Tôn hành Giả nghe nói, truyền Bát Giái, Sa Tăng bảo hộ sư phụ, và dặn Thổ Ðịa ở phò trì Tam Tạng mà đợi mình.
Dặn rồi cân đẩu vân nhảy qua núi Tích lôi, đi tới cội tòng thấy một nàng nhan sắc như tiên, đương hái hoa huệ.
Tôn Hành Giả bước tới bái và hỏi rằng:
– Chẳng hay cô đi đâu?
Nàng ấy ngó thấy tướng dữ tợn, lỡ bề không biết tới lui! Run lập cập gượng gạo đáp rằng:
– Ngươi ở đâu, dám tới đây mà hỏi thăm ai đó?
Tôn Hành Giả nói:
– Tôi ở núi Túy vân mới tới, nên chưa biết đường, chẳng hay đây phải núi Tích Lôi chăng? Nàng ấy nói phải.
Tôn Hành Giả hỏi:
– Chẳng hay động Ma Vân ở đâu?
Nàng ấy hỏi:
– Ngươi tìm động ấy làm chi?
Tôn Hành Giả nói:
– Tôi ở động Ba tiêu, vưng lịnh Thiết Phiến công chúa, qua rước Ngưu Ma Vương.
Nàng ấy nghe nói đỗ chình tương, mắng lớn rằng:
– Con mọi khốn nạn, không biết điều! Từ khi Ngưu Ma Vương về với ta chưa đặng hai năm, ta gởi cho nó những đồ nữ trang và vàng bạc châu báu, gấm nhiễu lụa hàng không biết bao nhiêu mà kể. Hết gạo thì lấy gạo, hết tiền thì lấy tiền, năm nào cũng vậy, chẳng tháng nào không, đã ăn ngập mặt mà không biết hổ mình, còn rước Ngưu Ma Vương về làm chi đó?.
Khi ấy Tôn Hành Giả nghe giọng nói ghen, biết là Ngọc Diện Công Chúa. Cố ý lấy thiết bãng hét lớn nói rằng:
– Mi là đứa trắc nết, đem của mà mua chồng; ấy là gã mà bù của, hãy còn không biết hỗ người, lại có mắng ai nữa?
Ngọc Diện Công Chúa kinh hãi, và chạy và run, Tôn Hành Giả làm bộ đuổi theo, mặt lớn dọa hẫm.
Còn Ngọc Diện Công Chúa tới cửa động chen vào, dạy đóng cửa lại.
Tôn Hành Giả đứng xem phong cảnh ngoài rào.
Khi ấy Ngưu Ma Vương đương nằm coi sách trong phòng.
Ngọc Diện Công Chúa chạy vào thở chẳng ra hơi trong hôi ướt áo, nhào đại trên bụng Ngưu Ma Vương, cào má gải tai mà khóc!
Ngưu Ma Vương vuốt ve mà cười rằng:
– Mỹ nhơn đừng tũi, có chuyện chi thời nói cho rành.
Ngọc Diện Công Chúa mắng rằng:
– Cũng tại con ma già nó hại tôi gần chết.
Ngưu Ma Vương cười trây hỏi rằng:
– Chả chuyện chi mà mắng ta như vậy? Muốn tập hỗn phải không?
Ngọc Diện Công Chúa nói:
– Bởi tôi không người làm chủ mới chịu bao hao tổn, kiếm người coi giềng mối giang san. Nghe thiên hạ đồn mình là quân tử anh hùng, nay mới rõ là tay sợ vợ.
Ngưu Ma Vương ôm Ngọc Diện Công Chúa mà hỏi rằng:
– Có chuyện chi thì nói cho rành, nếu ta có không phải điều chi, cũng biết xử mình chịu lỗi. Ngọc Diện Công Chúa nói:
– Tôi mới đi ra động mà hái bông huệ, xãy gặp một sải như Thiên lôi, lại bái tôi một cái. Tôi kinh hồn gượng hỏi là ai. Sải ấy nói: Thiết Phiến công chúa cậy đi rước Ngưu Ma Vương. Tôi tức mình nói phải quấy một đôi điều, sải ấy mắng tôi một hồi, rồi vác hèo theo rượt mà đập. May tôi chạy mau mới thoát khỏi, phải chậm chơn đã chết rồi. Ấy không phải vì lấy mình mà mắc họa sao?
Ngưu Ma Vương nghe nói liền vuốt ve dỗ dành, giây phút Ngọc Diện công chúa mới hết giận.
Ngưu Ma Vương nói:
– Chẳng dám nói giấu mỷ nhơn, tuy động Ba tiêu ở chẻ mặc dòng, chớ thanh tịnh nghiêm trang lắm. Còn Thiết Phiến công chúa là tiên nữ, không phải tầm thường, dầu con trai nên mười cũng không cho vào cửa động, lẽ nào lại cậy hòa thượng ấy mà qua rước ta. Có khi con yêu nào nó giả hình, tìm ta có chuyện chi đó, để ta coi thử là ai.
Nói rồi nai nịt, cầm côn sắt ra cửa động kêu lớn hỏi rằng:
– Ai dám tới động ta mà hành hung đó?
Tôn Hành Giả ngó thấy Ngưu Ma Vương mập mạnh hơn xưa, liền xốc áo bái và hỏi rằng:
– Trưởng huynh nhìn biết em chăng?
Ngưu Ma Vương nói:
– Ngươi phải là Tề Thiên đại thánh Tôn ngộ Không chăng?
Tôn Hành Giả nói:
– Phải, phải, từ ấy đến nay cách mặt anh lâu lắm; hồi nãy tôi gặp một người con gái, hỏ thăm mới ra mối. Tìm đến đây thấy tướng phì mỹ, em mừng biết chừng nào.
Ngưu Ma Vương nạt rằng:
– Người đừng có già miệng! Ta nghe ngươi làm loạn thượng giái, bị Như Lai đè dưới Ngũ hành sơn. Sau lại nghe ngươi khỏi nạn, bảo hộ Tam Tạng thỉnh kinh, sao lại hại con ta là Ngưu Thánh Anh tại Hỏa vân động, bây giờ còn kiếm ta làm chi?
Tôn Hành Giả bái và thưa rằng:
– Xin anh đừng nói hiếp em tội nghiệp! Bởi lịnh lang bắt thầy tôi, quyết lòng ăn thịt, tôi chẳng hề dám gần nó, mà làm hại nổi gì? Sau Quan Âm độ nó tu hành theo về Nam Hải, nay đã thành chánh quả, làm Thiện Tài đồng tử, khoái lạc tiêu diêu; xin lỗi với anh, sợ anh còn thua nó. Sao anh lại trách tôi?
Ngưu Ma Vương nạt rằng:
– Cơ khổ thôi nhưng! Người hồi nãy là nhị tẩu tẩu đó sao? Bởi tôi thăm anh, mà người ấy mắng tôi, tôi không dè là chị, nên tôi nổi nóng làm oai mà dọa cho chạy, nếu tôi quyết giết thời còn chi! Nay anh nói mới hay, xin anh rộng lượng dung tha sự lầm lỗi!
Ngưu Ma Vương nói:
– Ngở là ngươi biết, chớ lỡ lầm ta chaÜng chấp chi. Thôi nghĩ tình cũ nghĩa xưa, ta tha tội cho, hãy lui về cho rảnh.
Tôn Hành Giả nói:
– Anh rộng lượng thứ tội, em đội ơn vô cùng. Song còn cầu một chuyện này, xin anh giúp giùm.
Ngưu Ma Vương nổi giận mắng rằng:
– Con khỉ này không biết phải quấy. Ta đã tha tội, đáng lẻ thời lui gót cho mau, còn cầu khẩn chuyện gì nữa?
Tôn Hành Giả năn nỉ rằng:
– Thiệt tình không dám dối anh, bởi tiểu đệ bảo hộ Ðường Tăng qua Hỏa diệm sơn không đặng, nghe đồn tẩu tẩu có quạt Ba tiêu, trị lửa ấy mới đặng; em đến nhà của của anh năn nỉ mượn quạt, tẩu tẩu chẳng cho. Bởi cớ ấy nên em tìm đến đây lạy anh, xin anh mở lòng trời đất, đi với em về động nói với đại tẩu, cho tôi mượn quạt, quạt rồi đem trả tức thời.
Ngưu Ma Vương nghe nói, nổi nóng mắng rằng:
– Ngươi nói nhiều lời vô lễ lắm! Ta chắc ngươi mượn quạt không đặng, chắc cũng làm nhục vợ ta, rồi lại rượt ái thiếp ta chạy nữa! Lời cổ ngữ nói: Thê thiếp của bằng hữu chẳng nên khi. Ngươi đã khi thê thiếp của ta, hãy chịu một gậy!
Tôn Hành Giả nói:
– Anh đánh bao nhiêu em cũng không sợ. Song thiệt tình mượn quạt mà thôi.
Ngưu ma vương nói:
– Nếu ngươi cự nổi với ta ba hiệp, thì ta bảo vợ ta cho mượn quạt. Bằng đánh không lại thì ta đập chết mà rữa hờn.
Nói rồi đập một Thiết côn, Tôn Hành Giả đở rồi đánh lại.
Ðánh dư trăm hiệp mà sức cũng cầm đồng.
Xảy nghe tiếng kêu trên chót núi rằng:
– Ngưu gia gia. Ðại vương tôi mời gia gia phó yến lập tức!
Ngưu Ma Vương đỡ thiết bãng mà nói rằng:
– Khoan làm khỉ đả, ta mắc đi phó yến, kẽo để lâu bằng hữu đợi chờ. Nói rồi lui vào động, nói với Ngọc Diện công chúa rằng:
– Mỷ nhơn! Cái người như Thiên Lôi ấy là Tôn ngộ Không, ta đã đánh đuổi đi mất rồi, không dám tới nữa mà sợ. Ta đi uống rượu bên người bằng hữu, giây phút sẽ về.
Nói rồi thay khôi giáp, cởi con thú Bích thủy, dặn dò gia tướng giữ gìn, rồi lên mây bay qua hướng Tây Bắc.
Khi ấy Tôn Hành Giả ẫn trên chót núi, xem thấy nghĩ thầm rằng:
– Không biết con trâu gì này nó quen lớn ở đâu mà đi phó yến, để theo coi thử cho rành.
Nghĩ rồi hóa gió bay theo tới chơn núi kia, Ngưu Ma Vương đâu mất.
Tôn Hành Giả hiện hình kiếm thử, thấy dựa chơn núi có một cái ao sâu như giếng xưa, trên mé có bia đá, khắc sáu chữ rằng: Loạn thạch sơn, Bích ba đầm.
Tôn Hành Giả ngẩm nghĩ rằng:
– Chắc Ngưu Ma Vương lặn xuống ao Bích ba thì phải. Loài yêu tinh ở dưới vực sâu, chắc là vật có mu có vẫy chi đó. Ðể ta xuống xem thử cho rành.
Nghĩ rồi niệm chú hóa ra con cua nhảy xuống ao nước, tới đáy thấy có cái lầu, bước lại cửa lầu thì không có nước, ngoài rào có một con thú Bích thủy cặp mắt vàng lườm.
Tôn Hành Giả nghe trong nhà ca nhạc vang tai, liền mon men bò tới, thấy Ngưu Ma Vương ngồi trên, ba bốn con yêu ngời tã hữu, trước tiệc có ông rồng già, hai bên rồng con rồng cháu, lại có rồng cái và rồng nhỏ ngồi ăn uống vui say, Tôn Hành Giả bò lần tới. Rồng già ngó thấy, truyền bắt con cua ấy. Rồng con rồng cháu vưng lịnh bắt liền.
Tôn Hành Giả năn nỉ xin dung tánh mạng.
Lão Long hỏi:
– Ngươi là con cua ở đâu, dám đến đây bò ngang trước mặt khách?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Tôi chưa từng vào đến, nên không từng quen phép tắc, xin Ðại vương thứ tội một phen.
Các yêu nói:
– Nó thiệt thà như vậy, xin ông tha nó đi.
Lão Long nói:
– Thôi ta vị tình bằng hữu mà tha nó, song tiệc rồi sẽ đánh mấy đứa coi cửa không nghiêm. Tôn Hành Giả bò càn ra cửa lầu, thừa dịp không ai, hiện hình cởi thú Bích thũy nhảy lên mé ao, rồi hóa làm Ngưu Ma Vương cởi thú Bích thũy về động Ba tiêu kêu mở cửa.
Nữ đồng ra mở cửa thấy Ngưu Ma Vương, liền vào báo với Thiết Phiến công chúa.
La Sát mừng rỡ rước vào, truyền cột con Bích thủy, rồi vợ chồng dắt tay vào động. Trà nước xong xã.
Ngưu Ma Vương giả nói rằng:
– Cách phu nhơn đã lâu lắm.
La Sát cười rằng:
– Ðại vương bỏ tôi mà theo vợ mới. Nay bị bảo mới bay về đây.
Ngưu Ma Vương giả cười rằng:
– Chẳng phải dám bỏ phu nhơn, bởi vì từ khi Ngọc Diện công chúa rước về, mắc đa đoan nhiều việc lại thêm bầu bạn thỉnh mời, không rảnh về thăm nhà, lấy làm buồn bực. Nay nghe đồn Tôn Hành Giả phò Ðường Tăng qua Hỏa diệm sơn, chắc nó sẽ đến mình mà mượn quạt. Ta giận nó lắm, quyết trả thù cho Ngưu thanh Anh, nếu nó tới đây, xin kêu ta ra lập tức; ta quyết phân thây con khỉ ấy mà rửa hờn.
La Sát nghe nói, rơi nước mắt mà thưa rằng:
– Ðại vương ôi! Lời cổ ngữ có nói rằng: Con gái không chồng, khó giữ mình, đờn ông mất vợ, ai giữ của? Tôi thiếu chút nữa bị Tôn Hành Giả nó giết rồi.
Ngưu Ma Vương giả nghe nói thì làm bộ giận, hỏi rằng:
– Con khỉ đột đến đây hồi nào?
La Sát nói:
– Hôm qua nó tới đây kêu tôi bằng tẩu tẩu, mà mượn quạt Ba tiêu, nó xưng là bằng hữu với Ðại vương.
Ngưu Ma Vương nói:
– Phải, cách năm trăm năm trước, ta có kết làm anh em với nó.
La Sát nói:
– Tôi mắng nó nhiều điều, nó cũng không dám nói lại, chém nó cũng không dám đở. Tôi quạt một cái nó bay mất một đêm. Không biết nó học phép Ðịnh phong ở đâu, sáng ngày tới kêu cửa. Tôi quạt luôn ba quạt không nhúc nhích chút nào. Tôi chém nó, nó không nhịn, giơ thiết bãng đánh liền. Tôi bại tẩu vào động đóng cửa, không biết nó dùng phép chi mà chun vô bụng tôi đặng, nó đạp ruột và đấm trái tim. Tôi túng phải kêu bằng ông chú, chịu cho mượn quạt, nó mới xuất hình ra mà lấy quạt đi mất.
Ngưu Ma Vương giả làm bộ đấm ngực, chắc lưỡi than rằng:
– Ðồ nhỏ mọn như vầy, quạt làm sao cho tắt Hỏa diệm sơn tám trăm dặm!
La Sát nói:
– Ðại vương cách hai năm nay, chắc là sa mê Ngọc Diện công chúa ngày đêm, nên tinh thần hao tổn, đến nổi quên báu nhà! Nói rồi cầm cây quạt bên tay tả, lấy móng tay bấm sợi chỉ đỏ thứ bảy trên cán quạt, miệng niệm chú rằng:
– Yết hư ha hấp hi xuy hô. Cây quạt Ba tiêu liền dài ra mười hai thước mộc.
La Sát nói:
– Bửu bối này biến hóa vô cùng, lo chi Hỏa diệm sơn lớn tám trăm dặm, quạt một cái cũng đủ tắt, lựa là phải quạt cho nhiều.
Ngưu Ma Vương giả nói:
– Nhớ rồi, phải phải.
La Sát liền làm phép thâu quạt lại, rồi đưa cho chồng.
Ngưu Ma Vương giả ngậm cây quạt vào miệng, liền chùi mặt, hiện nguyên hình mà nói rằng:
– La Sát coi lại cho kỹ, ta phải là chồng chăng? Sao còn làm bộ đỏng đưa, mà kéo níu nhủng nhẳng.
La Sát ngó thấy Hành Giả, liền mắc cở xô bàn và té nhào xuống đất, đấm ngực và nói rằng:
– Tức chết đi mà thôi!.
Còn Tôn Hành Giả bước ra khỏi động, liền nhảy lên non rồi nhả cây quạt ra, bấm sợi chỉ đỏ thứ bảy trên cán cây quạt, và niệm chú vân vân…cái quạt liền dài ra một trượng hai thước. Coi lại cho kỹ, khác hơn cây quạt giả ngày trước nhiều lắm,hào quang chiếu sáng, ba mươi sáu sợi chỉ đỏ chuyền với nhau.
Bởi Hành Giả biết phép làm cho ra lớn, chớ chưa hiểu phép thâu.
Tôn Hành Giả xếp hoài không đặng, túng phải vác đi về.
Nói về Ngưu Ma Vương ở dưới động Bích ba, ăn đã mãn tiệc liền kiếu lui về.
Ra đến cửa ngõ không thấy con thú Bích thủy.
Lão Long hỏi rằng:
– Vậy chớ ai bắt trộm con thú của Ngưu gia?
Tiểu yêu đồng quì tâu rằng:
– Không hiểu vì cớ nào mà mất! Thiệt chúng tôi canh giờ nghiêm ngặt, không thấy ai thấp thoáng đến đây.
Lão Long nói:
– Trẻ trong nhà không đứa nào dám cả gan như vậy. Song không biết có người khách nào lạ mặt đến chăng?
Long Tử, Long Tôn tâu rằng:
– Khi ngồi tiệc có một con cua bò tới mà thôi, thiệt là kẻ lạ mặt.
Ngưu Ma Vương đã biết rồi khi nãy có Tôn ngộ Không là kẻ bảo hộ Tam Tạng đi thỉnh kinh Tây Phương, tới Hỏa diệm sơn dội lại, nên mượn quạt Ba tiêu, tôi không cho, liền giao chiến với nó. Xãy gặp người mời đi phó hội, nên tôi thôi đánh đi liền. Chắc là con khỉ biến làm giải tinh xuống đây thám thính, nó ăn trộm con thú ấy, đặng về gạt vợ tôi mà mượn quạt ba tiêu.
Ai nấy nghe nói đều kinh hãi hỏi rằng:
– Tôn ngộ Không, hay là Tề Thiên Ðại Thánh phá thiên cung năm trước?
Ngưu Ma Vương nói:
– Phải, các ông có gặp nó, thì phải tránh cho xa. Thôi tôi kiếu các ông đặng đuổi theo nó.
Nói rồi rẽ nước nhảy lên bờ, đằng vân về Ba tiêu động.
Nghe tiếng vợ la ré khóc than.
Bước vào cửa thấy con thú Bích thủy còn cột đó!
Ngưu Ma Vương hét lớn hỏi rằng:
– Phu nhơn, vậy chớ Tôn ngộ Không nó chạy ngõ nào?
Các Ấ huờn quì xuống chúc rằng:
– Mừng gia gia mới về.
La Sát níu Ngưu Ma Vương vật mình mà mắng rằng:
– Trời đánh rồi đời cho rảnh nà! Sao không dè dặt, để yêu hầu trộm thú Bích thủy, lại giả hình về động mà gạt tôi.
Ngưu Ma Vương nghiến răng hỏi rằng:
– Con khỉ đột chạy ngã nào?
La Sát đấm ngực nói rằng:
– Con khỉ ấy gạt tôi, lấy đặng quạt ba tiêu liền hiện nguyên hình chạy mất. Tôi tức biết chừng nào!
Ngưu Ma Vương nói:
– Thôi, phu nhơn đừng nóng nảy làm chi, để ta theo rượt con khỉ yêu, mà lấy bữu bối lại,và bắt nó mà lột da mổ ruột cho phu nhơn rửa hờn.
Nữ sứ lấy binh khí cho mau.
Nữ sứ thưa rằng:
– Binh khí Ðại vương ở đâu?
Ngưu Ma Vương nói:
– Lấy binh khí của bà mi cũng đặng.
Nữ sứ lấy cặp song kiếm dưng lên.
Ngưu Ma Vương cầm gươm ra khỏi động, nhắm đi riết qua Hỏa Diệm sơn.
Khi ấy Ngưu Ma Vương đằng vân bay theo, thấy Tôn Hành Giả vác quạt ba tiêu mặt mày hớn hở, đi bộ xung xăn.
Ngưu Ma Vương kinh hãi nghĩ rằng:
– Con khỉ này nó làm thế nào mà biến cây quạt ra lớn dường ấy! Nếu nó biết phép biến lớn, chắc biết phép thâu nhỏ. Nếu ta đòi thì nó không trả, lại e nó quạt mình một cái, bay tới tám muôn bốn ngàn dặm, thì theo sao kịp mà đòi. Chi bằng dùng kế mới đặng. Tam Tạng còn hai người đệ tử nữa, là Trư Bát Giái, Ngư Tinh Sa Tăng. Song Ngư Tinh hình dạng còn hồ nghi, chi bằng ta biến làm Bát Giới thì chắc ý, thừa dịp nó đang vui mừng, mà gạt thì phải mắc.
Nói rồi cất gươm, dùn mình biến làm Bát Giái, núp trong bụi chận đầu Hành Giả, bước ra kêu lớn rằng:
– Sư huynh, thầy thấy anh lâu về, e Ngưu Ma Vương tranh đấu với anh, nên sai tôi tiếp chiến, ta đã lấy đặng bữu bối rồi!
Bát Giới hỏi:
– Anh làm thế nào mà lấy đặng bữu bối?
Tôn Hành Giả nói:
– Ta đánh với lão Ngưu hơn một trăm mười hiệp cầm đồng, nó liền thôi đánh với ta, bỏ đi xuống day động Bích ba mà ăn tiệc với lũ thủy quái. Ta lén theo ăn trộm con thú Bích thủy của nó, mà cởi về động Ba tiêu, ta giả h ình nó vào động gạt La Sát. La Sát ngở thiệt lão Ngưu lấy làm mừng rỡ, ta làm vợ chồng khan với La Sát một hồi, rồi kiếm thế kiếm thần bảo La Sát đưa quạt.
Bát Giới giả nói:
– Sư huynh mệt nhọc quá chừng, mới lấy đặng bữu bối. Thôi, anh đưa quạt ấy tôi vác thế cho, đặng anh đi cho khỏe.
Tôn Hành Giả y lời trao quạt, Bát Giới giả cầm quạt niệm chú thâu nhỏ lại, ngậm trong miệng hiện nguyên hình mắng rằng:
– Con khỉ, biết mặt ta chăng?
Tôn Hành Giả ngó thấy tức mình, ăn năn không kịp! Biết tại mình sơ ý quá, nổi xung giá thiết bãng đánh liền.
Ngưu Ma Vương tràng khỏi, lấy quạt ra biến lớn quạt liền.
Chẳng ngờ Tôn Hành Giả có nuốt định phong đơn, nên quạt không nhúc nhích.
Khi ấy Ngưu Ma Vương kinh hãi, thâu quạt ngậm vào miệng rồi múa song kiếm chém Hành Giả.
Hai người đồng đằng vân đánh với nhau, chưa biết ai thắng bại.
Nói về Tam Tạng ngồi giữa đường, bị nóng nực không khát nước, liền hỏi Thổ Ðịa rằng:
– Chẳng hay Ngưu Ma Vương pháp lực ra thể nào, xin tôn thần cắt nghĩa cho tôi rõ.
Thổ Ðịa nói:
– Ngưu Ma Vương có thất nhập nhị huyền công, thiệt xứng tay với Ðại Thánh.
Tam Tạng nói:
– Ngộ Không là người thông thạo đường đi, hai mươi dặm đàng đi chừng một nháy; lẽ nào đi cả ngày mà chưa về, chắc là đánh với Ngưu Ma Vương nên trể nãi như vậy. Thôi, Ngộ Năng hay là Ngộ Tịnh đi ngừa anh ngươi, nếu gặp đánh nhau với Ngưu Ma Vương thì xông vào trợ chiến. Mượn cho đặng quạt ấy mà qua Hỏa diệm sơn.
Bát Giới nói:
– Tôi muốn đi ngừa, ngặt không biết đường qua núi Tích lôi, nên khó nổi đi kiếm.
Thổ Ðịa nói:
– Ðường ấy tiểu thần rõ biết, vậy thì Quyện Liêm tướng quân ngồi đây với thầy, để tôi dắt đường cho Thiên Bông nguyên soái đi tìm Ðại Thánh.
Tam Tạng mừng rỡ khen phải, Bát Giới chuyển thần lực vác đinh ba theo Thổ Ðịa. Hai người đồng đằng vân qua hướng Nam.
Xãy nghe tiếng hét vang trời, gió giông vụt vụt.
Bát Giới ngó thấy Tôn Hành Giả đương đánh với Ngưu Ma Vương, Thổ Ðịa nói:
– Thiên Bồng chưa trợ chiến, còn đợi chừng nào?
Bát Giới vác đinh ba chạy tới kêu lớn rằng:
– Sư huynh ráng lên, có tôi đến trợ chiến đây!
Tôn Hành Giả nổi giận nói rằng:
– Cũng tại bộ mặt heo của ngươi, mới báo hại ta như vầy!
Bát Giới hỏi:
– Tôi báo chuyện chi?
Tôn Hành Giả nói:
– Con trâu này vô lể lắm! Ta đã gạt La Sát mượn đặng quạt thiệt vác về, bị Ngưu Ma Vương nó giả hình ngươi, gạt ta mà lấy cây quạt, rồi lại hổn chiến tới bây giờ. Có phải vì cái mặt heo của ngươi đó mà hại ta chăng?
Bát Giới nghe nói nổi giận, giá đinh ba trớt tới mắng rằng:
– Ta quyết đập con yêu này rồi đời cho rảnh. Sao ngươi dám biến hình tổ nễ mà gạt sư huynh ta, làm cho anh em hờn giận.
Vừa nói vừa đập đùa. Bởi Ngưu Ma Vương đánh với Hành Giả đã lâu, nên đuối sức, nay bị Bát Giới đương hăng, tính cự không lại hai người, túng phải bại tẩu.
Xảy thấy Thổ Ðịa Hỏa diệm sơn dẫn âm binh đón đầu mà nói rằng:
– Ðại lực vương hãy dừng lại! Tam Tạng đi thỉnh kinh Tây Phương, thần thánh đều phò hộ, ba cỏi cũng đồng hay. Vậy thì cho mượn quạt ba tiêu, quạt tắt Hỏa diệm sơn đặng đi thỉnh kinh kẻo trễ. Nếu không cho mượn, chắc trời phạt phải bỏ mình.
Ngưu Ma Vương nói:
– Thổ Ðịa không biết căn cước, bởi con khỉ ấy giởn vợ ta và đánh thiếp ta, gạt vợ ta mà lấy quạt báu. Ta muốn ăn tươi nuốt sống nó mới hết tức, lẽ nào cho mượn quạt ba tiêu?
Nói chưa dứt lời, Bát Giới đuổi tới mắng rằng:
– Con trâu đưa quạt cho mau, thì ta dung toàn tánh mạng?
Ngưu Ma Vương giận đánh với Bát Giái, Tôn Hành Giả chạy tới trợ chiến một hồi. Ðánh trận đó tới sáng một đêm, không phân thắng bại. Vì Bát Giới đã mệt rồi không mạnh mẽ như khi mới đánh.
Còn Ngưu Ma Vương và đánh và chạy, tới núi Tích lôi động Vân ma.
Thổ Ðịa cũng dẫn âm binh theo trợ chiến.
Ngọc Diện công chúa ở trong động, nghe tiếng hét vang trời.
Xãy thấy Ấ huờn vào báo.
Ngọc Diện công chúa truyền quỷ binh trợ chiến.
Ngưu Ma Vương mừng rỡ, rán sức đánh hơn xưa, Bát Giới hãi kinh bại tẩu.
Tôn Hành Giả thấy bầy yêu vây phủ, liền nhãy lên mây.
Ngưu Ma Vương thắng trận rồi, thâu binh vào động.
Còn Thổ Ðịa dẫn âm binh chạy theo Bát Giái, Ngưu Ma Vương thấy chúng chạy tan, truyền tiểu yêu đóng cửa động.
Khi ấy Tôn Hành Giả theo Thổ Ðịa và nói với Bát Giới rằng:
– Con trâu đã già mà còn mạnh quá! Tinh nó đánh với lão Tôn hôm qua cầm đồng, sau có hiền đệ và Thổ Ðịa trợ chiến cả đêm, cũng không làm chi nổi nó. Nay có thêm vài ba con yêu nhỏ, mà nó lại mạnh mẽ gia bội! Bây giờ nó đóng cửa động chặt cứng, mình biết tính làm sao?
Bát Giới nói:
– Không có quạt Ba tiêu, làm sao đem thầy qua khỏi Hỏa diệm, chi bằng trở về chỗ cũ, đi ngỏ khác cho xong.
Thổ Ðịa nói:
– Ðại Thánh chớ phiền lòng, Thiên Bồng đừng thối chí. Nếu đi ngõ khác làm sao tới Tây Phương. Tôn Sư hãy còn ngồi đợi tại đường chánh, trông cho Ðại Thánh thành công.
