Nói về Tôn Hành Giả và Sa Tăng, Bát Giới đồng nhảy ra ngó thấy một bầy sư tử nhiều sắc lông mà Huỳnh sư đi trước tay cầm giáo đồng vuông; Toan Nghê sư, Bát Trượng Sư đều ở bên tả.
Bạch Trạch Sư, Ngân Lý Sư đều ở bên hữu, Ðiêu sư và Tuyết sư theo sau, Cửu Ðầu sư tử ở giữa!
Con quỷ mặt xanh cầm một cây phướn gấm thêu, che cho Cửu Ðầu sư tử.
Còn Ðiêu Toàn Cổ Quái, và Cổ Quái Ðiêu Toàn, đều cầm hai cây cờ hồng đứng tại phía Bắc.
Khi ấy Bát Giới chạy xốc lại mắng rằng:
– Ngươi là thằng ăn trộm bửu bối, ngươi đi viện một lủ lông lá xồm xâm đến làm chi?
Huỳnh sư nghiến răng mắng rằng:
– Lũ sải ác tăng! Hôm qua ba đứa bây ăn hiếp một mình ta, nên ta đánh không lại sáu tay, phải nhịn thua mà chạy, thì cũng là kỉnh nhượng bây rồi, sao bây lại độc ác đốt hết động của ta, gia quyến bị thêu mà chết, ta thù oán bây sâu như biển cả, đố chạy đâu cho khỏi, ta đâm một giáo cho rồi đời.
Nói rồi đâm liền, Bát Giới đưa Ðinh ba ra đở, hai người hổn chiến với nhau chưa phân thắng bại.
Còn Ðiêu sư đứng ngoài nổi nóng, xách trái đấm xông vào, Tuyết sư cầm Tam lăng giản đồng xông vào trợ chiến.
Khi ấy Toan Nghê Sư, Bạch Trạch Sư, Bát Trượng Sư, Ngân Lý Sư, bốn con tinh ấy cầm binh khí đồng hè lướt tới.
Tôn Hành Giả xách thiết bảng đón bốn con ấy lại.
Toan Nghê Sư cầm trường côn. Bạch Trạch Sư xách song chùy, Bát Trượng Sư cầm giáo sắt, Ngân Lý Sư cầm búa đồng, áp đánh với Hành Giả; bảy con sư tử tính đánh với ba hòa thượng, liều mạng ẩu đả nửa ngày, thì trời đả tối.
Lúc này Bát Giới đã đuối tay, vác đinh ba bại tẩu, bị Tuyết sư và Ðiêu Sư đồng đuổi theo. Tuyết Sư đánh một giản nhằm xương sống Bát Giới, Bát Giới tế sấp dưới đất. Ðiêu Sư, Tuyết Sư con thì xách tai, con mắm lông gáy Bát Giới mà kéo xển đi đem lại thưa với Cửu Ðầu sư tử rằng:
– Tổ gia ôi, chúng tôi bắt đặng một đứa.
Còn Tôn Hành Giả với Sa Tăng đều bại tẩu, các sư tử đuổi theo.
Tôn Hành Giả nhổ một nắm lông, nhai nhỏ phun ra biến cả trăm Hành Giả nhỏ, vây phủ các sư tinh.
Tôn Hành Giả trở lại đánh tới tối mò, bắt đặng Toan Nghê Sư với Bạch Trạch Sư. Còn Ngân Lý Sư, Bát Trượng Sư chạy khỏi, Huỳnh sư về báo với Cửu Ðầu sư tử là Cửu Linh nguơn thánh, Cửu Ðầu sư tử nghe tin hai cháu bị bắt, thì truyền trói Bát Giới mà dặn rằng:
– Ðừng có giết nó, đợi Tôn Hành Giả trả hai cháu lại, thì đổi Bát Giới cho nó, nếu nó không biết phải mà làm hại hai cháu ta, thì giết Bát Giới mà trừ hai mạng.
Ðêm ấy bầy yêu ngủ ngoài thành.
Còn Tôn Hành Giả dùng mình thâu lông lại, đi với Sa Tăng lên lầu ra mắt Tam Tạng, Tam Tạng:
– Trận này thiệt hại quá, không biết Ngộ Năng tánh mạng ra thể nào?
Tôn Hành Giả thưa:
– Không hề chi mà sợ, chúng tôi bắt sống hai con tinh của nó về đây, chắc nó không dám giết Bát Giới.
Hãy trói hai con tinh này cho chặt đợi mai sáng sẽ đổi Bát Giới.
Ba vị vương tử lạy Tôn Hành Giả mà hỏi rằng:
– Thưa thầy, trước khi đi đương đánh ngó thấy có một mình thầy, đến sau trá bại ngó thấy trả trăm thầy, ấy là phép chi vậy?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Trong mình ta có bốn muôn tám ngàn sợi lông phép, cứ một sợi hóa ra mười sợi; mười sợi hóa ra trăm sợi, thì biết là ức triệu nào, cứ mỗi sợi lông hóa ra một hình nữa cũng đặng.
Ba vị vương tử đồng quì lạy, rồi truyền dọn cơm trên lầu, ăn uống với nhau xong xả.
Rồi truyền treo lồng khắp nơi, quân lýnh cầm cờ và khí giái canh thủ; tiến mỏ, tiến lục lạc, tiếng đồng la, tiếng trống vang đầy, cứ đổi phiên canh giờ nghiêm nhặt tiếng pháo và tiếng binh ó vang tai, có ý làm cho yêu sợ.
Rạng ngày Cửu Ðầu sư tử kêu Huỳnh sư mà truyền kế rằng:
– Chúng bây bữa nay phải rán sức mà bắt Hành Giả với Sa Tăng. Còn ta thừa cơ lên bắt Tam Tạng và cha con Ngọc Hoa Vương, đem về động Cửu khúc bàng hoàng trước, đợi chúng bây thắng trận về sau.
Huỳnh sư y kế, liền dẫn Ðiêu Sư, Tuyết Sư, Bát Trượng Sư, Ngân Lý Sư đều cầm binh khí đến thành khiêu chiến.
Nói rồi Tôn Hành Giả với Sa Tăng nghe khiêu chiến, anh em đồng nhảy xuống thành hét lớn mắng rằng:
– Lũ ăn cướp mau trả sư đệ là Bát Giới cho ta, thì ta dung cho bây toàn tánh mạng, bằng không thì ta bầm nát thây thi.
Các yêu tính không thèm nói lại, áp tới đánh đùa. Tôn Hành Giả với Sa Tăng, hai anh em rán sức đánh với năm con yêu ấy.
Còn Cửu Ðầu sư tử thấy hai người đương hổn chiến, nó liền hóa khói đen bay thắng lên lầu, hiện nguyên hình sư tử chín đầu, hả hoát cái miệng, bá quan kinh hãi té ngửa té nghiêng, mấy tên lýnh ngoài đều sa xuống đất.
Cửu Ðầu sư tử, miệng thì ngậm Tam Tạng, miệng thì ngậm Ngọc Hoa Vương, còn ba miệng ngậm ba vị vương tử, trở ra chổ cũ ngậm Bát Giới vào miệng.
Té ra chín miệng mắc ngậm sáu người hết sáu miệng, còn dư ba miệng không, liền kêu lớn rằng:
– Thôi, năm cháu ở đánh cho thành động, để ông về động trước.
Nói rồi bay thẳng.
Khi ấy năm con yêu nghe ông nói như vậy, biết là bắt đặng mấy người ấy rồi, nên chúng nó mạnh mẽ tinh thần hơn trước, đánh Sa Tăng ngẩn ngơ.
Còn Tôn Hành Giả nghe trên thành lạ lạc giọng, biết là trúng kế rồi, liền nhổ lông nhai nhỏ phun ra, hóa cả ngàn Hành Giả nhỏ, vây phủ tứ bề.
Con quỷ mặt xanh và Ðiêu Toàn Cổ Quái, biết thế không xong nên chạy trước, Huỳnh Sư mạnh đánh ẩu đả, bị Tôn Hành Giả đập một thiết bảng chết ngay, hiện nguyên hình là sư tử lông vàng hực! Bầy khỉ ví bắt đặng bốn con sư tinh là Ðiêu Sư, Tuyết Sư, Bát Trượng Sư, Ngân Lý Sư đều hiện nguyên hình là sư tử!
Quan quân trên thành ngó thấy hai thầy thắng trận liền mở cửa thành đem dây và đòn xuống, trói quách năm con sư tử khiêng thăng vào thành.
Song có bốn con còn sống Tôn Hành Giả thâu lông lại.
Khi ấy Sa Tăng theo Hành Giả vào thành, xảy thấy Vương phi và đi và khóc, đến lạy Hành Giả mà bạch rằng:
– Thần sư ôi! Tôn Sư và chồng con tôi chắc chết hết, bây giờ biết tính làm sao?
Tôn Hành Giả đáp lễ nói rằng:
– Hiền hậu đừng phiền, bởi Lão Tôn mắc đánh với năm con tinh, nên Cửu Ðầu sư tử thừa cơ bắt sống mấy vị, song ta đã bắt đặng sáu con tinh của nó, bề nào nó cũng không dám hại thầy ta và Vương gia, Vương tử, là có ý để sống mà đổi lại.Ðể ngày mai anh em ta phá động bắt lão yêu, sẽ cứu Vương gia, Vương tư với sư phụ.
Vương phi và các cung nga đồng lạy tạ, lau nước mắt trở về cung.
Còn Tôn Hành Giả truyền các quan lột da sư tử lông vàng, còn sáu con sống thì xiềng tỏa mà giam cho chặt.Liền hối dọn cơm, anh em ăn uống rồi đi nghỉ.
Rạng ngày Tôn Hành Giả và Sa Tăng đằng vân đến núi.
Trước tiết, đứng ngó bốn phía thấy con quỷ mặt xanh cầm trường còn trong hang đá nhảy ra, men men lên núi.
Tôn Hành Giả đón mà nạt rằng:
– Ngươi đi đâu đó? Có Lão Tôn đây.
Nói rồi rủ Sa Tăng rượt nó.Không quyết giết, cố ý rượt nó cho tột ổ.
Con quỷ mặt xanh kinh hồn, và chạy và nhảy, hai anh em cứ đuổi theo.
Con quỷ mặt xanh chạy vào trước cửa động.
Tôn Hành Giả ngó thấy miện hang ăn vô núi rất lớn, thân trong có một cái động đá, mà đóng cửa rồi; trên gạch có đề mười chữ như vầy:
– Vạn linh Trước tiết sơn.Cửu khúc bàng hoàng động.
Nghĩa là: Núi Vạn linh trước tiết, động Cửu khúc bàng hoàng.
Con yêu mặt xanh đóng cửa rồi, vào báo rằng:
– Lão gia gia ôi! Có hai hòa thượng đứng ngoài cửa ngỏ.
Cửu đầu sư tử hỏi:
– Ðại vương ngươi và Ðiêu Sư, Tuyết Sư, Bạch Trạch Sư, Ngân lý Sư có về đó hay không?
Quỉ mặt xanh thưa rằng:
– Không thấy vị nào hết!
Cửu Ðầu sư tử cúi mặt giây phút, rồi khóc mà kêu rằng:
– Cháu ôi! Thảm lắm, thảm lắm!
Té ra Huỳnh Sư tôn đả tử trận, còn sáu đứa kia đều bị bắt hết, ta tức biết chừng nào! Thôi, chúng bây coi động, ta bắt chúng nó mà phạt cách nặng nề, cho các ngươi coi.
Nói rồi đi tay không, ra cửa động thấy Hành Giả và Sa Tăng đứng ó ré.
Cửu Ðầu sư tử mở cửa động bước ra.Hành Giả và Sa Tăng đập đại.
Cửu Ðầu sư tử dùn mình hiện nguyên hình, hả miệng ngậm hai người đem vào động bảo ba con yêu đem hai sợi dây ra.
Con quỷ mặt xanh và Ðiêu Toàn Cổ Quái cùng Cổ Quái Ðiêu Toàn đem dây đến.Cửu Ðầu sư tử nhả hai người ra trói lại xong xả, rồi mắng rằng:
– Con khỉ này bắt bảy đứa cháu ta, nay ta bắt hết một lũ bây mà trừ, cũng không bình lắm.Trẻ nhỏ lấy hèo ra đây, đánh con khỉ một hồi cho nhừ tử mà báo cứu cho Huỳnh sư tôn.
Ba con yêu ấy vưng lời, bẻ nhành dương liễu làm gậy, áp đập Hành Giả.
Tới tối tính đã gãy mấy cây gậy dương liễu, mà Tôn Hành Giả cũng trơ trơ.
Cửu đầu sư tử bảo thôi, truyền thắp đèn cho mình ăn uống, và canh giữ Hành Giả và Sa Tăng, rồi vào cẩm vân mà ngủ.
Nói rồi lấy gậy dương liễu khỏ trên đầu Hành Giả như đánh mỏ hồi một.
Rồi lại vui cười!
Tới đổi canh cũng đánh cái mỏ đó!
Tôn Hành Giả tức mình, giận bầm gan tím ruột, Tôn Hành Giả rán chịu đến khuya, thấy con quỷ mặt xanh ngáp dái, Ðiêu toàn cổ quái lim dim, Cổ Quái điêu toàn ngủ gục, Tôn Hành Giả biến mình nhỏ sút dây, lấy thiết bảng và đập đứa và nói rằng:
– Ba đứa bây đánh đấu tan nhu mỏ, ta phúp bây một đứa một cái cũng hóa ra tro.
Liền khêu đèn mở trói cho Sa Tăng, Bát Giới bị trói tại xó hóc, ngó thấy nóng họng kêu mà nói lớn rằng:
– Ðại ca ôi! Tôi bị trói đã sưng tay sưng cẳng, sao khong mở tôi trước?
Khi ấy Cửu đầu sư tử nghe tiếng kêu giựt mình thức dậy, chạy ra hỏi rằng:
– Ai cả gan mở dây đó?
Tôn Hành Giả kinh hãi thổi đèn, bỏ Sa Tăng phá cửa mà chạy, Cửu đầu sư tử kêu luôn ba tiếng, không nghe trả lời, liền chạy tới nơi thì đèn đã tắt hết, tồi thui không thấy gì cả, liền hỏi lớn rằng:
– Ðèn tắt sao không ai thắp, chúng bây còn ngủ hay sao?
Kêu tên ba con quái ấy hai lần, không nghe lên tiếng!Cửu đầu sư tử vào bưng đèn ra, ngó thấy ba đống thịt, máu chảy ròng ròng; Hành Giả, Sa Tăng đã trốn mất, đi kiếm một hồi, thấy Sa Tăng đứng nép dựa vách, bị Cửu đầu sư tử bắt trói lại như xưa, rồi cầm đèn đi soi, thấy hai từng cửa đều hưng hết.
Biết Tôn Hành Giả phá cửa trốn rồi, song chẳng đuổi theo, cứ lo sửa cửa lại.
Còn Tôn Hành Giả ra khỏi động, bay về thành Ngọc hao gặp Thổ Ðịa Thành hoàng nghinh tiếp.
Tôn Hành Giả hỏi:
– Sao đến bữa nay các ngươi mới tới?
Thành hoàng thưa rằng:
– Chúng tôi hay tin Ðại Thánh đến châu Ngọc Hoa Vương, bởi Ngọc Hoa Vương đãi đằng, nên chúng tôi chẳng dám đến ra mắt, nay thấy Tôn Sư và Thiên tuế mắc nạn, Ðại Thánh đi trừ yêu nên chúng tôi ra mắt.
Kế thần Yết đế và Lục đinh, Lục giáp dắt một ông Thổ Ðịa, đến quì trước mặt Tôn Hành Giả mà thưa rằng:
– Thổ Ðịa này ở tại núi Trước tiết biết cội rể yêu tinh, nên tôi dẫn đến đây cho Ðại Thánh truy nguyên bắt yêu mà cứu tôn sư và thiên tuế.
Tôn Hành Giả hỏi cội rể Cửu đầu sư tử, Thổ Ðịa thưa rằng:
– Nguyên trước động Cửu khúc bàng hoàng là ổ sáu con sư tử ấy, ba năm nay Cửu đầu sư tử tới, sáu con sư tử đều kính làm ông.Muốn trị nó thì phải thỉnh chủ nó tại phía đông, cung Diệu nghiêm, nếu người khác trị nó không đặng.
Tôn Hành Giả ngẫm nghỉ rồi nói rằng:
– Phải phải, ông Thái Ất thiên tôn ở cung Diệu nghiêm, hay cỡi sư tử chín đầu để ta đi thử cho hết ý.
Liền bảo chư thần về, Tôn Hành Giả cân đẩu vân đến Ðông Thiên Môn thì trời đã sáng, ông Quản Mục Thiên Vương ngó thầy hỏi rằng:
– Ðại Thánh đi đâu đó?
Tôn Hành Giả nói:
– Tôi qua cung Diệu Nghiêm.
Quản Mục Thiên Vương hỏi:
– Sao không đi Tây Phương, lại trở về Ðộng cực?
Tôn Hành Giả thuật chuyện vân vân.
Quản Thiên Vương cười rằng:
– Tại muốn ở làm sư phụ, nên mới gặp sư tử cả bầy!
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Thiệt quả như vậy.
Cười rồi đi một đỗi, tới cung Diệu nghiêm, Tiên đồng vào báo.
Thái Ất thiên tôn đáp lễ rồi hỏi rằng:
– Mấy năm nay không gặp Ðại Thánh, nghe đồn đã quy y theo Ðường Tăng đi thỉnh kinh, hay là thành công rồi nên mới đi dạo.
Tôn Hành Giả thuật chuyện lại như vậy.Nên đến cầu thỉnh Thiên tôn đi thâu sư tử.Thái Ất thiên tôn nghe nói, liền sai Tiên đồng kêu thằng chăn sư tử.
Khi ấy Tiên đồng vào chuồng sư tử thấy thằng chăn ngủ mê, liền kêu dậy dắt vào cung.
Thái Ất Thiên Tôn hỏi:
– Xin tử có đó chăng?
Thầy chăng quỳ lạy khóc rằng:
– Xin Thiên Tôn thứ tội.
Thái Ất Thiên Tôn nói:
– Có khách là Ðại Thánh tại đây, ta không lẽ đánh ngươi, ngươi hãy khai ngay, vì cớ nào mà nó trốn mất?
Thằng chăn tạ ơn thưa rằng:
– Hôm trước tôi vào đền Cam lộ, uống vụn một ve rượu, say quá ngủ vùi nên quên xiềng nó mới trốn đặng.
Thái Ất Thiên Tôn nói:
– Rượu ấy của Lão quân cho ta, gọi là Luân hồi quỳnh dịch, nếu uống vào say tới ba ngày.Chẳng hay nó xuống nhơn gian đã mấy năm?
Tôn Hành Giả nói:
– Cứ theo lời Thổ Ðịa nói:Nó xuống động ấy gần ba năm.
Thái Ất Thiên Tôn cười rằng:
– Phải rồi, trên trời một bữa, dưới thế một năm.Thôi ta tha tội cho sư nó, ngươi theo ta và đi với đại thánh xuống phàm mà bắt nó.
Nói rồi đồng đằng vân đến núi Trước tiết, chư thần Thổ Ðịa đều lạy mừng.
Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Sư tử có làm hại thầy ta chăng?
Chư thần thưa rằng:
– Sư tử ngủ vùi, chẳng động phạm tới ai hết.
Thái Ất thiên tôn nói:
– Thôi Ðại Thánh đi khiêu chiến dụ nó ra đây, đặng ta bắt nó.
Khi ấy Tôn Hành Giả vưng lời đền động khiêu chiến rằng:
– Yêu tinh, trả mấy ấy cho ta.
Kêu đôi ba tiếng không thấy yêu ra, Tôn Hành Giả phá cửa động và mắng nhiếc.Cửu đầu sư tử giựt mình thức dậynổi giận nhảy ra hét lớn một tiếng, hả chín cái miệng ra.Tôn Hành Giả nhảy thót và kêu Cửu đầu sư tử mà mắng rằng:
– Ngươi đừng vô lễ mà chết giờBộ không thấy chủ nhà hay sao?
Thái Ất Thiên Tôn niệm chú, rồi hét lớn rằng:
– Nguơn thánh, có ta đây.
Cửu đầu sư tử thấy chủ, liền mọp xuống mà lạy.
Sư nô nhảy lại nắm lông gáy thoi cả trăm và mắng rằng:
– Súc sanh, ngươi trốn đi đâu? Báo hại ta mắc tội.
Cửu đầu sư tử không dám cục cựa, để cho thằng chặn đánh mỏi tay mới thôi! Ðánh đã thèm rồi trải yên gấm trên lưng nó.
Thái Ất Thiên Tôn nhảy lên cỡi nạt một tiếng bải đi.Nó nhảy lên mây, bay về phía Ðông cực.
Còn Tôn Hành Giả tạ ơn rồi vào động Cửu khúc bàng hoàng, mở trói cho thầy và hai sư đệ, lại mở trói cho bốn cha con Ngọc Hoa Vương.
Rồi bảo Bát Giới kiếm chà bổi củi khô, chất đầy cả động châm một mũi lửa cháy tiêu.
Tôn Hành Giả truyền Thổ Ðịa trấn tại đó, chớ cho yêu tinh đến nữa.
Dặn xong rồi, truyền Sa Tăng, Bát Giới cõng bốn cha con Ngọc Hoa Vuơng, còn mình dắt thầy đồng trở về vương phủ.
Ðoạn về tới, vương phi và bá quan đồng tiếp giá, và lạy mừng mấy vị sư.
Dọn tiệc chay tại Bộc Sa đình, mà đãi thầy trò, còn Ngọc Hoa Vương và ba vị vương tử đồng vào cung, ăn uống rồi đi ngủ.
Rạng ngày bốn cha con Ngọc Hoa Vương ra tạ ơn Hành Giả.
Tôn Hành Giả truyền quân làm thịt bảy con sư tử mà lột da.
Một con để trong cung mà dùng, một con phân phát cho quan quân, còn năm con làm hàng ra mỗi miếng thịt nặng một đôi lượng, đem phân phát cho lê dân trong nước, ăn cho biết mùi lạ và trừ tạ. Bởi vậy nên nội quận cám ơn hết thảy.
Giây phút thấy lũ thợ rèn vào bẩm rằng:
– Ba món binh khí rèn rồi.
Tôn Hành Giả hỏi:
– Cái nào nặng mấy cân?
Thợ rèn thưa rằng:
– Thiết bảng nặng một ngàn cân, đinh ba nặng tám trăm cân, bửu trượng cũng vậy.
Tôn Hành Giả truyền mời ba vị vương tử ra bảo của ai thì nấy thâu lấy.
Ngọc Hoa Vương than rằng:
– Vì ba món binh khí này, thiếu chút nữa cha con chết hết!
Ba vị vương tử tâu rằng:
– Tuy rủi mà may, nhờ thần sư cứu khỏi nạn, lại giấu yêu mà trừ hại cho lê dân, thiệt cả nước thái bình trường cửu.
Khi ấy Ngọc Hoa Vương và ba vị vương tử thưởng thợ rèn xong xả, rồi đến Bộc Sa đình tạ ơn mấy vị thần sư.
Tam Tạng hối ba người học trò dạy ba người vương tử cho xong, rồi lo đi kẻo trễ.
Ba anh em Hành Giả vâng lời.
Cách ít bữa thầy nào dạy trò nấy đã tinh thông bởi đệ tử thông minh, nên thầy dạy mau thuộc.
Khi ấy Ngọc Hoa Vương dọn yến thiết đãi bốn ngày, và đêm một mâm vàng đền ơn dạy dỗ.
Tôn Hành Giả cười rằng: Dẹp cho xong, chúng tôi là thầy tu, không dụng bạc vàng của báu.
Bát Giới nói:
– Thiệt chẳng dám lãnh bạc vàng châu báu, song cái áo của tôi nó bị yêu tinh xé rách, cho chúng tôi quần áo, thì có ích hơn vàng bạc.
Ngọc Hoa Vương truyền lấy ba cây gấm tốt, may quần áo cho ba thầy, ba thầy đều nhặm lễ; sửa sọan lên đường
Ngọc Hoa Vương truyền bá quan văn võ dàn giá theo đưa, bá tánh theo coi nhu coi hội, đều khen rằng:
– Phật La Hán xuống phàm trừ yêu tinh mà cứu thiên hạ.
Còn vua quan theo đưa khỏi thành xa lắm mới trở về.
Nói về ba anh em đi theo thiên sứ đến ngoài ngọ môn.
Hoàng môn quan vào tâu lại rằng:
– Ba vị đệ tử của Phò Mã đã theo thiên sứ đến ngọ môn hầu chỉ.
Vua Thiên Trúc ban chỉ cho vào, ba anh em đứng trơ không chịu làm lễ!
Vua Thiên Trúc phán hỏi rằng:
– Ba người đệ tử Thánh tăng Phò Mã là ai? Tên họ chi, ở tại đâu, vì cớ nào mà xuất gia đi thỉnh kinh, hãy cắt nghĩa cho rõ?
Tôn Hành Giả bước lấn tới muốn lên điện mà tâu.
Quan hộ giá nạt rằng:
– Ðừng đi lên nữa. Ðứng đó mà tâu.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Chúng ta là người tu, đi tới bước nào hay bước nấy.
Sa Tăng, Bát Giới cũng bắt chước đi theo.
Tam Tạng sợ ba người lổ mãng làm cho kinh giá, liền cất tiếng kêu lớn rằng:
– Ðồ đệ ôi! Bệ Hạ phán hỏi cội rể ngươi, sao ngươi không tâu cho rõ?
Tôn Hành Giả thấy thầy đứng hầu thì nóng ruột, liền nói rằng:
– Bệ Hạ khinh người hay là khinh mình, nhục rễ là nhục nước, Bệ Hạ chấm, thầy tôi làm phò mã, sao còn bắt đứng một bên? Lẽ thường kêu rễ là quý nhơn, lẽ nào quý nhơn không có chổ ngồi, bắt đứng hầu như vậy?
Vua Thiên Trúc nghe tiếng nói vang, hãi kinh thất sắc, muốn lui vào kinh mà sợ mất thể diện, túng phải làm gan phán rằng:
– Thị thần hãy nhắc cẩm đôn cho Phò Mã an vị.
Tôn Hành Giả thấy thầy ngồi xuống, mới chịu tâu rằng:
– Lão tôn quê ở tại Ðông thắng thần châu, nước Ngao lai, núi Hoa quả, cha là trời, mẹ là đất, trứng là núi sanh Lão tôn ra. Sau học phép tiên phương xa, rồi trở về núi cũ, ở tại động Thủy Liêm núi Hoa quả, lên non trừ quỷ, xuống biển bắt rồng. Bôi sổ dưới Minh Vương, đập chết quỷ sứ. Thượng Ðế sắc phong làm chức Tề Thiên Ðại Thánh, hằng ngày yến ẩm nơi thiên cung. Sau phá hội Bàn Ðào, vỡ lỡ trời đất, đương dịp nóng nảy làm phản thiên đình, thiên tướng chư hầu đều chạy mặt. Rủi bị Phật Tổ nhốt Lão Tôn tại Ngũ Hành Sơn, cho ăn sắt cục, cho uống nước đồng, năm trăm năm chẳng biết mùi cơm mùi nước. Sau nhờ Quan Âm Bồ Tát khuyên Lão Tôn tu hành, đến khi thầy ta đi ngang qua đó, giở núi cứu ta đặt tên là Hành Giả.
Vua Thiên Trúc nghe nói lớn lối quá, thất kinh bước xuống ngai, nắm tay Tam Tạng mà phán rằng:
– Phò Mã ôi! Trẫm cũng có phước lắm mới gặp đặng thần tiên cùng duyên với Công Chúa.
Tam Tạng tạ ơn, mời vua lên ngai như cũ.Vua Thiên Trúc y lời, bước lên ngai phán hỏi rằng:
-Còn độ đệ thứ hai là vị nào?
Bát Giới ngay mỏ nói lớn rằng:
– Lão Trư hơn bảy đời tham vui làm biếng, bị theo thế sự mà mê tâm, sau gặp thần tiên khuyên dỗ, mới ăn năn chừa lối tu hành, rốt lại thượng đế ban phong làm chức Thiên Bồng Nguyên Soái cư trị tại Thiên Hà, tiêu diêu khoái lạc. Ngày kia ăn hội bàn đào, uống rượu say quá, đi lạc vào cung Quảng Hàn, kêu hí Hằng Nga nên phải đọa, đầu thai nhằm heo rừng nái, mới sanh ra đầu thú mình người, ở núi Phước lăng làm nhiều điều thất đức. Sau nhờ Quan Âm khuyên bảo tu hành, theo bảo hộ Ðường Tăng thỉnh kinh cho tiêu tội, hiệu là Bát Giới, pháp danh Ngộ Năng.
Khi ấy Vua Thiên Trúc nghe nói chát chúa, và làm bộ hung hăng, nên cúi đầu không dám ngó!
Bát Giới thấy nhiều người sợ lại muốn làm oai, dĩnh hai lỗ tai ra, trợn hai con mắt, mắt vúc vắc, mỏ hĩnh lên, rồi nhăn răng rồi ha hả! Tam Tạng e kinh giá, liền nạt rằng:
– Không đặng vô lễ như vậy!
Bát Giới cúi mặt xuống tròng tay làm bộ nhu.
Vua Thiên Trúc phán hỏi rằng:
– Còn người thứ ba vì cớ nào mà quy y?
Sa Tăng chắp tay tâu rằng:
– Lão Sa khi trước là phàm phu, sợ việc luân hồi báo ứng, nên vân du khắp nơi, tìm thấy học đạo. Thiệt lòng thành lời không phụ, xúi gặp thần tiên dạy phép tu hành mới thành thần đạo. Thượng Ðế sắc phong làm chức Quyện Liêm tướng quân, hằng ra vào hộ giá. Bởi dự tiệc hội Bàn đào bái tay làm bể chén lưu ly, nên bị đày xuống sông Lưu Sa, bải đầu thay mặt, giết hại dân lành, may nhờ Quan Âm Bồ Tát khuyên bảo tu hành, theo Phật Tổ thỉnh kinh, cho thành chánh quả. Pháp danh Ngộ Tịnh, họ Sa tên Tăng.
Vua Thiên Trúc nghe tâu nữa mừng nữa sợ; mừng là mừng đặng lễ quý hiền lành; sợ là sợ ba con yêu mới đeo chuỗi hột.
Giây phút chánh đài âm dương quan vào tâu rằng:
– Tôi chọn đặng mười hai tháng này là ngày nhâm tý, châu đường cũng tốt, sao trực đều hiền, thật là ngày gia thú tốt lắm.
Vua Thiên Trúc phán hỏi rằng:
– Bữa nay là ngày chi?
Quan Chánh đài âm dương tâu rằng:
– Nay là mồng tám, nhằm ngày mậu thân, đặng vương hầu biến quả, nên tiếp đãi sỉ hiền.
Vua Thiên Trúc mừng rỡ, sai quan Ðường giá dọn gường hoa, cho bốn thầy trò nghỉ.Và dọn dẹp dinh Phò Mã cho tử tế, từ mười hai trở lại cho hoàn thành.
Phán rồi bải chầu.
Khi ấy bốn thầy trò đi đến ngự viên, không bao lâu trời đã gần tối.
Kế quan Ðiển thiện dọn cơm chay thiết đãi.
Bát Giới mừng rỡ, ăn tới cổ mới chịu thôi.
Giây phút thắp đèn, ai nấy lui về phòng nghỉ ngơi.
Tam Tạng thấy vắng khách, mới mắng Hành Giả rằng:
– Con khỉ này bất nhơn thất đức, cứ báo hại ta hoài! Ta đã nói: Mình là người tu niệm, đừng xen vào đó làm chi. Ngươi một hai đốc ta đi coi, mới sanh ra nhiều việc. Bây giờ mới tính làm sao?
Tôn Hành Giả cười giả lả rằng:
– Tại thầy nhắc tới tích xưa: Bà cũng gieo cầu nằm ông mới kết nghĩa, coi ý thầy cũng nhớ chuyện xưa, nên tôi dắt đi coi cho giải muộn. Vã lại Hòa Thượng chùa Bố Kim cũng căn dặn, thăm tin Công giả chơn; nên mới nhất định tới xem thử, té ra là Công Chúa phủ hồng cân, nên ở xa không thấy mặt: Song tôi xem tướng vua cò hơi hối khí, ngặt chưa biết Công Chúa ra thể nào.
