Hồi 40: Đợi thỏ vẫn ngờ cây dễ đợi – Giăng câu mới hối ngọn khôn giăng

Chiếc kiệu khiêng Hồng phu nhân vừa đi khỏi, Vi Tiểu Bảo đang định quay vào, lại có một chiếc kiệu lớn tới dừng trước cổng, là Tri phủ Dương Châu tới bái kiến. Vi Tiểu Bảo thấy người đẹp đã tới tay cứ từng người từng người rời đi, trong lòng khó chịu, bực bội hỏi “Ngươi tới đây làm gì?”.

Tri phủ Ngô Chi Vinh thỉnh an làm lễ, nói “Ty chức có chuyện quân vụ cơ mật bẩm cáo với đại nhân”. Vi Tiểu Bảo nghe bốn chữ “Quân vụ cơ mật” mới cho y vào, nghĩ thầm “Nếu không phải là chuyện đại sự cơ mật, thì ta sẽ đánh cho ngươi một trận vào mông”.

Vào tới thư phòng, Vi Tiểu Bảo tự ngồi xuống, cũng không mời y ngồi, hỏi “Quân vụ cơ mật gì đấy?”. Ngô Chi Vinh nói “Xin đại nhân cho tả hữu lui ra”. Vi Tiểu Bảo xua tay ra hiệu cho thân binh lui ra. Ngô Chi Vinh bước tới gần y, hạ giọng nói “Khâm sai đại nhân, chuyện này không phải tầm thường, đại nhân tâu lên hoàng thượng, là một công lao không nhỏ đâu. Ty chức cũng trộm được đội phúc ấm của đại nhân. Vì thế ty chức nghĩ bụng trước tiên đừng cáo bẩm với Phủ đài, Phiên đài hai vị đại nhân là hơn”. Vi Tiểu Bảo cau mày nói “Đại sự gì mà quan trọng như thế?”.

Ngô Chi Vinh nói “Bẩm đại nhân, hoàng thượng phúc khí lớn, đại nhân phúc khí lớn, mới khiến ty chức nghe ngóng được tin tức quan trọng này”. Vi Tiểu Bảo hừ một tiếng, nói “Ngô đại nhân ngươi phúc khí cũng lớn lắm”. Ngô Chi Vinh nói “Không dám, không dám. Ty chức đội ơn hoàng thượng, được Khâm sai đại nhân đề bạt, ngày đêm chỉ nghĩ cách làm sao báo đáp. Hôm qua sau khi bồi tiếp đại nhân thưởng hoa thược dược ngoài chùa Thiền Trí, nghĩ tới phong thái đàm luận của đại nhân, trong lòng vô cùng khâm phục ngưỡng mộ, chỉ mong có thể hàng ngày làm đương sai cho đại nhân, lúc nào cũng được nghe đại nhân chỉ giáo”. Vi Tiểu Bảo nói “Vậy thì hay lắm. Ngươi không cần làm chức Tri phủ nữa. Ta thấy ngươi thông minh lanh lợi, không bằng… không bằng… ờ…”. Ngô Chi Vinh cả mừng, vội vàng thỉnh an, nói “Đa tạ đại nhân tài bồi”.

Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói “Không bằng làm Môn phòng canh cửa cho ta, nếu không thì khiêng kiệu cho ta. Ta hàng ngày ra ngoài, thì ngươi sẽ được nhìn thấy ta, hô hô, hô hô!”. Ngô Chi Vinh cả giận, hơi thoáng biến sắc, nhưng lại lập tức tươi cười nói “Thế thì tốt quá. Làm Môn phòng cho đại nhân tự nhiên là hơn làm Tri phủ Dương Châu rồi. Ty chức bình thời phái không ít bọn lêu lổng đi khắp nơi nghe ngóng tin tức, nếu có người mang lòng phản nghịch, phỉ báng hoàng thượng, nói xấu đại thần, ty chức sẽ lập tức biết ngay. Những tội lớn dùng lời lẽ yêu mỵ mê hoặc lòng người, làm loạn kỷ cương ấy, trước nay ty chức luôn nghiêm khắc trừng trị”. Vi Tiểu Bảo ủa một tiếng, nghĩ thầm người này đổi giọng khác, nhẹ nhàng tránh qua chuyện Môn phòng, phu kiệu không nhắc tới câu nào, rất hiểu đạo lý làm quan, rất là không kém.

Ngô Chi Vinh lại nói “Ví dụ bọn buôn bán lính trốn, bọn vô lại ở chợ búa thì ăn nói bậy bạ vài câu cũng không hại gì lắm, cần nhất là phải đề phòng những người đọc sách. Loại người này làm thơ viết văn, vẫn thường lấy những chuyện thời cổ ra mỉa mai triều đình, người bình thường nhìn qua, thường không nghĩ tới dụng ý mượn xưa nói nay độc ác của họ”. Vi Tiểu Bảo nói “Người khác nhìn thấy không hiểu thì cũng chẳng hại gì”.

Ngô Chi Vinh nói “Vâng, vâng. Tuy là như thế, nhưng rốt lại lòng dạ ấy cũng đáng giết, loại thơ văn đại nghịch bất đạo ấy thì muôn ngàn lần không thể để cho lưu độc ra thiên hạ”. Rồi rút trong tay áo ra một quyển sách viết tay, hai tay đưa lên, nói “Xin đại nhân xem, đây là một tập thơ hôm qua ty chức lấy được”. Nếu y lấy trong tay áo ra một tập ngân phiếu dày, nhất định Vi Tiểu Bảo sẽ lập tức đổi vẻ mặt, nhưng thấy là một quyển sách đã rất thất vọng, lại nghe nói là thi tập, lập tức ngáp dài một cái, cũng không đưa tay cầm lấy, ngẩng đầu lên trời không thèm nhìn tới.

Ngô Chi Vinh hơi nhăn nhó, hai tay bưng tập thơ từ từ rút lại, nói “Hôm qua lúc trong tiệc rượu có một cô gái hát bài thơ mới, là miêu tả gái quê ở Dương Châu, đại nhân nghe rất không thích, ty chức bèn đi điều tra thi tập của người ấy, phát giác trong đó quả nhiên có không ít câu đại nghịch phạm vào điều cấm”. Vi Tiểu Bảo nghênh ngang nói “Thế à?”. Ngô Chi Vinh giở tập sách ra, chỉ vào một bài thơ nói “Xin đại nhân xem, bài này có nhan đề là Hồng Vũ đồng pháo ca, gã Tra Thận Hành này là tả một khẩu pháo đồng mà Chu Nguyên Chương tiền triều đã dùng”. Vi Tiểu Bảo vừa nghe thấy, lại cảm thấy hứng thú, liền hỏi “Chu Nguyên Chương cũng từng bắn đại pháo à?”.

Ngô Chi Vinh nói “Vâng, vâng. Hiện nay thánh thiên tử nhà Đại Thanh chúng ta ở ngôi, mà họ Tra này đi làm thơ ca tụng pháo đồng của Chu Nguyên Chương, không phải không khiến mọi người hoài niệm tiền triều sao? Bài thơ này khoe khoang oai phong của Chu Nguyên Chương, đã là không nên, bốn câu cuối cùng lại viết: Ta tới thấy ngươi trong gai góc, Cùng với núi sông buồn tang tóc. Man Di nghĩ tới lệ ròng ròng, Có tình ai lại không than khóc? Người này lòng mang ý khác, điều không gì rõ ràng hơn. Đại Thanh chúng ta phụng thiên thừa vận, khu trừ họ Chu nhà Minh, bách tính vui mừng nhảy nhót còn không kịp, tại sao người này nhìn thấy một khẩu đại pháo của Chu Nguyên Chương lại muốn khóc núi sông, lại muốn rơi nước mắt?” (*)

Vi Tiểu Bảo nói “Khẩu pháo đồng này ở đâu? Ta muốn tới đó xem. Còn bắn được không? Hoàng thượng rất thích đại pháo”. Ngô Chi Vinh nói “Theo như trong bài thơ nói thì khẩu pháo đồng này là ở Kinh Châu”. Vi Tiểu Bảo làm mặt lạnh, nói “Nếu đã không phải ở Dương Châu thì ngươi tới đây chót chét cái gì? Ngươi là Tri phủ Dương Châu chứ không phải Tri phủ Kinh Châu, lúc nào ngươi làm Tri huyện ở Kinh Châu thì hãy tới tra xét chuyện pháo đồng”. Ngô Chi Vinh hoảng sợ giật mình, nghĩ thầm đi làm Tri huyện ở Kinh Châu là bị giáng chức, chuyện này không nên nói tới nữa. Lúc ấy lập tức cất tập thơ vào tay áo, lại lấy ra hai quyển sách khác, nói “Khâm sai đại nhân, trong thơ của Tra Thận Hành chỉ có vài chỗ hơi không ổn, đại nhân ra ơn không tra cứu nữa. Nhưng hai bộ sách này thì ngàn vạn lần không thể bỏ qua không đếm xỉa tới”. Vi Tiểu Bảo cau mày nói “Lại là thằng đầy tớ nào đấy?”.

Ngô Chi Vinh nói “Một bộ là Quốc thọ lục của Tra Y Hoàng làm ra, tất cả văn tự trong đó đều tán dương bọn phản nghịch chống Thanh, một bộ là thi tập của Cố Viêm Vũ, lại càng vô quân vô thượng, vô pháp vô thiên”.

Vi Tiểu Bảo thầm hoảng sợ “Cố Viêm Vũ tiên sinh và sư phụ mình đều là Tổng quân sư trong Liên minh giết rùa đen. Tại sao sách của y lại rơi vào tay viên quan này? Không biết trong đó có nhắc tới Thiên địa hội bọn mình không?”. Liền hỏi “Trong sách viết những gì, ngươi nói rõ xem”.

Ngô Chi Vinh thấy Vi Tiểu Bảo đột nhiên quan tâm, lập tức tinh thần phấn chấn hẳn lên, giở quyển Quốc thọ lục ra, nói “Bẩm đại nhân, bộ sách này đều đem bọn nghịch tặc phản Thanh nói là trung thần nghĩa sĩ. Trong thiên Truyện Chủ sự bộ Binh được tặng Giám sát Ngự sử Tra tử là thuật chuyện nghịch tặc Tra Mỹ Kế anh em họ của y chống cự nhà Đại Thanh ta, nói y câu kết với bọn phản tặc, đối địch với vương sư thế nào”, rồi đưa ngón trỏ tay phải chỉ vào sách, đọc “Ngày mười bảy tháng tư, quân Thanh đánh trấn Viên Hoa, rút lui qua đường Thông Viên. Mỹ Kế đốc suất nghĩa sư Lăng, Dương, Chu, Vương, năm trăm chiến thuyền, hơn năm ngàn quân, đều chít khăn trắng, sau giờ Ngọ đua nhau xuất phát đuổi kịp, chém được hơn trăm thủ cấp, thắng lớn. Giặc sợ, lên bờ tháo chạy. Đại nhân người xem, y gọi bọn nghịch tặc là Nghĩa sư, lại gọi vương sư Đại Thanh chúng ta là Giặc, há không phải là rất đáng chết sao?”.

Vi Tiểu Bảo hỏi “Còn trong sách của Cố Viêm Vũ viết những gì?”. Ngô Chi Vinh đặt quyển Quốc thọ lục xuống, cầm tập thơ của Cố Viêm Vũ lên, lắc đầu nói “Thơ của người này làm, không bài nào không có lời lẽ mưu phản bạn nghịch. Bài này nhan đề là Khương Hồ, rõ ràng có ý bài bác chê bai nhà Đại Thanh ta”. Y tay chỉ vào câu thơ, miệng đọc:

Âu vàng nước ta vốn không khuyết, Mối loạn rợ Di gây tội nghiệt. Trưng binh vì Kiến Châu, Thu lương vì Kiến Châu. Thổ ty làm phản Tây Thục lo, Yêu dân gây biến Sơn Đông sầu. Đến nỗi Thần châu thành loạn lạc, Ai người hăng hái lo bày mưu. Tràn ngập kinh đô tới Tề Lỗ, Phá huyện cướp thành khôn kể số. Mổ bụng moi gan, chém đầu cắt cổ, Lấy đầm đong thây. May được làm tù, thì làm Man Di, tiếng Di líu lo, cưa răng cà nướu. Dựng cờ Man, đi xe bò. Nhìn ngàn thành chừ máu chảy, bắt gái đẹp chừ như hoa. Than ôi, rợ Di hung tàn như thế, mà nói trời muốn giao cho họ quốc gia…”.

Vi Tiểu Bảo xua tay nói “Không cần đọc nữa, líu la líu lo, không biết là nói gì cả”. Ngô Chi Vinh nói “Bẩm đại nhân, bài thơ này nói người Mãn Châu chúng ta là Man Di, nói rõ triều đình vì đánh nhau với người Mãn Châu ở Kiến Châu mà trưng binh thu lương, đến nỗi thiên hạ đại loạn. Lại nói người Mãn Châu chúng ta hạ thành giết người, mổ bụng moi gan, cướp đoạt gái đẹp”. Vi Tiểu Bảo nói “Té ra là thế. Cướp đoạt gái đẹp thì rất hay. Quân Thanh đánh phá Dương Châu, không phải đã giết rất nhiều bách tính sao? Nếu không phải vì chuyện ấy, thì tại sao hoàng thượng lại miễn thuế cho Dương Châu ba năm? Ờ, gã Cố Viêm Vũ này làm thơ cũng rất thành thật”.

Ngô Chi Vinh giật nảy mình, nghĩ thầm “Ngươi còn nhỏ tuổi, rất không biết nặng nhẹ. Câu này may là ngươi nói ra, chứ nếu ở miệng người khác mà ta báo lên trên, thì cái mũ sa trên đầu ngươi còn đội được nữa không?”. Nhưng y biết Vi Tiểu Bảo rất được hoàng đế sủng ái, làm sao dám lớn mật đối đầu với Khâm sai đại thần? Bèn dạ mấy tiếng liên tiếp, tươi cười nói “Đại nhân quả nhiên cao kiến, chỗ bế tắc của ty chức lập tức được khai thông. Xin đại nhân chỉ giáo về bài Tỉnh trung Tâm sử ca này, đầu bài thơ này có một bài tựa dài, quả thật vô cùng ngông cuồng”, rồi bưng quyển sách lên, lắc đầu ngoẹo cổ đọc:

Mùa đông năm Sùng Trinh thứ mười một, dưới cái giếng cạn lâu ngày ở chùa Thừa Thiên trong phủ thành Tô Châu đào được một cái hộp, ngoài viết mấy chữ Đại Tống Thiết hàm kinh, rất chắc rất nặng” (Đại nhân, đây là nói lấy được dưới giếng một cái hộp sắt. Vi Tiểu Bảo nói “Hộp sắt à? Trong đó có vàng bạc châu báu không?”). Trong có một quyển sách, nhan đề là Tâm sử, có câu “Di thần nhà Đại Tống là Trịnh Tư Tiều trăm lạy niêm phong”. Tư Tiều hiệu Sở Nam, là di dân nhà Tống, sử sách có ghi chép. Lúc cất giấu sách là năm Đức Hựu thứ chín. Nhà Tống đã mất, nhưng vẫn ngày đêm mong mỏi Trần Thừa tướng, Trương Thiếu bảo thống lãnh quân ở hải ngoại khôi phục giang sơn ba trăm năm của nhà Đại Tống (Đại nhân, trong văn chương nói chuyện nhà Tống nhưng thật ra là ám chỉ chuyện Đại Thanh, Cố Viêm Vũ mong mỏi nghịch tặc họ Trịnh Đài Loan thống lãnh quân phản nghịch ở hải ngoại trở về khôi phục giang sơn nhà Minh), đánh đuổi Hồ Nguyên nơi Hán Bắc, đến nỗi khóc lớn rơi lệ, khấn vái trời đất, thề với thần linh, nói khí vận chuyển dời, ắt có một ngày đổi Man Di thành Hoa Hạ (Đại nhân, y chửi người Mãn Châu là Thát Đát, muốn đánh đuổi chúng ta đi. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi là người Mãn Châu à?”. “Cái đó… cái đó… ty chức là nô tài của hoàng thượng nhà Đại Thanh, thuộc hạ của đại nhân người Mãn Châu, đó là một lòng một dạ coi mình là người Mãn Châu rồi”).

Lúc ấy người trong quận nhìn thấy không ai không cúi đầu kinh ngạc. Tuần phủ Đô viện Trương công Quốc Hùng cho khắc in ra để lưu truyền, lại dựng đền thờ Sở Nam, cất cái hộp ấy vào đền. Không bao lâu thì gặp quốc nạn, tất cả đều như cuối niên hiệu Đức Hựu. Than ôi, xót thay! (Đại nhân, quân Đại Thanh vào cửa quan là cứu dân đánh kẻ có tội, mà Cố Viêm Vũ lại nói là quốc nạn, lại nói Than ôi xót thay, dụng tâm của người này cần gì phải hỏi nữa?).

Sách ấy truyền lên phương bắc rất ít, mà sau biến cố lại có nhiều người sợ không dám đưa ra, đã hơn ba mươi năm không thấy sách ấy, mà nay lại thấy trong nhà họ Chu ở Đương Bình. Lúc trước sách ấy vừa ra đời, Thái thú Thái Thương Tiền quân Túc vịnh hai bài thơ, Quy sinh Trang ở Côn Sơn họa lại tám bài. Đến khi Chiết Đông bị hãm, Trương công chạy về Đông Dương, chết ở trong đầm. Tiền quân tránh ra hải ngoại, chết tại núi Lang Kỳ. Quy sinh còn có tên là Tộ Minh, tính rất khảng khái khích liệt, cuối cùng vì đói mà chết (Đại nhân, ba tên phản nghịch này đều là loạn dân không chịu thần phục nhà Đại Thanh ta, may là chết sớm, nếu không thì không bị chết chém cả nhà tịch biên gia sản không xong)”.

Chỉ có ta bất tài, nổi chìm trên đời, buồn năm tháng lâu mà ngày qua, gặp lưới cấm giăng mà càng nhặt (Đại nhân, y nói triều đình tra xét nghiêm cấm văn chương phản nghịch càng lúc càng chặt chẽ, nhưng thằng đầy tớ này vẫn cứ trên mặt mọc lông, ngang nhiên không sợ), nhưng gặp người hiền thì nghĩ chuyện giúp đỡ, một mình không sợ, nên phát dương việc ấy, để mọi người thấy làm bề tôi gặp cơn biến loạn vẫn phải giữ phép thường, vì thế làm bài ca này”.

Vi Tiểu Bảo nghe thấy liên tiếp ngáp dài, chỉ vì muốn biết trong sách Cố Viêm Vũ viết những gì, nên cố nhẫn nại nghe cho hết, sau cùng nghe y đọc xong cả bài tựa dài, liền hỏi “Hết chưa?”. Ngô Chi Vinh nói “Bên dưới là thơ”. Vi Tiểu Bảo nói “Nếu không có gì quan trọng thì không cần đọc”. Ngô Chi Vinh nói “Rất quan trọng, rất quan trọng”, rồi đọc:

Có Tống di thần Trịnh Tư Tiều, Đau chuyện Hồ Nguyên thay chín miếu. Sức lẻ làm sao đỡ vạc nghiêng, Cô trung muốn gởi sông Tương hiểu. Làm một quyển sách tên Tâm sử, Muôn thuở ấy lòng lòng lẽ ấy. Hộp sắt đem chôn nơi giếng sâu, Trẫm lạy lòng son nay lại thấy. Hồ lỗ trăm năm chưa thấy qua, Thánh vương lấy lại được sơn hà… (Đại nhân, câu Hồ lỗ trăm năm chưa thấy qua, thật là rất đáng chết. Y rủa nhà Đại Thanh ta sẽ hưởng nước không được trăm năm, nói người Hán sẽ có một bậc thánh vương sẽ lấy lại sơn hà. Lấy lại sơn hà là thế nào? Đó chính là lật đổ nhà Đại Thanh ta đấy)”.

Vi Tiểu Bảo nói “Ta nghe hoàng thượng nói nhà Đại Thanh chỉ cần đối xử tốt với bách tính thì sẽ giữ vững được giang sơn, nếu không cho dù nói suông ngàn năm muôn năm gì gì cũng chỉ uổng phí. Có một người ngoại quốc tên Thang Nhược Vọng, y làm Giám chính Khâm thiên giám, ngươi có biết không?”. Ngô Chi Vinh nói “Vâng, ty chức đã nghe qua”. Vi Tiểu Bảo nói “Người ấy làm một bộ lịch thư, tính toán được hai trăm năm. Có người tố cáo y, nói thiên hạ của nhà Đại Thanh là muôn muôn năm, tại sao chỉ tính có hai trăm năm. Lúc ấy Ngao Bái cầm quyền, rất là hồ đồ, lại muốn chém đầu y. May là hoàng thượng thánh minh, chửi Ngao Bái một trận, lại chém đầu người tố cáo, giết hết cả nhà tịch biên gia sản. Hoàng thượng rất không thích người ta vu oan cho người tốt, lấy những câu ma quỷ nhà Đại Thanh có thiên hạ một trăm năm, hai trăm năm gì đó để hại người. Hoàng thượng nói người làm quan tốt thật sự nhất định là thương yêu bách tính, làm việc đương sai cho triều đình thật tốt. Còn như vu cáo người khác, cứ bới móc tội lỗi trong thơ văn ấy à, cái đó gọi là tìm xương trong trứng gà, đó là loại gian thần mặt vằn vện, sai ta nếu gặp loại đầy tớ ấy thì cứ lập tức trói lại đem chém con mẹ nó đi”.

Vi Tiểu Bảo có ý che chở cho Cố Viêm Vũ, sợ Ngô Chi Vinh tố cáo với mình không được lại đi tố cáo với viên quan khác, gây ra chuyện lớn, càng nói lời lẽ vẻ mặt càng giận dữ, định dọa cho Ngô Chi Vinh trở đi không dám nhắc tới chuyện này nữa. Y không biết sở dĩ Ngô Chi Vinh làm được tới chức Tri phủ toàn là nhờ việc tố cáo bộ Minh sử do Trang Đình Long ở Hồ Châu Chiết Giang soạn đã dùng chính sóc nhà Minh, lại có những câu bất kính với nhà Thanh. Bới móc văn tự ngục để cầu công danh phú quý vốn là bản lãnh cầm tay của người này.

Lần này Ngô Chi Vinh tìm được chỗ nắm đằng cán trong thơ văn của Cố Viêm Vũ, Tra Y Hoàng, mừng rỡ khôn xiết, cho là phúc lộc trời cho, có thể được thăng luôn ba cấp, nào ngờ Khâm sai đại nhân lại nói ra một tràng như vậy. Y nhất thời toàn thân đổ mồ hôi lạnh, nghĩ thầm “Mình lôi ra vụ án Minh sử là Ngao Bái đại nhân đích thân ra tay. Ngao Bái đại nhân bị hoàng thượng cách chức xử tội, xem ra tính tình hoàng thượng và Ngao Bái đại nhân hoàn toàn khác nhau, lần này hỏng bét rồi”. Khang Hy bắt được Ngao Bái thế nào, nói ra cũng không vinh dự gì lắm, các đại thần biết ý hoàng thượng, nên trong quan trường rất ít người bàn bạc, Ngô Chi Vinh quan chức nhỏ bé, lại làm quan ở tận Dương Châu, không biết Ngao Bái đại nhân người tri âm duy nhất trong đời của y là chết dưới tay vị Vi đại nhân trước mặt, nếu không đã càng hồn phi phách tán.

Vi Tiểu Bảo thấy y mặt xám như tro, run lên cầm cập, trong lòng mừng thầm, hỏi “Đọc xong chưa?”. Ngô Chi Vinh nói “Bài thơ này còn… còn một nửa nữa”. Vi Tiểu Bảo nói “Đoạn sau nói gì thế?”. Ngô Chi Vinh run rẩy đọc:

Hoàng Hà đã trong người chẳng đợi. Trầm trầm thủy phủ còn soi rọi. Chợt thấy kỳ thư trên thế gian, Lại ghê ngựa giặc ngập giang san. Trời hay thế đạo sắp đổi dời, Nên cho sách ấy lại ra đời. Hơn ba mươi năm lại nhìn thấy, Đồng tâm đồng điệu lại cùng thời. Lục ông đã tới Nhai Môn chết, Tin Quốc quên mình tới Yên thị. Ngày trước ngâm thơ viếng cổ nhân, Lá rụng tre buồn ma núi tủi. Than ôi! Những bọn Bồ Hoàng sao mà đông! Sở Nam thấy đó đau lòng không?” (**)

Y đọc tới mức hơi sau không tiếp hơi trước, cũng không dám chen vào giải thích, rốt lại cũng đọc xong, trên trang sách lấm tấm mồ hôi.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Bài thơ này cũng không có gì, nhưng nói ma núi gì đó, bà mặt vàng gì đó, kể cũng thú vị”. Ngô Chi Vinh nói “Bẩm đại nhân, hai chữ Bồ Hoàng là chỉ Bồ Thọ Canh và Hoàng Vạn Thạch nhà Tống đầu hàng nhà Nguyên làm quan to, đây là châm chọc những người Hán làm quan lại cho nhà Đại Thanh”. Vi Tiểu Bảo sa sầm mặt, dằn giọng nói “Ta nói là Bà mặt vàng thì là Bà mặt vàng. Mặt vợ ngươi có vàng không? Tại sao người ta làm thơ trêu chọc Bà mặt vàng, mà ngươi lại thấy không được?” (***).

Ngô Chi Vinh lui lại một bước, hai tay run lên, bịch một tiếng, tập thơ rơi xuống đất, nói “Vâng, vâng. Ty chức đáng chết”.

Vi Tiểu Bảo thừa cơ phát tác, quát “To gan! Ta kính đọc chỉ dụ của hoàng thượng, giảng giải cho ngươi. Ngươi là một viên quan nhỏ, lại dám vứt cái này ném cái kia trước mặt ta! Ngươi coi thường thánh dụ của hoàng thượng, không phải là tạo phản à?”.

Huỵch một tiếng, Ngô Chi Vinh hai gối quỳ xuống đất, dập đầu lia lịa, nói “Đại… đại nhân tha mạng, tha… tha tội cho tiểu nhân nói bậy”. Vi Tiểu Bảo cười gằn nói “Ngươi vứt đồ vật trước mặt ta, lên cơn giận, chuyện đó cũng thôi, nhiều lắm cũng chỉ là tội khinh mạn Khâm sai đại thần, nặng thì chém đầu, nhẹ thì sung quân, cũng chỉ là chuyện nhỏ…”. Ngô Chi Vinh vừa nghe nói chuyện sung quân chém đầu còn ghê gớm hơn, lại càng dập đầu như giã tỏi, nói “Đại nhân khoan hồng đại lượng, tiểu… tiểu… tiểu nhân biết tội rồi”. Vi Tiểu Bảo quát “Ngươi coi thường thánh dụ của hoàng thượng, giỏi lắm! Cả nhà ngươi từ vợ, tiểu thiếp, con trai, con gái, mẹ vợ, mẹ chồng, a hoàn, tình nhân, tất cả đều lôi ra chém tất”. Ngô Chi Vinh toàn thân rung lên như rây bột, răng gõ vào nhau cầm cập thành tiếng, không nói ra lời được nữa.

Vi Tiểu Bảo thấy dọa y đã đủ, quát hỏi “Cố Viêm Vũ đang ở đâu?”. Ngô Chi Vinh run lên nói “Bẩm… bẩm đại nhân, y… y… y đang ở…”, răng cắn vào lưỡi, nói không rõ ràng, qua một lúc mới run rẩy nói “Ty chức lớn mật, đã bắt Cố Viêm Vũ và họ Tra, còn… còn có một người họ Lã, đều… đều giam tại phủ nha”. Vi Tiểu Bảo hỏi “Ngươi đã khảo vấn chưa? Họ nói gì rồi?”.

Ngô Chi Vinh nói “Ty chức chỉ là tùy tiện hỏi cung vài câu, ba người bọn họ cái gì cũng không chịu khai”. Vi Tiểu Bảo nói “Có đúng là họ không nói gì cả không?”. Ngô Chi Vinh nói “Không… không có. Chỉ có điều… chỉ có điều lục soát trong người họ Tra lấy được một lá thư có quan hệ rất lớn, xin đại nhân xem”. Nói xong lấy trong người ra một cái túi vải, mở túi lấy ra một phong thư, hai tay đưa lên. Vi Tiểu Bảo không cầm lấy, hỏi “Lại là thơ văn gì đấy?”.

Ngô Chi Vinh nói “Không, không phải. Đây là của Đề đốc Quảng Đông Ngô… Ngô Lục Kỳ viết”.

Vi Tiểu Bảo nghe bảy chữ “Đề đốc Quảng Đông Ngô Lục Kỳ” thì giật nảy mình, vội hỏi “Ngô Lục Kỳ à? Y cũng biết làm thơ à?”. Ngô Chi Vinh nói “Không phải. Ngô Lục Kỳ bí mật âm mưu tạo phản, bức thư này là bằng chứng như núi, y không sao chối được. Mới rồi ty chức nói quân vụ cơ mật, một công lao lớn, chính là việc này”. Vi Tiểu Bảo ủa một tiếng, trong bụng kêu thầm “Hỏng bét!”.

Ngô Chi Vinh lại nói “Bẩm đại nhân, người đọc sách làm thơ viết văn, có chút lời lẽ phản nghịch, nhưng đại nhân minh đoán, nói không hề gì, ty chức mười phần khâm phục. Lời tục có câu rất hay là Tú tài tạo phản ba năm không xong, chắc cũng không thành mối nguy lớn. Có điều Ngô Lục Kỳ thống quản binh quyền một tỉnh, y muốn dấy quân làm loạn, nếu triều đình không tiên phát chế nhân, thì… thì không xong đâu”. Y nói tới chuyện Ngô Lục Kỳ tạo phản, mồm mép lập tức trở lại lanh lợi. Nãy giờ y vẫn quỳ dưới đất, thấy Vi Tiểu Bảo vẻ mặt âm trầm bất định, rõ ràng mười phần quan tâm tới chuyện này, bèn từ từ đứng lên. Vi Tiểu Bảo hừ một tiếng, trừng mắt nhìn y. Ngô Chi Vinh hoảng sợ, vội quỳ xuống trở lại.

Vi Tiểu Bảo nói “Trong đó viết cái gì thế?”. Ngô Chi Vinh nói “Bẩm đại nhân, chữ nghĩa trong thư mười phần bí ẩn, y nói phía tây nam sắp có chuyện lớn, đúng là lúc đại trượng phu kiến công lập nghiệp. Y mời họ Tra tới Quảng Đông chỉ dạy cơ nghi. Trong thư nói: Muốn làm chuyện lớn như Trung Sơn, Khai Bình, không mời Thanh Điền tiên sinh vận trù thì không thể thành công. Đây rõ ràng là một lá thư phản”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi lại ăn nói bậy bạ rồi. Phía tây nam sắp có chuyện lớn, ngươi có biết chuyện gì không? Ngươi là một viên quan nhỏ, làm sao biết được quyết sách bí mật của hoàng thượng và triều đình?”. Ngô Chi Vinh nói “Vâng, vâng. Có điều lá thư của y rõ ràng là nói chuyện tạo phản, quả thật không thể coi thường”.

Vi Tiểu Bảo cầm lấy phong thư, rút lá thư ra, chỉ thấy trên giấy viết đầy chữ to bằng nhân hạt đào, chỉ thấy màu mực rất đậm, nét bút rất thô chứ một chữ cũng không biết, nói “Trong thư đâu có nói chuyện tạo phản”.

Ngô Chi Vinh nói “Bẩm đại nhân, lời lẽ tạo phản đương nhiên là không công khai viết ra. Ngô Lục Kỳ là muốn làm Trung Sơn vương, Khai Bình vương, mời họ Tra tới làm Thanh Điền tiên sinh, đó chính là tạo phản rồi”.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Nói bậy! Người làm quan ai lại không muốn được phong vương phong công? Chẳng lẽ ngươi không muốn à? Vị Ngô Quân môn này công lao rất lớn, y muốn lập một công lớn khác cho triều đình, mong mỏi hoàng thượng phong y làm vương gia, như vậy là rất có lòng trung đấy chứ”.

Ngô Chi Vinh sắc mặt cực kỳ nhăn nhó, nghĩ thầm “Nói chuyện với loại người bất học vô thuật nhà ngươi thật là chuyện gì cũng không nói rõ được. Hôm nay ta đã đắc tội với ngươi, nếu không từ chuyện này mà lập công, thì tiền đồ của ta không sao giữ được”. Lúc ấy cố gắng kìm chế, tươi cười nói “Bẩm đại nhân, triều Minh có hai vị đại tướng quân, một người tên Từ Đạt, một người tên Thường Ngộ Xuân”.

Vi Tiểu Bảo từ nhỏ đã nghe tiên sinh kể chuyện kể Đại Minh Anh liệt truyện, chuyện cũ nhà Minh khai quốc đã nghe thuộc lòng, vừa nghe y nói tới hai đại tướng Từ Thường, lập tức tinh thần phấn chấn, khác hẳn với vẻ thiu thiu muốn ngủ lúc y đọc văn thơ mới rồi, cười nói “Hai vị đại tướng quân ấy oai phong tám mặt, rất là lợi hại. Ngươi có biết Từ Đạt dùng binh khí gì không? Thường Ngộ Xuân dùng binh khí gì không?”.

Đây lại trở lại khảo xét Ngô Chi Vinh, y vì vụ án Minh sử mà được thăng quan tiến chức, về lịch sử triều Minh đã đọc thuộc lòng, nhưng Từ Đạt và Thường Ngộ Xuân dùng binh khí gì lại không nói được, liền tươi cười nói “Ty chức học vấn nông cạn, quả thật không biết, xin đại nhân chỉ giáo”.

Vi Tiểu Bảo mười phần đắc ý, mỉm cười nói “Các ngươi chỉ biết đọc sách chết, nên những việc như thế lại không biết. Ta nói với ngươi nhé, Từ đại tướng quân là Nhạc Phi Nhạc gia gia nhà Tống chuyển sinh, sử dụng một ngọn thương Hỗn thiết điểm cương, hông đeo mười tám mũi Lang nha tiễn, bách bộ xuyên dương, không phát nào sai. Thường Ngộ Xuân là Trương Dực Đức người đất Yên thời Tam quốc chuyển sinh, sử dụng một ngọn xà mâu dài trượng tám, có sức khỏe muôn người khôn địch”. Kế kể chuyện Từ Thường hai tướng đại phá quân Nguyên, đều là nghe được từ miệng các tiên sinh kể chuyện, tự nhiên nhiều sự hoang đường, ít điều chân thực.

Ngô Chi Vinh quỳ dưới đất nghe y kể chuyện, đầu gối càng lúc càng tê, để lấy lòng y chỉ đành làm ra vẻ lắng nghe rất thú vị, luôn miệng khen ngợi, may là đã nghe y kể tới đoạn cuối cùng, liền nói “Đại nhân học rộng nhớ dai, ty chức vô cùng khâm phục. Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân công lao rất lớn, sau khi chết, Chu Nguyên Chương phong cho hai người tước vương, một người là Trung Sơn vương, một người là Khai Bình vương. Chu Nguyên Chương có một quân sư…”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng rồi. Quân sư ấy tên Lưu Bá Ôn, trên thông thiên văn dưới tường địa lý, biết được ba ngàn năm về trước, một ngàn năm về sau”. Kế lại thao thao bất tuyệt kể chuyện Lưu Bá Ôn tài năng thông thiên triệt địa thế nào, mưu kế quỷ thần mạc trắc thế nào, lúc đánh trận lại cái gì trong cái gì mà cái gì ngoài ngàn dặm thế nào.

