Người vít cánh tay Tào Tháo là Lưu Bị; người quỳ trước mặt Tào Tháo là Quan Vũ.
Lưu Bị nói:
– Người có lòng son như thế nên giữ lại.
Quan Vũ nói:
– Tôi vốn biết Văn Viễn (Trương Liêu) là người trung nghĩa, tôi xin lấy tính mệnh đảm bảo.
Tháo vứt gươm xuống, cười và nói rằng:
– Ta cũng biết Văn Viễn là người trung nghĩa, cho nên đùa đấy thôi.
Tháo bèn tự tay cởi trói cho Trương Liêu, cởi áo ra mặc cho Trương Liêu rồi mời ngồi lên ghế.
Liêu cảm phục, bèn xin hàng.
Tháo cất Liêu lên làm trung lang tướng, cho tước quan nội hầu, sai đi chiêu dụ Tang Bá. Bá thấy Lã Bố đã chết, Trương Liêu đã hàng, cũng đem quân bản bộ về hàng. Tào Tháo thưởng cho rất hậu.
Tang Bá lại chiêu an được Tôn Quan, Ngô Đôn và Doãn Lễ, chỉ còn có Xương Hi là chưa phục.
Tháo phong cho Tang Bá làm tướng huyện Lương Gia. Lũ Tôn Quan cũng được làm quan cả, Tháo sai lũ ấy giữ mạn bể hai châu Thanh và Từ, rồi sai đem vợ con Lã Bố về Hứa Đô. Tháo mở tiệc khao quân, nhổ trại mang quân về.
Khi Tháo qua Từ Châu, nhân dân đốt hương bái vọng, đông chật cả đường, xin để Lưu Bị ở lại làm thân mục.
Tháo nói:
– Lưu sứ quân công to, hãy và chầu vua phong tước, rồi sẽ ra nhậm Từ Châu cũng chưa muộn.
Trăm họ lạy tạ. Tháo sai xa kị tướng quân là Xa Trụ, quyền lĩnh chức mục Từ Châu.
Tháo đem quân về Hứa Đô, phong thưởng cho các tướng sĩ. Còn Lưu Huyền Đức thì để nghỉ ngơi ở nhà bên cạnh tướng phủ.
Hôm sau vua Hiến Đế khai trào.
Tháo dâng biểu tâu quân công của Huyền Đức và đem Huyền Đức vào chầu vua.
Huyền Đức mặc đồ trào phục, lạy dưới thềm son. Vua truyền cho lên điện, rồi hỏi rằng:
– Tổ người là ai?
Huyền Đức tâu rằng:
– Tôi là dòng dõi Trung Sơn Tĩnh Vương, cháu xa đức Hiếu Cảnh hoàng đế, cháu Lưu Hùng và con Lưu Hoằng.
Vua sai lấy sổ tôn tộc ra kiểm xem, rồi sai quan tông chính khanh tuyên đọc:
Hiếu Cảnh hoàng đế sinh mười bốn con, con thứ bảy là Trung Sơn Tĩnh Vương tên là Lưu Thắng; Thắng sinh ra Lục Thành đinh hầu là Lưu Chính; Chính sinh ra Bái Hầu là Lưu Ngang; Ngang sinh ra Chương Hầu là Lưu Lộc; Lộc sinh ra Nghi Thủy Hầu là Lưu Luyến; Luyến sinh ra Khâm Dương Hầu là Lưu Anh; Anh sinh ra An Quốc Hầu là Lưu Kiến; Kiến sinh ra Quảng Lăng Hầu là Lưu Ai; Ai sinh ra Giao Thủy Hầu là Lưu Hiến; Hiến sinh Tổ Ấp Hầu là Lưu Thư; Thư sinh Kỳ Dương Hầu là Lưu Nghị; Nghị sinh Nguyên Trạch Hầu là Lưu Tất; Tất sinh Dĩnh Xuyên Hầu là Lưu Đạt; Đạt sinh Phong Linh Hầu là Lưu Bất Nghi; Bất Nghi sinh Tế Xuyên Hầu là Lưu Huệ; Huệ sinh ra quan lịnh ở Đông Quận là Lưu Hùng; Hùng sinh Lưu Hoằng; Hoằng không làm quan, sinh ra Lưu Bị.
Vua so trong thế phả thì Huyền Đức vào hàng chú. Vua mừng lắm, mời vào thiên điện, làm lễ nhận họ. Vua bấy giờ nghĩ bụng rằng:
– Tào Tháo lộng quyền, việc nước không tự ta làm chủ. Nay được người chú anh hùng, may ra ta có người giúp.
Vua cho ngay Lưu Bị làm tả tướng quân Nghi thành đình hầu, mở yến khoản đãi. Tiệc tan, Lưu Bị tạ ơn trở ra. Tự bấy giờ ai cũng gọi là Lưu hoàng thúc.
Tào Tháo về phủ, Tuân Úc và bọn mưu sĩ vào nói rằng:
– Thiên tử nhận Lưu Bị là chú, chúng tôi sợ có điều bất lợi cho minh công.
Tháo nói:
– Người ấy đã được nhận làm hoàng thúc, ta lấy chiếu vua sai khiến, lại càng phải phục tùng ta lắm. Vả ta lại để cho ở Hứa Đô, tiếng rằng gần vua, nhưng thực ra là ở trong tay ta, ta còn ngại gì. Chỉ lo thái úy Dương Bưu, vốn là thân thích với Viên Thuật. Nếu Bưu làm nội ứng cho hai anh em họ Viên, thì có lẽ hại to, nên phải trừ trước đi.
Bàn thế rồi, Tháo sai ngay người vu cáo cho Dương Bưu thông với Viên Thuật, rồi bắt bỏ ngục, sai Mãn Sủng xét án.
Bấy giờ thái thú Bắc Hải là Khổng Dung ở Hứa Đô, nhân thấy việc ấy, vào can Tháo rằng:
– Dương Công vốn bốn đời nay vẫn có đức thanh liêm, há vì nhân việc họ Viên mà bắt tội?
Tháo nói:
– Việc ấy là tự triều đình chớ có tại tôi đâu!
Dung hỏi:
– Ngày xưa, giả thử Thành Vương giết Thiệu Công, thì Chu Công có chối được rằng không biết chăng?
Bất đắc dĩ Tháo phải cách chức Bưu, đuổi về quê.
Bấy giờ có quan Nghi lang là Triệu Phạm thấy Tháo chuyên quyền, làm sớ tâu vua hạch Tháo rằng:
– Tháo tự tiện không tâu vua dám làm tội đại thần, thế là mạn phép quá!
Tháo giận lắm, lập tức bắt Triệu Phạm đem giết. Vì thế các quan ai cũng sợ hãi. Mưu sĩ là Trình Dục nói:
– Nay minh công uy danh mỗi ngày mỗi thịnh, sao không nhân lúc này mà làm việc vương bá?
Tháo nói:
– Thủ tục triều đình còn nhiều, chưa nên kinh động. Ta nên mời vua đi săn, để xem ý tứ các quan ra sao đã.
Tháo liền sai chọn ngựa tốt và chim ưng giỏi, chó săn hay, cung tên đủ cả, trước họp binh ở ngoài thành, rồi mời thiên tử đi săn.
Vua nói:
– Săn bắn không phải là chính đạo.
Tháo thưa:
– Đế vương ngày xưa mùa xuân đi săn gọi là sưu, mùa hạ đi săn gọi là miêu, mùa thu đi săn gọi là kiển, mùa đông đi săn gọi là thú; bốn mùa cùng ra ngoài cõi để biểu thị võ lực với thiên hạ. Nay bốn bể đương lúc nhiêu loạn, bệ hạ chính nên đi săn để giảng việc võ.
Vua chẳng nghe chẳng được, liền lên ngựa Tiêu Diêu, đeo cung khảm ngọc và tên bịt vàng, bày đồ loan giá ra thành. Huyền Đức cùng Quan, Trương ba người đeo cung, dắt ngựa, trong mặc áo giáp che bụng, tay cầm đồ binh khí, dẫn vài chục quân kị mã theo vua ra Hứa Xương.
Tào Tháo cưỡi ngựa Phi Diện sắc vàng, dẫn mười vạn quân, cùng vua đi săn ở Hứa Điền. Quân sĩ vây vòng quanh, rộng hơn hai trăm dặm. Tháo sóng ngựa cho đi chỉ kém ngựa vua có một đấu, sau lưng toàn là tướng tâm phúc của Tháo đi theo. Trăm quan văn võ đi tận đằng xa không ai dám đến gần.
Khi vua đi đến Hứa Điền, Lưu Bị nhảy ngựa xuống đứng cạnh đường hỏi thăm sức khỏe của vua. Vua nói:
– Trẫm muốn xem tài săn bắn của hoàng thúc.
Lưu Bị lĩnh mệnh lên ngựa. Bỗng trông đám cỏ có một con thỏ chạy ra. Bị bắn một mũi tên trúng ngay.
Vua reo lên một tiếng.
Đi qua một cái gò, chợt thấy trong bụi gai một con hươu lớn chạy ra vua bắn luôn ba phát không tin, bèn ngoảnh lại bảo Tháo rằng:
– Ngươi bắn đi!
Tháo xin mượn cung ngọc tên vàng của vua, giương lên bắn một phát, tin ngay giữa lưng, hươu ngã trong đám cỏ. Các đại thần và các tướng trông thấy lưng hươu có tên bịt vàng, tưởng vua bắn tin, cùng chạy lên trước mặt vua reo: Vạn tuế!
Tào Tháo tế ngựa ra đứng trước mặt vua để nhận lấy những lời chúc mừng.
Trăm quan thấy vậy ai nấy đều tái mặt. Sau lưng Huyền Đức, Quan Vân Trường giận lắm, mày tằm dựng ngược, mắt phượng giương to, cầm dao, thúc ngựa định ra chém Tào Tháo. Huyền Đức biết ý, vội vàng vẫy tay đưa mắt. Quan Công thấy anh ra hiệu, phải chịu đứng im.
Huyền Đức ngoảnh lại mừng Tào Tháo rằng:
– Thừa tướng bắn tài trong đời hiếm có!
Tháo cười nói nhún rằng:
– Ấy cũng nhờ phúc lớn của thiên tử.
Rồi Tháo quay ngựa ngoảnh vào vua chúc mừng, nhưng từ đầu giữ lấy cung khảm ngọc, không trả vua nữa.
Săn bắn xong, Tháo mở một tiệc yến ở Hứa Điền, rồi rước vua về Hứa Đô.
Khi các quan tướng đâu đã về đấy rồi, Quan Vũ mới hỏi Lưu Bị rằng:
– Thằng giặc Tào nó dối vua khinh trên, tôi toan giết nó để trừ hại cho nước, sao anh lại ngăn tôi?
Lưu Bị nói:
– Ném chuột còn phải lo vỡ đồ quý, Tháo đứng cách vua chỉ có một đầu ngựa, mà những người tâm phúc nó đi xúm xít cả chung quanh, nếu em nhân cơn giận làm liều không nghĩ, nhỡ việc không xong, hại đến thiên tử thì có phải tội tại chúng ta không?
Quan Vũ nói:
– Nay không giết thằng giặc ấy tất sinh vạ về sau.
Lưu Bị nói:
– Hãy giữ kín, không được nói một cách vội vàng.
Vua về cung, nghĩ đến việc đi săn hôm ấy, tủi mà khóc, bảo với vợ là Phục hoàng hậu rằng:
– Ta từ khi lên ngôi đến giờ, gặp nhiều gian hùng. Trước thì Đổng Trác, sau thì Thôi, Dĩ. Những điều khổ ải mà người ta chưa từng thấy bao giờ, ta và hoàng hậu đều nếm trải cả. Đến nay gặp Tào Tháo, tưởng nó là bầy tôi xã tắc, không ngờ nó lộng quyền, tác oai tác phúc. Ta trông thấy nó bao giờ là như chông gai cắm vào lưng bấy giờ. Hôm nay đi săn, nó ra nhận lấy lời chúc mừng của các quan, thật là vô lễ. Nay mai tất có vạ, vợ chồng ta chưa biết chết chỗ nào.
Phục hoàng hậu nói:
– Công khanh đầy triều đều ăn lộc nhà Hán, chẳng nhẽ lại không có ai cứu được quốc nạn hay sao?
Phục hoàng hậu chưa nói dứt lời thì có một người ở ngoài bước vào tâu rằng:
– Xin vua và hoàng hậu đừng lo. Tôi xin cử một người có thể cứu được nạn nước.
Vua trông ra thì là bố đẻ Phục hoàng hậu là Phục Hoàn. Vua gạt nước mắt hỏi rằng:
– Quốc Trượng cũng biết giặc Tào nó chuyên quyền à?
Hoàn nói:
– Xem như việc bắn hươu ở Hứa Điền thì ai chẳng biết, chỉ vì cả triều văn võ, phi là họ hàng Tháo thì là đầy tớ nó. Nếu không phải quốc thích thì ai chịu hết lòng đánh giặc. Lão thần không có quyền thế gì, khó mà làm nổi việc ấy, nhưng có xa kị tướng quân là Đổng Thừa, có thể tin cậy.
Vua nói:
– Đổng quốc cữu nhiều lần liều mình với nạn nước ta vốn đã biết, nên vời vào trong cung để bàn việc lớn.
Hoàn nói:
– Tả hữu ở đây đều là tâm phúc của giặc Tháo, nếu việc tiết lộ sẽ xảy ra vạ to.
Vua hỏi:
– Thế thì nên làm thế nào?
Hoàn nói:
– Tôi có một kế: Bệ hạ nên cho may một cái áo bào và làm một cái đai ngọc, mật ban cho Đổng Thừa; ở trong đai để tờ mật chiếu, khi về nhà thấy tờ chiếu, Thừa sẽ ngày đêm nghĩ kế tiến hành, thế thì dù quỷ thần cũng không biết được.
Vua lấy làm phải. Phục Hoàn lui ra.
Vua tự làm tờ chiếu, cắn đầu ngón tay lấy máu viết, mật sai hoàng hậu may vào trong lần lót gấm tía ở trong đai ngọc; rồi sai nội sứ triệu Đổng Thừa vào.
Thừa vào ra mắt, lễ xong, vua nói:
– Tối hôm qua, trẫm và hoàng hậu nói chuyện lại những sự khổ ải ở Bá Hà khi trước, nhân nhớ đến công to của quốc cữu, nên cho vời vào có mấy lời úy lạo.
Thừa dập đầu lạy ta. Vua dắt Thừa ra điện đến thái miếu rồi lên gác công thần. Vua đốt hương lễ xong, dẫn Thừa đến xem tranh truyền thần, bức tranh giữa vẽ tượng Hán Cao Tổ.
Vua nói:
– Cao Tổ hoàng đế ta xuất thân ở đâu? Sáng nghiệp thế nào?
Thừa giật mình tâu rằng:
– Bệ hạ hỏi bỡn tôi, việc thánh tổ sao ngài lại chẳng biết. Cao hoàng đế xuất thân làm đình trưởng ở Tứ Thủy, cầm thanh gươm ba thước chém rắn khởi nghĩa, tung hoành bốn bể, ba năm phá được nhà Tần, năm năm diệt được nước Sở, bởi vậy mới có thiên hạ, lập cơ nghiệp muôn đời.
Vua bèn nói:
– Quốc cữu thử ngẫm xem: Tổ tôn anh hùng như thế mà con cháu thì hèn mạt thế này, chẳng xót lắm ru!
Vua nói thế, rồi trỏ vào hai bức tranh hai bên mà hỏi Thừa rằng:
– Đây có phải Lưu Hầu Trương Lương không? Đây có phải Tản Hầu Tiêu Hà không?
Thừa tâu rằng:
– Phải, đức Cao Tổ khi xưa cũng nhờ sức hai người ấy mà dựng nên cơ đồ.
Vua ngoảnh lại, thấy tả hữu đứng xa cả, mới sẽ bảo Thừa rằng:
– Ngươi cũng nên đứng bên cạnh trẫm như hai người ấy.
Thừa nói:
– Tôi chẳng có tấc công nào, đâu dám sánh với các ông ấy?
Vua nói:
– Trẫm nghĩ công ngươi cứu giá ở Tây Đô, không bao giờ quên, chưa lấy gì trả lại được.
Rồi trỏ vào áo bào và đai bảo Thừa:
– Ngươi mặc áo này, thắt đai này cũng như thường đứng bên cạnh mình trẫm.
Thừa dập đầu lạy tạ. Vua cởi áo cởi đai đưa cho Thừa vào bảo thầm rằng:
– Người về nên nhìn cho kĩ, đừng phụ lòng trẫm!
Thừa biết ý, mặc áo đeo đai, rồi bái từ xuống gác trở ra.
Có người báo với Tào Tháo rằng:
– Thấy vua cùng Đổng Thừa lên gác công thần nói chuyện.
Tháo lập tức vào triều xem.
Đổng Thừa đi ra, vừa qua cửa cung, gặp ngay Tào Tháo đến, không thể ẩn núp vào đâu được, phải đứng ở cạnh đường, vái chào. Tháo hỏi:
– Quốc cữu đi đâu vậy?
Thừa nói:
– Thiên tử vừa cho vời vào ban cho áo gấm và đai ngọc này.
Tháo nói:
– Nhân việc gì mà vua ban cho thế?
Thừa nói:
– Nhân thiên tử nhớ đến công cứu giá ở Tây Đô ngày xưa nên ban cho những đồ quý ấy.
Tháo nói:
– Cởi đai cho ta xem.
Phục hoàng hậu khâu mật chiếu vào trong đai ngọc.
Thừa cũng đoán trong đai có mật chiếu, sợ Tháo khám thấy, ngần ngừ không cởi. Tháo sai tả hữu lột ra, xem ước chừng nửa giờ, rồi cười mà nói rằng:
– Quả nhiên là đai ngọc đẹp lắm. Cởi nốt áo ta xem!
Thừa trong lòng sợ hãi, không dám cưỡng, phải cởi áo đưa ra. Tháo cầm lấy, soi lên bóng mặt giời nhìn xem từng tí. Xem xong Tháo mặc vào mình, đeo cả đai rồi hỏi tả hữu:
– Dài hay vắn?
Tả hữu khen áo đai vừa vặn lắm. Tháo bảo Thừa:
– Quốc cữu cho lại ta áo này, đai này có được không?
Thừa nói:
– Của vua ban cho, tôi không dám biếu. Xin về may bộ khác để dâng thừa tướng.
Tháo hỏi:
– Quốc cữu nhận áo đai ấy, ở trong có ý gì không?
Thừa thất kinh nói rằng:
– Tôi đâu dám thế! Có phải thừa tướng muốn dùng tôi xin dâng.
Tháo nói:
– Quốc cữu chịu ơn vua, ta sao nỡ cướp! Ta nói bỡn đấy thôi.
Rồi cởi áo và đai trả Đổng Thừa.
Thừa từ biệt Tháo về nhà, đến đêm ngồi một mình trong thư phòng, đem áo bào ngắm đi ngắm lại, chẳng thấy gì. Thừa nghĩ: “Vua cho áo và đai, dặn xem kĩ, tất là có thâm ý nay không thấy dấu vết gì là cớ làm sao.” Lại đem đai ngọc ra xem, chỉ thấy ngọc trắng lóng lánh, thêu con rồng nhỏ vờn trong đám hoa, đằng sau lót gấm đỏ, đường chỉ thực vuông vắn phẳng phiu, tịnh không có một dấu vết nào. Thừa lấy làm ngờ, đặt ở trên án thư, giở đi giở lại tìm tòi. Lúc lâu, mỏi lắm, Thừa toan nằm xuống nghỉ, bỗng nhiên hoa đèn rơi vào đai, cháy đến lần lót. Thừa vội vàng gạt đi, nhưng đã cháy hết một chỗ, lộ ra lần lụa trắng, trông hình như có vết máu. Thừa lấy ngay dao tách ra xem, thì thấy tờ mật chiếu của vua, viết bằng máu. Trong chiếu nói rằng:
“Trẫm nghe: Trong đạo nhân luận, cha con là trọng; trong phận tôn ti, vua tôi là trọng. Lâu nay giặc Tháo hống hách lộng quyền, khinh rẻ quân phụ, kết hợp bè đảng, làm nát chính thế của triều đình; thưởng, phạt, sắc, phong, lấn cả chủ quyền của trẫm. Trẫm đêm ngày lo nghĩ, sợ thiên hạ nguy cấp đến nơi. Ngươi là đại thần nhà nước, lại là chí thân với trẫm, nên nhờ đến Cao Đế ngày xưa, dựng nghiệp khó nhọc, tập hợp lấy người trung nghĩa, trừ giết kẻ gian thần, để yên xã tắc, thì may cho tổ tông nhà Hán lắm.
Trẫm cắn ngón tay lấy máu, viết thư cho ngươi, ngươi nên nghĩ ba bốn lần cho kĩ, chớ phụ ý trẫm.
Niên hiệu Kiến An, năm thứ bốn, tháng ba, viết tờ chiếu này.”
Đổng Thừa xem xong, nước mắt chảy ròng ròng, suốt đêm không ngủ được. Sớm ngày đứng dậy, Thừa lại đến thư phòng xem lại tờ chiếu hai ba lần, chưa nghĩ được mưu kế gì. Thừa bèn đặt tờ chiếu trên ghế, lo tìm kế trừ Tào, nhưng chưa nghĩ được kế gì thì nhọc quá gục xuống kỉ ngủ thiếp đi.
Chợt có quan thị lang là Vương Tử Phục đến chơi. Người nhà biết Tử Phục với Đổng Thừa là chỗ bạn thân, không dám ngăn trở. Tử Phục vào thẳng tư phòng, thấy Thừa ngủ say, ở dưới tay áo lại để một mảnh lụa trắng hơi lộ ra chữ “Trẫm”. Tử Phục lấy làm nghi, sẽ nâng tay áo, cầm lấy mảnh lụa, xem xong, giấu vào ống tay áo mình, rồi đánh thức Thừa dậy:
– Quốc cữu thật là rỗi quá! Sao mà ngủ được kĩ thế?
Thừa giật mình, nhìn không thấy tờ chiếu, sợ hãi mất vía, chân tay luống cuống.
Tử Phục nói:
– Ngươi định giết Tào Công, ta phải ra thú!
Thừa khóc nói rằng:
– Nếu anh làm thế, nhà Hán hỏng mất!
Tử Phục nói:
– Ta nói đùa đó, tổ tông ta mấy đời ăn lộc nhà Hán, há lại không có lòng trung? Ta xin giúp anh một tay để giết thằng quốc tặc.
Thừa nói:
– Anh có bụng ấy, thực là may lớn cho nhà nước!
Tử Phục cầm tay Đổng Thừa, dắt vào nhà trong mà nói rằng:
– Nên vào mật thất, để cùng lập nghĩa trạng, liều bỏ ba họ để báo ơn vua.
Thừa mừng lắm, lấy ngay một bức lụa trắng, trước kí tên mình vào, rồi Tử Phục cũng kí tên. Kí xong, Tử Phục nói:
– Tôi có người bạn thân là tướng quân Ngô Tử Lan, nên để cho ông ấy cùng bàn mưu với ta.
– Thừa nói:
Trong cả đám đại thần chỉ có tràng thủy hiệu úy Chủng Tập và nghị lang Ngô Thạc là tâm phúc với tôi. Hai người ấy tất cũng cùng bàn mưu với ta được.
Đang bàn chuyện, người nhà vào báo có Chủng Tập và Ngô Thạc đến chơi.
Thừa nói:
– Thực là trời giúp ta đó!
Thừa bảo Tử Phục hãy núp vào sau bình phong, mời hai người vào thư viện, ngồi chơi uống nước. Uống nước rồi, Chủng Tập hỏi Đổng Thừa rằng:
– Việc đi săn ở Hứa Điền, ông có tức không?
Thừa nói:
– Tức thì tức, nhưng làm gì được?
Thạc nói:
– Ta muốn giết nó đi, nhưng giận rằng chẳng có ai giúp đỡ.
Tập lại nói:
– Trừ hại cho nước, dù có chết cũng không tiếc gì thân.
Bấy giờ Vương Tử Phục núp ở sau bình phong mới chạy ra nói rằng:
– Các ngươi muốn giết Tào Công, ta phải ra thú, hiện có Đổng quốc cữu làm chứng.
Chủng Tập nổi giận nói rằng:
– Chúng ta là trung thần có sợ gì chết! Chúng ta chết làm ma nhà Hán, còn hơn nhà ngươi sống mà a dua với đứa phản tặc.
Đổng Thừa cười nói rằng:
– Chúng tôi cũng vì việc ấy mà muốn tiếp hai ông ở đây để bàn, Vương Thị Lang nói đùa đó.
Nói rồi móc ống tay áo, lấy tờ mật chiếu ra đưa cho hai người xem. Hai người đọc chiếu, nước mắt tuôn ra hai hàng.
Thừa mời hai người kí tên. Tử Phục nói:
– Xin ba ông hãy ở đây, để tôi đi mời Ngô Tử Lan nữa.
Tử Phục đi được một hồi, rồi cùng với Tử Lan đến. Mọi người chào nhau, cùng kí tên cả. Thừa mời vào nhà trong uống rượu. Chợt có quân vào báo rằng:
– Có thái thú Tây Lương là Mã Đằng đến thăm.
Thừa bảo đầy tớ ra nói dối rằng Thừa mệt không ra tiếp kiến được.
Lính canh cửa ra bảo thế, Mã Đằng giận nói rằng:
– Tối hôm qua ở ngoài cửa Đông Hoa, trông thấy mặc áo gấm đeo đai đi ra, nay cớ sao lại nói dối rằng ốm? Ta không phải vô cớ đến đây, sao lại từ chối ta?
Lính canh vào lại kể rõ Mã Đằng giận và nói những gì, Thừa mới đứng dậy nói rằng:
– Xin các ông ngồi chờ tôi đây, để tôi ra một lát thôi.
Rồi Thừa ra mời Mã Đằng vào công đường. Chào lễ xong, ngồi yên rồi. Đằng mới trách rằng:
– Tôi vào chầu sắp trở về, cho nên lại đây để từ biệt, sao lại cáo bệnh không muốn tiếp?
Thừa nói:
– Vì mới bị đau cho nên không ra nghênh tiếp được, xin chịu tội với sứ quân.
Đằng nói:
– Mặt phớn phở xuân sắc thế kia, bệnh ở đâu thế?
Thừa không biết trả lời thế nào. Đằng vung tay áo đứng dậy, than thở bước xuống thềm nói rằng:
– Lũ này không phải là những kẻ cứu nước!
Thừa thấy nói thế, cố giữ lại hỏi rằng:
– Ông bảo ai không phải là người cứu nước?
Đằng nói:
– Việc đi săn ở Hứa Điền ta còn tức đầy ruột, ông là chí thích của nhà nước, cứ mê mải về tửu sắc chẳng lo gì đến việc giết giặc, sao được gọi là người phù tai cứu nạn của nhà vua?
Thừa còn sợ Đằng đánh lừa, giả cách giật mình nói rằng:
– Tào thừa tướng là đại thần nhà nước, triều đình trông cậy vào cả, sao ông dám nói thế?
Đằng hầm hầm mặt lại mắng rằng:
– Ngươi còn cho thằng giặc Tào là người tốt à!
Thừa xua tay nói:
– Ở đây tai vách mạch rừng, xin ông nói khẽ chứ!
Đằng lại mắng rằng:
– Đối với đồ ham sống sợ chết không thể cùng bàn việc lớn!
Nói xong đứng dậy toan về. Thừa biết Mã Đằng là người trung nghĩa, mới nói rằng:
– Hễ ông khởi sự, tôi xin đem cả quân Tây Lương đến làm ngoại ứng.
Đoạn Mã Đằng trỏ vào năm người ngồi trên nói rằng:
– Giá ta được mười người cùng như thế này cả thì việc tất phải xong.
Thừa nói:
– Người trung nghĩa không thể có nhiều, nếu cộng sự với những người không ra gì thì lại làm hỏng việc.
Mã Đằng mượn sổ tên các quan trong triều xem một lượt, từng tên một, để tính xem đồng mưu ước được bao nhiêu người. Xem đến chỗ tôn tộc họ Lưu, Đằng vỗ tay lên hỏi rằng:
– Hiện bây giờ có Dự Châu mục là Lưu Huyền Đức ở đây sao không tìm đến?
Thừa nói:
– Người ấy tuy là chú vua, nhưng cũng nương dựa vào Tào Tháo, sao chịu làm việc này?
Đằng nói:
– Tôi xem trong cuộc đi săn hôm trước, khi Tào Tháo đứng trước mặt vua nhận lời chúc mừng của các quan, Vân Trường đứng sau Huyền Đức vác đao toan giết Tháo, nhưng Huyền Đức đưa mắt, lại thôi. Huyền Đức không phải là không muốn giết Tào Tháo, vị sợ nanh vuốt của Tháo nhiều, sức mình không làm nổi đấy thôi. Ông thử đến xem, người ấy tất đồng tâm với ta.
Ngô Thạc nói:
– Việc ấy không nên hấp tấp, xin hãy để bàn bạc cho chín đã.
Năm người đều về nhà.
Đêm khuya hôm sau Đổng Thừa mang tờ chiếu đến nhà Huyền Đức. Lính canh vào báo, Huyền Đức ra đón mời vào trong gác ngồi chơi. Quan, Trương đứng hầu bên cạnh. Huyền Đức hỏi:
– Canh khuya, quốc cữu đến đây tất có việc gì gấp?
Thừa nói:
– Ban ngày cưỡi ngựa đến chơi, sợ Tào Tháo ngờ cho nên đêm khuya mới đến.
Huyền Đức lấy rượu khoản đãi, Thừa nói:
– Bữa nọ trong cuộc đi săn, Vân Trường muốn giết Tào Tháo, tướng quân lại đưa mắt lắc đầu để ngăn đi, là ý làm sao?
Huyền Đức thất kinh nói:
– Sao ông biết?
Thừa nói:
– Người ta không ai trông thấy, chỉ có tôi biết mà thôi.
Huyền Đức không thể giấu được nữa mới nói thực rằng:
– Em tôi thấy Tháo lấn quyền vua cho nên tức giận đó.
Thừa che mặt khóc nói rằng:
– Giá thử tôi con triều đình, ai cũng được như Vân Trường, thì lo gì thiên hạ chẳng được thái bình?
Huyền Đức sợ là Tào Tháo sai đến dò la, bèn nói giả cách rằng:
– Tào thừa tướng sửa sang việc nước lo gì không thái bình?
Thừa tái mặt đứng dậy nói rằng:
– Ông là hoàng thúc nhà Hán, cho nên ta vạch gan moi ruột để nói chuyện với ông, sao ông còn nói dối?
Huyền Đức nói:
– Tôi sợ quốc cữu không thực bụng, nên phải thử.
Đổng Thừa đưa ngay tờ chiếu ra cho Huyền Đức xem. Huyền Đức lấy làm xót xa căm tức. Thừa lại đưa xem tờ nghĩa trạng, có sáu người kí tên là: Đổng Thừa, Vương Tử Phục, Chủng Tập, Ngô Thạc, Ngô Tử Lan và Mã Đằng.
Huyền Đức nói:
– Quốc cữu đã phụng chiếu đánh giặc, tôi dám đâu không cố sức khuyển mã.
Thừa lạy tạ mời kí tên, Huyền Đức kí “Tả tướng quân, Lưu Bị”, rồi đưa lại Thừa nhận lấy. Thừa nói:
– Nên mời thêm ba người nữa, họp đủ mười người trung nghĩa để trừ quốc tặc.
Huyền Đức nói:
– Nên thong thả, chớ hấp tấp khinh thường để tiết lộ việc lớn.
Hai người cùng nhau luận bàn đến tận canh năm mới chia tay.
Huyền Đức bấy giờ sợ Tào Tháo nghi mình mưu đồ gì, bèn làm một vườn rau ở sau nhà ngày ngày vun xới tưới tắm, để làm cách che mắt cho Tháo khỏi ngờ.
Quan, Trương thấy vậy hỏi rằng:
– Anh không lưu tâm đến việc lớn thiên hạ, học làm chi cái việc của kẻ tiểu nhân này?
Huyền Đức nói:
– Hai em biết đâu ý anh!
Hai người từ đó không dám nói gì nữa.
Một hôm Quan Vũ, Trương Phi cùng đi chơi vắng, Huyền Đức đang lom khom tưới rau, bỗng thấy Hứa Chử và Trương Liêu dẫn vài chục người vào vườn, nói rằng:
– Thừa tướng sai chúng tôi đến mời sứ quân đến ngay phủ.
Huyền Đức giật mình, hỏi:
– Việc gì khẩn cấp thế, hai ông?
Hứa Chử thưa:
– Hai chúng tôi thấy sai thì vâng lệnh đi mời, chớ không được biết việc chi.
Huyền Đức theo hai người vào phủ yết kiến Tháo, Tháo cười nói rằng:
– Huyền Đức độ này ở nhà làm một việc lớn lao đấy nhỉ.
Huyền Đức sợ tái mặt. Tháo cầm tay Huyền Đức dắt vào vườn ở sau nhà, nói rằng:
– Huyền Đức học làm vườn, chắc cũng không phải là việc dễ dàng?
Huyền Đức bấy giờ mới vững dạ, đáp rằng:
– Không có việc gì, làm để tiêu khiển đó thôi.
Tháo nói:
– Vừa rồi thấy trên cành mai đã có quả xanh, sực nhớ khi trước đi đánh Trương Tú, đi đường không có nước, tướng sĩ khát cào cuống họng. Bấy giờ ta nghĩ được một kế, cầm roi trỏ hão nói rằng: Trước mặt có rừng mơ. Quân sĩ nghe thấy nói đến mơ, ai cũng ứa nước dãi, đỡ được khát nước. Nay có mơ thật, nên hái xuống mà thưởng. Vả lại rượu nấu vừa chín, cho nên mời sứ quân đến tiểu đình uống rượu.
Huyền Đức bấy giờ trấn tĩnh lại được, theo đến tiểu đình, đã thấy bày mâm bát, giữa bàn bày một đĩa mơ xanh, một bình rượu nóng.
Hai người ngồi đối diện, ăn uống vui vẻ. Lúc rượu ngà ngà say, chợt thấy mây đen mù mịt, cơn mưa to sắp kéo đến.
Quân hầu trỏ lên trời bẩm:
– Có vòi rồng lấy nước.
Tháo và Huyền Đức cùng dựa vào bao lơn ngắm xem, Tháo hỏi:
– Sứ quân có biết rồng nó biến hóa thế nào không?
Huyền Đức nói:
– Tôi chưa được tường.
Tháo nói:
– Rồng lúc thì to, lúc thì nhỏ, lúc thì bay, lúc thì nấp. Lúc to thì nổi mây phun mù; lúc nhỏ thì thu hình ẩn bóng; khi bay ra thì liệng trong trời đất; khi ẩn thì lẩn núp ở dưới sóng. Nay đang mùa xuân, rồng gặp thời biến hóa, cũng như là người ta lúc đắc chí, tung hoành trong bốn bể. Rồng ví như anh hùng trong đời. Huyền Đức lâu nay đã đi khắp bốn phương, bao nhiêu anh hùng đời nay, hẳn đã biết cả, xin thử nói cho nghe.
Huyền Đức thưa:
– Bị này người trần mắt thịt, biết đâu được anh hùng.
Tháo nói:
– Huyền Đức không nên nhún mình quá!
Huyền Đức nói:
– Bị nay được nhờ ơn thừa tướng làm quan trong triều, anh hùng trong thiên hạ thực không được biết.
Tháo nói:
– Đã đành không biết mặt, nhưng cũng có nghe tiếng chứ?
Huyền Đức nói:
– Viên Thuật ở Hoài Nam, binh lương nhiều, có thể cho là anh hùng được chăng?
Tháo cười nói:
– Xương khô trong mả, chỉ nay mai là ta bắt được!
Huyền Đức lại nói:
– Anh Viên Thuật là Viên Thiệu ở Hà Bắc, bốn đời làm tam công, có nhiều đầy tớ cũ; hiện nay như con hổ dữ hùng cứ ở Ký Châu; bộ hạ nhiều tay tài giỏi, có thể cho là anh hùng được chăng?
Tháo lại cười nói:
– Viên Thiệu ngoài mặt mạnh bạo, trong bụng nhút nhát, thích mưu mẹo mà không quyết đoán, làm việc lớn lại lo đến bản thân, thấy lợi nhỏ thì lại quên mình, không thể gọi là anh hùng được!
