Nói về ba thầy trò, trãi gió dầm mưa, mang sao độ, nguyệt lần lần xuân đà sang hè.
Ngày kia đi đến chiều tối, TamTạng ngó thấy xóm, mừng rỡ nói rằng:
– Ngộ Không, ngươi coi cho kỹ, nhựt lặn Tây Sơn cây nhán lửa, trăng ló Ðông hải nước in châu. Hãy kiếm nhà nghỉ đỡ một đêm mai sẽ dời gót.
Bát Giới nói:
– Phải lắm! Phải lắm! Lão Trư cũng đã đói rồi. Hãy vào xóm kiếm cơm, mai gánh đồ mới nổi.
Hành Giả nói:
– Mi là con quỷ nhớ nhà, mới đi ít ngày đà thán oán.
Tam Tạng nói:
– Ngộ Năng, nếu ngươi nhớ nhà lắm, thì không phải kẻ tu hành. Thôi, trở về cho tiện.
Bát Giới thất kinh quì xuống thưa rằng:
– Xin sư phụ xét lại cho mà coi, tôi chẳng hề thán oán. Bởi đói quá muốn kiếm ăn đở dạ, nên sư huynh mắng tôi là con quỷ nhớ nhà. Chờ tôi đã vâng lệnh Quan Âm, lại cám ơn thầy thương xót. Tình nguyện theo sư phụ qua Tây Phương mà thỉnh kinh. Quyết chí tu hành không nài lao khổ.
Tam Tạng nói:
– Thôi ngươi chờ dậy đồng đi vào xóm mà kiếm cơm chay.
Bát Giới quảy gánh đi hoài, không dám nói chi hết.
Khi ấy ba thầy trò đi tới xóm, Tam Tạng xuống ngựa vào trước cửa một mình, thấy ông chủ nhà đương ngồi trên chỏng mà niệm phật.
Tam Tạng nói:
– Tôi chào ông chủ nhà.
Ông ấy xốc áo ra cửa, bái và hỏi rằng:
– Thầy ở đâu mới tới, vào nhà tôi có chuyện chi?
TamTạng nói:
– Tôi là Hòa Thượng nước Ðại Ðường, ở miền Ðông độ. Nay vâng chiếu chỉ, qua Tây Phương lạy Phật thỉnh kinh. Ðến đây trời tối lở đường, xin ông làm ơn cho ngủ đậu.
Ông già ấy lắc đầu, khoát tay mà nói rằng:
– Ðường Tây Phương gay go lắm, đi chẳng đặng đâu. Có muốn thỉnh kinh thì đi Ðông phương cho đặng.
Tam Tạng nghe nói ngẫm nghĩ rằng:
– Lạ này! Quan Âm dạy qua Tây Phương mà thỉnh kinh. Còn ông này lại biểu đi Ðông phương mới lạ.
Hành Giả nổi giận lướt tới kêu lớn và nói rằng:
– Ông già kia, tuổi tác chừng này, sao chưa thạo việc. Chúng ta xin vào tá túc, ông đặt chuyện dọa ta! Nhà ông không chỗ nằm, thì thầy trò tôi ngồi dưới cội cây một đêm cũng đặng.
Ông già ấy kinh hãi, kéo thầy Tam Tạng mà than rằng:
– Thầy không nói chi hết, có đệ tử thầy ốm đó, nó lại muốn làm dữ với tôi.
Hành Giả cười rằng:
– Ông đã lầm rồi, nên coi không rõ. Tôi tuy là ốm yếu, song thiệt mình dây, trong da những gân, chớ không có thịt.
Ông già ấy nói:
– Chú nói như vậy chắc là cũng có tài.
Hành Giả nói:
– Tôi không dám nói dối, ông xem thử cho chán chường.
Ông già ấy hỏi rằng:
– Quê quán chú ở đâu. Vì cớ nào làm sãi?
Hành Giả nói:
– Tôi gốc ở Ðông Thắng thần châu, nước Ngao Lai, động Thủy Liêm, núi Hoa Quả, từ khi nhỏ tập làm yêu quỷ, rồi học đạo TSnh. Nhờ phép giỏi tài cao, làm Tề Thiên đại thánh, còn quen thói dữ, làm phản Thiên cung, nên bị tai mắc nạn. Nay tôi tu niệm, theo thầy tìm Phật thỉnh kinh. Tuy đường Tây Phương non cao biển rộng, thú dữ ma nhiều, song Lão Tôn có tài đánh cọp bắt rồng, thêm phép trừ yêu giết quỷ.
Ông già ấy nghe nói cười ngất rồi đáp rằng:
– Như ông thiệt đại tài, thì qua Tây Phương mới đặng. Mà các ông đi hết thảy mấy người?
Tam Tạng nói:
– Tôi đi có ba thầy trò mà thôi.
Ông già ấy hỏi rằng:
– Một người nữa ở đâu không thấy?
Hành Giả chỉ Bát Giới mà nói rằng:
– Ông già này thiệt con mắt làn. Vậy chớ giống gì đứng ở cội cây đó?
Ông già ấy ngó thấy Bát Giới, hai tai bằng cái quạt, bộ mỏ tợ cây sao.
Ông già ấy thất kinh hồn vía. Vừa bò vừa chạy, và lết và la rằng:
– Ðóng cửa cho mau, kẻo yêu ma làm lộng.
Hành Giả kéo lại nói rằng:
– Ông đừng kinh hãi, không phải yêu quỷ, ấy là sư đệ của tôi.
Ông già ấy run rét mà nói rằng:
– Hai người học trò đều dữ tợn.
Bát Giới bước tới nói rằng:
– Nếu ông coi tướng mạo mà nói thì lầm, chúng tôi tuy diện mạo xấu xa, mà trong lòng tốt lắm.
Ông già ấy chưa kịp đáp lại, xảy có hai người trai làng xóm, dắt bà già và ba bốn đứa nhỏ bước đến hỏi rằng:
– Ông la chuyện chi vậy?
Bát Giới nghe hỏi, liền quạt tai nghinh mỏ ló đầu ra.
Mấy người ấy thất kinh, té nghiêng té ngửa.
Tam Tạng tay ngoắt miệng kêu rằng:
– Các người đừng có sợ, chúng tôi vốn thiệt hòa thượng đi thỉnh kinh.
Ông ấy liền mời ba thầy trò vào trong hết thảy.
Tam Tạng phàn nàn vì tại hai người láu cháu nên sanh chuyện.
Bát Giới bạch rằng:
– Tôi không dám nói dối: Từ gặp thầy tôi mới giữ nết na, hết sức nhu mì, chẳng hề lỗ mãng. Chớ khi trước mỗi lần tôi rãy tai và hất mỏ, ba mươi người đều té ngã lăn, nên tại Cao lão trang họ nói tôi là yêu quái.
Hành Giả cười rằng:
– Ngươi hãy dẹp các bộ dữ đó đi.
Tam Tạng nói:
– Tướng mạo người ta tự nhiên, ngươi bảo dẹp sao cho đặng.
Hành Giả nói:
– Gằm bộ mỏ dài xuống dưới bụng, xếp hai tai lớn sau lưng. Ấy là dẹp bộ dữ.
Bát Giới nghe lời, xếp tai gằm mỏ, đứng hầu hạ một bên.
Còn Hành Giả thì cất gánh đồ vật và buộc ngựa.
Ông già hối dọn cơm nước.
Tam Tạng hỏi rằng:
– Chẳng hay Lão trượng họ chi?
Ông già ấy nói:
– Tôi họ Vương.
Tam Tạng hỏi:
– Con cháu đặng mấy người?
Vương lão nói:
– Tôi có hai đứa con, sanh đặng ba thằng cháu.
Tam Tạng hỏi:
– Tuổi tác ông đã bao nhiêu?
Vương lão nói:
– Tôi đặng 61 tuổi.
Hành Giả nói:
– Cũng đà đáo tuế.
Tam Tạng hỏi:
– Hồi trước ông nói khó thỉnh kinh bên Tây Phương, là cớ nào vậy?
Vương lão nói:
– Hễ tới Tây Phương thì thỉnh đặng, ngặt vì đường xá khó đi. Cách phía Tây chừng ba mươi dặm, có núi Huỳnh phong đi 800 dặm mới khỏi núi, trong núi ấy thiếu chi là yêu quái, nên tôi sợ khó đi, mà cứ theo lời ông thầy nhỏ này là đại tài thời đi cũng đặng.
Nói rồi đem trà ra đãi, giây phút lại dọn cơm chay, mời ba thầy trò ngồi lại.
Tam Tạng mới chấp tay niệm kinh cúng, Bát Giới đã làm một chén rồi.
Tam Tạng niệm kinh cúng cơm vừa xong, Bát Giới đã làm xong hai chén nữa.
Hành Giả nói đở xấu rằng:
– Thằng ăn cám này, chắc ma đói nhập vào cho nón rồi đa.
Vương lão thấy Bát Giới ăn mau quá, liền nói rằng:
– Chắc thầy này đói lắm, hãy đơm cơm sớt cho nhiều.
Bát Giới gằm mặt xuống hoài, ăn một hơi hơn mười mấy chén.
Vương lão thấy Tam Tạng và Hành Giả đều ngơ đủa, liền nói rằng:
– Ta là tướng tiên phuông của Huỳnh Phong đại vương, gọi là Tiền Lộ Hổ, nay vâng lệnh Ðại vương đi bắt ít đứa phàm phu về uống rượu. Ngươi là Hòa Thượng xứ nào đi tới, mà dám đánh với ta?
Bát Giới nói:
– Chúng ta là sãi thánh, ở nước Ðại Ðường, qua thỉnh kinh bên Tây độ. Không phải là kẻ tục người phàm, ngươi tránh đường kẻo thầy ta giựt mình, thì ta dung tánh mạng.
Tiền Lộ Hổ nhảy quào mặt Bát Giới, rồi chạy riết một hơi.
Bát Giới rượt theo bén gót.
Tiền Lộ Hổ nhảy lên chót núi, lấy cặp đồng đao ra cự với Bát Giới, hai đàng đánh với nhau tại mé núi, sức cũng cầm đồng.
Tôn Hành Giả đỡ Tam Tạng dậy mà nói rằng:
– Xin thầy đừng sợ, coi Bát Giới đánh với yêu tinh.
Giây lâu lại nói:
– Xin thầy ngồi đây không hề chi, để tôi tiếp với Bát Giới mà giết con yêu này thì đi mới đặng.
Tam Tạng ngồi run en phát rét, lầm thầm niệm tâm kinh mà chịu.
Khi ấy Bát Giới thấy Hành Giả tiếp mình, thì càng mạnh hơn nữa.
Tiền Lộ Hổ cự không lại, chạy xuống chân non thấy Bát Giới và Hành Giả đuổi một. Tiền Lộ Hổ hãi kinh, túng dụng kế Kim thiền thoát xác.
Nhào một cái hiện ra hình cọp, cổi lốt cọp để trên thạch bàn.
Còn hình thiệt hóa gió yêu bay về động cũ, ngó thấy Tam Tạng ngồi bên đường cái mà niệm tâm kinh, nhân tiện nổi giông, bắt thầy về động.
Nói về Huỳnh Phong đại vương thấy Tiên phuông về động, dâng ông sãi mà thưa rằng:
– Tiểu tướng đi tuần khắp núi gặp Ðường Tăng đi thỉnh kinh, nên bắt đem nạp cho Ðại vương uống rượu.
Huỳnh Phong nghe nói kinh hãi hỏi rằng:
– Ta khi trước có nghe người ta thuật chuyện Ðường Tăng là Tam Tạng pháp sư, có người học trò là Tôn Hành Giả, thần thông quảng đại. Ngươi làm sao mà bắt đặng người?
Tiền Lộ Hổ thưa rằng:
– Ðường Tăng có hai người học trò, người đánh trước cầm đinh ba, người tiếp sau cầm thiết bảng, tôi bại tẩu hai người ấy đuổi nà, tôi dụng kế Kim thiền thoát xác, đi quanh bắt Hòa Thượng về đây.
Huỳnh Phong nói:
– Khoan ăn thịt Ðường Tăng, e hai người học trò đòi thầy làm dữ. Hãy buộc tại cây trụ Ðịnh phong sau vườn kiểng, chừng nào không ai đòi hỏi sẽ ăn thịt chẳng chầy. Tiểu yêu vâng lời đem Tam Tạng buộc sau vườn.
Nói về Hành Giả và Bát Giới rượt theo tới chân non, thấy hùm gấm nằm trên bàn thạch.
Hành Giả đập một bảng đã tức dội bàn tay.
Bát Giới đập một đinh ba, lúc chín răng vào da cọp dở lên nhẹ hỏng, coi ra là lốt cọp thì Hành Giả la:
– Không xong, mắc kế, mắc kế!
Bát Giới hỏi:
– Kế gì?
Hành Giả nói:
– Ấy là kế Kim thiền thoát xác, chúng ta trở về mà giữ gìn sư phụ, kẻo để nó bắt đi. Nói rồi về kiếm không thấy Tam Tạng, Hành Giả hét lớn rằng:
– Nó đã bắt thầy rồi biết tính làm sao cho đặng? Suy đi xét lại, cũng ở tại núi này, anh em mình đi kiếm thử.
Khi ấy Hành Giả trèo non lặn suối, đạp sỏi tuôn rừng, kiếm một hồi lâu, thấy động ở kề chân núi, trước cửa động đề sáu chữ lớn: Huỳnh Phong lãnh, Huỳnh Phong động. Hành Giả cầm thiết bảng cả kêu rằng:
– Yêu quái, trả thầy ta cho mau mau, kẻo ta phá ổ.
Tiểu yêu vào báo rằng:
– Thưa đại vương, ngoài cửa động có ông hòa thượng, mặt tợ Thiên Lôi, cầm cây thiết bảng quá to, biểu trả thầy cho mau; bằng lâu thì phá động.
Huỳnh Phong kinh hãi, đòi tiên phuông đến mà quở rằng:
– Ta biểu ngươi đi kiếm heo rừng, trâu núi, chó sói, nai chà, sao ngươi đi bắt thầy chùa, cho chúng nó đòi phá động, bây giờ mới tính làm sao?
Tiền Lộ Hổ thưa rằng:
– Xin đại vương đừng lo. Ðể tôi bắt sống họ Tôn, đặng ăn thịt luôn thể.
– Mi là hòa thượng giộc ở đâu, dám đến đây mà làm dữ?
Hành Giả nổi giận mà mắng rằng:
– Mi là loài thú bị lột da, dám bắt thầy ta về động! Ðã không chịu trả, còn muốn hành hung. Ðố mi chạy đi đâu cho khỏi.
Nói rồi đập một bảng.
Tiền Lộ Hổ đở liền, hai người đánh một hồi, tiên phuông sút miếng, song đã khoe tài với chủ động, nên chẳng dám trở vào, liền chạy lên trên núi.
Hành Giả rượt theo.
Còn Bát Giới đi kiếm không đặng động nào, liền trở về giữ ngựa.
Xảy nghe gió ùn ùn thổi tới, ngó lại thấy Hành Giả đương rượt yêu.
Bát Giới bỏ ngựa, vác đinh ba chận đầu, đập Tiền lLộ Hổ một đinh ba, chín răng lút vào mình mà chết.
Có bài thơ khen Bát Giới như vầy:
Ðã mấy năm rồi chịu phép công,
Ăn chay niệm Phật hết làm hung
Lòng thành từ lúc theo Tam Tạng,
Mới có phen này lập chút công.
Hành Giả xem thấy, mừng rỡ ngợi khen.
Bát Giới hỏi:
– Sư huynh kiếm ra mối hay không?
Hành Giả nói:
– Nó đã bắt thầy nạp cho chủ động. Anh ra oai đánh với nó, nhờ em đập tiếp một đinh ba, cái công ấy của em đó. Vậy thì em giữ gánh đồ và con ngựa ăn cỏ, đặng anh đến động mà bắt Lão yêu, thì cứu thầy mới đặng.
Bát Giới nói:
– Như anh đánh Lão yêu có chạy, thì anh lùa nó lại phía này, đặng tôi đập nó.
Hành Giả tay mặt cầm thiết bảng, tay trái xách thây cọp, thẳng tới cửa động.
Nói về Huỳnh Phong đang ngồi trong động không biết tính mưu chi.
Xảy thấy tiểu yêu vào báo rằng:
– Hổ tiên phuông bị Hòa Thượng đập chết, kéo thây bỏ trước động môn, lại muốn hành hung phá cửa.
Huỳnh Phong giận quá nói rằng:
– Hòa Thượng này không biết phải, ta chẳng ăn thầy nó, nó lại giết tướng ta. Thiệt đáng giận lắm. Ta thuở nay nghe danh Tôn Hành Giả, mà chưa biết mặt làm sao. Nay ra trận thử coi, có phải là chín đầu tám đuôi không cho biết. Tiểu yêu phải đồng tâm giết nó, mà báo oán cho Tiên phuông.
Nói rồi nai nịt hẳn hoi, xách chĩa ba ra trận.
Hành Giả ngó thấy tiểu yêu ra trước. Chủ động theo sau, thiệt tướng vạm vở lắm!
Chủ động hét lớn rằng:
– Tôn Hành Giả ở đâu?
Hành Giả giơ thiết bảng đáp rằng:
– Tôn ngoại mi ở đây, không thấy sao mà hỏi?
Huỳnh Phong coi lại rõ ràng, thấy Hành Giả không đầy bốn thước, bộ tướng như khỉ già.
Liền cười ngất nói rằng:
– Tội nghiệp thì thôi, ta tưởng Hành Giả là diện mạo đường đường, oai phong lẩm lẩm, không dè ròm rỏi như bệnh lâu năm!
Hành Giả cười rằng:
– Mi là thằng không có mắt, tuy không ngoại kháu người mà mạnh lắm, nếu đập cán chĩa nhằm đầu một cái, thì cao thêm sáu thước hẳn hòi.
Huỳnh Phong day cán chĩa đập đầu Hành Giả một cái.
Hành Giả đứng nhóng dậy, cao gần một trượng rõ ràng.
Huỳnh Phong hét lớn rằng:
– Tôn Hành Giả đừng làm phép điểu ta, hãy đánh cho biết sức.
Nói rồi đâm một chĩa. Hành Giả đưa thiết bảng đở liền. Hai người đánh hơn ba mươi hiệp chưa thấy hơn thua.
Hành Giả nổi nóng, bứt lông bỏ vào miệng nhai nhỏ phun ra, miệng la biến biến! Biến ra trăm ngàn Hành Giả, cầm thiết bảng vây phủ Huỳnh Phong. Phép ấy gọi là Thân họa thân.
Huỳnh Phong đánh không lại, hớp gió hướng Ðông Nam thổi ra.
Xảy có trận gió vàng vụt tới. Những Hành Giả biến ra đó, bị gió vàng thổi tống lên trời.
Hành Giả sợ mất lông, liều dùng mình thâu lại. Thâu lông rồi lướt tới đánh đùa. Bị Huỳnh Phong thổi vào mặt một hơi, Hành Giả nhắm con mắt mà chạy chết.
Còn Huỳnh Phong thâu gió trở về.
Khi ấy Bát Giới thấy gió vàng, tối tăm trời đất.
Bát Giới nhắm mắt nằm mọp bên núi, không dám cất đầu lên.
Giây lâu gió lặng rồi, nghe Hành Giả vừa đi vừa hét, Bát Giới mở mắt ra, thấy Hành Giả ở hướng Tây đi lại.
Bát Giới bái mà nói rằng:
– Anh ở đâu về đây? Thiệt trời gió lớn quá!
Hành Giả khoát mà nói rằng:
– Gió dữ thiệt! Thuở nay ta mới thấy gió lớn như vầy! Tiểu yêu Chúa động đánh với ta đặng ba mươi hiệp. Ta hóa phép Thân họa thân. Chúa động thất kinh thổi ra gió ấy. Ta cũng biết hô phong hoán võ, mà không từng gió độc như vầy. Ðứng chẳng vững chân nên phải chạy.
Bát Giới nói:
– Nếu cự không lại nó, thì làm sao mà cứu thầy?
Hành Giả nói:
– Sự cứu thầy thủng thẳng sẽ tính. Không biết đây có thầy thuốc nhãn khoa hay không? Lo thuốc trị con mắt cho ta đã.
Bát Giới hỏi:
– Con mắt anh sao đó?
Hành Giả nói:
– Ta bị Chúa động thổi vào con mắt cay xé, bắt chảy nước mắt hoài! Nếu không trị cho mau, để tới hết thấy đường thì khó lắm.
Bát Giới nói:
– Anh ôi! Ðã ở trong rừng, lại thêm trời tối, sợ không nhà mà ngủ đở, biết đâu mà kiếm nhãn khoa!
Hành Giả nói:
– Thiếu chi là chỗ ngủ, nhắm chừng Chúa động chưa dám hại thầy ta, mình kiếm nhà ngủ đở đêm nay, rạng ngày tính cứu thầy mới đặng.
Bát Giới nghe lời, dắt ngựa gánh đồ, đồng ra đường cái.
Xảy nghe tiếng chó sủa gần gần.
Bát Giới thấy xa xa có xóm dựa rừng, và bóng đèn nhấp nháng.
Hai người đi lần tới kêu cửa.
Ông chủ nhà cất tiếng hỏi:
– Ai?
Hành Giả bái mà nói rằng:
– Chúng tôi là học trò Ðường Tăng, ở miền Ðông Ðộ qua Tây Phương lạy Phật thỉnh kinh, đi ngang núi này bị Huỳnh Phong đại vương bắt thầy tôi vào động, phần trời đã tối xin ông cho tôi tá túc một đêm.
Ông già ấy nói rằng:
– Vậy thời mời hai thầy vào đây mà nghỉ.
Hai anh em gánh đồ và dắt ngựa vào nhà, trà nước nghỉ ngơi.
Giây lâu dọn cơm chay thiếc đãi.
Anh em ăn uống xong xả. Ông già dọn chỗ nghỉ ngơi.
Hành Giả nói:
– Ngủ không đặng đâu mà sửa soạn, xin ông nói giùm một chút, đây có thầy bán thuốc con mắt hay không?
Ông già ấy hỏi:
– Ông nào đau con mắt?
Hành Giả nói:
– Tôi không dám dối ông, thiệt người tu hành thuở nay không bệnh con mắt. Bởi bữa nay đánh với Chúa động, bị thổi gió độc, làm cho con mắt xốn xang, nên mới hỏi thăm thuốc.
Ông già nói:
– Bạc ác thì thôi! Ông tu hành sao còn nói dối, Huỳnh Phong đại vương thổi gió độc. Không phải gió Ðông, Tây, Nam, Bắc, không phải gió Xuân, Hạ, Thu, Ðông. Ấy là gió Tam mụi thần phong, ở trong lỗ mũi, lỗ miệng và lỗ con mắt bay ra, thiệt là độc quá!
Hành Giả hỏi:
– Gió ấy ra thể nào?
Ông già nói, gió ấy như vầy:
Ðã làm trời đất tối
Lại thêm quỷ thần kinh
Gặp núi non cũng sập
Nhằm người phải bỏ mình
Nếu thầy bị gió này, lẽ nào còn sống đặng? Trừ ra thần tiên phật thánh, mới vô sự mà thôi.
Hành Giả nói:
– Thiệt quả như lời, chúng tôi tuy không phải thần tiên, song thần tiên còn sau chúng tôi nữa, nên nó thổi không chết, ngặt một điều con mắt xốn xang.
Ông già nói:
– Cứ theo lời ấy, thì ông không phải người thường. Song chốn này không ai bán thuốc con mắt. Tôi có gặp ông tiên truyền phương thuốc dán, gọi là Tam hoa cửu tử cao. Trong ấy có ba thứ bông và chín thứ hột. Trị các thứ nhãn phong.
Hành Giả nghe rõ, bái mà nói rằng:
– Xin ông cho tôi một chút?
Ông già ấy đưa thuốc dán biểu Hành Giả thoa vào. Dặn đừng mở ra, ngủ đến rạng ngày thì hết.
Bát Giới trãi chiếu kêu Hành Giả lại nằm.
Hành Giả không mở mắt ra, cứ rờ hoài rờ hũy.
Bát Giới cười rằng:
– Bớ ông thầy bói, cây gậy của thầy đây nè.
Hành Giả nói:
– Thằng ăn trộm hay kêu ngạo, mi tưởng ta đui thiệt hay sao?
Bát Giới nằm bụm miệng cười sục sục một hồi, Bát Giới ngủ trước, còn Hành Giả ngồi tới canh ba. Con mắt êm rồi mới ngủ.
Rạng đông Hành Giả thức dậy, dụi con mắt, khen rằng:
– Thiệt là thuốc tiên, con mắt muốn tỏ hơn khi trước. Ngó tư bề không thấy nhà cửa, có liễu cao hòe lớn mà thôi, thấy hai anh em ngủ trên đám cỏ.
Bát Giới thức dậy hỏi rằng:
– Anh ngồi tưởng giống gì đó?
Hành Giả nói:
– Em hãy nhướng con mắt lên mà coi.