Tôn Hành Giả nói:
– Phải, phải, ta rán đánh Ngưu Ma Vương mà lấy cho đặng cây quạt, thì đưa thầy mới tới Tây Phương.
Bát Giới nói:
– Tôi cũng quyết ra sức bắt cho đặng con trâu già.
Nói rồi áp tới đạp cữa động ầm ầm, đá bể tan nát.
Lủ tiểu yêu vào báo rằng:
– Ðại vương ôi! Tôn ngộ Không dẩn một lủ hồi nảy, đến phá cửa nát tan!
Ngưu Ma Vương đang thuật chuyện với Ngọc Diện công chúa xãy nghe báo càng thêm nổi giận, như chế dầu vào lửa.
Liền mặc giáp, xách thiết bãng xông ra, hỏi rằng:
– Con khỉ kia mi làm lớn bục nào mà dám phá cửa ta như vậy?
Bát Giới nói lớn rằng:
– Thứ đồ chúng lột da, mà dám nói phách! Ðố chạy đâu cho khỏi? Coi đinh ba ta đây.
Ngưu Ma Vương nói:
– Mi là đồ thô tục, ăn những cám với hèm, có tài chi mà cự địch? Bảo con khỉ ấy lại đây mà đánh với ta.
Tôn Hành Giả nổi giận xưa là bằng hữu, nay thiệt là cừu nhơn. Ta quyết đập chết cho rảnh.
Nói rồi hỗn chiến với Ngưu Ma Vương.
Bát Giới rán tinh thần xông vào trợ chiến. Phen này đánh dử hơn chuyến trước, quyết một sống một chết với nhau.
Ðánh dư một trăm hiệp.
Bát Giới đổ ngây, đập tã đập hữu.
Ngưu Ma Vương một mình đỡ không kịp hai phía, xách thiết bãng chạy dài, quyết về bế động, bị Thổ Ðịa dẫn âm binh đón đầu hét lớn rằng:
– Ðại Lực vương đi đâu đó? Có ta đón đây.
Khi ấy Ngưu Ma Vương vào động không đặng, thấy Tôn Hành Giả và Bát Giới đuổi theo. Túng liền cổi giáp quăng mão và bỏ thiết bãng, dùn mình biến ra con nhạn, bay bổng lên trời.
Tôn Hành Giả ngó thấy cười rằng:
– Bát Giới ôi! Lão Ngưu đà chạy mất rồi!
Bát Giới cũng sững sờ, không biết đâu mà kiếm.
Thổ Ðịa cũng không biết, cứ ngó tứ bề. Tôn Hành Giả chỉ mà nói rằng:
– Nó bay kia kìa!
Bát Giới nói:
– Ấy là con nhạn chớ?
Tôn Hành Giả nói:
– Ngưu Ma Vương biến ra con nhạn đó, vậy thì hai ngươi xông vào động trừ cho hết bầy yêu, thì nó không chổ trú. Ðể ta theo biến hóa mà trừ nó cho rồi.
Bát Giới và Thổ Ðịa y lời, xông vào Ma vân động.
Còn Tôn Hành Giả cất thiết bãng, dùn mình biến ra con Hải đông thanh, bay theo vấu cổ con nhạn.
Ngưu Ma Vương kinh hãi, biết Tôn Hành Giả biến hóa theo mình, liền biến làm con ó vàng mà cự với Hải đông thanh.
Tôn Hành Giả biến ra con phụng đen, rượt theo ó vàng mà cắn.
Ngưu Ma Vương biến ra con bạch hạc, ré lên một tiếng bay bổng qua hướng Nam. Tôn Hành Giả hóa ra con phụng đõ và bay theo.
Ngưu Ma Vương biết con phụng đỏ là chúa loài chim, không lẻ biến loại cầm thú mà cự lại. Liền nhào xuống hóa ra con cheo, đứng ăn ở dưới chơn núi.
Tôn Hành Giả hiểu đặng, liền nhào xuống hóa ra con cọp đói, nhãy vớ con cheo. Ngưu Ma Vương kinh hãi biến ra con toan ghê, đầu đồng cỗ sắt, hộc như sấm nổ, nhảy vật con beo.
Ngưu Ma Vương biến ra con gấu ngựa cự với toan nghe.
Tôn Hành Giả hóa ra con voi già, vòi dài như con rắn, ngà như ống tre, bỏ vòi vật con gấu ngựa.
Ngưu Ma Vương cười lớn một tiếng hiện nguyên hình là con trâu cò lớn quá, đầu như hòn núi Thái Sơn, mình dài hơn ngàn trượng cao gần tám trăm trượng. Rồi kêu lớn mà nói rằng:
– Con khỉ ốm kia, đố mi làm chi ta nổi?
Tôn Hành Giả hiện nguyên hình, cầm thiết bãng, ngay lưng ra và hò rằng:
– Lớn, lớn.
Liền cao muôn trượng, đầu lớn như núi, thiết bãng lớn hơn cột đồng, đập đầu con trâu lớn.
Con trâu lớn tràn khỏi, rồi báng luôn luôn, hai đàng đánh với nhau, vang trời động đất.
Khi ấy các vị Du thần ngó thấy, đồng vây đánh Ngưu Ma Vương, Ngưu Ma Vương cự một hồi, biết thế không lại bèn nhào xuống hiện nguyên hình người, chạy về động Ba tiêu, đóng cửa chặt cứng.
Chư thần liền vây phủ núi Túy vân.
Xảy thấy Bát Giới và Thổ Ðịa dẫn âm binh trở về.
Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Việc ấy ra thể nào?
Bát Giới cười rằng:
– Vợ của lão Ngưu bị ta đập chết, cổi áo rõ là con Hồ ly mặt người. Còn bao nhiêu tiểu yêu bị tôi giết hết và đốt động cháy queo.
Thổ Ðịa nói:
– Tôi nghi nó trốn về động cũ, nên dẫn âm binh đến đây.
Tôn Hành Giả nói:
– Nó đã về động Ba tiêu, là nhờ thế vợ là La Sát.
Bát Giới nổi giận nói rằng:
– Sao không phá động lấy quạt ba tiêu?
Nói rồi vác đinh ba đập nát cửa động.
Khi ấy Nữ sứ kinh hãi chạy vào báo rằng:
– Gia gia ôi! Không biết người nào quá hung, đập hư cữa động.
Lúc này Ngưu Ma Vương đương thở hào hển và thuật chuyện cho vợ nghe, lại nhả cây quạt đưa cho La Sát.
Kế nghe báo việc phá cửa, vân vân.
La Sát cầm quạt khóc và nói rằng:
– Thôi, cho con khỉ mượn cây quạt Ba tiêu, đặng nó đi cho rảnh.
Ngưu Ma Vương nói:
– Phu nhơn ôi! Cho mượn quạt không trượng gì, mà tức mình lắm. Phu nhơn để tôi đánh với chúng nó một hồi nữa.
Nói rồi nai nịt cầm song kiếm ra ngoài gặp Bát Giới đang phá cửa, Ngưu Ma Vương nổi giận giá song kiếm đánh liền.
Bát Giới và đánh và thối lui.
Tôn Hành Giả xông vào trợ chiến.
Ba người đồng nhảy lên chót núi, hổn chiến với nhau.
Thổ Ðịa và Chư thần phủ vây bốn phía.
Ngưu Ma Vương rán chịu năm mười hiệp, rồi bại tẩu qua phía Bắc, tới Ngủ đài sơn, gặp ông Bát Pháp kim cang đón lại nạt rằng:
– Ngưu Ma Vương! Ngươi chạy đi đâu đó? Ta vưng lịnh Phật Tổ, bủa lưới tại đây đón ngươi, nội phía Bắc này không chỗ nào thoát khỏi lưới.
Khi ấy Ngưu Ma Vương thối lui, kế Tôn Hành Giả, Bát Giới và Chư thần đuổi tới, Ngưu Ma Vương kinh hãi, đằng vân qua phía Nam.
Xãy gặp Thắng Chi kim cang ở núi Nga mi đón lại, hét lớn rằng:
– Ta vưng lịnh Phật Tổ bũa lưới phép phía này, quyết bắt ngươi cho đặng.
Ngưu Ma Vương kinh hãi, đằng vân qua hướng Ðông.
Xãy gặp Ðại Lực kim cang đón lại kêu lớn rằng:
– Ngưu Ma Vương! Ta vưng mật chỉ của Phật Tổ, sai ở đây bủa lưới bắt ngươi.
Ngưu Ma Vương thấy bốn phía đều có lục binh, không biết chạy đi đâu cho khỏi.
Xảy thấy Hành Giả, Bát Giới và Chư thần đuổi tới.
Ngưu Ma Vương lúng túng nhảy lên mây.
Xảy gặp Thác tháp Lý Thiên Vương và Na Tra thái tử, với thần Cự Linh đón lại kêu lớn rằng:
– Ngưu Ma Vương đừng chạy nữa. Chúng ta vưng chỉ Thượng Ðế, bủa thiên la địa võng mà bắt ngươi đây.
Ngưu Ma Vương nghe nói có địa vỏng, tính bề chun xuống đất không đặng, nên hiện nguyên hình là con trâu cò lớn, nhảy báng Lý Thiên Vương. Lý Thiên Vương đưa đao ra đở và chém lại.
Giây phút Tôn Hành Giả đuổi tới.
Na Tra kêu lớn nói rằng:
– Xin đại thánh miễn chấp, vì tôi mặc giáp trong mình, nên làmlể không đặng. Hôm qua cha con tôi thấy Phật Tổ gởi sớ cho Thượng Ðế, nói: Tam Tạng đi qua núi Hỏa diệm không đặng, Tôn Hành Giả mượn quạt phép Ngưu Ma Vương có ý không cho; một mình Tôn ngộ Không bắt Ngưu Ma Vương chẳng đặng, nên xin Thượng Ðế sai Thiên tướng trợ lực với Tôn Hành Giả mà bắt Ngưu Ma Vương. Bởi cớ ấy nên Thượng Ðế sai cha con tôi đem binh trợ chiến. Tôn Hành Giả nói:
– Ngưu Ma Vương thần thông lắm, nay lại hóa hình cao lớn như vậy, mới tính làm sao?
Na Tra cười rằng:
– Có khó gì, để coi tôi bắt nó!
Nói rồi hét lên một tiếng, hiện ra ba đầu sáu tay, cầm sáu món binh khí, nhảy lên lưng trâu, rút gươm trảm yêu, chém đầu trâu rụng xuống!
Khi ấy Lý Thiên Vương mừng rỡ, bước lại ra mắt Tôn Hành Giả, xãy thấy trong cổ con trâu ấy mọc ra một cái đầu nữa, con mắt sáng giới, miệng phun khói đen thui. Na Tra nổi giận chém một gươm, đầu trâu rụng nữa! Tức thì mọc đầu khác, Na Tra chém mười mấy lần, cũng mọc đầu mãi!
Na Tra nổi giận, xin Lý Thiên Vương soi kiếng chiếu yêu e nó biến hóa.
Dặn rồi lấy bánh xe hỏa luân máng trên sừng trâu, hét lên một tiếng lửa cháy rần rần, con trâu ấy giậm chơn la dảy, nóng quá nên chịu phép năn nỉ rằng:
– Xin đừng giết, tôi chịu quy y theo Phật.
Na Tra nói:
– Ngươi muốn sống thì đưa quạt ba tiêu ra đây.
Ngưu Ma Vương nói:
– Cây quạt còn tại động Ba tiêu, hỏi vợ tôi thì có.
Na Tra nghe nói, liền lấy dây Phược yêu xỏ mũi trâu mà dắt đi.
Còn Tôn Hành Giả, Bát Giái, Lý Thiên Vương, Thổ Ðịa và bốn ông Kim cang với Chư thần, đồng theo sau con trâu có vẽ tới Ba tiêu động.
Ngưu Ma Vương kêu lớn rằng:
– Phu nhơn mau dưng quạt mà cứu ta.
La Sát nghe kêu, liền cổi đồ sắc phục, thay áo trắng theo cách đạo cô, cầm cây quạt ra trước cửa động, quì xuống thưa rằng:
– Xin các vị tha chồng tôi khỏi thác, tôi xin cho Tôn thúc thúc mượn cây quạt mà quạt Hỏa diệm sơn.
Tôn Hành Giả lấy cây quạt, đằng vân với Chư thần đến Hỏa diệm sơn.
Còn Tam Tạng ngồi với Sa Tăng đợi Hành Giả không thấy trở về, thì lấy làm lo sợ. Xảy thấy hào quang sáng giới, Tam Tạng kinh hãi hỏi rằng:
– Ngộ Tịnh ơi! Thần binh ở đâu đến đó?
Sa Tăng nhìn xem giây phút rồi thưa rằng:
– Ấy là bốn ông Kim cang và Chư thần, còn người dắt trâu là Na Tra thái tử, ông cầm kiếm là Lý Thiên Vương. Còn đại sư huynh cầm quạt Ba tiêu, nhị sư huynh và Thổ Ðịa dẫn thần binh theo sau đó.
Tam Tạng nghe nói liền đội mảo tì lư, quỳ lạy và tạ ơn rằng:
– Ðệ tử có đức hạnh bao nhiêu mà nhọc sức các vị Phật Thần bảo hộ.
Bốn ông Kim cang đồng nói rằng:
– Mừng cho thánh tăng gần thành công, nên Phật Tổ sai chúng tôi giúp sức. Thánh tăng phải rán cho lắm chớ khá ngả lòng.
Tam Tạng lạy tạ.
Còn Tôn Hành Giả cầm quạt Ba tiêu, chuyễn lực quạt một quạt, thì lữa đã tắt rồi! Tôn Hành Giả mừng thầm, quạt bồi một cái nửa, xãy nghe gió thổi rao rao, mát mẻ hết thảy. Quạt một cái nửa trời mưa chứa chan, chổ nào có lửa thì mưa, còn chỗ nào không lửa thì nắng, bởi cớ ấy nên ai nấy không ướt quần áo.
Thầy trò đồng lạy tạ ơn. Na Tra và Lý Thiên Vương dắt trâu qua cỏi Phật, còn bốn vị Kim cang đằng vân bay trước.
Chư thần đều lui. Còn có một ông Thổ Ðịa giữ La Sát.
Khi ấy Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Còn La Sát sao không đi, đừng đợi giống gì nữa?
La Sát quỳ thưa rằng:
– Khi trước Ðại Thánh nói, mượn quạt trị lửa, rồi trả lại cho tôi. Bởi tôi không vưng lời mới sanh sự như vậy, ăn năn thì việc đã rồi. Xin Ðại Thánh nhớ lời hứa trả quạt cho tôi, đặng tôi vào hang tu luyện.
Thổ Ðịa nói:
– Ðại Thánh thừa dịp này sẳn có La Sát, biểu trừ căn lửa ấy cho rồi, cứu đặng muôn dân, phước đức nhiều lắm.
Tôn Hành Giả nói:
– Ta nghe thiên hạ thuật chuyện, quạt này trị đở giấc mà làm mùa, chớ trừ lửa ấy không tuyệt. Phải vậy hay chăng?
Tôn Hành Giả quạt y số, mưa xuống ngay núi dầm dề.
Ðoạn xong rồi trả quạt cho La Sát, La Sát niệm chú thâu nhỏ lại, ngậm vào miệng, tạ từ lên núi tu hành, sau củng thành chánh quả, trong kinh còn để tiếng muôn đời.
Còn Thổ Ðịa mừng rỡ tạ ơn, củng theo sau đưa đón.
Bốn thầy trò qua khỏi Hỏa diệm sơn, nhắm hướng Tây thẳng tới, đường đi êm ái, mình mẩy thung dung.
Tới hết mùa đông lạnh lẽo, xa xa thầy thành trì nước khác.
Tam Tạng dừng ngựa nói rằng:
– Ngộ Không, lầu đài nào đó vậy?
Tôn Hành Giả coi rồi nói rằng:
– Chắc là thành vua thời phải.
Tam Tạng nghe giục ngựa tới, thấy chợ búa đông đầy, người bộ hành như kiến.
Ði một đỗi thấy thầy than rằng:
– Rất đỗi con thỏ chết, con chồn ngó thấy còn thảm thay, vì thương loài thú như nó. Huống chi mình gặp sãi mắc nạn mà chẳng động lòng? Vậy thời Ngộ Không hỏi thăm thử vài lời, coi các sãi ấy vì cớ nào mà mắc tội như vậy?
Tôn Hành Giả vưng lời, bước tới hỏi rằng:
– Mấy ông Hòa Thượng kia? Chẳng hay ở chùa nào, phạm tội chi mà mang gông mang xiềng như vậy?
Các sãi đồng quì xuống thưa rằng:
– Gia gia ôi! Chúng tôi ở chùa Kim quang, thiệt người ngay mà mắc nạn, oan ức biết chừng nào.
Tôn Hành Giả hỏi:
– Chùa kim quang ở đâu?
Các sãi nói:
– Ði khỏi đường này thì tới.
Tam Tạng bước lại hỏi rằng:
– Các ông bị hàm oan làm sao?
Các sãi nói:
– Tuy gia gia ở phương xa mới đến đây, song chúng tôi có biết mặt. Ngặt chỗ này không dám nói cho cạn lời, xin vời vào chùa kim quang sẽ đàm đạo.
Tam Tạng nói:
– Phải.
Ðồng đi theo các sãi đến cửa núi, thấy trên có tấm biển đề bãy chữ vàng như vầy:
– Sắc kiến Hộ quốc Kim quang tự.
Nghĩa là: Vua lập chùa Kim quang để giúp nước. Tuy chùa cao lớn, ngặt bây giờ phong cảnh rất buồn.
Thiệt là:
Hoa rơi đầy đất chùa không sãi,
Chim nói rầy tai nẻo vắng người.
Tam Tạng xem thấy động lòng rơi lụy.
Các sãi mở cửa tam quan. Tam Tạng và Tôn Hành Giả, Bát Giái, Sa Tăng đồng vào lạy Phật.
Xong rồi xuống nhà phương trượng, thấy các sãi nhỏ bị xiềng trong gốc cột.
Tam Tạng xemthấy thãm thương!
Khi ấy các sãi đồng làm lễ hỏi rằng:
– Chẳng hay các lão gia ở Ðông Ðộ đến đây chăng?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Mấy thầy này có học quẻ vị bốc tiên tri tiên mới đặng như vậy
Các sãi nói:
– Chúng tôi không biết bói khoa chi hết. Bởi chúng tôi bị hàm oan khổ sở, cứ niệm phật, kêu trời có khi cảm động chư thần, nên hôm qua nội chùa đồng thấy một điềm chiêm bao như nhau. Thần nhơn mách bảo rằng: Có thánh tăng ở Ðông Ðộ Ðại Ðường, ngày mai đến cứu nạn. Bởi cớ ấy nên chúng tôi thấy các lão gia dị tướng, đi đến phải ngày, chúng tôi chắc là thánh tăng đến đây cứu nạn
Tam Tạng hỏi:
– Ðây là nước chi, các ông bị hàm oan làm sao; cắt nghĩa cho bần tăng rỏ?
Các sãi nói:
– Ðây là nước Tế thại, lớn hơn các nước xung quanh. Thường năm có bốn nước gần đến cống sứ, bốn nước gần ấy là: Phía Nam nước Nguyệt đa; phía Bắc nước Cao xương; phía Ðông nước Tây lương; phía Tây nước Bổn bát. Bốn nước ấy năm nào cũng đem ngọc lành châu sáng, gái tốt ngựa hay mà cống sứ cho bổn quốc, cầu xin khỏi chinh phạt nước mình.
Tam Tạng nói:
– Như vậy thì nước này là thượng bang, nên các nơi tùng phục, chắc là vua sáng tôi ngay, văn hiền vỏ chánh. Bởi vua có đạo, nên lân quốc mới kinh vì.
Các sãi nói:
– Vua đã không đạo, văn võ cũng chẳng hiền. Nguyên chùa Kim quang này thuở nay trên tháp hiện hào quang, ban đêm càng tỏ rạng hơn nữa, nên các nước ngó thấy kinh phục mười phần, thường năm đồng cống sứ. Chẳng ngờ cách ba năm trước, mồng một tháng bảy, nửa đêm trời mưa huyết, tháp ấy đỏ lòm, nên hào quang mất chiếu, hai năm nay bốn nước nhỏ không cống sứ nữa. Vua muốn hưng binh vấn tội bốn nước ấy, các quan văn vỏ tâu hồ nghi rằng:
– Chắc là các sãi chùa Kim quang ăn cắp bửu bối trên tháp vàng, nên mất hào quang. Các nước ngở bổn quốc đã suy rồi, nên không cống lể.
Vua tin lời sàm tấu, bắt chúng tôi lên khảo từ ngày. Thương hại cho mấy ông thầy già bị tra mà chết, mấy ông sồn sồn thì chết sau. Còn chúng tôi trai tráng, tốt sức chịu đòn, nên còn sống mà chịu hành tội. Nay tra khảo đã nhàm, mới đóng gông đóng xiềng lại đó. Xin lão gia xét lại, chúng tôi giữ gìn theo luật, lễ nào dám tham gian, có đâu lấy bữu bối trên tháp? Xin thánh tăng từ bi cứu nạn, công đức hằng hà
Tam Tạng nghe nói than rằng:
– Chuyện này thiệt u minh, thiệt khó nổi kêu nài lắm! Ngộ Không! Chừng này là bao giờ đó?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Chắc là giữa giờ thân
Tam Tạng nói:
– Ta muốn vào yết chúa, mà đổi giấy thông quan, ngặt việc của mấy thầy chưa rõ. Trước khi ta ra khỏi Trường An có lời nguyện rằng: Gặp miễu thì thắp hương, đến chùa thì lạy phật, gặp tháp thì quét tháp. Nay đến đây gặp chư tăng mắc nạn, cũng vì bữu tháp mà ra. Vậy thì ngươi bó cho ta một cây chổi mới, đặng ta tắm gội rồi, sẽ đi quét tháp. Hoặc may hào quang chiếu lại như cũ, ta sẽ tâu với chúa, xin xả tội chúng tăng.
Khi ấy các sãi nghe nói, liền chạy ra sau bếp, lấy búa đem đưa cho Bát Giới mà nói rằng:
– Xin gia gia chặt xiềng cho chúng nó đi dọn cơm dọn nước
Bát Giới cười rằng:
– Chẳng dùng búa làm chi, hãy cậy ông Hòa Thượng mặt có lông dài, bẽ xiềng như nháy mắt Tôn Hành Giả nghe nói, lại vuốt một cái, xiềng tỏa gảy ngang, vuốt cái xiềng nào, thì cái xiềng ấy gảy hết. Các sãi nhỏ mừng đặng sát xiềng, đồng chạy vào nhà trù nấu nước dọn cơm chay thiết đãi.
Ðoạn thầy trò Tam Tạng ăn uống xong rồi, thì trời đã tối.
Xãy thấy hai Hòa Thượng đem hai cây chổi mới, sải nhỏ thắp đèn, lại có một sãi nhỏ đến trước mặt Tam Tạng nói rằng:
– Bạch quá lão gia tôi đã hâm nước xong rồi, mời lão gia tắm gội
Tam Tạng tắm gội xong rồi, thay áo chẹt, cầm chổi lên quét tháp.
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Trên tháp đã bị mưa huyết vấy rồi, lâu ngày không chiếu hào quang, e sanh vật dữ. Ðể tôi đi quét với thầy
Tam Tạng nói:
– Như vậy thì xong lắm!
Nói rồi thầy trò đồng lên bàn Phật thắp hương đèn.
Tam Tạng lạy và vái rằng:
– Ðệ tử là Trần Huyền Trang vưng lịnh Ðường hoàng đế, qua Tây Phương lạy phật thỉnh kinh. Nay đến nước Tế thại chùa Kim quang, thấy tháp báu bị uế nhơ, chúng tăng oan ức. Xin Phật từ bi cho rõ sự hàm oan của tăng chúng, thầy trò tôi cảm đức vô cùng.
Vái lạy xong rồi, Tôn Hành Giả mở cửa tháp và cầm đèn.
Tam Tạng bắt từng dưới quét lần lên trên, đặng bảy từng như vậy, thì đã tới canh ba.
Khi ấy Tôn Hành Giả thấy thầy mỏi mê quá, liền thưa rằng:
– Thầy đã mỏi mệt, để Lão Tôn quét thế cho.
Tam Tạng hỏi:
– Không biết tháp này cao mấy từng?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Từng này coi còn rộng lắm, tới từng chót ít nữa cũng còn sáu từng, chắc tháp này mười ba từng trọn
Tam Tạng nói:
– Phải rán quét cho hết, mới trọn lời nguyền
Nói rồi rán quét thêm ba từng, đau lưng mỏi cổ quá, liền ngồi xuống mà nói rằng:
– Ngộ Không, còn ba từng ngươi quét thế cho ta, chớ rán không nổi nữa.
Tôn Hành Giả phụng mạng quét từng mười một lên đến từng mười hai.
Xảy nghe tiếng rầm rì trên từng chót, Tôn Hành Giả lấy làm lạ nghĩ rằng:
– Lạ này! Chừng này đà canh ba còn ai nói chuyện trên tháp! Chắc là yêu quái mà thôi. Ðể coi thử vật gì cho biết.
Nghỉ rồi chun ra đứng thinh không ngó vào từng chót, thấy trong tháp có hai con quái đương ngồi ăn uống với nhau.
Tôn Hành Giả rút thiết bãng cản ngang cửa tháp hét lớn rằng:
– Nói vậy thì con quái này ăn trộm bữu bối trong tháp.
Hai con quái hãi kinh, lấy bầu rượu và chén ăn cơm mà liệng Hành Giả.
Khi ấy Tôn Hành Giả lướt tới nạt lớn rằng:
– Nếu ta đập chết hai đứa bây, thì mất tang mất chứng, không có kẻ khai, để bắt sống mà tra vấn.
Nói rồi lấy thiết bãng càng cổ.
Hai con quái đứng trợn trắng nói rằng:
– Xin tha chúng tôi kẻo oan lắm! Ðể tôi khai rỏ kẻ ăn trộm bữu bối trên tháp này.
Tôn Hành Giả nằm đầu hai con quái, kéo xuống từng tháp thứ mười, thưa rằng:
– Tôi đã bắt đặng hai đứa ăn trộm bữu bối đây
Tam Tạng đương mơ màng, nghe nói lớn giựt mình thức dậy hỏi rằng:
– Chúng nó ở đâu mà ngươi bắt đặng?
Tôn Hành Giả đè cổ hia con quái quì trước mặt Tam Tạng mà thưa rằng:
– Chúng nó uống rượu trên tháp, nên Lão Tôn bắt xuống đây. Xin thầy lấy khẩu cung, coi nó là yêu tinh ở đâu mà đến ăn cắp bữu bối.
Hai con quái ấy run lập cập năn nỉ rằng:
– Xin tha cho chúng tôi còn tánh mạng, thì chúng tôi cứ thiệt khai ngay. Hai đứa tôi nguyên ở núi Loạn thạch, động Bích bà, vua Vạn Thánh sai đi tuần tháp. Hai đứa tôi, một đứa tên là Bôn ba nhi Bá, một đứa tên là Ba bá nhi Bôn. Nguyên Ba bá nhi Bôn là niêm ngư tinh còn Bôn ba nhi Bá là hắc ngư tinh. Bởi chúa tôi là Vạn Thánh lão long có Vạn Thánh công chúa, nhan sắc như hoa, tài nghề giải nhứt. Kén đặng Cửu Ðầu phó mã thần thông quãng đại, phép nhiệm tài hay. Năm trước Vạn Thánh lão long đi với Cửu Ðầu phò mã đến tháp này, Phò Mã hóa một trận mưa huyết làm dơ cái tháp này, lại ăn cắp cái hột xá lợi là bửu bối trong tháp đem về động Bích ba, còn Vạn Thánh công chúa thấy chồng có tài ăn cắp, cũng bắt chước lén lên đền Linh hư ăn cắp cỏ chi chín lá đem về để dưới đáy ao, rồi để hột xá lợi trên bụi cỏ chi, hào quang chiếu sáng; tuy ban đêm cũng tỏ rạng như ban ngày. Tháng trước nghe đồn Tôn ngộ Không đi Tây Phương thỉnh kinh, người ấy thần thông quãng đại, hay kiếm người quấy mà hành. Bởi cớ ấy nên sai hai tôi đi tuần phòng thám thính, nếu Ngộ Không đi tới thì về báo tin cho Phò Mã dự phòng.
Tôn Hành Giả nghe nói cười rằng:
– Hèn chi kỳ trước Ngưu Ma Vương ăn tiệc tại đó, chúng nó là một đảng bất lương.
Xảy thấy Bát Giới và các sãi nhỏ xách đèn lồng lên tháp hỏi thăm:
– Sư phụ quét tháp rồi chưa, sao không đi ngủ còn đàm đạo chuyện chi vậy?
Tôn Hành Giả nói:
– Sư đệ lên đây hay lắm! Nguyên Vạn Thánh lão long ăn cắp bửu bối, rồi sai hai con yêu này đi thám thính tin ta, mới bị ta bắt đặng.
Bát Giới nổi nóng giá đinh ba nói rằng:
– Ðã bắt đặng yêu tinh mà không đập chết, còn để làm chi?