Huyền Đức lại nói:
– Có một người nổi tiếng trong tám kẻ tuấn kiệt, uy danh khắp cả chín châu, là Lưu Cảnh Thăng, có thể cho là anh hùng được chăng?
Tháo lại cười:
– Lưu Biểu có hư danh nhưng không có thực tài, không phải anh hùng.
Huyền Đức lại nói:
– Có một người, sức lực đương khỏe, đứng đầu xứ Giang Đông, là Tôn Bá Phù, hẳn là anh hùng?
Tháo nói:
– Tôn Sách nhờ danh tiếng của bố, không phải anh hùng.
Huyền Đức lại nói:
– Lưu Quý Ngọc ở Ích Châu có phải là anh hùng không?
Tháo nói:
– Lưu Chương, tuy là tôn thất, nhưng chỉ là con chó giữ nhà, sao lại gọi là anh hùng được?
Huyền Đức lại nói:
– Như bọn Trương Tú, Trương Lỗ và Hàn Toại thì thế nào?
Tháo vỗ tay cười to:
– Lũ tiểu nhân nhung nhúc ấy thì nói làm gì!
Huyền Đức nói:
– Ngoài những người ấy ra, Bị thực không còn biết ai nữa.
Tháo nói:
– Anh hùng là người trong bụng có chí lớn, có mưu cao, có tài bao trùm được cả vũ trụ, có chí nuốt cả trời đất kia.
Huyền Đức mới hỏi:
– Ai có thể xứng đáng được như thế?
Tào Tháo lấy tay trỏ vào Huyền Đức, rồi lại trỏ vào mình nói rằng:
– Anh hùng thiên hạ bây giờ chỉ có sứ quân và Tháo mà thôi.
Huyền Đức nghe nói, giật nảy mình, cái thìa đôi đũa đương cầm ở tay, rơi cả xuống đất. Giữa lúc bấy giờ, cơn mưa u ám, có một tiếng sét thực dữ. Lưu Bị từ từ cúi xuống nhặt đũa và thìa, nói tảng rằng:
– Gớm ghê! Tiếng sét dữ quá!
Tháo cười hỏi rằng:
– Trượng phu cũng sợ sấm à!
Huyền Đức nói:
– Đức thánh ngày xưa gặp lúc sấm dữ gió to cũng đổi sắc mặt, huống chi là tôi đây sao lại không sợ?
Huyền Đức đã che đậy được hết cả mọi việc giật mình đánh rơi cả thìa đũa khi nghe Tháo gọi mình là anh hùng.
Tháo thấy thế không ngờ gì Huyền Đức nữa.
Đời sau có thơ rằng:
Gượng vào hang ổ, tạm nương mình
Nói rõ anh hùng sợ thất kinh
Mượn tiếng sấm vang ra vẻ sợ
Tùy cơ ứng biến thật tài tình!
Giời vừa mưa xong, có hai người tay cầm bảo kiếm, xông vào tận vườn sau, đến thẳng tận trước đình, lính canh ngăn lại không được. Tháo trông ra thì là Quan Vũ và Trương Phi.
Nguyên là hai người ra ngoài thành săn bắn vừa về, nghe thấy Huyền Đức bị Trương Liêu, Hứa Chử mời đi, vội vàng chạy ngay đến tướng phủ dò xem việc gì. Thấy nói ở vườn sau sợ có xảy ra điều gì, nên hai người xông thẳng vào. Vào đến nơi thấy Huyền Đức đang ngồi uống rượu với Tào Tháo, hai người bèn cầm gươm đứng hầu.
Tháo hỏi:
– Hai người đi đâu?
Vân Trường thưa:
– Chúng tôi nghe Thừa Tướng cùng anh tôi uống rượu, nên chúng tôi lại đây múa gươm để mua vui!
Tháo cười, nói rằng:
– Đây có phải là “Hội Hồng Môn” đâu mà phải dùng đến Hạng Trang, Hạng Bá?
Huyền Đức cùng cười.
Tháo sai lấy rượu “để hai Phàn Khoan uống cho tan cơn sợ”.
Quan, Trương lạy tạ. Một lát tiệc tan, Huyền Đức cáo từ trở về.
Vân Trường nói:
– Anh làm chúng tôi sợ chết đi được!
Huyền Đức thuật lại chuyện đánh rơi đũa. Quan, Trương hỏi:
– Thế là ý làm sao?
Huyền Đức nói:
– Độ này ta chịu khó làm vườn cuốc đất, cốt là để cho Tào Tháo không nghi ta có chí lớn. Ai ngờ nó lại trỏ ngay vào ta mà bảo ta là anh hùng đời nay. Ta nghe nói rụng rời, đánh rơi cả đũa, lại sợ Tào Tháo ngờ, cho nên mượn cớ là sợ sét để che giấu đi.
Quan, Trương khen rằng:
– Anh thực là cao kiến!
Hôm sau Tào Tháo lại mời Lưu Bị đến uống rượu. Trong khi đương tiệc có người vào báo rằng:
– Mãn Sủng đi dò tin tức Viên Thuật đã về.
Tháo gọi vào hỏi, Sủng trình rằng:
– Công Tôn Toản đã bị Viên Thuật phá vỡ.
Huyền Đức vội vàng hỏi rằng:
– Xin cho biết rõ đầu đuôi làm sao?
Sủng nói:
– Tôn Toản đánh nhau với Thiệu không được, mới đắp thành chung quanh một vùng, trong dựng một cái lầu cao mười trượng, gọi là “Dịch kinh”, chứa ba mươi vạn hộc lúa để ăn giữ thành. Đôi khi quân trong thành ra vào bị quân Thiệu rình bắt, quân trong xin ra cứu, Toản không cho ra, bảo rằng: “Nếu cứu một lần, lần sau có ai đánh nhau chỉ mong người đến cứu thì không cố chết mà đánh nữa.” Bởi thế lúc quân Thiệu đánh vào, quân Toản nhiều người ra hàng. Lúc Toản thế cô lắm, có sai người đem thư đến Hứa Đô cầu cứu, không ngờ đi nửa đường lại bị quân Thiệu bắt được. Toản lại đưa thư cho Trương Yên, hẹn nhau đốt lửa làm hiệu, trong đánh ra ngoài đánh vào. Người mang thư lại bị Viên Thiệu bắt được nốt. Thiệu được thư ấy cứ như lời Toản hẹn với Yên, đốt lửa làm hiệu. Toản ở trong ngỡ là hiệu lửa của Trương Yên, mới tự ra đánh, không ngờ ra đến ngoài, bốn mặt quân phục nổi dậy. Quân mã của Toản mất quá nửa, còn non một nửa lui về để giữ thành, lại bị Viên Thiệu đào ngầm dưới đất, đem quân vào thẳng tận dưới lầu Toản ở, phóng hỏa đốt lầu, Toản không có đường chạy, trước giết vợ con, rồi tự thắt cổ chết, cả nhà cùng bị lửa cháy. Ngay Viên Thiệu được cả quân Toản, thanh thế to lắm. Em Thiệu là Viên Thuật ở Hoài Nam, kiêu ngạo, xa xỉ quá độ, không thương gì đến quân dân, cho nên họ đều nổi loạn, Thuật nhường đế hiệu cho Viên Thiệu. Thiệu muốn lấy ngọc tỉ. Thuật hẹn xin tự đem đến. Hiện giờ Thuật muốn bỏ Hoài Nam về Hà Bắc. Nếu để hai người hợp sức với nhau, thì rất khó đánh được, xin thừa tướng liệu trừ trước đi.
Huyền Đức nghe tin Công Tôn Toản đã chết, nghĩ đến ơn tiễn mình ngày xưa, rất là thương xót, lại không biết Triệu Tử Long ở đâu, không đành dạ chút nào, nhân nghĩ vụng rằng: “Ta không nhân dịp này tìm kế thoát thân, còn đợi đến bao giờ?”, liền đứng lên thưa với Tào Tháo rằng:
– Nếu Thuật sang với Thiệu, tất phải đi qua Từ Châu, tôi xin lĩnh một cánh quân đón đường đánh, chắc bắt được.
Tháo cười nói:
– Để ngày mai tâu vua, rồi sẽ khởi binh.
Hôm sau Huyền Đức vào tâu vua. Tào Tháo sai Huyền Đức dốc xuất năm vạn quân mã, lại sai Chu Linh, Lộ Chiêu cùng đi. Huyền Đức vào từ biệt vua, vua khóc tiễn đi.
Huyền Đức về nhà trọ, suốt đêm thu xếp khí giới và ngựa chiến, đeo ấn tướng quân, đốc thúc để đi cho chóng. Đổng Thừa ra ngoài mười dặm tràng đình để tiễn. Huyền Đức nói:
– Xin quốc cữu hãy yên tâm. Chuyến này tôi đi tất có thể đáp lại ý muốn của ngài.
Thừa nói:
– Ông nên lưu tâm, chớ phụ lòng vua.
Hai người từ giã nhau.
Quan, Trương hai người ngồi trên ngựa bấy giờ mới hỏi anh rằng:
– Sao phen này anh đi vội vàng làm vậy?
Lưu Bị nói:
– Ta ở Hứa Đô như chim lồng cá chậu, chuyến này được đi như cá vào bể lớn, chim lên mây xanh, không bị giam hãm trong lồng trong chậu nữa.
Nói xong, hai người thúc quân mã Chu Linh, Lộ Chiêu đi mau.
Bấy giờ ở Hứa Đô, Quách Gia và Trình Dục đi kiểm tra tiền lương vừa về, nghe thấy Tào Tháo sai Lưu Bị đem quân sang Từ Châu, vội vàng vào bẩm rằng:
– Sao thừa tướng lại sai Lưu Bị đi đốc binh?
Tháo nói:
– Cho ra để chẹn đường Viên Thuật.
Dục nói:
– Lúc Lưu Bị còn giữ chức mục ở Dự Châu, chúng tôi xin thừa tướng giết đi, thừa tướng không nghe, nay lại cho đi cầm quân, thế là thả rồng xuống bể, đuổi hổ về rừng, sau này muốn trừ đi còn làm sao được nữa?
Quách Gia nói:
– Nếu thừa tướng không giết Lưu Bị cũng chớ nên sai đi ra ngoài. Cổ nhân có nói rằng: “Một ngày thả giặc, để lo muôn đời”. Xin thừa tướng xét lại.
Tháo nghe ra, liền sai Hứa Chử đem năm trăm quân đuổi theo gọi Lưu Bị về.
Hứa Chử vâng lệnh đi liền.
Huyền Đức đang đi, ở mặt sau bỗng thấy bụi mù, liền bảo với Quan, Trương rằng
– Đây chắc là quân Tào Tháo đuổi theo.
Nói rồi lập trại, đóng quân lại, sai Quan, Trương cầm binh khí đứng hai bên. Hứa Chử đến, thấy binh uy nghiêm chỉnh, bèn xuống ngựa vào trại, ra mắt Huyền Đức. Huyền Đức hỏi:
– Ông đến có việc gì?
Chử nói:
– Phụng mệnh thừa tướng, mời tướng quân trở lại để bàn bạc việc khác.
Huyền Đức nói:
– Tưởng đã ở ngoài, mệnh lệnh của vua cũng có điều không phải tuân theo, huống chi tôi đã chầu vua, lại được vâng lời thừa tướng mà đi. Nay không còn việc gì phải bàn nữa, xin ông trở về ngay bẩm lại với thừa tướng cho tôi.
Hứa Chử nghĩ rằng:
– Thừa tướng vốn đối đãi tử tế với Huyền Đức, nay không thấy dặn phải đánh nhau, vậy hãy đem lời Lưu Bị về bẩm lại, tùy ý ngài định đoạt.
Chử liền từ giã Huyền Đức về, vào hầu Tào Tháo thuật lại lời của Huyền Đức. Tháo ngần ngại chưa quyết, Trình Dục, Quách Gia nói rằng:
– Lưu Bị không chịu đem quân trở lại, tất là đã thay lòng đổi dạ rồi.
Tháo nói:
– Ta đã sai Chu Linh, Lộ Chiêu đi theo kèm Lưu Bị, vị tất hắn đã dám sinh biến. Vả ta đã sai, không nên hối lại.
Bèn không đuổi theo Huyền Đức nữa.
Người sau có thơ rằng:
Gióng ngựa giục quân, lòng vội vã,
Nỗi lo canh cánh chiếu trong đai.
Hổ tung cũi sắt về rừng rậm,
Rồng phá then vàng, ra bể khơi…
Mã Đằng bấy giờ ở Hứa Đô, thấy Huyền Đức đã đi, ở châu mình lại có quân đến báo nhiều việc kíp, cho nên cũng về Lương Châu.
Huyền Đức đem quân đến Từ Châu, thứ sử là Xa Trụ ra đón. Yến tiệc xong, lũ Tôn Càn, My Chúc đều lại yết kiến. Huyền Đức về nhà thăm vợ con, một mặt sai người dò xem tin tức Viên Thuật.
Thám tử về báo:
– Viên Thuật xa xỉ quá độ. Tướng Thuật là Lôi Bạc, Trần Lan cũng bỏ Thuật về núi Tung Sơn; thế Thuật đã suy, Thuật phải đưa thư nhường đế hiệu cho Viên Thiệu và đương thu nhặt binh mã và các đồ cung cấm ngự dụng, sắp đi qua Từ Châu.
Lưu Bị nghe Viên Thuật sắp đến, dẫn Quan, Trương và Chu Linh, Lộ Chiêu đem năm vạn quân ra đón đánh, thì vừa gặp tiên phong của Thuật là Kỷ Linh đến.
Trương Phi ra đánh nhau với Kỷ Linh, mới được mươi hợp, liền thét lớn một tiếng, đâm chết Kỷ Linh ngã xuống chân ngựa. Quân lính thua chạy trốn cả. Thuật tự dẫn binh đến đánh. Huyền Đức chia quân làm ba đường. Chu Linh, Lộ Chiêu ở tả; Quan, Trương ở hữu, tự mình đứng trung quân, ra ngoài cửa cờ mắng Thuật rằng:
– Thằng phản nghịch vô đạo kia! Ta nay phụng chiếu ra đánh, mày nên tự trói tay lại hàng, ta sẽ tha cho khỏi chết.
Nói xong dốc binh vào đánh. Huyền Đức tạm lui, cho quân tả hữu hai bên ra đánh, quân Thuật thây nằm khắp đồng, máu chảy thành vũng, sĩ tốt trốn đi không biết bao nhiêu, lại bị Lôi Bạc, Trần Lan ở Tung Sơn ra cướp mất tiền nong lương thảo. Thuật muốn về Thọ Xuân, lại bị trộm cướp đến đánh tập hậu, phải đóng lại ở Giang Đình. Bấy giờ Thuật chỉ còn hơn một nghìn quân, toàn những người già yếu. Trời đang nóng nực, lương thực hết, chỉ còn ba mươi hộc lúa, phát cho quân sĩ, người nhà phải nhịn, chết đói nhiều, Thuật ăn cơm gạo xấu, không nuốt được, sai nhà bếp lấy mật ăn cho khỏi khát. Nhà bếp nói:
– Mật không có, chỉ có nước máu!
Thuật đương ngồi trên giường, kêu to một tiếng, đâm nhào xuống đất, thổ ra đến một chậu máu, rồi chết.
Bấy giờ là tháng sáu, năm thứ bốn, niên hiệu Kiến An (một trăm chín mươi chín công nguyên).
Người sau có thơ rằng:
Cuối Hán, binh đao nổi bốn phương,
Khéo đâu Viên Thuật cũng ngông cuồng!
Mấy đời không nghĩ nên công tướng,
Chút phận hòng toan vị đế vương.
Tỉ ngọc vào tay thêm ngạo ngược,
Điềm trời trước mắt, uống khoe khoang.
Khát tìm mật uống tìm đâu thấy?
Thổ huyết nằm queo chẳng kẻ thương!
Viên Thuật chết rồi, cháu là Viên Dận đem hài cốt cùng vợ con Thuật chạy về Lư Giang, bị tên Từ Cầu giết sạch, cướp lấy ngọc tỉ đem đến Hứa Đô dâng Tào Tháo. Tháo mừng lắm, phong cho Từ Cầu làm thái thú ở Cao Lăng. Từ bấy giờ ngọc tỉ lại về tay Tào Tháo.
Huyền Đức thấy Viên Thuật đã chết, dâng biểu về triều đình, và đưa thư trình Tào Tháo biết, sai Chu Linh, Lộ Chiêu về Hứa Đô, còn bao nhiêu binh mã đều lưu lại để giữ Từ Châu, một mặt chiêu dụ những nhân dân lưu tán trở về an cư lạc nghiệp.
Chu Linh, Lô Chiêu về Hứa Đô vào hầu Tào Tháo thuật việc Huyền Đức giữ lại binh mã. Tháo giận lắm muốn chém ngay hai người. Tuân Úc can rằng:
– Quyền ở Lưu Bị, hai người làm thế nào được.
Tháo mới tha tội cho hai người.
Úc lại bàn rằng:
– Thừa tướng nên viết thư cho Xa Trụ, sai ở đó tìm cách trừ Lưu Bị.
Tháo nghe kế ấy, mật sai người đến bảo Xa Trụ. Trụ mời Trần Đăng đến bàn.
Đăng nói:
– Việc ấy thực dễ, nay Lưu Bị ra ngoài thành chiêu dụ nhân dân, không mấy ngày nữa sẽ về. Tướng quân nên phục quân dưới cửa cuốn ở ngoài thành, giả cách ra đón, đợi khi Lưu Bị cưỡi ngựa đến, chém cho một nhát, tôi thì ở trên thành bắn xuống để chặn hậu quân của Lưu Bị, thế là xong việc.
Trụ nghe theo kế ấy.
Trần Đăng về nói lại với bố là Trần Khuê. Khuê sai Đăng ra báo trước cho Huyền Đức biết. Đăng vừa ra khỏi thành gặp Quan Vũ, Trương Phi bèn nói chuyện cho hai người hay.
Nguyên là Quan, Trương về trước, Huyền Đức về sau. Trương Phi nghe nói, muốn chạy vào đánh ngay. Vân Trường ngăn lại nói rằng:
– Nó phục binh dưới cửa cuốn bên thành, nếu vào thì mắc mẹo nó. Ta có một kế giết được Xa Trụ: Nhân ban đêm, ta giả làm quân Tào đến Từ Châu, Xa Trụ tất ra đón, ra đến nơi thì ta giết đi.
Phi chịu rằng phải.
Quân bộ hạ của Quan, Trương sẵn có cờ hiệu của Tào, y giáp cũng giống nhau, đang nửa đêm, đến ngay cửa thành gọi mở. Trên thành hỏi ai. Chúng thưa:
– Quân mã Trương Văn Viễn. Tào thừa tướng sai đến.
Quân giữ thành vào báo với Trụ. Trụ mời Trần Đăng lại bàn rằng:
– Không ra đón thì sợ có chuyện nghi kị, ra đón lại sợ có chuyện lừa dối.
Trụ lên thành nói rằng:
– Đêm khuya khó phân biệt được thực hư, xin để sáng mai hãy mở cửa.
Ở dưới thành đáp rằng:
– Chỉ sợ Lưu Bị biết. Xin mở cửa mau.
Xa Trụ ngần ngừ chưa quyết, dưới thành thì cứ giục mở cửa mãi. Trụ đành phải mặc áo giáp lên ngựa, dẫn một nghìn quân mã ra ngoài thành. Đi khỏi cầu, Trụ gọi to rằng:
– Văn Viễn ở đâu?
Trong bóng lửa sáng thấy ngay Vân Trường cầm đao tế ngựa lại, xông thẳng vào Xa Trụ thét rằng:
– Thằng kia! Sao dám lừa dối muốn hại anh ta?
Trụ giật mình, đánh chưa được vài hiệp, chống đỡ không nổi, quay ngựa chạy về. Chạy đến đầu cầu, Trần Đăng ở trên thành bắn tên xuống như mưa. Vân Trường sấn lại, phất long đao một nhát chém Trụ ngã lăn xuống đất rồi chặt lấy đầu, quay mặt vào thành giơ đầu Trụ lên hô rằng:
– Phản tặc là Xa Trụ ta đã giết rồi. Quân sĩ không có tội, hàng thì tha cả.
Quân sĩ đều cầm ngược khí giới, xin hàng. Từ ấy quân dân đều được yên ổn cả.
Vân Trường mang đầu Xa Trụ lại đón Huyền Đức nói rằng:
– Xa Trụ muốn mưu hại anh, nay đã giết được rồi.
Huyền Đức thất kinh nói rằng:
– Tháo nó lại, thì làm thế nào?
Vân Trường nói:
– Hễ nó lại, thì hai em xin ra đánh chớ sao!
Huyền Đức ân hận mãi, rồi vào Từ Châu. Các cụ già và trăm họ đón rước đầy đường Lưu Bị đến phủ, tìm Trương Phi, thì Trương Phi đã bắt cả nhà Xa Trụ đem giết rồi. Huyền Đức giận nói:
– Giết mất người tâm phúc của Tháo, sao nó chịu thôi?
Trần Đăng nói:
– Tôi có một kế, có thể lui được Tào Tháo.
Thế thực là:
Cô thân đã thoát ra hang hổ
Diệu kế còn toan dập khói lang.
Chưa biết Trần Đăng bàn kế gì, xem đến hồi sau sẽ rõ.
– Tào Tháo chỉ sợ Viên Thiệu. Thiệu nay như hổ ngồi giữ ở các quận Ký, Thanh, U và Tinh. Quân mặc áo giáp có vài trăm vạn; văn quan võ tướng rất nhiều, sao không viết thư sang đó mà cầu cứu.
Huyền Đức nói:
– Thiệu và tôi chưa có đi lại với nhau bao giờ, vả lại vừa đánh em hắn, sao hắn chịu giúp.
Đăng nói:
– Ở đây có một người, ba đời thông gia với họ Viên, nếu được người ấy đưa thư sang cho Thiệu, tất Thiệu đem quân lại cứu.
Huyền Đức hỏi ai, Đăng nói:
– Người ấy là người ông xưa nay vốn kính nể, sao nay lại quên?
Huyền Đức chợt nghĩ ra, hỏi:
– Có phải Trịnh Khang Thành tiên sinh không?
Đăng cười, nói:
– Chính phải!
Nguyên Trịnh Khang Thành tên là Huyền, chăm học, nhiều tài, khi trước là học trò Mã Dung. Mỗi khi Dung dạy học, bao giờ cũng treo một bức màn đỏ, ngoài thì học trò ngồi, trong thì đông những nhà trò, con gái đứng hầu. Trịnh Huyền đến học trong ba năm, mắt không trông ngang. Dung lấy làm lạ. Đến khi Trịnh Huyền học xong, trở về nhà, Dung than rằng:
– Học được bí truyền của ta, chỉ có một Trịnh Huyền.
Trong nhà Trịnh Huyền, thị tì đều thuộc Mao Thi.
Có một thị tì làm trái ý Huyền, Huyền bắt quỳ mãi dưới thềm, một thị tì khác hỏi đùa:
– Hồ vi hồ nê trung?(*)
(*) Làm sao ở trong đống bùn? (Câu này trích trong kinh Thi. )
Người kia lập tức đáp ngay:
– Bạc ngôn vãng tố, phùng bỉ chi nộ. (*)
(*) Vừa định phân trần lại gặp lúc người ta đang có cơn giận. (Câu này cũng trích ở kinh Thi. )
Như thế thực là phong nhã.
Đời vua Hoàn Đế, Trịnh Huyền làm quan thượng thư. Đến sau gặp loạn mười tên hoạn quan, Huyền bỏ quan về ở Từ Châu làm ruộng. Huyền Đức khi ở Trác Quận đã thờ làm thầy, đến khi làm mục ở Từ Châu, thường thường vẫn đến hầu rất mực tôn kính.
Bấy giờ Huyền Đức nghĩ ra người ấy, lấy làm may lắm, liền cùng Trần Đăng đi đến nhà Trịnh Huyền, xin Huyền viết thư cho Viên Thiệu.
Huyền nhận lời viết ngay một bức thư, giao cho Huyền Đức. Huyền Đức sai Tôn Càn đi suốt ngày đêm đưa thư đến Viên Thiệu.
Thiệu xem xong nghĩ rằng:
– Huyền Đức vừa đánh em ta, đáng nhẽ không giúp, nhưng vì có lời của Trịnh thượng thư, đành phải đi cứu.
Thiệu liền họp các văn võ bàn việc cất quân.
Mưu sĩ là Điền Phong can rằng:
– Mấy năm khởi binh luôn, nhân dân mỏi mệt, kho tàng trống rỗng, không nên lại khởi đại quân. Trước hết hãy sai người dâng biểu tâu công thắng trận lên thiên tử, nếu biểu không dâng lên được, bấy giờ sẽ kể tội ngăn trở của Tào Tháo, rồi đem binh đóng ở Lê Dương, làm thêm thuyền bè ở Hà Nội, sửa sang khí giới, phân phát tinh binh, đóng đồn ngoài biên ải. Như thế trong ba năm, việc lớn có thể xong được.
Mưu sĩ khác là Thẩm Phối lại nói rằng:
– Điền Phong nói thế không phải. Lấy oai thần võ của minh công, sẵn có nền giàu mạnh ở đất Hà Sóc, đem binh đánh giặc Tào, dễ như trở bàn tay, hà tất phải kéo dài ngày tháng.
Mưu sĩ thứ ba là Thư Thụ nói:
– Cái mưu đánh được, không cứ gì ở sự cường thịnh, Tào Tháo đã có quyền trong tay, thi hành được pháp lệnh, quân lính lại tập luyện giỏi, không như bọn Công Tôn Toản ngồi bó tay một chỗ. Nay không dùng mưu của Điền Phong, dấy một đội quân vô danh, tôi trộm nghĩ là không phải.
Lại có một mưu sĩ nữa là Quách Đồ nói:
– Thế cũng không phải, đem binh đánh Tào Tháo sao gọi là vô danh? Ông nên kịp thời mưu tính sớm định nghiệp lớn. Xin ông nghe nhời Trịnh thượng thư, cùng Lưu Bị đem nghĩa lớn đánh giặc Tào, trên hợp ý trời, dưới hợp lòng dân, thực là may lắm.
Bốn người tranh luận mãi; Viên Thiệu trù trừ chưa quyết. Chợt có Hứa Du, Tuân Thẩm ở ngoài vào.
Thiệu nói:
– Hai người kiến thức rộng, thử xem chủ trương thế nào?
Hai người thi lễ xong, Thiệu hỏi:
– Trịnh thượng thư gửi thư đến, bảo ta khởi binh giúp Lưu Bị đánh Tào Tháo. Nên khởi binh hay không nên khởi binh?
Hai người đồng thanh nói:
– Minh công lấy nhiều đánh ít, lấy khỏe đánh yếu, giết giặc Tào để giúp nhà Hán, khởi binh là phải lắm.
Thiệu nói:
– Hai người nói chính hợp ý ta!
Lập tức sai truyền lệnh cất quân; cho Tôn Càn về trước báo với Trịnh Huyền, và hẹn Huyền Đức chuẩn bị sẵn sàng để tiếp ứng; một mặt sai Thẩm Phối, Phùng Kỷ làm thống quân, Điền Phong, Tuân Thầm, Hứa Du làm mưu sĩ. Nhan Lương, Văn Sú làm tướng quân, khởi quân mã mười lăm vạn, quân bộ mươi lăm vạn, cả thảy ba mươi vạn tinh binh, tiến về Lê Dương.
Xếp đặt đâu đấy rồi, mưu sĩ nữa là Quách Đồ tiến lên nói:
– Minh công lấy nghĩa lớn đánh Tào Tháo, phải nên làm một bài văn hịch, nêu hết sự tàn ác của Tào Tháo, truyền tờ hịch đi các quận, kể rõ lẽ tại sao mình đem quân đến đánh, thế mới là danh chính ngôn thuận.
Thiệu bèn sai thư kí là Trần Lâm làm bài hịch. Nam tự là Khổng Chương, vốn có danh tiếng. Đời vua Hoàn Đế làm chủ bạ, nhân can Hà Tiến không nghe, lại gặp loạn Đổng Trác, Trần Lâm lánh nạn ở Ký Châu, Thiệu dùng làm thư kí. Bấy giờ vâng lệnh thảo hịch, cầm bút viết xong ngay. Bài hịch như sau:
“Thường nghe rằng: Minh chúa nhân nguy đế bầy kế; trung thần lo nạn để lập công. Bởi thế, phải có người phi thường, mới lập được việc phi thường; có việc phi thường, mới có công phi thường. Cái công phi thường ấy, vốn không phải người thường có thể làm nổi.
Trước kia nhà Tần vua yếu, Triệu Cao lộng quyền, hống hách trong triều, một tay tác oai tác phúc. Người bấy giờ bị ức hiếp, không ai dám nói câu gì, đến nỗi có biến ở trong cung Vọng Di, tổ tôn nhà nó bị tiêu diệt, để tiếng nhơ nhuốc đến ngày nay, làm gương cho đời.
Cuối đời Lã Hậu, Sản, Lộc, chuyên chính, trong giữ hai đạo quân, ngoài thống lĩnh nước Lương, nước Triệu; chuyên quyền ỷ thế, xử việc ở trong cấm sảnh, kẻ dưới lăng loàn, người trên suy yếu, bốn bể ai cũng lo sợ. Bởi thế Giáng Hầu và Chu Hữu Hầu tức giận nổi dậy giết sạch kẻ bạo nghịch, lập vua Thái Tông, nhờ thế đạo vương hưng thịnh, sáng sủa và rõ rệt, ấy tức là cái nêu cao lập công của kẻ đại thần.
Tư không là Tào Tháo ngày nay: Ông nó là trung thường thị tên Đằng, cùng với bọn Tả Quan, Từ Hoảng hưng yêu tác quái, tham lam vô độ, nát đạo hại dân. Bố nó là Tung, làm con nuôi của Đằng, nhân có nhờ đút lót mà được chức vị, xe vàng khiên ngọc, đem nộp cửa quyền, trộm giữ ngôi cao, làm nghiêng đổ quyền lớn. Đến Tháo: Nòi giống sót của hoạn quan, vốn không có đức hạnh, gian giảo độc ác, thích gây ra sự biến loạn, vui mừng thấy sự tai vạ.
Mạc Phú đây thống xuất hùng binh, quét trừ kẻ hung nghịch, gặp khi Đổng Trác lấn quan hại nước, bèn chống gươm khua trống, phát lịnh ra cõi Đông Hạ, thu dụng anh hùng, bỏ nết xấu để dùng được việc, cho nên mới cùng Tháo hợp mưu, trao cho chức tì tướng, tưởng là tài ưng khuyển có thể dùng được. Không ngờ nó ngu dại, kém mưu lược, khinh thường sự tiến quân và lui quân, đến nỗi thất bại làm tổn thiệt quân sĩ.
Mạc Phú lại chia thêm cho quân tinh nhuệ, sửa sang bù đắp cho nó, tâu xin cho nó sang Đông Quận lĩnh chức thứ sử ở Duyện Châu; thân dê chó đội lốt hổ, để nó có chút quyền hành, mong rằng nó sẽ có phen báo thù được trận thua trước như quân Tần báo thù được nước Tấn khi xưa. Nhưng Tháo lại thừa thế bạt hổ, bạo ác càn rỡ, tàn dân, hại người lương thiện. Vì thế quan thái thú Cửu Giang là Biên Nhượng, tài cán giỏi giang, thiên hạ biết tiếng, nói thẳng lòng ngay, không xiểm ai, cũng bị nó hãm hại, đầu phải bêu, vợ con phải tàn sát. Từ đó, sĩ phu ai cũng tức tối, nhân dân lại càng oán ghét; một người vung cánh tay cả châu cùng hưởng ứng; cho nên thân nó bị thua ở Từ Châu, đất nó bị cướp về tay Lã Bố; bơ vơ cõi Đông, không nơi nương tựa, Mạc Phủ nghĩ đến nghĩa gốc mạnh cành yếu và thương nó, không buộc nó vào đảng của kẻ phản nghịch, cho nên lại giương cờ, mặc áo giáp, cất quân sang đánh. Chiêng trống vang lừng, Lã Bố tan vỡ, cứu cho nó khỏi chết, và khôi phục lại chức phương bá cho nó, thế là Mạc Phủ ta tuy không có công gì với dân Duyện Châu, nhưng thực là làm phúc cho Tào Tháo to lắm. Đến khi loan giá trở về, giặc cướp quấy rối (loạn Thôi, Dĩ), bấy giờ Ký Châu đang có việc đều phòng ở cõi bắc, ta chưa rờ ra ngoài được, cho nên sai tùng sự trung lang là Từ Huân sang truyền cho Tháo phải sửa sang chốn giao miếu, giúp đỡ vua nhỏ. Nhưng Tháo dám rông rỡ làm càn, hiếp vua thiên đô, khinh nhờn nhà vua, nát phép loạn kỉ, ngồi giữ cả việc ba đài, chuyên chế triều chính, muốn thưởng ai thì thưởng, muốn giết ai thì giết. Yêu ai thì người ấy sung sướng đến cả năm ngành; ghét ai thì người ấy phải chết cả ba họ; ai bàn tán phải trái thì trị tội công khai, ai thầm vụng chê bai, thì bị giết ngấm ngầm. Vì thế trăm quan buộc miệng, đường sá đưa mắt nhìn nhau. Còn các quan thượng thư thì chỉ nhớ buổi vào triều đến hội cho có mặt; công khanh thì chỉ gọi là có chức phẩm mà thôi!
Cho nên quan thái úy là Dương Bưu, từng giữ hai chức tư không và tư đồ, nhất phẩm trong nước, Tháo nhân thế mang lòng ghen ghét, vu cho tội trạng, đánh đập tàn nhẫn, đủ cả năm thứ hình cụ; tự ý làm càn, không nghĩ đến phép nước.
Quan nghi lang là Triệu Ngạn, lời ngay nói thẳng có thể nghe theo, vì thế vua nghe nói động lòng, thay đổi nét mặt, tỏ ý khen thưởng, nhưng Tháo định che lấp lẽ phải, chặn lấp đường nói năng của mọi người, tự tiện bắt Triệu Ngạn giết đi, không tâu cho vua biết.
Lương Hiếu vương, là anh em ruột với tiên đế, lăng mộ của người là nơi tôn quý, dẫu đến cây cối trên mả, cũng phải kính cẩn gìn giữ, thế mà Tháo đem tướng sĩ, khai quật phá áo quan, bỏ lộ thây, cướp lấy vàng báu, đến nỗi vua phải chảy nước mắt, dân sĩ phải đau lòng.
Nó lại đặt ra quan trung lang tướng, đào mả quan hiệu úy bới vàng: đi đến đâu tàn hại đến đó, xương trong mả phải bới cả ra ngoài. Nó ở ngôi Tam Công, làm việc trộm cướp, nhơ cả nước, khổ đến dân, làm hại cả người sống và người chết. Vả lại chính sự tế toái thảm khốc, luật lệ bày ra thật nhiều, khác gì dò bẫy đầy cả khe, hang hố lấp cả đường, giơ tay mắc phải lưới, đụng chân vấp phải cạm. Cho nên ở Duyện, Dự có những người đau buồn, kinh đô có những nhà than vãn. Xem hết cả sử sách xưa nay, những kẻ làm tôi vô đạo, tham tàn ác nghiệt, đến Tháo là cùng.
Mạc Phủ ta đang phòng ngoại gian, chưa kịp dạy bảo nó, và cũng còn có ý khoan dung, mong cho nó tu tỉnh lại. Nhưng nó bụng dạ sài lang, mang tâm gây vạ, muốn đạp đổ cột rường, làm cho nhà Hán suy yếu, trừ giết kẻ trung chính chuyên làm kẻ kiêu hùng.
Trước kia ta gióng trống sang mặt bắc, đánh Công Tôn Toản, quân cường khấu nghịch tặc cự nhau với quân ta một năm, Tháo nhân quân ta chưa đánh được, ngầm đưa thư cho Toản, ngoài mặt giả làm giúp quân ta, li kì thực nó định đánh úp quân ta, may được người mang thư tiết lộ mưu gian, Toản phải thua chết. Cho nên nhuệ khí của nó phải nhụt và mưu đồ của nó cũng không thành.