Bát Giới ngó quanh quất, thất kinh ngồi dậy hỏi rằng:
– Con ngựa mình ở đâu?
Hành Giả nói:
– Vậy chớ vật gì buộc nơi gốc cây đó?
Bát Giới hỏi:
– Còn gánh đồ ở đâu?
Hành Giả nói:
– Vậy chớ giống gì trên đầu nằm?
Bát Giới nói:
– Ông chủ nhà tệ quá. Dọn đồ đi mà không kêu chúng ta. Theo ý tôi bàn, chắc là trốn nợ. Sợ xóm riềng hay mà cản, nên đi lúc canh ba. Còn mình ngủ như chết, người dở nhà mà cũng không hay. Thiệt là tệ lắm.
Hành Giả cười ngất mà nói rằng:
– Ðừng có nói bậy, hãy coi tấm giấy trên nhánh cây.
Bát Giới gở lá thiệp, có bài thơ tứ tuyệt như vầy:
Non yêu ai dám đến làm nhà,
Hộ Pháp Già Lam biến hóa ra
Giúp thuốc cho người đà sáng mắt,
Gắng cóng trừ quỷ chớ dần dà.
Hành Giả nói:
– Mấy chú thần vặt. Từ khi ta đặng Long mã, không rảnh mà kêu tên. Nay lại hiện hình làm lối!
Bát Giới nói:
– Anh hay buông lời cao cách, thần nào lại chịu anh kêu tên?
Hành Giả nói:
– Ngươi không biết, để ta nói cho mà nghe: Hộ Pháp, Già Lam, Lục Ðinh, Lục Giáp, Yết Ðế, Công Tào, đều vâng lệnh Quan Âm bồ tát, theo bảo hộ thầy. Từ ngày ở núi Xà Bàn, ta có kêu cho biết đủ thiếu. Sau có em giúp việc, chẳng cần dùng các thần ấy, nên chẳng kêu tên.
Bát Giới nói:
– Chư thần đã vâng lệnh Phật mà phò hộ, nên chẳng dám hiện hình. Người mới hóa nhà giúp thuốc cho anh, còn trách móc sao phải. Hãy lo tìm phương thế mà cứu thầy.
Hành Giả nói:
– Ðây đến động Huỳnh phong gần lắm. Em hãy coi đồ và giữ ngựa, để ta đi dọ tin thầy, đặng tranh đua với nó.
Bát Giới nói:
– Phải, anh hãy thăm tin cho chắc thầy sống thác. Giả như thầy thác thiệt, thì chúng ta lo việc làm ăn. Bằng thầy hãy còn, thì hết sức hết lòng bảo hộ.
Hành Giả nạt rằng:
– Ngươi đừng nói bất lợi, nghe ra như tiếng rủa thầy. Thôi đừng nói xàm, ta đi đó.
Nói rồi nhảy một cái, đã tới động Huỳnh phong. Thấy trong còn ngủ mê nên chưa mở cửa, Hành Giả niệm chú, hóa ra một con muỗi bông, hai cẳng có rằn có rực, bay vào trong động, thấy tiểu quỷ đương ngủ mê.
Chúa động dậy kêu hết thảy, rồi nói rằng:
– Chúng bây coi cửa nẻo cho tử tế. Sợ trận gió thổi Hành Giả không chết, chắc là tìm đến chẳng không.
Hành Giả nghe rồi, bay ra thấy cửa khóa chặt lắm. Liền chun lỗ hở ra ngoài. Thấy vườn rộng mênh mông, giữa vườn có cây trụ. Trên cây trụ ấy có trói thầy mình.
Hành Giả thấy thầy khóc thảm thiết, liền đậu trên đầu mà kêu rằng:
– Bớ thầy, bớ thầy.
Tam Tạng biết tiếng nói rằng:
– Ngộ Không ôi! Ta trông gần chết đi mà thôi, ngươi ở đâu mà kêu ta đó?
Hành Giả nói:
– Tôi ở trên đầu thầy, xin thầy chớ nóng. Bữa nay tôi quyết bắt cho đặng yêu quái mà cứu thầy ra. Thôi tôi đi đó. Nói rồi kêu ve ve bay vào động, thấy Huỳnh Phong ngồi chính giữa mà điểm binh yêu.
Lại có Tiểu yêu vào báo rằng:
– Tôi đi tuần đến cụm rừng, thấy hòa thượng mỏ dài tai lớn. May tôi chạy lẹ, bằng không đã bị bắt rồi. Còn ông hòa thượng khỉ hôm qua đi đâu không biết.
Huỳnh Phong nói:
– Có khi bị gió thổi chết rồi, bằng không thì đi viện binh chỗ khác.
Tiểu yêu nói:
– Nếu gió thổi nó chết, thì chúng ta may biết dường nào. Lại e còn sống đi viện thần binh nào ta cũng không sợ. Hành Giả đậu trên trinh, nghe rõ rất mừng. Liền bay ra xa xa, hiện hình về kêu Bát Giới.
Bát Giới hỏi:
– Anh thám nghe tin làm sao đó? Tôi ở đây mới rượt tiểu yêu.
Hành Giả cười rằng:
– Em thiệt có tài lắm!
Liền thuật câu chuyện cho Bát Giới nghe, rồi nói rằng:
– Nó đã khai tên, ngặt không biết Linh Kiết bồ tát ở đâu mà thỉnh.
Anh em đương bàn luận, xảy thấy ông già đi ngoài đường.
Bát Giới ngó thấy, nói với Hành Giả rằng:
– Lời tục nói: Muốn thông việc dưới núi, thì hỏi kẻ đi đường. Anh hỏi thử ông già, họa may có biết chăng?
Hành Giả cất thiết bảng, chạy ra đường cái, bái ông già mà nói rằng:
– Chúng tôi đi thỉnh kinh, thầy tôi rủi bị yêu bắt. Xin ông làm ơn chỉ giúp, ông Linh Kiết bồ tát ở nơi nào?
Ông già ấy nói:
– Ông Linh Kiết ở hướng Nam, cách ba ngàn dặm, có hòn núi tên Tiểu Tu Di. Trong núi có kiểng chùa, là chỗ Linh Kiết bồ tát ở. Các ông đi thỉnh kinh của ngài hay sao?
Hành Giả nói:
– Không phải thỉnh kinh của ngài, thiệt cậy ngài một chuyện. Song không biết ngỏ nên phải hỏi đường.
Ông già ấy chỉ hướng Nam mà nói rằng:
– Cứ đi như này thì tới.
Gạt Hành Giả ngó theo phía đó, ông già ấy hóa gió bay đi.
Hành Giả ngó lại thấy bên đường có một miếng giấy có đề bốn câu thơ rằng:
Nói lại Tề Thiên đặng rõ tình,
Ông già ấy thiệt Lý trường Canh,
Phật cho nhà gã Phi long trượng,
Linh Kiết đem truyền máy phật binh.
Hành Giả cầm thiệp dạy lại, Bát Giới nói rằng:
– Anh ôi! Chúng ta mấy bữa rày rủi quá, hay thấy qủy ban ngày. Ông già hóa gió là ai vậy?
Hành Giả đưa thiệp cho Bát Giới.
Bát Giới xem lá thiệp rồi hỏi rằng:
– Lý Trường Canh là ai đó?
Hành Giả nói:
– Ấy là danh hiệu ông Thái Bạch kim tinh.
Bát Giới nghe rõ, quỳ lạy thinh không mà nói rằng:
– Ân nhân tâu cứu tôi năm xưa, phải không ắt chẳng còn tánh mạng.
Hành Giả nói:
– Em đừng ló đầu ra, hãy trốn trong rừng mà coi đồ giữ ngựa. Ðặng ta đi tìm Phật cứu thầy.
Bát Giới nói:
– Tôi biết mà! Tôi đà học phép rùa, cứ nhịn thua rút cổ. Anh đi lo việc ấy cho mau.
Hành Giả dùng phép Cân đẩu vân, nhảu qua chánh Nam một cái. Thấy có hòn núi, hào quang chiếu sáng lòa. Nhắm nghía cảnh chùa tốt lắm: Hương bay ngui ngút, chuông gióng thanh tao, Hành Giả đi tới chùa, thấy thầy đạo sĩ đương niệm Phật.
Hành Giả bái và hỏi:
– Ðây phải là chùa Linh Kiết bồ tát chăng?
Ðạo sĩ đáp rằng:
– Phải, mà tìm có chuyện chi?
Hành Giả nói:
– Xin ông làm ơn vào bạch cùng bồ tát rằng: Tôi là học trò Ðường Tăng Tam Tạng, tên tôi là Tôn Ngộ Không, khi trước có làm Tề Thiên Ðại Thánh, nay có chuyện cần cấp, xin vào ra mắt bồ tát bây giờ.
Ðạo sĩ cười rằng:
– Danh hiệu nhiều quá tôi có nhớ ở đâu!
Hành Giả nói:
– Thôi ông nói tắt như vầy: Tôn Ngộ Không là đệ tử Ðường Tăng xin vào ra mắt.
Ðạo sĩ vào báo, Linh Kiết sửa áo mão ra tiếp nghinh. Rước Hành Giả vào ngồi, truyền đệ tử đem trà ra đãi.
Hành Giả:
– Tôi có chuyện cần cấp không rảnh mà uống trà. Thầy tôi bị Huỳnh Phong bắt rồi, nên đến nhờ ơn Bồ tát.
Linh Kiết Bồ Tát nói:
– Phật Như Lai có cho ta hai phép, là Phi Long trượng, với Ðịnh Phong châu đặng ở đây mà trấn nó. Khi trước ta đã bắt đặng, lại dung cho nó tu hành, ngày nay nó phạm đến lịnh sư, làm cho ta mang tội.
Nói rồi lấy hai phép, đằng vân đi với Ngộ Không.
Khi tới núi Huỳnh Phong, Linh Kiết biểu Hành Giả rằng:
– Tôi ở trên mây, Ðại Thánh xông vào khiêu chiến, dụ nó ra khỏi động, thì tôi bắt tức thì. Ðã có Ðịnh Phong châu ở đây, chắc nó làm gió vàng không được.
Hành Giả y lời xách thiết bảng xông vào phá cửa.
Tiểu yêu vào phi báo.
Huỳnh Phong nổi giận nói rằng:
– Con khỉ này vô lễ quá! Thế này dung nó chẳng đặng rồi. Ta ra trận, quyết thổi cho nó chết.
Nói rồi cầm chỉa ba ra cửa động, nhảy đâm Hành Giả tức thời.
Hành Giả liền đánh lại.
Ước chừng ít hiệp, Huỳnh Phong day mặt về hướng Tốn, mà hớp gió Ðông Nam, xảy thấy Linh Kiết ở trên mây, quăng gậy Phi Long xuống, hóa ra con rồng vàng tám móng, chụp đầu Huỳnh Phong đập vào núi, liền hiện nguyên hình là con chuột lông vàng nghệ.
Hành Giả giá thiết bảng muốn đập óc cho rồi, Linh Kiết cản rằng:
– Ðại Thánh đừng giết nó. Nguyên nó là con chuột cống, tu dưới chân núi Linh Sơn. Song nó uống dầu lưu ly trước bàn Phật, nên đèn ấy lu hoài, nó sợ Phật Kim Cang bắt nó cầm tù, nên trốn xuống làm yêu làm quỷ. Bây giờ ta bắt đặng, phải nạp cho Phật Tổ xử phân. Nếu giết tư là vô lễ.
Hành Giả nghe nói liền tạ ơn.
Linh Kiết bay về Tây độ.
Nói về Bát Giới ở trong rừng lấp ló dòm hoài.
Xảy thấy Hành Giả về tới.
Bát Giới mừng rỡ hỏi rằng:
– Chẳng hay công việc ra thể nào?
Hành Giả thuật các chuyện, rồi nói rằng:
– Nay hai anh em mình đi tới động Huỳnh Phong, mà cứu sư phụ.
Bát Giới nghe nói mừng quá, đồng vào động Huỳnh Phong.
Những là thỏ đế, chồn hôi, nai chà, gấu ngựa, đều bị Ðinh ba đập chết cả bầy.
Ðồng ra sau vườn, mở dây cho Tam Tạng.
Bát Giới mừng rỡ dọn cơm nước đãi thầy, Hành Giả thuật các chuyện cho thầy nghe.
Nói về ba thầy trò đi ít ngày khỏi Huỳnh Phong lãnh, đi đường thẳng, hết Hạ qua Thu. Trời Tây sao lửa thấy lờ mờ, liễu ủ tiếng ve kêu réo rắt.
Ngày kia đi tới mé sông hết đường đi bộ.
Xảy thấy sông sâu thăm thẳm, sóng bủa tưng bừng.
Tam Tạng ngồi trên ngựa nói rằng:
– Sông rộng mênh mông lại không có thuyền đò đưa đón. Biết làm sao qua tới mé sông?
Hành Giả nhảy lên mây che tay dòm xuống.
Trở về thưa lại rằng:
– Thầy ôi! Thiệt khó qua lắm!
Tam Tạng hỏi:
– Từ đây qua mé bao xa?
Hành Giả nói:
– Xẹt ngang qua chắt tám trăm dặm.
Bát Giới nói:
– Sao anh nhắm chắt như vậy?
Hành Giả nói:
– Con mắt ta ban ngày coi thấu việc dữ lành ngàn dặm. Khi nãy trên mây ngó xuống thấy sông sâu chẳng biết bao nhiêu, chớ bề mặt chắc là tám trăm dặm.
Tam Tạng thở ra quay ngựa lại. Xảy thấy trên bờ có tấm bia đá.
Thầy trò thấy trong bia đá có ba chữ cổ tự lớn, là “Lưu Sa hà”.
Dưới có bốn hàng chữ rằng:
Lưu Sa rộng tám trăm,
Nước sâu ba ngàn tầm
Lông ngỗng trôi không nỗi,
Bông lan rớt cũng trầm.
Ba thầy trò đương coi bia, xảy nghe sóng bủa ầm ầm, dưới nước trồi lên một con yêu quá dữ.
Có bài thơ làm chứng như vầy:
Ðầu đỏ chờm bờm tóc rối nhăng,
Tròn vo cặp mắt chói như đăng,
Màu chàm còn kém màu da mặt,
Tiếng sấm không bằng tiếng nói năng,
Mình bận áo lông vàng có sọc,
Lưng đeo dây nịt trắng từ lằn,
Sọ người chín cái mang đầy cổ,
Gậy báu cầm tay bộ dữ dằn.
Con quái ấy chạy xốc lên bờ lại chụp Tam Tạng.
Hành Giả ôm thầy chạy hoảng. Bát Giới để gánh xuống, vác cào cỏ đập đùa.
Con quái ấy giơ gậy báu ra đỡ, hai người đánh ẩu đả tại mé sông Lưu Sa, hai mươi hiệp không phân thắng bại.
Còn Hành Giả ôm thầy Tam Tạng, ngồi coi Bát Giới đánh yêu, Hành Giả ngứa nghề, cứ xăng tay áo dằn lòng không đặng, lấy thiết bảng bạch rằng:
– Xin thầy ngồi đây, không hề chi mà sợ, để tôi trợ chiến với Bát Giới giết con thủy quái mới xong.
Nói rồi nhảy vào giơ thiết bảng đập đại, con quái ấy kinh hãi liền nhảy xuống sông. Bát Giới dặm cẳng nói rằng:
– Ai biểu anh đánh tiếp? Nó đã đuối tay hết sức, nội năm ba hiệp nữa, tôi bắt sống như chơi, tại anh hành hung nó trốn mất biết đâu mà kiếm?
Hành Giả cười rằng:
– Không nói giấu chi em. Từ khi đánh con Huỳnh Phong đến nay, hơn một tháng không từng múa gậy, nay thấy em đánh với nó, hay biết dường nào, nên ngứa nghề nhảy vô thử sức. Không dè con quái ấy nhát quá, bại tẩu xuống sông, bây giờ biết làm sao cho đặng.
Nói rồi đồng trở lại với thầy.
Tam Tạng hỏi:
– Bắt đặng yêu quái hay không?
Hành Giả bạch rằng:
– Con quái ấy dở quá, nó nhảy xuống sông rồi.
Tam Tạng nói:
– Ðồ đệ ôi! Con quái ở sông này đã lâu, chắc lặn lội hay lắm.
Hành Giả nói:
– Phải! Nếu chúng tôi bắt đặng nó, thì chẳng giết làm chi. Biểu nó đưa thầy qua sông cho khỏi, ngặt tôi chưa quen thủy tánh, nên đánh dưới nước không hay.
Bát Giới nói:
– Lão Trư năm trước là Nguyên soái Thiên hà, nên từng quen thủy tánh. Song ngại bà con dòng họ nó trợ chiến với nhau. Còn tôi có một mình cự sao cho lại?
Hành Giả nói:
– Như ngươi xuống nước chẳng khá đánh lâu. Trá bại dụ nó lên đây, thì có ta tiếp cứu.
Bát Giới nói:
– Phải.
Liền cổi giày ra, tay cầm đinh ba nhảy xuống sông, rẻ nước mà đi tới đáy.
Nói qua con quái ấy, thua về đương thở dốc.
Xảy thấy nước rẻ làm hai, coi lại là Bát Giới.
Con quái ấy giá gậy đón đầu lại nạt rằng:
– Hòa Thượng này đi đâu đó?
Bát Giới đưa đinh ba ra đở, và hỏi rằng:
– Ngươi là yêu tinh chi đó, mà dám đón đường ta!
Con quái ấy nói:
– Bởi ngươi chẳng biết ta. Chớ ta không phải yêu ma quỷ quái, cũng không phải hạ tiện vô danh. Ngươi hãy nghe ta nói:
Tu hành thần thánh chầu Hoàng Thượng,
Phong chức Quyện Liêm ban bửu trượng
Làm bể lưu ly tưởng chết tươi,
Nhờ ơn Xích Cước xin đày bướng
No thời xuống nước kiếm nơi nằm,
Ðói lại lên bờ tìm thịt hưởng
Chín cái sọ người dấu tích đây,
Gặp mi ăn tái không chờ nướng
Bát Giới nghe nói nổi giận mắng rằng:
– Ngươi không có con mắt, tưởng dễ ăn thịt ta hay sao? Thế mi tưởng ta là tướng chạy, hãy coi cho biết đinh ba.
Nói rồi liền đập. Hai người đánh đồng lực.
Ban đầu còn đánh dưới sông, Bát Giới dẫn lần lần lên mặt nước, đồng đứng trên ngọn sóng, đánh đặng hai giờ.
Khi ấy Hành Giả đứng trên bờ ngứa nghề hết sức.
Xảy thấy Bát Giới trá bại, con quái ấy rượt theo.
Gần tới mé sông, Hành Giả nín không đặng nữa, nhảy ra đập một cây thiết bảng. Con quái ấy không dám cự, liền lặn xuống sông.
Bát Giới giận quá nói rằng:
– Tánh hay làm khỉ, phải rán tề tỉnh một chút thì tôi gạt nó lên bờ. Anh sẽ chặn nó dưới mé sông, thì bắt mới đặng. Bây giờ báo hại nó thất kinh lặn mất, một đời cũng không dám ló lên!
Hành Giả cười rằng:
– Thằng khùng, đừng có ngầy ngà, để thưa cho thầy rõ.
Nói rồi đồng trở lại, thuật các việc cho thầy nghe.
Tam Tạng nói:
– Bây giờ biết tính làm sao!
Bát Giới nói:
– Anh phải tính làm sao mới được?
Hành Giả nói:
– Bây giờ trời đã tối, để tôi đi xin cơm cho thầy ăn. Ngủ một đêm rạng ngày sẽ tính.
Nói rồi lấy bình bát nhảy lên thinh không, một chút trở về dâng cơm cho sư phụ. Tam Tạng thấy Hành Giả về mau quá, liền kêu mà hỏi rằng:
– Ngộ Không, thầy trò ta hãy đến nhà cho cơm đây mà hỏi thăm cách thế qua sông này, còn hơn cự với con quái ấy.
Hành Giả cười rằng:
– Nhà ấy xa quá chừng! Cách hơn bảy ngàn dặm. Người chưa từng thấy con sông ấy, mà bày cách thế làm sao?
Bát Giới hỏi:
– Bảy ngàn dặm đường, sao anh đi mau dữ vậy?
Hành Giả nói:
– Lão Tôn có nghề cân đẩu vân hay lắm. Nhảy một cái tới 10 muôm 8 ngàn dặm đường. Giá bảy ngàn dặm mà bao xa, nhảy vừa vừa cũng tới.
Bát Giới nói:
– Anh nhảy xa như vậy, thì cỏng thầy nhảy đại qua sông. Công hơi đâu đánh với con yêu cho mệt?
Hành Giả nói:
– Ngươi cũng biết đằng vân, sao chẳng cỏng thầy mà bay thử? Thầy là thai phàm xác thịt. Nặng hơn hòn núi Thái sơn. Chúng ta cỏng rồi đằng vân sao nổi? Lời xưa nói: Dầu đở Thái sơn như hột cải, khó đem phàm tục khỏi vòng trần. Những phép thâu đường, phép dời núi, ta đều biết hết. Bởi vì phần thầy phải chịu hoạn nạn, đi xứ này cho đến xứ kia. Anh em mình tuy bảo hộ thầy, chớ thế khổ não cho thầy cũng không đặng. Dầu cho anh em mình đến Tây Phương cầu khẩn. Phật cũng không phát kinh. Vì cớ này:
Bằng thỉnh đặng như chơi, thì coi ra không quý.
Phải để cho thầy dày công cực khổ, mới thỉnh đặng kinh.
Bát Giới nghe nói liền dạ.
Thầy trò ăn cơm đở đói rồi ngủ tại mé sông phía Ðông.
Rạng ngày Tam Tạng hỏi rằng:
– Ngộ Không, bửa nay ngươi tính làm sao đó?
Hành Giả thưa rằng:
– Tôi không biết tính làm sao, phải sai Bát Giới ra đánh nửa.
Nói rồi biểu Bát Giới rằng:
– Sư đệ phải đi một chuyến nữa. Ta không nóng nảy đâu. Ðợi dẫn nó lên bờ cho xa, ta chận phía mé sông thì bắt đặng.
Bát Giới vâng lời, vác đinh ba nhảy xuống.
Con quái ấy giá gậy mà nói rằng:
– Ngươi đừng xông tới, coi gậy ta đây nè?
Bát Giới đưa đinh ba ra đở, rồi nói rằng:
– Cây gậy tang của mi đó, hay chi lắm mà khoe?
Con quái ấy nói:
– Mi không biết gốc tích cây bửu trượng của ta, hãy nghe cho rõ.
Nói rồi ca rằng:
Nhành quế cung trăng thành khí giới,
Ðặt tên bửu trượng trừ yêu quái,
Ngươi Ngô Cang đốn rất cân phân,
Thợ Lỗ Ban làm không trễ nải
Muốn nhỏ muốn to ý nhiệm mầu,
Biến dài biến vắn người kinh hãi
Có đâu vô dụng thể Ðinh ba,
Cào cỏ xong rồi vung liếp cải.
Bát Giới nghe ca mắc cở, cười và nói rằng:
– Ðồ chết bụi, khéo nói lẻ. Thứ cào cỏ vung liếp cải thây nó, e đập nhằm một cái, chảy máu theo chín lỗ chân răng.
Con quái ấy nổi xung, giơ gậy liền đập.
Ấy là:
Bát Giới Sa Tăng chưa kết nghĩa,
Ðinh ba Bữu trượng lại làm quen.
Hai người đánh đặng ba mươi hiệp, sức cũng cầm đồng, Bát Giới trá bại chạy lên bờ, con quái ấy đuổi theo gần tới mé.
Bát Giới nói:
– Mi giỏi lên đất liền đánh thử sức mới biết thấp cao?
Con quái ấy nói:
– Mi gạt ta lên bờ, cho có người trợ lực. Mi giỏi thì xuống mặt nước mà đánh với ta! Thiệt con quái ấy khôn lắm, không chịu lên bờ, cứ đứng dưới sông nói dằn quay với Bát Giới.
Khi ấy Hành Giả thấy con quái ấy khôn quá, không chịu lên bờ.
Liền tính kế rằng:
– Ðể mình làm như diều xớt gà, ắt là bắt nó đặng.
Tính rồi nhảy lên không trung, bay xuống mà nắm đầu tóc.
Con quái đang cải lẩy với Bát Giới nghe tiếng gió gần mình, ngước mặt ngó lên thấy Hành Giả trên mây bay xuống.
– Em ôi, con quái ấy khôn quá, không chịu khỏi nước, anh em ta biết tính làm sao? Bát Giới nói:
– Khó chịu lắm! Khó chịu lắm! Tôi rán đã hết hơi mẹ đẻ, mà đánh cũng cầm đồng. Có xuống nữa cũng vô ích.
Nói rồi hai người về bạch tự sự với thầy.
Tam Tạng nghe nói châu mày mà than rằng:
– Gay trở như vầy, biết làm sao mà qua sông này cho đặng?