Tôn Hành Giả can rằng:
– Khoan đã, bởi ngươi không rõ, ta để sống đặng đem dưng cho Hoàng đế tra vấn mà kiểm của tang. Nếu giết đi thì còn ai mà đối nại?
Bát Giới nghe rỏ mới chịu cất Ðinh ba, Hàn Giả nắm cổ một con Niêm ngư tinh, Bát Giới nắm cổ Hắc ngư tinh, đồng kéo xuống, rồi nói với nhau rằng:
– May lắm, may lắm! Con yêu ăn cắp bửu bối đã bị gia gia bắt đặng rồi! Chúng ta chắc khỏi hàm oan nữa.
Tôn Hành Giả truyền đem dây sắt, dùi gót hai con quái ấy xiềng vào cội, bảo các sãi giữ gìn, để sáng sẽ hay, rồi bốn thầy trò đều đi ngủ.
Rạng ngày Tam Tạng dậy, sữa sang mão áo.
Tôn Hành Giả lấy điệp thông quan, hai thầy trò đồng bước ra khỏi cửa.
Bát Giới hỏi lớn rằng:
– Sao không dẫn hai thằng bợm này theo luôn thể?
Tôn Hành Giả nói:
– Ðể thầy tâu rỏ trước sau, thì có khâm sai đi dẫn nó, mình phải đem làm chi.
Nói rồi hai thầy trò đi đến ngọ môn, Tam Tạng thưa với quan hoàng môn rằng:
– Xin đại nhơn vào tâu rằng:
– Có sãi ở Ðại Ðường vưng chỉ Thiên tử, qua Tây Phương thỉnh kinh, nay xin vào đổi điệp, và xin ghi vào điệp thông quan, đặng đi qua nước khác.
Hoàng môn quan vào tâu lại.
Vua Tế Thại truyền chỉ cho vào.
Khi ấy Tam Tạng và Tôn Hành Giả bước vào sân chầu, bá quan văn vỏ xem thấy Hành Giả dị hình, đều hãi kinh thất sắc.
Tam Tạng lạy tạ tung hô xong xả.
Còn Tôn Hành Giả không lạy, chắp tay đứng chần ngần ngoài thềm.
Tam Tạng lạy rồi tâu rằng:
– Tôi là Ðường Tăng vưng chỉ thỉnh kinh, xin Bệ Hạ phê điệp thông quan; đặng tôi qua nước khác, bần tăng đội đức vô cùng.
Vua Tế Thại truyền chỉ đòi Tam Tạng lên dựa ngai vàng Tam Tạng trình điệp.
Vua Tế Thại xem điệp rồi truyền nội nhị nhắc ghế gấm thêu mời Tam Tạng ngồi, Tam Tạng tạ ơn rồi ngồi xuống.
Vua Tế Thại phán rằng:
– Vua Ðại Ðường chọn đặng Hòa Thượng chơn tu, đi thỉnh kinh chẳng nài lao khổ. Còn sải ác tăng nước trẩm, quen nghề trộm cắp khi vua.
Tam Tạng chắp tay tâu rằng:
– Chẳng hay các sải khi vua và trộm cắp vật chi?
Vua Tế Thại phán rằng:
– Trẩm làm vua Tế Thại này, lớn hơn các nuớc cỏi Tây vức, nên thường năm các lân quốc cống sứ luôn luôn. Là cũng vì cái tháp vàng trong chùa Kim quang, trên từng chót có bửu bối nên hào quang chiếu sáng, ban đêm tỏ rạng như ban ngày. Cách ba năm nay bị các sải chùa này ăn trộm bữu bối nên mất chiếu hào quang, các nước không cống lễ, trẩm giận biết dường nào.
Tam Tạng chắp tay tâu rằng:
– Bệ Hạ hồ nghi còn sái. Hôm qua bần tăng vào cửa thành, gặp mười mất sãi mang gông xiềng thảm thiết, tôi hỏi ra là sãi bị hàm oan! Ðến tối tôi lại quét tháp vàng, thầy trò tôi đã bắt đặng cặp yêu trộm bữu bối.
Vua Tế Thại mừng rỡ phán hỏi rằng:
– Yêu ăn trộm bây giờ ở đâu?
Tam Tạng tâu rằng:
– Học trò tôi bắt đặng còn xiềng chúng nó tại chùa Kim quang.
Vua Tế Thại truyền chỉ sai Câm y thị vệ dẩn binh ngự lâm đến chùa Kim quang, dẫn yêu tặc về đền tra vấn.
Tam Tạng tâu rằng:
– Tuy Cẫm y thị vệ mạnh bạo mặc lòng, song phải có đệ tử tôi đi theo, mới bắt đặng.
Vua Tế Thại phán hỏi rằng:
– Ðệ tử thầy ở đâu?
Tam Tạng chỉ Hành Giả mà tâu rằng:
– Nó đứng chắp tay dưới thềm đó.
Vua Tế Thại ngó ra kinh hãi phán rằng:
– Thầy tốt quá chừng, sao đệ tử dị hình như vậy?
Tôn Hành Giả nói trước rằng:
– Bệ Hạ nhắm tài tướng mà chọn người, khác nào lấy thùng mà lường nước biển! Nếu chọn người tốt tướng thì bắt làm sao đặng yêu?
Vua Tế Thại hết giựt mình, liền vui vẻ phán rằng:
– Thánh tăng nói phải lắm! Trẩm bây giờ không luận tướng mạo, miễn bắt yêu lấy bữu bối lại là quý mà thôi.
Phán rồi, truyền quan đương giá dọn kiệu tám người khiêng, và lọng vàng với đồ lể bộ; mời Tôn Hành Giả lên kiệu, Cẫm y thị vệ theo hầu, quân nạt đường inh õi.
Giây phút đến chùa Kim quang, Sa Tăng, Bát Giới ngở là khâm sai vưng chỉ bắt yêu, nên anh em ra nghinh tiếp; ngó thấy Tôn Hành Giả ngồi chong ngóc trong kiệu, Bát Giới cười ngất nói rằng:
– Ðại ca đả huờn hình củ rồi!
Tôn Hành Giả bước xuống kiệu hỏi rằng:
– Ta huờn hình cũ làm sao?
Bát Giới nói:
– Anh ngồi kiệu lớn, có người che lọng vàng, thì huờn hình cũ là hầu vương khi trước.
Tôn Hành Giả nói:
– Mau mau dẫn cặp yêu giải đến bệ rồng cho Hoàng Thượng tra vấn.
Bát Giới dẫn một đứa, Sa Tăng dẫn một đứa đi theo.
Còn Tôn Hành Giả lên kiệu khiêng thẳng đến triều.
Ðoạn giải hai con yêu vào thềm ngọc, Vua Tế Thại bước xuống ngai, dắt tay Tam Tạng đi coi yêu tặc, bá quan văn võ cũng theo xem. Ngó thấy có một con yêu gò má có triềm mặc giáp đen, mỏ nhọn răng sắt lẽm! Còn một con yêu kia da trơn bụng lớn, miệng rộng răng dài. Ấy là cá leo thành tinh.
Vua Tế Thại phán hỏi rằng:
– Các ngươi là yêu quái ở đâu, phe đảng bao nhiêu, tên họ chi, ăn trộm bửu bối năm nào, phải khai cho trẫm rõ?
Hai con quái quì xuống tâu rằng:
– Cách ba năm trước ngày mồng một tháng bảy, Vạn Thánh long vương ở phía đông nam cách thành vua trăm dặm, tại núi Loạn thạch, động Bích ba dưới đáy ao lớn. Vạn Thánh long vương sanh đặng Vạn Thánh công chúa, kén Cửu Ðầu phò mã thần thông quãng đại, ngày mồng một tháng bảy, cha vợ chàng rễ đồng đến tháp vàng hóa mưa huyết một đám, rồi ăn cắp hột Xá lợi trên tháp đem về động Bích ba, Vạn Thánh công chúa lại ăn trộm cỏ chi của Tây vương mẫu đêm về lấy hột xá lợi để trên bụi cỏ ấy cho êm, hào quang chiếu sáng bằng hai, ban đêm càng tỏ hơn ban ngày nữa. Phò Mã sai chúng tôi đi thàm thính, chớ chúng tôi không phải là kẻ ăn cắp báu này. Nay bị bắt thì cứ thiệt khai ngay, chẳng hề nói dối.
Khi ấy Vua Tế Thại nghe rõ, liền phán hỏi rằng:
– Ðã khai rõ ràng, sao còn giấu tên họ?
Bôn ba nhi Bá tâu rằng:
– Tôi là Niêm ngư tinh, hiệu Bôn ba nhi Bá. Còn thằng này là Hắc ngư tinh, hiệu Ba bá nhi Bôn.
Vua Tế Thại truyền Cẩm y thị vệ giam hai con quái vào ngục. Và ban chỉ tha hết các sãi chùa Kim quang.
Tức thì truyền dọn yến chay tại đền Kỳ lân mà đãi yến, tạ ơn bốn thầy trò Ðường Tăng bắt đặng yêu gian.
Khi bốn thầy trò ngồi vào tiệc, Vua Tế Thại phán hỏi rằng:
– Chẳng hay pháp danh thánh tăng là chi?
Tam Tạng chắp tay tâu rằng:
– Bần tăng họ Trần, pháp danh Huyền Trang, nhờ ơn Thiên tử cho họ Ðường theo hiệu nước, lại đặt hiệu là Tam Tạng.
Vua Tế Thại phán hỏi rằng:
– Còn mấy vị cao đồ họ tên chi?
Tam Tạng tâu rõ vân vân. Rồi thầy trò đồng ăn tiệc.
Vua Tế Thại bưng chén rượu đưa cho Tam Tạng và phán rằng:
– Xin thánh tăng định ông sãi nào đem binh bắt yêu ăn trộm?
Tam Tạng tâu rằng:
– Nhứt định học trò lớn của tôi là Tôn ngộ Không đi toàn thắng.
Tôn Hành Giả vòng tay nói rằng:
– Tôi xin phụng mạng.
Vua Tế Thại phán rằng:
– Tôn trưởng lão đã chịu đi mà muốn dụng bao nhiêu nhơn mã?
Khi ấy Bát Giới nghe nói nín không đặng, liền nói lớn rằng:
– Binh mã bao nhiêu mà cự cho lại yêu quái! Nay tôi đã no say cũng cám ơn Bệ hạ; tôi xin theo trợ chiến với sư huynh, bắt yêu quái dường như nháy mắt.
Vua Tế Thại mừng rỡ phán rằng:
– Anh em chúng tôi có binh khí tùy thân chớ đồ tầm thường dùng sao cho xứng?
Vua Tế Thại liền rót hai chén rượu lớn, đưa cho Hành Giả và Bát Giới mà phán rằng:
– Hai vị trưởng lão uống chén rượu cho thêm oai.
Hai anh em uống rồi, xin dẫn cặp yêu ra, đặng đem theo làm cớ.
Vua Tế Thại truyền Cẩm y thị vệ dẫn cặp yêu ra.
Hai anh em một người cặp nách một con yêu, đồng đằng vân bay thẳng qua hướng Ðông Nam.
Khi ấy chúa tôi kinh hãi, lạy thinh không rồi lạy Tam Tạng và Sa Tăng.
Vua Tế Thại phán khen rằng:
– Quả nhơn mắt thịt, ngỡ lịnh đồ có sức mạnh nên bắt đặng yêu quái mà thôi. Bây giờ thấy đằng vân mới biết thần tiên giáng hạ! Xin Lão Phật và Bồ Tát từ bi miễn chấp.
Bá quan văn võ thấy vua kính trọng Tam Tạng, Sa Tăng như vậy, càng cung kính mười phần.
Nói về Tôn Hành Giả với Bát Giới đằng vân tới núi Loạn thạch, đứng trên miệng ao Bích ba, Tôn Hành Giả hóa thiết bãng ra cái dao, cắt tai Hắc ngư tinh và môi dưới Niêm ngư tinh, rồi nói rằng:
– Có Tề Thiên đại thánh là Tôn gia gia ở đây, bảo nó đem bữu bối trả lại cho mau, kẻo chết hết cả lũ!
Nói rồi quăng cặp yêu xuống ao.
Hai con quái ấy mang xiềng lặn mất, chạy vào cung báo rằng:
– Ðại vương ôi, chắc là mang hại!
Khi ấy Vạn Thánh long vương đương ngồi uống rượu với Cửu Ðầu phò mã.
Xảy nghe tin ấy, liền ngưng chén rượu hỏi rằng:
– Chuyện chi mà mang tai mắc họa?
Hai con quái ấy thưa rằng:
– Chúng tôi đi tuần tháp hồi hôm, chẳng ngờ Ðường Tăng và Hành Giả quét tháp, chúng tôi bị Tôn Hành Giả bắt xiềng lại đem giải tới đền. Nay Tôn Hành Giả và Bát Giới dẫn chúng tôi đến mé ao, cắt tai và môi dưới lại tha về mà dặn rằng: Có Tề Thiên đại thánh Tôn gia gia đến đòi bửu bối, bảo Ðại vương đem trả cho mau.
Vạn Thánh long vương nghe nói hồn vía lên mây, run lặp cặp nói với phò mã rằng:
– Hiền tế ôi! Phải là ai còn dám đôi co, chứ như nó chẳng nên cự địch.
Cửu Ðầu phò mã cười rằng:
– Xin nhạc phụ đừng lo việc ấy làm chi. Bởi ngu tế tập rèn võ nghệ từ nhỏ đến nay, bốn biển cũng biết danh hết thảy. Tôi từng cự với nhiều tay hào kiệt, nay lại sợ nó hay sao? Ðể tôi ra đánh ba hiệp, đem thủ cấp hai gã vào nạp trước đền.
Nói rồi nai nịt, cầm cái Nguyệt nha sản nhảy lên mặt nước kêu lớn hỏi rằng:
– Tề Thiên đại thánh nào ở đâu, sao dám đến đây nạp mạng?
Tôn Hành Giả nói:
– Tôn gia gia của ngươi ở đây?”Cửu Ðầu phò mã nói:
– Ta nghe tiếng ngươi là sãi thỉnh kinh, sao lại gánh việc trần tục? Ta ăn cắp bữu bối nước Tế Thại, cũng không can cớ chi ngươi? Sao lại hành hà binh tướng ta, hãy còn tìm tới đây mà gây gổ nữa?
Tôn Hành Giả đáp rằng:
– Ngươi nói nhiều điều không thông lắm! Ta tuy không phải tôi con nước Tế Thại mặc lòng, song tại ngươi mưa ố tháp vàng, ăn trộm bửu bối, báo hại các sãi chùa Kim quang bị hàm oan khảo chết nhiều mạng! Những sãi còn sống thì bị xiềng tỏa mấy năm nay! Ta cũng là sãi tu hành, lẽ nào chẳng cứu người đồng đạo?
Cửu Ðầu phò mã đáp rằng:
– Nói như vậy thì chắc ngươi quyết tranh cao thấp! Lời xưa nói: Việc võ chẳng nên dùng, vì một thác một sống. Nếu ta giao chiến e rủi ro thiếu kẻ khinh.
Tôn Hành Giả nghe nói nổi giận hét lớn rằng:
– Loài yêu quái tài phép bao nhiêu, mà dám khoe mình như vậy.
Nói rồi giá thiết bãng đập liền.
Cửu Ðầu phò mã đưa Nguyệt nha sản đỡ rồi đánh lại hai mươi hiệp đồng lực, chưa biết hơn thua.
Bát Giới thấy hai người mè trận liền lén ra sau lưng Cửu Ðầu phò mã, giơ đinh ba đập đùa. Chẳng ngờ Cửu Ðầu phò mã cốt là chín đầu, tới mười tám con mắt, nên ngó thấy Bát Giới ở sau lưng mới giữ gìn trước.
Khi ấy Bát Giới đập xuống một cái, Cửu Ðầu phò mã giơ cán Nguyệt nha sản đỡ liền. Tôn Hành Giả đập một Thiết bãng, Cửu Ðầu phò mã đưa lưỡi Nguyệt nha sản ra đỡ, cán đỡ với Bát Giái, lưỡi cự với Ngộ Không! Rán chịu đặng sáu bảy hiệp, Cửu Ðầu phò mã liệu bề cự không lại liền nhào xuống một cái, hiện nguyên hình là thú chính đầu lại có cặp cánh, hình tướng dữ dằng! Bát Giới xem thấy kinh hãi nói rằng:
– Anh ôi! Tôi thuở nay chưa thấy con gì dị kỳ như vậy, không phải cầm cũng không phải thú, chẳng biết nó là vật gì sanh ra!
Tôn Hành Giả nói:
– Ta cũng lấy làm lạ lùng, vì chưa từng thấy. Vậy thì chúng ta đuổi theo đánh nó cho mau.
Nói rồi đồng đằng vân bay theo. Con thú ấy quạt cánh bay đảo qua gần Bát Giái, giữa lưng ló ra một cái đầu rất dài, miệng lớn va đỏ như chậu máu, táp đầu Bát Giới kéo xuống ao Bích ba.
Rồi hiện hình người nắm đầu Bát Giới vật xuống trước sân, truyền tiểu yêu trói lại, rồi khiêng Bát Giới về dinh.
Vạn Thán long vương mừng rỡ khen rằng:
– Thiệt hiền tế có tài mới bắt đặng nó.
Nói rồi truyền dọn tiệc rượu ăn mừng.
Nói về Tôn Hành Giả ngó thấy yêu tinh bắt Bát Giới thì ngẩm nghĩ rằng:
– Con yêu này thiệt dữ quá! Nếu ta về thuật lại chi khỏi chúa tôi nước Tế Tại cười chê. Còn tính bề đánh thì có một mình, cự sao lại chúng nó. Vì ta đánh dưới nước không quen. Chi bằng đi thám thính coi thể nào, rời tính mới đặng.
Nghĩ rồi hóa ra con cua, nhãy xuống ao lặn như khi trước, vì đường cũ đã quen. Bò tới ngoài rào thấy Vạn Thánh long vương nội nhà ăn tiệc, Tôn Hành Giả không dám bò gần. Ngó thấy mấy con tôm và mấy con cua đương chơi giởn, Tôn Hành Giả men lại hỏi thăm rằng:
– Phò Mã gia gia bắt được hòa thượng mỏ dài, còn sống hay chết?
Mấy con cua đáp rằng:
– Hãy còn sống, bị trói tại hiên Tây, nó đương rên hì hì đó.
Tôn Hành Giả nghe nói, lén bò qua mé Tây, thiệt thấy Bát Giới bị trói vào cây cột, đương rên siết vì bởi trầy đầu.
Khi ấy Tôn Hành Giả bò lại gần, kêu:
– Bát Giái.
Rồi lấy càng kẹp đứt sợi dây. Lại bảo rằng:
– Mau lén trốn đi cho khỏi.
Bát Giới nói:
– Anh ôi! Ðinh ba tôi nó cất trong đền. Nếu tôi lén trốn đi tay không; rủi gặp nó lấy chi mà đỡ gạt?
Tôn Hành Giả nói:
– Ngươi hãy ra ngoài hè chờ ta một chút thì có.
Nói rồi liền tàng hình vào đền, lấy Ðinh ba đưa cho Bát Giái.
Bát Giới mừng rở nói rằng:
– Anh lên mé ao hờm đó, để Lão Trư thừa cơ xông vào phá đền, nếu mặc may thắng trận cũng tốt, bằng thua thì chạy lên mé ao, sẳn có anh tiếp cứu.
Tôn Hành Giả y kế đi liền.
Còn Bát Giới vác Ðinh ba vào đền đụng ai đập nấy. Loài thủy tộc kinh hãi vào báo rằng:
– Hòa Thượng mỏ dài bứt dây rồi xông vào đền làm hổn.
Vạn Thánh long vương và Cửu Ðầu phò mã trở tay không kịp, chạy vào cung trốn với nhau. Bát Giới thừa thắng phá cửa đập đồ tan nát.
Còn Cửu Ðầu phò mã đem công chúa giấu vào cung, rồi lấy Nguyệt nha sản ra mở cửa cung nạt rằng:
– Mi là đứa thô tục, sao dám làm cho gia quyến ta giựt mình?
Bát Giới đáp rằng:
– Chuyện này chẳng phải tại ta đâu! Bởi ngươi rước ta về mà phá nhà đó. Ngươi muốn êm thì trả bửu bối lại, đặng đem về cho vua Tế Thại thì thôi. Bằng không thời ta giết hết cả ổ.
Cửu Ðầu phò mã nổi xung, nghiến răng đánh với Bát Giái.
Khi ấy Vạn Thánh long vương đã hết hãi kinh, liền dẫn Long tử Long tôn kéo binh yêu trợ chiến với phò mã.
Bát Giới biết thân mình không ai tiếp, nên bại tẩu rồi chạy lên mé ao.
Vạn Thánh long vương dẩn con cháu theo đuổi riết.
Tôn Hành Giả thấy Bát Giới nhảy lên rồi, thì cầm Thiết bãng hờm đó.
Xảy thấy Vạn Thánh lão long vương ló đầu lên, Tôn Hành Giả xáng Thiết bãng nhằm đầu Vạn Thánh long vương bể nát sọ, máu ra đỏ ao, thây phơi mặt nước Long tử, Long tôn kinh hãi chạy mất. Cữu Ðầu phò mã đem thây cha vợ về cung.
Còn Tôn Hành Giả và Bát Giới không theo, ngồi tại mé ao đàm đạo.
Xảy nghe gió thổi vo vo, từ hướng Tây thổi qua hướng Nam thấm thoát.
Tôn Hành Giả coi rõ là Nhị Lang hiển thánh đi săn với sáu người em, có dắt muông và đem ó.
Còn bảy anh em mang cung tên và cầm khí giái, đi bộ hăm hở mười phần! Tôn Hành Giả nghĩ rằng:
– Ấy là ngặt hổ mặt với anh Hiển thánh, vì khi trước bắt mình.
Nghĩ rồi nói rằng:
– Hiền đệ, hãy đón đầu mấy người ấy mà kêu rằng:
– Chơn quân, xin dừng lại một chút. Ðợi Hiển thánh trụ lại, ta sẽ ra mắt hỏi thăm.
Bát Giới y lời, nhảy lên mây, đón đầu kêu lớn rằng:
– Xin chơn quân dừng lại một chút, có Tề Thiên đại thánh muốn xin ra mắt.
Nhị Lang hiển thánh trụ lại hỏi rằng:
– Tề Thiên đại thánh đang ở đâu?
Bát Giới nói:
– Ở dưới chơn núi Loạn thạch.
Nhị Lang hiển thánh truyền sáu em đồng xuống ra mắt Tề Thiên đại thánh.
Tôn Hành Giả kêu tặng Nhị Lang hiển thánh là đại ca.
Nhị Lang hiển thánh nắm tay Hành Giả mà hỏi rằng:
– Ðại Thánh khỏi nạn, nay đã tu hành không bao lâu cũng thành công, tôi lấy làm mừng lắm!
Tôn Hành Giả nói:
– Tôi chưa biết ngày nào mà thành công! Nay đi ngang nước Tế Thại, gặp các sãi mắc hàm oan, vì yêu tinh trộm bửu bối trên tháp, nên tôi đi đánh yêu mà đòi bữu bối, thời may thấy đại ca nên tôi mừng thầm, muốn cầu anh trợ lực, song chẳng biết có thương em mà giúp chăng?
Nhị Lang hiển thánh cười rằng:
– Tôi ở không vô sự, nên săn bắn loài hồ ly mà giải buồn, cũng có ý cứu dân luôn thể. Nay Ðại Thánh đã cậy, lẽ nào chúng tôi chẳng hết lòng? Song chẳng hay con quái ấy tên chi. Ở động nào làm lộng như vậy?
Tôn Hành Giả nói:
– Ðại ca quên hay sao? Ðây là núi Loạn thạch, có ao Bích ba.
– Vạn Thánh Lão long không hay sanh sự, lẽ nào lại ăn trộm bữu bối trong chùa?
Tôn Hành Giả thuật chuyện rể Vạn Thánh ăn trộm bữu bối vân vân…rồi nói rằng:
– Tôi đã đập Vạn Thánh Lão Long chết rồi, nên chúng nó đương tẩn liệm. Anh em tôi thương nghị, muốn đi khiêu chiến, thời này gặp anh trợ lực chắc đắc thắng chẳng sai.
Nhị Lang hiển thánh nói:
– Ðã giết Lão Long rồi, thì thừa dịp này đánh bắt Cửu Ðầu phò mã và trừ các yêu tinh.
Bát Giới liền nói:
– Phải phải, ngặt trời gần tối, biết tính làm sao?
Nhị Lang hiển thánh nói:
– Tôi có đem đồ ăn và rượu theo đây. Vậy thì anh em đồng lên núi, ăn uống cho vui, rạng ngày sẽ khiên chiến.
Tôn Hành Giả và Bát Giới y lời, đồng lên non uống rượu, nương màn trời chiếu đất, nhờ quạt gió đèn trăng.
Rạng ngày Bát Giới còn hơi xoàng xoàng, liền đứng dậy xách đinh ba nói rằng:
– Trời sáng rồi, lão Trư đi khiêu chiến.
Nói rồi xách xăn áo, nhảy xuống ao Bích ba.
Lúc ấy Long tử đương bận áo tang, ôm thây cha mà khóc, còn Long tôn với phò mã đương sửa soạn quan tài đàng sau.
Vừa ưa Bát Giới xông vào, đập Long tử một Ðinh ba chết tốt!
Long bà vừa mới ló ra ngó thấy, liền sửng sốt chạy vào cung khóc rống lên rằng:
– Hòa Thượng mỏ dài đập con ta chết.
Cửu Ðầu phò mã nghe nói nổi nóng, cầm Nguyệt nha sản dẩn Long Tôn ra trước đánh liền. Bát Giới và đánh và chạy, tới ao liền nhảy lên trên.
Cửu Ðầu phò mã và Long tôn nhảy theo hổn chiến, bị Tôn Hành Giả và Thất thánh phủ vây, bằm Long tôn đứt làm hai đoạn!
Khi ấy Cửu Ðầu phò mã cự không lại, liền hiện nguyên hình quạt cánh bay cao 2 trượng. Nhị Lang hiển thánh lấy cung và đạn vàng bắn lên, con thú Cửu Ðầu tràng khỏi, liệng ngang muốn xớt Nhị Lang hiển thánh, chẳng ngờ con Hạo thiêu khuyển ở sau lưng Nhị Lang hiển thánh thấy con quái ấy ló cái đầu sau lưng ra, thì con chó nhảy bổ lên cắn ngang cần cổ đứt nghiến, máu chảy ròng ròng!
Con quái ấy kinh hoàng, vỗ cánh bay thẳg qua biển Bắc, Bát Giới quyết đuổi theo; Tôn Hành Giả cản rằng:
– Nó đã túng cùng mình chẳng nên đuổi. Vã lại nó bị chó cắn đứt đầu, không lẽ sống đặng. Ðể ta biến hình nó, ngươi rẻ nước ra đi và giả đò theo đuổi, đặng ta vào cung gạt Công Chúa đưa bửu bối cho thành công.
Nhị Lang hiển thánh nói:
– Nói như vậy cũng phải, song để giống độc ấy sanh sản ra nhiều, chắc đời sau bị hại!
Thiệt quả như vậy, nên nay còn có giống thú chín đầu có cánh, mà sau lưng máu nhểu ướt hoài, gọi là Cửu đầu trùng đích huyết, là giống ấy lai sanh.
Khi ấy Bát Giới y lời Hành Giả, theo đuổi phò mã giả luôn luôn.
Phò Mã giả làm bộ thối lui. Vạn Thánh công chúa hỏi:
– Phò Mã hãi kinh chuyện chi vậy?
Phò Mã giả nói:
– Bát Giới thừa thắng đuổi theo, ta sợ nó vào đến đáo soát cỏ chi và xá lợi. Nên ta chạy vào trước bảo nàng đưa hai món ấy ta cất cho kỹ càng.
Công Chúa mắc kế, vào phòng lấy cái hộp bằng vàng và cái hộp bằng ngọc đựng báu xá lợi, cái hộp ngọc đựng cỏ linh chi, đều còn nguyên hiện.
Phò Mã giả lấy lận lưng rồi bôi mặt, hiện nguyên hình Hầu Vương!
Vạn thánh công chúa thất sắc, biết mình mắc mưu, liều mạng kéo lưng giựt hộp. Chẳng ngờ Bát Giới chạy tới, đập công chúa chết ngay.
Long bà hoảng hồn chạy đại.
Bát Giới đuổi theo, Tôn Hành Giả can rằng:
– Ðừng có giết hết, để bắt sống Long bà dẫn về nạp làm tang.
Bát Giới nghe nói thôi đánh, Long bà hiện nguyên hình, Bát Giới bắt rồng cái dẫn lên miệng ao, Tôn Hành Giả đi theo bén gót.
Ðoạn Tôn Hành Giả lên mé, đưa hai cái hộp cho Nhị Lang hiển thánh xem và nói rằng:
– Nhờ oai huynh trưởng nên trừ đặng loài yêu, và thâu bửu bối về nước Tế Thại.
Nhị Lang hiển thánh kiếu rằng:
– Nay Ðại Thánh đã thành công rồi, anh em tôi đồng từ giã.
Nói rồi bảy anh em đằng vân về Quán giang khẩu.