Nay nó đóng giữ Ngao Xương, chẹn sông giữ biển, muốn đem cánh tay con bọ ngựa chặn đường của xe thần sét.
Mạc phủ nay phụng oai linh nhà Hán, dẹp yên bờ cõi, kích dài trăm vạn, ngựa khỏe nghìn dặm, đem những tướng mạnh như Trung Hoàng, Hạ Dục, Ô Hoạch; dùng cái thế cung cứng nỏ bền, từ Minh Châu vượt núi Thái Hàng; từ Thanh Châu qua sông Tế, sông Lũy đạt quân qua sông Hoàng Hà đánh mặt trước; quân kinh châu xuống đất Uyển, Diệp đánh mặt sau. Sấm vang, hổ sợ, khác gì cầm bó lửa đốt mớ bòng bong, dốc nước bể tưới đống tro tàn, còn cái gì không bị tiêu diệt?
Vả lại quân sĩ của Tháo người nào có thể đánh trận được toàn là người ở U, Ký, hoặc là quân sĩ của bộ hạ cũ, đều oán giận muốn về quê hương, rỏ nước mắt trông về phía bắc. Còn như dân ở Duyện, Dự và quân sót của Lã Bố, Trương Dương, đều là bị ức hiếp, tạm bợ đi theo nó, vết thương chưa khỏi, quân nọ quân kia thù địch lẫn nhau. Nếu ta lên núi cao đánh tiếng trống, phất cờ trắng chiêu hàng, thế tất đất lở ngói tan, không đợi lưỡi gươm phải rây máu mới dẹp yên được.
Hiện nay nhà Hán suy đồi, kỉ cương trễ nãi, triều đình không có một người phù tá nào giỏi, chân tay của vua không có thể đánh dẹp được giặc: Trong kinh đô, những người lão luyện đều phải cúi đầu khép cánh, không biết trông cậy vào đâu; tuy có kẻ trung nghĩa cũng bị nói ức hiếp, không làm thế nào thổ lộ được khí tiết của mình?
Vả lại Tháo sai bảy trăm tinh binh bộ hạ của nó, vây chốn cung khuyết, ngoài mặt giả làm giữ gìn cho vua, kì thực là nó giam cầm vua. Chúng ta sợ rằng cái mầm soán nghiệp, nảy ra từ đó. Ấy thực là buổi óc gan lầm đất của trung thần và cái hội lập công của hào kiệt, chúng ta chẳng nên gắng sức dư!
Tháo nó lại mạo làm chiếu vua, sai sứ cất quân. Ta sợ những châu quận ở xa, tưởng là chiếu của vua thực, cấp quân cho nó, thế là trái với lòng dân và vào hùa với quân phản nghịch, phí cả tiếng mình, lại để thiên hạ chê cười. Nhưng bậc minh triết, tất không làm thế.
Nay mai, quân U, Tinh, Thanh, Ký, bốn châu cùng tiến lên. Thư ta đưa đến Kinh Châu, xin phải cất quân ngay, cùng quan kiến trung tướng quân (Trương Tú) họp lại làm cho thanh thế được mạnh.
Các châu quận cũng nên họp sẵn nghĩa binh, dàn khắp bờ cõi, thị võ dương oai, cùng giúp ấy nền xã tắc. Thế là cái công phi thường sẽ được rõ rệt dựng nên.
Ai mà lấy được đầu Tào Tháo sẽ được phong tước hầu năm nghìn hộ, thưởng tiền năm nghìn vạn quan.
Những bộ khúc tướng tá ai chịu quy hàng, đều tha tội chết. Mở rộng ân tín, ban bố phong thưởng. Nay làm tờ hịch này bá cáo thiên hạ, để ai nấy đều biết nhà vua đang có nạn nguy cấp.
Cấp cấp như luật lệnh!”
Thiệu xem hịch xong mừng lắm, liền sai sứ giả đưa đi khắp cả châu huyện và yết thị các nơi cửa ải, bến đò. Bài hịch truyền đến tận Hứa Đô.
Bấy giờ Tào Tháo đương bị chứng nhức đầu, nằm trên giường. Tả hữu đem bài hịch vào trình. Tháo xem xong rợn tóc rùng mình, mồ hôi toát ra như tắm, khỏi cả nhức đầu, từ giường vùng dậy, ngoảnh lại hỏi Tào Hồng:
– Ai làm bài hịch này?
Hồng nói:
– Bài ấy nghe đâu của Trần Lâm soạn.
Tháo cười nói:
– Có văn hay phải có võ lược đi kèm, văn Trần Lâm tuy hay nhưng võ lược của Viên Thiệu lại dở, thì làm thế nào!
Bèn họp các mưu sĩ bàn việc nghênh địch, Khổng Dung thấy thế, vào nói với Tào Tháo rằng:
– Viên Thiệu thế to, không nên đánh nhau, hòa thì hơn.
Tuân Úc nói:
– Viên Thiệu là người vô dụng, hòa với nó làm gì?
Dung lại nói:
– Viên Thiệu có đất rộng, dân mạnh, bộ hạ như bọn Hứa Du, Quách Đồ, Thẩm Phối, Phùng Kỷ, đều là những người mưu trí; Điền Phong, Thư Thụ đều là trung thần; Nhan Lương, Văn Sú đủ sức khỏe hơn ba đội quân; còn như Cao Lãm, Trương Cáp, Thuần Vu Quyền tuyền là những danh tướng đời nay. Sao lại bảo Thiệu là vô dụng?
Úc cười, nói:
– Thiệu binh nhiều mà không nghiêm chỉnh; Điển Phong tính cương trực hay phạm người trên; Hứa Du tham mà không khôn, Thẩm Phối hay tự cho mình là phải mà không có mưu mẹo; Phùng Kỷ tính cả quyết nhưng không làm được việc. Mấy người ấy không ưa nhau, tất rồi cũng có nội biến; Nhan Lương, Văn Sú tuy khỏe, nhưng đồ thất phu ấy chỉ đánh một trận là bắt được; còn những đồ tầm thường nhung nhúc, dẫu có trăm vạn cũng chẳng kể vào đâu.
Khổng Dung ngồi nín lặng.
Tháo cười to, nói:
– Đều không ra ngoài sự tính toán của Tuân Văn Nhược.
Liền gọi ngay tiền quân là Lưu Đại, hậu quân là Vương Trung dẫn năm vạn quân mang cờ hiệu “Thừa tướng” sang Từ Châu đánh Lưu Bị.
Lưu Đại vốn làm thứ sử Duyện Châu, sau hàng Tào Tháo, Tháo cho làm thiên tướng. Cho nên Tháo sai hắn cùng Vương Trung mang quân đi trước.
Tháo tự dẫn đại quân hai mươi vạn ra Lê Dương để chống Viên Thiệu.
Trình Dục nói:
– Lưu Đại, Vương Trung hai người thừa tướng sai đi cùng không xứng việc.
Tháo nói:
– Ta cũng biết hai người ấy không phải tay địch nổi Lưu Bị, nhưng để hư trương thanh thế.
Tháo lại dặn hai người:
– Không được khinh tiến, đợi ta phá được Thiệu, bấy giờ mới quay binh về đánh Lưu Bị.
Lưu Đại, Vương Trung lĩnh binh đi.
Tháo đến Lê Dương, hai bên cách nhau tám mươi dặm, cùng đào hào đắp lũy, giữ nhau không đánh, từ tháng tám đến tháng mười. Nguyên là Hứa Du không bằng lòng để Thẩm Phối cầm quân; Thư Thụ thì giận Viên Thiệu không dùng mưu của mình, nội bộ lủng củng không hòa thuận với nhau, chẳng ai nghĩ gì đến việc tiến binh cả.
Viên Thiệu thì trong bụng nghi hoặc, cũng không muốn tiến binh.
Tháo thấy vậy mới gọi hàng tướng là Tang Bá, thủ hạ của Lã Bố sai giữ miền Thanh, Từ; Vu Cấm, Lý Điển đóng đồn trên sông Hà; Tào Nhân thì thống lĩnh đại quân, đóng ở Quan Độ. Còn Tháo thì tự dẫn một đội quân về Hứa Đô.
Đây nói Lưu Đại, Vương Trung dẫn năm vạn quân đến cách Từ Châu một trăm dặm đóng trại trong quân giả vờ dựng một lá cờ hiệu Tào thừa tướng, không dám tiến binh vội, chờ đợi tin tức Hà Bắc.
Trong thành Từ Châu, Lưu Bị cũng không biết hư thực thế nào, chưa dám dấy quân, cũng nghe ngóng tin tức Hà Bắc.
Chợt Tào Tháo sai người giục Lưu Đại, Vương Trung tiến binh. Hai người ở trong trại bàn nhau. Đại bảo Trung:
– Anh đi đánh trước.
Trung nói:
– Thừa tướng sai anh đi đánh trước kia mà!
Đại nói:
– Ta là chủ tướng, sao lại ra đánh trước được?
Trung nói:
– Thế thì anh với tôi cùng đi.
Đại nói:
– Chúng ta rút thăm, phải tên người nào, người ấy đi.
Vương Trung rút phải chữ “Tiên”, phải lĩnh một nửa quân mã, đến đánh Từ Châu.
Huyền Đức biết tin, mời Trần Đăng đến thương nghị, nói rằng:
– Viên Thiệu tuy có quân đóng ở Lê Dương, nhưng các mưu sĩ, đại thần không hòa thuận với nhau, vẫn chưa tiến binh. Còn Tào Tháo thì không biết ở đâu, nghe như trong quân Lễ Dương không có cờ hiệu Tào Tháo, sao ở đây lại thấy có cờ hiệu Tháo?
Đăng nói:
– Tào Tháo trăm nghìn quỷ kế, tất nó lấy Hà Bắc làm trọng, phải tự mình đôn đốc ở đấy, cố ý giấu cờ hiệu đi, còn cờ hiệu ở đây chỉ là hư trương thanh thế, tôi chắc Tào Tháo không có ở đây.
Huyền Đức ngoảnh lại hỏi Quan, Trương:
– Hai em, ai đi dò xem hư thực?
Trương Phi xin đi.
Huyền Đức bảo:
– Em táo bạo quá, không nên đi.
Trương Phi nói:
– Cho có ngay Tào Tháo em cũng xin bắt nó đem về!
Vân Trường nói:
– Để em xin đi.
Huyền Đức nói:
– Nếu Vân Trường đi, anh mới vững dạ.
Vân Trường dẫn ba nghìn quân mã ra khỏi Từ Châu.
Bấy giờ bắt đầu mùa đông, mây mờ u ám, hoa tuyết bay tán loạn. Quân mã xông vào trong tuyết bầy trận. Vân Trường tế ngựa cắp đao, gọi to Vương Trung ra nói chuyện.
Trung nói:
– Thừa tướng đến đây sao không hàng?
Vân Trường nói:
– Người về mời thừa tướng ra trước trận, ta sẽ thưa chuyện.
Trung nói:
– Thừa tướng nào lại thèm ra nói chuyện với mày!
Vân Trường giận lắm, quất ngựa lên trước. Vương Trung vác giáo lại địch. Hai ngựa vừa gặp nhau, Vân Trường quay ngựa chạy về. Trung đuổi theo, vừa qua bờ núi, Vân Trường quay ngựa lại, quát to một tiếng, múa long đao vào đánh. Trung địch không nổi, sắp sửa quay ngựa chạy trốn, Vân Trường tay trái cắp ngược bảo đao, tay phải nắm lấy thắt lưng Vương Trung, lôi xuống cắp ngang trên mình ngựa chạy về.
Quân Vương Trung chạy tán loạn cả.
Vân Trường áp giải Vương Trung về Từ Châu vào nộp Huyền Đức. Huyền Đức hỏi:
– Mày là người nào, hiện làm chức gì, dám trá xưng là Tào thừa tướng?
Trung nói:
– Tôi nào dám thế, thừa tướng sai tôi lại đây hư trương thanh thế để làm nghi binh, thừa tướng thực không có ở đây.
Huyền Đức sai lấy quần áo cho mặc, và cho cơm rượu tử tế rồi cho tạm giam lại, đợi bắt được Lưu Đại sẽ bàn định sau.
Vân Trường nói:
– Tôi biết anh có ý muốn hòa giải, cho nên tôi mới bắt sống đem về.
Huyền Đức nói:
– Anh cũng sợ Dực Đức nóng nảy giết chết Vương Trung, cho nên anh không dám sai đi. Những người này giết đi vô ích; để lại còn có thể làm chỗ (cớ) hòa giải.
Trương Phi ra nói:
– Anh Hai bắt sống được Vương Trung, còn Lưu Đại em xin đi bắt sống đem về.
Huyền Đức nói:
– Lưu Đại trước làm thứ sử Duyện Châu, khi ở Hố Lao đánh Đổng Trác, y là một vị chư hầu ở một trấn, nay làm tiền quân, em không nên khinh thường:.
Phi nói:
– Bọn ấy có sá gì, em sẽ như anh hai, bắt sống đem về cho mà xem.
Huyền Đức nói:
– Chỉ sợ em lại mất tính mạng của nó, lại làm lỡ việc lớn.
Phi nói:
– Hễ em giết nó, em xin đền mạng.
Huyền Đức bèn trao cho ba nghìn quân. Phi dẫn quân đi.
Lưu Đại thấy Vương Trung bị bắt, cứ giữ không ra đánh. Trương Phi mỗi ngày đến trước cửa trại chửi mắng. Đại biết là Trương Phi càng không dám thò ra. Phi giữ vài ngày, không thấy Đại ra, nghĩ ngay được một kế, bèn truyền lệnh cho quân rằng:
– Canh hai đêm nay đi cướp trại.
Cả ngày hôm ấy, Trương Phi chỉ ngồi trong trướng uống rượu, giả vờ say, tìm bới một lỗi nhỏ của một tên lính canh, đánh cho một trận, trói ở trong dinh, truyền rằng: “Đợi đến đêm lúc nào ra quân sẽ giết để tế cờ, ” rồi bảo thầm tả hữu cởi trói cho nó trốn đi. Tên lính ấy được thoát, lẻn ra ngoài dinh, đi tắt ngay đến trại Lưu Đại, báo trước cho Lưu Đại biết việc Phi cướp trại đêm hôm ấy. Lưu Đại thấy quân hàng mình mẩy bị trọng thương, chắc là nó nói thực, tối đến để trại không, đem quân phục ở ngoài.
Đêm hôm ấy, Trương Phi chia quân ra làm ba đường, đường giữa sai ba mươi người vào cướp trại phóng hỏa, còn hai đường lẻn ra đằng sau trại, trông lửa cháy làm hiệu thì đánh ập lại. Đến canh ba, Trương Phi dẫn tinh binh chẹn hẳn đằng sau Lưu Đại. Đường giữa ba mươi người kéo vào trại đốt lửa, phục quân Lưu Đại sắp kéo vào đánh, quân hai mặt của Trương Phi đều xô ra.
Quân Đại rối loạn, không biết quân Phi nhiều ít thế nào, vỡ tan chạy trốn cả. Lưu Đại dẫn một đội tàn quân cướp đường mà chạy, chẳng may gặp ngay Trương Phi. Trong quãng đường cùng, khó lòng lánh ẩn, đánh nhau mới được một hiệp, Đại đã bị Trương Phi bắt sống. Quân sĩ đều xin hàng.
Phi sai người về Từ Châu báo tin trước. Huyền Đức bảo Vân Trường rằng:
– Dực Đức xưa nay tính khí thô lỗ, bây giờ cũng biết dùng mưu, ta không lo gì nữa.
Liền thân đi ra ngoài thành để đón Lưu Đại.
Phi hỏi:
– Anh vẫn chê em táo tợn, bây giờ thế nào?
Huyền Đức nói:
– Không nói khích, đời nào em chịu dùng mưu mẹo.
Phi cười ầm lên.
Huyền Đức thấy Lưu Đại bị trói, vội vàng xuống ngựa cởi trói, nói:
– Em nó nhỡ xâm phạm đến mình ngài, xin ngài miễn chấp cho.
Nói rồi đón về Từ Châu, tha Vương Trung ra, khoản đãi hai người tử tế. Huyền Đức nói rằng:
– Trước kia Xa Trụ muốn hại tôi, cho nên tôi bất đắc dĩ phải giết đi, thừa tướng lại ngờ là tôi làm phản, sai hai tướng quân đến hỏi tội. Tôi đội ơn thừa tướng, đang mong báo đáp, có đâu lại dám làm phản. Vậy nhờ hai tướng quân về Hứa Đô phân trần giúp tôi, thì thật là may cho tôi lắm.
Lưu Đại, Vương Trung nói:
– Chúng tôi được đội ơn sâu sứ quân không giết. Nay về hầu thừa tướng xin hết lòng tìm đường giảng giải, đem cả lớn bé già trẻ hai nhà chúng tôi bảo lĩnh cho sứ quân.
Huyền Đức cảm tạ.
Hôm sau Huyền Đức trả lại cả quân mã cho hai người, lại tiễn ra ngoài thành. Lưu Đại, Vương Trung đi chưa được mười dặm, bỗng một tiếng trống nổi, Trương Phi đứng giữa đường quát to lên rằng:
– Anh ta sao khờ vậy? Bắt được hai tướng giặc sao lại tha cho?
Hai người ngồi trên ngựa run lẩy bẩy. Trương Phi trừng mắt, cầm giáo xô lại. Bỗng đâu sau lưng một người tế ngựa lại mắng:
– Không được vô lễ!
Trông ra thì là Vân Trường, Lưu Đại, Vương Trung bấy giờ mới vững dạ. Vân Trường nói:
– Huynh trưởng đã tha, sao em lại không tuân lệnh?
Phi nói:
– Phen này tha, lần sau nó lại đến.
Vân Trường nói:
– Khi nào họ lại đến, sẽ giết cũng chưa muộn.
Hai người đồng thanh nói:
– Dù thừa tướng giết cả ba họ chúng tôi, chúng tôi cũng không dám đến nữa, xin tướng quân tha tội.
Trương Phi nói:
– Cho cả Tào Tháo đến nữa, ta cũng đánh cho nó không còn mảnh giáp. Lần này ta gửi hai cái đầu đấy.
Lưu Đại, Vương Trung ôm đầu thui thủi đi. Quan, Trương cùng về, nói với Huyền Đức.
Tôn Càn bảo Huyền Đức rằng:
– Từ Châu là đất trống cả bốn mặt, không ở lâu được, không bằng chia quân ra đóng Tiểu Bái, giữ gìn Hạ Phì làm thế ỷ giốc để phòng Tào Tháo đến.
Huyền Đức nghe theo, sai Vân Trường giữ Hạ Phì, hai vợ là Cam phu nhân và My phu nhân cũng để ở đó.
Cam phu nhân là người ở Tiểu Bái, My phu nhân là em My Chúc.
Còn Tôn Càn, Giản Ung, My Chúc, My Phương giữ Từ Châu, Huyền Đức và Trương Phi đóng ở Tiểu Bái.
Lưu Đại, Vương Trung về Hứa Đô vào chầu Tào Tháo, nói việc Lưu Bị không làm phản. Tháo giận mắng rằng:
– Những đồ làm nhục quốc thể, để chúng bay sống làm gì!
Bèn gọi tả hữu lôi ra chém.
Thế thực là:
Chó lợn đấu sao cùng hổ mạnh,
Cá tôm tranh được với rồng thiêng?
Chưa biết hai người sống chết thế nào, xem đến hồi sau mới rõ.
Tào Tháo muốn chém Lưu Đại và Vương Trung, Khổng Dung can rằng:
– Hai người vốn không phải là địch thủ với Lưu Bị, nếu thừa tướng chém đi, tôi e mất lòng tướng sĩ.
Tháo liền tha tội, nhưng cách tuột cả chức tước và bổng lộc, và muốn tự khởi binh đến đánh Huyền Đức, Khổng Dung can rằng:
– Nay đương mùa đông, trời rét, chưa nên động binh, đợi sang xuân cũng chưa muộn. Thừa tướng nên sai người đến chiêu an Trương Tú, Lưu Biểu trước đã, rồi sau hãy tính đến Từ Châu.
Tháo nghe Khổng Dung, sai Lưu Việp đến dụ Trương Tú. Việp đến Tương Thành, trước tiên vào gặp Giả Hủ, khen ngợi thịnh đức của Tào công. Hủ Lưu Việp ở lại nhà mình, rồi hôm sau vào gặp Trương Tú, nói chuyện việc Tào công sai Lưu Việp đến chiêu an. Trong khi đang bàn chuyện, chợt báo có sứ giả của Viên Thiệu đến. Tú cho gọi vào. Sứ giả trình thư, Tú xem xong. Đó cũng là thư chiêu an. Giả Hủ hỏi:
– Mới rồi Viên tướng quân cất quân đánh Tào Tháo, được thua thế nào?
Sứ giả đáp:
– Trời đông, tháng rét, còn tạm bãi binh. Nay thấy tướng quân cùng Lưu Biểu ở Kinh Châu đều có phong độ của kẻ quốc sĩ, cho nên sai tôi lại mời.
Hủ cười, nói:
– Ngươi về nói với Bản Sơ: Anh em trong nhà còn chẳng dung được nhau, nữa là quốc sĩ thiên hạ!
Nói rồi xé vụn lá thư ngay trước mặt sứ giả rồi đuổi sứ giả về.
Trương Tú nói:
– Hiện giờ Viên khỏe, Tào yếu; nay xé thư mắng sứ, nếu Thiệu đến đánh, thì làm thế nào?
Hủ nói:
– Không bằng theo với Tào Tháo.
Tú hỏi:
– Trước ta đã có thù với Tào Tháo, hắn dung sao được ta?
Hủ nói:
– Theo Tào có ba nhẽ phải, một là Tháo phụng chiếu thiên tử, đánh dẹp thiên hạ; hai là bây giờ Thiệu đương cường thịnh, ta lực bé mà đi theo, nó chẳng cho vào đâu; Tháo đương yếu được ta theo tất mừng; ba là Tào Tháo có chí lớn mưu nghiệp bá vương tất không nghĩ đến thù riêng, để rõ đức tốt với bốn bể. Xin tướng quân đừng ngần ngại.
Tú nghe Hủ, mời Lưu Việp vào tương kiến. Việp tâng bốc thịnh đức của Tào Tháo lên, và nói:
– Nếu thừa tướng còn nhớ oán cũ, sao lại sai tôi đến đây kết hiếu với tướng quân?
Tú mừng lắm, lập tức cùng Giả Hủ đến Hứa Đô đầu hàng. Tú vào bái yết Tào Tháo, lạy ở dưới thềm. Tháo vội vàng nâng dậy, nói:
– Những lỗi lầm nhỏ, xin đừng để bụng.
Bèn phong Tú làm Dương vũ tướng quân, phong Giả Hủ làm chập kim ngô sứ; lại sai Tú viết thư sang chiêu an Lưu Biểu. Giả Hủ đứng lên thưa:
– Lưu Biểu thích kết nạp những bậc danh lưu nay nên sai một danh sĩ đi, mới có thể chiêu hàng được.
Tháo hỏi Tuân Du:
– Ai đi được?
– Khổng Văn Cử có thể đi được.
Tháo lấy làm phải. Du ra gặp Khổng Dung, nói:
– Thừa tướng muốn có một danh sĩ, sung vào chức hành nhân, ông có nhận được chức này không?
Dung nói:
– Tôi có người bạn tên là Nễ Hành, tự là Chính Bình, tài giỏi gấp mười tôi, người ấy nếu được hầu ở bên cạnh vua, không những là sai đi sứ được và có thể sung chứa hành nhân. Nên tiến cử lên để thiên tử dùng.
“Tôi nghĩ: Nước lớn ngập tràn, vua mong người giúp, tìm khắp bốn phương, mời đón những bậc hiền tuấn. Xưa vua Thế Tông kế vị, mở rộng cơ nghiệp; gặp buổi thịnh trị, mọi kẻ sĩ hưởng ứng đến giúp. Bệ hạ là bậc minh quân, vâng nối nghiệp lớn, gặp phải ách vận, lo bận suốt ngày; núi non thiêng liêng, sinh ra nhiều người lạ. Tôi trộm thấy một ẩn sĩ ở Bình nguyên tên là Nễ Hành, năm nay hai mươi bốn tuổi, tên tự là Chính Bình, phẩm chất kiên trinh, tài năng siêu việt; theo nghề văn học, hiểu biết sâu rộng. Mắt thấy cái gì, miệng nói ngay ra được; tai nghe cái gì, bụng nhớ mãi không quên. Tính tình hợp với đạo lí, suy nghĩ như có thần minh. So với người khéo suy tính như Hoằng Dương, người có tài nhớ lâu như An Thế, Nễ Hành chẳng thua kém gì. Trung trinh chính trực, chí khí trong sạch như tuyết sương, nghe thấy điều thiện thì giật mình tỉnh ngộ, ghét kẻ gian ác như thù địch; so với đức hạnh của Nhâm Tọa, tiết tháo của sử Ngư cũng không hơn được Nễ Hành. Hàng trăm chim ưng, không bằng một chim bằng. Nếu cho Hành được ở trong triều, chắc có nhiều việc tốt đẹp. Biện luận hăng hái, khí thế mạnh mẽ, có thể giải quyết được nhiều nghi vấn, và cho ai chống với địch cũng có thừa sức.
Gia Nghị muốn đi thử tài ở cõi ngoài, toan dùng mưu mẹo bắt chúa Thiền Vu; Chung Quân định lấy dải mũ dài khiên chế nước Việt; chí khí khẳng khái của những người thanh niên, rất được đời trước khen ngợi; gần đây Lộ Toái, Nghiêm Tượng cũng vì có tài lạ được cất nhắc làm đài lang; Nễ Hành có thể ví được với những người ấy. Nếu cho Nễ Hành được như rồng bay trên trời, chim vỗ cánh trên mây, nổi tiếng ở ngôi Tử Vi nhả ánh sáng sang hồng nghê, tất có thể làm vẻ vang cho sĩ phu trong triều, và thêm sự oai nghiêm cho bốn cõi. Nơi tấu khúc quảng nhạc ở Quân Thiên phải có kẻ kì diệu; chốn cung điện nhà vua, nên có thứ báu phi thường, cũng như Nễ Hành, thật là hiếm có. Những điệu hay như khúc Khích Sở, khúc Dương Kha đều là nghề nhạc phải chuộng; những ngựa hay như ngựa phí thỉ, ngựa yêu niễu, phi chạy rất nhanh đều là bọn Lương, Nhạc tám rất cần. Dù ý kiến nhỏ mọn, tôi cũng xin bạo dạn tâu lên vua nghe. Nhà vua dùng người rất cẩn thận, xin hãy thử xem. Xin cho phép Hành là người áo vải được gọi vào bệ kiến. Nếu Hành không có tài năng gì, tôi xin cam chịu dối vua.”
Vua xem xong bài biểu, đưa cho Tào Tháo. Tháo sai người đi mời Hành đến. Hành đến, lễ xong, Tháo không mời ngồi. Hành ngửng mặt lên trời than rằng:
– Giời đất rộng thế này, sao không có một người nào?
Tháo nói:
– Thủ hạ ta vài mươi người đều là anh hùng đời nay, sao bảo là không có người?
Hành nói:
– Xin cho biết.
Tháo nói:
– Tuân Úc, Tuân Du, Quách Gia, Trình Dục, có nhiều mưu trí, dù Tiêu Hà, Trần Bình ngày xưa vị tất đã bằng. Trương Liêu, Hứa Chử, Lý Điển, Nhạc Tiến sức khỏe không ai địch nổi, dù Xầm Bành, Mã Vũ ngày xưa chưa thấm vào đâu. Lã Kiền, Mãn Sủng làm tùng sự; Vu Cấm, Từ Hoảng làm tiên phong; Hạ Hầu Đôn là bậc kì tài trong thiên hạ; Tào Hồng là vị phúc tướng trên đời. Sao dám bảo là không có người?
Hành cười, đáp rằng:
– Ông nói lầm rồi! Những nhân vật ấy, tôi biết cả Tuân Úc nên sai đi viếng tang thăm bệnh, Tuân Du nên sai đi giữ mả coi mồ; Trình Dục nên cho đứng gác cửa ngõ; Quách Gia nên để bình phú ngâm thơ; Trương Liêu cho đi đánh trống khua chiêng, Hứa Chử cho đi chăn trâu dắt ngựa; Nhạc Tiến cho đi nhận thư đọc chiếu; Lý Điển cho đi chạy giấy đưa thư, Lã Kiền nên để mài dao đúc gươm; Mãn Sủng nên để uống rượu ăn giấm; Vu Cấm thì được việc khiêng ván đắp tường; Từ Hoảng thì giỏi về mổ lợn giết chó; Hạ Hầu Đôn thì gọi là tướng quân có đủ chân tay; Tào Hồng thì gọi là thái thú vòi tiền; còn những đồ kia là đồ giá áo túi cơm, thùng rượu bị thịt cả.
Tháo giận hỏi:
– Mày có tài gì?
Hành đáp:
– Thiên văn, địa lí, không thứ gì không biết; tam giáo, cửu lưu không thứ gì không hiểu; trên có thể giúp nhà vua làm được bậc Nghiêu, Thuấn, dưới có thể sánh đạo đức với bậc Khống, Nhan. Ta nào thèm bàn chuyện với hạng người tầm thường đâu!
– Ta đương thiếu một cổ lại (người đánh trống), nay mai trong triều có việc yến hạ nên sai Hành sung vào chức ấy.
Hành chẳng chối từ gì cả, nhận lời rồi đi ra.
Liêu hỏi Tháo:
– Người ấy nói xấc, sao không giết đi?
Tháo nói:
– Người ấy vốn có hư danh, gần xa đều biết, nay giết nó đi, sợ thiên hạ chê ta không biết dùng người. Nó đã tự khoe khoang thế, ta bắt làm cổ lại cho nó nhục.
Hôm sau Tháo mở tiệc yến trên sảnh đường thết các tân khách, sai cổ lại ra đánh trống. Người cổ lại cũ nói rằng:
– Đánh trống phải mặc áo mới.
Hành cứ mặc áo cũ đi vào, đánh ba hồi trống theo khúc Ngư Dương, âm điệu tiêu ta lắm, chìm bổng nhịp nhàng như tiếng kim tiếng thạch. Những người ngồi ăn nghe đều cảm thương chảy nước mắt.
Tả hữu quát rằng:
– Sao không thay áo?
Hành cởi tuột quần áo, khỏa thân đứng dậy, khách ngồi ai cũng che mặt. Hành lại khoan thai mặc quần áo, sắc mặt không thay đổi. Tháo mắng:
– Trên chỗ miếu đường, sao được vô lễ?
Hành nói:
– Dối vua lừa trên mới gọi là vô lễ, ta lộ cái hình của cha mẹ sinh ra là để tỏ cái thân thể thanh bạch của ta đấy!
Tháo hỏi:
– Mày là thanh bạch, thì ai là dơ đục?
Hành đáp:
– Mày không biết người hiền, người ngu là mắt đục; không học thi, thư, là mồm đục; không nghe lời trung, là tai đục; không hiểu chuyện xưa nay, là thân đục; không dung các chư hầu là bụng đục; thường muốn cướp ngôi là ruột đục. Ta là danh sĩ thiên hạ, mày dùng làm cổ lại, khác gì Dương Hóa khinh đức Khổng Tử, Tang Thương chê thầy Mạnh Tử. Mày muốn dựng nghiệp vương bá mà lại khinh người thế à?
Bấy giờ Khổng Dung cũng ngồi ở đó, sợ Tháo giết Nễ Hành, khoan thai tiến lên nói:
– Nễ Hành tội bằng kẻ tù đồ, không xứng đáng với lòng mong đợi người hiền của tướng công.
Tháo trỏ Nễ Hành bảo:
– Nay cho ngươi sang Kinh Châu, nếu dụ được Lưu Biểu quy hàng ta sẽ dùng ngươi làm chức công khanh.
Hành không chịu đi. Tháo sai chuẩn bị ba con ngựa; bắt hai người kèm thúc phải đi; lại sai văn võ thủ hạ đặt tiệc ở ngoài cửa đông để tiễn.
Tuân Úc dặn mọi người rằng:
– Hễ thấy Nễ Hành đến, đừng ai đứng dậy.
Khi Hành đến, xuống ngựa vào chào, mọi người đều ngồi yên. Hành cất tiếng khóc hu hu. Tuân Úc hỏi:
– Cớ sao khóc?
Hành đáp:
– Đi trong đám áo quan người chết, sao lại không khóc.
Mọi người đều nói:
– Chúng ta là thây chết, còn mày thì là con ma điên không đầu.
Hành nói:
– Ta là bầy tôi nhà Hán, không vào đảng với Tào Man, sao chẳng có đầu?
Mọi người muốn giết Hành, Úc ngăn lại nói:
– Nó như con chuột, con sẻ, giết chẳng bõ bẩn gươm.
Hành nói:
– Ta là chuột, sẻ còn có tính người. Chúng bay chỉ là giống sâu bọ!(*)
(*) Nguyên văn là khỏa trùng: Con tò vò.
Mọi người tức giận đứng dậy ra về cả.
Hành đến Kinh Châu vào yết kiến Lưu Biểu, miệng tuy khen ngợi đức tốt, nhưng vẫn có ý trào phúng. Biểu không bằng lòng, sai đến Giang Hạ gặp Hoàng Tổ. Có người hỏi Biểu rằng:
– Nễ Hành dám xấc đùa cợt chúa công, sao chúa công không giết đi?
Biểu nói:
– Nễ Hành nhiều lần làm nhục Tào Tháo. Tháo không giết, sợ mất lòng thiên hạ, cho nên mới sai hắn đến đây, có ý mượn tay ta giết hắn để cho ta mắc tiếng hại người hiền. Bởi vậy ta sai Hành đến gặp Hoàng Tổ, để cho Tháo biết là ta không dại gì đâu.
Mọi người đều khen phải.
Bấy giờ Viên Thiệu cũng sai sứ đến, Biểu hỏi các mưu sĩ:
– Bản Sơ sai sứ đến, Mạnh Đức cũng sai Nễ Hành đến nên theo bên nào?
Tùng sự trung lang tướng là Hàn Tung đứng dậy nói:
– Nay hai nhà ấy đang kình địch nhau, tướng quân nếu muốn làm việc lớn, nên thừa cơ xem bên nào được thì đánh, nếu không bên nào giỏi thì theo. Nay Tào Tháo khéo dùng binh, người hiền tuấn theo nhiều, thế tất đánh Viên Thiệu trước, rồi đem binh quay sang Giang Đông, tôi sợ tướng quân không chống nổi. Chi bằng đem Kinh Châu hàng Tào Tháo, Tháo tất trọng đãi tướng quân.
Biểu nói;
– Ngươi hãy đến Hứa Đô, xem động tĩnh sao đã, rồi sẽ làm sau.
Tung nói:
– Vua tôi đều định phân rõ ràng. Nay tôi thờ tướng quân, dù tướng quân sai tôi nhảy vào nước sôi, lửa nóng, tôi không dám từ. Nếu tướng quân thực lòng trên thờ thiên tử, dưới theo Tào công thì hãy sai tôi đi. Nếu còn dùng dằng chưa quyết, một khi tôi đến kinh sư, thiên tử cho tôi một chức quan nhỏ, thì bấy giờ tôi là tôi con của thiên tử, không còn là người liều chết theo tướng quân nữa.
Biểu nói:
– Người cứ đi. Ta đã có chủ ý.
Tung đến Hứa Đô ra mắt Tào Tháo. Tháo cho Tung làm thị trung, lĩnh chức thái thú ở Linh Lăng.
Tuân Úc nói:
– Thằng Tung đến đây để do thám, chưa có công lao gì, sao đã trọng thưởng cho chức ấy? Nễ Hành chưa thấy tin tức gì, sao thừa tướng lại lờ đi không hỏi.
Tháo nói:
– Nễ Hành làm nhục ta quá, cho nên mượn tay Lưu Biểu giết nó đi, còn hỏi làm gì?
Tháo sai Hàn Tung về Kinh Châu dụ Lưu Biểu, Tung về ra mắt Lưu Biểu, xưng tụng thịnh đức triều đình, và khuyên Biểu cho con vào chầu. Biểu giận lắm, nói:
– Mày hài lòng chăng?
Toan sai đem chém. Tung kêu to:
– Tướng quân phụ tôi, tôi có phụ tướng quân đâu?
Khoái Lương nói:
– Trước khi đi, Tung đã phân trần rõ rồi.
