụng đàn bà có thai thì trời tối mịt, cả ngày không nắng, đêm chẳng thấy trăng.

Ngày sau quân vào báo:

– Vi Tử, Vi Tử Khải, Vi Tử Ðiển đồng đóng cửa dinh bỏ trốn.

Vua Trụ phán:

– Vi Tử già rồi, ở đây cũng vô dụng. Còn Vi Tử Khải, Vi Tử Ðiển có mặt tại triều cũng chẳng ích chi. Chúng muốn đi đâu thì đi, khỏi làm rầy tai trẫm. Nay trẫm có Nguyên soái Viên Hồng, nhắm Cơ Phát không làm chi nổi.

Từ đó, vua Trụ càng hoang phế hơn xưa, bá quan đều đóng cửa nằm nhà chờ binh Châu tới.

Một hôm, có hai người đến nơi yết bảng cầu hiền xin vào ra mắt, hai người này hình dung cổ quái, nanh dài miệng rộng, da mặt xanh lét, con mắt vàng lườm, cao lớn mạnh bạo.

Quân vào báo với Phi Liêm.

Phi Liêm bước ra tiếp đón xem thấy hết hồn, vội hỏi:

– Hai vị tráng sĩ tên họ là chi, quê quán chốn nào?

Hai người thưa:

– Tôi tên là Cao Minh, em tôi là Cao Giác, tuy là dân dã, song cám nghĩa quân vương, vì thấy Khương Thượng nghịch thần, đánh vua cướp nước, nên anh em tôi không sợ đầu tên mũi đạn, quyết đền tấc đất ngọn rau, có ý giúp triều đình, không mong quyền tước.

Phi Liêm dẫn hai người ấy đến trước Lộc đài, rồi lên lầu tâu:

– Nay có hai vị anh hùng là Cao Minh và Cao Giác, không muốn phong chức, chỉ xin ra đánh giặc giúp nước mà thôi.

Vua Trụ rất đẹp lòng, đòi hai người vào ra mắt, nhưng khi thấy hai người dị tướng, vua Trụ thất kinh nhưng phải gượng gạo phán:

– Hai khanh nên trang hào kiệt, trẫm phong chức Thần Võ tướng quân.

Cao Minh, Cao Giác tạ ơn. Vua Trụ truyền ban áo mão và đãi yến.

Rạng ngày, vua Trụ truyền chỉ sai Cao Minh, Cao Giác đi với Khâm sai, đem ngự tửu ban thưởng cho Viên Hồng.