Hồi 10: Bất truyền, truyền bách biến – Vô địch, địch ngàn chiêu

Ngày hôm sau Viên Thừa Chí ngủ đến khi mặt trời lên ba sào mới chịu thức dậy. Tiêu Uyển Nhi đích thân bưng chậu rửa mặt và đồ điểm tâm vào phòng. Viên Thừa Chí vội đứng dậy đa tạ. Hồng Thắng Hải ở bên phục vụ cho Viên Thừa Chí.

Vừa rửa mặt xong, Mộc Tang đạo nhân đã cầm bàn cờ, Thanh Thanh cầm gói quân cờ, hai người cùng vào trong phòng. Thanh Thanh mỉm cười nói: “Hai người mê ngủ quá, mãi đến giờ này mới chịu thức dậy, bắt đạo trưởng chờ đợi nóng ruột đến phát điên. Mau mau dậy chơi cờ đi.”

Viên Thừa Chí nhìn nàng một cái, rồi mỉm cười. Thanh Thanh hỏi: “Cười cái gì vậy?”

Chàng vừa cười vừa hỏi lại: “Đạo trưởng cho Thanh đệ cái gì mà Thanh đệ ra sức giúp đạo trưởng tìm đối thủ?”

Thanh Thanh đáp: “Đạo trưởng vừa dạy cho muội một công phu. Công phu này rất kỳ diệu, người ta dùng tay đánh chân đá mình, mình chỉ cần chơi trò rượt bắt, chạy bên này né bên kia là người ta đừng hòng đánh trúng.”

Viên Thừa Chí chợt động tâm, liếc nhìn Mộc Tang đạo nhân, thấy lão đã nhặt hai quân cờ đen đặt lên góc bàn cờ, trên tay cầm một quân nữa gõ nhẹ lên bàn cờ phát ra những tiếng tinh tang, khóe miệng lộ ra một nét cười. Lúc trước chơi cờ trên Hoa Sơn, Viên Thừa Chí đã từng nhường Mộc Tang ba nước, nhưng bây giờ thì chơi ngang tay.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Cuộc hẹn với Nhị sư ca, Nhị sư tẩu ở Ngũ Hoa Đài đêm nay, không thể không đi. Nhìn thần sắc của Nhị sư tẩu, e rằng không thể không động thủ, mà mình lại không thể đánh với họ. Nhị sư ca xưng danh là Thần Quyền Vô Địch, mình dốc toàn lực cũng chưa chắc thắng. Giả tỉ nhường nhịn thì chắc chắn bị trọng thương, sơ sót thì mất luôn cả mạng. Đạo trưởng truyền thụ võ công cho cô ấy, hình như có thâm ý sâu xa.” Chàng bèn nói: “Chơi cờ thì chơi, nhưng đạo trưởng phải truyền cho con công phu đó mới được.”

Thanh Thanh mỉm cười nói: “Được rồi! Ai có mặt, người đó có phần. Thế là ca ca hiểu biết quy luật trong hắc đạo rồi.”

Nói giỡn mấy câu rồi Viên Thừa Chí ngồi xuống chơi cờ với Mộc Tang đạo nhân. Lúc này chàng cũng đã ít nhiều từng trải giang hồ, không hiếu thắng như thuở nhỏ nữa, đương nhiên hạ thủ lưu tình để Mộc Tang đạo nhân thắng cho khoái chí.

Sau bữa cơm trưa, Viên Thừa Chí cùng Thôi Thu Sơn ngồi ôn lại những chuyện từ lúc xa nhau. Viên Thừa Chí thì biết thế lực Sấm Vương mở rộng, không bao lâu sẽ tấn công vào kinh thành; còn Thôi Thu Sơn thì thấy người bạn nhỏ năm xưa đã học võ thành tài, cả hai đều cảm thấy vui mừng. Lát sau họ lại nói đến chuyện Thôi Hy Mẫn và An Tiểu Huệ mất vàng.

Thanh Thanh không ngớt ra hiệu với Viên Thừa Chí, gọi chàng ra. Thôi Thu Sơn mỉm cười nói: “Bạn ngươi gọi kìa, mau mau tới đi.”

Viên Thừa Chí đỏ ửng mặt lên, không vui lắm nhưng cũng rời khỏi đó. Thôi Thu Sơn cười cười đứng dậy đi chỗ khác.

Thanh Thanh cười nói: “Qua đây nhanh lên, để muội dạy lại công phu của đạo trưởng cho. Lúc đạo trưởng dạy cho muội, muội chẳng hiểu gì, nhưng đạo trưởng bảo là cố gắng nhớ lấy, sau này sẽ hiểu. Muội sợ để lâu lại quên mất hết.”

Nàng vừa nói vừa dùng tay chỉ trỏ, đem bộ khinh công tuyệt đỉnh Thần Hành Bất Biến của Mộc Tang đạo nhân truyền thụ lại cho Viên Thừa Chí.

Khinh công và ám khí của Mộc Tang đạo nhân đã độc bộ thiên hạ, pho khinh công Thần Hành Bất Biến này lại càng ảo diệu nhất. Trước đây trên núi Hoa Sơn, võ học của Thừa Chí còn nông cạn, không thể lãnh hội được, nên lão chưa dạy cho chàng.

Võ công Thanh Thanh tuy không giỏi lắm, nhưng trí nhớ của nàng cực tốt, suy nghĩ lại linh hoạt, biết Mộc Tang đạo nhân dạy mình là phụ, dạy cho Thừa Chí mới là chuyện chính. Nàng không hiểu tại sao lão phải bắt mình làm trung gian, nhưng đã cố gắng nhớ như chôn vào ruột, bây giờ nàng lặp lại y khuôn từng khẩu quyết, cách vận khí và bộ pháp. Viên Thừa Chí càng nghe càng lộ vẻ vui thích ra mặt.

Viên Thừa Chí đã tập luyện khinh công của Mộc Tang đạo nhân nhiều năm rồi. Bộ khinh công Thần Hành Bất Biến này biến hóa ảo diệu hơn nhiều, cần nội công thâm hậu để làm nền tảng, nhưng đạo lý cơ bản so với những môn khinh công trước đây chàng đã học thì không khác lắm. Lúc này võ công chàng đã có nhiều tiến bộ, nên vừa nghe yếu quyết là lãnh hội được ngay.

Có mấy chỗ Thanh Thanh không hiểu kỹ, Thừa Chí hỏi lại không biết đường trả lời, nàng phải chạy vào trong để hỏi Mộc Tang đạo nhân. Đến khi nàng lặp lại lần thứ hai thì Thừa Chí đã hoàn toàn hiểu rõ, lập tức chiếu theo khẩu quyết mà tập luyện trong đại sảnh.

Pho khinh công này chuyển biến thật là linh hoạt, giống như cá đang bơi trong nước vậy. Khi động thủ với người khác, nếu chỉ mong bảo vệ bản thân mình thì binh khí quyền cước của đối thủ không sao chạm vào được. Bây giờ Viên Thừa Chí mới hiểu dụng ý của Mộc Tang đạo nhân. Nhưng chàng biết võ công của Nhị sư ca rất tinh tuyền. Năm trước sư phụ từng nói, Đại sư ca là người hoạt kê hay đùa giỡn, không tránh khỏi có phần không chắc chắn. Còn Nhị sư ca thì thâm trầm mộc mạc, dụng công rèn luyện nên võ công rất có căn bản. Nhất định công lực của Nhị sư ca hơn hẳn Đại sư ca. Công phu này mới luyện chưa nhuần nhuyễn, chưa chắc đã tránh né thành công.

Viên Thừa Chí ngẫm nghĩ hồi lâu, đột nhiên nhớ đến lần đầu sư phụ truyền thụ võ công cho mình, dạy bộ Thập Đoạn Cẩm. Lúc đó chàng dùng hết sở học bình sinh cũng không sờ được chéo áo của sư phụ. Thần Hành Bất Biến của Mộc Tang đạo nhân linh hoạt vô cùng, nhưng từ đầu đến cuối đều là những chiêu tránh né, không hề phản kích. Do đó đối phương chẳng phải kiêng nể gì hết. Nếu kết hợp với công phu bản môn để cùng sử dụng, trong phòng ngự lại có tấn công, nhất định đối thủ phải phân tâm chia sức ra thủ thế. Lúc đó phòng ngự sẽ có hiệu quả hơn.

Viên Thừa Chí ngồi trong thư phòng nhắm mắt trầm tư, suy niệm lại từng chiêu thức một. Mọi người đều giữ ý không vào quấy nhiễu chàng. Đến khoảng giờ Thân, chàng đã nghĩ thông suốt hết, nhưng vẫn ngại có gì trục trặc nên muốn thử luyện tập một phen. Chàng bèn nhờ Tiêu Uyển Nhi cùng mười mấy huynh đệ, mỗi người xách một thùng nước lớn, đứng vây quanh luyện võ trường, mình đứng vào chính giữa rồi giơ tay làm hiệu.

Mọi người xung quanh dùng gáo múc nước, nhắm chàng mà tạt. Chàng hết nhảy lên lại hạ xuống, tránh tả né hữu, đến khi mười mấy thùng nước tạt hết, chỉ có tay áo bên phải và chân bên trái hơi ướt một chút. Mọi người đều bước lên khen tặng, chúc mừng chàng lại luyện thành một tuyệt kỹ mới.

Mộc Tang đạo nhân mặc kệ, cứ nằm ngáy o o trong phòng như chẳng biết gì.

Ăn tối xong, Viên Thừa Chí đi phó ước ở Ngũ Hoa Đài. Cha con Tiêu Công Lễ, Tiêu Uyển Nhi muốn đi theo để giải thích, Thanh Thanh thì muốn đi theo trợ giúp, nhưng Viên Thừa Chí đều lựa lời từ chối.

Thanh Thanh dẩu môi, ra vẻ không hài lòng. Viên Thừa Chí bèn nói: “Họ là sư ca, sư tẩu của ta. Tối nay ta chỉ bị đòn, không thể đánh trả được. Nếu Thanh đệ nhìn thấy tất sẽ nổi giận, há chẳng làm hỏng việc của ta?”

Thanh Thanh hỏi: “Huynh nhường họ ba chiêu là được rồi, chẳng lẽ không đánh trả từ đầu chí cuối?”

Viên Thừa Chí nói: “Ta sẽ đem công phu của Thanh đệ mới dạy ra áp dụng, xem thử sư ca sư tẩu có đánh trúng hay không.”

Thanh Thanh vỗ tay mỉm cười nói: “Thế thì Thanh đệ lại càng phải đi, chính mắt xem tên đồ đệ ngoan ngoãn biểu diễn võ công. Huynh sợ Thanh đệ đắc tội với sư ca sư tẩu của huynh, thì Thanh đệ không nói một câu nào là xong.”

Thừa Chí mỉm cười hỏi: “Thanh đệ chịu giả câm hay sao?”

Thanh Thanh đáp: “Muội không giả vờ. Muội bẩm sinh đã bị câm.” Rồi nàng quơ tay ra dấu, miệng ú ớ giống hệt người câm. Thừa Chí phì cười, đành phải để nàng đi cùng.

Chàng vào trong cáo từ Mộc Tang đạo trưởng, nhưng thấy lão nằm trên giường quay mặt vào tường, kêu mấy tiếng vẫn không dậy. Thôi Thu Sơn thì đi đâu từ trước rồi.

*

*   *

Hai người mượn nhà họ Tiêu hai con ngựa khỏe, khoảng canh hai đã tới Ngũ Hoa Đài, thấy bốn phía không có ai, liền xuống ngựa chờ đợi. Đợi khoảng nửa giờ, thấy phía đông có hai người chạy tới. Họ vỗ tay hai tiếng, Thừa Chí vỗ tay trả lời. Một người hỏi: “Viên sư thúc đến chưa?”

Nghe giọng biết là Lưu Bội Sinh, Viên Thừa Chí bèn đáp: “Ta đang ở đây chờ sư ca, sư tẩu.”

Lưu Bội Sinh cùng Mai Kiếm Hòa vừa đến gần, xa xa lại có tiếng một nữ nhân la lên: “Hay lắm! Thì ra ngươi đã đến.”

Nói vừa dứt câu, hai bóng người đã chạy tới trước mặt. Thanh Thanh giật mình nghĩ bụng: “Thân pháp hai người này nhanh quá”.

Mai và Lưu bước ra một bước nhường chỗ cho hai bóng người đó xông vào vòng chiến, đúng là vợ chồng Quy Tân Thụ và Quy nhị nương. Từ xa lại có người chạy tới, Viên Thừa Chí nhìn dáng dấp biết là Phi thiên ma nữ Tôn Trọng Quân. Công phu của ả kém sư phụ sư nương rất nhiều, chạy một hồi lâu mới đến nơi. Trên tay ả đang ẵm một đứa bé, chính là con của vợ chồng họ Quy.

Quy nhị nương lạnh lùng nói:

“Viên gia đúng là người giữ chữ tín. Vợ chồng ta còn việc quan trọng phải làm, đừng mất thời gian. Ra chiêu ngay đi.”

Viên Thừa Chí khom người thi lễ, cung kính nói: “Hôm nay tiểu đệ đến đây thỉnh tội sư ca, sư tẩu. Tiểu đệ đã làm gãy thanh bảo kiếm của sư tẩu, nhưng lúc đó thật sự không biết nên mới mạo muội. Xin sư ca sư tẩu nể mặt sư phụ mà rộng lòng bao dung.”

Quy nhị nương cười nhạt rồi nói: “Ngươi có phải là sư đệ của chúng ta hay không, bây giờ chưa biết. Qua chiêu rồi hẵng nói.”

Viên Thừa Chí vẫn thoái thác không chịu ra tay. Quy nhị nương thấy chàng cứ nhịn hoài, bèn nghĩ: “Nếu không phải đồ giả mạo, sao lại hèn nhát run sợ đến thế?” Mụ đột nhiên đưa tay trái lên, từ trên vỗ xuống.

Viên Thừa Chí vội ngửa người ra sau cho chưởng phong lướt qua trên đầu mũi, nghĩ thầm: “Không ngờ bà ta là nữ nhân mà chưởng pháp lợi hại như thế.”

Quy nhị nương đánh một chưởng không trúng, tay trái lại đưa lên, thi triển một chiêu trong Phá Ngọc Quyền của phái Hoa Sơn.

Loại quyền pháp này Viên Thừa Chí đã thuộc nằm lòng, nắm chắc phần thắng nên thõng hai tay xuống, ép sát vào người, tỏ ý tuyệt đối không đánh trả. Chàng lắc người một cái, triển khai khinh công Thần Hành Bất Biến dung hòa với công phu Thập Đoạn Cẩm, tìm chỗ sơ hở mà chạy qua chạy lại dưới cơn mưa quyền cước của Quy nhị nương. Mụ càng điên tiết, đánh luôn mười mấy chiêu liên hoàn gấp rút, thế như gió bão, nhưng đều bị chàng uốn mình tránh khỏi.

Quy Tân Thụ đứng bên nhìn thấy không khỏi kinh ngạc, thầm nghĩ: “Võ công của thiếu niên này sao lại tinh diệu như thế? Khinh công của hắn đúng là thân pháp bản môn, nhưng lại có mấy chỗ khác hẳn. Chẳng lẽ hắn là gian đồ phái khác, không hiểu làm cách nào học lén được võ công thượng thừa của bản môn?” Y lập tức chăm chú tinh thần theo dõi, chỉ sợ vợ mình bị thiệt thòi.

Quy nhị nương thấy Viên Thừa Chí không đánh trả, nghĩ thầm: “Ngươi coi thường ta như thế, phải cho ngươi biết mùi lợi hại!” Song quyền mụ vung lên như gió, càng đánh càng nhanh. Đối phương không đánh trả nên mụ hoàn toàn không cần phòng thủ, chiêu nào thức nào cũng là chiêu thức tấn công.

Viên Thừa Chí âm thầm kêu khổ, không ngờ lộ Phá Ngọc Quyền được Nhị sư tẩu sử dụng lợi hại như vậy, lại chỉ tấn công chứ không phòng thủ nên oai lực càng tăng. Chàng nghĩ bụng: “Tới lúc né tránh không nổi nữa, không chừng ta phải đưa tay ra mà đỡ mấy chiêu.”

Tôn Trọng Quân thấy Viên Thừa Chí buông thõng hai tay, mặc kệ cho sư nương mình công kích, nhưng đánh mãi cũng không trúng chiêu nào. Ả càng xem càng tức, liếc qua thấy Thanh Thanh đứng bên đang vui vẻ mỉm cười, bèn lập tức giao tiểu sư đệ trong tay cho Mai Kiếm Hòa, rút soạt trường kiếm tung người nhảy đến, đâm vào trước ngực Thanh Thanh.

Thanh Thanh giật mình, vội vàng né tránh. Nàng nghe lời Viên Thừa Chí dặn dò nên phen này không mang theo binh khí. Tôn Trọng Quân chém thêm mấy kiếm vun vút, tay chân Thanh Thanh lập tức loạng choạng. Võ công nàng vốn đã không bằng Tôn Trọng Quân, huống hồ lúc này tay không lại càng nguy hiểm muôn phần.

Viên Thừa Chí nghe nàng kinh hãi la lên, rất muốn chạy tới cứu viện, nhưng bị Quy nhị nương trói buộc không sao thoát ra được.

Quy Tân Thụ nhìn Tôn Trọng Quân, quát bảo: “Đừng hại mạng người ta.”

Tôn Trọng Quân nói: “Sư phụ! Tên này chính là con trai của Kim Xà Lang Quân. Hắn thiếu niên khinh bạc, từng gây họa rất nhiều.”

Quy Tân Thụ từng nghe võ lâm Giang Nam nói Kim Xà Lang Quân ra tay ác độc chẳng tử tế gì, nên không nói gì nữa. Tôn Trọng Quân thấy sư phụ thầm cho phép, nên ra chiêu vừa cấp bách vừa hiểm độc hơn. Bạch quang nháy động liền liền, rõ ràng Thanh Thanh sắp mất mạng trong khoảnh khắc.

Viên Thừa Chí thấy tình thế gấp rút, đột nhiên tung hai chân lên. Hai tay chàng vẫn ép vào bên hông, nhưng hai chân liên hoàn, trái trước phải sau đá liền sáu cước. Cả sáu cước đều sắp chạm vào người Quy nhị nương là lập tức thu hồi, ép mụ lùi luôn sáu bước. Nhờ đó mà Viên Thừa Chí thoát khỏi sự quấy rầy của Quy nhị nương.

Chàng tung người lên không, phóng lên phía trước, chĩa hai ngón tay trái ra điểm tới sau lưng Tôn Trọng Quân, toan đoạt lấy trường kiếm trong tay ả. Đột nhiên kế bên có một tiếng hú dài, kình phong quét tới ngang hông rất gấp. Thừa Chí không kịp tấn công nữa, phải lo đỡ đòn trước. Chàng đưa hữu chưởng móc lấy cổ tay người đó, tiện tay kéo tới. Nào ngờ người kia không nhúc nhích gì, còn chính chàng lại bị đẩy hất ra ngoài.

Viên Thừa Chí từ khi xuống núi đến nay chưa từng gặp ai có công lực đến thế. Chàng biết Nhị sư huynh đã xuất thủ, không khỏi kinh hãi nghĩ bụng: “Mình đã biết võ công của Nhị sư ca không phải tầm thường, nhưng không ngờ thân hình huynh ấy ốm nhỏ như vậy mà kình lực phi thường.”

Khi Viên Thừa Chí rơi xuống, thân hình chàng như một cây trụ cắm thẳng xuống đất, không lung lay chút nào. Chàng hô lớn: “Nhị sư ca! Tiểu đệ đắc tội.”

Tiếng hô chưa dứt, tả chưởng của Quy Tân Thụ đã đánh tới nơi. Lần này Viên Thừa Chí đã đề phòng, hơi nghiêng người một chút cho phát chưởng lệch đi. Đây chính là thân pháp hôm nay mới học, một trong những chiêu Thần Hành Bất Biến.

Vừa rồi xô đẩy một cái, Quy Tân Thụ đã nhận ra nội kình của Viên Thừa Chí hoàn toàn là Hỗn Nguyên Công của bản môn. Chiêu thức có thể học lén, nội lực thì phải đích thân truyền thụ. Chỉ trong khoảnh khắc một cái xô đẩy, y đã biết Viên Thừa Chí chính là tiểu đồ đệ mà sư phụ mình mới nhận. Chiêu thứ hai y ra tay như sấm sét, thấy rõ mình sắp đánh trúng vào vai Viên Thừa Chí. Y sợ mình đả thương sư đệ sẽ bị sư phụ la rầy, nên định khi phát chưởng trúng đích sẽ chuyển lực ngang qua một bên, chỉ để lại ba phần công lực. Nào ngờ đối phương linh hoạt dị thường, trong khoảng cách không chen được sợi tóc vẫn có thể né ra.

Quy Tân Thụ bất giác kinh hãi, la lên: “Thân pháp nhanh quá!”, rồi lại vung quyền đánh tới mấy chiêu liên tiếp. Quyền pháp của y giống hệt Quy nhị nương, nhưng công lực tùy ý mà thu phát, thật sự đã đạt tới cảnh giới lô hỏa thuần thanh.

Viên Thừa Chí vừa kinh hãi vừa thán phục, trong lòng nghĩ: “Chẳng trách Nhị sư ca nổi danh đến thế, đồ đệ của huynh ấy bước ra giang hồ đều được cao thủ võ lâm cung kính lạ thường. Thì ra võ công huynh ấy thật sự cao thâm.” Lúc này chàng không dám sơ suất chút nào nữa. Thân pháp Thần Hành Bất Biến vừa mới học, còn chưa thuần thục lắm, đối phó với Quy nhị nương thì có thừa, nhưng nếu tiếp chiêu với Nhị sư ca thì e rằng không tránh nổi mười quyền. Chàng phải triển khai tuyệt nghệ của sư môn, dùng Phá Ngọc Quyền để đỡ chiêu.

Quyền pháp hai người giống nhau, mọi biến hóa đều thuộc nằm lòng. Họ càng đánh càng nhanh, ý vừa khởi lên chiêu đã thu về, chưa chạm đối phương quyền đã dừng trước, có thể nói là thuần thục vô cùng. Hồi Viên Thừa Chí luyện chiêu với sư phụ trên núi Hoa Sơn cũng hệt thế này. Nhưng khi đối chiêu với sư phụ thì chàng biết rõ không bị nguy hiểm, còn Nhị sư ca thì quyền nào chưởng nào cũng rất nặng nề, nhất định không thể để dính vào mình. Thanh Thanh đang nguy cấp, thế mà chàng không đủ thời gian để nhìn nàng một cái nào.

Chỉ trong chớp nhoáng, lưng Viên Thừa Chí đã thấm đẫm mồ hôi lạnh. Chàng gấp rút qua cứu Thanh Thanh, nên xuất chiêu bằng hết sức lực của mình, không nể nang tình nghĩa gì nữa. Chàng nghĩ bụng: “Nếu Thanh đệ mất mạng ở đây, thì huynh là sư ca mặc kệ, ta cũng phải giết.”

Bên kia Tôn Trọng Quân thấy Viên Thừa Chí bị sư phụ mình ngăn trở, trong lòng mừng rỡ nên kiếm pháp càng lợi hại hơn. Lưu Bội Sinh và Mai Kiếm Hòa đồng thời kêu gọi: “Sư muội! Không được giết người!”

Tiếng kêu chưa dứt, Tôn Trọng Quân đã đưa kiếm đâm đến trước ngực Thanh Thanh rồi. Thanh Thanh vội vàng nhào ngửa ra sau, lộn một vòng tránh được. Tôn Trọng Quân xoay ngược kiếm chém ngang, Thanh Thanh cúi đầu xuống né. Khăn buộc đầu nàng bị chém rơi xuống, mái tóc dài xõa ra che hẳn khuôn mặt. Tôn Trọng Quân thấy Thanh Thanh là nữ nhân, hơi ngẩn ra một chút, nhưng vẫn phóng kiếm đâm nữa. Chiêu này thì Thanh Thanh hết đường tránh né.

Đột nhiên trên đỉnh đầu có một giọng già nua thét lên: “Con bé này quá ác độc!”

Một bóng đen từ ngọn cây phóng xuống, vung chân đá thanh trường kiếm bay đi. Tôn Trọng Quân kinh hãi lùi lại hai bước, dưới ánh trăng nhìn lại thấy đó là một đạo nhân râu mày bạc phếch, đứng cản trước mặt Thanh Thanh. Ả và hai người Mai, Lưu đều không biết lão đạo này là ai. Quy nhị nương nhận ra đây là Mộc Tang đạo nhân, hảo bằng hữu của sư phụ mình, lập tức bước đến thi lễ.

Mộc Tang đạo nhân mỉm cười bảo: “Đừng thi lễ vội, xem hai huynh đệ chúng luyện võ đã.”

Quy nhị nương quay lại nhìn chồng mình, thấy hai bóng người nhảy qua nhảy lại lộng gió vù vù, ác đấu càng lúc càng kịch liệt. Quy Tân Thụ thì kình lực mạnh, chiêu thức chậm; còn Viên Thừa Chí thì thân pháp linh hoạt. Một người thì thuần thục võ nghệ bản môn, một người thì học được sở trường ba phái. Hai bên tỉ đấu ngang tay, khó phân cao thấp.

Lúc đầu Viên Thừa Chí phải lo lắng đến Thanh Thanh, trong lòng không tránh khỏi phân tâm. Bây giờ chàng thấy Mộc Tang đạo nhân đã đến cứu viện, bèn tập trung lại tinh thần để đối chiêu với sư huynh. Trận đấu bây giờ không hung hãn nữa, nhưng mỗi lúc một khẩn trương. Phục Hổ Chưởng, Bích Thạch Quyền, Phá Ngọc Quyền, Hỗn Nguyên Chưởng, những môn võ công thượng thừa của bản môn đều được đem ra sử dụng. Dù sao công lực của Viên Thừa Chí cũng nông cạn hơn, tu tập không lâu bằng Quy Tân Thụ, nên đấu tới gần một ngàn chiêu thì chàng ở vào thế hạ phong.

Quy nhị nương thấy chồng mình mỗi lúc một công nhiều thủ ít, âm thầm mừng rỡ. Mụ thấy Viên Thừa Chí thuần thục công phu bản môn như vậy, biết chàng thật sự là sư đệ của mình, không còn nghi ngờ gì nữa. Thấy quyền thuật chàng tinh diệu, mụ không khỏi phục thầm.

Đánh thêm mấy chục chiêu, Viên Thừa Chí đột nhiên thay đổi quyền pháp, thân hình như một con rắn nước lướt qua lướt lại. Đây chính là Kim Xà Du Thân Chưởng do Kim Xà Lang Quân sáng chế khi ngắm nhìn một con rắn nước đang bơi lội. Pho chưởng pháp này có rất nhiều chiêu số dùng biện pháp hiểm độc để thủ thắng, nhưng lúc này Viên Thừa Chí bỏ đi không dùng. Chàng pha thêm vào đó khinh công Thần Hành Bách Biến và Thập Đoạn Cẩm.

Viên Thừa Chí lúc tiến lúc lùi, đột nhiên phía này đột nhiên phía kia, mọi người đứng xem đều hoa cả mắt. Quyền pháp của Quy Tân Thụ tuy cao, nhưng y không hiểu thân pháp của đối thủ nên không biết xuất thủ đánh vào chỗ nào cho trúng. Y không khỏi cấp bách, lo lắng trong lòng: “Mình xưng danh là Thần Quyền Vô Địch, nhưng đấu với tiểu sư đệ trên ngàn chiêu vẫn không làm gì được. Thế là ngoại hiệu của mình có phần quá đáng rồi.”

Viên Thừa Chí đang lạng qua lạng lại, đột nhiên Quy Tân Thụ nhảy ra ngoài kêu lớn: “Khoan đã!”

Viên Thừa Chí vội vã đứng lại, nói: “Vâng!” Chàng nghĩ: “Sư huynh đánh mãi không trúng mình, hai bên coi như ngang nhau, ngừng đấu để cùng giữ thể diện là hơn.”

Bỗng thấy Quy Tân Thụ chắp tay vái lạy lên không trung, hô lên: “Sư phụ! Lão nhân gia đã đến rồi.”

Viên Thừa Chí kinh hãi, lúc đó mới nhìn thấy trên cành cây có bốn người nối nhau tung người xuống, người đầu tiên đúng là ân sư Mục Nhân Thanh. Chàng cả mừng, vội chạy tới bái lạy. Khi đứng dậy, nhìn thấy phía sau sư phụ là Thôi Thu Sơn và đại sư huynh Đồng bút thiết toán bàn Hoàng Chân, còn người cuối cùng chính là ông câm.

Viên Thừa Chí đột nhiên gặp gỡ ân sư và cố nhân, mừng rỡ đưa tay ra hiệu với ông câm mấy cái. Chàng nghĩ: “Dù sao kinh nghiệm mình cũng rất nông cạn, mải lo chiết chiêu với Nhị sư huynh mà không để ý tình thế xung quanh. Nếu người nấp trên cây không phải là sư phụ, không chừng mình phải trúng ám toán của người khác. Còn Nhị sư huynh thì mắt nhìn sáu phương tai nghe tám hướng, đại hành gia trên giang hồ rốt cuộc khác hẳn người thường.” Bất giác trong lòng chàng vô cùng thán phục.

Mục Nhân Thanh xoa đầu Viên Thừa Chí, mỉm cười nói: “Đại sư ca của ngươi đã kể những chuyện ở Phù Châu, tỉnh Chiết Giang. Việc đó ngươi xử lý không đến nỗi tồi.”

Sau đó ông trầm hẳn mặt xuống, nghiêm giọng hỏi: “Còn trẻ sao không biết tôn kính tôn trưởng, đánh nhau với sư ca sư tẩu thế này?”

Viên Thừa Chí cúi đầu nói: “Đệ tử có điều không phải, lần sau nhất định không dám nữa.” Sau đó chàng đi tới trước mặt vợ chồng Quy Tân Thụ, khom lưng vái lạy mà nói: “Tiểu đệ xin thỉnh tội với sư ca, sư tẩu.”

Quy nhị nương tính tình thẳng thắn, bèn nói với Mục Nhân Thanh: “Sư phụ! Sư phụ đừng trách sư đệ động thủ. Đó là vợ chồng chúng con đã ép sư đệ. Chúng con trách sư đệ dùng võ công của phái khác để làm nhục mấy tên đồ đệ bất tài này.” Nói xong, mụ chỉ sang ba người Mai Kiếm Hòa.

Mục Nhân Thanh nói: “Nói đến chuyện môn hộ, ta lại không hiểu. Kiếm Hòa, qua đây ta hỏi. Viên sư thúc của ngươi động thủ với sư huynh, thì sư thúc không tốt. Còn ba người các ngươi, sao lại đối chiêu với sư thúc? Môn hộ chúng ta có tôn ti trật tự, chẳng lẽ mọi người không cần tuân thủ hay sao?”

Trước mặt sư tổ Mai Kiếm Hòa không dám giấu giếm, bèn kể lại đầu đuôi câu chuyện Mẫn Tử Hoa mời mình đi báo thù. Khi nhắc đến việc Tôn Trọng Quân chặt đứt cánh tay người khác, hắn chỉ nói đơn giản là ả ra tay động thủ với một đồ đệ của Tiêu Công Lễ. Hắn nhấn mạnh vào chuyện Viên Thừa Chí đạp gãy thanh trường kiếm Quy nhị nương tặng Tôn Trọng Quân.

Thanh Thanh nhịn không nổi, nói xen vào: “Lão sư phụ! Vị Phi Thiên Ma Nữ này vô cớ phóng kiếm chặt đứt cánh tay người khác. Người đó chỉ phụng mạng sư phụ đến đưa thư mời khách, không hề phòng bị, tay không tấc sắt. Viên đại ca nói, môn nhân phái Hoa Sơn không thể lạm sát vô cớ. Huynh ấy nhìn thấy việc này, không thể không can thiệp, nếu bị sư phụ trách phạt cũng đành chịu, nên mới đứng ra. Huynh ấy còn nói, đắc tội với sư ca sư tẩu không khỏi trong lòng áy náy, nhưng không có cách gì khác.”

Nàng biết Viên Thừa Chí không giỏi nói năng mà cũng không thích tự biện minh cho mình, nên mới lên tiếng giùm chàng. Sau đó nàng quay qua khẽ nói với Viên Thừa Chí: “Kẻ câm đã mở miệng rồi. Xin lỗi nhé.”

Sắc mặt Mục Nhân Thanh lạnh băng như sương sớm, trầm giọng hỏi: “Có thật vậy không?”

Vợ chồng họ Quy không biết việc này, cùng nhìn Tôn Trọng Quân. Mai Kiếm Hòa khẽ đáp: “Sư tổ gia gia! Lúc đó Tôn sư muội tưởng hắn là kẻ xấu, nên ra tay không dung tình. Bây giờ sư muội đã hối hận rồi, xin sư tổ tha thứ.”

Mục Nhân Thanh nổi giận quát lên: “Giới luật lớn nhất của phái Hoa Sơn chúng ta, chính là không được lạm thương vô cớ. Tân Thụ! Khi ngươi nhận đứa đồ đệ này, có dạy cho nó biết hay không?”

Trước giờ Quy Tân Thụ chưa từng thấy sư phụ tức giận ghê gớm đến thế, vội quỳ xuống đáp: “Đệ tử dạy dỗ sơ sót, thật là không phải. Xin sư phụ bớt giận! Đệ tử nhất định sẽ trách phạt nó đến nơi đến chốn.”

Bốn người Quy nhị nương, Mai, Lưu, Tôn cùng quỳ phía sau Quy Tân Thụ. Mục Nhân Thanh không bớt giận, mắng sang Viên Thừa Chí: “Ngươi đã gặp việc này, sao chỉ bẻ gãy kiếm rồi thôi, coi như xong việc? Sao không chặt đứt một cánh tay của ả? Chúng ta không tự tẩy rửa môn hộ, há chẳng để bằng hữu giang hồ sỉ vả chê cười?”

Viên Thừa Chí quỳ xuống khấu đầu, đáp: “Vâng, vâng! Đệ tử xử trí không đúng.”

Mục Nhân Thanh lại nói: “Còn cô gái này…” Ông chỉ Thanh Thanh, hỏi Tôn Trọng Quân: “Cô gái này phạm vào tội ác nào không thể tha thứ, mà ngươi liên tiếp ra chín chiêu đoạt mạng, chưa giết người quyết chẳng chịu thôi? Ngươi qua đây.”

Tôn Trọng Quân hoảng sợ đến nỗi hồn lìa khỏi xác, nhất định không dám bước qua. Ả nằm rạp xuống đất, vừa dập đầu lia lịa vừa nói: “Đồ tôn tưởng cô ấy là nam nhân, là loại sở khanh…”

Mục Nhân Thanh giận dữ nói: “Ngươi đã chém rớt khăn bịt đầu, thấy rõ cô ấy là nữ nhân rồi, nhưng vẫn tiếp tục hạ độc thủ. Hơn nữa, chẳng lẽ gặp nam nhân thì có thể lạm sát ư? Cứ nghe bốn chữ ngoại hiệu Phi Thiên Ma Nữ cũng biết cách xử thế từ xưa đến giờ của ngươi. Ngươi không chịu qua đây phải không?”

Quy nhị nương biết chắc sư phụ sẽ điểm huyệt cho Tôn Trọng Quân thành phế nhân, tước bỏ võ công. Mụ bèn khấu đầu năn nỉ: “Sư phụ! Xin lão nhân gia bớt giận. Khi trở về, đệ tử nhất định sẽ trách phạt nó nặng nề.”

Mục Nhân Thanh bảo: “Ngươi chặt đứt cánh tay của nó đi, ngày mai cầm qua nhà họ Tiêu mà thỉnh tội.”

Quy nhị nương không dám nói gì nữa. Viên Thừa Chí lên tiếng: “Đồ nhi đã xin lỗi gia đình họ Tiêu, còn giúp họ một việc lớn, cứu mạng bang chủ của họ, lại hứa dạy một môn võ công cho nạn nhân. Về phía nhà họ Tiêu thì không cần lo lắng nữa.”

Mục Nhân Thanh “hừ” một tiếng rồi nói: “Rất may Mộc Tang đạo huynh không phải người ngoài, không thì ông ấy phải cười cho. Ông ấy thật là thông minh, biết sợ loại học trò mất dạy, nên suốt đời không chịu nhận đồ đệ để tránh khỏi chết vì tức giận. Các ngươi đứng dậy cả đi.”

Sau khi mọi người đứng dậy, Mục Nhân Thanh trừng mắt nhìn Tôn Trọng Quân một cái. Tôn Trọng Quân hoảng sợ, chân nhũn ra lại quỳ xuống. Mục Nhân Thanh bảo: “Đưa kiếm tới đây.”

Tim Tôn Trọng Quân đập nghe ầm ầm, nhưng ả chỉ còn cách hai tay bưng kiếm đặt lên đỉnh đầu, dâng lên sư tổ.

Mục Nhân Thanh nắm lấy chuôi kiếm, rung tay một cái. Tôn Trọng Quân thấy tay trái nhói lên, máu tươi chảy đầm đìa, thì ra ngón tay út đã bị sư tổ chém rơi xuống đất. Mục Nhân Thanh rung tay một cái nữa, thanh trường kiếm lập tức gãy thành hai khúc. Ông quát lên: “Từ nay về sau không cho phép ngươi dùng kiếm nữa.”

Tôn Trọng Quân ráng nén cơn đau, trả lời: “Vâng! Đồ tôn biết lỗi.” Ả vừa sợ hãi vừa xấu hổ, nước mắt chảy ào ra.

Quy nhị nương xé một góc áo, bó vết thương cho ả rồi nhỏ nhẹ dỗ dành: “Được rồi, sư tổ không phạt con thêm nữa đâu.”

Mai Kiếm Hòa nhìn thấy sư tổ rung tay mà trường kiếm gãy lìa, bây giờ mới biết Viên Thừa Chí liên tiếp chấn gãy trường kiếm trong tay mình đúng là công phu của bản môn. Hắn nghĩ thầm: “Thì ra võ thuật bản môn tinh diệu đến thế. Mình chỉ học được tí xíu ngoài da đã ra ngoài diễu võ giương oai rồi.” Hắn nghĩ đến những chuyện cuồng vọng ngạo mạn trước đây, vừa kinh hãi vừa xấu hổ, lại sợ sư tổ trách phạt, không kìm nổi mồ hôi lạnh toát đầy người.

Mục Nhân Thanh trừng mắt nhìn hắn một cái, không nói gì. Ông quay lại hỏi Viên Thừa Chí: “Ngươi đã hứa truyền thụ công phu cho người ta, thì phải dạy dỗ đàng hoàng. Ngươi dạy cái gì?”

Viên Thừa Chí đỏ mặt lên đáp: “Đệ tử chưa được sư phụ đồng ý, không dám đem võ công bản môn dạy cho người khác, định truyền cho y bộ Độc Tí Đao Pháp. Đó là một môn tạp học mà đệ tử vô ý học được.”

Mục Nhân Thanh nói: “Tạp học của ngươi hơi bị nhiều rồi đấy. Vừa rồi ta thấy ngươi đối chiêu với Nhị sư ca, hình như đã dùng công phu Thần Hành Bách Biến của Mộc Tang đạo trưởng. Có một vị kỳ hữu kế bên trợ giúp, Nhị sư ca dĩ nhiên không làm gì được ngươi.”

Nói xong ông cười ha hả. Mộc Tang đạo nhân mỉm cười hỏi: “Thừa Chí! Ngươi dám nói dối trước mặt sư phụ hay không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Đệ tử không dám.”

Mộc Tang đạo nhân nói: “Được, vậy ta hỏi ngươi! Từ khi rời khỏi Hoa Sơn, ta có dạy võ công cho ngươi hay không? Nghe cho kỹ, ta có dạy cho ngươi hay không?”

Viên Thừa Chí bây giờ mới hiểu, Mộc Tang đạo nhân nhờ Thanh Thanh truyền thụ vì sợ sư phụ và Nhị sư ca trách móc. Vị đạo trưởng này linh mẫn, lắm mưu nhiều trí, hình như đoán trước được toàn bộ sự việc rồi. Chàng bèn đáp: “Trên núi Hoa Sơn đạo trưởng đã truyền cho đệ tử không ít công phu, đệ tử cảm kích không bao giờ hết. Từ lúc xuống núi Hoa Sơn, đạo trưởng chưa đích thân dạy cho đệ tử võ công. Lần này gặp mặt chỉ mới chơi hai ván cờ.”

Chàng nghĩ: “Tuy câu này không phải là nói dối, nhưng hàm ý vẫn là dối trá, ít ra cũng có chỗ gian xảo. Nhưng bây giờ nói rõ thì Nhị sư ca chắc chắn sẽ trách đạo trưởng. Đợi lát nữa Nhị sư ca rời khỏi đây, ta phải kể rõ lại tình hình cho sư phụ biết.”

Mộc Tang đạo nhân mỉm cười nói: “Vậy là đúng rồi. Ngươi tiếp tục luyện chiêu với sư ca đi. Tất cả võ công trước đây ta từng dạy, một chiêu ngươi cũng không được dùng.”

Viên Thừa Chí nói: “Nhị sư ca biệt hiệu là Thần Quyền Vô Địch, quả nhiên danh bất hư truyền. Đệ tử đã chống đỡ không nổi, chỉ còn biết tránh né. Đang định nhận thua, xin Nhị sư ca dừng tay, không ngờ Nhị sư ca đã nhìn thấy sư phụ. Lúc đệ tử đối chiêu, thật không đủ khả năng lo liệu đến những việc xung quanh.”

Mục Nhân Thanh mỉm cười bảo: “Được rồi, được rồi! Đạo trưởng đã bảo các ngươi luyện chiêu thì cứ luyện, xấu hổ một tí đã sao?”

Viên Thừa Chí không còn cách nào thoái thác, bèn đi đến trước mặt Quy Tân Thụ, chắp tay nói: “Xin Nhị sư ca chỉ giáo.”

Quy Tân Thụ chắp tay đáp: “Không cần khách sáo.” Y quay lại bẩm với Mục Nhân Thanh: “Chúng con có sai sót gì, xin sư phụ chỉ điểm thêm.” Hai người lại bắt đầu tỉ thí.

Trận đấu này khác hẳn vừa rồi. Trước mặt Mộc Tang đạo nhân, sư phụ, đại sư huynh cùng bọn đồ đệ, Quy Tân Thụ quyết không chịu mất mặt. Lúc y tấn công thì nhanh mạnh như sấm chớp, lúc thủ thế thì vững chắc như núi cao, thân thủ danh gia quả nhiên cao diệu.

Viên Thừa Chí cũng có công có thủ, dùng toàn tuyệt kỹ của sư môn. Trong vòng một trăm chiêu, quyền pháp hai người hoàn toàn không sơ suất chút nào. Mục Nhân Thanh và Mộc Tang đạo nhân đứng bên cùng vuốt râu mỉm cười.

Mộc Tang nói: “Đúng là trong cửa danh sư ắt có cao đồ, dưới tay tướng mạnh không có quân hèn. Xem hai vị hiền đồ, lão đạo này phải ghen đến đỏ mắt lên, hối hận năm xưa sao không dạy dỗ mấy đứa đồ đệ đàng hoàng.”

Mới nói có thế, hai đối thủ đã qua lại thêm mấy chục chiêu. Quy Tân Thụ đánh mãi vẫn không hạ được đối phương, nên dần dần gia tăng kình lực, thế công dũng mãnh hơn. Viên Thừa Chí thấy tỉ thí đã lâu, tới lúc mình nên nhường nhịn. Nhưng chiêu nào của Quy Tân Thụ cũng vô cùng lợi hại, nếu không ra sức đón đỡ thì lập tức trọng thương ngay. Chàng muốn nhường sư huynh một chiêu, thật là vô cùng khó.

Cầm cự một lát nữa, chàng bỗng nghĩ: “Vừa rồi sư phụ có ý trách mình tham lam, thích nghiên cứu tạp học phái khác, không tán đồng lắm. Lúc nãy mình sử dụng hoàn toàn quyền pháp bản môn, sau mấy trăm chiêu phải ở thế hạ phong, đến khi dùng công phu của Mộc Tang đạo trưởng và Kim Xà Lang Quân thì hơi thắng thế. Bây giờ nếu mình chỉ thi triển võ công bản môn mà chịu thua, há chẳng phải nói võ công phái khác giỏi hơn võ công phái mình? Bây giờ mình phải dùng võ công phái khác để thua huynh ấy. Đạo trưởng đã không cho phép mình dùng võ công của ông ấy, thế thì mình thi triển võ công của Kim Xà Lang Quân vậy.” Chàng lập tức thay đổi đấu pháp, sử dụng bộ Kim Xà Chế Hạc Quyền.

Quy Tân Thụ thấy chiêu đỡ chiêu, thế công vẫn không chậm trễ. Viên Thừa Chí đột nhiên xuất liền bốn quái chiêu, y mới hơi kinh hãi, thu quyền về cản trở. Viên Thừa Chí hít được một hơi chân khí, liền vận khí sẵn sàng sau lưng.

Quy Tân Thụ thấy sau lưng sư đệ có chỗ sơ suất, lập tức tấn công ngay theo phản xạ của người học võ. Y không kịp suy nghĩ sâu hơn, phát chưởng đánh trúng vào giữa lưng đối thủ. Viên Thừa Chí đã chuẩn bị sẵn, vọt người tới trước, loạng choạng bốn năm bước rồi quay lại nói: “Tiểu đệ thua rồi.”

Quy Tân Thụ vừa phóng chưởng đã hối hận ngay, sợ sư đệ bị trọng thương nên vội chạy tới đỡ. Thấy Viên Thừa Chí không sao, y vừa kinh ngạc vừa nổi dạ nghi ngờ. Thì ra Viên Thừa Chí đã vận khí thủ sẵn sau lưng, thừa thế phóng lên phía trước để tiêu giảm chưởng lực của đối phương, lại được cái áo kim ti của Mộc Tang đạo nhân tặng cho bảo hộ. Tuy trên lưng chàng hơi đau, nhưng chưa bị nội thương.

Khi Viên Thừa Chí quay người lại, mọi người đều thấy lưng áo chàng rách bươm. Một cơn gió thổi qua, những mảnh vải vụn bay phất phơ như đàn bướm. Thanh Thanh vô cùng lo lắng, vội chạy tới hỏi: “Có sao không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Thanh đệ yên tâm.”

Mục Nhân Thanh bảo Quy Tân Thụ: “Công phu của ngươi đúng là có tiến bộ. Nhưng chiêu này hơi ác, ngươi có biết không?”

Quy Tân Thụ đáp: “Vâng! Võ công Viên sư đệ rất giỏi, đệ tử cũng phải thán phục.”

Mục Nhân Thanh nói: “Công lực bản môn của sư đệ không tinh thuần bằng ngươi, còn kém rất xa.” Ông dừng một lát rồi nói tiếp: “Trước đây ta từng nghe nói vợ chồng ngươi chiều chuộng đồ đệ, bên ngoài tai tiếng rất nhiều. Ta vẫn nghĩ vợ ngươi không hiểu đạo lý, chứ ngươi thì chưa phải loại người như vậy. Nhưng vừa rồi thấy ngươi đối phó với sư đệ của mình… Hừ!”

Quy Tân Thụ cúi đầu xuống nói: “Đệ tử biết lỗi rồi.”

Mộc Tang vội lên tiếng: “Tỉ võ chiết chiêu, ra tay chẳng ai dung tình được. Thừa Chí lại không bị thương, lão già kia còn nói gì nữa?”

Nghe vậy Mục Nhân Thanh mới im không nói tiếp.

Phu phụ Quy Tân Thụ thành danh đã lâu, hiện nay rõ ràng là lãnh tụ võ lâm Giang Nam. Lần này bị sư phụ trách mắng trước mặt đông người như vậy, vì sư ân sâu nặng nên họ không dám trách cứ sư phụ, bèn đem mối hận trút qua Viên Thừa Chí. Quy Tân Thụ cũng biết sư đệ có ý nhường nhịn, nhưng bị sư phụ trách mắng nên y không nghĩ đến hảo ý đó nữa.

Mục Nhân Thanh lên tiếng: “Mùa thu năm nay Sấm Vương sẽ cử sự. Các ngươi hãy triệu tập môn hạ, lập tức ra tay liên lạc với võ lâm hào kiệt Giang Nam. Khi quân khởi nghĩa của Sấm Vương tiến về hướng nam, phải lập tức phất cờ hưởng ứng.”

Phu phụ Quy Tân Thụ lên tiếng vâng dạ.

Mục Nhân Thanh nhìn sang Quy Tân Thụ, sắc mặt ra vẻ từ hòa, dịu dàng nói: “Tân Thụ! Ngươi đừng nghĩ ta thương tiểu sư đệ hơn. Tuy rằng tuổi ngươi không còn nhỏ, nhưng trong lòng ta thì ngươi vẫn là một tên tiểu đồ đệ, chẳng khác gì năm xưa mới lên núi Hoa Sơn.”

Quy Tân Thụ cúi đầu xuống, trong lòng cảm thấy ấm áp ngay. Y nói: “Đệ tử quyết không nghĩ đến chuyện sư phụ thiên ái sư đệ.”

Mục Nhân Thanh nói: “Tính tình của ngươi xưa nay thẳng thắn. Ba mươi năm nay ngươi chuyên tâm luyện võ, những việc bên ngoài càng ít suy nghĩ tới. Nhưng việc trong thiên hạ, không chỉ dựa vào võ công cao cường mà lo liệu được. Khi gặp đại sự phải suy nghĩ tiền nhân hậu quả, tuyệt đối không được dễ dàng tin lời người khác.”

Quy Tân Thụ nói: “Vâng! Đệ tử sẽ cố ghi nhớ những điều sư phụ chỉ dạy.”

Mục Nhân Thanh quay sang bảo Viên Thừa Chí: “Ngươi và người bạn nhỏ này hãy đi Bắc Kinh thám thính động tĩnh của triều đình, nhưng tuyệt đối không được vạch cỏ động rắn làm kinh động người khác, cũng không được hại mạng hoàng đế và các đại thần trong triều. Nếu thám thính được tin tức gì quan trọng, hãy tới Thiểm Tây để báo tin.”

Viên Thừa Chí vâng dạ.

Mục Nhân Thanh lại nói: “Tối nay ta còn phải đi gặp Minh chủ Thất thập nhị đảo Trình Khởi Vân và Thập Lực đại sư của Thanh Lương Tự. Nghe nói Thập Lực đại sư vừa nhận được pháp chỉ của trụ trì Thanh Lương Tự Ngũ Đài Sơn, phái đi tiếp nhận chức trụ trì Thanh Lương Hạ Viện ở tỉnh Hà Nam. Một là ta đến chúc mừng, hai là muốn thương lượng cùng ông ấy một số việc về võ lâm tỉnh Hà Nam. Đạo huynh! Còn đạo huynh đi đâu?”

Mộc Tang đạo nhân đáp: “Các vị là trung thần nghĩa sĩ vì nước vì dân, suốt ngày bận rộn như ngựa không dừng vó. Còn lão đạo này giống như dã hạc nhàn vân. Ta muốn làm chậm trễ tiểu đồ đệ của ông mấy ngày, có được không?”

Mục Nhân Thanh mỉm cười đáp: “Dù sao nó cũng đã hứa dạy người ta võ công, phải ở lại Nam Kinh mấy ngày. Ông cứ ở lại mà chơi với nó mấy ván cờ, còn bao nhiêu bản lãnh về kỳ đạo và võ công thì tiện thể đem ra dạy nó một thể cho rồi.”

Mộc Tang đạo nhân bỗng dưng ủ rũ, ảm đạm nói: “Sau mấy ván cờ này, không biết sau này còn được chơi nữa hay không?”

Mục Nhân Thanh ngơ ngác hỏi: “Sao đạo huynh lại nói thế? Trước mắt dân chúng còn bị vùi trong dầu sôi lửa bỏng, đại sự chỉ vài tháng nữa là có thể thành công. Sau này bốn phương yên ổn, thiên hạ thái bình, bá tính an cư lạc nghiệp, chúng ta không có việc để làm. Đừng nói là Thừa Chí, ngay cả ta cũng có thể chơi cờ với đạo huynh hàng ngày.”

Mộc Tang lắc đầu nói: “Chưa chắc, chưa chắc! Biến cũ vừa xong, biến mới lại phát sinh. Trong bàn cờ còn có cờ trắng cờ đen, thì vạn kiếp tuần hoàn không bao giờ tận.”

Mục Nhân Thanh cười rộ lên nói: “Nhiều ngày không gặp, đạo huynh ngộ đạo càng cao thâm. Huyền cơ đó thì bọn phàm tục chúng ta không sao hiểu nổi.”

Ông vừa cười ha hả vừa chắp tay từ biệt. Hoàng Chân và Thôi Thu Sơn đi theo, còn ông câm đưa tay ra hiệu muốn đi cùng Thừa Chí. Mục Nhân Thanh mỉm cười bảo: “Ngươi nhớ người bạn nhỏ thì cứ đi theo nó.”

Ông câm cả mừng, chạy qua ôm Viên Thừa Chí lên, tung chàng lên cao, đợi chàng rơi xuống rồi đưa tay đón lấy. Đó là một trò đùa quen thuộc của hai người khi ở Hoa Sơn. Bây giờ Thừa Chí đã lớn, thân hình to nặng, nhưng ông câm thần lực kinh người, vẫn có thể ném chàng lên rất cao.

Thanh Thanh hoảng sợ nhảy chồm lên, dưới ánh trăng nhìn rõ gương mặt Viên Thừa Chí đầy vẻ hân hoan, mới biết ông câm hoàn toàn không có ác ý.

Sau đó ông câm mở cái bọc trên lưng, lấy ra một thanh kiếm giao cho Viên Thừa Chí. Đó chính là cây Kim Xà Kiếm. Thì ra lần trước y từng theo Viên Thừa Chí vào sơn động, cắm trả thanh Kim Xà Kiếm về chỗ cũ. Lần này rời núi, nghe Mục Nhân Thanh nói là đi gặp Viên Thừa Chí, y nghĩ: “Trên núi không còn ai, không khéo thanh bảo kiếm này sẽ bị trộm mất.” Y bèn chui vào trong động, rút thanh kiếm ra giấu vào trong bọc, ngay cả Mục Nhân Thanh cũng không biết.

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Thanh kiếm này là di vật của phụ thân Thanh đệ, mình tạm thời cất giữ. Sau này mình sẽ truyền Kim Xà Kiếm Pháp cho nàng, rồi trả kiếm luôn một thể.”

Thanh Thanh cầm thanh kiếm lên ngắm nghía, nghĩ đến phụ thân cùng mẫu thân, trong lòng rầu rĩ không sao tả xiết.

Viên Thừa Chí cùng sư phụ mới gặp mặt đã chia tay, lưu luyến không nỡ rời xa. Mục Nhân Thanh mỉm cười nói: “Ngươi giỏi lắm! Ta rất mừng, không uổng một phen dạy dỗ.” Ông phất tay áo bào một cái, khuất vào trong bóng tối.

Phu phụ Quy Tân Thụ chắp tay tiễn đưa. Đợi sư phụ cùng đại sư huynh rời khỏi, họ chắp tay hướng về Mộc Tang đạo nhân khom lưng vái lạy, không nói tiếng nào, ôm con dẫn ba đồ đệ đi ngay.

Mộc Tang đạo nhân bảo Viên Thừa Chí: “Trong lòng họ đã hận ngươi rồi đấy. Công phu hai người này khá lợi hại, sau này gặp phải cẩn thận một chút.”

Viên Thừa Chí gật đầu vâng dạ. Phen này phải đắc tội với nhị sư huynh, trong lòng chàng rất buồn. Về tới nhà họ Tiêu, chàng lăn ra giường ngủ ngay.

*

*   *

Sáng hôm sau chàng vừa thức dậy, Thanh Thanh đã vừa kêu réo om sòm vừa bước vào. Nàng bưng một cái hộp gỗ, mỉm cười hỏi: “Huynh đoán thử, đây là cái gì?”

Viên Thừa Chí không hào hứng chút nào, hỏi: “Có khách đến tìm phải không?”

Thanh Thanh mở nắp hộp ra, cười tươi như hoa nở. Trong hộp là một tấm thiếp đỏ rất lớn, viết: “Ngu đệ Mẫn Tử Hoa bái”. Nàng giở tấm thiệp lên, bên dưới là một quyển khế ước nhà, một tờ giấy liệt kê đồ đạc.

Thế là Mẫn Tử Hoa tôn trọng lời hứa, đem tặng căn nhà đó. Viên Thừa Chí cảm thấy áy náy, liền khoác trường bào qua đó để đa tạ. Nào ngờ người nhà họ Mẫn đã đi hết, chỉ để lại hai gia nhân đang quét dọn khắp nơi. Viên Thừa Chí hỏi, họ nói là Mẫn nhị gia đã dẫn gia quyến và bằng hữu rời khỏi đó từ sáng sớm, đi đâu thì không biết.

Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh lấy tấm di đồ của Kim Xà Lang Quân ra, đối chiếu với căn nhà này. Phòng ốc và hành lang có chút ít thay đổi, nhưng kiến trúc cơ bản thì rất phù hợp. Hai người mừng rỡ, biết tòa nhà Ngụy Quốc Công Tứ Đệ này đúng là nơi bản đồ đã chỉ. Theo ký hiệu ghi trên bản đồ mà tìm kiếm, thì ra nơi chứa kho báu là một gian nhà chất củi ở phía sau vườn hoa.

Chiều hôm đó Tiêu Uyển Nhi sai người qua giúp đỡ quét dọn bố trí. Nàng gửi cả hai cô tì nữ đến phục thị Thanh Thanh, ngoài ra đầu bếp, gác cửa, làm vườn, mã phu… tất cả đều đầy đủ. Hồng Thắng Hải được Viên Thừa Chí phong làm tổng quản.

Viên Thừa Chí nói: “Tiêu cô nương tuổi tác còn trẻ như vậy, thế mà suy nghĩ rất chu đáo.”

Thanh Thanh dẩu môi ra rồi cười: “Nếu cô ấy đích thân đến đây chủ trì nội trợ, lại càng vô cùng chu đáo. Lúc đó muội… muội…” Mặt nàng bỗng đỏ ửng lên, nửa câu sau không nói tiếp được.

Viên Thừa Chí ngẩn ra một chút rồi hiểu ý, nghĩ bụng: “Cô này cái gì cũng được, chỉ có tính hay ghen là hơi dở.” Chàng mỉm cười, không nói gì.

Canh hai đêm đó Viên Thừa Chí gọi ông câm dậy. Hai người dọn hết củi rơm trong kho củi ra, lấy cuốc xẻng đào xới nền nhà. Thanh Thanh cầm kiếm đứng canh giữ phía ngoài. Đào hơn nửa giờ, bỗng nghe một tiếng keng, cuốc sắt đụng phải đá. Quét dọn hết đất cát bên trên thì lộ ra một phiến đá lớn. Hai người hợp sức nhấc phiến đá đó lên, bên dưới là một hang động lớn.

Thanh Thanh nghe thấy tiếng hô mừng rỡ, vội chạy vào xem. Viên Thừa Chí nói: “Đúng là ở đây rồi.”

Chàng đốt hai bó rơm ném vào trong động, đợi uế khí bay hết mới đưa tay ra hiệu bảo ông câm canh giữ bên ngoài, rồi cùng Thanh Thanh men theo bậc thang bằng đá đi xuống. Bên dưới có mười chiếc rương sắt lớn, xếp thành một dãy. Mười chiếc rương này đều khóa bằng những ổ khóa lớn, nhưng tìm mãi cũng không thấy chìa khóa đâu.

Viên Thừa Chí lấy đồ hình ra xem tỉ mỉ, thấy ở góc trái có vẽ một con rồng nhỏ. Chàng nảy ra một ý, bèn cầm cuốc theo phương hướng đó đào xuống. Đào chẳng bao lâu thì thấy một cái hộp sắt, cái hộp này không khóa. Viên Thừa Chí nhớ đến độc tiễn trong cái hộp mà Kim Xà Lang Quân giấu bí kíp giả, bèn dùng dây buộc chặt vào nắp hộp sắt, đứng xa xa mà nắm dây giật nắp ra. Hồi lâu không thấy gì, chàng mới đưa đuốc tới xem. Trong hộp có hai tờ giấy và một xâu chìa khóa.

Chàng cầm lên đọc, thấy trong một tờ giấy có viết: “Hoàng thúc của trẫm làm phản, đại thần đầu hàng hết. Chỉ có Ngụy quốc công Từ Huy Tổ xứng với bậc công thần dựng nước, trung nghĩa đáng khen. Gấp rút không kịp mang theo trọng bảo, gửi lại trong nội phủ. Ngụy công giữ giúp trẫm, sau này quang phục tông miếu xã tắc sẽ lấy làm kinh phí. Tháng sáu Canh Thân năm Kiến Văn thứ tư, ngự bút.”

Viên Thừa Chí xem xong bất giác rùng mình, nghĩ bụng: “Quả nhiên đây là trọng bảo Kiến Văn Đế để lại hồi Yến Vương soán vị.”

*

*   *

Lúc triều Minh khai quốc, có công lớn nhất là đại tướng quân Từ Đạt. Từ Đạt cùng Minh Thái Tổ là bạn thân thời áo vải chưa khởi sự. Sau khi làm hoàng đế, Chu Nguyên Chương vẫn gọi ông là Từ huynh. Từ Đạt dĩ nhiên không dám hô huynh gọi đệ với hoàng đế, lúc nào cũng cung kính, cẩn thận giữ mồm giữ miệng.

Có một hôm Minh thái tổ Chu Nguyên Chương ngồi uống rượu với ông, nói: “Từ huynh công lao rất lớn, vẫn chưa có chỗ an cư. Tặng huynh ngôi nhà cũ của ta.” (Nguyên văn trong Từ Đạt truyệnMinh sửviết là: “Từ huynh công đại, vị hữu ninh cư, khả tứ dĩ cựu đệ”.)

Cựu đệ là tòa phủ đệ hồi Thái Tổ còn làm Ngô Vương đã ở; sau khi đăng quang, dĩ nhiên y đã xây cung điện khác. Từ Đạt nghĩ, Thái Tổ từ Ngô Vương lên ngôi hoàng đế, nếu mình vào ở trong nhà cũ của Ngô Vương thì phạm điều cấm kỵ, nhất định bị nghi ngờ. Ông biết bệnh đa nghi của Thái Tổ rất nặng, nên lúc đó vội vã đa tạ khước từ, nói sao thì nói cũng không chịu nhận.

Thái Tổ quyết định thử một lần nữa, mấy hôm sau bèn triệu Từ Đạt đến cựu đệ của mình uống rượu. Y không ngớt chuốc rượu cho ông say mèm, rồi sai người hầu khiêng ông vào phòng, đặt lên chiếc giường trước đây mình từng ngủ. Sau khi tỉnh rượu, Từ Đạt thấy vậy vô cùng kinh hãi, vội nhảy xuống giường, phủ phục dưới đất mà vái lạy, luôn mồm nói là “tử tội, tử tội”; rồi ngồi suốt đêm dưới đất, không dám leo lên giường ngủ nữa.

Hôm sau bọn người hầu kể lại, Thái Tổ nghe mà mừng rỡ, nghĩ bụng: “Người này lấy chữ trung làm đầu, hoàn toàn không có ý phản nghịch”. Y lập tức hạ chỉ, cho xây một ngôi nhà lớn trước tòa cựu đệ để ban cho Từ Đạt, đích thân viết hai chữ Đại Công để làm tên phường có tòa nhà lớn này. Đó là nguồn gốc Đại Công Phường và Ngụy Quốc Công Tứ Đệ ở Nam Kinh.

Theo sử đã ghi, Từ Đạt tinh thông mưu lược, giỏi phép dùng binh, đánh trận bách chiến bách thắng, nên dù ông cung kính cách nào Thái Tổ vẫn sợ ông tạo phản. Vào năm Hưng Võ thứ mười tám, lưng Từ Đạt nổi nhọt. Nghe nói người nổi nhọt sau lưng mà ăn thịt ngỗng là chết ngay. Thái Tổ cho người đến thăm bệnh, gửi tặng một con ngỗng hầm. Từ Đạt nhìn mà nước mắt giàn giụa, bèn ăn sạch con ngỗng hầm trước mặt sứ giả. Đêm đó ông phát độc mà chết.

Không rõ người bị nhọt sau lưng (giống như bệnh ung thư) mà ăn ngỗng hầm có chắc chết hay không. Nhưng Thái tổ Chu Nguyên Chương ban tặng con ngỗng hầm này, đồng nghĩa với ban tặng cái chết. Giả tỉ Từ Đạt ăn hết con ngỗng mà vô sự, cũng phải uống thuốc độc tự vẫn mà thôi. Chuyện này chính sử không ghi, không rõ hư thực thế nào.

Từ Đạt có bốn trai ba gái. Ba đứa con gái đều là vương phi của các con Thái Tổ. Trưởng nữ là vương phi của Yến Vương, sau này trở thành hoàng hậu của Thành Tổ. Thứ nữ là vương phi của Đài Vương, tam nữ là vương phi của An Vương. Khi Yến Vương tạo phản, trưởng tử Từ Huy Tổ của Từ Đạt trung thành với Kiến Văn Đế, đem binh kháng cự Yến Vương. Con trai út của Từ Đạt là Từ Tân Thọ lại âm thầm cấu kết với anh rể mình là Yến Vương. Khi Yến Vương đưa quân tới thành Nam Kinh, Kiến Văn Đế triệu Từ Tân Thọ đến chất vấn. Từ Tân Thọ không chịu trả lời, bị Kiến Văn Đế đích thân vung kiếm chém chết.

Sau khi Thành Tổ soán vị, Từ Huy Tổ dọn vào từ đường của phụ thân mà ở, không chịu vào triều. Thành Tổ phái quan đến tra hỏi, Từ Huy Tổ viết mấy chữ: “Phụ thân là khai quốc công thần, con cái miễn tội chết” để trả lời. Thành Tổ nhìn thấy vô cùng giận dữ; nhưng y mới lên ngôi hoàng đế, muốn thu phục nhân tâm, nên tha không giết.

Từ Huy Tổ một mực trung thành với Kiến Văn Đế, trước sau vẫn mưu đồ phục hồi ngôi vị. Hậu nhân của ông nối tước Ngụy Quốc Công, đời đời thống lĩnh binh tướng phòng thủ thành Nam Kinh, mãi đến khi nhà Minh bị diệt. Vào đời Minh, quan Thủ Bị thành Nam Kinh có quyền hành rất lớn, dân chúng Nam Kinh chỉ biết Từ công gia là quan Thủ Bị chứ không biết tước Ngụy Quốc Công, nên Viên Thừa Chí và Thanh Thanh mới dò hỏi không ra.

Thành Tổ cảm niệm Từ Tân Thọ chết vì mình, truy phong cho y là Định Quốc Công. Vì thế con cháu Từ Đạt có hai tước hiệu là Ngụy Quốc Công và Định Quốc Công. Hậu duệ của hai vị công tước này, một ở Nam Kinh một ở Bắc Kinh.

Từ Huy Tổ đắc tội với Thành Tổ, con cháu của ông không dám ở lại tòa Tứ Đệ ở Đại Công Phường, nên dọn ra ngoài xây nhà khác mà ở, tòa Tứ Đệ này đổi chủ mấy lần. Sau hai trăm bốn mươi mấy năm, người đời sau không hiểu được lai lịch của ngôi nhà cũ này nữa. Những chuyện bể dâu đó, dĩ nhiên Viên Thừa Chí và Thanh Thanh không hiểu.

*

*   *

Viên Thừa Chí mở tờ giấy thứ hai ra xem, thấy đó là một bài thơ luật: “Lao lạc Tây Nam tứ thập thu; Tiêu tiêu bạch phát kỷ doanh đầu; Càn khôn hữu hận gia hà tại; Giang hán vô tình thủy tự lưu; Trường lạc cung trung vân khí tán; Triều nguyên các thượng vũ thanh thu; Tân bồ tế liễu niên niên lục; Giả lão khốn thanh khốc vĩnh hưu.”

(Tạm dịch: Luân lạc Tây Nam bốn chục thu; Phong sương tóc đã bạc phơ đầu; Ôm hận càn khôn nhà đã mất; Vô tình sông đổ nước về đâu; Mây tản bốn bề cung Trường Lạc; Mưa thu thổn thức chốn sân chầu; Năm nào hàng liễu còn xanh ngắt; Lão vẫn khôn nguôi nhỏ lệ sầu.”

Bút tích giống hệt lá thư trước, nhưng có phần mạnh mẽ và thoáng đạt hơn. Bài thơ này do Kiến Văn Đế sáng tác sau bốn mươi năm long đong lưu lạc các nơi vùng Tây Nam như Phúc Kiến, Quảng Châu, Tứ Xuyên. Trải qua các triều Vĩnh Lạc (Minh Thành Tổ), Hồng Hy (Minh Nhân Tông), Tuyên Đức (Minh Tuyên Tông), Chính Tống (Minh Anh Tông); khi trở về ông đã hơn sáu mươi tuổi, ý muốn khôi phục ngôi vị đã mất. Quay về Ngụy Quốc Công Phủ nhìn lại vật xưa, ông không nén nổi lòng cảm khái, viết bài thơ này rồi từ đó phiêu diêu xuất thế, không biết đi đâu về đâu.

Những chuyện bên trong, Viên Thừa Chí và Thanh Thanh không sao biết được. Thừa Chí đọc không hiểu bài thơ này nói gì. Thanh Thanh thì nóng ruột muốn xem báu vật trong rương, chỉ liếc qua bài thơ rồi đặt sang một bên.

Viên Thừa Chí lấy chìa khóa, mở những cái rương sắt ra. Vừa mở nắp rương là ánh sáng chói chang làm hoa cả mắt, nguyên cái rương lớn toàn là bảo ngọc trân châu. Mở một cái rương khác, lại là đồ mã não phỉ thúy, không có món nào giá dưới vạn lượng. Thanh Thanh giật mình khẽ la lên, bất giác đổi hẳn sắc mặt, vừa kinh hãi vừa mừng rỡ. Lục tiếp trong cái rương này, dưới đáy chất đầy những thỏi vàng. Cả mười cái rương đều như vậy cả.

Viên Thừa Chí nói: “Những bảo vật này là năm xưa Minh Thái Tổ vơ vét của bá tính trong thiên hạ. Chúng ta làm gì đây?”

Thanh Thanh ở lâu hiểu ý, biết mình chỉ cần tham lam một chút là không tránh khỏi bị Viên Thừa Chí coi thường. Nàng bèn đáp: “Chúng ta đã nói rồi, sau khi tìm được báu vật phải ủng hộ Sấm Vương để mưu cầu đại sự. Dĩ nhiên tài sản của dân phải đem dùng cho dân.”

Viên Thừa Chí vô cùng mừng rỡ, nắm chặt tay nàng mà nói: “Thanh đệ! Muội thật là tri kỷ của ta.”

Từ nhỏ Viên Thừa Chí đã biết phụ thân mình tận tụy lo việc nước, quên ăn quên ngủ, chẳng những không tham tiền tài, mà ngay cả những chuyện vui vẻ với gia đình hay bằng hữu cũng khó mà hưởng được. Năm xưa Ưng Tùng dạy chàng học chữ, từng dạy một bài văn của Viên Sùng Hoán diễn tả tâm trạng của mình, trong đó có đoạn: “Mười năm nay cha mẹ ta không được nhận tình cảm của con, vợ ta không được nhận tình cảm của chồng, anh em ta không được nhận tình cảm của thủ túc, bạn bè ta cũng không được nhận tình cảm của bằng hữu. Ta là loại người gì vậy? Nói thẳng ra, chỉ là một kẻ vong mạng ở Đại Minh.”

Hồi đó Viên Thừa Chí còn nhỏ, không thể lĩnh hội hết tinh thần tận tâm tận lực canh giữ đất đai, phòng chống kẻ địch của cha mình. Sau khi trưởng thành, mỗi khi nhớ đến câu “là một kẻ vong mạng ở Đại Minh” chàng không khỏi sôi bầu nhiệt huyết, quyết chí noi gương phụ thân.

Mỗi khi tặng chữ cho người khác, Viên Sùng Hoán thường viết hai câu: “Tâm tư phải cùng trời đất không đổi, ngôn hành phải cho con cái noi gương.” Di vật của cha mình, Viên Thừa Chí chỉ còn giữ được mấy chữ này. Lúc này nhìn thấy vô số kim ngân tài bảo, suy nghĩ đầu tiên của chàng dĩ nhiên là noi gương phụ thân, dùng chỗ trân báu này để bảo vệ quốc gia, giúp đỡ muôn dân.

Thanh Thanh thì xuất thân trong nhà ăn cướp. Xưa giờ hễ thấy tiền là nàng cất giữ ngay, bất kể tiền đó có chủ hay vô chủ, hợp với đạo nghĩa hay không. Huống chi số châu báu giá trị liên thành này là dựa vào tấm di đồ của Kim Xà quái hiệp, cha của nàng mà có được. Nếu nàng không có mối tình thâm hậu với Viên Thừa Chí, nhất định đã giữ làm của riêng. Bây giờ nghe Viên Thừa Chí gọi mình là tri kỷ, nàng không nén nổi một cơn ngọt ngào khởi lên tự đáy lòng. Bất giác nàng nhớ tới hai câu thơ cổ: “Bảo vật dễ tìm; Tình lang khó kiếm”.

Viên Thừa Chí nói: “Mình đã được số tài sản này, có thể đến Bắc Kinh làm chuyện lớn rồi. Hoàng đế triều Minh uổng công vơ vét bảo vật về đây, chắc không ngờ sau này dùng để giúp Sấm Vương lật đổ triều Minh.”

Thanh Thanh mỉm cười nói: “Đây gọi là lấy mâu của ngươi đâm thuẫn của ngươi.”

Viên Thừa Chí cười nói: “Không sai! Vốn liếng Nho học của Thanh đệ đâu phải là tồi?”

*

*   *

Đến chiều hôm sau, Viên Thừa Chí sai Hồng Thắng Hải đến nhà họ Tiêu mời La Lập Như đến.

Vết thương bị chặt tay của họ La còn rất đau, nhưng y vừa nghe Viên Thừa Chí muốn gặp là lập tức nhờ người dìu mình đến. Sau khi gặp mặt, y muốn hành lễ bái sư. Viên Thừa Chí kiên quyết không chịu, bảo y ngồi, rồi giảng tỉ mỉ cho hiểu một bộ Độc Tí Đao Pháp.

Võ công của La Lập Như vốn có căn bản, Viên Thừa Chí lại dạy từng chiêu từng thức đàng hoàng. Dạy liền năm ngày, La Lập Như đã hiểu chắc, chỉ đợi vết thương lành hẳn là có thể tập luyện. Bộ đao pháp này Viên Thừa Chí học được từ Kim Xà Bí Kíp, khác hẳn những loại đao pháp dùng cho người cụt tay đang lưu truyền trên chốn giang hồ. Chiêu nào cũng hiểm trở, thức nào cũng nhanh chóng, thật sự vô cùng lợi hại.

Tuy rằng La Lập Như mất một cánh tay, nhưng đổi được một tuyệt kỹ đủ để nổi tiếng trong giang hồ, có thể nói là trong họa tìm được phước. Y hoan hỉ vô cùng. Trong đám đệ tử môn hạ nhà họ Tiêu, sau này võ công của y là số một.

Sau khi thực hiện xong lời hứa, Viên Thừa Chí liền thuê xe, chuẩn bị lên đường đến kinh thành. Cha con Tiêu Công Lễ cùng môn đồ bày tiệc rượu đưa tiễn ân cần. Viên Thừa Chí nhờ Tiêu Công Lễ chuyển thư cho Mẫn Tử Hoa, trả lại khu nhà ở Đại Công Phường.

Tiêu Công Lễ cả mừng, cảm thấy Viên Thừa Chí xử sự thật là viên mãn, vừa giữ được thể diện vừa nể mặt bằng hữu giang hồ. Còn bọn Hán gian Thái Bạch Tam Anh đã giao cho quan phủ xử lý.

Hôm đó khí trời tốt đẹp, cây xanh mơn mởn. Viên Thừa Chí, Thanh Thanh, ông câm, Hồng Thắng Hải tạm biệt Mộc Tang đạo nhân, đưa mười mấy chiếc rương sắt lên những cỗ xe lớn, khởi hành về hướng Bắc. Cha con Tiêu Công Lễ cùng đệ tử tiễn chân qua khỏi Trường Giang, ra ngoài ba mươi dặm mới tạm biệt quay về.

Giang Bắc vẫn là vùng ảnh hưởng của Kim Long Bang. Tiêu Công Lễ đã cho người đưa tin từ mấy ngày trước, nên đến bến bãi nào cũng có người ân cần đón tiếp tiễn đưa.

Đi được mười mấy ngày thì đến ranh giới tỉnh Sơn Đông. Hồng Thắng Hải nói: “Tướng công! Từ đây không phải là địa phận của Kim Long Bang nữa. Bắt đầu từ hôm nay, chúng ta phải lưu ý hơn một chút.”

Thanh Thanh hỏi: “Cái gì? Có người cả gan dám đụng đến Thái Tuế hay sao?”

Hồng Thắng Hải nói: “Lúc này đạo tặc trong thiên hạ vô cùng đông đúc. Cường bạo ở Sơn Đông càng đặc biệt nhiều, lợi hại nhất là hai bang phái.”

Thanh Thanh nói: “Chắc một là Bột Hải Phái của ngươi rồi.”

Hồng Thắng Hải mỉm cười đáp: “Bột Hải Phái chuyên mua bán trên mặt biển. Còn đồ đạc ở trên đất liền, dù là hoàng kim châu báu để rơi dưới đất, bọn tại hạ nhìn thấy cũng không lượm.”

Thanh Thanh cười nói: “Thì ra không có quý phái trong đó. Thế hai bang phái đó là gì?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Một là Thiên Liễu Trang ở Thương Châu, thuộc hạ của Chử Hồng Liễu đại gia.”

Viên Thừa Chí nói: “Ta cũng đã nghe sư phụ nói đến. Chử Hồng Liễu có môn Chu Sa Chưởng rất nổi tiếng trong giang hồ.”

Hồng Thắng Hải nói: “Đúng vậy! Còn bang kia lập nghiệp ở Ác Hổ Câu. Đại đương gia là Âm dương phiến Sa Thiên Quảng võ công cao cường, người đông thế mạnh.”

Viên Thừa Chí gật đầu nói: “Từ nay trở đi, chúng ta cẩn thận lưu ý hơn. Mỗi đêm chúng ta cử một người thay phiên canh gác.”

Hai ngày sau, đến giờ Ngọ bỗng nghe tiếng chuông leng keng phía trước, hai con ngựa phi nhanh tới, lướt qua mặt mọi người. Hồng Thắng Hải lên tiếng: “Chắc sắp có chuyện rồi.”

Y nghĩ bụng, võ công Viên Thừa Chí cực cao, mà chính mình cũng không phải tay vừa, bọn trộm vặt này không cần phải để vào mắt. Chưa đầy một giờ sau, quả nhiên hai con ngựa đó từ phía sau chạy ngược lại, lại lướt qua mặt đoàn xe.

Thanh Thanh cười nhạt. Hồng Thắng Hải nói: “Không ngoài mười dặm, phía trước chắc chắn có cường đạo cản đường.”

Không ngờ đi thêm mười mấy dặm vẫn bình yên vô sự. Đêm hôm đó, mọi người nghỉ ngơi tại sông Thạch Bổ. Hồng Thắng Hải tặc lưỡi, ngạc nhiên nói: “Chẳng lẽ con mắt giang hồ của tại hạ bị lé rồi sao?”

Sáng hôm sau đi tiếp, chưa tới năm dặm đã thấy phía sau có bốn kỵ sĩ xa xa theo dõi. Hồng Thắng Hải nói: “Đúng rồi! Hôm qua chúng chưa điều động đủ người. Hôm nay chắc chắn sẽ có chuyện.”

Ăn cơm trưa xong, lại có hai kỵ sĩ phi tới xem xét tình hình. Hồng Thắng Hải nói: “Chuyện này thật là kỳ lạ. Sai người thám thính tin tức, trước nay đâu cần đông đến thế?”

Đi được nửa ngày, lại có hai con ngựa lướt qua. Hồng Thắng Hải chau mày suy nghĩ, bỗng la lên: “Đúng rồi!” Y quay sang nói với Viên Thừa Chí: “Tướng công! Đêm nay chúng ta phải đến kịp một thị trấn lớn để nghỉ ngơi.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Sao phải thế?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Theo dõi chúng ta, không chỉ có nhân mã của một sơn trại mà thôi.”

Viên Thừa Chí hỏi lại: “Có phải vậy không? Đã có mấy trại chủ ngắm nghía món hàng của chúng ta rồi?”

Hồng Thắng Hải nói: “Nếu mỗi phái cử hai người, thì trước sau đã có năm bang phái rồi.”

Thanh Thanh mỉm cười nói: “Thế thì vô cùng náo nhiệt.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Tại sao họ biết chúng ta mang theo kim ngân tài bảo? Nếu mười mấy cái rương sắt này đựng đầy đất đá, thì năm đại trại chủ đó há chẳng cực khổ một phen vô ích?”

Thanh Thanh mỉm cười nói: “Huynh đúng là dân ngoại đạo. Xe chở vàng bạc thì dấu vết bánh xe, tiếng xe đi dọc đường, ngay cả bụi bặm bay lên nhìn thấy khác hẳn. Đừng nói mười chiếc rương sắt này đập vào mắt người ta, Tiểu Huệ muội muội của huynh chỉ đem có hai ngàn lượng vàng cũng bị tên cướp vặt này nhìn thấy.”

Viên Thừa Chí cười nói: “Bái phục, bái phục!”

Hồng Thắng Hải nghĩ bụng: “Chẳng lẽ tiểu cô nương dịu dàng này cũng là đồng nghiệp của mình hay sao?”

Đang nói chuyện, lại có hai con ngựa phi ngang qua mặt. Thanh Thanh cười nhạt nói: “Muốn ra tay lại không dám, cứ cưỡi ngựa chạy qua chạy lại không biết để làm gì. Bọn vô dụng như thế, có đông đúc cũng không doạ được ai.”

Hồng Thắng Hải nghiêm chỉnh nói: “Tiểu thư! Hảo hán cũng khó địch số đông. Tuy chúng ta không sợ, nhưng đồ vật trong rương nhiều như thế, nếu muốn hoàn toàn không mất mát thì phải phí một phen tâm sức.”

Viên Thừa Chí nói: “Ngươi nói không sai. Hôm nay chúng ta bớt lại mấy chục dặm đường, nghỉ đêm tại Thạch Giao Trấn.”

Đến Thạch Giao Trấn, mọi người tìm một khách điếm lớn ở lại. Viên Thừa Chí sai khiêng mười chiếc rương sắt vào trong phòng mình, ngủ chung với ông câm. Vừa khiêng rương xong đã thấy hai đại hán đi vào khách điếm, nhìn Viên Thừa Chí một cái rồi nói với chưởng quỹ là muốn trú lại. Tiểu nhị vừa dẫn hai người vào trong, lại thêm hai hán tử thô lỗ đầy hào khí đi vào.

Viên Thừa Chí gật đầu, khẽ bảo: “Ăn cơm tối xong, mọi người cứ về phòng mà nghỉ.”

Đến giữa đêm, nghe trên mái nhà có tiếng động nhỏ, biết bọn cướp đã đến, chàng liền thức dậy thắp đèn, mở rương sắt ra. Chàng hốt ra một mớ minh châu, bảo thạch, phỉ thúy, mã não, ngồi ngắm nghía dưới ánh nến. Những kỳ trân dị bảo này lập lòe ánh sáng, thu hút được không biết bao nhiêu cặp mắt thèm thuồng ghé sát vào khe cửa nhìn trộm.

Hồng Thắng Hải cũng nghe động, không yên tâm bèn vào phòng Viên Thừa Chí xem xét. Y vừa đến gần, mười mấy tên thám tử đều ẩn núp hết. Hồng Thắng Hải cười nhạt, khẽ gõ cửa phòng. Viên Thừa Chí bảo: “Vào đi!”

Hồng Thắng Hải vừa đẩy, cửa phòng đã mở nghe “két” một tiếng, thì ra không cài chốt. Y vào là thấy ngay châu quang bảo thúy trên bàn óng ánh chói mắt, bất giác ngẩn ra. Đến gần nhìn rõ những hạt trân châu tròn trịa lớn bằng đầu ngón tay cái, cây san hô đỏ tươi dài tới hai thước, những thỏi bích ngọc màu xanh trong veo rất lớn. Ngoài ra còn có hồng bảo thạch, kim cương, tử ngọc… không món nào không phải là báu vật.

Hồng Thắng Hải chưa biết trong mười chiếc rương sắt đựng những thứ gì, cứ tưởng là vàng bạc. Chỉ thế cũng đủ khơi gợi lòng tham của bọn đạo tặc rồi, nào ngờ lại nhiều đồ trân báu như thế. Hồng Thắng Hải lăn lộn giang hồ nhiều năm, kiến thức khá rộng, nhưng báu vật quý như thế, nhiều như thế, thì xưa nay chưa từng gặp.

Y đến bên Viên Thừa Chí, hạ giọng nói: “Tướng công! Để tại hạ đem cất được không? Bên ngoài có người đang nhìn lén.”

Viên Thừa Chí khẽ đáp: “Ta đang muốn cho họ xem một tí.” Chàng cầm một chuỗi trân châu lên, lớn tiếng hỏi: “Nếu đem xâu chuỗi này đến kinh thành, ngươi nghĩ bán được bao nhiêu?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Mỗi hạt châu này khoảng ba trăm lạng bạc, giá đó là thấp nhất rồi. Ở đây tổng cộng hai mươi bốn hạt, ít ra cũng bán được một vạn năm ngàn lạng bạc.”

Viên Thừa Chí ngạc nhiên hỏi: “Tại sao lại một vạn năm ngàn?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Một hạt châu óng ánh, tròn trịa, to lớn như thế đã là hiếm thấy. Hai mươi bốn hạt này to hệt như nhau, hoàn toàn không có tì vết gì cả, lại càng khó có trên đời. Một hạt đáng giá ba trăm lạng bạc, thế thì hai mươi bốn hạt tối thiểu cũng đáng giá một vạn năm ngàn lạng.”

Câu nói này khiến cho bọn đạo tặc ngoài phòng càng ngứa ngáy trong lòng, vô cùng khó chịu, chỉ muốn nhảy vào giành giật ngay. Nhưng thủ lĩnh của chúng đã có lệnh cấm, vì có quá nhiều sơn trại nhìn ngắm món hàng này, mọi người phải thương lượng đàng hoàng mới ra tay. Không ai được hành động trước để khỏi tổn thương hòa khí đồng nghiệp.

Viên Thừa Chí vẫy tay chào Hồng Thắng Hải rồi đi ngủ. Chàng không tắt đèn, châu báu cũng không cất giữ, cứ rải đầy trên mặt bàn, làm bọn đạo tặc phía ngoài tía tai đỏ mặt, nghe rõ cả tiếng nuốt nước miếng ừng ực.

Từ khi phát hiện bọn trộm cướp tập hợp đông đúc, có ý cướp đoạt, Viên Thừa Chí suốt dọc đường đã tính toán kế hoạch đối phó. Đúng như Hồng Thắng Hải đã nói, hảo hán khó địch đông người, châu báu trong rương nhiều như thế, muốn hoàn toàn không mất mát thì phải tốn một phen sức lực. Chàng đã nghĩ, nếu Kim Xà Lang Quân gặp việc này thì sẽ đối phó thế nào?

Viên Thừa Chí nhớ lại, Kim Xà Lang Quân từng bị phái Không Động và Ôn Thị Ngũ Lão bắt được. Ông dùng kho báu cực lớn này làm mồi nhử cho hai bên tranh chấp. Ôn Thị Ngũ Lão ra tay giết hết bằng hữu phái Không Động mà chúng mời đến, nên Kim Xà Lang Quân thừa cơ chạy thoát. Chàng lại nghĩ, đêm mà Trương Xuân Cửu và Vương Thất Động của Kỳ Tiên Phái lên núi Hoa Sơn, chúng vì cuốn bí kíp giả có tẩm thuốc độc mà giết cả sư huynh đệ của mình. Du Long Bang vì tranh đoạt món vàng của Sấm Vương với Thanh Thanh mà tranh đấu, mất mạng không ít. Như vậy đủ thấy, khi trước mắt có món lợi lớn thì loại người thấy lợi quên nghĩa nhất định tàn sát lẫn nhau. Bọn trộm cướp này đang nhiều, để chúng giết lẫn nhau thì nhân số sẽ ít đi.

Chàng nghĩ vậy nên cố ý để lộ báu vật trong khách điếm, cho rằng báu vật càng quý, bọn cường đạo tàn sát lẫn nhau càng kịch liệt.

Đi tiếp hai ngày nữa, đã qua khỏi địa giới phủ Tế Nam. Bọn cướp bám theo đoàn xe mỗi ngày một đông. Hồng Thắng Hải biết có mặt Viên Thừa Chí thì không phải sợ gì, nhưng thấy bọn cường đạo đã lâu không chịu ra tay, không biết chúng đang sắp xếp gian mưu gì, nên không sao yên lòng nổi. Y ra sức khuyên Viên Thừa Chí đi theo đường thủy: “Bằng hữu trên thủy đạo của tại hạ rất đông. Thuê thuyền khởi hành từ Thiên Băng đi đến Bắc Kinh, tuy phải đi vòng tốn thời gian hơn, nhưng đảm bảo không xảy ra sự cố.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Ta đang muốn dùng số châu báu này để kết giao với anh hùng hảo hán trong thiên hạ, dù dùng hết cũng không sao. Tiền tài là vật ngoại thân, chỉ có nhân nghĩa là đáng nói.”

Hồng Thắng Hải nghe vậy, nửa tin nửa ngờ nhưng không tiện khuyên can nữa.

Viên Thừa Chí lại suy nghĩ: “Ta muốn dụ bọn cường đạo tự giết lẫn nhau để tranh giành châu báu, nhưng tính tới cũng phải tính lui. Nếu trong bọn chúng có một tay lão thành như Tiêu Công Lễ, thì chúng sẽ tránh khỏi việc tàn sát lẫn nhau. Lúc đó, mình phải đối phó như thế nào?”

Khi chàng được số bảo vật này, vẫn muốn theo lời sư phụ mà dùng để kết giao anh hùng hào kiệt trong thiên hạ, giúp Sấm Vương một tay mưu đồ đại sự. Nếu bọn cường đạo có nghĩa khí, thì có thể đem tài bảo trong rương sắt ra, chia cho mọi người để kết giao bằng hữu. Vì thế chàng không lo nhiều đến việc quần đạo dòm ngó, cũng không lo nhiều đến châu báu mất còn. Nhưng chàng bỗng nghĩ: “Nếu bọn cường đạo này bất cần nghĩa khí, tên nào cũng gian manh tự tư tự lợi, tham lam tiền bạc như Ôn Thị Ngũ Lão của Kỳ Tiên Phái, đòi đoạt hết toàn bộ tiền tài báu vật, lại còn đối địch với Sấm Vương thì hỏng bét.”

Chàng biết Thanh Thanh vốn cũng nghề này, hành tung của Ngũ Lão Kỳ Tiên Phái thì nàng hiểu rõ nhất, liền gọi nàng tới hỏi: “Thanh đệ! Chắc bọn cường đạo này cũng như Thanh đệ lúc chưa quen biết ta, chưa có giao tình. Nếu Thanh đệ thấy nhiều tài bảo như thế, Thanh đệ sẽ làm gì?”

Thanh Thanh liếc chàng một cái, đáp: “Thế thì có gì cần khách sáo? Muội phải ra tay cướp đoạt ngay.”

Viên Thừa Chí nói: “Nếu ta muốn kết giao với Thanh đệ thì sao? Chia cho họ một số châu báu, thì họ có chịu làm bạn với ta hay không? Có chịu nghe lời ta hay không?”

Thanh Thanh nói: “Huynh không cần chia tiền tài báu vật cho muội. Muội không những làm bạn tốt với huynh, lại còn kết bái với huynh, gọi huynh là đại ca. Muội không những nghe lời huynh, mà sống chết cũng đi theo huynh, vĩnh viễn không muốn tách rời.”

Trong ngữ khí của nàng có phần đùa giỡn, nhưng nghe vẫn rõ tấm lòng chân thật. Viên Thừa Chí vô cùng cảm động, đưa tay ra nắm chặt tay nàng, khẽ nói: “Ta cũng thế.”

Thanh Thanh nói: “Nhưng bọn cường đạo kia thì không kết bái với huynh đâu. Chúng nhìn thấy nhiều kim ngân tài bảo như thế, mắt đỏ lên lập tức. Dù huynh là cha mẹ đi nữa, chúng cũng quyết không chịu nghe lời.”

Viên Thừa Chí nói: “Được! Thế thì chúng ta tiên lễ hậu binh, nói chuyện tình cảm trước, không đả thương người để tránh gây thù oán. Nhưng bọn cường đạo này rất đông, nếu không muốn đả thương người, không tổn thương hòa khí thì vô cùng khó.”

Thanh Thanh nói: “Gặp việc trước mắt, trầm tĩnh là hơn. Huynh phải nhận ra người cầm đầu bọn cường đạo đó, rồi ra tay khống chế ngay. Bọn tiểu lâu la nhất định không dám động đậy nữa.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Bắt giặc bắt kẻ cầm đầu trước. Ý này hay lắm.”

Suốt cả ngày hôm sau, bọn thám thính diễu qua diễu lại không dứt, cả gan đi sát đến gần, hoàn toàn không coi Viên Thừa Chí ra gì. Hồng Thắng Hải nói: “Tướng công! Cứ nhìn bọn chúng như thế, chắc chắn hôm nay có chuyện.”

Viên Thừa Chí nói: “Lúc đó ngươi chỉ cần chú ý đoàn xe, đừng để lừa ngựa kinh hãi chạy loạn lên. Còn cường địch thì ba người chúng ta đối phó.”

Hồng Thắng Hải vâng dạ. Viên Thừa Chí ra dấu với ông câm, dặn y nhìn rõ hiệu của mình rồi mới ra tay bắt người. Ông câm gật đầu đồng ý.

*

*   *

Đoàn người đi tiếp, đến khoảng giờ Mùi thì sắp đến Trương Trang. Trước mặt là một khu rừng rậm rạp, đột nhiên nghe thấy trên đầu vang lên những tiếng “u u”, mấy mũi tên có gắn sáo bay tới. Phía trước có tiếng thanh la vang dội, rồi trong khu rừng rậm mấy trăm đại hán kéo ra. Tên nào cũng quấn vải xanh trên đầu, áo quần toàn màu đen, tay nắm chặt binh khí, im lặng đứng chặn giữa đường.

Bọn phu xe biết là có chuyện, vội nắm cương lừa ngựa dừng xe lại, rồi ôm đầu ngồi bệt xuống đất. Đây là quy luật giang hồ, chỉ cần phu xe không chạy lung tung thì bọn cướp đường nhất định không làm hại họ.

Lại nghe tiếng sáo liên hồi, rồi tiếng vó ngựa vang lên. Từ trong rừng phóng ra mấy chục kỵ sĩ, chạy vòng ra chặn phía sau đoàn xe của Viên Thừa Chí, thế là trước sau đều bị cản trở. Sau đó bốn bề yên lặng, hoàn toàn không một tiếng động.

Viên Thừa Chí thấy tám người xếp thành một dãy trước mặt. Một người mặt trắng hơn năm mươi tuổi tách ra bước lên phía trước. Y không cầm vũ khí, chỉ cầm một cây quạt xếp, nhẹ nhàng nói: “Chào Viên tướng công.”

Viên Thừa Chí thấy bước chân y vững chãi, nghĩ thầm: “Võ công người này không yếu. Y cầm quạt xếp có nan bằng sắt, chắc chắn giỏi về điểm huyệt.” Chàng chắp tay lại nói: “Chào trại chủ.”

Trại chủ đó hỏi: “Viên tướng công từ xa đến đây, cực nhọc quá nhỉ?”

Viên Thừa Chí giả vờ khờ khạo, đáp: “Chắc trại chủ cũng mệt mỏi lắm rồi. Tiểu đệ đi đường chẳng có gì cực nhọc, chỉ có điều hành lý nặng nề. Kim ngân châu báu quá nhiều, mang theo thật là mệt.”

Trại chủ bật cười rồi hỏi: “Viên tướng công lên kinh thành, có phải để dự thi hay không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Không phải thế. Tiểu đệ học hành chẳng ra gì, thi tới thi lui cũng không lên được bảng vàng. Chỉ còn cách hối lộ quan trên để kiếm chút công danh. Đúng là bút mực trong bụng không nhiều, tài vật trong tay không ít. Ha ha… Thật là xấu hổ, thật là xấu hổ.”

Trại chủ mỉm cười nói: “Các hạ thật là thẳng thắn, không giống bọn nho sĩ hủ lậu chút nào.”

Viên Thừa Chí cười nói: “Thì tiểu đệ có đỗ đạt gì đâu? Hôm qua có nhiều bằng hữu nói cho biết, hôm nay sẽ có rất nhiều trại chủ đón tiếp tiểu đệ dọc đường, người nào cũng là hào kiệt cả. Tiểu đệ vô cùng mừng rỡ, nghĩ bụng phen này náo nhiệt, kết giao được nhiều bạn tốt. Suốt dọc đường tiểu đệ không dám lơ đãng chút nào, cứ mải ngó đông ngó tây chờ đợi, chỉ sợ làm mất cơ hội tốt. Quả nhiên được gặp trại chủ ở đây, đúng là tam sinh hữu hạnh. Các hạ ăn mặc thế này, cũng muốn lên kinh hay sao? Chúng ta cùng đi có được không? Dọc đường có thể nói chuyện tâm tình, uống rượu tiêu khiển, không còn cô đơn buồn chán nữa.”

Trại chủ thầm nghĩ: “Thì ra tên này chỉ là một con mọt sách.” Y mỉm cười nói: “Viên tướng công ngồi nhà đọc sách chẳng tốt hơn ư, sao phải ra ngoài bôn ba vất vả? Tướng công nên biết giang hồ vô cùng hiểm ác.”

Tên này là trại chủ Ác Hổ Câu tỉnh Sơn Đông, tên là Sa Thiên Quảng. Lần này đến cướp đoàn xe của Viên Thừa Chí, có tất cả tám trại hợp tác với nhau, trong đó Ác Hổ Câu người đông thế mạnh nhất. Võ công của Sa Thiên Quảng cũng giỏi nhất trong đám, nên hắn đương nhiên trở thành thủ lĩnh của Sơn Đông bát trại.

Viên Thừa Chí nói: “Lúc ở nhà tiểu đệ cũng từng nghe nói, trên giang hồ có rất đông bọn lừa gạt cướp bóc ác ôn gì gì đấy. Nào ngờ đi hơn ngàn dặm vẫn chưa gặp được người nào. Xem ra đó chỉ là chuyện để dọa người mà thôi, không phải là thật. Rất đông bằng hữu xếp hàng ở đây để làm gì vậy? Có phải trại chủ đang duyệt binh hay không? Thế thì thú vị đấy.”

Bảy tên trại chủ kia nghe Viên Thừa Chí nói mãi những chuyện nửa ngu nửa dại, nhẫn nại không nổi nữa, không ngừng liếc mắt nhìn Sa trại chủ, bảo hắn mau mau hạ lệnh. Sa trại chủ đột nhiên tắt nụ cười, hú dài một tiếng, xòe cây quạt trên tay ra. Trên cây quạt trắng vẽ một cái đầu lâu màu đen, giữa miệng đầu lâu cắn ngang một con dao nhỏ, trông rất đáng sợ.

Thanh Thanh nhìn thấy, bất giác rùng mình một cái, khẽ la lên kinh hãi. Viên Thừa Chí tuy tài cao mật lớn, nhưng vẫn cảm thấy một luồng khí lạnh âm u. Sa trại chủ cười khành khạch, vẫy cây quạt một cái. Mấy trăm tên đạo tặc lập tức phóng tới chỗ đoàn lừa ngựa.

Viên Thừa Chí đang định nhảy xổ ra để bắt Sa trại chủ, đột nhiên nghe trong rừng vọng ra một tiếng sáo trúc nhọn hoắt. Sa trại chủ vừa nghe là sắc mặt đột nhiên thay đổi, lại vẫy quạt một cái. Bọn cường đạo lập tức dừng lại.

Từ trong rừng có hai con ngựa bước ra. Đi trước là một ông lão, râu mày bạc trắng. Phía sau là một thiếu nữ mặc áo xanh, tóc búi ngược, chỉ nhìn thoáng qua đã thấy nhan sắc tuyệt trần. Hai người chầm chậm tiến đến khoảng giữa rồi dừng ngựa.

Sa trại chủ trừng mắt, nói: “Đây là địa giới tỉnh Sơn Đông.”

Ông lão hỏi: “Có ai nói là không phải đâu?”

Sa trại chủ nói: “Năm xưa chúng ta từng mở đại hội anh hùng ở Thái Sơn. Khi ấy đã hẹn nhau những gì?”

Ông lão đáp: “Thanh Trúc Bang chúng ta không đến Sơn Đông gây án, còn các vị không lên Hà Bắc ra tay.”

Sa trại chủ nói: “Đúng vậy! Thế thì hôm nay cơn gió nào thổi Trình lão gia đến đây?”

Ông lão nói: “Nghe nói có một món hàng cần đưa đến Hà Bắc, nên chúng ta đến đây một là đón khách, hai là xem thử hàng hóa ra sao.”

Sa trại chủ sầm mặt xuống nói: “Đợi khi món hàng đó đi vào địa giới của Trình lão gia, thì lão gia hãy xem cũng chưa muộn.”

Ông lão cười ha hả rồi nói: “Sao lại không muộn? Lúc đó hàng đã nằm gọn trong trại Ác Hổ Câu của lão đệ rồi. Lão nhi đâu có tư cách đến đó mà xem? Nếu làm như vậy, mới thật là không còn nghĩa khí giang hồ gì nữa.”

Viên Thừa Chí, Thanh Thanh và Hồng Thắng Hải nhìn nhau thầm nghĩ: “Thì ra bọn đại đạo ở Hà Bắc cũng nhận được tin, đến đây đòi chia một phần. Bây giờ phải xem chúng thương lượng ra sao đã.”

Quần đạo Sơn Đông rộ lên, người này một tiếng, người kia một tiếng, la ó om sòm: “Trình Thanh Trúc! Ngươi thật là mọi rợ, không biết đạo lý gì cả.” “Con mẹ nó! Nếu ngươi biết điều nghĩa khí thì đừng đến địa giới tỉnh Sơn Đông này.” “Ngươi có giữ quy luật trong hắc đạo hay không?” “Thật chẳng có chút danh dự nào!”

Ông lão Trình Thanh Trúc nghiêng tai nghe ngóng rồi hỏi: “Mọi người nói năng loạn xạ gì vậy? Lão nhi tuổi tác đã cao, tai không còn tốt, nghe không rõ. Các bằng hữu Sơn Đông khen ngợi lão nhi nghĩa khí ngất trời có phải không? Thế thì xin đa tạ quý vị.”

Sa trại chủ vẫy quạt lia lịa, bọn cường đạo mới ngậm miệng lại. Y nói: “Chúng ta đã hẹn trước rồi. Sao Trình lão gia lại nuốt lời, không giữ chữ tín, không giữ nghĩa khí? Không sợ các vị hảo hán trên giang hồ chê cười hay sao?”

Trình Thanh Trúc không đáp, quay lại hỏi thiếu nữ đứng bên: “A Cửu! Lúc ở nhà ta đã nói gì với ngươi?”

Thiếu nữ đáp: “Lão nhân gia nói là chúng ta đang rảnh rỗi, chi bằng đến Sơn Đông dạo chơi một vòng, tiện thể xem thử món hàng đó ra sao.”

Nghe thanh âm dịu dàng thanh thoát, vô cùng êm ái dễ nghe, Thanh Thanh liền quay lại nhìn kỹ. Cô gái này khoảng mười sáu mười bảy tuổi, thần sắc rất ngây thơ, hai má ửng hồng, da dẻ trắng trẻo, cặp mắt vừa to đen vừa trong sáng; nhan sắc đã rất tú lệ, phong độ lại cao nhã, thật sự đẹp hơn cả những mỹ nữ được vẽ trong tranh. Không ngờ trong đám đạo tặc này lại có một con người sáng như minh châu đẹp như mỹ ngọc, diễm lệ vô cùng.

Thanh Thanh trước nay vẫn rất tự phụ về vẻ đẹp của mình, nhưng tự so sánh thì cảm thấy mình có nhiều chỗ không bằng cô gái này, quả là xưa nay chưa từng gặp. Nàng nhịn không nổi, liếc Viên Thừa Chí một cái để xem thần sắc anh chàng thế nào.

Trình Thanh Trúc mỉm cười hỏi: “Ta có nói là định ra tay gây án ở đây không?”

A Cửu đáp: “Đâu có? Lão nhân gia nói là chúng ta đã ước hẹn với bằng hữu ở Sơn Đông. Trong địa giới tỉnh Sơn Đông, dù có núi vàng núi bạc để ngay trước mắt, Thanh Trúc Bang cũng không lấy một xu. Như thế mới gọi là nói lời phải giữ lấy lời.”

Trình Thanh Trúc quay lại hỏi Sa trại chủ: “Lão đệ đã nghe chưa? Ta đâu có định gây án trong địa phận tỉnh Sơn Đông?”

Khuôn mặt Sa trại chủ đang nhăn nhó lập tức duỗi ra. Y mỉm cười rồi nói: “Thế thì hay quá! Như vậy mới là nghĩa khí. Trình lão gia từ xa đến đây, lát nữa sẽ được chia một ít.”

Trình Thanh Trúc mặc kệ y, lại hỏi A Cửu: “A Cửu! Ở nhà ta còn nói gì nữa không?”

A Cửu đáp: “Lão nhân gia còn nói, món hàng này không ít. Nếu dọc đường mất mát gì thì chúng ta sẽ bị thiệt thòi. Còn nếu người ta thuận tay lấy hết, thì chúng ta không khỏi mất mặt.”

Trình Thanh Trúc hỏi: “Ừ, nhưng nếu người ta không nể mặt mà cứ lấy thì sao?”

A Cửu đáp: “Lão nhân gia đã nói, khi ở Hà Bắc thì chúng ta kiếm lời bằng con đường hắc đạo. Khi vào tỉnh Sơn Đông phải đổi nghề thành bảo tiêu cho mới mẻ. Nếu người khác nhất quyết ra tay cướp tiêu, dĩ nhiên chúng ta không khuyên can họ được. Nhưng nếu bị ép lên Lương Sơn, thì chúng ta chỉ còn cách ra tay bảo vệ.”

Trình Thanh Trúc mỉm cười khen: “Ngươi còn nhỏ tuổi, trí nhớ quả nhiên rất khá. Ta nhớ là mình có nói như thế.”

Lão quay đầu lại, hỏi Sa trại chủ: “Lão đệ hiểu chưa? Chúng ta đã hứa không gây án trong tỉnh Sơn Đông, mà hứa thì phải giữ. Nhưng bây giờ Thanh Trúc Bang chuyển nghề làm bảo tiêu. Trên đại hội Thái Sơn, ta đâu có hứa với lão đệ là không đi bảo tiêu trong tỉnh Sơn Đông?”

Sa trại chủ xanh hẳn mặt, nói: “Ông không cho chúng ta ra tay, đợi món hàng này đi vào địa phận Hà Bắc rồi tự mình ra tay. Có phải vậy không?”

Trình Thanh Trúc đáp: “Đúng vậy! Ở đại hội Thái Sơn đã hẹn ước rồi. Hà Bắc là xứ sở của chúng ta. Về tới đó, mặt mũi đâu mà chúng ta làm tiêu cục để cản đường phát tài của huynh đệ đồng hương?”

Bọn cường đạo nghe ông lão này nói toàn những câu cưỡng từ đoạt lý, xoay qua xoay lại vẫn là muốn cướp đoạt số châu báu này, không ai là không giận dữ. Thấy bên địch chỉ có hai người, một ông già, một thiếu nữ, chúng nhốn nháo ùa lên, chỉ muốn loạn đao phanh thây.

A Cửu đặt hai mảnh lá tre lên môi, thổi một tiếng nhẹ nhàng. Trong rừng đột nhiên có mấy trăm đại hán ùa ra. Bọn này mặc áo quần đủ màu sắc, nhưng trên đầu đều cài một cành tre xanh dài khoảng năm tấc, còn cả lá tre.

Sa trại chủ giật mình kinh hãi, thì ra lão già này bố trí sẵn rồi, đem rất nhiều nhân mã vào địa giới Sơn Đông. Quân thám thính bên mình đúng là đồ ăn hại, chẳng phát hiện được chút xíu tin tức gì. Y suy nghĩ một chút rồi vẫy cây quạt xếp. Bảy trại chủ kia cùng hai trại chủ Ác Hổ Câu thống lĩnh nhân mã tám trại, bày thành trận thế.

Rõ ràng sắp xảy ra loạn đấu. Nhân số của quần đạo Sơn Đông vẫn nhiều hơn, nhưng Thanh Trúc Bang đến đây đã chuẩn bị chu đáo, chọn toàn những hán tử tinh nhanh, mạnh khỏe. Nếu thật sự giao đấu, chưa chắc họ phải chịu thế hạ phong.

Viên Thừa Chí và Thanh Thanh nhìn nhau mỉm cười. Thanh Thanh khẽ nói: “Hàng chưa lấy vào tay mà bọn chúng đã lo tranh chấp rồi. Thật là tức cười.”

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Cứ để hai bên tranh nhau chết sống đã. Chúng ta làm ngư ông đắc lợi, thật là thú vị.”

Quần đạo Sơn Đông dàn ra chuẩn bị loạn đấu, nhưng để lại mấy chục người giám sát đoàn xe của Viên Thừa Chí, đề phòng những cỗ xe vận chuyển báu vật này thừa lúc lộn xộn mà chạy trốn.

Viên Thừa Chí vẫy tay gọi Hồng Thắng Hải tới. Đợi y đến gần, chàng hỏi: “Thanh Trúc Bang hư thực ra sao?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Địa giới Hà Bắc là phạm vi thế lực của Thanh Trúc Bang. Lão già Trình Thanh Trúc chính là bang chủ. Đừng thấy lão vừa ốm vừa già mà coi thường, công phu của lão thật sự lợi hại.”

Thanh Thanh hỏi: “Còn cô gái kia thì sao? Là cháu gái của lão phải không?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Nghe nói tính tình Trình Thanh Trúc cổ quái, suốt đời không cưới vợ, lẽ ra không có con cháu. Không chừng là cháu nuôi.”

Thanh Thanh gật đầu một cái, không hỏi nữa. Nàng thấy A Cửu thần sắc tự nhiên, hoàn toàn không lộ vẻ hoảng sợ, bèn nghĩ: “Chắc cô ấy cũng biết võ công. Ta hãy xem hai bên thắng bại ra sao đã.”

Lúc này tiếng sáo hiệu của Thanh Trúc Bang nổi lên liên tục. Mấy trăm người đã xếp thành bốn đội. Trình Thanh Trúc và A Cửu giục ngựa quay về trận, đứng trước mặt bốn đội này, trong tay vẫn không cầm binh khí.

*

*   *

Hai bên đã kiếm tuốt cung giương, chỉ cần một tiếng hô là xông vào loạn đả. Đột nhiên phía Nam vang lên tiếng nhạc ngựa, ba kỵ sĩ gấp rút phi tới. Người đi đầu hô lớn: “Mọi người đều là hảo bằng hữu cả! Hãy nể mặt tại hạ, khoan ra tay đã.”

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Người giảng hòa đã đến, chắc tình hình có thay đổi.”

Ba con ngựa đó chạy tới gần, nhìn rõ người vừa hô là một ông mập khoảng năm mươi tuổi, mặc trường bào bằng cẩm đoạn có thêu hoa lớn, tay cầm ống điếu rất to, mặt mày tròn trịa, nhìn là biết ngay một tay hào phú ở địa phương. Phía sau ông ta là hai đại hán khỏe mạnh.

Ông mập cho ngựa đi tới giữa hai đội nhân mã, cầm ống điếu vẫy ra một cái, dõng dạc hỏi: “Giữa huynh đệ có chỗ hiểu lầm, sao không nói chuyện đàng hoàng mà phải động đao thương? Không sợ bằng hữu giang hồ cười chê hay sao?”

Sa trại chủ nói: “Chử trang chủ! Trang chủ nghe thử vụ này xem sao.” Y bèn kể lại sơ lược chuyện Thanh Trúc Bang vượt biên gây án. Trình Thanh Trúc chỉ cười nhạt, không nói xen vào câu nào.

Hồng Thắng Hải nói với Viên Thừa Chí: “Tướng công! Sa Thiên Quảng trại chủ có biệt hiệu là Âm Dương Phiến, cùng Chử Hồng Liễu trang chủ là Lưỡng Bá ở tỉnh Sơn Đông.”

Thanh Thanh nói: “Đúng rồi, trước đây ngươi đã nhắc tới hai người này.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Sao Chử Hồng Liễu lại là trang chủ gì gì đó?”

Hồng Thắng Hải nói: “Sa Thiên Quảng thì khai sơn lập trại, ra mặt cướp bóc. Còn Chử Hồng Liễu thì êm ấm ở nhà làm viên ngoại, có cả một trang trại. Trước sau trang trại đó trồng cả ngàn cây liễu, nên gọi là Thiên Liễu Trang. Thật ra y là một tay độc hành đại đạo, khi ra ngoài gây án thường đi một mình, nhiều lắm chỉ mang theo hai ba người giúp việc.”

Thanh Thanh nghĩ bụng: “Thì ra là đồng nghiệp với năm lão gia của mình, hành nghề buôn không có vốn. Hồi trước ta cũng là đồng nghiệp, nhưng hình như ông mập không biết vị tiểu muội này.”

Chử Hồng Liễu lên tiếng: “Trình đại ca! Chuyện này nghĩ đi nghĩ lại cũng là đại ca không đúng. Năm trước đại hội trên đỉnh Thái Sơn, các vị cũng đã nể mặt mà mời tại hạ tham dự. Mọi người đều nói là không được vượt qua ranh giới để gây án mà?”

Trình Thanh Trúc nói: “Chúng ta đâu phải đến đây để gây án? Thanh Trúc Bang chỉ đùa giỡn một chút, đổi nghề đi bảo tiêu một phen. Luật pháp Đại Minh đâu có cấm người ta đi bảo tiêu? Chử lão đệ! Tin tức của lão đệ cũng thật linh thông. Ở đâu có thể nhúng tay vào, thì cái tẩu thuốc kia thò ngay tới đó.”

Chử Hồng Liễu cười rộ lên ha hả, chỉ hai hán tử đi sau mình rồi nói: “Hai vị này là Hoài Âm Song Kiệt, mấy hôm trước đã ghé qua trang trại, nói là có một món tiền muốn tặng cho tại hạ. Thân hình tại hạ ngày càng mập mạp, tính lại sợ nóng, vốn không muốn động đậy. Nhưng huynh đệ họ quá sức nhiệt tâm, tại hạ chỉ còn cách ra đây xem thử thế nào. Nào ngờ quý vị ở cả đây, thật là náo nhiệt.”

Viên Thừa Chí và Thanh Thanh nhìn nhau một cái, cùng nghĩ: “Hay quá! Lại thêm ba con mèo ăn đêm nữa.”

Sa Thiên Quảng biết họ Chử võ công cao cường, muốn liên kết để cùng đối phó với Thanh Trúc Bang. Y bèn nói: “Chử trang chủ là người cùng địa giới tỉnh Sơn Đông, muốn chia phần thì dĩ nhiên chẳng ai nói được gì. Nhưng người tỉnh khác nhúng tay vào, nếu lần này chúng ta nhường nhịn thì sắp tới anh em trong tỉnh Sơn Đông còn có cơm ăn nữa hay không?”

Chử Hồng Liễu hỏi: “Trình đại ca nói sao đây?”

Trình Thanh Trúc đáp: “Chúng ta khó khăn lắm mới lãnh được một chuyến tiêu, Sa trại chủ đã nhất định không nể mặt thì còn biết nói gì? Thôi thì mọi người mau lẹ một chút, lấy đao thương mà tìm chân lý.”

Chử Hồng Liễu quay lại hỏi: “Sa lão đệ thấy sao?”

Sa Thiên Quảng đáp: “Hảo hán Sơn Đông chúng ta không thể để người ngoài kéo tới bức hiếp.” Câu này rõ ràng kéo Chử Hồng Liễu vào cùng bè với mình.

Trình Thanh Trúc nói: “Chúng ta cùng xông lên một lúc, hay là lấy một đánh một? Sa trại chủ cứ đưa ra điều kiện, ta nhất định vâng lời.”

Âm dương phiến Sa Thiên Quảng xòe cây quạt ra, cười nhạt hai tiếng rồi hỏi Chử Hồng Liễu: “Chử trang chủ muốn thế nào?”

Vừa được Hoài Âm Song Kiệt đến báo tin là Chử Hồng Liễu khởi hành ngay, muốn một mình nuốt trôi chỗ trân bảo này. Nhưng y được tin trễ nên đã chậm chân, bây giờ lại ít người yếu thế, chỉ mong chia được một phần. Y biết hảo thủ trong Thanh Trúc Bang không phải là ít, bang chủ Trình Thanh Trúc nổi tiếng nhiều năm không phải tay vừa, không nên để xảy ra hiềm khích nặng nề.

Chử Hồng Liễu bèn nói: “Chuyện đã vậy rồi, không tránh khỏi tỉ thí một phen. Nếu loạn đấu thì tổn thương nhân mạng rất nhiều. Mọi người không thù không oán, hà tất phải làm mất hòa khí? Tại hạ có ý kiến này, không hiểu có dùng được không.”

Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng đồng thanh nói: “Chử trang chủ cứ nói đi.”

Chử Hồng Liễu đưa tẩu thuốc lên, chỉ vào mấy cỗ xe lớn rồi nói: “Ở đây có mười cái rương. Sơn Đông và Hà Bắc mỗi bên cử ra mười người, tỉ thí tổng cộng mười trận. Điểm trúng là dừng, không được hại mạng, bên nào thắng một trận thì lấy một cái rương. Thế là công bằng nhất. Chúng ta cứ coi như đang rảnh rỗi, ấn chứng võ công một chút để học hỏi lẫn nhau. Nếu lấy được rương, đó là tiền thưởng. Nếu không lấy được, dù sao cũng không phải vật của mình, không đến nỗi xót ruột mà tổn thương tì vị. Hai vị xem thử có được hay không.”

Trình Thanh Trúc cảm thấy phương pháp này rất tốt, nên đồng ý ngay. Sa trại chủ thì đối với Trình Thanh Trúc đã có phần kiêng nể, lại thấy Thanh Trúc Bang đến đây có chuẩn bị trận mạc nghiêm chỉnh, hơn hẳn quần đạo ô hợp bên tỉnh Sơn Đông, nếu hỗn chiến chưa chắc mình thắng được. Y lại nghĩ: “Bảy trại kia, mỗi trại phái một người ra trận. Nếu họ đủ bản lãnh mà thắng, thì cũng như mình định chia cho họ. Còn nếu họ thua thì không liên quan gì đến trại mình. Mình và Đàm lão nhị ra trận nhất định không thua, thế là đoạt được hai cái rương. Còn cái rương cuối cùng thì để Chử trang chủ tự lấy.” Y cũng lập tức đồng ý.

Sau đó hai bên thu quân về, thương lượng đưa người ra tỉ đấu. Chử Hồng Liễu sai người dùng đất màu vàng viết những chữ Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỷ, Canh, Tân, Nhâm, Quý lên mười chiếc rương sắt để làm ký hiệu.

Viên Thừa Chí và Thanh Thanh mặc kệ cho quần đạo làm bừa. Trình Thanh Trúc thấy hai người này không hoảng sợ chút nào, bất giác nổi dạ nghi ngờ, không tự chủ được phải nhìn Viên Thừa Chí và Thanh Thanh thêm mấy cái.

Bọn cường đạo đứng thành một vòng tròn lớn. Chử Hồng Liễu bước vào chính giữa để làm trọng tài.

Trận đầu tiên Sơn Đông phái người ra trước, hai bên thi thố về quyền thuật. Hai đấu thủ đều thân hình to lớn, sức khỏe kinh người. Đánh nhau bình bịch hồi lâu, người bên Hà Bắc bị đối phương dùng chân móc một cái té nhào xuống đất. Khi người bên Sơn Đông muốn nhảy tới đánh bồi, Chử Hồng Liễu lập tức vẫy tay cản trở. Sau đó, y tới cái rương sắt có ghi chữ Giáp, viết thêm một chữ Lỗ. (Lỗ là tên tắt của tỉnh Sơn Đông, còn Hà Bắc gọi là Trực). Sơn Đông thắng trận đầu tiên, quần đạo hoan hô như sấm động.

Trận thứ hai, Hà Bắc phái người ra. Sa Thiên Quảng biết đó là một hảo thủ Thiết Sa Chưởng, bên mình có Đàm nhị trại chủ giỏi hơn một bậc. Y nghĩ: “Không thể để mất cơ hội này”, liền bảo Đàm nhị trại chủ ra trận. Chưởng pháp gia số hai bên chẳng khác nhau bao nhiêu, nhưng công lực của Đàm nhị trại chủ thâm hậu hơn. Được vài chục chiêu, y đánh trúng vai đối phương một chưởng. Cánh tay người đó không đưa lên được nữa, thế là Sơn Đông thắng thêm một trận.

Quần đạo Sơn Đông đắc ý, nào ngờ sau đó thua liền bốn trận ba, tư, năm và sáu. Thế là trên bốn cái rương sắt có ghi chữ Trực. Đến trận thứ bảy tỉ thí về binh khí, Hậu trại chủ trại Sát Báo Cương bên tỉnh Sơn Đông vác cây Bát Phong Cửu Hoàn Đao ra trận, oai phong lẫm liệt. Quả nhiên y vừa xuất thủ đã trúng ngay, chặt đứt một cánh tay của đối phương.

Chử Hồng Liễu nghĩ: “Trước mắt chỉ còn lại ba chiếc rương sắt. Nếu mình không ra trận, để hai bên chia sạch, chẳng lẽ mình không có gì? Trận thứ tám Thanh Trúc Bang đưa người ra trước, mình phải đại diện bên Sơn Đông ra nghênh chiến để lấy một cái rương rồi tính tiếp.” Y bèn nói với Sa Thiên Quảng: “Sa lão đệ! Đối phương càng lúc càng lợi hại, trận tiếp theo lão đệ cho ta thử một phen.”

Sa Thiên Quảng biết lão này nhất định không chịu về tay không, bèn nói: “Nhất định Chử trang chủ sẽ giữ vững oai danh cho tỉnh Sơn Đông chúng ta.”

Khi bên đối phương có người bước ra, Chử Hồng Liễu bất giác ngơ ngác. Thì ra đối thủ chính là cô thiếu nữ A Cửu, xem ra chỉ mười sáu mười bảy tuổi, tay cũng không cầm binh khí, chỉ nắm hai cây tre nhỏ xíu.

Chử Hồng Liễu nghĩ thầm: “Ta là đại hào kiệt võ lâm, tỉ đấu với tiểu cô nương này há chẳng mất đi thân phận?” Y đã bước ra mấy bước, đột nhiên quay về bảo Sa Thiên Quảng: “Lão đệ phái người khác đi, trận tiếp theo để ta.”

Sa Thiên Quảng biết y không muốn giao đấu với cô bé này vì thắng cũng không hay, bèn hô lớn: “Huynh đệ nào cao hứng tỉ thí một trận với cô gái này?”

Trong quần đạo có một người bước ra. Tên này cao lớn, vai rộng, mặt mày trắng trẻo, cầm một đôi phán quan bút, chính là trại chủ Tần Đống của trại Hoàng Thập Ba trong Sơn Đông Bát Trại. Hắn tự cho mình là phong lưu, thấy thiếu nữ xinh đẹp vô cùng, tuy còn nhỏ mà nhan sắc đã nổi bật phi thường, nãy giờ đã bứt rứt trong lòng. Vừa nghe Sa Thiên Quảng kêu gọi, hắn lập tức xông ra.

Sa Thiên Quảng mỉm cười nói: “Bên chúng ta, chỉ có lão đệ là xứng đáng.”

Tần Đống cố ý khoe mẽ, đột nhiên tung người nhảy lên rồi nhẹ nhàng đáp xuống trước mặt A Cửu. Hắn muốn biểu diễn khinh công một chút, rồi buông mấy câu chọc ghẹo. Nào ngờ chân vừa chạm đất, trước mặt đã thấy bóng xanh nháy động, một thanh tre đâm tới yếu huyệt trước ngực của mình. Thế đâm như gió, nhanh chóng vô cùng.

Tần Đống sử phán quan bút, dĩ nhiên biết phép đả huyệt. Hắn vô cùng kinh hãi, vội đưa tả bút gạt ra, thấy thanh tre bên tay trái đối phương lại đến. Hắn vội vã nhào sấp xuống đất mới tránh né được, nhưng đầu đầy bụi đất, cả người toát mồ hôi lạnh.

Quần đạo Sơn Đông thấy A Cửu tuổi còn nhỏ mà võ công lại khá như thế, ai cũng phải kinh ngạc. Viên Thừa Chí và Thanh Thanh cũng bất ngờ, nhìn nhau mấy cái.

A Cửu sử dụng hai cây tre trong tay như một cặp song thương. Nhưng thanh tre mềm dẻo, có thể vẫy ngang ra điểm huyệt, nên thỉnh thoảng nàng lại thi triển những chiêu số nhuyễn tiên.

Tần Đống thầm nghĩ: “Một con bé nhỏ xíu như vậy mà ta không thu dọn được, thì làm sao đứng vững trong hắc đạo tỉnh Sơn Đông nữa?” Hắn lo lắng trong lòng, múa cặp phán quan bút càng lúc càng khẩn trương hơn.

A Cửu đột nhiên chống thanh tre bên trái xuống đất, tung người nhảy lên. Thanh tre bên phải chấm tiếp xuống đất, nàng vọt lên cao hơn nữa, thanh tre bên trái từ trên cao đánh xuống địch thủ. Tần Đống không biết phải chống đỡ thế nào, phải lùi bước liên tục. Hắn sơ sẩy một chút, bị A Cửu dùng thanh tre điểm trúng huyệt Kiên Trinh, cánh tay trái tê liệt, bút rơi xuống đất, đỏ mặt tía tai thua trận bước về.

A Cửu đang lùi lại, Chử Hồng Liễu bỗng sải bước tiến ra, hô lớn: “Cô nương giỏi quá! Để ta lãnh giáo vài chiêu xem thử được không?”

A Cửu mỉm cười nói: “Bản cô nương đang cao hứng, đánh chưa đã tay. Chử gia chịu chỉ giáo vài chiêu thì thật là tuyệt diệu. Chử gia sử dụng binh khí gì?”

Chử Hồng Liễu cười nói: “Người lớn đùa với trẻ con, lại cần tới binh khí hay sao? Ta dùng tay không tiếp chiêu.”

Y đứng bên theo dõi trận chiến vừa rồi, trong lòng tính toán: “Con bé này đã lợi hại như thế, chắc hai trận tiếp theo đối phương còn có cao thủ mạnh hơn. Chi bằng ta cản nó lại đánh một trận, thủ một cái rương rồi hãy tính tiếp.”

Thanh Trúc Bang sợ A Cửu đấu liền hai trận ắt phải mệt mỏi, ba người đồng thời nhảy ra muốn thay cho nàng. Nhưng A Cửu tuổi trẻ hiếu thắng, nói ngay: “Ta đã nhận lời với Chử gia rồi.” Ba người đó đành lùi lại.

Trình Thanh Trúc vẫy tay gọi, A Cửu vội tung người nhảy tới. Trình Thanh Trúc kề tai nàng dặn dò gì đó. A Cửu gật đầu rồi quay lại vòng đấu, khom lưng thi lễ. Nàng huy động hai thanh tre bảo vệ toàn thân, không vội ra chiêu tấn công.

Chử Hồng Liễu chậm chạp từng bước đến gần. Đột nhiên y phóng tả chưởng ra, tấn công vào tay phải đối thủ. A Cửu chống hai thanh tre dưới đất, bay người tránh né. Khi quay trở lại, nàng đưa thanh tre ra, thanh bên phải vừa đánh tới, thanh bên trái đến theo lập tức, thế công như cuồng phong vũ bão.

Chỉ trong chốc lát, trong khối bóng màu xanh đó phóng ra một thanh tre, đâm trúng vào dưới xương vai Chử Hồng Liễu. Bang chúng Thanh Trúc Bang hoan hô vang dội, nhưng Chử Hồng Liễu lại không lộ vẻ gì đau đớn. Màu chu sa trên mặt y đã đỏ đến tận cổ, vẫn từ từ tiến công từng bước.

Thân pháp A Cửu vô cùng linh hoạt, bay qua nhảy lại, chỉ cần đối phương sơ suất một tí là tấn công chớp nhoáng. Chử Hồng Liễu cậy vào thân hình to mập, chỉ lo bảo vệ yếu huyệt của mình. Tay chân, thậm chí vai lưng hắn đã bị mấy thanh tre đánh trúng, nhưng chẳng hề gì.

Viên Thừa Chí bảo Thanh Thanh: “Tên này lớn tuổi như thế, lại đi bức hiếp một tiểu cô nương. Y sắp hạ độc thủ rồi.”

Thanh Thanh lo lắng nói: “Để muội đi cứu cô ấy.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Hai bên đều muốn cướp đoạt tài vật của chúng ta, đi cứu làm gì?”

Thanh Thanh nói: “Tiểu cô nương này rất dễ thương, để cứu cô ấy rồi hãy tính tiếp. Đại ca! Đại ca ra tay đi.”

Thừa Chí mỉm cười rồi gật đầu.

Bên trong hai người càng đánh càng ác liệt. Da mặt Chử Hồng Liễu đỏ nhừ, như sắp ứa máu ra. Một lát sau, cánh tay y cũng từ từ đỏ ửng lên. Viên Thừa Chí nói: “Đến khi cánh tay của y đỏ hẳn, tiểu cô nương đó sẽ gặp nguy hiểm ngay.”

Lúc này Chử Hồng Liễu lại trúng liên tiếp mấy thanh tre. Y không nói tiếng nào, cứ từng chưởng phát ra chậm rãi, vừa ổn định vừa hung dữ. A Cửu dần dần thất thế, bị chưởng phong của đối phương ép cho khó thở, thân pháp không nhanh nhẹn như trước nữa.

Trình Thanh Trúc la lên: “A Cửu! Quay lại, Chử gia thắng rồi.”

A Cửu toan lùi ra, nhưng Chử Hồng Liễu không cho nàng thoát khỏi vòng chiến. Y hét lên: “Đã đánh trúng ta nhiều như vậy, muốn bỏ chạy hay sao?”

Y xuất thủ tuy chậm chạp, nhưng A Cửu vẫn không thể nào thoát khỏi màn lưới chưởng phong bao trùm. Thấy bàn tay y càng lúc càng đỏ, Trình Thanh Trúc giật lấy hai thanh tre trong tay thuộc hạ, tung người nhảy vào giữa Chử Hồng Liễu và A Cửu để cản trở, kêu lên: “Thắng bại đã rõ. Chử huynh từng nói điểm trúng là dừng, xin hạ thủ lưu tình.”

Sa Thiên Quảng la lên: “Hai người đánh một hay sao?” Y lập tức cầm cây quạt sắt nhảy ra, bay tới điểm vào huyệt đạo Trình Thanh Trúc. Họ Trình vội đưa thanh tre gạt ra.

Chử Hồng Liễu cười nhạt nói: “Điểm trúng là dừng, đương nhiên là vậy. Nhưng bây giờ ta chưa điểm trúng.” Y lại tăng thêm kình lực vào song chưởng.

Trình Thanh Trúc muốn cứu A Cửu, nhưng bị Sa Thiên Quảng giữ chân. Lão không biết phép phân thân, chỉ còn cách tập trung tinh thần ứng chiến với Sa Thiên Quảng. A Cửu mồ hôi đầy đầu, vất vả chống chọi hai bên trái phải, rõ ràng sắp trọng thương dưới bàn tay Chử Hồng Liễu.

Viên Thừa Chí đột nhiên kêu lớn: “Trời ơi! Không được rồi, không được rồi! Ngựa điên, cứu mạng, cứu mạng!” Chàng giục ngựa xông vào vòng chiến, chen vào giữa Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng.

Trình, Sa dĩ nhiên phải nhảy qua hai bên tránh né. Viên Thừa Chí ngồi trên lưng ngựa lắc lư lảo đảo, hai tay ôm lấy cổ ngựa, đột nhiên lộn nhào xuống bụng ngựa rồi lại trèo ngược lên, hai chân đạp loạn xạ, dáng vẻ bối rối thảm hại.

Khi con ngựa chạy thẳng đến chỗ A Cửu, đứng chặn giữa nàng và Chử Hồng Liễu, Viên Thừa Chí mới vừa thở hổn hển vừa bò xuống ngựa. Chàng loạng choạng như sắp té nhào, miệng la oai oái: “Nguy hiểm vô cùng! Phen này thế là thoát chết. Súc sinh ơi là súc sinh, ngươi muốn lấy mạng đại gia hay sao?”

Nhờ chàng cản trở mà A Cửu thoát nạn. Nàng lau mồ hôi trán, thu lại thanh tre, hổ thẹn lùi về. Tuy Chử Hồng Liễu không cam lòng, nhưng y không dám đuổi vào trong trận đối phương.

Trình Thanh Trúc nói: “Sa trại chủ! Lão phu còn muốn lãnh giáo Âm Dương Bảo Phiến của Sa trại chủ.”

Sa Thiên Quảng nói: “Đúng vậy! Còn cái rương cuối cùng, hai người chúng ta quyết một phen thắng bại.”

Hai người vừa giao đấu mười mấy chiêu chưa phân cao thấp, phen này đánh tiếp không dung tình gì nữa, hai bên đều hạ sát thủ. Hai thanh tre của Trình Thanh Trúc rất dài, chiêu thuật kỳ lạ. Cây quạt sắt của Sa Thiên Quảng đánh mãi vẫn chưa thể áp sát vào người đối thủ.

Lúc này mặt trời đỏ bầm đã nghiêng về phía tây, từng bầy quạ bay ngang trời kêu quang quác điếc tai. Đánh thêm mấy chiêu nữa, Sa Thiên Quảng dần dần rơi vào thế hạ phong, bước chân có phần loạng choạng.

Chử Hồng Liễu la lên: “Hai bên sức lực cầm đồng, khó phân thắng bại. Chiếc rương cuối cùng này, chúng ta chia đều nhau đi.”

Trình Thanh Trúc cười dài một tiếng, quét ngang thanh tre là là mặt đất. Sa Thiên Quảng vội nhảy lên tránh né. Hai tay Trình Thanh Trúc thu về đánh ra nhanh như chớp giật, liên tiếp quất luôn mấy phát. Sa Thiên Quảng đang lơ lửng trên không, khó mà tránh né, chân trái trúng ba đòn liên tiếp. Khi hạ xuống đất y đứng không vững nữa, té lăn ra.

Trình Thanh Trúc chắp tay nói: “Đa tạ lão đệ nhường nhịn.” Lão thu lại thanh tre, quay về đội ngũ phe mình.

Sa Thiên Quảng nghiến răng lại, ấn vào một cái nút trên cây quạt. Năm mũi cương đinh trong cán quạt bắn vèo vèo tới sau lưng Trình Thanh Trúc. Khi họ Trình nghe tiếng gió thì không kịp tránh né nữa, bị cả năm mũi cương đinh ghim trúng vào lưng.

Lão mới đau nhói lên đã tê chồn ngay, biết là hỏng rồi, lập tức vận hết hơi tàn, không nói tiếng nào tung người nhảy đến. Hai thanh tre phóng ra rất nhanh, điểm vào bụng dưới Sa Thiên Quảng. Chiêu này phát xuất trong lúc vô cùng căm phẫn, nên đã dùng hết kình lực bình sinh. Sa Thiên Quảng lập tức ngất xỉu tại chỗ.

Quần đạo tỉnh Sơn Đông vội xách binh khí ùa lên cứu giúp. Nhưng chúng chưa đến gần thì Trình Thanh Trúc đã không gượng nổi nữa, ngã ngửa xuống đất, nằm ngẩng mặt lên trời. Khi lão té xuống, năm mũi cương đinh lại ghim vào sâu thêm một khúc. A Cửu tức tốc chạy tới, dìu lão về bổn trận.

Bang chúng Thanh Trúc Bang không biết bang chủ của mình sống chết thế nào, chẳng ai là không giận dữ. Bốn đội nhân mã lập tức ào lên, hỗn chiến với quần đạo tỉnh Sơn Đông. Lúc này không giống ấn chứng võ công chút nào nữa. Chỉ trong chốc lát là hai bên đều có chết có bị thương, máu tươi bắn tóe ra bốn phía.

Chử Hồng Liễu chụp lấy tay Đàm nhị trại chủ của Ác Hổ Câu, kêu lớn: “Mau mau bảo anh em dừng tay!”

Đàm nhị trại chủ lấy còi sừng ra, thổi mấy tiếng tu tu, quần đạo tỉnh Sơn Đông lùi lại. Bên kia tiếng sáo tre cũng vang lên, bang chúng Thanh Trúc Bang cũng lùi về. Thì ra A Cửu thấy Trình Thanh Trúc đã hồi tỉnh, biết có hỗn chiến cũng không thể ổn định cục diện được. Nàng thấy đối phương thu quân về, cũng lo ổn định bang chúng của mình lại.

Chử Hồng Liễu đứng giữa hai bên, cất tiếng hô lớn: “Mọi người đừng để tổn thương hòa khí nữa. Chúng ta phân chia những rương sắt này đi, còn chuyện xích mích thì từ từ rồi tính.”

Đàm nhị trại chủ nói: “Cái rương cuối cùng là của chúng ta.”

Thanh Trúc Bang nhao nhao lên nói: “Các ngươi có đếm xỉa đến mặt mũi nữa không? Ám toán người khác mà gọi là hảo hán ư?”

Hai bên chửi mắng om sòm, chỉ muốn tiếp tục giết nhau.

Chử Hồng Liễu nói: “Thôi thì mở cái rương này ra, chia đều.”

Hai bên thấy thủ lĩnh đều bị thương nặng, không dám trái ý Chử Hồng Liễu. Dù sao trong tay họ đã có không ít trân báu, khá thỏa mãn rồi. Họ bèn phái người ra khiêng rương về.

A Cửu la lên: “Rương thứ tám là do ta thắng. Ta không cần lấy. Để lại cho vị khách này, không ai được đụng vào.”

Chử Hồng Liễu hỏi: “Sao lại thế?”

A Cửu đáp: “Nếu không nhờ con ngựa của huynh ấy nổi điên, thì ta trọng thương dưới chưởng của Chử gia rồi. Để lại một rương, coi như cảm tạ.”

Chử Hồng Liễu mỉm cười nói: “Cô bé này cũng biết ân oán phân minh. Được thôi, mọi người khiêng đi! Trên rương đã viết sẵn chữ rồi, đừng khiêng nhầm.”

Quần đạo kéo tới định khiêng rương sắt, Viên Thừa Chí đột nhiên lên tiếng: “Các vị vừa luyện võ phải không? Xem vui lắm, thật là thích mắt, giống hệt những người trổ tài mãi võ kiếm sống trên giang hồ. Bây giờ các vị làm gì nữa đây?”

A Cửu cười khúc khích, hỏi: “Huynh không biết hay sao? Bây giờ chúng ta phải khiêng những cái rương này.”

Viên Thừa Chí nói: “Chuyện này thì không dám phiền đến các vị, ta đã thuê đủ phu xe rồi. Các vị nhiệt tình thật, nhưng mới gặp nhau dọc đường, ta đâu dám phiền hà quá đáng?”

A Cửu mỉm cười nói: “Không phải chúng ta khiêng giùm huynh, mà là khiêng cho mình.”

Viên Thừa Chí kinh ngạc nói: “Úi chà, thế thì lạ quá. Hình như những cái rương này của ta mà? Chẳng lẽ quý vị nhận lầm rồi sao?”

Một tên trộm cướp Sơn Đông vừa chửi vừa nói: “Loại công tử bột này chỉ biết ăn cơm rồi đi đại tiện, nói nhiều với hắn làm chi? Lần này hắn còn giữ được cái mạng nhỏ xíu, coi như tổ tiên tích đức lắm rồi.” Nói xong, hắn cúi xuống khiêng rương.

Viên Thừa Chí la lên: “Trời ơi, không được đâu!”

Chàng lóp ngóp bò lên cái rương. Lúc đang trèo, một chân đạp ra, đại hán kia bị hất văng ra ngoài. Viên Thừa Chí ngã phịch lên mặt rương, quơ tay quơ chân, kêu la liền miệng: “Trời ơi! Cứu mạng, cứu mạng!”

A Cửu tưởng chàng té thật, bèn nhảy tới nắm tay kéo chàng đứng dậy, nửa cười nửa mắng: “Con người này thật là…”

Quần đạo thấy chàng thảm hại như thế, tưởng phát đá vừa rồi chỉ là may mắn, lại đi khiêng rương tiếp.

Viên Thừa Chí xua hai tay lia lịa, kêu lên: “Khoan đã, khoan đã! Quý vị khiêng rương đi đâu thế?”

A Cửu đáp: “Dĩ nhiên là khiêng về nhà rồi.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Còn ta thì sao?”

A Cửu mỉm cười nói: “Huynh nhìn cũng sáng sủa, sao đầu óc ngu muội đến thế? Ngoan ngoãn trở về nhà đi, kẻo mất mạng dọc đường.”

Viên Thừa Chí lập tức gật đầu, nói: “Cô nương nói câu này thật là chí lý. Bây giờ ta sẽ mang rương về nhà.”

Gã đại hán vừa bị đá một cước đã bò dậy. Hắn vô cùng giận dữ, vung tay đánh mạnh lên vai Viên Thừa Chí, mồm quát lên: “Cút con mẹ mày đi!”

Mắng chưa dứt câu, lưng hắn đã bị Viên Thừa Chí nắm chặt lấy. Chàng vung tay, quăng đại hán đó bay tuốt lên trời, vẽ một vòng tròn rồi rơi lên ngọn cây ngoài xa bảy tám trượng. Hắn cố hết sức ôm được một cành cây, kêu cứu ầm ĩ. Một đàn quạ đang đậu trên cành kinh hãi vỗ cánh, vừa kêu vừa bay loạn xạ trên đầu hắn.

Lúc này quần đạo mới biết thiếu niên trước mặt thân mang tuyệt kỹ. Dáng vẻ bối rối yếu đuối như công tử chỉ là giả bộ để đùa giỡn với mình. Nhưng chúng ỷ người đông thế mạnh, không nể nang chàng chút nào.

Năm mũi cương đinh trên lưng Trình Thanh Trúc đã được thuộc hạ nhổ ra. Lão tự biết mình bị thương không nhẹ, lo vận khí bảo vệ vết thương, chỉ đợi chia xong bảo vật là lập tức rút lui. Đột nhiên thấy Viên Thừa Chí hiển lộ võ công cao thâm, trước mắt không ai là địch thủ. Lão không nén nổi kinh hãi, vội vẫy tay gọi A Cửu đến nói nhỏ: “Người này võ công cực cao, phải hết sức cẩn thận.”

A Cửu gật đầu một cái, vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ. Kinh ngạc vì không ngờ vị tướng công tú tài này lại là cao thủ võ lâm, còn hoan hỉ vì nghĩ đến lúc nãy chàng giục ngựa giải vây cho mình, không phải may mắn tình cờ mà là có lòng cứu giúp. Nàng không khỏi âm thầm cảm kích.

Viên Thừa Chí lớn tiếng nói: “Các vị đánh nhau mất nửa ngày trời, lại viết những gì Giáp Ất Bính Đinh trên rương của ta, còn viết thêm Lỗ Trực gì gì đó. Bây giờ đùa giỡn đã đủ chưa? Ha ha! Ta phải xóa rồi đây.”

Chàng lập tức túm cổ một đại hán đứng gần, nhấc bổng lên xoay ngang lại, quơ một vòng trên mấy cái rương sắt. Chàng dùng hắn làm giẻ lau, chùi sạch những chữ Giáp Ất Bính Đinh Lỗ Trực, rồi vung tay một cái, quẳng hắn lên một ngọn cây khác.

Mười mấy người trong quần đạo Sơn Đông lớn tiếng hò hét, cầm binh khí phóng tới. Viên Thừa Chí tay đấm chân đá, lập tức trên trời đầy binh khí và những gã đại hán bị ném tung lên. Tiếng người la kinh hãi hòa vào tiếng quạ kêu quang quác. Chỉ nháy mắt là mười mấy đại hán đã bị Viên Thừa Chí trước sau nắm lấy, ném lên các ngọn cây xung quanh. Chàng ra tay rất vừa phải, không có tên nào rớt xuống đất bị thương.

Quần đạo Sơn Đông và Thanh Trúc Bang đều loạn hẳn trận mạc, bây giờ mới bắt đầu kinh hãi. Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng đã bị thương nặng, chúng cùng nhìn về phía Chử Hồng Liễu, đợi hắn chủ trương đại cuộc.

Chử Hồng Liễu hừ một tiếng rồi dõng dạc nói: “Thì ra các hạ cũng là võ lâm đồng đạo, thế thì phải thỉnh giáo danh tính rồi. Không hiểu các hạ là môn hạ của vị nào?”

Viên Thừa Chí đáp: “Vãn sinh họ Viên. Sư phụ của vãn sinh là lão phu tử Cơ Lý Cô Lỗ. Lão nhân gia là một đại sư về Kinh Dịch, đối với Lễ Ký và Xuân Thu lại càng tâm đắc. Còn một vị Lý lão phu tử, đã dạy dỗ vãn sinh môn Bát Cổ Văn. Nói đến các phép chuyển thừa khởi hợp…”

Chử Hồng Liễu tức giận ngắt lời: “Bây giờ còn giả bộ làm gì nữa? Mau mau nói rõ sư môn ra. Nếu giữa chúng ta có nguồn gốc liên quan, thì mọi người ở đây không phải là không biết nghĩa khí giao tình.”

Viên Thừa Chí nói: “Thế thì tuyệt diệu. Nguồn gốc liên quan thì trước đây không có, nhưng hôm nay gặp nhau ở đây, còn không phải là có duyên gặp gỡ ư? Chuyện buôn bán của các vị không thành, nhưng vẫn còn nhân nghĩa. Tuy không kiếm được chút lãi nào, nhưng đâu có bị mất vốn? Trời không còn sớm nữa, xin mời, xin mời! Bây giờ tại hạ phải đi thôi.”

Hậu trại chủ của trại Sát Báo Cương lớn tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó!” Y xách cây Bát Phong Cửu Hoàn Đao ra, xuất chiêu Phong Tảo Bại Dịch chém vào vai Viên Thừa Chí. Thân hình chàng hơi nghiêng một chút, cửu hoàn đao chém trượt qua kế bên. Chiêu này dùng sức cực mạnh, đao thế không thu về được, chém thẳng vào trước ngực Chử Hồng Liễu.

Trong tiếng quần đạo la hoảng, Chử Hồng Liễu đảo người né tránh, đưa ngón trỏ và ngón giữa tay trái ra kẹp lấy sống đao. Y giật tay một cái, lưỡi đao lập tức dừng lại. Hậu trại chủ mắc cỡ đến đỏ mặt tía tai, ấp úng nói: “Chử trang chủ! Xin… xin lỗi.”