Hành Giả thưa rằng:
– Xin thầy đừng phiền não. Bát Giới bảo hộ thầy, đừng tranh đua với nó. Ðể ta qua Nam Hải đi thỉnh Quan Âm.
Bát Giới nói:
– Phải, phải. Anh gặp Bồ Tát bạch giùm cho tôi rằng: Ngộ Năng cám ơn thầy điều độ, nay đà theo sư phụ đi thỉnh kinh.
Tam Tạng dặn rằng:
– Ngươi đi thỉnh Bồ tát, rồi trở lại cho mau, kẻo nhọc lòng ta trông đợi.
Khi ấy Hành Giả dùng phép Cân đẩu vân, bay qua Nam Hải. Nửa giờ đến núi Phổ đà, vào rừng Tử trước, cậy Du thần vào bạch với Quan Âm.
Nhằm lúc Phật Bà đương xem sen dựa mé ao với Bỗng Châu long nữ, nghe báo, liền về ngự tòa sen.
Ðòi Hành Giả vào hỏi rằng:
– Ngươi đến có chuyện chi?
Hành Giả bạch rằng:
– Thầy tôi đến xóm Cao lão, thâu đặng một người đệ tử gọi là Trư Ngộ Năng. Lại đặt hiệu là Bát Giới. Nay đi khỏi Huỳnh Phong lãnh, lại tới Lưu Sa hà. Sông ấy nước yêu sâu 3.000 dặm đàng. Bề ngang tới 800 dặm, không thuyền đò chi hết, thầy tôi khó nổi qua sông. Vả lại có thủy quái làm hung. Ngộ Năng đánh ba lần cầm cự. Nên đến cầu Bồ Tát, đưa thầy tôi qua khỏi sông Lưu Sa.
Quan Âm nói:
– Cũng tại con khỉ này hay làm phách, không nói chuyện thỉnh kinh đó chăng?
Hành Giả bạch rằng:
– Ngộ Năng đánh với nó dưới sông, chuyện ấy chắc không nói tới. Tôi dốc bắt cho đặng nó, mà biểu đưa thầy tôi qua sông.
Quan Âm nói:
-Con quái ấy là Quyện Liêm tướng quân phải đọa, đà thọ phép với ta. Biểu ở đó mà chờ Ðường Tăng tới nơi, sẽ theo làm đệ tử. Phải ngươi nói việc thỉnh kinh cho rõ, thì nó sẽ quy y.
Nói rồi kêu Huệ Ngạn đến.
Quan Âm lấy cái bầu đở trong tay áo, đưa cho Huệ Ngạn mà dặn rằng:
– Ngươi đi với Ngộ Không đến mé sông Lưu Sa, kêu bớ Ngộ Tịnh thì nó đi lên. Trước đem nó tới quy y với Ðường Tăng, rồi biểu nó lấy chín cái sọ người ta kết dính nhau vuông vức, để trái bầu chính giữa hóa ra thuyền phép cho Tam Tạng qua sông.
Huệ Ngạn vâng lời đi với Hành Giả.
Nói về Bát Giới xa xa ngó thấy Hành Giả đi với Mộc Tra, liền dắt thầy ra nghinh tiếp.
Bát Giới tạ ơn Mộc Tra.
Hành Giả nói:
– Chúng ta lo đi kêu tên ấy cho mau, rồi thủng thẳng sẽ nói chuyện.
Tam Tạng hỏi:
– Kêu ai?
Hành Giả thuật chuyện lại.
Tam Tạng nghe rõ, quỳ lạy về hướng Nam.
Lại làm lễ Mộc Tra mà nói rằng:
– Xin Tôn Giả làm ơn đi cho kiếp kiếp.
Huệ Ngạn cầm bầu đỏ, bay đến giữa sông, cất tiếng cả kêu rằng:
– Ngộ Tịnh, Ngộ Tịnh, người thỉnh kinh đi tới đã lâu, sao ngươi không chịu phép? Con quái ấy đương lặn dưới đáy nước, xảy nghe người kêu tới pháp danh, lại nghe nói có người thỉnh kinh tới, liền trồi lên mặt nước, xem thấy Mộc Tra, mừng rỡ bái chào mà rằng:
– Tôi trễ sự tiếp nghinh, xin Tôn Giả miễn chấp. Còn Bồ Tát ở đâu?
Huệ Ngạn nói:
– Thầy ta không đến, sai ta tới dặn ngươi rằng: Phải theo làm đồ đệ Ðường Tăng, và lấy chín cái sọ kết bè vuông vức, để trái bầu này chính giữa, làm thuyền phép mà đưa thầy.
Ngộ Tịnh hỏi:
– Người thỉnh kinh ở đâu?
Huệ Ngạn chỉ và nói rằng:
– Vậy chớ ai ngồi trên bờ đó?
Ngộ Tịnh nghe nói, nhảy lên bờ quì trước mặt Tam Tạng mà nói rằng:
– Ðệ tử có mắt không ngươi, nên thấy thầy mà không biết, lở lầm xúc phạm, xin thầy mở lượng biển rộng thứ dung.
Nói rồi liền lạy.
Tam Tạng hỏi:
– Mi thiệt tình chịu theo đạo Phật sao?
Ngộ Tịnh nói:
– Bạch thầy! Ðệ tử trước đã vâng lời Bồ Tát, lấy tên sông làm họ, và đặt pháp danh gọi là Sa Ngộ Tịnh, lẻ nào nay chẳng theo thầy!
Tam Tạng nói:
– Như vậy thì Ngộ Không đưa dao cạo cho ta.
Hành Giả đưa dao.
Tam Tạng cạo sạch trơn tóc đỏ.
Sa Ngộ Tịnh lạy thầy xong xả, rồi lạy kêu Hành Giả là anh cả, Bát Giới là anh hai. Tam Tạng thấy Ngộ Tịnh lạy giống thầy chùa, nên kêu là Sa Tăng.
Huệ Ngạn nói:
– Thôi, người tu một thầy như anh em một nhà, việc lễ nghi chế bớt. Hãy lo làm phép thuyền cho kíp mà đưa thầy.
Sa Tăng không dám dần dà, cổi xâu chuổi bồ đề, mà làm thuyền Bác Nhã. Ðể bầu đỏ chính giữa, thỉnh Tam Tạng xuống thuyền, bên hữu có Ngộ Tịnh, bên tả có Ngộ Năng, đồng bay theo bảo hộ, ở trên cao thì có Mộc Tra, Hành Giả dắt ngựa và gánh đồ, đằng vân theo sau rốt, gió êm sóng lặng thuyền chạy đường tên, chẳng bao lâu đà đến bờ.
Tam Tạng bước lên mé, trong mình không lấm ướt chút nào.
Thầy trò day mặt về Nam Hải lạy tạ Quan Âm.
Tam Tạng tạ ơn Huệ Ngạn.
Huệ Ngạn thâu bầu hồng trở về Nam Hải, chín cái sọ tiêu mất, hóa chín ngọn khói bay tan.
Bốn thầy trò lấy làm lạ lùng, đồng nhắm cỏi Tây đi tới.
Nói về bốn thầy trò đi dọc đàng bày cạn nguồn lòng mối đạo, chuyện trò vui đẹp, chẳng chút ngại ngùng, mãng xem cỏ nội hoa ngàn, bóng ác dường thoi đưa, ba thu đã gần lụn.
Ngày kia trời tối, Tam Tạng nói với đồ đệ rằng:
– Mặt trời chen lặn, biết nhà nào ngủ đỡ một đêm?
Hành Giả thưa rằng:
– Người tu hành thì uống nước suối, ăn trái cây, ngủ ngoài sương, nằm dưới nguyệt, chỗ nào cũng là nhà hết thảy, hỏi thăm xóm làm chi?
Bát Giới nói:
– Anh đi không, thì thong thả hơn hết, chẳng hề thương kẻ nặng nề, cái gánh đồ này, có một Lão Trư ra sức. Anh theo làm học trò lớn, để tôi làm chức trưởng công, tôi biết tánh anh muốn làm tiên, chẳng hề gánh vật, còn ngựa của thầy mập quá, để cho tôi gởi gánh đồ.
Hành Giả nói:
– Ngươi tưởng nó thiệt là ngựa hay sao? Ấy là Thái Tử thứ ba, con vua Long vương Tây hải, bởi vì phạm tội, nhờ Quan Âm xin với Ngọc Hoàng, dạy nó phải biến ra con ngựa kim, mà chở thầy cho tới Tây Phương Phật, ai có phần nấy, ngươi còn xeo nó hay sao?
Sa Tăng nghe nói hỏi rằng:
– Nó là rồng thiệt sao anh?” Hành Giả nói:
– Phải.
Bát Giới nói:
– Thiên hạ đồn rằng: Rồng thì có phép thần thông, phun mây vượt biển, sao mà đi chậm như thường?
Hành Giả nói:
– Ðể ta biểu nó nhảy sải cho ngươi coi.
Nói rồi giá cây thiết bảng, hào quang chiếu sáng đỏ trời, con ngựa sợ đánh nhằm nó, liền chạy bay như tên bắn, Tam Tạng gò cương không lại, phải ôm cổ nó mà nằm. Chạy tới cụm rừng ngừng lại, Tam Tạng mới thở ra hơi, ngó thấy trong rừng có xóm, mừng rỡ nói rằng:
– Các đồ đệ, đây có nhà người, hãy ghé vào mà ngủ đỡ.
Hành Giả ngó lên trời. Thấy mây lành che phủ, rạng chói đỏ trời. Biết là Tiên Phật hiện ra, ngặt thiên cơ không dám lậu.
Liền nói xuôi rằng:
– Tối rồi, may lắm, thầy trò vào đó mà ngủ nhờ.
Tam Tạng liền xuống ngựa. Thấy nhà lầu: Rèm che sáo phủ, cột vẽ rường soi.
Bát Giới trầm trồ rằng:
– Chắc là nhà giàu lớn.
Hành Giả bước tới, Tam Tạng cản rằng:
– Chẳng nên, chẳng nên; mình là người tu hành phải giữ phép luật. Ðợi có ai ra cửa, sẽ xin cho vào đó mà ngủ nhờ.
Cùng nhau ngồi trước ngỏ hèn lâu, không thấy ai ra hỏi.
Hành Giả nóng quá, bước vào cửa ngỏ mà xem, thấy ba căn nhà trở mặt về hướng Nam, trong treo một bức sơn thủy. Trước có một cái bàn độc sơn đen. Trên bàn để cái lư đồng rất lớn.
Cột có đôi liễn xuân rằng:
Gió đưa tơ liễu trời vừa tối,
Tuyết đượm bông mai cảnh gặp xuân.
Trước nhà khách để sáu cái ghế da. Có bức bình phong che gió.
Hành Giả đương nhắm nhía, xảy nghe có tiếng giày.
Thấy có đàn bà chừng ba mươi tuổi, bước ra hỏi tiếng dịu dàng rằng:
– Chẳng hay ai ở đâu mà lén vào nhà đàn bà góa?
Hành Giả hãi kinh nói rằng:
– Tôi là sãi Ðại Ðường bên Ðông Ðộ, vâng chiếu chỉ qua Tây Phương lạy Phật thỉnh kinh. Bốn thầy trò tôi đến đây, mặt trời chen lặn, nên vào xin phép cho chúng tôi ngụ đỡ một đêm.
Người đàn bà ấy cười và hỏi rằng:
– Còn ba thầy nữa ở đâu? Xin mời vào luôn thể.
Hành Giả cả kêu rằng:
– Xin mời sư phụ đi vô.
Tam Tạng biểu Bát Giới, Sa Tăng dắt ngựa gánh đồ vào cửa.
Người đàn bà ấy bước ra nghinh tiếp, Bát Giới lén xem nhan sắc như vầy:
Trâm cài lược giắt kể đôi từng,
Châu ngọc tai đeo chiếu sáng trưng,
Son phấn chẳng dồi coi cũng đẹp,
Dung nhan chỉ kém gái còn xuân.
Người đàn bà ấy mừng rỡ, rước bốn thầy trò vào nhà, mời ngồi theo thứ tự.
Xảy thấy con đầy tớ gái, bưng kỉ vàng chén ngọc và một mâm trái cây mùi lạ ngọt ngào, trà ngon thơm ngát.
– Chẳng hay bà họ chi? Và xứ này gọi là xứ gì; xin cho tôi biết.
Người đàn bà ấy đáp rằng:
– Ðây thuộc về phương Tây gọi là Ðông Ấn độ. Còn tôi họ Giả, chồng tôi họ Mạc. Cha mẹ chồng tôi mất sớm, vợ chồng tôi coi sóc gia cang. Sự nghiệp muôn vàng, ruộng vườn ngàn khoảnh. Vợ chồng tôi có ba đứa con gái, không đặng chút trai, chồng tôi bỏ mình năm xưa, nay đà mãn phục. Không bà con chi hết, mẹ con tôi giữ gìn gia tài. Muốn gã con lấy chồng, lại sợ không ai coi sự nghiệp. Nay gặp bốn thầy trò ghé lại, bốn mẹ con tôi đương đóng cửa kén chồng. Không biết đại sự có hoan hỉ hay không? Xin cho tôi biết?
Tam Tạng nghe nói, giả điếc làm câm. Cứ lim dim ngồi tưởng Phật.
Người đàn bà ấy nói rằng:
– Tôi có ba trăm dãy ruộng gò, ba trăm dãy ruộng bưng, ba trăm ngôi vườn thanh hoa đẳng vật. Dê heo vô số, trâu ngựa cả bầy, đồng cỏ trái cây hơn bảy chục sở, lúa gạo ăn chín năm không hết, hàng lục mặc mười năm có dư, bạc vàng dùng mãn đời cũng không thiếu. Kể chi nữ trang y phục nệm gấm màn thêu. Nếu bốn thầy trò bằng lòng ở đây, thiệt hưởng phước thanh nhàn khoái lạc. Tội gì chịu cực mà đi không tới Tây Phương?
Tam Tạng cứ làm thinh không nói.
Người đàn bà ấy nói rằng:
– Ngày sanh tôi là giờ dậu, ngày mồng ba tháng tám, năm Ðinh hợi. Chồng tôi lớn hơn tôi ba tuổi. Tôi năm nay đã bốn mươi lăm, con gái lớn tôi tên Chơn Chơn, đặng hai mươi tuổi. Con giữa tên Ái Ái, mười tám tuổi. Con gái út tên Liên Liên, mười sáu tuổi, đều chưa có nơi nào. Tôi tuy xấu xa, chớ ba đứa nhỏ đều xinh tốt. Nghề nữ công cũng chẳng thua ai. Bởi chồng tôi không có con trai, nên cưng chúng lắm. Cho ba đứa ăn học, đều biết làm thi phú văn chương. Tuy ở sơn lâm, mà không thô tục. Tài có sắc cũng có, xứ quê người chẳng quê; nhắm cũng xứng đôi với mấy thầy lắm. Nếu bằng lòng ở đây mà để tóc, thời làm chủ cái nhà này. Lại được mặc hàng lụa, ăn thịt thà, chẳng hơn đi Tây Phương, thì mặc vải bô, ăn cực khổ?
Tam Tạng ngồi trơ trơ, như vịt nghe sấm, tợ ếch mắc mưa, cứ lộn thinh con mắt. Còn Bát Giới nghe nói giàu sang thì mê, nghe nói nhan sắc cũng muốn, ngứa nghề nóng họng, ngồi trên ghế không yên, khác nào trong nệm có dồn kim, cứ nhỏm lên nhỏm xuống.
Dằn lòng chẳng đặng, bước lại vỗ Tam Tạng mà nói rằng:
– Thầy không nghe bà chủ nói hay sao? Ngồi lim dim giả điếc. Lẽ nào người nói phải mà làm cách chẳng chịu trả lời?
Tam Tạng giựt mình, trợn mắt và xí một tiếng.
Bát Giới lui về chỗ.
Tam Tạng nói rằng:
– Mi là nghiệp chướng. Người tu hành lẽ nào nghe giàu sang mà dời chí, thấy sắc mà động lòng?
Người đàn bà ấy cười rằng:
– Tội nghiệp thì thôi! Ði tu hành mà có ích chi đó?
Tam Tạng hỏi:
– Vậy chớ bà ở thế lại có ích chi?
Người đàn bà ấy nói rằng:
– Vậy thầy nghe tôi nói việc sung sướng cả đời. Xin đọc bài thơ làm chứng.
Thơ rằng:
Xuân đồi đồ mới dạo xem hoa,
Hạ thưởng sen xanh mặc nhổ nha
Thu có rau thơm và thịt sốt,
Ðông thì nệm ấm với dầu thoa
Tư niên ngủ kỹ không mãi,
Cả kiếp ăn ngon mặc tốt mà
Trút cạn nguồn tình vui một bữa,
Khá hơn tìm tõi kiếm Di Ðà.
Tam Tạng nói:
– Bà hưởng vinh hoa phú quý. Có ăn có mặc, con cái đầy nhà. Bà gọi là tử tế cũng phải. Còn tôi tu hành lại có ít theo tôi. Hãy nghe thử bài thơ thì biết.
Thơ rằng:
Tu hành theo phận chí không nguôi,
Trăng gió phường kia dạ phủi rồi
Ngoài thể tham lam là thể tục,
Trong mình đạo đức biết mình vui
Gắn cóng cầu Phật xin qua đó,
Mở lối từ bi trở lại thôi
Gẫm kẻ ở trần ăn mặc sướng,
E sau đọa xuống chốn tanh hôi.
Người đàn bà ấy nghe nói nổi giận đáp rằng:
– Thầy này thiệt vô lễ. Nếu tôi không vị tình ở Ðông Ðộ, thì chắc đuổi ra ngoài. Tôi thiệt tình muốn dâng sư phụ quý khoái lạc cho mấy thầy, thầy lại nói biếm tôi như vậy! Dầu thầy mắc thọ phép tình nguyện không ưa việc thế thời thôi. Còn đệ tử của thầy, cũng cho đỡ một người làm rễ. Có đâu nói gắt như vậy?
Tam Tạng thấy người ấy giận dữ, liền nói xuôi rằng:
– Thôi, Ngộ Không ở lại.
Hành Giả bạch rằng:
– Tôi từ bé đến lớn không biết việc đời. Xin nhượng cho Ngộ Năng là người thông thạo.
Bát Giới nói:
– Anh đừng trao gánh cho tôi, thủng thẳng luận bàn mới đặng.
Tam Tạng nói:
– Hai đứa bây không chịu, thì để Ngộ Tịnh lại cho.
Sa Tăng bạch rằng:
– Tôi nhờ ơn Bồ Tát dạy biểu tu hành. Tôi tình nguyện theo thầy, chớ không tham phú quý. Có giết thì chịu, chớ không làm trái lẽ như vậy.
Người đàn bà ấy thấy ai nấy không chịu liền bước vào trong, đóng cửa bỏ bốn thầy ở ngoài, không trà nước chi hết.
Bát Giới than thở rằng:
– Thầy không thạo việc, nói một lời bất lợi biết dường nào? Phải chi thầy nói lòng vòng, cũng đặng ăn no ngủ ấm. Rạng ngày chịu không chịu, ai lại ép ai. Chẳng hơn không có cơm ăn, chịu một đêm sao nổi?
Sa Tăng nói:
– Thôi anh ở lại mà làm rễ cho xong.
Bát Giới nói:
– Em đừng trao gánh cho ta, thủng thẳng tính đi tính lại đã.
Hành Giả rằng:
– Không nói dài vắn chi hết. Như ngươi chịu ở lại, thì thầy làm xui với người ấy cho rồi. Ngươi làm rễ nhà giàu mặc sức ăn ngon bận tốt. Chắc dọn tiệc đãi họ, thầy trò ăn một bữa cũng no. Còn ngươi ở lại đây, thì lương toàn vô hại.
Bát Giới nói:
– Anh luận cũng cao, song không khỏi tiếng này: Ra trân rồi về trần. Ðể vợ còn cưới chồng.
Sa Tăng nghe nói hỏi rằng:
– Nói vậy nhị ca đà có vợ hay sao?
Hành Giả nói:
– Em không hay việc ấy. Nguyên là con rễ ông Cao Thái Công ở nước Ô Tư Tạng, bị ta bắt được mới theo. Vả lại Quan Âm có độ trước, nên cũng chẳng đã, phải bỏ vợ theo thầy. Nay cũng lâu ngày muốn bỏ thầy mà cưới vợ. Bát Giới ngươi lạy ta vài lạy, thì ta tính dùm chuyện đó mới xuôi.
Bát Giới đáp rằng:
– Ðừng có nói xàm. Ý ai cũng như nấy, muốn bắt tôi chịu xấu một mình. Lời thường rằng: Thầy chùa đắm sắc, như ma đói thèm cơm. Ai lại gan dạ nào mà nói tốt. Ðiều muốn làm lớn thì làm láo, nói ra thì sợ chúng cười. Ðến nay, dầu đèn cũng không, cơm nước cũng vắng. Người ta rán một đêm còn được, báo hại con ngựa nhịn cỏ, mai đi sao thấu đường xa. Thôi, để tôi dẫn nó đi ăn ba miếng.
Nói rồi mở cương ngựa dắt đi một nước.
Hành Giả nói nhỏ với Sa Tăng rằng:
– Ngươi ngồi đây với thầy, ta theo coi nó đi đâu cho biết.
Nói rồi ra khỏi nhà khách, dùn mình biến ra con chuồn chuồn đỏ, bay theo Bát Giới coi chơi. Thấy Bát Giới dắt ngựa gặp cỏ không cho ăn, cứ dắt ra phía sau đứng đó. Xảy thấy người đàn bà dắt ba đứa con gái, đứng coi bông cúc nơi cửa sau.
Bát Giới dắt ngựa đi trờ tới, ba nàng kia bước trái vào trong.
Người đàn bà ấy hỏi rằng:
– Thầy đi đâu đó?
Bát Giới buông dây cương bước tới, bái và nói rằng:
– Thưa mẹ, tôi đi cho ngựa ăn.
Người đàn bà ấy nói:
– Thầy ngươi không biết tính, ở nhà ta thì sung sướng, chẳng hơn đi tới Tây Phương?
Bát Giới cười rằng:
– Mấy người ấy vâng lệnh vua Ðường đi thỉnh kinh, nên không dám ở đây. Song tôi còn ngại lắm. Sợ mẹ chê tôi mỏ dài tai lớn, không chịu gả con.
Người đàn bà ấy nói:
– Ta không chê đâu. Bởi vì nhà không có đàn ông, miễn đặng một người cầm lái. Song ngại vì ba đứa nhỏ, sợ tánh con gái hay chê.
Bát Giới thưa rằng:
– Xin mẹ nói dùm với mấy cổ: Ðừng chê mập chê ốm. Tuy thầy tôi tốt mã, song cũng chẳng đặng mà ham, chớ như tôi diện mạo xấu xa, mà có ích lắm.
Người đàn bà ấy hỏi rằng:
– Ngươi có tài chi, thì nói cho ta nghe thử.
Bát Giới ca rằng:
Tuy vấn sanh tướng xấu, Song cũng có tài năng
Ðào giếng chừng ba khắc. Câu mưa nội nửa ngày,
Giữ nhà hơn chó sủa: Cào đất quá trâu cày,
Trăm việc đều thông cả: Siêng năng ít ai tày.
Người đàn bà ấy nghe nói khen rằng:
– Giỏi như vậy thì xong lắm. Song ngươi về thưa lại với thầy. Nếu thầy ngươi bằng lòng thì ta bắt rễ.
Bát Giới nói:
– Thầy ấy không phải cha mẹ chi tôi, mà phải thưa đi thưa lại, ưng không là tại nơi tôi.
Người đàn bà ấy nói rằng:
– Như vậy thì xong lắm, để ta tính lại với con ta.
Nói rồi bước vào đóng cửa.
Bát Giới không cho ngựa ăn cỏ, cứ việc dắt về.
Chẳng ngờ Hành Giả bay theo nghe đủ các việc, liền bay về hiện hình như cũ, thưa với thầy rằng:
– Bát Giới dắt ngựa về đó.
Tam Tạng nói:
– Ngựa thì phải dắt mới đặng, nếu buông khơi thì nó chạy đi.
Hành Giả cười, rồi thuật hết các việc.
Khi ấy Bát Giới về tới, buộc ngựa xong rồi Tam Tạng nói:
– Ngươi thả ngựa ăn cỏ rồi chưa?
Bát Giới nói:
– Chẳng có cỏ non nên không thả ngựa.
Hành Giả nói:
– Không thả ngựa mà có quần ngựa hay không?
Bát Giới nghe hỏi biết chuyện lậu rồi, làm thinh không nói lại, ngồi ngoẻo đầu nhiều mỏ thở ra.
Giây lâu nghe tiếng mở cửa, những thế nữ cầm hai cặp đèn sáp, một cái lư hương, tiếng ngọc len ken, mùi thơm bát ngát, người đàn bà ấy dắt ba người con gái ra kêu mà nói rằng:
– Chơn Chơn, Ái Ái, Liên Liên mau ra mắt Ðường Tăng ở Ðông Ðộ.
Ba nàng ấy ra làm lễ, coi lịch sự như tiên.