Lưu Biểu bèn tha cho Tung. Lúc ấy có người vào báo:
– Hoàng Tổ chém Nễ Hành rồi.
Biểu hỏi cớ làm sao, người báo thưa:
– Hoàng Tổ, Nễ Hành cùng uống rượu, hai người đều say. Tổ hỏi Hành: “Ngươi ở Hứa Đô có biết ai là người khá?” Hành đáp: “Có thằng bé nhớn là Khổng Văn Cử, thằng bé con là Dương Đức Tổ, ngoài hai đứa ấy không có đứa nào nữa!” Tổ hỏi: “Như ta thì thế nào?” Hành đáp: “Người như tượng thần trong miếu, tuy được người ta cúng tế nhưng chẳng thiêng liêng gì!” Tổ giận nói: “Mày bảo ta là tượng gỗ à?” rồi sai đem chém. Nễ Hành chửi Hoàng Tổ đến lúc chết không dứt mồm.
Lưu Biểu nghe tin Nễ Hành chết, cũng thương hại giờ lâu, rồi sai táng bên bãi Anh Võ.
Người sau có thơ than rằng:
Hoàng Tổ ra chi lượng hẹp hòi,
Nễ như ngọc quý bỗng chôn vùi!
Đến nay qua viếng châu Anh Võ,
Chỉ thấy vô tình nước chảy xuôi…
Tào Tháo nghe tin Nễ Hành bị hại, cười nói:
– Gươm lưỡi của kẻ hủ nho, mình lại giết mình!
Tháo không thấy Lưu Biểu đến hàng, muốn đem ngay quân đến hỏi tội, Tuân Úc can:
– Viên Thiệu chưa dẹp được, Lưu Biểu chưa giết được, mà muốn dùng binh ở Giang, Hán, khác nào bỏ chỗ gan ruột mà chỉ nhìn đến chân tay. Nay nên diệt Viên Thiệu trước, rồi đánh Lưu Bị, còn Giang, Hán thì chỉ quét một nhát là sạch.
Tháo nghe theo.
Đây nói Đổng Thừa từ Huyền Đức ra đi, ngày đêm bàn soạn cùng lũ Vương Tử Phục, nhưng không nghĩ được kế gì.
Năm Kiến An thứ năm (hai trăm sau công nguyên) nhân ngày nguyên đán, các quan vào chầu mừng vua. Đổng Thừa thấy Tào Tháo ngang ngược kiêu căng quá, tức giận thành bệnh. Vua biết tin có sai quan thái y đến chữa. Quan thái y là người Lạc Dương, họ Cát tên Thái, tự là Xưng Bình, người ta vẫn gọi là Cát Bình, là thầy thuốc giỏi từ lúc bấy giờ, Bình đến phủ Đổng Thừa, dùng thuốc điều trị, sớm tối không rời lúc nào. Bình thường thấy Đổng Thừa thở ngắn thở dài nhưng không dám hỏi rõ.
Gặp hôm rằm tháng Giêng, Cát Bình cáo từ xin về nhà, Đổng Thừa mời ở lại, hai người cùng uống rượu. Uống đến canh khuya, Thừa mệt mỏi, cứ mặc cả áo, ngả mình xuống ngủ. Chợt thấy người báo:
– Có bọn Vương Tử Phục bốn người nữa đến.
Thừa ra đón vào.
Tủ Phục nói:
– Việc lớn xong xuôi rồi!
Thừa hỏi:
– Xin cho biết đầu đuôi.
Tủ Phục nói:
– Lưu Biểu kết liên với Viên Thiệu, khởi năm mươi vạn quân chia làm mười đường kéo đến, Mã Đằng kết liên với Hàn Toại, khởi quân Tây Lương bảy mươi hai vạn từ mặt bắc đánh lại. Tào Tháo đem hết cả binh mã ở Hứa Xương, chia đường ra địch, trong bỏ thành không. Nếu chúng ta họp cả gia nhân năm nhà cũng được một nghìn người. Nhân đêm nay trong tướng phủ ăn tiệc to, vui tết nguyên tiêu, chúng ta vây tướng phủ, xông vào giết Tào. Không nên để lỡ cơ hội này.
Thừa mừng lắm, lập tức gọi gia nhân nhặt nhạnh các đồ khí giới, tự mình mặc áo giáp, cầm giáo lên ngựa, hội ở cửa trong tướng phủ, cùng tiến quân vào. Canh hai đêm hôm ấy, các quan đều đến, Đổng Thừa tay cầm bảo kiếm đi bộ thẳng vào, thấy Tào Tháo đang ăn tiệc ở nhà sau, gọi to lên rằng:
“Giặc Tháo không được chạy!” rồi phất gươm một nhát. Tháo gục ngay xuống… Thừa mở choàng mắt dậy, thì là một giấc chiêm bao. Miệng Thừa còn lảm nhảm chửi Tào tặc.
Cát Bình đến trước mặt, hỏi:
– Ông muốn hại Tào công à?
Thừa sợ cứng lưỡi không nói. Cát Bình nói:
– Xin quốc cữu yên tâm, tôi tuy là một thầy thuốc, nhưng không bao giờ quên nhà Hán. Mấy hôm nay tôi thấy quốc cữu thở than, chưa dám hỏi. Vừa rồi nghe lời nói trong mộng, biết rõ thực tình, xin đừng giấu giếm: Nếu quốc cữu có dùng được tôi vào việc gì, dù bị giết cả chín họ, tôi cũng không hối hận gì.
Thừa bưng mặt khóc:
– Chỉ sợ ngươi không có bụng thực!
Bình bèn cắn đứt một ngón tay ra để thề. Thừa đem tờ mật chiếu cho Bình xem, rồi nói:
– Nay mưu việc chưa xong, là vì Huyền Đức, Mã Đằng đi cả. Không nghĩ được cớ gì, nên ta thương cảm thành bệnh.
Cát Bình nói:
– Không cần các ông phải dụng tâm, tính mệnh Tào Tháo chỉ ở trong tay tôi.
Thừa hỏi vì cớ gì. Bình nói:
– Tháo thường có bệnh nhức đầu, đau thấu xương tủy. Mỗi khi bệnh phát là gọi tôi đến chữa. Phỏng thử nay mai có gọi, chỉ cho một liều thuốc độc là nó đi đời.
Thừa nói:
– Nếu được như thế, cứu được xã tắc nhà Hán, đều nhờ ông cả.
Cát Bình từ giã trở về. Thừa mừng thầm, đi vào nhà trong, gặp ngay người đầy tớ là Trần Khánh Đồng đang cùng con hầu là Vân Anh thì thầm nói chuyện với nhau trong xó tối.
Thừa cả giận gọi tả hữu sai đem giết cả hai người. Phu nhân can xin tha chết chỉ đánh mỗi người bốn mươi trượng, rồi đem Khánh Đồng giam vào trong buồng lạnh.
Khánh Đồng tức lắm, nhân đêm bẻ gãy khóa, nhảy qua tường ra ngoài, chạy tắt ngay đến phủ Tào Tháo cáo có việc cơ mật. Tháo gọi vào trong nhà kín gạn hỏi, Khánh Đồng nói:
– Tôi thấy Vương Tử Phục, Ngô Tử Lan, Sung Tập, Ngô Thạc, Mã Đằng, năm người ở trong phủ chủ tôi, bàn việc bí mật, chắc là bày mưu hại thừa tướng. Chủ tôi đem một đoạn lụa trắng, không biết viết những gì. Mấy hôm nay Cát Bình cắn ngón tay ăn thề, tôi cũng trông thấy.
Tào Tháo giấu Khánh Đồng trong phủ. Đổng Thừa tưởng là nó trốn đi phương khác, cũng chẳng tìm bắt.
Đến hôm sau, Tào Tháo giả tảng nhức đầu, cho mời Cát Bình đến chữa thuốc.
Cát Bình nghĩ thầm:
– Số thằng này đến ngày chết!
Bèn ngầm đem một lọ thuốc độc vào phủ. Tháo nằm trên giường, sai Bình bốc thuốc. Bình nói:
– Bệnh này, thừa tướng chỉ uống một nước thuốc là khỏi.
Tháo sai đem siêu thuốc đến, sắc ngay trước mặt. Thuốc sắp cạn. Bình ngầm đổ thuốc độc vào, rồi rót ra, dâng lên. Tháo đã biết trước, cố ý chậm chạp không uống vội, Bình nói:
– Thuốc đương nóng, thừa tướng uống ngay cho ra mồ hôi thì khỏi.
Tháo đứng lên nói:
– Ngươi đã đọc sách, tất biết lễ nghĩa. Vua có bệnh uống thuốc, bầy tôi phải nếm trước; bố có bệnh uống thuốc, con phải nếm trước. Ngươi là tâm phúc với ta, sao không nếm đi?
Cát Bình nói:
– Thuốc để trị bệnh, sao lại bảo người nếm trước?
Bấy giờ Cát Bình biết là việc đã bị lộ, bước nhanh lên trước định nắm lấy tai Tháo đè xuống để đổ thuốc vào. Tháo đẩy thuốc ra, đổ cả xuống đất, gạch đều nứt vỡ. Tháo chưa kịp nói:
– Ta có đau đâu, cốt thử mày đó thôi! Mày thực có bụng hại ta!
Nói rồi gọi hai mươi người ngục tốt lực lưỡng điệu Bình ra vườn sau khảo tra. Tháo ngồi trên đình, Bình bị trói nằm dưới đất. Bình mặt mũi tươi tỉnh như thường, không hề sợ hãi. Tháo cười mà hỏi rằng:
– Thứ mày là một thằng thầy thuốc, sao dám mưu hại ta? Tất nhiên có người xúi giục, hễ xưng ra thì ta tha cho.
Bình mắng:
– Mày là thằng giặc dối vua lừa trên, cả thiên hạ đếu muốn giết mày, có gì một mình ta!
Tháo lại hai ba lần tra hỏi. Bình giận nói:
– Tự ta muốn giết mày, sao lại bảo có người sai ta? Nay việc không thành, chỉ có chết là cùng.
Tháo giận lắm sai ngục tốt đánh thật đau. Đánh suốt hai giờ nát da xé thịt, máu chảy đầy thềm. Tháo sợ đánh chết không có ai làm đối chứng, bèn sai ngục tốt đem ra chỗ tĩnh, tạm cho nghỉ ngơi.
Tháo truyền lệnh cho đến hôm sau mở tiệc mời các quan đến uống rượu. Hôm sau các quan đến cả duy có Đổng Thừa cáo ốm không đến. Lũ Vương Tử Phục sợ Tháo sinh nghi, đành phải có mặt. Tháo mở tiệc trong hậu đường. Rượu được vài tuần, Tháo nói:
– Trong bữa tiệc chẳng có gì làm vui, nay tôi có một người có thể làm các quan tỉnh rượu.
Liền gọi hai mươi ngục tốt:
– Điệu ra đây cho ta!
Một lát thấy Cát Bình cổ đeo một cái gông dài, bị lính điệu đến. Tháo nói:
– Các quan không biết: Người này kết liên với ác đảng, muốn làm phản triều đình, mưu hại tôi. Nay trời làm cho mưu gian của nó bại lộ, xin các quan nghe lời cung của nó.
Tháo sai đánh cho một chập, bình nằm lịm ở dưới đất. Lính lấy nước phun vào mặt, Bình tỉnh lại trợn mắt nghiến răng mắng:
– Giặc Tháo! Không giết ta đi, còn đợi đến bao giờ!
Tháo nói:
– Trước có sáu người đồng mưu, cộng mày vào nữa là bảy, có phải không?
Bình chỉ mắng chửi rầm lên. Lũ Vương Tử Phục bốn người đưa mắt nhìn nhau, khác nào ngồi trên bàn chông. Tháo sai lính vừa đánh vừa lấy nước phun vào mặt, Bình tuyệt nhiên không mở miệng van xin. Tháo thấy không xưng, sai hãy mang đi.
Các quan tan tiệc trở về. Tháo chỉ lưu bọn Vương Tử Phục bốn người ở lại để ăn tiệc đêm. Bốn người không còn hồn vía nào nữa phải ở lại. Tháo nói:
– Đáng lẽ tôi không muốn lưu bốn ông lại làm gì, nhưng có chút việc muốn hỏi. Bốn ông cùng Đổng Thừa bàn nhau những việc gì?
Tử Phục nói:
– Không có bàn việc gì cả?
Tháo lại hỏi:
– Thế trên mảnh lụa trắng, viết những cái gì?
Lũ Tử Phục đều chối. Tháo lại sai gọi Khánh Đồng ra làm chứng.
Tử Phục nói:
– Mày trông thấy ở chỗ nào?
Khánh Đồng nói:
– Các người sáu người bí mật họp một chỗ viết chữ lên mảnh lụa, chối sao được!
Tử Phục nói:
– Thằng này là đầy tớ thông dâm với nàng hầu của quốc cữu, vì phải đòn nên tức mà vu càn cho chủ, xin thừa tướng đừng nghe.
Tháo nói:
– Cát Bình định đánh thuốc độc cho ta, phi Đổng Thừa sai nó thì còn ai?
Lũ Tử Phục đều nói là không biết.
Tháo nói:
– Bây giờ thú ngay còn có thể tha được. Nếu đợi đến việc vỡ ra thì không sao dung được nữa đâu!
Lũ Tử Phục đều nói là không có việc ấy.
Tháo quát tả hữu đem bốn người bỏ ngục.
Hôm sau, Tào Tháo đem mọi người thẳng đến phủ Đổng Thừa nói là để thăm bệnh.
Thừa phải ra đón, Tháo hỏi:
– Sao đêm qua quốc cữu không lại dự tiệc?
Thừa nói:
– Bệnh chưa khỏi, nên không dám đi.
Tháo hỏi:
– Đó là cái bệnh lo việc quốc gia chứ gì?
Thừa giật mình, Tháo hỏi:
– Quốc cữu có biết việc Cát Bình không?
Thừa nói không biết, Tháo cười mát nói:
– Sao quốc cữu lại không biết?
Rồi bảo tả hữu:
– Điệu nó lại đây để chữa bệnh cho quốc cữu.
Đổng Thừa rụng rời cả chân tay.
Được một lát, hai mươi tên ngục tốt dắt Cát Bình đến dưới thềm. Bình mắng lớn:
– Nghịch tặc Tào Tháo!
Tháo bảo Thừa:
– Cát Bình đã xưng ra bọn Tử Phục bốn người, ta đã bắt giam cả rồi, nay còn một người nữa, chưa bắt được.
Nhân hỏi Bình:
– Ai sai mày đến đánh thuốc độc cho ta, phải xưng ngay lập tức?
Bình nói:
– Trời sai ta đến giết thằng nghịch tặc!
Tháo giận thét đánh. Trên mình Cát Bình không còn chỗ nào đánh được nữa.
Thừa ngồi trông, lòng như dao cắt. Tháo lại hỏi Bình:
– Mày mười ngón tay sao còn có chín?
Bình nói:
– Còn ngón nữa ta cắn ra để thề giết thằng quốc tặc rồi!
Tháo sai mang dao chặt nốt chín ngón tay Bình và bảo:
– Cắt cả để cho mày ăn thề!
Bình nói:
– Mất tay, ta hãy còn mồm để nuốt giặc, còn lưỡi để chửi giặc.
Tháo sai lính lấy dao cắt lưỡi.
Bình nói:
– Hãy thong thả! Chịu hình không nổi, cởi trói ra để ta xưng.
Tháo nói:
– Thả chẳng ngại gì!
Bèn sai cởi trói ra. Bình đứng dậy quay mặt về cửa khuyết, thụp xuống lạy, và nói:
– Tôi nay không giết được giặc để cứu nước, cũng là số trời.
Lạy xong, đập đầu xuống thềm mà chết. Tháo sai xé thây ra để hiệu lệnh. Bấy giờ là tháng Giêng, năm thứ năm, niên hiệu Kiến An (hai trăm).
Sử quan có thơ rằng:
Hán triều đang vận yếu,
Thầy thuốc Xưng Bình,
Xin thề trừ gian đảng,
Liều thân báo thánh minh,
Cực hình không chịu khuất,
Chết thảm vẫn như sinh,
Mười ngón đầm đìa máu,
Muôn thuở còn lưu danh.
Tháo thấy Cát Bình đã chết, sai lính dẫn Khánh Đồng vào. Tháo hỏi:
– Quốc cữu dễ cũng biết người này chứ?
Thừa giận quát lên rằng:
– Quân đầy tớ đi trốn sao lại về đây, nên đem giết đi!
Tháo nói:
– Người ấy tố cáo kẻ làm phản, nay đến đối chứng, ai dám giết?
Thừa nói:
– Sao thừa tướng lại để tai nghe lời một đứa ở đi trốn?
Tháo nói:
– Bọn Vương Tử Phục ta đã bắt cả, chúng đã cung xưng rõ ràng, mày còn chối à?
Lập tức sai tả hữu lôi Đổng Thừa xuống, cho lính vào khám xét chỗ buồng nằm, tìm được tờ mật chiếu khâu trong đai và tờ nghĩa trạng.
Tháo đọc xong, cười nói:
– Lũ chuột, sao dám làm như thế?
Rồi sai bắt cả nhà Đổng Thừa tống giam, không để cho một người nào chạy thoát.
Tháo về phủ đem tờ chiếu và tờ trạng cho các mưu sĩ xem, bàn muốn bỏ Hiến Đế, lập vua khác.
Thế thực là:
Mấy hàng chiếu đỏ thành mợ hão,
Một mảnh thư thề xảy vạ to!
Chưa biết tính mệnh Hiến Đế ra sao, xem đến hồi sau sẽ rõ.
Tào Tháo xem chiếu xong, bàn với các mưu sĩ muốn bỏ Hiến Đế đi, tìm người nào có đức lập lên. Trình Dục can rằng:
– Minh công sở dĩ oai khắp bốn phương, hiệu lệnh được thiên hạ, cũng là bởi phụng danh hiệu nhà Hán. Nay minh công chưa dẹp được các chư hầu, mà làm ngay việc phế lập, tất là gây cái cớ cho thiên hạ khởi binh đó.
Tháo mới thôi, chỉ đem bọn Đổng Thừa năm người và già trẻ mấy họ ấy, điệu ra các cửa thành chém hết. Cả thảy bảy trăm người bị tàn sát. Quan dân trong thành ai trông thấy cũng ứa nước mắt.
Đời sau có thơ than Đổng Thừa rằng:
Mật chiếu trong đai dặn,
Lời vua cửa cấm truyền.
Công to từng cứu giá,
Nay lại đội ơn trên.
Nạn nước lo thành bệnh,
Trừ gian mộng chẳng quên.
Chớ kể thành hay bại,
Nghìn thu trung nghĩa bền!
Lại có thơ than bọn Vương Tử Phục bốn người rằng:
Kí tên mảnh lụa phận tôi con,
Khảng khái mong đền nghĩa bể non.
Trăm miệng khá thương buồng mật đỏ,
Nghìn năm còn mãi tấm lòng son!
Tào Tháo giết bọn Đổng Thừa rồi, cũng chưa nguôi hết cơn giận, đeo gươm vào cung để giết Đổng quý phi. Quý phi là em gái Đổng Thừa đã có mang năm tháng.
Hôm ấy, vua ngồi trong hậu cung, đang cùng với Phục hoàng hậu bàn việc Đổng Thừa, chưa biết tin tức làm sao. Bỗng thấy Tào Tháo đeo gươm vào cung, mặt hầm hầm giận, vua sợ thất sắc, Tháo hỏi:
Vua không biết trả lời thế nào. Tháo thét võ sĩ bắt Đổng phi đến. Vua vội vàng nói:
– Đổng phi có mang năm tháng, xin thừa tướng thương cho.
Tháo nói:
– Nếu không phải lòng trời làm cho mưu gian bại lộ, thì ta đã bị hại rồi. Há lại cho đứa con gái này sống để gây vạ về sau cho ta.
Phục hậu nói:
– Xin hãy đem Đổng phi giam ra ngoài lãnh cung, cho nó sinh nở xong giết cũng chưa muộn.
Tháo nói:
– Muốn Lưu Bị cái giống nghịch ấy lại để về sau báo thù cho mẹ hay sao?
Đổng phi khóc nói:
– Xin cho vẹn toàn thân thể mà chết, đừng lộ áo xống.
Tháo sai đem tấm lụa trắng đến để trước mặt Đổng phi. Vua khóc bảo phi:
– Ái khanh xuống suối vàng đừng có oán trẫm!
Nói xong khóc như mưa, Phục hậu cũng nức nở khóc.
Tháo giận nói:
– Lại còn giở cái thói đàn bà con trẻ à?
Rồi quát võ sĩ đưa Đổng phi ra thắt cổ ở cửa cung.
Người sau có thơ than rằng:
Ân ái đền xuân cũng uổng thôi,
Trứng rồng tan vỡ đáng thương ôi!
Đường đường đế chủ không sao cứu,
Che mặt nhìn suông nước mắt trôi…
Tào Tháo giết Đổng phi rồi truyền lệnh cho quân giữ cung rằng:
– Từ nay về sau những người ngoại thích và tôn tộc nhà vua không được phép ta mà tự tiện vào cung thì cứ chém. Những người canh giữ không cẩn thận cũng bị tội như thế.
Tháo lại sai ba nghìn quân tâm phúc sung làm quân ngự lâm, cho Tào Hồng thống lĩnh để đề phòng và tra xét.
Tháo lại bảo Trình Dục rằng:
– Nay bọn Đổng Thừa tuy đã bị giết, nhưng còn Mã Đằng, Lưu Bị là những người còn sót ở trong bọn ấy không trừ không xong.
Dục nói:
– Mã Đằng hiện đóng quân ở Tây Lương, chưa dễ trừ được. Nên đưa thư ủy lạo, đừng cho họ sinh nghi, rồi dụ vào kinh đô, sẽ tìm cách trị. Còn Lưu Bị, hiện ở Từ Châu, chia quân giữ thế ỷ giốc, cũng không nên khinh địch. Vả lại Viên Thiệu đóng quân ở Quan Độ, thường có ý dòm ngó Hứa Đô. Nếu ta đánh Lưu Bị, Bị tất nhiên sẽ cầu cứu Viên Thiệu, Thiệu sẽ nhân dịp kinh đô bỏ trống, đem quân đến đánh úp thì làm thế nào?
Tháo nói:
– Lưu Bị là kẻ hào kiệt, nếu không đánh ngay, đợi nó thành vây cánh rồi, thì khó lòng trị nổi. Viên Thiệu dẫu bây giờ thế mạnh, nhưng làm việc hay hồ nghi rụt rè, không đáng sợ.
Trong khi đang bàn luận, Quách Gia ở ngoài vào. Tháo hỏi:
– Ta muốn sang đánh Lưu Bị, lại sợ Viên Thiệu thì làm thế nào?
Gia nói:
– Thiệu tính chậm chạp mà lại đa nghi; bọn mưu sĩ ghen ghét lẫn nhau, có lo ngại gì. Lưu Bị mới sửa sang quân bị, lòng người chưa phục, bây giờ thừa tướng cứ đem binh sang đánh, chỉ một trận là xong.
Tháo mừng lắm:
– Chính hợp ý ta lắm!
Rồi khởi hai mươi vạn quân chia làm năm đường đi đánh Từ Châu.
Quân do thám về Từ Châu báo tin. Tôn Càn trước hết đến Hạ Phì. Huyền Đức bàn với Tôn Càn:
– Ta phải đến Viên Thiệu cầu cứu mới giải thoát được nguy này.
Liền viết một phong thư sai Tôn Càn đến Hà Bắc. Càn đến gặp Điền Phong trước, nói rõ tình đầu, nhờ tiến dẫn hộ. Phong dẫn Càn vào yết kiến Viên Thiệu, dâng thư.
Phong thấy Viên Thiệu hình dong tiều tụy, áo mũ xộc xệch bèn hỏi:
– Hôm nay chúa công làm sao thế?
Thiệu nói:
– Ta sắp chết đây!
Phong ngạc nhiên quá hỏi:
– Sao chúa công lại nói thế!
Thiệu nói:
– Ta sinh được năm con, duy có thằng út là vừa ý ta! Nay bị ghẻ lở sắp chết, ta còn bụng nào nghĩ đến việc khác nữa?
Phong nói:
– Nay Tào Tháo sang đông đánh Lưu Bị, Hứa Xương bỏ không, nếu ta cất ngay nghĩa binh, thừa cơ tiến vào, trên giúp thiên tử, dưới giúp muôn dân, đó là cơ hội không mấy khi gặp. Xin minh công xét cho.
Thiệu nói:
– Ta cũng biết thế là hay, nhưng trong bụng đương bối rối thế này, sợ đi có điều bất lợi chăng?
Phong nói:
– Việc gì mà bối rối?
Thiệu nói:
– Trong năm thằng con, chỉ có thằng này là kì khôi hơn cả, nếu có điều gì, ta cũng chết mất.
Thiệu nhất quyết không cất quân và bảo Tôn Càn:
– Ngươi về gặp Huyền Đức nói rõ duyên cớ như thế. Nhỡ ra có điều gì không được như ý, cứ lại đây, ta sẽ giúp cho.
Điền Phong lấy gậy đập xuống đất và nói:
– Gặp được dịp may mắn thế này, lại lấy nê đứa trẻ ốm, bỏ mất cơ hội, khá tiếc lắm thay!
Tôn Càn thấy Viên Thiệu không chịu cất quân, vội vàng về ngay Tiểu Bái trình với Huyền Đức. Huyền Đức sợ lắm, nói:
– Như thế thì làm thế nào?
Trương Phi nói:
– Huynh trưởng chớ lo. Quân Tào đi đường xa, tất nhiên mỏi mệt. Ta nhân lúc mới đến, đi cướp trại ngay làm gì không phá tan được.
Huyền Đức nói:
– Ta vẫn tưởng em chỉ là một dũng phu, nhưng ngày nọ bắt Lưu Đại, đã biết dùng mẹo; nay bày kế này cũng hợp binh pháp.
Bèn nghe lời Trương Phi, chia quân đi cướp trại.
Tào Tháo vừa đem quân đến Tiểu Bái. Lúc đang đi đường, bỗng có cơn dông nổi lên, chợt nghe đánh ầm một tiếng, một lá nha kì bị gãy. Tháo truyền lệnh cho quân sĩ dừng lại, rồi họp các mưu sĩ hỏi điềm lành dữ làm sao. Tuân Úc hỏi:
– Gió từ phương nào đến? Lá cờ gãy sắc gì?
Tháo nói:
– Gió từ mé đông nam lại, thổi gãy một lá nha kì, sắc cờ vừa xanh vừa đỏ.
Úc tính một lát rồi thưa:
– Đêm nay tất Lưu Bị đến cướp trại.
Tháo gật đầu, chợt có Mao Giới vào trình:
– Vừa rồi gió đông nam thổi gãy lá nha kì xanh đỏ, chúa công bảo là điềm lành hay dữ?
Tháo không nói, hỏi:
– Ông nghĩ thế nào?
Mao Giới thưa:
– Tôi thiết nghĩ đêm nay tất có người đến cướp trại.
Có thơ rằng:
Ngán cho thế Hán đã cô cùng!
Cướp trại còn mong một chút công,
Cờ gãy báo điềm cho biết trước,
Trời già sao tựa đứa gian hùng?
Tháo nói:
– Điềm trời đã báo trước, ta nên đề phòng cẩn thận.
Bèn chia quân làm chín đôi, chỉ để một đội đi lên trước, lập trại bỏ trống, còn tám mặt thì chia quân mai phục.
Đêm hôm ấy, trăng sáng lờ mờ, Huyền Đức bên tả, Trương Phi bên hữu, chia quân làm hai đội kéo đến, chỉ để một mình Tôn Càn giữ Tiểu Bái.
Trương Phi tự lấy làm đắc kế, lĩnh quân khinh kị đi trước, xông ngay vào trại Tào Tháo, chỉ thấy lơ thơ quân mã, bốn mặt lửa cháy sáng rực, tiếng reo rầm rĩ. Phi biết là trúng kế, vội vàng chạy ra thì đông Trương Liêu, tây Hứa Chử, nam Vu Cấm, bắc Lý Điển, đông nam Từ Hoảng, tây nam Nhạc Tiến, đông bắc Hạ Hầu Đôn, tây bắc Hạ Hầu Uyên, quân mã tám mặt đánh dồn lại. Trương Phi xông bên nọ xáo bên kia, che đằng trước đỡ đằng sau. Quân Trương Phi vốn là thủ hạ cũ của Tào Tháo, thấy thế đã nguy, đầu hàng Tháo hết. Khi đang xung đột gặp ngay Từ Hoảng. Phi đánh nhau với Hoảng, đằng sau Nhạc Tiến lại kéo đến. Phi đánh riết mở một đường máu, chỉ còn có vài mươi tên kị mã đi theo. Phi muốn về Tiểu Bái, nhưng đường đi nghẽn mất rồi. Muốn sang Từ Châu hay Hạ Phì, lại sợ quân Tào chẹn đường. Nghĩ mãi không biết đi đằng nào, phải chạy về phía núi Mang Đăng.
Còn Huyền Đức cũng dẫn quân đến cướp trại Tào, khi gần đến cửa trại, nghe thấy tiếng reo, sau trại có một toán quân xông ra, chẹn ngay mất một nửa quân mã. Hạ Hầu Đôn lại kéo quân đến. Huyền Đức vội vàng chạy ra, Hạ Hầu Uyên từ đằng sau đuổi lại. Huyền Đức ngoảnh lại, chỉ thấy có hơn ba mươi tên kị mã chạy theo. Muốn chạy về Tiểu Bái; muốn về Từ Châu, Hạ Phì, lại thấy quân Tào khắp núi đầy đồng nghẽn cả đường đi. Huyền Đức không còn đường nào về, bụng nghĩ:
– Viên Thiệu trước đó có dặn ngộ sau này có điều gì bất như ý thì sang đó mà nương tựa. Hay là nay ta hãy chạy sang đấy, tạm làm chỗ nương thân, rồi sẽ liệu kế khác về sau.
Nói rồi quay ngựa chạy về Thanh Châu. Đương đi lại gặp Lý Điển chẹn đường, Huyền Đức một mình một ngựa lạc lõng chạy về phía bắc, những tên kị mã đi theo, đều bị Lý Điển bắt mất cả.
Lưu Bị một mình một ngựa, đi ba trăm dặm tới Thanh Châu, đến dưới thành gọi cửa. Quân canh hỏi tên họ, rồi vào báo với thứ sử. Thứ sử là con cả Viên Thiệu, tên là Viên Đàm. Đàm vốn kính phục Huyền Đức, nghe thấy Huyền Đức một mình cưỡi ngựa đến, vội vàng mở cửa ra đón, mời vào công đường, hỏi rõ duyên cớ. Huyền Đức kể hết sự tình. Đàm mời Huyền Đức nghỉ trong nhà khách, rồi viết thư báo cho bố biết, một mặt sai quân mã hộ tống Huyền Đức đến Bình Nguyên. Viên Thiệu tự đem quân ra khỏi Nghiệp Quận ba mươi dặm đón rước, Huyền Đức lạy tạ, Thiệu vội vàng đáp lễ, nói:
– Bữa nọ vì đứa trẻ sài ghẻ, không đến cứu viện được, trong bụng rất là áy náy không yên. Nay may được gặp nhau, thực là được thỏa lòng ái mộ bấy nay.
Huyền Đức nói:
– Bị nay cô cùng, vẫn muốn nương nhờ dưới cửa ngài, nhưng chưa gặp được cơ hội nào. Nay bị Tào Tháo đến đánh, vợ con đều bị thất lạc, nghĩ rằng tướng quân rộng lượng dung nạp kẻ sĩ bốn phương, cho nên cũng chẳng ngại thẹn thùng, xin đến nương nhờ, mong tướng quân thu dụng, thế nào tôi cũng xin có ngày báo đáp lại.
Thiệu mừng lắm, khoản đãi rất hậu, rồi mời về Ký Châu.
Tào Tháo đương đêm lấy được thành Tiểu Bái, liền cho tiến quân ngay đi đánh Từ Châu. My Chúc và Giản Ung giữ thành không nổi, đành bỏ thành chạy trốn. Trần Đăng dâng ngay Từ Châu. Tào kéo quân vào thành phủ dụ dân chúng, rồi gọi các mưu sĩ bàn mưu lấy Hạ Phì.
Tuân Úc nói:
– Vân Trường trông nom vợ con Huyền Đức, tất cố chết giữ thành. Ta không lấy ngay, e sẽ bị Viên Thiệu cướp mất.
Tháo nói:
– Ta vẫn mến tài võ nghệ của Vân Trường, chỉ mong được hắn về với ta. Sao bằng hãy cho người dụ hắn quy hàng.
Quách Gia nói:
– Vân Trường là người nghĩa khí, chắc không chịu hàng, sai người đến dụ không khéo bị hại.
Dưới trướng có một người bước ra nói:
– Tôi cùng Quan Vũ có hơi quen nhau, xin đi dụ.
Các tướng ngoảnh lại xem ai, thì là Trương Liêu.
Trình Dục nói:
– Văn Viễn tuy quen Vân Trường, nhưng tôi e người ấy không phải lấy lời mà dụ được. Tôi có một kế làm cho Vân Trường tiến lui không còn đường nào, bấy giờ Văn Viễn hãy đến dụ, Vân Trường tất phải về với thừa tướng.
Ấy là:
Giương phòng nỏ cứng rình hùm dữ,
Mắc sẵn mồi thơm giật cá ngao.
Chưa biết mẹo Trình Dục ra làm sao, xem đến hồi sau phân giải.
– Vân Trường sức địch muôn người, phi dùng mưu trí không sao đánh nổi. Nay nên sai một số quân của Lưu Bị mới hàng vào Hạ Phì ra mắt Quan Vũ, nói dối là trốn về được, cho phục ở trong thành làm nội ứng; rồi dử Quan Vũ ra đánh nhau, ta giả cách thua chạy, dử hắn ra nơi khác, đem tinh binh chẹn hẳn đường về, bấy giờ mới có thể dụ hắn quy hàng.
Tháo theo kế ấy, cho ngay vài chục hàng binh đến Hạ Phì vào hàng Quan Công. Quan Công cho là quân cũ, không hồ nghi gì cả.
Hôm sau Hạ Hầu Đôn lĩnh năm nghìn quân đến thách đánh. Quan Công không ra. Đôn sai quân ở dưới thành sỉ nhục mắng nhiếc. Quan Công mới nổi giận dẫn ba nghìn quân ra ngoài thành giao chiến. Đánh được hơn mười hiệp, Hạ Hầu Đôn quay ngựa chạy. Quan Công đuổi miết, Đôn vừa đánh vừa chạy.
Quan Công đuổi được độ hai mươi dặm, sợ Hạ Phì không có ai giữ nổi, kéo quân trở về. Bỗng nghe một tiếng pháo nổ, bên tả có Từ Hoảng, bên hữu có Hứa Chử, hai đạo quân chẹn ngang đường đi. Quan Công cứ cắm đầu chạy về, quân phục hai bên lại đổ ra, nỏ cứng trăm chiếc bắn tên như châu chấu. Quan Công không thể nào đi được, phải quay ngựa lại. Từ Hoảng, Hứa Chử lại đón đánh. Quan Công cố hết sức đánh lui hai người, đang định dẫn quân về Hạ Phì, Hạ Hầu Đôn lại đánh chặn lại. Quan Công đánh mãi đến chiều, không có đường về, phải lên quả núi đất đóng quân tạm nghỉ. Quân Tào kéo đến, lần lượt vây vòng quanh quả núi đất.
Quan Công đứng trên ngọn núi, trông xa về Hạ Phì, thấy trong cửa thành lửa cháy ngùn ngụt. Đó là những quân trá hàng mở trộm cửa thành, Tào Tháo dẫn quân vào, rồi lại đốt lửa lên để làm cho Quan Công trông thấy rối ruột.
Quan Công thấy thành Hạ Phì lửa cháy, trong lòng lo sợ, đang đêm mấy lần xông xuống núi đều bị tên bắn phải quay lại.
Đến sáng, đang sắp sửa xông xuống chân núi, chợt có một tướng tế ngựa trèo lên, nhìn ra là Trương Liêu.
Quan Công đón hỏi:
– Văn Viễn đến đây định đánh nhau với ta chăng?
Liêu đáp:
– Đâu phải thế! Liêu này nghĩ tình cố nhân ngày xưa, lên đây gặp nhau đó thôi.