Chử Hồng Liễu mỉm cười lỏng ngón tay ra, quay sang bảo Viên Thừa Chí: “Dựa vào công phu này, xứng đáng lấy một cái rương của ngươi đấy chứ?”

Viên Thừa Chí hỏi: “Công phu đó gọi là gì vậy?”

Chử Hồng Liễu nói đầy vẻ đắc ý khoe khoang: “Đó là Giải Kiềm Công. Nếu ngươi biết công phu này thì ta phục ngươi sát đất.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Giải kềm giải búa cái gì? Ta không thấy gì cả.”

Chử Hồng Liễu vô cùng giận dữ, hét lên: “Ta vừa dùng hai ngón tay kẹp chặt lưỡi đại đao, chẳng lẽ ngươi mù rồi sao?”

Viên Thừa Chí gật đầu nói: “À, thì ra là chuyện đó. Đó là hai người đã sắp xếp trước rồi, có chi kỳ lạ đâu? Thanh đệ qua đây, chúng ta luyện thử chiêu đó xem sao.”

Thanh Thanh cười khúc khích, nhặt dưới đất một thanh đơn đao, từ từ chém tới. Đao tới càng gần càng chậm, cuối cùng nhẹ nhàng để yên lưỡi đao trước mặt Viên Thừa Chí. Viên Thừa Chí quơ tay loạn lên một hồi, rồi nắm lấy sống đao. Thanh Thanh giả vờ dùng sức giãy giụa một hồi nhưng không giật được đao về. Nàng buông tay, hô lớn: “Úi chà! Giải Kiềm Công lợi hại quá!”

Thấy hai người chọc ghẹo Chử Hồng Liễu, A Cửu không nén nổi phải cười khanh khách. Quần đạo Hà Bắc và Sơn Đông đều không nhịn được, buông tiếng cười rộ.

Chử Hồng Liễu một đời tung hoành trong tỉnh Sơn Đông, xưa nay chỉ quen sai sử người khác, làm sao nhịn nổi hai kẻ hậu sinh tiểu bối chọc ghẹo mình? Y bèn đưa tay đoạt lấy thanh đao của Hậu trại chủ, cầm đưa cho Viên Thừa Chí rồi bảo: “Ngươi dùng thanh đao này chém ta một đao thử xem. Không phải bàn tính trước đấy chứ?”

Y vừa thấy Viên Thừa Chí ném quần đạo lên cây, võ công cực cao, nếu động thủ tay chân với chàng thì chưa chắc đã thắng. Nhưng dựa vào Giải Kiềm Công đã luyện tập mấy chục năm trời, thì hy vọng có thể hạ độc thủ lấy mạng thằng nhóc không biết lợi hại này.

Viên Thừa Chí nói: “Nếu ta chém chết ông thì không có mạng để đền. Ông không được đi báo quan phủ. Nếu định thưa kiện thì ta không thử đâu.”

Chử Hồng Liễu lại càng nổi giận, đã khởi sát tâm. Khuôn mặt y vừa nhăn nhúm vừa tím đen lại, nói: “Bất luận ai chết cũng không đền mạng.”

Viên Thừa Chí hô lớn: “Cẩn thận! Ta chém đây.” Đột nhiên chàng xoay tay lại, hớt lưỡi đao ngang qua.

Chử Hồng Liễu không sao ngờ được chiêu đao đến từ phương vị này, kinh hãi vội cúi đầu xuống; cái mũ bị chém rơi xuống đất. Quần đạo lại cười vang lên một hồi.

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Đâu? Giải Kiềm Công của ông đâu rồi? Hình như ta chưa nhìn thấy.”

Chàng vừa nói vừa vung đao chém là là dưới đất. Chử Hồng Liễu tung người gấp rút nhảy lên, lưỡi đao chém sượt dưới giày. Bịch bịch hai tiếng, cặp đế giày rơi xuống. Nếu chiêu đao này chém lên trên ba tấc, thì Chử trang chủ đã biến thành trang chủ của “Vô Cước Trang” rồi.

Viên Thừa Chí nói: “Đúng rồi! Cao quá không được, thấp quá không xong, nhanh quá ông cũng không tránh được. Thế thì ta từ từ chém vào quãng giữa cho ông dễ chụp.”

Nói xong, chàng bắt chước Thanh Thanh lúc nãy, từ từ đưa thanh đao tới trước mặt Chử Hồng Liễu. Họ Chử đưa hai ngón tay trái ra, chuẩn bị kẹp được binh khí đối phương là lập tức phóng hữu chưởng đánh cho mặt mày Viên Thừa Chí không phân biệt được đâu là mũi đâu là miệng nữa. Không ngờ khi lưỡi đao của Viên Thừa Chí đến gần, đột nhiên chàng trở ngược quét ngang một cái. Lưỡi đao quẹt nhẹ qua hai ngón tay họ Chử, lập tức máu tươi chảy đầm đìa.

Ba chiêu đao này cao thấp, nhanh chậm, biến hóa không thể lường được, trông như trò đùa mà bao hàm võ công cao thâm, hơn nữa kình lực lại rất chuẩn xác. Chiêu đao cuối cùng nếu nặng hơn một chút thì đã chặt đứt hai ngón tay Chử Hồng Liễu rồi.

Chử Hồng Liễu giận dữ điên cuồng, hét lên: “Tên giặc chuột kia! Thử nếm mấy chưởng của ta.”

Viên Thừa Chí vung tay ném thanh đao đi. Một đại hán đang leo từ trên ngọn cây xuống, thanh đao bay tới chặt đứt cành cây hắn định đặt chân. Hắn lộn một cái, té phịch từ trên cao xuống đất.

Giữa tiếng la hét ầm ĩ của mọi người, Viên Thừa Chí hít một hơi, vận Hỗn Nguyên Công, xách từng rương sắt ném chồng lên nhau. Chàng chồng mười chiếc rương lên nhau thành cột cao khoảng ba trượng, rồi nói: “Tỉ thí thì tỉ thí, nhưng ta phải đề phòng mình đang đánh nhau cao hứng thì bị khiêng trộm mấy cái rương này. Mặt mũi các vị ở đây đều trông như trộm cướp cả.”

Chàng nhảy lên đỉnh chồng rương, lớn tiếng hô: “Lên đây mà tỉ thí!”

Chử Hồng Liễu thấy chàng ném những cái rương sắt nặng nề càng lúc càng cao, đã kinh hãi thần lực. Khi thấy chàng nhảy lên nhẹ nhàng như vậy, y biết khinh công mình không thể bằng được, lại càng sợ hơn. Y không dám nhảy lên để chuốc họa vào thân, bèn quát trả: “Ngươi có giỏi thì xuống đây.”

Viên Thừa Chí đứng tít trên cao la lớn: “Ngươi có giỏi thì lên đây.”

Chử Hồng Liễu bước tới một bước, đưa tay ôm lấy chiếc rương sắt dưới cùng, lắc lắc mấy cái. Viên Thừa Chí từ trên cao té nhào xuống, đầu dưới chân trên. Quần đạo đồng loạt hoan hô.

Nhưng khi rơi gần tới đầu Chử Hồng Liễu, đột nhiên Viên Thừa Chí xuất chiêu Thương Ưng Bát Thố, tả chưởng từ trên không chụp xuống. Chử Hồng Liễu kinh hãi, vội phóng hữu chưởng ra đánh trả. Viên Thừa Chí xoay tay tóm được ngay cổ tay của y. Khi hai chân vừa chạm tới đất, chàng quát: “Lên!”, lập tức cái thân thể nung núc những thịt của Chử Hồng Liễu bị quẳng lên trời, rơi ngay trên đỉnh cái chồng rương sắt đó.

Mười cái rương này vốn đã xếp không ngay ngắn lắm, vừa rồi lại bị họ Chử xô đẩy lệch đi. Bây giờ có thêm một người mập ở trên, chồng rương lập tức lắc lư qua lại. Chử Hồng Liễu đứng trên đó quơ hai tay loạn lên, bối rối đến thảm hại. Cuối cùng y không chịu nổi nữa, bèn cúi rạp xuống ôm lấy nắp rương. Quần đạo vừa kinh hãi vừa không khỏi tức cười.

Thanh Thanh hét lên: “Ngươi có giỏi thì xuống đây.” A Cửu nghĩ đến câu nói vừa rồi, bất giác che miệng mỉm cười.

Chỗ tinh yếu của võ công Chử Hồng Liễu nằm trong bốn chữ: ổn, hậu, chẩn, nhẫn. Vừa rồi tỉ võ với A Cửu, y đã dùng hết sở trường của bốn yếu quyết này. Y thân hình mập mạp, biết mình biết người, trước giờ ít luyện tập khinh công, lấy sự ổn định để chống cái nhanh của người khác, lấy sự dày dặn chịu đòn để thay thế cái tinh xảo. Chưởng pháp y tuy thô kệch nhưng rất hiệu quả. Bây giờ đột nhiên ở tít trên cao, đúng là phạm vào đại kỵ của mình, võ công đầy người mà không sao sử dụng được. Vừa rồi Viên Thừa Chí xem y xuất thủ đã thấy rõ khuyết điểm, nên cố ý bố trí cái bẫy này để làm khó dễ y.

Viên Thừa Chí cũng muốn kết giao với bọn cường đạo này, nhưng vừa rồi thấy Chử Hồng Liễu truy sát cô bé A Cửu, tâm địa nham hiểm, ra tay tàn độc, nên mới trừng phạt y một chút. Một là bắt y giảm đi khí thế, hai là ra oai để bắt quần đạo phải tâm phục khẩu phục.

Quần đạo không ai dám bước tới chỗ mười cái rương sắt, chỉ sợ động đậy làm rương trên cao rơi xuống, không chỉ thiệt mạng Chử Hồng Liễu mà còn đè chết thêm nhiều người, nên lùi ra đứng khá xa.

Hai bên im lặng một hồi, Sa Thiên Quảng bỗng thều thào nói: “Đàm hiền đệ! Bao vây thằng lỏi đó, tấn công dứt điểm trước đi.”

Đàm nhị trại chủ được câu nói này nhắc nhở, lập tức thổi ám hiệu lên. Quần đạo tỉnh Sơn Đông rút binh khí ra, tấn công về phía Viên Thừa Chí. Ông câm, Thanh Thanh, Hồng Thắng Hải kéo tới chống đỡ. Thanh Thanh cầm kiếm, Hồng Thắng Hải sử đao, vung lên chém giết. Viên Thừa Chí cùng ông câm lại dùng tay không, nắm lấy những tên chạy tới quăng loạn ra ngoài. Bọn quần đạo từ khi ra ngoài trộm cướp chưa từng thấy cách đánh kiểu này. Hai người đi đến chỗ nào, quần đạo chạy trốn tới đó.

Viên Thừa Chí chỉ nhảy vài bước đã xông đến chỗ Sa Thiên Quảng đang nằm dưới đất, có hai tên chăm sóc. Đột nhiên thấy Viên Thừa Chí chạy tới, một tên vung đao lên chém, còn tên kia cõng Sa Thiên Quảng chạy đi chỗ khác. Viên Thừa Chí cúi đầu xuống, khom người luồn dưới lưỡi đao, chụp lấy đầu của tên chạy trước. Hắn đau quá la ầm lên, buông tay thả Sa Thiên Quảng xuống. Viên Thừa Chí đưa tay chụp lấy, tung người nhảy lên một cỗ xe lớn, quát to: “Các ngươi muốn giữ cái mạng này không?”

Quần đạo nhìn thấy thủ lĩnh bị bắt, lập tức ngẩn ra đứng yên, không tên nào dám động thủ nữa.

Viên Thừa Chí đưa tay ra hiệu, ông câm liền chạy về phía Thanh Trúc Bang. Bang chúng Thanh Trúc Bang đang khoanh tay đứng xem, đột nhiên thấy ông câm chạy tới, vội vàng cầm binh khí cản trở. Ông câm đã theo Thần kiếm tiên viên Mục Nhân Thanh nhiều năm, bọn võ sư tầm thường không thể chống nổi. Mặc cho đao thương đâm chém loạn xạ xung quanh, ông câm chỉ dùng hai bàn tay không đã chạy đến sát bên Trình Thanh Trúc.

Viên Thừa Chí đứng trên cao nhìn thấy ông câm đắc thủ, đang vui mừng thì bỗng thấy A Cửu ôm lấy Trình Thanh Trúc nằm sát dưới đất, khóc rống lên. Chuyện này khiến chàng phải bất ngờ. Nếu Trình Thanh Trúc chết, Thanh Trúc Bang như rắn không đầu, muốn giữ yên chẳng dễ dàng gì. Chàng vội kêu lớn: “Thắng Hải! Mau mau đi gọi lão huynh về đây.”

Hồng Thắng Hải bỏ rơi đối thủ, chạy vội tới ra hiệu. Ông câm quay đầu lại, thấy Viên Thừa Chí đang đứng trên nóc một cỗ xe lớn vẫy tay, bèn lập tức lùi về. Viên Thừa Chí giao Sa Thiên Quảng nửa sống nửa chết cho ông câm, tung người nhảy vào giữa vòng vây của Thanh Trúc Bang, hỏi vội: “Sao rồi?”

A Cửu vừa khóc vừa kêu: “Sư phụ ta chết rồi.”

Viên Thừa Chí cúi người xem xét, quả nhiên Trình Thanh Trúc đã ngừng thở. Chàng sờ vào trước ngực thì thấy tim lão vẫn còn đập yếu ớt. Lật người lão lên, thấy năm lỗ nhỏ trên lưng tuy đã cầm máu nhưng đều đúng vào yếu huyệt. May mà nội công của Trình Thanh Trúc thâm hậu, không thì lão không thể gượng nổi đến lúc này.

Viên Thừa Chí vận Hỗn Nguyên Công, điểm vào huyện Thiên Phủ và Dũng Tuyền dưới bàn chân lão, truyền nội lực qua người Trình Thanh Trúc. Huyết khí lão bắt đầu chuyển động, từ từ hồi tỉnh, mở mắt ra. A Cửu mừng rỡ, lớn tiếng kêu lên: “Sư phụ, sư phụ!”

Trình Thanh Trúc khẽ gật đầu một cái. Viên Thừa Chí nói: “Yên tâm đi, vết thương của sư phụ cô có thể trị khỏi.”

Trên khuôn mặt sáng ngời của A Cửu vẫn còn mấy giọt nước mắt, nhưng đôi mắt trong veo đã tràn ngập vẻ vui mừng. Nàng khẽ nói: “Đa tạ tướng công.”

Lúc này ba người Thanh Thanh, ông câm, Hồng Thắng Hải đang kiềm chế Sa Thiên Quảng lùi vào giữa trận Thanh Trúc Bang. Quần đạo tỉnh Sơn Đông thấy thủ lĩnh bị bắt, muốn chạy tới cứu người, nhưng bang chúng Thanh Trúc Bang đã ra tay cản trở. Hai bên hò hét ầm ĩ, loạn đấu với nhau. Những tiếng loảng choảng vang lên kịch liệt, chỉ khoảnh khắc là mỗi bên đã mất mấy chục người trọng thương hoặc chết.

Thanh Thanh nói: “Nếu đánh tiếp nửa giờ nữa, chắc hai bên cùng chết rất nhiều.” Viên Thừa Chí chỉ mong kiềm chế được trận ác đấu để tránh khỏi tổn thương nhân mạng.

Đột nhiên Chử Hồng Liễu đang đứng trên chồng rương sắt bỗng vung tay lên, hô lớn: “Không xong rồi! Quan binh kéo đến, phải mấy ngàn người. Mọi người nhanh chóng rút lui… Không! Có cả vạn người… Chạy thôi, chạy thôi…”

Y đứng trên cao, dĩ nhiên nhìn thấy đầu tiên. Mọi người nghe hô hoán như vậy, ai cũng kinh hãi, nên đao thương đều dừng hết. Chỉ nháy mắt đã thấy ba kỵ sĩ phi nhanh tới, hai là của quần đạo tỉnh Sơn Đông cử đi thám thính, còn một là người thăm dò của Thanh Trúc Bang. Cả ba đều kêu réo om sòm, bảo mọi người rút lui, đại đội quan binh đã đến.

Chử Hồng Liễu không kể gì tới nguy hiểm nữa, tung người nhảy bừa xuống. Y đứng không vững phải lăn dưới đất mấy vòng, khi bò dậy thì hai chân sưng vù lên đau đớn. Y giật lấy một con ngựa, dẫn quần đạo tỉnh Sơn Đông rút lui.

Viên Thừa Chí ra dấu bảo ông câm trả Sa Thiên Quảng cho họ. Quần đạo tỉnh Sơn Đông đón lấy, đặt thủ lĩnh trên lưng ngựa rồi chạy vào rừng rậm. Bên Thanh Trúc Bang cũng nổi sáo tre liên tiếp, nhanh tay khiêng đồng bọn bị thương và chết đang nằm dưới đất, chia thành bốn đội chạy đi. Trong chốc lát, giữa khoảng đất trống chỉ còn lại đoàn xe của Viên Thừa Chí.

Hồi 11: Khẳng khái chung thù địch – Gian nan lập nghĩa quân

Viên Thừa Chí nhảy lên đỉnh chồng rương, vận Hỗn Nguyên Công thả nhẹ từng chiếc rương xuống. Ông câm đứng dưới chụp lấy, xếp lên xe lớn. Thanh Thanh mỉm cười nói: “Họ tổn thương nhiều người như thế, chỉ sờ được ngoài rương mấy cái, không hiểu có lời hay lỗ vốn? Chuyện này phải nhờ đại sư ca của huynh dùng Thiết Toán Bàn tính toán lại.”

Nghe thấy xa xa tiếng còi hiệu vang lên liên tục, tiếng người ồn ào, tiếng ngựa hí om sòm, quả nhiên đại đội nhân mã đang kéo đến đây. Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Phen này mình định lôi kéo hai nhóm anh hào Sơn Đông, Hà Bắc, nhưng xem ra không thành công”. Chàng bảo: “Chúng ta đi thôi.”

Mọi người tập trung lừa ngựa và bọn phu xe lại, rất may là không tổn thất gì. Đang định khởi hành thì thấy mấy trăm quan binh chia thành hai đội xung phong đến trước. Tên bả tổng cầm trường đao quát hỏi: “Làm gì ở đây?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Bọn tại hạ là bá tính đi đường.”

Bả tổng hỏi: “Sao ở đây lại có vết máu cùng binh khí gãy?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Đó là bọn cường đạo chặn đường cướp bóc. May mà các vị quan binh đến đây, nên chúng hoảng sợ bỏ chạy.”

Mấy toán lính xông lên trước, truy kích quần đạo đang chạy trốn. Bả tổng liếc nhìn mấy chiếc rương lớn đặt trên xe, lạnh lùng hỏi: “Trong đó có gì vậy?”

Hồng Thắng Hải nói: “Chỉ là hành lý của bọn tại hạ thôi.”

Bả tổng bảo: “Mở ra xem thử.”

Hồng Thắng Hải đáp: “Toàn là quần áo tùy thân, không có gì đặc biệt đâu.”

Bả tổng quát luôn: “Ta bảo mở thì cứ mở, lải nhải gì nhiều thế?”

Thanh Thanh tức giận lên tiếng: “Không phải đồ phi pháp, cần gì phải xem?”

Tên bả tổng bắt đầu thóa mạ: “Thằng lỏi lộn giống này láo thật!” Hắn trở ngược trường đao, dùng cán đao gõ lên đầu Thanh Thanh. Nàng vội né mình tránh khỏi.

Bả tổng thấy mười chiếc rương sắt rất chắc chắn, đoán là bên trong chứa đồ quý. Mới nhìn là hắn đã khởi lòng tham, bây giờ nhân cơ hội bèn la lên: “Thằng lỏi này cả gan kháng lệnh! Anh em, sung công hết tang vật cho ta.”

Bọn quan binh này cướp đoạt tài vật bá tính đã quen, không cần phải nói nhiều. Mới nghe hai chữ “sung công”, đã có mười mấy tên ùa tới, cứ ba bốn tên khiêng một cái rương sắt xuống xe.

Tên bả tổng kia nổi lòng ác độc, sợ khổ chủ tố cáo lên thượng cấp, bèn quát lớn: “Bọn này đều là thổ phỉ, cả gan kháng cự quan binh, giết hết không cần luận tội!” Hắn lập tức vung đao chém tới.

Viên Thừa Chí nổi giận nghĩ thầm: “Nếu bọn ta không biết võ nghệ, há chẳng phải bị các ngươi sát nhân diệt khẩu? Loại chó này không biết đã hại chết bao nhiêu lương dân rồi.” Đợi thanh trường đao chém tới, chàng nghiêng người tránh né rồi xoay tay vỗ vào lưng hắn. Tên này làm sao chịu nổi, lập tức té nhào xuống ngựa mất mạng.

Bọn quan binh kinh hãi kêu la: “Cường đạo cản đường cướp tào vật! Cướp tào vật rồi!”

Những tên đi đầu bị ba người Thanh Thanh, ông câm, Hồng Thắng Hải xông tới tấn công nên chạy tản ra tránh né, đại đội nhân mã phía sau cũng theo đó mà lộn xộn. Viên Thừa Chí nhặt thanh đại đao của bả tổng, múa lên cản hậu. Ba người kia dẫn đoàn xe đi trước, lùi vào trong rừng.

Nghe đầy những tiếng vũ khí chạm nhau loảng choảng, rõ ràng trong rừng quan binh đang đánh nhau với quần đạo Sơn Đông và bang chúng Thanh Trúc Bang. Tuy quần đạo và bang chúng hiểu võ nghệ, nhưng không cản nổi quan binh người đông thế mạnh, chẳng bao lâu bắt đầu thất thế phải lùi. Sa Thiên Quảng và Trình Thanh Trúc đều bị thương rất nặng, không ai chỉ huy, quần hào lúc này như ong vỡ tổ, mạnh ai nấy đánh, bị quan binh bao vây từng nhóm nhỏ mà tấn công. Tiếng kêu gào thê thảm ở đây vừa tắt nghẹn, ở chỗ khác lại nổi lên.

Tập hợp xong đoàn xe vào một gốc cây ở bìa rừng, Thanh Thanh hỏi: “Bây giờ phải làm sao?”

Viên Thừa Chí nói: “Giúp đỡ cường đạo, giết bọn quan binh. Thanh đệ ở đây canh giữ.”

Thanh Thanh gật đầu đồng ý, cùng ông câm và Hồng Thắng Hải chia ra trông chừng đoàn xe. Tên quan binh nào xông vào là bị giết ngay, nên nhất thời bọn chúng chưa dám ép tới gần.

Viên Thừa Chí tung người lên cây, quan sát tình thế. Chàng thấy A Cửu và mấy đầu mục của Thanh Trúc Bang đang bị mấy chục quan binh vây chặt, tình thế ở đó là nguy hiểm nhất. Viên Thừa Chí lập tức tung người nhảy xuống, chạy thẳng tới trước, cánh tay trái vừa đưa ra đã hất văng hai ngọn thiết thương đang đâm tới A Cửu. Chàng hô lớn: “Lùi về ngọn đồi phía tây!”

Lại có một tên võ quan vung đao chém A Cửu. Viên Thừa Chí phóng cước đá cương đao bay đi mất, đánh thêm một quyền vào trước ngực. Tên võ quan lập tức hộc máu ra, té ngửa xuống đất. A Cửu thổi sáo tre ra lệnh, bang chúng Thanh Trúc Bang lập tức lùi về phía tây, dần dần tụ lại được với nhau.

Viên Thừa Chí chạy qua chạy lại, bảo quần đạo Sơn Đông cũng lùi về phía tây. Hễ thấy nhóm cường đạo nào bị quan binh bao vây không thoát thân được, chàng lập tức xông vào giải cứu. Khi tập họp được thành một nhóm đông, tình thế tức thì khác hẳn. Viên Thừa Chí dẫn họ vừa đánh vừa lùi, lên ngọn đồi đó phòng thủ.

Chàng lại lựa trong bang chúng và quần đạo ra mấy chục người võ công cao nhất, dẫn họ xung phong xuống, dẫn nốt đoàn xe và ba người Thanh Thanh lên đỉnh đồi. Bọn quan binh đứng dưới la hét ỏm tỏi, bao vây rất chặt.

Viên Thừa Chí hạ lệnh cho quần hào dùng ám khí để phòng thủ ngọn đồi. Quần hào rõ ràng sắp thua trận, tính mạng khó toàn, bây giờ được hướng dẫn tạm thời thoát khỏi nguy hiểm, nên rất tôn trọng hiệu lệnh của Viên Thừa Chí. Hơn hai trăm quan binh xông lên đồi liền bị một trận mưa ám khí hất xuống, bỏ lại mấy chục cái xác.

Quan binh vừa rồi thừa thắng mới dám xung phong, bây giờ gặp trở ngại bắt đầu sợ chết, không có tên nào liều mạng tấn công lên núi nữa. Chúng chỉ reo hò lớn tiếng cho trưởng quan nghe thấy mà thôi. Những tiếng hô “Xung phong! Giết!” vang động cả trời, nhưng người thì chẳng thấy ai. Rất lâu vẫn không có tên lính nào chạy đến gần.

Viên Thừa Chí sắp xếp kế hoạch phòng thủ, bảo bốn người là Đàm nhị trại chủ, Chử Hồng Liễu, Hồng Thắng Hải và A Cửu mỗi người dẫn một đội canh giữ một hướng. Những người còn lại ngồi tại chỗ băng bó vết thương, nghỉ ngơi điều tức.

Viên Thừa Chí dùng phép thôi cung quá huyệt xoa bóp cho Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng một hồi, hai người ngủ thiếp đi trên đỉnh đồi. Quần đạo Sơn Đông và bang chúng Thanh Trúc Bang thấy thủ lĩnh mình vô sự, càng kính phục Viên Thừa Chí hơn.

Viên Thừa Chí hỏi mấy trại chủ về địa hình nơi đó, rồi nhảy lên nóc xe đứng xem xét tình hình đám quan binh. Thấy phía sau đội quan binh này có những chiếc xe rất nặng, chàng liền nhảy xuống hỏi Thanh Thanh: “Lúc nãy chúng kêu la tào vật gì vậy?”

Chử Hồng Liễu đang được Hoài Âm Song Kiệt nắn bóp hai chân, nghe Viên Thừa Chí hỏi đến chuyện này bèn đáp: “Nhất định bọn quan binh này đang áp tải tiền thuế đi Bắc Kinh. Chúng ta gặp chúng ở đây thật là may mắn.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Vận chuyển tiền thuế, sao phải cần đại đội quan binh như thế?”

Chử Hồng Liễu đáp: “Bây giờ thiên hạ đại loạn, quần hùng nổi dậy khắp nơi, chẳng nơi nào không có hào kiệt khai sơn lập trại. Triều đình chỉ biết thu vét lương thực cùng tiền thuế ở Giang Nam, vận chuyển về Bắc Kinh để phát quân lương. Sùng Trinh vừa phải đề phòng quân Mãn Châu ở Liêu Đông, vừa phải đối phó với Sấm Vương và các lộ anh hùng, số tiền thuế này là mạng của hắn. Nếu xảy ra sơ suất thì hắn không thể ngồi yên trên ngai vàng được nữa, dĩ nhiên phải phái rất nhiều nhân mã hộ tống. Lương thực cùng tiền thuế vốn vận chuyển bằng đường thủy, nhưng chắc hoàng đế cần tiền gấp quá, nên mới đi đường bộ cho nhanh.”

Viên Thừa Chí nói: “Bọn quan binh này đang gánh nặng như thế, còn dám đến đây làm khó dễ chúng ta.”

Chử Hồng Liễu mỉm cười nói: “Chúng cứ tưởng nhấc tay một cái là giết sạch chúng ta, chụp cho mấy cái mũ đại vương ma vương gì đó rồi trình tấu lên trên. Há chẳng lập công lớn hay sao?”

Y ngừng một chút, lại nói: “Bọn tại hạ vốn là cường đạo thổ phỉ, không đến nỗi oan uổng. Chỉ tiếc là liên lụy đến tướng công.”

Viên Thừa Chí thở dài nói: “Quan ép dân phản, hôm nay chính mắt ta nhìn thấy.”

Hồi nhỏ chàng đã học Ưng Tùng được một chút binh pháp thô thiển, suy nghĩ chốc lát rồi nói: “Ở hướng Tây Bắc có một cửa thung lũng hẹp. Chúng ta theo đó mà chạy ra ngoài.”

Lúc này Chử Hồng Liễu đã phục chàng sát đất, bèn nói: “Xin Viên tướng công dặn dò, mọi người sẽ nghe theo hiệu lệnh.”

Viên Thừa Chí vẽ bản đồ dưới đất, trình bày kế hoạch phá vây, rồi chia công việc cho mọi người. Khi chàng phát lệnh, quần hào đồng thanh reo hò vang dội. Viên Thừa Chí cùng ông câm đi trước mở đường, dẫn mọi người xung phong xuống núi.

Bọn quan binh đã uể oải lắm rồi, chỉ có một số ít được lệnh canh giữ, phần lớn ngồi nằm la liệt để nghỉ ngơi. Đột nhiên thấy quần hào reo hò xung phong tới, khí thế hung hãn vô cùng, chúng chưa kịp chống đỡ đã bị quần hào phá vỡ một khoảng trống để thoát thân.

Quần hào chạy về phía cửa thung lũng, quan binh hò hét đuổi theo sau. Truy đuổi một hồi, mấy chục cường đạo và bang chúng chạy sau cùng đột nhiên quay lại chiến đấu, cản trở quan binh truy đuổi. Khi đại đội quan binh tấn công tới, nhóm cản hậu này cũng lùi hết vào trong thung lũng.

Hai bên con đường dẫn vào thung lũng này là những ngọn núi cao chót vót, địa thế vô cùng nguy hiểm. Khi quan binh đuổi vào thung lũng, tên tổng binh chỉ huy bèn hạ lệnh đuổi chậm lại, đề phòng mai phục.

Đột nhiên trên cỗ xe lớn phía trước có một chiếc rương sắt rơi xuống, nắp rương bật mở đổ ra. Một quãng đường vương vãi kim ngân châu báu, chiếu sáng lấp loáng, hấp dẫn vô cùng. Tổng binh cả mừng, hạ lệnh gấp rút đuổi theo. Đuổi được một lúc, chúng thấy quần hào quăng cả binh khí mà chạy loạn xạ; dưới đường rải rác rất nhiều tiền tài châu báu. Bọn quan binh lập tức tranh nhau mà lượm, rối loạn cả lên.

Quan tổng binh thấy quần hào tan rã, ngay cả binh khí cũng vứt đầy dưới đất, nên không đề phòng gì nữa. Hắn một lòng một dạ muốn đoạt lấy chiếc rương bảo bối, bèn hạ lệnh cho cả tiền quân, trung quân, hậu quân cùng đuổi gấp lên.

Lúc này Viên Thừa Chí đã trèo lên vách núi, bám cả tay chân vào những sợi dây mây trên cành cây vách đá, đi vòng lại phía sau bọn quan binh. Quả nhiên hậu đội là một đoàn xe dài dằng dặc, nhiều không sao đếm xuể. Quanh xe đều dùng vải vàng che chắn, trên xe có cắm cờ hiệu ghi chữ đỏ: “Đại Minh Giang Nam tào vật”. Càng nhìn ra xa, đoàn xe càng giống một con rồng vàng rất dài.

Viên Thừa Chí vừa kinh hãi vừa mừng rỡ. Thế triều đình còn mạnh, không dễ dàng đối địch, nếu cướp được số tiền thuế này thì chính là một nhát búa bổ vào đầu kẻ đại thù Sùng Trinh hoàng đế, nghĩa binh của Sấm Vương sẽ dễ thành công hơn. Chàng thấy dưới đồi cây cối um tùm, bèn chui ra khỏi rừng để quan sát. Chỉ chốc lát chàng đã tới sát đội ngũ quan binh, nhờ cây cối che chắn mà nghe rõ cả tiếng trò chuyện của chúng.

Những cỗ xe ồn ào lăn bánh qua mặt chàng, mãi không dứt. Lát sau tiếng bánh xe lách cách có vẻ nhẹ nhàng hơn, hình như hàng chở trong xe không phải tiền bạc hay lương thực nữa. Chàng theo kẽ hở trong bụi rậm nhìn ra ngoài, thấy đó là hơn trăm chiếc xe chở tù. Mỗi người tù đều bị trói quặt hai tay, bỏ ngồi trong xe. Trên xe cắm cờ trắng ghi những chữ: “Hậu trảm cự khấu…”, nào là giang dương đại đạo, lưu khấu đầu mục, vân vân. Hiển nhiên đây đều là quân khởi nghĩa, hoặc là những kẻ cầm đầu sơn trại phản kháng triều đình.

Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Những người này đều nên cứu, nhưng mình ra tay cách nào đây?”

Đang suy nghĩ, đột nhiên chàng thấy một chiếc xe đi ngang qua viết chữ: “Hậu trảm phản nghịch Tôn Trọng Thọ”. Viên Thừa Chí kinh hãi, đuổi theo nhìn kỹ thì người ngồi trong xe đúng là Tôn Trọng Thọ. Tóc hai bên thái dương ông đã bạc, sắc mặt đầy vẻ phong sương, so với hồi chàng gặp trên đỉnh Thánh Phong thì già đi nhiều, nhưng dáng vẻ vẫn vô cùng khẳng khái. Tuy ngồi trong xe tù mà phong độ ông vẫn không kém năm xưa.

Viên Thừa Chí còn đang kinh hãi, lại thấy những chiếc xe tù phía sau đẩy tới đều nhốt thuộc hạ của cha mình, trước kia từng dạy dỗ nuôi dưỡng mình. Ba vị thúc thúc Nghê Hào, Chu An Quốc, La Đại Thiên cũng có trong đó, chỉ thiếu Ưng Tùng. Viên Thừa Chí chua xót trong lòng, sau đó thầm mừng rỡ: “Ông trời có mắt, hôm nay cho mình gặp các vị thúc thúc tại đây.”

Không bao lâu, những chiếc xe tù đã đi qua hết. Viên Thừa Chí phóng người chạy ngược ra sau. Bọn quan binh nhìn thấy chàng, lập tức nổi hiệu báo động, có tên kịp lấy cung ra bắn. Nhưng thân pháp Viên Thừa Chí cực nhanh, khi tên bắn tới người đã không thấy đâu nữa. Chàng chạy được mấy chục trượng thì hết đội ngũ quan binh. Đi cuối cùng là một tên võ quan cưỡi ngựa, cầm đại đao áp giải.

Viên Thừa Chí đang định ra tay thì đột nhiên thấy xa xa cát bụi bay mù, mấy con ngựa đang phi tới. Chàng nghĩ bụng: “Thì ra có quân tiếp ứng. Mình đợi họ tới đây, xem rõ ràng mới tính.”

Chỉ chớp mắt là năm con ngựa đã chạy tới nơi. Đi đầu là một nữ nhân, chính là Phi thiên ma nữ Tôn Trọng Quân. Bốn người phía sau là vợ chồng Quy Tân Thụ và Mai Kiếm Hòa, Lưu Bội Sinh.

Viên Thừa Chí cả mừng kêu lớn: “Nhị sư ca!” Chàng lập tức phóng ra, đứng trước mặt vợ chồng Quy Tân Thụ. Quy nhị nương dừng ngựa, nhận ra chàng liền gật đầu một cái, hỏi: “Thì ra là ngươi. Có chuyện gì không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Tiểu đệ đang có chuyện gấp, mong sư ca sư tẩu cùng các vị ra tay trợ giúp.”

Quy nhị nương nói: “Chúng ta cũng có việc quan trọng, không rảnh.” Mụ cùng Quy Tân Thụ lại giật dây cương, hai con ngựa chạy qua hai bên Viên Thừa Chí, tiếp tục phi về phía trước. Mai Kiếm Hòa chắp tay hô một tiếng: “Sư thúc!”, rồi chạy theo sư phụ, sư nương.

Lưu Bội Sinh nhảy xuống ngựa, lên tiếng: “Sư phụ sư nương đang có việc quan trọng. Đệ tử lo liệu xong sẽ lập tức tới đây, nghe lời sư thúc sai khiến.”

Viên Thừa Chí nói: “Thế thì không cần nữa. Lưu huynh cho ta mượn ngựa một chút.”

Lưu Bội Sinh nói: “Sư thúc cứ dùng đi.” Y đưa dây cương cho Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí nói: “Hai người chúng ta cưỡi chung con ngựa này, đuổi kịp bọn quan binh phía trước là được rồi.” Nói xong, chàng tung người lên ngựa. Lưu Bội Sinh cũng nhảy lên. Viên Thừa Chí kẹp hai chân lại, con ngựa lập tức cất vó phi nhanh tới trước.

Lưu Bội Sinh hỏi: “Sư thúc rượt theo bọn quan binh để làm gì?”

Viên Thừa Chí đáp: “Cứu người.”

Lưu Bội Sinh mừng rỡ nói: “Thế thì hay quá! Bọn đệ tử cũng đang đuổi theo bọn quan binh này để đánh cho một trận.”

Viên Thừa Chí nghe vậy mừng rỡ, thúc ngựa chạy càng gấp hơn. Cuối cùng chàng đã nhìn thấy sau lưng đội quan quân áp giải, nhưng không thấy vợ chồng Quy Tân Thụ, chắc đã vượt qua bọn chúng rồi. Chàng bèn giục ngựa tới gần

Tên chỉ huy quân áp giải nghe tiếng vó ngựa phía sau, vừa quay đầu lại đã thấy một người từ lưng ngựa nhảy tới. Hắn giật mình kinh hãi, vội vung đại đao chém lên trời. Tay phải Viên Thừa Chí đưa ra phía trước chụp lấy cán đao, người đã nhảy lên lưng ngựa của hắn, tay trái điểm trúng huyệt đạo sau lưng. Tên kia lập tức tê chồn, muốn phản kích nhưng không động đậy được nữa.

Viên Thừa Chí quát bảo: “Mau hạ lệnh cho đoàn xe chở tù nhân dừng lại.”

Tên chỉ huy chưa kịp hạ lệnh, đã thấy vợ chồng Quy Tân Thụ bất ngờ từ trong rừng nhảy xổ ra. Bốn người cùng rút binh khí chém giết quan binh, đội ngũ lập tức lộn xộn.

Viên Thừa Chí bảo Lưu Bội Sinh tới giúp sư phụ, rồi giật lấy đại đao, chạy tới cỗ xe nhốt Tôn Trọng Thọ. Chàng chém vỡ chiếc xe, la lớn: “Tôn thúc thúc! Con là Viên Thừa Chí đây.” Tôn Trọng Thọ nghe mà như đang nằm mộng, ngơ ngác một hồi mới hiểu.

Viên Thừa Chí lại tới cứu Chu An Quốc, Nghê Hào và La Đại Thiên. Những người này đều là võ tướng đánh quen trăm trận, tuổi già mà phong thái anh hùng chưa mất, vừa được cứu đã giật lấy binh khí. Người thì chém giết quan binh loạn xạ, người thì phá vỡ xe tù cứu người khác ra. Những ai thoát hiểm đều lo phá xe cứu người, chỉ chốc lát bao nhiêu xe tù đều bị phá vỡ, hơn trăm hảo hán như cọp sổng chuồng. Trong đó có ba mươi mấy người là thuộc hạ cũ của Sơn Tông. Nghe nói người đến cứu là công tử của Viên đốc sư, ai cũng phấn chấn hẳn lên.

Đánh nhau loạn xạ một hồi, hậu đội của quan binh không còn đội ngũ gì nữa, tranh nhau chạy trốn về phía trước. Lúc này tiền đội của quan binh đã phát hiện phía trước có đá lớn cản đường, không thể đuổi tới được. Thế là cả đầu lẫn đuôi đều loạn xạ.

Viên Thừa Chí thấy bọn quan binh đang rối loạn, nhưng quân số rất đông, không dễ gì tiêu diệt được. Chàng vứt bỏ đại đao, nhảy lên nóc đội xe vận chuyển lương thực và tiền thuế đang xếp hàng dài. Chạy trên nóc xe khoảng một dặm, chàng mới thấy tên tổng binh của đội quân này, đầu đội nón sắt, tay múa trường đao chỉ huy tác chiến.

Viên Thừa Chí nhảy lên lưng ngựa tên tổng binh đó. Hắn xoay đao về định chém, Viên Thừa Chí vươn tay định chụp lấy. Nào ngờ hắn tung người nhảy xuống ngựa nhanh như chớp, nên chàng không túm được cổ tay hắn.

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Không ngờ trong quan quân cũng có người võ công cao như thế.” Tay trái chàng vung lên, ba đồng tiền nhỏ bay ra. Đây chính là thủ pháp phát xạ quân cờ do Mộc Tang đạo nhân truyền dạy.

Tên tổng binh đó múa trường đao gạt được hết ba đồng tiền. Viên Thừa Chí cất tiếng khen: “Giỏi lắm! Bây giờ ngươi đỡ thử xem.” Chàng vẫy liền hai tay, ném ra ba lần chín là hai mươi bảy đồng tiền, chia làm ba đường thượng trung hạ, đánh vào người hắn. Dù là võ lâm cao thủ cũng khó đỡ chiêu này.

Tên tổng binh tuy võ nghệ cao cường, nhưng làm sao tránh được thủ pháp Mãn Thiên Hoa Vũ? Loảng choảng một tiếng, trường đao tuột khỏi tay hắn rơi xuống đất. Sau đó đầu gối hắn gập lại, tay và lưng đều trúng kim tiền tiêu, khuỵu chân quỳ xuống trước mặt Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Không cần đa lễ.” Chàng đưa tay nắm cánh tay trái hắn đỡ dậy. Không ngờ hắn xuất một quyền đánh vào trước ngực chàng, thế quyền vừa nhanh vừa có lực. Viên Thừa Chí đứng yên, bảo: “Ta để ngươi đánh một quyền cho hả dạ.”

Rõ ràng thoi quyền này đánh trúng vào ngực chàng, nhưng lại giống như đánh trúng một khối bông gòn, hoàn toàn không phát ra tiếng động, cũng không có tác dụng gì cả. Viên Thừa Chí vận nội công, nhấc bổng tên tổng binh quăng lên. Thấy hắn bay lên trời như một con diều bị đứt dây, bọn quan quân đều kinh hãi la lên.

Tên tổng binh tưởng phen này chắc chết, nên nhắm nghiền mắt lại. Nào ngờ khi rơi xuống thì hắn được hai bàn tay đỡ lấy, mở mắt ra vẫn thấy thư sinh lúc nãy. Bây giờ hắn đã biết võ công người này cao hơn mình mấy chục lần, đã lọt vào tay thì không còn cách nào kháng cự, nên không nghĩ gì tới chuyện sống chết nữa. Mà nếu hắn muốn chống đỡ, cũng không biết phải chống đỡ từ đâu.

Viên Thừa Chí nói: “Ngươi hãy hạ lệnh cho tất cả buông vũ khí, ta sẽ tha không giết các ngươi.”

Tên tổng binh nghĩ: “Số tào vật này quan trọng vô cùng, nếu để cướp đi thì chắc chắn mình bị xử tử.” Hắn bèn ngẩng cao đầu, dõng dạc nói: “Các ngươi muốn giết thì cứ giết, không cần phải nhiều lời.”

Viên Thừa Chí mỉm cười, lại vận kình ném hắn lên trời. Khi hắn rơi xuống, chàng chụp lấy rồi lại ném lên, cứ thế ba lần. Tên tổng binh hoa mắt chóng mặt, không biết mình đang ở đâu nữa.

Viên Thừa Chí nói: “Nếu ngươi không hạ lệnh, thì ngươi chết ngay mà thuộc hạ của ngươi cũng không sống nổi. Đầu hàng là hay nhất.”

Tên tổng binh nghĩ: “Đúng là trước mắt chỉ còn một con đường sống!” Hắn bèn gật đầu.

Viên Thừa Chí hỏi: “Ngươi họ gì?”

Hắn đáp: “Tiểu tướng họ Thủy.”

Hắn định thần một chút, rồi hạ lệnh gọi bọn tham tướng, thủ bị, du kích, đô tư dưới tay mình đến. Bọn tùy tướng nghe hắn đầu hàng đạo tặc, đều hoảng sợ nhìn nhau. Một tên đô tư cất tiếng thóa mạ: “Ngươi ăn lộc vua mà bất trung bất…”

Chưa nói dứt câu, Viên Thừa Chí đã túm lấy hắn quật xuống đất, ngất xỉu lập tức. Hết thảy số võ quan còn lại đều run rẩy nói: “Thuộc hạ… xin phụng… phụng tướng lệnh của tổng binh.”

Thủy tổng binh quát lên: “Hạ lệnh ngừng chiến!”

Viên Thừa Chí truyền lệnh cho quần hào không chém giết nữa, lại bảo Thủy tổng binh hạ lệnh cho quan binh bỏ vũ khí xuống. Thủy tổng binh không làm gì được nữa, chỉ còn cách vâng lời. Thế là trận hỗn chiến chấm dứt.

Dưới ánh đuốc sáng trưng đột nhiên thấy năm người chạy tới, lục lọi lung tung trong đoàn xe, phá nắp rất nhiều rương hòm. Họ thấy toàn là tiền bạc và lương thực, hất ra một bên không lấy. Bọn quan binh thấy năm người này hung hãn, mình đang bại trận nên không dám cản trở.

Khi họ đến gần, thì ra là năm thầy trò Quy Tân Thụ. Viên Thừa Chí hô lớn: “Nhị sư ca! Sư ca tìm gì vậy? Để tiểu đệ bảo chúng lấy ra.”

Quy Tân Thụ thấy bọn võ quan lớn nhỏ đều tập trung ở cạnh Viên Thừa Chí, chỉ nhô lên hụp xuống ba cái đã đến chỗ Thủy tổng binh, đưa tay nắm lấy ngực hắn xách hổng lên. Lúc này Thủy tổng binh chưa hoàn hồn, lại đột nhiên gặp phải một đại cao thủ nữa, giãy giụa thế nào cũng là vô dụng.

Quy Tân Thụ quát hỏi: “Phục Linh Thủ Ô Hoàn của Mã Sĩ Anh tiến cống giấu ở chỗ nào?”

Thủy tổng binh đáp: “Mã tổng đốc chê đoàn xe này đi chậm, đã phái người khác đưa vào kinh rồi.”

Quy Tân Thụ hỏi: “Có thật không?”

Thủy tổng binh đáp: “Tính mạng tiểu tướng đang nằm trong tay các vị, đâu dám nói dối?”

Quy Tân Thụ vứt hắn xuống đất, thét lên: “Nếu ta điều tra được ngươi nói bừa bãi gạt người, sẽ trở về lấy cái mạng chó của ngươi.”

Y quay lại bảo Quy nhị nương: “Đuổi lên phía trước.”

Quy nhị nương vẫn bồng đứa bé, trong lòng lại càng lo lắng, xoay tay đánh vào một tên quan binh xớ rớ cản đường phía trước, khiến hắn té chết ngay tại chỗ. Vợ chồng họ Quy không đếm xỉa gì đến Viên Thừa Chí nữa, dẫn đồ đệ rời khỏi đó.

Viên Thừa Chí biết vợ chồng nhị sư ca không thân thiện với mình, nên cũng im lặng không nói gì. Đợi năm người rời khỏi đó, chàng mới hỏi Thủy tổng binh: “Họ tìm dược hoàn gì vậy?”

Thủy tổng binh bị bắt rồi đầu hàng, lúc này lòng dạ rối beng, hồn bất phụ thể. Hắn nghĩ đến hoàng đế sẽ hạ chỉ chém hết nhà mình, lại nghĩ đến công danh tiền đồ từ nay như nước trôi ra bể. Viên Thừa Chí hỏi mãi, hắn cứ ấm ớ trả lời không biết những gì. Mất nửa ngày Viên Thừa Chí mới hiểu được đại khái.

Thì ra gần đây, dưới vực sâu ở Hoành Sơn xa thẳm có người tìm được một miếng phục linh lớn, ước tính đã trên ngàn tuổi. Thật là xảo hợp, cũng lúc này ở Liêu Đông có người đào được một cây hà thủ ô đã thành hình người. Hai món này đều là báu vật ngàn năm khó gặp. Tổng đốc Phụng Dương là Mã Sĩ Anh nhận được tin tức, cùng bọn tham mưu dưới trướng tốn cả nửa năm, vừa dùng thủ đoạn cưỡng ép vừa trả giá cao để thu mua. Sau đó hắn tìm những dược sư cao thủ, sai chế luyện thành tám chục viên Phục Linh Thủ Ô Hoàn. Trong thuốc còn phối chế thêm nhân sâm lâu năm, ngũ sắc linh chi, xạ hương, ngưu hoàng, toàn là dược liệu quý cả. Chỉ riêng dược liệu đã tốn tới hai ba vạn lạng bạc rồi. Vụ này làm chấn động cả quan trường lẫn giới hành nghề y dược ở Giang Nam.

Theo cổ phương ghi lại, thì loại hoàn này thật sự có công hiệu cải tử hoàn sinh. Ai thể chất yếu kém, chỉ cần uống một hoàn là khỏe ra lập tức. Mã Sĩ Anh giữ lại bốn mươi viên chuẩn bị cho bốn mươi năm cuối đời mình, mỗi năm uống một viên. Còn bốn chục viên thì hắn tiến cống vào cung, ước mong Sùng Trinh làm hoàng đế thêm bốn chục năm nữa, mỗi năm thăng quan cho mình một cấp.

Khó khăn lắm Viên Thừa Chí mới hiểu được Thủy tổng binh kể những gì. Chàng nghĩ bụng: “Thế là đúng rồi. Con của nhị sư ca có bệnh, chữa trị lâu ngày không khỏi, nên ông ấy nóng lòng đoạt lấy số dược hoàn này.”

Thủy tổng binh lại nói: “Mã tổng đốc định sai tiểu tướng đem loại thuốc quý này vào Bắc Kinh. Nhưng về sau tổng đốc chê đoàn xe này quá đông, hành trình chậm chạp, lại áp tải bọn tử tội nên không cát lợi. Tổng đốc bèn sai tổng tiêu đầu Vĩnh Thắng tiêu cục ở Kim Linh hộ tống, đưa vào kinh dâng lên hoàng thượng.”

Còn chuyện Mã tổng đốc giữ lại bốn chục viên thuốc cho mình là một chuyện cực kỳ bí mật, ngay cả thê thiếp sủng ái nhất của hắn cũng không được biết. Dĩ nhiên Thủy tổng binh lại càng không biết.

Viên Thừa Chí rất mong nhị sư ca đoạt được thuốc hoàn để cứu mạng con trai, bèn hỏi: “Bọn tiêu sư đó đi được mấy ngày rồi?”

Thủy tổng binh đáp: “Khởi hành cùng một ngày, nhưng tiêu cục chỉ có mười mấy người nên đi nhanh hơn nhiều. Chắc họ đã đi trước năm sáu ngày đường rồi.”

Lúc này Tôn Trọng Thọ, Chu An Quốc, Nghê Hào, La Đại Thiên cùng mọi thuộc tướng của Viên Sùng Hoán đã kéo tới gặp Viên Thừa Chí. Mọi người thoát khỏi đại nạn, lại thấy Viên Thừa Chí đã lớn thành người, thân hàm tuyệt kỹ. Trận chiến hôm nay chỉ là thử sức, nhưng chàng đã hiển lộ được hùng phong ngày trước của phụ thân. Không ai là không kinh ngạc, mừng rỡ.

Viên Thừa Chí hỏi nguyên do bị bắt, Tôn Trọng Thọ kể lại đại khái. Năm xưa thuộc hạ Sơn Tông tụ hội trên đỉnh Thánh Phong, quân Minh bất ngờ đột kích. May mà đa số đã rời khỏi đó, chỉ có Ưng Tùng bị hại, còn bọn Tôn Trọng Thọ đều thoát hiểm. Sau này lại tụ họp ở phía Nam tỉnh Sơn Đông, tập trung hào kiệt, chuẩn bị khởi sự. Không ngờ tiết lộ bí mật, tháng trước bị tổng đốc Mã Sĩ Anh phủ Phụng Dương đánh úp. Những nhân vật quan trọng đều bị bắt, áp giải lên kinh thành xử trảm. May mà thiên duyên xảo hợp, họ được Viên Thừa Chí cứu thoát.

Tôn Trọng Thọ nghe nói Viên Thừa Chí có liên lạc với Sấm Vương, bèn nói: “Công tử! Ở đây đã có quần đạo và bang chúng, lại thêm một số quan binh đông đúc mới đầu hàng. Họ đều rất thán phục công tử, đúng là cơ hội ngàn năm khó gặp. Tại sao công tử không hoãn chuyện về kinh, chỉnh đốn nhóm người này một phen?”

Viên Thừa Chí mừng rỡ nói: “Tôn thúc thúc nói rất đúng. Phải nhờ Tôn thúc thúc, Chu thúc thúc và các vị cùng tham gia mưu đồ đại sự. Vùng này rất đông anh hùng hào kiệt, chúng ta phải cố gắng làm ra chuyện lớn. Trước mắt phải tìm một nơi tụ tập quần hùng.”

Tôn Trọng Thọ vỗ đùi, kêu lên: “Hay lắm! Sao chúng ta không đến Thái Sơn?”

Viên Thừa Chí nói: “Thái Sơn cách đây không xa lắm, không còn chỗ nào tốt hơn nữa.”

Mọi người lập tức thu nhặt số kim ngân châu báu đã quăng vãi khắp nơi, rồi lấy tiền thuế ra, chia cho bang chúng Thanh Trúc bang và quần đạo tỉnh Sơn Đông hai chục vạn lượng. Chử Hồng Liễu cũng được năm ngàn lượng. Sau đó họ lấy ra thêm năm chục vạn lượng, thưởng cho số quan binh đầu hàng. Trong thung lũng lúc này tiếng hoan hô vang dội như sấm động. Quan quân đầu hàng vốn đang ủ rũ, khi được chia tiền tinh thần phấn chấn hẳn lên.

*

*   *

Hai tên bang chúng Thanh Trúc Bang khiêng một cái cáng, đưa bang chủ Trình Thanh Trúc tới. Viên Thừa Chí thấy trên mặt lão đã có sắc máu, hoan hỉ nói: “Vết thương của bang chủ bình phục rất nhanh, đủ biết nội lực thâm hậu thế nào.”

Trình Thanh Trúc nói: “Đa tạ công tử! Tại hạ vừa được biết công tử là cốt nhục của Viên đốc sư, thật hết sức vui mừng.” Nói đến đây, thanh âm lão nghẹn hẳn đi.

Viên Thừa Chí ngạc nhiên hỏi: “Trình bang chủ có quen biết tiên phụ hay sao?”

Trình Thanh Trúc lắc đầu. Lão bảo bọn tùy tùng mở bọc lấy ra một phong thư lớn, đưa cho Viên Thừa Chí rồi nói: “Công tử xem cái này thì sẽ biết đầu đuôi.”

Viên Thừa Chí nhận lấy, thấy trên bì thư ghi ba chữ lớn: “Tuyền thanh ký”, dưới có mấy chữ: “Trình Bản Trực soạn”, trên góc phải viết một đôi câu đối: “Đôi mồ tri kỷ; Hai kẻ ngu si”. Chàng chưa hiểu, bèn hỏi: “Vị Trình Bản Trực tiên sinh này là thế nào với Trình bang chủ?”

Trình Thanh Trúc đáp: “Đó là tiên huynh. Tại hạ tên là Trình Bản Cương.”

Viên Thừa Chí gật đầu, mở phong thư ra. Trong thư viết:

“Sùng Hoán mười năm là thần nhân bảo vệ biên cương, một mình dẫn quân giữ yên quan ải…”

Trong lòng chàng nhói lên một cái, lại hỏi: “Lá thư này nói về tiên phụ ư?”

Trình Thanh Trúc đáp: “Đúng vậy. Lệnh tôn Đốc sư đại nhân là người mà tiên huynh thán phục nhất trên đời.”

Viên Thừa Chí cung kính nâng lá thư lên đọc tiếp:

“Sơn Hải Quan trong vòng một dặm, mỗi vọng gác đều do Sùng Hoán lập nên, mỗi viên gạch trên tường thành đều do Sùng Hoán xây dựng. Thử hỏi, từ khi xảy ra chiến trận ở đất Liêu, có ai bắt địch bỏ thành trì mà rút chạy trong vòng trăm dặm? Người giữ chắc biên cương, lại khiến địch kinh hoàng bỏ ý xâm lăng, ngoài Sùng Hoán ra còn ai khác nữa?”

Viên Thừa Chí đọc xong đoạn này, khóe mắt đã đẫm lệ. Chàng lật sang trang khác, đọc tiếp:

“Thảo dân xin hỏi, từ khi địch bắt đầu xâm lấn, có trận nào địch không thắng, có thành nào địch không chiếm? Thưa rằng không có. Thảo dân xin hỏi, phải chăng từ trận phòng thủ Ninh Viễn năm Bính Dần, triều đình mới biết phải phòng thủ, từ trận tấn công Cẩm Châu năm Đinh Mão, triều đình mới biết phải tấn công? Thưa rằng đúng vậy.

Hôm nay thu hồi Lạc, Tôn là quân lính đất nào? Quân lính đất Liêu. Chiến mã đất nào? Chiến mã đất Liêu. Trước khi Sùng Hoán đặt chân tới đất Liêu này, vùng này có binh mã của thánh thượng không?”

Viên Thừa Chí lật sang trang khác, đọc tiếp:

“Khắp thế gian đều là những người khôn khéo, chỉ có Viên công là một kẻ đại ngu si. Tiền bạc là thứ mà khắp thế gian không ai không thích, chỉ một mình Viên công không thích. Ai cũng thích được người đời yêu quý, chỉ một mình Viên công không tiếc mạng mà chịu nhận những lời trách móc. Những nỗi cực nhọc không ai dám nhận, Viên công nhận ngay chẳng tiếng nề hà. Những chuyện hiềm khích nghi ngờ không ai không tránh né, Viên công không ngần ngại rước lấy vào mình. Còn nữa, chuyện đói rét không ai chịu được, Viên công đứng ra chịu đói rét làm gương cho binh sĩ. Những điều lễ giáo ít ai dám phá, Viên công cũng giẫm đạp lên để phơi bày gan ruột cùng thuộc hạ dưới trướng mình.”

Viên Thừa Chí đọc đến chỗ này thì không gượng được nữa, nước mắt ào ra rơi lộp bộp lên trang giấy. Qua màn nước mắt mờ mờ, chàng cố đọc mấy dòng chữ cuối cùng:

“Vì thế, có đào xới hết mười hai tỉnh vùng Trực Lệ để tìm người gan dạ thẳng thắn, đảm đương trọng trách mà giữ mình trong sạch như Viên công, e rằng không thể có được. Vì thế, chỉ một mình Viên công là xứng đáng để Trình Bản Trực này chết thay.”

Viên Thừa Chí ôm lá thư vào sát ngực, vừa tuôn nước mắt vừa nói: “Lệnh huynh thật là tri kỷ của tiên phụ, xưng tụng tiên phụ như thế. Tại hạ cảm kích vô cùng.”

Trình Thanh Trúc thở dài nói: “Tiên huynh cùng lệnh tôn vốn không quen biết. Tiên huynh chỉ là bá tính bình thường, đã ba lần xin gặp nhưng lệnh tôn bận rộn nên chưa được tham kiến. Tiên huynh vẫn không nguôi lòng, liền xin vào làm thuộc hạ trong phủ Đốc sư, ra sức lo việc, cuối cùng cũng được Đốc sư coi trọng thu làm môn sinh. Lệnh tôn bị oan hạ ngục, lại bị độc hình lăng trì, tiên huynh bèn viết lá thư này gửi triều đình để minh oan cho lệnh tôn. Chỉ vì văn từ vô cùng thẳng thắn, nên hôn quân giận dữ mà xử tử tiên huynh.”

Viên Thừa Chí kêu lên một tiếng, nghiến răng nói: “Hôn quân đáng chết!”

Trình Thanh Trúc lại nói: “Tiên huynh có di ngôn để lại: chết vì Viên công thật không uổng phí. Chỉ mong được chôn cạnh mộ của Viên công, trên bia ghi cho câu đối: Đôi mồ tri kỷ; Hai kẻ ngu si. Được vậy thì tiên huynh yên lòng nhắm mắt.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Không hiểu việc này đã thực hiện được chưa?”

Trình Thanh Trúc thở ra một hơi rất dài, đáp: “Lệnh tôn bị một kỳ oan. Bọn gian thần và hôn quân đều nói Viên Đốc sư thông địch, cấu kết Mãn Thanh. Một đám dân chúng ngu dốt không phân biệt được đúng sai, tin vào chuyện này. Sau khi lệnh tôn bị bắt lên pháp trường, bọn ngu dân ào lên cắn nát thân thể Đốc sư, còn nói là phải uống sạch máu, ăn sạch thịt của gian tặc bán nước…”

Viên Thừa Chí nghe đến đây buông tiếng khóc ròng, quay lại hỏi Tôn Trọng Thọ: “Tôn thúc thúc! Tôn thúc thúc… Chuyện này có thật hay không?”

Tôn Trọng Thọ cúi đầu, rơi lệ đáp: “Đúng là như vậy. Năm xưa con còn nhỏ, chúng ta không nói để con đỡ đau lòng.”

Viên Thừa Chí giận dữ nói: “Bọn hôn quân gian thần làm chuyện bậy bạ, còn có thể hiểu được. Nhưng tại sao dân chúng trong thành Bắc Kinh lại ác độc như thế?”

Tôn Trọng Thọ đáp: “Bá tính không hiểu được chân tướng, tin rằng thánh chỉ của hoàng đế không thể sai được. Lúc đó quân Thanh vây thành Bắc Kinh, cướp bóc đốt nhà, giết hại cả ngàn cả vạn người, nên bá tính trong thành Bắc Kinh hận bọn Hán gian cấu kết với địch đến tận xương tủy.”

Trình Thanh Trúc nói: “Tại hạ phẫn nộ vì huynh trưởng, tìm mọi cách xâm nhập kinh thành làm một kẻ sai dịch đê tiện, tìm cơ hội hành thích hôn quân để trả thù cho tiên huynh và Viên Đốc sư. Tiếc là võ nghệ kém cỏi, hành thích không thành, bị bọn thị vệ bắt được. May mà có người cứu giúp nên thoát khỏi hoàng cung, rồi đi vào hắc đạo làm nghề buôn bán không cần vốn. Phen này có mắt không tròng, lại toan cướp bóc tài vật của công tử.”

Viên Thừa Chí nói: “Khi nói ra mới thấy nguồn gốc sâu xa. Không nhờ vậy thì tại hạ không được quen biết bang chủ.”

Thanh Thanh bỗng kêu lên: “Ủa, tiểu cô nương đâu rồi? Cô ấy không sao chứ?”

Trình Thanh Trúc đáp: “Đa tạ cô nương lo lắng. Tiểu đồ đã tự về trước rồi.”

Thanh Thanh hỏi: “Ta đang muốn nói chuyện với cô ấy, sao cô ấy lại rời khỏi đây rồi?”

Mọi người nghỉ ngơi một ngày. Viên Thừa Chí phái những người đắc lực của Thanh Trúc Bang và quần đạo Sơn Đông đưa thư đi khắp nơi, hẹn ngày hai mươi tháng bảy tập trung tại đỉnh Thái Sơn. Chàng lại mời Tôn Trọng Thọ, Chu An Quốc và những thuộc hạ cũ của Sơn Tông, cùng Thủy tổng binh dẫn bọn quan binh đầu hàng, dựng doanh trại ở một vùng đồi núi hiểm trở hoang vu. Mọi người đặt tên doanh trại này là Sơn Tông Doanh.

Trong trận này sáu ngàn quan binh của Mã Sĩ Anh đầu hàng hết, hai trăm mấy chục vạn lượng tiền thuế mất sạch. Từ kinh sư đến Sơn Đông, không nơi nào không chấn động. Khi Mã Sĩ Anh điều đại quân đến truy đuổi, thì đạo tặc và bang chúng hoàn toàn không còn dấu tích ở đó nữa, nên không sao tìm thấy.

*

*   *

Từ sau rằm tháng bảy, ngày hẹn sắp đến, hơn ngàn anh hùng hào kiệt các bang các phái lục tục kéo tới, chật cứng các chùa miếu, đạo quán trên núi Thái Sơn.

Sáng sớm hai mươi tháng bảy, quần hùng tụ tập ở Thạch Kinh Cốc. Nơi này có một mặt đá bằng phẳng, rộng tới vài mẫu, vừa sáng sủa vừa sạch sẽ. Tương truyền đây là nơi mà các vị cao tăng thời cổ đại đã giảng kinh. Trên vách núi có khắc mấy đoạn Kinh Kim Cang, chữ lớn bằng cái đấu, bút lực hùng hồn.

Những người đến dự hội ngày hôm đó, ngoài Viên Thừa Chí, ông câm, Thanh Thanh và Hồng Thắng Hải ra, còn những thuộc hạ dưới trướng Viên Sùng Hoán như Tôn Trọng Thọ, Chu An Quốc, Nghê Hào, La Đại Thiên. Còn có Tiêu Công Lễ bang chủ Kim Long Bang ở Giang Tô, dẫn theo bọn Tiêu Uyển Nhi, Ngô Bình, La Lập Như. Còn có Thanh Trúc Bang ở Hà Bắc do Trình Thanh Trúc dẫn đầu, còn có quần đạo Sa Thiên Quảng, Chử Hồng Liễu, Đàm Vân Lý tỉnh Sơn Đông. Còn có Vinh Thái ở Du Long Bang tỉnh Chiết Giang. Có cả Thập Lực đại sư trụ trì Thanh Lương Hạ Viện ở Hà Nam, minh chủ Trình Khởi Vân của thất thập nhị đảo nơi hải ngoại. Có cả một số người vừa được cứu khỏi xe chở tử tù, như trại chủ Nhiếp Tiên Phong ở Phi Hổ Cốc tỉnh Hoài Nam, bang chủ Lương Ngân Long của Phàn Dương Bang ở phía bắc Giang Tây. Có cả những thuộc hạ của Thủy tổng binh Minh triều đã đầu hàng. Ngoài ra còn vô số hảo hán giang hồ, danh gia võ thuật đương thời.

Trên đỉnh Thái Sơn đủ mặt anh hùng, nhưng Viên Thừa Chí nhìn mãi không thấy cô A Cửu mỹ miều của Thanh Trúc Bang, hơi thất vọng. Chàng nghĩ ngợi một lúc, nhưng chẳng bao lâu đã quên đi.

Bình minh ngày hôm đó, mây trắng vần vụ đầy trong thung lũng, rồi dồn tụ lại, bốc thẳng lên trời. Hồi lâu, ở phía đông đang âm u bỗng xuất hiện một áng mây ngũ sắc lơ lửng trên trời. Màu sắc đám mây này thay đổi không dừng, lúc trắng lúc cam, dần dần đã có những tia hồng quang chiếu ra bốn phía. Ánh sáng như phun trào ra, rồi chớp mắt là vầng thái dương to như cái khay nhảy vọt lên bầu trời, chiếu vào áng mây ngũ sắc phía dưới. Cảnh tượng vừa đẹp đẽ vừa kỳ ảo, quần hùng reo hò tán thưởng.

Ngắm mặt trời mọc xong, quần hào ngồi ngay xuống đất. Âm dương phiến Sa Thiên Quảng là địa chủ ở đất Sơn Đông này, bây giờ vết thương đã khỏi, đứng dậy tuyên bố dõng dạc: “Đa tạ các vị tiền bối đại ca nể mặt mà đến nơi này. Tại hạ tiếp đãi không được chu đáo, xin quý vị thứ lỗi.”

Nói xong, y chắp tay vái chào bốn hướng. Quần hào đồng thanh khiêm tốn đa tạ. Sa Thiên Quảng lại nói: “Tại hạ là người thô lỗ, không hiểu đạo lý. Bây giờ xin mời Trình Thanh Trúc tiền bối nói chuyện với quý vị.”

Hai người này nhiều năm không chịu nhường nhịn lẫn nhau, nhưng hôm trước ác đấu một trận nhất sinh thập tử, cùng thán phục võ công đối phương nên đã kết thành bạn tốt.

Trình Thanh Trúc đứng dậy lên tiếng: “Bọn giang hồ chúng ta cũng từng tụ hội trên đỉnh Thái Sơn, nhưng nhân số lúc đó không nhiều như thế này. Nói ra chỉ sợ quý vị chê cười, trước đây chúng ta tụ hợp ở đây làm gì? Chẳng qua là phân vùng ảnh hưởng, chia tiền cướp được.”

Quần hào nghe vậy đều cười rộ. Trình Thanh Trúc nói tiếp: “Lần này rất nhiều anh hùng bằng hữu đại giá quang lâm đến đây, chúng ta không thể cứ như trước đây nữa. Trước mắt thiên hạ đang loạn lạc, dân chúng khó mà sống nổi, hôn quân vô đạo, trong triều toàn bọn tham quan ô lại. Bên ngoài quan ải thì bọn Thát tử xâm phạm biên giới, cướp bóc giết người, coi sinh mạng bá tính không bằng sâu kiến. Phen này chúng ta phải thương nghị đàng hoàng, làm nên một phen sự nghiệp. Xin nói rõ, từ nay về sau chúng ta kết nghĩa tạo phản. Vị nào không muốn nhập bọn, ngay bây giờ có thể xuống núi.”

Mọi người nghe xong lời tuyên bố, phần lớn đều máu sôi hừng hực, cất tiếng reo hò. Chỉ có số ít không muốn tạo phản, liền cáo biệt ra đi.

Trình Thanh Trúc nói tiếp: “Hôm nay những người tụ họp tại đây đều là hảo bằng hữu. Chúng ta lấy máu ăn thề, sau này hoạn nạn tương trợ lẫn nhau, cùng mưu đồ đại sự. Nếu có ai tham phú quý mà bán đứt bạn bè, hoặc là tham sống sợ chết, tự tư tự lợi, mọi người sẽ giết quách con mẹ nó!”

Mọi người lại ồn ào cười nói. Sa Thiên Quảng lên tiếng: “Đã tụ hợp thành minh hội, không thể không có minh chủ. Chúng ta phải đề cử một vị anh hùng đại ca mọi người đều thán phục, để sau này cùng nghe hiệu lệnh người đó. Bất kể ai làm minh chủ, tại hạ nhất định phò tá đến cùng, quyết không dị nghị.”

Thập Lực đại sư đứng dậy nói: “Quần long không thể vô thủ. Không có đầu, nhất định không hoàn thành đại sự. Chuyện đề cử minh chủ, lão nạp nhất trí tán thành. Vị minh chủ này phải trí dũng song toàn, có nhân có nghĩa, mới khiến mọi người khâm phục.”

Trình Khởi Vân nói: “Đó là cái chắc. Ta thấy đại sư rất phù hợp.”

Thập Lực đại sư mỉm cười nói: “Lão nạp già nua như ngọn đèn trước gió, làm sao đảm đương nổi nhiệm vụ trọng đại này? Trình đảo chủ đừng trêu chọc nữa.”

Mọi người xì xào bàn tán, đều cảm thấy nên đề cử minh chủ để hiệu lệnh được nhất quán. Quần hùng phân tán khắp nơi, không lệ thuộc nhau nhưng lại liên kết thành một khối. Lúc đó giữa các bang hội dĩ nhiên không đấu tranh tàn sát lẫn nhau, mà quan phủ cũng không dễ dàng bắt bớ. Chỉ có điều, quần hùng xưa nay mỗi người hùng cứ một phương, không ai chịu phục ai, nếu vì tranh đoạt ngôi minh chủ mà gây ra ác đấu thì không ai mong muốn.

Các lộ dân quân kết nghĩa tạo phản là chuyện rất bình thường. Mọi người đều biết, ở vùng Sơn Đông Thiểm Tây đã có Tam Thập Lục Doanh, Thất Thập Nhị Doanh, ở Hoành Dương thì có Thập Tam Gia. Chuyện kết nghĩa của họ đồn đãi khắp nơi, Lý Tự Thành cũng từng tham dự.

Trình Thanh Trúc đợi mọi người bàn luận một hồi, rồi lớn tiếng nói: “Nếu các vị không còn dị nghị gì nữa, bây giờ có thể bắt đầu đề cử.”

Giữa đám đông bỗng có một đại hán khôi vĩ đứng dậy. Y cao tới bảy thước, thanh âm vang dội như đại hồng chung, lớn tiếng tuyên bố: “Trong võ lâm, không ai là không kính nể, không thán phục Cái mạnh thường Mạnh lão gia. Tuy lão nhân gia hôm nay không có mặt, nhưng ngôi minh chủ đương nhiên phải là ông ấy. Tại hạ cho rằng không cần đề cử ai khác nữa.”

Y vừa nói xong, trong quần hùng lập tức có nhiều người lên tiếng reo hò đồng ý.

Viên Thừa Chí hỏi Hồng Thắng Hải: “Cái Mạnh Thường là ai vậy?”

Hồng Thắng Hải kinh ngạc hỏi: “Tướng công không biết ông ấy hay sao?”

Viên Thừa Chí đáp: “Bằng hữu trên giang hồ, ta quen biết rất ít.”

Hồng Thắng Hải nói: “Đó là Mạnh Bá Phi lão gia, người ta quen gọi là Cái Mạnh Thường. Ông ấy hành hiệp trượng nghĩa, rất thích kết giao bằng hữu, nhân duyên trong võ lâm cực tốt. Ông ấy sáng chế ra Mạnh Gia Thần Quyền, Khoái Hợp Tam Thập Chưởng, biến ảo khó mà lường được. Đệ tử môn hạ của ông ấy nhiều không đếm xuể, có thể nói là đầy khắp thiên hạ. Những người học võ ở phương Bắc, nhắc đến Cái Mạnh Thường không ai không thán phục. Đại hán này là Đinh giáp thần Đinh Du, đại đệ tử của ông ấy.”

Viên Thừa Chí nói: “À! Thế thì đề cử Mạnh lão gia làm minh chủ là tuyệt diệu rồi.” Chàng nghĩ bụng: “Vị Mạnh lão gia này chắc chắn nhân duyên cực tốt, nhưng võ công chưa biết thế nào, không thì sư phụ đã kể cho mình nghe rồi. Nhưng làm minh chủ võ lâm thì nhân duyên quan trọng hơn cả võ công.”

Minh chủ thất thập nhị đảo Trình Khởi Vân đứng dậy nói: “Oai danh của Mạnh lão gia vang dậy khắp thiên hạ, tại hạ tuy phiêu bạt nơi hải ngoại cũng nghe tiếng từ lâu. Đề cử ông ấy làm minh chủ, có thể nói là không còn ai tốt hơn được nữa. Nhưng tại hạ còn một chỗ lo lắng…”

Đinh Du sốt ruột giục: “Xin Trình đảo chủ nói tiếp.”

Trình Khởi Vân nói: “Mạnh lão gia đã nhiều năm an cư ở Bảo Định phủ, gia thế cực kỳ toàn mỹ. Chúng ta tụ họp ở đây, lại là chuyện khuất tất nơi rừng núi. Những việc giết quan tạo phản, không biết Mạnh lão gia có đồng ý hay không, có tự nguyện hướng dẫn chúng ta hay không. Nếu không, liên lụy đến ông ấy thì trong lòng mọi người chắc không yên được.”

Quần hùng đều cảm thấy câu này có lý. Mọi người lại im lặng hồi lâu.

Bang chủ Tiêu Công Lễ của Kim Long Bang đứng dậy lên tiếng: “Tại hạ xin đề cử một vị anh hùng khác, võ công cái thế, nhân nghĩa trùm đời. Tuy vị anh hùng này tuổi còn rất trẻ, đa số bằng hữu võ lâm chưa được biết, nhưng tại hạ dám nói một câu chém đinh chặt sắt: chỉ cần vị anh hùng này đứng ra hướng dẫn chúng ta, hành sự nhất định công bằng, danh tiếng nhất định lừng lẫy, quan phủ nhất định không dám coi thường.”

Sa Thiên Quảng nói: “Trong lòng tại hạ cũng có một vị thiếu niên anh hùng, chắc không tệ hơn vị mà Tiêu bang chủ nói đến.”

Thanh âm Sa Thiên Quảng vốn đã bén nhọn, khi nói lớn càng chói tai hơn. Y tiếp: “Tuổi tác tại hạ không dám nói là lớn, nhưng đã sống vô tích sự hơn năm mươi năm rồi. Kiến thức tại hạ không dám nói là rộng, nhưng đã từng gặp vô số hào kiệt thành danh trong thiên hạ. Nhưng bắt tại hạ phải phục sát đất, trên thế gian chỉ có vị anh hùng mà tại hạ vừa nhắc đến thôi.”

Trình Thanh Trúc nghiêm trang nói: “Danh tiếng và tính cách Sa Thiên Quảng trại chủ, ta rất hiểu. Ông ấy đã tâm phục khẩu phục ai, nhất định không lầm. Thanh Trúc Bang chúng ta nhất định tán thành lời đề cử của Sa trại chủ.”

Tiêu Công Lễ đỏ mặt lên nói: “Thế thì ngôi minh chủ làm sao đề cử đây? Kim Long Bang chúng ta tuy vô dụng, nhưng nhân số quyết không ít hơn Thanh Trúc Bang.” Rõ ràng hai bên sắp tranh chấp đến nơi.

Thập Lực đại sư vội khuyên ngăn: “Tiêu bang chủ xin đừng vội. Bang chủ muốn đề cử vị anh hùng nào, lão nạp đã đoán chắc đến chín phần mười. Xin hỏi Sa trại chủ muốn đề cử vị anh hùng nào? Hai vị đều nói ra đi, để mọi huynh đệ có mặt ở đây công minh nhận xét. Không chừng cả hai vị đó đều không được mọi người tâm phục thì sao?”

Sa Thiên Quảng trỏ Viên Thừa Chí rồi đáp: “Người mà tại hạ nói đến, chính là vị Viên tướng công này. Các vị đừng thấy huynh ấy trẻ tuổi mà lầm, võ công và mưu trí huynh ấy cao hơn hẳn mọi người. Tại hạ xin nói rõ, gần đây tại hạ mới được quen biết Viên tướng công, chỉ vì thán phục anh hùng mà nhất quyết đề cử.”

Sa Thiên Quảng dứt lời, quần đạo tỉnh Sơn Đông và bang chúng Thanh Trúc Bang hoan hô vang dội, thanh thế cực kỳ hùng hậu.

Viên Thừa Chí không ngờ y nhắc đến mình, vội vàng đứng dậy, xua hai tay loạn xạ mà nói: “Không được, không được!”

Tiêu Công Lễ chờ cho tiếng ồn ào dịu bớt, rồi ngẩng mặt trên trời cười ha hả. Sa Thiên Quảng giận dữ hỏi: “Tiêu bang chủ! Xin thỉnh giáo, tại hạ đã làm gì đáng bị chê cười?”

Trình Thanh Trúc cũng giận dữ nói: “Tiêu bang chủ! Xưa nay tại hạ vẫn thán phục bang chủ, nhưng nếu bang chủ vô lễ với Sa trại chủ thì tại hạ không thể bỏ qua.”

Tiêu Công Lễ chắp tay thi lễ, mỉm cười nói: “Tại hạ đâu dám chê cười ai? Sa trại chủ, Trình bang chủ! Hai vị biết tại hạ muốn đề cử ai chưa?”

Sa Thiên Quảng giận dữ hỏi lại: “Làm sao ta biết được?”

Tiêu Công Lễ nói: “Ngoài Viên tướng công ra, còn ai khác nữa?”

Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng lập tức chuyển giận thành vui, đều ngẩng mặt lên trời cười ha hả. Mọi người thấy ba người tranh chấp hồi lâu, thì ra cùng muốn giới thiệu một người, lập tức cả thung lũng vang dội tiếng cười.

Viên Thừa Chí rất lo lắng, vội nói: “Tại hạ nhỏ tuổi, kiến thức nông cạn, hôm nay được tham dự vào đại hội Thái Sơn là vinh dự lắm rồi. Tại hạ chỉ mong đi theo các vị tiền bối để góp sức mọn, quyết không dám đảm đương đại nhiệm. Xin quý vị hãy đề cử một hiền tài khác.”

Tôn Trọng Thọ lên tiếng: “Viên công tử là con trai duy nhất của Viên đốc sư chúng ta. Đám cựu bằng hữu Sơn Tông này vì tị hiềm thân thích nên mới chưa lên tiếng đề cử Viên công tử làm minh chủ. Thật sự không còn ai thích hợp hơn nữa.”

Trình Khởi Vân ngạc nhiên hỏi: “Viên đốc sư nào thế?”

Tôn Trọng Thọ đáp: “Chính là người từng chỉ huy lực lượng kháng Thanh ở Liêu Đông, vô cớ bị hôn quân hại chết, tôn danh là Viên Sùng Hoán đốc sư.”

Viên Sùng Hoán kháng địch có công với nước. Hồi đó chỉ có bá tính trong thành Bắc Kinh mới tưởng ông bán nước thông địch. Vì cường địch đang vây chặt tấn công thành Bắc Kinh, từ vua quan đến dân chúng đều hoang mang không biết làm gì, nên không xét rõ thị phi. Khi Viên Sùng Hoán bị sát hại thê thảm như thế, dân chúng các nơi khác biết chuyện đều cực kỳ phẫn hận.

Quần hùng vừa nghe được chuyện này, tiếng hoan hô lập tức nổi lên. Những người chưa có chủ ý đều nhất trí tán thành.

Viên Thừa Chí cương quyết chối từ nhưng không thể được. Hơn nữa, Thủy tổng binh vừa đầu hàng và những người như Nhiếp Tiên Phong, Lương Ngân Long vừa được chàng cứu khỏi xe tù cũng cật lực phụ họa. Thế là ngôi vị minh chủ đã định xong.

Bang chủ Vinh Thái của Du Long Bang vốn có xích mích với Viên Thừa Chí. Nhưng bây giờ y thấy mọi người đều đặt niềm tin vào chàng, Du Long Bang nhỏ xíu không sao cự lại số đông. Hơn nữa y nghĩ đến chuyện trên sông Cừu Giang chàng không làm khó dễ mình, còn ném cho một tấm ván để mình khỏi rơi xuống nước xấu hổ trước mặt bang chúng, coi như mình đã chịu ơn rồi. Bây giờ nhân tiện thêu hoa trên gấm mấy lời nói tốt, y bèn đứng dậy tuyên bố: “Viên tướng công võ công tinh thâm, rất nhiều bằng hữu có mặt ở đây đều biết. Tại hạ cũng từng thảm bại dưới tay huynh ấy.”

Mọi người chưa kịp ngơ ngác, Vinh Thái lại nói: “Nhưng huynh ấy rất biết giữ thể diện cho người khác, tại hạ tuy thua nhưng vẫn đem lòng cảm kích. Mọi người đề cử huynh ấy làm minh chủ, tại hạ đồng ý cả hai tay.”

Quần hào thấy người từng đối địch với chàng cũng nói như vậy, bèn hoan hô vang dội. Viên Thừa Chí nghe Thanh Thanh khẽ mắng: “Đồ nịnh bợ!”

Đinh giáp thần Đinh Du đi đến bên Viên Thừa Chí, ngắm nghía chàng từ trên xuống dưới. Thấy Viên Thừa Chí thân hình không cao lắm, mặt mũi đen đúa, diện mạo chẳng tuấn tú chút nào, tuổi lại còn nhỏ, trông rất dễ hù dọa, y không hiểu tại sao quần hùng lại đề cao chàng đến thế. Y thấy oai danh của chàng chỉ trong chốc lát đã hơn hẳn sư phụ mình, hết sức không phục, bèn nói: “Phải chúc mừng Viên tướng công rồi.”

Đồng thời y đưa tay ra nắm tay Viên Thừa Chí, tỏ vẻ thân mật. Viên Thừa Chí đáp: “Tại hạ không dám…”

Lời chưa nói dứt, tay chàng đột nhiên bị siết lại. Thì ra Đinh Du sử dụng tuyệt nghệ Bá Vương Cử Đỉnh của sư phụ đã truyền, toan dùng sức giật ngã Viên Thừa Chí, làm vị minh chủ này mất thể diện trước mặt đông người. Nếu y làm được, đúng là đắc tội với vô số anh hùng hảo hán, không chừng sẽ bị mọi người bằm vụn ra tại chỗ. Nhưng Đinh Du xưa nay tính tình lỗ mãng, hễ tức giận là làm, bất cần hậu quả.

Hắn âm thầm vận công, không phát ra tiếng, không đổi sắc mặt, dốc toàn lực kéo luôn ba lần, cơ bắp trên cánh tay nổi vồng từng múi. Nhưng Viên Thừa Chí đứng vững như một tảng đá núi, vẫn tiếp tục nói: “… đảm đương đại nhiệm. Lệnh sư Mạnh lão gia đức cao vọng trọng, dĩ nhiên thích hợp hơn tại hạ nhiều.”

Đinh Du càng ra sức kéo, đến khi cánh tay mình kêu lắc cắc, trật khớp đến nơi mới buông ra. Y thấy Viên Thừa Chí không lộ vẻ gì, bây giờ mới biết võ công của đối phương cao hơn mình không biết mấy lần. Nếu chàng thừa thế đánh trả, nhất định mình đã văng xuống thung lũng rồi, nhưng chàng đã cố ý che mắt mọi người để bảo vệ danh dự cho mình. Y vô cùng cảm kích, lớn tiếng hô: “Tuyệt diệu! Công tử là một vị minh chủ có một không hai.”

Nói xong, y quỳ xuống bái lạy. Viên Thừa Chí vội đáp lễ, trong lòng hoan hỉ. Chàng thấy đại hán này tuy lỗ mãng nhưng có chỗ khả ái.

Trình Thanh Trúc lên tiếng: “Chúng ta kết minh thì phải có minh quy. Bây giờ xin minh chủ tuyên bố, để mọi người cùng bàn bạc.”

Viên Thừa Chí còn muốn chối từ, nhưng Tôn Trọng Thọ đã nói vào tai chàng: “Công tử! Khiêm cung không được thì nên chấp nhận. Nếu không may ngôi minh chủ rơi vào tay kẻ gian, hậu họa sẽ không nhỏ. Công tử lãnh đạo quần hùng mưu đồ đại sự, mối huyết hải thâm thù của Đốc sư có thể được báo. Đốc sư suốt đời hành sự không hề lùi bước, không hề tránh né khó khăn.”

Viên Thừa Chí nghe ông dạy mình đại nghĩa, lại nhắc đến gương sáng của phụ thân, bất giác hào khí bừng bừng. Chàng lập tức chắp tay thi lễ tứ phía, dõng dạc nói: “Quý vị đã có hảo ý, tại hạ cung kính không bằng phụng mạng. Chỉ có điều tại hạ kiến thức nông cạn, rất mong các vị tiền bối thường xuyên chỉ dạy. Tại hạ quyết không dám cuồng vọng tự cao.”

Nghe Viên Thừa Chí chịu làm minh chủ, quần hùng trên đỉnh Thái Sơn lập tức hoan hô như sấm động. Tiếng hô trong thung lũng vọng đi vọng lại rất lâu không dứt, bốn phía đều rền vang tiếng vỗ tay và tiếng reo hò. Dường như cả ngàn ngọn đồi, vạn thung lũng chung quanh cũng đang hưởng ứng vậy.

Quần hùng lập tức thắp nến đốt nhang, cùng khấn vái thiên địa. Viên Thừa Chí bảo Tôn Trọng Thọ: “Nhờ Tôn thúc thúc thảo cho minh ước.”

Tôn Trọng Thọ không từ chối, vào miếu soạn thảo ngay. Ông biết quần hùng lấy tín nghĩa làm đầu, không đặt nặng văn chương, bèn viết mấy trăm chữ, lời giản dị nhưng ý thâm sâu.

Viên Thừa Chí tuyên đọc trước mọi người, rồi quần hùng trích máu tuyên thệ, thề không bội ước. Thế là cuộc đại hội Thái Sơn quy tụ võ lâm các tỉnh Nam Bắc đã thành công rực rỡ.

Viên Thừa Chí bước ra giang hồ mới chỉ vài tháng, dựa vào võ công thượng thừa, đối đãi chí thành, lại nhờ cơ duyên xảo hợp và oai danh của phụ thân, bây giờ đã trở thành đại thủ lĩnh của quần hào thổ mãng khắp bảy tỉnh.

*

*   *

Đêm hôm đó, quần hùng ngồi bệt dưới đất mà bày tiệc, đấu tửu say sưa. Tiếng huyên náo cười đùa không dứt, vang động cả một vùng thung lũng.

Đang vui vẻ, đột nhiên thấy một quả pháo lưu tinh bay vọt lên trời. Đây là tín hiệu cảnh giới bắn từ dưới núi. Quần hùng lập tức ngừng chén, không uống nữa. Viên Thừa Chí cùng mấy người Tôn Trọng Thọ nghĩ đến năm xưa tụ hội trên đỉnh Thánh Phong, cũng bị quan binh đến đột kích. Chẳng lẽ quan phủ đã biết tiền thuế bị cướp, điều binh khiển tướng đến đây tấn công hay sao?

Không bao lâu, hai hán tử đang canh gác ở sườn núi chạy lên đỉnh núi bẩm báo với Viên Thừa Chí: “Khải bẩm minh chủ, dưới núi có tin cấp báo. Đại quân Mãn Châu đã tấn công hạ được Thanh Châu, đang trên đường tiến quân tới Thái An, cách đây chỉ mười mấy dặm. Xin minh chủ định đoạt.”

Viên Thừa Chí kinh hãi hỏi: “Quân Mãn Châu tiến nhanh thế hay sao?” Chàng từng nghe quân Mãn Châu vượt qua quan ải, nhưng tưởng chúng chỉ quấy nhiễu ở Lan Châu, Cổn Châu, cướp bóc, tàn sát, đốt nhà. Không ngờ chúng đã công hãm tới Thanh Châu.

Tôn Trọng Thọ nói: “Tháng mười năm ngoái bọn lính Mãn Châu vượt qua quan ải, đánh vào Cổn Châu, cướp bóc tàn sát nhiều vùng trong tỉnh Sơn Đông. Nghe nói tướng chỉ huy là đại tướng quân A Ba Thái. Tên này là con thứ bảy của Nỗ Nhĩ Ha Xích, cũng là ca ca của Thát tử hoàng đế. Hắn rất giỏi dụng binh, đã từng cùng Nhuệ thân vương Đa Nhĩ Cổn đánh Sơn Đông, nên đối với địa thế tỉnh Sơn Đông rất quen thuộc.”

Viên Thừa Chí lại hỏi: “Đa Nhĩ Cổn đã từng đánh Sơn Đông ư?” Chàng lo nghiên cứu võ học, hiểu biết thế sự rất ít.

Tôn Trọng Thọ thở dài nói: “Đó là chuyện đã bốn năm rồi. Hồi đó minh chủ đang học võ nghệ trên núi Hoa Sơn nên mới không biết.”

Ông thấy quần hùng đang nhốn nháo hỏi nhau, nhân tâm xao động, bèn trèo lên một tảng đá lớn ở chỗ cao, lớn tiếng nói: “Huynh đệ dưới núi cấp báo là bọn lính Mãn Châu đã công phá Thanh Châu, đang tiến tới Thái An. Các vị cứ tiếp tục uống rượu, minh chủ sẽ có chủ trương sau.”

Trong quần hùng có người la lên: “Mọi người xung phong xuống núi, giết bọn Thát tử này một trận con mẹ nó.”

Lại có người la lên: “Bọn quân Thát tử này bức hiếp dân chúng quá đỗi rồi. Phen này phải liều mạng sống mái với chúng một phen.”

Quần hùng vô cùng phẫn khích, hò hét om sòm. Tôn Trọng Thọ quay lại chỗ Viên Thừa Chí, nói: “Minh chủ! Mọi người đều muốn đi đánh bọn quân Thát tử. Minh chủ thấy sao?”

Viên Thừa Chí đáp: “Phụ thân con suốt đời tận trung báo quốc, mục đích chính là giết bọn Thát tử. Bây giờ chúng đi ngang cửa chúng ta, lại gặp lúc nhiều huynh đệ tụ hội ở đây, chúng ta phải đánh cho một trận. Có điều con không hiểu cách hành quân đánh trận, phải nhờ Tôn thúc thúc ra hiệu lệnh.”

Tôn Trọng Thọ suy nghĩ một lúc, phái mười mấy người ra ngoài điều tra tình hình bọn lính Mãn Châu, rồi nói: “Từ khi Đốc sư Viên công bị hại, trong triều không còn ai quyết tâm chống cự, mà cũng không còn sức chống cự với bọn Mãn Thanh nữa. Tháng sáu năm Sùng Trinh thứ chín, Hoàng Thái Cực đã phái A Ba Thái tấn công vào trong trường thành, đánh sâu vào tận Hà Bắc. Tháng mười một, Cửu vương Đa Nhĩ Cổn lại thống lĩnh bọn A Ba Thái tấn công Hà Bắc, các trung thần Lô Tượng Thăng và Tôn Thượng Tông hy sinh vì nước. Năm đó Đa Nhĩ Cổn còn công phá Tế Nam, bắt đi bốn mươi mấy vạn bá tính dẫn về hướng Bắc. Lần này tên Thát tử A Ba Thái lại đến đây.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Sao bọn Thanh binh không tấn công vào Bắc Kinh, mà chỉ đánh các nơi Hà Bắc Sơn Đông?”

Tôn Trọng Thọ đáp: “Hoàng Thái Cực là một người rất giỏi dụng binh. Hắn phái binh đến Hà Bắc và Sơn Đông không để chiếm cứ đất đai, mà để cướp đoạt tài vật, phóng hỏa giết người, bắt bớ bá tính về làm nô lệ, cố ý phá hủy tinh lực Trung Quốc chúng ta, khiến triều đình Đại Minh kiệt quệ, cuối cùng chỉ đánh một trận là chiếm được Bắc Kinh. Năm xưa hắn từng đánh Bắc Kinh, thua dưới tay Viên Đốc sư một trận lớn, suýt nữa không còn đường về. Sau đó hắn co vòi, chưa dám tiến công kinh sư lần nào nữa.”

Viên Thừa Chí bỗng nghĩ: “Sấm Vương và các lộ nghĩa quân tạo phản khắp nơi, há chẳng giúp sức rất nhiều cho bọn Thát tử hay sao?” Câu này chàng không tiện nói ra, nhưng trong lòng hết sức không yên.

Tôn Trọng Thọ lại nói: “Mấy năm nay quân Thát tử hết đánh Hà Bắc lại đánh Sơn Đông, thế mạnh như chẻ tre. Bọn lính nhà Minh chưa thắng nổi trận nào, quân Thát tử đương nhiên nhìn lính triều đình chỉ bằng nửa con mắt. Nhưng người xưa từng nói, kiêu binh tất bại. Chúng ta phải nhân cơ hội tốt này để giảm bớt uy phong của chúng, đánh một trận ra trò thử xem.”

Viên Thừa Chí cả mừng, lớn tiếng hô: “Các vị huynh đệ! Chúng ta chuẩn bị đi giết quân Thát tử. Đêm nay ngủ một giấc ngon lành, sáng sớm mai chúng ta xuống núi.”

Quần hùng lớn tiếng reo hò: “Giết quân Thát tử! Giết quân Thát tử!”

Viên Thừa Chí ít hiểu về thao lược, đêm đó phải nhờ Tôn Trọng Thọ bày kế. Sáng hôm sau chàng điều khiển quần hùng xuất phát, đại quân mai phục ở Cẩm Dương Quan. Khi thấy cờ vàng minh chủ dựng cao ở trung quân, đại quân sẽ xông ra chém giết. Chàng hạ lệnh Thủy tổng binh đem theo hai ngàn binh mã thuộc hạ chặn địch đánh trận đầu, nhưng sợ Thủy tổng binh sau khi xuống núi sẽ đổi ý, bèn phái thêm Tiêu Công Lễ dẫn thủ hạ Kim Long Bang theo giám thị.

Nhiệm vụ của Thủy tổng binh là chỉ được bại không được thắng, dụ quân Thanh lọt vào ổ mai phục. Cánh quân của Thủy tổng binh có áo giáp vũ khí rất đầy đủ, mặc toàn sắc phục triều đình, quả là không có chút sơ sót. Đánh thua chạy trốn lại là ngón nghề của lính triều đình, phen này họ có thể thi triển hết sở trường mà phục vụ cho minh hội.

Cẩm Dương Quan chỉ có một con đường mòn rất hẹp, hai bên là vách núi. Quần hùng nấp đến xế chiều thì nghe tiếng la ó vang dậy, một toán lính Minh tháo áo giáp, vứt binh khí, theo con đường mòn chạy tới. Thủy tổng binh cưỡi tuấn mã, nắm đại đao đích thân cản hậu. Không bao lâu đã thấy quân Thanh rượt đuổi.

Viên Thừa Chí nằm sau một tảng đá phía trái đỉnh đồi. Lần đầu tiên chàng nhìn thấy lính Mãn Châu, nghĩ đến phụ thân nhiều năm huyết chiến với bọn quân Thát tử này, không nén nổi máu sôi sùng sục. Chàng đưa thanh Kim Xà Kiếm lên nói: “Tôn thúc thúc! Chúng ta xung phong xuống đi.”

Tôn Trọng Thọ nói: “Đợi một lát đã. Khi đại đội bọn quân Thát tử đến đây, chúng ta mới dựng cờ vàng lên. Khi đó huynh đệ mai phục xung quanh cùng lúc tấn công, bọn Mãn Thanh không sao chạy thoát được nữa.”

Nghe tiếng kèn hiệu nổi vang, một đám lớn kỵ binh Thanh xung phong tới nơi. Mấy chục tên lính Minh chạy không kịp, lập tức bị đao thương đâm chém, thi thể ngổn ngang dưới đất. Viên Thừa Chí trong lòng bất nhẫn, lại giục: “Mau mau xung phong xuống dưới mà tiếp ứng!”

Tôn Trọng Thọ bảo: “Phải đợi một lúc nữa.”

Thanh Thanh lo lắng nói: “Nếu không xuống ngay, đám quân này sẽ bị chúng giết sạch.”

Tôn Trọng Thọ cứ nói: “Phải đợi một lúc nữa.” Thanh Thanh sốt ruột, lo lắng giậm chân tại chỗ.

Đột nhiên trên đỉnh đồi bên phải có tiếng reo hò dữ dội, Sa Thiên Quảng đã dẫn quần đạo tám trại Sơn Đông từ trên đỉnh đồi xung phong xuống. Tôn Trọng Thọ la lên: “Úi chà, hỏng bét!”

Viên Thừa Chí hỏi: “Sao thế?”

Tôn Trọng Thọ đáp: “Đám kỵ binh này chỉ là tiên phong mà thôi. Phen này không bắt được nguyên soái của chúng rồi. Sao họ chưa thấy cờ hiệu đã tự tiện ra tay?”

Lúc này quần đạo Sơn Đông đã hùng hổ chém giết vào trận quân Thanh. Sau đó bang chúng Thanh Trúc Bang, Kim Long Bang đang mai phục khắp nơi đều vùng dậy. Thủy tổng binh cũng dẫn quân Minh quay lại đánh trả.

Tôn Trọng Thọ thở dài sườn sượt, buồn rầu nói: “Năm xưa Viên công điều binh, nếu đại tướng không nghe hiệu lệnh mà tự xông ra giết địch thế này, nhất định sẽ bị Viên công thỉnh Thượng phương bảo kiếm ra chặt đầu hết.”

Viên Thừa Chí áy náy, bèn nói: “Con không ngờ được chuyện này, nên chưa tuyên bố nghiêm ngặt là phải tôn trọng hiệu lệnh.”

Tôn Trọng Thọ an ủi chàng: “Đám anh hùng hảo hán chúng ta ở đây, ai cũng có võ công nhưng chỉ là quân ô hợp, không thể so với tinh binh mà Viên công huấn luyện ở Ninh Viễn năm xưa. Minh chủ không có cách nào quản thúc họ được đâu. Ôi! Cờ vàng chưa dựng lên, mọi người đã xung phong chém giết loạn cào cào. Như vậy đâu phải là dàn quân đánh trận, chỉ là loạn đả bừa bãi mà thôi.”

Tôn Trọng Thọ than thở mãi không dừng. Ông nghĩ đến năm xưa Viên Sùng Hoán lãnh binh tại Ninh Viễn, hiệu lệnh nghiêm ngặt, mười mấy vạn binh lính không ai là không nghiêm túc phụng mạng. Trong lúc ảo não, ông lại cảm thấy phần nào chua xót.

Thanh Thanh nói: “Chuyện đã thế rồi, có than thở cũng vô dụng. Thừa Chí đại ca, chúng ta ra tay đi!”

Viên Thừa Chí đã bứt rứt từ lâu, bèn hô lớn: “Được! Mọi người xung phong giết giặc!” Chàng cầm Kim Xà Kiếm xung phong xuống núi.

Tôn Trọng Thọ kinh hãi, gọi theo: “Minh chủ, minh chủ! Minh chủ là chủ soái, phải ngồi trấn giữ trung quân, không được đích thân nghênh địch.”

Gọi chưa dứt câu, Viên Thừa Chí đã thi triển khinh công chạy xa rồi. Chàng xung phong vào trong trận, Kim Xà Kiếm vừa vẫy ra đã chặt đứt hai cái thủ cấp lính Thanh. Tôn Trọng Thọ lại thở dài một tiếng, nước mắt chảy xuống như mưa, thầm nghĩ: “Ngay cả minh chủ cũng vậy, làm sao mà sánh được với Viên Đốc sư năm trước?”

Hơn ngàn quân Thanh bị kẹt giữa con đường núi, tuy dũng cảm cũng không lập được trận mà đón đỡ. Địch tới sát mình, cung tên không dùng được. Chúng bị quần hào bao vây tấn công từ bốn phương tám hướng, không đầy một giờ là chết sạch. Thống soái A Ba Thái của quân Thanh được tiền quân hồi báo là trúng mai phục ở Cẩm Dương Quan, lập tức dẫn quân lui về Thanh Châu.

Trận này không giết được A Ba Thái, nhưng đã diệt được hơn ngàn lính Thanh, thật là đại thắng mười mấy năm nay chưa có. Quần hùng ở Cẩm Dương Quan reo hò đến khản giọng, hoan hỉ đến phát cuồng. Viên Thừa Chí nhìn những vết máu trên Kim Xà Kiếm, nghĩ: “Thanh kiếm này hôm nay đã giết không ít quân Thát tử. Phải thế mới không uổng phí vết bích huyết trên thân nó.”

Đêm đó Viên Thừa Chí, Tôn Trọng Thọ, Chu An Quốc, Nghê Hào và La Đại Thiên ngồi đàm luận, cho rằng trận thắng hôm nay có thể an ủi vong linh Viên Đốc sư trên trời, đều không nén nổi nhiệt lệ tuôn tràn. Tôn Trọng Thọ vẫn ân hận không giết được nguyên soái A Ba Thái của bọn Thanh.

Viên Thừa Chí nói: “Tôn thúc thúc! Huynh đệ chúng ta đánh trận lớn chưa được đâu. Ngày mai con phải lên phía Bắc. Số quan binh nhà Minh và hết thảy huynh đệ ở đây, nhờ Tôn thúc thúc, Chu thúc thúc, Nghê thúc thúc, La thúc thúc và các vị thao luyện đàng hoàng. Sau này gặp bọn Thát tử, quyết không xung phong giết giặc loạn xạ như ngày hôm nay nữa.” Tôn Trọng Thọ và mọi người đều vâng dạ.

Chu An Quốc, La Đại Thiên, Nghê Hào đã từng huyết chiến nhiều trận với quân Thanh ở Cẩm Châu và Ninh Viễn. Họ cùng thấy thuộc hạ không tuân hiệu lệnh, kỷ luật không nghiêm, chưa phải là một đội quân tinh nhuệ, trận thắng này thật là may mắn. Quân Thanh không chỉ tinh thông thuật cưỡi ngựa bắn tên, ngay cả bộ binh của chúng mỗi khi xung sát chỉ biết hướng về phía trước, dũng cảm can trường không gì sánh được. Quân triều đình nhà Minh chắc chắn không phải là địch thủ. Năm xưa Viên đốc sư thắng trận ở Ninh Viễn, hoàn toàn dựa vào thành trì vững chắc, sử dụng đại pháo. Nếu phải giao chiến ở nơi bình nguyên dã ngoại, quân Minh triều chắc chắn sẽ bại.

Trận chiến hôm nay, một là mai phục bất ngờ, giết bọn lính Thanh trong lúc vô ý; hai là chỉ cắt rời hơn ngàn quân tiên phong của bọn Thanh. Quần hào và quân Minh có số lượng gấp bội bao vây, về nhân số đã chiếm thượng phong, còn viện quân của bọn Thanh không tiến vào được. Hơn nữa, dưới tay Viên Thừa Chí có rất đông người võ nghệ cao cường, nên khi đối địch với quân Thanh không bị sút kém.

Chu An Quốc lắc đầu nói: “Tôn tiên sinh, Viên minh chủ! Không phải tại hạ muốn đề cao địch mà làm giảm oai phong mình. Trận chiến này, nếu một vạn quân địch đối phó với một vạn quân ta, thì quân ta chắc chắn sẽ bại. Nếu địch có hai vạn, ta cũng có hai vạn, quân ta càng thua đậm hơn. Ôi! Bọn Thát tử lợi hại đến thế, thật sự không dễ đánh.”

Tôn Trọng Thọ đáp: “Chu huynh, ta hiểu rồi. Huynh muốn nhắc nhở mọi người, trận này thắng do may mắn. Từ nay về sau mọi người phải nỗ lực gấp bội. Kiêu binh tất bại, ai binh mới thắng.”

Sau này mọi người cố rèn luyện cho quân lính võ nghệ, dạy họ biết coi trọng hiệu lệnh và kỷ luật, tuy không hơn được quân Thanh, nhưng không đến nỗi đánh đâu thua đó như quân Minh triều trước đây. Quân Thanh từ nhỏ đã quen nghề bắn tên cưỡi ngựa, luyện tập thế nào cũng không bằng chúng nổi.

*

*   *

Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh sánh vai tản bộ, thấy quần hào chỗ này một nhóm, chỗ kia một nhóm đàm luận với nhau. Thần tình người nào cũng sôi nổi, đều nói về trận thắng lớn hôm nay. Viên Thừa Chí nói: “Hôm nay chúng ta mới đánh trận đầu, tiêu diệt bọn Thát tử Mãn Thanh. Sau này còn phải huyết chiến cả trăm trận nữa. Đúng là: Ngày ngày khẳng khái diệt thù; Tháng tháng gian nan bách chiến.”

Thanh Thanh khen ngợi: “Hai câu thơ của huynh hay thật.”

Viên Thừa Chí mỉm cười đáp: “Ta đâu biết làm thơ? Đây là di tác của gia gia.”

Thanh Thanh “Ủa” một tiếng.

Viên Thừa Chí thở dài nói: “Ta làm gì cũng không bằng được gia gia. Gia gia biết làm thơ, lại biết dụng binh đánh trận. Ta hoàn toàn không hiểu.”

Thanh Thanh an ủi: “Võ công của huynh thì hơn hẳn lệnh tôn rồi.”

Viên Thừa Chí nói: “Gia gia của ta xuất thân tiến sĩ, chưa từng luyện võ. Nhưng võ công cao cường đến mấy cũng chỉ giải quyết được chút ít việc nhỏ, không thể lo được đại sự.”

Thanh Thanh cãi: “Chưa chắc đã thế. Võ công cao cường, đương nhiên phải có chỗ ích lợi.”

Viên Thừa Chí đột nhiên rút soạt Kim Xà Kiếm, vạch lên không trung hai nhát xé gió vù vù, lên tiếng: “Thanh đệ nói đúng! Ta phải đi hành thích Thát tử hoàng đế Hoàng Thái Cực, rồi lại hành thích Sùng Trinh hoàng đế để trả thù cho gia gia.”

Chàng bèn thương nghị với Tôn Trọng Thọ, Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng và Thủy tổng binh; đem toàn bộ quần hào Sơn Đông Hà Bắc, hàng quân Minh, bằng hữu Sơn Tông và các lộ anh hào chia thành ba doanh; chọn ba người hiểu chuyện dàn quân đánh giặc là Chu An Quốc, Thủy Giám, La Đại Thiên chia nhau thống lĩnh. Tôn Trọng Thọ thì chỉ huy tổng quát.

Viên Thừa Chí cùng thủ lĩnh ba doanh thương nghị, mọi người đều nói: “Đã chém giết quân triều đình rồi, thì nên quy thuận Sấm Vương. Binh mã ba doanh chúng ta nên tới Tương Dương, Nam Dương, giúp tấn công quân Minh của đốc sư Tôn Truyền Định ở Thiểm Tây.”

Viên Thừa Chí nói: “Tuy triều đình vô đạo, nhưng đại cuộc trước mắt phải lấy chuyện kháng cự Mãn Thanh xâm lược là chính. Nếu chúng ta đánh đổ nhà Minh, quân Thanh tất sẽ thừa cơ đoạt lấy giang sơn của người Hán. Lúc đó chúng ta há chẳng trở thành thiên cổ tội nhân?”

Mọi người thương nghị một hồi, quyết định binh mã ba doanh này tạm thời đi về phía đông bắc tỉnh Sơn Đông, đóng trại ở Diêm Sơn, Lưu Sơn và Mã Cốc Sơn ở ranh giới Trực Lệ và Sơn Đông. May mà phen này đã cướp được rất nhiều lương tiền, có thể khai khẩn và mua sắm nhiều ruộng đất. Viên Thừa Chí để lại hai rương vàng thỏi, đủ cho sáu bảy ngàn nhân mã ăn uống mấy năm, không cần phải ra ngoài cướp bóc để buộc triều đình phái binh tiêu diệt.

Nếu quân Thanh nhập quan kéo đến Sơn Đông, thì nhân mã ba doanh này tiến lên phía Bắc mà kháng địch. Khi Viên Thừa Chí nhận được tin tức sẽ lập tức trở về, sánh vai quần hào tham chiến. Còn nếu Sấm quân bất lợi, thì nhân mã ba doanh này sẽ chi viện cứu trợ. Thế là tạm thời ẩn giấu một đội nhân mã hùng mạnh vì nước vì dân, đợi thời cơ mà hành sự.

Mọi người nghe kế hoạch này đều vỗ tay khen hay.

Sáng hôm sau Viên Thừa Chí cáo biệt Tôn Trọng Thọ và mọi người, cùng Thanh Thanh, ông câm, Hồng Thắng Hải áp tải mấy cái rương sắt đi tới phủ Thuận Thiên tại kinh sư. Tôn Trọng Thọ, Chu An Quốc, Thủy tổng binh thì thống lĩnh ba doanh, đợi đêm sẽ hành quân tới vùng Mã Cốc Sơn, ranh giới Sơn Đông và Trực Lệ mà đóng trại.

Trong trận chiến Cẩm Dương Quan, Thái An, Thanh Châu tỉnh Sơn Đông, Viên Thừa Chí, Tôn Trọng Thọ, Tiêu Công Lễ, Thủy Giám không những cướp được trăm vạn tiền lương của triều đình, lại diệt được một đội quân tinh nhuệ của tướng Thanh A Ba Thái, danh tiếng lập tức vang động cả một vùng Sơn Đông, Trực Lệ và Hà Bắc. Nhiều người hỏi thủ lĩnh là ai, quần hùng biết Viên Thừa Chí không thích nêu danh tính của mình nên chỉ đáp qua loa. Có người hỏi kỹ, bang chúng Kim Long Bang bèn nói vị anh hùng thủ lĩnh là truyền nhân của Kim Xà Lang Quân năm trước, bằng hữu của Sấm Vương.

Thuộc hạ của Sấm Vương lúc này có Hoành Thiên Vương, Tranh Thế Vương, Loạn Thế Vương, Cải Thế Vương, Tả Kim Vương, mỗi người thống lãnh một doanh nhân mã đối kháng với quân Minh trong khắp Trung Nguyên. Trên giang hồ bèn gọi lộ nhân mã của Viên Thừa Chí là Kim Xà Doanh, tương xứng với mười ba doanh khác dưới trướng Sấm Vương. Còn trong nội bộ thì gọi là Sơn Tông Doanh hay Sùng Tự Doanh, tỏ ý kế thừa đại chí của phụ thân.

Viên Thừa Chí nghĩ, phụ thân mình tận trung với Minh triều, lúc chịu kỳ oan tay đang nắm binh quyền mà hoàn toàn không có ý tạo phản. Ông thà bị hoàng đế giết oan, quyết không mang tội phản tặc hay soán nghịch. Vì thế chàng hạ lệnh cho mọi người đừng nhắc tới chuyện mình là con trai Viên Sùng Hoán, để phụ thân có linh thiêng đỡ phải áy náy. Hơn nữa, thời đó con nhà quan lại coi hai chữ “trung hiếu” còn nặng hơn trời. Tuy Viên Thừa Chí vì bá tính mà tạo phản, nhưng không dám công nhiên dựng cờ khởi nghĩa phản Minh.

Chàng vốn không thích xưng hiệu Kim Xà Vương, nhưng cái tên này có thể dùng để giấu giếm thân phận con trai Viên Sùng Hoán, nên cứ để bằng hữu giang hồ thuận miệng mà gọi như thế.

Hồi 12: Đầu đà dùng mỹ tửu – Đào tiên giấu dược hoàn

Viên Thừa Chí cùng ba người Thanh Thanh, ông câm, Hồng Thắng Hải áp tải mấy chiếc rương sắt đến kinh thành. Sa Thiên Quảng đột nhiên nổi hứng, đòi theo minh chủ tới kinh sư dạo chơi. Trình Thanh Trúc từng ở Bắc Kinh lâu ngày, rất quen thuộc đất và người ở đó, cũng xin đi cùng. Viên Thừa Chí có thêm hai trợ thủ đắc lực, dĩ nhiên hoan hỉ đồng ý. Lúc này chàng thấy Hồng Thắng Hải một dạ trung thành, không hề có ý phản bội, nên đã trị nội thương cho. Y càng tỏ lòng cảm kích.

Một đoàn sáu người quất roi giục ngựa tiến về phía Bắc, rong ruổi trên vùng bình nguyên thẳng cánh cò bay tỉnh Sơn Đông thuộc địa phận ảnh hưởng của Sa Thiên Quảng, rồi tiến vào Hà Bắc là địa giới của Thanh Trúc Bang. Dọc đường bọn đầu mục địa phương đều nghênh tiếp rất long trọng. Thanh Thanh thấy ý trung nhân của mình được thiên hạ coi trọng như thế, dĩ nhiên vô cùng đắc ý. Tính khí nhõng nhẽo và nhỏ nhen của nàng đã giảm bớt đi nhiều.

Một hôm đến phủ Hà Giang, đầu mục của Thanh Trúc Bang ở đây mở tiệc tưng bừng đón tiếp minh chủ. Khách dự tiệc đều là danh sĩ có tiếng trong võ lâm. Sau ba tuần rượu, mọi người đàm luận đến những chuyện trên giang hồ cùng võ lâm cố sự, hào hứng vô cùng.

Đột nhiên có người hỏi Trình Thanh Trúc: “Bang chủ! Bốn ngày nữa là lễ mừng thọ lục tuần của Mạnh Bá Phi lão gia rồi. Bang chủ có tới không?”

Trình Thanh Trúc đáp: “Ta phải theo minh chủ lên kinh thành, không thể đi chúc thọ, phải tạm gửi quà. Ta đã chuẩn bị một món quà, sai người đưa đến Bảo Định phủ là được.”

Sa Thiên Quảng cũng nói: “Tại hạ đã gửi quà mừng thọ từ sớm. Mạnh lão gia biết chúng ta có việc quan trọng không đến được, chắc không trách đâu.”

Viên Thừa Chí bỗng nghĩ: “Cái Mạnh Thường lừng danh khắp đại giang nam bắc. Sắp đến ngày chúc thọ, sao ta không nhân cơ hội kết giao với ông ấy?” Chàng bèn nói: “Ta đã nghe tiếng Mạnh lão gia từ lâu rồi. Thì ra mấy hôm nữa đã đến ngày chúc thọ lục tuần của lão nhân gia, ta muốn đến đó chúc mừng. Các vị xem có được không?”

Mọi người vỗ tay khen hay, đều nói: “Minh chủ nể mặt như thế, Mạnh lão gia nhất định rất vui.” Thế là hôm sau mọi người đổi hướng đi về phía Tây, có thêm mười mấy hào kiệt phủ Hà Giang đi cùng.

Khi đến Cao Dương, cách phủ Bảo Định chưa tới một ngày đường, mọi người nghỉ lại khách sạn Duyệt Lai trên đại lộ. Sắp xếp hành lý và rương hòm xong, quần hào đến đại sảnh ăn cơm uống rượu.

Ở bàn phía Đông có một đầu đà to béo, trên đầu dùng một cái vòng đồng để buộc mớ tóc dài, tướng mạo vừa oai phong vừa dũng mãnh. Trên bàn có tới bảy tám bình rượu đã uống cạn. Hễ tiểu nhị đưa rượu đến, y liền mở nắp bình, trút rượu vào một cái tô lớn, chỉ một hơi là uống cạn ngay. Hai tay y lên xuống liên hồi, đĩa thịt bò trong chớp nhoáng đã sạch nhẵn. Y lên tiếng hối thúc: “Thêm rượu, thêm thịt! Nhanh lên!”

Lúc này bọn tiểu nhị trong tiệm đang bận tiếp đãi những người khác, không kịp để ý đến y. Đầu đà cả giận, đưa tay vỗ mạnh lên bàn. Bao nhiêu hũ rượu, ly tách đều nhảy bật lên, ngay cả bình rượu trên bàn bên cạnh cũng chao đi rồi ngã xuống, rượu đổ lênh láng.

Người khách ngồi bàn đó “úi chà” một tiếng rồi nhảy chồm lên. Đó là một hán tử thân hình ốm yếu, trên mép để hai túm râu chuột, cặp mắt trợn ngược lên sáng quắc dị thường. Y la lên: “Đại sư phụ! Sư phụ muốn uống rượu, thì người khác cũng muốn uống chứ?”

Đầu đà không chịu xin lỗi, lại đập bàn cái nữa, hét lên: “Ta kêu tiểu nhị là chuyện của ta, liên quan gì đến tên thối tha kia?”

Hán tử kia nói: “Xưa nay ta chưa gặp người xuất gia nào hung hãn đến thế.”

Đầu đà quát tháo: “Thì hôm nay ngươi gặp phải rồi.”

Thanh Thanh thấy mà tức mình, nói với Viên Thừa Chí: “Để muội qua can thiệp một chút.”

Viên Thừa Chí bảo: “Đợi xem đã. Đừng tưởng hán tử thấp bé kia yếu ớt, chắc y không dễ đối phó đâu.”

Thanh Thanh đang muốn xem hai người đánh nhau. Không ngờ hán tử khiếp sợ oai phong của đầu đà, bèn nói: “Được, được! Coi như ta có lỗi, được chưa?”

Đầu đà thấy đối phương nhận lỗi, cũng đúng lúc tiểu nhị đưa rượu lên, nên không đếm xỉa tới nữa, tiếp tục uống rượu.

Hán tử kia bỏ ra ngoài một chút, rồi lại trở vào trong tiệm. Viên Thừa Chí cùng mọi người thấy không còn gì náo nhiệt để xem, bèn cắm cúi uống rượu ăn cơm. Đột nhiên một cơn gió thổi qua, một luồng hôi hám ập vào. Thanh Thanh vội lấy khăn tay ra bịt mũi.

Viên Thừa Chí quay lại, thấy giữa bàn của đầu đà đã có một cái bô đặt rất ngay ngắn, mà đầu đà chưa hề phát giác. Chàng nhịn không nổi, suýt bật cười, liền liếc Thanh Thanh một cái, bĩu môi về phía đầu đà. Thanh Thanh quay sang nhìn thấy, ôm bụng gập người xuống mà cười.

Trong đại sảnh còn rất nhiều người đang ăn uống. Họ chưa thấy cái bô, nhưng đều ngửi thấy mùi hôi, bèn nói: “Thối quá, thối quá!”

Hán tử ốm yếu lớn tiếng hô lên: “Thơm quá, thơm quá!”

Thanh Thanh khẽ nói: “Nhất định hán tử kia đem tới. Tay chân y nhanh nhẹn thật. Không hiểu y để lên bàn bằng cách nào?”

Lúc này đầu đà đưa tay định quờ lấy bình rượu trên bàn, nhưng cầm trúng cái bô. Y thấy nặng tay bèn nhìn lại, thì ra bên trong chứa đầy nước tiểu. Y giận dữ không sao kìm được, xoay tay trái đánh ra một chưởng, hất tên tiểu nhị đang đứng cạnh văng xa hơn trượng, té nhào lăn lóc dưới đất.

Hán tử kia vẫn ngoác mồm ra khen ngợi: “Rượu ngon quá, rượu ngon quá! Thơm thật!”

Đầu đà biết hán tử đó gây chuyện, bèn xoay mình ném cái bô sang. Hán tử đã đề phòng, khom người chui qua mấy gầm bàn tới đứng phía sau đầu đà, thân pháp uyển chuyển vô cùng. Cái bô đập xuống mặt bàn, nước tiểu văng tung tóe. Mọi người la hét om sòm, tranh nhau đứng dậy tránh né.

Đầu đà lại càng giận dữ, quờ hai bàn tay to tướng ra sau lưng toan bắt, nhưng hán tử kia lại chui qua gầm bàn nữa rồi. Đầu đà đứng bật dậy, phóng chân đá ngã chiếc bàn. Trong đại sảnh lập tức náo loạn, mọi người đổ xô nhau nép sát vào tường.

Hán tử chạy đông né tây, đầu đà tay đánh chân đá thế nào cũng không chạm được vào y. Không bao lâu bàn ghế trong đại sảnh đều bị hai người đẩy ngã. Chén đũa, bình rượu rơi vãi dưới đất, hán tử nhặt lên không ngừng ném về phía đầu đà. Đầu đà quát tháo om sòm, chụp bắt rồi quăng lại. Thân pháp hai người rất nhanh, quả nhiên đều võ công đầy mình.

Sau cùng thì giữa đại sảnh đã có một khoảng trống. Hán tử không trốn tránh nữa, đứng lại múa quyền đánh trả, thi triển công phu tiểu xảo tỉ đấu với đầu đà. Đầu đà thân thể tráng kiện, sử dụng Hùng Quyền của Thương Châu, quyền thế lộng gió vù vù. Quyền pháp của hán tử lại đặc biệt lạ mắt, hai tay thường xuyên áp sát vào hông mà ngoe nguẩy, cúi người bước đi lạch bạch. Bộ điệu y cổ quái, nhưng thân pháp lại rất linh hoạt.

Thanh Thanh bật cười nói: “Khó coi quá. Đó là công phu gì vậy?”

Viên Thừa Chí cũng chưa từng nhìn thấy công phu như thế, nhưng cảm thấy tay chân y rất nhanh, dáng vẻ tuy xấu xí nhưng có chương pháp đàng hoàng, đỡ gạt được hết những chiêu thức của địch thủ tấn công.

Trình Thanh Trúc kiến thức rộng hơn, bèn nói: “Đó là Áp Hình Quyền. Rất ít nhân vật giang hồ biết loại quyền pháp này.”

Thanh Thanh nghe xong càng tức cười hơn. Nàng nhìn lại thân thủ và bộ pháp của hán tử đó, quả nhiên giống hệt con vịt đang đi.

Đầu đà đánh mãi vẫn không hạ nổi đối phương, bắt đầu sốt ruột. Đột nhiên y nhào xuống đất, thi triển pho Túy Đả Sơn Môn Quyền của Lỗ Trí Thâm, nghiêng bên này ngả bên kia như đang say rượu. Có lúc y duỗi hai chân lăn lộn dưới đất, đợi địch thủ tấn công tới đột nhiên nhảy lên đánh trả. Đầu đà lăn lộn như thế, trên người vấy đầy canh thừa rượu cặn và những hạt cơm rơi vãi. Ngay cả nước tiểu trong bô đổ ra cũng thấm vào y phục của y không ít.

Tỉ đấu hồi lâu, đầu đà bỗng tấn công dứt khoát hơn. Tả quyền y xoay chuyển một vòng, đánh vào sau lưng hán tử, còn hữu chưởng đánh thẳng vào trước ngực. Hán tử ốm yếu trước sau đều bị đánh, không còn cách nào tránh né, buộc phải vận nội công để ngang song chưởng trước ngực, quát lên một tiếng: “Hay lắm!”

Ba bàn tay đã chạm vào nhau. Bàn tay của đầu đà đặc biệt to lớn, còn bàn tay của hán tử ốm yếu thì nhỏ hơn cả người thường. Hai bàn tay của hán tử lọt thỏm vào giữa một bàn tay của đầu đà.

Hai người cùng vận hết nội lực đẩy mạnh ra trước. Tuy tay trái của đầu đà rảnh rỗi, nhưng sức lực toàn thân đã vận lên hữu chưởng nên cánh tay trái như bị phế, không thể nào vận sức đánh ra nữa. Hai bên thế lực quân bình, lập tức đứng cứng ở đó không sao động đậy, tiến không được lùi không xong. Hai người đều biết, ai thu hồi lực đạo về trước sẽ phải lập tức mất mạng dưới chưởng của đối phương. Còn tiếp tục đấu nội công như thế, chắc chắn không khỏi tiêu hao hết nội lực, đi tới chỗ lưỡng bại câu thương.

Hai bên đều hối hận nghĩ thầm: “Vốn không thù không oán, chẳng qua giận dữ nhất thời mà tranh chấp. Thế mà phải đem tính mạng ra liều, thật là vô duyên vô cớ.”

Một lát sau, trên trán hai người đều tươm ra những giọt mồ hôi to bằng hạt đậu. Sa Thiên Quảng lên tiếng: “Trình bang chủ! Huynh cầm thanh trúc bổng đi giải cứu họ đi, chậm một chút nữa là cả hai đều hỏng bét.”

Trình Thanh Trúc đáp: “Một mình ta thì không đủ bản lãnh. Hay là anh em mình cùng lên?”

Sa Thiên Quảng nói: “Được! Nhưng hai tên quậy phá này chỉ giữ được tính mạng, nhất định phải bị nội thương.”

Họ đang định tiến lên giải cứu, Viên Thừa Chí bỗng mỉm cười nói: “Để ta!”

Chàng chầm chậm bước đến, đưa hai tay gác lên cánh tay hai người. Bàn tay của đầu đà và hán tử đột nhiên tuột ra. Họ không thu thế được, ba chưởng đồng thời đánh vào trước ngực Viên Thừa Chí nghe “bịch” một tiếng.

Thanh Thanh, Sa Thiên Quảng và Trình Thanh Trúc đều la lớn: “Trời ơi! Không xong rồi!” Họ cùng lúc nhảy lên cứu giúp, nào ngờ thấy Viên Thừa Chí thần sắc vẫn tự nhiên, hoàn toàn không bị thương gì cả. Thì ra chàng đã biết, nếu dùng sức đẩy ngược lại thì không được. Hai người này đang dùng hết sức đánh nhau, nội lực phát ra mạnh như thế, nếu thu hồi đột ngột thì coi như tự đánh vào mình, nhất định sẽ bị trọng thương. Vì thế Viên Thừa Chí vận khí vào trước ngực để hứng lấy ba phát chưởng, dựa vào nội công thần diệu của mình mà nhẹ nhàng hóa giải chưởng lực của hai đối thủ.

Đầu đà và hán tử đều kiệt sức, bủn rủn lăn ra nằm dưới đất. Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng dìu hai người dậy, bảo bọn tiểu nhị lo dọn dẹp.

Viên Thừa Chí lấy mười lượng bạc ra, đưa cho chưởng quỹ rồi nói: “Ta đền cho ông những đồ đạc bị hư hỏng. Trong này còn nhiều khách chưa ăn uống xong, ông sửa soạn giống như cũ đi. Hao phí bao nhiêu, để ta thanh toán tiếp.”

Chưởng quỹ đón lấy thỏi bạc, không ngớt đa tạ, gọi bọn tiểu nhị thu xếp đồ đạc bị hỏng, nấu nướng dọn lên lại. Những người khách đang ăn uống đều hướng về Viên Thừa Chí mà cảm tạ.

Lát sau sức lực đầu đà và hán tử dần dần phục hồi. Họ đến chỗ Viên Thừa Chí để bái tạ ơn cứu mạng.

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Không cần khách sáo. Xin thỉnh giáo quý tính đại danh hai vị. Hai vị võ công như thế, nhất định là anh hùng hảo hán đã thành danh trên giang hồ.”

Đầu đà nói: “Pháp danh của tại hạ là Nghĩa Sinh, nhưng mọi người đều gọi là Thiết La Hán.”

Hán tử nói: “Tại hạ họ Hồ, tên Quế Nam. Xin thỉnh giáo quý tính đại danh các vị.”

Viên Thừa Chí chưa kịp trả lời, Sa Thiên Quảng đã nói: “Thì ra là Thánh thủ thần thâu Hồ đại ca.”

Hồ Quế Nam thấy y biết ngoại hiệu của mình, cả mừng hỏi lại: “Không dám! Xin thỉnh giáo tôn tính đại danh các hạ?”

Trình Thanh Trúc cầm lấy cây quạt trong tay Sa Thiên Quảng, xòe ra. Hồ Quế Nam thấy trên quạt có vẽ một cái đầu lâu rất đáng sợ, liền khom người nói: “Thì ra là Âm dương phiến Sa trại chủ. Tại hạ ngưỡng mộ đã lâu, hôm nay được gặp thật là may mắn.”

Họ Hồ lại nhìn thấy một cây tre xanh đang dựng bên bàn. Y biết Thanh Trúc Bang phân biệt ngôi vị cao thấp dựa theo số đốt tre, thanh tre xanh này có mười ba đốt, tương ứng với thủ lĩnh cao nhất trong bang. Y liền chắp tay thi lễ với Trình Thanh Trúc, hỏi: “Vị này là Trình lão bang chủ có phải không?”

Trình Thanh Trúc cười ha hả: “Thánh Thủ Thần Thâu nhãn quan lợi hại, quả nhiên danh bất hư truyền. Hai vị không đánh nhau thì không quen biết. Mọi người qua đây, chúng ta cùng cạn một ly.”

Quần hào ngồi chung một bàn. Hồ Quế Nam và Thiết La Hán mời nhau một ly rượu, cùng nói: “Đã lỗ mãng rồi, xin đắc tội.”

Thiết La Hán mỉm cười nói: “Không biết huynh ăn cắp cái bô hôi thối này ở đâu ra. Thật là kỳ lạ.”

Mọi người nghe vậy đều cười rộ lên. Hồ Quế Nam và Thiết La Hán cạn với nhau một ly, lập tức từ địch thủ trở thành bằng hữu. Tính khí hai người giống nhau, nói chuyện rất hợp.

Hồ Quế Nam biết Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng là thủ lĩnh hào kiệt giang hồ ở Hà Bắc và Sơn Đông. Thấy thần sắc hai người đối với Viên Thừa Chí vô cùng cung kính; hơn nữa vừa rồi chàng ra tay cứu giúp, thể hiện nội công thâm hậu, nhất định đây là một nhân vật khác thường. Y chưa hiểu danh tính, nhưng không dám mạo muội hỏi thêm.

Hồ Quế Nam tính tình hoạt kê, thế mà bây giờ ngồi rất nghiêm chỉnh, không dám đùa giỡn chút nào. Trình Thanh Trúc hỏi: “Hai vị đến đây có việc gì không? Chắc là Hồ lão đệ đã chọn được một món lớn, định hiển lộ thân thủ chứ gì?”

Hồ Quế Nam mỉm cười nói: “Trước mặt Trình lão tiền bối, tại hạ quyết không dám làm bừa. Tại hạ đến đây là để chúc thọ Mạnh Bá Phi lão gia.”

Thiết La Hán vỗ bàn la lên: “Sao không nói sớm? Ta cũng đi chúc thọ, biết trước thì đã không đánh nhau. Nhưng trong tiệc rượu của Mạnh đại gia, huynh không được đem bô tới nhé.”

Mọi người lại cười rộ một hồi. Trình Thanh Trúc mỉm cười nói: “Thật là may mắn! Chúng ta cũng đi chúc thọ Mạnh lão gia, thế là ngày mai có thể cùng đi. Hai vị là hảo bằng hữu của Mạnh lão gia phải không?”

Thiết La Hán đáp: “Hảo bằng hữu thì không dám trèo cao, nhưng quen biết hơn hai mươi năm rồi. Sau này tại hạ thường ở vùng Hồ Quảng, rất ít lên hướng Bắc, nên đã tám chín năm chưa gặp mặt.”

Hồ Quế Nam cười nói: “Thế thì phải nhờ La Hán huynh giới thiệu cho tại hạ làm quen.”

Thiết La Hán ngạc nhiên hỏi: “Sao? Huynh chưa quen biết Mạnh đại gia ư? Thế thì đi chúc thọ ông ấy để làm gì?”

Hồ Quế Nam đáp: “Trước nay tại hạ vẫn rất hâm mộ Cái mạnh thường Mạnh đại gia, nhưng chưa có duyên bái kiến. Lần này tình cờ kiếm được một bảo vật, muốn mượn hoa cúng Phật làm quà chúc thọ, chỉ mong được gặp vị hào kiệt vang danh bốn biển này.”

Thiết La Hán nói: “Dĩ nhiên là được. Đừng nói là huynh có quà chúc thọ, cho dù không có, Mạnh đại gia cũng tiếp đãi như thường. Ai bảo ngoại hiệu của ông ấy là Cái Mạnh Thường?”

Trình Thanh Trúc tò mò hỏi: “Hồ lão đệ! Lão đệ tìm được bảo vật gì vậy? Có thể cho bọn ta mở rộng tầm mắt được không?”

Sa Thiên Quảng cũng nói: “Những vật tầm thường dĩ nhiên không lọt vào mắt Thánh Thủ Thần Thâu! Hồ huynh đã khen ngợi như thế, nhất định phải là thứ giá trị liên thành.”

Hồ Quế Nam tỏ ra đắc ý, lấy trong bọc ra một cái hộp bằng vàng ròng có khảm trân châu, chạm trổ tinh tế. Y nói: “Ở đây tai mắt rất nhiều, mời quý vị vào phòng tại hạ để xem.”

Mọi người thấy chỉ riêng cái hộp đã giá trị không nhỏ, đoán rằng vật cất bên trong càng quý trọng hơn.

Hồ Quế Nam đợi mọi người vào hết trong phòng mới đóng cửa phòng lại, mở hộp ra. Trong hộp là hai con bạch thiềm thừ đã chết. Cặp thiềm thừ này toàn thân trắng toát, chỉ có cặp mắt đỏ tươi như máu, trông khá dễ thương nhưng không hiểu trân quý chỗ nào.

Hồ Quế Nam mỉm cười nói với Thiết La Hán: “Vừa rồi ta đối chưởng với lão huynh, nếu hai người cùng ô hô ai tai ngay tại chỗ, thì đó là đại nạn lâm đầu, không còn cách nào. Nhưng nếu chỉ bị trọng thương thì ta có phương pháp giải cứu.”

Y trỏ cặp bạch thiềm thừ, lại nói: “Đây là Chu Tinh Băng Thiềm trên đỉnh Tuyết Sơn ở Tây Vực. Ai bị nội thương hay ngoại thương lợi hại cách mấy đi nữa, chỉ cần không chết tại chỗ, uống băng thiềm này là chắc chắn khỏi bệnh. Đúng là linh đơn diệu dược, thần hiệu vô cùng. Băng thiềm này cũng giải được những chất kịch độc.”

Trình Thanh Trúc hỏi: “Bảo vật quý giá như thế, Hồ lão đệ từ đâu mà có?”

Hồ Quế Nam đáp: “Tháng trước tại hạ trú trong một khách sạn ở tỉnh Hà Nam, gặp một lão già hái thuốc bệnh nặng sắp chết. Thấy lão đáng thương, tại hạ giúp cho mấy chục lượng bạc, còn kêu đại phu chữa bệnh. Nhưng tuổi tác lão quá cao, phần số đã hết, dù thuốc tiên cũng không linh nghiệm, nên không sống nổi nữa. Trước khi chết, lão đưa cặp băng thiềm này cho tại hạ, nói là báo đáp công ơn chăm sóc.”

Thiết La Hán nói: “Cái hộp này rất đẹp.”

Hồ Quế Nam nói: “Lão già ấy vốn để băng thiềm trong một cái hộp gỗ cũ kỹ, nhưng dùng làm quà tặng thì nhất định phải đặt vào một cái hộp đẹp đẽ hơn…”

Sa Thiên Quảng mỉm cười hỏi: “Vì thế mà huynh trổ tài diệu thủ không không, mượn tạm hộp vàng của một phú gia phải không?”

Hồ Quế Nam cười đáp: “Sa trại chủ đoán việc như thần, thán phục, thán phục! Đây vốn là hộp đựng đồ trang sức của tiểu thư nhà Lưu đại tài chủ ở phủ Khai Phong.”

Mọi người cùng cười rộ lên.

Hồ Quế Nam lại nói: “Vừa rồi hai người bọn tại hạ suýt dắt tay nhau xuống quỷ môn quan. Trong lúc tỉ thí tại hạ đã nghĩ, nếu mình và Thiết La Hán huynh may mắn không chết, thì tại hạ sẽ uống một con băng thiềm, dùng con còn lại để cứu mạng huynh ấy. Hai bên không thù không oán, hà tất vì một cái bô thối mà gây chuyện mất mạng. Việc này vốn là lỗi của tại hạ.”

Thiết La Hán mỉm cười nói: “May mà hảo ý của huynh không dùng được.” Mọi người lại cười rộ lên.

Hồ Quế Nam nói: “Dù sao thì hai con băng thiềm cũng không phải của tại hạ nữa rồi.” Y hai tay bưng cái hộp vàng đến trước mặt Viên Thừa Chí, lên tiếng: “Không dám nói là báo đáp, chỉ là tỏ chút lòng kính trọng. Xin tướng công nể mặt nhận lấy.”

Viên Thừa Chí ngạc nhiên hỏi: “Như vậy sao được? Đây là quà của Hồ huynh định tặng Mạnh lão gia mà?”

Hồ Quế Nam nói: “Nếu không nhờ tướng công trượng nghĩa cứu giúp, tại hạ không chết cũng bị thương, đôi băng thiềm quyết không đến được tay Mạnh lão gia. Còn nói về quà chúc thọ, thì tại hạ tuy chẳng giỏi gì nhưng chỉ đưa tay ra là có, bất cứ lúc nào cũng tìm được. Tướng công không cần lo lắng.”

Viên Thừa Chí nhất định từ chối. Hồ Quế Nam lộ vẻ không vui, nói: “Tướng công đã không chịu cho biết danh tính, lại không chịu nhận cặp băng thiềm. Chắc là hoài nghi tại hạ ăn cắp mà có được, sợ dơ không lấy phải không?”

Viên Thừa Chí vội nói: “Hồ huynh nói gì thế! Lúc nãy gấp rút nên chưa kịp thông báo danh tính. Tại hạ họ Viên, tên Thừa Chí.”

Thiết La Hán và Hồ Quế Nam cùng la lên kinh hãi. Hồ Quế Nam nói: “Thì ra là Viên đại gia, minh chủ bảy tỉnh! Chẳng trách thân thủ cao cường như thế. Viên đại gia thống lãnh quần hùng đại phá quân Thát tử ở Cẩm Môn Quan, khắp thiên hạ không ai không ngưỡng mộ.”

Thiết La Hán nói: “Mấy ngày trước nghe được tin này, tại hạ không tự chủ được, bất giác vung tay lên tự tát vào mặt mình.”

Mọi người đều ngạc nhiên không hiểu. Thanh Thanh hỏi: “Sao huynh phải tự tát mình?”

Thiết La Hán đáp: “Tại hạ bực bội số mình xúi quẩy, không có mặt để tham gia trận đó. Ngay cả một tên Thát tử cũng không giết được.”

Đầu đà hung dữ này lại chọc cho mọi người cười rộ lên.

Viên Thừa Chí nói: “Hồ đại ca đã nhất định ban tặng, tại hạ từ chối mãi thì có phần không cung kính, chỉ còn cách xin nhận. Đa tạ, đa tạ!” Chàng dùng hai tay nhận lấy hộp băng thiềm, cất vào trong bọc. Hồ Quế Nam mừng rỡ, sắc mặt đầy vẻ hân hoan.

Viên Thừa Chí về phòng mình, lát sau bưng một cành san hô màu đỏ qua phòng Hồ Quế Nam. Nhánh san hô này cao chừng hai thước, óng ánh từ trên xuống dưới. Nói ra khó tin, nó hoàn toàn không có tì vết, hoàn toàn không có một hạt sạn bám vào. Vừa đặt lên bàn, cả gian phòng lập tức huy hoàng đẹp đẽ vô cùng.

Hồ Quế Nam kinh hãi nói: “Nhà bọn phú hào thì tại hạ đã ghé qua không ít, nhưng chưa từng thấy cây san hô nào vừa lớn vừa hoàn mỹ đến thế. E rằng phải trong nội viện hoàng cung mới có những món trân quý như vậy. Đây là vật chí bảo gia truyền của Viên tướng công phải không? Thật khiến cho người ta mở rộng tầm nhìn.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Vật này tại hạ vô tình mà được, xin Hồ huynh nhận lấy. Ngày mai đến phủ Bảo Định, coi như đây là quà mừng thọ của Hồ huynh tặng Mạnh lão gia.”

Hồ Quế Nam giật mình nói: “Thế thì quý trọng quá!”

Viên Thừa Chí nói: “Đây chỉ là vật để thưởng ngoạn, tuy quý trọng nhưng vô dụng, không thể so với băng thiềm cứu được mạng người. Hồ huynh hãy nhận đi.”

Hồ Quế Nam chỉ còn cách cảm ơn nhận lấy. Y và Thiết La Hán thấy Viên Thừa Chí cư xử rộng rãi, lại càng âm thầm mừng rỡ.

Xế chiều hôm sau mọi người đã tới phủ Bảo Định, tìm khách sạn tá túc để sáng sớm hôm sau đến Mạnh phủ tặng quà chúc thọ.

Mạnh Bá Phi thấy danh thiếp ba người Viên Thừa Chí, Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng, liền đích thân ra cửa đón tiếp. Lão đã biết Viên Thừa Chí trẻ tuổi, nhưng đoán chàng phải có chỗ hơn người. Phen này gặp mặt, thấy chàng chỉ là một thiếu niên đen đủi, hình tướng rất bình thường, bất giác lão ngẩn ra một chút, không vui thầm nghĩ: “Tại sao anh hùng hảo hán bảy tỉnh lại hồ đồ như vậy, đề cử một thằng lỏi còn hôi sữa thế này làm minh chủ?”

Nhưng dù sao mọi người đi đường xa xôi đến đây chúc thọ, dĩ nhiên đã nể mặt lão rồi, nên lão cùng trưởng nam là Mạnh Tranh, thứ nam là Mạnh Đào đa tạ liên hồi, nghênh tiếp vào trong rất lịch sự.

Viên Thừa Chí thấy Mạnh Bá Phi thân hình khôi ngô, râu tóc bạc phơ, tuy đã lục tuần mà thanh âm vang dội như đại hồng chung, bước chân vững chãi lạ thường, dĩ nhiên võ công thâm hậu. Hai đứa con trai đang tuổi tráng niên, đều anh khí đằng đằng.

Khi nói chuyện, dường như Mạnh Bá Phi không xem đại hội Thái Sơn là quan trọng. Khi Trình Thanh Trúc nhắc đến cuộc họp này, lão giả vờ không nghe, không nhắc gì đến vấn đề đó. Lát sau lại có khách đến chúc thọ, Mạnh Bá Phi nói một câu: “Xin lỗi”, rồi ra ngoài đại sảnh để tiếp khách.

Thanh Thanh nghĩ bụng: “Người này biệt hiệu là Cái Mạnh Thường, thì ra chỉ có hư danh. Nếu biết lão dựa vào tuổi già mà phách lối thế này, ta đã không thèm đến đây chúc thọ. Lão làm gì được ta? Người già như thế, ta gặp chưa đủ hay sao? Già hơn cũng gặp rồi, ngay trong nhà đã có năm người.”

Sau khi gia đinh bưng điểm tâm lên mời, Mạnh Đào dẫn đoàn người vào trong hậu đường để xem lễ chúc thọ. Lúc này Mạnh Bá Phi đang cùng rất nhiều khách ngồi quanh một cái bàn, khen ngợi không dứt. Vừa thấy Viên Thừa Chí bước vào, Mạnh Bá Phi vội đứng lên nói: “Đa tạ Viên huynh, Hồ huynh tặng cho báu vật. Đại lễ đến thế, tại hạ làm sao dám nhận?”

Viên Thừa Chí đáp: “Ngày vui của lão tiền bối, bọn tại hạ chỉ tặng chút quà để tỏ lòng kính trọng, còn sợ chưa đủ phần cung kính.”

Mọi người đi đến bên bàn, thấy trên bàn xếp đầy lễ vật, ánh sáng chói mắt. Trong đó quý trọng nhất là tám con tuấn mã bằng bạch ngọc của Viên Thừa Chí tặng, chiếc hộp bằng ngọc phỉ thúy của Thanh Thanh tặng. Cây san hô màu đỏ của Hồ Quế Nam tặng cũng đập vào mắt người ta.

Đối với việc Viên Thừa Chí được cử làm minh chủ bảy tỉnh, Mạnh Bá Phi rất không bằng lòng. Nhưng lão thấy chàng nói chuyện khiêm cung hòa ái, mở miệng là gọi “lão tiền bối”, quà chúc thọ lại là bảo vật trân quý lạ thường, rõ ràng rất tôn trọng mình. Lão nhận ra chàng tuy tuổi còn trẻ nhưng hành sự có chỗ khác người, bất giác phát sinh hảo cảm, nói chuyện lịch sự hơn lúc nãy rất nhiều.

Khách đến mừng lần lượt chúc thọ tặng quà. Đến đêm, Mạnh Bá Phi bày yến tiệc chiêu đãi bạn bè. Cái Mạnh Thường giàu nhất phủ Bảo Định này, xưa nay rất thích kết bạn. Hôm nay là đại thọ lục tuần, khách khứa từ khắp nơi kéo đến, phải hơn ba ngàn người. Mạnh Bá Phi vô cùng hoan hỉ, liền miệng tiếp đãi, chào hỏi các anh hùng hào kiệt. Trong đại sảnh đã bày bảy tám chục bàn tiệc dành cho những người có danh vọng. Còn ai vai vế hơi thấp thì nhập tiệc ở phía sau và bên ngoài đại sảnh.

Viên Thừa Chí, Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng được xếp vào bàn chính, đặt giữa đại sảnh. Mạnh Bá Phi ngồi ở chủ vị, cạnh Viên Thừa Chí. Ở bàn này còn có lão anh hùng Uyên ương đảm Trương Dược Cốc, có quan trú phòng phủ Bảo Định là Phùng tham tướng, biệt hiệu là Mã Đao Quan, có Đổng Khai Sơn, tổng tiêu đầu Vĩnh Thắng tiêu cục. Ngoài ra còn một số nhân vật lãnh tụ võ lâm.

Quần hào nâng ly chúc thọ Mạnh Bá Phi, rồi đố tay đấu rượu vô cùng náo nhiệt. Trong lúc ăn uống vui vẻ, bỗng có một tên gia đinh bên ngoài bước lẹ vào. Tay hắn bưng một cái quả, đến cạnh Mạnh Tranh khẽ nói mấy câu gì đó.

