Hồi 50: Sáp Sí Hổ vác gông đánh chết ả đào – Mỹ nhiêm Công mắc mưu mất toi cậu ấm

Khi đó Tiều Cái, Tống Giang nghe nói có Lôi Hoành đến, thì lấy làm cả mừng, bèn lập tức cùng với quân sư Ngô Dụng đi xuống núi để nghinh tiếp. Khi ra tới bến Kim Sa, đã thấy Chu Quý chở thuyền đưa Lôi Hoành đến đó.

Tống Giang trông thấy Lôi Hoành vội vàng vái chào mà rằng:

– Đã lâu nay xa cách tôn nhan trong lòng thì lấy làm khao khát. Ngày nay không biết vì cớ gì mà ân nhân lại rời gót qua đây? Cho chúng tôi được gặp như vậy… ?

Lôi Hoành đáp lại mà rằng:

– Tiểu đệ vâng lệnh quan, sai sang phủ Đông Xương có việc công, đường đi qua đây, nhân thấy tiểu lâu la đòi tiền mãi lộ, sau đệ xưng tên ra, thì Chu Đầu Lĩnh biết, rồi có ý lưu lại mà đưa lên hầu ngài…

Tống Giang nghe đến đó, vội nói lên rằng:

– Nếu thực là trời đưa ân nhân đến đây cho chúng tôi được gặp, thì xin đón ân nhân lên chơi trên trại, để anh em trò chuyện, cho thỏa lòng mong nhớ bấy lâu.

Nói đoạn mời Lôi Hoành lên đài sảnh gọi các Đầu Lĩnh ra chào rồi làm rượu thiết đãi luôn mấy ngày ở đó.

Tiều Cái hỏi đến chuyện Chu Đồng. Lôi Hoành đáp rằng:

– Chu Đồng từ khi nhận chức Tiết Cấp coi đề lao ở bản huyện, Quan Huyện mới rất có lòng tín nhiệm mà thân mến lắm.

Tống Giang lấy lời uyển chuyển khuyên Lôi Hoành vào đảng ở đó. Lôi Hoành từ chối; Vì có mẹ già không thể nào mà bỏ đi được, xin đợi khi lão mẫu trăm năm mất rồi, sẽ theo lên nhập đảng.

Đoạn rồi Lôi Hoành bái từ Tống Giang cùng các Đầu Lĩnh để xin đi. Tống Giang hết sức cầm giữ không được, bèn, lấy các đồ tiền bạc ra để tiễn tặng Lôi Hoành, và cùng các Đầu Lĩnh đưa chân xuống núi.

Khi Lôi Hoành đi rồi, Tiều Cái, Tống Giang về đến đại trại, lại mời quân sư Ngô Dụng lên Tụ Nghĩa Sảnh, để cắt đăt cho trong sơn trại.

Ngô Dụng cùng Tống Giang bàn định cẩn thận, rồi đến hôm sau họp các Đầu Lĩnh, để chia cắt chức việc: Tôn Tân, Cố Đại Tẩu nguyện mở tửu điếm khi xưa, nay hai vợ chồng ra coi tửu điếm để thay Đồng Uy, Đồng Mãnh; Thời Thiên cho ra giúp đỡ Thạch Dũng; Nhạc Hòa cho ra giúp đỡ Chu Quý Trịnh Thiên Thỏa giúp đỡ Lý Lập. Bốn mặt tửu điếm Đông, Tây, Nam, Bắc, đều đặt hai vị Đầu Lĩnh để bán rượu, bán thịt, và chiêu nạp hảo hán bốn phương. Nhất Trượng Thanh, Vương Nụy Hổ cho hạ trại ở sau núi, để coi xét lừa ngựa, Tiểu trại bến Kim Sa, cho anh em Đồng Uy, Đồng Mãnh ra coi; Tiểu trai bên Áp Thủy giao cho chú cháu Trâu Uyên, Trâu Nhuận đóng, Hoàng Tín, Yến Thuận lãnh quân mã bản bộ dóng ở đường cái trước núi; Giải Trân, Giải Bảo coi đệ nhất quan; Đỗ Thiên, Tống Vạn coi đệ nhị quan ở thành Uyển Tử;Lưu Đường, Mục Hoằng coi đệ tam quan ở trước sơn trại; ba anh em họ Nguyễn coi giữ thủy trại Nam Núi, Mạnh Khang vẫn coi việc đóng chiến thuyền; Lý Ứng, Đỗ Hưng, Tưởng Kính: Coi sóc tiền lương của cải trong sơn trại. Đào tôn Vương, Tiết Vĩnh sửa đắp thành trì trong Lương Sơn Bạc; Hầu Kiện chuyên may áo giáp, bào, mũ, cờ, quạt cùng các đồ áo trận, Chu Phú, Tống Thanh coi sóc yến tiệc, Mục Xuân, Lý Vân, đốc thúc việc làm nhà làm trại, Tiêu Nhượng, Kim Đại Kiện giữ việ ứng tiếp tân khách, cùng các thư tín công văn, Bùi Tuyên coi quân chính coi giữ việc thưởng công phạt tội; Lã Phương, Quách Thịn, Tôn Lập, Âu Bằng, Mã Lân, Đặng Phi, Dương Lâm cùng Bạch Thắng đều phân phái ra tám mặt trại để yên nghỉ. Tiều Cái, Tống Giang, Ngô Dụng ở giữa trại trên núi; Hoa Vinh, Tần Minh ở bên tả; Lâm Xung, Đới Tung ở bên hữu, Lý Tuấn, Lý Quỳ ở trại phía đằng trước; Trương Hoành, Trương Thuận ở traiï phía sau. Còn Dương Hùng, Thạch Tú thì chia coi hai bên nhà Tụ Nghĩa Sảnh.

Các hàng Đầu Lĩnh đã cắt đặt xong rồi, cùng nhau luân lưu làm việc để vui mừng yến ẩm, ai lấy đều cổ võ hân hoan, trong sơn trại rất là thịnh vượng.

Thành Uyển Tử, vũng Liên Nhi,

Triều đình riêng một biên thùy kém ai?

Từ đây riêng chiếm cõi trời,

Áo xiêm chỉ chấp những người cơ mi.

Nói về Lôi Hoành từ khi bái biệt bọn Lương Sơn, liền khoác khăn gói, vác thanh đao, xăm xăm về tới Vận Thành, vào nhà chào mẹ, và thay xống áo, lấy công văn đưa vào trình huyện, rồi mới trở về yên nghỉ. Từ hôm ấy trở đi mỗi ngãy hai buổi vào hầu việc quan, theo như thướng lệ.

Một hôm chàng ở trong huyện trở, ra một mình lững thững đương đi về phía bên đông, chợt thấy sau lưng có người gọi rằng:

– Đô Đầu về bao giờ thế?

Lôi Hoành quay lại nom, thì thấy tên Lý Tiểu Nhị ở đó, liền đáp rằng:

– Ta mới về được mấy hôm nay.

Lý Tiểu Nhị nói:

– Đô Đầu đi vắng luôn, chắc không biết ở đây có một người con gái hát, rất đẹp rất tài, tên là Bạch Tú Anh ở Đông Kinh mới đến hẳn? Bữa trước nó có đến chào Đô Đầu, nhưng ngài còn đi vắng, hiện nay vẫn khai diễn ở ngoài phố luôn luôn. Mỗi ngày lại có một trò khác nhau hoặc múa hoặc đàn, hoặc ca, nghề gì cũng khéo, người xem đông như kiến cỏ vậy. Đô Đầu thử đến nom qua xem, thực là một vai đào hiếm có.

Lôi Hoành đang khi cô liêu, nghe nói vậy, liền bảo Lý Tiểu Nhị dẫn đến để xem. Khi tới nơi, Lôi Hoành ngồi ghế thứ nhất ở dẫy đầu, ngồi vào đó, rồi tên Lý Tiểu Nhị quanh quẩn lẩn đi chơi mất.

Bấy giờ thấy một ông già buộc khăn xéo, mặc áo lụa bông, thắt dây lưng lụa, tay cầm cái quạt chạy ra sân khấu nói mấy câu khai mào:

– Lão tôi người ở Đông Kinh, tên là Bạch Ngọc Kiều, năm nay tuổi tác, nhờ có con gái là Bạch Tú Anh múa hát đàn sáo để dâng hiến các quan, các quan chiếu cố…

Nói đoạn mấy tiếng thanh la đánh phèng phèng, rồi Tú Anh lên sân khấu vái chào bốn mặt, mà vác thanh la khua ầm cả lên.

Đọan rồi dứt tiếng thanh la, Tú Anh liền đọc bốn câu rằng:

“Chim mới kêu vang, chim cũ buồn,

Dê già gầy yếu bén dê non,

Đời người khổ nhất nghề sinh lý,

Thua cái uyên ương bay liệng luôn.”

Lôi Hoành nghe xong vỗ tay khen hay.

Bạch Tú Anh nói:

– Hôm nay trên tờ cáo bạch đã nói rõ bản trò, vậy tôi xin diễn tích này là tích uẩn tạ phong lưu, rất chiều lý thú, tên gọi”Thành Dự chương theo đuổi Tô Khanh” để công sẽ hiến các ngài khán gia.

Nói đoạn lại hát, hát một lúc lại nói. Người ngồi xem mấy ghế đầu, đều vỗ tay khen ngợi luôn mồm.

Dám đâu khoe khéo khoe tài,

Cũng mong nhờ lượng các ngài thông minh…

Đọc đến đó lại tiếp luôn rằng:

– Thôi, các quan đã có lời ban khen, con hãy xuống, bây giờ đến lượt rung trống đây…

Bạch Tú Anh bèn cầm lấy cái khay, miệng đọc luôn mấy câu:

– Mau đến chỗ lợi, mau đến chỗ lợi, tay nâng đến nơi, tất là phát đạt.

Bạch Ngọc Kiều lại nói:

– Con đi qua một lượt, các quan đương mong để thưởng cho con đấy…

Bạch Tú Anh liền bưng cái khay đi xin thưởng. Trước hết đến trước mặt Lôi Hoành, ngồi ở đầu dây.

Lôi Hoành sờ túi toan thưởng, bất đồ không có đồng tiền nào, bèn bảo Tú Anh rằng:

– Hôm nay quên không đem tiền, để mai ta thưởng một thể.

Tú Anh cười rằng:

– Tiền đầu bất lợi, sau còn mong chi? Quan ngồi chỗ đó đáng lắm, xin ngài rộng tay cho người khác trông vào….

Lôi Hoành đỏ mặt nên đáp rằng:

– Không phải là ta tiếc, nhưng hôm nay quên, không giắt đi, để mai vậy…

– Ngài đã đi nghe hát, lẽ nào lại không giắt tiền?

– Ta thưởng ngay đến ba lạng cũng được, nhưng ngặt vì hôm nay không giắt đi…

Bạch Tú Anh lại nói:

– Thưa ngài hiện nay một đồng không có, còn nói gì đến ba lạng? Ngài bảo chúng tôi trông mơ đỡ khát, vẽ bánh đỡ đói, như thế thì…

Bạch Ngọc Kiều thấy vậy bảo con rằng:

– Con rõ khéo hoài công, không đi xin các ông nhà quan, các ông thành thị khác, còn cứ đứng hỏi làm gì ông ấy mãi? Thôi đi hỏi các ngài biết điều kia thôi…

Lôi Hoành lấy làm khó chịu hỏi luôn:

– Ta đây lại không biết điều hay sao?

Bạch Ngọc Kiều nói:

– Nếu ông biết được ngón chơi thì có lẽ chó mọc sừng mất.

Chúng nghe nói đều đứng cả dậy. Lôi Hoành nổi giận đùng đùng quát mắng rằng:

– Quân chó này dám nói xấc với ta à?

Bạch Ngọc Kiều nói:

– Tôi bảo bác là con bò nữa bác làm gì?

Bấy giờ có kẻ nhận biết Lôi Hoành mắng bảo Bạch Ngọc Kiều rằng:

– Không được thế,ông ấy là Lôi Đô Đầu ở huyện đó…

Bạch Ngọc Kiều nói:

– Chỉ sợ là”Lư câu đầu” mà thôi…

Lôi Hoành không sao nín nổi, đương ngồi ở ghế, nhảy tót lên sân khấu, nắm lấy Bạch Ngọc Kiều mà đánh tát một thôi, vêu cả môi sưng cả má lên. Chúng thấy Lôi Hoành đánh hăng quá bèn túm đến can ngăn mà vôc về khuyên giải Lôi Hoành về. Đoạn rồi người trong rạp đều tản mác mà đi về cả. Nguyên Bạch Tú Anh với Quan Huyện mới ở Vận Thành, vẫn có tư tình đi lại đã lâu, nên ngày nay mới đến huyện Vận Thành, để kiếm ăn về nghề hát diễn. Bấy giờ chị ả đào thấy phụ thân bị Lôi Hoành đánh nhiều vết thương nặng, bèn lập tức thuê một cỗ xe kiệu vào kêu Quan Huyện, là Lôi Hoành đánh bố, đuổi cả người trong rạp hát và ý toan hiếp tróc cả mình.

Quan Huyện nghe nói cả giận, lập tức bảo cho Bạch Ngọc Kiều làm đơn kiện, rồi sai ra khám nghiệm vết thương và lấy chứng cớ phân minh tất cả. Bấy giờ cũng có nhiều người tử tế với Lôi Hoành, cũng nói lót với Quan Huyện, song cái thế lực phấn son sai khiến nhà quan, làm cho quan cũng phải mê man mờ mịt, không còn nghe ai nói một câu nào nữa. Quan liền lập tức sai người bắt Lôi Hoành vào hụyện vật cổ ra đánh, bắt cung nhạn các tội, rồi sai đóng gông làm hiệu cho thiên hạ coi.

Chị ả đào còn muốn ra tay yêu nghiệt, xui Tri Huyện bắt dong Lôi Hoành ra trước cửa rạp cho đê nhục một thể.

Hôm sau chỉ ả đào đến diễn hát, Tri Huyện ta bèn vâng lời, sai lính dong Lôi Hoành ra rạp hát. Bọn lính đó cũng là một bọn làm việc quan với nhau, nên có bụng nể Lôi Hoành, mà dắt lánh đi một nơi, không nỡ đem dong ra rạp hát.

Chị ả đào ta lại tức mình, chạy đến tìm đám lính đó mà bảo rằng:

– Quan Huyện sai các anh dong hắn ra trước rạp hát sao các anh không đến? Để lát nữa tôi vào kêu với Quan Huyện, xem các anh nói ra thế nào?

Bọn lính thấy vậy liền nói rằng:

– Nương Tử bất tất phải làm thế, để chúng tôi dong đi bây giờ.

Tú Anh nói:

– Nếu vậy, thì sau đây tôi sẽ thưởng cho các anh.

Tụi lính bất đắc dĩ phải bảo với Lôi Hoành rằng:

– Đô Đầu phiền lòng cho chúng tôi đưa đi qua ngoài rạp hát một tý rồi sẽ về, không có thì nguy với con yêu tinh này mất.

Nói đoạn liền trói Lôi Hoành mà dong ra ngoài phố. Đương khi đám người huyên náo, thì chợt đâu người mẹ Lôi Hoành đi đưa cơm đến đó.

Người mẹ trông thấy con như vậy, liền kêu khóc òa lên, rồi mắng bọn lính rằng:

– Các anh cùng với con ta cũng là một bọn làm việc trong nha cả, nỡ nào các anh đem lòng thế cho đang? Người ta ai giữ được trọn đời không có việc trái bao giờ?

Đám lính ấy đáp:

– Thưa cụ, không phải chúng con muốn như thế làm gì? Nhưng ngặt vì có nguyên cáo đi kèm bắt chúng con phải thế, chúng con không làm thế nào mà cưỡng được! Nếu không thế, lát nữa họ vào nói với Quan huyện thì chúng con khổ cả.

Mẹ Lôi Hoành nói:

– Có lẽ nào người đi kiện lại được phép bắt dong người ta đi như thế?

Tụi lính lại sẽ nói:

– Thôi, cụ không biết người ta thân với quan lắm, sểnh một tý là họ nói vớí quan nguy cho cả chúng con.

Bà mẹ nghe nói, liền tự tay cởi trói cho Lôi Hoành rồi miệng rứa lác ầm lên rằng:

– Quân hèn mạt dám ỷ thế như vậy, bà cứ cởi trói ra xem nó làm sao?

Bạch Tú Anh ngồi trong hàng thấy vậy chạy ra vội hỏi:

– Vừa rồi mụ già nói gì thế?

Bà mẹ Lôi Hoành nổi cơn tam bành lên, bèn chỉ tay vào mặt Tú Anh mà mắng rằng:

– Đồ chết băm vằm mổ xẻ kia, đồ đĩ rạc đĩ rày kia. Làm gì mày dám mắng bà?

Bạch Tú Anh nghe nói, dựng đứng lông my, trợn tròn hai mắt mà rằng:

– Con hùm già này, con ăn nhặt này, mày nói xấc với bà hay sao?

Mẹ Lôi Hoành nói:

– Bà mắng mày phỏng mày làm gì được… ? Có lẽ mày làm Quan Huyện ở huyện Vận Thành này hẳn?

Bạch Tú Anh cả giận, giơ tay tát ngay vào mẹ Lôi Hoành ngã lăn ra phố, bà mẹ vừa gượng dậy được, Bạch Tú Anh lại sấn vào tát lấy tát để không thôi.

Bấy giờ Lôi Hoành đương căm tức trong bụng, laiï thấy mẹ già bị đánh như vậy, liền bầng bầng nổi giận giơ đầu gông lên, nhè giữa óc phang cho Tú Anh một cái, vỡ tan óc ra mà nằm ngay xuống đó. Chúng túm vào cứu gọi, thì Bạch Tú Anh đã trợn mắt nghiến răng chết cứng ra rồi, không sao cứu được nữa. Chúng liền đem Lôi Hoành vào để trình với Tri Huyện. Tri Huyện lập tức sai đòi Lý Trưởng, lân bang, cùng các nha lại giải áp Lôi Hoành, ra khám nghiệm tử thi, rồi đem về nha lập án, Lôi Hoành nhất nhất cung nhận, không từ chối một câu nào. Tri Huyện truyền cho mẹ Lôi Hoành tạm về, rồi đóng gông Lôi Hoành bỏ xuống ngục.

Khi đó Mỹ Nghiêm Công, Chu Đồng làm Tiết Cấp coi lao, thấy sự thể như vậy, không biết có cách gì cứu được Lôi Hoành, bèn mua cơm rượu thịt cá vào cho Lôi Hoành ăn uống, và sai đám lính ngục tìm một nơi sạch sẽ kín đáo cho nằm. Được một lát người mẹ Lôi Hoành đem cơm vào trong ngục, khóc lóc bảo với Chu Đồng rằng:

– Lão tôi ngoài sáu mươi tuổi đầu, chỉ trông mong có đứa con đó mà thôi. Xin Tiết Cấp nghĩ đến tình anh em khi trước mà thương đến lão tôi, mà trông nom che chở giúp cho, thì già dẫu chết, cũng không dám quên ơn Tiết Cấp.

Chu Đồng nói:

– Được, cụ cứ yên tâm, chỗ anh em thế nào tôi cũng trông nom cẩn thận. Từ nay bất tất cụ phải đem cơm nước vào đây, đã có tôi liệu biện…Nếu có cơ hội gì cứu được, tức khắc tôi xin làm ngay, cụ đừng ngại.

Mẹ Lôi Hoành nghe nói liền bái tạ ra về.

Chu Đồng nghĩ suốt ngày đêm không có kế gì để cứu cho Lôi Hoành được, bèn nhờ người đến đút lót với Tri Huyện, và nói khắp mọi nơi, để cầu giảm tội đi.

Tri Huyện xưa nay vốn yêu thích Chu Đồng, song vì Lôi Hoành đánh mất người yêu, thì trong lòng lấy làm tức giận, không thể nào dung thứ đi được. Sau lão Bạch Ngọc Kiều lại thúc giục Tri Huyện mau mau phải lập thành văn án, bắt Lôi Hoành bỏ tù sáu mươi ngày, mãn hạ rồi kết đoán giải lên Tế Châu để xử trị.

Khi mãn hạn sáu mươi ngày, phòng giấy đem công văn lên nộp trước ở phủ Tế Châu rồi Chu Đồng vâng lệnh dẫn mười mấy tên lính ngục giải Lôi Hoành đi. CHu Đồng giải Lôi Hoành ra khỏi huyện Vận Thành chừng mươi dặm đường, tới một nơi tửu điếm xa xa, Chu Đồng bảo với mọi người rằng:

– Chúng ta hãy vào đây uống rượu. Đương khi uống rượu, Chu Đồng cất lẻn đem Lôi Hoành ra một chỗ vắng, tháo gông tha Lôi Hoành ra mà bảo rằng:

– Hiền đệ mau mau về nhà, đem thân mẫu lập tức đi một nơi mà trốn tránh, còn ở đây Quan Tư bắt bớ để mặc mình tôi chịu cho.

Lôi Hoành nói:

– Một mình tiểu đệ chạy thoát thì rất dễ, nhưng còn Ca Ca ở đây thì làm sao tránh khỏi sự nguy hiểm được! Việc đó tiểu đệ làm thế không đang tâm… !

Chu Đông nói:

– Hiền đệ không biết: Tri Huyện tức giận vì đánh chết người yêu, nên văn án đều kết vào tội tử, nay giải lên phủ thì tất phải đền mạng chứ chẳng chơi, vậy tôi tha cho hiền đệ ra không có lẽ mắc vào tử tội được. Vả chăng tôi đây không có bố mẹ già trông cậy, những gia tài của tôi khả dĩ đem ra mà bồi thường cũng được, ngại chi? Còn hiền đệ thì mẹ già đầu bạc non nước một thân, thôi hiền đệ phải đi mau mau mới được, đừng nghĩ quanh nghĩ quẩn thêm phiền.

Lôi Hoành nghe nói, lạy tạ Chu Đồng, rồi theo lối cửa sau trốn thẳng về nhà, thu thập khăn gói, dẫn mẹ già lên núi Lương Sơn để ẩn thân ở đó. Khi đó Chu Đồng vất cái gông xuống đám cỏ, rồi chạy về bảo với đám lính ngục rằng:

– Chết nỗi Lôi Hoành chạy mất rồi, ta làm thế nào được?

Chúng nói:

– Nếu thế phải chạy về nhà hắn bắt ngay.

Chu Đồng nhận lời như vậy, song có ý dùng dằng, liệu chừng cho Lôi Hoành chạy đã thoát xa xa, rồi mới trùng trình dẫn chúng về huyện để cáo thú.

Chu Đồng bẩm với Tri Huyện rằng:

– Chúng tôi đi đường lỡ không cẩn thận, bị Lôi Hoành trốn mất lúc nào không biết, vậy xin về đây chịu tội với quan trên…

Tri Huyện vốn thích yêu Chu Đồng cũng muốn thoát tội cho ra, song bị Bạch Ngọc Kiều tót lên Thượng Ty khiếu là Chu Đồng cố ý đánh tháo cho Lôi Hoành để ăn tiền đút lót.

Tri Phủ thấy vậy, đành phải đem sự thực bẩm lên phủ Tế Châu mà giải Chu Đồng lên đó, bọn người nhà Chu Đồng đem tiền nong lên để đút lót khắp cả các nơi. Sau Quan Phủ kết án, đánh hai mươi trượng, chạm mặt cho đầy sang phủ Thương Châu. Khi kết đoán xong, có hai tên công sai, và đưa quần áo, cùng các đồ chi dùng cho Chu Đồng sang đến chủ Thương Châu, quận Hoành Hải, liền đưa cào Quan Phủ mà trình nộp công văn. Quan Phủ thấy Chu Đồng ra dáng tu my nam tử, rõ mặt phi thường, thì lấy làm yêu thích, liền phê giấy cho hai tên công sai trở về, rồi sai tháo gông cho Chu Đồng, mà để hầu luôn trong phủ.

Chu Đồng vốn người ung dung lễ độ, nên ở đó không được bao lâu mà đám Áp Phiên,Ngu Hầu, cùng các người làm việc trong phủ đều có bụng thương yêu vì nể, mà chuyện trò đi lại luôn luôn.

Chợt một hôm, Tri Phủ ngồi ở sảnh đường. Chu Đồng đứng hầu ở dưới thềm, Tri Phủ gọi Chu Đồng lên sảnh mà hỏi rằng:

– Cớ sao ngươi lại tha cho Lôi Hoành mà phải phát vãng như thế này?

Chu Đồng bẩm:

– Việc đó nguyên vì chúng tôi hớ hênh, để Lôi Hoành trốn mất, chứ có đâu dám tha hắn ra?

– Nếu vậy thì việc gì đến nỗi tội nặng?

– Bẩm vì có tên nguyên cáo nhất định vu cho tôi, là cố ý buông tha, nên mới phải tội nặng đến thế.

Tri Phủ lại hỏi đến Lôi Hoành đánh chết chị ả đào, đầu đuôi ra sao? Chu Đồng liền đem hết căn nguyên để kể cho Tri Phủ nghe. Tri Phủ nói:

– Cứ như thế, thì có lẽ ngươi thấy tên Lôi Hoành là một người có hiếu đạo, mà làm phúc tha cho hắn?

Chu Đồng bẩm:

– Có đâu chúng tôi dám làm việïc man muội với quan trên như thế được?

Đương khi nói chuyện thì thấy cậu ấm bé con ở trong bình phong chạy ra. Cậu ấm là con trai đầu lòng Quan Phủ, năm nay mới lên bốn tuổi, mặt mũi khôi ngô, nhác nom có vẻ, nên Tri Phủ yêu chiều quý mến, chẳng khác chi hạt ngọc trên tay.

Bấy giờ cậu ấm trông thấy Chu Đồng ở đó, liền chạy ra ôm lấy để nô đùa. Chu Đồng ẵm cậu bé trên tay, cậu lại vuốt râu Chu Đồng mà nói:

– Tôi chỉ thích râu này ẵm tôi thôi.

Tri Phủ mắng cậu ấm rằng:

– Con bỏ tay ra, không được nghịch xấc thế?

Cậu ấm lại nói:

– Tôi chỉ thích bác râu này, ẵm tôi đi chơi thôi.

Chu Đồng liền bẩm với Tri Phủ rằng:

– Chúng tôi xin ẵm cậu ra chơi cửa phủ một lát xin về ngay.

Tri Phủ nói:

– Trẻ đã thích thế, thì ngươi ẵm đi chơi một lát về ngay…

Chu Đồng vâng lời, ẵm cậu ấm dong chơi cửa phủ; mua cho cậu cái bánh ngọt cậu ăn, rồi quanh quẩn một lúc lại về.

Tri Phủ thấy cậu ấm về liền hỏi:

– Con đi đâu về đó?

– Bác râu này đưa con ra chơi phố, rồi mua bánh ngọt cho con ăn nữa.

Tri Phủ hỏi Chu Đồng rằng:

– Bẩm chúng tôi chiều cậu ấy cho vui, có gì đáng kể.

Tri Phủ liền gọi thị tỳ lấy bình rượu rót thưởng Chu Đồng ba chén, rồi dặn rằng:

– Thỉnh thoảng trẻ có theo chơi, ngươi cứ cho đi cho vui.

Chu Đồng vâng lời, rồi cứ mỗi khi cậuấm đòi được chơi, thì Chu Đồng lại ẵm ra ngoài phố, mua quà bánh cho ăn, không biết đâu mà kể.

Được ít lâu, một hôm đến ngày rằm tháng báy, ở chùa làm lễ phóng sinh, theo lệ có phóng đăng mở hội, chiều hôm ấy thị nữ ra bảo với Chu Đồng rằng:

– Tối hôm nay cậụ ấm đòi đi xem thả đèn, phu nhân truyền Đô Đầu cho cậu đi xem một lúc.

Chu Đồng nhận lời mà rằng:

– Để tôi xin đem đi xem.

Tối đến cậu ấm mình mặc áo sa, đầu đội mũ sư tử, có hai cái sừng hai bên, rồi Chu Đồng cõng lên lưng mà đưa ra xem lễ ở chùa Địa Tạng. Bấy giờ vào khoảng canh một, Chu Đồng ẵm cậu ấm đi quanh chùa xem khắp một lượt, rồi đi ra ngoài thủy đường để đi xem thả đèn. Cậu ấm nhảy xuống đứng trong chỗ chắn song, vừa xem đèn vừa hớn hở rất là vui thích.Chợt đâu có người chạy đến lôi vạt áo Chu Đồng mà nói:

– Ca Ca ra đây tôi nói câu chuyện một tí…

Chu Đồng quay lại nom thấy Lôi Hoành ở đó, bèn lấy làm kinh ngạc quay lại nói với cậu ấm rằng:

– Cậu hãy đứng đây xem, tôi chạy ra mua kẹo mang về đây ngay…Đừng chạy đi đâu mới được…

Cậu ấm nói:

– Bác đi mau về, tôi còn muốn ra ngoài cầu xem thả đèn nữa…

Chu Đồng nói:

– Được rồi, tôi về ngay bây giờ.

Nói xong quay ra hỏi Lôi Hoành rằng:

– Sao hiền đệ lại đến đây thế?

Lôi Hoành dắt Chu Đồng ra chỗ vắng, rồi lạy mà nói rằng:

– Tiểu đệ từ khi nhờ Ca Ca cứu được tính mệnh, mẹ con không biết đi đâu cho được; Sau đành phải lên Lương Sơn Bạc với Tống Công Minh để xin nhập bọn. Tiểu đệ nhân nói đến ân đức của Ca Ca, Tống Công Minh lại càng nhớ đến ơn xưa nghĩa cũ, mà trong lòng cảm hứng vô cùng. Tiều Cái cùng các vị Đầu Lĩnh cũng đều nhắc đến Ca Ca luôn luôn. Nay Ngô Quân Sư cùng tiểu đệ đến đây để thăm hỏi Ca Ca đó.

– Ngô Tiên Sinh ở đâu?

Vừa hỏi xong thì Ngô Học Cứu ở sau lưng chạy ra đáp lên rằng:

– Tôi là Ngô Dụng đây…

Nói đoạn liền bái lạy Chu Đồng, Chu Đồng vội vàng đáp lễ mà rằng:

– Đã lâu nay không được gặp, Tiên Sinh có mạnh khỏe chăng?

Ngô Dụng nói:

– Cảm ơn nhân huynh, các Đầu Lĩnh chúng tôi rất là mong mỏi nhân huynh, nay sai chúng tôi đến đây để đón ngài lên núi tụ nghĩa cho vui. Chúng tôi đến đây đã lâu nhưng không được gặp, đêm nay may được gặp nhân huynh ở đây, thực là hạnh phúc. Vậy xin ngài quá bộ cùng lên sơn trại, để các Đầu Lĩnh tôi được vui lòng.

Chu Đồng nghe nói, lạnh ngắt hồi lâu, rồi nói rằng:

– Tiên Sinh dạy lẫn qúa? Xin ngài chớ nói đến chuyện ấy lỡ người ngoài biết đến không tiện…Lôi Hoành là bị tù tội đến nơi, tôi lấy nghĩa khí tha cho hắn ra, sau hắn đi lên núi với các ngài, còn tôi ở lại đi đày sang đây cốt là để chịu tội cho anh em bạn…rồi một vài năm hết hạn trở về, bấy giờ lại an cư lạc nghiệp giữ phận làm ăn, chớ có lẽ nào tôi lại đi như thế được? Xin hai ông cứ về đi, đừng nói năng lôi thôi mà không tiện.

Lôi Hoành nói:

– Ca Ca ở đây, chung thân chỉ hầu hạ người ta, ra luồn vào cúi, không phải là Đại trượng phu chi chí, vả lại việc này không phải tiểu đệ dám nói, thực là Tiều Cái, Tống Giang cùng mong đợi Ca Ca, nên mới sai đến đây như vậy… Xin Ca Ca chớ phụ lòng các ngài ấy mới được.

Chu Đồng nói:

– Hiền đệ nói người gì thế? Hiền đệ không biết vì hiền đệ có lão mẫu ở nhà nên, tôi mới tha cho hiền đệ như thế. Nay lại hãm tôi vào nơi bất nghĩa nữa sao?

Ngô Dụng nói:

– Đô Đầu đã không chịu đi, anh em ta cũng không nên ép nữa. Thôi ta xin phép bái biệt cho xong.

Chu Đồng nói:

– Nhờ các ngài nói với các vị Đầu Lĩnh, rằng tôi có lời hỏi thăm các ngài…

Nói xong quay ngoắt vào Thủy Đường, dè đâu tới nơi không thấy cậu ấm đứng ở đấy nữa. Chu Đồng luống cuống sợ hãi, vội chạy rối lên để tìm.

Lôi Hoành chạy đến nắm lấy tay Chu Đồng mà rằng:

– Ca Ca đừng tìm nữa, đây chắc là người anh em cùng đi với tôi thấy nói là bác không chịu lên Lương Sơn, cho nên ẵm đi hẳn, chúng ta cùng đi tìm một thể khắc thấy.

– Chết nỗi? Hiền đệ chớ đùa thế, nếu lỡ xẩy ra thế nào Quan Phủ biết đến thì nguy hiểm cả, chứ không phải chuyện chơi đâu…

– Ca Ca cứ đi với tôi, khắc tìm thấy ngay bây giờ.

Chu Đồng nghe nói, bèn kéo Lôi Hoành, Ngô Dụng cùng nhau ra ngoài thành để tìm.

Chu Đồng lấy làm sốt ruột,vội hỏi rằng:

– Họ ẵm đi đâu thế?

Lôi Hoành nói:

– Ca Ca đến chỗ tôi trọ, tôi xin đưa cậu ấm trả Ca Ca.

Chu Đồng nói:

– Nếu chậm thì Tri Phủ đến tới ngay.

Ngô Dụng nói:

– Người anh em đi với chúng tôi, họ không biết thế nào, chắc lại ẵm cậu ta ra chỗ chúng tôi trọ hẳn? Được, ngài cứ đến đó tôi xin trả ngay.

Chu Đồng hỏi:

– Người đi với các ông là ai?

Lôi Hoành nói:

– Tôi cũng chả biết là người nào, chỉ thấy vẫn gọi là Hắc Toàn Phong xưa nay.

Chu Đồng cả kinh mà hỏi rằng:

– Có phải anh Lý Quỳ, giết người ở đất Giang Châu đó chăng?

Ngô Dụng đáp:

– Chính anh ta đó.

Chu Đồng nghe nói dẫm chân lên kêu rằng:

– Nếu vậy thì khổ rồi…

Nói đoạn liền thúc giục hai người đi mau mau để tìm.

Khi ra ngoài thành được hai dặm đường, chợt thấy Lý Quỳ ở trước mặt mà kêu lên rằng:

– Lý Quỳ ở đây rồi…

Chu Đồng vội đi đến nơi mà hỏi:

Cậu bé con Quan Phủ đâu?

Lý Quỳ thấy Chu Đồng đến, vội chấp tay vái chào mà rằng:

– Thưa Ca Ca cậu ấy hiện ở đây kìa.

Chu Đồng nói:

– Bác muốn tốt thì ẵm ra trả cho tôi.

Lý Quỳ trỏ lên đầu mà nói:

– Cái mũ của cậu ấy ở trên đầu tôi đây.

Chu Đồng thấy vậy, cang nóng ruột hỏi dồn:

– Cậu ấy đâu, để ở đâu? Đem đây trả tôi.

Lý Quỳ nói:

– Lúc nãy tôi đánh thuốc mê cho cậu ta, rồi mới cõng ra ngoài thành được. Bây giờ đương nằm ngủ ở trong thành kia. Ca Ca đến mà xem.

Bấy giờ trời đương sáng trăng vằng vặc, Chu Đồng liền đi thốc vào rừng cây, tìm quanh tìm quẩn, mãi sau mới thấy cậu ấm nằm vật ở trên bãi đất. Chu Đồng giơ tay đỡ cậu ấm dậy thì đã thấy đầu đi một nơi, mình đi một nẻo, mà nằm chết sõng soài ở đó.

Chu Đồng thấy vậy cả giận, vội hăm hở chạy ra để tìm ba người, thì không thấy đâu cả. Sau chàng tìm kiếm vẫn vơ mãi, bỗng xa xa thấy Lý Quỳ cầm đôi búa kêu lên rằng:

– Đến đây…Đến đây…

Chu Đồng nóng máu không sao chịu nổi, liền sắn áo rảo bước chạy theo để đuổi Lý Quỳ. Lý Quỳ vội vàn té chạy. Chu Đồng cứ hăm hở đuổi theo. Lý Quỳ vốn tay lặn suối qua rừng rất thạo, Chu Đồng không thể nào đuổi kịp, đuổi được một quãng rồi thở hồng hộc mà đứng lại đó.

Lý Quỳ lại đứng lại mà thách rằng:

– Đến đây, mau đến đây.

Chu Đồng giận quá, không có cách gì mà nuốt sống ngay được Lý Quỳ, lại ù té chạy theo để đuổi, Lý Quỳ đi trước thấy Chu Đồng đuổi thì chạy, hễ Chu Đồng đứng lại, thì cũng đứng lại mà thách thức, làm cho Chu Đồng tức nổ tiết lên, mà không sao làm gì được.

Chu Đồng quanh quẩn theo đuổi đến khi trời đã gần sáng, bỗng thấy một nơi trang viện lớn, thì Lý Quỳ chạy tót vào đó. Chu Đồng dấn vội đến nơi, thấy hai bên trước cửa sảnh trong trang, đều cắm các đồ quân khí rất là uy vệ. Chàng thấy vậy, đoán chắc là một nhà Quan Tư cho đó, liền đứng dừng mà kêu to lên rằng:

– Trong nhà có ai không?

Vừa nói dứt lời, thì thấy có một người ở trong bình phong đi ra quát hỏi rằng:

– Anh là ai? Đến đây có việc chi?

Chu Đồng thấy người đó ra dáng xênh xang đường bệ, vội vàng vái chào đáp rằng:

– Chúng tôi là Chu Đồng làm Tiết Cấp ở huyện Vận Thành, bị tội phát vãng sang đất Thượng Châu, hôm qua nhân ẵm con quan Tri Phủ đi xem thả đèn, bất đồ bị tên Hắc Toàn Phong giết chết con Quan Phủ, rồi chạy đến quý trang đây, xin ngài làm ơn bắt giúp tên ấy để đem về trình quan…

Người kia nói:

– Nếu vậy thì ngài là Mỹ Nhiêm Công ở đất Vạn Thành, xin mời ngài hãy vào ngồi chơi đó…

Chu Đồng nói:

– Xin Quan Nhân tha lỗi cho. Ngài cao tính đại danh là gì?

Người kia đáp:

– Tôi là Tiểu Toàn Phong Sài Tiến…

Chu Đồng nghe nói vội chào mà rằng:

– Tôi được nghe tiếng Sài Đại Quan Nhân đã lâu không ngờ nay lại được bái kiến ở đây?

Sài Tiến đáp lễ lại mà nói:

– Tôi cũng được nghe tiếng Mỹ Nhiêm Công đã lâu, xin ngài hãy vào chơi trong nhà đã.

Chu Đồng theo Sài Tiến vào trong nhà rồi hỏi:

– Thưa ngài, sao Hắc Toàn Phong lại đến đây?

– Thưa ngài nguyên tôi xưa nay thích chơi với bọn hảo hán giang hồ, vả chăng tổ tiên nhà tôi khi trước có công nhượng vị ở Trần Kiêu, nên tiên triều có sắc cho đan thư thiết khoán, dẫu những người phạm tội đến đâu, mà trốn tránh đến đây, cũng không ai dám bắt, mới đây tôi có một người bạn thân, mà cũng là một người bạn cũ của túc hạ hiện đương làm Đầu Lĩnh ở Lương Sơn Bạc, tên là Cập Thời Vũ Tống Công Minh, có viết một bức thư sai Ngô Dụng, Lôi Hoành, xuống trọ ở tệ trang đây, để đón túc hạ không chịu theo đi, nên mới bảo Lý Quỳ giết con Quan Phủ để rấp đường không cho ngài về, rồi sẽ đón lên sơn trại…Ngô tiến sinh cùng Lôi huynh đầu?Không ra đây nói chuyện với Đô Đầu đi…

Nói đoạn, thấy Ngô Dụng, Lôi Hoành ở gian góc đi ra, chấp tay cúi lạy Chu Đồng mà rằng:

– Xin huynh trưởng tha tội, điều đó là Tướng Lệnh của Tống Ca Ca chúng tôi…Xin ngài cứ lên sơn trại sẽ biết.

Chu Đồng nói:

– Các ông đối với chúng tôi vẫn là có bụng tốt nhưng sao nỡ làm tàn nhẫn như thế?

Sài Tiến lại lấy lời khuyên nhủ Chu Đồng cho được thỏa thuận.

Chu Đồng nói:

– Vâng, chúng tôi xin đi, chưng trước hết hãy cho tôi được gặp Lý Quỳ đã.

Bấy giờ Lý Quỳ cũng ở buồng bên cạnh chạy ra vái chào Chu Đồng, Chu Đồng trông thấy Lý Quỳ, tấm lòng tức giận lại đùng đùng sôi nổi, không sao nhịn được, bèn đứng dậy chạy thẳng đến, toan đánh nhau với Lý Quỳ cho hả dạ. Sài Tiến, Lôi Hoành, Ngô Dụng thấy vậy, đều giữ Chu Đồng lại để cản ngăn.

Chu Đồng nói:

– Nếu các ngài muốn cho tôi cúng lên sơn trại, thì phải y cho tôi một việc này mới được.

Ngô Dụng nói:

– Đến mười việc, chúng tôi cũng xin theo được, nữa là một việc, xin ngài cứ nói cho nghe.

Mới hay:

Giang sơn trót thú vẫy vùng;

Cùng loài nhiệt huyết ta cùng có nhau?

Danh trường lợi tẩu là đâu,

Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?

Đã mang lấy kiếp nam nhi,

Sao cho thoát khỏi cơ mi mới là…

Trăm năm bóng ngựa câu qua

Họa chăng một tiếng hào hoa ở đời.

Lời bàn của Thánh Thán:

Hồi này vì làm cho Chu Đồng với Lôi Hoành hợp lại một chuyện nửa hồi trên làm ra điệu êm ái hơn nửa hồi sau, làm ra bút dữ dội, như hương đưa, như nhảy thoát khác nhau, mới thấy cái tài tác giả.

Tả Lôi Hoành hiếu với mẹ, chả phải nhiều lời, chỉ qua loa vài nét; bằng vẽ ra một người con hiếu; Tả Chu Đồng không chịu làm giặc cỏ, cũng chả phải nhiều lời chỉ qua loa vài dòng, cũng bằng vẽ ra tấm lòng trong sạch, phản chiếu cười đến Tống Giang, thật rõ chẳng thành thưc, rõ thực nghiêm huấn. Khoe danh tiết, yêu thân mình chẳng chịu nhuốc nhơ…Thấy con người chỉ muốn làm cường đạo. Mới hay người nói: Thà rằng chết với vũ phu, còn hơn mang tiếng thiên thu luận bàn? ?

Cảnh rất kỳ ảo là trong gương xem gương, trong mộng lại mộng; Văn chương kỳ ảo trong lời bình lại nói lời bình, như ở hồi này con hát nói đến”Thành Dự Chương theo đuổi Tô Khanh” thực đối cảnh đẹp, đốt hương thơm, vận tâm hay, giở bút giỏi, viết giấy tốt, nền áng văn kỳ, dù vậy, chả nên không một, chả thể có hai, tả ra ở một hồi này.

“Thành Dự Chương theo đuổi Tô Khanh” vốn một bản hát theo tích cũ diễn ra hợp với hồi này, khiến người sau đọc tới, như hoa trong gương, người đẹp trong rèm, trong ý tứ đã sớm phần minh, nếu đợi nói rõ ra, thì đọc tới không còn thú vị.

Mẹ Lôi Hoành nói rằng:”Lão tôi ngoài sáu mươi tuổi. Chỉ trông cậy vào một đứa con” từng chữ nói ra, đã thấy Lôi Hoành là người con hiếu, vì xét mấy người đã sống ngoài sáu mươi tuổi, có sống lâu mà được con cho ăn cho mặc phân minh, thì cũng quý thay, nay mẹ Lôi Hoành nói với Chu Đồng, nó thấm thía làm sao, khiến cho Chu Đồng thả Lôi Hoành chịu tội thay bạn, thì đủ thấy tấm lòng hiếu với mẹ của Lôi Hoành, mà tấm lòng của mẹ thương con, can thiệp vào khi đày giữa chợ của mẹ Lôi Hoành, cho nên văn này chỉ tả thế thôi đủ thấy cái tình mẫu tử vậy. Trong bài biểutrần tình của Lý Tích có câu:”Kẻ hạ thần mà không có bà, thì không còn sống đến nay; Mà bà hạ thần không có thần thì ngày này không thể sống.” Nay xem đến mẹ Lôi Hoành cũng nói: Lão tôi không có đứa con ấy, thì sống làm sao? Thương thay tiếng nói hiếu nhân, làm cho đọc đến như nghe tiếng quạ kêu đàn vậy? ? ?

Hồi 51: Lý Quỳ đánh chết Ân Thiên Tích – Sài Tiến bị hãm Cao Đường Châu

Khi đó Chu Đồng nói với mọi người rằng:

– Nếu các ngài có lòng cho tôi cùng lên sơn trại, thì xin giết tên Hắc Toàn Phong đi mới được…

Lý Quỳ nghe nói, cáu lên mà rằng:

– À, Anh định giết tôi sao? Việc này là Tướng lệnh của Tiều Cái, Tống Giang chứ việc gì đến tôi mà…

Chu Đồng cũng hăm hăm giận dữ toan xông đến đánh nhau ngay. Hai người kia lại phải túm vào mà khuyên ngăn mãi.

Chu Đồng bảo với ba người kia rằng:

– Nếu có Hắc Toàn Phong ở đó, dẫu chết, tôi cũng không lên sơn trại.

Sài Tiến nói:

– Cái đó thì dễ lắm, để Lý Đại Ca ở đây với tôi, còn ba các ông cứ về sơn trại, cho Tiều Cái, Tống Giang bằng lòng là được rồi.

Chu Đồng nói:

– Hiện nay đã xảy ra sự thể như vậy, chắc là Quan Phủ tư giấy về huyện Vận Thành, mà tróc nã cả nhà tôi, thì làm sao cho đặng?

Ngô Dụng bảo:

– Xin ngài cứ an tâm, có lẽ bây giờ Tống Công Minh đã cho đón quý quyến lên sơn trại rồi đó.

Chu Đồng nghe nói đến đó, mới hơi thư tâm một chút, Sài Tiến bèn sai đặt tiệc thiết đãi Chu Đồng cùng Ngô Dụng, Lôi Hoành rồi chiều hôm đó ba người cùng từ tạ mà đi lên sơn trại, Sài Tiến đóng ba cỗ ngựa, để đưa ba người ra đến cửa quan.

Khi sắp sửa ra đi, Ngô Dụng gọi Lý Quỳ dặn mà bảo rằng:

– Ngươi ở nhà Đại Quan Nhân đây, tất phải giữ gìn cẩn thận, không nên ngông ngáo làm càn, rồi trong một vài tháng nữa, đợi khi Chu Đồng bớt giận, bấy giờ sẽ đón ngươi về sơn trại, mà mời Đại Quan Nhân đây, sẽ lên nhập đảng một thể.

Lý Quỳ nghe nói vâng lời bái biệt quân sư. Đoạn rồi Ngô Dụng, Lôi Hoành cùng Chu Đồng bái biệt Sài Tiến mà cùng nhau đi lên Sơn Bạc. Khi ra khỏi địa phận Thương Châu, ba người giao ngựa cho trang khách đem về, rồi cùng nhau xuống bộ mà đi. Được ít lâu về tới hàng rượu Chu Quý, liền sai người lên báo cho sơn trại biết.

Tiều Cái, Tống Giang nghe báo cả mừng. Dẫn các Đầu Lĩnh dóng trống mở cờ, cùng nhau ra bến Kim Sa để đón. Ngô Dụng và Lôi Hoành đưa Chu Đồng vào đến bến Kim Sa, cùng các vị Đầu Lĩnh thi lễ, rồi cùng nhau lên ngựa, đi vào Tụ Nghĩa Sảnh, mà chuyện trò mọi nỗi hàn huyên.

Chu Đồng nói với các vị Đầu Lĩnh rằng:

– Tôi nay được các ngài có lòng hạ cố cho đón lên đây, thực là cảm ơn vô hạn, song hiện còn gia quyến ở nhà, nếu nhất lỡ Quan Phủ tư giấy lôi thôi bắt bớ, thì biết lấy ai mà cứu cho ra mới được?

Tống Giang cười mà đáp rằng:

– Bà chị cùng cháu tôi đã đưa lên đây lâu rồi, huynh trưởng còn điều chi mà ngại?

Chu Đồng hỏi:

– Hiện nay ở đâu, xin Đầu Lĩnh cho tôi được biết?

Tống Giang đáp:

– Hiện ở với thân phụ tôi đó, xin huynh trưởng qua thăm một chút cho được yên tâm.

Nói đoạn đưa Chu Đồng đến chỗ Tống Thái Công ở, rồi gọi vợ con Chu Đồng ra để cùng nhau trò chuyện.

Vợ Chu Đồng nói với chồng rằng:

– Mấy bữa nay có mấy người đem giấy đến nói rằng: Tiêt Cấp đã nhập đảng ở Lương Sơn, và giục tôi phải xếp dọn hành lý mà lên đây ngay lập tức. Nhân vậy tôi phải đến đây, song đợi mãi không thấy Tiết Cấp về đây, nên không biết đầu đuôi ra sao mà nói.

Bấy giờ Tống Giang mới đem lời trung trực mà xin lỗi với vợ chồng Chu Đồng, rồi mời Chu Đồng cùng Lôi Hoành xuống đóng trại ở dưới núi, và nhất diện sai mở tiệc để ăn mừng.

Bắc Nam buộc mối thâm tình,

Rồi đây nước biếc non xanh còn dài,

Cùng nhau ngang dọc ở đời,

Trăm năm chỉ thẹn với lời bình sinh.

Nói về Quan Phủ Thương Châu đêm hôm ấy không thấy cậu ấm về, thì trong lòng lấy làm nóng nảy lo sợ, liền cho người đi tìm kiếm khắp cả mọi nơi. Đến sáng hôm sau thấy người về báo, là cậu ấm đã bị giết, và hiện còn bỏ xác ở trong khu rừng đó.

Quan Phủ nghe báo như sét đánh ngang tai, lập tức theo đến khu rừng để khám nghiệm. Khi tới nơi thấy con trai nằm chết ở đó, thì vật mình lăn khóc hồi lâu, rồi sai người sửa quan để đem chôn. Đoạn rồi tư giấy sang huyện Vận Thành, tư đi các nơi để dò bắt Chu Đồng. Cách mấy hôm sau thấy công văn huyện Vận Thành tư sang nói rằng:

– Chu Đồng đã đem cả gia quyến mà trốn đi đâu mất.

Còn về phần Lý Quỳ ở bên Sài Tiến, thấm thoát đã hơn một tháng rưỡi, chợt một hôm có một người ra dáng hối hả, đem một phong thư đến cho Sài Đại Quan Nhân.

Sài Tiến xem thư cả kinh mà rằng:

– Nếu vậy thì ta phải thân hành ra đi một phen mới được.

Lý Quỳ hỏi:

– Đại Quan Nhân có việc gì cần cấp như vậy?

– Tôi có một ông chú là Sài Hoàng Thành, hiện ở Cao Đường Châu, nay bị tên Ân Thiên Tích là anh em vợ của Tri Phủ Cao Liêm đến chiếm cứ vườn hoa, làm cho chú tôi phải tức tối, mà đâm ra sinh bệnh, nguy hiểm đến nơi, nay tính mệnh cơ hồ khó sống, nên mới gọi tôi sang đó để dặn dò công việc về sau. Vả chưng chú tôi lại không có con cái gì, thế tất tôi phải sang ngay mới được.

– Đại Quan Nhân định đi, tôi xin theo ngài cùng đi một thể có được không?

Sài Tiến nói:

– Nếu Đại Ca cũng đi một thể cho vui, thì còn gì hơn nữa?

Nói đoạn liền sai người sửa soạn hành lý, chọn mười lăm con ngựa tốt, và chọn mấy người trang khách thạo việc, rồi sáng hôm sau cùng nhau lên ngựa ra đi.

Khi tới Cao Đường thẳng vào trong phủ Sài Hoàng Thành. Sài Tiến để Lý Quỳ cùng đám người nhà, ở ngoài nhà ngoài rồi một mình vào nhà trong thăm chú.

Sài Tiến vào đến trong phòng hỏi thăm bệnh tình, rồi ngồi vào ghế ở bên cạnh nằm, mà nức nở khóc không thôi.

Người vợ kế Sài Hoàng Thành chạy ra khuyên giải mà rằng:

– Đại Quan Nhân đi đường khó nhọc tới đây, hãy xin thư tâm an nghỉ, chớ vội lo nghĩ phiền não làm chi?

Sài Tiến gạt nước mắt mà thăm hỏi đầu đuôi mọi lẽ. Người vợ kế Sài Hoàng Thành đáp rằng:

– Ở đây có Tri Phủ mới đến, tên là Cao Liêm, anh em thúc bá với Cao Thái Úy ở Đông Kinh, kiêm giữ binh quyền bản phủ, nương cậy thế anh, uy quyền rất là lộng lấy. Hắn nuôi một người anh em vợ là Ân Thiên Tích, vẫn thường gọi là Ân Trực Các, tên này tuổi tuy còn nhỏ, song ỷ thế Tri Phủ mà làm càn làm dở, vô sở chí. Sau nhân có mấy đứa hùa đảng, tâu nộp với hắn là nhà ta có vườn hoa rất đẹp, lại có Thủy Đình ỏ trong, hắn bèn dẫn đến hai ba mươi đứa gian đồ vào đây để xem, rồi bắt nhà ta phải dời đi chỗ khác, cho hắn đến ở đây. Hoàng Thành thấy vậy, có bảo hắn là nhà ta vốn dòng dõi kim chi ngọc diệp, hiện có đơn thư thiết khoán của hoàng triều, không có phép nào đến đây mà ăn hiếp thế được? Ngờ đâu thằng cha ấy nhất định không nghe, bắt nhà ta phải dọn đi ngay lập tức. Hoàng Thành phẫn uất mà sinh ra bệnh, cơm cháo không ăn, thuốc men vô ích. Đến bây giờ chỉ còn thiếu một phần chết nữa thôi, nếu không có Đại Quan Nhân sang đây, thì công việc thực là rắc rối, không còn biết trông cậy vào đâu cho được?

Sài Tiến nghe nói thở dài mà rằng:

– Thôi thím cứ yên tâm, cố tìm thầy mà thuốc men cho chú, sau nó có nhũng nhiễu điều chi, cháu khắc cho người về Thương Châu đem đan thư thiết khoán đến đây rồi ta sẽ liệu. Cho dẫu đến ngay trước mặt Thiên Tử cũng không sợ gì cả.

Người thím cảm ơn mà rằng:

– Nếu vậy các công việc, xin Quan Nhân cáng đáng giúp cho, chứ như bây giờ còn làm gì được nữa?

Sài Tiến vâng lời, ngồi trông nom hầu chú hồi lâu, rồi trở ra nhà ngoài nói chuyện cho Lý Quỳ cùng mọi người được biết…

Lý Quỳ nghe vậy, nhảy lên mà rằng:

– Quân ấy thế thì vô lý quá, tôi có đôi đại phủ, để tôi sửa cho nó một bữa đã, rồi sẽ liệu…

Sài Tiến gạt đi mà rằng:

– Lý Đại Ca không nên vội nóng, mình cần chi mà phải đối đầu với nó, dẫu nó ỷ thế là càn, song nhà tôi hiện có sắc chỉ của vua, can chi phải nói với nó?