Ngô Chi Vinh hai gối tê dại, không nhịn được nữa, ngồi phệch xuống đất, tươi cười nói “Đại nhân kể chuyện thật hay quá, ty chức nghe tới mức xuất thần. Ân điển của đại nhân, ty chức muốn được đứng nghe, không biết được không?”. Vi Tiểu Bảo cười một tiếng, nói “Được, đứng lên đi”.

Ngô Chi Vinh vịn vào ghế từ từ đứng lên, nói “Bẩm đại nhân, Thanh Điền tiên sinh trong thư của Ngô Lục Kỳ chính là chỉ Lưu Bá Ôn. Lưu Bá Ôn là người Thanh Điền Chiết Giang. Ngô Lục Kỳ muốn làm Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân, muốn họ Tra làm Lưu Bá Ôn”.

Vi Tiểu Bảo nói “Muốn làm Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân thì cũng tốt chứ. Họ Tra kia muốn làm Lưu Bá Ôn, hừ, chưa chắc y đã có bản lãnh như vậy. Ngươi nói Lưu Bá Ôn dễ làm lắm à? Bài Thiêu bính ca của Lưu Bá Ôn nói: Chín chín thanh đao tay nắm chặt, Rợ Hồ giết sạch mới ngừng tay, hà, lợi hại thật, lợi hại thật”.

Ngô Chi Vinh nói “Đại nhân thật thông minh tuyệt đỉnh, nói một câu là đúng. Ba người Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân, Lưu Bá Ôn đều là đánh quân Nguyên, giúp Chu Nguyên Chương đánh đuổi người Hồ. Câu nói trong thư của Ngô Lục Kỳ rõ ràng là nói muốn khởi binh tạo phản, đánh giết người Mãn Châu”.

Vi Tiểu Bảo giật nảy mình, nghĩ thầm “Dụng ý của Ngô đại ca chẳng lẽ ta lại không biết, cần gì ngươi phải nói? Lá thư này quả nhiên là cái cán rất lớn, may là gặp phải tay ta”. Lúc ấy liên tiếp gật đầu, đưa tay vỗ vỗ vai y, nói “Tốt lắm! Thật là may mắn! Nếu ngươi không tới nói chuyện này với ta, thì đại sự không hay rồi. Hoàng thượng nói ta là phúc tướng, quả nhiên là kim khẩu của thánh thượng, không thể sai chạy”.

Ngô Chi Vinh được y vỗ vai vài cái, lập tức xương cốt toàn thân mềm ra, chỉ cảm thấy từ khi lọt lòng mẹ đến nay chưa bao giờ được vinh dự thế này, bất giác cảm kích ứa nước mắt, nghẹn ngào nói “Đại nhân thương yêu như thế, ơn đức này ty chức cho dù tan xương nát thịt cũng khó báo đáp được. Đại nhân là phúc tướng, ty chức theo người làm phúc binh phúc tốt, phúc khuyển phúc mã, cũng là làm rạng rỡ tổ tiên”.

Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, đưa tay lên sờ sờ đầu y, cười nói “Tốt lắm, tốt lắm!”. Ngô Chi Vinh thân hình cao lớn, thấy y sờ lên đầu mình không tiện lắm, vội cúi đầu xuống cho y sờ. Lúc đầu Vi Tiểu Bảo nổi giận, Ngô Chi Vinh quỳ xuống dập đầu, đã bỏ mũ ra, Vi Tiểu Bảo bàn tay đè lên chỗ cạo trọc giữa đỉnh đầu y, từ từ vỗ ra phía sau, giống như vuốt một con chó đang vẫy đuôi xin thương xót, bàn tay mò tới sau gáy y, nghĩ thầm “Ta cũng không cần ngươi tan xương nát thịt, chỉ cần chém vào chỗ này con mẹ nó một đao”. Liền hỏi “Chuyện này ngoài ngươi ra còn có ai biết không?”.

Ngô Chi Vinh nói “Không có, không có. Ty chức biết việc có quan hệ trọng đại, quyết không dám nói hé ra nửa câu, nếu để tên nghịch tặc Ngô Lục Kỳ biết là âm mưu làm phản đã bị bại lộ, lập tức khởi sự, thì đại nhân và ty chức nửa điểm công lao cũng không có”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng, ngươi suy nghĩ rất chu đáo. Chúng ta phải cẩn thận, ngàn vạn lần đừng để Phủ đài, Phiên đài biết được, lại tâu báo lên triều đình trước, cướp mất công lớn của ngươi”. Ngô Chi Vinh trong lòng mừng rơn, liên tiếp thỉnh an, nói “Dạ, dạ. Toàn nhờ đại nhân tài bồi”.

Vi Tiểu Bảo cho lá thư của Ngô Lục Kỳ vào bọc, nói “Những thi tập này cứ để lại đây. Ngươi rón rén về giải mấy người bọn Cố Viêm Vũ tới, ta thẩm vấn minh bạch xong sẽ điểm binh mã sai người áp giải đưa về Bắc Kinh. Ta sẽ đích thân làm tập tâu bẩm lên hoàng thượng. Công lao lớn này thì ngươi là thứ nhất, ta cũng trộm được chút vinh dự đứng thứ hai”. Ngô Chi Vinh mừng rỡ khôn xiết, vội nói “Không, không, đại nhân là thứ nhất, ty chức là thứ hai”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Lúc ngươi gặp hoàng thượng nên nói những câu gì thì ta sẽ dạy kỹ cho ngươi. Chỉ cần hoàng thượng một phen vui vẻ, thì chuyện ngươi làm một chức Tuần phủ, Phiên đài cứ hỏi ta đây là được”.

Ngô Chi Vinh mừng rỡ suýt ngất đi, hai tay đặt thi tập văn tập lên bàn, đùng đùng đùng dập đầu mấy cái rồi cáo từ lui ra.

Vi Tiểu Bảo sợ giữa đường xảy ra biến cố, bèn điểm một đội quân sĩ Kiêu kỵ doanh, sai một viên Tá lãnh dẫn đầu theo Ngô Chi Vinh về áp giải phạm nhân.

***

Y trở vào nội đường, sai người đi gọi bọn Lý Lực Thế tới bàn bạc. Chỉ thấy Song Nhi đi tới. đột nhiên quỳ sụp xuống trước mặt, nức nở nói “Tướng công, tôi xin người một việc”.

Vi Tiểu Bảo vô cùng kinh ngạc, vội nắm tay nàng kéo lên, vẫn không buông tay, ôn tồn nói “Hảo Song Nhi, cô là mạng sống của ta, có chuyện gì nhất định ta sẽ làm cho cô”. Thấy trên mặt nàng nước mắt không ngừng chảy xuống, liền giơ tay trái lên, dùng tay áo lau nước mắt cho nàng. Song Nhi nói “Tướng công, chuyện này rất khó khăn, nhưng tôi… tôi không thể không cầu xin người”. Vi Tiểu Bảo đưa tay trái ôm hông nàng, nói “Chuyện càng khó khăn, mà ta làm được cho cô thì càng chứng tỏ là ta yêu thương hảo Song Nhi. Chuyện gì thế, nói mau đi”.

Song Nhi khuôn mặt trắng bệch thoáng ửng hồng, hạ giọng nói “Tướng công, tôi… tôi muốn giết viên quan vừa vào đây, người không được giận tôi đấy”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Chuyện này thì hai chúng ta chí đồng đạo hợp, cô tới xin ta, đúng là cực hay”. Liền hỏi “Viên quan ấy đắc tội với cô chuyện gì?”. Song Nhi sụt sịt nói “Y không đắc tội với tôi. Gã Ngô Chi Vinh này là đại cừu nhân của nhà tôi, lão gia thiếu gia nhà họ Trang đều là bị y hại chết”.

Vi Tiểu Bảo lập tức hiểu ra, tối hôm trước nhìn thấy ở Trang gia người nào cũng là quả phụ, trong nhà lại bày rất nhiều linh vị, té ra kẻ đầu sỏ tội ác chính là người này, liền hỏi “Cô không nhận lầm người đấy chứ?”.

Song Nhi nước mắt lại thánh thót rơi xuống, nức nở nói “Không… không nhận lầm đâu. Hôm ấy y… y dắt công sai nha dịch tới Trang gia bắt người, tôi tuy còn nhỏ tuổi, có điều dáng vẻ hung ác của y thì nói thế nào tôi cũng không quên được”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Mình phải làm ra vẻ cực kỳ khó khăn, cô ta mới thấy rõ tình cảm của mình”. Bèn nhướng mày lên, trầm ngâm hồi lâu, ngần ngừ nói “Y là mệnh quan của triều đình, Tri phủ Dương Châu, hoàng đế lại vừa khéo sai ta tới Dương Châu làm việc, nếu cô giết y, chỉ e chức quan của ta cũng không làm được nữa. Mới rồi y lại nói một chuyện quan trọng với ta, nếu cô giết y, chỉ e… chỉ e…”.

Song Nhi mười phần sốt ruột, chảy nước mắt nói “Tôi… tôi vốn biết sẽ làm khó cho tướng công. Nhưng lão thái thái, tam thiếu nãi nhà họ Trang… hàng ngày vẫn dập đầu trước linh vị, phát thệ giết bằng được tên quan hung ác họ Ngô này để báo thù rửa hận”.

Vi Tiểu Bảo vỗ đùi một cái, nói “Được! Là hảo Song Nhi của ta xin, cho dù cô muốn ta giết chết hoàng đế, muốn ta tự sát, ta cũng theo lời cô, huống chi là một viên Tri phủ nhỏ nhoi? Nhưng cô phải cho ta hôn môi một cái”.

Song Nhi mặt đỏ bừng, vừa mừng vừa thẹn, quay đầu đi, hạ giọng nói “Tướng công đối xử với tôi rất tốt, tôi… tôi vốn đã là người của tướng công rồi. Người… người…”, nói xong cúi đầu xuống. Vi Tiểu Bảo thấy nàng dịu dàng nhu thuận, trong lòng mềm ra, lại không nỡ khinh bạc với nàng, cười nói “Được, đợi lúc chúng ta đại công cáo thành, ta muốn hôn cô, thì cô không được chạy đấy”. Song Nhi đỏ mặt từ từ gật đầu. Vi Tiểu Bảo nói “Nếu cô giết y ngay bây giờ, thì trả thù như thế không đủ thống khoái, ta cho cô đưa y về Trang gia, bắt y quỳ xuống trước linh vị của các vị lão gia thiếu gia, để bọn tam thiếu nãi nãi đích thân chặt cái đầu chó của y, cô thấy được không?”.

Song Nhi cảm thấy chuyện ấy quả thật rất hay, nhưng chỉ e chưa chắc đã có thật, hai mắt mở tròn nhìn Vi Tiểu Bảo chằm chằm, không dám tin là thật, nói “Tướng công, người không lừa tôi chứ?”. Vi Tiểu Bảo nói “Tại sao ta lại lừa cô? Thằng cẩu quan này đã là kẻ thù của cô thì cũng là kẻ thủ của ta. Y muốn đem tới cho ta một trường phú quý, ta cũng chẳng quý báu gì. Chỉ cần hảo Song Nhi thật lòng đối xử tốt với ta, thì còn hơn tất cả mọi chuyện trên đời”. Song Nhi trong lòng cảm kích, dựa vào người y, nhịn không được lại bật khóc.

Vi Tiểu Bảo ôm eo lưng mềm mại của nàng, trong lòng vui sướng, nghĩ thầm “Món nhân tình này, mỗi ngày cứ làm năm bảy cái cũng không phải nhiều. Tại sao thằng cẩu quan Ngô Chi Vinh không hại chết cha của A Kha nhỉ? Nếu A Kha cũng tới xin mình trả thù, để mình ôm nàng thế này, há chẳng hay sao?”. Kế lập tức xoay chuyển ý nghĩ, cha A Kha không phải là Lý Tự Thành thì là Ngô Tam Quế, làm sao để cho Ngô Chi Vinh hại chết được?.

Chỉ nghe ngoài sảnh có tiếng bước chân, bọn Lý Lực Thế đã tới. Vi Tiểu Bảo nói “Chuyện này cứ yên tâm đi. Bây giờ ta có chuyện quan trọng cần bàn với mọi người. Cô ra ngoài canh cửa, đừng để ai vào, cũng đừng nghe trộm chuyện bọn ta nói đấy”. Song Nhi ứng tiếng “Vâng. Trước nay tôi không hề nghe trộm người nói chuyện”. Đột nhiên kéo tay phải Vi Tiểu Bảo lên, cúi xuống hôn một cái, rồi nép người bước ra cửa.

***

Bọn Lý Lực Thế quần hùng Thiên địa hội vào tới trong phòng, chia nhau ngồi xuống. Vi Tiểu Bảo nói “Các vị ca ca, tối hôm qua ta nghe được một tin tức quan trọng, sự tình khẩn cấp, không kịp bàn bạc với các vị, vội vàng tới Lệ Xuân viện. Kể ra cũng còn may, tuy ầm ĩ lên một trận, rốt lại cũng cứu được tính mạng của Cố Viêm Vũ tiên sinh và Ngô Lục Kỳ đại ca”.

Quần hùng vô cùng kinh ngạc, chuyện tối hôm qua của Vi Hương chủ quả thật quá đỗi hoang đường. Chuyện chơi gái ngủ lại kỹ viện thì cũng thôi, nhưng lại khiêng một chiếc giường lớn trong kỹ viện ra, đưa bảy cô gái đi trên đường phố, ầm ĩ nháo nhào hết mức té ra lại là để cứu mạng Cố Viêm Vũ và Ngô Lục Kỳ, thật là có nghĩ nát óc cũng không sao hiểu được, lúc ấy bèn cùng hỏi đầu đuôi.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Lúc chúng ta ở Côn Minh, các vị ca ca từng giả làm vệ sĩ của Ngô Tam Quế tới kỹ viện uống rượu đánh nhau. Huynh đệ cảm thấy kế sách ấy không kém, đêm qua theo đúng bài bản, cũng là một lần”. Quần hùng gật đầu, đều nghĩ “Té ra là thế”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm nếu lại nói nhiều thì không khỏi lòi đuôi, liền nói “Tình tiết bên trong cũng không cần nói rõ” rồi đưa tay vào bọc lấy lá thư của Ngô Lục Kỳ ra.

Tiền Lão Bản đón lấy, trải ra trên bàn, cùng mọi người đọc, chỉ thấy đầu thư viết “Y Hoàng nhân huynh tiên sinh đạo giám”, cuối thư thự danh là “Tuyết trung thiết cái” bốn chữ. Mọi người biết Tuyết trung thiết cái là ngoại hiệu của Ngô Lục Kỳ, nhưng Y Hoàng tiên sinh là ai thì đều không biết. Quần hùng ngấn mực trong bụng cũng rất có hạn, đoán câu “Phía tây nam sắp có chuyện lớn” trong thư là chỉ việc Ngô Tam Quế chuẩn bị tạo phản, nhưng về những điển cố ẩn ngữ như “Muốn làm chuyện to lớn như Trung Sơn, Khai Bình”, “Không mời Thanh Điền tiên sinh vận trù thì không thể thành công” gì gì đều hoàn toàn không biết, ngớ mặt nhìn nhau, chờ Vi Tiểu Bảo giải thích.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Huynh đệ trong bụng đầy canh bào ngư và miến cá Dương Châu, nửa điểm ngấn mực cũng không có. Trong bụng các vị ca ca nghĩ chắc cũng trà rượu nhiều hơn ngấn mực. Cố Viêm Vũ tiên sinh không bao lâu sẽ tới đây, chúng ta mời lão tiên sinh người giải thích là được”.

Đang lúc trò chuyện, thân binh báo có khách tới thăm, một người là đại Lạt ma, một người là vương tử Mông Cổ. Vi Tiểu Bảo xin quần hùng Thiên địa hội đóng vai thân binh ra tiếp kiến, sợ hai người “Huynh trưởng kết nghĩa” này trở mặt vô tình, một mặt sai người đi mời A Kỳ ra.

Lúc gặp nhau, Tang Kết và Cát Nhĩ Đan lại mười phần thân thiết, ca ngợi Vi Tiểu Bảo nghĩa khí sâu nặng. Đến khi A Kỳ mừng mừng rỡ rỡ bước ra gặp mặt, Cát Nhĩ Đan lại càng vui mừng khôn xiết. Lúc ấy A Kỳ đã sớm được tháo khóa tay, tô son đánh phấn, trang điểm đâu vào đấy.

Vi Tiểu Bảo cười nói “May là hai vị ca ca võ công cái thế, đánh lùi được bọn yêu nhân, nếu không thì cái mạng nhỏ của huynh đệ thật không giữ được. Bọn yêu nhân ấy võ công không kém, nhân số lại đông. Hai vị ca ca lấy ít thắng nhiều, đánh cho bọn chúng té cứt vãi đái, cắm đầu bỏ chạy, huynh đệ vô cùng khâm phục. Chúng ta phải bày một tiệc mừng công, để ăn mừng hai vị ca ca oai chấn thiên hạ, đại thắng trở về”.

Tang Kết và Cát Nhĩ Đan rõ ràng là bị Thần Long giáo bắt sống, may được Vi Tiểu Bảo thả Hồng phu nhân ra đánh đổi cho về, nhưng theo lời Vi Tiểu Bảo thì cứ như hai người bọn họ đánh cho địch nhân một trận tơi bời. Tang Kết trên mặt có vẻ xấu hổ, trong lòng ngấm ngầm cảm kích. Cát Nhĩ Đan thì mặt mày hớn hở, đắc ý dương dương trước mặt người yêu.

Khâm sai nói một tiếng bày tiệc, trên đại sảnh lập tức có yến tiệc bày ra. Vi Tiểu Bảo đứng lên mời rượu hai vị nghĩa huynh, lời lẽ tâng bốc tuôn ra, nói tới đoạn sau thì cả Tang Kết cũng quên mất nỗi nhục bị bắt. Chỉ là Vi Tiểu Bảo khen võ công của y là thiên hạ đệ nhất thì Tang Kết xua tay lia lịa, tự biết so với Hồng giáo chủ thì còn kém xa.

Uống rượu được một lúc, Tang Kết và Cát Nhĩ Đan đứng lên cáo từ. Vi Tiểu Bảo nói “Hai vị ca ca, tốt nhất xin các vị mỗi người viết một tờ tấu chương, để huynh đệ trình lên hoàng đế. Tương lai đại ca muốn làm Phật sống Tây Tạng, nhị ca muốn làm Chỉnh Cá Nhi hảo thì huynh đệ nhất định sẽ nói giúp thêm trước mặt hoàng thượng”. Nói tới đó lại hạ giọng “Ngày sau lúc lão tiểu tử Ngô Tam Quế dấy quân tạo phản, hai vị ca ca giúp hoàng đế đánh y, chuyện của chúng ta lẽ nào lại không thành công?”. Hai người cả mừng, đều nói có lý.

Vi Tiểu Bảo dắt hai người vào thư phòng. Cát Nhĩ Đan nói “Ngu huynh về khoản chữ nghĩa không thông thạo lắm, đạo tấu chương này nhờ huynh đệ viết giùm là được”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Ngay cả tên của mình huynh đệ cũng chỉ biết có chữ Tiểu, viết ra đảm bảo không sai, chứ chữ Vi thì không nắm chắc. Còn như chữ Bảo thì viết lui viết tới cũng vẫn không đúng. Chúng ta gọi sư gia tới viết giúp thôi”. Tang Kết nói “Chuyện này mười phần cơ mật, không thể để người ta biết được. Ngu huynh chữ nghĩa cũng không giỏi giang gì, viết qua quít thì được. May là bọn ta không phải là thi Trạng nguyên, hoàng thượng cũng không cần để ý có văn hay chữ tốt không, chỉ cốt không sai ý tứ là được”. Y tuy ngón tay nào cũng bị mất một đốt nhưng vẫn có thể viết chữ được, lúc ấy bèn viết tờ tấu chương của mình, lại viết thay cho Cát Nhĩ Đan, để Cát Nhĩ Đan đóng ấn riêng, vẽ hoa áp lên.

Ba người nhắc lại lời thề trước, sắp tới phú quý cùng hưởng, hoạn nạn cùng chịu, quyết không phụ tình kết nghĩa. Vi Tiểu Bảo sai người bưng ra ba mâm vàng bạc chia tặng ba vị nghĩa huynh và A Kỳ, thắng ngựa sắp kiệu, kính cẩn đưa ra cổng.

Lúc trở vào sảnh, thân binh báo Ngô Tri phủ đã áp giải phạm nhân tới. Vi Tiểu Bảo sai Ngô Chi Vinh ngồi chờ ở Đông sảnh, dắt ba người bọn Cố Viêm Vũ vào nội đường, mở khóa tay ra, đuổi thân binh ra, chỉ giữ quần hùng Thiên địa hội ở lại, cài then cửa, khom lưng làm lễ, nói “Vi Tiểu Bảo Hương chủ Thanh Mộc đường Thiên địa hội suất lãnh các huynh đệ tham kiến Cố quân sư và Tra tiên sinh, Lã tiên sinh”.

Hôm trước Tra Y Hoàng nhận được thư của Ngô Lục Kỳ, rất là mừng rỡ, hẹn Lã Lưu Lương cùng tới Dương Châu tìm Cố Viêm Vũ bàn bạc, không ngờ Ngô Chi Vinh vừa khéo tra xét được tập thơ của Cố Viêm Vũ, mang sai dịch bổ khoái tới bắt người, Tra Lã hai người cũng cùng bị bắt. Vừa mới lục soát, đã lấy được lá mật thư của Ngô Lục Kỳ trong người Tra Y Hoàng. Ba người thẹn thùng căm hận muốn chết, đều nghĩ mình mất mạng không hề gì, nhưng âm mưu bí mật của Ngô Lục Kỳ mà bị tiết lộ thì đại sự hỏng mất. Nào ngờ núi lạ chợt mọc, Khâm sai đại thần lại tự xưng là Hương chủ của Thiên địa hội, bất giác kinh ngạc mừng rỡ xen lẫn, như đang trong mơ.

Trong Sát quy đại hội ở phủ Hà Gian lần trước, Vi Tiểu Bảo không hề ra mặt, nhưng bọn Lý Lực Thế, Từ Thiên Xuyên, Huyền Trinh đạo nhân, Tiền Lão Bản đều đã gặp Cố Viêm Vũ. Ba người Cố, Tra, Lã năm xưa gặp nguy hiểm trên thuyền ở Vận Hà, từng được Trần Cận Nam Tổng đà chủ Thiên địa hội cứu thoát, đến khi biết viên Khâm sai thiếu niên trước mặt chính là đệ tử của Trần Cận Nam, lúc ấy lại càng không nghi ngờ gì, vui vẻ trò chuyện. Tra Y Hoàng giải thích điển cố “Trung Sơn, Khai Bình, Thanh Điền tiên sinh” trong thư của Ngô Lục Kỳ, quần hùng Thiên địa hội mới hiểu ra, luôn miệng nói nguy hiểm thật.

Lã Lưu Lương thở dài nói “Năm xưa ba người bọn ta, còn có một vị Hoàng Lê Châu Hoàng huynh, đội ơn tôn sư cứu mạng, hôm nay không cẩn thận rước lấy tai họa, lại được Vi huynh đệ giải nạn. Ờ, đúng là hoàn toàn vô dụng ấy thư sinh, đại ân đại đức của hiền sư đồ thật càng không thể báo đáp”.

Vi Tiểu Bảo nói “Mọi người là người nhà, Lã tiên sinh cần gì khách khí?”.

Tra Y Hoàng nói “Bọn công sai nha môn phủ Dương Châu đột nhiên phá cửa xông vào, quả thật sét đánh không kịp bưng tai, ta vừa thấy tình thế không xong, vừa định lấy thư của Ngô huynh ra hủy đi thì đã bị bọn công sai giữ chặt hai tay, bẻ quặt ra sau lưng. Chỉ nghĩ rằng trường đại họa này quả thật không nhỏ nhưng huynh đệ đã quyết định chủ ý, là lúc bị tra tấn, sẽ khai Tuyết trung thiết cái viết lá thư này chính là Ngô Tam Quế. Cho dù cái mạng già này của huynh đệ không giữ được, thì hay dở gì cũng phải chu toàn cho Ngô Lục Kỳ Ngô huynh”.

Mọi người hô hô cười rộ, đều nói kế ấy rất hay. Tra Y Hoàng nói “Đó cũng là hạ sách bất đắc dĩ thôi. Tuyết trung thiết cái nổi tiếng thiên hạ, chỉ e không thể kéo vào với Ngô Tam Quế. Nếu quan lại tra khảo điều tra ra được bút tích của Ngô huynh, tra nghiệm rõ ràng, thì chuyện đảo lộn thị phi không lộ ra không xong”. Cố Viêm Vũ nói “Hai lần bọn ta làm tiết lộ bí mật của Ngô huynh, hai lần được cứu, đủ thấy trong cõi u minh tự có ý trời, khí vận của người Thát Đát không dài, Ngô huynh ắt sẽ đại công cáo thành. Nhưng từ nay trở đi không thể nói tới chuyện này nữa, không thể có may mắn lần thứ ba đâu”. Mọi người đồng thanh khen phải, Cố Viêm Vũ hỏi Vi Tiểu Bảo “Vi Hương chủ, ngươi thấy chuyện này nên kết thúc thế nào là tốt?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Khó được gặp gỡ ba vị tiên sinh, xin mời ba vị ở lại đây vài hôm, mọi người cùng uống rượu. Cứ gọi thằng cẩu quan Ngô Chi Vinh tới đây cho y đứng bên cạnh nhìn, cũng đủ dọa y chết luôn. Nếu thằng cẩu quan ấy lớn mật lại không chịu sợ mà chết, thì cứ một đao chém cái đầu chó của y là được”. Cố Viêm Vũ cười nói “Cách ấy tuy có thể hả giận, nhưng e sẽ tiết lộ phong thanh. Thằng cẩu quan này là mệnh quan của triều đình, Vi Hương chủ muốn giết y, rốt lại cũng phải có một tội danh mới được”.

Vi Tiểu Bảo ngẫm nghĩ một lúc, nói “Có rồi. Xin Tra tiên sinh viết một lá thư giả, là của Ngô Tam Quế gởi cho thằng cẩu quan này. Thằng cẩu quan này thổi da bò, nói theo vai vế thì Ngô Tam Quế là chú họ gì đó của y, nếu viết thư giả quá phiền phức thì sao lá thư của Ngô Lục Kỳ Ngô đại ca ra một bản là được, chỉ thay đổi tên tuổi trên dưới. Bất kể ai câu kết với Ngô Tam Quế mà ta chém đầu y, tiểu hoàng đế nhất định cũng sẽ tán thành”.

Mọi người nhất tề khen hay. Cố Viêm Vũ cười nói “Vi Hương chủ tài tứ mẫn tiệp, kế sách di hoa tiếp mộc này có thể nói là một mũi tên bắn rơi hai con chim điêu, là lấy đạo của người ấy trị lại chính người ấy. Y Hoàng huynh, mời ngươi vung bút một phen thôi”. Tra Y Hoàng cười nói “Thật không ngờ hôm nay lại một phen làm ký thất cho thằng lão tặc Ngô Tam Quế”.

Vi Tiểu Bảo lấy suy bụng ta ra bụng người, cho rằng viết một lá thư giả rất khó, vì thế đề nghị sao nguyên văn lá thư kia. Nhưng Cố, Tra, Lã ba người là danh sĩ đương thời, cầm bút viết thư cũng như Vi Tiểu Bảo gieo xúc xắc chơi bài cẩu, thật như cơm bữa, có gì đáng nói? Tra Y Hoàng cầm bút lên, đang định viết, chợt hỏi “Không biết tên tự của Ngô Chi Vinh là gì? Ngô Tam Quế gửi thư cho y, nếu dùng tên tự, thì lại càng rõ ra là quen biết”. Vi Tiểu Bảo nói “Cao đại ca, nhờ ngươi ra hỏi thử thằng cẩu quan ấy xem”.

Cao Ngạn Siêu ra ngoài hỏi, rồi trở vào cười nói “Thằng cẩu quan ấy tên tự là Hiển Dương. Y hỏi hỏi tên tự của y làm gì, ta nói Khâm sai đại thần muốn gửi thư cho các vị Thượng thư bộ Lại, bộ Hình ở kinh, khen ngợi công lao của y, trình báo chức quan tên tự của y. Thằng cẩu quan ấy cười tới mức không ngậm miệng lại được, thưởng cho ta mười lượng bạc”, nói xong ném một nén bạc trong tay lên bàn. Mọi người đều cười ầm lên.

Tra Y Hoàng vung bút một phen là viết xong, đưa cho Cố Viêm Vũ, nói “Đình Lâm huynh xem có được không?”, Cố Viêm Vũ đón lấy, Lã Lưu Lương cũng ghé mắt vào đọc, đều nói “Hay lắm, hay lắm”. Lã Lưu Lương cười nói “Câu Nào ngờ Thái tổ Cao hoàng đế ta đầu tiên xưng là Ngô quốc, lại qua ba trăm năm thì đến họ chú cháu ta, chữ Ngô ấy đúng là buộc chết, không sao chối được”, Cố Viêm Vũ cười nói “Hai câu Muốn chém chết rắn trắng mà ca bài Đại phong, mong cháu cầu Dĩ dâng giày, nghĩ dấy quân Hào Thượng mà định đô ở Ứng Thiên, mong cháu Thành Ý nhận tước là biến hóa từ câu Muốn làm chuyện lớn như Trung Sơn, Khai Binh, không mời Thanh Điền tiên sinh vận trù thì không thể thành công của Lục Kỳ huynh”. Tra Y Hoàng cười nói “Theo đúng bài bản, học bước Hàm Đan thôi”.

Quần hùng Thiên địa hội ngớ mặt nhìn nhau, không biết ba người bọn họ nói những gì, chỉ cho rằng đó là loại ám ngữ bang hội, tiếng lóng giang hồ gì đó.

Cố Viêm Vũ bèn giải thích với mọi người, lúc đầu Minh Thái tổ Chu Nguyên Chương tự xưng là Ngô quốc công, về sau mới xưng là Ngô vương, vừa khéo trùng với họ của Ngô Tam Quế. Ngô Chi Vinh, chém chết rắn trắng, ca bài Đại phong là chuyện Hán Cao tổ Lưu Bang, cầu Dĩ dâng giày là điển Trương Lương, Chu Nguyên Chương dấy quân ở Hào Thượng mà định đô ở Ứng Thiên, người được phong Thành Ý bá là Lưu Bá Ôn.

Vi Tiểu Bảo vỗ tay nói “Lá thư này viết còn hay hơn thư của Ngô Lục Kỳ đại ca, Ngô Tam Quế vốn muốn làm hoàng đế. Chỉ có điều so y với Hán Cao tổ, Chu Nguyên Chương thì không khỏi quá tâng bốc y”. Lã Lưu Lương cười nói “Đây là Ngô Tam Quế tự mình tâng bốc mình chứ không phải Tra tiên sinh tâng bốc y”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Đúng, đúng, ta quên mất đây là thư do Ngô Tam Quế viết”. Tra Y Hoàng hỏi “Phía dưới thự danh thế nào là được?”.

Cố Viêm Vũ nói “Lá thư này bất kể ai xem cũng biết là Ngô Tam Quế viết, ký tên càng hàm hồ thì càng giống thật, cứ viết bốn chữ Thúc Tây thủ trát là được”, rồi nhìn Tiền Lão Bản nói “Tiền huynh, bốn chữ này nhờ ngươi viết giúp, chữ của bọn ta có khí phái thư sinh, không giống như bậc võ tướng cầm quân”.

Tiền Lão Bản cầm bút lên run run viết chữ, ngượng nghịu nói “Bốn chữ này xiên xiên xẹo xẹo, thật không ra sao”, Cố Viêm Vũ nói “Ngô Tam Quế là võ tướng, lá thư này tự nhiên là do ký thất viết. Bốn chữ thự danh này viết rất đẹp, không chương pháp kiểu cách nhưng rất có khí lực, giống chữ của bậc võ tướng”.

Tra Y Hoàng viết trên phong bì mười hai chữ “Kính trình Tri phủ phủ Dương Châu Ngô lão gia mở xem” cho lá thư vào dán lại đưa Vi Tiểu Bảo, mỉm cười nói “Ngụy tạo thư tín không khỏi có chỗ tổn âm đức, không phải hành vi của bậc chính nhân quân tử. Có điều vì đại nghiệp hưng phục, cũng chỉ đành không câu nệ tiểu tiết”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Đối phó với loại cẩu tặc như Ngô Tam Quế, thì giả mạo một lá thư có hề gì? Bọn người đọc sách thật cổ hủ đáng cười”. Liền nhận lá thư, nói “Chuyện này làm xong rồi, chúng ta uống rượu để tiếp phong ba vị tiên sinh”.

Cố Viêm Vũ nói “Vi huynh đệ và Lục Kỳ huynh một văn một võ, nhất định là cột trụ của nhà Minh trung hưng, Đặng Cao Mật, Quách Phần Dương chẳng qua cũng chỉ đến thế mà thôi. Nếu có thể đánh đổ thằng lão tặc Ngô Tam Quế thì cũng như chặt được một cánh tay của người Thát Đát. Chén rượu này của Vi huynh đệ xin để lúc đại công cáo thành sẽ uống. Ba người bọn ta xin cáo từ, để khỏi nấn ná ở đây, tiết lộ phong thanh, làm hỏng việc lớn”.

Vi Tiểu Bảo trong lòng tuy rất kính trọng ba người bọn họ, nhưng ba vị danh sĩ này nói chuyện thì nhai văn nhá chữ, câu nào cũng có điển cố, muốn hiểu được một nửa cũng rất không dễ, trò chuyện với họ thêm một lúc là thấy toàn thân không thoải mái, nghe nói họ muốn đi, quả là mong còn chưa được, nghĩ thầm “Ba tiên sinh già các ngươi nhất định không thích đánh bạc, nhìn thấy các cô nương trong kỹ viện chỉ e sẽ hoảng sợ tới mức hồn bất phụ thể. Nếu ta chửi một câu Con mẹ nó, các ngươi mà không trợn mắt thổi râu không xong, thôi thì cứ đi cho mau”.

Lúc ấy bèn lấy ra một tập ngân phiếu, chia tặng mỗi người một ngàn lượng bạc làm lộ phí, nhờ Từ Thiên Xuyên và Cao Ngạn Siêu hộ tống họ theo cửa sau ra thành.

Cố, Tra, Lã ba người vừa đi, Vi Tiểu Bảo toàn thân nhẹ nhõm, nghĩ thầm “Những người làm quan văn trong triều, ai cũng là người đọc sách, cũng có chỗ thú vị riêng. Vui chơi với các quan lớn ở Giang Tô loại Mã Phủ đài, Mộ Phiên đài thì có thể sánh được với bọn Cố tiên sinh, Tra tiên sinh. Còn như kết giao bằng hữu thì loại đầu chó như Ngô Chi Vinh cũng còn hơn ba vị lão tiên sinh”. Đang nghĩ tới Tuần phủ, Bố chánh thì thân binh vào báo Tuần phủ và Bố chánh cầu kiến. Vi Tiểu Bảo hoảng sợ “Chẳng lẽ chuyện lộ ra rồi à?”.

***

Vi Tiểu Bảo ra sảnh gặp mặt, thấy hai người thần sắc nghiêm trang, trong lòng không kìm được hồi hộp. Chủ khách làm lễ ngồi xuống. Tuần phủ Mã Hựu rút trong tay áo ra một tờ công văn, đứng lên hai tay đưa qua, nói “Khâm sai đại nhân, xảy ra chuyện lớn rồi”. Vi Tiểu Bảo cầm tờ công văn đưa qua Bố chánh Mộ Thiên Nhan nói “Huynh đệ không biết chữ, nhờ lão huynh đọc giùm”. Mộ Thiên Nhan nói “Vâng”. Rồi mở tờ công văn ra, y đã biết nội dung, liền nói “Đại nhân, đây là văn thư Khẩn cấp Sáu trăm dặm của bộ Binh trong kinh gởi, sai chuyển báo với đại nhân, gã phản tặc Ngô Tam Quế đã dấy quân tạo phản”.