Có bài ca làm chứng:
Mày như kiểng chẩu, mặt tợ phấn dồi
Sắc sảo đành ngiêng nước, nết na dễ động người
Liễu dịu dàng chân bước, huê chúm chím miệng cười
Nếu không Tiên nữ vì trần đọa thì cũng Hằng Nga xuống thế chơi.
Tam Tạng chắp tay cúi mặt, Sa Tăng nhắm mắt day lưng.
Hành Giả làm ngơ không ngó tới, có một mình Bát Giới coi không nháy mắt, nhìn muốn rớt tròng, mất vía, bay hồn, bấm gan tím ruột, liền bỏ nhỏ rằng:
– Chào các tiên cô giáng hạ, thôi, mẹ biểu mấy cổ lui vào.
Ba nàng ấy đều lui vô hết, để lại một cặp đèn.
Người đàn bà ấy hỏi rằng:
– Bốn thầy trò, ông nào thương con tôi mà bằng lòng ở lại?
Sa Tăng nói:
– Chúng tôi đà nhứt định, người họ Trư ở lại đã xong.
Bát Giới nói:
– Em đừng đổ án cho anh, để tính đi tính lại.
Hành Giả nói:
– Còn tính nổi gì nữa? Ngươi đã giao ước tại cửa sau rồi, bây giờ thầy làm Nam chủ hôn, ta đứng trưởng tộc. Sa Tăng làm mai, chẳng coi lịch làm chi, nay là ngày thiên ân tốt lắm, hãy lạy thầy vài lạy, rồi đi làm rễ cho mau.
Bát Giới nói:
– Ðừng nói chơi không đặng, có đâu làm trái lẽ như vầy?
Hành Giả nói:
– Ngươi đừng có chối, miệng kêu mẹ đà chẳng biết mấy lần, chuyện gì mà nói chơi không được? Mau mau vào trong cho ta ăn đám cưới.
Nói rồi tay mặt kéo Bát Giới, tay trái kéo áo người đàn bà ấy nói rằng:
– Thôi, mẹ vợ dắt chàng rễ vào trong.
Người đàn bà ấy hối đầy tớ gái dọn cơm chay thiết đãi ba thầy.
Tam Tạng, Hành Giả, Sa Tăng ăn no rồi ngủ.
Còn người đàn bà ấy dắt Bát Giới đi không biết mấy phòng, Bát Giới nói:
– Thưa mẹ, tôi đã đói lòng, xin ghé phòng này một chút.
Người đàn bà ấy đáp rằng:
– Ðây là kho lúa và hà để cối xay, chớ nhà bếp còn cách xa lắm.
Bát Giới nói:
– Thiệt nhà nhiều ngăn nắp quá!
Ði quanh co hơn một buổi, mới tới phòng nằm.
Người đàn bà ấy nói rằng:
– Nay nhằm ngày thiên ân, nhập phòng tốt lắm. Ngươi làm lễ cho mau.
Bát Giới nói:
– Mẹ nói phải lắm, xin mẹ ngồi ngay bàn án ngó ra, đặng tôi lạy một lần luôn thể. Người đàn bà ấy cười rằng:
– Bợ thì muốn cưới cho mau, mà tiếc từ cái lạy! Tuy vậy cũng đặng, khỏi mất công nhiều lần.
Nói rồi ngồi lên, Bát Giới cúi đầu làm lễ.
Lạy rồi hỏi rằng:
– Thưa mẹ, tính gả người thứ mấy cho tôi?
Người đàn bà ấy nói rằng:
– Chuyện ấy chưa nhất định, muốn gả con lớn thì sợ con giữa nó phiền, muốn gả con giữa thì sợ con út nó giận. Bằng gả con út, chắc hai đứa nó hờn, nên chưa định chắc.
Bát Giới nói:
– Thưa mẹ, nếu sợ phàn nàn xin gả cho tôi hết thảy, thì khỏi lo việc ghen tuông. Người đàn bà ấy nói rằng:
– Không lẽ ba đứa con, mà có một thằng rễ?
Bát Giới thưa rằng:
– Nói như mẹ thì người ta không có hai ba vợ hay sao? Rất đổi là vua Nghiêu còn gả hết hai con cho ông Thuấn. Tôi khéo ở lắm, chẳng hề bỏ phép công bình?
Người đàn bà ấy nói:
– Không đặng, ta đưa cái khăn vuông cho ngươi đội, chụp con nào thì con ấy phải ưng, ấy là lối bói thiên hôn đó.
Bát Giới nghe lời lấy khăn che mặt, rồi nói rằng:
– Xin mẹ kêu mấy cổ ra đây.
Người đàn bà ấy nói rằng:
– Chơn Chơn, Ái Ái, Liên Liên. Ra cho rể mới choàn thiên hôn mà kết duyên gá nghĩa.
Nói rồi nghe ba nàng đều dạ, đeo vàng ngọc khua rổn rảng, mùi xạ hương bay bát ngát. Lòng mừng khấp khởi, chụp trước rồi chụp sau. Chụp chẳng đặng người nào, té ngiêng rồi té ngửa! Rán sức đổ mồ hôi hột, té đập mặt u đầu! Chụp cột này rồi ôm cột kia, đụng vách này nhào vách nọ!
Mệt ngồi thở dốc và nói rằng:
– Mẹ ôi! Ba cô ấy qủy quyệt quá! Chụp không nhằm biết tính sao?
Người đàn bà ấy nói:
– Không phải nó qủy quyệt đâu, ấy là mắc nhượng cho nhau, nên không đứa nào chịu hết.
Bát Giới nói:
– Mấy cô không chịu, thì mẹ chịu cho rồi.
Người đàn bà ấy nạt rằng: Ðừng nói bậy nà! Mi là bộ mặt heo, nên đụng đâu muốn đó. Không chừa nhạc mẫu hay sao? Bởi ba đứa con ta đều khéo léo, dệt ba cái áo lót mồ hôi bằng gấm đều có nhận hột trân châu. Như người bận áo nào vừa, thì gả đứa ấy.
Bát Giới nói:
– Xong lắm, xong lắm, nếu bận đặng ba cái, thì gả hết cho tôi!
Người đàn bà ấy vào phòng lấy một cái áo đưa ra.
Bát Giới xem qua mừng lắm, bèn cởi trần mà mặc áo vào. Bận rồi nhào xuống đất; coi lại là dây buộc riết mình, chớ không phải áo, nó riết gần gãy ba sườn, thở không muốn đặng. Coi lại bốn mẹ con đi mất chẳng còn.
Nói về thầy trò Tam Tạng ngủ tới hừng đông, Tam Tạng mở mắt ra thấy mình ngủ trong rừng tòng bá, không biết nhà cửa đâu mất, lấy làm lạ lùng!
Tam Tạng thất kinh, dậy kêu đồ đệ, Sa Tăng nói với Ngộ Không rằng:
– Anh ôi! Không xong rồi! Chúng ta đã gặp quỹ!
Hành Giả biết trước, cười chúm chím mà nói rằng:
– Tuy là ngủ trong rừng tòng, mà vui quá sức. Song không rõ Bát Giới bị hành tội ra thể nào?
Tam Tạng hỏi:
– Nó bị tội chi?
Hành Giả cười rằng:
– Bốn mẹ con người đàn bà hồi hôm đó, chắc là Tiên Phật hiện ra mà thử chúng ta. Nên nửa đâm biến mất. Còn Bát Giới phải mắc nạn chẳng sai.
Tam Tạng nghe qua, liền lạy thinh không mà niệm Phật.
Ba thầy trò đương đọc bài kệ, xảy nghe trong rừng có tiếng kêu lớn rằng:
– Sư phụ ôi! Cứu tôi với! Từ rày sắp ới tôi không dám nữa đâu.
Tam Tạng hỏi:
– Phải Ngộ Năng kêu đó phải không?
Sa Tăng thưa:
– Phải.
Hành Giả nói:
– Em đừng nói tới nó làm chi, chúng ta đi cho rãnh.
Tam Tạng nói:
– Tuy nó khờ dại mặc lòng, song vị tình Bồ Tát ngày xưa, cứu nó một phen kẻo tội nghiệp.
Sa Tăng gánh đồ, Hành Giả dắt ngựa. Ba thầy trò đồng vào rừng kiếm.
Nói về thầy trò vào rừng, thấy Bát Giới bị trói dưới gốc cây, kêu la vang rên siết! Hành Giả cười rằng:
– Chàng rễ ôi! Sao chừng này chưa dậy mà lạy thầy, và tạ mai nhơn trưởng tộc? Hỡi còn giả ngộ hay sao? Ủa! Nói vậy thì mẹ vợ với vợ trói chàng rễ mà khảo đó chăng?
Bát Giới thấy Hành Giả kêu ngạo, thì hổ thẹn trăm bề! Ðau cho mấy cũng không la, phải cắn răng mà chịu đỡ.
Sa Tăng thấy tội nghiệp quá, nên chẳng nỡ lòng, liền để gánh đồ, lại mở dây cho Bát Giới.
Bát Giới hổ thẹn không dám ngó lên. Liền quỳ lạy thinh không, chẳng biết ai mà vái. Hành Giả hỏi:
– Ngươi biết vị nào hiện ra mà thử đó chăng?
Bát Giới nói:
– Tôi hôn mê bất tỉnh nên không biết ai.
Hành Giả đưa lá thiệp ra.
Bát Giới coi càng hổ thẹn.
Sa Tăng thấy Bát Giới mắc cỡ, nực cười nói cợt rằng:
– Nhị ca cũng khá lắm mới cảm động bốn vì Bồ Tát, giúp việc hôn nhơn.
Bát Giới nói:
– Sư đệ đừng nhắc chuyện đó làm chi nữa. Từ này sắp tới chẳng dám làm nhăn, cứ quảy gánh theo thầy cho tới Phật.
Tam Tạng khen rằng:
– Nói như vậy mới phải.
Hành Giả thỉnh thầy lên ngựa, dắt ra đường cái đồng đi.
Ăn gió nằm mưa, trèo non lặn suối, xảy thấy hòn núi rất cao.
Thiệt là,
Hoa nở hoa tàn đầy đãnh núi,
Mây qua mây lại quảng đầu non.
Tam Tạng ngồi trên ngựa mừng rỡ nói rằng:
– Ðồ đệ, ta từ đi Tây Phương đến nay thấy nhiều non nước, không thấy núi nào cảnh tốt như vầy, có khi gần tới chùa Lôi Âm. Phải sửa sang cho đàng hoàng, mà ra mắt Phật Tổ.
Hành Giả cười rằng:
– Sửa soạn chi gấp vậy?
Sa Tăng hỏi:
– Thưa đại ca đây tới Tây độ còn cách bao xa?
Hành Giả nói:
– Kể từ Ðông Ðộ qua Tây độ cách mười muôn tám trăm dặm đường. Nay đi mười phần mới đặng một.
Bát Giới nói:
– Biết đi mấy năm cho tới.
Hành Giả nói:
– Ước sức hai em đi hơn mười mấy ngày cũng tới. Còn ta thì một ngày vừa đi vừa về năm chục lần, mà mặt trời chưa lặn. Chớ như thầy thì hết đợi hết trông!
Tam Tạng hỏi:
– Ngộ Không, ngươi nói ta đi mấy mươi năm mới tới?
Hành Giả nói:
– Thầy đi từ nhỏ cho tới già, già rồi trẻ lại một ngàn lần như vậy cũng chưa tới Tây Phương. Phải chi thành tâm, ngó lại Tây pương gần tới.
Sa Tăng nói:
– Chỗ này tuy không phải chùa Lôi Âm, song cũng chỗ thần tiên chi đó?
Hành Giả nói:
– Phải. Ðây là non tiên cảnh thánh, chúng ta đi chậm chậm mà xem hoa.
Nói về trong núi Vạn Thọ, có am Ngủ trang. Trong am ấy có một ông tiên, tên là Trấn Nguơn Tử, hiệu riêng là Dữ Thế Ðồng Quân. Trong vườn có một vật báu. Nguyên trước khi mới có trời đất, thì sanh ra cây này. Gọi rằng Thảo huờn đơn, lại kêu là nhơn sâm quả. Ba ngàn năm mới nở bông, ba ngàn năm mới có trái, ba ngàn năm nữa trái ấy mới chín cây. Gần cả muôn năm, mới có ba mươi trái. Hình như con nít mới đẻ ba ngày, có đủ tay chân, ngủ quan không thiếu. Nếu ai có phước, hửi một cái sống đặng ba trăm sáu mươi năm, ăn đặng một trái thì sống bốn muôn bảy ngàn tuổi.
Ngày kia Nguơn Thỉ thiên tôn mời Trấn Nguơn lên cung Di lạc mà nghe giảng đạo. Các tiên nhóm lại rất đông. Còn Trấn Nguơn đại tiên có bốn mươi tám người đệ tử tu luyện gần thành,đồng dắt theo nghe giảng, để hai người ở lại coi động, là hai đứa học trò nhỏ hơn hết, tên Minh Nguyệt với Thanh Phong.
Thanh Phong đã đặng một ngàn ba trăm hai mươi tuổi.
Minh Nguyệt mới một ngàn hai trăm tuổi mà thôi.
Khi Trấn Nguơn đại tiên gần đi có dặn rằng:
– Ta đi rồi ít ngày, có người quen của ta là Ðường Tam Tạng ghé đây. Nguyên ở Trường An vâng lệnh đi thỉnh kinh Tây độ, đừng thấy thầy sãi mà đem dạ dễ ngươi. Phải hái trái nhơn sâm mà đãi Tam Tạng.
Hai đạo đồng thưa rằng:
– Người không đồng đạo thì chẳng bàn luận làm chi, ấy là lời Khổng Tử. Mình theo đạo Lão Tử, sao lại quen với thầy chùa?
Trấn Nguơn đại tiên nói:
– Chúng bây không biết. Thầy ấy nguyên là đệ tử thứ nhì của Phật Tổ, ở tại Tây Phương, hiệu là Kim Thiền tử năm trăm năm trước ta đi coi hội Vu Lan, có quen biết với nhau, như tình bằng hữu. Nay tuy Kim Thiền tử đầu thai làm Tam Tạng, ta lẽ quên cựu ngãi hay sao? Song đem trái nhơn sâm cho Tam Tạng ăn, đừng cho lũ đồ đệ hay; vì chúng nó là học trò ăn cướp.
Hai tiên đồng vâng lệnh, đều ở lại giữ am.
Nói về bốn thầy trò Tam Tạng đương dạo núi non, ngó thấy trong vuông tre có lầu đài rực rỡ. Ði lần tới cửa ngỏ, coi tợ cảnh tiên cõi phật.
Thiệt là:
Lặng lẽ rất yên lòng đạo đức,
Trống không chi nhộn việc người đời.
Tam Tạng xuống ngựa, ngó bên tả cửa núi, có một tấm bia.
Trong bia có mười chữ lớn rằng:
Vạn thọ sơn phước địa, Ngủ trang quán động thiên.
Nghĩa là:
Ðất sanh non Vạn thọ, Trời trổ viện Ngũ trang.
Tam Tạng thấy chữ Viện, liền nói với học trò rằng:
– Ðây là am viện của đạo sĩ, cũng như kiểng chùa Thiền. Hãy đi vô mà coi thử? Hành Giả nói:
– Phải.
Bốn thầy trò đồng bước vào. Thấy đôi liển dán cửa ngỏ rằng:
TSnh bất lão thần tiên phủ,
Dữ thiên đồng thọ đạo nhơn gia.
Nghĩa là:
Còn mãi không dời nhà đạo đức,
Sống hoài chẳng thác viện thần tiên.
Hành Giả cười rằng:
– Ông đạo này hay nói lối. Trên cửa cung Ðâu Suất là chỗ ông Thái Thượng, cũng không viết liển xất như vầy.
Bước vào cửa trông thấy hai đạo đồng ra nghinh tiếp. Thưa rằng:
Xin mời vào nghỉ.
Tam Tạng thấy hai đạo đồng, tinh thần tợ nước, cốt cách khác thường. Liền mừng rỡ đi theo vào am ấy. Thấy giữa am thờ bức tượng, có hai chữ Thiên Ðịa mà thôi. Ðể lư hương vàng trên bàn án đỏ.
Tam Tạng thấp hương làm lễ, rồi hỏi hai đạo đồng rằng:
– Am Ngủ trang ở cỏi Tây Phương. Sao chẳng thờ Tam Thanh Tứ đế, các vị tinh quân? Lại thờ chữ Thiên Ðịa?
Tiên đồng cười chúm chiếm mà rằng:
– Tôi không dám nói giấu sư phụ Thầy tôi thờ chữ Thiên là phải còn thờ chữ Ðịa là vì tình. Có lẽ nào thờ mấy ông ấy!
Tam Tạng hỏi:
– Vì cớ nào vậy?
Tiên đồng nói:
– Tam Thanh là bằng hữu của thầy tôi. Tứ Ðế thầy tôi cũng quen lắm. Còn mấy vị sau là kẻ dưới tay của thấy tôi, mà phụng thờ sao phải?
Hành Giả nghe qua cười dài rồi nói rằng:
– Tưởng có một mình Lão Tôn hay nói ma, chẳng ngờ đồng lữ cũng vậy!
Tam Tạng hỏi:
– Vậy chớ lịnh sư ở đâu?
Thanh Phong thưa rằng:
– Thầy tôi đi nghe Nguơn Thỉ giảng kinh, vì có giấy mời hôm trước.
Hành Giả nghe nói cứ việc cười hoài.
Tam Tạng biểu ba người đi ra gánh đồ và dắt ngựa vào. Rồi mượn nồi vút cơm khô mà ăn đở.
Ba người ấy đi hết.
Thanh Phong dâng trà cho Tam Tạng.
Minh Nguyệt hỏi rằng:
– Thầy phải hiệu là Ðường Tam Tạng, qua thỉnh kinh bên phật hay chăng?
Tam Tạng nói:
– Phải! Sao Tiên đồng biết đặng tên tôi?
Thanh Phong nói:
– Khi thầy tôi ra đi có dặn rành… Nên tôi mới biết. Vậy xin thầy ngồi nghĩ, đặng tôi hái trái đem dâng.
Nói rồi hai đồng tử vào phòng. Một người cầm cái móc vàng, một người bưng cái chậu đỏ. Trong chậu lót nhiều khăn tơ lụa cho êm. Ðồng ra vườn nhơn sâm mà hái. Thanh Phong cầm móc vàng leo lên cây giựt xuống.
Minh Nguyệt đứng dưới gốc, giơ chậu đỏ hứng hai trái nhơn sâm.
Hái rồi đem ra dâng cho Tam Tạng mà nói rằng:
– Chúng tôi ở Sơn lâm cồn cạn không có vật chi mà đãi thầy. Xin dâng hai trái này, cho sư phụ dùng mà uống nước.
Tam Tạng ngó thấy hai trái ấy, thì run lập cập và ngồi dang ra xa ba thước, mà nói rằng:
– Bạc ác thì thôi! Năm nay mùa màng đặng lắm, làm sao đến nỗi ăn thịt người? Ðó là hai đứa con nít mới sanh chưa đặng ba ngày. Sao lại biểu tôi ăn mà uống nước? Thanh Phong nghe nói nghĩ thầm rằng:
– Ông Hòa Thượng này thai phàm mắt thịt, nên không biết trái nhơn sâm.
Minh Nguyệt thưa rằng:
– Trái này gọi là nhơn sâm quả, ở trên cây sanh ra.
Tam Tạng rằng:
– Ðừng có nói xàm. Lẽ nào cây lại sanh người đặng? Không ai ăn mà ép, hãy dẹp cho mau.
Hai người thấy Tam Tạng một hai không chịu ăn, túng phải bưng vào phòng mà thương nghị.
Thanh Phong nói:
– Ðường Tăng không biết trái nhơn sâm. Thôi, anh em mình chia nhau mà hưởng. Minh Nguyệt nói:
– Phải. Bởi vì trái này để dành lâu không được. Nếu lâu nó hết giải, thì chết cứng như thây ma, ăn chẳng ngon mà lại không bổ. Tại thầy ấy vô phước, nên anh em mình mới đặng nhờ.
Nói rồi mỗi người ăn một trái.
Nói về Bát Giới nấu cơm trong nhà bếp, cũng dựa bên đạo phòng, lóng tai nghe hai người đồng tử hối nhau: Lấy móc vàng mâm đỏ mà hái nhơn sâm.
Sau lại nghe nói:
– Ðường Tăng không biết trái nhơn sâm. Thôi, anh em mình chia nhau mà hưởng. Bát Giới nghe nói thèm chảy nước giải, ước phải chi có một trái mà ăn.
Xãy thấy Hành Giả dắt ngựa tới, buộc trên nhánh cây.
Bát Giới ngoắt lia ngoắt lịa.
Hành Giả bước tới, Bát Giới nói rằng:
– Ðây có một món bữu bối, anh biết hay không?
Hành Giả hỏi:
– Bữu bối gì ở đâu?
Bát Giới nói:
– Anh biết nhơn sâm quả hay không?
Hành Giả nói:
– Tuy ta chưa thấy, mà nghe người nói: Nhơn sâm quả là Thảo huờn đơn, nếu ăn nó thì sống lâu lắm. Mà ở đâu có bây giờ?
Bát Giới nói:
– Hai đạo đồng dâng hai trái cho thầy. Thầy không biết là trái nhơn sâm; chẳng hề động tới. Hai thầy khốn nạn quá. Phải chi thầy không hưởng, thì nó hiến cho mình. Té ra hai đứa đem nhơn sâm vào phòng, nuốt ọt với nhau hết trọi! Chúng ta không đặng một miếng, cũng nên hái trộm mà ăn.
Hành Giả nói:
– Chuyện ấy dễ như chơi, để ta đi hái.
Nói rồi liền chạy.
Bát Giới niu lại nói rằng:
– Tôi nghe nó nói phải lấy móc vàng mới hái đặng, mình phải sắm cho sẳn sàng. Hành Giả nói:
– Ta hiểu rồi.
Liền tàng hình vào phòng, không thấy đạo đồng ở đó. Ngó quanh ngó quất. Thấy trên song có móc một cây móc vàng dài ước chừng hai thước, lớn bằng ngón tay cái mà thôi. Trên có cái vòng bằng nhung, dưới cán có củ tỏi, chắc Kim bích là vật này. Vì có vòng để móc vào mà giựt. Lấy rồi ra cửa sau ra tới vườn huê, đi khỏi vườn huê tới vườn rau cải, đi khỏi vườn cải thấy có cửa ngăn. Mở cửa ngăn ra, thấy một cây Ðại thọ.
Thiệt là: Cây thơm bát ngát, lá rậm diềm dà, coi cho kỹ thì lá như lá chuối, cây cao ngàn thước, đo giáp vòng 70 thước dư.
Hành Giả đứng dưới gốc ngó lên thấy nhánh bên nam có một trái, coi như đứa con nít, sau đuôi có cuốn dính trên nhánh cây. Chân tay đều cử động. Lắc đầu nhăn mặt, nghe xa xa như tiếng khóc la.
Hành Giả mùng quýnh nói:
– Thiệt ta chưa từng thấy!” Nói rồi nhảy dựng lên cầm móc vàng mà giựt. Thấy rụng xuống một trái, nhảy bổ theo liền. Kiếm hèn lâu không đặng.
Hành Giả nói:
– Dầu nó có cẳng, chạy cũng nội khoản này. Vì cớ nào mà kiếm hoài không đặng! Chắc là Thổ Ðịa giữ vườn, không cho ta hái trộm, nên lén giấu đi.
Nghĩ rồi liền bắt ấn, niệm thần chú ám tự, thâu Thổ Ðịa tức thì.
Khi ấy Thổ Ðịa đến làm lễ hỏi rằng:
– Ðại Thánh đòi tiểu thần tới, có dạy chuyện chi?
Hành Giả nói:
– Ngươi há không biết Lão Tôn là ăn cướp tổ hay sao, năm xưa ta ăn trộm bàn đào, uống vụn ngự tửu, lại ăn cắp thuốc Linh đơn, chẳng ai dám chia của tang với ta hết thảy. Giá gì nay ta lén hái một trái nhơn sâm quả, mà ngươi chặn lận của ta? Vả chăng trái ấy ở trên cây, chim cũng ăn, dầu ta ăn một trái lại can chi? Cớ sao ta mới làm rớt xuống đây, lẽ nào ngươi giựt ngược?
Thổ Ðịa nói:
– Xin Ðại Thánh miễn chấp tiểu thần, sự ấy rất oan cho tôi lắm! Bửu bối ấy là vật Ðịa tiên, còn tôi là quỷ tiên lấy làm sao đặng? Chẳng những là cầm không đặng, thiệt vô phước chưa đặng hưởng lần nào.
– Ðại Thánh biết nó là vật trường thọ. Mà chưa rõ nó có kị ngũ hành.
Hành Giả nói:
– Nó kị những vật gì?