Còn Tôn Hành Giả bưng hai cái hộp, Tôn Hành Giả kéo rồng cái, đồng đằng vân về đền. Các sãi chùa Kim quang đồng lạy mừng, chúa tôi đều bái tạ.
Tôn Hành Giả nói:
– Chúng tôi đã giết loài yêu và lấy bửu bối lại, có dẫn rồng cái là Long bà theo đây.
Vua Tế Thại mừng rỡ ngợi khen, truyền dọn yến chay thiết đãi. Tam Tạng tâu rằng:
– Khoan đã, xin đợi học trò tôi để bửu bối lên tháp như xưa, rồi sẽ hầu tiệc.
Vua Tế Thại phán hỏi rằng:
– Long bà là rồng cái, mà biết nói tiếng người chăng?
Bát Giới nói:
– Long bà là vợ Vạn Thánh long vương, lẽ nào không biết nói tiếng người, thì khai việc ăn trộm bửu bối cho rõ?
Long bà khai rằng:
– Tôi chẳng hề dụ vào việc ăn trộm bữu bối, ấy là chồng tôi nghe lời thằng rễ bất lương là Cửu đầu Trùng, ba năm trước làm mưa huyết rồi ăn trộm hột xá lợi.
Tôn Hành Giả hỏi:
– Còn cỏ linh chi này, ngươi ăn trộm của ai?
Long bà nói:
– Vạn thánh công chúa là con gái tôi lén tới trước đền Linh hư bứng bụi cỏ chi chín lá. Nếu hột xá lợi để gần cỏ linh chi, thì ngàn năm cũng chiếu sáng không lu, như lấy bụi cỏ ấy quét xuống đất, cũng chiếu hào quang muôn trượng. Nay người đã lấy bữu bối lại thêm đoạt cỏ linh chi, thì cũng nên tha tôi làm phước! Vì đã giết chồng con và cháu nội của tôi, với công chúa, tính là bốn mạng.
Tôn Hành Giả nói:
– Phải, nội nhà không lẽ gian hết, cũng nên thứ tội cho ngươi. Song ngươi phải ở hoài chỗ này mà giữ gìn cái tháp mới đặng!.
Long bà nói:
– Thà sống cực cũng còn hơn thác, sai việc chi tôi cũng phải vưng.
Tôn Hành Giả truyền đem xiềng lại, lấy dùi dùi xương cổ Long bà xỏ dây sắt xiềng vào cột tháp. Rồi mời vua quan vào chùa, xem để bửu bối trên tháp.
Khi ấy vua quan và Tam Tạng, Sa Tăng đồng đến chùa thấy Tôn Hành Giả đem bửu bối lên từng thức mười ba để hột xá lợi trong bình bằng ngọc. Rồi niệm chú thâu Chư thần mà truyền thinh không rằng:
– Các thần phải nhớ cứ ba ngày cho Long bà ăn no một bữa, giữ như vậy luôn luôn, nếu sai ngoa thì ta xử tử.
Tôn Hành Giả dặn vừa dứt lời, nghe tiếng dạ thinh không, ai nấy đều lấy làm lạ!
Khi ấy Tôn Hành Giả cầm bụi cỏ linh chi quét mười ba từng tháp, hào quang chiếu sáng thấu trời. Quét rồi đem bụi cỏ ấy để theo bình ngọc.
Vua quan thấy bửu bối chiếu sáng hơn xưa càng thêm mừng rỡ.
Vua Tế Thại tạ ơn rằng:
– Nếu không có lão Phật với ba vị Bồ Tát đến đây, thì làm sao mà minh được việc oan ức.
Tôn Hành Giả nói:
– Bệ Hạ ôi! Hai chữ Kim quang không tốt, vì mau sáng chẳng bền! Ðể tôi cải hiệu chùa là Phục Long Tự, thì càng tốt hơn xưa.
Vua Tế Thại y lời, truyền thay tấm biển khác, đề bảy chữ như vầy:
– Sắc kiến Hộ Quốc Phục Long Tự.
Truyền chỉ rồi mời bốn thầy trò ngồi vào tiệc, đãi đằng càng hậu hơn xưa. Mản tiệc rồi truyền đòi thợ vẽ hình bốn thầy trò, đề danh hiệu rõ ràng, treo tại lầu Ngũ phụng, rồi đem bạc vàng châu báu đền ơn, thầy trò không nhận vua kiếp truyền bày loan giá đặng đưa bốn thầy trò.
Nói về Vua Tế Thại thấy bốn thầy trò không chịu bạc vàng châu báu, vua liền truyền chỉ quan đương giá sắm sửa y phục, và gói cơm khô cho nhiều. Rồi phê điệp thông quan, đóng ấn rồi giao cho Hành Giả. Truyền dọn xe kiệu đưa bốn thầy trò ra khỏi thành.
Vua quan và các sãi theo đưa trọng thể.
Ðược hai mươi dặm, vua tôi liền từ giã về thành.
Còn sáu mươi sãi không chịu về, kẻ muốn theo hầu hạ, người muốn tới Tây thiên.
Tôn Hành Giả biết xác phàm đi không đặng, nên nhổ một nắm lông quăng ra niệm chú hóa bầy Beo và Cọp đón đường.
Lúc này sáu mươi sãi nhát đồng khóc chạy về chùa, không muốn đi theo qua Tây Phương nữa.
Khi ấy Tôn Hành Giả thâu lông lại, Tam Tạng giục ngựa thẳng xông, bốn thầy trò đi tới tết, lần lần tới rầm tháng giêng.
Khi ấy Tam Tạng thấy hòn không cao, mà dài quá; trên núi có đường đi rất rộng rãi, ngặt nhánh táo chà gai dẻ ra cản đường, khúc thì dây sắn, dây thần thông, đây mây bịt bùng baỏphu, tuy có đường mà khó nổi đi! Tam Tạng xem rồi kêu Hành Giả mà nói rằng:
– Ðồ đệ ôi, đường ở dưới mà gai và dây cóc bủa lên, trừ ra con rắn thì đi đặng, ước sức các ngươi khòm lưng đi cũng còn đụng, huống chi ta cưỡi ngựa, đi làm sao qua khỏi núi này?
Bát Giới nói:
– Không khó gì đâu, tôi sẳn cao cỏ đây, dầu tám người khiêng kiệu cũng có đường đi.
Tam Tạng nói: “Tuy ngươi sức mạnh mặc lòng song đường này rất dài, dọn sao cho xiết.
Tôn ngộ Không nhắm phỏng, đường dài mấy mươi dặm mà cùng!
Tôn Hành Giả phụng mạng nhảy lên mấy ngó xuống, xem thấy lắc đầu, liền nhảy xuống thưa rằng:
– Thầy ôi! Tôi coi nó giai giai ngàn ngạn, không biết tới đâu mà cùng, e khi dài tới trót ngàn dậm!
Tam Tạng thất sắc than rằng:
– Như vậy làm sao mà đi qua cho khỏi?
Bát Giới cười rằng:
– Muốn qua cho khỏi thì đi theo lão Trư.
Nói rồi niệm chú, ngay lưng một cái, biểu:
– Dài dài.
Tức thì cao hai trăm thước mộc. Rồi giơ đinh ba giá vài cái, biểu:
– Biến biến!
Cào cỏ dài ba mươi trượng. Hai tay cầm cào cỏ dọn đường gai gốc và dây bịt bùng đều đứt cả hết, Bát Giới cào dẹp lại đường rộng thinh thinh.
Tam Tạng mừng rỡ mười phần cỡi ngựa đi theo Bát Giái, Tôn Hành Giả đi trước vít gai gốc, Sa Tăng gánh đồ hành lý theo sau, đi trọn một ngày đặng một trăm mười dặm, tới một khoảng đất không, có một tấm bia đá vòng nguyệt dựng giữa đường, có khắc ba chữ lớn là Kinh cát lãnh, dưới ba chữ ấy có hàng chữ nhỏ như vầy:
Kinh cát bông phan bát bá lý,
Cổ lai hữu lộ tiểu nhơn hành.
Thích nôm:
Dặm thẳng tám trăm nhiều táo mọc,
Ðường ngay cả núi thì ai đi.
Bát Giới đọc hai câu liễn rồi cười rằng:
– Ðể lão Trư tiếp thêm hai câu nữa cho thành bài thi tứ tuyệt.
Nói rồi ngâm rằng:
Tự kim Bát Giới năng khai phá,
Trực thấu Tây Phương lộ tận bình.
Thích nôm:
Từ nay Bát Giới công bồi sửa,
Thấu tới Tây Phương đất trống trơn.
Tam Tạng mừng lòng, xuống ngựa giã ơn rằng:
– Ðồ đệ ôi, thiệt người có công dọn đường mệt mõi quá sức, vậy thì thầy trò ngũ đỡ một đêm mai sáng sẽ đi?
Bát Giới nói:
– Sư phụ nghỉ làm chi, sẳn sáng trăng đi luôn trót thể.
Tam Tạng y lời, đi một đêm tới sáng, rồi đi thẳng tới chiều, xảy nghe gió thổi tợ tờn, tre kêu giống sáo, coi lại cho kỹ là cái miễu hoang trước mặt, xung quanh tòng há trước mai, phong cảnh rất xinh không có gai chông chi hết.
Tam Tạng liền xuống ngựa ngồi nghỉ.
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Chỗ này có yêu khí chẳng khá ngồi lâu.
Nói vừa dứt lời xảy có trận gió thổi tới, ở sau miễu có một ông già chống gậy đi trước, lại có một con quỷ mặt xanh, nah bạc tóc đỏ, mình trần, đội mâm bánh đi theo ông già ấy; đồng quì xuống trước mặt Tam Tạng, ông già ấy thưa rằng:
– Ðại Thánh ôi, tiểu thần là Thổ Ðịa núi Kinh cát này, hay đại thánh đến đây nên chúng tôi nghinh tiếp, song chẳng biết lấy chi thiết đãi, xin dâng một mâm bánh phục linh, trước là tôn sư đỡ lòng, sau ba vị nhặm ít nhiều lấy thảo. Vì đường xa tám trăm dặm, mà không có nhà ai.
Bát Giới nghe nói rất mừng bước lại lấy bánh.
Tôn Hành Giả hét lớn rằng:
– Khoan đã, đừng có nóng ăn!
Nói rồi chỉ ông già mà nói lớn rằng:
– Ngươi chẳng phải là người lành, sao dám mạo danh Thổ Ðịa, ấy là tại ngươi muốn gạt Lão Tôn! Hãy coi thiết bãng!
Nói rồi giá thiết bãng, ông già ấy cặp nách Tam Tạng hóa gió bay mất!
Khi ấy Tôn Hành Giả và Sa Tăng, Bát Giới đồng hãi kinh đi kiếm thầy tỏ mỏ!
Còn ông già và con quỷ ấy đem Tam Tạng tới nhà đá để xuống, nắm tay Tam Tạng mời ngồi mà nói rằng:
– Thánh tăng đừng hãi kinh, tôi không phải người quấy: Thiệt là Thập bát Công ở núi Kinh cát, thấy trăng thanh gió mát, nên mời Thánh tăng làm thơ cho vui.
Tam Tạng nghe nói tỉnh hồn, coi lại trăng tỏ như ban ngày, tiếng người nói chuyện đông đảo, lóng tai nghe rõ là ba ông già nói như vầy:
Tam Tạng nhìn ba ông già ấy, thấy một ông tóc bạc như sương, còn một người tóc mai màu lục đậu; và một người mặt xanh mét mét, trật áo giơ bụng ốm nhom, đồng bước vào ra mắt. Tam Tạng đáp lễ, và thưa rằng:
– Ðệ tử có đức hạnh bao nhiêu, mà các vị tiên ông thương đến?
Thập bát Công cười rằng:
– Thuở nay nghe tiếng Thánh tăng có đạo đức, nên chúng tôi chờ đợi đã lâu. Nay gặp đặng phỉ tình hoài vọng. Nếu thánh tăng đành lòng đàm đạo và chơi thơ bài với chúng tôi, thì kẻ quê mùa đặng mở mang kiến trí h óa.
Tam Tạng bái và h ỏi rằng:
– Xin các vị đại tiên cho bần tăng biết hiệu?
Thập bát Công nói:
– Ông tóc bạc là Cô trực Công, ông tóc mai màu lục là Lăng không Tử, ông giơ bụng ốm là Phất vân Tẩu. Còn tôi là Thập bát Công, hiệu là Khỉnh Tiết.
Tam Tạng thưa rằng:
– Chẳng hay mấy ông xuân thu đặng mấy?
Cô trực Công không trả lời mấy mươi tuổi, liền ngâm thơ rằng:
Ta sống ngàn năm cứ ẩn danh,
Bốn mùa tươi lá chống trời xanh.
Tuyết sương dày dạn qua nhiều lắm,
Rồng rắn quanh co uốn mấy nhành,
Tứ bé chắc bền từng cũi lục,
Ðến nay ngay thẳng giữ tu hành,
Chơi cùng lũ quạ rồi xem phụng,
Mến núi ưa non lánh thị thành.
Lăng không Tử cười rồi ngâm thơ rằng:
Ngàn năm sương tuyết chẳng dun da,
Lớn cội to xương chắc ruột rà.
Ðêm lặng tiếng như mưa gió tạ,
Nắng xây bóng tợ ngút mây qua,
Rể biển uốn khúc mình không thác,
Phép luyện tươi chong vóc khá già.
Cầm hạc quá rồng không phải tục,
Vui miền thanh tịnh dựa tiên nga.
Phất vân Tẩu cười rồi ngâm thơ rằng:
Ðã từng gió mát với trăng trong,
Quân tử ngàn thu tiếng ngợi không.
Tánh mến phụng hoàng nên dựa núi,
Tính mê phong thủy mới gần sông.
Bảy hiền vầy bạn vì bền cội
Ngàn mắt ưa ta bởi trống lòng.
Những khác văn chương nhờ giúp đỡ,
Tuổi cao vui thú ở rừng tòng.
Thập bát Công cười rồi ngâm thơ rằng:
Ta cũng ngàn năm giữa cõi bờ,
Mười phần xanh lẻo vóc trơ trơ.
Cám ơn mưa móc thường tươi nhuận,
Nhờ máy càn khôn mới sởn sơ.
Tám tiết điểm đà ai chẳng nhượng,
Bốn mùa tươi tốt khách hằng nhờ.
SaÜn tàn che nắng tiên càng mến,
Ngồi dựa đờn ca lại đánh cờ.
Khi ấy Tam Tạng nghe bốn ông già ngâm thơ rồi, liền chắp tay khen rằng:
– Bốn vị tiên ông đều tuổi cao, hình dung khác thường lắm, hay là tứ hạo đòi Hớn chăng?
bốn ông ấy nói:
– Chúng tôi không phải bốn ông già thời Hớn đâu. Thiệt là bốn chú già ở núi Kinh cát. Chẳng hay Thánh tăng niên kỷ thế nào?
Tam Tạng chắp tay ngâm thơ rằng:
Bốn chục năm dư khó đã tường,
Chưa rời bụng mẹ chịu tai ương.
Mình trôi kể xuống miền âm địa,
Người vớt đem lên ở phật đường.
Nuôi tánh xem kinh không thõa mãn,
Dốc lòng cầu đạo dám lương khương.
Ngày nay vưng chỉ qua Thiên trúc,
Gặp mấy tiên ông cảm dụ thương.
Bốn ông ấy đồng khen rằng:
– Thánh tăng mới ra khỏi bụng mẹ, đã theo phép tu hành; thiệt là ông sãi thứ nhứt! Nay chúng tôi có phước mới rước đặng thánh tăng, xin giảng kinh pháp thiền cho anh em chúng tôi hiểu với, kẻo tấm lòng ao ước thuở nay.
Tam Tạng liền giảng kinh rằng:
“Phép hiền là thanh tịnh, phải thông hiểu mới thành. Trước hết phải bỏ sự lo lắng trong lòng, đừng mê việc trần tục. Bởi vì con người là chẳng dễ, sanh đặng nước Trung Hoa cũng khá thay! Có phước mới gặp đạo chánh. Ðãlàm con người tại Trung Hoa mà lại gặp đạo chánh; may biết dường nào! Nên kẻ tu hành phải sửa lòng cho lục căn thanh tịnh. Lục căn là gì? Lục căn là: Nhãn, nhỉ, lẽ thiệt, thân, ý, nghĩa là con mắt, lổ tai, lỗ mũi, cái lưỡi, cái mình, cái ỷ. Sáu cái ấy làm sao cho thanh tịnh? Muốn cho sáu căn thanh tịnh thì con mắt đừng ngó sắc tà, lỗ tai đừng nghe tiếng tà, lỗ mũi đừng hưỡi hơi tà, cái lưỡi chẳng nếm mùi tà, cái mình chẳng động việc tà, cái ý chẳng tưởng việc tà. Giữ mình cho thanh tịnh như vậy luôn luôn và làm lành cứu người thì đặng thành chánh quả”
bốn ông nghe nói, đồng bái và khen rằng:
– Thánh tăng chơn tu lắm, giãng mới trúng cội rể phép thiền.
Phất vân Tẩu lại nói rằng:
– Tuy phép thiền dùng thanh tịnh, song pảhi có thành mới đặng. Còn phép tu hành của chúng tôi lại khác hơn.
Tam Tạng nói:
– Dầu đạo Phật đạo Lão củng dùng thanh tịnh làmđầu, đức hạnh làm trước, sao lại khác hơn? Xin cắt nghĩa cho bần tăng rỏ.
Phất vân Tẩu cười rằng:
đạo của anh em tôi khác phép thiền xa lắm; nhờ ơn trời đất sanh thành, cảm đức móc mưa nhuần gội Hứng trăng dang nắng, chịu gió dầm sương, một lá chẳng khô, ngàn nhành hằng rậm. Chẳng phải như đạo thiền, ở miền Trung Hoa, cầu Phật Tây Phương, đi rách một ngàn đôi giày rơ, e cũng chưa tới! Sao chẳng xét: Phật tại lòng, lòng là Phật, lòng lành tu tại xứ cũng thành. Chớ như đạo chúng tôi, thiệt là: Giỏ tre lủng đáy lắm lường nước, cây sắt không nhành cũng trổ hoa. Ơû một cõi thanh tịnh mà tu hành, cũng thành chánh quả”
Tam Tạng nghe nói, liền bái và khen hay. Thập bát Công không cho bái, Lăng không Tử vỗ tay cười ngất nói rằng:
– Phất vân Tẩu nói lậu rồi, xin Thánh tăng đừng chấp. Chúng ta lúc này chẳng nên luận việc tu hành, hãy làm thơ giải muộn.
Phất vân Tẩu cười rồi chỉ nhà đá mà nói rằng:
– Như muốn làm thơ, xin vào nhà mát của tôi mà ngồi, thưởng nguyệt ngâm thơ mới thú.
Ai nấy đồng nói phải, đứng dậy đi liền, Tam Tạng cố ý coi trước cửa nhà đó có đề một tấm biển ba chữ: Mộc tiên am.
Khi ấy bốn ông già mời Tam Tạng vào ngồi trong nhà mát, xảy thấy con quỷ ở trần, mặt xanh nanh bạc khi nảy, bưng một mâm bánh phục linh. Rời đem năm chén nước trà thơm phức. Bốn ông ấy mời Tam Tạng ăn trước. Tam Tạng hồ nghi không dám ăn. Xảy thấy bốn ông ấy ăn bánh uống nước trà, Tam Tạng mới chấm chút.
Ðoạn ăn uống rồi, Tam Tạng thấy phong cảnh tốt tươi, mùi hoa bay thơm phức. Ngó ra ngoài trăng tỏ như ban ngày, lại thêm gió xuân mát mẽ. Tam Tạng vui vẻ hứng chí ngâm một câu thơ rằng:
Lòng thiền tợ nguyệt không mà rạng.
Thập bát Công ngâm tiếp một câu rằng:
Thơ tứ như trời mới lại thanh.
Cô trực Công ngâm một câu rằng:
Cầu nhiệm có duyên tày gấm tốt.
Lăng không Tử ngâm một câu rằng:
Diệu hay chaÜng vít sánh châu lành.
Phất vân Tẩu ngâm hai câu như vầy:
Sáu trào sơ thữ văn chương lấn,
Bốn thể chia ra nhả tụng rành.
Khi ấy Tam Tạng chấp tay thưa rằng:
– Ðệ tử thấy cảnh ngâm lỡ câu thơ, thiệt là múa búa trước của ông Lỗ bang, nay đã biết lỗi! Thơ bốn vị tiên ông thanh tân mười phần, bần tăng bất tài lấy làm hổ thẹn
Thập bát Công nói:
– Thánh tăng đừng nói khiêm. Người tu hành có trước có sau; mới toàn chung thĩ, đã có ra câu phá, lẽ nào không chuyển hết cho trọn bài thơ? Xin tiếp theo kẻo đứt đoạn
Tam Tạng túng phải ngâm thúc hai câu kết như vầy:
Nước chữa kịp sôi năm vận đủ,
Ngâm qua mát mẽ cả thân mình.
Thập bát Công khen rằng:
– Câu kết thanh tân lắm! Thánh tăng là người đại tài, chúng ta chaÜng nên làm thơ liên cú. Xin thánh tăng xướng riêng một bài, đặng anh em chúng tôi ráng họa theo nguyên vận.
Tam Tạng túng phải cười trời, đặt một bài thơ tự thuật, là thuật chuyện mình như vầy:
Lòng thành nương cậy đến Tây Phương,
Quyết thỉnh chơn kinh giáp Ðại Ðường.
Cây báu trổ bông in ngọn bút,
Tòa sen hé nhụy phất mùi hương.
Ba ngàn thế giái còn xa xắc,
Trăm thước cần phang đã chán chường.
Miển đặng xác phàmthay cốt ngọc,
Vui miền cực lạc khỏi vô thường.
Bốn ông già ấy đều khen thơ hay, Thập bát Công nói:
– Tôi tuổi già đã lụt rồi, song cũng ráng họa theo nguyên vận.
Nói rồi ngâm rằng:
Vọi vọi non cao chiếm một phương,
Cội xuân tuy lớn cũng nhường đường.
Núi gần trăm trượng sanh vồng rắn,
Nước thắm ngàn năm trỗ ngọc hương.
Mượn khí âm dương mình đã thạnh,
Nương hơi mưa gió vóc thêm chường.
Hổ vì lớn tuổi chưa thành đạo,
Nhờ cũ phục linh đặng sống thường.
Cô trục Công ngâm rằng:
Bạc trắng râu mày ở có phương,
Dám phen lý đảng mọc bên đường.
Sương sa tàng lục như giổi phấn,
Ngút tỏa mình đồng tợ ướp hương.
Gió thổi trời thu tiêu lại trổi,
Trăng soi đêm hạ bóng hêm chường,
Ngày xuân khi trước từng dưng rượu,
Tuổi lớn về non dưỡng tánh thường.
Lăng Không Tử ngâm rằng:
Tuổi già song cũng dụng nhiều phương,
Lương rộng tài hay giúp miễu đường.
Gan sắt thẳng ngay nương cát tía,
Sắc xanh bền bỉ dựa phòng hương.
Rễ sâu có tiếng trên non vững.
Thịt chắt không nao giữa nước chường.
Tàng cả sum sễ che mặt đất,
Chẳng đua hoa cỏ kiểng tấm thường.
Phất vân Tẩu ngâm rằng:
Xa gần nghe tiếng khắp mười phương,
Kỳ úc là quê ở dựa đường.
Nghiêu nữ khóc than gầy điển tích,
Mông điểm tiến cử nổi thơ hương.
Tuyết đông nượp nượp không màng lánh,
Nắng hạ chan chan cũng chịu chường.
Dạ trống chẳng hờn đời phải quấy,
Cháu con nghe sấm tựa như thường.
Tam Tạng chắp tay khen rằng:
– Bốn ông ngụ ý cao xa. Chẳng khác phun châu nhả ngọc. Cám tình họa vận đủ điều. Song đã khuya rồi, sợ nỗi tệ đồ tìm kiếm. Ðệ tử xin kiếu, nhờ ơn ông chỉ ngõ trở về?
Bốn ông ấy đồng cầm rằng:
– Xin Thánh tăng đừng vội, vì ngàn năm mới gặp một phen. Vả lại trăng tỏ như ban ngày, xin ngồi chơi vài canh nữa. Ðến sáng chúng tôi đưa khỏi núi này, chắc các vị lịnh đồ cũng gặp mặt.
Xảy thấy hai nàng thể nữ áo xanh xách cặp lồng đèn vào trước, một nàng tiên nữ theo sau; nàng tiên nữ cầm một nhành hoa bạch, cười chuốm chiếm bước vào. Bốn ông ấy đồng đứng dậy chào rằng:
– Hạnh tiên cô đến chuyện chi khuya vậy?
Nàng ấy đáp lễ và thưa rằng:
– Nghe nói có khách quý đến đây, nên tìm vào ra mắt.
Thập bát Công chỉ Tam Tạng mà nói rằng:
– Quý khách là ông này.
Tam Tạng đứng dậy chắp tay, không nói một tiếng! Nàng ấy hỏi:
– Hai đứa bưng trà đà đi tới hay chưa?
Xảy thấy hai nàng bận áo vàng, bưng bình tích và chén trà đi tới. Nàng ấy rót trà bay mùi thơm ngát. Trước dưng cho Tam Tạng một chén, rồi sau dưng cho mấy ông già.
Ðoạn đãi đằng xong rồi, nàng ấy bảo thể nữ rót trà cho mình uống. Ngồi dựa một bên hỏi rằng:
– Các tiên ông, đêm nay vui vẻ mười phần, sao các ông chẳng làm thi xem thử?
Phất vân Tẩu nói:
– Anh em tôi mới họa vận với Thánh tăng, song câu thơ còn sống sít lắm. Có một bài của Thánh tăng hay hơn hết, thiệt chẳng hổ Thạnh Ðường.
Nói rồi đọc các bài lại.
Nàng ấy cười chuốm chiếm nói rằng:
– Thiếp bất tài lẽ nào dám họa vận, song gặp thơ tuyệt diệu không lẽ bỏ qua? Xin rán họa theo sau rốt.
Nói rồi liền ngâm rằng:
Thượng huyền danh đồn khắp bốn phương,
Rõ ràng sông Tứ có tên Ðường.
Ðồng tiên riêng chuộng đươm bông thạnh;
Tôn sở hằng khen trỗ nhụy hương,
Mưa đượm màu hồng xinh lại dịu;
Khói un sắc lục ẩn rồi chường,
Khá thương chín quá hơi chua ấy,
Xót ngọc là ai xét lẽ thường.
Bốn ông ấy đồng khen rằng:
– Thơ đặt thanh tân, mà có ngụ ý riêng kín lắm; hay cho câu: Mưa đượm màu hồng xinh lại dịu. Khói un sắc lục ẩn rồi chường. Thiệt tỏ ý xuân rõ lắm.
Nàng ấy mỉm cười nói:
– Câu thơ tôi còn thô, chưa đặng thanh nhã tôi nghe bài thơ của Thánh tăng thiệt quý như châu ngọc, xin vị tình cho tôi một bài nữa coi thể nào.
Tam Tạng làm thinh chẳng đáp, nàng ấy ngồi xích lại nói nhỏ rằng:
– Ðêm nay trăng thanh gió mát, chẳng chơi cho phỉ chí còn đợi chừng nào? Xin xét lại mà coi, người không trăm tuổi.
Thập bát Công nói:
– Hạnh tiên đã có lòng vói lên, Thánh tăng không lẽ chẳng vị tình ngó xuống, nếu không biết thương yêu xót ngọc, thiệt là kẻ quê mùa!
Cô Trực Công nói:
– Thánh tăng là người có danh có đạo, lẽ nào làm việc lôi thôi, nếu ép việc trăng hoa, thì chúng ta có lỗi lắm. Mình cũng là người biết học, giữ lễ nghĩa làm đầu, muốn tính việc lâu dài thì Thập bát Công và Phất vân Tẩu phải đứng làm mài, tôi với Lăng không Tử đứng quý tộc mới lẽ phải.
Khi ấy Tam Tạng thấy kẻ làm mủ, người làm nhọt, thì nổi giận đứng dậy nói lớn rằng:
– Nếu vậy thì các ngươi là loài yêu quái chẳng sai! Ban đầu lấy việc thi phú mà quến rủ ta, nay lại làm kế mỹ nhơn mà dụ nữa, quyết hại bần tăng lỗi đạo, soa phải người lành?
Bốn ông ấy thấy Tam Tạng giận nói nặng lời, ai nấy làm thinh không đáp lại, con quỷ mặt xanh nanh bạc nổi giận hét lớn rằng:
– Hòa Thượng này không biết phải quấy! Chị ta xấu xa chi đó mà chê? Chẳng nói việc nữ hạnh, nữ công của chị ta cũng tuyệt diệu làm chi, luận việc thi văn cũng là xứng lắm, sao còn kiếm cách chối từ? Cô Trực Công bàn luận rất phải, nếu không chịu việc hoa nguyệt, thì ta đứng làm chủ hôn cho!
Tam Tạng kinh hãi làm thinh, để quỷ sứ khua môi uốn lưỡi! Con quỷ ấy nói rán rằng:
– Chúng ta đã bắt ngươi đến đây, còn trông gì đi thỉnh kinh nữa? Làm hòa thượng không đặng, mà chẳng cưới vợ, thì uổng biết chừng nào, thiệt thòi quá lẽ”.