Vi Tiểu Bảo nghe thấy cả mừng nhịn không được nhảy bật dậy kêu lên “Con mẹ nó, lão tiểu tử ấy quả nhiên đã nổi dậy rồi”.

Mã Hựu và Mộ Thiên Nhan ngớ mặt nhìn nhau. Khâm sai đại nhân vừa nghe tin Ngô Tam Quế tạo phản, lại mừng rỡ như điên, không biết là có ý gì.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Hoàng thượng thần cơ diệu toán, đã sớm đoán được chuyện này. Hai vị không cần hoảng sợ. Binh mã, lương thảo, đại pháo, thuốc súng, lương tiền, khí giới của hoàng thượng cái gì cũng đã chuẩn bị đầy đủ rồi. Lão tiểu tử Ngô Tam Quế không động thủ thì thôi, chứ y vừa tạo phản, thì chúng ta không bắt được Trần Viên Viên của y không xong”. Mã Hựu và Mộ Thiên Nhan tuy nghe lời lẽ của y bất luân bất loại, nhưng nghe nói hoàng thượng đều đã chuẩn bị tất cả, rốt lại cũng yên tâm không ít. Ngô Tam Quế giỏi việc dùng binh, dưới trướng quân mạnh ngựa khỏe, vừa nghe y dấy quân tạo phản, các quan lại đều trong lòng run sợ, chỉ sợ cái mũ sa trên đầu không thể giữ nổi.

Vi Tiểu Bảo nói “Có một chuyện rất kỳ lạ”. Hai người cùng nói “Xin nói rõ”. Vi Tiểu Bảo nói “Tin tức này là hai vị vừa nhận được phải không?”. Mã Hựu nói “Vâng. Ty chức vừa nhận được công văn của bộ Binh, lập tức thông tri cho Phiên đài đại nhân tới ngay hành viên của đại nhân”. Vi Tiểu Bảo nói “Có đúng là chưa hề tiết lộ ra không?”. Hai người cùng nói “Chuyện quân quốc đại sự thế này còn xin đại nhân định đoạt. Bọn ty chức ngàn vạn lần không dám tiết lộ”. Vi Tiểu Bảo nói “Nhưng Tri phủ phủ Dương Châu đã biết trước rồi, há không phải có chỗ kỳ lạ sao?”.

Mã Hựu và Mộ Thiên Nhan nhìn nhau một cái, đều rất kinh ngạc. Mã Hựu nói “Xin hỏi đại nhân, không biết Ngô Tri phủ đã nói những gì”. Vi Tiểu Bảo nói “Y vừa úp úp mở mở nói với ta là phía tây nam sắp có chuyện lớn, có người muốn làm Chu Nguyên Chương, y sẽ làm Lưu Bá Ôn. Y khuyên ta nên biết thời vụ, bắt giam hai người các vị. Ta nghe không hiểu lắm, cái gì mà Chu Nguyên Chương, Lưu Bá Ôn, ăn nói bậy bạ, đang chửi mắng y thì hai người các vị tới”.

Hai người giật nảy mình, biến hẳn sắc mặt. Mã Hựu là người tầm thường, nhưng Mộ Thiên Nhan rất có tài ứng biến, hạ giọng nói “Ngô Mỗ nói thế là kích động người ta tạo phản. Y không sợ mất đầu rồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta lại không hiểu y nói những gì, bảo y nói cho rõ hơn. Y ném túi sách ra, nói phát trước phát sau gì đó. Ta nói lão tử còn nhỏ tuổi đã làm tới quan lớn, còn không phải là phát trước à”.

Mã Hựu và Mộ Thiên Nhan đều nghĩ thầm “Ngô Tri phủ là nói Phát đòn trước khống chế người, phát đòn sau bị người khống chế. Khâm sai đại nhân không có học vấn, còn tưởng là phát đạt trước, phát đạt sau”. Hai người lão thành lịch lãm, cũng không nói ra. Nào ngờ câu thành ngữ nói Phát đòn trước khống chế người thì từ nhỏ Vi Tiểu Bảo đã nghe tiên sinh kể chuyện nói qua không biết bao nhiêu lần, lần này không phải không có học vấn, mà là giả ngu.

Mã Hựu nói “Ngô Tri phủ to gan thật! Không biết y đã đi chưa?”. Vi Tiểu Bảo nói “Y còn đợi ở đây, nói muốn bàn bạc kế lớn với ta. Hừ, y là một viên Tri phủ nhỏ nhoi, có kế lớn gì mà bàn bạc với ta chứ? Kế lớn đánh Ngô Tam Quế thì huynh đệ cũng chỉ bàn bạc với hai vị, không cần nghe một gã Tri phủ nhỏ nhoi như y chót chét”. Mã Hựu nói “Vâng, vâng. Xin đại nhân gọi Ngô Tri phủ ra đây cho ty chức hỏi y vài câu được không?”. Vi Tiểu Bảo nói “Tốt lắm!”, rồi quay lại sai thân binh “Mời Ngô Tri phủ ra đây”.

Ngô Chi Vinh bước vào đại sảnh, chỉ thấy Tuần phủ và Bố chánh đang ngồi đó, bất giác vừa mừng vừa lo, mừng vì Khâm sai đại nhân mười phần coi trọng tin tức mật báo của mình, mời cả Phủ đài Phiên đài tới cùng bàn bạc, lo là tin tức một khi tiết lộ, Tuần phủ và Bố chánh không khỏi sẽ chia chác công lớn với mình, lúc ấy bước lên thỉnh an tham kiến, buông tay đứng hầu.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Mời Ngô Tri phủ ngồi”. Ngô Chi Vinh nói “Vâng, vâng, đa tạ đại nhân cho ngồi”, rồi ngồi xuống mép ghế. Vi Tiểu Bảo nói “Ngô Tri phủ, ngươi có một việc đại sự tới bàn bạc với huynh đệ, tuy ngươi nói đi nói lại là không thể để Phủ đài đại nhân và Phiên đài đại nhân biết được, nhưng chuyện này mười phần trọng đại, đành phải mời hai vị đại nhân tới đây cùng bàn, xin ngươi đừng trách”. Ngô Chi Vinh lập tức vẻ mặt nhăn nhó, vội đứng lên thỉnh an Vi Tiểu Bảo và Phủ đài Phiên đài ba người, tươi cười nói “Ty chức lớn mật, xin ba vị đại nhân minh giám. Chuyện này… chuyện này…”. Y định nói vài câu lấp liếm, nhưng Vi Tiểu Bảo đã mở cửa thấy núi nói toạc ra, bất kể nói thế nào cũng không lấp liếm được. Vẻ mặt của hai người Tuần phủ, Bố chánh tự nhiên vốn đã khó coi lại càng rất khó coi.

Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói “Tin tức của Ngô Tri phủ mười phần linh thông, y nói ở tây nam có một vị võ tướng tay cầm binh mã đại quyền nay mai sẽ dấy quân tạo phản. Y mà dấy quân thì thật là không xong, thiên hạ chấn động, ngai vàng của hoàng thượng cũng ngồi không vững nữa, nói chúng ta biết đâu cũng đều sẽ đầu rơi xuống đất, phải không?”. Ngô Chi Vinh nói “Vâng. Có điều ba vị đại nhân hồng phúc ngang trời, tự nhiên sẽ phùng hung hóa cát, gặp nạn thành may, nhất định không phải sợ sệt điều gì”.

Vi Tiểu Bảo nói “Đó là nhờ vào phúc của Ngô đại nhân. Ngô đại nhân, vị võ tướng ấy cũng là họ Ngô, đồng tông với ngươi chứ gì?”. Ngô Chi Vinh ứng tiếng “Vâng, đây là tệ tông…”. Vi Tiểu Bảo ngắt lời nói “Ngươi lấy được một lá thư của vị võ tướng ấy, là y đích thân viết, lá thư ấy không phải là giả chứ?”. Ngô Chi Vinh nói “Ngàn thật muôn đúng, quyết không phải là giả”.

Vi Tiểu Bảo gật đầu nói “Trong lá thư ấy tuy không nói muốn dấy quân tạo phản, chẳng qua chỉ nói chuyện Chu Nguyên Chương, Lưu Bá Ôn gì đó. Huynh đệ chưa nhìn thấy thư, không biết trong thư nói gì, Ngô đại nhân giải thích cho huynh đệ ý tứ trong thư, muốn huynh đệ lập tức động thủ, phát trước phát sau gì đó, nói đây là cơ hội trăm năm khó có, một trường đại phú quý nhất định nắm chắc trong tay, huynh đệ có thể được phong vương, còn Ngô đại nhân cũng có thể được phong tước bá gì đó, phải không?”. Ngô Chi Vinh nói “Đó là theo thiển kiến của ty chức, đại nhân minh đoán còn hơn ty chức hàng trăm lần. Lời lẽ trong lá thư, quả đúng là có ý ấy”.

Vi Tiểu Bảo lấy trong tay áo bên phải ra phong thư của Ngô Lục Kỳ, đưa tới trước mặt Ngô Chi Vinh, thân hình nghiêng đi che khuất phong thư, nói “Chính là lá thư này, phải không? Ngươi nhìn cho rõ, chuyện có quan hệ trọng đại, không thể lầm lẫn”. Ngô Chi Vinh nói “Vâng, vâng, chính là lá thư này, quyết không lầm đâu”. Vi Tiểu Bảo nói “Tốt lắm”, rồi nhét phong thư vào tay áo bên phải, xoay người lại nói “Ngô Tri phủ, xin ngươi tạm thời lui ra, để ta bàn bạc với hai vị Phủ đài đại nhân và Phiên đài đại nhân. Xem ra công danh phú quý của ba người bọn ta toàn nhờ vào Ngô đại nhân ngươi đấy, hô hô”.

Ngô Chi Vinh trên mặt không giấu được vẻ đắc ý, lại hướng về ba người thỉnh an, nói “Toàn nhờ vào ân điển của ba vị đại nhân tài bồi”, rồi nghiêng người từ từ lui ra. Vi Tiểu Bảo chờ y đi tới cửa, hỏi “Ngô Tri phủ, tên tự của ngươi là gì?”. Ngô Chi Vinh nói “Không dám. Ty chức tiện danh là Chi Vinh, thảo tự là Hiển Dương”. Vi Tiểu Bảo gật gật đầu, nói “Thế thì đúng rồi”.

Lúc Vi Tiểu Bảo hỏi Ngô Chi Vinh, Mã Hựu và Mộ Thiên Nhan hai người trong lòng đều đã rất tức giận, chỉ là theo quy củ quan trường thì thượng quan đang nói chuyện, thuộc hạ không dám nói chen vào. Mã Hựu tính tình nóng nảy, đang định quát tháo thì Vi Tiểu Bảo đã sai Ngô Chi Vinh lui ra, bất giác trán nổi gân xanh, khuôn mặt đỏ bừng.

Vi Tiểu Bảo lấy trong tay áo bên trái ra lá thư giả mà Tra Y Hoàng viết, nói “Xin hai vị đọc lá thư này. Thằng khốn Ngô Chi Vinh ấy nói lá thư này ghê gớm lắm, nhưng huynh đệ không đọc sách, không biết y nói là thật hay giả”.

Mã Hựu đón lấy phong thư, thấy trên phong bì viết “Kính trình Tri phủ phủ Dương Châu Ngô lão gia mở xem”, rút lá thư ra, cùng Mộ Thiên Nhan cùng xem, thấy thượng khoản đề “Hiển Dương hiền điệt”. Hai người càng xem càng giận. Mã Hựu không chờ xem hết lá thư, đã đập bàn quát lớn “Thằng chó này dám to gan như thế, ta phải chính tay một đao chém chết y”. Mộ Thiên Nhan thì tâm tư tinh tế, cảm thấy Ngô Chi Vinh dám công nhiên khuyên thượng quan tạo phản thì không khỏi quá không hợp tình lý, nhưng mới rồi Vi Tiểu Bảo tra hỏi Ngô Chi Vinh trước mặt, đôi bên đối đáp đều chính tai nghe rõ từng câu từng câu, lẽ nào còn nghi ngờ nữa? Hôm trước thưởng hoa thược dược trước chùa Thiền Trí, chính miệng Ngô Chi Vinh đã nói Ngô Tam Quế là chú họ y, xem ra Ngô Chi Vinh đoán Ngô Tam Quế tạo phản ắt thành công, đắc ý vong hình, nên hành sự ngông cuồng không còn kiêng kỵ gì nữa.

Vi Tiểu Bảo nói “Lá thư này có đúng là Ngô Tam Quế viết gởi y không?”. Mã Hựu nói “Thằng chó ấy đã chính miệng nói là ngàn thật muôn đúng mà”. Vi Tiểu Bảo nói “Trong thư trường thiên đại luận, rốt lại là nói những gì, phiền hai vị giải thích cho huynh đệ hiểu với”. Lúc ấy Mộ Thiên Nhan liền giải thích từng câu từng câu, nhất nhất nói rõ các điển cố “Chém chết rắn trắng mà ca bài Đại phong”, “cầu Dĩ dâng giày”, “Dấy quân Hào Thượng mà định đô Ứng Thiên”, “Thành Ý nhận tước”. Mã Hựu nói “Chỉ một câu Thái tổ Cao hoàng đế ta đầu tiên xưng là Ngô quốc cũng đủ cho y bị diệt tộc rồi”. Mộ Thiên Nhan gật đầu nói “Ngô nghịch khởi sự, nghe nói là lấy Chu Tam thái tử gì đó để hiệu triệu, nói muốn khôi phục nhà Minh”.

Đang lúc bàn luận, chợt có Ngự tiền thị vệ từ kinh tới tuyên triệu thánh chỉ. Vi Tiểu Bảo và Mã Hựu, Mộ Thiên Nhan quỳ xuống tiếp chỉ, thì là Khang Hy tuyên triệu Vi Tiểu Bảo cấp tốc về kinh, còn chuyện xây dựng Trung liệt từ ở Dương Châu thì giao lại cho Bố chánh Giang Tô lo liệu.

Vi Tiểu Bảo cả mừng, nghĩ thầm “Tiểu hoàng đế đánh Ngô Tam Quế, nếu quả sai mình làm đại nguyên soái thì rất oai phong”. Mã Hựu, Mộ Thiên Nhan nghe trong thượng dụ có ý khen ngợi khuyến khích, lập tức chúc mừng y gia quan tấn tước.

Vi Tiểu Bảo nói “Ngày mai huynh đệ về kinh, lúc khấu kiến hoàng thượng tự nhiên sẽ ca ngợi nhị vị đại nhân là quan tốt. Chỉ có điều rốt lại cách thức làm quan tốt của hai vị thế nào, nói ra thì rất xấu hổ, chứ huynh đệ quả thật không rõ lắm, xin hai vị nói ra cho nghe”.

Hai người Phủ đài Phiên đài cả mừng, chắp tay cảm tạ. Mộ Thiên Nhan liền khoe khoang chính tích của Tuần phủ, y đoán tính tình Khang Hy, ra sức ca ngợi Mã Hựu chăm chỉ thương dân, tuyên giáo đức hóa thế nào, trong đó có tới chín phần là giả. Chỉ thấy Mã Hựu toét miệng ra cười không ngậm lại được. Kế đó Mộ Thiên Nhan cũng nói vài chuyện chính tích đắc ý của mình, tuy lời lẽ vắn tắt nhưng quả thật đều mười phần có công.

Vi Tiểu Bảo nói “Huynh đệ nhớ cả rồi. Chúng ta còn phải thêm vào một công lao lớn nữa. Ngô nghịch tạo phản, hoàng thượng vô cùng căm hận, gã Ngô Chi Vinh này lại muốn làm nội ứng, định khuyên toàn thể bá quan văn võ trong tỉnh Giang Tô nhất tề tạo phản. May là ba người chúng ta điều tra ra, việc này mà tâu lên thì chuyện phong thưởng có chạy cũng không thoát. Huynh đệ định ngày mai lên đường về kinh, nhờ hai vị viết cho một đạo tấu chương”. Phủ Phiên hai người cùng nói “Đây là đại công của Vi đại nhân, ty chức không dám cướp điều tốt đẹp”. Vi Tiểu Bảo nói “Không cần khách khí, cứ tính là ba người chúng ta cùng lập công là được”. Mộ Thiên Nhan lại nói “Tổng đốc Ma đại nhân đã về Giang Ninh, lúc Khâm sai đại thần tâu lên hoàng thượng, hay nhất là xin cũng nói tốt vài câu cho Ma đại nhân”. Vi Tiểu Bảo nói “Được mà. Nói tốt đâu có mất tiền vốn”.

Mã Hựu và Mộ Thiên Nhan lại tạ ơn, cáo từ lui ra. Vi Tiểu Bảo sai bọn Từ Thiên Xuyên bắt trói Ngô Chi Vinh, nhét vải nút mồm y lại, khiến y có miệng mà không nói được. Ngô Chi Vinh trong lòng hoảng sợ ngạc nhiên, tự nhiên là không sao tưởng tượng ra được.

Sáng sớm hôm sau, quan viên văn võ trong thành Dương Châu từng người từng người theo ban xếp hàng trong sảnh đợi Khâm sai đại nhân tiếp kiến. Mỗi người đều có một phần lễ vật trọng hậu, làm quan ở Dương Châu là chức sai sử béo bở nhất trong thiên hạ, người nào cũng không cần được thăng quan, chỉ mong Khâm sai đại nhân về tới Bắc Kinh nói tốt cho vài câu, chức vụ của mình giữ được thêm vài năm, là rất thỏa mãn rồi.

Tổng đốc cũng đã được tin hôm qua, vội liền đêm tới Dương Châu, quà tặng của y và Tuần phủ tự nhiên lại càng trọng hậu. Phủ Dương Châu bỗng nhiên được miễn thuế ba năm, người làm việc tự nhiên có khoản lại quả. Vi Tiểu Bảo tuy không kịp làm việc nhưng Phiên đài đã sớm sắp xếp khoản lại quả cho y ổn thỏa. Bọn võ tướng tùy tùng đi theo Vi Tiểu Bảo cũng đều có một khoản tiền lễ trọng hậu. Mã Hựu đã viết tờ tâu xong, xin Vi Tiểu Bảo chính tay dâng lên, trong tấu chương nói Vi Tiểu Bảo công khai điều tra bí mật tra xét thế nào, đích thân vào nơi nguy hiểm mới phá tan được âm mưu bí mật của Ngô Tam Quế, Ngô Chi Vinh thế nào, phóng đại khoa trương, mà ba người Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh vất vả giúp đỡ, cũng không ai không có công lao.

Mộ Thiên Nhan lại nói “Hoàng thượng dùng quân với Ngô nghịch, đáng tiếc ty chức là văn quan, không có bản lãnh ra trận giết giặc. Ty chức đã vâng ý của Tổng đốc đại nhân, Phủ đài đại nhân, trong vòng mười ngày sẽ sai người áp giải một số lương thảo tới Hồ Nam, để tùy hoàng thượng sử dụng”.

Vi Tiểu Bảo mừng nói “Đại quân chưa xuất phát mà lương thảo đã đi trước. Ba vị suy nghĩ rất chu đáo, nhất định hoàng thượng sẽ mười phần vui lòng”.

***

Các quan từ biệt ra về rồi, Vi Tiểu Bảo sai thân binh tới Lệ Xuân viện đón mẹ, thay đổi quần áo ra gặp mẹ.

Vi Xuân Phương không biết con làm quan lớn, chỉ cho rằng y đánh bạc gian lận thắng được nhiều tiền, nghe nói y muốn đón mẹ lên Bắc Kinh hưởng phúc, lập tức lắc đầu nói “Tiền được bạc hôm nay vào tay trái thì ngày mai ra tay phải. Ta tới Bắc Kinh, ngươi lại thua sạch tiền, biết đâu lại bán lão nương vào ổ điếm. Lão nương muốn làm ăn thì cứ ở Dương Châu là xong, ở Bắc Kinh cong lưỡi lên nói giọng quan thoại, lão nương không làm được”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Mẹ, mẹ cứ yên một trăm hai mươi cái tâm đi. Tới Bắc Kinh, mẹ sẽ có a hoàn bà vú hầu hạ, chuyện gì cũng không phải làm. Tiền của con vĩnh viễn không thua hết được đâu”. Vi Xuân Phương không ngừng lắc đầu, nói “Chuyện gì cũng không làm thì ta buồn chết mất thôi. A hoàn bà vú hầu hạ thì lão nương không có phúc phận, không được ba ngày vểnh bím tóc lên đâu”.

Vi Tiểu Bảo biết tính mẹ, nghĩ thầm suốt ngày ngồi trong đại viện bứt rứt quả thật cũng không có gì thú vị, liền lấy ra một tập ngân phiếu, tất cả là năm vạn lượng bạc, nói “Mẹ, số tiền này là cho mẹ. Mẹ về mua Lệ Xuân viện, tự mình làm lão bản đi. Con thấy còn có thể mở thêm ba viện nữa, chúng ta mở Lệ Xuân viện, Lệ Hạ viện, Lệ Thu viện, Lệ Đông viện, Xuân Hạ Thu Đông, một năm bốn mùa đều phát tài”. Nhưng Vi Xuân Phương lại lòng không chí lớn, cười nói “Ta đi nhờ người ta xem thử, cũng không biết ngân phiếu này là thật hay giả, nếu quả thật đổi được bạc thì lão nương mở một kỹ viện nhỏ cũng đã vui lắm rồi. Muốn mở đại viện thì cứ chờ ngươi lớn lên, tự đứng ra làm lão bản thôi”. Rồi hạ giọng hỏi “Tiểu Bảo, số tiền lớn này của ngươi không phải là ăn trộm ăn cướp được đấy chứ?”.

Vi Tiểu Bảo mò vào bọc lấy ra bốn hạt xúc xắc, kêu lên “Mãn đường hồng!” rồi gieo xuống bàn, quả nhiên bốn hạt xúc xắc đều ra điểm bốn. Vi Xuân Phương cả mừng, lúc ấy mới yên tâm, cười nói “Thằng nhãi khốn nạn học được bản lãnh này, thì thua ngươi cũng không hết đâu”.

(*) Xét : Thơ Tra Thận Hành làm trong thời kỳ đầu rất có ý hoài niệm nhà Minh, về sau làm bề tôi văn chương của Khang Hy nên thi phong có thay đổi.

(**) Chú :Thơ của Cố Viêm Vũ, bản khắc in vốn có rất nhiều ẩn ngữ, lấy vần trong thi vận để thay chữ , như lấy chữ Ngu thay chữ Hồ, lấy chữ Chi (nhánh) thay chữ Di (Man di), để tránh phạm điều cấm, người đời sau không dễ mà hiếu được. Phan Trọng Quy tiên sinh soạn quyển Đình Lâm thi khảo sách đã chú giải rõ ràng. Những trích dẫn thơ Cố Viêm Vũ trong sách này là theo văn bản khảo định của Phan tiên sinh.

(***) Ở đây có chỗ chơi chữ không dịch được. Vi Tiểu Bảo cố tình nghe hai chữ “Bồ Hoàng” ra là “Hoàng kiểm bà” (Bà mặt vàng) để bịt miệng Ngô Chi Vinh.

Hồi 41: Ngư Dương trống động ngàn phương rộn – Đốc Kháng mưu cùng hối đã chầy

Hôm sau Vi Tiểu Bảo đem tùy tùng xe ngựa áp giải Ngô Chi Vinh và Mao Đông Châu rời Dương Châu về kinh. Thượng dụ của Khang Hy tuyên triệu rất gấp, đoàn người trên đường không dám dừng lại, không khỏi bỏ qua rất nhiều cơ hội nhận tiền biếu xén hối lộ.

Dọc đường được tin sau khi Ngô Tam Quế dấy binh, bọn Đề đốc Vân Nam Trương Quốc Quế, Tuần phủ Quý Châu Tào Thân Cát, Đề đốc Quý Châu Lý Bản Thảm đầu hàng, Tuần phủ Vân Nam Chu Quốc Trị bị giết, Tổng đốc Vân Quý Cam Văn Côn tự sát. Hôm ấy tới Sơn Đông, quan địa phương sao để báo trình lên Khâm sai đại thần, là tờ chiếu thư của Khang Hy kết tội Ngô Tam Quế. Vi Tiểu Bảo bảo sư gia đọc lên và giải thích, viên sư gia bưng chiếu thư đọc:

“Nghịch tặc Ngô Tam Quế cùng đường về theo, Thế tổ Chương hoàng đế ta nghĩ y thành thật, trao cho quân lữ, phong cho vương tước, thề với núi sông, tướng sĩ bộ thuộc được nối đời giữ chức, ân sủng ban thêm, mở vương phủ ở Điền Nam, dốc lòng giao quyền giữ đất. Đến khi trẫm lên ngôi, đặc biệt ban ơn, thăng tước thân vương, gởi gắm làm can thành, thật coi như gan ruột, ơn nặng lễ hậu, xưa nay chưa có”.

Vi Tiểu Bảo nghe viên sư gia giải thích, không ngừng gật đầu, nói “Hoàng thượng đối đãi với thằng phản tặc ấy quả thật không tệ, không hề bới móc lỗi lầm. Như Vi Tiểu Bảo ta đối với hoàng thượng lòng trung rỡ rỡ mà chẳng qua cũng chỉ được phong tước bá, muốn được phong là thân vương thì còn lâu lắm”.

Viên sư gia đọc tiếp:

“Nhưng Ngô Tam Quế tính nết vô lại, tâm địa độc ác, được sủng ái sinh kiêu căng, ngầm mưu tính việc bất pháp, tháng bảy năm nay tự xin giải nhiệm. Trẫm cho là Ngô Tam Quế thành tâm, lại nghĩ tuổi già sức yếu, coi quân ngoài biên đã lâu, bèn theo lời xin, cho về nghỉ ngơi. Lại sức các ty sở thu xếp chu đáo, cốt cho yên ổn, lại đặc biệt sai đại thần tới tuyên dụ ý trẫm. Trẫm đối đãi với Ngô Tam Quế có thể nói là thể trọng chí tình, không thể hơn được nữa. Gần đây bọn Tổng đốc Xuyên Hồ Thái Hàng Vinh tâu: Ngô Tam Quế làm việc phản nghịch, phụ ơn triều đình, một sớm giương cánh cú diều, gieo mầm phản loạn, làm hại bách tính, theo phép khó dung, thần người cùng giận”.

Vi Tiểu Bảo nghe giải thích một câu, khen một câu “Hoàng thượng khoan hồng đại lượng, không chửi con bà Ngô Tam Quế, tính ra cũng còn khách khí đấy”.

Bọn Trương Dũng, Triệu Lương Đống, Vương Tiến Bảo, Tôn Tư Khắc cho tới bọn Lý Lực Thế bên cạnh nghe thấy đều nghĩ thầm “Trong thánh chỉ chỉ nói hoàng đế đối xử với y tốt tới mức không thể tốt hơn, kết án Ngô Tam Quế vong ân phụ nghĩa, chứ không nói nửa câu phân biệt người Hán người Mãn, cũng không nói tới việc y giết hại vương thất nhà Minh thế nào, quả vô cùng cao minh, để thiên hạ đều cảm thấy Ngô Tam Quế làm phản là rất không nên”.

Viên sư gia kia đọc tiếp đoạn dưới, trong tờ sắc chỉ khuyên dụ quan dân các địa phương không được giúp đỡ kẻ phản nghịch, nếu đã lầm theo đảng giặc thì chỉ cần hối hận quy thuận cũng không truy cứu chuyện cũ, tất cả thân tộc làm quan hay cư trú ở các tỉnh đều không bị liên lụy, không cần ngờ sợ. Trong chiếu thư lại viết:

“Nếu ai bắt được Ngô Tam Quế dâng nộp trước quân thì được phong tước của y, ai bắt được tướng soái dưới quyền y hay đem quân mã thành trì về với triều đình thì sẽ luận công ban thưởng, trẫm không nuốt lời đâu”.

Vi Tiểu Bảo nghe viên sư gia giải thích “Hoàng thượng ưng thuận là chỉ cần ai bắt được Ngô Tam Quế dâng nộp trước quân, hoàng thượng sẽ phong làm Bình Tây thân vương”, bất giác trong lòng ngứa ngáy, quay nhìn bọn Lý Lực Thế nói “Chúng ta đi bắt Ngô Tam Quế, làm Bình Tây thân vương cũng vẻ vang lắm”. Mọi người đồng thanh khen phải. Bọn Trương Dũng là võ tướng thì đều nghĩ “Ngô Tam Quế quân đông tướng mạnh, muốn bắt y đâu phải dễ?”. Bọn Lý Lực Thế nghĩ thầm “Bọn ta muốn giết Ngô Tam Quế là vì y làm nghiêng đổ giang sơn của người Hán, chứ chẳng lẽ lại ra sức cho hoàng đế Thát Đát sao? Nhưng nếu Vi Hương chủ làm Bình Tây thân vương, dấy quân Vân Nam làm phản cũng không phải dở”.

Vi Tiểu Bảo nghe chiếu thư xong, ra lệnh lập tức lên đường, muốn về tới Bắc Kinh thật mau, kiếm một chức sai sử đem quân xuất chinh, để khỏi bị người ta giành mất, bắt được Ngô Tam Quế trước, cướp mất tước phong Bình Tây thân vương.

***

Hôm ấy tới Hương Hà, đã gần kinh đô, Vi Tiểu Bảo sai Trương Dũng suất lãnh đại đội nhân mã chờ ở đó, canh giữ khâm phạm Mao Đông Châu cẩn thận, mình thì dẫn Song Nhi và quần hùng Thiên địa hội áp giải Ngô Chi Vinh rẽ về hướng tây nam, tới nhà Trang gia, muốn đích thân giao y cho tam thiếu nãi Trang gia để báo đáp hậu ý đã tặng một a hoàn giỏi giang như Song Nhi.

Xế chiều tới một thị trấn, còn cách Trang gia hơn hai mươi dặm, đoàn người vào một quán cơm. Lúc ấy mọi người đều đã thay đổi y phục dân thường, điểm vào Á huyệt và mấy chỗ huyệt đạo trên người Ngô Chi Vinh, chứ không trói y để khỏi bị người ta dòm ngó. Mọi người ngồi quanh hai cái bàn. Không ai muốn ngồi chung với Ngô Chi Vinh, Song Nhi sợ y chạy trốn nên ngồi với y ở một bàn riêng, giám sát nghiêm ngặt.

Cơm rượu đưa lên, mọi người đang ăn uống thì có mười mấy binh sĩ bước vào, người cầm đầu là một viên Thủ bị, ngoài cửa tiếng ngựa hí ran, hai tên binh sĩ tự đi múc nước cho ngựa uống. Một viên Bả tổng cao giọng quát tháo, sai mau giết gà làm cơm, nói có việc công khẩn cấp, phải về kinh báo tin ngay. Chưởng quỹ luôn miệng vâng dạ, giục giã điếm tiểu nhị hầu hạ các lão gia quan quân, đích thân ra lau bàn cho viên Thủ bị.

Đám quan binh vừa ngồi yên chỗ, bên ngoài lại vang lên một tràng tiếng bánh xe vó ngựa, tới ngoài cửa quán thì dừng lại, mấy người bước vào. Đi đầu là hai đại hán khỏe mạnh, người thứ ba là một hán tử trung niên dáng vẻ như bị bệnh lao, vừa thấp vừa gầy, hai má lõm xuống, lưỡng quyền nhô cao, sắc mặt vàng vọt không có chút huyết sắc, thấp thoáng có làn hắc khí, đi được vài bước lại ho một tiếng. Sau lưng y có một ông già, một bà già sóng vai bước vào, xem tuổi tác đều đã hơn tám mươi, ông già vóc dáng cũng gầy nhỏ, nhưng tinh thần quắc thước, bộ râu bạc buông xuống tới ngực, sắc mặt hồng hào. Bà già hơi cao hơn ông già, lưng còn rất thẳng, ánh mắt có thần. Sau cùng là hai thiếu phụ khoảng hai mươi tuổi. Trong bảy người thì hán tử bệnh hoạn ăn mặc sang trọng nhất, giống một viên ngoại nhà giàu, hai nam hai nữ là bộc dịch, bộc phụ. Hai ông bà già mặc quần áo vải xanh, chất vải hơi thô nhưng mười phần sạch sẽ, không đoán được là hạng người nào.

Bà già nói “Trương má, lấy nước nóng hầu thiếu gia uống thuốc”. Một người bộc phụ vâng dạ, lấy trong giỏ tre ra một cái bát sứ, nhấc cái bình đồng trong quán lên rót đầy một bát nước nóng, tráng tráng mấy cái đổ đi, lại rót nửa bát nước nóng đặt trước mặt hán tử bệnh hoạn. Bà già kia lấy trong bọc ra một cái bình sứ, mở nút lấy một viên thuốc màu đỏ đưa tới miệng hán tử bệnh hoạn. Hán tử bệnh hoạn há miệng ra, bà già đặt viên thuốc lên lưỡi y, bưng chén nước lên cho y uống thuốc. Hán tử bệnh hoạn uống thuốc xong thở hổn hển, ho hắng không ngừng.

Ông già, bà già đều nhìn chằm chằm vào hán tử bệnh hoạn, dáng vẻ vừa quan tâm vừa lo lắng, thấy y dần dần bớt ho rồi ngừng lại không ho nữa, đều thở phào một hơi. Hán tử bệnh hoạn cau mày nói “Cha, mẹ, các người nhìn gì thế? Con không chết đâu”. Ông già hừ một tiếng quay đầu đi. Bà già cười nói “Nói cái gì mà chết với sống, con trai ta là sống lâu trăm tuổi”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Thằng tiểu tử này cho dù uống linh đan của Ngọc Hoàng đại đế cũng không sống được mấy hôm nữa đâu. Té ra ông già bà già này là cha mẹ y, nhất định con quỷ ho lao này từ nhỏ đã được chiều nên sinh hư, cha mẹ nhìn thêm một cái cũng nổi giận”.

Bà già nói “Trương má, Tôn má, các ngươi đi nấu sâm thang cho thiếu gia trước, rồi nấu thức ăn”. Hai người bộc phụ vâng dạ, mỗi người cầm một cái giỏ tre bước ra phía sau.

Viên Thủ bị trong bọn quan quân hỏi chưởng quỹ đường về Bắc Kinh. Chưởng quỹ nói “Hôm nay các vị lão gia cứ đi thêm hai ba mươi dặm nữa, tới thị trấn trước mặt nghỉ ngơi. Sáng mai đi sớm, sau giờ Ngọ sẽ tới kinh thành”. Viên Thủ bị nói “Bọn ta phải đi luôn trong đêm, nghỉ ngơi cái gì? Chưởng quỹ , từ hôm nay trở đi trong vòng một năm nữa đảm bảo ngươi sẽ làm ăn rất khá, cứ chuẩn bị nhiều rượu ngon nhắm tốt, để đến lúc cần thì không phải cuống lên”. Chưởng quỹ cười nói “Lão gia cứ nói đùa, trước nay tiểu điếm buôn bán cũng bình bình, được như hôm nay thì một tháng chỉ có vài ngày, đây là các vị lão gia và khách quan chiếu cố, làm sao mà ngày nào cũng được bấy nhiêu quý khách quang lâm?”.