Tam Tạng hỏi:
– Nếu ngươi thấy Công Chúa thì tính làm sao?
Tôn Hành Giả nói:
– Cặp mắt lửa tròng vàng của tôi ngó thấy rõ thì biết người biết quỷ, chừng đó sẽ tùy cơ ứng biến, lừa dịp mà làm.
Tam Tạng nói:
– Nay Công Chúa chấm ta làm Phò Mã, ngươi mới tính làm sao?
Tôn Hành Giả nói:
– Ðợi đến ngày mười hai, Công Chúa ra lạy cha mẹ, Lão Tôn sẽ coi cho rõ, nếu quả là yêu quái thì bắt nó hiện nguyên hình. Nhược bằng thiệt Công Chúa đồng trinh, thì để thầy ở đó mà làm Phò Mã. Bởi công tu hành của thầy cũng lắm, nên Trời Phật xui hưởng phước vinh hoa!” Tam Tạng nghe nói giận mắng rằng:
– Con khỉ này quyết hại ta tới nước, nên nó theo hơi Ngộ Năng! Chúng ta cực khổ mười phần qua khỏi chín phần, người lại còn nói hơi yêu hơi quỷ! Nếu vô lễ như vậy nữa ta niệm chú tức thì!
Tôn Hành Giả hoảng hồn quì xuống thưa rằng:
– Thầy không chịu thì thôi, có ích chi cho tôi mà ép, thôi thôi, để chúng tôi sẽ ra tay làm dữ mà cướp thầy ra.
Giây phút Bát Giới nói rằng:
– Tôi ăn no, nên buồn ngủ sớm, hết canh một rồi, xin ngủ mà dưỡng trí khôn, mai sẽ tính.
Rạng ngày Thiên Trúc hoàng đế làm triều, bá quan văn võ chầu chực.
Vua Thiên Trúc truyền dọn yến tại ngự viên thỉnh một mình Phò Mã mà ăn uống với trẫm, còn ba vị hiền thân, ra nhà trạm hội đồng ăn tiệc với các quan.
Bát Giới nghe rõ, liền nói lớn rằng:
– Bệ Hạ ôi! Thầy trò tôi thuở nay không rời nhau một khắc, Bệ Hạ đã ban ơn đãi yến gia sư tại ngự viên, xin cho chúng tôi theo hầu một bữa, nếu làm bức như vậy, chắc là đám cưới này không yên đâu.
Vua Thiên Trúc thấy Bát Giới và nói và làm bộ khó coi: Tai thì rảy lia, miệng táp xàm xạp, dinh mỏ trợn mắt như yêu, nên sợ làm nhăn phá đám.
Liền phán rằng:
– Trẫm y như lời ấy. Vậy thì tại Trấn hoa các dọn hai tiệc đặng quả nhơn với Phò Mã mà ngồi gần, dọn ba tiệc trước Lưu xuân đình cho ba vị hiền thân ngồi phía trước; kéo thầy trò không tẻ ngồi chung.
Bát Giới mừng rỡ tạ ơn, mấy anh em đồng lui gót.
Vua Thiên Trúc truyền chỉ Tam cung lục viên lo sắm đồ nữ trang mới cho Công Chúa, đặng đến ngày mười hai động phòng.
Mấy vị đồng vưng chỉ.
Qua giờ tỵ, vua Thiên Trúc sai đem xe giá rước Tam Tạng đến ngự viên xem chơi, và cho ba anh em Hành Giả vào Lưu xuân đình ăn tiệc.
Vua Thiên Trúc dắt tay Tam Tạng lên các Trần hoa ngồi ăn tiệc ở trên, dưới thì đờn ca xướng hát.
Tam Tạng thấy vua trọng đãi như vầy không lẽ từ chối, tuy ngoài mặt thì vui, mà trong lòng rầu nát!
Tam Tạng ngó thấy hai bức bình phong bốn phía, cái nào cũng có thi cô họa, coi cho rõ là tứ thời, bốn bài thi trong bốn bình phong chữ tinh thần lắm.
Tam Tạng cứ ngồi xem bốn bài thi.
Bốn bài thi tứ cảnh, là cảnh Xuân, Hạ, Thu, Ðông.
Khi ấy vua Thiên Trúc thấy Tam Tạng ngồi xem thì sửng sờ, liền phán hỏi rằng:
– Phò Mã ưa xem thi, chắc làm thi hay lắm? Như không tiếc châu ngọc, xin họa theo nguyên vận bốn bài coi thể nào?
Tam Tạng ưa làm thi nên thấy cảnh thì sanh tình liền ngâm một câu họa vận thi cảnh Xuân rằng:
– Nắng ấm gió tan tiết đã vần.
Vua Thiên Trúc khen hay, truyền chỉ đem văn phòng tứ bữu, rồi phán rằng:
– Phò Mã hãy hoa luôn bốn bài, đặng trẫm để ngâm chơi.
Tam Tạng vưng chỉ, họa thi ngự viên tứ cảnh.
Vua Thiên Trúc xem khen thì hay, rồi phán dạy con hát trong cung và nữ nhạc phổ ca bốn bài thi ấy theo giọng đờn đặng giúp vui trong tiệc rượu.
Nữ nhạc vưng lời.
Còn ba anh em Tôn Hành Giả, ngồi tiệc tại Lưu xuân đình, Bát Giới đã uống quá chén.
Ngó trực lên lầu, thấy thầy ngồi việc với vua Thiên Trúc, Bát Giới khoái ý ó lớn lên rằng:
– Vui lắm, sướng lắm, bữa nay ăn uống hơn nữa ngày, sẳn dịp no say, đi ngủ ngon lắm!
Sa Tăng cười rằng:
– Nhị ca không biết cử kiêng, đương ăn no sao dám ngủ?
Bát Giới nói:
– Ngươi không hiểu nên cử lầm đó! Há chẳng nghe lời tục nói rằng:
– Ăn no không nằm ngửa, trong này không có mở.
Khi ấy TamTạng ở trên lầu Trấn Hoa, nghe Bát Giới nói trây, mắc cỡ trong mình mọc ốc! đến khi vua Thiên Trúc từ giã về cung, Tam Tạng tạ ơn rồi xuống lầu, quân Lưu xuân định quở Bát Giới rằng:
– Ngươi quen thói rừng ăn nói thô tục! Chỗ này là chỗ chơi hay sao, muốn ó chừng nào thì ó? Nếu Quốc Vương bắt tội thì còn gì tánh mạng?
Bát Giới nói:
– Không hề chi mà sợ! Chúng ta là suôi gia với Hoàng đế, lẽ nào suôi dám giận suôi? Lời tục nói rằng:
– Suối gia đánh lộn còn thân, xóm giềng mắng lộn cũng không bỏ. Chúng tôi cứ việc giỡn hoài, tội gì mà sợ họ nữa?
Tam Tạng nổi nóng rằng:
– Lấy thiền trượng ra đây ta đánh Bát Giới vài chục?
Tôn Hành Giả y lời liền đưa thiền trượng cho thầy, rồi đè Bát Giới xuống, Tam Tạng đương lúc giận, giá thiền trượng đập liền!
Bát Giới la lớn rằng:
– Ôi, ôi! Phò Mã gia gia ôi! Xin thứ tội cho tôi?
Khi ấy có các quan hầu tiệc, thấy vậy liền can, Bát Giới chờ dậy lầm bầm nói rằng:
– Phò Mã hay thiệt! Chưa chắc làm rể vua, mà muốn hành chánh theo vương pháp.
Tôn Hành Giả vả miệng Bát Giới mà bảo rằng:
– Ði ngủ đi đừng nói bậy bạ mà nữa mà chết.
Từ ấy sắp sau ăn chơi hơn ba ngày.
Kế đến bữa mười hai, quan Công bộ tâu rằng:
– Chúng tôi vưng chỉ, lập dinh dãy cho Phò Mã xong rồi.
Quan Lộc tự tâu rằng:
– Tôi vưng chỉ dọn tiệc Tân hôn đã xong rồi, cộng hơn năm trăm cổ vừa chạy vừa mặn.
Tam cung lục viện đồng tiếp giá, Công Chúa ra mừng lạy.
Vua Thiên Trúc phán rằng:
– Công Chúa hiền nữ từ ngày mồng tám gieo cầu, nay gặp thánh tăng cũng đã vừa ý, các quan cũng vừa theo ý trẫm, dọn dẹp các việc đã an bài; nay là ngày lành, sẽ động phòng hoa chúc.
Công Chúa quỳ lạy tâu rằng:
– Xin phụ vương xá tội con mới dám tâu, bởi con nghe nói ba đệ người tử Ðường Tăng hình như yêu quái, nghe nói cũng kinh hồn. Xin phụ vương đưa chúng nó ra khỏi thành, con mới dám vào phòng hoa chúc.
Vua Thiên Trúc phán rằng:
– Phải Công Chúa không nhắc chuyện ấy thì trẫm đã quên rồi! Thiệt là người ấy dữ cũng như yêu, nhứt là Hòa Thượng mỏ dài nghinh ngang lỗ mãng lắm, mấy bữa rày trẫm đã tống chúng nó ra vườn hoa. Bữa nay trẫm tính ghi điệp để chúng nó ra ngoài thành, rồi hội yến động phòng mới đặng.
Công Chúa mừng rỡ tạ ơn.
Khi ấy vua Thiên Trúc ngự ra đền, truyền chỉ đòi Phò Mã và người độ đệ.
Nói về Tam Tạng hằng lo việc ấy, đến bữa mười hai trời rạng đông, chờ dậy sớm nói với các đệ tử rằng:
– Bữa nay là mười hai, nhằm ngày báo hại! Ngộ Không mới tính làm sao?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Tôi coi qua Thiên Trúc khí sắc tối tăm, may chưa thắm bao nhiêu, nên còn cứu được. Ngặt chưa thấy Công Chúa, nên khó biết giả chơn. Song tôi đã tính kế rồi, xin sư phụ đừng sợ? Dầu bữa nay vua Thiên Trúc đưa chúng tôi ra khỏi thành, thầy cũng an lòng như vậy, tôi ra ngoài mà biến hào theo thầy mà bảo hộ.
Xảy thấy quan Ðương giá đến mời, Tôn Hành Giả hối Bát Giới và Sa Tăng quảy đồ hành lý và dắt ngựa tới đền.
Vua Thiên Trúc với ba anh em lên gần ngai mà phán rằng:
– Các ngươi đưa điệp thông quan, đặng trẫm ký tên đóng ấn, và rẫm cấp tiền sở phí đặng các người đi thỉnh kinh, chừng trở về đây, trẫm sẽ tạ ơn trọng thể.
Còn Phò Mã ở đây với trẫm, các ngươi đừng nghi ngại điều chi?
Tôn Hành Giả tạ ơn, rồi bảo Sa Tăng dưng điệp, vua Thiên Trúc xem rồi liền ký tên đóng ấn xong xả, lại đưa mười thoi vàng và hai mươi đính bạc, gọi là phí lộ đi đàng, Bát Giới lãnh bạc vàng, Sa Tăng lãnh điệp, Tôn Hành Giả liền bái tạ từ.Rồi bái Tam Tạng mà lui gót.
Tam Tạng hoảng hồn, bước theo níu Hành Giả mà nói nhỏ rằng:
– Các ngươi đi thiệt hay sao.
Tôn Hành Giả bóp tay Tam Tạng lạy và thưa rằng:
– Xin thầy an lòng ở lại, chúng tôi thỉnh kinh đặng, trở về cũng ghé thăm thầy.
Tam Tạng mới chịu buông Hành Giả, rồi trở lên đền.
Còn ba anh em Tôn Hành Giả đồng ra nhà trạm, Dịch Thừa nghinh tiếp đãi trà.
Tôn Hành Giả nói nhỏ với Bát Giới, Sa Tăng:
– Hai đứa bây ở đây, đừng đi đâu hết, cũng đừng nói chuyện với ta. Dịch Thừa có hỏi thăm điều chi thì ngươi nói là ừ hữ một tiếng. Ðể ta biến hóa theo bảo hộ thầy.
Dặn rồi nhổ một sợi lông hóa ra hình mình ngồi với Sa Tăng, Bát Giới, còn mình nhảy lên mây hóa ra con ông mật bay thẳng vào đền, thấy Tam Tạng đang ngồi nhăn mặt!
Khi ấy Tôn Hành Giả bay lại bên tai Tam Tạng mà kêu rằng:
– Thầy ôi! Tôi đã đến đây, đừng buồn rầu nữa?
Tam Tạng nghe văng vẳng bên tai, biết Hành Giả hóa ong mà bảo hộ, nên mới an lòng.
Giây phút có các quan đến tâu rằng:
– Tiệc tân hôn dọn tại cung Chi Thước, Nương nương và Công Chúa đương chờ Bệ Hạ trong cung. Xin vạn tuế thỉnh quý nhơn dự tiệc.
Nói về Tam Tạng theo vua Thiên Trúc vào cung, nghe tiếng nhạc êm tai, phất mùi thơm nực mũi, thiếu chi kẻ da tươi tơ ngọc, có một nàng nhan sắc tốt như hoa, chẳng nhượng Hằng Nga, nào thua Tây Tử.
Tam Tạng thất sắc, cứ việc cúi đầu, trăng trong ngọc rạng thây ai, nhớ phật tưởng kinh là phận.
Nói về ba anh em đằng vân qua Ðông Bắc, giây phút đến núi Thanh Long cửa động Huyền anh, Bát Giới muốn phá cửa.
Tôn Hành Giả nói:
– Ðể ta lén vô trước, còn thầy sống thác thế nào, rồi sẽ đánh với nó.
Nói rồi bắt ấn niệm chú biến ra con đốm đốm, bay vào trong động thấy Ngưu tinh nằm ngả ngang ngả dọc, đứa nào cũng ngáy pho pho, bay đến nhà khách cũng lăng trang; cửa nẻo đóng chặt cứng, không biết ba chúa yêu ngủ tại đâu!
Tôn Hành Giả bay ra phía sau, chiếu sáng lên một cái mà coi cho rõ.
Nghe tiếng thầy khóc, Tôn Hành Giả bay tới nhán lên một cái thấy thầy bị trói tại cây cột, đương ngồi đó khóc than.
Tôn Hành Giả bay lại một bên, thấy Tam Tạng than rằng:
– Phong tục phương Tây lạ lắm! Trong tiết tháng giêng sao lại có đôm đốm.
Tôn Hành Giả nín không đặng, liền kêu thầy mà nói rằng:
– Thầy ôi! Tôi đã đến đây.
Tam Tạng mừng rỡ nói rằng:
– Ngộ Không, nói vậy là ngươi đó sao?
Tôn Hành Giả hiện hình nói rằng:
– Thầy ôi, sao thầy không biết thiệt giả, làm cho trể việc đi đường, chúng tôi mệt nhọc hết sức. Hồi ban ngày tôi đánh với lũ yêu, đến tối mới về, nay đi với Sa Tăng, Bát Giới đến đây, tôi sợ ban đêm đánh không tiện, và không biết thầy ở đâu, nên phải hóa đôm đốm mà đi thăm thử. Tôi ngó thấy yêu tinh ngủ hết, để tôi dắt thầy ra.
Nói rồi làm phép giải tỏa, lấy tay phủ một cái xiềng đả sút ra; liền dắt thầy đi ra trước.
Xảy nghe chúa yêu kêu rằng:
– Mấy đứa nhỏ! Sao bây chẳng đi tuần, không nghe tiếng lục lạc tiếng mỏ chì hết vậy?
Bởi lũ tiểu yêu đánh một ngày đã mệt, nên tối ngủ mê, nghe kêu mới thức dậy.
Khi ấy tiểu yêu, đứa đánh mỏ đứa rung lục lạc, kéo nhau đi tuần.
Xảy gặp hai thầy trò đương lén ra nhà khách.
Lũ tiểu yêu ó lớn rằng:
– Hòa Thượng có tài lắm, bẻ khóa trốn đi đâu?
Tôn Hành Giả không thèm nói lại, rút thiết bảng đập chết hai con yêu, con bao nhiêu nó chạy vào khỏi nhà khách, gõ cửa phòng kêu lớn rằng:
– Ðại vương ôi! Không xong rồi. Hòa Thượng mặt có lông lén vào động sát nhơn, giết hết hai mạng.
Ba chúa động nghe kêu, lồm cồm chờ dậy, bảo rằng:
– Bắt nó, bắt nó!
Tam Tạng nghe nói bủn rủn tay chân, nên đi không đặng, Tôn Hành Giả phá mấy vòng cửa mà ra.
Kêu Bát Giới và Sa Tăng mà thuật chuyện lại.
Còn chúa yêu bắt Tam Tạng, xiềng lại như xưa, bảo tiểu yêu thắp đèn tỏ rỏ, xách đao búa lại mà hỏi Tam Tạng rằng:
– Vì cớ nào mà ngươi mở khóa đặng? Con khỉ ấy làm cách nào mà vô đây? Ngươi cứ thiệt khai ngay thì ta tha tội, nếu ngươi giấu thì ta chặt làm hai khúc bây giờ.
Tam Tạng run lập cập thưa rằng:
– Ðại dương gia ôi! Tôn Hành Giả biến hóa bảy mươi hai cách, mới biến làm đôm đốm vào động mà cứu tôi, chẳng ngờ đại vương thức dậy, bị các quân đón đường.
Tôn Hành Giả túng nghề đánh hai người bị thương tích, nó nghe kêu đại vương nên kinh hải bỏ tôi mà chạy, ấy là tôi khai thiệt, không dám dối một lời; xin đại vương dung mạng.
Ba chúa yêu cười ha hả nói rằng:
– May mình thức giấc, phải ngủ quên nó trốn mất rồi! Thôi, chúng bây đóng cửa cho chắc chắn, đừng có làm rầy.
Sa Tăng ở ngoài động, nó với Bát Giới nói rằng:
– Chúng nó đóng cửa rồi, lặng trang, có khi làm hại sư phụ? Vậy thì chúng ta phá cửa cho ma. Bát Giới nói phải.
Liền vác ba đinh đập hư cửa động, và hét lớn rằng:
– Bầy yêu uống vụng dầu tô diệp, trả thầy ta cho mau, nếu để lâu ta giết hết cả ổ.
Khi ấy ba chúa yêu nghe kêu nổi giận, liền nai nịt cầm binh khí dẫn lũ tiểu yêu ra động, thấy trăng đứng bóng sáng như ban ngày.
Chúng nó không nói chi hết, ngoắt lũ Ngưu tinh một cái đồn hè áp đánh ba người. Tôn Hành Giả đưa thiết bảng ra đở búa đồng.
Bát Giới đưa đinh ba ra cự với đại đao.
Sa Tăng đưa bữu trượng ra đở hèo mây, sáu người hổn chiến cầm đồng.
Khi ấy Tịch Hàng đại vương hét một tiếng mà nói rằng:
– Trẻ nhỏ ứng tiếp cho mau.
Lũ thủy ngưu tinh đem dây xích xông ra giựt cảng Bát Giới. Bát Giới té nhào xuống, lũ Thủy ngưu tính trói mèo, khiêng như khiêng theo, đem ngay vào động.
Còn Sa Tăng thấy Bát Giới thất cơ, nên xách bửu trượng mà chạy, chẳng ngờ Tịch Hàng đại vương trợ chiến đuổi theo, phần thì lũ Ngưu tinh ứng tiếp, nên Sa Tăng chạy không khỏi, bị chúng nó bắt đặng trói liền.
Tôn Hành Giả biết thế không xong liền cân đẩu vân nhảy tuốt.
Ðoạn Tôn Hành Giả về tới Từ Vân tự, các Hòa Thượng nghinh tiếp hỏi rằng:
– Lão gia cứu đặng Ðường lão gia chăng?
Tôn Hành Giả nói:
– Khó cứu, khó cứu, phe đó đông lắm, bắt thêm hai vị sư đệ của ta, vậy thì các ngươi coi giùm con ngựa và hành lý, đặng ta lên trời mà viện binh.
Các Hòa Thượng hỏi rằng:
– Gia Gia lên trời đặng hay sao?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Thiên cung là nhà cũ của ta, tới lui thường như đi chợ.
Các Hòa Thượng đồng kinh hải, quỳ lạy thưa rằng:
– Chúng tôi nhục nhản không biết thần tiên, xin gia gia miễn tội.
Tôn Hành Giả bảo các sải đứng dậy, rồi hú một tiếng, nhảy thót lên mây.
Xảy thấy Thái Bạch kim tinh và Tăng trưởng thiên vương, với Tứ đại linh quan đương đàm dạo tại Thiên môn.
Tôn Hành Giả bước tới, mấy ông ấy bái và hỏi rằng:
– Ðại Thánh tới đây có chuyện chi?
Tôn Hành Giả đáp lễ và thuật chuyện lại, rồi nói rằng:
– Bởi lão Tôn bắt bầy yêu ấy không đặng, nên lên Thiên cung tâu với Thượng Ðế xin tra cội rể nó là vì sao nào xuống phàm, sẽ thỉnh thiên tướng bắt nó.
Thái Bạch kim tinh cười ngất nói rằng:
– Ðại Thánh đánh với yêu hai trận, lẽ nào không biết nó là vật gì?
Tôn Hành Giả nói:
– Lão Tôn coi chắc nó là ba con tây thành tinh, ngặt nó có sức mạnh và một bầy ngưu tinh trợ chiến rất đông, nên khó bắt lắm!
Thái Bạch nói:
– Nói như vậy thì ba con trâu nước thành tinh, chúng nó biết phép thiên văn lại tu luyện lâu năm nên thần thông quảng đại, ở trên thì đằng vân giá vụ, xuống nước thì phân khai thủy đạo, trừ ra Từ Mộc cầm tinh bắt nó mới đặng thì thôi miễn là chúng nó thấy mặt Tứ Mộc cầm tinh tức thì chịu phép.
Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Chẳng hay Tứ Mộc cầm tinh là bốn vì sao nào, xin Kim Tinh làm ơn chỉ rõ.
Thái Bạch kim tinh cười:
– Cũng ở theo sao Bắc đẩu, bủa khắp cả trời, Ðại Thánh hãy vào tâu xin quyết Tứ mộc cầm tinh thì Thượng Ðế biết rõ.
Tôn Hành Giả mừng rỡ tạ từ.
Ðoạn Tôn Hành Giả vào khỏi Thiên môn, gần tới đền Thông minh ra mắt bốn ông Ðại thiên sư.
Bốn ông ấy đem Tôn Hành Giả vào đền Linh Tiêu, Tôn Hành Giả quỳ lạy chúc tụng xong rồi, tâu hết các việc.
Thượng Ðế truyền chỉ điễm thiên binh, thiên tướng trợ lực với Hành Giả, Tôn Hành Giả tâu rằng:
– Tôi mới gặp Thái Bạch kim tinh nói ba con yêu ấy là trâu nước thành quái, trừ ra Tứ mộc cầm tinh bắt chúng mới đặng.
Thượng Ðế truyền Hứa thiên sư dắt Tôn Hành Giả tới cung Ðẩu ngưu đòi Tứ mộc cầm binh xuống phàm bắt yêu quái.
Tôn Hành Giả tạ ơn, đi đến cung Ðẩu ngưu, Hứa thiên sư y theo thánh chỉ truyền lại. Giác mộc giao, Ðẩu mộc giải, Khuê mộc lang, Tỉnh mộc ngạn đồng bước ra hỏi rằng:
– Ðại Thánh điểm chúng tôi đi đánh yêu tại núi nào?
Tôn Hành Giả cười rắng:
– Tưởng bốn vị Mộc tinh nào lạ, chẳng ngờ bốn ông này! Ông Trường Canh nói giấu lão Tôn, chớ phải chi nói thiệt bốn vị, sao Mộc tinh trong Nhị thập bát tú, thì lão Tôn đi thẳng lại đây mà vời, khỏi mất công xin thánh chỉ.
Nói rồi thuật chuyện vân vân.
Tứ mộc cầm tinh cười rằng:
– Ðại Thánh nói hơi ngang quá? Nếu không có thánh chỉ, chúng tôi dám đi với Ðại Thánh hay sao? Bây giờ hãy đi cho chóng.
Tôn Hành Giả dẫn đường, Tứ Mộc cầm tinh theo tới núi Thanh Long, gần cửa động Huyền Anh. Tứ mộc cầm tinh nói:
– Ðại Thánh đi khiêu chiến, dẫn chúng nó ra đây, chúng tôi sẽ ra tay bắt nó, nếu chúng tôi cho nó thấy mặt, chắc là trốn mất không ra, đợi phá động thì mất công lắm!
Khi ấy Tôn Hành Giả y lời, tới trước cửa động kêu lớn rằng:
– Ba con quỷ uống vụng dầu tô diệp, trả sư phụ cho ta!
Ba chúa yêu nổi giận dẫn ngưu tinh ra ngoài, Tôn Hành Giả giá thiết bảng đập đại, ba chúa yêu và đánh và kêu tiểu yêu phủ vây.
Kế Từ Mộc cầm tinh xách khí giái áp tới hét lớn rằng:
– Nghiệt súc, đừng làm dữ!
Ba chúa yêu ngó thấy kinh hải hỏi rằng:
– Không xong, không xong! Nó đã viện đặng thần tương trợ chiến, chúng bây lo chạy kẻo chết bây giờ.
Lủ tiểu yêu nghe nói thất sắc, rống lên một tiếng hiện nguyên hình là: Sơn Ngưu, Huỳnh Ngưu chạy nhảy lăng xăng.
Còn ba con yêu chúa đồng quăng khí giái, hiện nguyên hình là ba con tây, nổi gió chạy về hướng Cấn. Tôn Hành Giả và Tỉnh Mộc Ngạn với Giác mộc Giao đuổi nà theo.
Còn Dẩu mộc Giải, Khuê mộc lang rượt bầy trâu xung quanh núi, lớp thì đập chết, lớp thì bắt sống, không còn xót một con, đoạn vào động Huyền Anh mở dây cho Tam Tạng, Sa Tăng với Bát Giới. Sa Tăng, Bát Giới hỏi rằng:
– Sao hai vị tinh quân biết chúng tôi mắc nạn mà cứu?
Ðẩu Mộc Giải và Khuê Mộc Lang nói:
– Tôn Ðại Thánh xin chỉ Thượng Ðế, viện chúng tôi xuống trừ yêu quái mà cứu các ông.
Tam Tạng hỏi:
– Sao chẳng thấy Ngộ Không?
Hai vì sao nói:
– Ba chúa yêu là ba con tây thành tinh, nó thấy chúng tôi, nên thất kinh chạy qua hướng Cấn mà trốn; Tôn Ðại Thánh và sao Giác, sao Tỉnh theo ba con tinh. Còn hai đứa tôi giết chết bầy yêu, nên đến đây cứu Thánh tăng với Quyện Liêm tướng quân, Thiên Bồng Nguyên Soái.
Tam Tạng nghe nói tạ ơn.
Khuê Mộc Lang nói:
– Vậy thì Quyện Liêm tướng quân và Thiên Bồng Nguyên Soái bảo hộ tôn sư về chùa mà nghỉ, để chúngtôi theo ứng tiếp mà bắt yêu tinh.
Bát Giơi nói:
– Phải phải! Hai ông rán sức trợ chiến mà bắt cho đặng ba yêu chúa.
Hai vì sao từ giả rồi bay qua hướng Cấn.
Còn Sa Tăng với Bát Giới lấy hết đồ tế nhuyển trong động, những lá san hô, mả nảo, trân châu, hổ phách, xa cừ, bửu bối, ngọc tốt, vàng ròng, đều tóm hết thảy, đựng đầy một bọc đem ra ngoài, mời thầy lên hòn núi mà ngồi, trở vào nổi lửa đốt động cháy rụi!
Rồi mời dắt Tam Tạng vào chùa Từ Vân.
Nói về sao Ðẩu sao Khuê vân qua hướng Ðông Bắc, ở trên mây kiếm tìm không thấy yêu quái, liền thẳng tới Tây dương đại hải, xa xa ngó thấy Ðại Thánh hét ré trên mặt biển.
Sao Khuê sao Ðẩu ở trên mây nhảy xuống kêu rằng:
– Ðại Thánh, yêu quái đâu rồi?
Tôn Hành Giả nổi giận nói rằng:
– Sao hai ngươi không tiếp?
Ðẩu Mộc Giải nói rằng:
– Tôi thấy Ðại Thánh cà sao Tỉnh sao Giác đuổi theo yêu tinh rồi, về động cứu tôn sư, và hai vị lịnh sư đệ đã về chúa rồi. Trông hèn lâu chẳng thấy Ðại Thánh trở về, nên đi theo ứng tiếp.
Tôn Hành Giả nghe nói, mừng rỡ tạ ơn rằng:
– Như vậy thiệt là nhọc công hai ông lắm, song ba con yêu bị Lão Tôn đuổi theo, dặn Lão Tôn đứng đây mà đón. Nay có hai ông đến đây, xin đứng dựa mé biển mà hườm nó, đặng Lão Tôn đuổi theo.
Tôn Hành Giả cầm thiết bảng bắt ấn niệm chú, rẻ nước rồi nhảy xuống biển.
Khi ấy Tôn Hành Giả xuống tới đáy biển, ngó thấy Tỉnh Mộc Ngạn và Giác Mộc Giao đương đánh ẩu đã với ba con yêu ấy. Tôn Hành Giả hét lớn rằng:
– Có Lão Tôn tiếp đây.
Ba con yêu đương lúc khốn nạn, lại nghe Tôn Hành Giả ó vang, chúng nó sợ chết nhảy nai. Bởi bầy yêu có cái sừng rẻ nước, nên nó chạy tới đâu tách nước tới đó.
Hai vì sao và Tôn Hành Giả cứ dường nước mà đuổi theo song chưa kịp chúng nó. Nói về Dạ xa đi tuần biển Tây, ngó thấy ba con trâu nước chạy trước nước rẻ làm hai, sau có hai vì sao và Tôn Hành Giả theo đuổi.
Dạ xoa liền trở về cung Thủy tinh báo với Tây Hải Long Vương Ngao Thuận, Ngao Thuận đòi Thái Tử Ma Ngang mà phán rằng:
– Chắc là Tê Ngưu Tinh: Tịch Hàng, Tịch Tử, Tịch Trần, ba con tinh chọc Tôn Ðại Thánh; nay chúng nó đã chạy tới biển, vậy thời con điểm binh mà trợ Ðại Thánh?
Thái Tử Ma Ngang vưng lịnh liền điểm binh tôn, lýnh cá, tướng sấu, thầy rùa, đều cầm đao thương đón lũ yêu lại. Ba con yêu ấy chạy tới không đặng, quay lại bị hai vì sao và Tôn Hành Giả chận đầu! Nên chúng nó lạc bầy, chạy nam chạy bắc.
Hai vì sao và Tôn Hành Giả đuổi theo, Thái Tử Ma Ngang vây đặng Tịch Trần, Tôn Hành Giả ngó thấy kêu rằng:
– Khoan đã, khoan đã, bắt sống nó mà thôi, đừng có giết chết!
Thái Tử Ma Ngang vưng lịnh, kéo binh tới đánh Tịch Trần què giò té nhào xuống đất; liền lấy móc sắc xỏ mủi, rồi trói bốn giò!
Khi ấy Tây Hải Long Vương Ngao Thuận truyền lịnh chia binh đuổi theo hai con yêu khác; mà bắt cho đặng cặp Tê Ngưu Tinh, Thái Tử Ma Ngang kéo binh theo, thấy sao Tỉnh Mộc ngạn hiện nguyên hình là con chó đồng dái hơn bảy thước, có vảy cùng mình, cái mặt chầm vầm, hàm răng chơm chởm, đương đè con Tịch Hàng mà cắn cổ! Thái Tử Ma Ngang kêu rằng:
– Tỉnh tú, Tỉnh tú, đừng có cắn chết nó! Tôn Ðại Thánh bảo bắt sống mà thôi, đừng có giết chết.
Kêu luôn hai tiếng mà Tỉnh Mộc Ngạn cắn đã đứt đầu con trâu nước!
Thái Tử Ma Ngang truyền quân khiêng thây con trâu nước về cung Thủy tinh.