Khi ấy Tam Tạng thấy nó làm bộ quỷ, thì nghĩ rằng:
– Không biết học trò mình đi kiếm ngõ nào, nếu cụ với nó thì mang hại! Bằng làm thinh mà chịu, khác nào ngồi nệm đồi kim!
Càng nghĩ càng động lòng, lụy sa lai láng! Nàng ấy lấy khăn lau nước mắt cho Tam Tạng mà khuyên rằng:
– Chẳng nên phiền muộn làmchi, hãy vầy duyên với thiếp.
Tam Tạng hứ một tiếng, đứng dậy chạy khan. Mấy người ấy nắm tay kéo lại, Tam Tạng xô đẩy, khóc la tới sáng.
Xảy nghe tiếng kêu lớn hỏi rằng:
– Thầy cãi lẫy với ai ở đâu đó?
Ấy là Tôn Hành Giả và Sa Tăng, Bát Giới gánh đồ giắt ngựa đi kiếm sáng đêm, qua khỏi núi Kinh cát rồi mới nghe tiếng Tam Tạng, nên Hành Giả kêu thầy mà hỏi sự tình.
Khi ấy Tam Tạng biết tiếng Hành Giả, mừng rỡ mười phần. Lũ quái ấy hãi kinh, liền buông Tam Tạng rồi biến mất. Còn Tam Tạng vụt chạy ra khỏi cửa ngõ, và chạy và kêu lớn rằng:
– Ngộ Không, Ngộ Không, ta đây nè, mau mau tiếp cứu!
Giây phút ba người gặp mặt, hỏi rằng:
– Sao thầy đi đặng tới đây?
Tam Tạng thuật hết các việc Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Thầy có nhớ tên chúng nó hay không?
Tam Tạng nói:
– Người già ấy là Thập bát Công, người thứ nhì là Cô Trực Công; thứ ba là Lăng Không Tử; thứ tư là Phất vân Tẩu. Còn nàng ấy xưng là Hạnh tiên.
Bát Giới hỏi:
– Chúng nó bây giờ ở đâu?
Tam Tạng nói:
– Chúng nó đi đâu ta không biết, song chỗ làm thơ đàng kia.
Ba người đồng xin thầy dắt tới chỗ đó. Tam Tạng dắt đến, nói rằng:
– Hồi hôm làm thơ tại chỗ này.
Tôn Hành Giả ngó thấy ngoài cửa động có đề ba chữ: Một tiên am, xung quanh có một cây Tòng, một cây Bá và một cây cối; lại có một bụi tre, sau bụi tre có cây chùm bao. Phía bên kia có một cây Hạnh, hai cây quế và hai cây lạp mai. Tôn Hành Giả coi kỹ lưỡng, rồi cười rằng:
– Hai em có thấy yêu quái ở đâu chăng?
Bát Giới nói:
– Không thấy.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Tại mấy cây này thành tinh thành quái.
Bát Giới hỏi:
– Sao anh biết chắc như vậy?
Tôn Hành Giả nói:
– Mộc tiên am nghĩa là Am tiên cây. Thập bát Công là cây tòng bởi chữ thập với chữ bát dính lại thì là chữ mộc, thêm chữ công một bên là chữ tòng. Còn Cô Trực Công là cây bá, bởi cây trắc ngay thẳng luôn luôn. Còn Lăng không Tử là cây cối, lăng không nghĩa là lấn mây, vì nó cao lắm. Còn Phất vân Tẩu nghĩa là ông già quét mây, vì ngọn nó cao quá. Còn con quỷ sứ là cây chùm bao. Hạnh tiên là cây Hạnh, hai con tỉ tấc mặc áo xanh là hai cây huỳnh mai.
Khi ấy Bát Giới nghe rõ nổi xung, vì đi kiếm thầy một đêm khổ lắm. Bát Giới vác đinh ba cuốc cây chùm bao và cây hạnh, với cặp quế mai; rồi kê mỏ ủi trốc gốc đứt rễ hết thảy; thấy máu chảy ròng ròng!
Tam Tạng bước lại xem thấy can rằng:
– Ngộ Năng đào bới làm chi? Tuy chúng nó thành quái, song chẳng hại ta. Hãy lo kiếm đường đi thỉnh kinh kẻo trễ.
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Thầy chẳng nên thương chúng nó làm chi, nếu bây giờ không trừ, lâu năm chắc hại thiên hạ.
Bát Giới nghe nói đặng nước, đào luôn bốn gốc cây kia cũng đều trốc gốc chảy máu ròng ròng. Rồi mới chịu kiếm ngõ ra đi.
Té ra Tam Tạng nhờ tính cây đưa qua khỏi núi Kinh cát cũng là bị rủi mà may.
Bốn thầy trò kiếm đường ra khỏi cụm rừng thì đất bằng dễ lắm. Ði hèn lâu gặp một hòn núi, cao thấu chơn mây.
Tam Tạng càng kinh hãi, Tôn Hành Giả cắp thiết bãng đi trước, ba thầy trò theo sau. Ðến khi đi khỏi đầu non, gần tới chơn núi.
Tam Tạng ngó thấy xa xa có lâu đài đền các.
Hào quang chiếu sáng thấu trời.
Nghe tiếng chuông ngân văng vẳng!
Tam Tạng nói:
– Ðồ đệ, kiểng chùa đó phải chăng?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
Thiệt là kiểng chùa, song không rõ cớ nào, trên hào quang có hơi yêu khí, chắc không phải kiểng chùa Lôi âm, chúng ta đi ngang qua, chẳng nên ghé; e lầm kế yêu tinh.
Tam Tạng nó:
– Có khi núi này là núi Linh Sơn, chùa ấy là Lôi âm tự, ngươi đừng hồ nghi mà đi qua, uổng công.
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Không phải đâu! Tôi đến chùa Lôi âm biết mấy thứ đường đi đả thuộc cháo chan. Có đâu gần như vậy!
Sa Tăng nó:
– Sư huynh chẳng cải làm chi, đễ đi ngang qua cửa chùa thì biết.
Tôn Hành Giả nói phải.
Tam Tạng giục ngựa thẳng xông.
Ði tới cửa ngõ chùa, thấy chữ Lôi âm tự.
Tam Tạng hoảng kinh nhảy xuống ngựa, mắng Bát Giới rằng:
– Con khỉ khốn nạn gạt ta quá! Coi thử phải Lôi âm tự hay không?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Xin thầy đừng nóng giận, hãy coi lại cho rõ ràng; đừng có mắng tôi oan lắm! Tấm biển bốn chữ sao thầy đọc có ba mà thôi?
Tam Tạng coi lại thiệt tấm bảng bốn chữ: Tiểu lôi âm tự.
Xem rồi nói rằng:
– Dầu Tiểu lôi âm tự mặc lòng cũng có vị phật ở đó. Bởi trong kinh có nói rằng: Tam thiên chi Phật nghĩa là ba ngàn vị phật, lẽ nào ở một chỗ hay sao. Như Quan Âm ở Nam Hải, Phồ Hiền ở núi Nga mi, Văn Thù ở núi Võ Ðài, chắc chùa Tiểu lôi âm cũng có Phật. Lời xưa nói: Hễ có phật thì có kinh. Chúng ta hãy vào coi thử.
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Chùa này có yêu khí. Nếu thầy cãi mà vào đó, có mắc nạn xin chớ trách tôi.
Tam Tạng nói:
– Ta đã nguyện gặp Phật thì lạy Phật lẽ nào lại trách ngươi?
Nói rồi hối Bát Giới lấy mão tì lư, áo cà sa, thay đổi xong rồi bước vào của núi.
Xảy nghe tiếng kêu rằng:
– Ðường Tăng, ngươi từ đông độ quyết đến đây lạy Phật thỉnh kinh. Sao bây giờ đến đây lại trễ nãi?
Tam Tạng nghe nói liền lạy, Sa Tăng, Bát Giới đều quì.
Còn Bát Giới ở sau sửa soạn gói đồ và dắt ngựa; rồi cũng đi theo.
Khi thầy trò vào cửa ngõ thứ nhì, ngó vào đại hùng bửu điện, thấy Phật Tổ ngồi trên tòa sen, còn dưới thì năm trăm La Hàn, ba ngàn Yết đế, bốn vị Kim Cang, tám bị Bồ Tát, và chư tăng không biết bao nhiêu.
Sa Tăng nói:
– Thiệt là hào quang muôn đạo hoa kiểng đủ màu; khác cảnh tiên xa lắm.
Tam Tạng và Bát Giái, Sa Tăng nhứt bộ nhứt bái, Tôn Hành Giả chẳng chịu lạy cứ đi theo sau lưng thầy.
Xảy thấy vị Phật Tổ ngồi trên tòa sen nói lớn rằng:
– Còn Tôn ngộ Không sau thấy Như Lai mà chẳng làm lễ.
Tôn Hành Giả coi rõ, biết là yêu giả Phật, liền bỏ gói đồ và buông dây cương ngựa, rút thiết bãng nạt rằng:
– Khen cho loài yêu dám cả gan giả Phật, làm cho nhẹ thể Như Lai!
Nói rồi lướt tới chưa kịp đánh xảy nghe một tiếng rỗn rãng, ấy là cái chiêng bằng vàng sa xuống, chụp Tôn Hành Giả vào trong chiêng.
Sa Tăng, Bát Giới kinh hãi, lấy bửu trượng và đinh ba lướt tới, bị mấy người Phật giả bắt hết hai người và trói Tam Tạng.
Chúng nó đều hiện nguyên hình.
Tam Tạng biết chúa yêu giả Thích Ca, các tiểu quỷ giả làm chư Phật; ăn năn thì đã muộn rồi!
Chúa yêu nói:
– Ðợi ba ngày cho Tôn Hành Giả tiêu ra nước, chúng ta sẽ ăn thịt Ðường Tăng.
Các tiểu yêu vâng lời, giam ba thầy trò, và cột ngựa cất đồ hành lý.
Nói về Tôn Hành Giả lục đục trong cái kim nao tối đen không thấy chi hết, tức mình xô đạp cũng không núng, lấy thiết bãng động cũng không bể, rán sức tháo mồi hôi ra cũng không đặng! Liền tính kế rằng:
Nếu mình nhóng lên cho thiệt cao, thì kim nao phải rả.
Nghĩ rồi niệm chú, mình cao muôn trượng, chẳng ngờ kim nao cũng cao lớn theo mình, chẳng hề hở một mảy!
Tôn Hành Giả mọp xuống biến nhỏ bằng hột cải, cái chặp hỏa ấy cũng thâu lại nhỏ theo; cũng không có một lỗ nhỏ.
Tôn Hành Giả lấy thiết bãng chống kim nao, rồi nhổ lông biến ra cái khoang, khoang hoài cũng không phủng!
Khi ấy Tôn Hành Giả thất kinh, niệm chú thâu các vị thần đến.
Các vị thần tới ngoài kim nao hỏi rằng:
– Chúng tôi mắc bảo hộ Tôn Sư, đại thánh đòi tới làm chi?
Tôn Hành Giả nó:
– Thầy ta chẳng nghe lời khuyên giải, dầu chết cũng ưng. Vậy thì các ngươi làm phép chi mà giở cho ta ra khỏi, chớ ở trong này tối tăm nực nội, chắc là ngột chết mà thôi?
Các vị nó:
– Ðể chúng tôi cạy thử coi thế nào?
Nói rồi áp lại cạy không ra, xeo cũng chẳng nổi.
Kim Ðầu yết đế nói:
– Cái bửu bối này triến mí như đồ nguyên, chúng tôi rán đã hết hơi, cạy hoài không nổi. Vậy thì Lục Ðinh bảo hộ Ðường Tăng, Lục giáp coi chừng Ðại Thánh, Còn Dà Lam thì tuần vãng, đặng cho ta lên Nam Thiên Môn, tâu với thượng đế.
Dặn rồi đằng vân tới Nam Thiên Môn, vào đền Linh Tiêu quỳ lạy tâu rằng:
– Tôi là Ngũ Phương yết đế, theo phò hộ Tam Tạng thỉnh kinh. Nay bốn thầy trò Tam Tạng đi ngang núi Tiểu tây thiên bị yêu quái bắt hết. Nó nhốt Ðại Thánh vào kim nao thoát ra không khỏi; sợ bốn thầy trò Tam Tạng tánh mạng không còn, nên tôi phải tâu lại.
Thượng Ðế nghe tâu, truyền chỉ Nhị Thập bát tú xuống giải cứu mà đánh yêu.
Khi ấy Nhị thập bát tú vưng chỉ đằng vân theo Ngũ Phương yết đế đến núi thì trời gần tối, đợi đến canh hai tiểu yêu ngủ hết, Nhị thập bát tú lén đến ngoài kim nao nói rằng:
Chúng tôi là Nhị thập bát tú vưng lịnh xuống cứu Ðại Thánh, rồi trợ chiến trừ yêu.
Tôn Hành Giả mừng rỡ nói rằng:
– Vậy thì đập bể cái kim nao, đặng tôi ra kẻo ngộp lắm
Nhị thập bát tú nói:
– Chẳng nên đập kim nao, sợ động chúng nó hay thì cứu không đặng. Ðể chúng tôi cạy nó, Ðại Thánh thấy hở một chút, thì biến nhỏ mà chun ra.
Tôn Hành Giả nói phải. Nhị thập bát tú dùng gươm đao và cạy và xeo, kẻ thì cầm giáo mà dùi, người lại kê búa mà cắt, hè hụi tới hết canh ba, nói cho phải mói trầy trầy ngoài da kim nao như dấu gạch (cứng quá lẽ).
Còn Tôn Hành Giả rờ tứ tung bát hướng dòm không sót chỗ nào, ngặt không thấy hở hang và lỗ nhỏ, liền hỏi thăm rằng:
– Sao tối thui như cũ, không thấy sáng chút nào? Thế các ông cạy lôi thôi nên không hở thì phải?
Càng kim long nói:
– Ðại Thánh ôi! Cái bửu bối này chắc là vật như ý, khó nổi cạy ra, vì nó triến như liền, chúng tôi cạy một giờ không hở! Vậy thì Ðại Thánh cứ rờ xung quanh đường giáp mí, nếu có hở một chút thì chun ra, để tôi kê sừng dùi vào đó.
Tôn Hành Giả nói:
– Phải. Cứ rờ theo đường mí chụp chỏa úp lại, kiếm chỗ hở chun ra.
Còn Càng kim Long hiện nguyên hình là con rồng, biến cái sừng nhỏ bằng mũi kim; kê vào chỗ đường hai tấm chụp chỏa chụp giáp mí mà nong vào. Thương hại cho Càng kim Long rán hết hơi, dùi mới phủng ló gạc vào chụp chỏa. Mày là nhờ tùng dậu theo đường giáp mí, nếu đụng đâu dùi đó, dẫu mạnh mấy cũng không vô.
Ðoạn Cang kim Long đút gạc vào, liền biến lớn như thường, chót gạt lớn bằng cái chén.
Chẳng ngờ kim nao không bễ, cũng không hở chút nào, cứ bao lấy cái gạc sít rịt. Tôn Hành Giả rờ cái gạc rất mừng, té ra rờ xung quanh, cái gạc không hở một mảy. Liền than rằng:
– Có hở đâu mà chun ra cho đặng? Vậy thì rán chịu đau một chút mà cứu tôi!
Nói rồi hòa thiết bảng làm dùi, dùi lủng gạc một lỗ; rồi nói rằng:
– Ðể tôi biến nhỏ chun vào lỗ gạc, ông sẽ rán sức giựt ra?
Nói rồi biến nhỏ bằng hột cãi chun vào lỗ gạc rồng.
Cang kim Long rán đã hết gân đuối sức, mồ hôi ra ướt dầm mới rút đặng cái gạc, thì đã mệt quá nằm xiểu bên kim nao!
Khi ấy Tôn Hành Giả ở trong gạc nhảy ra, hiện hình như củ, đập kim nao một bãng bể tươi! Nghe một tiếng vang tai như lở núi.
Yêu vương giựt mình thức dậy, liền kéo binh ra, thấy kim nao bể nát.
Chư thần và Hành Giả chưa kịp ra ngoài.
Chúa yêu truyền tiểu quỷ đóng cửa động, từ nhiên Tôn Hành Giả và Nhị thập bát tú đã hiện lên mây.
Còn chúa yêu lượm miếng chụp chỏa rồi, dẫn binh quỷ ra cửa núi, cầm đoản côn kêu lớn rằng:
– Tôn Hành Giả chạy trốn đi đâu? Ðã gọi anh hùng, xuống cự với ta ba hiệp.
Tôn Hành Giả dẫn Nhị thập bát tú xuống hét lớn rằng:
– Ngươi là con quái gì dám giả hình Phật Tổ; bày ra chùa Tiểu lôi âm?
Chúa yêu nói:
– Con khỉ không biết tên họ ta, mới đem mình mà nạp! Ta tu tại núi Tiểu tây thiên, đã thành chánh quả; trời ban lầu đài đền các cho ta, ta là Huỳnh Mi vương. Thuở nay nghe ngươi có tài phép, bão hộ Tam Tạng đi thỉnh kinh Tây Phương, nên ta làmkế gạt Tam Tạng vào đây đặng đánh với ngươi cho biết lực. Nếu đánh nổi ta thì đi đặng Tây Phương, bằng thua thì ta đập chết bốn thầy trò, ta sẽ đi thỉnh kinh đem về Trung Hoa.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Yêu tinh đừng khoe tài, có giỏi thì lại đây mà đánh.
Huỳnh Mi đánh với Hành Giả năm mươi bốn hiệp cầm đồng.
Còn lủ tiểu yêu ó rẽ trợ oai cho chúa động.
Nhị Thập bát tú và Ngũ Phương yết đế thấy vậy nổi xung, xông vào trợ chiến. Huỳnh Mi cũng không sợ, lấy túi vải trắng cũ trong lưng quăng lên; thâu Tôn Hành Giả, Nhị thập bát tú và Ngũ phương yết đế đồng đựng trong túi vác về.
Truyền tiểu yêu đem dây, bắt hết ra trói lại; bỏ nằm co cười đất lỉnh nghỉnh còn chúng nó ăn tiệc uống rượu cho tới khuya mới chịu đi ngủ.
Ðến nửa đêm Tôn Hành Giả thấy chúng nó ngủ vùi lấy làm mừng lắm.
Tôn Hành Giả hóa hình nhỏ vuột dây ra khỏi. Liền đến dựa bên Tam Tạng mà kêu thầy.
Tam Tạng nói:
– Ðồ đệ rán cứu thầy phen này, từ rày về sau thầy nghe lời luôn luôn, không dám cãi lời nữa.
Tôn Hành Giả mở Tam Tạng và Bát Giái, Sa Tăng.
Rồi lại mở cho Nhị thập bát tú, Ngũ Phương yết đế, vân vân. Rồi dắt ngựa đem thầy ra khỏi cửa.
Tôn Hành Giả nói:
– Còn gói đồ nó cất đâu không biết, tôi phải trở lại kiếm cho đặng rồi sẽ đi
Càng kim Long nó:
– Ðã cứu đặng tôi sư thì đi cho rồi, nghĩ nào tiếc gói đồ mà dục dặc.
Tam Tạng nó:
– Tiểu yêu nó cổi áo cà sa và mão tì lư của tôi cũng để vào gói, bởi hai món ấy là bửu bối của Như Lai.
Tôn Hành Giả nó:
– Chẳng những là hai báu ấy mà thôi, lại còn bình bát bằng vàng cũng báu, lá điệp thông quan là vật cần dùng; không có thì sao đi cho đặng!
Bát Giới nói:
– Vậy thì anh trở lại mà kiếm gói đồ. Còn chúng tôi bảo hộ thầy vừa đi vừa đợi.
Chư thần và Nhị thập bát tú cũng theo bảo hộ Ðường Tăng.
Còn Tôn Hành Giả trỡ vào động thấy cửa động đóng chặt, biết yêu quái ngủ mê. Lại có một phòng riêng để vật dụng.
Tôn Hành Giả hóa ra con dơi muỗi gọi là thiên thủ bay vào thấy hào quang chiếu sáng, coi lại là cái túi ấy, còn gói đồ cũng còn ở trong.
Tôn Hành Giả mừng rở, hiện hình vác túi đồ, chẳng ngờ túi ấy trống hết hai đầu, vì không có đáy, vác đầu này thì lọt ra đầu khác; bị bình bát rớt xuống kêu cái keng. Huỳnh Mi giựt mình thức dậy, hối tiểu yêu thắp đèn đi soi khắp chỗ.
Khi ấy Tôn Hành Giả tính lấy gói đồ không tiện, vì sợ nó bắt mình, túng phải hóa dơi bay mất.
Còn Huỳnh Mi thấy thầy trò Tam Tạng đâu mất; liền xách đoản côn đuổi theo, tiểu yêu cũng vác khí giái chạy theo rần rộ.
Xảy thấy Nhị thập bát tú, Ngũ Phương yết đế, đón tại ngã ba bão hộ thầy trò Tam Tạng.
Huỳnh Mi kéo binh đến tới hét lớn rằng:
– Chúng bây chạy đi đâu đó? Có ta đến đây.
Giác mộc giao liền hai mươi bảy anh em và Lục Giáp, Lục Ðinh, Ngũ Phương yết đế, Dà Lam, Bát Giái, Sa Tăng, đồng phủ vây hỗn chiến.
Huỳnh Mi cười hả hả rồi hú lên một tiếng bốn năm ngàn yêu nhỏ kéo tới giao phong. Hai bên đánh chưa biết ai thắng bại.
Xảy nghe Tôn Hành Giả nạt lớn rằng:
– Có Lão Tôn đến đây.
Nói rồi xông vào hỗn chiến.
Một mình Huỳnh Mi chấp hết thảy, đánh vang trời rúng đất, mà chưa thấy hơn thua.
Ðánh xàng quay với nhau tới trăng mọc, Huỳnh Mi hét một tiếng, lấy túi sau lưng ra. Tôn Hành Giả xem thấy rõ ràng, liền nói rằng:
– Không xong rồi! Phải chạy, phải chạy.
Nói rồi liền đằng vân chạy trước. Còn bao nhiêu đều bị Huỳnh Mi thâu vào túi vác về chùa, cũng lấy dây trói hết như cũ. Chuyến này trói Tam Tạng, Sa Tăng, Bát Giới treo rút lên cao. Còn chư thần bị trói, Huỳnh Mi truyền bỏ xuống hầm đậy nắp lại.
Nói về Tôn Hành Giả nhảy lên mây, thấy Huỳnh Mi bắt hết đem về động.
Tôn Hành Giả nhảy xuống, đứng trên chót núi than rằng:
– Không biết thầy kiếp trước mắc tội chi, đời nay bị tai nạn mãi!
Nói rồi rơi nước mắt. Giây phút nghĩ rằng:
– Không biết con yêu này có cái túi gì, mà nó đựng người ta nhiều quá! Nếu lên tâu với Thương đế chắc là trách mình, vì lánh thân chạy trước. Chi bằng đến núi Võ dương mà cầu ông Chơn Võ là Bắc Ðế, xuống bắt yêu mà cứu thầy ta.
Khi ấy Tôn Hành Giả đằng vân đến núi Vỏ dương tìm ông Chơn Vỏ.
Nguyên trước vua nước Tịnh lạc có vợ là bà Thiện Thắng Hoàng Hậu, chiêm bao thấy nuốt mặt nhựt mà thọ thai, nghên mười bốn tháng mới sanh, nhằm ngày mồng ba tháng ba hồi giờ Ngọ, năm Giáp thân, nhằm năm đầu vua Ðường Cao Tổ. Ðến lớn mộ đạo đi tu, sau thành ông Chơn Vỏ Bắc đế.
Khi Tôn Hành Giả tới cửa Thái hòa, gặp năm trăm ông Linh quan hỏi rằng:
– Ai đó?
Tôn Hành Giả nói:
– Ta là Tề thiên đại thánh Tôn ngộ Không, xin vào ra mắt Ðại đế.
Các Linh quan nghe nói, liền vào báo lại.
Chơn Vỏ Bắc đế liền bước ra nghinh tiếp, Tôn Hành Giả bái và bạch rằng:
– Tôi đến đây xin cầu một việc.
Bắc đế hỏi:
– Chuyện chi?
Tôn Hành Giả thuật lại. Rồi bạch rằng:
– Bởi cớ ấy nên tôi cùng phương, phải đánh liều đến thỉnh Ðế quân trợ lực.
Bắc đế nói:
– Khi trước ta vưng chỉ trấu tại Bắc phương, trừ yêu trị quái. Sau lại vưng chỉ đem năm vị Lôi thần qua đánh yêu bên Tây Bắc cũng đã xong rồi. Nay về núi Vỏ dương dưởng tánh, vì yêu ma đã hết rồi. Nay không có chiếu chỉ mà cầm binh đi, e phạm thiên luật. Bằng không, lại mất lòng anh em! Song nghỉ lại yêu quái cõi Tây cũng không lấy làm hại, vì đường non núi chẳng có ai đi, nên Thượng Ðế không sai đánh. Vậy thì tướng rùa, tướng rắn, và năm vị Long thần, trợ chiến bắt yêu mà cứu sư phụ.
Tôn Hành Giả tạ ơn rồi đi với bảy tướng tới động khiêu chiến.
Nói về Huỳnh Mi nghe báo, bàn rằng:
– Hôm qua đến nay Hành Giã đi mất, không biết viện binh ở đâu, mà lại dám đến đây khiêu chiến!
Nói rồi cầm đoản côn dẫn bảy yêu ra động hỏi rằng:
– Chúng bay là Long Thần ở đâu dám đến đây nạp mạng?
Bảy tướng đồng nạt lớn rằng:
– Chúng ta ở cung Thái hòa là ngũ vị Long thần, và Qui, Xà nhị tướng. Nay vì Ðại Thánh đến viện binh, nên Ðảng Ma thiên tôn sai chúng ta bắt ngươi về nạp. Như ngươi dưng các sãi và Chư thần thì thôi, nếu nghịch mạng thì ta phân thây và đốt động.
Huỳnh Mi nổi giận hét lớn rằng:
– Chúng bây là đầu thú mình người, tài chi mà nói giỏi?
Nói rồi liền đánh một còn. Năm vị Long Thần hiện nguyên hình ở trên vớ xuống.
Còn Quý, Xà nhị tướng và Tôn Hành Giả áp đánh Huỳnh Mi đánh hơn mấy mươi hiệp Huỳnh Mi lấy túi vải sau lưng.
Tôn Hành Giả nói lớn rằng:
– Các ông phải đề phòng, cái túi ấy dữ lắm!
Và nói và nhảy thót lên mây.
Còn Quý, Xà nhị tướng không rõ vật chi, Huỳnh Mi quăng túi ấy lên cao thâu hết năm rồng và tướng rùa tướng rắn đem về động bắt ra trói lại, quăng xuống hầm đậy nắp như Chư thần.
Còn Tôn Hành Giả tức mình, ngồi gục đầu trên chót núi xảy nghe có tiếng kêu rằng:
– Ðại Thánh đừng ngủ, hãy lo phương thế mà cứu thầy, nếu để trể chắc bị yêu ăn thịt.
Tôn Hành Giả mở con mắt ngước mặt ngó lên, thấy Trị Nhựt công tào, nổi giận nạt lớn rằng:
– Ngươi là thần vặt, hổm nay đi đâu, không trình diện. Nay lại dọa ta giựt mình?
Công tào bái và thưa rằng:
– Tôi vưng lịnh Bồ Tát theo phò hộ Ðường Tăng, nên không dám bỏ mà đi hầu Ðai thánh. Hai bữa rày thất vắng tin, trong long nghi ngại. Nay thấy Huỳnh Mi bắt Rồng và Qui Xà nhị tướng mới hay Ðại Thánh đi thỉnh binh, nên tôi tìm Ðại Thánh xin rán sức cứu thầy, chẳng nên ngã lòng thối chí.
Tôn Hành Giả lau nước mắt nói rằng:
– Ta bây giờ hết thế lên trời, không phương xuống đất. Hổ mặt đi tìm Bồ tát, ngã lòng ra mắt Như Lai, Bảy tướng của ông Chơn Võ bị bắt rồi, biết đi cầu ai nữa?
Công Tào nói:
– Xin Ðại Thánh an lòng, tôi còn biết một chỗ nữa, thuộc về Nam thiện bộ châu, tại huyện Hu Di, gần núi Hu Di, có Biền Thành, bây giờ gọi là Tứ Châu, có một vị Ðại Thánh quốc sư vương bồ tát; thần thông thiệt cao cường. Người lại có mnột học trò gọi là Tiểu Trương thái tử, và bốn vị thần tướng, năm trước bắt con quái là Thủy mẫu nương nương. Nếu thỉnh đặng chắc là thắng trận.
Tôn Hành Giả mừng rằng:
– Vậy thì người về bảo hộ thầy, đặng Lão Tôn đi viện.
Nói rồi đằng vân qua huyện Hi Di, vào Biền Thành, mới tới cửa chùa, thấy phong cảnh xinh lắm. Chẳng ngờ Quốc Sư vương bồ tát đã biết trước nên đã sai Tiểu Trương thái tử ra ngoài nghinh tiếp.