– Không phải thế! Ngày trước nhờ anh cứu em, ngày nay sao em lại không cứu anh?
Quan Công nói:
– Thế Văn Viễn đến đây định giúp ta chăng?
Liêu nói:
– Cũng không phải.
Quan Công nói:
– Nếu không giúp ta, thì đến làm gì?
Liêu nói:
– Huyền Đức không biết còn hay mất; Dực Đức không biết sống hay chết. Đêm qua Tào công đã phá được Hạ Phì, quân dân đều an toàn. Tào công lại sai người giữ gìn gia quyến Huyền Đức, cấm không cho ai vào quấy nhiễu, đối đãi thực tử tế, em đến để báo tin cho anh biết.
Quan Công giận nói:
– Thế là đến dụ ta, nay tuy hết đường đất, ta vẫn coi cái chết như không. Ngươi đi ngay, ta sẽ xuống chân núi đánh nhau bây giờ.
Trương Liêu cười nói:
– Anh nói thế, không sợ thiên hạ người ta cười cho à?
Quan Công nói:
– Ta vì trung nghĩa mà chết, thiên hạ sao lại cười ta?
Liêu nói:
– Anh chết bây giờ thì mắc ba tội.
Quan Công hỏi:
– Ba tội là những tội gì?
Liêu nói:
– Khi trước Lưu sứ quân cùng anh kết nghĩa, có thể với nhau cùng sống thác. Nay sứ quân vừa mới thua, mà anh đi đánh liều cố lấy cái chết, nếu sứ quân hãy còn, muốn tìm anh mà không tìm thấy, chẳng hóa ra phụ lời thề năm trước ru? Thế là một tội. Lưu sứ quân đem vợ con phó thác cho anh, anh nay liều mình chịu chết, hai phu nhân nương tựa vào đâu, há chẳng phụ lời phó thác của Lưu sứ quân ru? Thế là hai tội. Đại huynh võ nghệ siêu quần, tinh thông kinh sử, không nghĩ cùng sứ quân giúp nhà Hán, lại tự nhảy vào nước sôi lửa cháy, mua lấy cái tiếng mạnh bạo của một kẻ vũ phu, sao gọi là nghĩa? Thế là ba tội. Anh mắc ba tội ấy nên em phải bảo.
Quan Công ngồi nghĩ một lúc, rồi nói:
– Ngươi nói ta ba tội ấy, thế ngươi muốn bảo ta phải làm thế nào?
Liêu nói:
– Nay bốn mặt đều là quân Tào công vây kín cả. Nếu anh không hàng thì phải chết. Chết mà vô ích thì hãy hàng đi, rồi sẽ nghe ngóng tin tức Lưu Huyền Đức. Khi biết được sứ quân ở đâu, bấy giờ lại đi theo, một là bảo toàn được hai phu nhân, hai là không trái ước vườn đào, ba là lưu lại được cái thân hữu dụng. Có ba điều tiện như thế, xin anh nghĩ lại cho kĩ.
Quan Công nói:
– Anh nói ba điều tiện, tôi cũng có ba điều giao ước. Nếu thừa tướng nghe cho, tôi xin lập tức cởi giáp lại hàng; nhược bằng không nghe, tôi đành chịu ba tội mà chết.
Liêu nói:
– Thừa tướng đại lượng khoan hồng, thế nào chắc ngài cũng nghe, xin cho biết ba điều ước.
Quan Công nói:
– Một là: Ta đã cùng hoàng thúc xin thề cùng nhau giúp nhà Hán, nay ta chỉ hàng vua nhà Hán, không hàng Tào Tháo.
Hai là: Hai chị dâu ta phải được cấp dưỡng theo bổng lộc của hoàng thúc, nhất thiết người ngoài không ai được đến cửa.
Ba là: Hễ ta nghe thấy hoàng thúc ở đâu, không quản trăm dặm nghìn dặm, lập tức ta cáo từ, rồi đi theo. Ba điều ấy nếu thiếu một điều ta nhất định không hàng, xin Văn Viễn mau mau về trình với thừa tướng.
Trương Liêu thưa vâng, lên ngay ngựa về gặp Tào Tháo, trước hết nói việc hàng Hán không hàng Tháo. Tháo nói:
– Ta là tướng nhà Hán, Hán tức là ta. Việc ấy theo được.
Liêu lại xin cho hai phu nhân được hưởng lộc của hoàng thúc và không ai được vào đến cửa.
Tháo nói:
– Ta sẽ cấp cho gấp hai lương bổng của hoàng thúc. Còn như việc nghiêm cấm trong ngoài, vốn là gia pháp phải thế, việc gì phải nói nữa.
Liêu mới nói đến khoản thứ ba: Hễ khi nào biết tin Huyền Đức ở đâu, dù xa thế nào cũng đi theo ngay.
Tháo lắc đầu nói:
– Thế thì ta nuôi Vân Trường để làm gì? Việc này khó theo đấy.
Liêu nói:
– Thừa tướng không nhớ lời bàn chúng nhân và quốc sĩ của Dự Nhượng ngày xưa hay sao? Như Huyền Đức đãi Quan Vũ chẳng qua chỉ lấy hậu ân mà thôi. Nay thừa tướng đối đãi thật hậu hơn, lo gì Quan Vũ chẳng phục?
Tháo nói:
– Văn Viễn nói chí phải. Ta ưng cả ba điều.
Liêu vội lên núi bảo cho Quan Công biết, Quan Công nói:
– Đã đành như thế rồi, xin thừa tướng hãy tạm lui binh, để tôi vào thành bẩm với hai chị, rồi sau mới xin hàng.
Liêu về bẩm lại, Tháo liền truyền lệnh lui quân ba mươn dặm. Tuân Úc nói:
– Không nên, e nó nói dối?
Tháo nói:
– Vân Trường là người nghĩa sĩ, chắc không thất tín.
Rồi cứ truyền lệnh rút quân.
Quan Công dẫn binh vào thành, thấy nhân dân yên ổn cả, đến ngay vào phủ, vào yết kiến hai chị. Cam, My, hai phu nhân nghe Quan Công đã về, vội ra đón vào. Quan Công lạy ở dưới thềm, nói:
– Để cho hai chị sợ hãi ấy là tội em.
Hai phu nhân hỏi:
– Hoàng thúc bây giờ ở đâu?
Quan Công nói:
– Không biết ở đâu.
Hai phu nhân lại hỏi:
– Bây giờ chú định thế nào.
Quan Công nói:
– Em ra thành đánh nhau, bị vây ở trên núi, Trương Liêu khuyên em ra hàng, em có ước ba điều, Tào Tháo nghe cả ba, nên mới rút quân, để em vào thành. Em chưa được biết ý định của hai chị, chưa dám tự tiện.
Hai phu nhân hỏi:
– Ba điều ước là những điều gì?
Quan Công thuật rõ lại ba điều ước. Cam phu nhân nói:
– Hôm trước quân Tào vào thành, chúng tôi tưởng là chết cả, ai ngờ cái tơ cái tóc không động đến; một đứa quân cũng không dám vào cửa. Nay chú đã hứa với người, không cần phải hỏi lại chúng tôi. Chỉ sợ Tào Tháo về sau không để cho chú đi tìm hoàng thúc thôi.
Quan Công nói:
– Xin hai chị yên tâm, em đã có chủ ý.
Hai phu nhân nói:
– Chú cố lo liệu, bất tất phải hỏi bọn đàn bà chúng tôi.
Quan Công từ tạ trở ra, dẫn vài mươi tên kị mã đến ra mắt Tào Tháo; Tháo ra ngoài nha môn tiếp vào. Quan Công xuống ngựa vào lạy, Tháo vội vàng đáp lễ, Quan Công nói:
– Tôi là bại tướng, không bị giết, đội ơn ngài nhiều lắm.
Tháo nói:
– Tôi vốn mến Vân Trường là người trung nghĩa, nay được trông thấy, thực là hả lòng mong mỏi bấy nay.
Quan Công nói:
– Văn Viễn bẩm cho ba việc, đã được thừa tướng ưng thuận, chắc là thừa tướng không sai lời.
Tháo đáp:
– Ta đã nói quyết không thất tín.
Quan Công lại thưa:
– Nếu tôi biết được hoàng thúc ở đâu, dù lên thác xuống ghềnh, lăn sông, qua lửa cũng phải đi theo. Bấy giờ sợ không kịp bái từ, xin thừa tướng lượng thứ cho.
Tháo đáp:
– Huyền Đức nếu còn sống, ông cứ đi theo. Nhưng chỉ sợ Huyền Đức mất trong loạn quân rồi. Ông cứ yên tâm, nghe ngóng xem đã.
Quan Công lạy tạ.
Tháo mở tiệc yến khoản đãi. Hôm sau rút quân về Hứa Xương. Quan Công thu xếp ra trượng, mời hai chị lên xe, tự mình đi hộ vệ. Khi đi đường, nghỉ ở xá, Tháo muốn làm rối loạn lễ vua tôi, để Quan Công và hai chị dâu cùng ở một nhà. Quan Công cầm đuốc đứng hầu ngoài cửa, tự tối đến sáng, sắc mặt không lúc nào có dáng mỏi mệt. Tào Tháo thấy thế lại càng kính phục. Về đến Hứa Xương, Tháo sai sửa sang ngay thừa phủ để Quan Công ở. Quan Công chia một nhà làm hai viện, viện trong sai mười người lính già canh cửa. Quan Công thì ở nhà ngoài. Tháo dẫn Quan Công vào chầu vua Hiến Đế. Vua cho làm thiên tướng quân; Quan Công tạ ơn rồi về.
Hôm sau, Tháo mở tiệc lớn, hội cả mưu thần võ sĩ, lấy lễ khách đãi Quan Công, mời đến ngồi trên; lại tặng gấm vóc và những đồ vàng bạc, Quan Công đem về nhờ hai chị thu giữ.
Từ khi Quan Công đến Hứa Xương, Tháo đãi rất hậu. Ba ngày một tiệc nhỏ, năm ngày một tiệc lớn; lại đưa mười người con gái đẹp để hầu. Quan Công đều đưa vào nhà trong để hầu hai chị. Cứ ba ngày một lần đứng cửa ngoài chắp tay kính cẩn, hỏi thăm sức khỏe hai chị.
My phu nhân hỏi thăm về tin tức hoàng thúc, bao giờ hỏi xong cũng nói: “Chú cứ tùy tiện.” Bấy giờ Quan Công mới dám lui về.
Tháo nghe thấy thế càng kính phục lắm.
Một hôm thấy Quan Công mặc áo chiến bào bằng gấm xanh, đã cũ bạc, Tháo truyền ngay lệnh đo người Quan Công, may một chiếc khăn chiến bào bằng gấm thực quý để tặng. Quan Công lĩnh lấy, mặc vào trong, rồi lại lấy áo cũ mặc phủ ra ngoài.
Tháo cười mà nói rằng:
– Vân Trường hà tiện quá!
– Bẩm không phải là hà tiện. Áo cũ của Lưu hoàng thúc cho, tôi mặc ở ngoài như nhìn thấy mặt anh, dám đâu vì cái mới của thừa tướng vừa ban cho mà đã quên cái cũ của anh tôi đã cho từ trước, nên phải mặc áo cũ ra ngoài là thế.
Tháo khen:
– Thực là nghĩa sĩ!
Miệng tuy khen, nhưng Tháo không bằng lòng.
Một bữa Quan Công đang ở trướng phủ, chợt có người báo:
– Hai phu nhân ở nhà trong, tự dưng khóc lăn cả xuống đất, mời tướng quân vào ngay.
Quan Công mặc áo tử tế, vào quỳ ngoài cửa nhà trong, hỏi:
– Hai chị có việc chi mà than khóc?
Cam phu nhân nói:
– Đêm hôm qua tôi mơ thấy hoàng thúc bị hãm ở dưới hố đất, tỉnh dậy bàn với My phu nhân, e rằng hoàng thúc đã ở dưới chín suối, cho nên thương khóc.
Quan Công nói:
– Việc mộng mị không nên tin. Vì hai chị tưởng nhớ, nên mơ thấy thế, xin hai chị đừng lo nghĩ.
Đương chuyện trò, có sứ Tào Tháo đến mời Quan Công vào phủ ăn yến.
Quan Công cáo từ hai chị, đến gặp Tào Tháo. Tháo thấy Quan Công có ngấn nước mắt, hỏi cớ làm sao. Quan Công nói:
– Hai chị tôi nhớ anh tôi mà than khóc, cho nên tôi cũng động lòng.
Tháo cười, lấy lời khuyên giải, mời uống rượu luôn. Quan Công uống say, vuốt râu nói:
– Sống không báo được ân nhà nước, lại phụ cả anh, cũng là người bỏ đi.
Tháo hỏi:
– Râu Vân Trường ước được bao nhiêu sợi?
Quan Công thưa:
– Được độ vài trăm sợi, cứ mỗi năm đến mùa thu lại rụng mất dăm ba cái; đến mùa đông phải lấy cái túi the thâm bọc lấy, để cho nó đỡ rụng.
Tháo sai ngay lấy gấm may một cái túi, biếu Quan Công để bọc râu.
Sáng sớm hôm sau Quan Vũ vào chầu vua.
Vua thấy trước ngực đeo một cái túi gấm, phán hỏi. Quan Công tâu rằng:
– Râu tôi hơi dài, thừa tướng cho túi để bọc lại. Vua sai đứng trước điện mở ra vuốt xem, thì thấy râu dài quá bụng. Vua phán rằng:
– Thực là ông tốt râu!
Từ đấy ai cũng gọi Quan Công là “Ông tốt râu”.
Một hôm Tháo mời Quan Công ăn yến. Lúc tiệc tan, tiễn Quan Công ra đến cửa tướng phủ, thấy ngựa Quan Công gầy quá, Tháo hỏi:
– Ngựa ông sao gầy thế?
Quan đáp:
– Người tôi hơi nặng, ngựa không mang nổi, bởi thế nên nó gầy.
Tháo sai tả hữu ra chọn một con ngựa. Một lát dắt đến. Con ngựa ấy sắc đỏ như lửa, trông dáng rất hùng dũng. Tháo trỏ ngựa hỏi:
– Ông biết con ngựa này không?
Quan Công nói:
– Bẩm có phải là ngựa Xích Thố của Lã Bố vẫn cưỡi khi xưa không?
Tháo nói:
– Chính phải!
Rồi truyền thắng đủ yên cương, đưa tặng Quan Công. Quan Công lạy hai lạy tạ ơn. Tháo không bằng lòng nói:
– Ta mấy lần đem con gái đẹp, vàng, bạc tặng ông, ông không lạy tạ bao giờ. Nay ta cho con ngựa lại tạ ta hai lạy. Sao lại khinh ngươi khinh của mà quý một con súc vật thế?
Quan Công đáp:
– Tôi biết ngựa này một ngày đi được nghìn dặm, nay thừa tướng cho tôi, nếu biết được anh tôi ở đâu, có thế một ngày được thấy mặt nhau.
Tháo nghe nói, ngạc nhiên, nghĩ mà lại hối.
Quan Công cáo từ ra về.
Đời sau có thơ rằng:
Lẫy lừng ba nước tiếng anh hào,
Một viện chia đôi nghĩa khí cao.
Gian tướng uổng công chiều chuộng hão,
Biết đâu Quan Vũ chẳng hàng Tào?
Tháo hỏi Trương Liêu:
– Ta đãi Vân Trường rất hậu, sao hắn vẫn có bụng muốn đi?
Liêu xin đến dò xem tình ý ra sao. Hôm sau đến gặp Quan Công, Liêu hỏi:
– Từ khi tôi tiến cử anh lên thừa tướng, không khi nào bị người bạc đãi…
Quan Công đáp:
– Tôi rất cảm ơn sâu của thừa tướng, nhưng người ở đây mà bụng lúc nào cũng nhớ hoàng thúc, không bao giờ quên.
Liêu nói:
– Anh nói sai, ở đời không cân nhắc bên trọng bên khinh, không phải là trượng phu. Huyền Đức đãi đại huynh chưa chắc đã hậu hơn thừa tướng, sao anh cứ muốn đi?
Quan Công đáp:
– Tôi vẫn biết Tào công đãi tôi hậu lắm, nhưng tôi đã chịu hậu ơn của hoàng thúc, thề cùng sống chết không thể nào phụ lời được. Tôi quyết không ở mãi đây. Nhưng trước hết phải lập công để báo ơn thừa tướng, rồi sau mới đi.
Liêu lại hỏi:
– Phỏng như Huyền Đức chết mất rồi, thì đại huynh về với ai?
Quan Công đáp:
– Xin theo xuống dưới đất!
Liêu biết không thể nào giữ được Quan Công, bèn về bẩm lại với Tào Tháo.
Tháo than:
– Thờ chúa không quên gốc, thật là nghĩa sĩ trong thiên hạ!
Tuân Úc nói rằng:
– Hắn nói lập công rồi mới đi chi bằng ta không sai đi lập công, vị tất hắn đã đi được.
Tháo cho là phải.
Nay nói chuyện Huyền Đức ở chỗ Viên Thiệu, sớm tối buồn rầu. Viên Thiệu hỏi:
– Huyền Đức sao lo buồn thế?
Huyền Đức nói:
– Hai em không biết tin tức, vợ con lại bị hãm trong quân Tào, trên không báo được nước, dưới không giữ được nhà, làm thế nào không lo được?
Thiệu hỏi:
– Ta muốn tiến quân vào Hứa Đô đã lâu. Nay đương mùa xuân ấm áp, nên cất quân đi.
Liền họp bàn mưu kế đánh Tào Tháo. Điền Phong can rằng:
Trước Tào Tháo đánh Từ Châu, Hứa Đô bỏ trống chẳng nhân lúc ấy tiến quân; nay Từ Châu bị phá, thế Tào đang mạnh, không nên khinh địch. Không bằng thong thả, đợi lúc nào có dịp tốt hãy hay.
Thiệu nói:
– Để ta nghĩ đã.
Nhân hỏi Huyền Đức:
– Điền Phong khuyên ta cố thủ, ông nghĩ thế nào?
Huyền Đức nói:
– Tào Tháo là giặc dối vua, nếu minh công không đánh, sợ mất nghĩa lớn với thiên hạ.
Thiệu nói:
– Huyền Đức nói phải lắm!
Rồi muốn khởi binh ngay, Điền Phong lại can.
Thiệu giận nói:
– Các ngươi hợm văn khinh võ, để làm ta mất nghĩa lớn hay sao?
Điền Phong dập đầu xuống đất nói:
– Nếu không nghe lời nói phải của tôi, phen này xuất quân tất bất lợi.
Thiệu nổi giận toan chém Điền Phong, Huyền Đức cố can mới thôi, nhưng bắt Điền Phong bỏ ngục.
Thư Thụ thấy Điền Phong phải giam vào ngục, bèn họp cả họ hàng phân tán hết gia tài và nói:
– Tôi chuyến nào theo đi đánh giặc, được thì oai danh lừng lẫy, thua thì một chân cũng khó giữ được vẹn toàn.
Họ hàng ai cũng rỏ nước mắt đi tiễn.
Thiệu sai đại tướng là Nhan Lương làm tiên phong, tiến quân lên đánh xứ Bạch Mã. Thư Thụ can rằng:
– Nhan Lương tuy là tướng khỏe, nhưng tính khí hẹp hòi, không nên cho đi một mình.
Thiệu nói:
– Thượng tướng của ta, các ngươi biết gì!
Khi đại quân tiến đến Lê Dương, thái thú ở Đông Quận là Lưu Diên cáo cấp về Hứa Đô.
Tào Tháo kịp bàn đem quân ra địch. Quan Công nghe tin, vào ngay tướng phủ thưa với Tào Tháo:
– Nghe thừa tướng khởi binh, tôi xin đi làm tiền bộ.
Tháo nói:
– Tôi chưa dám phiền đến tướng quân, nay mai có việc, sẽ lại mời.
Quan Công lui về.
Tháo dẫn mười lăm vạn quân chia ra làm ba đội xuất phát. Đi đường lại tiếp liền mấy lá thư cấp báo của Lưu Diên. Tháo đem năm vạn quân đi trước, thẳng đến Bạch Mã dựa vào núi đất đóng quân, trông xa thấy cả một cánh đồng rộng, mười vạn tiền bộ tinh binh của Nhan Lương đều đã dàn thành trận thế.
Tháo khiếp sợ, ngoảnh lại bảo Tống Hiến (nguyên là tướng của Lã Bố trước):
– Ta nghe ngươi là tướng giỏi của Lã Bố, nay nên thử ra đấu với Nhan Lương.
Tống Hiến dạ một tiếng, vác giáo lên ngựa, xông thẳng ra trận. Nhan Lương cầm ngang giáo, cưỡi ngựa ra thẳng cửa trận. Thấy ngựa Tống Hiến đến, Lương quát to một tiếng, rồi tế ngựa ra đánh. Chưa được ba hiệp, Lương đã đâm chết Tống Hiến ở trước trận.
Tào Tháo thất kinh nói:
– Thật là dũng tướng!
Ngụy Tục nói:
– Lương giết người bạn của tôi, xin ra đánh báo thù.
Tháo cho đi. Tục ra đến nơi chỉ đánh nhau mới được một hiệp, cũng bị Lương chém chết.
Tháo hỏi:
– Ai dám ra địch lại?
Từ Hoảng nghe nói, ra ngay đánh nhau với Nhan Lương. Được hai mươi hiệp thua chạy về. Các tướng đều ghê sợ cả. Tào Tháo thu quân, Nhan Lương cũng lui quân về.
Tháo thấy mất liền hai tướng một lúc, trong lòng lo buồn. Trình Dục nói:
– Tôi xin cử một người địch nổi Nhan Lương.
Tháo hỏi ai. Dục nói:
– Phi Quan Vân Trường, không ai đánh nổi.
Tháo nói:
– Ta chỉ sợ hắn lập được công rồi đi mất.
Dục nói:
– Thừa tướng đừng lo. Lưu Bị nếu còn sống thì tất ở bên Viên Thiệu. Nay sai Vân Trường phá quân Thiệu, Thiệu tất nghi Lưu Bị mà giết đi. Lưu Bị chết rồi, Vân Trường còn đi đâu nữa?
Tháo mừng lắm, sai người mời Quan Công.
Quan Công vào từ hai chị. Hai phu nhân nói rằng:
– Chuyến này chú đi, nên thăm dò tin hoàng thúc.
Quan Công vâng lời, đi ra, cắp thanh long đao, cưỡi ngựa Xích Thố, dẫn vài người tùy tùng đi thẳng đến Bạch Mã, vào ra mắt Tào Tháo. Tháo nói:
– Nhan Lương vừa giết liền hai tướng, không ai địch nổi, nên mời Quan Công đến bàn.
Quan Công nói:
– Vâng, để tôi xem.
Tháo đặt cuộc rượu khoản đãi. Chợt có người báo Nhan Lương lại đến khiêu chiến. Tháo dẫn Quan Công lên núi đất đứng xem.
Tháo cùng Quan Công ngồi, các tướng đứng hầu chung quanh. Tào Tháo trỏ xuống thế trận của Nhan Lương ở dưới núi, cờ xí đỏ ối, gươm giáo sáng quắc, trận bày cực kì nghiêm chỉnh, mà bảo Quan Công:
– Quân mã Hà Bắc hùng tráng lắm nhỉ!
Quan Công nói:
– Tôi coi chẳng khác gì gà bằng đất, chó bằng ngói!
Tháo lại trỏ bảo:
– Kìa! Ở dưới cái lọng, người mặc bào vóc, giáp vàng, cầm dao cưỡi ngựa là Nhan Lương đó.
Quan Công liếc mắt trông xuống, rồi nói với Tào Tháo:
– Tôi trông bộ nó, như là cái đầu cắm trên cái sào để đem bán vậy!
Tháo nói:
– Không nên khinh thường!
Quan Công nói:
– Tôi tuy bất tài, xin lấy đầu hắn trong đám vạn quân kia, đem về dâng thừa tướng.
Trương Liêu nói:
– Trong quân không nói đùa, Vân Trường chớ nên khinh thị.
Quân Công nhảy phắt lên ngựa, cắp ngược thanh long đao, tế xuống núi, mắt phượng trợn lên, mày tằm dựng ngược, xông thẳng vào trận bên kia, đi đến đâu quân Hà Bắc tự rẽ như sóng dưới nước. Quan Công đến thẳng chỗ Nhan Lương. Lương đang đứng dưới lọng, thấy Quan Công đến, vừa muốn hỏi thì ngựa Xích Thố chạy mau đã đến trước mặt. Nhan Lương trở tay chưa kịp, Quan Công đưa một lưỡi đao, Lương chết ngay dưới chân ngựa. Quan Công liền nhảy xuống đất, chặt lấy đầu, buộc vào cổ ngựa, rồi lên ngựa cầm đao từ trong trận phi ra như đi chỗ không người. Binh tướng Hà Bắc kinh hoảng, chưa đánh đã rối loạn. Quân Tào thừa thế đuổi đánh, giết hại không biết bao nhiêu; ngựa, khí giới, quân Tào cướp được rất nhiều.
Quan Công tế ngựa lên núi, các tướng đều khen ngợi. Quan Công đem đầu Nhan Lương đặt trước mặt Tào Tháo. Tháo nói:
– Tướng quân thực là một người thần!
Quan Công đáp:
– Tôi thấm vào đâu. Em tôi là Trương Dực Đức còn có thể ở trong đám quân trăm vạn lấy đầu thượng tướng dễ như lấy vật gì trong túi.
Tháo nghe cả sợ, ngoảnh lại dặn các tướng:
– Từ nay về sau có gặp Trương Dực Đức ở đâu, thì chớ có khinh địch.
Và sai các tướng viết vào vạt áo để ghi nhớ.
Quân Nhan Lương thua, chạy về đến nửa đường gặp Viên Thiệu, báo là có một tướng mặt đỏ râu dài, cầm đại đao, một mình cưỡi ngựa vào trận, chém chết Nhan Lương rồi, cho nên thua to.
Thiệu giật mình hỏi:
– Người ấy là ai?
Thư thụ thưa:
– Hẳn là Quan Vân Trường, em Huyền Đức.
Thiệu nổi giận trỏ vào Huyền Đức nói:
– Thế ra em ngươi chém chết tướng yêu của ta, ngươi tất thông mưu, vậy để ngươi ở đây làm gì?
Liền thét đao phủ lôi Huyền Đức ra chém.
Ấy mới là:
Vừa là khách quý ngồi trên ghế
Thoắt đã thằng tù đứng dưới sân.
Chưa biết tính mệnh Lưu Bị làm sao, xem đến hồi sau sẽ rõ.
Viên Thiệu toan chém Huyền Đức. Huyền Đức khoan thai bước lên nói:
– Minh công chỉ nghe một lời mà muốn dứt tình ngay? Bị từ khi ở Từ Châu thất tán, em là Quan Vũ không biết còn hay mất; thiên hạ người giống nhau không ít, chắc đâu tướng mặt đỏ râu dài là Vân Trường, minh công sao không xét cho kĩ?
Viên Thiệu vốn là người hay do dự, nghe Huyền Đức nói bèn trách Thư Thụ:
– Tí nữa ta nghe lời ngươi, giết mất người hiền.
Rồi lại mời Lưu Bị lên trướng ngồi, bàn cách báo thù cho Nhan Lương. Dưới trướng có một người tiến lên nói:
– Nhan Lương với tôi như anh em, nay Lương bị giết, tôi phải rửa hận.
Người ấy mình cao tám thước, mặt như mặt con giải trũi tên Sú, là danh tướng ở Hà Bắc. Thiệu mừng nói:
– Phi người không ai báo được thù cho Nhan Lương. Ta cho đem mười vạn quân, qua ngay Hoàng Hà, đuổi giết quân Tào.
Thư Thụ nói:
– Không nên. Nay nên đóng quân ở bến Diên Tân rồi chia một nửa sang bên Quan Độ, mới thực là thượng sách. Nếu đem cả binh sang sông, phỏng thử có điều gì, thì rút về làm sao được?
Thiệu mắng:
– Chỉ vì các ngươi làm trì hoãn lòng quân, kéo dài ngày tháng để lỡ việc lớn đó thôi. Ngươi há lại không biết câu: “Binh quý thần tốc” hay sao?
Thư Thụ trở ra, than rằng:
– Người trên thì kiêu căng, kẻ dưới thì tham công; nước sông Hoàng Hà chảy cuồn cuộn, ta cũng đành liều chăng!
Rồi cáo bệnh, không ra bàn việc quân nữa.
Huyền Đức nói:
– Bị đội ơn lớn, chưa lấy gì báo đáp, nay muốn cùng đi với Văn tướng quân, trước là để báo đáp minh công, sau là để dò xem tin tức Vân Trường.
Thiệu ưng ý, sai Văn Sú cùng Huyền Đức lĩnh tiền bộ, Sú nói:
– Huyền Đức là tướng bị thua luôn, cho ra quân không lợi. Nay chúa công muốn cho ông ấy cùng đi, tôi xin chia ba vạn quân để ông ta đi sau làm hậu bộ.
Bởi thế Văn Sú lĩnh bảy vạn đi trước, Huyền Đức lĩnh ba vạn đi sau.
Đây nói Tào Tháo từ khi thấy Quan Công chém được Nhan Lương, lại càng kính trọng lắm, làm biểu tâu lên triều đình, phong cho Vân Trường là Hán Thọ đình hầu, đúc ấn giao cho Quan Công.
Chợt có tin báo: Viên Thiệu lại sai đại tướng là Văn Sú sang sông Hoàng Hà, hiện đã đóng quân ở bến Diên Tân.
Tháo sai người đem dân cư ở đó dời sang phía tây sông, rồi đem quân ra đánh, truyền lệnh lấy hậu quân làm tiền quân, lấy tiền quân làm hậu quân, lương thảo cho đi trước, binh lính kéo đi sau.
Lã Kiền hỏi:
– Lương đi trước, quân đi sau là ý làm sao?
Tháo nói:
– Lương thảo đi sau, bị cướp mất nhiều, nên cho đi trước?
Kiền lại hỏi:
– Thế lúc giặc đến, thì làm thế nào?
Tháo nói:
– Bấy giờ sẽ liệu.
Kiền trong bụng nghi hoặc, không hiểu. Tào Tháo cứ sai chở lương thảo và các xem đồ đi men sông đến Diên Tân. Tháo ở hậu quân, nghe thấy tiền quân reo hò, vội cho người ra xem, mọi người đều báo:
– Văn Sú dẫn binh lại, quân ta đều bỏ cả lương thảo, bốn mặt chạy tán loạn, hậu quân thì ở xa, bây giờ làm thế nào?
Tháo lấy roi trỏ vào hai cái gò đất ở phía nam, bảo:
– Chỗ kia có thể tạm tránh.
Người, ngựa vội vàng chạy cả lên gò đất.
Tháo truyền cho quân sĩ cởi áo giáp, ngồi nghỉ, thả hết cả ngựa ra.
Quân Văn Sú kéo ập ngay đến. Các tướng nói:
– Giặc đã đến, xin cho thu ngựa lại rồi kéo về Bạch Mã.
Tuân Du vội vàng ngăn lại:
– Chính là để dử giặc, sao lại lui!
Tháo đưa mắt cho Tuân Du mà cười. Du biết ý, không nói nữa. Quân Văn Sú đã lấy được lương thảo xa trượng, lại tranh nhau cướp ngựa. Quân sĩ nhốn nháo mất cả hàng ngũ.
Bấy giờ Tháo sai quân, tướng xuống đánh. Quân Văn Sú rối loạn. Quân Tào vây bọc lại. Văn Sú một mình chống chọi, quân sĩ giày xéo lẫn nhau mà chạy. Văn Sú ngăn cấm không được, cũng phải quay ngựa chạy nốt. Tháo đứng trên nói trỏ xuống bảo:
– Văn Sú là danh tướng Hà Bắc, ai có thể bắt cho ta?
Trương Liêu, Từ Hoảng hai ngựa cùng xông ra, gọi to:
– Văn Sú đừng chạy nữa.
Văn Sú ngoảnh lại, thấy hai tướng đuổi theo, cắp vững ngọn giáo, giương cung đặt tên, định bắn Trương Liêu. Từ Hoảng kêu to lên:
– Tướng giặc không được bắn trộm.
Trương Liêu cúi đầu vội tránh, mũi tên cắm ngay vào cái chỏm mũ, đứt phăng dải mũ, Liêu cố sức đuổi. Văn Sú lại bắn phát nữa trúng ngay giữa trán ngựa. Ngựa gục hai chân trước, Liêu ngã xuống đất. Văn Sú quay ngựa trở lại, Từ Hoảng tay cầm búa lớn, giơ lên đánh chặn đường. Quân Văn Sú ở mặt sau kéo đến. Hoảng liệu địch không nổi, quay ngựa chạy về. Văn Sú cứ men sông đuổi theo. Chợt thấy hơn mười quân kị mã, cờ hiệu phất phới, một tướng đứng hầu, cầm long đao tế ngựa đến, chính là Quan Vũ.
Quan Công quát to một tiếng: “Tướng giặc đừng chạy!” rồi xông lại đánh Văn Sú. Chưa được ba hiệp, Văn Sú thấy núng liền quay ngựa chạy. Ngựa quan Công chạy nhanh, sấn kịp ngay sau lưng Văn Sú, Quan Công đưa một nhát dao, Văn Sú ngã chết ngay dưới chân ngựa.
Tào Tháo ở trên gò đất thấy Quan Công chém được Văn Sú, thúc quân sĩ ùa cả ra đánh. Quân Hà Bắc ngã xuống sông chết quá nửa. Lương thảo và ngựa lại bị quân Tào cướp lại được cả.
Quan Vũ dẫn vài mươi quân kị mã tả xông hữu đột. Giữa lúc đánh nhau dữ dội, Huyền Đức dẫn ba vạn quân theo sau vừa kéo đến. Thám tử đi trước trở về báo:
– Lần này lại là tướng đỏ mặt râu dài chém chết Văn Sú rồi.
Huyền Đức vội vàng tế ngựa lên xem, cách sông trông thấy một đội quân mã, đi lại như bay, trên lá cờ viết bảy chữ “Hán Thọ đình hầu Quan Vân Trường”.
Huyền Đức tạ thầm trời đất:
– Em ta quả nhiên còn ở bên Tào Tháo!
Huyền Đức định gọi sang chào hỏi, nhưng quân Tào kéo đến, Huyền Đức phải thu quân về.
Viên Thiệu đem quân tiếp ứng đến Quan Độ hạ trại. Quách Đồn. Thầm Phối nói:
– Phen này lại là Quan Vũ giết chết Văn Sú, thế mà Lưu Bị còn giả cách không biết.
Viên Thiệu nổi giận mắng:
– Thằng giặc tai to, sao dám như thế?
Một lát Huyền Đức vào. Thiệu thét lôi ra chém.
Huyền Đức nói:
– Tôi có tội gì?
Thiệu nói:
– Mày lại cố ý sai em mày giết mất của ta một viên đại tướng nữa, sao lại nói là vô tội?
Huyền Đức nói:
– Xin để tôi giải bày một lời rồi hãy giết: Tào Tháo vốn ghét tôi, nay biết tôi ở chỗ minh công, sợ tôi giúp minh công, nên sai em tôi giết hai tướng. Minh công biết, tất nhiên giận tôi. Thế là Tháo muốn mượn tay minh công để giết tôi đó. Xin minh công nghĩ lại.
Viên Thiệu nói:
– Huyền Đức nói phải lắm! Tí nữa các ngươi để ta phải chịu cái tiếng giết người hiền.
Nói rồi, quát tả hữu lui ra và mời Huyền Đức lên ngồi trên trướng. Huyền Đức nói:
– Bị nay đội ơn khoan hồng của minh công, không biết lấy gì báo đáp. Nay muốn sai một người tâm phúc đem mật thư đưa cho Vân Trường, cho biết tin tôi ở đây. Em tôi tất phải đi suốt ngày đêm đến ngay giúp minh công, cùng đánh Tào Tháo, để báo thù cho Nhan Lương, Văn Sú, minh công nghĩ thế nào?
Viên Thiệu mừng nói:
– Ta được Vân Trường tức là được một viên tướng giỏi gấp mười Nhan Lương, Văn Sú.
Lưu Bị viết thư, chưa tìm được người được sai đi. Thiệu truyền lui quân về Võ Dương, hạ trại liên tiếp vài mươi dặm, đóng quân lại, không ra đánh nữa.