Rồi đi theo Tỉnh Mộc Ngạn mà đuổi Tịch Thử nữa, xảy thấy sao Giác Mộc Giao đổi Tịch Thử trở lại, rủi gặp Tính Mộc Ngạn, Thái Tử Ma Ngang đem binh vây lại, Tịch Thử năn nỉ xin dung toàn mạng.
Tỉnh Mộc Ngạn chạy lại xách tai mà hỏi rằng:
– Ta chẳng giết ngươi đâu mà sợ, để bắt cho Tôn Ðại Thánh xử tội mà thôi.
Nói rồi dẫn về cung Thủy tinh, mà nói rằng:
– Bắt đặng hết thảy.
Khi ấy Tôn Hành Giả ngó thấy một con trâu nước đứt đầu còn cổ máu chảy ròng ròng, nằm chình ình dưới đất. Bước lại gần coi rõ nói rằng:
– Cái cổ này không có dấu gươm làm sao mà đứt?
Thái Tử Ma Ngang cười rằng:
– Nếu tôi chập miệng thì Tỉnh tinh quân ăn hết cả thân mình!
Tôn Hành Giả nói:
– Căn cổ lở thì thôi, hãy đem cưa đây mà cưa cặp sừng, và lột da nó, còn thịt nó thì kiến lại cho Long vương và Thái Tử.
Còn con Tịch Thử, và Tịch Trần giao Tinh tú dắt theo đến phủ Kim Binh, cho quan Thứ sử xem rõ, sẻ hài cái tội nó giã Phật hại dân, rồi sẻ xử quyết.
Nói rồi hối lấy da và sừng con tây ấy.
Ðó rồi ba người từ giã cha con Tây Hải Long Vương, dắt cặp trâu nước lên mé biển, gặp sao Khuê và sao Ðẩu thuật chuyện lại, đồng đằng vân qua phủ Kim Bình. Tôn Hành Giả ở nữa lừng kêu lớn rằng:
– Quan Thứ sử phủ Kim Bình và hai bên văn võ, với các quân đồng nghe cho rỏ: Ta là sải thánh ở Ðông Ðộ và Ðại Ðường đi thỉnh kinh. Các phụ huyện thuở nay thắp đèn trời trong tiết nguơn tiêu, ba con trâu nuớc thành tinh giả hình Phật mà thâu dầu tô diệp. Hôm trước chúng ta đến đây coi đèn, thấy ba con yêu lấy dấu và bắt thầy ta, nên ta thỉnh thiên thần bắt nó. Nay đã phá hết động núi, bắt hết yêu tinh, nó hết làm hại nữa. Từ rày sắp tới phủ huyện dừng thâu tiền dân giàu có mà thắp đèn trời nữa!
Lúc này các sải chùa Từ Vân đương đi ra nghinh tiếp vì Sa Tăng, Bát Giới mới đem thầy về tới cửa chùa. Bát Giới, Sa Tăng nghe Hành Giả rao lớn tiếng như vậy, hai anh em đồng bỏ thầy nhảy lên mây mà hỏi thăm việc bắt yêu.
Tôn Hành Giả nói:
– Một con bị Tỉnh tinh cắn chết, ta đã cưa sừng lột da đem về đây, còn hai con bắt xỏ mủi đem về đó.
Bát Giới nói:
– Dẫn óc hai con trâu nước xuống đất, cho thiên hạ coi chung; thì người ta biết chúng là thần tăng, cảm phiền bốn vị Tinh quân xuống dưới phủ đường mà xử tử hai con yêu ấy mới đáng tội.
Tứ Mộc Cầm Tinh Ðồng nói:
– Thiên Bồng Nguyên Soái nói thông lắm!
Bát Giới cười rằng:
– Tôi làm yêu rong mấy năm rồi, thông luật phép nhiều lắm.
Khi ấy Tứ Mộc cầm tinh y lời, xô hai con trâu nước xuống đất, đồng bước tới phủ đường. Các phủ huyện và quân dân hải kinh, nhà nào cũng thắp hương mà lạy!
Giây phút các sải ở chùa Từ Vân để Tam Tạng ngồi trên kiệu khiêng tới, Tôn Hành Giả thuật chuyện lại.
Tam Tạng khen ngợi, và tạ ơn bốn vị Tinh quân.
Còn các quan cũng thắp đèn mà lạy Tam Tạng.
Khi ấy Bát Giới làm phách giựt siêu đao chặt đứt hai đầu trâu nước.
Rồi lấy cưa, cưa bốn sừng!
Tôn Hành Giả nói:
– Bốn vị tinh quân đem ba cái sừng này mà dưng cho Thượng Ðế, còn một cái để trong phủ này làm dấu tích, mà răn việc dưng dầu, còn một cặp đển đến núi Linh Sơn dưng cho Phật Tổ.
Tứ Mộc cầm binh mừng rỡ, từ giã rồi đằng vân về trời.
Còn phủ huyện cầm bốn thầy trò, dọn tiệc chay mà đãi, mời các quan dự tiệc.
Lại dán cáo thị ra cho dân sự đồng hay, kể từ năm tới không cho đốt đèn trời nữa, khỏi đậu tiền dầu.
Lại truyền lột da trâu nước mà làm giáp, và xắt thịt mà kiến cho quan viên. Lại xuất của kho mua một sở đất cất một cái miếu đặt hiệu là: Tư linh hàng yêu miểu.
Và lập sanh từ bốn thầy trò, đều khắc ba bia đá đựng trước miễu, để lưu truyền ngàn năm, gọi là đền ơn cứu dân độ thế.
Bốn thầy trò cũng bằng lòng.
Lúc này hai trăm bốn chục cái nhà giàu chịu phần dầu thuở nay đều cám ơn lắm, nhà nhà dọn tiệc đãi bốn thầy trò, cứ một nhà đãi một bữa. Bát Giới phình bụng nhậm lễ! Bữa nào đi ăn tiệc cũng bỏ ngọc vàng châu báu trong tay áo mà thưởng chủ nhà! Của hoạnh tái bị chúng cầm đãi đằng hơn nửa tháng mà đi chưa đặng.
Còn Tam Tạng bảo Tôn Hành Giả đem vàng ngọc châu báu còn dư bao nhiêu đem cúng vào chùa Tứ vân mà tạ ơn thiết đãi bấy lâu.
Rồi sẽ dậy lúc canh tư mà trốn đi kẻo trể việc thỉnh kinh, e Phật quở mà mang tai nạn. Tôn Hành Giả y lời cúng chùa xong xả.
Rạng ngày không cho các chủ nhà hay sự đã tính, cũng không cho Bát Giới hay trước, sợ bàn soạn mà chúng hay.
Ðến đầu canh năm Tôn Hành Giả kêu Bát Giới chờ dậy thắng ngựa.
Bát Giới ăn no ngủ kỹ đã quen, nên nhắm con mắt mà nói bứ sứ rằng:
– Thằng ngựa làm chi sớm vậy?
Tôn Hành Giả nạt rằng:
– Sư phụ bảo đi kẻo trể.
Bát Giới dụi con mắt mà nói rằng:
– Như vậy thì mất lẻ công bình lắm, hai trăm bốn chục nhà luân phiên đãi tiệc, ăn chưa đầy bảy mươi ngày, sao muốn bắt Lão Trư nhịn đói?
Tam Tạng mắng rằng:
– Ðứa thô tục ăn hèm đừng nói nhiều chuyện, hãy chờ dậy cho mau. Nếu trể nải ta bảo Ngộ Không đánh bằng thiết bảng.
Rạng ngày các sải thức dậy không thấy bồn thầy trò, ai nấy đều vò đầu mà than rằng:
– Tức quá chừng quá đổi! Gặp Phật sống mà không cầu đặng chuyện chi, chưa kịp hỏi thăm sự họa phước, không dè đi tức, uổng biết chừng nào.
Không bao lâu, có chủ nhà kia đếm chùa thỉnh mấy thầy dự tiệc.
Các sải nói tước rằng:
– Bốn vị hồi khuya đã đằng vân rồi, còn ở đâu mà thỉnh phó trai nữa!
Chủ nhà ấy nghe nói ngở thiệt liền lạy thinh không, rồi về lưu truyền, các quan đến sanh từ cúng lạy.
Các nhà chưa kịp đãi, cũng luân phiên đi cúng sanh từ!
Còn bốn thầy trò đi hơn nữa tháng bình an vô sự.
Xảy thấy núi cao trước mặt, Tam Tạng dớn dác nói rằng:
– Ðồ đệ ôi! Trước mặt có núi cao, phải giữ gìn cho lắm.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Ðây là gần cõi Phật, chắc không có yêu ma, sư phụ vững bụng mà đi, đừng nghi ngại chi cả.
Tam Tạng nói:
– Tuy đây gần cảnh Phật, song các sải chùa Từ Vân có nói: Từ chùa đến kinh đô Thiên Trúc, còn hai ngàn dặm đường. Không biết còn bao xa mới tới Lôi âm, chưa chắc là gần cảnh Phật.
Tôn Hành Giả nói:
– Thầy đã quên tâm kinh của Ô Sao thiền sư sao rồi!
Tam Tạng nói:
– Tâm kinh của Ô Sao thiền sư ta đã thuộc làu, ước chừng đọc ngược cũng đặng, lẽ nào lại quên đi?
Tôn Hành Giả nói:
– Tuy thầy thuộc lòng đọc lẹ lắm, song chưa biết thầy cắt nghĩa đặng chăng?
Tam Tạng nổi giận nói rằng:
– Con khỉ kia, sao ngươi dám nói ta cắt nghĩa không đặng, vậy chớ ngươi cắt nghĩa đặng chăng?
Tôn Hành Giả nói:
– Tôi cắt nghĩa đặng, nghĩa là cứ việc làm thinh.
Khi ấy Bát Giới cười ngất nói rằng:
– Ðại ca cũng là chúa yêu xuất thân, không phải chánh mặt Hòa Thượng mà biết Phật biết kinh, khéo làm bộ nói bướng! Giống gì mà cắt nghĩa đặng, giống gì mà cứ việc làm thinh, xin cắt nghĩa cho rõ!
Sa Tăng nói:
– Ðại ca đặt chuyện, nói năng chi cho thầy đi, thiệt đại ca có tài múa gậy mà thôi, chớ giảng kinh sao nổi.
Tam Tạng nói:
– Ngộ Năng, Ngộ Tỉnh nói sái hết thảy, thiệt Ngộ Không cắt nghĩa đặng, mới nói tiếng làm thinh; nêu không làm thinh thời chẳng đặng thánh chánh quả.
Khi ấy thầy trò đi qua khỏi núi, thấy một kiểng chùa gần bên đàng, có treo một tấm biểng, để bốn chữ là: Bố Kim Thiên Tự, nghĩa là:Chùa Phật trải vàng.
Tam Tạng xem thấy ngẫm nghĩ rồi nói rằng:
– Chùa Bố Kim này là ranh nước Xá vệ thì phải.
Bát Giới nói:
– Kỳ quá! Tôi đi theo thầy mười mấy năm nay, không thấy thầy biết đường nào hết. Sao bây giờ đây thầy lại biết đường?
Tam Tạng nó:
– Không phải ta biết đường đâu. Thiệt là thấy trong kinh có nói như vầy: Phật Thích Ca ở thành Xá vệ, có ông nhà giàu đại phú là Cấp Cô Ðộc trưởng giả, hỏi thăm Thái Tử mua vườn Kỳ thọ viên, đặng thỉnh Phật Thích Ca về vườn ấy mà giảng kinh.
Thái Tử nói:
– Cái vườn này ta không chịu bán; nếu muốn dùng thì lót vàng đầy vườn, ta mới chịu cho không.
Cấp Cô Ðộc trưởng giả nghe Thái Tử nói.
Liền lấy vàng làm gạch sắp lót cùng vườn, Thái Tử nhớ lời, nên phải thỉnh Phật Tổ vào vườn ấy mà giảng kinh. Nay ta thấy chữ Bố Kim là trải vàng, lót vàng, mới hồi nghi là ranh nước Xá Vệ.
Khi ấy Bát Giới nghe nói cười rằng:
– Nếu quả như vậy, thì tôi vào vườn ấy mà lấy cục gạch vàng đem cho thiên hạ!
Tam Tạng liền xuống ngựa, mấy thầy trò đồng bước vào cửa chùa, thấy nhiều kẻ bộ hành, người thì mang túi quảy gánh, kẻ thì xách gói đầy xe, kẻ thì nằm ngủ nghinh ngang, người thì đứng ngồi nói chuyện.
Xảy thấy bốn thầy trò bước vào, coi bộ mấy người ấy kinh hãi, đều tránh đường đứng dẹp hai bên.
Tam Tạng sợ học trò sanh sự, cứ dặn rằng:
– Phải cho có nết na, chẳng nên láu táu.
Ðoạn bốn thầy trò đi gần tới cửa chùa, có một sải đi ra nghinh tiếp, ông sải ấy tốt người lắm!
Tam Tạng ngó thấy bái liền, Hòa Thượng ấy đáp lễ rồi hỏi rằng:
– Thầy ở đâu đến đây?
Tam Tạng nói:
– Ðệ tử là Trần Huyền Trang ở Ðông Ðộ, vưng chỉ Ðại Ðường hoàng đế qua Tây Phương lạy Phật thỉnh kinh, đi ngang qua đây trước là ghé vào ra mắt, sau xin tạ túc một đêm, mai sáng mau mau dời gót.
Hòa Thượng ấy mừng rỡ nói rằng:
– Rất đỗi người bộ hành còn ghé chùa này mà nghĩ thay, huống chi bốn thầy là thầy tăng nước Ðại Ðường, ở bao lâu cũng đặng.
Tam Tạng tạ ơn, rồi ngoắt ba đệ tử và phương trượng.
Khi ấy các sải đem trà ra và xem người Ðông Ðộ.
Mấy sải già, các sải trẻ trường trụ, quải tháp, đều ra mắt luôn luôn.
Trà nước xong rồi dọn cơm thiết đãi.
Tam Tạng ngồi lại mới niệm kinh cúng chưa rồi, Bát Giới thỉnh hết một cái bánh bao, làm phụ thêm một viên xôi nước rồi xử lần tới món khác nữa!
Khi ấy mấy sải tử tế cứ coi oai nghi Tam Tạng mà thôi.
Bọn sải liếng xáo, bấu coi Bát Giới!
Sa Tăng thấy nhiều người ngó mặt Bát Giới, thì mắc cở lén ngắt Bát Giới một cái mà nói nhỏ rằng:
– Làm văn, đừng làm võ!
Bát Giới nói lớn rằng:
– Làm văn nhăn răng, làm cách sạch ruột.
Bát Giới và nói và ăn.
Sa Tăng nực cười nói rằng:
– Anh nói kỳ cục quá. Nói vậy thiên hạ nhiều người làm bộ văn thì trong bụng trống lổng như bụng mình lúc này hay sao?
Khi ấy Tam Tạng niệm kinh cúng rồi, ai nấy ăn uống xong xả, mãn tiệc Tam Tạng tạ ơn. Các sải hỏi thăm việc thỉnh kinh.
Tam Tạng thuật chuyện Ðại Ðường vì cớ nào mà sai đi thỉnh kinh. Ði đường bị các động yêu bắt ra thể nào.
Các sải nghe qua đều rởn óc!
Tam Tạng thuật chuyện rồi hỏi rằng:
– Chẳng hay lấy tích chi mà đặt hiệu Bố Kim thiền tự?
Các sải nói:
– Các vườn này của ông Cấp Cô Ðộc, tánh người nhơn đức hay cấp dưỡng chi trẻ mồi côi và mấy ông già bà cả độc mộc một mình không con cháu, nên thiên hạ gọi rằng ông Cấp Cô Ðộc mà thành danh. Ông ấy nhà ở tại Xá vệ, còn chùa này trước hiệu là: Cấp Cô Ðộc viên tự. Sau ông Cấp Cô Ðộc thỉnh Phật Tổ về chùa này mà giảng kinh, làm cách trọng thể, lót gạch bông vàng đầy vườn, không chừa chổ đất trống, nên cải hiệu là: Bố Kim Thiền Tự. Ðàng trước kia nước Xá vệ, còn sau chùa này có đền Kỳ viên, ấy là chánh nền vườn lót vàng trải ngọc hồi trước, tuy bây giờ vàng ngọc châu báu mất hết, mà trong tiết trời mưa, ai có phước tới kiếm tại nền cũng gặp vàng ngọc châu báu.
Tam Tạng nói:
– Như vậy quả thiệt chẳng sai, không phải đồn huyễn! Còn khi tôi mới vào cửa núi thấy hai bên nhiều kể bộ hành, xe ngựa đều nghỉ tại đó, kẻ khách thường mang gói quảy gánh vào đó mà nghĩ, tôi không rõ vì cớ nào?
Các sải nói:
– Núi này tên là Ba Cước Sơn, thuỡ nay bình yên vô sự, mấy năm nay sanh Ngô công rít chúa, tôi đón đường mà cắn bộ hành, tuy không chết mặc lòng mà đau nhức lắm, nên bộ hành chẳng dám đi. Còn dựa núi có một cái ải Kê Minh nuôi nhiều gà trống tại đó. Ðến canh năm gà gáy thì Ngô Công trốn mất, thiên hạ mới dám đi, mấy người khách lở đường không dám đi đêm, nên ngủ đở mà chờ gà gáy.
Tam Tạng nói:
– Như vậy thì đợi gà gáy chúng ta sẽ dời gót.
Ba người học trò đồng nói phải. Kế dọn cơm chiều, ai nấy ăn uống xong xả, Tam Tạng rủ Hành Giả xem trăng.
Xảy nghe có sải nói rằng:
– Thầy tôi đến xem người Trung Quốc.
Tam Tạng quay lại ngó thấy Hòa Thượng già chống già chống gậy tới bái Tam Tạng mà nói rằng:
– Thầy ở Trung Huê phải chăng?
TamTạng đáp lễ bạch rằng:
– Ðệ tử ỡ Trung Quốc đi thỉnh kinh Tây Phương.
Lão hòa thượng khen ngợi rồi hỏi rằng:
– Chẳng hay thầy đặng mấy mươi tuổi?
Tam Tạng nói:
– Tôi năm nay đã bốn mươi lăm tuổi. Chẳng hay lão viện chủ niên kỷ bao nhiêu?
Lão Hòa Thượng cười rằng:
– Tôi trội hơn thầy một giáp.
Tôn Hành Giả ngứa miệng nói hớt rằng:
– Như vậy thì thầy đã một trăm năm tuổi rồi? Hãy nhắm thử Lão Tôn coi bao nhiêu niên kỷ?
Lão Hòa Thượng nói:
– Cốt cách thầy theo bực người xưa, vả lại ban đêm con mắt lòa, nên nhắm không chắc.
Nói rồi quay lại ngó Tam Tạng, Tam Tạng bạch rằng:
– Ðệ tử nghe nói vườn Kỳ Viên còn nền cao lắm, không biết tại đâu?
Lão Hòa Thượng nói:
– Ngoài cửa sau đó, mở cửa ra mà coi.
Ðến mở cửa ra thấy có một cái nền rất lớn, trên nền có chưn vách tường và đá nát gạch bể! Ấy là chuyện đời xưa, nay còn dấu tích.
Tam Tạng thấy cám cảnh, chắp tay mà kệ rằng:
Nhớ tích đàng na Tu đạc Ða,
Từng đem vàng ngọc giúp người,
Kỳ viên ngàn thuở danh còn tạc,
Trưởng giả hồn linh bạn cửa đà.
Tam Tạng ngâm kệ rồi leo lên nền Kỳ Viên đi dạo với các sải.
Tam Tạng nghe khóc văng vẳng, lóng tai mà nghe, thiệt kêu cha kêu mẹ mà khóc, tiếng thảm thiết mười phần song không ai biết, Tam Tạng cũng mũi lòng rơi lụy.
Ngó ngoái lại hỏi các sải rằng:
– Chẳng biết ai ở đâu, mà khóc khan thảm thiết?
Khi ấy lão Hòa Thượng nghe hỏi, liền sai các sải vào nấu nước, một mình ở lại mới lạy Tam Tạng và Hành Giả, Tam Tạng lấy làm lạ, đở dậy hỏi rằng:
– Lão Hòa Thượng nói:
– Ðệ tử sống ngoài trăm tuổi, nên biết chuyện ít nhiều, nên ngó thấy hai thầy, biết là bực trên, không phải người phàm. Còn thầy cũng là thanh tịnh trong lòng lắm, nên tiếng khóc văng vẳng mà biết kẻ thảm khổ!
Tôn Hành Giả hỏi:
– Người ấy là ai? Vì chuyện chi mà khóc?
Lão Hòa Thượng nói:
– Năm ngoái tôi đương ngồi tham thiền, xảy nghe trận gió, có tiếng khóc khan thảm thiêt! Tôi ra cửa sau thấy một người con gái xinh tốt nghiêm trang, ngồi trên Kỳ Viên mà khóc!
Tôi hỏi: Cô là con gái nhà ai, vì chuyện chi mà đến đây than khóc?
Nàng ấy nói: Tôi là Công Chúa nước Thiên Trúc, thấy trăng rạng tỏ đi dạo huê viên; rủi bị trận gió thổi bay đến đây, xin sư phụ cứu tôi làm phước.
Bần tăng thấy vậy, liền đem nàng xiềng ở một cái phòng riêng, ngoài đóng cửa bịt bùng, khoét một cái lổ nhỏ ở trên vách, đã đưa một chén cơm.
Rồi nói gạt các sải rằng:
– Tôi mới bắt đặng một con tinh, xiềng trong phòng khóa cửa lại, có ý sợ nó phá thiên hạ, nên xiềng trong phòng không, cứ mỗi bữa đưa cơm đưa nước vào mà nuôi nó cấm thực. Nàng ấy nghe nói, cũng có ý sợ các sải phá khuấy, nên nàng ấy ban ngày giả điên, cười nói quấy quá, ban đêm chúng ngủ hết, thì kêu cha mẹ mà khóc than!Tôi tính vào tháng thăm tin, ngặt không thấy cáo thị kiếm Công Chúa, nên chưa dám lậu! Nay sẳn dịp lão sư vào thành Thiên Trúc xin hỏi thăm sự ấy coi có quả mất Công Chúa hay không? Một là làm phước mà cứu người, hai nửa cho biết giả chơn tà chánh.
Tam Tạng và Hành Giả đồng hứa đến thành Thiên Trúc sẽ hỏi giùm.
Khi ấy các sải ra mời ba vị vào uống trà.
Lão Hòa Thượng mời mấy thầy uống nước xong xả, rồi ai về liêu nấy nghỉ ngơi.
Ngủ chưa bao lâu, gà đã gáy canh năm, mấy người bộ hành dậy sữa sang cơm nước.
Còn Tam Tạng kêu Bát Giới, Sa Tăng chờ dậy, sửa sang đồ hành lý và thắng ngựa. Các sải đã dọn đồ ăn điểm tâm mấy thầy trò ăn uống rồi tự tạ.
– Tôi nhớ, tôi nhớ. Xảy nghe bộ hành đã lên đường, trời rạng đông nhứt, qua khỏi ải Kê minh thì trời đã sáng trắng, ngó thấy thanh trì xa xa, chợ búa trước mặt, bộ hành ghé vào chợ, bốn thầy trò cứ đường thẳng mà đi.
Giây phút tới thành, thầy trò thaÜng vào nhà trạm.
Quân vào báo với dịch thừa rằng:
– Có bốn ông Hòa Thượng dị hình, dắt ngựa bạch vào nhà trạm.
Dịch Thừa nghe nói có ngựa biết là người đi việc công, liền bước ra nghinh tiếp.
Tam Tạng đáp lễ nói rằng:
– Bần tăng là khâm sai Ðại Ðường, qua Lôi âm thỉnh kinh. Tôi sẽ vào đền xin ghi điệp thông quan, rồi tá túc tại cao nhà một đêm, mai sẽ dời gót.
Dịch Thừa mừng rỡ mời vào, Tam Tạng bảo đồ đệ ra mắt.
Dịch Thừa thấy bộ tướng dữ đằng, không biết là người hay là quỷ ; run lập cập hối quân dọn cơm nước mã đãi bốn thầy.
Tam Tạng hỏi:
– Xin đại nhơn đừng sợ, ba đứa học trò của bần tăng tuy tướng dử mà tánh lành, không phải miệng phật mà lòng rắn, xin đứng nghi ngại giựt mình”.
Khi ấy Dịch Thừa nghe nói mới bớt hồi hộp, gượng gạo hỏi thăm rằng:
– Quốc Sư ôi! Chẳng hay nước Ðường ở phía nào?
Tam Tạng nói:
– Ở tại Nam Thiện bộ châu.
Dịch Thừa hỏi:
– Chẳng hay thầy đi hồi nào?
Tam Tạng nói:
– Bần tăng đi hồi vua Trinh Quang niên hiệu mười ba, nay tính ra là mười bốn năm trời, lặn suối trèo non, dầm mưa dang nắng, năm nay mới đến xứ này.
Dịch Thừa nói:
– Thiệt là sải thần, đi mới cảnh phật.
Tam Tạng hỏi:
– Chẳng hay niên hiệu Thượng quốc đã đặng bao nhiêu?
Dịch Thừa nói:
– Ðây là nước Thiên Trúc, từ vua Thái tổ, Thái tông truyền đến nay hơn năm trăm năm. Còn Ðường Kim Hoàng đế tánh ưa sơn thủy cảnh vật, nên xưng hiệu là Di tông hoàng đế, sau cải nuơn Tịnh yến đã hai mươi tám năm rồi.
Tam Tạng nói:
– Bữa nay bần tăng vào chầu xin ghi điệp, nhắm đặng hay chưa. Sợ trưa đã bãi chầu thì trễ nải lắm.
Dịch Thừa nói:
– Tuy trưa mà chưa bãi chầu, vì bữa nay nằm ngày Công Chúa ở trên lầu gieo cầu kén Phò Mã, nên bữa nay vui lắm, tuy chưa bãi chầu, một lát nữa đi ghi điệp cũng còn đặng.
Tam Tạng đội mão tì lư mới, mặc áo cà sa của phật ban, chống gậy báu đi trước.
Tôn Hành Giả mang gói theo sau.
Nghe thiên hạ rủ nhau đi coi Công Chúa chàng thiên hôn, ai có phước bị trái cầu quăng nhằm thì đặng làm Phò Mã.
Tam Tạng nghe nói than rằng:
– Phong tục Thiên Trúc không khác Trung Huê, mẹ ta khi trước cũng gieo cầu mà quăng nhằm cha ta là Tân Khoa trạng nguơn mới kết duyên chồng vợ. Té ra bên nước này cũng như phong tục xứ mình.
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Thầy với tôi đến lầu xem thử.
Tam Tạng nói:
– Mình ăn mặc theo hòa thượng nếu đi coi thì thiên hạ nghi nan.
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Thầy quên rằng Lão Hòa Thượng căn dặn hay sao? Một là coi gieo cầu, hai là xem thử tà chánh.
Tam Tạng nói phải, thầy trò đồng đi đến mà coi.
Nói nhắc lại vua Thiên Trúc tánh hảo hoa kiểng, năm ngoái dắt Hậu phi, Công Chúa đi dạo kiểng xem trăng chẳng ngờ có.
Ðến năm nay nó biết ngày này giờ này có Tam Tạng đến nên nó dự phòng tâu trước, xin lập lầu hoa, gieo cầu mà kén Phò Mã.
Quyết lấy tinh thần Tam Tạng mà bổ cho mình.
Lúc này Công Chúa giả biết Tam Tạng giờ ngọ ba khắc thì tới lầu. Nên Công Chúa thắp hương làm bộ van vái, lạy rồi đứng dậy, cung nữ dưng trái cầu thêu.
Công Chúa giả cầm trái cầu ngó xuống lầu, thấy Tam Tạng phăng phăng đi tới, Công Chúa giả quăng cái cầu nhằm đầu Tam Tạng sập mão tì lư!
Thiệt là con dòng, cũng gieo cầu nhằm, như Trần Quang Nhụy.
Khi ấy Tam Tạng kinh hãi, đưa tay sửa mão tì lư, trái cầu đã lọt vào tay áo! Nghe trên lầu cung nga và thái giám đồng nói lớn rằng:
– Quăng nhằm ông hòa thượng.
Và nói và xuống lạy Tam Tạng mà thưa rằng:
– Quý nhơn, quý nhơn, xin vào đền ra mắt?
Tam Tạng đỡ cái thái giám dậy, rồi quay lại mà mắng Tôn Hành Giả rằng:
– Con khỉ này cố ý gạt ta.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Trái cầu nhằm mão, rồi lăn vô tay áo của thầy, tôi có can chi mà mắng.
Tam Tạng hỏi:
– Bây giờ mới tính làm sao?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Xin thầy an lòng vào biện giá, tôi trở vào nhà trạm nói cho Sa Tăng, Bát Giới hay. Như thầy từ hôn đặng thì xin ghi điệp mà đi, bằng Công Chúa nằn nằn quyết một cùng thầy, thì tâu như vầy: Xin cho đôi đồ đệ tôi vào, đặng tôi dặn dò chúng nó, và tôi cấp điệp cho nó đi thỉnh kinh. Chắc hoàng đế đôi chúng tôi vào đền, thì phân biệt chơn giả, ấy là tá hôn nàng quái.
Tam Tạng nghe nói gật đầu.
Tôn Hành Giả trở về nhà trạm.
Còn các thái giám vào các cung nga, trước khi ngó thấy Tôn Hành Giả thì vỡ mật bắn lùi.
Nay thấy Hành Giả lui rồi, nên mấy người ấy xơm tới, dắt Tam Tạng đến trước lầu. Công Chúa giả đứng xuống nghinh tiếp, dắt tay Tam Tạng lên xe, đến trước ngọ môn hầu chỉ.
Hoàng môn quan tâu rằng:
– Công Chúa nương nương chàng thiên hôn quăng trái cầu nhằm Hòa Thượng nên dắt vào biện giá, còn hậu chỉ trước ngọ môn.
Vua Thiên Trúc nghe tâu chẳng vui, song không hiểu ý Công Chúa, vì cớ nào mà liệng thầy chùa, liền truyền cho vào xem thử.
Khi ấy Công Chúa và Tam Tạng vào đền, đồng chúc tụng.
Vua Thiên Trúc thấy Tam Tạng dung nghi nghiêm chỉnh, tướng mại hiền lương, nên đổi buồn làm vui, phán hỏi rằng:
– Tăng nhơn đi đâu mà bị Công Chúa quăng nhằm?
Tam Tạng quỳ lạy tâu rằng:
– Tôi là sải ở Nam Thiên bộ châu, vưng chỉ Ðại Ðường hoàng đế qua Lôi Âm tự lạy phật mà thỉnh kinh. Nay đến đây, Bần Tăng vào chầu xin ghi điệp, chẳng ngờ Công Chúa quăng nhằm đầu Bần Tăng. Song Bần Tăng là kẻ xuất gia, đâu dám sánh nhành vàng lá ngọc. Xin Bệ Hạ thứ tội mà ghi điệp thông quan, tha Bần Tăng đi qua chùa đại Lôi Âm, thỉnh kinh về Ðông Ðộ tôi cám ơn Bệ Hạ đời đời.
Vua Thiên Trúc phán rằng:
– Người là sải thánh Ðại Ðường, là một vị quốc sư, không phải bực thấp, đi tình cờ mà gặp duyên lành! Bởi Công Chúa hai mươi tuổi, coi ngày này giờ này thì tốt lắm, mới lên lầu gieo cầu, vừa lúc người đi tới mà đụng, cũng duyên ngàn dặm, có khi nợ ba sinh. Song chưa rõ ý Công Chúa thế nào, nên trẫm chưa dứt định”.
– Giá kê tùy kê, giá khuyển tùy khuyển bởi con có lời nguyện trước, nên mới kết trái cầu, van vái trời phật, định ngày giờ mà bói thiên duyên, nay chàng thiên hôn đã nhằm thánh tăng, trái cầu thêu lọt vào tay áo. Ấy cũng duyên kiếp trước, mới xuôi gặp đời này, dầu ngàn dặm cũng phài duyên, một lời không dời đổi, con tình nguyện kén thánh tăng làm Phò Mã, dẫu thế nào con chẳng phàn nàn.