Viên Thủ bị cười nói “Chưởng quỹ , ta bảo ngươi cứ nghe theo đi. Ngô Tam Quế làm phản đã đánh tới Hồ Nam, bọn ta là đưa văn thư trong quân về Bắc Kinh. Trận này đánh nhau rất lớn, ít nhất cũng phải năm ba năm. Bẩm báo quân tình thì ngày nào cũng phải đi qua đây, phen này ngươi phát tài rồi”. Chưởng quỹ luôn miệng cám ơn, trong lòng không ngừng kêu khổ “Mối làm ăn bọn tổng gia các ngươi thì có gì hay? Ăn to uống lớn, nghênh ngang tùy tiện đưa cho vài đồng bạc, hung dữ đánh người chửi người xong, vỗ đít là đi. Đừng nói năm ba năm, chỉ cần sáu tháng một năm thì ta cũng phải treo cổ rồi”.

Vi Tiểu Bảo và bọn Lý Lực Thế nghe nói Ngô Tam Quế đã đánh tới Hồ Nam, đều thầm hoảng sợ “Thằng khốn này tiến nhanh thật”. Tiền Lão Bản hạ giọng nói “Để ta qua hỏi thăm nhé?”, Vi Tiểu Bảo gật gật đầu.

Tiền Lão Bản bước tới trước mặt viên Thủ bị, miệng cười toe toét, ôm quyền nói “Mới rồi nghe tướng quân đại nhân nói Ngô Tam Quế đã đánh tới Hồ Nam. Tiểu nhân có gia quyến ở Trường Sa, trong lòng lo lắng, không biết ở đó chiến trận ra sao? Trường Sa có bị nguy hiểm không?”.

Viên Thủ bị nghe y gọi mình là “Tướng quân đại nhân”, trong lòng vui vẻ, nói “Trường Sa có nguy hiểm hay không thì không biết. Ngô Tam Quế phái đại tướng thủ hạ là Mã Bảo từ Quý Châu đánh tới Hồ Nam, Nguyên Châu thất thủ, Tổng binh Thôi Thế Lộc bị bắt. Bách tính ở một dải Nguyên Tương đều đang chạy nạn”.

Tiền Lão Bản vẻ mặt lo lắng, nói “Thế… thế thì không hay rồi. Có điều quân Đại Thanh rất lợi hại, Ngô Tam Quế làm sao thắng được?”. Viên Thủ bị nói “Vốn mọi người cũng nói thế, nhưng trong trận Nguyên Châu thì quân mã của Ngô Tam Quế quả rất không dễ đối phó, ờ, cục diện khó nói lắm”. Tiền Lão Bản chắp tay cám ơn, quay về chỗ ngồi. Quần hùng Thiên địa hội có người nghĩ “Đừng để thằng Hán gian Ngô Tam Quế làm hoàng đế”, người thì nghĩ “Tốt nhất là Ngô Tam Quế đánh tới Bắc Kinh, đánh nhau với quân Thát Đát Mãn Châu tới mức lưỡng bại câu thương”.

Bọn quan quân vội vã ăn uống xong, viên Thủ bị đứng lên nói “Chưởng quỹ, bọn ta báo tin tốt cho ngươi, bữa cơm này ngươi mời khách đi”. Chưởng quỹ khom lưng cười lấy lòng, nói “Dạ, dạ. Được mà, được mà. Các vị đại nhân khoan đi đã”. Viên Thủ bị cười nói “Khoan đi à? Vậy thì ngồi lại ăn thêm vậy”. Chưởng quỹ vẻ mặt nhăn nhó, chỉ đành gượng cười.

Viên Thủ bị bước ra cửa, lúc đi ngang bàn của ông già, bà già và hán tử bệnh hoạn, hán tử bệnh hoạn đột nhiên vươn tay trái ra chụp vào ngực y, nói “Ngươi đưa công văn gì lên Bắc Kinh thế, lấy ra xem nào”. Viên Thủ bị cao lớn khỏe mạnh, nhưng bị y chụp một cái lập tức ngồi thụp xuống. Hán tử bệnh hoạn tay phải soạt một tiếng đã xé toạc vạt áo viên Thủ bị, lấy ra một cái phong bì lớn. Hán tử bệnh hoạn tay trái khẽ xô ra một cái, viên Thủ bị ngã chúi ra, hất đổ hai cái bàn, loảng xoảng loảng xoảng một tràng, bát đĩa rơi xuống đất vỡ tan nát.

Bọn quan quân la lớn “Làm phản rồi, làm phản rồi!”, rồi nhao nhao cầm thương rút đao sấn vào hán tử bệnh hoạn. Hai tên bộc dịch của hán tử bệnh hoạn tay đánh chân đá, ai chống là ngã, trong giây lát bọn quan quân đều đã nằm lăn dưới đất.

Hán tử bệnh hoạn xé phong bì lấy tờ công văn ra. Viên Thủ bị run lên la lớn “Đây là tấu chương gởi cho hoàng thượng, ngươi… ngươi dám lớn mật bóc ra, thế… thế… thế không phải là tạo phản sao?”. Hán tử bệnh hoạn đọc công văn xong, nói “Tuần phủ Hồ Nam xin hoàng đế Thát Đát phái thêm quân tới đánh Bình Tây vương, hừ, cho dù phái một trăm vạn quân tới cũng lại không… khắc khắc… cũng lại không bị Bình Tây vương quét sạch hết à”. Vừa nói vừa vo tờ công văn lại thành một nắm trong bàn tay, nói xong mấy câu ấy xòe bàn tay ra, vô số mảnh giấy vụn lả tả rơi xuống.

Quần hùng Thiên địa hội thấy nội lực của y như thế, ai cũng biến sắc, đều nghĩ thầm “Nghe lời lẽ của y thì dường như là thủ hạ của Ngô Tam Quế”.

Viên Thủ bị bò dậy, rút yêu đao ra, nói “Ngươi hủy hoại công văn, dù sao lão tử cũng không sống được rồi, phải liều mạng với ngươi!”, nói xong liền vung đao sấn tới chém thẳng xuống đầu hán tử bệnh hoạn. Hán tử bệnh hoạn vẫn ngồi, vươn tay trái ra khẽ đẩy vào bụng dưới viên Thủ bị một cái như bảo y đừng tới quấy rầy. Viên Thủ bị cánh tay cầm đao đột nhiên từ từ rũ xuống, kế đó thân hình nhũn ra ngồi phệch xuống đất, miệng há hốc, chỉ có thở ra không có hít vào. Bọn quân sĩ bị đánh ngã đã bò dậy, đứng ở xa xa, có khí không lực quát tháo vài câu, nhưng không ai dám bước tới cứu trưởng quan.

Một bộc phụ bưng một bát thang nóng ra, nhẹ nhàng đặt xuống trước mặt hán tử bệnh hoạn, nói “Thiếu gia, mời dùng sâm thang”.

Ông già, bà già đối với trường náo nhiệt mới rồi hoàn toàn như không nhìn thấy, không đếm xỉa gì tới, chỉ để ý nhìn xem thần sắc của con trai.

Từ Thiên Xuyên hạ giọng nói “Mấy người này rất tà môn, chúng ta đi thôi”. Cao Ngạn Siêu bước ra tính tiền, cả bọn ra cửa. Chỉ thấy bà già bưng bát sâm thang, khẽ thổi cho bớt nóng, kề vào miệng hán tử bệnh hoạn cho y uống.

***

Bọn Vi Tiểu Bảo ra khỏi thị trấn mới nhao nhao bàn bạc về công phu của hán tử bệnh hoạn. Từ Thiên Xuyên nói “Thằng khốn ấy xé rách áo của tên võ quan kia, công lực ghê gớm như thế, thật là… thật là hiếm thấy”. Huyền Trinh đạo nhân nói “Y đẩy vào bụng tên võ quan kia một cái, trông rất tầm thường, nhưng né tránh đỡ gạt cũng đều rất không dễ. Phong huynh đệ, ngươi nói nên làm thế nào?”. Phong Tế Trung nói “Không được đứng cách y ba thước”. Quần hùng ngẫm nghĩ đều thấy có lý, đối với một cái đẩy ấy bất kể là né tránh hay đỡ gạt thì ít nhất cũng phải đứng cách y ngoài ba thước mới làm được, chứ đứng gần hơn thì tránh không thoát, đỡ không nổi.

Từ Thiên Xuyên chợt nói “Ta chụp vào cổ tay y…”, nói chưa hết câu đã lắc lắc đầu, biết với nội lực cao cường của đối phương thì cho dù có chụp trúng cổ tay y, y lật tay chưởng lại nắm một cái thì xương ngón tay cổ tay của mình khó mà giữ được không gãy.

Mọi người biết rõ hán tử bệnh hoạn ấy là cùng bọn với Ngô Tam Quế, nhưng thấy y hung dữ đánh người lại không ai dám ra tay cản trở, tuy người bị đánh là quan quân Thát Đát, nhưng rốt lại như thế cũng không phải tác phong nghĩa hiệp hàng ngày của mọi người, trong lòng xấu hổ, không khỏi cụt hứng, bàn tán một lúc, ai cũng im lặng. Đi được vài dặm, chợt phía sau có tiếng vó ngựa vang lên, hai con ngựa phóng mau tới. Chỗ ấy đã là con đường nhỏ dẫn tới nhà Trang gia, không thể hai ngựa cùng chạy song song, quần hùng đang bực bội, tuy nghe tiếng vó ngựa rất gấp, nhưng ngoài Phong Tế Trung và Song Nhi thúc ngựa vào vệ đường thì những người còn lại không ai chịu nhường đường.

Trong chớp mắt hai con ngựa đã phóng tới sau lưng, quần hùng nhất tề quay đầu, chỉ thấy trên ngựa là hai người bộc dịch của hán tử bệnh hoạn kia. Một tên bộc dịch kêu lên “Thiếu gia bọn ta xin các vị đợi một lúc, có câu muốn thỉnh vấn các vị”. Câu này tuy không có gì vô lễ, nhưng ý tứ trong mắt không người không gì rõ hơn. Quần hùng vừa nghe, ai cũng nổi giận. Huyền Trinh đạo nhân quát “Bọn ta có việc gấp, không rảnh đâu mà chờ. Mọi người vốn không quen biết nhau, có gì hay mà hỏi?”. Tên bộc dịch kia nói “Là thiếu gia ta dặn như vậy, các vị cứ chờ một lúc là hay, tránh cho mọi người gặp điều bất tiện”, trong lời lẽ đầy vẻ uy hiếp.

Tiền Lão Bản nói “Chủ nhân của ngươi là thuộc hạ của Ngô Tam Quế phải không?”. Tên bộc dịch kia nói “Phì, chủ nhân bọn ta thân phận thế nào, làm sao có thể làm thủ hạ của Bình Tây vương được?”. Quần hùng đều nghĩ “Y không nói Ngô Tam Quế mà gọi là Bình Tây vương, nhất định là có uyên nguyên với Ngô tặc”. Đúng lúc ấy tiếng bánh xe vang lên, một chiếc xe lớn theo đường phóng mau tới. Tên bộc dịch kia nói “Chủ nhân bọn ta tới rồi”, quay ngựa lại đón. Lúc ấy nếu quần hùng thúc ngựa phóng đi thì giống như sợ hán tử bệnh hoạn kia, nên đều kìm ngựa lại chờ.

Chiếc xe lớn phóng tới gần, một bộc phụ đánh xe, một bộc phụ khác vén rèm xe, chỉ thấy hán tử bệnh hoạn kia ngồi giữa, cha mẹ y ngồi phía sau. Hán tử bệnh hoạn kia trừng mắt nhìn quần hùng một cái, hỏi “Tại sao các ngươi điểm huyệt người kia?”, nói xong chỉ Ngô Chi Vinh một cái, hỏi tiếp “Các ngươi là ai? Định đi đâu?”, thanh âm rin rít, giọng nói mười phần ngạo nghễ.

Huyền Trinh đạo nhân nói “Tôn giá cao tính đại danh là gì? Chúng ta vốn không quen biết nhau, nước sông không phạm nước giếng, sao lại quản chuyện không đâu?”. Hán tử bệnh hoạn hừ một tiếng, nói “Bằng vào ngươi thì chưa xứng đáng hỏi tên họ ta đâu. Ta hỏi hai câu mới rồi, ngươi đã nghe chưa?”. Huyền Trinh tức giận nói “Ta chưa xứng đáng hỏi tên họ ngươi, thì ngươi cũng chưa xứng đáng hỏi chuyện của bọn ta đâu. Ngô Tam Quế tạo phản tác loạn, là một thằng gian tặc lớn, mà ngươi cứ luôn miệng gọi y là Bình Tây vương, nhất định là đồng đảng. Ta thấy tôn giá đã bệnh vào tới xương, nên về nhà sớm mà chết cho yên lành, khỏi phải cảm lạnh, trúng gió ho hắng, một mạng ô hô”.

Trong tiếng hô hô cười rộ của quần hùng Thiên địa hội, đột nhiên bóng người chớp lên, chát một tiếng, Huyền Trinh má trái đã bị tát một chưởng rất nặng, kế đó nách trái trúng chưởng, ngã lăn xuống ngựa. Hai đòn này mau lẹ vô luân, đến khi y ngã xuống, quần hùng mới nhìn thấy rõ người xuất thủ nguyên là bà già, bà ta hai chưởng đánh ngã Huyền Trinh xong, hai chân điểm xuống đất một cái, thân hình bắn lên lại nhảy trở về ngồi lại trong xe.

Quần hùng quát tháo ầm ĩ, cùng xông vào chiếc xe lớn. Hán tử bệnh hoạn chụp vào lưng người bộc phụ đánh xe khẽ nhấc lên một cái đã đổi chỗ cho nàng, đặt người bộc phụ vào trong xe, mình thì ngồi trên càng xe.

Đúng lúc ấy Tiền Lão Bản đã vọt tới song chưởng đập xuống, hán tử bệnh hoạn một quyền đẩy ra chạm vào song chưởng của y, nhưng không có tiếng động nào. Tiền Lão Bản chỉ cảm thấy một luồng cương kình xô tới, thân hình không tự chủ được lộn nhào hai cái lật ra ngoài, lúc hai chân chạm đất định đứng xuống đột nhiên hai gối nhũn ra lại suýt quỳ xuống, vội dùng sức ngã ngửa ra phía sau, mới tránh được cái nhục quỳ xuống trước mặt địch nhân.

Tiền Lão Bản vừa ngã ra, Phong Tế Trung đã xông tới, hán tử bệnh hoạn kia lại một quyền đẩy ra. Phong Tế Trung không đón đỡ phát quyền của y, chưởng phải giữa đường đổi hướng, đột nhiên chém xuống cổ y. Hán tử bệnh hoạn ủa một tiếng, thấy đối phương võ công cao cường, vô cùng bất ngờ, ngón cái tay phải bấm vào ngón giữa búng tới chưởng tâm của y. Phong Tế Trung lập tức thu chưởng, cước phải đạp lên lưng con lừa kéo xe.

Cao Ngạn Siêu và Phàn Cương chia nhau tấn công hai người bộc dịch. Hai người bộc dịch thúc ngựa lùi lại, kêu lên “Để thiếu gia thu xếp các ngươi”. Hai người Cao Phàn đều nghĩ động thủ với bộc dịch của đối phương thì có thắng cũng bất võ, thấy hai người lui ra, chính hợp ý mình, lập tức quay người song song vọt tới tấn công bên trái hán tử bệnh hoạn. Đột nhiên con lừa hí dài một tiếng đổ vật xuống đất, kéo chiếc xe ngã xuống. Nguyên là Phong Tế Trung đạp lên lưng con lừa, dưới chân đã ngầm vận kình lực, đạp xuống một cái, đã đạp gãy xương sống con lừa.

Hán tử bệnh hoạn kia chân không nhún, người không vươn, trong tiếng ho khúc khắc đã đứng trên mặt đất. Ông già, bà già trong xe mỗi người nhấc một bộc phụ vọt ra. Ba người này hành động tựa hồ không nhanh lắm, nhưng đều rời khỏi xe trước, chiếc xe mới ngã xuống.

Tiền Lão Bản và Từ Thiên Xuyên xông vào ông già, bà già. Bà già xua xua tay trái, chỉ qua hán tử bệnh hoạn cười nói “Các ngươi qua bên kia mà chơi đùa với con ta”, ý tứ trong câu nói là bảo hai người qua ăn đòn của con trai bà ta cho y vui vẻ.

Từ Thiên Xuyên quyền phải đập xuống đỉnh đầu ông già, chỉ là thấy y tuổi tác đã lớn, tuy biết y võ công không kém, vẫn sợ một quyền ấy đánh chết y, bèn quát lớn “Xem quyền!”, trên tay cũng chỉ dùng ba thành công lực. Y sau khi lỡ tay đánh chết Bạch Hàn Tùng, gây ra chuyện rắc rối với Mộc vương phủ, đã rất tự kìm chế mình.

Ông già kia vươn tay chụp tay quyền của y, ông già tuy thân hình thấp nhỏ nhưng bàn tay cực kỳ lớn, chụp được tay quyền của y xong, bèn nói “Qua bên kia mà chơi!”. Từ Thiên Xuyên tuy tuổi tác nhỏ hơn ông già nhiều, nhưng cũng đã là một lão già râu bạc, mà câu ấy của ông già lại như nói với trẻ con. Từ Thiên Xuyên tay phải dùng sức kéo về, quyền trái đẩy ra. Chiêu Thanh long bạch hổ vốn là chiêu thức hỗ trợ cho nhau, quyền trái không có ý đánh trúng đối phương thật, chỉ là bức bách địch nhân phải buông tay, còn nếu đối phương không chịu buông tay, quyền ấy sẽ đập trúng sống mũi.

Ông già vươn tay đẩy ra một cái, buông tay Từ Thiên Xuyên ra. Từ Thiên Xuyên chỉ cảm thấy một luồng lực đạo rất mạnh xô tới, lại đúng lúc quyền trái đang dùng sức đánh ra, lực bên phải kéo về phía sau, lực bên trái đẩy về phía trước, lập tức thân hình xoay mau như con ốc chuyển tới bên cạnh hán tử bệnh hoạn.

Hán tử bệnh hoạn đang đánh nhau với bốn người Phong Tế Trung, Cao Ngạn Siêu, Phàn Cương, Lý Lực Thế, thấy Từ Thiên Xuyên xoay tới, vỗ tay cười nói “Thú thật, thú thật”. Quyền cước của bốn người đang như mưa gió đánh tới mà y vẫn còn có thể thong thả vỗ tay reo cười, kế giơ tay hất một cái. Từ Thiên Xuyên đột nhiên thay đổi phương hướng, vốn đang xoay về bên phải, chợt lại đổi xoay về bên trái, lại xoay mau chuyển về phía ông già. Hán tử bệnh hoạn cười nói “Cha, chơi thế này vui lắm, cha lại xoay con ốc ấy qua đây đi”. Huyền Trinh cố gắng xông vào. Hán tử bệnh hoạn lập tức cứ tiện tay một kéo một đẩy, một kéo một đẩy khiến bọn Huyền Trinh, Cao Ngạn Siêu, Phàn Cương, Lý Lực Thế bốn người đều xoay tròn như con ốc. Chỉ có Phong Tế Trung không bị xô đi, nhưng cũng đã khí huyết nhộn nhạo, vội nhảy lui ra ba bước, song chưởng giữ kín môn hộ.

Năm vị hào kiệt Thiên địa hội xoay tròn không ngừng, định vận kình đứng lại, nhưng nói thế nào cũng không đứng lại được. Người nào thế chuyển hơi chậm lại, hán tử bệnh hoạn lại một kéo một đẩy, thế chuyển lại lập tức tăng nhanh lên. Tình hình này giống đứa nhỏ xoay đồng tiền trên bàn, năm đồng tiền xoay tròn trên bàn, đứng thẳng không đổ xuống, đồng nào xoay chậm lại sắp đổ xuống, đứa nhỏ lại dùng ngón tay khều một cái.

Vi Tiểu Bảo nhìn thấy chỉ trợn mắt há miệng, kinh hãi không thôi. Song Nhi đứng trước mặt y, lo lắng che chở cho y. Vi Tiểu Bảo hạ giọng nói “Chúng ta chạy thôi”. Song Nhi nói “Mau chạy tới Trang gia”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng, tới Trang gia rồi thì đại cát đại lợi. Làm nhà cái (*) thì có thể ăn tất, giết cả ba phương”, rồi xoay người chạy đi. Song Nhi kéo Ngô Chi Vinh chạy theo sau.

Hán tử bệnh hoạn xoay con ốc đang đến lúc say sưa. Hai ông bà già trên mặt thoáng nét tươi cười đứng nhìn con trai, bốn người tôi tớ vỗ tay khen hay, đứng ngoài trợ hứng cho thiếu gia.

Hán tử bệnh hoạn thấy Phong Tế Trung mã bộ trầm ổn, chưởng trái cao, chưởng phải thấp ra thế Cổ tùng kiều lập, lập tức nghiêng người xông vào, vung tay hất vào vai y. Phong Tế Trung lui một bước, nghiêng vai tránh qua nhưng không dám ra tay đánh trả. Hán tử bệnh hoạn tức giận nói “Ngươi là người xấu, không chịu xoay à?”, rồi lại vung tay hất vào vai y. Phong Tế Trung lại lui lại, không ngờ sau vai trái đột nhiên bị một luồng kình lực mạnh mẽ xô tới, lập tức thân hình không tự chủ được, trong tiếng cười vang của hán tử bệnh hoạn lập tức xoay tròn, vừa định dùng công phu Thiên cân trụy đứng lại, lại bị hán tử bệnh hoạn hất mạnh vào lưng một cái, lại xoay nhanh hơn.

Ngô Chi Vinh thấy hán tử bệnh hoạn làm khó kẻ đối đầu của mình, đột nhiên xuất hiện sinh cơ, lúc ấy bước một bước vấp một cái đi được vài bước, giả bị trặc chân, ngã lăn ra đất. Song Nhi dùng sức kéo dậy, y cứ không chịu đứng lên. Vi Tiểu Bảo cuống lên, sợ y nói ra chân tướng với địch nhân, tay trái nắm vào hàm y sử kình bóp mạnh, Ngô Chi Vinh liền há miệng ra. Vi Tiểu Bảo rút thanh chủy thủ trong ống giày ra, rạch vào miệng y một nhát, cắt đứt nửa tấc đầu lưỡi của y, Ngô Chi Vinh đau quá ngất đi luôn.

Song Nhi chỉ cho là Vi Tiểu Bảo đã giết chết tên gian tặc này, kêu lên “Tướng công, chạy mau!”, hai người chạy mau về phía trước.

Hai người chạy được một dặm, nghe tiếng vó ngựa vang lên sau lưng, có người cưỡi ngựa đuổi theo. Vi Tiểu Bảo chỉ lên gò núi đá mọc ngổn ngang bên trái, hai người rời khỏi đường mòn, chạy vào giữa đống đá lởm chởm.

Hán tử bệnh hoạn và một tên bộc dịch cưỡi ngựa đuổi tới, nhìn thấy ngựa không thể chạy vào giữa đống đá mọc ngổn ngang, tên bộc dịch nhảy xuống ngựa, kêu lên “Hai đứa nhỏ đừng sợ, thiếu gia bọn ta chỉ gọi các ngươi tới chơi với y thôi, quay lại mau đi”. Vi Tiểu Bảo nói “Chuyện xoay như con ốc thì lão tử không làm”, lại càng chạy mau. Tên bộc dịch kia đuổi vào gò đá, Vi Tiểu Bảo và Song Nhi bước chân rất nhanh, tên bộc dịch đuổi không kịp. Hán tử bệnh hoạn kêu lên “Chơi cút bắt à? Thú vị thật, thú vị thật!”, rồi nhảy xuống ngựa, ho hắng không ngớt, từ phía nam đuổi lên.

Vi Tiểu Bảo và Song Nhi xoay người chạy về phía đông bắc, lại chạy về phía tên bộc dịch. Tên bộc dịch nhảy xổ tới định bắt Vi Tiểu Bảo. Vi Tiểu Bảo sử dụng công phu Thần hành bách biến Cửu Nạn dạy cho, thân hình nghiêng đi một cái, tên bộc dịch chụp vào khoảng không. Song Nhi lật tay lại đánh vào lưng y một chưởng. Tên bộc dịch thấy nàng nhỏ tuổi, không coi ra gì, không thèm đỡ gạt, vung tay chụp tay phải nàng. Song Nhi tay trái hạ xuống, bộp một tiếng đã chém trúng lưng y. Tên bộc dịch kia bị đau, a lên một tiếng, đúng lúc ấy Song Nhi đã chụp cổ tay phải y, vặn lại một cái, cách một tiếng đã bẻ gãy xương khuỷu tay y.

Hán tử bệnh hoạn ủa một tiếng, nhảy từ tảng đá này qua tảng đá khác, tung người xuống trước mặt Song Nhi, vung tay trái ra, cái mũ trên đầu Song Nhi rơi xuống, mái tóc trên đầu xõa tung. Hán tử bệnh hoạn cười nói “Là một cô nương”, vươn tay chụp vào tóc nàng. Song Nhi la lớn một tiếng, ra chiêu Song vĩ long, hai khuỷu tay thúc mạnh ra phía sau. Hán tử bệnh hoạn cười nói “Giỏi lắm!”, tay trái quét từ trái qua phải, nắm được hai tay nàng bẻ quặt ra sau lưng, kế đó kéo mái tóc dài của nàng quấn vào cổ tay nàng hai vòng, thắt lại một cái nút, hô hô cười rộ.

Song Nhi cuống quá bật khóc, kêu lên “Tướng công, chạy mau đi, chạy mau đi!”. Hán tử bệnh hoạn vươn ngón tay khẽ xỉa vào lưng nàng một cái phong tỏa huyệt đạo, cười nói “Y chạy không thoát đâu!”, rồi bỏ Song Nhi ở đó đuổi theo Vi Tiểu Bảo, trong khoảnh khắc đã tới gần.

Vi Tiểu Bảo trốn đông lủi tây trong đám loạn thạch, hán tử bệnh hoạn mấy lần định chụp nhưng bị y dùng công phu Thần hành bách biến tránh được. Hán tử bệnh hoạn cười nói “Bản lĩnh chơi cút bắt của ngươi giỏi lắm”. Vi Tiểu Bảo nội lực không đủ, chạy nhanh một lúc đã thở hồng hộc, biết nếu chạy thêm lúc nữa không bị y bắt không xong, liền kêu lên “Ngươi đuổi ta không kịp, bây giờ tới lượt ngươi chạy ta đuổi. Ngươi chạy cho mau, ta đuổi ngươi đây”. Nói xong xoay người lại nhảy xổ vào hán tử bệnh hoạn.

Hán tử bệnh hoạn cười hì hì một tiếng, quả nhiên xoay người bỏ chạy thật, cũng chuyển lui chuyển tới trong đám đá ngổn ngang. Vi Tiểu Bảo đã sớm nhận ra y tuy võ công cao cường nhưng ngây ngây ngốc ngốc, bốn mươi tuổi mà hành sự như trẻ con, nhưng y chạy qua chạy lại trong đám loạn thạch, vừa thấy y ở phía đông, chớp mắt một cái đã thấy y xuất hiện ở phía tây, mau lẹ như quỷ mỵ . Vi Tiểu Bảo vừa ngạc nhiên hoảng sợ vừa khâm phục, kêu lên “Nhất định ta sẽ bắt được ngươi, ngươi chạy không thoát đâu”. Y giả như đuổi theo nhưng chạy tới cạnh Song Nhi, bế xốc nàng lên cao giọng gọi lớn “Này, cho dù ta bế thêm một người cũng đuổi kịp ngươi”.

Hán tử bệnh hoạn hô hô cười rộ, kêu lên “Tu tu tu, thổi tù và, khắc khắc… ò ò ò, thổi da bò!”.

Vi Tiểu Bảo bế Song Nhi, làm ra vẻ đuổi theo hán tử bệnh hoạn, nhưng càng đuổi càng tụt lại phía sau. Hán tử bệnh hoạn nói “Đồ vô dụng, ngươi vẫn bắt không được ta… khắc khắc…”, rồi sấn về phía y vài bước. Vi Tiểu Bảo kêu lên “Lần này mà còn không bắt được ngươi à? Ngươi bị ho thì không chạy được đâu”, nói xong làm ra vẻ nhảy xổ vào y.

Bà già kia ở xa xa tức giận nói “Thằng tiểu quỷ! Ngươi dám lớn mật dụ cho con ta ho!”, vù một tiếng, một viên đá xé gió bay tới. Viên đá tuy nhỏ nhưng tiếng rít ghê người, Vi Tiểu Bảo kêu lên “Ối chao!”, ngồi thụp xuống tránh, nhưng đã chậm mất một bước, viên đá đã trúng vào khuỷu chân, ngã vật xuống đất, cùng Song Nhi nằm thành một đống. Bà già kia nói “Bắt y lại đây!”. Một tên bộc dịch khác tung người vọt tới, nắm lưng Vi Tiểu Bảo và Song Nhi mang tới trước mặt bà già, ném xuống đất.

Hán tử bệnh hoạn cười hì hì, vỗ tay hát “Đồ vô dụng, ăn hành cọng, khắc khắc…, ngã một cái, kêu oai oái!”. Vi Tiểu Bảo vừa sợ vừa giận, chỉ thấy bọn Từ Thiên Xuyên, Phong Tế Trung đều đã bị trói thành một xâu, một người bộc phụ nắm đầu dây, cả Ngô Chi Vinh cũng bị trói ở cuối. Người nào cũng đầu rủ xuống trước ngực, hai mắt nhắm nghiền, tựa hồ không còn hay biết gì nữa.

Bà già nói “Con nhóc này cải dạng nam trang, hừ, Phân cân thác cốt thủ của ngươi là học được ở đâu? Còn thằng nhỏ này, công phu Thần hành bách biến của ngươi là học được của ai thế?”.

Vi Tiểu Bảo giật nảy mình, nghĩ thầm “Bà già này nhãn quang lợi hại thật, biết được cả tên công phu của mình”. Nghĩ tới người ta đã nhận ra được, vậy thì rõ ràng công phu Thần hành bách biến của mình đã luyện được tới mức cao cường, lại không kìm được có chút đắc ý, cười nói “Cái gì mà Thần hành bách biến? Ngươi nói ta biết công phu Thần hành bách biến à?”. Bà già nói “Phì! Mấy chiêu chó chạy không ra chó chạy, cua bò không ra cua bò của ngươi cũng gọi là Thần hành bách biến sao?”. Vi Tiểu Bảo ngồi lên, nói “Là ngươi nói là Thần hành bách biến, chứ không phải là ta nói. Ta làm sao biết đây là Thần đào bách biến hay Thần bà bách biến?”.

Hán tử bệnh hoạn vỗ tay cười nói “Ngươi biết Thần đào bách biến, lại biết Thần bà bách biến, hô hô, thú vị thật”, rồi khom người xuống điểm vào lưng Vi Tiểu Bảo một chỉ. Vi Tiểu Bảo chỉ cảm thấy một luồng khí nóng xuyên thấu vào người, tứ chi tê dại lập tức linh hoạt, đứng lên nói “Bản lĩnh giải huyệt của ngươi thật là cao minh”. Hán tử bệnh hoạn nói “Ngươi bò mau đi, bò một trăm kiểu biến hóa, vừa giống rùa bò, vừa giống cóc bò, như vậy mới gọi là Thần bà bách biến”.

Vi Tiểu Bảo nói “Ta không biết Thần bà bách biến, ngươi biết thì ngươi bò cho ta xem”. Hán tử bệnh hoạn nói “Ta cũng không biết. Cha ta nói bậc đại sư võ học không chỉ học người ta, mà còn phải có thể suy nghĩ sáng tạo ra cái mới, mới xứng đáng là đại sư. Cha, trong võ học có công phu Thần bà bách biến không?”, ông già cau cau mày, lắc lắc đầu.

Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi là bậc đại sư võ học, thiên hạ đã không có môn võ công ấy, ngươi cứ tự mình sáng tạo ra, lập ra Thần Bà môn…”, chưa dứt lời thì mông đã bị bà già đá một cước, chỉ nghe bà ta quát “Đừng ăn nói bậy bạ!”. Bà già liếc con trai một cái, trên mặt đầy vẻ lo lắng, tựa hồ sợ con mình nghe thiếu niên này xúi giục, lại đi sáng tạo ra công phu mới Thần bà bách biến thật. Bà ta không muốn con trai nghĩ nhiều tới chuyện ấy, lại hỏi Vi Tiểu Bảo “Ngươi tên gì? Sư phụ ngươi là ai?”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Hai con yêu quái già, một con yêu quái nhỏ…, không phải, một con yêu quái vừa này võ công rất cao cường, lão tử đánh không lại. Hảo hán không chịu thiệt trước, chỉ đành đánh lừa họ. Nếu lão tử giả làm bạn bè của Ngô Tam Quế thì chắc họ không dám làm khó mình”. Rồi nhìn Ngô Chi Vinh một cái, linh cơ nhất động, nói “Ta họ Ngô, tên Ngô Chi Vinh, tự Hiển Dương, người Cao Bưu Dương Châu. Bà già độc ác, Bình Tây vương bác ta không bao lâu sẽ đánh tới Bắc Kinh, nếu các ngươi đắc tội với ta, thì Bình Tây vương sẽ không khách khí với các ngươi đâu”.

Bà già và hán tử bệnh hoạn đều vô cùng kinh ngạc, nhìn nhau một cái. Hán tử bệnh hoạn nói “Bịa đặt! Bình Tây vương làm sao có đứa cháu như ngươi?” Vi Tiểu Bảo nói “Tại sao là bịa đặt? Ngươi cứ hỏi chuyện trong nhà Bình Tây vương xem, chỉ cần ta nói sai chuyện gì thì ngươi cứ giết ta là được”. Hán tử bệnh hoạn nói “Được! Bình Tây vương thích nhất là gì?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi nói là đồ vật hay người? Người mà y thích nhất, trước kia là Trần Viên Viên, về sau Trần Viên Viên lớn tuổi, y lại thích một người đẹp là Tứ diện Quan Âm, bây giờ người đẹp mà y thích nhất là Bát diện Quan Âm”.

Hán tử bệnh hoạn nói “Người đẹp thì có gì hay mà thích? Ta hỏi y thích nhất vật gì”. Vi Tiểu Bảo nói “Bình Tây vương có ba vật quý mà y thích nhất. Thứ nhất là một tấm da hổ trắng, thứ hai là một viên bảo thạch đỏ to như quả trứng gà, thứ ba là một tấm bình phong đá Đại Lý có hoa văn hình con cọp”. Hán tử bệnh hoạn cười nói “Hô hô, đúng là ngươi biết thật, ngươi nhìn đây!”. Rồi cởi cúc áo, tay trái kéo vạt áo trường sam bên ngoài lên, để lộ ra tấm áo da bên trong, tấm áo ấy lông trắng vằn đen, chính là da cọp trắng chế thành.

Vi Tiểu Bảo rất ngạc nhiên, nói “Ủa, ủa! Đây là bộ da cọp trắng mà Bình Tây vương thích nhất, sao… Sao… ngươi ăn trộm được?”. Hán tử bệnh hoạn đắc ý nghênh ngang nói “Cái gì mà ăn trộm được? Là Bình Tây vương tặng cho ta”.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Chuyện này thì ta không tin. Ta nghe anh rể ta là Hạ Quốc Tướng nói…”. Hán tử bệnh hoạn nói “Hạ Quốc Tướng là anh rể ngươi à?”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng, là anh rể họ. Chị họ ta là Ngô Chi… Ngô Chi Phương lấy y. Anh rể ta giỏi đánh trận, là một trong mười đại Tổng binh dưới trướng Bình Tây vương”. Hán tử bệnh hoạn gật đầu nói “Chuyện đó thì đúng. Bình Tây vương mời cha mẹ và ta uống rượu, cha mẹ ta không đi, chỉ một mình ta đi. Bình Tây vương đích thân ngồi tiếp, mười đại Tổng binh thủ hạ của y đều tới. Anh rể ngươi ngồi ghế đầu”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng rồi. Còn có Mã Bảo Mã đại ca, Vương Bình Phiên Vương đại ca, Trương Quốc Trụ Trương đại ca, đó đều là các chiến tướng hàng đầu, rất oai phong, rất sát khí!”. Hán tử bệnh hoạn nói “Anh rể ngươi nói tấm da cọp trắng của ta thế nào?”.