Tôn Hành Giả vào làm lễ, thuật chuyên lại rồi bạch:
– Ðệ tử viện đã cùng phương mới đến cầu bồ tát. Xin ra sức cả dụng phép thần thông, bắt con yêu này cũng như trị con Thủy mẫu, song bắt con Thủy mẫu bất quá là cứu dân, chớ bắt con yêu này cứu thầy tôi đi thỉnh kinh, thì công đức càng lớn hơn nữa.
Quốc Sư vương bồ tát nói:
– Chuyện này là việc Phật, lẽ nào ta chẳng chịu đi, song tháng này là đầu mùa hè, nước sông Hoài vương nhảy, mà Thủy mẫu nó có hơi nước dưng thì mạnh lắm. Vả lại mới bắt nó mà giam cầm, e tánh chưa định, nếu thoát ra thì làm dữ mười phần; nếu ta mắc đi đánh Huỳnh Mi thì tướng nào trị đặng Thủy mẫu? Nay ta sai học trò và bốn tướng đị trợ chiến thì hay hơn.
Tôn Hành Giả tạ ơn, đi với Tiểu Trương thái tử và bốn tướng.
Khi đến núi Tiểu tây thiên, Tiểu Trương thái tử cầm thương, bốn tướng cầm song kiếm, Tôn Hành Giả dắt tới chùa Tiểu lôi âm đứng ngoài khiêu chiến.
Tiểu yêu vào báo lại. Huỳnh Mi dẫn binh quỷ ra chùa hét lớn rằng:
– Con khỉ kia, ngươi viện ai đó nữa?
Tiểu Trương thái tử hét lớn rằng:
– Ta là Ðệ tử Ðại Thánh quốc vương bồ tát, dẫn bốn tướng đi bắt ngươi.
Huỳnh Mi cười rằng:
– Ngươi là trẻ nhỏ thơ ngây, có tài bắt Thủy quái sông Hoài là con sứa. Khéo nghe lời Tôn Hành Giả, lặn lội tới mà nạp mình.
Tiểu Trương thái tử nổi giận, liền thích một thương Huỳnh Mi đưa đoản côn ra đỡ.
Bốn tướng và Tôn Hành Giả xông vào trợ chiến, Huỳnh Mi đánh một hồi, rồi cũng lấy túi nghề ra nữa!
Tôn Hành Giả nói:
– Các ông giữ mình kẻo nó thâu vào túi!
Vừa nói vừa nhảy nai.
Huỳnh Mi cũng quăng túi lên thâu Tiểu Trương thái tử và bốn tướng đem về trói lại bỏ xuống hầm, đậy nắp lại cứng ngắt.
Còn Tôn Hành Giả không vong nhảy trước, đứng trên chót núi khóc ròng.
Xảy thấy một vị đằng vân từ bên hướng Tây Nam bay qua, kêu và hỏi rằng:
– Tôn Ngộ Không có biết ta chăng?
Vừa nói vừa cười tích toát.
Tôn Hành Giả thấy ông ấy thì biết là phật Di Lạc, vì mập quá nên dễ nhìn.
Tôn Hành Giả liền bái và hỏi rằng:
– Chẳng hay Phật Tổ đi đâu?
Di Lạc cười rằng:
– Ta vì chuyện Tiểu lôi âm nên đến đây trị nó.
Tôn Hành Giả tạ ơn rồi bạch rằng:
– Tôi cám ơn Phật Tổ có lòng thương. Vậy xin cải nghĩa căn cước con quái ấy ở đâu, nó có cái túi gì mà thần thông như vậy.
Phật Tổ nói:
– Nó là Huỳnh Mi đồng tử ở giữ thành tại đền ta, nhơn hôm mồng ba tháng ba ta đi phó hội tại đền ông Ngươn Thỉ, để nó ở nhà giữ cung, nó mới lấy bửu bối của ta nó trốn xuống đây, giả Phật mà thành tinh. Còn cái túi ấy tên túi Hậu thiên, tục kêu là Tố nhơn, còn cái roi ấy là cái dùi đánh khánh
Khi ấy Tôn Hành Giả nghe tỏ đầu đuôi rồi nói lớn rằng:
– Cái ông hòa thượng hay cười này, thiệt tệ quá! Sao ông thả gia đồng làm yêu lại bảo nó giả Phật mà hại tôi gần chết. Chắc phải mắc tội trị nhà chẳng nghiêm trang.
Di Lạc cười rằng:
– Một là tại ta hơ hỏng, hai là thầy trò ngươi số còn mắc nạn, nên nhiều loài đi xuống đón đường; không phải một đứa gia đồng ta mà trách. Nay Ðường Tăng bị nạn này đã mãn hạn, nên ta xuống bắt nó về.
Tôn Hành Giả nói:
– Huỳnh Mi là con quái dữ, thần thông chẳng phải tầm thường, ông đi tay không làm sao mà bắt đặng nó?
Di Lạc cười rằng:
– Ta ở đây hóa cái am nhỏ, giả đò kẻ trồng dưa, biến ra trái dưa còn sống hết thảy. Ngươi vào khiêu chiến trá bại dụ nó ra ruộng dưa này, ngươi sẽ biến trái dưa chín lộn theo đám dưa đó. Ta biết tánh nó hảo dưa gan lắm, làm sao ngó thấy cũng thèm. Ta sẽ cho nó ăn trái dưa chín, thì người vô bụng mặc sức tung hoành. Ðợi ta lấy cái túi rồi, sẽ bắt nó về cho rảnh.
Tôn Hành Giả nói:
– Kế ấy hay lắm, song lại e nó không theo đuổi, thì mới tính làm sau?
Di Lạc cười rằng:
– Ngươi sẽ tay ra đây.
Tôn Hành Giả y lời.
Di Lạc lấy ngón tay trỏ họa phù trong bàn tay Hành Giả.
Tôn Hành Giả xách thiết bãng đến cửa động khiêu chiến rằng:
– Huỳnh Mi ra đanh với Tôn gia gia cho mau.
Huỳnh Mi nghe tiểu yêu vào báo liền lướt ra cửa động hỏi rằng:
– Tôn Ngộ Không chuyến này trốn không khỏi nữa.
Tôn Hành Giả mắng rằng:
– Ta phen này quyết sống thác với ngươi, chẳng hề chạy nữa
Huỳnh Mi nói:
– Ta cũng bắt ngươi cho rồi, coi còn ai đi viện nữa.
Hai người hỗn chiến với nhau Huỳnh Mi thấy bộ tay Hành Giả, càng muốn đánh hoài.
Hành Giả trá bại.
Huỳnh Mi không quăng túi Hậu thiên, cứ theo đuổi mãi.
Vừa tới đám dưa gan, Tôn Hành Giả biến làm trái dưa chín. Huỳnh Mi ngó cùng bốn phía không biết Tôn Hành Giả trốn ngõ nào. Liền bước tới trước thấy đám dưa, Huỳnh Mi hỏi lớn rằng:
– Ai trồng dưa đó?
Ông già trong lều cỏ, bước ra thưa rằng:
– Ðại vương ôi! Dưa ấy của tôi trồng.
Huỳnh Mi nói:
– Có trái nào chín, hái cho ta ăn giải khát tức thì.
Ông già ấy hái trái dưa chín đem dưng. Huỳnh mới đưa vào miệng, trái dưa ấy đã chạy tuốt vào bụng!
Tôn Hành Giả hiện nguyên hình, múa tay dặm cẳng, đánh quờn trong bụng Huỳnh Mi!
Huỳnh Mi đau thấu tim phổi, ôm bụng lăn lộn trong đám dưa, hại đám dưa nát hết. Vừa khóc vừa rên rằng:
– Thôi thôi, xin ai cứu tôi làm phước!
Khi ấy Di Lạc hiện hình cười ngất nói rằng:
– Ngươi còn nhớ ta chăng?
Huỳnh Mi ngó thấy hết hồn, và lạy và năn nỉ rằng:
– Xin chủ tha tội tôi làm phước?
Di Lạc liền mở cái túi, và lấy cây đoản côn. Rồi nói rằng:
– Ngộ Không vị tình ta tha nó làm phước.
Tôn Hành Giả chưa hết giận, vừa đá vừa đấm không biết mấy thoi.
Huỳnh Mi lăn lộn một hồi nữa. Di Lạc nói:
– Thôi thôi bấy nhiêu cũng đủ rồi, Ngộ Không tha nó cho rảnh!
Tôn Hành Giả nói:
– Thôi, hả miệng cho lớn đặn Lão Tôn nhảy ra.
Huỳnh Mi y lời hả miệng.
Tôn Hành Giả hóa bồ hong bay ra, hiện nguyên hình mới giơ thiết bảng.
Di Lạc đã thâu Huỳnh Mi vào túi rồi, Tôn Hành Giả khi mới nhảy ra, thì thấy Huỳnh Mi đã khác tướng, thiệt là đồng tử chơn mày vàng.
Còn Di Lạc giắt túi trong lưng hỏi rằng:
– Kim nao ở đâu?
Huỳnh Mi ở trong túi và rên và bạch rằng:
– Tôn ngộ Không đập bể rồi.
Di Lạc cười rằng:
– Ngộ Không ngươi dắt ta đi kiếm miểng chập chỏa?
Tôn Hành Giả y lời vào trước, thấy cửa động bế rồi.
Di Lạc lấy cây đoản côn đập một cái, cửa động bể ra.
Tôn Hành Giả vào chùa đập bầy yêu con chết hết. Rồi đem miểng kim nao dưng cho Di Lạc.
Di Lạc thổi một hơ, niệm ít câu chú. Kim nao lành lại như còn nguyên. Rồi từ giã lui về miền Cực lạc.
Khi ấy Tôn Hành Giả mở thầy và Sa Tăng, Bát Giới xuống. Ra phía sau giở nắp đá đem Chư thần ra khỏi hầm và mở dây hết thảy, các ông ấy hổ thẹn vô cùng.
Tam Tạng lạy tạ ơn.
Tôn Hành Giả đưa Chư thần, ở đâu về đó.
Thầy trò ăn uống no nê, nghỉ khỏe nửa ngày, rồi nổi lửa đốt lầu đài cháy rụi.
Nói về bốn thầy trò đi khỏi núi Tiểu tây thiên, đi mấy tháng trời, mà bình an vô sự, nhằm tiết tháng ba, trăm hoa đua nở.
Ngày kia đi tới tối, Tam Tạng nói:
– Ðồ đệ ôi! Trời đã tối rồi, kiếm nhà nào mà tá túc!
Tôn Hành Giả cười và thưa rằng:
– Xin thầy đi lần tới và có chỗ nghỉ ngơi.
Nói rồi đồng đi tới một đỗi, Tôn Hành Giả mừng rỡ nói rằng:
– Lùm cây trước kia có nhà, mau vào đó mà tá túc.
Tam Tạng đi tới liền xuống ngựa, thấy cửa đóng rồi.
Tam Tạng bước đến gõ cửa.
Có ông già trong nhà chống gậy ra mở cửa ngõ hỏi ai?
Tam Tạng chắp tay bái và nói rằng:
– Bần tăng ở Ðông độ, vưng chỉ đi thỉnh kinh nơi Tây Phương. Ðến đây trời tối lỡ đàng, xin ông làm ơn cho chúng tôi tá túc.
Ông già ấy nói rằng:
– Thầy đi sao thấu Tây Phương! Ðây là Tiểu tây thiên đi đến Ðại tây thiên còn xa lắm! Vả lại đường đi nguy hiểm vô cùng, còn lo đi không khỏi đất này nữa!
Tam Tạng hỏi:
– Vì cớ nào đi qua đất này không đặng?
Ông già ấy chỉ mà nói rằng:
– Cách nhà tôi ba mươi dặm, phía tây có hòn núi Thất tuyệt, vì núi ấy nhiều hồng, nên đặt tên như vậy.
Tam Tạng hỏi:
– Thất tuyệt là nghĩa chi?
Ông già ấy nói:
– Thất tuyệt là bảy điều quý là vì hồng có bảy điều quý như vầy:
1. Ăn nó bổ ngũ tạng đặng sống lâu.
2. Cây nó nhiều bóng.
3. Chim không dám làm ổ trên cây hồng.
4. Không có sâu bọ.
5. Lá hứng sương xem tốt lắm.
6. Trái coi xinh.
7. Lá rụng tốt tươi.
Bởi đường truông núi Thất tuyệt hai bên mọc rặc ròng những hồng tám trăm dặm mới dứt! Vả lại, xứ này ít người ở không có bao nhiêu bộ hành, nên đường truông ấy thường năm hồng rụng trái làng khang, đến nổi nhớt đường dơ lắm bởi lớp lâu lớp mới, nên hơi quá nhà tiên, song lúc này còn tiết mùa xuân, nhờ gió chướng nên không nghe hơi độc. Thầy tính làm sao mà lội qua khỏi tám trăm dặm nhơ uế này, thì đến Ðại tây thiên mới đặng.
Tam Tạng nghe nói rất buồn.
Khi ấy Tôn Hành Giả ở sau lưng trờ tới nói rằng:
– Ông già này bất thông quá! Chúng tôi xin ngủ nhờ mnột đêm, lại kiếm chuyện nói văn này thế khác, báo hại tôi đứng đã mõi chưn! Nếu không cho tá túc thì thôi, thầy trò tôi ngủ nơi gốc cây cũng đặng. Phải nói làm chi nhiều chuyện cho rầy ai?
Ông già ấy thấy người dị tướng, liền làm gan nạt rằng:
– Ngươi là con quỷ ho lao, ốm nhom ốm nhách, dám cả gan chót mỏ mắng ta?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Thiệt ông có con mắt mà thiếu con ngươi nên mắng tôi là con quỷ ốm! Trong sách tướng nói:
– Người dị tướng thì có kỳ tài, cũng như trong đá xấu mà có ngọc tốt. Nếu ông coi như vậy thì chẳng là lầm lắm! Tuy tôi xấu tướng mặc lòng, mà tài hay đánh cọp bắt rồng, sức biết trừ yêu trị quái.
Ông già ấy nghe nói, đổi giận làm vui, liền bái mà mời bốn thầy trò vào nhà. Ðem nhiều trái cây đãi trà nước, lại hối dọn cơm chay.
Khi ấy Bát Giới ăn uống rồi, kéo Hành Giả mà hỏi nhỏ rằng:
– Sư huynh, ông này ban đầu không muốn cho tá túc, sao bây giờ hậu đãi mười phần?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Cũng có cớ chi đó, để ta hỏi thử coi thể nào.
Giây phút Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Chẳng hay ông họ chi?
Ông ấy nói:
– Họ Lý.
Tôn Hành Giả nói:
– Như vậy thì xóm này có phải là Lý gia trang chăng?
Ông già nói:
– Không phải, đây là Ðà la trang, xóm này năm trăm nóc gia, có một mình tôi họ Lý.
Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Chẳng hay Lý thí chủ vì chuyện chi mà hậu đãi chúng tôi?
Lý lão đứng dậy bạch rằng:
– Ðây có yêu quái báo đời. Khi nãy nghe thầy nói có tài bắt yêu quái, nên tôi cần giúp việc ấy, sẽ sắm lễ trọng thể tạ ơn.
Tôn Hành Giả nói:
– Xin vưng.
Bát Giới cười rằng:
– Ông ngoại nghe người ta muốn bắt cháu, liền chịu tức thì, không lo họa phước!
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Ta ừ một tiếng cũng như bỏ bạc cọc rồi, khỏi lo đi thỉnh người khác.
Nói rồi ngó Lý lão mà hỏi rằng:
– Xóm này thiên hạ ở đông đầy, sao lại có yêu quái?
Lý lão nói:
– Thiệt chúng tôi ở đây thuở nay bình an vô sự. Hồi tháng sáu năm kia, ai nấy đương đập lúa mì ngoài đồng, xảy đâu trận gió thổi tới, ngỡ là bảo tố, ai nấy kinh sợ. Chẳng ngờ con yêu hiện hình ăn hết trâu bò ngoài ruộng, nuốt sống gà vịt không them nhai, coi bộ chưa no, còn ăn tráng miệng ít người nữa! Năm ngoái cũng tới một lần phá hại như vậy nữa! Thầy ôi! Nếu thầy có tài trừ đặng yêu quái mà cứu xóm này, chúng tôi đều đậu lễ mà tạ ơn, bao nhiêu cũng chịu.
Tôn Hành Giả nói:
– Như vậy thì khó bắt lắm!.
Bát Giới nói:
– Thiệt là khó bắt. Vả lại chúng tôi là sãi đi đường, tá túc một đêm mà lo đi thỉnh kinh, rảnh đâu mà bát yêu quái?
Lý lão nổi giận nói rằng:
– Các thầy là sãi nói gạt kiếm cơm. Ban đầu khoe có tài trừ yêu, nay lại nói khó bắt.
Tôn Hành Giả nói:
– Khó bắt là tại xóm này không đồng lòng.
Lý lão hỏi:
– Sao thầy biết xóm này không đồng lòng?
Tôn Hành Giả nói:
– Yêu tinh phá xóm hai ba năm nay, hại không biết mấy mạng. Nếu một nhà chịu một lượng bạc, thì cũng được năm trăm, rước một thầy đại tài trừ yêu cũng đặng. Sao để vậy mà chịu, cho nó phá xóm, phá làng?
Lý lão đáp rằng:
– Luận chuyện cũ càng thêm mắc cở. Năm ngoái nội xóm tôi, nhà nào cũng xuất bạc năm bảy lượng, qua non nam rước một vị hòa thượng đại tài, đến bắt yêu cũng không đặng.
Tôn Hành Giả nói:
– Lý thí chủ hãy thuật chuyện lại cho rành!
Lý lão nói:
– Ban đầu hòa thượng đánh chuông gõ mõ tụng kinh, giây phút yêu tinh nổi gió bay tới, đánh quờn với hòa thượng một hồi rồi hòa thượng té xuống nằm ngay, yêu tinh bay mất, chúng tôi lại xem thử coi thể nào, rờ đầu hòa thượng mềm xèo như trái dưa hấu nẩu ruột!
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Thật vậy thì các ông đã thất một trận rồi!
Lý lão nói:
– Thất một trận chẳng nói làm chi, chúng tôi lo chôn chất hòa thượng rồi lại chịu bạc tiền cho đệ tử thầy ấy, mà nó lại đi kiện tới quan, đến nay hãy còn nhủn nhẳn!
Tôn Hành Giả hỏi:
– Sau còn rước ai nữa hay chăng?
Lý lão nói:
– Sau có thỉnh một thầy đạo sĩ, tới đánh cồn thỉnh yêu tới, hỗn chiến tối ngày sáng đêm. Ðến rạng đông chúng tôi đi kiếm tới mé khe, vớt thầy đạo sĩ lên như con gà đã luộc!
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Trận thứ nhì cũng thất nữa!
Lý lão nói:
– Tuy đạo sĩ chết, mà chúng tôi tốn của cũng nhiều!
Tôn Hành Giả nói:
– Không hề gì mà sợ, để chúng tôi bắt nó cho.
Lý lão nói:
– Nếu thầy có tài chắc ý như vậy, thì tôi mời các người ở xóm này đến làm tờ giao kèo chắc chắn, nếu bắt đặng thì đòi bạc thưởng bao nhiêu chúng tôi cũng giăng tay chịu đủ nếu rủi thất trận xin đừng thưa kiện chúng tôi?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Chúng tôi không bắt thường nhơn mạng như họ mà sợ, hãy thỉnh người thị chứng cho mau.
Khi ấy Lý lão sai gia tướng đi mời tám chín ông già lối xóm lại.
Mấy ông ấy đến hỏi rằng:
– Ðại sư nào chịu bắt yêu quái?
Tôn Hành Giả chắp tay nói rằng:
– Tôi đây.
Mấy ông ấy trề miệng nói rằng:
– Không xong đâu! Yêu tinh ấy thần thông quảng đại, có lớn dị thường. Hòa Thượng này chắc nhét không đủ kẽ răng nó!
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Tuy tiểu tăng ốm o nhỏ thó mặc lòng, mà thuở nay bắt yêu tinh bất kể kỳ số.
Các ông ấy hỏi:
– Thầy bắt đặng yêu quái thì đòi ăn thưởng bao nhiêu?
Tôn Hành Giả nói:
– Chúng tôi là người tu hành, làm phước chớ không dùng tiền bạc.
Mấy ông ấy nói:
– Lẽ nào chúng tôi dám mượn không? Nếu thầy bắt đặng yêu, thì nội xóm tôi mỗi nhà cúng hai mẫu ruộng, cất chùa cho mấy thầy ở mà tu hành, còn hơn đi thỉnh kinh lao khổ.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Sự ruộng đất lại độc hơn tiền bạc nữa! Làm ruộng không khác gì chăn ngựa. Nuôi trâu cắt cỏ, cày cấy cực thân, lại còn lo đóng thuế rằng khác! Chúng tôi chẳng chịu đâu.
Mấy ông già ấy lấy làm lạ hỏi rằng:
– Không chịu bạc tiền chẳng tham ruộng đất, vậy chớ muốn vật gì?
Tôn Hành Giả nói:
– Chúng tôi là sãi đi đường, nội bữa ăn cũng đủ, chẳng hề chịu tạ ơn.
Các ông ấy mừng rỡ nói rằng:
– Như vậy thì dễ lắm, song chẳng biết làm sao mà trừ yêu.
Tôn Hành Giả nói:
– Nếu nó tới đây thì tôi bắt lập tức.
Mấy ông ấy nói:
– Con yêu ấy cao lớn lắm, miệng nuốt trộng người ta, giả võ đằng vân, thầy làm sao lại gần nó cho đặng.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Việc đằng vân giá võ tôi coi nó như con, còn cao lớn bao nhiêu tôi trị cũng đặng.
Nói vừa dứt tiếng, xảy nghe gió thổi vo vo, tám chín ông già ấy đều run lập cập mà nói rằng:
– Hòa Thượng này miệng ăn mắm ăn muối, nên nói đâu có đó, nói tới yêu tinh thì yêu tinh tới! Vậy thì Lý lão mở cửa buồng cho mau!
Lý lão mở cửa buồng dắt mấy ông già thân thích và Tam Tạng vào trong mà trốn, và đi và nói rằng:
– Chạy cho mau kẻo yêu tinh nuốt sống!
Sa Tăng, Bát Giới nghe nói kinh hãi, cũng muốn chạy theo.
Tôn Hành Giả một tay kéo Sa Tăng, một tay nắm Bát Giới mà nói rằng:
– Hai ngươi thiệt bắt thông lắm, mình là người tu niệm sao dám vô buồng gói của người, hãy đi theo ta, coi yêu quái thể nào cho biết?
Nói rồi kéo ra ngoài nhà cầu ngó lên coi thử, gió càng ngày càng lớn, Bát Giới hoảng hồn nằm sắp dưới đất, lấy mỏ ủi đất mà giấu mình chắc cứng như đinh đóng.
Còn Sa Tăng bị gió thổi bét con mắt, liền lấy áo đội đầu mà che mặt.
Tôn Hành Giả biết là gió yêu, đợi luồng gió thổi qua rồi, ngó lên trên mây, thất như cặp lồng đèn lần lần thòng xuống.
Hành Giả cuối mặt xuống kêu rằng:
– Trời đã lặng gió, hai em chờ dậy mà coi yêu.
Bát Giới trồi lên, hai tay phủi đất, ngước mặt ngó trời liền cười ngất mà nói rằng:
– Ngộ ngộ, nói vậy thì con yêu biết lễ nghi, mình cũng nên làm bạn với nó!
Sa Tăng nói:
– Ðêm tối như vầy sao mà biết nó phải quấy?
Bát Giới nói:
– Lời cổ ngữ rằng: Ði đêm phải có đèn đuốc, bằng không đèn đuốc thì chẳng nên đi. Nay nó đi đêm có lồng đèn, thì chắc là người tử tế.
Sa Tăng nói:
– Anh coi lầm rồi, không phải lồng đèn đâu, ấy là cặp mắt con yêu chiếu sáng.
Bát Giới hoảng kinh rút cổ xuống ba tấc mà nói rằng:
– Châu ôi, con mắt tới bây lớn, thì miệng rộng biết chừng nào!
Tôn Hành Giả nói:
– Hiền đệ đừng sợ, hai đứa bây hãy bảo hộ thầy để Lão Tôn lên hỏi thử, coi nó xưng là con tinh gì!
Tôn Hành Giả hú lên một tiếng nhảy lên trên mây, cầm thiết bãng hét lớn rằng:
– Ðừng đi tới nữa, có ta ở đây.
Con quái nghe nói đứng dừng lại, cầm cây giáo múa hoài, Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Ngươi là yêu quái phương nào?
Con yêu ấy chẳng trả lời, cứ múa giáo mãi.
Tôn Hành Giả hỏi nữa, nó cũng làm thinh, Tôn Hành Giả cười rằng:
– Nói vậy thì người có hai tật, đã điếc lại câm, đố chạy đâu cho khỏi, coi thiết bảng của ta đây.
Tôn Hành Giả nói rồi đập liền. Con quái ấy không sợ, cứ múa giáo đở hoài, cự chiến tại trên mây cho tới canh ba cũng còn đánh.
Khi ấy Bát Giái, Sa Tăng, đứng dưới nhà cầu coi rõ ràng thấy con yêu ấy đỡ hoài, chớ không đánh lại.
Còn Tôn Hành Giả đập đầu nó hoài mà không trúng, Bát Giới cười rằng:
– Sa Tăng, ngươi ở đây mà giữ gìn thầy, đặng lão Trư lên mây trợ chiến, đừng để một mình con khỉ ấy thắng trận, nó uống rượu trước mình.
Nói rồi liền nhảy lên mây, giá đinh ba đạp đại.
Con yêu ấy rút thêm một cây giáo nữa mà cự với Bát Giái, hai tay hai giáo đánh bay, hai người coi không kịp.
Bát Giới khen rằng:
– Chắc là cặp giáo cán mềm?
Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Sao ngươi biết cán mềm?
Bát Giới nói:
– Thấy hai ngọn giáo cự với mình mà chẳng thấy cán, không biết nó giấy cán giáo ở đâu, nếu không mềm, nó thâu sao được?
Tôn Hành Giả nói:
– Phải, có khi cặp giáo cán mềm, song nó chẳng biết nói, chắc là mới hóa hình người, khí âm còn thanh lắm, đánh tới sáng có khí dương chắc nó phải chạy, chúng ta rán sức đuổi theo chẳng nên cho sẩy.
Bát Giới nói:
– Phải.
Anh em đánh tới rạng đông, con quái ấy bại tẩu, hai anh em đuổi theo. Xảy nghe hơ thúi quá chừng. (Ấy là bay ngang đường truông núi Thất tuyệt)
Bát Giới nhăn mặt nói rằng:
– Ai quậy cầu tiêu bất nhơn quá, bay hơi thúi nhức đầu!
Tôn Hành Giả bụm mũi bảo rằng:
– Cứ việc đuổi theo cho kịp nó, hơi đâu hỏi chuyện bao đồng.
Con quái ấy bay qua khỏi núi, hiện nguyên hình là con rắn mãng xà vảy đỏ.
Bát Giới nói:
– Cha chỉ là lớn và dài, nếu con rắn này ăn năm trăm người cũng còn đói!
Tôn Hành Giả nói:
– Cặp nanh nó dài quá, chắc cặp nanh ấy là cặp giáo chẳng sai, mình rượt nó đã đuối rồi, hãy ví mà đập cho đặng.
Bát Giới nghe nói, vác đinh ba xốc lại đập đầu. Con rắn mãng xà chun xuống hang, còn ló đuôi tám thước, Bát Giới buông đinh ba, nắm đuôi rắn mà kéo, kéo hết sức cũng chẳng ra chút nào!
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Ngươi đừng vuốt lươn đàng đuôi, hãy buông đặng nó thụt vô cho rảnh rồi sẽ làm thế khác mới xong.
Bát Giới y lời buông liền, con rắn thụt đuôi vào hang.
Bát Giới làm mặt quạu mà nói rằng:
– Phải chi đừng buông thì mình còn một khúc, nay nó thụt mất, biết chừng nào ló ra!
Tôn Hành Giả nói:
– Nó thì mập và to, miệng hang hẹp, chắc cựa mình không sao đặng, cũng chun ngõ khác, ngươi hãy kiếm miệng hang mà chận đầu, đặng ta thọc chỗ này nếu nó phóng ra thì ngươi đập chết.
Bát Giới y lời, bay qua phía bên kia, quả có miệng hang lớn lắm, Bát Giới đứng chận miệng hang.
Bên này Tôn Hành Giả lấy thiết bãng hóa ra rất dài, lòn theo miệng hang thọc con rắn, mãng xà phóng tới nhảy vọt ra, Bát Giới giựt mình nhảy trái, bị mãng xà quất đuôi đập nhằm Bát Giái, Bát Giới té sắp gần bể đầu; nằm nghiêng rên mãi.
Còn Tôn Hành Giả quơ hoài, biết trong hang trống lổng liền nhảy ngang qua núi mà hối rượt theo.
Bát Giới mắc cở đứng dậy bộ xẻn lẻn, cứ đập bậy cho có chừng!
Tôn Hành Giả chạy đến, xem thấy cười ngất nói rằng:
– Mãng xà chạy rồi ngươi còn đập giống gì đó?
Bát Giới nói túng rằng:
– Lão Trư ở đây đập bụi mà dọa rắn.
Tôn Hành Giả hối bốc theo. Anh em nhảy qua khe, thấy mãng xà nằm khoanh, cất cổ muốn phóng tới.