Tháo sai Hạ Hầu Đôn đem quân chặn cửa ải Quan Độ, còn mình thì rút quân về Hứa Đô, mở đại yến mời các quan và mừng công Vân Trường. Nhân bảo Lã Kiền:
– Hôm trước ta cho lương thảo đi trước, quân đi sau, là mẹo để dử giặc. Bấy giờ duy chỉ có Tuân Du biết ý ta.
Mọi người đều thán phục.
Đương ăn yến, chợt có người báo:
– Đất Nhữ Nam có giặc Hoàng Cân là Lưu Tích, Cung Đô rất là ngang tàng, Tào Hồng đánh mãi không được xin cho quân ra cứu.
Vân Trường nghe nói, tiến lên thưa:
– Tôi xin đem hết sức khuyển mã phá giặc Nhữ Nam.
Tháo nói:
– Vân Trường vừa có công to, chưa kịp trọng thưởng được, ta sao lại để Vân Trường đi đánh giặc phải chịu khó nhọc?
Quan Công nói:
– Tôi nhàn rỗi lâu nay hay sinh bệnh tật. Xin cho tôi đi một chuyến.
Tào Tháo khen là có chí khí, điểm năm vạn quân, sai Vu Cấm, Nhạc Tiến làm phó tướng, hôm sau đi liền.
Tuân Úc thầm bảo Tháo:
– Vân Trường vẫn có lòng về với họ Lưu, nếu biết có tin ở đâu, thì y đi ngay, không nên sai đi đánh luôn.
Tháo nói:
– Lần này để y lập công, lần sau không sai đi nữa.
Quan Công lĩnh binh đến gần Nhữ Nam, dừng quân đóng trại. Đang đêm bỗng bắt được hai người đi do thám. Quan Công trông trong hai người, nhận được một người là Tôn Càn, liền đuổi tả hữu ra, rồi hỏi Càn rằng:
– Từ khi tan vỡ, không nghe thấy tin tức gì, sao ông lại ở đây?
Càn nói:
– Tôi từ khi trốn nạn, xiêu dạt sang Nhữ Nam, may gặp được Lưu Tích cho vào nương tựa ở đó. Nay tướng quân sao lại ở bên Tào Tháo? Thế còn Cam, My hai phu nhân thì thế nào?
Quan Công đem hết cả chuyện đầu đuôi thuật lại cho Tôn Càn nghe. Càn nói:
– Mới đây tôi nghe tin ông Huyền Đức ở bên Viên Thiệu, muốn sang theo, chưa có dịp nào tiện. Nay Lưu Tích, Cung Đô hai người đã hàng Thiệu, cùng giúp đánh Tào. May đâu lại gặp tướng quân đến đây, nên mới sai quân dẫn đường, tôi giả làm quân do thám đến báo để tướng quân biết. Ngày mai, Lưu Tích, Cung Đô hai người ra đánh giả cách thua tướng quân một trận. Ông đem hai phu nhân đến chỗ Viên Thiệu để gặp Huyền Đức.
Quan Công nói:
– Anh ta đã ở bên Viên Thiệu, thế nào sớm tối ta cũng sang ngay. Nhưng ta đã chém mất hai tướng của Viên Thiệu, sợ có việc biến xảy ra.
Càn nói:
– Để tôi đến đó xem hư thực ra sao, rồi sẽ về báo lại.
Quan Công nói:
– Ta được trông thấy anh ta, dù có chết cũng không từ. Nay ta về Hứa Đô, từ giã Tào Tháo đã.
Rồi đang đêm ngầm tiễn Tôn Càn đi.
Hôm sau, Quan Công dẫn quân ra, Cung Đô mặc áo giáp ra trận, Quan Công hỏi:
– Chúng bay sao dám làm phản triều đình?
Đô đáp:
– Mày là đứa phản chủ, còn trách gì ta?
Quan Công hỏi:
– Ta thế nào là phản chủ?
Đô đáp:
– Lưu Huyền Đức ở bên Viên Bản Sơ, sao mày lại đi theo Tào Tháo.
Quan Công không trả lời, quất ngựa múa đao xông vào. Cung Đô bỏ chạy ngay. Quan Công đuổi theo. Đô ngoảnh lại bảo Quan Công rằng:
– Ân nghĩa chủ cũ, không nên quên. Ông cứ cho quân tiến nhanh lên, ta nhường Nhữ Nam cho.
Quan Công biết ý, thúc quân xông vào. Lưu Tích, Cung Đô cùng giả làm thua, chạy tản ra bốn mặt. Quan Công cướp được châu quận, yên dân xong, rút quân về Hứa Xương.
Tào Tháo ra ngoài quách đón, khao thưởng quân sĩ. Ăn yến xong, Vân Trường về nhà, vào thăm hai chị, đứng ở ngoài cửa. Cam phu nhân hỏi:
– Hai lần chú ra quân, có nghe tin hoàng thúc ở đâu chưa?
Quan Công đáp:
– Thưa chưa!
Rồi trở ra. Hai phu nhân hu hu khóc, nói:
– Hoàng thúc dễ thường mất rồi. Chú sợ hai chị em ta buồn rầu, nên giấu không nói thật chứ gì?
Đương khóc, có một người lính già đứng hầu ngoài cửa, nói:
– Xin hai phu nhân đừng khóc. Chúa công hiện ở bên Hà Bắc với Viên Thiệu.
Hai bà hỏi:
– Sao nhà ngươi biết?
Người lính thưa:
– Tôi theo Quan tướng quân đi đánh giặc, có người ở trên trận nói chuyện.
Hai bà gọi ngay Vân Trường đến trách:
– Hoàng thúc chưa từng phụ ngươi bao giờ, nay ngươi được chịu ân Tào Tháo, quên cả nghĩa cũ, không lấy sự thực bảo chúng ta là cớ làm sao?
Quan Công cúi đầu nói:
– Anh nay thực ở Hà Bắc, em chưa dám để hai chị biết, là sợ việc lỡ ra tiết lộ, không lợi. Việc này nên lo tính thong thả, không nên vội vàng.
Cam phu nhân nói:
– Chú nên lo tính cho mau.
Quan Công lui về, nghĩ cách nên đi thế nào, đứng ngồi không yên.
Nguyên là Vu Cấm dò biết Lưu Bị ở Hà Bắc, đã báo với Tào Tháo. Tháo sai Trương Liêu đến dò ý Quan Công. Quan Công hôm ấy đương ngồi buồn, Trương Liêu vào mừng:
– Nghe anh khi ra trận, đã biết tin Huyền Đức, nên em đến mừng.
Quan Công đáp:
– Chủ cũ tuy ở đó, nhưng chưa được gặp, đã có chi đáng mừng.
Liêu lại hỏi:
– Anh kết thân với Huyền Đức, so giữa anh với tôi, bên nào thân hơn.
Quan Công nói:
– Tôi với anh là nghĩa bầu bạn; tôi với Huyền Đức bầu bạn mà là anh em, anh em mà lại là vua tôi, hai đường ví với nhau thế nào được?
Liêu mới hỏi:
– Nay Huyền Đức ở Hà Bắc, anh có đi theo không?
Quan Công nói:
– Lời nói ngày trước, sao lại trái được! Nhờ Văn Viễn hết lòng trình bày hộ tôi với thừa tướng.
Trương Liêu đem lời Quan Công về nói lại với Tào Tháo. Tháo nói:
– Ta đã có cách giữ lại.
Quan Công đương ngồi nghĩ ngợi, chợt thấy báo có người bạn cũ đến hỏi thăm. Quan Công mời vào, thì là người không quen bao giờ. Quan Công hỏi:
– Ông là ai?
Người lạ đáp:
– Tôi là Trần Chấn, người ở Nhữ Nam, bộ hạ của Viên Thiệu.
Quan Công giật mình, vội vàng bảo tả hữu lui ra, rồi hỏi:
– Tiên sinh lại đây chắc có việc gì?
Chấn đưa ra một phong thư, Quan Công mở ra xem thì là thư của Huyền Đức, đại lược trong thư nói:
“Bị cùng túc hạ, kết nghĩa vườn đào, thề cùng sống thác, nay sao nửa đường bỏ nhau, cắt đứt ân nghĩa? Túc hạ nếu muốn lập công danh, toan đường phú quý, Bị xin đem đầu dâng túc hạ để túc hạ lập nên công lớn. Thư nói không xiết, chịu chết ngồi chờ lệnh.”
Quan Công xem xong thư, khóc to nói:
– Tôi không phải không muốn tìm anh, chỉ vì chẳng biết anh ở đấy, chớ đâu dám cầu phú quý mà quên lời thề cũ.
Trần Chấn nói:
– Huyền Đức mong đợi ông lắm. Ông đã không trái ước cũ, nên đi nhanh đến gặp Huyền Đức.
Quan Công nói:
– Làm người sinh trong trời đất, không có thủy chung, không phải là quân tử. Ta lúc lại đây phân minh, thì lúc ở đây đi cũng phải phân minh. Nay tôi viết thư, nhờ tiên sinh đem về cho anh tôi biết trước, để tôi từ giã Tào Tháo, sẽ đem cả hai chị về gặp anh tôi sau.
Chấn nói:
– Ngộ Tào Tháo không nghe thì làm thế nào?
Quan Công đáp:
– Ta thà chết, chớ sao chịu ở lại đây!
Chấn nói:
– Ông mau viết thư trả lời, để Lưu sứ quân khỏi mong đợi.
Quan Công viết thư đáp lại:
“Trộm nghĩ: đã là nghĩa thì không bao giờ phụ lòng; đã là trung thì không bao giờ sợ chết. Vũ này từ thuở nhỏ bé đọc sách, hơi biết lễ nghĩa. Xem truyện, Dương Giốc Ai và Tả Bá Đào thường than thở hai ba lần, mà sa nước mắt.
Khi trước giữ thành Hạ Phì, trong lòng không có thóc chứa, ngoài chẳng có viện binh, đã toan liều chết, nhưng vì có trọng trách đối với hai chị, không dám quyên sinh để phụ lòng ủy thác của anh, cho nên còn tạm nương náu đây, mong có ngày cùng nhau tụ hội.
Mới đây em đến Nhữ Nam, mới biết tin anh. Xin lập tức từ giã Tào công, đem hai chị về. Em bằng có bụng khác, thân người cùng giết. Moi gan rạch mật, bút giấy nói không hết lời, bái kiến có ngày, xin nhủ lòng soi xét.”
Trần Chấn mang thư về, Quan Công vào nhà trong nói với hai chị, rồi vào ngay tướng phủ để từ biệt Tào Tháo. Tháo đã biết trước, sai treo một cái biển “Hồi tị” ở ngoài tướng phủ. Quan Công đành lủi thủi trở về, sai những người tùy tùng cũ, thu xếp xe ngựa sẵn sàng, lại dặn bảo trong nhà: Phàm bao nhiêu những đồ Tào Tháo cho, đều để cả lại, cái tơ cái tóc cũng không được mang đi.
Hôm sau Quan Công lại đến tướng phủ để từ tạ. Ngoài cửa vẫn có biển “Hồi tị”. Quan Công đến luôn mấy lần, đều không được vào, bèn đến nhà Trương Liêu để nói chuyện. Liêu cũng cáo ốm không ra. Quan Công nghĩ:
– Đây là Tào thừa tướng có ý không cho ta đi. Chí ta đã quyết, há lại còn dùng dằng ở lại nữa sao?
Bèn viết một phong thư từ tạ Tào Tháo. Thư như sau:
“Tôi từ trước đã thờ hoàng thúc, thề cùng sống chết, trên: Trời cao, dưới: đất dày, đều đã chứng giám; ngày nọ thất thủ Hạ Phì, tôi xin ba điều, đã được thừa tướng chấp nhận. Nay được tin chủ cũ ở bên Viên Thiệu, tôi nhớ lại lời thề ngày trước há dám sai trái? Ơn mới tuy hậu, nghĩa cũ khó quên, dâng thư cáo từ, xin soi xét cho. Ơn còn thiếu chưa báo được hết, xin đợi khi khác.”
Viết xong, dán lại, sai người mang đến tướng phủ. Một mặt đem những vàng bạc đã được tặng mấy lần trước gói hết cả lại bỏ vào kho, treo ấn Hán Thọ đình hầu trên sảnh đường, rồi mời hai phu nhân lên xe.
Quan Công cưỡi ngựa Xích Thố tay cầm thanh long đao, dẫn bọn người tùy tùng cũ đi hộ tống xa trượng, đi tắt ra cửa thành. Lính canh cửa ngăn lại, Quan Công trừng mắt, giơ long đao lên, quát to một tiếng, lính canh lẩn tránh hết cả. Quan Công ra khỏi cửa thành dặn những người tùy tùng:
– Các ngươi hộ tống xa trượng đi trước. Ngộ có người đuổi theo, đã có ta ở sau chống lại. Không được để hai phu nhân sợ hãi.
Quân hầu cứ theo đường cái quan, đẩy xe đi.
Tào Tháo đang ngồi cùng mọi người bàn tán chuyện Quan Công thì có người mang thư của Quan Công vào trình.
Tháo mở ra xem, thất kinh nói:
– Vân Trường đi mất rồi!
Chợt lại có tướng giữ cửa bắc phi ngựa lại báo:
– Quan Công cướp cửa đi ra, xe ngựa đồ đạc hơn hai mươi người, đi về phía bắc.
Lại có người ở nhà Quan Công đến báo:
– Quan Công gói hết cả các đồ vàng bạc của thừa tướng cho ngày trước, để ở trong kho. Mười người mĩ nữ để ở nhà trong, ấn Hán Thọ đình hầu thì treo ở nhà sảnh đường, những kẻ hầu người hạ của thừa tướng cắt đến đều không đem đi, chỉ mang những người tùy tùng cũ và hành lí tùy thân đi ra cửa bắc.
Mọi người đều ngạc nhiên. Một viên tướng nhả ra nói:
– Tôi xin đem ba nghìn quân thiết kị bắt sống Quan Vũ đem về nộp thừa tướng!
Mọi người nhìn xem là ai, thì là Sái Dương.
Thế mới thực là:
Muốn xa muôn trượng hang rồng rắn,
Lại gặp ba nghìn lính hổ lang.
Chưa biết Sái Dương xin đi đuổi Quan Công thế nào, xem đến hồi sau mới tỏ.
Trong bọn bộ hạ Tào Tháo, ngoài Trương Liêu ra, có Từ Hoảng là thân với Quan Vũ, còn các tướng ai cũng kính phục, duy chỉ có Sái Dương là không phục, cho nên hôm ấy nghe tin Quan Công đi, Sái Dương xin đi đuổi bắt về.
Tháo nói:
– Không quên chủ cũ, lúc đến, lúc đi đều phân minh, thế mới thực là trượng phu. Các ngươi nên bắt chước.
Nói rồi mắng Sái Dương, không cho đi đuổi.
Trình Dục nói:
– Thừa tướng đãi Quan Vũ rất hậu, nay không bái từ, tự tiện đi, viết nhăng mảnh giấy gửi lại, khinh nhàm oai trên, là có tội lớn. Nếu tha cho y về với Viên Thiệu, khác gì cho hổ thêm cánh, chi bằng đuổi giết đi, để dứt vạ về sau.
Tháo nói:
– Trước ta đã hứa, không nên thất tín. Người ta đã vì chủ cũ, không nên đuổi.
Nhân thể bảo Trương Liêu:
– Vân Trường gói vàng treo ấn, của cải không thay lòng, tước lộc không đổi chí, những người như thế ta rất kính trọng. Bây giờ Vân Trường đi cũng chưa xa, ta muốn ra kết thân với hắn, để lưu lại một chút tình về sau. Ngươi nên cưỡi ngựa đi trước, mời hắn dừng lại, đợi ta ra tiễn, còn có lộ phí và chiến bào đem tặng, để làm kỉ niệm.
Trương Liêu vâng lệnh, cưỡi ngựa đi trước, Tào Tháo dẫn vài mươi kị mã đi sau.
Vân Trường cưỡi ngựa Xích Thố, sức đi được nghìn dặm, giá có một mình thì chẳng ai đuổi kịp, nhưng vì hộ tống xa trượng, phải đi thong thả. Chợt nghe đằng sau có người gọi:
– Xin Vân Trường hãy đi chậm lại.
Quan Công ngoảnh lại, thấy Trương Liêu cưỡi ngựa đến. Quan Công giục những người tùy tùng cứ đẩy xa trượng theo đường cái đi mau lẹ lên trước, còn mình thì dừng ngựa lại tay cầm vững long đao, hỏi:
– Văn Viễn định đuổi theo bắt ta chăng?
Liêu thưa:
– Không phải thế, thừa tướng biết anh đi xa, muốn ra tiễn chân, cho nên sai tôi lại đây, xin anh hãy dừng ngựa lại.
Quan Công nói:
– Dù đội thiết kị của thừa tướng kéo đến, ta xin quyết một trận tử chiến.
Nói rồi dừng ngựa, đứng ở trên cầu trông lại, thấy Tào Tháo dẫn vài mươi quân kị mã chạy đến, đằng sau có bọn Hứa Chử, Từ Hoảng, Vu Cấm, Lý Điển. Tháo thấy Quan Công cầm đao cưỡi ngựa đứng trên cầu, liền truyền các tướng dừng cả lại, đứng sắp hàng hai bên. Quan Công thấy các tướng đi tay không, bấy giờ mới vững dạ.
Quan Công ngồi trên ngựa, cúi mình xuống nói:
Trước tôi đã có lời thưa với thừa tướng. Nay chủ cũ tôi ở Hà Bắc, thế tất tôi phải vội đi. Đã mấy lần đến phủ, không được vào hầu, cho nên đã có bức thư để cáo từ, gói vàng bạc, ấn, nộp lại thừa tướng. Xin thừa tướng đừng quên lời ước ngày trước.
Tháo nói:
– Ta còn muốn thủ tín với thiên hạ, sao lại phụ lời ước. Nhưng sợ tướng quân đi đường thiếu dùng, nên đem ít đồ hành trang lại tiễn.
Nói xong sai một tướng xuống ngựa bưng một mâm vàng đến.
Quan Công nói:
– Tôi nhiều lần đội ơn thừa tướng ban thưởng, hãy còn đủ dùng. Xin để lại số vàng này thưởng cho tướng sĩ.
Tháo nói:
– Quà nhỏ mọn thưởng công to lớn, sao tướng quân lại từ chối?
Quan Công hỏi:
– Chút công nhỏ mọn đáng kể chi!
Tháo cười nói:
– Quan Vân Trường là nghĩa sĩ trong thiên hạ, tiếc vì ta kém phúc, không lưu lại được. Nay gọi là có chiếc cẩm bào để giải tấm lòng thành.
Nói rồi sai một tướng hai tay nâng tay áo cẩm bào dâng lên.
Vân Trường sợ có mưu kế gì, không dám xuống ngựa, dùng mũi long đao khều lấy cẩm bào, quàng lên vai, gò cương ngựa quay đầu lạy tạ:
– Đội ơn thừa tướng cho áo. Có ngày sẽ gặp lại nhau.
Tạ rồi, xuống cầu nhằm phía bắc tế ngựa đi thẳng.
Hứa Chử nói:
– Kẻ đó thực vô lễ, sao không bắt lấy?
Tháo nói:
– Người ta một mình một ngựa, chúng ta hơn mười người, trách nào người ta chẳng nghi? Ta đã có lời ước, không nên đuổi.
Nói rồi, cùng các tướng trở về. Tào Tháo vừa đi đường vừa khen vừa tiếc Quan Công.
Quan Công tế ngựa chạy theo cho kịp xa trượng. Chạy ước được ba mươi dặm, chẳng thấy xa trượng đâu, Quan Công liền tế ngựa tìm quanh cả bốn mặt. Chợt nghe ở trên đỉnh núi có tiếng gọi:
– Quan tướng quân hãy đứng lại.
Quan Công ngẩng mặt lên trông, thì thấy một chàng trẻ tuổi, khăn vàng áo gấm, vác giáo cưỡi ngựa, dưới cổ ngựa treo một cái đầu người, dẫn hơn một trăm quân bộ, chạy lại.
Quan Công hỏi:
– Ngươi là ai?
Chàng trẻ tuổi bỏ giáo xuống ngựa, thụp lạy. Vân Trường sợ có mưu mẹo gì, dừng ngựa cầm đao hỏi:
– Xin tráng sĩ cho biết tên họ.
Người ấy đáp:
– Tôi là Tiêu tên Hóa, tự là Nguyên Kiệm, vốn người Tương Dương, nhân thời loạn, lưu lạc giang hồ, tụ tập được hơn năm trăm người, cướp bóc kiếm ăn. Mới rồi có người bạn là Đỗ Viễn, xuống núi tuần tiễu, nhỡ cướp phải hai vị phu nhân đem lên núi. Tôi hỏi người theo hầu, mới biết là phu nhân của Lưu hoàng thúc nhà Đại Hán. Lại nghe có tướng quân đi hộ tống, tôi muốn đưa ngay hai phu nhân xuống núi. Đỗ Viễn ăn nói càn dở, tôi giết đi, đem đầu lại nộp tướng quân, xin chịu tội.
Quan Công hỏi:
– Hai phu nhân ở đâu?
– Hiện ở trên núi.
Quan Công sai đem ngay xuống núi. Được một lúc hơn một trăm người rước xa trượng ra. Quan Công xuống ngựa, đặt đao, chắp tay đứng trước xe hỏi:
– Hai chị có bị sợ hãi gì không?
Hai phu nhân nói:
– May nhờ Liêu tướng quân cứu cho, chớ không thì đã bị Đỗ Viễn nó làm nhục rồi.
Quan Công hỏi những người tùy tùng:
– Liêu Hóa làm thế nào cứu hai phu nhân?
Họ thưa:
– Đỗ Viễn cướp hai phu nhân đem lên núi, định chia với Liêu Hóa mỗi người lấy một bà làm vợ. Hóa hỏi căn do làm sao, khi đã biết rồi, có bụng kính nể, can Đỗ Viễn, Viễn không nghe, nên Liêu Hóa giết đi.
Quan Công nghe nói, liền tạ Liêu Hóa. Hóa xin đem bộ hạ đi theo Quan Công. Quan Công nghĩ người ấy là dư đảng của Khăn Vàng, không nên cho đi theo, bèn từ tạ không nhận. Liêu Hóa lại đem biếu vàng lụa, Quan Công cũng không lấy. Liêu Hóa từ biệt, dẫn quân về núi.
Quan Công liền đem việc Tào Tháo ra tiễn, tặng bào, kể lại với hai chị, rồi giục xe đi.
Đến chiều tối vào nghỉ trọ một nhà trong làng. Chủ nhà đầu râu tóc bạc ra đón hỏi tên họ. Quan Công thi lễ nói:
– Tôi là Quan Vũ em Lưu Huyền Đức.
Chủ nhà lại hỏi:
– Ngài có phải là ông Quan Công đã chém Nhan Lương, Văn Sú không?
Quan Công thưa:
– Phải, chính tôi.
Ông già mừng lắm, mời ngay Quan Công vào nhà.
Quan Công thưa:
– Còn hai vị phu nhân ngồi trên xe.
Ông già gọi vợ con ra đón vào trong nhà. Quan Công chắp tay đứng hầu bên cạnh hai phu nhân. Ông già mời ngồi, Quan Công nói:
– Hai chị tôi đây, tôi không dám ngồi.
Ông già biết ý, bảo vợ con mời hai phu nhân vào nhà trong khoản đãi, còn mình thì ở ngoài nhà tiếp Quan Công. Quan Công hỏi tên họ ông già, ông già thưa:
– Tôi họ Hồ tên Hoa, đời vua Hoàn Đế từng làm nghị lang, về sau từ quan về làng ở. Nay có con giai là Hồ Ban, làm tùng sự phủ quan thái thú Huỳnh Dương tên là Vương Thực. Nếu tướng quân có đi qua đường ấy, nhờ đưa hộ một phong thư cho con tôi.
Quan Công xin vâng.
Hôm sau, cơm sớm xong, Quan Công mời hai chị lên xe, nhận lấy thư của Hồ Hoa, từ biệt nhau, rồi đi sang Lạc Dương. Đi đến một cửa quan là cửa Đông Lĩnh, tướng giữ quan tên là Khổng Tú, đem năm trăm quân đóng trên ngọn núi. Quân sĩ lên báo với Khổng Tú. Tú ra cửa quan tiếp đón. Quan Công xuống ngựa, thi lễ. Tú hỏi:
– Tướng quân đi đâu?
– Tôi vừa cáo từ thừa tướng, sang Hà Bắc để tìm anh.
Tú nói:
– Viên Thiệu ở Hà Bắc, chính là kẻ đối đầu với thừa tướng, tướng quân sang đấy, hẳn có giấy tờ của thừa tướng.
Quan Công đáp:
– Vi hành kì vội quá, không kịp xin giấy tờ.
Tú nói:
– Nếu không có giấy tờ, tôi phải sai người trình thừa tướng, rồi mới dám để tướng quân đi.
Quan Công nói:
– Đợi phải bẩm báo, lỡ mất hành trình của tôi.
Tú đáp:
– Phép tắc bắt buộc, phải thế mới được.
Quan Công hỏi:
– Ngươi không cho ta qua cửa quan phải không?
Tú nói sẵng:
– Muốn đi thì phải để già trẻ lại đây làm con tin.
Quan Công nổi giận, cầm đao toan giết Khổng Tú. Tú chạy vào cửa quan, nổi trống họp quân, mặc áo giáp, lên ngựa, kéo ra cửa quân quát to:
– Ngươi dám vượt cửa quan chăng?
Quan Công truyền xa trượng lui lại, rồi cầm long đao, giục ngựa tiến thẳng vào đánh Khổng Tú. Tú vác giáo, nghênh địch. Hai ngựa đấu nhau chỉ được một hiệp, Tú bị chém chết ngã dưới chân ngựa.
Quân sĩ chạy tan cả.
Quan Công gọi lại bảo:
– Quân sĩ đừng chạy, ta giết Khổng Tú là bất dắc dĩ. Việc này không liên can gì đến các ngươi. Nhờ các ngươi thưa lại với thừa tướng: “Khổng Tú muốn hại ta, nên ta phải giết đi.”
Quân sĩ đều thụp xuống lạy trước ngựa. Quan Công lại mời hai phu nhân ra ngoài cửa quan, đi về đường Lạc Dương.
Có người báo thái thú Lạc Dương là Hàn Phúc biết tin, Phúc họp ngay các tướng lại bàn. Nha tướng là Mạnh Thản nói:
– Không có giấy tờ của thừa tướng, tất là đi lén lút, nếu không ngăn lại, tất bị tội lỗi.
Hàn Phúc nói:
– Quan Công dũng mãnh lắm. Nhan Lương, Văn Sú đều bị hắn giết. Nay không thể dùng sức địch lại với hắn, chỉ nên dùng mưu mới được.
Mạnh Thản nói:
– Tôi có một kế: Lấy chông chà rào kín cửa quan, đợi khi hắn đến, tôi ra đánh nhau, rồi giả tảng thua chạy, dử cho hắn đuổi theo, ông đứng núp một nơi, lấy tên mà bắn. Nếu bắn ngã ngựa, bắt giải về Hứa Đô, chắc được trọng thưởng.
Vừa bàn định xong, quân vào báo xa trượng của Quan Công đã đến. Hàn Phúc đeo cung cài tên, đem một nghìn quân mã dàn ngoài cửa quan, hỏi:
– Người đến kia là ai?
Quan Công ngồi trên ngựa, cúi mình nói:
– Hán Thọ đình hầu Quan mỗ xin nhờ đường đi qua.
Hàn Phúc hỏi:
– Có giấy tờ của thừa tướng không?
Quan Công đáp:
– Ta bận việc không kịp lấy.
Hàn Phúc nói:
– Ta phụng mệnh thừa tướng trấn thủ đất này, chuyên việc khám xét kẻ gian đi lại. Nếu không có giấy tờ, tức là đi trốn.
Quan Công nói:
– Khổng Tú ở Đông Lĩnh không cho ta đi, vừa bị ta giết chết. Ngươi cũng muốn chết à?
Hàn Phúc nói:
– Ai bắt lấy nó cho ta!
Mạnh Thản cưỡi ngựa ra, múa đôi đao đón đánh. Quan Công bảo xa trượng lui lại, rồi tiến lên đánh Mạnh Thản. Đánh được ba hiệp, Mạnh Thản quay ngựa chạy, chỉ mong dụ Quan Công đuổi theo, không ngờ ngựa của Quan Công chạy mạnh quá, đến ngay sau lưng, Quan Công đưa một nhát dao, sả Thản làm hai đoạn.
Quan Công quay ngựa trở lại, Hàn Phúc nấp ở trong cửa giương cung bắn trộm, trúng vào cánh tay trái Quan Công. Quan Công lấy miệng cắn tên rút ra, máu chảy không thôi, liền quay đầu xông thẳng đến Hàn Phúc đánh tan mọi người. Hàn Phúc chạy không kịp bị Quan Công chém một nhát, đứt từ đầu tới vai. Quân sĩ kinh hoảng tan cả.
Quan Công lấy lụa buộc chỗ bị thương. Giữa đường sợ có người ngấm ngầm mưu hại, nên liền đêm hôm ấy, Quan Công đi ngay đến cửa quan Nghi Thủy.
Tướng giữ cửa quan ấy là người ở Tinh Châu, họ Biện tên Hỷ, giỏi dùng dùi lưu tinh, nguyên là dư đảng Khăn Vàng, sau theo Tào Tháo, được Tháo sai giữ cửa quan này.
Biện Hỷ nghe Quan Công sắp đến, bèn mai phục hơn hai trăm đao phủ ở trong ngôi chùa Trấn Quốc, rồi dặn quân gõ chén làm hiệu, ồ ra giết Quan Công.
Sắp đặt đâu đấy, Hỷ ra đón Quan Công. Quan Công thấy Biện Hỷ ra đón, liền xuống ngựa chào hỏi. Hỷ nói:
– Tướng quân tiếng tăm lừng lẫy thiên hạ, ai chẳng kính trọng. Nay tướng quân lại tìm về với hoàng thúc, đủ rõ là người trung nghĩa.
Quan Công kể lại chuyện giết Khổng Tú và Hàn Phúc. Hỷ nói:
– Tướng quân giết đi là phải. Tôi gặp thừa tướng sẽ xin thay tướng quân trình bày với thừa tướng hết mọi uẩn khúc.
Quan Công mừng lắm, cùng lên ngựa đi với Biện Hỷ qua cửa Nghi Thủy. Đến trước chùa Trấn Quốc hai người xuống ngựa. Các sư đánh chuông ra đón.
Chùa Trấn Quốc vốn là chùa của vua Minh Đế làm ra, vua thường đến dâng hương ở đó. Trong chùa có hơn ba mươi sư tăng; trong bọn tăng lại có một vị sư là người cùng làng với Quan Công, pháp danh là Phổ Tĩnh.
Phổ Tĩnh đã biết mưu Biện Hỷ, mới bước ra chào Quan Công và hỏi:
– Tướng quân rời Bồ Dương đã bao nhiêu năm nay?
Quan Công nói:
– Gần được hai mươi năm.
Phổ Tĩnh hỏi:
– Tướng quân còn nhận được bần tăng không?
Quan Công đáp:
– Tôi đi đã lâu, nên không nhớ được.
Phổ Tĩnh nói:
– Nhà tôi với nhà tướng quân chỉ cách nhau một con sông.
Biện Hỷ thấy Phổ Tĩnh kể tình quê hương, sợ tiết lộ âm mưu của mình, liền mắng rằng:
– Ta mời tướng quân đến an yến, mi là nhà sư, sao được nói lôi thôi?
Quan Công nói:
– Người làng gặp nhau, tài gì không kể lại chuyện cũ?
Phổ Tĩnh mời Quan Công vào nhà phương trượng xơi nước. Quan Công nói:
– Hai vị phu nhân ngồi trên xe, nên dâng nước trước.
Phổ Tĩnh sai bưng hai chén nước ra mời hai phu nhân, rồi mời Quan Công vào phương trượng. Phổ Tĩnh lấy giới đạo đeo trong lưng giơ lên, đưa mắt ra hiệu cho Quan Công. Quan Công hiểu ngay, sai tả hữu đeo đao đứng hầu.
Biện Hỷ mời Quan Công lên ngồi trên pháp đường ăn tiệc. Quan Công hỏi ngay:
– Biện quân mời Quan mỗ đây là có ý tốt hay có ý gì không?
Biện Hỷ chưa kịp trả lời, Quan Công đã thấy ở trong buồng có quân đao phủ đứng núp, liền quát mắng Biện Hỷ:
– Ta tưởng mi là người tốt, ai ngờ mi dám như thế!
Biện Hỷ biết việc đã lộ, thét lớn:
– Các ngươi hạ thủ ngay đi!
Quân phục chưa kịp trở tay đã bị Quan Công tuốt gươm chém giết, chạy tan hết cả. Biện Hỷ chạy xuống thềm, chạy quanh hành lang. Quan Công bỏ gươm, cầm long đao đuổi chém. Biện Hỷ ngầm dùng phi trùy ném Quan Công. Quan Công lấy long đao gạt đi, sấn vào chém một nhát, Biện Hỷ đứt làm hai khúc.
Quan Công quay lại xem hai chị. Quân sĩ đang vây đặc ở xung quanh, thấy Quan Công đến, vội vàng chạy tan cả.
Quan Công thoát nạn đến tạ Phổ Tĩnh:
– Nếu không có sư phụ, tôi đã bị giặc hại rồi.
Phổ Tĩnh nói:
Bần tăng cũng khó lòng ở đây được nữa, sẽ thu xếp y bát đi nơi khác, chúng ta sẽ có ngày gặp nhau. Xin tướng quân lên đường giữ gìn cẩn thận.
Quan Công lạy tạ, rồi hộ tống xa trượng đi sang Huỳnh Dương.
Thái thú Huỳnh Dương là Vương Thực, vốn là thông gia với Hàn Phúc, nghe tin Phúc bị Quan Công giết, mới nghĩ kế hại ngầm. Khi Quan Công đến nơi, Thực ra đón chào tử tế. Quan Công kể việc đi tìm anh.
Thực nói:
– Tướng quân đi đường vất vả, hai phu nhân trên xe mỏi mệt, xin mời vào thành tạm nghỉ ở nhà khách một đêm, ngày mai sẽ lên đường.
Quan Công thấy Thực mời đón ân cần, bèn mời hai chị vào thành.
Trong nhà khách xếp đặt chu tất. Thực mời Quan Công đi dự tiệc, Quan Công cáo từ, Thực sai người đưa cỗ đến nhà khách. Quan Công vì đi đường nhọc mệt, mời hai chị ăn cơm chiều xong, để hai chị nghỉ ở phòng chính; sai những người tùy tùng đi nghỉ, cho ngựa ăn. Quan Công cũng cởi áo giáp nghỉ ngơi.
Thực mật gọi tùng sự Hồ Ban:
– Quan Công đi trốn, giữa đường lại giết thái thú và tướng giữ quan, phạm tội đáng chết. Người ấy vũ dũng khó địch nổi. Đêm nay ngươi đem một nghìn quân vây kín nhà khách, mỗi người một bó đuốc, đợi đến canh ba, nhất tề phóng hỏa. Không phân biệt ai, đốt chết hết. Ta tự đem quân ứng tiếp.
Hồ Ban vâng lời điểm quân sĩ, ngầm đem củi khô chất đầy chung quanh nhà khách, hẹn giờ khởi sự.
Hồ Ban bụng nghĩ:
– Ta nghe tiếng Quan Vân Trường đã lâu nhưng chưa biết mặt, để ta sẽ vào ghé dòm xem sao.
Bèn rón rén vào trong nhà khách, hỏi dịch lại:
– Quan tướng quân ngồi đâu?
Lại nói:
– Ngài đang ngồi trên sảnh đường xem sách.
Hồ Ban sẽ rón rén lại tận nơi, thấy Quan Công tay trái vuốt râu đương ngồi dựa kỉ, chong đèn xem sách.
Ban thất kinh nói:
– Thực là người giời!
Quan Công nghe nói bèn hỏi:
– Ai đó?
Hồ Ban bước ngay vào thụp xuống lạy mà rằng:
– Tôi là Hồ Ban tùng sự quan thái thú Huỳnh Dương.