Thổ Ðịa nói:
– Trái này gặp hơi vàng thì rụng, cây đụng đến thì khô, gần lửa thì cháy đen, rớt xuống đất thì lặn mất. Nên phải dùng đồ vàng mà móc nó, nếu để gần hơi cây thì mất nước, ăn cũng không hay, nếu muốn ăn thì để nó vào đồ sành, chế nước lạnh vào thì tan ra nước mà uống. Tuy đất này bốn muôn bảy ngàn năm, cứng hơn sắt, dùi khoan không phủng, mà nó chun xuống như chơi. Bởi vậy ăn nó thì sống lâu lắm.
Hành Giả không tin lời ấy, lấy thiết bảng đập xuống đất, nghe kêu một tiếng, thiết bảng dội lên mà đất không có dấu!
Hành Giả nói:
– Kỳ lắm, kỳ lắm! Làm ngươi bị rầy oan rầy ức, thôi ngươi trở về đi.
Thổ Ðịa vâng lời biến mất.
Khi ấy Hành Giả tính ra kế. Liền cầm móc leo lên, một tay móc nhơn sâm một tay kéo áo ra hứng, bọc đặng ba trái, chạy riết về trù phòng, nói với Bát Giới rằng:
– Của này không phải của riêng, nếu ăn lén Sa Tăng thì dở lắm. Hãy kêu một tiếng cho mau!
Bát Giới ngoắt Sa Tăng vào nhà bếp.
Hành Giả dở bọc hỏi rằng:
– Em biết vật gì đó hay không?
Sa Tăng nói:
– Ấy là nhơn sâm.
Hành Giả nói:
– Thiệt hay lắm, em đã biết trái nhơn sâm, khi trước ăn tại đâu mà rõ?
Sa Tăng nói:
– Tôi tuy chưa ăn nó, mà hồi làm Quyện Liêm đại tướng, thường thấy các tiên ngoài biển đem dâng cho Ngọc Hoàng, song chưa ăn đặng. Ðại ca cho tôi xin một chút, đặng nếm cho biết mùi!
Hành Giả nói:
– Không cần xin một chút làm chi, cứ ba anh em mỗi người một trái.
Bát Giới lấy một trái, nhấp vào cái rồi nuốt, lật đật không kịp nhai.
Liền hỏi rằng:
– Sư huynh sư đệ, hai người ăn nó ra làm sao?
Hành Giả nói:
– Ngươi ăn trước hết thảy, còn trở lại hỏi ai.
Bát Giới nói:
– Tôi ăn mau quá, chẳng biết có hột hay không? Tôi nhấp sơ rồi nuốt trọng. Anh ôi! Hễ làm ơn thì làm ơn cho trót. Kiếm thêm một trái nữa, tôi ăn thủng thẳng cho biết mùi.
Hành Giả nói:
– Bụng ngươi tham không cùng, biết bao nhiêu cho đủ? Mình cũng có phước lắm mới ăn đặng một trái này. Thôi thôi đã đủ rồi, đừng có đòi nữa.
Nói rồi đứng dậy lấy Kim bích quăng vào lỗ song.
Còn Bát Giới cứ cằn nhằn cẳn nhẳn nói hoài, cũng có bấy nhiêu chuyện.
Vừa lúc hai đạo đồng trở lại đạo phòng, nghe Bát Giới cằn nhằn:
– Ăn trái nhơn sâm uổng miệng quá! Phải được một trái nữa ăn mới biết mùi.
Thanh Phong nghe nói nghi rằng:
– Minh Nguyệt! Em nghe hòa thượng mỏ dài nói đó không? Giống gì mà phải được một trái nữa ăn mới biết mùi. Khi thầy đi có dặn rằng: Phải phòng lũ học trò ăn cướp. Có khi nó hái trộm nhơn sâm chăng.
Minh Nguyệt ngó ngoái lại nói rằng:
– Không xong rồi anh ôi! Cây kim bích sao rơi xuống đất? Mình ra vườn xem thử thể nào.
Hai người đi ra thấy cửa vườn đã mở, coi đếm lại còn có hai mươi hai trái.
Minh Nguyệt nói:
– Nó hết thảy là ba mươi trái, thầy hái hai trái chia nhau mà ăn, lại còn hái hai trái mà đãi Tam Tạng, thì còn hai mươi sáu trái rõ ràng sao mất hết bốn trái, chắc là các sãi trọc ăn cắp rồi. Thôi cứ vô nhiếc Ðường Tăng thì ra mối.
Nói rồi hai người vào chỉ mặt Tam Tạng mà mắng trọc ơi trọc hỡi hơn một hồi, Tam Tạng nghe không hết mới hỏi rằng:
– Chuyện chi mà Tiểu đồng rầy dữ vậy?
Thanh Phong nói:
– Thiệt là ngươi điếc, người ta mắng nhiếc mà không nghe, ăn vụn trái nhơn sâm, mà không cho người ta nói!
Tam Tạng nói:
– Tôi có biết trái nhơn sâm ra làm sao! Xin chớ nói oan mang tội.
Minh Nguyệt nói:
– Tôi đem cho thầy ăn thầy nói in đứa con nít, mới đó đã quên lững hay sao?
Tam Tạng nói:
– Mô Phật, thấy trái đó đà thất kinh hồn vía, tôi nào dám động tới đâu, xin đừng nói tôi ăn vụn vật này mà mang tội.
Thanh Phong nói:
– Tuy thầy không ăn, ngặt học trò thầy nó ăn vụng.
Tam Tạng nói:
– Có khi phải đó. Thôi đừng có rầy, để tôi hỏi lại, như quả nó ăn cắp, bắt nó lạy mà chịu lỗi với hai ông.
Tam Tạng liền kêu ba người đồng lên biểu.
Sa tăng nói:
– Không xong rồi, chắc sự nhơn sâm đã lậu!
Hành Giả nói:
– Mắc cở chết đi mà thôi! Chịu tiếng ăn vụng, xấu hổ biết dường nào, chi bằng chối phứt cho xong, không tang án gì mà sợ?
Nói về ba anh em đến trước đền, Tam Tạng hỏi rằng:
– Ðồ đệ! Trong am này có trái nhơn sâm, mà đứa nào ăn cắp?
Bát Giới nói:
– Tôi thiệt không biết.
Hành Giả đứng chúm chiếm Thanh Phong nói:
– Ai cười thì nấy ăn vụng.
Hành Giả hét rằng:
– Trời sanh cái bộ miệng ta vui vẻ, mới ngó tưởng là cười. Chớ ai biết nhơn sâm ra làm sao mà ngươi nói nhận diện!
Tam Tạng nói:
– Ðồ đệ, mình là người tu hành, chẳng nên nói dối, ăm làm chi những vật sau lưng! Như có ăn lỡ rồi, thì lạy người ta mà chịu lỗi. Ðể chối cãi làm chi.
Hành Giả thấy thầy nói phải, liền thưa thiệt rằng:
– Chuyện này không phải tại tôi. Bởi Bát Giới thấy hai người đạo đồng ăn, nên biểu tôi kiếm mà nếm cho biết, tôi hái ba trái về chia ba người ăn. Bây giờ biết làm sao mà liệu?
Minh Nguyệt nói:
– Ăn vụng của người ta hết bốn trái, mà thầy còn nói không phải học trò ăn cướp hay sao?
Bát Giới nói:
– Mô Phật, hái trộm bốn trái mà đem về có ba trái mà chia. Ðã dính tay hết một trái. Coi ai nặng tội hơn?
Bát Giới cứ cằn nhằn như vậy mãi.
Còn hai đồng tử hỏi ra quả tang chánh án, càng mắng nhiếc hơn xưa.
– Hai thằng nhỏ thiệt đáng ghét quá chừng. Ðể ta làm tuyệt hậu, báo hại cho chúng nó hết ăn trái nhơn sâm.
Nghĩ rồi, nhổ một cái lông sau ót, biến ra Ngộ Không giả đứng cùng Bát Giới, Sa Tăng, còn mình xuất thần ra vườn nhơn sâm, cầm thiết bảng nhảy dựng lên, đập nhơn sâm rụng hết phân nữa. Rồi chuyển thần lực xô trốc gốc cây nhơn sâm.
Thiệt là:
Nhơn sâm trốc gốc bầy trơ rễ,
Ðạo sĩ nhăn răng chịu chết thèm.
Hành Giả xô ngã cây nhơn sâm, coi lại không còn một trái. Vì thiết bảng có bịt vàng nên đụng nhằm thì rụng. Khi ngã xuống đất thì nhập thổ, nên còn cây lá mà thôi. Hành Giả nói:
– Như vậy mới hết tức mình.
Nói rồi hiện về như cũ.
Nói về hai đồng tử mắng một buổi trọn, mấy thầy trò làm thinh mà chịu.
Thanh Phong nói:
– Minh Nguyệt, ta coi các hòa thượng chịu lì không nói lại. Có khi không phải hái bốn trái chăng, thế tại lá rậm che khuất nên đếm sai một trái. Hãy ra coi lại, kẻo mắng hiếp người ta.
Minh Nguyệt nói phải.
Hai anh em đi tới cửa vườn, thấy cây nhơn sâm trốc gốc gãy nhánh, rụng là hết trái. Hai người chết điếng.
Hai đạo đồng nhào xuống đất kinh hãi nhưng biết làm sao cho đặng.
Hai người chắc lưỡi than dài.
Thanh Phong nói:
– Cây thuốc tiên chết rồi, thầy về hỏi trả lời sao đặng?
Minh Nguyệt nói:
– Xin sư huynh đừng kinh hãi. Nhắm không ai vô đây? Chắc là hòa thượng mặt nhiều lông, làm ra công chuyện đó. Nếu cãi lẫy với nó, ắt là đánh lộn chớ chẳng không, mình có hai anh em, cự sao lại bốn hòa thượng. Chi bằng chịu lỗi, gạt nó như vầy: Nhắm chừng nó nấu cơm đã xong, ta đem đồ ăn cho nó. Ðợi ngồi mâm thì đóng cửa. Cầm lại đó mà đợi thầy về. Thầy xử lẽ nào tự ý.
Thanh Phong khen phải, đồng mừng rỡ trở vào.
Khi ấy Thanh Phong, Minh Nguyệt đến lạy Ðường Tăng mà chịu lỗi rằng:
– Khi nãy anh em tôi nói xúc phạm nhiều lời, xin sư phụ miễn chấp.
Tam Tạng hỏi:
– Vì cớ nào mà chịu lỗi?
Thanh Phong nói:
– Trái nhơn sâm chẳng hề mất. Bởi lá rậm nên coi chẳng phân minh. Tôi mới đếm lại rõ ràng còn nguyên hiện.
Hành Giả nghe nói lấy làm lạ nghĩ rằng:
– Cây trái đã tang hoang, sao lại nói còn nguyên hiện. Hay là cây ấy, có phép cải tử hoàn sanh?
Tam Tạng nói:
– Như vậy thì mình dọn cơm mà ăn!
Bát Giới đi dở cơm đem dọn.
Hai tên đồng tử bưng phụ đồ ăn, lại nấu một bình trà ngon mà hờ đó.
Bốn thầy trò mới cầm đũa, hai đồng tử đóng cửa khóa liền.
Bát Giới cười rằng:
– Phong tục ở đây lạ lắm, ai đời ăn cơm còn sớm, mà đóng cửa bao giờ?
Minh Nguyệt nói:
– Phải, phải. Ăn cơm rồi sẽ mở cửa.
Thanh Phong mắng rằng:
– Sãi trọc chết thèm ăn vụng, là một tội rồi, sao lại dám cả gan xô gãy cây nhơn sâm, làm mất giống linh trong ám báu, hỡi còn nói lẻ hay sao? Hoặc đầu thai kiếp khác, mới đi tới Tây Phương, chớ kiếp này hết kể.
Tam Tạng nghe nói, thất kinh nghẹn họng, buông đũa thôi ăn.
Hai đồng tử đóng ba vòng cửa, mắng hơn một buổi, rồi vào phòng khóa cửa nghỉ ngơi.
Còn Tam Tạng tức tối, nhiếc Ngộ Không rằng:
– Thằng mặt khỉ tới đâu cũng gây họa. Ðã ăn vụng lỡ thì người ta mắng nhiếc cũng phải nghe, có lẽ nào lại hại cây người cho tuyệt giống, nếu chuyện này chúng kiện, dầu ông già mi làm quan xử đoán cũng không lẽ vị tình.
Hành Giả nói:
– Thôi mà, thầy đừng có ngầy lắm! Trời tối hai đứa nó vào phòng hết, đợi nó ngủ mình sẽ trốn mà đi.
Sa Tăng nói:
– Anh ôi! Ba vòng cửa nó khóa hết, lại giấu chìa khóa rồi, mở làm sao cho đặng? Hành Giả cười rằng:
– Không cần gì hết. Lão Tôn có phép thần thông.
Bát Giới nói:
– Ai không biết anh có phép? Anh hóa ra đỉa bò cũng được, hóa ra muổi bay cũng như chơi, ngặt chúng tôi không biết làm sao, phải giơ đầu mà chịu tội.
Tam Tạng nói:
– Nếu nó không đem chúng ta ra hết, thì ta niệm thần chú ngày xưa, coi nó chịu nổi không cho biết.
Bát Giới nghe nói hỏi rằng:
– Thưa thầy, thần chú chi ngày xưa?
Hành Giả nói hớt rằng:
– Bởi em không rõ. Cái niền trên đầu ta, nguyên Quan Âm Bồ Tát truyền cho thầy, thầy gạt ta đội lên, nó dính vào thịt. Hễ niệm thần chú thì niền ấy bóp lại gần bể đầu, nhờ phép thầy trị ta mới đặng. Thầy đừng niệm làm chi cho mệt, bề nào tôi cũng đem ra.
Coi lại trời đã khuya rồi, đạo đồng ngủ hết, Hành Giả nói:
– Bây giờ phải thời đi lắm.
Nói rồi cầm thiết bảng chỉ lên ống khóa, làm phép giải tỏa mở các cửa tức thì.
Tam Tạng lên yên, Sa Tăng dắt ngựa.
Bát Giới gánh đồ hành lý đồng theo Ðại Thánh ra khỏi viện Ngủ trang.
Khi ấy Hành Giả nói:
– Khi tôi làm Tề Thiên đại thánh cỏi tiên, tôi đặt vận ăn cuộc với Tăng trưởng thiên vương. Tôi ăn đặng ít con buồn ngủ, gọi là Hạt thóa trùng. Hễ cho đậu trên con mắt thì buồn ngủ. Ðể tôi trở lại cho hai thằng nhỏ ngủ một tháng cho biết chừng.
Nói rồi đến cửa phòng bắt hai con buồn ngủ quăng vào lỗ song, giống ấy cứ kiếm con mắt người ta mà đậu. Hai người ngủ như say như chết, rồi Hành Giả chạy theo Tam Tạng.
Ðêm ấy ngựa đi không ngừng vó, tới trời sáng mới dừng.
Tam Tạng nói:
– Trời đã sáng rồi, thầy ngồi dựa cội cây mà nghỉ.
Tam Tạng xuống ngựa ngồi dựa cội tòng, còn Bát Giới, Sa Tăng đặt lưng liền ngủ. Còn Hành Giả nhảy thót lên cây.
Nói về Trấn Nguơn đại tiên nghe Nguơn Thủy giảng kinh xong xả, liền dắt đệ tử về am, thấy cửa mở khắp nơi, đèn hương tắt hết. Trước sau không thấy bóng người! Vào đến thấy cửa phòng đóng chặt, hai đạo đồng nằm ngủ li bì! Còn học trò vỗ cửa mà kêu không dậy! Cạy cửa ra kéo hai trò xuống. Cũng mê man như say.
Trấn Nguơn cười rằng:
– Tiên đồng hay quá! Thánh tiên thì tinh thần no đủ, không hề ngủ khi nào, chắc cũng bị ai khuấy chi đó, mới ngủ vùi như vậy.
Nói rồi truyền đệ tử múc nước, niệm chú rồi phun nước vô mặt, hai trò ấy tỉnh liền. Thanh Phong, Minh Nguyệt ngó thấy thầy về động, đồng quỳ lạy thưa rằng:
– Người quen lớn của thầy là sãi Ðông Ðộ mới qua, thiệt là một bầy ăn cướp. Rõ ràng là chánh đảng, chớ không phải lâu la!
Trấn Nguơn đại tiên cười rằng:
– Chuyện chi dữ vậy?
Thanh Phong Minh Nguyệt thuật chuyện lại, và tức mình quá khóc ròng.
Trấn Nguơn đại tiên nổi giận nói rằng:
– Nín đi, đừng khóc, bởi chúng bây không biết họ Tôn; thần thông quảng đại, năm xưa làm phản thiên cung, chúng bây có biết mặt người hại cây báu hay không?
Thanh Phong thưa:
– Biết.
Trấn Nguơn đại tiên nói:
– Biết mặt thì đi theo ta. Còn các trò sắm sửa dây roi, đặng ta bắt đem về khảo. Các tiên đồng vâng lệnh sửa sang.
Khi ấy Trấn Nguơn đại tiên bắt Minh Nguyệt Thanh Phong, đằng vân theo Tam Tạng.
Ði hơn một ngàn dặm ngó không thấy Ðường Tăng.
Ngó ngoái trở lại phía Ðông, Minh Nguyệt Thanh Phong ngó thấy Tam Tạng, liền thưa rằng:
– Ðường Tăng ngồi dựa cội tòng kia kìa.
Trấn Nguơn đại tiên nói:
– Ta đi quá hơn chín trăm dặm, phải không ngó lại, thì kiếm không ra!
Nói rồi biến ra ông đạo sĩ đi đường, tay cầm cái phất chủ.
Ði đến cội tòng nói lớn rằng:
– Tôi chào thầy đó.
Tam Tạng đáp lễ vừa rồi, đạo sĩ hỏi:
– Thầy ở đâu đến đây?
Tam Tạng nói:
– Tôi ở Ðông Ðộ Ðại Ðường vâng chỉ đi thỉnh kinh bên Phật.
Ðạo sĩ làm bộ kinh hãi hỏi rằng:
– Thầy có đi ngang núi tôi chăng?
Tam Tạng nói:
– Không biết núi thầy ở gọi là núi chi?
Ðạo sĩ nói:
– Am Ngũ Trang tại núi Vạn Thọ.
Hành Giả nói hớt rằng:
– Không biết, không biết, chúng tôi cứ đường thẳng mà đi.
Ðạo sĩ điểm mặt Hành Giả mà cười rằng:
– Con khỉ này nói giấu ta sao đặng. Mi đến am ta, ăn trái nhơn sâm cho đã, rồi lại giết gốc nhổ cây, mi trốn cả đêm nay, hãy còn chối phức! Ðố ngươi đi đâu cho đặng, phải bắt đền cây nhơn sâm cho ta.
Hành Giả nghe nói nổi xung, giơ thiết bảng liền đập.
Ðạo sĩ nhảy lên trên không hiện ra hình thiệt, Hành Giả nhảy theo đập hoài.
Trấn Nguơn đưa phất chủ đỡ mãi, liền giũ tay áo một cái, thâu bốn thầy trò và ngựa với gánh đồ, liền bay về am.
Kêu học trò đem dây ra cho sẳn, bắt từ người trong tay áo đưa ra, mới thấy còn nhỏ như hình hát bội đem ra ngoài lớn như người ta.
Truyền buộc bốn thầy trò vào bốn gốc cột, đóng nọc buộc con ngựa tại căn giữa, gánh đồ để một bên, bảo học trò lấy roi da ra, đánh hòa thượng một hồi, vì sự Huờn đơn thảo.
Khi ấy học trò vào lấy roi da rồng nhún nước, rồi thưa rằng:
– Ðánh người nào trước?
Trấn Nguơn đại tiên nói:
– Ðường Tăng Tam Tạng là thầy cả, mà không biết dạy học trò, thì cứ thầy đánh trước.
Hành Giả hét rằng:
– Thầy nói sai lắm! Tôi hái trộm, tôi ăn vụng, tôi xô gãy cây nhơn sâm sao lại không đánh tôi, để ăn hiếp thầy cả.
Trấn Nguơn đại tiên cười rằng:
– Con khỉ này thiệt gan ruột quá chừng, thôi bây đánh nó trước.
Tiểu tiên nói:
– Thưa thầy, đánh mấy chục roi?
Trấn Nguơn đại tiên nói:
– Ðánh ba chục mà thôi.
Tiểu tiên vâng lời giá roi liền đánh.
Hành Giả thấy roi lớn quá, trợn con mắt coi đánh tại đâu, chẳng ngờ cũng đánh đích. Hành Giả biến ra da sắt mà chịu đòn, đánh ba chục roi thì trời mới đứng bóng, Trấn Nguơn đại tiên biểu đánh Tam Tạng, vì tội dạy không nghiêm để học trò gian ác. Hành Giả nói:
– Thầy nói hiếp quá! Hồi tôi ăn cắp thầy tôi cũng không hay. Ví dầu có tội chi, tôi là phận học trò xin chịu thế, có đánh bao nhiêu nữa thì đánh tôi đi.
Trấn Nguơn đại tiên khen rằng:
– Con khỉ yêu tuy là gian xảo, mà cũng có hiếu nghĩa với thầy. Vậy thì y theo lời nó xin, đánh thêm ba chục nữa.
Tiểu tiên vâng lệnh đánh y số mới thôi.
Tôn Hành Giả không biết đau chút nào. Dòm sau đít sáng trưng như mặt kiếng.
Khi ấy trời gần tối Trấn Nguơn đại tiên nói:
– Thôi, đem roi ngâm nước một đêm, để mai sẽ đánh nữa.
Ðệ tử vâng lệnh. Rồi đâu đó về phòng.
Còn Tam Tạng khóc ròng than rằng:
– Tại chúng bây làm nhăn, mà báo ta mắc nạn. Bây giờ mới tính làm sao?
Tôn Hành Giả nói:
– Ðừng có cằn nhằn, đợi họ ngủ rồi sẽ trốn nữa.
Ðêm khuya ai nấy ngủ hết.
Tôn Hành Giả biến hình nhỏ, vuột dây ra.
Trước mở trói cho thầy, sau mở cho Sa Tăng Bát Giới. Tam Tạng cỡi ngựa, Sa Tăng gánh đồ.
Hai người mở cửa động đi trước.
Còn Tôn Hành Giả biểu Bát Giới, đốn bốn cây dương, trãi nhánh xong xả, đem vào buột vô bốn gốc cột như cũ.
Tôn Hành Giả niệm thần chú, rồi cắn lưỡi chảy máu phun trên bốn khúc dương.
Hóa ra hình bốn thầy trò, không sai một mảy. Hỏi cũng biết đáp lại như người. Xong rồi Tôn Hành Giả với Bát Giới đóng cửa động như thường, nhảy ra chạy theo Sa Tăng, Tam Tạng.
Ðêm ấy ngựa không ngừng vó, người chẳng nghỉ chân.
Ði tới sáng trắng, Tôn Hành Giả thấy thầy ngủ gục trên lưng ngựa.
Sợ rủi ro té xuống mà khó lòng. Nên kiếm thạch bàn dựa bóng cây, thầy trò đồng nghỉ.
Rạng ngày Trấn Nguơn đại tiên kêu học trò thức dậy.
Ăn cơm mai xong rồi, Trấn Nguơn truyền học trò lấy roi đánh bốn sãi mỗi người ba chục!
Tiểu tiên vâng lệnh. Xách roi ra nói với TamTạng rằng:
– Bữa nay đánh ngươi trước.
Giả Tam Tạng hỏi:
– Ðánh tôi sao?
Tiểu tiên đánh ba chục.
Rồi lại nói với Bát Giới rằng:
– Bây giờ đánh Hòa Thượng mỏ dài.
Bát Giới hỏi:
– Ðánh tôi phải không?
Tiểu tiên cũng đánh y số.
Rồi nói:
– Bây giờ đánh Hòa Thượng mập.
Giả Sa Tăng cũng nói y như vậy.
Tiểu tiên đánh thẳng tay.
Rồi đánh tới giả Tôn Hành Giả.
Thì Tôn Hành Giả thiệt đương ngủ vùng phát lãnh giựt mình nói rằng:
– Không xong! Không xong! Ta ngỡ là hôm qua đánh đã hai lần sáu chục. Bữa nay nó chừa ta. Nên dùng máu lưỡi mà hóa bốn thầy trò. Ai dè nó đánh ta, đau lưỡi quá chịu sao cho nỗi.
Nói rồi thâu phép, hết run hết rét tức thì.
Còn Tiểu tiên mới đánh giả Tôn Hành Giả ba roi, coi lại không phải bốn thầy trò, thiệt bốn gốc dương liễu. Liền vào thưa tự sự với thầy.
Trấn Nguơn đại tiên cười hả hả nói rằng:
– Tôn Hành Giả là một con khỉ yêu nghiệt. Ðã trốn thì thôi ta cũng kiếm. Sao lại đem dương liễu hóa mình chịu thế, khi ta không biết hay sao. Nói thiệt dung mi không đặng.
Nói rồi đằng vân ngó xuống. Thấy thầy trò đi lại hướng Tây.
Trấn Nguơn đại tiên kêu lớn nói rằng:
– Tôn Hành Giả chạy đi đâu cho khỏi? Phải bắt đền cây nhơn sâm cho ta.