Bát Giới kinh hãi thối lui, Tôn Hành Giả nhảy tới đập một hèo bị mãng xà nuốt sống, Bát Giới dậm đất, đấm ngực khóc và kể anh.
Tôn Hành Giả ở trong bụng con rắn chống thiết bãng nói rằng:
– Bát Giái, ta chưa chết đâu mà kể, để ta bắt nó làm cái cầu cho ngươi coi!
Nói vừa dứt lời, mãng xà bị chống thiết bãng đau quá nên cong xương sống, coi giống cây cầu lắm, ngặt không ai dám đi!
Tôn Hành Giả nói:
– Ðể ta bắt nó hóa ra chiếc ghe cho ngươi coi.
Nói rồi dộng thiết bảng xuống bụng con rắn, mãng xà đau bụng cong đuôi ển xương sống cất cỗ coi như chiêc thuyền. Bát Giới nói:
– Tuy giống thuyền ngặt không có cột bườm, chạy sao cho đặng!
Tôn Hành Giả nói:
– Ngươi đứng tránh ra, để ta khiến chiêc thuyền này chạy bườm cho mà coi.
Nói rồi lấy thiết bảng thọc lủng lưng rắn, ló lên cao nghêu như cột bườm.
Mảng xà đau quá nhảy vọt tới như chạy bườm, hơn hai mươi dặm mới chịu chết!
Bát Giới rượt theo vác đinh ba đạp đầu mảng xà tan nát, mà còn đập hoài!
Tôn Hành Giả nhảy ra cười rằng:
– Rắn đã chết rồi, còn đập làm chi nữa!
Bát Giới nói:
– Anh ôi, tôi thuở nay có nghề đập rắn chết mà thôi, vả lại lời tục có nói rằng: Giết rắn giết cho hết nọc! Tôi sợ nó sống lại báo thù!
Và nói và cười, đồng nắm đuôi rắn kéo lôi về, mà đi chưa tới.
Nói về Lý lão và mấy ông già nói với Tam Tạng rằng:
– Hai vị lịnh đồ đi một đêm mà không về, e chẳng toàn tánh mạng!
Tam Tạng nói:
– Nhằm chẳng hề chi, để ra coi chừng thử!
Cùng nhau đồng ra ngỏ mong, thấy Hành Giã và Bát Giới nắm đuôi mãng xà vương lôi về, và đi và hè hụi! Ai nấy mừng rỏ, cả xóm đồng kéo ra lạy mà nói rằng:
– Nhờ ơn gia gia trừ yêu, cứu mạng cả xóm.
Lạy rồi cầm thầy trò ở nán năm bảy ngày, song thầy trò đã quyết ý từ giả.
Nội xóm thấy thầy trò không dùng tiền bạc ruộng đất, chẳng biết lấy chi tạ ơn, túng phải dùng cơm khô và trái cây, gánh theo đưa đón.
Ði cách ba mươi dặm tới núi Thất tuyệt, đường truông bày hơi thúi gắt gao! Tam Tạng nhức đầu chịu không nổi! Vả lại thấy đường truông ấy hồng rụng lớp lâu lớp mới, cao đã bằng đầu, không biết làm sao mà đi qua cho đặng!
Bèn hỏi Tôn Hành Giả:
– Tính làm sao?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Khó tính lắm!
Tam Tạng thấy Hành Giả bụm mủi nói như vậy, biết thế khó rồi, động lòng rơi lụy, Lý Lão bạch rằng:
– Xin lão gia đừng lo, chúng tôi đã tính rồi, mới đưa lão gia đến đây, quyết dọn đường khác cho bốn thầy đi, mà đền ơn cứu mạng
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Lý đàn việt nói còn sai lắm! Hồi nào ông nói đường truông này tới tám trăm dặm, các ông không phải là bộ hạ vua Ðại Võ mà phá núi dọn đường bảy tám trăm dặm? Bề nào cũng anh em ta ra sức mới xong; cũng muốn dọn đường truông này, ngặt không cơm nên làm chẳng nổi việc!
Các người ấy đồng nói rằng:
– Lương phạn bao nhiêu chúng tôi chịu cả.
Tôn Hành Giả nói:
– Nếu vậy thì dùng ít giạ gạo trắng, nấu cơm phơi khô hoặc làm bánh bao cũng đặng. Ta sẽ bảo hòa thượng mỏ dài ăn no, rồi hóa làm con heo lớn, ủi đường này cho sạch mà đi.
Bát Giới nói:
– Ðại ca tệ thời thôi, các cha muốn sạch sẽ cho sướng thân, sai tôi làm việc dơ dáy?
Tam Tạng nói:
– Ngộ Năng, nếu ngươi có tài phép thì dọn cái đường này, ta đi tới Tây Phương, tính công ngươi thứ nhứt.
Bát Giới cười rằng:
– Lão Trư biến ba mưới sáu cách, hóa làm lợn lớn lại khó gì? Song biến hình lớn chừng nào, thì bao tử lớn theo chừng nấy, phải ăn no mới đủ sức dọn đường; nếu đói chắc làm không nổi.
Các người ấy đồng nói rằng:
– Chúng tôi quyết đem cơm khô và bánh in, bánh bao, vật thực theo ăn mà dọn đường, mỗi người mỗi gánh. Vậy thì chúng tôi đem ra hết cho thầy dùng; rồi sai người về nấu cơm gánh theo, phòng khi bổ khuyết.
Bát Giới nghe nói mừng rỡ, cởi y phục và nói rằng:
– Xin ai nấy đừng cười, coi Lão Trư lập cái công thúi hoắc!
Nói rồi dùn mình biến ra con heo lớn quá, mình dài một trăm trượng, ai nấy đều kinh!
Tôn Hành Giả bảo đem cơm khô và đồ vật thực đổ đống, mời Bát Giới đỡ lòng.
Bát Giới xốc một hồi mới hết, rồi ra sức ủi đường.
Tam Tạng cởi ngựa theo sau, Tôn Hành Giả theo phò tả hữu, Sa Tăng gánh đồ hành lý theo sau.
Tôn Hành Giả day lại nói rằng:
– Thôi các ông trở về mà nghỉ, như tưởng tình thì sai người đem thêm cơm đặng sư đệ dùng thêm cho mạnh sức.
Mấy người cỡi ngựa chạy về trước hối nấu cơm, rồi bắt lừa chở theo mà không kịp, theo riết tới bữa sau mới thấy dạng, liền cả kêu rằng:
– Các lão gia chậm chậm vậy, đợi chúng tôi dưng cơm.
Tam Tạng mừng rỡ tạ ơn, bảo Bát Giới nghỉ mà ăn cho thêm sức.
Bát Giới ủi hai ngày đã đói, thời may gặp cơm nhiều, ăn một bữa no nê rồi ủi nữa. Thiệt là nhờ Bát Giới ủi tám trăm dặm đường Thất Tuyệt trống trơn, quá khỏi truông mới hườn hình như cũ.
Nói về bốn thầy trò đi khỏi đường ô uế, đà đến chỗ đất bằng.
Không bao lâu đã hết tháng ba, bước qua mùa hạ.
Xảy thất thành trì ngăn trước mặt!
Tam Tạng dừng ngựa hỏi rằng:
– Ðồ đệ ôi! Chẳng biết thành nước chi đó vậy?
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Như vậy thầy không biết chữ hay sao?
Tam Tạng nói:
– Ta tu hành từ bé đến nay, chữ nào lại không biết.
Tôn Hành Giả thưa rằng:
– Trong cờ vàng trên thành, có đề ba chữ: Châu Tử Quốc. Thầy không thấy hay sao?
Tam Tạng nói:
– Ở đây xa quá, ngó thành còn chưa rõ ràng, coi chữ trong cờ sao thấy? Như vậy thì đến nước ấy mà ghi điệp thông quan
Nói rồi giục ngựa đến chợ, thấy thiên hạ rất đông, phong cảnh xinh tốt.
Song mấy người tại chợ, đua nhau mà coi bốn thầy trò.
Tam Tạng dặn các trò cúi mặt mà đi, chẳng nên gây họa.
Bát Giới giấy mỏ, Sa Tăng cúi đầu mà đi.
Tôn Hành Giả ngó tứ tung, làm tề không đặng!
Thiên hạ xem thấy liền cười.
Tôn Hành Giả chen hèn lâu đi mới khỏi chợ.
Ði một hồi đến dinh kia, trên có biểng đề ba chữ rằng: Hội đồng quán. Bốn thầy trò tính vào nhà nghỉ ngơi; đợi phê điệp sẽ đi môn thể.
Bát Giới nghe nói, liền xách đinh ba dọa mấy người coi, hơn hai mươi người ngã lăn, còn bao nhiêu đêu đí hết, bốn thầy trò vào Hội đồng quán nghỉ ngơi.
Trong quán ấy có một ông chánh và một ông phó, đều ở tại đó mà tra xét người lạ mặt. Xảy thấy bốn thầy trò Tam Tạng tới, quan chánh quan phó đồng hỏi rằng:
– Các ông ở đâu, đến có việc chi. Xin cắt nghĩa cho rõ?
Tam Tạng chắp tay thưa rằng:
– Bần tăng ở Ðông độ, vưng chỉ Ðại Ðường hoàng đế đi thỉnh kinh Tây Phương, nay đến đây ghi điệp.
Hai người ấy mừng rỡ hậu đãi mười phần.
Tam Tạng hỏi thăm:
– Bây giờ Bệ Hạ có lâm triều, vào ghi điệp đặng chăng?
Hai người đáp rằng:
– Bệ Hạ tôi vắng lâm triều đã lâu, nay nhằm ngày huỳnh đạo, nên Bệ Hạ lâm triều, vào mà ghi điệp cho kịp, nếu để trễ thì không biết chừng nào mới lâm triều, chắc đợi lâu lắm! Vì bữa nay có nghị đăng bãng mới lâm triều.
Tam Tạng nghe nói, kêu Ngộ Không mà dặn rằng:
– Ngươi hãy coi cơm nước cho sẳn sàng, ta vào ghi điệp, trở ra cơm nước rồi lên đường!
Dặn rồi thay đổi y phục, đến trước ngọ môn; cậy Hoàng môn quan vào tâu lại.
Hoàng môn quan vào tấu.
Vua Châu Tử mừng rỡ phán rằng:
– Trẩm bịnh đã lâu lắm, nên vắng lâm trào, nay đương đăng bảng chiêu y, may có sãi phương xa ra mắt.
Tức thì truyền chỉ cho vào.
Tam Tạng làm lễ rồi Vua Châu Tử đòi lên dựa bên ngai, cho ngồi đàm đạo; lại truyền quan dọn tiệc chay đãi đằng.
Tam Tạng tạ ơn và dưng điệp.
Vua Châu Tử xem rồi mừng rở phán rằng:
– Tại nước Ðại Ðường xưa nay mấy vị thánh đế, mấy bực hiền thần, đến vua Ðại Ðường đau bịnh chi mà thác đi sống lại, đến đổi sai đi thỉnh kinh về làm chay, bởi trong điệp thông quan nói tắt, pháp sư hãy cắt nghĩa cho rành?
Tam Tạng chắp tay tâu rằng:
– Từ xưa Tam hoàng Ngủ đế, là vua thánh sau nối qua Tam đại đại là nhà Hạ, nhà Thương, nhà Châu. Ðến đời Liệt quốc, Tần thĩ Hoàng thâu về một mối. Sau bị nhà Hớn chiếm cứ, sau nửa chia làm ba, gọi là Tam quốc. Sau về nhà Tây Tấn, rồi qua Ðông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần, năm đời trị không bao lâu, nhà Tùy thâu về một mối; bởi nhà Tùy vô đạo, Tùy hoàng đế là con, mà thí cha là Tùy văn đế, nên thiên hạ không phục, dấy loạn bốn phương. Ðường Cao tổ cất binh dẹp loạn ấy, mới đặt hiệu nước là Ðại Ðường. Nay Ðường Cao tổ đã băng, Ðường thế Dân là chúa của tôi, lên ngôi thế vị cho vua cha, lấy đức trị dân, bốn biển bình an cả. Bởi Lảo Long tráo giờ bớt nước, trời sai Ngụy Trưng chém Lão Long mà trị tội, Lảo Long sợ, nên cho Ðường thiên tử thấy chiêm bao, xin vua cứu mạng, chúa tôi lòng nhơn hiền chịu cản Ngụy Trưng, đến thức dậy giựt mình vì hứa lở việc lớn. Rạng ngày chúa tôi lâm triều, truyền dọn yến đãi quần hầu, cố ý cầm Ngụy Trưng cho quá giờ ngọ, nên bây giờ cờ đánh với Ngụy Trưng. Tới giờ Ngọ, Ngụy Trưng làm như hình ngũ gụt, chiêm bao xuất hồn chém Lão Long quăng đầu trước sân chầu.
Vua Châu Tử nghe nói tới đó, liền phán hỏi rằng:
– Chẳng hay ông Ngụy Trưng là người ở nước nào đến đó?
Tam Tạng tâu rằng:
– Ngụy Trưng là thừa tướng Ðại Ðường, trên biết thiên văn, dưới thông địa lý, một vị tôi hiền Ðại Ðường. Bởi Ngụy Trưng xuất hồn chém Lão Long sông Kinh, nên hồn Lão Long kiện tới Âm phủ rằng: Chúa tôi hứa cứu khỏi, mà để cho Thừa tướng giết mình. Bởi cớ ấy nên chúa tôi bịnh ngặt, Thừa Tướng Ngụy Trưng thấy vậy viết thơ giao cho chúa tôi, dặn chừng nào hồn xuống Âm phủ, sẽ đưa thơ ấy cho Phán quan là Thôi Giác là người bằng hữu của Ngụy Trưng sẽ hết lòng bảo hộ Thiệt quả như vậy, chúa tôi băng ba rồi ngày sống lại, nay tính làm chay, mới sai tôi qua Tây Phương thỉnh kinh về làm siêu độ.
Vua Châu Tử than rằng:
– Thiệt là đại quốc, vua thánh, tôi hiền. Còn quả nhơn bịnh hoạn đã lâu, chẳng thấy quần thần cứu giúp!
Tam Tạng nghe nói liếc xem, thấy vua Châu Tử ốm o vàng vỏ, suy yếu quá chừng!
Tam Tạng muốn tâu, xẩy thấy quan đến mời ngồi cổ.
Vua Châu Tử truyền dọn đồ ăn chung một mâm với Tam Tạng.
Tam Tạng tạ ơn, rồi dự tiệc chay với Châu Tử.
Nói về Tôn Hành Giả ở trong quán Hội đồng hối Sa Tăng dọn cơm nước.
Sa Tăng nói:
– Cơm nước thì dễ nấu, ngặt thiếu đồ nêm rau cải, vì dầu, muối, tương, giấm đều không có.
Tôn Hành Giả nói:
– Ta còn ít đồng tiền đây sai Bát Giới đi chợ mua đồ ăn cũng đặng.
Bát Giới làm biếng kiếm miếng nói rằng:
– Tôi không dám đi chợ đâu, vì tướng mạo thô tục quá chừng, sợ ra đường gây họa.
Tôn Hành Giả nói:
– Chuyên mua bán thì lấy lể công bình, làm sao đến nỗi mắc họa?
Bát Giới nói:
– Vậy chớ anh không thấy tôi vác mỏ lên một cái mà mười mấy người té ngửa hay sao? Nếu ra giữa chợ đông, chắc nhiều người ngã lăn chi cho khỏi bị chúng bắt?
Tôn Hành Giả hỏi:
– Ngươi biết chợ đông đảo mà có thấy bán vật gì chăng?
Bát Giới nói:
– Thầy dặn tôi cúi đầu xuống mà đi, đừng có vác mặt lên mà gây họa. Bởi cớ ấy nên tôi không thấy bán vật gì.
Tôn Hành Giả nói:
– Ở nbgoài chợi thì bán hàng xén, quán cơm, quán rượu chẳng nói làm chi, những quán nước, đồ ăn điểm tâm, bánh in, bánh bao, các thứ trái cây, các món thanh bông, rau, cải, cà, mướp, đường, mật, đậu, mè, bất kể kỳ số, để ta mua về đải người một bửa.
Bát Giới nghe nói nhiểu nước miếng, đứng dậy nói rằng:
– Chuyến này anh đải tôi, khi sau tôi đải lại?
Tôn Hành Giả cười thầm, nói rằng:
– Sa Tăng, ngươi hãy nấu cơm canh, để ta đi mua đồ nêm với Bát Giái.
Bát Giới nghe nói, bưng tô chén đi theo.
Tôn Hành Giả hỏi thăm quân lýnh, tiệm bán đồ gia vị ở đâu?
Lính nói:
– Ði theo đường này qua gần chợ, quẹo lại tiệm lầu họ Trịnh, tiệm ấy bán hàng xén đủ thứ: Dầu, tương, muối, giấm, gừng, tiêu, trà, quả, thiếu gì.
Tôn Hành Giả đi ngang mấy quán nhỏ, không chịu ghé, quyết dắt Bát Giới đi tới tiệm lớn đặng cho thiên hạ coi chơi.
Khi đi gần tới tiệm lầu họ Trịnh, thấy thiên hạ đứng vủ rất đông!
Bát Giới nói:
– Anh ôi! Tôi không dám đi nữa, không biết họ tụ hội mà làm chi đông quá, có khi đi bắt thầy chùa!
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Ðừng có nói xàm! Mình có tội gì mà sợ chúng bắt? Hãy đến tiệm họ Trịnh mà mua đồ.
Bát Giới nói:
– Thôi thôi, đám ấy rất đông, nếu họ thấy mặt tôi chắc là họ ngả lăn chết giấc ít người, chi cho khỏi bắt thường nhơn mạng!
Tôn Hành Giả nói:
– Vậy thì ngươi đứng dựa vách tường mà đợ, ta mua đồ gia vị, và sỉ một mớ bánh in về đải ngươi một bửa.
Bát Giới gặc đầu, đưa tô chén cho Hành Giả.
Tôn Hành Giả chen vào đám đông ấy, thấy thiên hạ đương chen nhau mà coi tấm bãng; trên tấm bãng viết như vầy:
Vua Châu Tử treo lời hiểu dụ rằng: Từ năm cai trị, thiên hạ bình an. Bởi có điềm chẳng lành, trẩm phát bịnh dử. Thái y viện trị đến nay chẳng giảm. Vậy trẩm xuất bảng chiêu y; bất kỳ thầy thuốc nước nào trị bịnh trẩm đặng, thì trẩm chia hai xả tắc mà đền ơn.
Tôn Hành Giả xem bảng rồi mừng rở nói thầm rằng:
– Người xưa nói: Có đi ra khỏi nhà, mới kiếm đặng tiền bạc. Nếu làm biếng, ngồi trơ trơ trong quán; thì có lợi gì? Thôi bây giờ chẳng mua đồ nêm đồ nấu làm chi, cũng chịu trễ việc thỉnh kinh một bửa đặng ra nghề làm thuốc lấy danh.
Nghĩ rồi, cúi lưng xuống hốt một bụm cát, hả miệng hợp một hơi bên hướng Ðông Nam thổi vào bụm cát hóa ra gió con trốt thổi qua; mấy người coi bảng đều nhắm mắt chạy tản.
Tôn Hành Giả tàng hình, gỡ tấm giấy trong bảng, đi lại chổ Bát Giái, thấy Bát Giới dựa mỏ vào vách tường ngủ gục.
Tôn Hành Giả không thèm kêu dậy, liền xấp tư tấm giấy hoàng bảng, sẻ lén giắt vào túi áo Bát Giái, rồ tuốt về quán Hội đồng.
Còn mười hai quan hoạn, và mười hai tên Hiệu húy đồng đứng giữ hoàng bảng, xảy bị trận con trốt, ai nấy đều nhắm mắt che đầu, vì sợ cát bay vô con mắt.
Ðến khi lặn gió, hai mươi bốn người ấy phải giụi và mở mắt ra, không thấy hoàng bảng, hải kinh đi kiếm với nhau.
Xảy thấy Bát Giới ngó giáo giác, rồi muốn đi, hai mươi bốn người ấy đồng bước lại hỏi rằng:
– Nhà ngươi gở bảng phải chăng?
Bát Giới nghe nói vác mặt nghinh mỏ lên, mấy người nhác hết hồn, té xuống đùn cục.
Còn mấy người Hiệu húy dạn, ngó thấy trong túi áo Bát Giới ló lên một góc giấy hoàng bảng, mấy người ấy níu mà nói rằng:
– Ngươi gở hoàng bảng, sao không vào trị bịnh cho Bệ Hạ, còn muốn đi đâu?
Bát Giới sớn sát nói rằng:
– Khéo nói bá láp không, ai gở bảng ấy là con cháu các ngươi.
Hiệu húy hỏi:
– Vậy chớ giống gì trong túi áo ngươi đó?
Bát Giới cúi đầu xuống ngó thấy tờ giấy xếp giắt trong túi mình, liền dở ra coi ró. Rồi nghiến răng mắng rằng:
– Con khỉ đột nó quyết hại tôi!
Nói rồi muốn xé bảng, các Hiệu húy nắm tay nói rằng:
– Ngươi muốn chết hay sao? Dám cả gan muốn xé bảng hoàng đế, ngươi có tài năng mới gở bảng giắt vào túi mình, thì đi theo chúng ta, vào đền làm thuốc cho Bệ hạ.
Bát Giới kêu lớn rằng:
– Các ngươi không biết cội rể, phải tôi gở bảng này đâu, thiệt sư huynh tôi là Tôn Ngộ Không gở bảng ấy, lén giắt vào túi áo tôi, rồi bỏ đi mất, nếu muốn rõ việc ấy, thì đi theo tôi cho giáp mặt Ngộ Không.
Các Hiệu húy đáp rằng:
– Nói cái gì lạ vậy, sẳn chuông tại đây không đánh, đi kiếm chuông đương đúc làm chi, người gở haòng bảng còn bảo chúng ta đi kiếm ai, chẳng nói với người làm chi, để kéo vào ra mắt Hoàng đế.
Nói rồi áp lại kéo, Bát Giới đứng sững như trời trồng, mười mấy người kéo không nổi.
Bát Giới nói:
– Các ngươi không biết phải quấy, nếu kéo một hồi nữa, chọc tôi nổi xung thì đừng có trách đa!
Khi ấy hai bên phố ngó thấy vậy, đều rủ ra coi.
Hai ông Thái giám lớn tuổi thấy vậy hỏi rằng:
– Người ở đâu đến đây, tiếng nói không phải người nước này, mà dị hình như vậy?
Bát Giới nói:
– Chúng ta ở Ðông Ðộ đi qua Tây Phương thỉnh kinh, thầy ta là Ngự đệ nước Ðại Ðường đã vào đền ghi điệp. Còn ta với sư huynh đi mua đồ gia vị, ta đứng đây mà đợi, chẳng ngờ sư huynh gở bảng lén giắt vào túi rồi bỏ đi mất.
Hai ông thái giám già nói rằng:
– Phải đó, hồi ban mai tôi thấy một ông Hòa Thượng trắng trẻo, phì mĩ tốt người, đi vào ngọ môn, có khi thầy ngươi đó.
Bát Giới nói:
– Phải đó, phải đó.
Hai thái giám già hỏi:
– Sư huynh ngươi đi đâu rồi?
Bát Giới nói:
– Bốn thầy trò tôi đều nghỉ tại quán Hội đồng. Sư huynh khuấy tôi, chắc cũng trở về quán ấy.
Hai thái giám già nói:
– Thôi Hiệu húy đừng níu kéo làm chi, hãy theo vào quán Hội đồng thì ra mối.
Bát Giới khen rằng:
– Thiệt hai bà nói thông lắm!
Các Hiệu húy nói:
– Hòa Thượng này bất thông quá, sao kêu hai ông bằng hai bà!
Bát Giới cười rằng:
– Các ông nói ngược ngạo quá, tại hai vị bán nam bán nữ, kêu bằng bà lại lỗi gì, già không có một sợi râu, kêu băng ông sao phải!
Nói rồi đồng đi tới cửa quán. Bát Giới đứng dừng lại nói rằng:
– Các ông khoan đi đã, để tôi nói trước cho mà nghe. Sư huynh chẳng phải vui vẻ như tôi mà diểu cợt đặng, bở tanh người hay làm thái, và nóng nảy khác thường, nếu các ông thấy mặt thì phải làm lễ, mà kêu bằng Tôn lão gia mới đặng, nếu không như vậy, thi sư huynh trở mặt hơi bứt, không them chữa bịnh đâu.
Các Thái giám và các Hiệu húy đồng nói rằng:
– Nếu sư huynh ngươi đại tài trị đặng bịnh chúa ta, thì vua chia hai giang san cho, chúng ta cũng đáng lạy.
Lúc ấy thiên hạ rủ nhau coi đông lắm.
Bát Giới dắt các Thái giám, Hiệu húy vào quán.
Nghe Tôn Hành Giả đượng thuật chuyện lảnh bảng cho Sa Tăng nghe. Vừa nói vừa cười ngất!
Bát Giới chạy vô trước níu Hành Giả mà nói rằng:
– Anh thiệt không ra cái gì hết! Nói gạt rằng đi mua bánh cho tôi ăn, té ra ăn trợt; lại gở hoàng bảng lén đút vào túi tôi, báo hại chúng dằn quay hòng chết, anh em gì vậy nà?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Chắc là ngươi đi lạc đường đó nên ta mua đồ ăn, trở lại kiếm ngươi không đặng mới về trước nảy giờ, nào ai biết hoàng bảng đâu mà nói vu vạ!
Bát Giới nói:
– Có chứng các quan giữ bảng kia cà!
Nói vừa dứt tiếng, các Thái giám, Hiệu húy đồng bước vào làm lễ thưa rằng:
– Kính mừng Tôn lão gia, bở chua tôi có phước, trời khiến lão gia xuống đây, xin trổ tại trị bịnh chua tôi, mà chia hai xã tắc.
Tôn Hành Giả nghe nói, liền lấy bảng văn cầm trong tay, làm cách nghiêm nghị đáp rằng:
– Các ngươi là quan giữ bảng phải không?
Các thái giám thưa rằng:
– Chúng tôi là Thái giám nội thần, còn các người kia là Cẩm y Hiệu húy, vưng chỉ giữ hoàng bảng mà đợi lương y.
Tôn Hành Giả nói:
– Thiệt ta gở bảng chiêu y, nêu để cho sư đệ dẫn đường vào quán. Song lời tục có nói: “Thuốc hay chẳng nài ai mà bán, thầy hay há nghe bịnh mà tìm”, bịnh phải rước thầy, thầy không kiếm bịnh, các ngươi về tâu lại, nếu vua muốn lành bịnh thì phải đến rước ta.
– Quả thiệt thầy đại tài, mới dám nói lớn lối! Như vậy thì chúng ta ở đây phân nữa mà năn nỉ với thầy, còn bao nhiêu trở về tâu lại.
Khi ấy Thái giám, hiệu húy chia nhau về đền tâu rằng:
– Chúa công phước lớn bằng trời, nên gặp sự may lắm!
Vua Châu Tử đương ngồi đạm đạo với Tam Tạng, nghe tấu liền phán hỏi rằng:
– Chuyện chi mà may như vậy?
Các Thái giám tâu rằng:
– Hồi sớm mai chúng tôi đem hoàng bảng dán tại tiệm lầu. Có thánh tăng Tôn trưởng lão ở Ðông Ðộ đi đến gở bảng, bây giờ còn ở tại quán Hội đồng, bảo Bệ Hạ phải đến rước, thì trị bịnh mạnh như thường, nên chúng tôi trở về tâu lại.
Vua Châu Tử mừng rở phán hỏi Tam Tạng rằng:
– Pháp sư có mấy vị đệ tử?
Tam Tạng chấp tay tâu rằng:
– Bần tăng có ba đứa học trò.
Vua Châu Tử phán hỏi rằng:
– Ba vị lịnh đồ, ông nào biết làm thuốc?
Tam Tạng tâu rằng:
– Chẳng dám giấy bệ hạ, ba đứa học trò tôi là kẻ vỏ phu, có tài lặn suối trèo non, đánh yêu bắt quỷ ma thôi; chảng hề biết thang danh tánh được.
Vua Châu Tử phán rằng:
– Xin pháp sư đừng nói khiêm, Trẩm có đoan có phước mới gặp pháp sư, nếu lịnh đồ không biết đạo y, lẽ nào dám lãnh bãng; lại bão quã nhơn đi rước thì trị bịnh mới lành!
Nói rồi phán rằng:
– Trẩm bịnh lâu yếu đuối lắm, ngồi xe không đặng mà rước thầy. Vậy thì bá quan văn võ thay mặt trẩm, đến quán Hội đồng làm lễ, rước thần tăng Tôn trưởng lão về đây coi mạch dần thang cho trẩm!
Bá quan vưng chỉ đồng đến quán Hội đồng quy lai đủ lễ. Bát Giái, Sa Tăng kinh hãi đồng trốn sau nhà trú. Còn Hành Giã ngồi chim bỉm.
Khi ấy bá quan làm lễ rồi thưa rằng:
– Chúng tôi vưng chỉ hoàng đế rước thần tăng Tôn trưởng lão vào đền.
Tôn Hành Giả đứng dậy bước ra hỏi rằng:
– Sao chúa ngươi không đi rước?