Mạnh Tranh đang mời khách uống rượu, nghe tên gia đinh bẩm xong lập tức đứng dậy, đến chỗ Mạnh Bá Phi nói: “Gia gia! Lão nhân gia thật là nổi tiếng. Phu phụ Thần quyền vô địch Quy nhị gia cũng dẫn đồ đệ đến chúc thọ gia gia.”

Mạnh Bá Phi chưng hửng nói: “Trước giờ ta có đi lại với Quy lão nhị đâu?”

Lão mở hộp quả ra, thấy một tấm thiệp đỏ viết: “Đệ là Quy Tân Thụ, cùng môn nhân và yểu tử Quy Chung chúc mừng.” Bên dưới có dòng chữ nhỏ: “Xin chúc thọ mười lượng hoàng kim”. Cạnh tấm thiệp đỏ là một đôi nguyên bảo bằng vàng, mỗi thỏi chừng năm lượng.

Mạnh Bá Phi vô cùng mừng rỡ, lên tiếng nói với khách khứa bàn mình: “Xin lỗi, tại hạ phải ra ngoài một lúc.” Lão lập tức dẫn hai đứa con ra ngoài đón khách.

Chẳng bao lâu lão đã vui vẻ dẫn năm người là vợ chồng Quy Tân Thụ, Mai Kiếm Hòa, Lưu Bội Sinh, Tôn Trọng Quân vào. Trong tay Quy nhị nương vẫn ẵm Quy Chung, cậu quý tử ốm yếu chỉ còn da bọc xương, hơi thở thoi thóp.

Viên Thừa Chí đứng chờ từ nãy, chắp tay chào: “Nhị sư ca, Nhị sư tẩu! Hai vị vẫn khỏe?”

Quy Tân Thụ gật đầu đáp: “À, sư đệ cũng ở đây.” Còn Quy nhị nương chỉ “hứ” một tiếng, không nói gì.

Viên Thừa Chí nói: “Sư ca, sư tẩu! Mời ngồi! Tiểu đệ ngồi với bọn Kiếm Hòa một chỗ là được rồi.”

Mạnh Bá Phi nghe Viên Thừa Chí xưng hô như thế, bèn mỉm cười nói: “Hay quá! Có một vị sư ca tài giỏi như thế đỡ lưng, đừng nói là minh chủ bảy tỉnh, dù là minh chủ mười bốn tỉnh cũng có thể làm.”

Rõ ràng lão nói Viên Thừa Chí thiếu niên đắc ý, được làm minh chủ bảy tỉnh hoàn toàn dựa vào sức lực của sư huynh. Viên Thừa Chí chỉ mỉm cười, không nói tiếng nào.

Sau này Quy Tân Thụ vẫn bận rộn trong việc tìm thuốc chữa trị cho đứa con yêu quý, chưa biết vụ đại hội Thái Sơn, bèn ngạc nhiên hỏi: “Minh chủ gì thế?”

Mạnh Bá Phi cười nói: “Tại hạ chỉ nói giỡn thôi, Quy nhị ca đừng để ý.”

Lão bèn mời Quy thị phu phụ ngồi cạnh Uyên ương đảm Trương lão anh hùng. Khách đến chúc thọ đều là hào kiệt nhân sĩ võ lâm, nam nữ ngồi chung chứ không phân biệt tiệc nam, tiệc nữ. Viên Thừa Chí qua bàn khác, ngồi giữa Thanh Thanh và Mai Kiếm Hòa. Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng tới ngồi với ông câm và Hồ Quế Nam.

Quy Tân Thụ nâng ly chúc thọ Mạnh Bá Phi. Mọi người mời nhau được ba tuần rượu, Đổng Khai Sơn tổng tiêu đầu Vĩnh Thắng tiêu cục bỗng đứng dậy nói: “Tửu lượng tại hạ kém quá. Xin các vị cứ uống, tại hạ phải ra sau nghỉ ngơi một lúc.”

Quy Tân Thụ lạnh lùng nói: “Chúng ta đi tìm Đổng tiêu đầu khắp nơi không gặp, nghĩ chắc là ở đây. Quả nhiên không lầm.”

Đổng Khai Sơn thần sắc rất bối rối, hỏi lại: “Tại hạ xưa nay chẳng có oán thù gì với Quy nhị gia, sao Quy nhị gia lại ép tại hạ khổ sở đến thế?”

Mọi người dừng ly không uống, nhìn hai người này. Mạnh Bá Phi mỉm cười nói: “Hai vị có xích mích gì, xin hãy nể mặt mà để tại hạ dàn xếp thử xem.” Dàn xếp những chuyện xích mích là sở thích bình sinh của lão.

Đổng Khai Sơn nói: “Tại hạ từ lâu đã ngưỡng mộ uy danh của Quy nhị gia, kính trọng vô cùng nhưng chưa có duyên quen biết, đắc tội lại càng không dám. Không biết tại sao Quy nhị gia theo đuổi tại hạ suốt dọc đường?”

Mạnh Bá Phi nghe vậy, trong lòng đã hiểu: “Thì ra hai ngươi đều không thành tâm đến đây chúc thọ lão phu. Một người là tránh nạn, một người là theo dõi. Họ Đổng này trốn đến nhà ta, xem như coi trọng ta, không thể để y bị thiệt thòi.”

Lão bèn nói với Quy Tân Thụ: “Quy nhị gia có việc gì, đợi hết hôm nay rồi chúng ta từ từ nói chuyện. Mọi người đều là hảo bằng hữu, khi đã nói ra Đổng tiêu đầu có chuyện gì đắc tội với Quy nhị gia, nhất định y sẽ xin lỗi đàng hoàng.” Lão không hỏi nguyên do, tạm đặt Đổng Khai Sơn vào bên quấy trước đã.

Quy Tân Thụ không giỏi nói năng. Quy nhị nương đưa tay chỉ đứa bé đang bồng, lên tiếng: “Đây là đứa con trai duy nhất, đích tôn đơn truyền của dòng họ chồng ta. Nó bệnh sắp chết rồi, phu phụ ta muốn xin Đổng tiêu đầu khai ân tặng cho mấy viên dược hoàn để cứu cái mạng nhỏ xíu này. Suốt đời phu phụ ta quyết cảm ơn đại đức.”

Mạnh Bá Phi nói: “Chuyện đó nên làm.” Lão quay lại bảo Đổng Khai Sơn: “Đổng tiêu đầu! Cứu một mạng người còn hơn xây dựng bảy tháp phù đồ, huống chi một đại anh hùng như Quy nhị gia lên tiếng thỉnh cầu. Mau mau lấy dược hoàn ra đi. Tiêu đầu nhìn xem, đứa bé này quả thật đang bệnh nặng.”

Đổng Khai Sơn nói: “Nếu Phục Linh Thủ Ô Hoàn này là của bản thân tại hạ, thì Quy nhị gia chỉ nói nửa câu là tại hạ đã hai tay dâng lên rồi. Nhưng đây là cống phẩm của Mã đại nhân, tổng đốc phủ Phụng Dương, sai Vĩnh Thắng tiêu cục bọn tại hạ chuyển về kinh sư tiến cống. Chỉ thiếu một viên, chẳng những tại hạ mất mạng mà già trẻ trai gái cả nhà cũng bị chặt đầu. Vì thế phải nhờ Quy nhị gia lượng thứ.”

Mọi người nghe xong, đều cảm thấy việc này khó mà giải quyết. Phùng tham tướng nghe lọt hai chữ “cống phẩm”, liền nói: “Thì ra đây là vật của thánh thượng. Ai dám cả gan đụng vào?”

Quy nhị nương nói: “Hừ! Dù là của Ngọc Hoàng đại đế, phen này cũng phải đụng vào.”

Phùng tham tướng quát lên: “Hay lắm! Con mụ này muốn tạo phản phải không?”

Quy nhị nương cả giận, liền đưa đũa gắp một cục bò viên. Nhân lúc Phùng tham tướng còn mở miệng nói, mụ hất vào miệng hắn nghe “phụp” một tiếng. Phùng tham tướng chưa kịp kinh hãi, lại thêm hai cục bò viên bay vèo tới. Thế là miệng hắn bị trám chặt, nuốt cũng không được, nhổ cũng không xong, bối rối không biết làm sao.

Lão anh hùng Trương Dược Cốc thấy vậy nổi giận, nghĩ thầm: “Hôm nay là ngày chúc thọ của Mạnh huynh đệ, sao bọn này dám đến đây phá rối?” Lão tiện tay cầm lấy cái giá gác đũa hình dạng như một thỏi nguyên bảo đang đặt trên bàn, dùng sức vỗ một cái cho nó lún xuống mặt bàn. Lão muốn biểu diễn võ công, để Quy thị phu phụ không dám sinh sự quấy rối nữa.

Quy Tân Thụ đang đặt hai khuỷu tay trên bàn, âm thầm vận khởi Hỗn Nguyên Công truyền xuống mặt bàn, toàn thân hoàn toàn không động đậy. Cái giá gác đũa đang khảm trên mặt bàn đột nhiên nhảy bật lên, bay vèo tới mặt Trương Dược Cốc. Họ Trương vội nhào ngửa ra tránh né, tuy không bị văng trúng nhưng trông bối rối thảm hại vô cùng. Mặt lão đỏ bầm, đứng dậy đưa tay vỗ xuống mặt bàn một cái, quay lại nói với Mạnh Bá Phi: “Mạnh lão đệ! Thế là hôm nay lão già này mất mặt trong nhà lão đệ rồi.”

Nói xong, lão sải bước đi thẳng ra ngoài. Hai tên đệ tử Mạnh gia phụ trách chiêu đãi vội bước ra nói: “Trương lão gia xin đừng gấp rút, mời vào hậu đường dùng ly trà đã.”

Trương Dược Cốc xanh mét mặt, vung tay hất hai tên đệ tử đó té nhào.

Dĩ nhiên Mạnh Bá Phi bất mãn nghĩ thầm: “Tiệc chúc thọ đang tốt lành như vậy, lại bị tên ác khách Quy Tân Thụ này đến quấy rối, khiến lão bằng hữu phải bỏ tiệc mà về. Thật chẳng vui vẻ chút nào.”

Lúc này Phùng tham tướng, không biết đã thi triển tuyệt kỹ gì mà dùng mười ngón tay lôi được hai cục bò viên trong miệng ra, còn viên đầu tiên nuốt chửng vào bụng. Y lập tức thét lên be be: “Phản rồi, phản rồi! Ở đây còn có vương pháp nữa không? Người đâu!”

Hai tên tùy tùng vẫn chưa biết tại sao lão gia của mình giận dữ như thế, vội vàng chạy tới. Phùng tham tướng quát lên: “Khiêng quan đao của ta đến đây!”

Tên Phùng tham tướng này dựa vào âm đức tổ tiên mới được làm quan, võ nghệ rất thấp nhưng muốn trổ tài, bèn kêu thợ rèn làm một cây đại quan đao rỗng ruột, chỉ bọc bằng những tấm thiếc mỏng, còn bên ngoài thì mạ vàng, thắt tua đỏ, cán đao rất dài. Hắn thường cưỡi trên lưng ngựa, sai hai tên tùy tùng thân cận khiêng cây quan đao này theo. Thỉnh thoảng chúng lại la lên “Trời ơi! Nặng quá!”, thở hổn hển, giả vờ khiêng không nổi nữa. Thế là hắn tiện tay cầm lấy ra vẻ nhẹ nhàng thoải mái, khiến người đi đường nhìn thấy phải thán phục tham tướng lão gia thần lực kinh người.

“Khiêng quan đao của ta đến đây!” là câu cửa miệng của hắn. Lúc này hắn đang nổi giận, quen mồm hô lên câu đó. Hai tên tùy tùng ngơ ngác, lần này đến đây chúc thọ, đâu có khiêng võ khí theo? Một tên vội lấy thanh đơn đao trên lưng mình xuống, đưa cho tham tướng.

Mạnh Bá Phi đã biết hết ruột gan tên tham tướng này. Thấy hắn làm bộ, lão vừa tức giận vừa tức cười, vội vàng ngăn cản: “Không cần, không cần đâu!”

Phùng tham tướng đã quen coi sinh mạng bá tính như rơm rác. Hắn không biết danh tiếng Quy Tân Thụ lớn đến thế nào, chỉ thấy dáng vẻ trông như bọn nhà quê làm ruộng, không đáng để vào trong mắt. Hắn bèn đứng dậy, cầm đơn đao chém xuống đầu Quy nhị nương.

Tay phải Quy nhị nương đang bận ẵm con. Mụ đưa tay trái ra, dùng ngón trỏ và ngón giữa kẹp lấy sống đao, hỏi: “Đại tướng quân! Tướng quân muốn gì?”

Phùng tham tướng dùng sức giật đao về, nào ngờ thanh đao như bị kềm sắt kẹp chặt, vận hết sức cũng không động đậy. Hai tay hắn nắm chặt chuôi đao, hai chân xuống tấn thật vững, cố gắng kéo đao về, chỉ chốc lát là cả khuôn mặt đỏ bừng lên. Trong tay hắn không có quan đao, nhưng mặt đỏ như trái táo rất giống Quan Công. Chỉ có điều cặp mắt Quan Công cười mà vẫn oai, còn cặp mắt Phùng Công cả đời mỗi mắt nhìn về một hướng, quyết không thỏa hiệp nhau (nói nôm na là mắt lé).

Quy nhị nương đột nhiên buông lỏng tay. Phùng tham tướng té bật ra, mông đập xuống đất nghe “phịch” một tiếng trầm rất chắc, còn chuôi đao thì va vào giữa trán. Lập tức xuất hiện một khối u tròn trĩnh, dường như cục bò viên vừa nuốt vào bụng đã chuyển lên trán, muốn chui ra ngoài. Hai tên tùy tùng vội vàng bước tới, đỡ hắn dậy.

Phùng tham tướng hết dám chửi ai, cũng không dám mở miệng nói nữa. Hắn dùng cả hai tay đè lên trán, ba chân bốn cẳng rời khỏi đó. Chưa tới cửa hắn chưa dám nói, ra khỏi cửa mới lớn tiếng thóa mạ tùy tùng: “Đồ con rùa khốn nạn! Sợ nặng làm biếng, không chịu khiêng thanh quan đao đã quen dùng của lão gia đến đây. Không thì con mẹ nó, ta phải một đao chặt con mụ đó thành hai khúc.”

Đổng Khai Sơn thừa lúc lộn xộn, toan bỏ trốn. Quy Tân Thụ chặn hắn lại, nói: “Đổng tiêu đầu! Để lại dược hoàn đi, ta nhất định không làm khó dễ.”

Đổng Khai Sơn chịu không nổi nữa, bước ra giữa sảnh la lớn: “Đổng mỗ tự biết không phải là địch thủ của Thần Quyền Vô Địch. Nhưng tính mạng ta đây, ngươi cần thì tới mà lấy.”

Quy nhị nương nói: “Ai cần mạng ngươi làm chi? Mau lấy dược hoàn ra đi.”

Trưởng tử Mạnh Tranh của Mạnh Bá Phi không nhịn được nữa, la lớn: “Quy nhị gia! Mạnh gia chúng ta không đắc tội với ông. Nếu ông có xích mích gì, xin ra ngoài mà giải quyết.”

Quy Tân Thụ nói: “Được! Đổng tiêu đầu, chúng ta ra ngoài.”

Nhưng họ Đổng không chịu bước đi, Quy Tân Thụ bèn vung tay ra toan nắm lấy vai hắn. Đổng Khai Sơn bước lùi, bàn tay Quy Tân Thụ vẫn đuổi theo.

Đổng Khai Sơn đã làm tổng tiêu đầu một tiêu cục, dĩ nhiên võ công không phải tầm thường. Thấy chưởng của Quy Tân Thụ đưa tới, hắn vội nghiêng vai né tránh, ra tay đón đỡ. Nào ngờ bàn tay đối phương nhanh quá, nghe “xoẹt” một tiếng, vai áo hắn đã bị xé rách một mảnh.

Mạnh Tranh bước ra cản trước mặt Đổng Khai Sơn, lên tiếng: “Quy nhị gia! Đổng tiêu đầu là khách đến chúc thọ, chúng ta không thể để ông ấy bị bức hiếp trong nhà mình.”

Quy nhị nương hỏi: “Vậy phải làm sao? Rõ ràng chồng ta đã mời hắn ra ngoài, mà hắn không chịu.”

Mạnh Tranh nói: “Các vị có việc tìm Đổng tiêu đầu, không biết đến Vĩnh Thắng tiêu cục mà tìm hay sao? Sao lại đến đây quấy rối?”

Y nói chuyện càng lúc càng không khách sáo. Quy nhị nương giận dữ hỏi: “Đến đây quấy rối thì đã sao?”

Mấy tháng nay mụ phiền muộn vì con trai trọng bệnh khó chữa, ngay cả mạng mình cũng không nghĩ tới nữa. Nếu không, nhất định mụ sẽ nghĩ tới danh tiếng và địa vị của Mạnh Bá Phi trong võ lâm mà không quấy rối buông tuồng ở đây.

Mạnh Bá Phi tức giận đến đổi hẳn sắc mặt, đứng dậy nói: “Được lắm! Quy nhị gia đã không nể mặt, thì lão phu phải xin lãnh giáo mấy chiêu.”

Mạnh Tranh vội nói: “Gia gia! Hôm nay là ngày lành của lão nhân gia, để con tiếp chiến.”

Y hạ lệnh cho gia đinh dọn dẹp bàn ghế trong đại sảnh thành một khoảng trống, rồi la lên: “Các vị muốn quấy rối, cứ quấy rối cho xong đi. Mời Quy nhị gia biểu diễn công phu thần quyền vô địch.”

Quy nhị nương cười nhạt, nói: “Ngươi muốn động thủ với chồng ta, luyện thêm hai chục năm nữa chưa biết có thắng nổi không.”

Mạnh Tranh đã được Mạnh Bá Phi chân truyền bộ Khoái Hoạt Tam Thập Chưởng, đang tuổi tráng niên, bình sinh ít gặp địch thủ. Tuy y từng nghe đại danh Thần Quyền Vô Địch, nhưng trước mặt mấy ngàn tân khách quyết không thể nuốt nổi cơn tức tối vào trong bụng. Y hét lên: “Quy lão nhị! Ông cường hung bá đạo, dám đến đây quấy rối. Mạnh thiếu gia này tỉ quyền mà thua ông, thì mặc kệ ông muốn làm gì Đổng tiêu đầu cũng được, Mạnh gia chúng ta coi như không đủ khả năng can thiệp. Còn nếu ta thắng được ông thì sao?”

Quy Tân Thụ không thích nhiều lời, khẽ đáp: “Nếu ngươi tiếp được ba chiêu, Quy mỗ sẽ dập đầu lạy ngươi.”

Mọi người trong sảnh không nghe thấy, vội thì thào hỏi nhau. Còn Mạnh Tranh thì giận đến cực điểm, cười rộ lên nói: “Quý vị thấy lão này có điên không? Lão nói, chỉ cần ta tiếp được ba chiêu là lão dập đầu lạy ta. Ha ha! Có phải vậy không Quy nhị gia?”

Quy Tân Thụ đáp gọn: “Không sai! Tiếp chiêu đi.” Vù một tiếng, hữu quyền xuất chiêu Thái Sơn Áp Đỉnh, đánh thẳng tới đầu Mạnh Tranh.

Lúc này Thanh Thanh đứng cạnh Viên Thừa Chí. Nàng khẽ nói: “Sư ca của huynh bắt chước huynh kìa.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Sao?”

Thanh Thanh nói: “Khi huynh tỉ quyền với đồ đệ của sư ca, không phải đã giới hạn năm chiêu cho người ta đón đỡ hay sao?”

Viên Thừa Chí nói: “Người họ Mạnh này chưa biết Thần Quyền Vô Địch là lợi hại.”

Mạnh Tranh thấy quyền của đối phương đánh tới, cố gắng chống đỡ. Y dùng tay phải hết sức đỡ lên, còn tay trái đánh trả. Khi hai cánh tay chạm nhau, Quy Tân Thụ nghĩ thầm: “Tên này cuồng vọng, quả nhiên có chút ít công phu.” Y đưa tả chưởng ấn vào khuỷu tay trái họ Mạnh nghe “bịch” một tiếng, dùng sức định hất ra ngoài. Nào ngờ công phu Mạnh Tranh khá vững, thế đẩy này chỉ khiến y lắc lư mấy cái.

Viên Thừa Chí khẽ nói: “Chết rồi! Chiêu thứ hai chưa chịu ngã, họ Mạnh nhất định phải trọng thương.”

Quy Tân Thụ lại phóng chưởng đánh ra. Mạnh Tranh cảm thấy luồng kình phong ép tới, dùng cả hai tay cố gắng chống đỡ. Y lập tức thần trí hồ đồ, té ngửa ra ngẩng mặt lên trời, ngất xỉu ngay tại chỗ.

Mọi người kinh hãi la lên, Mạnh Bá Phi và Mạnh Đào chạy tới nâng đỡ. Mạnh Tranh dần dần tỉnh lại, nhưng trong miệng phun máu cục ra liên tiếp, hơi thở không nối được nhau.

Quy Tân Thụ không ngờ võ công y khá cao, nên đã dùng hai chiêu mà chưa đẩy ngã được y. Họ Quy đã nói trước chỉ sử dụng ba chiêu, nên phát chưởng thứ ba đã vận toàn lực. Mạnh Tranh đỡ xong hai chiêu, khí lực đã cạn kiệt rồi. Giả tỉ chiêu thứ ba chỉ là một ngón tay nhẹ nhàng ấn tới, không chừng y cũng té nhào. Chưởng lực đánh tới lại như dời non lấp biển, làm sao y chịu nổi?

Quy Tân Thụ hoàn toàn không biết đối phương đã hết sức chống đỡ. Thấy y bị thương sắp chết, trong lòng ông có phần hối hận.

Đinh giáp thần Đinh Du là bạn chí thân của Mạnh Tranh. Y cùng Mạnh Đào nổi giận, hai người nhảy vào giáp công Quy Tân Thụ. Mạnh Bá Phi lo thôi cung quá huyệt cho con trai, thấy hơi thở y nhẹ như tơ, lão không nén nổi nước mắt trào ra. Đột nhiên lão đứng bật dậy, quay lại tấn công Quy Tân Thụ.

Thấy người cần theo đuổi là Đổng Khai Sơn định thừa cơ chạy trốn, Quy Tân Thụ bèn luồn dưới tay Đinh Du và Mạnh Đào, xoay mình chạy ra ngoài, chĩa ngón tay điểm trúng nách Đổng Khai Sơn. Họ Đổng lập tức đứng đờ tại chỗ, chân trái trước chân phải sau, bộ điệu trông như vội vã chạy trốn nhưng không sao cất chân lên được. Miệng hắn vẫn kêu la: “Quy lão nhị! Lão gia… lão gia liều mạng với ngươi đây.”

Lúc này Quy nhị nương đã chặn Mạnh Bá Phi lại tỉ đấu. Hai người võ công tương đương, Quy nhị nương phải ẵm con có phần thiệt thòi, nên bị đối thủ tấn công hung dữ như cọp điên, liên tiếp phải hóa giải những chiêu hiểm độc. Ba người Mai Kiếm Hòa, Lưu Bội Sinh và Tôn Trọng Quân đã cùng đám đệ tử nhà họ Mạnh ác đấu kịch liệt.

Trình Thanh Trúc bảo Viên Thừa Chí: “Viên tướng công! Chúng ta mau mau khuyên ngăn, đừng để gây thành chuyện lớn.”

Viên Thừa Chí đáp: “Sư ca, sư tẩu có hiềm khích với tại hạ. Nếu tại hạ bước ra để khuyên can, thì chuyện càng hỏng bét hơn. Phải xem một lúc rồi mới tính được.”

Quy Tân Thụ bước vào trợ chiến, chỉ mấy chiêu đã điểm trúng huyệt đạo Mạnh Bá Phi. Y lại chạy đông chạy tây trong đại sảnh, chỉ chốc lát đã điểm trúng huyệt đạo của toàn bộ mấy chục đệ tử thân tín nhà họ Mạnh. Bọn này người đang xuất quyền, người đang phóng cước, người đang khom lưng, người đang xoay mình, tư thế khác nhau nhưng tất cả đều không động đậy gì được, chỉ còn cặp mắt xoay chuyển qua lại. Tân khách đến đây chúc mừng tuy có không ít cao thủ võ lâm, nhưng thấy Thần Quyền Vô Địch lợi hại như thế, không ai dám bước ra lên tiếng.

Quy nhị nương bảo Mai Kiếm Hòa: “Lục soát tên họ Đổng kia!”

Mai Kiếm Hòa tháo cái bọc đeo trên lưng Đổng Khai Sơn xuống, rồi lục soát hết từ trong ra ngoài thân thể hắn, nhưng không thấy bóng dáng Phục Linh Thủ Ô Hoàn. Quy Tân Thụ bèn giải huyệt cho hắn rồi hỏi: “Dược hoàn để ở đâu?”

Đổng Khai Sơn đáp: “Hừ! Muốn lấy dược hoàn thì theo ta đến đây để làm chi? Ngươi thật hổ danh là lão luyện giang hồ, ngay cả kế kim thiền thoát xác này cũng không biết.”

Quy nhị nương giận dữ hỏi: “Ngươi nói gì?”

Đổng Khai Sơn đáp: “Dược hoàn đã đến Bắc Kinh từ lâu rồi.”

Quy nhị nương vừa kinh hãi vừa giận dữ, quát lên: “Thật đấy chứ?”

Đổng Khai Sơn nói: “Ta ngưỡng mộ Mạnh lão gia là hảo bằng hữu, nên thành tâm đến đây chúc thọ. Chẳng lẽ đã biết rõ các ngươi muốn đoạt lấy dược hoàn, ta còn đem đến đây để liên lụy tới lão nhân gia hay sao?”

Mọi người nghe vậy đều thấy hắn nói có lý, đa số xôn xao chê bai vợ chồng họ Quy, bảo họ dẫn đệ tử biến đi cho lẹ thì hơn. Quy thị phu phụ lỗ mãng nóng nảy, không giỏi ứng biến, nhất thời không biết phải làm gì. Ba người Mai Kiếm Hòa, Lưu Bội Sinh, Tôn Trọng Quân cũng đã dừng tay.

Thánh thủ thần thâu Hồ Quế Nam đi đến bên minh chủ, khẽ nói: “Viên tướng công! Tên tiêu sư này nói dối.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Sao?”

Hồ Quế Nam nói: “Dược hoàn của hắn giấu ở đây.”

Nói xong, y chỉ cái dĩa đựng trái đào chúc thọ, bên dưới một tấm liễn có viết chữ Thọ rất lớn. Viên Thừa Chí kinh ngạc, khẽ hỏi: “Sao huynh biết?”

Hồ Quế Nam mỉm cười đáp: “Những thủ đoạn giang hồ mờ ám này rất khó che được mắt tại hạ.”

Thanh Thanh đứng bên cũng nghe thấy, cười nói: “Muốn làm trò trước mặt lão thần thâu này, đúng là múa rìu qua mắt Lỗ Ban.”

Hồ Quế Nam cười nói: “Hồ mỗ chuyện gì thì không biết, nhưng nói đến chuyện trộm cắp thì quyết không chịu thua ai. Họ Đổng thật là gian xảo. Hắn đã biết Quy nhị gia sắp đuổi đến đây, nên giấu trước dược hoàn vào trong những trái đào chúc thọ, đợi đối thủ bỏ đi rồi sẽ lén lút lấy lại.”

Viên Thừa Chí gật đầu, rẽ đám đông bước ra. Chàng đi đến chỗ Mạnh Bá Phi, đưa tay ấn vào huyệt Huyền Cơ, Thần Đình của lão. Nội lực truyền đến đâu, thân hình Mạnh Bá Phi cử động được tới đó.

Quy nhị nương giận dữ hỏi: “Cái gì? Ngươi muốn nhúng tay vào việc này ư?”

Mụ giao đứa con trai cho Tôn Trọng Quân ẵm, đưa tay toan chụp lấy vai Viên Thừa Chí. Chàng đảo người sang trái, tránh thoát chiêu trảo của mụ, la lên: “Sư tẩu! Nghe tiểu đệ nói đã.”

Mạnh Bá Phi duỗi người một cái, tay trái liền ra chiêu Qua Bàn Bất Tiễn, tay phải ra chiêu Cổ Đào Dương Tiên, liên tiếp đánh tới Quy nhị nương. Pho Khoái Hoạt Tam Thập Chưởng này của lão đã nổi tiếng võ lâm, dĩ nhiên có chỗ dùng được. Gặp phải Quy Tân Thụ thì lão như bị trói chân tay, nhưng so với Quy nhị nương thì không chênh lệch lắm. Hai bên quyền tới chưởng đỡ, chưởng đánh quyền ngăn, chốc lát đã giao thủ mười mấy chiêu.

Quy Tân Thụ lên tiếng: “Bà tránh ra!”

Quy nhị nương né sang bên trái. Mạnh Bá Phi vung hữu chưởng đánh theo, Quy Tân Thụ từ bên cạnh đưa quyền ra chặn lại, chỉ mấy chiêu lại điểm trúng huyệt đạo của lão. Nếu Viên Thừa Chí tới giải huyệt cho lão lần nữa, nhất định phải động thủ với sư ca của mình. Chàng chau mày đứng đó, không dám động đậy.

Tính Quy nhị nương vốn nóng, bây giờ lại dồn hết tâm trí vào cậu con yêu, nên hành sự càng thiếu suy nghĩ. Mụ la lên: “Họ Đổng kia! Ngươi không giao thuốc ra, thì ta phải bẻ vụn hai cánh tay ngươi.”

Tay trái mụ nắm lấy cổ tay Đổng Khai Sơn, vặn ngược cánh tay hắn ra sau. Hữu quyền mụ đã đưa lên, chỉ cần đánh nhẹ xuống khuỷu tay là cánh tay lập tức gãy lìa. Đổng Khai Sơn nghiến chặt răng, nói nhỏ: “Thuốc không ở đây, hành hạ ta chỉ vô dụng.”

Số đông khách đến chúc thọ đã không nhịn được nữa, nhảy ra ngăn chặn. Viên Thừa Chí thấy cục diện đại loạn, bèn kêu lớn: “Mọi người dừng tay lại!”

Chàng kêu mấy tiếng vẫn không ai đếm xỉa tới, bèn nghĩ: “Chỉ trong chốc lát là có tổn thương nhân mạng, tình thế hết đường cứu vãn. Ta phải nhanh chóng giải quyết mới được.”

Chàng lập tức nhảy vọt lên, đáp xuống bên cạnh Tôn Trọng Quân, tay trái xuất chiêu Song Long Thương Châu, ngón trỏ và ngón giữa nhằm vào cặp mắt ả. Tôn Trọng Quân kinh hãi, vội đưa tay phải ra cản trở. Nào ngờ chiêu này của Viên Thừa Chí chỉ là hư chiêu dùng để dương đông kích tây. Thừa lúc cô ả lo bảo vệ cặp mắt, chàng đưa hữu chưởng đẩy nhẹ vào vai. Tôn Trọng Quân phải lùi luôn ba bước, đứa bé trong lòng đã bị Viên Thừa Chí đoạt lấy.

Tôn Trọng Quân vừa kinh hãi vừa lo lắng, la lên: “Sư phụ, sư nương! Nhanh lên, nhanh lên! Hắn cướp tiểu sư đệ…”

Khi vợ chồng Quy Tân Thụ quay đầu lại, Viên Thừa Chí đã ôm lấy thằng bé nhảy lên một cái bàn, gọi lớn: “Thanh đệ, đưa kiếm đây!”

Thanh Thanh liền ném kiếm tới cho chàng. Viên Thừa Chí đưa tay trái bắt lấy, hô lớn: “Mọi người dừng tay, nghe tại hạ nói đã.”

Quy nhị nương cặp mắt đỏ ngầu, lạc giọng kêu la: “Thằng lỏi lộn giống kia! Ngươi dám đả thương con trai ta, ta… ta phải liều mạng với ngươi.”

Nói xong, mụ phóng tới ngay, toan liều mạng với Viên Thừa Chí thật. Quy Tân Thụ vội đưa tay kéo lại, khẽ bảo: “Con đang ở trong tay hắn. Đừng vội!”

Viên Thừa Chí nói: “Nhị sư ca! Xin sư ca giải huyệt cho Mạnh lão gia.”

Quy Tân Thụ xanh mặt, hừ một tiếng. Tuy y vô cùng giận dữ, nhưng cũng nghe lời mà giải khai huyệt đạo cho Mạnh Bá Phi.

Viên Thừa Chí hô lớn: “Các vị tiền bối, các vị bằng hữu! Con trai của sư ca tại hạ có bệnh, muốn mượn tạm mấy viên thuốc của tên tham quan Mã Sĩ Anh để cứu mạng. Đổng tiêu đầu cam tâm bán mạng cho bọn tham quan, nên sư ca của tại hạ mới xích mích với hắn. Mạnh lão gia là cao nhân tiền bối, hôm nay là ngày vui lâu năm mới có một lần của lão nhân gia, sư huynh đệ tại hạ quyết không cố ý đến đây vô lễ làm bừa.”

Mọi người nghe vậy đều cảm thấy ngạc nhiên. Rõ ràng sư huynh đệ này vừa tranh chấp, sao bây giờ sư đệ lại nói đỡ cho sư huynh? Quy thị phu phụ lại càng kinh ngạc. Quy nhị nương la lên: “Mau trả con cho ta.”

Viên Thừa Chí lớn tiếng nói: “Mạnh lão gia! Xin lão gia cắt đĩa đào chúc thọ này ra, xem thử bên trong có gì lạ không.”

Đổng Khai Sơn vừa nghe đã thay đổi sắc mặt. Mạnh Bá Phi không biết trong đầu Viên Thừa Chí nghĩ gì, nhưng vẫn theo lời mà bẻ đôi một trái. Lão thấy trong ruột trái đào có một viên dược hoàn bọc sáp trắng, không khỏi ngơ ngác, nhất thời chưa hiểu đó là thứ gì.

Viên Thừa Chí lại hô lớn: “Giả tỉ tên Đổng tiêu đầu này chỉ bán mạng cho bọn tham quan thì chưa nói gì, nhưng hắn tâm địa ác độc, bày trò đến đây ly gián, muốn phá hủy nghĩa khí đồng đạo võ lâm chúng ta. Mạnh lão gia! Mấy đĩa đào chúc thọ này có phải do Đổng tiêu đầu đưa tới hay không?”

Mạnh Bá Phi gật đầu. Viên Thừa Chí lại nói: “Hắn giấu dược hoàn vào trong đào chúc thọ, rõ ràng đã có tính toán. Dĩ nhiên số đào này không ai lấy ăn ngay. Đợi xong tiệc chúc thọ, khi sư ca tại hạ đã tổn thương hòa khí với Mạnh lão gia rồi, hắn mới quay lại đây lấy trộm rồi đưa vào kinh thành. Há chẳng lập được kỳ công?”

Viên Thừa Chí sợ có người muốn đoạt lấy đứa bé, nên vẫn đứng trên mặt bàn, tay trái đưa thanh kiếm ra cản trở. Chàng gọi: “Thanh đệ, Thắng Hải, Hồ huynh! Nhờ các vị bẻ đào chúc thọ ra, lấy hết dược hoàn đến đây.”

Thanh Thanh, Hồng Thắng Hải và Hồ Quế Nam tuân lệnh, đi đến cái bàn ở giữa, bên dưới chữ Thọ lớn đó. Họ bẻ đôi những trái đào của Đổng Khai Sơn mừng thọ, từ trong ruột lấy ra cả thảy bốn chục viên dược hoàn.

Tân khách đến mừng thọ đều há hốc miệng ra nhìn, không ngừng bàn luận: “Trời ơi, còn nữa không?”, “Hết rồi, lấy ra hết rồi.” “Đổng tiêu đầu thật là xảo quyệt, sao tiểu tướng công này lại biết?” “Ngươi hỏi huynh ấy đi, hỏi ta làm gì?”

Ba người đã bẻ hết đào ra, không thấy viên thuốc nào nữa. Thanh Thanh mỉm cười, xoa tay nói: “Ở đây cả rồi.”

Nàng hoan hỉ bưng chỗ dược hoàn tới, giao cho Viên Thừa Chí. Chàng trả lại kiếm cho nàng, đưa tay cầm lấy một viên thuốc, bảo: “Phiền vị nào lấy cho một ly nước. Cần nước ấm, đừng quá nóng hay quá nguội.”

Bọn gia đinh nhà họ Mạnh nghe thấy, lập tức bưng tới một ly nước, đưa Thanh Thanh.

Viên Thừa Chí ấn vỡ viên sáp màu trắng trong tay, hương thơm tức thì xông lên mũi, lộ ra một viên tròn màu đỏ son, lớn cỡ hạt nhãn. Viên Thừa Chí sợ sức thuốc mạnh quá, trẻ con không chịu nổi, bèn bẻ một nửa viên thuốc hòa vào nước, rồi rót vào miệng chú bé. Nó chỉ còn thở thoi thóp nên không khóc lóc gì cả, uống hết chỗ nước thuốc đó.

Quy nhị nương ràn rụa nước mắt. Bà vừa cảm kích vừa xấu hổ, thầm nghĩ: “Nếu hôm nay không nhờ tiểu sư đệ phá được độc kế này, mình giết Đổng tiêu đầu cũng không cứu được mạng con trai. Lại còn đắc tội với không ít anh hùng hào kiệt ở đây, lụy đến thanh danh một đời của trượng phu nữa.”

Viên Thừa Chí đợi đứa bé uống thuốc xong mới nhảy xuống bàn, hai tay giao trả đứa bé cho Quy nhị nương. Bà đón lấy, khẽ lên tiếng: “Sư đệ! Phu phụ chúng ta thật sự không biết phải cảm tạ thế nào.”

Quy Tân Thụ chỉ nói: “Sư đệ! Sư đệ thật là tốt.”

Thanh Thanh, Hồ Quế Nam, Hồng Thắng Hải đem toàn bộ dược hoàn giao cho Quy nhị nương. Thanh Thanh mỉm cười nói: “Giả tỉ đứa bé này bệnh nặng thêm mấy trận nữa, cũng đủ thuốc uống rồi.”

Quy nhị nương chưa hết mừng rỡ, nên mặc kệ những lời bóng gió của Thanh Thanh. Bà cảm tạ liên hồi, nhận lấy số dược hoàn.

Quy Tân Thụ vội đi giải huyệt cho những người đã bị mình điểm trúng, giải cho một người lại nói một câu xin lỗi. Mạnh Bá Phi im lặng, nghĩ bụng: “Con của ngươi được cứu sống rồi, nhưng con ta đã bị ngươi đánh chết. Nhất định ta phải hẹn những người có khả năng, trả mối thù này.”

Viên Thừa Chí thấy đám đệ tử nhà họ Mạnh đang khiêng Mạnh Tranh hấp hối vào trong nội đường, bèn kêu lên: “Xin chờ một chút.”

Mạnh Đào giận dữ nói: “Ca ca của ta đã chết rồi, ngươi còn muốn gì nữa?”

Viên Thừa Chí nói: “Sư ca của tại hạ xưa nay vẫn ngưỡng mộ oai danh của Mạnh lão gia, kết thân còn chưa được, sao dám hại mạng Mạnh đại ca? Tuy phát chưởng đó hơi mạnh một chút, nhưng tính mạng Mạnh đại ca không trở ngại gì đâu. Các vị không cần lo lắng.”

Mọi người nghe vậy đều nghĩ: “Rõ ràng Mạnh Tranh bị thương sắp chết, ngươi nói vậy thì gạt được ai?”

Viên Thừa Chí lại nói: “Sư ca của tại hạ hoàn toàn không muốn làm hại huynh ấy. Chỉ cần cho Mạnh đại ca uống một thang thuốc, điều dưỡng một thời gian là tự nhiên vô sự.”

Nói xong, chàng lấy trong bọc ra cái hộp vàng, mở nắp lấy một con Chu Tinh Băng Thiềm bẻ nát, hòa vào chén rượu, đổ cho Mạnh Tranh nuốt xuống. Chỉ một lúc sau, quả nhiên sắc mặt y hồng lại, bắt đầu rên rỉ kêu đau.

Mạnh Bá Phi mừng quá, không kìm nổi nước mắt trào ra, run giọng nói: “Viên tướng công! Viên minh chủ! Minh chủ đúng là đại ân nhân cứu mạng con trai lão già này.”

Viên Thừa Chí nói mấy câu khiêm tốn. Sau đó Mạnh Đào sai phái gia nhân đưa huynh trưởng vào phòng nghỉ ngơi, còn đại sảnh thì dọn lại chén bát, tiếp tục ăn uống.

Quy nhị nương nói với Mạnh Bá Phi: “Mạnh lão gia! Bọn vãn bối lỗ mãng thật rồi, xin lão gia tha thứ.” Bà kéo chồng mình, cùng ba tên đồ đệ quỳ xuống vái lạy.

Mạnh Bá Phi cười ha hả: “Con trai sắp chết, dĩ nhiên phải hoảng hồn. Lão phu cũng vậy thôi, chuyện này không thể trách hiền phu phụ.” Lão cũng quỳ xuống trả lễ.

Quy thị phu phụ lại tới xin lỗi những người vừa động thủ với mình, chắp tay khom lưng, lịch sự vô cùng. Quần hùng say sưa một hồi, Mạnh Bá Phi bỗng sốt ruột, đi vào trong xem xét bệnh tình của con trai. Thấy y ngủ say, hơi thở rất điều hòa, lão biết chắc là vô sự, bấy giờ mới thật yên tâm.

Mạnh Bá Phi không lo lắng gì nữa, lại ra cạn ly với những người khách đến chúc thọ mình. Uống say đến tám chín phần, lão bèn sai người lấy tô lớn ra, rót đầy hai tô, bưng tới trước mặt Viên Thừa Chí rồi dõng dạc lên tiếng: “Viên minh chủ! Trên đại hội Thái Sơn, toàn thể anh hùng đã đề cử minh chủ lên ngôi tôn quý. Nói thật, lúc đó trong lòng tại hạ có phần không phục. Nhưng hôm nay thì cách xử sự của minh chủ bắt tại hạ không những cảm kích, còn phải thán phục đến sát đất. Xin kính minh chủ một chén.”

Nói xong, lão lập tức bưng tô lên, uống một hơi cạn sạch. Tửu lượng Viên Thừa Chí không cao, nhưng thấy lão có hảo ý như vậy, chỉ còn cách uống cạn rượu trong tô của mình. Quần hùng reo hò vang dội. Mạnh Bá Phi giơ ngón cái lên nói: “Viên minh chủ từ nay về sau có gì sai khiến, tuy lực lượng của tại hạ chẳng có bao nhiêu, nhưng tiền thì mười vạn hay tám vạn lạng bạc vẫn lo liệu được. Nếu cần người, cha con thầy trò tại hạ phải nhảy vào dầu sôi lửa bỏng cũng không từ chối. Cần mời thêm ba bốn trăm anh hùng hảo hán, tại hạ vẫn có khả năng.”

Viên Thừa Chí nghe lão nói năng sảng khoái, bỗng nghĩ đến trận phong ba lớn này đã hóa giải êm xuôi, hiềm khích giữa sư huynh đệ mình đã tan thành mây khói. Chàng thoải mái vô cùng.

Trong đêm mọi người vui vẻ say sưa, Đổng tiêu đầu không biết đã trốn về đâu. Sùng Trinh hoàng đế không có linh dược, e rằng khó mà thọ mạng. Đổng tiêu đầu lại càng phải thu xếp cho tuổi thọ của mình.

Mọi người cùng Viên Thừa Chí ở lại Mạnh gia mấy ngày. Đã vài lần họ xin cáo biệt, nhưng Mạnh Bá Phi nài nỉ giữ lại, không chịu cho đi. Vết thương của Mạnh Tranh chỉ còn ở ngoài da, vài ngày là bình phục. Cậu con Quy Chung của Quy Tân Thụ uống Phục Linh Thủ Ô Hoàn rất có hiệu quả, quả nhiên mỗi ngày một khỏe hơn. Vợ chồng Quy Tân Thụ vui mừng đến thế nào, tưởng không cần phải nói. Họ chia cho Mạnh Tranh ba viên dược hoàn để bồi bổ sau khi lành hẳn.

Đến sáng ngày thứ bảy, tuy Cái Mạnh Thường hiếu khách nhưng cũng biết không thể giữ khách ở thêm, bèn bày đại tiệc tiễn hành Quy Tân Thụ và Viên Thừa Chí. Trên bàn tiệc, Trình Thanh Trúc nói: “Mạnh lão ca! Tên họ Đổng ở Vĩnh Thắng tiêu cục không phải hảo nhân. Hắn đã mất cống phẩm, không thể về phụng mệnh, lại không dám tìm Quy nhị gia kiếm chuyện. E rằng lão ca sẽ bị phiền hà, nên đề phòng một chút.”

Mạnh Bá Phi nói: “Nếu thằng lỏi đó đến đây gây sự, ta sẽ không khách sáo với hắn nữa.”

Quy nhị nương nói: “Mạnh lão ca! Việc này hoàn toàn do bọn vãn bối gây nên. Nếu có gì phiền phức, phải báo tin cho bọn vãn bối biết ngay.”

Mạnh Bá Phi nói: “Được! Nhưng ta không sợ thằng lỏi đó đâu.”

Sa Thiên Quảng nói: “Mạnh lão gia phải đề phòng hắn cấu kết với bọn quan phủ.”

Mạnh Bá Phi cười ha hả: “Nếu không ở đây được nữa, ta sẽ học nghề lão đệ, chiếm núi làm chủ trại.”

Quần hùng vừa cười vừa cáo từ lên ngựa. Quy nhị nương ôm lấy con trai. Quy Tân Thụ nắm tay Viên Thừa Chí, nghĩ thầm: “Ơn đức khó đền, nói lời vô dụng”. Ông nói rất thành khẩn: “Sư đệ! Từ nay về sau ta coi sư đệ như em ruột.”

Viên Thừa Chí cảm động đáp: “Vâng!”

Vợ chồng họ Quy hoan hỉ dẫn ba đồ đệ đi về hướng Nam. Viên Thừa Chí, Thanh Thanh, Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng, ông câm, Thiết La Hán, Hồ Quế Nam, Hồng Thắng Hải cùng áp tải rương sắt đi về hướng Bắc.

*

*   *

Một hôm đi tới Cao Bài Lý, trời đã xế chiều. Vì hành lý nặng nề nên quần hào không cố đi thêm một đoạn đường nữa, trú lại khách sạn Yến Triều Cư phía tây thị trấn.

Mọi người đi một ngày trời, khá mệt mỏi. Đang định nghỉ ngơi thì bỗng nghe thấy ngoài cửa có tiếng bánh xe chuyển đất ầm ầm, tiếng người huyên náo, ồn ào đến nỗi chó chạy gà bay. Ngoài ông câm không nghe thấy gì ra, mọi người đều cảm thấy tiếng ồn ào này thật là kỳ lạ. Sau đó một toán người kéo vào khách sạn. Chúng nói năng xí xô xí xào, nửa chữ cũng không ai hiểu.

Quần hào ra khỏi phòng xem, thấy trong sảnh đứng ngồi lố nhố mấy chục tên lính ngoại quốc, cầm binh khí rất kỳ lạ, đang nói chuyện loạn xạ. Viên Thừa Chí cùng mọi người đều chưa từng gặp ai có mắt xanh mũi lõ thế này, không khỏi tò mò, chăm chú ngắm nghía.

Bỗng có một người Trung Quốc quát tháo chưởng quỹ, bảo hắn phải lập tức tìm mười mấy căn phòng thượng hạng.

Chưởng quỹ nói: “Đại nhân, thật là xin lỗi! Trong tiểu điếm này chỉ có mấy phòng thượng hạng, đã có khách ở rồi.”

Tên kia không thèm nói năng gì nữa, xoay tay tát luôn một phát. Chưởng quỹ vừa đưa tay lên xoa má vừa kêu: “Ông… ông…”

Tên kia hét lên: “Nếu không tìm được phòng thượng hạng, thì ta phải phóng hỏa đốt trụi cái tiệm chó này.”

Chưởng quỹ không còn cách nào, đành đến cầu xin Hồng Thắng Hải. Hắn khom lưng vái lạy, năn nỉ bọn Viên Thừa Chí nhường cho hai phòng.

Sa Thiên Quảng tức giận nói: “Hay nhỉ! Khách đến phải có trước có sau chứ? Tên đó là cái thá gì?”

Chưởng quỹ vội nói: “Đại gia! Xin đừng chấp nhặt cái bọn ăn cơm Tây dương này.”

Sa Thiên Quảng kinh ngạc hỏi: “Cơm Tây dương là món gì vậy? Chẳng lẽ hễ ăn cơm Tây dương vào là oai phong như thế?”

Chưởng quỹ khẽ nói: “Đám lính ngoại quốc này đang chuyển những khẩu Hồng Di đại pháo đến kinh thành. Còn người biết nói tiếng Tây dương là thông dịch cho những đại nhân ngoại quốc.”

Bây giờ Viên Thừa Chí mới hiểu, thì ra đây là đồ cáo mượn oai hùm, dựa vào oai thế của người ngoại quốc mà tác oai tác quái.

Sa Thiên Quảng nhúc nhích cây quạt sắt trong tay, nói: “Ta phải dạy dỗ thằng lỏi kia một chút.”

Viên Thừa Chí vội giữ chặt y lại, bảo: “Khoan đã!” Chàng gọi mọi người vào trong phòng rồi nói: “Tiên phụ năm xưa trấn thủ đất Liêu, thắng lớn hai trận ở Ninh Viễn có phần nhờ công hiệu của đại pháo Tây dương. Hồng Di đại pháo từng giết rất nhiều quan binh Mãn Châu. Bây giờ thế lực bọn Mãn Thanh càng hung dữ hơn, đám lính ngoại quốc này lại đang vận chuyển đại pháo đi trợ chiến. Chúng ta nên nhường nhịn họ một chút.”

Sa Thiên Quảng hỏi: “Chẳng lẽ để thằng lỏi kia tác oai tác quái hay sao?”

Viên Thừa Chí đáp: “Loại người hạ tiện như thế, không nên để vào mắt.”

Mọi người nghe Viên Thừa Chí nói vậy, bèn đồng ý nhường lại hai căn phòng thượng hạng.

Tên thông dịch kia họ Tiền, tên Thông Tứ. Thấy có hai phòng thượng hạng rồi, hắn vẫn lầm bầm trách mắng, nhưng không sai chưởng quỹ tìm thêm phòng khác nữa. Hắn ra ngoài một lúc, rồi dẫn hai võ quan ngoại quốc vào khách sạn.

Hai võ quan này, một người chừng hơn bốn mươi tuổi, người kia khoảng ba mươi. Hai người xì xồ với nhau một lúc, rồi võ quan trẻ tuổi đi ra ngoài, dẫn một cô gái Tây dương vào. Cô gái này còn trẻ, Thanh Thanh cũng không đoán được bao nhiêu tuổi, chỉ nghĩ khoảng trên dưới hai mươi. Tóc nàng đen nhánh, da dẻ trắng trẻo, tròng mắt màu xanh như ngọc, trên người đeo đầy châu báu nhấp nháy loang loáng dưới ánh đèn.

Viên Thừa Chí trước giờ chưa từng gặp nữ nhân ngoại quốc, không khỏi nhìn thêm mấy cái. Thanh Thanh ra vẻ không vui, khẽ hỏi: “Huynh thấy cô gái này có đẹp không?”

Viên Thừa Chí nói: “Thì ra nữ nhân ngoại quốc cũng thích trang điểm đến thế.”

Thanh Thanh “hứ” một tiếng.

Sáng hôm sau thức dậy, mọi người ngồi ăn điểm tâm trong đại sảnh. Hai võ quan ngoại quốc cùng cô gái ấy ngồi chung một bàn. Tên thông dịch Tiền Thông Tứ không ngừng qua đó nịnh nọt, khom lưng uốn gối, miệng cười toe toét. Nhưng hễ quay đầu lại là hắn lập tức lớn tiếng hò hét bọn tiểu nhị trong khách sạn, sai này bảo nọ, phật ý một chút là tát tai ngay.

Trình Thanh Trúc nhìn mà ngứa mắt, bèn nói với Sa Thiên Quảng: “Sa lão đệ! Để ta biểu diễn một chút.”

Lão không cần quay lại nhìn, tiện tay vẫy ngược ra sau một cái. Đôi đũa tre bay ra cắm ngay vào giữa miệng Tiền Thông Tứ, đập vào hàm răng nghe “chát” một tiếng, suýt nữa làm rớt hết răng. Ám khí Trình Thanh Trúc quen dùng là những thanh tre rất nhỏ, gọi là Thanh Trúc Tiêu, trong vòng hai chục bước đánh vào huyệt đạo bách phát bách trúng, kình lực không kém cương tiêu. Lão nghe lời Viên Thừa Chí nên mới hạ thủ lưu tình, không thì đôi đũa này cao lên mấy tấc là cặp mắt Tiền Thông Tứ đừng hòng giữ được.

Tiền Thông Tứ đau quá, thét lên be be nhưng không sao biết được đôi đũa tre này từ đâu bay tới. Hai võ quan ngoại quốc gọi hắn tới hỏi, hắn nói gì không biết. Nữ nhân kia ôm bụng mà cười, đôi hoa tai không ngừng rung động.

Võ quan lớn tuổi nhìn sang bàn Viên Thừa Chí, nghĩ bụng: “Chắc là bọn kia tác quái.” Hắn nắm lấy hai cái ly trên bàn quăng lên không trung, rồi hai tay chụp lấy hai khẩu súng ngắn. Hai tiếng nổ chát tai, hai cái ly nát vụn trên không.

Viên Thừa Chí cùng mọi người nghe tiếng nổ đều hoảng sợ giật mình, thầm nghĩ: “Hỏa khí quả nhiên lợi hại, mà hắn bắn cũng không tồi.”

Võ quan lớn tuổi ra vẻ đắc ý, lấy một cái hộp ra. Y lấy thuốc súng và những thỏi chì nạp vào súng ngắn, rồi bảo người võ quan trẻ tuổi: “Bỉ Đắc, anh bắn thử xem.”

Bỉ Đắc đáp: “Thương pháp của tôi làm sao bằng được Đệ nhất thần thương thủ Bồ Đào Nha?”

Cô gái mỉm cười hỏi: “Lôi Mông là Đệ nhất thần thương thủ à?”

Bỉ Đắc nói: “Nếu không phải đệ nhất thế giới, ít ra cũng là đệ nhất châu Âu.”

Lôi Mông cười hỏi: “Đệ nhất châu Âu chẳng lẽ không phải đệ nhất thế giới?”

Bỉ Đắc nói: “Người Đông phương rất kỳ lạ, có những bản lãnh lợi hại hơn người châu Âu, nên tôi không dám chắc. Nhược Khắc Lâm, cô nghĩ sao?”

Nhược Khắc Lâm vừa cười vừa nói: “Em nghĩ là anh nói đúng.”

Bọn Viên Thừa Chí nghe ba người nói chuyện xì xồ, dĩ nhiên không hiểu chữ nào.

Lôi Mông thấy Nhược Khắc Lâm đối với Bỉ Đắc ra vẻ thân mật, có phần đố kỵ bèn nói: “Người Đông phương kỳ lạ lắm sao?”

Hắn lại nổ liền hai phát súng, lần này nhắm vào khăn trùm đầu của Thanh Thanh. Ánh lửa vừa lóe lên, chiếc khăn rơi xuống bàn, xổ ra bộ tóc dài của nữ nhân. Viên Thừa Chí cùng mọi người đều kinh hãi. Lôi Mông và bọn lính ngoại quốc ngồi các bàn khác đều cười hô hố.

Thanh Thanh tức giận đứng dậy, rút trường kiếm ra khỏi vỏ nghe “soạt” một tiếng. Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Nếu động thủ, hỏa khí của đối phương lợi hại, hai bên chắc chắn có chết có bị thương. Bọn lính ngoại quốc này đang giúp quan binh triều đình đánh Thát tử Mãn Thanh, giết họ là làm hại quốc gia. Nhẫn nhịn một chút là hơn.”

Chàng bèn bảo Thanh Thanh: “Thanh đệ, thôi đi!” Thanh Thanh đưa mắt giận dữ liếc nhìn ba người ngoại quốc rồi mới chịu ngồi xuống.

Nhược Khắc Lâm nói: “Thì ra là một cô gái, không ngờ xinh đẹp đến thế.”

Lôi Mông cười nói: “Hay lắm. Em thấy con trai Đông phương có tuấn tú không?”

Bỉ Đắc nói: “Cô ấy còn biết dùng kiếm nữa, hình như muốn đánh nhau với chúng ta.”

Lôi Mông hỏi: “Nếu cô ấy đến, ai sẽ ra đấu? Bỉ Đắc! Hai chúng ta ai giỏi kiếm pháp hơn?”

Bỉ Đắc nói: “Tôi mong rằng chuyện này vĩnh viễn không ai biết được.”

Lôi Mông ra vẻ giận dữ, hỏi: “Tại sao?”

Nhược Khắc Lâm vội nói: “Này, các anh đừng vì chuyện này mà cãi nhau.” Nàng mỉm cười nói tiếp: “Người Đông phương rất thần bí, chỉ sợ cả hai anh đều không đánh thắng được cô nương xinh đẹp đó.”

Lôi Mông kêu lên: “Tiền Thông Tứ, qua đây!”

Tiền Thông Tứ vội chạy đến, hỏi: “Đại tá có gì sai bảo?”

Lôi Mông nói: “Ngươi qua hỏi, có phải cô nương đó muốn đấu kiếm với ta hay không? Hỏi nhanh đi.”

Tiền Thông Tứ vâng dạ liên hồi.

Lôi Mông lại lấy trong túi ra mười mấy đồng tiền Tây dương, ném lên bàn rồi mỉm cười nói: “Nếu cô ấy muốn đấu kiếm thì qua đây. Thắng được ta, thì những đồng vàng này là của cô ấy. Nếu cô ấy thua, phải để ta hôn một cái. Ngươi mau mau qua đó nói đi.”

Thế là Tiền Thông Tứ ngạo nghễ bước tới, dịch lại cho Thanh Thanh nghe. Đến mấy chữ “hôn một cái”, Thanh Thanh xoay tay tát lên má phải của hắn, nghe một tiếng “bốp” vang dội. Cái tát này kình lực rất lớn, Tiền Thông Tứ hự một tiếng, phun ra một bụm máu tươi lẫn bốn cái răng rồi mới kêu trời kêu đất được. Nửa mặt hắn lập tức sưng vù lên.

Lôi Mông cười ha hả rồi nói: “Con bé này quả nhiên có sức.” Hắn rút kiếm ra, vạch veo véo lên không trung mấy nhát, bước ra giữa đại sảnh, la lên: “Qua đây, qua đây!”

Thanh Thanh nghe không hiểu, nhưng nhìn thì biết hắn muốn tỉ kiếm với mình. Nàng lập tức rút kiếm, đứng dậy.

Viên Thừa Chí gọi: “Thanh đệ! Muội qua đây.”

Thanh Thanh tưởng Viên Thừa Chí lại cản trở, lắc đầu nói: “Muội không nhịn nữa đâu.”

Viên Thừa Chí nói: “Để ta dạy Thanh đệ cách đánh thắng hắn.”

Thanh Thanh vừa thấy hỏa khí của ngoại quốc vô cùng lợi hại, chỉ sợ kiếm pháp cũng oai lực như thế, không chừng thanh kiếm có thể nổ đoàng đoàng. Nàng có phần sợ hãi, vừa nghe vậy đã mừng rỡ đứng lại.

Viên Thừa Chí nói: “Hắn vừa chém lên không mấy nhát, xuất thủ nhanh nhẹn, kình lực đầy đủ, kiếm pháp trong nhu có cương. Phải đề phòng hắn đâm thẳng, chứ hắn bổ xuống hay chém ngang thì không đáng sợ.”

Thanh Thanh nói: “Thế thì muội phải tìm cách chấn động cho thanh kiếm của hắn tuột khỏi tay.”

Viên Thừa Chí hoan hỉ nói: “Không sai! Đúng là như vậy, nhưng đừng đả thương hắn.”

Lôi Mông thấy hai người nói chuyện mãi, nóng ruột gọi lớn: “Mau qua đây, mau qua đây!”

Thanh Thanh xoay người nhảy ra, đột nhiên vung kiếm chém vào bả vai hắn. Lôi Mông không ngờ nàng ra tay nhanh đến thế, nhưng dù sao hắn cũng là một cao thủ kiếm thuật của Bồ Đào Nha, lại từng được danh sư của Pháp và Ý Đại Lợi chỉ điểm. Thấy nguy hắn vội lăn nhào xuống đất, đưa kiếm lên đỡ nghe “keng” một tiếng, lửa bay tứ tán.

Lôi Mông bật người đứng dậy, hoảng sợ đến nỗi toát mồ hôi lạnh. Nhược Khắc Lâm đứng bên vỗ tay khen ngợi. Hai bên triển khai kiếm thuật có công có thủ, giao đấu hồi lâu. Viên Thừa Chí xem tỉ mỉ kiếm pháp của Lôi Mông, thấy hắn đỡ đòn và phản kích rất linh hoạt.

Tỉ đấu đến chỗ hăng say, Thanh Thanh đột nhiên thay đổi kiếm pháp. Nàng xuất toàn hư chiêu, hễ mũi kiếm đâm sắp tới là lập tức thu hồi. Đây chính là Lôi Chấn Kiếm Pháp của Kỳ Tiên Phái, cả thảy sáu lần sáu ba mươi sáu chiêu, hoàn toàn không có một thực chiêu nào. Đây chính là những tia chớp trong cơn giông bão, khiến cho kẻ địch phải chóng mặt hoa mắt, sau đó mới xuất chiêu tấn công dữ dội như sét đánh.

Lôi Mông tuy kiếm pháp cao minh, nhưng kiếm thuật thế này thì chưa gặp phải. Hắn thấy đối phương đâm loạn xạ, hình như chiêu nào cũng đâm vào chỗ yếu hại của mình, nhưng khi đưa kiếm lên cản trở thì đối phương lại rụt về. Trong kiếm thuật Tây phương cũng có những hư chiêu, tưởng công mà lại không công như thế, nhưng tối đa chỉ một hai chiêu, nhất định không có mấy chục chiêu tấn công giả vờ thế này.

Lôi Mông nghĩ: “Những chiêu thức hoa hòe này chỉ đẹp mắt, không có ích.” Hắn mỉm cười, đang định chê bai thì Thanh Thanh đột nhiên vẫy kiếm chém mạnh tới. Lôi Mông vội đưa kiếm ra đỡ, nhưng cổ tay bị chấn động, trường kiếm tuột khỏi tay văng ra. Thanh Thanh thừa thế tiến lên, chĩa mũi kiếm vào trước ngực đối phương. Lôi Mông chỉ còn cách đưa hai tay lên đầu hàng.

Thanh Thanh cười khẩy, thu kiếm quay về chỗ cũ. Lôi Mông hổ thẹn lộ ra ngoài mặt, không ngờ mình vẫn tự phụ kiếm thuật cao cường mà thua dưới tay một thiếu nữ da vàng mũi tẹt.

Nhược Khắc Lâm mỉm cười, hốt mớ tiền vàng trên bàn, bước qua bàn Viên Thừa Chí, đưa cho Thanh Thanh. Thanh Thanh xua tay không lấy. Nhược Khắc Lâm vừa cười vừa xì xồ toàn tiếng Bồ Đào Nha, cương quyết đưa nàng.

Trình Thanh Trúc đưa tay đón lấy, sắp mười mấy đồng tiền vàng Tây dương này thành một chồng, hai bàn tay đè ở hai đầu. Lão vận nội công một lúc rồi trả lại Nhược Khắc Lâm.

Nhược Khắc Lâm định cầm đưa Thanh Thanh, nhưng vừa cầm vào tay đã giật mình kinh hãi. Thì ra mười mấy đồng tiền vàng này đã dính chặt lại với nhau thành một khối trụ tròn, không thể tách rời được nữa. Nàng giương tròn đôi mắt vốn đã rất tròn, nói thầm trong miệng: “Người Đông phương thật là thần bí, thật là thần bí!”

Nàng đem khối trụ vàng đó về, đưa hai võ quan Tây dương xem. Lôi Mông nói: “Hình như bọn người này có ma thuật.”

Bỉ Đắc nói: “Đừng gây chuyện với họ. Chúng ta đi thôi.”

Lát sau nghe tiếng lách cách ngoài cửa, những chiếc xe kéo đại pháo lăn bánh lên đường.

Thiết La Hán nói: “Hồng Di đại pháo trông như thế nào, tại hạ chưa được nhìn thấy.”

Hồ Quế Nam nói: “Chúng ta ra xem thử.”

Sa Thiên Quảng cười nói: “Hồ huynh! Nếu huynh có thể thi triển tuyệt kỹ diệu thủ không không, ăn trộm được một khẩu pháo đó, thì ta phục huynh vô cùng.”

Hồ Quế Nam mỉm cười đáp: “Những thứ cồng kềnh như thế, đúng là ta chưa ăn trộm bao giờ. Nhưng Sa huynh có muốn đánh cuộc không?”

Sa Thiên Quảng nói: “Đại pháo này dùng để bắn bọn Thát tử Mãn Thanh, không nên ăn trộm. Không thì ta phải đánh cuộc với huynh một phen.”

Mọi người vừa cười giòn vừa bước ra ngoài sảnh, chỉ chốc lát đã đuổi kịp toán quân áp tải đại pháo. Cả thảy có mười khẩu đại pháo to đùng, chỉ nhìn bề ngoài cũng thấy oai phong lẫm liệt. Mỗi khẩu phải dùng tám con ngựa kéo, phía sau còn có phu dịch đẩy giúp. Xe pháo đi tới đâu, trên đường xuất hiện vết bánh xe sâu hoắm tới đó.

*

*   *

Quần hùng đi được hơn hai mươi dặm, bỗng nghe phía trước có tiếng nhạc ngựa leng keng, mười mấy con ngựa phi tới. Đến gần thì thấy những người cưỡi ngựa đều cầm cung tên, dưới yên treo đầy những loại thú vừa săn được như chồn, thỏ. Đoàn người đi săn này ăn mặc sang trọng, toàn là giày da và trường bào gấm đoản, rất có khí thế. Ở giữa là một thiếu nữ chừng tuổi đôi mươi.

Vừa nhận ra đoàn người Viên Thừa Chí, thiếu nữ đó vội ruổi ngựa lên trước, hô lớn: “Sư phụ, sư phụ!”

Trình Thanh Trúc mỉm cười nói: “Hay lắm! Con cũng đến đây ư?” Thì ra thiếu nữ này chính là A Cửu, đồ đệ của lão.

Trong trận quần đạo tranh giành rương sắt, Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh đã từng gặp cô gái này. Lần trước nàng mặc áo vải xanh như người nhà quê, bây giờ lại trang điểm đẹp đẽ vô cùng. Trên tai trái đeo một hạt trân châu lớn bằng đầu ngón tay cái, trên áo khảm một phiến hồng bảo thạch nhấp nháy sáng ngời.

Cô gái này mặc loại y phục gì cũng thích hợp. Khi phục sức kiểu con gái nhà nông thì trông khỏe mạnh dứt khoát, khi áo quần sang trọng kiểu con nhà quý phái thì diễm lệ như một đóa hồng ngậm sương buổi sớm.

Trong lòng Viên Thừa Chí nhói lên, như vừa bị cao thủ nội gia đánh trúng một quyền. Chàng quay đầu chỗ khác, không dám nhìn thêm.

A Cửu nhìn Viên Thừa Chí, mỉm cười hỏi: “Huynh đi cùng sư phụ của muội à?”

Viên Thừa Chí mỉm cười, gật đầu một cái. A Cửu lại quay sang chào Sa Thiên Quảng: “Sa trại chủ! Chúng ta đúng là không đánh không quen.”

Trình Thanh Trúc bảo nàng đến tham kiến Hồ Quế Nam, Thiết La Hán, rồi hỏi: “Con đi đâu vậy?”

Nàng đáp: “Con ra ngoài săn bắn. Sư phụ thấy con đi có xa không?”

Trình Thanh Trúc nói: “Chúng ta đang định lên kinh thành, con đi cùng đi.”

A Cửu hoan hỉ vâng dạ, đi sát vào sư phụ, hai người hai ngựa song song mà tiến.

Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh thấy cô gái này tuy tuổi còn nhỏ nhưng đã có khí phách cao sang, quen sai khiến người khác, đám tùy tùng nghe lời răm rắp. Lần trước gặp nhau ở Sơn Đông, họ tưởng nàng là cháu gái của Trình Thanh Trúc, sau này mới biết là đồ đệ của lão. Bây giờ lại thấy nàng là tiểu thư cưng chiều của nhà thế gia vọng tộc, ra ngoài săn bắn cũng mang theo nhiều tùy tùng như thế. Không biết tại sao nàng bái Trình Thanh Trúc làm sư phụ, lại đi cùng Thanh Trúc Bang, hai người nghĩ mãi không ra.

Đêm đó mọi người nghỉ lại một khách sạn tại Ẩm Mã Tập. Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh thấy bọn tùy tùng của A Cửu nói chuyện sặc mùi quan phủ. Trừ A Cửu ra, chúng không thèm ngó tới ai, thần sắc khá ngạo mạn. Nhìn riêng từng người, thì mỗi tên giống một ông quan, chẳng giống tùy tùng chút nào. Họ càng kinh ngạc hơn.

Thanh Thanh hỏi: “Cửu muội! Hôm đó chúng ta đánh giết quan binh một trận sướng tay, sau đó đột nhiên cô đi đâu mất. Cô xinh đẹp như thế, hôm đó ta vừa gặp đã vĩnh viễn không quên được nữa. Sau đó Cửu muội đi đâu?”

A Cửu đã biết Thanh Thanh là nữ nhân, nhưng mặt cũng đỏ lên. Nàng hắng giọng rồi nói: “Tỉ tỉ! Tỉ tỉ mới là mỹ nhân, muội không sao sánh kịp. Tỉ tỉ không cần phấn son phải không?”

Thanh Thanh muốn hỏi nữa, nhưng Trình Thanh Trúc đứng đối diện cứ liên hồi nháy mắt ra hiệu. Nàng bèn mỉm cười nói: “Đi đường xa, đầu mặt toàn là bụi bặm, ta có trang điểm cũng chẳng ai dám nhìn.”

Mọi người nói đùa một lúc rồi chia nhau về phòng nghỉ ngơi.

Viên Thừa Chí vào phòng, đang định lên giường thì Trình Thanh Trúc vào nói: “Viên tướng công! Tại hạ có một chuyện cần thương lượng với tướng công.”

Viên Thừa Chí nói: “Được! Mời bang chủ ngồi.”

Trình Thanh Trúc khẽ nói: “Chúng ta ra ngoài tìm chỗ vắng người, nói chuyện hay hơn.”

Viên Thừa Chí biết là chuyện cơ mật, bèn khoác trường bào. Hai người ra khỏi khách sạn, đến một ngọn đồi bên ngoài thị trấn.

Trình Thanh Trúc nhìn quanh bốn phía không thấy ai, bèn nói: “Viên tướng công! Đồ đệ A Cửu của tại hạ có lai lịch rất kỳ lạ. Tại hạ từng chịu đại ân của cô ấy. Lúc nhận lễ bái sư, tại hạ đã hứa là tuyệt đối không tiết lộ thân phận của cô ấy.”

Viên Thừa Chí nói: “Tại hạ cũng thấy cô ấy không phải loại người tầm thường. Nhưng bang chủ đã hứa rồi, thì không cần nói với tại hạ làm chi.”

Trình Thanh Trúc nói: “Bọn thủ hạ cô ấy dẫn theo đều là người trong quan phủ. Mưu đồ của chúng ta, tuyệt đối không thể cho họ biết chút nào.”

Viên Thừa Chí gật đầu nói: “Quả nhiên đúng là bọn quan phủ.”

Trình Thanh Trúc nói: “Cô ấy không đến nỗi bán đứt tại hạ, nhưng tuổi tác còn nhỏ mà thế sự đa đoan, kết cục thế nào khó mà ngờ được.”

Viên Thừa Chí nói: “Vậy trước mặt cô ấy, chúng ta cẩn thận hơn một chút là xong.”

Hai người chỉ trao đổi chốc lát là xong, lại xuống đồi trở về khách sạn.

Về đến cửa khách sạn, bỗng thấy một hán tử từ con đường phía đông chạy tới, tay xách lồng đèn, cũng vào khách sạn này. Dưới ánh sáng mờ mờ, Viên Thừa Chí cảm thấy hán tử đó có vẻ quen quen, nhưng nhất thời không nghĩ ra được đã gặp ở đâu. Chàng nằm trên giường suy tới nghĩ lui, cố nhớ lại buổi tiệc chúc thọ ở nhà họ Mạnh, đại hội Thái Sơn, vụ hỗn chiến đoạt rương sắt, ở Nam Kinh, ở Tịnh Nham, Cù Châu, trong quân ngũ Sấm Vương, đều không có mặt người này. Nhưng nhất định chàng đã gặp rồi, vậy hắn là ai?

Đang suy nghĩ thì bỗng có tiếng gõ cửa rất nhẹ. Chàng mặc áo xuống giường, hỏi: “Ai vậy?”

Ngoài cửa Thanh Thanh cười khúc khích, lên tiếng: “Muốn ăn chút gì không?”

Viên Thừa Chí thắp đèn, mở cửa. Nàng đang bưng một cái khay đựng hai cái chén, mỗi chén có ba quả trứng gà, chắc vừa xuống bếp làm cho chàng. Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Đa tạ nhé. Khuya rồi, sao không đi ngủ?”

Thanh Thanh nói nhỏ: “Muội cứ nghĩ mãi đến cô A Cửu kỳ lạ đó, không ngủ được. Nhất định huynh cũng đang nghĩ đến cô ấy, không ngủ được đâu.”

Nói xong, nàng nhoẻn miệng cười. Viên Thừa Chí cười cười hỏi lại: “Ta nghĩ đến cô ấy làm gì?”

Thanh Thanh nói: “Cô gái này đẹp tuyệt vời, đẹp đến nỗi không giống người phàm. Huynh thấy cô ấy có đẹp không?”

Viên Thừa Chí biết Thanh Thanh tính hay hờn ghen. Nếu chàng nói A Cửu đẹp, chắc chắn nàng sẽ không vui. Nhưng nếu nói A Cửu không đẹp thì rõ ràng là nói dối, trái với lương tâm, mà nàng cũng quyết không tin. Chàng bèn mỉm cười nói: “Không giống người phàm, chẳng lẽ giống ma quỷ hay sao?”

Thanh Thanh nói: “Rõ ràng huynh muốn nói cô ấy trông như tiên nữ, nhưng lại không chịu nói.”

Viên Thừa Chí cầm muỗng múc một quả trứng gà, vừa cho vào miệng bỗng để rơi cái thìa, khẽ quát lên: “Đúng rồi! Thì ra là hắn.”

Thanh Thanh hoảng sợ nhảy dựng lên, hỏi lại: “Hắn là ai thế?”

Viên Thừa Chí quay mặt nhìn ra cửa, bảo: “Mau đi theo huynh!”

Thanh Thanh thấy chàng không ăn trứng gà, hơi giận bèn hỏi: “Đi đâu vậy?”

Viên Thừa Chí đến chỗ Hồng Thắng Hải, rút lấy thanh kiếm đưa cho nàng, nói: “Cầm lấy!”

Thanh Thanh cầm kiếm, bây giờ mới biết chàng vừa nhận ra địch thủ.

Thì ra khi Viên Thừa Chí ăn trứng gà, chàng đột nhiên nhớ lại năm xưa ở nhà An đại nương, tên cẩm y vệ Hồ lão tam đến bắt Tiểu Huệ, chàng đã liều mạng chống đỡ. May mà An đại nương kịp trở về, dùng trứng gà đánh đuổi Hồ lão tam, cứu được hai đứa bé. Người chàng vừa nhìn thấy chính là tên Hồ lão tam đó. Không hiểu hắn lén lút đến đây để làm gì, phải thám thính rõ ràng mới được.

Hai người khom người, đến từng phòng trong khách sạn mà ghé tai lắng nghe. Khi đến một căn phòng lớn phía sau, quả nhiên có tiếng người đang bàn luận. Đang định nghe lén thì cửa phòng bật mở, có người bước ra ngoài.

Viên Thừa Chí khẽ nói vào tai Thanh Thanh: “Thanh đệ về, bảo Sa Thiên Quảng và mọi người phòng bị. Ta đi theo xem thử.”

Thanh Thanh gật đầu khẽ đáp: “Cẩn thận nhé!”

Viên Thừa Chí núp trong bóng tối, thấy người đầu tiên bước ra chính là Hồ lão tam. Phía sau có tám người đi theo, tay đều cầm binh khí. Dưới ánh nến nhìn thấy rõ ràng, đây đều là tùy tùng của A Cửu. Chín người nối nhau vượt tường khách sạn nhảy ra.

Thanh Thanh khẽ nói: “Thì ra là chúng. Muội đã biết cô gái đó có chỗ kỳ lạ mà!” Viên Thừa Chí cũng ngạc nhiên, lập tức vượt tường ra ngoài khách sạn, âm thầm theo dõi.

Chín người kia hoàn toàn không biết có người theo dõi, ra khỏi thị trấn đi chừng một dặm thì đến một căn nhà lớn. Hồ lão tam cất tiếng gọi, cửa lớn mở ngay để chín người vào.

Viên Thừa Chí vòng ra phía sau, vượt tường nhảy vào, thấy một căn phòng có ánh sáng rọi ra ngoài cửa sổ. Chàng nhảy lên mái nhà, nhẹ nhàng gỡ một viên ngói, từ trên nhìn xuống thấy trong phòng có một hán tử tuổi khoảng tứ tuần, thân hình to lớn. Hồ lão tam cùng tám người tùy tùng của A Cửu vào trong phòng, hành lễ tham kiến hán tử kia.

Hồ lão tam nói: “Tiểu nhân vào thị trấn tình cờ gặp Vương phó chỉ huy, biết mọi người đang ở đây, nên mời mấy huynh đệ này đến giúp đỡ một tay.”

Người ấy nói: “Hay lắm! Vương phó chỉ huy nói sao?”

Hồ lão tam đáp: “Vương phó chỉ huy nói là An đại nhân đã có việc, dĩ nhiên là phải giúp.”

An đại nhân nói: “Lần này nếu mà đắc thủ, công lao mọi người nhất định không nhỏ. Ha ha…”

Một người nói: “Hoàn toàn dựa vào đại nhân giúp đỡ.”

An đại nhân nói: “Huynh đệ chúng ta đừng phân biệt ai là thị vệ trong cung, ai là cẩm y vệ. Mọi người đều ra sức cho hoàng đế cả.”

Cả bọn cùng nói: “An đại nhân nói rất đúng. Bọn thuộc hạ nhất định vâng lời đại nhân chỉ bảo.”

An đại nhân nói: “Được! Vậy chúng ta đi ngay.”

Viên Thừa Chí càng kinh ngạc hơn, thầm nghĩ: “Hồ lão tam và An đại nhân đã là cẩm y vệ, thế thì bọn tùy tùng của A Cửu phải là thị vệ trong cung. Không hiểu cô bé đó làm gì, sao lại dẫn theo một đám thị vệ trong cung, chạy loạn xạ khắp nơi.”

Chẳng bao lâu, An đại nhân dẫn cả bọn ra ngoài. Viên Thừa Chí vẫn nấp trên mái nhà, đếm thấy tất cả mười sáu người, thì ra chính An đại nhân đã có sẵn sáu người. Chàng để chúng đi một quãng, rồi lén lút bám theo.

Càng đi càng thấy phong cảnh hoang vu. Được bảy tám dặm thì có người khẽ nói gì đó, rồi cả bọn tản ra, bao vây một căn nhà lẻ loi ở vùng hoang vắng này. Cả đám đều khom mình, không phát ra một chút tiếng động, tiến đến gần căn nhà đó.

Viên Thừa Chí bắt chước họ, cũng khom người tiến vào. Có tên nhìn thấy chàng, nhưng trong bóng tối tưởng là đồng bọn nên không để ý. An đại nhân thấy vòng vây đã kín, bèn vẫy tay bảo mọi người cúi xuống, rồi đưa tay gõ cửa.

Lát sau trong nhà có tiếng nữ nhân hỏi ra: “Ai vậy?”

An đại nhân giật mình hỏi lại: “Ai thế?”

Thanh âm nữ nhân trong nhà ra vẻ kinh hãi: “Thì ra là… là… ngươi. Đêm khuya thế này, ngươi tới đây làm gì?”

An đại nhân la lên: “Thế mới gọi là oan gia không thể tránh nhau. Thì ra muội đang ở đây, mau mở cửa đi.” Giọng hắn vừa kinh hãi vừa mừng rỡ.

Nữ nhân trong nhà nói: “Ta đã nói là quyết không gặp ngươi nữa. Đến đây làm gì?”

An đại nhân mỉm cười nói: “Muội không muốn gặp ta, nhưng ta thì nhớ nương tử quá rồi.”

Nữ nhân trong nhà giận dữ nói: “Ai là nương tử của ngươi? Chúng ta đã vạch đất dứt tình rồi. Nếu ngươi không chịu buông tha ta, thì phóng hỏa đốt nhà đi. Ta thà chết cũng không chịu gặp một kẻ vô lương tâm, bệnh hoạn điên cuồng như ngươi.”

Viên Thừa Chí càng nghe càng cảm thấy thanh âm này rất quen. Cuối cùng chàng giật mình nhận ra An đại nương. Thì ra An đại nhân là chồng của An đại nương, là cha của Tiểu Huệ. Năm xưa, Hồ lão tam đến bắt Tiểu Huệ, chính là tuân lệnh lão An đại nhân này.

Hồi 13: Hẹn bạn ngày quy ẩn – Hủy pháo giúp Sấm quân

An đại nhân vừa cười đểu giả vừa nói: “Ta cực khổ mới tìm ra muội, sao lại nỡ tự thiêu? Bây giờ chúng ta đoàn tụ, nối lại mối tình xưa.”

Nói xong hắn phóng chân đá vào cánh cửa. Mới đá hai cái, chốt cửa đã gãy, cánh cửa kèn kẹt mở ra. Viên Thừa Chí nghe tiếng gió của đòn cước, biết võ công hắn không tệ.

Trong đêm tối bỗng có ánh đao lấp loáng. An đại nương đã múa đao chém vào An đại nhân. An đại nhân mỉm cười nói: “Hay lắm! Dám mưu sát trượng phu.”

Hắn sợ trong nhà còn có người khác nên chưa dám xông vào, cứ đứng ngoài cửa dùng tay không đấu với An đại nương. Viên Thừa Chí từ từ bò đến gần, giương to mắt mà xem hai người giao đấu.

Võ công An đại nhân khá cao. Chung quanh tối mịt, hắn chỉ cần nghe tiếng đao rít gió là tránh né được hết, vừa phản kích vừa không ngớt nói những câu bóng gió để chọc ghẹo. An đại nương tức giận, vừa đánh vừa mắng chửi liên hồi. Đấu được một lúc, An đại nhân bỗng sờ được vào người bà một cái.

An đại nương càng giận dữ hơn, vung đao chém bổ từ trên đầu xuống. An đại nhân đang muốn dụ bà xuất chiêu này, nghiêng người bước tới, nắm được cổ tay bà rồi dùng sức vặn ngược lại. Đơn đao của An đại nương rơi xuống đất. An đại nhân nắm cả hai bàn tay An đại nương, chân phải gác đè lên khuỷu chân bà. Thế là An đại nương không sao động đậy được nữa.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Nghe khẩu khí tên họ An này, chắc hắn không làm tổn thương bà ấy ngay đâu. Ta cứ thám thính một lúc nữa rồi sẽ ra tay cứu viện.”

Thừa lúc An đại nhân cười ha hả như điên dại và An đại nương quát tháo chửi mắng, Viên Thừa Chí nhón chân bước tới một góc cửa, lách vào trong, nép bên tường rồi thi triển khinh công Bích Hổ Du Tường trèo lên xà ngang ẩn mình quan sát.

An đại nhân gọi lớn: “Hồ lão tam! Vào trong thắp đèn nhanh lên.”

Hồ lão tam đứng ngoài lấy mồi lửa ra, rút đao hộ thân, rồi lại cúi nhặt mấy viên đá ném vào trong nhà. Hồi lâu không thấy động tĩnh gì, hắn mới dám vào trong, tìm được ngọn nến đang đặt trên bàn rồi thắp sáng lên.

An đại nhân bế An đại nương vào trong nhà, đảo mắt liếc Hồ lão tam một cái. Tên này lấy trong người ra một sợi dây, trói chặt tay chân bà lại.

An đại nhân mỉm cười nói: “Muội nói quyết không gặp mặt ta nữa, thế là không giữ lời được rồi. Nhìn ta đây, xem tóc đã bạc thêm mấy sợi?” An đại nương nhắm mắt, không thèm trả lời.

Viên Thừa Chí nấp trên xà nhìn xuống, thấy rõ ràng mặt mũi An đại nhân. Tuy hắn đã sang tuổi trung niên, nhưng diện mạo còn coi được. Hồi trẻ nhất định đây là một thiếu niên tuấn tú, rất xứng đôi với An đại nương.

An đại nhân đưa tay sờ mặt An đại nương, cười nói: “Tuyệt diệu! Mười mấy năm không gặp, khuôn mặt trái xoan này vẫn mịn màng như xưa.” Hắn hất đầu bảo Hồ lão tam: “Ra ngoài đi!”

Hồ lão tam mỉm cười vâng dạ lui ra ngoài, tiện tay khép cửa lại. Hai người trong nhà đối diện nhau không nói lời nào. Hồi lâu, An đại nhân bỗng thở dài lên tiếng: “Tiểu Huệ đâu? Mấy năm nay, ngày nào ta cũng nhớ đến con.”

An đại nương vẫn mặc kệ. An đại nhân lại nói: “Hồi đó chúng ta là vợ chồng trẻ, tính khí cả hai đều nóng nảy nên nhất thời xích mích. Đã xa cách nhiều năm rồi, hòa thuận lại như trước là hơn.”

Hắn im lặng một lúc, lại nói: “Muội xem, mười mấy năm nay ta không cưới vợ khác, có lúc nào quên muội đâu? Chẳng lẽ muội không còn chút tình phu thê nào nữa?”

Lúc này An đại nương mới giận dữ lên tiếng: “Gia gia và ca ca của ta đã chết như thế nào, chẳng lẽ ngươi quên rồi?”

An đại nhân thở dài nói: “Nhạc phụ và huynh trưởng là do cẩm y vệ hại chết, điều đó không sai. Nhưng không thể vì thế mà vơ đũa cả nắm, cẩm y vệ có người xấu, cũng có người tốt. Ta ra sức vì hoàng thượng, cũng để làm rạng rỡ tổ tiên…”

Hắn nói chưa dứt câu, An đại nương đã nhổ phẹt nước bọt xuống đất.

Im lặng hồi lâu, An đại nhân bỗng đổi sang đề tài khác: “Ta rất nhớ Tiểu Huệ nên mới sai người đến đón con. Sao muội phải trốn chỗ này chỗ nọ, rốt cuộc vẫn không để ta và con gặp mặt nhau?”

An đại nương đáp: “Ta đã nói với nó, người cha tốt của con đã chết từ lâu rồi. Phụ thân con rất có bản lãnh, rất có chí khí, nhưng tiếc là tuổi thọ hơi ngắn.” Giọng bà đầy vẻ oán hận.

An đại nhân nói: “Tội gì bà phải lừa gạt con như thế? Mà sao lại trù ẻo ta?”

An đại nương nói: “Cha của nó trước đây đúng là người tốt, rất có chí khí. Nào ngờ…” Giọng bà bỗng nghẹn hẳn đi, rồi lại nói rất giận dữ: “Ngươi đã hại chết người chồng tốt của ta. Ta hận, chỉ muốn giết ngươi.”

An đại nhân la lên: “Ủa, lạ chưa? Ta chính là chồng của muội, sao lại nói là ta hại chết chồng của muội?”

An đại nương nói: “Chồng của ta vốn là một hảo nam tử. Không hiểu sao, đột nhiên hắn bị lợi lộc làm mờ mắt, không nghĩ gì đến vợ con nữa, một lòng một dạ muốn thăng quan phát tài. Người chồng tốt trước đây của ta đã chết rồi, từ đó về sau không thể nào gặp mặt nữa.”

Viên Thừa Chí nghe vậy, trong lòng cũng xót xa theo.

An đại nương lại nói: “Chồng của ta là An Kiến Thanh, vốn là một giang hồ hảo hán, không phải bị tên cẩm y vệ ở Trường An là An đại nhân này hại chết hay sao? Chồng của ta có một vị ân sư là Sở Đại Đao lão quyền sư, cũng là gia gia của ta, đã bị An đại nhân hại chết. Cả phu nhân và con cái của lão quyền sư cũng táng mạng dưới tay An đại nhân…”

An Kiến Thanh giận dữ thét lên: “Không được nói nữa!”

An đại nương nghiến răng nói: “Tên lòng lang dạ sói kia, tự mình suy nghĩ lại đi!”

An Kiến Thanh nói: “Quan phủ gọi Sở Đại Đao đến hỏi chuyện, chắc gì đã làm khó dễ ông ấy? Ông ấy cần gì phải xách đao đến định giết ta? Vợ con của ông ấy tự tử mà chết, chuyện đó thì trách được ai?”

An đại nương nói: “Đúng vậy! Sở Đại Đao không trách được ai, phải tự trách mình mù mắt. Ai bảo ông ấy nhận một đồ đệ tốt như thế? Hắn đói rét sắp chết đến nơi, Sở Đại Đao dạy hắn võ công, nuôi hắn thành người…” Bà càng nói càng giận dữ hơn.

An đại nhân vỗ mạnh bàn một cái, nói: “Hôm nay vợ chồng chúng ta đoàn tụ nơi đây, tốt đẹp biết bao. Muội nhắc đến chuyện chết chóc xui xẻo đó làm chi?”

An đại nương la lên: “Ngươi muốn giết thì cứ giết, ta vẫn phải nhắc đến.”

Viên Thừa Chí nghe hai bên nói chuyện, suy nghĩ một chút liền hiểu rõ hết. Sở Đại Đao từng có công nuôi dưỡng An Kiến Thanh, dạy võ công, lại gả con gái là An đại nương cho hắn. Không ngờ An Kiến Thanh tham phú quý, vào làm cẩm y vệ trong hoàng cung. Cha mẹ, huynh trưởng của An đại nương đều bị cẩm y vệ hại chết. An đại nương phẫn hận không chịu được, bỏ chồng trốn đi. Trước đây Hồ lão tam đến bắt cóc Tiểu Huệ, An đại nương phải chuyển nhà khắp nơi, nguyên do cũng từ người chồng ác độc An Kiến Thanh đại nhân này.

Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Lúc người này hại chết cả nhà ân sư nhạc phụ, tình cảnh nhất định rất thảm khốc. Tên này giết đi cũng chưa hết tội, nhưng không biết An đại nương đối với hắn còn tình phu phụ hay không, bây giờ không nên vội vàng lỗ mãng.” Chàng muốn nghe nhiều hơn một chút, sau đó mới quyết định có nên ra tay trừ ác cứu người hay không, nào ngờ hai người đều im bặt.

Hồi lâu, dường như xa xa có tiếng vó ngựa vọng tới. An Kiến Thanh rút đao ra, khẽ nói: “Lát nữa có người đến đây, nếu muội lên tiếng thì ta không thể nào nghĩ tới tình phu phụ được nữa.”

An đại nương “hừ” một tiếng, giận dữ nói: “Ngươi lại muốn hại người rồi!”

An Kiến Thanh biết tính vợ, bèn dùng đao cắt một miếng vải nhét vào miệng bà. Lúc này tiếng vó ngựa đã đến gần. An Kiến Thanh đặt An đại nương lên giường, buông màn xuống, cầm đao nép vào sau cửa.

Viên Thừa Chí biết hắn muốn lén hạ độc thủ. Chàng không biết người đang tới là ai, nhưng nhiều phần là người thân của An đại nương, bèn dùng nước bọt thấm một ít bụi bám trên cây xà ngang, vo thành một viên đất nhỏ, nhắm vào ngọn lửa búng tới. Ngọn nến lập tức tắt ngóm, An Kiến Thanh lầm bầm thóa mạ.

Viên Thừa Chí thừa lúc hắn đi tìm mồi lửa, nhẹ nhàng tuột xuống đất, đi ra phía sau nhà. Thấy bên chái nhà có một tên cẩm y vệ cầm đao nằm rạp dưới đất, tập trung tinh thần quan sát động tĩnh trong nhà, chàng bèn đến sát bên hắn, khẽ nói: “Có người đến!”

Tên cẩm y vệ đó hạ giọng trả lời: “Ừ, nằm xuống đi!”

Viên Thừa Chí nhanh tay điểm vào huyệt đạo hắn, cởi áo ngoài của hắn khoác lên người mình. Sau đó chàng xé một miếng vải trên người hắn để bịt mặt, khoét hai cái lỗ để nhìn được ra ngoài. Chàng ôm lấy hắn, bò đến bên tường.

Trong đêm tối tiếng vó ngựa mỗi lúc càng nghe rõ, rồi năm con ngựa dừng ngay trước cửa. Người trên lưng ngựa nhảy xuống, khẽ vỗ tay ba cái. An Kiến Thanh trong nhà cũng vỗ tay ba tiếng trả lời, thắp nến lên rồi núp vào sau cửa. Nghe tiếng cửa mở, một người thò đầu vào trong.

An Kiến Thanh vung đao chém lẹ, một cái đầu người rơi xuống lăn long lóc, máu tươi phun tóe ra. Dưới ánh nến, An Kiến Thanh nhìn cái đầu một cái, bất giác kinh hãi. Thì ra hắn vừa chém chết một đồng bọn của mình. Hắn chưa kịp la lên, bên ngoài đã có một người bịt mặt vọt vào, đưa tay điểm huyệt An Kiến Thanh, lại xoay tay điểm bồi vào huyệt Đại Truy ở sau gáy hắn. Huyệt Đại Truy là nơi tụ hội hai mạch Tam Dương, Đốc Mạch trên người nên An Kiến Thanh không sao động đậy được nữa.

Viên Thừa Chí tiện tay đón lấy thanh đao trong tay hắn, nhẹ nhàng thả hắn xuống để đề phòng bọn gác ở ngoài nghe thấy. Chàng nhảy đến trước giường, dìu An đại nương lên, dùng đao cắt hết dây trói tay chân bà, khẽ nói: “An thẩm thẩm! Con đến cứu thẩm thẩm đây.”

An đại nương thấy chàng mặc sắc phục cẩm y vệ, mặt lại có khăn che kín, không khỏi lo lắng nghi ngờ. Bà vừa hỏi được một câu: “Tôn giá là ai” thì đã có năm người bước vào. Người vào đầu tiên chào hỏi An đại nương một tiếng, nhìn thấy tình hình trong nhà bỗng ngơ ngác đứng yên.

Bọn cẩm y vệ ở ngoài cửa thấy số người vào nhà đã khá đông, sợ một mình An Kiến Thanh không đối phó nổi. Hai tên liền xông vào trong, múa đao muốn chém. Viên Thừa Chí phóng chưởng ra cản trở, hai tên này gãy cổ chết ngay. Bọn địch bên ngoài liên tiếp chạy vào, Viên Thừa Chí vừa đánh vừa bắt từng tên một quẳng ra ngoài. Cũng có tên chưa kịp vào tới cửa đã bị đá ra. Chỉ chốc lát là mười hai cẩm y vệ và đám thị vệ trong hoàng cung đã bị Viên Thừa Chí đánh cho tối tăm mặt mũi, vắt giò lên cổ mà chạy.

Viên Thừa Chí xé hai miếng vải nhét vào tai An Kiến Thanh, lại cởi hai cái áo của bọn cẩm y vệ đã chết, bọc kín đầu hắn mấy lớp, để hắn không thể nghe được tiếng động bên ngoài, cũng không thể nhìn thấy chút xíu ánh sáng nào nữa. Sau đó chàng mới cởi khăn che mặt của mình, nhìn người đi đầu trong số năm người đến sau, mỉm cười nói: “Đại ca! Huynh khỏe chứ? Sấm Vương có khỏe không?”

Người kia ngẩn ra một chút rồi cười rộ lên ha hả, nắm lấy tay chàng lắc lia lịa. Thì ra đây là một đại tướng dưới trướng Sấm Vương, từng kết nghĩa huynh đệ với Viên Thừa Chí, chính là Lý Nham. Bốn người còn lại là vệ sĩ của ông.

Viên Thừa Chí vô tình cứu được hai cố nhân liên tiếp, hoan hỉ quay lại hỏi An đại nương: “An thẩm thẩm! Thẩm thẩm còn nhớ con không?”

Từ hồi Viên Thừa Chí tránh nạn ở nhà An đại nương đến nay đã nhiều năm rồi. Viên Thừa Chí từ một đứa bé đã thành người lớn, An đại nương làm sao nhận ra được?

Viên Thừa Chí lấy trong bọc ra chiếc vòng tay thắt bằng chỉ vàng mà ngày trước An đại nương đã tặng, lại nói: “Lúc nào con cũng mang theo bên mình.”

An đại nương nhớ ra, bèn kéo chàng đến bên ánh nến để nhìn cho kỹ. Quả nhiên trên lông mày bên trái của chàng vẫn còn vết sẹo dao để lại, bà vừa kinh hãi vừa mừng rỡ nói: “Con đấy ư? Con đã cao đến thế này rồi, lại học được võ công nữa.”

Viên Thừa Chí nói: “Con đã gặp Tiểu Huệ muội muội ở Chiết Giang. Muội muội cũng cao lắm rồi.”

An đại nương nói: “Thời gian trôi nhanh quá, bọn trẻ đều lớn cả rồi.” Bà liếc nhìn người chồng đang nằm dưới đất một cái, thở ra một hơi rồi ủ rũ nói: “Không ngờ vẫn là con đến cứu ta.”

Lý Nham không biết những giao tình lúc trước, nghe An đại nương kêu Viên Thừa Chí là con, chỉ nghĩ hai người là họ hàng. Ông mỉm cười nói: “Hôm nay nguy hiểm quá! Ta phụng mạng Sấm Vương, đến đây hẹn gặp mấy người ở tỉnh Hà Bắc. Tin tức của bọn cẩm y vệ thật là nhanh, biết được manh mối bèn tới đây mai phục.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Đại ca! Bạn của đại ca sắp đến chưa?”

Lý Nham chưa kịp đáp, tiếng vó ngựa đã từ xa vọng tới. Ông mỉm cười nói: “Đó không phải tiếng vó ngựa hay sao?”

Đám thủ hạ của ông ra mở cửa, không bao lâu đã đón ba người vào trong nhà. Trong ba người này có Điền Kiến Tú và Lưu Phương Lượng, năm xưa Viên Thừa Chí đã gặp ở đỉnh Thánh Phong. Hai người không thể nhận ra Viên Thừa Chí, nhưng chàng vẫn còn nhớ diện mạo của họ. Người còn lại họ Hầu, tên Phi Vân, mới gặp chàng trên đỉnh Thái Sơn.

Sau khi chào hỏi Lý Nham, Hầu Phi Vân quay sang cung kính thi lễ với Viên Thừa Chí, nói: “Minh chủ! Xin tham kiến minh chủ.”

Lý Nham và An đại nương cùng nói: “Thì ra mọi người đã quen biết nhau.”

Hầu Phi Vân nói: “Viên minh chủ là minh chủ bảy tỉnh, huynh đệ bọn tại hạ đều phải nghe hiệu lệnh.”

Lý Nham mừng rỡ nói: “Ta bận rộn ở tỉnh Hà Nam, tin tức ở phía đông đều bị chặn không nghe được. Thì ra đã có chuyện lớn như thế, thật đáng chúc mừng.”

Viên Thừa Chí nói: “Tháng trước tiểu đệ được bằng hữu giang hồ nể mặt mà tấn phong như vậy. Thật ra tiểu đệ không sao đảm đương nổi.”

Hầu Phi Vân nói: “Võ công minh chủ ít ai sánh nổi, kiến thức lại uyên thâm, chuyện đó không cần phải nói nhiều. Chỉ riêng phần nhân nghĩa của minh chủ, trong võ lâm chẳng ai là không thán phục. Trận chiến ở Thanh Châu, Kim Xà Doanh chúng ta nở mặt nở mày, hoàn toàn nhờ Viên minh chủ chỉ huy.”

Lý Nham cả mừng nói: “Thế thì tuyệt diệu.” Sau đó ông truyền đạt lại chỉ thị của Sấm Vương. Thì ra Lý Tự Thành đã đại phá mười mấy vạn quân binh do Binh bộ thượng thư Tôn Truyền Đình thống lĩnh tại Nhữ Châu, Nam Dương tỉnh Hà Nam. Lúc này Sấm Vương đang vây ép Đồng Quan, hạ lệnh cho Lý Nham bí mật đến Hà Bắc liên lạc quần hào để hưởng ứng.

Hầu Phi Vân hỏi: “Xin minh chủ cho ý kiến.”

Viên Thừa Chí nói: “Sấm Vương làm việc nghĩa, dĩ nhiên hào kiệt khắp thiên hạ nghe tin là khởi sự ngay. Bây giờ tiểu đệ lập tức đưa tin, hảo hán bảy tỉnh chúng ta phải làm một trận thật oanh liệt mới được.”

Sáu người nói chuyện khẳng khái hào hùng, mặt mày rạng rỡ. Viên Thừa Chí nhắc đến ba doanh thủ hạ của mình gồm sáu bảy ngàn nhân mã, đang đóng ở vùng Mã Cốc Sơn biên giới Trực Lệ Sơn Đông. Lý Nham mừng rỡ nói: “Ta từng nghe tiếng Kim Xà Doanh, nhưng không sao thám thính được danh tính của Kim Xà Vương, thì ra là hiền đệ. Để ta bẩm báo với Sấm Vương rõ ràng ba doanh này do đệ chỉ huy, thế thì binh lực chúng ta càng mạnh hơn.”

Lý Nham lại nói: “Quan quân đã thối nát lắm rồi, nghĩa binh bao vây chỗ nào là chỗ đó lập tức tan rã. Sấm quân thắng dễ như chẻ tre, nhưng trước mắt đang có một vấn đề nan giải.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Vấn đề gì thế?”

Lý Nham đáp: “Vừa rồi có tin cấp báo, nói là có mười khẩu Hồng Nhi đại pháo của Tây dương đang vận chuyển đến Đồng Quan, yểm trợ cho Tôn Truyền Đình. Sau khi lão họ Tôn đại bại, binh sĩ không còn tinh thần chiến đấu nữa, không thể làm khó dễ chúng ta. Nhưng oai lực của Hồng Nhi đại pháo thì không thể nào coi thường, một khẩu pháo bắn ra là sát thương mấy chục mạng ngay lập tức. Đó chính là việc chúng ta lo lắng.”

Viên Thừa Chí nói: “Mười khẩu đại pháo đó, tiểu đệ từng gặp dọc đường. Mới nhìn đã thấy đáng sợ, chắc là oai lực phi thường. Chẳng lẽ mười khẩu đại pháo này không phải vận chuyển đến Sơn Hải Quan để đánh bọn Mãn Châu hay sao?”

Lý Nham đáp: “Những khẩu đại pháo này từ vạn dặm xa xôi vận chuyển đến đây. Nghe nói, đáng lẽ chúng được đưa đến Sơn Hải Quan để đối phó với quân Mãn Châu. Nhưng Sấm Vương thắng hết trận này đến trận khác, nên triều đình đã thay đổi ý kiến. Bây giờ mười khẩu đại pháo đã chuyển hướng về phía tây, đi về phía Đồng Quan.”

Viên Thừa Chí chau mày nói: “Thì ra hoàng đế coi việc trấn áp bá tính còn quan trọng hơn kháng cự ngoại xâm. Đại ca! Theo đại ca thì phải làm gì?”

Lý Nham nói: “Nếu những khẩu đại pháo đến được Đồng Quan, khi chúng ta tấn công quan ải này chắc phải đem máu thịt mà chọi với hỏa khí. Tuy chưa chắc thua trận, nhưng nhất định tổn thương rất nhiều.”

Viên Thừa Chí nói: “Vậy chúng ta phải chặn dọc đường.”

Lý Nham xoa tay, mừng rỡ nói: “Đại công này phải phiền tới hiền đệ rồi.”

Viên Thừa Chí suy nghĩ một lúc rồi nói: “Hỏa khí của bọn lính Tây dương này thật là lợi hại, tiểu đệ đã thấy rồi. Muốn đoạt đại pháo, phải có mưu kế đặc biệt, thành công hay không thì bây giờ khó nói. Nhưng việc này liên quan đến khí số cả thiên hạ, tiểu đệ nhất định sẽ tận lực. Nếu dựa vào thần oai của Sấm Vương mà ra tay thành công, đó là phước của muôn dân.”

Mọi người nói chuyện một hồi về quân lữ, rồi Viên Thừa Chí hỏi đến phu nhân của Lý Nham. Lý Nham đáp: “Bà ấy ở Hà Nam, vẫn thường nhắc đến hiền đệ.”

An đại nương nói xen vào: “Phu nhân của Lý tướng quân đúng là nữ trung hào kiệt. Thừa Chí, con đã có ý trung nhân chưa?”

Viên Thừa Chí chợt nghĩ đến Thanh Thanh, đỏ mặt mỉm cười không đáp. An đại nương thở dài nói: “Nhân tài như con, không biết cô nương nhà nào có phước đây?”

Đột nhiên bà nhớ đến Tiểu Huệ. Tiểu Huệ cùng Viên Thừa Chí là bạn thanh mai trúc mã, cùng chung hoạn nạn từ hồi nhỏ. Nếu chàng có thể là con rể của mình, thì coi như chuyện chung thân của Tiểu Huệ có nơi có chốn. Nhưng Tiểu Huệ lại thân thiết với tên Thôi Hy Mẫn ngơ ngơ ngáo ngáo rồi! Chuyện này phải có duyên mới được.

Ba người Điền, Lưu, Hầu nghe họ nhắc đến chuyện riêng, không thể nói xen vào, bèn đứng dậy cáo từ. Hầu Phi Vân nói: “Minh chủ! Sáng sớm mai tại hạ sẽ dẫn anh em bản bộ đến nghe lệnh.”

Viên Thừa Chí đáp: “Hay lắm.” Hầu Phi Vân hỏi địa điểm gặp nhau, rồi ba người cáo từ rời khỏi đó.

Lý Nham và Viên Thừa Chí ngồi đàm luận tình hình thiên hạ cả một đêm dài, càng nói càng tâm đầu ý hợp. Viên Thừa Chí hiểu biết về quốc gia hưng suy, thế cuộc biến hóa có phần nông cạn, mỗi câu nói của Lý Nham đều khiến chàng tăng thêm phần kiến thức. Mãi đến khi trời sáng hẳn, gà đã gáy ba lần, hai người vẫn chưa hết hứng thú.

Quay lại nhìn An đại nương, chợt thấy bà đang chống tay dưới cằm, ngẩn ngơ nhìn người chồng đang nằm dưới đất, im lặng xuất thần. Lý Nham khẽ gọi: “An đại nương!”

An đại nương ngẩng đầu lên. Lý Nham hỏi: “Người này xử lý như thế nào?”

Lúc này lòng dạ An đại nương trăm mối ngổn ngang, lắc đầu không đáp. Lý Nham biết bà khó mà quyết đoán, không muốn xen vào việc đó nữa. Ông nói với Viên Thừa Chí: “Hiền đệ, chúng ta tạm biệt ở đây.”

Viên Thừa Chí nói: “Để tiểu đệ tiễn đại ca một đoạn.”

Hai người cáo biệt An đại nương, dắt tay nhau bước ra đường. Vệ sĩ của Lý Nham xa xa đi theo. Hai người vừa đi vừa nói chuyện, được bảy tám dặm đường thì Lý Nham bảo: “Hiền đệ về đi.”

Viên Thừa Chí chưa nỡ chia tay người anh kết nghĩa. Lý Nham lại nói: “Hiền đệ! Sau khi đại nghiệp của Sấm Vương thành công, ta sẽ cùng hiền đệ ẩn cư vào nơi rừng núi, uống rượu nói chuyện làm vui. Ngày tháng sau này còn dài lắm.”

Viên Thừa Chí hân hoan nói: “Nếu được như thế, tiểu đệ coi như toại nguyện.”

Hai người chia tay tại đó.

Viên Thừa Chí đưa mắt nhìn nghĩa huynh lên ngựa, chờ đám bụi mù khuất hẳn đằng xa mới quay về khách sạn. Hầu Phi Vân đã dẫn mấy chục hán tử tráng kiện chờ trong khách sạn, đứng đầy cả đại sảnh lẫn mấy khu vườn xung quanh. Thanh Thanh, ông câm, Hồng Thắng Hải lại không có ở đó. A Cửu cùng đám tùy tùng nhìn thấy nhiều đại hán thô lỗ như vậy, cứ ở yên trong phòng không bước ra ngoài.

Viên Thừa Chí bảo Hầu Phi Vân: “Hầu huynh! Huynh dẫn mấy huynh đệ đi về hướng tây nam, xem đội lính Tây dương kia mang đại pháo đi về hướng bắc hay quay lại hướng tây. Xem rõ rồi lập tức quay về cho ta biết.” Hầu Phi Vân nhận lệnh, chọn ba người khỏe mạnh rồi ra khỏi khách sạn lên ngựa đi ngay.

Hầu Phi Vân vừa đi, Sa Thiên Quảng và Trình Thanh Trúc chạy vào trong khách sạn, mừng rỡ nói: “À, Viên tướng công về rồi.”

Viên Thừa Chí chưa kịp trả lời thì thấy Thanh Thanh, ông câm, Hồng Thắng Hải đi vào trong sảnh. Bộ tóc mượt mà của Thanh Thanh bị gió thổi rối bù, mặt đỏ bừng. Vừa nhìn thấy Viên Thừa Chí là nàng lộ vẻ hân hoan ngay, cất tiếng hỏi: “Sao đến bây giờ mới quay lại?”

Viên Thừa Chí biết mọi người không yên tâm, chia nhau đi đón mình, bèn kể lại những chuyện đêm qua. Thanh Thanh cúi mặt nhìn xuống, không nói tiếng nào. Viên Thừa Chí thấy thần sắc nàng khác lạ, liền kéo qua một bên khẽ nói: “Ta bắt muội phải lo lắng rồi.”

Thanh Thanh xoay lưng lại chàng. Viên Thừa Chí biết nàng đang tức giận, nhưng vẫn cố nói: “Tiếc là Thanh đệ không gặp Lý đại ca của huynh. Huynh ấy cũng là đại ca của Thanh đệ rồi.” Tuy Thanh Thanh là nữ nhân, nhưng Viên Thừa Chí cứ thuận miệng gọi nàng là Thanh đệ.

Thanh Thanh giận dỗi nói: “Huynh không có lương tâm, ai cần ca ca làm gì nữa!”

Viên Thừa Chí nói: “Huynh thật sự xin lỗi, lần sau nhất định không để Thanh đệ phải lo lắng nữa.”

Thanh Thanh nói: “Lần sau đã có người khác lo lắng cho huynh rồi, cần gì muội phải lo lắng!”

Thừa Chí kinh ngạc hỏi: “Ai vậy?”

Thanh Thanh bĩu môi nói: “A Cửu chứ còn ai! Người đẹp không ngớt hỏi huynh đi đâu, lo lắng muôn phần.” Nàng dậm chân một cái, bỏ về phòng mình.

Đợi đến bữa trưa, không thấy nàng ra ngoài ăn cơm, Viên Thừa Chí bèn gọi tiểu nhị đưa thức ăn vào phòng cho nàng, đợi ăn cơm xong rồi vào tạ lỗi. Chàng nhớ lại sắc thái hoảng loạn của nàng khi nãy, trong lòng có phần cảm động. Nào ngờ tiểu nhị bưng thức ăn quay lại, nói: “Cô nương không có trong phòng.”

Viên Thừa Chí kinh hãi buông đũa, chạy vào phòng Thanh Thanh. Chẳng những phòng không có người, ngay cả binh khí và hành lý cũng không còn nữa. Chàng lo lắng nghĩ thầm: “Nàng đang tức giận như vậy, không biết sẽ đi đâu. Cô này thường gây chuyện không hay, thật sự khiến cho người ta không yên tâm được.”

Bây giờ chàng đang có việc lớn để lo, không thể đích thân đi tìm, bèn nhờ tới Hồng Thắng Hải. Chàng dặn Hồng Thắng Hải hễ gặp nàng thì khó khăn cách mấy cũng phải khuyên nàng quay lại.

Đợi đến xế chiều, Hầu Phi Vân cưỡi khoái mã quay về, vào cửa là nói ngay: “Quả nhiên bọn Tây dương đã rẽ sang hướng tây. Chúng ta nhanh chóng đuổi theo!”

Viên Thừa Chí lập tức đứng dậy, phân công ông câm ở lại khách sạn canh giữ rương sắt, còn mình dẫn bốn người Trình, Sa, Hồ, Thiết, cùng Hầu Phi Vân và quần hào Hà Bắc suốt đêm chạy về hướng tây nam, đoán là những khẩu đại pháo không thể đi nhanh, nhất định sẽ đuổi kịp. Đến sáng sớm ngày thứ ba, đoàn người Viên Thừa Chí đi ngang một thị trấn nhỏ, nhìn thấy mười khẩu đại pháo đó xếp một dãy bên ngoài khách sạn, bên cạnh có sáu tên lính Tây dương cầm súng canh giữ.

Mọi người mừng rỡ nhìn nhau mỉm cười. Thiết La Hán la lên: “Đói bụng rồi, đói bụng rồi!”

Viên Thừa Chí nói: “Được! Chúng ta vào gặp lại hai võ quan Tây dương kia.”

Mọi người vào phạn điếm. Thiết La Hán đi đầu, vừa lên lầu bỗng kinh hãi la lên. Y thấy mấy tên lính Tây dương đang cầm súng nhắm vào Thanh Thanh, ngón tay đã đặt vào cò súng. Trên đó còn có hai võ quan Bỉ Đắc, Lôi Mông và cô gái Tây dương Nhược Khắc Lâm.

Lôi Mông thấy mọi người đi lên, bèn xì xồ ra lệnh mấy tiếng. Lại thêm mấy tên lính Tây dương đưa súng lên nhắm vào quần hào. Trong lúc gấp rút Viên Thừa Chí nảy ra một ý, bèn xách một cái bàn quăng lẹ vào bọn lính Tây dương, rồi bay người tới đưa tay nắm vai Thanh Thanh ấn xuống. Hai người cúi rạp xuống, một đợt khói mù khét lẹt xộc vào mũi. Khi loạt đạn đó bắn ra, những viên đạn chì ghim hết vào mặt bàn.

Viên Thừa Chí sợ hỏa khí Tây dương lợi hại, vội la lên: “Mọi người mau xuống lầu!” Rồi chàng kéo Thanh Thanh theo mọi người nhảy xuống.

Lôi Mông cả giận, đưa súng ngắn bắn ra một phát. Thiết La Hán “úi chà” một tiếng, dưới mông bị một viên chì bắn trúng, té nhào xống đất. Sa Thiên Quảng vội tới dìu y dậy, rồi mọi người lên ngựa chạy về hướng nam.

Lúc này hỏa khí của Tây dương sử dụng chưa được tiện lợi, cứ bắn xong một phát lại phải nạp thêm thuốc súng và những viên chì. Bọn lính Tây dương bắn một phát không trúng, nạp xong thuốc súng để chuẩn bị bắn phát thứ hai thì mọi người đã chạy xa rồi.

Viên Thừa Chí và Thanh Thanh cỡi chung một con ngựa. Vừa chạy Viên Thừa Chí vừa hỏi: “Sao lại cãi nhau với bọn lính Tây dương?”

Thanh Thanh đáp: “Đệ có biết đâu!”

Viên Thừa Chí thấy thần sắc nàng vẫn tươi tỉnh yểu điệu, nhưng có vẻ không muốn nói thật. Chàng biết chắc nàng có gì muốn giấu, nên chỉ mỉm cười một cái không nói gì. Ba ngày nay, ngày nào đêm nào cũng mong nhớ, bây giờ gặp lại nhau vui vẻ vô cùng.

Chạy hơn hai mươi dặm thì đến một thị trấn, mọi người xuống ngựa ăn cơm. Hồ Quế Nam dùng dao nhỏ khều lấy viên chì ghim ở mông Thiết La Hán ra, y đau quá kêu la ầm ĩ.

Thanh Thanh kéo Viên Thừa Chí đến ngồi ở một cái bàn phía tây, khẽ nói: “Ai bảo con mụ ấy trang điểm giống như yêu quái, ngay cả cánh tay cũng để lộ ra ngoài. Thật là không biết xấu hổ.”

Viên Thừa Chí không hiểu gì cả, hỏi lại: “Muội nói ai?”

Thanh Thanh đáp: “Nữ nhân Tây dương kia chứ còn ai!”

Viên Thừa Chí hỏi: “Cô ấy làm phiền gì tới Thanh đệ?”

Thanh Thanh mỉm cười đáp: “Muội nhìn không quen mắt, nên dùng hai đồng tiền đánh rơi cặp hoa tai của cô ấy.”

Viên Thừa Chí cười nói: “Trời ơi, Thanh đệ ẩu tả quá. Sau đó thế nào?”

Thanh Thanh nói: “Tên võ quan Tây dương tỉ kiếm thua muội lần trước kêu bọn lính chĩa súng nhắm vào muội. Muội nghe không hiểu, đoán là hắn muốn tỉ kiếm báo thù, nên không nói gì, nghĩ bụng: Muốn tỉ kiếm thì tỉ kiếm, chẳng lẽ ta sợ ngươi? Đúng lúc đó thì huynh đến.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Tại sao muội một mình bỏ đi?”

Thanh Thanh đang cười nói vui vẻ, vừa nghe câu này bỗng xịu mặt xuống, hỏi lại: “Huynh lại còn hỏi muội! Chuyện chính mình làm, mình lại không biết ư?”

Viên Thừa Chí nói: “Ta không biết thật mà. Ta đắc tội với Thanh đệ chuyện gì thế?”

Thanh Thanh nói: “Huynh cả đêm không về khách sạn, nhất định là hẹn hò với cô A Cửu xinh đẹp rồi. Đêm đó hai người vui vẻ ở đâu vậy?”

Viên Thừa Chí mắng: “Vui vẻ cái đầu muội!”

Thanh Thanh đưa tay ra toan tát, Viên Thừa Chí túm được rồi kề môi hôn nhẹ lên lưng bàn tay. Thanh Thanh phì cười rồi cựa quậy rút tay về.

Viên Thừa Chí nói: “Đúng là đêm đó ta ở cạnh một nữ nhân, nhưng tuổi tác bà ấy so với bà nội của A Cửu chắc không chênh lệch lắm.”

Thanh Thanh hỏi: “Ai vậy?”

Viên Thừa Chí đáp: “Đó là An thẩm thẩm, mẫu thân của An Tiểu Huệ. Nhưng An Tiểu Huệ không có ở đó.”

Thanh Thanh mỉm cười nói: “Đồ vô dụng! Thì ra người đẹp không đếm xỉa đến huynh, huynh phải đi tìm bà lão.”

Viên Thừa Chí biết, nếu kể tiếp về An đại nương thì Thanh Thanh nhất định tiếp tục không vui, bèn đổi đề tài: “Hỏa khí của bọn Tây dương lợi hại thật. Muội nghĩ xem, mình phải dùng cách gì mới cướp được những khẩu đại pháo của chúng?”

Thanh Thanh gắt gỏng: “Ai thèm nói chuyện với huynh?”

Viên Thừa Chí nói: “Được! Thế thì ta đi bàn bạc với Sa Thiên Quảng.” Nói xong chàng đứng dậy đi ngay.

Thanh Thanh vội đưa tay ra túm lấy vạt áo chàng, la lên: “Không cho huynh đi!”

Nàng nói chưa dứt câu, Thừa Chí đã mỉm cười ngồi xuống. Hồi lâu, Thanh Thanh cất tiếng hỏi: “Tiểu Huệ muội muội của huynh đâu rồi?”

Thừa Chí đáp: “Từ lúc chia tay vẫn chưa gặp lại. Không biết cô ấy ở đâu.”

Thanh Thanh hỏi: “Huynh nói chuyện suốt đêm với mẹ cô ấy, không nỡ chia tay, nhất định là nói về cô ấy chứ gì?”

Viên Thừa Chí đã hiểu, thì ra nàng tức giận vì vấn đề này. Chàng bèn thành khẩn nói: “Thanh đệ! Tấm lòng của ta đối với muội, chẳng lẽ muội còn chưa hiểu?”

Khuôn mặt Thanh Thanh đỏ ửng lên, từ từ quay đi. Viên Thừa Chí lại mỉm cười nói: “Từ nay về sau, ta vĩnh viễn không rời Thanh đệ nữa. Thanh đệ hãy yên tâm.”

Thanh Thanh hỏi: “Thế thì tại sao mỗi khi huynh gặp cô A Cửu đó là cặp mắt của hai người đều chứa chan tình cảm? Huynh nhìn cô ấy, cô ấy cũng nhìn huynh, cứ như hai bên đều mong muốn vĩnh viễn không phải phân ly. Huynh thích nhìn cô ấy, là vì cô ấy xinh đẹp. Muội cũng thích nhìn, chuyện này không thể trách huynh được. Nhưng sao cô ấy cứ nhìn huynh hoài? Chẳng lẽ huynh tuấn tú lắm sao?”

Viên Thừa Chí gắng gượng cãi: “Làm gì có chuyện đó? Thanh đệ cứ nhắm mắt nói bừa, vu oan người khác.”

Thanh Thanh nói rất nhỏ: “Thế thì tại sao huynh… huynh tốt với Tiểu Huệ muội muội?”

Thừa Chí đáp: “Hồi nhỏ huynh được mẫu thân cô ấy đối đãi rất tốt, coi như con ruột vậy, dĩ nhiên huynh phải cảm kích. Hơn nữa, Thanh đệ không thấy Tiểu Huệ có tình cảm với sư điệt của ta hay sao?”

Thanh Thanh bĩu môi nói: “Huynh nói thằng lỏi họ Thôi ấy à? Hắn vừa ngu ngốc vừa không có bản lãnh, lại rất xấu trai, làm sao cô ấy thích được?”

Thừa Chí mỉm cười nói: “Người thích rau xanh người thích củ cải, ai cũng có sở thích riêng. Thằng lỏi họ Viên này vừa ngu ngốc vừa không có bản lãnh, lại rất xấu trai, tại sao Thanh đệ lại thích?”

Thanh Thanh phì cười rồi nói: “Thật là không biết xấu hổ! Ai thèm thích huynh?”

Cãi nhau sơ sơ một trận, hai người lại hòa thuận như cũ. Thừa Chí bảo: “Thôi, ăn cơm đi.”

Thanh Thanh nói: “Muội còn một câu muốn hỏi. Huynh nói đi, tiểu cô nương A Cửu có xinh đẹp hay không?”

Thừa Chí đáp: “Cô ấy xinh đẹp hay không, chẳng liên quan gì đến ta. Người này hành tung vừa kỳ lạ vừa bí mật, chúng ta phải cẩn thận đề phòng.” Chàng nghĩ bụng: “Cô ấy dẫn theo một số thị vệ trong triều đình, không biết vai vế thế nào. Nếu không phải hoàng thân quốc thích, chắc chắn cũng là quyến thuộc của bọn đại quan.” Chàng không khỏi ủ rũ, trong lòng khó chịu.

Thanh Thanh khẽ gật đầu, rồi hai người quay lại bàn của quần hào, ngồi xuống ăn cơm. Viên Thừa Chí bàn bạc với Sa Thiên Quảng, Trình Thanh Trúc, tìm cách cướp lấy đại pháo.

Hồ Quế Nam nói: “Đêm nay để tại hạ đi thám thính, thừa cơ lấy trộm mấy khẩu súng. Hôm nay mấy khẩu, ngày mai mấy khẩu, từ từ ăn cắp hết súng ống của chúng thì chúng không còn đáng sợ nữa.”

Viên Thừa Chí khen: “Kế ấy rất hay. Để tại hạ cùng đi với huynh.”

Sa Thiên Quảng nói: “Minh chủ hà tất đích thân xuất mã, để Hồ lão đệ đi một mình là được.”

Viên Thừa Chí nói: “Tại hạ muốn xem rõ cách sử dụng hỏa khí của bọn Tây dương. Khi lấy được súng, chúng ta có thể dùng gậy ông đập lưng ông.”

Mọi người cùng gật đầu khen phải. Thanh Thanh mỉm cười nói thêm: “Huynh ấy còn muốn nhìn trộm người đẹp Tây dương một chút.”

Quần hào cười ha hả.

Chiều hôm đó, Viên Thừa Chí cùng Hồ Quế Nam quay ngựa đi ngược lại, từ xa theo dõi lính Tây dương, đợi xem chúng trú lại khách sạn nào. Đợi đến canh ba, hai người vượt tường vào trong khách sạn. Vừa nhảy xuống sân, đã nghe tiếng binh khí chạm nhau loảng xoảng, từ một căn phòng vọng ra ngoài không dứt.

Hai người nấp sau cửa sổ, theo khe cửa nhìn vào, thấy hai võ quan Tây dương đang cầm trường kiếm đấu nhau kịch liệt. Viên Thừa Chí không ngờ hai tên này là đồng bọn mà đánh nhau như thế, bèn im lặng ngồi yên, theo dõi hai người tỉ đấu. Xem được mấy chục chiêu, chàng thấy Lôi Mông tấn công ráo riết, kiếm pháp ác độc còn Bỉ Đắc thì bình tĩnh lạ thường, thủ nhiều công ít, nhưng mỗi khi phản đòn đều rất lợi hại. Viên Thừa Chí biết, thời gian kéo dài thì tên võ quan lớn tuổi hơn chắc chắn phải thua.

Quả nhiên tỉ đấu hồi lâu, Bỉ Đắc xoay kiếm đâm sang bên trái. Nhân lúc thanh kiếm của đối phương chưa rút về ngay được, y đột nhiên đâm thẳng tới. Lôi Mông vội vàng thu kiếm lại cản trở, thân kiếm bị lệch đi, không có thế để cầm chắc. Bỉ Đắc lập tức từ dưới vung kiếm hất mạnh lên, trường kiếm của Lôi Mông tuột ngay khỏi tay.

Bỉ Đắc bước lên, dùng chân đạp cứng thanh kiếm đó xuống đất, chĩa mũi kiếm vào giữa ngực đối phương, nói xì xồ mấy câu gì đó. Lôi Mông tức đến run cả người, lầm bầm chửi mắng. Bỉ Đắc nhặt thanh kiếm lên đặt trên bàn, rồi quay người mở cửa đi ra.

Lôi Mông cầm kiếm, vừa chửi vừa chém ngang chém dọc trong phòng. Đột nhiên hắn dừng tay lại, cười rạng rỡ, mở cửa ra ngoài lấy vào một cây xẻng sắt, bắt đầu đào dưới nền nhà. Viên Thừa Chí và Hồ Quế Nam lại càng tò mò hơn, chờ xem hắn định chôn giấu thứ gì.

Hắn đào một cái lỗ vuông chừng hai thước, đất đá bới lên đều hất vào gầm giường. Đào sâu khoảng hai thước hắn mới dừng tay, xé một miếng chăn đậy lên miệng lỗ, dùng đất đá nén chặt quanh mép chăn, cuối cùng rải một lớp đất mỏng lên trên để ngụy trang. Hắn cười nhạt mấy tiếng, mở cửa bước ra ngoài.

Viên Thừa Chí và Hồ Quế Nam không hiểu hắn định làm gì, chắc là chuẩn bị thi triển yêu pháp gì đó của Tây dương.

Lát sau Lôi Mông lại vào phòng, Bỉ Đắc theo sau. Lôi Mông nói gì đó ra vẻ giận dữ, còn Bỉ Đắc cứ lắc đầu quầy quậy. Đột nhiên nghe “bốp” một tiếng, Lôi Mông vung tay tát đối phương một phát. Bỉ Đắc nổi giận tuốt kiếm ra khỏi vỏ, hai người tiếp tục tỉ đấu. Lôi Mông không ngừng di chuyển bước chân, từ từ dụ Bỉ Đắc tới bên miệng hố.

Bây giờ Viên Thừa Chí mới hiểu rõ. Thì ra tên này đánh không lại, bèn âm thầm cài bẫy. Hắn xử sự nham hiểm như thế, rõ ràng không thể không giết đối phương. Viên Thừa Chí đối với cả hai vốn không có thiện cảm, nhưng bây giờ thấy Lôi Mông mưu đồ xảo trá, bất giác nổi lòng hiệp nghĩa.

Lôi Mông liên tiếp đâm thẳng mấy kiếm, đều bị Bỉ Đắc đỡ gạt. Khi Bỉ Đắc vung kiếm phản công, Lôi Mông bèn lùi hai bước. Chân phải Bỉ Đắc bước theo, đạp trúng vào miệng hố. Y la lên một tiếng, té nhào xuống. Lôi Mông chĩa mũi kiếm xuống, định đâm vào lưng đối thủ.

Viên Thừa Chí đã chuẩn bị sẵn rồi, vội xô cửa sổ nhảy vào. Thanh Kim Xà Kiếm đưa ra, lưỡi rắn trên đầu kiếm móc lấy sống kiếm của Lôi Mông kéo ngược ra sau. Bỉ Đắc thoát được đại nạn, lập tức nhảy lên, nhưng chân phải đã trật khớp.

Lôi Mông thấy chuyện đã hỏng, vừa kinh hãi vừa giận dữ vung kiếm đâm tới Viên Thừa Chí. Chàng cười lạnh, cầm Kim Xà Kiếm vẫy trái vẫy phải. Nghe những tiếng keng keng không dứt, thanh kiếm của Lôi Mông bị Kim Xà Kiếm chặt đứt từng tấc một, trong chốc lát chỉ còn lại một đoạn ngắn ngủn. Lôi Mông đứng ngẩn người ra.

Viên Thừa Chí vọt đến nắm lấy cổ tay hắn, thuận tay nhấc bổng lên, chân trên đầu dưới quẳng hắn vào trong cái hố chính tay hắn đào ở trong phòng, rồi vừa cười ha hả vừa nhảy ra ngoài cửa sổ.

Hồ Quế Nam từ phía sau chạy tới, cười nói: “Viên tướng công xem này.” Y đưa tay lên, trong tay đang cầm ba khẩu súng ngắn.

Viên Thừa Chí ngạc nhiên hỏi: “Huynh lấy ở đâu ra thế?”

Hồ Quế Nam chỉ vào trong cửa sổ. Thì ra lúc Viên Thừa Chí xuất thủ cứu người, Hồ Quế Nam cũng vào trong đó, thừa lúc lộn xộn mà đánh cắp ba khẩu súng ngắn của bọn võ quan Tây dương.

Viên Thừa Chí mỉm cười khen: “Thật không hổ danh Thánh Thủ Thần Thâu.”

Hai người chạy lẹ về, tụ họp với quần hào. Thanh Thanh lấy một khẩu súng cầm chơi, vô ý ấn vào cò súng. Lập tức nghe tiếng nổ “đoàng”, khói mù mịt xung quanh. Sa Thiên Quảng ngồi đối diện nàng, rất may là tay chân nhanh nhẹn nên rụt đầu xuống tránh được. Cả nón lẫn khăn quấn trên đầu đều bị bắn rơi, mặt y vương đầy khói súng.

Thanh Thanh vô cùng kinh hãi, luôn miệng xin lỗi. Sa Thiên Quảng le lưỡi ra nói: “Lợi hại quá!”

Mọi người xem xét tỉ mỉ hai khẩu súng ngắn kia, thấy trong nòng súng nhồi đầy thuốc súng và đạn chì. Trình Thanh Trúc nói: “Thuốc súng vốn là phát minh của Trung Quốc, nhưng chúng ta chỉ dùng làm pháo để đốt hay pháo hoa để bắn chơi. Người Tây dương học được, lại dùng thuốc súng để giết người. Đội lính Tây dương này có hơn trăm tên, nếu hơn trăm cây súng đồng loạt bắn ra thì không phải chuyện đùa.”

Mọi người đều cảm thấy hỏa khí của bọn Tây dương lợi hại, không thể dùng võ công mà đối địch, nên nhất thời đều im lặng để suy nghĩ cách đối phó.

Hồ Quế Nam lên tiếng: “Viên tướng công! Tại hạ có một quỷ kế, có thể dựng tuồng trên sân khấu, nhưng không biết có dùng được hay không.”

Thiết La Hán cười nói: “Hình như tên ăn trộm này chẳng có ý kiến nào đàng hoàng cả.”

Viên Thừa Chí nói: “Hồ huynh cứ nói thử xem.”

Hồ Quế Nam mỉm cười nói ra. Thanh Thanh là người đầu tiên vỗ tay khen ngợi, Sa Thiên Quảng cùng mọi người đều tán dương là diệu kế. Viên Thừa Chí suy nghĩ kỹ lưỡng, cảm thấy mưu kế này có thể thực hiện được, bèn hạ lệnh chia nhau bố trí.

*

*   *

Cô gái Tây dương Nhược Khắc Lâm có phụ thân là đại quan Bồ Đào Nha đồn trú tại Ma Cao, vừa chết năm ngoái. Lần này nàng theo chiếc thuyền vận chuyển đại pháo đến Trung Quốc, lại theo đội quân áp tải đại pháo lên phía bắc, khi đến Thiên Tân sẽ lên thuyền về nước.

Bỉ Đắc là thuộc hạ của phụ thân Nhược Khắc Lâm, đã thầm yêu nàng từ lâu rồi. Còn Lôi Mông mới từ Bồ Đào Nha đến, thấy người đẹp muốn ra tay đoạt lấy. Hắn cấp bậc cao hơn, lại tự cho mình phong lưu, nhưng nghĩ mãi không biết phải ra tay như thế nào. Trong lúc giận dữ, hắn khiêu chiến với tình địch, tỉ kiếm bị thua nên mới sử dụng quỷ kế, không ngờ quỷ kế sắp thành lại bị Viên Thừa Chí nhảy vào phá đám. Bỉ Đắc coi hắn là thượng cấp nên không dám làm gì, chỉ biết đề phòng nghiêm ngặt hơn.

Một hôm đến một thôn trang lớn, gọi là thôn Phàn Công. Bọn lính Tây dương nghỉ lại ở từ đường nhà họ Vạn trong thôn trang này. Đến giữa đêm đột nhiên nghe thấy tiếng người ồn ào, rồi tên lính Tây dương canh gác chạy vào hô lớn: “Trong thôn có đám cháy!”

Lôi Mông và Bỉ Đắc nhảy chồm dậy, thấy lửa cháy rất gần, bèn hạ lệnh cho quân lính khiêng thuốc súng ra khỏi từ đường, để ở chỗ trống. Trong lúc hỗn loạn, bỗng thấy dân làng xách nước đến cứu hỏa. Mấy chục đại hán xông vào trong từ đường, tưới nước khắp nơi.

Lôi Mông quát hỏi nguyên nhân, đám dân làng bèn nói với tên phiên dịch Tiền Thông Tứ: “Đây là từ đường tổ tiên bọn tiểu nhân, phải tạt nước trước để đề phòng ngọn lửa bén sang.”

Lôi Mông nghe có lý, nên không can thiệp. Nào ngờ dân làng tiện tay vẩy nước loạn xạ, tạt bừa lên cả những thùng thuốc súng. Bọn lính Tây dương dùng báng súng đánh đuổi, nhưng đuổi người này đi người khác lại tới. Thời gian chưa ăn xong bữa cơm, trong ngoài từ đường đều ướt sũng, kể cả những thùng thuốc súng cùng đại pháo. Lúc này thế lửa đã dần dần hạ xuống.

Đợt lộn xộn này kéo dài đến sáng. Lôi Mông và Bỉ Đắc thấy hành động của đám dân làng này khác lạ, thuốc súng của mình ướt hết, dường như súng ống cũng mất nhiều, bèn nghĩ: “Nơi này có phần cổ quái, nhanh chóng rời khỏi thì hay hơn”.

Chúng định hạ lệnh khởi hành, bỗng một tên lính chạy vào báo: “Trong lúc hoảng loạn đêm qua, đám ngựa kéo xe kéo pháo đã chạy trốn sạch.”

Lôi Mông vung roi ngựa quất loạn lên, mắng chửi bọn lính không cẩn thận. Hắn hạ lệnh cho Tiền Thông Tứ dẫn lính Tây dương ra ngoài tìm lừa ngựa. Không ngờ trong cái thôn khá lớn này không có một con lừa hay ngựa nào. Chắc chắn dân làng đã biết tin, đem giấu hết rồi.

Thế này thì không sao khởi hành được. Lôi Mông đành sai Tiền Thông Tứ dẫn Bỉ Đắc đến thị trấn phía trước để tìm mua lừa ngựa.

Lôi Mông ở lại, chỉ huy quân sĩ mở thùng thuốc súng đổ ra phơi. Phơi đến xế chiều thì thuốc súng đã khô. Binh lính đang định gom lại vào trong thùng, đột nhiên từ nhà bên cạnh có mấy chục ngọn đuốc quăng ra, rơi vào giữa chỗ thuốc súng đang phơi.

Ngọn lửa lập tức bốc lên, cao thấu trời xanh. Bọn lính Tây dương hoảng sợ đến nỗi hồn phi phách tán, giẫm đạp lên nhau mà chạy trốn. Lôi Mông phải luôn mồm quát tháo chúng mới tập hợp lại được, rồi lấy súng ra bắn ầm ầm vào ngôi nhà đó. Trong khói súng mịt mù, mấy chục đại hán chuồn vào trong rừng rồi mất hút.

Lôi Mông kiểm điểm lại, thấy thuốc súng đã cháy mất tám chín phần mười, súng cũng bị mất chừng một nửa. Hắn vô cùng ủ rũ.

Đến chiều ngày thứ ba, Bỉ Đắc mới dẫn về được mấy chục con lừa ngựa để kéo pháo.

Sau bốn năm ngày đường, hôm đó đoàn lừa ngựa kéo pháo đến một eo núi hẹp, dẫn xuống thung lũng. Trước mắt là đoạn đường dốc rất đứng. Lôi Mông và Bỉ Đắc chỉ huy binh sĩ, mười mấy tên phụ trách một khẩu đại pháo, dùng dây lớn cột chắc để kéo ghịt lại, đề phòng đại pháo rơi xuống vực.

Càng xuống càng thấy nguy hiểm hơn. Trong lúc cả bọn đang lo lắng, dồn hết sức để kéo đại pháo, đột nhiên xung quanh eo núi rít lên những tiếng veo véo, mấy chục mũi tên bắn ra ngoài.

Mười mấy tên lính Tây dương lập tức trúng tên, lại còn mười mấy mũi ghim trúng vào thân lừa ngựa. Lừa ngựa bị đau, nhảy cẫng lên chạy gấp xuống dưới, làm sao bọn lính Tây dương ghìm lại nổi? Mười mấy khẩu pháo, mỗi khẩu nặng hơn ngàn cân, tuôn ào ào xuống dốc, khí thế không sao cản được. Họa vô đơn chí, dọc đường lại bất ngờ xuất hiện rất nhiều ổ gà và hầm hố, một số lừa ngựa rơi xuống hố.

Nghe tiếng lăn ầm ầm, hai khẩu đại pháo đi sau cùng đã mất điều khiển, đổ nhào xuống, ép mấy tên lính Tây dương nát ra thành tương. Tám khẩu đại pháo phía trước cũng lập tức bị hai khẩu đại pháo này đẩy nhào xuống.

Quân lính không còn tâm trí đâu mà chống địch nữa, phải lo chạy trốn sang hai bên đường. Có tên không còn đường để chạy, khi thấy đại pháo nhằm thẳng mình xô tới, đành phải nhảy sang một bên tránh né, rơi xuống vực sâu.

Mười khẩu đại pháo vừa chạy vừa lăn, càng xuống phía dưới càng nhanh thêm. Đám lừa ngựa phía dưới chạy trốn không kịp, chẳng bao lâu đã bị cán cho thịt xương tan nát. Hồi lâu vang lên những tiếng ầm ầm điếc tai, cả mười khẩu đại pháo đã rơi xuống thung lũng.

Khi Lôi Mông và Bỉ Đắc hơi định thần lại, quay sang nhìn Nhược Khắc Lâm thì thấy nàng đã hoảng sợ ngất đi rồi. Hai người vực nàng dậy, rồi chỉ huy binh lính nằm xuống chống địch. Nhưng địch thủ đã khoét sẵn những hố sâu hai bên sườn núi, dùng vách núi làm lá chắn, súng đạn bắn tới không làm rụng mất của họ sợi lông nào. Còn bọn lính Tây dương thì phơi mình ra làm đích cho tên bắn, lát sau mới khoét được một đường hào mà nấp.

Trận chiến đã xảy ra hơn hai giờ, quân Tây dương vẫn không phá nổi vòng vây. Lôi Mông nói: “Thuốc súng quân ta không đủ dùng, bây giờ chỉ còn cách xung phong cận chiến.”

Bỉ Đắc nói: “Đại tá thử sai Tiền Thông Tứ qua đó, hỏi xem bọn thổ phỉ này muốn gì.”

Lôi Mông giận dữ nói: “Sao phải nói chuyện với bọn thổ phỉ? Ngươi không dám, để ta xung phong.”

Bỉ Đắc nói: “Cung tiễn của thổ phỉ rất lợi hại, không cần dũng cảm vô ích.”

Lôi Mông nhìn Nhược Khắc Lâm một cái, giận dữ nhổ một bãi nước bọt, mắng luôn: “Thằng hèn!”

Bỉ Đắc tức giận đến nỗi mặt trắng bệch ra, rít qua kẽ răng: “Đợi đuổi xong bọn thổ phỉ, ta sẽ cho ngươi biết cái giá của sự vô lễ.”

Lôi Mông nhảy chồm dậy, hô lớn: “Ai là người dũng cảm thì theo ta!”

Bỉ Đắc kêu lên: “Đại tá Lôi Mông! Đại tá muốn chết hay sao?”

Bọn lính Tây dương biết chắc xông lên là chết, nên chẳng ai chịu theo chủ soái xung phong. Lôi Mông cầm kiếm vừa chạy vừa hò hét, nhưng mới vài bước đã bị một mũi tên bắn xuyên qua ngực, ngã xuống chết ngay.

Bỉ Đắc và bọn lính Tây dương nấp trong hào cố thủ, nhờ hỏa khí lợi hại nên địch thủ không dám ép tới gần. Chúng chống chọi như vậy một ngày một đêm, chỉ mong có quan binh đến cứu. Nhưng lúc này quan trường thối nát, muốn điều binh khiển tướng thì phải công văn qua lại, rồi thỉnh thị, rồi thương nghị đủ trò. Trong vòng mười ngày nửa tháng, chắc chắn không có tên lính nào được phái tới đây.

Đến xế chiều ngày thứ hai, bọn lính đã đói đến nỗi chóng mặt hoa mắt, đành phải dựng cờ trắng lên. Tiền Thông Tứ hô lớn: “Chúng ta đầu hàng rồi! Đại nhân Tây dương nói là đầu hàng rồi.”

Trên vách núi có người quát lên: “Ném hết súng ra ngoài!”

Bỉ Đắc nghe dịch xong liền hô: “Không được nộp súng!”

Chẳng hiểu đối phương có hiểu không, mà ngừng tấn công. Lát sau đột nhiên ngửi thấy mùi thơm rượu thịt, từng đợt từng đợt xông vào mũi bọn lính Tây dương. Chúng đã hai đêm một ngày chưa ăn uống gì, bây giờ không sao gượng được nữa, bèn quẳng súng đi rồi nhảy ra khỏi đường hào. Bỉ Đắc thấy mình thất thế, chỉ còn cách hạ lệnh nộp vũ khí đầu hàng.

Quân lính dồn hết súng ống lại một chỗ, rồi la lên đòi ăn uống. Hai bên sườn núi có tiếng hiệu lệnh vang lên, mấy trăm đại hán từ trong những hố đất đứng dậy, giương cung lắp tên nhằm thẳng bọn lính Tây dương. Vài người chậm rãi bước ra. Khi đến gần, Bỉ Đắc nhìn thấy rõ ràng người đi đầu chính là thiếu niên đã cứu mạng mình đêm trước, bên cạnh là thiếu nữ từng bị Lôi Mông bắn rơi khăn bịt tóc.

Nhược Khắc Lâm kêu lên: “À! Thì ra là nhóm người có ma thuật này.”

Bỉ Đắc gỡ thanh kiếm đang đeo ra, bước lên mấy bước, hai tay nâng lên giao cho Viên Thừa Chí tỏ ý đầu hàng. Y nghĩ bụng: “Người này từng có ơn với mình, thua dưới tay anh ta cũng đáng.”

Viên Thừa Chí ngẩn ra một chút, rồi cũng hiểu đây là ý chịu thua đầu hàng, bèn xua tay rồi bảo Tiền Thông Tứ: “Ngươi nói với y, lính Tây dương mang đại pháo đến đây, nếu để giúp Trung Quốc bảo vệ đất đai, chống đỡ ngoại xâm, thì chúng ta vô cùng cảm tạ, coi như bạn tốt.”

Tiền Thông Tứ theo lời mà dịch. Bỉ Đắc gật đầu lia lịa, đưa tay ra định bắt tay Viên Thừa Chí, nhưng Viên Thừa Chí lại nói: “Nhưng các ông đến Đồng Quan là để giúp hoàng đế giết dân chúng. Chuyện này chúng ta không cho phép.”

Bỉ Đắc ngạc nhiên hỏi: “Đi đánh dân chúng Trung Quốc ư? Sao tôi không biết chuyện đó?”

Viên Thừa Chí thấy vẻ mặt y thành khẩn, không có dấu hiệu dối trá, lại nói: “Dân chúng ở Trung Quốc rất cực khổ, không có cơm ăn, sắp chết đói cả rồi. Họ rất mong có người dẫn họ đi đánh hoàng đế, giúp họ thoát khỏi cảnh khổ này. Hoàng đế hoảng sợ, nhờ các ông đem đại pháo đi bắn chết dân chúng.”

Bỉ Đắc nói: “Tôi cũng xuất thân con nhà nghèo khó, thấu hiểu được nỗi khổ của người nghèo. Bây giờ tôi sẽ trở về nước.”

Viên Thừa Chí nói: “Thế thì hay lắm. Ông dẫn binh lính đi hết đi.”

Bỉ Đắc hạ lệnh triệu tập đội ngũ. Viên Thừa Chí bảo bộ hạ lấy rượu thịt ra, đãi quân lính Tây dương ăn no một bữa.

Bỉ Đắc đưa tay chào Viên Thừa Chí, rồi dẫn quân đi ngược về đường cũ. Viên Thừa Chí la lên: “Sao không mang súng đi luôn?”

Tiền Thông Tứ phiên dịch lại. Bỉ Đắc ngạc nhiên nói: “Đây là chiến lợi phẩm của các ông. Ông khoan hồng thả chúng tôi đi, không bắt chúng tôi đem tiền đến đây chuộc mạng, chúng tôi đã cảm tạ lắm rồi.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Ông đã làm mất những khẩu đại pháo, nếu không mang những cây súng này theo, khi trở về nhất định thượng cấp sẽ trách phạt nặng nề. Lấy đi đi!”

Bỉ Đắc hỏi: “Ông không sợ chúng tôi dùng súng bắn các ông hay sao?”

Viên Thừa Chí cười ha hả rồi nói: “Đại trượng phu nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Người Trung Quốc chúng ta coi trọng chữ tín. Đã coi ông là bạn, thì không nghi ngờ gì nữa.”