Khi ấy vua Thiên Trúc nghe tâu mừng rỡ, truyền quan Khâm thiên giám coi ngày thành hôn, đặng dọn tiệc hao chúc.
Và truyền chỉ rao cho thiên hạ hay.
Tam Tạng chẳng tạ ơn xin vua phóng xả!
Vua Thiên Trúc nổi giận phán rằng:
– Hòa Thượng này không thông lắm! Trẫm giàu sang như vầy, Công Chúa dung nhan thế ấy, sao ngươi dám chê không chịu tuân chỉ? Nếu có từ chối nữa, trẫm xử tội nghịch chỉ; sai cẩm y vệ chém đầu.
Tam Tạng nghe nói bay tóc trán run lặp cặp và lạy và tâu rằng:
– Tôi nhờ ơn Bệ Hạ thương đến, song tôi đi tới bốn thầy trò, ba đứa đồ đệ còn ở nhà trạm.Tôi ở trong này, thì chúng nó không hay chi hết, xin Bệ Hạ cho đôi chúng nó vào, đặng tôi dặn dò một hai lời, sẽ ghi điệp cho chúng nó đi thỉnh kinh kẻo trễ.
Vua Thiên Trúc phán hỏi rằng:
– Tại trạm Hội đồng phải chăng?
Tam Tạng tâu rằng phải. Vua Thiên Trúc sai quan triệu đồ đệ vào lãnh điệp thỉnh kinh đem về Ðông Ðộ, còn thánh tăng ở lại đây làm Phò Mã.
Tam Tạng khi ấy đứng dậy vòng tay.
Khi ấy khâm sai vưng chỉ, liền ra nhà trạm Hội đồng song chưa đi chưa tới.
Còn Tôn Hành Giả đã dặn Tam Tạng rồi, liền đi về nhà trạm, và đi và cười ngất như điên. Sa Tăng, Bát Giới nghinh tiếp hỏi rằng:
– Ðại ca có chuyện chi vui mừng mà cười dữ vậy? Còn thầy sao không thấy trở về?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Thầy có chuyện vui lắm!
Bát Giới hỏi:
– Vui chuyện chi?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Ta đi theo với thầy tới đường chữ thập, bị Công Chúa trên lầu liệng trái cầu nhằm sư phụ nên cái thái giám cing nga đồng đỡ thầy đến trước lầu, Công Chúa xuống lầu nắm tay thầy dắt lên xe ngọc, đồng vào chầu hoàng đế, chuyện ấy có phải vui chăng?
Bát Giới nghe nói, dậm chân đấm ngực, và giãy nói rằng:
– Tức chết đi mà thôi, phải chi hay trước tôi chạy đến dưới lầu, Công Chúa quăn cái cầu nhằm tôi thì đặng làm Phò Mã. Khác nào chuột sa vào hủ nếp, ong đút nụ bầu non, sánh vai má phấn môi son. Giởn mặt nhành vàng lá ngọc, đây rồi thầy không chịu, có phải uổng không!
Khi Sa Tăng nghe nói trái, liền kêu Bát Giới mà cười rằng:
– Không biết mắc cỡ, cái bộ mặt như vậy mà chắc là Công Chúa gieo cầu, nếu mà Công Chúa rủi tay mà quăng nhằm, cũng không dám thỉnh lên lầu. Chắc đốt giấy tiền bạc mà đưa, hốt tro hốt muối mà rải không kịp!
Bát Giới nói:
– Cục than, người không biết coi người! Ta tuy mỏ dài tai lớn mà trắng trẻo dễ coi, không phải đen như cục than hầm mà sợ ế vợ? Ngươi không nghe lời tục nói rằng:
– Miễn có bạc, lo chi không lừa?
Sa Tăng cười rằng:
– Có bốn chỉ mấy phân bạc mà thôi, dám kể chắc mau đặng con lừa mà cỡi!
Bát Giới nói:
– Bạc bị quỷ sứ thâu rồi, còn đâu mà bốn chỉ năm chỉ?
(Bị Tôn Hành Giả lấy).
Khi ấy Tôn Hành Giả nói khỏa lấp rằng:
– Ðừng có nói xàm, hãy lo sửa soạn đồ hành lý, không biết chừng thầy sai người ta kêu, thì phải lo vào bảo hộ sư phụ.
Bát Giới nói:
– Anh luận còn sai lắm! Sư phụ làm phò mã thì ấp yêu Công Chúa mà thôi, chứ không phải gặp yêu gặp quỷ lặn suối trèo non mà đi bảo hộ? Vả lại thầy tuổi tác dường ấy mà không đánh xà nẹo trong buồng hay sao, ma phải lo đó mà bảo.
Ba người dang nói đang ca.
Xảy thấy Dịch Thừa vào báo rằng:
– Hoàng Thượng truyền chỉ sai quan mời ba vị thánh tăng.
Bát Giới dĩnh tai hỏi rằng:
– Thiệt tình mời chúng ta vào làm chi đó?
Dịch Thừa nói:
– Lão thần sư đi ngang qua lầu, bị Công Chúa nương nương quăng trái cầu nhằm, nên chấm làm Phò Mã, bởi cớ ấy mời khâm sai đi thỉnh ba thầy.
Tôn Hành Giả cho khâm sai vào.
Ðoạn khâm sai bước vào ngó thầy Hành Giả, thì cuối đầu ngó xuống mà nói nho nhỏ rằng:
– Không biết Lôi Công hay là Dạ Xoa! Có khi Ma Vương hay quỷ sứ!
Tôn Hành Giả hỏi lớn rằng:
– Chuyện chi mà không nói cho lớn, cứ đứng ngẫm nghĩ việc gì?
Khâm sai hồn bất phụ thể, cầm thánh chỉ đưa lên mà che mặt, miệng nói túi bụi rằng:
– Công Chúa tôi có mời đám cưới. Công Chúa đám cưới cho mời!
Bát Giới cười ngất nói rằng:
– Ðây không có nỏ kẹp trăng roi mà sợ hình phạt, thủng thẳng mà nói, không ai đánh mà giựt mình?
Sa Tăng cười rằng:
– Không phải sợ anh đánh mà kinh hồn; thiệt thấy bộ mỏ anh mà khiếp vía! Thôi thôi, sửa sang đồ hành lý và dắt ngựa theo, coi thầy dạy chuyện chi cho biết.
– Chúng tôi tu hành tại đây cứ tụng kinh thường và niệm Phật, cầu khẩn kiếp sau đầu thai về Trung Hoa, nay thấy lão sư hình dung minh mẩn, y phục nghiêm trang, nên biết kiếp trước Lão sư tu đã dày công, nên nay mới đặng như vầy. Tôi trọng đức hạnh nên phải lạy mừng.
Tam Tạng cười rằng:
– Bần tăng có đức chi mà dám chịu khen ngợi. Ðệ tử là sải đi đường, chưa hưởng phước thanh nhàn, sao bằng viện chủ là người đã được an nhàn, hưởng phần khoái lạc!
Ðoạn hòa thượng rước Tam Tạng vào chùa.
Tam Tạng liền ra ngoài kêu và ngoắt ba người đệ tử.
Hòa Thượng ngó thấy ba ngườidị tướng, liền chắp tay bái Tam Tạng và hỏi rằng:
– Gia gia ôi! Ba vị cao đồ sao diện mạo hung hăng dữ vậy?
Tam Tạng nói:
– Tuy là tướng dữ mà lòng lành, lại có phép lực nữa. Bần tăng cũng nhờ ba anh em nó bảo hộ, nên mới đi đặng tới đây.
Nói rồi lên chùa lạy Phật.
Khi Tam Tạng lạy Phật rồi, xuống phương trượng đàm đạo, xảy có các hòa thượng khác chạy ra hỏi rằng:
– Lão sư ở Trung Hoa, nay đến đây có chuyện chi?
Tam Tạng nói:
– Tôi vưng chỉ Ðường thiên tử qua Tây Phương lạy Phật thỉnh kinh, nay đi ngang qua đây, gặp bửu tự càng mừng lắm, nên ghé vào mà lạy Phật, và hỏi thăm đây là xứ chi, rồi dùng càn hương, sẽ lên đường kẻo trể.
Các sải nghe nói mừng rỡ, hối nhau dọn cơm.
Hai ba Hòa Thượng xuống nhà trù kêu mấy sải khác mà dặn rằng:
– Mau mau ra phương trượng mà coi người Trung huê, té ra là trung huê cũng có người tốt kẻ xấu. Người thì lịch sự nhu tranh vẽ, kẽ thì mặt quá sơn đen, người thời như Thái tuế Lôi Công, kẻ lại giống Ngưu đầu Mã điện!
Mấy sải kia nghe nói lấy làm lạ, thừa dịp bưng trà ra mà coi thử cho rõ ràng.
Viện chủ mời TamTạng uống. Tam Tạng uống rồi hỏi thăm rằng:
– Chẳng hay đây là xứ chi?
Các sải nói:
– Ðây là quận Thiên trúc, gọi là phủ Kim Binh.
TamTạng hỏi:
– Từ phủ này cách núi Linh Sơn chừng bao nhiêu dặm?
Các sải nói:
– Từ đây tới kinh đô hơn hai ngàn dặm, chúng tôi thường đi nên biết chừng, chớ thuở nay chúng tôi chưa đi tới núi Linh Sơn, không biết còn cách bao xa nên không dám nói bướng.
Kế dọn sơm chay đãi bốn thầy trò xong xả, Tam Tạng tạ ơn và giã từ.
Các sải đồng cầm rằng:
– Xin Lão sư ở nán lại vài bửa mà coi hội nguơn tiêu, rồi sẽ đi cũng không trể.
TamTạng giựt mình nói rằng:
– Ðệ tử mảng lo đi mà quên hết ngày tháng, chẳng hay còn mấy bữa nữa tới tiết nguơn tiêu?
Các sải cười và nói rằng:
– Lão sư có lòng thỉnh kinh, nên không nhớ ngày tháng. Chớ nay là ngày mười ba tháng giêng rồi. Nên tối nay thử đèn, ngày mai dọn dẹp xong xả, khuya lại thắp đèn khắp nơi cho tới mười tám, mười chín mới mản hội. Bởi tục lệ xứ này vua vui chơi lắm, quan Thái thú lại thương dân như con đỏ, nên thắp đèn khắp một phủ không bỏ chỗ nào, thiệt là ở với bá tánh cong bình lắm! Vã lại đời xưa có lưu truyền cái Kim Ðăng kiều, đến nay xinh tốt hơn hết, xin lão sư nán lại coi ít bữa cho vui, chúng tôi đủ sức phụng dưởng.
Tam Tạng cùng chẳng đã phải ở nán lại.
Ðến tối, nghe trên chùa chuông trống vang đầy, ấy là lối xóm đem dưng đèn cúng Phật.
Bốn thầy trò ra trước chùa mà xem đèn, rồi trở lại phương trượng mà nghỉ ngơi.
Bữa sau cơm nước xong xả, bốn thầy trò đi ngoạn kiểng sau vườn, ăn cơm chiều rồi rủ nhau đi dạo ngoài chùa coi đèn giàng vừa đủ, coi đến canh hai mới trở lại chùa mà ngủ.
Bữa rằm Tam Tạng nói:
– Ðệ tử có lời nguyện, gặp tháp thì quét tháp. Nay gặp tiết thượng nguơn, xin viện chủ mở cửa cho tôi quét.
Các sải y lời mở cửa tháp, và đưa chổi mới cho Tam Tạng.
Tam Tạng lên chùa thắp hương lạy Phật, vái rồi cầm chổi đi quét tháp; quét tới chiều mới rồi.
Cơm nước xong thì đã tôi, các sải nói:
– Hai đêm nay chúng ta coi đèn tại xóm không lấy làm vui, đêm nay chánh nguơn tiêu, hãy đếnthành mà xem đèn mới thú!
Tam Tạng y lới, bốn thầy trò đồng đi với các sải vào thành. Ngó thấy đèn nhiều như sao mọc, đêm sáng như ban ngày, bởi đêm ấy quan Kim ngô không cấm nên trai gái già trẻ đều đi chơi. Trên thì thắp đèn, dưới thì hát bội, tốp thì múa rối, tốp thì cởi voi, tốp thì mang lớp thú mà nhào, tốp đội mặt yêu mà nhảy, bên này lấn lại, bên kia lấn qua, bốn thầy trò coi đả mản nhản. Tam Tạng chen lấn tớ cầu Kim Ðăng, thấy trên chong ba ngọn đèn vàng rất lớn, sức bằng cái mát: Trên ba ngọn đèn ấy có mành mành bằng vàng, làm có tua như lâu đài rực rở, hơi đầu bay ra thơm ngát, ba ngọn đèn sáng tới chơn thành.
Tam Tạng hỏi thăm các sải rằng:
– Chẳng hay thắp dầu chi mùi thơm lạ lắm?
Các sải nói:
– Bởi lão sư chưa rõ, trong phủ này có huyện Mân thiên, huyện ấy rộng tới một trăm bốn chục dặm, cọng nội huyện làhai trăm bốn mươi nóc gia lớn chịu bạc mua dầu, mỗi nhà phải đậu hai trăm lượng bạc dầu mà thắp đèn ấy, song dầu này là dầu tô diệp không phải dầu thường, giá một lượng dầu tới hai lượng bạc! Thì một cân dầu tới ba mươi hai lượng, nên hai trăm bốn mươi nhà giàu, mỗi nhà chịu hai trăm lượng bạc, cọng bốn muôn tám ngàn lượng bạc, mà mau có một ngàn năm trăm cân dầu, đủ đồ đầy ba mái ấy, vì mỗi mái đựng năm trăm cân dầu, Phủ huyện còn ráng ra chủ khác đậu thêm hai ngàn lượng bạc mà sắm các vật phục tùng, tính cọng là năm muộn lượng bạc mới đủ hội này, song sở phí thì lớn mà thắp có ba đêm!
Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Lẽ nào thắp ba đêm hết bấy nhiêu dầu ấy?
Các sải nói:
– Mỗi mái dầu tới bốn chục tim đèn, tim đèn ấy bó tim bức với bông vải, kết bằng chỉ tơ, lớn bằng cái trứng gà, hể cháy hết tím này thì thay tim khác Thắp hai đêm trước với đêm nay là ba, thì Phật giáng thế hiện hình mà chứng minh, thì đêm mai dầu khô rom, thắp không cháy nữa!
Khi ấy Bát Giới đứng gần đó, nghe nói cười rằng:
– Có khi Phật thâu mới thô rom như vậy.
Các sải nói:
– Phải, xưa nay lưu truyền cũng nói như vậy, nếu thấy khô dầu thì nói Phật Tổ thâu dầu rồi, chắc năm nay đặng mùa. Nếu năm nào còn thì năm ấy thất mùa, vì nắng mưa không thuận. Nên ai nấy đều van vái cho Phật thâu dầu.
Giây phút nghe gió thổi vo vo, những người coi đèm đều tứ tán.
Các Hòa Thượng nói:
– Lão sư đi về cho mau, gió thổi tới thì có Phật giáng hạ.
Tam Tạng hỏi:
– Sao biết chắc Phật giáng hạ?
Các sải nói:
– Năm nào cũng vậy, đền rằm tháng giêng hết canh hai thì gió lớn, thì các Phật giáng hạ xem đen và thâu dầu, nên ai nấy nghe gió thì biết chừng đều lui về hết.
Tam Tạng nói:
– Ðệ tử là người đi tìm Phật mà thỉnh kinh, lẻ nào ẩn mặt, nay có Phật giáng thế thì tôi ở lại lạy mừng.
Các sải biểu hoài không đặng, đều kéo nhau về.
Giây phút ba vị Phật ở trên mây bay xuống, ngồi trên bàn ngay mấy ngọn đèn.
Tam Tạng lòng mừng bước lên cầu làm lễ.
Tôn Hành Giả coi rõ kêu rằng:
– Sư phụ, trở xuống cho mau. Ấy là yêu tinh giả Phật đó?
Nói chưa dứt lời thấy đèn tắt hết, nghe hú một tiếng, Tam Tạng mất xác và hồn! Ấy là yêu tinh thuở nay giả Phật, đem đồ đến tắt đèn mà lấy dầu, sẳn gặp Tam Tạng lên cầu nên nó thỉnh luôn về động.
Khi ấy Sa Tăng, Bát Giới và kêu thầy và kiếm dáo dác.
Tôn Hành Giảnói lớn rằng:
– Anh em đừng kêu gọi làm chi?Bởi thầy hết vui tới buồn, đã bị yêu tinh bắt rồi, còn đâu mà kiếm!
Mấy sải nghe nói kinh hải, trở lại nói rằng:
– Sao gia gia biết yêu tinh bắt rồi?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Té ra các ngươi là phàm phu, mấy năm nay bị yêu gạt, ngỡ là Phật giáng hạ mà chứng đền này! Chớ ta mới coi rõ ba vị Phật ấy thiệt là yêu tinh hóa ra. Bởi thầy ta không biết, mới lên cầu mà lạy, bị yêu tắt đèn trút dầu hết, lại bắt thầy ta theo; bởi ta chập chưn, nên nó trốn khỏi.
Sa Tăng hỏi:
– Sư huynh ôi! Như vậy biết tính làm sao?
Tôn Hành Gỉa nói:” Chẳng trể nải, hai đứa bây về chùa với mấy thầy, coi giữ đồ hành lý. Ðể Lão Tôn cứ ngọn gió mà duổi theo.
Nói rồi nhảy lên mây, đánh hơi gió tanh, bay theo hướng Ðông Bắc.
Theo đến sáng mới hết gió, thấy non cao chớn chở, Tôn Hành Giả ngó xung quanh, thấy bốn người đuổi ba con dê, miệng la:
– Khai thái.
Tôn Hành Giả coi rõ là bốn vị Công Tào, là Trị Niên Công Tào, Tri Ngoạt CôngTào, Trị Nhựt Công Tào, Trị Thời công tào.
Tôn Hành Giả nổi giận rút thiết bảng giá mà hăm rằng:
– Các ngươi đừng mà con mắt ta, đố chạy đâu cho khỏi?
Tứ trị công tào kinh hãi hiện hình thiệt, bái mà thưa rằng:
– Xin Ðại Thánh thứ tội cho chúng tôi.
Tôn Hành Giả nói:
– Bấy lâu ta không sai tới chúng bây, nên ở không sanh sự làm biếng, chẳng hề đến ra mắt ta? Sao không bảo hộ Ðường Tăng, đi chuyện chi đó?
Tứ trị công tào thưa rằng:
– Tôn Sư ham vui nên mắc nạn, hết vui thì phải tới buồn. Tuy bị yêu bắt mặc lòng, song có Hộ pháp và Dà lam phò hộ, chúng tôi e Ðại Thánh chưa biết đường đi vào núi, nên đón mà báo tin.
Tôn Hành Giả hỏi:
– Các ngươi đi báo tin thì phải lắm, sao lại giả hình mà ó ré và rượt dê làm chi?
Tứ trị công tào nói:
– Dùng ba con dê ấy mà tỉ chử Tam dương khai thái, mà giải các vạn bỉ của Tôn Sư.
Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Hòn núi này có phải chổ yêu tinh ở chăng?
Tứ trị cong tào nói:
– Phải, ấy là núi Thanh Long, trong núi ấy có động Huyền Anh, trong động ấy có ba con yêu: Con yêu lớn hiệu là Tịch Hàng đại vương, con yêu thứ nhì hiệu là Tịch Thử đại dương, con yêu thứ ba hiệu là Tịch Trần đại vương, bầy yêu ấy ở đây đã ngàn năm, chúng nó từ nhỏ đến lớn hảo uống dầu tô điệp, nên chúng nó ở đây hay giả làm hình Phật, gạt quân dân tại Phủ Kim Bình, thắp đèn Nguơn tiêu bằng dầu tô điệp, năm nào đến nữa tháng này, chúng nó giả hình Phật mà đi thâu dầu. Năm nay thấy Tôn Sư biết là thánh tăng, nên nó bắt về động; không bao lâu chúng nó sẽ xắt thịt Tôn Sư chiên dầu tô diệp mà ăn tiệc. Ðại Thánh phải hết lòng hết sức mà đi cứu cho mau.
Khi ấy Tôn Hành Giả nghe nói rồi, liền bảo Tứ trị công tào về phò hộ Sư phụ. Còn mình đi qua hòn núi mà kiếm động yêu.
Ði ít dặm, xảy thấy dưới hòn núi có khe, dựa khe có động đá một cánh cửa; dựa cửa động có dựng một tấm bia đá vòng nguyệt, đề sáu chử: Thanh Long sơn, Huyền Anh động.
Tôn Hành Giả dám xông vào, đứng ngoài kêu lớn rằng:
– Bớ yêu quái, mau trả thầy cho ta!
Nghe trong động mở cửa, có con Ngưu đầu tinh nhảy ra, hăm hở hỏi rằng:
– Ngươi là ai, dám đến đây kêu réo?
Tôn Hành Giả nói:
– Ta là học trò của Ðường Tam Tạng ở tại Ðông Ðộ đi thỉnh kinh, thầy ta coi đèn tại phủ Kim Bình, bị chúa yêu bắt về động, mau mau trả lại cho ta, thì còn tánh mạng.
Ngưu đầu tính liền vào báo lại.
Khi ấy ba con chúa yêu đương bảo tiểu yêu lột quần áo Tam Tạng, tắm rửa cho sạch, đặng xách nhỏ chiên dầu tô diệp có họa!
Chúa yêu hỏi:
– Chuyện chi?
Ngưu đầu tinh nói:
– Có một Hòa Thượng mặt có lông như khỉ, mõ nhọn như Thiên Lôi, đứng trước cửa động hành hung, bảo trả thầy cho nó.
Chúa yêu nghe báo giựt mình nói rằng:
– Hồi nãy bắt sải ấy chưa kịp hỏi họ tên cội rễ. Vậy thì mấy đứa nhỏ đem quần áo cho sải ấy bận vào, rồi dẫn nó vào đây cho ta hỏi thử?
Các tiểu vưng lịnh, dẫn Tam Tạng đến.
Tam Tạng hãi kinh run lặp cặp, quì xuống thưa rằng:
– Xin đại vương dung mạng.
Ba chúa đồng hỏi rằng:
– Ngươi là hòa thượng ở sứ nào, sao thấy Phật mà không tránh, dám đón đường ta?
Tam Tạng lạy và thưa rằng:
– Tôi là sải ở Ðông độ, vưng chỉ đi qua chùa Lôi âm mà thỉnh kinh. Bởi ghé phủ Kim Bình chùa Từ Vân mà ăn nhờ một bữa. Nhờ ơn các sải chùa ấy cầm ở nán mà coi đèn Nguơn tiêu. Thấy Ðại vương hiện hình Phật, tôi là thai phàm mắt thịt, thấy Phật thì lạy, không dè xúc phạm Ðại vương.
Chúa yêu hỏi rằng:
– Từ xứ Ðông Ðộ đến đây xa lắm, ngươi đi một lũ là mấy người, khai tên họ cho rõ, nói thiệt thì ta tha.
Tam Tạng thưa rằng:
– Bần tăng họ Trần, pháp danh la Huyền Trang, hiệu là Ðường Tam Tạng. Tôi có ba đệ tử, thứ nhứt là Tôn Ngộ Không hiệu là Tôn Hành Giả, nguyên trước là Tề Thiên đại thánh quy y.
Các yêu nghe nói tên ấy, giựt mình hỏi rằng:
– Phải la Tề Thiên đại thánh năm trăm năm trước phản Thiên cung đó chăng?
Tam Tạng nói:
– Phải! Còn người thứ nhì là Trư Bát Giới vốn thiệt Thiên Bồng nguyên soái đầu thai. Còn người thư ba là Sa Ngộ Tịnh, vốn thiệt Quyện Liêm đại tướng quân xuống phàm.
Ba chúa yêu nghe nói đều kinh hải nói:
– May là chưa ăn thịt nó. Phải ăn lở thì khó lòng. Thôi chúng bây đem nó mà xiềng lại phía sau, đợi bắt đặng ba người học trò sẽ ăn thịt luôn thể.
Nói rồi điểm một lũ Ngưu tinh cầm binh khí ra cửa động dàn binh phất cờ gióng trống.
Còn ba chúa yêu nai nạt xong xả, cầm khí ra động nạt rằng:
– Ai ó ré trước cửa ta đó?
Tôn Hành Giả ngó thấy ba con yêu, một con cầm búa đồng, một con cầm siêu đao, một con vác hèo mây.
Còn bao nhiêu tiểu yêu là Ngưu tinh hết thảy! Ðứa thì vác gậy, có ba đứa cầm cây cờ lớn, cờ thứ nhứt đề:
– Tịch Hàng đại vương, cờ thứ nhì đề: Tịch Thử đại vương; cờ thứ ba đề:Tịch Trần đại vương. Tôn Hành Giả bước tới hét lớn rằng:
– Yêu tặc, biết Lão Tôn hay chăng?
Chúa yêu nạt rằng:
– Ngươi là Tôn Ngộ Không làm phản thiên cung, chúng ta nghe đồn mà chưa thấy mặt; nay thấy mặt hổ thẹn quá chừng! Té ra ngươi là con khỉ nhỏ mà dám nói lơn lối!
Tôn Hành Giả nổi giận hét lớn rằng:
– Chúng bây là lũ yêu quái ăn vụng dầu, đừng có nói bậy. Mau trả lại thầy cho ta.
Nói rồi huơi thiết bảng đập đại. Ba chúa yêu đưa khí giái ra đở; đánh một trăm năm chục hiệp, mặt trời gần lặn, mà chưa thấy hơn thua.
Khi ấy Tịch Trần đại vương cầm gậy mây nhảy trái rung cờ, lũ Ngưu tinh thấy rung cờ, đồng hè xốc tới vây Hành Giả bịt bùng, đứa cầm giáo mà đâm, đứa vác hèo mà đập.
Tôn Hành Giả nhắm thế không lại, hú một tiếng nhảy lên mây mà chạy. Chúa yêu không đuổi theo, liền thâu binh về động.
Còn Tôn Hành Giả về chùa Từ Vân, thuật chuyện với Sa Tăng, Bát Giới.
Bát Giới nói:
– Chắc chỗ ấy là thành Phong đô.
Bát Giới cười rằng:
– Ðại ca nói binh nó là quỷ Ngưu đầu, nên ta biết đó là Ðịa ngục.
Tôn Hành Giả nói:
– Không phải đâu, ta coi bộ con yêu ấy chắc là con tây thành tinh.
Bát Giới nói:
– Nếu quả nó là con tây thành tinh, thì mình bắt nó cưa lấy u mà bán, cũng đặng bạc ít chục.
Ba anh em đương nói chuyện, kế các sải dọn cơm chiều, ăn uống xong xả.
Tôn Hành Giả nói:
– Thôi, sửa soạn đi ngủ cho khỏe, để sáng chúng ta đồng đi đánh lũ yêu mà cứu sư phụ.
Sa Tăng nói:
– Anh ôi! Lời tục thường nói rằng:
– Ðể trể thì sanh chuyện. Nếu đem nay lũ yêu không ngủ, nó ăn thịt sư phụ, thì mới làm sao? Chi bằng đi bây giờ, thì chúng ta trở tay không kịp, chắc cứu thầy mới đặng. Nếu chậm trễ thì khó lòng.
Bát Giới nghe rõ chuyển lực nói rằng:
– Sư đệ nói phải lắm. Vậy thì chúng ta thừa dịp sáng trăng đi đánh yêu quái.
Tôn Hành Giả nói:
– Vậy thì mấy thầy giữ gói đồ và coi giùm con ngựa, đặng chúng tôi đi bắt yêu đem về nộp cho quan, cắt nghĩa rõ: Yêu giả phật mà thâu dầu, thì cứu dân khỏi sự tổn phí.
Các sải đều khen phải và vưng lời, rồi ba anh em đồng bay riết.
Tôn Hành Giả thấy thầy có nết như vậy, thì khen thầm rằng:
– Ðáng ông hòa thượng lắm, tuy tai phàm mắt thịt mà thấy sắc không mê, chẳng mến giàu sang không tham lợi lộc! Ta phải ráng cứu kẻo tội nghiệp thầy.
Xảy thấy Hoàng Hậu dắt Công Chúa lại gần, lạy chúc vạn tuế.
Tam Tạng run cằm cặp hồn vía lên mây!
Tôn Hành Giả coi rõ trên đầu Công Chúa có một điểm khí yêu, song không dữ cho lắm. Liền bay lại nói nhỏ bên tai Tam Tạng rằng:
– Thầy ôi! Công Chúa giả.
Tam Tạng nói nhỏ lại rằng:
– Biết là giả, làm sao cho nó hiện hình.
Tôn Hành Giả nói:
– Ðể tôi hiện hình bắt nó?
Tam Tạng nói:
– Không đặng, không đặng, chẳng nên kinh giá, để Hoàng đế và Hoàng Hậu lui ra rồi sẽ hay.
Tôn Hành Giả tánh nóng nảy đợi không đặng, hiện nguyên hình nhảy lại chụp Công Chúa và hét lớn rằng:
– Nghiệt súc, ngươi cả gan lộng giả thành chơn còn chưa vừa ý, lại muốn hại tới thầy ta.
Khi ấy vua Thiên Trúc thất kinh chết đứng.
Hoàng Hậu về bò càng, cung nga thế nữ chạy mất hết!
Còn Tam Tạng vừa run vừa ôm vua Thiên Trúc mà tâu rằng:
– Xin Bệ Hạ đừng kinh hãi. Ấy là đệ tử tôi hiện hình, mà bắt Công Chúa giả.
Khi ấy con tinh biết lậu sự rồi, nó vùng khỏi Hành Giả liền cởi áo và bỏ đồ nữ trang chạy ra miếu Thổ Ðịa lấy cái chày đâm thuốc như đoản côn.
Tôn Hành Giả đuổi theo, náo quay lại đánh một chày.
Tôn Hành Giả giựt thiết bảng ra đở.
Hai người đánh tại vườn hoa.
Giây phút nó nhảy lên nữa lừng.
Tôn Hành Giả liền nhảy theo đánh.
Bá tánh xem thấy vở mật, nội trào coi cũng hết hồn, Tam Tạng kêu và nói lớn rằng:
– Ai nấy đừng hãi kinh, ấy là yêu tinh giả hình Công Chúa, để học trò tôi bắt nó, thì biết cội rễ rõ ràng.
Còn mấy bà Quý Phi lấy trâm nĩa áo dưới đất đưa cho Hoàng Hậu xem rồi phán rằng:
– Thiệt y phục của con ta. Song nó đã để mình trần mà đánh với hào thượng trên mây, chắc là loài yêu quái mới đằng vân đặng.
Vua Thiên Trúc nói phải, quan quân xét lại mới tỉnh hồi, đồng coi hai người hổn chiến trên mây, hơn nữa ngày không phân thắng bại, ai nấy đều lấy đầu!
Còn Tôn Hành Giả giận quá, quăng thiết bảng lên, bảo:
– Biến biến.
Thiết bảng liền biến ra cả trăm cái, đánh đập tứ bề, con tinh hóa gió lên mây.
Tôn Hành Giả bay lên đuổi mãi, đu thét tới Tây Thiên Môn, thấy cờ xí phất phơ, Tôn Hành Giả kêu lớn nói rằng:
– Mấy người giữ Tây Thiên Môn phải đón yêu tinh lại, đừng để nó chạy qua!.
Khi ấy Hộ Quốc Thiên Vương nghe kêu, liền dẫn tứ Nguơn soái, đem binh cản lại. Con tinh đi tới không đặng, tức mình trở lại đánh liều mạng với Hành Giả.
Tôn Hành Giả coi lại thấy đoản côn của con yêu, một đầu lớn, một đầu nhỏ, coi như cái chày đâm thuốc, liền nực cười hỏi rằng:
– Nghiệt súc, ngươi cả gan dám lấy chày mà cự với thiết bảng của Lão Tôn!
Con tinh nghiến răng trẹo trẹo mà nói rằng:
– Ngươi không biết binh khí của ta, hãy nghe cho rõ, vốn nó bằng ngọc, ở tại thiềm cung, quết thuốc TSnh; không biết mấy ngàn trăm mà kể, có sợ chỉ thiết bảng của ngươi, đánh nhằm một chày thì hồn về chín suối.