Bát Giới nghe kêu lớn, kinh hãi nói rằng:
– Chủ nợ đà theo đệ!
Tôn Hành Giả nói:
– Xin thầy gói hai chữ từ bi lại. Ðể anh em tôi cầu siêu độ cho thầy ấy, thì đi đến Tây phương.
Tam Tạng run lập cập, chưa kịp trả lời.
Ba anh em đằng vân áp đánh.
Khi ấy Trấn Nguơn đại tiên đưa phất chủ ra đỡ. Rồi cũng giũ tay áo, bắt như xưa. Ðem về bắt Tam Tạng ra biểu cột tại gốc hòe. Còn Bát Giới Sa Tăng cột vào hai cây đại thọ. Có một mình Tôn Hành Giả thì trói dộng đầu tại cây cau. Truyền đệ tử lấy mười in vải.
Tôn Hành Giả xem thấy cười rằng:
– Bát Giới! Ông đại tiên tử tế lắm. Ðem vải may áo cho bọn mình, còn dư xé khăn lau miệng nữa.
Nói về Trấn Nguơn đại tiên truyền đệ tử lấy vải vấn cùng mình bốn sãi. Chừa từ cổ sắp lên.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Tưởng là may áo, không dè đại liệm!
Khi ấy các tiểu tiên vấn rồi hết, Trấn Nguơn truyền đem sơn sống sơn chín, tô ngoài vải dày mo. Rồi bảo đem chảo lớn nấu dầu cho sôi, quyết nấu Tôn Hành Giả mà báo cừu cây nhơn sâm.
Tôn Hành Giả nghe nói mừng thầm rằng:
– Mình lâu tắm gội xót ngứa lắm. Sẳn dịp nấy tắm chơi luôn thể, song nghĩ lại Ðại tiên phép nhiệm, không biết có bùa chú ếm chăng, dầu mình chẳng hề gì, e thầy với hai em phải chết.
Nghĩ rồi ngó bốn phía, thấy con sư tử đá bên mái tây. Liền lăn đến đó, cắn lưỡi chảy máu; phun thạch sư tử mà biểu rằng: “Biến biến”. Thiệt biến như hình Hành Giả, còn Tôn Hành Giả tàng hình ẩn trên mây.
Giây phút Tiểu tiên vào thưa rằng:
– Chảo dầu đã sôi rồi.
Trấn Nguơn đại tiên truyền quăng Tôn Hành Giả vào vạc dầu nấu cho rục.
Bốn tiên đồng khiêng Tôn Hành Giả không nổi, phụ thêm bốn người nữa, đỡ cũng không lên.
Lần lần tới mười hai người cũng không nổi, các tiên đồng nói rằng:
– Con khỉ nhỏ mà nó nặng quá tay, miết xuống đất như sắt!
Nói rồi áp lại cộng hai mươi người, rán hết hơi khiêng mới nổi.
Quăng vào chảo nghe một cái cảng!
Dầu văng phỏng mặt các tiên đồng.
Người chụm lửa la lớn rằng:
– Lủng chảo rồi; chảy dầu lai láng.
Coi lại con thạch sư tử nằm trong chảo, không biết Tôn Hành Giả biến đi đâu!
Khi ấy Trấn Nguơn đại tiên ra xem, thấy vậy nổi nóng nói rằng:
– Con khỉ khốn nạn này, thiệt là vô lễ dám diễu trước mặt ta, đã trốn khỏi thì thôi, sao lại hại cho bể chảo; thôi thôi bỏ nó đi cho rảnh. Thay chảo khác, nấu dầu Tam Tạng mà báo cừu cây nhơn sâm.
Nói về Tôn Hành Giả ở trên mây nghe nói như vậy, liền hiện xuống trước mặt Trấn Nguơn đại tiên, bái mà nói rằng:
– Ðừng có nấu dấu thầy tôi, để tôi chịu thế.
Trấn Nguơn đại tiên mắng rằng:
– Mi là con khỉ yêu nghiệt, sao hại lủng chảo ta.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Nếu ông không nấu dầu tôi, thì sao đến nổi lủng chảo ngã lò tắt bếp. Phải tại tôi hay sao? Thiệt tình tôi cũng muốn vào chảo mà tắm dầu. Ngặt mắc đại tiện thốn tới, sợ làm bậy trong chảo, nữa sau ông nấu đồ ăn không ngon. Nay xuất cung (đi đại tiện) đã sạch sẽ rồi, nên vào thế cho thầy, kẻo oan và tội nghiệp.
Trấn Nguơn đại tiên nghe nói nổi giận cười gằn, liền bắt Tôn Hành Giả.
Khi ấy Trấn Ngươn đại tiên nắm Tôn Hành Giả mà nói rằng:
– Ta cũng biết ngươi thần thông quảng đại. Song bởi ngươi vô lễ quá, dầu hay biến hóa cũng ra không khỏi tay áo ta. Vậy ngươi đi với ta đến Tây Phương ra mắt Phật Tổ, thử coi ngài xử ngươi phải thường cây nhơn sâm cho ta chăng? Không lẽ ngươi ngang tàng, mà cãi lẽ cho đặng.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Ông thiệt là người nhỏ mọn lắm! Muốn cây nhơn sâm sống lại có khó gì, sao ông không nói trước cho rành, để mất công tranh đua cho mất công dữ vậy?
Trấn Nguơn đại tiên nói:
– Ta chẳng tranh nhỏ mọn, thiệt là uổng cây nhơn sâm.
Tôn Hành Giả nói:
– Nếu ông thả thầy và hai em tôi, thì tôi bắt đền cây nhơn sâm sống lại.
Trấn Nguơn đại tiên nói:
– Nếu đặng như vậy thì ta kết làm anh em với ngươi.
Tôn Hành Giả nói:
– Thì ông thả đi, tôi chẳng hề thất tín.
Trấn Nguơn đại tiên nhắm bốn thầy trò dầu trốn đâu cũng không khỏi, truyền tha hết một lần.
Nói về Tam Tạng tuy khỏi trói mà còn nghi không chắc, liền hỏi Tôn Hành Giả rằng: – Ngươi làm sao cho cây nhơn sâm sống lại?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Tôi đi qua Ðông Dương đại hải, tìm Thánh Lão tiên ông, kiếm cho đặng phương phép khởi tử huờn sanh, về cứu cây ấy.
Tam Tạng hỏi:
– Ngươi đi mấy bữa mới về?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Nội ba ngày thì về đến.
Tam Tạng nói:
– Ta cũng y như lời hẹn, nếu quá bữa thì niệm chú tức thì.
Tôn Hành Giả vâng lời cân đẩu vân bay mất.
Khi ấy Tôn Hành Giả qua Ðông Dương đại hải, đến núi Bồng Lai, thấy ngoài cửa động Bạch Vân có ba ông tiên đương đánh cờ dưới cội tòng, coi lại là: Phước Tinh với Lộc Tinh, còn Thọ Tinh ngồi coi thắng bại.
Tôn Hành Giả bước tới bái mà nói rằng:
– Chào các em đó.
Tam Tinh xô bàn cờ, đáp lễ hỏi rằng:
– Ðại Thánh đến có chuyện chi?
Tôn Hành Giả nói:
– Ở không vô sự, nên đến thăm chơi.
Thọ Tinh nói:
– Tôi nghe rằng Ðại Thánh theo Thích, bảo hộ Tam Tạng đi thỉnh kinh, sao lại ở không đi dạo?
Tôn Hành Giả nói:
– Thiệt tình không dám giấu các vị; bởi ta nữa đường gặp việc, nên đến cậy giúp một chút, không biết chịu hay chăng?
Phước Tinh hỏi:
– Ðại Thánh gặp việc tại chốn nào?
Tôn Hành Giả nói:
– Tại am Ngũ Trang, núi Vạn Thọ.
Tam Tinh đồng cười rằng:
– Chốn ấy là cung ông Trấn Nguơn đại tiên. Có khi ăn vụng trái nhơn trái nhơn sâm chớ gì?
Tôn Hành Giả cười mà nói trây rằng:
– Dầu ăn vụng, cũng không đáng của bao nhiêu.
Tam Tinh cười rằng:
– Ông giộc này không biết khinh trọng! Trái nhơn sâm tên là Vạn thọ thảo huờn đơn. Chúng tôi còn thua Trấn Nguơn nhiều lắm. Vì mình tu luyện mới đặng TSnh. Còn người ăn một trái cũng sống lâu như trời đất. Phải là quý báu vô giá, sao gọi rằng không đáng bao nhiêu? Coi thử trong ngoài càn khôn, thử ai trồng đặng cây linh ấy?
– Tôn Hành Giả nói:
– Cây linh gì không biết, ta làm đà trốc gốc đứt rễ rồi!
Tam Tinh nghe nói thất sắc, đồng hỏi rằng:
– Làm sao mà trốc gốc đứt rễ lận?
Tôn Hành Giả thuật chuyện lại, rồi nói rằng:
– Bởi vậy tôi mới tìm đến đây, xin có thuốc chi giúp thử, làm sao cho cây nhơn sâm sống lại cứu mới đặng thầy tôi.
Khi ấy ba ông nghe nói, ngồi ngẫm nghĩ hoài, giây lâu đáp rằng:
– Phải chi Ðại Thánh đánh chết loại cầm thú hay là vật ở dưới sông, thì anh em tôi cho chút thuốc bằng móng tay, cứu cũng sống lại, chớ cây nhơn sâm là cây tiên, có thuốc chi mà làm cho sống lại đặng?
Tôn Hành Giả nghe nói, ngồi nhăn mặt buồn xo.
Phước Tinh thấy vậy nói rằng:
– Ðại Thánh phiền não làm chi? Ðây tuy không biết phương chi, chớ tìm nơi khác chắc cũng có thuốc.
Tôn Hành Giả nói:
– Ði tìm chỗ khác, cũng không khó gì, song thầy tôi độ lượng hẹp hòi, có kỳ cho tôi ba ngày, nếu quá thì niệm chú.
Thọ Tinh nói:
– Thôi, Ðại Thánh đừng lo sợ, tuy đại tiên phẩm lớn, song quen biết với chúng tôi. Hèn lâu chưa rãnh mà thăm viếng. Ðể anh em tôi đến Ngủ Trang quán trước thăm đại tiên, sau nói giùm cho Ðại Thánh. Xin Tam Tạng đừng niệm chú cẩn cô. Không biết mấy ngày, đợi Ðại Thánh kiếm đặng thuốc trở về, thì chúng tôi sẽ về.
Tôn Hành Giả mừng rỡ nói rằng:
– Ðặng như vậy tôi cám ơn lắm.
Nói rồi từ giã ra đi.
Còn Tam Tinh là Thiêm Phước, Thiêm Lộc, Thiêm Thọ, ba anh em, kẻ đằng vân người cởi hạc, bay đến am Ngủ Trang.
Các tiên đồng nghe tiếng hạc kêu, chạy ra coi thử.
Khi ấy Trấn Nguơn đại tiên đương đàm đạo vơí thầy trò Tam Tạng, xảy thấy đệ tử vào báo rằng:
– Thưa thầy, có Phước Tinh, Lộc Tinh, Thọ Tinh ở Hải thượng mới đến.
Trấn Nguơn đại tiên ra ngoài nghinh tiếp, Bát Giới thấy ông Thọ, liền níu mà cười rằng:
– Cha chả! Hèn lâu mới gặp lão sói. Sao không đội mão, coi in mọi người ta?
Thọ Tinh mắng rằng:
– Bộ mặt như heo rừng, sao dám kêu ta là mọi chúng?
Bát Giới nói:
– Nếu các ngươi không phải mọi người ta, sao thêm phước và lộc thọ cho chúng. Chẳng phải làm mọi đời hay sao?
Tam Tạng nạt Bát Giới lui riết.
Tam Tạng sửa áo ra ngoài làm lễ Tam Tinh.
Tam Tinh đồng đáp lễ rồi đồng ngồi đạo đàm với nhau.
Lộc Tinh nói:
– Chúng tôi cách Ðại tiên đã lâu, nay cam chịu lỗi. Bởi đại thánh đến động tôi nói chuyện: Làm chết lở cây nhơn sâm, nên đến tôi xin thuốc, chúng tôi không có mà cho. Nên Ðại Thánh phải đi tìm chỗ khác, sợ trễ hẹn ba bữa, Thánh tăng niệm đầu đông. Nên chúng tôi trước là đến thăm, sau xin rộng kỳ cho Ðại Thánh.
Tam Tạng nghe nói, liền dạ và thưa rằng:
– Tôi vâng lời ba ông, không dám niệm chú.
Còn Bát giới ra níu ông Thiêm Phước mà xin trái cây. Móc tay áo, lục lưng quần, kiếm không sót một chỗ.
Tam Tạng cười rằng:
– Bát Giới, mi làm cái bộ gì lạ vậy?
Bát Giới thưa rằng:
– Tại ông ấy hay làm phước, nên mới dám lục lưng.
Tam Tạng đuổi Bát Giới ra ngoài, còm mấy vị tiên ông đàm đạo với nhau.
Nói về Tôn Hành Giả đi khỏi non Bồng Lai thẳng qua núi Phương trượng.
Xảy thấy hương bay hạc ré, coi lại là Ðông Huê đế quân; Tôn Hành Giả bái chào. Ðông Huê đế quân đáp lễ nói rằng:
– Xin ghé nhà tôi uống nước.
Khi ấy Tôn Hành Giả vào động, đương ngồi uống trà.
Xảy thấy một vị đạo đồng bước ra, coi lại là Ðông Phương Sóc.
Tôn Hành Giả xem thấy cười rằng:
– Thằng ăn cắp vặt ở đây sao? Ðế quân không có trồng đào, mi hết trông ăn vụng! Ðông Phương Sóc nói chơi lại rằng:
– Tổ ăn cắp đến đây làm chi? Thầy ta không có luyện thuốc huờn đơn, có đâu mà uống vụng?
Ðông Huê đế quân nói:
– Ðông Phương Sóc đừng vô lễ, coi châm thêm nước cho mau.
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Tôi đến cầu Ðế quân làm ơn một việc, chẳng hay chịu giúp cùng chăng?
Ðông Huê đế quân hỏi:
– Chuyện chi nói thử mà nghe?
Tôn Hành Giả thuật chuyện lại, rồi thưa rằng:
Bởi cớ ấy nên đến ông mà xin thuốc.
Ðông Huê đế quân nói:
– Tôi có một thứ thuốc Cửu chuyển thái ất huờn đơn. Cứu người cải tử huờn sanh, chớ cứu cây không đặng. Phải chi cây thế gian hễ còn dễ. Chớ như núi Vạn Thọ là đất phước đức. Am Ngủ Trang là động Tiên Thiên. Cây nhơn sâm hồi lớp Bàn Cổ đến nay, nên không có phương chi mà cứu nổi.
Tôn Hành Giả nói:
– Như ông hết phương, thì lão Tôn xin kiếu.
Nói rồi đằng vân qua núi Ðinh Châu. Thấy mấy ông tiên tóc bạc mà mặt còn trai, ngồi đánh cờ dưới cây đỏ, kẻ thì uống rượu, người lại khảy đàn.
Khi ấy Tôn Hành Giả coi lại là Cữu lão.
Liền la lớn rằng:
– Chín ông già, cho tôi chơi thì đủ chục.
Cữu lão vui cười nghinh tiếp.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Các ông thiệt thanh nhàn, cầm kỳ thi họa!
Cữu lão nói:
– Phải chi trước Ðại Thánh đừng làm phản, bây giờ nhàn lạc hơn chúng tôi. Song nghe nói nay theo Ðường Tăng mà thỉnh kinh, sao còn đi dạo?
Tôn Hành Giả thuật chuyện vân vân.
Cữu lão thất kinh nói rằng:
– Thiệt Ðại Thánh hay gây họa! Chúng tôi không có thuốc chi!
Tôn Hành Giả nói:
– Chín ông không có thuốc thì thôi, tôi kiếu đi qua chỗ khác.
Cữu lão cầm ở nán ăn ngó sen uống rượu huỳnh tương, Tôn Hành Giả ăn uống rồi, giả từ qua Nam Hải.
Khi ấy Quan Âm đương giảng kinh nơi rừng Tử trước, Mộc Tra và Long Nữ đứng hầu hạ hai bên.
Quan Âm liền kêu Thủ Sơn đại thần, truyền ra rước Tôn Hành Giả.
Nói về Thủ Sơn đại thần ra khỏi kêu lớn rằng:
– Tôn Ngộ Không đi đâu đó?
Tôn Hành Giả ngó thấy, nạt lớn nói rằng:
– Con gấu điên, sao dám kêu Ngộ Không kia, Ngộ Không nọ? Nếu năm xưa ta không thứ, thì mi đã chết tại núi Hắc phong. Nay ngươi theo Quan Âm thành chánh quả rồi, đáng lẽ kêu ta bằng lão gia mới phải chớ!
Thủ Sơn đại thần cười rằng:
– Người xưa nói: Quân tử chẳng nhớ oán cũ, ông còn nhắc lại làm chi? Nay Bồ Tát sai mời ông vào trước tòa sen dạy việc.
Khi ấy Tôn Hành Giả theo Sơn thần, đến làm lễ Bồ Tát.
Quan Âm hỏi:
Ði chuyện chi?
Tôn Hành Giả bạch hết mọi việc…
Quan Âm nói:
– Sao ngươi chẳng đến ta cho sớm, đi qua Hải đảo mà kiếm thuốc ra sao. Nước cam lộ trong tịnh bình, trị cây khô cũng sống lại.
Tôn Hành Giả mừng rỡ hỏi rằng:
– Thuở nay Bồ Tát có cứu cây nào chưa?
Quan Âm nói:
– Năm trước Thái Thượng lão quân có đàn cuộc với ta: Lấy nhành dương liễu trong tịnh bình, đốt trong lò đã khô cháy. Rồi đem ra trả lại cho ta. Ta để trong tịnh bình, bắt hơi nước cam lộ một ngày đêm; nhành dương liễu tươi xanh như cũ.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– May lắm, may lắm! Rất đổi đốt cháy mà còn cứu đặng, huống chi trốc gốc mà khó gì. Xin Bồ Tát từ bi cứu giúp.
Quan Âm truyền các đệ tử rằng:
– Các ngươi ở lại, ta đi xong việc rồi về.
Dặn dò rồi cầm tịnh bình đằng vân như chớp.
Chim Bạch anh bay trước, Tôn Ðại Thánh theo sau, có bài thơ làm chứng:
Hào quang tỏ rạng chiếu xung quanh,
Cứu khổ từ bi độ chúng sanh,
Vóc ngọc ngàn thu không vít tích,
Mình vàng muôn kiếp giữ tinh anh,
Tai nàn dưới tục lòng hay xót,
Vật báu trong đời dạ chớ ganh,
Cam lộ nước linh vừa rưới xuống,
Nhơn sâm sống lại lá tươi xanh.
Khi ấy Trấn Nguơn đại tiên đương đàm đạo với Tam Tinh và Tam Tạng, xảy thấy Tôn Hành Giả trên mây nhảy xuống kêu mà nói rằng:
– Có Quan Âm Bồ Tát đến.
Mấy ông kia nghe nói vội ra ngoài ngỏ tiếp nghinh, cùng nhau đồng lạy Quan Âm, rồi rước vào ngồi giữa.
Tôn Hành Giả nói:
– Bây giờ còn sớm, đại tiên thỉnh Bố Tát đi cứu cây nhơn sâm.
Trấn Nguơn đại tiên mừng rỡ, truyần đặt bàn hương án tại vườn, rồi thỉnh Bồ Tát Quan Âm đi trước, ai nấy theo sau.
Ðoạn đến vườn hoa thấy cây nhơn sâm trốc gốc đứt rễ, rụng lá khô nhanh.
Quan Âm truyền Tôn Hành Giả xòe bàn tay trái.
Quan Âm lấy nhành dương chấm nước cam lộ, họa phù khởi tử hồi sanh trong bàn tay, bảo Tôn Hành Giả nắm cái rễ nhơn sâm đợi nước ra thì lấy bầu ngọc mà hứng. Tôn Hành Giả y như lời dặn.
Giây phút nước ra có giọt.
Trấn Nguơn đại tiên truyền đạo đồng lấy chén ngọc bầu ngọc hơn năm chục cái, đem hứng nước đã đầy.
Quan Âm nói:
– Bởi nước ấy kị ngũ hành, nên phải đựng bằng đồ ngọc. Dựng cây dậy bắt trên mà tưới xuống, thì sống lại như thường.
Tôn Hành Giả và Sa Tăng Bát Giới đỡ cây dậy, dện gốc xong rồi, lấy nước trong bầu mà dâng cho Quan Âm Bồ Tát.
Khi ấy Quan Âm cầm nhành dương liễu, nhúng nước trong chén ngọc mà rảy cho cây nhơn sâm, còn bao nhiêu thì tưới dưới gốc.
Niệm chú giây phút, cây nhơn sâm tươi lại, ra lá sum suê, trên cây có hai mươi ba trái.
Nói về Minh Nguyệt và Thanh Phong ngó thấy làm lạ than rằng:
– Khi trước thấy mất nhơn sâm, thì đếm còn hai mươi hai trái. Sao bây giờ sống lại, dư thêm một trái cũng kỳ.
Hành Giả nói:
– Lâu ngày mới biết lòng người. Hồi trước tôi hái trộm có ba trái, còn một trái rớt xuống đất mất đi, tôi hỏi Thổ Ðịa, thì Thổ Ðịa nói. Nó kị đất, rớt xuống thì lặn mất liền.
Bát Giới không tin, cứ nghi tôi ăn trước, bây giờ có thấy hay không?
Còn Quan Âm nói:
– Ta biết cây này kị ngũ hành, nên ta cử trước.
Trấn Nguơn đại tiên mười phần mừng rỡ, truyền lấy cái móc vàng hái mười trái.
Rồi mời Quan Âm và mấy vị về am mà đãi, gọi là hội Nhơn sâm quả.
Mời Quan Âm ngồi giữa, Tam Tinh và mình ngồi bên tả, bốn thầy trò Tam Tạng ngồi bên hữu.
Khi ấy Tam Tạng mới biết là vật báu, bắt chước ăn theo.
Chín vị hết chín trái, còn dư một trái cho các tiên đồng chia với nhau.
Có bài thơ khen rằng:
Vạn thọ nam tiên quý lắm ru,
Nhơn sâm trái chín, chín ngàn thu,
Rễ linh rước trước, cây khô héo,
Nước phép nay xem lá bịt bù,
Ba vị làm ơn mà đặng hưởng,
Bốn thầy gây án lại hết thù,
Từ đây tuổi thọ tày trời đất,
Trẻ mãi không già tiếng chẳng tu.
Tiệc rồi Trấn Nguơn đại tiên và Tôn Hành Giả đều tạ ơn Quan Âm, Quan Âm về Nam Hải, Tam Tinh trở lại Bồng Lai.
Trấn Nguơn đại tiên dọn tiệc chay, đãi bốn thầy trò, rồi kết nguyền anh em với Tôn Hành Giả.
Ngày sau thầy trò xin kiếu. Trấn Ngươn đại tiên cầm ở lại sáu bữa mới chịu đưa đi. Tam Tạng từ ăn trái nhơn sâm càng thêm sức mạnh.
Ði hèn lâu tới hòn núi cao lắm, Tam Tạng nói:
– Non cao chắc có yêu quái, các trò phải đề phòng.
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Xin thầy đừng lo. Anh em tôi đã hiểu.
Nói rồi cầm thiết bãng dọn đường đi trước, Tam Tạng nói:
– Ngộ Không ta đã đói lòng, ngươi chịu khó xin cơm đỡ dạ.
Tôn Hàn Giả cười mà nói rằng:
– Thầy nói không biết xét, nhà ai trong núi mà xin cơm.
Tam Tạng mắng rằng:
– Sao ngươi không nghĩ lại. Khi bị Như Lai dằng ngươi trong hộp đá tại Lưỡng Giái sơn, tuy miệng nói vang trời, mà chân không đạp đất, ta cứu ngươi khỏi nạn đem theo làm học trò, đáng lẽ ngươi hết lòng với ta mới phải, nỡ nào làm biếng như vậy. Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Ðệ tử cũng hết lòng, nào có làm biếng.
Tam Tạng nói:
– Nếu ngươi không làm biếng sao chẳng chịu đi xin cơm, ta đói bụng đi sao đặng. Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Xin thầy đừng quở trách, tôi biết tánh thầy cao ngạo, nếu chậm trễ thì niệm chú cẩn cô. Vậy xin thầy xuống ngựa ngồi đó, đặng tôi xuống xóm mà xin cơm.
Nói rồi nhảy lên mây, che tay coi bốn phía, coi không thấy nhà ai hết, thấy những cây cối thì nhiều, bên phía Nam có một điển đỏ đỏ, liền nhảy xuống thưa rằng:
– Tôi xem hết bốn phương, không nhà không xóm, phía Nam có một điểm đỏ chắc là có trái đào, xin đi hái cho thầy ăn đở.