Bỉ Đắc đa tạ liên hồi, hạ lệnh cho binh sĩ nhận lại súng, xếp thành đội ngũ trở về. Y leo hết con dốc, càng nghĩ lại càng thán phục, bèn hạ lệnh cho binh lính ngồi nghỉ tại chỗ, rồi dẫn Tiền Thông Tứ quay lại.

Y lấy trong túi ra một gói vải, nói với Viên Thừa Chí: “Ông hào kiệt như thế, tôi có một vật muốn tặng.” Tiền Thông Tứ dịch câu này sang tiếng Hoa.

Viên Thừa Chí mở cái gói ra xem, thấy đó là một xấp giấy dày được xếp gọn gàng, trải ra xem thì ra là một tấm bản đồ. Dường như tấm bản đồ này vẽ một cái đảo giữa biển khơi, ghi chú rất nhiều chữ quanh co.

Bỉ Đắc nói: “Đây là một cái đảo lớn ở vùng biển phía nam. Trên đảo này khí hậu ấm áp, sản vật phong phú, giống như thiên đường vậy. Khi tôi đi biển, từng đến chỗ ấy.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Ông cho ta tấm bản đồ này để làm gì?”

Bỉ Đắc đáp: “Các ông ở đây cực khổ, chi bằng dẫn theo những người Trung Quốc không có cơm ăn đến đảo đó mà sinh sống.”

Viên Thừa Chí cười thầm, nghĩ bụng: “Người ngoại quốc này lòng dạ rất tốt, nhưng không biết Trung Quốc chúng ta rộng lớn, đông đúc chừng nào. Cả mấy trăm triệu người, cái đảo này lớn tới đâu cũng không đủ ở”. Chàng hỏi: “Trên đảo này không có người ở hay sao?”

Bỉ Đắc đáp: “Có lúc có bọn hải tặc Tây Ban Nha, có lúc không có. Anh hùng hảo hán như các ông, nhất định không sợ bọn hải tặc Tây Ban Nha đáng chết đó.”

Viên Thừa Chí thấy y rất chân thành, bèn đa tạ rồi cất giữ tấm bản đồ. Bỉ Đắc từ biệt trở về.

Tiền Thông Tứ theo về, nhưng vừa quay đi thì bị Thanh Thanh đưa tay ra xách lấy tai, quát lên: “Lần sau mà ta còn thấy ngươi tác oai tác quái, ăn hiếp đồng bào thì coi chừng cái mạng chó của ngươi đây!”

Tai của Tiền Thông Tứ bị xé rách ra, đau thấy ông bà ông vải nên liên tục van nài: “Tiểu nhân không dám, tiểu nhân không dám!”

Miệng hắn đã rớt hết răng cửa, nên nói ấm ớ nghe như: “Tiểu nhân không dám không dám, tiểu nhân không không dám”.

Viên Thừa Chí dẫn mấy người bò xuống đáy vực để xem. Họ thấy mười khẩu đại pháo va đụng vào nhau bể nát gãy vụn, không thể dùng được nữa, bèn xúc đất lấp lên.

Đại công đã thành, Viên Thừa Chí cùng quần hào say sưa vui vẻ nửa ngày rồi mới chia tay. Hôm sau chàng lại cùng ông câm, Hồng Thắng Hải… mang theo những rương sắt tiếp tục đi về hướng kinh sư.

Chiến dịch này Hồ Quế Nam góp công nhiều nhất. Diệu kế của y đã mang lại kết quả còn hơn cả mong muốn. Dọc đường mọi người tán tụng y không dứt, không ai dám coi thường y xuất thân trộm cắp nữa.

Thế là ba doanh bộ thuộc của Viên Thừa Chí vừa tham gia khởi nghĩa đã liên tiếp lập được kỳ công, danh tiếng Kim Xà Doanh lừng lẫy khắp nơi. Sau này Sấm quân tiến công Đồng Quan, Đốc sư Binh bộ thượng thư Tôn Truyền Đình của Thanh triều chết trận, đại tướng Cao Kiệt bỏ quan ải chạy về phía Tây An. Sấm quân phá Đồng Quan rồi mới đoạt Tây An, sau đó đánh chiếm Bắc Kinh. Công lao hủy pháo, làm suy yếu lực lượng của triều đình đúng là không nhỏ.

*

*   *

Suốt dọc đường lên kinh thành, đâu đâu cũng tàn tạ điêu linh, nơi nơi đều có dấu tích tàn sát cướp bóc của bọn lính Thanh. Thỉnh thoảng lại gặp lũ chó đói tha xác người đi gặm. Quần hùng thấy vậy đều nổi giận bừng bừng.

Sa Thiên Quảng nói: “Tiếc là hôm đó không giết được nguyên soái A Ba Thái của bọn Thát tử. Minh chủ! Chúng ta rượt theo để ám sát hắn, có được không?”

Thanh Thanh là người đầu tiên vỗ tay khen phải. Viên Thừa Chí suy nghĩ không trả lời ngay, nàng liền hỏi: “Đi giết nguyên soái Thát tử thì có gì không tốt? Lại khỏi phải nghe Tôn Trọng Thọ thúc thúc oán trách nữa.”

Viên Thừa Chí nói: “Đã ám sát bọn Thát tử to đầu, thì càng to đầu càng đáng giết. Chúng ta đi hành thích hoàng đế Hoàng Thái Cực của bọn Mãn Thanh quách!”

Mọi người ngẩn ra một chút, rồi lập tức hoan hô. Viên Thừa Chí hỏi tỉ mỉ Hồng Thắng Hải, tình hình kinh thành Mãn Thanh phòng bị như thế nào, làm sao vào được nội cung.

Hồng Thắng Hải đáp: “Kinh đô Mãn Thanh đang ở Thẩm Dương, bây giờ chúng gọi là Thịnh Kinh. Quy mô Thịnh Kinh rất đơn giản, không thể sánh với Bắc Kinh. Tiểu nhân trước đây từng làm sai dịch dưới tay Nhuệ thân vương Đa Nhĩ Cổn, còn giữ một tấm bài đeo lưng có thể đi thẳng vào vương phủ Nhuệ Thân Vương. Còn hoàng cung thì tiểu nhân chưa vào lần nào.”

Viên Thừa Chí bảo: “Bây giờ chúng ta đi Thịnh Kinh ngay, đến nơi sẽ thừa cơ hành sự.”

Quần hào đến Bắc Kinh ở phủ Thuận Thiên trước. Họ thuê một căn nhà, chôn những chiếc rương sắt dưới đất, để Trình Thanh Trúc cùng vài đầu mục đắc lực của Thanh Trúc Bang ở lại canh giữ. Viên Thừa Chí cùng những người còn lại ra khỏi kinh thành, tiến về phía bắc. Ra khỏi Sơn Hải Quan, đi chưa đầy một ngày đã đến Thịnh Kinh.

Mọi người trú trong một khách sạn nhỏ, bàn kế hoạch để vào cung. Hồng Thắng Hải nói: “Tướng công! Theo ý tiểu nhân thì xin tướng công ủy khúc một chút, giả làm đồng bọn của tiểu nhân để gặp Đa Nhĩ Cổn trước. Hắn là em trai ruột của Thát tử hoàng đế. Trong các vị vương gia thì hắn được sủng ái nhất, quyền lực lớn nhất. Không chừng chúng ta có thể dụ hắn dẫn vào cung.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Đa Nhĩ Cổn từng phái ngươi đưa thư đến thái giám Tào Hóa Thuần. Làm sao ngươi phúc đáp được?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Tiểu nhân sẽ nói là chưa gặp Tào Hóa Thuần, nhưng khi ở Bắc Kinh đã thám thính được một số quân tình cơ mật, nên quay về bẩm báo trước.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Những quân tình cơ mật gì?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Tiểu nhân cứ nói bừa một phen, đại khái như hoàng đế Minh triều cầu viện bọn Tây dương, mượn được mấy trăm khẩu đại pháo, mấy ngàn binh lính cầm súng, đặt kế hoạch tiến công Mãn Châu.”

Viên Thừa Chí cả mừng nói: “Kế này tuyệt diệu! Đa Nhĩ Cổn nghe vậy, nhất định sẽ bẩm lên Thát tử hoàng đế.” Chàng bảo Thanh Thanh lấy cây súng Tây dương ra, nói với Hồng Thắng Hải: “Ngươi cứ nói ta là tên thông dịch Tiền Thông Tứ của bọn Tây dương, nên hiểu rõ nội tình.”

Thanh Thanh phá ra cười rồi nói: “Thừa Chí đại ca! Huynh không cải trang thành ai khác, lại đi giả mạo thành tên thông dịch chó má Tiền Thông Tứ kia. Muội phải đánh gãy hàm răng của huynh cho giống, rồi tính tiếp.”

Vừa nói xong, nàng đưa tay tát vờ lên mặt Viên Thừa Chí. Chàng há miệng ra đớp ngay bàn tay, Thanh Thanh rút tay về không kịp. Sau đó Viên Thừa Chí xì xồ mấy câu bắt chước kiểu Tây dương, mọi người đều cười ồ lên.

Trưa hôm đó Viên Thừa Chí cùng Hồng Thắng Hải tới Nhuệ Thân Vương Phủ để cầu kiến vương gia. Đa Nhĩ Cổn lập tức gọi vào gặp mặt.

Viên Thừa Chí thấy Đa Nhĩ Cổn chừng ba mốt ba hai tuổi, người vừa cao vừa ốm, mặt đầy vẻ tinh ranh. Hồng Thắng Hải nói một hồi bằng tiếng Mãn Châu. Quả nhiên thần sắc Đa Nhĩ Cổn dần dần biến đổi, rồi dùng tiếng Hán hỏi Viên Thừa Chí mấy câu. Viên Thừa Chí lấy khẩu súng Tây dương ra đặt lên bàn, kể lại những chuyện đã cùng Hồng Thắng Hải thương lượng.

Đa Nhĩ Cổn suy nghĩ hồi lâu rồi nói: “Các ngươi báo tin có công, ta nhất định sẽ trọng thưởng. Bây giờ về đi, mai trở lại đây nghe ta dặn dò.”

Hai người không làm gì được, chỉ còn cách khấu đầu lùi ra.

Viên Thừa Chí dập đầu lạy Thát tử vương gia mấy cái oan uổng mà không được gặp Hoàng Thái Cực, khi về khách sạn ngồi rầu rĩ một hồi. Tính toán xong, chàng bảo Hồng Thắng Hải dẫn mình đi xem xét quanh hoàng cung một phen, chuẩn bị đêm đó sẽ vào hoàng cung hành thích.

Chàng biết, bất kể đêm nay thành bại thế nào thì hôm sau chúng cũng lùng sục khắp nơi tìm bắt thích khách, nên yêu cầu mọi người ra khỏi thành trước, hẹn trưa mai sẽ gặp nhau ở một cái miếu cũ phía nam cách hai mươi dặm.

Mọi người tự biết võ công chênh lệch rất xa, đi theo không giúp gì được chàng, lại bắt chàng phải lo lắng nữa. Để chàng đi một mình thì việc thoát thân dễ dàng hơn nhiều, nên tất cả đều tuân lệnh, chỉ dặn dò chàng phải cẩn thận tuyệt đối.

Khi bước ra cửa, Thanh Thanh đắm đuối nhìn Viên Thừa Chí một hồi, rồi khẽ nói: “Thừa Chí ca ca! Ám sát được Thát tử hoàng đế, dĩ nhiên là tốt. Nhưng ám sát không được thì thôi, ca ca quyết phải bảo trọng thân mình. Ca ca biết đấy, trong lòng muội thì một trăm tên Thát tử hoàng đế cũng không bằng được một sợi tóc của ca ca. Nếu từ nay muội không được gặp ca ca nữa…” Nói đến đây, khóe mắt nàng đã đỏ lên.

Viên Thừa Chí muốn nàng yên lòng, bèn bứt trên đầu một sợi tóc, mỉm cười nói: “Tặng muội một trăm tên Thát tử hoàng đế đây.”

Nói xong, chàng đưa sợi tóc cho Thanh Thanh. Nàng phì cười thành tiếng, nhưng nước mắt đã rơi xuống.

*

*   *

Đợi đến canh một, Viên Thừa Chí mang theo Kim Xà Kiếm và Kim Xà Truy đi tới ngoài tường hoàng cung. Chàng đã biết bên ngoài hoàng cung canh giữ rất nghiêm ngặt, nên vòng ra phía sau một gốc cây to để giấu mình, đợi bọn vệ sĩ tuần tra đi qua rồi mới nhẹ nhàng vượt tường vào cung. Bên trong điện các đầy rẫy, chàng phân vân không biết Hoàng Thái Cực ở điện nào, nghĩ bụng chỉ còn cách cố bắt một tên vệ sĩ hoặc thái giám để hỏi cung.

Chàng rón rén đi qua đi lại cả nửa giờ vẫn không thấy manh mối gì, thầm nghĩ: “Việc này tuy khó, nhưng vẫn không bằng lần trước nửa đêm dò xét Đại Công Phường. Ta phải bình tĩnh, đêm nay không thành công thì đêm mai đến tiếp. Mất một hai tháng cũng không sao”.

Viên Thừa Chí nghĩ vậy nên thoải mái trong lòng, nhẹ chân đi vòng qua một hành lang. Đột nhiên thấy giữa lùm hoa có ánh đèn chớp lên, chàng liền co người lại núp phía sau một hòn non bộ. Không bao lâu thì có bốn tên thái giám xách lồng đèn yểu điệu đi tới, dẫn theo ba viên quan.

Viên Thừa Chí thấy đông người, nếu mình nhảy ra bắt thì nhất định sẽ làm kinh động, hoàng đế đề phòng thì không thể hành thích thành công được. Chàng bèn nhẹ nhàng đi theo bảy người đó tới một tòa đại điện ở vào khoảng giữa. Tấm hoành phi ngoài điện ghi ba chữ Sùng Chính Điện, bên cạnh đầy những chữ Mãn Thanh cong queo.

Viên Thừa Chí vòng ra sau điện, nằm rạp xuống đất quan sát xung quanh. Chàng thấy quanh điện có bốn năm chục vệ sĩ cầm đao canh giữ, mừng rỡ nghĩ: “Nơi này phòng thủ thâm nghiêm, chắc là chỗ ở của Thát tử hoàng đế.”

Viên Thừa Chí lượm một viên đá nhỏ dưới đất ném vào giữa vườn hoa. Bọn vệ sĩ nghe tiếng, một số bước sang đó xem xét, số còn lại cũng chăm chú nhìn theo. Viên Thừa Chí lập tức chạy tới bên tường, thi triển khinh công Bích Hổ Du Tường bò dọc lên, chỉ chốc lát đã tới đỉnh điện. Chàng nằm sát mái nhà, im lặng lắng nghe bốn phía.

Thấy không có tiếng động gì, biết tung tích của mình chưa bị phát hiện, chàng mới khẽ gỡ một phiến ngói lưu ly trên mái điện. Theo khe hở nhìn xuống, thấy trong điện đèn đuốc sáng trưng, ba viên quan đó đang xì xụp dưới đất, hành đại lễ ba quỳ chín lạy. Viên Thừa Chí cả mừng, biết họ đang tham kiến hoàng đế.

Người đứng trên cùng là một lão quan râu tóc bạc phơ, lên tiếng: “Thần là Phạm Văn Trình kiến giá.”

Viên quan đứng giữa thân hình to lớn, nói: “Thần là Ninh Hoàng Ngã kiến giá.”

Viên quan đứng cuối khuôn mặt khô gầy, nói: “Thần là Bao Thừa Tiên kiến giá.”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Ba tên quan này là người Hán mà đầu hàng bọn Thát tử, đều là Hán gian.” Chàng bỗng thắc mắc, sao họ lại dùng tiếng Hán để nói chuyện với hoàng đế Thát tử, bèn từ từ di chuyển về phía nam, theo khe hở nhìn dịch về phía bắc. Thấy trên long ỷ có một người mặt vuông tai lớn, cặp mắt rất có thần, trên mép lớt phớt râu, chừng hơn năm mươi tuổi, chắc chắn là Hoàng Thái Cực, đại địch năm xưa của cha mình.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Nếu ở đây phóng Kim Xà Truy thì cũng có thể lấy mạng hắn, nhưng khoảng cách hơi xa, không chắc lắm. Không chừng trong đám thị vệ có cao thủ, chúng mà gạt được thì hỏng việc. Hay là mình nhảy xuống dưới đó, dùng kiếm cắt thủ cấp của hắn cho bảo đảm.”

Bỗng nghe Hoàng Thái Cực nói: “Quân tình ở Nam triều mấy hôm nay thế nào? Ta vừa nhận được báo cáo của A Ba Thái, nghe nói y vừa trúng mai phục ở Thanh Châu Thái An tỉnh Sơn Đông, thua một trận lớn. Chẳng lẽ quân Minh còn đánh trận như thế được hay sao? Các ngươi biết tổng binh ở vùng Thanh Châu Thái An là ai không?”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Thì ra chúng đang nói về trận thắng của mình. Để xem chúng nói gì nữa.”

Ninh Hoàng Ngã nói: “Khải bẩm hoàng thượng, thần đã điều tra tường tận, tổng binh của quân Minh là Thủy Giám, võ nghệ rất giỏi. Nhưng chỉ huy thật sự là một đám vong mạng dưới tay Lý Tự Thành, gọi là Kim Xà Doanh gì gì đấy. Thủy tổng binh đã bị chúng thu phục rồi.”

Hoàng Thái Cực “À” lên một tiếng rồi nói: “Hắn đầu hàng bọn phản tặc rồi ư? Thế thì đáng tiếc quá. Các ngươi đi điều tra tỉ mỉ xem có thể tìm cách dụ hắn đầu hàng Đại Thanh chúng ta hay không. Xem thử hắn tham tiền tài hay tham nữ sắc? Người này có thể đánh bại A Ba Thái, nhất định là một nhân tài, chúng ta quyết không dễ bỏ qua.”

Ba viên quan cùng nói: “Hoàng thượng thánh minh! Nếu Thủy Giám chịu quy thuận thì hay quá, coi như hắn có phước khí.”

Hoàng Thái Cực thở ra một hơi rồi nói: “Năm xưa chúng ta dùng kế phản gián giết Viên Sùng Hoán, mỗi lần trẫm nghĩ đến lại thấy tiếc vô cùng.”

Viên Thừa Chí nghe y nhắc đến tên phụ thân mình, trong tai bỗng ù ù, toàn thân nóng hổi, ý nghĩ cứ lặp đi lặp lại: “Kế phản gián! Chúng dùng kế phản gián! Gia gia mình bị y hại chết! Tên này là đại thù nhân, hại chết phụ thân mình!”

Lại nghe Hoàng Thái Cực nói tiếp: “Nếu trẫm dùng được Viên Sùng Hoán, chắc bây giờ giang sơn Nam triều đã thuộc về Đại Thanh chúng ta rồi.”

Viên Thừa Chí “Xì” một tiếng, mắng thầm: “Tên cẩu Thát tử này nói chuyện nghe sướng quá. Phụ thân ta trung can nghĩa đảm, làm sao chịu đầu hàng ngươi?”

Hoàng Thái Cực lại nói: “Có điều Viên Sùng Hoán ngu trung không hiểu thời thế, chắc không chịu đầu hàng đâu.”

Y lại thở dài rồi hỏi: “Phùng Thừa Đồ gần đây như thế nào?”

Năm xưa Viên Sùng Hoán từng làm Tổng đốc Kinh Liêu. Sau này Phùng Thừa Đồ kế tục chức đó. Hắn được Sùng Trinh hoàng đế cấp đại quyền binh mã, nhưng vừa thua trận bị bắt đã đầu hàng Mãn Thanh ngay. Lúc Phùng Thừa Đồ mới bại trận mất tích, Sùng Trinh còn tưởng hắn hy sinh vì nước, đích thân tế tự. Sau này biết hắn đầu hàng Mãn Thanh, người trong thiên hạ đều chê cười Sùng Trinh là thứ chẳng biết gì.

Phạm Văn Trình nói: “Khải tấu hoàng thượng, Phùng Thừa Đồ đã nói hết tình hình Nam triều rồi. Y nói Sùng Trinh hoàng đế bảo thủ ngoan cố, dùng kế sách không đúng, tin dùng gian nịnh, sát hại trung lương, lưu khấu bốn phương khởi dậy. Đại quân Đại Thanh chúng ta có thể thừa cơ hội này mà tiến công vào quan ải, giải tỏa nỗi khổ cho dân chúng.”

Hoàng Thái Cực lắc đầu nói: “Về Sùng Trinh thì hắn nói không sai một chút nào. Nhưng bây giờ chưa phải là lúc để Thanh binh tiến công vào quan ải. Không phải bây giờ chúng ta không nắm chắc phần thắng, nhưng nên để triều đình nhà Minh đánh với bọn lưu khấu trước đã, đợi hai bên mệt mỏi kiệt sức, lưỡng bại câu thương, bấy giờ Đại Thanh chúng ta có thể ngư ông đắc lợi, nhấc tay một cái là lấy được thiên hạ. Người Hán các ngươi gọi kế này là Biện Trang Thí Hùng, có phải hay không?”

Ba viên quan đồng thanh nói: “Vâng, vâng! Hoàng thượng thánh minh.”

Viên Thừa Chí kinh hãi nghĩ thầm: “Thát tử hoàng đế thật là lợi hại, so với Sùng Trinh cách một trời một vực, ta không thể không giết hắn. Không diệt tên này thì giang sơn Đại Hán chúng ta không thể vững vàng. Cho dù Sấm Vương lấy được thiên hạ đi nữa, cũng sợ rằng… sợ rằng…” Chàng cảm thấy người này có tầm nhìn xa rộng, bao quát được cục diện, suy nghĩ thấu suốt, đánh trận nào chắc trận đó, không nóng nảy chút nào, hình như tài năng của Sấm Vương cũng không so được với hắn. Tên hoàng đế này nói tiếng Hán rất lưu loát, lại từng đọc sách Trung Quốc nữa, biết cả chuyện Biện Trang giết cọp.”

Lại nghe Hoàng Thái Cực hỏi: “Phùng Thừa Đồ còn nói gì nữa không?”

Phạm Văn Trình nói: “Phùng Thừa Đồ đã mấy lần nói với thần, chỉ mong hoàng thượng ân điển ban cho y việc để làm. Y muốn góp công góp sức, làm khuyển mã cho hoàng thượng để báo thiên ân.”

Hoàng Thái Cực cười rộ lên rồi nói: “Muốn có việc để làm ư? Chuyện này từ từ rồi tính.”

Bao Thừa Tiên nói: “Hoàng thượng! Hạ thần ngu muội, trong lòng có việc không hiểu, mong hoàng thượng chỉ điểm.” Hoàng Thái Cực gật đầu.

Bao Thừa Tiên nói: “Khi Phùng Thừa Đồ mới quy thuận, hoàng thượng ban cho y rất nhiều ân sủng, chính tay cởi áo bào da điêu khoác lên người y, lại mở tiệc đãi đằng mấy ngày liên tiếp. Từ xưa đến giờ, ngay cả những khai quốc công thần của Đại Thanh chúng ta cũng chưa được vinh dự như thế. Chúng thần đều không sao hiểu được. Hoàng thượng bèn dạy bảo: “Chúng ta cực khổ chinh chiến mấy năm nay để làm gì?” Chúng thần khải tấu: “Để đánh chiếm giang sơn Nam triều”. Hoàng thượng dạy bảo: “Đúng vậy! Nhưng chúng ta không hiểu nội tình của Nam triều, giống như kẻ mù vậy. Khi Phùng Thừa Đồ quy thuận, mắt chúng ta sáng hẳn cả ra, còn gì vui mừng hơn nữa?” Chúng thần đều bái phục hoàng thượng thánh minh. Sau đó Phùng Thừa Đồ kể hết các quan chức canh giữ thành trì của Nam triều, ngay cả phong thổ nhân tình cũng nói tỉ mỉ, quả nhiên không ngoài dự liệu của hoàng thượng. Nhưng tại sao hoàng thượng không thưởng cho y tước vị hay quan chức gì, chúng thần hoàn toàn không hiểu.”

Hoàng Thái Cực mỉm cười nói: “Tính tình lão Bao thật là thẳng thắn, muốn hỏi gì là hỏi thẳng ngay, không kiêng kỵ. Ba người các ngươi tuy là người Hán, nhưng đã phụng sự cho tiên hoàng và trẫm từ lâu, một dạ trung thành. Phùng Thừa Đồ làm sao so sánh với các ngươi được?”

Bọn Phạm Văn Trình đều quỳ xuống dập đầu binh binh lên nền nhà, tỏ vẻ vô cùng cảm kích. Viên Thừa Chí thầm thóa mạ: “Vô sỉ!”

Hoàng Thái Cực lại nói: “Con người Phùng Thừa Đồ tuy có bản lãnh, nhưng cốt khí thì không được chút nào. Trước đây trẫm đã đối đãi với hắn quá tốt, nếu bây giờ lại ban cho tước cao lộc hậu, thì loại người này có chịu ra sức làm việc hay không? Hừ! Sùng Trinh phong quan cho hắn còn chưa đủ lớn hay sao? Trước kia hắn làm chức quan gì?”

Phạm Văn Trình đáp: “Khải tấu Hoàng thượng, hồi ở Nam triều y giữ chức Thái tử Thái bảo, Binh bộ Thượng thư, Tổng đốc Kinh Liêu quân vụ, thống lĩnh tám quan Tổng binh dưới trướng, thật là quan to quyền lớn.”

Hoàng Thái Cực nói: “Thế đấy! Ta phong quan cho hắn dù lớn đến đâu cũng không thể lớn hơn chức quan của Sùng Trinh đã phong cho hắn. Nếu muốn hắn tận tâm tận lực, thì không thể cho hắn làm quan, mà nên treo một chỗ cho hắn lắc lư qua lại, không biết dựa dẫm vào đâu.”

Ba người đó nghe xong cùng nói: “Hoàng thượng thánh minh!”

Viên Thừa Chí càng nghĩ càng thấy có lý, nhận ra Hoàng Thái Cực có phương pháp sử dụng nhân tài cực kỳ sáng suốt. Chàng nghe mấy câu này, cảm giác giống như hồi ở Hoa Sơn tuyệt đỉnh vừa đọc Kim Xà Bí Kíp. Loại pháp môn này hiểu được mà không bắt chước được, tuy không phải là chính đạo nhưng bắt người ta phải khâm phục.

Chàng nằm yên ở đó một lát, nghe Hoàng Thái Cực thương nghị với bọn Phạm Văn Trình, sau này lấy được thiên hạ triều Minh sẽ cai trị thế nào, bây giờ phải chuẩn bị ra sao, cứ như giang sơn Đại Minh đã là đồ vật trong túi rồi vậy. Viên Thừa Chí vô cùng giận dữ, nhẹ nhàng gỡ thêm hai viên ngói lưu ly, nhìn chính xác những chỗ sẽ đặt chân khi nhảy vào trong điện.

Chàng bỗng nghe Hoàng Thái Cực nói: “Hiện nay ở Nam triều lưu khấu nổi lên tứ phía, nói tới nói lui cũng chỉ có một lý do. Đó chính là bá tính không có cơm ăn. Sau khi chúng ta lấy được giang sơn Nam triều, việc lớn đầu tiên là phải làm sao cho bá tính trong khắp thiên hạ người nào cũng có cơm ăn…”

Viên Thừa Chí bỗng động tâm nghĩ: “Câu này rất đúng.”

Bọn Phạm Văn Trình tán dương mấy câu. Hoàng Thái Cực lại nói: “Muốn cho dân chúng có cơm ăn, các ngươi nghĩ xem cách gì tốt nhất? Phạm tiên sinh nói thử xem.”

Hình như y đối với Phạm Văn Trình khách sáo hơn, gọi là tiên sinh, không như vừa rồi gọi Bao Thừa Tiên là lão Bao.

Phạm Văn Trình nói: “Hoàng thượng chưa đoạt được giang sơn đã nghĩ đến bá tính, tâm ý này nhất định sẽ được hoàng thiên chiếu cố. Theo ngu ý của thần, muốn cho bá tính trong thiên hạ đều có cơm ăn, việc thứ nhất là phải thuế má nhẹ nhàng, không như Sùng Trinh ra sức vơ vét tăng lương tăng thuế.”

Hoàng Thái Cực gật đầu nói: “Sau khi vào quan ải chúng ta phải ra quy củ: vĩnh viễn về sau không được tăng thuế. Mỗi khi trong kho dư thừa tiền bạc, phải hạ chỉ giảm thuế ngay.”

Phạm Văn Trình nói: “Hoàng thượng có lòng như vậy, thật là phước cho muôn dân. Thần may được góp sức mọn cho minh chúa, nếu phải tan xương nát thịt vì hoàng thượng, cũng… cũng cam lòng.”

Nói đến cuối câu, thanh âm của y ra vẻ nghẹn ngào. Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Hình như tên đại Hán gian này cũng biết yêu dân, nhưng không biết là đóng tuồng hay thật lòng đây?”

Hoàng Thái Cực nói: “Hay lắm! Người Hán chửi các ngươi là Hán gian, sau này các ngươi lo việc đàng hoàng cho trẫm cũng chính là lo cho bá tính, phải cố gắng giành lại một chút tiếng tăm. Phải cho hàng nghìn hàng vạn bá tính nhìn thấy ai là Hán gian thật sự, các ngươi tốt cho người Hán hơn, hay là bọn tay chân Sùng Trinh chỉ biết thăng quan phát tài, vơ vét bá tính tốt cho người Hán hơn. Lão Ninh, ngươi còn điều gì trình tấu hay không?”

Ninh Hoàng Ngã nói: “Khải tấu hoàng thượng, người Mãn Châu của Đại Thanh chúng ta ít, người Hán lại rất đông. Sau khi hoàng thượng có được thiên hạ rồi, theo ngu ý của thần thì phải xem người Mãn người Hán đều là con dân của hoàng thượng, đừng như người Mông Cổ đời Nguyên xem người Hán ở phương Nam là dân hạ đẳng. Chỉ cần Đại Thanh chúng ta đối xử với dân chúng bình đẳng như nhau, cho dù trong số người Hán có kẻ quật cường thì cũng không thể gây thành chuyện lớn.”

Hoàng Thái Cực gật đầu nói: “Câu này rất có lý. Người Mông Cổ vô địch về cung tiễn, cưỡi chiến mã giày xéo khắp thiên hạ, nhưng giang sơn tại Trung Quốc của họ thì không sao yên ổn được, chính vì đã ngược đãi người Hán. Cái này gọi là… tiền cư… gì gì đó?”

Bao Thừa Tiên mỉm cười nhắc: “Tiền cư phúc thiết.”

Hoàng Thái Cực nói: “Đúng rồi. Lão Bao! Sách chữ Hán ta đọc rất ít, mãi không thấy tiến bộ chút nào.”

Bao Thừa Tiên nói: “Hoàng thượng đêm ngày phải lo muôn việc, điển cố trong sách của người Hán không cần phải để trong lòng làm chi. Chỉ cần hiểu được đạo lý trong sách về chuyện trị quốc bình thiên hạ là đủ lắm rồi.”

Hoàng Thái Cực gật đầu nói: “Người Hán có không ít đạo lý rất hay. Khi học chỉ cần học đạo lý và sách lược bên trong, chứ không cần học như bọn tú tài tiến sĩ người Hán, toàn lo chuyện ngâm nga thơ phú”.

Viên Thừa Chí nghe câu nào cũng đúng ý, quên mất mình đến đây là để hành thích, trong lòng như muốn nghe thêm một chút. Bốn người thương nghị đến việc chỉnh đốn quân kỷ, sau khi nhập quan tuyệt đối không được tàn sát bá tính, tuyệt đối không cho quân lính cướp bóc.

Bỗng có hai tên thị vệ vào trong, tháo hai cây nến lớn trên long án ra đổi. Giữa lúc ánh sáng mờ mờ, Viên Thừa Chí bỗng nghĩ: “Bây giờ mà không xuất thủ, còn đợi lúc nào?” Chàng vung tả chưởng lên đập xuống, nghe rắc một tiếng, hai cây xà ngang trên nóc điện gãy lìa. Giữa đám ngói vụn cùng bụi bặm, chàng nhảy xuống dưới điện, chân phải đạp lên long án, Kim Xà Kiếm đâm vèo ra nhằm vào trước ngực Hoàng Thái Cực.

Hai bên Hoàng Thái Cực lập tức có bốn tên vệ sĩ nhảy ra. Chúng không kịp rút đao, lấy thân mình cản trước mặt Hoàng Thái Cực, hai tên trúng kiếm chết ngay. Chân tay Hoàng Thái Cực cũng rất nhanh, lập tức nhảy ra khỏi long ỷ, lùi lại hai bước.

Lại thêm năm sáu vệ sĩ chạy lên cản trở. Ninh Hoàng Ngã và Bao Thừa Tiên cũng phóng tới sau lưng Viên Thừa Chí, đưa tay ra ôm lấy chàng. Viên Thừa Chí phóng cước đá ngược lại “bình bình” hai tiếng, hất Ninh và Bao văng thẳng ra ngoài. Vì chậm trễ như vậy mà Hoàng Thái Cực lùi được hai bước nữa.

Viên Thừa Chí vô cùng lo lắng, nghĩ thầm: “Nếu hôm nay để Thát tử hoàng đế trốn được, sau này việc hành thích không phải dễ.” Chàng phóng ra hai mũi Kim Xà Truy, nhưng bị bọn vệ sĩ xông ra cản trở, làm con ma thế mạng. Viên Thừa Chí múa Kim Xà Kiếm liên tiếp đâm ra, mặc kệ bọn vệ sĩ bu đến tấn công, cố gắng chạy về phía Hoàng Thái Cực.

Khoảng cách chỉ hơn một trượng, nhưng trong chốc lát phía sau bức màn lại có tám tên võ sĩ tay không chạy ra, đồng thời phóng tới trước mặt Viên Thừa Chí. Chân phải Viên Thừa Chí hất lên, “binh” một tiếng đá văng một tên. Chàng dùng Uyên Ương Liên Hoàn Cước, chân trái theo đó bay lên. Lúc này một tên võ sĩ từ bên tay trái phóng tới, bị chân trái của Viên Thừa Chí đá trúng ngực, nhưng hai tay hắn đã ôm chặt lấy chân Viên Thừa Chí. Miệng hắn hộc máu tươi ra, nhưng hai tay vẫn nắm chặt quyết chẳng chịu buông.

Tám tên võ sĩ đô vật này giỏi về cầm nã, tiếng Mãn Châu gọi là bố khố. Khi bối lặc hay vương công thiết yến, thường có những trận đô vật để xem. Sau khi tiếp kiến đại thần, Hoàng Thái Cực quen xem một trận đô vật rồi mới đi ngủ. Tám tên bố khố này đang đợi phía sau điện, nghe có thích khách liền chạy ra ngoài cứu giá.

Viên Thừa Chí cố gắng kéo chân trái về, nhưng không sao thoát khỏi tay tên võ sĩ này. Chàng vẫy Kim Xà Kiếm ra, chém đứt một nửa cái đầu của hắn, nhưng bàn tay đã chết vẫn nắm chặt lấy chân Viên Thừa Chí.

Đột nhiên chàng nghe sau lưng có người hét lên: “To gan đến đây phạm giá!” Câu này quát bằng tiếng Hán. Viên Thừa Chí mặc kệ, chân trái lôi theo xác tên võ sĩ, sải bước đuổi theo Hoàng Thái Cực. Mới bước được một bước, trên đỉnh đầu bỗng nghe tiếng gió. Binh khí chưa đánh tới nơi mà kình phong đã quét vào gáy như một lưỡi dao sắc bén.

Viên Thừa Chí kinh hãi, biết võ công của địch thủ này rất cao. Trong lúc nguy cấp chàng vội nhào xuống đất, lộn đi một vòng ra ngoài, múa kiếm bảo vệ đỉnh đầu, tay trái cố gắng gỡ bàn tay xác chết đang nắm chặt chân mình, bấy giờ mới đứng dậy được.

Dưới ánh nến chàng thấy một đạo sĩ trung niên đứng trước mặt, khuôn mặt thanh tú trắng trẻo, tay cầm một cây phất trần, cười nhạt nói: “Thích khách to gan! Còn không buông binh khí mà chịu trói?”

Viên Thừa Chí chỉ liếc hắn một cái, lại quay sang Hoàng Thái Cực thì thấy đã có mười mấy vệ sĩ đứng chặn trước mặt y. Viên Thừa Chí đột nhiên nhảy vọt lên, phóng về phía Hoàng Thái Cực. Chàng còn lơ lửng trên không, bỗng thấy đạo sĩ kia cũng nhảy lên, phất trần vẫy tới trước mặt mình.

Viên Thừa Chí huy động Kim Xà Kiếm đâm hai nhát cực nhanh. Đạo sĩ nghiêng đầu tránh được một kiếm, múa phất trần cản được một kiếm, sau đó hàng trăm hàng ngàn sợi tơ trên phất trần này vẫy tới rất nhanh. Tay trái Viên Thừa Chí chụp lấy phất trần, tay phải cầm kiếm đâm vào yết hầu đối thủ.

“Xoẹt” một tiếng, đuôi phất trần vừa quét trúng tay trái chàng, máu chảy đầm đìa. Thì ra cây phất trần này kết bằng tơ vàng tơ bạc, tuy mềm mại nhưng khi vận nội kình lên thì biến thành binh khí lợi hại có thể lấy mạng đối phương. Ngay lúc đó lưỡi rắn trên mũi Kim Xà Kiếm cũng móc trúng đầu vai của trung niên đạo sĩ.

Hai người còn lơ lửng đã trao đổi ba chiêu, hai bên đều bị thương nhẹ, khi rơi xuống đất đã đổi vị trí cho nhau. Cả hai đều kinh hãi nghi ngờ: “Người này là ai? Sao võ công lại giỏi đến thế? Thật là xưa nay hiếm gặp”.

Hồi 14: Sùng Chính Điện kiếm lòe – Đạo sĩ truồng tỉ thí

Viên Thừa Chí quay lại định giết Hoàng Thái Cực, nhưng phất trần của đạo nhân kia đã vẫy tới gáy chàng. Những sợi tơ phất trần đầy rẫy nội kình, duỗi thẳng ra đâm tới như một bó roi. Viên Thừa Chí không làm gì được, đành phải quay kiếm lại để chống đỡ.

Hai người vừa giao thủ là tấn công chớp nhoáng, nháy mắt đã tỉ đấu hai mươi mấy chiêu. Viên Thừa Chí dùng hết sức bình sinh vẫn không chiếm được thượng phong, càng đánh càng kinh hãi. Đột nhiên có tiếng gió rát mặt, má bên phải bị phất trần quét qua một cái. Chàng biết trên mặt mình có thêm mấy chục đường rớm máu, lập tức câu nói của Thanh Thanh hiện lên trong óc: “Thừa Chí ca ca! Ám sát được Thát tử hoàng đế, dĩ nhiên là tốt. Nhưng ám sát không được thì thôi, ca ca quyết phải bảo trọng thân mình.” Thấy kẻ địch lợi hại như thế, chàng bèn tính chuyện thoát thân, vừa chiến đấu vừa di chuyển từ từ về phía cửa điện.

Đạo nhân cười nhạt rồi nói: “Gặp phải Ngọc Chân Tử này mà muốn trốn ư? Đừng mơ tưởng nữa.” Nói xong, hắn dùng phất trần tấn công liền ba chiêu, từ những phương vị không sao ngờ được.

Viên Thừa Chí nhất thời không biết làm sao đón đỡ, hai chân tự động sử dụng bộ phách Thần Hành Bách Biến của Mộc Tang đạo nhân truyền thụ, chạy đông chạy tây, tránh né hết ba chiêu của Ngọc Chân.

Không ngờ Ngọc Chân Tử rượt sát như bóng theo hình, hiểu hết thân pháp Thần Hành Bách Biến của chàng. Viên Thừa Chí né sang phía đông, hắn đuổi sang phía đông. Chàng chạy sang phía tây, hắn đuổi sang phía tây. Tuy Viên Thừa Chí tránh được ba chiêu đó, nhưng không sao thoát khỏi những đợt tấn công liên tục như thác đổ của Ngọc Chân Tử.

Lúc này hai người lại càng kinh ngạc trong lòng. Ngọc Chân Tử quát hỏi: “Ngươi tên gì? Là đệ tử lão Mộc Tang phải không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Không phải.”

Ngọc Chân Tử hỏi: “Sao ngươi biết bộ pháp của Thiết Kiếm Môn?”

Viên Thừa Chí hỏi lại: “Ngươi là người Hán, sao lại giúp bọn Thát tử?”

Ngọc Chân Tử giận dữ nói: “Thằng nhóc cứng đầu này, chết đến gáy vẫn còn hỗn láo!” Hắn lại tấn công veo véo mấy chiêu.

Viên Thừa Chí thấy võ công đối phương quá giỏi, chỉ phân tâm một chút là khó giữ mạng mình. Chàng bèn tập trung hết tâm lực, sử dụng kiếm pháp bản môn phái Hoa Sơn để tiếp chiêu.

Ngọc Chân Tử chiết giải mấy chiêu, lại la lên: “À, thì ra ngươi là khỉ con, học trò của con khỉ già họ Mục phái Hoa Sơn. Có đúng hay không?”

Viên Thừa Chí không muốn che giấu sư môn của mình, quát trả: “Đúng thì đã sao?” Chàng xuất chiêu Thương Tùng Nghênh Khách, trường kiếm chém nghiêng ra. Nội lực từ thân kiếm phát ra những tiếng veo véo, tư thế đoan chính trang nghiêm, chiêu thức vừa nhanh vừa có lực.

Ngọc Chân Tử khen: “Hảo kiếm pháp! Khỉ con không tồi.”

Viên Thừa Chí mắng lại: “Đồ Hán gian!”

Ngọc Chân Tử mỉm cười nói: “Khỉ già còn chưa phải đối thủ của ta, nói gì đến khỉ con.”

Viên Thừa Chí không đối đáp nữa, tập trung tinh thần để chống đỡ những chiêu thức của đối phương. Ngọc Chân Tử hơi sơ suất một tí, cánh tay trái đã bị móc câu của Kim Xà Kiếm quẹt trúng một đường. Phen này hắn không dám tự cao tự đại nữa, lo múa phất trần phản kích.

Hai người lăn xả vào nhau, đấu hơn trăm chiêu vẫn khó phân cao thấp, đều âm thầm kinh ngạc. Viên Thừa Chí không dám sử dụng Kim Xà Kiếm Pháp vì chưa thập phần thuần thục, cũng không dám sử dụng những công phu của Mộc Tang đạo nhân truyền thụ vì đối phương biết hết. Do đó chàng chỉ thi triển Hoa Sơn kiếm pháp.

Kim Xà Kiếm sắc bén vô cùng, không gì không hủy hoại được, nhưng những sợi tơ trên phất trần của Ngọc Chân Tử lại mềm mại không chịu lực, nên cắt không đứt. Kiếm và phất trần cùng phát ra những chiêu thức biến ảo vô cùng, kình phong trùm hết xung quanh, những ngọn nến trên bốn vách Sùng Chính Điện chập chờn như sắp tắt.

Đánh được vài chục chiêu nữa, bỗng nghe Hoàng Thái Cực dùng tiếng Mãn Châu quát mấy câu. Sáu tên bố khố chia ra ba phía xông tới.

Viên Thừa Chí biết chắc hôm nay không hành thích được Thát tử hoàng đế, bèn múa trường kiếm công gấp hai chiêu, rồi quay người toan chạy ra cửa điện. Phất trần của Ngọc Chân Tử vẫy ra, những sợi tơ quấn chặt lấy hai móc câu trên đầu Kim Xà Kiếm. Hai bên cùng giật mạnh, nhất thời thành thế đọ sức với nhau.

Ngay lúc đó, hai tên võ sĩ đồng thời từ hai bên Ngọc Chân Tử phóng lên, túm chặt hai bả vai Viên Thừa Chí. Chàng thét một tiếng, lỏng tay buông kiếm ra, vung song chưởng xô đẩy hai tên võ sĩ. Nội kình Hỗn Nguyên Công đã vận, hai tên này không sao tự chủ được, ngã nhào về phía Ngọc Chân Tử.

Ngọc Chân Tử không làm gì được, cũng phải buông rơi phất trần, đưa hai tay đẩy hai tên võ sĩ ra. Loảng xoảng một tiếng, phất trần và Kim Xà Kiếm đều rơi xuống đất, còn hai tên võ sĩ đó ôm lấy cặp đùi Viên Thừa Chí.

Ngọc Chân Tử phóng hữu chưởng đánh vào trước ngực Viên Thừa Chí. Chàng xuống tấn vững như núi, vung chưởng đánh trả. Hai tên võ sĩ dùng hết sức, cố sống cố chết muốn kéo Viên Thừa Chí té xuống, nhưng không sao kéo nổi. Ngọc Chân Tử múa chưởng nhanh như gió, chỉ chốc lát đã phát ra mười hai chưởng, Viên Thừa Chí hóa giải được hết.

Đột nhiên cổ chàng bị cái gì đó ép chặt lại. Thì ra một tên võ sĩ đã phóng lên lưng chàng, đưa tay bóp chặt yết hầu. Chàng huých ngược khuỷu tay phải ra sau, trúng ngay giữa ngực hắn. Hắn lập tức phun vọt máu vào sau gáy Viên Thừa Chí, máu từ trong cổ áo chảy xuống lưng nóng hổi, bàn tay bóp ở yết hầu từ từ thả lỏng.

Viên Thừa Chí đang vận kình lực để cố thoát khỏi bàn tay tên võ sĩ đó, một tên khác lại phóng lên, nắm chặt được bàn tay phải của chàng. Ngọc Chân Tử thừa cơ phóng chỉ điểm tới vèo vèo, Viên Thừa Chí đưa tay trái ra đỡ. Tứ chi chàng chỉ còn lại cánh tay trái tự do, thế mà chàng vẫn cản được bảy phát chỉ của Ngọc Chân Tử.

Ngọc Chân Tử dùng tay phải điểm tới, tả chưởng đánh vào trước mặt Viên Thừa Chí. Chàng vừa nghiêng đầu tránh né, cánh tay trái bỗng bị một tên võ sĩ ôm chặt nốt. Ngọc Chân Tử điểm liền ba phát, trúng vào ba đại huyệt trước ngực chàng, rồi mỉm cười bảo: “Thả ra đi! Hắn không động đậy được nữa đâu.”

Nhưng hắn nói sao thì nói, bốn tên võ sĩ đang ôm cứng hai tay hai chân Viên Thừa Chí vẫn không dám buông tay.

Đội trưởng thị vệ của Hoàng Thái Cực cầm dây xích tới, quấn quanh người và tay chân Viên Thừa Chí mấy vòng. Bấy giờ bọn võ sĩ mới chịu buông tay, gỡ đồng bọn đang bóp cổ Viên Thừa Chí. Cặp mắt hắn lồi hẳn ra, đầu lưỡi cũng thè ra ngoài, tắt thở từ lâu rồi.

Hoàng Thái Cực nói: “Tổng giáo đầu Ngọc Chân Tử và chúng võ sĩ, chúng thị vệ hộ giá có công, sẽ được trọng thưởng. Lão Bao, lão Ninh! Các ngươi có bị thương không?”

Bao Thừa Tiên và Ninh Hoàng Ngã đã được đám thị vệ dìu dậy, nhưng cứ ôm ngực mà ho, nói chưa ra tiếng được.

Hoàng Thái Cực ngồi trở lại long ỷ, mỉm cười nói: “Này, tên võ sĩ kia! Võ công ngươi khá lắm. Ngươi tên gì vậy?”

Viên Thừa Chí ngang nhiên nói: “Ta hành thích không thành thì mau đem giết, hỏi nhiều làm chi?”

Hoàng Thái Cực hỏi: “Ai sai ngươi đến ám sát ta?”

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Ta nên nói thật, để bọn Thát tử này biết Viên đốc sư có người kế hậu.” Chàng lớn tiếng nói: “Ta là con trai của cố Kinh Liêu đốc sư Viên Sùng Hoán, tên là Viên Thừa Chí. Tên mọi rợ kia xâm chiếm giang sơn Đại Minh của chúng ta, hàng ngàn hàng vạn người Hán chúng ta chỉ hận không ăn được thịt ngươi. Hôm nay ta đến đây hành thích là để trả thù cho phụ thân, cũng là để trả thù cho hàng ngàn hàng vạn người Hán đã chết dưới tay ngươi.”

Hoàng Thái Cực nhổm dậy hỏi: “Ngươi là con trai của Viên Sùng Hoán ư?”

Viên Thừa Chí đáp: “Đúng vậy! Phụ thân đặt cho ta cái tên Viên Thừa Chí, chính là muốn ta kế thừa di chí của người, kháng cự bọn mọi rợ xâm chiếm giang sơn người Hán.”

Bọn thị vệ thi nhau quát: “Quỳ xuống”, nhưng Viên Thừa Chí mặc kệ. Hoàng Thái Cực vẫy tay ra lệnh cho chúng đừng làm ồn nữa, dịu dàng nói: “Thì ra Viên Sùng Hoán còn có hậu nhân, thật là tuyệt diệu. Ngươi có huynh đệ gì không?”

Viên Thừa Chí ngẩn ra nghĩ bụng: “Hắn hỏi chuyện này làm gì?”. Chàng đáp: “Không.”

Hoàng Thái Cực lại hỏi: “Ngươi có bị thương không?”

Viên Thừa Chí la lên: “Mau giết ta đi! Ta không cần ngươi giả vờ thương xót.”

Hoàng Thái Cực thở dài rồi nói: “Viên công, gia gia của ngươi là một người mà ta thán phục. Tiếc rằng Sùng Trinh hoàng đế không rõ thị phi, sát hại trung lương. Năm xưa phụ thân của ngươi từng đề nghị với ta, hai nước Minh Thanh rút quân cho dân được nghỉ, từ đây giao hảo với nhau. Nhưng chẳng những nghị hòa không thành, Sùng Trinh còn quy tội cho phụ thân ngươi. Ta nghe chuyện đó không khỏi đau lòng. Sùng Trinh giết phụ thân ngươi vì hai tội danh, ngươi có biết không?”

Viên Thừa Chí im lặng. Chàng cũng biết Sùng Trinh ghép cho gia gia mình hai tội: một là nghị hòa với nhà Thanh, cấu kết ngoại địch; hai là giết Bì Đảo tổng binh Mao Văn Long. Các thuộc hạ cũ của Viên Sùng Hoán như Tôn Trọng Thọ, Ưng Tùng đã nói rõ cho chàng biết. Năm xưa Viên đốc sư nghị hòa với Hoàng Thái Cực chỉ là kế quyền biến nhất thời. Quân Thanh dũng cảm thiện chiến, cưỡi ngựa bắn tên thiên hạ vô song. Quân Minh không sao địch nổi, phải rèn luyện thành tinh binh mới có cơ hội thủ thắng, nên Viên đốc sư nghị hòa để luyện binh và hoàn thiện quân khí giữ thành. Còn tổng binh Mao Văn Long thì tham ô, cướp bóc bá tính, không phụng mạng triều đình, không nghe lệnh chỉ huy. Không giết hắn thì không thể chỉnh đốn quân kỷ.

Hoàng Thái Cực lại nói: “Phụ thân ngươi bị Sùng Trinh hại chết, còn ta là bằng hữu của phụ thân ngươi. Sao ngươi không biết phân biệt phải trái, không đi giết Sùng Trinh mà đến đây hành thích ta?”

Viên Thừa Chí cãi: “Phụ thân ta là địch thủ của ngươi, sao là bằng hữu của ngươi được? Ngươi dụng kế phản gián, lừa gạt Sùng Trinh hại chết phụ thân ta. Sùng Trinh đáng giết, ngươi cũng đáng giết.”

Hoàng Thái Cực lắc đầu rồi nói: “Ngươi còn trẻ, chưa hiểu hết sự việc. Nói thế nào thì nói, ngươi cũng không hiểu được đâu.” Hắn quay lại bảo Phạm Văn Trình: “Phạm tiên sinh! Dẫn thiếu niên này về đi.”

Viên Thừa Chí quát lớn: “Ngươi muốn ta bắt chước Phùng Thừa Đồ hay sao? Hừ! Chẳng lẽ con trai của Viên đốc sư lại đi đầu hàng Mãn Châu?”

Lúc này phía ngoài Sùng Chính Điện đã tụ tập không ít quan văn võ, nghe có thích khách bèn kéo đến đây hộ giá. Hoàng Thái Cực hỏi: “Tổ Đại Thọ có đây không?”

Bên dưới, một võ tướng đáp: “Có thần!” Y lập tức bước lên trên điện, quỳ gối khấu đầu.

Viên Thừa Chí bỗng động tâm nghĩ: “Tổ Đại Thọ là đại tướng số một dưới trướng cha mình năm xưa. Khi cha mình bị Sùng Trinh hạ chỉ bắt giam, y giận dữ không phục, bèn dẫn quân ra khỏi Bắc Kinh phản kích. Sau này cha mình từ trong ngục viết thư khuyên ngăn, y mới chịu tuân chỉ Sùng Trinh. Y đã huyết chiến với quân Thanh trước sau mấy chục trận, nhưng Sùng Trinh vẫn đem lòng nghi kỵ, không cho cứu viện. Vì thế trong trận Đại Ninh Hà y bị Hoàng Thái Cực bao vây trùng điệp, bất đắc dĩ phải đầu hàng, hàng xong lại phản, huyết chiến mấy trận ở Thẩm Châu, hậu viện không có nên bị bắt rồi lại đầu hàng. Tổ Đại Thọ tuy đối xử với cha mình không tệ, nhưng dù sao cũng không nên đầu hàng Thát tử.”

Chàng nhịn không nổi, lớn tiếng trách mắng: “Tổ Đại Thọ! Đồ Hán gian vô sỉ!”

Tổ Đại Thọ đứng dậy, quay lại nhìn chàng. Y đã cạo bớt tóc ở trước trán, sau lưng thắt bím dài, đầu tóc trắng bạc, sắc mặt tiều tụy, không còn chút nào anh khí của một đại tướng thống binh. Viên Thừa Chí lại quát lên: “Tổ Đại Thọ! Ngươi còn mặt mũi nào nhìn ta nữa? Sau khi ngươi chết, dám đi gặp phụ thân ta hay không?”

Khi ở dưới điện, Tổ Đại Thọ đã nghe Hoàng Thái Cực và Viên Thừa Chí đối đáp rồi. Đột nhiên nước mắt y lăn dài hai bên má, run giọng nói: “Viên công tử! Công tử… công tử đã lớn đến thế này rồi! Hồi công tử ba tuổi, ta đã từng ẵm công tử.”

Viên Thừa Chí giận dữ nói: “Hừ! Ta từng bị Hán gian ẵm, hèn gì xui xẻo.”

Tổ Đại Thọ người run bần bật, dang tay bước lên hai bước, hình như muốn ôm lấy Viên Thừa Chí. Nhưng cuối cùng y dừng lại, mở miệng muốn nói chuyện, nhưng giọng cũng khàn lại, chỉ nghe mấy tiếng nghẹn trong cổ.

Hoàng Thái Cực nói: “Tổ Đại Thọ! Giao tên này cho ngươi. Cố khuyên hắn quy thuận, nếu không chịu thì chúng ta sẽ chém hắn ngàn đao, vạn đao. Hừ! Thằng lỏi này gan to thật, dám đến đây hành thích trẫm. Ha ha… ha ha…”

Tổ Đại Thọ quỳ xuống, vừa dập đầu lia lịa vừa nói: “Hoàng thượng khai ân! Nhất định hạ thần sẽ cố gắng hết sức mà khuyên giải.”

Hoàng Thái Cực gật đầu bảo: “Được! Dẫn hắn đi đi.”

Tổ Đại Thọ đi đến bên Viên Thừa Chí, đưa tay định dìu chàng. Viên Thừa Chí lùi vội hai bước, xích sắt quấn quanh chân tay và trên người khua loảng xoảng, hét lên: “Đừng đụng vào ta!” Tổ Đại Thọ rút tay về, cúi đầu lùi lại. Hai tên thị vệ bèn luồn tay dưới nách Viên Thừa Chí, xốc chàng đi theo Tổ Đại Thọ.

Viên Thừa Chí quay đầu lại nhìn Hoàng Thái Cực, thấy cặp mắt sáng loáng của hắn đang nhìn mình, thần sắc trông rất hòa ái. Chàng không sao hiểu được, thầm nghĩ: “Tên Thát tử hoàng đế này đang bày mưu ma chước quỷ gì đây?”

Ra khỏi cung, Tổ Đại Thọ sai bọn tùy tùng thân cận dìu Viên Thừa Chí lên lưng ngựa của y, còn y cưỡi một con ngựa khác trở về phủ đệ. Y lại sai tùy tùng đưa Viên Thừa Chí vào thư phòng, rồi bảo: “Các ngươi ra ngoài đi.”

Bốn tên tùy tùng khom lưng thi lễ rồi bước ra khỏi phòng. Tổ Đại Thọ đóng chặt cửa lại, không nói tiếng nào, tới tháo xích sắt trên người Viên Thừa Chí xuống.

Viên Thừa Chí còn ở trong cung đã bắt đầu vận khí, giải gần hết những huyệt đạo bị điểm trên ngực rồi. Thấy y dám cởi xích cho mình, chàng nghĩ: “Ngươi tưởng ta bị điểm huyệt thì không động đậy được ư? Hừ, coi thường ta quá.”

Tổ Đại Thọ từ từ cởi hết xích sắt cho Viên Thừa Chí, rốt cuộc vẫn không nói tiếng nào. Viên Thừa Chí âm thầm vận khí, cảm thấy những kinh mạch trước ngực vẫn còn trì trệ, nghĩ bụng: “Kình lực của đạo nhân đó thật ghê gớm. Mình trúng ba chỉ, có mặc cái áo kim ti của Mộc Tang đạo trưởng tặng mà cũng bị thế này. Nếu không có bảo y hộ thân, không biết sẽ ra sao”.

Chàng lại nghĩ: “Tổ Đại Thọ muốn khuyên ta đầu hàng bọn Thát tử, ta cứ vờ nghe lời hắn để kéo dài thời gian. Đợi đả thông xong kinh mạch trước ngực, ta sẽ phóng chưởng đánh chết tên Hán gian này, rồi nhảy ra cửa sổ bỏ đi.”

Tổ Đại Thọ cởi xong xích sắt trên người Viên Thừa Chí, cất giọng trầm trầm nói: “Viên công tử! Công tử đi đi.”

Viên Thừa Chí giật mình, không tin vào tai mình nữa, hỏi lại: “Ông… ông nói gì?”

Tổ Đại Thọ nói: “Ám sát Đại Thanh hoàng đế khó khăn vô cùng. Công tử đi đi.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Ông thả ta đi ư?”

Tổ Đại Thọ đáp: “Đúng thế! Công tử có bị thương không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Không.”

Tổ Đại Thọ bảo: “Công tử cứ dùng con ngựa của ta, đợi trời sáng là ra khỏi thành ngay.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Tại sao ông thả ta đi?”

Tổ Đại Thọ ủ rũ nói: “Công tử là cốt nhục của Viên đốc sư. Tổ Đại Thọ này chịu ơn rất nặng của Đốc sư, không biết lấy gì báo đáp.”

Viên Thừa Chí nói: “Nếu ông thả ta đi, ngày mai Thát tử hoàng đế hỏi tới, nhất định ông bị khép vào tội chết.”

Tổ Đại Thọ nói: “Chuyện đó còn phải xem. Đại Thanh hoàng đế từng hứa là không giết ta.”

Viên Thừa Chí nói: “Ông tự ý thả thích khách đi, tội danh cực lớn. Không chừng hoàng đế sẽ nghi ngờ là ông sai ta hành thích. Ta không thể tham sống sợ chết mà hại mạng ông.”

Tổ Đại Thọ cười đau khổ, nói: “Mạng ta còn đáng giá nữa ư? Ngày thành Đại Ninh Hà bị phá, ta nên chết. Ngày thành Cẩm Châu bị phá, ta càng nên chết. Viên công tử! Công tử không cần lo lắng cho ta, cứ việc đi đi.”

Viên Thừa Chí nói: “Thế thì ông theo ta mà trốn.”

Tổ Đại Thọ lắc đầu nói: “Lão mẫu, thê tử, anh em con cháu… Tám mươi mấy nhân khẩu nhà ta đều ở trong thành này cả. Ta không thể chạy trốn.”

Viên Thừa Chí bị kích động, đột nhiên nội tức trước ngực chạy ngược lại, nhịn không nổi phải nổi cơn ho hắng. Chàng nghĩ: “Y đầu hàng Thát tử, chính là Hán gian, lẽ ra ta phải vung chưởng đánh chết. Không ngờ y lại thả ta đi. Nhất định Thát tử hoàng đế phải giết y. Ta giết y, hay bọn Thát tử giết y, vốn không khác gì nhau. Nhưng chẳng lẽ ta để y chết thay cho mình? Nếu ta không đi, dĩ nhiên sẽ bị bọn Thát tử giết. Ta còn nhiều việc lớn chưa hoàn thành, không thể dễ dàng mất mạng, dĩ nhiên không nên chết. Vì một tên Hán gian mà chết, lại càng không đáng. Nhưng… nhưng…”

Chàng càng phân vân khó quyết định thì càng ho dữ dội, ho đến nỗi đỏ mặt tía tai, hơi thở không thể nào thông suốt.

Tổ Đại Thọ nhẹ nhàng vỗ lên lưng Viên Thừa Chí, bảo: “Viên công tử vừa phải ác đấu kịch liệt, mất sức quá nhiều. Nghỉ ngơi một chút đi.”

Viên Thừa Chí gật đầu, xếp bằng ngồi xuống, không suy nghĩ gì nữa mà tập trung tinh thần vận khí. Công phu điểm huyệt của Ngọc Chân Tử thật là lợi hại. Vừa rồi chàng tưởng có thể giải khai được hết các huyệt đạo bị phong tỏa, nhưng khi vận khí mới biết kinh mạch trước ngực chưa thông suốt. Nếu ngồi yên không động đậy thì không sao, nhưng nếu động thủ với người khác hoặc thi triển khinh công chạy nhảy, chắc chắn chàng sẽ bị bế khí mà ngất xỉu. Vì thế bây giờ chàng phải theo pháp môn điều hòa nội tức mà sư phụ đã truyền thụ, từ từ đưa luồng chân khí vận hành qua các kinh mạch toàn thân.

Không biết đã bao lâu, Viên Thừa Chí mới cảm thấy chân khí lưu chuyển trong thân thể không bị trì trệ nữa. Chàng từ từ mở mắt ra, bỗng thấy ánh dương quang rọi qua cửa sổ, thì ra trời đã sáng hẳn rồi. Chàng giật mình một cái, thấy Tổ Đại Thọ vẫn ngồi bên cạnh, hai tay đặt trên đầu gối, ngơ ngẩn xuất thần.

Viên Thừa Chí đứng dậy hỏi: “Ông ngồi cạnh ta suốt đêm ư?”

Trên mặt Tổ Đại Thọ có phần vui vẻ, hỏi lại: “Công tử đã khỏe rồi sao?”

Viên Thừa Chí đáp: “Khỏe hẳn rồi. Ngọc Chân Tử lai lịch thế nào mà võ công lợi hại đến như vậy?”

Tổ Đại Thọ nói: “Đạo nhân này mới từ Tây Tạng đến đây tháng trước, xin tỉ thí võ công với bọn bố khố trong cung. Hắn liên tiếp đả bại hai mươi ba tên bố khố hạng nhất, rồi bốn năm tên võ sĩ liên thủ ra tay cũng bị hắn đánh bại nốt. Hoàng đế cả mừng, phong cho hắn tước hiệu Hộ Quốc Chân Nhân gì gì đó, bảo hắn làm Tổng giáo đầu dạy võ cho bọn bố khố. Công tử! Công tử uống chén canh gà này đi, rồi ăn vài miếng bánh, sau đó chúng ta rời khỏi đây.”

Nói xong, ông đi đến bên bàn, bưng một tô canh tới. Viên Thừa Chí nghĩ: “Mình chuyên tâm vận công, có người đưa thức ăn vào đây cũng không biết. Ông ấy muốn giết mình thì đã giết rồi, không cần hạ độc.” Chàng bèn nhận lấy tô canh đó uống mấy hớp, cảm thấy vị hơi đắng.

Tổ Đại Thọ nói: “Tô canh này hầm bằng nhân sâm già ở Liêu Đông, bổ khí rất tốt.”

Viên Thừa Chí ăn thêm hai cái bánh rồi nói: “Bây giờ ông dẫn ta đi gặp Thát tử hoàng đế. Ta chịu đầu hàng.”

Tổ Đại Thọ giật bắn người, giương mắt nhìn chàng, bỗng hiểu chàng không muốn ông mất mạng vì mình, nên giả vờ đầu hàng trước rồi mới tìm cách thoát thân. Ông suy nghĩ một chút rồi đáp: “Được!”

Hai người đi ra ngoài phủ, lên ngựa. Tổ Đại Thọ không mang theo tùy tùng, cho ngựa đi trước. Viên Thừa Chí giục ngựa theo sau.

Qua mấy chỗ rẽ, Viên Thừa Chí thấy ông cho ngựa ra khỏi cửa thành. Trên cổng thành ghi ba chữ lớn: Đức Thạnh Môn, kế bên có nhiều chữ Mãn Châu cong cong vẹo vẹo. Chàng biết đây là cửa nam của thành Thịnh Kinh, hôm qua chàng vào thành bằng chính cửa này.

Chàng ngạc nhiên, hỏi: “Sao chúng ta ra ngoài thành?”

Tổ Đại Thọ đáp: “Hoàng đế đang đi săn bắn ở vùng núi Ha Nhĩ Tản phía nam thành.”

Hai người ra khỏi thành hơn mười dặm. Tổ Đại Thọ bỗng dừng ngựa lại nói: “Công tử! Bây giờ chúng ta từ biệt ở đây, xin công tử bảo trọng. Nguyện cầu Bồ Tát bảo hộ công tử bình an.”

Viên Thừa Chí kinh hãi hỏi: “Sao? Không phải chúng ta đi gặp Thát tử hoàng đế ư?”

Tổ Đại Thọ lắc đầu, vừa cười đau khổ vừa nói: “Viên đốc sư trung nghĩa ngất trời. Công tử của Viên đốc sư đâu có vô sỉ như ta mà đầu hàng Thát tử!”

Ông tháo thanh kiếm trên lưng ra, ném cả vỏ kiếm cho Viên Thừa Chí. Chàng chỉ còn cách đón lấy. Tổ Đại Thọ đột nhiên quay đầu ngựa lại, quất cho hai roi thật mạnh vào mông. Con ngựa lập tức cuốn vó chạy nhanh, ngược về phía Thịnh Kinh.

Viên Thừa Chí la lên: “Tổ thúc thúc! Tổ thúc thúc!” Nhất thời chàng không định được chủ ý, có nên đuổi theo gọi ông ấy đi với mình hay không.

Chàng chần chừ một chút, con ngựa của Tổ Đại Thọ đã phi xa rồi. Nhưng vẫn nghe thấy giọng của ông xa xa vẳng lại: “Cảm ơn hai tiếng thúc thúc của công tử.”

*

*   *

Viên Thừa Chí ngồi yên trên ngựa, cảm thấy trong lòng mất mát cái gì đó. Hồi lâu chàng mới cho con ngựa đi về hướng nam.

Đi thêm mười dặm nữa, xa xa đã nhìn thấy Thanh Thanh, Hồng Thắng Hải, Sa Thiên Quảng cùng mọi người đứng đợi ngoài tòa miếu cũ đã hẹn. Thanh Thanh hô lên một tiếng, nhanh chân chạy tới nhảy vào lòng chàng, thầm thì: “Ca ca về rồi, ca ca về rồi!”

Thấy mặt nàng ra vẻ rất mệt mỏi, Viên Thừa Chí đoán chắc nàng đã suốt đêm không ngủ lo lắng cho mình. Thanh Thanh thấy chàng không hưng phấn chút nào, biết hành thích không xong, bèn hỏi: “Huynh tìm không được Thát tử hoàng đế hay sao?”

Viên Thừa Chí lắc đầu nói: “Tìm thì tìm được, nhưng không giết được.” Chàng kể sơ lại tình hình, mọi người nghe xong đều há hốc mồm ra, không sao ngậm lại.

Thanh Thanh vỗ vỗ trước ngực mình, thở ra một hơi dài rồi nói: “Cảm ơn trời đất.”

Viên Thừa Chí nghĩ đến Tổ Đại Thọ sẽ mất mạng vì mình, trong lòng có phần không yên, liền nói: “Đêm nay ta lại vào thành. Nếu Tổ thúc thúc bị Thát tử hoàng đế bắt rồi, ta phải ra tay giải cứu.”

Thanh Thanh nói: “Đi thì mọi người cùng đi! Lần này Thanh đệ không cho huynh mạo hiểm một mình nữa.”

Đến giờ Thân, cả đoàn người kéo vào thành Thịnh Kinh. Sợ chuyện hôm qua đã bị tiết lộ, nên họ ngụ trong một khách sạn khác.

Hồng Thắng Hải đến phủ đệ của Tổ Đại Thọ quan sát, khi về báo cáo: “Không nghe tin Tổ Đại Thọ bị Thát tử hoàng đế bắt giam. Ngoài cửa phủ không có động tĩnh gì.”

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Chắc là Thát tử hoàng đế chưa biết thúc thúc thả mình ra, cứ tưởng thúc thúc đang cố khuyên mình đầu hàng.” Chàng bảo Hồng Thắng Hải tiếp tục đi thám thính, Thiết La Hán bèn nói: “Để ta đi với!”

Thanh Thanh nói: “Huynh đừng đi. Đánh nhau với người khác, làm hỏng việc lớn mất.”

Thiết La Hán bĩu môi nói: “Chắc gì ta đã gây sự đánh nhau?”

Hồ Quế Nam nói: “Để ta đi với La Hán huynh. Hễ huynh ấy muốn gây sự thì ta kéo lại là xong.”

Viên Thừa Chí gật đầu nói: “Các vị nhớ cẩn thận đề phòng.”

Xế chiều ba người trở về khách sạn, Thiết La Hán giận dữ nói: “Nếu Hạ cô nương không dặn trước, thì ta đã bẻ cổ mấy thằng lỏi đó rồi.”

Mọi người vội hỏi nguyên nhân, Hồng Thắng Hải kể lại. Thì ra ba người không nghe tin bắt Tổ Đại Thọ, cũng không nghe ai bình luận gì về chuyện đêm qua trong cung có thích khách, bèn kéo nhau đến một tửu lầu uống rượu, gặp tám tên võ sĩ bố khố đang ăn nhậu say sưa, nói toàn tiếng Mãn Châu. Hồng Thắng Hải nghe hiểu, dịch lại cho Thiết La Hán và Hồ Quế Nam biết.

Bọn này đang khoa trương Tổng giáo đầu anh dũng vô địch, đêm qua lại đoạt được một thanh bảo kiếm, mũi kiếm có móc câu, thân kiếm cong queo, sắc bén vô cùng, thổi lông cũng đứt, chém sắt như bùn. Đây không phải là Kim Xà Kiếm của Viên Thừa Chí hay sao? Thiết La Hán nổi giận đứng dậy, muốn qua đó để dạy chúng một bài học. Hồ Quế Nam vội vã kéo y lại. Đợi tám tên võ sĩ kia ăn xong xuống lầu, ba người mới lén đi theo, dò được nơi ở của chúng.

Viên Thừa Chí đánh thua bị bắt, binh khí bị người ta đoạt lấy, thật là một nỗi nhục chưa từng gặp phải. Chàng nghĩ: “Võ công của Ngọc Chân Tử không dưới mình. Thanh kiếm đó dĩ nhiên phải đoạt về, nhưng làm sao mà đoạt được trong tay một cao thủ tuyệt đỉnh như thế?” Nhất thời chàng im lặng không nói tiếng nào.

Hồ Quế Nam mỉm cười nói: “Minh chủ! Đêm nay để ta trổ nghề diệu thủ lấy về. Dù sao Ngọc Chân Tử cũng phải đi ngủ. Võ công hắn có cao gấp mười thì cũng không thể vừa ngủ vừa đánh ta được.”

Mọi người cười ồ lên. Viên Thừa Chí nói: “Được! Thế thì phiền Hồ huynh rồi, nhưng nhất định không được khinh địch, sơ suất. Hồ huynh chỉ cần lấy kiếm, không cần giết người. Bắt hắn chết trong lúc ngủ, làm con ma hồ đồ, đó không phải là hành động của anh hùng hảo hán.”

Hồ Quế Nam nói: “Đúng vậy! Sau này minh chủ sẽ tỉ đấu công bằng với hắn, bắt hắn tâm phục khẩu phục mà chết.”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Dù là đơn đả độc đấu, ta vẫn chưa chắc thắng được hắn.”

Chàng dặn Hồ Quế Nam không được hành thích, vì chuyện này quá nguy hiểm. Ngọc Chân Tử dù ngủ say đến đâu, khi có động vẫn có thể tỉnh dậy đánh trả. Võ công của hắn quá cao, dù bị trọng thương chí tử thì trước lúc chết vẫn có thể xuất chiêu lấy mạng Hồ Quế Nam.

Ăn tối xong, Hồ Quế Nam thay y phục đen, hoan hỉ đi ra ngoài. Viên Thừa Chí nghĩ tới võ công của Ngọc Chân Tử lợi hại, không yên tâm được, bèn nói: “Hồ huynh! Ta đi cảnh giới cho huynh.”

Hai người cùng ra khỏi khách điếm. Thanh Thanh biết chuyến đi này không mạo hiểm như chuyện hành thích Thát tử hoàng đế ngày hôm qua, lại biết nghề diệu thủ không không của Hồ Quế Nam là thiên hạ vô song, nên nàng không quá lo lắng.

Hồ Quế Nam đi trước dẫn đường, khoảng ba dặm thì đến nơi ở của bọn võ sĩ bố khố. Chính giữa là một cái lều da trâu cực lớn, xung quanh là những căn nhà nhỏ. Hồ Quế Nam khẽ nói: “Tám tên võ sĩ đó đều ở trong căn nhà nhỏ phía bắc. Không biết tên đạo sĩ kia có ở đây hay không.”

Viên Thừa Chí nói: “Mình cứ bắt một tên võ sĩ mà hỏi. Tiếc là chúng ta không biết tiếng Mãn Châu.”

Hồ Quế Nam nói: “Để ta dùng tay ra hiệu, bảo hắn dẫn…”

Nói chưa dứt câu, đã thấy hai tên võ sĩ vừa ca hát vừa đi tới, thoải mái vô cùng. Viên Thừa Chí đợi chúng đến gần, đột nhiên nhảy ra chìa ngón tay điểm vào huyệt đạo sau lưng. Kình lực thấu vào trọng huyệt, lập tức cả hai không động đậy được.

Viên Thừa Chí xuất thủ có phân biệt nặng nhẹ, một tên võ sĩ lập tức ngất xỉu, còn tên kia vẫn tỉnh táo. Chàng kéo tên võ sĩ bị xỉu, giấu vào trong lùm cây thấp. Tay trái của Hồ Quế Nam cầm dao nhọn kề vào yết hầu tên kia, tay phải giơ lên đỉnh đầu mình, bắt chước hình cái búi tóc đạo sĩ, ra ý hỏi hắn: “Đạo sĩ đang ở chỗ nào?”

Hắn nói: “Ngươi làm gì, ta không hiểu.”

Không ngờ tên này biết nói tiếng Hán. Thì ra Thịnh Kinh chính là Thẩm Dương, vốn thuộc về Đại Minh. Thành này bị người Mãn Châu đánh chiếm vào năm Thiên Khải thứ năm, trở thành kinh đô của Đại Thanh chưa đầy hai mươi năm. Dân cư trong thành, hết chín phần là người Hán. Bọn bố khố này thường đi đánh bạc uống rượu, nên phần lớn biết nói tiếng Hán.

Hồ Quế Nam cả mừng hỏi: “Tên đạo sĩ tổng giáo đầu của các ngươi ở chỗ nào?”

Tên võ sĩ kia bị dao nhọn kề sát yết hầu, vốn đang kinh hoảng. Hắn nghe hỏi câu này, nghĩ bụng: “Các ngươi muốn tìm Tổng giáo đầu mà chịu chết, thật chẳng có gì hay hơn nữa.” Hắn bĩu môi, nhìn về phía một căn nhà ở hướng đông, nói: “Tổng giáo đầu Hộ Quốc Chân Nhân ở trong căn nhà đó.”

Căn nhà đó cách những gian nhà nhỏ khác tới khoảng bốn năm chục trượng, kiến trúc sang trọng hơn nhiều. Viên Thừa Chí tin là thật, bèn điểm thêm một huyệt nữa cho hắn ngất xỉu, phải ba bốn giờ nữa mới tỉnh dậy được. Hồ Quế Nam kéo hắn bỏ vào trong lùm cây cho có bạn.

Hai người nhẹ bước đi tới gian nhà lớn đó. Chỗ nào cũng tối đen, trong cửa sổ không có ánh nến rọi ra. Hồ Quế Nam thì thầm: “Tên mũi trâu đó ngủ rồi. Chúng ta không cần đợi nữa.”

Hai người vòng ra cửa sau. Hồ Quế Nam nép người vào tường, bò lên không hề phát ra tiếng động, rồi lại men theo tường bò xuống. Viên Thừa Chí thấy tư thế trèo tường của y chẳng đẹp chút nào, tay chân thò ra, đầu cổ rút lại, hành động chậm chạp giống hệt một con rùa, nhưng không hề phát ra tiếng động. Bản lãnh này chàng quyết không sánh kịp, thầm nghĩ: “Thật không hổ danh Thánh Thủ Thần Thâu.”

Viên Thừa Chí sợ mình nhảy vào phát ra âm thanh sẽ bị Ngọc Chân Tử phát giác, bèn ngồi lại canh gác ngoài tường, chăm chú tinh thần để lắng nghe.

Lát sau nghe con quạ trên một cành cây gần nhà kêu mấy tiếng, rồi lại im lặng rất lâu. Đột nhiên nghe thấy tiếng cười khúc khích của một cô gái, sau đó là tiếng cười ha hả của nam nhân. Hai bên nói chuyện mấy câu, khoảng cách khá xa nghe không rõ được, nhưng thoang thoảng vẫn nhận ra giọng Ngọc Chân Tử.

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Hắn vẫn chưa ngủ, thế thì Hồ huynh không ra tay được rồi.” Chàng sợ Hồ Quế Nam gặp nguy hiểm, bèn nhảy qua tường đi vào, nhắm hướng có tiếng trai gái cười đùa không dứt mà lần tới.

Đột nhiên nghe Ngọc Chân Tử vừa cười vừa hỏi: “Trên người muội, chỗ nào trơn tru nhất?”

Cô gái vừa cười vừa đáp: “Muội không biết.”

Ngọc Chân Tử cười nói: “Để ta sờ thử xem.”

Viên Thừa Chí đỏ mặt tía tai, dừng bước nghĩ thầm: “Tên giặc già kia đang bày trò. May mà Thanh đệ không có ở đây.” Chàng nghe tiếng cười đùa phóng túng của cô gái đó, trong lòng không khỏi khó chịu, bèn âm thầm nhảy ra khỏi tường, ngồi đợi trong bãi cỏ.

Lát sau một cơn gió thổi qua, chàng bỗng rùng mình. Bây giờ mới chớm thu, nhưng ở phương bắc thì ban đêm đã cảm thấy hơi lạnh của mùa đông rồi. Đột nhiên nghe tiếng Ngọc Chân Tử giận dữ quát: “Ai?”

Viên Thừa Chí giật mình đứng dậy, la thầm: “Hỏng rồi! Bị hắn phát giác rồi.” Chàng lập tức nhảy lên đầu tường, thấy một bóng đen chạy nhanh tới. Đến gần thì thấy trong tay y ôm một mớ gì đó bùng nhùng.

Viên Thừa Chí động tâm nghĩ: “Đúng là ăn cắp quen tay. Không hiểu Hồ huynh lấy gì của hắn, cả một đống to thế kia.” Nhất thời chàng không kịp suy nghĩ, vội nhảy xuống nắm lấy y rồi tung người vọt qua tường. Khi đáp xuống đất, nghe tiếng Ngọc Chân Tử hét: “Bọn chuột nhắt kia! Chán sống hay sao?” Thì ra hắn đã đứng trên đầu tường.

Hồ Quế Nam la lên: “Lấy được rồi! Chạy nhanh lên!”

Viên Thừa Chí cả mừng quay lại nhìn, bỗng không nén nổi kinh ngạc. Dưới ánh sao mờ nhạt, chàng thấy nửa thân trên Ngọc Chân Tử lõa lồ, phía dưới quấn một tấm chăn rất dày, phải dùng hai tay giữ lấy.

Chàng nhịn không nổi, cười phì ra. Hồ Quế Nam mỉm cười nói: “Lão mũi trâu đang làm trò khỉ thì bị ta lấy cắp hết quần áo.” Y nói xong đưa hai tay lên, đúng là đang ôm một đống quần áo.

Y quay lưng lại nói: “Minh chủ, lấy bảo kiếm đi.” Viên Thừa Chí thấy Kim Xà Kiếm đang cài sau lưng y, bèn rút lấy cắm vào thắt lưng mình.

Hai người chạy được mấy bước, Ngọc Chân Tử cả người lẫn chăn đã phóng tới, vừa quát mắng vừa vung hữu chưởng đánh tới Hồ Quế Nam. Viên Thừa Chí xuất chưởng nhằm vào vai hắn, cũng quát lên: “Hai chúng ta lại tỉ thí một trận nữa!”

Ngọc Chân Tử cảm thấy thế chưởng cực kỳ lợi hại, vội thu tay về chống đỡ. Hai chưởng giao nhau, mỗi người phải lùi ba bước. Ngọc Chân Tử giật mình kinh hãi, khi nhìn rõ đối thủ càng kinh hãi hơn. Hắn la lên: “Ái chà! Thằng lỏi này trốn thoát rồi sao?”

Lúc nãy hắn tưởng là bọn trộm cắp đến đây trộm kiếm, nên mới lõa lồ đuổi theo, nghĩ chỉ một chiêu là xong. Nào ngờ lại có một đại cao thủ như Viên Thừa Chí chờ sẵn ngoài tường.

Viên Thừa Chí vừa lùi lại đã tiến lên. Tay trái của Ngọc Chân Tử lo giữ chăn cho khỏi tuột, chỉ còn tay phải chống đỡ với đối thủ. Nhưng cái chăn này vừa dài vừa rộng, nên chỉ được hai chiêu là chân hắn vướng phải tấm chăn, bước đi loạng choạng. Viên Thừa Chí thừa thế xuất một quyền khá nặng đánh trúng đầu vai hắn.

Ngọc Chân Tử vừa lo lắng, vừa giận dữ. Hắn đang tận tình hưởng lạc thì bị Hồ Quế Nam lấy mất bảo kiếm và y phục, vốn đã kinh hãi rồi, bây giờ lại gặp phải kình địch. Đầu vai trúng một chiêu Phá Ngọc Quyền của Viên Thừa Chí, cả cánh tay phải hắn tê chồn.

Từ hồi tám tuổi cho đến bây giờ, hắn chưa từng lõa lồ thân thể trước mặt nam nhân khác. Bây giờ tâm trạng bối rối, hắn không nghĩ được chuyện vứt bỏ tấm chăn, để thân thể lõa lồ động thủ với Viên Thừa Chí cũng chẳng trở ngại gì. Lúc này đêm khuya, kế bên không có nhiều người. Cho dù bị người ta nhìn thấy, thì hắn phong lưu háo sắc đã quen, chẳng mang tiếng gì thêm. Nhưng thói quen mặc áo quần đã bắt rễ trong lòng rồi, lúc này hắn tay chân loạn xạ lo chống đỡ mà tay trái vẫn nắm chặt tấm chăn không chịu buông ra, chỉ dùng một tay đối địch.

Chưa tới hai chiêu nữa, sau lưng hắn lại bị Viên Thừa Chí đánh trúng một chưởng. Phát chưởng này đã vận nội kình Hỗn Nguyên Công, Ngọc Chân Tử không gượng nổi, hộc một tiếng rồi thổ ra một ngụm máu tươi.

Viên Thừa Chí dừng tay không truy kích, mỉm cười nói: “Lúc này giết ngươi, chắc ngươi chết cũng không phục. Lần sau ngươi ăn mặc đàng hoàng, chúng ta lại đánh một trận.”

Hồ Quế Nam lo lắng nói: “Minh chủ không nên tha hắn, e rằng nguy đến tính mạng Tổ Đại Thọ.”

Viên Thừa Chí động tâm nghĩ: “Không sai! Hắn đi bẩm lên Thát tử hoàng đế, lại tăng thêm tội danh cho Tổ thúc thúc. Lần này ta phải giết người diệt khẩu.” Chàng bèn tung người tới, vung cả song quyền đánh vào hai bên thái dương của hắn.

Ngọc Chân Tử thấy chiêu này ác độc, dĩ nhiên phải đưa cả hai tay ra đỡ. Tuy hắn gạt được song quyền của đối phương, nhưng tấm chăn đã tuột xuống chân. Hắn vừa kinh hãi la lên, lại bị Viên Thừa Chí phóng cước đá trúng vào trước ngực. Ngọc Chân Tử sợ quá, không nghĩ đến chuyện trên người có vải hay không nữa, cứ vắt giò lên cổ mà chạy trốn. Viên Thừa Chí và Hồ Quế Nam đuổi riết theo sau.

Võ công đạo sĩ này thật sự cao cường. Liên tiếp trúng ba chiêu, bị thương rất nặng mà hắn vẫn chạy như bay, khinh công hiếm có trên đời. Viên Thừa Chí đuổi theo, thấy hắn chuồn vào trong cái lều bằng da bò lớn ở giữa. Chàng định nhảy vào giết hắn diệt khẩu, nhưng vừa chạy tới ngoài lều đã thấy trong căn lều đó đèn đuốc sáng trưng như ban ngày, lố nhố đầy người. Chàng lập tức dừng lại, né sang một bên. Lúc này mọi người trong lều đều kinh hãi la lên.

Hồ Quế Nam đã chạy tới nơi, nắm tay Viên Thừa Chí dẫn vòng ra phía sau lều. Hai người cúi rạp xuống, vén mép lều lên, nhìn vào bên trong. Họ thấy Ngọc Chân Tử đã té nhào xuống đất, nằm ngẩng mặt nhìn trời, cả người không chút vải dính thân. Nam tử hán như hắn mà toàn thân phô bày da thịt trắng trẻo, trước ngực dính đầy máu tươi, trông vừa quái lạ vừa tức cười.

Mọi người trong lều khi hết kinh hãi đều im lặng không lên tiếng. Lát sau mới nghe một giọng oai nghiêm cất lên, nói tiếng Mãn Châu. Viên Thừa Chí giật mình, người nói chính là Hoàng Thái Cực, hoàng đế Mãn Thanh.

Trong lều đứng đầy võ sĩ bố khố, không dưới hai trăm tên. Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Đúng rồi! Thát tử hoàng đế thích xem tỉ võ, đêm nay lại đến đây xem nữa. Coi như hắn có nhãn phước, được thấy tổng giáo đầu của bọn võ sĩ kỳ lạ thế này.”

Đêm qua Viên Thừa Chí đã giao đấu với bọn bố khố. Tuy võ công chúng chỉ bình thường, nhưng hễ nắm được ai là chết cũng không buông, thật là khó đấu. Võ sĩ trong lều lại đông như thế, bây giờ muốn hành thích hoàng đế quyết không thể được. Chàng bèn im lặng, đợi xem biến chuyển thế nào.

Một tên võ sĩ ra vẻ thủ lãnh bước lên, cung kính bẩm báo. Hoàng Thái Cực nói mấy câu rồi đứng dậy, hình như đã mất hứng không muốn xem tỉ võ nữa. Khi hắn đi tới cửa lều, mấy chục tên thị vệ vây quanh tiền hô hậu ủng, đưa ra khỏi lều rồi lên ngựa.

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Đây đúng là cơ hội trời cho. Ta ra tay xuất kỳ bất ý dọc đường, so với vào cung hành thích thì tiện lợi hơn rất nhiều.” Chàng khẽ bảo Hồ Quế Nam: “Đó là Thát tử hoàng đế. Huynh về trước đi, ta thừa cơ ra tay dọc đường.”

Hồ Quế Nam vừa mừng vừa sợ, nói: “Minh chủ nhớ cẩn thận.”

Viên Thừa Chí bám theo nhóm người tiền hô hậu ủng Hoàng Thái Cực, thấy bọn thị vệ giơ cao đuốc đi về phía tây. Chàng nghĩ: “Đợi hắn đi xa xa rồi hãy ra tay, đỡ bị đám võ sĩ trong lều kéo tới quấy rầy.”

Chưa tới một dặm, bỗng thấy đám thị vệ đưa Hoàng Thái Cực vào trong một căn nhà lớn. Viên Thừa Chí ngạc nhiên nghĩ: “Giờ này sao hắn không về cung, vào căn nhà này làm gì?” Chàng vòng ra sau nhà, nhảy qua tường, lọt vào một vườn hoa rất rộng, thấy một căn phòng ở hướng nam có ánh sáng rọi ra.

Chàng cúi người tiến tới, theo khe cửa sổ nhìn vào, thấy trong phòng chăn màn rất sang trọng. Trên tấm màn bằng lụa hồng có thêu một đôi phượng hoàng lớn. Tấm màn này bỗng được vén lên, Hoàng Thái Cực bước vào trong. Viên Thừa Chí mừng rỡ, thầm nghĩ: “Trời giúp ta đây!”

Một nữ nhân Mãn Châu đứng dậy nghênh đón. Trang phục nữ nhân này vô cùng diễm lệ, trên mũ cũng cũng khảm trân châu bảo ngọc. Sau khi Hoàng Thái Cực vào phòng, nữ nhân ấy quay người lại. Viên Thừa Chí thấy nàng khoảng hai tám hai chín tuổi, dáng vẻ đoan trang thùy mị, toàn thân đeo kín châu bảo. Chàng nghĩ: “Nữ nhân này nếu không phải hoàng hậu thì cũng là quý phi. Đúng rồi, Hoàng Thái Cực đi xem võ sĩ tỉ thí, nương nương không thích xem nên ở đây chờ đợi. Đây chính là nội cung của hoàng đế.”

Hoàng Thái Cực đưa tay sờ má nữ nhân, nói mấy câu gì đó. Nàng vừa trả lời vừa cười khúc khích. Hoàng Thái Cực ngồi lên giường, đang định nằm xuống thì đột nhiên đứng bật dậy, trên mặt đầy vẻ hoài nghi. Y nhìn quanh phòng, bỗng thấy bên giường có một đôi giày nam nhân đang để nghiêng ngả, bèn lớn tiếng vừa mắng vừa hỏi.

Nữ nhân sắc mặt tái xanh, lấy tay che mặt khóc rấm rứt. Hoàng Thái Cực túm lấy ngực, đưa tay toan đánh. Nàng khuỵu gối, quỳ xuống ngay trước mặt y. Hoàng Thái Cực buông nàng ra, cúi xuống nhìn vào gầm giường.

Viên Thừa Chí vô cùng kinh ngạc, thầm nghĩ: “Chắc là hoàng hậu nương nương thừa lúc hoàng đế đi xem tỉ võ mà hẹn với tình nhân. Không ngờ Hộ quốc chân nhân Ngọc Chân Tử diễn tuồng hay, khiến hoàng đế trở về sớm hơn nên cơ quan bại lộ. Chẳng lẽ hoàng hậu nương nương cũng lén lút với nam nhân khác? Thật chẳng ra thể thống gì nữa. Nếu tình nhân của mụ vẫn còn trong phòng, thì phen này không sao thoát được.”

Ngay lúc đó, phía sau Hoàng Thái Cực, một cánh cửa đột ngột hé mở, một người nhảy ra. Ánh đao vừa lóe lên, ngọn trủy thủ đã đâm lút vào lưng Hoàng Thái Cực. Nữ nhân la lên kinh hãi, ngọn nến lắc lư mấy cái rồi tắt hẳn. Lát sau, khi nến được thắp lên thì Hoàng Thái Cực đã nằm yên dưới đất không động đậy được nữa, máu tươi nhuộm đỏ lưng áo hoàng bào.

Phen này Viên Thừa Chí lại càng kinh hãi. Người kia chính là Nhuệ thân vương Đa Nhĩ Cổn mà chàng từng gặp. Nữ nhân nhảy vào trong lòng hắn, hắn ôm lấy, khẽ an ủi dỗ dành.

Nhìn thấy tình cảnh thương tâm này, trống ngực Viên Thừa Chí đập lên loạn xạ. Chàng nghĩ bụng: “Không ngờ Đa Nhĩ Cổn gan to bằng trời, đã dám tư thông với chị dâu còn ám sát cả anh trai. Chuyện này sắp rắc rối rồi, ta mau mau thoát thân là hơn.”

Chàng lập tức nhảy ra ngoài tường, chạy về khách sạn. Thanh Thanh thấy thần sắc chàng kinh hãi, bèn an ủi: “Phước khí của Thát tử hoàng đế rất lớn, huynh không ám sát được hắn thì thôi vậy.”

Viên Thừa Chí lắc đầu nói: “Thát tử hoàng đế bị giết rồi, nhưng không phải ta giết.”

Mọi người đều nghĩ, Thát tử hoàng đế bị hành thích, nhất định kinh thành sẽ đại loạn. Vì thế sáng sớm hôm sau họ lập tức rời khỏi Thịnh Kinh, đi về hướng nam.

Chưa đầy một ngày, quần hào đã vào Sơn Hải Quan. Khi đến kinh sư ở Thuận Thiên Phủ, họ mới nghe tin Mãn Thanh hoàng đế Hoàng Thái Cực vào đêm Canh Ngọ tháng Tám không bệnh mà băng hà. Con trai của Hoàng Thái Cực là Phước Lâm tiếp ngôi hoàng đế, Nhuệ thân vương Đa Nhĩ Cổn giữ quyền nhiếp chính.

Viên Thừa Chí nói: “Đa Nhĩ Cổn thật là lợi hại. Hắn chính tay giết chết hoàng đế, mà vẫn hoàn toàn vô sự. Không biết hắn giấu giếm việc này như thế nào.”

Hồng Thắng Hải nói: “Nhuệ Thân Vương trước nay vẫn được Hoàng Thái Cực tin yêu, tay nắm binh quyền. Vương công thân thích Mãn Thanh, không ai là không sợ hắn. Hắn nói Hoàng Thái Cực không bệnh mà băng hà, dĩ nhiên không ai dám nói gì.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Thế thì sao chính hắn không làm hoàng đế?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Chuyện này tiểu nhân không biết. Có thể hắn sợ có người không phục, sau này sẽ lộ chuyện giết Hoàng Thái Cực ra. Còn thằng bé Phúc Lâm đó là con của Trang Phi. Quý phi mà tướng công gặp đêm đó, nhất định là Trang Phi rồi.”

Phen này Viên Thừa Chí đến Liêu Đông, mục đích là hành thích hoàng đế Mãn Thanh Hoàng Thái Cực để trả thù cha, kết quả là chính mắt nhìn thấy Hoàng Thái Cực bị đâm chết. Tuy không phải chính tay mình giết, nhưng dù sao kẻ đại thù cũng đã chết rồi. Thế mà trong lòng chàng không thấy vui mừng chút nào, cứ ngẫm nghĩ: “Sao hắn lại giao mình cho Tổ thúc thúc? Biết người biết ta như Hoàng Thái Cực, dĩ nhiên sẽ nghĩ đến chuyện Tổ Đại Thọ thả mình ra. Hắn muốn thu phục lòng người, khiến Tổ thúc thúc một lòng một dạ làm việc cho hắn, hay là cố ý làm vậy để lấy lòng, dụ ta đầu hàng thật sự?”

Có lúc Viên Thừa Chí lại nghĩ: “Tổ thúc thúc đầu hàng Thát tử, dĩ nhiên là Hán gian rồi. Nhưng ông ấy vừa cứu mạng ta, ta đã buột miệng gọi ông ta là thúc thúc. Chẳng lẽ đó không phải là nhớ ơn riêng mà quên đại nghĩa? Chuyện này nên hay không nên?”

Chàng lại nghĩ đến lúc Hoàng Thái Cực sắp chết, khi đó mình nhịn không nổi, chỉ muốn xông vào nhà để cứu mạng hắn. Nếu Đa Nhĩ Cổn ra tay chậm một chút, thì có thể mình đã ra tay cứu kẻ thù rồi. Bây giờ nhớ lại, thật là khó nghĩ. Hoàng Thái Cực kiến thức cao siêu, Đa Nhĩ Cổn thủ đoạn ác độc, bọn Phạm Văn Trình tầm nhìn rất xa, Ngọc Chân Tử võ công cao cường, võ sĩ Mãn Thanh dũng cảm, triều đình Đại Minh chẳng thể nào sánh kịp. Thế sự vô cùng gian nan, những ngày sắp tới còn khó khăn nhiều. Bấy giờ trong lòng chàng trống trải, chẳng nghĩ được chuyện gì.

*

*   *

Viên Thừa Chí xuất tiền, sai Hồng Thắng Hải tìm mua một tòa nhà ở hẻm lớn gần Cấm Thành. Lần này đến kinh thành phải kết giao với các bậc vương công và đại quan văn võ để làm nội ứng cho Sấm quân, nên cần tạo vẻ sang trọng hào nhoáng.

Viên Thừa Chí đem châu báu và vàng thỏi trong rương sắt đổi dần thành ngân lượng. Có lúc chàng bảo Hồng Thắng Hải đổi ở Thiên Tân, có lúc đến tận Trương Gia Khẩu để khỏi gây chú ý cho người khác. Sau khi đổi thành ngân lượng, lại cho người đem về Sơn Tông Doanh ở Mã Cốc Sơn. Tôn Trọng Thọ quân lương đầy đủ, sai người đến Quan Liêu chiêu binh mãi mã, đồng thời kêu gọi người cũ của Sơn Tông.

Vừa nghe được công tử của Viên đốc sư chỉ huy đánh trận, đám thuộc hạ năm xưa của Viên Sùng Hoán lập tức kéo tới Sơn Tông Doanh. Họ phần lớn đã già, đi tới cuối cuộc đời tướng sĩ, chí trai chưa dứt nhưng khi xung phong hãm trận thì không khỏi lực bất tòng tâm. Tuy nhiên người nào cũng trải nhiều chiến trận, hiểu cách dùng binh, nên rất đắc lực trong việc chỉnh lý đội ngũ, rèn luyện sĩ tốt. Trong vòng vài tháng, Kim Xà Tam Doanh đã được luyện thành một đội quân tinh nhuệ. Tuy chưa thể sánh được Ninh Viễn hùng binh dưới tay Viên Sùng Hoán năm xưa, nhưng không còn là đám quân ô hợp trong trận phục kích Cẩm Dương Quan nữa.

Nhiều lần Viên Thừa Chí nhân lúc rảnh rỗi phóng ngựa đến Mã Cốc Sơn thăm Tôn Trọng Thọ, Thủy Giám, Chu An Quốc và mang quân lương đến. Kim Xà Tam Doanh chiêu binh mãi mã, rèn tạo khí giới, đã trở thành một đội quân hùng mạnh. Giả tỉ quân Thanh dám đến tấn công, phe mình có thể quyết một phen tử chiến. Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Khi đó mới không uổng hai chữ Thừa Chí trong tên mình.”

Hôm đó Thanh Thanh ở nhà, chỉ huy gia nhân tô điểm, bố trí tòa nhà lớn. Viên Thừa Chí một mình đi dạo trên những con đường ở nội thành. Đến một nơi, chàng thấy mấy chục quân canh của Bộ Hộ cầm binh khí cảnh giới nghiêm ngặt. Hỏi người đi đường thì biết là phương nam vừa gửi tào ngân tới, bây giờ đang chuyển vào cất trong kho.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Đây là vốn liếng của Sùng Trinh hoàng đế, ta phải xem cho tỉ mỉ.” Chàng đứng ở xa xa, xem xét tình hình chung quanh. Đột nhiên có hai bóng đen từ nóc nhà ngân khố nhảy vọt lên, thân pháp cực nhanh, chỉ chớp nhoáng đã mất hút về hướng đông. Viên Thừa Chí ngạc nhiên thầm nghĩ: “Ban ngày ban mặt thế này, lại có đại đạo dám cướp kho.”

Sáng hôm sau mọi người ngồi ăn sáng trong đại sảnh, ngoài sân tuyết phủ dày hơn một tấc. Thì ra đêm qua đã có tuyết rơi. Hai cây mai trong vườn trổ hoa, hương bay thoang thoảng. Giữa nền tuyết trắng tinh, hoa mai càng đẹp hơn nhiều.

Một tên gia đinh chạy vào, bẩm với Thanh Thanh: “Tiểu thư! Ngoài kia có người đưa quà tới.”

Một tên gia đinh khác bưng lễ vật vào. Đó là một bình hoa bằng sành đời nhà Tống, một tấm bình phong nhỏ có tranh vẽ của Thẩm Thạch Điền. Viên Thừa Chí nghĩ: “Hai món lễ vật này rất tinh nhã, nhưng không kèm danh thiếp, chẳng hiểu do ai gửi tặng.”

Thanh Thanh gói một lạng bạc, sai gia đinh mang ra ngoài thưởng cho người mang tới, rồi hỏi rõ ai gửi đến. Nhưng một lúc sau, gia đinh quay vào bẩm báo: “Người mang quà tới đã đi rồi, không sao đuổi kịp.”

Mọi người đều cười người tặng quà là thiếu cẩn thận. Bây giờ nhận lễ vật của người ta mà không biết chủ nhân là ai, cũng không biết ý định người ấy thế nào.

Hồng Thắng Hải nói: “Viên tướng công lừng danh thiên hạ; phen này đến kinh đô chắc trên giang hồ có nhiều lời đồn đãi. Dù sao cũng phải có bằng hữu mộ danh, tỏ ý kính trọng tướng công chứ.”

Mọi người đều biết chắc là như vậy. Đến giờ ngọ, lại có người gánh nguyên một bàn tiệc đến, toàn những món của phạn điếm Toàn Tụ Hưng nổi tiếng ở Bắc Kinh. Khi hỏi thì đầu bếp nói: “Có người đã thanh toán ngân lượng, sai gánh đến đây.”

Quần hào nổi dạ nghi ngờ, đem rượu thịt đó cho mèo chó ăn thử trước, nhưng không thấy gì khác lạ.

Buổi chiều có người đưa quà tới liền liền, hoặc là bàn ghế, hoặc là hoa cỏ cây cảnh, đều là những vật rất thích hợp để bày trong tòa nhà sang trọng. Thanh Thanh chỉ buột miệng nói một câu: “Ở đây phải treo một ngọn đèn lớn mới đúng” là chưa tới một giờ sau đã có người gửi tặng một đôi cung đăng rất lớn, vừa đẹp đẽ vừa sang trọng.

Rồi lại có người đem đến gấm lụa vải vóc, khăn áo nón giày, ngay cả những đồ phấn son Thanh Thanh dùng hàng ngày cũng tuyển loại thượng hạng gửi tới. Thiết La Hán vung tay chụp lấy người đưa quần áo đến, quát hỏi: “Ngay cả áo cà sa ta mặc mà ngươi cũng đem tới. Sao ngươi biết ở đây có đầu đà?”

Tên giúp việc cho tiệm may đó bị y túm chặt, hoảng sợ vừa run cầm cập vừa đáp: “Chuyện này tiểu nhân không biết. Sáng nay có người trả tiền gấp đôi, dặn phải làm nhanh rồi đưa đến đây.”

Bây giờ quần hào đều cảm thấy chuyện này cổ quái. Thanh Thanh cố ý nói: “Nếu thật sự người tặng quà đọc được suy nghĩ của ta, đưa một chuỗi trân châu đến đây thì tuyệt.”

Lát sau, một tên gia nhân lén lút đi ra khỏi sảnh. Thanh Thanh khẽ bảo Hồng Thắng Hải: “Theo hắn, xem hắn đi đâu.”

Chẳng bao lâu tên gia nhân đó đã quay về làm việc, nhưng Hồng Thắng Hải thì một giờ sau mới về. Y vừa bước vào trong cửa, một hiệu châu báu đã gửi tới hai chuỗi trân châu. Thanh Thanh nhận lấy trân châu, đi thẳng vào nhà trong. Viên Thừa Chí cùng Hồng Thắng Hải cũng theo vào.

Hồng Thắng Hải nói: “Tên gia nhân đó ra ngoài cửa, nói mấy câu với một lão ăn xin rồi lập tức quay vào nhà. Tiểu nhân đi theo lão ăn xin đó, thấy hắn băng qua bên kia đường, gặp một tên công sai của nha môn. Hai người nói chuyện mấy câu, rồi lão ăn xin quay về trước cửa nhà chúng ta.”

Thanh Thanh hỏi: “Chắc ngươi theo dõi tên ưng trảo đó phải không?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Đúng vậy. Tên ưng trảo đó không tới nha môn mà đi vào một con hẻm nhỏ, tới một khu vườn lớn. Tiểu nhân thấy xung quanh không có ai, liền nhảy lên nóc nhà nhìn trộm. Thì ra trong vườn đã có mười mấy người công sai tụ họp, ngồi giữa là một lão già chột mắt. Mọi người đều gọi lão là Đơn lão sư. Hình như lão là thủ lĩnh của bọn này. Tiểu nhân sợ họ phát giác nên trở về đây.”

Thanh Thanh nói: “Hay quá! Tai mắt của bọn quan phủ thật là minh mẫn, chúng ta vừa đến Bắc Kinh là bọn ưng trảo đã biết tin ngay. Hừ! Nếu chúng muốn nhúng vào việc của chúng ta, e rằng không dễ đâu.”

Viên Thừa Chí nói: “Lạ ở chỗ bọn chúng gửi quà đến đây, mà không muốn cho chúng ta biết. Bọn người ăn cơm triều đình nhất định tinh nhanh, hành sự đắc lực, không làm những việc dại dột đâu. Không biết chúng làm như thế có ý nghĩa gì.”

Chàng bảo Hồng Thắng Hải mời Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng, Hồ Quế Nam vào. Mọi người thương nghị một hồi, chẳng ai đoán được gì.

Thanh Thanh nói: “Đồ dơ bẩn của bọn công sai, chúng ta không cần.”

Đêm đó nàng cùng ông câm, Thiết La Hán, Hồng Thắng Hải gom hết những món đồ được tặng, khiêng đến bỏ trong khu vườn mà bọn công sai tụ tập.

Sáng hôm sau Thanh Thanh gọi tên gia nhân làm gián điệp tới, cho nghỉ việc nhưng không làm khó dễ gì. Hắn cung kính nhận lấy tiền công, đa tạ mấy lần mới rời khỏi đó, không để lộ chút buồn bã nào. Viên Thừa Chí cùng mọi người cảnh giới nghiêm ngặt, đợi xem có biến cố gì nữa hay không. Hôm đó quả nhiên không ai đem quà đến tặng nữa.

Đêm đó gió thổi rất mạnh tuyết rơi suốt đêm. Sáng sớm hôm sau, Hồng Thắng Hải lộ vẻ kinh ngạc chạy vào bẩm báo: “Tuyết trước cửa không biết ai đã quét dọn sạch sẽ. Chuyện này lạ thật.”

Viên Thừa Chí nói: “Hình như bọn ưng trảo đang âm thầm muốn giao hảo với chúng ta.”

Thanh Thanh mỉm cười nói: “Muội biết rồi.”

Mọi người vội hỏi, nàng liền nói: “Họ sợ chúng ta gây án trong kinh thành, không đối phó nổi, nên đến chào hỏi chúng ta trước để giao kết làm bằng hữu.”

Sa Thiên Quảng mỉm cười nói: “Nghe cũng có lý lắm. Nhưng ta đã làm cường đạo nhiều năm mà chưa từng nghe những việc như vậy.”

Trình Thanh Trúc bỗng lên tiếng: “Ta nhớ ra rồi! Lão bộ khoái chột kia tên là Độc nhãn thần long Đơn Thiết Sinh. Lão ẩn dật lâu rồi, nên nhất thời ta không nghĩ tới.”

Mấy ngày sau đó, quần hào không thấy chuyện gì kỳ lạ, nên dần dần không để việc đó trong lòng nữa. Một buổi trưa, mọi người đang uống rượu nói chuyện trên đại sảnh, gia đinh đưa vào một tấm thiếp màu đỏ. Trên thiếp có mấy chữ: “Vãn sinh Đơn Thiết Sinh thỉnh an”, đồng thời có tám hộp quà. Viên Thừa Chí bảo: “Mau ra mời vào!”

Gia đinh nói: “Vị Đơn gia này thật là kỳ lạ. Ông ấy nói là thỉnh an Viên tướng công, rồi quay đầu đi ngay. Mời mãi, ông ấy cũng không chịu vào ngồi chơi một lúc.”

Hồng Thắng Hải phụng mạng Viên Thừa Chí đem lễ vật trả lại, kèm theo danh thiếp của ba người là Viên Thừa Chí, Trình Thanh Trúc và Sa Thiên Quảng.

Ba ngày liên tiếp, Đơn Thiết Sinh đưa danh thiếp đến thỉnh an từ sáng sớm. Trình Thanh Trúc nói: “Độc Nhãn Thần Long trên giang hồ đâu phải hạng vô danh tiểu tốt, sao phải làm chuyện lén lút như vậy? Ngày mai ta phải tìm y hỏi thử.”

Hồ Quế Nam nói: “Vụ này lại không thấy ác ý ở đâu, không hiểu là chiêu số tà môn gì.”

Đột nhiên Thiết La Hán lớn tiếng nói: “Ta biết lão đó muốn gì rồi.”

Mọi người thấy vị đầu đà này thường ngày chẳng sáng suốt gì, bây giờ lại có kiến giải độc đáo, đều ngạc nhiên hỏi: “Huynh thấy lão muốn gì?”

Thiết La Hán đáp: “Lão thấy Viên tướng công võ công đã cao, danh tiếng lại lớn, nên muốn chọn làm con rể.”

Lời vừa nói ra, không ai nhịn cười nổi. Sa Thiên Quảng đang uống trà, sặc sụa phun hết lên người Hồ Quế Nam. Hồ Quế Nam vừa lau chùi vừa mỉm cười nói: “Con gái của Độc Nhãn Thần Long, chắc chỉ có một mắt. Làm sao Viên tướng công thích được!”

Thiết La Hán giương mắt lên hỏi: “Sao ngươi biết?”

Hồ Quế Nam cười đáp: “Trứng rùa lại nở ra rùa, Độc Nhãn Thần Long dĩ nhiên phải sinh ra loài độc nhãn rồi.”

Mọi người đùa giỡn một chập. Thanh Thanh không biết nói gì, trong lòng cứ khó chịu hoài. Nàng nghĩ bụng: “Lão Độc Nhãn Thần Long kia thật lắm mưu mô, không chừng muốn chọn đại ca làm con rể thật.” Đêm đó nàng lấy bảy tờ giấy, tờ nào cũng vẽ hình một lão công sai chột mắt, chú thích mấy chữ: “Độc nhãn thần long Đơn Thiết Sinh kính viếng”. Đêm đó nàng phi thân vào bảy nhà phú hào trong kinh thành, trộm mỗi nhà một ít đồ trang sức và ngân lượng, rồi để lại một tấm hình Độc Nhãn Thần Long.

Sáng sớm hôm sau, Hồng Thắng Hải gõ cửa phòng Thanh Thanh, lên tiếng: “Tiểu thư! Độc Nhãn Thần Long đến đây rồi. Viên tướng công đang nói chuyện với lão trên đại sảnh.”

Thanh Thanh bèn khoác nam trang lên sảnh, quả nhiên thấy Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng đang ngồi uống trà với một lão già vừa lùn vừa ốm. Viên Thừa Chí giới thiệu cho nàng biết. Thanh Thanh thấy lão Đơn Thiết Sinh đã ngoài sáu mươi, râu mày trắng bạc, con mắt bên trái sáng lấp lánh, ra vẻ tinh minh lanh lợi.

Lão lên tiếng: “Hành động của tiểu lão thật vô cùng mạo muội. Chẳng qua có một chuyện muốn nhờ Viên tướng công cùng quý vị ra sức giúp đỡ, tiểu lão lại chưa được quen biết, chỉ còn cách dùng hạ sách này. Không ngờ đã làm phiền hà quý vị, tiểu lão xin đa tạ và xin lỗi trước.”

Nói xong, lão quỳ ngay xuống đất khấu đầu. Viên Thừa Chí vội đỡ dậy. Chàng chưa kịp hỏi lão có chuyện gì cần giúp, Thanh Thanh bỗng lên tiếng hỏi: “Con gái của ông có khỏe không? Sao không theo ông đến đây?”

Đơn Thiết Sinh ngẩn ra đáp: “Tiểu lão một đời cô độc, ngay cả bạn đời cũng không có, đừng nói là con gái.”

Thanh Thanh lại hỏi: “Thế thì ông có cháu gái, hay con gái nuôi gì không?”

Đơn Thiết Sinh đáp: “Tiểu lão không có.”

Thanh Thanh mỉm cười, vào phòng bưng đồ trang sức và ngân lượng ra, đưa cho lão rồi nói: “Đùa giỡn với ông một phen, xin ông đừng trách. Nhưng nếu không làm thế thì không sao vời được đại giá của ông đến đây.”

Đơn Thiết Sinh đa tạ, nghĩ bụng: “Trò đùa suýt nữa hại chết lão già này.” Lão lại nghĩ: “Không hiểu sao cô nương cải nam trang này lại hỏi mình có con gái nuôi hay không. Chẳng lẽ cô ấy muốn bái ta làm dưỡng phụ?”

Mọi người đều cảm thấy kỳ lạ. Chưa ai kịp hỏi gì thì đột nhiên một tên bộ khoái đi vào. Hắn thi lễ cùng mọi người rồi nói với Đơn Thiết Sinh: “Đơn lão sư! Ngân khố lại mất thêm hai ngàn lượng.”

Đơn Thiết Sinh đổi hẳn sắc mặt, đứng dậy chắp tay nói: “Tiểu lão có việc gấp phải điều tra, lát nữa sẽ quay lại thỉnh an các vị.” Lão thu cất những món Thanh Thanh giao trả, rồi vội vã đi theo tên bộ khoái.

*

*   *

Đến chiều một trận tuyết lớn đổ xuống, trông như một tấm màn lông ngỗng. Thanh Thanh hẹn Viên Thừa Chí ra phía tây thành để uống rượu thưởng tuyết. Hai người đã rất lâu không đi riêng với nhau, hôm nay mới có nửa ngày nhàn hạ nên rất sảng khoái.

Vùng này bốn bề đều là cỏ tranh. Trên cỏ tranh đã phủ thêm lớp tuyết, nhìn ra xa cả vùng trắng xóa. Thanh Thanh có mang theo rượu thịt, hai người vào một quán lương đình uống rượu, hàn huyên nhàn nhã, ngắm nhìn cảnh tuyết. Nơi này ngày thường đã rất hoang vu, hôm nay trời lạnh tuyết lớn nên càng ít người hơn.

Viên Thừa Chí hỏi Thanh Thanh vừa giao trả những thứ gì cho Đơn Thiết Sinh. Nàng mỉm cười, kể lại những chuyện đêm qua. Viên Thừa Chí nói: “Trời ơi! Ta vừa khen Thanh đệ lúc này ngoan ngoãn, nào ngờ vẫn ngỗ nghịch như xưa.”

Thanh Thanh hỏi: “Huynh khen muội hồi nào?”

Viên Thừa Chí đáp: “Ta thầm khen trong lòng, dĩ nhiên muội không biết.”

Thanh Thanh vui sướng, mỉm cười nói: “Ai bảo lão ấy không chịu lộ diện, cứ âm thầm quấy rối người ta.”

Viên Thừa Chí nói: “Không biết lão muốn nhờ chúng ta việc gì đây.”

Thanh Thanh nói: “Loại người tệ hại như thế thì mặc kệ. Lão muốn nhờ việc gì, chúng ta cũng không đồng ý.”

Hai người uống rượu một hồi, bỗng nhắc đến cái đêm uống rượu thưởng hoa ở Tịnh Nham, Cù Châu. Thanh Thanh nghĩ đến cố hương và người mẹ hiền đã khuất, bất giác rơi lệ. Viên Thừa Chí vội tìm chuyện khác để trêu nàng vui vẻ bật cười.

Chú thích của Kim Dung:

Thanh thái tông Hoàng Thái Cực chết không rõ nguyên nhân. Thanh Sử Cảo Thái Tông Bản Kỷ viết: Ngày Canh Ngọ tháng tám năm Sùng Đức thứ tám, Hoàng Thái Cực ngự ở chính điện, giờ Hợi đêm đó vô bệnh băng hà, thọ 52 tuổi.

Hôm đó Hoàng Thái Cực vẫn xử lý chính sự rất bình thường, đột nhiên giữa đêm không bệnh mà mất. Sau này nhiều người nghi ngờ là Đa Nhĩ Cổn mưu sát, nhưng hoàn toàn không có chứng cớ. Vào năm Thuận Trị thứ sáu, Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn chính thức kết hôn với Trang Phi của Hoàng Thái Cực, tức là mẹ của Thuận Trị hoàng đế, Hiếu Trang hoàng thái hậu. Việc này lưu truyền rộng rãi trong dân gian, nhưng không có văn bản ghi lại rõ ràng. Gần đây, sử gia Mạnh Sâm cho rằng chuyện này không chính xác. Còn Hồ Thích lại cho rằng khảo chứng của Mạnh Sâm không đủ sức thuyết phục.

Tập tục của các dân tộc du mục săn bắn ở phương bắc có nhiều chỗ khác với người Hán ở Trung Nguyên. Khi anh mất, em trai kế thừa mọi thứ là việc thường tình. Thanh thái hậu tái giá với Đa Nhĩ Cổn, phần lớn những sử gia cận đại đời Thanh không phủ định là có thể xảy ra.

Chuyện thâm cung bí sử vốn đã không thể hoàn toàn tin tưởng, bây giờ lại mượn chuyện cả ba triều Hán, Tống và Thanh cho dính liền làm một, gần như là ngụy tạo.

Hồi 15: Thiết Thủ quen dùng độc – Kim Xà rải oán sâu

Hai người ngồi đó khoảng hai giờ, nói chuyện rất vui. Khi trời sắp tối, họ thu dọn những đồ ăn uống để quay về.

Thanh Thanh nói: “Thừa Chí đại ca! Đa tạ vì hôm nay huynh ở bên muội toàn tâm toàn ý.”

Viên Thừa Chí mỉm cười đáp: “Thanh đệ! Đa tạ vì hôm nay muội ở bên ta toàn tâm toàn ý.”

Thanh Thanh nói: “Ngày nào muội cũng toàn tâm toàn ý bên huynh, nhưng huynh thì không phải thế.”

Thừa Chí ngạc nhiên hỏi: “Sao ta không phải thế?”

Thanh Thanh nói: “Thừa Chí đại ca! Muội muốn xin huynh một việc, có được hay không?”

Thừa Chí nói: “Không cần phải hỏi, muội nói là được ngay.”

Thanh Thanh nói: “Nam tử hán, đại trượng phu, minh chủ hào kiệt bảy tỉnh, nói ra không được nuốt lời đấy nhé!”

Viên Thừa Chí nói: “Dù ta không phải là minh chủ bảy tỉnh, nhưng đã nói gì với Thanh đệ thì quyết không nuốt lời.”

Trong ánh mắt Thanh Thanh lộ vẻ khẩn cầu, nhỏ giọng nói: “Thừa Chí đại ca! Muội xin huynh đừng nhớ đến cô A Cửu kia nữa. Mấy hôm nay, bất luận đang làm việc gì, huynh cũng nhớ đến A Cửu.”

Thừa Chí cãi: “Oan quá! Ta nghĩ đến cô ấy hồi nào?”

Thanh Thanh nói: “Khi lão Độc Nhãn Thần Long đưa thiệp đến nhà, tay huynh đón lấy tấm thiệp, mặt đầy vẻ dịu dàng. Dĩ nhiên huynh mong đó là thư của A Cửu gửi tới, mong người tặng quà cho chúng ta là cô nương xinh đẹp đó. Đơn Thiết Sinh vừa già vừa chột, thế mà huynh nhận thiếp của lão lại ngơ ngẩn si mê đứng đó, khóe miệng mỉm cười. Chẳng lẽ huynh thấy lão chột đó tuấn tú hay sao?”

Thừa Chí nghĩ thầm: “Cô nương này thật là lợi hại, ngay cả suy nghĩ trong lòng mình cũng không giấu nổi.”

Trên đường cái bỗng có hai người chạy lẹ tới, lưng đeo bao vải. Phía sau có ba người đuổi theo. Người đuổi đầu tiên, tay cầm thước sắt, thân pháp nhanh nhẹn vô cùng, chính là Độc nhãn thần long Đơn Thiết Sinh. Chạy sau lão là hai tên công sai cầm đơn đao và xích sắt. Viên Thừa Chí nắm tay Thanh Thanh, đứng bên đường để xem.

Đơn Thiết Sinh la lên: “Bằng hữu đừng chạy, để tang vật lại đã!”

Đột nhiên bên trái có năm sáu người cầm binh khí xô ra cản đường cho hai người phía trước chạy trốn. Đơn Thiết Sinh thấy đối phương đông người, phải dừng bước. Được năm sáu người kia tiếp ứng, hai người đeo bao vải từ từ chạy khuất.

Đơn Thiết Sinh nhìn thấy Viên Thừa Chí và Thanh Thanh, bèn cài thiết xích vào thắt lưng, dừng lại chắp tay cung kính vái chào Viên Thừa Chí. Sau đó lão nói: “Tiểu nhân đáng chết, tiểu nhân đáng chết!”

Thừa Chí ngạc nhiên không hiểu, vội hỏi: “Đơn lão đầu đừng khách sáo. Xảy ra việc gì thế?”

Đơn Thiết Sinh nói: “Xin hai vị vào trong đình ngồi một lát, để tiểu nhân từ từ bẩm cáo.”

Ba người đi vào trong đình, Đơn Thiết Sinh bắt đầu kể lại tiền nhân hậu quả chuyện này.

Thì ra tháng trước kho của Hộ Bộ bị trộm liên tiếp ba lần, mất cắp mấy ngàn lạng ngân khố. Ngay dưới chân thiên tử mà xảy ra chuyện lớn như thế, Cửu Thành đều chấn động. Mới hai ngày hoàng đế đã biết, bèn giận dữ trách mắng Hộ Bộ chánh phó thượng thư, Ngũ Thành binh mã chỉ huy sứ. Y còn xuống chỉ, trong vòng một tháng mà không phá án thì toàn bộ quan viên lớn nhỏ của Hộ Bộ và nha môn binh mã chỉ huy sứ đều bị cách chức nghiêm trị.

Bọn công sai ở Thuận Thiên Phủ bị thượng cấp quát tháo đến mức kêu khổ thấu trời xanh. Ngay cả người nhà của bọn công sai cũng bị bắt giam hết. Không ngờ tuy nha môn truy lùng gắt gao, nhưng ngân khố vẫn liên tiếp bị đánh cắp thêm. Bọn công sai không còn cách nào phá án, bèn đi tìm lão công sai Độc nhãn thần long Đơn Thiết Sinh đã về hưu từ lâu, khấu đầu năn nỉ lão ra tay giúp đỡ.

Đơn Thiết Sinh đến ngân khố xem xét tỉ mỉ, biết thủ phạm đánh cắp ngân lượng không phải là bọn trộm cắp bình thường, mà phải là hảo thủ võ lâm. Lão cho dò hỏi, biết gần đây hảo thủ đến kinh thành chỉ có nhóm người Viên Thừa Chí.

Nghe đến đây, Thanh Thanh hừ một tiếng rồi nói: “Thì ra lúc đó ông nghi ngờ chúng ta là trộm cắp.”

Đơn Thiết Sinh nói: “Tiểu nhân đáng chết! Đúng là khi đó tiểu nhân nghĩ như vậy. Nhưng sau này thám thính tỉ mỉ, được biết Viên tướng công từng tới Ứng Thiên Phủ cứu Thiết bối kim tiên Tiêu Công Lễ, rồi tới Sơn Đông kết giao với Sa trại chủ cùng Trình bang chủ, được quần hùng đề cử làm minh chủ bảy tỉnh Sơn Đông, đánh cho bọn Thát tử chạy loạn lên một trận, thật đáng mặt anh hùng hào kiệt, vĩ nhân đương thế.”

Thanh Thanh nghe lão tán dương Viên Thừa Chí một hồi, không khỏi trong lòng hoan hỉ, sắc mặt hiền dịu hẳn đi.

Đơn Thiết Sinh lại nói: “Lúc đó tiểu nhân đã nghĩ, anh hùng như Viên tướng công nhất định không cần ghé thăm ngân khố. Cho dù thủ hạ gây nên, mà lão nhân gia biết được chắc chắn cũng hạ lệnh nghiêm cấm. Sau này tiểu nhân nghĩ quẩn, đoán là Viên tướng công trách bọn tiểu nhân vì tội không đến bái kiến. Đại anh hùng đến kinh sư mà bọn tiểu nhân không đến trình diện, thật khó trách Viên tướng công nổi giận. Ôi! Thật là tiểu nhân có mắt như mù!”

Thanh Thanh nhìn vào con mắt trắng dã của lão, không nén nổi bật cười khúc khích. Đơn Thiết Sinh lại tiếp: “Vì thế bọn tiểu nhân quyết tâm sửa lỗi, ngày nào cũng đến quý phủ thỉnh an đền tội.”

Thanh Thanh nói: “Ông không nói ra, thì ai mà biết được trong lòng ông nghĩ gì?”

Đơn Thiết Sinh nói: “Không ngờ lại xảy ra biến cố. Bọn tiểu nhân chỉ mong Viên tướng công bớt giận, trả lại ngân khố để cứu mạng già trẻ lớn bé cả nhà mấy trăm công sai trong thành. Nào ngờ Viên tướng công trả hết quà lại, còn điều tra biết được tên và bỉ hiệu của tiểu nhân, phát danh thiếp rộng rãi để giáo huấn tiểu nhân một phen.”

Chuyện này Thanh Thanh coi như không nghe thấy, sắc mặt không động chút nào.

Đơn Thiết Sinh lại nói: “Từ lúc đó mọi người càng rầu rĩ hơn. Hôm nay tiểu nhân nấp sẵn trong kho, chỉ đợi Viên tướng công phái người đến là liều mạng một phen. Nào ngờ người đến chỉ là hai tên trộm đó. Bọn tiểu nhân rượt chúng đến đây, thì có người chạy ra cản địa. Tiểu nhân nhận ra người tiếp ứng là Trương phó tổng quản ở Huệ Vương Phủ. Họ Trương rất ít khi ra ngoài, nhưng năm mươi năm trước tiểu nhân từng gặp hắn ở Sơn Tây. Tiểu nhân cũng biết, ở Huệ Vương Phủ có Chiêu Hiền Quán, gần đây mời đến không ít cao thủ võ lâm. Nhưng Huệ vương gia là thúc phụ của đương kim hoàng thượng, là hoàng tử thứ sáu của tiên đế Thần Tông, xưa nay tiếng tăm rất tốt, không bao giờ dung thứ cho người trong phủ làm chuyện sai trái. Ông ấy thích võ nghệ, mở Chiêu Hiền Quán mời mọc cao thủ võ lâm. Nhiều năm nay ông ấy chỉ lo nghiên cứu võ công, không can dự việc bên ngoài. Đất phong của ông ấy ở Kinh Châu, gần đây vì lưu khấu nổi loạn ở Sơn Đông mà ông ấy về kinh thành tránh nạn. Không biết vì sao Huệ Vương Phủ lại liên quan đến chuyện mất ngân lượng trong quốc khố. Viên tướng công! Lão nhân gia giao du rộng rãi, nghe thấy xa vạn dặm, xin lão nhân gia chỉ điểm một con đường sáng.”

Nói xong, lão quỳ xuống đất, dập đầu lia lịa.

Viên Thừa Chí vội đỡ lão dậy, thầm nghĩ: “Lũ trộm kia dĩ nhiên không lương thiện lắm, nhưng dẫu sao họ cũng đối đầu với quan phủ. Ta hà tất phải tương trợ bọn công sai. Hơn nữa, ăn cắp ngân khố của triều đình cũng là chuyện có lợi cho Sấm Vương.” Chàng bèn mỉm cười, lắc đầu.

Đơn Thiết Sinh cứ nài nỉ Viên Thừa Chí giúp lão truy xét việc này. Viên Thừa Chí cười nói: “Bắt trộm cướp là việc của công sai. Tại hạ tuy chẳng là gì, nhưng chưa đến nỗi phải làm những chuyện như thế.”

Nghe kiểu nói của Viên Thừa Chí, Đơn Thiết Sinh không dám nói gì nữa. Lão đành chắp tay từ biệt, dẫn hai tên công sai ủ rũ đi về.

Dọc đường về Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh gặp phải một bọn cẩm y vệ của nha môn áp tải một nhóm lớn phạm nhân. Trong đám phạm nhân này có người già nua ốm yếu đầu tóc bạc phơ, có nữ nhân đang bế con, có cả bọn trẻ nít. Quan binh hung dữ như cọp sói, la mắng không ngừng. Một thiếu phụ cầu xin: “Các vị đại gia! Xin tử tế hơn một chút, mọi người đều ăn chén cơm công môn cả. Chẳng ai phạm tội gì, chẳng qua vì trong kinh thành xuất hiện phi tặc nên liên lụy đến mọi người thảm khốc thế này.”

Một tên lính sờ lên khuôn mặt trái xoan của nàng, cười đểu nói: “Nếu không có phi tặc xuất hiện, ta với nàng đâu có duyên phận gặp nhau?”

Viên Thừa Chí cùng với Thanh Thanh thấy vậy không khỏi tức giận. Thì ra phạm nhân đều là gia quyến của đám bộ khoái trong kinh thành. Bộ khoái ngày thường tàn hại lương dân, làm nhiều chuyện ác ôn, phen này bị quả báo không trách được ai. Nhưng đám đàn bà con nít vô tội này bị liên lụy như thế, ai thấy cũng phải bất nhẫn.

Đi được một lúc nữa, đột nhiên lại gặp một đám bộ khoái dùng xích sắt kéo lê mười mấy người dọc đường, không ngớt reo hò: “Bắt được phi tặc rồi! Bắt được phi tặc rồi!”

Dân chúng bên đường nhìn thấy, ai cũng lắc đầu than thở. Khi Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh đến gần, thì ra đám “phi tặc” này đều là những người nghèo khổ, mặt mày lem luốc. Nhất định bọn bộ khoái bắt bớ bừa bãi để lập công, hai người lại càng giận dữ.

*

*   *

Về đến nơi, thấy Hồng Thắng Hải đang thò đầu ra khỏi cổng mà trông ngóng. Y vừa thấy hai người đã mừng rỡ nói: “Hay quá! Tướng công về rồi.”

Viên Thừa Chí vội hỏi: “Chuyện gì thế?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Trình lão gia đã bị đánh trọng thương, mọi người đang đợi tướng công trở về cứu mạng.”

Viên Thừa Chí kinh hãi thầm nghĩ: “Võ công của Trình Thanh Trúc cao như thế, sao bị đánh trọng thương?” Chàng nhanh chân theo Hồng Thắng Hải vào phòng Trình Thanh Trúc, thấy lão Trình đang nằm trên giường, sắc mặt xám xanh như người chết, phủ đầy hắc khí. Sa Thiên Quảng, Hồ Quế Nam, Thiết La Hán đều ngồi bên giường, ai cũng lo âu. Mọi người nhìn thấy Viên Thừa Chí, trong vẻ mặt rầu rĩ lộ ra một chút vui mừng.

Viên Thừa Chí thấy Trình Thanh Trúc hai mắt nhắm nghiền, hơi thở mỏng như tơ, trong lòng bỗng bàng hoàng. Chàng hỏi: “Trình lão gia bị thương ở đâu?”

Sa Thiên Quảng nhẹ nhàng dìu Trình Thanh Trúc dậy, trật vai áo ra. Viên Thừa Chí vừa nhìn đã kinh hãi. Cả cánh tay phải của lão đã biến thành màu đen như bị đổ mực lên vậy. Sắc đen không dừng lan vào bên trong, bây giờ đã đen tới eo lưng. Màu đen trên vai là đậm nhất, lại có dấu của năm cái vuốt khảm sâu vào thịt.

Viên Thừa Chí hỏi: “Trúng loại độc gì vậy?”

Sa Thiên Quảng đáp: “Trình lão gia cố gắng lắm mới chạy về tới nhà, không nói được tiếng nào nữa. Không hiểu ông ấy trúng phải chất độc gì.”

Viên Thừa Chí nói: “May mà có Chu Thiên Băng Thiềm ở đây.”

Nói xong, chàng lấy băng thiềm ra, kề miệng băng thiềm vào vết thương, đưa tay ấn vào lưng băng thiềm, vận nội lực hút chất độc ra. Con băng thiềm vốn trắng như tuyết dần dần trở thành màu xám, cuối cùng đen kịt lại.

Hồ Quế Nam nói: “Ngâm băng thiềm vào trong rượu, nó sẽ nhả chất độc ra.”

Thanh Thanh vội đi rót một chén rượu, thả băng thiềm vào. Quả nhiên một làn khói đen từ trong miệng băng thiềm tuôn ra ngoài. Chỉ một lúc là cả chén rượu đen như mực, băng thiềm trắng lại như tuyết. Cứ thế hút độc rồi ngâm rượu, đến chén rượu thứ tư thì sắc đen trên người Trình Thanh Trúc bắt đầu nhạt.

Trình Thanh Trúc ngủ được một đêm. Sáng hôm sau, khi Viên Thừa Chí qua thăm, lão đã có thể ngồi dậy cảm ơn. Viên Thừa Chí xua tay bảo lão đừng nói chuyện, rồi mời một vị danh y trong thành Bắc Kinh tới kê mấy thang thuốc thanh huyết giải độc, sắc cho Trình Thanh Trúc uống. Điều dưỡng đến sáng ngày thứ ba thì Trình Thanh Trúc đã đủ khí lực để kể lại đầu đuôi chuyện mình trúng độc.

Trình Thanh Trúc nói: “Xế chiều hôm đó ta đi ngang cửa cấm cung, nghe có tiếng người ồn ào như đang đánh mắng nhau. Đến gần thì thấy dưới đất rải đầy đậu phộng, một gã đại hán đang túm chặt một người ốm yếu, không ngớt vung quyền mà đánh. Hỏi ra mới biết người ốm yếu này đi bán đậu phộng, không cẩn thận nên chạm vào đại hán kia, làm bẩn quần áo. Ta thấy người ốm yếu đáng thương, bèn bước lên khuyên giải. Đại hán không chịu hiểu lý lẽ, nhất định bắt người ốm yếu bồi thường. Ta hỏi bao nhiêu, chẳng qua chỉ có một lạng bạc, bèn thò tay vào bọc áo để lấy tiền, nghĩ bụng: “Quẳng cho hắn hai lượng bạc là yên chuyện”. Nào ngờ vì lòng tốt mà mình trúng vào cạm bẫy của kẻ gian. Tay phải ta vừa cho vào bọc áo, hai người đó lập tức chia ra hai bên giữ chặt lấy tay ta…”

Thanh Thanh nghe đến đây, bất giác la lên một tiếng.

Trình Thanh Trúc kể tiếp: “Ta biết ngay là hỏng bét, vội vận kình lên hai cánh tay để giãy thoát khỏi hai người ấy, rồi hỏi lý do sau. Nào ngờ vai phải đột nhiên đau đến thấu xương. Đòn này đột ngột quá, ta hoàn toàn không phòng bị trước. Ta vội vặn ngược cổ tay gã đại hán, nhấc bổng hắn lên quẳng vào đầu tên ốm yếu, đồng thời tung người nhảy tới trước. Khi quay đầu lại mới nhìn rõ người đánh lén sau lưng là một mụ ăn xin mặc áo đen. Mụ này cực kỳ xấu xí, mặt đầy những sẹo lồi sẹo lõm trông rất đáng sợ. Mụ trợn mắt lên cười nhạt, chĩa mười ngón tay nhọn hoắt ra, lại nhảy xổ vào ta.”

Trình Thanh Trúc kể đến đây, hình như trong lòng vẫn có phần hoảng sợ, mặt lộ vẻ kinh hãi. Chẳng những Thanh Thanh la lên, ngay cả Sa Thiên Quảng, Hồ Quế Nam cũng phải giật mình.

Trình Thanh Trúc tiếp: “Lúc đó ta vừa sợ vừa giận, nhảy lùi né tránh, toan phóng chưởng đánh ra, không ngờ tay phải không động đậy được nữa. Mụ ăn xin âm trầm hỏi: “Trình Thanh Trúc! Ngươi là tay chân của Kim Xà Vương phải không?” Ta hỏi lại: “Nếu phải thì sao?” Mụ nói: “Thì ta phải lấy mạng ngươi.” Mụ cười khành khạch, rồi lại nhảy xổ vào. Trong lúc nguy cấp, ta dùng tay trái xách một thùng đậu phộng hất lên mặt mụ. Tay mụ vừa quờ lên che mặt, ta thừa cơ phóng hai mũi thanh trúc tiêu ghim trúng vào ngực mụ, cho mụ cũng nếm mùi đau khổ. Lúc đó ta biết mình không gượng lâu được nữa, nên nhắm hướng mà chạy lẹ về. Sau đó thế nào, ta không biết gì hết.”

Sa Thiên Quảng hỏi: “Mụ ăn mày đó có xích mích gì với huynh không?”

Trình Thanh Trúc đáp: “Từ xưa đến giờ ta chưa từng gặp mụ.”

Thanh Thanh hỏi: “Chẳng lẽ mụ nhận lầm người hay sao?”

Trình Thanh Trúc nói: “Rõ ràng là không phải. Lúc mụ đả thương ta thì không nói, nhưng khi ta quay đầu lại, mụ nhìn rõ mặt mà vẫn tiếp tục hạ độc thủ.”

Viên Thừa Chí nói: “Mụ hỏi đến Kim Xà Vương, hình như muốn kiếm chuyện với ta.”

Hồ Quế Nam nói: “Không biết móng tay mụ tẩm chất độc gì, mà độc tính lợi hại như thế.”

Sa Thiên Quảng nói: “Trên tay mụ nhất định có đeo bao tay sắt. Không thì chất độc lợi hại đến thế, chính bản thân mụ quyết không chịu nổi.”

Mọi người đều đưa ra kiến giải của mình, nhưng không ai đoán được lai lịch của mụ ăn xin này. Trình Thanh Trúc càng nghĩ càng tức giận, luôn miệng chửi mắng.

Sa Thiên Quảng nói: “Trình huynh! Huynh cứ yên tâm nghỉ ngơi đi. Chúng ta ra ngoài thám thính tin tức, nhất định sẽ giúp huynh trút được cơn tức tối này.”

Thế là Sa Thiên Quảng, Hồ Quế Nam, Thiết La Hán, Hồng Thắng Hải lập tức đi khắp Thuận Thiên Phủ điều tra vụ này. Đã hai ngày mà tin tức vẫn như đá chìm đáy bể, hoàn toàn không được chút manh mối.

Sáng nay Độc nhãn thần long Đơn Thiết Sinh lại đến thỉnh an, Sa Thiên Quảng ra tiếp. Đơn Thiết Sinh mặt đầy vẻ lo âu, kể rằng kho của Hộ Bộ lại mất thêm ba ngàn lạng.

Sa Thiên Quảng nghĩ chuyện này không liên quan gì tới mình, nên cứ ừ hử mấy câu. Lát sau, y thuận miệng nói đến chuyện Trình Thanh Trúc bị đánh lén rồi trúng độc, nghĩ thầm: “Đơn Thiết Sinh lão luyện giang hồ, kiến thức rộng rãi, không chừng hỏi được chút xíu manh mối.”

Đơn Thiết Sinh suy nghĩ một lúc rồi nói: “Sa trại chủ! Mụ ăn xin đó hỏi đến ba chữ Kim Xà Vương, mà Trình bang chủ lại trúng kịch độc. Tại hạ bỗng nghĩ đến một nhóm người mới được mời vào Chiêu Hiền Quán ở Huệ Vương Phủ không lâu.”

Sa Thiên Quảng hỏi: “Thật vậy ư? Xin hỏi, đó là nhóm người nào?”

Đơn Thiết Sinh hỏi lại: “Chắc Sa trại chủ cũng biết Ngũ Độc Giáo ở vùng Vân Nam, Quế Châu chứ?”

Sa Thiên Quảng gật đầu đáp: “Ta có nghe nói họ dụng độc xuất thần nhập hóa, nhân vật võ lâm nghe thấy là vỡ mật, không ai dám đắc tội. Nhưng dường như Ngũ Độc Giáo chỉ hoành hành ở vùng Vân Nam, Quế Châu, trước nay chưa đến Trung Nguyên. Chẳng lẽ người đả thương Trình bang chủ là nhân vật Ngũ Độc Giáo hay sao?”

Đơn Thiết Sinh nói: “Tại hạ chưa dám khẳng định, nhưng từng nghe nói linh vật của Ngũ Độc Giáo là một con Kim Xà nhỏ. Họ coi Kim Xà là một pháp bảo thần thông. Viên tướng công ngoại hiệu là Kim Xà Vương, không biết có phạm vào chuyện kiêng kỵ của họ hay không.”

Sa Thiên Quảng vội chạy vào trong, kể với Viên Thừa Chí. Thanh Thanh nói: “Ngoại hiệu của phụ thân ta là Kim Xà Lang Quân, chẳng lẽ cũng phạm vào đại kỵ của họ?”

Viên Thừa Chí nói: “Không chừng lão Độc Nhãn Thần Long không đối phó nổi với Huệ Vương Phủ, tính chuyện kéo chúng ta vào trong vũng nước đục này. Chúng ta phải thám thính rõ ràng, đừng để người ta lợi dụng.”

Sa Thiên Quảng gật đầu khen phải, rồi ra ngoài nói với Đơn Thiết Sinh là đã bẩm báo với minh chủ. Sau đó y hỏi tiếp về tình hình Ngũ Độc Giáo.

Đơn Thiết Sinh nói: “Nghe nói giáo chủ của họ là một thiếu nữ xinh đẹp, tên là Hà Thiết Thủ, võ công cực cao, còn bản lãnh hạ độc thì dĩ nhiên khỏi nói.”

Sa Thiên Quảng tặc lưỡi rồi nói: “Thiếu nữ mà làm giáo chủ, đã là chuyện lạ rồi. Thiết thủ vô tình, chắc cô ấy ra tay cực kỳ ác độc.” Y thè lưỡi ra, nói tiếp: “Thế thì còn ai dám đụng vào cô ấy nữa?”

Đơn Thiết Sinh đang định cáo từ thì người gác cửa nhanh chân chạy vào, đưa một tấm bái thiếp màu đỏ. Sa Thiên Quảng nhận lấy xem, thấy trên thiếp có ghi: “Vãn sinh là Ngụy Đào Thanh, tổng quản Chiêu Hiền Quán ở Huệ Vương Phủ, xin bái kiến Viên tướng công Minh chủ bảy tỉnh, Trình bang chủ Thanh Trúc Bang, Sa trại chủ ở Sơn Đông cùng các vị anh hùng.”

Sa Thiên Quảng nghĩ thầm: “Người này không quen biết, nhưng lễ số chu đáo như vậy, không thể coi thường được.” Y bèn hạ lệnh: “Mở cửa chính ra, nghênh tiếp quý khách.” Y lại bảo người gác cửa đem tấm bái thiếp vào trong cho Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí dẫn Thanh Thanh, Hồng Thắng Hải, Hồ Quế Nam, Thiết La Hán ra đại sảnh. Thanh Thanh vẫn mặc nam trang. Đơn Thiết Sinh đi theo phía sau.

Sa Thiên Quảng dẫn khách vào, giới thiệu với từng người một. Viên Thừa Chí thấy người này tuổi trạc ngũ tuần, vẻ mặt tinh anh, áo quần sang trọng, ngón tay đeo nhẫn phỉ thúy màu xanh bích. Khi gặp Viên Thừa Chí, y thi lễ rất cung kính. Viên Thừa Chí trả lễ, mời khách thượng tọa.

Ngụy Đào Thanh rất chu đáo, thi lễ với cả Hồ Quế Nam, Hồng Thắng Hải. Nhưng khi nghe giới thiệu Đơn Thiết Sinh là bộ đầu của nha môn Thuận Thiên Phủ thì y không đếm xỉa gì tới, quay lại nói với Viên Thừa Chí: “Viên minh chủ! Huệ vương gia của bọn tại hạ tính tình hiếu võ, rất thích kết giao với những nhân vật thủ lĩnh võ lâm. Nghe nói Viên minh chủ cùng các vị anh hùng đến Thuận Thiên Phủ này, vương gia nóng lòng gặp mặt, không muốn chờ đợi phút nào. Đáng lẽ Huệ vương gia đích thân đến đây bái kiến, nhưng vì chưa báo tin trước nên sợ có phần mạo muội, bèn sai tiểu nhân lập tức đến đây xin gặp. Vương gia đã sắp sẵn tiệc rượu, kính mời Viên minh chủ cùng các vị anh hùng nể mặt mà đến dự, để Huệ vương gia kính mấy ly tỏ lòng ngưỡng mộ. Chỉ trách bọn tại hạ không được minh mẫn, được tin quá trễ, sáng nay mới biết các vị đã đến Thuận Thiên Phủ. Vương gia nói đây là chuyện mừng nhất trên đời, càng sớm được gặp các vị anh hùng càng tốt. Bây giờ vương gia đang đi qua đi lại trước cổng, dỏng tai lên đợi nghe tin các vị giá lâm.”

Ngụy Đào Thanh nói đúng giọng Bắc Kinh, vừa thành khẩn vừa thanh thoát, nghe thật êm tai. Môi y lúc nào cũng nở nụ cười, khiến người ta cảm thấy Huệ vương gia đang thành tâm thành ý trông mong quý khách đến nhà mình thật sự.

Viên Thừa Chí chưa đáp, ngoài cửa đã có tiếng xe ngựa vang lên, rồi người gác cửa dẫn một tùy tùng của vương gia vào. Y nói với Ngụy Đào Thanh: “Ngụy tổng quản! Vương gia sai tiểu nhân đem sáu chiếc xe đến đây, đón quý khách đến vương phủ dự tiệc.” Sau đó y cung kính nằm rạp xuống đất, dập đầu trước Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí thấy đối phương thành tâm mời khách, mà trước đây chàng cũng từng nghe Đơn Thiết Sinh nói là Huệ vương gia tính tình hiếu võ, rất thích kết giao với bằng hữu võ lâm. Thành Bắc Kinh nhất định sắp xảy ra việc lớn, chàng muốn kết giao thêm một số nhân vật có quyền thế, bèn quay lại hỏi Hồng Thắng Hải: “Thế nào?”

Hồng Thắng Hải không hiểu nội tình, nhưng nghĩ Huệ vương gia là hoàng thân quốc thích, kết giao với ông ấy có lợi chứ không có hại, bèn khẽ gật đầu.

Viên Thừa Chí nói với Ngụy Đào Thanh: “Huệ vương gia đã có hảo ý, nếu bọn tại hạ khước từ thì có phần không cung kính. Bây giờ xin theo Ngụy tổng quản đi bái kiến vương gia.”

Chàng cùng Thanh Thanh, Sa Thiên Quảng, ông câm, Hồ Quế Nam lên xe, ngay cả Đơn Thiết Sinh cũng đi theo. Trình Thanh Trúc thương tích chưa lành, phải ở nhà nghỉ ngơi. Viên Thừa Chí sợ địch thủ thừa cơ hội đến trả thù, bèn bảo Hồng Thắng Hải ở lại bảo vệ.