Còn chỗ kinh sư to bằng mấy nó, khắc là công việc phải phân minh có lẽ nào ta sợ.

– Ối chà! Luật với pháp thì làm gì…Nếu nó dùng được pháp luật thì thiên hạ đã không đến nỗi rối loạn? Tôi đây thì cứ đánh trước rồi mới nói, nếu nó còn thưa kiện ở đâu, thì chém luôn một lũ quan ranh ấy đi một thể chứ cần gì?

Sài Tiến nói rằng:

– Không trách Chu Đồng với Đại Ca không yên với nhau được. Ở đây là chốn cấm thành, có phải đâu như sơn trại nhà bác mà làm liều được hay sao?

Lý Quỳ nói:

– Cấm thành mà làm gì? Ở Giang Châu, ở Vô Vi Quân, dễ thường tôi không giết người đấy hẳn.

Sài Tiến lại mà rằng:

– Được, hãy để tôi xem sao đã…Nếu vô sự thì xin bác hãy cứ ngồi yên đây cho, thế là tốt rồi…

Đương khi nói chuyện, bỗng thấy mấy người tỳ thiếp hất hải chạy ra mời Sài Tiến vào phòng Hoàng Thành.

Sài Tiến chạy vào tới nơi, thấy Hoàng Thành dàn dụa đôi hàng nước mắt, nói với cháu rằng:

– Cháu là một người chí khí hiên ngang, không thể để nhục đến tổ tiên ngày trước, ta nay bị Ân Thiên Tích hiếp bách quá chừng, khó lòng sống được, vậy cháu xin nghĩ đến tình xưa, đem thư vào kêu với Thánh Hoàng để báo thù cho ta, ta đây dẫu thác xuống suối vàng cũng được cảm ơn đôi chút.

Nói xong nấc lên một tiếng, rồi nhắm mắt buông tay mà về nơi tiên giới. Sài Tiết thấy vâïy mà ôm chú khóc lóc kêu gào rất thảm thiết. Người thím sợ khi Sài Tiến quá thương nên bệnh, vội lấy lời uyển chuyển mà than rằng:

– Đại Quan Nhân chớ nên phiền muộn làm chi, phải yên tâm mà lo liệu việc nhà mới được.

– Hiện nay giấy má còn để ở nhà tôi cả,tất phải sai người lập tức lấy về đây, mà làm sớ tâu về triều đình mới được, bây giờ hãy cho khâm niệm quan quách, làm lễ thành phục rồi sau sẽ liệu việc nhà.

Nói đoạn liền theo quan chế, mua sắm quan quách, bày đặt linh sàng rồi cùng nhau làm lễ thành phục. Lý Quỳ nghe tiếng ở trong nhà than khóc, thì giơ tay mắm miệng buồn bực vô cùng, song dò hỏi người nhà không ai nói chụyện cho biết cả.

Bấy giờ trong nhà mời các vị sư đến làm lễ rất là huyên náo. Đến ngày thứ ba Ân Thiên Tích ngà ngà hơi rượu, cưỡi ngựa dẫn hai ba mươi tay nhàn đãng, tay cầm cung tên, miệng thổi sáo địch, lững thững song chơi quanh phố hồi lâu, rồi mượn chén giả say mà nghênh ngang vào phủ Hoành Thành. Khi tới nơi liền kìm ngựa đứng ngoài cửa, thét gọi người nhà Hoàng Thành ra hỏi:

Sài Tiến nghe nói, vội vàng mặc đồ nguyên tang chạy trở ra để chào, Ân Thiên Tích ngồi trên mình ngựa hỏi:

– Ngươi là người nào trong nhà này?

Sài Tiến nói:

– Tôi là Sài Tiến, là cháu Hoàng Thành ở đây.

– Hôm nọ ta bảo phải dọn tất cả đi, làm sao lại còn lẩn quẩn ở đó?

– Vì chú tôi bị đau nặng, nên chưa dọn đi được. Hôm qua chẳng may chú tôi đã tạ thế rồi, vậy xin để đến hết tuần thất chúng tôi sẽ dọn đi ngay.

– Cái quái này, ta chỉ hạn cho ba ngày phải dọn đi ngay, bằng không ta gông cổ lại, đánh đủ một trăm trượng cho biết phép.

Sài Tiến nói:

– Trực Các không nên thế, nhà tôi đây cũng là dòng kim chi ngọc diệp, hiện có đan thư thiết khỏan của tiên triều, ai không là phải kính.

– Ngươi đem đây ta xem?

– Hiện tôi còn để ở Thương Châu, đã cho người về lấy rồi.

Ân Thiên Tích nghe nói cả giận mà rằng:

– Quân này nói càn, có thệ thư thiết khoán, thì ta sợ gì? Chúng bay đâu đánh thằng này cho ta?

Khi đó Hắc Toàn Phong Lý Quỳ nấp trong khe cửa, nghe thấy Ân Thiên Tích thét đánh Sài Tiến, liền mở tung cửa thét lên một tiếng, rồi nhảy ra trước chận Thiên Tích xuống để mà đánh.

Bọn hai mươi người kia toan sấn vào để đánh tháo, bị Lý Quỳ giơ tay gạt cho mấy anh ngã cả ra, rồi ù té chạy mất cả, Lý Quỳ lại quay lại vớ Ân Thiên Tích, thượng cẳng chân hạ cẳng tay đánh luôn một chập. Sài Tiến hết lời cản ngăn không được, Lý Quỳ đánh luôn một lúc, thì Ân Thiên Tích đã trợn mắt ngay người mà chết ra đó.

Sài Tiến lấy làm lo sợ, kéo Lý Quỳ vào nhà trong mà bảo rằng:

– Chết nỗi! Bác làm thế, thì nguy hiểm quá, bác không ở được đâu. Phải lập tức mà trốn về Lương Sơn, còn đây mặc tôi mới được.

Lý Quỳ nói:

– Tôi về thì khó gì, nhưng Đại Quan Nhân ở đây tất là nguy hiểm, như thế tôi đi sao đành?

Sài Tiến nói:

– Tôi đây đã có đan thư thiết khoán không ngại gì cả, bác cứ về đi, chậm trễ là nguy mất cả.

Lý Quỳ vâng lời, cầm đôi song đao phủ, lấy ít tiền bạc,rồi theo lốicửa sau mà trốn về Lương Sơn.

Được một lát có hơn hai trăm người vác gươm giáo đến vây nhà Hoàng Thành, tìm bắt Lý Quỳ không thấy, liền trói Sài Tiến mà giải vào phủ.

Tri Phủ Cao Liêm thấy Ân Thiên Tích bị người ta đánh chết, thì trong lòng tức bực như xé ruột gan, đương nghiến lợi nghiến răng để đợi bắt người về tra hỏi. Khi thấy chúng giải Sài Tiến đến. Tri Phủ liền thét lên hỏi rằng:

– Đồ súc sinh sao dám đánh chết người nhà quan, như thế phỏng đáng tội gì?

Sài Tiến nói:

– Chúng tôi là con cháu Sài Thế Tôn khi xưa, hiện trong nhà có đan thư thiết khoán của Thái Tổ tiền triều để lại ở Thương Châu. Nay nhân qua đây thăm chú là Sài Hoàng Thành, chẳng may chú mất, vẫn còn định tang ở trong nhà. Dè đâu tên Ân Thiên Tích đem hai ba mươi tên người nhà đến, toan đuổi chúng tôi mà chiếm lấy gia tài, tôi có toan phân giải đầu đuôi, thì Trực Các nhất định không nghe mà sai người đánh ngay lập tức. Sau có tên người nhà tôi là Lý Đại đến che đỡ cho tôi, chẳng may đánh phải Trực Các, chứ tôi đây không có can thiệp.

Cao Liêm quát hỏi:

– Tên Lý Đại ở đâu?

– Bẩm nó sợ bỏ chạy mất rồi.

– Nó là một thằng người nhà, nếu không có lệnh của chủ, khi nào nó dám đánh? Việc này chắc là ngươi thủ xướng ra, rồi lại buông tha cho nó chạy, không tra tấn, thì khi nào người chịu thú.

Nói đoạn quát lính đem Sài Tiến ra để đánh tấn.

Sài Tiến kêu:

– Việc đó là tên Lý Đại, nó cứu chủ lỡ đánh, chứ việc gì đến tôi? Vả chăng tôi có thệ thư thiết khoán của nhà vua, có lẽ đâu dám thiện tiện mà gia hình ngay được?

– Vậy thệ thư ở đâu?

– Tôi đã cho người về Thương Châu để lấy rồi.

Tri Phủ làm bộ giận dữ quát lên rằng:

– Tên này dám kháng cự với quan trên, chúng đâu, cứ đem đánh đi cho ta.

Chúng vâng lời, kéo Sài Tiến ra đánh mấy chục trượng, nát thịt, vọt máu tươi ra, không sao mà chịu nổi. Sau Sài Tiến biết thế không chống nổi, bèn chịu nước thú nhận là sai tên Lý Đại đánh chết Ân Thiên Tích.

Tri Phủ liền sai đóng gông tử tù nặng hai mươi nhăm cân, giam xuống nhà ngục, và nhất diện sai đem xác Ân Thiên Tích về để mai táng.

Vợ Cao Liêm thấy anh em bị chết, liền lập chí báo thù, sui Cao Liêm tịch ký nhà cửa Sài Hoàng Thành, bắt hết người nhà giam vào trong ngục.

Trời xanh khéo cũng trêu ngươi,

Đem mồi phú quý nhử người tham ngu.

Xưa nay tục tử phàm phu,

Biết đâu thiên lý mà lo tránh mình.

Nói về Lý Quỳ hôm đó từ giã Sài Tiến, gấp đường về thẳng Lương Sơn rồi vào Đại trại để chào các vị Đầu Lĩnh. Chu Đồng trông thấy Lý Quỳ lại đùng đùng nổi giận, vác ngay đao xông đến để đánh.

Lý Quỳ cũng múa song phủ ra đấu với Chu Đồng.

Các vị Đầu Lĩnh thấy vậy vội vàng chạy lại can ngăn, rồi Tống Giang nói với Chu Đồng rằng:

– Những việc dạo trước là vì Ngô Quân Sư thấy huynh trưởng không chịu đến đây, mới làm kế như vậy, thực không có can thiệp gì đến Lý Quỳ cả. Vậy xin huynh trưởng đã lên đến đây thì bỏ hết chuyện đó, đừng chấp nhất làm gì phải cùng nhau hiệp lực đồng tâm để cùng toan làm đại nghĩa mới được.

Nói đoạn liền quay ra bảo Lý Quỳ vào nói lại với Chu Đồng.

Lý Quỳ trợn hai mắt tròn xoe mà nói lên rằng:

– Có lẽ nào tôi phải thế? Tôi ở sơn trại đã bao lâu, kể cũng có công lao đôi chút, còn hắn ta mới đến đây có được điều gì, mà bắt tôi phải nói lại?

– Việc trước dẫu có tướng lệnh của Quân Sư, nhưng kể tuổi ra thì ông ta đáng là anh ngươi, ngươi nên nói lại với ông ta, ta sẽ lạy ngươi là hết.

Lý Quỳ bị Tống Giang bức bách, không thể đừng được, đành phải bảo với Chu Đồng rằng:

– Cứ lý ra, tôi đây cũng chẳng sợ gì, nhưng Ca Ca ta đã nói vậy, thì ta cũng phải nể mặt nể lòng mà nói lại đây thôi.

Tống Giang lại bắt Lý Quỳ phải lạy Chu Đồng hai lạy, và sai làm tiệc ở trong sơn trại để dàn xếp cho đôi bên thỏa thuận với nhau.

Trong khi ăn tiệc, Lý Quỳ kể đến chuyện Sài Tiến ở Cao Đường Châu. Tống Giang nghe rõ đầu đuôi liền cả kinh mà rằng:

– Nếu ngươi đánh chết Ân Thiên Tích mà bỏ đấy để trốn, thì tất là nguy hiểm đến Đại Quan Nhân, không thể nào tránh được?

Ngô Dụng bảo với Tống Giang rằng:

– Việc đó không hề chi! Cứ đợi Đới Tung về đây sẽ hiểu… Lý Quỳ hỏi:

– Đới viện trưởng đi từ bao giờ?

Ngô Dụng đáp:

– Bữa trước ta sợ ngươi ở trong nhà Sài Quan Nhân, hoặc lỡ có sinh ra sự gì, nên phải bảo đến đó dò xem. Nay đến đó không gặp ngươi, thì tất nhiên ông ta phải sang Đường Châu để thăm hỏi, có lẽ cũng sắp về tới đầy thì phải.

Nói vừa dứt lời, thì thấy tiểu lâu la báo:

– Đới viện trưởng đã về.

Tống Giang nghe báo vội ra đón tiếp, cùng vào đại sảnh rồi hỏi đến chuyện Sài Đại Quan Nhân.

Đới Tung nói:

– Khi tôi đến Thương Châu, nghe tin Lý Quỳ đã theo Sài Đại Quan Nhân đi sang Cao Đường, tôi lại vội vàng lần ngay sang đó. Sau đến Châu Cao Đường thấy họ đồn ầm lên rằng: Ân Thiên Tích tranh chiếm nhà cửa Sài Hoàng Thành là chú Sài Đại Quan Nhân. Sài Đại Quan Nhân đã bị bắt giam vào trong ngục, còn nhà của Sài Hoàng Thành đều bị Tri Phủ là Cao Liêm chiếm nhận lại còn đánh khảo Sài Đại Quan Nhân rất là tàn nhẫn.

Tiều Cái nghe nói, liền bảo với mọi người rằng:

– Sài Đại Quan Nhân vốn có ân to cùng bọn sơn trại ta đây, nay mắc phải nguy hiểm như thế lẽ nào mà không cứu cho đành. Vậy tôi phải đi qua xuống đó, xem sự thể ra sao mới được.

Tống Giang nói:

– Ca Ca là một ông chủ sơn trại, không thể đi liều thế được. Vả tôi với Sài Đại Quan Nhân, lại có ơn nặng từ xưa, vậy tôi xin thay Ca Ca để đi chuyến này…

Ngô Dụng nói:

– Cao Đường Châu thành trì tuy nhỏ, song lương sẵn người đông không thể khinh địch được, việc này phải phiền Lâm Xung, Hoa Vinh, Tần Minh, Lý Tuấn, Lã Phương, Quách Thịnh, Tôn Lập, Âu Bằng, Dương Lâm, Đặng Phi, Mã Lân, Bạch Thắng dẫn ba nghìn quân mã bộ đi làm tiên phong. Trung quân chủ súy thì có Tống Công Minh, và Ngô Dụng, Chu Đồng, Lôi Hoành, Đới Tung, Lý Quỳ, Trương Hoành, Trương Thuận, Dương Hùng, Thạch Tú dẫn ba nghìn quân mã bộ đi tiếp ứng.

Bàn định xong rồi, hai mươi hai vị Điểm quân mã, và từ biệt Tiều Cái mà xuống núi kéo thẳng sang Cao Đường Châu.

Khi tiền quân Lương Sơn Bạc kéo đến địa hạt Cao Đường, đám thám tử liền báo cho tri phủ Cao Liêm biết. Cao Liêm nghe báo cười nhạt mà rằng:

– Quân giặc cỏ xưa nay vẫn lẩn núp ở vũng nước Lương Sơn, ta thường định đem quân đến bắt. Vậy nay chúng kéo nhau đến đây mà chịu tội, thì còn gì hay hơn nữa? Thực là Trời giúp cho ta thành công đó.

Nói đoạn truyền lệnh sắp sửa quân mã, để ra nghênh địch, và sức cho dân phu coi giữ trên thành? Bấy giờ các quan trên từ Đô Thồng Giám Quân, dưới đến Thống Lĩnh, Thồng Chế cùng Đề Hạt, được lệnh của Tri Phủ, lập tức đem các bộ quân mã ra điểm duyệt ở Giáo Trường, rồi sắp thành đội ngũ mà ra cửa thành dàn trận.

Cao Liêm lại có ba quân riêng, gọi là “Phi thiên thần binh”. Toàn là bọn hảo hán khỏe mạnh ở Sơn Đông, Hà Bắc, Giang Tây, Hồ Nam và Lưỡng Hoài. Lưỡng Tiết mộ đến cả. Tri Phủ mặc áo giáp đeo kiếm, cưỡi ngựa dẫn quân ra thành, truyền lệnh các tướng bày trận chỉnh tề, rồi đem ba trăm thân binh bày hàng ở giữa, sai đánh trống khua chiêng, để đợi quân Lương Sơn kéo đến.

Bên kia Lâm Xung, Hoa Vinh, Tần Minh dẫn năm nghìn quân mã tới nơi, cũng dàn thành trận thế, đôi bên cờ trống nổi lên, rồi cùng đem cung tên ra để bắn áp vòng trận.

Khi đó mười hai vị Đầu Lĩnh đều kìm ngựa, đứng trước cửa trận, rồi Lâm Xung hoành cây bát xà mâu, vỗ ngựa xông ra quát lên rằng:

– Bớ tên giặc họ Cao, mau mau ra đây chịu tội.

Cao Liêm nghe nói, liền dẫn hơn ba mươi tên hạ tướng ra trước cửa trận; rồi kìm ngựa bảo Lâm Xung rằng:

– Chúng bay không biết tội là chết đến nơi, lại còn dám đến xâm phạm thành trì của ta nữa hay sao?

Lâm Xung lại thét lên rằng:

– Mày là đồ mọt già hại dân, nay mai ta đánh đến kinh sư, ta sẽ đem cả thằng Cao Cầu là đồ dối vua hại dân, mà chặt xác ra làm muôn đoạn để trừ hại cho dân mới được.

Cao Liêm thấy vậy, quay hỏi chư tướng:

– Ai ra bắt thằng giặc ấy cho ta?

Nói đoạn trong đám quân quan có một viên Thống Chế, tên là Can Trực, múa dao vỗ ngựa ra để đánh. Đôi bên đánh nhau chưa được năm hợp, Can Trực bị Lâm Xung phóng sà mâu đâm vào giữa bụng, ngã lăn xuống ngựa.

Cao Liêm thấy vậy cả kinh hỏi lên rằng:

– Anh em ai ra báo thù được?

Vừa dứt lời, thì quan Thống Chế là Ôn Vân Bảo, tay cầm đao trường, mình cưỡi ngựa lang, đeo nhạc xoang xoảng xông ra để đánh Lâm Xung.

Tần Minh thấy vậy, liền thét lên rằng:

– Ca Ca hãy nghỉ tay, để tiểu đệ chém thằng này cho.

Lâm Xung nghe nói, bèn kìm ngựa, nhường cho Tần Minh ra đánh Ôn Văn Bảo. Đôi bên đánh nhau được hơn mươi hiệp. Tần Minh bèn lừa miếng phá đĩnh, để cho Vân Bảo xông vào, rồi đánh luôn một côn vỡ bể óc ra mà chết lộn xuống đất, còn con ngựa chạy về bản trận.

Cao Liêm thấy mất hai viên tướng, liền rút thanh Thái A bảo kiếm ở lưng ra, miệng đọc mấy câu lẩm nhẩm mà quát lên rằng:

– Mau…

Đoạn rồi thấy trong đám quân Cao Liêm một trận hắc khí trông lên, tung cao đến lưng chừng trời, đùng đùng nổi gió cuốn cờ, chẳng khác gì lay trời đất chuyển, mà xông sang mặt trận Lâm Xung.

Bọn Lâm Xung, Hoa Vinh, Tần Minh cùng các tướng, đều tối mờ mịt không nhìn rõ được nhau, các ngựa ra trận cũng kinh sợ thét gào sôi lên sùng sục. Chúng thấy vậy đều phải quay ra để tháo chạy. Cao Liêm liền giơ kiếm vẫy ba trăm thần binh, xông sang đánh giết, rồi quan quân thúc đến để giúp sức thêm vào. Quân mã của Lâm Xung đều sợ kinh tán loạn, chạy ngược chạy xuôi, năm nghìn quân mã chết hết hơm nghìn, còn thì kéo chạy ra ngoài năm mươi dặm mới dám hạ trại.Cao Liêm thấy quân mã bỏ chạy đã xa, bấy giờ mới thu quân vào thành Cao Đường để nghỉ.

Bên kia nhân mã của Tống Giang kéo đến, xuất tiếp đón vào trong trại rồi kể chuyện cho mọi người nghe.

Tống Giang cả kinh hỏi Quân Sư Ngô Dụng rằng:

– Chẳng hay đó là phép gì mà nguy hiểm đến thế?

Ngô Dụng nói:

– Cái đó chắc là một phép yêu ma, nếu ta có cách gì làm cho quay chuyển lửa thì tất là phá được.

Tống Giang nghe nói, vội mở Thiên Thư ra xem, thấy trong quyển thứ ba có phép quay gió chuyển lửa để phá trận, bèn lấy làm cả mừng, đọc thuộc các câu thần chú, cùng các bí quyết, rồi chỉnh đốn quân mã, sáng hôm sau ăn cơm rất sớm, để tiến vào đánh thành.

Bấy giờ Cao Liêm nghe báo, vội điểm bọn quân mã đắc thắng, cùng ba trăm thần binh kéo ra để đánh. Tống Giang đao kiếm xông ra trước trận,trông thấy đám quân Cao Liêm có một dãy cờ đen, Ngô Dụng liền bảo Tống Giang rằng:

– Toán cờ đen đó là đám thần sư cả, hôm nay chắc họ lại dùng phép, vậy ta có cách gì mà địch được chăng?

Tống Giang nói:

– Tôi đã có cách phá trận rồi, không ngại gì? Các tướng sĩ cứ vững tâm tiến đánh mới được.

Bên kia Cao Liêm dặn các tướng sĩ không được hăng hái khêu đánh, cứ nghe thấy hiệu bài đồng là hết sức ra tróc nã Tống Giang, sẽ có trọng thưởng. Cao Liêm ngồi trên mình ngựa, đeo hai lá bài đồng trên có vẽ rồng truyền phượng, tay cầm thanh bảo kiếm xông ra trước trận.

Tống Giang bèn trỏ Cao Liêm mà nói rằng:

– Hôm qua ta chưa tới đây, đám anh em ta lỡ thua một trận, vậy hôm nay ta quyết đem các ngươi chém hết mới nghe.

Cao Liêm quát rằng:

– Đồ phản tặc mau mau xuống ngựa chịu trói cho khỏi bẩn tay ta.

Nói đoạn cầm thần kiếm khua lên rồi trong miệng đọc lẩm nhẩm mấy câu, mà quát lên rằng “mau… “

Bấy giờ lại thấy một vùng hắc khí bốc lên, mà sắp sửa tan ra thành gió. Bên này Tống Giang thấy vậy, vội đọc mấy câu thần chú, tay tả bắt quyết, tay hữu cầm kiếm, trỏ một cái, rồi cũng quát lên rằng:

– Mau…

Đoạn rồi thấy đám hắc khí kia bỗng quay lại mà xông vào bản trận Cao Liêm, Cao Liêm thấy trận gió quay về, bèn vội lấy bài đồng gõ vào thanh kiếm, thì trong đám thần binh, bỗng có trận gió cuốn cát tung lên, rồi hiện ra một đàn ác thú thẳng xông sang trận Tống Giang.

Tống Giang đương khi đắc sách, đương thúc giục quân mã sấn vào, bỗng thấy một đàn ác thú, thì ai nấy kinh hoàng hãi hùng rồi Tống Giang cắp kiếm mà quay ngựa chạy trước, còn các vị Đầu Lĩnh cũng kéo chạy theo.

Bấy giờ Cao Liêm cầm kiếm vẫy lên, ba trăm thần binh tiến trước, các quan quân tiến sau, xông vào đánh giết. Quân mã Tống Giang thua chạy, thiệt hại không biết tới đâu mà kể. Cao Liêm theo đuổi ngoài hai mươi dặm, mới rút quân về thành.

Tống Giang dẫn quân mã ra đóng ở ngoài thổ phi, kiểm điểm các Đầu Lĩnh không thiếu một ai, bèn cùng nhau tụ họp để nghĩ kế, và hỏi Quân sư Ngô Dụng rằng:

– Nay đem quân hai lần đến đánh Cao Đường đều bị thất bại, không còn kế gì mà phá được thần binh, vậy biết làm sao cho được?

Ngô Dụng nói:

– Họ đã giỏi dụng thần binh, thì đêm nay họ tất đến cướp trại. Vậy ta nên phòng bị trước kẻo nguy. Chốn này chỉ nên lưu một ít quân mã để lại còn thì phải dẫn quân vào đóng cả ở trại cũ mới xong.

Tống Giang nghe nói, truyền cho Dương Lâm, Bạch Thắng ở lại coi trại, còn các vị Đầu Lĩnh đều dẫn quân đến trại cũ để đóng.

Dương Lâm, Bạch Thắng vâng lệnh, dẫn quân ra đóng ở vùng cỏ, cách trại quân chừng nửa dặm đường để đợi. Vào khoảng cuối canh một, chợt thấy sấm đùng đùng nổi lên, rồi Dương Lâm, Bạch Thắng cùng hơn ba trăm quân nom ra thấy Cao Liêm đi dẫn bộ ba trăm thần binh mà đi sát vào trong trại. Khi vào tới nơi thấy trại không bỏ vắng. Cao Liêm bèn kéo quân mau mau trở ra. Dương Lâm, Bạch Thắng thấy vậy, liền sai quân reo hò ầm lên, rồi sai quân chĩa nỏ dương cung bắn.

Cao Liêm sợ trúng kế, đành phải kéo thần binh mà chạy mau cho thoát, ba trăm thần binh cũng hất hả sợ kinh chạy tán loạn đi mỗi nơi một ngả. Quân Dương Lâm, Bạch Thắng phóng nỏ bắn liều, bất ý có một mũi tên bắn ngay vào vai tả Cao Liêm, rồi kéo ùa nhau ra đuổi đánh. Đuổi được một quãng, Dương Lâm thấy Cao Liêm chạy đã xa xa, bèn rút quân về mà không theo nữa. Bấy giờ gió im mây lặng, bóng trăng sao lại sáng giữa trời, Dương Lâm, Bạch Thắng lần được chổ thao phi, bắt được hai mươi tên thần binh bị đạn, liền đem nộp Tống Giang và nói cho rõ tình hình gió mưa khi cướp trại cho Tống Giang nghe.

Tống Giang, Ngô Dụng nghe nói cả kinh mà rằng:

– Ở đây chỉ cách có năm dặm đường, sao không thấy gió mưa chi cả.

Chúng nói:

– Đó là phép thuật yêu ma, lấy nước ở quanh đâu đây, mà làm mưa từng đám nhỏ thôi…

Dương Lâm nói:

– Bấy giờ Cao Liêm đã rũ tóc chống gươm sát vào trong trại, sau bị một múi tên mới chịu rút quân về thành, chúng tôi đã toan đuổi đánh, song ít người nên không dám đuổi nữa.

Tống Giang liền thưởng công cho Đầu Lĩnh, Bạch Thắng, sai đem chém những tên thần binh bị đạn, và rồi cắt các vị Đầu Lĩnh chia đóng ra làm bảy tàm trại nhỏ, để vậy giữ lấy trại lớn ở giữa, và nhất diện cho người về sơn trại lấy thêm viện binh.

Hôm đó Cao Liêm bị mũi tên, trở về trong thành dưỡng bệnh, truyền cho quân sĩ hết sức giữ thành, đợi khi khỏi hẳn vết thương, mới ra đối trận đánh bắt Tống Giang.

Tống Giang thấy hai phen thất bại, thiệt hại quân mã rất nhiều, trong lòng lấy làm lo phiền áy náy, bàn với quân sư rằng:

– Hiện nay chỉ có một mình Cao Liêm còn không phá nổi, nếu nay mai lỡ lại có thêm một vài toán quân nào đó, thì làm sao mà đối địch được?

Ngô Dụng nói:

– Tôi thiết tưởng phá được Cao Liêm thì chỉ cho một kế này là diệu hơn cả…mà nếu người này không chịu đến cho, thì thành Cao Đường không ngày nào phá được, mà tính mệnh Sài Đại Quan Nhân tất là nguy mất.

Mới hay:

Giang hồ nghĩa nặng nghìn cân

Vào sinh ra tử tấm thân xem thường

Nam nhi đã vững cương thường

Tiếng thơm nghĩa hiệp để nhường cho ai?

Gió mưa chi ngại chuyện đời

Gan vàng dạ sắt giữa trời một ta

Ví không từng trải phong ba

Nước non ai biết ta là thủy chung.

Lời bàn của Thánh Thán:

Hồi này chép vào bản chuyện Sài Tiến bị hãm, song có một đoạn ở đầu hồi Chu Đồng muốn giết Lý Quỳ, độc giả nhận lầm rằng, còn chút cuối ở hồi trên, mà chẳng hay rằng hồi này với chút cuối hồi trên có liên hệ đến nhau, như là sẵn chảo rán bánh, mượn gió bẻ măng, tức lưu Lý Quỳ ở lại, để xẩy ra chuyện rắc rối sau này, dùng bút lực đến như thế vậy…Ta thường nói những ai đọc sách, đừng vội cho tác giả đã lầm như một đoạn văn tự này, chẳng dối ai được mãi, mà đây đã nói ra về sự chia hồi, thì nên nghĩ cho ra từng chỗ một, không thể coi thường sự viết văn.

Vợ Sài Hoàng Thành chép là Kế thất, để càng làm rõ Sài Đại Quan Nhân thế tất phải đến thăm nom cho chú, vả lại Hoàng Thành không con trai gái, mà vợ chỉ là Kế, do đó gặp phải ngày người mất nhà ta, thì nguy lắm vậy, sao xiết nói thay? Kế thất tuổi thì còn nhỏ, tuổi nhỏ đâu áp được chúng khinh lờn; Kế thất mới về chưa được bao lâu, mới về thì ân uy không phục nổi lũ người nhà. Kế thất chưa định nổi chí, con cái chưa có, lại một mối lộ, ngần ấy thứ nguy nan của chú, tất nhiên Sài Đại Quan Nhân phải đến thăm chú, do cái thế bất đắc dĩ vậy.

Than ôi! Ta xem hồi này, thấy Cao Liêm dựa thế Cao Cầu, ngang tàng ở một địa phương chẳng nể nang gì. Ân Thiên Tích lại dựa vào thế của chồng chị, cũng ngang tàng ở một địa phương, chẳng nể nang gì khiến ta thêm buồn mà nghĩ rằng: Sao chúng tệ thay? Hỡi ôi! Dựa thế Cao Cầu có phải một Cao Liêm mà thôi đâu? Nói đến Cao Liêm mới chỉ một người, nếu thế Cao Cầu mà dựa được để muốn làm gì cũng được, tất phải có hàng trăm tên Cao Liêm, đã có hàng trăm Cao Liêm, thì lại có hàng bao nhiêu tên Ân Trực Các nữa, vì thế Cao Liêm cũng muốn làm gì thì làm, những kẻ dựa thế tất nhiên xu phụ, như thế một Cao Cầu có hàng trăm Cao Liêm, một Cao Liêm có hàng trăm Ân Trực Các…Tính ra con số hàng ngàn Ân Trực Các ấy, mỗi anh lại hàng hai ba răm đứa dựa quyền, nhâu nhâu như đàn hồ lũ chó, thì thiên hạ sao yên? Hỡi ơi! Như thế mới đầu Cao Cầu chưa biết, biết mà ngăn cầm, thì không còn phải Cao Cầu, nay biết còn dung túng, đó Cao Cầu lộ tướng của Cao Cầu.

Hồi này tả Tống Giang rất con người quyền trá, từng chỗ giở ngón gian hùng, lại rất rõ gian ngoan, ở chỗ Lý Quỳ không chịu nói lại với Mỹ Nhiêm Công, mà Tống Giang khuyên lơn rào chắn cả hai người, đến nỗi đổ vạ cho Quân sư ra lệnh, rồi kết lại xin lạy Lý Quỳ, thì đủ biết rằng, ngoài miệng biến như mây gió, trong lòng ghê gớm như yêu ma, cũng chả lại gì nữa? Hỡi ôi! Đem cái tài của Thị Nại Am, có khó gì mà không tả nổi ra một vai trò Tống Giang nói ra như thế…như thế…Đại phàm chỗ nào tả Tống Giang con người hiểm ác, lại phải đưa vai trò lừa dối Lý Quỳ như đứa trẻ con, đúng như lối chép bút Sử Ký vậy.

Tả Tống Giang sau khi nhập bọn, khi có việc gì phải hạ sơn, Tống Giang lại khuyên Tiều Cái: Ca Ca là ông chủ sơn trại, không nên khinh xuất; như đánh Chúc Gia Trang, Châu Cao Đường đều ngăn như thế. Đó là tác giả muốn nêu rõ tội Tống Giang, đem quyền thuật để bịp cả Tiều Cái để rồi tha hồ tự một tay mình, làm gì thì làm chả được. Vì sao? Vì Tiều Cái đi thì công về Tiều Cái, Tiều Cái không đi thì công ở Tống Giang, đó là một; Tiều Cái đi thì Tống Giang làm phó tướng, mọi người vâng lệnh Tiều Cái, Tiều Cái không đi thì Tống Giang làm chủ soái, mọi người vâng lệnh Tống Giang, đó là hai vậy. Hỡi ôi trở ra đánh giặc thì được ngôi tôn, khi trở về sơn trại thì công cao. Muốn chiếm ngôi thứ nhất có thừa uy thế vậy. Đó là Tống Giang muốn chèn lấn Tiều Cái, mà tác giả muốn làm cho rõ tội hiểm ác, theo đúng lối bút viết Sử Ký vậy. Cướp trại chỉ là một việc thử sức của binh gia, dụng binh mà phải đến nỗi cướp trại, một lần chẳng trúng lại hai lần, đều là lối chơi đùa của lũ con gái nhỏ tung ném mà thôi, nay Thi Nai Am chẳng dừng được mà phải tả ra, ý muốn ngăn giữ Cao Liêm, để cho người tìm xa lấy Công Tôn Thắng, đem Công Tôn Thắng ở xa về, tất phải ngăn bước tiến của Cao Liêm, dụng ý vào một mũi tên bắn trúng của Dương Lâm, mới tả ra sự cướp trại vô tình mà bị, cho rõ cái mưu Ngô Dụng tính ra.

Hồi này, vốn tả ra Sài Tiến bị hãm hại, lại đến khoe tài thần binh của Cao Liêm, cũng chẳng phải vì đó mà khó cứu Sài Tiến, chính vì đó để lôi kéo lấy Công Tôn Thắng, làm cho mực nồng bút sắc, tả ra văn như thể liên châu mà xuống, nối bậc mà lên, chính ra chẳng biết rằng, vì Sài Tiến để mời Công Tôn, hay đón Công Tôn do cứu Sài Tiến, độc giả đừng vội hiểu lầm người chép truyện, phải nhận nổi ý tứ xem sao?

Tống Giang nếu thực có Thiên Thư của Huyền Nữ trao cho, làm sao mà lại không phá nổi binh thần? Nếu Thiên Thư của Huyền Nữ không phá nổi binh thần, Thi Nại Am cũng chẳng coi trọng Thiên Thư ấy nữa? Nay cần bày ra ở chỗ này cho rõ Thiên Thư, Thiên Thư bảo rằng của Huyền Nữ, cũng đủ biết thực giả thế nào rồi? Ngày trước nói rằng: Suốt ngày xem đọc Thiên Thư, đến đây mới chủ tâm nhờ lời thần chú, há có đâu suốt ngày đọc Thiên Thư, mà bây giờ mới nghĩ đến thần chú rõ ràng trước kia nói được Thiên Thư là dối, mà nay nhờ thần chú cũng giả dối nốt. Ngài nói rằng: Thiên Thư chỉ cùng với sao Thiên Cơ cùng xem, nay chợt nói rằng: Quân sư yên tâm, tôi đã có phép…Há có đâu hai người cùng nhau xem sách suốt ngày, mà nay Nguyên Soái đã quên ngay được? Rõ ràng trước kia hai người chưa từng cùng xem với nhau, vì nay sao một Tống Giang nhớ được? ? ? Tội ác Tống Giang đến thế, gấp hàng trăm lần tung lửa hồ kêu vậy.

Hồi 52: Đới Tung vâng mệnh, tìm Công Tôn Thắng – Lý Quỳ sốt ruột, chém La Chân Nhân

Khi đó Tống Giang nghe lời quân sư liền hỏi lại rằng:

– Quân sư định cho tìm ai, để phá được trận của Cao Liêm bây giờ?

Ngô Dụng nói:

– Muốn phá được Cao Liêm, thì tất phải cho người sang Kế Châu tìm Công Tôn Thắng Tiên Sinh mới được.

– Chuyến trước Đới Tung đi đã bao nhiêu ngày, cũng không tìm thấy, phen này lại định đi tìm nữa, thì biết đâu mà thăm dò cho ra?

– Ở Kế Châu có bao nhiêu huyện, tổng, xã, thôn, không tìm cho khắp, thì thấy làm sao được? Vả Công Tôn Thắng là người tu hành học đạo, chắc là ở vào những nơi non cao nước rộng, hoặc các nơi động lớn chùa to, phen này phải dặn Đới Tung đi tìm khắp những chỗ ấy, thì làm gì mà không tìm thấy?

Tống Giang nghe nói, liền gọi Đới Tung đến để dặn đi sang Kế Châu.

Đới Tung nói:

– Chúng tôi vâng lệnh xin đi, song xin Đầu Lĩnh cắt cho một người nữa để cùng đi mới tiện.

Ngô Dụng nói:

– Viện Trưởng dụng phép thần hành, thi ài theo kịp được, mà cho người theo?

Đới Tung nói:

– Nếu có ai cùng đi, thì tôi buộc giáp mã vào trái đùi rồi cũng đi nhanh được ngay.

Lý Quỳ đứng bên cạnh ứng lên rằng:

– Tôi xin đi với Viện Trưởng.

Đới Tung nói:

– Nếu bác muốn đi, thì phải ăn chay như tôi, mà tôi bảo cái gì phải nghe như thế mới được.

Lý Quỳ cả quyết mà rằng:

– Cái đó có khó gì, các công việc tôi xin theo cả.

Tống Giang, Ngô Dụng, dặn Lý Quỳ rằng:

– Đi đường phải nên cẩn thận, mau mau được việc rồi về, chớ có lôi thôi sinh sự mà khốn đó.

Lý Quỳ nói:

– Tôi đánh chết Ân Thiên Tích, làm cho Sài Đại Quan Nhân phải bị nạn lây, có khi nào tôi không muốn cứu, phen này quyết nhiên là không sinh sự chi cả.

Nói đoạn hai người cùng giắt dao lưng, đeo khăn gói rồi từ biệt Tống Giang, cùng các Đầu Lĩnh, mà lên đường thẳng lối Kế Châu. Đi được ba bốn mươi dặm đường, Lý Quỳ bỗng đứng dừng lại bảo Đới Tung rằng:

– Ca Ca mua vài chén rượu, uống rồi đi có thú không?

Đới Tung nói:

– Nếu anh muốn theo ta, để cùng làm phép thần hành, thì phải ăn chay mới được.

Lý Quỳ nói:

– Thế ăn dăm ba miếng thịt cũng được chứ sao?

Đới Tung gạt đi mà rằng:

– Không được, anh lại thế thì không được, bây giờ đã sắp chiều rồi, đi mau vào tìm chỗ nghỉ trọ, để sáng mai đi sớm thôi.

Nói đoạn hai người đi được vài mươi dặm đường nữa, thì trời sắp tối, liền kéo nhau vào một hàng cơm để trọ.

Khi vào tới nơi, Lý Quỳ nấu cơm nước xong, mua một hai rượu, xới một thùng cơm, và bưng một bát canh rau lên cho Đới Tung ăn.

Đới Tung hỏi:

– Sao anh không ăn một thể?

Lý Quỳ đáp:

– Tôi chưa đói, chưa muốn ăn.

Đới Tung nghe nói, đoán chắc là Lý Quỳ lại nói dối thế, để ăn cá thịt vụng một mình, bèn ăn cơm vội cho xong, rồi sẽ rón rén xuống lối sau để xem. Quả nhiên lúc ấy Lý Quỳ mua hai nai rượu, một đĩa thịt trâu mà đương ăn vội ăn vàng ở đó. Đới Tung thấy vậy trong bụng nghĩ thầm: “Biết ngay, thằng cha này còn nói dỗi mình thực. Được để ta im, rồi sáng mai cho nó một mẻ, rõ cuống cuồng cho mà thích”. Nghĩ đoạn thủng thẳng đi vào phòng ngủ trước. Lý Quỳ chén một lúc hết, trong bụng sợ Đới Tung biết, bèn rón rén cùng đi lên phòng để ngủ.

Đầu trống canh năm sáng hôm sau, Đới Tung dậy sớm gọi Lý Quỳ dậy sớm nấu cơm, ăn uống xong rồi, tính trả tiền hàng, mà cùng nhau ra đi.

Đi được vài dặm đường, Đới Tung bảo với Lý Quỳ:

– Hôm qua ta chưa dùng đến phép thần hành, ngày nay phải dùng đến phép mà đi cho mau mới được. Anh buộc khăn gói cho chặt chẽ cẩn thận, để tôi làm phép cho anh trước cứ đi tám trăm dặm rồi hãy nghỉ.

Nói đoạn lấy bốn miếng giáp mã, buộc vào hai bên trái đùi Lý Quỳ,mà dặn rằng:

– Anh đến hàng rượu đâu đó, mà đợi tôi nhé?

Nói xong lại đọc mấy câu thần chú, thổi lên trên chân Lý Quỳ, rồi Lý Quỳ rảo cẳng bước đi, vù vù như gió vậy.

Đới Tung trông theo cười nói một mình rằng:

– Hãy để cho hắn nhịn đói hôm nay đã.

Đoạn rồi lấy giáp mã buộc chân mình mà theo sau Lý Quỳ, Lý Quỳ xưa nay chưa biết thần hành là thế nào, cứ yên trí làm thế thì được nhanh chóng, khoái hoạt như Đới Tung. Dè đâu chàng vừa bước chân đi, đã thấy hai bên tai vù vù, như mưa sa gió thổi, không sao chịu. Lại thấy cửa nhà cây cối ở bên đường đều loang loáng như là biến chạy, bước chân lại bầng bầng như mây khói vùng lên, thì trong bụng rất lấy làm kinh sợ. Mấy phen chàng toan dừng lại nhưng hai cẳng vẫn cứ lôi kéo bắt đi, cứ chạy hoài không sao đứng lại được. Khi trông các hàng thịt rượu cứ loang loáng biến mất, không làm thế nào vào được để ăn. Lý Quỳ thấy vạy kêu cha kêu mẹ xin dừng lại một lát, nhưng đôi chân vẫn quần quật đi luôn, không sao đứng lại cho.

Chàng chạy hoài chạy mãi, đến lúc mặt trời đã vàng úa non Tây, trong bụng vừa đói vừa khát, toát cả mồ hôi, thở lên hồng hộc, mà cũng không sao đứng lại được. Bấy giờ Đới Tung ở đằng sau chạy theo gọi lên rằng:

– Lý Đại Ca! Sao không mua cái gì ăn đã?

Lý Quỳ kêu lên rằng:

– Ca Ca cứu tôi với…Thiết Ngưu đói chết rồi đây…

Đới Tung liền lấy bánh ở trong bọc ra, vừa ăn vừa để cho Lý Quỳ nom thấy.

Lý Quỳ lại kêu lên rằng:

– Tôi không làm sao đứng lại được mà mua được bánh, bác cho tôi một miếng ăn cho đỡ đói vậy.

Đới Tung chia chiếc bánh ra bảo Lý Quỳ rằng:

– Anh đứng lại đây, tôi đưa cho mà ăn.

Lý Quỳ với tay lại để lấy, chỉ cách nhau một trượng mà cũng không sao với được.

Đới Tung lại kêu dội lên rằng:

– Ca Ca ơi! Hãy đứng lại một tí đã.

Lý Quỳ phát bẳn gắt lên rằng:

– Quái gở! Hai cái chân khốn nạn này không theo mình một tý nào cả, chỉ cứ cắm cổ mà chạy hoài mãi…Đừng làm ông sốt tiết lên bây giờ…

Nói đoạn cầm đôi đại phủ vỗ vào nhau chan chát để mà đe dọa. Đới Tung thấy vậy lại nói đế luôn rằng:

– Phải chặt hai cái cẳng đi, thế là tiện…Không có thì chạy đến tháng giêng sang năm, cũng chưa đứng lại được đâu?

– Khổ! Ca Ca làm gì đùa thế? Chặt mất hai chân đi, thì lấy gì mà chạy được nữa?

– Chắc là hôm qua anh không nghe lời tôi, làm khổ cả đến tôi, không sao mà đứng lại được? Thôi, anh cứ chạy thế vậy…

Lý Quỳ quay lại bảo Đới Tung rằng:

– Bố ơi! Bố tha cho tôi đứng lại một tý…

– Phép này của tôi phải kiêng ăn mặn, mà nhất là thịt trâu thì lại càng kỵ lắm. Nếu ăn một miếng thịt trâu vào, thì có lẽ chạy đến suốt đời mới ngừng lại được.

– Thế thì khổ quá! Chẳng giấu gì Ca Ca, đêm hôm qua tôi trót ăn vụng mất sáu bảy miếng thịt trâu, bấy giờ làm thế nào được?

– Thảo nào chân tôi hôm nay cũng không đứng lại được, anh Thiết Ngưu này thực làm khổ cả đến người ta…

Lý Quỳ nghe nói, kêu trời kêu đất ầm ĩ cả lên.

Bấy giờ Đới Tung cười bảo Lý Quỳ rằng:

– Từ nay nếu anh nghe tôi được một việc này, thì tôi có thể trừ được phép ấy ngay lập tức.

– Vâng, bố bảo điều gì, Lý Quỳ xin vâng theo cả.

– Từ đây trở đi không được ăn vụng thế nữa nghe chưa?

– Vâng, từ nay nếu có ăn vụng, thì lưỡi mọc đầu đanh ra mà chết…Hôm qua vì thấy Ca Ca ăn chay đã quen tôi ăn vào khó nuốt quá, nên mới đánh liều, mà ăn vụng đó thôi! Nay trở đi xin thề, không khi nào dám thế nữa.

Đới Tung nói:

– Nếu vậy thì hãy tha cho anh một chuyến đã.

Nói đoạn đi dấn đến gần lên, lấy vạt áo đập vào chân Lý Quỳ mà quát lên rằng:

– Đứng lại.

Đoạn rồi Lý Quỳ đứng ngay lập tức.

Đới Tung thấy vậy bảo Lý Quỳ rằng:

– Bây giờ tôi đi trước, để anh lững thững theo gót mới được.

Lý Quỳ rằng vâng lời: Toan cất cẳng lên đi, bỗng thấy hai chân nặng chĩu như hai cây sắt, không sao mà nhúc nhích đi được.

Chàng liền kêu lên rằng:

– Khổ lắm! Ca Ca lại cứu tôi một tý…

Đới Tung nghe nói, quay lại cười mà hỏi rằng:

– Vừa rồi anh thề có thực không?

– Khốn nạn! Ông là bố tôi, khi nào tôi dám nói dối nữa.

Đới Tung nói:

– Nếu quả vậy thì được rồi…

Nói đoạn dắt tay Lý Quỳ lên mà quát một tiếng “Đi” rồi Lý Quỳ mới nhắc cẳng lên mà theo với Đới Tung.

Bấy giờ Lý Quỳ bảo với Đới Tung rằng:

– Ca Ca thương Thiết Ngưu này, cho nghỉ một lát thì mới chịu được.

Đới Tung nghe nói. Liền dẫn Lý Quỳ vào một làng nào đó, để cùng nghỉ với nhau. Đới Tung cởi giáp mã ra, hóa vàng lễ tạ, rồi hỏi Lý Quỳ rằng:

– Bây giờ thế nào?

Lý Quỳ sờ đến chân, rồi thở dài mà rằng:

– Hai cái chân này giờ mới là của tôi đây…

Nói đoạn Đới Tung bảo Lý Quỳ làm cơm chay ăn, rồi cùng nhau đi nghỉ.

Sáng hôm sau vào khoảng đầu trống canh năm, hai người dậy sớm, cơm nước xong hai người cùng đi. Đi được ba dặm Đới Tung lấy giáp mã bảo với Lý Quỳ rằng:

– Hôm nay tôi buộc hai miếng cho anh thong thả vậy.

Lý Quỳ nói:

– Thôi bố đừng buộc cho con nữa.

– Được, anh cứ thuận lời tôi nói, thì cứ buộc vào để đi cho chóng. Nếu anh không nghe, thì lại cho anh đứng nguyên như hôm qua, rồi bao giờ tôi tìm được Công Tôn Thắng về đây, sẽ tha cho anh mà đi.

Lý Quỳ nghe nói, vội kêu lên rằng:

– Bố buộc vào đây…buộc vào đây…tôi không dám nói gì nữa.

Đới Tung liền buộc cho mỗi người hai miếng giáp mã làm phép thần hành, rồi hai người cùng đi với nhau. Từ đó trong khi đi đường Lý Quỳ nhất nhất theo lời Đới Tung mà không dám trái. Một hôm đi đến địa phận Kế Châu, hai người cùng đến hàng cơm ở ngoài thành để trọ, rồi sáng hôm sau vào thành sớm để tìm hỏi Công Tôn Thắng. Hôm đó Đới Tung giả làm ông chủ, Lý Quỳ giả làm người đầy tớ theo hầu vào thành suốt một ngày trời, không có tin tức gì, hai người lại phải trở về nhà trọ.

Ngày hôm sau lại vào thành, tìm khắp cả các hang cùng ngõ hẻm, cũng không thấy tăm hơi đâu cả, Lý Quỳ lấy làm sốt ruột nói với Đới Tung rằng:

– Lão ăn mày này, không biết rằng trốn ở chỗ nào… ? Bây giờ đi tìm thấy thì nắm cổ lôi ngay về cho Ca Ca mới được.

Đới Tung nghe nói, nguýt Lý Quỳ mà rằng:

– Anh lại giở quẻ rồi, muốn như hôm nọ hay sao?

Lý Quỳ cười toét mồm đáp rằng:

– Không, không tôi nói đùa ấy chứ…

Đới Tung lại hầm hầm ra dáng giận dữ, Lý Quỳ phải im thít, không dám nói câu gì nữa. Hôm đó hai người về nghỉ hàng trọ, rồi đến ngày thứ ba lại đi hỏi thăm ở các thị trấn xung quanh không một ai biết đến. Đến trưa hôm ấy, hai người đã đói, liền tìm vào một hàng cơm, thấy hàng quán đông, không có chỗ ngồi, hai người còn ở ngoài đường, sẽ lại hỏi dò mọi người xem có biết, khách hàng còn giở ăn uống và cũng không ai biết đến Công Tôn, sau lại ngồi gần bàn của một ông già Đới Tung vội thi lễ mà gọi cơm và thức ăn chay.

Đới Tung nói:

– Ta chỉ dùng ít cơm thôi, còn người cứ dùng cho đủ.

Lý Quỳ nói:

– Phải ăn cho đủ no mời được, tôi xin ứng tiền ra.

Tên tửu bảo đi qua thấy liền cười. Ai ngờ đợi mãi không thấy cơm nước gì. Lý Quỳ đã thấy mọi người ăn xong ra đi, trong lòng đã bực bội, lại thấy họ đem cơm lên cho ông già cùng ngồi một bàn với mình, ông già ấy chẳng nhường cho hai người, cứ việc cúi xuống mà ăn, Lý Quỳ tính nõng, bèn chửi mắng nhà hàng rằng:

– Đồ khốn nạn! Làm cho lão đây đợi đến bao giờ, mà không đem hàng ra bán.

Liền vỗ bàn mạnh lên, làm cho cơm nước đổ ra bàn, khiến lão kia đương ăn bực mình, nắm lấy Lý Quỳ mà mắng:

– Sao ngươi làm đổ cơm nước của ta, là nghĩa lý gì?

Lý Quỳ cũng toan giơ tay cự lại. Đới Tung ngăn vội mà rằng:

– Ngươi không được thế? Xin ông già hãy nể mặt tôi xin đền tiền cơm nước cho ông, đừng lôi thôi gì nữa, thằng đầy tớ của tôi không biết lễ phép thế nào, vậy xin lỗi cụ.

Người già kia nói:

– Khách quan không rõ cho tôi, tôi tới đây đường xa, cần ăn cơm sớm, để tôi đi nghe giảng đạo, thế này lại chậm lỡ thôi.

Đới Tung nghe vậy liền hỏi:

– Thưa cụ là người ở đâu, đến đây nghe ai giảng đạo?

Ông già nói:

– Tôi người ở huyện Cửu Cung, thuộc Tô Châu, vốn ở núi Nhị Tiền, nay vào trong thành để mua dầu hương, mang về trên núi, nghe La Chân Nhân giảng phép trường sinh bất tử.

Đới Tung liền nghĩ ngay: “Có lẽ Công Tôn Thắng cũng ở trong đám này chăng? ” Liền thừa dịp hỏi ngay ông lão:

– Thưa cụ ở trong quý trang có vị nào là Công Tôn Thắng đạo nhân chăng?

Ông già nói:

– Nếu khách quan mà hỏi mọi người, thì không ai biết đến ông ta, chỉ tôi đây với ông ta vốn là hàng xóm, ông ta đi vân du luôn, có bà mẹ ở nhà, nếu hỏi là Công Tôn Thắng, là tên tục, không ai nhận được ra, phải gọi là Nhất Thanh Đạo Nhân mới tìm tới được.

Đới Tung nói:

– Chính chúng tôi đây đương muốn gặp ông ta, tìm đến chết người mà chả gặp, may thay gặp cụ xin cụ chỉ giúp cho chúng tôi được tới nhà.

Liền đứng vái ông cụ mà hỏi:

– Thưa cụ từ đây tới núi Nhị Tiên bao nhiêu đường đất, và Thanh Đạo Nhân có ở nhà không?

Ông già nói:

– Núi Nhị Tiên cách huyện Cửu Cung chừng ngoài bốn mươi dặm đường, còn Thanh Đạo Nhân là bậc cao đồ của La Chân Nhân, không lúc rời ở bên cạnh.

Đới Tung nghe nói cả mừng, liền gọi hàng dọn cơm nước mau lên, rồi cùng ông già và Lý Quỳ cùng ăn uống, xong rồi tính trả tiền hàng, cùng ra khỏi điếm, ông già mời Đới Tung cùng đi một thể.

Đới Tung nói:

– Xin mời cụ đi trước, chúng tôi còn mua vàng hương cho đủ lễ đã.

Rồi cùng nhau bái biệt, Đới Tung trở vào nhà hàng lấy hành lý, rồi buộc giáp mã vào chân mình và chân Lý Quỳ, hai người dùng phép thần hành, chốc lát đã tới huyện Cửu Cung mới làm phép dừng lại.

Khi đó Đới Tung hỏi thăm đường về núi Nhị Tiên, có người mách cho từ huyện này đi tới năm dặm về phía Đông, thì tới núi đó. Đới Tung lại cùng Lý Quỳ đi tới đó, chỉ chừng năm dặm tới núi Nhị Tiên. Đới Tung gặp một tiêu phu bèn thi lễ mà hỏi thăm nhà Thanh Đạo Nhân? Tiều phu chỉ cho biết:

– Đi tới mỏm núi kia, qua cái cầu đá, là đến nhà ông ta.

Đới Tung liền cảm ơn xong, hai người lại lần đến đó, thấy có mươi túp nhà tranh, ngoài xung quanh tường thấp lè tè, trước có cầu đá con con, rồi thấy một người đàn bà cầm thúng quả ở trong đi ra.

Đới Tung chấy tay vái chào, hỏi người đàn bà ấy rằng:

– Nàng ở trong nhà Thanh Đạo Nhân đi ra, chẳng hay có Đạo Nhân ở nhà hay không?