Tôn Hành Giả nghe nói cười rằng:
– Nghiệt súc ôi! Ngươi đã ở Cung Thiềm, thì biết danh Lão Tôn lắm, sao còn dám cực địch với ta. Mau mau hiện nguyên hình ta dung tánh mạng.
Con yêu nói:
– Ta cũng biết ngươi là Bật mả ôn, năm trăm năm trước phá tới Thiên cung, đáng lẽ nhịn ngươi mới phải. Ngặt vì ngươi phá việc vợ chồng, cũng như là cứu cha mẹ, nên tức lòng ta lắm, quyết một đòn một mất với ngươi.
Tôn Hành Giả nghe nói tới Bật mả ôn, liền nổi hành hung hổn chiến.
Nói vừa đánh vừa chạy cửa Nam thiên, đánh ráng ít hiệp rồi nó hóa ra hào quang sáng giới, bay xuống hướng Nam, Tôn Hành Giả theo đuổi tới hòn núi kia, hào quang nhập vào núi, Tôn Hành Giả kiếm không đặng sợ nó trở về hại thầy nên nhìn hòn núi cho nhớ, rồi liền bay trở lại.
Lúc ấy nhằm giờ thân, vua Thiên Trúc và Hoàng Hậu đương nghi ngại, xảy thấy Tôn Hành Giả ở trên mây nhảy xuống kêu rằng:
– Thầy ôi! Tôi đã về đây.
Tam Tạng nói:
– Ngộ Không đứng lại vững vàng, chẳng nên làm kinh giá. Ta hỏi ngươi: Vậy chớ chuyện công chúa giả ra thể nào?
Tôn Hành Giả chắp tay đứng ngoài cung Chi Thước thưa rằng:
– Ðệ tử đánh nữa ngày nó đã đại tẩu tôi đuổi theo tới núi hướng nam, kiếm hoài không đặng nó. Nên tôi sợ nó biến hóa về cung mà hại thầy, phải trở lại xem thử.
Vua Thiên Trúc nghe nói, liền níu Tam Tạng mà hỏi rằng:
– Như giả Công Chúa là yêu, chớ chơn công chúa ở đâu, xin cắt nghĩa cho rõ.
Tôn Hành Giả nói hớt rằng:
– Ðợi Lão Tôn bắt gả công chúa xong, tự nhiên có chơn công chúa.
Khi ấy Hoàng Hậu nghe nói rất mừng, hết lòng nghi sợ, liền bước tới lạy Hành Giả mà nói rằng:
– Xin thánh đặng cứu chơn công chúa về đây, tôi sẽ đền ơn trọng thể.
Tôn Hành Giả nói rằng:
– Chốn này là cung cấm, tôi chẳng lẽ nói chuyện lâu, xin nương nương an lòng về cung. Còn Bệ Hạ và thầy tôi ra đền, tôi sẽ nói chuyện lâu mới đặng.
Hoàng Hậu y lời về cung.
Còn vua Thiên Trúc đi với TamTạng và Hành Giả ra đến truyền chỉ dọn tiệc thiết đãi. Tôn Hành Giả nói:
– Xin mời hai vị sư đệ tôi đến đây bảo hộ thầy tôi, phòng khi yêu nó hiện về làm hại, thì tôi mới vững bụng đi bắt yêu tinh.
Vua Thiên Trúc y lời thỉnh Sa Tăng, Bát Giới tới, Tôn Hành Giả thuật chuyện lại. Rồi dặn rằng:
– Hai em phải rán sức giữ gìn thầy cho lắm, đặng ta đi bắt yêu tinh đem về, sẽ lo tìm công chúa thiệt.
Dặn rồi nhảy thót qua núi nam, kiếm một hồi không thấy cửa động!
Tôn Hành Giả nổi nóng, bắt ấn niệm chú thâu Sơn thần, Thổ Ðịa đến hỏi rằng:
– Núi này tên chi, có bao nhiêu yêu quái, phải khai thiệt, kẻo ta đập chết bây giờ?
Sơn thần, Thổ Ðịa quỳ thưa rằng:
– Núi này tên là Mao Ðỉnh, trong núi có ba cái hang nhỏ chớ không có yêu quái, từ xưa đến nay gọi là Phước Ðịa, nếu đại thánh muốn kiếm yêu quái, xin đi theo ngỏ lên Tây Phương, chớ đây thiệt không có yêu quái.
Tôn Hành Giả nói:
– Ta mới đuổi một con yêu đến núi này, không biết nó chốn ngỏ nào, kiếm hoài không đặng! Thổ Ðịa, Sơn Thần nghe nói hồ nghi yêu tinh chung xuống hang thỏ mà trốn, nên dẫn Hành Giả đến ba cái hang thỏ mà kiếm, mới tới hai cái hang dưới chơn núi, thỏ thất kinh chạy vở cả bày, coi lại là hang trống không có chi hết.
Ðoạn dẫn lên chót núi tới hang thỏ lớn đã thầy lấp rồi, coi lại tấm đá lớn đậy miệng hang.
Thổ Ðịa nói:
– Chắc yêu tinh bị đuổi nột, nên chun xuống hang này.
Tôn Hành Giả lấy thiết bàng xeo tấm đá lên, con yêu ở dưới hang hú một tiếng nhảy lên mắng rằng:
– Ai bảo Sơn Thần làm khôn, Thổ Ðịa mách miệng, đem cừu nhơn tới ổ kiếm ta?
Vừa mắng Thổ Ðịa, Sơn Thần, vừa đánh với Hành Giả. Thổ Ðịa, Sơn Thần rút lui.
Còn Tôn Hành Giả ráng sức bình sanh, đánh con yêu ấy trở tay không kịp, nó và đánh và rút lui cho tới trời tối.
Tôn Hành Giả ráng sức đuổi theo, con yêu ấy chắc mười phần phải chết, vì đã đuối sức rồi.
Xảy nghe trên mây có tiếng kêu lớn rằng:
– Ðại Thánh khoan đánh đã.
Tôn Hành Giả ngó ngoái lên, thấy Thái Âm Tinh Quân đi với Hằng Nga tiên nữ, đã bay xuống trước mặt Tôn Hành Giả giựt mình không dám đánh nữa, liền bái mà hỏi rằng:
– Chẳng hay bà giáng hạ có chuyện chi?
Thái Âm Tinh Quân nói:
– Con yêu đánh với ngươi đó, là con Ngọc Thố của ta, nó thuở nay ở tại cung Quảng Hàn đâm thuốc huyền sương là TSnh dược. Bởi nó ăn cắp chìa khóa mở cửa cung mà trốn, dã một năm nay. Ta đánh tay biết bữa nay nó bị nạn mà chết, nên xuống đây mà cứu nó. Xin Ðại Thánh vị mặt ta, tha nó làm ơn.
Tôn Hành Giả nói rằng:
– Hèn chi nó đánh với Lão Tôn bằng cái chày đâm thuốc! Bởi bà không rõ, ngở nó là hiền, chớ nó xuống phàm bắt công chúa nước Thiên Trúc mà hưởng phú quý, nay nó gieo cầu nhằm thầy tôi, quyết chăm làm Phò Mã, thiệt là hai, ba án không lẽ thứ tay.
Quan Âm Tinh Quân nói:
– Ðại Thánh không rõ, chớ Công chúa không phải người phàm, nguyên trước là Tố Nga ở tại cung Quảng Hàn, cách hai mươi năm có đánh Ngọc Thố một vã. Sau lại sanh tâm muốn việc trần tục, mới lén xuống đầu thai mà làm công chúa nước Thiên Trúc. Còn Ngọc Thố oán Tố Nga vã nóp một cái, nên sau lén xuống báo cứu, mới bắt Tố Nga quăng ra ngoài đồng cho bỏ ghét, rồi hiện hình ở thế trong cung, tội ấy đáng giết. Song sanh sự chấm Bần Tăng làm Phò Mã, tôi ấy không dung. Tuy vậy mà chưa động phạm tới Ðường Tăng, xin Ðại Thánh vị tình mà tha tội cho nó, ta sẽ đem nó về cung Quảng Hàn.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Như vậy thì sự nhơn quả một vay một trả cũng vừa, Lão Tôn cũng oán cứu chi mà nghịch ý chỉ. Song còn một điều này bất tiện lắm: Nếu bà thâu Ngọc Thố về cung, chắc Lão Tôn thuật chuyện lại vua Thiên Trúc không tin, vì chẳng có bằng cớ! Vậy thì xin bà chịu phiền đi với Lão Tôn đem Ngọc Thố tới đền vua Thiên Trúc mà làm chứng cho tôi. Một là rõ thần thông của Lão Tôn, hai là cắt nghĩa cho rõ sự nhơn quả của công chúa.
Thái Âm Tinh Quân nghe nói liền chỉ con yêu mà nạt rằng:
– Sao ngươi chưa hiện nguyên hình, còn đợi chừng nào nữa?
Con yêu ấy liền nhào xuống, hiện nguyên hình là con thỏ ngọc, lông trắng như sương.
Thái Âm Tinh Quân lấy dây cột cổ nó mà dắt đi, truyền Hằng Nga đằng vân theo mình đi qua đền vua Thiên Trúc với Hành Giả.
Lúc ấy đã chạng vạng, trăng mọc tỏ rõ.
Vua Thiên Trúc, Tam Tạng đương ngồi ngắm đền, xảy thấy hướng nam có một vừng mây đỏ sáng chói như ban ngày, bay lần tới trước điện.
Lại nghe Tôn Hành Giả kêu lớn rằng:
– Bệ Hạ nghe cho rõ: Hãy mời Hoàng Hậu ra đây mà xem.
Vua Thiên Trúc y lời, vợ chồng và các Quý Phi đồng ra ngoài đền mà làm lễ.
Khi ấy Tôn Hành Giả và cắt nghĩa rằng:
– Bà đây là Nguyệt Cung Hoàng Hậu Thái Âm Tinh Quân, còn cô này là Hằng Nga trong cung Nguyệt, còn con thỏ mầy là Ngọc Thố nó giả làm công chúa trót năm.
Vua Thiên Trúc và Hoàng Hậu với các Quý Phi đồng thắp hương quì lạy. Tam Tạng, Sa Tăng, Bát Giới và bá văn võ cũng lạy mừng.
Có thiên hạ cũng đặt bàn hương án; lạy và niệm phật.
Khi ấy Bát Giới thấy Hằng Nga đứng sau lưng Thái Âm Tinh Quân, trực nghĩ nhớ chuyện cũ, Bát Giới nhảy bổ lên nửa lừng, nắm tay áo Hằng Nga mà cười rằng:
– Nàng ôi, ta với nàng là tình cũ nghĩa xưa, cũng vì nàng mà ta phải đọa ra thân ông chản, xin nàng xét chuyện cũ mà thương tình ở chơi một lát với tôi kẻo tội nghiệp!
Tôn Hành Giả thấy gay con mắt, liền bước lại xách tay Bát Giới, vã miệng vài cái và mắng rằng:
– Ngươi còn thói rừng, không biết lễ nghĩa. Chỗ này không phải chỗ chơi mà dám trêu hoa ghẹo nguyệt?
Bát Giới nói:
– Giữa chốn này ta làm chi đặng mà ngại, bất quá giả ngộ cho vui kẻo buồn.
Khi ấy Thái Âm Tinh Quân và Hằng Nga đồng bay về cung Nguyệt.
Còn Tôn Hành Giả kéo cổ Bát Giới xuống.
Vua Thiên Trúc mời Hành giả vào đền, hỏi thăm rằng:
– Trẫm nhờ ơn Ðại Thánh trổ tài hoa phép trừ đặng yêu tinh, song không biết công chúa thiệt ở đâu, xin cắt nghĩa cho rõ?
Tôn Hành Giả nói:
– Chơn công chúa không phải cốt phàm. Vốn thiệt Tố Nga trong cung Nguyệt, bởi hai mươi lăm trước Tố Nga bạt tai Ngọc Thố một cái, rồi sanh tâm muốn xuống phàm trần, mới lên đầu thai vào Hoàng Hậu. Còn Ngọc Thố nhờ tiền cứu, năm ngoái trốn xuống bắt Tố Nga bỏ lại đồng hoang, rồi biến hình công chúa vào cung mà ở. Sự nhơn quả ấy là Thái Âm Tinh Quân cắt nghĩa rõ ràng như vậy. Nay Thái Âm Tinh Quân đã thâu Ngọc Thố về cung Thiềm, mai Bệ Hạ giàng giá đi tìm công chúa.
Vua Thiên Trúc nghe rõ, rơi lụy than rằng:
– Con ôi! Từ khi trẫm lên ngôi đến nay, không đi ra khỏi cửa thành, nay biết con ở đâu mà kiếm cho đặng!
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Bệ Hạ đừng phiền não làm chi, chơn công chúa bây giờ ở tại chùa Bố Kim, bữa nay đã tối, hãy nghỉ ngơi, mai Lão Tôn sẽ đem công chúa lại.
Khi ấy bá quan nghe nói, đồng quì tâu rằng:
– Xin Bệ Hạ hãy an lòng, chớ phiền muộn mà kém hao vóc ngọc. Thần tăng biết việc đằng vân giá vụ thì càng thông quá khứ vị lai. Mai Bệ Hạ cậy thần tăng dẫn đường, thì tìm ra công chúa.
Vua Thiên Trúc y tấu, lau nước mắt phán rằng:
– Ðiển Thiện quan, dọn yến tại Lưu xuân đình đãi bốn vị thánh tăng cho xứng đáng.
Còn đêm ấy Vua Thiên Trúc và Hoàng Hậu, mảng nhớ con nên vợ chồng than khóc, không ngủ đặng chút nào. Tuy vậy mặc lòng mà yêu tinh đi rồi, nên Vua Thiên Trúc và Hoàng Hậu đều tiêu hết hơi đen trên mặt, tinh thần mạnh mẽ, trí hóa minh mẫn như xưa.
Rạng ngày Vua Thiên Trúc lâm triều, bá quan văn võ chầu chực chúc tụng xong xả. Vua Thiên Trúc cho mời bốn thầy trò vào đền, truyền nhắc bốn cái túi đôn mời ngồi tử tế.
Vua Thiên Trúc bước xuống ngai phán rằng:
– Hồi hôm Ðại Thánh nói rằng: Chơn công chúa bây giờ ở tại Bố Kim tự, Hòa Thượng thuật chuyện rằng: Năm ngoái đương tham thiền trong lúc ban đêm, nghe tiếng khóc văng vẳng ngoài cửa sau, bước ra nền Kỳ Viên, ngó thấy một người quốc sắc, ngồi một mình than khóc. Lão Hòa Thượng nghi là yêu quái, mới hỏi căn do: Nàng ấy nói mình là công chúa nước Thiên Trúc đi ngoạn kiểng bị gió lớn thổi bay tới đây.
Lão Hòa Thượng lập thế mà nuôi, vì sợ ác tăng khuấy phá, nên lấy xiềng mà xiềng nàng ấy trong phòng rồi đóng cửa chắc chắn, đục một lỗ đúc chén cơm, nói gạt các sải rằng:
– Mới bắt đặng yêu tinh xiềng tại phòng ấy, sợ xuống hại lê dân, song cứ mỗi ngày đem cơm nước cho nó ăn mà làm phước. Các sải cũng tin, và nàng ấy cũng biết ý, nên ban ngày giả điên nói xàm, con ban đêm kêu cha mẹ mà khóc! Lão Hòa Thượng muốn dưng cho Bệ hạ, song chẳng nghe tin mất công chúa, nên chẳng dám dưng vì sợ có tội. Khi Bần tăng đến chùa ban đêm nghe tiếng khóc, mới hỏi thăm Lão Hòa Thượng có thiệt như vậy, cũng hồ nghi yêu tinh giả hình công chúa mà ở trong cung, mới ân cần dặn Bần Tăng, đến đổi điệp thì dò tin cho rõ, nếu quả có mất công chúa gieo sầu, mới bị vấn vương mất bữa!
VuaThiên Trúc nghe rõ liền cất tiếng khóc vang.
Khi ấy Tam cung lục viện nghe vua khóc lớn, thất kinh đồng chạy đến hỏi thăm.
Nghe thuật chuyện lại vân vân, ai nấy cũng động lòng rơi lụy.
– Vậy thì thái sư coi thế việc Triều đình cho trẫm, đặng cho trẫm với chánh cung Hoàng Hậu dẫn bá quan theo Ðại Thánh đến chùa Bố Kim mà rước công chúa.
Bá quan vưng chỉ giàng giá theo phó.
Tam Tạng và Sa Tăng, Bát Giới dẫn lộ.
Tôn Hành Giả dùn mình một cái đã tới chùa Bố Kim.
Các sải thấy Tôn Hành Giả ở nữa lừng sa xuống?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Ta lên trời cũng đặng, hạ xuống nữa lừng! Chẳng hay có lão sư ở trong chùa hay chăng? Bảo ra đặt bàn hương án tiếp giá. Vì VuaThiên Trúc và Hoàng Hậu bá quan đi với thầy ta gần tới cửa núi. Các sải nghe nói kinh hãi, không hiểu cớ gì! Liền vào bạch với thầy như vậy như vậy.
Khi ấy lão Hòa Thượng ra mắt Tôn Hành Giả, rồi quỳ lạy rằng:
– Lão gia gia ôi! Chuyện công chúa ra thể nào?
Tôn Hành Giả thuật hết các việc.Lão Hòa Thượng lạy tạ ơn.
Tôn Hành Giả hối rằng:
– Dọn bàn hương án, mà tiếp giá cho mau!
Các sải nghe rõ đầu đuôi, mới biết nàng ấy là công chúa, không phải yêu tinh, ai nấy nữa mừng nữa sợ.
Liền mặc áo cá sa, đặt bàn hương án, dộng chuông đánh trống vang tai!
Giây phút vua Thiên Trúc ngự đến cửa núi, các sải đồng quỳ lạy tiếp giá.
Vua Thiên Trúc thấy Hành giả đứng trong chùa!
Vua Thiên Trúc phán hỏi rằng:
– Ðại Thánh tới đây hồi nào vậy?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Lão Tôn vung vai một cái, đã tới cửa chùa, sao ai nấy đi quá lâu, sao bây giờ mới tới? Nhắm chừng cũng có nữa ngày!.
Khi ấy Tam Tạng thỉnh vua vào chùa, đến sau liêu, nghe công chúa còn giả điên, nói xàm inh ỏi!
Tam Tạng chỉ và nói rằng:
– Công Chúa ở trong phòng đó.
Lịnh truyền mở khóa phá cửa, Hoàng Hậu bước vào, liền ôm con mà khóc!
VuaThiên Trúc cũng tiếp theo! Sáu tròng đều ôm lụy khóc một hồi, rồi truyền hâm nước cho công chúa tắm rửa thay y phục như xưa, liền đỡ lên kiệu, khiêng về cung lập tức.
Còn Tôn Hành Giả chắp tay bái vua Thiên Trúc mà tâu rằng:
– Xin Bệ Hạ y tâu?
VuaThiên Trúc đáp lễ hỏi rằng:
– Ðại Thánh muốn bảo chuyện chi, trẫm cũng vưng lời cả thảy.
Tôn Hành Giả tâu rằng:
– Tên núi này là Bá Cước, bởi Bá Cước là trăm cẳng nên nhiều loài rít thành tinh, đón bộ hành mà cắn, xin Bệ Hạ truyền chỉ cho một ngàn con gà cồ, thả vào trong núi, cho nó ăn những ngò công, thì mới tuyệt loài ấy, và sửa tên núi lại cho tốt. Còn chùa này có ơn nuôi công chúa, cũng nên sùng tu lại, và phong tặng cho thầy cả mà đền ơn.
VuaThiên Trúc phán rằng:
– Phải lắm phải lắm.
Liền cải tên núi ấy lại là Bửu Hoa Sơn, ban chỉ tuyển gà trừ rít, và truyền chỉ quan công bộ cất chùa lại, phong lại là:
– Sắc kiến Bửu Hoa Sơn Cấp Cô Bố Kim Tự.
Phong lão Hòa Thượng làm chức Báo Quốc Tăng Quan, cứ mỗi tháng cấp lương ba mươi sáu thạch gạo trắng, tiền Bảo Quốc Tăng Quan có tạ thế, cũng chọn một vị đệ tử làm chứa ấy ăn lộc luôn luôn, mấy đời cũng vậy, các sải mừng rở tạ ơn; rồi đưa vua về nước.
Ðoạn Vua Thiên Trúc về đền, dọn tiệc đoàn viên đãi rất trọng thể, công chúa tạ ơn bốn thầy trò, thờ tại Trấn Hoa các, Tam Tạng từ giả đi thỉnh kinh, VuaThiên Trúc cầm hoài, đãi tiệc luôn tám bữa.
Tam Tạng vào đền tạ từ nữa, VuaThiên Trúc biết cầm lâu không đặng, truyền đem bạc vàng hai trăm đính, châu báu một mâm mà tạ ơn.
Bốn thầy trò không chịu lãnh. Vua Thiên Trúc truyền dọn bốn cổ xe, đưa bốn thầy trò cách trọng thể chúa tôi ngồi kiệu đi đưa.
Còn các sải chùa Bố Kim cũng muốn qua Tây Phương nên đi theo mãi.
Khi ấy Tôn Hành Giả sợ các sải theo báo hại, trể nải ngày giờ, nên làm phèp hóa một trận dông, các sải sợ cát vô con mắt đều nhắm lại!
Bốn thầy trò đi mới đặng xa, lặng giông các sải mở mắt ra, không thấy dạng bốn vị, bơ ngơ ngáo ngát phải trở về chùa.
Nói về bốn thầy trò, từ khi Tôn Hành Giả hóa gió cho các sải trở về đi đặng thong thả.
Lúc này hết Xuân qua Hè, đi đặng nữa tháng, tuy là không gặp yêu tinh, khỏi mắc tai nạn, song ăn sương nằm tuyết lại lên ải xuống đèo người ngựa cũng mỏi mệt.
Ngày kia thành trì trước mặt, Tam Tạng hỏi rằng:
– Chỗ nào đó vậy?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Không biết không biết.
Bát Giới cười rằng:
– Anh là người dạo khắp bầu trời, đi cùng trái đất, lẽ nào lại không biết? Chắc là cố ý mà khuấy chúng tôi chăng?
Tôn Hành Giả nói:
– Thằng khùng không biết xét lẽ, ta tuy qua lại đường này cũng nhiều lần, bất quá bay theo mây gió, chẳng hề bước chơn xuống đất, không hỏi thăm là xứ gì! Bởi cớ ấy nên không biết thiệt tình, nào cố tình nói mật.
Lúc đến thành Tam Tạng xuống ngựa, dắt qua khỏi thành, thấy hai ông già ngồi dựa hàng ba nói chuyện.
Tam Tạng nói:
– Ðồ đệ hãy đứng ngoài đường mà đợi, để ta bước vào mái hiên, hỏi thăm một chút.
Dặn rồi liền bước lại chắp tay thưa rằng:
– Bần Tăng kính chào hai vị thí chủ.
Khi ấy hai ông đang ngồi đàm đạo, nói sách nói chuyện lăng xăng:
– Nghĩ thương anh hùng đời xưa, bây giờ cũng ra tro ta đất.
Xảy thấy Tam Tạng chắp tay chào hỏi.
Hai ông đáp lễ hỏi rằng:
– Trưởng lão ở đâu tới đây?
Tam Tạng nói:
– Bần Tăng ở phương xa, đi thỉnh kinh Tây Phương đem về Ðông Ðộ. Nay đến dây không biết quý sứ tên chi? Và chẳng hay có nhà nào lòng nhân từ, đến hóa trai một bủa? Xin hai ông làm ơn dạy chỉ giùm.
Ông già kia nói rằng:
– Ðây là phủ Ðông Ðài, sau phủ có một huyện gọi là huyện Ðịa Linh. Còn trưởng lão đừng đi hoa trai làm chi, cứ đi thẳng theo dãy này, có cái nhà lầu trở cửa qua hướng đông, trước cửa có tượng hình bạch hổ, ấy là Khấu Viên Ngoại, trước cửa có treo tấm bảng, đề rằng: Vạn Tăng bất trở, chẳng hề bỏ sót sải nào. Nếu thấy thầy ở phương xa tìm tới, chắc là hậu đãi mười phần, thôi đi đi đừng làm cắt đức chuyện của chúng tôi, tội lắm!
Tam Tạng tạ tử trở lại thuật chuyện với Hành Giả, bốn thầy trò đi lần tới chợ, thiên hạ lấy làm lạ, và coi và nói nhỏ với nhau.
Tam Tạng dặn ba trò đừng sanh sự.
Ba anh em nghe lời cúi mặt mà đi một cách nhu mì.
Giây phút tới chợ, thấy một tòa lầu lớn, trước có treo tấm bảng bốn chử: Vạn tăng bất trở.
Tam Tạng khen rằng:
– Cảnh Tây Phương thiệt là đất phật!
Bát Giới muốn đi vô.
Tôn Hành Giả cản rằng:
– Khoan đã, khoan đã! Ðể coi có ai ra đây hỏi tới rồi sẽ đi vào.
Kế có một đứa gia đình bước ra, tay cầm một cái cân, tay xách một cái giỏ, đi tới ngó thấy ba người đi tướng, thất kinh liệng cân quăng giỏ, chạy vào nhà báo rằng:
– Ông ôi! Có bốn sải dị hình, đứng ngoài cửa ngỏ.
Khấu Viên Ngoại dương chống gậy đứng tại nhà cầu và niệm phật.
Xảy nghe gia đình vào báo.
Khấu Viên Ngoại bước ra mời vào, nói rằng:
– Các nhà lớn này là chỗ tiếp đãi cao tăng; còn cái nhà nhỏ kia chỗ tôi ở.
Tam Tạng thấy từng trên có thờ Phật, liền khen ngợi nhiều lời. Rồi mặc áo cà sa, bước lên lạy Phật, rồi trở xuống cởi áo cà sa, đàm đạo với Viên Ngoại.
Tam Tạng nói:
– Thế chủ thờ phượng nghiêm trang lắm!
Khấu Viên Ngoại hỏi:
– Chẳng hay trưởng lão ở đâu đến đây?
Tam Tạng nói:
– Bần Tăng ở nước Ðại Ðường vưng lịnh Thiên Tử, qua Tây Phương lạy Phật thỉnh kinh. Nghe đồn Viên Ngoại háo thiện trai tăng, nên thầy trò tôi vào nhờ một bữa rồi đi Linh Sơn kẻo trể.
Khấu Viên Ngoại hối gia tướng coi dọn cơm mà đãi bốn thầy, và đem ngựa ra sau cho ăn cỏ mà lúa. Rồi mời bốn thầy trò ngồi trà nước.
Tam Tạng hỏi thăm việc nhà.
Khấu Viên Ngoại nói:
– Ðệ tử họ Khấu tên Hồng, tự là Ðại Khoan, năm nay sáu mươi bốn tuổi, đến nay mới đây hai mươi bốn năm mà đãi mới đặng chín ngàn chín trăm mười sáu thầy, nay còn thiếu bốn vị nữa mới là viên mản, nay trời khiến bốn vị đến, thì đủ số rồi, xin bốn thầy cho biết hiệu đặng đem vào sớ viên mãn, và xin nán lại chừng một tháng, đợi làm hội viên mản xong rồi, để tử sắm sửa kiệu và ngựa, đưa bốn vị đến núi Linh Sơn. Vì tại đây đến núi ấy không lấy làm xa, cách chừng tám trăm dặm.
Tam Tạng nghe nói gần tới Lôi Âm thì mừng lắm.
Lúc ấy gia đình hối dọn cơm om sòm.
Bà Viên Ngoại nghe mới hỏi rằng:
– Vậy chớ sải ở đâu mới tới, mà các ngươi lo dọn cơm chay?
Gia đình thưa rằng:
– Nghe bốn thầy ấy nói ở nước Ðại Ðường vưng thánh chỉ qua Tây Phương thỉnh kinh. Gia Gia nói với chúng tôi, chắc bốn thầy đó ở trên trời xa xuống, không lẽ người phàm mà đi đặng tới xứ mình, nên Gia Gia hối dọn cơm chay mà đãi.
Bà Viện Ngoại nghe nói cũng mừng, truyền a huờn lấy áo rộng mặc vào, sẽ ra xem bốn sải cho biết.
Gia đình thưa rằng:
– Có một thầy tử tế dễ xem, còn ba sải dữ tợn xấu xa thiệt có coi lắm.
Bà Viên Ngoại nói:
– Nhứt là tốt người, nhì là dị tướng, đều không phải là bực tầm thường đâu? Chúng bây hãy ra thưa cho ông hay trước rằng bà sẽ ra mắt cao tăng, cho biết người Trung Hoa.
Khi ấy gia đinh vâng lời bước ra thưa lại. Khấu Viên Ngoại gật đầu, Tam Tạng nghe nói, liền đứng dậy bước xuống.
Bà Viên Ngoại đã tới nơi, ngó thấy Tam Tạng xinh tốt, coi lại ba người đệ tử dữ dằn!
Bà Viên Ngoại biết không phải là người phàm, bền cúi đầu làm lễ.
Tam Tạng đáp lễ nói rằng:
– Cám ơn nữ Bồ Tát kính lâm.
Bà Viên Ngoại hỏi chồng rằng:
– Sao bốn vị sư phụ không ngồi chung?
Khấu Viên Ngoại không kịp trả lời.
Bát Giới cúi mặt nói lớn rằng:
– Ba anh em tôi là đệ tử.
Tiếng nói ồ ề như cọp rền, bà ấy nghe mọc ốc.
Xảy có hai người Tú tài nhỏ, bước tới lạy Tam Tạng.
Tam Tạng vội vã xuống đáp lễ, Khấu Viên Ngoại kéo Tam Tạng lại mà nói rằng:
– Hai đứa ấy là con của tôi, đứa lớn là Khấu Lương, đứa nhỏ là Khấu Ðống. Hai đứa nó đọc sách trong thơ phòng, mới ăn cơm trưa, hay Lão gia đến đây, nên chúng nó ra mắt.
Tam Tạng khen rằng:
– Hay lắm. Phải lắm! Lời cổ ngữ có nói: Con cháu muốn nên, cho đọc sách, cửa nhà đặng phước, bởi làm lành. Lời ấy thiệt không lầm, con nên tại cha mẹ khéo dạy, cho học thì chúng nó biết nhơn nghĩa lễ trí tín luôn luôn.
Khi ấy hai Tú tài nhỏ hỏi Khấu Viên Ngoại rằng:
– Thưa cha, chẳng hay lão gia ở đâu mới đến đây?
Khấu Viên Ngoại cười rằng:
– Ở xa lắm, tại Nam Thiện bộ châu, vưng chỉ Ðại Ðường hoàng đế đến Linh Sơn cầu Phật Tổ mà thỉnh kinh.
Hai tú tài nói:
– Chúng tôi có coi sách Sự Tâm quản ký, thứ sách ấy có nói, xứ này là Tây Ngưu hạ châu. Nhằm chừng Nam Thiện bộ châu đến đây, đi cũng nhiều năm lắm?
Tam Tạng cười rằng:
– Bần tăng bị trễ nải lắm, thiệt đi không đặng sóng, trăm đắng ngàn cay, gặp mưu mắc nạn, tính đi mười bốn năm tới đây, thiệt một năm đi chừng bốn tháng!
Khấu Lương, Khấu Ðồng khen rằng:
– Thiệt là sải thần, rõ là thầy thánh!
Kế gia đinh dọn tiệc chay xong xả, Khấu Viên Ngoại bảo vợ con vào phòng, còn mình ngồi ăn cầm khách, ép Tam Tạng xới cơm, còn ba người học trò khỏi nài nỉ, nhứt là Bát Giới cứ và một chén một miếng, chúng đơm cơm xớt đà không kịp.
Rồi đồ ăn cũng liền vô!
Bát Giới làm như con trốt hốt đồ, cồng cộc nuốt cá.
Ðoạn tiệc rồi, Tam Tạng đứng dậy, từ tạ xin lui.
Khấu Viên Ngoại can rằng:
– Xin sư phụ ở rán ít ngày, lời tục rằng: Ban đầu con dễ, lâu ngày càng khó. Xin thầy nán lại đợi làm xong hội viên mãn, tôi sẽ đưa thầy ngoài mười dặm mới an.
Tam Tạng thấy Viên Ngoại có lòng, nên phải vì tình nán lại.