Vi Tiểu Bảo dốc ý lấy lòng y, thuận miệng bịa đặt “Anh rể ta nói năm xưa lúc Trần Viên Viên rất được sủng ái, bị nhiễm phong hàn, có ho chút ít, nghe người ta nói chỉ cần đắp tấm da cọp trắng này ba hôm sẽ khỏi lập tức. Bà ta hỏi xin Ngô… hỏi xin Bình Tây vương tấm da này, Bình Tây vương nói: Cô muốn đắp vài hôm thì được, nhưng ban cho cô thì không được. Đây là bảo bối may mắn nhất thiên hạ, tám trăm năm chỉ sinh ra một con cọp trắng, mà cho dù sinh ra cũng không săn được, không lột da được. Tấm da cọp trắng này đặt trong phòng, tà ma ác quỷ nhìn thấy là lập tức bỏ chạy thật xa. Trong người có bệnh cũng không cần uống thuốc, chỉ cần lấy tấm da cọp trắng này làm chăn đắp, đắp vài hôm là khỏi bệnh. Người ta chơi bài cẩu, cửa trên là Thanh long, cửa dưới là Bạch hồ, da Thanh long, da Bạch hổ đều là vật báu vô giá”.

Bà già nghe y nói rất sống động, con trai mình có bệnh, đó là chuyện duy nhất mà bà ta lo lắng, nghe nói đắp tấm da cọp trắng có thể chữa bệnh ho, tuy không tin lắm, nhưng rất mong đúng là như thế, liền nói “Con, Bình Tây vương tặng con vật báu này thì con rất có thể diện đấy. Con may làm áo mặc rất là thông minh, nhưng nếu tấm da cọp trắng này có thể chữa bệnh…”. Hán tử bệnh hoạn cau mày nói “Con không có bệnh, mẹ cứ nói gì thế?”. Bà già cười nói “Phải, phải, con như sinh long hoạt hổ, bấy nhiêu giang hồ hảo hán cũng bị con xoay con ốc, múa lưu tinh, chơi đùa rất vui”. Hán tử bệnh hoạn hô hô cười rộ, trong tiếng cười kèm tiếng ho khúc khắc. Bà già nói “Buổi tối lúc con đi ngủ, chúng ta cứ nhớ đắp tấm áo da lên trên chăn”. Hán tử bệnh hoạn quay đi không đếm xỉa gì tới.

Ông già chỉ bọn Phong Tế Trung hỏi “Những người này đều là thủ hạ của Bình Tây vương à?”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Mình giả mạo cháu của lão Hán gian cũng không hề gì. Nhưng muốn bọn Từ tam ca nhận là thủ hạ của Ngô Tam Quế, thì đó là chuyện họ ngàn vạn lần không muốn. Họ tính nết cứng cỏi, đừng để họ lộ ra trong lời lẽ”, liền nói “Họ đều là thủ hạ của ta. Bọn ta nghe nói Bình Tây vương khởi nghĩa, nhưng phò mã và công chúa đang ở kinh thành, không trốn ra được. Ngô Ứng Hùng ca ca rất tốt với ta, giao tình thân thiết, ta dắt các bằng hữu này lên kinh để cứu phò mã. Chuyện này tuy nguy hiểm, nhưng mọi người nghĩa khí là trọng, cái này gọi là lội qua nước sôi đạp lên lửa bỏng cũng không từ chối, biết rõ là rừng đao núi kiếm cũng phải băng qua”, mấy câu này nói ra vô cùng khảng khái hiên ngang.

Ông già gật gật đầu, bước qua đưa hai tay bứt mấy cái, lập tức bứt đứt dây trói cho bọn Phong Tế Trung, kế khẽ vỗ vào lưng mỗi người hai cái, xô đẩy vài lần, giải khai huyệt đạo cho mọi người. Một bộc phụ cởi cái nút tóc trói tay cho Song Nhi. Ông già hỏi Vi Tiểu Bảo “Nếu chỉ bằng vào lời lẽ của một mình ngươi thì không thể tin hết. Chuyện này quan hệ trọng đại, ngươi nói là cháu của Bình Tây vương, thì có chứng cứ gì không?”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Lão gia, chuyện đó thì khó đấy. Cha mẹ thì ta lại không có mang theo bên người. Thế này đi, chúng ta tới Bắc Kinh gặp phò mã, nếu y đã bị hoàng đế bắt rồi thì chúng ta tới gặp công chúa Kiến Ninh, nhất định công chúa sẽ nói với ngươi ta là Ngô Chi Vinh hàng thật giá đúng, già trẻ không lừa”. Nghĩ thầm tới Bắc Kinh rồi, lẽ nào còn sợ các ngươi làm bậy, mà cho dù có phải dắt họ tới gặp công chúa Kiến Ninh thật, thì mình có giả mạo là Ngọc Hoàng đại đế trên trời công chúa cũng sẽ nhất định gật đầu nói phải.

Ông già và bà già nhìn nhau một cái, trầm ngâm chưa quyết. Vi Tiểu Bảo chợt nghĩ ra, cười nói “A, có rồi, trong người ta có một lá thư của Bình Tây vương, lá thư này mà để cho người ngoài nhìn thấy thì ta không khỏi bị cả nhà chết chém, tịch biên gia sản. Nhưng các ngươi đã là bằng hữu của Bình Tây vương, thì có xem qua cũng không sao”. Nói xong đưa tay vào bọc lấy ra lá thư giả do Tra Y Hoàng viết đưa cho ông già.

Ông già đón lấy lá thư, dưới ánh chiều mở ra xem. Vi Tiểu Bảo còn sợ y không hiểu, liền giải thích “Chuyện chém rắn trắng, ca bài Đại phong gì đó là nói Chu Nguyên Chương…”. Y không giải thích còn tốt, chứ vừa giải thích là sai, đem chuyện Lưu Bang nói thành chuyện Chu Nguyên Chương. May mà ông già và bà già đang chăm chú đọc thư, không để ý y nói gì. Bà già đọc thư xong, nói “Thế thì không sai rồi. Bình Tây vương muốn làm Hán Cao tổ, Minh Thái tổ, mời y tới làm Trương Tử Phòng, Lưu Bá Ôn. Nhị ca, Bình Tây vương nói khởi nghĩa là để khôi phục nhà Minh, nhưng xem khẩu khí trong lá thư này, hừ, thì chí của y không nhỏ đâu”, rồi nhìn qua Vi Tiểu Bảo một cái, nói “Y còn nhỏ tuổi như thế…”, trong lòng tự nhiên là nói “Thằng nhỏ nhà ngươi mà cũng làm được Trương Tử Phòng, Lưu Bá Ôn à?”.

Ông già xếp lá thư lại đưa trả Vi Tiểu Bảo, nói “Quả nhiên là lệnh điệt của Bình Tây vương, bọn ta mới rồi đắc tội nhiều lắm”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Nói thế làm gì, nói thế làm gì. Không biết thì không bắt tội”. Lúc ấy bọn Từ Thiên Xuyên đều đã tỉnh lại, nghe Vi Tiểu Bảo tự xưng là cháu của Ngô Tam Quế, đối phương lại tin tưởng không hề nghi ngờ, ai cũng vô cùng kinh ngạc, nhưng vốn biết vị tiểu Hương chủ này quỷ kế đa đoan, lúc ấy đều im lặng không lên tiếng. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Lão tử từng giả mạo là con Ngô Tam Quế trước mặt gã Mông Cổ râu xồm Hãn Thiếp Ma, đã làm con rồi thì làm cháu thêm một lần cũng có hề gì? Lần sau cứ giả mạo là cha Ngô Tam Quế là được, chỉ cần gỡ được vốn là không bị thiệt”.

Lúc ấy trời đã rất tối, mọi người đứng giữa đồng trống, từng trận từng trận gió lạnh thổi tới, hán tử bệnh hoạn không ngừng ho sặc sụa.

Vi Tiểu Bảo nói “Xin hỏi quý tính của lão gia và lão thái thái”. Bà già nói “Bọn ta họ Quy”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Họ gì tốt không lấy, lại đi lấy họ Quy (*), thật là chuyện buồn cười”. Bà già nhìn con trai, nói “Trời tối rồi, cứ tìm chỗ nào nghỉ đêm, chuyện khác từ từ bàn sau”. Vi Tiểu Bảo nói “Vâng, vâng. Mới rồi ta ở trên gò, thấy bên kia có khói bốc lên, có không ít nhà cửa, chúng ta tới đó ngủ nhờ thôi”, nói xong chỉ về phía nhà Trang gia một cái. Thật ra chỗ ấy cách Trang gia mười mấy dặm, gò núi che khuất, làm sao nhìn thấy khói bếp?

Người bộc dịch dắt hai con ngựa tới cho hán tử bệnh hoạn, ông già, bà già cưỡi lên. Bà già và hán tử bệnh hoạn cưỡi chung một con, bà ta ngồi sau lưng con trai, đưa tay ôm chặt y. Bọn Vi Tiểu Bảo vốn đều có ngựa, nhất tề lên ngựa, bốn người bộc dịch của ông già thì đi bộ.

Đi được một lúc, Vi Tiểu Bảo nhìn Song Nhi nói lớn “Ngươi cưỡi ngựa đi trước, xem phía trước là thị trấn hay thôn trang, tìm thuê một gian nhà lớn, nấu nước nóng mau đi. Quy thiếu gia cần uống sâm thang ấm. Mọi người rửa tay chân xong, sẽ ăn uống sau. Cứ thưởng cho họ nhiều một chút”. Y nói một câu, Song Nhi vâng dạ một câu. Y rút trong bọc ra một nén bạc lớn, kèm với gói mông hãn dược đưa qua. Song Nhi đón lấy, thúc ngựa phi mau. Bà già trên mặt có vẻ vui mừng, Vi Tiểu Bảo dặn nấu nước nóng, rõ ràng rất hợp ý bà ta.

Lại đi được vài dặm, Song Nhi phóng ngựa trở lại, nói “Tướng công, phía trước không phải thị trấn, cũng không phải thôn trang mà là một gian nhà lớn. Người trong nhà ra nói đàn ông nhà họ đi vắng hết, không thể tiếp đãi khách nhân. Tôi đưa bạc ra, họ cũng không lấy”. Vi Tiểu Bảo mắng “Con a đầu ngu ngốc, kể gì họ chịu tiếp đãi hay không, chúng ta cứ tới đó là được”. Song Nhi ứng tiếng “Dạ”.

Bà già cũng nói “Chúng ta chỉ ngủ nhờ một đêm, nhà họ không có đàn ông, chẳng lẽ còn đánh cướp, mưu hại nhà họ sao?”.

***

Đoàn người tới Trang gia. Một người bộc dịch bước lên gõ cửa, hồi lâu mới có một người bộc phụ ra mở, tai lại nghễnh ngãng nghe không rõ, nói tới nói lui chỉ là trong nhà không có đàn ông.

Hán tử bệnh hoạn cười nói “Trong nhà ngươi không có đàn ông, thì đây không phải có rất nhiều đàn ông tới sao?”. Y nghiêng người một cái lách vào trong, đẩy người bộc phụ già qua một bên. Mọi người vào theo, ngồi xuống trong đại sảnh. Bà già nói “Trương má, Tôn má, các ngươi đi đun nước nấu cơm, chủ nhà không thích khách nhân, nhất thiết các ngươi cứ tự tay mình làm là được”. Hai người bộc phụ vâng dạ, đi xuống nhà bếp.

Từ Thiên Xuyên đã tới ngôi nhà lớn của Trang gia, về sau nghe Vi Tiểu Bảo nói lại mọi chuyện, hiện lại thấy y hoa ngôn xảo ngữ đánh lừa cho ba đại cao thủ võ công cao thâm khôn lường này đâm đầu vào lưới, trong lòng mừng thầm, lúc ấy cùng mọi người ngồi dưới thềm, cách xa hán tử bệnh hoạn và Vi Tiểu Bảo để khỏi để lộ chỗ sơ hở.

Ông già chỉ Ngô Chi Vinh hỏi “Người miệng đầy máu kia là ai thế?”. Vi Tiểu Bảo nói “Thằng đầy tớ này là quan của triều đình, bọn ta gặp trên đường, sợ y về tố cáo với quan phủ, vì thế… vì thế bèn cắt lưỡi y”. Ông già kia ngồi ở xa, nhưng vẫn nhìn thấy, trong lòng nãy giờ vẫn nghi ngờ, lúc ấy nghe Vi Tiểu Bảo nói, vẫn nửa tin nửa ngờ, bước tới trước mặt Ngô Chi Vinh, hỏi “Ngươi là quan của triều đình, phải không?”.

Ngô Chi Vinh đã sớm đau chết đi sống lại, lúc ấy gật gật đầu. Ông già lại hỏi “Ngươi biết người ta định làm phản, định đi tố cáo phải không?”. Ngô Chi Vinh nghĩ thầm muốn chối cũng không được, chỉ mong ông già có thể cứu mạng cho mình, lúc ấy gật đầu lia lịa. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi biết ở phương nam có một vị võ tướng tay cầm binh quyền định tạo phản, vị võ tướng ấy họ Ngô, nếu tạo phản thì rất nguy hiểm”. Ông già hỏi Ngô Chi Vinh “Có đúng thế không?”. Ngô Chi Vinh lại gật gật đầu.

Ông già không nghi ngờ gì nữa, lại tin Vi Tiểu Bảo thêm vài phần. Y ngồi xuống ghế, hỏi Vi Tiểu Bảo “Võ công của Ngô huynh đệ là vị sư phụ nào dạy thế?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta có tới mấy vị sư phụ, một, hai, ba, tất cả ba vị. Có điều ta… ta vừa ngốc vừa lười, võ công gì cũng không học được”, ông già nghĩ thầm “Võ công của ngươi không ra sao, chẳng lẽ ta không biết à?”, nhưng đối với khinh công Thần hành bách biến của y thì trong lòng vẫn áy náy, tuy Vi Tiểu Bảo chỉ sử dụng được phần vỏ ngoài, nhưng thân pháp bộ pháp quả đúng là khinh công thượng thừa Thần hành bách biến không còn nghi ngờ gì nữa, lại hỏi “Ngươi học khinh công của ai?”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Y nhất định muốn biết khinh công của mình là ai dạy cho, nhất định có thù oán với vị sư phụ sư thái của mình, vậy thì không nói được. Y là đồng đảng của Ngô Tam Quế, thì quá nửa là có giao tình với Lạt ma Tây Tạng”, liền nói “Có một vị đại Lạt ma Tây Tạng tên là Tang Kết, gặp ta trong cung Ngũ Hoa của Bình Tây vương ở Côn Minh, nói ta võ công quá kém, đánh nhau với người ta thì đánh không lại, chẳng bằng học cách chạy trốn thôi, bèn dạy ta mấy hôm. Ta luyện rất vất vả, tự cho là cao cường rồi, nào ngờ vừa gặp lão công công, lão thái bà, lại thêm vị thiếu gia thân thể khỏe mạnh, tinh thần sung mãn này thì hoàn toàn vô dụng”.

Bà già nghe y khen con trai mình tám chữ “Thân thể khỏe mạnh, tinh thần sung mãn” còn vui vẻ hơn nghe thấy bất cứ lời tâng bốc nào, bất giác mặt mày rạng rỡ, nhìn con mấy cái, vui tới tận đáy lòng, nói “Nhị ca, mấy hôm nay tinh thần của con rất sung mãn”. Ông già khẽ gật đầu, nhưng nhìn tới con trai đang ngủ gật trên ghế, tinh thần vô cùng bạc nhược, trong lòng bất giác nhột nhạt, nói với Vi Tiểu Bảo “Té ra là thế, vậy thì phải rồi”.

Bà già hỏi “Sao Tang Kết lại biết khinh công Thần hành bách biến?”, ông già nói “Trong Thiết Kiếm môn có Ngọc Chân tử, cư trú ở Tây Tạng rất lâu”. Bà già nói “A, phải rồi, y là sư đệ của Mộc Tang đạo nhân. Có quá nửa là năm xưa y ở Tây Tạng đã truyền lại cho người khác”, rồi quay lại hỏi Song Nhi “Tiểu cô nương, còn võ công của ngươi là học được của ai?”. Cả hai vợ chồng già đều nhìn chằm chằm vào nàng, tựa hồ lai lịch sư thừa của nàng là chuyện rất quan trọng.

Song Nhi bị hai người nhìn tới mức luống cuống, nói “Ta… ta…”. Nàng không biết bịa đặt, không biết nên trả lời thế nào là tốt. Vi Tiểu Bảo nói “Thị là a hoàn của ta, vị Lạt ma Tang Kết kia cũng có dạy qua võ công cho thị”.

Ông già, bà già cùng đồng thời lắc đầu, đồng thanh nói “Quyết không phải thế”, vẻ mặt mười phần trịnh trọng.

Lúc ấy hán tử bệnh hoạn đột nhiên cất tiếng ho sặc sụa, càng ho càng dữ. Bà già vội bước qua đấm nhẹ lên lưng y, ông già cũng quay qua nhìn con trai. Hai người bộc phụ dùng mâm gỗ bưng sâm thang nước nóng trong bếp ra, đứng trước mặt hán tử bệnh hoạn, chờ y ngớt ho, hầu y uống sâm thang xong mới mang trà cho mọi người, cả bọn Từ Thiên Xuyên cũng có một chén.

Ông già uống trà xong, lại định hỏi Song Nhi, nhưng thấy nàng đã đi vào hậu đường, ông già đột nhiên đứng lên hỏi Tôn má “Nước nóng pha trà ở đâu ra vậy?”. Vi Tiểu Bảo giật nảy mình, tim đập thình thịch, nghĩ thầm “Hỏng bét, hỏng bét! Lão già chết giẫm này biết rồi”. Tôn má nói “Là tôi và Trương má cùng đun”, ông già lại hỏi “Dùng nước gì?”. Tôn má nói “Là nước trong chum dưới bếp”. Trương má nói theo “Chúng tôi đã xem kỹ rồi, rất sạch sẽ…”. Câu nói chưa dứt thì huỵch huỵch hai tiếng, hai tên bộc dịch đã ngã vật xuống đất, ngất đi luôn.

Bà già nhảy bật lên, loạng choạng một cái, đưa tay ôm đầu, kêu lên “Trong trà có độc”.

Bọn Từ Thiên Xuyên chưa uống trà, nhưng đều đưa mắt nhìn nhau một cái, nhất tề ngã lăn ra, giả như ngất đi, loảng xoảng loảng xoảng, chén trà rơi hết xuống đất.

Vi Tiểu Bảo kêu lên “Ái chà!”, cũng ngã lăn ra đất, hai mắt nhắm nghiền.

Chỉ nghe Trương má Tôn má đồng thanh kêu lên “Nước là do chúng tôi đun, trong bếp cũng không có ai khác”. Bà già nói “Nước trong ang có thuốc. Con trai, con thấy thế nào?”. Hán tử bệnh hoạn nói “Còn khỏe, còn…”, chợt ngoẹo đầu qua một bên, cũng ngất đi luôn. Tôn má nói “Trong sâm thang không có nước. Sâm thang là chúng ta mang theo”, ông già nói “Chưng cách thủy thì hơi nước cũng xông vào”. Bà già nói “Đúng! Con ta thân thể hư nhược, như thế… như thế…”, vội đưa tay sờ lên đầu hán tử bệnh hoạn, bàn tay không ngừng run lên.

Ông già cố vận khí ngăn chặn dược lực trong bụng không cho phát tán, nói “Mau lấy hai chậu nước lạnh lên đây”.

Trương má, Tôn má không uống trà, thấy biến cố đột ngột xảy ra, hoảng sợ cuống lên, vội chạy mau vào trong.

Bà già nói “Gian nhà này có điều cổ quái”. Bà ta không mang binh khí trong người, bèn cúi xuống rút yêu đao của một tên bộc dịch, vừa cúi xuống, chỉ thấy trời đất quay cuồng, không đứng vững được nữa, ngã lăn xuống đất, ngón tay đã chạm vào chuôi đao nhưng đã không còn sức nắm lấy. Ông già tay phải nắm chặt lưng ghế, nhắm mắt thở dốc, thân hình hơi lảo đảo.

Vi Tiểu Bảo nằm dưới đất, hé mắt nhìn trộm, thấy Song Nhi dẫn một đám phụ nữ đi ra. Ông già đột nhiên vung chưởng đánh tới, hất tung một nữ tử áo trắng ra hơn một trượng, đập mạnh vào một cái ghế. Bọn Từ Thiên Xuyên lớn tiếng quát tháo, nhảy bật dậy sấn tới trước mặt ông già, nhưng thấy y đã ngất đi. Phong Tế Trung vươn chỉ điểm vào huyệt đạo của y, lại điểm vào huyệt đạo của bà già và hán tử bệnh hoạn.

Vi Tiểu Bảo nhảy bật dậy, hô hô cười rộ, kêu lên “Trang tam thiếu nãi, chào người”, rồi khom lưng làm lễ với một người đàn bà áo trắng.

***

Người đàn bà áo trắng ấy chính là tam thiếu nãi của Trang gia, vội vàng đáp lễ, nói “Vi thiếu gia, ngươi bắt được kẻ đại thù của bọn ta đem tới đây, thật không biết làm sao báo đáp. Ông trời có mắt, cho bọn ta trả được mối đại cừu. Vi thiếu gia, mời ngươi qua đây gặp sư phụ của bọn ta”, rồi dẫn y tới trước mặt một người đàn bà áo vàng.

Người đàn bà ấy đặt tay lên lưng cô gái bị ông già đánh trúng. Người bị thương ọe một tiếng, thổ ra một ngụm máu tươi, kế đó lại thổ ra một ngụm nữa. Người đàn bà áo vàng mỉm cười nói “Không sao đâu”, giọng nói trong trẻo rất dễ nghe.

Vi Tiểu Bảo thấy người đàn bà này không còn trẻ, nhưng giọng nói lại như thiếu nữ. Bà ta trên đầu mang một cái vòng vàng, đi chân không, lưng thắt một cái thắt lưng thêu hoa, trang phục rất kỳ lạ, tóc trên đầu đã lốm đốm bạc nhưng khuôn mặt lại vừa trắng vừa mịn, chỉ là đuôi mắt có không ít nếp nhăn, rốt lại là bao nhiêu tuổi quả thật không sao nói được, nhìn đầu tóc thì đã sáu mươi, dung mạo thì khoảng trên dưới ba mươi. Y nghĩ người này là sư phụ của tam thiếu nãi, lập tức bước lên quỳ xuống dập đầu, nói “Bà bà tỷ tỷ, Vi Tiểu Bảo xin dập đầu”.

Người đàn bà kia cười nói “Thằng nhỏ ngươi gọi ta là gì?”. Vi Tiểu Bảo đứng lên, nói “Người là sư phụ của tam thiếu nãi, ta phải gọi là bà bà, có điều nhìn tướng mạo của người thì nhiều lắm chẳng qua cũng chỉ đáng là chị ta, nên ta gọi người là bà bà tỷ tỷ”. Người đàn bà kia cười khanh khách, nói “Nhiều lắm là chị ngươi à? Chẳng lẽ còn làm em gái ngươi sao?”. Vi Tiểu Bảo nói “Nếu ta nghe giọng người cách một bức vách, thì sẽ gọi người là bà bà muội muội”. Người đàn bà kia cười rung cả người, cười nói “Thằng nhỏ nhà ngươi lém lỉnh thú vị lắm, mồm mép trơn tuột, thật biết lấy lòng người ta, chẳng trách ngay cả bậc đại anh hùng như sư bá của ta cũng mắc lừa ngươi”.

Câu ấy vừa nói ra, mọi người ai cũng kinh ngạc.

Vi Tiểu Bảo chỉ ông già nói “Vị… vị lão công công này là sư bá của bà bà tỷ tỷ người à?”. Người đàn bà cười nói “Tại sao không phải? Ta và lão nhân gia người đã bốn mươi năm không gặp nhau, lúc đầu còn chưa nhận ra, nhưng đến khi thấy lão nhân gia người xuất thủ, một chưởng Tuyết hoành Tần lĩnh oai mãnh như thế thì ở Trung nguyên không có người thứ hai sử dụng được, mới biết là y”. Vi Tiểu Bảo rầu rĩ nói “Nếu đã là người mình thì làm thế nào?”. Người đàn bà lắc đầu cười nói “Ta cũng không biết làm thế nào. Sư phụ ta mà biết chuyện này, không chửi ta tối mặt không xong”. Nhìn thấy mấy người bộc dịch cầm dây thừng đứng chờ bên cạnh, liền cười nói “Nếu ngươi sai trói người, thì đó là tự ngươi ra lệnh, không dính líu gì tới ta. Sư bá thì ta không dám trói, có điều nếu không trói, lão nhân gia người tỉnh dậy rồi, thì ta đánh không lại y. Tiểu đệ đệ, ngươi đánh lại y không?”.

Vi Tiểu Bảo cả mừng, cười nói “Ta càng đánh không lại”, biết ý bà ta là chỉ muốn không bị dính líu vào chứ không hề có ý che chở cho sư bá, vội nói với bọn Từ Thiên Xuyên “Mấy người này là cùng bọn với Ngô Tam Quế, không phải người tốt. Thiên địa hội chúng ta trói họ, không dính líu gì tới bà bà tỷ tỷ đây cả”. Bọn Từ Thiên Xuyên vừa bị hán tử bệnh hoạn đùa giỡn, quả thật là mối nhục lớn bình sinh chưa từng gặp, đã sớm căm hận nghiến răng ken két, lập tức đón lấy dây thừng, trói ông già, bà già, hán tử bệnh hoạn và hai tên bộc dịch lại thật chặt.

Người đàn bà áo vàng nói “Quy sư bá của ta tại sao lại là đồng đảng với Ngô Tam Quế? Các ngươi định làm gì?”. Lúc ấy Vi Tiểu Bảo bèn kể lại tình hình gặp ông già này trong quán cơm thế nào, bọn Từ Thiên Xuyên bị hán tử bệnh hoạn hý lộng thì tự nhiên bỏ qua không nói tới, chỉ nói con quỷ ho lao kia võ công cao cường, mọi người không phải là đối thủ của y. Người đàn bà nói “Tính mệnh của tiểu sư đệ nhà họ Quy là do sư phụ ta cứu. Lúc nhỏ y mắc bệnh nặng, đến bây giờ trong người cũng không khỏe. Y là mạng sống của vợ chồng Quy sư bá đấy”. Rồi nhìn ông già một cái, nói “Quy sư bá là người rất ngay thẳng, tại sao lại là đồng đảng với thằng đại Hán gian Ngô Tam Quế? Nếu đúng thế thì sư phụ ta cũng không chửi người được, hì hì!”. Nghe lời lẽ của bà ta thì tựa hồ rất sợ sư phụ.

Vi Tiểu Bảo nói “Ai giúp đỡ Ngô Tam Quế thì kẻ ấy đáng chết. Sư phụ người biết được chuyện này, còn sẽ khen ngợi người nữa kia”.

Người đàn bà áo vàng cười nói “Thật à?”, nhìn qua ông già, bà già, trầm ngâm một lúc rồi bước qua đưa tay lên mũi hán tử bệnh hoạn, nói “Tam thiếu nãi, lúc nào sư bá ta tỉnh lại, nhất định sẽ nổi giận. Chúng ta không thể giết y. Thôi thế này, để họ ở lại đây, tất cả chúng ta cứ chạy đi là tốt, cho họ vĩnh viễn không biết được ai trói họ, ngươi nói có phải không?”.

Tam thiếu nãi nói “Sư phụ đã dạy, thì cứ thế mà làm là được”, nhưng nghĩ tới đã cư trú nơi này nhiều năm, đột nhiên lập tức phải đi, trong lòng bịn rịn, lại cảm thấy di chuyển đồ dùng không dễ, trên mặt không kìm được có vẻ khó khăn.

Một bà già áo trắng nói “Kẻ thù đã bắt được, chúng ta hãy tế các vị tướng công, rồi thiêu hóa linh vị đi”. Tam thiếu nãi nói “Bà bà nói rất đúng”.

Lúc ấy mọi người tới linh đường kéo Ngô Chi Vinh vào, bắt y quỳ xuống.

Tam thiếu nãi bưng một bộ sách trên bàn thờ xuống, mở ra trước mặt Ngô Chi Vinh, nói “Ngô đại nhân, đây là bộ sách gì, ngươi nhận ra được không?”. Ngô Chi Vinh đã giở bộ sách này mòn hết móng tay, vừa nhìn thấy khổ sách đã biết ngay đây là bộ Minh sử giúp mình thăng quan phát tài, lại nhìn tới gáy sách, quả nhiên là bộ Minh sử tập lược, liền gật gật đầu.

Tam thiếu nãi lại nói “Ngươi nhìn cho kỹ đi, những người có linh vị ở đây, năm xưa ngươi đều quen biết cả đấy”. Ngô Chi Vinh đưa mắt nhìn lên tên họ trên bài vị, chỉ thấy trên từng tấm từng tấm bài vị viết tên Trang Doãn Thành, Trang Đình Long, Lý Lệnh Chiết, Trình Duy Phiên, Lý Hoán, Vương Triệu Trinh, Mao Nguyên Tích… Hơn một trăm người có tên trên đó, người nào cũng vì mình cáo giác mà bị triều đình xử tử trong vụ án Minh sử. Ngô Chi Vinh chỉ nhìn tám chín cái tên đã hồn phi phách tán. Y đầu lưỡi đã bị cắt, máu chảy không ngớt, vốn trong ba phần đã chết hai phần, lúc ấy toàn thân nhũn ra, ngồi phệch xuống đất, run lên cầm cập.

Tam thiếu nãi nói “Ngươi vì tham công danh phú quý mà hại chết bấy nhiêu người. Các vị tướng công có người chịu đủ cực hình hành hạ trong ngục mà chết, có người bị lăng trì, chịu nỗi khổ ngàn đao cắt thịt. Nếu bọn ta không may mắn được sư phụ cứu cho, cũng đã sớm bị ngươi hại chết rồi. Hôm nay nếu một đao chém chết ngươi, thì không khỏi quá tiện nghi cho ngươi. Chỉ có điều bọn ta làm việc thì không tàn nhẫn như các ngươi, ngươi muốn chết cho thống khoái, thì tự mình cứ làm thôi”, nói xong giải khai huyệt đạo trên người y, keng một tiếng, ném một thanh đao xuống đất.

Ngô Chi Vinh toàn thân run lên, nhặt thanh đao, nhưng muốn y tự sát, thì làm sao có dũng khí như thế được? Đột nhiên y xoay người định xông ra ngoài linh đường bỏ chạy, nhưng chỉ nhảy được một bước đã thấy mấy mươi người đàn bà áo trắng đứng trước mặt. Y trong cổ họng kêu hà hà mấy tiếng, ngã lăn ra đất, quằn quại mấy cái rồi không động đậy gì nữa.

Tam thiếu nãi lật người y lại, thấy y đã tắt thở, mặt đầy máu tươi, hai mắt trợn trừng trông rất đáng sợ, bèn nói “Ác hữu ác báo, rốt lại thằng gian tặc này cũng đã chết”. Rồi quỳ xuống trước linh sàng, nói “Các vị tướng công, mối đại thù của các người đã trả được rồi, linh hồn trên trời cũng đã được yên ổn”. Đám phụ nữ nhất tề phủ phục xuống khóc lớn.

Vi Tiểu Bảo và quần hùng Thiên địa hội đều tới làm lễ trước linh sàng. Người đàn bà áo vàng kia đứng qua một bên, chân mày hơi nhướng lên, im lặng bất động.

Đám phụ nữ khóc một lúc, lại cùng hướng về Vi Tiểu Bảo dập đầu, cảm tạ y đã bắt kẻ thù đưa tới. Vi Tiểu Bảo vội dập đầu đáp lễ, nói “Một chút chuyện nhỏ cần gì khách khí. Nếu các ngươi còn có kẻ thù nào khác, cứ nói cho ta nghe, ta đi bắt cho các ngươi là được”. Tam thiếu nãi nói “Gian tướng Ngao Bái là Vi thiếu gia chính tay giết chết, Ngô Chi Vinh cũng do Vi thiếu gia bắt tới đây xử tử. Mối đại thù của bọn ta đã trả đủ rồi, không còn kẻ thù nào nữa”. Lúc ấy đám phụ nữ đem linh vị xuống, thiêu hóa tất cả.

***

Người đàn bà áo vàng thấy họ lễ nghi phiên phức, bận rộn không ngớt, liền đứng dậy bước qua nhìn mấy người bị trói. Vi Tiểu Bảo và quần hùng Thiên địa hội đi theo. Chỉ thấy ông già, bà già và hán tử bệnh hoạn vẫn chưa tỉnh lại.

Người đàn bà áo vàng mỉm cười nói “Thằng nhóc, ngươi định hạ độc hại người, phải học cho kỹ đấy”. Vi Tiểu Bảo nói “Vâng, vâng, vãn bối hạ thuốc mê đánh ngã người ta, quả thật vì không còn cách nào. Võ công của họ quá cao cường, nếu ta không dùng quỷ kế thì không bị họ bẻ gãy cổ không xong. Những thủ đoạn hạ lưu này, anh hùng hảo hán trên giang hồ rất coi thường, ta biết là sai rồi, lần sau không dám thế nữa”. Người đàn bà áo vàng cười khẽ một tiếng, nói “Tại sao không làm nữa? Giết người là giết người, dùng đao cũng là giết người, dùng quyền cũng là giết người, hạ độc dùng thuốc không phải là cũng giết người sao? Anh hùng hảo hán trên giang hồ coi thường à? Hừ, ai cần họ coi thường chứ? Loại như Ngô Chi Vinh tố cáo với triều đình, giết cả trăm cả ngàn người, y không dùng thuốc độc, nhưng chẳng lẽ lại coi trọng y à?”.

Mấy câu này đều khiến Vi Tiểu Bảo trong lòng vui vẻ, không kìm được mặt mày rạng rỡ, nói “Bà bà tỷ tỷ, mấy câu nói của người rất đúng. Lúc ta còn nhỏ giúp người ta đánh nhau, dùng vôi bột ném vào mắt địch nhân, ta giúp y đánh thắng, cứu mạng cho y, nhưng người ấy lại nói ta sử dụng thủ đoạn hạ lưu, hung dữ tát ta mấy cái. Đáng tiếc lúc ấy không có bà bà tỷ tỷ ở đó, nếu không thì đã giáo huấn cho y một phen rồi”.

Người đàn bà áo vàng nói “Có điều ngươi hạ độc Quy sư bá của ta, thì ta cũng hung dữ tát ngươi mấy cái”. Vi Tiểu Bảo vội nói “Lúc đó ta không biết y là sư bá của người”. Người đàn bà nói “Nếu biết y là sư bá của ta, y lại muốn bẻ gãy cổ ngươi, ngươi có thuốc độc trong tay, thì có hạ độc vào y không?”. Vi Tiểu Bảo cười hì hì, nói “Lúc tính mạng khẩn cấp, cũng chỉ còn cách đắc tội thôi”. Người đàn bà nói “Tính ra thì ngươi cũng thành thật đấy. Người ta muốn lấy mạng ngươi, tại sao ngươi lại không lấy mạng người ta trước. Ta nói muốn tát ngươi mấy cái, chỉ vì ngươi quá không biết hay dở. Người ta là Thần quyền vô địch Quy Tân Thụ Quy nhị gia danh tiếng lẫy lừng, công lực thâm hậu tới mức nào? Ngươi lại cho y uống loại mông hãn dược rắm chó đầu không váng, mắt không hoa, lão nhân gia người chỉ coi như ớt bột thôi”.