– Có, Đạo Nhân đương luyện phép ở trong đó.

Đới Tung mừng rỡ bảo Lý Quỳ rằng:

– Anh đứng nấp ở đây, đợi tôi vào xem đã, rồi anh sẽ vào sau.

Nói đoạn quay đi vào trước. Khi vào thấy có một dẫy ba gian nhà lá, trước cửa treo cái rèm bằng cỏ lau. Đới Tung bèn đằng hắng một cái rất to, rồi có một bà da mồi tóc bạc ở trong nhà chạy ra, chàng liền vái chào hỏi rằng:

– Bẩm cụ chúng tôi muốn vào hầu Thanh Đạo Nhân một lát.

Bà cụ hỏi:

– Ngài là ai? Ở đâu đến đây?

– Bẩm, chúng tôi là Đới Tung ở Sơn Đông mới đến.

– Cháu nó đi chơi vắng chưa về.

– Dạ! Thưa cụ: Chúng con là anh em bạn cũ, muốn cần hỏi việc gấp, xin cụ làm ơn bảo cho…

– Hiện có không có ở nhà. Ngài cần chuyện gì, cứ dặn tôi cũng được. Khi nào nó về, ngài sẽ đến chơi.

Đới Tung nghe nói, vội đáp rằng:

– Nếu vậy xin để khi khác tôi sẽ đến.

Nói xong vái chào đi ra, bảo với Lý Quỳ rằng:

– Bây giờ phải cần đến anh mới được. Vừa rồi bà mẹ ông ta chối là đi vắng, vậy để anh vào hỏi lần nữa, nếu bà ta còn chối thì đánh luôn, nhưng chớ đánh đau, lúc nào tôi vào, thì thôi ngay mới được.

Lý Quỳ vâng lời, mở khăn gói lấy song phủ dắt ở sau lưng, rồi đi thẳng vào cửa mà quát to lên rằng:

– Ai đó…ra đây?

Bà cụ nghe tiếng hỏi “Ai” rồi vội chạy ra, trông thấy Lý Quỳ trợn mắt tròn xoe lên, thì trong bụng lấy làm sợ hãi, liền hỏi rằng:

– Ca Ca có việc gì đó?

Lý Quỳ nói:

– Ta là Hắc Toàn Phong ở Lương Sơn Bạc, vâng tướng lệnh của Tiều, Cống Ca Ca đến đón Công Tôn Thắng…Nếu đem hắn ra đây thì tử tế, bằng không thì ta cho mồi lửa đốt phăng nhà đi bây giờ?

Nói xong lại thét lên rằng:

– Mau mau ra đây.

Bà cụ nói:

– Hảo hán ôi! Nhà tôi đây là Thanh Đạo Nhân, chứ không phải nhà Công Tôn Thắng đâu?

– Cứ gọi hắn ra đây, ta nhận mặt khắc biết.

– Hắn đi chơi vắng nhà chưa về.

Lý Quỳ nghe đến đó, rút phăng đôi phủ ra, chém một nhát đổ hẳn một bên tường, rồi hằm hằm ra mặt giận dữ. Bà cụ vội chạy đến ôm giữ Lý Quỳ lại.

Lý Quỳ quát lên rằng:

– Nếu không bảo con trai ra đây, thì ta chém chết bây giờ.

Nói đoạn giơ búa chém luôn, làm cho bà cụ kinh sợ ngã lăn ra đó. Bấy giờ Công Tôn Thắng ở trong nhà chạy ra kêu lên rằng:

– Không được vô lễ như thế.

Đoạn rồi thấy Đới Tung ở ngoài thét mắng rằng:

– Thiết Ngưa sao được xấc láo, làm cho bà cụ kinh sợ như vậy?

Nói đoạn Đới Tung vội vàng nâng bà cụ dậy, rồi Lý Quỳ vất đôi song phủ xuống, vái chào Công Tôn Thắng mà rằng:

– Xin Ca Ca tha lỗi, không làm thế, thì bao giờ Ca Ca chịu ra? Công Tôn Thắng vội vàng nâng mẹ dậy, vái chào hai người, rồi mời vào trong nhà, Công

Tôn Thắng hỏi:

– Sao ngài lại tìm được đến đây?

Đới Tung nói:

– Chuyến trước tôi đã đi đến Kế Châu tìm khắp mọi nơi không thấy Ca Ca ở đâu, sau rủ được mấy người nhập bọn cùng về trên núi. Chuyến này Tống Công Minh tới Đường Châu cứu Sài Đại Quan Nhân, chẳng may bị Tri Phủ Cao Liêm dùng phép yêu ma đánh luôn mấy trận, không sao mà chống lại được. Nhân vậy phải cho tiểu đề cùng Lý Quỳ đi mời Ca Ca, về để bàn kế giúp cho. Tiểu đệ tới Kế Châu thăm hỏi mấy ngày không được, sau may vào hàng bánh, gặp một ông già chỉ bảo giùm cho, bấy giờ mới biết đường mà lần hỏi đến đây. Khi tới cổng đã gặp một người đàn bà đi ra, chúng tôi hỏi thăm đã biết chắc là Ca Ca ở nhà. Ai ngờ vào tới nơi cụ lại nói dối là đi vắng, nhân thế phải lập kế cho Lý Quỳ vào hỏi, như vậy thực vô lễ, xin Ca Ca tha lỗi cho Tống Công Minh, hiện nay ở đất Cao Đường, một ngày dài tựa ba thu, vậy Ca Ca sắp sửa đi ngay cho chóng xong công việc.

Công Tôn Thắng nói:

– Tôi từ thủa trôi nổi giang hồ, trong lòng thực vẫn mộ các tay hảo hán. Duy từ khi ở Lương Sơn Bạc về đây, một là mẹ già đầu bạc, không ai nuôi nấng trông coi; Hai là La Chân Nhân cũng có lòng yêu mến, không cho đi đâu, lại e các vị hảo hán ở Lương Sơn Bạc đến đây tìm hỏi, nhân thế bắt tôi phải đổi tên là Thanh Đạo Nhân, mà giữ riết ở nhà, không còn ai biết đến được nữa.

– Ngày nay Tống Công Minh, đương khi nguy cấp, vậy xin Ca Ca lấy lượng từ bi mà đến đó một phen rồi sẽ liệu.

– Bây giờ tôi không thể nào mà đi được, vì có mẹ già phải trông coi khuya sớm, và La Chân Nhân cũng không chịu cho đi.

Đới Tung đứng dậy cúi lạy Công Tôn Thắng; mà nhất tâm cầu khẩn xin đi, Công Tôn Thắng đỡ dậy mà rằng:

– Nếu vậy để tôi định liệu xem sao?

Nói đoạn giữ Đới Tung và Lý Quỳ ở đó, rồi làm cơm chay thiết đãi hai người. Khi ăn uống xong, Đới Tung lại vật nài nói với Công Tôn Thắng rằng:

– Nếu Ca Ca không chịu đi, thì Tống Công Minh tất bị Cao Liêm bắt được, mà đại nghĩa ở Lương Sơn Bạc từ nay tất là đổ vỡ cả.

– Để tôi bẩm với Sư phụ Chân Nhân, nếu người có bằng lòng, thì sẽ đi một thể…

– Xin Ca Ca đi hỏi ngay bây giờ cho…

– Hãy thư thả, nghỉ đây một đêm, để sáng mai đi hỏi cũng được.

– Bây giờ Tống Công Minh ở Đường Châu mong mỏi từng giờ từng phút, vậy xin Ca Ca đi hỏi giúp ngay cho?

Công Tôn Thắng thấy lời lẽ ân cần, không sao cầm lòng được, bèn dẫn cả Đới Tung, Lý Quỳ, cùng lên trên núi Nhị Tiên. Bấy giờ đương dạo cuối thu sang đông, ngày ngắn đêm dài, ba người đi được một quãng, thì mặt trời đã tà tà xế tối.

Công Tôn Thắng dẫn hai người đếm một ngỏ nhỏ, đén quan La Chân Nhân, thấy có cái biển son đê ba chữ “Chân Nhân quán” rất to. Ba người vào đến đình sửa áo, liền cùng nhau chỉnh đốn áo khăn, rồi đi qua một lũy hành lang đến hiên Tùng Hạc.

Khi đó có hai tên tiểu đồng, thấy Công Tôn Thắng đến, vội vào báo cho Chân Nhân biết. Chân Nhân nghe báo, truyền chỉ cho Công Tôn Thắng vào, Công Tôn Thắng dẫn Đới Tung, Lý Quỳ vào đến trong hiên Tùng Hạc, thấy La Chân Nhân đương ngồi ngay ngắn ở trên sập Vàng, Công Tôn Thắng vội vái chào, rồi đứng ra một bên. Đới Tung thấy vậy cũng vội vàng cúi xuống lạy chào, còn Lý Quỳ vẫn đứng im, mà đưa mắt nhìn trân trân không chớp.

Chân Nhân hỏi Công Tôn Thắng rằng:

– Hai vị này là ai?

Công Tôn Thắng nói:

– Chính là bọn nghĩa hữu ở Sơn Đông ngày trước, đề tử đã nói đến, hiện nay vì Tri Phủ Cao Đường khoe khoang phép lạ nên Tống Giang huynh mới sai hai anh em đến triệu đệ tử đi…Vậy đệ tử đến đây xin phép sư phụ người có cho đi được chăng?

Chân Nhân nói:

– Nhất Thanh đã thoát nơi Lò Lửa, yên tâm theo luyện phép trường sinh, sao còn mơ hồ đến cảnh đó?

Đới Tung cúi lạy thưa rằng:

– Người rộng phép cho Công Tôn Tiên Sinh xuống núi một phen, sau khi đã phá được Cao Liêm sẽ đưa về núi hầu người.

La Chân Nhân nói:

– Hai người chưa rõ, những việc ấy không phải là đám xuất gia tôi bận đến, vậy xin các ngài hãy về thương nghị xem sao?

Công Tôn Thắng bất đắc dĩ phải vâng lời dẫn hai người ra về.

Bấy giờ Lý Quỳ mới hỏi riêng rằng:

– Vừa rồi lão gia nói gì thế?

Đới Tung đáp:

– Anh lại không nghe rõ hay sao?

– Tiếng nói thế, ai còn nghe ra cái gì?

– Đấy là sư phụ ông ta không cho đi đấy.

Lý Quỳ nghe nói, tức giận mà kêu lên rằng:

– Mình đi bao nhiêu đường đất khổ sở biết bao?

Bây giờ tìm thấy rồi, lại hoạch họe mãi…Đừng làm ông sốt ruột lên, thì gọi là xé tan cái mũ ấy ra, rồi nắm thắt lưng kéo cổ thằng già ấy xuống núi cho mà xem.

Đới Tung thấy vậy, nguýt Lý Quỳ mà rằng:

– Anh lại muốn đóng đinh chân xuống đây rồi.

Lý Quỳ vội làm mặt tươi cười mà rằng:

– Không, không, tôi nói đùa đấy chứ.

Đêm hôm ấy hai người về tới nhà, Công Tôn Thắng sai dọn cơm ăn. Công Tôn Thắng cùng Đới Tung ăn uống như thường, duy Lý Quỳ cứ ngồi nghĩ ngây người mà không ăn uống chi cả.

Công Tôn Thắng bảo với hai người rằng:

– Hãy dầu lòng nghỉ đây một tối, sáng mai tôi đến nói lại xem, nếu có cho đi thì hay lắm.

Đới Tung đành phải cất dọn hành lý, rồi cùng với Lý Quỳ, cùng ngủ một nơi. Lý Quỳ nằm trằn trọc không sao ngủ được. Đến sáng canh tư, thì chàng ngồi nhổm dậy, nghe thấy Đới Tung ngủ ngáy khò khò như chết, chàng liền nghĩ thầm trong bụng rằng: “Thằng cha nó…vô lý quá! Nó là người ở Lương Sơn về đây, lại còn phải hỏi sư phụ nào! Mình định cho phắt nó một búa là xong, nhưng giết nó, thì lấy ai cứu Ca Ca cho được? “

Đoạn rồi lại nghĩ: “Nếu sáng mai mà lão già lại không chịu cho đi, thì có phải là lỡ cả việc của Ca Ca không? Thế này thì không thể nào mà nhịn được! Bất nhược giết phăng thằng già kia, cho nó hết hỏi là tất nhiên phải đi với mình hẳn… “

Chàng nghĩ đến đó, liền sờ đến đôi phủ, khẽ mở cửa phòng, lần bóng trăng trong mà đi lên Tử Hư. Khi tới nơi, thấy cửa đóng kín mít, lại hai bên tường thấy lè tè, chàng liền nhảy tót vào trong, sẽ mở cửa ra, rồi lần mò vào trong hiên Tùng Hạc. Chàng đi đến trước hiên, nghe trong cửa có tiếng người tụng kinh, bèn nhảy lên chỗ khe cửa để xem thì thấy La Chân Nhân ngồi ở chỗ lúc chiều, trên án trước mặt có lò lửa hương khói bốc lên nghi ngút, và hai cây nến thắp sáng choang.

Lý Quỳ nói một mình: “Thằng cha này số chết đây” rồi lần đến bên cửa sẽ lấy tay đẩy tung cánh cửa ra, đoạn rồi lấy búa sấn vào, nhè giữa óc La Chân Nhân choang cho một búa; ngã gục xuống giường.

Lý Quỳ nom kỹ thấy máu trắng chảy ra, bèn cười mà nói rằng:

– Thằng cha này luyện tài thực, làm thế nào mà nguyên khí hãy còn nguyên.

Chàng cũng nom đến cái mũ cũng vỡ ra làm đôi, mà trên đầu thì toác một nhát thẳng xuống dưới cổ.

Chàng lại nói:

– Giết được thằng cha này, tất là Công Tôn Thắng phải theo chúng mình hẳn.

Nói đoạn toan quay về. Chợt đâu một tên Thanh Y Đạo Đồng chạy đến ôm lấy Lý Quỳ mà rằng:

– Anh giết thầy tôi, bây giờ chực chạy đi đâu?

Lý Quỳ giơ búa lên mà quát rằng:

– Thằng ranh con này, ông cho một búa nhân thể.

Nói đoạn chém một nhát chết quay ra đó, rồi cười nói một mình rằng:

– Bây giờ còn đứa nào ra đây nữa không? Thôi ta đi về.

Miệng nói chân đi chạy thẳng một mạch về nhà Công Tôn Thắng, tới nơi lẻn vào thấy Đới Tung vẫn còn ngủ im thim thít, chàng lại đóng cửa rồi vào nằm tử tế. Sáng hôm sau dậy sớm, Công Tôn Thắng sai dọn cơm cùng ăn, cơm nước xong Đới Tung lại thúc giục Công Tôn Thắng lên núi để xin phép, Lý Quỳ thấy vậy chỉ bầm bụng cười thầm mà không dám nói. Đoạn rồi Công Tôn Thắng đưa hai người cùng đến quán Tử Hư.

Khi vào tới Tùng Hạc, có hai tên đạo đồng đứng ở đó. Công Tôn Thắng liền hỏi:

– Chân Nhân ngồi ở đâu?

Đạo đồng đáp:

– Chân Nhân đương ngồi ở trên Vân Sàng đó.

Lý Quỳ gnhe nói cả kinh, lè lưỡi ra đến nửa ngày không co vào được. Bấy giờ ba người cùng mở rèm đi vào, quả nhiên thấy La Chân Nhân đương ngồi trên Vân Sàng ở giữa nhà.

Lý Quỳ thấy vậy nghĩ thầm rằng: “Có lẽ đêm qua mình giết nhầm chắc”

Vừa nghĩ xong thấy Chân Nhân hỏi:

– Ba các ngươi đến đây làm gì?

Đới Tung nói:

– Chúng tôi đến kêu với sư phụ mở lòng từ bi cứu cho khỏi nạn, chúng tôi được đội ơn đức muôn vàn.

La Chân Nhân hỏi:

– Người đen lớn kia là ai thế?

Đới Tung bẩm:

– Hắn là nghĩa đệ của tôi tên là Lý Quỳ…

Chân Nhân cười nói:

– Đáng lẽ không cho Công Tôn Thắng đi, nhưng nể mặt Lý Quỳ, nên cho anh ta đi một phen…

Đới Tung lạy tạ, rồi lại nói chuyện với Lý Quỳ.

Lý Quỳ nghe nói, nghĩ thầm trong bụng: “Anh này biết mình định giết nên mới thế đây…”

Chân Nhân lại nói:

– Ta làm phép cho ba người đến ngay Đường Châu bây giờ…

Đới Tung vâng lời tạ ơn, rồi tự nghĩ rằng: “La Chân Nhân lại có phép đi nhanh hơn phép thần hành của ta hẳn?”

Chân Nhân gọi đạo đồng, lấy ba cái khăn tay đến. Đới Tung nói với Chân Nhân rằng:

– Bẩm sư phụ làm thế nào cho chúng tôi tới ngay được Đường Châu?

Chân Nhân đứng dậy bảo ba người rằng:

– Các ngươi đi ra đây với ta.

Ba người vâng lời theo Chân Nhân ra chỗ mỏm đá bảo Công Tôn Thắng đứng chụm hai chân lên trên, rồi Chân Nhân lấy tay áo phẩy một cái mà quát lên rằng:

– Lên…

Bỗng dưng cái khăn hóa ra một vầng mây đỏ, đem Công Tôn Thắng lên cao ước chừng hai mươi trượng, Chân Nhân lại quát lên “Im” thì thấy dám mây đứng im lại mà không đi nữa.

Chân Nhân lại lấy khăn tay xanh, bảo Đới Tung trèo lên, rồi quát một tiếng “Lên” thì khăn tay xanh hóa ra đám mây xanh, mà đưa Đới Tung lên cao bằng chỗ Công Tôn Thắng, mà đang lơ lửng ở đó.

Lý Quỳ nom thấy vậy, ngây hẳn người ra, như thằng dại vậy. Bấy giờ Chân Nhân lại bảo lấy khăn tay trắng, bảo Lý Quỳ đứng lên.

Lý Quỳ nói:

– Đừng làm đùa thế, lỡ ngã một cái thì quăn da.

Chân Nhân nói:

– Anh nom hai người kia có ngã không?

Lý Quỳ liền đứng vào cái khăn tay. Chân Nhân quát lên một tiếng “Lên” rồi khăn tay trắng hóa thành đám mây trắng đem quân bay lên, Lý Quỳ kêu lên:

– Ái…Ái…Không chịu được, cho xuống mau.

Chân Nhân vẫy tay một cái, hai đám mây xanh, đỏ đều là là bay xuống. Đới Tung lạy tạ Chân Nhân, đứng hầu vàobên hữu, còn Công Tôn Thắng đứng hầu về bên tả. Bấy giờ còn một mình Lý Quỳ ở trên mây trắng kêu lên rằng:

– Trời ôi! Tôi muốn đái bây giờ…Mau mau cho xuống, không có thì đái cả vào đầu bây giờ.

La Chân Nhân đứng dưới hỏi lên rằng:

– Chúng ta là bọn tu hành có can phạm gì đến ngươi? Sao đêm hôm qua ngươi dám cào tường vào, giơ búa chém ta? Nếu ta không phải là người có đạo đức, thì còn sống làm sao được nữa? Ngươi lại giết cả đạo đồng của ta nữa là nghĩa lý gì?

Lý Quỳ nói:

– Không phải tôi! Có lẽ ông lầm rồi….

La Chân Nhân cười rằng:

– Thôi, cũng chỉ chém hai cái túm cỏ của ta đó thôi. Nhưng bụng ngươi đã bất thiện, thì ta phải cho một mẻ mà sửa đổi đi mới được.

Nói đoạn giơ tay vẫy, quát lên một tiếng “Đi” rồi thấy một trận ác phong đưa đến thổi bạt Lý Quỳ đi lên tít trên mây. Đoạn rồi có hai người lực sĩ khăn vàng dong áp hai bên.

Bấy giờ Lý Quỳ chỉ nghe thấy hai bên tai vù vù như gió táp mưa sa, trông xuống bên dưới cỏ cây cửa nhà đều ầm ầm bay chuyển. Dưới chân mình cũng chẳng khác nào gió giục mây vần, càng ngày càng đổi giạt mãi đi, không biết trời đất là đâu nữa.

Lý Quỳ trông thấy sợ hãi rụng rời, chân tay dẫy lên đây đẩy. Chợt đâu nghe một tiếng huỵch thật mạnh, chàng nhắm mắt nhìn kỹ thì rơi ngay xuống nóc nhà công đường phủ Kế Châu, rồi lăn thồ lồ xuống đất.

Khi đó quan Phủ Mã Sĩ đương ngồi trong công đường, nha lại đứng hầu cả hai bên, thấy bỗng có người ở trên nóc nhà lăn xuống, thì ai nấy đều kinh sợ không hiểu ra sao cả.

Quan Phủ bèn thét lính trói lại, rồi bắt dong đến trước cửa công đường ma quát lên rằng:

– Thằng này mày là yêu quái ở đâu mà lại rơi xuống đó?

Lý Quỳ đương đau đớn, vỡ cả đầu sứt cả mặt, thở hồng hộc, không sao mà trả lời được.

Tri Phủ lại quát:

– Thằng này tất là yêu quái ở đâu, bây lấy nước phép ra đây…

Mấy tên lính ngục vâng lời, đem Lý Quỳ mà trói lại, đưa ra chỗ bãi co û trước cửa công đường, rồi một tên ngu hầu bưng chậu huyết cho, và một người bưng thùng nước giải dội từ đầu Lý Quỳ xuống.

Lý Quỳ thấy mình mẩy mặt mũi, toàn nhơ bẩn cả lên, bèn kêu rằng:

– Tôi không phải là yêu ma nào đâu…Tôi là người nhà La Chân Nhân đây.

Nguyên La Chân Nhân vốn có tiếng đạo đức ở đất Kế Châu, quanh vùng đó, ai cũng gọi là ông thần tiên sống, nhân thế nên không ai động đến Lý Quỳ nữa. Đoạn rồi chúng lại dẫn Lý Quỳ vào công đường mà kêu lên rằng:

– La Chân Nhân là một người có tiếng là thần tiên sống ở đất Kế Châu. Vậy quả người này là người nhà La Chân Nhân, thì không nên trị tội làm chi.

Tri Phủ cười rằng:

– Ta đọc hàng nghìn vạn cuốn sách, nghe hết chuyện xưa nay, chưa từng nghe thấy ông thần tiên nào lại có người đồ đệ như thế này bao giờ. Thằng này chắc là yêu quái, chúng đem đánh đi ta xem.

Chúng vâng lệnh phải đem Lý Quỳ ra đánh lấy đánh để, chỉ còn thiếu một nước chết là xong.

Tri Phủ quát lên rằng:

– Nếu thú nhận là yêu quái, thì ta tha cho.

Lý Quỳ phải bất đắc dĩ mà xưng tên Lý Nhị. Tri Phủ liền sai đóng gông nặng, mà giam xuống nhà lao tử tù.

Khi xuống ngục, Lý Quỳ nói rằng:

– Ta nay bị nhật thần xung khắc, sao lại gông ta thế này? Ta truyền cho cả phủ Kế Châu là chết hết đó?

Mấy anh Áp lao Tiếp Cấp, và bọn lính ngục vẫn sợ tiếng La Chân Nhân xưa nay, vội vàng đến hỏi Lý Quỳ rằng:

– Bác là người ở đâu? Cứ nói thực cho chúng tôi biết…

Lý Quỳ nói:

– Ta là người thân của La Chân Nhân, nên đem ta đến bỏ chốn này, đây ải vài hôm, rồi thế nào cũng đón ta về…Nếu các anh không đem rượu thịt cho ta ăn uống tử tế, thì ta cho toàn gia các anh chết cả đó…

Bọn kia nghe nói, anh nào cũng sợ hãi, phải mua rượu thịt đến cho ăn uống. Lý Quỳ thấy chúng sợ hãi lại càng làm già lên, cho chúng sợ hãi, cho chúng sợ thêm, phải đem nước nóng đến cho chàng tắm rửa.

Lý Quỳ bảo chúng rằng:

– Nếu không cho ăn uống hẳn hoi, thì ta cứ bay đi ngay, để các anh khổ cho mà coi…

Bọn lính ngục thấy vậy, lại càng kính sợ, đem nước nóng cho Lý Quỳ tắm gội, rồi lấy quần áo sạch sẽ cho thay, rồi anh nào anh nấy, phục dịch bằng ông thần sống vậy.

Nói về La Chân Nhân từ khi sai ngọn gió đưa Lý Quỳ đi rồi, liền đem chuyện trước nói cho Đới Tung biết, Đới Tung kinh sợ, vội vàng kêu xin tha thứ cho Lý Quỳ. Đoạn rồi La Chân Nhân giữ Đới Tung ở đó, mà hỏi thăm mọi công việc của sơn trại.

Đới Tung đem tấm lòng trọng nghĩa khinh tài, cùng các đức hay tính tốt của Tiều Thiên Vương và Tống Công Minh thuật cho Chân Nhân nghe. Chân Nhân nghe nói, vẫn điềm nhiên như không, rồi lưu Đới Tung ở đó luôn năm hôm nữa. Trong mấy hôm đó, ngày nào Đới Tung cũng lạy van kêu nài với La Chân Nhân để xin cứu cho Lý Quỳ trở về, La Chân Nhân cười mà đáp rằng:

– Hạng người ấy thì trừ phắt nó đi, còn mang về làm gì nữa.

Đới Tung nói:

– Lý Quỳ tuy tính thô mãng không biết lễ phép, xong bụng dạ trực tiết, bình sinh không hề tham nhũng của ai, không hề siểm nịnh ai, dẫu chết tấm lòng không đổi…Nhất sinh chưa từng có một chút manh tâm đến sự tài lợi dâm đãng, nên việc gì cũng hăng hái dám làm, bởi thế nên Tống Công Minh lấy làm yêu quý vô cùng. Nay nếu mất người ấy, thì chúng tôi không thể nào về với Tống Công Minh được nữa?

La Chân Nhân cười rằng:

– Tôi nói thế mà thôi…tôi vẫn biết là một vị Sát Tinh ở trên trời, vì hạ giới hiện nay tội ác đã nhiều, nên trời đày anh ta xuống để giết bớt những giống loài vô ích, tôi đây có khi nào lại trái lòng trời, mà giết hắn đi cho được, đó chẳng qua là rèn bớt tính khí cho hắn, rồi tôi lại cho về đây ngay, có ngại gì?

Nói đoạn gọi lên rằng:

– Nào lực sĩ đâu?

Nói vừa dứt lời, thì trước hiên Tùng Hạc có một ngọn gió bay qua rồi có một lực sĩ khăn Vàng chạy vào, cúi lạy La Chân Nhân mà vâng pháp chỉ. Chân Nhân truyền rằng:

– Hôm nọ ta sai ngươi đem đày tên ấy sang Kế Châu, nay đã hết tội lỗi rồi, vậy ngươi đến đó bắt về đây cho ta.

Lực sĩ vâng lời quay ra. Được một lát bỗng thấy Lý Quỳ ở trên trời rơi xuống ở giữa sân. Đới Tung vội vàng ra đỡ Lý Quỳ mà hỏi rằng:

– Mấy hôm nay anh em ở đâu thế?

Lý Quỳ trông thấy La Chân Nhân, thì chỉ cúi đầu lạy lấy lạy để, mà kêu lên rằng:

– Trăm lay gia gia, ngàn lại gia gia, từ nay Thiết Ngưa không dám thế nữa…

La Chân Nhân ung dung nói rằng:

– Ngươi từ nay trở đi phải bỏ hết tính xằng, mà hết lòng phò tá Tống Công Minh thì ta tha cho.

Lý Quỳ nói:

– Người là cha mẹ bên trên, khi nào con cái dám sai lời nữa.

Đới Tung lại hỏi thăm chuyện trong mấy hôm đó. Lý Quỳ liền thuật lại chuyện vào ngục Kế Châu, đến khi có Hoàng Cân Lực Sĩ cứu về, cho Đới Tung nghe…

Bấy giờ Công Tôn Thắng nói với hai người rằng:

– Ở đây có hơn một ngàn Hoàng Cân Lực Sĩ đó đều là đầy tớ La Chân Nhân cả…

Lý Quỳ nghe nói kêu lên rằng:

– Ối Phật Tổ ôi! Thế mà không bảo cho tôi biết trước, để tôi khỏi xằng như thế?

Nói đoạn lạy lấy lạy để không thôi…

Đới Tung cũng năn nỉ kêu với La Chân Nhân rằng:

– Chúng tôi đến đây đã lâu, mà quân mã Đăng Châu hiện đương nguy cấp, dám xin sư phụ mở lượng từ bi, mà cho Công Tôn Thắng cùng đi cứu Tống Công Minh, để phá Cao Liêm một phen, rồi lại xin đưa lên hầu ngài lập tức.

La Chân Nhân nói:

– Lẽ ra không cho đi, nhưng nghĩ đến đại nghĩa của các ngươi thì xin cho đi mấy hôm để giúp…Duy ta dặn câu này phải nhớ chớ quên mới được…

Công Tôn Thắng vội vàng quỳ xuống để nghe pháp chỉ xem sao?

Mới hay:

Cuộc đời bể lại dám qua,

Xưa nay nghĩa lớn vẫn là nghĩa chung,

Người Thánh triết kẻ hào hùng.

Đặt thân tuy khác, giữ lòng dễ sai.

Cùng nhau tế độ lấy đời,

Gây nên hạnh phúc cho nòi giống xưa,

Can qua dù sự chằng ngờ,

Gan vàng dạ sắt trơ trơ mới là…

Lời bàn của Thánh Thán:

Hồi này toàn đem chuyện quái lạ viết ra văn, trong truyện có một dạng bút mực khác, song ở độc giả, phải nên lược qua chuyện quái lạ, mà đoán ra ý tứ. Tại sao? Vì quái lạ vốn ác đạo của văn chương, truyện này cũng có nói ra, chẳng phải là không thoát tục, mà có tác dụng vậy, cũng có ý tứ khác người đó vậy.

Vì trong truyện đã có một Công Tôn Thắng, chẳng thề không có một Cao Liêm, sinh nẩy ra lấy một Cao Liêm, để phản thấn lại Công Tôn Thắng. Nay chẳng vì lúc này phép thuật gớm ghê, mà tả ra một phen đấu phép hay sao? Song le phép thuật gớm ghê vốn là khó vậy, nếu chẳng phô trương Cao Liêm, thì không thể phô trương Công Tôn Thắng, khoe khoang hai người đấu phép tranh kỳ, đủ mọi phép mầu sinh ra quỷthần cầm thú…chẳng còn thiếu cái gì, thì như truyện Tây du và mọi sách không khác, đó là Thi Nại Am đối với nghĩa chẳng làm sao được.

Ta nghe nhà văn, từng có những phép bỏ thực cầu hư, ở đây lược tả Cao Liêm, tường thụật Công Tôn, ý giả dụng phép này chẳng? Song nghiệp dĩ đã lược tả Cao Liêm, tường thuật Công Tôn, thì sao chẳng lược tả cả Công Tôn, mà tường thuật đến thầy của Công Tôn, tức bảo là bỏ thực cầu hư đó vậy. Lại thêm chuyện Lý Quỳ diệt quái đã lạ, để nảy ra một bậc chân nhân, nảy ra Chân Nhân, chính là để nảy ra Công Tôn Thắng vậy, nếu chẳng biết ý tứ tác giả như thế, mà vội chê Lý Quỳ đối sĩ bệnh không thể chữa, ta cũng không biết nói thế nào?

Hồi này một đoạn tả ra chỗ vô bàn đổ bánh, để đi đến những đoạn văn sau, đều do tác giả thổ hết tâm can mới được như thế, không nên coi thường mà đọc qua loa.

Hồi 53: Nhập Vân Long đấu phép phá Cao Liêm – Hắc Toàn Phong xuống giếng cứu Sài Tiến

Bấy giờ La Chân Nhân bảo với Công Tôn Thắng rằng:

– Phép thuật của ngươi đối với Cao Liêm cũng không hơn kém gì nhau, song ngày nay ta trao cho ngươi một phép Ngũ Lôi Thiên Tâm, ngươi cứ theo thế mà làm Đạo được. Còn lão mẫu ngươi ở nhà, ta sai người trông nom tử tế, không cần lo nghĩ làm chi. Ngươi cũng là ứng vào Tính số trên trời, nên ta tạm cho ra đó một phen, song trong lòng phải thủy chung giữ lấy lời xưa, chớ bị người ta xui giục mà quên bỏ nghĩa lớn của mình mới được.

Công Tôn Thắng vâng nhận các phép rồi cùng với Đới Tung, Lý Quỳ lạy tạ Chân Nhân, và giã từ bạn học mà cùng về nhà tư. Khi về tới nhà, Công Tôn Thắng lấy hai khẩu bảo kiếm, sắp sẵn cái mũ sắt áo đạo, cùng các đồ hành lý, rồi biệt thân mẫu mà lên đường.

Đi được bốn mươi dặm đường, Đới Tung bảo với Công Tôn Thắng rằng:

– Bây giờ Tiên Sinh cùng Lý Quỳ đi sau, để tôi về trước báo với Tống Ca Ca, rồi cho người đi đón.

Công Tôn Thắng đáp:

– Được lắm, xin hiền đệ cứ báo trước, để tôi đi sau càng tiện.

Đới Tung dặn Lý Quỳ rằng:

– Anh đi đường phải theo mệnh lệnh tiên sinh, nếu có câu gì không phải, thì tôi sẽ liệu cho anh.

Lý Quỳ vâng dạ mà rằng:

– Phép thuật tiên sinh cũng như La Chân Nhân vậy, có khi nào tôi dám khinh nhờn, xin Ca Ca cứ đi trước cho.

Đới Tung liền buộc giáp mã, làm phép thần hành đi trước, còn Công Tôn Thắng với Lý Quỳ lục đục đi sau. Trong khi đi đường, Lý Quỳ sợ phép thuật của La Chân Nhân; nên hết lòng hầu hạ Công Tôn không hề có việc càn bậy.

Cách vài hôm, đi đến trấn Vũ Cương, thấy cửa nhà đông đúc, Công Tôn Thắng bảo với Lý Quỳ rằng:

– Mấy hôm nay đi đường khó nhọc, nay ta hãy vào uống chén rượu xuông, ăn vài cái bánh chay, rồi sẽ đi cũng được.

Lý Quỳ nghe nói láy làm mừng, bèn tìm vào một hàng rượu ở bên đường để đánh chén. Khi vào tới nơi, Công Tôn Thắng ngồi trên, Lý Quỳ cởi khăn gói ngồi phía dưới, rồi gọi nhà hàng dọn rượu lên.

Công Tôn Thắng hỏi nhà hàng rằng:

– Ở đây có bánh điểm tâm chay không?

– Thưa ngài, trong hàng tôi bán rượu thịt, không có bánh chay, duy ngoài chợ có thứ bánh táo là thức ăn chay mà thôi.

Lý Quỳ nói:

– Để tôi đi mua về đây.

Nói đoạn mở gói lấy ít tiền, chạy ra chợ mua bánh. Khi mua xong, đương sắp ra về, chợt thấy bên đường có tiếng người kêu quát lên rằng:

– “Khỏe thực… “

Lý Quỳ nghe thấy vậy, vội chạy đến xem, thì thấy có đám đông người vây một anh chàng to lớn, đương múa đôi chùy sắt ở đó. Anh chàng ấy mình cao hơn bảy thước, da mặt sần gai, mũi thẳng xuống như dọc dừa, tay cầm chùy sắt, nặng ước ba mươi cân, múa mang một lúc, rồi đánh vào hòn đá ở bên đường vỡ hẳn ra. Chúng trông thấy, đều vỗ tay khen ngợi ầm lên, Lý Quỳ thấy vậy, không sao nhịn được, liền dắt bánh vào trong bọc chạy sấn vào giơ tay toan giật lấy chùy sắt của chàng kia.

Chàng kia quát lên rằng:

– Anh là thằng nhắng nào, dám vào dằng lấy chùy của ta.

Lý Quỳ nói:

– Anh múa có ra cái gì…Mà họ khen ầm cả lên… ?

Để lão gia múa cho xem.

Chàng kia nói:

– Được, ta cho anh mượn hai cây chùy…Nếu không múa nổi, thì ta tặng cho mấy qủa đấm mà xem.

Lý Quỳ lẳng lặng với lấy cây chùy, múa lên múa xuống, tựa hồ như tung quả đạn tròn, hồi lâu mới đặt xuống, mà tinh thần không hề chút gì ra dáng khó nhọc.

Anh chàng kia trông thấy, vội cúi rạp xuống mà lạy rồi hỏi rằng:

– Xin hỏi đại danh Ca Ca là gì?

Lý Quỳ hỏi lại:

– Nhà anh ở đâu?

Anh chàng đáp:

– Nhà tôi ở phía trước gần đây…

Nói đoạn liền dẫn Lý Quỳ đến một nơi cửa khóa then cài cẩn thận, rồi lấy chìa khóa mở cửa mời Lý Quỳ vào.

Lý Quỳ vào tới trong nhà toàn thị bễ lò kim khí vất bỏ ngổn ngang trong bụng liền nghĩ thầm: “Anh nay athan laanh lorehie trong s tra i ta cung ca eba nhc ru pha cho tie… ” Nghĩ vậy liền hỏi:

– Bác tên họ là gì, xin cho tôi biết?

– Thưa ngài: Tôi họ Thang tên Long, thân phụ tôi ngày trước làm nghề thợ rèn, sau gặp Lão Trung Kinh Lược, cho làm quan ở phủ Diên An, mới đây phụ thân tôi bị mất ở chỗ làm quan, tính tôi lại hay dong chơi cờ bạc, nên mới lưu lạc giang hồ, phải tạm trú ở đây để làm nghề thợ rèn kiếm ăn. Tôi có luyện tập được nhiều võ nghệ, song người ta thấy tôi có mụn đen khắp cả quanh mình, nên thường gọi là Kim Tiền Báo Tử (con báo tốt tiền). Vậy dám hỏi quý danh là gì?

– Tôi tức là Hắc Toàn Phong Lý Quỳ ở Lương Sơn Bạc đây?

Thang Long nghe nói, vội vàng cúi lạy mà rằng:

– Chết nỗi! Tôi nghe tiếng đã lâu mà không được biết?

– Anh ở đây làm nghề thợ rèn, thì bao giờ cho khá được, bất nhược theo tôi cùng lên Lương Sơn Bạc, làm chức Đầu Lĩnh có thú hơn không?

Thang Long hớn hở đáp rằng:

– Nếu quan anh có lòng tốt, cho tiểu đệ theo đi, thì còn gì hơn nữa.

Nói đoạn liền bái Lý Quỳ làm anh, rồi Lý Quỳ nhận Thang Long làm em.

Thang Long lại nói với Lý Quỳ rằng:

– Nhà tôi không có đầy tớ, xin mời quan anh ra chợ uống vài chén rượu xuông cho tỏ tình thân ái, rồi nghỉ đây một đêm, sáng mai sẽ đi…

Lý Quỳ nói:

– Tôi còn có sư phụ ngồi ở đằng kia, để tôi đem bánh về ăn, rồi chạy ra ngay bây giờ, không thể nào trì trệ được nữa.

– Vội chi mà phải đi ngay như thế?

– Chết nỗi! Tống Công Minh Ca Ca hiện đương đánh nhau ở đất Đường Châu, còn tôi mời sư phụ về cứu ứng đó.

– Sư phụ là ai?

– Thôi bất tất phải nói anh xếp dẹp đi ngay mới được.

Thang Long vâng lời, vội vàng thu xếp khăn gói, tiền nong khoác nón, giắt dao, cầm thanh đao lớn, vất bỏ cả cửa nhà đồ đạc, mà theo Lý Quỳ cùng đi.

Khi đi đến tửu điếm, Công Tôn Thắng trông thấy Lý Quỳ về, bèn có ý gay gắt bảo Lý Quỳ rằng:

– Anh đi đâu đến bây giờ mới về? Giá chậm lúc nữa, thì tôi lên núi cho rảnh chuyện…

Lý Quỳ nghe nói lặng ngắt không dám trả lời, liền dẫn Thang Long vào lạy chào, mà kể rõ cho Công Tôn Thắng nghe, Công Tôn Thắng thấy vậy cũng có ý vui mừng một chút. Đoạn rồi Lý Quỳ đem bánh ra ba người ăn uống với nhau.

Khi ăn uống xong tính trả tiền hàng, rồi Lý Quỳ cùng Thang Long đều khoác khăn gói, theo Công Tôn Thắng về lối Đường Châu. Đi được chừng hai phần đường, đã thấy Đới Tung đến tiếp đón.

Công Tôn Thắng cả mừng, vội hỏi công việc đánh nhau mấy bữa nay ra sao?

Đới Tung nói:

– Mấy hôm nay Cao Liêm đã khỏi vết thương, ngày nào cũng cho quân ra khơi đánh, nhưng Ca Ca phải chịu nhịn, không ra đánh, đành phải đợi tiên sinh đến đã.

Công Tôn Thắng cười rằng:

– Được lắm, để tôi đến sẽ hay.

Lý Quỳ lại dẫn Đới Tung vào chào hỏi, rồi kể chuyện cho nghe, rồi bốn người kéo Đới Tung cùng đi. Khi gần tới trại, cách năm dặm đường, thấy Lã Phương, Quách Thịnh, dẫn hơn năm trăm bộ, cùng ra đón tiếp.Bấy giờ bốn người cùng lên ngựa, rồi trở về Đại Trại.

Tống Giang, Ngô Dụng thấy Công Tôn Thắng về tới nơi, vội vàng hớn hở vui mừng đón vào thăm hỏi, rồi cho đòi các Đầu Lĩnh vào đến trướng Trung Quân, để chào mừng Công Tôn Thắng.

Lý Quỳ dẫn Thang Long vào chào Tống Giang, Ngô Dụng, cùng các vị Đầu Lĩnh rồi đặt tiệc ăn mừng, rất là vui vẻ.

Ngày hôm sau, Tống Giang, Ngô Dụng cùng Công Tôn Thắng, bàn việc đánh Cao Liêm.

Công Tôn Thắng nói:

– Xin Chủ tướng truyền cho nhổ trại, kéo cả quân đến, xem thế giặc ra sao, rồi tôi sẽ liệu.

Tống Giang nghe lời, bèn truyền cho các trại, hết thẩy đều kéo quân đến gần phủ Cao Đường để dàn quân trận. Khi tới nơi, hạ trại yên ổn, đến sáng hôm sau quân sĩ ăn cơm từ trống canh năm, rồi sắp sửa chỉnh tề hết cả. Đoạn rồi Tống Giang, Ngô Dụng và Công Tôn Thắng cưỡi ba con ngựa đóng ra trước cửa trận, thúc cho khua trống phất cờ xông thẳng vào thành để đánh.

Nói về Tri Phủ Cao Liêm mới khỏi được vết thương, nay bỗng thấy có quân mã Tống Giang kéo đến, chàng liền mặc giáp khoác bào, sai mở cửa thành, bỏ đích kiều xuống, dẫn ba trăm thần binh ra thành nghinh địch. Khi tới nơi, đôi bên mở cờ dóng trống, dàn thành trận thế, rồi bên kia Tống Giang đứng trước mặt trận, có mười viên tướng cưỡi ngựa đứng hàng ngạng hai bên. Bên tả có năm tướng là Hoa Vinh, Tần Minh, Chu Đồng, Âu Bằng, và Lã Phương; Bên hữu năm tướng là Lâm Xung, Tôn Lập, Đặng Phi, Mã Lân, và Quách Thịnh. Khoảng giữa ba viên chủ tướng là Tống Giang, Ngô Dụng cùng Công Tôn Thắng đều thắng ngựa đứng nom sang trận Cao Liêm.

Bấy giờ Cao Liêm thét bảo Tống Giang rằng:

– Bây là quân giặc cỏ, ở trong xó rừng vũng nước, nay đã định đánh nhau phải quyết được thua mới được, nếu kinh sợ bỏ chạy, thì không phải là hảo hán.

Tống Giang nghe nói, liền hỏi:

– Ai chém thằng giặc kia cho ta?

Nói vừa dứt lời, thì Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh múa thương phóng ngựa xông thẳng ra ngoài giữa trận.

Cao Liêm thấy vậy, quát lên rằng:

– Ai bắt thằng giặc kia cho ta?

Vừa nói xong, thì trong đám quan Thống Chế có một viên Thượng tướng, là Tiết Nguyên Huy múa song đao, vỗ ngựa ra đánh với Hoa Vinh, hai bên đánh nhau vừa được vài hiệp, Hoa Vinh liền quay ngựa chạy về bản trận, Tiết Nguyên Huy cũng múa đao phóng ngựa hết sức đuổi theo. Khi đuổi gần tới nơi, Hoa Vinh kìm cương ngựa lại, rồi dương cung đặt tên quay nhằm Nguyên Huy bắn một phát ngã xuống ngựa. Hai bên quân lính đều hò reo ầm ĩ cả lên.

Cao Liêm thấy vậy cả giận, liền cầm miếng bài đồng ra tay, lấy kiếm gõ luôn ba tiếng, rồi thấy giữa trận thần binh có trận ác phong tung động cát vàng làm cho trời thảm đất sâu, ai ai cũng kinh sợ. Đoạn rồi thấy tiếng reo hò nôn náo, có một toán sài lang hổ báo, cùng các thù trùng độc thú dữ, ở trong đám cát vàng hiện ra.

Bên kia Công Tôn Thắng thấy vậy, liền cầm thanh kiếm Tùng Văn Cổ Định trỏ sang quân Cao Liêm, trong miệng lẩm nhẩm sẽ đọc mấy lời, rồi quát một tiếng “Mau”. Bấy giờ thấy một đạo kim quang bắn xói sang bên Cao Liêm, làm các thú dữ đều phơi phới xuống mặt đất cả. Quân lính cúi xuống nom, thì đám trùng độc thú dữ toàn thị bằng giấy trắng cắt ra, bay là xuống đất, thì cát vàng cũng nằm im không tung lên được nữa.

Tống Giang thấy vậy, cầm roi vẫy gọi tam quân, rồi nhân mã cùng ùa sang đánh giết trong trận Cao Liêm, quân mã Cao Liêm kinh sợ tán loạn, thiệt hại rất nhiều, Cao Liêm bèn kéo thần binh chạy thẳng vào thành để giữ. Quân Tống Giang đuổi đến gần thành, thấy đích kiều đã cất lên, cửa thành đã đóng, trên mặt thành đá gỗ ném xuống như mưa, liền gõ chiêng thu quân trở về đóng trại.

Khi điểm quân mã đều được đại thắng. Tống Giang bèn vào trương, ta ân đức Công Tôn Thắng, và khao thưởng khắp mặt tam quân.

Ngày hôm sau lại chia quân làm bốn mặt quanh thành, Công Tôn Thắng nói với Tống Giang, Ngô Dụng rằng:

– Hôm trước tuy đánh được quân Cao Liêm, song còn ba trăm thần binh chạy cả vào thành, vả chăng ngày nay phải thừa thế mà ra đây cướp trại. Vậy chiều nay ta nên thu quân làm một, đợi đến chiều tối sẽ cho nấp cả các nơi bỏ mặc trại không, cho chúng vào cướp, và truyền lệnh cho các quân sĩ cứ nghe tiếng sấm hiệu, và trông ngọn lửa ở trong trại bốc lên, là phải hết sức đổ ra đánh giết mới được.

Tống Giang nghe lời truyền lệnh cho ba quân, tiến lên đánh thành rồi chiều đến kéo cả vềtrại. Chiều hôm đó trong trại mở cờ nổi trống, chè chén với nhau, mãi đến chiều tối mới đặt ngũ để ra nấp các nơi. Khi mai phục đã yên tịnh đâu vào đó rồi. Tống Giang, Ngô Dụng, Quách Thịnh, đều kéo nhau lên chỗ gò cao để đợi.

Đêm hôm đó Cao Liêm điểm ba trăm thần binh, mỗi người lưng đeo ống sắt, trong đựng các thức lưu hoàng cùng diêm sinh, và một người đều cầm dao trượng gậy móc, miệng ngậm còi, đợi đến canh hai mở cửa thành, kéo quân ra cướp trại. Bấy giờ Cao Liêm dẫn thần binh đi trước, sau lưng có ba mươi tên quân kị đuổi theo, cùng nhau thẳng kéo tới trại Tống Giang.

Khi gần tới trại, Cao Liêm ngồi trên mình ngựa làm phép yêu quái, phút chốc đã thấy trời đất đen sì, một trận cuồng phong đổ lá rung cây đưa đến, đoạn rồi ba trăm thần binh thắp lửa vào ống sắt thổi còi làm hiệu, xông xáo kéo vào trong trại.

Bên kia Công Tôn Thắng ngồi trên gò cao trông thấy, liền lễ kiếm làm phép, rồi thấy trông giữa trại không bỗng dưng nổi một tiếng sấm rất to, ba trăm thần binh nghe vậy, vừa toan quay gót lui ra, bỗng thấy trong trại lửa đỏ rực trời, rồi bốn mặt quân phục đổ ra vây chặt trong trại không còn lối nào mà chạy thoát.

Bấy giờ ba trăm thần binh, đều bị quân mã Tống Giang giết hết, không sót một người, Cao Liêm liền dẫn ba mươi quân kị chạy trốn về thành.

Vừa chạy được mấy bước, đã thấy Báo Tử Đầu Lâm Xung, dẫn một toán quân mã đuổi sát rạt đằng sau, Cao Liêm vội vàng gọi mở cửa thành, bỏ đích kiều xuống, dẫn được tám chín quân kị, chạy thoát vào thành. Còn mấy mươi tên nữa, đều bị Lâm Xung bắt sống được cả.

Cao Liêm vào trong thành, liền đốc thúc dân chúng để coi giữ trong thành, rất là cẩn thận.

Ngày hôm sau Tống Giang lại đến vây đánh thành rất dữ. Cao Liêm nghĩ thầm rằng: “Bấy lâu học được pháp thuật, vẫn tưởng hơn đứt người, ai ngờ ngày nay, lại còn có kẻ cao hơn nữa, như thế thì còn biết tính làm sao? Nay bất nhược phải mau mau viết thư sang hạt Đông Xương và hạt Khấu Châu để cầu cứu mới được. Hai hạt đó gần đây, vả chăng hai ông Tri Phủ đó, đều là môn đệ của Ca Ca ta, thì tất nhiên họ phải đến cứu không sai… ” Nghĩ đoạn viết hai phong thư, sai hai quan Thống Chế mở cửa thành bên Tây, để cướp đường đi cầu cứu.

Bên kia các tướng của Tống Giang thấy người trong thành đi ra, đã toan đuổi theo để bắt.

Ngô Dụng gạt đi mà rằng:

– Mặc cho họ đi, ta sẽ dùng mẹo mà bắt mới thú.

Tống Giang hỏi:

– Quân sư định làm thế nào?

Ngô Dụng nói:

– Hiện nay trong thành tất là binh nguy tướng ít, nên mới sai người ra đi cầu cứu. Vậy ta giả làm hai đội quân mã đến ứng cứu, rồi đánh nhau lộn bậy ở ngoài, để cho hắn mở cửa thành ra tiếp ứng, Bấy giờø thừa thế đánh tràn vào đí, thì thế nào cũng bắt được Cao Liêm.

Tống Giang nghe cả mừng, liền sai Đới Tung về Lương Sơn Bạc lấy hai toán quân mã, chia làm hai đường để đến đánh Cao Đường.

Về phần Cao Liêm sau khi sai người đi cầu cứu viện, đêm đêm thường đốt lửa sáng rực trong thành để làm hiệu, đợi viện binh kéo đến. Cách mấy hôm trời, đám quân lính canh thành, bỗng thấy quân mã Tống Giang tự nhiêu rối loạn xôn xao, bèn vội vàng báo cho Cao Liêm biết.

Cao Liêm nghe báo, lập tức đóng áo mũ lên mặt thành để xem. Bấy giờ có hai toán quân mã xung đột tung hoành, bụi mù rợp đất, đánh giết luôn tay. Làm cho bọn giặc vây thành, đều bỏ tan mà chạy cả.

Cao Liêm thấy vậy, biết là viện quân đã đến, bèn điểm hết nhân mã trong thành, mở tung hết cả cửa thành, chia làm bốn mặt mà ùa ạt đánh ra.

Khi ra tới ngoài thành, Cao Liêm xông xáo đánh trận Tống Giang. Tống Giang, Hoa Vinh, Tần Minh cưỡi ba con ngựa, theo lối đường nhỏ mà chạy; Cao Liêm thúc quân mã đuổi riết để bắt. Đương khi đó có pháo nổ liên thanh, Cao Liêm lấy làm nghi sợ, bèn thu quân toan chạy trở về.

Bỗng đâu hai bên đường nổi tiếng thanh la ầm ĩ, rồi bên tả có Tiểu Oân Hầu, bên hữu có Kiễn Nhân Quý, đều dẫn năm trăm nhân mã xông ra, Cao Liêm cướp đường cố chạy, quân mã bị thiệt hại tới quá nửa. Khi chạy thoát được vòng trận về cổng thành, ngẩng lên trông thành đã thấy toàn thị hiệu cờ của Lương Sơn Bạc cả.

Cao Liêm kinh hoàng liếc mắt trông quanh không thấy có toán viện quân đâu nữa, chàng bất đắc dĩ phải dẫn đám quân, tìm đường lối hẻm trong núi mà chạy.

Chạy được mươi dặm đường, chợt thấy có một toán quân sĩ ở trong núi kéo ra; rồi thấy Bệnh Uùy Trì ngăn cản giữa đường mà quát lên rằng:

– Chúng ta đợi đây đã lâu, muốn sống xuống ngựa đi thôi.

Cao Liêm thấy vậy, lại dẫn quân quay lại, bỗng lại thấy Mỹ Nhiêm Công dẫn một toán quân sĩ chắn ngang lấp đường, rồi hai bên cùng xông vào để đánh. Cao Liêm thấy đường đi lối lại, đều mắc nghẽn cả, bèn bỏ ngựa xuống bộ, rồi lần lên núi để trốn. Bọn kia lại xông lên núi đuổi theo. Cao Liêm vội niệm mấy câu thần chú trong miệng, rồi quát lên một tiếng “Lên”, rồi cưỡi lên một đám mây đen phất phơ trên đỉnh núi.

Khi đó Công Tôn Thắng đứng bên sườn núi thấy vậy, bèn ngồi trên mình ngựa, cầm thanh kiếm làm phép, quát lên một tiếng “Mau” rồi trỏ thanh kiếm lên, thì thấy Cao Liêm ở giữa đám mây, rơi tung ngay xuống trước mặt Lôi Hoành, Lôi Hoành tiện tay chém một đao đứt làm đôi đoạn, rồi xách thủ cấp xuống núi.

Tống Giang nghe nói giết được Cao Liêm, bèn thu quân kéo vào trong thành Cao Đường, trước hết hạ lệnh, không cho xâm phạm dân gian, và yết bảng cho dân được yên việc làm ăn, đoạn rồi đến nhà lao để cứu Sài Đại Quan Nhân.

Bấy giờ Tiết Cấp cùng các lính ngục đều chạy trốn mọi nơi, duy còn bốn năm mươi tên tù còn sót lại. Tống Giang lại sai tháo gông mà tha cho tất cả mọi người, mà không thấy Sài Tiến ở đấy. Tống Giang cho tìm khắp mọi nơi. Sau thấy có vợ con Sài Hoàng Thành, cùng vợ con Sài Tiến đều bị giam vào hai phòng riêng, mà Sài Tiến lại không thấy, nên trong lòng buồn bã vô cùng.