Bá quan tâu rằng:
– Chúa tôi bịnh đã lâu, ngồi xe không đặng, nên sai chúng tôi thay mặt mà rước thần tăng.
Tôn Hành Giả nói:
– Vậy thì các ngươi về trước, ta sẽ theo sau.
Các quan vưng lời về tâu lại.
Vua Châu Tử truyền cuốn rèm châu, ngó ra phán hỏi rằng:
– Thần tăng Tông trưởng lão là ông nào
Tôn Hành Giả bước tới hét lớn rằng:
– Lão Tôn đây.
Vua Châu Tử thấy tướng tợ Thiên Lôi, nghe tiếng như sấm sét, kinh hãi té ngửa trên giường rồng, kêu lớn rằng:
– Nội thị đem trẩm vào cung cho mau, kẻo giựt mình mà chết gấp.
Bá quan trách rằng:
– Hòa thường này lỗ mảng quá, sao lảnh bảng làm chi?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Các ông nói lầm đó, nếu mấy thầy chậm lụt, thì bịnh Bệ Hạ một ngàn năm cũng không lành.
Bá quan hỏi rằng:
– Người đời mấy trăm tuổi mà bịnh tới một ngàn năm không lành, thầy nói khó nghe quá!
Tôn Hành Giả nói:
– Bệ Hạ bây giờ là ông vua bịnh, đến chết thành con ma bịnh, đầu thai kiếp khác cũng là người bịnh, luôn luôn như vậy, sao không tới một ngàn năm?
Bá quan nổi giận nói rằng:
– Hòa Thượng này ăn nói vô lễ lắm, hèn chi mới vô dọa hoàng đế hải kinh!
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Các ông không biết làm thuốc nên nói ngang, chớ phép đạo y phải hỏi bịnh, mà nghe tiếng người bịnh nói hơi hám ra thể nào, thì trị mới đặng, nếu không nghe đặng thiệt tiếng, thì biết làm sao mà dám đầu thang!
Các quan thái y khen rằng:
– Ông sãi này thiệt là Thần y, nói phải điệu lắm.
Các quan vào tâu lại rằng:
– Thần y nói phải vọng văn vấn thiết đủ bốn cách theo phép, thì trị bịnh mới đặng.
Vua Châu Tử truyền chỉ rằng:
– Thôi đưa hòa thượng ấy đi về, trẫm không dám thấy mặt người lạ đâu, coi mạch không đặng.
Bá quan thuật chuyện lại.
Tôn Hành Giả nói:
– Nếu không chịu thấy mặt ta, thì ta cột dây tơ chẫn mạch.
Các thái y viên khen rằng:
– Thuở nay nghe tiếng cột tơ chẩn mạch song chưa thấy thầy nào coi đặng như vậy, để xem thử cách thế ra thể nào.
Liền bão nội thị vào tâu lại rằng:
– Tôn trưởng lảo nói có tài cột chỉ chẩn mạch, không ngồi gần thấy mặt mà giựt mình.
Vua Châu Tử nghỉ rằng:
– Bịnh đã ba năm không gặp thầy nào đại tài như vậy; để thử coi thể nào.
Liền cho đòi Tôn trưởng lão vào cung, đặng cột chỉ chẩn mạch.
Tôn Hành Giả mới đi ngang qua đền gặp Tam Tạng.
Tam Tạng đón lại mắng rằng:
– Con khỉ này nó quyết hại tôi!
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Thầy nói lạ lùng quá! Tôi làm cho thầy thêm danh tiếng sao gọi là hại thầy?
Tam Tạng nạt rằng:
– Người theo ta mấy năm nay, chẳng thấy trị bịnh cho ai hết thảy, không biết thang danh tánh dược, sao cả gan trị bịnh Hoàng đế mà hại ta?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Bởi thầy không rõ, tôi có nhiều phương thuốc như thần, trị bịnh gì mà không hết. Ví dầu có chết, thì tôi bị tội sát nhơn, không ai bắt thầy mà sợ. Ðể coi tôi trị bịnh lấy danh.
Tam Tạng nói:
– Ngươi có học sách thuốc của tiên hay sao, cả gan dám cột chỉ mà chẩn mạch?
Tôn Hành Giả lén nhổ ba sợi lông hóa ra ba sợi kim tuyết dài hơn hai mươi bốn thước, đưa ra mà nói rằng:
– Ba sợi kim tuyến nghề của tôi đây, thầy coi cho rõ.
Nói rồi đi với quan cận thị vào cung.
Khi ấy Tôn Hành Giả đến ngoài cửa cung, lấy ba sợi kim tuyến đưa cho quan hoạn, dặn đem vào buộc cườm tay tả của vua, bắt ngoài buộc vô; một sợi ngay bộ thốn, một sợi ngay bộ quan, một sợi trong ngay bộ xích, rồi trao ba mối chỉ ra ngoài.
Tôn Hành Giả để ba mối kim tuyến trên ba ngón tay tả, lấy ba ngón tay hữu đè lên ba mối kim tuyến mà coi mạch.
Giây phút bão nội thị mở kim tuyến buộc qua tay hữu rồi cũng coi như vậy. Ðoạn chẩn mạch rồi dùn mình thâu lông, ba sợi kim tuyến biến mất.
Rồi nói lớn rằng:
– Sáu bộ mạch Bệ Hạ đi khác nhau, tôi đoan chắc Bệ Hạ bịnh đau bụng và hay giựt mình hồi hộp, lại đổ mồ hôi, và tê mình; đi tiểu như nước trà, lại chứng trường phong hạ huyết, nguyên bởi ăn đồ không tiêu, lại thêm ưu phiền hãi kinh mà sanh bịnh, ấy gọi là chứng song điểu thất quần.
– Khi nãy thần tăng coi mạch nói Bệ Hạ đau chứng song điểu thất quần, nghĩa làm sao vậy?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Chứng ấy như con chim trống và con chim mái ở chung một chổ, rủi bị bão tố, hai con lạc hai nơi, trông không thấy mái thì buồn hiu, mái không thấy trống cũng cú rủ, ấy là bịnh phiền não, như con chim lạc bầy.
Bá quan đồng khen rằng:
– Thiệt hay lắm! Chẳng những là thầy thần, thiệt đáng kêu bằng sãi thánh!
Khi ấy có quan Thái y hỏi rằng:
– Thần tăng đoán bịnh nhận chứng nhằm rồi, bây giờ hốt tháng chi mà điều trị?
Tôn Hành Giả nói:
– Không biết thang chi, thấy vị nào muốn hốt thì hốt.
Thái y nói:
– Thuốc có tám trăm tám vị, người có bốn trăm bốn chứng. Người đau một bịnh cùng hai, lẽ đâu thấy vị nào thì dùng vị nấy?
Tôn Hành Giả nói:
– Thuốc chẳng luận thang bài, coi vị nào đáng dùng thì hốt. Vậy thì Thái y đem đủ mặt thuốc cho ta lựa vị mà gia giãm.
Thái y không dám cãi, liền sai quân khiêng tám trăm vị thuốc và đồ chế thuốc ra quán Hội đồng.
Tôn Hành Giả mời thầy ra quan chế thuốc.
Tam Tạng mới đứng dậy, xãy thấy quan nội thị vào truyền chỉ rằng:
– Xin thần tăng để pháp sư ngủ trong đền này một đêm, đợi Bệ Hạ uống thuốc mạnh rồi sẽ tạ ơn, và ghi điệp cho pháp sư, sắm se loan hộ tống.
Tam Tạng kinh hãi nói rằng:
– Ðồ đệ ôi, chắc là ta ở cầm chưn đó, như mạnh thì tử tế, xe kiệu đua đi, nếu không khá thì ta chẳng còn tánh mạng. Ngươi phải xem xét cho kỹ càng.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Sư phụ đừng lo làm chi, hãy ngủ cho khỏe, để làm lấy tiếng cho mà coi!
Nói rồi từ giã Tam Tạng đi về quán Hội đồng.
Bát Giới nghinh tiếp cười mà nói rằng:
– Sư huynh, tôi biết anh rồi; không dốc lòng đi thỉnh kinh, quyết buôn bán mà không vốn? Nay thấy chốn này đông đảo, coi bộ dể mần ăn nên kiếm cớ mà khiu tiệm thuốc.
Tôn Hành Giả nói:
– Trị bịnh vua mạnh, thì lo đi thỉnh kinh; ai tính khui tiệm bán thuốc?
Bát Giới nói:
– Tám trăm tám vị, anh hốt hết bao nhiêu? Còn thuốc vặt cũng bằng hai tiệm.
Tôn Hành Giả nói:
– Ai hốt cho hết bấy nhiêu thuốc, bất quá dùng ít vị mà thôi. Song gạt thái y đem đủ mặt thuốc đặng chúng nó không biết mình dùng vị nào, là cố ý giấu bài thuốc kẻo chúng biết.
Xảy thấy quan mời ăn cơm, ba anh em ăn uống xong rồi thì trời đã tối.
Tôn Hành Giả sai quân đem ít cây đèn sáp.
Ðến nửa đêm thiên hạ ngủ hết, Bát Giới nói:
– Ðại ca chế thuốc chi thì làm phức đi cho rồi, tôi buồn nghủ lắm!
Tôn Hành Giả nói:
– Ngươi lấy một lượng đại hoàng đem đâm cho thiệt nhỏ.
Sa Tăng nói:
– Vị đại hoàng là thuốc hàn lương, uống vào thì tả; e bịnh đau lâu yếu lắm, chẳng khá nên dùng?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Vị ấy phá đàm xổ độc, không hề gì đâu.
Nói rồi bảo Sa Tăng lấy một lượng bả đậu lột vỏ rồi lấy khăn gói lại, dầm cho rút hết dầu, rồi cũng đâm ra rây cho nhỏ.
Bát Giới nói:
– Bả đậu tánh nóng có dầu, xổ mạnh bằng mười đại hoàng; chắc không nên dùng.
Tôn Hành Giả nói:
– Hiền đệ chưa rõ, chớ vị ấy lấy dầu hết thì bớt độc, phải dùng nó mà xổ mới hạ ra vật tích lâu năm, hãy chế cho mau ta còn dùng tá sứ nữa.
Giây phút Sa Tăng, Bát Giới đem hai vị lại hỏi rằng:
– Sư huynh còn chế chừng mấy vị nữa?
Tôn Hành Giả nói:
– Ðủ rồi, đủ rồi.
Bát Giới nói:
– Làm thầy thuốc như anh mang tội bằng mười ăn cướp, vì tám trăm tám vị, mỗi vị ba cân, mà anh dùng cho chủ uống có hai lượng thuốc ỉa!
Bát Giới y lời cạo lọ nghẹ đem lại tán nhỏ rồi rây, Tôn Hành Giả đưa chén, bảo Bát Giới rằng:
– Ngươi đem chén này tại chỗ tàu ngựa mình, hứng nửa chén mã niếu.
Bát Giới hỏi:
– Hứng vật ấy làm chi?
Tôn Hành Giả nói:
– Dùng nó mà hồ thuốc.
Sa Tăng cười rằng:
– Anh ôi, tôi thuở nay chưa từng thấy ai hồ thuốc bằng nước đái ngựa, giống nó tanh hôi lắm, người yếu lì vị nghe hơi thì buồn mữa, lại uống bả đậu đại hoàng thì trên ẩu dưới tả, không phải dễ đâu!
Tôn Hành Giả nói:
– Ngươi không biết hay sao, con ngựa này không phải ngựa thường, vốn thiệt là rồng bạch, nếu uống nước đái nó chắc mạnh khỏe tức thời.
Bát Giới nghe nói, xách chén hứng cả buổi không đặng chút nào. Liền chạy lại nói với Hành Giả rằng:
– Anh ôi, khoan lo trị bịnh quốc vương, để cho thuốc con ngựa đã, vì nó bí đái rồi!
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Ðể ta xem thử.
Nói rồi lại hứng đặng nửa chén, coi tợ như nước vàng mới chảy ra.
Bát Giới khen rằng:
– Chà! Thứ vậy mà cũng quý.
Khi ấy Tôn Hành Giả hiệp thuốc, vô đặng ba hườn, đựng trong cái hộp nhỏ, rồi anh em đi ngủ với nhau.
Rạng ngày vua Châu Tử rán lâm triều, mời Tam Tạng ra mắt, rồi sai quan đến Hội đồng lấy thuốc.
Tôn Hành Giả bảo Bát Giới đưa cái hộp cho các quan.
Các quan hỏi:
– Thuốc ấy tên chi?
Tôn Hành Giả nói:
– Thuốc ấy là ô kim đơn.
Các quan hỏi rằng:
– Sắc nước chi mà uống với nó?
Tôn Hành Giả nói:
– Thuốc này có hai cách dùng, uống thứ nào cũng được. Thứ nhứt sau vật này sắc lấy nước mà uống với nó.
Bá quan hỏi:
– Chẳng hay sáu vật chi?
Tôn Hành Giả nói:
1. Cức con quạ đương bay.
2. Nước đái cá chài.
3. Phấn dồi mặt của bà Tây vương mẫu.
4. Tro trong lò Bát quái ông Lão quân.
5. Khăn củ của Ngọc hoàng xé ba miếng.
6. Dùng năm sợi râu rồng.
Sáu vật ấy sắc lấy nước mà uống với thuốc này thì mạnh.
Các quan lắc đầu than rằng:
– Sáu món ấy nhơn gian không có, biết đâu mà tìm! Xin ông nói cách nào cho dể kiếm.
Tôn Hành Giả nói:
– Uống với vô căn thủy.
Các quan cười rằng:
-Cái đó dễ kiếm.
Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Làm sao mà dễ dử vậy?
các quan nói:
– Tục lệ thuở nay cầm chén xuống giếng hoặc xuống sông, múc nước đừng cho nhỏ xuống đất rồi xếp mặt trở về, chẳng nên ngó lại, đem nước cho người bịnh uống, gọi là nước vô căn.
Tôn Hành Giả nói:
– Nước dưới sông trong tiếng, đều có căn gốc luôn luôn, trừ ra hứng nước mưa nửa chừng mới thiệt là vô căn thủy.
Các quan nói:
– Như vậy cũng dễ, đợi trời mưa sẽ hứng nước uống thuốc.
Nói rồi từ giả đem thuốc về dưng.
Vua Châu Tử xem thuốc, mừng rở phán hỏi rằng:
– Thuốc này hiệu là chi?
Các quan tâu rằng:
– Thần tăng gọi là ô kim đơn, dùng nước vô căn mà uống.
Vua Châu Tử truyền cung nhơn múc nước.
Bá quan tâu rằng:
– Thần tăng nói vô căn thủy không phải nước giếng nước sông. Ðợi trời mưa hứng nước thinh không mà uống mới đặng.
Vua Châu Tử truyền đạo sĩ đảo vỏ, các quan vưng chỉ vội vã lui ra.
Khi ấy Tôn Hành Giả ở trong quán, nói với Bát Giới rằng:
– Trời lúc này không mưa, lấy chi cho vua uống thuốc? Thấy Vua ở đại hiền đức thiệt cũng khá thương. Vậy thì ta với ngươi giùm một đám mưa cho có nước!
Bát Giới hỏi:
– Bây giờ mới giúp làm sao?
Tôn Hành Giả bảo Bát Giái, Sa Tăng đứng hai bên, làm hai vị sao Tã phụ, Hửu bậc.
Tôn Hành Giả làm phép niệm chú, giây phút phía Ðông nỗi một vừng mây đen bay tới, nghe tiếng kêu thinh không rằng:
– Ðại Thánh, có Ðông hãi long vương Ngao Quãng ra mắt.
Tôn Hành Giả nói:
– Nếu vô sự chẳng dám thỉnh người, nay xin mưa một đám lấy nước vô căn cho vua uống thuốc.
Long vương nói:
– Ðại Thánh không nói trước cho tôi hay, tiểu long đi mình không, biết mưa làm sao cho đặng?
Tôn Hành Giả nói:
– Chẳng cần mưa lớn làm chi, miễn có nước đủ uống ba hườn thuốc.
Long vương nói:
– Như vậy thì để cho tôi phun vài búng nước miếng cho người uống thuốc mà thôi.
Tôn Hành Giả mừng rở nói rằng:
– Ðặng như vậy càng hay lắm! Hãy giúp sức cho mau?
Long vương bay đến thành vua phun nước miếng hóa đám mưa nhỏ.
Bá quan mừng rở khen rằng:
– Bệ Hạ có phước lắm, nên gặp trời mưa.
Vua Châu Tử mừng quá, truyền chỉ đồng hứng nước cho đông, hiệp lại cho đủ uống.
Bá quan và các con mái, mối người bưng hai cái chén, đưa lên trời đồng hứng nước mưa.
Long vương cứ mưa ngay hoàng cung, gần một giờ mới tạnh, rồi lui về biển Ðông.
Khi ấy bá quan và các cung nhân hứng đặng mỗi người một ít, trút chung lại hơn ba chén nước mưa; đem dưng cho vua uống thuốc.
Vua Châu Tử uống một hườn thuốc hết một chén nước, uống ba hườn hết ba chén, không bao lâu thắm thuốc, sôi bụng rầm rầm!
Xổ hơn năm lần mới hết.
Cung nhơn đem cháo cho vua ăn, rót nước trà thơm cho vua uống; rồi để nằm dựa giường rộng.
Cung nhơn xách thùng phẩn ra xem, thấy đàm nhớt nhiều lắm, hôi hám khác thường, lại đồ nếp đặc và lợn cợn.
Cung nga vào tâu lại như vậy.
Vua Châu Tử nghe tâu mừng rở, rán rút ăn cơm.
Giây phút mình mẩy nhẹ nhàng, tình thần mạnh mẻ, đội mão mặc áo đi đến điện Văn huê, liền quỳ lạy Tam Tạng.
Tam Tạng kinh hãi đáp lễ, vua Châu Tử viết thiệp thỉnh thần tăng, Sa Tăng và Bát Giái, Tức thì truyền dọn tiệc chay, vua Châu Tử mời bốn thầy trò ngồi tiệc.
Lại rót rượu đưa cho Tam Tạng. Tam Tạng chắp chay tau rằng:
– Tôi giữ theo ngủ giái cấm nên cử rượu, xin cho tệ đồ uống thế cho tôi.
Vua Châu Tử đưa rượu cho Hành Giã. Tôn Hành Giả uống cạn chén.
Vua Châu Tử rót một chén nửa.
Tôn Hành Giả cũng làm luôn, vua Châu Tử rót nữa và phán rằng:
– Xin làm luôn một chén tam bão.
Tôn Hành Giả uống rốc.
Vua Châu Tử rót một chén nửa, cười và phán rằng:
– Xin làm luôn chén tử quý.
Khi ấy Bát Giới thấy vua đãi một mình Hành Giả, nóng họng nói lớn rằng:
– Bệ Hạ uống thuốc ấy, công tôi quyết rất nhiều, vả lại có mã…
Tôn Hành Giả nghe Bát Giới nói tới chữ mã, sợ nói lậu chữ mã niếu, liền bưng chén rượu thứ tư đưa cho Bát Giái.
Bát Giới uống rượu rồi làm thinh.
Vua Châu Tử phán hỏi rằng:
– Thần tăng nói trong lễ thuốc có mã gì? Sao nữa nín đi, không nói luôn thể?
Tôn Hành Giả lẹ miệng nói hớt lên rằng:
– Trong bài thuốc có vị mả đậu linh, sư đệ tôi không biết giấu phương hay, muốn nói lậu bài thuốc.
Vua phán hỏi rằng:
– Vị mả đậu linh trị chứng chi?
Quan Thái y tâu rằng:
– Vị mả đậu linh mát mà không độc, trị suyển tiêu đàm trừ ứ huyết, chánh mặt thuốc trị ho.
Vua Châu Tử cười và phán khen rằng:
– Dùng vị ấy hay lắm!
Vua Châu Tử đãi Bát Giới ba chén rượu rồi đãi Sa Tăng cũng y số, rồi ăn tiệc một hồi.
Vua Châu Tử lại rót một chén rượu lớn dưng cho Hành Giả.
Tôn Hành Giả tâu rằng:
– Xin Bệ Hạ hãy ngồi để tôi rót tôi uống cũng đặng.
Vua Châu Tử phán rằng:
– Thần tăng ơn nặng bằng non, quả nhơn đền chẳng hết, xin nhậm chén này rồi trẫm sẽ nói.
Tôn Hành Giả đáp rằng:
– Chuyện chi xin Bệ Hạ nói cho rành, bần tăng mới dám uống.
Tôn Hành Giả xưng bần tăng trúng cách lắm, vua Châu Tử phán rằng:
– Quả nhơn có bịnh lo sợ, hơn hai năm nay, nhờ thần tăng cho uống thuốc linh mà lành bịnh.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Khi tôi mới thấy Bệ hạ, cũng biết bịnh lo sợ, song chưa rõ lo sợ việc chi mà sanh bịnh?
Vua Châu Tử than rằng:
– Lời xưa nói: Việc xấu trong nhà, chẳng khá cho người ngoài biết! Song Thần tăng là người ơn của quả nhơn, nên không lẽ nói giấy.
Tôn Hành Giả nói:
– Có chuyện chi xin nói chớ khá ngại lòng?
Vua Châu Tử phán rằng:
– Thần tăng đi đến đây đà cách mấy nước?
Tôn Hành Giả nói:
– Trải qua năm sáu nước rồi.
Vua Châu Tử phán hỏi rằng:
– Vợ của vua các nước, kêu bằng chức chi?
Tôn Hành Giả nói:
– Bà lớn xưng là chánh cung, bà thứ xưng là tây cung, bà nhỏ xưng là tam cung, hoàng tử xưng là đông cung.
Vua Châu Tử phán rằng:
– Nước trẫm kêu khác hơn một chút, chánh cung gọi là Kim thánh cung, tây cung gọi là Ngọc thánh cung, tam cung kêu là Ngân thánh cung. Nay còn có Ngọc thánh cung và Ngân thánh cung mà thôi?
Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Vậy chớ Kim thánh cung đi đâu?
Vua Châu Tử khóc mà phán rằng:
– Cách mặt đã ba năm rồi!
Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Vì cớ nào mà cách mặt?
Vua Châu Tử phán rằng:
– Ba năm trước trong tiết đoan dương, trẫm và nội cung đồng ra vườn ngự ngồi trong Hải lưu đình mà coi ghe đua, trẫm đương ăn bánh mà uống rượu, xảy đâu trận gió thổi tới, một con yêu hiện xuống, xưng là Thại thái Tuế, ở núi Kỳ lân, động Giải trại, thiếu một vị phu nhơn, hỏi thăm ra Kim thanh cung khuynh thành quốc sắc, phải dưng ra cho mau, bằng không trước ăn thịt quả nhơn, sau ăn hết bá quan và giết hết bá tánh. Trong lúc ấy, trẫm vì nước thương dân, túng phải dưng Kim thánh cung cho nó; Thại thái Tuế liền bắt đi. Bởi cớ đó quả nhơn lo sợ mà phát bịnh, những bánh nếp không tiêu, và ngày đêm sầu thảm gần ba năm bịnh càng thêm mãi, nay nhờ uống thuốc của Thần tăng, tả bốn năm lần, ra hết đồ tích tụ, nên khỏe mạnh như xưa; thiệt là Thần tăng cứu mạng trẫm.
Tôn Hành Giả nghe nói vui mừng, uống cạn chén rượu, rồi cười và hỏi rằng:
– Như vậy thì Bệ Hạ bấy lâu vì lo sợ ấy mà sanh bịnh, nay gặp lão Tôn mới thuyên giảm, đã dứt bịnh rồi. Chẳng hay Bệ Hạ muốn đem Kim thánh cung về nước hay chăng?
Vua Châu Tử rơi lụy phán rằng:
– Trẫm không ngày nào đêm nào mà chẳng thương nhớ Kim thánh cung, ngặt không ai trừ đặng con yêu ấy; lẽ nào không muốn Kim thánh cung về nước
Tôn Hành Giả nói:
– Ðể Lão Tôn bắt con yêu ấy cho mà coi?
Vua Châu Tử liền quì xuống lạy mà nói rằng:
– Bằng thần tăng cứu đặng Kim thánh cung về nước, thì trầm bằng lòng dắt Tam cung và gia quyến ra ở ngoài thành làm dân, giao hết giang san nhường ngôi cho thần tăng làm hoàng đế.
Khi ấy Bát Giới đứng một bên, thấy như vậy nín không đặng, liều cười hả hả mà nói rằng:
– Bệ Hạ quên thể thống, vì một hoàng hậu, đành bỏ sự nghiệp mà quỳ lạy thầy chùa.
Tôn Hành Giả liền đỡ Vua Châu Tử dậy, mà hỏi rằng:
– Chẳng hay con yêu ấy từ khi đem Kim thánh cung về động, sau nó còn tới nửa hay không?
Vua Châu Tử phán rằng:
– Từ ngày Ðoan ngủ năm ấy, nó bắt Kim thánh cung rồi, qua tháng mười nó lại tới bão dưng hai nàng cung nga hầu hạ; trẫm phải dưng hai người cho nó. Ðến tháng ba năm ngoái, nó đến bão dưng hai nàng nứa, trẫm cũng y lời; qua tháng bãy nó cũng đòi hai nàng nửa! Tháng hai năm nay nó cũng mới đòi hai người, cũng nói đòi về hầu hạ Kim thánh cung! Trẫm dưng hết thảy tám nàng cung nga, không biết tháng nào đòi thêm nửa!
Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Nó tới thường thường như vậy, Bệ Hạ có sợ hay không?
Vua Châu Tử phán rằng:
– Trẫm thấy nó tới hoài nên sợ lắm, lại e nó hại mình, nên tháng tư năm ngoái, trẫm sai Công bộ cất cái lầu tị yêu, hể nghe gió thổi đùng đùng thì biết nó tới, trẫm dắt gia quyến vào lầu mà trốn.
Tôn Hành Giả nói:
– Vậy thì Bệ Hạ dắt Lão Tôn xem lầu tị yêu ra thể nào?
Vua Châu Tử gặc đầu, dắt Tôn Hành Giả ra khỏi tiệc; các quan cũng đứng dậy.
Bát Giới nổi giận nói lớn rằng:
– Ðại ca không biết phải quấy chẳng ngồi uống rượu với bá quan, bày đặt đi coi lầu làm chi cho lở dở tiệc rượu.
Vua Châu Tử biết Bát Giới còn mê ăn, truyền dọn hai tiệc ngoài lầu tị yêu, Bát Giới mới hết cằn nhằn nửa.
Vua Châu Tử đi trước, bốn thầy trò và bá quan theo sau, đến sau vườn hoa, chẳng thấy lầu đài chi hết.
Tôn Hành Giả hỏi rằng:
– Lầu tị yêu ở đâu?
Nói chưa dứt lời, xãy thấy hai ông Thái giám lấy hai cây đòn gánh sơn đỏ, lại chổ đất trống xeo tấm đa vuông lên coi, hình như giở nắp.
Vua Châu Tử chỉ miệng hang và phán rằng:
– Lầu tại chỗ đó, bề sâu ba mươi thước, cất chín căn đền, trong lầu có đựng bốn lu dầu phộng làm bốn ngọn đèn chong, tối ngày sáng đêm không dám tắt. Hể trẫm nghe gió lớn thì xuống lầu tị yêu, có người ở trên khiêng nắp đá đậy lại.
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Thiệt con yêu ấy không quyết lòng hại Bệ hạ, nếu nó quyết hại thì trốn như vậy có khỏi nó đâu!
Nói chưa dứt lời, xãy nghe ngọn gió ở phía Nam thổi qua vo vo, cát bay bụi dậy, bá quan kinh hãi đồng trách rằng:
– Hòa Thượng này miệng ăn mắm ăn muối nên nói rất linh, nhắc tới yêu tinh thì yêu tinh tới.
Vua Châu Tử hoảng hồn, bỏ Hảnh Giả chun đại xuống hang.
Tam Tạng cũng chun theo nữa, bá quan cũng trốn sạch trơn.
Bát Giái, Sa Tăng cũng muốn chạy theo nửa.
Tôn Hành Giả tay mặt nắm Bát Giái, tay trái kéo Sa Tăng, mà nói rằng:
– Hai em đừng sợ, chúng ta hãy đón nó mà coi thử con yêu gì.
Bát Giới gở tay không đặng, nên phải đứng lại.
Giây lâu thấy trên mây hiện ra một con yêu.
Tôn Hành Giả ngó thấy rồi hỏi rằng:
– Hai đưa bây biết mặt nó không?
Bát Giái, Sa Tăng đều nói:
– Không biết.
Tôn Hành Giả nói:
– Nó giống con quỷ Tiêu diện kim tinh, là mọi giữ cửa của ông Ðông Nhạc.
Bát Giới nói:
– Không phải đâu, quỷ thuộc khí âm, tới đỏ đèn nó mới dám hiện, bây giờ gần đứng bóng, lẻ nào quỷ dám hiện hình, dầu cho thiệt yêu quỷ cũng không biết đằng vân, cho nó biết làm gió đi nửa, bất quá là gió con trốt mà thôi, lẻ nào làm gió lớn hung như vậy, hoặc khi nó là Thại Thái Tuế đó chăng?
Tôn Hành Giả cười rằng:
– Nếu vậy thì hai đưa bây đứng đây mà đợi, đặng ta đi hỏi nó thử coi.