*

*   *

Xe chạy chẳng bao lâu đã ra khỏi thành, đi thêm về phía tây bảy tám dặm nữa thì đến một tòa phủ đệ rộng lớn. Viên Thừa Chí thấy trên cánh cổng sơn son thiếp vàng có ghi năm chữ Sắc Tứ Huệ Vương Phủ, biết là đến nơi rồi. Cổng đang mở rộng, bọn tùy tùng mặc áo xám hoặc áo đen xếp thành hai hàng từ trước cổng vào tận trong nhà, trông rất khí thế.

Đoàn xe ngựa chạy thẳng vào trong cổng. Bọn tùy tùng nô bộc đứng hai bên đồng thanh hô lớn: “Cung nghinh quý khách quang lâm”. Tiếng hô vừa dứt, tiếng trống và thanh la vang lên. Dứt ba hồi chiêng trống, lại tới tiếng sáo trúc thổi véo von đón khách.

Xe chạy hết con đường trải đá thì bọn nô bộc dừng xe lại, vén màn xe lên. Viên Thừa Chí cùng mọi người xuống xe, thấy một bậc vương giả mặc áo bào thêu kim tuyến đang đứng dưới hiên nhà đón khách. Y nhanh chân bước tới, chắp tay thi lễ.

Viên Thừa Chí biết người này là Huệ Vương, nếu theo lễ số thì mình phải quỳ lạy. Nhưng chàng nghĩ, mình không phải người trong quan trường, đối phương lại là thúc phụ của hoàng đế, có thể nói là cùng phe kẻ thù giết cha mình, nên không muốn quỳ xuống trước mặt y. Chàng chầm chậm lấy tư thế định quỳ. Huệ Vương vội vàng đưa tay ra cản, mỉm cười nói: “Không dám! Viên minh chủ đừng đa lễ.”

Hai người chắp tay vái nhau, Thanh Thanh và quần hào cũng tùy nghi chắp tay thi lễ. Chỉ có Đơn Thiết Sinh theo đúng quy luật quan trường, quỳ xuống khấu đầu hô lớn: “Tiểu chức là bộ đầu Đơn Thiết Sinh ở Thuận Thiên Phủ, xin tham kiến vương gia thiên tuế.”

Huệ Vương trang nghiêm mời Viên Thừa Chí cùng mọi người vào nhà. Trong đại sảnh đã xếp hai dãy ghế, trên ghế đều phủ bọc màu đỏ, thêu những đóa hoa bằng chỉ vàng lấp loáng hoàng kim.

Huệ Vương mời Viên Thừa Chí và mọi người ngồi vào dãy ghế phía tây. Nô bộc đưa trà lên mời. Y tự mình ngồi vào chủ vị, chắp tay nói: “Viên minh chủ đã đảm trách ngôi minh chủ của hảo hán võ lâm bảy tỉnh, thật đáng chúc mừng.”

Viên Thừa Chí nói: “Đây chỉ là trò đùa trong đám huynh đệ lỗ mãng bọn tại hạ, không thể coi là chuyện thật. Huệ vương gia đừng chê cười nữa.”

Mọi người hàn huyên mấy câu, đều là những lời khách sáo chẳng đâu vào đâu. Được mấy tuần trà, Huệ Vương quay sang bảo Ngụy Đào Thanh: “Ngụy tổng quản! Tâm ý của tiểu vương thế nào, tổng quản hãy nói ra giùm.”

Ngụy Đào Thanh khom người thi lễ, rồi đứng dậy dõng dạc nói: “Viên minh chủ, các vị anh hùng! Vương gia mời các vị đến phủ, dĩ nhiên đã xem các vị là hảo bằng hữu. Tiếc rằng biết tin hơi trễ, nên mãi đến hôm nay mới cung thỉnh được đại giá các vị. Lễ số thiếu phần cung kính, xin các vị thứ lỗi.”

Nói xong, y chắp tay thi lễ. Viên Thừa Chí và bọn Sa Thiên Quảng vội vàng chắp tay trả lễ, khiêm tốn nói: “Xin đừng khách sáo! Vương gia đa lễ quá rồi.”

Ngụy Đào Thanh dõng dạc nói tiếp: “Huệ vương gia kính hiền đãi sĩ, tính thích giao kết bạn bè, đã thiết lập một tòa Chiêu Hiền Quán, mời tân khách tứ phương đến đây hội tụ, để được dễ dàng thỉnh giáo. Không giấu gì quý vị, Huệ vương gia làm vậy chỉ vì tấm lòng hiếu khách. Không ngờ trong triều bỗng có gian thần bày trò ly gián, nói xấu Huệ vương gia trước mặt vạn tuế gia. Vương gia là chú ruột của hoàng thượng, xưa nay vẫn một dạ trung thành, được hoàng thượng đem lòng sủng ái. Nhờ vậy mà bọn gian thần đơm đặt chỉ tổ uổng công. Nhưng vương gia cũng muốn tránh bọn tiểu nhân truyền bá lời đồn, nên phải hỏi quý vị tân khách một câu. Nếu lời đồn của bọn ngu dân đến tai quý vị, quý vị sẽ làm gì? Nếu có kẻ gian mưu đồ bất lợi với vương gia, không biết chủ ý của quý vị ra sao?”

Câu hỏi này rất thẳng thắn. Viên Thừa Chí nhất thời cảm thấy khó trả lời, nên chỉ nói: “Vương gia là thúc phụ của hoàng thượng, giả tỉ hoàng thượng có nghe thấy lời đồn bất lợi, chắc cũng mỉm cười bỏ qua không cần đếm xỉa. Không chừng hoàng thượng còn nghiêm trị kẻ gian buông lời đồn đãi. Bọn tại hạ là người ngoài vòng thân thích, lại chẳng có chức quan. Kẻ dân đen áo vải không cần để ý bá tính đồn đại những gì.”

Ngụy Đào Thanh lớn tiếng khen: “Đúng rồi! Viên minh chủ nói mấy câu này, không thể đúng hơn được nữa. Nhưng tại hạ có hai việc không yên tâm, cần thỉnh giáo Viên minh chủ.”

Viên Thừa Chí đáp: “Xin cho biết.”

Ngụy Đào Thanh nói: “Việc thứ nhất, nghe nói Trình Thanh Trúc bang chủ đã tham gia vào minh hội của Viên minh chủ. Trình bang chủ trước đây là vệ sĩ trong hoàng cung, là người thân tín của hoàng thượng. Nếu hoàng thượng có việc cần sai khiến, Viên minh chủ có nhúng tay giúp đỡ Trình bang chủ hay không? Đơn lão đầu cũng vậy, mấy ngày nay bận rộn vì chuyện của hoàng thượng đến nỗi tối mày tối mặt. Lão này không ngớt ra vào quý phủ, e rằng Viên minh chủ khó nỗi khước từ. Bọn tại hạ thật sự không yên tâm về chuyện này.”

Viên Thừa Chí đã hơi hiểu, cười ha hả rồi nói: “Vấn đề này thì Ngụy gia có thể yên tâm. Trình bang chủ và Đơn lão đầu sẽ làm gì, tại hạ không thay mặt hai người đó mà nói được. Còn bản thân Viên Thừa Chí này cùng Hạ nghĩa đệ, thì quyết không làm những chuyện ám muội. Tại hạ tuy chỉ là một người lỗ mãng, nhưng quyết không bị chiêu an. Nếu ra sức cho triều đình để tìm công danh phú quý, không khỏi có lỗi với các hảo bằng hữu, với phụ thân và tổ tiên mình.”

Trong lòng Viên Thừa Chí chỉ muốn nói: “Ta đầy lòng phẫn hận, chỉ muốn giết quách hoàng đế để trả thù rửa hận cho phụ thân.” Chàng đưa tay vỗ mạnh xuống bàn. “Rầm” một tiếng, mặt bàn lập tức vỡ mất một góc.

Ngụy Đào Thanh cả mừng hô lớn: “Hay lắm!”

Viên Thừa Chí hỏi: “Còn việc thứ hai Ngụy gia muốn hỏi là gì?”

Ngụy Đào Thanh đáp: “Việc thứ hai thì…” Y bỗng dừng lời, vỗ tay một tiếng rồi gọi lớn: “Mang ra đây!”

Mười mấy tên nô bộc đồng thanh vâng dạ rồi tiến vào phòng. Chúng bưng những chiếc mâm lớn, trong mâm đầy những thỏi nguyên bảo, ánh kim ngân loang loáng. Ngụy Đào Thanh bảo chúng đặt mười mấy cái mâm gỗ lên cái bàn đặt giữa đại sảnh, rồi nói: “Khải bẩm Vương gia! Đây là năm ngàn lượng hoàng kim, một vạn lượng bạch ngân, tổng cộng là sáu vạn lượng bạch ngân. Tiểu nhân đã kiểm tra tỉ mỉ, toàn bộ đều thuần chất không bị pha trộn, số lượng quyết không nhầm lẫn.”

Huệ Vương gật đầu một cái.

Viên Thừa Chí không ngờ y đột nhiên đưa ra nhiều ngân lượng như vậy, không hiểu có dụng ý gì. Chàng đã từng đào được vô số kim ngân châu báu của Kiến Văn Đế cất giấu, lại từng cướp được trăm vạn lượng bạc tào ngân, nên thấy đống vàng bạc này mà không cảm xúc gì, chỉ khẽ mỉm cười.

Ngụy Đào Thanh nói: “Vương gia bọn tại hạ đã biết Viên minh chủ vừa dẫn dắt các vị anh hùng Kim Xà Doanh đại phá quân Thát tử của A Ba Thái ở Thanh Châu, tỉnh Sơn Đông, nên đem lòng kính nể. Chút ít ngân lượng này là Vương gia đóng góp quân lương, xuất phát từ lòng kính trọng Kim Xà Doanh, kính trọng Kim Xà Vương, kính trọng các vị anh hùng, đa tạ các vị đã có công lớn bảo quốc an dân.”

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Đối phương nói đến chuyện bảo quốc an dân, giết địch Mãn Thanh, có nghĩa cử giúp đỡ quân lương, mình khó mà từ chối.” Chàng bèn chắp tay nói: “Tại hạ xin thay mặt các vị huynh đệ đa tạ Vương gia. Còn ba chữ Kim Xà Vương là do bằng hữu giang hồ thuận miệng gọi bừa, không nên coi là thật.”

Ngụy Đào Thanh giơ ngón tay cái lên nói: “Dưới tay Sấm Vương có Hoành thiên vương Vương Tử Thuận, Cải thế vương Hứa Khả Biến, Loạn thế vương Quách Dưỡng Thành, Tranh thế vương Lưu Huy Hiểu, Tả kim vương Hạ Cẩm, chẳng vị nào không phải là anh hùng hảo hán, danh tiếng lẫy lừng. Thêm vào một vị Kim xà vương Viên minh chủ, có gì mà không được?”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Người này hiểu quân tình của Sấm Vương khá rõ.” Thấy Đơn Thiết Sinh không ngừng đưa mắt nhìn mình ra hiệu, chàng bèn hỏi: “Vương gia khao quân hậu hĩ như thế, không biết muốn dặn dò bọn tại hạ những việc gì?”

Thanh Thanh thầm nghĩ: “Thừa Chí đại ca bây giờ khác hẳn anh chàng thật thà ngốc nghếch ở Cù Châu ngày trước. Câu này không thể không hỏi, không hỏi thì mình không biết điều.”

Ngụy Đào Thanh nói: “Không dám thế. Gần đây thanh thế Sấm Vương mở rộng, bây giờ đã chiếm Tây An Phủ, không chừng sẽ có ngày tiến vào Thuận Thiên Phủ này. Vương gia của bọn tại hạ tuy là tôn thất Đại Minh, nhưng đối với hiệu lệnh của hoàng thượng vẫn cho rằng không đúng, đã trình tấu rất nhiều lần nhưng tiếc rằng trung ngôn thường nghịch nhĩ, hoàng thượng nghe mà không chịu làm theo. Nếu Sấm Vương tiến vào kinh thành, Vương gia bọn tại hạ muốn nhờ Kim Xà Vương có lời với Sấm Vương cho giữ lại tính mạng toàn bộ gia đình. Còn gia sản thì Vương gia xin hiến hết cho Sấm Vương làm quân lương.”

Viên Thừa Chí nghe vậy nghĩ thầm: “Thì ra Huệ Vương suy nghĩ giống hệt Tào Hóa Thuần, chỉ mong bảo vệ được tính mạng toàn gia sau khi Sấm Vương tiến quân vào kinh thành.” Chàng nói: “Tâm ý của Huệ vương gia, tại hạ nhất định sẽ bẩm cáo với Sấm Vương. Nhưng tại hạ tuổi trẻ, e rằng lời nói trước mặt Sấm Vương không có cân lượng.”

Huệ Vương và Ngụy Đào Thanh chắp tay đa tạ liền miệng. Ngụy Đào Thanh nói: “Tuy rằng Kim Xà Doanh thành lập chưa lâu, nhưng nghe nói công lao lớn nhất. Lời nói của Kim Xà Vương dĩ nhiên rất có trọng lượng.” Y bèn sai gia nhân dồn hết kim ngân trên bàn vào những chiếc bao vải, đặt dưới chân Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Số tiền mua mạng này, chưa chắc Huệ Vương lấy trong hầu bao ra, mà chắc là cướp từ ngân khố. Ta giữ lại một nửa chia cho Kim Xà tam doanh, còn một nửa nộp lên Sấm Vương.”

Ngụy Đào Thanh lại nói: “Hiếm khi mời được đại giá quý vị quang lâm đến đây. Hôm nay tại hạ muốn giới thiệu với Viên minh chủ một số bằng hữu Ngũ Tiên Giáo ở Vân Nam. Tại hạ phụng mạng Vương gia, thiên phương vạn kế mới mời được các vị anh hùng Ngũ Tiên Giáo đến Chiêu Hiền Quán này. Ngũ Tiên Giáo xưa nay chỉ hành đạo ở vùng Vân Nam Quế Châu, rất ít khi vào tới Giang Nam, chắc là Viên minh chủ chưa gặp. Tại hạ xin giới thiệu cho bằng hữu gặp nhau một chút. Quần hiền tụ tập nơi đây, có thể nói là buổi kỳ ngộ trăm năm khó kiếm.”

Viên Thừa Chí gật đầu.

Huệ Vương lên tiếng: “Ta cáo lui trước. Sau khi bằng hữu giang hồ gặp gỡ, xin vào hậu sảnh dự tiệc, uống mấy ly rượu chia vui. Lúc đó tiểu vương sẽ kính rượu quý vị sau.”

Viên Thừa Chí nói: “Không dám.”

Huệ Vương chắp tay thi lễ, lùi ra sau hậu đường.

Ngụy Đào Thanh nói: “Viên minh chủ cùng các vị anh hùng Ngũ Tiên Giáo đều là quý khách của Chiêu Hiền Quán, Vương gia bọn tại hạ đối đãi chân thành, không phân cao thấp. Hai bên đều là hảo bằng hữu, tại hạ chỉ phụ trách việc giới thiệu. Các vị đều là anh hùng hào kiệt danh tiếng lẫy lừng, nhất định vừa gặp mặt đã như tình cố cựu. Xin Viên minh chủ dời bước.”

Ngụy Đào Thanh nói xong, chắp tay đi trước dẫn đường. Viên Thừa Chí cùng quần hào đi theo y.

Quanh qua rẽ lại một hồi, qua một hành lang khá dài thì đến một tòa đại điện. Những căn nhà bình thường nhất định không có tòa điện lớn đến thế, nhưng đây là phủ đệ vương gia nên không ai cảm thấy ngạc nhiên. Ngoài điện có một khoảng đất trống rất rộng.

Trong điện đã xếp hai dãy ghế, trên ghế đều phủ khăn đỏ. Ngụy Đào Thanh mời Viên Thừa Chí cùng quần hào ngồi vào dãy ghế phía tây, Viên Thừa Chí ngồi ghế đầu tiên. Ngụy Đào Thanh ngồi ở hàng ghế nhỏ hơn, phía sau hai dãy ghế này.

Từ phía sau điện vọng ra tiếng chuông. Nhiều người đi ra, có cao có thấp, có nam có nữ, chia nhau ngồi vào dãy ghế phía đông, để trống cái ghế đầu tiên chưa có ai ngồi. Tổng cộng có mười sáu người. Ngồi ghế thứ năm là một người trông như ăn mày, mặc áo gấm nhưng đã rách nát. Ngồi ghế thứ ba là một mụ ăn xin mặt mày hung dữ, mũi khoằm xuống, mắt rất sâu, mặt đầy vết sẹo.

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Chẳng lẽ mụ này chính là người đả thương Trình bang chủ?”

Sau điện lại có tiếng sáo vang lên. Mười sáu người đang ngồi đồng thời đứng dậy, khom lưng xuống. Hai thiếu nữ chậm rãi bước ra, đứng hai bên chiếc ghế thứ nhất, khẽ hô: “Mời giáo chủ ngồi.”

Sau đó nghe thấy những tiếng leng keng của kim loại chạm nhau, nghe thanh thoát như tiếng nhạc. Gió đưa tới mùi hương kỳ dị, rồi từ sau điện có một nữ nhân mặc áo màu hồng phấn bước ra. Cô này khoảng hai hai, hai ba tuổi, có cặp mắt phượng, lông mày dài tới tận chân tóc, khóe miệng luôn mỉm cười, ánh mắt đong đưa vô cùng xinh đẹp. Nàng đi chân đất, mỗi cổ chân cổ tay đều đeo hai chiếc vòng vàng. Khi đi lại, những chiếc vòng vàng đó khua chạm vào nhau, vang ra những tiếng leng keng. Nước da nàng trắng mịn lạ thường, xa xa trông như ngọc. Mái tóc dài xõa xuống ngang vai, cũng dùng những chiếc vòng vàng thắt lại.

Nàng đi đến chiếc ghế đầu tiên ở dãy phía đông, ngồi xuống. Hai thiếu nữ phía sau, cô cầm quạt, cô cầm phất trần phe phẩy.

Viên Thừa Chí cùng mọi người đều thắc mắc. Ngũ Độc Giáo oai phong lừng lẫy, nhân vật võ lâm nghe tiếng là vỡ mật. Nghe nói giáo chủ Hà Thiết Thủ của họ là một cô gái trẻ tuổi, chẳng lẽ chính là cô nương nhỏ nhắn xinh đẹp này?

Cô gái ấy hỏi: “Xin thỉnh giáo quý danh tôn khách.” Thanh âm vừa trong trẻo vừa kiêu kỳ.

Ngụy Đào Thanh đứng dậy, giới thiệu từng người một. Cô gái này quả nhiên là Hà giáo chủ của Ngũ Tiên Giáo.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Đơn Thiết Sinh gọi là Ngũ Độc Giáo, Ngụy tổng quản lại gọi là Ngũ Tiên Giáo. Chắc là cái tên Ngũ Độc nghe không được nhã nhặn, nên y mới gọi là Ngũ Tiên.”

Người cao cao ngồi ghế thứ hai tên là Phan Tú Đạt. Người ăn xin ngồi ở ghế thứ năm là Cẩm y đồng cái Tề Vân Ngạo. Còn mụ ăn xin tên là Hà Hồng Dược, tướng mạo tuy khó nhìn nhưng tên rất văn nhã. Người ngồi ghế thứ tư trông như một gã nông phu quê mùa, tên là Trầm Kỳ Tư.

Ngụy Đào Thanh giới thiệu tới từng người bên Viên Thừa Chí. Khi giới thiệu Thanh Thanh, y chỉ nói vị Hạ tướng công này là sư đệ của Viên minh chủ. Đơn Thiết Sinh là ai thì y hoàn toàn không nhắc đến, cứ như trong đại sảnh không có người này vậy.

Hà Thiết Thủ đứng dậy, nhún chân thi lễ theo kiểu công nương, Viên Thừa Chí cũng chắp tay đáp lễ.

Hai bên uống mấy hớp trà, rồi Hà Thiết Thủ dõng dạc lên tiếng: “Viên tướng công! Nghe nói Viên tướng công có ngoại hiệu là Kim Xà Vương, từng thống lãnh Kim Xà Doanh đại phá quân Thát tử ở Sơn Châu, tỉnh Sơn Đông. Chuyện này có thật không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Xin đừng gọi tại hạ là Vương gì gì đó. Đó chỉ là cách người ta quen gọi các đầu lĩnh trong Sấm quân mà thôi. Mỗi người một nơi khởi nghĩa, xưng là Vương này Vương nọ, đó chỉ là tự cao tự đại cho thanh thế mạnh hơn, hù dọa triều đình. Ba chữ Kim Xà Vương này, tại hạ cảm thấy không ổn, từng truyền lệnh cho các huynh đệ không được gọi như thế. Bọn tại hạ tự gọi mình là Sơn Tông Doanh.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Viên tướng công làm như vậy là tuyệt diệu. Ngũ Tiên Giáo chúng ta từ Vân Nam xa xôi đi đến Thuận Thiên Phủ này, chỉ vì mong muốn Viên tướng công phế bỏ ba chữ xưng hiệu Kim Xà Vương.”

Thanh Thanh hỏi: “Chuyện đó có liên quan gì? Sao các vị lại rảnh rỗi can thiệp vào việc của người khác?”

Hà Thiết Thủ cười nói: “Không phải chúng ta rảnh rỗi đâu. Kim Xà Đại Thánh là pháp bảo của Ngũ Tiên Giáo chúng ta. Giáo phái chúng ta, từ trên xuống dưới đều cực kỳ tôn trọng Kim Xà Đại Thánh. Tề sư huynh!”

Tề Vân Ngạo đứng dậy đáp: “Có.”

Hà Thiết Thủ bảo: “Huynh thỉnh Đại Thánh ra đây, cho quý khách được tham kiến.”

Tề Vân Ngạo đáp: “Tuân lệnh!”

Hà Thiết Thủ gọi hắn là sư huynh, nhưng Tề Vân Ngạo ra vẻ rất kính trọng giáo chủ.

Tề Vân Ngạo vẫy tay một cái. Hai tên giáo đồ đứng sau ghế hắn liền vào trong nội đường, bưng ra một cái bàn tròn, đặt giữa đại sảnh. Cái bàn này làm bằng gỗ, trên mặt là một cái khay chứa cát mịn, có vành cao. Một tên khác xách vào một chiếc lồng tre, mở nắp rồi trút vào khay cát. Thì ra trong lồng là mấy chục con cóc nhỏ, bây giờ nhảy nhót loạn xạ trong khay. Rồi lại có bốn tên bưng bốn chiếc hũ sành tới, cũng mở nắp rồi đổ những vật chứa trong hũ vào khay. Bốn cái hũ này đựng rắn xanh, rết, bò cạp và nhện, đều là loài vật có nọc độc.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Bây giờ trong cái khay này có năm loại độc vật. Chắc cái tên Ngũ Độc Giáo từ đó mà có.”

Tề Vân Ngạo cầm lấy một cái hũ sành khác, vốc ra một nắm bột màu vàng, rải trên vành lồi của cái khay gỗ, kín thành một vòng tròn. Viên Thừa Chí ngửi thấy mùi cay hắc, biết đây là loại thuốc để khắc chế rắn, như lưu hoàng vậy.

Tề Vân Ngạo quay lại, bưng một chiếc hộp màu vàng lên đặt ở giữa bàn. Hắn thắp ba nén hương, cắm vào lư hương rồi quỳ xuống khấu đầu. Hà Thiết Thủ, Phan Tú Đạt, Hà Hồng Dược cùng mọi người Ngũ Độc Giáo đều quỳ xuống hành lễ.

Bái lạy xong, Tề Vân Ngạo đứng dậy mở nắp hộp vàng, lấy ra một cái ống tròn màu vàng. Hắn đi đến bên cái khay cát, tay trái cầm ống vàng giơ lên cao, tay phải mở nắp đậy miệng ống. Đột nhiên ánh vàng nhấp nháy, một con rắn vàng nho nhỏ đã nhảy vào trong khay. Tề Vân Ngạo lập tức lùi ra. Trong làn khói hương đang lơ lửng bay lên, mọi giáo đồ Ngũ Độc Giáo đều khom lưng thi lễ, miệng lẩm nhẩm niệm chú.

Con tiểu kim xà kia ngẩng đầu lên, vừa mở miệng đã nuốt một con cóc vào bụng. Kim xà linh hoạt lạ thường, hễ nhìn thấy con cóc nhỏ nào nhảy ngang qua là nó tựa đuôi vào đáy khay, tung mình bay theo nuốt chửng, thân pháp vừa xảo diệu vừa đẹp mắt. Thanh Thanh thấy vậy vỗ tay khen hay, hoan hỉ vô cùng.

Kim xà ăn được năm sáu con cóc, dường như đã no bụng. Nó há miệng, phà hơi độc tới lũ cóc, rắn, rết còn lại. Con nào bị hơi kim xà phun trúng là lập tức lật ngửa ra nằm yên trong khay. Những con chưa bị phun trúng đều hoảng sợ, chạy loạn khắp nơi. Nhưng tiểu kim xà linh hoạt vô cùng, cứ rượt theo phun độc. Chỉ trong chốc lát, mười mấy con độc vật trong khay đã lật ngửa nằm yên hết. Lúc đầu da bụng của chúng còn nhấp nhô lên xuống, nhưng lát sau không động đậy gì nữa, hình như đã bị hơi độc phun cho chết hẳn.

Viên Thừa Chí âm thầm kinh hãi, nghĩ bụng: “Con tiểu kim xà này độc tính lợi hại đến thế, thật là hiếm thấy.”

Tiểu kim xà chạy quanh khay cát hai vòng, đột nhiên tung mình lên lộn trên không hai vòng, hình như muốn biểu diễn một phen. Sau đó nó lại chạy mấy vòng, rồi khoanh thành một cái bánh hình tròn, ngẩng đầu nhìn quanh bốn phía, không động đậy gì nữa.

Viên Thừa Chí bỗng nghĩ: “Phương pháp phá Ngũ Hành Trận của Kỳ Tiên Phái mà bí kíp của Kim Xà Lang Quân truyền thụ, chắc đã học hỏi từ con tiểu kim xà này. Nó khoanh tròn ngay giữa trận địch, lấy tĩnh chế động, giấu được hết nhược điểm của mình, đợi địch thủ ra tay trước. Tiểu kim xà cũng biết hậu phát chế nhân, thật là cao minh. Ngoại hiệu Kim Xà Lang Quân nhất định có liên quan đến chú tiểu kim xà này.”

Sau đó Tề Vân Ngạo dùng dây để cột cái ống vàng vào đầu một thanh tre dài, thòng thanh tre xuống cái khay rải cát. Miệng của ống vàng vẫn mở, hướng về phía kim xà. Hình như hắn không dám đến gần khay cát, sợ kim xà nhảy lên cắn trúng.

Toàn thể giáo đồ lại khom lưng niệm chú. Kim xà duỗi người ra, đột nhiên chui tọt vào trong cái ống vàng rồi không ra nữa. Tề Vân Ngạo thu thanh tre về, lấy cái ống vàng xuống, khẽ đậy nắp lại. Hắn cung kính dùng cả hai tay bưng ống cất vào trong hộp vàng, đậy nắp hộp rồi lại dập đầu.

Hà Thiết Thủ quay về ngồi ở ghế, nhìn Thanh Thanh hỏi: “Hạ tướng công! Xin hỏi tôn tính đại danh của lệnh tôn?”

Thanh Thanh đáp: “Ta họ Hạ, dĩ nhiên phụ thân ta cũng họ Hạ.”

Mụ ăn mày Hà Hồng Dược từ nãy vẫn nhìn Thanh Thanh không ngớt, đột nhiên nhảy ra khỏi ghế, vung tay túm lấy vai Thanh Thanh, quát hỏi: “Kim xà lang quân Hạ Tuyết Nghi là gì của ngươi?”

Mụ này tướng mạo cực kỳ xấu xí, nhưng thanh âm lại thánh thót dễ nghe. Thanh Thanh giật mình kinh hãi, vội nhảy ra khỏi ghế để tránh né, la lên: “Bà muốn gì?”

Hai người ngồi phía dưới giáo chủ Hà Thiết Thủ đột ngột nhảy lên, áo lộng bay trong gió. Chúng đứng hai bên mụ ăn mày, đồng thời quát hỏi: “Thằng khốn họ Hạ đang ở đâu?”

Viên Thừa Chí thấy hai người này vừa nhổm người đã vọt lên nửa trượng, võ công khá cao. Một người vừa cao vừa ốm là Phan Tú Đạt; người kia thân hình vừa phải, sắc mặt ngăm đen, trông như một nông phu bình thường, tên là Trầm Kỳ Tư. Hai người đều tuổi trạc ngũ tuần.

Trước đây Thanh Thanh chưa hiểu rõ thân thế mình, thường cảm thấy xấu hổ. Nhưng sau khi nghe mẫu thân kể lại những chuyện năm xưa, nàng vô cùng thán phục cha mình, bèn ngang nhiên đáp: “Kim Xà Lang Quân là phụ thân ta. Các ngươi hỏi ông ấy làm gì?”

Mụ ăn mày ngẩng mặt cười dài, thanh âm đầy vẻ thảm khốc khiến cho người ta không lạnh mà run. Mụ la lên: “Quả nhiên hắn chưa chết, còn để lại tên nghiệt chủng này. Ta là Hà Hồng Dược. Hắn ở đâu?”

Thanh Thanh hất cằm lên hỏi: “Sao ta phải nói với bà?”

Mụ ăn mày giương cặp lông mày lên, đột nhiên vung tay cào lên mặt Thanh Thanh. Diễn biến quá đột ngột, Thanh Thanh không kịp tránh né, ai cũng thấy mười ngón tay nhọn hoắt đeo vuốt thép sắp chụp thủng khuôn mặt mịn màng trắng trẻo của Thanh Thanh.

Viên Thừa Chí vội phất tay áo bên phải ra trúng vào giữa hai vai của mụ ăn mày nghe “bịch” một tiếng, thừa thế hất ra ngoài. Mụ không sao tự chủ được nữa, lộn ra sau té phịch ngay xuống đất.

Mọi người Ngũ Độc Giáo đều nhìn nhau hoảng sợ. Hà Hồng Dược là cao thủ trong giáo, so với giáo chủ Hà Thiết Thủ còn cao cường hơn một bậc, thế mà thiếu niên này vừa ra tay đã hất té mụ dễ dàng như thế. Tuy Ngụy Đào Thanh đã giới thiệu chàng là minh chủ võ lâm bảy tỉnh, nhưng thấy chàng còn quá trẻ, diện mạo không có gì nổi bật mà võ công lại cao một cách kỳ lạ như thế, mọi người đều phải kinh ngạc.

Hà Thiết Thủ lại càng ngơ ngẩn xuất thần. Võ công của bản thân nàng đã thuộc vào hàng đệ nhất cao thủ rồi, nhưng nàng vẫn không sao hình dung được tại sao tay áo của Viên Thừa Chí chỉ phẩy một cái là hất nhào Hà Hồng Dược. Trong sự kinh hãi lại có phần ngưỡng mộ.

Phan Tú Đạt và Trầm Kỳ Tư là tả hữu hộ pháp của Ngũ Độc Giáo. Hai tên nhìn nhau gật đầu một cái, rồi Phan Tú Đạt lên tiếng: “Để ta lãnh giáo thử.” Nói xong, hắn múa song chưởng bước ra.

Sa Thiên Quảng nói: “Viên tướng công! Để tại hạ tiếp chiến.”

Viên Thừa Chí bảo: “Sa huynh lấy thiết phiến ra đi. Trên đầu ngón tay của hắn có đeo vòng tẩm độc, đó cũng là binh khí.”

Sa Thiên Quảng bèn thi triển Âm Dương Phiến tỉ đấu với Phan Tú Đạt. Bên kia ông câm đã nhảy ra đánh Trầm Kỳ Tư, dĩ nhiên không nói tiếng nào. Hai cặp vừa xoắn vào nhau, mọi người Ngũ Độc Giáo đều ùa hết lên. Hồ Quế Nam, Thiết La Hán, Thanh Thanh liền cầm binh khí để nghênh chiến. Giáo đồ của Ngũ Độc Giáo không chỉ có mười bốn người đang ngồi trên ghế, từ sau điện lại có thêm hai mươi mấy người kéo ra trợ chiến.

Hà Hồng Dược như một con cọp điên, phóng thẳng tới người Thanh Thanh. Viên Thừa Chí biết mụ này ra tay rất độc, không thể để tới gần. Chàng đột ngột nhảy ra, đưa tay túm lấy lưng mụ xách lên, quẳng ra ngoài.

Khuôn mặt trắng muốt của Hà Thiết Thủ bỗng trầm xuống. Nàng cho ngón trỏ tay phải vào trong miệng, thổi một tiếng sáo. Toàn bộ giáo đồ của Ngũ Độc Giáo đồng thời lùi lại. Chúng phóng lên rất hung dữ, thối lui cũng rất nhanh. Chỉ chốc lát là mọi người đã xếp hai hàng ngay ngắn phía sau giáo chủ.

Hà Thiết Thủ nhoẻn cười, nói với Viên Thừa Chí: “Viên tướng công nhìn có vẻ văn nhã, không ngờ đầy mình tuyệt kỹ. Cho muội lãnh giáo mấy chiêu.”

Viên Thừa Chí nói: “Chúng ta chưa từng quen biết các bằng hữu trong quý giáo. Không biết có chỗ nào đắc tội, xin nói rõ trước.”

Mặt của Hà Thiết Thủ đỏ lên, nhưng lời nói vẫn dịu dàng: “Chúng ta đều là khách trong Chiêu Hiền Quán của Huệ vương gia, vốn dĩ cùng đường cùng lối. Tướng công lại hứa phế bỏ danh hiệu Kim Xà Vương, bọn muội đã cảm kích lắm rồi, nhưng đột nhiên lại có chuyện liên quan tới Kim Xà Lang Quân. Xin hỏi người đó đang ở đâu?”

Thanh Thanh kéo tay Viên Thừa Chí, nói nhỏ: “Đừng nói cho ả biết.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Giáo chủ có quen biết với Kim Xà Lang Quân ư?”

Hà Thiết Thủ đáp: “Hắn có liên quan sâu xa với tệ giáo. Gia phụ muội vì hắn mà quy thiên. Cả vạn giáo đồ tệ giáo, không người nào không muốn tìm hắn.”

Viên Thừa Chí và Thanh Thanh kinh hãi, đều nghĩ: “Cách hành xử của Kim Xà Lang Quân vượt hẳn lẽ thường, đi đến đâu gây oán thù đến đó. Ngũ Độc Giáo hận ông đến tận xương tủy, không phải là chuyện lạ.”

Viên Thừa Chí nói: “Bây giờ Kim Xà Lang Quân xa xôi vạn dặm, e rằng quý vị vĩnh viễn không thể tìm ra.”

Hà Thiết Thủ nói: “Thế thì bọn muội giữ con trai của hắn lại để tế vong linh tiên phụ, rồi sẽ tính tiếp.” Nàng vừa nói chuyện vừa mỉm cười, thần thái dịu dàng, trông như một thiếu nữ ngây thơ e lệ, nhưng lời nói lại vô cùng ác độc.

Viên Thừa Chí nói: “Người xưa từng nói, ai gieo nấy gặt. Các vị có xích mích với Kim Xà Lang Quân, phải đi tìm chính ông ấy mới phải.”

Hà Thiết Thủ nói: “Hồi tiên phụ tạ thế, muội mới có năm tuổi. Đã mười tám năm rồi, làm sao tìm ra vị tiền bối đó nữa? Bây giờ bọn muội giữ con trai ông ấy ở đây, dĩ nhiên ông ấy sẽ đến tìm. Thế là món nợ xa xưa có thể đem ra tính sổ.”

Thanh Thanh la lên: “Hừ! Ngươi đừng hòng! Gia gia ta mà đến đây, nhất định sẽ giết sạch từng tên một.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Chưa chắc đâu.” Nàng quay lại hỏi Hà Hồng Dược: “Vị nhân huynh này có giống phụ thân không?”

Hà Hồng Dược nói: “Tướng mạo rất giống. Nhất là thần sắc kiêu ngạo không khác chút nào.”

Hà Thiết Thủ dịu dàng nói: “Viên tướng công! Xin các vị cứ bình tĩnh, bọn muội chỉ giữ lại một mình Hạ công tử thôi.”

Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Họ chỉ muốn kiếm chuyện với một mình Thanh đệ. Nơi đây tình thế hiểm ác, ta phải đưa Thanh đệ ra ngoài rồi tính tiếp.” Chàng chắp tay, nhìn Hà Thiết Thủ nói: “Xin cáo biệt.”

Lời vừa dứt, chàng đã dùng tay trái ôm ngang lưng Thanh Thanh đi ra khỏi đại sảnh, băng qua vườn, định nhảy lên đầu tường. Bức tường này rất cao, chàng đang ôm Thanh Thanh không thể nhảy một phát lên ngay, bèn vừa ném nàng lên trước vừa hô: “Thanh đệ, hãy cẩn thận!”

Bọn người Ngũ Độc Giáo vừa la hét vừa phóng ám khí tới ào ào. Viên Thừa Chí múa hai tay áo, những tiếng “tinh tang” liên tiếp vang lên, bao nhiêu ám khí đều bị đánh rơi hết. Hai tay của Thanh Thanh đã nắm được đầu tường, đang rướn mình toan nhảy ra ngoài, Hà Thiết Thủ đột nhiên vọt ra khỏi chỗ ngồi, vung tay trái đánh tới trước mặt Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí thấy nàng vừa nhoáng lên một cái đã như luồng gió ập đến mặt mình, một thiếu nữ trông yếu đuối mà thân pháp nhanh như vậy, không khỏi giật mình cất tiếng khen ngợi: “Hay lắm!”

Chàng vội rùn người xuống tránh, nhìn thấy món vũ khí đánh tới mặt mình là một chiếc thiết câu đen nhánh, càng kinh hãi hơn. Tay phải Hà Thiết Thủ vung lên một cái, một chiếc vòng vàng rời khỏi cổ tay bay lên đầu tường. Nàng quát lên: “Xuống đây!”

Thanh Thanh lập tức cảm thấy chân trái đau kịch liệt, hai tay lỏng ra té nhào xuống chân tường. Hà Hồng Dược cười dài một tiếng, năm cái vuốt thép đột nhiên rời khỏi ngón tay, bắn hết vào người Thanh Thanh.

Trong khoảnh khắc đó, Viên Thừa Chí đã tỉ đấu với Hà Thiết Thủ được năm chiêu, hai bên đều công thủ cực nhanh. Chàng đang bận tay, nhưng thấy Thanh Thanh nguy cấp cũng lấy được một mớ tiền đồng ném tới. Những tiếng leng keng vang lên, cả năm chiếc vuốt thép của Hà Hồng Dược đều bị đánh rơi xuống đất.

Hà Thiết Thủ khẽ la lên: “Tuyệt diệu!” Tay trái nàng tấn công liền hai chiêu. Viên Thừa Chí thấy rõ tay phải nàng da dẻ trơn mịn như mỡ đông, đầu ngón tay thon thả màu hồng nhạt như hoa thủy tiên, khi phóng chưởng thì chưởng phong mang tới từng đợt mùi hương thơm ngát. Nhưng bàn tay trái nàng đã bị cắt mất, trên cổ tay có lắp một cái móc sắt. Cái móc sắt này đúc theo hình dáng như bàn tay con gái thon dài, năm ngón tay cực kỳ bén nhọn. Bàn tay sắt có thể khóa, có thể đâm, có thể chặt, chiêu thức lộng gió vù vù, linh hoạt chẳng kém gì bàn tay bằng da thịt.

Viên Thừa Chí la lên: “Sa huynh! Các vị mau mau tự tìm đường ra ngoài.”

Nhưng lúc này Sa Thiên Quảng cùng quần hào đã bị giáo đồ Ngũ Độc Giáo vây hãm loạn đấu, làm sao xông ra ngoài ngay được?

Viên Thừa Chí bất ngờ gặp phải kình địch, bèn phấn khởi tinh thần thi triển Phục Hổ Chưởng Pháp, oai phong không gì đỡ nổi.

Đấu pháp của Hà Thiết Thủ hoàn toàn khác hẳn. Nàng cũng dùng quyền để đánh, dùng chân để đá, dùng chưởng để phóng, dùng móc để đâm; nhưng quyền pháp có rất nhiều hư chiêu, lắm khi chưởng đánh tới nơi mà không có chút kình lực nào. Viên Thừa Chí nghĩ rằng nàng hạ thủ lưu tình không dùng sát chiêu, nên bất giác lơi tay một chút.

Đang lúc tỉ đấu, chàng vẫn thường quay nhìn về phía Thanh Thanh. Thấy nàng ngồi dưới đất mãi vẫn không đứng dậy được, chàng lo lắng trong lòng bèn đánh rát mấy chiêu, ép Hà Thiết Thủ lùi vài bước để qua đỡ Thanh Thanh đứng dậy.

Đột nhiên nghe ầm một tiếng, bốn bàn tay của Thiết La Hán và Tề Vân Ngạo đập thẳng vào nhau, rồi cả hai đều bị chấn động lùi ra. Thiết La Hán la lớn một tiếng, cố bước lên đánh được mấy chiêu thì bàn tay đã sưng vù. Y vừa tức giận vừa lo lắng, lớn tiếng hô hoán: “Trên bàn tay bọn này có chất độc, đừng bị trúng kế!”

Viên Thừa Chí bây giờ mới tỉnh ngộ. Thì ra chưởng pháp của Hà Thiết Thủ mềm dịu như thế là để dụ mình đối chưởng, dụng tâm hiểm độc chứ không phải có ý nhường nhịn. Chàng thấy tình thế đã khẩn cấp rồi, lập tức nhảy đến bên Thanh Thanh, dìu nàng dậy.

Thấy chàng dìu Thanh Thanh dậy xong lại toan đi cứu Thiết La Hán, Hà Thiết Thủ bèn lướt như một cơn gió đến bên cản trở. Viên Thừa Chí la lên: “Hà giáo chủ! Xưa nay ta không thù không oán với cô, sao phải ép người như thế? Nếu không để chúng ta đi, đừng trách ta vô lễ.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười, trên mặt lộ ra hai núm đồng tiền rất dễ thương, cất tiếng đáp: “Bọn muội chỉ cần giữ lại một mình Hạ công tử. Còn tôn giá cứ tùy tiện.”

Chân trái của Viên Thừa Chí quét ngang qua, hữu chưởng vù một tiếng vỗ thẳng lên mặt Hà Thiết Thủ. Nàng đưa tay toan đỡ, đột nhiên cảm thấy phát chưởng của Viên Thừa Chí kình lực vô cùng, nếu dùng hai tay đỡ lấy, dù đối phương trúng độc thì bàn tay của mình cũng phải gãy trước. Trong chớp nhoáng, nàng chìa một ngón tay ra, đưa lên phía trên điểm vào huyệt Khúc Trì của Viên Thừa Chí. Chiêu thức này biến chưởng thành chỉ, vừa nhanh chóng vừa chính xác, lấy công làm thủ, thật là cao diệu.

Viên Thừa Chí hô lớn: “Chỉ pháp tuyệt diệu!” Chàng liền xòe tả chưởng ra, chém ngang vào cổ tay địch thủ.

Chàng biết, tuy trên tay Hà Thiết Thủ có chất độc, nhưng nàng lại e sợ chưởng lực của mình cường mãnh, bèn thay đổi quyền pháp sử dụng tuyệt nghệ Phá Ngọc Quyền của sư môn. Quyền pháp này chiêu nào cũng vận kình rất mạnh. Lưu Bội Sinh biệt hiệu là Ngũ Linh Thủ, nhưng không sao đỡ nổi năm chiêu của chàng.

Hà Thiết Thủ võ công tuy cao, nhưng vẫn là phận nữ nhi. Thấy đối phương quyền nào đánh tới cũng giống như búa sắt giáng vào núi đá để mở đường, nàng không dám đón đỡ. Trên mặt nàng vẫn có nụ cười, nhưng khi thấy quyền thế của đối phương dữ dằn như vậy, bất giác nảy lòng sợ hãi, bắt đầu tránh né. Trong lòng nàng thán phục, chỉ mong thừa cơ nghiên cứu học lóm một chiêu nửa thức võ công thần diệu của Viên Thừa Chí, hoặc thấy được chút xíu sơ hở của đối phương. Nhưng đối phương lại biến chiêu quá kỳ lạ, quá nhanh chóng, chỉ nháy mắt đã đổi sang chiêu khác. Bây giờ Hà Thiết Thủ chuyển sang khao khát, chỉ muốn quỳ ngay xuống mà mở miệng thỉnh cầu: “Sư phụ! Xin dạy cho đệ tử chiêu này”.

Viên Thừa Chí nhân lúc đối thủ lùi ra nửa bước, liền đưa tả chưởng lên đầu để phòng vệ, còn hữu quyền thì tập kích vào Cẩm y đồng cái Tề Vân Ngạo đang đứng gần đó.

Tề Vân Ngạo la lên: “Hay lắm!” Hắn đưa tay ra, toan nắm lấy đầu quyền của chàng. Chỉ cần đầu ngón tay đụng vào nắm đấm của Viên Thừa Chí là kịch độc có thể truyền qua.

Viên Thừa Chí đâu thể để ngón tay của hắn đụng đến mình? Chàng hơi cúi xuống, xoay tay trái chụp được cổ áo của hắn. Chàng tức giận tên này hung hãn ác độc, dùng độc chưởng đả thương người, bèn dùng chân phải móc chân của hắn ra sau. Tay phải chàng vỗ vào khoảng ba tấc ở dưới đầu gối bên phải của hắn. “Rắc” một tiếng, đầu gối của Tề Vân Ngạo lập tức bị trật khớp, hắn quỳ ngay xuống đất.

Hồ Quế Nam vốn đang kịch đấu với Tề Vân Ngạo, bây giờ rảnh tay lập tức đi cứu viện cho Sa Thiên Quảng đang bị ba kẻ địch bao vây vào giữa. Viên Thừa Chí la lên: “Lùi đến bên tường, để ta cứu người!”

Hồ Quế Nam vâng lời, quay lại dìu Thanh Thanh và Thiết La Hán đang bị thương đến bên bờ tường.

Viên Thừa Chí đảo mắt nhìn quanh tứ phía, thấy Sa Thiên Quảng và ông câm đều lấy một chọi ba, nhưng tình hình bên Sa Thiên Quảng nguy hiểm hơn. Chàng lập tức nhún chân trái một cái, chân phải phóng ra đá văng hai tên Ngũ Độc Giáo, rồi tung người vào giữa đám đông. Soạt soạt ba tiếng, ba tên đang bao vây Sa Thiên Quảng đã bị thương rồi. Tên thì vai bị trật khớp, tên thì cổ bị vặn nghiêng, tên thì gãy tay.

Viên Thừa Chí không muốn hại mạng nhiều người, cũng không dám tiếp xúc với độc chưởng của đối phương, nên cứ nhanh như điện chớp mà tung mình tới, cách lần áo của đối phương mà nhằm đánh vào những khớp xương. Địch thủ bị chàng đánh trúng khớp xương, nếu không đau đớn ngất xỉu ngay tại chỗ thì cũng không động đậy được.

Cứu xong Sa Thiên Quảng, Viên Thừa Chí lại nhảy đến cạnh ông câm. Quyền pháp của ông câm đã học được mấy phần tinh yếu của phái Hoa Sơn. Nãy giờ y cố sức chống chọi với ba tên cao thủ, tuy chưa thể thoát thân được, nhưng không đến nỗi thua ngay.

Hà Thiết Thủ huýt một tiếng sáo, toàn bộ giáo chúng Ngũ Độc Giáo đều chạy đến bao vây hai người. Nhưng Viên Thừa Chí chỉ lạng sang đông một cái, đảo sang tây một cái, là hai tên đang vây hai bên ông câm đều bị trật khớp tay. Còn sót lại một tên, đang ngơ ngác thì bị ông câm xuất một quyền đánh trúng vào sống mũi, máu tươi chảy ra đầm đìa. Dường như ông câm đã nổi hứng, còn muốn rượt theo đánh tiếp. Nhưng Viên Thừa Chí vội nắm tay y kéo đến bờ tường, la lên: “Mọi người mau mau rời khỏi đây, để ta cản hậu.”

Quần hào giúp sức nhau nhảy lên bức tường cao, chỉ chốc lát đã lên hết đầu tường. Viên Thừa Chí chạy qua chạy lại dưới chân tường, lại đánh ngã mười mấy đối thủ nữa. Bọn này đều là tay khá trong Ngũ Độc Giáo, nhưng đều bị đánh trật khớp hoặc gãy xương, nằm rạp hết dưới đất. Phen này Ngũ Độc Giáo thua đến thảm hại, hoàn toàn không còn tinh thần chiến đấu.

Viên Thừa Chí chắp tay nhìn Hà Thiết Thủ, nói: “Giáo chủ cô nương! Tạm biệt!” Chàng cười ha hả một tràng, tựa lưng vào bức tường chuẩn bị nhảy lên.

Hà Thiết Thủ đang thiết tha mong chàng chỉ điểm võ công, bất giác không nén nổi hô lớn: “Sư phụ…” Mới nói được hai chữ, nàng vội vàng nuốt lại phần sau, mọi người đều không biết giáo chủ gọi ai. Lúc này tâm thần Hà Thiết Thủ phiêu diêu, chân đứng không vững cơ hồ ngất xỉu.

Hà Hồng Dược quát lên một tiếng, năm cái vuốt thép trên đầu ngón tay chia ra trên dưới ba đường bắn vào Viên Thừa Chí, nghĩ bụng: “Hắn đang tựa sát vào tường, hết đường tránh né rồi.”

Viên Thừa Chí vẫy tay áo trái ra, năm chiếc vuốt thép lập tức bay ngược về, ghim vào bọn giáo chúng Ngũ Độc Giáo.

Hà Hồng Dược thấy công phu đánh trả ám khí này, lớn tiếng kêu gào: “Ngươi là đệ tử của Kim Xà Lang Quân phải không?” Thanh âm của mụ nghẹn lại như muốn khóc.

Viên Thừa Chí ngẩn ra một chút, thầm nghĩ: “Nhất định bà này với Kim Xà Lang Quân có quan hệ rất sâu”. Suy nghĩ đã nhanh, thân pháp càng nhanh hơn, chàng chưa kịp mở miệng trả lời đã tung người nhảy lên.

Phan Tú Đạt nằm dưới đất lớn tiếng ra lệnh, bọn giáo chúng Ngũ Độc Giáo đang cầm ống lập tức thụt mạnh ra. Bốn luồng nước độc bắn vọt về phía Viên Thừa Chí. Chàng cảm thấy mùi tanh ập vào mũi, vội vã đề khí tung người lên thêm mấy trượng. May mà loại nước độc đó bắn không xa được, đổ xuống đất thành vũng đen như mực.

Viên Thừa Chí đã chụp được đầu tường, lộn trên không trung nửa vòng rồi lật người ra phía ngoài tường, tư thế cực đẹp. Hà Thiết Thủ nhìn thấy, không khỏi buột ra tiếng khen. Ông câm cùng quần hào đã ra hết bên ngoài tường.

Viên Thừa Chí thấy bốn bề vắng lặng, không có ai đuổi theo. Nhưng chàng không dám dừng chân, cõng Thanh Thanh trên lưng cùng mọi người chạy nhanh vào thành.

Lúc nãy Ngụy Đào Thanh thấy hai bên mới mấy câu không hợp đã động thủ đánh nhau, xuất thủ lợi hại vô cùng. Hắn vội vã lên tiếng khuyên ngăn, mời hai bên ăn cơm uống rượu đã rồi từ từ nói chuyện. Nhưng hai bên đều hung hãn, không ai đếm xỉa gì đến hắn. Hắn chỉ còn cách đứng đó giậm chân la lớn: “Xin lỗi! Khoan đi đã, xin chậm bước, xin chậm bước!”

Mặc dù Ngụy Đào Thanh đã nghe Viên Thừa Chí tuyên bố không giúp triều đình, nhưng lúc này mưu đồ của Huệ Vương liên can rất lớn, lỡ tiết lộ ra thì chém hết cả nhà vẫn chưa hết tội. Ngụy Đào Thanh biết Ngũ Độc Giáo lợi hại, nên khi giới thiệu Viên Thừa Chí với bọn này là có ý thị oai, để nhóm Viên Thừa Chí biết điều mà bỏ đi ý định đối địch với Huệ vương gia.

Khi thấy hai bên kịch đấu, hắn nghĩ rằng Ngũ Độc Giáo võ công đã cao, lại dụng độc cực kỳ đáng sợ, trong lòng âm thầm mừng rỡ, mong rằng phen này diệt sạch nhóm Viên Thừa Chí. Không ngờ chuyện xảy ra ngược với ý muốn, Viên Thừa Chí cùng quần hào đã thoát thân. May mà không ít người đã trúng độc, dù không chết thì trong vòng nửa tháng cũng không khỏe nổi, không thể đến đây để xía vào đại sự của Huệ vương gia nữa.

Sắp về đến nhà, đột nhiên Viên Thừa Chí cảm thấy một luồng hơi nóng thổi vào gáy mình, ngứa ngáy khó chịu. Chàng quay đầu lại, bỗng nghe Thanh Thanh bật cười khúc khích. Chàng biết nàng bị thương không nặng lắm, trong lòng yên tâm hẳn đi.

Vừa vào trong nhà, Viên Thừa Chí vội lấy băng thiềm ra để trị thương cho Thiết La Hán. Những người còn lại tuy chưa trúng độc, nhưng trong trận kịch đấu đã hít trúng không ít hơi độc, đều cảm thấy chóng mặt và tức ngực. Họ cũng được Viên Thừa Chí dùng băng thiềm để trục độc ra. Thanh Thanh bị Hà Thiết Thủ đánh trúng một chiếc vòng vào chân, da dẻ trắng trẻo chỗ đó tím đen lại, sưng vù lên.

Trình Thanh Trúc ngồi im lặng nghe kể lại trận ác đấu vừa rồi, cứ chau mày không nói gì. Cuối cùng lão mới lên tiếng: “Viên tướng công! Hoàng Mộc đạo nhân của Tiên Đô Phái, nghe nói đã chết dưới tay Ngũ Độc Giáo.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Có người chứng kiến ư?”

Trình Thanh Trúc nói: “Nếu có người chứng kiến, e rằng người đó cũng khó mà thoát khỏi độc thủ của Ngũ Độc Giáo. Nhưng rất nhiều người nghĩ như vậy, vì Hoàng Mộc đạo nhân chết rất kỳ lạ. Sau này Tiên Đô Phái dốc hết toàn lực đến Vân Nam để trả thù, nhưng hoàn toàn không có kết quả. Chuyện đó cũng lạ.”

Sa Thiên Quảng nói: “Trình huynh! Mụ ăn mày kia thật là ác độc. Đáng tiếc, chúng ta gặp mụ mà chưa trả thù được cho Trình huynh.”

Trình Thanh Trúc nói: “Ta chẳng có xích mích gì với Ngũ Độc Giáo, không biết tại sao họ lại tìm ta. Chuyện này cũng khó hiểu.”

Viên Thừa Chí nói: “Họ không thích ngoại hiệu Kim Xà Vương của tại hạ. Bang chủ đi chung với tại hạ nên họ mới hạ độc thủ.”

Trình Thanh Trúc nói: “Chắc là như thế.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Trình bang chủ…” Chàng bỗng liếc nhìn Thanh Thanh một cái, không nói tiếp nữa.

Thanh Thanh lên tiếng: “Sợ cái gì? Để muội hỏi giùm cho. Trình bang chủ! Bang chủ bị trọng thương, đồ nhi của bang chủ là A Cửu có biết hay không? Cô ấy đã đến thăm bang chủ chưa?”

Trình Thanh Trúc lắc đầu. Thanh Thanh hỏi tiếp: “Có cần phái người báo cho cô ấy biết hay không?”

Trình Thanh Trúc lại lắc đầu. Thanh Thanh quay lại, xua tay trước mặt Viên Thừa Chí rồi nhún vai một cái. Quả nhiên Viên Thừa Chí đang nhớ đến A Cửu, nhưng chàng không hiểu tại sao Thanh Thanh lanh lợi đến như thế, đoán là trúng ngay.

Đột nhiên một tên gia đinh chạy vào bẩm báo: “Tiêu đại cô nương ở Kim Long Bang muốn gặp Viên tướng công.”

Đôi mày của Thanh Thanh bỗng dựng lên một cái, bực dọc hỏi: “Cô ấy còn đến đây làm gì nữa?”

Viên Thừa Chí bảo: “Mời vào trong!” Tên gia đinh ra ngoài, dẫn Tiêu Uyển Nhi vào.

Vừa vào trong sảnh, nàng lập tức quỳ sụp xuống trước mặt Viên Thừa Chí, khóc lóc dữ dội. Viên Thừa Chí thấy nàng mặc tang phục, biết là có chuyện không hay. Chàng vội đỡ nàng dậy, hỏi: “Tiêu cô nương đứng dậy đi. Lệnh tôn có được khỏe không?”

Tiêu Uyển Nhi vừa khóc vừa nói: “Gia gia… bị… bị tên gian tặc Mẫn Tử Hoa hại chết rồi.”

Viên Thừa Chí kinh hãi hỏi: “Lão nhân gia… lão nhân gia… tại sao gặp nạn?”

Tiêu Uyển Nhi lấy trong người ra một bọc vải, đặt lên bàn. Khi mở ra thì thấy một thanh trủy thủ sáng chói, trên lưỡi vẫn còn dính những vết máu ố đen. Viên Thừa Chí cầm cả bọc vải lẫn trủy thủ lên, thấy trên cán dao có dùng chỉ kim tuyến khảm vào mấy chữ: “Tiên Đô môn hạ, đệ tử Mẫn Tử Hoa thu chấp”. Hiển nhiên đây là lợi khí mà sư phụ trong Tiên Đô Phái tặng cho đệ tử của mình.

Tiêu Uyển Nhi vừa khóc vừa nói: “Bọn muội đã tới Mã Cốc Sơn, sắp xếp xong xuôi thì gia gia có việc cần làm ở Ứng Thiên Phủ. Xin phép Tôn Trọng Thọ thúc thúc xong, muội theo gia gia về nhà, ngụ trong khách sạn ở Từ Châu. Sáng hôm sau, gia gia ngủ đến giờ Thìn vẫn chưa chịu dậy. Muội vào gọi, nào ngờ… nào ngờ… trước ngực gia gia đã cắm lưỡi dao này rồi. Viên tướng công! Xin Viên tướng công lo liệu!” Nói xong, nàng khóc òa lên.

Thanh Thanh vốn có phần ganh tỵ, nhưng bây giờ thấy nàng khóc lóc thê thảm như thế, bỗng nổi dạ thương tâm. Thanh Thanh kéo nàng đến bên mình, lấy khăn tay ra lau nước mắt cho, rồi nói với Viên Thừa Chí: “Đại ca! Tên họ Mẫn đã hứa bỏ qua những chuyện trước đây, sao lại giở trò đê tiện mà ám toán? Chuyện này chúng ta không thể để yên.”

Viên Thừa Chí cũng đang đau lòng, nghĩ đến Tiêu Công Lễ khẳng khái trọng nghĩa, chàng không nén nổi hai dòng lệ chảy xuống. Hồi lâu chàng mới hỏi: “Tiêu cô nương! Sau này cô nương có gặp họ Mẫn không?”

Tiêu cô nương nghẹn ngào đáp: “Muội thấy gia gia bất hạnh lâm nạn, lập tức báo tin về Mã Cốc Sơn. Tôn Trọng Thọ thúc thúc liền sai những bộ hạ cũ của Kim Long Bang đến ngay Từ Châu để nghe lệnh muội, trả thù cho gia gia. Dọc đường bọn muội đuổi theo tên họ Mẫn, đêm qua thì đuổi đến Thuận Thiên Phủ.”

Thanh Thanh la lên: “Hay quá! Hắn ở đây, chúng ta đi tìm ngay. Muội yên tâm đi, chúng ta nhất định sẽ trả thù cho muội.”

Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng và quần hào đã biết chuyện Viên Thừa Chí ở Ứng Thiên Phủ hóa giải mối thù giữa hai nhà Tiêu, Mẫn. Nghe chuyện Mẫn Tử Hoa không giữ đạo nghĩa giang hồ, họ đều phẫn khích. Sa Thiên Quảng giận dữ nói: “Mẫn Tử Hoa! Bất kể hắn là thứ gì, Sa mỗ cũng phải đấu với hắn một trận.”

Tiêu Uyển Nhi vái lạy mọi người, cất giọng thê thảm nói: “Xin quý vị bá bá thúc thúc chủ trì công đạo.”

Trình Thanh Trúc vỗ bàn thét lên: “Mẫn Tử Hoa đang ở đâu? Bất kể Tiên Đô Phái người đông thế mạnh, lão Trình này quyết không sợ hắn. Kim Xà Tam Doanh chúng ta đã là người một nhà rồi.”

Tiêu Uyển Nhi nói: “Sau khi gia gia tạ thế, muội đã cùng mấy vị sư huynh thu liệm, gửi linh cữu lại ở Quảng Võ tiêu cục, Từ Châu, rồi lập tức truy tìm tung tích Mẫn Tử Hoa. Nhờ anh linh gia gia phù hộ, chỉ mấy ngày là có tin từ Hà Nam truyền đến, nói rằng có người đã thấy tên gian tặc họ Mẫn đi từ Hà Nam về phía bắc. Tất cả các hương chủ nội ngoại đường của Kim Long Bang đều chia nhóm để ngăn chặn hắn, từng giao đấu hai lần nhưng hắn chạy thoát. Tiểu điệt vô dụng, còn bị tên gian tặc đó đâm trúng một kiếm.”

Viên Thừa Chí thấy vai trái nàng nhô cao, biết rằng trong áo đang có băng bó. Nhất định nàng nghĩ đến thù cha mà không đếm xỉa đến tính mạng, nhưng võ công không sánh kịp Mẫn Tử Hoa, một hảo thủ Tiên Đô Phái.

Tiêu Uyển Nhi tiếp: “Hôm qua bọn muội đuổi tới Thuận Thiên, đã điều tra được rõ ràng nơi ở của tên gian tặc.”

Thanh Thanh hỏi ngay: “Ở đâu? Chúng ta mau mau tới đó, kẻo hắn lại trốn thoát.”

Tiêu Uyển Nhi đáp: “Hắn ở hẻm Phổ Gia, cửa tây thành. Hơn một trăm huynh đệ tệ bang đang canh giữ xung quanh.”

Viên Thừa Chí khẽ gật đầu một cái, thầm nghĩ: “Tuổi tác cô này còn nhỏ, nhưng sắp xếp công việc đâu ra đấy. Lần này Kim Long Bang dồn hết sức ra, Mẫn Tử Hoa mọc cánh cũng không thoát nổi.”

Tiêu Uyển Nhi lại nói: “Vừa rồi một vị sư huynh của muội dọc đường tình cờ gặp một vị bằng hữu quen mặt trên đại hội Thái Sơn, nhờ vậy mới biết Viên tướng công cùng các vị đang ở đây.”

Sa Thiên Quảng giơ ngón tay cái lên khen ngợi: “Tiêu cô nương! Cô nương hành sự thật là chu đáo. Mẫn Tử Hoa đã nằm trong lòng bàn tay của các vị rồi, cô nương vẫn đến đây mời minh chủ đứng ra chủ trì công đạo, để bằng hữu giang hồ đều nói một câu: Mẫn Tử Hoa đáng giết. Thế là hay lắm.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Cô nương định bao giờ ra tay?”

Tiêu Uyển Nhi đáp: “Canh hai đêm nay.” Nàng lại gói thanh trủy thủ vào trong bọc vải.

Thanh Thanh nói: “Muội muội! Tối nay muội phải dùng thanh trủy thủ này đâm chết hắn.” Tiêu Uyển Nhi gật đầu.

Viên Thừa Chí nghĩ đến Tiêu Công Lễ trượng nghĩa suốt đời, cuối cùng lại chết một cách không minh bạch. Mình đã hết sức giúp đỡ mà rốt cuộc vẫn không giữ được mạng ông, trong lòng cảm thấy vô cùng tiếc nuối. Hơn nữa Kim Long Bang đã tham gia vào Kim Xà Tam Doanh, bản thân chàng không thể khoanh tay đứng nhìn, nhất định phải đứng ra gánh vác. Mẫn Tử Hoa lén lút giết người, dĩ nhiên phải chịu quả báo. Nhưng vụ này phải làm sao để Tiên Đô Phái tâm phục khẩu phục, thì mới không phát sinh hậu hoạn.

Quần hào ăn xong cơm tối, nghỉ ngơi một lúc. Sau đó Viên Thừa Chí dẫn theo Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng, ông câm, Hồng Thắng Hải, năm người theo Tiêu Uyển Nhi đến hẻm Phổ Gia.

Thanh Thanh và Thiết La Hán bị thương, không thể đi theo. Đơn Thiết Sinh tự về nhà dưỡng thương. Thanh Thanh than thở liền miệng, vừa thóa mạ vừa trù ẻo con yêu nữ Hà Thiết Thủ hại mình phải ngồi yên không tham gia được.

Hồi 16: Chốn núi hoang trăng lạnh – Người tay sắt động lòng

Mọi người đi tới còn cách đầu hẻm chừng mười trượng, mấy đồ đệ của Tiêu Công Lễ chạy ra đón, nói rằng: “Mẫn Tử Hoa cùng sư đệ của hắn là Động Huyền đạo nhân đang nói chuyện trong nhà.” Họ thấy Viên Thừa Chí đích thân tới giúp, tinh thần phấn chấn hẳn lên.

Tiêu Uyển Nhi hỏi Viên Thừa Chí: “Viên tướng công! Ra tay được chưa?”

Viên Thừa Chí bảo: “Cô nương dặn mọi người canh giữ bên ngoài, chúng ta vào trong thám thính một chút.”

Tiêu Uyển Nhi vâng dạ, khẽ dặn dò đám bang chúng, rồi cùng Viên Thừa Chí nhảy vào trong tường. Khinh công nàng hơi kém, khi đặt chân xuống đất phát ra một tiếng động nhỏ. Ngọn đèn trong nhà lập tức tắt phụt. Tiêu Uyển Nhi biết kẻ thù trong nhà đã phát giác, chắc chắn không thám thính được gì nữa. Nàng bèn thổi một tiếng sáo, lập tức bốn phía chung quanh nhà lố nhố đầu người.

Tiêu Uyển Nhi la lên: “Họ Mẫn kia! Ra đây xem thử ai đến!”

Trong nhà vẫn im lặng, không ai lên tiếng. Tiêu Uyển Nhi hô lớn: “Thắp đuốc, tiến vào.”

Bốn bang chúng Kim Long Bang lấy mồi lửa ra, thắp sáng đuốc đã mang sẵn, hiên ngang tiến vào. Bốn bang chúng khác đi theo, cầm đao bảo vệ. Đột nhiên bốn ngọn đuốc bị tắt mất ba, rồi hai cái bóng bay qua đỉnh đầu mọi người, vọt thẳng ra ngoài. Bang chúng Kim Long Bang lập tức ùa lên, vây chặt bốn phía. Những tiếng leng keng nổi lên liên tiếp, hai bên bắt đầu động thủ. Rất nhiều đuốc liên tiếp được thắp lên, soi cả một vùng rộng lớn sáng như ban ngày.

Mẫn Tử Hoa và Động Huyền đạo nhân biết đã lọt vào vòng vây, bèn tựa lưng vào nhau, cố hết sức mà tử chiến. Chỉ trong khoảnh khắc, hai người đã đả thương sáu bảy bang chúng Kim Long Bang. Những kẻ bị thương vừa lùi lại, lập tức có người tiến lên thế chỗ.

Mẫn Tử Hoa và Động Huyền đạo nhân đả thương ba bốn người nữa, thì tay trái của Động Huyền đạo nhân trúng một đao. Y chuyển kiếm qua tay phải, tiếp tục liều mạng chiến đấu. Nhưng y vốn cầm kiếm bên tay trái, Mẫn Tử Hoa cầm kiếm bên tay phải, tả hữu hô ứng, công thủ nhịp nhàng mới là Lưỡng Nghi Kiếm Pháp. Bây giờ hai thanh kiếm đều cầm bên tay phải, oai lực lập tức giảm đi. Chẳng bao lâu Mẫn Tử Hoa đã bị thương mấy chỗ.

Viên Thừa Chí đứng bên theo dõi trận chiến, bỗng nghĩ: “Một mạng đền một mạng, giết Mẫn Tử Hoa là đủ. Không nên để cả hai phải chết tại đây.” Chàng thấy hai người sắp mất mạng, bèn tung người nhảy vào vòng chiến. Kiếm quang vừa nháy động, những tiếng loảng xoảng liền vang lên. Chẳng những trường kiếm trong tay Động Huyền đạo nhân và Mẫn Tử Hoa bị Kim Xà Kiếm chặt gãy, mà bảy tám thanh kiếm bên Kim Long Bang cũng cùng số phận.

Mọi người bị bất ngờ, đều kinh hãi nhảy lùi ra sau. Viên Thừa Chí không ngờ thanh kiếm này có oai lực như thế, chính mình cũng ngẩn ra một lúc, nghĩ thầm: “Những thanh kiếm đó đều là binh khí quen tay của mọi người. Mình chỉ muốn hai bên dừng tay ngừng đấu, không ngờ lại làm hỏng rất nhiều binh khí.” Trong lòng chàng cảm thấy không yên.

Lúc này Mẫn Tử Hoa và Động Huyền đã máu me đầy người, thấy Viên Thừa Chí xuất hiện lại càng biết chắc mình không thoát được. Động Huyền quẳng thanh kiếm gãy xuống đất, cười thê thảm rồi nói: “Không hiểu sư huynh đệ chúng ta có gì đắc tội, mà các hạ bức hiếp đến thế này!”

Y xoay tay lại, lấy trong thắt lưng ra một thanh trủy thủ, đâm lẹ vào giữa ngực mình. Tả chưởng của Viên Thừa Chí phóng ra nhanh ra như gió, khẽ đẩy vào trước ngực Động Huyền; còn tay phải túm chặt lấy cổ tay y, thuận tay đoạt lấy trủy thủ. Dưới ánh đuốc, chàng thấy rõ thanh trủy thủ này giống hệt trủy thủ của Mẫn Tử Hoa đã đâm chết Tiêu Công Lễ. Trên cán có khắc hàng chữ: “Tiên Đô môn hạ, đệ tử Động Huyền thu chấp”.

Động Huyền tái xanh cả mặt, quát lên: “Ta học nghệ không tinh, không phải đối thủ của ngươi, chết cho ngươi xem là đủ rồi. Mau trả trủy thủ cho ta.”

Viên Thừa Chí sợ y lại tự tử, bèn cài trủy thủ vào thắt lưng mình, nghiêm trang nói: “Sau khi mọi chuyện xong xuôi, dĩ nhiên sẽ trả.”

Động Huyền đạo trưởng giận dữ nói: “Muốn giết thì giết, không được sỉ nhục ta như thế!”

Nói xong, y đánh một quyền vào mặt Viên Thừa Chí. Chàng nghiêng mình tránh né, ngạc nhiên hỏi lại: “Ta đâu dám sỉ nhục ai?”

Động Huyền nói rất lẫm liệt: “Thanh trủy thủ này do tôn sư ban tặng. Người đã dạy: thà mất mạng cũng không được để rơi vào tay người khác.”

Viên Thừa Chí ngẩn ra, lập tức sinh nghi tự hỏi: “Vật này quan trọng đến thế, tại sao Mẫn Tử Hoa đâm chết Tiêu Công Lễ rồi để lại trên xác nạn nhân, không chịu lấy về?” Chàng dùng hai tay trả thanh trủy thủ lại, lên tiếng: “Tại hạ có một việc không hiểu rõ, xin thỉnh giáo đạo trưởng.”

Động Huyền nhận lấy trủy thủ. Nghe Viên Thừa Chí nói chuyện khách sáo, y bèn đáp: “Cứ nói đi.”

Viên Thừa Chí quay lại, bảo Tiêu Uyển Nhi: “Tiêu cô nương, đưa cái bọc vải cho ta.”

Tiêu Uyển Nhi đưa bọc vải cho Viên Thừa Chí. Nàng cầm đao đứng bên, canh chừng Mẫn Tử Hoa nghiêm ngặt.

Viên Thừa Chí mở bọc vải ra, để lộ thanh trủy thủ. Mẫn Tử Hoa và Động Huyền đồng thời kinh hãi la lên. Bang chúng Kim Long Bang nhìn thấy hung khí, nghĩ đến cái chết thê thảm của bang chủ, ai cũng trừng mắt như sắp rách khóe, bất giác bước tới gần một chút.

Mẫn Tử Hoa run giọng nói: “Đây… đây… đây chính là trủy thủ của ta. Ngươi lấy ở đâu ra?” Y đưa tay toan lấy, nhưng Viên Thừa Chí đã rút tay về.

Tiêu Uyển Nhi vẫy đơn đao ra, chém vào cánh tay Mẫn Tử Hoa. Họ Mẫn vội rút tay lại, nên nhát đao đó không trúng đích. Tiêu Uyển Nhi muốn chém nữa, nhưng Viên Thừa Chí đã đưa tay cản lại, lên tiếng: “Hỏi rõ ràng trước đã.”

Tiêu Uyển Nhi ngừng đao không chém nữa, hai hàng nước mắt đã lăn xuống mặt.

Mẫn Tử Hoa giận dữ nói: “Hôm đó ở Nam Kinh chúng ta đã nói rõ ràng, thù oán hai bên bỏ hết. Tại sao Kim Long Bang không biết giữ tín nghĩa, liên tiếp tấn công ta? Ngươi gọi Tiêu Công Lễ ra đây, chúng ta ba mặt một lời nói chuyện rõ ràng. Họ Mẫn này có lỗi chỗ nào…”

Y chưa nói xong, bang chúng Kim Long Bang đã quát tháo om sòm: “Tên gian tặc đã hại chết bang chủ chúng ta, còn dám già mồm cãi cối.”

Mẫn Tử Hoa và Động Huyền đều kinh hãi la lên: “Cái gì? Tiêu Công Lễ chết rồi sao?”

Viên Thừa Chí thấy hai người kinh hãi thật sự, nghĩ thầm: “Không chừng bên trong còn có ẩn tình.” Chàng bèn hỏi: “Các hạ không biết thật ư?”

Mẫn Tử Hoa đáp: “Ta thua ngươi căn nhà, chẳng còn mặt mũi nào qua lại giang hồ nữa, định đến phủ Khai Phong tìm đại sư huynh Thủy Vân đạo trưởng. Nào ngờ chưa gặp sư huynh, dọc đường đã bị bang chúng Kim Long Bang vây đánh hai trận, chẳng có lý do gì cả. Tiêu Công Lễ đang khỏe mạnh như thế, sao lại chết đột ngột?”

Tiêu Uyển Nhi nghe y nói vậy, bất giác bối rối, nghẹn ngào nói: “Gia gia của ta… bị… bị thanh trủy thủ này đâm chết… Giả tỉ không phải chính tay ngươi, chắc cũng là bằng hữu của ngươi.”

Mẫn Tử Hoa bây giờ mới hiểu, lắp bắp: “À… à… vậy là đúng rồi…”

Tiêu Uyển Nhi thét lên: “Cái gì mà đúng?”

Mẫn Tử Hoa cố gắng tìm lời tự biện minh, nhưng ấp úng cả nửa ngày mà không nói được tiếng nào. Bang chúng Kim Long Bang dĩ nhiên phải nghĩ trong lòng y có chuyện sai quấy khó bề mở miệng, bèn hò nhau xách đao ào ào tiến tới.

Động Huyền đạo trưởng cầm lấy nửa thanh kiếm trên tay Mẫn Tử Hoa, hiên ngang nói: “Nếu các vị muốn mối thù của Tiêu bang chủ không được trả, muốn hung thủ thật sự ung dung cười ngạo, thì sư huynh đệ chúng ta mất hai cái mạng này cũng chẳng đáng gì.” Y phưỡn ngực ra, giơ tay chịu trói.

Mọi người thấy tình hình như vậy đều nhìn nhau, nhất thời không định được chủ ý. Viên Thừa Chí lên tiếng hỏi: “Nói vậy thì Tiêu bang chủ không phải bị Mẫn huynh giết hay sao?”

Mẫn Tử Hoa đáp: “Mẫn mỗ xuất thân từ Tiên Đô phái, cũng biết giang hồ phải lấy tín nghĩa làm đầu. Ta đã thua trận, lại biết có kẻ gian giở trò ly gián, còn đến Nam Kinh trả thù làm gì nữa?”

Viên Thừa Chí nói: “Tiêu bang chủ không phải bị hại ở Nam Kinh.”

Mẫn Tử Hoa kinh ngạc hỏi: “Vậy thì ở đâu?”

Viên Thừa Chí đáp: “Ở Từ Châu.”

Động Huyền đạo trưởng nói: “Sư huynh đệ chúng ta đã mười mấy năm trời không đến Từ Châu, mà cũng không biết phóng phi kiếm lấy mạng người ở xa ngàn dặm.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Câu này có thật không?”

Động Huyền đạo trưởng đưa tay chỉ vào cổ mình, nói: “Chém đầu ta cũng không sợ, hà tất phải nói dối.”

Tiêu Uyển Nhi hỏi: “Thế thì thanh trủy thủ này từ đâu mà có?”

Động Huyền nói: “Bây giờ mà ta nói, chỉ sợ quý vị chưa tin. Bây giờ ta dẫn hai vị đi tới chỗ này, nhìn một cái là biết ngay.”

Mẫn Tử Hoa lo lắng nói: “Sư đệ, không nên tới đó.”

Động Huyền nói: “Lời nói không đáng tin, phải có chứng cớ. Tiêu bang chủ bị kẻ gian giết hại, việc này không thể xem thường, phải điều tra cho rõ. Viên tướng công và Tiêu cô nương là nhân vật thế nào, nhất định không làm hỏng việc của chúng ta đâu.”

Mẫn Tử Hoa khẽ gật đầu.

Tiêu Uyển Nhi hỏi: “Đi tới đâu?”

Động Huyền đáp: “Chỉ có thể dẫn Viên tướng công và Tiêu cô nương đi, đông người thì không được.”

Có người trong Kim Long Bang la lên: “Coi chừng hắn dùng gian kế để chạy thoát.”

Tiêu Uyển Nhi quay lại hỏi Viên Thừa Chí: “Viên tướng công! Làm sao bây giờ?”

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Xem ra hai người này thật sự có chuyện khó nói. Cùng đi với họ, điều tra cho rõ là hay nhất. Cho dù họ dùng gian kế gì đi nữa, chắc cũng không thể thoát khỏi tay ta.” Chàng bèn nói: “Chúng ta tới đó xem thử.”

Tiêu Uyển Nhi bảo bang chúng Kim Long Bang: “Có Viên tướng công ở đây, họ không làm gì được đâu.”

Từ khi Tiêu Công Lễ mất đi, rõ ràng Tiêu Uyển Nhi đã là bang chủ. Phen này nàng thống lĩnh bang chúng đi trả thù, mọi người nghe lệnh nàng răm rắp. Viên Thừa Chí là thủ lĩnh Kim Xà Doanh, càng là đầu não của bang chúng. Mọi người đều biết chàng lòng dạ nhân nghĩa, võ công cao cường, nên một lòng tuân phục.

*

*   *

Viên Thừa Chí và Tiêu Uyển Nhi theo sư huynh đệ Mẫn Tử Hoa đi về hướng bắc, đến bên tường thành. Động Huyền lấy một sợi dây có móc ném lên đầu tường, để Tiêu Uyển Nhi trèo lên trước. Sau đó tới lượt sư huynh đệ Mẫn Tử Hoa trèo trên đầu tường thành, để Viên Thừa Chí ở phía sau giám sát.

Ra khỏi thành, bốn người tiếp tục đi về hướng bắc. Lúc này đã giữa đêm, ánh trăng trong như nước, nhưng đường sá càng lúc càng gập ghềnh khó đi. Được chừng bốn năm dặm thì tới một ngọn đồi đá mọc ngổn ngang.

Viên Thừa Chí và Tiêu Uyển Nhi đều hoài nghi, không biết hai người kia dẫn mình tới vùng hoang vắng này là có dụng ý gì. Tiêu Uyển Nhi nghĩ bụng: “Chẳng lẽ họ đã mai phục sẵn nhiều người trợ giúp hay sao? Nhưng có Viên tướng công ở đây, cho dù đối phương thiên binh vạn mã thì nhất định huynh ấy cũng đưa mình thoát hiểm.”

Trèo lên đồi, tới hai ba dặm mới đến đỉnh đồi. Những tảng đá quái dị đâm lên loạn xạ, dưới ánh trăng trông như lũ ma quỷ đứng chờ, vẻ âm u khiến cho người ta phải rùng mình.

Động Huyền và Mẫn Tử Hoa đi đến một tảng đá lớn. Viên Thừa Chí và Tiêu Uyển Nhi theo sau, thấy một cỗ quan tài giấu phía sau tảng đá. Trong đêm mù mịt, giữa chốn hoang sơn mà bất ngờ nhìn thấy thứ này, trong xương sống Tiêu Uyển Nhi đột nhiên có một luồng khí lạnh bốc lên.

Động Huyền nhặt một hòn đá, gõ ba tiếng nhẹ lên nắp quan tài, dừng lại một lúc rồi lại gõ tiếp hai tiếng. Sau cùng y gõ ba tiếng nữa, rồi dùng hai tay giở nắp quan tài lên trên. Roạt một tiếng, xác chết trong quan tài ngồi bật dậy. Tiêu Uyển Nhi la lên một tiếng, hai tay níu chặt lấy tay trái Viên Thừa Chí. Nàng không tự chủ được, bất giác tựa sát vào người chàng.

Bỗng nghe xác chết lên tiếng: “Gì thế? Dẫn người ngoài đến đây ư?”

Động Huyền đáp: “Hai vị này là bằng hữu. Vị này là Viên tướng công, đệ tử của Kim xà lang quân Hạ đại hiệp. Vị này là Tiêu cô nương, thiên kim tiểu thư của Tiêu bang chủ Kim Long Bang.”

Xác chết nhìn Viên và Tiêu, nói: “Hai vị đừng trách. Bần đạo đang bị thương, không thể đứng dậy được.”

Động Huyền nói: “Đây là Thủy Vân sư huynh, chưởng môn tệ phái, vì tránh né kẻ thù mà phải dưỡng thương ở đây.”

Bây giờ Viên Thừa Chí và Tiêu Uyển Nhi mới biết đây không phải là một xác chết, bèn lập tức thi lễ. Thủy Vân đạo nhân chắp tay đáp lễ. Mặt ông trắng như giấy, hoàn toàn không có chút huyết sắc. Từ giữa trán đến sống mũi lại có một vết sẹo đỏ hỏn rất rộng. Vết sẹo này còn mới, chắc bị thương chưa được bao lâu, nổi bật trên sắc mặt trắng xanh nhìn càng đáng sợ hơn.

Thủy Vân đạo nhân nói: “Sư phụ của bần đạo là bạn thân của lệnh sư Hạ lão sư. Lúc Hạ lão sư đến Tiên Đô sơn, bần đạo đã từng thị phụng ông ấy. Lão nhân gia có khỏe không?”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Lúc này không cần giấu.” Chàng bèn đáp: “Lão nhân gia đã tạ thế nhiều năm rồi.”

Thủy Vân đạo trưởng thở dài một tiếng, ủ rũ không nói gì. Hồi lâu ông mới khẽ lên tiếng: “Lúc nãy nghe Động Huyền sư đệ nói các hạ là đệ tử của Kim Xà tiền bối, bần đạo đã mừng thầm nghĩ bụng, chỉ cần Kim Xà tiền bối ra tay là mối đại thù của sư phụ có thể trả xong. Ôi! Nào ngờ lão nhân gia đã về đạo sơn, e rằng bọn gian nhân mặc sức hoành hành.”

Tiêu Uyển Nhi thầm nghĩ: “Mình vì trả thù cha mà đến nơi này, nào ngờ ở đây cũng có một mối sư thù.”

Viên Thừa Chí lại nghĩ: “Trình bang chủ từng nói, Hoàng Mộc đạo nhân bị Ngũ Độc Giáo hại chết. Thế thì chúng ta đi chung một thuyền.”

Động Huyền nhỏ giọng kể lại chuyện Kim Long Bang tới trả thù, nhờ đại sư huynh giải thích với Tiêu Uyển Nhi. Thủy Vân đạo nhân vừa nghe vừa hừ hừ, tiếng hừ càng về sau càng tức tối. Đột nhiên ông xoay tay vỗ mạnh vào thành gỗ cái quan tài, rồi lên tiếng: “Tiêu cô nương! Đệ tử phái Tiên Đô chúng ta, mỗi người thành tài xuống núi đều được sư phụ tặng cho một thanh trủy thủ. Bần đạo là chưởng môn bản phái, tuy bản lĩnh kém cỏi nên phải chui vào đây mà dưỡng thương, nhưng chưa đến nỗi vọng ngữ ăn nói bừa bãi. Tiêu cô nương biết thanh trủy thủ đó dùng để làm gì không?”

Tiêu Uyển Nhi giận dữ đáp: “Không biết.”

Thủy Vân đạo nhân ngẩng đầu nhìn trăng, nói tiếp: “Cúc Đàm sư tổ là chưởng môn đời thứ mười bốn của tệ phái, kiếm thuật tinh diệu vô cùng. Tiếc là tính tình sư tổ cương trực ngạo mạn, lại lắm lúc không phân biệt thị phi, giết chết không ít những người vô tội, kết oán rất nhiều. Rốt cuộc, kiếm khách nhiều phái hẹn nhau tại Hằng Sơn, dùng biện pháp xa luân chiến để tỉ đấu với một mình sư tổ. Cúc Đàm đạo trưởng tuy đả thương được mười tám đối thủ, nhưng cuối cùng cũng kiệt sức, bị trọng thương rồi rút trủy thủ ra tự sát. Vụ này khiến cho bản phái thương tổn nguyên khí, lại đắc tội với anh hùng khắp thiên hạ, nên từ đó về sau đã ban hành quy luật. Mỗi đệ tử sau khi học xong võ nghệ đều được ban cho một thanh trủy thủ. Động Huyền sư đệ, ngươi qua kia đi.”

Động Huyền không hiểu ý, nhưng vẫn theo hướng mà sư huynh chỉ, đi về phía tây. Thủy Vân đợi y đi xa hơn trăm bước, mới lớn tiếng gọi: “Được rồi.”

Động Huyền dừng bước, Thủy Vân quay sang khẽ hỏi Mẫn Tử Hoa: “Mẫn sư đệ! Thanh trủy thủ này gọi là gì?”

Mẫn Tử Hoa đáp: “Đây là Giới Sát Đao của phái Tiên Đô.”

Thủy Vân lại hỏi: “Khi sư phụ truyền cho ngươi Giới Sát Đao, đã có bốn câu huấn thị. Ngươi nói nhỏ ta nghe.”

Mẫn Tử Hoa nghiêm trang đọc: “Tỉ võ tranh tài; Nghiêm cấm chém giết; Thua đến nước cùng; Dùng đao tự sát.”

Thủy Vân gật đầu, chỉ sang hướng đông mà bảo: “Ngươi qua đó đi.”

Đợi Mẫn Tử Hoa đi xa, ông mới gọi Động Huyền trở lại, hỏi: “Động Huyền sư đệ! Thanh trủy thủ này gọi là gì?”

Động Huyền đáp: “Đây là Giới Sát Đao của phái Tiên Đô.”

Thủy Vân lại hỏi: “Khi sư phụ cho ngươi thanh đao này, có huấn thị gì không?”

Động Huyền đạo trưởng cũng nghiêm trang đọc: “Tỉ võ tranh tài; Nghiêm cấm chém giết; Thua đến nước cùng; Dùng đao tự sát.”

Bấy giờ Thủy Vân mới gọi Mẫn Tử Hoa về, rồi nói với Viên Thừa Chí và Tiêu Uyển Nhi: “Bây giờ hai vị đã tin chưa? Mặc dù tệ phái đã có lời huấn thị, nhưng chắc cũng có khi đệ tử hạ sát người vô cớ. Tuy nhiên đệ tử tệ phái ngỗ ngược đến thế nào, cũng không đến mức dùng Giới Sát Đao để giết người.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Tại sao thanh trủy thủ này gọi là Giới Sát Đao?”

Thủy Vân đáp: “Tệ phái quyết lấy chuyện Cúc Đàm sư tổ làm gương, nên từ đời sư tổ thứ mười lăm đã có thêm một môn quy, nghiêm cấm sát hại những người vô tội. Bản phái cứ hai năm một lần lại mở đại hội trên núi Tiên Đô. Nếu có người phạm giới, thì phải dùng Giới Sát Đao để tự kết liễu trước mặt sư trưởng cùng sư huynh đệ. Tuy rằng năm xưa Mẫn Tử Diệp sư huynh có hành vi không đoan chính, tội đáng chết, nhưng trước kia Mẫn sư đệ muốn hạ sát Tiêu bang chủ là để trả thù cho anh, vốn không phải là vọng sát. Nhưng sau này đã biết bị kẻ gian ly gián mà còn gia hại, tức là phạm vào môn quy trọng đại này. Ta nghĩ Mẫn sư đệ không dám.”

Ông thở ra một hơi dài rồi nói tiếp: “Giới Sát Đao dùng để tự tử. Nếu đệ tử Tiên Đô Phái võ công không bằng địch thủ, bị đối phương bức hiếp đến hết đường tiến thoái, thì phải dùng thanh trủy thủ này tự sát để khỏi làm tổn hại đến oai danh của phái Tiên Đô. Cứ cho là Mẫn sư đệ phạm vào nghiêm giới của sư môn, nhưng vũ khí trong thiên hạ rất nhiều, đâu cần phải dùng Giới Sát Đao để giết người? Hơn nữa, sau khi hành thích, sao không lấy đao đi?”

Viên Thừa Chí và Tiêu Uyển Nhi nghe vậy, bất giác gật đầu.

Thủy Vân đạo trưởng lại tiếp: “Tiêu cô nương! Để bần đạo cho cô nương xem lá thư này.”

Ông lấy trong góc quan tài ra một bọc vải, mở ra thì bên trong là một đống giấy tờ tạp nhạp. Thủy Vân đạo trưởng nhặt ra một bức thư, đưa cho Tiêu Uyển Nhi. Nàng đưa mắt nhìn Viên Thừa Chí, thấy chàng gật đầu mới đưa tay nhận lấy.

Dưới ánh trăng nhìn rõ trên bì thư có mấy chữ: “Thư khẩn, Thủy Vân đại sư huynh chính tay mở ra. Mẫn.” Thì ra đây là thư của Mẫn Tử Hoa viết cho Thủy Vân đạo trưởng.

Thủy Vân đạo trưởng bảo: “Tiêu cô nương, xem thư đi.”

Tiêu Uyển Nhi gật đầu, rút lá thư ra. Nàng thấy trên đầu tờ giấy viết thư có mấy chữ tiêu đề màu đỏ: “Thông Thương đại khách sạn”.

Chữ viết trong thư nghiêng ngả, câu văn lộn xộn, nhưng xem cũng hiểu: “Kính chào Thủy Vân đại sư huynh. Chuyện Tiêu Công Lễ, tiểu đệ đã biết bị người ta lừa gạt, trả thù là hồ đồ nên không trả thù nữa. Đêm qua, Giới Sát Đao của đệ không hiểu bị bọn cẩu tặc nào lấy cắp, thật sự xấu hổ vô cùng. Nếu không tìm lại được, tiểu đệ không còn mặt mũi nào gặp đại sư huynh nữa. Tiểu đệ Mẫn Tử Hoa bái thượng, ngày mười tám tháng tám”.

Tiêu Uyển Nhi đọc xong thư, thầm nghĩ: “Giữa tháng bảy mình và gia gia tham gia đại hội trên đỉnh Thái Sơn, sau đó đi về phía nam đến Từ Châu. Gia gia bị hại ở Từ Châu ngày hai tháng mười một. Lá thư này viết ngày mười tám tháng tám, vậy là không phải giả rồi.” Nàng lập tức hết hoài nghi, run rẩy khuỵu xuống đất, vừa lạy Mẫn Tử Hoa vừa nói: “Mẫn thúc thúc! Thì ra tiểu điệt trách lầm người tốt, mạo phạm đến thúc thúc.”

Nàng thi lễ xong, lại quay sang tạ tội Động Huyền đạo trưởng. Hai người đều vội vàng trả lễ. Mẫn Tử Hoa nói: “Không biết tên cẩu tặc nào đã ăn cắp con dao này, đi hại chết Tiêu bang chủ. Hắn để lại trủy thủ trên thi hài, chính là muốn cô nương nghi ngờ ta.”

Tiêu Uyển Nhi nói: “Tiểu điệt thật là lỗ mãng, không nghĩ đến chuyện đó. Tiểu điệt lại nghĩ là Mẫn thúc thúc hại chết gia gia rồi để lại thanh trủy thủ này để thị uy, ra vẻ anh hùng hảo hán.”

Mẫn Tử Hoa nói: “Ta bị mất thanh Giới Sát Đao, lập tức bẩm báo lên chưởng môn sư huynh, sau đó cùng Động Huyền sư đệ tìm kiếm khắp nơi, nhưng không có chút manh mối nào. Sau này nhận được thư của đại sư huynh gọi đến kinh sư, rồi suốt dọc đường bị các vị đuổi theo chém giết. Bọn ta không hiểu nổi lý do, nhưng phải đánh trả. May mà Viên tướng công đến kịp, làm rõ được chuyện này.”

Thủy Vân đạo trưởng nói: “Giả tỉ bần đạo may mắn giữ được tính mạng, nhất định sẽ giúp Tiêu cô nương đi tìm kẻ gian tặc trộm đao giết người. Việc này nói gì thì nói, Tiên Đô Phái cũng không sao tránh khỏi liên lụy.”

Tiêu Uyển Nhi lại quỳ xuống bái tạ, rồi trả thanh trủy thủ cho Mẫn Tử Hoa.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Nhất định sư huynh đệ họ còn những chuyện bí mật cần thương lượng, người ngoài không nên can dự.” Chàng bèn chắp tay nói: “Tại hạ xin cáo biệt.”

Hai người cùng Thủy Vân thi lễ xong, đi được vài chục bước, sắp xuống đồi thì Động Huyền đột nhiên la lên: “Xin hai vị dừng bước!”

Viên Thừa Chí và Tiêu Uyển Nhi dừng chân, Động Huyền chạy lẹ tới nói: “Viên tướng công, Tiêu cô nương! Bần đạo có một câu muốn nói, xin hai vị đừng trách.”

Viên Thừa Chí bảo: “Đạo trưởng nói đi, không sao đâu.”

Động Huyền nói: “Những chuyện ở đây, xin hai vị tuyệt đối không tiết lộ. Câu này đáng lẽ bần đạo không nên nói, nhưng liên quan đến tính mạng của tệ sư huynh nên không thể không mạo muội cầu xin.”

Theo quy luật giang hồ, ai lỡ biết những chuyện bí mật của phái khác thì tuyệt đối không được loan truyền hay bàn bạc; không thì tai họa lập tức trút xuống đầu. Chuyện này ai cũng đều biết, nhưng Động Huyền đạo trưởng vẫn không yên tâm nên mạo phạm dặn dò, dĩ nhiên không phải sự việc tầm thường.

Viên Thừa Chí bỗng động tâm. Tuy sự việc không liên quan đến bản thân mình, nhưng chàng nghĩ mọi người đều là nhân vật võ lâm, cần phải tương trợ lẫn nhau, bèn nói: “Không biết lệnh sư huynh gặp phải nguy nan gì? Tại hạ có thể giúp chút sức mọn hay không?”

Động Huyền từng giao đấu với Viên Thừa Chí, biết võ công của chàng cao hơn mình không chỉ mười lần, so với Thủy Vân sư huynh là đệ nhất cao thủ của phái Tiên Đô còn siêu việt hơn nhiều. Nghe Thừa Chí nói vậy, trong lòng y vô cùng mừng rỡ, vội đáp: “Được Viên tướng công trượng nghĩa tương trợ, thật là cầu cũng không được. Để bần đạo bẩm với đại sư huynh.”

Y lập tức chạy về thì thầm bàn bạc với Thủy Vân đạo trưởng và Mẫn Tử Hoa. Ba người thảo luận hồi lâu, hình như khó mà quyết định. Viên Thừa Chí nghĩ: “Họ có điều gì khó xử, không muốn người ngoài nhúng tay vào, thì mình không cần nhiều chuyện làm chi.” Chàng bèn lớn tiếng nói: “Hai vị đạo trưởng, Mẫn huynh! Tại hạ đi trước, hẹn ngày sau gặp lại.”

Chàng chắp tay thi lễ, toan đi xuống đồi. Thủy Vân đạo trưởng vội hô lớn: “Viên tướng công, xin mời qua đây nói vài câu.”

Viên Thừa Chí quay lại bước đến gần. Thủy Vân đạo trưởng nói: “Viên tướng công chịu rút đao tương trợ, sư huynh đệ bần đạo thật cảm kích không hết. Nhưng đây là việc riêng của bản môn, tình thế vô cùng hung hiểm, thật không dám để Viên tướng công vô cớ gặp nguy. Xin Viên tướng công đừng trách bần đạo không biết phân biệt phải trái.”

Nói xong, ông chắp tay thi lễ. Viên Thừa Chí biết ông vì hảo ý mà từ chối, nghĩ người này thật có khí phách anh hùng, bèn nói: “Đạo trưởng khách sáo rồi. Nếu vậy, xin cáo từ. Khi nào đạo trưởng cần trợ giúp, tại hạ nhất định sẽ dốc sức. Chỉ cần đưa một lá thư đến hẻm Chính Điện Tử là được.”

Thủy Vân đạo trưởng cúi đầu không nói gì. Đột nhiên ông thở dài, lên tiếng: “Viên tướng công thật là nghĩa khí. Tuy rằng việc này nói ra thì xấu hổ cho bản môn, nhưng giấu giếm nữa thì không đủ nghĩa khí với bằng hữu. Mời hai vị ngồi. Động Huyền sư đệ, kể với hai vị đi.”

Động Huyền đạo trưởng chờ hai người ngồi đàng hoàng trên tảng đá rồi mới bắt đầu kể: “Ân sư Hoàng Mộc đạo nhân của bần đạo tính tình hiếu động, trước giờ thích đi vân du các nơi. Ngoài hai năm một lần đại hội trên núi Tiên Đô, bình thường ân sư rất ít khi ở trên núi. Trung thu hai năm trước là ngày đại hội, ân sư không về núi chủ trì, cũng không gửi thư về. Đây là việc chưa từng xảy ra, nên bọn đệ tử vừa kinh ngạc vừa lo lắng. Lần này ân sư vân du đến Vân Nam tìm thuốc, nên mọi người chia nhau tìm kiếm ở Vân Nam, Quế Châu, Quảng Châu, Quảng Tây, nhưng không ai được chút tung tích gì. Bần đạo cùng Mẫn sư huynh đang ở khách sạn thì nhận được thư của Truy phong kiếm Vạn Lý Phong phái Điểm Thương, nói rằng có việc gấp cần gặp. Hai người chúng ta liền đến nhà Vạn đại ca ở Đại Lý tỉnh Vân Nam, thấy ông ấy trọng thương nằm trên giường. Hỏi ra, thì biết ông ấy vì ân sư của bần đạo mà bị thương.”

Viên Thừa Chí nhớ lại, Trình Thanh Trúc đã nói Hoàng Mộc đạo nhân chết dưới tay Ngũ Độc Giáo, bèn khẽ gật đầu một cái. Động Huyền đạo trưởng kể tiếp: “Truy phong kiếm Vạn đại ca nói, hôm đó ông ấy đến thành Đại Lý thăm bạn, thấy ân sư của bần đạo đang bị nhiều người bao vây giáp công. Phái Điểm Thương cùng phái Tiên Đô xưa nay có qua lại với nhau, dĩ nhiên ông ấy rút kiếm ra tương trợ. Nào ngờ đối phương toàn là cao thủ, hai người không sao địch nổi. Vạn đại ca trúng độc thủ trước, ngất xỉu lăn ra đất, về sau có người cứu trợ đưa về. Còn ân sư thì sống chết ra sao không rõ. Trên vai và dưới nách Vạn đại ca đều bị cương trảo đả thương, trên trảo có tẩm kịch độc, nhất định là do Ngũ Độc Giáo gây ra. Sau này ông ấy cực khổ tìm được thuốc giải, nên mới thoát chết.”

“Sau đó Tiên Đô Phái bọn bần đạo cả thảy ba mươi hai đệ tử kéo nhau tới Vân Nam, vừa tìm ân sư, vừa tìm Ngũ Độc Giáo để trả thù, nhưng bốn năm nay tuyệt vô âm tín. Ân sư chắc đã dữ nhiều lành ít. Ngũ Độc Giáo thì vô cùng bí ẩn, tìm hết tỉnh Vân Nam vẫn không được chút xíu dây mơ rễ má nào. Mọi người không làm gì được, cuối cùng phải rời khỏi Vân Nam. Không bao lâu phương bắc có tin truyền tới, nói rằng giáo chủ Hà Thiết Thủ của Ngũ Độc Giáo đã đến phủ Thuận Thiên…”

Viên Thừa Chí “à” một tiếng. Động Huyền hỏi: “Viên tướng công biết ả này hay sao?”

Viên Thừa Chí đáp: “Hôm qua mấy bằng hữu của tại hạ vừa trúng độc thủ của cô ấy.”

Động Huyền hỏi: “Bằng hữu của Viên tướng công không sao chứ?”

Viên Thừa Chí đáp: “Trước mắt không có gì nguy hiểm nữa.”

Động Huyền đạo trưởng nói: “Thế là may rồi. Khi đó vừa nhận được tin tức, đại sư huynh gấp rút hạ lệnh triệu tập toàn bộ đệ tử Tiên Đô Phái ở kinh sư. Dọc đường đến kinh sư, hai người bần đạo gặp phải Tiêu cô nương, chuyện này không cần nói nữa. Đại sư huynh đến trước, gặp phải Hà Thiết Thủ, thật là oan gia ngõ hẹp. Con tiện tì đó buông lời trêu chọc, vô lễ đến cùng cực. Đại sư huynh bèn động thủ, nhưng thân thủ ả thật là nhanh nhẹn. Đại sư huynh sơ suất một chút, trên trán bị cái móc sắt bên tay trái của ả đả thương, dưới hạ bàn lại trúng năm mũi ám khí. Tiện tì cho rằng trên thiết câu có kịch độc, đại sư huynh không thể sống được, bèn cười nhạt bỏ đi. May mà nội công của đại sư huynh tinh thâm, lại biết đối thủ chất độc đầy mình, nên trước khi động thủ đã uống sẵn không ít thuốc, lại mang theo không ít linh đơn giải độc, nhờ vậy mà chưa gặp đại nạn.”

Thủy Vân đạo trưởng thở dài rồi nói: “Bần đạo sợ ả biết mình không chết, sẽ tìm đến giết cho tận tuyệt, nên không dám dưỡng thương trong nhà, phải tìm một chỗ kỳ quái thế này để tịnh dưỡng. Ba tháng nữa, độc khí sẽ từ từ trục hết ra khỏi thân thể. Chắc là sư phụ đã bỏ mạng dưới tay con tiện tì đó. Thù này không thể không trả, nhưng đối thủ quá hung ác, độc vật lại quá lợi hại, nên bần đạo không dám liên lụy đến bằng hữu.”

Mẫn Tử Hoa hỏi: “Viên tướng công cũng có xích mích với Ngũ Độc Giáo hay sao?”

Viên Thừa Chí kể lại chuyện mình gặp bọn Ngũ Độc Giáo ở Huệ vương phủ, rồi lại kể việc Trình Thanh Trúc bị mụ ăn mày đả thương.

Thủy Vân đạo trưởng nói: “Viên tướng công không thâm thù gì lắm với họ, thiệt thòi chút ít như vậy thì nên cho qua. Thân thể tướng công quý tựa ngàn vàng, không cần chấp loại người độc như rắn rít đó.”

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Mình mang nặng mối thù giết cha, lại phải hỗ trợ Sấm Vương và nghĩa huynh Lý Nham mưu đồ đại sự. Những thù oán lặt vặt trên chốn giang hồ không nên coi là việc chính, nếu khuấy động lên thì không bao giờ kết liễu được.” Chàng gật đầu nói: “Đạo trưởng chỉ dạy rất đúng. À, tại hạ có một con Chu Tinh Băng Thiềm, có thể hút độc cho đạo trưởng.”

Chàng lập tức dùng con băng thiềm hút một lần độc. Trên đồi này chỉ có đá tảng lổn ngổn, không có rượu để ngâm rút chất độc trong băng thiềm ra, nên chàng cho Động Huyền đạo trưởng mượn con băng thiềm, dạy cách dùng, bảo y hút hết độc khí cho Thủy Vân đạo trưởng rồi hãy gửi trả. Thủy Vân đạo trưởng, Động Huyền đạo trưởng và Mẫn Tử Hoa đa tạ không ngớt miệng.

Viên Thừa Chí và Tiêu Uyển Nhi từ từ xuống đồi. Nửa chừng, đột nhiên Tiêu Uyển Nhi ngồi xuống một tảng đá, thút thít khóc. Viên Thừa Chí nhẹ nhàng vỗ vai nàng, hỏi nhỏ: “Sao thế Tiêu cô nương? Không khỏe ư?”

Tiêu Uyển Nhi lắc đầu, lau khô nước mắt, rồi đứng bật dậy như không có việc gì. Viên Thừa Chí nghĩ: “Phen này Kim Long Bang của nàng đã hòa giải với Tiên Đô Phái thành bằng hữu, nhưng mối thù cha thì không giải quyết được. Chuyện này thật khó mà chịu đựng, không ngờ một cô gái trẻ tuổi mà cứng cỏi được đến như thế.”

*

*   *

Khi hai người trở vào thành thì trời đã mờ sáng. Viên Thừa Chí đưa Tiêu Uyển Nhi về nơi Kim Long Bang đang ở, rồi quay về hẻm Chính Điện Tử. Chàng nhảy lên nóc một dãy nhà dân, thi triển khinh công chỉ chốc lát là qua mấy con đường. Chàng nổi hứng chạy nhanh, bèn sử dụng tuyệt kỹ Thần Hành Bất Biến, thật sự giống như chim yến lượn trên sóng nước, như sao băng xẹt ngang bầu trời, bên tai nghe tiếng gió vù vù, dưới chân tuyệt không phát ra tiếng động.

Đột nhiên chàng nghe thấy tiếng khen: “Hảo công phu!”

Viên Thừa Chí lập tức dừng chân. Bóng trắng thấp thoáng, một người lướt qua bên cạnh chàng, vừa mỉm cười vừa hỏi rất kiêu kỳ: “Có đuổi kịp ta không?”

Âm thanh vừa dứt, người đã xa bảy tám trượng rồi. Viên Thừa Chí thấy người này thân pháp cực nhanh, trong lòng bỗng kinh hãi: “Nữ nhân mà công phu đến thế hay sao?” Dù sao chàng cũng là thiếu niên hiếu thắng, bèn đề khí nhanh chóng đuổi theo. Người kia thủy chung không quay đầu lại, cứ chạy như bay, mỗi lúc một nhanh.

Nội lực cùng khinh công của Viên Thừa Chí vẫn cao hơn một bậc. Chàng gia tăng kình lực dưới chân, chỉ trong chốc lát đã qua mặt người đó, vượt qua mấy trượng rồi mới quay lại nhìn.

Người đó cười khúc khích rồi nói: “Viên tướng công! Hôm nay muội phải phục huynh rồi.” Nàng đưa cánh tay áo dài che miệng, thân hình uyển chuyển như một đóa hoa, chính là giáo chủ Hà Thiết Thủ của Ngũ Độc Giáo.

Toàn thân nàng mặc y phục trắng như tuyết, chân đang đứng trên mái ngói màu đen, màu sắc tương phản nên đen lại càng đen, trắng lại càng trắng. Nhân vật võ lâm khi đi đêm, nếu không mặc đồ đen thì cũng là đồ xám, để khó bị phát giác, mà địch thủ phóng ám khí cũng không thể chính xác được. Cô gái này lại mặc nguyên bộ đồ màu trắng, nếu không ỷ vào võ nghệ cao cường thì nhất định không thể kiêu ngạo như thế.

Viên Thừa Chí chắp tay hỏi: “Hà giáo chủ có gì chỉ giáo?”

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Hôm qua Viên tướng công đến Huệ vương phủ, có nhiều người vướng víu tay chân, ai cũng phân tâm nên khó mà đấu một trận để phân cao thấp. Tiểu muội hôm nay cố ý đến đây để lãnh giáo mấy chiêu. Viên tướng công nửa đêm đưa một vị cô nương xinh đẹp về nhà, phong lưu đa tình thật.” Nàng vừa nói vừa cười, thanh âm nghe rất khêu gợi.

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Ta đưa Tiêu cô nương về nhà, thì ra đã bị cô này phát giác.” Chàng không muốn nhắc tới việc này, bèn nói: “Thân pháp giáo chủ như thế, nam tử hán đại trượng phu cũng khó mà bì được. Tại hạ vô cùng thán phục, không cần phải so tài nữa.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Hôm qua tỉ thí quyền cước, Viên tướng công chưởng phong lợi hại vô cùng, tiểu muội khí lực không đủ nên không dám tiếp chiêu. Hôm nay chúng ta tỉ thí binh khí xem sao.”

Nàng không đợi Viên Thừa Chí trả lời, “vù” một tiếng đã rút nhuyễn tiên trong lưng ra. Trời sáng mờ mờ, đủ thấy trên cây roi này gắn đầy móc ngược rất nhỏ, chỉ cần quét trúng một cái là lôi được một mảnh thịt ra.

Hà Thiết Thủ dịu dàng nói tiếp: “Viên tướng công, cây roi này gọi là Yết Vĩ Tiên. Những cái gai trên đó có độc, tướng công phải chú ý đấy.”

Viên Thừa Chí nghe vậy, bất giác rùng mình. Ngữ khí của nàng dịu dàng ra vẻ quan tâm thân thiết, nhưng hàm ý lại cực kỳ ác độc, hai chuyện này thật là tương phản. Chàng không muốn tỉ thí bừa bãi như thế, bèn chắp tay nói: “Xin cáo biệt!”

Hà Thiết Thủ không để chàng lùi ra, cổ tay đã vẫy ra. Yết Vĩ Tiên bay vèo tới, rít lên quất thẳng vào trước ngực. Thân trên của Viên Thừa Chí ngửa ra sau tránh né, không đợi chiêu thứ hai đánh tới đã chạy ra mấy trượng. Hà Thiết Thủ biết mình không đuổi kịp, bèn dõng dạc hô lớn: “Đệ tử của Kim Xà Lang Quân vô dụng đến thế hay sao? Bại hoại oai danh của sư môn rồi.”

Viên Thừa Chí ngẩn ra dừng bước, thầm nghĩ: “Ta mấy lần nhường nhịn, Ngũ Độc Giáo quen thói làm tới. Cô này tưởng ta sợ thật”. Chàng mới nghĩ một chút, bóng trắng đã nhoáng lên, Yết Vĩ Tiên cuốn tới, mang theo một luồng gió hôi tanh.

Viên Thừa Chí chau mày nghĩ bụng: “Loại binh khí tẩm thuốc độc này dù lợi hại, nhưng chính nhân quân tử quyết không dùng. Cô gái này là nhân vật tà giáo, chẳng trách hành sự không ngay ngắn”. Chàng biết cây Yết Vĩ Tiên đầy gai độc, không thể chạm tay vào được, bèn giấu cả hai tay vào trong áo, thân hình tùy ý mà chuyển động, tránh đông né tây vô cùng thoải mái.

Viên Thừa Chí sử dụng khinh công của Mộc Tang đạo nhân truyền thụ, tiên pháp Hà Thiết Thủ nhanh đến thế nào cũng không sao đụng tới chéo áo của chàng. Viên Thừa Chí bay nhảy như chim, Hà Thiết Thủ nhìn mà say mê điên đảo, không ngờ trên thế gian lại có võ học cao thâm đến thế.

Chốc lát hai bên đã qua lại hai mươi mấy chiêu. Hà Thiết Thủ khẽ quát lên: “Tránh né hoài như vậy, đâu phải là hảo hán?”

Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Cô nương muốn khích ta đoạt lấy cây roi chứ gì? Có gì khó đâu!”

Chàng hơi cúi xuống, hai tay gỡ lấy hai miếng ngói trên mái nhà, nhìn kỹ vào bóng roi mờ mờ, xem rõ ràng rồi hô lớn: “Buông roi!”

Hai miếng ngói một trên một dưới, kẹp Yết Vĩ Tiên vào giữa. Chân chàng phóng ra, chớp nhoáng đã đá ba cước. Hà Thiết Thủ vận kình toan đoạt lại nhuyễn tiên, nhưng bàn chân của đối phương đã sát đến thân mình. Nàng chỉ còn cách buông roi lùi lại, không ngờ chân đạp vào khoảng trống, té nhào xuống mái nhà.

Viên Thừa Chí nắm lấy cán roi, hỏi: “Đệ tử của Kim Xà Lang Quân thế nào?”

Bỗng nghe thanh âm dịu dàng khêu gợi của Hà Thiết Thủ vang lên: “Giỏi lắm.”

Thân pháp của nàng cực nhanh, té vừa chạm đất đã nhảy lên mái nhà lại ngay. Tuy Viên Thừa Chí cũng có khinh công tuyệt đỉnh, nhưng không sao nén nổi thán phục.

Tay phải của Hà Thiết Thủ chống vào hông, thân hình lay động trông rất yểu điệu, như mềm mại ẻo lả quá không đứng vững nổi. Nàng mỉm cười nói: “Muội còn muốn lãnh giáo công phu ám khí của Viên tướng công. Ngũ Tiên Giáo bọn muội có một thứ gọi là Hàm Sa Xạ Ảnh.”

Viên Thừa Chí nghe vậy, chú ý nhìn nhưng không thấy nàng đưa tay lên. Đột nhiên trước mắt chàng có vô số tia sáng nhấp nháy, giật mình biết là hỏng rồi, liền sử ngay chiêu Nhất Phi Xung Thiên nhảy lên cao mấy trượng. Tai chàng nghe thấy những tiếng vun vút rất nhỏ, mấy chục mũi ám khí đã ghim vào mái nhà.

Thì ra ám khí này là vô số những cây kim thép mạ vàng, cơ quan đặt ở trước ngực. Khi phát xạ không cần phải nhắm chính xác, chỉ cần đứng đối diện với địch thủ, ấn nút ở hông là cả một dãy cương châm được lò xo rất mạnh bắn ra ngoài. Đúng là thần không hay quỷ không biết. Cương châm vừa nhỏ vừa nhiều, lại tẩm chất kịch độc.

Bất luận ám khí nào trong võ lâm, dù là cương tiêu, tụ tiễn, thiết liên tử… khi phóng ra cũng phải vung tay, nếu đối phương là cao thủ thì nhìn thấy có thể đón đỡ. Nhưng loại độc châm này phát ra hoàn toàn không có dấu hiệu, người ngoài nhìn không thể biết, đã thấy thì tám chín phần mười không chết cũng bị thương, đã bị thương thì chẳng bao lâu là mất mạng. Ám khí này gọi là Hàm Sa Xạ Ảnh, đáng gọi là độc bộ võ lâm, thiên hạ vô song.

Thân hình Viên Thừa Chí chưa hạ xuống, chàng đã ném ba đồng tiền nhằm vào yếu huyệt đối thủ, giận dữ hét lên: “Không thù không oán, sao cô nương lại hạ độc thủ như thế?”

Hà Thiết Thủ nghiêng người tránh né hai đồng tiền, xoay tay phải chụp lấy đồng thứ ba, ỏn ẻn kêu lên: “Trời ơi, mạnh quá! Đồng tiền này làm đau tay của người ta rồi.”

Nàng nhắm chính xác vị trí Viên Thừa Chí rơi xuống, ném trả đồng tiền đó lại, nghe tiếng cũng biết lực đạo không phải tầm thường. Viên Thừa Chí đưa tay định chụp, bỗng sực nghĩ ra: “Trên tay cô này có độc, ta đừng để bị lừa!”

Chàng bèn vẫy tay áo, hất đồng tiền trở lại. Kình lực yếu hơn ném bằng tay, Hà Thiết Thủ nhẹ nhàng đón lấy, bỏ vào trong bọc, mỉm cười nói: “Đa tạ! Nhưng chỉ cho muội một đồng, có nhỏ mọn lắm không.”

Nàng vung tay, một cơn gió nổi lên. Mười mấy sợi dây không phải bằng vàng cũng không phải bằng tơ, ào tới chụp lên đầu Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí vẫn còn giận nàng phóng độc châm bằng thủ đoạn ác độc vừa rồi, nên không khách sáo gì nữa. Chàng vung cây Yết Vĩ Tiên lên, toan quấn lấy mớ dây mà nàng đánh tới.

Hà Thiết Thủ đột ngột thu hết dây về, cười hỏi: “Yết Vĩ Tiên là của muội. Huynh dùng binh khí của muội, có hổ thẹn không?”

Nàng nói giọng thổ dân Vân Nam, nghe vừa giòn vừa dẻo, đã nhõng nhẽo lại kiêu kỳ, nhưng xuất thủ thì không chậm chút nào.

Viên Thừa Chí quẳng cây Yết Vĩ Tiên rất xa sau lưng, quát lên: “Giả tỉ ta đoạt hết mấy sợi dây của cô, thì từ nay Ngũ Độc Giáo các cô đừng đến quấy rầy ta nữa. Có được hay không?”

Hà Thiết Thủ vẫn cười rất ngọt, đáp: “Đừng gọi Nhuyễn Hồng Châu Sách là mấy sợi dây. Nếu huynh muốn đoạt thì cứ thử.”

Nói xong, nàng vẫy châu sách ngang ra, cuộn vào lưng Viên Thừa Chí. Châu sách vừa mảnh vừa dài, uyển chuyển từ bốn bên tám hướng đồng thời đánh tới. Viên Thừa Chí đảo người né tránh, muốn tìm chỗ sơ suất của đối thủ. Nào ngờ mười mấy sợi châu sách này, sợi thì tấn công, sợi thì phòng thủ. Những sợi tấn công cũng có thể thu về phòng ngự; những sợi đang phòng ngự cũng có thể đột ngột phóng ra công kích. Thật là công thủ liên hoàn, không chút sơ sót.

Giao đấu được mười mấy chiêu, Viên Thừa Chí đã thấy chỗ ảo diệu của món binh khí này, nghĩ bụng: “Công phu châu sách nhất định được biến hóa từ lưới nhện mà ra.” Thừa lúc nàng sử một chiêu sắp xong, những sợi dây tấn công chưa thu hồi lại, những sợi dây phòng thủ cũng chưa kịp phát ra, chàng hơi nghiêng người một chút, luồn ra phía sau lưng, điểm vào dưới nách nàng.

Chiêu này vừa cực nhanh vừa hiểm hóc, Hà Thiết Thủ không sao tránh né được. Nàng bèn xoay người lại. Viên Thừa Chí thấy phen này có thể điểm trúng, nhưng đầu ngón tay mình chắc chắn sẽ đụng vào trước ngực nàng. Mặt chàng tự nhiên đỏ lên, dừng tay không điểm tới, thầm nghĩ: “Chiêu này có vẻ vô lại.”

Hà Thiết Thủ dùng thiết câu bên tay trái vạch chéo sang phải. Viên Thừa Chí vội vàng co tay lại, nhưng đã nghe soạt một tiếng, tay áo bị thiết câu quẹt rách một đường.

Hà Thiết Thủ la lên: “Úi chà! Muội lỡ làm rách tay áo Viên tướng công rồi. Huynh cởi áo ra đi, để muội vá lại cho.”

Viên Thừa Chí thấy cô ả xảo trá lại càng giận dữ, bèn giật rách hẳn cánh tay áo bên phải ra, tiện thể sử dụng làm vũ khí, vung lên phát ra tiếng gió vù vù. Chỉ mấy chiêu, cánh tay áo đã quấn hết những sợi châu sách lại. Chàng dùng sức vẫy mạnh, cả tay áo cùng châu sách cùng lúc rơi xuống đất.

Viên Thừa Chí hỏi: “Sao?”

Hà Thiết Thủ vẫn cười khanh khách, nói: “Sao trên trời! Chẳng phải binh khí của huynh cũng tuột khỏi tay rồi sao? Chúng ta chưa phân cao thấp.”

Nàng quờ tay phải ra sau lưng, lại rút ra một cái móc lấp lánh ánh vàng.

Viên Thừa Chí thấy cô gái này pháp bảo đầy mình, hết món này lại có món khác, không khỏi hoa mắt. Chàng nói: “Ta đã nói rồi, đoạt lấy châu sách của cô thì cô không được quấy rầy ta nữa.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười, cãi lại: “Đó là Viên tướng công nói, còn muội đã đồng ý đâu?”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Không sai, ả thật sự chưa đồng ý. Nhưng nếu từng món mà tỉ thí thế này, biết đến khi nào mới dứt?” Chàng “hừ” một tiếng rồi nói: “Để xem thử cô còn bao nhiêu binh khí.”

Chàng nghĩ bụng: “Ló ra món binh khí nào, mình đoạt món ấy. Dĩ nhiên cô ả phải biết khó mà lùi.”

Hà Thiết Thủ lên tiếng: “Cái này gọi là Kim Ngô Câu.” Nàng giơ tay trái lên, để lộ cái thiết câu, lại nói: “Còn đây là Thiết Ngô Câu. Vì luyện cái thứ này mà gia gia đã cắt mất một bàn tay của muội. Gia gia nói: Binh khí cầm trên tay, không thể linh hoạt bằng ráp vào tay. Muội chỉ mới luyện mười tám năm, chưa tinh thông lắm. Viên tướng công! Trên cái câu này cũng có chất độc, tướng công đừng dùng tay để đoạt lấy.”

Nàng vừa cười vừa nói, từ từ tiến đến gần. Viên Thừa Chí bề ngoài thì tỏ ra bình tĩnh tự nhiên, nhưng trong lòng cực kỳ cảnh giác, sợ cô ả lại có gian mưu gì khác. Đang đề phòng nghiêm ngặt, đột nhiên nghe xa xa có tiếng huýt sáo, chàng bỗng nghĩ ra một chuyện, la thầm: “Hỏng bét! Chẳng lẽ cô này ở đây quấy rầy ta, để đồng bọn rảnh tay đi hại Thanh Thanh hay sao?”

Không để đối phương nói gì nữa, chàng quay lưng bỏ đi ngay. Hà Thiết Thủ cười ha hả, la lên: “Bây giờ đi thì muộn rồi.”

Kim câu xuất ra một hư chiêu, còn thiết câu đưa vèo tới, đánh vào dưới lưng Viên Thừa Chí. Chàng đảo người né tránh, chân trái đá quét ngang qua. Hà Thiết Thủ nhảy lên tránh né, dùng cả song câu phản kích. Lúc này trời đã sáng hẳn, nhìn rõ một luồng hắc khí, một vầng kim quang vây kín người chàng, tung hoành ngang dọc. Công phu binh khí của nàng khá lợi hại, chỉ hơi kém Ngọc Chân Tử chàng đã gặp trong kinh thành chút xíu.

Viên Thừa Chí lo lắng cho mọi người và Thanh Thanh, không dám ham chiến. Chàng mấy lần ép vào gần để đoạt lấy kim câu, nhưng đều bị nàng xoay tay phản kích, hoặc dùng thiết câu để bảo vệ. Thiết câu được ráp vào cổ tay, vận dụng quả nhiên linh hoạt như một bàn tay sống.

Đánh hơn ba mươi chiêu, Viên Thừa Chí vẫn không sao đẩy lùi đối thủ được. Chàng bèn đưa tay ra sau lưng, rút Kim Xà Kiếm ra. Kiếm quang vừa lóe lên, nụ cười trên miệng Hà Thiết Thủ lập tức biến mất. Nàng hét lên: “Kim Xà Kiếm là của Ngũ Tiên Giáo chúng ta, sao huynh lấy cắp?”

Viên Thừa Chí múa kiếm veo véo mấy chiêu, võ công Hà Thiết Thủ dù cao hơn cũng không cản nổi. “Keng” một tiếng, kim câu đã bị Kim Xà Kiếm tiện đứt một nửa. Viên Thừa Chí quát lên: “Nếu cô tiếp tục quấy rầy, ta phải chặt đứt nốt thiết câu.”

Sắc mặt Hà Thiết Thủ có phần sợ hãi, quả nhiên không dám tới gần nữa. Nhưng nàng lập tức mỉm cười, khom người thi lễ rồi nói rất nghiêm chỉnh: “Viên tướng công! Hôm qua gặp tướng công, suốt đêm muội không ngủ được, đêm nay lại càng khó ngủ. Muội… muội… rất muốn gọi tướng công… là… sư phụ.”

Viên Thừa Chí đáp: “Không dám!”

Chàng cất kiếm, rảo bước chạy lẹ về. Vừa đến đầu hẻm đã thấy Hồng Thắng Hải nằm dưới đất, gần cổ có một vũng máu. Chàng nhảy xổ đến đỡ dậy, rất may là còn hơi thở. Hồng Thắng Hải bị thương ở yết hầu, không nói được, đưa tay chỉ vào trong nhà. Viên Thừa Chí ôm y vào trong, thấy bàn ghế trong nhà không gãy cũng đổ nhào, cửa sổ bị phá vỡ, hiển nhiên vừa có một trận ác chiến.

Viên Thừa Chí càng nhìn càng kinh tâm động phách, xé một cánh tay áo bó lại vết thương trên yết hầu Hồng Thắng Hải, rồi chạy vào nội đường. Bên trong cũng bị phá hoại tan tành, Hồ Quế Nam và Trình Thanh Trúc nằm rên rỉ dưới đất, Viên Thừa Chí vội hỏi: “Sao rồi?”

Hồ Quế Nam đáp: “Thanh cô nương… bị… bị Ngũ Độc Giáo bắt đi rồi.”

Viên Thừa Chí kinh hãi hỏi: “Còn Sa Thiên Quảng đâu?”

Hồ Quế Nam đưa tay chỉ lên mái nhà. Viên Thừa Chí không kịp hỏi nhiều, gấp rút nhảy lên, quả nhiên thấy ông câm và Sa Thiên Quảng nằm trên mái ngói, cả hai đều trúng độc.

Phen này rất may là không ai mất mạng, nhưng trong nhà người nào cũng bị trọng thương, thật là thua tàn thua mạt. Thanh Thanh thì không biết bị bắt đi đâu. Viên Thừa Chí giận dữ, tự trách mình: “Ta hồ đồ quá, bị cô ả kia quấy rối mà không biết đường cảnh giác.”

Trong lúc ác đấu, đám nô bộc trong nhà chạy tán loạn hết; bây giờ kẻ địch rút đi chúng mới từ từ trở về. Viên Thừa Chí ẵm ông câm và Sa Thiên Quảng vào trong nhà, viết một bức thư, sai một tên nô bộc đưa ngay đến chỗ Kim Long Bang, nhờ Tiêu Uyển Nhi đi lấy Chu Tinh Băng Thiềm về để cứu người. Chàng băng bó vết thương cho Sa Thiên Quảng, Hồ Quế Nam và mọi người rồi mới hỏi tình hình địch đến đánh lén thế nào.

Thiết La Hán lần trước bị thương còn nằm trên giường chưa dậy được, may mà không bị hạ độc thủ. Y kể: “Lúc canh ba, Hồ Quế Nam là người đầu tiên phát hiện có địch, cùng ông câm lên xem xét. Hai người vừa lên tới mái nhà, lập tức có mười mấy địch thủ bao vây. Tại hạ nhìn qua cửa sổ thấy rất rõ ràng, nhưng toàn thân không có chút sức, chỉ biết nằm mà lo lắng. Ông câm lão huynh, Sa lão huynh và Trình lão gia đả thương được mấy tên, nhưng đối phương quá đông nên quân ta vừa đánh vừa lùi, cứ mỗi phòng lại cầm cự một hồi. Cuối cùng người nào cũng bị thương, Thanh Thanh bị bắt đi. Viên tướng công! Bọn tại hạ thật sự có lỗi với tướng công.”

Viên Thừa Chí nói: “Địch thủ ác độc, ta lại hồ đồ, không thể trách các vị. Trước mắt cứu người là quan trọng.”

Chàng xuống chuồng ngựa chọn một con, phi ra ngoại thành. Gần đến Huệ vương phủ, chàng xuống ngựa, buộc ngựa ở gốc cây, tới cổng phủ lớn tiếng kêu gọi: “Hà giáo chủ! Xin mời ra đây, ta có mấy câu muốn nói.”

Cửa vừa mở là nghe chó sủa vang, mười mấy con chó vừa to vừa dữ phóng ra, phía sau còn có mấy chục người. Chàng nghĩ: “Lần này không thể khách sáo nữa”. Tay trái chàng vẫy lia lịa, bắn lẹ ra mười mấy mũi Kim Xà Truy. Hào quang nhấp nháy, mỗi con chó đều trúng một mũi truy vào gáy, lăn ra chết sạch dưới đất. Chàng chạy quanh lũ chó một vòng, hai tay nhổ hết Kim Xà Truy cất lại vào trong bọc.

Giáo chúng Ngũ Độc Giáo định thừa lúc chàng đối phó với lũ chó săn mà phun chất độc ra, nào ngờ Viên Thừa Chí giết hết bầy chó thần tốc như vậy. Chúng bất giác đứng ngẩn ra đó, tên nào cũng ngơ ngác. Đợi chàng thu hồi hết ám khí, một tên mới la lên, quay lưng bỏ chạy. Bọn còn lại cũng ùa vào trong phủ, muốn đóng cửa thì không kịp nữa. Viên Thừa Chí đã nhảy qua đầu cả đám, chạy lẹ vào trong.

Vào tới bên trong, thần khí Viên Thừa Chí lại tỏ ra rất ung dung. Chàng hô lớn: “Hà giáo chủ! Nếu không ra đây, đừng trách ta vô lễ.”

Nghe tiếng huýt sáo, mười mấy nhân vật Ngũ Độc Giáo xếp thành hai hàng từ giữa nhà bước ra. Đi đầu là Hà Hồng Dược, sau đó là tả hữu hộ pháp Phan Tú Đạt, Trầm Kỳ Tư, cùng Cẩm y đồng cái Tề Vân Ngạo và một số cao thủ khác.

Viên Thừa Chí nói: “Tại hạ trước nay chưa hề quen biết với quý vị, oán cũ không có, thù mới càng không. Thế mà các vị đến nhà tại hạ, đả thương rất nhiều bằng hữu, bắt cóc huynh đệ của tại hạ. Lý do thế nào, tại hạ phải thỉnh giáo Hà giáo chủ.”

Hà Hồng Dược nói: “Trong nhà ngươi thì những người khác không có thù oán gì với chúng ta cả. Điều đó không sai, nên chúng ta mới hạ thủ lưu tình, không lấy mạng họ ngay lúc đó. Còn thằng lỏi họ Hạ, hừ, chúng ta sẽ từ từ hành hạ cho nó biết mùi đau đớn.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Tuổi y còn trẻ như vậy, đã có lỗi gì với các vị?”

Hà Hồng Dược cười nhạt, nói: “Ai bảo hắn là con của Kim Xà Lang Quân? Thế thì cũng thôi, nhưng ai bảo hắn chui từ trong bụng con tiện tì kia ra?”

Viên Thừa Chí ngẩn ra nghĩ bụng: “Thì ra mụ này có hiềm khích, thù hằn gì với mẹ của Thanh Thanh.”

Hà Hồng Dược thấy Viên Thừa Chí im lặng, bèn trầm giọng hỏi tiếp: “Ngươi xông bừa vào đây để làm gì?”

Viên Thừa Chí hỏi lại: “Nếu các vị có xích mích với Kim Xà Lang Quân, sao không tìm chính ông ấy mà trả thù?”

Hà Hồng Dược nói: “Cha cũng phải giết, con cũng phải giết. Ngươi là đệ tử của hắn, phải giết cả ngươi.”

Viên Thừa Chí không muốn tranh luận vô bổ nữa, bèn hô lớn: “Hà giáo chủ! Giáo chủ có chịu ra mặt không? Có chịu thả người không?”

Trong nhà không ai đáp lại. Viên Thừa Chí lo lắng cho Thanh Thanh, bèn lạng người qua kế bên Hà Hồng Dược, chạy tới cửa sảnh. Hai tên giáo chúng đứng đó bị song chưởng của chàng hất văng đi.

Viên Thừa Chí chạy vào trong sảnh, thấy bên trong vắng tanh, không một bóng người. Chàng quay lại, chạy tới dãy phòng ở hướng đông, đá bật cửa ra. Có hai tên giáo chúng đang nằm trên giường, đã bị chàng bẻ trật khớp xương hôm trước. Thấy Viên Thừa Chí xông vào, chúng hoảng sợ đến nỗi quên cả đau đớn, nhảy bật lên.

Viên Thừa Chí chạy lung tung trong nhà, tìm kiếm khắp nơi. Giáo chúng Ngũ Độc Giáo đang ở nhà khách của Chiêu Hiền Quán, giữa căn nhà này với Huệ vương phủ có một bức tường dày ngăn cách. Chẳng bao lâu Viên Thừa Chí đã lục lọi khắp các xó xỉnh trong nhà, chẳng những không gặp Thanh Thanh mà cả Hà Thiết Thủ cũng không thấy đâu. Chàng lo lắng vô cùng, đá ngã hết những chiếc lu và rương, chuồng nhốt trùng độc. Bọn rắn rít cùng độc vật chạy lung tung ra ngoài, giáo đồ Ngũ Độc Giáo kinh hãi vội chia nhau bắt lại. Trong nhà khách này còn những nhân vật giang hồ khác nữa, nhưng họ thấy tình hình nguy hiểm đều chạy trốn, bỏ lại khu nhà trống rỗng.

Phan Tú Đạt la lên: “Nếu là hảo hán thì ra đây, quyết một phen thắng bại.”

Viên Thừa Chí biết tên này rất có địa vị trong Ngũ Độc Giáo, bèn quyết ý bắt hắn để buộc phải nói ra tung tích của Thanh Thanh. Chàng bèn hô lớn: “Được! Để ta lãnh giáo công phu của các hạ.”

Chàng lập tức thi triển khinh công Thần Hành Bách Biến, vừa nhún chân một cái đã nhảy đến trước mặt hắn. Phan Tú Đạt thấy Viên Thừa Chí nói đến là đến ngay, kinh hãi đánh liền hai chưởng.

Viên Thừa Chí nói: “Người khác sợ độc chưởng của ngươi, nhưng ta không sợ.”

Phan Tú Đạt la lên: “Được! Ngươi thử xem”

Viên Thừa Chí đưa tay phải lên, ra vẻ đối chưởng với hắn.

Phan Tú Đạt cả mừng nghĩ bụng: “Ngươi cả gan đụng vào độc chưởng của ta là tự tìm con đường chết, đừng oán trách nhé.” Hắn vận hết kình lực vào song chưởng, đẩy về phía trước, nhằm thẳng bàn tay địch thủ. Khoảng cách còn chưa đến một tấc, đột nhiên hắn thấy đối phương gấp rút rụt tay về, rồi sau gáy nghe tiếng gió nhẹ nhàng. Lúc này kình lực toàn thân hắn đang dồn ra trước, chưa kịp thu về phòng thủ thì cổ đã bị nắm chặt, thân hình đã bị xách bổng lên.

Giáo chúng Ngũ Độc Giáo la hét om sòm, toan chạy đến cứu. Viên Thừa Chí nắm Phan Tú Đạt quay thành một vòng tròn, chúng sợ làm tổn thương hộ pháp nên không dám ép tới gần.

Viên Thừa Chí quát hỏi: “Người mà các ngươi bắt về đang ở đâu? Nói nhanh lên!”

Phan Tú Đạt nhắm mắt không nói gì. Viên Thừa Chí vận Hỗn Nguyên Công, đưa ngón tay điểm vào huyệt đạo ở bên xương sườn hắn. Phan Tú Đạt lập tức thấy xương sống đau nhói, như có một thanh thép chọc từ trên xuống dưới rồi vặn qua vặn lại. Viên Thừa Chí buông lỏng tay, hất hắn nhào xuống đất. Phan Tú Đạt đau đến nỗi chết đi sống lại, lăn lộn dưới đất, nếu muốn nói chắc cũng không nói được.

Viên Thừa Chí quát: “Được, ngươi không nói! Còn người khác thì sao?” Chàng bỗng nghĩ: “Phương pháp điểm huyệt của ta, ngoài Hỗn Nguyên Công thì trong thiên hạ không ai cứu được. Ta điểm hết bọn chúng, nhất định Hà Thiết Thủ không dám hại Thanh đệ nữa.” Chàng lập tức thi triển thân pháp, chạy xuyên qua xuyên lại giữa đám đông. Những tên giáo chúng võ công cao cường còn có thể chống đỡ được ba chiêu hai thức, còn đa số thì chưa thấy địch đâu đã bị điểm trúng huyệt đạo.

Chỉ trong chốc lát, trong sân đã có hai mươi ba người nằm la liệt. Thông thường, nếu bị bế huyệt đạo, dù thủ pháp điểm huyệt tuyệt diệu đến mức người khác khó giải được, chỉ mấy giờ là huyết khí có thể lưu chuyển để tự giải khai. Nhưng phen này Viên Thừa Chí đã sử Hỗn Nguyên Công, đưa chân lực đánh thấu vào kinh mạch, huyệt đạo không chỉ mấy ngày mà giải được. Sau khi giải được cũng đau đớn khó chịu mười ngày nửa tháng, thậm chí suốt đời phải chịu tổn thương. Ở Tịnh Nham Cù Châu ngày trước, Viên Thừa Chí điểm huyệt bốn lão họ Ôn chính là thủ pháp này.

Hà Hồng Dược thấy tình hình có vẻ không êm, la lớn một tiếng rồi phóng tới cửa chạy ra ngoài. Bang chúng cũng ùa theo chạy trốn, chỉ trong chốc lát là gian nhà lớn đã trống rỗng, chỉ còn mấy chục người nằm yên dưới đất. Người thì nằm thõng thượt mà rên khe khẽ. Cũng có người không rên được, chỉ giương mắt lên giận dữ mà nhìn.

Viên Thừa Chí lớn tiếng hô hoán: “Thanh đệ! Thanh đệ ở đâu?” Nhưng chỉ nghe tiếng mình vọng lại, hoàn toàn không có tiếng trả lời. Chàng không chịu thôi, lại tìm khắp các phòng của gian nhà sát vách Huệ vương phủ này lần nữa, nhưng rốt cuộc cũng vô ích. Chàng xách mấy tên giáo chúng lên tra hỏi, nhưng chẳng tên nào biết đường trả lời.

Viên Thừa Chí vô kế khả thi, đành quay về hẻm Chính Điện Tử. Về tới, thì ra Uyển Nhi đã lấy được băng thiềm, dẫn thêm mấy đệ tử Kim Long Bang đến tương trợ, hút hết độc khí và băng bó xong vết thương cho bọn Sa Thiên Quảng. Tính mạng mọi người không nguy hiểm nữa, nhưng Thanh Thanh đã rơi vào tay địch, Viên Thừa Chí không khỏi rầu rĩ, lo lắng muôn phần. Uyển Nhi dịu dàng an ủi, sai phái bang chúng Kim Long Bang đi thám thính khắp nơi.

Khoảng nửa giờ sau, đột nhiên nghe “bình” một tiếng, một cái bao lớn từ trên mái nhà rớt xuống. Mọi người đều giật mình. Viên Thừa Chí càng lo lắng khác thường, vội vã xé bao, giật đứt dây cột. Chưa mở xong đã ngửi thấy mùi máu tanh, trái tim chàng nhảy lên thình thịch, hai tay ướt đẫm mồ hôi. Mở bao ra, rõ ràng là một thi thể đã bị chặt thành tám miếng. Da mặt của thủ cấp đã đen sì, nhưng tóc râu vẫn trắng phau. Nhìn kỹ, đây chính là Độc nhãn thần long Đơn Thiết Sinh.

Viên Thừa Chí nhảy lên mái nhà nhìn quanh bốn phía, thấy phía tây nam có một bóng đen đang nhanh chân chạy trốn. Chàng đoán đây là kẻ đưa thi hài tới, lập tức đề khí rượt theo. Được mấy dặm, người đó chạy vào một khu rừng.

Viên Thừa Chí theo vào, đến giữa rừng thì thấy mấy chục giáo chúng Ngũ Độc Giáo đang ngồi vây quanh đống lửa, nói chuyện ồn ào. Một tên tình cờ quay đầu lại, thấy Viên Thừa Chí đến bèn kinh hãi la lên: “Hung thần đến rồi!”

Cả đám bỏ chạy tứ tán. Viên Thừa Chí cứ nhắm người chạy xa nhất mà đuổi, vung tay phóng chân điểm huyệt những ai cản trở mình. Gần thì chàng dùng tay điểm huyệt hoặc dùng khuỷu tay mà đánh, xa thì dùng đồng tiền phóng tới. Khắp chỗ trong rừng vang lên tiếng chân chạy, tiếng la ó kinh hãi, tiếng quát mắng. Sau thời gian uống xong chung trà, mọi âm thanh đột nhiên tắt hẳn. Viên Thừa Chí xoa tay đi ra, vỗ vỗ phủi bụi bám trên người.

Phen này chàng điểm ngã được hết cao thủ Ngũ Độc Giáo như Trầm Kỳ Tư, Tề Vân Ngạo… Chỉ sót Hà Thiết Thủ và Hà Hồng Dược không ở đó. Viên Thừa Chí tương đối yên lòng, thầm nghĩ: “Chỉ cần Thanh đệ lúc này chưa bị hạ độc thủ. Dù chúng oán hận thấu trời cũng không dám ra tay giết hại.”

*

*   *

Viên Thừa Chí quay về nhà, lo lắng chờ đợi. Đến xế chiều thì những người thám thính đã trở về hết, không ai tìm được manh mối. Khoảng canh hai, chàng bảo Ngô Bình và La Lập Như đem thi hài Đơn Thiết Sinh đến nha môn Thuận Thiên Phủ. Quan phủ thấy tình trạng xác chết như thế, dĩ nhiên sẽ biết hung thủ là bọn Ngũ Độc Giáo.

Tiêu Uyển Nhi cùng mấy người trong bang ở lại nhà Viên Thừa Chí, chăm sóc những người bị thương và canh gác đề phòng kẻ địch.

Viên Thừa Chí lo lắng trong lòng không sao ngủ được, xếp bằng ngồi trên giường, suy nghĩ làm sao ngày mai tìm được Thanh Thanh. Ngồi khoảng một canh, bốn bề không có âm thanh gì cả, chỉ nghe xa xa vọng đến tiếng chó sủa và tiếng mõ cầm canh, từ xa đến gần rồi lại từ gần đến xa. Viên Thừa Chí ân hận mãi, phen này trúng kế địch nhân, lần đầu thảm bại từ khi xuống núi.

Trong vắng lặng, đột nhiên chàng nghe thấy trên đầu tường có tiếng động rất khẽ. Nếu Ngô Bình và La Lập Như trở về thì khinh công không cao đến thế, chắc chắn là kẻ địch. Chàng im lặng ngồi trên giường chờ biến cố. Phía ngoài cửa sổ có tiếng động như một mảnh lá rơi xuống đất, rồi có tiếng cười khanh khách.

Tiếng cười hấp dẫn, giọng nói dịu dàng: “Viên tướng công! Có khách đây.”

Viên Thừa Chí lên tiếng: “Làm phiền đại giá giáo chủ, mời vào!” Rồi chàng lấy mồi lửa ra thắp sáng đèn nến, mở cửa đón khách.

Hà Thiết Thủ tự nhiên đi vào. Thấy trong phòng Viên Thừa Chí trần thiết đơn giản, ngoài giường và một cái bàn ra không còn gì nữa, nàng mỉm cười nói: “Viên tướng công thật là bậc danh sĩ thanh cao.”

Viên Thừa Chí hừ một tiếng.

Hà Thiết Thủ lại nói: “Ý của tiểu muội đến đây, chắc Viên tướng công đã biết rồi.”

Viên Thừa Chí nói: “Xin Hà giáo chủ cho biết.”

Hà Thiết Thủ nói: “Tướng công có việc cần tiểu muội, tiểu muội cũng có việc cần tướng công. Đến lúc này hai chúng ta vẫn chưa phân thắng bại.”

Viên Thừa Chí đáp: “Không cần phải so tài nữa. Hà giáo chủ có trí có dũng, tại hạ vô cùng thán phục.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Đây mới là hiệp đầu. Trừ khi tướng công trong chốc lát mà diệt sạch Ngũ Tiên Giáo bọn muội, không thì còn lắm chuyện để tướng công phải đau đầu.”

Viên Thừa Chí rùng mình nghĩ bụng: “Nếu họ quấy rầy không chịu dứt, thật sự không dễ đối phó.” Chàng bèn nói: “Hà giáo chủ đã có oán thù với phụ thân của huynh đệ tại hạ, tốt nhất là tìm chính ông ấy, hà tất làm khó kẻ hậu sinh. Người xưa thường nói, oan gia nên giải chứ không nên kết…”

Chàng chưa dứt lời, Hà Thiết Thủ đã mỉm cười ngắt lời: “Nếu người đó thật sự là huynh đệ của tướng công thì còn dễ. Nhưng một đại cô nương nhan sắc như thế, ngay cả tiểu muội nhìn thấy cũng phải động lòng, nhất định Viên tướng công không muốn để cô ấy rơi vào tay một nhóm người gian ác. Mà khách đến nhà, tướng công không mời được ly rượu hay sao?”

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Cô ả này thật là cổ quái!” Chàng hạ lệnh cho người hầu dọn rượu thịt. Uyển Nhi không yên tâm, bèn thay đổi sắc phục như một thư đồng, đích thân bưng rượu thịt vào trong phòng.

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Thật là dưới tay tướng mạnh không có quân hèn. Thư đồng của Viên tướng công tuấn tú khác thường.”

Viên Thừa Chí rót hai ly rượu, Hà Thiết Thủ nâng ly uống cạn ngay. Nàng uống thêm hai ly mới mỉm cười nói: “Viên tướng công không nể mặt mà uống rượu của bọn muội, thế là tiểu muội gan dạ hơn nhiều.”

Uyển Nhi nói: “Rượu của chúng ta nhất định không có thuốc độc.”

Hà Thiết Thủ cười nói: “Hay quá, hay quá! Thật là một quản gia miệng lưỡi lanh lợi. Cạn ly!”

Viên Thừa Chí cùng nàng lại cạn một ly. Dưới ánh nến, dung mạo cô gái này đẹp đẽ, hai má ửng hồng, khóe miệng lúc nào cũng có nụ cười, thần sắc vừa yểu điệu vừa khêu gợi. Chàng thầm nghĩ: “Trong những cô gái mà mình quen biết, nói về mặt mày xinh đẹp, cử chỉ dễ thương, đương nhiên A Cửu đứng đầu, không ai sánh kịp. Tiểu Huệ thì thành khẩn chân thật, Uyển Nhi lại hào phóng dễ gần. Còn Thanh đệ tuy hơi nhỏ mọn, nhưng đối với mình toàn tâm toàn ý, trọn mối chân tình, khiến người ta phải cảm động. Bây giờ lại có một cô xinh đẹp như hoa mà ác độc như rắn rết. Thiên hạ thật là rộng lớn, không gì kỳ lạ mà không có.”