Quân sư Ngô Dụng cho đòi tất cả các người làm việc ở châu Cao Đường đến để hỏi. Sau có một người Tiết Cấp tên là Lạn Nhân nói rằng:

– Bữa trước Tri Phủ Cao Liêm, bắt chúng tôi phải giam giữ rất là cẩn thận, và có dặn chúng tôi, nếu lỡ có xảy ra sự gì, thì cứ đem giết ngay Sài Tiến đi trước. Cách đây ba hôm Phủ lại thúc đem Sài Tiến ra để hành hình, chúng tôi thấy người đó ra vẻ tuấn tú khôi ngô, nên người chí khí, mới không nỡ ra tay, mà nói dối là Sài Tiến đã ốm gần chết đến nơi không cần phải giết. Sau Tri Phủ thúc giục luôn, tôi đã phải nói dối là Sài Tiến chết rồi…Đoạn rồi trong mấy hôm đánh nhau bận rộn, nên Tri Phủ cũng không hỏi gì đến nữa. Sau lại sợ người bới vẽ đến tai Tri Phủ, nên hôm qua tôi đem Sài Tiến ra chỗ giếng khô ở phía sau, tháo gông cho nấp xuống đó. Nay không biết có còn hay không.

Tống Giang nghe nói, vội bảo Lạn Nhan dẫn ra đi xem. Khi tới nơi, nom xuống dưới giếng, thấy tối đen mịt mù, không biết sâu nông thế nào, cho người đứng trên kêu gọi, thì thấy dưới giếng im phắc như tờ, không có ai trả lời cả. Sau thòng dây xuống để đo, mới biết giếng sâu có tới chín trựợng.

Tống Giang thấy vậy, rân rấn hai hàng nước mắt mà nói rằng:

– Nếu vậy thì Sài Đại Quan Nhân nguy mất rồi.

Ngô Dụng nói:

– Xin Chủ Tướng thư tâm, để cho người xuống đó dò xét xem sao?

Ngô Dụng vừa nói dứt lời, thì Hắc Toàn Phong Lý Quỳ chạy đến mà kêu lên rằng:

– Để tôi xuống cho.

Tống Giang nói:

– Được lắm! Chính ngươi làm hại Sài Đại Quan Nhân khi trước, nay ngươi nên xuống cứu mới phải.

Lý Quỳ cười nói rằng:

– Tôi xuống đó cũng không sợ gì, nhưng ở trên này đừng cắt dây mới được.

Ngô Dụng nói:

– Sao anh láu thế? Ai đã phản anh mà sợ?

Nói đoạn sai người lấy thừng lớn, buộc hai bên cạnh nối đầu thừng rất dài, đặt một cây tre trên miệng giếng, rồi quăng dây thừng lên đó. Đoạn rồi Lý Quỳ cởi trần trùng trục, tay cầm song phủ ngồi vào trong thúng, buộc hai cái chuông bên cạnh thúng, rồi người đứng trên dong dây cho Lý Quỳ xuống giếng.

Khi xuống tới đáy giếng, Lý Quỳ ra lần mò sờ soạng, bất đồ vớ phải đống xương, Lý Quỳ kêu một mình lên rằng:

– Ối cha mẹ! Cái quái gì mà gớm ghê như vậy?

Chàng lại sờ quanh sờ quẩn, thấy giữa lòng giếng, đầy những bùn lầy không sao bước chân xuống được, Lý Quỳ để đôisong phủ vào thúng, rồi với đôi tay ra giếng để lần xem.

Chàng lần mãi, sau thấy một người nằm cuộn tròn to cũng nước, Lý Quỳ lại kêu lên rằng:

– Sài Đại Quan Nhân…

Kêu dứt lời, thì thấy người kia trả lời, chàng liền giơ tay vào mũi để xem, thì thấy vẫn còn thoi thóp thở.

Chàng thấy vậy, nói lẩm bẩm một mình:

– Lạy trời đất cứ thế này thì còn có cơ cứu sống lại đây.

Nói đoạn lại nhảy vào trong thúng lắc chuông ra hiệu cho ở trên biết. Trên kia nghe thấy chuông hiệu, vội vàng cố kéo thúng lên. Khi lên tới nơi, chỉ thấy một mình Lý Quỳ, Tống Giang lấy làm kinh ngạc mà hỏi. Lý Quỳ rõ mọi sự ở dưới giếng, cho Tống Giang nghe.

Tống Giang nói:

– Nếu vậy, thì người lại phải xuống đó, đặt Sài Đại Quan Nhân vào thúng, để kéo lên trước, rồi sẽ thông thúng xuống kéo người lên sau.

Lý Quỳ nói:

– Thôi, Ca Ca không biết…Tôi đi Kế Châu đã gặp hai lần rất nguy hiểm, nay chả lẽ lại chịu lần nguy hiểm thứ ba nữa!

Tống Giang cười rằng:

– Có lẽ ta lại đùa ngươi hay sao? Ngươi cứ xuống đi mới được.

Lý Quỳ vâng lời, lại ngồi vào thúng, rồi trên này dòng dây cho xuống giếng. Lý Quỳ ẵm Sài Tiến bỏ vào trong thúng, lắc chuông ra hiệu cho kéo lên. Chúng kéo được Sài Tiến lên tới nơi, ai nấy đều mừng rỡ vô cùng, khi trông thấy Sài Tiến bị đầu trán sứt sẹo, hai bên đùi nát nhừ da thịt, hai con mắt chỉ lim dim không mở ra được, thì mọi người lại thảm thiết xót thương, sai người đi mời thầy về chữa ngay lập tức.

Bấy giờ Lý Quỳ ở dưới giếng, đợi lâu không thấy thòng thúng xuống, chàng lấy làm sốt ruột, kêu la ầm ĩ cả lên, Tống Giang nghe tiếng, bảo dòng mau dây xuống để đón Lý Quỳ.

Lý Quỳ lên tới nơi phát bẳn mà rằng:

– Các ông như thế không tốt, sao không thòng dây xuống ngay là nghĩa lý gì?

Tống Giang nói:

– Vì mải trông Sài Đại Quan Nhân, nên quên khuấy đi mất…Thôi, nhà ngươi bằng lòng vậy.

Nói đoạn sai người vực Sài Tiến lên nằm trên xe, rồi đoạn vợ con Sài Tiến cùng vợ Sài Hoàng Thành, cùng các đồ gia tài xếp hơn hai mươi cỗ xe, sai Lý Quỳ, Lôi Hoành hộ tống đem về sơn trại.

Đoạn rồi bắt cả nhà Cao Liêm hơn ba mươi người, đều chém đầu ra lệnh, mà thưởng cho tên Lạn Nhân, Lại truyền lấy của trong kho, cùng tài sản của nhà Cao Liêm, xếp cả lên xe, rồi đông mặt trảm quan, kéo cờ đắc thắng trở về Lương Sơn Bạc.Khi đi qua các châu quận, không hề động lấy tơ hào của dân, ai ai cũng lấy làm kính phục.

Tiều Cái cho mời Sài Tiến lên nghỉ ở chỗ Tống Công Minh trên núi, và sai làm một dinh cơ khác, cho gia quyến Sài Tiến ở. Bấy giờ sơn trại lại thêm có Sài Tiến cùng Thang Long, thì ai nấy đều vui vẻ, liền đặt tiệc ăn mừng, rất là thỏa thích.

Nói về phủ Đông Xương cùng phủ Khấu Châu, biết tin Cao Đường đã mất, cả nhà Cao Liêm bị chết hết, bèn cùng nhau thảo sớ, lập tức về triều đình. Sau các quan chức ở Cao Đường cùng chạy thốc về kinh, để tâu báo cho triều đình biết.

Cao Thái Úy biết tin anh em là Cao Liêm bị giết, lấy làm căm tức trong lòng, liền hăm hở vào triều để tâu cùng Thiên Tử.

Sáng hôm sau đó, khi lầu Cảnh Dương chuông động,các quan văn võ đều chỉnh tề triều phục, bước vào đan trì để chầu Thiên Tử.

Được một lát, Thiên Tử ngự ngôi chính diện, có quan Điện Đầu tuyên bố rằng:

– Các quan có việc gì cần vào tâu, bằng không xin để tan chầu.

Vừa dứt tiếng, thì thấy Cao Cầu ra quỳ trước ban tâu rằng:

– Nay có bọn giặc ở Lương Sơn Bạc, thuộc phủ Tế Châu, mấy tên đầu đảng là Tiều Cái, Tống Giang, xưa nay tụ họp đại gian đại ác, chỉ chuyên nghề cướp hại lương dân, đánh phá phủ, huyện, càn dở buông dông, không biết tới đâu mà kể. Năm trước đã đánh giết quan quân ở phủ Tế Châu, đánh phá thành Giang Châu, cùng thành Vô Vị rất là tàn ác. Nay lại đánh châu Cao Đường giết hại quan dân, cướp lấy kho tàng, làm cho trăm họ phải chịu lầm than, đó à một cái vạ lớn của nhà nước hiện nay, nếu không sớm liệu trừ ngay, mai sau tất là khó trị. Vậy xin thánh thượng xét cho.

Vua nghe tâu cả kinh, bèn truyền chỉ cho Cao Thái Úy lập tức điều binh khiển tướng trừ bọn giặc Lương Sơn.

Cao Cầu lại tâu rằng:

– Đám đó tuy vậy, cũng là một bọn giặc cỏ, bất tất phải lấy đại quân cho phí tổn quốc gia. Nay tôi xin cắt một người này, có thể khu trừ ngay được.

Vua nói:

– Khanh định cắt người nào ra đó, xin cứ truyền lệnh cho đi, sau đây đánh giặc có công, ta sẽ gia phong tước thưởng.

Cao Thái Úy tâu rằng:

– Người này là con cháu một vị danh thần khai quốc. Hô Duyên Tán ở Hà Đông, tên là Hô Duyên Chước, khiến hai cậy roi đồng, sức khỏe muôn người không kịp, hiện làm Đô Thống Chế ở quận Nhữ Vinh, trong tay sẵn có quân tinh tướng giỏi, có thể đánh nổi được giặc Lương Sơn. Nay xin phong người đó làm Binh Mã Chỉ Huy Sứ, lãnh các quân mã bộ, lập tức ra đó chinh tiễu, thì thế nào cũng được thành công.

Vua nghe nói lấy làm vui mừng, bèn giao cho Viện Cơ Mật, sai Sứ thần vâng mang sắc chỉ lập tức ra đất Nhữ Nam mời Hô Duyên Chước về kinh phụng mạng.

Khi Sứ thần đi đến Nhữ Nam, Hô Duyên Chước cùng các quan trong thành ra nghinh đón thánh chỉ, đem về tuyên đọc, rồi tiếp đãi Sứ thần rất là trân trọng. Đoạn rồi lập tức thu thập các đồ mũ mãng đai giáp cung tên gươm ngựa, và dẫn ba bốn mươi tên thủ hạ, gấp đường về chốn kinh sư.

Cách mấy hôm về đến kinh sư, Hô Duyên Chước đến điện Tư Phủ để chào Cao Thái Úy. Hôm đó Cao Cầu đương ngồi trên súy phủ, nghe báo Hô Duyên Chước đã về, thì trong bụng lấy làm vui mừng hớn hở, lập tức cho mời vào nói chuyện. Khi Hô Duyên Chước vào tới nơi Cao Thái Úy đem lời uyển ủy hỏi thăm, rồi đem các đồ thưởng tứ ra cho, rồi sáng sớm hôm sau mới dẫn vào chầu Thiên Tử.

Thiên Tử trông thấy Hô Duyên Chước tướng mạo đường đường, ra dáng một tay dũng lược, thì trong bụng rất vui mừng hớn hở, liền ban cho một con ngựa Tích Tuyết Ô Truy, ngày đi ngàn dặm, là một giống ngựa hiếm có xưa nay.

Hôm đó Hô Duyên Chước vâng lời tạ ơn vua, rồi theo Cao Thái Úy trở về súy phủ, để bàn việc khởi binh, Hô Duyên Chước nói với Cao rằng:

– Dám bẩm ân tướng, tôi xem bọn Lương Sơn Bạc, binh nhiều tướng giỏi, ngựa mạnh lương nhiều, không thể vội khinh ngay được. Vậy tôi xin tiến cử hai tướng làm Tiên Phong, để cùng đi ra đó, thì mới có thể khu trừ được giặc, chẳng hay ân tướng nghĩ sao?

Cao Thái Úy gật đầu khen phải, liền ân cần hỏi Hô Duyên Chước xem định tiến cử những ai?

Mới hay:

Một phen huyết chiến dậy trời,

Giết quân tàn bạo, cứu người oan khiên,

Xưa nay tài trí lương liên,

Mà cân họa phúc hoàng thiên cũng già.

Ấy ai gậy cuộc phong ba,

Hao binh tốn tướng dễ mà ích chi?

Con thuyền ngang dọc Liêu Nhi?

Giang san này biết nặng vì ai đây?

Lời bàn của Thánh Thán:

Sau khi mời được Công Tôn Thắng, ba người cùng về, phải rồi. Đới Tung lại bỗng đâu về trước, để làm cho Lý Quỳ có chuyện mua bánh táo chay, Lý Quỳ mua bánh táo chay, để mà nảy ra biết được Thang Long, Lý Quỳ kết thức được Thang Long, để mà sau này có chuyện chế tạo ra câu liêm đánh giặc. Ôi! Chế ra câu liêm để phá trận Liềm Hoàn Mã, trận Liêm Hoàn Mã tới đây, chính để báo thù cho Cao Liêm vậy. Vì Cao Liêm chết do tay Công Tôn Thắng, nay Công Tôn Thắng chưa tới, thì Cao Liêm chưa chết. Cao Liêm chưa chết, thì Cao Cầu cũng chưa gọi Hô Duyên Chước, Cao Cầu chẳng gọi Hô Duyên Chước, thì không có trận Liên Hoàn Mã, nếu không xẩy ra trận Liền Hoàn Mã, tất không cần đến Thang Long vậy. Nay Lý Quỳ mới dự kết thức, vì kết thức, ở chỗ mua bánh táo, vì mua bánh táo, cho nên Đới Tung dự đi lòng văn luẩn quẩn đến như thế, khiến qủy thần không thể lường ra.

Tả Công Tôn Thắng thần công đạo pháp, chỉ ít nhiều bút mực tả ra, chẳng phải dùng sức phô trương chỉ có cách hơn người một bực.

Tả Công Tôn phá Cao Liêm, Cao Liêm nếu một trận mà thua, thì đâu có nổi bậc tài của Công Tôn Thắng? Mới phải dùng đến hai phen mấy ngày, lại giở nốt tài của Cao Liêm, theo đuổi lần trước cướp trại với một thế ấy để lần sau lạicp trị bất ngờ, nhân đó mà quét sạch đi, chẳng coi là thường, chẳng lấy làm trọng, càng thấy rất phải.

Lần trước cướp trại do thừa thắng, lần sau cướp trại lại nhân bại trước sau cướp trại hai lần, lấy đó phân biệt, thế thì thực ra tác giả tả lần cướp trại sau, để che lấp dấu bút vết mực trước, như trên bàn đã rõ ra. Hồi này chỉ chép lớn ra chiến công của Lâm Xung, chính vì nghĩa xóa sạch công án với thù họ Cao, chẳng phải bút mực phải tả vậy. Thái Sử Công nói rằng: Gây oán độc với người tệ hại thay! Chẳng là phải ư?

Lý Quỳ là người thô mãng, tuy hết sức tả ra, nhưng không tả nổi, hồi này cốt chép Lý Quỳ thô mãng, lật lại con người gian hoạt, khiến cho đời thấy chất phát càng thấy không ngoan, mới thực chuyện kỳ.

Cổ thi nói rằng: Nước giếng đâu biết gió trời, ý non nước dưới giếng sâu, gió không động tới, thế mà hảo hán ngọn Toàn Phong (Gió Lốc) đề sa vào dưới đáy giếng khô ở đất Cao Đường, câu ngụ ngôn với ý bấy giờ có ác Cao Giang nhiễu loạn, không còn để sót chút nào?

Cuối hồi miêu tả vua cho ngựa Tích Tuyết Ô Truy chỉ ba bốn câu, mà chú trọng đến đọc thành một thiên tuyệt diệu về bài phú ngựa.

Hồi 54: Cao Thái Úy huy động quân Ba Lộ – Hô Duyên Chước dàn trận ngựa Liên Hoàn

Bấy giờ Cao Thái Úy hỏi Hô Duyên Chước, định cử ai làm tướng Tiên Phong?

Hô Duyên Chước bẩm rằng:

– Chúng tôi xin cử một người làm chánh Tiên Phong là họ Hàn tên Thao, nguyên người quán Đông Kinh, hiện làm Đoàn Luyện Sứ ởû Trần Châu, vốn là tay võ cử xuất thân, khiến một thanh gươm trường rất giỏi, người ta thường gọi là Bách Thắng Tướng Quân; Cò một người Phó Tiên Phong, tên là Bành Dĩ, con cháu của tướng ở đất Đông Kinh, hiện làm Đoàn Luyện Sứ ở Dĩnh Châu, khiến khẩu đao hai lưỡi hai mũi, võ nghệ hơn người, ai ai cũng gọi là Thiên Mục Tướng Quân.

Cao Thái Úy nghe nói cả mừng mà rằng:

– Nếu được hai tướng đo, ù ra đứng Tiên Phong, thì làm gì mà không dẹp yên được giặc?

Nói đoạn liền cho thảo hai bức công văn, Ủy Viện Khu Mật, sai người đến Trần Châu, và Dĩnh Châu lập tức, triệu Hàn Thao và Bành Dĩ về kinh thính dụng.

Cách dặm bảy hôm, hai tướng về đến Soái Phủ; liền vào bái yết Cao Thái Úy, ngày hôm sau Cao Thái Úy đen các hàng quân ra đến giáo trường để diễn võ.

Khi diễn võ xong Cao Thái Úy hỏi các chư tướng rằng:

– Hiện nay ba đạo quân có được bao nhiêu?

Hô Duyên Chước đáp rằng:

– Trong ba đạo có năm nghìn quân mã, và một vạn quân bộ.

Cao Thái Úy nói:

– Nếu vậy các tướng phải lập tức trở về bản Châu, chọn lấy ba nghìn mã quân, và năm nghìn bộ quân, mà cùng nhau tiến đánh Lương Sơn mới được.

Hô Duyên Chước nói:

– Binh mã ba đạo hiện đã luyện tập tinh thông, chủ Súy không cần lo đến, duy các đồ giáp trượng thì còn thiếu thốn nhiều, e khi khó lòng mà khởi binh ngay được.

– Nếu thế ta cho phép vào kho giáp trượng ở đây, chọn đủ các thứ để dùng cho quân sĩ, cốt sao nghiên bị chỉnh tề, rồi khi khởi binh, ta sẽ cho người ra điểm lại.

Hô Duyên Chước vâng lệnh, dem người vào kho giáp trượng, chọn được ba nghìn thiết giáp, năm nghìn áo giáp ngựa bằng da, hai nghìn gươm trường, một nghìn đao lớn, các thứ cung tên cùng năm trăm khẩu hỏa bác thiết bác, xếp đặt trên xe, để mang về ứng dụng. Cao Thái Úy giao cho ba nghìn ngựa trận, thưởng kim ngân cho ba tướng, và khao thưởng tam quân. Rồi Hô Duyên Chước cùng Hàn Thao, Bành Dĩ làm giấy cam đoan với Cao Thái Úy, mà từ biệt ra đi.

Khi về tới châu Nhữ Ninh, Hô Duyên Chước sai Hàn Thao, Bành Dĩ, đem hết binh mã ở Trần Châu, Dĩnh Châu đến cùng hội họp. Trong nửa tháng trời, ba đạo quân tề tựu nghiêm chỉnh. Hô Duyên Chước liền đem các đồ gươm giáo cung ngựa trao cho ba quân mà dự bị đợi ngày ra trận.

Bấy giờ Cao Thái Úy sai hai viên tướng trong điện Súy Phủ, ra điểm lại hẳn hoi, rồi khao thưởng ba quân mà chia làm ba đạo tiến đánh. Hô Duyên Chước đi đạo trung quân, ở giữa, rồi Bành Dĩ thôi thúc đạo quân đi sau. Khi ra khỏi cửa thành, ba quân cờ mở trống gióng, uy thế ầm ầm như vỡ trời long đất, mà cùng nhau keo đến Lương Sơn.

Bên kia Tiều Cái, Tống Giang nghe báo quan quân kéo đến, bèn tụ họp quân sư Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Sài Tiến, cùng các vị Đầu Lĩnh, để bàn định cơ cự địch.

Ngô Dụng nói:

– Hô Duyên Chước là con cháu quan Khai Quốc Công Thần Hô Duyên Tán, võ nghệ cao cường, khiến hai cây roi đồng rất giỏi, khó ai bén mảng đến gần. Vậy tất phải tay nào can trường giỏi giang mới được, trước hết lấy sức đối địch, rồi sau dùng mẹo thi hành mới có thể bắt được.

Vừa nói dứt lời, thì Hắc Toàn Phong Lý Quỳ ứng lên rằng:

– Tôi xin đi bắt thằng ấy mới được…

Tống Giang gạt đi mà rằng:

– Ngươi đi không được…việc này phải nhờ Tích Lịch Hỏa Tần Minh đi đánh trận đầu; Báo Tử Đầu Lâm Xung, đi đánh trận thứ nhì; Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh đánh trận thứ ba; Nhất Trượng Thanh Hổ Tam Nương, đánh trận thứ tư; Bệnh Úy Trì Tôn Lập, đánh trận thứ năm. Năm đội lần lượt đánh, rồi ta sẽ dẫn mười anh em và đại đôi nhân mã mà áp sau…Đám hậu quân thì bên tả năm tướng là Chu Đồng, Lôi Hoành, Mục Hoằng, Hoàng Tín, Lã Phương; bên hữu năm tướng là Dương Hùng, Thạch Tú, Âu Bằng, Mã Lân, Quách Thịnh; đường thủy thì Lý Ứng, Trương Hoành, Trương Thuận, và ba anh em họ Nguyễn đem thuyền ra tiếp ứng. Còn Lý Quỳ với Dương Lâm đem quân ra mai phục hai bên đường để đợi khi ứng viện.

Tống Giang cắt đặt chỉnh tề rồi tiền quân là Tần Minh dẫn quân mã xuống núi rồi tìm nơi nội rộng mà dàn thành thế trận. Bấy giờ đương dạo mùa đông, song khí trời ấm áp dễ chịu, Tần Minh đợi đến ngày hôm sau đã thấy Tiên Phong bên kia là Bách Thắng Tướng Quân Hàn Thao kéo đến.

Sáng hôm sau, hai bên ra đối trận. Ba hồi trống gióng vừa xong, thì hai tướng cùng cởi ngựa xông ra cửa trận, cùng đứng dưới mặt cờ.

Hàn Thao hoành gươm trên ngựa mà quát mắng Tần Minh rằng:

– Binh trời đến đây, ngươi không xuống ngựa sớm liệu hàng trước đi, còn toan chống cự được sao ta nay quyết lấp phăng vũng nước, đập tan ngọn núi Lương Sơn, giết chết đồ phản tặc chúng bay, mà đem nộp về triều đình, băm thây làm vạn mảnh mới nghe…

Tần Minh vốn là người nóng tính, không nói năng chi, liền vỗ ngựa múa Lang Nha Côn thẳng xông ra đánh. Hàn Thao cũng múa gươm cự địch với Tần Minh.Đôi bên dánh nhau được hơn hai mươi hiệp, Hàn Thao không sao địch nổi Tần Minh, chỉ toàn thừa cơ để chạy.

Vừa khi đó chủ tướng là Hô Duyên Chước kéo đến, thấy Hàn Thao không đánh nổi Tần Minh, lièn múa song chiên, phóng ngựa Tích Tuyết Ô Truy, xông ra để đánh giúp.

Tần Minh thấy vậy toan xong lại đánh, thì đội quân thứ hai là Báo Tử Đầu Lâm Xung dã ra cứu ứng.

Lâm Xung bảo với Tần Minh rằng:

– Thống Chế hãy nghĩ một lát xem tôi đáng đủ ba trăm hiệp rồi sẽ hay.

Nói đoạn múa Bát Xà Mâu ra đánh Hô Duyên Chước, rồi Tần Minh lại dẫn quân quanh sườn núi lui vào. Đằng này Lâm Xung với Hô Duyên Chước, đôi bên địch thủ với nhau, kẻ chiên người thương rối rít như hoa trước gió, đánh nhau hơn năm mươi hiệp, chưa phân thắng phụ ra sao?

Chợt đâu đội quân thứ ba là Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh đã đến. Hoa Vinh đứng trước cửa trại kêu lên rằng:

– Lâm Tướng Quân hãy khoan tay, để tôi bắt sống hắn cho mà coi.

Lâm Xung nghe nói, liền quay ngựa chạy vào trốn mất, Hô Duyên Chước thấy Lâm Xung võ nghệ cao cường, thì cũng chạy về bản trận, mà không dám đuổi. Lâm Xung bèn dẫn quân bản bộ, mà đi quanh vào nẻo đường núi.

Bấy giờ Hoa Vinh vác thương ra trận, thì thấy bên kia tướng hậu quân là Thiên Mục Tướng Bành Dĩ cũng vừa kéo đến.

Bành Dĩ hoành đao ngồi trên mình ngựa Ngũ Minh Thiên Hoàng Hoa, xông ra cửa trận quát mắng Hoa Vinh rằng:

– Đồ phản tặc kia có thấm vào đâu? Ngươi quyết đấu được thua với ta chăng?

Hoa Vinh cả giận không thèm trả lời, liền xông ngựa ra đánh luôn Bành Dĩ. Đôi bên đánh nhau được hai mươi hiệp, thì Hô Duyên Chước thấy Bành Dĩ hơi túng thế, bèn vỗ ngựa xông ra địch với Hoa Vinh.

Chợt đâu toán quân thứ tư kéo đến, Nhất Trượng Thanh Hổ Tam Nương gọi lên rằng:

– Hoa Tướng Quân hãy nghỉ tay, để tôi bắt tên ấy cho…

Hoa Vinh nghe nói, liền vỗ ngựa dẫn quân lui về sườn núi. Bên kia Bành Dĩ lại xông ra đánh nhau với Nhất Trượng Thanh.

Vừa được một lát thì toán quân thứ năm là Bệnh Úy Trì Tôn Lập kéo ra, Tôn Lập kìm ngựa trước trận, xem Nhất Trượng Thanh đối địch Bành Dĩ, đôi bên gươm đao loáng nhoáng, ngựa cuốn bụi trần, đầu xông sát khí đanh nhau hơn hai mươi hiệp thì Nhất Trượng Thanh quay ngựa chạy vào.

Bành Dĩ thấy vậy, gắn sức bình sinh xông vào đuổi đánh. Nhất Trượng Thanh đeo đao lên yên ngựa, sờ trong áo lấy ra tấm hồng gấm, trên mặt có hai mươi bốn lưỡi câu vàng, chờ khi Bành Dĩ đuổi sát đến nơi, liền quay mình nhắm trúng Bành Dĩ quăng ra một cái, rồi giật Bành Dĩ quay xuống ngựa.

Tôn Lập thấy thế, quát quân sĩ bắt trói Bành Dĩ đem về. Hô Duyên Chước cả giận, liền vỗ ngựa xông ra đánh cứu. Nhất Trượng Thanh cũng vỗ ngựa xông ra để địch Hô Duyên Chước. Hô Duyên Chước tức giận Nhất Trượng Thanh mong sao nuốt sống được thì mới cam tâm.

Hai bên đánh nhau hơn hai mươi hiệp, Hô Duyên Chước sốt ruột lừa miếng phá đĩnh, lừa cho Nhất Trượng Thanh chém sấn đôi đao vào gần trước bụng rồi tay hữu chàng giơ roi nhằm vào Nhất Trương Thanh đánh xuống, dè đâu Nhất Trượng Thanh nhanh mắt trông thấy, liền giơ đao bên phải lên đỡ, làm cho đầu roi vừa đánh vào lưỡi đao đánh keng một tiếng, bắn loè lửa ra, rồi Nhất Trượng Thanh quay ngựa chạy vào bản trận.

Hô Duyên Chước thấy vậy vội vàng sấn ngựa đuổi theo. Bên này Bệnh Úy Trì Tôn Lập xông ra đón đánh, rồi thấy toán hậu quân của Tống Giang cũng vừa kéo đến ở đàng sau.

Tống Giang dẫn mười vị tướng quân, dàn thành trận thế, để tiếp ứng đằng sau, còn Nhất Trượng Thanh lại dẫn quân mã quay vào sườn núi. Tống Giang thấy Nhất Trượng Thanh bắt sống được Bành Dĩ, thì trong lòng lấy làm mừng vô hạn.

Đằng này Tôn lập đeo gươm lên vai rút đôi cương chuỳ dóng trúc, ra đánh nhau với Hô Duyên Chước, đôi bên cùng múa song chùy, thế lực tất là hùng dũng. Một bên Tôn Lập đội mũ sắt đôi sưng giao nhau quấn khăn lụa hồng ở trán, mình mặc áo bà ba đen, trăm hoa điển vẽ, vai khoác giáp vàng cưỡi ngựa Ô Truy, khiến đôi cương chiên dóng trúc mắt hổ, trông vẽ ăn đứt Uất Trì Cung. Một bên Hô Duyên Chước, đầu đội mũ sắt sừng thẳng lên trời, quấn khăn vàng ở trán, mình mặc áo đen, đốm vẽ thất tinh khoác áo khai giáp, cưỡi con ngựa Tích Tuyết Ô Truy khiến đôi cương chiên Thủy Bát Mã Lăng, tay tả nặng mười cân, tay hữu nặng mười ba cân, rõ ra dòng dõi quan Hô Duyên Tán. Hai bên đánh nhau trước trận, kẻ tiến người lui, kẻ quanh người lại, trước sau tới ba mươi hiệp, chưa phân thắng thua được ra sao.

Bấy giờ Hàn Thao ở trong đám quân quan, nghe nói bị bắt mất Bành Dĩ liền thôi thúc hết cả binh mã đội hậu, xông vào đánh trận Tống Giang, Tống Giang thấy vậy, vội thúc mười vị Đầu Lĩnh dẫn quân xông sang đánh trước. Đoạn rồi bốn đạo ở đằng sau, cũng chia làm hai đường mà cùng nhau tiến đánh.

Khi đó trong trận Hô Duyên Chước, ngựa đứng liên hoàn, đều mặc bố giáp, chỉ hở bốn cẳng ra ngoài, người mặc áo ngai giáp, chỉ để hai mắt nom ra cung tên gươm giáo không thể sao đánh cho trúng được. Còn bên trận Tống Giang cũng có giáp trụ chỉnh tề, song đò dùng thường mỏng không sao chịu nổi cung tên của trận bên kia bắn lại, Tống Giang biết thế không đánh phá nổi, đành phải gõ chiên thu quân lui về. Bên kia Hô Duyên Chước cũng lui quân hơn hai mươi dặm hạ trại.

Tống Giang kéo quân về hạ trại bên Tây núi, rồi gọi tả hữu đem Bành Dĩ ra trước trướng Trung Quân. Khi binh sĩ giải Bành Dĩ tới nơi, Tống Giang vội quát lui tả hữu, rồi thân hành cởi trói cho Bành Dĩ, dắt lên mời ngồi trong trướng, đoạn rồi Tống Giang cúi lạy Bành Dĩ một cách rất trang trọng.

Bành Dĩ vội đáp lễ mà rằng:

– Chúng tôi bị bắt đến đây, lẽ ra phải chết, cớ sao Tướng Quân lại còn đãi cho như thế?

Tống Giang nói:

– Lũ chúng tôi hết chốn nương thân, phải nhờ nơi Thủy Bạc tạm lánh ít lâu…Ngày nay triều đình sai Tướng quân đến đánh, lẽ ra đến trước Quan Nhân mà cúi đầu chịu tội mới phải, song e khi tính mạng không toàn, mới phản cùng các ngài mà cả gan chống cự. Nay như thế thực là mạo phạm uy trời, xin ngài ta tội ấy cho.

Bành Dĩ nói:

– Tôi vẫn nghe tiếng Tướng Quân có lòng trọng nghĩa khinh tài, phù nguy cứu khổ, ai ngờ đâu ngày nay quả nhiên biết được, như vậy thực hân hạnh vô cùng. Nếu ngài có lòng dung nạp tôi, thì sẽ hết lòng ra sức để báo đáp ơn to nghĩa lớn, chẳng hay ngài nghĩ sao?

Tống Giang nghe nói cả mừng, sai người đưa Bành Dĩ lên chào Tiều Cái Thiên Vương, lưu ở sơn trại, rồi nhất diện khao đãi tam quân, cùng các vị Đầu Lĩnh bàn định việc quân.

Bên kia Hô Duyên Chước thu quân đóng trại, rồi cùng với Hàn Thao bàn việc đánh phá Lương Sơn.

Hàn Thao nói:

– Ngày nay ra trận, bên giặc đã tiến quân ra đánh, sao lại vội vàng lui quân về ngay, vậy ngày mai đem tận số quân mã lên trước, tất là toàn thắng không sai.

Hô Duyên Chước nói:

– Việc đó ta cũng dự định như thế, vậy ngày mai nên làm ngay mới được.

Nói đoạn liền hạ lệnh cho ba nghìn quân mã dự làm trăm đội, cứ ba mươi con kết làm một liên, lấy hoàn (vòng) sắt khoá với nhau, hễ gặp quân giặc xa dùng cung tên, gần dùng gươm giáo, đều phải hết sức xông vào để đánh. Còn năm nghìn quân bộ đi sau để tiếp ứng.

Hô Duyên Chước lại dặn Hàn Thao rằng:

– Sáng mai bất tất khiêu chiến làm chi ta cùng Tướng Quân cứ áp trận đằng sau, hễ thấy quân giặc ra đánh thì cứ chia làm ba mặt xông vào mới được.

Bàn định đã xong, sáng hôm sau đều sắp sửa chỉnh tề ra trận.

Đằng này Tống Giang chia binh mã làm năm đội tiến trước, còn hậu quân chỉ có mười tướng đi kềm và hai toán phục binh, nấp ở hai đường tả hữu. Bấy giờ năm đội quân đi trước, thì có Tần Minh đứng giữa, Lâm Xung, Nhất Trượng Thanh bên tả, Hoa Vinh, Tôn Lập ở bên hữu, rồi Tống Giang dẫn mười tướng kéo quân ra đằng sau, người ngựa chập chùng, không khác chi rừng quân núi giáo vậy.

Khi dàn trận chỉnh tề Tần Minh liền ra trận thách đánh với Hô Duyên Chước, bên trận Hô Duyên Chước có một nghìn bộ binh dàn ở trước mặt, chỉ khua trống reo hò mà không ai ra đánh với Tần Minh.

Tống Giang đứng sau thấy vậy, lấy làm nghi hoặc, bèn truyền lệnh cho hậu quân tạm lui, rồi phóng ngựa lên chỗ Hoa Vinh, để nom sang trận bên kia.Chợt đâu bên trận bên kia có tiếng súng Liên Châu, một nghìn quân bộ ở trước trận, chia ra hai bên, rồi có ba đạo quân mã liên hoàn xông ra hăng hái. Hai bên mã quân toàn thị tên bắn ra như mưa, còn khoảng giữa thì gươm giáo sáng choang một lượt.

Tống Giang thấy vậy cả kinh, vội thúc quân sĩ lấy cung tên bắn ra để cự địch. Bên kia ba nghìn quân mã cứ phăm phăm nhất tề để cự đến. Năm đạo quân trước trận. Tống Giang thấy cả sợ, rối loạn cả lên. Đội quân ở phía sau cũng hoảng kinh chạy trốn, không sao thu giữ lại được. Tống Giang vội vàng quay ngựa lui lại, rồi mười tên tướng kèm giữ hai bên mà chạy.

Bấy giờ sau lưng đã có một đội quân Mã Liên Hoàn đuổi đến. May có hai đạo phục binh của Lý Quỳ, Dương Lâm đổ ra cự địch, đánh cứu Tống Giang chạy thẳng về Bến Nước. Đoạn rồi Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, cùng ba anh em họ Nguyễn chở thuyền ra tiếp ứng, Tống Giang vội vàng xuống thuyền sai chia các ngã cứu các tướng xuống thuyền tất cả.

Trên kia đội quân mã Liên Hoàn đuổi đến Bến Nước, bắn tên rào rào xuống các thuyền, may các thuyền đều có các lá chắn che thân, nên không thiệt hại chút nào. Tống Giang thôi thúc đuổi thuyền đến Áp Chủy, rồi kéo lên bộ đóng quân ở đó. Khi điểm lại binh mã thiệt mất quá nữa, duy các Đầu Lĩnh vẫn còn chu toàn được cả.

Được một lát thấy Thạch Dũng, Thời Thiên, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu chạy trốn về sơn trại mà nói rằng:

– Chúng tôi bị đám bộ quân sát đến, phá hết cửa nhà, nếu không có thuyền ứng cứu, thì khó lòng mà sống sót lên đây được.

Tống Giang nghe nói, lấy lời an ủi mọi người rồi thân hành xem xét tất cả các tướng sĩ ra trận. Trong đó có sáu người bị tên là Lâm Xung, Lôi Hoành, Lý Quỳ, Tôn Tân Hoàn Tín, còn đám tiểu lâu la bị thương không biết tới đâu mà kể. Tiều Cái thấy vậy, liền cùng với Ngô Dụng, Công Tôn Thắng tới nơi thăm hỏi. Tống Giang ra âu sầu lo nghĩ, không biết lập kế ra sao?

Ngô Dụng khuyên Tống Giang rằng:

– Thắng bại là việc của nhà binh, Ca Ca bất tất phải lo phiền quá đổi… rồi đây ta sẽ nghĩ cách phá ngựa Liên Hoàn.

Tiều Cái bèn truyền lệnh thủy quân, đóng yên Thủy Trại, đêm ngày canh phòng cho cẩn thận, đề phòng địch tràn qua, và mời Tống Giang lên núi để yên nghĩ.

Tống Giang không chịu lên núi, liền hạ trại ở bến Áp Thủy, rồi cho các tướng bị thương lên núi để dưỡng bệnh.

Sa trường muôn dặm cát bay,

Anh hùng thua được xưa nay chuyện thường,

Ba quân bền giữ gan vàng,

Nước non có hội phong quan ngại gì?

Nói về Hô Duyên Chước thu quân đắc thắng trở về trong trại, tháo ngựa Liên Hoàn, thưởng công các tướng, tính tất cả giết chết quân rất nhiều, bắt sống được năm trăm người và hơn ba trăm ngựa chiến. Hô Duyên Chước liền cho người về báo tiệp ở kinh sư, rồi nhất diện khao thưởng quân ở trại.

Bấy giờ Cao Thái Úy ở kinh sư nghe tin Hô Duyên Chước đánh được giặc Lương Sơn Bạc, sai người về báo tiệp, thì hớn hở vui mừng đến ngày hôm sau vào tâu cho Thiên Tử biết.

Thiên Tử nghe tin cả mừng liền lấy mười bình rượu ngự, một áo cẩm bào, và mười vạn quan tiền, phái một viên Sứ Quan đem ra cho Hô Duyên Chước, và khao thưởng ba quân. Khi Sứ Giả tới nơi Hô Duyên Chước cùng Hàn Thao ra ngoài hai mươi dặm đón tiếp vao trong trại, lạy chịu ơn vua, đặt tiệc đãi Sứ Giả, rồi sai Hàn Thao chia tiền thưởng quân và đem năm trăm người mới bắt đem giam trong trại, để đợi khi được đầu đảng sẽ giải kinh sư.

Quan Sứ thân hỏi Bành Đoàn Luyện, Hô Duyên Chước liền đáp rằng:

– Bữa trước mới kéo quân đến đây, vì ham bắt Tống Giang, vào gần đất giặc, nên bị gian đồ bắt mất, nhưng ngày nay chắc là quân giặc không dám thò ra nữa. Vậy tôi định phân binh để đánh kỳ cho phá hết sơn trại, lấp phẳng thủy nhai, bắt cả gian tặc, mà phá tan sào huyệt mới nghe. Song còn hiềm một nổi bốn mặt toàn thị hồ nước, không có đường lên, vậy duy còn có cách dùng súng hỏa bác mà bắn đánh, thì thể nào cũng có thể phá được. Trước đây tôi nghe ở kinh sư có một người tên là Oanh Thiên Lôi Lăng Chấn, chế súng Hỏa Bạc có thể bắn xa tới mười bốn mười lăm dặm, đạn đá đến đâu, đất lỡ trời long, núi tan đá vỡ đến đó.Vả chăng người đó võ nghệ tinh thông, cung tên thạo giỏi, nếu được Thiên Sứ về kinh, nói Quan Thái Úy cho người đó ra đây, thì thế nào cũng có thể phá tan quân giặc ngay.

Thiên Sứ nghe nói vâng lời, rồi sáng hôm sau bái biệt trở về kinh sư, Thiên Sứ vào chào Cao Thái Úy, đem lời của Hô Duyên Chước thuật lại cho Cao Thái Úy nghe. Cao Thái Úy cả mừng, lập tức cho đòi quan phó sứ kho Giáp Trượng là Lăng Chấn đến.

Nguyên Lăng Chấn, người ở Lăng Yên, là một tay võ nghệ cao cường, làm nghề chế súng rất giỏi ở triều nhà Tống, nên vẫn gọi là Oanh Thiên Lôi xưa nay. Bấy giờ Oanh Thiên Lôi đến bái kiến Cao Thái Úy, Thái Úy cấp văn bằng trao cho làm chức Thống Lĩnh Hành Quân, truyền lệnh sắp sửa yên mã khí giới để ra đi lập tức.

Lăng Chấn vâng lệnh ra về sửa soạn các đồ dùng, chế thuốc làm súng cùng các thứ giá súng đạn, xếp cả lên xe, và sắp đủ cung đao mã giáp, dẫn ba bốn mươi tên quân hoá đi ra địa phận Lương Sơn.

Khi ra tới trại, Lăng Chấn chào chủ Tướng là Hô Duyên Chước, và Tiên Phong là Hàn Thao, rồi thăm dò các nơi xung yếu ở sơn trại, và đặt ba thứ súng để đánh. Ba thứ súng đó một là Phong Hỏa Bác, hai là Kim Luân Bác, ba là Tử Mẩu Bác, đều sai đặt giá súng ở bên Bến Nước, để phòng bị sẵn sàng ở đó.

Khi đó Tống Giang ở trong tiểu trại trên bến Áp Chủy, đương cùng với quân sư Ngô Học Cứu, để bàn cách phá quan quân. Bỗng thấy người vào báo, nay có một tay giỏi nghề súng đạn, tên là Oanh Thiên Lôi Lăng Chấn, ở đông kinh mới đến trại quân, hiện dã dựng các giá súng ở Bến Nước, để sắp sửa đánh vào sơn trại nay mai.

Ngô Dụng nghe báo, bảo với Tống Giang rằng:

– Sơn trại đây, bốn mặt toàn thị là hồ nước, thành Uyển Tử cách nước lại càng xa, dẫu có Phi Thiên Hỏa Bác cũng khó lòng mà đánh vào ngay được. Nay hãy tạm bỏ tiểu trại này, mà đóng cả ở trên núi, xem họ đánh chác ra sao rồi ta sẽ liệu.

Tống Giang nghe nói, liền bỏ tiểu trại ở bên Áp Chủy, mà kéo về tất cả ở trên sơn trại. Tiều Cái, Công Tôn Thắng đón tiếp vào Tụ Nghĩa Sảnh mà hỏi rằng:

– Nay quân giặc đã dùng thứ súng như vậy, thì ta dùng cách nào để đối địch cho lại?

Vừa hỏi được một câu, thì bỗng thấy có ba tiếng súng nổ luôn, đánh vào Thủy Trại ngoài bến Áp Chủy. Tống Giang thấy vậy, trong lòng bối rối lo âu, cùng các vị Đầu Lĩnh đều thất sắc ngây người không biết làm sao cho được.

Ngô Học Cứu nói bàn rằng:

– Bây giờ nếu có một người dụ được Lăng Chấn vào gần Bến Nước mà bắt được hắn, thì mới có thể bàn đánh phá quân giặc được.

Tiều Cái nói:

– Nếu vậy thì ta cho Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, ba anh em họ Nguyễn, đem thuyền ra Bến Nước cứ thế này…mà làm. Trên bờ thì Chu Đồng, Lôi Hoành thì cứ theo cách thế này…mà tiếp ứng, thì may ra có thể thành công được.

Sáu vị Đầu Lĩnh coi thủy trại đều vâng lời, rồi Lý Tuấn cùng Trương Hoành dẫn bốn năm mươi tên thủy thủ rất thạo, chèo hai cái thuyền, theo đám lau lách đi trước, Trương Thuận cùng ba anh em họ Nguyễn dong hơn bốn mươi chiếc thuyền nhỏ, tiếp ứng theo sau.

Khi Lý Tuấn, Trương Hoành ra đến ngoài bến, liền nhảy lên bờ đến chỗ giá súng của Lăng Chấn mà reo hò toan kéo đổ. Quân sĩ thấy vậy liền vào báo với Lăng Chấn. Lăng Chấn nghe báo, vội lấy hai khẩu súng phong hỏa, rồi cắp dao lên ngựa, dẫn hơn nghìn quân hăm hở đuổi theo.

Lý Tuấn, Trương Thuận thấy vậy liền dẫn người chạy thẳng. Lăng Chấn hất hả chạy đuổi theo đến bên gần Bến Nước, thấy có một dãy hơn bốn mươi chiếc thuyền nhỏ, và có hơn trăm quân thủy ở đó.

Bấy giờ Lý Tuấn, Trương Thuận nhảy xuống cả thuyền, cố ý trùng trình không đẩy thuyền ra vội. Khi trông thấy nhân mã của Lăng Chấn tới nơi, thì kêu gọi ầm ĩ, rồi nhảy xuống cả nước một lượt.

Lăng Chấn thấy vậy, liền đến cướp cả thuyền, Chu Đồng, Lôi Hoành đứng đối ngạn bên kia liền đánh trống reo hò ầm cả lên.

Lăng Chấn cướp được dãy thuyền, bèn sai quân kéo cả xuống thuyền chèo chở quay vào để đánh. Khi đến giữa dòng nước, chợt thấy Chu Đồng, Lôi Hoành ở trên bờ đánh một hồi chuông, liền ở dưới nước có bốn năm mươi tên thủy quân, nhoi lên nhổ hất tất cả lái thuyền, làm cho nước chảy vào thuyền như suối vậy. Đoạn rồi đám thủy quân thừa thế, mà đánh lật đổ cả thuyền, các quân sĩ trong thuyền đều bị lăn xuống nước cả.

Lăng Chấn thấy vậy toan quay thuyền trở lại, thì bỗng thấy thuyền mình cũng mất cả bánh lái, nước rĩ vào thuyền như suối chảy, rồi hai bên có hai tên Đầu Lĩnh nhoi lên đánh đổ lật thuyền cho Lăng Chấn ngã lăn xuống nước. Bấy giờ Nguyễn Tiểu Nhị chực sẵn dưới thuyền, vớ được Lăng Chấn, liền ôm choàng lấy mà kéo lên trên bờ. Lên đến bờ, có người tiếp tay, mà trói Lăng Chấn lại, giải lên trên núi. Đám quân lính ở dưới này bắt được hai trăm người còn sống. Còn thì chết đuối quá nửa, và có mấy người chết hụt, chạy về báo cho Hô Duyên Chước biết.

Hô Duyên Chước nghe báo, lập tức dẫn quân ra đuổi. Khi tới nơi, đã thấy các thuyền trở về bến Áp Chủy, người không thấy một ai, mà cung tên bắn cũng không sao tới. Hô Duyên Chước lấy làm căm tức vô cùng, song không làm thế nào được, đành phải nín hơi nuốt giận, mà dẫn quân mà lui về. Bên kia bọn Đầu Lĩnh bắt được Oanh Thiên Lôi Lăng Chấn, giải về trên núi liền cho người báo với Tống Giang. Tống Giang dẫn hết thảy các Đầu Lĩnh trong Trại, đi xuống cửa quan thứ nhì để đón tiếp.

Khi trông thấy Lăng Chấn, Tống Giang thân hành cởi trói ra, rồi giận mắng chúng rằng:

– Tao bảo các ngươi đón mời Thống Lĩnh lên núi tử tế, sao các ngươi xử vô lễ như thế?

Lăng Chấn nghe nói lấy làm cảm tạ vô cùng, Tống Giang liền nâng chén rượu tiếp phong rồi bắt tay mời lên trên núi. Được một lát, lên tới Đại Trại, Lăng Chấn trông thấy Bành Dĩ cũng dự ở đó, trong lòng rất lấy làm phân vân, không biết nói sao cho được?

Bành Dĩ khuyên Lăng Chấn rằng:

– Hai vị Đầu Lĩnh Tiều, Tống thay Trời làm Đạo, chiêu nạp hào kiệt, mong trừ những sự bất bình, để giúp cho nhà cho nước… vậy chúng ta đến đây, chỉ nên theo mệnh là hơn.

Tống Giang cũng lấy lời uyển chuyển mà dỗ dành Lăng Chấn vào đảng. Lăng Chấn đáp rằng:

– Tiểu đệ ở đây hầu các ngài cũng được, không lấy gì làm ngại. Duy còn mẹ già cùng vợ con ở cả kinh sư, nếu lỡ ra ai biết tất là nguy hiểm đến tính mạng, vậy biết làm sao cho tiện được?

Tống Giang nói:

– Cái đó Thống Lĩnh bất tất phải quan tâm, mấy hôm nữa, tôi xin cho người đón về đây lập tức.

Lăng Chấn tạ rằng:

– Nếu được Đầu Lĩnh chu toàn như thế, thì chúng tôi dẫu chết cũng cam tâm.

Tiều Cái liền đặt tiệc ăn mừng, và thưởng cho quân sĩ. Ngày hôm sau các vị Đầu Lĩnh cùng bàn kế để phá ngựa Liên Hoàn.

Chợt thấy Kim Báo Tử Thang Long đứng lên nói:

– Tiểu Đệ nghĩ được một kế này, tất phải nhờ đến một thứ khí giới kia, và một người Ca Ca tôi mới có thể phá trận Liên Hoàn được.

Ngô Dụng đón lấy nói:

– Nếu được như vậy, thì còn gì hơn nữa? Người ấy là ai? Dùng thứ quân khí gì? Xin hiền đệ cho được biết.

Thang Long vâng lời, liền chắp tay đến trước để kể tên người đó cho các vị Đầu Lĩnh nghe.

Mới hay:

Đã nên khẳng khái ra đời,

Làm cho động đất kinh trời mới nghe

Tuồng gì bọ nước xăm xoe,

Mũ cao áo rộng toan đè nén nhau.

Giống người ai kém ai đâu,

Quyết đem máu đỏ mà lau gươm thù.

Có công tất cũng nên trò,

Cái gương công lý ngàn thu vẫn còn.

Lời bàn của Thánh Thán:

Hồi này ba đoạn văn tự một đoạn tả Tống Giang phóng quân xa; Một đoạn Hô Duyên Chước liên hoàn quân; đều là những văn rất tinh thần biến động. Một đoạn tả bắt Lăng Chấn, coi như bắt trẻ con, sở dĩ như thế, là trước khi tác giả chưa hạ bút, trong vốn có một tứ lạ tả Liên Hoàn Mã, chẳng tiện đột nhiên mà tả ra, cho nên trên chữ Liên Hoàn, điên đảo sinh ra hai chữ Phóng xa quân, trước đoạn văn (Liên Hoàn) lại có một đoạn văn Phóng xa, khiến độc giả choáng mắt vì lạ, song bỗng đâu một biến, biến ra thứ trận như bài sơn đảo hải.

Nay thử xem phóng xa coi khinh, liên hoàn thấy trọng, đem khinh dẫn trọng là một lạ vậy. Phóng xa liên hoàn một bầy, lấy từng đội dẫn cả bầy, là hai lạ vậy; Phóng xa các người tự chiến, liên hoàn nhất tề tiến ra, là ba lạ vậy; Phóng xa chợt tan chợt hợp, liên hoàn liền khóa với nhau, đem ly dẫn hợp là bốn lạ vậy; Phóng xa tiền quân thua, chuyển làm hậu quân, liên hoàn không trước không sau, thẳng xông ra vậy, đem tiền chuyển hậu dẫn ra không hậu không tiền, là năm lạ vậy; Phóng xa có tiến, có thoái liên hoàn chỉ tiến không thoái, đem tiến thoái dẫn ra tiến thôi, là sáu lạ vậy; Phóng xa tả nhân, liên hoàn tả mã, lấy nhân dẫn mã là bảy lạ vậy. Xem thế một đám hoa đống gấm văn chương, chỉ do một trận Liên Hoàn tả ra, rồi sau đến đoạn thứ hai tả đến bản đề, song lại chăng vội thu kết ngay nữa; lại từ chỗ ngựa nảy ra súng, làm một chót đuôi, song lại sợ hai phen chiến trận nguy nan, mà tả đến dụng súng, khiến văn tự thụt đi không nổi lên, mớt đem bút rồi, mực đương, tả bắt Lăng Chấn như đồ trẻ con vậy. Hỡi ôi! Chỉ vì một đoạn hoá ra ba đoạn, đáng bảo là trong khoảng một đoạn rất khéo biến ra, mà hai đoạn trước sau cũng chỉ là một đoạn giữa nối liền làm một, mà mỗi một đoạn một biến rất khéo, nào ai muốn nổi lên tranh cái tiếng tài tử với tác giả kia, ta thấy rõ ràng là không thể sánh kịp.

Trước sau hai đoạn đều rất khéo biến ra kia, như đoạn trước tả phóng xa quân, khi mỗi một đội muốn đi, phải có trước một đội tiếp hậu, một tiếp một chờ, ví như lông cánh vịt vậy. Thi Nại Am lại bỗng đâu tính đến khi đội thứ năm muốn đánh, phải tiến xa mười viên tướng áp hầu, như lộ ngấn tích, bèn khiến hai chữ ” Phóng xa ” cả thua, mới đem đội thứ năm tiếp chiến bèn tả Tống Giang đem mười viên tướng, cho khỏi cái lỗi đứt nối vậy. Song lại tính đến một thiên chương pháp, trong đội thứ năm lại biến khác ra, chỗ đó vẫn lộ ngấn tích, đánh đến chuột chạy cùng đường, ở chỗ đội thứ tư khi tiếp chiến, tả đến đội thứ năm đã đến sớm làm phảng thấn, thực khổ tâm thay cho một thợ lành nghề văn tự.

Lại như trước một đoạn tả đội thứ năm Phóng xa quân, một đội thắng một đội, vốn thế vậy, khi đến đội thứ tư, bỗng đâu trên trận bay ra ba khẩu đao, đã mà một biến, biến ra hai khẩu đao hai chiếc roi biến ra hai chiếc roi, càng biến càng lạ, càng lạ càng kinh, càng kinh càng vui, thực văn chương xem thấy thú!

Một đoạn sau Tiều Cái truyền lệnh, hãy mời Tống Giang về núi, Tống Giang cố ý chẳng chịu, đọc đến cho rằng, ý bảo diệt kẻ kia chỉ trong một sớm một chiều, biết đâu chính vì mưu để thu súng Lăng Chấn, đó là bút pháp tuyệt kỳ, chẳng phải bút mực tả ra mà được?

Lại như cần tả đến dùng súng, lại tả ra phép bắn súng ở chỗ chẳng gần cũng chẳng xa, nay xem chỗ Lăng Chấn tới, chỉ là ca ngợi, đặt giá súng để bắn, thấy uy thế của chúng, làm cho Tống Giang phải bỏ trại thu quân lẩn về núi, thực là bút pháp tuyệt kỳ, chẳng phải bút tục tả ra mà được?

Tả tiếp luôn sự dùng súng, bắn ba chỗ, lại nói ra rằng, hai chỗ bắn khắp mặt nước, một chỗ bắn vào trong tiểu trại, tả hai chỗ bằng khắp mặt nước cho rõ thủy bạc rộng rãi, một chỗ bắn vào tiểu trại cho rõ sức súng rất xa mạnh!