Tam Tạng mừng rằng:
– Ðương lúc đói lòng gặp trái đào là quý lắm.
Tôn Hành Giả xách bình bát, nhảy qua hướng Nam mà hái đào.
Lời xưa nói: “Non cao thì có quái, rừng rậm ắt nhiều tinh”.
Tại núi ấy có một con yêu, bay trên mây ngó xuống thấy thầy trò Tam Tạng ngồi dưới đất thì mừng rỡ nói rằng:
– May lắm may lắm. Mấy năm nay nghe đồn Ðường hòa thượng là Kim Thiền Tử đầu thai. Nguyên trước tu hành đã mười đời, nếu ăn một miếng thịt Ðường Tăng thì sống lâu lắm! Ngày nay lại gặp thình lình.
Nói rồi nhảy xuống mà bắt, song ngó thấy có Sa Tăng, Bát Giới bảo hộ, e khó nổi ra tay, nên con yêu ấy nghĩ rằng:
– Ðể mình giả dạng khuấy chơi coi thể nào cho biết.
Liền hiện ra nữ tử, tay tả cầm cái xách, tay hữu cầm bình bát, ở bên mé Tây đi lại phía Ðông.
Khi ấy Tam Tạng xem thấy kêu bát Giới mà nói rằng:
– Ngộ Không mới nói chẳng có nhà nào, vậy chớ ai đi đó.
Bát Giới thưa rằng:
– Ðể tôi đi coi thử.
Nói rồi vác đinh ba đi đánh đòng xa yểu điệu, bởi thấy người xinh tốt nên động lòng, liền nói với nàng ấy rằng:
– Chẳng hay cô đi đâu? Và cầm vật chi đó?
Nàng ấy đáp rằng:
– Xách cơm và bình bát đựng bánh in đi trai tăng bố thí.
Bát Giới nghe nói mừng lắm chạy lăn mở, về thưa với Tam Tạng rằng:
– Thầy ôi! Người lành thì trời giúp. Thầy biểu anh hai đi xin cơm, ảnh lại kiếm chuyện hái đào mà ăn trước. Thầy ôi! Ăn đào nhiều thì xót ruột lắm, sao bằng ăn cơm. Người ấy đi trai tăng có saÜn bánh in và cơm sốt.
Tam Tạng nói:
– Mình đi thuở nay bị những yêu quỷ, không gặp một người lành, ai lại đi trai tăng trong núi.
Bát Giới nói:
– Nàng ấy đã đi đến, thầy không tin thì hỏi thử mà coi.
Tam Tạng chấp tay hỏi rằng:
– Nhà cô ở đâu? Vái điều chi mà trai tăng bố thí?
Nàng ấy nói:
– Chốn này là núi Bạch hổ, nhà tôi ở phía Tây, cha mẹ tôi tụng kinh làm phước, chồng tôi cũng hiền lành hay bố thí trai tăng, tu kiều bồi lộ, ngày nay có phước mới gặp đặng thầy, xin dùng một bữa cơm cho tôi nhờ công đức.
Tam Tạng còn hồ nghi dục dặc.
Bát Giới nóng họng liền xách cơm chưa kịp ăn.
Tôn Hành giả đã về tới, trợn con mắt coi rõ nàng ấy là yêu tinh, muốn đập một cây thiết bảng.
Tam Tạng kinh hãi kéo Tôn Hành Giả mà hỏi rằng:
– Ngươi hành hung muốn đánh ai đó?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Ðàn bà ấy không phải là người, thiệt là yêu tinh giả hình mà gạt sư phụ.
Tam Tạng nói:
– Ðừng làm mặt khỉ, cô này là người trai tăng bố thí cho chúng ta, sao ngươi nói là yêu quái?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Thầy biết sao đặng, hồi tôi ở Thùy Liêm Ðộng muốn ăn thịt ai đặng giả dạng như vậy luôn luôn. Phải tôi chậm chân ắt thầy mang hại.
Tam Tạng không tin, cũng nói người tử tế.
Tôn Hành Giả nổi giận nói rằng:
– Tôi biết ý thầy, thấy người thì muốn. Nếu như vậy thì dọn chỗ nhập phòng, chúng tôi đặng uống rượu, còn đi thỉnh kinh thỉnh kệ làm chi.
Tam Tạng nghe mắc cỡ, Tôn Hành Giả nổi nóng đập nàng ấy chết tươi.
Con yêu xuất hồn bay đi, bỏ xác và đồ lại hết.
Khi ấy Tam Tạng run lập cập nói rằng:
– Con khỉ nấy dữ quá, khi không dám đập chết người ta!
Tôn Hành giả thư rằng:
– Xin thầy coi trong xách đựng chi, thì biết chơn giả.
Tam Tạng dở xách không thấy cơm, toàn những giòi bò lúc nhúc, giở bình bát không thấy bánh, chỉ những cóc nhảy lom xom, cũng có ý tin là yêu quái.
Bị Bát Giới gièm siễm rằng:
– Người đàn bà ở đồng, sao gọi là yêu quái! Chẳng qua đại ca giết lỡ, nên mà con mắt mà dối thầy, vì sợ có niệm thần chú.
Tam Tạng nghe lời gièm siễm, niệm chú tức thì.
Tôn Hành Giả la lớn rằng:
– Nhức đầu chết đi thầy ôi! Khoan niệm để tôi nói chuyện đã.
Tam Tạng giận rằng:
– Người tu hành thì giữ lòng từ thiện, sao ngươi vô cớ mà sát nhân. Ði thỉnh kinh làm chi, còn có chuyện gì nữa. Thôi ngươi đi về cho rảnh.
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Thầy đuổi tôi đi đâu bây giờ?
Tam Tạng nói:
– Ta chẳng nhìn ngươi là học trò, muốn đi đâu tự ý.
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Thầy chẳng dùng tôi làm đồ đệ, e đi không đến Tây Phương.
Tam Tạng nói:
– Số mạng tại trời, không lẽ ngươi cứu ta cho đặng. Thôi ngươi trở lại cho mau.
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Thầy ôi! Tôi về cũng không khó, ngặt chưa trả đặng công ơn.
Tam Tạng nói:
– Ta có ơn chi với ngươi mà trả.
Tôn Hành Giả nghe nói quỳ lạy thưa rằng:
– Bởi tôi đại náo thiên cung, bị Như Lai nhốt trong hộp đá, nhờ Quan Âm mách bảo, cám ơn sư phụ cứu ra. Nếu không bảo hộ cho tới Tây Phương, thì là mang ơn mà chẳng trả.
Tam Tạng lòng nhân đức, nghe nói ngọt thì động lòng thương, liền nói rằng:
– Như vậy thì ta dung ngươi một lần. Nếu nết cũ không chừa, ta niệm chú đủ hai chục bận.
Tôn Hành Giả đỡ thầy lên ngựa. Rồi dâng đào ăn ít trái đỡ lòng.
Nói rồi con yêu ấy xuất hồn lên mây.
Nghĩ giận Tôn Hành Giả nên nghiến răng nói rằng:
– Bấy lâu nay nghe tiếng nó phép giỏi tài cao, nay thiệt quả như vậy. Ðường Tăng đã lầm không biết, ý muốn ăn cơm. Ta đợi cuối xuống mà hưởi một cái, thì nắm cổ kéo đi, không dè Tôn Ngộ Không trở về phá đám. Thiếu chút nữa ta xuất hình không kịp, thì chẳng còn hồn. Thù này không lẽ bỏ qua đặng! Ðể mình hóa hình nữa mà thử coi thể nào.
Nói rồi hóa một bà già gần tám mươi tuổi. Tay chống gậy tre, và đi và khóc.
Bát Giới ngó thấy rằng:
– Thầy ôi! Không xong rồi! Chắc đại ca đánh con bà này chết, nên chống gậy đi kiếm con.
Tôn Hành Giả hét rằng:
– Ngươi hay nói phi lý, nàng hồi nãy lối hai mươi tuổi, bà bây giờ gần tám chục ngoài, lẽ nào sáu mươi mà còn sanh đẻ. Ðể ta đi coi thử, thì biết giả chơn.
Nói rồi đến coi tỏ rõ. Biết là yêu quỷ giả dạng, liền đập chết tức thì.
Con yêu cũng xuất hồn ra nữa.
Khi ấy Tam tạng xem thấy kinh hãi, nhảy xuống ngựa mà nằm. Cứ niệm chú đủ hai chục biến.
Thương hại Tôn Hành Giả nhức đầu quá, nằm lăn lộn khóc mà thưa rằng:
– Thầy ôi! Ðừng niệm nữa, đừng niệm nữa, để tôi thưa một lời này.
Tam Tạng giận nói rằng:
– Còn gì nói nữa! Ta đã khuyên ngươi từ thiện, sao còn quen thói hung hăng. Lại đánh chết một mạng nữa.
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Thầy ôi! Nó không phải là người, thiệt loài yêu quỷ.
Tam Tạng mắng rằng:
– Ngươi là con khỉ nói bậy, yêu tinh đâu mà gặp liền liền. Tại ngươi giết chúng đà hưa tay, hãy đi về cho rảnh!
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Thầy đuổi lắm thì tôi cũng phải đi. Song còn một chuyện nên chưa đặng.
Tam Tạng hỏi:
– Còn chuyện chi nữa?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Thiệt tôi không dám giấu thầy. Cách năm trăm năm trước, tôi ở động Thủy Liêm núi Hoa Quả xưng vương làm chúa với loài yêu, từ theo thầy đội cái Kim cô, là quyết làm đệ tử. Nếu nay về còn bị niền đầu niền óc, thì thẹn mặt với anh em. Thiệt thầy không muốn dùng tôi nữa, xin niệm chú tòng cô cho nó rớt xuống, tôi trả Kim cô cho thầy mà về xứ, thì ơn nặng muôn phần. Cũng như công tôi theo thầy bấy lâu nhờ ơn một chút.
Tam Tạng nghe nói kinh hãi đáp rằng:
– Khi trước Quan Âm truyền chú cẩn cô cho ta, chứ không có chú tòng cô nào hết. Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Nếu không có chú tòng cô, tôi quyết theo thầy luôn thể.
Tam Tạng nói:
– Thôi, ta dung ngươi lần thứ nhì, chẳng khá hành hung nữa.
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Từ rày sắp lên không dám cãi nữa.
Liền đỡ thầy lên ngựa mà đi.
Nói về con yêu ấy xuất hồn ra khen rằng:
– Hầu vương con mắt coi hay lắm! Ta biến thế nào coi cũng ra. Nếu qua khỏi bốn mươi dặm đường thì địa phận người khác. Ðể ta giả một lần nữa.
Liền hiện ra một ông già. Tay cầm xâu bồ đề, miệng niệm kinh, tay lần chuổi.
Khi ấy Tam Tạng ngó thấy khen rằng:
– Ðây gần tới cảnh Tây Phương nên ông già đã khòm, còn lần chuổi hột.
Bát Giới nói:
– Thầy ôi! Ðừng có khen. Ấy là nhân mạng đó.
Tam Tạng hỏi:
– Nhân mạng làm sao?
Bát Giới nói:
– Hành Giả giết con rồi đập vợ chết, nên ông ấy đi tìm. Nếu gặp đây ắt là bắt đền nhân mạng.
Tôn Hành Giả nói:
– Ngươi cứ đặt điều cho nhiều chuyện. Ðể ta coi lại cho rõ ràng.
Nói rồi giấu thiết bảng, chạy tới hỏi rằng:
– Ngươi đi đâu mà niệm kinh dọc đường dọc xá? Ta thiệt là chúa yêu, sao ngươi dám làm quỷ. Ta đã biết rồi.
Con yêu nghe qua kinh hãi, không biết trả lời làm sao.
Tôn Hành Giả nghĩ rằng:
– Con quái này trốn khỏi hai lần, thì nhọc công mà vô ích. Phải tính một điều cho hay, mới dứt hậu hoạn.
– Thầy ta bị con yêu này giả dạng khuấy thầy ta đã ba lần, phen này chư thần giữ nó cho ta trừ căn chớ để trốn nữa.
Sơn thần Thổ Ðịa y lời.
Khi ấy Tôn Hành Giả đánh một thiết bảng, con yêu ấy chết ngay, xuất hồn không đặng.
Còn Tam Tạng xem thấy run rét hãi kinh.
Bát Giới cười ngất nói rằng:
– Bữa nay Hành Giả điên rồi, nửa ngày giết hết ba mạng!
Tam Tạng muốn niệm chú, Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Xin thầy đừng niệm chú, giục ngựa đến mà coi! Một đống xương khô rủ tại đó. Tam Tạng xem thấy hãi kinh hỏi rằng:
– Ngộ Không! Người này mới chết, sao đã rủ xương?
Tôn Hành Giả nói:
– Nó là Thi ma, xương khô thành quỷ. Nay bị tôi đánh nó biến không kịp, đã hiện nguyên hình. Trên xương sống có bốn chữ Bạch Cốt Phu Nhân, nghĩa là con ma đàn bà bộ xương không mục.
Tam Tạng xem thấy mới tin.
Bị Bát Giới chót mỏ nói dua rằng:
– Thầy ôi! Rõ ràng Hành Giả đánh người lương thiện thác oan. Sợ niệm chú nhức đầu, nên biến hóa dối thầy cho xuôi việc.
Thiệt Tam Tạng hay nghe lắm, tin lời niệm chú tức thì. Thương hại Tôn Hành Giả nhức đầu quá, quì bên đường mà thưa rằng:
– Xin thầy đừng niệm nữa, muốn chi thì nói cho rồi.
Tam Tạng nói:
– Người làm lành như cỏ mùa Xuân; tuy không thấy lớn, mà càng bữa càng thêm. Kẻ làm dữ như đá mài dao, tuy chẳng thấy mòn, mà một ngày một khuyết. Nay mi không chừa thói dữ, đánh chết thêm một mạng là ba. Con khỉ kia! Ta bây giờ không còn cách nào dạy dổ ngươi nữa! Chỉ có một điều quyết đuổi mà thôi.
Tôn Hành Giả nói:
– Thầy giận tôi là oan lắm! Nó chính là yêu quái nhiễu hại! Tôi trừ loài yêu quái cứu thầy, sao thầy nghe lời dèm xiểm, dua nịnh của kẻ bất tài ganh tị, nhẫn tâm đuổi kẻ chân thành đã dày công bảo hộ. Người thai phàm, mắt tục như thầy, dẫu có trung thành cho mấy, rồi một ngày nào cũng hoài công vô ích. Nay thầy đuổi tôi ba lần, lẻ nào mặt dày mày dạn nghe thầy ngày la mắng chửi mãi sao?
Tam Tạng nổi giận nói:
– Con Khỉ đột này buông lời ngạo nghể. Không có ngươi, Sa Tăng, Bát Giái không phò hộ ta đến Tây Phương được sao?
Tôn Hành Giả lắc đầu nói:
– Thầy không biết nghĩ, Khi trước nhờ Lưu Bá Khâm đưa đón, sau có tôi bảo hộ, phá động trừ yêu, hết nạn này tới nạn nọ, mới thu được Bát Giái và Sa Tăng. Thầy nhẫn tâm đuổi đứa trung thành, nghe thằng dua nhịnh! Có phải là được chim bẻ ná, được cá buông câu không? Thầy lại cậy có thần chú Cẩn cô, để khiến người như khiến súc vật, thì sao gọi là tu hành minh chính, đạo đức từ bi? Lại cho kẻ giết yêu cứu mình là sát nhân bất thiện!
Tam Tạng nói:
– Từ nay về sau ta không hề niệm chú nữa.
Tôn Hành Giả nói:
– Tôi không đủ tin lời ấy! Nếu ngày sau thầy mắc nạn, Sa Tăng, Bát Giái cứu không xong, thầy niệm chú Cẩn cô, tôi dù có cách núi, ngàn sông cũng nhức đầu như thường! Lúc đó tôi lại phải băng ngàn vượt biển đến tìm thầy. Như vậy thầy để tôi theo luôn không tiện sao?
Càng nói, Tam Tạng càng thêm căm tức, nhảy xuống bảo Sa Tăng mở gói, lấy bút nghiên mài mực, rồi viết một tờ từ đưa cho Tôn Hành Giả và nói:
– Giấy này làm chứng rằng ta không nhìn nhận ngươi làm đồ đệ nữa và trọn đời ta không niệm chú Cẩn cô, Ngươi mau lui về cho xong chuyện. Nếu không tin ta thề độc đoán cho ngươi nghe.
Tôn Hành Giả lảnh tờ từ, nói:
– Tôi tin lời, xin thầy đừng thề làm gì. Song tôi nghĩ vì theo thầy mới nữa đường, chưa giúp được bao nhiêu công quả, vậy xin lạy thầy một lạy đền ơn.
Tam Tạng quay lưng lãi nói:
– Ta là Hòa thượng hiền lành, không nhận lễ của kẻ hung dữ.
Tôn Hành Giả nhổ ba cái lông, làm phép hóa ra ba Tôn Hành Giả nữa, bao quanh lạy đùa.
Tam Tạng quay phía nào cũng không tránh khỏi.
Lạy xong, Tôn Hành Giả rùn mình thu lông lại, rồi gọi Sa Tăng nói:
– Hiền đệ, em là người hiền từ, tử tế, phải đề phòng thằng mặt heo dua nịnh gièm pha! Nếu gặp yêu tinh dọc đường, em xưng là Tôn Ngộ Không, học trò lớn của thầy, như vậy yêu tinh sẽ sợ anh, không dám làm hại sư phụ.
Tam Tạng nghe nói, ngắt lời đáp:
– Ta là Hòa thượng hiền hậu, không muốn nhắc đến tên người dữ làm gì. Ngươi hãy trở về, đừng nói một tiếng nào nữa.
Tôn Hành Giả thấy thầy chưa nguôi giận, liền Cân đẩu vân đi mất.
Khi ấy Tôn Hành Giả bay khỏi biển Ðông, đến núi Hoa quả. Ngó xuống thấy núi xanh như cũ, cỏ rẫm khác xưa. Coi phong cảnh buồn hơn khi trước. Bởi vì Nhị Lang Hiển thánh và bảy quái Mai Sơn đốt phá khi trước, nên tồi tệ như vầy.
Tôn Hành Giả chắc lưỡi than rằng:
– Năm trăm năm nay ta mới trở về, nhìn cảnh cũ càng thêm chua xót!
Mảng còn than thở, xảy thấy bảy tám con khỉ nhỏ, trong bụi nhảy ra, lạy Tôn Hành Giả mà nói rằng:
– Mừng Ðại Thánh gia gia mới về!
Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Sao chúng bây trốn nhủi? Hèn lâu mới thấy trong bụi nhảy ra?
Bầy khỉ nghe nói, khóc mà thưa rằng:
– Từ Ðại Thánh đi rồi, chúng tôi bị người ta săn bắn! Cung to ná mạnh, chó dữ ó hung. Nên chúng tôi phải ẩn mình chớ cự không lại. Nay nghe tiếng Ðại Thánh nên mừng rỡ nhảy ra.
Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Họ săn bắn chúng bây mà chi?
Bầy khỉ thưa rằng:
– Kẻ săn bắn độc dữ lắm. Hễ chết thì nó ăn thịt, bằng sống thì nó tập đi hát mà lấy tiền.
Tôn Hành Giả nổi giận mà hỏi rằng:
– Vậy chớ ai cầm quyền trong động?
Bầy khỉ thưa rằng:
– Có hai vị Mã, Lưu nguyên soái, và hai vị Bôn, Ba tướng quân.
Tôn Hành Giả nói:
– Chúng bây vào báo tin cho rõ, nói có ta về.
Khi ấy Tứ hầu nghe báo rất mừng, vội vàng ra nghinh tiếp, Tôn Hành Giả vào ngồi giữa động.
Bầy khỉ lớn nhỏ đồng lạy mừng. Rồi thưa rằng:
– Chúng tôi nghe Ðại Thánh gia gia khỏi nạn, theo bảo hộ Ðường Tăng đi thỉnh kinh, sao nay lại về núi?
Tôn Hành Giả nói:
– Chúng bây không rõ: Ðường Tam Tạng chân chất quá, chẳng biết kẻ hiền ngu. Ta ráng sức bình sanh, giết yêu tinh mà dẫn lộ. Tam Tạng nghe lời dèm siễm, chê ta hung dữ nên đuổi về. Có viết tờ từ rõ ràng, chẳng dùng ta nữa!
Bầy khỉ vỗ tay cười lớn nói rằng:
– May lắm, may lắm! Ðại Thánh làm Hòa Thượng có ích chi? Thà về đây vui chơi với con cháu.
Nói rồi, dọn rượu nước dừa mà đãi Ðại Thánh.
Tôn Hành Giả nói:
– Khoan uống rượu đã. Chẳng hay mấy bữa chúng đi săn một kỳ?
Mã, Lưu thưa rằng:
– Ngày nào nó cũng săn bắn, một lát nữa chắc chúng nó đến đây.
Tôn Hành Giả truyền bấy khỉ gom đá cục đá hòn, chất đống trên chót núi, rồi vào động trốn đi.
Giây phút thấy phía Nam xáng mã la đánh trống, cả ngàn nhân mã cần khí giới và dẫn muông đem ó đi săn.
Tôn Hành Giả nổi giận câm gan, đợi chúng nó lên núi, liền hớp một hơi bên hướng Tốn, thổi ra làm bảo tố ầm ầm. Ðá lỡ cát bay nhân mã bị bể đầu chết hết.
Tôn Hành Giả vỗ tay cười rằng:
– Vui lắm, vui lắm! Từ khi ta theo Tam Tạng, ngày nào thầy cũng khuyên ta rằng: Làm lành mãn kiếp lành chưa đủ, ở dữ một ngày dữ có dư. Thiệt lời ấy phải lắm. Ta theo thầy giết ít con yêu; thầy gọi là làm dữ. Bữa nay về xứ một lát, mà giết loài săn bắn cả ngàn.
Nói rồi truyền bầy khỉ cởi quần áo người chết mà bận. Lột da ngựa mà đóng giày, lấy khí giới mà dùng.
Rồi dựng cờ đề mười bốn chữ như vầy: Trùng tu Hoa quả sơn, phục chỉnh Thủy Liêm Ðộng, Tề Thiên Ðại Thánh (Nghĩa là Tề Thiên Ðại Thánh khôi phục động Thủy liêm, sửa sang núi Hoa Quả).
Từ ấy sắp sau, ngày ngày cũng nhóm yêu thâu quái, bữa bữa hằng cắt cỏ vận lương. Lo trồng hoa quả như xưa.
Thiên hạ thấy cờ, đều không dám lên núi.
Tôn Hành Giả ăn chơi thông thả, vui biết chừøng nào.
Nói về Tam Tạng từ đuổi Tôn Hành Giả thì lên giục ngựa, đi với Bát Giới, Sa Tăng. Bát Giới thay mặt cho Tề Thiên, dồn đồ đạc Sa Tăng gánh hết.
Khi ấy ba thầy trò đi khỏi núi Bạch Hổ, xảy thấy một cụm rừng bá tòng rậm rịt, mây sắn bịt bùng.
Tam Tạng nói:
– Hai trò phải coi chừng vì đường rừng sầm uất.
Bát Giới nghe nói, cầm Ðinh ba đi trước dẫn đường. Tam Tạng đi tới mé rừng, trong lòng đã đói.
Tam Tạng y lời, Sa Tăng mở gói đồ, đưa cái Bình bát.
Bát Giới xách đi hơn mười dặm, không thấy một cái nhà.
Hùm beo chẳng thiếu gì, mà người ta thì không gặp.
Bát Giới đi một hồi mệt quá, nghĩ lại ăn năn rằng:
– Hồi trước có Hành Giả, thì việc này ta khỏi mất công, bởi mình nói dèm siễm cho thầy đuổi đi nên nay phải chịu cực.
Thiệt là:
Nuôi con mới biết ơn cha mẹ,
Ăn thép nào hay giá quế châu!
Khi ấy Bát Giới đi xin chẳng đặng cơm, thì kiếm chỗ bóng cây mà nằm ngủ.
Nói về Tam Tạng trông hết sức, không thấy Bát Giới về. Chẳng biết cớ nào nóng tai máy mắt, liền nói với Sa Tăng rằng:
– Sao Ngộ Năng đi lâu quá, trời chiều mà chưa thấy về? Nhắm lại chỗ này ngủ không tiện, phải tìm chốn khác mới xong.
Sa Tăng thưa rằng:
– Xin thầy cho tôi đi kiếm Bát Giới.
Tam Tạng nói:
– Phải.
Sa Tăng cầm bửu trượng ra đi.
Còn Tam Tạng ngồi một mình trong rừng buồn bực, liền đi dạo giải khuây. Coi có đường mòn, chắn nhà người gần đó. Mảng xem phong cảnh, đi một hồi không nhớ đường xưa. Ngó thấy bên phía Nam chiếu hào quang, coi lại là cái tháp; bởi mặt trời chiều nên giọi bóng, vì trên đảnh tháp bằng vàng.