Quan Công hỏi:
– Có phải ngươi là con Hồ Hoa ở Hứa Đô không?
Ban thưa:
– Vâng.
Quan Công bảo người nhà mở khăn gói lấy thư đưa cho Ban. Ban xem xong, than rằng:
– Tí nữa tôi hại nhầm người trung nghĩa.
Rồi mật bảo:
– Vương Thực mang lòng bất nhân muốn hại tướng quân, đã sai quân vây kín nhà khách, hẹn đến canh ba phóng hỏa. Nay tôi xin đi trước mở cửa thành, tướng quân nên thu xếp đi ngay.
Quan Công cả sợ vội vàng mặc áo giáp cầm đao lên ngựa, mời hai chị lên xe. Vừa ra khỏi cửa, quả nhiên thấy quân sĩ mỗi đứa đã cầm một bó lửa đứng chờ. Quan Công đến cửa thành, thấy mở cửa, giục xa trượng cấp tốc chạy ra cho nhanh
Bấy giờ Hồ Ban quay về phóng hỏa.
Quan Công đi chưa được vài dặm, ngoảnh lại thấy lửa sáng rực, đằng sau có ngựa đuổi theo. Vương Thực đi trước, gọi to:
– Quan Vũ đừng chạy!
Quan Công dừng ngựa lại mắng:
– Thằng đểu kia! Ta với mi có thù gì nhau, sao mi lại sai người phóng hỏa định hại ta?
Vương Thực vác giáo lại đánh, bị Quan Công chém ngang lưng đứt làm hai đoạn. Người ngựa chạy tan cả.
Quan Công thúc xa trượng đi mau. Đi đường nghĩ cám ơn Hồ Ban mãi.
Quan Công đi đến đầu địa giới Hoạt Châu, có người báo với Lưu Diên. Diên dẫn vài mươi quân kị ra ngoài thành đón.
Quan Công ngồi trên ngựa cúi mình nói:
– Quan thái thú lâu nay vẫn được mạnh khỏe?
Diên nói:
– Nay ông định đi đâu?
Quan Công nói:
– Tôi từ biệt thừa tướng, đi tìm gia huynh.
Diên nói:
– Huyền Đức nay ở chỗ Viên Thiệu, Thiệu là kẻ thù của thừa tướng, sao lại để ông đi?
Quan Công nói:
– Trước đã giao hẹn như thế.
Diên nói:
– Nay bến Hoàng Hà, bộ tướng của Hạ Hầu Đôn là Tần Kỳ coi giữ, e không để ông qua đò.
Quan Công nói:
– Quan thái thú cho nhờ thuyền có được không?
Diên nói:
– Tôi tuy có thuyền nhưng không dám cho ông mượn.
Quan Công nói:
– Trước tôi giết Nhan Lương, Văn Sú giải vây cho túc hạ, nay muốn mượn mấy chiếc thuyền mà không cho là cớ làm sao?
Diên nói:
– Chỉ sợ Hạ Hầu Đôn biết, sẽ bắt tội tôi.
Quan Công biết Diên là người vô dụng nên cứ cho đẩy xe đi thẳng.
Đi đến cửa sông Hoàng Hà, Tần Kỳ dẫn quân ra hỏi:
– Người đến kia là ai?
Quan Công nói:
– Hán Thọ đình hầu Quan mỗ.
Kỳ hỏi:
– Đi đâu?
Quan Công nói:
– Ta muốn sang Hà Bắc tìm anh là Lưu Huyền Đức, xin cho nhờ bến đò.
Kỳ hỏi:
– Có công văn của thừa tướng không?
Quan Công nói:
– Ta không chịu quyền phép của thừa tướng, còn có công văn gì?
Kỳ nói:
– Ta vâng lệnh Hà Hầu tướng quân giữ cửa ải này. Người dù có cánh cũng không bay qua được!
Quan Công nổi giận nói:
– Ta đã giết những đứa ngăn trở ta giữa đường, mi có biết không?
Kỳ nói:
– Mi chỉ giết những đứa hèn vô danh chứ mi dám giết ta à?
Quan Công lại nói:
– Mày đã bằng Nhan Lương, Văn Sú chưa?
Tần Kỳ cả giận, tế ngựa lại đánh. Hai ngựa gặp nhau mới được một hiệp, đao Quan Công vừa giơ lên, đầu Tần Kỳ đã rơi xuống.
Quan Công bảo quân sĩ:
– Kẻ ngăn ta đã chết rồi, các ngươi không có việc gì phải sợ mà chạy. Kiếm ngay cho ta mấy chiếc thuyền để ta qua sông.
Quân sĩ vội vàng chở thuyền vào bờ. Quan Công mời hai phu nhân xuống thuyền, qua sông Hoàng Hà. Từ đây thuộc về đất của Viên Thiệu.
Tính ra Quan Công đi quan có năm cửa quan, giết cả thảy sáu tướng. Đời sau có thơ khen rằng:
Treo ấn phong vàng giã tướng Tào
Tìm anh dấn bước dạ xôn xao…
Xông pha nghìn dặm bon chân ngựa
Xung đột năm quan múa lưỡi dao
Trời đất chứa chan lòng tiết nghĩa
Núi non lừng lẫy tiếng anh hào.
Một mình chém tướng ai đương nổi?
Để vịnh xưa nay kể xiết bao!
Quan Công vừa đi vừa than:
– Ta nào muốn giết người ở dọc đường làm chi. Việc làm vừa rồi đều là bất đắc dĩ cả. Nếu Tào Công biết, tất trách ta là người phụ ân.
Đương đi, chợt thấy một người phi ngựa từ đằng bắc đến gọi to:
– Vân Trường hãy đứng lại.
Quan Công dừng ngựa lại xem, thì là Tôn Càn.
Quan Công hỏi:
– Từ khi xa nhau ở Nhữ Nam, tin tức bấy nay thế nào?
Tôn Càn nói:
– Từ khi tướng quân rút quân về, Lưu Tích, Cung Đô lại cướp lại Nhữ Nam, sai tôi sang Hà Bắc kết hiếu với Viên Thiệu, mời Huyền Đức cùng bàn kế phá Tào Tháo. Không ngờ tướng sĩ Hà Bắc ghen ghét nhau. Điền Phong thì vẫn còn ở tù, Thư Thụ thì bị bãi chức; Thẩm Phôi, Quách Đồ thì tranh nhau quyền hành. Thiệu tính hay ngờ vực, không có quyết đoán. Tôi cùng hoàng thúc bàn bạc phải tìm kế thoát thân. Nay hoàng thúc đã sang Như Nam hợp sức với Lưu Tích, Cung Đô rồi. Sợ tướng quân chưa biết, lại đến chỗ Viên Thiệu, e bị hại chăng, nên hoàng thúc sai tôi đi đón tướng quân, may gặp được ở đây, mời tướng quân về ngay Nhữ Nam gặp hoàng thúc.
Quan Công đưa Tôn Càn đến chào hai phu nhân. Hai phu nhân hỏi rõ tin tức. Tôn Càn nói:
– Hai lần Viên Thiệu toan giết hoàng thúc, nay may thoát thân đã đến Nhữ Nam rồi. Hai phu nhân có thể đến gặp hoàng thúc ở đấy.
Hai phu nhân đều bưng mặt khóc.
Quan Công nghe lời Tôn Càn, không sang Hà Bắc, đi tắt về Nhữ Nam. Đang đi, đằng sau cát bụi bay mù, một toán người ngựa đuổi theo, đi đầu là Hạ Hầu Đôn. Đôn gọi to:
– Quan Vũ đừng chạy!
Ấy là:
Sáu tướng ngăn đường vừa chịu chết
Một quân đuổi theo lại đua gươm.
Muốn biết Quan Công thoát thân thế nào, xem hồi sau sẽ rõ.
Quan Công cùng Tôn Càn đưa hai phu nhân sang Nhữ Nam, không ngờ Hạ Hầu Đôn đem ba trăm quân kị mã đuổi theo. Tôn Càn bảo vệ xa trượng đi trước. Quan Công quay ngựa lại bảo Hạ Hầu Đôn:
– Mi lại đuổi ta làm mất cả lượng khoan hồng của thừa tướng!
Hạ Hầu Đôn nói:
– Thừa tướng không có công văn truyền báo. Mi đi dọc đường giết người, lại giết cả bộ tướng của ta, rất là vô lễ. Phen này ta quyết bắt mi giải về để thừa tướng xét xử.
Nói xong, tế ngựa vác giáo toan đánh Quan Công. Chợt thấy đằng sau một người cưỡi ngựa chạy đến, nói to:
– Không được đánh nhau với Vân Trường!
Quan Công dừng cương ngựa lại. Sứ giả thò tay vào bọc lấy tờ công văn ra, bảo Hạ Hầu Đôn rằng:
– Thừa tướng kính yêu Vân Trường là người trung nghĩa, sợ qua các quan có việc ngăn trở, nên sai tôi đem công văn này báo khắp nơi.
Đôn hỏi:
– Thế Quan Vũ đi đường giết mấy tướng giữ ải, việc ấy thừa tướng đã biết chưa?
Sứ thưa:
– Việc ấy thừa tướng chưa biết.
Đôn nói:
– Thế thì ta phải bắt sống nó đem về trình thừa tướng mới được, rồi thừa tướng có tha thì tha.
Quan Công nói:
– Ta há sợ mi à?
Rồi vỗ ngựa cầm đao sấn vào đánh Đôn. Đôn cầm giáo nghênh địch. Hai người đánh nhau được mười hiệp, lại có một người phi ngựa đến nói to:
– Hai tướng quân hãy dừng tay!
Đôn chống giáo hỏi:
– Thừa tướng bảo bắt Quan mỗ phải không?
Sứ giả thưa:
– Không phải! Thừa tướng sợ các tướng giữ cửa quan ngăn cản Quan tướng quân, nên sai tôi đem công văn đến báo các nơi cứ để Quan tướng quân đi.
Đôn lại hỏi:
– Thế việc nó giết người, thừa tướng đã biết chưa?
Sứ giả nói:
– Chưa.
Đôn nói:
– Nếu thừa tướng chưa biết thì không thể tha được.
Đôn chỉ huy quân sĩ vây lấy Quan Công. Quan Công giận lắm, múa đao lại đánh. Hai bên sắp sửa giao chiến, bỗng sau trận có một người tế ngựa lại gọi to:
– Vân Trường, Nguyên Nhượng đừng đánh nhau nữa!
Hai người cùng trông ra xem ai, thì là Trương Liêu. Hai bên đều ghìm ngựa lại. Trương Liêu lại gần nói:
– Phụng chỉ thừa tướng: Vì biết Vân Trường đi đường có vượt qua mấy cửa quan giết mấy tướng, thừa tướng sợ Vân Trường đi đường bị ngăn trở, nên sai tôi đi truyền dụ các ải cứ để cho Vân Trường đi.
Hạ Hầu Đôn nói:
– Tần Kỳ là cháu Sái Dương, hắn đem gửi ta, nay bị Quan Công giết, Sái Dương sao chịu để yên?
Liêu nói:
– Tôi gặp Sái tướng quân, sẽ có cách phân giải. Thừa tướng đã có lượng khoan dung để cho Vân Trường đi, ông không nên trái lệnh thừa tướng.
Hạ Hầu Đôn đành rút quân về.
Liêu hỏi Quan Công:
– Vân Trường nay muốn đi đâu?
Quan Công nói:
– Tôi nghe anh tôi bây giờ không ở lại chỗ Viên Thiệu nữa nên định đi tìm khắp thiên hạ.
Liêu nói:
– Nếu chưa biết Huyền Đức ở đâu, hãy trở về gặp thừa tướng đã, anh nghĩ thế nào?
Quan Công cười nói:
– Có lẽ đâu lại thế! Văn Viễn về gặp thừa tướng làm ơn tạ tội cho tôi.
Nói rồi vái chào Trương Liêu, từ biệt.
Trương Liêu và Hạ Hầu Đôn đem quân về.
Quan Công theo kịp xa trượng, nói chuyện lại với Tôn Càn. Hai người giong ngựa ngang nhau cùng đi.
Đi được vài ngày, bỗng gặp cơn mưa to, hành trang ướt cả. Trông xa bên chân núi chỉ có một cái trại. Quan Công dẫn xa trượng vào đó xin nghỉ trọ.
Trong nhà một ông già ra đón. Quan Công kể rõ sự tình. Ông già nói:
– Tôi họ Quách tên Thường, đời đời ở đây. Được nghe thấy tiếng ngài đã lâu, nay được bái kiến thật là may mắn.
Nói rồi sai giết dê làm rượu thết đãi, mời hai phu nhân vào tạm nghỉ ở nhà trong. Quách Thường ngồi tiếp Quan Công và Tôn Càn ở nhà ngoài uống rượu. Một bên hơ đồ hành lí; một bên cho ngựa ăn uống.
Đến lúc trời sâm sẩm tối, thấy một chàng trẻ tuổi đem vào người vào, đi thẳng lên nhà. Quách Tường gọi bảo:
– Con lại đây bái kiến tướng quân.
Nhân nói với Quan Công:
– Đây là con trai tôi.
Quan Công hỏi:
– Đi đâu về?
Thường nói:
– Cháu đi săn bắn mới về.
Người con trai chào qua Quan Công, rồi lại xuống thềm đi mất. Quách Thường khóc nói:
– Nhà lão phu xưa nay chuyên nghề cày ruộng đọc sách, chỉ sinh được một đứa con trai này, nó chẳng chăm lo việc nhà, chỉ mê chơi bời săn bắn, thực không may cho nhà lão phu!
Quan Công nói:
– Nay đương thời hạn, nếu tinh thông nghề võ, cũng có thể lập được công danh, sao lại gọi là không may?
Thường nói:
– Nếu nó chuyên tập nghề võ, thì là người có chí, nhưng nay nó chỉ dông dài, lêu lổng, bởi thế lão phu rất lấy làm lo.
Quan Công nghe chuyện cũng ái ngại cho ông cụ.
Đến canh khuya, Quách Thường cáo từ đi ra. Quan Công cùng Tôn Càn sắp đi ngủ, chợt nghe đằng sau nhà có tiếng ngựa hí người kêu.
Quan Công vội gọi người nhà, chẳng thấy ai thưa, liền cùng Tôn Càn cầm gươm đi ra xem, thì thấy con Quách Thường ngã quay dưới đất, kêu la rầm rĩ, người nhà thì đang đánh nhau với một bọn trang khách. Quan Công hỏi cớ làm sao, người nhà thưa:
– Anh này toan lại ăn trộm ngựa Xích Thố, bị ngựa đá ngã, chúng tôi nghe thấy tiếng kêu, chạy lại xem, thì những người này lại đến đánh chúng tôi.
Quan Công giận nói:
– Đồ chuột nhắt sao dám trộm ngựa của ta?
Rồi toan lại đánh cho một trận. Quách Thường chạy đến kêu van:
– Thằng con lão phu hư hỏng dám làm việc càn bậy này, tội nó được đáng chết. Nhưng vợ già tôi rất thương yêu nó, xin tướng quân rủ lòng nhân từ tha tội cho nó.
Quan Công nói:
– Thằng bé này thực là hư hỏng, như lời ông vừa nói: Thực đúng với câu cổ ngữ: “Biết con không ai bằng cha”. Thôi nể ông tôi hãy tha cho nó.
Bèn bảo người nhà trông ngựa cẩn thận, đuổi bọn trang khách, rồi cùng Tôn Càn vào nhà khách nghỉ.
Hôm sau vợ chồng Quách Thường ra lạy ở dưới thềm, xin lỗi:
– Đứa con dại chúng tôi xúc phạm oai hùm, nhờ ơn tướng quân tha thứ, chúng tôi cảm tạ vô cùng.
Quan Công bảo:
– Gọi nó ra đây để ta lấy lẽ phải dạy bảo nó.
Thường nói:
– Canh tư đêm hôm qua, nó cùng mấy đứa vô lại dắt nhau đi đâu rồi.
Quan Công tạ biệt Quách Thường, mời hai chị lên xe cùng Tôn Càn sánh ngựa bảo vệ xa trượng, đi theo đường núi.
Đi ước được ba mươi dặm, thấy đằng sau núi có hơn một trăm người kéo ra, hai người đi đầu cưỡi ngựa, một người đầu đội khăn vàng, mình mặc áo chiến; một người chính là con Quách Thường. Người khăn vàng nói rằng:
– Ta là bộ tướng của Thiên công tướng quân Trương Giác. Người kia để ngựa Xích Thố lại, thì ta tha cho đi.
Quan Công nghe nói cười to nói:
– Bọn giặc điên kia! Đã đi theo Trương Giác, hẳn có biết tiếng ba anh em Lưu, Quan, Trương?
Người khăn vàng nói rằng:
– Ta chỉ biết tiếng người mặt đỏ râu dài là Quan Vân Trường, nhưng ta chưa thấy mặt bao giờ. Mi là người nào?
Quan Công cắp đao, dừng ngựa, cởi túi râu ra, vuốt cho mà coi. Người ấy vội vàng nhảy xuống ngựa, nắm đầu con Quách Thường, lôi lại nộp trước ngựa Quan Công. Quan Công hỏi họ tên, người ấy thưa:
– Tôi họ Bùi tên là Nguyên Thiệu, từ khi Trương Giác chết đến giờ, không có ai làm chủ, phải vào tụ tập trong núi rừng. Sớm hôm nay, thằng này mách tôi rằng có một người khách cưỡi con ngựa đi nghìn dặm, ngủ trọ nhà nó, nó rủ tôi đi ăn cướp ngựa. Không ngờ lại gặp được tướng quân.
Con Quách Thường cũng phục xuống lạy xin tha tội. Quan Công nói:
– Ta nể mặt bố mày mà tha cho mày.
Con Quách Thường ôm đầu thui thủi đi mất. Quan Công hỏi Nguyên Thiệu:
– Ngươi không biết mặt ta sao lại biết tiếng?
Nguyên Thiệu thưa:
– Cách đây hai mươi dặm, có núi Ngọa Ngưu. Trong núi có một người ở Quan Tây, họ Châu tên Thương, hai cánh tay nhấc nổi nghìn cân, bắp thịt cứng, râu xồm, hình dáng dữ tợn, nguyên là bộ hạ Trương Bảo. Từ khi Trương Bảo chết, Châu Thương tụ tập trong rừng, thường nói đến đại danh tướng quân, tiếc rằng không có cách nào được gặp.
Quan Công nói:
– Rừng xanh không phải là nơi hào kiệt nương mình. Các ông từ rày nên bỏ tà theo chính, đừng có tự làm phí mất thân mình.
Nguyên Thiệu lạy tạ.
Trong khi đang nói chuyện, thấy ở đằng xa có một toán quân kéo đến. Nguyên Thiệu nói:
– Đó hẳn là Châu Thương.
Quan Công dừng lại, thấy một người mặt đen, mình cao lớn, cưỡi ngựa vác giáo dẫn quân đến, trông thấy Quan Công vừa mừng vừa sợ, nói ngay rằng:
– Đây là Quan tướng quân rồi!
Rồi vội vàng xuống ngựa, thụp lạy bên đường, nói:
– Tôi là Châu Thương xin bái kiến tướng quân!
Quan Công nói:
– Tráng sĩ đã biết ta ở nơi nào vậy?
Châu Thương thưa:
– Khi xưa tôi theo giặc Khăn Vàng là Trương Bảo, đã được biết tôn nhan, tiếc rằng mình trót theo giặc, không được theo hầu. Ngày nay may được bái kiến ở đây, tướng quân đừng ruồng bỏ, cho làm lính bộ, sớm tối cầm roi theo sau ngựa, dẫu chết cũng cam tâm.
Quan Công thấy Châu Thương lòng rất thành thực, hỏi:
– Ngươi theo ta, còn thủ hạ của ngươi thì làm thế nào?
Châu Thương nói:
– Ai muốn theo thì theo, bằng không thì tùy ý.
Mọi người đều xin đi theo cả. Quan Công vội vàng xuống ngựa, đến trước xe bẩm hỏi hai chị. Cam phu nhân nói:
– Từ khi chú rời Hứa Đô, một mình đi đến đây trải bao nhiêu gian nan, chưa từng cần có quân mã đi theo. Trước kia Liêu Hóa muốn đi theo, chú cũng từ chối, nay sao lại cho quân Châu Thương đi theo? Đó là thiển kiến của chị em đàn bà chúng tôi, xin tùy ý chú suy xét.
Quan Công nói:
– Chị nói rất phải.
Bèn bảo Châu Thương rằng:
– Không phải ta không có tình, nhưng vì hai phu nhân không ưng, các ngươi hãy về núi, đợi khi nào ta tìm thấy anh ta, bấy giờ sẽ sai người đi gọi.
Châu Thương dập đầu xuống đất nói:
– Châu Thương là một kẻ thô mãng, đã lỡ bước đi theo giặc; nay được gặp tướng quân, khác nào được trông thấy trời và mặt trời, sao lại bỏ lỡ cơ hội này? Nếu đông người đi theo không tiện, xin cho chúng ở lại với Nguyên Thiệu, còn tôi chỉ xin một mình đi bộ theo tướng quân, dẫu đường xa muôn dặm cũng không quản ngại.
Quan Công lại đem lời ấy bẩm với hai chị. Cam phu nhân nói:
– Một vài người theo thì được.
Quan Công sai Châu Thương giao cả quân cho Bùi Nguyên Thiệu. Nguyên Thiệu nói:
– Ta cũng muốn theo Quan tướng quân.
Châu Thương nói:
– Nếu anh cũng đi, thì quân tan hết, chi bằng anh hãy tạm thống lĩnh lấy, để tôi đi theo Quan tướng quân, hễ có đóng ở đâu, tôi sẽ về gọi anh.
Nguyên Thiệu bùi ngùi từ biệt.
Châu Thương theo Quan Công sang Nhữ Nam. Đi được vài ngày, trông xa xa trên đỉnh núi, có một tòa thành, Quan Công hỏi thổ dân là thành nào? Thổ dân nói:
– Đây gọi là Cổ Thành. Mấy tháng trước có một tướng, tên gọi Trương Phi, dẫn vài mươi quân kị đến, đuổi quan huyện đi, chiếm lấy thành trì, mộ quân tậu ngựa, chứa cỏ tích lương, nay có đến năm ba nghìn quân mã. Chung quanh đây không ai dám chống lại.
Quan Công nghe nói, mừng rỡ vô cùng:
– Em ta từ khi ở Từ Châu thất tán, lâu nay vẫn không biết ở đâu, ai ngờ lại hóa ra ở đây!
Liền sai ngay Tôn Càn vào thành báo tin, bảo Trương Phi ra đón hai chị.
Trương Phi từ khi trốn vào núi Mang Đăng, ở hơn một tháng. Một bữa ra ngoài nghe ngóng tin tức Huyền Đức, chợt đi qua Cổ Thành, vào huyện vay lương thực. Quan huyện không cho vay, Phi nổi giận đuổi ngay quan huyện đi, cướp lấy ấn thụ, chiếm lấy thành trì, tạm lấy chốn nương thân.
Hôm ấy, Tôn Càn theo lệnh Quan Công vào thành ra mắt Trương Phi, thi lễ xong, nói chuyện Huyền Đức đã bỏ Viên Thiệu sang Nhữ Nam, Vân Trường thì ở Hứa Đô vừa đưa hai phu nhân đến đây. Rồi mời Trương Phi ra đón.
Phi nghe xong, chẳng nói năng gì, lập tức mặc áo giáp vác mâu lên ngựa, dẫn một nghìn quân, đi tắt ra cửa bắc. Tôn Càn thấy lạ nhưng không dám hỏi, cũng phải theo ra thành.
Quan Công trông thấy Trương Phi ra, mừng rỡ vô cùng, giao long đao cho Châu Thương cầm, tế ngựa lại đón. Trương Phi mắt tròn xoe râu vểnh ngược, hò thét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công.
Quan Công giật mình, vội tránh mũi mâu, hỏi:
– Hiền đệ cớ sao thế, há quên nghĩa vườn đào ru?
Trương Phi hầm hầm quát:
– Mày đã bội nghĩa còn mặt nào đến gặp ta nữa?
Quan Công nói:
– Ta làm sao mà bội nghĩa?
Trương Phi nói:
– Mày bỏ anh, hàng Tào Tháo được phong hầu phong tước, nay lại đến đây đánh lừa ta! Phen này ta quyết liều sống chết với mày.
Quan Công nói:
– Chuyện này em không biết, ta cũng khó nói. May có hai chị ở đây, em đến mà hỏi.
Hai phu nhân nghe thấy thế, vội vàng vén màn xe, gọi:
– Chú ba sao lại thế?
Phi nói:
– Xin hai chị hãy thong thả, để tôi giết thằng phụ nghĩa này đã, rồi sẽ mời hai chị vào thành.
Cam phu nhân nói:
– Khoan đã chú ba, khoan đã! Chớ hấp tấp mà làm càn bây giờ. Chú hai không biết tin tức mọi người ở đâu, nên phải tạm nương mình bên Tào. Nay đã biết anh nhà ở Nhữ Nam, không ngại hiểm trở, đưa lũ ta đến đây. Chú không được nghĩ lầm như thế.
My phu nhân nói:
– Chú hai trước ở Hứa Đô, thực là bất đắc dĩ.
Phi nói:
– Hai chị bị nói lừa dối đấy. Trung thần mà chịu chết không chịu nhục. Có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ!
Quan Công nói:
– Hiền đệ đừng nói vậy, oan uổng cho anh quá!
Tôn Càn nói:
– Vân Trường đến đây là cốt để tìm tướng quân.
Trương Phi mắng:
– Mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó lại đây là để bắt ta đó!
Quan Công nói:
– Nếu ta đến bắt em, tất phải đem theo quân mã chứ!
Trương Phi trỏ tay đằng xa nói:
– Không phải quân mã là gì kia?
Quan Công ngoảnh đầu lại, quả nhiên thấy bụi bay mù mịt, một toán quân mã kéo đến, cờ hiệu phấp phới chính là cờ Tào. Trương Phi nổi giận nói:
– Bây giờ còn chối nữa thôi?
Rồi múa bát xà mâu hăm hở lại đâm Quan Công. Quan Công vừa đỡ vừa can:
– Hiền đệ hãy khoan, xem ta chém tên tướng ấy, để tỏ lòng thực của ta.
Trương Phi nói:
– Nếu mày có lòng thực, ta đánh ba hồi trống mày phải chém được tên tướng ấy.
Quan Công nhận lời. Một lát quân Tào kéo đến. Sái Dương đi đầu, vác đao tế ngựa chạy lại, quát to:
– Mày giết cháu ta là Tần Kỳ, lại trốn đến đây, ta phụng mệnh thừa tướng đến bắt mày.
Quan Công chẳng nói một lời, múa long đao xô lại. Trương Phi thẳng cánh đánh trống, chưa dứt một hồi, đầu Sái Dương đã lăn xuống đất.
Quân Tào chạy tan tác. Quan Công bắt một tên lính cầm cờ hiệu hỏi chuyện đầu đuôi. Tên lính thưa:
– Sái Dương nghe tin tướng quân giết mất cháu ngoại là Tần Kỳ, nổi giận đùng đùng, muốn sang Hà Bắc đánh nhau với tướng quân. Thừa tướng không cho đi, nên sai Sái Dương sang Nhữ Nam đánh Lưu Tích, không ngờ đến đây lại gặp tướng quân.
Quan Công sai tên lính kể chuyện ấy cho Trương Phi nghe. Phi hỏi kĩ việc ở Hứa Đô, tên lính kể hết nông nỗi từ đầu đến cuối, bấy giờ Trương Phi mới tin anh là thực.
Giữa lúc ấy, có quân đến báo:
– Ngoài cửa nam có vài mươi quân kị mã đi lại rất khẩn cấp không biết là những người nào?
Phi lấy làm hồ nghi, chạy ra cửa nam xem, quả thấy một toán mươi quân kị mã đeo cung nhẹ, cài tên ngắn, chạy lại. Thấy Phi, chúng vội vàng xuống ngựa. Phi nhìn ra thì là My Chúc và My Phương.
Trương Phi xuống ngựa chào hỏi, Chúc nói:
– Từ khi ở Từ Châu thất tán, hai anh em tôi trốn nạn về làng ở, sai người đi dò thăm tin tức, biết Quan Vân Trường đã hàng Tào Tháo, chúa công thì ở Hà Bắc; lại nghe nói Giản Ung cũng sang Hà Bắc rồi. Nhưng lại không biết tướng quân ở đây. Bữa nọ, gặp một bọn khách đi đường, nói chuyện có một tướng họ Trương, hình dáng như thế, chiếm cứ Cổ Thành. Anh em tôi đoán tất là tướng quân, nên lại đây tìm hỏi. Thực là may quá!
Phi nói:
– Vân Trường cùng Tôn Càn vừa đưa hai chị đến đây. Anh ta bây giờ ở đâu, ta cũng biết cả rồi.
Hai anh em họ My mừng rỡ vô cùng, cùng đến chào Quan Công, và bái kiến hai phu nhân.
Phi mời hai chị vào thành.
Vào đến nhà, hai bà mới kể lại những việc Quan Công đã trải qua. Trương Phi nghe hết chuyện, rỏ nước mắt khóc, thụp xuống lạy Vân Trường. Hai anh em My Chúc, My Phương thấy vậy cũng động lòng thương cảm.
Trương Phi cũng đem chuyện mình từ khi xa nhau đến giờ ra kể, rồi sai mở tiệc yến lớn ăn mừng.
Hôm sau Trương Phi muốn đi với Quan Công đến Nhữ Nam gặp Huyền Đức.
Quan Công nói:
– Hiền đệ nên trông coi hai chị, tạm đóng quân ở thành này, đợi tôi cùng Tôn Càn đi trước, thăm dò tin tức huynh trưởng đã.
Phi vâng lời. Quan Công cùng Tôn Càn dẫn vài mươi quân kị mã đến Nhữ Nam.
Lưu Tích, Cung Đô ra đón. Quan Công hỏi:
– Hoàng thúc ở đâu?
Lưu Tích nói:
– Hoàng thúc đến đây ở được vài tháng, vì thấy quân ít lại sang Hà Bắc thương lượng với Viên Bản Sơ.
Quan Công bực dọc không vui.
Tôn Càn nói:
– Việc gì tướng quân phải lo buồn? Tôi lại chịu khó đi một phen nữa sang Hà Bắc, nói với hoàng thúc cùng đến Cổ Thành.
Quan Công nghe lời Tôn Càn, từ biệt Lưu Tích, Cung Đô, về Cổ Thành, thuật chuyện lại với Trương Phi. Trương Phi lại đòi cùng sang Hà Bắc. Quan Công nói:
– Duy có một thành này là nơi chúng ta yên thân, chưa nên bỏ mà đi. Hiền đệ nên ở lại đây, để anh cùng Tôn Càn sang bên Viên Thiệu tìm huynh trưởng về đây tụ họp. Hiền đệ nên giữ vững thành này.
Trương Phi nói:
– Anh đã chém mất Nhan Lương, Văn Sú của Viên Thiệu, nay lại sang đó sao được?
Quan Công nói:
– Không ngại, anh đến đó, sẽ tùy cơ ứng biến.
Bèn gọi Châu Thương hỏi:
– Bùi Nguyên Thiệu ở núi Ngọa Ngưu, có bao nhiêu quân mã?
Thương thưa:
– Ước được bốn năm trăm.
Quan Công nói:
– Nay ta đi tắt đường gần, tìm huynh trưởng. Ngươi nên về núi Ngọa Ngưu, bảo đem hết cả quân mã ở đây đi đường cái to đón ta.
Châu Thương lĩnh mệnh đi.
Quan Công cùng Tôn Càn đem hơn hai mươi quân kị mã đi tắt sang Hà Bắc. Khi đến gần đầu địa giới, Tôn Càn nói:
– Tướng quân không nên vào vội, hãy tạm nghỉ ở đây, chờ tôi ra mắt hoàng thúc trước, rồi thế nào sẽ hay.
Quan Công y lời, để Tôn Càn đi trước. Rồi trông ở làng xa có một cái trại, bèn cùng các người tùy tùng vào đó xin nghỉ trọ.
Trong nhà có một ông già chống gậy ra chào hỏi. Quan Công lấy chuyện thực ra nói, ông già nói:
– Tôi cũng họ Quan tên Định, nghe thấy tiếng tăm của ngài đã lâu, nay mới được bái kiến.
Ông già sai hai con ra lạy, mời Quan Công và các người tùy tùng vào trong nhà khoản đãi tử tế.
Tôn Càn một mình vào Ký Châu, tìm được đến Huyền Đức nói rõ mọi việc.
Huyền Đức nói:
– Giản Ung cũng ở đây. Nên mật mời đến cùng bàn.
Một lát Giản Ung đến. Chào hỏi xong, cùng bàn kế thoát thân. Ung nói:
– Chúa công ngày mai gặp Viên Thiệu, nói xin sang Kinh Châu, nhủ Lưu Biểu cùng đánh Tào Tháo, thế là có thể thừa cơ đi thẳng.
Huyền Đức hỏi:
– Kế ấy thực diệu, nhưng ông có đi theo được không?
Giản Ung thưa:
– Tôi sẽ có kế thoát thân.
Bàn định đâu đấy, hôm sau Huyền Đức vào gặp Viên Thiệu nói:
– Lưu Cảnh Thăng trấn giữ chín quận Kinh, binh mạnh lương nhiều. Ta nên hẹn với y để cùng đánh Tào Tháo.
Thiệu nói:
– Ta sai sứ đến rủ hắn, nhưng hắn chưa chịu nghe.
Huyền Đức nói:
– Lưu Biểu vốn đồng tông với tôi, tôi xin đi nói, tất theo ngay.
Thiệu nói:
– Được Lưu Biểu, hơn Lưu Tích nhiều.
Rồi sai Huyền Đức đi, Thiệu lại nói:
– Mới đây ta nghe Quan Vân Trường đã bỏ Tào Tháo, muốn đến Hà Bắc. Ta phải giết đi để báo thù cho Nhan Lương, Văn Sú.
Huyền Đức nói:
– Minh công trước muốn dùng Quan Vũ, nên tôi gọi đến, nay sao minh công lại muốn giết đi? Vả Nhan Lương, Văn Sú chẳng qua chỉ bằng hai con hươu mà thôi. Quan Vũ bằng một con hổ. Mất hai hươu, được một hổ, minh công còn hối hận gì?
Thiệu cười nói:
– Ta vốn vẫn yêu Vân Trường, ta nói đùa đó thôi. Ông lại nên cho đi gọi một lần nữa, bảo đến cho nhanh.
Huyền Đức nói:
– Vâng, xin sai ngay Tôn Càn đi gọi
Thiệu mừng, theo lời ấy.
Khi Huyền Đức đi khỏi, Giản Ung bước lên thưa:
– Huyền Đức phen này đi, chắc không về nữa. Tôi xin cùng đi, trước là để dụ Lưu Biểu, sau là để kìm giữ Huyền Đức.
Thiệu lấy làm phải, sai ngay Giản Ung cùng đi với Huyền Đức.
Quách Đô can rằng:
– Lưu Bị đi dụ Lưu Tích chưa được việc gì, nay chúa công lại sai cùng Giản Ung đến Kinh Châu, chắc là không trở về nữa.
Thiệu nói:
– Ngươi chớ đa nghi, Giản Ung là người hiểu biết đấy.
Quách Đô thở dài trở ra.
Huyền Đức sai Tôn Càn đi trước về báo Quan Công rồi cùng Giản Ung từ biệt Viên Thiệu, lên ngựa ra thành.
Huyền Đức đi đến đầu địa giới, Tôn Càn ra đón mời về nhà Quan Định.
Quan Công ra cửa đón vào, hai người cầm tay nhau khóc lóc mãi.
Quan Định đem hai con ra lạy chào. Huyền Đức hỏi họ tên nhà chủ. Quan Công thưa:
– Người này cùng họ với em, có hai con trai: Con cả là Quan Ninh, học nghề văn; con thứ là Quan Bình, học nghề võ.
Quan Định nói:
– Ý tôi muốn cho con thứ hai theo hầu Quan tướng quân, chưa biết có được dung nạp không?
Huyền Đức hỏi:
– Quan Bình năm nay bao nhiêu tuổi?
Định thưa:
– Cháu năm nay mười tám tuổi.
Huyền Đức nói:
– Đa tạ nhã ý của bậc trưởng gia, em tôi chưa có con, nay muốn xin cậu thứ hai làm con nuôi, trưởng gia nghĩ thế nào?