Đến như sau là trước hồi này, lại có riêng bút khéo tài tình, như sắp tả Liên Hoàn Mã đã tả trước một ngự mã ban cho để dẫn ra; sắp tả áo giáp Từ Ninh, lại tả trước bao nhiêu giáp binh mã để dẫn ra, bao nhiêu ngựa liên hoàn, chỉ một ngựa vua ban làm điều động, đều chẳng phải bút pháp tầm thường mà tả nổi như thế!

Hồi 55: Ngô Dụng sai Thời Thiên cắp bảo giáp – Thang Long lừa Từ Ninh tới Lương Sơn

Bấy giờ Thang Long nói với các Đầu Lĩnh rằng:

– Nguyên tổ phụ chúng tôi, ngày xưa sinh nhai về nghề rèn đúc quân khí, sau gặp Lão Trung Kinh Lược, mới được ra làm Tri Trại ở phủ Duyên An. Trước đây trong triều đã dùng trâu ngựa Liên Hoàn để đánh được giặc, song muốn phá trận đó, thì phải dùng tới gươm câu liêm mới được. Kiểu câu liêm ấy, tổ phụ nhà tôi có truyền để lại, tôi có thể đánh được nhưng không biết dùng khiến ra sao. Nay muốn tìm một người biết dùng, tất phải tìm đến người anh cô cậu của tôi, hiện nay làm chức Giáo Đầu ở Đông Kinh, gia truyền đánh phép câu liêm không ai học được, hoặc đánh trên ngựa, hay đánh dưới bộ, thực là xuất qủy nhập thần…

Vừa nói đến đó; thì Lâm Xung hỏi ngay:

– Chẳng hay là Giáo Sư Kim Sang Ban tên là Từ Ninh đó?

Thang Long nói:

– Chính phải ông ta đó.

Lâm Xung nói:

– Nếu bác không nói, có lẽ tôi quên mất… Phải, sang pháp của ông ta thực là tuyệt xảo. Khi tôi ở Đông Kinh vẫn tập thử với nhau, anh em rất là tương đắc, nhưng bây giờ làm thế nào mời ông ta lên được?

– Ông ấy có một vật báu, là một cái áo giáp khuyên kim bằng lông chim nhạn linh khâu lại, thiên hạ không ai có bao giờ. Khi trước tôi theo phụ thân có qua tới Đông Kinh, đã một lần đến chơi nhà cô tôi, mới được nom thấy. Cái áo ấy khoác lên mình vừa nhẹ vừa ấm, đao gươm không thấu, người ta lại gọi là Kiểm Đường Nghê. Xưa nay nhiều những công tử yêu cầu muốn xem, song ông ta không hay cho ai xem bao giờ. Cái áo giáp ấy cũng như là tính mạng của ông ta, ông ta vẫn bỏ vào cái hòm da treo trên phòng nằm rất cẩn thận. Nay nếu lấy được cái áo ấy, thì tất ông ta phải đến đây ngay.

Ngô Dụng nói:

– Cái đó thì không khó gì? Phen này chỉ nhờ ông anh em rất giỏi, là ông Thời Thiên đi cho mới được.

Thời Thiên nghe nói liền ứng lên rằng:

– Chỉ sợ ông ta không để ở nhà, chứ còn ở nhà thì thế nào tôi cũng lấy được.

Thang Long nói:

– Nếu bác lấy được cái ấy, thì thế nào tôi cũng lừa ông ta đến đây được.

Tống Giang hỏi:

– Ngươi định lừa thế nào?

Thang Long ghé vào tai Tống Giang mà nói thầm mấy câu. Tống Giang cả cười mà rằng:

– Diệu kế, như thế thì làm gì không được?

Ngô Dụng nói:

– Bây giờ phải cần có ba người đi Đông Kinh một phen. Một người vào mua các thứ thuốc súng đạn lửa để dùng việc chế súng, còn hai người đưa vợ con Lăng Thống Lĩnh về đây.

Bành Dĩ nghe nói, liền đứng lên bẩm rằng:

– Nếu các Ngài rộng ơn cho một người đến Dĩnh Châu đem gia quyến nhà tôi đến đây, thì tôi cũng rất lấy làm cảm tạ muôn phần.

Tống Giang đáp rằng:

– Đoàn Luyện Sứ cứ viết thư về, để tôi sai người đến đó đón.

Nói đoạn liền gọi Dương Lâm sai đem thư tín kim ngân, cùng mấy người theo hầu, đi sang Dĩnh Châu đón vợ con Bành Dĩ. Tiết Vĩnh ăn mặc giả làm một người đánh gậy bán thuốc cao, đi sang Đông Kinh đón vợ con Lăng Chấn, Lý Vân giả làm khách buôn súng đi sang Đông Kinh mua các đồ dùng làm súng. Nhạc Hòa đi với Thanh Long và thỉnh thoảng phải đi kèm Tiết Vĩnh cho tiện công việc. Nhất diện cho Thời Thiên xuống núi đi trước, còn Thang Long phải lưu lại đánh cái câu liêm sang làm mẫu rồi sẽ đi sau.

Khi Thang Long đúc xong câu liêm, Lôi Hoành bèn đốc thúc thợ rèn cứ theo mẫu đó mà làm, đoạn rồi trong sơn trại đặt tiệc tiễn hành, đưa chân mấy người xuống núi.

Bấy giờ Dương Lâm, Tiết Vĩnh, Lý Vân cùng Thang Long từ biệt các vị Đầu Lĩnh cùng nhau cử bộ đăng trình. Đến sáng hôm sau Tống Giang lại cho Đới Tung đi theo bọn đó, để dò xem tin tức ra sao?

Nói về Thời Thiên, từ khi từ giã các vị Đầu Lĩnh, liền giắt đỏan đao cùng các thứ cần dùng trong mình, rồi trông chừng thẳng trỏ Đông Kinh. Cách ít lâu đi tới Thành, chàng tìm vào ngủ trọ, rồi sáng hôm sau vào Thành để hỏi dò đường lối.Khi vaò đến trong thành, chàng hỏi đến nhà Kim Sang Ban Từ Ninh Giáo Sư, sau có người trỏ vào gian nhà thứ năm ở trong ban, bên cạnh có cánh cửa đen đen, mà gọi là nhà Tư Ninh ở đó.

Thời Thiên nghe nói, vội vàng tới nơi, nom cửa trước cẩn thận một lượt, rồi lại nom đến cửa sau, thì có một dãy tường cao,trong có hai gian lầu nho nhỏ, bên cạnh có một cột liền ngay với chỗ bức màn.

Chàng xem kỹ một hồi, rồi lại quay ra phố hỏi thăm xem Từ Ninh có nhà hay không. Có người nói rằng:

– Từ Ninh thường đi vào ban làm việc quan, từ đầu trống canh năm tới chiều tối mới về.

Thời Thiên nghe nói lại trở về nhà trọ, lấy đủ các thứ cần dùng, rồi gọi tiểu nhị dặn rằng:

– Đêm nay có lẽ tôi không về, nhờ trông nom trong phòng giúp cho.

Tiểu nhị vâng lời mà rằng:

– Xin ngài cứ đi ở trong cấm thành này, không làm gì có quân gian đạo mà sợ.

Nói đoạn Thời Thiên đi vào trong thành, đợi đến chiều tìm nơi ăn uống, rồi lại đến nhà Từ Ninh để chực.Khi tới nhà Từ Ninh, chàng trông trước trông sau, không có chỗ nào nấp được. Sau trông quanh thấy sau miếu Thổ Địa gần đó, có một cây bách rất lớn, chàng liền rón rén trèo lên để ngồi trên càng cây để chực.

Bấy giờ đương dạo mùa đông, trăng mờ đêm lạnh, gió thổi hiu hiu, Thời Thiên đợi mãi mới thấy Từ Ninh trở về nhà, đoạn rồi có hai người trong ban, cầm đen lồng ra khoá kỹ cửa mà ai về nhà nấy.

Thời Thiên ngồi trên cây nghe thấy tiếng trống canh vẫn còn điểm một, trông lên trời, thì mây che kín, ánh sao mờ mịt, mà trong ban thì im phắc như tờ, không còn có một tiếng chó cắn gà kêu chi chi cả. Khi đó Thời Thiên ở trên cây bò xuống, đi đến lối sau nhà Từ Ninh, rồi trèo tường vào gần bếp. Chàng trông vào trong bếp thấy còn ánh đèn sáng, có hai đứa nữ tỳ vẫn còn xếp dọn chưa xong. Chàng lại quay ra trèo lên cột cái, nấp ở đằng sau chỗ bức màn, dòm vào trong lầu, thấy Từ Ninh cùng vợ ngồi ở cạnh lò lửa, tay ẵm đứa trẻ lên sáu tuổi, lại nom vào phòng ngủ, quả thấy một hòm da treo ở bên trên, cửa phòng treo một cây cung, một túi tên và một con dao lưng sáng nhoáng, trên mắc áo có ba thứ áo mầu, rất là lịch sự.

Bấy giờ Từ Ninh gọi lên rằng:

– Mai Hương đâu đem áo gấp lại cho ta.

Đoạn rồi thấy một đứa nữ tỳ ở dưới bếp đi lên, gập một cái áo màu tía cổ tròn, một cái áo ngắn màu quan lục, một cái áo xiêm hoa rực rỡ, một cái khăn gấm, và mấy cái khăn tay bằng lụa, bọc vào một gói, lại gấp một cái thắt lưng đuôi giải bọc vào khăn vàng nhỏ rồi bỏ vào hòm mà để lại một chỗ.

Được một lát vào khoảng canh hai, Từ Ninh xếp dọn giường nghỉ, người vợ hỏi Từ Ninh rằng:

– Ngày mai có đi việc quan nữa không?

Từ Ninh đáp:

– Sáng mai vua ra cung Long Phù, phải dậy sớm từ đầu canh năm để chầu chực mới được.

Người vợ nghe nói dặn bảo thị nữ rằng:

– Sáng mai dậy sớm đun nước và dọn cơm sớm.

Thời Thiên thấy vậy, trong bụng nghĩ thầm:”Cái hòm da kia, chắc là áo giáp để đó. Nhưng nếu nửa đêm ta hạ thủ mà lỡ ra họ biết, thì sáng mai khó lòng mà đi thoát. Vậy bất nhược ta đợi đến canh năm sẽ hạ thủ cũng được…

Chàng nghĩ đoạn lại đợi một lúc, thấy hai vợ chồng Từ Ninh cùng hai đứa thị nữ đã ngủ yên, mà trên bàn ở trong phòng vẫn để ngọn đèn ở đó. Thời Thiên bèn lần cột cái đi xuống, lấy ống sậy dắt ở mình, đem gần đến cửa sổ, ghé vào mà thổi tắt ngọn đèn đi.

Vào khoảng canh tư, Từ Ninh trở dậy, gọi thị nữ đun nước rửa mặt, thị nữ nghe gọi mơ màng trở dậy, thấy trong phòng không có ánh sáng, bèn kêu lên rằng:

– Quái lạ! Hôm nay lại không thắp đèn hay sao?

Từ Ninh bảo thị nữ:

– Bay không dậy thắp đèn, còn để đến bao giờ nữa?

Mai Hương vâng lời mở cửa gác đi xuống, Thời Thiên nghe tiếng két cửa, liền lẻn vào lối sau để trốn nấp. Mai Hương đi ra cửa sau, đi thẳng xuống bếp. Thời Thiên lỏn xuống bếp nấp ở sau cái bàn con trong bếp. Mai Hương châm lửa đem lên, rồi lại đóng cửa trên, quay xuống bếp đun nước. Bấy giờ tên thị nữ cũng trở dậy, gắp than vào lò mang lên trên lầu để sưởi. Được một lát, thị nữ đem nước nóng lên. Từ Ninh rửa mặt súc miệng, rồi gọi hâm rượu để uống. Thị nữ lại đem bánh lên. Từ Ninh ăn uống xong rồi, lại gọi mang ra cho người nhà ăn.

Khi ăn uống xong, Thời Thiên thấy Từ Ninh gọi mấy tên người nhà đeo khăn gói, vác Kim Sang, rồi hai tên thị nữ cầm đèn đưa Từ Ninh ra đi. Bấy giờ Thời Thiên ở trong gầm bàn đi ra, lần lên trên lầu, đến cạnh vách trèo lên sàn nhà nằm nấp ở đó.

Được một lát, hai đứa thị nữ quay vào cài cửa cẩn thận, rồi chui đầu ngủ ngay lập tức. Thời Thiên nằm ở xà nhà, đợi khi người nhà ngủ im thin thít, liền giơ ống sậy ra thổi tắt ngọn đèn, rồi sẽ cởi cái hòm da treo ở trên xà nhà ra. Khi cởi xong bất đồ vợ Từ Ninh nghe tiếng hơi thấy động, liền kêu lên rằng:

– Trên xà nhà có cái gì động thế? Thời Thiên nghe tiếng, liền giả tiếng chuột kêu trên xà nhà. Mai Hương nghe thấy vậy, bảo vợ Từ Ninh rằng:

– Chắc là chuột nó đùa nhau trên ấy hẳn.

Thời Thiên lại vờ tiếng chuột đuổi nhau, rồi sẽ nhảy xuống lầu lần ra cửa lầu mà vác hòm da mở cửa ra đi. Khi ra tới cửa ban, bấy giờ đã có người đi lại, cửa đã mở tung, chàng đã liền đánh tráo vào người trong ban mà đi lẻn ra ngoài thành.

Vào hồi giữa canh năm, Thời Thiên về đến hàng trọ, gọi mở cửa hàng. Vào phòng xếp hành lý thành một gánh tính tiền hàng, rồi trở ra đi về phía Đông. Chàng đi ngược bốn mươi dặm đường, tới một nơi hàng cơm vào đó để nghỉ ăn cơm. Đương khi ăn cơm bỗng thấy Đới Tung đi đến, chàng sẽ đem câu chuyện nói cho Đới Tung biết.

Đới Tung thấy đã lấy được áo giáp của Từ Ninh,thì trong bụng lấy làm vui mừng, hai người thì thầm mấy câu, rồi Đới Tung bảo với Thời Thiên rằng:

– Áo giáp này để tôi mang về trại trước, rồi báo với Thang Long sẽ thong thả đi sau.

Thời Thiên mở hòm da, lấy áo ra gói vào một gói đưa cho Đới Tung. Đới Tung khoác khăn gói lên vai ra khỏi cửa điếm; làm phép thần hành trở về sơn trại trước.

Bấy giờ Thời Thiên cơm nước xong, tính trả tiền hàng, rồi xếp hai cái hòm không nghêng ngang cho mọi người biết cùng, mà quảy gánh ra đi. Đi được hai mươi dặm đường, thì gặp Thang Long đi đến đó, hai người lại đưa nhau vào hàng để nói chuyện.

Thang Long khẽ bảo Thời Thiên rằng:

– Nay bác phải nghe tôi kế này mới được,bác đi đường, hễ thấy hàng cơm chỗ nào có vòng vôi trắng khuyên, thì cứ vào đó mua rượu chè ăn uống, mà nghỉ ngơi ở đó. Song trước hết phải để rõ cái hòm da cho mọi người trông thấy, rồi khi đi được một quãng đường, thì phải đứng đó mà đợi tôi.

Thời Thiên nghe nói khen phải, bèn đứng dậy đi trước, còn Thang Long lưu lại ở hàng một lúc, rồi mới đi vào Đông Kinh.

Nói về hai tên thị nữ ở nhà Từ Ninh, buổi sáng hôm ấy trở dậy, bỗng thấy cửa gác, cùng các cửa trong ngoài đều bỏ ngõ hết cả, hai người lấy làm kinh ngạc, đi nom hết cả các nơi, thấy bao nhiêu đồ vật còn nguyên, không hề có chút gì sai chuyển, Hai tên thị nữ nói với vợ Từ Ninh rằng:

– Thưa bà không biết làm sao cửa ngõ nhà ta mở tung cả ra, mà đồ vật thì không mất chi hết cả!

Vợ Từ Ninh nói:

– Vào khoảng đầu trống canh năm, có tiếng động trên xà nhà, ngươi bảo là đàn chuột đánh nhau. Vậy thử nom xem cái hòm da đựng áo giáp có còn treo đó không?

Hai đứa thị tỳ vâng lời, chạy vào xem, bỗng kêu lên rằng:

– Chết rồi! Cái hòm da, không thấy đâu nữa rồi.

Vợ Từ Ninh nghe nói lấy làm kinh hoảng, bảo với thị nữ rằng:

– Nếu vậy bây phải vào cung Long Phú, báo cho ông về ngay mới được.

Thị nữ vội vàng đi nhờ người vào báo cho Từ Ninh, song bấy giờ Ban Kim Sang đã theo hầu Thiên Tử ra ngoài nội uyển; phía ngoài đều có cấm binh coi giữ không ai làm thế nào mà vào báo được.

Vợ Từ Ninh cùng hai đứa nữ tỳ trong lòng nóng như lửa đốt, lo són với nhau, không còn tưởng nhớ đến cơm nước chi nữa.

Chiều hôm đó Từ Ninh đi hầu xe ngựa về, vào cung thay đổi áo xiêm; dẫn mấy người theo hầu, cùng mang Kim Sang mà lững thững ra về. Khi về tới cửa ban, thấy xóm làng xôn xao nói rằng:

– Nương Tử ở nhà mất trộm, đợi mãi không thấy Giáo Sư về, đương lo nháo lên ở nhà đó.

Từ Ninh nghe nói cả kinh, vội vàng chay về nhà để xem.

Khi về tới nhà, hai tên thị nữ thuật chuyện cho Từ Ninh biết.

Từ Ninh gắt mù tang tít cả lên, rồi nói với vợ rằng:

– Cái áo ấy là của báu từ bốn đời ngày xưa lưu lại đến nay. Trước Hoa Nhi Vương Thái Uùy đã trả ta vạn quan, ta không chịu bán cốt để những khi ra trận mà dùng, cho nên mới cẩn thận mà buộc treo trên đó. Có ai hỏi đến phải dối là mất mất rồi… Nay lại quả nhiên bị mất như thế, tất là thiên hạ biết chuyện, họ chê cười không còn ra trò gì nữa!

Chàng thẫn thờ hồi lâu, rồi suốt đêm đó nằm nghĩ, không biết làm cách gì mà tra xét được. Sau người vợ bảo với chồng rằng:

– Đêm hôm qua lúc tắt đèn, chắc là kẻ trộm đã lẻn vào nhà, nhưng không ai ngờ nó lại ăn trộm của oái oăm như thế? Cái này chắc có người bạn thân đến hỏi mua không được, nên mới sai kẻ trộm đến lấy đi hẳn? Ta hãy để đó; sai người đi dò hỏi xem sao, chớ nên hô hoán lên nữa người ta biết mất…

Từ Ninh nghe nói, cũng phải nén lòng, để đợi xem dò xét ra sao? Sáng hôm sau, chàng đương ngồi buốn nghĩ ngợi một mình, chợt có người gõ cửa, rồi có tên người nhà vào báo rằng:

– Có con quan Thang Tri Trại ở bên phủ Duyên An là Thang Long vào hầu.

Từ Ninh nghe nói, bảo người nhà mời Thang Long vào, Thang Long tới nơi, cúi đầu lạy chào, rồi hỏi thăm Từ Ninh rằng:

– Lâu nay Ca Ca vẫn được bình yên đó chăng?

– Từ Ninh hớn hở đáp lễ mà rằng:

– Dạo trước ông cậu quy tiên, tôi vì bận việc quan, vả đường xa xôi, không sao đến viếng được sau cũng không biết tung tích hiền đệ ra sao, trong lòng thực lấy làm ăn năn quá đỗi. Chẳng hay hiền đệ ở đâu? Từ đâu mà đến đây thế?

Thang Long nói:

– Từ khi phụ thân bị mất, trong nhà gặp lúc gian truân phải lưu lạc gian hồ, rất là vất vả. Nay tôi nhân ở Đông Sơn tới đây để hỏi thăm Ca Ca, và anh em đàm đạo một hôm, cho đỡ lòng khát vọng bấy lâu…

Từ Ninh mời Thang Long ngồi, gọi người nhà mang rượu lên để thiết đãi. Thang Long mở khăn gói ra lấy hai đĩnh bạc, nặng hai mươi lạng, đưa cho Từ Ninh mà nói rằng:

– Khi phụ thân tôi mất, có để lại hai mươi lạng vàng này, có dặn đưa cho Ca Ca để làm kỷ niệm về sau, song từ ấy đến nay không ai qua lại, cho nên vẫn không gửi sang đây được. Nay tiểu đệ qua đây, đưa nộp Ca Ca một thể.

Từ Ninh nói:

– Cậu có lòng quá yêu tôi như thế, tôi biết lấy gì báo đáp vong hồn cậu được…

– Ca Ca bất tất nghĩ vậy. Khi phụ thân tôi còn sống, vẫn thường nhớ đến Ca Ca võ nghệ cao cường, song vì non nước xa khơi, không sao được gặp, gọi là để chúc này làm kỷ niệm với Ca Ca đó thôi.

Từ Ninh cảm ơn Thang Long,nhận lấy hai đỉnh bạc, rồi hai người cùng uống rượu với nhau. Trong khi uống rượu, Từ Ninh vẫn ra dáng bang khuân nghĩ ngợi, kém vẽ tươi cười. Thang long thấy vậy liền hỏi:

– Tôi trong Ca Ca có dáng không vui, hay là trong bụng có điều gì lo nghĩ chăng?

– Từ Ninh thở dài mà than rằng:

– Hôm qua nhà tôi mất trộm đấy…

– Chẳng hay mất bao nhiêu đồ đạc?

– Chỉ mất có cái áo giáp của ông cha tôi để lại khi xưa, là một cái áo làm bằng lông nhạn rất quý, không ai có bao giờ. Bởi vậy tôi lấy làm bâng khuân lo nghĩ, không biết kế chi mà tìm thấy được nữa… ?

– Vâng! Cái áo ấy tiểu đệ cũng có được biết, ngày trước còn thân phụ vẫn thường khen ngợi đến luôn luôn….Vậy Ca Ca để đâu mà mất được?

– Tôi bỏ trong cái hòm da, treo trên xà nhà giữa phòng nằm, mà không biết làm sao nó lại lấy được?

– Cái hòm da hình dạng thế nào?

– Cái hòm ấy bằng da dê đỏ, phía trong có bọc lông cẩn thận.

Thang Long nghe nói, ngạc nhiên mà rằng:

– Da dê đỏ… Có phải trên mặt có thêu triện, và khoảng giữa có thêu sư tử hý cầu bằng chỉ trắng không?

Từ Ninh đáp:

– Phải, hiền đệ trông thấy thế?

– Đêm qua tôi trọ nhà hàng, cách đây chừng bốn mươi dặm, thấy một anh chàng người đen mắt đỏ, gánh một cái gánh, một bên có cái hòm da như thế. Tôi trông thấy vậy, trong bụng nghĩ rằng; không biết trong hòm có đựng những cái gì. Sau lúc tôi ra đi có hỏi hòm đựng cái gì? Thì chàng ta đáp, nguyên trước là hòm đựng áo giáp, nhưng nay đem đựng quần áo vặt ở đó, anh chàng ấy, có lẽ tôi còn nhớ, hai chân đi tập tễnh, chắc là anh ta lấy hẳn. Nếu vậy bây giờ ta đi đuổi ngay, thì may ra còn kịp được…

Từ Ninh nghe nói, vội thay đôi giầy gai dắt con dao lưng, tay cầm dao lớn, cùng với Thang Long lập tức ra thành để đuổi theo.

Khi đến một hàng cơm kia, thấy trên vách có vết vôi trắng, Thang Long bảo với Từ Ninh rằng:

– Ta hãy vào đây nghỉ, hỏi thăm một câu rồi sẽ đi.

Nói đoạn dắt Từ Ninh vào mua rượu cùng uống. Thang Long hỏi nhà hàng rằng:

– Ông có thấy anh chàng gầy đen gánh hòm da, đi qua đây không?

Chủ hàng đáp:

– Có, đêm qua có một anh gầy đen, gánh hai cái hòm da dê qua đây, chân anh đi tập tễnh, bước thấp bước cao thì phải…

– Đấy Ca Ca, nghe có đích không?

Từ Ninh nghe nói, không biết làm sao mà trả lời được nữa. Hai người ăn uống xong, liền trả tiền hàng, rồi tính tiền ra đi.

Được ít lâu, đi đến hàng có vết vôi trắng, Thang Long lại đứng dừng lại bảo Từ Ninh rằng:

– Tôi mệt lắm rồi. Ca Ca hãy vào đây nghỉ ăn uống rồi sáng mai sẽ đi…

Từ Ninh nói:

– Tôi đang giữ chức quan, nếu đêm nay điểm danh thấy vắng mặt, thì tất nhiên Quan Tư quở trách hẳn.

Thang Long nói:

– Cái đó cần gì Ca Ca khỏi nghĩ, chắc là Tẩu Tẩu ở nhà phải nói với quan trên chớ?

Nói đoạn dắt Từ Ninh vào hàng để nghỉ.Đêm hôm đó, Thang Long hỏi tên tiểu nhị ở hang, để hỏi thăm người gánh hòm.

Tiểu nhị nói:

– Đêm hôm qua có một người đen đen gầy gầy gánh hòm vào trọ hàng tôi, hỏi thăm dường về Sơn Đông, rồi đến gần trưa mới đi.

Thang Long nghe nói quay bảo Từ Ninh rằng:

– Nếu vậy ta cũng còn có thể đuổi kịp được.

Từ Ninh nghe nói, cũng yên tâm nghỉ một đêm hôm ấy, sáng hôm sau hai người trở dậy đi sớm, hễ đến chỗ nào có vạch vôi trắng, Thang Long lại dắt Từ Ninh vào ăn uống, và hỏi thăm người gánh hòm. Sau thấy hàng nào cũng nói là có anh chàng gánh hòm đúng như thế.

Từ Ninh càng lấy làm nóng ruột, muốn theo kịp cho mau để mà lấy lại.

Hai người đi đến chiều hôm, tới một nơi cổ miếu, thấy Thời Thiên để cái gánh ở dưới gốc cây, ngồi đợi ở đó. Thang Long bèn trỏ bảo Từ Ninh rằng:

– Kìa, dưới gốc cây kia, có phải cái hòm của Ca Ca không? Từ Ninh thấy vậy vội nhảy sấn tới, nắm lấy Thời Thiên quát lên rằng:

– Quân này to gan thực, sao dám ăn trộm áo giáp của ta?

Thời Thiên đáp rằng:

– Khoan khoan không cần phải làm ầm lên…Tôi ăn cắp áo giáp thực, nhưng bây giờ các bác định làm gì?

Từ Ninh lại quát rằng:

– Quân súc sinh vô lễ thực! Bây còn hỏi ta làm gì à… ?

Thời Thiên nói:

– Bác thử xem trong hòm tôi có áo giáp không?

Thang Long mở hòm ra cho Từ Ninh xem, thì không thấy áo giáp ở đó. Từ Ninh thấy vậy hỏi dồn rằng:

– Thằng này, mày để áo giáp của ta đâu?

– Khoan tôi nói cho mà nghe, tôi đây là họ Trương, bầy vai thứ nhất, quê ở Thái An Châu, trong châu tôi có một nhà phú hộ, hay đi qua lại nhà quan Kinh Lược Lão Trung. Sau nghe nói nhà bác có cái áo bằng lông nhạn, mà không chịu bán, nên mới thuê tôi đến đây, cùng một người nữa là Lý Tam đến ddaat ăn cắp, và có hứa khi nào lấy được,sẽ cho một vạn quan tiền, dè đâu khi lấy xong, tôi nhảy ở trên cột nhà bác suýt ngã một cái, rẹo hẳn một chân, không sao đi nhanh được,đành phải để cho Lý Tam mang áo giáp về trước, mà để hòm không lại cho mang, nay nếu bác mang tôi đến quan thì dẩu chết tôi cũng không chịu thú, băng cư lặng yên, tha cho tôi rồi đi với tôi, tôi sẽ lấy lại trả cho…

Từ Ninh nghe nói, suy nghĩ hồi lâu, không biết quyết đoán ra sau.

Thang Long liền nói:

– Ca Ca sợ nó bay lên trời được chăng? Ta hãy cứ đi với hắn, nếu không lấy được áo giáp thì sẽ trình quan ở đó cũng được.

Từ Ninh khen phải, rồi cùng Thời Thiên, Thang Long quay ra tìm vào nhà trọ. Nguyên Thời Thiên làm ra mẹo buộc dây chân, cố làm ra bộ khập khễnh không đi nhanh được,như vậy Từ Ninh lại càng vững tâm mà không e ngại chi nữa. Sáng hôm sau ba người cùng dậy sớm, cùng mua rượu cơm ăn uống, rồi ba người lại đi với nhau.

Cách ngày hôm sau nữa, Từ Ninh vừa đi vừa nóng lòng sót ruột, không chắc đến nơi có lấy được áo giáp hay không?

Chợt đâu thấy bên đường, có ba bốn người đẩy một cái xe; trong xe có người ăn mặc ra dáng khách buôn tử tế.

Người ấy trông thấy Thang Long bèn vái chào một cái rất là cung kính, Thang Long chào hỏi lại rồi ra dáng hớn hở, hỏi luôn rằng:

– Bác đi đâu mà qua đây như thế? Người kia đáp:

– Tôi buôn bán ở Trịnh Châu, nay về Thái An Châu đây.

Thang Long nói:

– Nếu vậy thì tốt lắm, ba chúng tôi cũng muốn đáp xe về Thái An Châu một thể.

Người kia nói:

– Được lắm,ba người chứ mấy người cũng được.

Thang Long nghe nói cả mừng, gọi Từ Ninh đến để chào người đó.Từ Ninh hỏi:

– Người ấy là ai?

Thang Long đáp:

– Người đó họ Lý tên Vịnh, bạn cung đi lại ở Thái An Châu với tôi khi trước, là người có nghĩ khí lắm…

Từ Ninh nói:

– Thế thì hay lắm! Anh Trương Nhất không đi nhanh được,nhân thể ta cho lên xe là tiện.

Nói đoạn bốn người cùng lên xe để đi.Từ Ninh lại hỏi:

– Trương Nhất ơi! Anh nói cho tôi biết tên người phú hộ đó là ai?

Thời Thiên đã đôi ba phen không chịu nói, sau Từ Ninh hỏi mãi mới đáp rằng:

– Ông ta là ông phú hộ họ Quách, có tiếng ở Thái An Châu xưa nay.

Từ Ninh quay lại hỏi Lý Vịnh rằng:

– Ở Châu Thái An nhà ông, có ông phú hộ nào họ Quách không?

Lý Vịnh đấp rằng:

– Có ông ta là một nhà đại phú có tiếng ở châu tôi, xưa nay chỉ thích đi lại với đám quan trường, trong nhà dung túng không biết bao nhiêu nhàn đãng mà kể!

Từ Ninh nghe nói, càng lấy làm vững tâm hơn trước, rồi thỉnh thoảng Lý Vịnh lại nói chuyện võ nghệ và hát xướng tiêu khiển với nhau, làm cho Từ Ninh càng hả dạ vui lòng, mà không quan tâm chi lắm.

Xe đi dòng dã một ngày, đến hôm sau gần tới địa phận Lương Sơn Bạc, Lý Vịnh sai phu xe, đi mua rượu và thịt, đem về trên xe cùng uống.

Khi mua thịt rượu về, Lý Vịnh sai rót một bầu con mời Từ Ninh uống, Từ Ninh cất uống một hơi, uống hết rồi Lý Vịnh lại sai rót nữa. Tên phu xe cầm bầu rượu toan rót, bất đồ lóng cóng buột tay đổ lăn ra đất. Lý Vịnh tức giận quát tên phu xe phải mua rượu nữa.

Vừa nói dứt lời thì Từ Ninh sè bọt mép, nhắm hai mắt rồi nằm vật trên xe. Chúng liền túm lại rồi đem Từ Ninh đến hàng rượu Chu Quý, để đưa lên Lương Sơn Bạc.

Nguyên Lý Vịnh tức là Nhạc Hoà, vâng lệnh Tống Giang giả làm thương khách, để đón Từ Ninh, Thang Long, Thời Thiên về đó. Khi chúng vực Từ Ninh xuống thuyền và tới Kim Sa, Tống Giang nghe báo, liền đem các vị Đầu Lĩnh ra bến để đón. Đoạn rồi đem thuốc giải độc để giải cho Từ Ninh.

Được một lát Từ Ninh tỉnh dậy, mở bầng con mắt, trông thấy mọi người, thì ngạc nhiên kinh sợ không hiểu ra sao. Sau khi biết Thang Long đánh lừa đưa đến Lương Sơn Bạc, chàng liền gọi Thang Long đến trách rằng:

– Sao ngươi nỡ tâm đánh lừa ta đến đây như vậy?

Thang Long đem lời an ủi, khuyên giải Từ Ninh, và đem lòng nghĩa khí của Tống Giang và chuyện mình nhập đảng kể cho Từ Ninh nghe.

Từ Ninh nghe nói thở dài mà rằng:

– Thế này thực là anh em giết tôi đó!

Tống Giang đưa chén rượu khuyên mời Từ Ninh mà rằng:

– Tống Giang tôi tạm trú Thủy Bạc, chỉ đợi triều đình có lòng thương hại, là phải hết sức cùng lòng để báo đền non nước, chứ thực không dám chút nào mang dạ tham ô, mà dám làm điều bất nghĩa. Vậy xin ngài nghĩ đến chân tình, mà ở đây cùng nhau tụ nghĩa, thì thực là hân hạnh vô cùng.

Bấy giờ Lâm Xung cũng nâng chén rượu cười mà rằng:

– Tiểu đệ đã đến đây lâu rồi, xin nhân huynh đừng từ chối.

Từ Ninh nói:

– Tuy vậy, song còn vợ con ở nhà, lỡ Quan tư tróc nã thì biết làm sao?

Tống Giang nói:    

– Cái đó không hề chi, xin ngài cứ yên tâm, chúng tôi sẽ có cách đưa quý quyến về đây ngay lập tức.

Đoạn rồi Tiều Cái, Ngô Dụng cùng Công Tôn Thắng; đều đến nói lại với Từ Ninh và đem sự định tập đánh câu liêm sang, để phá trận Liên Hoàn để thuật cho Từ Ninh nghe.

Khi chuyện trò thỏa thuận, trong sơn trại lại đặt tiệc ăn mừng, rồi nhất diện sai chọn đám lâu la khỏe mạnh, để tập đánh câu liêm, và nhất diện cho Đới Tung cùng Thang Long lập tức tới Đông Kinh đón vợ con Từ Ninh lên núi. Cách trong mươi ngày Dương Lâm ở Dĩnh Châu đón vợ con Lăng Chấn, cùng Lý Vân mua sắm các xe đồ chế thuốc súng, cũng cùng về một lượt. Lại cách vài hôm sau thì thấy Đới Tung, Thang Long đưa vợ con Từ Ninh đến, Từ Ninh thấy vợ con đến, lấy làm kinh ngạc,mà hỏi thăm duyên cớ ra sao?

Vợ con Từ Ninh đáp rằng:

– Sau khi phu quân đi rồi, quan điểm danh không thấy,tôi phải đưa kim ngân cùng các đồ trang sức để đút lót, mà nói dối là ốm nằm ở nhà. Sau một hôm thấy thúc thúc Thang Long cầm áo giáp lông nhạn đưa đến, nói là áo đã tìm thấy, song phu quân bị bệnh nguy ở giữa đường, phải đón cả nhà lên đó để trông nom mới được. Tôi nghe nói tưởng thực phải vội vàng đi đến đây…

Từ Ninh nghe nói tới đó, lắc đầu bảo Thang Long rằng:

– Chú làm thế vẫn là xong việc, song cái áo tôi lại bỏ ở nhà, thì thực là uổng quá.

Thang Long nói:

– Tôi nói cho Ca Ca mừng, sau khi chị cùng cháu lên xe đi nhờ ông bạn tôi dẫn đi rồi, tôi về lấy cả áo giáp, thu cả đồ đạc và dỗ hai tên thị nữ cùng đến đây kia…

Từ Ninh nói:

– Thôi vậy ta còn về Đông Kinh thế nào được nữa?

Thang Long lại bảo với Từ Ninh rằng:

– Còn có điều này nữa, tôi nói cho Ca Ca biết một thể. Khi đi đường thấy có bọn khách buôn, tôi liền mặc cái áo giáp ấy, rồi bôi nhọ mặt đi, xưng tên họ của Ca Ca mà đánh cướp tất cả tài vật… Chỉ nay mai là Quan Tư sức giấy đi các nơi, để bắt Ca Ca đó.

Từ Ninh dẫm chân lên mà than rằng:

– Chú làm thế thì hại cho tôi to lắm.

– Tiều Cái,Tống Giang tìm lời uyển chuyển khuyên rằng:

– Nếu không làm thế, làm sao ngài chịu ở lại đây? Thôi xin ngài đồng tâm hiệp lực mà cùng tụ nghĩa với nhau ở đây cho vui.

Nói đoạn sai dọn nhà cho vợ con Từ Ninh ở, rồi cùng nhau bàn kế để phá trận ngựa Liên Hoàn.Bấy giờ Lôi Hoành đã thúc dốc đánh đủ câu liêm, Tống Giang, Ngô Dụng bèn mời Từ Ninh ra dạy quân sĩ. Từ Ninh nói với mọi người rằng:

– Ngày nay sự thế đã xảy ra như vậy, thì tôi xin nhất tâm đào luyện cho quân sĩ để chóng được nên công các ngài bất tất phải quan tâm cho lắm.

Các vị Đầu Lĩnh nghe nói, đều lấy làm vui mừng, bèn cùng nhau ra tụ nghĩa Sảnh, để xem Từ Ninh tuyển người dạy võ.

Cho hay:

Nước sâu kinh ngạc vẫy vùng,

Giang hồ len lõi anh hùng tìm nhau,

Giữa dòng thay đỗi bể dâu,

Ngoài khuôn nghĩa hiệp ai cầu ai chi?

Nợ đời nặng với tu mi,

Bắc Nam muôn dặm có khi cũng gần.

Đã lòng báo đáp thâm ân,

Vào sinh ra tử tấm thân sá gì?

Lời bàn của Thánh Thán:

Cái tài của tác giả Thi Nại Am, ta không biết đâu là bờ mà nói hết. Đương bỗng dưng tả ra một bậc hào kiệt; thì đúng là bậc hào kiệt; Chợt đâu tả ra một kẻ gian hùng, thì lại đúng là kẻ gian hùng; Chợt đâu tả ra một gái dâm, thì lại đúng là một gái dâm; Chợt đâu tả ra thằng trộm cắp, thì lại đúng là thằng trộm cắp…

Người ta có nói; Chẳng phải thánh nhân, không biết nổi thánh nhân. Thế thì chẳng phải hào kiệt biết sao nổi hào kiệt? Chẳng phải gian hùng sao biết nổi gian hùng? Thi Nại Am tả ra hào kiệt đúng như hào kiệt, Thi Nại Am đã là hào kiệt hẳn rồi, còn ngờ gì nữa? Cũng như tả ra gian hùng đúng là gian hùng, Thi Nại Am lại là gian hùng hẳn rồi, còn ngờ gì nữa? Tuy nhiên ta vẫn còn nghi, vì bậc hào kiệt có tài của gian hùng, kẻ gian hùng có khí phách của hào kiệt, lấy hào kiệt gồm gian hùng, hay là gian hùng gồm hào kiệt, để xét Nại Am, thì cũng không lạ gì nữa.

Còn như Thi Nại Am quyết nhiên không phải như gái dâm trai trộm, thế mà xem khi tả đến gái dâm thấy đúng gái dâm, tả đến thằng trộm thấy đúng thằng trộm, thì nghĩa thế nào? Hỡi ôi! Ta biết ra rồi, chẳng phải gái dâm sao biết gái dâm. Chẳng phải thằng trộm biết đâu thằng trộm, thế mà Thi Nại Am lại không phải gái dâm; thằng trộm, đó là nghệ thuật văn chương phải biết hết ra; Há phải nhà văn cứ là gái dâm mới tả nổi gái dâm hay là trôm cắp mới tả nổi trộm cắp…

Trong kinh dạy rằng: ” Há lại chẳng nên biết hết, lòng không rối loạn thì thôi, khắp mọi người thiên hạ, ai chẳng phải là dân của nhà vua… Nếu mà đã động tâm làm ra gái dâm, làm ra trộm cắp… Có phải động tâm mà chỉ làm được thế thôi đâu? Cho nên chỉ ba tấc bút, một tờ giấy của Thi Nại Am khi động tâm đến gái dâm, động tâm đến trộm cắp… Tả ra như đúng do tâm động đến mà nên, há phải con người cầm bút quệt mực, phải trèo tường khoét ngạch, mới tả được nổi trộm cắp gái dâm?

Trong kinh dạy rằng: ” Hoà hợp nhân duyên, không phép nào chẳng có… “Từ xưa dâm phụ không có bản in nào sẵn phép dạy ra; Tài tử cũng không bản in sẵn văn tự dạy ra…Do nhân duyên sinh phép, cái gì chẳng có? Cho nên Long Thụ viết sách, muốn phá hết nhân duyên phẩm, mà không nhắc tới vì ghét nhân duyên; Nay Thi Nại Am viết ra Thủy Hử, đã đem nhân duyên sinh pháp, làm tổng trì của văn tự, rất đạt mọi nhân duyên; Một khi con người đã đạt mọi nhân duyên, thì chả cứ phải gái dâm, trộm cắp, hào kiệt, với gian hùng, mà tả ra đúng các loại người đó, trong khi tả đến loại nào, đều theo nhân duyên pháp hoá ra. Vậy Thi Nại Am là hạng người nào? Chính là tài tử vậy? Trở nên tài tử kia, đã học theo giảng đạo của Long Thụ, giảng theo cái học của Long Thụ đã nên bồ tát cho nên cách vật trí tri…

Đọc bài phê này, có thể tự trị, vì sợ nhân duyên theo phép thánh nhân rồi. Truyện nói: Răn giữ điều chẳng thấy, sợ hãi điều chẳng nghe ra, đó vậy; Còn như trị người, thì không nghĩ ác, không nghĩ ác đã theo đạo Trung Thứ của Thánh hiền; Truyện nói: Vương đạo bằng phẳng, lồng lộng…ó vậy. Thiên hạ chả thiếu gì người học Thánh nhân phải có người dạy cho mới được.

Hồi này biến động văn tự, lại một dạng bút pháp khác ra, như muốn phá trận ngựa, phải đồ câu liêm, muốn làm nổi phép câu liêm, phải lấy cắp được áo giáp, do ngựa mà đến sang, do sang mà đến giáp. Hô Duyên Chước có ngựa lại có súng; Từ Ninh có phép sang lại có giáp; Hô Duyên Chước phép ngựa chưa tan, trận súng đã bị mất về Sơn Bạc; Từ Ninh phép sang chưa dạy, áo giáp đã bị mất về Sơn Bạc. Nào khi khen ngợi ngựa Tích Tuyết Ô Truy; Nào khi khen ngợi áo giáp Kiễn Đường Nghê, lại thấy đối nhau Gia tổ Từ Ninh truyền phép sang; Gia tổ Thang Long truyền kiểu sang, hai tổ cùng truyền lại đối; Mà chợt đâu lại tả riêng ra ngoài ý tưởng một tổ truyền giáp, đối với mấy hồi trước xa xa tả một thợ rèn truyền từ nghiệp tổ, thấy trong hồi lắm đoạn kỳ văn.

Tả Thời Thiên vào nhà Từ Ninh, đã ngoài canh một, mà vợ chồng Từ Ninh chưa ngủ, tả sau khi vợ chồng Từ Ninh ngủ, đã đến canh hai, mà Thời Thiên chưa ăn cắp, lại sao? Vì nêu đề thì phải giảng văn cho hết, tức là phải tả ra văn cho rõ một đề tài, nếu tả lược qua không hết đề, không có gì hay vậy.

Mấy hồi trên tả Chu Đồng gia quyến, bỗng đâu nảy thêm cậu ấm, nảy ra tình thương con Tri Phủ; Hồi này tả vợ chồng Từ Ninh, thêm đứa con sáu bảy tuổi, cho rõ họ Từ có con, thấy đời trước để lại áo giáp còn truyền mãi được, làm văn phải hướng vào khi rỗi bút tả ra, theo phép Mao Thi, Sử Mã, tài tử Nại Am học lỏm được nổi phép này.

Tả Thời Thiên một đêm nghe chuyện, nào lời người nhà, nào lời vợ chồng ân ái, nào lời người chủ, nào lời nữ tỳ, nào lời trên lầu, nào lời đêm khuya, nào lời ngái ngủ, câu nào ý ấy, nghe được rõ ra.

Thang Long, Từ Ninh thường nói hòm da dê đỏ, Từ Ninh còn thêm câu; phía trong có bọc bông cẩn thận; Thang Long lại thêm câu; Có phải trên mặt có thêu triện, và khoảng giữa thêu sư tử hí cầu… chỉ vì thế mà Từ Ninh có công theo đuổi Từ Ninh rất khéo!

Do theo đuổi tới Sơn Đông, rồi đưa về Sơn Bạc, với đường đất chẳng gần, chia ra bao nhiêu đoạn đánh lừa, có phép tắc, thấy khéo nói ra không hết.

Hồi 56: Từ Ninh dạy phép Cân Liêm Sang – Tống Giang phá trận Liên Hoàn Mã

Bấy giờ Tiều Cái, Tống Giang, Ngô Dụng, cùng các vị Đầu Lĩnh trông thấy Từ Ninh mình sáu thước năm tấc, mặt trắng phau phau, ba chòm râu đen rưng rức, lưng rộng vai to, rõ ra đường đường tu my nam tử, thì ai nấy đều vui mừng hớn hở trong lòng.

Khi tuyển quân xong, Từ Ninh liền xuống dưới sân Tụ Nghĩa sảnh, cầm cây Câu liêm sang múa mang một lúc, chúng trông thấy đều vỗ tay khen ngợi luôn mồm.

Từ Ninh bảo với quân chúng rằng:

– Phàm ngồi trên mình ngựa đánh Câu Liêm sang, thì lấy cỡ từ thắt lưng mà đánh,trên giữa bảy đường, ba lần giật, bốn lần lượn, một lần đâm, ba lần gạt, cộng có chín phép biến. Bằng đánh Câu Liêm dưới bộ, thì trước hết đi tám thước vung ra bốn mặt để lấy thế, rồi cứ mười hai bước một lần biến, mười sáu bước một lần giở mình chĩa Câu Liêm vừa đâm vừa giật, hai mươi bốn thước hất lên đè xuống, móc bên Đông, đánh bên Tây, ba mươi sáu bước quay mình như lọng che, cướp đánh lung tung không đâu không vỡ. Đó là phép chính đánh Câu Liêm Sang, có bốn câu thơ phải thuộc làm lòng để luyện.

Bốn rung, ba móc, thông bảy đường,

Chín lần biến đổi khác tay sang

Hai mươi bốn bước vung sau trước

Mười sáu bước nay, chuyển khác thường.

Từ Ninh đọc xong, lại cầm cây Câu Liêm, diễn theo phép chính một hồi ai trông thấy cũng đều vỗ tay khen ngợi. Từ đó trở đi, các quân sĩ ngày đêm luyện tập, không lúc nào trễ nải. Sau Từ Ninh dạy cho đám bộ quân, lấy cách nấp núp trong cỏ, móc chân giật cẳng, cùng ám pháp ba đường đánh dưới, đều bảo cho thông thạo hết cả.

Thấm thoát trong nửa tháng trời, trong sơn trại đã được sáu bảy trăm người đánh Câu liêm sang rất giỏi. Tống Giang cùng các Đầu Lĩnh cả mừng, liền cùng nhau để sắp sửa phá trận ngựa Liên Hoàn.

Nói về Hô Duyên Chước, từ khi mất Bành Dĩ cùng Lăng Chấn, hàng ngày lại đem quân ra bến nước để khơi đánh. Trong sơn trại thấy vậy, chỉ cho các Đầu Lĩnh thủy quân ở dưới trại để coi sóc phòng bị, còn các bến nước thì để ngầm các cọc nhọn, để phòng khi thuyền bè các quan quân đến đánh, bởi vậy nên Hô Duyên Chước có đem quân hai đường bên Tây bên Bắc núi, song không thể nào lấn sang sơn trại được.

Bấy giờ trong sơn trại đã luyện được quân đánh Câu Liêm sang, và Lăng Chấn đã chế được nhiều thứ hỏa bác. Tống Giang liền bàn với các vị Đầu Lĩnh rằng:

– Binh pháp của Tôn, Ngô, lợi nhất là những nơi núi rừng chằm vũng. Vậy ngày nay ra trận không dùng đến ngựa, các Đầu Lĩnh đều đi bộ và đem quân bộ, chia làm mười đội để ra dụ giặc. Khi thấy mã quân bên kia kéo đến, thì ta kéo quân chạy tràn vào các nơi vũng lau rừng cỏ và cho các quân Câu Liêm nấp sẵn ở đó, cứ mười tên biết đánh Câu liêm sang, lại cho xen mười tên quân biết đánh gậy móc vào. Hễ khi quân mã chạy tới nơi, các quân Câu Liêm đánh trước, rồi đám kia thả gậy móc kéo ngựa lại để bắt…Như thế phỏng có được chăng?

Ngô Dụng khen rằng:

– Chính là phép dàn binh bắt tướng đó.

Từ Ninh cũng khen rằng:

– Phép đánh gậy móc trong trận Câu liêm cũng phải như thế mới được.

Tống Giang nghe nói liền cắt mười bộ đội quân ra đánh: Lưu Đường, Đỗ Thiên dẫn đội thứ nhất; Mục Hoằng, Mục Xuân dẫn đội thứ hai; Dương Hùng, Đào Tôn Vượng dẫn đội thứ ba; Chu Đồng, Đặng Phi dẫn đội thứ tư; Giải Trân, Giải Bảo dẫn đội thứ năm; Trâu Uyên, Trâu Nhuận dẫn đội thứ sáu; Nhất Trượng Thanh, Vương Nụy Hổ dẫn đội thứ bảy, Tiết Vĩnh, Mã Lân dẫn đội thứ tám; Yến Thuận, Trịnh Thiên Thọ dẫn đội thứ chín; Dương Lâm, Lý Vân dẫn đội thứ mười. Mười đội quân xuống núi để du địch đuổi theo.

Lại sai Lý Tuấn, Trương Hoành, Trương Thuận, ba anh em họ Nguyễn, Đồng Uy, Đồng Mãnh, cùng Mạnh Khang cưỡi chiếc thuyền ra bến nước tiếp ứng. Hoa Vinh, Tần Minh, Lý Ưng, Sài Tiến, Tôn Lập, Âu Bằng, sáu người cưỡi sáu con ngựa dẫn quân ra bên núi khơi chiến. Lăng Chấn, Đỗ Hưng chuyên giữ việc bắn súng, Từ Ninh, Thang Long coi sóc đám quân Câu liêm. Trung quân thì có Tống Giang, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Đới Tung, Lã Phương, Quách Thịnh, coi sóc quân mã và sai bảo hiệu lệnh. Còn bao nhiêu Đầu Lĩnh đều ở nhà coi trại.

Khi cắt đặt xong vào khoảng canh ba đêm ấy, cho đội quân Câu liêm sang bên kia bến nước, ẩn nấp cẩn thận, rồi mười đội bộ quân sang sau. Lăng Chấn Đỗ Hưng đem súng phóng hỏa lên chỗ gò cao đặt giá súng cẩn thận tử tế để đợi, rồi Từ Ninh, Thang Long, cầm đồ hiệu lệnh Câu liêm sang sau. Đến tờ mờ sáng hôm sau, Tống Giang đóng nhân mã Trung quân ở bên Tây bến nước, đánh trống khua cờ để hư trương thanh thế, bấy giờ Hô Duyên Chước nghe báo Lương Sơn Bạc kéo ra, liền sai tướng Tiên Phong là Hàn Thao, đem ngựa Liên Hoàn ra bày trận trước. Đoạn rồi Hô Duyên Chước đai nịt cẩn thận, thân cưỡi ngựa Ô Truy, dắt đôi chùy theo sau ra trận.

Khi ra tới nơi, thấy quân mã Tống Giang, bày bên kia đông như kiến cỏ. Hô Duyên Chước liền sai bài trận mã quân lên trước, rồi Hàn Thao chạy đến bàn rằng:

– Đội quân của Tống Giang ở bên chính Nam kia không biết rằng nhiều hay ít?

Hô Duyên Chước nói:

– Bất kể nhiều hay ít, cứ thúc mã quân mà đánh trận đi.

Hàn Thao vâng lệnh, nổi hiệu toan kéo ngựa quân Liên Hoàn thẳng chạy sang phía chính Nam. Chợt thấy phía Đông Nam có một toán bộ quân kéo ra, Hàn Thao lại toan chia quân ra làm hai ngã để đón đánh. Chợt thấy phía Tây Nam cũng có một toán bộ quân kéo ra, cờ hiệu phất phới, trông rất oai nghiêm.

Hàn Thao trông thấy đành phải lui quân về, nói với Hô Duyên Chước rằng:

– Ba mặt phía Nam đều có ba toán quân nổi hiệu cờ Lương Sơn không biết chia đánh bên nào cho tiện?

Hô Duyên Chước nói:

– Lâu nay nó không ra đánh, nay tất có mưu mẹo chi đây?

Vừa nói dứt lời, thì phía bên Bắc nổi một tiếng súng rất to.

Hô Duyên Chước giận dữ mắng rằng:

– Tiếng súng đó chắc lại Lăng Chấn nối giáo cho giặc rồi.

Nói đoạn quay nom sang phía Bắc, lại thấy ba đội quân kéo cờ phất phới nhô lên. Hô Duyên Chước bàn với Hàn Thao rằng:

– Cái này chắc là mưu mẹo của quân giặc, vậy tôi dẫn một nửa quân sang đánh mặt Bắc, còn Tướng quân dẫn một nửa quân sang đánh mặt Nam mới được.

Nói xong vừa toan chia binh ra đánh, thì thấy phía Tây lại có bốn toán quân mã kéo ra. Hô Duyên Chước lấy làm nghi ngại không biết nghĩ kế ra sao? Chợt lại thấy về phía chính Bắc, có một dịp súng nổi lên, một tiếng súng cái, bốn mươi tiếng súng con, ầm ầm dậy đất long trời làm cho quân mã của Hô Duyên Chước không đánh cũng phải rối loạn.

Hô Duyên Chước thấy vậy, vội cùng Hàn Thao chia quân ra bốn mặt để đánh. Bên kia mười bộ đội quân, thấy đánh bên Đông, thì toán bên Đông chạy, thấy đánh bên Tây, thì toán bên Tây chạy, Hô Duyên Chước cả giận, liền dẫn quân thẳng sang mặt Bắc để đánh. Quân sĩ Tống Giang thấy Hô Duyên Chước kéo đến, bèn xô nhau vào khóm lách ngàn lau để trốn. Hô Duyên Chước đuổi ngựa Liên Hoàn để đánh. Đám ngựa thừa thế chạy tràn vào các nơi cỏ lau lách không sao cản nổi.

Chợt nghe thấy đám lau cỏ, có tiếng hiệu còi nổi lên, rồi bọn quân Câu liêm đều ra sức đánh ngã hai đoàn ngựa kèm hai bên, còn đám ngựa đi giữa thấy vậy, gào thét nhảy lên như châu chấu vậy. Bấy giờ những gậy móc đều đổ xô ra để trói lấy người.