Tam Tạng nói:
– Mình có lời nguyện: Gặp chùa thắp hương, gặp tháp thì quét bụi, hễ có tháp chắc có am chùa. Vả lại chốn này không ai đi, chẳng lo sự lấy đồ dắt ngựa. Thà tìm vào đó mà nghỉ, sau hai trò kiếm thét cũng đến đây.
Nghĩ rồi tới cửa ngõ kia, bước vào gần tháp. Thấy ngoài cửa tháp có treo rèm cửa bông, liền khoát rèm bước vô thấy có cái giường bằng đá. Người nằm ngủ trên giường mặt xanh nanh bạc.
Tam Tạng biết là yêu quái hồn vía đã lên mây, liền thối lui lại mà chạy.
Khi ấy chúa yêu giựt mình thức dậy hỏi tiểu yêu rằng:
– Ai chạy ngoài rèm đó?
Tiểu yêu dòm rồi báo rằng:
– Hòa Thượng trắng trẻo lắm, chắc là thịt mềm.
Chúa yêu cười hả hả nói rằng:
– Ấy là ruồi kề lưỡi cóc, chuối đút miệng voi. Chúng bây bắt nó cho ta, đừng để chạy mất đi uổng lắm!
Tiểu yêu vâng lệnh, theo bắt Tam Tạng dẫn vào.
Tam Tạng chấp tay làm lễ.
Chúa yêu hỏi rằng:
– Ngươi là Hòa Thượng ở đâu? Ðến chuyện chi phải nói cho thiệt?
Tam Tạng nói:
– Tôi là sãi nước Ðại Ðường, vâng lệnh Hoàng Ðế đi kinh Tây vức. Ðến đây quét tháp, chẳng ngờ làm lỡ giấc ngủ của ngài. Xin rộng dung thứ tội. Nếu tôi thỉnh kinh về nước, thì lập miễu mà thờ ngài.
Chúa yêu cười sằng sặc mà nói rằng:
– Ta cũng nghi là Ðường Tăng, thiệt quả như vậy! Bởi ngươi tới số, mới vào nạp thịt cho ta. Ðố chạy đâu cho khỏi.
Nói rồi truyền tiểu yêu đem Hòa Thượng buộc tại cây thung định hồn.
Giây lát Chúa yêu cầm gươm bước lại hỏi rằng:
– Hòa Thượng nói cho thiệt. Ði một bọn mấy người, không lẽ một mình mà đi xa như vậy?
Tam Tạng thưa rằng:
– Tôi không dám nói giấu Ðại vương. Có hai người học trò là Sa Tăng và Bát Giới, đều đi xin cơm chưa về. Còn bỏ trong rừng một gánh đồ, với con ngựa bạch.
Chúa yêu nói:
– May lắm! Ba thầy trò ngươi với con ngựa kim, ta ăn đủ một bữa.
Nói rồi truyền tiểu yêu rằng:
– Chúng bây đóng cửa ngõ lại, và coi chừng có hai người học trò kiếm thầy thì vào báo lại. Ðể thầy cả làm cu mồi. Bắt đặng thầy con, sẽ nấu hết mà ăn cho thẳng bữa. Tiểu yêu vâng lệnh.
Nói về Sa Tăng đi hơn mười dặm đường không thấy nhà ai hết thảy, liền đứng trên gò cao ngó xuống, nghe giữa mé sông có tiếng người. Bước xuống mà coi, thì là Bát Giới ngủ mê đương mớ. (Người tâm phúc của Tam Tạng).
Sa Tăng nắm tai xách dậy mà trách rằng:
– Thầy sai đi xin cơm lại kiếm đường mà ngủ.
Bát Giới giựt mình hỏi rằng:
– Chừng này là chừng nào vậy?
Sa tăng nói:
– Thầy dặn có cơm hay không cơm cũng về, anh với tôi đi kiếm chỗ cho thầy ngủ. Bát Giới rảy tai dụi con mắt, đi về với Sa Tăng.
Ðến cụm rừng thấy con ngựa với gánh đồ, không biết thầy đi đâu mất!
Sa Tăng phàn nàn rằng:
– Cũng bị đi kiếm anh, nên yêu bắt sư phụ.
Bát Giới cười rằng:
– Ðừng có kiếm chuyện nói xàm. Chốn này phong cảnh tốt tươi, lẽ nào có yêu quái. Chắc thầy ngồi một mình buồn bực, nên đi dạo trong rừng. Ði kiếm một hồi phải gặp.
Khi ấy hai anh em, kẻ gánh đồ, người dắt ngựa, cứ đi theo đường mòn.
Xảy thấy bên Nam có cái tháp vàng, chiếu hào quang sáng giới.
Bát Giới nói:
– Chắc thầy vào tự kiếm cơm, chúng ta cũng vào ăn cho gặp bữa.
Sa Tăng nói:
– Sư huynh! Ðừng có định chừng không chắc, tới nơi mới biết kiết hung.
Hai người tìm vào đến cửa ngõ. Thấy trên ngạch có treo tấm đá, đề sáu chữ lớn rằng: Hoản Tử sơn, Ba Nguyệt động.
Sa Tăng nói:
– Như vậy núi này tên Hoản Tử, động Ba Nguyệt là chỗ yêu tinh. Không phải chùa chiền chi hết. Nếu thầy bị nó bắt, thì phải lập kế cứu ra.
Bát Giới nói:
– Ðể hỏi thăm tin cho biết đã.
Nói rồi cầm đinh ba giá lên mà kêu cửa.
Tiểu yêu xem thấy chạy vào báo rằng:
– Gặp mối rồi, mặc sức mua bán!
Chúa yêu hỏi rằng:
– Mối nào đó?
Tiểu yêu thưa rằng:
– Có Hòa Thượng mỏ dài tai lớn, và một ông sãi mập mà đen, đồng đứng ngoài kêu cửa.
Chúa yêu mừng rỡ nói:
– Chắc là Sa Tăng với Bát Giới, đồng đến mà kiếm thầy. Tuy vậy mặc lòng, phải đề phòng mới đặng.
Nói rồi nai nịt, cầm siêu đao xốc ra.
Khi ấy Sa Tăng, Bát Giới đương đứng ngoài ngõ mà đợi, thấy chúa yêu diện mạo dữ dằn, mặt mũi xanh lè, tóc râu đỏ hoét.
Ấy là chúa động Huỳnh Bào.
Huỳnh Bào hỏi lớn rằng:
– Hai Hòa Thượng ở đâu, dám đến cửa ta mà kêu gọi?
Bát Giới nói:
– Chúng ta là học trò Tam Tạng, thầy ta là Ðường trào ngự đệ, vâng sắc chỉ đi thỉnh kinh. Có ở trong động thì đưa ra cho mau, kẻo ta đập cái đinh ba mà sập động. Huỳnh Bào làm mặt vui vẻ, truyền tiểu yêu mở ngõ, rồi cười mà nói rằng:
– Ngỡ là ai đến đây hàn hung, chẳng ngờ hai thấy đi kiếm Ðường hòa thượng. Khi nãy ngài dạo đến, tôi đãi cách trọng thể. Ngài đương ăn bánh bao nhưn thịt người ta. Vậy mời hai thầy vào động tôi mà uống nước luôn thể.
Bát giới ngỡ thiệt muốn vô, Sa Tăng kéo lại nói rằng:
– Anh ôi! Ấy là nó nói gạt, lẽ nào thầy ăn bánh thịt người.
Bát Giới nghe qua mới nghỉ lại, liền đập một đinh ba.
Huỳnh Bào đỡ rồi đánh lại.
Hai người đằng vân hổn chiến Sa Tăng bỏ ngựa, cầm bữu trượng nhảy lên trợ lực với Ngộ Năng.
Khi ấy hai anh em đánh với Huỳnh Bào ba mươi hiệp cầm đồng, là nhờ sức chư thần phò hộ.
Nói về Tam Tạng bị trói đương sầu thảm khóc than, xảy thấy người đàn bà quốc sắc, bước lại vịn cây trụ mà hỏi rằng:
– Thầy ở đâu mà đến đây, vì cớ nào mà bị trói?
Tam Tạng ngó thấy nàng ấy chừng ba mươi, liền nói rằng:
– Cô ôi! Tôi đã tới số, mới khiến đến đây mà nạp mình. Muốn ăn thịt thì ăn, hỏi làm chi cội rễ?
Nàng ấy nói:
– Tôi chẳng hề ăn thịt người ta, nhà tôi ở phía tây, cách chừng 300 dặm. Tên là Bá Hoa Tu, công chúa thứ ba nước Bửu Tượng, mười ba năm trước, tiết trung thu, tôi thưởng nguyệt giải khuây, bị Huỳnh Bào nổi một trận gió bắt tôi về làm vợ, đã có con. Từ ấy đến bặt tin, nên tôi nhớ cha mẹ lắm. Chẳng hay thầy ở đâu đến đây? Tam Tạng nói:
– Tôi là thầy sãi nước Ðại Ðường, vâng chỉ vua đi thỉnh kinh Tây Vức. Ði mới đến đây, rủi bị nạn. Chúa động hăm bắt hai người đồ đệ tôi nữa mà ăn thịt một lần.
Bá Hoa Tu cười rằng:
– Xin sư phụ đừng lo, thiệt thầy đi thỉnh kinh, thì tôi cứu được. Nếu thầy qua Tây Phương thì đi ngang nước Bửu Tượng, thuận đường tôi gởi lén một phong thơ, mà thăm phụ vương với mẫu hậu, thì tôi biểu nó tha thầy.
Tam Tạng gật đầu nói rằng:
– Nếu Công Chúa cứu được bần tăng, thì tôi đem thơ tới chỗ.
Bá Hoa Tu trở vào viết thơ phong kín, đến mở trói cho Tam Tạng rồi đưa thơ.
Tam Tạng lãnh thơ, bái và nói rằng:
– Nhờ ơn Công Chúa cứu mạng, tôi quyết đem thơ tới đại vương, chỉ e lâu năm chầy tháng, người quên mà không nhìn, xin đừng trách bần tăng mà tội nghiệp!
Bá Hoa Tu nói:
– Không hề gì đâu! Cha mẹ tôi không có con trai, đầu đuôi có ba đứa con gái, nếu xem thơ thì chẳng hề quên.
Tam Tạng bỏ thơ vào tay áo tạ ơn Công Chúa rồi ra đi. Bá Hoa Tu kéo lại nói rằng: – Huỳnh Bào đương đánh với đồ đệ thầy đàng trước. Ðể tôi mở cửa sau cho thầy đi, rồi sẽ khuyên nó thôi đánh, để hai người đệ tử kiếm thầy, sẽ vầy đoàn mà đi mới tiện.
Còn Bá Hoa Tu tính một kế, bước ra trước, thấy ba người hổn chiến trên mây.
Bá Hoa Tu kêu lớn rằng:
– Chàng xuống đây, tôi nói chuyện gấp.
Khi ấy Huỳnh Bào nghe kêu nhảy xuống, quăng siêu đao mà hỏi rằng:
– Công Chúa nói chuyện chi?
Bá Hoa Tu thưa rằng:
– Chàng ôi! Tôi mới nằm chiêm bao thấy ông thần giáp vàng.
Huỳnh Bào hỏi:
– Thần giáp vàng đi đâu đó?
Công Chúa nói:
– Khi trước thiếp có vái rằng: Nếu gặp phò mã đại tài, thì trai tăng bố thí. Ðến sau vợ chồng kết nghĩa phỉ nguyện bình sanh, thì quên lời vái ấy, nên chiêm bao thấy thần giáp vàng biểu phải nhớ lời vái mà bố thí cho thầy chùa. Thiếp giựt mình thức dậy, đi ra nói cho chàng hay. Chẳng ngờ trên định hồn thung có trói một ông Hòa Thượng. Vậy thì chàng nghĩ tình tôi, tha thầy ấy mà làm phước. Cũng như bố thí trai tăng, kẻo tôi mắc lời vái, chẳng hay chàng chịu hay chăng?
Huỳnh Bào nói:
– Thiệt Công Chúa hay nghi ngại thì thôi! Sá chi việc nhỏ mọn, ta muốn ăn thì bắt người khác, giá Hòa Thượng ấy thịt bao nhiêu. Muốn làm phước kẻo mắc lời nguyền thì mở cửa sau mà thả ra cũng đặng, phải hỏi lại làm chi.
Bá Hoa Tu mừng rỡ, bước vào sau động.
Còn Huỳnh Bào cầm siêu đao bước ra kêu lớn rằng:
– Bát Giới xuống đây, ta chẳng phải sợ ngươi mà thôi đánh. Bởi vị tình ở nhà ta xin tha làm phước, nên thả thầy ngươi, chúng bây hãy ra phía sau kiếm Hòa Thượng mà đi thỉnh kinh. Nếu còn đến đây làm hung, thì ta nhai xương hết thảy.
Sa Tăng, Bát Giới nghe nói mừng quá, cũng bằng quỷ sứ thả hồn về.
Liền dắt ngựa gánh đồ, đi vòng ra sau động, kêu thầy ơi thầy hỡi om sòm, nghe Tam Tạng lên tiếng trog bụi táo.
Sa Tăng, Bát Giới dọn gai dắt thầy ra, Tam Tạng vội vàng lên ngựa.
Thiệt là:
Rủi ro mắc phải yêu da xám,
May mắn nhờ tay gái má hồng.
Khi ấy Bát Giới vác đinh ba trước, Sa Tăng gánh hành lý theo sau.
Ra khỏi rừng tòng, bước lên đường cái.
Sa Tăng cứ cằn rằn nói tại Bát Giới báo hại.
Bát Giới cũng cự với Sa Tăng.
Tam Tạng giải hòa, đổ thừa tại vận hạn.
Ði khỏi ba trăm dặm, ngó thấy thành vua, Tam Tạng biết là nước Bửu Tượng.
Ba thầy trò vào Kim đình quán, Tam Tạng đến ngọ môn nói rằng:
– Xin Hoàng môn quan vào tấu như vầy: Có sãi ở nước Ðường, xin vào tâu sự mật.
Nói về Hoàng môn quan vào tâu như vậy…
Vua Bửu Tượng biết là sãi thánh ở nước Ðại Ðường, nên mừng rỡ cho mời vào điện. Tam Tạng vào sân chầu chúc lạy phải cách.
Bá quan văn võ đều khen rằng:
– Thiệt người ở đại bang, thầy sãi cũng thông phép luật.
– Bần tăng vâng sắc Thiên tử, qua Tây Phương thỉnh kinh. Nên phải đến ngai vàng mà trình văn điệp.
Vua Bửu Tượng phán rằng:
– Ðã có văn điệp của Ðường thiên tử, thì cho xem thử thể nào?
Tam Tạng lấy văn điệp, hai tay dâng lên, vua Bửu Tượng xem điệp như vầy:
Nam thiện bộ châu, Ðại Ðường Hoàng đế. Trẫm lấy đức nối nghiệp dài, thờ thần minh chăn dân chúng. Bởi cứu Lão Long chẳng đặng, nên bị kiện Diêm quan. Nhờ ơn Minh phủ biết oan, mới cho về Dương thế. Lòng lành dốc làm chay chẩn tế, có Quan Âm mách bảo kinh cao. Lời thánh truyền há dám từ lao, sai Tam Tạng băng chừng Phật vức. Các vị Ðế vương Tây quốc, chớ dứt việc lành, thấy điệp văn xin khá tốc hành. Ấy là làm nghĩa. Nay điệp cấp.
Trinh Quang thứ mười ba, mùa thu ngày lành, làm trước mặt vua. Có đóng chín cái ấn”.
Vua Bửu Tượng xem rồi, cũng ký tên đóng ấn, mà đưa cho Tam Tạng, Tam Tạng tạ ơn thay văn điệp, rồi tâu rằng:
– Tôi đến đây một là trình văn điệp, hai là đem thơ cho bệ hạ.
Vua Bửu Tượng mùng rỡ phán hỏi rằng:
– Chẳng hay thơ ai gởi cho trẫm?
Tam Tạng tâu rằng:
– Công Chúa thứ ba của bệ hạ, cách mười ba năm nay bị Huỳnh Bào là con yêu, ở núi Hoản Tử, động Ba Nguyệt bắt về làm vợ. Nay tình cờ gặp tôi nên gởi thơ.
Vua Bửu Tượng nghe tấu, khóc mà nói rằng:
– Mười ba năm nay biệt tin biệt tức, không dè bị yêu bắt như vậy.
Tam Tạng lấy thơ trong tay áo dâng lên, vua Bửu Tượng cầm thơ thấy đề hai chữ bình an ngoài bao, thì nhớ con mà khóc mướt, khai thơ không đặng. Truyền Hàn lâm viện học sĩ, khai thơ đọc như vầy:
“Bất hiếu nữ Bá Hoa Tu cúi đầu trăm lạy. Trước chúc Phụ vương vạn tuế. Sau thăm mẫu hậu thiên niên. Và văn võ bình yên, với chị anh sức khỏe. Con luôn cám ơn sanh đẻ, trẻ chưa đáp nghĩa cù lao. Tiết trung thu ngoạn nguyệt xem sao, bị yêu quái vần mây nổi gió, đem về động nọ, lại ép duyên này, mười ba năm nay, sanh hai con quỷ. Hư phong hóa tội đà đáng mấy. Nhục tông môn thác đã dư mười. Lẽ thời tạm lánh cho qua đời, đâu dám gởi thơ cho thẹn mặt. Nếu làm thinh cũng ngặt, ngại vì cha mẹ chẳng hay tin. Bằng có nói cho minh, sợ nỗi triều đình không thứ tội. Nay gặp Ðường Tăng lặn lội, bị tay yêu quái trói trăn. Con dùng kế vân vân, đặng gởi thơ kiếp kiếp. Như cha mẹ thương con tội nghiệp, cùng quan viên xót phận lao đao. Xin đem binh đến bắt Huỳnh Bào, đặng cứu trẻ đem về Phụng các. Vài hàng ký thác, hai chữ đinh ninh”.
Khi ấy học sĩ đọc rồi, vua Bửu Tượng khóc lớn.
Bá quan văn võ cũng động lòng.
Vua Bửu Tượng khóc một hồi, rồi phán hỏi bá quan rằng:
– Nay vị nào chịu lãnh binh đánh Huỳnh Bào, mà cứu công chúa?
Hỏi luôn mấy tiếng bá quan văn võ làm thinh, ngồi trơ trơ như cốt gỗ!
Vua Bửu Tượng tủi phận khóc ròng!
Bá quan đồng quì tâu rằng:
– Xin Bệ Hạ bớt sầu, vì công chúa biệt tin đã mười ba năm, nay thấy thơ không thấy làm chắc. Huống chi chúng tôi dùng binh phàm ngựa chiến, học võ nghệ trận đồ, để phòng tá quốc an bang, cầm binh đánh giặc. Chớ con yêu tinh là đằng vân giá võ, độn thổ tàng hình. Có khi nó đứng một bên mà không thấy. Ắt là đem binh mà nạp cho uổng mạng. Lại e nó thù Công Chúa mà khó lòng. Chúng tôi trộm nghĩ như vầy: Ðường Tăng là sãi thánh đại bang, nên đi đến đây mà khỏi nạn. Rõ là đạo cao rồng cọp phục, đức trọng quỷ thần kiên, chắc là bắt yêu tinh mới đặng. Xin Bệ Hạ cầu khẩn thánh tăng.
– Nếu thánh tăng có phép bắt yêu cứu Công Chúa về trào, thì chẳng đi thỉnh kinh làm chi, ở đây hưởng đồng bàn với trẫm!
Tam Tạng lật đật tâu rằng:
– Bần tăng biết niệm phật tụng kinh, thiệt không biết bắt yêu trừ quỷ.
Vua Bửu Tượng phán hỏi rằng:
– Nếu thầy trị yêu tinh không đặng, sao dám đi Tây Phương?
Tam Tạng tâu rằng:
– Thiệt tôi nhờ có hai người học trò bảo hộ, nên đi mới đến đây.
Vua Bửu Tượng phán rằng:
– Vậy thì dời hai lịnh đồ vào đền ra mắt trẫm.
Tam Tạng tâu rằng:
– Hai người học trò tôi xấu xa và hung dữ lắm, nếu vào đền e Bệ Hạ giựt mình.
Vua Bửu Tượng phán rằng:
– Thầy đã nói trước rồi, trẫm biết chừng không sợ.
Tức thì truyền đem kim bài đến quán, vời vào đền ra mắt coi thể nào.
Khi ấy Sa Tăng, Bát Giới thấy kim bài đến triệu, thì giao đồ hành lý và ngựa cho Dịch thừa, đồng vác khí giới vào đền đứng hầu tả hữu.
Vua Bửu Tượng thấy cũng kinh hãi, làm gan phán hỏi rằng:
– Chẳng hay thầy nào trừ yêu quái đặng?
Bát Giới tâu rằng:
– Tôi thường bắt yêu tinh quỷ mị.
Vua Bửu Tượng phán hỏi rằng:
– Thầy làm phép chi mà bắt nó?
Bát Giới tâu rằng:
– Tôi là Thiên Bồng ngươi soái, bởi phạm tội mới đầu thai xuống trần. Nay đã tu hành, theo phò sư phụ, từ Ðông Ðộ đi cho đến đây, tôi bắt yêu tinh biết là bao nhiêu mà kể.
Vua Bửu Tượng nói:
– Nếu tướng trời giáng hạ, chắc là biến hóa tinh thông.
Bát Giới tâu rằng:
– Tôi cũng biết chút đỉnh mà thôi, không phải thiện nghệ.
Vua Bửu Tượng phán rằng:
– Xin thầy biến hóa thử coi?
Bát Giới tâu rằng:
– Muốn biến hóa cách nào xin nói thử?
Vua Bửu Tượng phán rằng:
– Thôi biến hình cao lớn xem thử?
Bát Giới cũng biết 36 phép biến, liền hét lên một tiếng, mình cao chín trượng có dư, ai nấy thất kinh hồn vía.
Trấn điện tướng quân hỏi rằng:
– Thầy biến mau như vậy, ước sức cao bao cao mới cùng bực?
Bát Giới nói bướng rằng:
– Hãy coi ngọn gió mà suy; nếu đặng gió Ðông, thì làm gió Nam cũng không khó. Muốn cho cùng bực thì đứng đụng trời.
Vua Bửu Tượng kinh hãi phán rằng:
– Thôi, bấy nhiêu cũng đủ hiểu, xin thâu lại như thường.
Bát Giới cuối xuống một cái hình thấp như xưa.
Vua Bửu Tượng lòng mừng khấp khởi, truyền cung nga rót một chén ngự tữu.
Vua Bửu Tượng đưa rượu cho Bát Giới mà phán rằng:
– Kính xin thầy một chén rượu này, đánh bắt Huỳnh Bào mà cứu Công Chúa. Xong việc rồi trẫm đãi tiệc và thưởng ngàn vàng.
Bát Giới bưng rượu uống rốc.
Khi ấy vua Bửu Tượng truyền rót một chén rượu nữa, mà đãi Sa Tăng.
Sa Tăng cũng uống cạn chén.
Bát Giới đằng vân bay trước, Sa Tăng cũng bay sau.
Chúa tôi đều thất sắc.
Vua Bửu Tượng níu Tam Tạng mà phán rằng:
– Xin thầy ở đây với quả nhân, đừng đằng vân bay nữa.
Tam Tạng than rằng:
– Tôi bước nữa bước cũng không đặng, thì đằng vân sao được.
Rồi ở lại mà đàm đạo.
Còn Sa Tăng, Bát Giới bay giây phút tới động sa xuống tức thì.
Bát giới vác Ðinh ba phá cửa.
Tiểu yêu kinh hãi vào báo rằng:
– Ðại vương ôi! Hòa Thượng mỏ dài tai lớn và thầy chùa mập ú đen thui, hai người phá hư cửa động.
Huỳnh Bào nghe báo kinh hãi, nai nịt xong xả, cầm siêu đao ra cửa hỏi rằng:
– Hòa Thượng kia, ta đã tha thầy ngươi rồi, sao còn tới hành hung mà phá ngõ?
Bát Giới nói:
– Mi là con tinh, dám bắt Công Chúa thứ ba của vua Bửu Tượng mà làm vợ đã 13 năm. Nay ta vâng chỉ vua đến bắt ngươi mà vấn tội. Như biết lỗi trước thì dâng Công Chúa cho mau, bằng nghịch mạng thì Lão Trư đập chết.
Bát Giới đã đuối tay, Sa Tăng cũng hết sức. (Bởi lúc này chư thần bảo hộ Tam Tạng tại đền vua Bửu Tượng, nên Sa Tăng, Bát Giới đánh không lại Huỳnh Bào).
Khi ấy Bát Giới nói gạt Sa Tăng rằng:
– Hiền đệ rán sức mà cự, ta đi ngoài rồi vào đánh tiếp tức thì.
Sa Tăng tin lời rán sức đánh cố mạng.
Chẳng ngờ Bát Giới chạy riết, kiếm chỗ mát mà nằm ngủ ly bì.
Còn Sa Tăng đánh không lại Huỳnh Bào, đợi Bát Giới hết hơi, bị Huỳnh Bào bắt sống trói mèo.