Cách bảy ngày, Khấu Viên Ngoại thỉnh các sải ở sở tại cọng hai mươi bốn thầy đặng lo làm đám viên mãn.
Các sải ấy viết sớ và sửa soạn cuộc tiệc, ba bốn bữa mới xong.
Rồi coi ngày lành, vào đám viên mãn, tụng kinh ba ngày ba đêm mới xong đám ấy. Khấu Viên Ngoại công đức an bài rồi.
Còn Tam Tạng nóng việc đi Lôi Âm, nên giả từ Khấu Viên Ngoại.
Khấu Viên Ngoại nói:
– Mấy bữa rày tôi mắc lo đám viên mãn, nên thất lễ cúng thầy, nên thầy không bằng lòng ở lâu, mới vội đi như vậy chăng?
Tam Tạng nói:
– Bần Tăng đàng việc hậu đãi, trả ơn không đặng, có chuyện chi mà chẳng bằng lòng. Song tôi nóng việc đi thỉnh kinh lắm, vì khi trước tôi mới từ giã, Thiên Tử đưa khỏi thành, phán hỏi rằng:
– Ngự đệ đi Tây Phương, khoảng chừng nào về tới? Bần Tăng ngỡ là đi ngựa cũng mau, nên tâu rằng: Khoảng chừng ba năm. Chẳng ngờ đường xá gập ghình, yêu tinh ngăn trở, đến nay mười bốn năm trời, chưa thấy mặt Phật, không biết thỉnh đặng kinh hay chăng? May mà thỉnh đặng kinh, trở về cũng có mười hai mười ba năm nữa! Tội khi quân vì chí nặng biết chừng nào? Vậy xin Viên Ngoại cho Bần tăng đi thỉnh kinh xong, rồi sẽ trở lại ghé thăm ít bữa.
Khi ấy Bát Giới sợ mất món ăn, liền nói lớn rằng:
– Sư phụ không biết vị tình, Viên Ngoại đã có lòng thành cầm ở, là có ý trai tăng, bởi Viên Ngoại không phải túng rối chi, nay đã làm viên mãn rồi, không còn lo đãi ai nữa mà sợ, dẫu một năm cũng vô can, một hai cũng đi vội làm cho. Ðây sẳn trai tăng lại không dùng, để đi xin chổ khác! Có ông bà thân thiết ở đàng trước hay sao, nên mới nóng lòng như vậy?
Tam Tạng nổi giận mắng rằng:
– Ngươi là đứa thô tục, cứ biết một việc ăn, chắc cốt trước ngươi là một vật chi của người ta nuôi, nên quên tánh như vậy? Thôi thôi ngươi muốn ở lại thì cứ ở, mai ta sẽ lên đường, đi thỉnh kinh kẻo trể.
Còn Tôn Hành Giả thuở nay thấy thầy cưng Bát Giới, nên mình không dám động đến, bây giờ thấy Tam Tạng trở mặt.
Tôn Hành Giả cũng hùa gió bẻ măng, đè cổ Bát Giới xuống đánh một hồi và mắng rằng:
– Một mình ngươi ham ăn mà chọc thầy giận, cũng tại tiếng nói bất thông, rằng ông bà thân thiết ở đàng trước, ngươi nói ông bà ai đó, làm cho sư phụ nổi giận mắng chung với chúng ta, ấy là một người làm xấu cả bọn mang nhơ, nếu ta không nói ra thì thầy cũng nghi ta ý như vậy.
Bát Giới tức mình đứng dậy thở dốc, không dám trả lời cứ ngó thầy mãi.
Khi ấy Khấu Viên Ngoại thất thầy trò giận hờn, biết Tam Tạng không chịu ở, liền cười mà nói rằng:
– Xin sư phụ đừng nóng, hãy ở nán một bửa, đặng tôi mời ít người thân quyến, sắm sửa cờ trống, mai sẽ đưa thầy đi.
Xảy thấy bà Ngoại Viên bước ra nói rằng:
– Chẳng hay lão sư phụ đến nhà tôi đã đặng mấy ngày Tam Tạng nói:
– Ðã được nữa trăng rồi.
Bà Viên Ngoại nói:
– Nữa tháng nay thuộc về phần viên ngoại tôi, tôi xin ra công nữa tháng may y phục cho bốn thầy bận.
Kế Khấu Lương, Khấu Ðồng bước tới thưa rằng:
– Gia phụ trai tăng hơn hai mươi năm mà chưa gặp cao tăng. Nay viên mãn thời may trời xuôi bốn vị giáng hạ, cha con tôi có phước vô cùng. Song anh em tôi còn thơ ngây, chưa biết nhơn quả, có nghe lóm câu kinh như vầy: Ông tu ông đắc, bà tu bà đắc, bất tu bất đắc. Chắc là nghĩa nói rằng: Ông tu ông đặng phước riêng, bà tu bà đặng phước riêng, ai chẳng tu thì nấy chẳng phước.Tiểu sanh từ lúc vào khoa, nhờ ơn tổ tiên, cám đức cha mẹ, đổ đặng phú tài, từ ấy đến nay mà dạy học mà học thêm, thiệt là giáo giả học chi báu, nên học trò đi qua thúc tu chút đỉnh, anh em tôi xin lấy ấy trai tăng nữa trăng, thiệt tình bắt chước cha mẹ tôi, xin thầy nhậm lễ.
Tam Tạng nói:
– Lịnh đường hậu đãi, chúng tôi có chẳng dám hứa thay! Tuy quý vị hậu tình thì cám ơn, chớ không dám chịu, vì sợ trể khâm hạn thì mắc tội với quân vương nên nhứt định ngày mai sẽ rời gót.
Ba anh em thấy Tam Tạng nói gắt như vậy, cũng phát rầu, hết thể ép uổng dắt nhau lui nghĩ.
Còn Khấu Viên Ngoại thấy chuyện như vậy, cũng chẳng dám cầm, liền viết thiệp cho bà con hay, định ngày mai đến đưa Tam Tạng; lại hối hầu bếp dọn tiệc, và sắm cờ mướn nhạc lăng xăng. Lại thỉnh đạo sĩ với thầy chùa, định ngày mai đến đưa cho rậm đám.
Kế dó đãi đằng xong xả, trời đã tối rồi.
Rạng ngày sửa soạn cuộc tiệc cho tới giờ tị mới xong, dọn tiệc tiến hành trọng thể, trên thì đãi tiệc, dưới thì xướng hát, đờn ca, ai nấy đều vui lòng hết thảy.
Ðến mãn tiệc bốn thầy trò tạ ơn xong xả, đồng đi ra khỏi cửa.
Khấu Viên Ngoại theo đưa, có kẻ cầm sờ đi trước, dạ nhạc theo sau, hai bên đường là Hòa Thượng với đạo sĩ đưa ra khỏi cửa thành cách mười dặm tới trường đình thấy có dọn tiệc sẳn tại đó.
Khấu Viên Ngoại rưng rưng nước mắt, bưng chén rượu rồi nói rằng:
– Sư phụ thỉnh kinh về, xin ghé tôi ít ngày, kẻo tấm lòng ao ước.
Tam Tạng tạ ơn nói rằng:
– Nếu Bần tăng đến Lôi Âm, thì trước tỏ việc đức hạnh Viên Ngoại, chừng trở về sao cũng ghé thăm.
Khi ấy Khấu Viên Ngoại theo đưa rán hơn ba dặm nữa.
Tam Tạng từ mãi, Khấu Viên Ngoại mới chịu từ biệt lui về.
Nói về mấy thầy trò đi đặng bốn chục dặm đường, thì trời đã tối.
Tam Tạng nói: “Trời tối rồi, biết ghé vào đâu mà tá túc?
Bát Giới vinh mặt nói rằng:
– Sẳn nhà tốt không ở, sẳn cơm ngon chẳng ăn, một hai đòi đi cho đặng, bây giờ trời tối mà không có chỗ ngủ, lại thêm đói nữa, nên trời mưa lớn thì mới tính làm sao?
Tam Tạng mắmg rằng:
– Nghiệt súc mắng ta phải chăng? Lời xưa có nói: Tuy trường an cảnh tốt, không phải là chốn nhà ta. Lẽ nào ở già đời tại nhà chúng? Như vậy thì là du thực chớ không phải thỉnh kinh về Ðông Ðộ, ta sẽ tâu với Thiên Tử, giao ngự trù cho ngươi ăn nứt ruột cho rãnh, sẽ thành báo quỷ cô hồn.
Bát Giới nghe nói cúi đầu cười ha hả!
Tôn Hành Giả ngó thấy xa xa một cái nhà tại bên đường, liền hối thầy đến đó mà nghĩ.
Khi đến nhà ấy coi lại thì miễu hư, thấy trên biểng có đề bốn chữ rằng:
– Hoa Quang Hành Viện.
Tam Tạng xuống ngựa nói rằng:
– Hoa Quang Bồ Tát là đệ tử Hỏa Diệm Ngủ Quang Phật, bởi trừ Ðộc Hỏa quỷ vướng mới giáng chức làm Ngủ Tiên linh quang, nay cũng nên vào miếu ngài mà tá túc.
Bốn thầy trò bước vào, kiếm không thấy đạo sĩ giữ miễu.
Bởi miễu hoang nên không có ông từ.
Coi lại thềm xiêu vách ngã, phía sau cây cỏ rậm rì!
Thầy trò sợ có yêu quái liền tháo trở ra.
Rủi bị trời mưa nên trở vào mà đụt. Sợ yêu tà có biết, không dám dỉ hơi cùng nhau kẻ đứng người ngồi, trọn đêm không nhắm mắt.
Nói về phủ Ðông Ðài, huyện Ðịa linh, có một đảng ăn cướp, chúng nó bàn luận với nhau rằng:
– Tính coi nhà nào khá mà đi đánh.
Lâu la nói:
– Tôi nhắm Khấu Viên Ngoại giàu lắm, chi bắng trời đêm nay trời mưa, nhà nào cũng ngủ, quân lýnh không tuần, áp tới làm hổn thì no lắm, vì trời mưa lớn, chi bằng thừa đêm nay trời mưa lớn, có la làng xóm cũng không nghe.
Ðứa lâu la khác thưa rằng:
– Không nên đâu! Hết chi nhà giàu bất nhơn, mà đánh nà lương thiện, ăn không đặng của mà mắc họa to!
Chánh đảng nói:
– Ðã ăn cướp là chết chưa chôn, sợ mắc hạo sao đặng. Nếu lựa nhà mà đánh thì chết đói còn gì? Lấy chi mà nuôi chúng bây cho đủ.
Nói rồi truyền kéo tới, động cửa Khấu Viên Ngoại rồi ao vô!
Khấu Viên Ngoại trốn lại cửa sau, vợ Viên Ngoại chạy chun xuống dưới sân.
Còn Khấu Lương, Khấu Ðồng và các gia đình đều chạy trốn tứ tán.
Khi ấy lũ ăn cướp bưng đèn vào, đào soái hết thảy, ăn hành nổi no nê mới chịu buồm!
Khấu Viên Ngoại tiếc của quá và chạy theo nói lớn rằng:
– Các cha ôi! Các cha lấy nữ trang vàng bạc chẳng nói làm chi, xin cho gói quần áo lại,. Vợ chồng tôi dưỡng già.
Nói về dứt lời, ăn cướp chạy lại đá một cái, mà nó đá nhằm chổ nhược!
Khấu Viên Ngoại ngã xuống nằm ngay!.
Lũ ăn cướp thấy tài gia ngã xuống, cũng nó dầm mưa nhắm hướng Tây mà đổ.
Ðoạn gia tướng thấy ăn cướp chạy xa, mới ra ngoài đỡ chủ dậy, coi lại đã chết rồi! Liền ré lên, và khóc và nói rằng:
– Trời ôi! Ăn cướp đánh chủ tôi chết rồi!
Ai nấy chạy ra khóc ngất.
Còn bà Viên Ngoại nghĩ thầm rằng:
– Bởi Tam Tạng không chịu ở lại nửa tháng cho mình trai tăng, muốn đi vội nên phải đưa cách trọng thể, lũ ăn cướp thấy vậy, biết mình nhiều của mới có chuyện này! Chi bằng nói xáng xả mà hại bốn thầy trò cho bỏ ghét.
Nghĩ rồi lại đỡ Khấu Lương dậy mà nói rằng:
– Con ôi, đừng khóc than làm chi! Tại cha con hay trai tăng nên viên mãn gặp sải tống mạng?
Khấu Lương nói rằng:
– Vì cớ nào cha mẹ gọi rằng gặp sải tống mạng?
Bà Viên Ngoại nói:
– Ăn cướp kéo vào đông lắm, mẹ sợ núp dưới sân. Thấy người bưng đèn là Tam Tạng, người cầm dao là Bát Giới, Sa Tăng gánh tài vật, Tôn Hành Giả trở lại đánh cha mi chết. Ấy là mẹ thấy rõ ràng.
Khấu Lương, Khấu Ðồng ngỡ thiệt, nổi giận nói rằng:
– Mẹ thấy quả như vậy thì phải lắm.Bởi bốn sải ấy ở trong nhà mình đã nữa trăng nên thuộc đường vô ngỏ ra, thấy nhiều của thì động lòng tham, thừa dịp mưa đêm mà ăn cướp, đã lấy của lại giết cha tôi, thiệt người độc quá! Ðể sáng chúng tôi sẽ vào đơn đi cáo chỉ danh bốn sải ấy cho quan chủ tập nã mà trị tội ăn cướp ác nhơn.
Khấu Ðồng nói:
– Anh đặt cáo trạng ra thể nào? Xin nói sơ lược nghe thử?
Khấu Lương nói:
– Cũng cứ nghe theo lời mẹ mà khai rằng:
– Tam Tạng bưng đèn, Bát Giới cầm mác, Sa Tăng gánh tang vật, Hành Giả giết tài gia.
Rạng đông bà Viên ngoại và gia tướng lo mau quan tài ẩn liệm Khấu Viên Ngoại, còn anh em Khấu Lương vào phủ quì đơn.
Quan Thứ sử phủ Ðổng đài tánh ở thanh liêm, việc làm công chánh, mới ra khách, thấy anh em quì dựng cáo và khóc và bẩm rằng:
– Chúng tôi cáo về sự cường đạo sát nhơn, xin quan lớn thẩm xét tập nã!
Quan Thứ Sử xem trạng liền hỏi Khẩu cung.
Anh em Khấu Lương cũng y như cáo trạng, vì trong cáo trạng nói rõ mọi điều.
Quan Thứ Sử sai lính khoái thủ lớp đi ngựa, lớp đi bộ, và điểm thêm dân tráng, hiệp cộng một trăm năm chục người, cầm khí giái và dây roi theo ngỏ Tây môn tập nã.
Nói về bốn thầy trò ở trong Miễu Hoa Quang tới sáng ra đi cũng bình an, đặng hai chục dặm đường, gặp lũ ăn cướp chia của tang tại kẹt núi.
Khi ấy lâu la đương chia của tang, ngó thấy bốn thầy trò đi gần tới, thì bàn luận với nhau rằng:
– Lũ thầy chùa này là Khấu Hồng đưa đón hôm qua!
Lâu la rộ lên rằng:
– Phải phải.
Chánh đảng cười rằng:
– Hay lắm, hay lắm! Chúng ta làm nghề này không kể trời đất. Còn sá gì thầy chùa, lũ sải này ở nhà Khấu Hồng đã lâu, rất đổi giàng gía mà đưa bề ngoài còn trọng thể, lẽ nào không đưa bạc vàng phí lộ hay sao? Chi bằng mình đón nó mà giựt lại, và lấy đồ hành lý, bắt con ngựa cũng đáng tiền, sẽ thêm với nhau mới đủ.
Ba chục lâu la vâng lời, đồng lấy khí giái ra đón đường, hét lớn rằng:
– Hòa Thượng đi đâu, mau nạp tiền mãi lộ? Bằng không thì chẳng còn đầu.
Tam Tạng hãi kinh ngồi run trên ngựa!
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Sư phụ đừng sợ, để Lão Tôn hỏi cho rành.
Nói rồi lại tới chắp tay hỏi rằng:
– Các ông làm gì vậy.
Lâu la nạt rằng:
– Ngươi không có mắt, chẳng biết đại vương ta hay sao, nạp tiền mãi lộ thì chúng ta cho đi, bằng không thì chẳng tồn tánh mạng.
Tôn Hành Giả nghe nói cười rằng:
– Nói vậy thì chúng bây ăn cướp cạn!
Lâu la đồng hét rằng:
– Hòa Thượng này vô lễ lắm, đập chết nó đi!
Tôn Hành Giả làm bộ sợ nói rằng:
– Ðại vương ôi, tôi là sải nhà quê, ăn nói chưa sạch sẽ, xin tha tánh mạng cám ơn. Nếu Ðại vương muốn thâu tiền mãi lộ, thì cứ tôi đây, bởi tôi giữ bạc tiền hết thảy, chớ ba thầy kia lưng túc, không có vật chi. Người cỡi ngựa là thầy tôi, biết niệm phật và tụng kinh, chớ không có tiền bạc; còn người mặt đen là kẻ chăn ngựa cũng không có chi, còn người mỏ dài là kẻ đi gánh đồ mướn cho tôi, không có bạc vàng mà hỏi. Vậy thì mở vòng binh cho ba người ấy đi qua, tôi tình nguyện đưa hết tài vật.
Khi ấy lũ cướp khen rằng:
– Hòa Thượng này ăn nói thiệt thà, vậy thì ba người ấy để đồ xuống mà đi!
Tôn Hành Giả nháy Sa Tăng, Bát Giới để gánh đồ lại, rồi đi theo Tam Tạng.
Tôn Hành Giả làm bộ mở gói đồ liền hốt cát vãi lên, làm phép định thân.
Lũ ăn cướp đứng trơ trơ, cựa quậy không đặng.
Tôn Hành Giả kêu lớn rằng:
– Sư phụ trở lại đây cho mau!
Tam Tạng quay ngựa lại, hỏi chuyện chi?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Ðố ai xô lũ ăn cướp cho ngã.
Bát Giới làm phách lại xô, thằng nào cũng cứng ngắt hết thảy! Liền hỏi rằng:
– Cường đạo! Sao chúng bây chết cứng cả bầy?
Hỏi hồi không nghe nói lại!
Khi ấy Tôn Hành Giả thấy Bát Giới không hiểu, liền cắt nghĩa rằng:
– Ta làm phép định thân chúng nó.
Bát Giới:
– Nếu anh không nói thì tôi tưởng chúng nó mang bịnh sĩ cả bầy!
Tôn Hành Giả nói:
– Vậy rhì thầy ngồi xuống đó, để Lão Tôn xử cái vụ này. Lời tục nói: Thà bắt lầm chẳng thà thả bậy, nên tôi phải tra vấn chúng nó một hồi.
Nói rồi nhổ lông hóa ra hơn ba chục sợi dây, bảo Sa Tăng, Bát Giới trói lâu la vào chánh đãng.
Khi Sa Tăng, Bát Giới trói mèo lũ ăn cướp rồi.
Tôn Hành Giả niệm chú giải phép định thân, chúng nó mới tỉnh hồn lại.
Tôn Hành Giả mời thầy ngồi giữa, ba anh em cầm binh trượng đứng hai bên.
Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Ðặng bây mấy đứa? Làm nghề này đã đặng bao lâu? Ðánh đặng mấy đám rồi? Sát nhơn mấy mạng? Bây giờ là sơ phàm hay là tích tặc? Phải cứ thiệt khai ngay. Nếu nói dối thì nát sọ.
Chánh đãng nói:
– Chúng tôi thuở nay làm ăn không biết nghề nghiệp này, bởi chúng tôi xài phí lớn lắm, bán hết ruộng đất của ông bà, túng tiền chịu cực không đặng phải nhập đãng đón chúng mà giựt đồ, nghe tin rõ Khấu Viên Ngoại là nhà giàu, nên thừa đêm trời mưa, vào làm oai lấy của. Nay lại gặp lão gia, biết là sải có tiền bạc, nhứt là thấy gáng đồ nặng nề, tưởng có tài vật, nên tíng kiếm thêm chút đỉnh mà chia cho đủ phần. Không dè lão gia thần thông, xin lấy lòng từ bi dung chúng tôi toàn nạng, chúng tôi tình nguyện dâng hết của tang.
Tam Tạng nghe nói kinh hãi, đứng dậy than rằng:
– Ngộ Không ôi! Khấu Viên Ngoại nhơn đức hiền lành, sao lại mắc họa lớn?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Tại dùng lể vật trọng mà đưa chúng ta, nên lũ ăn cướp thấy nhiều mới sang sự ấy. Thôi may mình gặp mà thâu lại, thiệt số không mất đồ.
Tam Tạng nói:
– Chúng ta cám ơn Viên Ngoại hậu đãi không biết lấy chi mà đền đáp. Vậy thì đem của này về trả lại đền ơn, và tha lũ Lâu la làm phươc.
Tôn Hành Giả y lời. Truyền Sa Tăng, Bát Giới lấy quần áo gát lên lưng ngựa.
Còn vàng ngọc bạc tiền và nữ trang giao cho Bát Giới gánh.
Mấy thầy trở lại, không đặng hai dặm đường, thấy xa xa có người cấm khí giới kéo tới!
Tam Tạng kinh hãi hỏi rằng:
– Ðồ đệ binh đao trước mặt, chẳng biết điềm dữ hay lành?
Bát Giới:
– Không xong, không xong, mắc họa, ấy là lũ ăn cướp mình thả đi nên nó đón báo cứu đó!
Sa Tăng nói:
– Không phải ăn cướp, đại ca coi lại cho rõ.
Tôn Hành Giả nói nhỏ với Sa Tăng rằng:
– Sư phụ chưa hết tai nạn, chắc mắc họa rồi, ấy là quan binh bộ đạo.
Nói chưa dứt tiếng quân lính chạy tới phủ vây bốn thầy trò mà nói lớn rằng:
– Hòa Thượng tử tế lắm, đi ăn cướp của người ta, còn mặc sắc phục ấy mà! Không biết mắc cỡ.
Nói rồi kéo Tam Tạng xuống ngựa trói mèo lại.
Rồi bắt Tôn Hành Giả và Sa Tăng, Bát Giới cũng trói hết thảy xỏ đòn vào mà khiêng.
Kẻ thì gánh đồ tang vật, kẻ thì dắt ngựa điệu về thương hại Tam Tạng và run và khóc, Bát Giới cứ nhăn mặt cắn nhằn.
Sa Tăng cũng buồn hiu dứt bần.
Tôn Hành Giả cứ cười hoài.
Giây phút quân dân khiêng bốn thầy trò, và tang vật đến cửa phủ.
Quân vào báo rằng:
– Bẩm lão gia! Chúng tôi theo vây bắt đặng cường đạo bốn tên, và thâu tài vật về đó.
Quan Thứ Sử thưởng quân và dân tráng xong rồi, truyền Khấu Lương, Khấu Ðồng nhận của đem về.
Rồi bảo quân dẫn bốn tên cười đạo vào mà hỏi rằng:
– Ngươi xưng là Hòa Thượng ở Ðông Ðộ đi thỉnh kinh, té ra lũ ăn cướp.
Tam Tạng bẩm rằng:
– Xin đại nhơn cho bẩm rõ căn do. Bần tăng chẳng phải là ăn cướp, có điệp thông quan làm bằng chứng. Bởi Khấu Viên Ngoại đãi chúng tôi hết nữa tháng rất hậu tình nên tôi gặp ăn cướp lấy của người, mới lấy lại đem trả cho Viên Ngoại, có ý đền ơn không dè bị quân lýnh bắt lại vu oan là ăn cướp; xin đại nhơn xét lẽ kẻo oan.
Quan Thứ Sử nói:
– Chúng bây bị bắt, nên kiếm cớ chửa mình, nêu gặp ăn cướp sao không bắt chúng nó mà nạo cho quan? Té ra ăn cướp đâu không thấy, có bốn người cầm của tang mà chối sao cho đặng! Vã lại cáo trạng của Khấu Lương cáo đây thì là chỉ tên bốn người không phải nói trổng, hãy coi cho rành.
Nói rồi đưa cáo trạng cho Tam Tạng coi, Tam Tạng ngó thấy tọa danh thất kinh hồn vía, ngó Hành Giả mà hỏi rằng:
– Người ta khai xả cho mình, sao không kêu nài để mà chịu làm oan, ức lắm!
Tôn Hành Giả nói:
– Tang tích sờ sờ, kêu nài làm cho vô ích.
Quan Thứ Sử nói:
– Phải lắm! Quả tang, chánh án, mà còn chối cãi nổi gì? Quân, đem nỏ ra đây, đóng nỏ nó rồi sẽ tra khảo.
Tôn Hành Giả nghĩ rằng:
– Tuy là thầy ta mắc nạn mặc lòng, song chẳng nên để hành hạ khổ sở.
Xảy thấy lính đem nỏ ra, Tôn Hành Giả nói hớt rằng:
– Quan lớn đừng đóng nò hòa thượng ấy. Hồi hôm ăn cướp đánh nhà Khấu Viên Ngoại là tôi hết thảy: Tôi bưng đèn, tôi cầm mác, tôi lấy của, tôi giết người, đầu đảng là tôi, đánh khảo bao nhiêu cũng chịu hết, chớ ba người kia vô can, vô cớ, đừng đánh ức đánh oan. Cầm một mình tôi cũng đủ.
Quan Thứ Sử nghe nói, bảo đóng nỏ người đó trước.
Quân lính vâng lịnh tròng nỏ vào đầu Hành Giả, rán sức kẹp lại một cái bốp, coi lại đã đứt dây, cột dây kẹp nữa, đứt nữa, ba bốn bận như vậy, mà đầu không thấy lằn dấu chi hết.
Xảy nghe quân báo rằng:
– Bẩm lão gia có Trần Thiếu Bảo ở kinh đô mới đến, xin lão gia tiếp nghinh.
Quan Thứ Sử truỵền quân giam lại, giữ gìn cho nghiêm, đợi nghinh tiếp Thượng ti, rồi sẽ tra khảo.
Quân lính vâng lịnh. Ðem bốn thầy trò giam vào khám, Sa Tăng, Bát Giới gánh hành lý theo.
Tam Tạng nói:
– Ðồ đệ ôi, chịu sao cho nổi?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Xin thầy hãy vào đây. Trong này không chó sủa ngầy ngà, mặc sức chơi giỡn.
Thương hại quân lính đè bốn thầy trò xuống gường cột tay chưn mà đánh!
Tam Tạng chịu không nổi hỏi:
– Ngộ Không tính làm sao? Chúng nó cứ lấy roi đánh xối!
Tôn Hành Giả nói:
– Họ đánh cho té tiền đó? Lời tục nói: Chuyện khổ phải nhờ tiền. Bây giờ phải chịu tiền mới đặng.
Tam Tạng nói:
Tiền mình ở đâu có?
Tôn Hành Giả nói:
– Nếu không tiền, thế y phục cũng vậy, đưa áo cà sa cho rồi.
Tam Tạng chịu đòn không nổi túng phải nói rằng:
– Ngộ Không ôi! Tự ý người muốn tính làm sao thì tính.
Tôn Hành Giả nói rằng:
– Các cậu đừng đánh khảo làm chi, trong hai gói của tôi, có áo cà sa giá đáng ngàn vàng, tôi xin dưng cho các cậu. Hãy mở ra mà lấy cho rồi.
Quân lính nghe nói, liền mở hai gói ra thấy có mấy cái áo vải, chẳng đáng bao nhiêu tiền, ngó thấy có một cái gói giấy dầu, mở ra nhiều lớp mới tới áo cà sa, hào quang sáng giới!
Mấy người áp lại dành coi, trầm trồ khen ngợi.
Khi ấy chúa ngục nghe rầy rà bước vào nạt lớn rằng:
– Các ngươi làm giống gì đây?
Quan lýnh quì bẩm rằng:
– Bẩm ông, bốn sải ăn cướp bị tra hồi nãy, chúng tôi mới đánh nó ít roi, nó chịu cho chúng tôi cái áo này, nếu xé manh mà chia cho nhau thì lấy làm uổng! Không phép một người lấy trọn, mất lẽ công bình! May có ông đến đây xin xử lẽ nào cho rõ?
Chúa ngục coi rõ là cái áo cà sa.
Lại mở túi lấy điệp thông quan mà xem, thấy có ấn vua các nước.
Chúa ngục nói rằng:
– May là ta thấy sớm, nên không thì các ngươi đã khuấy rối rồi! Hòa Thượng này không phải là cường đạo, đừng có động áo này mà khốn giờ? Ðợi ngày mai quan lớn xét lại, mới rõ đầu đuôi.
Quân lính nghe nói, liền gói áo lại như xưa, giao cho chúa ngục cất.
Tới canh một, quân canh đi tuần, tới canh tư chúng nó mới ngủ hết.
Tôn Hành Giả nghĩ thầm rằng:
– Thầy phải mắc nạn, bị cầm ngục một đêm, bởi cớ ấy nên Lão Tôn chẳng nói, và không làm phép. Nay đã quá canh tư, gần hết tai nạn, ta phải sửa soạn, sáng ra cho khỏi đề lao.
Nói rồi biến hóa mình nhỏ, chun ra khỏi gường, liền biến ra cào cào nhỏ, chun theo kẹt ngói mà bay ra, ngó thấy sao tỏ trắng rạng, liền nhắm chừng nhà Khấu Viên Ngoại, ngó thấy nhà phía Tây, đèn đuối sáng lòa, bay đến mà xem, là nhà nấu đậu hủ, có một ông già chụm lửa, bà già kia xách nước.
Ông già ấy nói:
– Bà ôi! Khấu đại quan có hào tử và hào tài, ngặt hào thọ nguơn không mấy lớn! Tôi với Khấu đại quan thuở nhỏ đi học một trường, tôi lớn hơn năm tuổi. Ông già Khấu đại quan là Khấu Minh, khi trước ruộng đất không tới một ngàn mẫu, cho chúng mướn ruộng thâu không đặng lúa. Ðến Khấu đại quan hai mươi tuổi, thì Khấu Minh đã thác. Khấu đại quan coi việc nhà cửa, vừa gặp vận đỏ rồi cưới con gái ông Trương Vượng gọi là nàng Xuyên Châm, từ ấy sắp sau, làm ruộng trúng mùa, cho vay sanh lợi, buôn may bán đắt, vốn một lời đôi, nên nay giàu có mười muôn sự nghiệp rân rát.Từ Khấu dại quan bốn mươi tuổi, thỉnh lòng niệm Phật, nguyện trai vạn tăng; hai người con trai đều đổ tú tài cả thảy; nay sáu mươi tuổi, lúc này hưởng phước về già, nào hay đêm hôm qua bị ăn cướp đá mà chết! Nghĩ lại làm lành mà chết không lành, thiệt là tội nghiệp quá!
Khi Tôn Hành Giả nghe rõ mọi điều, thì đã đầu canh năm, liền chạy vào nhà Khấu Viên Ngoại, thấy quan tài quàng chính giữa, đèn chong hương đốt trên đầu săn. Bà Viên Ngoại ngồi bên mà khóc! Hai đứa con, hai nàng dâu vợ thì bưng cơm mà cúng, chồng thì quỳ lạy khóc than.
Tôn Hành Giả đậu trên đầu săn, tằng hắng một tiếng.
Hai nàng dâu kinh hãi và bò và lết ra ngoài.
Hai anh em Khấu Lương mọp dài không dám ngó; đồng nói rằng:
– Xin cha đừng ngầy đừng quở, thứ tội cho các con!
Bà Viên Ngoại làm gan, vỗ săn nói lớn rằng:
– Ông sống lại hay sao mà tằng hăng đó?
Tôn Hành Giả nói:
– Ta chẳng hề sống lại.
Hai người con nghe nói hoảng hồn.
Bà Viên Ngoại làm gan hỏi rằng:
– Ông không sống lại, sao mà nói đặng như thường?
Tôn Hành Giả nói:
– Diêm vương sai quỷ xứ dẫn hồn ta về mà nói chuyện cho Xuyên Châm rõ, sao ngươi độc miệng, nói vu oan giá họa cho người lành?
Bà Viên Ngoại nghe kêu tên tộc, hãi kinh quỳ lạy nói rằng:
– Ông ôi! Tôi tuổi tác chừng này, ông còn kêu xách khóe, tôi nào nói vu oan giá họa cho ai!