Hô Duyên Chước thấy vậy, biết là trúng kế Câu liêm, bèn quay ngựa sang Nam để tìm Tiên Phong Hàn Thao. Bỗng đâu thấy súng nổ liên thanh ở ngay phía sau, rồi thấy đám bộ quân Lương Sơn đuổi theo rầm rập như nước vỡ bờ đê không ngăn cản nổi.

Hô Duyên Chước cả sợ, chạy tìm cho được Hàn Thao, rồi dẫn một ít quân mã tháo đường để chạy. Khi đó thấy về phía bên Nam man mác những cờ hiệu của Lương Sơn Bạc, hai người phải bỏ chạy phía Nam, mà tháo chạy sang đường Tây Bắc.

Hai chạy được dăm sáu dặm đường, chợt hiện ra một đội nhân mã có hai vị hảo hán là Mục Hoằng, Mục Xuân đều cầm đạo đao, ngăn trước đường đi mà quát lên rằng:

– Bớ bại tướng chạy đi đâu?

Hô Duyên Chước nghe nói, nổi giận đùng đùng, múa song chiên xông ngựa lại đánh nhau với hai hảo hán. Mục Hoằng, Mục Xuân giơ đao lên đỡ, đánh nhau đến bốn hiệp rồi hai người kéo nhau bỏ chạy.Hô Duyên Chước sợ trúng kế, không dám đuổi theo, liền tìm đường lớn về mặt chính Bắc mà chạy. Đương khi lật đật, chợt thấy cạnh sườn núi lại có một toán quân mã nhô ra, có hai vị hảo hán là Giải Trân, Giải Bảo đều cầm cương xoa chạy đến đón đánh. Hô Duyên Chước múa song chiến đấu với hai người, được dăm sáu hợp, thì Giải Trân, Giải Bảo bỏ chạy mất cả. Hô Duyên Chước đuổi theo chừng nửa dặm đường, lại gặp Nhất Thanh, Vương Nụy Hổ dẫn quân mã ra ngăn giữa đường. Bấy giờ Hô Duyên Chước trông quanh trông quẩn thấy lối khuất khúc toàn thị chông gai, chàng liền hết sức múa chùy đánh gạt người ra mà tháo chạy.

Vợ chồng Vương Nụy Hổ theo đuổi hồi lâu không kịp đành mặc cho Hô Duyên Chước chạy về lối Đông Bắc. Đoạn rồi Tống Giang khua chiên thu quân kéo về sơn trại, để ban định thưởng công.

Khi ra tra điểm, bắt được ba nghìn ngựa Liên Hoàn mặc giáp, chiatư mất già một phần bị Câu Liêm đánh què, liền lột lấy áo giáp cho vào hạng ăn thịt, còn già hai phần toàn thị ngựa tốt, giao cho nuôi giữ để phòng khi ra trận. Quân sĩ mặc áo giáp bắt được rất nhiều năm nghìn quân bộ, có kẻ trốn trong Trung quân bị Câu liêm kéo ra để bắt, mà kẻ nào nhảy xuống nước cũng bị thủy quân bắt được. Còn quân sĩ bị bắt khi xưa, nay lại cướp được mang về, quân sĩ hết thảy vui mừng hớn hở.

Đoạn rồi phá trại của Hô Duyên Chước, đem vào gần bến để làm tiểu trại, và cho người sửa lại hai tửu điếm ở ngoài, để cho Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Thạch Dũng, Thời Thiên, chia làm hai toán quân mà cùng nhau coi giữ. Được một lát thấy Lưu Đường, Đỗ Thiên bắt được Hàn Thao đem giải về, Tống Giang cả mừng, thân hành cởi trói cho Hàn Thao, mời vào trong sảnh tiếp đãi rất là long trọng, rồi bảo Bành Dĩ, Lăng Chấn dỗ dành Hàn Thao cùng vào đảng ở Lương Sơn. Hàn Thao nguyên cũng là một vị sao Địa Sát, nên vui lòng thuận phục mà ở với Tống Giang, Tống Giang liền bảo Hàn Thao viết thơ, rồi sai người đưa đến Trần Châu để đón vợ con Hàn Thao về đó. Bấy giờ trong sơn trại mở tiệc ăn mừng mấy hôm trời rất là vui vẻ, rồi các vị Đầu Lĩnh ai vào việc ấy, mà cùng nhau ra sức chấn chỉnh Lương Sơn:

Ngọn cờ nghĩa hiệp xa bay

Nước non nở mặt cỏ cây kinh hồn.

Cùng nhau ra sức hợp đoàn

Dưới trời này dễ ai còn sợ ai?

Nói về Hô Duyên Chước bị thua một trận, mất hết quân mã, chỉ còn trơ trọi một mình, không còn mặt mũi nào trở về kinh sư, liền nghĩ vơ vẫn, cởi cả mũ giáp buộc vào yên ngựa, rồi đem bán đai vàng, để làm lộ phí mà đi. Chàng vừa đi vừa nghĩ, không biết đâu cho ổn tiện. Chợt nghĩ đến quan Phủ Mộ Dung ở Thanh Châu là người quen biết từ xưa, liền định kế sang đó để nhờ Mộ Dung Tri Phủ, nói với Mộ Dung Tri Phủ đem công chuộc tội, rồi sẽ lấy quân đánh báo thù Lương Sơn Bạc.

Chàng đi đường trong hai ngày trời, chiều hôm đó đi đến một nơi, trong bụng vừa đói vừa khát, chợt thấy bên cạnh đường có một hàng cơm nho nhỏ, chàng bèn xuống ngựa buộc vào gốc cây trước cửa, rồi đi vào trong hàng. Khi vào tới hàng, chàng vất đôi chiên trên bàn, ngồi xuống ghế, gọi tửu bảo đem rượu thịt lên, tửu bảo chạy đến nói rằng:

– Hàng tôi chỉ có rượu thôi, ngài muốn xơi thịt, thì trong làng mới có người giết thịt dê, xin đưa tiền cho tôi đi mua vậy.

Hô Duyên Chước móc túi, lấy tiền vụng bán đai vàng còn lại, đưa cho tửu bảo mà dặn rằng:

– Người trả lại một đùi dê nấu chín cho ta ăn, và kiếm ít cỏ ngựa ăn một thể…Đêm nay ta ngủ đây, rồi sáng mai sang Phủ Thanh Châu…

Tửu Bảo nói:

– Thưa ngài ngủ ở đây cũng được, song không có giường chiếu tử tế.

– Được ta là quan võ nằm đâu cũng được…

Tửu bảo vâng lời, cầm tiền quay ra mua thịt.Hô Duyên Chước cởi áo mũ trên mình ngựa mang vào, rồi ngồi ở trước cửa để đợi tên tửu bảo.

Được một lát tửu bảo mang thịt dê về, Hô Duyên Chước bảo đem nấu chín thịt, làm ba đấu gạo; và hai nai rượu uống, tửu bảo vâng lời quay vào, vừa nấu thịt làm bánh, vừa hâm nước nóng để rửa mặt rửa chân. Đoạn rồi tửu bảo dắt ngựa vào buộc ở nhà nhỏ đằng sau cho ăn cỏ.

Hô Duyên Chước gọi lấy rượu lên uống trước.được một lát thịt chín Hô Duyên Chước gọi tửu bảo lên cho cùng ngồi ăn uống mà nói chuyện rằng:

– Ta là quan của triều đình, ra đánh giặc Lương Sơn bị thua, nay định về dưới quan Mộ Dung Tri Phủ ở Thanh Châu, người nên coi sóc con ngựa cẩn thận, ngựa ấy là con Tích Tuyết Ô Truy của vua ban cho ta đó. Ngươi coi cẩn thận, sáng mai ta sẽ thưởng cho…

– Ngài có lòng thương, chúng tôi xin cảm ơn…song có điều này chúng tôi xin kêu để ngài rõ: Gần đây có ngọn núi Đào Hoa Sơn, trên có một bọn cường đạo, tên đầu đảng là Đả Hổ Tướng Lý Trung, thứ nhì là Tiểu Bá Vương Chu Thông, tụ họp tới năm bảy trăm lâu la để cướp bóc kiếm ăn thần thường lại quấy nhiễu dân gian rất là hung ác. Quan Tư đã mấy lần truy nã, mà không sao trị được. Vậy đêm nay ngài phải tỉnh chút mới được.

– Được sức ta đây, mười vạn quân cũng không địch nổi, cho nó kéo cả tụi đến đây ta cũng không cần, ngươi cứ cho ngựa ăn uống tử tế cho ta…

Nói đoạn uống rượu ăn bánh, hồi lâu rồi mới đi nghỉ. Tửu bảo trãi một cái ổ ở giữa nhà cho Hô Duyên Chước nằm. Hô Duyên Chước vừa phần mấy hôm bị mệt nhọc lo nghĩ, vừa phần quá nhắp hơi men, có điều say chếnh choáng, liền để nguyên áo nằm vật xuống ổ ngủ luôn một mạch, mãi đến canh ba mới dậy, chợt thấy tửu bảo kêu la ầm ỷ ở sau nhà. Hô Duyên Chước vội vàng trở dậy, với lấy đôi chiên chạy ra nhà sau hỏi tửu bảo:

– Làm chi mà kêu ầm lên thế?

– Tửu bảo nói:

– Ngài ôi!Tôi đây bỏ cỏ cho ngựa, chợt thấy hàng dậu bỏ tung ra, mà ngựa đi đâu mất… Trông ra xa xa thấy có đóm đóm soi sáng ở quãng bốn năm dặm kia, chắc là tụi nó lấy mất ngựa rồi.

– Chỗ ấy là chỗ nào?

– Thưa ngài cứ theo con đường ấy, thì chính là tụi lâu la, ở Đào Hao Sơn ăn cắp ngựa về lối đó…

Hô Duyên Chước cả kinh, bắt tửu bảo phải dẫn đường để đuổi theo. Tửu bảo dẫn chàng đi tắt bên bờ ruộng gập gà gập gềnh, đuổi chừng ba bốn dặm đường, lại không thấy ánh lửa đâu nữa. Hô Duyên Chước thở dài kêu lên rằng:

– Chết nỗi! Mất con ngựa của vua ban cho thì làm thế nào được bây giờ?

Tửu bảo nói:

– Xin ngài đành để mai đi trình Quan Tư gần đây, rồi đem quân đánh phá, mới có thể cướp ngựa về được. Hô Duyên Chước nghe nói, trong bụng rất băn khoăn buồn bã, trở về tửu điếm, khoanh tay ngồi đợi đến sáng, rồi mượn Tửu bảo quảy giáp mã lên đường sang phủ Thanh Châu.

Khi xưa cờ mở trống dong.

Giờ sao thui thủi non sông một mình?

Anh hùng gặp bước lênh đênh,

Liếc trông đất đỏ trời xanh thêm sầu!

Chiều tối hôm đo, ù Hô Duyên Chước đi đến thành Thanh Châu ngủ trọ ở ngoài hàng một tối, đến sáng hôm sau mới đi vào trong phủ. Khi vào tới nơi, quan Phủ Mộ Dung thấy Hô Duyên Chước, liền giật mình cả kinh mà hỏi:

– Nghe nói Tướng quân đánh bắt giặc Lương Sơn, sao lại đến đây như thế?

Hô Duyên Chước thở dài, đem các chuyện trước thuật cho Tri Phủ nghe.

Tri Phủ nghe đoạn nói với Hô Duyên Chước rằng:

– Tướng quân dẫu bị thua thiệt mất cả nhân mã, song chẳng qua mắc phải gian kế của giặc, chứ không phải tội của Tướng quân. Vả lại trong hạt tôi, hiện nay cũng nhiều giặc cỏ, thường hay quấy nhiễu dân gian, vậy Tướng quân hãy tạm ở đây, đánh phá bọn Đào Hoa Sơn, cướp lại con ngựa Ô Truy, rồi sau sẽ đánh núi Nhị Long, núi Bạch Hổ mà trừ hết đảng cướp ấy đi. Bấy giờ tôi xin hết sức với triều đình, cho Tướng quân đi đánh báo thù. Tướng quân nghĩ sao?

Hô Duyên Chước tạ ơn mà rằng:

– Nếu được ân tướng có lòng hạ cố như vậy, thì thực là hạnh phúc cho tôi lắm…

Tri Phủ nghe nói, liền sai người mời Hô Duyên Chước,vào nghỉ trong phòng, lấy quần áo cho thay, rồi cho tiền tên tửu bảo trở về. Hô Duyên Chước ở đấy luôn trong ba ngày, trong lòng lấy làm nóng sốt, mong lấy lại con ngựa Ô Truy, liền thúc giục Tri Phủ Mộ Dung để cho khởi quân đi đánh.

Tri Phủ điểm hai nghìn bộ quân cho Hô Duyên Chước mượn, và cho mượn một con ngựa Thanh Thông để đi ra trận.Hô Duyên Chước vâng lạy tạ ơn, mà mặc áo giáp lên ngựa, dẫn quân tới núi Đào Hoa.

Bọn Lý Trung, Chu Thông ở núi Đào Hoa, từ khi cướp được con ngựa Ô Truy, trong bụng lấy làm mừng hớn hở, mà hằng ngày chè chén hỉ hả với nhau, chợt hôm đó thấy tiểu lâu la vào báo, có quân mã Thanh Châu kéo đến, Chu Thông đứng dậy bảo Lý Trung rằng:

– Xin Ca Ca coi trại, để tôi dẫn binh ra đuổi họ đi.

Nói đoạn điểm một trăm lâu la, cầm thương lên ngựa xuống núi để nghinh địch quan quân.

Bên kia Hô Duyên Chước kéo quân tới, liền bày thành trận thế, đứng chực ở trước núi. Khi thấy Chu Thông ở trên núi xuống liền xông ngựa ra trước trận quát lên rằng:

Quân giặc cỏ kia, mau mau đến chịu trói đi.

Chu Thông nghe tiếng, liền dàn quân đứng thành chữ nhân, rồi cũng múa gươm vỗ ngựa xông ra.Hô Duyên Chước liền giơ chiên ra đánh Chu Thông, Chu Thông giơ gươm ra đỡ. Đôi bên đánh nhau chừng sáu bảy hiệp. Chu Thông biết thế không địch nổi, liền quay ngựa chạy về trên núi. Hô Duyên Chước theo đuổi mấy bước, sợ mắc mẹo lừa đành phải quay ngựa chạy về, đem quân hạ trại dưới núi.

Chu Thông chạy về sơn trại nói với Lý Trung rằng:

– Hô Duyên Chước võ nghệ cao cường, không sao địch nổi, nếu nay mai họ kéo cả lên sơn trại đây, thì anh em ta biết làm thế nào cho được?

Lý Trung nghĩ một lát rồi nói:

– Ta nghe Lỗ Trí Thâm, ở bên núi Nhị Long có nhiều bè bạn, lại có anh chàng nào, tên gọi Thanh Diện Thú Dương Chi, và anh Hành Giả Võ Tòng, đều sức khoẻ muôn người không địch, vậy bất nhược ta viết một phong thư sai lâu la đem sang cầu cứu một phen. Nếu sau này đuổi được quan quân, thì ta sẽ nương nhờ vào họ, mà hàng tháng chịu đưa cống biếu cho yên, như thế có lẽ tiện hơn.

Chu Thông nói:

– Tôi cũng vốn biết các vị hào kiệt bên ấy, song chỉ e Hoa Hoà Thượng nhớ đến câu chuyện ngày xưa, mà không đến cứu thì làm sao được?

Lý Trung cười rằng:

– Không, ông ta tính thẳng, bụng tốt, nay sai người đến tất là ông ta đến cứu.

– Nếu vậy xin Ca Ca viết giấy mau đi.

Lý Trung liền lấy giấy viết thư kể hết đầu đuôi. Rồi sai một tên lâu la theo lối sau núi, mang thư lên sang núi Nhị Long.

Nói về chùa Bảo Châu bên núi Nhị Long, từ khi Lỗ Trí Thâm, Dương Chí, Võ Tòng đến ở được ít lâu, lại thêm có bốn người Tiểu Đầu Mục đấn nhập bọn ở đó; Một người là Kim Nhỡn Bưu Thi Aân nguyên là con Lão Quản Doanh ở lao thành Mạnh Châu, nhân vì Võ Tòng giết chết nhà Trương Đô Giám, bị Quan Tư đến truy nã vây bọc quanh nhà, để bắt Võ Tòng, nên toàn gia phải dắt nhau đi trốn tránh giang hồ. Sau bố mẹ Thi Aân đều chết, lại nghe nói Võ Tòng đến lạc thảo ở núi Nhị Long, bèn tìm đến đó để cùng Võ Tòng nương tựa. Một người là Tháo Đao Quỹ Tào Chính, trước đã cùng Lỗ Trí Lâm mưu giết Đặng Long cướp núi Nhị Long, rồi sau nhập đảng ở đó. Một anh là Thái Viên Tử Trương Thanh, và vợ là Mẫu Nhược Xoa Tôn Nhị Nương, hai vợ chồng chuyên bán thịt người ở Thập Tự đất Mạnh Châu, sau nhân Lỗ Trí Thâm cùng Võ Tòng viết giấy dỗ dành nên mới đến đó nhập đảng.

Hôm ấy Tào Chính nghe nói có thư bên núi Đào Hoa đưa sang, chàng liền hỏi han cặn kẽ đầu đuôi rồi vào trong điện bẩm với ba vị Đầu Lĩnh.

Lỗ Trí Thâm nghe Tào Chính nói liền cười mà rằng:

– Ngày trước ta ở Ngũ Đài Sơn đi tới thôn Đào Hoa ngủ trọ ở đó, rồi gặp thằng cha Chu Thông, đánh cho một mẻ thật là xiểng liểng. Sau Lý Trung nhận biết ta, lại mời sang chè chén một ngày, kết làm anh em và mời làm chủ trại. Ta nhận thấy chúng bụng dạ hẹp hòi, nên không muốn ở, bèn thầu của chúng mấy cái chén uống rượu bằng bạc mà trốn đi mất… Từ bấy cho đến nay… Nay lại cho người sang cầu cứu đến ta… Hãy gọi tên tiểu lâu la lên đây, xem nó nói ra sao đã?…

Tào Chính vâng lời ra dẫn tên tiểu lâu la vào. Tiểu lâu la vào dưới điện, lạy chào mà nói rằng:

– Quan Mộ Dung Tri Phủ mới thâu được một viên tướng đánh Lương Sơn Bạc bị thua, tên là Hô Duyên Chước, hiện sai sang đánh Đào Hoa Sơn, để cùng phá Nhị Long Sơn, Bạch Hổ Sơn nhân thể, rồi sẽ cho mượn quân đến đánh báo thù Lương Sơn Bạc. Bởi vậy Đầu Lĩnh chúng tôi muốn sang nhờ Nhị Long ra tay cứu giúp cho, rồi sau khi xong việc sẽ nộp khỏan cung cống trước cửa Đại Vương đây.

Dương Chí nghe nói bảo với tên lâu la rằng:

– Chúng ta ở đây cũng phải coi giữ sơn trại, lẽ ra không thì giờ đâu mà cứu ứng các ngươi. Song một là ta nghĩ đến danh nghĩa của bọn hào kiệt giang hồ, hai là e khi Đào Hoa bị mất thì chúng lại ròm rõ đến đây, vậy nay ta cho Trương Thanh cùng Tôn Nhị Nương coi trại ở nhà, còn ba anh em ta hãy xuống qua đó đánh giúp một phen cho phải đạo…

Nói đoạn lập tức điểm năm trăm lâu la, hơn sáu mưới quân kỵ đều chỉnh tề giáo gươm mũ giáp, mà kéo nhau sang núi Đào Hoa.

Lý Trung nghe biết tin đó, liền đem ba trăm quân xuống núi để ráp đánh. Bên kia Hô Duyên Chước nghe báo Lý Trung kéo quân xuống, bèn dẫn quân bày trận chận ngang đường, rồi xông ngựa ra đánh Lý Trung.

Nguyên Lý Trung tổ quán ở Định Nghĩa, thuộc phủ Hào Châu, xưa nay chỉ nhờ nghề đánh gậy để kiếm ăn, tướng người nhỏ bé mà võ nghệ tầm thường nên vẫn gọi là Đả Hổ Tướng.

Bấy giờ Lý Trung đánh nhau với Hô Duyên Chước chừng mươi mười lăm hiệp, thấy sức yếu đuối không sao địch nổi, đành phải quay ngựa chạy lui. Hồ Duyên Chước bèn phóng ngựa đuổi theo lên núi.

Tiểu Bá Vương Chu Thông thấy Hô Duyên Chước leo lên, bèn đứng ở lưng chừng núi mà ném đá xuống. Hô Duyên Chước vội vàng quay ngựa trở xuống mà không dám đuổi nữa.

Đương khi đó bỗng thấy đám quân mã đằng sau ồn ào cả lên, Hô Duyên Chước liền hỏi:

– Có việc chi mà kêu ầm lên thế?

Quân sĩ đáp rằng:

– Phía sau có một đám nhân mã nào kéo đến, xin ngài kịp tới nom xem. Hô Duyên Chước nghe nói vội vàng xông lại đằng sau để xem, thì thấy đội nhân mã đã kéo gần đến nơi, có một ông sư phệ bụng cưỡi con ngựa trắng đi đến trước tiên mà quát lên hỏi rằng:

– Đứa nào là thằng thua trận ở Lương Sơn Bạc, mà dám đến đây bắt nạt chúng ta đó?

Hồ Duyên Chước nghe nói cũng quát lên rằng:

– Ta hãy giết thằng trọc này cho hả lòng một chút đã.

Nói đoạn múa song chiên đến đánh, bên Lỗ Trí Thâm cũng múa thuyền trượng xông vào, rồi hai bên đánh nhau đến bốn năm mươi hiệp, mà không phân được thua.

Hồ Duyên Chước thấy vậy khen thầm trong bụng rằng:”không ngờ lão sư này khá lắm!”Nghĩ đoạn rồi đôi bên khua chiêng thu quân.

Được một lát Hô Duyên Chước lại hăng hái xông ra trận, mà quát lên rằng:

– Lão sư hổ mang ra đây, ta quyết được thua với ngươi phen này.

Lỗ Trí Thâm nghe nói, vừa toan quất ngựa xông ra, thì Dương Chí vội kêu lên rằng.

– Đại Ca hãy nghĩ để tôi bắt thằng này cho.

Nói đoạn múa đao vỗ ngựa xông ra đánh Hô Duyên Chước.

Đôi bên đánh nhau bốn năm mươi hiệp, không quyết được thua, Hô Duyên Chước lại khen thầm rằng:”Quái lạ! Ở đất này mà lại có hai tay võ nghệ giỏi như thế? Quyết nhiên không phải là giặc cỏ hẳn? “

Bên kia Dương Chí thấy Hô Duyên Chước võ nghệ cao cường, cũng lừa miếng phá đỉnh rồi quay ngựa về bản trận. Hồ Duyên Chước thấy vậy,dừng ngựa lại mà không dám đuổi nữa. Đoan rồi đôi bên cùng khua chiên thu quân.

Lỗ Trí Thâm nói với Dương Chí rằng:

– Chúng ta mới đến đây không nên đóng trại ở gần, phải lui ra ngoài hai dặm mà hạ trại, rồi sáng mai sẽ đánh một mẻ cho quyết được thua…

Bàn xong liền kéo quân ra gò núi gần đó để đóng trại.Hôm đó, Hô Duyên Chước trở về trong trướng một mìng lo nghĩ băn khoăn, những tưởng rằng ngựa đến nên công, dể như phá trúc, dè đâu lại gặp tay đối thủ với mình, thực là vận đen quá đổi!

Đương nghĩ ngợi vẫn vơ, bỗng thấy Mộ Dung Tri Phủ cho người đến báo rằng:

– Ở phủ Thanh Châu, hiện có Khổng Minh, Khổng Lượng ở Bạch Hổ Sơn, dẫn người đến cướp ngục, vậy phải mang quân về coi thành lập tức…

Hô Duyên Chước nghe báo, bèn thừa thế kéo quân về Thanh Châu lập tức. Ngày hôm Lỗ Trí Thâm, Dương Chí và Võ Tòng dẫn tiểu lâu la kéo cờ khua trống ra xem, thì chỉ thấy trơ trơ có trại không, mà nhân mã kéo đi đâu mất. Ba người thấy vậy cả kinh mà không hiểu ra sao? Đoạn rồi thấy Lý Trung cùng Chu Thông dẫn người xuống núi đón tiếp, ba vị Đầu Lĩnh cùng nhau kéo lên sơn trại, trong sơn trại mở tiệc khao mừng rất vui vẻ, huyên náo.

Bên kia Hô Duyên Chước vừa dẫn binh mã đến Thanh Châu, chợt thấy một toán nhân mã của Khổng Minh,Khổng Lượng kéo đến bên thành, chàng liền phóng ngựa múa chiêng xông ra để đánh. Nguyên Khổng Minh, Khổng Lượng vì cạnh tranh với một người tài chủ trong làng, gặp lúc nóng máu giết chết cả nhà tài chủ, rồi tụ tập dăm bảy trăm lâu la mà chiếm giữ Bạch Hổ Sơn, để cùng nhau cướp bóc tung hoành. Sau có một người chú là Khổng Tân, bị Tri Phủ bắt giam trong ngục Thanh Châu, nên Khổng Minh,Khổng Lượng đen quân mã sơn trại định đến phá ngục Thanh Châu, để cứu người chú.

Hôm đó kéo lâu la gần đến bên thành, thì gặp Hô Duyên Chước kéo quân đến đánh. Khổng Minh,Khổng Lượng bèn đem quân ra đối địch với Hô Duyên Chước. Bấy giờ Tri Phủ Mộ Dung đứng ở trong thành nom ra, để xem hai bên đánh nhau được hai mươi hiệp, Hô Duyên Chước thấy hai anh em Khổng Minh Khổng, Lượng tầm thường, liền ra sức bình sinh sấn đánh hai người mà khoe tài trước mặt Tri Phủ.

Khổng Minh, Khổng Lượng đấu được một lúc, thế lực cũng hơi kem kém, bất đồ chậm tay lỡ bước, bị Hô Duyên Chước bắt sống được Khổng Minh mà cắp qua mình ngựa.

Khổng Lượng lấy làm ngã lòng, vội dẫn lâu la kéo nhau để chạy. Tri Phủ đứng trên mặt thành, trỏ bảo Hô Duyên Chước đuổi theo.

Hô Duyên Chước kéo quân đuổi bắt sống được hơn trăm người,rồi đem cả Khổng Minh,đem giải vào Thanh Châu. Quan Phủ Mộ Dung lấy làm mừng rỡ sai đem Khổng Minh đóng gông tử tội, giam vào trong lao với Khổng Tân, rồi nhất diện khao thưởng tam quân, mà thiết đãi Hô Duyên Chước.

Tri Phủ hỏi đến chuyện Đào Hoa Sơn?

Hô Duyên Chước đáp rằng:

– Chúng tôi định đến phá núi Đào Hoa Sơn, thì dễ như phá trúc, dè đâu bị một tụi quân đến cứu ứng, trong đó có một lão sư to lớn, và một anh hùng mặt xanh, đánh nhau đến hai lần, không sao mà thắng được. Hai anh ấy võ nghệ khá giỏi, quyết không phải là võ nghệ tầm thường như đám cướp bóc, bởi vậy nên quyết chưa được thành công.

Tri Phủ cười rằng:

– Lão sư ấy nguyên là tên Lỗ Đạt, làm chức Đề Hạt trong phủ Lão Trung Kinh Lược ở Diên An Phủ, sau mới cắt tóc đi tu, người ta gọi là Hoa Hoà Thượng đó; Còn anh chàng mặt xanh tên là Thanh Diện Thú Dương Chí, làm quan đến Chế Sứ Điện Suý Phủ ở Đông Kinh khi trước; lại còn một anh hành giả nữa, tên là Võ Tòng, tức là Võ Đô Đầu đánh hổ ở núi Cảnh Dương năm nọ. Ba người đó chiếm núi Nhị Long, tung hoành cướp bóc, mấy người Bộ Đạo tới nay vẫn không sao trừ được.

Hô Duyên Chước lắc đầu mà rằng:

– Quả nhiên võ nghệ của họ, không mấy người theo kịp, xưa nay có tiéng Dương Chế Sứ, Lỗ Đề Hạt thực là xứng lắm. Nhưng mặc lòng, tướng cồn không ngại, tôi đã đến đây, tất xin bắt sống từng người,để đem về nộp Tướng Công mới hả lòng.

Tri Phủ nghe nói cả mừng, liền rót rượu chúc cho Hô Duyên Chước,rồi lưu nghỉ ở phòng khách trong phủ.

Về phần Khổng Lượng hôm đó bị thua một trận xiểng liểng liền cho lũ quân tàn kiếm đường chạy mau cho thoát. Đương khi kéo quân tháo chạy, bỗng thấy ở khu rừng phía trước, có một toán quân sĩ kéo ra, rồi thấy một vị hảo hán là Võ Hành Giã cưỡi ngựa cầm đao đi trước.

Khổng Lượng trông thấy, vội vàng xuống ngựa lạy rạp xuống đất mà rằng:

– Kính chúc ngài lâu nay được mạnh khoẻ…

Võ Tòng đỡ dậy đáp rằng:

– Nghe nói anh em túc hạ chiếm núi Bạch Hổ, đã mấy phen toan sang bái kiến, mà chưa có thì giờ để sang hầu được. Vậy nay chẳng hay túc hạ có việc gì qua tới nơi đây?

Khổng Lượng liền đem chuyện cứu Khổng Tân và Khổng Minh bị bắt mà thuật lại cho Võ Tòng nghe.

Võ Tòng bảo Khổng Lượng rằng:

– Nếu vậy túc hạ không ngại… Tôi có sáu bảy anh em cùng nhau tụ nghĩa ở núi Nhị Long, nay vì Lý Trung, Chu Thông bên núi Đào Hoa bị Hô Duyên Chước kéo quân đến đánh, phải cầu chúng tôi sang cứu. Tôi cùng Lỗ Đề Hạt, Dương Chế Sứ có đem lâu la sang đánh nhau một trận, không biết vì sao, bỗng dưng Hô Duyên Chước bỏ trại chạy trốn ngay đi đâu mất. Nhân vậy họ lưu ba anh em chúng tôi ở lại uống rượu, mà tặng cho con ngựa Tích Tuyết Ô Truy rồi giữ mãi đến bây giờ mới tháo ra về được. Hai người anh em chúng tôi đi sau kia… Để các ông ấy đến đây, tôi bàn cách cứu túc hạ có được không?

Khổng Lượng cúi đầu lạy tạ mà rằng:

– Nếu được các ngài hạ cố như vậy, thì còn gì hơn nữa.

Nói đoạn hai người cùng đứng một lát,thì thấy Lỗ Trí Thâm cùng Dương Chí cỡi ngựa đi đến, Võ Tòng liền dẫn Khổng Lượng đến chào hai người,rồi thuật chuyện cho nghe và lại nói rằng:

– Khi trước tôi cùng Tống Công Minh ở nhà ông ta quấy quả cũng nhiều, vậy ngày nay nên lấy nghĩa khí làm trọng, phải lấy nhân mã ba núi, đến dánh Thanh Châu, giết Tri Phủ Mộ Dung cứu hai người ấy ra, rồi bắt Hô Duyên Chước,cướp lấy Phủ Khố tiền nong, để đem về sơn trại các ngài nghĩ sao?

Lỗ Trí Thâm nghe nói, gật đầu đáp rằng:

– Tôi cũng theo ý như vậy.

Nói đoạn liền cho người bảo với Lý Trung, Chu Thông đem lâu la đến, để cùng tụ họp ba núi mà tiến đánh Thanh Châu.

Dương Chí lại nói với ba người rằng:

– Phủ Thanh Châu Hào sâu thành vững, ngựa khoẻ, quân nhiều, lại thêm co Hô Duyên Chước là tay anh hùng trí dũng… Việc này không phải là tôi rút rát làm giảm uy phong của mình… Song muốn đánh Thanh Châu, thì tất phải nghe tôi lời này mới được.

Ba người nghe nói, đều lấy làm ngạc nhiên không hiểu, liền xúm lại để xem Dương Chí bàn định ra sao?

Cho hay:

Bốn phương sôi nổi tăm kinh

Trò đời hai chữ ” bất bình”gây nên

Anh hùng lắm bước truân chuyên

Nước non vương mãi chút duyên tang bồng

Đôi phen gió cuốn bụi hồng

Lò than nghĩa hiệp càng nồng hơn xưa.

Bắc nam ai hẹn bao giờ,

Chẳng qua cùng một thế cờ phải xoay.

Lời bàn của Thánh Thán:  

Tác giả tả Tống Giang chia ra mười đội quân dụ địch, không chia ra từng phương diện (nơi nào), chỉ nhất tề ra đi, đến sáng ra mới tả ba mặt dụ quân cùng chẳng chia ra đội hiệu, cũng lại nhất tề kéo đến, tuy rằng một chốc thế văn trên giấy, xem như núi lỡ mưa sa, lửa bầng đồng nội, song khiến cho trong lòng độc giả không biết đầu đuôi đánh tự chốn nào, kể cũng buồn buồn, buồn buồn chưa xong, lại bỗng đâu đánh nhoàng ở phía Tây Bắc Mục Hoằng, Mục Xuân, phía chính Bắc Giải Trân, Giải Bảo: Đông Bắc đánh nhoàng ra Vương Nụy Hổ, Nhất Trượng Thanh, vậy bảy đội kia khổ chiến tựa mây mờ khiến ba đội này như rồng thò nanh vuốt, thì bảy đội khôn lường, cho tỏ ba đội xuất kỳ, có ba đội rõ ràng, càng thấy bảy đội kia thần biến, chẳng duy thế mà thôi. Sau khi thu quân để định công chợt đâu lại đánh nhoàng hiện ra một đội Lưu Đường, Đỗ Thiên bắt sống Hàn Thao… Hỡi ôi! Trước đoạn này có chiến, sau đoạn này có chiến, theo phép chuyện, hoặc trước chỉnh sau biến, hoặc trước mất đi sau rõ ra, cái lạ vốn không lạ bằng suốt hồi khi đó không rõ ràng ra, đến cuối mới đánh nhoàng một cái, hai cái, ba cái hiện ra, tưởng là hết, cuối cùng còn đánh nhoàng một cái nữa hai người, lại tả nốt ra.

Đương khi tả ra mỗ này, mỗ này… là mười đội, mỗ này, mỗ này… phong pháo; mỗ này, mỗ này… là cầm lệnh, đều bất đã định đâu vào đấy cả rồi. Đến sáng ngày chợt đâu tả ra mười đội, bỗng dưng tả phóng pháo; bỗng dưng tả nổi hiệu, bấy giờ độc giả, chính đọc mười đội, chợt đâu chỉ tah61y pháo nổ; đương đọc chỗ phóng pháo, chợt đâu lại là mười đội, đương đọc chỗ mười đội, chợt đâu nghe nổi hiệu, đương xem nổi hiệu chợt đâu lại nghe pháo nổ, khiến cho trên giấy bấy giờ cũng mấp máy động lên, chẳng thể nào không khiến độc giả khỏi ù tai choáng mắt, mà cũng không khai rằng chính tác giả đã nhàn tâm, vội bút thế nào, lạ thay! Kỹ thuật tả văn đến thế!

Ta đọc đoạn văn Hô Duyên Chước yêu ngựa, mà chẳng hay giọt lệ nhỏ sa, sao vậy? Vì Hô Duyên Chước yêu ngựa, chẳng phải cứ riêng rằng thú của vua ban, cũng chẳng cứ nó là thần mã mới tiếc! Cũng lại không phải trông cậy vào nó để khôi phục hùng oai? ? ? Chỉ vì thiên hạ cản ngăn, có gì sâu xa bằng cùng cơn hoạn nạn, mà tình con người chẳng gì nặng bằng nghĩa giúp nhau lâu. Xét ra cùng cơn hoạn nạn, thì từng có một chỗ sống chết với nhau; mà giúp nhau lâu, thì thực có tính tình như một, thế thì còn phải bàn gì thân với sơ, hay người với vật, hay có tình với không tình? ? ?

Ta có người bạn trẻ, khi nhỏ ở trường làng, mà chơi thân chẳng lúc nào rời nhau, dẫu của quý vì thiên hạ, cũng không bằng người bạn trẻ ấy, mà thiên hạ yêu ta cũng không ai bằng người bạn trẻ, thường với bạn ta đi lại, dù gió sớm mưa hôm cũng mò đến với nhau, dẫu của quý vì thiên hạ cũng không bằng người bạn trẻ ấy, mà thiên hạ biết ta cũng không ai hơn người bạn trẻ ấy, ai ngờ người bạn trẻ mất đi; ta có một cái vòng chất nó xanh xám, làm kiểu thô sơ, của chơi thiên hạ chả gì xấu hơn nó nữa, từ nhỏ bà ta đeo vào người, không ngày nào chẳng đeo vòng, cũng như một quan thứ sáu trong năm quan: Một ngón tay nữa ở trong mười ngón, không may qua sông rơi xuống giữa dòng, đến nay như thiếu một quan, như cụt một ngón, với ba thứ đó, thiên hạ thiếu gì? Song ta nghĩ thủa nhỏ ngồi trong cửa sổ trường học tư làng, mỗi khi chiều học xong, mặt trời xế bóng, như thế bao năm coi tựa một ngày, ta đến nay vẫn tiếc ngồi trong cửa sổ, còn ngờ thân vẫn ở trường xưa… Hỡi ôi! Con người đạo học, thì tại sao không cảm thông tình? Thế mà thiên hạ nói cảm nói tình, ta vốn biết rồi, ta chỉ rất ghét thiên hạ cứ nói cảm nói tình, mà không làm được đến nơi đến chốn! Cho nên duy việc Hô Duyên Chước yêu ngựa, mà đặc biệt nêu ra.

Hồi 57: Họp Tam Sơn, đánh phủ Thanh Châu – Kết đồng tâm, về nơi Thủy Bạc

Khi đó Dương Chí nói với mọi người rằng:

– Xưa nay tôi vẫn nghe tiếng Tống Công Minh ở nơi Sơn Bạc, là một người anh hùng đại lượng, đã thường nổi tiếng trong đám giang hồ, vả chăng Hô Duyên Chước lại là cừu nhân của Lương Sơn Bạc, vậy anh ta muốn đánh phủ Thanh Châu, thì trước hết phải mời Tống Công Minh cùng đến họp quân với anh em ta đây, và hợp cả hảo hán ở Đào Hoa Sơn, để cất binh ra đánh, thì mới có cơ tất thắng mà cứu người ra được. Việc đó chẳng hay các ngài nghĩ sao?

Lỗ Trí Thâm nói:

– Phải, tôi cũng thường nghe Tống Tam Lang là người tốt mà chưa được gặp bao giờ? Ngày trước ông ta ở núi Thanh Long với Hoa Tri Trại, tôi đã toan đến đó cho gặp một lần. Dè đâu khi cất chân ra đi, thì ông ta đã cất chân đi rồi, thế mà không được gặp, thực là vô duyên quá; phải, nay nếu Khổng Lượng muốn cứu anh em ra, tất phải thân hành lên mời ông ta để mặc chúng tôi ở đây, chống cự với đám Thanh Châu cũng được.

Khổng Lượng nghe nói lấy làm phải, liền giao đám tiểu lâu la cho Lỗ Trí Thâm, rồi dẫn một người bạn, dáng ăn mặc giả làm khách buôn, mà lập tức lên Lương Sơn Bạc. Khi Khổng Lượng đi rồi, Lỗ Trí Thâm cùng Dương Chí, Võ Tòng trở về sơn trại, gọi Tào Chính, Thi Ân, dẫn mấy trăm tiểu lâu la đi đánh Thanh Châu, và báo cho Lý Trung, Chu Thông cùng đem quân đến Thanh Châu để đánh.

Bên kia Khổng Lượng đi gần tới Lương Sơn Bạc, lần vào hàng cơm của Thôi Mạnh Phán Quan, để lần hỏi thăm đường lên núi, Lý Lập thấy hai người lạ mặt đến hỏi, liền mời ngồi trong hàng rồi hỏi rằng:

– Các ngài ở đâu đến đây?

Khổng Lượng đáp:

– Chúng tôi ở Thanh Châu đến.

– Các ngài định lên Lương Sơn Bạc tìm ai?

– Tôi có một người quen ở đó, muốn tìm đến chơi.

– Trong trại toàn thị các Đại Vương ở đó, ông lên thế nào được mà hỏi thăm?

– Vâng! Tôi định đến tìm Tống Đại Vương đây…

– Có phải vậy, thì xin cứ ngồi đây, rồi tôi sẽ bảo…

Nói đoạn liền sai đem rượu tiếp phong mời Khổng Lượng uống.

Khổng Lượng thấy vậy liền hỏi:

– Chúng tôi không được quen biết bao giờ, sao ngài lại cho uống rượu làm vậy?

Lý Lập nói:

– Nguyên ngài không biết, sơn trại tôi mở mấy ngôi hàng đây, là cốt để dò thăm tin tức bên ngoài và đón những người cố cựu, và những người hảo hán, đến nhập bọn ở trong sơn trại. Vậy xin ngài ngồi đợi chơi đây, tôi xin báo cho Tống Công Minh lập tức.

Khổng Lượng nói:

– Thưa ngài chúng tôi tên là Khổng Lượng ở núi Bạch Hổ đến đây, xin ngài báo giúp cho.

Lý Lập nghe nói đáp rằng:

– Trước đây tôi thường nghe thấy Tống Công Minh nói đến tên ngài, nay được ngài đến đây thật là hân hạnh.

Nói đoạn liền đến Thủy Đình, bắn một mũi tên ra hiệu, rồi thấy trong đám lau lách bên kia có tên tiểu lâu la chở thuyền sang đón. Lý Lập mời Khổng Lượng xuống thuyền cùng nhau vào bến Kim Sa, rồi đưa lên sơn trại.

Khổng Lượng đi đến Tam Quan, thấy cửa quan hùng tráng, gươm giáo thành rừng, trong bụng nghĩ thầm:”Xưa nay chỉ nghe tiếng Lương Sơn Bạc thịnh vượng, nay ta không ngờ quả nhiên lập nên cơ đồ lớn lao như vậy!”.

Bấy giờ Tống Giang nghe báo, liền chạy ra đón Khổng Lượng. Khổng Lượng trông thấy Tống Giang vội vàng cúi lạy, thăm hỏi ân cần.

Tống Giang hỏi Khổng Lượng rằng:

– Chẳng hay hiền đệ có chuyện chi mà đến đây? Khổng Lượng nghe nói, liền cất tiếng khóc oà lên. Tống Giang thấy vậy vội hỏi:

– Hiền đệ đến đây có việc chi? Cứ nói chuyện cho ta biết ta xin hết sức giúp cho ngay…

Khổng Lượng sụt sùi khóc rằng:

– Từ khi bái biệt sư phụ, được ít lâu thì phụ thân tôi mất, sau anh chúng tôi là Khổng Minh,nhân tức nhau với một người phú hộ ở trong làng, liền đem giết chết hết một nhà hắn ta, rồi bị Quan Tư tróc nã, đành phải chiếm núi Bạch Hổ tụ năm bảy trăm lâu la để làm nghề lạc thảo với nhau. Sau đó nhân có một người chú là Khổng Tân, bị quan phủ Thanh Châu bắt giam trong ngục, anh em chúng tôi bèn đem binh tiến đánh Thanh Châu, định để cứu cho chú ra. Dè đâu vừa khi đến thành, gặp ngay một tên tặc tướng là Hô Duyên Chước,anh tôi đánh nhau với hắn được có mấy hiệp, thì bị bắt ngay, hiện giải vào phủ Thanh Châu, không biết có còn sống được hay không: Còn tôi hôm đó cũng bị Hô Duyên Chước đánh duổi một phen, rồi ngày hôm sau mới gặp được Võ Tòng dẫn đến chào mấy người anh em bạn: Một người là Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm,và một người là Thanh Diện Thú Dương Chí, mấy người đó mới gặp chúng tôi,cũng đã tỏ lòng thân ái, bèn hẹn đem cả lâu la ở núi Nhị Long, và rủ Lý Trung, Chu Thông ở núi Đào Hoa, cùng sang đánh giúp, rồi bảo chúng tôi phải sang đây lập tức cầu cứu với sư phụ thì mới có thể thoát nạn cho chú và anh tôi được.

Tống Giang nghe nói cười mà đáp rằng:

– Việc đó khó chi? Hiền đệ cứ vững tâm vào chơi sơn trại đã.

Nói đoạn dẫn Khổng Lượng vào chào Tiều Cái. Ngô Dụng, Tôn Công Thắng, cùng các vị Đầu Lĩnh rồi đem chuyện Hô Duyên Chước,cùng tình thế Khổng Lượng thuật cho mọi người nghe.

Tiều Cái bảo với Tống Giang rằng:

– Hiền đệ với Khổng Huynh là chỗ chi thân khi trước, vả chăng cacù vị hào kiệt kia đã có lòng vị nghĩa giang hồ như vậy thì lẽ nào ta không đi cứu cho đành? Song lâu nay hiền đệ khó nhọc đã nhiều, vậy nay hiền đệ hãy coi giữ chủ quyền sơn trại, để ngu huynh đi một phen mới được.

Tống Giang lại nói:

– Ca Ca là ông chủ sơn trại, không thể một ngày rời bỏ ngay được.Vả chăng việc này là của tôi, người ta xa muôn dặm tới đây nếu tôi không đi, thì sao cho người ta an tâm, Vậy xin Ca Ca để mặc cho tiểu đệ cùng mấy anh em đi cho được việc…

Vừa nói dứt lời, thì thấy các Đầu Lĩnh đồng thanh lên nói rằng:

– Chúng tôi xin theo Tống Ca Ca để ra sức phen này.

Tống Giang nghe nói cả mừng,liền đặt tiệc để thiết đãi Khổng Lượng. Khi chè chén xong, Tống Giang gọi Thiết Diện Tổng Mục Bùi Tuyên, cắt đặt nhân mã đi đánh, chia làm năm đội:Tiền Quân có Hoa Vinh, Tần Minh,Yến Thuận, Vương Nụy Hổ mở đường làm tiên phong; đội thứ nhì, Mục Hoằng,Dương Hùng, Giải Trân, Giải Bảo làm đầu. Trung quân thì có chủ soái Tống Giang,Ngô Dụng,Lã Phương, Quách Thịnh; Đội thứ tư, thì có Chu Đồng, Sài Tiến, Lý Tuấn, Trương Hoàng; còn hậu quân, thì Tôn Lập Dương Lâm, Âu Bằng, và Lăng Chấn dẫn quân đi sau.

Năm quân chỉnh điểm xong rồi, tất cả cộng hai mươi Đầu Lĩnh,ba nghìn quân mã, cùng nhau từ giã Tiều Cái, cùng các Đầu Lĩnh coi trại, rồi đi theo Khổng Lượng, kéo quân thẳng tới Thanh Châu. Khi qua các phủ huyện, không tơ hào phạm của dân, ai ai cũng một lòng kính phục. Cách mấy hôm đến đất Thanh Châu, Khổng Lượng vào trại quân,báo cho Lỗ Trí Thâm biết,Lỗ Trí Thâm nghe báo,liền cùng các vị hảo hán sửa soạn để nghinh đón Tống Giang.

Tống Giang tới nơi, Võ Tòng dẫn Lỗ Trí Thâm,Dương Chí, Lý Trung, Chu Thông cùng Tào Chính, Thi Aân ra đón chào. Tống Giang vào đến sơn trại, nhường chỗ mời Lỗ Trí Thâm ngồi.

Lỗ Trí Thâm nói:

– Tôi được nghe đại danh Ca Ca đã lâu, mà chưa được tiếp, nay lại được gặp ở đây, thực là may quá.

Tống Giang khiêm tốn mà rằng:

– Chúng tôi đã thấm vào đâu! Xưa nay vẫn thấy trong đám giang hồ ngợi khen thánh đức của ngài, ngày nay được trông thấy được mặt từ bi, thực lấy làm hân hạnh vô cùng.

Dương Chí đứng lên vái chào Tống Giang mà nói rằng:

– Ngày trước chúng tôi đi Lương Sơn, các vị hảo hán đã có lòng tốt lưu lại ở đó, song vì chúng tôi tôi khờ dại không chịu ở lại…

Nay được có nghĩa sĩ ở đó,làm vẻ vang cho sơn trại, chúng tôi nghe nói, trong lòng lấy làm vui vẻ bội phần.

Tống Giang cười đáp rằng:

– Uy danh của Chế Sứ, thiên hạ ai không biết, tiếc cho Tống Giang được gặp quá muộn mà thôi!

Đoạn rồi Lỗ Trí Thâm sai người làm rượu khoãn đãi Tống Giang,cùng các vị Đầu Lĩnh,rất là vui thỏa. Hôm sau đó, Tống Giang hỏi đến tình thế Thanh Châu.

Dương Chí đáp rằng:

– Từ khi Khổng Lượng đi rồi, anh em chúng tôi đã ba dạo đánh nhau chưa quyết được thua…Hiện nay cả thành Thanh Châu, chỉ trông cậy vào một mình Hô Duyên Chước,nếu bắt được người ấy, thì Thanh Châu phá dễ như chơi, không có điều gì là trở ngại.

Ngô Dụng cười rằng:

– Người ấy chỉ có thể lấy mẹo bắt, chứ không lấy sức địch.

Tống Giang hỏi:

– Quân sư có kế gì khả dĩ bắt được?

Ngô Dụng đáp rằng:

– Chỉ thế này…thế này…là có thể bắt được ngay.

Tống Giang nghe nói cả mừng khen là diệu kế rồi cung nhau phân phát nhân mã để hôm sau ra trận. Sáng hôm sau các vị hảo hán kéo quân vây bốn mặt thành Thanh Châu,rồi đánh trống khua cờ, hò reo khơi đánh. Quan Phủ Mộ Dung trong thành thấy vậy, liền mời Hô Duyên Chước ra bàn rằng:

– Ngày nay lại thêm giặc đằng Lương Sơn kéo đến đánh thành, như vậy ta có cách gì mà đối phó lại được?

Hô Duyên Chước nói:

– Xin Ân Tướng cứ vững tâm phen này quân giặc đến đây, đã là thất sách, vì xưa nay chỉ quen vẫy vùng trong bến nước, nay bỗng lại rời xa sào huyệt mà ra tới đây, thì có tên nào là ta tróc tên ấy, không còn ngại điều chi nữa? Xin ân tướng lên thành, xem tôi bắt giặc phen này mới được.

Nói đoạn liền tề chỉnh mũ giáp, nhảy lên mình ngựa, mở cửa thành, hạ đích kiều, dẫn một nghìn mã kéo ra. Bấy giờ bên trận Tống Giang có một tướng cưỡi ngựa, tay cầm lang Nha Côn, quát mắng Tri Phủ rằng:

– Quân cướp này, giống mọt dân kia, bay nỡ lòng giết cả vợ con ta, nay ta quyết báo thù, không thể nào tha cho ngươi được…

Mộ Dung Tri Phủ trông ra nhận biết là Tần Minh, liền mắng lại rằng:

– Bây là một ông quan của triều đình, nhà nước đã phụ bạc điều chi, mà bay dám nỡ lòng đành phản? Nếu bắt được ngươi, thì xé thây ra làm một vạn mảnh mới cam. Thôi tướng quân đâu? Hãy bắt thằng giặc ấy trước đã.

Hô Duyên Chước nghe nói, lập tức múa song chiên xông ngựa ra đánh Tần Minh, Tần Minh giơ Lang Nha Côn ra đánh với Hô Duyên Chước. Đôi bên cùng gặp tay đối thủ, đánh nhau hơn bốn năm mươi hiệp, không quyết được thua. Mộ Dung Tri Phủ thấy đánh nhau lâu, sợ khi Hô Duyên Chước bị thua, liền khua chiên thu quân vào thành, Tần Minh cũng lui về bản trận không theo đuổi. Tống Giang liền hạ lệnh, lui xa ra ngoài mười lăm dặm hạ trại.

Bấy giờ Hô Duyên Chước vào trong thành, xuống ngựa nói với Tri Phủ Mộ Dung rằng:

– Hồi đó tôi đương định bắt Tần Minh, sao Ân tướng lại vội thu quân như vậy?

Tri Phủ nói:

– Tôi thấy Tướng quân đánh nhau, sợ khi đuối sức nên phải thu quân để nghỉ, tên Tần Minh trước làm Thống Chế ở đây, sau mới cùng Hoa Vinh làm phản, mà theo bọn Lương Sơn…Hắn ta võ nghệ cũng khá, chớ nên coi thường mới được.

– Ân Tướng không ngại, tôi xin bắt được loại phản tặc hầu ngài. Vừa rồi mới đấu nhau một lúc, mà tay công anh ta đã rối loạn rồi, ngày mai thế nào tôi cũng chém được hắn.

– Nếu Tướng quân có thủ đoạn anh hùng như vậy, ngày mai xin đánh tháo vòng vây, dọn cho ba người ra, một người cho vào Đông Kinh cầu cứu, và hai người đến các Châu Phủ gần đây, để nhờ binh ứng viện một thể.

Hô Duyên Chước vâng lời mà rằng:

– Tướng công nghĩ như vậy thực là chu đáo lắm…

Tri Phủ nghe nói, liền viết mấy văn thư cầu cứu, giao cho ba tên lính cẩn thận để sáng hôm sau mang đi.

Hôm đó Hô Duyên Chước trở về phòng nghỉ, mãi đến đầu trống canh năm tỉnh dậy. Chợt thấy quân sĩ vào báo rằng:

– Trên núi đất về góc thành bên Bắc có ba người cưỡi ba con ngựa, đến nom dòm vào thành, một người mặc áo bào đỏ cưỡi ngựa trắng đi giữa, và hai người đi kèm hai bên, hình như là Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh, cùng một người ăn mặc lối thầy tu thì phải…

Hô Duyên Chước nói:

– Nếu vậy thì anh mặc áo bào đỏ đích xác là Tống Giang, còn anh an mặc thầy tu, chắc là Ngô Dụng hẳn? Chúng bay cứ im lặng, chớ nên làm động… mau điểm một trăm nhân mã, để ta bắt ba thằng ấy mới được…

Nói đoạn vội vàng đội mũ mặc giáp, cầm chiên lên ngựa, dẫn hơn ba trăm quân kỵ, lẻn ra mở cửa Bắc môn, bỏ đích kiều xuống, dẫn quân ra ngọn núi đất. Khi ra tới nơi, thấy ba người vẫn điềm nhiên kìm cương ngựa đứng nom vào thành. Hô Duyên Chước liền xốc ngựa lên đến núi, bấy giờ ba người kia mới quay ngựa lững thững chạy đi. Hô Duyên Chước thấy vậy bèn ra roi té ngựa để đuổi theo.

Ba người kia chạy đến một chỗ trước mặt có mấy cây khô, rồi đứng dừng lại cả, Hô Duyên Chước lại sấn ngựa mà đuổi theo lên.

Khi gần đền chỗ cây khô, thấy có tiếng hò reo ầm ĩ, rồi Hô Duyên Chước bị cả người lẫn ngựa đều tuột xuống hố đất. Đoạn rồi hai bên có năm sáu mưới tên quân nấp, đem dây móc ra trói Hô Duyên Chước về trước, và dắt con ngựa về sau.

Bọn quân sĩ Hô Duyên Chước thấy vậy, toan xông đến đánh, bất ngờ bị Hoa Vinh bắn ngã dăm bảy quân kỵ đi đầu, còn thì tháo chạy hết cả.

Bấy giờ Tống Giang trở về trại quân, truyền bọn đao phủ dong Hô Duyên Chước lên trước trướng.Hô Duyên Chước lên tới nơi, Tống Giang vội quát quân sĩ cởi trói ra, rồi thân hành xuống ngựa dắt Hô Duyên Chước lên ngồi, và lạy chào rất là cung kính.

Hô Duyên Chước lấy làm ngạc nhiên hỏi:

– Vì duyên cớ làm sao?