Hà Thiết Thủ thấy chàng ngơ ngẩn không nói gì, cứ ngồi yên mỉm cười. Hồi lâu, nàng mới khẽ lên tiếng: “Võ công của Viên tướng công, tiểu muội cực kỳ bái phục. Hình như tiên sư Kim Xà Lang Quân cũng không biết thủ pháp điểm huyệt đó. Công phu này, nhất định Viên tướng công học ở nơi khác phải không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Không sai. Ta là đệ tử phái Hoa Sơn.”

Hà Thiết Thủ nói: “Võ công của Viên tướng công gom hết sở trường nhiều phái, chẳng trách thần kỳ tinh xảo. Tiểu muội đêm nay đến đây là để bái sư.”

Viên Thừa Chí ngạc nhiên nói: “Ta không hiểu.”

Hà Thiết Thủ nói: “Nếu Viên tướng công không hiềm tiểu muội tư chất ngu muội, xin hãy thu làm đồ đệ.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Hà giáo chủ đứng đầu một phái, võ công xuất thần nhập hóa, lại đi đùa giỡn như thế hay sao?”

Hà Thiết Thủ nói: “Nếu tướng công không chịu dạy phương pháp giải huyệt, chẳng lẽ muội phải giương mắt lên nhìn mấy chục người trong giáo phái từ từ mất mạng?”

Viên Thừa Chí nói: “Chỉ cần cô nương đưa bằng hữu của ta về đây, rồi hứa từ nay về sau vĩnh viễn không đến quấy rầy, dĩ nhiên ta sẽ giải cứu cho họ.”

Hà Thiết Thủ nói: “Vậy là Viên tướng công không chịu nhận đứa đệ tử này rồi.”

Viên Thừa Chí nói: “Ta học võ chưa tới đâu, tìm thầy còn chưa kịp, sao dám dạy cho người khác? Vậy là chúng ta thỏa thuận xong, những chuyện đã qua không truy cứu nữa. Cô nương thấy thế nào?”

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Tướng công chữa trị cho thuộc hạ của muội xong, thế thì hai phái chúng ta hòa hảo, biến thù thành bạn. Hạ cô nương là do cô cô của muội mời đi, hoàn toàn không liên can gì đến muội cả. Nhưng muội muốn nước đục thả câu, có dụng ý khác, thừa cơ uy hiếp. Tướng công phải nhận muội làm đồ đệ, muội mới chịu thả người. Minh sư như tướng công thì ngàn năm khó gặp, tiểu muội phải làm âm hồn bất tán, không bái sư được quyết chẳng chịu thôi. Sư phụ, sư phụ! Đồng ý nhận muội làm đồ đệ đi.”

Đến câu cuối cùng, giọng nói Hà Thiết Thủ vô cùng uyển chuyển, dịu dàng nhõng nhẽo, có thể thu hết hồn vía người ta, đúng là mỹ nhân kế. Uyển Nhi nghe đến đây, bỏ ra khỏi phòng.

Viên Thừa Chí thấy nàng dùng thủ đoạn, không dám coi thường. Chàng ngồi nhăn mặt, im lặng không lên tiếng. Hà Thiết Thủ từ từ đứng dậy, mỉm cười nói: “Ái chà, Viên đại minh chủ nổi giận rồi đây.”

Nàng nhún chân chào theo kiểu vạn phước, lại nói: “Được rồi, được rồi! Tiểu muội xin lỗi tướng công là được rồi chứ gì?”

Viên Thừa Chí cũng chắp tay thi lễ. Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Hạ cô nương ở chỗ bọn muội, muội đảm bảo không ai vô lễ chút nào. Bản thân tiểu muội sẽ cung kính xem cô ấy như sư nương của mình, quyết làm cho tướng công cảm động mà nhận lời làm sư phụ. Khi đó dĩ nhiên đồ nhi sẽ đưa sư nương về cho sư phụ một cách đàng hoàng, từ nay không dám quấy nhiễu bằng hữu của sư phụ nữa. Ngày mai, mời Viên tướng công đại giá quang lâm chữa trị cho bằng hữu của tiểu muội.”

Viên Thừa Chí nói: “Chuyện cứu thuộc hạ của cô thì ta đã hứa rồi, còn những chuyện khác xin đừng nhắc đến.”

Hà Thiết Thủ hơi khom lưng, quay người ra ngoài. Nàng không nhảy lên mái nhà mà đi thẳng ra cổng. Viên Thừa Chí chỉ còn cách đi theo tiễn chân, bọn nô bộc trong nhà thắp đèn ra mở cửa.

Tiêu Uyển Nhi theo sau Viên Thừa Chí, thầm nghĩ: “Hành động của cô gái này rất xảo trá, không chừng trước cổng có sẵn bang đồ mai phục, dụ Viên tướng công ra ngoài đánh lén. Mình ra ngoài xem trước thì hơn.” Nàng bèn đi chậm lại sau, sờ lại cây Nga Mi Thích giấu trong người, vượt tường nhảy ra.

Tiêu Uyển Nhi nấp ở một góc tường nhìn ra ngoài, thấy trước cửa có một chiếc kiệu, bốn tên kiệu phu đứng gần đó, ngoài ra không có ai khác. Uyển Nhi khom người lẻn ra phía sau kiệu, hai tay khẽ giở chiếc kiệu lên. Biết trong kiệu không có ai, nàng mới yên tâm. Đang định quay về thì cánh cổng đã mở, nô bộc cầm lồng đèn đi trước, Viên Thừa Chí tiễn Hà Thiết Thủ ra ngoài.

Uyển Nhi nghĩ bụng: “Viên tướng công có mối tình sâu đậm với Hạ cô nương. Cô ấy bị địch bắt đi, tướng công vô cùng lo lắng. Mình phải điều tra được tung tích của Hạ cô nương để tướng công đi cứu người. Nếu mình mất mạng, coi như báo đáp đại ân của Viên tướng công.”

Nàng quyết chí trả ơn nên không sợ gian nan nguy hiểm nữa, rùn người chui vào đáy kiệu, tay chân bám chặt lấy giá gỗ phía dưới kiệu. Lớp vải xung quanh cỗ kiệu đã che khuất nàng, lại vào ban đêm nên nhất định không ai phát giác được.

Nghe tiếng cười khúc khích, rồi Hà Thiết Thủ bước vào trong kiệu. Bốn tên kiệu phu nhấc kiệu lên, nhanh chân bước đi.

Uyển Nhi thấy bốn tên kiệu phu bước đi như bay, thì ra đều có võ công. Nàng bất giác sợ hãi. Lúc này mùa đông, gió lạnh thấu xương, dưới mặt đường đóng một lớp băng. Hơi Hà Thiết Thủ thở ra lập tức đông thành giọt nước mà rơi xuống. Uyển Nhi đành phải để nước lạnh giọt lên mặt mình, không dám động đậy cũng không dám lau chùi, chỉ sợ nhúc nhích sẽ bị phát giác.

Đi được khoảng nửa giờ, đột nhiên nghe một tiếng hô, chiếc kiệu dừng phắt lại. Một nam nhân quát lên: “Con tiện tì họ Hà đâu? Mau mau ra đây chịu chết.”

Tiêu Uyển Nhi ngạc nhiên nghĩ: “Thanh âm này rất quen thuộc, ai vậy? À, đúng là Mẫn Tử Hoa rồi.”

Bốn phía đều có tiếng chân, rất nhiều người bao vây quanh kiệu. Bọn kiệu phu thả kiệu xuống, rút binh khí ra. Tiêu Uyển Nhi vén một góc màn nhìn ra ngoài, thấy phía Đông có bốn đạo sĩ mặc đạo bào tay cầm trường kiếm. Nàng nghĩ: “Chắc ba phía tây, bắc, nam đều có người cả. Phen này Tiên Đô Phái dốc toàn lực đến trả thù.”

Cỗ kiệu hơi nghiêng một chút, Hà Thiết Thủ đã nhảy ra ngoài, lên tiếng hỏi: “Lão mũi trâu Thủy Vân đã chết chưa? Bọn này gan lớn thật, muốn làm gì đây?”

Một đạo nhân râu dài quát lên: “Hoàng Mộc đạo trưởng sư phụ chúng ta đang ở đâu? Mau nói cho ta biết, đỡ phải đau khổ nhiều.”

Hà Thiết Thủ cười khanh khách, nói rất ngọt ngào: “Chẳng lẽ sư phụ các ngươi là một đứa bé ba tuổi đi lạc đường? Sao lại hỏi ta để đòi người? Các ngươi đã gửi sư phụ cho ta trông chừng hay sao? Được rồi! Để ta giúp các ngươi tìm một chút, đỡ phải xảy ra chuyện đau lòng. Ông ấy lưu lạc bên ngoài không ai lo liệu, không chừng sẽ bị bắt cóc, bán qua Phiên bang mất.”

Uyển Nhi nghĩ: “Thì ra cô gái này nói chuyện với ai cũng giở giọng kiêu kỳ, yểu điệu, khêu gợi như thế. Trước đây mình cứ nghĩ cô ả cố tình nhõng nhẽo với Viên tướng công.”

Đạo sĩ râu dài giận dữ nói: “Ngũ Độc Giáo lâu nay hoành hành hung dữ, hôm nay phải cho ngươi biết ác giả ác báo là thế nào.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Bình thường Tiên Đô Phái không dám tìm ta, bây giờ biết được giáo phái chúng ta có nhiều người bị thương mới đến quấy rầy. Ha ha… hô hô… hi hi… hê hê…”

Tiếng cười đủ giọng còn chưa dứt, đột nhiên nghe một tiếng “á” thê thảm vang lên, nhất định đã có người trúng độc thủ của nàng. Lập tức nghe những tiếng la hét mắng chửi, rồi tiếng binh khí va chạm nhau loảng xoảng. Lần này Tiên Đô Phái dốc toàn lực, đến đây đều là cao thủ. Tuy võ công Hà Thiết Thủ cao cường, nhưng thủy chung vẫn không thoát khỏi vòng vây. Thời gian uống được chung trà, bốn tên kiệu phu đã lần lượt trúng kiếm.

Uyển Nhi nằm dưới kiệu không dám động đậy, thấy kiếm pháp phái Tiên Đô vừa nhanh vừa hiểm, quả nhiên có chỗ độc đáo. Nàng nghĩ: “Ngày trước Lưỡng Nghi kiếm pháp bị Viên tướng công đại phá, đó là gặp phải cao thủ tuyệt thế nên mới bị khắc chế. Còn những kiếm pháp tầm thường quyết không phải là đối thủ của họ.” Nàng sợ trong đêm tối mà lộ diện sẽ bị Tiên Đô Phái tưởng là môn đồ Ngũ Độc Giáo, không khỏi chết oan dưới kiếm của họ, nên chỉ còn cách không động đậy, thở cũng không dám thở mạnh.

Lúc này hai mươi mấy thanh trường kiếm vây chặt Hà Thiết Thủ vào trong. Thanh quang lấp loáng, hàn khí ép người, ai thấy cũng phải kinh tâm động phách. Hà Thiết Thủ trong vòng vây của mấy chục cao thủ vẫn thản nhiên ứng chiến. Một đạo nhân trẻ tuổi tấn công hơi gấp, bị thiết câu của nàng vạch trúng vào vai, đau đớn ngã ra ngất xỉu dưới đất, rồi được đồng bọn kéo ra ngoài.

Được mấy chục chiêu, Hà Thiết Thủ cảm thấy không chống chọi được nữa. Trường kiếm của Mẫn Tử Hoa chém tới cổ, nàng vội nghiêng đầu tránh né, kế bên lại thêm hai thanh kiếm tấn công tới.

“Keng” một tiếng nhỏ, vật gì đó lăn vào đáy kiệu. Tiêu Uyển Nhi nhặt lên xem, thì ra là một nửa chiếc hoa tai của nữ nhân. Nàng nửa mừng vừa lo; mừng vì phen này Hà Thiết Thủ khó mà thoát chết, đỡ được một đối thủ khó chịu của Viên tướng công; còn lo vì nếu cô ả mất mạng thì Thanh Thanh không biết bị giấu chỗ nào. Nếu bọn thủ hạ không chịu giao trả, thì thật là khó tìm. Nếu Hạ Thanh Thanh không trở về nữa, Viên Thừa Chí sẽ ra sao?

Nghĩ tới đây nàng bỗng thấy mặt mình ửng đỏ, tim cũng đập nhanh hơn, cảm thấy chuyện này không nên nghĩ nhiều. Nàng bèn nghiêng đầu tiếp tục quan sát trận ác đấu bên ngoài.

Hà Thiết Thủ đầu tóc bù xù, hình như không còn sức đánh trả nữa. Đạo trưởng râu dài ra lệnh, mấy chục thanh trường kiếm đột nhiên thu về, tạo thành một tấm lưới bạc vây quanh Hà Thiết Thủ. Y quát hỏi: “Sư phụ của ta đang ở đâu? Lão nhân gia còn sống hay không? Nói nhanh lên!”

Hà Thiết Thủ kẹp kim câu vào nách, từ từ đưa tay lên vuốt lại mái tóc. Nàng cười khe khẽ, thiết câu đột nhiên vung ra nhanh như điện chớp, đả thương một đạo nhân.

Mọi người vô cùng giận dữ, lại thi triển trường kiếm, phen này không dung tình gì nữa. Tình thế Hà Thiết Thủ đang nguy cấp, đột nhiên xa xa vọng đến một tiếng sáo rất dài. Hà Thiết Thủ vừa chống trả vừa mỉm cười nói: “Viện thủ của ta đến đây rồi. Các ngươi mau mau biến đi là hơn, không thì lỗ vốn đấy.”

Tiêu Uyển Nhi nghĩ: “Nếu không biết họ đang ác đấu thí mạng, ai nghe thấy giọng nói dịu dàng quan tâm này, nhất định sẽ tưởng cô ả đang tâm sự với người yêu.”

Đạo nhân râu dài la lên: “Xử lý xong ả tiện tì này rồi tính tiếp.”

Mọi người càng gấp rút tấn công, trong chốc lát chân Hà Thiết Thủ đã bị thương hai chỗ, nhưng nàng vẫn giữ nụ cười trên môi. Một đạo nhân còn trẻ bỗng động lòng, không nỡ nhìn thấy một cô nương yểu điệu, cười đẹp như thế bị loạn kiếm phân thây, bèn hét lên: “Ngươi đừng cười nữa được không?”

Hà Thiết Thủ cười hỏi: “Đạo trưởng nói gì vậy?”

Đạo nhân đó hơi ngẩn ra, đang định trả lời thì đột nhiên trước mắt ánh vàng lấp loáng. Mẫn Tử Hoa vội la lên: “Cẩn thận!”

Nhưng không kịp nữa. Nghe “sột” một tiếng, kim câu đã xuyên thủng ra sau lưng y.

Trong lúc ác đấu, tiếng sáo xa xa vọng đến mỗi lúc một gấp. Tiên Đô Phái bèn cử ra tám người đi chặn đường. Nghe tiếng kim khí loảng xoảng, rồi chẳng bao lâu tám người đó thua trận chạy về. Tiên Đô Phái lại chia người ra tăng viện, bên này Hà Thiết Thủ lập tức rảnh tay. Nhưng số địch thủ còn lại đều dồn hết sức tấn công, Hà Thiết Thủ muốn qua tụ họp với những người đến cứu viện mà không sao thoát khỏi vòng vây.

Hai bên thế lực quân bình, hò hét đánh nhau loạn xạ. Thời gian khoảng tuần trà nữa, nghe tiếng Mẫn Tử Hoa kêu lớn: “Hay lắm! Thì ra là Thái Bạch Tam Anh, ba tên bán nước này cũng đến đây rồi.”

Một giọng thô lỗ quát mắng: “Sao? Ngươi biết lão gia lợi hại, còn không mau cúp đuôi bỏ trốn?”

Tiêu Uyển Nhi nghĩ: “Ngày trước Thái Bạch Tam Anh giở trò ly gián muốn hại phụ thân mình, đã bị Viên tướng công bắt được. Sau này, gia gia đã đưa chúng tới nha môn Ứng Thiên Phủ, sao bây giờ ở đây? Chúng vượt ngục hay mua chuộc được bọn tham quan thả ra?”

Lúc này phe Hà Thiết Thủ càng lúc càng tới đông. Tiêu Uyển Nhi nhìn ra ngoài, thấy có bốn ông già đầu bạc là lợi hại nhất. Tiên Đô Phái khó mà chống nổi, đạo nhân râu dài liền phát hiệu lệnh, mọi người thu kiếm rút lui. Môn nhân Tiên Đô Phái đã luyện tập rất quy củ, người đi trước, người đoạn hậu, trận thế đàng hoàng rành mạch.

Hà Thiết Thủ đã bị thương, lại thấy địch thủ bại nhưng không loạn, nên không dám đuổi theo. Nàng mỉm cười, lên tiếng: “Sau này các vị có rảnh thì lại đến mà thử. Tiểu muội không tiễn đâu.”

Tiên Đô Phái đến đã đột ngột, lui cũng rất nhanh. Chỉ chốc lát là không nghe tiếng đao kiếm gì nữa, bốn phía chỉ còn tiếng gió lùa.

Tiêu Uyển Nhi từ dưới màn kiệu lén nhìn ra ngoài, thấy đông tây lố nhố mấy chục người. Một bà già trông như ăn xin cất tiếng: “Tin tức của chúng thật là linh mẫn, vừa biết hôm nay chúng ta bị thương nhiều người, kéo đến đánh lén ngay. Giáo chủ, vết thương không sao chứ?”

Hà Thiết Thủ đáp: “Không sao. May mà viện binh của cô cô đến kịp, không thì khó mà đuổi bọn mũi trâu đi được.”

Một lão già tóc bạc hỏi: “Tiên Đô Phái đã cấu kết với phái Hoa Sơn phải không?”

Một giọng khàn khàn nói: “Kim Long Bang với thằng lỏi họ Viên là một phe. Huynh đệ chúng ta đã dùng kế ly gián mượn đao giết người, chắc tên họ Viên đang làm khó dễ bọn Tiên Đô Phái.”

Lão già kia nói: “Được lắm! Để chúng tự giết lẫn nhau là hay nhất.”

Tiêu Uyển Nhi nằm dưới kiệu nghe thấy bốn chữ “mượn đao giết người”, bên tai lập tức vang lên những tiếng u u, mồ hôi lạnh toát ra đầy mình, nghĩ bụng: “Người nói câu này, không phải Sử Bính Vân thì cũng là Sử Bính Quan trong Thái Bạch Tam Anh. Đúng rồi, người hại chết phụ thân chính là ba tên gian tặc đó.”

Nàng muốn nghe tiếp, nhưng Hà Thiết Thủ bỗng nói: “Chúng ta vào cung đi. Cỗ kiệu này không ngồi được nữa.” Sau đó cả đám kéo nhau bỏ đi.

Tiêu Uyển Nhi đợi họ đi xa mấy chục bước mới len lén chui từ dưới kiệu ra, bất giác giật mình kinh hãi. Thì ra chỗ này là ngay phía trước Cấm Thành, chúng đang kéo vào hoàng cung. Tiên Đô Phái tấn công Hà Thiết Thủ khá lâu, thế mà hoàn toàn không có thị vệ trong cung ra xét hỏi.

Nàng không dám ở lại đó lâu, rảo bước chạy về hẻm Chính Điện Tử, kể tỉ mỉ mọi chuyện cho Viên Thừa Chí nghe. Chàng giơ ngón tay cái lên khen ngợi: “Tiêu cô nương đã can đảm lại có kiến thức hơn người!”

Tiêu Uyển Nhi hơi đỏ mặt, cúi xuống khấu đầu. Viên Thừa Chí tránh qua một bên, nghiêm trang nói: “Mối huyết hải thâm thù của lệnh tôn, bây giờ dĩ nhiên ta phải gánh vác. Tiêu cô nương thi hành đại lễ, tức là không coi ta ra gì.”

Chàng suy nghĩ một chút rồi nói: “Chuyện này không nên chậm trễ. Bây giờ ta vào cung tìm chúng.”

Tiêu Uyển Nhi nói: “Nhất định bọn gian tặc này có nội ứng trong hoàng cung. Nơi đó cảnh giới thâm nghiêm, Viên tướng công mạo hiểm xông vào, e có điều bất tiện.”

Viên Thừa Chí nói: “Không sao đâu. Ta có một vật lẽ ra phải dùng từ lâu, không ngờ khi đến kinh sư lại quá bận rộn, nên chưa rảnh mang vào đó.”

Chàng nói xong, lấy ra thư của Nhuệ thân vương Đa Nhĩ Cổn nhà Mãn Thanh viết cho thái giám Tào Hóa Thuần trong cung, đã giao cho Hồng Thắng Hải đưa vào. Viên Thừa Chí biết lá thư này có chỗ dùng được, nên lúc nào cũng để bên mình.

Tiêu Uyển Nhi mừng rỡ nói: “Tuyệt diệu! Để muội đi cùng Viên tướng công vào trong đó. Tiểu muội sẽ cải trang thành thư đồng của tướng công.”

Viên Thừa Chí biết nàng muốn tự tay giết kẻ thù. Lòng hiếu thảo không nên cản trở, chàng bèn gật đầu đồng ý.

Tiêu Uyển Nhi đã trốn dưới kiệu nửa đêm, cả người dính đầy bụi đất. Nàng vào trong rửa mặt, thay áo, trở thành một tiểu thư đồng tuấn tú. Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Bây giờ không thể gọi cô là Tiêu cô nương nữa.”

Nàng đáp: “Vậy kêu muội là Uyển Nhi đi. Người ta nghe sẽ tưởng là Bôi Nhi, Viên Nhi gì gì đó.”

Trong lòng nàng bỗng nảy ra ý nghĩ: “Nếu mình thật sự biến thành một cái ly, cái chén suốt đời kề cận ca ca, lúc nào ca ca ăn uống cũng có mình, thì còn gì hay hơn nữa?” Nghĩ đến đó, nàng không nén nổi hai má đỏ bừng, ánh mắt nhìn Viên Thừa Chí chứa chan tình ý.

Hai người sắp đi thì Ngô Bình và La Lập Như chạy vào nói: “Nha môn Thuận Thiên Phủ cảnh giới rất nghiêm ngặt. Đợi hơn hai giờ, đến khi bọn bộ khoái thay ca, bọn đệ mới ném được thi hài Đơn Thiết Sinh vào.”

Viên Thừa Chí gật đầu nói: “Tốt.”

Nghe Tiêu Uyển Nhi nói mình theo Viên Thừa Chí vào cung để tìm kẻ gian trả thù cho cha, La Lập Như bỗng lên tiếng: “Viên tướng công, sư muội! Tại hạ đi chung với hai vị có được không?”

Tiêu Uyển Nhi nhìn Viên Thừa Chí, đợi chàng chỉ thị. Viên Thừa Chí nghĩ: “Lần này vào thâm cung trùng trùng nguy hiểm, trong đó không ít cao thủ. Ta bảo vệ một mình Tiêu cô nương đã khó rồi, thêm một người càng vướng chân tay.”

Chàng đang định mở miệng từ chối, bỗng thấy Ngô Bình lén đưa tay kéo áo La Lập Như, vừa đưa mắt ra hiệu vừa nói: “La sư đệ! Sư đệ bị thương ở tay, thân thể chưa phục hồi hẳn. Để Viên tướng công cùng sư muội đi thôi.”

Viên Thừa Chí lập tức hiểu ngay: “Hình như Ngô Bình có ý để mình đi riêng với Tiêu cô nương. Đêm qua mình cùng cô ấy đi gặp Thủy Vân đạo nhân. Một nam một nữ đêm hôm khuya khoắt ra ngoài, chắc đã khiến người ta nảy dạ nghi ngờ. Tuy rằng đại trượng phu quang minh lỗi lạc, nhưng tránh né hiềm khích vẫn hay hơn.” Chàng bèn nói với La Lập Như: “La huynh cùng đi, có thêm một người trợ giúp càng tốt. Nhưng phải ủy khúc La huynh một chút, nên thay đổi y phục theo kiểu thư đồng.”

La Lập Như cả mừng, đi vào trong thay áo. Ngô Bình vào theo, mỉm cười nói: “La sư đệ! Lần này ngươi làm chuyện ngu ngốc rồi.”

La Lập Như ngạc nhiên hỏi: “Chuyện gì thế?”

Ngô Bình đáp: “Viên tướng công đối với Kim Long Bang chúng ta ân nặng như non. Sư muội đối với Viên tướng công, hiển nhiên có tấm lòng…”

La Lập Như run rẩy ngắt lời: “Huynh muốn… để sư muội… với Viên tướng công…”

Ngô Bình nói: “Nếu ân sư trên trời có linh thiêng, nhất định cũng rất vui mừng. Ngươi đi theo để làm chi?”

La Lập Như nói: “Đại sư ca nói đúng lắm! Thế thì đệ không đi nữa.”

Ngô Bình nói: “Bây giờ không đi thì lộ liễu quá. Nhưng sư đệ phải thừa cơ mà hành sự, làm sao tác hợp mối nhân duyên đó.”

La Lập Như gật đầu đồng ý, nhưng trong lòng lại có điều gì đó khó mà diễn tả. Y đã âm thầm tương tư tiểu sư muội mấy năm rồi. Nhưng diện mạo nàng xinh đẹp, phẩm hạnh đoan trang, không hay đùa giỡn, giúp Tiêu Công Lễ xử lý mọi việc trong bang rất oai nghiêm, nên mối thâm tình trong lòng chưa dám thổ lộ chút nào. Sau khi bị chặt đứt cánh tay, y càng tự thấy mình không bằng người khác, nói chuyện với nàng cũng không dám nói nhiều.

Bây giờ nghe Ngô Bình nói vậy, y không khỏi ngần ngừ, nhưng lập tức định được chủ ý: “Viên tướng công anh hùng như thế, cùng sư muội đúng là xứng đôi vừa lứa. Cuộc đời nàng có nơi gửi gắm, mình vui mừng mới phải.” Nghĩ đến đó, trong lòng y lập tức thoải mái, bèn thay đổi quần áo như một thư đồng.

Hồi 17: Mơ màng bóng áo xanh – Vẫy bút họa tình nhân

Viên Thừa Chí mở rương sắt chọn ra một mớ châu báu quý giá, gói thành một gói, bảo La Lập Như đeo lên lưng.

Ba người đợi sáng sớm đi đến cửa cung, Viên Thừa Chí nói mấy câu ám ngữ. Bọn thị vệ cấm quân giữ cổng đã nghe Tào thái giám dặn sẵn từ lâu, lập tức cử người dẫn vào trong. Tới trước một tòa điện, thị vệ lùi ra, một tên tiểu thái giám dẫn tiếp vào trong. Dọc đường còn đổi ba lần thái giám dẫn đường nữa.

Viên Thừa Chí ráng nhớ đường vào, thầm nghĩ: “Tào thái giám thật là đa nghi. Hắn sợ mưu đồ bại lộ, ngay cả người dẫn đường cũng thay đổi không ngừng.” Men theo một con đường nhỏ quanh co bên tay phải Ngự Hoa Viên, cuối cùng đến trước một gian nhà nhỏ. Tiểu thái giám mời ba người vào trong, bưng điểm tâm và trà lên.

Đợi hơn một giờ, Tào thái giám vẫn chưa ra. Ba người không nói gì, cứ ngồi yên ở đó mà đợi. Mãi đến trưa mới có một tên thái giám khoảng ba mươi tuổi ra hỏi Viên Thừa Chí mấy câu mật hiệu. Viên Thừa Chí theo lời dặn của Hồng Thắng Hải mà đáp, tên thái giám đó gật đầu lui ra.

Một lúc sau, hắn dẫn một tên thái giám trung niên vừa mập mạp vừa trắng trẻo vào. Viên Thừa Chí thấy tên này mặc y phục toàn gấm đoạn, trông rất sang trọng, bèn nghĩ: “Chắc đây là Tư lễ thái giám Tào Hóa Thuần, người có quyền thế chỉ sau hoàng thượng.”

Quả nhiên tên thái giám kia giới thiệu: “Vị này là Tào công công.”

Viên Thừa Chí và La Lập Như, Tiêu Uyển Nhi, ba người quỳ xuống khấu đầu. Tào Hóa Thuần mỉm cười nói: “Đừng đa lễ, xin mời ngồi. Nhuệ vương gia có khỏe không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Nhờ phúc của Tào công công, vương gia vẫn được an khang. Vương gia có hạ lệnh cho tiểu nhân thăm hỏi công công.”

Tào Hóa Thuần cười ha hả: “Không ngờ vương gia quan tâm đến mấy miếng xương sọ già nua này. Hồng lão đệ xa xôi đến đây, không biết vương gia có dặn gì không?”

Viên Thừa Chí nói: “Vương gia hỏi công công, mọi chuyện đã sắp xếp sao rồi.”

Tào Hóa Thuần thở dài nói: “Tính tình của hoàng thượng thật là cố chấp. Ta đã mấy lần nói chuyện, nhưng hoàng thượng cứ nói là chuyện mượn binh diệt khấu có hậu họa vô cùng lớn. Chỉ cần hai nước bãi binh nghị hòa, Đại Minh diệt xong lưu khấu rồi sẽ đa tạ Nhuệ vương gia hậu hĩ.”

Viên Thừa Chí chưa biết giữa Đa Nhĩ Cổn với Tào Hóa Thuần có âm mưu gì. Hồng Thắng Hải ở bên Đa Nhĩ Cổn có địa vị rất thấp, không thể biết chuyện cơ mật, chẳng qua chỉ là sứ giả truyền tin. Hồng Thắng Hải không biết, dĩ nhiên Viên Thừa Chí cũng không biết. Lúc này nghe Tào Hóa Thuần nói, chàng không nén nổi trái tim nhảy loạn lên, trong tai lùng bùng mấy chữ: “mượn binh diệt khấu”. Chàng nghĩ: “Hoàng đế không chịu mượn binh, bọn Mãn Châu lại quyết ý cho mượn, hiển nhiên có ý định không tốt.”

Tuy Viên Thừa Chí rất trấn tĩnh, nhưng đột nhiên biết chuyện này, không tránh khỏi đổi sắc mặt. May mà Tào Hóa Thuần hiểu lầm, cứ tưởng chàng không thoải mái vì đại sự chưa thành, bèn nói: “Lão đệ đừng lo lắng. Kế này không thành, ta sẽ có kế tiếp theo.”

Viên Thừa Chí nói: “Đúng vậy, đúng vậy! Tào công công túc trí đa mưu, vương gia của tại hạ thường khen ngợi không dứt. Vương gia từng nói: Có Tào công công trong cung hành sự, khỏi phải lo lắng việc lớn không thành.”

Tào Hóa Thuần mỉm cười, không nói gì.

Viên Thừa Chí tiếp: “Vương gia có mấy món lễ vật mọn, sai tiểu nhân đem tới. Xin công công thu nhận.” Nói xong, chàng chỉ sang La Lập Như. Tiêu Uyển Nhi đón lấy cái bao đang đeo trên lưng y, đặt lên bàn rồi mở ra cho Tào công công xem.

Bao vừa mở ra, ánh sáng châu quang bảo thúy làm cả gian phòng sáng rực. Tào Hóa Thuần ở trong đại nội lâu ngày, bảo vật trân quý đã thấy không biết bao nhiêu. Những loại châu báu tầm thường, dĩ nhiên hắn không để lọt vào mắt. Nhưng phen này khác hẳn, hắn bất giác kinh hãi đến ngẩn người. Thì ra trong cái bao đó có vô số đồ trân bảo. Chỉ riêng chuỗi trân châu một trăm hạt, hạt nào cũng lớn cũng tròn, đã là hiếm thấy trên đời. Lại còn một đôi sư tử bằng phỉ thúy, chân trước đạp lên một viên hồng bảo thạch tròn trịa đỏ rực như lửa. Khối phỉ thúy màu xanh biếc to lớn thế này Tào công công chưa từng gặp, mà viên hồng bảo thạch sáng ngời lại càng khó thấy.

Tào Hóa Thuần cứ xem một món lại tấm tắc khen một món, rồi quay lại hỏi Viên Thừa Chí: “Sao vương gia lại hậu thưởng ta đến thế?”

Viên Thừa Chí muốn thám thính mưu đồ, bèn nói: “Vương gia cũng biết hoàng thượng tinh minh, việc mượn binh diệt khấu khó mà lo được. Chuyện này phải dựa vào thế lực của công công.”

Tào Hóa Thuần được Viên Thừa Chí khen ngợi, đắc ý mỉm cười. Hắn vẫy tay một cái, bảo La Lập Như và Tiêu Uyển Nhi: “Hai ngươi ra ngoài nghỉ ngơi đi.”

Viên Thừa Chí khẽ gật đầu, hai người liền theo bọn tiểu thái giám ra ngoài. Tào Hóa Thuần đích thân đóng cửa, nắm tay Viên Thừa Chí, hỏi rất khẽ: “Vương gia xuất binh lần này có yêu cầu gì, lão đệ biết không?”

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Lý Nham đại ca từng nói, gặp chuyện khó khăn phải ứng biến kịp thời, muốn lừa biết được bí mật của người ta thì phải nói chút ít bí mật cho người ta nghe. Mình cũng nên nói bừa một chút.” Chàng bèn đáp: “Công công là người phe mình, dĩ nhiên tiểu nhân phải bẩm báo. Nhưng chuyện này vô cùng cơ mật, ngoài vương gia cùng tiểu nhân chỉ có hai ba người biết.”

Chàng trước nay thẳng thắn, ít khi phải dùng cơ mưu, nên gấp rút suy nghĩ một hồi vẫn chưa nghĩ ra đại sự gì liên quan đến Mãn Thanh, bèn thuận miệng nói bừa mấy việc về chính bản thân mình.

Ánh mắt Tào Hóa Thuần sáng hẳn lên. Viên Thừa Chí lại kề tai hắn mà nói: “Tiểu nhân vẫn nghĩ, tuy mình được vương gia tin tưởng, nhưng dẫu sao họ vẫn là phiên bang ngoại quốc. Nếu Tào công công chịu gia ân, giúp cho tiểu nhân được quang tông diệu tổ…”

Tào Hóa Thuần hiểu ngay chàng muốn tìm một chức quan trong triều đình, bèn cười ha hả: “Thì ra Hồng lão đệ muốn có công danh phú quý. Chuyện này lão phu sẽ lo liệu cho.”

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Đã đóng kịch, thì phải đóng kịch đến cùng.” Chàng liền quỳ xuống khấu đầu đa tạ.

Tào Hóa Thuần cười nói: “Sau khi sự việc thành công, ta cho lão đệ làm phó tướng có được không? Bảo đảm sẽ phái lão đệ đến nơi thật béo bở.”

Viên Thừa Chí nở mặt nở mày, lại đa tạ tiếp: “Công công đại ân đại đức thế này, tiểu nhân không dám giấu giếm tí gì nữa. Ý của vương gia là…”

Chàng nhìn trái nhìn phải một hồi, mới hạ giọng nói: “Nhưng công công tuyệt đối đừng tiết lộ, không thì tính mạng tiểu nhân khó mà giữ được.”

Tào Hóa Thuần bảo: “Lão đệ yên tâm đi. Sao ta lại nói ra ngoài?”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Ta chẳng ngại ngùng gì mà không nói thách, còn chịu mua hay không là chuyện của hắn.” Chàng bèn nói: “Sau khi quân Đại Thanh tiến vào quan ải, Sấm tặc nhất định bị dẹp yên. Ý của vương gia là muốn triều đình cắt vùng Trực Lệ và Sơn Đông để đa tạ, lấy Hoàng Hà làm biên giới, từ nay về sau là hai nước anh em.”

Viên Thừa Chí thuận miệng nói bừa, nhưng Tào Hóa Thuần không nghi ngờ gì cả. Một là có lá thư chính tay Đa Nhĩ Cổn viết, và đúng ám hiệu đã hẹn ước. Hai là lễ vật hậu hĩ thế này. Ba là người Mãn Thanh gian trá khó lường, dĩ nhiên hắn phải biết.

Tào công công suy nghĩ một chút rồi gật đầu nói: “Lúc này thiên hạ đại loạn. Mấy tháng trước Sấm tặc đã công phá Đồng Quan, lại chiếm Tương Dương, Tây An. Nếu Đại Thanh không xuất binh ngay, chỉ khoảnh khắc là Sấm tặc tiến đến kinh thành. Bắc Kinh bị phá thì cái gì cũng hết, kể gì đến Trực Lệ với Sơn Đông?”

Viên Thừa Chí nghe nói Sấm quân chẳng bao lâu sẽ đến kinh thành, bất giác vô cùng mừng rỡ. Chàng sợ lộ vẻ vui mừng, liền cúi đầu nhìn xuống đất. Tào Hóa Thuần cũng nhìn thấy, nhưng lại tưởng chàng vui mừng vì mình đồng ý những điều khoản đó. Hắn bèn nói: “Đêm nay ta sẽ trình tấu lên hoàng thượng. Nếu hoàng thượng vẫn cố chấp không chịu, chúng ta phải lấy quốc gia xã tắc làm trọng, đành phải…”

Nói đến đây hắn im lặng trầm ngâm, đôi mày chau hẳn lại. Trái tim Viên Thừa Chí đập loạn xạ, chỉ mong Tào công công tiết lộ âm mưu ngay lập tức. Chàng bèn khích một câu: “Đương kim hoàng thượng anh minh cương nghị, mọi chuyện công công phải cẩn thận.”

Tào công công cười gằn nói: “Hừ! Cương thì đúng là cương, nhưng nghị thì không thấy đâu. Hai chữ anh minh lại càng không có. Giang sơn Đại Minh mất vào tay hôn quân thì thôi, nhưng chẳng lẽ chúng ta phải chết chung với hắn hay sao?”

Mấy câu này có thể gọi là đại nghịch bất đạo, tiết lộ ra ngoài là đủ tru di tam tộc. Thế mà Tào công công nói toẹt ra chẳng kiêng nể gì, đủ thấy hắn không nghi ngờ Viên Thừa Chí chút nào. Viên Thừa Chí hỏi: “Không hiểu công công đã có kế hoạch tuyệt diệu gì?”

Tào Hóa Thuần nói: “Dù lấy Hoàng Hà làm biên giới, vẫn còn hơn mất hết giang sơn vào tay bọn lưu khấu. Hoàng thượng không chịu, chẳng lẽ…”

Nói đến đây, đột nhiên hắn cười ha hả rồi tiếp: “Hồng lão đệ! Trong vòng ba ngày, nhất định sẽ có tin tức tốt lành để hồi báo vương gia. Lão đệ cứ đợi ở đây.” Hắn vỗ tay một tiếng. Mấy tên tiểu thái giám chạy vào bưng những đồ châu báu mà Viên Thừa Chí đã tặng, theo Tào Hóa Thuần ra ngoài.

Chẳng bao lâu, bốn tên tiểu thái giám vào dẫn Viên Thừa Chí, Tiêu Uyển Nhi, La Lập Như đến nghỉ tại một gian phòng nhỏ bên trái. Bữa tối thức ăn rất phong phú, dùng cơm xong thì trời đã tối đen như mực. Tiểu thái giám thỉnh an rồi lùi ra khỏi phòng. Đáng lẽ cấm cung không để người ngoài ở lại, nhưng lúc này binh hoang mã loạn, luật lệ lỏng lẻo. Tào Hóa Thuần trong hoàng cung có thế một bàn tay che cả mặt trời, dĩ nhiên không ai dám liều mạng bàn tán.

Viên Thừa Chí khẽ nói: “Tào thái giám đang trù hoạch một âm mưu lớn. Chuyện này quan trọng, ta phải ra ngoài thám thính một chút.”

Uyển Nhi nói: “Để muội đi với Viên tướng công.”

Viên Thừa Chí nói: “Không! Cô nương cùng La huynh cứ ở đây. Không chừng Tào thái giám không yên tâm, sẽ sai người đến hỏi thăm.”

La Lập Như nói: “Một mình tại hạ ở đây là được. Viên tướng công có thêm một tay trợ thủ, sẽ hay hơn.”

Viên Thừa Chí thấy Uyển Nhi ra vẻ quyết tâm, không tiện cản trở bèn gật đầu một cái. Sang phòng kế bên, chàng vung hai tay điểm huyệt hai tên tiểu thái giám. Còn hai tên nữa nhảy vội từ trên giường xuống, trợn mắt lên không biết phải làm gì. Uyển Nhi rút Nga Mi Thích, chỉ vào trước ngực chúng, quát thầm: “Các ngươi mà lên tiếng, ta cho đi gặp Ngụy Trung Hiền lập tức.”

Nói xong, nàng hơi nhấn cương thích tới trước, đâm thủng áo, mũi nhọn dí sát vào da ngực chúng. Viên Thừa Chí thầm cười trong bụng, nghĩ: “Lúc này mà nàng vẫn nói đùa được.” Ngụy Trung Hiền là một tên thái giám gian ác thời Thiên Tông, làm bại hoại thiên hạ, bị xử tử đã lâu.

Chàng lột quần áo hai tên thái giám này, mặc vào người. Uyển Nhi thổi tắt ngọn nến, trong bóng tối cũng đổi lấy sắc phục thái giám.

Viên Thừa Chí điểm huyệt thêm một tên, tay trái nắm lấy mạch môn tên còn lại, kéo ra cửa, khẽ quát: “Dẫn chúng ta đi tìm Tào công công.”

Tên thái giám này nửa người tê liệt, không dám nói nhiều, lập tức dẫn đường. Đi vòng vèo trong cung cả dặm đường, đến một tòa lầu lớn, hắn lắp bắp: “Tào công công… ở chỗ này…”

Thừa Chí không đợi hắn nói hết câu, huých khẽ khuỷu tay vào huyệt đạo trước ngực hắn, rồi hất vào trong một lùm hoa nhỏ.

Hai người khom lưng chạy đến tòa lầu. Viên Thừa Chí đang định kéo Tiêu Uyển Nhi nhảy lên, đột nhiên sau lưng nghe tiếng chân bước tới. Một người từ xa đã hỏi: “Tào công công có trên lầu không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Ta cũng mới đến. Chắc có trên lầu chứ.”

Quay lại thì thấy tổng cộng năm người đang đến, người đi đầu xách lồng đèn màu đỏ. Ánh đèn soi rõ, cả năm đều là thái giám. Tên thái giám xách đèn vừa cười vừa mắng: “Thằng khỉ này, nói chuyện rào đón lắm thế?”

Lúc chúng đến gần, Viên Thừa Chí và Uyển Nhi cúi đầu xuống, không để bị nhìn rõ mặt.

Cánh cửa sơn bóng loáng như một tấm gương, phản chiếu ánh đèn nên khi bọn thái giám đi ngang có thể thoáng nhìn thấy tướng mạo. Viên Thừa Chí hơi giật mình, khẽ kéo tay áo Uyển Nhi. Đợi năm tên đó lên lầu, chàng mới nói nhỏ: “Thái Bạch Tam Anh!”

Uyển Nhi kinh hãi, khẽ la lên: “Bọn gian tặc giết gia gia muội! Chúng làm thái giám rồi ư?”

Viên Thừa Chí đáp: “Giống như chúng ta, chỉ cải trang thôi. Lên đi!”

Hai người theo sau Thái Bạch Tam Anh lên lầu. Mấy thái giám gác cửa tưởng đi cùng một bọn nên không xét hỏi. Lên tới lầu, hai tên thái giám đi trước đã dẫn Thái Bạch Tam Anh vào một căn phòng. Viên Thừa Chí và Uyển Nhi không tiện vào theo, nên đứng chờ ngoài cửa.

Loáng thoáng nghe giọng tên thái giám xách đèn từ trong phòng vọng ra: “Xin đợi ở đây… Tào công công lập tức…” Những câu khác thì nghe không rõ. Sau đó hai tên thái giám lui ra, bước xuống lầu.

Viên Thừa Chí kéo tay Uyển Nhi tiến vào phòng. Bốn bức tường đều là giá sách, thì ra đây là một thư phòng. Thái Bạch Tam Anh ngồi trên ghế, thấy hai người thái giám đi vào nhưng không để ý, để Viên Thừa Chí và Uyển Nhi bình thản tới gần. Uyển Nhi cười nhạt, lên tiếng: “Sử thúc thúc, Lê thúc thúc! Gia gia tiểu nữ mời ba vị đi ăn cơm.”

Thái Bạch Tam Anh đột nhiên nhìn thấy Uyển Nhi, dĩ nhiên giật mình kinh hãi. Lê Cương nhảy bật dậy, la lên: “Gia gia ngươi đã chết rồi mà?”

Uyển Nhi đáp: “Không sai. Ông ấy mời ba vị thúc thúc đi ăn cơm cúng.”

Sử Bính Vân chau mày, “soạt” một tiếng trường đao đã ra khỏi vỏ. Viên Thừa Chí vung hai tay ra nhanh như chớp, mỗi tay túm lấy một người, xách cổ Sử thị huynh đệ nhấc bổng lên, đồng thời phóng chân trái ra đá trúng huyệt Phụng Vĩ sau lưng Lê Cương. Sử Bính Quan cố xoay tay đánh lại một quyền, nhưng Viên Thừa Chí để mặc cho hắn đánh vào ngực mình, hai tay ập lại cho đầu anh em họ Sử đập vào nhau. Cả hai ngất xỉu liền tại chỗ.

Uyển Nhi chưa kịp nhìn rõ, Thái Bạch Tam Anh đã bất tỉnh nhân sự. Nàng rút cây Nga Mi Thích ra, định đâm vào ngực Sử Bính Quan. Viên Thừa Chí đưa tay giữ lấy cổ tay nàng, nói nhỏ: “Có người!”

Đã nghe rõ tiếng chân bước lên cầu thang. Viên Thừa Chí xách Sử thị huynh đệ đặt sau giá sách, rồi quay lại nhấc Lê Cương lên, cùng Uyển Nhi trốn luôn vào sau giá sách. Vừa nấp xong, đã có mấy người tiến vào phòng.

Một người lên tiếng: “Xin quý vị đợi ở đây, Tào công công lập tức đến ngay.”

Một giọng thiếu nữ nói rất ẻo lả: “Làm phiền ngươi rồi.”

Viên Thừa Chí và Uyển Nhi nhận ra thanh âm của Hà Thiết Thủ giáo chủ Ngũ Độc Giáo, ngầm siết tay nhau một cái.

Lát sau Ngụy Đào Thanh tổng quản Huệ vương phủ dẫn mấy người vào, đều là hảo thủ võ lâm được Huệ vương gia mời tới Chiêu Hiền Quán. Nghe mọi người chào hỏi, thì ra có cả Ôn Thị Tứ Lão của Kỳ Tiên Phái tại Tịnh Nham Cù Châu, có cả Lữ Thất tiên sinh.

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Thì ra bốn lão già đêm qua Uyển Nhi nhìn thấy chính là Ôn Thị Tứ Lão, chẳng trách Tiên Đô Phái không chống nổi. Chúng đến đây làm gì nhỉ?”

Mọi người chào hỏi chưa xong, Tào Hóa Thuần đã tiến vào trong phòng. Viên Thừa Chí nghĩ: “Ôn Phương Thi giết mẫu thân Thanh đệ, đã bị mình dùng Hỗn Nguyên Công điểm huyệt cho biến thành phế nhân. Ngũ Hành Trận nhà họ Ôn không triển khai được nữa, nhưng còn có cao thủ Ngũ Độc Giáo và những người khác, một mình ta không chống nổi.”

Nghe giọng Tào Hóa Thuần hỏi: “Thái Bạch Tam Anh đâu rồi?”

Một tên thái giám trả lời: “Ba vị đó đến đây rồi, không biết đi đâu.”

Tào Hóa Thuần sai người tìm kiếm. Mấy tên thái giám đi một hồi quay lại, đều nói không thấy tung tích ba người. Số còn lại bàn tán nhỏ nhẹ, hiển nhiên đều ra vẻ phiền hà. Tào Hóa Thuần nói: “Chúng ta không đợi nữa. Họ bỏ mất cơ hội lập công này, sau này không oán trách được ai.”

Nghe tiếng kéo ghế, chắc là chúng sắp xếp chỗ ngồi để nghe họ Tào chỉ thị. Tào Hóa Thuần khẽ nhắc đến quân tình ở phía tây. Lý Tự Thành phá được Đồng Quan, Binh bộ thượng thư Tôn Truyền Đình tử trận. Lý Tự Thành lấy Tây An, tự lập làm vua, xưng quốc hiệu là Đại Thuận, niên hiệu là Vĩnh Xương. Mọi người phát lên những tiếng rì rầm, ra vẻ chấn động.

Tào Hóa Thuần nói: “Nếu chúng ta không nhanh tìm biện pháp, chỉ mấy hôm nữa là bọn giặc cỏ tiến gần đến kinh thành. Hoàng thượng cứ bảo thủ không chịu mượn binh diệt khấu, mấy trăm năm cơ nghiệp Đại Minh nhất định tiêu ma trong tay ông ấy. Chúng ta phải lấy quốc gia triều đình làm trọng, chỉ còn cách lập minh quân khác để bảo vệ xã tắc.”

Hà Thiết Thủ lên tiếng: “Thế thì lập Huệ vương gia.”

Tào Hóa Thuần nói: “Không sai! Hôm nay xin quý vị góp sức phò minh chúa. Mọi việc do ta sắp xếp, đại sự thành công thì mọi người đều có công đầu.”

Hắn thấy không ai dị nghị, bèn lập tức phân chia công việc. Cả bọn đều hăng hái nhận lệnh, ra vẻ rất phấn khởi.

Tào Hóa Thuần sai phái: “Một giờ nữa, bốn vị lão tiên sinh họ Ôn dẫn những huynh đệ đắc lực đến mai phục ở bốn phía phòng ngủ hoàng thượng, cản trở người khác vào cứu giá. Thủ hạ của Hà giáo chủ mai phục bên ngoài thư phòng, để Huệ vương gia vào trong tấu trình.”

Lữ Thất tiên sinh hỏi: “Ngũ thành binh mã sứ Chu đại tướng quân thống lĩnh binh mã kinh thành, vốn trung thành với đương kim hoàng thượng. E rằng bất trắc, chúng ta có cần trừ khử hắn trước hay không?”

Tào Hóa Thuần mỉm cười đáp: “Chu đại tướng quân cùng Phó thượng thư, hai tên này đã bị ta dùng kế mọn trừ khử lâu rồi. Hà giáo chủ kể cho mọi người biết đi.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Tào công công muốn ủng hộ Huệ Vương đăng cơ, dĩ nhiên đã biết Chu đại tướng quân và Phó thượng thư rất trung thành với hoàng thượng. Một người nắm quân, một người giữ tiền, đúng là mối họa. Vì thế công công đã sai tiểu muội liên tiếp phái người đến Hộ Bộ ăn cắp khố ngân. Hoàng đế chỉ biết tính toán tỉ mỉ, chịu không nổi những chuyện nhỏ nhặt này, nên chiều nay đã hạ chỉ cách chức điều tra hai lão Chu Phó rồi.”

Mọi người đều khen ngợi Tào Hóa Thuần thần cơ diệu toán, nhưng cố nén tiếng reo hò cho nhỏ lại.

Bây giờ Viên Thừa Chí mới hiểu, thủ hạ của Hà Thiết Thủ gây án ở Hộ bộ không chỉ vì tiền, mà đó là một âm mưu thông địch hại nước. Sùng Trinh vẫn tự cho mình rất tinh minh, tiếc rằng rơi vào bẫy của người khác mà không hay biết.

Tào Hóa Thuần nói: “Bây giờ các vị về nghỉ ngơi một lúc, khoảng một giờ nữa sẽ có người đến gọi. Nhất định các vị phải thản nhiên bình tĩnh, không để tiết lộ đại sự.”

Mọi người đều khẽ vâng dạ. Lữ Thất tiên sinh cùng Ôn Thị Tứ Lão cáo từ ra ngoài. Hà Thiết Thủ ra sau cùng, gần đến cửa bỗng cất tiếng hỏi: “Tại sao Thái Bạch Tam Anh không đến? Chẳng lẽ họ đi tố cáo với hoàng thượng?”

Tào Hóa Thuần nói: “Hà giáo chủ đúng là tính toán chu đáo. Thôi thì việc này cứ giấu họ luôn cho ổn thỏa. Nhưng Thái Bạch Tam Anh là tâm phúc của Cửu vương gia Mãn Châu, gần đây còn lập đại công, chắc không đến nỗi phản bội Cửu vương gia.”

Hà Thiết Thủ hỏi: “Đại công gì thế?”

Tào Hóa Thuần đáp: “Họ đã đánh cắp trủy thủ của một tên họ Mẫn phái Tiên Đô, đi ám sát bang chủ Kim Long Bang. Sau việc này, nhân vật võ lâm phương Nam chắc chắn sẽ tự giết lẫn nhau, tranh chấp không dứt được. Sau này chúng ta đánh chiếm Kim Lăng sẽ thuận lợi hơn nhiều.”

Uyển Nhi đã biết chắc chín phần là Thái Bạch Tam Anh hại chết cha mình, bây giờ không còn nghi ngờ gì nữa. Viên Thừa Chí sợ nàng tức giận phát ra âm thanh, mà Hà Thiết Thủ tai mắt linh mẫn khác thường, động tĩnh nhỏ nhất cũng không giấu được, bèn đưa tay lên khẽ che miệng Uyển Nhi.

Tiêu Uyển Nhi xinh đẹp dịu dàng, lúc này đang tựa sát vào người Viên Thừa Chí. Cảm thấy ngón tay chạm vào đôi môi mềm mại của nàng, Viên Thừa Chí tuổi đang niên thiếu, huyết khí phương cương, trong lòng bất giác có phần khó chịu.

Nghe thấy Hà Thiết Thủ cười nói: “Công công thân tại cung đình mà tường tận sự việc giang hồ như thế, thật không phải dễ.”

Tào Hóa Thuần bật cười thành tiếng rồi nói: “Những chuyện trong triều đình, ta đã chứng kiến rất nhiều. Chẳng ai là không tham công danh phú quý, ai cũng phản phúc vô thường. Chẳng ai đếm xỉa gì đến nghĩa khí hay chữ tín, ai cũng sẵn sàng vì thăng quan phát tài mà bán đứng bằng hữu. Dù sao những bằng hữu giang hồ vẫn nói một là một, nói hai là hai, đáng tin hơn rất nhiều. Lần này ta mưu đồ đại sự, không dám thương nghị với đại thần trong triều, cũng không dám dùng võ tướng thị vệ, lại mời các vị đến đây rút đao tương trợ, chính vì lý do này.”

Hai người vừa nói vừa rời khỏi thư phòng. Viên Thừa Chí biết chuyện rất khẩn cấp, nhưng phải làm thế nào thì chưa có chủ ý. Lúc này trong đầu chàng, quốc nạn gia thù cứ xen lẫn chồng chéo vào nhau.

Uyển Nhi nhẹ kéo tay chàng rời khỏi miệng mình, hỏi nhỏ: “Ba tên gian tặc này phải xử lý thế nào? Tiểu muội giết chúng được không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Được, nhưng đừng có máu để tránh bị phát hiện.” Chàng xốc đầu Sử Bính Quan lên, chỉ vào hai bên thái dương mà hỏi: “Cô nương biết chiêu Chung Cổ Tề Minh không?”

Uyển Nhi gật đầu. Viên Thừa Chí lại nói: “Khớp xương ngón cái hướng ra ngoài, nắm tay như vậy. Đúng rồi, phát chiêu đi.”

Uyển Nhi dạ một tiếng rồi xuất quyền. “Bụp” một tiếng, song quyền đồng thời kích vào hai bên thái dương, Sử Bính Quan không rên được tiếng nào, lập tức tắt thở. Nàng cứ thế mà đánh chết Sử Bính Vân và Lê Cương. Bây giờ đại thù đã báo, nàng nghĩ đến cha mình bỗng không nén nổi, gục đầu vào vai Viên Thừa Chí mà khóc rấm rứt. Viên Thừa Chí đưa tay trái ôm lấy thân hình mềm mại, kề tai nàng nói nhỏ: “Chúng ta ra ngoài nhanh lên, xem Hà Thiết Thủ đi đến chỗ nào.”

Uyển Nhi được chàng ôm vào lòng, không nỡ buông ra ngay. Nhưng sau đó nàng cảm thấy không ổn, bèn nín khóc rồi theo Viên Thừa Chí ra khỏi phòng.

Họ thấy Tào Hóa Thuần và Hà Thiết Thủ chia tay nhau ở một chỗ rẽ, hai tên thái giám xách lồng đèn dẫn Hà Thiết Thủ đi về phía tây. Viên Thừa Chí và Uyển Nhi xa xa theo dõi, qua mấy khu vườn thì thấy cô ả đi vào một tòa nhà.

Hai người vẫn bám theo. Vừa vào trong cửa, đã nghe ở phòng phía đông có người la lớn: “Mụ già xấu xí Hà Hồng Dược kia! Sao còn chưa chịu thả ta ra ngoài?”

Âm thanh lảnh lót, không phải Thanh Thanh thì còn ai nữa?

Viên Thừa Chí vừa hoan hỉ vừa kinh ngạc, xông thẳng vào bất kể có chuyện gì. Thanh Thanh đang nằm trên giường, kế bên có hai tên tiểu thái giám sắc thuốc thắp hương.

Lúc Viên Thừa Chí đưa tay điểm huyệt hai tên này, Thanh Thanh mới nhận ra. Nàng cả mừng, run run gọi: “Đại ca!”

Viên Thừa Chí đi đến bên giường, hỏi: “Vết thương của Thanh đệ thế nào rồi?”

Thanh Thanh đáp: “Đại khái chưa chết.” Nàng thấy Uyển Nhi đứng phía sau, bèn hỏi: “Cô nương cũng đến đây ư?”

Uyển Nhi đáp: “Vâng! Hạ cô nương ở đây thì hay quá. Viên tướng công đỡ phải lo lắng rồi.”

Thanh Thanh hừ một tiếng, không đáp mà nói: “Hà Thiết Thủ sắp đến đây rồi. Đại ca đập ả một trận cho Thanh đệ mát ruột đi.”

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Họ đang có gian mưu, bây giờ mình tạm thời không lộ mặt là hơn.” Chàng vội nói: “Thanh đệ! Huynh tạm thời không thể động thủ với ả. Muội cứ dụ ả nói chuyện, hỏi xem ả bắt muội vào cung để làm gì.”

Thanh Thanh ngạc nhiên hỏi lại: “Cung gì?”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Thì ra Thanh đệ chưa biết đây là hoàng cung.” Chàng nghe có tiếng chân bước đến, không kịp nói rõ, vội xách hai tên thái giám nhét vào tủ áo, kéo tay Uyển Nhi định tìm chỗ nấp.

Trước cửa bóng người thấp thoáng, một cô gái áo trắng đã chạy vào trong, đúng là Hà Thiết Thủ. Thân pháp nàng cực nhanh, mỉm cười nói với Viên Thừa Chí: “Hay quá! Sư phụ! Sư phụ cũng đến đây rồi ư?”

Nàng tiện tay túm lấy cánh tay Uyển Nhi, chỉ một chiêu đã đẩy Uyển Nhi lùi mấy bước, rồi chạy đến trước mặt Viên Thừa Chí. Khoảng cách chưa tới một thước, mũi hai người như sắp chạm vào nhau. Thừa Chí ngửi thấy hương thơm rất nồng, biết nàng toàn thân có độc, đứng gần không ổn chút nào. Chàng vội lùi lại một bước, đến cạnh cái giường.

Hà Thiết Thủ phóng người tới, đặt tay trái lên vai chàng. Thừa Chí xoay tay phải lại, nắm lấy cổ tay trái Hà Thiết Thủ. Chàng đang định hất nàng ra ngoài, Hà Thiết Thủ bỗng la lên: “Hàm sa xạ ảnh!”

Viên Thừa Chí không dám vận kình nữa, bỗng thấy nàng đưa tay phải lên hông, cho vào trong áo, chỉ cần ấn một cái nút bên trong là mấy chục mũi độc châm sẽ bắn vèo ra.

Hà Thiết Thủ chồm tới, phóng lên người Viên Thừa Chí. Chàng thò tay trái vào trong áo nàng, nắm lấy cổ tay, quyết cản trở nàng ấn nút. Hai người đứng sát nhau, hầu như đã tiếp xúc da thịt. Nếu mấy chục mũi độc châm đó phóng ra, dù chàng bản lĩnh bằng trời cũng không sao tránh né được.

Hà Thiết Thủ đưa tay trái ra, quàng lấy lưng Viên Thừa Chí, cả người tựa sát vào lòng chàng, nhõng nhẽo gọi: “Sư phụ! Sư phụ!”

Viên Thừa Chí ấp úng nói: “Cô… cô… Đừng làm thế.”

Thanh Thanh thấy vậy, giận dữ hét lên: “Hai người làm gì thế?”

Viên Thừa Chí biết tình thế nguy cấp, chỉ mong kéo được tay Hà Thiết Thủ ra ngoài. Nhưng Thanh Thanh lại thấy người yêu thò tay vào trong áo Hà Thiết Thủ không ngớt sờ mó gì đó, cảnh tượng thật là ô uế không sao nhìn được. Nàng vừa lo lắng vừa giận dữ, lại đau lòng, bèn lớn tiếng chửi mắng: “Vô sỉ! Hạ lưu!”

Hà Thiết Thủ ỏn ẻn nói: “Sư phụ! Sư phụ không chịu thì muội dùng Hàm sa xạ ảnh, đồng quy ư tận.”

Viên Thừa Chí không làm gì được nữa, chỉ còn cách đồng ý. Chàng đành nói: “Được! Ta đồng ý, nhưng có câu nói trước.”

Hà Thiết Thủ kêu gọi: “Sư phụ ơi!”

Thừa Chí đáp: “Ừ!”

Hà Thiết Thủ hoan hỉ nói: “Đại trượng phu đã nói thì phải giữ lời đấy nhé.” Nàng bèn đứng thẳng dậy, lùi mấy bước.

Thừa Chí ngồi phịch lên giường, nghĩ đến khoảnh khắc nửa sống nửa chết vừa rồi mà không nén nổi toát mồ hôi lạnh. Chàng xoay tay lại nắm lấy tay Thanh Thanh, giữ trong lòng bàn tay mình, nghiêm giọng nói với Hà Thiết Thủ: “Ta có mấy câu nói, nếu cô chịu nghe lời thì ta nhận cô làm đồ đệ.”

Hà Thiết Thủ mừng rỡ, mỉm cười nói: “Xin sư phụ dặn dò.”

Viên Thừa Chí bảo: “Tào công công âm mưu thoán vị, dẫn quân Mãn Châu vào nước để đánh Sấm Vương. Cô mau mau dẫn thủ hạ đi cản trở mưu đồ đó. Đây là đại sự trước mắt.”

Hà Thiết Thủ gật đầu đáp: “Đồ nhi tuân mạng.”

Viên Thừa Chí tiếp: “Việc thứ hai, cô phái người đưa Hạ cô nương trả về hẻm Chính Điện Tử. Nếu cô ấy bị đau một ngón tay, ta vĩnh viễn không dạy cho cô một chiêu nào.”

Hà Thiết Thủ thè lưỡi ra nói: “Đồ nhi quyết không làm cô ấy bị thương. Sư phụ! Sau này Hạ cô nương sẽ là sư nương phải không?”

Thừa Chí đáp: “Không sai lắm. Cô cứ đảm bảo cô ấy trở về bình an là được.”

Hà Thiết Thủ cãi: “Cái gì mà không sai lắm? Đồ nhi thấy trúng cả mười phần rồi. Nhưng cô cô Hà Hồng Dược của đồ nhi có thâm thù đại hận với Hạ cô nương, nên mới bắt về. Cô cô sợ sư phụ cướp lại nên đem vào đây mà nhốt, dĩ nhiên yên ổn hơn nhiều. Không ngờ sư phụ cũng tìm đến được. Người của cô cô bắt về, tuy đồ nhi là giáo chủ nhưng cũng không thể tùy tiện thả ra.”

Viên Thừa Chí nói: “Mối thâm thù đại hận đó là gì, ta vẫn chưa hiểu được. Chuyện này cần điều tra cho rõ. Nhiều môn võ công của ta đã học từ Kim Xà Lang Quân.”

Hà Thiết Thủ nói: “Được! Để đồ nhi giúp sư phụ hỏi cho rõ là xong. Đến lúc này sư phụ đã có ba mệnh lệnh. Thứ nhất, cản trở âm mưu thay đổi hoàng đế, mượn binh diệt khấu. Thứ hai, đưa sư nương về nhà. Thứ ba, hỏi rõ về Kim Xà Lang Quân, nhạc phụ đại nhân của của sư phụ. Đồ nhi sẽ lo liệu đàng hoàng từng điều một.”

Thanh Thanh nghe nàng gọi mình là sư nương, gọi gia gia mình là nhạc phụ đại nhân của Viên Thừa Chí, vô cùng mừng rỡ. Nàng không ghen với Hà Thiết Thủ nữa, bèn siết chặt tay Viên Thừa Chí mấy cái, tạm thời không truy cứu chuyện vừa rồi chàng thò tay vào trong áo cô nương họ Hà.

Lại nghe tiếng bước chân ở ngoài phòng, rồi có tiếng hỏi: “Giáo chủ! Giáo chủ ở đây phải không?”

Đây là giọng Hà Hồng Dược. Một thanh âm già nua, nghe chói tai khác lại cất lên: “Hà giáo chủ! Tào công công cho mời giáo chủ, tới lúc chuẩn bị rồi.” Viên Thừa Chí nhận ra đây là giọng nói của Lữ Thất tiên sinh.

Hà Thiết Thủ lên tiếng: “Được rồi.” Rồi nàng khẽ bảo Viên Thừa Chí: “Sư phụ! Xin hai vị tránh mặt một chút.”

Trong phòng không có chỗ nào nấp được. Viên Thừa Chí sợ Lữ Thất tiên sinh và Hà Hồng Dược thấy mình sẽ la lên, khiến Tào Hóa Thuần thay đổi âm mưu tạo thành biến cố khác, chỉ còn cách nắm tay Uyển Nhi chui xuống gầm giường.

Thanh Thanh vẫn còn ngơ ngẩn, Lữ Thất tiên sinh và Hà Hồng Dược đã tiến vào phòng. Lữ Thất tiên sinh nói: “Hà giáo chủ! Chúng ta ở đây đợi Tào công công đi.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Được.”

Nàng bỗng xoay cây thiết câu lắp bên tay trái, gõ một phát trúng vào giữa lưng Lữ Thất tiên sinh. Thiết câu có chất kịch độc, nhát đâm này lại ghim sâu vào trong thịt, Lữ Thất tiên sinh không sao chống nổi, té nhào xuống nằm ngẩng mặt nhìn trời. Hà Thiết Thủ vội đưa tay phải ra, lấy tay áo dài đè lên miệng lão, đề phòng lão la lối làm kinh động người khác.

Lữ Thất tiên sinh co giật mấy cái, khẽ rên mấy tiếng rồi nằm bất động. Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Tiên sinh đừng vội vã, cứ ở đây mà đợi.” Rồi nàng dùng chân hất xác lão vào phía sau giường.

Hà Hồng Dược vô cùng kinh ngạc, cất tiếng hỏi: “Giáo chủ! Không phải chúng ta cùng lo việc cho Tào công công hay sao?”

Hà Thiết Thủ nói: “Ngũ Tiên Giáo chúng ta xưa nay độc lai độc vãng, đâu thể để bọn thái giám quát tháo chạy tới chạy lui?”

Hà Hồng Dược đáp: “Đúng vậy.”

Mụ thấy giáo chủ gặp đại sự mà đột nhiên thay đổi ý kiến, dĩ nhiên phải thắc mắc, nhưng mụ chỉ muốn gấp rút điều tra thân thế Thanh Thanh. Âm mưu thoán vị tuy là đại sự, nhưng mụ không thèm để ý, coi như việc nhỏ.

Thanh Thanh thấy Viên Thừa Chí và Uyển Nhi nắm tay nhau trốn dưới gầm giường, trông rất thân mật. Nàng không nén nổi cơn giận, chửi bới ra miệng: “Các ngươi lén lút như vậy, tưởng ta không biết gì hay sao?”

Hà Thiết Thủ mỉm cười hỏi: “Lén lút gì vậy?”

Thanh Thanh la toáng lên: “Các người bức hiếp ta, bức hiếp một kẻ khổ sở không cha không mẹ. Các người thật là vô lương tâm, đáng bị chết yểu.”

Viên Thừa Chí ngẩn ra nghĩ bụng: “Không biết Thanh đệ chửi ai?” Còn Uyển Nhi là nữ nhân tinh tế hơn, đã thấy Thanh Thanh nghi ngờ ganh tỵ với mình từ lâu rồi nên nghe là hiểu ngay. Lúc này nàng nghe Thanh Thanh chửi này mắng nọ, không nén nổi tức giận, bất giác thân hình hơi run rẩy.

Viên Thừa Chí cũng hiểu tâm ý nàng, nhưng tình thế không sao giải thích được, chỉ còn cách vỗ nhẹ lên vai để tỏ lòng an ủi.

Hà Hồng Dược bỗng gằn giọng: “Con bé kia! Ngươi đã lọt vào tay ta rồi, đâu thể nguyên vẹn ra về? Gia gia ngươi đâu? Mụ đê tiện sinh ra ngươi đâu?”

Thanh Thanh đang giận, lại nghe mụ sỉ nhục mẹ mình, không sao nhẫn nại được nữa. Nàng vớ lấy chén thuốc đang để ở đầu giường, quẳng vào mặt mụ. Hà Hồng Dược nghiêng người né tránh, cái chén đập vào tường nghe choang một tiếng, nhưng trên mặt vẫn bị không ít nước thuốc nóng bỏng văng trúng. Mụ giận dữ hét lên: “Con tiện tì kia! Chán sống rồi ư?”

Viên Thừa Chí nằm dưới gầm giường tập trung quan sát, thấy hai chân của Hà Hồng Dược rùn xuống, chuẩn bị nhảy xổ tới Thanh Thanh. Chàng bèn thủ thế, đợi mụ nhảy đến gần là lập tức tấn công vào hạ bàn. Đột nhiên có bóng trắng thoáng qua, giữa hai chân Hà Hồng Dược và chiếc giường đã có chân Hà Thiết Thủ cản trở.

Hà Thiết Thủ lên tiếng: “Cô cô! Ta đã hứa với họ Viên, phải đưa cô nương này về. Cô cô đừng để ta thất tín.”

Hà Hồng Dược cười nhạt, hỏi: “Sao phải làm thế?”

Hà Thiết Thủ đáp: “Rất nhiều người chúng ta đã bị điểm huyệt, không thể không nhờ họ Viên giải cứu.”

Hà Hồng Dược suy nghĩ một lúc rồi nói: “Được! Không giết con bé này cũng được, nhưng phải cho nó nếm chút ít cực khổ. Ta phải hủy hoại dung mạo nó, móc một con mắt nó ra. Này! Con bé họ Hạ kia! Ngươi thấy ta có xinh đẹp không?”

Thanh Thanh la lên một tiếng. Nghe tiếng la sợ hãi, cũng biết khuôn mặt xấu xí của Hà Hồng Dược lúc này trông càng đáng sợ, đang kề sát vào mặt nàng.

Hà Thiết Thủ nói: “Cô cô! Cô cô hà tất phải làm cô ấy hoảng sợ.”

Hà Hồng Dược ra vẻ không vui, nói: “Đúng rồi! Giáo chủ bảo vệ nó là muốn lấy lòng gã họ Viên. Thật là sai lầm rất lớn.”

Hà Thiết Thủ giận dữ hỏi: “Cô cô nói gì?”

Hà Hồng Dược cười nhạt, nói: “Giáo chủ nhìn kỹ xem, giáo chủ đẹp hơn hay con bé này đẹp hơn?”

Tuy Thanh Thanh đang vận nam trang, nhưng mắt phượng mày ngài, môi đỏ như trái anh đào, hai má rất trắng, nhan sắc vẫn thu hút người ta. Hà Thiết Thủ nói: “Cô nương này xinh đẹp lắm. Cô cô! Ta không kém bao nhiêu đấy chứ?”

Hà Hồng Dược nói: “Giáo chủ muốn lấy gã họ Viên, thì lấy lòng con bé này chỉ vô dụng. Phá hủy dung mạo nó là hơn.”

Hà Thiết Thủ gắt: “Ăn nói bừa bãi! Ai bảo ta muốn lấy họ Viên?”

Hà Hồng Dược nói: “Tâm sự của những cô nương trẻ, giáo chủ tưởng ta không biết hay sao? Ta cũng từng trẻ như vậy. Giáo chủ xem đi, đây là ta ngày trước.”

Nghe những tiếng sột soạt, hình như mụ đang lôi trong bọc ra vật gì đó. Hà Thiết Thủ cùng Thanh Thanh đều khẽ la lên một tiếng, nửa như kinh ngạc, nửa lại tán dương.

Hà Hồng Dược cười khổ rồi nói: “Các người ngạc nhiên phải không? Hà hà, ta đã từng xinh đẹp như thế.”

Mụ quẳng vật đó xuống. Thì ra đó là một bức tranh vẽ trên lụa.

Viên Thừa Chí từ dưới gầm giường nhìn ra, thấy tấm lụa đó vẽ một thiếu nữ khoảng hai mươi tuổi, hai má ửng hồng, mặc trang phục đầy màu sắc của tộc Bài Di, đầu quấn khăn trắng, dung mạo diễm lệ, nhìn cặp lông mày có mấy phần giống Hà Hồng Dược. Nhưng nếu nói đây là hình ảnh trong quá khứ của mụ già xấu xí này, thì thật khó mà tin được.

Lát sau, nghe Hà Hồng Dược vừa cười nấc lên vừa nói: “Tại sao bây giờ ta lại trông như xú bát quái? Tại sao, tại sao…? Đó là do thằng cha không có lương tâm của ngươi.”

Thanh Thanh cãi: “Này, gia gia ta thì liên quan gì đến bà? Ông ấy là người tốt, nhất định không có lỗi với ai.”

Hà Hồng Dược giận dữ nói: “Con bé này lúc đó chưa chào đời, làm sao biết được? Nếu hắn có lương tâm, thì ta không biến thành bộ dạng thế này, thì không có ngươi sinh ra trên đời.”

Thanh Thanh nói: “Bà càng nói càng ly kỳ cổ quái. Ngũ Độc Giáo các ngươi ở Vân Nam, còn gia gia và má má ta kết tình ở Chiết Giang. Hai nơi cách nhau không tới một vạn cũng tám ngàn dặm, làm sao liên can được?”

Hà Hồng Dược cả giận, vung quyền toan đập vào mặt nàng. Hà Thiết Thủ vội đưa tay ra cản, khuyên can: “Cô cô đừng nổi giận, có gì cứ nói từ từ.”

Hà Hồng Dược hét lên: “Gia gia của giáo chủ bị chính tên Kim Xà Lang Quân này trêu tức mà chết. Bây giờ giáo chủ lại ra sức bảo vệ con bé này, có biết xấu hổ không?”

Hà Thiết Thủ giận dữ nói: “Ai bảo vệ cô ấy? Nhưng nếu cô cô đánh cô ấy bị thương, tức là làm hại bốn mươi mấy mạng người trong giáo. Ta nghĩ cô cô là trưởng bối, đã nể mặt ba phần, nhưng nếu phạm giáo quy thì ta không thể dung tình nữa.”

Hà Hồng Dược thấy nàng dùng thân phận giáo chủ ra oai, bèn ủ rũ ngồi phịch xuống ghế, hai tay ôm đầu. Hồi lâu, mụ mới xuống giọng hỏi Thanh Thanh: “Mẹ ngươi đâu? Mẹ ngươi chắc phải đẹp tuyệt trần, là hồ ly tinh xứ Giang Nam mới mê hoặc được cha ngươi phải không?”

Mụ thở ra một hơi rồi tiếp: “Ta đã vô số lần nằm mơ thấy mẹ của ngươi, nhưng tướng mạo ả lúc nào cũng mơ mơ hồ hồ, không sao nhìn rõ. Ta thật sự muốn gặp ả. Ả có giống ngươi không?”

Thanh Thanh thở dài đáp: “Mẹ ta đã chết rồi.”

Hà Hồng Dược giật mình hỏi: “Chết rồi ư?”

Thanh Thanh hỏi lại: “Chết rồi thì sao? Bà vui lắm phải không?”

Hà Hồng Dược nghiến răng nghe rất thê thảm. Mụ nói rõ từng tiếng một: “Ta từng bức hỏi hắn, mẹ ngươi ở nơi nào, nhưng hắn quyết không chịu nói, thì ra đã chết rồi. Đúng là trời không có mắt, mối thù này ta không thể trả. Lần này phải thả ngươi về, nhưng sẽ có lúc ngươi lọt vào tay ta lần nữa… Mẹ ngươi có giống ngươi không?”

Thanh Thanh tức giận mụ buông lời vô lễ, bèn xoay người quay mặt vào giường, không lý gì đến mụ nữa.

Hà Hồng Dược nói: “Giáo chủ! Phải bắt thằng lỏi họ Viên chữa trị những người chúng ta trước, rồi mới thả con tiện tì này ra.”

Hà Thiết Thủ đáp: “Chuyện này không cần phải nói.”

Hà Hồng Dược đứng dậy đi ra phía cửa. Viên Thừa Chí thấy rõ đôi chân mụ sắp bước qua ngạch cửa, đột nhiên khựng lại, rồi quay người nói: “Gia gia con tiện nhân này đang ở đâu, ta nhất định phải hỏi rõ ràng.”

Hà Thiết Thủ nói: “Dĩ nhiên, nhưng… nhưng chúng ta không thể thất tín.”

Hà Hồng Dược nói: “Sao giáo chủ lại bảo vệ con tiện nhân này? Chắc là giáo chủ muốn lấy cảm tình thằng lỏi họ Viên kia. Để ta dạy cho giáo chủ biết xử sự hơn. Nếu giáo chủ muốn họ Viên thích mình, thì phải để ta giết con tiện nhân này. Ngô công muốn làm vua các loài độc vật thì phải cắn chết thanh xà trước, đã hiểu chưa con bé ngu ngốc kia?”

Mụ nổi giận đùng đùng, quay lại ngồi phịch xuống ghế. Trong phòng lúc này im lặng không có tiếng nói, Viên Thừa Chí và Uyển Nhi càng không dám thở mạnh.

Thanh Thanh đột nhiên vỗ mạnh lên giường, kêu la: “Sao các người chưa chịu ra đây? Đang làm gì đấy?”

Uyển Nhi kinh hãi, muốn bò ra ngoài, nhưng Viên Thừa Chí nắm chặt cổ tay nàng giữ lại.

Thanh Thanh nghe Hà Hồng Dược khuyên Hà Thiết Thủ giết mình để được Viên Thừa Chí yêu, mỗi lúc một tức giận hơn. Hai tay nàng nắm thành nắm đấm, đập loạn trên ván giường, bụi bặm rơi mù xuống gầm giường. Viên Thừa Chí suýt nữa hắt hơi, phải cố điều hòa hơi thở mới nén lại được.

Thanh Thanh nghĩ: “Chỉ có Hà Thiết Thủ và mụ ăn mày, làm gì thắng nổi đại ca? Sao phải tránh mặt chứ? Hai người nằm dưới gầm giường đang làm chuyện gì?”

Thì ra Viên Thừa Chí đang nghĩ tới âm mưu của Tào Hóa Thuần hành thích hoàng đế, lập vua khác để rước quân Thanh vào. Tuy Hà Thiết Thủ đã hứa ngăn cản âm mưu này, nhưng loại độc nữ tà giáo thì lời hứa chưa chắc đáng tin; mà cũng có thể gian mưu sẽ biến đổi gì khác, không lường trước được. Việc này liên quan đến sự tồn vong của quốc gia, muốn tuyệt đối không sơ suất thì phải kiên nhẫn giấu mình, nghe cho rõ ràng rành mạch. Dĩ nhiên Thanh Thanh không hiểu được nguyên do, nên cơn ghen giận mới bốc lên không sao kìm nổi.

Hà Hồng Dược bỗng hỏi Hà Thiết Thủ: “Cô là giáo chủ, đại sự trong giáo do cô chấp chưởng. Kim câu của giáo tổ đã truyền cho cô, thì cô có toàn quyền sinh sát. Nhưng những chuyện thê thảm mà ta gặp phải, không đủ khiến cô kinh tâm động phách mà rút ra bài học hay sao?”

Hà Thiết Thủ nói: “Lúc nào ta cũng lấy đại sự của bản giáo làm trọng, ai thèm để ý họ Viên kia?”

Hà Hồng Dược thở dài rồi nói: “Lúc động thủ với gã họ Viên, giáo chủ cứ liếc mắt đong đưa, giọng nói dịu dàng khêu gợi, không phải liều mạng sinh tử mà giống tình nhân tâm sự. Hai bên nói chuyện tình cảm như thế, ai thấy cũng phải phát tức lên.”

Hà Thiết Thủ hỏi: “Cô cô! Rốt cuộc thì Kim Xà Lang Quân có lỗi gì mà cô cô phải hận đến thế?”

Hà Hồng Dược lại la lên: “Kim Xà Lang Quân ở đâu? Ta muốn gặp hắn. Này, con tiện tì kia, ngươi có nói không? Nói ra, ta lập tức thả ngươi ngay.” Mấy câu này đương nhiên là nói với Thanh Thanh, nhưng Thanh Thanh vẫn quay mặt vào trong tường, mặc kệ mụ.

Hà Thiết Thủ nói: “Cô cô hãy nói Kim Xà Lang Quân từng có lỗi với cô cô như thế nào. Hạ cô nương là người biết phân biệt thị phi, sẽ tự nguyện dẫn cô cô đi gặp cha mình. Dù sao thì mẹ cô ấy cũng chết rồi. Đôi tình nhân tuổi già sum họp, chẳng phải chuyện tốt hay sao?”

Thanh Thanh quay mặt lại cãi: “Chỉ nói bừa! Phụ thân ta đã tuấn tú lại là đại anh hùng hào kiệt, làm sao thích được mụ già xấu xí này?”

Hà Hồng Dược nói một cách dịu dàng: “Trước đây ta không phải mụ già xấu xí đâu nhé. Gia gia cô bây giờ ở đâu? Ta muốn đi gặp hắn, không phải vì muốn hắn yêu thương mụ già xấu xí này, mà muốn hỏi một câu: Hắn tàn hại cuộc đời của ta rồi, trong lòng có thoải mái hay không. Hạ cô nương! Ta muốn kể cho cô nghe, tại sao ta quen biết cha cô, và hắn đã đối xử với ta như thế nào. Chỉ cần một chữ nửa câu giả dối, ta sẽ chịu thêm lần nữa hình phạt ngàn vạn con rắn cắn vào thân thể. Hy vọng cô hiểu được đúng sai, đối với mụ già xấu xí này sẽ có ba phần trắc ẩn. Bây giờ cô đang nằm trong tay ta, lẽ ra ta không cần cầu xin cô làm gì. Nhưng ta muốn cô hiểu rõ, Ngũ Tiên Giáo chúng ta tuy không việc ác nào không làm, giết người không run tay, nhưng về tình yêu nam nữ thì tuyệt đối không vong ân phụ nghĩa. Nếu không, hoàng thiên đã không cho Ngũ Tiên Giáo hưng vượng đến mãi hôm nay.”

Thanh Thanh nói: “Ta không thích nghe.” Nói xong, nàng thò tay kéo tấm chăn trùm kín đầu, ra vẻ không thèm nghe chuyện của Hà Hồng Dược. Nhưng cuối cùng nàng không nén nổi hiếu kỳ, lại kéo hở một góc chăn ra, nghe mụ kể chuyện cha mình năm trước.

Hà Hồng Dược không biết chuyện Hà Thiết Thủ muốn bái Viên Thừa Chí làm sư phụ để học võ công thượng thừa. Mụ lấy bụng ta so bụng người, cứ tưởng Hà Thiết Thủ đã phải lòng Viên Thừa Chí, chuyện này mụ thấy không nên. Hai mươi năm mụ tìm kiếm Hạ lang nhưng không sao gặp được, cuối cùng chỉ nhìn thấy con gái người yêu. Đó là một chút cơ hội mong manh duy nhất, mụ không nén nổi nôn nóng. Dù sao Tào thái giám cũng bắt mọi người đợi thêm một giờ, nên mụ quyết định kể lại thân thế của mình cho cô cháu gái nghe mà học hỏi, cho Thanh Thanh nghe mà động lòng, dẫn mình đi gặp cha cô ấy.

Mụ quay lại nhìn Hà Thiết Thủ, chậm rãi kể: “Chuyện này đã hơn hai mươi năm rồi. Lúc đó ta chưa lớn bằng cô bây giờ. Gia gia của cô vừa nhận chức giáo chủ, phái ta làm trang chủ Vạn Diệu Sơn Trang, trông coi những hầm nuôi rắn. Một hôm rảnh rỗi không có việc gì làm, ta liền ra sau núi để bắt chim chơi.”

Hà Thiết Thủ hỏi xen vào: “Cô cô đã làm trang chủ mà vẫn đi bắt chim về chơi hay sao?”

Hà Hồng Dược hứ một tiếng rồi nói: “Ta đã nói rồi, lúc đó ta còn rất trẻ, có thể nói là một con bé hơi to xác. Ta bắt được hai con thúy điểu, hớn hở quay về. Đi ngang một hầm rắn, đột nhiên nghe thấy trong lùm cây có tiếng sột soạt, biết có rắn chạy trốn ra ngoài, ta liền hướng theo tiếng động mà tìm, quả nhiên thấy một con ngũ hoa xà đang trườn ra ngoài. Ta rất ngạc nhiên. Lũ rắn của chúng ta rất ngoan ngoãn, xưa nay chẳng bao giờ chạy trốn, không biết con ngũ hoa xà này chuồn ra ngoài để làm gì? Vì thế ta không bắt nó lại ngay, cứ theo dõi xem sao. Cuối cùng con ngũ hoa xà đó bò ra sau lùm cây, chạy thẳng về hướng một người. Ta ngẩng mặt lên nhìn, trong lòng bỗng nhói lên một cái. Đó chính là oan nghiệp kiếp trước của ta, chính là tên ma đầu tàn hại đời ta.”

Hà Thiết Thủ hỏi: “Đó là Kim Xà Lang Quân phải không?”

Hà Hồng Dược nói: “Lúc đó ta không biết hắn là ai, chỉ thấy hắn mặt mày thanh tú, là một thiếu niên người Hán đẹp trai, tay cầm một bó nhang quấn bằng lá ngải để dụ rắn. Thì ra ngũ hoa xà ngửi thấy mùi hương, bị hắn dụ ra ngoài. Nhìn thấy ta, hắn mỉm cười một cái.”

Hà Thiết Thủ cười nói: “Lúc đó chắc cô cô đẹp lắm, hắn nhìn là mê tít ngay.”

Hà Hồng Dược hứ một tiếng, nói tiếp: “Ta đang nói chuyện đàng hoàng, cô đừng quấy rối. Lúc đó ta thấy hắn là người lạ, sợ hắn bị rắn cắn, bèn nói: Này, con rắn đó có độc. Huynh đừng động đậy, để ta đến bắt. Hắn lại mỉm cười, lấy trên lưng xuống một chiếc thùng gỗ, đặt dưới đất. Trên một góc thùng có sợi dây rất mảnh, buộc một con cóc sống vẫn đang nhảy nhót. Dĩ nhiên ngũ hoa xà muốn bắt con cóc này, bèn từ từ bò lên cái thùng gỗ đó. Nó đang vươn cổ định mổ, thì thiếu niên đó giật sợi dây, nắp thùng lập tức sập xuống. Ngũ hoa xà khoanh tròn lại, giấu bớt thân thể, nhưng thiếu niên đó lập tức thò tay trái vào trong, dùng hai ngón tay kẹp chặt cổ nó. Thủ pháp của hắn khác với chúng ta, nhưng bộ vị kẹp cổ con rắn hoàn toàn không sai lệch, ngũ hoa xà không sao động đậy nữa. Biết hắn cũng thạo nghề này, lúc đó ta mới yên tâm.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Úi chà! Cô cô mới gặp người ta mà đã quan tâm đến thế rồi ư?”

Thanh Thanh ngắt lời: “Này! Cô đừng cản trở bà ấy được không? Để bà ấy kể tiếp đi.”

Hà Thiết Thủ cười hỏi: “Cô nương nói không thích nghe mà?”

Thanh Thanh hỏi lại: “Bây giờ ta thích nghe, không được hay sao?”

Hà Thiết Thủ vừa cười vừa đáp: “Được, được! Ta không cản trở nữa.”

Hà Hồng Dược liếc nàng một cái, kể tiếp: “Lúc đó ta bỗng nghi ngờ: Người này là ai? Sao cả gan tới bắt rắn của chúng ta? Chẳng lẽ không biết oai danh của Ngũ Tiên Giáo hay sao? Sau đó hắn dùng tay phải lấy ra một thanh sắt ngắn, đưa đến bên miệng con ngũ hoa xà, nó há miệng đớp ngay. Ta chạy đến gần xem kỹ, thì ra thanh sắt này rỗng ở giữa. Nọc độc trong miệng ngũ hoa xà không ngớt chảy ra, bị hứng vào trong ống sắt. Bây giờ ta mới biết, thì ra hắn đến đây để ăn cắp nọc rắn. Chẳng trách mấy hôm nay trong hầm rắn có nhiều con không chịu ăn uống, gầy ốm phờ phạc hẳn đi. Ta kêu lên: Này, mau thả nó xuống!, đồng thời lấy cây sáo dụ rắn ra thổi. Hắn nghe âm thanh kỳ lạ, vừa ngẩng lên nhìn là bị con ngũ hoa xà quay lại mổ trúng đầu ngón tay. Hắn lập tức quẳng con ngũ hoa xà ra xa, định mở rương lấy thuốc giải. Ta liền quát: Ngươi giỏi lắm! rồi nhảy xổ vào. Nào ngờ võ công của hắn cực cao, chỉ khẽ kéo một cái đã hất ta té xuống.”

Thanh Thanh nói xen vào: “Dĩ nhiên bà không phải là đối thủ của ông ấy.”

Hà Hồng Dược lườm một cái, lại nói: “Nhưng độc tính của ngũ hoa xà lợi hại phi thường. Hắn chưa kịp lấy thuốc giải ra, chất độc đã phát tác, ngất xỉu ngay tại chỗ. Ta chạy đến nhìn, đột nhiên trong lòng có phần không nỡ, nghĩ bụng: Người còn trẻ như vậy đã mất mạng, thật là đáng tiếc. Huống chi lại giỏi võ công đến thế.”

Hà Thiết Thủ thêm vào: “Huống chi lại đẹp trai đến thế. Sau đó cô cô đưa hắn về giấu ở trong trang, lấy thuốc giải độc cho. Đến khi vết thương lành hẳn thì cô cô đem lòng yêu hắn, có phải vậy không?”

Hà Hồng Dược than thở: “Hắn chưa lành vết thương, ta đã trao trái tim mình cho hắn rồi. Lúc ấy rất nhiều sư huynh đệ trong giáo có hảo ý với ta, nhưng không biết tại sao ta đều không coi họ ra gì. Còn đối với người này thì ta thần hồn điên đảo, không sao tự chủ được. Ba ngày sau, chất độc trong người hắn đã giảm nhiều, ta đem cho thức ăn thức uống, nuôi nấng mấy ngày. Ta hỏi hắn đến đây để làm gì. Hắn nói, ta đã cứu mạng hắn nên không giấu làm chi. Hắn họ Hạ, là người Hán ở Giang Nam, đang gánh một mối huyết hải thâm thù. Đối thủ công phu rất cao, người đông thế mạnh, không biết làm sao trả được mối thù. Nghe nói Ngũ Tiên Giáo nghiên cứu độc dược giỏi nhất thiên hạ, nên hắn tìm đến Vân Nam để học công phu này…”

Nghe đến đây, Viên Thừa Chí và Thanh Thanh mới hiểu Kim Xà Lang Quân và Ngũ Độc Giáo đã quen biết nhau như thế. Ông lấy trộm nọc rắn, dĩ nhiên là để đối phó với nhà họ Ôn ở Kỳ Tiên Phái.

Hà Hồng Dược kể tiếp: “Hắn nói đã âm thầm dò xét từ lâu, học được mấy cách chế luyện thuốc độc, nên mới lén đến hầm rắn của chúng ta, ăn cắp nọc của độc xà để tẩm lên ám khí, đối phó với kẻ thù. Hai ngày sau thì vết thương của hắn khỏi hẳn, ngỏ lời đa tạ ta rồi xin cáo biệt. Lòng ta đương nhiên không nỡ, tặng hắn hai bình nọc rắn, hắn bèn vẽ cho ta bức chân dung này. Ta hỏi chuyện trả thù có khó lắm không, có cần ta giúp đỡ không. Hắn chỉ mỉm cười, nói rằng công phu của ta còn quá kém, không thể giúp được. Ta bảo hắn, trả thù xong nhớ đến thăm ta, hắn gật đầu đồng ý. Ta hỏi chừng nào đến, hắn đáp là rất khó nói. Muốn trả thù, hắn còn thiếu một món lợi khí. Nghe nói ở phái Nga Mi có một thanh bảo kiếm trấn sơn, hắn muốn tới núi Nga Mi ở Tứ Xuyên để lấy cắp. Nhưng không biết thật sự có thanh kiếm đó không, dù có thì trộm được hay không, bao giờ, không thể tính trước.”

Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Kim Xà Lang Quân đúng là bất kể tất cả, để trả được thù thì chuyện gì cũng dám làm.”

Hà Hồng Dược thở dài, tiếp: “Khi đó ta cứ mơ màng, chỉ mong hắn ở lại với mình thêm mấy ngày. Ta như phát điên phát rồ, việc gì cũng không sợ, biết rõ việc không nên làm mà cũng nhịn không nổi phải làm. Ta cảm thấy càng mạo hiểm vì hắn thì trong lòng càng vui vẻ, dù chết vì hắn cũng là cam tâm tình nguyện. Ôi! Khi đó như bị ma quỷ mê hoặc, ta nói với hắn là biết một thanh bảo kiếm sắc bén vô cùng, binh khí gì cũng chém đứt được. Hắn vui mừng đến nhảy dựng lên, vội hỏi ở đâu. Ta đáp, đó chính là Kim Xà Kiếm, đời đời lưu truyền trong Ngũ Tiên Giáo chúng ta.”

Viên Thừa Chí nghe đến đây bỗng động lòng, bất giác đưa tay sờ lại thanh Kim Xà Kiếm đang giấu bên mình. Hà Thiết Thủ từng nói, Kim Xà Kiếm là của Ngũ Tiên Giáo. Lúc đó đang đánh nhau kịch liệt, chàng tưởng đối thủ buột miệng nói bừa, thì ra thanh kiếm này có liên quan đến Ngũ Tiên Giáo thật.

Hà Hồng Dược lại tiếp: “Ta nói với hắn, thanh kiếm này là một trong tam bảo của Ngũ Tiên Giáo, cất trong Độc Long Động trên núi tuyết Ngọc Long, phủ Lệ Giang, tỉnh Vân Nam. Đó là thánh địa của Ngũ Tiên Giáo, ngoài động canh giữ vô cùng nghiêm mật. Hắn khẩn khoản nhờ ta dẫn đi trộm kiếm, hứa chỉ mượn dùng một tí, trả thù xong nhất định sẽ trả lại. Hắn cầu xin không dứt, cuối cùng ta mềm lòng ưng thuận. Ta bèn ăn cắp lệnh bài của ca ca, dẫn hắn đến Độc Long Động. Quân canh thấy lệnh bài, lại thấy ta dẫn hắn đi, nên để chúng ta vào động.”

Hà Thiết Thủ ngạc nhiên hỏi: “Cô cô! Chẳng lẽ cô cô dám mặc quần áo đi vào Độc Long Động?”

Hà Hồng Dược đáp: “Dĩ nhiên ta không dám…”

Thanh Thanh hỏi xen vào: “Tại sao vào Độc Long Động lại không dám mặc… mặc quần áo?”

Hà Hồng Dược hừ một tiếng, không đáp. Hà Thiết Thủ nói: “Trong Độc Long Động có nuôi hàng ngàn hàng vạn con Hạt Đính Xà. Khi vào động mà trên người có chỗ không thoa xà dược, bị cắn một miếng thì chẳng ai chịu nổi. Hạt Đính Xà là loại dị chủng, độc nhất thế gian, bị đớp là mất mạng trong vòng ba bước. Vì thế những ai vào động đều phải cởi hết y phục, để thoa xà dược toàn thân.”

Thanh Thanh hổ thẹn nói: “Trời ơi! Ngũ Độc Giáo các ngươi thật là… thật là…”

Hà Hồng Dược hỏi: “Thật gì mà thật? Không thế thì không thể đi vào Độc Long Động. Vì thế ta trút hết y phục, thoa xà dược đầy người, bảo hắn cũng làm thế. Hắn không thoa được kín lưng, ta bèn thoa hộ. Ôi! Nam nữ thiếu niên lõa thể, ở trong sơn động thoa thuốc cho nhau, còn giữ gìn gì được nữa? Hơn nữa, ta đã phải lòng hắn trước rồi, bèn trao tấm thân này cho hắn.”

Thanh Thanh nghe mà hai má đỏ bừng, đột nhiên nghĩ đến hai người đang nằm dưới gầm giường. Nàng lập tức quơ tay quơ chân nện ầm ầm xuống ván giường.

Hà Thiết Thủ vội khuyên: “Đó là chuyện ngày xửa ngày xưa rồi, cô nương đừng giận dữ nữa.”

Thanh Thanh quát lên: “Ta ghét nhất là loại người không biết xấu hổ.”

Viên Thừa Chí cảm thấy thân hình mềm mại của Uyển Nhi đang tựa vào lòng mình lúc này từ từ nóng rực lên. Chàng bỗng nghĩ: “Uyển Nhi đối với mình rất dịu dàng chiều chuộng, khác hẳn Thanh đệ chỉ chút xíu là nổi nóng rồi. Trời ơi! Tại sao lúc này mình suy nghĩ như vậy? Thật không biết làm sao.”

Uyển Nhi lại nghĩ: “Gia gia chết rồi, không còn ai chiếu cố, thương xót mình nữa. Chỗ dựa duy nhất trên đời, chính là tấm thân đang kề cận mình đây. Nhưng… nhưng… việc đó chắc không thành được.”

Hà Hồng Dược thở nhẹ một hơi, rồi tiếp: “Cô nương nói ta không biết xấu hổ, cũng không sai lắm. Nữ nhân Bài Di chúng ta không có nhiều quy luật thối tha như người Hán các ngươi. Ôi! Sau đó ta đẩy cánh cửa đá, dẫn hắn vào trong động. Thanh Kim Xà Kiếm và hai món bảo vật khác cùng để trong miệng của Thạch long. Hắn phi thân nhảy lên, rút thanh kiếm đó ra. Nào ngờ lòng dạ hắn không lương thiện, lấy nốt hai món báu vật kia. Đó là hai mươi bốn mũi Kim Xà Truy và một tấm bản đồ.”

Kể đến đây, mụ nhắm mắt như ngẫm nghĩ chuyện xưa, dừng lời chốc lát. Lát sau mụ thở hắt ra rồi kể tiếp: “Ta thấy hắn lấy hết ba món bảo vật, biết chuyện không hay rồi, nhất định bắt hắn đem Kim Xà Truy và tấm bản đồ trả lại vào miệng con rồng đá.”

Thanh Thanh đã biết đó là tấm bản đồ kho báu của Kiến Vân hoàng đế, nhưng giả vờ hỏi: “Bản đồ gì vậy? Phụ thân ta một lòng một dạ muốn trả thù, lấy tấm bản đồ cũ rích của Ngũ Độc Giáo có lợi ích gì?”

Hà Hồng Dược đáp: “Ta cũng không biết là bản đồ gì, nhưng đã lưu truyền rất lâu trong bản giáo. Tên vô lương tâm đó không trả lời, chỉ nhìn ta cười cười, rồi đột nhiên ôm chầm lấy ta… Sau đó ta không trách mắng gì nữa. Hắn nói, trả thù xong nhất định sẽ quay lại trả ba món bảo vật này. Từ ngày hắn đi, ngày nào ta cũng nhớ đến hắn, nhưng hai năm liền không có chút xíu tin tức gì. Sau này giang hồ đồn đại, ở Giang Nam vừa xuất hiện một quái hiệp cầm thanh quái kiếm, rất giỏi dùng Kim Xà Truy đả thương người khác, ngoại hiệu là Kim Xà Lang Quân. Ta biết nhất định là hắn, trong lòng cứ lo lắng, không biết hắn có trả được thù không. Chẳng bao lâu thì giáo chủ nghi ngờ, biết ba món bảo vật bị mất. Ông ấy điều tra, biết ta đã đưa người lạ vào trong động, nên bắt ta tự xử. Vì thế ta mới trở thành thế này.”

Thanh Thanh hỏi: “Sao bà lại xấu xí thế này?”

Hà Hồng Dược ra vẻ giận dữ, không chịu trả lời. Hà Thiết Thủ khẽ nói: “Lúc đó phụ thân ta làm giáo chủ, biết muội tử mình phạm phải tội này mà không có cách nào bảo vệ. Chiếu theo quy luật trong giáo, cô cô uống sẵn thuốc giải rồi nhảy vào trong hầm rắn, để hàng vạn con rắn cắn xé mình. Khuôn mặt cô cô trông như thế này, chính vì bị rắn cắn.”

Thanh Thanh không khỏi rùng mình. Lúc này nàng đã có phần thương cảm mụ ăn mày, bèn ấp úng nói: “Chuyện này… chuyện này… thật có lỗi với bà. Trước nay ta không biết…”

Hà Hồng Dược liếc xéo nàng, lại hừ một tiếng. Hà Thiết Thủ kể tiếp: “Sau khi dưỡng thương xong, cô cô phải ra ngoài ăn xin. Theo quy luật Ngũ Tiên Giáo chúng ta, người phạm trọng tội phải ăn xin mà sống trong vòng hai mươi năm, không được ăn cắp một đồng hay một hột cơm nào, cũng không được nhận những gì đồng đạo võ lâm trợ giúp.”

Thanh Thanh khẽ nói với Hà Hồng Dược: “Nếu gia gia đã hại bà như thế, đúng là ông ấy không tốt.”

Hà Hồng Dược đáp: “Ta bị hàng ngàn hàng vạn con rắn cắn nát người, chịu phạt ăn xin hai chục năm, nhưng đó là cam tâm tình nguyện. Lúc dẫn hắn vào Độc Long Động, kết quả thế nào ta đã biết rồi, nên không thể trách là hắn hại ta. Ta trách là trách hắn ruồng bỏ ta. Lúc ấy ta vẫn một lòng một dạ, ăn xin suốt dọc đường đến Giang Nam để tìm hắn. Vào tới địa giới tỉnh Chiết Giang, nghe tin hắn đang giết người trả thù ở Cù Châu. Ta muốn gặp mặt, nhưng hắn thần xuất quỷ nhập, không sao gặp được. Đến khi gặp thì hắn đã bị người ta bắt giữ. Cô biết ai bắt hắn không?”

Hà Thiết Thủ hỏi: “Là đám kẻ thù ở Cù Châu phải không?”

Hà Hồng Dược đáp: “Đúng vậy! Chính là bốn ông lão họ Ôn mà cô vừa gặp.”

Hà Thiết Thủ và Thanh Thanh cùng kinh ngạc “À” một tiếng. Hà Thiết Thủ thì không ngờ Ôn Thị Tứ Lão liên quan đến việc này, Thanh Thanh thì không ngờ mấy ông ngoại đã đến Bắc Kinh.

Hà Hồng Dược tiếp: “Ta nhiều lần muốn hạ độc giết hết bọn chúng, nhưng chúng đề phòng hắn hạ độc nên nước uống, thức ăn, bất cứ cái gì cũng bắt hắn nếm thử trước, nên ta không có cách nào xuất thủ. Chúng áp giải hắn đi về phía bắc, sau này ta mới biết là muốn bắt hắn giao tấm bản đồ đó ra. Một lần ta tìm được cơ hội nói chuyện mấy câu, hắn bảo: Tất cả gân cốt kinh mạch toàn thân đã bị kẻ thù cắt đứt, ta đã trở thành phế nhân. Võ công đối thủ cao cường, một mình muội chắc chắn không chống đỡ được. Trước mắt chỉ có một con đường sống, là lừa chúng lên núi Hoa Sơn.”

Hà Thiết Thủ hỏi: “Ông ấy lên Hoa Sơn để làm gì?”

Hà Hồng Dược đáp: “Hắn nói, trong thiên hạ chỉ có một người cứu nổi hắn. Người đó là Thần kiếm tiên viên Mục Nhân Thanh tiền bối, chưởng môn phái Hoa Sơn.”

Viên Thừa Chí nằm dưới gầm giường nghe kể câu chuyện kinh tâm động phách, trong lòng nảy ra những tình cảm khó mà diễn tả được. Đối với những hành động của Kim Xà Lang Quân, chàng không biết nên đau lòng, luyến tiếc hay nên thương xót. Bây giờ nghe tên sư phụ, chàng càng chú ý lắng nghe. Thanh Thanh nghe Hà Hồng Dược nhắc đến sư phụ của Viên Thừa Chí, cũng đặc biệt chú ý.

Hà Hồng Dược kể tiếp: “Ta hỏi hắn: Mục Nhân Thanh là nhân vật thế nào? Hắn đáp: Đó là một vị đại hiệp có võ công cực cao. Tuy ta chưa từng gặp, nhưng đã biết người này rất chính trực và nghĩa khí, khi thấy ta bị hành hạ thế này, nhất định sẽ ra tay cứu giúp. Ngũ Hành Trận của Ôn Thị Ngũ Lão rất lợi hại, lại thêm đạo nhân phái Không Động trợ giúp, ngoài họ Mục ra thì không ai thắng nổi. Hắn bảo ta mau mau tìm đến Hoa Sơn, khóc lóc van xin Mục đại hiệp. Ta vâng dạ đi ngay, nhưng lên tới Hoa Sơn thì Mục đại hiệp không có ở nhà, chỉ để lại một người câm điếc. Ta dùng tay nói chuyện với y cả nửa ngày, vẫn không hiểu nổi Mục đại hiệp đi đâu và bao giờ trở về.”

Nghe đến đây, Viên Thừa Chí nghĩ: “Hỏi ông câm về hành tung của sư phụ mình, đúng là chuyện không dễ.”

Lại nghe Hà Hồng Dược kể tiếp: “Ta ở lại đỉnh núi Hoa Sơn mà đợi. Một hôm thấy trên vách núi có một sơn động rất lớn, trông có vẻ cổ quái, ta bèn dùng vỏ cây để thắt một sợi dây dài, buộc vào gốc một cây thông lớn, rồi trèo xuống mà xem. Trong động có một khe núi, giống như đường hẻm vậy. Đi vào trong lại có một sơn động khác, trông như một căn phòng. Đêm đó ta ngủ lại trong động. Ba ngày sau, năm lão già họ Ôn khiêng họ Hạ lên đỉnh núi, có hai tên đạo sĩ phái Không Động đi theo. Cha ngươi lừa gạt chúng, nói tấm bản đồ tàng bảo để trên đỉnh núi Hoa Sơn, nhưng không chịu nói rõ để chỗ nào. Năm người họ Ôn không ngớt dùng cực hình hành hạ, nhưng hắn cứ nói vòng vo. Năm tên kia nổi giận, nhưng bị tiền tài che cả mắt, sợ ra tay quá nặng làm chết hắn, lại sợ hắn dù chết cũng không chịu nói, rốt cuộc là sợ không đoạt được báu vật. Ta thừa lúc chúng cãi vã nhau tâm thần bất định, lén cho mấy thang thuốc bổ. Hai tên đạo sĩ thối tha phái Không Động vừa uống là hư hỏa bốc lên, bổ chết cả hai. Lão Tam và lão Tứ nhà họ Ôn cũng uống thuốc bổ, bổ đến nỗi tay chân tê liệt, không đi lại được…”

Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Tại sao uống thuốc bổ mà chết? Hừ, bà ta đâu có lòng tốt cho địch thủ uống thuốc bổ? Thuốc bổ cái gì, chắc chắn là thuốc độc rồi.”

Hà Hồng Dược hỏi rất nghiêm trang: “Hạ cô nương! Lúc này cô có khỏe không? Để ta hốt cho cô hai thang thập toàn đại bổ, giúp cô hồi phục.”

Thanh Thanh nói: “Muốn hạ độc giết ta à? Mau mau xuất thủ đi, nhưng sau khi ta chết thì đừng hòng gặp phụ thân ta nữa.” Nàng biết Hà Hồng Dược rất mong gặp mặt cha mình, nếu giết mình thì manh mối bị cắt đứt. Dù mạng nàng đang nằm trong tay mụ, nhưng quyết không cho mụ toại nguyện.

Hà Hồng Dược tiếp: “Ta thừa lúc chúng hoảng loạn lo lắng cho nhau, tìm cách cõng tên phụ tình đó ra ngoài, trốn vào nhà Mục Nhân Thanh. Họ Mục chưa về tới Hoa Sơn, nhưng năm lão tặc họ Ôn vẫn không dám vào nhà lục soát. Chúng cứ trách móc lẫn nhau, người này mắng người kia, người kia mắng người nọ, mắng mãi không thôi. Ta cùng hắn ở trong động mấy ngày, trong lòng hoan hỉ, nói sẽ cõng hắn đi Vân Nam, chung sống suốt đời. Nhưng hắn cứ thở dài ủ rũ, nói là gân cốt tay chân đã bị cắt hết, mối thù không trả được, từ nay không muốn làm người nữa. Chúng ta không có lương thực, nên không thể ở lại trên núi lâu ngày. Đoán chắc năm lão tặc họ Ôn đã đi truy đuổi chúng ta, ta bèn cõng tên vô lương tâm kia xuống núi, tới huyện Hoa Âm. Đêm đó ta lẻn vào một nhà phú hộ, trộm đi chút ít tiền bạc, rồi tìm một gian nhà nhỏ để ở lại đó.”

“Khi hắn khỏe hơn một tí, ta bắt đầu đi bắt rắn lấy nọc độc. Hắn cũng học công phu dụng độc để bồi bổ người khác, nói rằng: Phải bồi bổ cho năm tên giặc họ Ôn mất mạng, trả mối thù này. Hắn dụng tâm viết hai quyển sách, nhờ ta ngâm một quyển vào trong thuốc bổ, để sau này năm lão tặc kia bồi bổ cho khỏe khoắn. Hắn lấy tiền đi kết giao với một tay thợ bạc giỏi, mời uống rượu ăn cơm, trở thành bạn tốt. Sau đó hắn nhờ người thợ bạc đó làm hai chiếc hộp bằng sắt, một lớn một nhỏ, bên trong có gắn cơ quan, khi mở nắp sẽ bắn tên ra. Hắn đã nghĩ sẵn phương cách, chỉ vì gân cốt trên tay đã bị cắt đứt nên không có sức để làm. Người thợ bạc theo lời chỉ điểm mà thực hiện, chế ra hai chiếc hộp sắt và những mũi độc tiễn, thủ pháp thật là tinh tế. Ta hỏi họ Hạ: Hai chiếc hộp sắt này dùng để làm gì? Hắn đáp: Một trong hai chiếc dùng để cất bí kíp và bản đồ tàng bảo đã được ngâm tẩm thuốc bổ, để dụ năm tên giặc họ Ôn mở ra. Cho dù độc tiễn bắn chúng không chết, nhất định bí kíp và bản đồ sẽ giết được chúng. Hắn còn nói: Năm tên giặc họ Ôn đã hiếu võ lại tham tiền, nhưng võ công khá cao. Ngoài cách này ra, không còn cách nào trả được mối thù nữa.”

Viên Thừa Chí nghe đến đây mới hiểu: “Kim Xà Lang Quân xếp bí kíp võ công và bản đồ vào trong hộp sắt có gắn cơ quan, là có mưu đồ sâu xa trả thù năm ông lão nhà họ Ôn. Không ngờ hộp sắt rơi vào tay mình, mà mình lại thoát khỏi đại nạn. Sống chết chỉ cách nhau đường tơ kẽ tóc, quả thật vô cùng may mắn.”

Hà Hồng Dược lại kể: “Hắn nói: Hai cái hộp sắt chứa hai loại bí kíp và bản đồ, một thật một giả, một độc một không. Sau khi trừ khử kẻ thù, không cần hại thêm những người vô tội nữa. Không biết hiện giờ hắn còn giữ cái hộp sắt đó không? Năm lão tặc họ Ôn bây giờ chỉ còn lại bốn. Sớm muộn gì ta cũng cho họ chút ít thuốc bổ, cắt lấy thủ cấp và tay chân chúng ra, đưa cho cha ngươi xem để hắn được an ủi chút ít.”

Thanh Thanh nói: “Chuyện này thì phải đa tạ bà.”

Hà Hồng Dược tiếp: “Mấy tháng sau, ta ở thị trấn Hoa Âm nhìn thấy Ôn gia ngũ tặc quay lại, nói là Kim Xà Lang Quân đã mất tích, mấy hôm nữa chúng sẽ trở lên núi Hoa Sơn để tìm manh mối. Ta về kể lại, hắn nói là đừng để mất cơ hội này. Hôm sau chúng ta mang theo hộp sắt và những quyển sách đã ngâm thuốc bổ lên núi Hoa Sơn, định ở đó mà chờ năm tên giặc kia. Chúng ta lại trú trong sơn động đó, lần này mang theo không ít lương khô, đủ sống hơn một tháng. Sắp xếp xong xuôi, trong lòng ta hoan hỉ, bèn khẽ hát mấy bài đồng dao của dân tộc Bài Di. Chắc hắn cảm ơn ta giúp đỡ, bèn giang tay ra ôm lấy. Trước đó ta biết khuôn mặt mình đã bị rắn cắn đến nỗi chẳng ai dám nhìn, nên không dám thân cận hắn. Bấy giờ trong đêm tối, hắn muốn gần gũi ta, dĩ nhiên ta để mặc. Nào ngờ ta đột nhiên ngửi thấy trên ngực hắn có mùi hương của nữ nhân, thò tay vào áo hắn thì lôi ra được một vật mềm mềm. Ta thắp mồi lửa lên, thấy đó là một cái túi nhỏ được tẩm hương thơm, thêu thùa rất tinh tế, đựng một món tóc nữ nhân và một cây kim thoa nhỏ. Ta tức đến run người, hỏi hắn đây là vật của ai. Hắn không chịu nói. Ta dọa, nếu hắn không nói thì ta không đi dụ năm tên giặc họ Ôn. Hắn cứ ngậm miệng, thần sắc rất cao ngạo. Bang chủ nhìn xem, thần sắc con bé này giống hệt cha nó năm xưa.”

Nói đến đây, giọng mụ như đẫm nước mắt. Đưa tay chỉ Thanh Thanh, mụ dừng lại một lúc mới nói tiếp được: “Ta chịu cực hình vì hắn, khổ sở vì hắn như thế, hắn lại nỡ ruồng bỏ ta, đi tìm người tình khác. Lúc đó ta chỉ muốn ép hắn nói ra, nhưng bỗng nghe thấy tiếng động nên phải ra ngoài thám thính. Thì ra Ôn thị ngũ tặc đã lên núi rồi. Chúng bàn bạc với nhau, nói Mục đại hiệp đã trở về núi, phải cẩn thận hơn. Mấy anh em họ Ôn tìm kiếm khắp nơi không thấy, lại đổ lỗi cho nhau. Năm người cãi cọ một hồi, nên bị Mục đại hiệp phát giác. Mục đại hiệp thi triển thần công khiến chúng hoảng sợ chạy xuống núi Hoa Sơn, rồi chính ông ấy cũng theo xuống núi.”

“Cả đêm hôm đó, ta cứ bắt tên vô lương tâm đó nói ra tên tuổi người tình. Nhưng hắn biết, nếu nói ra thì ta sẽ đi giết chết người trong mộng, mà võ công của hắn đã mất, không thể đến đó bảo vệ, nên cứ ngậm miệng không chịu trả lời. Ta giận dữ suốt ba ngày liền. Mỗi ngày ba lần sáng trưa tối, ta lấy roi gai quất hắn một chập.”

Thanh Thanh la lên: “Con mụ ác độc kia, dám hành hạ cha ta như thế!”

Hà Hồng Dược cười nhạt, nói: “Cái đó kêu bằng tự làm tự chịu. Ta càng đánh dữ, hắn càng cười vang. Hắn nói, không phải vì ta bị rắn cắn làm hủy hoại nhan sắc nên hết yêu ta, mà trước nay chưa từng yêu ta thật sự. Lúc ở Độc Long Động, hắn chỉ chơi qua đường mà thôi. Cả đời hắn đã có không biết bao nhiêu nữ nhân, nhưng trong lòng hắn chỉ có một vị hôn thê. Hắn khoe, hôn thê của hắn diễm lệ, dịu dàng, ngây thơ, hơn ta gấp trăm lần. Hắn nói một câu, ta quất một roi. Ta quất một roi, hắn lại tán dương con tiện tì ấy một câu. Đánh mãi đến lúc toàn thân hắn không còn miếng da nào lành lặn, tiếng cười và những câu khen tặng vợ hắn vẫn chưa dừng.”

Hà Thiết Thủ nói: “Cô cô! Có mới nới cũ là việc rất bình thường trên thế gian. Làm người mà suốt đời không thay lòng đổi dạ, chỉ biết một nữ nhân thì hiếm lắm, vạn người chưa chắc có một. Vì thế người Hán bọn họ mới nói: Bảo vật dễ tìm, tình lang khó kiếm.”

Thanh Thanh không nhịn nổi, xen vào: “Chuyện nam nữ qua đường như phụ thân ta quả là thường gặp, nhưng vẫn là việc không nên. Người Hán chúng ta rất coi trọng tình nghĩa, nên mới có câu: Nhất dạ phu thê bách dạ ân. Bất luận nam hay nữ, vong ân phụ nghĩa chính là đê tiện. Không riêng gì người Bài Di các ngươi, người Hán chúng ta cũng coi có mới nới cũ là hành vi vô sỉ.”

Viên Thừa Chí đang dựa sát Uyển Nhi dưới gầm giường, nghe đến đây bỗng rùng mình một cái, lùi ra một tấc, da thịt hai người không tiếp xúc nhau nữa.

Uyển Nhi cũng động tâm nghĩ bụng: “Phen này mình vào cung là để báo đáp ân nghĩa của Viên tướng công, liều mạng giúp chàng tìm Hạ cô nương. Bây giờ cùng chàng trốn dưới gầm giường, chỉ là chuyện bất đắc dĩ. Nếu chàng đột nhiên thân thiết với mình, không những mình là kẻ vong ân phụ nghĩa, còn liên lụy chàng trở thành kẻ vong ân phụ nghĩa. Chàng là đại trượng phu lừng danh thiên hạ, mình nhất định không thể làm hỏng tiếng tăm của chàng.”

Nàng không nén nổi mồ hôi lạnh toát ra đầy trán, bất giác lùi xa thêm mấy tấc. Lúc nãy hai khuôn mặt kề sát vào nhau, hơi thở hòa vào nhau, nhưng bây giờ đã cách xa rồi. Nghe tiếng Viên Thừa Chí thở nhẹ, Uyển Nhi nghĩ bụng: “Viên tướng công, xin lỗi nhé! Muội rất yêu tướng công, nhưng muội biết hai ta có duyên mà không có phận. Mong rằng kiếp sau sẽ được lấy tướng công.”

Nàng không biết, người lúc này Viên Thừa Chí nghĩ tới không phải là Uyển Nhi nằm bên cạnh, cũng không phải là Thanh Thanh nằm trên đầu, mà là A Cửu không biết đang ở đâu.

Hà Hồng Dược lên tiếng: “Ngươi cũng thông tình đạt lý, biết cha mình làm chuyện không tốt.”

Thanh Thanh giận dữ nói: “Vong ơn phụ nghĩa, không có lương tâm, dĩ nhiên là không tốt.”

Hà Hồng Dược gật đầu khen phải rồi kể tiếp: “Đến sáng ngày thứ ba, hai chúng ta đói đến kiệt sức. Ta phải ra ngoài hái trái cây. Khi quay về, hắn đã canh giữ ngoài cửa động, nói rằng ta chỉ cần bước vào một bước là cho ngay một kiếm. Hắn đã mất võ công, nhưng cầm Kim Xà bảo kiếm trên tay nên ta không dám xông vào. Ta nói, chỉ cần hắn cho biết tên tuổi và nơi ở của con tiện nhân kia thì ta sẽ bỏ qua những lỗi lầm của hắn đối với ta. Tuy hắn là phế nhân, ta vẫn có thể đối đãi đàng hoàng với hắn suốt đời. Hắn cười ha hả, nói rằng hắn yêu nữ nhân kia còn hơn yêu tính mạng của chính mình. Hai người cứ thế mà đối chọi, ta có thức ăn còn hắn phải nhịn đói.”

Hà Thiết Thủ buồn bã hỏi: “Cô cô để ông ấy chết đói ư?”

Hà Hồng Dược nói: “Ta không để hắn chết dễ dàng được. Mấy ngày sau, hắn đói đến mức không nhúc nhích được nữa. Ta tiến vào trong động, dùng roi quất cho hắn một trận nên thân.”

Thanh Thanh kinh hãi la lên, định nhảy xổ vào mụ, nhưng bị Hà Thiết Thủ khẽ đưa tay đè lên vai không cho động đậy. Hà Thiết Thủ lên tiếng khuyên ngăn: “Đừng nổi giận, nghe cô cô kể hết đã.”

Hà Hồng Dược lại kể: “Tuyệt đỉnh Hoa Sơn vô cùng nguy hiểm, người bị cắt hết gân cốt tay chân nhất định không thể trèo xuống. Vì thế ta yên tâm xuống núi, thám thính tin tức tình nhân của hắn. Ta muốn bắt con tiện tì đó, phá hủy dung mạo cho xấu hơn cả ta, rồi dẫn về cho hắn xem, coi thử hắn còn tán dương mụ, ca tụng mụ nữa không. Ta tìm mất nửa năm vẫn không có tin tức gì, trong lòng cứ lo Mục đại hiệp quay về núi, gặp hắn là hỏng bét. Ngày trước ta đã thấy họ Mục thi triển thần công xua đuổi bọn Kỳ Tiên Phái, thật sự cao thâm không lường nổi. Nếu tên phụ tình đó nhờ họ Mục trợ giúp, khi quay lại Hoa Sơn ta sẽ chịu nhiều đau khổ.”

“Khi ta trở về Hoa Sơn, thì không biết hắn đã đi đâu. Cửa vào sơn động đó đã bị phong kín, không thông gió nữa, nhất định hắn không còn trong đó. Ta tìm kiếm khắp nơi trên đỉnh Hoa Sơn mà chẳng thấy gì, không biết Mục đại hiệp đã cứu hắn, hay hắn tự bỏ đi đâu. Mười mấy năm nay, trên giang hồ không ai biết gì về hắn nữa. Ta hỏi khắp thiên nam địa bắc, đến nay vẫn không biết con người vô lương tâm đó còn sống hay đã chết.” Mụ còn buông lời độc địa thóa mạ một hồi.

Đến đây Viên Thừa Chí đã hiểu hết. Nhất định Kim Xà Lang Quân tự nhốt mình trong sơn động vì biết bọn ma đầu thù địch sẽ trở lại. Võ công của ông đã mất, hết đường chống đỡ. Ông tự biết mình bất nghĩa phụ tình, không muốn hạ mình cầu xin người khác, đành niêm phong cửa động, vào trong nằm chờ chết. Còn Hà Hồng Dược thì tưởng ông niêm phong cửa động rồi rời khỏi đó.

Bỗng nghe Hà Hồng Dược giận dữ hỏi Thanh Thanh: “Hừ, thì ra hắn đã tạo ra con nghiệt chủng này. Cha ngươi đang ở đâu? Vết thương của hắn có lành được không? Bây giờ hắn có vợ hay không? Ai đang chăm sóc hắn?”

Thanh Thanh đáp: “Ông ấy không có vợ, cũng không có ai chăm sóc, chỉ có một mình. Thật đáng thương!”

Hà Hồng Dược ủ rũ hỏi: “Hắn ở đâu? Ta phải đi tìm hắn.”

Hà Thiết Thủ khuyên ngăn: “Cô cô! Chúng ta còn nhiều đại sự, cô cô đừng vì ân oán riêng mình mà gây chuyện khắp nơi. Chuyện kết oán với Tiên Đô Phái, không phải do cô cô gây ra hay sao?”

Hà Hồng Dược nói: “Ai bảo lão giặc già Hoàng Mộc cứ khoe khoang bừa bãi, nói là quen biết Kim Xà Lang Quân? Ta nghe vậy, đương nhiên phải bắt về tra hỏi tung tích gã bạc tình kia.”

Hà Thiết Thủ nói: “Cô cô đã giam Hoàng Mộc đạo nhân nhiều năm như vậy, sử dụng vô số độc hình, thế mà đến nay ông ấy vẫn không nói, chắc là không biết thật. Chẳng lẽ cô cô định nhốt ông ấy tới chết hay sao?”

Thừa Chí và Uyển Nhi đều khẽ gật đầu, thầm nghĩ: “Thì ra chuyện xích mích giữa Tiên Đô Phái và Ngũ Độc Giáo xuất phát từ đây. Vậy là Hoàng Mộc đạo nhân chưa chết, chỉ bị nhốt thôi.”

Hà Hồng Dược đột nhiên la lớn: “Thằng lỏi họ Viên đang dùng Kim Xà Kiếm, lại dùng Kim Xà Truy phóng chết lũ chó. Thế thì tấm bản đồ chắc chắn cũng lọt vào tay hắn rồi. Nhất định chúng ta phải đoạt lại tam bảo từ con bé họ Hạ và thằng lỏi họ Viên. Thế thì ta dù chết cũng trả được món nợ cho liệt tổ liệt tông Ngũ Độc Giáo. Cô là giáo chủ, càng phải lo lập đại công cho bản giáo, không thì mọi người trong giáo sẽ phản lại cô. Gần đây họ đã đồn đại lung tung, ra vẻ không phục. Đây chính là cơ hội tốt để lấy lại uy tín.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười, không đáp. Hà Hồng Dược nói: “Giáo chủ ra đây, ta có chuyện cần nói với giáo chủ.”

Hà Thiết Thủ bảo: “Nói ở đây cũng vậy thôi.”

Hà Hồng Dược nói: “Không, chúng ta ra khỏi phòng đã.”

*

*   *

Hai người ra khỏi phòng, tiếng bước chân xa dần. Lúc đó Viên Thừa Chí và Uyển Nhi mới chui từ dưới gầm giường ra.

Thanh Thanh giận dữ nhìn Uyển Nhi, thấy đầu tóc bù xù, mặt dính đầy bụi. Nàng “hừ” một tiếng rồi hỏi: “Hai người nằm dưới đó làm trò gì vậy?”

Uyển Nhi ngơ ngác, hai má đỏ ửng lên, không nói được tiếng nào.

Viên Thừa Chí giục: “Thanh đệ đứng dậy nhanh lên, chúng ta mau mau trốn đi. Ở đây nguy hiểm lắm.”

Thanh Thanh giận dỗi nói: “Nguy hiểm cũng được, ta không đi.”

Viên Thừa Chí lo lắng hỏi: “Có gì thì khi về sẽ từ từ nói, sao lại mù quáng gây chuyện lúc này?”

Thanh Thanh giận dữ nói: “Đứa mù quáng này đang muốn gây chuyện đây.”

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Cô này không hiểu lý lẽ. Tình thế vô cùng nguy cấp, chần chừ thì không những hết cách thoát thân, mà trong hoàng cung còn xảy ra đại biến.”

Chàng bèn dỗ: “Thanh đệ! Thanh đệ sao rồi?”, vừa dỗ dành vừa đưa tay kéo nàng dậy.

Thanh Thanh liếc qua một cái, thấy thần sắc Uyển Nhi có phần khó chịu. Nàng nghĩ, vừa rồi cô ấy nằm dưới gầm giường với Viên Thừa Chí lâu như thế, không biết thân mật đến mức nào rồi. Lại nghĩ, khi mình không ở bên Viên Thừa Chí, không biết hai người đã tâm sự những gì. Càng nghĩ càng tức, nàng đưa tay trái túm chặt tay Viên Thừa Chí kéo lại, tay phải cào cấu như điên.

Viên Thừa Chí không đề phòng, lưng bàn tay lập tức bị móng tay của nàng cào rướm bốn đường máu. Chàng giật tay về, ngạc nhiên hỏi: “Muội làm gì thế?”

Thanh Thanh la lên: “Ta làm như vậy đó!”

Nói xong, nàng kéo chăn trùm kín đầu. Viên Thừa Chí vừa bực mình vừa lo lắng, nhưng chỉ còn cách đứng đó giậm chân.

Uyển Nhi bỗng lên tiếng: “Viên tướng công! Tướng công ở đây bảo vệ Hạ cô nương, tiểu muội ra ngoài một chút sẽ quay lại ngay.”

Viên Thừa Chí ngạc nhiên hỏi: “Lúc này cô còn muốn đi đâu?”

Uyển Nhi không trả lời, đẩy cửa sổ nhảy ra ngoài. Viên Thừa Chí ngồi lên giường, khẽ kéo Thanh Thanh một cái. Nàng xoay phắt lưng lại, quay mặt vào trong tường. Viên Thừa Chí không biết làm gì, cũng không dám bỏ đi vì sợ nàng gặp nguy hiểm, đành vỗ nhẹ lên lưng Thanh Thanh an ủi.

Đột nhiên ngoài cửa sổ có tiếng động. Uyển Nhi và La Lập Như trước sau nhảy vào phòng. Thanh Thanh nằm trong chăn thò đầu ra, sắc mặt vẫn hầm hầm.

Uyển Nhi nghiêm trang nói với Viên Thừa Chí: “Viên tướng công! May có tướng công giúp đỡ, muội đã trả được đại thù. Sáng sớm mai, muội sẽ trở về Mã Cốc Sơn. Phụ thân muội lúc sinh tiền rất khâm phục tướng công. Tướng công đã truyền độc tí đao pháp cho La sư ca, coi như sư phụ của huynh ấy. Vì thế hai người bọn muội có việc cầu xin tướng công.”

Viên Thừa Chí nói: “Những chuyện này không gấp, chúng ta ra khỏi cung rồi nói tiếp.”

Uyển Nhi nói: “Không được! Ngay bây giờ bọn muội muốn nhờ tướng công làm chủ hôn, tác hợp cho muội và La sư ca thành phu phụ.”

Câu này vừa nói ra, chẳng những Viên Thừa Chí và Thanh Thanh giật mình, La Lập Như còn kinh ngạc hơn nhiều. Y ấp úng: “Sư… sư muội… sư muội nói gì?”

Uyển Nhi hỏi: “Sư ca không thích muội ư?”

Mặt La Lập Như đỏ hẳn lên, lại ấp úng: “Ta… ta… thích…”

Thanh Thanh vô cùng hoan hỉ, bao nhiêu bực dọc nghi ngờ lúc nãy trôi sạch, mỉm cười nói: “Hay lắm! Chúc mừng hai vị.”

Viên Thừa Chí biết Uyển Nhi đành lòng chịu lấy vị sư ca cụt tay là để tỏ ra hoàn toàn không nghĩ đến mình, phải vội vã như vậy là để lúc này Thanh Thanh khỏi nghi ngờ. Đây cũng là một hành động báo ân, chàng bất giác nảy lòng cảm kích.

Bây giờ Thanh Thanh mới hiểu ra dụng ý. Nàng cảm thấy áy náy, nắm tay Uyển Nhi mà nói: “Muội muội! Ta vô lễ rồi, muội đừng trách nhé.”

Uyển Nhi rơi nước mắt nói: “Làm sao muội dám trách tỉ tỉ?”

Nghĩ đến sự hy sinh mình vừa phải chịu, bất giác nàng nhìn sang Viên Thừa Chí một cái, lệ chảy thành dòng. Nước mắt Thanh Thanh cũng ứa ra.

Đột nhiên ngoài cửa lại có tiếng bước chân vọng tới, lần này phải bảy tám người. Viên Thừa Chí dùng tay ra hiệu, La Lập Như khẽ đẩy cửa sổ ra. Viên Thừa Chí vẫy tay bảo ba người thoát nhanh ra khỏi cung. La Lập Như lập tức nhảy qua cửa sổ, Uyển Nhi và Thanh Thanh nhảy theo sau.

Nghe giọng Hà Thiết Thủ hét lên: “Không ai được phép vào trong đó.”

“Bình” một tiếng, Hà Hồng Dược đã đá bật cửa phòng, nhảy xổ vào trong. Viên Thừa Chí bèn nhún chân một cái, nhảy ra ngoài cửa sổ. Hà Hồng Dược thoáng thấy lưng chàng, kêu lớn: “Nhanh lên, nhanh lên! Con bé kia chạy thoát rồi.”

Hà Thiết Thủ chạy vào trong phòng, thấy cửa sổ mở toang, trên giường trống rỗng, lập tức nhảy theo ra cửa sổ. Nàng nhìn kịp bóng người chạy vào lùm cây phía trước, liền chạy theo vào. Thật ra nàng đuổi theo là để hộ tống Thanh Thanh khỏi cung, sợ Thanh Thanh trúng độc thủ của thuộc hạ mình hay bị thị vệ đả thương thì mình có lỗi với Viên Thừa Chí, chuyện bái sư chắc chắn không được như ý muốn.

Hà Hồng Dược và đám giáo đồ Ngũ Độc Giáo còn lại cũng đuổi theo. Mọi người đuổi rất gắt, nhưng không lên tiếng hò hét vì sợ làm kinh động cấm cung. Lúc này Sấm quân gần tới kinh thành, trong kinh đã đại loạn. Thị vệ và thái giám đã chạy trốn không ít, số thái giám còn ở lại đều không giữ đúng chức phận nữa. Hoàng đế không thể làm chủ tình hình, tuy vẫn đưa ra những hiệu lệnh khoa trương, nhưng cung cấm không còn uy nghiêm như lúc bình thường. Mọi người rượt đuổi nhau trong cung, thế mà không ai phát giác.

Viên Thừa Chí thấy Hà Thiết Thủ dẫn thuộc hạ đuổi theo không chịu thả, nghĩ bụng: “Lúc này ba người Thanh Thanh chạy chưa xa lắm.” Vì thế chàng cứ không nhanh không chậm, dụ mọi người đuổi theo mình mấy vòng trong ngự hoa viên. Lát sau chàng cho rằng ba người Thanh Thanh đã rời khỏi hoàng cung, thấy trước mắt có một tòa cung điện, bèn lập tức chuồn vào bên trong. Vừa vào trong cửa đã cảm thấy hương thơm ập vào mũi. Chàng tiện tay đẩy một cánh cửa ra, nép vào sau cửa.

*

*   *

Định thần nhìn lại căn phòng này, bất giác Viên Thừa Chí đỏ mặt lên. Ở đây mùng màn chăn gối đều bằng gấm thêu đẹp đẽ, rèm châu mềm mại, sàn trải thảm màu vàng lông ngỗng có thêu một đóa hồng rất lớn. Trên bàn đặt bên cửa sổ có để rất nhiều thứ trang điểm thiếu nữ thường dùng, cách bài trí chỗ nào cũng tinh xảo. Xem ra đây là phòng ngủ của một vị phi tần.

Chàng biết trốn ở đây không ổn, đang muốn lùi ra đột nhiên nghe thấy ngoài cửa có tiếng bước chân nhè nhẹ, rồi giọng thiếu nữ cười nói. Chàng nghĩ bụng: “Bây giờ mà chạy ra ngoài, nhất định sẽ bị bắt gặp. Nếu họ kêu cứu thì trong cung đại loạn, Tào Hóa Thuần sẽ tạm gác gian mưu lại, không chừng sẽ có mưu đồ gì khác mà mình không thể biết.” Chàng bèn nép mình nấp sau một tấm bình phong có vẽ một bức mỹ nhân đồ.

Cửa mở ra, bốn cung nữ đưa một cô gái vào phòng. Một cung nữ hỏi: “Công chúa nghỉ ngơi, hay đọc sách một lát nữa?”

Viên Thừa Chí nghĩ: “Thì ra đây là tẩm cung của công chúa. Chỉ mong nàng ngủ cho nhanh, đừng đọc sách gì hết.”

Công chúa ừ một tiếng, rồi ngồi lên giường. Thanh âm nàng phát ra thật là dịu dàng. Một cung nữ nói: “Đốt hương lên nhé?”

Công chúa lại ừ một tiếng. Chẳng bao lâu, làn khói mỏng nhẹ bay lên, hương thơm ngào ngạt khắp phòng. Viên Thừa Chí cảm thấy sảng khoái, nhưng lại có phần mệt mỏi.

Công chúa lên tiếng: “Đem bút mực ra đây, rồi các ngươi ra ngoài đi.”

Viên Thừa Chí hơi kinh ngạc, nghĩ thầm: “Giọng nói này quen thuộc, hình như là A Cửu. Ôi! Sao ta mãi tơ tưởng đến nàng chi vậy? Mỗi ngày mười bảy mười tám lần vẫn chưa đủ, thật quá hồ đồ.” Chàng bắt đầu sốt ruột, nghĩ: “Nếu bây giờ công chúa vẽ tranh, thì không biết đến bao giờ mới vẽ xong?”

Bọn cung nữ bày xong bút mực đan thanh, vấn an công chúa rồi thi lễ lùi ra hết. Lúc này trong phòng hoàn toàn im lặng, không có tiếng nói, chỉ có tiếng lách tách của gỗ đàn hương cháy trong lư. Thừa Chí lại càng không dám động đậy.

Bỗng nghe công chúa thở ra một hơi, rồi cất giọng ngâm thơ khe khẽ:

“Thanh thanh tử câm; Du du ngã tâm; Túng ngã bất vãng; Tử ninh bất tự âm.

Thanh thanh tử bội; Du du ngã tư; Túng ngã bất vãng; Tử ninh bất lai.

Thao hề, đạt hề; Tại thành khuyết hề; Nhất nhật bất kiến; Như tam nguyệt hề”

(Xanh xanh màu áo chàng ơi

Lòng em man mác nhớ hoài người thương

Em không đến được cùng chàng

Lẽ nào chẳng gởi tin sang một lời

Xanh xanh là mũ chàng rồi

Lòng em thương nhớ bời bời khó nguôi

Em chẳng đến được chàng ơi

Sao chàng chẳng tự đến nơi tỏ tình

Bước lui bước tới một mình

Chỉ em vò võ trong thành buồn sao

Một ngày chẳng được gặp nhau

Dài như ba tháng âu sầu nhớ nhung)

Thanh âm của công chúa vô cùng uyển chuyển dịu dàng, dĩ nhiên là một thiếu nữ còn rất trẻ. Viên Thừa Chí không hiểu hết, nhưng nghe qua “Túng ngã bất vãng; Tử ninh bất lai… Nhất nhật bất kiến, Như tam nguyệt hề”, cũng biết bài cổ thi này diễn tả mối tương tư ở trong lòng. Càng nghe chàng càng cảm thấy giọng nói này quen thuộc. Ngẫm nghĩ một hồi, chàng bỗng thấy tự buồn cười: “Mình là một tên giang hồ thảo mãng, cả đời chưa vào tới kinh sư, đâu thể quen biết một công chúa kim chi ngọc diệp? Chỉ vì mình thường xuyên nghĩ đến A Cửu, nên gặp ai cũng tưởng là A Cửu.”

Công chúa bước đến chiếc bàn. Lát sau nghe tiếng giấy sột soạt và tiếng mài màu vẽ, tiếng bút lướt trên giấy.

Viên Thừa Chí cảm thấy bực bội. Chàng nhìn kỹ chung quanh, cửa phòng đã đóng, lại đối diện với công chúa. Cửa sổ thì màn châu đã buông xuống, muốn ra ngoài chỉ có một cách là xông bừa ra. Hồi lâu, nghe công chúa ngáp một tiếng dài, sau đó lẩm bẩm tự nói với mình: “Thiếp thì thần hồn điên đảo, ngày nào cũng nghĩ đến tướng công. Còn tướng công có lúc nào nhớ đến thiếp chăng?”

Nghe tiếng nàng đứng dậy, rồi tiếng sột soạt cất bức tranh. Cuối cùng là tiếng ghế xê dịch, rồi thanh âm uyển chuyển lại vang lên: “Tướng công ở đây với thiếp nhé.” Cuối cùng là tiếng cởi bỏ y phục, nàng lên giường.

Viên Thừa Chí hiếu kỳ, muốn xem công chúa vẽ người trong mộng ra sao, bèn thò đầu ra nhìn. Chàng không nén nổi giật mình kinh hãi.

Hình vẽ trong tranh giống hệt chàng. Định thần nhìn kỹ lại, chàng thấy người trong tranh khoác trường bào màu xanh dương, ngang lưng thắt sợi dây xanh, miệng đang mỉm cười, mày đậm, mắt to, cằm hơi nhọn, không phải chàng thì còn ai nữa? Người trong tranh tuấn tú hơn chàng rất nhiều, một tay giang hồ thảo mãng đã hóa thân thành một chàng trai mặt ngọc môi hồng. Nhưng dung mạo chẳng khác gì nhau, nhất là thắt lưng đeo một thanh kiếm lượn cong như con rắn, kiếm quang xán lạn, mũi kiếm chẻ đôi. Trên thiên hạ chỉ có một thanh kiếm như thế, dứt khoát không có thanh thứ hai.

Viên Thừa Chí không sao ngờ được người mà công chúa vẽ chính là mình. Chàng kinh ngạc tới mức không kìm nổi buột miệng một tiếng.

Công chúa nghe sau lưng có tiếng người, liền đưa tay rút cây ngọc trâm trên đầu, không quay người lại mà phóng ngay tới chỗ phát ra âm thanh. Viên Thừa Chí thấy ngọc trâm bắn đến mặt mình, lập tức đưa tay chụp lấy. Lúc này công chúa mới quay mặt lại. Hai người nhìn thấy nhau, đều ngẩn mặt ra.

Thì ra cô công chúa này không phải ai xa lạ, chính là A Cửu, đồ đệ của Trình Thanh Trúc. Thừa Chí từng thấy nàng có tùy tùng là thị vệ, đã biết nàng không phải tầm thường, nhưng không ngờ nổi nàng là công chúa.

A Cửu đột ngột nhìn thấy Viên Thừa Chí, mặt tái mét ngay, đưa tay vịn vào ghế như suýt té ngã. Nhưng chỉ chốc lát là nàng hai má đỏ hồng, định thần lại rồi lên tiếng: “Viên tướng công! Tướng công… tại sao… tại sao tướng công ở đây?”

Viên Thừa Chí thi lễ rồi nói: “Tiểu nhân lạc bước vào tẩm cung của công chúa điện hạ, tội đáng chết.”

Mặt A Cửu đỏ bừng lên. Nàng bảo: “Ngồi xuống rồi hãy nói chuyện.” Đột nhiên nàng nhìn thấy tấm áo mình vừa cởi ra khi nãy, lập tức nhảy lên giường, kéo chăn phủ lên thân dưới.

Bọn cung nữ ở ngoài gõ cửa, hỏi: “Công chúa vừa gọi phải không?”

A Cửu đáp: “Không… không có. Ta đang xem sách. Các ngươi đi nghỉ đi, không cần thị phụng ta nữa.”

Cung nữ nói: “Vâng! Công chúa nghỉ sớm nhé.”

A Cửu dùng tay ra hiệu với Viên Thừa Chí, khẽ mỉm cười. Thấy chàng cứ nhìn chòng chọc vào bức tranh đặt trên ghế, nàng không nén nổi hổ thẹn, liền đưa tay đẩy cái ghế qua một bên. Hồi lâu hai người không ai nói tiếng nào, bốn mắt nhìn nhau. Sau đó A Cửu cúi đầu xuống.

Ruột gan Viên Thừa Chí sôi sục hẳn lên. Từ ngày gặp ở Sơn Đông, về sau chẳng có ngày nào chàng không tơ tưởng đến A Cửu, lúc nào trong lòng cũng hiển hiện hình ảnh diễm lệ chẳng ai sánh được của A Cửu. Lúc này được gặp, chàng mừng rỡ đến điên cuồng, cả người nóng rực, nhất thời không nghĩ được gì để nói.

Lát sau Viên Thừa Chí mới khẽ hỏi: “Công chúa biết Ngũ Độc Giáo chứ?”

A Cửu gật đầu đáp: “Tào công công nói Lý Sấm đã phái rất nhiều thích khách đến kinh sư quấy nhiễu, nên công công mời một số cao thủ vào cung hộ giá, có cả Ngũ Độc Giáo.”

Viên Thừa Chí nói: “Sư phụ của công chúa, Trình lão phu tử đã bị họ đả thương. Công chúa có biết không?”

A Cửu biến sắc, nói: “Họ dám đả thương sư phụ của ta ư? Ông ấy bị thương có nặng không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Không nguy hiểm lắm.” Chàng đứng dậy rồi nói: “Đêm hôm khuya khoắt không tiện nhiều lời. Bọn tại hạ đang ở hẻm Chính Điện Tử. Ngày mai công chúa có thể đến thăm sư phụ hay không?”

A Cửu đáp: “Được.” Nàng trầm tư một chút, mặt lại đỏ lên, nói: “Tướng công mạo hiểm vào cung để thăm ta, ta… ta rất cảm kích…”

Thần sắc nàng càng lúc càng bối rối, thanh âm càng lúc càng không rõ: “Bây giờ tướng công đã thấy bức tranh ta vẽ. Thế thì tâm sự… tâm sự của ta… tướng công… tướng công đã hiểu rồi…”

Những tiếng sau cùng nhỏ xíu như tiếng muỗi vo ve, hầu như không thể nghe thấy.

Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Hỏng bét! Công chúa vẽ chân dung mình, chắc đã có tình ý rồi, bây giờ lại hiểu lầm mình vào trong cung là để thăm nàng. Chuyện này phải nói rõ ràng mới được.”

Lại nghe công chúa nói: “Từ ngày gặp gỡ ở Sơn Đông, tướng công ngăn cản Chử Hồng Liễu làm hại ta, ta vẫn thường nhớ đến ân đức của tướng công… Tướng công xem bức tranh này vẽ có giống không?”

Viên Thừa Chí đi đến bên giường, khẽ nói: “Công chúa! Tại hạ vào cung là để…”

A Cửu ngắt lời chàng, dịu dàng nói: “Huynh đừng gọi ta là công chúa điện hạ, mà ta cũng không gọi huynh là Viên tướng công nữa. Ngày đầu quen biết, ta là A Cửu, thế thì vĩnh viễn ta là A Cửu. Ta từng nghe Thanh tỉ gọi huynh là đại ca, trong lòng vẫn nghĩ, giá có một ngày ta cũng có thể gọi như thế thì hay biết mấy.”

Viên Thừa Chí nói: “Nếu cô nương gọi ta là đại ca, không chừng ta sẽ mừng rỡ đến mức vỡ tim mà chết.”

Chàng đột nhiên nghĩ đến lúc cùng Thanh Thanh nghe hai người ca nữ hát bài Quải Chi Nhi trên sông Tần Hoài, có câu: Nếu đã thương nhau chân thật; Gọi thế nào cũng là thương. Mặt chàng cũng đỏ bừng lên.

A Cửu cúi đầu xuống, dịu dàng gọi: “Đại ca!” Nàng đưa tay ra, nắm chặt đôi tay Viên Thừa Chí. Chàng khẽ gọi lại: “A Cửu!”

A Cửu nói: “Muội vừa sinh ra, khâm thiên giám đã đoán số mạng, nói rằng nếu muội được chiều chuộng trong hoàng cung sẽ chết yểu, nên phụ vương mới cho muội ra ngoài.”

Viên Thừa Chí nói: “Chẳng trách muội theo Trình lão phu tử để học võ công, lại theo ông ấy bôn tẩu giang hồ.”