Vi Tiểu Bảo nói “Nhưng y… y…”. Người đàn bà nói “Loại mông hãn dược không ra gì của ngươi pha vào nước trà, thì đời nào loại nhân vật giang hồ tám mươi tuổi như người ta lại hồ đồ uống vào? Đó là trò chơi của bọn lưu manh giặc cướp mở hắc điếm thôi. Muốn hạ độc, thì phải hạ độc loại hạng nhất kia”. Vi Tiểu Bảo vừa sợ vừa mừng, nói “Té ra… té ra là bà bà tỷ tỷ đã thay cho loại thuốc độc hạng nhất”. Người đàn bà nói “Nói bậy, ta không thay. Quy sư bá là y tự mình mệt mỏi, nhức đầu ngất đi thôi. Có liên quan gì tới ta chứ? Một con ma ho lao, hai ông bà già tám mươi tuổi đột nhiên chóng mặt ngã lăn ra, thì có gì là lạ?”.

Bà ta nói với giọng rất đứng đắn, nhưng trong ánh mắt thì hiện ra vẻ cười cợt.

Vi Tiểu Bảo biết bà ta sợ sau này sư phụ biết được trách mắng thì sẽ chối phắt, trong lòng nói không hết sự thích thú khâm phục với bà ta, đột nhiên quỳ phục xuống đất, nói “Bà bà tỷ tỷ, ta bái người làm sư phụ, người nhận ta làm học trò, ta gọi người là sư phụ tỷ tỷ”.

Người đàn bà cười khanh khách, đưa tay phải ra vuốt cằm y. Vi Tiểu Bảo chỉ cảm thấy dưới hàm chạm phải vật cứng, hoàn toàn không phải là tay người, cúi đầu xuống nhìn, giật nảy mình, chỉ nhìn thấy một cái móc sắt đen bóng, đầu móc rất sắc bén, lấp loáng ánh sáng.

Người đàn bà cười nói “Ngươi nhìn cho kỹ đi”, tay trái kéo tay áo phải lên, lộ ra một đoạn cánh tay màu trắng, nhưng bị cụt từ cổ tay, không có bàn tay, cái móc câu sắt kia là gài vào trên cổ tay. Người đàn bà nói “Ngươi muốn làm học trò của ta cũng không có gì không được, cứ chặt bàn tay đi, ta sẽ làm cho ngươi một cái móc sắt”.

Người đàn bà áo vàng này chính là giáo chủ Ngũ độc giáo Hà Thiết Thủ nổi tiếng thiên hạ năm xưa. Về sau nhận Viên Thừa Chí làm sư phụ, đổi tên là Hà Dịch Thủ. Sau khi nhà Minh mất bà theo Viên Thừa Chí ra hải ngoại. Một năm vâng lệnh sư phụ về Trung Nguyên làm việc, lúc vô ý cứu được bọn quả phụ nhà họ Trang, bèn dạy lại cho họ một ít võ nghệ. Lần này trở lại, vừa khéo Song Nhi đem mông hãn dược tới, nói rõ nguyên do, tuy bà không biết đối phương là ai, nhưng võ công cao cường như thế, thì loại mông hãn dược tầm thường hoàn toàn vô dụng. Lúc ấy bèn dùng một ít mông hãn dược khác cho vào vò nước. Bản lĩnh dùng độc của Hà Dịch Thủ thiên hạ vô song, từ khi gia nhập phái Hoa Sơn đã lâu không dùng, đột nhiên thấy có người muốn hạ độc vào vò nước, không kìm được ngứa nghề, dùng dao giết trâu mổ gà, trong thiên hạ có ai chống được? Nếu không như thế thì Quy Tân Thụ nội công thâm hậu, còn hơn cả Viên Thừa Chí sư phụ của bà, gói mông hãn dược tầm thường mà Vi Tiểu Bảo lấy được từ chỗ bọn Ngự tiền thị vệ làm sao làm y ngất đi được?

Hán tử bệnh hoạn Quy Chung đã mắc bệnh từ lúc còn trong bụng mẹ, vốn rất khó nuôi đến lớn, về sau uống được linh dược quý báu nên mới giữ được tính mạng đến nay, nhưng gân cốt trong thân thể đều bị tổn thương, thủy chung vẫn không thể khỏe mạnh bằng người thường. Vợ chồng Quy Tân Thụ chỉ có đứa con một này, còn yêu quý hơn cả tính mạng của mình. Vì y từ nhỏ bệnh hoạn liên miên, không khỏi cưng chiều quá đáng, không quản giáo được. Quy Chung tuy học được một thân võ công cao cường, nhưng đến tuổi trung niên mà tâm trí tính nết vẫn như một đứa nhỏ tám chín tuổi.

Lúc Hà Dịch Thủ hạ thuốc không biết đối phương là ai, đến khi phát giác ra gia đình Quy sư bá, bất giác trong lòng hồi hộp, nhưng việc đã như thế cũng đành phải chịu, nghe Vi Tiểu Bảo lấy lòng, cảm thấy rất thích y, nghĩ thầm “Trên hải đảo ngoài cõi xa làm sao có được loại thiếu niên lanh lợi ương bướng thế này?”.

Vi Tiểu Bảo nghe nói phải chặt một bàn tay mới bái sư được, giơ bàn tay lên nhìn, vừa sợ chặt đi thì đau, lại cảm thấy tiếc, dáng vẻ rất ngần ngừ. Hà Dịch Thủ cười nói “Sư phụ thì không cần nhận đâu, ta cũng không có thời gian mà dạy công phu cho ngươi. Ta có một món ám khí rất hay, lần này tặng cho ngươi, để ngươi trong lòng khỏi kêu oan là đã dập đầu suông, lại gọi một hồi Sư phụ tỷ tỷ”. Vi Tiểu Bảo nói “Sư phụ tỷ tỷ, đây quyết không phải là gọi suông đâu, người không dạy công phu, không cho ta vật gì, nhưng cô nương mỹ mạo như người, ta có gọi thêm vài tiếng Sư phụ tỷ tỷ thì trong lòng cũng rất vui vẻ”.

Hà Dịch Thủ cười khanh khách, nói “Con khỉ con này mồm mép trơn tuột, nói chuyện với bà bà ngươi không có trên dưới gì cả”. Bà là con gái người Miêu, đối với quy củ lễ pháp của người Hán trước nay vốn không để ý gì, Vi Tiểu Bảo khen bà xinh đẹp, bà không những không thấy trái ý lại thấy khoan khoái, lại cười nói “Con khỉ con, ngươi gọi tiếng nữa đi”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Tỷ tỷ, hảo tỷ tỷ”.

Hà Dịch Thủ cười nói “Ái chà, càng gọi càng không ra sao”. Đột nhiên tay trái móc vào gáy y, nhấc y qua bên trái, chỉ nghe vù vù vù ba tiếng, ba ngọn nến trên bàn lập tức tắt phụt, trên vách tường đối diện vang lên một tràng tiếng chát chát như mưa rào bắn vào. Vi Tiểu Bảo vừa sợ vừa mừng, hỏi “Đây là ám khí gì thế?”. Hà Dịch Thủ cười nói “Ngươi cứ tự mình nhìn đi”, rồi buông tay thả y xuống đất.

Vi Tiểu Bảo lấy một giá nến trên bàn bước tới gần vách tường, chỉ thấy mấy mươi mũi cương châm lấp lánh cắm chi chít vào tường. Y vô cùng khâm phục, nói “Tỷ tỷ, người không hề động đậy, tại sao lại phóng ra được bấy nhiêu cương châm? Loại ám khí này trong thiên hạ còn ai tránh được chứ?”. Hà Dịch Thủ cười nói “Năm xưa ta từng dùng ám khí Hàm sa xạ ảnh này phóng sư phụ ta, nhưng người tránh được, một mũi cũng không trúng. Có điều ngoài sư phụ ta chỉ e không có mấy người tránh được”.

Vi Tiểu Bảo nói “Sư phụ của người nhất định muốn người bắn thử y, trước tiên đã đề phòng, chứ nếu đột nhiên phóng ra, cho dù lão nhân gia người võ công có cao cường hơn thì loại ám khí đi không bóng tới không hình này làm sao mà tránh được?”. Hà Dịch Thủ nói “Lúc ấy ta và sư phụ đang đối đầu với nhau, đang lúc ác đấu, không phải người bảo ta bắn thử, trước đó hoàn toàn không biết”. Vi Tiểu Bảo nói “Thế thì đúng rồi. Sư phụ của người đang ngưng thần đề phòng, nên mới tránh được. Nếu lúc ấy người chỉ về phía đông một cái, quay đầu lại nhìn, kêu lên: ủa, ai tới kia? thì sư phụ của người nhất định sẽ nhìn về phía đông một cái, lúc ấy người đột nhiên phát ám khí, e là không trúng không xong”. Hà Dịch Thủ thở dài một tiếng, nói “Có lẽ ngươi nói đúng đấy. Loại cương châm này tẩm chất kịch độc, nếu lúc ấy sư phụ ta không tránh khỏi thì đã chết rồi. Lúc ấy ta cũng không muốn giết y”. Vi Tiểu Bảo nói “Trong lòng người yêu thương sư phụ, có phải không?”.

Hà Dịch Thủ trên mặt thoáng đỏ lên, phì một tiếng, nói “Không có chuyện ấy, đừng nói bậy bạ, sư nương ta mà nghe được, thì không cắt nửa cái lưỡi của ngươi không xong”.

Vi Tiểu Bảo muôn ngàn lần không ngờ rằng lúc ấy người Hà Dịch Thủ yêu thầm, lại chính là sư nương của bà cải dạng nam trang.

Chuyện tâm tình thời trẻ đột nhiên hiện ra trong lòng, tuy đã cách mấy mươi năm, nhưng Hà Dịch Thủ trên mặt vẫn cảm thấy nóng lên, bà lấy hai cái bao ngón tay bằng da hươu cặp vào giữa ngón trỏ và ngón cái tay trái, nhổ hết cương châm trên vách tường ra, kế đưa tay cởi một sợi thắt lưng sắt trong áo ra, trên chiếc thắt lưng sắt có một cái hộp sắt, trên nắp hộp có rất nhiều lỗ nhỏ.

Vi Tiểu Bảo sực hiểu ra, vỗ tay kêu lên “Tỷ tỷ, ám khí này thật xảo diệu quá, té ra người đeo nó bên trong áo, chỉ cần kéo cơ quan trên thắt lưng sắt, cái hộp sắt sẽ phóng cương châm ra”. Nghĩ thầm bà ta đã ưng thuận tặng mình một món ám khí thì có quá nửa là vật này, không kìm được trong lòng mừng rơn.

Hà Dịch Thủ mỉm cười nói “Bất kể là ám khí lợi hại nào, khi phát ra cũng phải dựa vào sức tay cho chính xác. Võ công của ngươi quá kém, ngoài loại Hàm sa xạ ảnh này, thì bất cứ ám khí nào cũng không dùng được”. Lúc ấy bèn cho mớ cương châm vào lại trong hộp, bảo y vén áo trường bào lên, buộc cái thắt lưng sắt vào người y, cái hộp sắt ở ngay giữa bụng, dạy cách phát động cơ quan, lại nói cách thức chế tạo thuốc độc tẩm vào độc châm và phương thuốc giải độc, nói “Cương châm trong hộp có thể dùng được năm lần, dùng hết thì phải cho vào. Sư phụ ta cứ dặn đi dặn lại là ngàn vạn lần không được lạm sát kẻ vô cô. Loại ám khí này vốn tẩm chất kịch độc, bây giờ đều tẩm loại thuốc độc không lấy mạng người, chỉ khiến người ta trúng phải cương châm xong ngứa ngáy khó chịu, toàn thân không còn chút khí lực nào. Nhưng ngươi ngàn vạn lần cũng không được thử bừa bãi”. Vi Tiểu Bảo luôn miệng vâng dạ, lại quỳ xuống bái tạ.

***

Hà Dịch Thủ nói “Ngươi đỡ ba người này ngồi dậy đi”. Vi Tiểu Bảo vâng dạ, trước tiên đỡ Quy Tân Thụ ngồi lại vào ghế, lúc qua đỡ Quy Chung, thấy trên hông y có một vật tròn tròn nổi gồ lên như một cái bầu, bèn kéo áo trường bào của y lên, thì là một cái bao da. Vi Tiểu Bảo nảy dạ hiếu kỳ, mở miệng cái bao da ra, ghé mắt vào nhìn, đột nhiên cao giọng la lớn “Ái chà, là một cái đầu người chết, y… y… trừng mắt nhìn ta đây này”. Hà Dịch Thủ cũng cảm thấy kỳ quái, nói “Không biết y giết nhân vật nào mà lại khư khư mang cái đầu theo trong người. Ngươi lấy ra xem nào”.

Vi Tiểu Bảo nói “Người chết ơi người chết, ta lấy ngươi ra, ngươi không được cắn ta đấy”, rồi từ từ đưa tay vào bao, nắm bím tóc của cái đầu nhấc ra đặt lên bàn. Dưới ánh đèn nhìn thấy rất rõ, cái đầu ấy hai mắt giận dữ trợn tròn, bộ râu quai nón vểnh lên, Vi Tiểu Bảo la lớn một tiếng, lùi lại ba bước, hoảng sợ kêu lên “Là… là Ngô đại ca…”.

Hà Dịch Thủ thoáng kinh ngạc, hỏi “Ngươi quen y à?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Y… y là huynh đệ trong hội của bọn ta, là Ngô Lục Kỳ Ngô đại ca!”, trong lòng đau xót, buông tiếng khóc lớn.

Quần hào Thiên địa hội nghe y la ầm khóc lớn, đều chạy vào sảnh, thấy là đầu của Ngô Lục Kỳ, thảy đều kinh ngạc bi phẫn. Mọi người tay đặt lên chuôi đao, ngưng thần nhìn Hà Dịch Thủ, chỉ cho rằng Ngô Lục Kỳ bị bà giết chết. Kế đó Song Nhi cũng chạy ra. Vi Tiểu Bảo kéo tay nàng, chỉ cái đầu kêu lên “Song… Song Nhi, đây là nghĩa huynh Ngô Lục Kỳ của cô, y… y bị thằng ác tặc này hại chết rồi!”, nói xong sấn tới trước mặt Quy Chung, đá mạnh vào người y mấy cước, rồi nói với bọn Từ Thiên Xuyên “Đầu Ngô đại ca là thằng ác tặc này mang theo trong người”.

Mọi người tới nhìn kỹ cái đầu, chỉ thấy vết máu đã khô, chỗ cắt đầy vôi bột, rõ ràng là dùng dược vật và vôi bột bảo vệ để không bị thối. Song Nhi ôm cái đầu, bật tiếng khóc lớn. Lý Lực Thế nói “Chúng ta dùng nước lạnh đổ lên mặt thằng ác tặc này, hỏi rõ đầu đuôi rồi sẽ giết y để đền mạng cho Ngô đại ca”. Quần hùng đồng thanh khen phải.

Hà Dịch Thủ nói “Người này là sư đệ của ta, các người không được động vào một sợi tóc của y”. Nói xong đưa cái móc sắt bên tay phải ra, vung vung về phía một ngọn nến trên bàn, rồi lướt đi vào trong.

Huyền Trinh đạo nhân tức giận nói “Cho dù là sư phụ của ngươi, cũng phải băm vằm y ra…”. Đột nhiên Phong Tế Trung ồ một tiếng, hai ngón tay trái cặp lấy một đoạn nến dài tám phân nhấc lên. Ngọn nến trên giá vốn dài bảy tám tấc, nhưng lúc ấy đã bị cắt thành sáu bảy đoạn, mỗi đoạn dài không quá một tấc, chồng lên nhau rất ngay ngắn, hoàn toàn không nghiêng đổ, võ công như thế quả thật kinh thế hãi tục. Quần hào Thiên địa hội ai cũng biến sắc.

Huyền Trinh soạt một tiếng rút bội kiếm ra, nói “Ta giết thằng khốn này để báo thù cho Ngô đại ca, để người đàn bà kia giết ta cũng được”. Lý Lực Thế nói “Khoan đã! Trước hết cứ hỏi cho rõ ràng, sau đó giết hết cả ba người”.

Vi Tiểu Bảo nói “Đúng! Vị bà bà tỷ tỷ này chỉ sợ sư phụ, chứ giết cả sư bá lẫn vợ sư bá của bà ta thì không việc gì. Song Nhi, cô đi múc một chậu nước lạnh, nhưng đừng múc nước trong nhà bếp”.

Song Nhi bưng một chậu nước vào, Từ Thiên Xuyên đón lấy từ từ đổ lên đầu Quy Chung. Chỉ nghe y hắt hơi mấy tiếng, từ từ mở mắt ra, vừa động đậy thì phát giác toàn thân bị trói chặt, trên hông lại bị điểm huyệt, tức giận nói “Người nào? Người nào đùa giỡn với ta?”. Huyền Trinh vung sống đao đập khẽ vào cổ y một cái, chửi “Ông tổ ngươi đùa với ngươi đấy”, rồi chỉ vào đầu Ngô Lục Kỳ hỏi “Người kia là ngươi hại chết phải không?”.

Quy Chung nói “Không sai! Là ta giết đấy! Mẹ ta, cha ta đâu rồi?”, quay nhìn thấy cha mẹ đều bị trói chặt, hoảng sợ suýt khóc, y cả đời chỉ theo cha mẹ, chuyện gì cũng được như ý, chưa từng bị đè nén chút nào, có bao giờ lại rơi vào tình cảnh thế này, mếu máo nói “Các… các ngươi làm gì thế? Các ngươi đánh không lại ta, tại sao… tại sao lại trói ta? Lại trói cả cha mẹ ta nữa?”.

Từ Thiên Xuyên lật tay lại, chát một tiếng đánh y một tát, quát “Tại sao ngươi giết người này? Nói mau, nếu có nửa câu gian dối, ta sẽ móc mắt ngươi lập tức”, nói xong kề mũi đao vào mi mắt y.

Quy Chung sợ khiếp vía, không ngừng ho sặc lên, nói “Ta… ta nói, ngươi đừng móc mắt ta. Bị mù mắt rồi thì không nhìn thấy gì… không nhìn thấy gì… khắc khắc… khắc khắc… Bình Tây vương nói hoàng đế Thát Đát là một kẻ xấu xa, bá chiếm… bá chiếm giang sơn… giang sơn Đại Minh chúng ta, xin ta đi… đi giết hoàng đế Thát Đát…”.

Quần hào ngớ mặt nhìn nhau, đều nghĩ “Câu ấy cũng không sai”.

Vi Tiểu Bảo lại rất không cho là đúng, chửi “Mẹ kiếp, Ngô Tam Quế thì tốt đẹp con mẹ nó cái gì?”.

Quy Chung nói “Bình Tây vương là bác ngươi, y… không tốt đẹp gì, thì ngươi cũng không tốt đẹp gì”. Vi Tiểu Bảo đá mạnh vào người y một cước, chửi “Nói bậy! Ngô Tam Quế là đại Hán gian, làm sao là bác của lão tử được? Ngô Tam Quế là bác ngươi ấy”. Quy Chung kêu lên “Là chính ngươi nói thế mà, ái chà, ngươi nói xong lại chối, ta không chịu đâu, ta không chịu đâu!”.

Lý Lực Thế thấy y lằng nhằng không thôi, liền hỏi “Ngô Tam Quế muốn ngươi đi giết hoàng đế Thát Đát, tại sao ngươi lại đi giết y?”, nói xong chỉ cái đầu của Ngô Lục Kỳ một cái.

Quy Chung nói “Người này là quan lớn ở Quảng Đông, Bình Tây vương nói y là đại Hán gian, bảo vệ hoàng đế Thát Đát. Bình Tây vương muốn khởi binh đánh Quảng Đông, không giết y trước không xong. Bình Tây vương tặng ta rất nhiều thuốc, uống vào có thể chữa ho, lại tặng ta tấm da cọp trắng. Mẹ ta nói đại Hán gian thì không giết không được. Khắc khắc, người này võ công rất giỏi, ta… ta cùng mẹ ta hai người cùng đánh mới giết được y. Các ngươi mau thả ta ra, thả cha mẹ ta ra. Bọn ta phải tới Bắc Kinh giết hoàng đế Thát Đát, đó là một công lao rất lớn…”.

Vi Tiểu Bảo chửi “Muốn giết hoàng đế, thì cũng không tới lượt con ma ho lao nhà ngươi. Các vị ca ca, đem giết ba đứa đầy tớ này đi, bà bà tỷ tỷ ở đây thì để ta lo cho”.

Chợt nghe ngoài trang có mấy mươi người đồng thanh hô lớn “Con ma ho lao, ra đây mau, bọn ta sẽ băm thịt lột da ngươi trả thù cho Ngô đại ca”. Trước trang sau trang đều có người hô, cả trên mái nhà bốn phía cũng có tiếng người hô hoán, rõ ràng đã vây chặt ngoài trang.

Quần hào Thiên địa hội nghe người tới muốn trả thù cho Ngô Lục Kỳ, đều chợt thấy mừng rỡ. Tiền Lão Bản cao giọng nói “Minh phục Thanh phản, mẫu địa phụ thiên. Các bằng hữu bên ngoài thuộc lộ nào thế?”. Khẩu hiệu của Thiên địa hội là “Thiên phụ địa mẫu, phản Thanh phục Minh”, nhưng nếu gặp người có thân phận không rõ ràng, thì trước tiên đọc ngược tám chữ ấy lại, nếu là huynh đệ trong hội thì sẽ lên tiếng nhận nhau, nếu là người ngoài, đối phương không biết là nói gì, cũng không tới nỗi để lộ thân phận.

Mười bảy mười tám người ngoài trang và trên mái nhà phía tây đồng thanh kêu lên “Đất nổi gò cao, một dải non khe ngàn thuở đẹp”. Quần hào trong sảnh nói “Cửa chầu bể lớn, ba sông họp nước vạn năm trôi”. Người trên mái nhà nói “Là huynh đệ đường nào trong đó?”. Tiền Lão Bản nói “Huynh đệ Thanh Mộc đường xin đón tiếp các vị ca ca. Các vị ca ca ở đường nào tới thế?”

Cửa sảnh mở ra, một người bước vào, kêu lên “Tiểu Bảo, ngươi ở đây à?”. Người này vóc dáng cao gầy, thần thái phiêu nhiên, chính là Tổng đà chủ Thiên địa hội Trần Cận Nam.

***

Vi Tiểu Bảo cả mừng, bước tới lạy phục xuống, luôn miệng kêu lên “Sư phụ, sư phụ”. Trần Cận Nam nói “Chào mọi người! Tiếc là…”, nhìn thấy đầu Ngô Lục Kỳ, vội vàng bước tới ôm bàn khóc lớn, nước mắt thánh thót rơi xuống.

Chỗ cửa sảnh mọi người lục tục tiến vào, Mã Siêu Hưng Hương chủ Gia Hậu đường ở Quảng Tây, Cổ Chí Trung Hương chủ Xích Hỏa đường ở Quý Châu cũng có trong đó. Mọi người vừa nhìn thấy Quy Chung, nhao nhao rút đao ra. Còn có hơn hai mươi người là thuộc hạ Hồng Thuận đường ở Quảng Đông, lại càng căm hận cực điểm.

Quy Chung thấy dáng vẻ mọi người đều như hung thần ác sát, chỉ ho được hai tiếng rồi ngất đi luôn.

Trần Cận Nam quay người lại hỏi “Tiểu Bảo, ngươi làm sao bắt được ba tên ác tặc này?”. Vi Tiểu Bảo kể lại những việc đã qua, nhưng những việc mất mặt như bọn Từ Thiên Xuyên bị Quy Chung đùa giỡn thế nào, mình mạo nhận là cháu Ngô Tam Quế thế nào thì tự nhiên là không nhắc tới, sau cùng nói “Ba tên ác tặc này võ công lợi hại, bọn con đánh không lại. May là có một vị bà bà tỷ tỷ giúp đỡ, mới bắt được họ. Nhưng vị bà bà tỷ tỷ ấy lại nói lão già này là sư bá của bà ta, không cho bọn con giết y để báo thù cho Ngô đại ca”. Trần Cận Nam cau mày nói “Cái gì mà bà bà tỷ tỷ?”. Vi Tiểu Bảo nói “Bà ta tuổi tác thì là bà bà, tướng mạo lại là tỷ tỷ, nên con gọi là bà bà tỷ tỷ”. Trần Cận Nam nói “Bà ta đâu?”. Vi Tiểu Bảo nói “Bà ta tránh mặt phía sau, không muốn gặp mặt sư bá. Sư phụ, Cổ đại ca, Mã đại ca, sao các vị cũng đều tới đây?”. Trần Cận Nam nói “Bọn ác tặc này hại chết Ngô đại ca, ta lập tức truyền tin đi, bốn phương tám hướng đuổi theo”.

Mọi người trong Thanh Mộc đường làm lễ tương kiến với những người vừa tới, té ra huynh đệ các đường ở Sơn Đông, Hà Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam, An Huy đều có mặt, phần đông đều canh giữ các nơi ngoài trang. Cổ Chí Trung, Mã Siêu Hưng cùng nói “Vi huynh đệ lại lập công lớn này, anh linh của Ngô đại ca trên trời nhất định cũng rất cảm tạ ơn đức”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngô đại ca đối xử với ta không gì tốt hơn, báo thù cho y là chuyện đương nhiên”.

Lý Lực Thế nói “Bẩm Tổng đà chủ, tên ác tặc này vừa nói họ định lên Bắc Kinh hành thích hoàng đế Thát Đát, lại nói mấy câu phản Thanh phục Minh, không biết nội tình rốt lại ra sao”. Vi Tiểu Bảo nói “Có nội tình gì chứ? Y sợ chúng ta giết, bèn thuận miệng bịa ra thôi. Tấm áo da cọp trên người y chính là Ngô Tam Quế tặng cho. Bạn bè heo chó của Ngô Tam Quế có gì là tốt đẹp? Chúng ta cứ mổ bụng moi tim ba tên ác tặc này báo thù cho Ngô đại ca là được”.

Trần Cận Nam nói “Cứu cho ba người này tỉnh lại, hỏi kỹ một phen”. Song Nhi đi múc một thùng nước lạnh vào, lại đổ cho vợ chồng Quy Tân Thụ và Quy Chung tỉnh lại.

Quy nhị nương vừa tỉnh lại, lập tức chửi lớn, nói dùng thuốc mê đánh ngã người ta quả thật là hành vi hèn hạ vô sỉ trên giang hồ. Quy Tân Thụ thì không nói một tiếng. Trần Cận Nam nói “Xem thân thủ của các ngươi thì hoàn toàn không phải kẻ tầm thường. Các ngươi tên gì? Có thù oán gì với Ngô Lục Kỳ Ngô đại ca của bọn ta mà lại hạ độc thủ hại mạng y?”. Quy nhị nương giận dữ nói “Bọn tiểu tặc vô sỉ dùng muộn hương, hạ thuốc mê các ngươi cũng đáng hỏi tên họ lão nương à?”, Cổ Chí Trung vung đao hăm dọa, nhưng Quy nhị nương tính nết rất cương cường, càng chửi mắng thậm tệ.

Vi Tiểu Bảo nói “Sư phụ, bọn họ họ Quy, Quy là con rùa, hai con rùa đen già, một con rùa đen nhỏ. Ta cứ giết con rùa đen nhỏ trước rồi sẽ nói chuyện”, rồi rút chủy thủ ra chĩa vào yết hầu Quy Chung.

Quy nhị nương thấy Vi Tiểu Bảo muốn giết con trai, lập tức phát hoảng, kêu lên “Thằng tiểu quỷ, ngươi có giỏi thì cứ tới giết lão nương đây, chứ không được động vào một sợi tóc của con ta”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta lại chỉ thích giết rùa đen nhỏ”, rồi khẽ rạch mũi đao lên cổ Quy Chung một cái. Thanh chủy thủ cực sắc, tuy y chỉ rạch rất nhẹ nhưng ở cổ Quy Chung lập tức có máu tươi ứa ra. Y cả kinh kêu lên “Mẹ ơi, y… y muốn giết con”. Quy nhị nương kêu lên “Đừng… đừng giết con ta!”.

Vi Tiểu Bảo nói “Sư phụ ta hỏi một câu, ngươi cứ ngoan ngoãn trả lời một câu, thì trong vòng nửa giờ tạm thời chưa giết con ma ho lao này”. Quy nhị nương tức giận nói “Con ta không có bệnh, chính ngươi mới là con ma ho lao”, nhưng nghe Vi Tiểu Bảo ưng thuận tạm thời không giết con mình, cũng hơi yên tâm.

Vi Tiểu Bảo giả ho sặc sụa, nhại giọng Quy Chung, nói “Mẹ ơi, con… con… khắc khắc… Sắp phải chết rồi, mẹ thân yêu, mẹ mau mau nói thật đi… khắc khắc… khắc khắc… Con không bị bệnh lao, con là bị bệnh cương đao chém đầu, khắc khắc, lại bị bệnh tiểu đao cứa cổ, bệnh toàn thân bị băm vằm thôi, khắc khắc…”. Y nhại rất giống, Quy nhị nương toàn thân nổi da gà, quát “Đừng nhại nữa, đừng nhại giọng con ta nữa!”. Vi Tiểu Bảo lại nhại tiếp “Mẹ ơi, mẹ mà không trả lời câu hỏi của người ta, thì con… con… khắc khắc, lại mắc thêm bệnh bị mổ bụng, bệnh ruột đổ ra ngoài…”, nói xong kéo vạt áo Quy Chung lên, dí chủy thủ vào bộ ngực gầy gò giơ xương của y.

Quy nhị nương không nhịn được nữa, nói “Được rồi! Bọn ta là người phái Hoa Sơn, đương gia của bọn ta là Thần quyền vô địch Quy nhị hiệp, năm xưa lúc oai chấn Trung Nguyên thì bọn giặc cỏ nhỏ nhít các ngươi còn chưa đầu thai đâu”.

Trần Cận Nam nghe hai người này là vợ chồng Thần quyền vô địch Quy Tân Thụ danh tiếng lẫy lừng, bất giác tỏ vẻ kính cẩn, lại nghĩ Ngô Lục Kỳ võ công cao cường tới mức nào, mà theo lời huynh đệ Hồng Thuận đường chính mắt nhìn thấy tình hình lúc y bị hại nói lại thì chỉ có một bà già và một con quỷ ho lao ra tay, đánh ngã hơn mười cao thủ trong Hồng Thuận đường, sau đó hai người hợp lực tấn công Ngô Lục Kỳ, đánh chết y rồi cắt lấy đầu, chắc đối phương không phải là mạo danh. Thần quyền vô địch Quy Tân Thụ thành danh đã lâu, nhưng vài mươi năm nay không thấy đi lại trên giang hồ, không biết vì sao lại dính vào tai họa thảm khốc này, bên trong ắt có duyên do trọng đại, lúc ấy lập tức bước tới trước mặt Quy Tân Thụ cung kính ôm quyền làm lễ, nói “Té ra là vợ chồng Thần quyền vô địch Quy nhị hiệp phái Hoa Sơn. Tiểu nhân là Trần Cận Nam, thất lễ nhiều quá”. Rồi đưa tay kéo một cái, bứt dứt dây trói trên người Quy Tân Thụ, kế lại vỗ vào lưng và hông y mấy cái giải khai huyệt đạo cho y, rồi quay lại bứt đứt dây trói trên người Quy nhị nương và Quy Chung.

Vi Tiểu Bảo cuống lên, lại nói “Sư phụ, ba người này lợi hại lắm, không thả họ ra được đâu”. Trần Cận Nam cười khẽ một tiếng, nói “Quy nhị nương chửi chúng ta hạ thuốc mê, là hành vi hèn hạ vô sỉ trên giang hồ. Thiên địa hội chúng ta hoàn toàn không hạ thuốc mê, cho dù có hạ thật thì Quy nhị hiệp nội công thâm hậu, loại mông hãn dược tầm thường thì làm sao đánh ngã được lão nhân gia người…”.

Vi Tiểu Bảo nói “Không sai, không sai. Thiên địa hội chúng ta không hạ thuốc mê”, nghĩ thầm thuốc này là của bà bà tỷ tỷ, cũng là bà ta ra tay, không thể đổ lên đầu Thiên địa hội mình, huống chi thuốc này lại không phải là mông hãn dược.

Quy Tân Thụ tay trái phất một cái vào lưng vợ và con trai, đã giải khai huyệt đạo cho hai người, thủ pháp còn mau lẹ hơn Trần Cận Nam nhiều, gật gật đầu, nói “Không phải mông hãn dược tầm thường, mà là dược vật cực kỳ lợi hại”, rồi đưa tay bắt mạch cho con trai. Quy nhị nương ngưng thần nhìn vào mặt chồng, hỏi “Thế nào?”. Quy Tân Thụ nói “Trước mắt tựa hồ không có chuyện gì”. Nhớ lại lúc trước khi mình ngất đi từng đối chưởng với người ta một phát, người ấy nội công rất kém nhưng pháp môn tu tập nội công hiển nhiên là của phái Hoa Sơn, lại nhớ lại thân pháp của Song Nhi lúc chạy trên gò núi đá dựng ngổn ngang cũng là khinh công của phái Hoa Sơn, đưa mắt quét qua một cái, đã nhìn thấy Song Nhi đứng trong đám đông.

Song Nhi thấy ánh mắt y lóe lên tinh quang rừng rực, bất giác khiếp sợ, co người lại sau lưng Vi Tiểu Bảo. Quy Tân Thụ nói “Con nhãi con, ngươi qua đây, ngươi là người phái Hoa Sơn phải không?”. Song Nhi nói “Ta không qua! Ngươi giết nghĩa huynh Ngô đại ca của ta, ta sẽ trả thù cho cho y. Ta… ta cũng không phải là phái Hoa Sơn gì cả”. Ngày trước lúc Hà Dịch Thủ truyền võ công cho bọn Trang tam thiếu nãi và Song Nhi hoàn toàn không phải là chính thức thu nhận họ làm đệ tử, cũng không nói với họ về môn phái của mình, ba chữ “Phái Hoa Sơn” hôm nay Song Nhi mới nghe thấy lần đầu.

Quy Tân Thụ cũng không đôi co với tiểu cô nương này, đột nhiên vận khí vào Đan điền, cao giọng nói lớn “Bọn đồ tử đồ tôn của Phùng Nan Địch đâu, ra đây cho ta”. Câu này âm thanh tuy không vang dội lắm, nhưng nội lực đầy rẫy, bụi bặm trên nóc nhà rơi xuống lả tả. Y nghĩ sư huynh đệ đồng môn có ba người, môn hạ của Viên Thừa Chí đều ở hải ngoại, đại sư huynh Hoàng Chân qua đời đã lâu, môn hộ phái Hoa Sơn do đại đệ tử của Hoàng Chân là Phùng Nan Địch chấp chưởng, trong trang đã có môn hạ phái Hoa Sơn thì ắt thuộc hệ Phùng Nan Địch. Nào ngờ qua hồi lâu, trong nội đường vẫn yên ắng không có một tiếng động.