Tống Giang đáp rằng:

– Tống Giang tôi có khi nào phản bội triều đình, ngày nay chẳng qua vì quan tham lại nhũng ức hiếp quá tình, nên phải tạm lánh vào nơi Thủy Bạc, để chờ khi nào triều đình tha tội, rồi lại cùng nhau quy phục đó thôi. Nay Tướng quân tới đây, chúng tôi lấy làm hâm mộ vô cùng, nên mới cả gan trộm phép Tướng quân mà mời đón đến đây, như thế thật là đại tội, dám xin Tướng quân đại xá đi cho…

– Tôi là một người bị bắt, có chi mà nghĩa sĩ nói những lời khiêm tốn như vậy?

– Chúng tôi đây có khi nào khi dễ Tướng Quân, lòng này thực đó Hoàng Thiên soi xét nay chỉ xin Tướng Quân rộng cho một điều mà thôi..

– Chẳng hay huynh trưởng muốn Hô Duyên Chước về triều đình xin giấy chiêu an, để đem đến sơn trại mà tha cho tất cả mọi người đó chăng?

– Chết nổi! Việc ấy Tướng Quân làm sao nổi? Cao Thái Úy là một kẻ tâm địa hẹp hòi, hay quên ơn lớn và hay nhớ lỗi nhỏ của người…Nay Tướng Quân đã làm hao tổn biết bao binh mã lương thực, vậy có khi nào Cao Thái Úy lại không gia tội cho ngài. Vả chăng Hàn Thao, Bành Dĩ, Lăng Chấn, đều đã nhất tâm đến ở trại tôi, nay nếu Tướng Quân có lòng hạ cố, mà cho chúng tôi được cùng sum họp, thì Tống Giang này xin nhường ngôi để kính Tướng Quân, rồi đợi khi triều đình có lệnh chiêu an, thí ta sẽ cùng nhau giúp nước…Chẳng Tướng Quân nghĩ sao?

Hô Duyên Chước ngẫm nghĩ hồi lâu, nghe cũng hơi có lý, bèn thở dài một tiếng, rồi quỳ xuống đất nói rằng:

– Việc này không phải là Hô Duyên Chước bất trung với nước, son tất lòng rất cảm nghĩa khí của huynh trưởng, không lẽ nào từ chối cho đành…Vậy từ nay xin theo hầu dưới trướng, không thay đỗi tấc lòng.

Tống Giang nghe nói cả mừng, liền mời các vị Đầu Lĩnh ra chào Hô Duyên Chước suốt lượt, rồi gọi Lý Trung, Chu Thông đem ngựa Tích Tuyết Ô Truy trả lại cho Hô Duyên Chước. Đoạn rồi cùng nhau bàn kế để cứu Khổng Minh.

Ngô Dụng nói:

– Bây giờ chỉ nhờ Hô Tướng Quân lừa mở cổng thành thì mới dễ được thành công, mới có thể ngăn hết đường về của Hô Tướng Quân sau này được.

Tống Giang hiểu ý, liền ủy uyển nói với Hô Duyên Chước rằng:

– Dám thưa Tướng Quân: Việc này không phải Tống Giang tôi có tham muốn thành trì, dấy binh sinh sự, đó chẳng qua vì chú cháu Khổng Minh bị giam trong ngục, nên tôi lôi thôi động dạng đến đây. Vậy nay Tướng Quân không rộng lòng vì nghĩa, mà lừa mở cửa thành thì không khi nào xong được.

Hô Duyên Chước vâng lời mà rằng:

– Huynh trưởng đã có lòng sai khiến, thì dẫu thế nào, tôi cũng không dám từ nan, chỉ chiều hôm nay làm ngay lập tức là xong…

Tống Giang cả mừng, liền sai Tần Minh, Hoa Vinh, Tôn Lập, Yến Thuận, Lã Phương, Quách Thịnh, Giải Trân, Giải Bảo, Âu Bằng, Vương Anh, tất cả mười vị Đầu Lĩnh ăn mặc ra lối quân, cưỡi mười con ngựa theo Hô Duyên Chước ra đi.

Khi về tới cửa Thành, Hô Duyên Chước vội vội vàng vàng nói là trốn thoát được về, liền gọi người ra mở cổng. Người trong thành nghe rõ tiếng Hô Duyên Chước liền quay vào báo cho Tri Phủ Mộ Dung biết.

Bấy giờ Tri Phủ đương lo phiền vì nổi Hô Duyên Chước bị bắt, bỗng thấy nói Hô Duyên Chước lại trốn thoát về, trong bụng lấy làm mừng bội phần, vội cưỡi ngựa chạy lên mặt thành để hỏi. Khi lên mặt thành tuy không nom rõ mặt Hô Duyên Chước, song nghe tiếng quả thị là Hô Duyên Chước, và chỉ có mười tên quân kỵ đi theo, liền hỏi lên rằng:

– Tướng Quân làm cách gì mà về được đó?

Hô Duyên Chước nói:

– Tôi vì sa xuống hố, bị chúng bắt trói mang về ở trại, sau may có mấy tên Đầu Mục nguyên theo tôi trước, ăn trộm con ngựa này cho tôi cưỡi mà đưa về đây.

Tri Phủ nghe nói liền sai quân sĩ mở cổng Thành, hạ đích kiều cho mọi người vào. Khi vào tới cửa thành, Tần Minh bắt luôn Tri Phủ Mộ Dung, liền đánh cho một gậy ngã lăn xuống ngựa, Giải Trân liền phóng lửa đốt thành, rồi Âu Bằng, Vương Nụy Hổ trèo lên mặt thành mà giết tan bọn quân sĩ coi thành.

Tống Giang ở ngoài thấy trong Thành nổi lửa, liền kéo đại đội quân mã vào thành, truyền lệnh quân chúng không được quấy nhiễu lương dân, thu hết tiền nong kho đụn, và phá ngục cứu Khổng Minh cùng cả nhà Khổng Tân ra. Đoạn rồi cứu tắt ngọn lửa trong thành, bắt giết hết người nhà Tri Phủ Mộ Dung và thu hết của cải gia tư để thưởng cho quân sĩ.

Sáng hôm sau tìm những nhà lương dân nào bị cháy, cấp cho thóc gạo tiền nong, rồi đem kim ngân lương thực của các kho, xếp vào năm sáu trăm xe, và bắt lấy hơn hai trăm ngựa tốt. Đoạn rồi làm tiệc ăn mừng ở trong phủ Thanh Châu, và mời các vị Đầu Lĩnh mới cùng về sơn trại. Lý Trung, chu Thông sai người về núi Đào Hoa lấy hết nhân mã, tiền lương đốt bỏ sơn trại để đi. Lỗ Trí Thâm cũng sai Tào Chính, Thi Ân về núi Nhị Long cùng với Tôn Nhị Nương thu hết nhân mã tiền lương, mà đốt bỏ chùa Bảo Châu cùng sơn trại để theo Tống Giang về Sơn Bạc.

Cách vài hôm sau, nhân mã các nơi đều đến đủ. Tống Giang liền kéo thẳng nhân mã đại hội trở về Lương Sơn Bạc. Khi ra đi Tống Giang sai Hoa Vinh, Tần Minh, Chu Đồng và Hô Duyên Chước, dẫn đường đi trước, qua các phủ, huyện, không hề xâm phạm của ai. Dân gian thấy vậy đều dắt già cõng trẻ cùng nhau đón rước vui mừng, rất chiều trân trọng.

Đường đi mấy hôm về tới Lương Sơn Bạc, các vị Thủy Quân Đầu Lĩnh, đều sắp đủ thuyền bè để đón, Tiều Cái dẫn các vị Đầu Lĩnh trên núi xuống bến Kim Sa, đón tiếp nhân mã vào trong đại trại.

Khi về tới Tụ Nghĩa Sảnh, các vị Đầu Lĩnh chia thứ tự cùng ngồi, rồi mở tiệc khao mừng mấy vị Đầu Lĩnh mới đến, là: Hô Duyên Chước, Lỗ Trí Thâm, Dương Chí, Võ Tòng, Thi Ân, Tào Chính, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương, Lý Trung, Chu Thông, Khổng Minh, Khổng Lượng, cộng tất cả mười hai người.

Trong khi đó Lâm Xung có ý khẩn khỏan mời Lỗ Trí Thâm, và tạ ơn Lỗ Trí Thâm đã cứu giúp mình từ trước.

Lỗ Trí Thâm hỏi thăm Lâm Xung rằng:

– Từ khi tôi xa cách giáo đầu đến nay, không được tin tức gì cả, chẳng hay quý phu nhân dạo này ra sao?

– Lâm Xung nói:

– Sau khi tôi giết Vương Luân, rồi có cho người về đón vợ con, song chẳng may nhà tôi bị thằng ăn mày nhà Cao Cầu nó bức bách, đến nổi tự tử mà chết, rồi sau ông nhạc nhà tôi cũng bị bệnh chết nốt…

Dương Chí cũng thuật chuyện gặp Vương Luân trước cho mọi người nghe, chúng đều cười mà nói rằng:

– Mới hay muôn việc tại trời định trước, không có việc gì ngẫu nhiên hết thảy.

Tiều Cái lại thuật chuyện cướp của Sinh Thần ở Hoàng Nê Cương khi trước, chúng đều vui mừng mà tán tụng không thôi. Đến ngày hôm sau các vị Đầu Lĩnh lần lượt chè chén vui mừng, trong sơn trại rất sầm uất.

Bấy giờ Tống Giang thấy sơn trại thu được nhiều nhân mã trong lòng rất là vui mừng, liền cho Thang Long tổng quản thợ rèn, rèn đánh các thứ gươm khí, cùng các áo giáp, và các thứ Liên Hoàn; Hầu Kiện tổng quản các kho cờ, quạt, áo xiêm, chế thêm cờ Tam Tài, Cửu Riệu, Tứ Đẩu, Ngũ Phương, Nhị Thập Bát Tú, Phi Long, Phi Hổ, Phi Hùng, Phi Báo, cùng các thứ búa vàng,cờ mao trắng, vải mũ đỏ, lộng đen để dùng.Bốn chung quang đặt thêm pháo đài, và mở thêm hai ngôi tửu điếm ở hai bên đường Tây Nam để đón hảo hán bốn phương,và dò xét quân tình ở ngoài.Tửu điếm con đường bên Tây, thì hai vợ chồng Trương Thanh, Tôn Nhị Nương coi giữ; Tửu điếm bêm Nam, thì để vợ chồng Tân Tân, Cố Đại Tẩu trông coi; Tửu điếm bên Đông có Chu Quý, Nhạc Hoà, và tửu điếm bên Bắc có Lý Lập, Thời Thiên, trên ba cữa quan đặt thêm mấy trạm, cắt các Đầu Lĩnh ra coi giử luân lưu. Khi cắt đặt xong rồi, các Đầu Lĩnh đều vâng theo Tướng Lệnh, mà ai vào việc ấy.

Một hôm Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm nói với Tống Giang rằng:

– Trí Thâm tôi có một người quen cũ, tên gọi là Cửu Văn Long Sử Tiến là đồ đệ Lý Trung khi trước, hiện nay ở núi Thiếu Hoa, huyện Hoa Aâm về Hoa Châu, và có ba người nữa là là Thần Cơ Quân Sư Chu Võ, Khiêu Giản Hổ Trần Đạt, Bạch Hoa Xà Dương Xuân, cùng tụ nghĩa ở đó với nhau. Tôi từ khi ở chùa Ngỏa Quan tương biệt tới nay, trong lòng vẫn thường bâng khuâng nhung nhớ mà không được gặp bao giờ. Vậy ngày nay tôi xin qua đó thăm chơi và rủ cả bốn người về đây nhập đảng một thể, chẳng hay tôn ý nghĩ sao:

– Tôi cũng thường nghe Sử Tiến xưa nay, nay nếu Ngô Sư có lòng tốt mà mời cả về đây, thì còn gì hơn nữa. Xong việc đó không thể một mình đi được,vậy tôi muốn phiền Võ Hành Giã cùng đi, hai người cung tướng dạng xuất gia, như thế thì mới ổn tiện.

Võ Tòng vâng lời mà rằng:

– Tôi xin đi cùng với sư huynh.

Nói đoạn liền cung nhau thu thập hành lý để đi. Lỗ Trí Thâm mặc ra lối nhà sư, Võ Tòng mặc ra lối hành giã, rồi hai người từ giã các Đầu Lĩnh mà đi sang núi Thiếu Hoa,

Tống Giang thấy Lỗ Trí Thâm cùng Võ Tòng đi rồi, trong lòng lấy làm áy náy không yên, liền sai Đới Tung lập tức theo sau, để nghe xem tin tức.

Một hôm Lỗ Trí Thâm cùng Võ Tòng đi đến núi Thiếu Hoa, chợt thấy đám tiểu lâu la nấp ở bên đường, đổ xô nhau lại mà hỏi rằng.

– Hai bác thầy tu đi đâu thế này?

Võ Tòng nói:

– Chúng tôi đi lên hầu Sử Đại Quan Nhân ở trên núi đây.

Đám lâu la nghe nói, vội cung kính mà rằng:

– Ngươi lên nói nhà sư Lỗ Trí Thâm đến Thăm.

Tiểu lâu la vâng lời quay lên báo cho sơn trại biết. Được một lát, thấy Thẩn Cơ Quân Sư Chu Vũ cùng Khiêu Giản Hổ Trần Đại, Bạch Hoa Sà Dương Xuân xuống núi đón tiếp.

Lỗ Trí Thâm hỏi ba người rằng:

– Sử Đại Quan Nhân sao không thấy ở đây.

Chu Vũ đến gần rằng:

– Sư Phụ có phải là Lỗ Đề Hạt ở Phủ Duyên An trước đó không?

Lỗ Trí Thâm đáp:

– Phải, chính tôi đây, còn ông này là Võ Đô Đầu đánh hổ ở trên núi Cảnh Dương đó.

Ba người kia nghe nói vội vàng chào mà rằng:

– Chúng tôi được nghe đại danh đã lâu, sao thấy nói hai ngài ở núi Nhị Long, nay các ngài qua đây, chẳng hay có việc gì chăng?

Lỗ Trí Thâm nói;

– Chúng tôi ngày nay lên Lương Sơn Bạc,nhập đảng với Tống Công Minh, chứ không ở núi Nhị Long nữa. Nay muốn tìm Sử Đại Quan Nhân có chút việc,chẳng hay Sử Đại Quan Nhân ở đâu?

Chu Vũ nói:

– Hai ngài đã đến đây, xin qua bộ lên chơi núi, chúng tôi sẽ thưa chuyện. Có chuyện gì cứ nói cho tôi nghe, Sử Đại Quan Nhân không có đây, còn lên núi chi cho thêm phiền?

Võ Tòng nói:

– Ba anh em tôi ở núi Thiếu Hoa đây, từ khi được có Sử Đại Quan Nhân đến ở,trong sơn trại ngày càng thêm hưng vượng mãi lên. Sau nhân một chuyện anh chàng thợ vẽ, tên là Vương Nghĩa, người Phủ Đại Doanh Bắc Kinh dắt con gái là Ngọc Kiều phi sang miếu Kim Thiên Thánh Đế ở núi Tây Nhạc Hoa, để vẽ Thánh Tượng. Bất đồ một hôm có Hạ Thái Thú ở bản Châu (nguyên là tay tham tàn vô lý, vẫn luồn lọt Nái Thái Sư xưa nay), khi ra lễ ngoài miếu, chợt trong thấy Ngọc Kiều Chi có vẽ nhan sắc dịu dàng, liền sai người đến nơi để mua làm thiếp, Vương Nghĩa quyết đinh không nghe,Hạ Thái Thú liền hạ thủ đoạn ức hiếp, cướp lấy con gái mà mắc tội Vương Nghĩa đem đày ra đất Viễn Châu. Khi đi qua đây gặp Sử Đại Quan Nhân,Vương Nghĩa đem tình cảnh thuật cho Quan Nhân nghe, Sử Đại Quan Nhân liền giết hai tên Công Sai, áp giải cứu Vương Nghĩa lên núi và đi thẳng vào phủ, định giết hạ Thái Thú, dè đâu khi vào tới nơi, bị người trong phủ dò biết, liền bắt giam ngay vào trong ngục, và định đem binh mã ra đánh sơn trại chúng tôi một thể. Bởi vậy anh em chúng tôi hiện đương lo nghĩ với nhau, chưa có kế gì mà thi hành ngay được.

Lỗ Trí Thâm nghe đến đó,đùng đùng nỗi giận, đập đập tay mà rằng:

– Quân chó má! Nó dám vô lễ đến thế! Ta phải kết quả ngay nó đi mới được.

Chu Vũ nói:

– Hãy xin đón hai ngài lên sơn trại, rồi ta sẽ bàn định sau.

Lỗ Trí Thâm nhất định không chịu lên, Võ Tòng liền một tay nắm Thiền Trượng, một tay trỏ bảo Trí Thâm rằng:

– Ca Ca không nom mặt trời đã xế ngọn cây kia sao?

Lỗ Trí Thâm nghe nói ngẩn trông lên một cái, rôi thét lên một tiếng, mặt hầm hầm tức giận, mà đi thẳng lên trên sơn trại. Chu Vũ gọi Vương Nghĩa ra lạy chào, và thuật lại cái thủ đoạn tham tàn của Hạ Thái Thú một lượt cho mọi người nghe.Đoạn rôi sai giết trâu mổ ngựa làm rượu, thết Lỗ Trí Thâm cùng Võ Tòng.

Lỗ Trí Thâm nói với mọi người rằng:

– Ngày nay không có Sử Huynh ở đây, một giọt rượu tôi cũng không uống, xin cho nghỉ tạm ở đây một tối, rồi sáng mai vào phủ đánh chết những quân ấy mới xong.

Võ Tòng nói:

– Ca Ca không nên nóng nảy thế, tôi với Ca Ca về ngay Sơn Bạc nói với Tống Công Minh lấy đại đội nhân mã lên đánh Hoa Châu thì mới cứu Sử Đại Quan Nhân được.

Lỗ Trí Thâm kêu lên rằng:

– Đợi khi về được tới Sơn Trại đem được nhân mã đến đây, thì tính mạng của Sử Đại Quan Nhân phỏng còn gì nữa?

Võ Tòng nói:

– Cho dẫu giết được Hạ Thái Thú bây giờ, cũng chưa thể cứu Sử Đại Quan Nhân ra được… Võ Tòng tôi quyết không để cho Ca Ca đi…

– Chu Vũ cũng khuyên can rằng:

– Xin Sư huynh hãy bớt giận… Nhge lời Võ Đô Đầâu mới phải.

Lỗ Trí Thâm nóng máu gắt lên rằng;

– Chỉ tại các anh trì trệ hững hờ, làm khổ đến tính mệnh Sử Huynh đó. Nay sự thế đã nguy cấp đến nơi, lại còn uống rượu để bàn, thì phỏng có chết hay không? Ta đây quyết không thể nào mà nhịn được.

Chúng thấy vậy, không dám mời Trí Thâm uống chén rượu nào nữa.

Đêm hôm đó Trí Thâm mặc nguyên áo xống nằm ngủ, đến đầu trống canh năm trở dậy, vác thuyền trượng, cầm giới đao mà ra đi mất.

Khi Võ Tòng trở dậy không thấy Lỗ Trí Thâm,liền bảo lũ Chu Vũ rằng:

– Sư huynh không nghe lời tôi nói, phen này tất lỡ việc không sai.

Chu Vũ cùng lấy làm lo sợ, liền sai lũ lâu la tinh thạo đi dò xem tin tức ra sao.

Hôm đó Lỗ Trí Thâm đi vào trong thành Hoa Châu, rôi hỏi thăm lối để lần vào trong phủ, bổng thấy người bảo rằng:

– Hoà thượng tránh ra một bên, có quan Phủ đi qua đó.

Lỗ Trí Thâm nghe nói, nghĩ thầm trong bụng:”Được lắm! Lão đương tìm hắn, hắn lại đến đây,còn trốn đi đâu mà không chết? “Nói đoạn liền ngần ngừ mà đứng lại để nom.

Bấy giờ Hạ Tri Phủ ngồi trong cỗ kiệu, hai bên kiệu có mười tên Ngu Hầu đi kèm, và lính tráng cầm roi gậy gươm giáo đi sát hai bên.

Lỗ Trí Thâm thấy vậy nghĩ thầm rằng:”Bây giờ không tiện đánh hắn, vì đánh không được,thì tất bị chúng cười… Ta hãy thữ xem sao? “Nghĩ vậy liền đứng lững thững, mà không dám tiến lên.

Tri Phủ ngồi trong kiệu, nom thấy Lỗ Trí Thâm có ý rụt rè dùng dằn muốn tiến lại thôi thì trong bụng lấy làm ngờ ngợ mà hiểu ý đôi lần. Khi về tới phủ liền cho hai tên Ngu Hầu ra mời nhà sư vào chơi.

Hai tên ngu hầu vâng lời, chạy ra ngoài phủ, nói với Lỗ Trí Thâm rằng:

– Quan phủ chúng tôi cho mời sư phụ vào chơi trong phủ.

Lỗ Trí Thâm nghe nói trong bụng lấy làm vui mừng, chắc là cơ hội đến tay, liền đi theo hai tên Ngu Hầu đi vào trong phủ.

Khi vào tới trước cổng đường, Hạ Thái Thú bảo Lỗ Trí Thâm cất giới đao thuyền trượng ra, và mời vào chơi nhà trong.

Trí Thâm trước còn khẳng khái, không chịu bỏ thuyền trượng giới đao ra,sau chúng đều khuyên rằng:

– Nhà sư không biết gì cả, vào trong nhà quan sao lại được phép cầm đao trượng lăm lăm như thế?

Trí Thâm nghe nói, nghĩ thầm trong bụng: “Ta đây chỉ hai tay cũng đủ đánh bể sọ chúng ra, cần chi phải dùng đao trượng?” Nghĩ đoạn liền vất đao trượng ở trước cửa mà theo Ngu Hầu vào trong.

Vào tới nhà trong, Hạ Thái Thú liền vẫy tay một cái, quát lên rằng:

– Trói thằng trọc này cho ta…

Nói vừa dứt miệng, thì hai bên vách có tới ba bốn mươi tên lính, đổ xô ra mà trói ghì Lỗ Trí Thâm lại, rôi dong xuống dưới thềm để tra hỏi.

Cho hay:

Kiếp tu chưa trọn với đời,

Nợ giang hồ dễ ai người giữ xong?

Ba sinh trót đã nặng lòng,

Tử sinh xem bẳng như không sá gì!

Hùm thiên lỡ mất cơ may,

Tấm gan son sắc tri âm vẫn còn

Dù khi nát ruột tan hồn,

Dạ này xin có nước non soi cùng.

Lời bàn của Thánh Thán:  

Đánh phủ Thanh Châu, dùng Hoa Vinh, Tần Minh làm tiền đội, thực là từng chỗ không làm phí bút chút nào?

Thôn Học Tiên Sinh, đọc truyện Thủy Hử, thấy chéo Tống Giang trong miệng nói ra lời hay, thì đã vội đem hai chữ ” Hiếu Trung” nêu tên giặc già ấy, mà cho đầu đề của Truyện này, như thế không thể nào mà chả biện bạch ra cho đúng! Phải vạch ra rằng: Tống Giang có tài hơn người, thì tất đúng rồi, nếu rằng có lòng Trung Hiếu, lòng muốn báo triều đình, thì thực là một sự vạn lần, quyết không đúng vậy.

Tại sao? Vì Tống Giang là một tên cường đạo đất Hoài Nam, cũng con người muốn báo triều đình, mà không kế gì để tiến thân cho được, đến điều bất đắc dĩ phải tạm lánh Sơn Bạc để làm cường đạo, đó một điều không nên nói rằng vì bức bách mà như vậy, dù có bức bách cũng chưa đến nổi, sao lại thả Tiều Cái trốn đi, thì ai bức bách việc đó? Cái thân đã làm áp Tống Giang lại bỏ pháp luật tha cho giặc, có hai điều không nên. Thân làm ruộng thì yên phận làm ruộng, thân làm lại thì yên phận làm lại, đó là bổn phận. Tại sao thân ở Vận Thành, lại tung tiếng hảo hán với khắp cả thiên hạ, dung nạp bọn du đảng, đó ba điều không nên. Kết liên riêng với giặc để nhận vàng, giết cả bình dân (Diêm Bà Tích) để bịt họng may mà được nên lỗi nhỏ để theo điều răn lớn) (không làm giặc), sao lại đề thơ bến nước Tầm Dương nghĩ để báo thù thì báo thù ai? Đến điều máu đầy giang thủy, có bốn điều không nên; lời ngạn nói rằng: Cầu bày tôi trung ở trong cửa con hiếu, thế mà ngươi Giang, vì một sớm với điều giận nhỏ, để lỗi cho cha già, một khi chẳng tốt với cha, còn tốt với ai? Thực bảo rằng: ” Điều đó còn nhẫn tâm, thì cái gì chẳng nhẫn tâm? “ó năm điều không nên vậy; Lũ Yến Thuận, Trịnh Thiên Thọ mà vơ vét đem về Lương Sơn, với bọn đó còn tha thứ được; Tại sao Hoa Vinh, Tần Minh, Hoàng Tín cũng vơ vét cả về Lương Sơn? Sao tha thứ được, tuy bấy giờ còn chưa ra mặt lạc thảo, nhưng trong lòng đã định chủ trương, đó sáu điều không nên. Khi cướp trận Bạch Long, gây nên bởi mọi người, còn thiêu đốt Vô Vi Quân thì ai quyết đoán? Cướp ở Bạch Long, còn nói được rằng cứu chết, còn đốt Vô Vi, chẳng phải là buông nọc độc ư! Đó bảy điều không nên vậy; Đánh châu cướp huyện chỉ như trò đùa, phá ngục, cướp kho, cũng thấy như vậy, giết quan trưởng thì vu vạ tham nhũng, mua chuộc trăm họ thì không tiếc của kho, đó tám điều không nên vậy; Quan quân đến thì giết quan quân; Vương sư tới thì bức Vương sư, làm ngang sông nước, sức mạnh không ai địch, khiến cho đối với vua không yên mà hưởng lộc như các quan, các tướng đến đánh không mong trở lại, sau lại nêu ra Trung Nghĩa Đường, đặt ra ấn tín thưởng phạt, chế ra hiệu cờ long, hổ, hùng, bi, mao, trắng, việt vàng, với nghi vệ như một soái phủ, đó mười điều không nên! Hỡi ôi! Tội của Tống Giang bới ra không hết, luận những tội to đã mười điều ấy, thế mà Thôn Học Tiên Sinh còn bo bo cho là Trung Nghĩa, rất sợ rằng không đáng như thế, vậy chẳng hay Thôn Học Tiên Sinh nghĩ ra thế nào?

Nguyên ý nhĩ của Thôn Học Tiên Sinh, chỉ thấy Tống Giang mỗi khi thu phục một viên tướng nào, cũng thân hành cởi trói, dâng chén khuyên mời, giọt lệ động tình, đau nổi muôn trung quân ái quốc, mà lòng thành lo nghĩ đến chiêu an, mà mất ăn mất ngủ, lời vạch ra gan, giọng tuôn ra máu… Song ta cho Tống Giang là cường đạo, một vạn lần không thể tin rằng trung nghĩa được, vì sao? Xét nói rằng đợi chiêu an, chỉ là biến kế của cường đạo, trước khi cha anh đã mất dạy, ham học võ quyền đã cậy võ quyền, chẳng chuyên sinh sản, đã thiếu sinh sản, chẳng khỏi khốn nguy, khốn nguy chẳng chịu, sinh ra trộm cướp, khi đã trộm cướp, kéo bè mà nên to chuyện, kéo bè đảng tất bị truy nã, đã bị truy nã, thì cường đạo nhân đó nổi lên, nếu tiến có thể chuộc tội, thoái có thể thoát chết, thì hai chữ chiêu an chỉ khéo nói ra, thu lấy mọi người.

Xét đến những viên tướng làm can thành cho nước, bảo trướng một phương, như Tần Minh, Hô Duyên Chước, đời đời chịu quốc ân, còn đương hưởng chưa thôi, lại như lũ Hoa Vinh, Từ Ninh, có những biệt tài, há chẳng ra sức phò vua, và lũ Lăng Chấn, Sách Siêu, Đổng Bình, Trương Thanh dẫu là tỳ tướng, cũng có ngày đại dụng; Lại như lũ Bành Dĩ, Hàn Thao, Tuyên Tán…ều ăn lộc nhà Tống, làm quan nhà Tống, cảm đức nhà Tống, chia lo với nhà Tống, đã không chẳng trổ hết tài, đã lại không chẳng nhả hết khí, đã lại không chẳng hết lòng trung, đã lại không chẳng báo hết ơn đó vậy sao? Mà ta không biết Tống Giang nghĩ sao, lại muốn vớ vét cả về Sơn Bạc? Bắt được thuyết theo, hoặc chưa chịu theo, thì lại khuyên rằng hãy tạm lánh đây để đợi chiêu an. Hỡi ôi! Cường đạo mới cần chiêu an, còn tướng quân việc gì mà cần phải đợi chiêu an? Thân ở Thủy Bạc, thì nên đợi chiêu an quy thuận triều đình; Còn thân đã tự triều đình, cần gì phải đợi chiêu an, mà phải tạm lánh ở Thủy Bạc? ? ? Nay đem lời này hỏi lại Tống Giang, thì Tống Giang trả lời làm sao? Mới biết những lời nói ra báo quốc, ngáy ngóng chiêu an, Tống Giang chỉ muốn dỗ dành người ta theo vào Sơn Bạc; Lời ngạn nói rằng: Mật ngọt chết ruồi… Tống Giang đã dùng lời khéo dỗ người vào Thủy Bạc, mà không ai chẳng tin, để theo vào Thủy Bạc. Lời rằng: Mượn mãi không trả, lâu hoá của mình, sao lại không biết Tống Giang như vậy? Thôn Học Tiên Sinh khen ngợi thì ra không biết con quạ kia đen trắng thế nào? Còn bo bo cho rằng trung nghĩa, chỉ sợ rằng không đáng như vậy chẳng hay Thôn Học Tiên Sinh nghĩ ra thế nào?

Sau hồi thứ bảy tả Lỗ Đạt, xa cách thẳng bốn mươi chín hồi, mới lại tả Lỗ Đạt, khiến ta đọc đến văn, há chẳng nhớ đến con người lỗi lạc chân chính Lỗ Đạt, trước bốn mươi hồi, tả Lỗ Đạt một giọt rượu không thèm, khiến ta thấy xử sự ở con người hảo hán kia, đối với việc nghĩa làm trọng bỏ hết thú vui, dầu thú vui ấy bấy lâu đã nghiện như rượu đối với nhiều người.

Hồi 58: Miếu Tây Nhạc, giả danh Thái Úy – Đất Hoa Sơn cứu bạn anh hùng

Bấy giờ chúng đem Lỗ Trí Thâm xuống thềm, Hạ Thái Thú chưa kịp trả lời, thì Lỗ Trí Thâm đã trợn mắt cả giận, mắng quát lên rằng:

– Quân hiếu sắc hại dân này, bay dám bắt ta là nghĩa lý gì? Ta đây có chết, cũng không cùng với anh em ta là Sử Tiến, không lấy gì làm hối hận song ta chỉ sợ Ca Ca ta là Tống Công Minh, tất không tha cho ngươi đó thôi. Ta bảo cho ngươi biết, thiên hạ không có việc oan uổn nào, mà không giải tỏ được bao giờ? Ngươi muốn tốt đem Sử Tiến trả lại cho ta, đem cả Kiều Ngọc Chi ra đây để trả lại cho Vương Nghĩa, còn ngươi thì phải đem chức Thái Thú ở Hoa Châu mà đem trả lại cho triều đình ngay lập tức… Bay là đồ mặt giặc, mắt mèo, chỉ chăm chăm tửu sắc hoang dâm, còn toan làm cha mẹ dân sao được? Nếu biết điều mà nghe ta ba điều đó, thì còn được tử tế bằng không thì sau này hối sao cho kịp? Hiện bây giờ hãy đưa ta tìm đến người anh em là Sử Tiến, rồi thế nào trả lời cho ta biết…

Tri phủ nghe nói ức giận sôi nổi không biết nói làm sao được liền nghĩ thầm trong bụng rằng: “À? Gớm thằng này ta ngờ thích khách, hay đâu nó cũng một món với Sử Tiến thực? Quái ác! Hãy cứ giam nó xuống, rồi sẽ xử sau… “Nghĩ đoạn liền truyền lấy gông lớn gông Lỗ Trí Thâm lại, bỏ giam xuống ngục, rồi nhất diện tư công văn, bẩm lên trên Tỉnh, và đem giới đao thuyền trượng niêm phong để ở Phủ Đường.

Bấy giờ tin tức náo đôïng phủ Hoa Châu, bọn tiểu lâu la nghe biết, liền trở về sơn trại báo cho các vị Đầu Lĩnh biết. Võ Tòng được tin báo cả kinh mà rằng:

– Chết nổi mình đi hai người đến đây, bị bắt mất một người vậy còn mặt mũi nào trở về Lương Sơn nữa?

Đương khi lo nghĩ kinh hoàng, bỗng thấy tiểu lâu la báo rằng:

– Có một vị đầu lĩnh ở Lương Sơn Bạc là Thần Hành Thái Bảo Đới Tung, đến thăm sơn trại, hiện còn ở dưới núi. Võ tòng nghe báo vội vàng xuống núi đón Đới Tung lên trên sơn trại. Khi lên tới nơi, Võ Tòng dẫn Đới Tung chào hỏi lũ Chu Vũ, và đem chuyện Lỗ Trí Thâm thuật cho Đới Tung nghe.

Đới Tung nghe nói cả kinh mà rằng:

– Nếu vậy tôi phải về ngay Lương Sơn, nói với Ca Ca, đem binh xuống cứu, không thể ở đây lâu được.

Nói đoạn sai dọn cơm chay cho Đới Tung ăn. Đoạn rồi Đới Tung làm phép Thần Hành mà trở về Sơn Bạc.

Cách ba hôm sau về đến sơn trại, Đới Tung liền thuật chuyện Lỗ Trí Thâm và Sử Tiến cho Tiều Cái, Tống Giang nghe.

Tiều Cái cả kinh bảo với Tống Giang rằng:

– Hai người đó mắc nạn tất nhiên phải cứu mới xong. Vậy phen này tôi đi một chuyến không thể trì trệ được nữa.

Tống Giang lại nói:

– Ca Ca là chủ sơn trại, đi sao cho tiện? Việc này xin để mặc đệ đảm nhiệm. Nói đoạn liền chỉnh điểm quân mã chia làm ba đội đi ngay lập tức. Tiền quân có năm tướng làm Tiên Phong là Lâm Xung, Dương Chí, Hoa Vinh, tần Minh, Hô Duyên Chước; dẫn một nghìn quân giáp mã, một nghìn quân bộ mở đầu đi trước; Trung quân có chủ soái Tống Giang, Ngô Dụng, Chu Đồng, Từ Ninh và Giải Trân, Giải Bảo, dẫn hai nghìn quân mã bộ đi giữa; Hậu quân có Lý Ứng, Dương Hùng, Thạch Tú, Lý Tuấn, Trương Thuận, năm vị Đầu Lĩnh dẫn năm nghìn quân mã bộ, coi đốc lương thảo đi sau. Bấy giờ cộng tất cả có bảy nghìn quân mã, cùng nhau xuống núi Lương Sơn, mà trông chừng thẳng lối Hoa Châu.

Khi đến nửa đường, Tống Giang truyền cho Đới Tung đi trước để báo cho các Đầu Lĩnh ở Thiếu Hoa Sơn được biết. Bọn Chu Vũ nghe tin báo, bèn đến sắp sẵn các thứ dê, lợn, trâu ngựa, cùng các thức rượu ngon để đợi…

Mấy hôm sau, ba đạo binh Lương Sơn tới nơi, Võ Tòng liền dẫn Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân xuống núi nghinh tiếp…

Tống Giang, Ngô Dụng, cùng các Đầu Lĩnh kéo lên sơn trại, rồi Tống Giang hỏi đến đầu đuôi các chuyện…

Chu Vũ đáp rằng:

– Hiện nay Lỗ Trí Thâm cùng Sử Tiến, đã bị Hạ Thái Thú giam ở trong lao, chỉ đợi sắc chỉ triều đình, rồi sau sẽ liệu.

Tống Giang cùng Ngô Dụng đều hỏi rằng:

– Hiện nay trong thành giam hai con hùm lớn ở đó, tất nhiên họ phải phòng bị nghiêm trang, vậy chiều hôm nay ta xuống núi, rồi khoảng trống canh một, ta sẽ nhờ bóng trăng suông, mà xem xét trong thành mới có thể tiện được.

Tống Giang cùng các vị Đầu Lĩnh đều cho là phải, mà cùng nhau lưu lại đến chiều.

Khi mặt trời đã xế hôm, Tống Giang cùng Ngô Dụng, Hoa Vinh, Tần Minh, Chu Đồng, cưỡi ngựa đi xuống núi. Vào khoảng đầu canh một, đi đến bên thành Hoa Châu, năm người bèn tìm một đống gò cao, ở gần thành mà nom vào. Bấy giờ đương dạo trung tuần tháng hai, trời quang mây tạnh, bóng trăng soi sáng giữa trời. Tống Giang cùng bốn người nom vào thành Hoa Châu, thấy thành cao đất rộng, hào lũy bọc chung quanh, có mấy toà cửa thành coi rất cao to hùng tráng, cách nơi Tây Nhạc Hoa Sơn không mấy. Năm người vừa nom vừa bàn luận với nhau, không có cách gì mà đánh ngay được.

Mọi người bảo với Tống Giang rằng:

– Ta hãy trở về sơn trại rồi hãy bàn định sau.

Nói đoạn năm người lại dong ngựa về lại phía Hoa Sơn. Khi về tới trại, Tống Giang ra dáng phiền nghĩ lo âu, không biết kế sao cho được. Ngô Dụng bèn truyền lệnh mười tên tiểu lâu la xuống núi để nghe dò tin tức gần xa.

Cách hai hôm sau, chợt thấy một người trở về báo rằng:

– Nay triều đình sai Quan Điện Tư Thái Úy, vâng lĩnh kim ngân điếu quải của Hoàng Thượng, rời hoàng hà vào sông Vị Hà, để dâng lễ ở miếu Tây Nhạc.

Ngô Dụng nghe báo liền bảo với Tống Giang rằng:

– Ca Ca không cần lo nữa, ta có thể thi được kế rồi.

Nói đoạn liền gọi Lý Tuấn, Trương Thuận ra dặn kế cứ thế này… Thế này…mà làm.

Lý Tuấn nói:

– Chúng tôi mới đến đây, chưa thuộc địa thế, vậy nếu có một vị nào ở đây cùng đi thì có lẽ tiện hơn.

Bạch Hoa Xà Dương Xuân nói:

– Để tôi đi cho…

Tống Giang nghe nói cả mừng, liền cho Dương Xuân dẫn đường để cho Lý Tuấn, Trương Thuận cùng đi. Ngày hôm sau Ngô Dụng mời Tống Giang, cùng Chu Đồng, Hô Duyên Chước, Hoa Vinh, Tần Minh, Lý Ứng dẫn hơn năm trăm người đến cửa sông Vị Hà. Khi tới nơi, thấy Lý Tuấn, Trương Thuận cùng Dương Xuân đã cướp được mười mấy chiếc thuyền lớn về đó. Ngô Dụng bảo Hoa Vinh, Tần Minh, Từ Ninh, Hô Duyên Chước, bốn người phục ở trên bờ, còn Tống Giang, Ngô Dụng, Chu Đồng, Lý Ứng thì xuống cả dưới thuyền, và lại sai Lý Tuấn, Trương Thuận, Dương Xuân chia thuyền đậu nấp ở đầu bến. Khi đặt đâu yên vào đó, đến sáng hôm sau, chợt nghe xa xa có tiếng trống chiên dậy đất, rồi thấy ba chiếc thuyền quan kéo đến. Trên thuyền quan cắm lá cờ vàng viết mấy chữ”Tú Thái Úy vâng lệnh vua, ra dâng lễ miếu Tây Nhạc “. Bấy giờ Chu Đồng, Lý Ứng đều cầm gươm trường đứng ở sau lưng Tống Giang, còn Ngô Dụng thì đứng ở đầu thuyền mà đợi.

Được một lát, thuyền quan nghênh ngang kéo vào bến nước, rồi có hai mươi tên Ngu Hầu áo tía đai bạc, chạy ra quát lên rằng:

– Thuyền nào dám đậu bến làm ngăn trở thuyền quan thế kia?

Tống Giang nghe nói cúi rạp xuống chào, rồi Ngô Dụng nói rằng:

– Nghĩa sĩ ở Lương Sơn bạc là Tống Giang xin hầu Thái Uý.

Bên kia có viên quan coi việc tiếp khách đáp lên rằng:

– Đây là quan Thái Úy đương triều, vâng lệnh vua ra lễ miếu Tây Nhạc… Vậy các ngươi là bọn giặc Lương Sơn, sao dám nghênh ngang đứng đó?

Tống Giang cúi mình lặng yên không đáp, Ngô Dụng lại nói lên rằng:

– Chúng tôi là nghĩa sĩ ở Lương Sơn, muốn được bái kiến tôn nhan Thái Úy, để kêu ngài có chút việc.

Viên quan coi việc tiếp khách hỏi:

– Các ngươi là hạng người nào mà dám đường đột xin đến hầu Thái Úy? Đoạn rồi mấy tên Ngu Hầu quát lên rằng:

– Các ngươi nói rõ mới được.

Tống Giang cứ lẳng lặng cúi mình mà không dậy.Ngô Dụng liền nói lên rằng:

– Xin tạm mời Thái Úy lên bờ, chúng tôi bàn có chút việc.

Viên quan coi việc tiếp khách quát lên rằng:

– Các ngươi không được nói càng, Thái Úy là quan đại thần trong triều, lẽ nào bàn việc với các ngươi?

Khi đó Tống Giang đứng dậy nói rằng:

– Thái Úy không chịu cho lũ chúng tôi tiếp kiến, chỉ sợ bọn thuộc hạ chúng tôi lại làm kinh động đến Thái Úy chăng?

Nói đoạn Chu đồng liền vẫy ngọn cờ trên mũi gươm, rôi Hoa Vinh, Tần Minh, Từ Ninh, Hô Duyên Chước, cùng dẫn quân mã vương cung tên mà kéo ra đánh ở trên bến. Bọn lái đò thuyền quan thấy vậy đều kinh sợ nhảy nấp vào trong khoang. Viên quan tiếp khách cũng sợ hãi kinh hoàng, vội vào báo cho Thái Úy biết.Tú Thái Úy thấy vậy, đành phải ra đầu thuyền, bắt ghế ngồi để tiếp khách.

Tống Giang cúi mình chào mà nói rằng:

– Chúng tôi có điều đường đột, xin ngài tha lỗi cho. Tú Thái Úy nói:

– Vì cớ sao nghĩa sĩ ngăn đón thuyền tôi như vậy? Tống Giang nói rằng:

– Chúng tôi đâu dám ngăn đón thuyền ngài… Chỉ xin phép ngài lên trên bờ, cho chúng tôi được bẩm chút việc thôi…

Tú Thái Úy nói rằng:

– Tôi vâng mệnh vua ra lễ ở Nhạc Tây đối với nghĩa sĩ thì tịnh không có việc gì mà phải nói… ? Vả chăng một ông quan của triều đình, lẽ nào lại kinh dị lên bờ ngay được? Bên kia Ngô Dụng nói lên rằng:

– Nếu Thái Úy không chịu lên bờ, e khi bọn thủ hạ không chịu để yên, thì thực không tiện…

Nói đoạn Lý Ứng vẫy gươm ra hiệu, rồi Lý Tuấn, Trương Thuận, Dương Xuân, đều đuổi thuyền xô cả đến.Tú Thái Úy thấy vậy lấy làm cả kinh!

Lý Tuấn, Trương Thuận, cầm đao sáng loáng ở tay, chạy sang ngay thuyền Thái Úy, gạt ngã mấy tên Ngu Hầu xuống nước.

Tống Giang vội thét lên rằng:

– Khoan! Không được làm liều như thế?

Lý Tuấn, Trương Thuận bèn nhảy tùm xuống nước vớt hai tên Ngu Hầu, vất trả lên thuyền, rồi hai người cùng nhảy lên thuyền để đứng. Tú Thái Úy cùng mọi người thấy vậy đều cả sợ xanh mặt cả lên.

Tống Giang và Ngô Dụng quát lên rằng:

– Bay hãy lui ra, không được kinh động Đại Quan Nhân như thế, để ta sẽ mời Thái Úy lên bờ cũng được.

Tú Thái Úy nói với Tống Giang rằng:

– Ở đây không thể nói chuyện được, vậy xin mời Thái Úy lên qua trên trại cho chúng tôi thưa chuyện, thì mới ổn tiện, nếu chúng tôi có lòng nào hại đến ngài, thì xin thần linh ở Tây Nhạc sẽ gia tội đến chúng tôi…

Bấy giờ Thái Úy không nghe không được, đành phải nghe lời mà đi lên trên bờ. Đoạn rồi có mấy người đứng nấp trong bụi cây, dắt ngựa ra mời Thái Úy lên ngựa để cùng đi lên núi.Tống Giang liền sai Tần Minh, Hoa Vinh đưa Thái Úy về sơn trại trước, rồi cùng Ngô Dụng lên ngựa, bắt tất cả những người trong thuyền quan và các đồ hương hoa lễ vật mà khiêng về trên núi, và để Lý Tuấn, Trương Thuận lãnh hơn trăm người coi giữ chiếc thuyền ở đó.

Khi về tới Thiếu Hoa Sơn, Tống Giang cùng Ngô Dụng mời Thái Úy lên Tụ Nghĩa Sảnh, đặt ngôi giữa, còn các vi Đầu Lĩnh cầm binh khí đứng hầu cả hai bên. Đoạn rồi Tống Giang ra trước mặt Thái Úy lạy xuống bốn lạy mà rằng:

– Tống Giang tôi nguyên là kẻ tiểu lại ở huyện Vận Thành nhân Bị Quan Tư bức bách, bất đắt dĩ phải họp mấy anh em tạm lánh ở Lương Sơn Bạc, để đợi triều đình thương lại, sẽ ra sức găng công mà đền ơn non nước, gánh vác mọi trách nhiệm. Nay chẳng hay có hai người anh em bị Hạ Thái Thú sinh chuyện lôi thôi giam vào trong ngục, vậy chúng tôi xin mượn các đồ nghi vệ của Thái Úy ra lễ Nhạc Tây, để đánh lừa quan lại Hoa Châu, mà cứu cho anh em thoát nạn. Sau khi công việc đã xong, chúng tôi lại xin trả lại Thái Úy hẳn hoi, không dám chút gì xâm phạm, xin Thái Úy rộng phép mà ưng thuận lời cho.

Thái Úy nói rằng:

– Cái đó không ngại chi, song nếu triều đình sau này biết đến, thì Hạ Quan đây nguy hiểm không chơi.

– Xin Thái Úy về triều, cứ đổ tội cho Tống Giang tôi là được…

Thái Úy nghĩ quanh nghĩ quẩn, thấy sự thế không thể nào từ chối được liền bất đắc dĩ mà nhận lời cho mượn.

Tống Giang nghe nói cả mừng, sai đặt tiệc thiết đãi Thái Úy rồi lấy áo xiêm của Thái Úy cùng mọi người theo hầu Thái Úy để mặc. Tống Giang sai một tên lâu la mặt mũi khôi ngô, cạo sạch râu ria, ăn mặc giả làm Thái Úy Tú Nguyên Cảnh, Tống Giang, Ngô Dụng giả làm quan tiếp khách, Giải Trân Giải Bảo, Dương Hùng Thạch Tú giả làm Ngu Hầu, còn bọn tiểu lâu la đều áo tía đai bạc, tay cầm các cờ hiệu, mà khiêng hương hoa lễ vật ra đi. Hoa Vinh, Chu Đồng, Từ Ninh, Lý Ưùng giả làm bốn tên vệ binh. Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân khoãn đãi bọn Thái Úy ở nhà, lại sai Tần Minh, Hô Duyên Chước dẫn một đội nhân mã; Lâm Xung, Dương Chí dẫn một đội nhân mã chia làm hai mặt để đánh thành. Lại sai Võ Tòng ra đợi ở miếu Tây Nhạc để chờ hiệu thi hành. Khi sắp đặt xong các vị Đầu Lĩnh đều kéo ra thuyền, và cho Đới Tung vào báo trước ở miếu Nhạc Tây.

Bấy giờ Chủ Quan cùng các người chức việc phía trong miếu nghe báo, liền vội vàng kéo nhau ra đến bến thuyền để đón quan Thái Úy. Các đồ hoa hương đèn nến, cùng là bảo cái đồng nhan, đều dàng lên trước rồi đem ngự hương đặt lên long đình, cho người trong miếu khiêng vào, và dẫn Kim Linh Điếu Quảy về miếu. Khi chủ quan xin bái yết Thái Úy, Ngô Dụng liền gạt đi rằng:

– Thái Úy đi đường bị cảm, không tiếp kiến được, đem kiệu đây để đón người lên.

Tả hữu vâng lời, rồi đón Thái Úy lên kiệu, mà đưa đến nhà Quan Sư trong miếu Tây Nhạc. Viên tiếp khách là Ngô Học Cứu bảo với viên chủ quan rằng:

– Nay quan Thái Úy vâng lệnh triều đình đem ngự hương cùng Kim Linh Điếu Quải ra dâng thánh lễ ở đây, vậy mà các quan ở bản quân không ai ra tiếp kiến là nghĩa làm sao? Chủi Quan nói rằng:

– Chúng tôi đã cho người đi báo có lẽ đếùn cả ngay bây giờ…

Vừa nói dứt lời thì có viên quan ở bản châu, dẩn dăm bảy mươi tên lính, mang các thức rượu chè hoa quả đến hầu Thái Úy. Khi viên quan đó tới nơi, các quan hầu dẫn vào chỗ xa xa trước mặt để lại chào. Viên quan đó thấy Thái Úy tựa chăn nằm trên giường chỉ lấy tay chỉ chỏ ra ngoài mà không nói gì cả.

Đoạn rồi viên quan tiếp khách ra trách quan ở bản châu rằng:

– Thái Úy là một vị đại thần trong triều, vâng lệnh vua, nghìn dặm tới đây, chẳng may đi đường mắc cảm, thế mà các quan bản châu không ai ra tiếp là nghĩa làm sao?

Viên quan bản châu đáp rằng:

– Bẩm ngài, tuy mấy hôm trước có giấy của quan trên sức xuống, song ngày nay không thấy giấy báo, nên chúng tôi không được biết để mà nghinh tiếp. Vả chăng mấy hôm nay, có bọn giặc ở núi Thiếu Hoa, kết liên với bọn giặc ở Lương Sơn, đến đánh phá thành trì, bởi vậy Quan Phủ chúng tôi phải lưu lại coi thành, mà cho chúng tôi ra đây dâng chén tiếp phong, rồi Quan Phủ chúng tôi sẽ đến bái yết sau.

Viên quan tiếp khách đáp rằng:

– Bây giờ Thái Úy không uống rượu chè gì đâu, về nói với quan phủ mau ra đây để dâng lễ mới được.

Viên quan ở Hoa Châu, vâng lời rồi đem rượu ra để mời các viên quan tiếp khách, cung các người theo hầu Thái Úy.Đoạn rồi quan tiếp khách vào bẩm với quan Thái Úy, lấy chìa khoá ra mở túi lấy đôi Kim Linh Điếu Quải, treo lên hai cành trúc cho viên quan ở Hoa Châu xem.Quan ở Hoa Châu nom thấy, quả là một đôi Kim Linh Điếu Quả, của những tay thợ giỏi ở trong nội phủ chế ra, chung quanh toàn khảm bằng thất bảo, giữa đặt một ngọn đèn bằng xa đỏ, trông rất huy hoàng rực rỡ, dân gian chưa hề trông thấy bao giờ, khi xem xong, quan tiếp khách lại cất vào hương nang khoá lại cẩn thận, rồi lấy các giấy má của phủ Trung Thư, đưa cho viên qua Hoa Châu, và giục phải về ngay bảo quan Thái Thú tới để chọn ngày làm lễ, quan Hoa Châu vâng lời, rồi trở lại trong thành để báo cho Hạ Thái Thú biết.

Tống Giang thấy tên quan viên trở ra rồi, thì trong lòng hớn hở mừng thầm, chắc rằng Hạ Thái Thú dù khôn khéo đến đâu cũng không thể nào không hoa mắt rối lòng, mà tránh thoát thần mưu đó được. Bấy giờ Võ Tòng chực ở ngoài cửa miếu, Ngô Dụng lại sai Thạch Tú dắt dao nhọn tại đó, để giúp Võ Tòng làm việc, và cho Đới Tung giả làm Ngu Hầu để đợi. Trong kia bọn chủ quán cùng các người làm việc trong quân, thì vẫn điềm nhiên, kẻ hiếu cơm người dâng lễ vật, dưới trên sắp đặt rất chỉnh đốn lễ nghi.

Tống Giang xem quanh trong miếu Tây Nhạc, thấy cung điện nguy nga, trên dưới lịch sự, quả nhiên là một nơi miếu mạo hiếm có xưa nay, Tống Giang xem khắp một lượt, rồi khi về trước cửa nhà quan cư, thì ngoài cửa báo là Hạ Thái Thú đã đến.

Tống Giang liền gọi bốn tên lính vệ là Hoa Vinh, Từ Ninh, Chu Đồng, Lý Ứng, đều cầm binh khí đứng ra hai bên, Giải Trân, Giải Bảo, Dương Hùng, Đới Tung, đều giắt khí giới trong mình mà đứng hầu hai bên tả hữu.

Khi đó Hạ Thái Thú dẩn hơn ba trăm người, đi đến trước cửa miếu lũ lượt kéo vào. Hai viên quan tiếp khách là Ngô Dụng, Tống Giang thấy vậy, liền quát lên rằng:

– Cho Quan Đại Thần ở đây, những người vô sự không được vào gần.

Chúng nghe nói, liền đứng cả lại, để một mình Hạ Thái Thú đi vào.Quan tiếp khách truyền chỉ ra rằng:

– Thái Úy cho mời thái thú vào đây…

Hạ Thái Thú vâng lời, vào trước cửa quan cư, rồi cúi đầu lạy chào Thái Úy giả.

Quan tiếp khách hỏi lên rằng:

– Quan Thái Thú có biết tội không?

Hạ Thái Thú nói rằng:

– Chúng tôi không được biết quan Thái Úy đến đây, nên không kịp ra thành nghinh tiếp, dám xin ngài tha tội cho…

Quan Thái Úy vâng lệnh triều đình ra đây, mà không tiếp đón là nghĩa lý sao?

– Bẩm, vì chúng tôi không tiếp được giấy báo, là đã đến nơi, nên không kịp ra đón tiếp…

Bỗng có người quát lên rằng:

– Bắt lấy cho ta…

Nói dứt lời, thì anh em Giải Trân, Giải Bảo rút phăng gươm ra cầm cẳng Hạ Thái Thú xuống rồi cắt lấy đầu.

Tống Giang lại quát lên rằng:

– Anh em đâu! Hạ thủ đi.

Bọn ba trăm người thấy vậy đều kinh sợ rụng rời, mà không sao chạy được. Tụi Hoa Vinh liền xông vào mà đánh giết, bọn kia luống cuốn non nửa chạy ra ngoài cửa miếu, bị Võ Tòng, Thạch Tú cùng đám tiểu lâu la đỗ xô ra chém giết, không còn sống sót một ai. Còn những người lục tục đến miếu sau, đều bị Trương Thuận, Lý Tuấn giết cả một lượt.