Tôn Hành Giả nạt rằng:
– Vậy chớ ai bày đặt rằng: Tam Tạng cầm đèn, Bát Giới phá nhà, Sa Tăng lấy đồ, Hành Giả giết tài chủ. Bởi người nói vu oan như vậy, làm cho bốn vị lão sư phụ bị giam cầm đánh khảo nhiều phen! Rỏ ràng bốn vị sư phụ gặp ăn cướp dọc đường, đánh đuổi nó mà thâu của đem trả, lòng tốt biết chừng nào! Ngươi bày đặt cho con kiện thưa đến đổi thầy trò bị hành phạt. Thành Hoàng Thổ Ðịa báo đến Diêm Vương, nên Diêm Vương sai quỷ sứ dẫn hồn ta về, bảo vợ con phải xin cho bốn sải; nếu không thì ta phải ở lại một tháng phá nhà cửa tan hoang, giết hết nội nhà không chừa một con gà con chó.
Khi ấy Khấu Lương, Khấu Ðồng quỳ lạy vái rằng:
– Xin cha về quê cho tiêu diêu khoái lạc, đừng làm hại vợ con! Ðể sáng mai chúng con tới phủ dưng giải trạng, xin quan tha bốn sải đi thỉnh kinh, thì kẻ con người mất đều an cả.
Tôn Hành Giả nói:
– Thôi, đốt giấy cho ta đi?
Vợ con mừng rỡ đốt giấy.
Tôn Hành Giả bay về thì trời đã hừng đông, thấy Quan Thứ Sử mới dậy rữa mắt.
Tôn Hành Giả thấy trên gường thờ có treo một bức tượng: Vẽ ông quan cỡi ngựa, có quân lính xách ghế và che tàn, song chẳng biết hình ai đó.
Tôn Hành Giả thấy Quan Thứ Sử đứng khom lưng rửa mặt.
Tôn Hành Giả bay lên gường thờ, tằng hắng một tiếng!
Quan Thứ Sử ngó lại không thấy ai, thất kinh vào phòng mặc áo lớn, ra thắp hương quỳ lạy vái rằng:
– Bá Khảo Khương Công Càng Nhứt, xin chứng chiếu cho hiếu điệt là Khương Khôn Tam, cháu nhờ ơn phù hộ thi đổ thủ khoa nay đặng làm Thứ Sử, nên ngày đêm hương khói thờ phượng đền ơn. Chẳng hay vì cớ nào bữa nay lại ứng thinh tằng hắng! Xin đừng làm lộng mà nhát người nhà!
Tôn Hành Giả cười thầm rằng:
– Như vậy hình ông quan này là bác của Thứ Sử.
Liền rán cổ kêu lớn rằng:
– Khôn Tam hiền điệt, cháu trước nhờ âm đức mà đặng làm quan, sau lại thanh liêm chánh trực. Sao hôm qua làm việc lôi thôi, bắt thánh tăng gọi là cường đạo? Không biết xét lẽ phải quấy, truyền giam tại ngục hình, khiến cho sải thánh chịu hàm oan, cảm động tới Thành Hoàng Thổ Ðịa phí báo với Diêm Vương. Diêm Vương truyền quỷ sứ dẫn hồn bác về mà nói chuyện cho cháu rõ: Bảo cháu phải tha bốn vị thánh tăng lập tức, bằng không bắt hồn cháu xuống Âm phủ mà hầu tra.Thứ Sử nghe nói thất sắc vái rằng: Xin đại gia đi về, để tiêu điệt ra khách sẽ tha bốn thánh tăng lập tức.
Tôn Hành Giả nói:
– Thôi, cháu đốt giấy, đặng bác về tâu lại với Diêm Vương.
Khương Thứ Sử vâng lời đốt bạc vàng kạy tạ xong rồi, Tôn Hành Giả bay ra ngoài, thấy trời đã rực sáng.
Khi ấy Tôn Hành Giả bay tới cửa huyện Ðịa Linh, thì thấy quan huyện và các quan lại đã ra khách, đặng nghị luận vụ ăn cướp sát nhơn tại huyện mình.
Khi ấy Tôn Hành Giả nghĩ rằng:
– Trời đã sáng rồi, nếu để hình bồ cào mà nói giọng eo éo, thì chúng nó ngó thấy lậu sự khó lòng, chỉ bằng làm việc quỷ thần mới xong việc.
Nghĩ rồi liền hóa ra một ông thần mặt mày dữ tợn cao lớn dị thường; ở nữa lừng thòng một cái chơn đã chật sân, hét lớn như sấm rằng:
– Các quan nghe cho rõ? Ta là Lãnh đảng du thần, vưng chỉ thượng đế, xuống truyền lại cho các ngươi hay, tại quan phủ của các ngươi bắt bốn vị thánh tăng, nên náo động tới cõi trên, mới sai ta xuống bảo tha lập tức, nếu nghịch thánh chỉ, thì ta đập chết hết huyện này.
Các quan kinh hãi quỳ lạy thưa rằng:
– Xin Tôn thần lui về, chúng tôi không dám nghịch thánh chỉ, tức thời vào phủ bẩm lại, cho rõ sự hàm oan của bốn sải, lập tức phải tha. Xin Tôn thần miễn chấp.
Khi ấy Tôn Hành Giả biến ra bồ cào nhỏ bay về ngục, chun theo kẹt ngói mà vào, cũng nằm y chổ cũ.
Còn Khương Thứ Sử ra khách, anh em Khấu Lương vào dưng giải trạng.
Khương Thứ Sử xem qua nổi giận quở rằng:
– Hôm qua các ngươi dưng cáo trạng, bổn phủ đã sai bắt ăn cướp, các ngươi lãnh tang vật về rồi, sao nay lại dưng giải trạng, phải là đáng tội hay chăng?
Khấu Lương, Khấu Ðồng túng phải quì bẩm thiệt sự cha hiện hồn về nói vân vân, rồi bẩm rằng:
– Bởi cớ ấy nên chúng tôi rõ bốn vị thánh tăng mắc hàm oan, nên vào dưng giải trạng, xin quan lớn mở lượng biển, dung tội cho chúng tôi, tha bốn vị thánh tăng kẻo tội nghiệp.
Khương Thứ Sử nghe nói nghĩ thầm rằng:
– Cha chúng nó chết còn quang, hiện hồn về là phải, chớ Tiên bá phủ ta mất đã sáu năm, sao cũng hiện hồn về mách bảo! Thiệt chuyện này có bàn. Song xét lại: Nếu Hòa Thượng ấy ăn cướp thì trốn đi, hoặc chạy ra khỏi thành mới phải. Lẽ nào lại gánh tang vật mà đi trở lại thành, chắc là oan lắm.
Mãng còn nghĩ ngợi, xảy thấy các quan tại huyện Ðịa Linh chạy đến bẩm rằng:
– Lão đại nhơn ôi! Không xong rồi! Thượng Ðế mới sai Lãnh đảng du thần giáng hạ, chưn thần xuống chật sân, nói Hòa Thượng ấy là bốn sải thỉnh kinh, không phải là ăn cướp, bảo tha ra cho mau, nếu để trễ thì đạp huyện này và phủ này ra tro hết thảy!
Khương Thứ Sử hãi kinh thất sắc, truyền thơ lại viết bài, bảo quân đem bốn thầy trò ra mắt.
Khi mới mở cửa ngục, Bát Giới nhăn mặt than rằng:
– Không biết bữa nay đánh đòn hay là đóng nỏ khảo kẹp!
Tôn Hành Giả cười và nói nhỏ rằng:
– Không khi nào nó dám đánh một roi nữa, Lão Tôn đã lo lắng sắp đặt xong rồi. Nhứt là trước phủ, đừng ai quì hết. Ðể ta làm nhục nó lại cho ngươi coi?
Nói chưa dứt lời, quân vào dắt ra tới trước phủ, các quan lớn nhỏ đều bước xuống tiếp nghinh, và nói rằng:
– Thánh tăng đến hôm qua, thấy quả tang không kịp hỏi cho kỹ, và thượng đế ty đến nên cầm đỡ một đêm.
Tam Tạng chắp tay khai rõ tự sự.
Các quan đều khen phải mà phải chịu lỗi chịu lầm.
Tôn Hành Giả bước tới, trợn con mắt giộc hét lớn rằng:
– Trả ngựa và hành lý cho ta, bữa nay ta mới vấn tội các ngươi sao làm quan mập mờ, bắt người lành vu oan là ăn cướp?
Các quan thấy Hành Giả làm bộ dữ, ai nấy đều sợ run, liền hối đem hành lý và ngựa ra, trả lại minh bạch.
Ba anh em đều hung hăng, các quan đều đổ thừa cho Khấu Lương, Khấu Ðồng. Tam Tạng khuyên giải rằng:
– Ðồ đệ ôi! Tuy vậy chứ chưa lấy làm rõ ràng, chúng ta phải qua nhà họ Khấu, một là đi biếu, hai là đôi chối cho rõ ràng hỏi thử người nào thấy chúng ta ăn cướp?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Nói như vậy cũng phải. Ðể Lão Tôn kêu Khấu Viên Ngoại dậy hỏi ai đánh chết cho rõ ràng.
Khi ấy Sa Tăng đỡ thầy lên yên, bốn thầy trò đồng đến nhà Viên Ngoại, các quan và phủ huyện cũng đi theo.
– Hồn Khấu Hồng huyện Ðại Linh, thuộc về phủ Ðông Ðài, bị quỷ nào bắt hồn ông trai tăng ấy, thì đem ra mà trả cho ta!
Nhứt điện Tần Quảng vương phán rằng:
– Khấu Hồng là người lương thiện, trẫm chẳng hề sai quỷ bắt, hồn tự nhiên đi xuống, xảy gặp Kim y đồng tử dẫn về ra mắt Ðịa Tạng Vương, Ðịa Tạng Vương dạy lẽ nào không rõ.
Tôn Hành Giả nghe nói, từ biệt qua cung Túy vân.
Nói về Ðịa Tạng Vương ngự tại Túy vân cung, thấy Tôn Hành Giả vào ra mắt và thuật chuyện vân vân, Ðịa Tạng Vương mừng rở phán rằng:
– Số Khấu Hồng có sáu mươi tuổi mà thôi, không đau đớn chi cho đến đổi liệt nhược. Bởi người có đức, nên ta phong làm Phán quan coi về bộ lành.Nay Ðại Thánh đến đây, ta cho Ðại Thánh rước về dương gian một kỹ, rồi sẽ thâu về làm chức án trưởng. Kim y đồng tử vào mời Khấu An Trưởng ra đây.
Ðoạn hồn Khấu Viên Ngoại ra mắt, Tôn Hành Giả nói:
– Ông đã bị ăn cướp đá mà chết, nay đặng làm việc với Ðịa Tạng Vương, Lão Tôn có một chuyện hàm oan, nên mượn ông về mà đôi chối. Nhờ ơn Ðịa Tạng Vương bồ tát, cho sống lại hơn hai mươi năm, rồi sẽ xuống làm việc lại, không mất chức đi đâu.
Hồn Khấu Viên Ngoại tạ ơn Hành Giả, và bái biệt Ðịa Tạng Vương.
Tôn Hành Giả thổi một hơi, thâu hồn bỏ vào tay áo, rồi từ giã về thế gian.
Giây phút Tôn Hành Giả về đến bảo Bát Giới cạy nắp hòm giở ra; Tôn Hành Giả phủ tay áo trên thây cho hồn vía nhập về bổn xác.
Không bao lâu Khấu Viên Ngoại bắt hơi thở đặng, nội nhà mừng rở vô cùng. Khấu Viên Ngoại mở con mắt ngồi dậy bước ra ngoài, lạy bốn thầy trò mà nói rằng:
– Tôi tới số chết không kịp trối, nhờ sư phụ đến Âm phủ xin thêm mười hai tuổi, thiệt là ơn cứu tử huờn sanh.
Nói rồi quay lại các quan mà bẩm rằng:
– Liệt vị lão gia đến tôi có chuyện chi.
Khấu Viên Ngoại quì xuống thưa rằng:
– Thiệt là vu oan cho bốn vị thánh tăng, hôm kia hơn ba mươi ăn cướp đến đánh lấy đồ tôi, lại đá tôi chết!
Nói rồi quay lại rầy vợ con rằng:
– Sao chúng bây dám đặt chuyện mà cáo gian, hãy ra đây mà chịu tội!
Ba mẹ con đồng lạy mà xin lỗi.
Tam Tạng nói:
– Thôi miễn là biết cho chúng tôi là người ngay, thiệt chẳng hề chấp nhứt.
Khương Thứ Sử thấy nói xuôi như vậy, cũng bỏ qua.
Khấu Viên Ngoại truyền dọn tiệc thiết đãi rất trọng.
Sáng ngày treo bảng trai tăng, cầm bốn thầy trò ở nán.
Tam Tạng nhứt định không ở một ngày.
Khấu Viên Ngoại cũng sắm lễ tiễn hành như khi trước.
Nói về bốn thầy trò giã từ Khấu Viên Ngoại, liền đi thẳng một đường, thiệt phong cảnh rất vui, hoa càng tươi tốt, nhiều nhà lương thiện, hiếm chốn trai tăng.
Mấy thầy trò đi sáu bảy ngày, ngó thấy lầu cao chơn chở, không biết mấy từng.
Tam Tạng chỉ mà nói rằng:
– Ngộ Không, thiệt lâu đài cao quá trăm thước!
Tôn Hành Giả nói:
– Thầy gặp cảnh giả thì lạy hoài, nay đến cảnh thiệt thì không xuống ngựa!
Tam Tạng hoảng kinh nhảy xuống đi tới trước cửa lầu, thấy một vị đạo đồng, đứng dựa cửa núi kêu mà nói rằng:
– Phải là thầy ở Ðông Ðộ đi thỉnh kinh đó chăng?
Tam Tạng ngó thấy đạo đồng mình mặc áo gấm, tay cầm phất chủ, xinh tốt khác thường.
Tôn Hành Giả ngắt nhỏ thầy mà nói rằng:
– Ông này là Kim Ðăng đại tiên ở lại chơn núi Linh San, quân Ngọc Chơn, đón rước thầy.
Tam Tạng ban đầu thấy còn nhỏ ngờ là đạo đồng, nay nghe Hành Giả nói, mới nghĩ ra là TSnh bất lão không phải là đạo đồng, liền bước lại làm lễ.
Kim Ðặng Ðại Tiên cười rằng:
– Cha chả là trể! Năm nay thánh tăng mới tới đây! Tôi bị Quan Âm Bồ Tát nói gạt vì cách mười bốn năm trước, Quan Âm ghé đây dặn tôi rằng:
– Chừng ba năm thánh tăng sẽ đến đây, bảo tôi tiếp đãi tử tế. Báo tôi từ năm thứ ba đến năm nay, ngày nào cũng ngó mông hoài, không thấy chi hết, đến năm nay mới gặp thánh tăng!
T am Tạng chắp tay bạch rằng:
– Cám ơn đại tiên có tăng!
Tam Tạng chắp tay bạch rằng:
– Cám ơn đại tiên có tình trông đợi.
Kim Ðăng đại tiên mời bốn thầy trò vào đãi trà.
Rồi truyền đệ tử hâm nước cho bốn thầy trò lắm gội.
Lúc ấy thầy trò tắm gội xong rồi, thì trời đã tối.
Ngủ tới sáng liền dậy, chống gậy tích trượng lên lầu từ giã đại tiên.
Kim Ðăng Ðại Tiên cười rằng:
– Hôm qua ăn mặc lam lụ, bữa nay coi như Phật tử! Tôi kính mừng cho!
Tam Tạng từ biệt. Kim Ðăng nói:
– Ðể tôi đưa đi.
Tôn Hành Giả nói:
– Thôi thôi đừng đưa đón mất công, đường đi Lôi Âm Lão Tôn thuộc nhàm.
Kim Ðăng Ðại Tiên nói:
– Ðại Thánh biết đường mây, song Thánh Tăng đằng vân chẳng đặng, tôi không đưa đi chắc lạc đường.
Tôn Hành Giả nói:
– Phải phải, Lão Tôn đi thuộc đường không biết mấy thứ, thiệt là cân dẫu vân, chớ chưa từng đi bộ, Ðại Tiên biết rõ xin đưa giùm, chớ thầy tôi nóng việc thỉnh kinh, chẳng nên trể nải.
Kim Ðặng Ðại Tiên dắt ra cửa sau, chỉ hào quang ra trên nửa lừng mà nói rằng:
– Ði ngỏ trước không đặng, cứ ngỏ này đi ngay chổ hào quang là núi Linh tựu, chùa Ðại Lôi Âm tại đó.
Tam Tạng nghe nói, liền lạy ngay theo núi Linh san.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Thầy tánh nóng nảy quá, chưa đi tới chỗ đã lạy lần! Lời tục nói: Tuy thấy núi ở gần, chạy cũng mòn vó ngựa. Tuy thấy đó chứ còn xa lắm, nếu mà lạy mà đi cho tới đỉnh núi, thì cũng sói đầu!
Kim Ðăng Ðại Tiên nói:
– Thánh Tăng với Ðại Thánh, Thiên Bồng, Quyện Liêm đồng thấy cảnh Phật rồi, không còn gặp yêu tinh nữa.Tôi xin kiếu trở về.
Tam Tạng từ tạ, bốn thầy trò đi đặng sáu dặm đường, xảy thấy trước mặt có một cái sông dài, bề ngang chín dặm, không thấy nhà cửa ai ở mé cũng không thấy dấu người đi, mà cái sông ấy như biển, sóng dậy ba đào!
Tam Tạng kinh hãi nói rằng:
– Ngộ Không ôi, hay là đại tiên chỉ sai đường chăng, chớ biển rộng mênh mông không có thuyền đò, qua làm sao cho đặng.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Không sai đâu, cái cầu đằng kia, qua đặng mới thành chánh quả.
Tam Tạng ngục ngựa tới thấy dựa cầu có dựng một tấm biển rằng:
– Lăng Văn Ðộ, coi lại cầu ấy là độc mộc kiều. Cầu nhỏ bắt vòng qua biển như cái mống.
Tam Tạng thất sắc nói rằng:
– Cầu này Tiên Phật đi,chớ phàm tục đi qua sao đặng, kiếm ngỏ khác cho xong.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Có ngỏ khác ở đâu mà kiếm, bề nào cũng phải qua cái cầu này.
Bát Giới nói:
– Ðố ai dám đi cầu mống ấy, đã nhỏ lại cong vòng! Dầu bằng phẳng đi cũng không dặng, huống chi lên dốc xuống dốc, chắc là đi xuống sông.
Tôn Hành Giả nói:
– Thôi ai nấy ở đó, Lão Tôn đi thử cho mà coi!
Nói rồi nhảy lên cầu chạy riết một hơi tới mé, liền kêu lớn rằng:
– Ðã qua cho mau.
Tam Tạng cứ đưa tay khoát mãi và lắc đầu hoài. Bát Giới, Sa Tăng cũng nói đi không đặng! Khi ấy Tôn Hành Giả nhảy lên cầu chạy về, bảo Bát Giới đi theo.
Bát Giới nói:
– Cầu bước không đủ bàn chân đi làm sao cho đặng, bàn chân anh nhỏ nên dễ đi, nếu tôi bước đi chắc là trượt xuống!
Tôn Hành Giả bước lại nắm tay Bát Giới dắt đi.
Bát Giới nằm xuống đất la lớn rằng:
– Trơn lắm anh ôi! Tôi đi không đặng xin anh làm ơn tha cho tôi, để tôi đằng vân cho chắc ý!
Tôn Hành Giả đề cổ Bát Giới nói rằng:
– Chỗ này là chỗ gì, mà dám đằng vân giá vụ? Phải đi qua cầu này mới thành Phật.
Bát Giới nói:
– Anh ôi, tôi thành Phật không đặng rồi, tại cái cầu nhỏ mà cao lắm.
Hai người cãi lẩy, xảy thấy chiếc đò chèo đến rao lớn rằng:
– Ai có qua sông thì xuống đò.
Tam Tạng mừng quá nói lớn rằng:
– Ðồ đệ đừng ngầy ngà, có đò đến rước.
Ba anh em bước lại xem thử, là chiếc thuyền không đáy.
Khi ấy Tôn Hành Giả nhướng con mắt coi lại, biết người độ phu ấy là ông Tiếp Dẩn tổ sư, hiệu là Bửu Tràng Quang Vương Phật. Song không dám nói lậu ra, cứ kêu đò ghé lại.
Giây phút Tam Tạng đi tới mé, ngó thấy thất sắc nói rằng:
– Thuyền không đáy đưa người sao đặng.
Ðộ phu nói:
– Chuyến thuyền này chẳng phải tầm thường, hãy nghe cho rõ.
Nói liền ngâm rằng:
Thuyền này đã có lúc trời sanh,
Ðưa rước xưa nay những kẻ lành.
Tuy là không đáy mà an vững,
Sóng gió không sao, chẳng tợ thành.
Tôn Hành Giả chắp tay nói rằng:
– Xin làm ơn đưa cho tới mé. Sư phụ ôi! Tuy chiếc đò không lườn mà nó vững lắm, dầu giông sóng cũng chẳng chìm, thầy hãy xuống đò cho sớm:
– Tam Tạng dục dặc, bị Tôn Hành Giả xô nhủi xuống thuyền, Tam Tạng vừa té vừa khoan, nhờ có độ phu kéo lại!
Tam Tạng thất kinh hồn vía, xăn áo đứng trên bê ghe mà cằn nhằn Tôn Hành Giả.
Khi ấy Tôn Hành Giả dẫn Sa Tăng, Bát Giới dắt ngựa gánh hành lý đồng nhảy xuống thuyền, kẻ đứng giữa khoan, người ở trước mũi.
Ðộ phu chống đò ra, ngó thấy một cái thây trôi dưới dòng nước!
Tam Tạng xem thấy thất kinh, Tôn Hành Giả cười rằng:
– Xác của thầy chớ của ai mà sợ?
Bát Giới nói:
– Quả thiệt xác thầy trôi đó!
Sa Tăng vỗ tay nói:
– Phải phải.
Ðộ phu nói:
– Phải đó, phải đó, mừng cho.
Ba người đệ tử đều mừng cho thầy cổi đặng xác phàm.
Ðộ phu cheo khỏi bến Lăng Vân đã qua tới mé.
Tam Tạng mừng nhẹ như bông, bước lên cõi Phật.
Té ra là Tam Tạng chết khôn hay, ngỡ có Ðộ phu cứu.
Khi ấy bốn thầy trò đồng nhảy lên bờ, ngó lại Ðộ phu và chiếc đò đâu mất!
Tôn Hành Giả nói thiệt rằng:
– Ấy là ông Tiếp Dẫn tổ sư, hiện hình Ðộ phu mà rước thầy đó.
Tam Tạng nghĩ lại mới hay, liền lạy tạ ba người đệ tử!
Tôn Hành Giả đỡ dậy thưa rằng:
– Thầy cứu chúng tôi khỏi nạn, tu hành mới đặng thành chánh quả. Còn chúng tôi bảo hộ thầy cho đến bỏ xác phàm tthành hình phật, ấy là chuyện vần công, có ơn chi mà tạ. Sư phụ xem thử phong cảnh mà coi, những là hoa kiểng tong tre, phụng loan nai hạc, có giống như cảnh yêu biến hóa ở đâu?
Tam Tạng nói phải. Lúc ấy nhẹ mình nên đi thấm thoát, đồng lên núi Linh san.
Bốn thầy trò lên núi, phong cảnh xinh tốt muôn phần, khác phàm tục xa lắm!
Xảy gặp các sải, các vãi, Tam Tạng hòa nam.
Các sải vác vãi đáp lễ nói rằng:
– Thánh Tăng đừng hòa nam, đợi ra mắt Như Lai rồi sẽ đàm đạo.
Bốn thầy trò đi đến cửa núi, gặp hai ông Kim Cang đón mà hỏi rằng:
– Thánh Tăng mới đến đây hay sao?
Tam Tạng bái và bạch rằng:
– Ðệ tử là Huyền Trang mới tới.
Nói rồi muốn bước vào cửa.
Kim Cang nói:
– Thánh Tăng nán một chút, đợi tôi bạch lại rồi hãy vào.
Nói rồi vào báo cho Kim Cang cửa thứ nhì hay, hai ông Kim Cang cửa thứ nhì vào báo lại cho các vị ở cửa thứ ba hay.
Các vị ấy vào điện Ðại hùng, bạch với Phật Tổ rằng:
– Sải Ðại Ðường đã đến thỉnh kinh.
Phật Tổ mừng rỡ liền với tám vị Bồ Tát, bốn ông Kim Cang, năm trăm ông La Hán, ba ngàn ông Yết đế, mười ông Ðại diện, mười tám vị Dạ lam; đồng quì hai hàng hết thảy.
Phật Tổ truyền sắc đòi Tam Tạng vào chùa.
Khi ấy bốn thầy trò vưng chỉ, gánh hành lý và dắt ngựa vào tới Ðại hùng bửu điện, bốn thầy trò đồng quì lạy.
Lạy rồi lạy hai bên tạ hữu, lạy như vậy ba lần.
Rồi quì xuống dưng điệp thông quan.
Phật Tổ xem rồi đưa lại, Tam Tạng lạy rồi bạch rằng:
– Ðệ tử là Huyền Trang vưng chỉ Ðại Ðường hoàng đế, đến non báu cầu thỉnh chơn kinh mà cứu độ chúng sanh. Xin Phật Tổ ban ơn, cho chúng tôi thỉnh kinh về nước.
Phật Tổ dạy rằng:
– Ðông Ðộ là đất Nam Thiên bộ châu, bởi trời cao đất dày nên người động vật thạnh, hay giết hay tham, hay đâm hay dối, chẳng noi dạo phật không chịu làm lành. Chẳng kính tam quan, chẳng trọng ngủ cốc, chẳng ngay, chẳng thảo, không nghĩa, không nhơn, ỷ thế hiếp người, lương thăng tráo đấu, sát sanh hại mạng quá nhiều, phải đọa địa ngục vô số, bị cưa, xẻ, xay, giã, hành hình nhiều cách dữ dằn, rồi đầu thai làm cầm thú mang lông đội sừng cho người ta ăn thịt; lớp thì cầm dưới địa ngục không đặng đầu thai. Tuy có Khổng Tử là thánh nhơn, dọn ngủ kinh, dạy cang thường, các vị đế vương chế hình phạt mà trị dân. Ngặt nhiều kẻ dân ngu không biết sợ phép, bị đày bị chám không biết bao nhiêu! Nay đã có đặt ba tạng kinh,đã độ sanh lại độ tử. Thứ nhứt Pháp tạng nói phép trời; thứ nhì Luận tạng; luận chuyện đất; thứ ba Kinh tạng độ cô hồn, mỗi tạng 5.048 cuốn, ba tạng hiệp cộng15.144 cuốn. Ấy là dạy việc hiền lành, mở đường siêu độ, những việc thiên văn, địa lý, nhơn vật, thảo mộc, cầm thú đều giảng đủ lẽ. Nay các ngươi ở phương xa đến đây, ta cũng muốn cho thỉnh hết, song Ðông Ðộ ít người tin đạo phật, hay biếm nhẽ chê bai, nên hai người dắt bốn thầy trò xuống lầu mà đãi cơm nước, rồi chọn một hiệu ít cuốn cho đủ thứ, giao về Ðông Ðộ khuyên đời.
Hai vị Tôn giả vâng lịnh, đem bốn thầy trò đến lầu đãi cơm, bốn thầy trò tuy hưởng nhiều mỷ vị, song không rõ là món chi, vì thế giam ít có, chuyến nấy Bát Giới chở khẩm hơn hết.
Tiệc rồi hai vị Tôn giả đem bốn thầy trò đến tủ kính, thấy hào quang chiếu sáng. Ngoài tủ có dán giấy đỏ đề danh mục các thứ kinh như vậy:
1. Niết bàn kinh, một bộ 748 cuốn,
2. Bồ Tát kinh, một bộ 1.021 cuốn
3. Hư không tạng kinh, một bộ 400 cuốn
4. Thủ lăng nghiêm kinh, một bộ 45 cuốn
5. Ân ý kinh đại tập, một bộ 50 cuốn
6. Quyết định kinh, một bộ 140 cuốn
7. Bửu trạng kinh, một bộ 45 cuốn
8. Hoa nghiêm kinh, một bộ 500 cuốn
9. Lể chơn như kinh, một bộ 90 cuốn
10. Ðại bác nhả kinh, một bộ 916 cuốn
11. Ðại quang minh kinh, một bộ 300.
12. Vị tăng bửu kinh, một bộ 1.110 cuốn
13. Duy ma kinh, một bộ 170 cuốn
14. Tam luật biệt kinh, một bộ 270 cuốn
15. Kim cang kinh, một bộ 100 cuốn
16. Chánh pháp luật kinh, một bộ 120 cuốn
17. Phật bổn hạnh kinh, một bộ 800 cuốn
18. Ngủ long kinh, một bộ 32 cuốn
19. Bồ Tát giới kính, một bộ 116 cuốn
20. Ðại quả kinh, một bộ 130 cuốn
21. Ma yết kinh, một bộ 350 cuốn
22. Pháp hoa kinh, một bộ 100 cuốn
23. Di đà kinh, một bộ 100 cuốn
24. Bửu thường kinh, một bộ 260 cuốn
25. Tây thiên luận kinh, một bộ 130 cuốn
26. Tăng kỳ kinh, một bộ 156 cuốn
27. Phật quốc tạp kinh, một bộ 1.950 cuốn
28. Khởi tín luật kinh, một bộ 1000 cuốn
29. Ðại trí độ kinh, một bộ 1.081 cuốn
30. Bử hoai kinh, một bộ 1280 cuốn
31. Bổn cát kinh, một bộ 850 cuốn
32. Chánh luận văn kinh, một bộ 200 cuốn
33. Ðại khổng tước kinh, một bộ 220 cuốn
34. Duy thức luận kinh, một bộ 100 cuốn
35. Bối xá luận kinh, một bộ 200 cuốn
Khi ấy Ác Nang, Ca Diếp nói với Tam Tạng rằng:
– Thánh Tăng ở Ðông Ðộ đến đây thỉnh kinh, có lễ chi chăng thì đưa ra đặng ta phát kinh cho sớm!
Tam Tạng bạch rằng:
– Ðệ tử xa xuôi không có sắp sửa.
Hai ông Tôn giả cười rằng:
– Hay thiệt nếu đi tay không mà thỉnh kinh về lưu truyền làm sao siêu rổi đặng!
Tôn Hành Giả thấy dàng cấn không chịu phát kinh, nín không đặng, liền nói rằng:
– Thầy ôi, để ra bạch lại với Phật Tổ, xin ngài đi phát cho Lão Tôn.
Ác Nang nói:
– Ðừng có làm rầy, chỗ này không phải chổ chơi, mà ngươi nhiều chuyện! Ði lại đây mà lãnh kinh.
Bát Giới, Sa Tăng giải hòa, Tôn Hành Giả mới chịu trở lại mà lãnh kinh, đặng cuốn nào gói cuốn nấy gát lên lưng ngựa, lại gói làm hai gánh cho Bát Giới, Sa Tăng.
Ðoạn xong rồi, bốn thầy trò ra lạy tạ Như Lai, rồi tạ từ chư Phật mà về, Tam Tạng trở ra đến cửa núi, gặp vị phật nào cũng lạy hai lạy.
Nói về ông Nhiên Ðăng cổ phật, biết Ác Nang, Ca Diếp phát kinh vô tự, thì cười thầm mà nói rằng:
– Người Ðông Ðộ coi sao ra kinh vô tự, uổng công thánh tăng thỉnh về.
Nói rồi kêu Bạch Hùng tôn giả mà bảo rằng:
– Ngươi hãy theo Tam Tạng lấy kinh vô tự lại, và bảo bốn thầy trò trở vào thỉnh kinh hữu tự.
Bạch Hùng vâng lịnh đằng vân bay theo.
Khi ấy Tam Tạng đương đi với ba người đệ tử, khỏi cửa núi xa xa, ngó thấy hào quang chiếu sáng ngở là hào quang Phật Tổ nháng ra, chẳng ngờ trận gió thơm bay tới, thấy một cánh tay ở thinh không thòng xuống xách gói đồ trên lưn ngựa, Tam Tạng kinh hãi dậm chân đấm ngực nói rằng:
– Ngộ Không ôi! Ai lấy kinh đâu mất!