Quan Định mừng lắm, đem ngay Quan Bình ra lạy Quan Công nhận làm bố, gọi Huyền Đức làm bá phụ.
Huyền Đức sợ Viên Thiệu cho người đuổi theo, vội vàng thu xếp để đi. Quan Bình theo Quan Công cùng đi một thể. Quan Định đi tiễn một thôi đường rồi trở về. Quan Công dặn đi theo đường đến núi Ngọa Ngưu.
Đang đi chợt gặp Châu Thương dẫn vài mươi người bị thương đến. Quan Công đem Châu Thương đến lạy Huyền Đức, rồi mới hỏi duyên cớ, Châu Thương nói:
– Khi tôi chưa đến núi Ngọa Ngưu có một tướng cưỡi ngựa qua đó, đánh nhau với Bùi Nguyên Thiệu, chỉ một hiệp, đâm chết Nguyên Thiệu, chiêu hàng quân sĩ chiếm giữ sơn trại. Khi tôi đến gọi quân sĩ ra, chỉ có mấy người dám ra, còn thì đều sợ hãi, không dám rời bỏ sơn trại. Tôi giận lắm, cùng với tướng ấy đánh nhau, tôi bị đâm ba vết thương, bởi vậy tôi chạy lại đây báo chúa công biết.
Huyền Đức hỏi tướng ấy hình dạng thế nào, họ tên là gì thì Châu Thương nói:
– Trông người rất hùng tráng, không biết tên họ là gì.
Quan Công thúc ngựa đi trước, Huyền Đức đi sau, đi tắt đến núi Ngọa Ngưu. Châu Thương đến đứng dưới núi, mắng chửi, tướng ấy mặc áo giáp, vác giáo tế ngựa đem quân xuống núi.
Huyền Đức trông thấy quất ngựa ra ngay gọi to:
– Có phải Triệu Tử Long đó không?
Tướng ấy thấy Huyền Đức, nhảy từ trên yên ngựa xuống đất, thụp lạy ở bên đường: Quả nhiên là Triệu Tử Long.
Huyền Đức, Quan Công cùng xuống ngựa, hỏi Tử Long căn do làm sao lại ở đó, Tử Long thưa:
– Tôi từ khi giã biệt sứ quân đi theo Công Tôn Toản, không ngờ Toản không chịu nghe lời phải, đến nỗi quân thua, phải tự đốt chết. Viên Thiệu mấy lần cho gọi tôi. Tôi cho Viên Thiệu cũng không biết dùng người, nên cũng chưa đến. Sau định sang Từ Châu theo tướng sứ quân thì lại nghe Từ Châu đã thất thủ. Vân Trường thì theo Tào Tháo; sứ quân thì thấy nói ở bên Viên Thiệu. Đã hai ba lần muốn đến để tìm sứ quân, nhưng lại sợ Viên Thiệu ngờ vực, long đong bốn bề, không có chỗ nào nương mình. Mới đi qua chỗ này, chợt gặp Bùi Nguyên Thiệu xuống núi toan cướp ngựa của tôi, nên tôi giết đi, nhân thế mượn chỗ yên thân. Gần đây nghe tin Dực Đức ở Cổ Thành, tôi cũng định đến đó, nhưng chưa biết thực hư thế nào. Nay gặp sứ quân ở đây thật là may quá.
Huyền Đức mừng lắm, kể lại chuyện trước, Quan Công cũng thuật lại những chuyện đã qua.
Huyền Đức lại nói:
– Từ khi ta mới gặp được Tử Long, đã có tình lư luyến, không bỏ được. Ngày nay lại được gặp, thực là may.
Triệu Tử Long nói:
– Tôi đã đi khắp bốn phương, chọn chủ để thờ, mà chưa từng thấy ai bằng tướng quân. Nay được theo hầu thực là mãn nguyện bình sinh; dẫu rằng gan góc lầm đất, cũng không hối hận gì.
Ngay hôm ấy đốt trại xuống núi, xuất lĩnh chúng quân theo cả Huyền Đức đến Cổ Thành.
Trương Phi, My Chúc, My Phương ra đón vào thành, chào chào, hỏi hỏi, mừng mừng, rỡ rỡ khôn xiết kể. Hai bà kể lại chuyện Quan Công, Huyền Đức than thở mãi.
Bấy giờ giết bò mổ ngựa, trước bái tạ trời đất, sau khao thưởng quân sĩ, Huyền Đức thấy anh em lại được sum họp một nơi, tướng tá chẳng thiếu người nào, lại thêm được Triệu Tử Long; Quan Công lại mới được Quan Bình, Châu Thương, vui mừng khôn xiết, yến tiệc liền mấy ngày. Đời sau có thơ rằng:
Ngăn nổi anh em cảnh biệt li,
Biệt vô âm tín đã bao kì!
Vua tôi nay lại mừng sum họp,
Hổ gió rồng mây chính gặp thi.
Bấy giờ Huyền Đức, Quan, Trương, Triệu Vân, Tôn Càn, My Chúc, My Phương, Quan Bình, Châu Thương thống lĩnh quân mã, cả thảy được bốn năm nghìn người.
Huyền Đức muốn bỏ Cổ Thành sang Nhữ Nam. Vừa khi Lưu Tích, Cung Đô sai người đến mời, bèn đem cả quân sang đóng ở Nhữ Nam, chiêu quân, tậu ngựa, lo tích việc đi đánh dẹp.
Trong khi ấy, Viên Thiệu thấy Huyền Đức không về, giận lắm muốn khởi binh đi đánh. Quách Đồ can rằng:
– Lưu Bị không đáng lo, Tào Tháo là kình địch phải trừ mới được. Lưu Biểu tuy giữ ở Kinh Châu; nhưng sức còn yếu. Tôn Bá Phù ở Giang Đông, uy trấn Tam Giang, đất liền sáu quận, mưu thần võ sĩ rất nhiều, nên sai người đến kết hiếu để cùng đánh Tào Tháo.
Thiệu nghe lời, lập tức viết thư, sai Trần Chấn đem sang Giang Đông gặp Tôn Sách.
Thế là:
Đất Hà Bắc anh hùng đi mất,
Xứ Giang Đông hào kiệt tìm ra.
Chưa biết sự thể về sau ra làm sao, xem đến hồi sau sẽ rõ.
Tôn Sách từ khi nối nghiệp bá ở Giang Đông, binh mạnh lương nhiều. Năm Kiến An thứ tư (một trăm chín mươi chín sau Thiên Chúa), đánh úp lấy Lư Giang, làm Lưu Huân bị thua, Sách sai Ngu Phiên đưa tờ hịch đến Dự Chương, thái thú Dự Chương là Hoa Hâm xin hàng. Từ đó thanh thế lừng lẫy, bèn sai Trương Hoành sang Hứa Đô, dâng biểu báo công thắng trận. Tào Tháo biết thế Sách cường thịnh, than rằng:
– Con sư tử non này, khó lòng địch lại được!
Tháo hẹn gả con gái Tào Nhân cho em Tôn Sách là Tôn Khuông, hai nhà thông gia với nhau, và lưu Trương Hoành ở lại Hứa Đô.
Bấy giờ thái thú Ngô Quận là Hứa Cống, mật sai sứ đến Hứa Đô, dâng thư cho Tào Tháo, nói rằng: “Tôn Sách kiêu dũng, cũng như Hạng Vũ ngày xưa, triều đình nên bề ngoài cho hầu được vinh sủng, gọi vào kinh đô không nên để cho hắn ở ngoài, làm mối lo về sau.”
Sứ giả mang thư qua sông, bị tướng giữ sông bắt được, giải nộp Tôn Sách. Sách xem thư, sai chém sứ giả rồi cho người giả tảng đi mời Hứa Cống đến bàn việc! Cống đến nơi Sách đưa thư cho xem, mắng:
– Mày muốn đưa ta đến chỗ chết à?
Rồi sai quân sĩ đem thắt cổ cho chết.
Họ hàng Hứa Cống trốn đi cả. Có ba người gia khách muốn báo thù cho Cống nhưng chưa gặp dịp nào thuận tiện.
Một hôm Tôn Sách đem quân đi săn ở Tây Sơn đất Đàn Đồ. Có một con hươu lớn chạy ra. Sách tế ngựa lên núi đuổi theo. Trong khi đang đuổi hươu, thấy trong đám rừng rậm, có ba người cầm giáo đeo cung đứng rình, Sách dừng ngựa lại hỏi:
– Các ngươi là ai?
Họ nói:
– Quân Hàn Đương săn hươu ở đây.
Sách vừa giựt cương ngựa sắp đi thì một người cầm giáo chạy lại, đâm vào đùi Tôn Sách. Sách cả sợ vội vàng rút gươm ra chém, chẳng may lưỡi gươm tụt rơi mất, chỉ còn cái vỏ trong tay. Một người giương cung bắn tên vào má Sách. Sách nhổ cái tên ra, lấy cung bắn trả lại, người theo tiếng dây cung ngã liền. Còn hai người kia vác giáo đến đâm Sách túi bụi và kêu to:
– Chúng ta là gia khách Hứa Cống, nay báo thù cho chủ đây.
Sách tay không, chỉ lấy cung chống đỡ, vừa đỡ vừa chạy. Hai người kia liều chết lăn vào đánh, không chịu lui. Mình Sách đã bị nhiều nhát giáo, ngựa cũng bị thương.
Đương khi nguy cấp, Trình Phổ dẫn quân đến, Sách kêu to:
– Giết giặc!
Trình Phổ dẫn quân kéo cả vào, bọn gia khách Hứa Cống bị băm nát như bùn.
Phổ nhìn Tôn Sách, thấy máu chảy đầy mặt, bị thương rất nặng, bèn lấy dao cắt áo bào buộc chỗ bị thương lại, đem về Ngô Hội dưỡng bệnh.
Người sau có thơ khen ba gia khách họ Hữu:
Tôn lang nổi tiếng chẳng ai bì,
Săn bắn không may gặp nạn nguy.
Gia khách báo thù cho họ Hứa,
Ngày xưa Dự Nhượng chẳng hơn gì!
Tôn Sách về đến phủ, sai người đi mời Hoa Đà đến chữa thuốc. Chẳng may Hoa Đà đi sang Trung Nguyên vắng, chỉ có học trò ở nhà, thay thầy đi thăm bệnh. Người học trò nói:
– Đầu tên có thuốc độc, đã ngấm vào xương, phải nghỉ ngơi trong một trăm ngày mới khỏi lo ngại. Nếu để cơn tức giận nổi lên, thì vết thương sẽ khó chữa.
Tôn Sách vốn nóng nảy, chỉ muốn khỏi bệnh ngay lập tức.
Mới nghỉ ngơi được vài mươi ngày, chợt nghe có sứ giả của Trương Hoành ở Hứa Đô về, Sách gọi đến hỏi. Sứ giả nói:
– Tào Tháo rất sợ chúa công, các mưu sĩ cũng đều kính phục, duy có Quách Gia là không phục.
Sách hỏi:
– Quách Gia nói những gì?
Sứ giả không dám nói. Sách tức lắm, cố hỏi gặng cho được. Sứ giả phải thưa thực:
– Quách Gia thường nói với Tào Tháo: “Chúa công không đáng sợ, vì hay khinh thường không biết phòng bị, nóng tính mà ít mưu. Ấy là sức mạnh của kẻ thất phu, thế nào cũng chết về tay bọn tiểu nhân mà thôi!”
Sách nghe nói giận lắm nói:
– Đứa thất phu sao dám chê ta! Ta thề lấy được Hứa Xương.
Bèn không đợi khỏi bệnh, muốn bàn khởi binh lập tức. Trương Chiêu can:
– Thầy thuốc đã dặn chúa công phải tĩnh dưỡng trong một trăm ngày. Nay vì cơn giận một lúc, mà chúa công khinh thường cái thân nghìn vàng, sao nên?
Đương lúc ấy, chợt báo Viên Thiệu sai sứ giả là Trần Chấn đến. Sách gọi vào hỏi việc gì. Chấn nói:
– Chủ tôi là Viên Bản Sơ muốn kết Đông Ngô làm ngoại ứng, cùng đánh Tào Tháo.
Sách mừng lắm, ngay hôm ấy họp các tướng ở nhà lầu trên thành, mở tiệc khoản đãi Trần Chấn.
Đương uống rượu, thấy các tướng thì thầm với nhau rồi rối rít xuống lầu. Sách ngạc nhiên, hỏi cớ làm sao, tả hữu thưa:
– Có vị thần tiên họ Vu đi qua dưới lầu, các tướng muốn xuống để lạy.
Sách đứng dậy, dựa bao lơn xem, thấy một đạo nhân, mình mặc áo lông hạc, tay cầm gậy gỗ lê, đứng ở giữa đường, dân gian đốt hương quỳ lạy dưới đất. Sách giận nói:
– Yêu nhân nào đó? Ra bắt vào đây cho ta.
Tả hữu thưa:
– Người ấy họ Vu tên Cát, ở phương đông, thường đi lại miền Ngô Hội, cho bùa và nước phép cứu bệnh cho người, không ai là không khỏi. Người ấy là thần tiên, không nên khinh nhờn.
Sách càng giận, quát to:
– Bắt ngay cho nhanh, ai trái lệnh sẽ bị chém!
Tả hữu bất đắc dĩ phải xuống dắt Vu Cát lên lầu:
Sách quát mắng:
– Quân tà đạo kia, sao dám làm mê hoặc lòng người?
Vu Cát thưa:
– Bần đạo vốn là đạo sĩ ở cung Lương Gia. Đời vua Thuận Đế (một trăm hai mươi sáu đến một trăm bốn mươi bốn), bần đạo vào núi hái thuốc, được bộ sách thần trên suốt Dương Khúc tên là “Thái bình thanh lĩnh đạo” hơn trăm quyển, toàn là những phương thuốc chữa các bệnh tật. Bần đạo được bộ sách ấy, chỉ chuyên thay trời cứu người, làm phúc, chưa từng lấy của ai một mảy may gì, sao gọi là làm mê hoặc người được?
Sách hỏi:
– Nếu mày không lấy tiền của ai, thì cơm ăn áo mặc bởi đâu mà có? Mày tức là bọn Trương Giác, nay nếu không giết đi, tất để lo về sau.
Sách quát tả hữu đem ra chém, Trương Chiêu can rằng:
– Vu đạo nhân ở Giang Đông mấy mươi năm nay, không hề làm điều gì tội lỗi, xin chúa công đừng giết.
Sách nói:
– Những hạng yêu nhân ấy, ta giết đi, khác nào giết chó giết lợn.
Các quan ai cũng cố sức can, Trần Chấn cũng kêu van hộ. Sách chưa nguôi giận, sai hãy đem giam vào ngục.
Các quan tan về, Trần Chấn cũng về nhà khách.
Tôn Sách về phủ, con hầu đã đem việc ấy nói với mẹ Sách là Ngô thái phu nhân. Thái phu nhân mới gọi Tôn Sách vào hậu đường bảo:
– Mẹ nghe con đem Vu Thần Tiên bỏ ngục. Người ấy từng chữa khỏi bệnh tật cho nhiều người, ai cũng kính trọng, con không nên giết.
Tôn Sách nói:
– Nó là yêu nhân, chỉ lấy yêu thuật dối người, không trừ không được.
Phu nhân hai ba lần khuyên bảo. Sách nói:
– Xin mẹ đừng nghe người ta nói càn, con đã có cách cư xử.
Nói rồi trở ra, gọi ngục lại đem Vu Cát đến hỏi. Nguyên các ngục lại ai cũng kính trọng Vu Cát, không ai dám gông xiềng gì cả, đến khi Sách gọi, bấy giờ mới vội để Cát mang gông xiềng đi. Sách biết chuyện, quở mắng ngục lại rất tệ, rồi lại sai gông Vu Cát lại bỏ ngục.
Bọn Trương Chiêu vài mươi người, cùng đứng tên làm giấy bảo lãnh cho Vu Thần Tiên.
Sách nói:
– Các ông đều là những người đã đọc sách cả, sao không đạt lí? Ngày trước Trương Tần làm thứ sử Giao Châu, tin theo đồng cốt, gảy đàn thắp hương, thường lấy khăn đỏ trùm đầu, cho là có thể giúp oai khi xuất quân, rồi sau cũng bị quân địch giết chết. Những việc pháp thuật thật là vô ích, chỉ vì các ông chưa hiểu đó thôi. Ta muốn giết Vu Cát cốt để cấm tà đạo và làm cho những người mê tín tỉnh ngộ lại.
Lã Phạm nói:
– Tôi vốn biết Vu đạo nhân có thể cầu đảo được gió mưa, nay trời đang đại hạn, sao chúa công không cho Vu đạo nhân ra đảo vũ để chuộc tội?
Sách nói:
– Ta hãy xem yêu nhân làm thế nào?
Liền sai đem Vu Cát ở trong ngục ra, tháo cả gông xiềng, cho lên dàn đảo vũ.
Vu Cát lĩnh mệnh, lập tức tắm gội thay áo sạch, tự lấy thừng trói mình, đứng phơi giữa trời nắng. Nhân dân đứng xem đầy đường lấp ngõ. Vu Cát bảo những người xem rằng:
– Nay tôi cầu ba thước mưa ngọt để cứu muôn dân, nhưng tôi cũng không tránh khỏi chết.
Chúng dân đều nói:
– Nếu đảo vũ linh nghiệm, chúa công tất nhiên phải tin phục.
Vu Cát nói:
– Số vận như thế, sợ không sao tránh khỏi được.
Được một lát, Tôn Sách đến chỗ lập đàn, hạ lệnh:
– Nếu đến giờ Ngọ không mưa, ta đốt chết Vu Cát.
Rồi sai người xếp củi khô chực sẵn. Sắp đến giờ Ngọ, cơn giông bỗng nổi lên, mây đen mù mịt lấp trời.
Sách nói:
– Giờ Ngọ sắp đến; chỉ có mây đen, không thấy mưa, thằng này thực là yêu nhân.
Sách sai trói Vu Cát để trên đống củi, bốn mặt đốt lửa. Ngọn lửa theo gió bốc lên ngùn ngụt. Chợt thấy một đám khói đen, bốc thẳng lên giữa trời, rồi một tiếng vang động, vừa sấm vừa chớp, mưa xuống như trút nước. Trong chốc lát, đường chợ thành sông, các khe ngòi đều đầy ứ, vừa được ba thước nước mưa ngọt.
Vu Cát nằm tênh hênh trên đống củi, quát to một tiếng, tự dưng mây tan, mưa tạnh, mặt trời lại ló ra.
Các quan và trăm họ vực Vu Cát từ trên đống củi xuống, cởi dây trói, lạy hai lạy tạ ơn.
Tôn Sách thấy quan dân lạy la liệt, không quản chi bùn lầy nước vũng, liền đùng đùng nổi giận, quát lên: “Giời mưa giời tạnh, đã có số định sẵn, yêu nhân ngẫu nhiên gặp dịp, các ngươi sao lại mê hoặc như thế? Chúng bây đều là một lũ ngu cả.
Sách rút ngay bảo kiếm, truyền tả hữu chém ngay Vu Cát. Các quan cố sức ngăn, Sách mắng:
– Các ngươi muốn theo Vu Cát làm phản chăng?
Các quan không ai dám nói gì nữa.
Sách quát võ sĩ đem chém Vu Cát, chỉ một nhát đao, đầu rơi xuống đất, rồi thấy một luồng khói xanh bay vụt về mé đông bắc. Sách sai đem thây Vu Cát bêu ở chợ để trị cái tội yêu tà.
Đêm hôm ấy mưa gió ầm ầm, đến sáng không thấy xác Vu Cát, quân giữ thây vào báo Tôn Sách. Sách điên ruột, toan chém quân giữ thây. Chợt thấy một người từ ngoài thong thả bước vào, trông ra thì là Vu Cát. Tôn Sách giận lắm, toan rút gươm ra để chém, tự nhiên tối sầm mặt lại, ngã ngay xuống đất. Tả hữu vội vàng vực Sách vào buồng trong, một lúc sau mới tỉnh lại.
Ngô thái phu nhân lại thăm, bảo Sách:
– Con giết oan thần tiên, cho nên có vạ này.
Sách cười, đáp:
– Từ thuở nhỏ đến giờ, con theo cha đi đánh giặc, giết người như cắt gai, con chưa thấy ai oán bao giờ, nay giết yêu nhân, chính là để trừ vạ lớn, đâu nó lại làm hại được con?
Phu nhân nói:
– Bởi con không chịu tin nên mới sinh ra thế. Nay nên cúng lễ thì khỏi.
Sách đáp:
– Mệnh con tại trời, yêu nhân quyết không làm gì được, sao lại phải cúng lễ?
Phu nhân biết là khuyên mãi Sách cũng không tin, cứ sai tả hữu lập đàn cúng lễ.
Canh hai đêm hôm ấy, Tôn Sách đang nằm ở nhà trong, cơn gió lạnh bỗng nổi lên, ngọn đèn lập lòe sáng rồi lại tối. Dưới bóng đèn thấp thoáng, Sách thấy Vu Cát đứng ngay đầu giường, Sách quát:
– Ta suốt đời đã thề giết quân yêu ma để yên thiên hạ. Mày đã là ma, sao dám đến gần ta?
Sách cầm gươm ở đầu giường quăng ra thì chẳng thấy gì nữa.
Ngô thái phu nhân biết chuyện, lại thêm lo buồn. Tôn Sách tuy bệnh nặng, phải gượng đứng dậy đi lại để yên lòng mẹ.
Ngô thái phu nhân bảo Sách:
– Đức thánh ngày xưa nói: “Đức quỷ thần thịnh lắm!” Lại có câu: “Cầu khẩn thần thánh trên trời dưới đất.” Việc quỷ thần không thể không tin. Con đã giết oan Vu tiên sinh, nên mới báo ứng ra thế. Nay mẹ đã sai người làm chay ở miếu Ngọc Thanh trên quận, con nên thân hành đến lễ, tự nhiên sẽ khỏi bệnh.
Sách không dám trái lời mẹ, phải miễn cưỡng lên kiệu ra miếu Ngọc Thanh.
Đạo sĩ đón vào, mời Sách thắp hương, Sách đốt hương nhưng không lễ tạ.
Bỗng nhiên trong lư hương, khói bốc lên không tỏa kết thành một cái tán, ở trên thấy Vu Cát ngồi chễm chệ.
Tôn Sách vừa giận vừa mắng rồi chạy ra, thấy ngay Vu Cát đứng ở giữa cung điện, trừng mắt nhìn Tôn Sách. Sách ngoảnh lại hỏi tả hữu:
– Các ngươi có trông thấy gì không?
Tả hữu nói không thấy gì cả.
Sách càng giận, rút gươm phóng vào chỗ Vu Cát đứng, một người bị trúng ngã quay ra. Mọi người nhìn kĩ thì là tên lính đã chém Vu Cát hôm trước nay bị gươm đâm vào đầu bảy khiếu chảy máu mà chết.
Tôn Sách sai đem đi chôn. Đến khi ra cửa miếu, lại thấy Vu Cát ở ngoài chạy vào.
Tôn Sách nói:
– Miếu này cũng là chỗ yêu tinh ẩn nấp.
Rồi ngồi ngay trước cửa quán, sai năm trăm võ sĩ phá đi. Võ sĩ vừa dỡ ngói trèo lên, thì thấy ngay Vu Cát ngồi trên nóc nhà rút ngói ném xuống đất. Sách giận quá, truyền lệnh đuổi các đạo sĩ ra ngoài, rồi đem lửa đốt miếu. Lại thấy Vu Cát đứng trong ngọn lửa.
Sách tức lắm, trở về phủ, lại thấy Vu Cát đứng ngay trước cửa phủ.
Sách không vào phủ nữa, điểm ngay ba quân, ra ngoài thành đóng trại, cho gọi các tướng đến bàn, muốn khởi binh đi giúp Viên Thiệu để đánh Tào Tháo cả hai mặt.
Các tướng can:
– Chúa công ngọc thể còn yếu, chưa nên kinh động. Xin đợi khi nào khỏe hẳn, cất quân cũng chưa muộn.
Đêm hôm ấy, Tôn Sách ngủ trong trại, bỗng thấy Vu Cát xõa tóc đi vào. Sách chửi mắng không dứt miệng. Hôm sau, Ngô thái phu nhân cho gọi Tôn Sách về phủ. Sách phải về. Phu nhân thấy Sách hình dong tiều tụy, khóc nói:
– Con ta đã thất sắc đi rồi!
Sách lấy gương soi, quả nhiên thấy hình dong đã mười phần sút hẳn, bất giác kinh sợ hỏi tả hữu:
– Sao ta tiều tụy đến thế này?
Nói chưa dứt lời, chợt thấy Vu Cát đứng ở trong gương. Sách đập ngay gương, thét to một tiếng. Vết đau ở chỗ bị thương vỡ ra, Sách ngã bất tỉnh xuống đất.
Thái phu nhân sai vực Sách vào giường nằm. Được một lát, Sách lại tỉnh dậy, than rằng:
– Ta không sống được nữa.
Rồi cho đòi bọn Trương Chiêu và em là Tôn Quyền đến trước giường nằm dặn dò:
– Thiên hạ đương loạn, dùng dân chúng Ngô Việt ta ở, giữ vững nơi hiểm yếu của ba con sông, có thể làm việc lớn được. Lũ Tử Bố cố hết lòng giúp em ta.
Sách lấy ấn thụ trao cho Tôn Quyền và dặn:
– Cất quân Giang Đông, quyết được thua giữa trận ta và trận địch, tranh hùng cùng thiên hạ, thì em không bằng anh, nhưng cất người hiền, dùng người tài, khiến ai cũng hết sức giữ đất Giang Đông, thì anh không bằng được em. Em nên nghĩ đến cơ nghiệp của cha anh đã khó nhọc mới gầy dựng nên, tự lo liệu cho khéo.
Tôn Quyền khóc thương, lạy nhận ấn thụ.
Sách lại nói với mẹ:
– Số con đã hết, không thể thờ phụng mẹ nữa. Con đã giao ấn thụ cho em Quyền, xin nhờ mẹ sớm chiều dạy bảo, những người cũ của cha, không nên khinh đãi.
Phu nhân khóc nói:
– Sợ em con còn bé, không đương nổi việc lớn thì làm thế nào?
Sách nói:
– Tài em con gấp mười con, có thể gánh vác việc lớn. Về sau nếu có việc trong không quyết thì hỏi Trương Chiêu, việc ngoài không quyết thì hỏi Chu Du. Tiếc thay Chu Du không có ở đây để con dặn dò trước mặt.
Sách lại gọi các em đến dặn:
– Sau khi anh chết, các em phải hết sức giúp Trọng Mưu. Trong tôn tộc, người nào dám có ý khác, các ngươi cứ giết đi. Trong anh em cốt nhục, người nào dám làm điều loạn nghịch, khi chết không được táng vào đất mộ tổ.
Các em đều khóc, vâng lời dạy.
Sách lại gọi vợ là Kiều phu nhân và bảo:
– Ta cùng nàng chẳng may giữa đường phân li, nàng nên hết lòng phụng dưỡng mẹ ta. Nay mai em nàng có vào thăm, nên nhờ nói với Chu lang hết lòng giúp em ta, chớ phụ cái tình tương tri từ trước.
Nói xong nhắm mắt chết.
Đời sau có thơ khen:
Một tay gầy dựng cõi Đông phương,
Ai cũng khen là Tiểu Bá Vương,
Thủ hiểm vững như hình hổ cứ.
Quyết cơ nhanh tựa thế ưng dương,
Ba sông phẳng lặng oai hùng dũng,
Bốn bể vang lừng tiếng vẻ vang.
Việc lớn dặn dò khi nhắm mắt,
Một lòng gắn bó cậy Chu lang.
Tôn Sách chết rồi, Tôn Quyền khóc phục xuống trước giường. Trương Chiêu đến khuyên giải nói:
– Bây giờ không phải là lúc tướng quân khóc, một mặt nên sửa sang việc tống táng, một mặt nên trông coi việc quân việc nước.
Quyền cố cầm nước mắt lại.
Trương Chiêu sai Tôn Tĩnh lo việc tang, mời Tôn Quyền ra công đường để các quan văn võ vào lạy mừng.
Tôn Quyền người cằm vuông, miệng lớn, mắt biếc, râu tía. Khi trước sứ nhà Hán, là Lưu Yển vào nước Ngô, trông thấy mấy anh em nhà họ Tôn, có nói chuyện với người khác:
– Ta xem tướng cả mấy anh em họ Tôn, tuy rằng người nào tài khí cũng giỏi giang khác thường, nhưng đều hưởng lộc không được bền. Duy chỉ có Tôn Quyền, hình dong kì vĩ, cốt cách dị thường, thực là tướng đại quý, vả lại hưởng được cao thọ, các anh em không người nào bằng.
Bấy giờ Tôn Quyền chịu mệnh anh, coi giữ Giang Đông, mọi việc sửa sang chưa xong, có người báo:
– Chu Du từ Ba Khâu đã đem quân về.
Tôn Quyền mừng nói:
– Công Cẩn đã về, ta không lo chi nữa.
Nguyên Chu Du đóng giữ Ba Khâu, nghe tin Tôn Sách mắc bệnh, vội vàng trở về hỏi thăm. Đi đến gần Ngô Quận, Du nghe tin Sách đã chết, cho nên đi suốt ngày đêm về chịu tang.
Về đến nơi, Chu Du khóc lạy trước linh cữu. Ngô thái phu nhân ra gặp, đem lời di chúc của Tôn Sách bảo lại Chu Du. Du lạy xuống đất nói:
– Tôi xin đem hết sức khuyển mã để đền đáp cho đến khi tôi chết mới thôi!
Một lát, Tôn Quyền vào, Chu Du bái kiến xong, Tôn Quyền nói:
– Xin ông chớ quên những lời anh tôi dặn lại.
Du dập đầu xuống đất thưa:
– Tôi nguyện đem gan óc lầy đất để báo lại ơn tri kỉ.
Quyền hỏi:
– Nay tôi nối nghiệp cha, nên có mưu kế gì để giữ vững?
Du thưa:
– Xưa nay, được người hiền giúp thì nước thịnh, mất người hiền thì nước mất. Chúa công nên cầu người cao minh viễn kiến để làm phụ tá, thì Giang Đông sao chẳng vững bền?
Quyền nói:
– Anh tôi có dặn phàm việc trong thì nhờ Tử Bố, còn việc ngoài nhờ Công Cẩn.
Du nói:
– Tử Bố là người hiền đạt, có thể đương nổi việc lớn. Còn tôi bất tài, sợ phụ mất lòng tin cậy, nay xin tiến một người để giúp chúa công.
Quyền hỏi:
– Người nào?
Du nói:
– Người ấy họ Lỗ tên Túc, tự là Tử Kính, người ở Đông Xuyên, quận Lâm Hoài. Người ấy có nhiều thao lược cơ mưu, mất bố từ thuở nhỏ, thờ mẹ rất hiếu, nhà rất giàu, thường đem của cải giúp kẻ khốn khó. Khi tôi ở Cư Sào, đem mấy trăm người đi qua Lâm Hoài, nhân thiếu lương ăn, nghe nhà Túc có hai vựa thóc, mỗi vựa ba nghìn hộc. Tôi đến cầu giúp, Túc đem ngay một vựa ra cho. Người ấy tính thực khẳng khái. Ngày thường, Túc ham thích múa gươm, cưỡi ngựa, bắn cung, nay ở Khúc A, vì bà mất, Túc về làm tang lễ ở Đông Thành. Đến đó, có một người bạn là Lưu Tử Dương, muốn rủ Túc sang Sào Hồ theo Trịnh Bảo, Túc còn ngần ngừ chưa đi. Chúa công nên sai người mời ngay đi.
Tôn Quyền mừng lắm, sai ngay Chu Du đi đón Lỗ Túc:
Chu Du đến nơi, chào hỏi xong, nói rõ lòng quý mến của Tôn Quyền.
Túc nói:
– Tử Dương rủ sang Sào Hồ, tôi đang định đi.
Du nói:
– Ngày xưa Mã Viện nói với Quan Vũ rằng: “Đời này, không những là vua chọn bày tôi, bày tôi cũng phải chọn vua.” Ngay Tôn tướng quân thân người hiền, kính kẻ sĩ, dùng người kì lạ, ông không nên tìm nơi khác chỉ nên cùng tôi sang giúp Đông Ngô là phải.
Túc theo lời, cùng Chu Du đến yết kiến Tôn Quyền. Tôn Quyền rất kính trọng, cùng Túc đàm luận suốt ngày không chán.
Một hôm, các quan về, Quyền mời Túc ở lại uống rượu, đến tối, nằm cùng giường, gác chân lên nhau. Nửa đêm, Quyền hỏi Túc:
– Nay nhà Hán suy yếu, bốn phương rối loạn, ta nối nghiệp cha anh, muốn làm việc Hoàn, Văn, ông có mưu kế gì để dạy bảo ta không?
Túc nói:
– Xưa Cao Tổ nhà Hán muốn tôn Nghĩa Đế mà không làm được, là vì Hạng Vũ làm trở ngại. Nay Tào Tháo cũng ví như Hạng Vũ, tướng quân làm thế nào được việc Hoàn, Văn? Tôi nghĩ nhà Hán không thể phục hưng, Tào Tháo không thể trừ được. Tướng quân chỉ nên giữ vững Giang Đông, đợi xem những sự biến cố trong thiên hạ. Nay nhân phương Bắc lắm việc, hãy trừ Hoàng Tổ, đánh Lưu Biểu, lấy hết các miền quanh Trường Giang, dựng hiệu đế vương để tính việc lớn. Đó là sự nghiệp Hán Cao Tổ.
Tôn Quyền mừng lắm, mặc áo, đứng dậy tạ ơn. Hôm sau, Quyền hậu tặng Lỗ Túc và đưa những thứ áo chăn màn biếu mẹ Túc.
Túc lại đem một người nữa vào yết kiến Tôn Quyền; người ấy họ là Gia Cát, tên là Cẩn, tự là Tử Du, học rộng tài cao, thờ mẹ rất hiếu. Gia Cát Cẩn vốn người ở Nam Dương, quận Lương Gia. Tôn Quyền đãi làm khách quý.
Cẩn khuyên Tôn Quyền đừng kết hiếu với Viên Thiệu và hãy theo Tào Tháo, rồi đợi lúc nào có cơ hội tốt sẽ tính toán sau.
Tôn Quyền nghe lời, cho Trần Chấn về, gửi thư khước từ Viên Thiệu.
Bấy giờ Tào Tháo nghe tin Tôn Sách đã chết, muốn đem binh đi lấy Giang Nam, thì ngự sử là Trương Hoành can:
– Nhân người ta có tang mà đánh, không phải là việc nghĩa. Nếu đánh không được, tức là bỏ hòa hiếu mà gây oán thù, không bằng nhân dịp này mà đối đãi tử tế với người ta.
Tháo nghe lời, tâu xin phong cho Tôn Quyền làm tướng quân, lĩnh chức thái thú ở Cối Kê, cho Trương Hoành ra làm đô úy ở Cối Kê đem ấn về Giang Đông, giao cho Tôn Quyền.
Tôn Quyền mừng lắm, lại được Trương Hoành trở về Ngô, bèn sai cùng Trương Chiêu trông coi chính sự.
Trương Hoành lại tiến một người, họ Cố tên Ung, tự là Nguyên Thản, nguyên là học trò Sái Ung ngày xưa. Cố Ung người ít nói năng, không uống rượu, nghiêm nghị chính trực. Quyền cho Ung làm quan thừa, coi việc thái thú.
Từ đó Tôn Quyền oai khắp cả đất Giang Đông, rất được lòng dân.
Trong khi ấy thì Trần Chấn trở về ra mắt Viên Thiệu, kể lại Tôn Sách đã mất, Tôn Quyền nối nghiệp, Tháo phong Quyền là tướng quân, kết Ngô làm ngoại ứng.
Viên Thiệu nổi giận, lập tức khởi cả quân mã Ký, Thanh, U, Tinh, cả thảy hơn bảy mươi vạn đi đánh Hứa Xương.
Thế là:
Binh lính Giang Nam vừa tạm nghỉ,
Can qua Ký Bắc lại vùng lên.
Chưa biết Viên Thiệu phen này được thua thế nào, xem đến hồi sau sẽ phân giải.