Bấy giờ Tống Giang kịp thu cả ngự hương điếu quải, đem cả xuống thuyền rồi cùng nhau kéo đến thành Hoa Châu. Khi tới nơi trong thành đã có hai chỗ bốc lửa lên đùng đùng, chúng liền nhất tề kéo vào, xông đến nhà đại lao, cứu Sử Tiến cùng Lỗ Trí Thâm ra rồi mở các kho đụn, lấy tất cả của cải mà xếp lên xe tất cả.

Lỗ Trí Thâm được thoát ra, vội vàng chạy vào phủ đường, tìm thấy giới đao huyền trượng, rồi tìm đến Ngọc Kiều Chi, thì đã đâm đầu xuống giếng mà tự tử mất rồi. Chúng thấy vậy, liền kéo nhau ra thuyền trở về Thiếu Hoa Sơn. Về đến sơn trại, Tống Giang sai đem các đồ lễ vật, cùng áo xiêm nộp trả Thái Úy, rồi lấy ra một mâm kim ngân tạ ơn Thái Úy, và đưa khắp lượt mọi người theo hầu. Đoạn rồi đặc tiệc tiễn hành, mà đưa Thái Úy về thuyền tử tế.

Khi tiễn chân Thái Úy trở về, Tống Giang liền bàn với Sử Tiến, Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân, thu thập tiền lương nhân mã mà đốt bỏ sơn trại để kéo quân về cả Lương Sơn, còn Vương Nghĩa thì cho ít tiền để đi nơi khác.

Bên kia Tú Thái Úy khi trở về thuyền rồi cùng nhau kéo đến Hoa Châu, biết rằng bọn Lương Sơn Bạc đã đánh giết quân quan, cướp hết Phủ Khố, quân lính trong thành chết hết hơn một trăm người, lừa ngựa đều bị cướp mất, lại giết mấy trăm người ở miếu Tây Nhạc, thiệt hại không biết đến đâu mà kể, Thái Úy liền sai quan bản châu thảo công văn, thuật lại tội Tống Giang cướp lấy các đồ lễ vật, giả làm quan Thái Úy đánh lừa quan Thái Thú họ Hạ, cùng là đánh giết cướp bóc các lễ, để tư vào phủ Trung Thư. Đoạn rồi Thái Úy đem lễ vật ra dâng lễ miếu Tây Nhạc, mà lập tức trở về triều cùng Thiên Tử.

Nói về Tống Giang, hôm đó cùng bốn hảo hán ở Thiếu Hoa Sơn, chia quân ra làm ba đội kéo về Lương Sơn Bạc đi qua các dân xã, không hề xâm phạm của ai, khi về gần tới nơi, sai Đới Tung về sơn trại báo cho các Đầu Lĩnh biết. Tiều Cái nghe báo, bèn cùng các vị Đầu Lĩnh xuống núi đón lên Tụ Nghĩa Sảnh, rồi cùng nhau mở tiệc ăn mừng.

Ngày hôm sau Sử Tiến, Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân, đều xuất tiền của riêng để làm việc tạ ơn Tiều Cái, Tống Giang rất là long trọng.

Trong khi yến tiệc, Tiều Cái nói với Tống Giang rằng:

– Tôi có một việc này, vì bấy lâu hiền đệ đi vắng, chưa đám thi hành, vả lại mấy hôm nay lại có bốn anh em mới đến ở đây, nên chưa tiện nói ra. Nguyên hôn trước Chu Quý lên bảo với tôi rằng: “Trong núi Mang Đãng, ở huyện Bái thuộc phủ Từ Châu, có một bọn cường nhân, tụ đến ba nghìn nhân mã ở đó, đầu đảng là một tiên sinh họ Phàn tên Thụy, biệt hiệu là Hỗn Thế Ma Vương, có tài gọi gió kêu mưa, dùng binh như thần vậy. Thủ hạ có hai người phó tướng, một người là Hạng Sung, biệt hiệu là Bát Tý Na Tra, tay cầm thanh gươm Thiết Liêu, lại có một cây đỏan bài, và khiến hai mươi bốn khẩu phi đao, trăm thước giết người, không sai một chút. Một người nữa, tên là Lý Cổn, biệt hiệu là Phi Thiên Đại Thánh, tay cầm một khẩu bảo kiêm, cũng dùng một lá đỏan bài khiến hai mươi bốn thanh gươm nhọn, giết người ngoài trăm thước mà cũng không hề sống sót một ai. Ba người đó kết làm anh em, chiếm khu núi đó cướp bóc kiếm ăn, và định đến đánh cả Lương Sơn Bạc ta đây.Tôi rất lấy làm bực tức, mà chưa có thể trừ ngay đi được.”

Tống Giang nghe nói, hầm hầm nổi giận mà rằng:

– Tên đó lại dám vô lễ như vậy, để tiểu đêï đến đó một phen mới được.

Sử Tiến bèn đứng dậy nói với Tiều Cái, Tống Giang rằng:

– Bốn anh em tôi mới đến đây, chưa hề có một chút công lao, vây chúng tôi xin đem quân bản bộ, cùng với Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân, từ giã Tống Giang, cùng các vị Đầu Lĩnh mà xuống núi kéo quân đi đánh.

Cách mấy hôm, đi đến một chỗ gần toà núi, Sử Tiến thở dài mà hỏi rằng:

– Quanh đây không biết chỗ nào là chỗ ông Cao Tổ nhà Hán, chém rắn khởi nghĩa khi xưa…

Nói đoạn ba người cùng thở dài mà ngơ ngẩn kéo đi. Khi tới địa phận núi Mang Sơn, Sử Tiến liền dàn quân thành trận thế, có ba Đầu Lĩnh là Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân đứng đằng sau.

Được một lát trên núi Mang Đãng có một đoàn nhân mã kéo xuống, có ba vị hảo hán đi đầu, một người là Hạng Sung, khiến lá đỏan bài, lưng dắt hai mươi bốn khẩu phi đao, tay hữu chống tiêu sang, mặt sau có lá cờ hiệu đề bốn chữ “Bát Tý Na Tra”; Một người là Lý Cổn, cũng khiến lá đỏan dài, lưng dắt hai mươi bốn thanh gươm nhọn, tay hưu chống kiếm, phía sau cũng có một lá cờ hiệu, trên viết bốn chữ “Phi Thiên Đại Thánh”.

Nguyên hai người đó ở trên núi, nghe báo có quân mã đến đánh liền kéo tiểu lâu la xuống để chống cự. Khi xuống dưới núi, thấy Sử Tiến cùng ba hảo hán đương kìm ngựa đứng đợi ở đó, hai người bèn sai tiểu lâu la khua chiêng gõ trống, kéo xông ra đánh mà không hỏi han chi cả. Bên kia hậu quân của Sử Tiến, bị thua bỏ chạy, Sử Tiến liền thúc quân chống lại, và bọn Chu Vũ coi giữ trung quân để giúp đánh, rồi sau cũng chạy lui ra ngoài bốn mươi dặm. Trong khi lui chạy, Sử Tiến suýt nữa trúng phải phi đao, còn Dương Xuân luống cuống bị một phát phi đao đâm vào chân ngựa, chàng liền bỏ ngựa mà chạy lấy thân cho thoát. Sau Sử Tiến điểm lại nhân mã mất đến quá nữa, chàng lấy làm lo sợ toan sai người về cầu cứu ở Lương Sơn.

Đương khi lo nghĩ vẫn vơ, thì chợt thấy quân sĩ báo rằng:

– Về con đường phía Bắc có một toán nhân mã, ước chừng hai nghìn người kéo đến. Bọn Sử Tiến nghe báo bèn đem ngựa ra nom, thì thấy bóng cờ Lương Sơn phất phới rồi có hai viên Thượng Tướng là Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh, và Kim Ban Sang Từ Ninh dẫn quân đi đến.

Sử Tiến tiếp đón Hoa Vinh, Từ Ninh, thuật chuyện võ nghệ của Hạng Sung, Lý Cổn cho hai người nghe.

Hoa Vinh nói rằng:

– Tống Công Minh Ca Ca thấy Huynh trưởng đi rồi trong lòng lấy làm áy náy không yên, bèn cho chúng tôi đến đây để giúp.

Bọn Sử Tiến nghe nói cả mừng, liền họp quân vào một chỗ để đóng trại. Sáng hôm sau, đương kéo quân ra đánh, bổng thấy quân sĩ vào báo rằng:

– Con đường bên Bắc lại có một toán nhân mã nữa kéo đến.

Hoa Vinh, Từ Ninh, cúng lên ngựa ra xem, thấy Tống Công Minh cùng Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Sài Tiến, Chu Đồng, Hô Duyên Chước, Mục Hoằng, Tôn Lập, Hoàng Tín, Lã Phương, Quách Thịnh, dẫn ba nghìn nhân mã kéo đến.

Sử Tiến đem chuyện thua thuật lại cho mọi người nghe. Tống Giang nghe nói, lấy làm cả kinh. Ngô Dụng liền khuyên đem quân hạ trại, rồi sẽ bàn định. Tống Giang nóng tính, toan tiến binh bắt đánh ngay, liền kéo binh đến gần núi để xem.

Bấy giờ trời đã gần tối chợt thấy trên núi Mang Đãng có bóng đèn lồng sắc xanh, Công Tôn Thắng bèn nói với mọi người rằng:

– Trong trại giặc thắp đèn xanh thế kia, tất nhiên là có người biết dùng phép thuật yêu tà, vậy chúng ta hãy lui quân ra xa, để sáng mai tôi hiến một phép có thể bắt được mấy người ấy.

Tống Giang cả mừng, truyền lui quân hai mươi dặm để hạ trại, đợi sáng hôm sau phá trận Ma Vương.

Mới hay:

Trông tan thương những chạnh lòng

Trách ai tham cái má hồng mà chi

Vẻ gì một chút tình si,

Thành tan nước mất tội thì tại ai?

Thương thôi lại giận cho đời,

Trăm năm bao hết giống người vô lương?

Có chăng nhờ bút văn chương

Đem tranh chính nghĩa làm gương cho đời.

Lời bàn của Thánh Thán:

Theo tục bản chép một đoạn văn, Lỗ Trí Thâm cứu Sử Tiến thô bỉ đến nổi không muốn đọc, lại lạ cho tác giả sao ngọn bút tồi thay? Khi gặp cổ bản, mới phục nguyên văn tả được thế này? Ta mới than: Văn chương nảy tự trong lòng một ngày của ta, mà truyền đến tay người đời xem mãi, thế nhân chưa thể biết, mà truyền tay nhân thế mãi, ta lại không nhận được, khi đó văn chương không thể nói ra, chỉ tiếp tục bản chép như thế, khiến cho độc giả không thể rơi lệ buồn rầu về nổi văn chương?

Một đoạn tả ngăn thuyền ở Vị Hà, trước tả Chu Đồng, Ngô Dụng đứng đầu thuyền, làm một tổng đề, rồi sau chia làm hai bức, một bức tả Ngô Dụng nói chuyện với quan tiếp khách, rồi chuyển ra Tống Giang, Tống Giang ra Chu Đồng, Chu Đồng chuyển ra trên bờ, có Hoa Vinh, Tần Minh, Từ Ninh, Hô Duyên Chước, đó một dạng thanh thế; một bức tả Tống Giang cùng Thái Úy vấn đáp, rồi chuyển ra Ngô Dụng, Ngô Dụng lại chuyển đến Lý Ứng, Lý Ứng lại chuyển ra trên sông có Lý Tuấn, Trương Thuận, Dương Xuân, đó một dạng thanh thế, rồi sau đến bức thứ ba, tả Tống Giang, Ngô Dụng nhất tề làm ra để tổng kết lại, chương pháp đã tề chỉnh lại biến hoá, thực chẳng phải chỉ viết qua loa.

Cực tả Quan Thái Thú Hoa Châu là người gian hoạt, để mà rõ cớ bắt được Sử Tiến, Lỗ Đạt hai phen thích khách không thành, thế mà đọc đấy lại không thấy dấu vết chỗ nào là bổ tả, đã tự khiến người ta tưởng thấy lúc ấy với việc ấy, xét chẳng phải có bổ tả rõ mới là bổ tả, lại là một phép bổ tả của văn chương.

Sử Tiến một lời than ở núi Mang Đãng, cũng ám dụng việc xưa, thời Nguyễn Tạ không ai anh hùng…áng gọi rằng nên sâu chí của Đại Lang, đối với việc thua ở Mang Sơn, chỉ làm một phép giao chuyển của văn chương cho nảy Công Tôn Thắng chứ đừng vị thế mà tiếc cho chí Đại Lang.

Hồi 59: Núi Mang Đãng, Công Tôn làm phép – Chợ Tăng Đầu, Tiều Cái trúng tên

Tống Giang lui quân đóng trại, rồi sáng hôm sau Công Tôn Thắng bàn với Tống Giang rằng:

– Nay ta nên bày trận Bát Quái, theo như thế trận bằng đá, của Gia Cát Khổng Minh đời trước…Trận ấy có bốn mặt tám phương, chia làm tám tám sáu mươi tư đội, khoảng giữa có viên Đại Tướng coi, thế trận bày ra bốn đầu tám đuôi, quanh bên tả, vòng bên hữu, then Trời Đất gió mây, dựa đúng hổ, chim, rồng, rắn, đợi khi bọn kia xuống núi, thì hai bên mở ra cho họ thẳng xông vào trận, rồi cứ nom hiệu cờ Thất Tinh mà biến ra thế Trường Sà. Bấy giờ tôi sẽ dùng phép để đánh khiến cho bọn họ quanh trước quanh sau, hết đường tiến thoái, không khác chi hãm vào trong hố rồi ta sẽ cho quân cầm dây móc mắc sẵn ở đó mà bắt lấy ba tướng, như thế thì có cơ tất thắng không sai.

Tống Giang nghe nói cả mừng, liền truyền cho các Tướng theo lệnh mà làm. Lại sai tám viên Tướng tài, là Hô Duyên Chước, Chu Đồng, Hoa Vinh, Từ Ninh, Mục Hoằng, Tôn Lập, Sử Tiến, Hoàng Tín, coi giữ mặt trận; Sài Tến, Lã Phương, Quách Thịnh, tạm giữ Trung quân; Tống Giang, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng dẫn Trần Đạt để vẫy cờ ra hiệu, còn Chu Vũ dẫn năm tên quân sĩ đến chỗ gò cao gần núi, để nom thấy trận bên kia mà báo trước.

Ngày hôm đó, vào khoảng giờ Tỵ, các quân mã kéo đến gần núi bày nên thế trận, rồi rung trống khua cờ để khởi đánh. Được một lát thấy trên núi Mang Đãng có tiếng thanh la dậy đất, rồi thấy ba đầu binh dẫn hơn ba nghìn nhân mã kéo nhau xuống núi.

Khi xuống tới nơi, đều dàn thành thế trận, Hạng Sung, Lý Cổn đứng bên tả hữu, còn Hỗn Thế Ma Vương Phàn Thụy cỡi con ngựa đen đứng giữa trước cửa trận. Phàn Thụy tuy biết dùng phép yêu quái song không thuộc trận thế ra sao, khi trông thấy trận của Tống Giang thì trong bụng mừng thầm rằng:”Chúng bày trận như thế, là mắc kế ta rồi… “

Nghĩ đoạn liền truyền lệnh cho Hạng Sung, Lý Cổn nếu thấy ngọn gió nổi lên, thì dẫn năm trăm tay đao thủ mà sát vào trong trận. Hai người được lệnh, thì sắp sẵn đỏan bài, cùng các quân khí, để đợi khi Phàn Thụy làm phép mà cùng xông vào.

Bấy giờ Phàn Thụy ngồi trên mình ngựa, tay tả cầm Lưu Tinh Đồng Chùy, tay hữu chống Hỗn Thế Ma Vương Bảo Kiếm, trong miệng lẫm nhẫm đọc mấy câu thần chú rồi quát lên một tiếng “Mau”. Chợt thấy một trận cuồng phong rung động; đá chuyển cát bay, trời mờ đất ám, trên bóng Thái Dương bỗng dưng mờ tối, rồi Hạng Sung, Lý Cổn dẫn năm trăm đao phủ, reo hò ầm ĩ mà sấn vào trong trận Tống Giang.

Quân mã Tống Giang thấy vậy, liền rẽ ra hai bên, cho Hạng Sung, Lý Cổn xông vào. Khi đó tên đạn bên trận Tống Giang bắn ra như mưa, Hạng Sung, Lý Cổn chỉ dẫn được bốn năm mươi tên đao phủ đi vào, còn thì phải chạy về bản trận.

Tống Giang thấy hai người đã vào gần đến giữa trận, liền sai Trần Đạt phất cờ Thất Tinh ra hiệu, cho quân sĩ biến thành thế trận Trường Sà, Hạng Sung, Lý Cổn ở giữa trận, xông bên đông đột bên tây, quanh bên tả vòng bên hữu, không sao tìm được lối mà đi, Chu Vũ đứng trên gò cao cầm cờ ra hiệu, hễ hai người chạy về bên nào thì quay ngọn cờ mà trỏ về bên ấy.

Đương khi đó, Công Tôn Thắng cũng đứng trên gò cao trông thấy như vậy, liền rút thanh kiếm Tùng Văn Cổ Địch ra tay, rồi miệng đọc thần chú mà quát lên một tiếng “Mau”. Đoạn rồi thế trận cuồng phong kia, cứ theo chân Hạng Sung, Lý Cổn mà cuốn hoài không dứt.

Hạng Sung, Lý Cổn ở trong vòng trận, chỉ thấy trời mờ đất tối, gió thổi ào ào, bốn mặt mênh mông toàn thị hắc khí, quân mã không thấy chút gì nữa, mà những tay đao phủ cũng không thấy đâu hết thảy, hai người thấy vậy, trong lòng sợ hãi kinh hoàng, hết sức tìm đường tháo chạy mà không sao tìm được.

Đương khi xung đột kinh hoàng, bỗng thấy nổ một tiếng sấm rất to, rồi hai người đều bắn vào trong hố, không sao dậy được. Đoạn rồi có người đưa thừng móc ra trói Hạng Sung, Lý Cổn lại để đem nộp Tống Giang.

Tống Giang đứng trên gò cao, cầm roi ra lệnh cho tam quân kéo tràn sang để đánh. Phàn Thụy thấy vậy, bèn kéo quân thua chạy về núi, ba phần quân mã, thiệt mất đến quá nửa phần. Tống Giang thu quân cùng các Đầu Lĩnh trở về trướng.

Bấy giờ quân lính giải Hạng Sung, Lý Cổn về đến dưới trướng. Tống Giang trông thấy vội cởi trói cho hai người, rồi nâng chén rượu mà nói rằng:

– Hai vị tráng sĩ tha lỗi cho tôi, trong khi chiến trận tất phải như thế mới được…Tôi là Tống Giang được nghe tiếng ba các ngài đã lâu, cũng toan mời về sơn trại để cùng nhau tụ nghĩa, song chưa có dịp nào mà nói ra cho tiện. Nay nhân được gặp nhau đây, nếu các ngài có lòng hạ cố, mà cùng nhau về chốn Lương Sơn, thì thực là vô cùng hân hạnh cho chúng tôi.

Hai người kia nghe nói liền lạy rạp xuống đất mà rằng:

– Chúng tôi nghe tiếng Cập Thời Vũ đã lâu, ngờ đâu ngài quả có lòng đại nghĩa như vậy. Anh em chúng tôi thực cưỡng với trời, nay bị bắt đến đây là dẫu chết cũng chưa đáng tội. Nay ngài lại rộng lòng tha thứ đi cho chúng tôi sẽ xin hết sức hết lòng để mà báo đáp. Bây giờ một mình Phàn Thụy không có chúng tôi cũng không làm gì được, song nếu các ngài rộng phép cho chúng tôi cho một người trở về, thì tôi xin rủ Phàn Thụy đến đây lập tức, để đầu hàng dưới trướng chẳng hay các ngài nghĩ sao?

Tống Giang nói rằng:

– Các ngài bất tất phải lưu lại nơi đây, xin cứ về cả cho chúng tôi xin sẵn lòng đợi đây để đón tiếp.

Hai người đều lạy tạ mà rằng:

– Ngài thực là bậc Đại Trượng Phu hiếm có, nếu Phàn Thụy không đầu hàng thì chúng tôi xin bắt về dâng dưới trướng.

Tống Giang nghe nói cả mừng, mời vào Trung quân thiết đãi cơm rượu; rồi sai lấy quần áo mới cho hai người mặc, chọn hai cỗ ngựa tốt cho hai người cưỡi, và sai tiểu lâu la lấy gươm bài ra, trả lại cho hai người về núi, hai người ra đi đều lấy làm khâm phục Tống Giang mà ngợi khen không dứt miệng.

Khi về tới núi Mang Đãng, Phàn Thụy trông thấy lấy làm cả kinh liền hỏi đầu đuôi ra sao? Hạng Sung, Lý Cổn bảo với Phàn Thụy rằng:

– Anh em chúng ta là trái với trời, thực chưa hết tội…

Phàn Thụy ngạc nhiên hỏi rằng:

– Sao anh em lại nói như vậy?

Hai người liền đem nghĩa khí của Tống Giang mà nói cho Phàn Thụy nghe, Phàn Thụy nói rằng:

– Tống Công Minh đã có lòng đại nghĩa như vậy, chúng ta không nên trái cưỡng với Trời, Sáng mai ta nên lập tức đầu hàng mới phải.

Hai người nói:

– Chúng tôi trở về đây, cũng vì việc đó mà thôi. Nay đã đồng tâm như vậy, thì xin thu xếp mau đi.

Nói đoạn cùng nhau thu thập hết cả sơn trại, rồi sáng hôm sau cùng nhau kéo đến bái yết Tống Giang. Khi tới nơi ba người lạy rạp xuống đất.Tống Giang liền đỡ dậy, mời vào cùng nói chuyện.

Ba người thấy Tống Giang ra lòng thân mật, không chút gì ra vẻ hiềm nghi, thì cùng nhau vui ve bội phần, và đem hết chuyện bình sinh mà thuật lại cho mọi người cùng biết, và mới các vị Đầu Lĩnh lên chơi núi Mang Đãng để giết ngựa mổ trâu thiết đãi, cùng là khao thưởng tam quân. Khi yến ẩm xong Phàn Thụy bái Công Tôn Thắng làm thầy, Tống Giang liền lập Công Tôn Thắng làm giáo chủ, để truyền Ngũ Lôi Thiên Tâm Chính Pháp cho Phàn Thụy. Phàn Thụy lấy làm cảm tạ vui mừng vô hạn.

Cách mấy hôm sau bọn Phàn Thụy thu nhặt lừa ngựa tiền nong, đốt bỏ sơn trại, rồi theo Tống Giang về cả Lương Sơn. Khi về gần tới Lương Sơn đang sắp sẳn quân mã qua đò về núi, thì bổng thấy một hảo hán đến trước mặt Tống Giang cúi rạp xuống đất lạy rằng.

Tống Giang thấy vậy liền xuống ngựa đỡ dậy, mà hỏi rằng:

– Túc hạ là ai? ở đâu tới đây? Chúng tôi không được biết…Người kia nói rằng:

– Chúng tôi họ Đoàn tên Cảnh Trụ, người ta thấy tóc đỏ râu vàng, nên người ta thường gọi là Kim Mao Khuyển. Nguyên tôi quán ở Trác Châu, bình sinh kiếm ăn bằng nghề trộm ngựa ở mạng Bắc, tới mùa xuân năm nay qua núi Sơn Can lấy được con ngựa rất quý toàn trắng như tuyết, suốt mịn không có một cái lông nào khác sắc; Từ đầu chí cuối vừa dài được một trượng, từ lưng tới móng cao tám thước hơn, một ngày có thể đi được nghìn dặm, vẫn có tiếng là Chiến Dạ Ngọc Sư Tử xưa nay. Con ngựa đó nguyên chúng tôi lấy của con vua Đại Kim, thả ở trên núi Sương Can, định đem làm lễ mừng để yết kiến ngài đây…Bất đồ đi qua chợ Tăng Đầu phía tây nam Lăng Châu, bị đám Tăng Gia Ngũ Hổ sấn ra cướp lấy. Bấy giờ chúng tôi có nói dối rằng:

– Con ngựa này của Tống Công Minh ở Lương Sơn Bạc, để hòng chúng trả lại cho. Ai ngờ chúng nghe nói, lại giở những lời thô bỉ hỗn hào, không thể nào chịu được, bởi vậy tôi phải vội vàng trốn về đây, để báo cho mọi người biết.

Tống Giang thấy người đó, tóc đỏ râu xoắn, không phải là tay thường tục, liền có ý vui thầm trong bụng mà bảo rằng:

– Nếu vậy hãy xin mời về sơn trại, rồi ta sẽ thương nghị sau.

Nói đoạn mời Đoàn Cảnh Trụ xuống thuyền, để cùng về sơn trại.Khi thuyền về gần tới bến Kim sa, Tiều Cái dẫn các Đầu Lĩnh ra đón vào Tụ Nghĩa Sảnh, rồi Tống Giang bảo Phàn Thụy, Hạng Sung, Lý Cổn, và Đoàn Cảnh Trụ, đến chào hỏi các vị Đầu Lĩnh trong sơn trại, mà cùng vào dự tiệc với nhau. Bấy giờ Tống Giang sai Lý Vân, Đào Tôn Vượng đốc thúc thợ thuyền, làm thêm phòng ốc, cùng các trại, để cho các Đầu Lĩnh mới đến ở.

Đoạn rồi Đoàn Cảnh Trụ nhắc đến con ngựa Ngọc Sư Tử, Tống Giang bèn phái Đới Tung ra chợ Tăng Đầu, để tham thính tin tức.

Cách bốn hôm sau, Đới Tung trở về báo với các vị Đầu Lĩnh rằng:

– Trên chợ Tăng Đầu có tới ba nghìn nhà ở, trong đó có một nhà gọi là Tăng Gia Chủ, chủ nhà nguyên là người nước Đại Kim, tên Tăng Trưởng, sinh được năm người con, gọi là Tăng Gia Ngũ Hổ(năm con hổ nhà họ Tăng). Người con lớn tên là Tăng Đồ, thứ hai là Tăng Mật, thứ ba là Tăng Sách, thứ tư Tăng Khôi, thứ năm Tăng Thăng, lại có một ông giáo sư là Sử Văn Cung, và một ông phó giáo sư là Tô Định, cung nhau tụ năm bảy nghìn lâu la họp ở chợ Tăng Đầu, làm nhà đóng trại, chế sẳn hơn năm mươi cổ xe tù, thề cùng sống chết với bọn Lương Sơn Bạc, và thế nào cũng bắt hết bọn Lương Sơn mới nghe. Con ngựa Ngọc Sư Tử đó, thì hiện nay để cho giáo sư Sử Văn Cung cởi…Có một điều nữa rất đáng giận là chúng nó tung ra mấy câu hát, dạy cho trẻ con hát trong chợ suốt cả ngày, nghe ra thực thống thiết. Chúng hát rằng:

Lay động thiết hoàn linh,

Quỹ thần đều kinh sơ.ï

Xe sắt cùng khoá sắt:

Dưới trên có chốt đanh.

Quét sạch Lương Sơn lấp Thủy Bạc;

Dong cổ Tiều Cái về Đông Kinh.

Bắt sống Cập Thời Vũ,

Trói chặt Trí Đa Tinh.

Họ Tăng có năm hổ

Thiên hạ nức uy danh.

Tiều Cái nghe đến đó, đùng đùng nổi giận mắng rằng:

– Quân súc sanh vô lễ đến thế…tôi phải đi phen này, nếu không bắt được chúng, xin thề không về núi nữa. Phen này chỉ xin cắt hai nghìn nhân mã, và hai mươi Đầu Lĩnh xuống núi giúp tôi, còn các vị Đầu Lĩnh xin ở nhà coi trại với Tống Công Minh.

Nói đoạn liền cắt Lâm Xung, Hô Duyên Chước, Từ Ninh, Mục Hoằng, Trương Thuận, Dương Hùng,, Thạch Tú, Tôn Lập, Hoàng Tín, Yến Thuận, Đặng Phi, Âu Bằng, Dương Lâm, Lưu Đường, Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu Thất, Bạch Thắng, Đỗ Thiên, Tống Vạn, công tất cả hai mươi Đầu Lĩnh dẩn ba quâ xuống núi đi đánh. Tống Giang, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, cùng các vị Đầu Lĩnh, đều đưa chân đến bến Kim Sa, để nâng chén rượu tiễn hành.

Đương khi nâng chén qua hà, bổng có một trận cuồng phong đưa đến, thổi gãy ngay ngọn cờ quân lệnh của Tiều Cái mới chế ra. Mọi người trông thấy đều kinh ngạc, biến hẳn ngay sắc mặt đi.

Ngô Học Cứu Can Tiều Cái rằng:

– Ca Ca vừa mới ra quân, bỗng ngọn gió thổi gãy cờ, như thế là điều bất lợi, vậy xin Ca Ca hãy lui quân vào trong trại vài bữa, rồi sẽ ra đi…

Tiều Cái nói rằng:

– Trời đất có khi mưa khi gió, lấy gì làm lạ!Bây giờ đương dạo mùa xuân ấm áp, nếu không thừa thế, khử trừ nó đi, thì còn đợi đến bao giờ nữa? Việc này xin chớ ngăn trở, thế nào tôi cũng xin đi một phen mới được.

Ngô Dụng nghe nói đành phải lặng yên cho Tiều Cái ra đi. Khi Tiều Cái đi rồi, Tống Giang liền quay về sơn trại, sai Đới tung xuống núi đi theo, để thăm dò tình thế.

Hôm đó Tiều Cái dẩn năm nghìn quân mã, cùng hai mươi vị Đầu Lĩnh đến chợ Tăng Đầu, liền đóng trại đối với trại giặc bên kia. Ngày hôm sau Tiều Cái cùng các vị Đầu Lĩnh cưỡi ngựa đi ra chợ Tăng Đầu, để thăm nom địa thế,

Đương khi đó, bỗng thấy trong rừng liền có một toán nhân mã ước chừng bảy tám trăm người kéo ra, có một anh hảo hán là Tăng Khôi con thứ tư Tăng Gia đi đầu, quát lên rằng:

– Lũ bay là quân giặc cỏ, làm loạn vùng Lương Sơn, ta đương toan đến để tróc nã…Nay trời lại rung rủi cho bay đến đây, thì thực là tiện lắm…Bay không xuống ngựa chịu trói ngay đi, còn đợi đến bao giờ nữa?

Tiều Cái nghe nói cả giận, quay đầu lại toan gọi người ra đánh, thì đã thấy một người xông ngựa ra để đánh nhau với Tăng Khôi. Người này nguyên là một người bắt đầu kết nghĩa từ khi mới đến Lương Sơn, tức Báo Tử Đầu Lâm Xung đó. Lâm Xung đánh nhau hơn mười hiệp, Tăng Khôi liệu thế không địch nổi, liền cắp giáo quay ngựa chạy về rừng, Lâm Xung thấy vậy cũng kềm ngựa lại, mà không đuổi theo.

Tiều Cái liền dẩn quân mã về trại để bàn cách đánh phá.

Lâm Xung bàn rằng:

– Ngày mai dẩn binh ra chợ mà khơi đánh, để xem tình hình thực hư thế nào, rồi ta sẽ liệu.

Tiều Cái khen phải mà nghe lời. Sáng hôm sau dẩn cả năm nghìn quân mã, ra khu đất rộng trước cửa chợ Tăng Đầu, bày thành trận thế gỏ mõ khua chiên mà gọi đánh.

Bấy giờ trong chợ Tăng Đầu nghe có tiếng trống hiệu nổi lên, rồi thấy đại đội nhân mã kéo ra dàn trận, có bảy vị hảo hán đứng đầu: Khoảng giữa là giáo sư Sử Văn Cung, phía trên là phó giáo sư Tô Định, phía dưới là con trưởng Tăng Gia tên là Tăng Đồ, bên tả thì Tăng Mật, Tăng Khôi, bên hữu thì Tăng Thăng, Tăng Sách. Bảy người này đều nai nịch nghiêm chỉnh, coi rất oai vệ. Giáo sư Sử Văn Cung, lưng đeo cung tên, mình cưỡi ngựa Thiên Lý Ngọc Sư Tử, tay cầm một cây Thiên Phương Hoạt Kích, rõ ra một tướng anh hùng.

Khi ba hồi trống trận vừa dứt, thì bên Tăng Gia đẩy ra một xe tù ra trước mặt, rồi Tăng Đồ chỏ mắng bọn Tiều Cái rằng:

– Quân giặc cỏ phản bội nhà nước kia, có thấy cỗ xe của ta đó không?Chúng Ta đây nếu không giết chết chúng bây, thì không phải là tay hảo hán, nay ta vớ được đứa nào là bắt sống đứa ấy để đem nhốt vào xe tù, mà mang nộp Kinh Sư, thế mới rõ là tay Ngũ Hổ ở Tăng Gia. Nếu bay có biết điều thì xuống ngựa mà chịu trói trước đi, thì ta sẽ liệu giảm tội đi cho…

Tiều Cái nghe nói tức giận, múa gươm thúc ngựa thẳng xông ra đánh Tăng Đồ, rôi các tướng nhất tề cũng xông ra để đánh, đôi bên đánh nhau lộn bậy một hồi, quân mã Tăng Gia vừa đánh vừa lui vào trong thôn.

Lâm Xung, Hô Duyên Chước xung đột đánh theo, sau thấy đường sá hiểm trở không lối, liền thu binh kéo về trại.

Hôm đó hai bên đánh nhau, đều thua mất nữa nhân mã, mà không định được thua ra sao. Khi trở về trong trại, Tiều Cái lấy làm lo nghĩ băn khoăn.

Các tướng can rằng:

– Ca Ca phải nên tỉnh tâm, chớ lo nghĩ chi cho mệt nhọc. Trước đây Tống Công Minh ra trận, vẫn bị thua luôn, sau cũng được toàn thắng trở về…Và ngày nay hai bên đánh nhau đều có thiệt hại cả, mình cũng không đến nổi thua kém gì, Ca Ca phải nghĩ….

Tiều Cái nghe vậy, trong lòng vẫn lấy làm ngay ngáy không vui. Sau đó luôn ba ngày đêm quân ra chợ khơi đánh, mà không thấy một ai.

Ngày hôm thứ tư bổng có hai nhà sư, đi thẳng vào sơn trại để xin chào Tiều Cái, Chúng dẩn vào tới nơi, hai người quỳ trước mặt Tiều Cái mà nói rằng:

– Chúng tôi là Giám Tự ở chùa Pháp Hoa mé bên hông chợ Tăng Đầu, nhân bị Tăng Gia Ngũ Hổ, thần thường đến quấy nhiễu trong chùa và sách nhiểu lấy tiền nong của cải rất là khó chịu. Vả chúng tôi ở đây đã lâu, biết rỏ được tình thế của họ, vậy xin đến đây để hiến Đầu Lĩnh một kế, mà cướp trại đêm nay, để khử trừ họ đi, thì thực là may cho dân chúng.

Tiều Cái nghe nói cả mừng, liền mời hai nhà sư ngồi, và rót rượu để thiết. Khi đó Lâm Xung can rằng:

– Ca Ca chớ nên nghe vội, vì trong đó không khéo có kế lừa cũng nên…

Tiều Cái nói nói rằng:

– Người ta là kẻ Thái Úy hành, có khi nào lại nỡ nói càng nói bậy…Bọn Lương Sơn ta xưa nay vốn theo đường nhân nghĩa, đi đến đâu không hề quấy nhiễu lương dân, vậy thì hai người này có thù hằn gì với ta mà nở nói dối? Vả chăng bọn Tăng Gia vị tất đã đánh được nổi quân của ta, còn can chi mà phải nghi ngại? Việc nay xin anh em chớ nên rùi rắn mà lỡ mất chuyện to, đêm nay ta phải đi mới được…

Lâm Xung có ý can mà rằng:

– Nếu Ca Ca quyết định đi, thì tôi xin chia nữa quân mã đến cướp trại, còn Ca Ca tiếp ứng ở ngoài.

– Nếu tôi không đi thì ai chịu ra sức, hiền đệ giữ một nữa quân ở bên ngoài tiếp ứng, để tôi vào cướp trại cho.

– Ca Ca định mang ai đi cùng?

– Tôi định lấy hai nghìn nhân mã và mười vị nhân Đầu Lĩnh để vào cướp trại.

Nói đoạn liền gọi Lưu Đường, Hô Duyên Chước, Nguyễn Tiểu Ngũ, Yến Thuận, Nguyễn Tiểu Thất, Tiểu Thiên, Bạch Thắng, Tống Vạn, chỉnh điểm nhân mã, đợi chiều hôm đó đến cướp trại. Đêm hôm đó trời vừa sẩm tối, cơm nước xong rồi, ba quân đều ngậm tăm im phắc, ngựa tháo nhạc ra, rồi cùng hai người thầy chùa, mà kéo vào chùa Pháp Hoa.

Khi tới nơi, Tiều Cái xuống ngựa đi vào, thấy quả nhiên là một khu chùa cổ, mà không có sư mô ở đó, liền hỏi hai người sư kia rằng:

– Đây là một nơi chùa lớn, mà sao không có pháp sư ở đây?

Nhà sư đáp rằng:

– Nhân vì mấy đứa súc sinh nhà họ Tăng quấy nhiểu, nên các sư đều sợ hãi mà bỏ đi cả, duy còn có sư phụ và mấy người đồ đệ thì ở tháp viện trong kia…Xin Đầu Lĩnh tạm nghỉ nhân mã đây, rồi canh khuya tôi sẽ đưa tới trại chúng.

– Trại chúng ở chỗ nào?

– Chúng nó có bốn trại, song bên bắc là chỗ anh em họ Tăng đóng binh, nếu đánh được chỗ đó, thì trại bên kia phá dễ như chơi.

– Đợi lúc nào thì đi?

– Bây giờ mới canh hai, xin đợi đến canh ba sẽ đi.

 Bấy lâu nổi tiếng giang hồ,

Một phen phó mặc cơ đồ cho ai?

Hết thân chưa dứt chuyện đời,

Gươm thù còn gửi lại người nước non…

Bấy giờ Tống Giang thấy Tiều Cái mất, thì trong lòng lấy làm thảm thiết, cất tiếng khóc nức nở, không khác gì cha mẹ mất vậy.

Các Đầu Lĩnh thấy vậy đều dìu Tống Giang ra để chủ trương các việc.

Ngô Dụng cùng Công Tôn Thắng khuyên Tống Giang rằng:

– Ca Ca chớ nên phiền não cho lắm người ta sống chết bởi tại mệnh trời, dẩu than khóc cũng không làm chi được nữa. Vậy xin Ca Ca hãy lý hội việc lớn là hơn.

Tống Giang nghe nói liền gạt nước mắt, rồi sai lấy nước hương hoa tắm cho Tiều Cái, khâm liệm áo xiêm tử tế, mà đưa ra Tụ Nghĩa Sảnh.

Các Đầu Lĩnh đều đến đó mà khóc lóc làm lễ, rồi sai đóng quách, chọn ngày lành tháng tốt mà đưa ra chính sảnh, đặt linh sàng viết bài vị mấy chữ “Lương Sơn Bạc Chủ, Thiên Vương Tiều Công Thần Chủ” để thờ.

Các vị Đầu Lĩnh trong sơn trại cùng Tống Giang trở xuống; đều ăn mặc đại tang, còn các tiểu đầu mục cùng các tiểu lâu la cũng chít khăn để tang.

Lâm Xung đem mũi tên thề ở trước linh sàng Tiều Cái, rồi sơn trại dựng cành phan, thỉnh các sư ở chùa gần đó, về làm chay siêu thoát cho Tiều Thiên Vương.

Từ đó hàng ngày Tống Giang lại dẩn các vị Đầu Lĩnh đến trước linh sàng khóc lóc, không có bụng nào nghĩ đến việc sơn trại. Lâm Xung cùng Ngô Dụng, Công Tôn Thắng và các vị Đầu Lĩnh bàn nhau tôn Tống Giang lên làm chủ, để coi giữ hiệu lệnh trong sơn trại.

Sáng hôm sau thiết bày vị hương hoa đền nến, rồi Lâm Xung dẩn các Đầu Lĩnh mời Tống Giang ra ngồi ở Tụ Nghĩa Sảnh mà nói rằng:

– Dám bẩm Ca Ca, trong nước không thể một ngày không có vua, trong nhà không thể một ngày không có chủ. Nay Tiều Đầu Lĩnh đã hết mệnh chầu trời, công việc ở trong sơn trại, không thể không có người chủ trương được. Vậy Ca Ca là một người đại nghĩa anh tài trong thiên hạ không ai là không biết tiếng, vậy chúng tôi xin chọn ngày lành tháng tốt, để mời Ca Ca lên làm chủ sơn trại, cho anh em được cùng theo hiệu lệnh của Ca Ca mới được.

Tống Giang từ chối mà rằng:

– Khi Tiều Thiên Vương sắp nhắm mắt có dặn lại rằng: “Ai bắt được Sử Văn Cung thì cho làm chủ Lương Sơn Bạc”Điều đó các Đầu Lĩnh ai ai cũng biết. Vậy nay tên thề vẫn còn để kia, có lẽ nào đã quên được hay sao?, vả chăng chưa ai báo cừu rửa hận cho xong, có khi nào đã ở ngôi ấy được?

Ngô Học Cứu nói rằng:

– Đã đành Tiều Thiên Vương nói vậy, song việc sơn trại không thể một ngày không có chủ được, nếu Ca Ca không nhận ngôi ấy, thì các Đầu Lĩnh toàn là những kẻ dưới, cọn ai dám nhận mà làm? Vả chăng anh em đây phần nhiều toàn thị tâm phúc của Ca Ca, chắc cũng không ai dám dị nghị vào đó, vậy xin Ca Ca hãy tạm quyền ít lâu, rồi sau này sẽ liệu.

Tống Giang nói rằng:

– Quân sư dạy thế cực phải, nay tôi xin quyền tạm ở đây, ngày sau ai bắt được Sử Văn Cung, thì xin nhường vào vị đó.

Bấy giờ Hắc Toàn Phong Lý Quỳ đứng bên cạnh kêu lên rằng:

– Ca Ca làm Đại Tống Hoàng Đế cũng được, cử gì chủ một Lương Sơn Bạc này.

Tống Giang cả giận quát lên rằng:

– Thằng đen lại đến đó mà nói nhắng…còn nói câu nữa thì ta cắt lưỡi đó.

Lý Quỳ nói:

– Tôi có bảo Ca Ca đừng làm đâu? Tôi mời Ca Ca làm Hoàng Đếù mà cũng cắt lưỡi..? Ngô Học Cứu nói rằng:

– Ca ca là một người không biết thời thế, nói làm chi ta hãy xong việc lớn đã.

Nói đoạn Tống Giang đốt hương xong, rồi Lâm Xung, Ngô Dụng mời Tống Giang lên ngồi ghế chính giữa, phía trên có Ngô Dụng, phía dưới có Công Tôn Thắng; dãy bên tả có Lâm Xung làm đầu, dãy bên hữu có Hô Duyên Chước làm đầu, còn các thue lĩnh theo thứ tự mà ngồi.

Khi các thủ lỉnh vái chào cùng ngồi yên vị rồi Tống Giang nói rằng:

– Ngày nay tôi tạm quyền chủ vị ở đây, dám xin anh em hết lòng hết sức ràng buộc lấy nhau, để cùng thay trời làm Đạo, Trong sơn trại hiện nay, nhân mã đông đúc, công việc bộn bề, không phải tầm thường như ngày trước. Vậy xin anh em chia ra làm sáu trại để đóng. Tụ Nghĩa Sảnh lại đổi là Trung Nghĩa Đường, trước sau tả hữu xin đặt bốn trại trên bộ, sau núi làm hai trại con, trước cửa núi ba toà quan ải, dưới núi một trại thủy quân, hai bên có hai trại nhỏ, cùng chia nhau canh giữ các nơi, Trung Nghĩa Đường thì tôi tạm giữ ngôi chủ, rồi thứ nhì đến quân sư Ngô Ngọc Cứu, thứ ba đến pháp sư Công Tôn Thắng, thứ tư đến Hoa Vinh, thứ năm đến Tần Minh, Thứ sáu đến Lã Phương, thứ bảy đến Quách Thịnh; trong tả trại thứ nhất thì Lâm Xung, thứ nhì Lưu Đường, thứ ba Sử Tiến, Thứ tư Dương Hùng, thứ năm Thạch Tú, thứ sáu Đỗ Thiên, thứ bảy Tống Vạn; Trong trại hữu quân thứ nhất Hô Duyên Chước, thứ nhì Chu Đồng, thứ ba Đới Tung, thứ tư Mục Hoằng, thứ năm Lý Quỳ, thứ sáu Âu Bằng, thứ bảy Mục Xuân; Tiểu trại thứ nhất Lý Ứng, thứ nhì Từ Ninh, thứ ba Lỗ Trí Thâm, thứ tư Võ Tòng, thứ năm Dương Chi, thứ sáu Mã Lân, thứ bảy Tri An; Hậu trại thứ nhất SÀi Tiến, thứ nhì Tôn Lập, thứ ba Hoàng Tín, thứ Tư Hàn Thao, thứ năm Bàng Dĩ, thứ sáu Đặng Phi, thứ bảy Tiếc Vĩnh. Trong trại thủy quân thứ nhất Lý Tuấn, Thứ nhì Nguyễn Tiểu Nhị, thứ ba Nguyễn Tiểu Ngũ, Thứ Tư Nguyễn Tiểu Thất, thứ năm Trương Hoành, thứ sáu Trương Thuận, thứ bảy Đồng Uy, Đồng Mảnh. Sáu trại cộng bốn mươi ba viên Đầu Lĩnh.

Tước cửa quan lần thứ nhất do Lôi Hoành Phàn Thụy Giữ. Cữa quan thứ hai do Giả Trân, Giải Bảo giữ, cữa quan thứ ba do Hạng Sung, Lý Cổn giữ. Tiểu trài ở bến Kim Sa sai Yến Thuận, Trịnh Thiên Thọ, cùng Khổng Minh, Khổng Lượng coi, tiểu trại ở bến Aùp Chủy giao cho Lý Trung, Chu Thông, Trâu Uyên, Trâu Thuận giữ. Hai tiểu trại đằng sau núi có Dương Nuỵ Hổ, Nhất Trượng Thanh và Tào Chính, bên hữu có Chu Vũ, Trần Đạt Dương Xuân coi giữ. Trong Trung Nghĩa Đường về dãy phòng bên tả có Tiêu Nhượng coi việc văn thư, Bùi Tuyên coi việc thưởng phạt, Kim Đại Kiện coi việc ấn tín, Tưởng Kinh coi việc tính toán tiền nong; Dãy bên hữu có Lăng Chấn coi việc tiền nong, Mạnh Khang coi việc đóng thuyền, Hầu Kiện coi việc chế mũ giáp. Đào Tôn Vương coi việc xây dựng thành quách. Còn các người ở Trung Nghĩa Đường, thì có Lý Vân coi việc dựng nhà cửa, Thăng Long đốc thúc thợ rèn, Chu Quý coi việc chế rượu chè, Tống Thanh coiviệc cỗ bàn yến tiệc. Đỗ Hưng Bạch Thắng coi sóc các đò vặt vãnh. Ngoài núi làm bốn ngôi tữu điếm nguyên giao cho bọn Chu Quý, Nhạc Hoà, Thời Thiên, Lý Lập, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương chia giữ, còn Dương Lâm Thạch Dũng, Đoàn Cảnh Trụ thì chuyên việc mua lừa ngựa về phía bắc.

Khi cắt đặt xong rồi, các Đầu Lĩnh lớn nhỏ ở Lương Sơn Bạc, đều nhất làm theo lệnh Tống Giang, mà không hề có điều chi ngang trái.

Sáng hôm sau Tống Giang lại họp các vị Đầu Lĩnh mà bàn rằng:

– Lẽ ra ta nên vì Tiều Thiên Vương mà đem quân đi đánh Tăng Đầu Thị để báo thù ngay lập tức. Song hiện nay trong lúc cư tang, ta kinh động như thế, thì là bất tiện. Vậy xin để ra ngoài trăm ngày, rôi sẽ cử binh đi đánh, cũng không lấy gì làm chậm trễ….

Các Đầu Lĩnh nghe lời đều lui ra coi giữ sơn trại, và ngày ngày lại đón thầy làm chay niệm phật để tịnh độ siêu sinh cho Tiều Cái.

Một hôm có một vị có pháp danh là Đại Viên, Nguyên là pháp chủ trong chùa Long Hoa, tại phủ Đại Danh Thành Bắc Kinh, nhân đi vân du qua mạn Lương Sơn, bọn Lương Sơn liền đón và để làm chay, cúng Phật; Trong khi trò chuyện Tống Giang hỏi đến nhân vật cùng phong thổ ở Bắc Kinh.

Nhà sư hỏi Tống Giang rằng:

– Đầu Lĩnh không biết ông Ngọc Kỳ Lân ở đất Hà Bắc hay sao?

Tống Giang nghe nói, chợt nghĩ ra, liền nói với nhà sư rằng:

– Ngài nom chúng tôi chưa già, có bao giờ quên được việc ấy. Trong thành Bắc Kinh Viên Ngoại họ Lư tên Tuấn Nghiã, biệt hiệu là Ngọc Kỳ Lân, đứng vào hạng Tam Kiệt ở Bắc Hà đấy… Ông ta võ nghệ cao cường, côn quyền không ai địch nổi, nếu ở Lương Sơn Bạc có được ông ấy, thì trong bụng tôi không lo nghĩ một điều chi nữa.

Ngô Dụng nghe nói cười mà rằng:

– Ca Ca can chi nói những câu bất đắc chi như vậy? Nếu muốn được người ấy lên núi, thì có khó gì?

Tống Giang nói rằng:

– Ông ta là một trưởng giả bậc nhất ở Bắc kinh.

Xưa nay tôi vẫn nghĩ đến luôn, vì dạo này bận rộn nên lãng quên đi mất… tôi chỉ thi hành một kế cỏn con thì khả dĩ đưa được người ấy lên đây ngay có ngại gì?

Tống Giang nghe vậy, khen ngợi Trí Đa Minh, và hỏi xem kế sách ra sao?

Mới hay:

Anh hùng đứng giữa trần ai,

Tri âm đâu dể lọt ngoài mắt xanh?

Nặng lòng kẻ tử người sinh,

Nước bèo tan hợp chút tinh dể quên.

Mong cho chung thủy vẹn tuyền,

Thắt dày liên lạc làm duyên giang hồ.

Máu riêng chung đúc một lò,

Ra tay gánh lấy cơ đồ xem sao?

Lời bàn của Thánh Thán:

Đọc Thủy Hử theo tục bản, đến chỗ này, thấy bỗng đâu hết ý, không hiểu rõ ra, tới khi đọc đến cổ bản, mới ngậm ngùi than: Hỡi ôi khéo thay; văn chương hay đến bậc này!

Xét từ trước Tiều Cái muốn đi đánh Chúc Gia Trang thì Tống Giang đón lấy, can rằng: Ca Ca là chủ sơn trại, không động; Tiều Cái muốn đánh Cao Đường, Tống Giang cũng lại khuyên rằng: Ca Ca là chủ sơn trại, không nên khinh động; cho tới đánh Thanh Châu, đánh Hoa Châu, Tống Giang đều một điệu nói ấy, đón lấy mà đi.

Sao đến đánh Tăng Đầu Thị, thì Tiều Cái quyết đi, Tống Giang lặng im không nói câu nào, Tống Giang chẳng ngăn, mà Tiều Cái đã chết vì việc đó, ta đây cũng chẳng biết sự thực ra sao? Song theo quân tử mà xem thư pháp, suy đến tình trạng, dẫn chuyện Hứa Thế Tử chẳng nếm thuốc qua để đoán việc ngục, thì Tống Giang đã giết Tiều Cái, quyết không dung thứ, đó chẳng phải mũi tên của Sử Văn Cung, mà thực ra chết ở trên tay Tống Giang vậy, cũng chẳng phải là Tống Giang biết rõ năm hổ ở chợ Tăng Đầu, có thể giết chết Tiều Cái mà chẳng đem binh cứu viện, vì Tiều Cái chết chẳng phải Tống Giang nghĩ biết tới, song lẽ Tiều Cái chết thì hay cho Tống Giang, chẳng phải chỉ ngày ấy mà nghĩ tới. Ta biết đó vì sao? Vì Tiều Cái mỗi khi muốn hạ sơn, Tống Giang lại đón ngăn đi, Tống Giang không muốn Tiều Cái hạ sơn kia, là chẳng muốn Tiều Cái có sơn trại nữa, lại chẳng muốn mọi người coi có Tiều Cái nữa, đã chẳng muốn Tiều Cái còn sơn trại nữa, thì sơn trại phải một sớm sẽ không còn của Tiều Cái, Tống Giang cả mừng; lại chẳng muốn mọi người coi có Tiều Cái, thì Tiều Cái tuy chưa chết ở trong tay Sử Văn Cung, song đã chết ngay ở trên tay mọi người trên sảnh dưới sảnh không hưởng ứng lời, đâu phải chỉ một ngày mà thôi vậy, như thế, ngày nay Tiều Cái chết ở tay Sử Văn Cung đã dư cái chết từ trước, cái chết của Tiều Cái vốn lâu rồi, thế mà Tiều Cái đến chết mới kinh hoảng, là thấy ở trên tay Sử Văn Cung của Tăng Gia Ngũ Hổ, vì Tống Giang thấy Tiều Cái ra đi, rồi đến chết, mà đành vậy. Cho nên từng khuyên đừng đánh Chúc Gia Trang, đừng đi đánh Cao Đường, đừng đi đánh Thanh Châu, Hoa Châu… thì đủ biết rằng đi đánh Tăng Gia thì cũng phải khuyên rồi, thế mà tác giả đối với những trận trước thì chép ra Tống Giang khuyên, đến lần này, chép bỏ sự khuyên đi, cho rõ cái ác tâm của Tống Giang để định tội vậy. Đó là thâm ý của tác giả, dùng ngòi bút kỳ quan chép sử, cho rõ cong ngay, nếu không đọc cổ bản, thì không thấy rõ.

Suốt thiên này đều dùng ngòi bút tả ra, cho rõ tội Tống Giang, muốn giết Tiều Cái, như gió thổi gãy cờ, chỉ một Ngô Dụng can thôi, đó là một tội; Đới Tung đi thám thính, giấu chuyện về báo, hai tội vậy; Năm tướng cứu chết, còn mọi người chỉ biết mình, ba tội vậy; Sao chủ soái sa, mọi người chẳng đổi về, bốn tội vậy; chỉ biết khóc lóc, không lo thuốc thang, năm tội vậy; Tiều Cái để lại lời thề, mà rằng chẳng quái, sáu tội vậy; Vội lên ngôi lớn, sắp đặt khác đi, bảy tội vậy; Bỏ mặc tang chế chẳng báo thù ngay, tám tội vậy; Thù lớn chưa xong, gặp thầy tăng rỗi bàn, chín tội vậy; Bỏ chết Thiên Vương, bắt sống Kỳ Lân, mười tội vậy.

Hồi thứ hai tả Thiếu Hoa Sơn, hồi thứ tư tả Đào Hoa Sơn, hồi mười sáu tả Nhị Long Sơn, hồi ba mươi mốt tả Bạch Hổ Sơn, đến hồi này tóm thâu hết lại, thực là kỳ bút, thế mà còn hiềm rằng cùng giống nhau, cùng giống nhau như sao? Như bày tất cả con cờ, đến kết cục cùng thu lại cả. Sau đọc đến thiên này, lại có thêm một Hỗn Thế Ma Vương, trước chưa từng có, bỗng đâu nảy ra, gặp một sự hư này, cùng với bốn sự thực kia, vậy sau biết đến văn chương có phép tương cứu vậy.