Trần Cận Nam nói “Năm trước anh hùng thiên hạ hội họp ở phủ Hà Gian, cắt máu ăn thề, quyết ý đồng tâm hiệp lực giết chết thằng đại Hán gian Ngô Tam Quế. Lệnh sư điệt là tiền bối Phùng Nan Địch chính là chủ nhân trong Sát quy đại hội ở phủ Hà Gian. Tại sao Quy tiền bối lại bắt tay với Ngô Tam Quế, giết chết nghĩa sĩ Ngô Lục Kỳ huynh đệ của tệ hội? Như thế há không người thân thì đau, kẻ thù thì mừng sao?”, câu này lời lẽ rất khách khí nhưng sắc bén bức người.

Quy Tân Thụ liếc y một cái, nói “Từng nghe người ta nói Bình sinh không biết Trần Cận Nam, Có tiếng anh hùng cũng uổng phí. Lúc tôn giá chưa ra đời thì vợ chồng ta đã tung hoành thiên hạ. Nếu nói như thế thì sau khi tôn giá ra đời bọn ta mới xứng đáng là anh hùng. Hắc hắc, đáng cười ơi là đáng cười”.

Trần Cận Nam nói “Tài năng võ công của tại hạ thì không bõ làm trò cười cho vợ chồng Quy đại hiệp. Bằng hữu giang hồ coi trọng tại hạ chẳng qua là nói tại hạ minh bạch chuyện phải trái, không đến nỗi làm điều bậy bạ, kết giao với giặc mà thôi”.

Quy nhị nương tức giận nói “Ngươi mỉa mai bọn ta là làm điều bậy bạ, kết giao với giặc phải không?”. Trần Cận Nam nói “Ngô Tam Quế là đại Hán gian!”. Quy nhị nương nói “Ngô Lục Kỳ theo cọp làm ma trành, làm quan lớn của người Thát Đát, hà hiếp bách tính người Hán chúng ta, tại sao các ngươi lại luôn miệng gọi y là đại ca? Đó không phải là làm điều bậy bạ, kết giao với giặc à?”.

Mã Siêu Hưng cao giọng nói “Ngô đại ca Thân ở doanh Tào lòng ở Hán, y là Hồng kỳ Hương chủ trong Hồng Thuận đường Thiên địa hội, tay cầm binh quyền Quảng Đông, một sớm có cơ hội sẽ dấy quân chống người Thát Đát. Các huynh đệ trong Hồng Thuận đường, các vị nói có phải không?”. Hơn hai mươi thuộc hạ trong Hồng Thuận đường đồng thanh nói “Đúng thế!”. Mã Siêu Hưng nói “Các ngươi phanh ngực áo ra, cho hai vị đại anh hùng này nhìn xem”.

Hơn hai mươi người hai tay nắm vạt áo kéo ra một cái, mười mấy cái cúc trên áo mỗi người đều lập tức bay tung ra để lộ bộ ngực, chỉ thấy trên ngực người nào cũng thích tám chữ “Thiên phụ địa mẫu, phản Thanh phục Minh” sâu vào trong thịt.

Quy Chung suốt nãy giờ im lặng không nói gì, lúc ấy nhìn thấy hơn hai mươi người trước ngực đều thích tám chữ, vỗ tay cười nói “Thú vị thật, thú vị thật!”.

Quần hùng Thiên địa hội nhất tề trợn mắt giận dữ nhìn y.

Trần Cận Nam nói với Quy Tân Thụ “Lệnh lang cảm thấy thú vị, vợ chồng Quy nhị hiệp thấy thế nào?”.

Quy Tân Thụ vô cùng ảo não, lắc lắc đầu nói với Quy nhị nương “Giết lầm người rồi”. Quy nhị nương nói “Giết lầm người rồi! Mắc lừa thằng gian tặc Ngô Tam Quế rồi!”. Tay trái vươn ra một cái rút thanh đơn đao trên hông Mã Siêu Hưng, kề vào cổ mình cứa một nhát.

Trần Cận Nam kêu lên “Đừng…”, tay phải vung mau ra chụp vào cổ tay bà ta. Quy nhị nương chưởng phải vỗ ra, Trần Cận Nam chưởng trái đón đỡ, hai người thân hình đều loạng choạng một cái. Trần Cận Nam hai ngón tay trái lại vươn ra cặp lấy sống đao, Quy nhị nương tay phải lại vỗ ra một chưởng, chát một tiếng đánh trúng ngực y. Nếu Trần Cận Nam lùi lại thì không đoạt được đao, mới rồi đối chưởng với bà ta một phát, biết bà ta đã lớn tuổi, nội lực đã không bằng mình, nhưng ra tay như chớp, công phu quyền chưởng tinh diệu, chỉ cần mình lùi một bước thì không thể tay không đoạt thanh đao trong tay bà ta nữa, lúc ấy căng ngực ra, bình một tiếng chịu một chưởng của bà ta.

Quy nhị nương ngẩn ra, hai ngón tay trái của Trần Cận Nam đã đoạt được thanh đao của bà ta, lui lại hai bước, ọe một tiếng, phun ra một ngụm máu tươi.

Lúc Quy nhị nương vung đao tự tận, nếu Quy Tân Thụ ra tay thì có thể cản trở, nhưng y giết lầm Ngô Lục Kỳ, vừa hổ thẹn vừa hối hận, đã định tự sát để tạ lỗi, vì thế không cản vợ lại, đến khi thấy Trần Cận Nam đem thân mạo hiểm mới đoạt được thanh đao trong tay Quy nhị nương, lại càng vừa xấu hổ vừa cảm kích. Y lời lẽ vụng về, chỉ nói “Trần Cận Nam là hào kiệt trên đời, quả nhiên danh bất hư truyền”.

Trần Cận Nam vịn vào bàn, điều hòa hơi thở, hồi lâu mới nói “Không biết thì không bắt tội. Kẻ đầu sỏ hại chết Ngô đại ca chính là Ngô… Ngô Tam…”, nói tới đó lại phun ra một ngụm máu tươi. Quy nhị nương tuy đã lớn tuổi, công lực so với ngày xưa chỉ còn quá nửa, nhưng Trần Cận Nam vì đoạt đao của bà ta, không sao vận khí phòng hộ, trúng một chưởng ấy bị thương quả thật không nhẹ.

Quy nhị nương nói “Trần Tổng đà chủ, nếu ta lại tự tử nữa thì thật là phụ một phen thịnh tình của ngươi. Vợ chồng ta sẽ đi giết chết hoàng đế Thát Đát, rồi giết thằng gian tặc Ngô Tam Quế”. Nói xong quỳ xuống đất, hướng về cái đầu của Ngô Lục Kỳ lạy ba lạy.

Trần Cận Nam nói “Ngô Lục Kỳ đại ca hành sự mười phần bí mật, anh hùng giang hồ nhiều người thóa mạ y, lần này hiền phu phụ ra tay, ý tứ vốn là trừ diệt Hán gian, chỉ tiếc là… chỉ tiếc là…”, nói tới đó không kìm được lại rơi nước mắt.

Vợ chồng Quy Tân Thụ trong lòng đều có cùng một ý nghĩ, quyết ý đi hành thích Khang Hy và Ngô Tam Quế rồi sẽ tự sát để tạ lỗi với Ngô Lục Kỳ, nhưng lúc ấy không cần nói nhiều, cùng ôm quyền nhìn Trần Cận Nam nói “Trần Tổng đà chủ, vậy xin cáo từ”.

Trần Cận Nam nói “Ngô Tam Quế dấy quân ở Vân Nam, hiện nay thiên hạ đại loạn, chính là cơ hội tốt để khôi phục giang sơn người Hán chúng ta. Còn có không ít anh hùng nay mai sẽ tụ họp ở Bắc Kinh để thương nghị đối sách. Mọi người chí đồng đạo hợp, mời hai vị tiền bối cùng tới Bắc Kinh thương nghị nên chăng?”.

Quy Tân Thụ trong lòng xấu hổ, không muốn gặp mặt người khác, lắc lắc đầu, định sải chân bước ra cửa.

Vi Tiểu Bảo nghe nói hai người bọn họ định đi hành thích hoàng đế, nghĩ thầm ba đứa đầy tớ họ con rùa này võ công cực cao, tiểu hoàng đế chưa đề phòng, đừng để bị họ giết chết, bèn kêu lên “Đây là đại sự thiên hạ, vị công tử này của các ngươi làm việc có chỗ bậy bạ bừa bãi, lần này mà làm hỏng việc thì cho dù ba người các vị cùng tự sát, cũng không khỏi hơi… hơi thối muôn đời”. Y nghe người ta nói thành ngữ “Tiếng xấu muôn đời”, nhưng nhất thời nhớ không ra, lại nói thành “Hơi thối muôn đời”.

Tuy y nói sai thành ngữ, nhưng vợ chồng họ Quy đều hiểu rõ ý y. Quy Tân Thụ tự biết võ công cao cường, nhưng thấy việc lại không sáng suốt gì lắm, nếu không cũng đã không nghe lời nói một phía của Ngô Tam Quế mà gây ra lầm lỗi lớn như thế này, nghe câu ấy của Vi Tiểu Bảo không kìm được trong lòng lạnh buốt, nghĩ thầm “Hành thích hoàng đế quả thật có liên quan tới đại sự vận khí của quốc gia”. Vi Tiểu Bảo lại nói “Hoàng đế hiện nay còn nhỏ tuổi, không hiểu biết gì nhiều, đến nỗi Ngô Tam Quế tạo phản, gây ra một trường hồ đồ. Nếu các ngươi giết y, để một người Thát Đát lớn tuổi khôn ngoan hơn lên làm hoàng đế, thì giang sơn của người Hán chúng ta chính là bị hủy hoại trong tay các ngươi đấy”. Quy Tân Thụ từ từ gật đầu, xoay người bước đi.

Trần Cận Nam nói “Hai vị tiền bối, thằng nhỏ này tuổi còn nhỏ, nói chuyện không biết trên dưới, có đụng chạm cũng xin đừng trách”. Nói xong chắp tay xin lỗi, lại nói “Nhưng sự lo lắng của y tựa hồ cũng là nghĩ chuyện lâu dài. Chuyện lớn như thế, chúng ta cứ định kế trước rồi hành sự sau thì thế nào?”. Quy Tân Thụ nghĩ thầm đã sai lầm một lần, không thể sai lầm lần nữa, mình cũng đừng vì nhất thời hổ thẹn mà trở thành tội nhân của muôn đời, liền nói “Được, xin kính cẩn nghe lời Trần Tổng đà chủ phân phó”. Trần Cận Nam nói “Hai chữ phân phó ấy ngàn vạn lần không dám nhận. Buổi trưa ngày mai mọi người sẽ cùng tới Bắc Kinh, buổi tối cứ tới chỗ ở của thằng nhỏ này cùng bàn đại sự. Hai vị thấy thế nào?”. Quy Tân Thụ gật gật đầu.

Trần Cận Nam hỏi Vi Tiểu Bảo “Ngươi chuyển chỗ ở chưa? “. Vi Tiểu Bảo nói “Đệ tử vẫn ở Đồng Mạo Tử Hồ đồng tại Đông thành”. Trần Cận Nam nói “Hai vị tiền bối, tối mai tại hạ sẽ ở phủ Tử tước của thằng nhỏ này ở Đồng Mạo Tử Hồ đồng Đông thành kính chờ đại giá”. Vi Tiểu Bảo nói “Sư phụ, người đừng giận, bây giờ gọi là phủ Bá tước”. Trần Cận Nam nói “Hà, lại thăng quan rồi”.

Quy nhị nương trừng mắt nhìn Vi Tiểu Bảo, hỏi “Ngươi là cháu Ngô Tam Quế, cũng là Thân ở doanh Tào lòng ở Hán, muốn đại nghĩa diệt thân à?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Ta không phải là cháu Ngô Tam Quế, Ngô Tam Quế là cháu nội ta”. Trần Cận Nam trách “Trước mặt tiền bối, không được vô lễ. Mau dập đầu tạ tội đi”. Vi Tiểu Bảo nói “Vâng”, rồi làm ra vẻ như định quỳ, nhưng cứ lần khân kéo dài thời gian.

Quy Tân Thụ vung tay một cái, dắt vợ con bộc dịch đi thẳng ra cửa, biết rõ bên ngoài hoàn toàn không có nơi nghỉ, nhưng thà là chịu nhịn đói ngủ ngoài đồng, chứ quả thật không còn mặt mũi nào nhìn thấy quần hào Thiên địa hội.

Quy Chung từ nhỏ hoàn toàn không có bạn để chơi đùa, thấy Vi Tiểu Bảo ăn nói lanh lợi, tuổi cũng còn nhỏ, chơi đùa rất hay, bèn vẫy vẫy y, nói “Thằng nhỏ, ngươi đi theo ta, chơi đùa với ta”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi giết chết bạn ta, ta không chơi với ngươi”.

Đột nhiên ào một tiếng, bóng người chớp lên, Quy Chung đã vọt tới vung tay một cái chụp Vi Tiểu Bảo nhấc ra ngoài cửa. Y ra tay cực nhanh, Trần Cận Nam vừa bị thương không nhẹ, lại đứng ở xa, tất cả quần hùng Thiên địa hội còn lại thì không người nào kịp sấn ra cản trở.

Quy Tân Thụ sa sầm mặt, quát “Con trai, buông y ra”. Quy Chung không dám trái lời cha, chỉ đành buông Vi Tiểu Bảo ra, miệng méo xệch đi như sắp khóc. Quy nhị nương an ủi, nói “Con trai, chúng ta đi mua hai đứa thư đồng làm bạn với con”. Quy Chung nói “Thư đồng chơi không vui, chỉ thằng nhỏ này chơi mới vui, chúng ta mua y đi”. Quy Tân Thụ thấy con để lòi cái xấu, liền nắm chặt tay y kéo ra ngoài cổng.

Quần hùng ngớ mặt nhìn nhau, đều cảm thấy Ngô Lục Kỳ một đời anh hùng mà lại chết hồ đồ dưới tay của một gã ngây ngốc như thế, thật quá oan uổng.

Vi Tiểu Bảo nói “Sư phụ, chúng ta mời bà bà tỷ tỷ ra đây gặp mặt mọi người”, rồi cùng Song Nhi đi vào hậu đường, nào ngờ Hà Dịch Thủ đã sớm rời khỏi chỗ ấy. Tam thiếu nãi thì nói mình là phụ nữ, không tiện gặp mặt quần hùng, chỉ sai bộc phụ chuẩn bị cơm nước, khoản đãi tân khách.

(*) Ở đây có chỗ chơi chữ không dịch được, “Trang gia” trong Hán tự còn có nghĩa là người làm cái trong sòng bạc.

(**) Ở đây có chỗ chơi chữ không dịch được. Chữ “Quy” trong họ ông già là “về”, Vi Tiểu Bảo lại tưởng là “Quy” là “con rùa”.

(***) Chú: Trong tên hồi này, “Ngư Dương trống động” (Ngư Dương cố động) là điển cố An Lộc Sơn tạo phản, ví với việc Ngô Tam Quế dấy quân, “Đốc Kháng mưu cùng” (Đốc Kháng đồ cùng) là điển cổ Kinh Kha hành thích Tần vương, sách này mượn dùng để chỉ việc bọn Quy Tân Thụ ngộ sát Ngô Lục Kỳ, hối hận không kịp, lại định đi hành thích Khang Hy, thật ra về chữ thì phù hợp, chứ về nghĩa thì không ăn khớp.

Hồi 42: Một khí gió mây trong hít thở – Chín trùng thành khuyết giữa vi mang

Hôm sau Vi Tiểu Bảo bái biệt chủ nhân, cùng bọn Trần Cận Nam lên đường về kinh.

Trần Cận Nam nói “Tiểu Bảo, vợ chồng Quy nhị hiệp định hành thích hoàng đế, họ đã ưng thuận sau khi mọi người bàn bạc mới quyết định. Ngươi về tới Bắc Kinh rồi, không được nói cho hoàng đế biết, để y đề phòng”. Vi Tiểu Bảo vốn có ý ấy, nhưng lại bị sư phụ một câu nói toạc ra, vội nói “Cái đó tự nhiên. Người Thát Đát chiếm giang sơn của người Hán chúng ta, con làm quan trong triều là vâng lệnh lão nhân gia người, lẽ nào lại nói với y?”. Trần Cận Nam nói “Thế thì tốt, nếu ngươi nói không thật lòng, làm việc không đúng không phải với mọi người thì ta là người đầu tiên không tha cho ngươi đấy”. Vi Tiểu Bảo nói “Sư phụ, người cứ yên một trăm hai mươi cái tâm đi!”, nghĩ thầm “Yên một trăm mười chín cái tâm thôi! Chính con đây cũng rất không yên tâm”, rồi dắt bọn Song Nhi, Từ Thiên Xuyên tới gặp bọn Trương Dũng, áp giải Mao Đông Châu về Bắc Kinh.

Y vừa về tới Đồng Mạo Tử Hồ đồng, lập tức định đi gặp Khang Hy, nghĩ thầm “Tiểu hoàng đế là bạn tốt của mình, sao lại để y chết trong tay ba con rùa đen kia chứ? Có cách rồi, mình vào cung dặn dò bọn thị vệ đề phòng cẩn thận, canh gác nghiêm ngặt. Mình đã hứa với sư phụ không nên cho hoàng đế biết, đại trượng phu nói ra là giữ lời, nói thì không nói, nhưng vẫn phải không cho ba con rùa đen này đắc thủ”. Vừa định ra cửa, Trần Cận Nam đã dắt bọn Cổ Chí Trung, Mã Siêu Hưng tới. Vi Tiểu Bảo thầm kêu khổ, nghĩ thầm “Sao họ lại tới mau thế này?”, chỉ đành gắng gượng tinh thần, bày tiệc khoản đãi.

Không bao lâu quần hùng Thiên địa hội chia thành nhiều toán lục tục kéo tới. Kế đó Mộc Kiếm Thanh dắt bọn Thiết bối thương long Liễu Đại Hồng, Dao đầu sư tử Ngô Lập Thân, Thánh thủ cư sĩ Tô Cương tới. Người Mộc vương phủ đã tới Bắc Kinh từ trước, sau khi được tin liền tới cùng gặp mặt.

Mọi người ăn uống xong, chờ đợi hồi lâu ba người Quy gia mới tới. Vi Tiểu Bảo sai bày một tiệc khác, nhưng Quy nhị nương lạnh lùng nói “Bọn ta ăn cơm rồi”. Quy Chung nhìn đông ngó tây, thấy phủ đệ đường hoàng lộng lẫy, nói “Thằng nhỏ, nhà ngươi so với cung Ngũ Hoa của Bình Tây thân vương cũng không kém bao nhiêu đâu. Ngươi không bịa đặt, quả nhiên Ngô Tam Quế là bác ngươi”.

Vi Tiểu Bảo nói “Đúng, Ngô Tam Quế là…”, nói tới đó đột nhiên im bặt, nghĩ thầm câu này thuận miệng nói ra sẽ chuốc tội, nhất định sư phụ sẽ nổi giận, lập tức đổi giọng nói “Ba vị dùng cơm rồi, vậy mời qua Đông sảnh uống trà”.

Mọi người tới Đông sảnh, trà nước điểm tâm bưng lên xong, Vi Tiểu Bảo sai bọn bộc dịch lui ra. Trần Cận Nam sai hơn mười hội chúng ra ngoài canh gác chung quanh và trên nóc sảnh rồi cài then cửa lại, thương nghị đại sự. Trần Cận Nam giới thiệu vợ chồng họ Quy với người Mộc vương phủ nhưng không nhắc tới chuyện Ngô Lục Kỳ. Vợ chồng họ Quy tuy thoái ẩn đã lâu, nhưng bọn Liễu Đại Hồng, Ngô Lập Thân vẫn còn rất ngưỡng mộ, đối xử mười phần kính cẩn.

Quy nhị nương một đao phóng thẳng, nói “Ngô Tam Quế dấy quân đánh tới Hồ Nam, Tứ Xuyên, quân thế rất mạnh, thế như chẻ tre. Tuy năm xưa Ngô Tam Quế đầu hàng người Thát Đát, làm mất thiên hạ của nhà Đại Minh, quả thật tội lớn ác cực, nhưng rốt lại cũng là người Hán chúng ta. Theo ý Quy nhị gia bọn ta, bọn ta cứ vào cung giết chết hoàng đế Thát Đát, cho người Thát Đát quần long vô thủ, rối loạn cả lên. Cao kiến của các vị ra sao?”.

Mộc Kiếm Thanh nói “Hoàng đế Thát Đát cố nhiên phải giết, nhưng làm như thế há không phải là giúp cho thằng gian tặc Ngô Tam Quế gỡ rối một chuyện lớn sao?”.

Quy nhị nương nói “Năm xưa Ngô Tam Quế giết chết Mộc vương gia, Mộc công tử tự nhiên là không tha y được. Nhưng chuyện Mãn Hán phân tranh mới là đại sự hàng đầu. Chúng ta cứ giết hoàng đế Thát Đát trước, rồi sẽ thong thả thu thập Ngô Tam Quế cũng không muộn”.

Liễu Đại Hồng nói “Nếu Ngô Tam Quế dấy quân đắc thắng, lên làm hoàng đế, muốn đánh đổ y lại càng không dễ. Theo ý vãn bối trước hết chúng ta cứ để hoàng đế Thát Đát và Ngô Tam Quế tàn hại lẫn nhau, đánh nhau một trận ta sống ngươi chết đã, rồi chúng ta sẽ ngư ông thủ lợi. Vì thế vãn bối cho rằng trước mắt không nên hành thích hoàng đế Thát Đát”. Tuy y râu tóc bạc trắng, nhưng vợ chồng Quy Tân Thụ thành danh đã lâu nên tự xưng là vãn bối. Mộc vương phủ với Ngô Tam Quế có thù sâu như biển, nhất định phải thấy y bị tiêu diệt trước mới thỏa ý.

Quy nhị nương nói “Ngô Tam Quế giương cờ hiệu Hưng Minh thảo lỗ, muốn phụ tá Chu Tam thái tử lên ngôi, ở đây có một tờ hịch của Ngô Tam Quế nói việc dấy quân, mời mọi người xem”, rồi lấy trong người ra một tờ giấy đặt lên bàn.

Trần Cận Nam liền đọc lớn:

Nguyên Tổng binh trấn thủ Sơn Hải quan, nay phụng chỉ làm Đại nguyên soái thống lãnh quân thủy bộ trong thiên hạ, Hưng Minh thảo lỗ Đại tướng quân Ngô ra hịch cho quan lại văn võ và nhân dân trong thiên hạ biết: Bản tước nhiều đời nhận tước phong của nhà Đại Minh, trấn thủ Sơn Hải quan…”.

Trần Cận Nam biết phần đông quần hào đều không hiểu văn chương chữ nghĩa, đọc vài câu lại giải thích vài câu, kế lại đọc tiếp. Đoạn sau Ngô Tam Quế nói Lý Tự Thành đánh chiếm Bắc Kinh, Sùng Trinh về trời thế nào, y vì trả thù cho quân phụ, bất đắc dĩ hỏi mượn quân Mãn Thanh phá giặc, kế nói:

May là đầu sỏ đảng giặc nộp đầu, đang định chọn lập tự quân, kế thừa đại thống, phong phiên cắt đất để thưởng cho tù trưởng Man Di. Không ngờ bọn giặc xảo quyệt trái ý trời phản lời thề, nhân lúc nước ta rỗng không, chiếm cứ Yên Kinh. Lấy trộm thần khí của tiên triều, thay đổi áo mũ của Trung Quốc, mới biết chống cọp rước sói là sai, không nên lầm ôm củi mà dập lửa”.

Quy nhị nương nói “Về sau y biết mượn quân của người Mãn Châu là sai lầm, nhưng tiếc là đã muộn rồi”. Liễu Đại Hồng hừ một tiếng, nói “Thằng gian tặc ấy nói thì dễ nghe lắm, nhưng toàn là lời dối trá”. Quy nhị nương nói “Trần Tổng đà chủ, xin ngươi đọc tiếp đi”.

Trần Cận Nam nói “Vâng”, rồi đọc tiếp:

Bản trấn đau lòng khóc huyết, hối hận không kịp, đã định trở giáo làm phản, quét sạch tinh chiên, lại vừa gặp Tam thái tử của tiên hoàng. Thái từ vừa lên ba tuổi, có chữ thích vào đùi làm chứng, đã nhận mệnh thác cô, tông xã trông cậy. Ta nuốt lệ ẩn nhẫn, giấu sáng đợi thời, chọn tướng luyện quân, mưu việc hưng phục, đến hôm nay đã ba mươi năm”.

Liễu Đại Hồng nghe tới đó không nhịn được nữa, đạp bàn nói “Đánh rắm, đánh rắm! Thằng gian tặc lòng lang dạ chó, trời đất không dung, nếu quả thật y có nửa phần thật lòng khôi phục nhà Đại Minh, thì tại sao năm xưa lại giết chết hoàng đế Vĩnh Lịch, thái tử Vĩnh Lịch? Chuyện ấy thiên hạ đều biết, còn định chối à?”.

Quần hùng thấy dáng vẻ Liễu Đại Hồng vểnh râu trợn mắt, không ai không khâm phục y trung nghĩa, đều nghĩ ba mươi năm trước Ngô Tam Quế thắt cổ cha con hoàng đế Vĩnh Lịch tại Côn Minh, nhất định không thể xảo quyệt biện bác được.

Quy nhị nương nói “Câu ấy của Liễu đại ca quả không sai, Ngô Tam Quế quyết không phải là trung thần nghĩa sĩ, chuyện đó thì ngay đứa trẻ lên ba cũng biết. Chúng ta hành thích hoàng đế Thát Đát chỉ vì phản Thanh phục Minh, chứ hoàn toàn không phải là giúp Ngô Tam Quế lên ngôi hoàng đế”.

Trần Cận Nam nói “Để ta đọc xong bài hịch này, rồi mọi người sẽ bàn bạc kế sách”, rồi đọc tiếp:

Nay rợ giặc vô đạo, gian tà lộng hành, kẻ sĩ đạo nghĩa đều ở dưới, bọn người bất tài lại ngồi trên…”.

Y đọc tới đó nhìn Vi Tiểu Bảo cười một tiếng, nói “Tiểu Bảo, câu này là nói ngươi đấy”. Vi Tiểu Bảo nghe sư phụ đọc văn, chỉ thấy trầm bổng ngân nga, chợt nghe nói trong văn chương của Ngô Tam Quế nhắc tới mình, không kìm được vừa mừng vừa sợ, vội hỏi “Sư phụ, y nói con gì thế? Nhất định thằng đầy tớ ấy không nói gì tốt cho con đâu”. Trần Cận Nam nói “Y nói người tốt có học vấn đạo đức chỉ làm quan nhỏ như hạt đậu hạt mè, còn bọn đầy tớ không có bản lãnh thì đều làm quan lớn. Đó không phải là nói ngươi sao?”. Vi Tiểu Bảo nói “Còn y thì sao? Y làm quan còn lớn hơn con, há không phải còn vô dụng hơn con à?”.

Mọi người đều bật cười, nói “Không sai! Quan lại trong triều đình Thát Đát không có ai lớn hơn Bình Tây thân vương”.

Đoạn cuối cùng của bài hịch viết “Núi thảm sông sầu, mẹ gào con khóc, đến nỗi sao chổi hiện ra, trời giận ở trên, núi sụp đất lở, đất oán ở dưới. Bản trấn ngẩng xem cúi xét, quả thật đã đến ngày trừ bạo cứu dân, theo trời thuận người. Nay chọn ngày Nguyên đán tháng giêng năm Giáp dần kính phụng thái tử tế cáo trời đất lên ngôi đại bảo, đặt niên hiệu là Chu Tư”. Trần Cận Nam đọc xong, lại giải thích qua một lượt.

Trong mọi người ngoài Trần Cận Nam và Mộc Kiếm Thanh hai người thì không ai đọc sách, đều cảm thấy lời lẽ trong bài hịch này tựa hồ rất đúng đạo lý, nhưng vẫn có điều gì đó không đúng, có điều không nói ra được.

Mộc Kiếm Thanh trầm ngâm một lúc, nói “Trần Tổng đà chủ, y đã kính phụng Chu Tam thái tử lên ngôi bảo tọa, sao lại không khôi phục quốc hiệu Đại Minh, mà lại đổi quốc hiệu là Chu? Trong đó quả thật có chỗ sơ hở rất lớn. Huống chi Chu Tam thái tử gì đó cũng không biết là thật hay giả, chưa ai từng nghe qua, đột nhiên không đầu không óc nhảy ra, có quá nửa là Ngô Tam Quế tìm một đứa nhỏ không biết gì đưa ra, nói là Chu Tam thái tử để hiệu triệu mọi người, chứ thật ra là con rối trong tay y”. Mọi người đều gật đầu khen phải.

Quy nhị nương nói “Ngô Tam Quế đem Chu Tam thái tử làm con rối, tự nhiên không còn gì phải nghi ngờ. Người này là thật hay giả cũng không khác nhau gì lắm. Có điều Chu Tam thái tử không phải trẻ con, tiên hoàng tuẫn quốc đã ba mươi năm, nếu Chu Tam thái tử là thật thì ít nhất cũng đã ba mươi tuổi rồi”.

Vi Tiểu Bảo nói “Bọn nhỏ ba mươi tuổi không biết gì cũng có chứ, hi hi”, nói xong nhìn Quy Chung một cái. Trong quần hùng có người nhịn không được phì cười. Quy nhị nương chân mày nhướng lên, đã định phát tác, nhưng xoay chuyển ý nghĩ lại thấy lời Vi Tiểu Bảo quả cũng không sai, thằng con bảo bối của mình đã ba mươi mấy tuổi nhưng đúng là một thằng nhỏ không biết gì, không kìm được thở dài một tiếng.

Mọi người bàn bạc hồi lâu, người thì chủ trương mượn tay Khang Hy trừ khử Ngô Tam Quế trước rồi sẽ mưu việc phục quốc, người thì cho rằng Ngô Tam Quế tuy gian ác nhưng rốt lại cũng là người Hán, nên giúp y đánh đuổi người Thát Đát, khôi phục giang sơn của người Hán, rồi sẽ trừ khử y. Nghị luận nhao nhao, khó mà quyết định. Nói đến lúc cuối, mọi người đều nhìn Trần Cận Nam, ai cũng biết y đa mưu túc trí, ắt có cao kiến.

Trần Cận Nam nói “Chúng ta lấy thiên hạ làm trọng. Nếu bây giờ giết Khang Hy, thanh thế của Ngô Tam Quế cố nhiên sẽ rất lớn, nhưng Trịnh vương gia ở Đài Loan cũng có thể vượt biển Tây chinh, tiến vào Mân Chiết, đánh thẳng tới Giang Tô. Đông tây giáp kích như thế, người Thát Đát không bị đánh bại không xong. Lúc ấy nếu Ngô Tam Quế muốn làm hoàng đế, thì binh lực của Trịnh vương gia, lại thêm Mộc vương phủ, Thiên địa hội và anh hùng các lộ cũng có thể chế phục được y”.

Tô Cương lạnh lùng nói “Trần Tổng đà chủ nói thế là có ý tính toán cho Trịnh vương gia ở Đài Loan phải không?”. Trần Cận Nam giật mình nói “Danh tiếng trung nghĩa của Trịnh vương gia lẫy lừng thiên hạ, chẳng lẽ Tô huynh không tin được à?”.

Tô Cương nói “Trần Tổng đà chủ trung dũng nghĩa hiệp, mọi người đều khâm phục. Nhưng bên cạnh Trịnh vương gia quả thật lại có không ít bọn tiểu nhân vô sỉ”.

Vi Tiểu Bảo không nhịn được lên tiếng “Câu ấy quả không sai. Ví dụ gã Nhất kiếm vô huyết Phùng Tích Phạm, còn có Trịnh Khắc Sảng con Trịnh vương gia, đều không phải người tốt”. Trần Cận Nam thấy y không phụ họa mình, hơi cảm thấy kinh ngạc, nhưng nghĩ câu ấy cũng không sai, không kìm được thở dài một tiếng.

Quy nhị nương nói “Đánh đuổi người Thát Đát là đại sự hàng đầu, còn như ai sẽ làm hoàng đế thì chúng ta không quản được, phản Thanh thì nhất định phải phản rồi, còn chuyện phục Minh thong thả sẽ bàn cũng không hề gì. Hoàng đế Sùng Trinh nhà Đại Minh cũng không phải tốt lành gì đâu”.

Trần Cận Nam và quần hùng Mộc vương phủ trước nay trung thành với nhà Minh, vừa nghe câu ấy, ai cũng biến sắc.

Mộc Kiếm Thanh nói “Nếu chúng ta không ủng hộ con cháu họ Chu lên ngôi, chẳng lẽ lại ủng hộ thằng đại gian tặc Ngô Tam Quế lên ngôi à?”.

Quy Chung đột nhiên nói “Ngô Tam Quế là người tốt lắm mà, y cho ta một tấm da cọp may áo bào, các ngươi đã nhìn thấy chưa?”, nói xong kéo vạt áo ngoài lên để lộ ra chiếc áo da, vô cùng nghênh ngang đắc ý.

Quy nhị nương nói “Thằng nhỏ, đừng nói năng bậy bạ ở đây”.

Tô Cương cười nhạt nói “Trong mắt Quy thiếu hiệp thì một cái áo còn quan trọng hơn giang sơn của người Hán chúng ta”.

Quy nhị nương tức giận nói “Con, cởi áo ra!”. Quy Chung ngạc nhiên hỏi “Để làm gì?”. Quy Tân Thụ vươn tay ra một cái, rút thanh trường kiếm ở hông con trai ra, ánh bạch quang chớp chớp, tiếng soạt soạt vang lên, mũi kiếm trong tay Quy Tân Thụ không ngừng lướt qua trước mặt, sau lưng, đầu vai, cánh tay con trai. Mọi người giật nảy mình, đều đứng phắt cả lên, chỉ cho là Quy Tân Thụ đã giết chết con trai, nhưng lại thấy tấm áo da Quy Chung mặc đã rách thành mười bảy mười tám mảnh, rơi xuống chung quanh người y, để lộ ra bộ quần áo bông ngắn bên trong. Mấy nhát kiếm ấy của Quy Tân Thụ xuất thủ cực chuẩn, cắt đứt tấm áo da nhưng không làm rách bộ quần áo bông. Quần hùng nhìn thấy rõ ràng xong, đều bật tiếng khen ngợi.

Quy Chung hoảng sợ ngẩn ra, luôn miệng ho sặc sụa, suýt nữa bật khóc, nói “Cha, khắc khắc… khắc khắc… cha… khắc…, con…”. Quy Tân Thụ vung tay một cái tra thanh trường kiếm vào vỏ, rồi cởi cái áo bào trên người khoác lên cho con trai, nói “Mặc vào đi!”. Quy nhị nương nhặt những manh da cọp rơi dưới đất ném vào lò sưởi đang cháy đỏ rực, trong chớp mắt ngọn lửa bủng lên, mùi khét tỏa ra, những mảnh da cọp dần dần biến thành tro than. Vi Tiểu Bảo luôn miệng nói “Đáng tiếc, đáng tiếc!”.

Quy Tân Thụ nói “Đi thôi!”, rồi nắm tay con trai bước ra cửa sảnh. Trần Cận Nam nói “Quy nhị hiệp đi làm chuyện lớn, bọn ta kính cẩn đi theo chờ nghe sai bảo”. Quy Tân Thụ nói “Không dám! Không cần!”, nói xong bước ra cửa sảnh.

Vi Tiểu Bảo biết y định đi động thủ lập tức, không kịp báo tin cho hoàng đế nữa, nghĩ thầm phải tìm kế hoãn binh, cản trở y lại, liền lớn tiếng nói “Trong hoàng cung phòng ốc không phải một vạn cũng là năm ngàn gian, ngươi biết hoàng đế Thát Đát ở chỗ nào không?”.