Tôn Hành Giả đuổi theo.
Bạch Hùng tôn giả thấy Tôn Hành Giả sách thiết bảng đuổi nột, sợ tánh người nóng nảy, đập đại khó lòng nên chẳng kịp nói chi, buông gói kinh mà chạy, Tôn Hành Giả nhảy theo gói kinh, thì kinh đã đổ cả đống, gió bay lật ra, Sa Tăng, Bát Giới áp lại lấy kinh đem cho thầy.Tam Tạng lau nước mắt than rằng:
– Ðồ đệ ôi! Không dè cảnh phật còn có yêu ma!
Sa Tăng sấp kinh gói lại, sửa mấy cuốn bị gió lật, thì thấy giấy trắng mà thôi, giở ra cuốn nào cũng vậy!
Bát Giới giở từ cuốn mà coi cũng giấy trăng!
Tam Tạng bảo mở gói dở hết ra, cũng không có một chữ chi hết!
Tam Tạng than rằng:
– Ðông Ðộ vô phước lắm! Mình đem kinh không chữ về dưng, chắc là mắc tội!
Tôn Hành Giả nói:
– Sư phụ đừng than thở làm chi, tôi đã biết rồi, tại không có nhơn tính nên Ác Nang, Ca Diếp phát kinh vô tự! Thầy trò hãy trở vô mà bạch qua Như Lai đặng làm tội kẻ tham tài, và xin đổi kinh hữu tự.
Bát Giới nói:
– Phải phải.
Bốn thầy trò trở lại cửa núi, mấy không Kim Cang cười mà hỏi rằng:
– Thánh tăng trở lại giở kinh phải không?
Tam Tạng gật đầu, thầy trò đồng vào điện Ðại hùng lạy phật.
Tôn Hành Giả bạch rằng:
– Thầy trò tôi trăm cay ngàn đắng, chấy tháng lâu năm, đi mới đến đây. Nhờ ơn Như Lai truyền phát kinh, mà Ác Nang, Ca Diếp đòi tiền hối lộ không có, nên cố ý phát kinh giấy trắng chưa có một chữ, chúng tôi đem giấy trắng về làm chi? Xin Phật Tổ trị tội hai người tác tệ, và đổi kinh có chữ cho chúng tôi?
Phật Tổ cười rằng:
– Chuyện ấy ta đã hay rồi, hai người phát kinh không lỗi. Bởi kinh rất quý, lẽ nào thỉnh không mà đặng phước hay sao? Khi trước các sải mới tu đại đây, có đem kinh xuống nước Xá vệ mà tụng cầu siêu cho Triệu Trưởng Giả. Triệu Trưởng Giả huờn công ba đấu ba thăng gạo trắng, và bạc vàng chút đỉnh, ta còn nói Triệu Trưởng Giả bỏn sẻn lắm, chắc sau con cháu phải nghèo nàn. Nay ngươi đến tay không mà thỉnh bấy nhiêu kinh, còn than thở gì nữa. Kinh giấy trắng chẳng phải là vô dụng đâu, ấy là kinh vô tự, quý hơn kinh hữu tự, ngặt chúng sanh coi không ra, nên phải đổi.
Nói rồi truyền Ác Nang Ca Diếp đổi kinh hữu tự cho đúng hiệu.
Ác Nang Ca Diếp vâng lịnh đem bốn thầy trò đến tủ kinh, cũng hỏi lễ như trước. Tam Tạng bảo Sa Tăng mở gói lấy bình bát, hai tay dưng lên bạch rằng:
– Ðệ tử đường xa và nghèo khổ, không có vật chi, cái bình bát này của vua Ðường ban cho đệ tử để hóa trai dọc đàng, nay xin dưng lấy thảo, nhờ ơn tôn giả phát kinh có chữ, về dưng cho Hoàng đế cứu độ chúng sinh.
Ác Nang mỉm cười cầm bình bát.
Mấy người lực sĩ ở tại nhà trù Hương tích ngó thấy đồng chạy đến, kẻ đấm lưng, người nắm gò má Ác Nang mà cười rằng:
– Không biết mắc cỡ, đi thâu bình bát của kẻ thỉnh kinh?
Ắc Nang cứ ôm bình bát mà làm tỉnh.
Còn Ca Diếp mở cửa tủ phát kinh cho bốn thầy trò, Tam Tạng nói:
– Các trò phải coi từng cuốn cho kỹ càng, đừng lôi thôi như khi trước. Nếu cuốn nào không chữ thì đổi lại luôn luôn.
Giây phút lãnh kinh gói lại, tính đủ một tạng: Năm ngàn bốn mươi tám cuốn, lớp thì để trên lưng ngựa, còn dư một gánh giao cho Bát Giới.
Còn Sa Tăng gánh hành lý, Tôn Hành Giả dắt ngựa.
Bốn thầy trò đến điện Ðại Hùng.
Khi ấy Phật Tổ ngồi trên hoa sen, sai Hàng Long la hán và Phục Hổ la hán, đánh chuông gióng khánh, làm hội truyền kinh thỉnh hết các vị Phật lớn nhỏ, mấy vị lớn thì ngồi, các vị nhỏ thì đứng hầu hai bên.
Giây phút hào quang muôn đạo, hơi ấm ngàn trùng, nghe tiếng nhạc vang tai, mùi hương ngát mũi. Các vị Phật ra mắt Như Lai xong xả.
Thích Ca Như Lai hỏi:
– Ác Nang Cá Diếp truyền hết thảy bao nhiêu kinh, những hiệu chi, mấy cuốn?
Ác Nang Cá Diếp dưng sổ phát kinh như vầy:
1. Niết bàn kinh, một bộ 400 cuốn
2. Bồ Tát kinh, một bộ 360 cuốn
3. Hư không tạng kinh, một bộ 20 cuốn
4. Thủ lăng nghiêm kinh, một bộ 30 cuốn
5. Ân ý đại tập, một bộ 40 cuốn
6. Quyết định kinh, một bộ 40 cuốn
7. Bửu tạng kinh, một bộ 20 cuốn
8. Hoa nghiêm kinh, một bộ 81 cuốn
9. Lễ chơn như kinh, một bộ 31 cuốn
10. Ðại bát nhã kinh, một bộ 600 cuốn
11. Ðại quang minh kinh, một bộ 50 cuốn
12. Vị tăng bửu kinh, một bộ 530 cuốn
13. Duy ma kinh, một bộ 30 cuốn
14. Tam luật biệt kinh, một bộ 42 cuốn
15. Kim cang kinh, một bộ 1 cuốn
16. Chánh pháp luận kinh, một bộ 20 cuốn
17. Phật bổn hạnh kinh, một bộ 116 cuốn
18. Ngũ long kinh, một bộ 20 cuốn
19. Bồ cát giới kinh, một bộ 60 cuốn
20. Ðại quả kinh, một bộ 30 cuốn
21. Ma yết kinh, một bộ 140 cuốn
22. Pháp hoa kinh, một bộ 10 cuốn
23. Di đà kinh, một bộ 30 cuốn
24. Bữu trạng kinh, một bộ 170 cuốn
25. Tây thiên luận kinh, một bộ30 cuốn
26. Tăng kỳ kinh, một bộ 110 cuốn
27. Phật quốc tạp kinh, một bộ 1.638 cuốn
28. Khởi tín luận kinh, một bộ 50 cuốn
29. Ðại trí độ kinh, một bộ 90 cuốn
30. Bửu hoài kinh, một bộ 159 cuốn
31. Bổn cát kinh, một bộ 56 cuốn
32. Chánh luận văn kinh, một bộ 10 cuốn
33. Ðại khổng tước kinh, một bộ 14 cuốn
34. Duy thức luận kinh, một bộ 10 cuốn
35. Bối xá luận kinh, một bộ 10 cuốn
Hai vị Tôn Giả bạch rằng:
– Trong ba mươi năm bộ ấy rút ra một tạng cộng 5.048 cuốn mà phát cho Ðường Tăng rồi.
Kế bốn thầy trò đến lạy tạ ơn, Thích Ca Như Lai nói:
– Kinh ấy công đức lớn lắm, dặn chúng sanh chẳng khá dễ ngươi? Nếu không ăn chay và tắm gội, chẳng nên giở kinh ấy ra, phải kính trọng như vậy mới đặng. Bởi vì noi theo đó thì khỏi tội đặng phước, tu theo đó thì thành Phật thành Tiên.
Tam Tạng tạ ơn giáp vòng ba bận, thầy trò lãnh kinh mà đi.
(Quên bạch sự con vít! Chớ chuyện Khấu Viên Ngoại đã bỏ rồi, quên bạch cũng phải).
Khi ấy bốn thầy trò đi, Phật Tổ truyền bãi hội truyền kinh.
Quan Âm Bồ Tát bạch rằng:
– Ðệ tử năm trước vưng kim chỉ xuống Ðông Ðộ tìm kẻ thỉnh kinh, nay đã thành công rồi, là mười bốn năm, cộng 5.040 ngày, còn thiếu tám ngày thì đủ số tạng! Xin Phật Tổ cho đưa bốn thầy trò về kịp nội tám ngày cho đủ số một tạng.
Thích Ca Như Lai mừng rỡ nói rằng:
– Nói như vậy phải lắm.
Liền kêu tám ông Kim cang mà dặn rằng:
– Các ngươi đưa thánh tăng đem kinh về Ðông Ðộ, rồi trở lại cũng nội tám ngày, cho đủ số một tạng.
Khi ấy tám vị Kim cang vưng lịnh, đằng vân theo Tam Tạng kêu lớn rằng:
– Các vị thỉnh kinh đi theo ta.
Nói rồi bay trước dẫn Tam Tạng theo sau.
Tam Tạng nhẹ mình bay thấm thoát.
Tôn Hành Giả, Sa Tăng, Bát Giới và Long Mã cũng bay theo sau.
Nói về Ngủ Phương Yết Ðế, Tứ Bộ Công Tào, Lục Ðinh, Lục Giáp, Hộ Pháp Dạ Lam, đồng đến bạch với Quan Âm rằng:
– Các đệ tử bấy lâu vưng pháp chỉ Bồ Tát. Nay đã xong rồi, chúng tôi xin bạch lại!
Quan Âm mừng rỡ hỏi rằng:
– Bốn thầy trò Tam Tạng đi đường tâm tánh ra thể nào?
Các vị thần đồng bái và bạch rằng:
– Sự bốn thầy trò lòng thành, Bồ Tát đã rõ.
Còn các việc Tam Tạng khổ sở, kể không xiết, hể mắc nạn tại đâu, chúng tôi đều ghi vào sổ.Vậy xin dưng sổ tai nạn của Tam Tạng cho Bồ Tát xem.
Nói rồi dưng sổ, Quan Âm xem thấy đề tám chục khoảng như vầy:
Nạn thứ nhứt: Phải đọa đầu thai
Nạn thứ hai: Mới lọt lòng, gần bị giết
Nạn thứ ba: Bị thả trôi sông
Nạn thứ tư: Tìm mẹ trả thù cha
Nạn thứ năm: Mới ra khỏi thành gặp cọp
Nạn thứ sáu: Sa hầm, chết kẻ theo
Nạn thứ bảy: Qua núi Song xa
Nạn thứ tám: Tại núi Lưởng giái
Nạn thứ chín: Bị rồng nuốt ngựa
Nạn thứ mười: Bị thiêu ban đêm
Nạn thứ mười một: Mất áo cà sa
Nạn thứ mười hai: Bắt đặng Bát Giới,
Nạn thứ mười ba: Bị quái Hùynh Phong
Nạn thứ mười bốn: Ði cầu ông Linh Kiết
Nạn thứ mười lăm: Khó qua sông Lưu Sa
Nạn thứ mười sáu: Thâu đặng Sa Tăng
Nạn thứ mười bảy: Bốn thánh giả gái tốt
Nạn thứ mười tám: Bị quán Ngủ trang
Nạn thứ mười chín: Khó cứu cây nhơn sâm
Nạn thứ hai mươi: Ðuổi Tôn Hành Giả
Nạn thứ hai mươi mốt:Bị tại núi Hắc tòng
Nạn thứ hai mươi hai: Ðem thơ nước Bữu tượng
Nạn thứ hai mươi ba: Hóa ra hình cọp
Nạn thứ hai mươi bốn: Gặp yêu núi Bình đảnh
Nạn thứ hai mươi lăm: Bị treo tại ông Liên Hoa
Nạn thứ hai mươi sáu: Cứu vua nước Ô Kê
Nạn thứ hai mươi bảy:Bị yêu giả hình
Nạn thứ hai mươi tám: Gặp yêu núi Hiệu sơn
Nạn thứ hai mươi chín: Bị yêu bắt về động
Nạn thứ ba mươi: Tôn Hành Giả bị đốt
Nạn thứ ba mươi mốt: Thình Phật bắt yêu
Nạn thứ ba mươi hai: Chìm sông Bắc hà
Nạn thứ ba mươi ba: Tới nước Xa Trì
Nạn thứ ba mươi bốn: Ðàng cuộc với yêu quái
Nạn thứ ba mươi lăm: Cứu vớt thầy chùa
Nạn thứ ba mươi sáu: Ði gặp sông lớn
Nạn thứ ba mươ bảy: Té xuống sông Thông thiên
Nạn thứ ba mươi tám: Quan Âm hiện hình ngư lâm
Nạn thứ ba mươi chín: Gặp yêu núi Kim đâu
Nạn thứ bốn mươi: Các thiên thần khó cứu
Nạn thứ bốn mươi mốt: Di Lạc trói yêu
Nạn thứ bốn mươi hai:Uống nước lớn bụng
Nạn thứ bốn mươi ba: Bị nữ vương bắt
Nạn thứ bốn mươi bốn: Bị bắt về động Tì bà
Nạn thứ bốn mươi lăm: Ðuổi Hành Giả lần thứ nhì
Nạn thứ bốn mươi sáu: Bị Lục nhỉ hầu
Nạn thứ bốn mươi bảy: Gặp Hỏa diệm sơn
Nạn thứ bốn mươi tám: Cầu mượn quạt ba tiêu
Nạn thứ bốn mươi chín: Trói Nguư ma vương
Nạn thứ năm mươi: Quét tháp trước Tế Thái
Nạn thứ năm mươi mốt:Lấy báu cứu thầy chùa
Nạn thứ năm mươi hai:Bị mộc tiên bắt
Nạn thứ năm mươi ba: Bị nạn Tiểu Lôi Âm
Nạn thứ năm mươi bốn: Các thiên thần bị khối
Nạn thứ năm mươi lăm: Bị đường truông núi Thất Yệt
Nạn thứ năm mươi sáu: Cứu xóm Ðà la.
Nạn thứ năm mươi bảy: Làm thuốc cứu vua Chung Tử
Nạn thứ năm mươi tám: Ðánh yêu cứu Kim Thác Cung
Nạn thứ năm mươi chín: Bị bảy con tinh gái
Nạn thứ sáu mươi: Bị đạo sĩ Ngô Công Thuốc
Nạn thứ sáu mươi mốt: Bị núi Sư đà
Nạn thứ sáu mươi hai: Ba yêu dụng kế
Nạn thứ sáu mươi ba: Bị giam cầm trong thành
Nạn thứ sáu mươi bốn: Thỉnh Phật Tổ bắt đại bàng
Nạn thứ sáu mươi lăm: Cứu trẻ nhỏ nước Tì Khưu
Nạn thứ sáu mươi sáu: Quốc Trượng mổ tim
Nạn thứ sáu mươi bảy: Cứu con gái rừng tòng
Nạn thứ sáu mươi tám: Bịnh nặng tại chùa
Nạn thứ sáu mươi chín: Bị bắt về động Vô để
Nạn thứ bảy mươi: Khó qua nước Diệt pháp
Nạn thứ bảy mươi mốt: Gặp yêu núi Aån vụ
Nạn thứ bảy mươi hai: Ðào võ quận Phụng Tiên
Nạn thứ bảy mươi ba: Bị mất binh khí
Nạn thứ bảy mươi bốn: Yêu làm hội Ðinh ba
Nạn thứ bảy mươi lăm: Mắc nạn núi Trước tiết
Nạn thứ bảy mươi sáu: Bị khổ động Huyền Anh
Nạn thứ bảy mươi bảy: Bắt lũ trâu nước
Nạn thứ bảy mươi tám: Vua Thiên Trúc kén Phò Mã
Nạn thứ bảy mươi chín: Giam cầm tại phủ Ðồng Ðài
Nạn thứ tám mươi: Bỏ xác tại bến đò Lăng vân.
Khi ấy Quân Âm xem sổ tai nạn rồi, liền nói rằng:
– Trong cảnh Phật có chín thứ tòa sen, mỗi thứ chín sắc, cộng tám mươi mốt cái tòa sen, thánh tăng chịu tám mươi nạn, còn thiếu một nạn nữa mới đủ số cửu cửu.
Tức thì truyền các vị thần đằng vân theo Kim Cang mà dặn như vầy&t hì sanh thêm một nạn nữa. Các vị thần vưng lịnh bay theo một ngày đêm, mới kịp Kim Cang, nói nhỏ như vậy.
Mấy vị Kim Cang nghe chỉ Quan Âm Bồ Tát dặn, nên không dám cãi, liền ngừng gió lại, bốn thầy trò và con ngựa đều sà xuống đất một lượt!
Khi ấy Tam Tạng bị rớt xuống đất, lòng lại lo sợ!
Bát Giới cười ha hả nói rằng:
– Hay hay, thiệt là muốn mau hóa chậm.
Sa Tăng nói:
– Chắc là chúng ta đi mau, nên ngài nghỉ.
Tôn Hành Giả nói:
– Lời tục rằng: Mười bữa ngồi hoài một chổ, một ngày đi chín khúc sông. Ngồi lâu chớ đi bao lâu mà lật đật?
Tam Tạng nói:
– Ba đứa bây đừng nói chuyện vả! Nhìn thử chổ này là xứ nào?
Tôn Hành Giả day lại ngó bốn phía rồi nói rằng:
– Nói vậy là tới chổ ấy, thầy nghe sóng bủa hay không?
Bát Giới nói với Sa Tăng rằng:
– Sóng bủa lao xao, chắc là xứ sở của ngươi đó.
Tôn Hành Giả nói:
– Xứ sở của Sa Tăng là sông Lưu sa đây không phải là sông Lưu sa, ấy là sông Thông thiên đó.
Tam Tạng nói:
– Ðồ đệ xem cho kỷ, coi mình ở phía nào?
Khi ấy Tôn Hành Giả nhảy lên mây ngó bốn phía, rồi nhảy xuống nói rằng:
– Thầy ôi, mình ở mé bên Tây.
Tam Tạng nói:
– Ta nhớ lại rồi, phía bên đông có xóm Trần Gia, năm trước nhờ ngươi cứu con cái họ, nên Trần Thanh, Trần Trừng tính đóng thuyền lớn mà đưa chúng ta;nay có Bạch Nguơn nổi lên, đưa qua sông không nghiêng không lắc phía bên này không nhà cửa ai hết. Bây giờ biết tính làm sao mà qua sông?
Bát Giới nói:
– Người phàm tác tệ đã xong, ai dè Phật Kim Cang cũng tác tệ, dã vưng chỉ Phật đưa về Ðông Ðộ, sao nữa chừng lại bỏ xuống, thiệt là không nổi tới lui, biết làm sao mà qua sông cho đặng?
Sa Tăng nói:
– Thầy đã hết tai phàm chắc không sa xuống nước, xin anh làm phép, đưa thầy qua sông.
Tôn Hành Giả biết thầy còn mắc một nạn này mới dứt, nên không đặng nói ra, cứ cười và lắc đầu, nói:
– Không nổi, không nổi! Sa Tăng không dám nói dai.
Khi ấy bốn thầy trò đi tới mé sông Thông thiên, không thấy nhà ai ở dựa sông, cũng không có thuyền đò chi hết.
Xảy nghe có tiếng kêu văng vẳng rằng:
– Ðường Thánh Tăng đã tới đó sao?
Bốn thầy trò ngó chừng theo tiếng kêu thấy con Bạch Nguơn ở phía bên kia, đương nổi trên mặt nước nghiển cổ mà nói rằng:
– Tôi đợi sư phụ hơn mấy năm nay, bây giờ mới về đó!
– Lão Nguơn năm trước đưa chúng ta, tới năm nay mới gặp mặt!
Tam Tạng, Bát Giới và Sa Tăng đều mừng rỡ chào hỏi.
Tôn Hành Giả nói:
– Như Lão Nguơn có lòng tế độ, xin nhảy lên bờ!
Bạch Nguơn y lời bò lên. Tôn Hành Giả truyền dắt ngựa lên lưng Bạch Nguơn, Bát Giới ngồi chồng hổm sau ngựa.
Tam Tạng đứng trước ngựa bên hữu.
Tôn Hành Giả một chưn đứng trước về Bạch Nguơn, một chân đứng trên cổ Bạch Nguơn mà nói lớn rằng:
– Rán mà lội cho vững nhé?
Bạch Nguơn lội xuống sông thả êm ru như ở trên đất; chở bốn thầy trò và con ngựa, lội qua mé bờ bên đông.
Khi gần đến mé, Bạch Nguơn hỏi rằng:
– Năm trước tôi cậy sư phụ đến Tây Phương hỏi giùm Phật Tổ, coi tôi chừng nào mới hóa đặng hình người. Chẳng hay sư phụ có hỏi giùm chăng?
Bởi Tam Tạng lo sự thỉnh kinh, quên hỏi thăm việc ấy, nên không biết làm sao mà trả lời, cũng chẳng dám đặt điều, số phạm vọng ngữ, túng phải làm thinh.
Bạch Nguơn biết Tam Tạng không hỏi giùm nên tức mình lặn mất!
Báo hại bốn thầy trò và con ngựa đồng chìm xuống sông, kinh kệ ướt hết!
May là Tam Tạng thành Phật, đã cổi xác phàm, nếu không thì cũng bị chết đuối! Nói cho phải, Tôn Hành Giả ra sức đở Tam Tạng lên bờ.
Còn Sa Tăng, Bát Giới lội như rái, đem kinh và hành lý lên đủ, con ngựa rồng chở kinh lên không mất một cuốn.
Khi thầy trò lên bờ, đương vắt quần áo, kế bị trận gió thổi tới như bảo, mưa giông ấm sét ầm ầm, Tam Tạng đề kín gói kinh, Bát Giới giữ ngựa, Sa Tăng giữ gánh kinh, Tôn Hành Giả cầm thiết bảng đi giáp vòng bảo hộ, ấy là âm ma muốn đoạt kinh.
Ðêm ấy thầy trò thức chịu trận mưa giông, tới rạng đông mới tạnh!
Tam Tạng run cằp cặp nói rằng:
– Ngộ Không ôi! Bây giờ mới tính làm sao?
Tôn Hành Giả thở hào hên nói:
– Chúng ta bảo hộ đặng kinh này, là cướp quyền của tạo hóa, nên quì thần ghen ghét, muốn đoạt đi! Một là nhờ có pháp thần của thầy đè xuống, hai là ướt nên nặng nề, ba là Lão Tôn bảo hộ; đến rựng sáng khi dương thạnh rồi, âm ma tan hết, kinh mới còn nguyên.
Tam Tạng, Bát Giới, Sa Tăng nghe nói mới hiểu là âm ma làm giông mưa ấy.
Giây phút mặt trời mọc, mấy thầy trò đem kinh phơi trên bàn thạch, và phơi y phục vân vân.
Xảy thấy mấy người đi câu bước tới hỏi rằng:
– Sư phụ đi thỉnh kinh đã về đó hay sao?
Bát Giới nói:
– Phải! Sao các ngươi biết chúng tôi?
Như Nhơn nói:
– Chúng tôi ở xóm Trần Gia.
Bát Giới hỏi:
– Trần Gia trang lối nào? Ði chừng mấy dặm tới?
Ngư Nhơn nói:
– Ði ngang qua phía bên kai chừng hai chục dặm thì đến Trần Gia Trang.
Bát Giới nói:
– Xin sư phụ đem kinh đến xóm Trần Gia Trang mà phơi, dã có chổ nghỉ, lại có cơm ăn, nhờ họ phơi giùm kinh và thay đồ mà giặt luôn thể!
Tam Tạng nói:
– Thôi ghé làm chi, ở đây đợi kinh khô, sẽ lo về Ðông Ðộ kẻo trễ.
Ngư Nhơn đi một đổi, gặp Trần Trừng liền nói rằng:
– Ông ôi! Mấy thầy năm trước đi thỉnh kinh đã về đây, bởi kinh ướt đương phơi khô đó!
Trần Trừng liền kêu gia tướng, đồng chạy đến quỳ lạy thưa rằng:
– Lão gia thỉnh kinh đã về, sao không ghé xóm tôi mà nghỉ? Tôn xin thỉnh về nhà!
Tôn Hành Giả nói:
– Ðợi kinh khô rồi sẽ ghé.
Trần Trừng hỏi:
– Vì cớ nào mà ướt loi ngoi như vậy?
Tam Tạng nói:
– Năm trước nhờ Bạch Nguơn đưa khỏi sông, có nhờ tôi rằng, nếu đến Tây Phương xin hỏi giùm Phật Tổ: Chừng nào Bạch Nguơn thành hình người. Ðến nay Bạch Nguơn cũng đưa đưa về gần tới mé, liền hỏi thăm sự nhờ hôm trước, bởi tôi quên hỏi nên không biết làm sao trả lời! Bạch Nguơn giận liền lặn mất, báo hại ướt hết kinh, chớ quản gì y phục.
Trần Trừng năn nỉ mời vào nhà, nói hoài không biết mấy thứ. Tam Tạng cầm lòng không đậu, truyền gói kinh lại, chẳng ngờ mấy cuốn Phật bổn hạnh kinh ở dưới hết, mấy tờ chớ dính trên mặt đá gở không ra! Nên bây giờ kinh Phật bổn hạnh mất tờ sau cuốn nào cũng vậy! Mấy tấm đá phơi kinh bấy giờ hãy còn dấu chữ rành rành.
Khi ấy Tam Tạng phàn nàn rằng:
– Tệ quá! Ấy cũng bởi chúng ta vô ý, bộ kinh này mất hết chương sau!
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Không phải vô ý đâu, trời đất còn có chổ thiếu mới hiệp với trời đất. Nghĩa là ý nhiệm cùng, nếu cùng thì không quý, ấy là số trời đã định trước như vậy, há bởi người sao?
Mấy thầy trò gói kinh gánh theo Trần Trừng, nội xóm hay tin, đồng ra nghinh tiếp, kẻ thắp đèn thắp hương, người dọn bàn ghế, tốp thì đờn ca gióng trống như thỉnh sắc, giây phút rước tới cửa xóm, Trần Thanh và nội nhà ra nghinh tiếp vào nhà, ai nấy đồng lạy tạ ơn.
Rồi dọn tiệc chay thiết đãi.
Tam Tạng hết xác phàm nên không đói như khi trước, vì tình nhậm lễ chút đỉnh mà thôi.
Tôn Hành Giả không ăn đồ nấu, dùng chút đỉnh trái cây.
Sa Tăng cũng chấm chút!
Bát Giới rán ăn một chén, rồi thì cầm đủa bái liền, Tôn Hành Giả hỏi:
– Sao thôi sớm như vậy?
Bát Giới nói:
– Không biết thể làm sao tì vị yếu quá, chắc là no hơi.
Ðoạn trà xong rồi, Trần Thanh, Trần Trừng hỏi thăm việc thỉnh kinh ra thể nào, Tam Tạng thuật chuyện lại và xin kiếu. Trần Thanh, Trần Trừng đồng nói:
– Anh em tôi khi trước nhờ ơn cứu mạng con cái, không biết lấy chi đền bồi; nên lập một cái chùa gọi là Cứu Sanh từ cốt bốn vị mà thờ, đèn hương không ngớt.
Nói rồi kêuTrần Quang Bảo và Nhứt Xứng Kim Ðồng ra lạy tạ bốn thầy, Rồi thỉnh đến chùa Cứu Sanh, Tam Tạng thấy bốn hình thầy trò, lên cốt coi như sống, mừng rỡ khen rằng:
– Như vậy thì tốt lắm, để bấn tăng đọc một vị kinh.
Nói rồi lấy kinh bữu thường tụng một cuốn. Tụng kinh rồi xuống lầu, Trần Thanh, Trần Trừng dọn tiệc thiết đãi, bốn thầy trò dùng chút vị tình. Tôn Hành Giả hỏi:
– Con miễu Linh Cảm đại vương ra thế nào?
Trần Thanh, Trần Trừng đồng nói rằng:
– Nội năm ấy xóm này phá miễu Cảm rồi lập chùa Cứu Sanh, từ ấy đến nay năm nào cũng như vậy.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Tại các ông có lòng lành, nên trời thưởng, chớ thầy trò tôi không giúp chút nào. Từ này sắp sau chúng tôi bảo hộ nội xóm bình an, yêu ma không dám xâm nhập, mưa gió hòa thuận, người mạnh vật an, song phải bỏ nghề chài rở săn bắn, cứ thiệt nghề làm ăn thì chúng tôi mới dám bảo hộ.
Ai nấy đồng lạy tạ ơn. Trần Thanh, Trần Trừng chịu báo cho vạn chài vạn săn làm ruộng cải nghề nghiệp sát sanh.
Chiều lại Trần Trừng dọn tiệc mời nữa, Bát Giới cười rằng:
– Tôi vô phước quá chừng, lúc ăn đặng không thấy ai mời, nay no hơi lại nhiều đám thỉnh.
Nói rồi ngồi vào tiệc, ăn rán một hai miếng gọi là, khó làm thẳng nghỉnh như trước.
Ðến tối Tam Tạng thức giữ kinh cho tới canh ba, liền kêu Tôn Hành Giả mà nói nhỏ rằng:
– Ngộ Không, các người ấy biết chúng ta đã thành rồi, nên cầm cọng lắm! Lời xưa nói:
– Phật Tiên không lộ hình, nếu vị tình ở lâu thì trể đại sự.
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Sư phụ nói phải lắm, chi bằng thừa lúc này nội gia ngủ hết, thầy trò đi lén cho xong!
Tam Tạng nói phải, Tôn Hành Giả liền kêu Bát Giới, Sa Tăngdạy mà nói nhỏ.
Bát Giới cười rằng:
– Ăn uống gì đặng mà ở lâu?
Nói rồi lén mở cửa chùa Cứu Sanh, gánh kinh và hành lý dắt ngựa đi êm, chó không hay mà sủa. Thầy trò mới đi một đổi, nghe trên mây có tiếng kêu rằng:
– Mấy thằng trốn đó, đi theo tám anh em tôi.
Khi ấy mùi hương thơm ngát, Tam Tạng lại là tám vị Kim cang làm phép đưa bốn thầy trò và con ngựa bay nửa lừng, mau hơn tận trước.
Còn Trần Gia Trang, rạng ngày ai nấy thức dậy nấu nước và dọn đồ chay lên cúng chùa Cứu Sanh, thấy cửa chùa mở hé, không còn ông nào ở lại! Ai nấy đồng than thở rằng:
– Gặp Phật rõ ràng mà cầm không đặng, uổng biết chừng nào.
Không biết làm sao, túng phải dọn đồ phẩm thực lên bàn cúng tế. Từ nay sắp sau mỗi năm cúng bốn lần trọng thể, và cứ mỗi tháng cúng hai kỳ. Nhiều người có bịnh đến cầu khẩn cũng lành, cầu an cũng đặng như lời, nên nhiều người van vái lắm, không giờ nào ngày nào cho hết hương lửa.
Nói về Bát Ðại Kim Cang dùng trận gió thứ nhì, đưa bốn thầy trò đi thấm thoát, không bao lâu gần tới Trường An.
Còn Vua Ðường Thế Dân, từ niên hiệu Trịnh Quang năm thứ mười ba, trước rằm ba bữa, đưa Tam Tạng ra khỏi thành.
Qua năm thứ mười sáu, liền sai ông Công Bộ cắt Vọng Kinh lâu tại ngoài ải Tây An, để phỏng rước kinh đến lầu ấy mà ngó chừng, trông hoài mấy năm không thấy chi hết.