A Cửu nói: “Muội ra ngoài thêm phần kiến thức, biết dân chúng thật là khổ sở. Tuy muội vẫn thường lấy tiền bạc trong cung ra bố thí cho họ, nhưng làm sao nuôi được cả thiên hạ?”

Thấy nàng cũng hiểu dân gian khổ ải, Viên Thừa Chí bèn nói: “Thế thì muội nên khuyên hoàng thượng thi hành nhân chính. Nếu bá tính no cơm ấm áo, thiên hạ đương nhiên sẽ được thái bình.”

A Cửu thở dài rồi nói: “Nếu phụ vương chịu nghe lời trình tấu thì hay quá. Phụ vương bị bọn gian thần xu nịnh, cứ tưởng mình làm chuyện gì cũng đúng. Ông ấy trách móc văn võ bá quan không chịu ra sức diệt bọn lưu khấu. Muội từng nói với phụ hoàng: Lưu khấu cũng là bá tính. Nếu có cơm ăn, cuộc sống chấp nhận được, thì lưu khấu sẽ trở thành bá tính. Không thì bá tính sẽ bị ép thành lưu khấu. Tiểu muội lại nói: Phụ vương không thể giết hết bá tính trong thiên hạ được. Ông ấy lập tức nổi giận, kêu trời rồi quát tháo: Ai cũng phản ta, ngay cả đứa con gái ruột cũng phản ta.”

Viên Thừa Chí khen: “Muội thật là người hiểu biết, kiến thức còn hơn hoàng thượng…” Chàng bỗng nghĩ: “Có nên nói cho nàng biết gian mưu của Tào Hóa Thuần không?”

A Cửu đột nhiên hỏi: “Trình lão phu tử có nhắc đến thân thế của muội không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Không. Ông ấy nói là đã lập lời trọng thệ, quyết không tiết lộ thân thế của muội. Lúc đó ta cứ tưởng là việc liên quan đến ân oán hay bí mật gì đó trên giang hồ, không sao ngờ nổi muội là công chúa.”

A Cửu nói: “Trình sư phụ vốn là thị vệ của phụ vương. Hồi nhỏ tiểu muội ham vui, từng học võ với ông ấy. Không biết ông ấy phạm phải tội gì mà phụ vương sai người bắt trói, định giết. Tiểu muội chờ đêm tối, lén thả ông ấy ra. Sau này tiểu muội ra ngoài cung săn bắn, gặp lại thì ông ấy đã là bang chủ Thanh Trúc Bang rồi.”

Viên Thừa Chí gật đầu, thầm nghĩ: “Trình lão phu tử từng kể, hành thích hoàng đế bị bắt rồi được người khác cứu, thì ra là cô ấy.”

A Cửu hỏi: “Không hiểu sao ông ấy gây thù với Ngũ Độc Giáo?”

Viên Thừa Chí định nói: “Ngũ Độc Giáo muốn hại phụ thân muội. Chắc chắn họ thám thính được mối liên quan giữa muội với Trình lão phu tử, sợ họ Trình phá hỏng đại sự, nên ra tay trừ khử trước”. Đột nhiên chàng thấy ngọn nến đã ngắn đi một khúc, bèn nghĩ: “Thời gian cấp bách, mình nói chuyện với nàng lâu quá rồi.”

Chàng lập tức đứng dậy, lên tiếng: “Ngày mai chúng ta nói chuyện tiếp nhé!”

A Cửu ửng đôi gò má e lệ, từ từ gật đầu, hai tay vẫn nắm chặt lấy tay chàng không nỡ buông ra.

Ngay lúc đó, có tiếng gõ cửa gấp rút. Mấy người đồng thời hô hoán: “Công chúa điện hạ mau mau mở cửa”.

Hồi 18: Máu hồng nhan vấy kiếm – Quân hắc giáp nhập kinh

A Cửu giật mình kinh hãi, hỏi: “Gì thế?”

Một cung nữ kêu lên: “Điện hạ! Điện hạ không sao đấy chứ?”

A Cửu đáp: “Ta ngủ rồi. Có việc gì không?”

Cung nữ ấy đáp: “Có người thấy thích khách lẻn vào cung điện chúng ta.”

A Cửu giận dữ gắt: “Nói bậy! Thích khách gì ở đây?”

Một giọng nữ khác nói: “Điện hạ! Để bọn nô tì vào xem cho chắc.”

Viên Thừa Chí kề tai A Cửu nói nhỏ: “Hà Thiết Thủ!”

A Cửu lớn tiếng: “Nếu có thích khách thì làm sao ta ngủ yên được? Mau đi đi, đừng ở đây làm rộn nữa.”

Những người ngoài cửa nghe công chúa nổi nóng, không dám nói tiếp.

Viên Thừa Chí nhẹ nhàng bước tới cửa, vén một góc màn lên định nhảy ra ngoài. Đột nhiên chàng thấy sáng lòa cả mắt. Viên Thừa Chí nhìn ra ngoài, thấy mười mấy người cầm đuốc canh gác. Chàng nghĩ: “Nếu mình xông bừa ra thì không ai cản nổi, nhưng như thế thì danh dự công chúa sẽ bị hoen ố. Mình không thể làm được”.

Chàng bèn quay lại, khẽ nói tình hình ngoài cửa. A Cửu chau mày, nói nhỏ: “Không sợ! Đại ca ở lại đây một chút là được.” Thế là Thừa Chí lại ngồi xuống.

Chẳng bao lâu, lại có người gõ cửa. A Cửu giận dữ hỏi: “Ai làm gì đó?”

Lần này, giọng đáp là của Tào Hóa Thuần: “Nô tài là Tào Hóa Thuần đây. Hoàng thượng nghe nói thích khách vào cung, rất không yên tâm, sai nô tài đến đây vấn an điện hạ.”

A Cửu nói: “Không dám phiền đến Tào công công. Tào công công về đi, ở đây không có gì cả.”

Tào Hóa Thuần nói: “Điện hạ thân trọng ngàn vàng, để nô tài vào xem qua một vòng hay hơn.”

A Cửu biết, khi Viên Thừa Chí chạy vào đây đã bị người ta nhìn thấy, nên họ quyết phải tìm cho ra. Điều nàng không hiểu là tại sao Tào Hóa Thuần nhúng tay vào việc này. Đó là vì đêm nay hắn cử sự mưu hại hoàng đế. Tào Hóa Thuần biết công chúa có võ công, lại quen biết nhiều nhân vật giang hồ. Nghe Hà Thiết Thủ báo có người trốn vào trong đó, hắn sợ công chúa hẹn người đến giúp, nên không thể không xem xét rõ ràng.

Tào Hóa Thuần ở trong cung rất có thế lực, ngay cả công chúa cũng không thể đương nhiên cãi lại. Nàng suy nghĩ một chút, vừa hổ thẹn mỉm cười vừa đưa tay ra hiệu với Thừa Chí, bảo chàng chui vào trong chăn.

Thừa Chí không còn cách nào nữa, liền cởi giày ra đặt vào trong bọc, leo lên giường nằm bên A Cửu, kéo chăn trùm kín. Từng đợt hương thơm ngọt ngào xông vào cả mũi lẫn miệng chàng.

Ngoài phòng Tào Hóa Thuần không ngừng hối thúc. A Cửu lên tiếng: “Được rồi! Vào đây điều tra đi.”

Viên Thừa Chí nằm cạnh A Cửu trên giường, y phục dính sát vào nhau, đôi chân trần chạm vào chân nàng cảm thấy làn da dịu dàng trơn mịn, dĩ nhiên trong lòng đầy cảm xúc. Chàng biết Tào Hóa Thuần cùng Hà Thiết Thủ đã tiến vào phòng nên không dám động đậy; nhưng cảm giác thấy thân hình A Cửu hơi run rẩy.

A Cửu giả vờ mới thức giấc, ngáp dài rồi nói: “Tào công công! Đa tạ công công đã lưu tâm.”

Tào Hóa Thuần nhìn quanh phòng không thấy gì lạ. Hà Thiết Thủ vờ đánh rơi khăn tay xuống đất để cúi nhặt, nhân tiện đưa mắt nhìn vào gầm giường. Trước đây Viên Thừa Chí cùng Uyển Nhi đã từng chui xuống gầm giường, nàng sợ sư phụ bổn cũ soạn lại.

A Cửu cười hỏi: “Xem kỹ gầm giường rồi chứ? Ta không giấu thích khách phải không?”

Hà Thiết Thủ nói: “Điện hạ minh giám! Tào công công chỉ sợ điện hạ bị hoảng sợ mà thôi.”

Nàng quay đi chỗ khác, chợt nhìn thấy bức tranh vẽ Viên Thừa Chí. Hà Thiết Thủ ngẩn ra một chút, rồi đưa mắt nhìn như tên bắn vào khuôn mặt đẹp đẽ của A Cửu, ánh mắt đầy vẻ giễu cợt, chẳng tốt lành gì. Mặt A Cửu vốn đã đỏ rồi, bị nhìn như vậy càng không dám ngẩng đầu lên.

Tào Hóa Thuần nói: “Điện hạ ở đây vô sự, thế thì hoàng thượng yên tâm rồi. Chúng ta điều tra nơi khác đi.”

Hắn quay lại dặn bốn ả cung nữ: “Các ngươi ở đây với điện hạ, không được rời khỏi. Dù điện hạ cho phép, cũng không được biếng nhác mà ra ngoài nghỉ. Đã biết chưa?”

Bốn ả đều khom lưng nói: “Xin nghe công công chỉ dạy.” Sau đó Tào Hóa Thuần, Hà Thiết Thủ cùng những cung nữ còn lại thỉnh an cáo từ.

A Cửu bảo: “Buông màn xuống. Ta ngủ đây.”

Hai ả cung nữ bước tới, nhẹ nhàng buông màn xuống, bỏ thêm chút ít gỗ trầm vào lư hương, thắp nến đỏ lên, rồi ra một góc phòng ngồi canh gác.

A Cửu nửa mừng nửa thẹn, bỗng dưng được ngủ cùng giường với ý trung nhân mà mình đêm ngày tương tư, bất giác say sưa khó tả. Đưa mắt nhìn mấy gợn khói đàn hương thoang thoảng bay lên phía trên bức màn, nàng cảm thấy trái tim mình cũng như làn khói đó, phất phơ không sao yên ổn được. Nàng rụt người về phía sau, rúc vào trong lòng Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí đưa cánh tay ra quàng lấy hông nàng, bỗng nghĩ: “Mình vừa chui xuống gầm giường nằm với Uyển Nhi, hai người cũng sát nhau như vậy. Bây giờ tình thế lại bắt buộc ôm công chúa. Hai cô đều dịu dàng khả ái, nhưng về dung mạo thì A Cửu xinh đẹp gấp mười Uyển Nhi. Từ lúc gặp nhau ở Sơn Đông mình cứ ngày đêm tơ tưởng, không ngờ hôm nay được ôm người ngọc vào lòng.” Chàng vừa hoan hỉ vừa âm thầm lo lắng.

Trong lòng A Cửu lại nghĩ: “Có phải chuyện thật không? Hay mình lại nằm mơ rồi?”

Hồi lâu, bỗng nghe Viên Thừa Chí nói rất nhỏ: “Làm sao bây giờ? Ta phải tìm cách ra ngoài chứ?”

A Cửu khẽ “À” một tiếng. Bỗng dưng nàng ngửi thấy mùi thân thể nam nhân của Viên Thừa Chí, một đợt hoan hỉ ngọt ngào lại trào lên trong lòng, bèn nhẹ nhàng tựa vào sát người chàng thêm chút nữa. Đột nhiên vai trái và đùi trái đụng phải vật gì lạnh ngắt, nàng kinh hãi đưa tay sờ thử. Thì ra đó là một thanh kiếm đã tuốt khỏi vỏ, đặt giữa hai người.

A Cửu nhẹ nhàng hỏi: “Cái gì vậy?”

Viên Thừa Chí đáp: “Ta đã nói rồi, muội đừng trách.”

A Cửu hỏi: “Ai trách ca ca?”

Viên Thừa Chí khẽ nói: “Ta vô ý xông vào phòng của muội, nằm chung thế này là do tình thế ép buộc. Ta không phải loại người vô lễ như thế.”

A Cửu nói: “Ai trách ca ca? Lấy thanh kiếm ra đi, kẻo muội bị thương.”

Viên Thừa Chí nói: “Tuy chúng ta giữ lễ với nhau, nhưng nằm cùng giường với một cô nương diễm lệ thế này, ta sợ không làm chủ được mình…”

A Cửu mỉm cười, dịu dàng ngắt lời: “Nên ca ca mới đặt thanh kiếm vào giữa… Ca ca ngốc nghếch ơi…”

Hai người sợ đám cung nữ ngoài màn nghe thấy, nên đều rúc sâu vào trong chăn, nói rất nhỏ. Thừa Chí không tự chủ được nữa, đưa tay phải quàng qua lưng A Cửu. A Cửu cũng đưa hai tay ra ôm lấy cổ chàng. Chàng dùng hai ngón tay, nhặt Kim Xà Kiếm bỏ ra sau lưng mình. Hai người ôm sát vào nhau, cả hồn lẫn xác đều say mê đắm đuối. A Cửu khẽ gọi: “Ca ca! Muội ao ước được ca ca vĩnh viễn ôm chặt thế này.”

Viên Thừa Chí đưa mặt tới, hôn lên môi nàng. A Cửu hôn trả, thân hình nóng rực hẳn lên, hai tay càng ôm riết Viên Thừa Chí.

Suốt đời Viên Thừa Chí chưa từng thân mật với nữ nhân nào đến thế. Khi gần gũi Thanh Thanh, hai bên chỉ nắm tay nhau là cùng. Bây giờ môi đã chạm môi, hơi thở A Cửu thơm phức mùi hoa lan, mấy sợi tóc mềm ve vuốt mặt mình, trong lòng chàng run rẩy, âm thầm cảnh giác: “Nhất định không được sinh tà niệm! Sinh tà niệm là hỏng bét! Phải nhanh chóng nghĩ ra mấy chuyện đàng hoàng để nói!”

Chàng vội vã dứt môi mình ra khỏi mặt nàng, hỏi nhỏ: “Huệ vương gia là ai?”

A Cửu đáp: “Ông ấy tên là Thường Nhuận, vai vế lớn hơn phụ vương một đời, muội kêu bằng thúc tổ phụ.”

Viên Thừa Chí nói: “Thế là đúng rồi. Họ muốn đưa ông ấy lên ngôi, muội có biết không?”

A Cửu kinh hãi hỏi: “Gì thế? Họ là ai?”

Viên Thừa Chí đáp: “Tào Hóa Thuần đã thông đồng với Nhuệ Thân Vương ở Mãn Châu, muốn mượn quân Thanh để đánh Sấm Vương.”

A Cửu giận dữ hỏi: “Có chuyện này ư? Bọn Mãn Châu có gì tốt đẹp đâu? Không phải chúng đang muốn đoạt lấy giang sơn Đại Minh chúng ta hay sao?”

Viên Thừa Chí đáp: “Đúng vậy! Hoàng thượng không đồng ý, nên bọn Tào Hóa Thuần muốn đưa Huệ vương gia đăng cơ.”

A Cửu nói: “Không sai. Huệ thúc gia rất tham quyền cố vị, nhất định sẽ đồng ý mượn binh diệt khấu.”

Viên Thừa Chí nói: “E rằng ngay đêm nay chúng sẽ cử sự.”

A Cửu run giọng hỏi: “Đêm nay ư? Thế thì nguy cấp quá. Chúng ta mau đi bẩm cáo với phụ vương.”

Viên Thừa Chí nhắm mắt không nói gì, trong lòng trù trừ suy tính: “Sùng Trinh là kẻ thù giết cha mình. Mười mấy năm trời, không ngày nào mình không muốn đi giết y để trả mối huyết hải thâm thù. Bây giờ hoàng cung đột nhiên xảy ra nội biến, mình không cần động tay vẫn có thể nhìn kẻ thù mất mạng. Đúng là một chuyện đáng mừng. Nhưng nếu Tào Hóa Thuần cùng bọn gian thần thành công, quân Thanh nhập quan, nghĩa quân Sấm Vương nhất định có khó khăn. Nếu quân Thanh đánh thẳng vào, Sấm Vương không chống nổi, há chẳng mất trắng giang sơn? Tử tôn hoàng đế biến thành nô lệ của bọn Hồ Lỗ hay sao?”

A Cửu khẽ đẩy lên vai Viên Thừa Chí một cái, hỏi: “Ca ca đang nghĩ gì vậy? Chúng ta phải nhanh chân một chút, lật tẩy âm mưu của bọn gian nhân.”

Viên Thừa Chí vẫn trù trừ chưa quyết, A Cửu bèn nói nhỏ: “Chỉ cần ca ca không quên muội, chúng ta sẽ… sẽ mãi mãi cùng ở một nơi… Sau này… chúng ta… còn nhiều lúc như thế này.”

Nói xong, nàng từ từ kề mặt sát tới Viên Thừa Chí, chủ động hôn lên môi chàng.

Viên Thừa Chí rùng mình, bỗng nghĩ: “Thì ra A Cửu tưởng mình không chịu đứng dậy vì luyến tiếc thú ôn nhu. Được! Bây giờ đi xem tình hình thế nào rồi sẽ tính tiếp. Thật ra mình đứng dậy cũng không phải dễ.”

Chàng khẽ nói: “Muội đã nói thì đừng quên đấy nhé. Bây giờ muội điểm huyệt hết bọn cung nữ này đi, rồi lấy chăn bịt mắt chúng lại. Sau đó chúng ta mới ra ngoài.”

A Cửu hỏi: “Điểm vào chỗ nào? Muội không biết.”

Viên Thừa Chí nắm lấy tay phải của nàng, cảm thấy mềm mại dịu dàng như không có xương cốt. Chàng đưa tay nàng sờ vào đầu cái xương sườn thứ mười một ở trước ngực mình, nói: “Đây là huyệt Chương Môn. Muội dùng đầu ngón tay điểm vào bộ vị này, họ sẽ không động đậy được. Đừng dùng quá sức, coi chừng tổn thương sinh mạng.”

A Cửu lo lắng phụ vương đang nguy cấp, bước ngay xuống giường, vén màn ra. Bốn ả cung nữ lập tức đứng dậy hỏi: “Điện hạ cần gì?”

A Cửu nép vào sau màn, gọi từng ả vào, theo cách Viên Thừa Chí chỉ dạy mà điểm huyệt từng ả một. Đến ả cuối cùng, nàng nhận huyệt không chuẩn xác lắm nên ả la được một tiếng. A Cửu vội đưa tay bịt miệng, sờ chính xác huyệt đạo rồi điểm tiếp cái nữa, ả cung nữ kia mới chịu ngất xỉu.

Nàng chưa bước khỏi tấm màn, Viên Thừa Chí đã xuống giường, mang giày xong rồi. A Cửu mặc quần áo đàng hoàng xong, quay lại mỉm cười với Viên Thừa Chí, mặt đầy vẻ e ấp. Viên Thừa Chí nhịn không nổi, lại đưa hai tay ra ôm lấy nàng, khẽ hôn lên môi một cái. A Cửu dịu dàng gọi: “Đại ca!”

Viên Thừa Chí dịu dàng gọi lại: “A Cửu!”

A Cửu đỏ ửng mặt lên, hỏi nhỏ: “Ca ca sẽ vĩnh viễn không quên muội, có đúng thế không?”

Thừa Chí bỗng nghĩ đến Thanh Thanh, cảm thấy khó xử. Nhưng bây giờ ở đây, chàng chỉ còn cách ghì chặt lấy A Cửu mà nói: “Đương nhiên! Ta vĩnh viễn không quên muội.”

Hai người khẽ đẩy cửa sổ, thấy bên ngoài không có ai, bèn cùng lúc nhảy ra. A Cửu bảo: “Ca ca đi theo muội.” Nàng nắm tay phải Viên Thừa Chí, dẫn thẳng tới cung Càn Thanh.

Sắp đến cửa cung thì thấy trước mặt lố nhố bóng người, phải tới mấy trăm. A Cửu kinh hãi nói: “Nghịch tặc đã bao vây tẩm cung của phụ vương rồi. Nhanh lên!”

Hai người rảo bước chạy tới. Chưa được mười trượng, một tên thái giám tiến ra chặn đường. Nhìn thấy Trường Bình công chúa, hắn giật mình, nhưng thấy nàng chỉ dẫn theo một tùy tùng nên không lưu ý đề phòng lắm, chỉ khom lưng hỏi: “Công chúa điện hạ chưa ngủ ư?”

Viên Thừa Chí và A Cửu thấy trước sau cung Càn Thanh đầy nghẹt thái giám và thị vệ, ai cũng tay cầm binh khí, biết đã đến lúc nguy cấp rồi. A Cửu quát lên: “Tránh ra!” Nàng đưa tay gạt tên thái giám, đi thẳng vào trong.

Mấy tên thị vệ canh gác ngoài cung định chặn đường, nhưng đều bị Viên Thừa Chí đẩy ra. Bọn thái giám và thị vệ không dám động võ, vội báo cho Tào Hóa Thuần biết.

Tào Hóa Thuần bày kế hoạch đưa Huệ Vương lên làm vua, nhưng chính mình lại không dám ra mặt, lén lút chỉ huy bên ngoài. Nghe báo Trường Bình công chúa đã vào cung Càn Thanh, hắn nghĩ: “Chỉ có một thiếu nữ, chắc không làm gì được.” Hắn bèn ra lệnh cho bọn thị vệ phòng thủ nghiêm ngặt hơn.

A Cửu dẫn Viên Thừa Chí tiến thẳng đến thư phòng mà Sùng Trinh thường ngồi phê duyệt tấu chương. Đến gần, thấy ngoài cửa phòng có mười mấy tên thái giám, thị vệ bao vây. Mặt đất đầy máu tươi, bảy tám thi thể nằm ngổn ngang, chắc là đám thị vệ của hoàng đế đã bị phản tặc giết chết.

Mọi người nhìn thấy công chúa đều ngẩn ra. A Cửu kéo tay Viên Thừa Chí chạy vào thư phòng, một tên thị vệ hét lên: “Dừng lại!”

Hắn vung đao chém tới Viên Thừa Chí. Chàng nghiêng người tránh né, tiện tay hất một chưởng vào ngực, hắn lập tức té nhào. Viên Thừa Chí liền mở cửa phòng, đi vào.

Trong phòng đèn đuốc sáng trưng, mười mấy người đang đứng. A Cửu kêu lớn: “Phụ vương!” Nàng chạy về phía một người mặc áo hoàng bào, đầu đội mũ đoạn đen.

Thừa Chí nhìn kỹ, thấy người đó khoảng ba lăm ba sáu tuổi, thần sắc vừa kinh hãi vừa giận dữ. Chàng biết đây chính là kẻ thù giết phụ thân mình, Sùng Trinh hoàng đế. Đã có hai tên cẩm y thị vệ đưa đao ra cản chàng lại.

Sùng Trinh đột nhiên thấy con gái đến đây, vội quát: “Ngươi đến đây làm chi? Mau ra ngoài đi.”

Một người trung niên phục sức sang trọng, vừa cao vừa ốm, sắc mặt trắng xanh cất tiếng: “Giặc đã đến Ninh Võ Quan rồi, chỉ vài ngày nữa là tới kinh sư. Đến lúc này ngươi vẫn chưa chịu mượn binh diệt khấu là có âm mưu gì? Chẳng lẽ muốn hai tay dâng thiên hạ Đại Minh cho Sấm tặc hay sao?”

Viên Thừa Chí đã biết đây là Huệ Vương. Tổng quản Ngụy Đào Thanh của hắn cầm đơn đao đứng bên cạnh. Viên Thừa Chí chưa muốn ra mặt, bèn đứng khuất sau lưng một tên phản tặc, quan sát tình thế trong thư phòng.

A Cửu giận dữ nói: “Huệ thúc gia! Thúc gia cả gan thật, dám vô lễ với hoàng thượng.”

Huệ Vương vừa cười vừa nói: “Vô lễ ư? Hắn muốn phá hủy giang sơn của Thái Tổ hoàng đế để lại. Con cháu họ Chu chúng ta, chẳng ai có thể dung thứ cho hắn.”

“Soạt” một tiếng, thanh kiếm đang đeo trên người đã rút ra khỏi vỏ. Huệ Vương trừng mắt, giận dữ quát: “Bây giờ thì sao? Nói chắc một lời đi.”

Sùng Trinh thở ra một hơi rồi nói: “Trẫm vô đức vô năng, đã làm thiên hạ đại loạn. Nếu để Sấm tặc xâm nhập kinh thành, dĩ nhiên xã tắc sụp đổ; còn mượn quân Hồ Lỗ, nhất định làm hại quốc gia. Trẫm lấy cái chết để tạ lỗi với muôn dân, chẳng có gì đáng tiếc. Chỉ tiếc là giang sơn cơ nghiệp của tổ tông từ nay thuộc về người khác.”

Huệ Vương cầm kiếm tiến gần một bước, hét lên: “Vậy ngươi lập tức hạ chiếu, nhường ngôi cho bậc hiền năng.”

Sùng Trinh rùng mình một cái, quát hỏi: “Ngươi định thí quân soán vị hay sao?”

Huệ Vương đưa mắt ra hiệu. Một tên cẩm y thị vệ vung trường đao lên, hô lớn: “Hôn quân vô đạo, ai cũng được giết.”

Nghe giọng nói quen quen, Viên Thừa Chí chợt động tâm nhìn kỹ. Dưới ánh nến, rõ ràng đây là An Kiến Thanh, chồng của An đại nương.

A Cửu giận dữ thét lên, lập tức xách một cái ghế nhảy ra cản trở trước mặt phụ vương, đỡ liền ba đao của An Kiến Thanh chém tới. Bọn thị vệ của Huệ Vương dẫn đến liền xông lên. Thừa Chí thấy A Cửu không chống nổi, liền chạy vào trong phòng. Tay chàng vừa đưa lên, lập tức hai tên thị vệ văng xa mấy trượng. Chàng trao Kim Xà Kiếm cho A Cửu, chính mình thì đứng bên Sùng Trinh bảo vệ.

Mười mấy tên cẩm y vệ xông tới giết hoàng đế đều bị Viên Thừa Chí vung quyền phóng cước, đánh cho đứt gân gãy xương hết. A Cửu cầm bảo kiếm trên tay, tinh thần phấn chấn hẳn lên, chỉ mấy chiêu đã chém gãy trường đao của An Kiến Thanh.

Huệ Vương thấy rõ việc lớn sắp thành công, không ngờ Trường Bình công chúa đột nhiên xuất hiện, còn dẫn một cao thủ tuyệt thế đến hộ giá. Viên Thừa Chí mặc sắc phục thái giám, trong lúc khẩn trương hắn không nhận ra, bèn lớn tiếng hô: “Bên ngoài mau vào đây!”

Hà Thiết Thủ, Hà Hồng Dược, Ôn Thị Tứ Lão cùng vâng dạ tiến vào. Nhìn thấy Viên Thừa Chí, không ai là không thất sắc. Cặp mắt Ôn Phương Đạt như tóe lửa ra, thét to: “Lo liệu thằng lỏi này trước đã!” Bốn anh em xông đến bao vây Viên Thừa Chí.

A Cửu lùi đến bên cha, dựa vào bảo kiếm lợi hại mà chém gãy hết vũ khí của địch nhân, đám thủ hạ của Huệ Vương nhất thời không thể tới gần. Nhưng nàng thấy địch thủ càng lúc càng đông, Viên Thừa Chí bị năm sáu cao thủ bao vây lại, không thể phân thân trợ giúp cho mình, tình thế vô cùng nguy cấp.

Đang hoảng loạn, đột nhiên nàng thấy một người dễ sợ. Một mụ ăn mày trừng to mắt, vung đôi tay để lộ mười móng vuốt bén nhọn, hét lên: “Trả Kim Xà Kiếm cho ta!”

Lúc này Viên Thừa Chí đã định được chủ ý. Việc có nặng có nhẹ, việc thì gấp rút, việc thì có thể từ từ. Trước mắt bất luận thế nào cũng phải cứu mạng hoàng đế, để quân Thanh không thể vào quan ải. Sau đó đợi Sấm Vương vào kinh rồi mới ra tay giết Sùng Trinh để trả thù cho phụ thân. Việc nước trước việc nhà sau, việc công trước việc tư sau, thế mới là đại nghĩa.

Ôn Thị Tứ Lão võ công cao cường, tuy không lập được Ngũ Hành Trận, nhưng cũng rất khó thắng ngay. Chàng đang bị bao vây tứ phía, nhìn sang thấy thần sắc A Cửu tán loạn, bảo kiếm vung lên loạn xạ, dần dần không sao chống nổi mụ Hà Hồng Dược hung dữ như điên dại. Đột nhiên chàng lạng sang trước mặt Hà Thiết Thủ, khẽ bảo: “Mau giết bọn Tào Hóa Thuần tạo phản soán vị!”

Khi hạ lệnh cho Ngụy Đào Thanh đi mời Ngũ Độc Giáo vào Chiêu Hiền Quán, Huệ Vương đã tặng trước hai mươi vạn lạng bạc, hứa cho Ngũ Độc Giáo ăn cắp khố ngân trong Hộ bộ bao nhiêu cũng được. Hắn còn nói đang mưu đồ đại sự, sau khi thành công thì giao hai tỉnh Vân Nam và Quế Châu cho Ngũ Tiên Giáo tự do hành đạo, truyền giáo, xây dựng giáo quán, làm pháp sự thu tiền của dân gian. Đối với Ngũ Độc Giáo, dĩ nhiên đó là kho báu vô cùng vô tận, một mình chiếm cứ hai tỉnh Vân Nam, Quế Châu, có thể hành động vô pháp vô thiên.

Lúc đó Hà Thiết Thủ nghĩ, mưu đồ không thành thì rút về, chẳng tổn thất gì, bèn đồng ý.

Nàng đã có võ công cao cường, cả đời chưa gặp địch thủ, nhưng khi giao đấu với Viên Thừa Chí thì đột nhiên phát hiện một khung trời mới mẻ trong võ học. Thiếu niên này xuất thủ lợi hại, chiêu số biến hóa, nội lực cường mãnh, thật không thể ngờ được, nằm mơ cũng không thấy nổi.

Nàng mới năm tuổi thì phụ thân tạ thế, nên không được minh sư truyền thụ những loại võ công thượng thừa của giáo phái. Những người dạy võ cho nàng đều là cao thủ trong Ngũ Độc Giáo nhưng địa vị không cao lắm, nhiều chỗ ảo diệu chưa hiểu hết. Nàng biết là không ít cao chiêu của bản giáo được ngộ từ con Tiểu kim xà, vẫn thường sai Tề Vân Ngạo thả Tiểu kim xà ra để nghiên cứu thân pháp của nó. Tuy lãnh hội không ít, nhưng dù sao cũng có giới hạn.

Phen này mấy lần giao đấu với Viên Thừa Chí, thấy Kim Xà võ công của chàng biến hóa huyền diệu vô cùng, ăn đứt con Tiểu kim xà, nàng đã thán phục vô cùng. Đến khi nhìn thấy võ công phái Hoa Sơn và công phu Thiết Kiếm Môn mà chàng được Mộc Tang đạo nhân truyền thụ, nàng mới cảm thấy mình ở Vân Nam Quế Châu hẻo lánh giống như ếch ngồi đáy giếng không biết trời đất mênh mông. Như một người tham tiền đột nhiên nhìn thấy kho báu ở ngay bên cạnh, thò tay ra là lấy được ngay, nàng lập tức đỏ mắt nóng lòng, quyết học được những môn võ công thượng thừa đó mới thôi.

Nàng từng nói, đêm đầu giao đấu với Viên Thừa Chí về không ngủ được, đó không phải là nói dối. Mấy ngày nay tinh thần nàng càng tán loạn, lúc nào cũng nghĩ đến việc học võ công, quyết tìm cách bái Viên Thừa Chí làm sư phụ. Thiếu nữ lần đầu gặp gỡ tình lang chưa chắc đã khẩn thiết bằng.

Hôm nay quấy rối loạn lên, được Viên Thừa Chí đồng ý nhận làm đồ đệ, nàng hoan hỉ vô cùng, thầm nghĩ: “Bái được một vị minh sư như thế, ngôi vị giáo chủ cùng trăm vạn lạng, ngàn vạn lạng đều chẳng đáng kể chút nào. Từ nay về sau chỉ cần không trái sư lệnh là xong.” Viên Thừa Chí đã sai bảo, đó là mệnh lệnh đầu tiên của sư phụ. Nàng lập tức xoay người, vung cái móc sắt bên tay trái đánh tới Ôn Phương Ngộ.

Ôn Phương Ngộ không sao ngờ được Hà Thiết Thủ đột nhiên quay vũ khí. Hắn giật mình kinh hãi, thu nhuyễn tiên về mong cản trở thiết câu. Nhưng Hà Thiết Thủ xuất chiêu ác độc, lại tấn công trong lúc đối phương không phòng bị, nên thiết câu đã vạch trúng vào cánh tay trái của lão một đường. Thiết câu có kịch độc, chớp nhoáng là sắc mặt Ôn Phương Ngộ tái xanh, tay trái tê liệt hoàn toàn, thân hình lảo đảo muốn ngã, tay phải không ngớt dụi mắt mà la: “Ta không nhìn thấy gì! Ta… ta trúng độc rồi!”

Ba lão họ Ôn nghĩ tình máu mủ, không tấn công nữa mà quay ra dìu đỡ Ôn Phương Ngộ.

Viên Thừa Chí rảnh tay, phóng chưởng đánh trúng lưng tổng quản Ngụy Đào Thanh của Huệ Vương, họ Ngụy lập tức ngất xỉu. Chàng quay lại, thấy A Cửu đang thở hổn hển, cố sức ngăn trở Hà Hồng Dược và An Kiến Thanh giáp công, đã đến lúc không cố được nữa. Chàng lập tức nhảy xổ tới, túm lấy lưng Hà Hồng Dược, quẳng mụ ra ngoài vòng chiến. An Kiến Thanh đang ngơ ngác thì bị A Cửu đưa Kim Xà Kiếm đâm trúng đùi bên trái, té nhào xuống đất.

Lúc này Ôn Phương Ngộ đã phát độc, ngất xỉu ngay tại đó. Ôn thị tam lão kinh hãi ra ám hiệu. Ôn Phương Nghĩa ôm lấy ngũ đệ, còn Ôn Phương Đạt và Ôn Phương Sơn người mở đường người đoạn hậu, chạy ra ngoài thư phòng.

Hà Thiết Thủ đuổi theo, móc trong bọc ra một gói nhỏ, vừa ném vừa la lên: “Thuốc giải đây, cầm lấy!”

Ôn Phương Sơn quay lại chụp, Hà Thiết Thủ vừa cười vừa quay lại.

Thế là tình hình thay đổi hẳn. Viên Thừa Chí và A Cửu đánh tan hai mươi mấy tên cẩm y vệ, đuổi chúng chạy tứ tung.

Cửa điện mở ra, Tào Hóa Thuần dẫn một toán thân binh bảo vệ kinh thành chạy vào trong. Viên Thừa Chí thấy địch người đông thế mạnh, bèn hô lớn: “A Cửu, Hà giáo chủ! Chúng ta bảo vệ hoàng đế chạy ra ngoài.”

A Cửu và Hà Thiết Thủ vâng dạ. Ba người lùi lại đứng quanh Sùng Trinh, đang định xông tới tìm đường thoát, bỗng nghe Tào Hóa Thuần la lên: “Gian tặc cả gan kinh động ngự giá, giết hết cho ta!”

Thế là đám thân binh bắt đầu ác đấu với bọn cẩm y vệ. Huệ Vương kinh hãi, ngơ ngác hỏi: “Tào công công! Ngươi… ngươi với ta…”

Chưa nói xong, hắn đã thấy Tào Hóa Thuần trỏ tay vào mặt mình. Huệ Vương vẫn còn kinh ngạc, nhưng lập tức chạy ra khỏi điện. Hắn chạy tới tận Quảng Châu, mãi sau này mới bị quân Thanh bắt được xử tử.

Chẳng những bọn cẩm y vệ kinh hãi thất sắc, ngay cả Viên Thừa Chí, Hà Thiết Thủ và A Cửu ba người cũng phải ngạc nhiên. Chỉ có Sùng Trinh thầm khen Tào Hóa Thuần trung nghĩa.

Thì ra Tào Hóa Thuần đứng ngoài theo dõi tình hình, biết ưu thế của mình đã mất, âm mưu thí quân không thành công được, bèn gấp rút thay đổi kế hoạch. Hắn đi gọi số thân binh dự bị ở kinh thành, dẫn vào Càn Thanh Cung cứu giá.

Bọn cẩm y vệ thấy Tào Hóa Thuần thay đổi kế hoạch, đều buông binh khí xuống. Tào Hóa Thuần la lên: “Bắt hết, bắt hết!”

Đám thân binh bắt hết bọn cẩm y vệ. Vừa ra khỏi cửa điện, Tào Hóa Thuần lại la lên: “Chặt đầu!”

Thế là trong chốc lát, toàn bộ những người tham dự âm mưu phản nghịch đã bị giết sạch sành sanh, ngay cả Ngụy Đào Thanh cũng không thoát khỏi đại nạn một đao đứt cổ. Kế hoạch giết người bịt miệng của Tào Hóa Thuần thành công tốt đẹp.

Hà Thiết Thủ thấy tình hình đã ổn định, mỉm cười nói: “Sư phụ! Ngày mai muội sẽ gặp sư phụ dưới gốc cây lớn ngoài Tuyên Võ Môn.” Nói xong, nàng dắt tay Hà Hồng Dược quay lưng chạy ra ngoài.

Sùng Trinh gọi theo: “Cô nương, cô nương…” Hắn muốn trả công hộ giá, nhưng Hà Thiết Thủ không thèm để ý, đi thẳng ra khỏi cung.

Sùng Trinh quay lại, thấy con gái mình vấy đầy máu tươi đang mỉm cười nhìn Viên Thừa Chí. Thần hồn hắn đã tương đối ổn định, ngồi lại vào ghế, hỏi: “Người này là ai? Công lao không nhỏ, trẫm… trẫm nhất định trọng thưởng.”

Hắn chờ Viên Thừa Chí quỳ xuống khấu đầu, nào ngờ Viên Thừa Chí cứ đứng trơ ra đó. A Cửu kéo vạt áo chàng, khẽ bảo: “Mau tạ ơn đi.”

Viên Thừa Chí đứng nhìn Sùng Trinh, nghĩ đến cha mình liều thân vì nước, lập nhiều công lớn, lại bị tên hoàng đế này xử lăng trì. Trong lòng chàng vô cùng bi phẫn. Nhìn kỹ lại kẻ thù giết cha, chàng thấy hai má hắn hóp vào, thái dương có không ít tóc bạc, mắt đầy vằn đỏ, thần sắc rất tiều tụy. Lúc này gian mưu đoạt vị đã bị dẹp yên, bọn tạo phản đã bị trừ hết, nhưng mặt Sùng Trinh vẫn lộ vẻ bất an, chẳng hoan hỉ chút nào. Viên Thừa Chí nghĩ: “Hắn làm hoàng đế giống như chịu tội, không thấy sướng đâu.”

Sùng Trinh không hiểu Viên Thừa Chí đang nghĩ ngợi nhiều như thế, lại dịu dàng hỏi: “Ngươi tên gì? Làm việc ở đâu?” Hắn thấy Viên Thừa Chí mặc sắc phục thái giám, tưởng chàng là một tên tiểu thái giám.

Viên Thừa Chí định thần lại, ngang nhiên đáp: “Ta là Viên Thừa Chí, con trai Viên Sùng Hoán, cố Binh bộ thượng thư, Đốc sư Kinh Liêu.”

Sùng Trinh ngơ ngác, hình như không nghe rõ, hỏi lại: “Cái gì?”

Viên Thừa Chí nói: “Tiên phụ Viên Sùng Hoán có đại công với nước, nhưng đã bị ông xử tử oan uổng.”

Sùng Trinh im lặng hồi lâu, thở dài rồi nói: “Bây giờ ta đã hối hận rồi.” Lát sau, hắn lại hỏi: “Ngươi muốn thưởng gì?”

A Cửu cả mừng, khẽ kéo vạt áo Viên Thừa Chí. Rõ ràng nàng muốn chàng nhân cơ hội để xin làm phò mã.

Viên Thừa Chí giận dữ nói: “Ta vì quốc gia mà cứu ông, không cần ban thưởng gì hết. Thôi được! Hoàng thượng đã hối hận thì hãy xuống chiếu, rửa mối oan uổng cho tiên phụ.”

Tính tình Sùng Trinh bảo thủ, muốn hắn công khai nhận lỗi còn khó hơn lên trời. Vì thế hắn nghe xong im lặng, không nói tiếng nào.

Tào Hóa Thuần bỗng chạy vào trong điện, cung thỉnh thánh an rồi tấu: “Bọn phản nghịch đã bị xử trảm hết. Thần đang sai người đi bắt gia thuộc của Huệ Vương và bọn nghịch tặc đầu sỏ.”

Sùng Trinh gật đầu khen: “Hay lắm! Cuối cùng chỉ có ngươi là trung thành.”

Tào Hóa Thuần nhìn thấy Viên Thừa Chí, trong lòng bỗng nghi ngờ: “Tên này là sứ giả của Cửu vương gia Mãn Thanh, sao lại đến đây làm hỏng đại sự của ta?”

Viên Thừa Chí định lật mặt nạ mưu phản của Tào Hóa Thuần, nhưng lại nghĩ: “Chỉ vài ngày nữa là nghĩa quân Sấm Vương sẽ đến kinh sư. Để mặc tên gian tặc tiểu nhân này ở trong cung nắm quyền hành, đối với nghĩa quân có lợi hơn nhiều.”

Chàng không lý gì đến hoàng thượng nữa, bảo A Cửu: “Muội trả kiếm đi, ta phải ra ngoài.”

A Cửu vô cùng lo lắng, mặc kệ phụ vương và Tào Hóa Thuần bên cạnh, buột miệng hỏi: “Bao giờ ca ca mới vào đây thăm muội?”

Viên Thừa Chí chỉ đáp: “Điện hạ bảo trọng!”, rồi đưa tay toan lấy thanh kiếm lại. A Cửu rút tay về nói: “Muội tạm thời giữ kiếm, lần sau gặp mặt mới trả cho ca ca.”

Nói xong, nàng chăm chăm nhìn mặt Viên Thừa Chí, ánh mắt nói rất rõ ràng: “Mong ca ca đến sớm, ngày đêm tiểu muội mong chờ.”

Viên Thừa Chí thấy Sùng Trinh và Tào Hóa Thuần đầy vẻ kinh ngạc, nên không tiện nói nhiều, chỉ gật đầu một cái rồi quay lưng bỏ đi.

A Cửu đuổi theo đến cửa Càn Thanh Cung, nói nhỏ: “Ca ca cứ yên tâm! Muội vĩnh viễn không phụ lòng ca ca.”

Viên Thừa Chí biết đây không phải lúc để giải thích, cũng không phải nơi để nói chuyện, bèn bảo: “Thiên hạ sắp đại biến, muội ở trong thâm cung không tốt bằng ra chốn giang hồ. Hãy nhớ lấy câu này.”

Chàng biết Sấm Vương sắp vào kinh thành, trong lúc binh hoang mã loạn thì hoàng cung đúng là nơi nguy hiểm nhất, nên bảo nàng ra khỏi cung để tránh tai họa.

Nào ngờ A Cửu vì đa tình mà hiểu lầm, cúi mặt xuống nói dịu dàng: “Không sai! Tiểu muội muốn theo ca ca bôn tẩu giang hồ, bốn bể là nhà, còn hơn là hưởng phúc trong hoàng cung. Lần sau ca ca đến đây, chúng ta… chúng ta sẽ nói chuyện tỉ mỉ…”

Viên Thừa Chí thở nhẹ một hơi, chợt nghĩ đến Thanh Thanh. Trong lòng chàng không yên, mất hết chủ ý, chỉ biết vẫy tay từ biệt rồi nhảy qua tường ra ngoài. A Cửu thấy chàng chia tay mà không được nửa câu nói dịu dàng, không khỏi buồn bã.

Viên Thừa Chí ra khỏi cung, thấy chỗ nào cũng đèn đuốc sáng trưng, hiệu lệnh vang trời. Nhất định triều đình đang lùng bắt bọn tùy tùng gia thuộc của phe phản nghịch. Chàng lo lắng cho Thanh Thanh, nhanh chân chạy về hẻm Chính Điện Tử, thấy Thanh Thanh, Tiêu Uyển Nhi, La Lập Như đã trở về bình an, bấy giờ mới yên tâm.

Viên Thừa Chí suốt đêm mệt nhọc, quay về phòng mà ngủ li bì. Lúc này trong lòng chàng có cả A Cửu và Thanh Thanh, một người có tình, một người có nghĩa, không thể phân định hơn thua. Chàng không biết làm sao, chỉ còn cách nhắm mắt đi ngủ, tạm quên hai mỹ nhân.

Tỉnh dậy đã là giờ tỵ, ra đại sảnh thì thấy Thủy Vân đạo trưởng, Mẫn Tử Hoa dẫn theo mười sáu đệ tử phái Tiên Đô đang đợi. Thì ra họ biết phủ của Viên Thừa Chí bị Ngũ Độc Giáo đánh lén, liền chạy đến giúp đỡ. Viên Thừa Chí nói mấy câu khách sáo, rồi cho họ biết có lẽ Hoàng Mộc đạo nhân còn sống trên đời, nhất định có cách cứu được. Mọi người Tiên Đô Phái đều vô cùng hoan hỉ.

*

*   *

Viên Thừa Chí nhờ họ trông chừng giúp những người bị thương, một mình ra ngoài Tuyên Võ Môn. Đi chẳng bao lâu, xa xa đã thấy Hà Thiết Thủ đứng chờ dưới gốc cây cổ thụ.

Nàng mỉm cười bước tới đón Viên Thừa Chí, lên tiếng: “Sư phụ! Đêm qua muội đã hoàn thành tốt đẹp mệnh lệnh của sư phụ. Đồ nhi như muội có ngoan không?”

Thừa Chí đáp: “Tình thế đêm qua thật là nguy cấp. Rất may được cô trượng nghĩa, nên không đến nỗi gây ra tai họa.”

Hà Thiết Thủ cười nói: “Sư phụ đào hoa thật, được một vị công chúa bế nguyệt tu hoa đem lòng yêu mến. Sau này sư phụ được phong làm phò mã, đồ đệ như muội sẽ được chức quan gì đây?”

Viên Thừa Chí nghiêm giọng bảo: “Đừng đùa nữa.”

Hà Thiết Thủ cười nói: “Úi chà, còn muốn chối! Công chúa nhìn sư phụ tình tứ như vậy, ai mà không biết? Hơn nữa, tại sao sư phụ lại giao Kim Xà Kiếm cho công chúa, tại sao phải thí mạng đi cứu phụ vương cho công chúa?”

Viên Thừa Chí đáp: “Đó là vì đại nghĩa quốc gia.”

Hà Thiết Thủ dẩu môi rồi bật cười: “Đúng thế! Nằm chung một giường, đắp chung một chăn, yêu thương âu yếm, chắc cũng vì đại nghĩa quốc gia. Hí hí…”

Viên Thừa Chí lập tức đỏ ửng mặt lên, tay chân bối rối không biết để đâu. Chàng ấp úng: “Cái… cái gì? Sao cô…”

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Rõ ràng trong chăn của công chúa có giấu một người. Đã lăn lộn giang hồ như tiểu muội, chẳng lẽ mắt bị mù hay sao? Hí hí… Muội định lật chăn ra, may mà liếc qua một cái nhìn thấy bức tranh vẽ sư phụ. Tình nghĩa sư đồ, làm sao muội dám ra tay nữa!”

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “May mà bức tranh đó chưa cất kỹ, nên cô này nhìn thấy.” Chàng nghĩ lại mà toát mồ hôi hột. Nếu không nhờ bức tranh đó, Hà Thiết Thủ giật tung chăn ra, nhất định tồi tệ hơn nhiều.

Hà Thiết Thủ thấy mặt Viên Thừa Chí đỏ đến tận mang tai, biết vị sư phụ này còn khờ dại ngây thơ lắm. Nàng bèn thay đổi đề tài, hỏi: “Hạ cô nương bình an trở về rồi chứ?”

Viên Thừa Chí gật đầu, nói: “Bây giờ ta đi giải huyệt cho bằng hữu của cô.”

Hà Thiết Thủ đi trước dẫn đường, tiến về phía tây. Dọc đường nàng cứ luôn mồm khen ngợi A Cửu diễm lệ vô cùng, cả đời chưa gặp. Lại nói: “Không ngờ một công chúa lá ngọc cành vàng, còn trẻ như thế mà võ nghệ đầy mình, nhất định đã được Viên Thừa Chí đích thân chỉ dạy. Dưới tay minh sư ắt có cao đồ, huống chi đối với cao đồ này, minh sư lại đặc biệt ưu ái. Bây giờ công chúa là sư tỉ, sau này sẽ là sư nương. Lại còn Hạ cô nương nữa, không biết ai là lớn, ai là bé? Một người vào sư môn trước, một người thân phận tôn quý, có vẻ khó mà phân định. Nhưng công chúa xinh đẹp hơn nhiều, muội đoán sư phụ sẽ nghiêng về công chúa.”

Viên Thừa Chí buộc phải để mặc cô nàng hết cười hi hí lại nói năng lải nhải, sư phụ này sư phụ kia kêu gọi luôn mồm. Hôm qua chàng đã nói một lời, không thể bất tín, ruồng rẫy người ta được. Huống chi, trong lúc nguy cấp đã nhờ người ta, thành sự rồi lại nuốt lời thì không hợp đạo nghĩa chút nào. Chàng không thể thối thác, đành cười đau khổ.

Đi khoảng năm dặm thì đến một ngôi chùa cổ, có biển đề “Hoa Viên Tự”. Ngoài chùa có giáo chúng Ngũ Độc Giáo canh phòng, ai nhìn Viên Thừa Chí cũng trừng mắt giận dữ, nhưng chàng mặc kệ. Vào chùa, thấy trong đại điện trải đầy chiếu cỏ. Những giáo đồ bị Viên Thừa Chí đả thương đang nằm xếp hàng ở đó.

Viên Thừa Chí giải khai huyệt đạo cho từng người một, rồi dõng dạc nói: “Tại hạ cùng quý vị vốn không có oán thù, vì chút ít hiểu lầm mà đắc tội. Bây giờ xin tạ tội!”

Nói xong, chàng chắp tay thi lễ xung quanh một vòng. Cả đám đều quay đầu mặc kệ, không trả lễ, cũng không nói tiếng nào.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Lễ số vậy là đủ, không cần nói nhiều nữa.” Chàng bèn quay đi. Vừa quay đầu lại, đột nhiên chàng thấy một cặp mắt trợn lên, nhìn chằm chằm vào Hà Thiết Thủ đầy vẻ ác độc. Người đó nấp trong một góc đại điện, thân hình không thể nhìn rõ, chỉ thấy cặp mắt màu xanh biếc lấp loáng hung quang.

Viên Thừa Chí giật mình, không biết ánh mắt đầy oán độc này là của ai. Chàng tập trung tinh thần nhìn lại, người đó bèn nép khuất vào trong. Tuy nhiên thân hình vừa động đậy đã bị nhận ra, đó chính là mụ ăn mày Hà Hồng Dược.

Hà Thiết Thủ tiễn chàng ra khỏi chùa. Viên Thừa Chí thấy sắc mặt nàng khác lạ, ngược lại thái độ đùa giỡn vô tư lúc nãy, bỗng nảy dạ nghi ngờ. Hai người thi lễ, cáo biệt trước cổng chùa.

Viên Thừa Chí về được mấy dặm, càng nghĩ ngợi càng thấy hoài nghi: “Chẳng lẽ họ còn gian kế khác? Mình giải khai huyệt đạo rồi, họ không chịu bỏ qua mà tiếp tục quấy nhiễu? Chi bằng bây giờ quay lại tìm hiểu mưu đồ của đối phương, để có kế hoạch phòng bị.” Chàng lập tức chạy ngược lại. Tới chùa Hoa Nghiêm, nhìn tứ phía không có ai, chàng vòng ra sau vượt tường vào trong.

Đột nhiên nghe tiếng huýt sáo vang lên. Viên Thừa Chí biết đây là tín hiệu triệu tập giáo chúng Ngũ Độc Giáo, bèn nép mình sau gốc cây một lát. Lát sau chàng nghĩ giáo chúng đã tập hợp xong, mới lần tới phía sau Đại Hùng bảo điện. Trong điện vẳng ra tiếng tranh luận rất kịch liệt.

Viên Thừa Chí kề tai vào khe cửa lắng nghe. Giọng của Hà Hồng Dược the thé, giọng của Tề Vân Ngạo ồm ồm, mỗi người một câu kể tội Hà Thiết Thủ. Người thì nói: “Giáo chủ bị Viên Thừa Chí mê hoặc, quên hết thâm thù đại hận của Ngũ Tiên Giáo, còn bái đồ đệ của kẻ thù làm sư phụ.” Người khác lại nói: “Giáo chủ liên thủ với Tào công công rồi lại nuốt lời, bắt tay với địch phá hỏng kế hoạch lập tân vương, làm Ngũ Tiên Giáo mất cơ hội phát dương quang đại ở hai tỉnh phía nam.”

Hà Thiết Thủ cười nhạt, nghe một hồi mới hỏi: “Các vị muốn gì?”

Mọi người lập tức im lặng, không ai dám lên tiếng. Hồi lâu, Hà Hồng Dược mới lạnh lùng nói: “Lập giáo chủ khác!”

Hà Thiết Thủ nghiêm giọng hỏi: “Giáo quy chúng ta đã mấy trăm năm, khi nào giáo chủ tạ thế mới lập giáo chủ khác. Các vị muốn ta chết phải không?”

Mọi người lại im lặng. Hà Thiết Thủ hỏi: “Ai muốn làm giáo chủ?”

Nàng hỏi liền ba câu, giáo chúng không ai trả lời. Hà Thiết Thủ liền cười nhạt: “Ai tự cảm thấy thắng được ta, thì ra đây giành ngôi giáo chủ đi.”

Viên Thừa Chí nép sát cánh cửa, đưa mắt nhìn vào, thấy Hà Thiết Thủ ngồi trên ghế. Mấy chục giáo chúng đều đứng khá xa, hiển nhiên vẫn còn kiêng nể nàng. Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Đám Ngũ Độc Giáo này ta biết hết rồi, không ai bằng được một nửa bản lãnh của cô ấy. Nhưng dựa vào võ lực để ép người ta, e rằng ngôi giáo chủ này không thể lâu dài”.

Chàng thấy Ngũ Độc Giáo đang mâu thuẫn nội bộ chứ không phải âm mưu trả thù mình và Thanh Thanh, đã toan mặc kệ. Nhưng nghĩ lại, mình đã nhận Hà Thiết Thủ là đồ đệ rồi, mà nàng cũng khá quyến luyến mình, không thể mặc kệ cho nàng sống chết. Còn đang trù trừ, đột nhiên hàn quang nhoáng lên. Hà Hồng Dược đã rẽ đám đông người nhảy ra, tay cầm một thứ binh khí lạ mắt.

Viên Thừa Chí thấy món võ khí này trông như một thanh đao cong cong cực lớn, mình chưa từng gặp mà cũng chưa từng nghe sư phụ nói qua, không biết sử dụng thế nào. Chàng nổi dạ hiếu kỳ, bèn kề mắt vào xem tiếp.

Hà Hồng Dược lạnh lùng nói: “Ta không muốn làm giáo chủ, cũng tự biết không phải đối thủ của ngươi. Nhưng tam tổ thất tử Ngũ Tiên Giáo chúng ta ngày trước đã mất bốn mươi năm công sức mới sáng lập được giáo môn này, truyền lại mấy trăm năm độc bá trời nam. Cơ nghiệp này không dễ gì có được, nhất định không thể hủy hoại trong tay một đứa tiện tì.”

Hà Thiết Thủ hỏi: “Nhục mạ giáo chủ, phạm phải tội gì?”

Hà Hồng Dược đáp: “Từ lâu ta đã không xem ngươi là giáo chủ nữa. Bước ra!”

Hai tay mụ vung lên, huy động binh khí. Nghe “cách” một tiếng, trên đầu thanh đao cong cong lại chui ra một mũi nhọn nhỏ.

Hà Thiết Thủ cười nhạt, vẫn ngồi trên ghế không động đậy. Hà Hồng Dược nhảy lên chém liền hai phát, nhưng kiêng nể võ công của cháu gái lợi hại nên chém không trúng là lùi lại ngay. Hà Thiết Thủ vẫn ngồi ngay ngắn trên ghế, khi mụ tấn công mới tránh né chút xíu, không hề phản kích.

Viên Thừa Chí ngạc nhiên, nhưng nhìn quanh thấy mấy chục giáo chúng cầm binh khí đang từ từ tiến đến, mới biết Hà Thiết Thủ đang phòng thủ nghiêm mật, chuẩn bị đón đỡ mọi người xông vào giáp công. Vì khe cửa rất hẹp nên chàng chỉ nhìn thấy một khoảng nhỏ trong điện, chứ có lẽ giáo chúng đã từ bốn phương tám hướng vây chặt nàng rồi.

Mọi người ghìm nhau chốc lát, không ai dám tấn công. Hà Hồng Dược la lên: “Đồ vô dụng! Sợ quái gì, xông vào cả đi!”

Mụ vẫy thanh đao cong một cái, cả bọn hò hét tiến lên. Hà Thiết Thủ đột ngột nhảy lên, rồi nghe những tiếng lắc cắc, cái ghế đã bị mấy chục món binh khí đồng thời đánh cho nát vụn. Hai tên giáo chúng la lên thảm khốc, trúng phải móc câu. Trong đại điện đất bụi bay mù, một bóng trắng tung hoành qua lại giữa đám đông người, nổ ra một trường ác đấu.

Viên Thừa Chí quan sát mọi người đánh nhau trong điện. Những hảo thủ trong giáo, ngoài Hà Hồng Dược ra, đều đã bị Viên Thừa Chí điểm trúng huyệt đạo, nằm bất động rất lâu. Bây giờ huyệt đạo đã giải nhưng kinh mạch họ chưa thông suốt, dĩ nhiên cử động có phần trì trệ. Nếu Hà Thiết Thủ muốn bỏ chạy thoát thân thì không khó lắm. Nhưng nàng không chạy ra ngoài, hình như muốn dùng võ lực để khuất phục giáo đồ, trừng trị bọn cầm đầu phản nghịch.

Đánh thêm mấy chục chiêu, trong đám đông bỗng có một người hành động cổ quái. Hắn không xuất thủ mà bước chân chậm rãi, tay nâng một cái ống nhỏ bằng vàng, từ từ tiến đến gần Hà Thiết Thủ. Viên Thừa Chí nhìn kỹ, nhận ra đây là Cẩm y đồng cái Tề Vân Ngạo. Đột nhiên họ Tề hô lên một tiếng, hai tay đưa lên phía trước. Một tia sáng màu vàng bắn tới người Hà Thiết Thủ.

Hà Thiết Thủ nghiêng người né tránh. Nào ngờ ám khí đó cực kỳ quái lạ, có thể xoay chuyển trên không trung để truy đuổi, mà lúc đó cũng có mấy thứ binh khí đồng thời công tới. Hà Thiết Thủ thét lên một tiếng, đã bị ám khí bắn trúng người. Lúc này Viên Thừa Chí đã thấy rõ ràng, món ám khí sống này chính là con Tiểu Kim Xà.

Hà Thiết Thủ rùng mình một cái rồi đưa tay túm lấy cổ Kim Xà quăng xuống đất, điên cuồng xuất liền hai chiêu, dùng thiết câu giết hai tên giáo chúng.

Hà Hồng Dược hô lớn: “Con tiện tì đã bị Kim Xà cắn trúng rồi. Mọi người quấy rối nó đi, độc tính sẽ phát tác ngay.”

Hà Thiết Thủ lảo đảo chạy ra sau hậu điện. Tuy nàng đã trúng độc nhưng oai thế vẫn còn, nhất thời bọn giáo chúng không đủ gan cản trở. Hà Hồng Dược vọt lên, múa thanh đao cong nhanh như gió, chém vào sau gáy nàng. Hà Thiết Thủ cúi đầu tránh né, đánh trả lại một thiết câu.

Phan Tú Đạt cùng Trầm Kỳ Tư tiến ra cản đường, Hà Thiết Thủ dùng khuỷu tay phải tì vào hông mình một cái. Độc châm Hàm sa xạ ảnh bắn ra tới tấp, Phan Tú Đạt mất mạng ngay, không kịp la một tiếng.

Lúc này chất độc trên vai Hà Thiết Thủ đã phát tác. Thần trí nàng hôn ám, thiết câu vung múa loạn xạ, không ra chiêu thức gì nữa. Chỉ trong khoảnh khắc là nàng bỏ mạng giữa đám giáo đồ hiểm độc này.

Viên Thừa Chí nghĩ: “Đêm qua ở trong cung, mình đã đồng ý nhận nàng làm đồ đệ. Tuy rằng việc gấp phải làm bừa, nhưng đại trượng phu nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy, không thể vì nguy cấp mà lừa gạt một cô gái trẻ. Lúc này giáo chúng của nàng làm phản, cũng do nàng bái mình làm sư phụ mà thành chuyện. Sinh mạng nàng nguy trong chốc lát, làm sao mình khoanh tay đứng nhìn?”

Chàng lập tức nhảy vào, hô lớn: “Mọi người dừng tay!”

Giáo chúng thấy chàng đột nhiên xuất hiện, không ai là không kinh hãi, tranh nhau lùi ra. Hà Thiết Thủ hồ đồ lắm rồi, vung câu vạch lên mặt Viên Thừa Chí. Chàng nghiêng người tránh né, đưa tay trái ra túm lấy cổ tay nàng. Nào ngờ võ công nàng thâm hậu, tiến lùi tránh né đã thành phản xạ. Tuy trước mắt lúc này lấp lóe một trời sao, nhưng cổ tay vừa chạm phải ngón tay Viên Thừa Chí là lập tức trầm xuống, thiết câu xoay lại đâm ngược từ dưới lên trên, vừa cực nhanh vừa chính xác.

Viên Thừa Chí vội rụt tay về, la lên: “Ta đến để cứu cô!”

Hà Thiết Thủ không nghe, song câu vẫn tấn công như bão tố. Viên Thừa Chí chỉ còn cách thấy chiêu đỡ chiêu, vung chân phải móc trúng khuỷu chân nàng. Hà Thiết Thủ té bịch xuống, đột nhiên giương to mắt kêu lên: “Sư phụ! Muội đã chết chưa?”

Viên Thừa Chí bảo: “Chúng ta mau ra ngoài đã!” Chàng lập tức nắm cổ tay nàng kéo dậy.

Bọn giáo chúng đang đứng xem hai người đánh nhau, thấy Viên Thừa Chí đỡ nàng chạy ra liền la hét om sòm, ùa nhau vây kín.

Viên Thừa Chí quay lại, quát như sấm nổ: “Ai dám lên đây?”

Giáo chúng đều như chim đã sợ cung. Không biết ai khởi xướng mà đột nhiên cả bọn như một đàn ong vỡ tổ, quay lưng bỏ chạy vào trong điện. “Thình” một tiếng, cửa điện bị đóng chặt lại.

Viên Thừa Chí thấy họ sợ mình đến thế, không khỏi buồn cười. Chàng cúi nhìn Hà Thiết Thủ, thấy cánh tay trái sưng vù, khuôn mặt trắng bệch nhuốm một làn hắc khí, biết nàng trúng độc rất sâu. Nhưng chàng nghĩ, cô gái này ngày đêm sống với độc vật, chắc chắn sức đề kháng rất mạnh, có thể duy trì một thời gian, bèn bế nàng chạy trở về thành.

Mọi người thấy Viên Thừa Chí ẵm Hà Thiết Thủ chạy về, đều lộ vẻ kinh ngạc. Thanh Thanh nũng nịu hỏi: “Ca ca ôm người ta làm chi vậy? Sao không thả xuống đi?”

Viên Thừa Chí la lên: “Mau mau lấy băng thiềm đến cứu người!”

Tiêu Uyển Nhi dìu Hà Thiết Thủ vào bên trong cấp cứu, còn Thủy Vân cùng mọi người rất tức giận, không hiểu gì hết. Viên Thừa Chí kể lại tiền nhân hậu quả, kết luận: “Việc của lệnh sư Hoàng Mộc đạo nhân, đợi cô ấy tỉnh dậy sẽ hỏi rõ ràng.”

Quần đệ tử phái Tiên Đô đều bái tạ.

Thời gian ăn xong bữa cơm, Tiêu Uyển Nhi mới ra ngoài nói: “Độc khí đã hút ra hết rồi, nhưng cô ấy vẫn hôn mê bất tỉnh.”

Viên Thừa Chí bảo: “Phiền cô nương cho cô ấy uống thuốc giải độc, rồi để cô ấy ngủ một lát.”

Tiêu Uyển Nhi vâng dạ, đang định quay vào thì La Lập Như vừa chạy tới vừa reo lên: “Viên tướng công! Tin mừng, tin mừng!”

Thanh Thanh cười hỏi: “Huynh có tin mừng sớm thế?”

La Lập Như nói: “Đại quân Sấm Vương đã hạ Ninh Võ Quan rồi.”

Mọi người nghe vậy, cùng hoan hô vang dội. Viên Thừa Chí hỏi: “Tin tức có xác thực không?”

La Lập Như đáp: “Trương huynh đệ trong bang phụng mạng đi tìm Mẫn nhị gia, dọc đường chứng kiến Sấm quân tiến công vào quan ải. Hai bên đánh nhau kịch liệt, Trương huynh đệ không đi qua được. Sau này y thấy quân Minh đại bại, tổng binh thủ thành là Chu Ngộ Cát đã bị giết.”

Viên Thừa Chí nói: “Thế thì tuyệt diệu! Nghĩa quân chỉ vài ngày nữa là đến kinh sư, chúng ta mau làm nội ứng.”

Thế là mấy ngày hôm sau, Viên Thừa Chí bận rộn từ sáng đến tối. Chàng lấy danh nghĩa là thủ lĩnh Kim Xà Doanh của Sấm quân, gặp gỡ các lộ hào kiệt trong kinh thành, bố trí công việc, chỉ đợi nghĩa binh đến kinh thành là lập tức cử sự hưởng ứng.

Một hôm ra ngoài nghị sự trở về, chàng nghe Tiêu Uyển Nhi nói: “Viên tướng công! Hà giáo chủ vẫn hôn mê bất tỉnh.”

Viên Thừa Chí kinh hãi hỏi: “Đã nhiều ngày rồi, sao vẫn chưa khỏe?”

Chàng theo Tiêu Uyển Nhi vào trong thăm hỏi, thấy Hà Thiết Thủ hình dung tiều tụy, mặt không sắc máu, hơi thở chỉ còn thoi thóp.

Viên Thừa Chí suy nghĩ một lúc, bỗng la lên: “Trời ơi!”

Tiêu Uyển Nhi vội hỏi: “Gì thế?”

Viên Thừa Chí đáp: “Người bình thường sau khi trúng độc, khí độc giảm hết thì sức khỏe từ từ phục hồi. Nhưng cô gái này từ nhỏ đã đùa giỡn với độc vật, nhất định uống nhiều loại thuốc kỳ lạ để độc vật bình thường không làm hại mình được. Vì thế, hễ trúng độc là khó mà trị dứt. Mấy hôm nay ta bận rộn quá, chưa kịp nghĩ đến chuyện này.”

Tiêu Uyển Nhi hỏi: “Vậy phải làm sao?”

Viên Thừa Chí ngần ngừ rồi nói: “Phải cho cô ấy uống con băng thiềm, không chừng còn cứu được. Nhưng chúng ta chỉ biết dựa vào món bảo bối này để giải độc, nếu bọn Ngũ Độc Giáo sinh sự nữa thì chỉ còn cách bó tay chịu chết.”

Tiêu Uyển Nhi cũng cảm thấy khó xử. Bỗng Viên Thừa Chí vỗ đùi một cái, hô lên: “Ta đã hứa nhận người này làm đồ đệ. Mặc dù lúc đó bị ép phải hứa, nhưng cũng là hứa rồi, không thể giương mắt mà nhìn người ta mất mạng. Cho cô ấy uống, mọi chuyện tính sau.”

Tiêu Uyển Nhi thấy chuyện này nguy hiểm, về sau khó mà yên ổn. Nhưng Viên Thừa Chí đã dặn như vậy, dĩ nhiên nàng phải làm theo.

Tiêu Uyển Nhi lấy con băng thiềm nghiền nát ra, hòa rượu đổ cho nàng uống. Chỉ khoảng ăn xong bữa cơm là sắc mặt Hà Thiết Thủ đổi màu từ xanh thành trắng, hơi thở bình thường trở lại. Cuối cùng nàng ngồi dậy được, cất tiếng gọi: “Sư phụ!”

Viên Thừa Chí biết mạng nàng được cứu rồi, bèn lui ra. Hồng Thắng Hải chạy vào bẩm báo: “Thủy Vân đạo trưởng phái Tiên Đô đến thăm.”

Hà Thiết Thủ bảo: “Để ta đi gặp họ.” Tiêu Uyển Nhi bèn dìu nàng tới đại sảnh.

Thủy Vân đạo nhân thi lễ với Viên Thừa Chí xong, chắp tay nhìn Hà Thiết Thủ nói: “Hà giáo chủ! Chuyện của sư phụ bần đạo, xin cô nể mặt Viên tướng công mà cho biết rõ ràng.”

Lời vừa nói ra, những đệ tử phái Tiên Đô đi theo Thủy Vân đạo trưởng đều đứng dậy hết. Hà Thiết Thủ lạnh lùng đáp: “Ta chịu ơn của sư phụ, hoàn toàn không liên quan đến Tiên Đô Phái các vị. Thân thể ta chưa hồi phục, các vị có muốn nhân lúc người khác lâm nguy không? Hà Thiết Thủ này không sợ đâu!”

Nàng ngang ngược vô lễ như thế, mọi người đều phải bất ngờ.

Viên Thừa Chí đưa mắt ra hiệu với mọi người Thủy Vân rồi nói: “Hà giáo chủ chưa được khỏe, chúng ta từ từ nói tiếp.”

Hà Thiết Thủ hừ một tiếng, nhờ Tiêu Uyển Nhi dìu trở vào trong phòng.

Đệ tử phái Tiên Đô xôn xao bàn tán, nghị luận lung tung. Viên Thừa Chí lên tiếng: “Việc này cứ để tại hạ giải quyết. Tại hạ đứng ra chịu trách nhiệm cứu thoát Hoàng Mộc đạo trưởng.”

Lúc này phái Tiên Đô mới tương đối bình tâm lại.

*

*   *

Mấy ngày nay, tin thắng trận của Sấm quân báo về dồn dập như nước lũ. Tổng binh Cương Nhượng nhà Minh đầu hàng, Sấm quân chiếm Đại Đồng. Tổng binh Vương Thừa Nhậm, thái giám giám quân Đỗ Huân đầu hàng, Sấm quân chiếm Tuyên Phủ. Tổng binh Đường Thông, thái giám giám binh Đỗ Chi Điệp đầu hàng, Sấm quân chiếm Cư Dung.

Đại Đồng, Tuyên Phủ, Cư Dung đều là những ải quan trọng bảo vệ kinh sư, xưa nay đều có trọng binh canh giữ, mỗi tổng binh thống lĩnh mấy vạn tinh binh. Sùng Trinh không tin vào võ tướng, cứ mỗi đội quân lại phái một tên thái giám thân tín đến làm giám quân, quyền lực trên cả tổng binh. Như thế lại dở đi. Hễ Sấm quân kéo đến là thái giám chủ trương đầu hàng, rồi tổng binh lập tức nghe lời. Thế là ba nơi yếu địa này, Sấm quân không tốn một tên lính mà hạ được.

Chỉ mấy ngày là quân đội triều Minh như đất sụt ngói tan, thành Bắc Kinh loạn lạc cả lên. Hôm nay lại có tin Sấm quân lấy được ải Xương Bình. Bây giờ có thể nói, Sấm quân chỉ đưa tay là sờ tới Bắc Kinh.

Mấy hôm sau, Hồng Thắng Hải vào trong bẩm báo: “Ngoài kia có một tên ăn mày ở trần, cứ quỳ dưới đất không ngớt khấu đầu, xin Hà giáo chủ tha thứ. Dường như là nhân vật Ngũ Độc Giáo.”

Viên Thừa Chí cùng Hà Thiết Thủ ra ngoài. Thanh Thanh cùng mọi người theo sau, thấy giữa trời đông giá lạnh mà người đó vẫn ở trần, thân dưới chỉ khoác một cái khố rách. Viên Thừa Chí nhận ra đây là Cẩm y đồng cái Tề Vân Ngạo, từng thả con Tiểu Kim Xà cắn Hà Thiết Thủ.

Hà Thiết Thủ lạnh nhạt hỏi: “Ngươi nhìn xem, chẳng phải ta còn sống đàng hoàng hay sao?”

Tề Vân Ngạo ra vẻ hân hoan, không ngớt khấu đầu. Hà Thiết Thủ lại hỏi: “Ngươi đến đây làm gì? Nếu ngươi chưa cùng đường, nhất định không đến gặp ta.”

Tề Vân Ngạo nói: “Tiểu nhân đáng chết, dám làm tổn thương quý thể của giáo chủ. May nhờ tam tổ thất tử phù hộ giáo chủ bình yên vô sự, bây giờ tiểu nhân mừng rỡ vô cùng.”

Hà Thiết Thủ hỏi gằn: “Ngươi dùng kim xà hại ta suýt chết, theo quy luật bản giáo thì ngươi phải là giáo chủ rồi chứ?”

Tề Vân Ngạo đáp: “Tiểu nhân không địch nổi mụ ăn mày đó, nghĩ tới cùng thì quay về quy thuận giáo chủ là hơn. Tiểu nhân chấp nhận đại hình ngàn rắn cắn người, chỉ xin giáo chủ khai ân tha mạng.”

Nói xong, hắn dùng cả hai tay nâng một cái ống màu vàng chóe lên đầu, vẫn quỳ gối lết tới mấy bước. Viên Thừa Chí biết cái ống này đang đựng con Tiểu Kim Xà độc nhất thiên hạ. Hắn dâng lợi khí này cho Hà Thiết Thủ là tỏ lòng quy thuận, từ nay quyết không dám hai lòng nữa.

Hà Thiết Thủ mỉm cười rồi nói: “Ngươi đã thành tâm hối cải thì ta cũng tha cho. Nhưng tội chết tha được, tội sống khó dung…” Nàng đưa tay định cầm lấy ống vàng, nhưng vừa trúng kịch độc chết đi sống lại nên đột nhiên hai chân bủn rủn, thân hình lảo đảo.

Tiêu Uyển Nhi đứng cạnh định đỡ nàng, đột nhiên nghe bên vệ đường có tiếng thét dữ dội. Một người nhảy xổ ra, tung người đến sau lưng Tề Vân Ngạo, cúi xuống một cái lại vọt đi ngay. Tề Vân Ngạo gào lên một tiếng, rướn người rồi đổ ập xuống đất, sau lưng lộ ra cái chuôi đao. Thanh đao này dài khoảng một thước, đâm sâu lút cán. Diễn biến này giống như sấm nổ giữa trời quang, bất ngờ đến nỗi không kịp bịt tai.

Mọi người cùng kinh hãi la lên, nhìn lại hung thủ thì chính là mụ ăn mày Hà Hồng Dược. Mụ kêu gào nghe rất cổ quái, hai chân nhảy tưng tưng, tay trái vung loạn lên nhưng không sao rứt được con Tiểu Kim Xà đang cắn trên mu bàn tay. Thì ra khi Tề Vân Ngạo bị đánh lén, con Tiểu Kim Xà đã sổng ra.

Tề Vân Ngạo ngẩng đầu dậy, la lên: “Hay quá, hay quá!” Hắn co giật mấy cái, rồi lăn ra chết.

Mọi người nhìn sang Hà Hồng Dược, thấy mụ đầy vẻ sợ hãi, khuôn mặt vốn đầy sẹo bây giờ càng giống như ma quỷ. Mụ đưa tay phải định giật Kim Xà ra, nhưng chưa đụng tới đã rụt tay về, cứ như sợ đụng phải Kim Xà là mất mạng vậy. Mụ trợn mắt lên, lấy trong bọc ra một thanh đao bén. Ánh đao nhấp nháy, nghe soạt một tiếng, mụ đã tự chặt đứt bàn tay trái, vội vàng xé tay áo buộc lại vết thương, rồi bỏ chạy như điên như cuồng.

Chứng kiến màn kịch kinh tâm động phách này, ai cũng ngơ ngác không nói ra lời. Hà Thiết Thủ cúi xuống nhặt cái ống vàng trên người Tề Vân Ngạo, chụp lên con Kim Xà. Thiết câu bên tay trái vạch một vòng lên bàn tay của Hà Hồng Dược bỏ lại, khoét rời một khối thịt trên lưng bàn tay đang bị con Kim Xà cắn chặt. Nàng hứng cả thịt lẫn rắn vào cái ống vàng, rồi đậy nắp lại.

Mọi người trở vào trong nhà. Sau đó Viên Thừa Chí bảo Hà Thiết Thủ: “Những người trong Ngũ Độc Giáo chống đối cô nương, kẻ chết kẻ bị thương, không còn ai tạo phản nữa. Bây giờ cô nương trở về thu dọn giáo phái đi.”

Hà Thiết Thủ lắc đầu đáp: “Muội không về đó nữa. Từ nay về sau, muội đi theo sư phụ.”

Viên Thừa Chí bối rối hỏi: “Cô theo ta làm chi?”

Hà Thiết Thủ đáp: “Huynh là sư phụ của muội. Dĩ nhiên muội phải theo sư phụ để học công phu.”

Nàng đột nhiên quỳ xuống trước mặt Viên Thừa Chí, khấu đầu lia lịa. Viên Thừa Chí kinh hãi, vừa chắp tay trả lễ vừa la lên: “Đừng làm thế!”

Hà Thiết Thủ nói: “Huynh đã đồng ý nhận muội làm đồ đệ rồi. Bây giờ muội khấu đầu bái sư đây.”

Viên Thừa Chí nói: “Ta đã hứa dạy võ cho cô, chuyện đó ta không phủ nhận, nhưng không cần tới danh phận sư đồ. Muốn nhận cô vào sư môn, ta phải được sư phụ cho phép đã.”

Hà Thiết Thủ vẫn quỳ ở đó không chịu đứng dậy. Viên Thừa Chí đưa tay ra đỡ, Hà Thiết Thủ rụt cổ tay về, mỉm cười nói: “Trên tay muội có độc.”

Một tia sáng đen lóe lên, thiết câu móc vào bàn tay Viên Thừa Chí. Nhưng chàng không rút tay về tránh, lại còn đưa nhanh phía trước, tránh khỏi thiết câu cách chừng sợi tóc, đỡ trúng vào khuỷu tay nàng.

Hà Thiết Thủ không tự chủ được, phải tung người lên không. Nhưng võ công nàng không phải tầm thường, uốn lưng trên không trung mà giật lùi hai thước, khi rơi xuống đất vẫn giữ thế quỳ. Mọi người đứng bên thấy hai người hiển lộ võ công thượng thừa như thế, không nén nổi phải cất tiếng hoan hô.

Viên Thừa Chí nói: “Hà giáo chủ nghỉ ngơi đi. Ta phải vào trong thay áo để tiếp khách.” Nói xong chàng quay lưng đi vào thật.

Hà Thiết Thủ lo lắng kêu lên: “Huynh không nhận muội làm đồ đệ thật ư?”

Viên Thừa Chí đáp: “Ta không dám.”

Hà Thiết Thủ nói: “Được! Hạ cô nương, ta kể chuyện cho cô nghe. Có người nửa đêm đặt một bức tranh ở bên giường…”

Thanh Thanh còn ngạc nhiên chưa hiểu, Viên Thừa Chí đã đỏ ửng mặt lên. Chàng nghĩ: “Cô ả Hà Thiết Thủ vô pháp vô thiên, chuyện gì cũng dám nói. Mình với A Cửu chưa làm gì cả, nhưng thanh niên nam nữ đêm khuya ngủ chung giường, ả mà nói ra thì Thanh Thanh nổi giận, lại còn hại đến danh dự của mình và A Cửu”. Chàng vô cùng lo lắng, cứ xoa tay mãi.

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Sư phụ! Đồng ý là hơn.”

Viên Thừa Chí không làm gì được, đành ấp úng: “À… à…”

Hà Thiết Thủ cả mừng hô lớn: “Hay lắm! Sư phụ đã ưng thuận rồi.”

Nàng quỳ cả hai chân xuống trước mặt chàng, tiếp tục khấu đầu, thi hành đại lễ bái sư. Viên Thừa Chí bị tình thế ép buộc, chỉ còn cách chắp tay trả lại nửa lễ. Mọi người xung quanh tới tấp kéo tới chúc mừng.

Thanh Thanh nổi dạ nghi ngờ, hỏi Hà Thiết Thủ: “Vừa rồi cô định kể chuyện gì vậy?”

Hà Thiết Thủ mỉm cười đáp: “Giáo phái chúng ta có một pháp môn rất tà đạo. Chỉ cần vẽ hình một người đặt bên giường, khấu đầu thi hành tà pháp là người đó đau đầu đau bụng, ba tháng vẫn chưa khỏi được. Lúc nãy sư phụ không chịu nhận ta làm đồ đệ, nên ta dọa sẽ thi triển tà môn này.”

Thanh Thanh cảm thấy khó tin, nhưng không biết làm sao mà cãi.

Viên Thừa Chí nghe Hà Thiết Thủ bịa chuyện xong mới yên tâm trở lại. Chàng nghĩ: “Khắp thiên hạ chẳng có ai bái sư mà uy hiếp thế này. Nếu cô ả không chịu sửa đổi tâm tính, nhất định ta không dạy võ nghệ cho.” Chàng bèn nghiêm trang nói: “Ta tự thấy chưa đủ bản lãnh để thu đồ đệ, truyền võ nghệ. Nhưng cô đã thành ý thế này, chúng ta hãy tạm thời mang danh phận đó. Đợi ta bẩm cáo sư phụ rõ ràng, khi lão nhân gia chấp thuận thì ta mới truyền cho cô võ công Hoa Sơn bản phái.”

Hà Thiết Thủ mặt mày rạng rỡ, tươi cười vâng dạ liên tiếp.

Thanh Thanh nói: “Hà giáo chủ…”

Hà Thiết Thủ cắt lời: “Cô không thể gọi ta là giáo chủ nữa. Sư phụ! Xin sư phụ đặt cho muội một cái tên.”

Viên Thừa Chí suy nghĩ một chút rồi nói: “Ta học chữ không nhiều, nghĩ không ra cái tên nào tốt đẹp. Tên cô vốn là Thiết Thủ, nữ nhân mang tên này có vẻ hung hãn. Bây giờ gọi là Thích Thủ có được không? Thích nghĩa là đừng làm chuyện xấu, còn Thủ nghĩa là giữ quy củ cho nghiêm ngặt.”

Hà Thiết Thủ mừng rỡ nói: “Được, được! Nhưng hai chữ Thích Thủ nghe đàng hoàng quá. Sư phụ! Sau khi được sư phụ truyền dạy võ công, muội như có thêm một cánh tay, sẽ tự gọi mình là Thiêm Thủ. Hạ sư thúc! Sư thúc gọi ta là Thiêm Thủ đi.”

Thanh Thanh mỉm cười nói: “Thiêm Thủ là thêm một bàn tay, có tới ba cánh tay, tương tự Thánh thủ thần thâu Hồ đại ca của chúng ta. Nhưng tuổi cô lớn hơn ta, bản lãnh cao hơn ta, sao lại gọi ta bằng sư thúc?”

Hà Thiết Thủ kề tai Thanh Thanh nói rất nhỏ: “Bây giờ tạm kêu là sư thúc, để sau này kêu bằng sư nương dễ hơn.”

Thanh Thanh đỏ bừng má, âm thầm mừng rỡ. Nàng đang tìm lời đáp lại, bỗng thấy Thủy Vân đạo trưởng và Mẫn Tử Hoa đi vào đại sảnh. Viên Thừa Chí bảo: “Tung tích của Hoàng Mộc đạo trưởng thế nào, cô nói với hai vị này đi.”

Hà Thiết Thủ hơi mỉm cười, nói: “Ông ấy đang ở Vân Nam…”

Nói chưa dứt lời, đột nhiên nghe một tiếng gầm dữ dội xé trời, cửa sổ tự mở ra. Mọi người cảm thấy mặt đất dưới chân mình rung động, ai cũng kinh ngạc. Những tiếng nổ vang lên không dứt, không phải là sấm sét. Trình Thanh Trúc nói: “Chắc là tiếng đại pháo.”

Hồng Thắng Hải từ ngoài cổng chạy thẳng vào trong, la lớn: “Đại quân Sấm Vương đã đến rồi!”

Tiếng pháo gầm không dứt, nhìn xa xa ra ngoại thành thấy ánh lửa chiếu sáng một mảng trời, nghe cả tiếng hò hét. Đúng là nghĩa quân Sấm Vương tấn công đến ngoài thành Bắc Kinh.

Viên Thừa Chí nói với Thủy Vân đạo trưởng: “Đạo trưởng, cô ấy đã bái tại hạ làm sư phụ. Chuyện của sư phụ đạo trưởng, từ từ hãy nói…”

Hà Thiết Thủ vội ngắt lời chàng: “Hoàng Mộc đạo trưởng bị cô cô của ta nhốt ở Độc Long Động trên Tuyết Sơn Ngọc Long, phủ Lệ Giang, tỉnh Vân Nam. Các vị cầm cái này mà đi cứu ông ấy.”

Nói xong, nàng lấy ra một cái còi sắt đen nhánh có hình con rắn, giao cho Thủy Vân đạo trưởng và Mẫn Tử Hoa. Hai người nghe nói sư phụ mình bình an vô sự, cả mừng nhận lấy cái còi đó.

Hà Thiết Thủ tiếp: “Đây là lệnh phù của ta. Các vị phải lập tức đi ngay. Vân Nam xa xôi, tin tức truyền không nhanh lắm. Giáo đồ ở đó chưa biết ta đã phản bội giáo phái, khi thấy lệnh phù dĩ nhiên sẽ thả người.”

Thủy Vân đạo trưởng và Mẫn Tử Hoa đa tạ đi ngay.

*

*   *

Hai người đi chưa được bao lâu, các lộ hào kiệt trong thành Bắc Kinh đã kéo đến xin lệnh của Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí là minh chủ võ lâm bảy tỉnh, lại là Kim Xà Vương, thủ lĩnh Kim Xà Doanh của Sấm quân. Chàng đã bố trí từ trước, ai phóng hỏa, ai tiếp ứng, mọi chuyện rõ ràng quy củ.

Thám tử khắp nơi tấp nập đến báo cáo Sấm quân tấn công thành Bắc Kinh như thế nào, quân Minh phòng vệ thế nào. Lát sau có người đưa đến một lá thư, là mệnh lệnh của Lý Nham gửi Viên Thừa Chí. Thì ra Lý Nham đã đến ngoài thành rồi. Viên Thừa Chí vô cùng mừng rỡ, lập tức phái người đi khắp nơi cứ thế mà làm.

Đến hoàng hôn, những bài ca của Lý Nham đã được mọi người truyền tụng khắp nơi. Phía thành tây nghe hát: “Sáng cầu yên ổn; Chiều mong ấm no; Sống trong nghèo khó; Chết vẫn âu lo; Mở rộng cửa ải; Nghênh đón Sấm Vương; Cuộc sống thanh bình; Ai cũng hân hoan.” Phía thành đông nghe hát: “Mẹ thương cho ăn; Mẹ thương cho mặc; Mở rộng cửa ải; Nghênh đón Sấm Vương; Sấm Vương mà đến; Khỏi đóng thuế lương.”

Quan binh trong thành đã loạn lạc từ lâu, tên nào cũng tính bài chạy trốn, nghe ca hát cũng mặc kệ. Những bài đồng dao này càng làm phấn chấn lòng người.

Hôm sau là ngày mười tám tháng ba. Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh, Hà Thiết Thủ, Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng hóa trang thành lính nhà Minh, lên đầu thành ngó ra ngoài, thấy bên ngoài đầy nghẹt nghĩa quân nón đen giáp đen. Mười mấy vạn quân giống như mây đen che kín một vùng hoang dã, không có chỗ tận cùng. Đạn pháo và cung tiễn không ngớt bắn lên thành. Binh lính canh gác trên thành đã hỗn loạn từ lâu, rõ ràng không chống đỡ nổi.

Đột nhiên một cơn gió lớn nổi lên, bụi cát mù mịt cả bầu trời khiến thái dương cũng âm u. Một tiếng sấm nổ vang, cơn mưa lớn đổ ào xuống, lẫn cả những viên đá nhỏ. Quân sĩ cả trên thành lẫn dưới thành đều ướt đẫm. Thanh Thanh và mọi người thấy trời đất đột nhiên thay đổi, bất giác trong lòng rung động.

Viên Thừa Chí cùng quần hùng trèo xuống, chỉ huy mọi người phóng hỏa lung tung trong thành phố, chặn giết bớt bọn quan binh và lưu manh du đãng đang thừa cơ cướp bóc khắp nơi. Tiếng la khóc vang dội, chỗ này lặng xuống chỗ khác lại nổi lên.

Quần hùng đang hò reo chiến đấu, đột nhiên thấy một toán quan binh hộ vệ một tên cẩm y thái giám đi tới. Ánh lửa sáng rực, Viên Thừa Chí từ xa đã thấy tên thái giám đó chính là Tào Hóa Thuần. Chàng mừng rỡ la lên: “Theo ta, bắt tên gian tặc đó!”

Thiết La Hán và Hà Thiết Thủ tiên phong mở lối, quần hùng xông thẳng tới, dĩ nhiên quan binh không cản nổi. Tào Hóa Thuần thấy không êm, định quay đầu ngựa chạy trốn. Viên Thừa Chí nhảy vọt lên trước, xách cổ hắn quẳng xuống ngựa, quát hỏi: “Chạy đâu?”

Tào Hóa Thuần lắp bắp: “Hoàng… hoàng thượng sai tiểu nhân… đốc chiến ở Chương Nghĩa Môn.”

Viên Thừa Chí nói: “Được! Chúng ta đến Chương Nghĩa Môn.”

Quần hùng áp tải Tào Hóa Thuần lên thẳng đầu thành. Từ xa đã nhìn thấy ngoài thành có một lá cờ lớn đang bay phấp phới. Dưới lá cờ có một người đội nón nhung, cưỡi ngựa ô chạy qua chạy lại chỉ huy, oai phong lẫm liệt, chính là Sấm vương Lý Tự Thành.

Thừa Chí hô lớn: “Mau mở cửa thành, đón tiếp Sấm Vương!”

Chàng vận kình bóp nhẹ, Tào Hóa Thuần đau đến suýt ngất đi. Mạng hắn nằm trong tay người khác, không dám phản kháng chút nào. Hơn nữa tình hình trước mắt đã khác, hắn còn mong lập công với chủ mới, tiếp tục mưu cầu lợi lộc. Hắn truyền lệnh: “Mở lớn cổng Chương Nghĩa Môn ra!”

Sấm quân ngoài thành hoan hô như sấm động, xông thẳng vào trong. Hàng ngàn hàng vạn binh tướng mặc giáp đen ùa vào cửa thành. Viên Thừa Chí đứng trên nhìn xuống, thấy Sấm quân trông như một con rồng đen vĩ đại, uyển chuyển tiến vào bên trong, oai phong lẫm liệt không gì chống nổi.

Viên Thừa Chí thống lĩnh quần hùng theo đám bại binh lùi vào nội thành. Quân canh trong nội thành còn khá đông, cộng thêm số bại binh lại càng trùng trùng điệp điệp.

Lúc này trời đã tối, Sấm quân ngoài thành khua chiêng tạm nghỉ. Viên Thừa Chí cùng mọi người rẽ đám loạn quân lùi về chỗ ở. Trong thành tiếng trống chiêng loạn xạ, chẳng còn quy tắc. Bọn tướng quân thống binh người lo chạy trốn, người đứng trên đầu thành đốc chiến, không ai nhìn tới đám quân Minh giả mạo bọn Viên Thừa Chí.

Tin tức đưa tới, các vị Giáp Lý Nhãn, Hoành Thiên Vương, Cải Thế Vương của Sấm quân đã chia nhau thống lãnh binh lính vào thành. Hồ Quế Nam và mọi người đã phất cờ hiệu Kim Xà Doanh thống lĩnh mọi người nổi dậy, thừa cơ để lập công.

Quần hùng chạy về hẻm Chính Điện Tử, thay đổi quần áo dính đầy máu trên người. Họ ăn uống no say một bữa, nhìn ra thấy chỗ nào trong thành cũng có lửa bốc lên.

Viên Thừa Chí hoan hỉ nói: “Nhất định sáng mai nội thành bị phá. Sấm Vương trị quốc chí công vô tư, từ nay bá tính trong thiên hạ được sống cuộc đời no ấm. Đêm nay là lúc ta cầm đao đi giết kẻ thù.”

Mọi người biết chàng muốn vào cung hành thích Sùng Trinh để trả thù cha, đều tự nguyện đi theo. Viên Thừa Chí lo lắng cho A Cửu, muốn gặp riêng nàng nên không để người khác đi theo, bèn nói: “Các vị đã cực khổ một ngày trời, đêm nay hãy nghỉ ngơi cho khỏe, sáng mai còn nhiều việc phải lo. Binh hoang mã loạn thế này, hoàng cung nhất định canh phòng sơ suất. Hành thích hôn quân rất dễ, tại hạ đi một mình cũng được.”

Quần hùng đều biết chàng võ công tuyệt thế, bây giờ thị vệ của hoàng đế chắc đã trốn sạch hết rồi, giết vị “cô gia quả nhân” này đúng là dễ như phủi bụi. Thấy Viên Thừa Chí ra vẻ nhất quyết, ai cũng tuân lời.

Viên Thừa Chí nhờ Thanh Thanh đốt nhang đèn, viết tấm linh bài: “Tiên quân cố Binh bộ Thượng thư Kinh Liêu đốc sư Viên”, xếp sẵn linh vị. Chàng sẽ chặt đầu Sùng Trinh xách về để tế cha, sau đó mang thủ cấp lên tường thành mà hô hoán. Khi đó quân lính trong nội thành càng mất tinh thần chiến đấu.

Viên Thừa Chí đem theo một cái túi da để đựng thủ cấp Sùng Trinh, dắt một thanh đao dài chừng một thước vào lưng, chạy về phía hoàng cung. Dọc đường ánh lửa bốc lên tới trời, tàn quân thừa cơ cướp bóc khắp nơi. Cứ chốc chốc Viên Thừa Chí lại thấy bảy tám tên quan binh lôi kéo mấy nữ nhân khóc lóc.

Chàng nghĩ đến A Cửu trở thành cô độc, không biết nàng sẽ làm gì. Tuy chàng đã đính ước uyên ương với Thanh Thanh từ lâu, kiếp này khó đền đáp tình ý thâm sâu của A Cửu, nhưng dù sao cũng không nỡ ruồng bỏ A Cửu. Đột nhiên chàng lại thấy băn khoăn: “Một người thì mình yêu sâu sắc, một người thì mình không nỡ phụ lòng! Ôi, thế này không được, thế kia cũng không xong!” Chàng nghĩ mãi, trong lòng nửa phần khổ sở nửa phần chua xót.

Viên Thừa Chí chạy thẳng tới cổng chính, bọn thái giám và vệ binh canh gác đã chạy trốn đâu mất hết. Thấy cung điện vắng tanh, chàng bỗng giật mình: “Giả tỉ Sùng Trinh trốn đi đâu mất, thì mình bỏ phí một cơ hội tốt.” Chàng chạy thẳng đến Càn Thanh Cung.

Tới cửa cung, nghe bên trong có tiếng khóc thảm thiết của nữ nhân. Viên Thừa Chí nép vào một bên cửa, nhìn vào trong, lập tức trong lòng mừng rỡ. Thì ra Sùng Trinh đang ngồi trên ghế.

Một nữ nhân mặc trang phục ra vẻ hoàng hậu đang đứng cạnh hắn, vừa khóc vừa nói: “Mười sáu năm nay bệ hạ không chịu nghe thần thiếp nói câu nào. Hôm nay đã đến nước này, thiếp nguyện chết theo bệ hạ và xã tắc, tuyệt đối không hối hận.”

Sùng Trinh cúi mặt, nước mắt rơi lã chã. Hoàng hậu khóc lóc một chập rồi ôm mặt chạy ra ngoài.

Viên Thừa Chí đang định sấn vào ra tay, đột nhiên trong điện có bóng người thấp thoáng lên. Một thiếu nữ cầm kiếm nhảy đến trước mặt Sùng Trinh, kêu lớn: “Phụ vương! Tình thế cấp bách lắm rồi, mau rời cung đã!”

Đây chính là Trường Bình công chúa A Cửu. Nàng quay lại bảo một tên thái giám: “Vương công công! Công công chuẩn bị cho bệ hạ đi.”

Thái giám này tên là Vương Thượng Ân, rơi lệ đáp: “Vâng! Công chúa điện hạ cùng đi chứ?”

A Cửu nói: “Không! Ta phải ở lại đây một lát.”

Vương Thượng Ân nói: “Trong chốc lát là nội thành bị phá, điện hạ ở lại trong cung vô cùng nguy hiểm.”

A Cửu nói: “Ta phải chờ một người.”

Sùng Trinh biến sắc mặt, hỏi: “Ngươi đợi con trai Viên Sùng Hoán phải không?”

A Cửu đỏ mặt lên, khẽ đáp: “Vâng! Nhi thần phải cáo biệt bệ hạ trước.”

Sùng Trinh hỏi: “Ngươi chờ hắn làm chi?”

A Cửu đáp: “Huynh ấy đã hứa, nhất định sẽ đến gặp nhi thần.”

Sùng Trinh bảo: “Đưa kiếm cho ta!”

Hắn cầm lấy Kim Xà bảo kiếm trong tay A Cửu, thở dài một tiếng rồi nói: “Hài nhi! Tại sao hài nhi lại sinh vào nhà ta…”

Đột nhiên hắn vung kiếm chém xuống. Kiếm quang lóe lên, bảo kiếm chém vào đầu A Cửu. Nàng kinh hãi la lên một tiếng, né qua một chút.

Sùng Trinh không biết võ công, nếu A Cửu chú ý thì thừa sức nhẹ nhàng tránh khỏi. Nhưng trong lúc sinh ly tử biệt, nàng vô cùng kích động, hoàn toàn không ngờ phụ vương vốn thương yêu mình lại hạ độc thủ. Vì thế nàng giật mình không kịp tránh né, bị bảo kiếm chém trúng cánh tay trái.

Viên Thừa Chí cũng không ngờ Sùng Trinh hạ độc thủ giết con gái ruột. Chàng đứng cách hai người rất xa, vừa thấy nguy là vọt tới ngay, nhưng mới giữa đường thì A Cửu đã ngã xuống đất.

Sùng Trinh cầm kiếm định chém tiếp, nhưng Viên Thừa Chí đã chạy tới nơi, đưa tay trái vỗ vào cổ tay hắn. Sùng Trinh không sao giữ được, Kim Xà Kiếm bay vọt lên trời. Viên Thừa Chí xoay tay trái lại nắm chặt lấy cổ tay Sùng Trinh, tay phải đón lấy thanh kiếm đang rơi xuống. Chàng quay đầu lại nhìn A Cửu, thấy nàng đã ngất xỉu trong vũng máu, cánh tay trái đứt lìa rớt một bên.

Viên Thừa Chí cả giận thét lên: “Hôn quân độc ác thế này, ai cũng có thể giết. Ngươi đã hại chết phụ thân ta, lại giết chết con gái của chính mình. Hôm nay ta phải lấy mạng ngươi.”

Sùng Trinh nhận ra chàng, thở dài rồi bảo: “Ngươi ra tay đi!”

Nói xong, hắn nhắm mắt chờ chết. Hai tên thái giám nhảy vào cứu giúp, nhưng Viên Thừa Chí mỗi chân hất một tên bay hẳn ra khỏi cung. Chàng đưa kiếm lên, định chém vào cổ Sùng Trinh.

Đột nhiên lúc đó A Cửu mở to cặp mắt, cố hết sức nhảy lên đứng chặn trước mặt Sùng Trinh, kêu lên: “Muội cầu xin huynh, đừng giết phụ vương!” Nàng nhìn Viên Thừa Chí đầy vẻ van xin, nói chưa xong lại ngất xỉu ngay.

Viên Thừa Chí thấy chỗ cánh tay cụt của nàng máu phun ra như suối, trong lòng vô cùng đau đớn. Chàng hất tay trái ra, Sùng Trinh té nhào xuống, ngẩng mặt lên trời.

Viên Thừa Chí bước tới dìu A Cửu dậy, điểm mấy chỗ huyệt đạo trên cánh tay trái và sau lưng cho máu chảy chậm lại, rồi lấy thuốc kim sang rắc lên vết thương, xé áo bó chặt lại. A Cửu từ từ hồi tỉnh, Viên Thừa Chí ôm lấy nàng dịu dàng an ủi.

Vương Thượng Ân cùng mấy tên thái giám đỡ Sùng Trinh dậy, bước xuống điện toan chạy ra ngoài. Viên Thừa Chí hét lên: “Trốn đâu cho thoát?” Chàng thả A Cửu xuống, định đuổi theo.

A Cửu đưa tay phải ôm lấy cổ Viên Thừa Chí, vừa khóc vừa kêu: “Đại ca… đừng hại phụ vương của muội!”

Viên Thừa Chí đổi ý: “Thành sắp bị phá, nhất định Sùng Trinh không toàn mạng. Mình không cần tự tay chém hắn vẫn coi như trả được thù cha, đỡ làm A Cửu đau lòng.” Chàng bèn gật đầu đáp: “Được!”

A Cửu yên tâm một chút, lại ngất đi.

Viên Thừa Chí nhìn thấy khắp nơi loạn lạc, nghĩ bụng: “Nàng bị trọng thương, không ai lo lắng nhất định sẽ mất mạng. Ta buộc phải đưa nàng về.” Thế là chàng ôm lấy A Cửu, bế ra khỏi cung. Đêm đã canh ba nhưng bầu trời sáng rực vì ánh lửa, khắp nơi đầy tiếng khóc la thê thảm.

Về đến hẻm Chính Điện Tử, chàng thấy mọi người đang chờ đợi. Thanh Thanh thấy chàng ôm về một cô gái vốn đã không vui, đến gần nhận ra A Cửu lại càng tức tối. Nàng nhăn nhó hỏi: “Thủ cấp hoàng đế đâu?”

Viên Thừa Chí đáp: “Ta không giết hắn. Tiêu cô nương, nhờ cô chăm sóc người này.”

Tiêu Uyển Nhi gật đầu, ẵm A Cửu vào trong. Ánh mắt Viên Thừa Chí cứ dõi theo, mãi đến khi Tiêu Uyển Nhi đưa A Cửu vào khuất trong phòng. Mặt chàng đầy vẻ lo âu.

Thanh Thanh lại hỏi: “Sao huynh không giết?”

Viên Thừa Chí ngần ngừ một chút, chỉ vào trong rồi nói: “Cô ấy xin ta đừng giết.”

Thanh Thanh giận dữ hỏi: “Cô ấy ư? Cô ấy là ai mà huynh phải nghe lời?”

Viên Thừa Chí chưa kịp trả lời, Hà Thiết Thủ đã nói: “Đáng tiếc, đáng tiếc! Một cô công chúa xinh đẹp như vậy mà bị chặt đứt cánh tay. Sư phụ! Bức tranh cô ấy vẽ đâu rồi, có mang theo không?”

Viên Thừa Chí vội nháy mắt ra hiệu. Hà Thiết Thủ còn hứng nói tiếp, nhưng thấy mặt mày Viên Thừa Chí và Thanh Thanh đều rất nặng nề, nên đành ngậm miệng.

Thanh Thanh hỏi: “Cái gì mà công chúa? Bức tranh gì thế?”

Hà Thiết Thủ mỉm cười đáp: “Vị công chúa này biết vẽ tranh. Ta từng thấy cô ấy tự vẽ mình, rất đẹp.”

Thanh Thanh lườm một cái, gằn giọng hỏi: “Có phải vậy không?” Rồi nàng quay lưng bỏ vào trong.

Hà Thiết Thủ nói với Viên Thừa Chí: “Sư phụ! Muội sẽ giúp sư phụ cứu công chúa sư nương. Sư phụ cứ việc yên tâm.”

Chú thích của Kim Dung:

Thật sự không có chuyện Tào Hóa Thuần định lập Huệ Vương làm vua. Chuyện này là do tác giả tiểu thuyết bịa ra để thêm thắt vào. Còn những chuyện liên quan đến Sùng Trinh và Lý Tự Thành, đại khái có căn cứ vào sử sách. Mối tình giữa Trường Bình công chúa và Viên Thừa Chí dĩ nhiên trong sử không chép, vì Viên Thừa Chí là nhân vật hư cấu.

Huệ vương Châu Thường Nhuận là con thứ sáu của vợ thứ Thuần Tông; là em của Quan vương Thường Lạc, Phước vương Thường Tuân; là chú của Thiên Khải và Sùng Trinh. Huệ Vương được phong ở đất Kinh Châu chưa lâu thì thiên hạ đại loạn, vùng Sơn Đông Trực Lệ không yên ổn, nên quay về Bắc Kinh. Năm cuối đời Sùng Trinh, Huệ Vương chạy đến Quảng Châu, khi Mãn Thanh bình định Quảng Đông thì bắt được đem xử tử.

Hồi 19: Tưởng gặp đời thánh chúa – Nào biết khổ lê dân

Nửa đêm Viên Thừa Chí lẻn đến ngoài phòng A Cửu xem thử. Màn đã buông xuống, chàng không nhìn rõ bên trong, chỉ thấy lờ mờ Hà Thiết Thủ và Tiêu Uyển Nhi ngồi cạnh giường. Chàng không dám mở miệng, quay về phòng nghỉ ngơi chốc lát.

Gần sáng, chàng lại tới thăm, vẫn thấy Hà Thiết Thủ và Tiêu Uyển Nhi ngồi canh trước giường. Hà Thiết Thủ khẽ nói: “Sư phụ! Cô ấy có tỉnh một lúc, mãi hỏi sư phụ rồi lại ngủ thiếp đi. Chắc cô ấy đang mơ thấy sư phụ.”

Viên Thừa Chí nhìn A Cửu, thấy mắt nàng nhắm nghiền, hàng mi dài buông rủ, sắc mặt trắng xanh hoàn toàn không có chút huyết sắc. Chàng sợ Thanh Thanh đến đây la lối nên không dám ở lâu, biết Hà Thiết Thủ đủ khả năng lo liệu nên quay về phòng mình.

Lúc bình minh Hồng Thắng Hải từ bên ngoài chạy vội vào phòng, kêu lớn: “Tướng công! Sa trại chủ đã bắt được thái giám Vương Tương Hiệu, sai người mở cửa Tuyên Võ Môn.”

Viên Thừa Chí vọt ra khỏi giường, hỏi: “Nghĩa quân vào thành chưa?”

Hồng Thắng Hải đáp: “Tướng quân Lưu Tông Mẫn đã dẫn quân vào thành.”

Viên Thừa Chí nói: “Thế thì hay quá! Chúng ta mau đi đón tiếp.”

Hai người tới đại sảnh. Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng và Thiết La Hán ra ngoài chưa quay về. Viên Thừa Chí dẫn ông câm, Hồ Quế Nam, Hồng Thắng Hải, cả thảy bốn người đi về phía Đại Ninh Môn.

Mây đen che kín bầu trời, tuyết trắng lả tả rơi xuống. Loạn quân của Minh triều chạy tứ tán đầy đường. Có người đi qua hô hoán: “Kim Xà Vương đang tấn công Chính Dương Môn, Thuận Thiên Vương đã dẫn nghĩa quân vào thành.” Lại có người kêu lên: “Tề Hóa Môn đã mở, nghĩa quân của Tả Kim Vương đã vào thành. Nghĩa quân của Lão Hồi Hồi vừa phá được Đông Trực Môn.”

Viên Thừa Chí cùng mọi người đi một lúc thì thấy bại binh dần dần ít đi, Sấm quân từng toán kéo vào theo những con đường lớn, khí thế oai nghiêm. Dân chúng đều dán giấy vàng trước cửa, viết chữ rất lớn: “Vĩnh Xương nguyên niên Thuận Thiên Vương vạn vạn tuế”. Thậm chí có nhà còn bày hương án, sắp sẵn trà rượu để ủy lạo đại quân.

Viên Thừa Chí nói với Hồ Quế Nam: “Lòng người như thế, Sấm Vương đâu thể không thành đại sự?”

Đi một đoạn nữa, nghe phía trước có tiếng kèn hiệu. Mấy trăm người nhanh chân chạy tới, dẫn đầu là Sa Thiên Quảng và Thiết La Hán. Hai người này đang dẫn hào kiệt thành Bắc Kinh chặn đánh lính triều đình, khi thấy Viên Thừa Chí đều cất tiếng hoan hô: “Kim Xà Vương, Kim Xà Vương! Chúng ta phá được thành rồi.”

Thiết La Hán la lên: “Sấm Vương sắp đến!”

Tiếng hô vừa dứt, đã thấy mấy kỵ sĩ phi nhanh tới, đại hán đi đầu cầm cờ lớn ghi sáu chữ: “Đại Thuận, Chế tướng quân Lý”. Sau đó nhìn thấy Lý Nham mặc y phục màu xanh dương, cỡi ngựa chạy tới.

Viên Thừa Chí cả mừng, reo lên: “Đại ca!” Chàng lập tức nhảy đến trước mặt Lý Nham.

Lý Nham ngẩn ra một chút rồi tung người xuống ngựa, hoan hỉ nói: “Huynh đệ! Kim Xà Doanh của huynh đệ đã phá được thành, công lao không phải nhỏ.”

Viên Thừa Chí nói: “Đại quân Sấm Vương đến đâu, quân Minh chỉ nghe tiếng đã đầu hàng. Tiểu đệ chẳng có công lao gì hết.”

Hai người nắm tay nhau nói mấy câu khách sáo. Điền Kiến Tú, Lưu Phương Lượng từng gặp trên đỉnh Thánh Phong cũng tới đây, lát sau lại thêm mấy tướng lĩnh của Sấm quân là Quách Dưỡng Thành, Hoành Thiên Vương, Giáp Lý Nhãn. Mọi người siết tay nhau mừng rỡ.

Đột nhiên nghe tiếng còi hiệu, quân tướng reo hò: “Đại vương đến rồi! Đại vương đến rồi!”

Viên Thừa Chí cùng mọi người né qua một bên, thấy hơn trăm tinh binh phi ngựa dẫn đường, Lý Tự Thành đội nón nhung, mặc áo giáp, cỡi ngựa đen chạy nhanh tới. Lý Nham đến nói nhỏ mấy câu, Lý Tự Thành mỉm cười gọi: “Tuyệt diệu! Kim xà vương Viên huynh đệ, mau tới đây!”

Lý Nham vẫy tay gọi, Viên Thừa Chí tiến đến trước mặt hai người. Lý Tự Thành cười nói: “Viên huynh đệ đã lập đại công rồi! Huynh đệ không có ngựa ư?”

Nói xong, ông nhảy xuống ngựa, trao dây cương con ngựa của mình cho Viên Thừa Chí. Chàng vội vàng bái tạ.

Lý Tự Thành đi lên đầu thành, phóng mắt nhìn ra, thấy hàng ngàn hàng vạn tướng sĩ của mình đang từ mọi cửa thành tiến vào, không sao giấu nổi vẻ đắc chí mãn nguyện. Sấm quân cũng thấy đại vương đứng trên đầu thành, bốn phía đều hoan hô như sấm.

Lý Tự Thành lấy ra ba mũi tên, giương cung bắn xuống dưới thành, lớn tiếng hô: “Tướng sĩ nghe đây! Sau khi vào thành, nếu ai tự động sát hại, cướp bóc, hãm hiếp dân chúng, phải chém không tha.”

Mấy chục vạn Sấm quân dưới thành đồng thanh hô vang: “Xin tuân lệnh Đại vương. Đại vương vạn tuế, vạn vạn tuế.”

Viên Thừa Chí ngẩng mặt nhìn lên, thấy Lý Tự Thành đầy vẻ oai phong mà trong lòng khâm phục. Chàng bất giác cũng lớn tiếng hô: “Đại vương vạn tuế, vạn vạn tuế!”

Lý Tự Thành bước xuống tường thành, đổi một con ngựa khác, dẫn mọi người tới hoàng cung. Ông quay đầu lại, mỉm cười bảo Viên Thừa Chí: “Từ nay về sau huynh đệ phải thừa chí cha mình, giúp ta kháng cự bọn Thát tử Mãn Châu xâm lược giang sơn. Còn ta là Thừa Thiên.”

Sau đó ông giương cung lắp tên. Vù một tiếng, mũi tên bắn trúng chữ Thiên trong ba chữ Thuận Thiên Phủ. Kình lực của ông rất mạnh, mũi tên cắm ngập vào tường thành, mọi người lại lớn tiếng reo hò.

Tới Đức Thắng Môn, thái giám Vương Đức Quá đã dẫn ba trăm năm mươi mấy tên nội giám nằm rạp sẵn dưới đất để đón tiếp. Lý Tự Thành vứt roi xuống đất, cười rộ lên nói với Viên Thừa Chí: “Năm ngoái gặp ta ở Thiểm Tây, huynh đệ có nghĩ đến ngày hôm nay không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Đại nghiệp của đại vương thì dân chúng khắp thiên hạ đều tin tưởng, nhưng không ngờ thành tựu nhanh chóng đến thế.”

Lý Tự Thành lại xoa tay cười lớn.

Phía trước có người chạy nhanh tới, bẩm cáo với Lý Tự Thành: “Đại vương! Bọn thái giám nói là thấy Sùng Trinh chạy về phía Mai Sơn.”

Lý Tự Thành quay lại bảo Viên Thừa Chí: “Kim Xà Vương huynh đệ! Mau dẫn người đi bắt hắn.”

Viên Thừa Chí vâng dạ rồi vẫy tay một cái, dẫn bọn Hồ Quế Nam chạy tới Mai Sơn.

Mai Sơn là một ngọn đồi nhỏ xíu. Mọi người vừa lên đồi đã thấy một gốc cây lớn có treo hai người, lắc lư theo gió. Một người xõa tóc che mặt, trong mặc áo chẽn, quần trắng có viền màu bạc, ngoài khoác áo ngắn bằng gấm đoạn, chân trái để trần, chân phải vẫn mang một chiếc giày mũi vuông màu đỏ. Viên Thừa Chí vén tóc ra xem mặt, đúng là Sùng Trinh hoàng đế.

Trong túi áo hắn có một tờ giấy trắng, viết bằng bút son: “Mười bảy năm trẫm đăng cơ, địch đã vào trong nội địa bốn lần, bây giờ nghịch tặc đến tận kinh sư. Trẫm tài hèn đức mọn nên hoàng thiên nổi giận mà trách phạt, lại còn quần thần gây ra hậu quả. Trẫm chết đi không mặt mũi nào gặp tổ tông dưới cửu tuyền, nên dùng tóc để che mặt. Sấm tặc cứ phanh thây trẫm, nhưng đừng hại một bá tính nào. Sùng Trinh ngự bút.” Trên tờ giấy vấy đầy vết máu.

Viên Thừa Chí cầm xem tờ huyết chiếu, đột nhiên thấy bâng khuâng. Mối thù hai mươi năm nay đã được trả, dĩ nhiên chàng phải vui mừng; nhưng thấy kẻ thù có kết cục thê thảm như vậy, bỗng nảy lòng trắc ẩn. Chàng nghĩ bụng: “Ngươi nói cũng hay lắm, gì mà đừng hại một bá tính nào! Nếu ngươi biết yêu mến bá tính, đừng ép bá tính đến mức đói rách không phương sinh sống, thì đâu phải hứng chịu hậu quả hôm nay?”

Hồng Thắng Hải lên tiếng: “Viên tướng công! Người treo cổ bên cạnh là một tên thái giám.”

Viên Thừa Chí nói: “Tên hoàng đế này chết chỉ có một thái giám kế bên, đúng là mất hết nhân tâm. Chúng ta đưa xác hắn về, đừng để người khác sỉ nhục.”

Hồng Thắng Hải vâng dạ, Viên Thừa Chí phi ngựa về bẩm báo.

Lúc này Lý Tự Thành đã vào hoàng cung. Sấm quân canh giữ hoàng cung nhận ra Viên Thừa Chí, liền dẫn chàng vào. Lý Tự Thành ngồi trên long ỷ, mười mấy tướng quân đứng bên cạnh. Dưới điện có một thằng bé áo quần xốc xếch.

Lý Tự Thành thấy Viên Thừa Chí vào, gọi lớn: “Hay lắm! Hoàng đế đâu, dẫn vào đi!”

Viên Thừa Chí đáp: “Sùng Trinh chết rồi, treo cổ trên một gốc cây ở Mai Sơn.”

Lý Tự Thành ngẩn ra, đón lấy tờ di chiếu của Sùng Trinh để xem. Thiếu niên đứng dưới đột nhiên nằm lăn ra đất khóc gào, cơ hồ ngất xỉu. Lý Tự Thành nói: “Đó là thái tử.”

Viên Thừa Chí dìu nó dậy. Lý Tự Thành hỏi: “Tại sao cha ngươi để mất thiên hạ, ngươi biết không?”

Thái tử vừa khóc vừa đáp: “Vì tin dùng gian thần, bạc đãi trung lương.”

Lý Tự Thành mỉm cười nói: “Thì ra thằng bé này cũng có hiểu biết.” Ông nghiêm giọng nói: “Cho ngươi biết, phụ vương của ngươi đã hồ đồ lại nhẫn tâm, tàn hại bá tính khắp thiên hạ cực kỳ khổ sở. Hôm nay phụ vương của ngươi treo cổ tự tử, đương nhiên là chuyện thê thảm. Nhưng hắn tại vị mười mấy năm trời, đã ép bá tính trong thiên hạ phải treo cổ tự tử không biết mấy ngàn mấy vạn. Chuyện đó còn thê thảm hơn nhiều.”

Thái tử cúi đầu không nói gì, lát sau mới lên tiếng: “Ông mau giết ta đi!”

Thừa Chí thấy nó quật cường, không khỏi lo giùm. Nhưng Lý Tự Thành nói: “Ngươi vẫn còn là một đứa bé, lại chẳng có tội gì. Ta đâu có giết người bừa bãi?”

Thái tử nói: “Vậy thì ta xin ông mấy việc.”

Lý Tự Thành bảo: “Ngươi nói thử xem.”

Thái tử nói: “Xin ông đừng kinh động đến lăng tẩm của tổ tông ta và an táng phụ vương, mẫu hậu ta tử tế.”

Lý Tự Thành đáp: “Đương nhiên. Chuyện đó ngươi khỏi phải xin.”

Thái tử lại nói: “Xin ông đừng giết hại bá tính.”

Lý Tự Thành cười ha hả rồi nói: “Thằng bé này chẳng hiểu gì. Ta chính là bá tính đây. Bá tính chúng ta tấn công, chiếm được kinh thành các ngươi. Ngươi có hiểu không?”

Thái tử hỏi: “Vậy thì ông không giết bá tính chứ?”

Lý Tự Thành đột nhiên phanh ngực áo, để lộ nhiều vết sẹo do roi và hình cụ hành hạ, nhìn mà phát sợ. Lý Tự Thành nói: “Ta vốn là người dân lương thiện, nhưng bị bọn tham quan ô lại đánh một trận thế này, nên mới không nhẫn nại được mà khởi nghĩa tạo phản. Cha con ngươi giả nhân giả nghĩa, nói yêu mến bá tính gì gì! Trong quân đội của ta từ trên xuống dưới, chẳng ai chưa từng nếm mùi khổ nhục của cha ngươi.”

Thái tử im lặng cúi đầu. Lý Tự Thành mặc áo vào, lại nói: “Ngươi lùi xuống đi. Nghĩ ngươi là thái tử của tiên vương, ta phong cho ngươi một tước vương để ngươi biết bá tính chúng ta không nghĩ đến thù xưa. Phong ngươi chức vương gì đây? À, cha ngươi đã đem giang sơn tống vào tay ta, thế thì phong ngươi làm Tống Vương vậy.”

Thái giám Tào Hóa Thuần đứng bên bỗng lên tiếng: “Mau mau khấu đầu tạ ơn bệ hạ đi!”

Thái tử giận dữ nhìn Tào Hóa Thuần, đột nhiên xoay người tát vào mặt hắn một cái. Trên mặt Tào Hóa Thuần lập tức hằn lên dấu năm ngón tay.

Lý Tự Thành cười rộ, nói: “Đánh hay quá! Đồ gian tặc bất trung bất nghĩa! Người đâu, lôi ra chém đi.”

Tào Hóa Thuần hoảng sợ đến nỗi mặt cắt không ra máu, vội vã quỳ xuống khấu đầu binh binh, tóe cả máu trán. Lý Tự Thành phóng cước đá hắn lộn đi mấy vòng, hét lên: “Cút mau! Từ nay về sau, ta mà thấy mặt là giết ngươi ngay.”

Thái tử ngẩng cao đầu, bước ra ngoài. Lý Tự Thành nói với Viên Thừa Chí: “Thằng lỏi này thật là quật cường. Ta thích những đứa có cốt khí như thế.”

Viên Thừa Chí đáp: “Đúng vậy.”

Thừa tướng Ngưu Kim Tinh bỗng lên tiếng: “Đại sự của chúa thượng đã thành, triều Minh mất hết lòng người, nhưng không thể không đề phòng chuyện lửa cháy âm ỉ trong bùn. Thằng bé này quá quật cường, nếu nó không chịu quy thuận thánh triều, e rằng sau này có người lợi dụng danh nghĩa để làm loạn. Chi bằng chúng ta trừ khử để tránh hậu hoạn.”

Lý Tự Thành trù trừ một chút rồi nói: “Việc này giao cho ngươi lo liệu.” Ông quay lại, hỏi quân sư Tống Kiến Sách thấp lùn đứng phía sau: “Nghe nói hoàng đế còn có một công chúa, không biết đang ở đâu.”

Viên Thừa Chí lên tiếng: “Cô ấy đã bị hoàng đế chặt đứt một cánh tay, thuộc hạ đón về nhà trị liệu vết thương. Đợi công chúa bình phục, thuộc hạ sẽ dẫn đến khấu kiến đại vương.”

Lý Tự Thành vừa cười vừa nói: “Được! Công lao của ngươi không nhỏ, ta chưa nghĩ ra phải thưởng cái gì. Thưởng công chúa cho ngươi.”

Viên Thừa Chí cảm thấy khó chịu, vội nói: “Không, không! Thuộc hạ chỉ xin đại vương tha mạng cho thái tử.”

Ngưu Kim Tinh mỉm cười nói: “Viên huynh đệ mắc cỡ làm chi? Trước nay anh hùng vẫn xuất tự thiếu niên. Các vị tướng quân công lao tuy lớn, chỉ được đại vương thưởng cho mấy ả cung nữ mà thôi. Thế mà huynh đệ vẫn chưa hài lòng, còn cầu xin việc khác.”

Viên Thừa Chí nghe trong lời nói có phần bóng gió, cảm thấy không vui. Chàng thầm nghĩ: “Thái tử là một đứa bé vô tội, hà tất phải giết.”

Lý Tự Thành nói: “Viên huynh đệ! Võ quan dưới trướng ta chia làm nhiều cấp. Lưu Tông Mẫn và Điền Kiến Tú đều là Nhất phẩm Quyền tướng quân. Nghĩa huynh Lý Nham của ngươi là Chế tướng quân. Ta phong ngươi làm Tam phẩm Quả Nghị tướng quân.”

Viên Thừa Chí khom lưng đáp: “Đa tạ đại vương. Thuộc hạ dù chết cũng ra sức phò tá đại vương, nhưng bản ý không muốn làm quan.”

Ngưu Kim Tinh cười nói: “Viên huynh đệ vốn là minh chủ võ lâm bảy tỉnh, chắc là chê chức vụ tướng quân tam phẩm quá thấp phải không? Đại vương đã nhất thống thiên hạ, cai trị toàn cõi giang sơn. Những chuyện minh chủ bảy tỉnh, minh chủ tám tỉnh gì gì đó tự đặt cho nhau, về sau nhất định phải cấm chỉ nghiêm ngặt.”

Lý Tự Thành nghe Ngưu Kim Tinh nói quá nặng nề, bèn vỗ vai Viên Thừa Chí, mỉm cười bảo: “Tuổi ngươi còn trẻ, công lao tuy lớn nhưng theo ta chưa lâu. Sau này thăng tiến, sợ không đủ thời gian hay sao?”

Viên Thừa Chí nói: “Thuộc hạ không nghĩ đến chức vị cao thấp, nhưng thật sự chỉ là thất phu thảo mãng, không thể làm quan được.”

Lý Tự Thành cười lớn rồi dõng dạc nói: “Chẳng lẽ ta không phải thất phu thảo mãng? Thế mà làm tới hoàng đế kia.”

Viên Thừa Chí không tiện nói nữa, cúi đầu xin phép cáo từ.

*

*   *

Chàng trở về hẻm Chính Điện Tử, chưa tới đã nghe thấy tiếng binh khí va chạm, tiếng hò hét chửi mắng, rồi lại thấy mấy chục Sấm quân cầm binh khí bỏ chạy ra ngoài.

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Sấm quân tới đây làm gì vậy?” Chàng vội vã chạy đến cửa, thấy Hà Thiết Thủ vẫy thiết câu chém giết loạn xạ, vây chặt mười mấy tên Sấm quân trong nhà không cho chạy ra ngoài. Viên Thừa Chí la lên: “Dừng tay, dừng tay! Người mình cả.”

Hà Thiết Thủ hô lớn: “Sư phụ”, rồi tránh qua một bên.

Bọn Sấm quân thấy có đường chạy trốn, ùa ra như ong vỡ tổ. Một tên võ quan chạy đến trước mặt Viên Thừa Chí, ngơ ngác hỏi: “Ngươi… ngươi là Kim Xà Vương? Không phải thuộc hạ của đại vương chúng ta hay sao?”

Viên Thừa Chí đáp: “Đúng rồi! Mọi người hiểu lầm nhau, xin lão huynh đừng trách.”

Võ quan kia giận dữ nói: “Hiểu lầm ư? Hừ, ngươi xem đi. Thủ hạ của ngươi đã giết rất nhiều huynh đệ chúng ta.” Nói xong, hắn chỉ vào bảy tám cái xác nằm ngổn ngang dưới đất.

Thiết La Hán chạy ra ngoài, lớn tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó! Bọn bay vừa vào nhà đã ra tay cướp giật, nói là không giao vàng bạc ra thì phóng hỏa đốt nhà. Thấy Hạ cô nương xinh đẹp, lập tức động tay động chân, nói cô ấy là gian tế, phải bắt đi ngay. Đồ rùa đen khốn nạn! Bọn bay có khác gì quan quân nhà Minh đâu?”

Nói xong, y vung quyền nghe “binh” một tiếng. Tên võ quan kia bay thẳng ra ngoài.

Viên Thừa Chí đi vào trong sảnh. Trình Thanh Trúc, Hồ Quế Nam cùng mọi người đều tức giận kể lại những chuyện vừa thấy ngoài đường. Họ nói: “Sấm quân vừa vào thành đã lục soát nhà dân, cướp bóc, hãm hiếp, chuyện bậy bạ gì cũng không chừa.”

Viên Thừa Chí kinh hãi nói: “Vậy thì mất nhân tâm ngay. Chính mắt ta thấy đại vương đứng trên đầu thành bắn ba mũi tên, nghiêm cấm giết người cướp của. Nhất định đại vương chưa biết tình hình này. Ta lập tức chạy vào bẩm báo, nhờ đại vương hạ lệnh nghiêm cấm.”

Trình Thanh Trúc khuyên ngăn: “Minh chủ! Bộ hạ của Sấm Vương có rất nhiều người xuất thân đạo tặc, đã vào đến kinh thành phồn hoa dĩ nhiên phải buông thả một chút. Đợi vài ngày rồi hãy tấu trình.”

Viên Thừa Chí nói: “Không được! Đợi vài ngày thì dân chúng trong thành khổ sở không chịu nổi. Cứu dân như cứu hỏa, đâu thể chờ đợi?”

Đang nói chuyện, bên ngoài bỗng vọng vào tiếng hò hét. Viên Thừa Chí giật mình chạy ra cửa, thấy vô số nhân mã đang ùa vào hẻm Chính Điện Tử. Tên võ quan vừa bị Thiết La Hán đánh ngã đang cưỡi trên một con ngựa, la lên: “Viên Thừa Chí! Quyền tướng quân gọi ngươi đi nói chuyện.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Có thật Quyền tướng quân gọi không?”

Một võ quan lấy lệnh tiễn ra, nói: “Có lệnh tiễn của Quyền tướng quân đây.”

Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Ta mà không đi thì tổn thương hòa khí anh em. Gặp Quyền tướng quân cũng là cơ hội để khuyên huynh ấy quản thúc thuộc hạ.” Chàng bèn gật đầu nói: “Được! Ta đi ngay.”

Tên võ quan đó hét lên: “Bắt lấy!”

Lập tức có bảy tám binh sĩ ùa lên, lấy dây ra trói Viên Thừa Chí. Chàng mỉm cười, không chống đỡ, chắp tay sau lưng để chúng muốn trói sao thì trói.

Thiết La Hán, Sa Thiên Quảng cùng quần hùng đều la lớn: “Ai dám động thủ?” Họ vừa hô hoán vừa toan xông vào đánh nhau.

Viên Thừa Chí vội kêu lên: “Mọi người không được động võ. Để ta gặp Quyền tướng quân nói chuyện đã.”

Võ quan kia lại chỉ Hà Thiết Thủ, nói: “Con bé cụt tay này chính là công chúa của Sùng Trinh hoàng đế, Quyền tướng quân dặn phải bắt về. Bắt lấy nó!”

Đám lính chạy ùa về phía Hà Thiết Thủ. Nàng vung kim câu một đường, không cho chúng đến gần, cười cười hỏi: “Quyền tướng quân bắt ta để làm gì vậy?”

Tên võ quan đáp: “Phá được Bắc Kinh, công lao của Quyền tướng quân là số một. Công chúa của Sùng Trinh dĩ nhiên phải để Quyền tướng quân hưởng thụ. Ngươi ngoan ngoãn theo về, sau này phú quý cả đời dùng không hết.”

Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Vậy thì hay lắm. Nhưng nếu ta không chịu đi thì sao?”

Tên võ quan hét lên: “Lải nhải nhiều vô ích. Bắt nó đi!”

Hà Thiết Thủ la lên: “Sư phụ! Quyền tướng quân muốn bắt muội về làm vợ bé. Sư phụ thấy muội nên đi hay không?”

Viên Thừa Chí chưa biết nói sao, đã thấy mấy tên lính ùa tới túm lấy Hà Thiết Thủ. Nàng cứ đứng yên cười khanh khách, nhưng bọn chúng đột nhiên té ngửa ra, giật giật mấy cái rồi mất mạng. Thì ra trên y phục của Hà Thiết Thủ chỗ nào cũng có chất kịch độc.

Tên võ quan sợ quá, thét lên: “Phản rồi, phản rồi! Bọn này là tàn quân của triều Minh còn kháng cự, giết đi!”

Lập tức rất nhiều đao thương vung lên, bổ lên đầu Thiết La Hán cùng mọi người. Đã đến mức này, chẳng lẽ quần hùng buông tay chịu chết? Họ đoạt lấy đao thương đánh trả, chém giết một trận. Quan quân hỗn độn thành một khối, kẹt lại trong hẻm, không tiến được mà cũng khó lùi.

Viên Thừa Chí hô lớn: “Các ngươi về nói với Quyền tướng quân, mọi người cùng đến trước mặt đại vương nói chuyện xem ai đúng ai sai.”

Nói xong, chàng vận kình lực lên tay, bao nhiêu dây trói đứt tung như chỉ mục. Chàng nhảy xổ tới, hai tay nắm lấy hai tên võ quan lôi xuống ngựa, lại la lên: “Ta tạm giữ hai võ quan này. Anh em binh sĩ trở về doanh đi.”

Đám lính thấy cấp trên đã bị bắt, không dám đánh nữa. Chúng ùa nhau chạy ra khỏi hẻm.

Viên Thừa Chí thở dài, lắc đầu, bảo Hồ Quế Nam và Hồng Thắng Hải áp giải hai tên võ quan đó đi gặp Lý Tự Thành.

Vào cung, thấy trong đại điện đang bày đại tiệc. Lý Tự Thành cùng các tướng quân dự yến, tiếng nhạc inh ỏi, rượu thịt liên tiếp bưng lên như nước chảy. Lý Tự Thành đã hơi say, thấy Viên Thừa Chí liền vui mừng nói: “Hay quá! Ngươi tới đây uống một ly.”

Viên Thừa Chí khom người vâng dạ, rồi bước tới nhận ly rượu từ tay Lý Tự Thành, uống cạn ngay.

Tướng quân ngồi bên trái Lý Tự Thành đột nhiên đứng dậy, hét lên: “Viên Thừa Chí, gan ngươi to thật đấy! Dựa vào cái gì mà dám giết thuộc hạ của ta?”

Viên Thừa Chí thấy người này râu ria đầy mặt, thần sắc thô hào, đoán là Quyền tướng quân Lưu Tông Mẫn. Chàng hỏi: “Các hạ là Quyền tướng quân phải không?”

Hắn đáp: “Đúng vậy! Đại vương chỉ phong cho ngươi cái chức Quả Nghị tướng quân nho nhỏ, thế mà ngươi dám không xem Quyền tướng quân này ra gì, cả gan giết thuộc hạ của ta.”

Nói xong, hắn đưa tay nắm chuôi đao rút ra một nửa, rồi cắm trả vào vỏ nghe “roạt” một tiếng. Nhất thời cả mấy trăm người trong điện im lặng, không ai lên tiếng.

Viên Thừa Chí nói: “Lúc đại vương vào thành từng ra hiệu lệnh: ai giết hại, cướp bóc, hãm hiếp dân chúng đều phải chém đầu. Tại hạ thấy một số người dưới trướng tướng quân đang ngược đãi tàn hại bá tính nên phải khuyên ngăn, thật không phải cố ý đắc tội. Chuyện này xin Quyền tướng quân tha thứ.”

Lưu Tông Mẫn cười nhạt nói: “Thiên hạ này đã là của đại vương, do đám huynh đệ lâu năm chúng ta xuất sinh nhập tử, từ trong rừng đao thương giành lấy. Chúng ta biết đánh chiếm giang sơn, chẳng lẽ không biết hưởng thụ giang sơn hay sao? Ngươi cố ý lấy lòng bá tính, thu phục nhân tâm… Hừ, mưu đồ gì đây?”

Viên Thừa Chí nói: “Đại vương từng nói, chính bản thân đại vương cũng là bá tính.”

Lưu Tông Mẫn cười rộ lên nói: “Đang đánh chiếm giang sơn thì đại vương là bá tính, bây giờ ngồi trên ngai vàng thì đại vương là chân mạng thiên tử, chẳng lẽ vẫn là bá tính? Thằng lỏi này chỉ nói bừa.”

Viên Thừa Chí im lặng. Lý Tự Thành cười nói: “Được rồi, được rồi! Mọi người đều là huynh đệ, đừng vì chuyện nhỏ mà tổn thương hòa khí. Hai người qua đây, mỗi người cạn một ly đi. Tông Mẫn! Ta biết ngươi chỉ ganh tị vì Viên Thừa Chí được công chúa. Trong hoàng cung này, người đẹp muốn bao nhiêu thì có bấy nhiêu. Lát nữa cho ngươi tự do lựa chọn là xong.”

Lưu Tông Mẫn nói: “Đại vương! Sùng Trinh chỉ có một công chúa thôi.”

Lý Tự Thành mỉm cười quay lại bảo Viên Thừa Chí: “Tông Mẫn nhất định đòi công chúa, thôi thì ngươi nể mặt ta mà nhường cho hắn đi. Hai ngươi là quan cùng triều, giữ hòa khí là cần thiết nhất.”

Viên Thừa Chí không khỏi ngạc nhiên. Chàng nghĩ đến A Cửu mà cảm thấy mất mát gì đó trong lòng, bất giác tay buông lỏng. Ly rượu rơi xuống đất, tan nát thành mảnh vụn.

Lý Tự Thành giận dữ nói: “Giả tỉ ngươi không chịu, cũng không nên nổi giận với ta!”

Viên Thừa Chí khom lưng đáp: “Thuộc hạ không dám!”

Đột nhiên nghe tiếng sáo trúc vang lên, mấy võ quan dẫn một cô gái lên điện. Cô gái này quỳ lạy trước mặt Lý Tự Thành rồi đứng dậy. Ánh đèn vừa chiếu lên mặt nàng, mọi người không hẹn mà cùng khẽ la một tiếng.

Nàng đảo mắt một vòng, nhìn khắp lượt mọi người trong điện. Khi chạm phải ánh mắt nàng, ai cũng có cảm giác như toàn thân ngâm vào một chậu nước ấm, thoải mái khó mà diễn tả.

Nàng thỏ thẻ giọng oanh, lên tiếng: “Tì thiếp Trần Viên Viên bái kiến đại vương. Cầu chúc đại vương vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế.”

Lý Tự Thành cười ha hả, nói: “Cô nương xinh đẹp quá!”

Lưu Tông Mẫn la lên: “Đại vương! Tiểu tướng không cần công chúa của Sùng Trinh nữa. Đại vương ban người đẹp này cho tiểu tướng đi.”

Ngưu Kim Tinh lên tiếng: “Lưu tướng quân! Trần Viên Viên là ái thiếp của tổng binh Ngô Tam Quế, người đang trấn thủ Sơn Hải Quan. Cô ấy có thể gọi là đệ nhất mỹ nhân, đại vương đã đặc biệt triệu đến đây, làm sao cho ngươi được?”

Nghe chính Lý Tự Thành muốn cô này, Lưu Tông Mẫn không dám nói thêm. Nhưng mắt hắn vẫn đảo lia đảo lịa, trân trân nhìn Trần Viên Viên, nuốt nước bọt ừng ực thành tiếng.

Cả đại điện nhất thời im phăng phắc. Đột nhiên nghe tiếng loảng choảng, ly rượu trong tay ai đó rơi xuống đất. Sau đó những tiếng loảng choảng vang lên liên tiếp, nhiều người ngơ ngẩn đến cầm ly không chắc. Lúc nãy Viên Thừa Chí vô ý làm rơi ly rượu, Lý Tự Thành vô cùng giận dữ. Nhưng bây giờ ai cũng lo nhìn khuôn mặt tuyệt thế của Trần Viên Viên, nên không ai để ý đến chuyện vỡ ly nữa.

Đột nhiên một tên tiểu tướng ngồi dưới cười lên ha hả, bò lổm ngổm dưới đất đến chỗ Trần Viên Viên, ôm lấy đùi nàng. Nàng kinh hãi hét lên, tránh qua một bên, tiếng hét nghe cũng trong trẻo êm tai.

Một tướng quân khác la lên: “Nóng quá, nóng quá!” Roạc roạc mấy tiếng, hắn tự xé hết áo mình ra.

Lại có một tướng quân la lên: “Mỹ nhân! Nếu được mời mỹ nhân uống rượu, ta có chết cũng cam lòng.” Hắn cầm ly rượu kề vào miệng Trần Viên Viên.

Đại điện náo loạn cả lên. Những võ tướng đánh quen trăm trận đều bị dung mạo Trần Viên Viên làm mê hoặc. Viên Thừa Chí nhìn thấy cảnh tượng này, âm thầm lắc đầu, định bỏ ra ngoài điện.

Đột nhiên chàng nghe Lý Nham quát lớn: “Trước mặt đại vương, các huynh đệ không được vô lễ!”

Một tướng quân cười ha hả lên nói: “Ta chỉ dùng đầu ngón tay sờ vào khuôn mặt trắng trẻo này một chút, chắc không sao chứ?” Nói xong hắn giơ ngón tay ra trước, từ từ tiến đến gần Trần Viên Viên.

Lý Tự Thành hét lên: “Đưa mỹ nhân vào hậu cung! Tống Kiến Sách, ngươi cho quân canh giữ.” Tống Kiến Sách vâng dạ, dẫn Trần Viên Viên vào trong.

Mấy chục võ quan chen lấn ùa theo, tranh nhau nhìn thêm một chút. Mãi đến khi Trần Viên Viên khuất bóng, chúng mới tiếc rẻ từ từ quay lại chỗ ngồi.

Một tên hỉnh mũi lên hít như chó đánh hơi, nói: “Được ngửi mùi thơm của mỹ nhân này một chút, chắc kiếp trước ta đã tu hành tử tế.”

Một tên nói: “Đây không phải là người, là hồ ly tinh biến thành. Đại vương không nên hưởng dụng.”

Một tên khác cãi: “Dù nàng là yêu tinh giết người đi nữa, ta cũng muốn ôm một cái. Dù bị nàng nuốt chửng, cũng là khoái lạc vô cùng.”

Lý Tự Thành từ từ uống rượu, mặt mày cực kỳ rạng rỡ. Y hết nhìn Viên Thừa Chí lại nhìn Lý Nham, lại chuyển qua nhìn Lưu Tông Mẫn, rồi nói: “Tuy chúng ta đã được thiên hạ, nhưng không nên ngược đãi bá tính. Tông Mẫn! Ngươi truyền lệnh đi: Trong thành Bắc Kinh không được cướp bóc tài vật, chiếm đoạt nữ nhân.”

Lưu Tông Mẫn vâng dạ nhưng lại nói: “Đại vương! Trong thành Bắc Kinh này có rất nhiều tham quan ô lại, phú hào tài chủ, chẳng tên nào là người tốt. Tài sản, nữ nhân của chúng đều do cướp bóc từ bá tính. Huynh đệ chúng ta lấy lại chút ít, đâu phải là vô lý?” Lý Tự Thành im lặng không nói gì.

Lý Nham bước lên mấy bước, nói: “Đại vương! Ngô Tam Quế có rất nhiều binh mã ở Sơn Hải Quan. Chỉ tinh binh đã bốn vạn, lại thêm tám vạn dân chúng đất Liêu kiêu dũng thiện chiến. Đại vương phái người chiêu hàng, y đã chịu quy thuận. Hay là đưa trả tiểu thiếp của y về phủ, để y yên tâm quy phục?”

Lưu Tông Mẫn cười nhạt hỏi: “Bốn vạn binh mã của Ngô Tam Quế làm được cái gì? Trong thành Bắc Kinh, Sùng Trinh có mười mấy vạn quan binh, nhưng gặp phải chúng ta, không phải chỉ một trận là sụp đổ hết hay sao?”

Lý Tự Thành gật đầu nói: “Ngô Tam Quế là việc nhỏ, không cần để tâm. Nếu hắn đầu hàng, coi như hắn biết điều. Nếu không, chúng ta chỉ đưa tay là bắt được. Chẳng lẽ Ngô Tam Quế lợi hại hơn Tôn Truyền Đình, Chu Ngộ Cát hay sao?”

Lý Nham lại nói: “Đại vương tuy đã được Bắc Kinh, nhưng Giang Nam chưa ổn…”

Lý Tự Thành xua tay bảo: “Mọi người uống rượu đi! Đây không phải lúc bàn quốc gia đại sự.”

Lý Nham đành vâng dạ, lùi xuống ngồi bên Viên Thừa Chí, dặn nhỏ: “Mọi chuyện phải cẩn thận, đề phòng Quyền tướng quân gia hại!” Viên Thừa Chí khẽ gật đầu.

Lý Tự Thành uống thêm mấy ly rồi hô lớn: “Mọi người giải tán đi thôi! Ha ha… ha ha…” Y vung chân hất đổ cái bàn, quay lưng đi vào nội cung.

Bọn tướng quân ồn ào một chút rồi giải tán, rất nhiều người ngoác mồm ca tụng Trần Viên Viên hấp dẫn. Trong ngoài cửa cung, nghe toàn những câu nói dơ bẩn thô tục.

*

*   *

Viên Thừa Chí theo Lý Nham ra khỏi điện, tới cửa cung thì gặp Hồ Quế Nam và Hồng Thắng Hải. Chàng bảo họ thả hai tên võ quan ra.

Bốn người vừa rẽ qua đường khác đã thấy mấy chục Sấm quân đang cướp bóc một tòa nhà lớn, kéo hai nữ nhân trẻ tuổi ra ngoài. Hai cô gái chỉ biết kêu khóc, giãy giụa. Lý Nham cả giận, bảo thuộc hạ của mình bắt về tra hỏi. Sấm quân nhận ra Chế tướng quân cùng la lên một tiếng, vứt tài vật và nữ nhân lại, quay lưng chạy trốn.

Dọc đường chỗ nào cũng nghe tiếng Sấm quân reo hò, bá tính kêu khóc. Từ đường cái đến hẻm nhỏ, chỗ nào cũng thấy Sấm quân chạy tới chạy lui, tên thì mang vác của cải, tên thì lôi kéo nữ nhân. Lý Nham thấy không thể cấm đoán nổi, không thể bắt hết nổi, chỉ biết thở dài.

Viên Thừa Chí vẫn hy vọng Lý Tự Thành chiếm được thiên hạ để thấy cảnh thanh bình, bá tính an cư lạc nghiệp. Nhưng hôm nay chàng đã thấy hành động của Lý Tự Thành và bọn Lưu Tông Mẫn, Ngưu Kim Tinh; lại thấy Sấm quân cướp bóc lung tung trong kinh thành; so với thời Sùng Trinh trị vì còn tàn bạo ghê gớm hơn nhiều. Tấm lòng nhiệt huyết của chàng tức thì nguội lạnh.

Cứ đi mấy bước lại thấy dưới đất có thi thể ngổn ngang. Viên Thừa Chí thấy xác hai bé gái không mặc quần áo, trong người vẫn còn chảy máu. Chàng không nhẫn nại được nữa, nắm chặt lấy tay Lý Nham mà nói: “Đại ca! Đại ca từng nói Sấm Vương vì dân chúng mà giải oan, vì dân chúng mà trút giận, là như thế này sao?”

Nói xong, chàng ngồi bệt xuống đất, khóc tấm tức. Bản thân Lý Nham cũng bi phẫn đến cùng cực, nói: “Bây giờ ta đi gặp đại vương ngay, xin đại vương hạ lệnh nghiêm cấm cướp bóc.”

Y kéo Viên Thừa Chí dậy, quay lại hoàng cung, bảo bọn vệ sĩ: “Ta có việc gấp, cầu kiến Sấm Vương.”

Vệ sĩ vào trong bẩm báo, lát sau trở ra nói: “Chế tướng quân! Đại vương đã ngủ, không ai dám làm kinh động. Xin tướng quân sáng mai hãy đến.”

Lý Nham nói: “Ta đã theo đại vương rất nhiều năm, khi có việc cầu kiến thì đại vương dù đêm khuya cũng nhất định tiếp kiến. Ngươi vào bẩm báo lại đi.”

Vệ sĩ lại chạy vào. Lát sau hắn ra, mặt đầy vẻ kinh hoàng, run rẩy nói: “Đại vương nổi giận, nói tiểu nhân mà vào lảm nhảm nữa là lập tức chặt đầu.”

Lý Nham nói: “Được! Vậy ta chờ ở đây, đợi đại vương thức giấc rồi gặp.” Y quay lại bảo Viên Thừa Chí: “Huynh đệ! Huynh đệ về nghỉ trước đi.”

Viên Thừa Chí đáp: “Đệ ở đây với đại ca.” Chàng bảo Hồ Quế Nam cùng Hồng Thắng Hải về trước để Thanh Thanh khỏi lo lắng.

Hai người đã ngồi trên bậc cấp phía trước cung, đợi đến sáng rõ mới thấy một vệ sĩ từ nội cung ra nói: “Đại vương triệu kiến.”

Hai người theo vào một gian phòng, rồi vệ sĩ ra ngoài. Đợi thêm hai giờ nữa, sắp đến giờ Ngọ mà Lý Tự Thành vẫn không ra gặp. Hai người nhìn nhau sốt ruột, ai cũng lo lắng vô cùng.

Lại thêm nửa giờ, mới có một vệ sĩ chạy vào gọi Lý Nham và Viên Thừa Chí: “Chế tướng quân, Quả Nghị tướng quân! Hoàng thượng mời hai vị đến điện Kim Loan để thương thảo đại sự.”

Lý Nham và Viên Thừa Chí theo vệ sĩ đó qua hai khoảng sân, lại đi hết một hành lang rất dài, thấy chỗ nào cũng có quân lính cầm vũ khí đứng canh. Chúng nhận ra Lý Nham nên không hỏi gì, có tên còn cung kính thi lễ.

Hai người đến gần một tòa điện nhỏ, nghe từ trong vọng ra thanh âm giận dữ của Lý Tự Thành: “Bắt bọn quan lại triều Minh về đánh đập cho chúng nôn vàng bạc ra, dĩ nhiên là chuyện phải làm. Xưa kia bọn phú hào hiếp đáp người nghèo dã man biết mấy, phải ép chúng trả lại chứ? Chẳng qua là trả chút ít thù xưa, giết người thường mạng, nợ tiền trả tiền, nợ máu trả máu, có gì là không nên không phải?”

Đến cuối câu đã chuyển sang giọng quát tháo, pha thêm những tiếng binh binh không dứt. Hình như Lý Tự Thành đang vung quyền đánh xuống mặt bàn.

Lý Nham và Viên Thừa Chí vào trong, thấy đây là một tòa điện rất lớn nhưng có phần âm u, bốn phía phải thắp những ngọn nến rất lớn. Lý Tự Thành ngồi trên một cái ghế lớn, bọc vải vàng đặt ngay chính giữa, sắc mặt đầy vẻ giận dữ, không ngớt đập bàn.

Một đại hán to lớn khom lưng nói: “Khải bẩm đại vương, đại vương nói rất đúng. Trận đánh Ninh Võ Quan, huynh đệ chúng ta bị thương và chết rất nhiều. Nhưng mọi người dũng cảm xung phong, cuối cùng cũng đánh bại Chu Ngộ Cát. Ninh Võ chỉ là một quan ải nhỏ, không có tiền bạc gì hết. Huynh đệ chúng ta chỉ mong đánh vào Bắc Kinh để hưởng phước nhiều hơn. Huynh đệ chúng ta đều nghiến răng liều chết, từng người ngã xuống, có người bị thương phun máu vẫn không lùi bước. Thuộc hạ thấy rất nhiều huynh đệ mất mạng nên trong lòng đau xót, chỉ biết vung đao xông lên liều mạng.”

“Hoàng thượng đại vương! Chúng ta chiếm được một thành trì, phải nghỉ ngơi bốn năm ngày cho anh em hưởng lạc, tìm bọn cẩu quan tài chủ trả thù. Bọn cẩu quan tài chủ đó chèn ép chúng ta đâu có ít? Giành giật vợ con chúng ta đâu có ít? Đại vương! Chúng ta đến đây là để trả thù. Thế mà trước đây đại vương đã hạ quân lệnh, không cho huynh đệ thoải mái ở Bắc Kinh, cướp bóc gian dâm thì giết gì gì đó.”

“Hoàng thượng đại vương! Thuộc hạ là đồ vô dụng. Nếu thật sự như vậy thì thuộc hạ không có cách gì chỉ huy được nữa, không có huynh đệ nào nghe lệnh thuộc hạ nữa. Nếu thuộc hạ nói là ai cướp bóc gian dâm phải giết, thì các huynh đệ sẽ thóa mạ thuộc hạ ngay, con mẹ thằng Cao Tất Chính, mẹ kiếp tổ tông mười tám đời thằng Cao Tất Chính.”

Lý Tự Thành bỗng cười ha hả rồi nói: “Té ra biểu đệ muốn nói với ta câu này. E rằng ta chưa hạ lệnh, trong lòng ngươi đã chửi con mẹ thằng Lý Tự Thành rồi.”

Cao Tất Chính nói: “Hoàng thượng đại vương là huynh trưởng, thuộc hạ đâu dám vô lễ? Mẹ của đại vương cũng như mẹ của thuộc hạ. Trước sau thuộc hạ vẫn nghe lệnh hoàng thượng đại vương, gặp lửa thì nhảy vào lửa, gặp nước thì nhảy vào nước. Có gì, hoàng thượng đại vương cứ nói thẳng.”

Một người ra vẻ quan văn bước lên một bước, dõng dạc nói: “Cao tướng quân! Hoàng thượng đã ngồi trên long ỷ, chúng ta phải gọi là Hoàng thượng hoặc Bệ hạ, không nên gọi là hoàng thượng đại vương gì gì nữa.”

Lý Tự Thành mỉm cười nói: “Dụ Thượng Du rất biết làm quan, nhớ tới quy luật này. Từ nay về sau, mọi người cứ thế mà gọi.”

Bốn năm chục người trong điện đồng thanh hô lớn: “Hoàng thượng vạn tuế!” Lý Nham và Viên Thừa Chí cũng hô theo.

Lý Tự Thành cười nói: “Viên Thừa Chí! Gã Dụ Thượng Du này từng là ngự sử trong triều Sùng Trinh, là nhất điện chi thần với cha ngươi. Y hiểu chuyện phải trái, đã đầu hàng ta trước. Ta đã phong cho y làm thượng thư, là quan lớn lắm rồi. Triều đình Đại Thuận chúng ta từ nay về sau cần phong tước gì, cần làm việc gì, y sẽ trình tấu đàng hoàng.”

Viên Thừa Chí đáp: “Vâng! Hoàng thượng hợp lẽ trời thuận lòng người, dĩ nhiên dân chúng khắp thiên hạ đều ủng hộ.”

Lý Tự Thành lớn tiếng nói: “Vừa rồi Cao tướng quân nói rất có lý. Chúng ta không sợ các huynh đệ chửi mẹ mình, chỉ sợ họ nản lòng, đánh trận không chịu liều mạng. Bây giờ còn một nửa giang sơn chưa dẹp yên, lại phải đối phó với quân Mãn Châu ngoài quan ải.”

Một người mặc quần áo màu xanh, thân hình vừa cao vừa ốm, bước lên một bước rồi nói: “Đại vương! Các huynh đệ đánh trận không chịu ra sức, chuyện đó chưa phải là quan trọng nhất. Đại vương đâu có muốn huynh đệ liều mạng để đại vương ngồi trên long ỷ? Chỉ vì các huynh đệ khổ sở quá, không sống nổi, nên mới tụ hợp nhau giết quan tạo phản, người nào cũng coi như mình không còn mạng nữa. Cũng không phải chúng ta giết quan tạo phản vì tham tiền bạc hay những cô nương trẻ tuổi. Chúng ta bị bọn tham quan tài chủ ép đến mức không sống nổi, nên mới liều mạng thế này. Các vị huynh đệ, có phải vậy không?”

Mười mấy tướng quân cùng lên tiếng: “Loạn Thế Vương nói hay lắm. Chúng ta không sống nổi, nên không thể không tạo phản.”

Lý Tự Thành cũng nói: “Quách huynh đệ rất biết nói chuyện. Theo huynh đệ thì chúng ta phải làm sao?”

Hán tử cao ốm đó tên là Quách Dưỡng Thành, biệt hiệu là Loạn Thế Vương, là một chủ soái Tả Giáp Ngũ Doanh. Y gia nhập quân đội Lý Tự Thành chưa lâu, không thể gọi là huynh đệ cũ, nhưng có mấy vạn thuộc hạ dũng cảm thiện chiến, nên Lý Tự Thành buộc phải tôn trọng.

Quách Dưỡng Thành nói: “Đại vương! Thuộc hạ chỉ biết nghe hiệu lệnh của đại vương, chỉ huy huynh đệ đánh bọn quan quân, còn đại sự thiên hạ thì không sao hiểu được.”

Lý Tự Thành nói: “Năm vị chủ soái của Tả Giáp Ngũ Doanh đều có trí có dũng, kiến thức bất phàm. Lão Hồi Hồi, Tả Kim Vương, Giáp Lý Nhãn, Tranh Thế Vương và Quách huynh đệ đã biết dẫn binh lại biết an dân. Ngưu Kim Tinh! Cái đó gọi là xuất tướng nhập tướng gì gì đó, đủ tài làm tể tướng cả, có phải vậy không?”

Ngưu Kim Tinh là một người ra dáng thư sinh, khom người đáp: “Đúng là năm vị chủ soái đều có tài xuất tướng nhập tướng. Ngũ Vương quy phục hoàng thượng, đó là phước của hoàng thượng mà cũng là phước của Ngũ Vương. Đây gọi là minh chúa công thần, dựa vào nhau, soi sáng lẫn nhau.”

Dụ Thượng Du lại nói: “Khải tấu hoàng thượng! Cách xưng hô Ngũ Vương là để hiệu triệu thảo mãng anh hùng trong lúc giết quan tạo phản. Từ nay về sau phải thay đổi chút ít. Nếu cần phong vương, xin hoàng thượng phong những vương hiệu có khí thế hơn. Huống chi, hai vị Lão hồi hồi Mã tướng quân, Giáp lý nhãn Hạ tướng quân không có vương hiệu. Hoành thiên vương Vương tướng quân, Cải thế vương Hứa tướng quân, danh hiệu của hai vị này cũng cần thay đổi.”

Ngưu Kim Tinh liền phụ họa: “Đúng vậy! Trước đây chúng ta muốn thay đổi thời thế, nên mới gọi là Cải Thế Vương, Tranh Thế Vương, Hoành Thiên Vương. Bây giờ thiên hạ đã là của hoàng thượng, thời thế của hoàng thượng dài tới vạn năm, nếu vẫn gọi là Cải Thế, Tranh Thế thì có phần không ổn. Hơn nữa, Kim Xà là một con rồng nhỏ, danh hiệu Kim Xà Vương cũng phải đổi đi.”

Lý Tự Thành chau mày nói: “Về sau phải thay đổi danh hiệu rất nhiều. Người có công phải được phong vương, phong hầu, phong đại tướng quân, phó tướng quân, không ai bị bỏ quên.”

Mọi tướng quân đều hoan hô tán thưởng. Chế tướng quân Cao Tất Chính dõng dạc nói: “Khải tấu hoàng thượng! Đêm qua những huynh đệ trong doanh thuộc hạ đã lớn tiếng kêu la: Ông cứ làm hoàng đế, nhưng mọi người phải liều mạng mới giành được ngôi hoàng đế cho ông. Tất cả tiền bạc, cô nương trong thiên hạ, chẳng lẽ một mình ông ôm hết được sao? Phải cho anh em chia chác chút ít chứ? Một người kêu la thì mấy trăm người hùa theo, không sao yên được, lòng quân không ổn.”

Quách Dưỡng Thành giận dữ nói: “Cái gì mà lòng quân không ổn? Đều là loại quân được ông dung túng cả! Lúc họ cướp gái đem về, không phải đã dâng cho ông những cô đẹp nhất hay sao?”

Cao Tất Chính nhảy xổ tới, quát lên: “Họ Quách kia! Ngươi theo đại vương mới được nửa năm, đã dám to tiếng với huynh đệ cũ chúng ta rồi sao? Hay là ngươi muốn trừ khử hết huynh đệ cũ của đại vương, ai giết được thì giết, ai đuổi được thì đuổi, để đại vương trơ trọi một mình, trở thành cô gia quả nhân thật sự? Hừ! Tả Giáp Ngũ Doanh các ngươi là bằng hữu cũ của Thập Tam Gia, chắc đang muốn đoạt lấy thiên hạ, ngồi trên long ỷ.”

Quách Dưỡng Thành giận dữ hét lên: “Đồ chó rắm thối!”

Cao Tất Chính vung tay, đánh trúng mắt bên phải Quách Dưỡng Thành một quyền rất nặng, máu tươi lập tức vọt ra. Hắn còn muốn đánh tiếp, nhưng phía sau có một lão già to lớn râu tóc bạc phơ nhảy đến cản trở. Lão đẩy mạnh vào vai Cao Tất Chính, hất hắn lùi ra mấy thước.

Mười mấy tướng quân đồng thanh la lớn: “Lão Hồi Hồi! Ngươi dám đánh huynh đệ cũ chúng ta, muốn tạo phản hay sao?”

Cả đám ùa vào vây đánh Lão Hồi Hồi và Quách Dưỡng Thành. Lý Tự Thành cứ đứng đó mà kêu: “Là huynh đệ cả, đừng xô xát!”

Nhưng hoàng thượng ra lệnh yếu xìu nên chẳng ai đếm xỉa. Lão Hồi Hồi và Quách Dưỡng Thành yếu thế, chỉ chốc lát đã ở thế hạ phong.

Viên Thừa Chí nghe mọi người tranh chấp, thấy rõ Quách Dưỡng Thành nói có lý hơn, biết lo đến đại cục. Ẩu đả một hồi, Quách Dưỡng Thành và Lão Hồi Hồi cô thế bị hai mươi mấy người vây chặt, đánh cho sưng đầu chảy máu. Lý Tự Thành thì cản trở không dứt khoát. Ba người Tả Kim Vương, Giáp Lý Nhãn, Tranh Thế Vương muốn tới khuyên ngăn, nhưng bị số đông huynh đệ cũ cản trở không thể đến gần.

Viên Thừa Chí bèn nhảy tới, đưa tay nắm lấy cổ áo bốn năm người hung dữ nhất, xách bỏ qua một bên, thuận tay điểm nhẹ vào huyệt đạo để họ không nhảy vào ẩu đả được nữa. Chàng xách ra mấy chuyến, Quách Dưỡng Thành và Lão Hồi Hồi không bị ai đánh nữa. Thần sắc hai người rất thảm hại, máu me đầy mặt, nhưng Lý Tự Thành chỉ nói: “Là huynh đệ cả, đừng xô xát!”

Viên Thừa Chí lớn tiếng hô hoán: “Hoàng thượng có chỉ, không được xô xát. Mọi người nên tuân chỉ.”

Mọi người từ từ đứng yên, nhưng vẫn la hét om sòm. Quyền tướng quân Lưu Tông Mẫn quát hỏi: “Lý Nham, Viên Thừa Chí! Hai ngươi ẩu đả huynh đệ cũ của đại vương, đánh người phe mình, định lôi kéo Tả Giáp Ngũ Doanh và thuộc hạ của Tào Tháo để âm mưu tạo phản phải không?”

Viên Thừa Chí đáp: “Ta tuân chỉ của hoàng thượng, kiềm chế không để các ông động võ, có đánh ai đâu? Mà Tào Tháo, Quan Công, Lưu Bị, Gia Cát Lượng đã chết mấy ngàn năm rồi, còn thuộc hạ gì nữa, làm sao ta lôi kéo? Lưu tướng quân, hình như ông nói chuyện hơi hồ đồ đấy.”

Lưu Tông Mẫn giận dữ nói: “Hồ đồ cái gì? Chẳng lẽ Lão Hồi Hồi Mã Thủ Ưng không phải hảo bằng hữu của Tào Tháo La Nhữ Tài ư? Lão Hồi Hồi, tự ngươi nói đi! Ngươi đánh bằng hữu của đại vương, xem thường huynh đệ cũ chúng ta, có phải muốn trả thù cho La Nhữ Tài, xét lại vụ án đó hay không?”

Trên mặt Lão Hồi Hồi, máu tươi vẫn nhỏ từng giọt xuống áo. Lão chỉ vào mặt mình, nói: “Lưu tướng quân nhìn thử, ta đánh huynh đệ cũ của đại vương, hay huynh đệ cũ của đại vương đánh ta? Chúng ta cùng dưới trướng đại vương giết quan tạo phản, đồng tâm hiệp lực, sao ông lại phân chia huynh đệ cũ, huynh đệ mới gì gì đó, há chẳng làm mất nhân tâm? Vừa rồi nếu không nhờ Viên huynh đệ kéo những người đánh ta ra ngoài, ta đã bị các vị huynh đệ cũ đánh chết rồi.”

Lão quay đầu lại, nói với Lý Tự Thành: “Đại vương! Đại vương nói đi. Ta là bằng hữu của La Nhữ Tài thật, nhưng ta có làm gì mờ ám không? Có lần La Nhữ Tài đầu hàng Hùng Văn Sáng, con mẹ nó, mất hết thể diện, nên ta đã tuyệt giao với hắn. Gặp phải quân của hắn là ta chết sống đánh ngay, có nương tay chút nào đâu? Sau này hắn quay về với Trương Hiến Trung, ta mới tiếp tục đi lại với hắn. Mấy năm trước, hắn trở về quy phục đại vương, không phải nhờ ta lôi kéo hay sao? Đại vương từng phong hắn là Đại Thiên Phủ Dân Oai Đức Đại Tướng Quân, nghe rất hay. Hắn vì đại vương mà góp sức không ít, xây dựng đội ngũ lớn mạnh, công phá được không ít thành trì, nên Lưu tướng quân đem lòng ganh tỵ. Địa vị của La Nhữ Tài cao hơn Lưu tướng quân, nên Lưu tướng quân hết nói xấu hắn lại gieo tin đồn làm hại hắn. Đại vương tin lời thằng thư sinh khốn kiếp họ Trần ở Hàng Châu nên trúng kế phản gián. Họ Trần nói La Nhữ Tài đã đầu hàng triều đình, định giết đại vương. Chuyện đó hoàn toàn bịa đặt, thế mà đại vương hạ thủ giết La Nhữ Tài trước. Sau này đại vương cũng nói là hối hận. Những việc ấy đều do các người phân chia ra huynh đệ cũ, huynh đệ mới, mà gây thành tai họa.”

“Mọi người cùng xách đao liều mạng với bọn quan quân, thì ai cũng là hảo huynh đệ cả, sao lại phân chia cũ mới? Chẳng lẽ có người không thích nhìn huynh đệ mới chúng ta, thì huynh đệ cũ các ông muốn giết huynh đệ mới chúng ta cho sạch sành sanh? Chúng ta ủng hộ đại vương làm hoàng đế, đại vương nói gì thì chúng ta làm đó. Lưu tướng quân! Ông muốn giết tân huynh đệ chúng ta, e rằng không dễ lắm đâu!”

Lão Hồi Hồi vừa nói vừa đưa tay áo lên chùi máu. Cả lông mày lẫn râu của lão đều đỏ lòm, trông rất đáng sợ.

Lý Tự Thành xua tay rồi nói: “Mã huynh đệ! Những chuyện cũ không nên nhắc lại. La Nhữ Tài đã chết rồi, bộ hạ của hắn cũng đi theo Trương Hiến Trung hết rồi, còn gì mà nói nữa.” Gọi đến ba chữ La Nhữ Tài, hình như Lý Tự Thành vừa nản chí vừa hơi áy náy.

Lý Nham và mọi người ở đây đều biết Lý Tự Thành giết chết La Nhữ Tài, biệt hiệu Tào Tháo, là do trúng kế phản gián của Trần thư sinh ở Hàng Châu. Chẳng những Lý Tự Thành mất một viên đại tướng mà còn làm cho hai cánh quân tàn sát lẫn nhau, rốt cuộc quân của La Nhữ Tài đầu hàng Trương Hiến Trung hết, nguyên khí của Sấm quân bị tổn thương rất lớn, tướng sĩ nản lòng. Ai cũng thấy chiến công của La Nhữ Tài rất lớn, thuộc hạ đầy tinh binh mãnh tướng, chỉ vì đại vương nghi ngờ y có lòng thoán vị mà ra tay hãm hại.

Vụ oan án này ảnh hưởng nặng nề đến sự nghiệp của Lý Tự Thành. Năm xưa Lý Nham đã ra sức cản trở, nhưng Lý Tự Thành tin lời Lưu Tông Mẫn, tạo nên lỗi lầm nghiêm trọng. Sau này Lý Tự Thành cũng rất hối hận, nhưng không chịu nhận lỗi. Bây giờ Lão Hồi Hồi không nhịn nổi mà nhắc lại chuyện này, khiến mọi người Lý Nham cùng lo sợ. Tính tình Lý Tự Thành đã khắt bạc lại bảo thủ, sau này chắc Lão Hồi Hồi không khỏi bị chém đầu.

Lý Tự Thành nhìn qua từng viên tướng của mình, thầm nghĩ: “Dù sao thì đám huynh đệ cũ Lưu Tông Mẫn vẫn đáng tin cậy hơn, nhất định không phản lại ta. Còn Lão Hồi Hồi, Loạn Thế Vương, Tranh Thế Vương, Tả Kim Vương, Giáp Lý Nhãn, giữa họ thì nghĩa khí sâu nặng, còn đối với ta thì có nghĩa khí gì? Nếu gặp cơ hội tốt, chắc chắn họ sẽ giết ta, trả thù cho La Nhữ Tài.”

Y lại nhìn sang đứa cháu Lý Song Hỷ, huynh đệ cũ Lưu Tông Mẫn, biểu đệ Cao Tất Chính, nhớ đến chuyện bốn năm trước bị quan quân vây khốn ở Ngưu Cốc Sơn…

*

*   *

Lúc đó quan quân vây khắp bốn phương tám hướng, đã mấy lần đột kích mà không thoát khỏi vòng vây. Ta không làm gì được, định thắt cổ tự tử để khỏi lọt vào tay chúng. Song Hỷ hết sức ngăn cản, nói: “Cứ liều mạng đánh một trận, dù bị giết cũng bắt mấy đứa chết theo.”

Rất nhiều thuộc hạ của ta đã ra ngoài đầu hàng. Ta vào một tòa miếu, chỉ có Tông Mẫn đi theo. Ta lạy tượng Quan Đế trong miếu ba lạy, bảo Tông Mẫn: “Chúng ta lọt vào tuyệt địa rồi, không còn đường nào đi nữa.”

Ta rút bảo đao bên mình ra đưa Tông Mẫn, nói: “Bây giờ phải xin Quan lão gia chỉ điểm. Ta sẽ xin keo âm dương. Nếu keo dương đại cát đại lợi, thì chúng ta lại liều mạng nữa. Nếu keo âm, tức là Bồ Tát bảo chúng ta không nên hại thêm nhân mạng. Nếu ba lần đều keo âm, thì ngươi hãy dùng thanh đao này chặt đầu ta, xách ra ngoài mà đầu hàng, bảo các huynh đệ không cần đánh tiếp nữa, lo mà giữ tính mạng của mình và gia quyến, khí vận triều Minh còn tốt, chúng ta không chống nổi. Ý trời thế nào, chúng ta làm vậy.”

Tông Mẫn nhận đao, nhưng ném xuống đất mà nói: “Đại ca! Tiểu đệ không thể cắt đầu đại ca được. Nếu Bồ Tát bảo chúng ta đừng khởi nghĩa nữa, thì tiểu đệ sẽ mặc quần áo của đại ca, mạo nhận là đại ca. Đại ca chém tiểu đệ, xách thủ cấp ra ngoài mà giả bộ đầu hàng. Non xanh còn đó, lo gì thiếu củi đun.”

Ta lắc đầu đáp: “Không được, chúng nhận ra ngay. Ngươi cứ việc chặt đầu ta.”

Ta quỳ xuống, dập đầu lạy Quan Đế Quân rồi khấn: “Quan lão gia! Tiểu nhân Lý Tự Thành bị quan phủ chèn ép, tài chủ đánh đập, không chịu nổi phải vùng lên tạo phản, chỉ mong giúp được mọi người khổ sở trong khắp thiên hạ có miếng cơm ăn để sống. Bọn thầy bói, thầy tướng đều nói tiểu nhân có phước phận thiên tử, chân mạng hoàng đế, không biết là thật hay giả. Hôm nay tiểu nhân rơi vào đường cùng, sinh mạng chỉ còn trong khoảnh khắc. Cầu xin Quan Thánh lão gia chỉ điểm một con đường sáng: Kiếp này tiểu nhân có mạng làm thiên tử hay không? Nếu không, tiểu nhân sẽ chết một mình, không để liên lụy đến hàng ngàn hàng vạn huynh đệ.”

Ta cầm lấy hai mảnh keo âm dương đặt trên bàn thờ, đứng thẳng dậy, hai tay chắp trên đỉnh đầu, cầu khấn: “Xin Quan lão gia chỉ điểm!”, rồi cung kính tung keo âm dương lên phía trên.

Hai tiếng “cách cách”, keo âm dương đã rơi xuống đất. Ta nhắm mắt, không dám nhìn. Nếu là keo xấu, thì cứ để Tông Mẫn vung đao chặt đứt thủ cấp là xong việc, khỏi phải lo lắng khổ sở lâu.

Bỗng nghe Tông Mẫn la lên: “Keo dương, keo dương! Đại ca, đại cát đại lợi!”

Ta mở mắt ra, thấy đôi keo trước mắt đều hướng lưng lên trên, đúng là một quẻ dương đại cát đại lợi. Ta chưa tin, lại khấn Quan Thánh lão gia, xin keo lần nữa: vẫn là keo dương. Ta khấn một lần cuối cùng, tung đôi keo lên rất cao, giương mắt mà nhìn. Khi rơi xuống đất rõ ràng một âm một dương, nhưng đột nhiên keo âm nảy ngược lại, biến thành keo dương.

Thế là ba lần xin keo, ba lần đại cát. Hai người không hoài nghi gì nữa, tinh thần phấn chấn hẳn lên, ra ngoài nói với các huynh đệ: “Lý đại ca đúng là chân mạng thiên tử. Mọi người cố gắng đi, sau này sẽ có những ngày sung sướng. Đại vương ngồi trên ngai vàng thì chúng ta chẳng kém ai đâu.”

Thế là rất nhiều huynh đệ vứt hết hành lý, giết bỏ vợ con để khỏi vướng víu tay chân, chỉ giữ một con ngựa để chạy cho nhanh. Từ Quân Huyện chạy đến Hà Nam thì quan quân không bao vây được nữa. May mà lúc đó tỉnh Hà Nam bị hạn hán, thế là thêm mấy chục vạn dân đói theo ta. Từ Nam Dương đánh Nghi Dương, giết tri huyện Đường Khải Thái; đánh Quế Ninh, giết tri huyện Võ Đại Điệp. Từ đó quan quân không cản ta được nữa. Chúng ta đánh trận nào thắng trận đó, cứ thế mà đánh mãi tới tận Bắc Kinh.

*

*   *

Lý Tự Thành ngồi trên long ỷ, nhớ lại ngày trước xin quẻ âm dương trong miếu Quan Thánh Đế Quân, không khỏi rùng mình toát mồ hôi lạnh. Y lại nghĩ: “Nếu hôm đó bên cạnh ta không phải là huynh đệ cũ Lưu Tông Mẫn, mà là bọn Lão Hồi Hồi, Tả Kim Vương, Giáp Lý Nhãn này, thì bất luận ta gieo được quẻ dương đại cát đại lợi hay quẻ âm đại hung đại xú, nhất định chúng sẽ chém lấy thủ cấp ta để ra đầu hàng, vừa đảm bảo tính mạng vừa có công danh phú quý. Dĩ nhiên chúng sẽ làm thế!”

Lưu Tông Mẫn bỗng lên tiếng: “Khải tấu hoàng thượng! Năm trước bị bao vây trong Ngưu Cốc Sơn, hoàng thượng ba lần gieo quẻ, ba lần đại cát. Quan Thánh lão gia dạy rõ hoàng thượng là chân mạng thiên tử, nhất định có ngày ngồi ở ngai vàng. Ngày đó các huynh đệ cũ đã đốt hết hành lý tư trang, giết hết vợ lớn vợ nhỏ, quyết theo đại vương để giết quan binh, chiếm thiên hạ. Hoàng thượng ơi, trong lòng dạ người ta chỉ có thịt, không có xương. Dù họ không chửi cha mắng mẹ Lưu Tông Mẫn này đi nữa, nói có ông trời chứng giám, nếu hôm nay họ muốn lấy lại chút ít tiền bạc tư trang năm xưa đã đốt, kiếm lại vợ lớn vợ bé năm xưa đã giết, Lưu Tông Mẫn này chẳng có lòng dạ nào giết họ.”

Nói đến đây, Lưu Tông Mẫn không nhịn nổi, bật ra tiếng khóc.

Lý Tự Thành cũng đưa tay áo lên gạt nước mắt, thầm nghĩ: “Giang sơn này ta dựa vào các huynh đệ cũ mà có được. Nếu để huynh đệ cũ nản lòng, họ sẽ không chịu ra sức vì ta nữa. Tuy triều đình nhà Minh đã đổ, nhưng còn đại quân Mãn Thanh. Binh lực của Trương Hiến Trung cũng chẳng kém gì mình. Tả Giáp Ngũ Doanh bọn Lão Hồi Hồi xem ra khó mà dựa dẫm được. Ngưu Kim Tinh trước đây từng nói: Trong câu đồng dao Thập bát tử chủ thần khí, ba chữ thập bát tử tức là chữ Lý, nhưng không phải Lý Tự Thành mà là Lý Nham. Bên dưới còn một câu: Sơn hạ thạch tọa long ỷ. Nếu ghép lại là Thập bát tử chủ thần khí, sơn hạ thạch tọa long ỷ, con mẹ nó, đúng là có vần có điệu. Sơn hạ thạch, ghép lại chẳng phải chữ Nham hay sao? Lý Nham còn tên nghĩa đệ Kim xà vương Viên Thừa Chí, binh tướng dưới tay kiêu dũng thiện chiến, không thể coi thường được”.

Y không nén nổi, bất giác liếc nhìn Lý Nham, thấy Lý Nham đang rất bình tĩnh, giơ tay lên năn nỉ mọi người: “Các vị huynh đệ! Mọi người im lặng đi, để nghe hoàng thượng dặn dò. Hoàng thượng nói thế nào, chúng ta cứ việc làm theo. Nói tóm lại thì chúng ta đều là hảo huynh đệ, phải đồng tâm nhất trí đối phó với người ngoài, tuyệt đối đừng để gà nhà bôi mặt đá nhau.”

Lý Tự Thành lập tức nổi giận, thầm nghĩ: “Tuyệt đối đừng để gà nhà bôi mặt đá nhau! Ngươi dám chửi ta giết nhầm La Nhữ Tài ư? Hắn vô lễ với ta, thầm tính kế giết ta, ngươi đâu phải không biết? Giả tỉ lão gia không ra tay trước, mà La Nhữ Tài ra tay trước, thì chắc Lý Nham ngươi lại trả thù cho ta. Không sai! Ngươi đầy quỷ kế, sẽ mượn cớ trả thù cho ta mà thống lĩnh các huynh đệ đi giết La Nhữ Tài, thế là sơn hạ thạch tọa long ỷ. Hừ…”

Nghĩ tới đó, y la lớn: “Viên Thừa Chí, ra ngoài đi! Ngươi là người mới, không được đánh các huynh đệ cũ. Đã nghe chưa?”

Viên Thừa Chí muốn cãi: “Thuộc hạ không đánh huynh đệ cũ.” Nhưng chàng thấy Lý Nham liếc mình một cái, hất cằm hướng ra ngoài, lập tức hiểu ý bèn lớn tiếng vâng dạ: “Tuân chỉ hoàng thượng, thuộc hạ xin cáo lui.”

Chàng quay người ra khỏi điện. Lý Nham cũng khom lưng nói: “Thuộc hạ cũng xin cáo lui.”

Lão Hồi Hồi, Giáp Lý Nhãn, Tả Kim Vương, Loạn Thế Vương, Tranh Thế Vương đều nghĩ: “Nếu tiếp tục tranh chấp nữa, chỉ tổ bị đám huynh đệ cũ làm thịt mà thôi”. Họ đang muốn cáo biệt ra ngoài, bỗng thấy một đại tướng thân hình tầm thước bước lên hai bước, khom người nói: “Xin hoàng thượng hạ chỉ, bây giờ huynh đệ chúng ta phải làm sao mới phải?”

Lý Tự Thành hỏi lại: “Cốc huynh đệ! Theo ngươi thì phải làm sao?”

Tướng quân này tên là Cốc Đại Thành, cung kính đáp: “Thuộc hạ chỉ biết nghe lời huấn thị của hoàng thượng, liều mạng đánh nhau. Hoàng thượng cứ chỉ bảo, thuộc hạ cứ thế mà làm.”

Tranh thế vương Lưu Huy Hiểu nghĩ ngay: “Cốc Đại Thành thật là linh lợi, mình cũng phải nói mấy câu.” Y lên tiếng: “Cốc đại ca nói rất đúng. Mọi người không nên tranh chấp nữa, cứ nghe thánh chỉ của hoàng thượng mà làm.”

Phía sau có người khẽ nói: “Không trả Trần Viên Viên cho Ngô Tam Quế, thì những cô nương chúng ta bắt về cũng không trả được.”

Lưu Tông Mẫn lớn tiếng: “Có gì thì bước ra mà nói. Đồ nhút nhát! Đã chui ra sau làm con rùa rút đầu, còn muốn đánh rắm thối.”

Đương nhiên người kia không dám mở miệng nữa. Nhất thời tòa đại điện im phăng phắc.

Lý Tự Thành nghĩ: “Ta muốn dựa vào huynh đệ cũ, thì không thể ràng buộc họ quá chặt chẽ. Nếu Trương Hiến Trung nói một câu: Mọi người hãy theo ta, ai cướp được kim ngân mỹ nữ thì cho người đó; Lý mỗ nhất định không làm gì được nữa. Không tới nửa ngày là mấy chục vạn thuộc hạ bỏ theo Trương Hiến Trung hết, một mình ta đơn thương độc mã thì làm hoàng đế con khỉ gì. Vẫn biết dung túng cho thuộc hạ cướp bóc gian dâm là không phải, nhưng đã cỡi trên lưng cọp rồi thì phải làm như vậy. Trần Viên Viên như hoa như ngọc đang ở hậu cung, ta nỡ lòng nào đem trả cho Ngô Tam Quế? Mà nếu trả, thì giữa đường cũng bị bọn Lưu Tông Mẫn, Cốc Đại Thành, Lão Hồi Hồi… cướp lấy.”

Y bất giác thở dài, lên tiếng: “Mọi người giải tán đi thôi. Cực khổ bấy lâu rồi, cũng nên có vài ngày thoải mái. Khuyên được các huynh đệ nhẹ tay là tốt nhất, nhưng nếu họ cứ phóng túng không nghe, thì đành chịu vậy. Mọi người đều là huynh đệ tốt từng liều mạng vì nhau, ai cũng là anh em ruột thịt, làm sao ta giết họ được!” Nói xong, y lắc đầu quầy quậy.

Lão Hồi Hồi dõng dạc nói: “Đại Vương nói sao thì mọi người làm vậy, chuyện các huynh đệ cướp bóc tài vật nữ nhân coi như xong. Nhân lúc các vị tướng quân và đại thần đều ở đây, chúng ta nên xét lại vụ oan án của La Nhữ Tài đại ca một chút.”

Lý Tự Thành biến hẳn sắc mặt, trầm giọng hỏi: “Xét lại thế nào? Giết ta đền mạng cho hắn hay sao?”

Tả kim vương Hạ Cẩm nói: “Dĩ nhiên không phải như vậy. Hoàng thượng giết La đại ca, chỉ vì nghe tên thư sinh ma quỷ Trần Hoàng Trung nói bậy. Hắn nói: La đại ca đem hết ngựa chiến ra đóng dấu vào mông một chữ Tả, ý nói đầu hàng Tả Lương Ngọc. Thật ra La đại ca có đem năm ngàn con ngựa trong quân ra đóng dấu, nhưng vì kỵ binh chia thành năm đội là Tiền, Hậu, Tả, Trung, Hữu; nên đóng dấu vào ngựa năm chữ Tiền, Hậu, Tả, Trung, Hữu để khỏi lộn xộn. Trần Hoàng Trung sai người dẫn mấy con ngựa trong đội tả quân đến cho đại vương xem, dĩ nhiên có dấu chữ Tả. Đại vương tin lời hắn nên phái người ám toán, thế là La đại ca chết mà không biết tại sao mình chết. Nếu đại vương không tin, bọn thuộc hạ có thể dẫn bốn ngàn con ngựa đến đây, một ngàn con đóng dấu chữ Tiền, một ngàn con đóng dấu chữ Hậu, một ngàn con đóng dấu chữ Hữu, một ngàn con đóng dấu chữ Trung. La đại ca một dạ trung thành, mất mạng hết sức oan uổng.”

Nói xong, Hạ Cẩm quay đầu ra gọi: “Dẫn vào đây!”

Nghe tiếng vó ngựa lóc cóc, năm tên lính dẫn năm con ngựa vào điện. Trên mông mỗi con đều có đốt thành chữ, nhưng năm con là năm chữ phân biệt, tiền hậu, trung, tả, hữu. Năm chữ to nhỏ bằng nhau, nét bút rất giống nhau, rõ ràng được đóng dấu cùng một thời kỳ. Bọn lính còn cầm theo năm miếng sắt. Những tướng quân trong điện đều chinh chiến lâu năm, nhìn biết ngay đó là những con dấu để đóng vào mông ngựa. Những chữ trên năm con dấu đó, chính là năm chữ tiền, hậu, tả, trung, hữu.

Mặt Lý Tự Thành tím hẳn, nói khàn khàn: “Mau bắt thằng súc sinh Trần Hoàng Trung đến đây, chém ngàn đao vạn đao thành một đống tương.”

Một tướng quân khí khái đằng đằng bước ra, dõng dạc nói: “Khải tấu đại vương! Sau khi Tả Kim Vương điều tra được vụ oan uổng của La đại ca, trong quân đội có rất nhiều người bất bình. Hôm qua tiểu tướng không sao gặp được hoàng thượng để tấu trình, sợ huynh đệ gây sự nên đã tự tay giết tên súc sinh Trần Hoàng Trung đó, đem xác để ngoài Ngọ Môn. Huynh đệ mỗi người một đao, băm hắn nát thành tương rồi. Tiểu tướng tự tiện làm việc này, xin hoàng thượng định tội.”

Người này là Điền Kiến Tú, cũng là Quyền tướng quân, thế lực ngang với Lưu Tông Mẫn.

Lý Tự Thành gật đầu nói: “Giết hay lắm, giết hay lắm! Ngươi có công vô tội. Ngưu Kim Tinh! Ngươi đi lấy một vạn lạng bạc, cùng Tả Kim Vương đưa tặng gia thuộc của La Nhữ Tài.”

Giáp lý nhãn Hạ Nhất Long kêu lên: “Đa tạ đại vương! Nhưng La Nhữ Tài còn gia thuộc gì nữa đâu? Lúc ông ấy bị đại vương xử tử, Lưu tướng quân đã giết sạch vợ con ông ấy rồi.”

Lý Tự Thành hừ một tiếng, quay lưng bỏ vào hậu điện.

Trong điện, đám tướng quân ồn ào giải tán. Có người huýt gió thành tiếng, co giò chạy lẹ, nhất định đang hoan hỉ nghĩ tới cảnh dẫn thuộc hạ đi cướp bóc gian dâm.

*

*   *

Sáng hôm sau Viên Thừa Chí đang ngồi trong nhà bàn bạc với quần hùng về những chuyện mình thấy trong điện hôm qua, Hồng Thắng Hải từ ngoài chạy vội vào bẩm báo: “Chế tướng quân đến thăm Viên tướng công!”

Viên Thừa Chí gấp rút ra ngoài đón tiếp. Thấy Lý Nham thần sắc nghiêm trọng, chàng biết có chuyện lớn, liền dẫn vào thư phòng.

Lý Nham nói: “Viên huynh đệ, có chuyện không hay rồi. Đại vương đã sai Lưu tướng quân giết Loạn Thế Vương và Giáp Lý Nhãn. Lão Hồi Hồi thấy tình hình không ổn, đã dẫn bản đội cùng với nhân mã hai doanh Loạn Giáp rời khỏi Thuận Thiên, đi về phía tây nam.”

Viên Thừa Chí kinh hãi hỏi: “Tại sao đại vương lại giết huynh đệ của mình? Loạn Thế Vương và Giáp Lý Nhãn muốn lật đổ đại vương ư?”

Lý Nham lắc đầu nói: “Hai người Loạn Thế Vương và Giáp Lý Nhãn một dạ trung thành, làm gì có chuyện phản bội đại vương? Nhất định hôm qua họ nhắc đến vụ La Nhữ Tài đại ca bị hại oan uổng, đụng chạm đến đại vương. Bên trong lại có bọn Ngưu Kim Tinh, Lưu Tông Mẫn tìm lời ly gián, đại vương nhịn không nổi nên giết hai người.”

Hai người cứ ngồi trong thư phòng mà than thở. Viên Thừa Chí giữ Lý Nham lại dùng cơm trưa, rồi tiếp tục bàn luận về thời cuộc.

Đến khoảng giờ Thân giờ Dậu, trời sắp ngả về chiều, Lý Nham định cáo từ thì đột nhiên Tống Hiến Sách đến thăm. Y nói vừa tới phủ Lý Nham, nghe nói đang ở chỗ Quả Nghị tướng quân nên tìm đến đây.

Tống Hiến Sách nói: “Sáng nay đại vương cho quân rượt theo Lão Hồi Hồi không kịp, nổi giận nên triệu tập chư tướng đến họp.”

Lý Nham nói: “Tả Giáp Ngũ Doanh đã thề cùng sinh tử. Quách, Giáp chết rồi, phải để ý bảo vệ hai người Lưu, Hạ; lại phải đề phòng họ làm loạn.”

Tống Hiến Sách nói: “Đó là việc chính mà mọi người thương lượng. Nhưng thằng Ngưu Kim Tinh đó không ngớt nói xấu Lý huynh, nói xấu cả ta.”

Lý Nham giận dữ hỏi: “Hai người chúng ta hành sự đàng hoàng, chúng nói xấu được chuyện gì ?”

Tống Hiến Sách nói: “Hồi đại vương ở Hà Nam, lòng người chưa quy thuận, ta có bịa ra một câu sấm ngữ là thập bát tử chủ thần khí, cho người truyền bá khắp nơi. Ba chữ thập, bát, tử ghép lại thành một chữ Lý, ý nói đại vương sẽ được thiên hạ. Dân chúng nghe thấy, cho rằng đại vương có mạng trời bèn kéo nhau đến quy phục, thanh thế chúng ta lập tức mạnh lên. Chế tướng quân còn nhớ không?”

Lý Nham nói: “Sao lại không nhớ! Ta làm đồng dao, huynh làm sấm ngữ, khiến cho lòng người của triều Minh lay động, có công đó chứ?”

Tống Hiến Sách lắc đầu nói: “Ngưu Kim Tinh tấu bậy lên đại vương, nói rằng câu thập bát tử chủ thần khí không phải chỉ đại vương, mà chỉ Lý huynh. Hắn còn nối thêm một câu sơn hạ thạch tọa long ỷ gì gì đó, thật là bừa bãi.”

Trong lòng Lý Nham rúng động. Y biết, xưa nay chuyện mà hoàng đế kiêng kỵ nhất, không gì khác là có người dòm ngó ngôi vị của mình. Nhiều vị vua khai quốc xưa nay, tuy là đấng minh quân như Hán Cao Tổ, Minh Thái Tổ mà cũng thẳng tay chém giết công thần, chính vì sợ những đại tướng dưới tay mưu đồ soán vị. Nếu Lý Tự Thành tin vào câu nói này thì hỏng bét.

Lý Nham run giọng nói: “Chuyện này… chuyện này…”

Tống Hiến Sách nói: “Đại vương anh minh, chưa chắc đã tin ngay, Chế tướng quân không cần quá lo lắng. Nhưng trong buổi họp hôm nay, Lưu tướng quân, Lý tướng quân, Cao tướng quân đều nói Chế tướng quân tự cho mình thanh cao, xem thường bọn họ. Họ nói: Thuộc hạ chúng ta chỉ mượn tạm nhà dân để ở, chỉ vay dân chúng mấy lượng bạc, chỉ tán phét mấy câu với các cô nương, thế mà bộ hạ của Chế tướng quân lại quát tháo can thiệp. Ngưu Kim Tinh lại nói: Chế tướng quân làm như vậy, không phải vì tự cho mình thanh cao, mà để thu phục lòng người, trong lòng ắt có đại chí. Lý Song Hỷ tướng quân là cháu ruột của đại vương, Cao Tất Chính là biểu đệ của đại vương, còn chúng ta chỉ là người dưng nước lã, không phải bà con thân thích, khó mà mở miệng cãi lại.”

Lý Nham giận quá không nói được, sắc mặt nửa trắng nửa xanh. Y đằng hắng một tiếng, ngồi phịch xuống ghế.

Tống Hiến Sách nói: “Ta có phân trần mấy câu cho Chế tướng quân. Họ liền thóa mạ: Thằng lùn họ Tống ba phần giống người bảy phần giống quỷ, chỉ giỏi nói bừa. Ta tức giận không cãi được, liền cáo từ bỏ về.”

Lý Nham chắp tay nói: “May được Tống quân sư yêu mến, tại hạ cảm kích vô cùng.”

Tống Hiến Sách thở dài nói: “Chỉ có Điền Kiến Tú tướng quân, Lưu Phương Lượng tướng quân, Cốc Đại Thành tướng quân là nói chuyện công bằng. Tuy chúng ta đã chiếm Bắc Kinh, nhưng Giang Nam chưa định. Ngô Tam Quế nói đầu hàng, nhưng lòng dạ không biết thế nào. Bọn Thát tử Mãn Châu thì giương mắt thèm thuồng dòm ngó, cũng là một mối lo âu. Đại vương chưa hoàn thành đại nghiệp, thế mà đã bắt đầu thanh trừng nội bộ. Quân lính ngược đãi bá tính, khiến cho lòng người không còn quy thuận.”

Ba người nhìn nhau than thở. Tống Hiến Sách đứng dậy cáo từ, Lý Nham và Viên Thừa Chí tiễn chân ra cổng.

Viên Thừa Chí nghe Tống Hiến Sách nói chuyện xong, thấy y cao chưa đến ba thước, tướng mạo xấu xí trông giống như con khỉ, nhưng rất có kiến thức. Chàng khen: “Đại ca! Tống quân sư đúng là một nhân tài.”

Lý Nham nói: “Tống quân sư túc trí đa mưu, chỉ vì đại vương thích nghe Ngưu Kim Tinh nói chuyện nên không trọng dụng. Thật ra phần lớn phương sách tấn công thành trì của đại vương đều do Tống quân sư đưa ra.”

Rồi Lý Nham cũng cáo từ. Viên Thừa Chí nói: “Để tiểu đệ tiễn đại ca mấy bước.”

Chàng sợ bọn thủ hạ của Lý Tự Thành đến ám hại Lý Nham, nên nói là tiễn chân mà ai cũng hiểu là bảo vệ. Hai người nắm tay nhau đi mấy trăm bước, không nói tiếng nào.

Lý Nham bỗng lên tiếng: “Tuy đại vương đã có ý nghi ngờ ta, nhưng là thần thì phải tận trung, là bạn thì phải tận nghĩa. Ta cùng đại vương đã chung hoạn nạn từ lâu, từ khi bắt đầu đến khi thành sự, không thể nhìn đại nghiệp của đại vương bại hoại mà ngậm miệng không nói lời nào. Nhưng huynh đệ thì không cần nuốt giận trong triều.”

Viên Thừa Chí đáp: “Đúng vậy, tiểu đệ không làm quan được đâu. Ngày trước đại ca từng nói, sau khi công thành sẽ cáo lui, hai người chúng ta sẽ cùng ẩn cư vào nơi rừng núi, uống rượu nói chuyện làm vui. Sao bây giờ đại ca không từ quan đi, khỏi trở thành cái gai trong mắt người khác?”

Lý Nham nói: “Trước mắt đại vương còn rất nhiều việc lớn phải lo. Phải thống nhất thiên hạ rồi ta mới quy ẩn được. Năm xưa đại vương đối đãi với ta rất hậu. Bây giờ ông ấy đã đánh được Bắc Kinh, nhưng quân kỷ bại hoại, tướng quân bộ thuộc chia năm xẻ bảy tự giết lẫn nhau, tiền đồ trước mắt nguy hiểm trùng trùng, gian khó muôn phần. Đây chính là lúc ta phải tận tâm tận lực, dùng cái chết để báo đáp. Đại vương dùng lễ quốc sĩ đối đãi với ta, dĩ nhiên ta phải dùng nghĩa quốc sĩ để báo đáp. Những lời đồn đại của bọn tiểu nhân, ta không để vào lòng.”

Hai người dắt tay nhau đi thêm một đoạn, nhìn thấy ở góc tây bắc kinh thành có ngọn lửa bốc lên tận trời, nhất định Sấm quân đang đốt nhà dân. Lý Nham và Viên Thừa Chí mấy ngày nay đã thấy cảnh này rất nhiều, nên chỉ nhìn nhau lắc đầu than thở.

Chiều đã xế, sương xuống mông lung. Đột nhiên nghe trong ngõ hẻm phía trước có tiếng hồ cầm kéo ò e í e, rồi một thanh âm già cỗi hát khàn khàn: “Ai không quan chức, người đó nhẹ người. Trung thành với vua, như chơi với hổ. Trở về quê nhà, vui sống hết đời. Chim bắn hết rồi, cung bẻ quăng thôi…”

Lúc này đã thấy, từ ngõ hẻm đó một lão già mù mắt chậm chạp bước ra, vừa kéo hồ cầm vừa hát. Lão mù hát tiếp: “Tử Tư công cao, Ngô Vương kiêng kỵ. Văn Chủng diệt Ngô, đầu mình rời nhau. Hoài Âm đại tài, còn được cái tên. Đại công lập quốc, Từ tướng quân có ai sánh kịp. Thần cơ diệu toán, Lưu Bá Ôn đoán cũng không ra. Thiên tử Đại Minh vừa lên ngai vàng, Công thần văn võ chen xuống âm phủ. Quay về nhanh thôi, bỏ chỗ chết mà tìm chỗ sống.”

Nghe đến đây Lý Nham cảm xúc vô cùng, nghĩ bụng: “Nhiều công thần khai quốc triều Minh như Lý Thiện Trường, Lưu Cơ, Phó Hữu Đức, Châu Lượng Tổ, Phùng Thắng, Lý Văn Trung, La Ngọc đều bị Thái Tổ xử tử. Chắc lão mù cũng biết đã thay đổi triều đại rồi, nên mới dám hát bài này.”

Lão mù này quần áo rách bươm, đúng là một người hát rong để xin ăn. Nhưng lúc này ai cũng cố giữ mạng mình, chẳng ai rảnh rang để bỏ tiền ra nghe lão hát.

Lại nghe lão hát tiếp: “Quân vương hạ chỉ bắt công thần. Đao kiếm trùng trùng, lính vây nhiều lớp. Vợ con kinh hãi, ta không làm gì được. Dắt nhau nhảy xuống giếng, hối hận không kịp. Sao trước không giả chết để mai danh. Làn khói anh hùng hôm nay, vạn lý trường thành ngày trước…”

Lão vừa hát vừa chậm rãi đi ngang Lý Nham và Viên Thừa Chí, rồi rẽ vào trong một ngõ hẻm khác. Tiếng ca mỗi lúc một xa, để lại cảm giác bàng hoàng thê lương khó tả. “Làn khói anh hùng hôm nay, vạn lý trường thành ngày trước…” Tiếng hát văng vẳng trên không trung, dư âm xoáy mãi bên tai, không biết bao giờ dứt được.

*

*   *

Viên Thừa Chí uất ức trong lòng, quay về nhà thì thấy ở đại sảnh có một người ngồi đợi. Người đó vừa thấy Viên Thừa Chí là nhanh chân chạy ra trước cửa, la lên: “Tiểu sư thúc! Sư thúc về rồi!”

Y mặc quần áo đơn giản, sau lưng cắm ngọn trường đao, chính là Thôi Hy Mẫn, cháu của Thôi Thu Sơn. Viên Thừa Chí mừng rỡ hỏi: “Huynh đến có việc gì không?”

Thôi Hy Mẫn lấy trong người ra một lá thư, hai tay trình lên Viên Thừa Chí. Chàng thấy trên bì thư có bút tích của sư phụ, viết mấy chữ: “Từ dụ chư đệ tử”, bèn chắp tay thi lễ rồi cung kính đón lấy, rút thư ra đọc.

Trong thư viết: “Phái Hoa Sơn chúng ta trước nay vẫn có môn quy, không được nhận chức làm quan trong triều. Nay đại nghiệp Sấm Vương đã thành tựu, đệ tử bản phái phải lui về ẩn tích. Đêm trăng tròn tháng tư năm nay, họp mặt trên đỉnh Hoa Sơn.” Bên dưới ký một chữ “Thanh”.

Viên Thừa Chí nói: “Sắp đến ngày họp mặt rồi, chúng ta khởi hành thôi.”

Thôi Hy Mẫn nói: “Đúng vậy, sư thúc phải đi ngay.”

Viên Thừa Chí vào trong thông báo với mọi người, nhưng không thấy Thanh Thanh đâu. Chàng hỏi Tiêu Uyển Nhi: “Hạ cô nương đâu?”

Uyển Nhi đáp: “Đã lâu lâu không thấy cô ấy. Để muội qua xem thử.”

Viên Thừa Chí nói: “Thôi, để ta đi gọi.”

Đến ngoài phòng Thanh Thanh, chàng đưa ngón tay khẽ gõ cửa mấy cái, lên tiếng: “Thanh đệ! Ca ca đây.”

Trong phòng chẳng động tĩnh gì. Chàng đợi một lát, lại nhẹ nhàng gõ cửa, vẫn không có hồi âm.

Viên Thừa Chí đẩy cửa, thì ra cửa phòng không cài chốt. Đưa mắt nhìn vào thấy bên trong trống rỗng chẳng còn gì, vào phòng lại càng không khỏi ngẩn ngơ. Toàn bộ quần áo của nàng, trường kiếm, các vật dụng khác đều không thấy đâu nữa. Ngay cả hũ tro của mẫu thân, nàng cũng mang đi, hình như đây là một chuyến đi xa.

Viên Thừa Chí lo lắng tìm kiếm khắp nơi, thấy dưới gối nàng có một mảnh giấy, viết: “Đã có kim chi ngọc diệp, dĩ nhiên ruồng bỏ bá tính tầm thường.”

Viên Thừa Chí nhìn vào mảnh giấy mà ngơ ngẩn xuất thần, bối rối không biết làm sao. Chàng nghĩ bụng: “Ta đối với nàng thì thành ý chân tình, còn nàng cứ xét nét nhỏ mọn, nghi ngờ ta từng chút. Nam tử hán đại trượng phu hành sự quang minh lỗi lạc, chỉ cần không thẹn với lòng. Ngày nào chúng ta cũng vào sinh ra tử trong rừng đao kiếm, sao mà tránh nổi những chuyện tị hiềm? Thanh đệ, Thanh đệ! Thanh đệ không hiểu lòng ca ca ư?”

Trong lòng chàng không nén nổi chua xót, lại nghĩ: “Lần trước nàng tức giận bỏ đi, suýt nữa gặp nguy về tay bọn lính Tây dương. Bây giờ binh hoang mã loạn, lại càng không biết đi hướng nào.” Chàng nhớ lại cái đêm hôm nào cùng nằm một giường, cùng đắp một chăn với A Cửu, không phải là không động lòng, bây giờ nhớ lại, không khỏi tự hổ thẹn: “Mình thật sự thay đổi rồi sao? Thanh đệ trách mình, không phải là không có nguyên nhân.”

Chàng ngẩn ngơ ngồi trên giường, như vừa mất mát một cái gì đó. Tiêu Uyển Nhi bước vào phòng, thấy chàng như không còn hồn vía, kinh hãi la lên. Mọi người biết tin, kéo hết vào phòng. Mỗi người một câu, có người khuyên bảo, có người an ủi, có người đưa ra ý kiến.

Tiêu Uyển Nhi tuy nhỏ tuổi, nhưng gặp việc lại rất bình tĩnh. Nàng lên tiếng: “Viên tướng công! Tướng công lo lắng chỉ vô ích. Hạ cô nương võ nghệ đầy mình, ai dám bắt nạt cô ấy? Thế này, ngày hội phái đã gần, tướng công cứ đi với thúc thúc câm, Hà tỉ tỉ lên núi Hoa Sơn. Trình bá bá và tiểu muội thì ở lại đây trông nom A Cửu muội muội. Sa thúc thúc, Thiết lão sư, Hồ thúc thúc và bang chúng Kim Long Bang thì ra ngoài tìm Hạ cô nương, lại truyền lệnh bài minh chủ, hạ lệnh cho hào kiệt bảy tỉnh cùng tìm giúp. Sau khi tìm được cô ấy, lập tức mọi người lên núi Hoa Sơn gặp mặt. Ca ca cứ việc yên tâm, chuyện an nguy của A Cửu muội muội cứ giao cho tiểu muội lo. Tướng công đối đãi với muội tốt như thế, muội sẽ hết sức mình chiếu cố đến A Cửu muội muội, nhất định sẽ không phụ lòng tướng công.”

Nàng vừa nói vừa vỗ lên ngực mình, hào khí tràn trề. Viên Thừa Chí gật đầu lia lịa, nói: “Ý kiến của Tiêu cô nương rất hay, chúng ta cứ thế mà làm. Tốt nhất là Trình lão phu tử và Tiêu cô nương đưa công chúa tránh xa kinh thành; ở lại đây sẽ rất không ổn. Quyền tướng quân là người không đoan chính, nhất định sẽ bức hại công chúa. Thiết Thủ! Võ công của cô cao cường, hãy trông chừng giúp. Cô vẫn chưa chính thức gia nhập môn phái, đợi ta bẩm báo sư phụ rõ ràng rồi tính. Lần này cô không cần lên núi Hoa Sơn.”

Hà Thiết Thủ đảo mắt một cái, định năn nỉ thì đột nhiên nghĩ đến Thanh Thanh đã từng nghi ngờ mình, cùng đi với Viên Thừa Chí e rằng không ổn. Nàng mỉm cười không nói gì nữa, nghĩ thầm: “Sư phụ không dẫn mình lên Hoa Sơn, chẳng lẽ mình không biết đường đi?”

Nàng làm giáo chủ tà giáo đã quen, gần đây tuy thay đổi rất nhiều nhưng tính bướng bỉnh chưa hết, nên cứ mặc kệ lời dặn của Viên Thừa Chí, trù tính kế hoạch để lên Hoa Sơn bái kiến tổ sư. Nàng lại nghĩ: “Lòng dạ sư phụ dồn hết cho công chúa. Mình chỉ cần bảo vệ công chúa bình yên là được sư phụ thương yêu.”

Viên Thừa Chí sắp xếp mọi chuyện xong, sáng hôm sau vào từ biệt Sấm Vương và nghĩa huynh Lý Nham. Lý Tự Thành xem bức thư của Mục Nhân Thanh, biết chàng phải tuân sư mệnh nên không thể giữ được, bèn ban thưởng rất nhiều trân bảo trong đại nội. Viên Thừa Chí định chối từ, nhưng Lý Nham nháy mắt liên tục. Chàng chỉ còn cách nhận lấy rồi đa tạ.

Lý Nham tiễn chàng ra cửa cung, thở dài nói: “Huynh đệ công thành thân thoái, thế là tuyệt diệu. Thế mà…” Y đột nhiên ngừng nói, thần sắc ảm đạm.

Viên Thừa Chí nói: “Xin đại ca bảo trọng, mọi chuyện phải cẩn thận. Các vị Điền Kiến Tú, Cốc Đại Thành, Lưu Phương Lượng hiểu biết đại cuộc, trong lúc nguy cấp có thể thương lượng với họ. Đại ca ráng khuyên bảo đại vương quản thúc chúng huynh đệ, đừng hiếp đáp bá tính, đừng nghĩ chuyện đối phó với Lưu Huy Hiểu và Hạ Cẩm huynh đệ. Nếu đại ca gặp nguy, tiểu đệ biết tin thì dù ở xa vạn dặm cũng đi suốt đêm ngày để nhanh gặp mặt.”

Hai người lau nước mắt, từ biệt nhau.

*

*   *

Chiều hôm đó Viên Thừa Chí cùng ông câm, Thôi Hy Mẫn, Hồng Thắng Hải đi về hướng tây, nhắm thẳng núi Hoa Sơn. Ngựa của mọi người đều là tuấn mã, cước trình rất nhanh, chẳng bao lâu đã đến Uyển Bình.

Quần hùng vào phạn điếm ăn cơm. Ăn xong, định lên ngựa thì Hồng Thắng Hải bỗng liếc thấy dưới góc tường có một con bò cạp và một con rết, đều được ghim vào chân tường bằng đinh sắt. Y ngạc nhiên, khẽ kéo góc áo Viên Thừa Chí.

Viên Thừa Chí quay lại nhìn rồi gật đầu một cái, nghĩ bụng: “Vụ này nhất định có liên quan đến Ngũ Độc Giáo. Tiếc là Hà Thiết Thủ không đi cùng, chẳng biết hai ký hiệu này có ý nghĩa gì.”

Hồng Thắng Hải kiếm cớ nói chuyện với tiểu nhị trong phạn điếm mấy câu. Y bình thản nói: “Hai con độc vật dưới chân tường đó trông ghê quá.”

Tiểu nhị mỉm cười đáp: “Tiểu nhân mà chưa lấy tiền của người ta thì dẹp bỏ lâu rồi. Thật là bực bội chết người.”

Hắn đếm ngón tay, mỉm cười nói tiếp: “Mới chưa tới hai ngày mà hỏi đến hai thứ đó, kể cả quan gia là mười mấy vị.”

Hồng Thắng Hải hỏi: “Ai gắn lên vậy?”

Tiểu nhị đáp: “Một mụ ăn mày.”

Hồng Thắng Hải nhìn Viên Thừa Chí một cái, lại hỏi: “Mấy người đó có hỏi tiểu huynh gì không?” Nói xong, y lấy mấy miếng bạc vụn nhét vào trong tay tiểu nhị.

Đầu tiểu nhị thì lắc, nhưng tay thì thò ra nhận bạc, miệng mỉm cười nói: “Thì ra quan gia muốn hỏi chuyện đó.”

Viên Thừa Chí hỏi xen vào: “Lúc mụ ăn mày gắn hai con độc vật vào đó, có ai bên cạnh không?”

Tiểu nhị từ từ kể: “Chuyện ngày hôm đó thật là kỳ lạ. Đầu tiên là một tướng công rất tuấn tú, đến uống rượu một mình…”

Viên Thừa Chí vội hỏi: “Tuổi tác bao nhiêu? Ăn mặc thế nào?”

Tiểu nhị đáp: “Chắc là nhỏ hơn tướng công mấy tuổi, nhưng tuấn tú hơn nhiều. Tiểu nhân cứ tưởng là một người kép hát, nhưng thấy bên hông ông ấy có đeo bảo kiếm, nên không biết là gì nữa. Vẻ mặt ông ấy rầu rĩ như trong nhà có ai mới chết, chỉ uống chút xíu rượu là khóe mắt đã đỏ lên, ai nhìn thấy cũng phải đau lòng theo…”

Quần hùng đều đoán người đó là Thanh Thanh. Thôi Hy Mẫn giận dữ lớn tiếng: “Ngươi bớt trù ẻo người khác được không?”

Tiểu nhị hoảng sợ nhảy chồm lên, rồi quay ra vừa lau bàn vừa hỏi: “Các vị quan gia đang vội lên đường phải không?”

Viên Thừa Chí hỏi: “Rồi sao nữa?”

Tiểu nhị liếc Thôi Hy Mẫn một cái, nói: “Lát sau, đột nhiên một ông lão bước lên cầu thang. Đừng tưởng hễ già thì yếu. Râu tóc của lão trắng như bông, nhưng tinh thần hết sức khỏe khoắn. Tay lão xách một cây quải trượng đầu rồng, dộng xuống sàn nghe “rầm” một tiếng, chén bát trên bàn nhảy lên loảng choảng.”

Hồng Thắng Hải lại nhét thêm mấy miếng bạc vụn, bảo hắn kể cho tường tận. Viên Thừa Chí lo lắng nghĩ: “Gặp phải lão Ôn Phương Sơn, Thanh đệ làm sao thoát khỏi độc thủ?”

Tiểu nhị kể tiếp: “Ông lão đó vừa ngồi xuống kêu rượu thịt, lại có một ông lão khác bước lên. Ai cũng ngạc nhiên, trước sau có tới bốn ông lão, đều râu tóc bạc phơ, sắc mặt hồng hào, giống nhau như đúc một khuôn. Muốn tìm bốn ông lão giống nhau như thế, thật sự không phải chuyện dễ. Lão cầm một đôi đoản kích, lão xách roi da. Bốn lão không ai nhìn ai, mỗi người tự ngồi một bàn, bao vây tướng công trẻ tuổi kia vào giữa.”

Viên Thừa Chí nghe đến đây, thầm nghĩ: “Đêm đó trong cung, Ôn Phương Ngộ bị Hà Thiết Thủ đánh trúng một thiết câu. Chắc là Thiết Thủ cho lão thuốc giải đàng hoàng, nên bây giờ vẫn đủ bốn người.”

Tiểu nhị lại kể: “Tiểu nhân càng nhìn lại càng không hiểu. Lát sau thì mụ ăn mày đến. Chưởng quỹ toan đuổi ra ngoài, bỗng nghe “keng” một tiếng. Trời ơi! Tướng công biết là cái gì không?”

Thôi Hy Mẫn sốt ruột hỏi: “Cái gì?”

Tiểu nhị nói: “Đúng là thần tài mặc áo rách, không thể trông mặt mà bắt hình dong. “Keng” một tiếng, mụ quẳng lên bàn một thỏi bạc to tướng, trỏ bốn ông lão và tướng công kia mà nói: Hóa đơn của các vị này đều tính cho ta. Ôi! Tướng công đã thấy người ăn mày nào hào phóng như thế chưa?”

Hồng Thắng Hải muốn hắn vui vẻ kể tiếp, bèn đáp: “Đúng là chưa từng thấy.”

Viên Thừa Chí càng nghe càng lo lắng, trong lòng nghĩ: “Ôn Thị Tứ Lão đã không địch nổi, gặp thêm Hà Hồng Dược nữa thì biết làm sao?”

Tiểu nhị càng kể càng cao hứng, nói đến sủi bọt mép: “Nào ngờ mấy người kia mặc kệ mụ, cứ ngồi uống rượu. Mụ ăn mày giận dữ gầm lên một tiếng, vừa vẫy tay là một đạo bạch quang bay xẹt tới ông lão cầm cây quải trượng.”

Thôi Hy Mẫn nói: “Thôi, ngươi đừng nói bừa nữa. Chẳng lẽ mụ đó biết phóng phi kiếm hay sao?”

Tiểu nhị đáp ngay: “Tiểu nhân nói dối làm chi? Tuy không phải là phi kiếm, nhưng nhìn chẳng khác gì phi kiếm. Ông lão đó đưa đôi đũa ra gắp lia gắp lịa, nghe những tiếng “tinh tang” vang lên, trên đũa đã có một xâu gì đó sáng chói. Tiểu nhân lén nhìn thử, trời ơi, quan gia biết cái gì không?”

Thôi Hy Mẫn hỏi: “Đó là cái gì?”

Tiểu nhị đáp: “Thì ra là một xâu móng tay bằng bạc, bị ông lão ấy dùng đũa gắp trúng hết. Tiểu nhân chưa kịp hoan hô, đã nghe “phụp” một tiếng. Quan gia đoán thử đó là tiếng gì?”

Thôi Hy Mẫn nói: “Ta làm sao biết được.”

Tiểu nhị kéo y đến một cái bàn, bảo: “Quan gia xem đi.”

Trên mặt bàn có một cái lỗ nhỏ. Tiểu nhị cầm một chiếc đũa, cắm vừa khít vào cái lỗ đó rồi nói: “Ông lão đó cầm chiếc đũa ấn thủng mặt bàn, công phu thật là tuyệt diệu. Quan gia có làm được không?”

Thôi Hy Mẫn đáp: “Ta không làm được.”

Tiểu nhị nói: “Thì ra quan gia không biết, thôi, chuyện đó không quan trọng lắm. Mụ ăn mày biết không thắng nổi, chỉ “hứ” một tiếng rồi quay lưng chạy trốn. Sau đó tướng công trẻ tuổi cũng theo bốn ông lão ra ngoài. Thì ra họ cùng một nhóm, chắc lo bày trận thế để đối phó với mụ ăn mày kia.”

Viên Thừa Chí hỏi: “Họ đi hướng nào vậy?”

Tiểu nhị đáp: “Hướng tây nam, về phía Lương Hương. Năm người đi được một lúc thì mụ ăn mày quay lại, đính hai vật cổ quái đó vào góc tường. Mụ cho tiểu nhân một lạng bạc, dặn coi chừng hai con độc vật này tử tế, đừng để người khác động vào. Mấy ngày nay bốn bề đại loạn, chưởng quỹ đã định nghỉ làm ăn buôn bán ít lâu. May mà bà chủ không chịu, vẫn mở cửa quán nên tiểu nhân mới kiếm được nhiều ngoại bổng thế này…”

Hắn còn định lải nhải tiếp, nhưng Viên Thừa Chí đã chạy ra cửa, nhảy lên lưng ngựa, hô lớn: “Đuổi theo nhanh lên.”

*

*   *

Từ khi thấy Viên Thừa Chí ẵm A Cửu về nhà, Thanh Thanh càng nghĩ càng thấy không yên. “A Cửu hình dung đẹp đẽ, thanh tú, khả ái, mình không sao bì được. Huống chi cô ấy lại là công chúa, còn mình chỉ là một đứa con hoang, lai lịch bất minh, hai bên nội ngoại đều là thành phần bất hảo trên chốn giang hồ. Khác nhau một trời một vực, Viên Thừa Chí nhất định sẽ yêu cô ấy. Nếu không yêu, sao lại ôm mãi cô ấy không chịu thả xuống? Họ thương nhau sâu đậm lắm rồi, nên khi trở về nhà, trước mặt đông người vẫn không nỡ buông tay. Chuyện này đâu phải giả?”

“Sau này lại nghe đồn Lý Tự Thành ban thưởng A Cửu cho Viên Thừa Chí. Quyền tướng quân Lưu Tông Mẫn ganh tỵ, hai người tỉ thí để tranh mỹ nhân ngay tại Kim Loan Điện. Nói đến động võ đánh nhau thì ai thắng nổi chàng? Đương nhiên là chàng thắng. Sùng Trinh là kẻ thù giết cha, chàng lúc nào cũng muốn trả thù. Nhưng A Cửu chỉ nói một câu, xin chàng đừng giết cha cô ấy, thì chàng lập tức ngoan ngoãn nghe lời. Có bao giờ chàng nghe lời mình như vậy đâu, hễ mở miệng là trách mắng mình.”

Suy đi nghĩ lại, rốt cuộc nàng quyết tâm rời khỏi kinh thành, đem hài cốt mẫu thân lên đỉnh Hoa Sơn mai táng chung với hài cốt phụ thân, rồi tự vẫn bên cạnh song thân. Nàng nghĩ đến mình lênh đênh cô độc, lại gặp phải một kẻ không có lương tâm nên có kết cục thế này, không sao nén nổi thương thân trách phận.

Hôm đó nàng ghé ăn cơm ở Uyển Bình, bất ngờ gặp phải Ôn Thị Tứ Lão và Hà Hồng Dược. Ôn Phương Sơn hiển lộ nội công, Hà Hồng Dược biết không địch nổi nên tự rút lui. Thanh Thanh đã chấp nhận cái chết, nên hoàn toàn không sợ hãi. Nàng chỉ sợ Ôn Thị Tứ Lão xử tử mình ngay tại đó, thì ý nguyện của mẫu thân được chôn cùng phụ thân không thực hiện được, nên ngẫm nghĩ rồi nảy ra một kế.

Thanh Thanh đến trước mặt Ôn Phương Đạt thi lễ, mở miệng chào: “Đại gia gia!”, rồi chào cả ba lão còn lại. Ôn Thị Tứ Lão thấy nàng bình thản chẳng sợ gì, kinh ngạc vô cùng.

Thanh Thanh mỉm cười hỏi: “Bốn vị gia gia đi đâu vậy?”

Ôn Phương Đạt hỏi lại: “Ngươi đi đâu?”

Thanh Thanh đáp: “Con hẹn gặp người bạn họ Viên ở đây. Không hiểu sao đến bây giờ vẫn chưa thấy huynh ấy đến.”

Tứ Lão nghe Viên Thừa Chí sắp đến, ai cũng rùng mình, không dám nán lại lâu. Ôn Phương Nghĩa hét lên: “Đi theo bọn ta.”

Thanh Thanh giả vờ nói: “Con phải ở đây đợi.”

Ôn Phương Nghĩa đưa tay ra túm chặt cổ tay Thanh Thanh, kéo ra cửa tiệm, lôi lên ngựa cỡi chung. Bốn lão già cố tìm chỗ hoang vu mà đi, thấy đã xa thị trấn mới nhảy xuống ngựa.

Ôn Phương Nghĩa quẳng Thanh Thanh xuống đất, thóa mạ: “Đồ tiểu tiện nhân vô sỉ! Hôm nay lại lọt vào tay bọn ta rồi.”

Thanh Thanh vừa khóc vừa nói: “Bốn vị gia gia, con có lỗi gì đâu? Gia gia tha con đi, từ nay về sau con nhất định nghe lời gia gia.”

Ôn Phương Nghĩa mắng: “Ngươi còn muốn sống nữa ư?”

“Soạt” một tiếng, lão rút trủy thủ ra. Thanh Thanh khóc lóc hỏi: “Nhị gia gia muốn giết con hay sao?”

Ôn Phương Ngộ nói: “Ngươi đáng chết.”

Thanh Thanh nói: “Tam gia gia! Mẫu thân con là con gái ruột của gia gia, con cầu xin gia gia một việc.”

Ôn Phương Sơn tái mặt, nói: “Muốn sống thì đừng hòng.”

Thanh Thanh nói: “Sau khi con chết, xin gia gia quay lại gặp người bạn họ Viên của con, dặn huynh ấy đi tìm bảo bối một mình, đừng đợi con nữa.”

Bốn lão họ Ôn vừa nghe thấy ba chữ “tìm bảo bối”, trong lòng phấn chấn hẳn lên, đồng thanh hỏi: “Ngươi nói gì?”

Thanh Thanh vừa khóc vừa đáp: “Dù sao con cũng phải chết, bí mật này không thể nói ra. Con chỉ xin các vị gia gia chuyển lá thư này cho huynh ấy.”

Nói xong, nàng xé một mảnh vải trên vạt áo xanh lam của mình, rồi lấy trong bọc ra một cây kim, đâm thủng đầu ngón tay, chấm máu tươi viết chữ trên tấm lụa. Ôn Thị Tứ Lão không ngớt hỏi bảo bối gì, nhưng nàng cứ mặc kệ.

Viết xong, nàng đưa Ôn Phương Sơn rồi nói: “Tam gia gia! Gia gia không cần phải gặp huynh ấy, nhờ người khác đưa đến thành Uyển Bình, chỗ tửu lầu mà chúng ta vừa gặp nhau là được.” Nàng đang đóng kịch, nhưng nghĩ đến Viên Thừa Chí vô lương tâm bỗng chảy nước mắt ra thật.

Tứ lão thấy nàng đau lòng muốn chết, không phải là giả dối. Chúng xúm vào nhìn, thấy trên tấm lụa đó viết: “Kiếp này không thể gặp lại. Trọng bảo của phụ thân đã tặng, ca ca hãy tự mình đào lấy, đừng chờ đợi nữa. Thanh muội viết.”

Ôn Phương Nghĩa hét lên: “Bảo bối gì? Ngươi biết chỗ giấu bảo tàng thật ư?”

Thanh Thanh vừa khóc vừa đáp: “Cái gì con cũng không biết. Con nói ra cũng chết, con không nói ra cũng chết.”

Ôn Phương Ngộ nói: “Hừ! Chắc không có bảo bối gì đâu. Thằng cha chết tiệt của ngươi đã lừa chúng ta một phen rồi, bây giờ ngươi muốn lừa nữa hay sao?”

Thanh Thanh cúi đầu không đáp, thò tay vào bọc lấy ra một đôi uyên ương phỉ thúy, để trên vạt áo. Đây vốn là vật trong rương sắt. Lúc sắp xếp kim ngân bảo bối, nàng thấy đôi uyên ương phỉ thúy này chất ngọc óng ánh, xanh biếc trong veo, điêu khắc tinh tế trông như vật sống, nên lấy ra cất trong người, kỷ niệm ngày cùng Viên Thừa Chí tìm được bảo tàng. Đồ trân bảo trong mười cái rương sắt nhiều không đếm xuể, thiếu một đôi uyên ương nhỏ cũng chẳng sao.

Nàng đứng bật dậy, la lên: “Lá thư này đưa đi hay không, tùy các vị gia gia. Bây giờ giết con đi.”

Nghe hai tiếng “tinh tang” rất êm tai, đôi uyên ương rơi xuống đất. Thanh Thanh cúi xuống toan nhặt, nhưng Ôn Phương Ngộ đã thò tay nhặt trước. Ôn Thị Tứ Lão có thâm niên trộm cướp mấy chục năm trời, lẽ nào không nhìn ra báu vật? Chúng thấy đôi uyên ương phỉ thúy này trân quý đến thế, mắt bỗng sáng rực lên. Bốn quả tim cùng nhảy thình thịch, bốn cái miệng cùng hét: “Cái này ở đâu ra?”

Thanh Thanh rơi lệ, không đáp. Ôn Phương Sơn bảo: “Nếu ngươi nói năng tử tế, không chừng bọn ta vui vẻ mà tha mạng.”

Thanh Thanh đáp: “Chính là trong số trân báu đó. Con cùng Viên đại ca theo tấm bản đồ gia gia để lại, tìm được mười cái rương sắt. Bên trong đầy ắp báu vật, nhiều quá không thể mang đi. Con chỉ chọn lấy đôi uyên ương này để cầm chơi. Bọn con đã hẹn lần này đi đào hết trân báu, nào ngờ các vị gia gia…” Nói đến đây, nàng bật khóc.

Tứ Lão đi qua một bên, thầm thì bàn luận không để Thanh Thanh nghe thấy. Ôn Phương Ngộ nói: “Xem ra bảo tàng này không phải là giả.”

Ôn Phương Nghĩa nói: “Phải ép nó dẫn đi lấy.”

Ba lão kia gật đầu. Ôn Phương Sơn nói: “Gạt nó, nói là tha mạng không giết. Đợi tìm được bảo tàng rồi mới trừng trị con tiện tì này cho hả giận.”

Ôn Phương Ngộ nói: “Đệ có ý kiến. Sau khi chúng ta đào lấy bảo vật, chôn con tiểu tiện nhân thế vào. Sau này thằng súc sinh họ Viên đi đào bảo bối, tình hình thật là tuyệt diệu.”

Ba lão kia cười rộ, đều nói: “Ngũ đệ thông minh nhất.”

Bốn người thương lượng xong, khoái chí quay lại chỗ Thanh Thanh, vừa dụ dỗ vừa uy hiếp. Thanh Thanh lúc đầu giả vờ không chịu, về sau bị ép không sao chối được, đành nói rõ là bảo tàng chôn trên đỉnh Hoa Sơn. Thật ra nàng bắt Ôn Thị Tứ Lão dẫn lên Hoa Sơn là để tìm nơi mai táng cha mình. Trong lúc chúng đào bới loạn xạ trên đỉnh Hoa Sơn thì mình có thể chôn hài cốt song thân vào chung một chỗ, sau đó đưa kiếm tự vẫn.

Không ngờ nàng nói dối như vậy, Tứ Lão càng tin sâu sắc. Năm xưa Ôn Thị Ngũ Lão bắt được Kim Xà Lang Quân, ông cũng dẫn chúng lên núi Hoa Sơn. Bảo tàng không thấy, lại mất hai đồng bọn phái Không Động, rồi Kim Xà Lang Quân đột nhiên mất tích. Trong đầu chúng vẫn in sâu ý nghĩ, bảo vật nhất định ở trên đỉnh Hoa Sơn. Ngày trước Trương Xuân Cửu và Vương Thất Động lên Hoa Sơn tìm kiếm cũng vì lý do này.

Thế là Ôn Thị Tứ Lão áp giải Thanh Thanh đi, ngày đêm ngựa không dừng vó, chỉ sợ Viên Thừa Chí đuổi theo.

Hôm đó đi đến cảnh giới tỉnh Sơn Tây, năm người chạy suốt một ngày khá mệt rồi, bèn ghé vào một khách điếm. Ôn Phương Nghĩa là người to lớn nhất, ăn uống dữ nhất. Lão liên tiếp hô hoán tiểu nhị dọn thức ăn, rót rượu, nấu mì.

Khi tiểu nhị bưng cơm nước lên, lão cứ như thường lệ mà ăn lấy ăn để. Ba lão kia và Thanh Thanh chưa kịp đụng đũa, Ôn Phương Nghĩa đột nhiên từ trong tô mì gắp lên một vật. Lão há mồm định kêu, nhưng lập tức miệng cứng lại không nhúc nhích được nữa. Bốn người kinh hãi nhìn lại, thấy vật lão vừa gắp lên là một con nhện đen sì rất lớn.

Ôn Phương Đạt sờ cổ tay huynh đệ thấy không còn mạch nữa, mặt đã bắt đầu đổi sang sắc đen, mũi không còn hơi thở.

Ôn Phương Ngộ vừa kinh hãi vừa giận dữ, xách tên tiểu nhị quẳng mạnh xuống đất. Nghe rắc rắc hai tiếng, cả hai chân hắn bị gãy xương, ngất xỉu ngay tại chỗ.

Ôn Phương Sơn dùng đũa gắp con nhện, chạy ra ngoài, túm lấy ngực người chưởng quỹ, hét lên: “Ngươi gan thật, dám giết người cướp của. Cái gì đây?”

Chưởng quỹ hoảng sợ đến nỗi hồn phi phách tán, lắp bắp: “Tiệm này… Tiệm này xưa nay có tiếng, nhà bếp sạch sẽ. Làm… Làm sao có… có thứ này.”

Ôn Phương Sơn bóp vào má hắn cho cằm hạ xuống, không ngậm miệng lại được, rồi cầm đũa nhét con nhện vào trong miệng. Chỉ chốc lát là người chưởng quỹ mất mạng ngay.

Lúc này trong tiệm rối loạn vô cùng. Ôn Phương Đạt thì tay phải túm lấy cổ tay Thanh Thanh đề phòng nàng chạy trốn, tay trái lo ôm thi thể huynh đệ. Ôn Phương Sơn, Ôn Phương Ngộ thì bất luận phải trái loạn đả một hồi, giết bảy tám mạng vừa thực khách vừa tiểu nhị, lại còn phóng hỏa đốt trụi tòa khách điếm. Mọi người thấy họ hung hãn như thế, ai cũng ôm đầu bỏ chạy.

Ba lão già còn sống đem chôn thi hài Ôn Phương Nghĩa ở một nơi hoang vắng, vừa đào huyệt vừa giận dữ thóa mạ, không đoán nổi con nhện kịch độc đó từ đâu mà có. Thanh Thanh đã từng nếm mùi đau khổ do Ngũ Độc Giáo, nghĩ ngay: “Thì ra mụ ăn mày đã âm thầm theo dõi mình.”

Ngày hôm sau bốn người vào tiệm ăn cơm, ép bọn tiểu nhị ăn trước mấy miếng. Thấy tiểu nhị vô sự, họ mới dám ăn uống.

Đi được mấy ngày đường nữa, một đêm đột nhiên trong khách sạn có tiếng người huyên náo, hô hoán bị ăn cắp ngựa. Ôn Phương Ngộ thức dậy xem xét. Lão tới gần chuồng ngựa, trong màn đêm đột nhiên nghe tiếng “xuỵt” như một luồng nước xịt đến trước mặt. Lão vội vàng tránh né, nhưng không thể kịp, vừa bị nước xịt trúng mặt đã thấy mùi tanh xộc vào mũi.

Lão biết là hỏng bét, nhưng lúc này cặp mắt không mở ra được nữa, đành nghe tiếng để đoán phương hướng. Trường tiên vừa lia ra đã đánh gãy ngay xương sống của mấy người nấp trong bóng tối để xịt nước. Còn sót một người, hét lên: “Lão kia còn hung dữ nữa ư?”

Hắn đưa búa lên chém. Nhưng trường tiên của Ôn Phương Ngộ đã vòng lại, quấn cả tay lẫn búa rồi dùng sức hất ra. Hắn bị giật bay lên, đập đầu vào tường vỡ óc ra mà chết.

Ôn Phương Đạt, Ôn Phương Sơn tưởng chỉ có mấy tên trộm vặt, huynh đệ mình dư sức lo liệu. Khi nghe Ôn Phương Ngộ kêu gào liên tục, chạy ra xem thì thấy lão không ngớt cào cấu lên mặt, mới biết đã có chuyện không hay. Ôn Phương Đạt ôm lấy em trai, còn Ôn Phương Sơn nhảy vọt ra ngoài để xem xét tình hình bên địch.

Ôn Phương Sơn không thấy gì lạ, lúc về phòng thì thấy huynh trưởng đang ôm ngũ đệ mà khóc lóc. Thì ra Ôn Phương Ngộ đã tắt thở, khuôn mặt bắt đầu thối rữa, râu và lông mày rụng sạch.

Ôn Phương Đạt vừa khóc vừa nói: “Hai mươi năm trước chúng ta bắt được Kim Xà ác tặc, cắt hết gân cốt cho biến thành phế nhân, thuốc độc trong mình hắn đã bị chúng ta lục lấy hết rồi. Thế mà hai đạo huynh phái Không Động lại trúng kịch độc mà chết, rồi hắn trốn thoát. Chẳng lẽ Ngũ Độc Giáo đã cứu hắn?”

Ôn Phương Sơn nói: “Không sai! Thì ra Ngũ Độc Giáo đã âm thầm chống đối chúng ta. Lần này chúng ta được Tào Hóa Thuần mời tới mưu đồ đại sự, sắp thành công thì giáo chủ Hà Thiết Thủ của Ngũ Độc Giáo đột nhiên trở mặt, thế là xôi hỏng bỏng không. Mãi đến bây giờ đệ vẫn chưa biết là lý do gì.”

Ôn Phương Đạt suy nghĩ một chút rồi đột nhiên nhảy chồm lên, la lớn: “Kim Xà ác tặc dụng độc lợi hại đến thế, không chừng hắn xuất thân từ Ngũ Độc Giáo.”

Ôn Phương Sơn giật mình nói: “Nhất định là thế rồi.”

Hai lão hồi tưởng tình hình năm xưa Kim Xà Lang Quân đến Tịnh Nham trả thù, bây giờ nhớ lại nỗi khiếp sợ lúc đó vẫn còn run rẩy. Chúng chôn cất thi thể Ôn Phương Ngộ, bàn bạc mất nửa ngày rồi quyết định lên núi Hoa Sơn trước, đào được kho tàng rồi mới tìm cách trả thù. Chúng sợ Ngũ Độc Giáo ra tay ám hại, chẳng những ăn uống đặc biệt cẩn thận, mà ban đêm cũng không dám trú trong khách sạn nữa.

Một hôm, hai anh em dẫn Thanh Thanh vào ngủ trong một ngôi chùa cũ nát. Ôn Phương Đạt tuổi tác đã cao, nhưng thần lực phi thường. Lão khiêng hai cái cối đá rất lớn, chặn cửa trước một cái, cửa sau một cái, rồi mới yên tâm nằm ngủ. Đến nửa đêm, hình như phía sau vách tường có tiếng chuột kêu. Hai lão tỉnh dậy, tưởng là chuột nên không để ý lắm.

Ôn Phương Sơn mơ hồ định ngủ tiếp, đột nhiên mũi ngửi thấy mùi thơm kỳ lạ, rồi cảm thấy cả người khỏe khoắn khoan khoái dị thường, như đang trôi nổi trong cõi hư không cực lạc. Trong lúc phiêu diêu, bỗng lão hiểu ra có chuyện không hay, thét lớn một tiếng rồi nhảy chồm lên.

Sự việc chỉ trong chớp nhoáng, nhưng Ôn Phương Đạt giang hồ lão luyện đã mấy chục năm, phản ứng cực nhanh. Lão lập tức kéo tay Thanh Thanh, xách nàng nhảy lên bàn thờ.

Dưới ánh sao mờ nhạt, Ôn Phương Sơn múa tít cương trượng phát ra tiếng gió vù vù. Bỗng nghe ầm một tiếng như sấm nổ, tượng Phật đã bị cương trượng đánh bay mất một nửa. Từ sau tượng Phật, hai hán tử áo vàng nhảy ra. Một tên múa đao tấn công Ôn Phương Sơn, còn tên kia cầm một cái ống, định thổi sương độc ra thêm.

Ôn Phương Đạt vẫy tay, hai mũi tụ tiễn bắn vào ngực hai hán tử, giết chúng ngay tại chỗ. Ôn Phương Sơn không chịu dừng tay, cứ tiếp tục vung trượng loạn xạ.

Ôn Phương Đạt la lên: “Tam đệ! Địch chết hết rồi.”

Ôn Phương Sơn không nghe, thần trí đã bị khói độc làm mê hoặc, vung cương trượng càng lúc càng gấp rút. Ôn Phương Đạt biết là hỏng bét, nhảy xuống toan đoạt lấy binh khí của em, nhưng cương trượng múa không thấy bóng, chỉ còn một vòng sáng bạc. Nhất thời Ôn Phương Đạt không sao nhảy vào đoạt trượng được.

Đột nhiên Ôn Phương Sơn quát lên một tiếng, hất ngược trượng lại cho đầu rồng trên trượng đập vào ngực mình. Máu miệng lão phun thành vòi, hai chân giãy giãy mấy cái rồi duỗi thẳng ra, rõ ràng không sống được nữa.

Thế là chỉ mấy ngày mà Ngũ Độc Giáo đã hại chết ba lão già. Ôn Phương Sơn là ông ngoại ruột của Thanh Thanh, trước nay vẫn thân cận hơn bốn lão kia một chút. Nàng bất giác rơi mấy giọt nước mắt.

Ôn Phương Đạt im lặng, khiêng thi hài Ôn Phương Sơn ra ngoài chôn cất. Lão chắp tay khấn vái trước mộ, rồi bảo Thanh Thanh: “Đi thôi!”

Thanh Thanh dập đầu lạy ông ngoại mấy cái, rồi theo đại gia gia đi ngay trong đêm.

Dọc đường Ôn Phương Đạt phòng bị càng cẩn thận hơn. Vào tới địa giới tỉnh Thiểm Tây, một thiếu niên áo đỏ vô cớ đến gần lão, lập tức bị lão vung chưởng đập cho vỡ sọ. Thanh Thanh thấy khuôn mặt xanh xao của lão càng lúc càng mất hết tính người, nói chuyện với lão cũng không dám.

Một hôm, đã tới gần chân núi Hoa Sơn. Hai người đi hơn nửa ngày đều thấy khát nước, nên ghé vào một quán lương đình nghỉ chân uống nước, cũng là để ngựa nghỉ ngơi một chút. Một người nông dân đi vào trong đình, dùng thổ âm Thiểm Tây hỏi: “Vị này là Ôn lão gia phải không?”

Ôn Phương Đạt hét lên: “Ngươi muốn gì?”

Nông phu đáp: “Lúc nãy có người cho tiểu nhân hai quan tiền, sai tiểu nhân đem thư đến cho lão gia.”

Ôn Phương Đạt hỏi: “Người đó đâu?”

Nông phu đáp: “Cưỡi ngựa đi rồi.”

Ôn Phương Đạt sợ có quỷ kế, bèn sai Thanh Thanh mở thư ra, thấy không có gì lạ mới cầm lấy mà đọc. Thư gồm ba trang, trang đầu tiên viết: “Ôn lão đại! Ba thằng em ngươi vì sao mà chết, muốn biết rõ thì xem trang sau.”

Ôn Phương Đạt cất tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó!” Lão giở trang thứ hai ra xem. Mấy trang giấy này dính chặt lại, rất khó gỡ ra, lão phải cho tay vào miệng thấm chút nước bọt mới mở được. Trang thứ hai viết: “Ngươi gần chết rồi. Mở trang thứ ba mà xem tại sao ngươi chết”.

Ôn Phương Đạt càng giận dữ hơn, lại thấm nước bọt mở trang thứ ba. Trên trang này chỉ vẽ một con rết rất lớn và một cái sọ người, không có chữ nào. Lão tức giận quẳng tờ giấy xuống đất, đột nhiên cảm thấy ngón tay trỏ và đầu lưỡi hơi tê dại. Lão định thần suy nghĩ một chút, bất giác mồ hôi lạnh tuôn ào ra.

Thì ra ba tờ giấy này đều tẩm chất kịch độc, dán hơi dính vào nhau, viết những câu chọc tức người ta. Người xem giận dữ mà không đề phòng, dùng đầu ngón tay để thấm nước bọt, tự đưa thuốc độc vào miệng. Đó là một trong ba mươi sáu cách hạ độc của Ngũ Độc Giáo. Năm xưa Kim Xà Lang Quân đã học từ Hà Hồng Dược, tẩm chất độc trên bí kíp giả, nên Trương Xuân Cửu trúng độc mà chết.

Ôn Phương Đạt đang kinh hãi thì ngẩng đầu lên, thấy người nông dân kia đã chạy xa mấy chục bước. Lão giận dữ vô cùng, chạy ra khỏi đình nhưng bỗng cảm thấy chóng mặt hoa mắt, càng muốn tập trung tâm thần càng thấy đầu đau như cắt. Lão biết mình hỏng rồi, bèn gom hết sức tàn phóng cây kích vào sau lưng người đó.

Tên này đúng là giáo đồ Ngũ Độc Giáo, cứ tưởng mình đắc thủ rồi, không đề phòng cây đoản kích bay tới nhanh như gió. Hắn mới gào lên một tiếng đã bị kích xuyên qua ngực, ghim cứng người xuống đất. Ôn Phương Đạt cười thảm khốc, rồi ngã ngửa ra sau.

Thanh Thanh kêu lên: “Đại gia gia! Gia gia sao rồi?” Nàng cúi xuống xem, nào ngờ tay trái Ôn Phương Đạt bỗng đưa thẳng ra, hất cây kích đang nằm sát đất lên đâm vào trước ngực Thanh Thanh.

Thanh Thanh không ngờ ông ngoại sắp chết còn hạ độc thủ. Nàng chỉ thấy một lằn sáng bạc nhoáng lên trước mắt, mũi kích đã gần tới ngực, biết mình không tránh kịp nữa, đành nhắm mắt chờ chết. Đột nhiên nàng nghe một tiếng “keng”, rồi dưới chân đau đớn kịch liệt. Mở mắt ra thì thấy đoản kích đã bị người khác đánh rơi dưới đất, cán kích đụng phải chân mình.

Nàng định quay lại xem thử ai vừa cứu mình, nhưng sau lưng đã bị nắm chắc, không động đậy được. Người đó dùng dây da trói chéo hai cổ tay nàng ra phía sau lưng, rồi mới bước tới đứng trước mặt. Đây chính là mụ ăn mày Hà Hồng Dược ở Ngũ Độc Giáo.

Thanh Thanh cảm thấy một luồng hơi lạnh bốc lên dọc xương sống, nghĩ thầm: “Lọt vào tay mụ ác ôn này, không biết phải chết thê thảm đến thế nào. Ước gì lúc nãy mình bị đoản kích của Đại gia gia đâm chết, vừa mau lẹ vừa ít đau khổ hơn nhiều.”

Hà Hồng Dược cười gằn, nham hiểm nói: “Ngươi muốn ta dùng đao giết ngươi, hay muốn ta dùng một ngàn con rắn độc, cho cắn ngươi bốn mươi chín ngày để mặt ngươi giống như mặt ta?”

Thanh Thanh nhắm mắt không đáp. Hà Hồng Dược lại nói: “Nếu ngươi dẫn ta đi tìm người cha vô lương tâm của ngươi, ta sẽ không bắt ngươi chịu đau khổ vô ích.”

Thanh Thanh nghĩ: “Dù sao mình cũng phải đi tìm nơi chôn cất gia gia, dẫn mụ đi cũng được.” Nàng bèn nói: “Ta cũng định đi tìm gia gia. Bà cứ đi chung với ta.”

Hà Hồng Dược thấy nàng đồng ý mau lẹ, bất giác nảy dạ nghi ngờ. Nhưng mụ nghĩ Kim Xà Lang Quân đã trở thành phế nhân, võ công mất sạch, không nên sợ hãi làm gì, nên cười nhạt rồi nói: “Được! Ngươi dẫn đường đi.”

Thanh Thanh nói: “Thả ta ra đi, để ta mai táng Đại gia gia trước đã.”

Hà Hồng Dược cười gằn: “Thả ngươi ra ư? Hừ!”

Mụ nhặt cây đoản kích của Ôn Phương Đạt, đào bên vệ đường một cái hố lớn, quăng thi hài của Ôn Phương Đạt và tên giáo đồ Ngũ Độc Giáo vào, lấp chung lại. Vừa chôn, mụ vừa lầm bầm: “Thằng cha ngươi là đồ vô lương tâm, nhưng ta quyết không để người khác hành hạ hắn. Bốn lão này đã hại hắn sống không được chết cũng không xong, ta muốn tìm chúng thanh toán từ lâu rồi, mãi đến hôm nay mới trút được mối hận. Sao ngươi gọi chúng là gia gia vậy?”

Thanh Thanh không đáp ngay, nghĩ bụng: “Nếu mình nói ra, mụ lại chửi mắng mẫu thân mình một chập.” Nàng nói: “Họ già rồi. Ta phải gọi họ là gia gia, chứ không lẽ bắt họ gọi ta là bà bà?”

Ngày hôm đó hai người đi được bốn năm chục dặm đường, nghỉ đêm ở lưng chừng núi. Hà Hồng Dược dùng dây da trói chặt hai chân Thanh Thanh, đề phòng nàng chạy trốn. Hôm sau mới mờ sáng Hà Hồng Dược đã cởi dây trói cho Thanh Thanh, hai người tiếp tục lên núi. Đường càng đi càng dốc, về sau phải dùng cả tay và chân bám lấy dây thừng mới trèo lên được. Hà Hồng Dược đã mất bàn tay trái, không thể nắm Thanh Thanh kéo lên, nên cởi dây trói tay cho nàng, bắt nàng leo trước, còn mình giám sát phía sau. Thanh Thanh trước giờ chưa từng lên núi Hoa Sơn, Hà Hồng Dược phải chỉ cho nàng đường đi nước bước.

Đêm đó, hai người nghỉ ngơi dưới một gốc cây lớn. Trong cảnh rừng núi hoang vu, ánh trăng lạnh lẽo, nghe tiếng chim kêu vượn hú, Thanh Thanh hết nghĩ đến mạng mình đang nằm trong tay kẻ thù, lại nghĩ đến song thân và Viên Thừa Chí. Nàng nghĩ mãi không dứt ra được, vừa sợ sệt vừa đau khổ, không sao ngủ được.

Sáng sớm hôm sau lại tiếp tục trèo lên núi, cứ thế mãi đến xế chiều ngày thứ ba mới lên tới tuyệt đỉnh Hoa Sơn. Thanh Thanh từng nghe Viên Thừa Chí kể tỉ mỉ về nơi chôn cất cha mình. Bây giờ nàng ngẩng đầu lên, nhìn thấy một vách núi thẳng đứng, kế bên có một cây thông lẻ loi và những tảng đá hình thù cổ quái, bên dưới có nguồn suối chảy xuống như thác đổ, giống hệt những gì chàng đã kể. Nàng bất giác trong lòng chua xót, nước mắt lã chã.

Hà Hồng Dược nghiến răng hỏi: “Hắn trốn ở đâu?”

Thanh Thanh chỉ vào một cái động trên vách núi dựng đứng, đáp: “Gia gia ở trong đó.”

Hà Hồng Dược nghiêng đầu ngẫm nghĩ, cũng nhớ năm xưa Kim Xà Lang Quân ẩn thân đâu đó gần đây, bèn mím chặt môi nói: “Được! Chúng ta lên đó gặp hắn.”

Thanh Thanh thấy thần sắc của mụ đáng sợ vô cùng, tuy nàng đã quyết ý muốn chết mà cũng rùng mình một cái. Hai người đi ngang đi dọc để tìm đường trèo lên vách núi dựng đứng đó, đột nhiên nghe thấy bên kia khúc quanh có tiếng cười nói.

Hà Hồng Dược vội kéo Thanh Thanh núp vào sau một lùm cỏ, hai ngón tay phải đã đeo sẵn vuốt thép tẩm thuốc độc, đè vào yết hầu Thanh Thanh, khẽ quát: “Không được lên tiếng!”

Hai người nấp sau lùm cỏ nhìn ra, thấy một đạo sĩ già và một hán tử trung niên vừa cười nói vui vẻ vừa bước tới. Thanh Thanh nhận ra Mộc Tang đạo nhân và đại sư ca Đồng bút thiết toán bàn Hoàng Chân của Viên Thừa Chí. Võ công hai người này đều ăn đứt Hà Hồng Dược, nhưng nàng biết mình chỉ động đậy một tí là hai cái vuốt tẩm thuốc độc sẽ ghim vào yết hầu lập tức.

Hoàng Chân mỉm cười nói: “Sư phụ chỉ mấy ngày nữa là lên núi, còn tiểu sư đệ thì hôm nay sẽ tới đây. Đạo trưởng không phải rầu rĩ vì thiếu đối thủ chơi cờ nữa.”

Mộc Tang đạo nhân cười đáp: “Nếu không ghiền chơi cờ, thì ta đường xa lặn lội về đây để làm chi? Phái Hoa Sơn các ngươi hội họp, có liên can gì đến ta đâu?” Hai người vừa cười vừa nói, dần dần đi xa.

Hà Hồng Dược biết phái Hoa Sơn lợi hại, nghe nói họ hội họp ở đây liền nghĩ: “Nơi này nguy hiểm, không nên ở lại lâu.” Mụ khom người từ từ bò lên vách núi, lấy sau lưng ra một sợi dây, một đầu buộc lên một cành cây lớn, đầu kia buộc vào người mình và Thanh Thanh, từ từ tuột xuống. Việc này mụ đã từng làm rất nhiều lần.

Năm xưa, phía trước sơn động này có một chàng trai không có lương tâm, tay cầm cây Kim Xà Kiếm, mặt mày hung dữ đứng canh chừng không cho mụ vào. Hình ảnh đó đột nhiên tái hiện trong tâm trí mụ, như chuyện mới xảy ra. Cảnh vật giống hệt như xưa, không biết người còn trong động hay không.

Thanh Thanh nhìn thấy dấu vết huyệt động trên vách núi, bèn la lên: “Đây rồi!”

Trái tim Hà Hồng Dược thình thịch đập lên loạn xạ. Mấy chục năm nhớ nhung không dứt, cả ngày lẫn đêm, chẳng giây phút nào mụ không nghĩ đến lúc gặp lại con người vô lương tâm đó. Mụ không biết mình sẽ điên cuồng hành hạ ông rồi mới giết; hay mình sẽ mềm lòng mà năn nỉ ông. Tự đáy lòng, mụ rất mong ông hồi tâm chuyển ý, hòa lại với mình, cùng xây giấc mộng đoàn viên. Cho dù ông đánh đập mình để trút giận, thậm chí giết mình đi cũng được. Bây giờ đến lúc gặp nhau, mụ bỗng thấy toàn thân run rẩy, lòng bàn tay đẫm mồ hôi lạnh.

Ngày trước ông câm vào đây lấy Kim Xà Kiếm, khi rời động đã lấy đá bịt cửa động lại, sợ người khác tiến vào. Hà Hồng Dược thấy cửa động chỉ còn một lỗ nhỏ, bèn dùng tay phải đào bới như điên. Đất đá lăn ầm ầm xuống, cửa động dần dần mở rộng ra. Mụ sai Thanh Thanh vào động trước, còn mình thì thủ sẵn những cái vuốt thép có tẩm chất kịch độc, đề phòng Kim Xà Lang Quân đột kích.

Thanh Thanh mới vào cửa động nước mắt đã chảy như mưa, càng vào sâu càng khóc dữ. Đi mới mấy bước, trong động đã tối đen. Hà Hồng Dược thắp lửa lên, đốt đầu sợi dây thừng, bảo nàng cầm vào soi đường. Thanh Thanh ngẩn ra, thầm nghĩ: “Đốt sợi dây này, làm sao có thể trở lên? Ta thì quyết chết ở đây với song thân, nhưng chẳng lẽ mụ không muốn trở ra?”

Hà Hồng Dược càng vào trong càng cảm thấy sơn động này không có người ở, bèn nảy dạ nghi ngờ. Đột nhiên mụ vung tay túm chặt gáy Thanh Thanh, hét lên: “Ngươi mà đùa giỡn với lão nương, thì lão nương sẽ cho ngươi chết không tử tế.”

Đột nhiên gió lạnh ập vào người, ánh đuốc lung linh. Hai người đã tới căn thạch thất trống rỗng. Hà Hồng Dược run rẩy đưa ngọn đuốc lên soi khắp xung quanh, thấy bốn vách đều khắc vô số đồ hình võ công, lại có bốn dòng chữ: “Trọng bảo bí thuật; Tặng người hữu duyên; Làm môn hạ ta; Gặp họa đừng oán.”

Mụ ở chung với Kim Xà Lang Quân chẳng được bao lâu, nhưng ông từng vẽ tặng mụ một bức tranh, có viết chữ đề tặng, nên bút tích của ông đã in đậm vào lòng. Bây giờ chữ viết trên vách còn trơ đó, nhưng người không thấy ở đâu. Mụ đau lòng như cắt, lớn tiếng kêu gọi: “Tuyết Nghi! Ra đây đi! Huynh muốn gặp muội không?”

Âm thanh làm bụi bặm trên trần rơi xuống, phủ đầy cả hai người. Mụ quay đầu lại, giận dữ hỏi Thanh Thanh: “Hắn đâu rồi?”

Thanh Thanh khóc òa lên, chỉ xuống đất mà đáp: “Ở đây.”

Hà Hồng Dược bỗng thấy trước mắt tối đen, suýt nữa ngất đi. Mụ loạng choạng phải đưa tay nắm chặt lấy cổ tay Thanh Thanh, cất giọng khản đặc lên hỏi: “Ngươi nói gì?”

Thanh Thanh nói: “Gia gia an táng ở đây.”

Hà Hồng Dược nói: “À! Thì ra… chàng… chàng đã chết rồi…”

Mụ không đứng vững được nữa, ngồi phịch xuống tảng đá ngày xưa Kim Xà Lang Quân ngồi luyện khí, tay phải ôm đầu, nước mắt rơi xuống như mưa, vô cùng đau khổ. Bao nhiêu oán hận tích tụ mấy chục năm nay bỗng dưng tiêu mất, tình ý lại dịu dàng như xưa. Mụ khẽ bảo: “Đi đi! Ta tha ngươi.”

Thanh Thanh thấy mụ đau khổ như vậy, bất giác nảy mối tương liên. Mụ bị gia gia đối xử không tốt, mình gặp phải Viên Thừa Chí không có lương tâm, hai người thật là hoàn cảnh như nhau. Nàng bèn nhảy tới ôm lấy mụ, khóc rống lên.

Hà Hồng Dược bảo: “Ra ngoài nhanh lên. Sợi dây này cháy thêm một lúc nữa, thì ngươi vĩnh viễn không trở lên được.”

Thanh Thanh hỏi: “Còn bà thì sao?”

Hà Hồng Dược đáp: “Ta ở đây với gia gia ngươi.”

Thanh Thanh nói: “Ta cũng không muốn lên nữa.”

Hà Hồng Dược chìm đắm vào suy nghĩ, không đếm xỉa gì tới Thanh Thanh nữa, đột nhiên đưa tay cào bới điên cuồng dưới đất. Thanh Thanh kinh hãi hỏi: “Bà làm gì đấy?”

Hà Hồng Dược ủ rũ đáp: “Đã hai mươi năm ta nhớ ông ấy mà không được gặp. Bây giờ được thấy mấy khúc xương của ông ấy cũng là an ủi.”

Thấy thần sắc mụ thay đổi hẳn, Thanh Thanh vừa kinh hãi vừa sợ sệt. Đất trong động khá mềm, bàn tay của Hà Hồng Dược cứng như xẻng sắt, bới lên không ngớt. Chỉ chốc lát, trong hố đã lộ ra một đống xương khô, đúng là hài cốt của Kim Xà Lang Quân mà ngày trước Viên Thừa Chí đã an táng.

Thanh Thanh phóng tới đống hài cốt của cha mình, khóc rống lên. Hà Hồng Dược bới thêm một chập, đột nhiên nhặt cái đầu lâu ôm vào trong lòng, vừa hôn vừa khóc gọi: “Hạ lang, Hạ lang! Muội tới thăm huynh đây.”

Lát sau mụ lại khe khẽ hát những bài dân ca của tộc Bài Di. Thanh Thanh nghe không hiểu câu nào.

Hà Hồng Dược hát một lúc, lại kề cái đầu lâu vào môi mà hôn như điên dại. Bỗng mụ đau nhói la lên, cảm thấy má mình bị một vật nhọn đâm vào. Mụ đưa cái đầu lâu ra chỗ ánh nến mà xem tỉ mỉ, thấy hai hàm răng của đầu lâu đang cắn chặt một cây kim thoa nhỏ. Kim thoa lộ ra rất ít, nên lúc đầu không nhìn thấy.

Hà Hồng Dược đưa tay cạy vào trong miệng đầu lâu, răng rơi rụng lả tả, mũi kim thoa cũng rơi xuống đất. Mụ nhặt lên, chùi sạch đất cát. Sắc mặt mụ bỗng thay đổi hẳn, giận dữ hỏi: “Mẹ ngươi tên là Ôn Nghi phải không?”

Thanh Thanh gật đầu. Hà Hồng Dược vừa đau khổ vừa tức tối, nghiến răng nói: “Hay lắm, hay lắm! Cha ngươi sắp chết vẫn nhớ con tiện tì đó, ngậm kim thoa của ả vào miệng.”

Mụ nhìn hai chữ “Ôn Nghi” khắc trên cây thoa mà mắt như phun ra lửa. Đột nhiên mụ ngậm cây thoa vào miệng mà cắn nhai ngấu nghiến, đến nỗi miệng đầy máu tươi.

Thanh Thanh thấy thần trí mụ đã loạn, thầm nghĩ: “Giờ chết của hai ta sắp đến rồi.” Nàng lấy trong người ra hũ tro cốt của mẹ mình, tháo tấm da bịt nắp, rồi lật úp hũ, đổ tro cốt vào trong huyệt. Hà Hồng Dược thấy vậy, ngẩn ra quát hỏi: “Ngươi làm gì vậy?”

Thanh Thanh không trả lời. Nàng đổ hết tro vào, hất đất vụn xung quanh lấp lên, lòng thầm khấn vái: “Gia gia má má trên trời có linh thiêng thì chứng giám, con đã hoàn thành tâm nguyện hợp táng song thân rồi.”

Hà Hồng Dược giật lấy cái hũ, nhìn là biết ngay. Mụ la lên: “Đây là hài cốt mẹ ngươi phải không?”

Thanh Thanh chậm rãi gật đầu. Mụ xoay tay phóng chưởng, Thanh Thanh rụt người lại nhưng không tránh kịp. Nàng bị phát chưởng đánh trúng vai, loạng choạng suýt nữa té nhào.

Hà Hồng Dược la lên như điên dại: “Không cho các ngươi hợp táng! Không cho các ngươi hợp táng!”

Mụ đưa tay cào bới loạn xạ, nhưng tro đã hòa lẫn vào đất, không hốt ra được nữa. Lửa ghen bốc lên, lòng bỏng như bị đốt, mụ lượm từng miếng hài cốt trong huyệt ra, la lên: “Ta phải đốt ngươi thành tro, rồi rải dưới chân núi Hoa Sơn cho ngươi bay tứ tán, vĩnh viễn không được sum họp với con tiện tì đó.”

Thanh Thanh kinh hãi, nhảy xổ vào ngăn cản. Nhưng chỉ mấy chiêu là nàng bị mụ đánh ngã nhào xuống đất. Hà Hồng Dược cởi áo ngoài trải dưới đất, bỏ hài cốt Kim Xà Lang Quân lên, rồi châm lửa đốt. Tay trái mụ kiềm chế Thanh Thanh không cho động đậy, còn tay phải quạt cho lửa hồng lên. Chỉ chốc lát là khói mù mịt trong thạch động.

Thạch động bị bít kín đã lâu, đầy chướng khí độc hại. Khi hai người mở lối vào động, chướng khí bên ngoài đã bị gió núi xua bớt, nên Hà Hồng Dược và Thanh Thanh bước vào mà không phát giác. Bây giờ Hà Hồng Dược đốt áo, hơi nóng bốc lên, hút chướng khí ở sâu trong động ùa ra ngoài. Hai người lập tức chóng mặt, ngạt thở. Thanh Thanh chạy ra ngoài được mấy trượng thì thần trí mơ hồ, té ngã xuống đất.

*

*   *

Trong phạn điếm Viên Thừa Chí nhìn thấy ký hiệu của Hà Hồng Dược đính ở góc tường, biết mụ đang triệu tập giáo chúng để truy kích Ôn Thị Tứ Lão. Thanh Thanh lại lọt vào tay Ôn Thị Tứ Lão rồi, bất kể bên nào thắng thì nàng cũng bị liên lụy. Vì thế chàng vô cùng lo lắng, lập tức ruổi ngựa rượt theo.

Dọc đường chàng biết mấy lão họ Ôn trúng độc chết dần, lại càng lo lắng hơn, ngày thì ăn không ngon miệng, đêm thì ngủ không yên giấc. May mà chúng rượt nhau về hướng Hoa Sơn, nên chàng không đến nỗi vì theo đuổi mà lỡ mất ngày hẹn trên núi.

Viên Thừa Chí cùng mọi người đi mấy hôm thì gặp Thôi Thu Sơn, An đại nương và An Tiểu Huệ. Tuy ba người này không phải môn nhân phái Hoa Sơn, nhưng xưa nay thân thiết như người nhà, lên Hoa Sơn họp mặt cũng không sao.

Đến chân núi Hoa Sơn, ghé vào quán lương đình hóng mát, Hồng Thắng Hải nhận thấy một khoảnh đất nhìn hơi lạ. Y dùng binh khí đào lên, phát hiện thi hài của Ôn Phương Đạt và một người nữa.

Viên Thừa Chí nói: “Nhất định Thanh đệ đã lọt vào tay bọn Ngũ Độc Giáo. Chúng ta mau lên núi đi.”

An đại nương an ủi chàng: “Đã đến lúc Hoa Sơn hội họp. Cho dù Mục lão sư phụ chưa đến, thì Hoàng sư huynh, Quy sư huynh chắc đã đến đây, nhất định ra tay cứu giúp.”

Viên Thừa Chí nói: “Ngũ Độc Giáo có gan lên núi Hoa Sơn, chắc đã có chuẩn bị. Chỉ sợ đám sư điệt trúng phải độc thủ của chúng.”

Thôi Hy Mẫn nói: “Sư tổ cũng đến đây, có gì mà sợ nữa? Chúng ta mau lên núi đi.”

Mọi người gởi ngựa ở nhà dân, vội vã trèo lên núi. Lên gần đến đỉnh, đột nhiên họ nghe ba tiếng veo véo của ám khí bắn lên trời, lát sau mới đồng thời rơi xuống. Viên Thừa Chí mừng rỡ nói: “Mộc Tang đạo trưởng đang ở trên núi chào chúng ta đấy.”

Chàng lấy trong túi áo ra ba đồng tiền, búng mạnh lên trời. Ba cái chấm màu vàng mất hút trên mây, hồi lâu mới rơi xuống. Thôi Hy Mẫn lên tiếng khen ngợi: “Tiểu sư thúc! Thủ kình phóng ám khí của sư thúc mạnh quá.”

Viên Thừa Chí định nhảy lên đón bắt mấy đồng tiền, đột nhiên một cái bàn tính đen sì từ dưới bay lên, cản ba đồng tiền lại rồi cùng rơi xuống. Một người từ trong lùm cây nhảy vọt ra đón lấy cái bàn toán, cười hì hì mấy tiếng rồi bước tới. Đó chính là Đồng bút thiết toán bàn Hoàng Chân.

Ông mỉm cười nói: “Sư đệ! Ngươi hoang phí quá. Tiền bạc mà vứt ra tùy tiện như thế, chẳng phải xài tiền như nước hay sao? Dân buôn bán chúng ta thấy vậy, không khỏi đau lòng! Ta là người biết làm ăn, tiền đã vào tay thì không thể trả lại cho ngươi được.”

Thôi Hy Mẫn hô lớn: “Sư phụ! Thì ra lão nhân gia đã đến rồi.” Y chạy tới dập đầu ba cái xuống đất, vang lên những tiếng binh binh. Chú ngốc này không thèm ngó trước ngó sau, đang vui mừng nên dập đầu càng mạnh. Khi đứng dậy, trán y đã bị sỏi đá làm sưng lên một cục. An Tiểu Huệ vừa thương vừa giận, không ngớt nhỏ giọng trách mắng. Thôi Hy Mẫn đứng đó mà ngoác miệng ra cười, trông khờ khạo vô cùng.

Viên Thừa Chí cùng quần hùng bước tới thi lễ. Sau đó Mộc Tang đạo nhân cũng xuống gặp mặt. Mọi người bước tới bái kiến, nói mấy câu khách sáo chào hỏi lẫn nhau.

Viên Thừa Chí lo lắng cho Thanh Thanh, định hỏi xem đại sư ca có thấy tung tích của nàng hay không. Đột nhiên trong lùm cây bên cạnh có hai con vượn lớn nhảy ra, ôm lấy Viên Thừa Chí. Thôi Hy Mẫn giật mình kinh hãi, vung quyền đánh ngay.

Viên Thừa Chí đưa tay khẽ gạt thoi quyền, mỉm cười hỏi: “Đại Oai, Tiểu Oai! Hai ngươi khỏe chứ?”

Hai con vượn lớn kêu chí chóe, buông Viên Thừa Chí ra, nhanh chân chạy lên đỉnh núi. Thôi Hy Mẫn hỏi: “Hai con vượn này do tiểu sư thúc nuôi phải không? Trời ơi, chúng nổi giận rồi.”

Hai con vượn leo lên mỗi lúc một cao. Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Nhất định Đại Oai và Tiểu Oai đã giấu giếm thứ gì đó, bây giờ lấy ra cho mình xem.” Chàng dõi mắt nhìn theo chúng một lúc, đột nhiên thấy trên vách núi có khói mù bay ra. Chỗ đó chính là huyệt động an táng Kim Xà Lang Quân, Viên Thừa Chí bất giác sợ hãi. Hai con vượn lớn cứ múa tay múa chân chỉ trỏ, như ra dấu gọi chàng tới.

An Tiểu Huệ cũng cảm thấy vậy, bèn nói: “Thừa Chí đại ca! Hai con vượn gọi đại ca kìa.”

Viên Thừa Chí đáp: “Không sai!” Chàng đưa tay ra dấu với ông câm. Ông câm gật đầu hiểu ý, liền chạy vào thạch thất lấy đuốc và dây dài. Mọi người vòng ra con đường phía sau, trèo lên vách núi đó.

Viên Thừa Chí nói: “Đường vào động ta quen thuộc nhất. Để một mình ta vào là được.”

Chàng xé vạt áo lấy hai mảnh vải nhỏ, nhét vào mũi, thắp đuốc, men theo sợi dây trèo xuống. Hai con vượn lớn đứng trên vách núi cứ nhảy chồm chồm, kêu la loạn lên, gãi đầu gãi tai ra vẻ lo lắng vô cùng.

Viên Thừa Chí xuống tới cửa động, thấy khói bay ra mù mịt. Chàng nín thở chạy vào trong, đến chỗ đường hẹp thì thấy một người nằm vật ra dưới đất. Đến gần nhìn kỹ, thì ra là Thanh Thanh.

Chàng vừa sợ hãi vừa vui mừng, sờ vào mũi nàng thì thấy hơi thở rất yếu. Nhìn vào thấy trong động vẫn còn ánh lửa, Hà Hồng Dược nằm giữa động. Chàng định vào cứu mụ ra, nhưng đột nhiên cảm thấy ngực mình bị đè chặt, chỉ muốn ngất xỉu, nên vội cúi xuống ôm lấy Thanh Thanh, nhanh chân chạy ra ngoài động.

Chàng nắm chặt sợi dây, ông câm và Hồng Thắng Hải vận sức kéo hai người lên. Viên Thừa Chí thấy xung quanh không còn khói độc nữa, mới dám hít sâu một hơi. Đột nhiên chàng nhịn không nổi, lơ lửng giữa trời mà nôn vọt ra.

Mọi người đứng trên vách núi vô cùng lo lắng, chỉ sợ chàng trúng chướng khí nặng quá, tuột tay buông dây là cả hai rơi xuống vực sâu. Ông câm và Hồng Thắng Hải run run kéo chậm lên. Hai chú cháu Thôi Thu Sơn và Thôi Hy Mẫn đứng bên nín thở theo dõi.

Viên Thừa Chí vì hít khí độc trong động hơi nhiều, chân vừa chạm đất đã chóng mặt đứng không vững nữa, bủn rủn ngồi phịch xuống. Mộc Tang đạo nhân thôi cung quá huyệt cho một lúc, chàng mới tỉnh lại, cố tự điều hòa hơi thở, thần trí vô cùng mệt mỏi. Lát sau Thanh Thanh cũng tỉnh lại, vừa thấy Viên Thừa Chí đã khóc òa.

Quần hùng thấy hai người hồi tỉnh mới yên tâm. Thanh Thanh từ từ khôi phục thần trí, kể lại tình hình trong động, chốc chốc lại ngắt quãng.

Viên Thừa Chí ủ rũ nói: “Di mệnh của mẫu thân Thanh đệ là được hợp táng với phu quân. Bây giờ thi hài hai người đều hóa thành tro, nhưng rốt cuộc đã được an nghỉ bên nhau.”

Thanh Thanh nói: “Mụ già ác ôn kia tuy hung dữ, nhưng tình cảm với phụ thân muội lại rất thâm sâu. Gia gia phụ lòng bà ấy, thật là không nên không phải. Đại ca! Chúng ta có nên cứu mạng bà ấy không?”

Viên Thừa Chí gật đầu đáp: “Nên chứ.”

Thôi Hy Mẫn lập tức xung phong vào động cứu người. Viên Thừa Chí dặn: “Khí trong động rất độc, cứu được người phải lập tức ra ngay.”

Thôi Hy Mẫn vào động chẳng bao lâu đã quay trở ra, nói: “Gió núi rất mạnh, uế khí trong động đã bị thổi tan gần hết, nhưng bà ấy chết rồi. Tại hạ không dám ở lâu trong động, nên lấp bừa bà ấy vào trong hố.”

Thanh Thanh gật đầu nói: “Thế là bà ấy được chôn cùng một huyệt với gia gia muội. Nếu bà ấy linh thiêng, chắc sẽ vui mừng. Chỉ mong ba người họ không tranh cãi nhau nữa.”

Thừa Chí nói: “Thanh đệ yên tâm đi. Gia gia muội nhất định sẽ bênh má má muội.”

Thanh Thanh giận dữ hỏi: “Má má muội đẹp hơn bà ấy, nên gia gia nhất định sẽ bênh má má. Sau này huynh cũng vậy phải không?”

Thừa Chí ngạc nhiên hỏi: “Ta cũng vậy là sao?”

Thanh Thanh vung tay lên tát. Thừa Chí mới gặp còn mừng, thấy nàng đánh mà không tránh né, bị tát vào má nghe “bốp” một tiếng. Thanh Thanh khóc rống lên, nói: “Sau này đại ca chỉ bênh A Cửu, không bênh muội. Để muội chết còn hay hơn.”

An Tiểu Huệ vội chuyển đề tài nói chuyện. Nàng xoa đầu hai con vượn mà nói: “May mà Đại Oai và Tiểu Oai phát hiện sớm. Nếu trễ một chút, e rằng Thanh tỉ và Thừa Chí đại ca trúng độc trong động còn nặng hơn.”

Mọi người đều nói: “Thật là nguy hiểm! May mà loại súc sinh có giác quan linh mẫn, từ xa đã cảm thấy khác thường.”

Quần hùng vừa bàn tán vừa trở lên đỉnh núi. An đại nương và An Tiểu Huệ dìu Thanh Thanh vào trong thạch thất, rửa mặt và thay đổi y phục cho nàng, rồi dìu lên giường nằm nghỉ.

Nội công Thanh Thanh đã không bằng Thừa Chí, lại hít khí độc nhiều hơn, nên đến hôm sau vẫn chưa bình phục hẳn. Nhiều lúc nàng thần trí mơ hồ, vừa khóc vừa la, cứ hôn mê là chửi mắng Viên Thừa Chí vô lương tâm, bất nghĩa, có mới nới cũ. Thấy Viên Thừa Chí bối rối, mọi người vừa buồn cười vừa lo lắng, sợ chàng khó xử nên im lặng lui ra.

Thừa Chí dịu dàng an ủi, hứa chắc không bao giờ phụ lòng Thanh Thanh. Mặt nàng lúc đỏ bừng lúc xám ngoét, không ngớt ói ra nước đen. Viên Thừa Chí không có cách nào chữa trị, chỉ biết ngồi bên giường mà rơi nước mắt.

Sơn động hoặc giếng sâu mà không được thông gió thì uế khí tích lại, vào trong sẽ trúng độc, thậm chí mất mạng. Chuyện này những người đi lại giang hồ vẫn thường gặp phải, nhưng nếu không mất mạng mà được cứu ra thì sẽ hồi phục dần dần. Phen này Thanh Thanh lại khác, cứ ọe nước đen ra mãi. Dường như ngoài uế khí trong động kín ra, nàng còn trúng phải chất độc gì đó trên người Hà Hồng Dược và hài cốt Kim Xà Lang Quân. Lúc này Viên Thừa Chí chỉ mong có Hà Thiết Thủ ở bên. Trên người cô này có đủ loại thuốc giải, không chừng biết cách chữa trị.

Mọi người bên ngoài cứ bàn luận mãi, đều nói tuy tính tình Thanh Thanh có lúc nhỏ nhen, nhưng bụng dạ rất tốt, nếu không chữa được thì Viên Thừa Chí chắc phải đau lòng tới hết đời. Ai cũng thở dài thở ngắn, không vui vẻ nổi.

*

*   *

Sắp hoàng hôn, hai con vượn lại kêu la. Bên ngoài tiếng người ồn ào, thì ra vợ chồng Quy Tân Thụ đã dẫn sáu đệ tử, có cả Mai Kiếm Hòa, Tôn Trọng Quân, Lưu Bội Sinh đến nơi. Quy nhị nương ẵm theo cậu con Quy Chung. Thằng bé này cười vẫn còn khờ khạo, nhưng sức khỏe đã tốt hơn nhiều. Quy nhị nương biết Thanh Thanh trúng độc, liền lấy lọ thuốc Phục Linh Thủ Ô Hoàn mà con mình chưa uống hết, cho nàng một viên. Thanh Thanh uống vào, chốc lát đã ngủ li bì.

Sau đó đại đệ tử của Hoàng Chân dẫn tám sư đệ và hai con trai lên núi. Y thi lễ với Mộc Tang đạo nhân trước, rồi khấu kiến sư phụ và vợ chồng nhị sư thúc. Y thấy Viên Thừa Chí còn trẻ hơn cả con trai lớn của mình, nghĩ đến chuyện quỳ xuống khấu đầu trước mặt chàng bỗng thấy khó khăn. Y gọi “sư thúc”, rồi ngần ngừ đứng đó.

Viên Thừa Chí thấy vị sư điệt này đã ngoại tứ tuần, eo gấu, lưng hổ, gân cốt như sắt, đứng cao hơn mình một cái đầu, không khỏi thầm khen. Chàng nghĩ: “Đại sư ca là bậc anh hùng, phải là nhân vật oai phong thế này mới xứng đáng làm đệ tử của huynh ấy. Thôi Hy Mẫn tính tình lỗ mãng, võ công lại kém, so với vị sư điệt này chênh lệch rất xa.” Thấy y ra vẻ định quỳ, chàng vội đưa tay cản trở, rồi vẫy tay với tám đệ tử khác của Hoàng Chân mà nói: “Mọi người đừng đa lễ nữa.”

Thôi Hy Mẫn đứng bên giới thiệu: “Đây là đại sư ca họ Phùng, tên Nan Địch. Người trên giang hồ gọi huynh ấy là Bát Diện Oai Phong.”

Viên Thừa Chí nói: “Nhất định Phùng huynh đã được chân truyền của đại sư ca.”

Hoàng Chân thấy Phùng Nan Địch không chịu quỳ lạy tiểu sư thúc, nhưng nghĩ y đã là một nhân vật thành danh trong giang hồ, nên không miễn cưỡng. Hơn nữa, trước nay ông thích đùa giỡn nên không nghiêm khắc về mặt lễ số. Ông mỉm cười nói: “Ta là sư phụ tính toán kỹ lưỡng, quả nhiên dạy ra đồ đệ không chịu thiệt thòi. Chúng biết khấu đầu trước mặt tiểu sư thúc chưa chắc đã có tiền lì xì kiến diện.”

Nghe sư phụ nói mấy câu này, Phùng Nan Địch cảm thấy khó xử, tính quỳ trước mặt Viên Thừa Chí, nhưng lại bị chàng ngăn cản. Phùng Nan Địch bèn bảo con trai lớn là Phùng Bất Phá, con trai thứ là Phùng Bất Thôi đến bái kiến Mộc Tang đạo nhân và hai vị sư thúc tổ Quy, Viên, các vị sư thúc như Mai Kiếm Hòa. Viên Thừa Chí không có quà kiến diện cho anh em Bất Phá, Bất Thôi cũng có phần áy náy.

Năm nay Phùng Bất Phá hai mươi ba tuổi, Phùng Bất Thôi hai mươi mốt tuổi. Hai anh em dựa vào oai thế phụ thân nên được giới võ lâm Cam Túc, Lương Châu nhường nhịn mấy phần, mà cũng có chút ít công phu chân chính. Phen này chúng thấy Viên Thừa Chí chỉ chừng hai mươi tuổi mà mình phải kêu bằng sư tổ, trong lòng rất không phục. Chúng lại thấy cặp mắt chàng sưng đỏ, nước mắt chưa khô, bèn nghĩ: “Không biết tên này khóc nhè chuyện gì, thật là tồi tệ. Anh hùng hảo hán dù bị đánh rụng răng cửa thì cũng nuốt máu vào trong, sao có thể khóc vì bị người ta ăn hiếp?” Đối với Viên Thừa Chí, chúng càng coi thường hơn.

Hai anh em này quen biết đám đệ tử Quy Tân Thụ đã lâu, biết trong đó Tôn Trọng Quân kiêu ngạo hiếu thắng nhất, võ công cũng khá. Ngay đêm hôm đó, chúng lén lút bàn nhau, tìm cách khích bác cho Tôn sư cô tỷ thí với tiểu sư thúc tổ, để Viên Thừa Chí xấu mặt một phen. Lỡ bị phụ thân hoặc sư tổ biết được, anh em mình cũng không đến nỗi bị trách mắng.

Sáng hôm sau hai anh em dậy rất sớm, chạy ra ngoài đi tìm Tôn Trọng Quân, nhưng mới ra cửa đã gặp Bát sư thúc Thạch Tuấn. Thạch Tuấn tuổi trẻ hiếu sự, võ công cũng ngang ngửa Phùng thị huynh đệ. Y quát hỏi: “Này! Hai anh em ngươi lén lút đi tìm cái gì vậy?”

Phùng Bất Thôi mỉm cười đáp: “Bọn điệt đang tìm Tôn sư cô. Nghe nói ở Sơn Đông cô ấy đã dẹp yên phái Bột Hải, chúng điệt muốn xin cô ấy kể cho nghe.”

Thạch Tuấn hoan hỉ nói: “Hay quá! Vừa rồi ta thấy cô ấy ở bên kia núi, đang luyện võ với Mai sư ca.”

Ba người vui vẻ đi ra sau núi. Anh em họ Phùng thầm thì bàn tính, nói thế nào để lôi kéo Tôn Trọng Quân đi tìm Viên sư thúc tổ mà tỉ võ. Phùng Bất Thôi khẽ nói: “Nếu Tôn sư cô vẫn đang luyện kiếm, thì chúng ta nói là họ Viên chê sư cô sử chiêu này, chiêu kia không đúng.” Phùng Bất Phá vừa cười vừa gật đầu.

Ra đến sau núi, đột nhiên nghe tiếng Tôn Trọng Quân kêu la giận dữ. Cả ba đều bị bất ngờ, nhanh chân chạy tới thì thấy Tôn Trọng Quân đang xách đơn câu đuổi theo một người.

Sách Minh Lý Bắc Lược:

Khí trời nóng nực, mây đen tứ bề kéo tới. Ngoài thành khói đen mù mịt, mưa nhỏ không dứt lại có tuyết rơi. Thành Bắc Kinh bị hạ. Có người nói giặc mai phục sẵn bên trong, thông đồng với em của thái giám Tào Hóa Thuần là Tào Nhị Công mở cửa thành. Có người nói thái giám Vương Tương Hiệu dẫn cả ngàn binh lính trong hoàng cung ra đón tướng giặc Lưu Tông Mẫn dẫn trọn đội quân vào. Lại có người nói Thái giám Tào Hóa Thuần cùng Binh bộ thượng thư Trương Tấn Nham mở cửa Chương Nghĩa đón giặc… Đại để kinh thành thất thủ là do kẻ gian làm nội ứng… Giặc hô to: “Ai mở cửa sẽ không giết”, nên quân sĩ và dân chúng đều cầm nhang đứng hai bên cửa, hễ giặc đi ngang qua là phủ phục xuống đất nghênh đón. Trên cửa nhà dân đều dán những chữ “Thuận Dân”, hoặc “Vĩnh Xương nguyên niên, Thuận Thiên Vương vạn vạn tuế”.

Vào thành hết rồi, binh mã giặc xông bừa vào nhà dân. Tướng giặc hễ thấy phủ đệ to lớn là vào chiếm. Lưu Tông Mẫn chiếm phủ đệ của Đường Hoàng. Lý Mậu chiếm phủ đệ của Chu Toàn.

Bọn cung nữ chưởng quản thư quán của hoàng đế là Đỗ Thị, Trần Thị, Đẩu Thị bị Lý Tự Thành bức hiếp. Trong đó Đẩu Thị được sủng ái nhất, phong làm Đẩu Phi. Lại có Trương Thị cũng được ân sủng. Lý Tự Thành tập họp cung nữ để chia cho bộ hạ, mỗi tướng giặc được khoảng ba mươi cô. Ngưu Kim Tinh, Tống Kiến Sách cũng được mấy cô.

Ngày mùng một tháng tư, Tống Kiến Sách tấu: “Thiên tượng thay đổi, mặt trời mờ tối, phải đình chỉ các loại hình phạt.”

Ngày mùng bảy, Lý Tự Thành tới phủ Lưu Tông Mẫn, thấy trong sân nhốt hơn ba trăm người, một nửa đã không la hét nổi nữa. Lý Tự Thành nói: “Thiên tượng thay đổi, Tống quân sư nói phải giảm hình. Thả chúng ra đi.” Trong đó có mười một thân sĩ giàu có, còn lại đều là võ quan trong triều và bọn giúp việc. Chỉ ngày hôm đó đã thả cả ngàn người, nhưng số đã chết phải tới năm trăm.

Lúc mới vào thành giặc không giết nhiều, vài ngày sau chém giết mạnh tay… Lính giặc đầy đường, tay cầm sẵn dây, hễ thấy ai mập mạp là nghĩ có tiền, bắt trói đòi hối lộ. Có kẻ dọc đường nộp tiền được thả. Có kẻ dẫn về nhà, cho giặc muốn lấy gì thì lấy rồi được thả. Còn ai đã bị trói dẫn đến phủ Lưu Tông Mẫn thì không thể nào sống sót.

Ban đầu giặc còn giả vờ giết những kẻ lạm sát, tuyên bố “Ai cướp bóc, gian dâm dân chúng thì lập tức xử lăng trì”. Chúng bắt bốn tên cướp bóc dân chúng, tuyên án rồi chặt mỗi tên làm năm đoạn. Dân chúng tin tưởng, nên yên tâm mở tiệm sinh hoạt, buôn bán bình thường. Bốn năm ngày sau giặc mới tiến hành cướp, giết. Chúng ghép mười nhà thành một bảo, một người chạy trốn thì cả mười nhà bị chém. Nhà thượng lưu thì bọn tướng giặc kiểm kê, tịch thu. Nhà trung lưu, hạ lưu thì chúng cho quân lính cướp bóc chia nhau. Lại có lệnh, tất cả lừa ngựa và đồ đồng của dân gian đều phải tịch thu, đưa về doanh trại. Vì thế dân chúng trong thành, nhà nào cũng khánh kiệt.

Quân giặc vào nhà dân, đầu tiên là mượn nồi niêu chén bát; sau đó mượn giường chiếu, phòng ở; cuối cùng mượn tới vợ con để tìm lạc thú. Người nào giấu giếm mà bị lục soát ra, lập tức chém chết. Chúng thấy nữ nhân nào vừa mắt là lôi lên yên ngựa bắt đi. Có tên tay ôm một cô, trên ngựa trói theo hai ba cô nữa. Cô nào không chịu là giết ngay, nếu chịu mà chúng không vừa ý cũng bị giết. Trong hẻm An Phước, một đêm chúng giết chết ba trăm bảy mươi mấy nữ nhân, thê thiếp của các quan lại đầu hàng cũng không tránh khỏi số phận. Tướng giặc vào chiếm các nhà lớn, chiếm cả con gái họ làm thú vui.

Quân giặc tràn đầy các ngõ hẻm, lấy danh nghĩa tìm kiếm lừa ngựa và đồ đồng để cướp bóc khắp nơi, ai phản đối thì lập tức bắt trói. Chúng canh gác rất nghiêm, khó mà trốn khỏi kinh thành, ngay cả ban ngày cũng gian dâm bừa bãi.

Giặc còn nhiều biện pháp khác. Đến đâu, chúng cũng cho binh lính giả trang thành người đi buôn để tuyên truyền, nào là: “Giặc không giết người, không cướp tài sản, không gian dâm, mua bán đàng hoàng, không thu thuế lương. Giặc sẽ lấy tiền bạc của nhà quan để cứu tế người nghèo. Giặc rất yêu những người có học, trước tiên là thưởng tiền bạc, sau này cho dự thi, hạng nhất làm quan phủ, hạng hai làm quan huyện…” Vì thế bọn người chưa đậu tú tài thì mơ được làm quan, bọn người thiếu hiểu biết thì mong có tiền, bọn người còn nợ thuế lương thì mong được miễn thuế. Trong dân gian thật sự có câu ca dao: “Hãy mở cổng lớn để đón Sấm Vương, Sấm Vương đến rồi ta khỏi nạp lương…” Vậy là mưu kế của giặc đã thành.

Hơn bốn mươi vạn tên giặc vào thành, tên nào cũng lo cướp bóc. Khi Lý Tự Thành cấm chỉ thì quân sĩ la hét: “Ngôi hoàng đế thì để ông làm. Còn tiền bạc, nữ nhân chẳng lẽ không để bọn ta?”

Ghi chú của tác giả:

Sách Minh Lý Bắc Lược do Kế Lục Kỳ viết những năm đầu nhà Thanh, ghi chép tường tận hành động của Lý Tự Thành ở Bắc Kinh từng ngày một. Tác giả này rất chủ quan, chống đối nghĩa quân cực độ, nên những sự kiện trong sách chưa chắc chính xác hoàn toàn.

Khởi nghĩa nông dân ở các triều đại Trung Quốc đều không có kỷ luật nghiêm ngặt. Lúc khởi sự thì ai cũng lên tiếng trả thù, giết kẻ có tội với dân, dựng lại chính nghĩa. Nhưng khi đã có thanh thế thì những chuyện cướp bóc, bức hiếp, đốt nhà, giết chóc không thể nào tránh khỏi. Thất bại của Hoàng Sào, Lý Tự Thành, Trương Hán Trung, Thái Bình Thiên Quốc… đều có liên quan đến quân kỷ không tốt.

Những anh hùng Lương Sơn Bạc trong Thủy hử truyện cũng thế. Lý Quỳ cướp pháp trường, tấn công thành trì, không cần hỏi ai là quân quan ai là bá tính, cứ giết cho xác đầy mặt đất, máu chảy thành sông (hồi 39). Trấn Tam Sơn náo loạn Thanh Châu Đạo, mấy trăm gian nhà ngoài thành Thanh Châu bị đốt thành bình địa, trên những đống tro tàn ngổn ngang vô số xác chết đàn bà con nít, không sao đếm xuể (hồi 33).

Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đương đại thích tô hồng những cuộc khởi nghĩa nông dân, cho rằng Lý Tự Thành không ham rượu sắc, quân kỷ rất tốt. Có người nói, chuyện quân sĩ Lý Tự Thành tàn hại bá tính Bắc Kinh không phải là chuyện thật. Có người bình chú Bích Huyết Kiếm, cho rằng tác giả công kích kỷ luật trong quân đội Lý Tự Thành không tốt là ngụy tạo. Những cách nhìn này không có căn cứ sử liệu. Hoặc giả có thể bàn cãi về hành vi cá nhân, nhưng về lịch sử thì những nhà nghiên cứu đã có không ít thành tựu, không thể xóa bỏ.

Khoảng trước sau năm 1949, bài văn Giáp Thân Tam Bách Niên Tế của Quách Mạt Nhược có ảnh hưởng rất lớn. Tác phẩm này không hề phủ định chuyện quân đội Lý Tự Thành có gian dâm, cướp bóc. Trong đó viết: “Lưu khấu đều là dân đói bị ép phải khởi nghĩa. Quân ô hợp chưa qua huấn luyện, ban đầu dĩ nhiên đánh trận không thắng quan binh; nhưng nói về gian dâm, cướp bóc, đốt nhà, tàn sát, thì so với quan binh quyết không thua kém”… “Lưu Tông Mẫn bắt bớ quan lại đầu hàng, vơ vét tài sản, dụng nghiêm hình để giết người… không ngày nào không giết… Cho binh lính cướp bóc tiền bạc của dân… Bắt trói cha của Ngô Tam Quế là Ngô Tương, để ép Ngô Tam Quế giao nộp ái thiếp Trần Viên Viên nhưng không được, nên tra khảo rất dã man.”… “Lý Nham có tấu thư, khuyên Lý Tự Thành phải yêu mến bá tính, phải hạ lệnh cho quân binh không được mượn nhà dân mà ở, sợ mất lòng dân. Lý Tự Thành không vui lắm, phê mấy chữ “Biết rồi”, không thực hiện.”

Những người lãnh đạo Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc vô cùng chú ý đến tác phẩm này. Trước khi quân đội tiến vào những thành phố lớn, họ ba lần năm lượt hạ lệnh không được quấy nhiễu dân chúng. Có tài liệu ghi lại, năm trước Mao Trạch Đông thống lãnh những quan chức cao cấp tiến vào Bắc Kinh, từng mỉm cười nói: “Chúng ta vào thành Bắc Kinh là dự một cuộc khảo thí lớn”, ý nói phải giữ nghiêm quân kỷ, phải thắng được sự quyến rũ của cuộc sống đồi bại xa hoa, phải tránh vết xe đổ của Lý Tự Thành.

Trần Nghị trước khi vào Thượng Hải đã nghiêm khắc hạ lệnh không được ở nhà dân, dù là thương bệnh binh gặp trời mưa lớn cũng không được vào nhà dân hoặc cửa tiệm để trú. Thuộc hạ của ông tuân lệnh rất nghiêm. Nhiều nhân sĩ Trung Quốc và ngoại quốc kể, quân cộng sản nửa đêm kéo vào Thượng Hải, sáng hôm sau họ thức dậy thấy ngoài đường đầy quan binh nằm ngủ.

Đời sơ Thanh có một quyển tiểu thuyết bạch thoại lưu truyền rộng rãi trong dân gian, tựa là Thiết Quán Độ, kể chuyện cung nữ Quế Cung Nga của Sùng Trinh giả vờ ưng thuận tướng quân La Mỗ của Lý Tự Thành, sau đó tìm cơ hội đâm chết. Tôi cho rằng quyển tiểu thuyết đó có phần thổi phồng những chuyện cướp bóc gian dâm của quân Lý Tự Thành, nên không lấy đó làm bằng chứng.

Vấn đề Lý Tự Thành giết hại công thần

Minh Sử, quyển 309, Lý Tự Thành truyện chép:

Lúc đó Tả Giáp Ngũ Doanh quy phục dưới trướng Lý Tự Thành, có Mã Thủ Ưng xưng là Lão Hồi Hồi (Mã Thủ Ưng là người Hồi tộc nên tự xưng là Lão Hồi Hồi, chữ Hồi là người Hồi. Triều đình khinh miệt dân quân tạo phản, nên viết chữ Hồi có bộ Khuyển, coi như súc sinh); Hạ Nhất Long xưng là Giáp Lý Nhãn, Hạ Cẩm xưng là Tả Kim Vương, Lưu Huy Hiểu xưng là Tranh Thế Vương, Quách Dưỡng Thành xưng là Loạn Thế Vương.

Lý Tự Thành còn có bộ hạ là La Nhữ Tài. Tự Thành thiện công, Nhữ Tài thiện chiến, hai người cần nhau như tay trái tay phải. Lý Tự Thành hà khắc, thấy La Nhữ Tài binh cường tướng mạnh bèn đem lòng đố kỵ, triệu La Nhữ Tài và bạn là Hạ Nhất Long đến ăn tiệc, dùng hai mươi kỵ mã bắt trói La Nhữ Tài và tùy tùng, sáng sớm hôm sau chém ngay trong trướng. Lý Tự Thành giết La Nhữ Tài và Hạ Nhất Long rồi, lại giết Quách Dưỡng Thành, đoạt lấy binh lính của Mã Thủ Ưng, giết Viên Thời Trung ở Kỷ Huyện…

Lý Nham từng khuyên Lý Tự Thành đừng giết đồng bọn để thu phục nhân tâm. Ông ở ngôi vị Sĩ đại phu, không phạm lỗi gì để buộc tội, nên Ngưu Kim Tinh và đồng bọn khá kiêng nể. Sau thất bại ở Đình Châu, nhiều châu huyện ở Hà Nam phản lại Lý Tự Thành. Lý Tự Thành hội nghị tướng lãnh, Lý Nham xin dẫn binh tấn công. Ngưu Kim Tinh lén tâu với Lý Tự Thành: “Lý Nham võ dũng lại đa mưu, không phải người chịu ở dưới lâu. Hà Nam là quê hương của Lý Nham, hắn có thể chiêu mộ đại binh, đã rời khỏi đây thì không thể chế ngự nữa. Câu sấm Thập Bát Tử không phải hắn thì còn ai, nhất định Lý Nham muốn tạo phản.” Lý Tự Thành bèn sai Ngưu Kim Tinh mời Lý Nham uống rượu, giết chết ông trong tiệc. Từ đó quân giặc hoàn toàn tan rã.