Quy Tân Thụ thoáng sửng sốt, cảm thấy câu ấy rất có lý, quay lại hỏi “Ngươi biết à?”.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Không có ai biết cả. Hoàng đế Thát Đát sợ người ta hành thích, hàng đêm đều thay đổi chỗ ngủ. Có lúc ngủ ở cung Trường Xuân, có lúc ngủ ở cung Cảnh Dương, có lúc ngủ ở cung Hàm Phúc, cung Diên Phúc, không chừng lại ngủ ở hiên Lệ Cảnh, gác Vũ Hoa, cung Hàng Khánh”. Y nói ra một hơi bảy tám tên cung điện, Quy Tân Thụ nghe thấy chỉ đành cau cau mày. Vi Tiểu Bảo lại nói “Cho dù là thái giám, thị vệ hầu cận hoàng đế cũng không biết đêm nay y ngủ ở đâu”. Quy Tân Thụ nói “Vậy phải làm thế nào mới tìm được hoàng đế?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng đế lâm triều thì bá quan văn võ còn thấy mặt, chứ y quay vào đại nội rồi, trừ phi y gọi thì người ngoài không sao gặp được y”. Thật ra tình hình hoàn toàn không phải như thế, Khang Hy cũng không thường thay đổi chỗ ngủ, nhưng vợ chồng Quy Tân Thụ là người áo vải quê mùa, làm sao biết được quy củ trong hoàng cung nội viện? Nghe Vi Tiểu Bảo nói bừa một hồi, nghĩ thầm hoàng đế đề phòng thích khách thì vốn là phải như thế, không kìm được cảm thấy rất ngần ngừ.

Vi Tiểu Bảo thấy Quy Tân Thụ thần sắc rất khó coi, ngấm ngầm đắc ý, hỏi “Quy lão gia, ngươi biết hoàng đế có bao nhiêu phi tử không?”. Quy Tân Thụ hừ một tiếng, trừng mắt không đáp. Vi Tiểu Bảo nói “Tiên sinh kể chuyện nói hoàng đế có tam cung lục viện, mỹ nữ trong hậu cung có ba ngàn người. Vợ của hoàng đế Thát Đát không nhiều đến thế, ba ngàn thì thật là không tới, chứ tám chín trăm thì có. Hàng đêm y làm tân lang, hôm nay ngủ chỗ phi tử thứ ba trăm năm mươi mốt, ngày mai ngủ chỗ phi tử thứ sáu trăm ba mươi tư, cho dù là các phi tử của hoàng đế cũng không biết đêm nay y ngủ ở đâu, chờ suốt ba bốn năm cũng không biết hoàng đế có tới không”.

Trần Cận Nam nói “Tiểu Bảo, ngươi ở trong cung lâu ngày, nhất định biết cách tìm ra hoàng đế”.

Vi Tiểu Bảo nói “Ban ngày thì còn dễ tìm, chứ ban đêm thì nói thế nào cũng không tìm được”. Trần Cận Nam nói “Vậy thì sáng mai chúng ta đều cải trang, để ngươi đưa đường trà trộn vào hoàng cung hành sự. Chẳng phải ngươi từng đưa vị Tiền huynh đệ và Ngô nhị ca đây vào cung sao?”, nói tới đó chỉ qua hai người Tiền Lão Bản và Ngô Lập Thân.

Vi Tiểu Bảo nói “Tiền nhị ca chỉ là tới Ngự trù phòng. Bọn Ngô nhị ca vừa vào tới hoàng cung, đã bị bọn thị vệ… đã bị bọn thị vệ phát giác ra, muốn thấy mặt hoàng đế thì còn cách mười vạn tám ngàn dặm. Tiền đại ca, Ngô nhị ca, hai vị nói có đúng không?”. Tiền Ngô hai người đều gật gật đầu. Hai người đã vào hoàng cung, đều biết muốn tìm tới chỗ hoàng đế trong hoàng cung quả thật cũng như mò kim đáy bể.

Vi Tiểu Bảo nói “Đệ tử có một cách”. Trần Cận Nam hỏi “Cách gì?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngày mai đệ tử đi gặp hoàng đế, y nhất định sẽ nói Ngô Tam Quế dấy quân tạo phản, nên phái quân đi đánh thế nào, đệ tử sẽ xúi y ra xem bắn thử đại pháo, chỉ cần y ra khỏi cửa cung, thì hạ thủ dễ hơn rất nhiều. Hành thích thành công cũng được, không thành công cũng được, chúng ta dưới chân bôi dầu, chạy là thượng sách, cũng bớt đi rất nhiều nguy hiểm”.

Quy nhị nương cười nhạt nói “Tại sao hoàng đế lại phải nghe lời thằng nhóc con nhà ngươi? Y ba năm không ra khỏi cung, thì chúng ta cứ chờ y ba năm à? Ngươi cứ đùn đẩy thoái thác, chính là không muốn đưa bọn ta đi làm chuyện này”.

Mộc Kiếm Thanh nói “Chuyện vào cung hành thích hoàng đế, bọn huynh đệ đã từng làm rồi, nói ra thì xấu hổ, chứ Mộc vương phủ bọn ta chết mất mấy vị huynh đệ, xá muội và một vị Phương sư tỷ, còn có Ngô sư thúc đây và hai vị sư đệ đều thất hãm trong cung, suýt nữa là gặp nạn, may là đội ơn Vi Hương chủ trượng nghĩa cứu cho, mới thoát thân được. Không phải bọn ta hèn nhát sợ chết, nhưng chuyện này quả thật không dễ thành công”.

Quy nhị nương lạnh lùng nhìn Vi Tiểu Bảo, nói “Bằng vào ngươi mà cũng cứu được bọn họ thoát hiểm à?”. Ngô Lập Thân vội nói “Vị Vi Hương chủ này tuy còn nhỏ tuổi nhưng nhân nghĩa hơn người, thông minh cơ trí, tính mệnh của huynh đệ toàn là nhờ y cứu”. Quy nhị nương nói “Mộc vương phủ không làm được nhưng chưa chắc Quy gia cũng nhất định không làm được”.

Liễu Đại Hồng đột nhiên đứng phắt lên, nói “Vợ chồng họ Quy thần quyền vô địch, đương nhiên hơn Mộc vương phủ nhỏ nhoi bọn ta hàng trăm lần. Vậy xin cứ khởi giá động thân, bọn ta ở đây chờ nghe tin mừng”.

Một huynh đệ trong Hồng Thuận đường Thiên địa hội nói “Vi Hương chủ, ngươi cũng nên cùng vào cung là hay, nếu ba vị đại hiệp Quy gia bị bọn thị vệ Thát Đát bắt thì ngươi tìm cách cứu ra”. Y căm hận ba người nhà Quy gia giết chết Ngô Lục Kỳ, nên tuy trước mặt Tổng đà chủ cũng không nhịn được buông ra vài câu châm chọc.

Vi Tiểu Bảo trong bụng chửi thẩm “Ba con rùa đen các ngươi vào cung hành thích mà bị bắt thì có giết ta ta cũng không cứu đâu”. Liền cười nói “Ba vị đại hiệp Quy gia làm sao lại bị bọn thị vệ bắt chứ? Trong hoàng cung có hơn tám ngàn vệ sĩ, Quy thiếu gia chỉ cần ho khắc khắc vài tiếng đã đủ làm hơn tám ngàn người chấn động mà chết rồi”. Trong quần hào Thiên địa hội và Mộc vương phủ có không ít người bật cười.

Quy Chung cười nói “Đúng là thế à? Thế thì thú vị thật, họ sợ nghe ta ho… khắc khắc à? Khắc khắc… khắc khắc…”. Vợ chồng họ Quy cả giận, mỗi người kéo một cánh tay con trai, ba người sóng vai bước ra cửa.

Trần Cận Nam nói “Quy nhị hiệp, xin đừng giận, huynh đệ có một cách so tài”.

Quy nhị nương vốn biết Trần Cận Nam đa mưu túc trí, liền quay lại chờ y nói. Trần Cận Nam nói “Hiền phu phụ Quy nhị hiệp võ nghệ cao cường, vô địch trên đời. Nhưng vào sâu đất hiểm, rốt lại cũng địch đông mình ít. Chúng ta nên bàn bạc một kế sách vạn toàn mới được…”. Quy nhị nương nói “Ta lại tưởng Trần Tổng đà chủ quả thật có cao kiến gì, hừ!”, rồi quay người bước ra cửa sảnh.

Liễu Đại Hồng và Ngô Lập Thân đột nhiên sải chân bước ra, đứng chặn giữa cửa. Liễu Đại Hồng nói “Hai vị muốn giúp đỡ Ngô Tam Quế, Mộc vương phủ bọn ta ngàn vạn lần không ưng thuận”. Quy nhị nương nói “Cái gì? Định động thủ à?”. Liễu Đại Hồng nói “Hai vị cứ giết sư huynh đệ ta trước rồi đi giúp Ngô Tam Quế”. Quy nhị nương nói “Ai nói bọn ta đi giúp Ngô Tam Quế?”. Liễu Đại Hồng nói “Hai vị tuy không có ý giúp Ngô Tam Quế, nhưng nếu làm việc này thành công, thanh thế của Ngô tặc càng lẫy lừng, lại càng không sao chế ngự được!”.

Quy Tân Thụ trầm giọng nói “Tránh ra!”, sấn tới một bước. Liễu Đại Hồng giang hai tay ra chặn ở cửa. Quy Tân Thụ tay trái vươn ra chụp vào ngực y. Liễu Đại Hồng vung tay gạt ra, chát một tiếng, song chưởng chạm nhau, Liễu Đại Hồng thân hình loạng choạng hai cái, khuôn mặt lập tức trắng bệch. Quy Tân Thụ nói “Ta chỉ dùng năm thành công lực thôi”.

Ngô Lập Thân lắc đầu nói “Ngươi không ngại gì cứ dùng hết mười thành, giết hết sư huynh đệ bọn ta đi”.

Quy Chung nói “Mười thành thì mười thành”, hai tay một vươn ra một rút về. Ngô Lập Thân vung tay gạt, Quy Chung hai tay cùng rút về, Ngô Lập Thân liền gạt vào khoảng không. Quy Chung nhân lúc hai tay y đang định rút về, hai tay nhanh như chớp đã nắm vào yếu huyệt trước ngực y.

Trần Cận Nam bước lên, khuyên “Mọi người đều là bạn tốt, không nên động võ”.

***

Vi Tiểu Bảo nói “Mọi người tranh cãi không thôi, rốt lại không kết thúc được. Thế này đi, chúng ta gieo xúc xắc thử thời vận một phen, nếu Quy lão gia thắng thì bọn ta không những không cản trở ba vị vào cung mà vãn bối còn nói hết tình hình trong cung cho hai vị biết”. Quy nhị nương nói “Còn nếu ngươi thắng thì sao?”. Vi Tiểu Bảo nói “Thế thì cứ tạm gác chuyện này lại, chờ sau khi Ngô Tam Quế chết chúng ta sẽ hạ thủ hoàng đế”.

Quy nhị nương nghĩ thầm “Nếu mình cứ làm chuyện này, Mộc gia có quá nửa sẽ báo tin cho người Thát Đát, rốt lại cũng khó mà làm được, chẳng bằng cứ theo lời y”. Liền hỏi chồng “Nhị gia, ngươi thấy sao?”. Quy Tân Thụ nhìn Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi thua thì không được chối đấy”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Nam tử hán đại trượng phu, một lời nói ra ngựa tứ khó đuổi. Tiểu hoàng đế Thát Đát lại không phải là cha ta, tại sao ta lại bảo vệ cho y? Chỉ có điều thắng phải thắng cho anh hùng, thua phải thua cho vinh dự. Bất kể ai thắng ai bại, cũng không được làm tổn thương hòa khí”.

Trần Cận Nam cảm thấy câu cuối cùng của y rất có lý, liền nói “Chuyện này quan hệ trọng đại, rốt lại là họa hay phúc đối với đại nghiệp quang phục của chúng ta thật khó đoán trước. Người xưa xem bói để quyết định điều ngờ vực, chúng ta gieo xúc xắc một lần cũng là theo ý ấy. Mọi người không cần tranh chấp, cứ dựa theo ý trời mà làm thôi”.

Quy nhị nương nói “Con, buông tay ra đi”. Quy Chung nói “Con không buông”. Quy nhị nương nói “Vị tiểu huynh đệ này muốn gieo xúc xắc chơi với con kìa”. Quy Chung cả mừng, lập tức buông tay ra khỏi huyệt đạo trước ngực Ngô Lập Thân. Ngô Lập Thân trước ngực đau buốt, hơi thở không thông, không ngừng lắc đầu.

Vi Tiểu Bảo nói “Quy thiếu gia, xin lấy xúc xắc của ngươi ra, dùng của các ngươi thôi”. Quy Chung nói “Xúc xắc à? Ta không có, ngươi có không?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta cũng không có, ở đây có vị nào mang xúc xắc trong người không?”. Quy nhị nương nói “Không có xúc xắc thì chúng ta đoán đồng tiền cũng được”. Vi Tiểu Bảo nói “Gieo xúc xắc vẫn công bằng hơn, hàng thật giá đúng, già trẻ không lừa. Ta là trẻ, Quy nhị nương là già, đủ thấy không gieo xúc xắc không được. Trong bọn thân binh ắt có người có, để ta đi hỏi xem”. Nói xong mở cửa bước ra ngoài sảnh.

Y ra khỏi Đông sảnh, bước vào đại sảnh, mò lấy sáu hạt xúc xắc trong túi ra, đây là pháp bảo tùy thân của y, nhưng nếu lập tức lấy ra tại đương trường thì nhất định vợ chồng họ Quy sẽ nảy ý nghi ngờ, đứng lại trong đại sảnh một lúc rồi quay vào Đông sảnh, cười nói “Tìm được xúc xắc rồi”.

Quy nhị nương nói “Tính thắng thua thế nào?”. Vi Tiểu Bảo nói “Gieo xúc xắc thì ta không biết chút gì, Quy thiếu gia, ngươi nói nên tính thế nào?”. Quy Chung cầm hai hạt xúc xắc lên, nói “Ta so chính xác với ngươi”, ngón tay co lại, vù vù hai tiếng, hai hạt xúc xắc bay ra, đánh tắt hai ngọn nến, kế đó phụp phụp hai tiếng khảm luôn vào vách tường. Quần hùng đều bật tiếng khen ngợi “Hảo công phu!”.

Vi Tiểu Bảo nói “Ta thấy người ta gieo xúc xắc là so sánh điểm lớn nhỏ, chứ không phải là so sánh công phu ám khí”. Quy nhị nương nói “Đúng thế! Hai người các ngươi gieo một lần, ai gieo được nhiều điểm hơn thì người ấy thắng”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Chỉ gieo một lần, biết đâu y may mắn, gieo một cái được luôn ba mươi sáu điểm”, liền nói “Thế này đi, chúng ta gieo ba lần, thắng hai lần là thắng”. Quy Chung thì càng gieo xúc xắc nhiều lần càng cao hứng, nói “Chúng ta mỗi người gieo ba trăm lần, thắng hai trăm lần là thắng”. Quy nhị nương nói “Như thế phiền phức lắm, mỗi người gieo ba lần là đủ rồi”.

Từ Thiên Xuyên móc hai hạt xúc xắc khảm vào tường ra đặt lên bàn. Vi Tiểu Bảo nói “Quy nhị gia, ngươi gieo trước đi”. Quy Chung cầm xúc xắc lên, cười hì hì đang định gieo xuống, Quy nhị nương nói “Khoan đã!”. Quay nhìn Liễu Đại Hồng, Mộc Kiếm Thanh nói “Nếu lần gieo xúc xắc này mà bọn ta thắng, Mộc vương phủ có chịu không?”.

Liễu Đại Hồng vừa đối chưởng với Quy Tân Thụ một phát, trước ngực khí huyết nhộn nhạo, lúc ấy vẫn chưa trở lại bình thường, nghĩ thầm đối phương còn nói chỉ dùng có năm thành công lực, người này là bậc anh hùng tiền bối, tự nhiên không bịa đặt, y quả thật muốn vào hoàng cung hành thích, chỉ bằng vào Mộc vương phủ lại cản trở được y sao, liền gật gật đầu.

Mộc Kiếm Thanh nói “Ý trời thế nào, đều dựa vào hai vị gieo xúc xắc là được”.

Quy nhị nương nói “Được!”, rồi nói với Quy Chung “Gieo đi, gieo được càng nhiều điểm càng tốt”.

Quy Chung nhìn kỹ sáu hạt xúc xắc, nói “Nhiều nhất là có sáu điểm, ít nhất là có hai điểm, còn có một chỗ lõm lớn”. Quy nhị nương nói “Chỗ lõm lớn ấy là một điểm”. Quy Chung nói “Kỳ quái thật, chỗ bốn điểm lại màu đỏ”, tay phải vung ra một cái, chát một tiếng vang rền, sáu hạt xúc xắc đều khảm sâu vào mặt bàn, đều quay mặt sáu lên. Nguyên là lúc y ném xúc xắc xuống, đều quay mặt một điểm xuống dưới, cái ném ấy tự nhiên đều là mặt sáu điểm quay lên trên.

Mọi người vừa giật nảy mình, vừa thấy buồn cười. Con quỷ ho lao này xem ra yếu ớt như không chịu nổi gió mà nội công lại thâm hậu như thế, nhưng trong thiên hạ đâu lại có lối gieo xúc xắc như của y.

Quy nhị nương nói “Con, không phải như thế”, vươn tay đập lên bàn một cái, sáu hạt xúc xắc đều nhảy lên. Mọi người đồng thanh khen ngợi. Quy nhị nương cầm xúc xắc lên, tiện tay gieo xuống một cái, nói “Lăn ra mấy điểm thì là mấy điểm, chứ không phải theo ý mình”.

Quy Chung nói “Té ra là thế”. Rồi cũng làm như mẹ, cầm xúc xắc lên nhẹ nhàng gieo xuống bàn, xúc xắc xoay chuyển, lúc ngừng lại được hai mươi điểm. Sáu hạt xúc xắc gieo được hai mươi điểm, khả năng thắng cao hơn.

Vi Tiểu Bảo cầm xúc xắc lên, ngón út khều khều mấy cái, ngấm ngầm giở trò, kêu lên “Ăn tất!” rồi gieo xuống một cái. Năm hạt xúc xắc lăn ra thành mười bảy điểm, hạt cuối cùng không ngừng xoay chuyển, theo như thủ pháp tác tệ của y thì hạt này không ra sáu điểm không xong, hai mươi ba điểm là thắng ván đầu rồi. Nào ngờ hạt xúc xắc ấy lăn qua, đột nhiên lọt xuống một cái lỗ nhỏ trên bàn, chính là cái lỗ lúc nãy Quy Chung ném xúc xắc xuống. Hạt xúc xắc ấy hơi rung một cái, không lăn được nữa, lật lên mặt một, mười tám điểm là thua.

Vi Tiểu Bảo nói “Trên mặt bàn có lỗ, lần này không tính”, nhặt xúc xắc lên, đang định gieo lại. Trần Cận Nam lắc đầu nói “Đó là ý trời, ván thứ nhất thua rồi”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Còn hai ván nữa, ta không thắng ngươi không xong”, liền đưa xúc xắc cho Quy Chung.

Quy Chung thắng được một ván, đắc ý phi phàm, nhè nhẹ gieo xuống, nhưng chỉ được chín điểm.

Người Mộc vương phủ thấy ván này nhất định thắng, không kìm được reo mừng ầm lên. Vi Tiểu Bảo bước ra một góc bàn, cách xa sáu cái lỗ kia, gieo xuống một cái, ra bốn hạt sáu điểm, hai hạt năm điểm, tất cả ba mươi bốn điểm, cho dù bất kỳ có hai hạt nào điểm thấp cũng chắc thắng không còn gì nghi ngờ nữa.

Một bên đã thắng một ván, ván thứ ba là quyết định hơn thua. Quy Chung gieo xuống một cái, sáu hạt xúc xắc xoay chuyển hồi lâu, lật ra ba mươi mốt điểm, khả năng thắng rất cao. Người Mộc vương phủ trên mặt đều có vẻ lo lắng, nghĩ thầm nếu muốn thắng ba mươi mốt điểm, quả thật phải rất may mắn mới được.

Vi Tiểu Bảo lại không hề lo lắng, nghĩ thầm “Ta cứ theo cách ấy, gieo ra ba mươi bốn điểm thắng ngươi là được”. Ngón tay út lén vê vê trong lòng bàn tay, sắp xếp vị trí xúc xắc rồi nhẹ nhàng gieo xuống.

Chỉ thấy sáu hạt xúc xắc xoay chuyển rồi dừng lại trên bàn, sáu điểm, năm điểm, năm điểm, sáu điểm, bốn hạt đã dừng đều ra điểm lớn, đã được hai mươi hai điểm. Hạt thứ năm lại lật ra mặt sáu, tất cả hai mươi tám điểm. Hạt cuối cùng lại không ngừng xoay tròn, nếu ra ba điểm thì đôi bên hòa, phải gieo lần nữa, nếu một hoặc hai điểm là thua, bốn năm sáu điểm là thắng, có sáu phần là thắng.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Cho dù ba điểm là hòa, gieo thêm lần nữa, chưa chắc ngươi đã may mắn thế này”. Hạt xúc xắc kia xoay chuyển không ngừng, nhìn thấy đã ra mặt sáu, y quát lớn một tiếng “Giỏi”, đột nhiên hạt xúc xắc nhảy lên một cái, lại xoay chuyển tiếp.

Y giật nảy mình, kêu lên “Có ma!”, liếc mắt lên một cái, chỉ thấy Quy Tân Thụ đang khẽ chúm môi thổi vào hạt xúc xắc. Đúng lúc ấy hạt xúc xắc dừng lại không xoay chuyển nữa, mặt lõm đỏ chót ngửa lên trên, là một điểm. Mọi người đồng thanh reo hò.

Vi Tiểu Bảo vừa hoảng sợ vừa tức giận, người gieo xúc xắc giở trò gian lận y đã gặp qua vô số nhưng người thổi hơi di chuyển xúc xắc thì hôm nay mới gặp lần đầu, trước nay cũng chưa từng nghe qua. Ông già này nội công cực kỳ cao cường, tụ khí thành một chuỗi, không những thổi hạt xúc xắc sắp ra điểm sáu lật thành điểm một, mà còn e mới rồi Quy Chung gieo được ba mươi mốt điểm cũng không phải chỉ nhờ may mắn, mà là cha y đứng cạnh thổi hơi giúp đỡ. Y đỏ bừng mặt, lớn tiếng nói “Quy lão gia tử, ngươi… ngươi… hồ, hồ, hồ!” giận líu cả lưỡi.

Quy Tân Thụ nói “Hai mươi chín điểm, ngươi thua rồi!”. Rồi đưa tay bốc sáu hạt xúc xắc lên, ngón cái và ngón giữa bóp một cái, cắc một tiếng, xúc xắc vỡ nát, thủy ngân đổ ra, lập tức biến thành hàng ngàn hạt tròn lăn tung tóe trên bàn.

Quy Chung vỗ tay cười nói “Hay quá, hay quá? Đây là cái gì thế, vừa giống nước lại vừa giống bạc”.

Vi Tiểu Bảo thấy y vạch trần trò gian trá rót thủy ngân vào xúc xắc, cũng không thể tranh cãi chuyện y thổi xúc xắc nữa, bèn làm ra vẻ kinh ngạc, nói “Té ra trong xúc xắc có thủy ngân. Lão gia, người dạy cho vãn bối một bài học rồi đấy. Xúc xắc làm bằng sừng bò, hôm nay vãn bối mới biết thủy ngân là sinh ra trong sừng bò, chứ trước đây vẫn cho là bạc pha thêm nước chế ra. Bò vàng biết cày ruộng, lại biết tạo ra thủy ngân, cao cường thật, cao cường thật”.

Quy nhị nương không đếm xỉa tới lời y nói lăng nhăng, nói “Mọi người không ai nói gì nữa chứ? Vi huynh đệ, xin ngươi nói rõ tình hình trong hoàng cung đi”.

Vi Tiểu Bảo đưa mắt nhìn qua sư phụ. Trần Cận Nam gật gật đầu nói “Ý trời như thế, ngươi cứ thành thật thành thật nói hết với hai vị tiền bối đi”. Y biết rõ gã đồ đệ này rất giảo hoạt, nên đặc biệt thêm bốn chữ “Thành thật thành thật”.

Vi Tiểu Bảo vừa xoay chuyển ý nghĩ, đã có chủ ý, nói “Đã thua thì nợ cờ bạc tự nhiên không thể chối được. Đại trượng phu bị đánh lừa cũng không hề gì, chứ nợ cờ bạc không thể không trả. Trong hoàng cung nhà cửa rất nhiều, nói cũng không nói rõ được. Ta vẽ ra một tấm bản đồ vậy. Từ tam ca, Tiền đại ca, nhờ các ngươi tiếp khách giúp một lúc, để ta đi vẽ bản đồ”. Rồi hướng về mọi người chắp chắp tay, quay người ra khỏi sảnh, đi qua thư phòng.

Tòa bá tước phủ này là Khang thân vương tặng cho, trong thư phòng tranh sách đầy trên vách, trên bàn đầy đủ nghiên bút, Vi Tiểu Bảo sợ đánh bạc rủi ro, hai chữ “thư” và “thua” đồng âm, nên ngày thường không đặt chân vào gian “Thua phòng” này nửa bước. Lúc ấy liền tới trước bàn ngồi xuống, gọi một tiếng “Mài mực!”, liền có thân binh tùy tùng bước tới hầu hạ.

Bá tước đại nhân trước nay không cầm bút viết chữ, tên thân binh tùy tùng ấy cảm thấy ngạc nhiên, trên mặt lộ vẻ khâm phục, lúc ấy dốc hết tinh thần rót nước vào một cái nghiên Bàn long tử thạch cổ của Vương Hy Chi năm xưa, lấy một thỏi mực Tùng yên hương mặc mà Chử Toại Lương thời Đường đã dùng, giữ cổ tay xoay ngón tay, nín thở ngưng khí mài một nghiên mực thật đậm. Lại lấy trong ống bút ra một ngọn bút lông dê cực phẩm quản trúc Ngân tương lốm đốm ở Hồ Châu do Triệu Mạnh Phủ chế tạo, trải một tờ giấy Kim hoa ngọc bản do Tống Huy tông ban sắc sai chế, đốt loại Long não ôn xạ hương mà lúc Vệ phu nhân viết chữ vẫn đốt, kính cẩn hầu hạ bá tước đại nhân vung bút. Dáng vẻ khệnh khạng như thế, quả là:

“Chung Vương Âu Chử Nhan Liễu Triệu

Đều thẹn không bằng Vi Tiểu Bảo”

Vi Tiểu Bảo bàn tay xòe ra như vuốt cọp, ngón tay dùng sức như ra chiêu cầm nã nắm lấy quản bút, chấm mực ướt đẫm, đột nhiên bộp một tiếng khẽ, một giọt mực lớn trên ngòi bút rơi xuống giấy, tờ giấy Kim hoa ngọc bản lập tức bị vấy bẩn.

Tên thân binh tùy tùng nghĩ thầm “Té ra bá tước đại nhân không phải viết chữ, mà là vẽ tranh”. Lại thấy y sổ một nét xuống bên trái đốm mực, vẽ một cành cây cong cong quẹo quẹo, lại chấm nhẹ một cái bên trái cành cây, đã có bút pháp Phủ phách thuân của Lý Tư Huấn Bắc tông, lại có bút pháp Phi ma thuân của Vương Ma Cật Nam tông, quả thật là tập hợp được sở trường của cả hai phái Bắc tông Nam tông.

Tên thân binh tùy tùng kia thường hầu hạ trong thư phòng, trong bụng cũng có vài lượng nước mực, đang còn tán thưởng, chợt nghe bá tước đại nhân hỏi “Ta viết chữ Tiểu thế này có được không?”. Tên thân binh tùy tùng hoảng sợ nhảy dựng lên, mới biết bá tước đại nhân là viết chữ “Tiểu”, vội luôn miệng khen đẹp, nói “Thư pháp của đại nhân viết từ phải qua trái, sáng tạo ra một cách riêng, thật là kỳ tài trời sinh”.

Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi đi gọi Trương Đề đốc vào đây”. Tên thân binh tùy tùng vâng dạ bước ra, nghĩ thầm “Không biết bá tước đại nhân viết tiếp chữ gì”, nhưng y có đoán một vạn lần cũng quyết không sao đoán đúng.

Nguyên là Vi Tiểu Bảo dưới chữ “Tiểu” thì vẽ một cái vòng tròn. Dưới cái vòng tròn vẽ một nét ngang vừa giống cây củi vừa giống cái đòn gánh, lại vẽ thêm một con giun xuyên qua cái đòn gánh. Con giun xuyên qua cái đòn gánh ấy là chữ “Tử”. Ba chữ dính liền nhau là “Tiểu Huyền tử” tên Khang Hy. Y không biết chữ Huyền viết thế nào, nên vẽ một cái vòng tròn thay vào.

Nhớ lại lúc trước y làm sư ở chùa Thanh Lương, Khang Hy từng vẽ tranh truyền chỉ, Vi Tiểu Bảo hâm mộ đức hóa, học theo thánh vương, hôm nay tình thế khẩn cấp, bèn vẽ tranh tâu lên. Viết xong ba chữ Tiểu Huyền tử, lại vẽ một thanh kiếm, mũi kiếm xuyên qua vòng tròn. Cái vật đao không ra đao kiếm không ra kiếm ấy y vẽ tới mức toát mồ hôi trán, vừa vẽ xong thì Trương Dũng vào tới.

Vi Tiểu Bảo xếp tờ giấy Kim hoa ngọc bản cho vào phong bì dán kín lại đưa cho Trương Dũng, hạ giọng nói “Trương Đề đốc, tờ tấu chương khẩn cấp này, ngươi lập tức đưa tới cung trình lên hoàng thượng. Ngươi chỉ cần nói là mật tấu của ta, bọn thị vệ thái giám sẽ lập tức thông báo cho ngươi”.

Trương Dũng vâng dạ, hai tay đón lấy, vừa cho vào bọc, chợt nghe hai tên thân binh ngoài thư phòng đồng thanh quát “Người nào?”. Cửa phòng bình một tiếng tung ra, ba người sấn vào, chính là vợ chồng họ Quy và Quy Chung.

Quy nhị nương vừa nhìn thấy đạo tấu chương trong tay Trương Dũng, vung tay giật lấy, dằn giọng quát Vi Tiểu Bảo “Ngươi mật báo cho hoàng đế Thát Đát phải không?”. Vi Tiểu Bảo sợ điếng người, chỉ nói “Không… không phải… không phải…”. Quy nhị nương xé phong bì, rút tờ giấy ra, thấy hình vẽ cổ quái trên giấy, ngạc nhiên nói “Ngươi xem này!”, rồi đưa qua Quy Tân Thụ, hỏi Vi Tiểu Bảo “Đây là cái gì?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Ta sai y xuống nhà bếp bảo nấu món… nấu món bánh trôi nước mời khách, bảo làm viên nhỏ không nên làm viên lớn, bên ngoài viên bánh trôi phải khắc hoa. Y… y lại không hiểu, ta bèn vẽ cho y xem”. Quy Tân Thụ và Quy nhị nương đều gật gật đầu, thần sắc lập tức trở lại hòa hoãn, hình vẽ trên giấy quả nhiên là dùng dao khắc hoa lên viên bánh trôi nhỏ (*), hoàn toàn không phải là mật báo cho hoàng đế.

Vi Tiểu Bảo nhìn Trương Dũng xua tay nói “Đi mau đi, đi mau đi”. Trương Dũng quay người ra khỏi phòng. Vi Tiểu Bảo nói “Phải làm nhiều nhiều vào, sai nhiều người làm mau lên! Mọi người cần ăn ngay, đây là chuyện có quan hệ tới tính mạng đấy, không được chần chừ một khắc”. Trương Dũng ở chỗ cửa lại dạ một tiếng.

Quy nhị nương nói “Chuyện điểm tâm thì không cần gấp. Vi huynh đệ, ngươi vẽ bản đồ hoàng cung đi”. Vi Tiểu Bảo lấy một tờ giấy ngọc bản trải ra bàn, đưa bút cho Quy nhị nương, nói “Ta vẽ đi vẽ lại cũng không ra sao, để ta nói, mời ngươi vẽ thôi”. Quy nhị nương đón lấy cây bút, ngồi vào bàn nói “Được, ngươi nói đi”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm chuyện này không cần giấu giếm, lúc ấy bắt đầu nói từ Ngọ môn lên phía bắc tới cầu Kim Thủy, rẽ qua phía tây, qua gác Hoằng Nghĩa tới ba điện Thái Hòa, Trung Hòa, Bảo Hòa, qua cửa Long Tông tới Ngự thiện phòng, đó là nơi xuất thân của Vi Tiểu Bảo, từ đó qua phía đông, qua cửa Càn Thanh tới cung Càn Thanh, điện Giao Thái, cung Khôn Ninh, Ngự hoa viên, điện Khâm An, từ Ngự thiện phòng lên phía bắc là Nam khố, điện Dưỡng Tâm, cung Vĩnh Thọ, cung Dực Khôn, điện Thể Hòa, cung Trừ Tú, hiên Lệ Cảnh, nhà Thốc Phương, cung Trùng Hoa. Từ đó về phía nam là cung Hàm Phúc, cung Trường Xuân, điện Thể Nguyên, điện Thái Cực, về phía tây là gác Vũ Hoa, điện Bảo Hoa, cung Thọ An, điện Anh Hoa, lại đi về phía nam là Tây Tam sở, cung Thọ Khang, cung Từ Ninh, hoa viên Từ Ninh, điện Vũ Anh, ra cửa Vũ Anh qua cầu đi về phía đông, qua cửa Hy Hòa lại quay về Ngọ môn, đó là nửa phía tây Tử Cấm thành.

Vợ chồng họ Quy nghe y nói suốt nửa ngày mà mới chỉ là một nửa phía tây hoàng cung, lầu gác cung điện đã không sao nhớ hết, bất giác thở hắt ra một hơi. Quy nhị nương đọc lại một lượt để nhớ tên cung điện môn hộ. Vi Tiểu Bảo lại nói các cung điện môn hộ nửa phía đông, may mà y có trí nhớ tốt, bình thời lại đi chơi rong khắp nơi trong hoàng cung nên rất thông thạo. Quy nhị nương viết hồi lâu mới ghi xong vị trí phương hướng chín khu bốn mươi tám nơi trong hoàng cung.

Bà ta đặt bút xuống, thở ra một hơi, mỉm cười nói “Thật khó mà nhớ rõ được như Vi huynh đệ, cảm ơn ngươi nhiều lắm”. Bà ta nghe Vi Tiểu Bảo nói danh xưng vị trí của từng chỗ cung điện môn hộ như nói về tài sản trong nhà, hoàn toàn không vướng mắc ngập ngừng, chắc là sự thật, y mà muốn bịa đặt cũng không thể có bản lãnh như vậy.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Đây là món tiền Quy thiếu gia gieo xúc xắc thắng được, các ngươi không cần cảm ơn ta”. Lại nói “Ngự tiền thị vệ trong hoàng cung lúc bình thời phần lớn đều tập trung ở một dải Loan dư vệ cạnh cửa Đông Hoa, có điều hiện đang đánh nhau với Ngô Tam Quế, hoàng đế Thát Đát nhất định tăng cường đề phòng, chắc ở bốn mươi tám nơi trong Cấm thành đều có thị vệ canh giữ”, nghĩ thầm “Mình cứ nói trước một câu, để nếu Tiểu Huyền tử được mật báo của mình tăng cường vệ sĩ thì ba con rùa đen này khỏi nghi là do mình báo tin”. Quy nhị nương nói “Cái đó tự nhiên”. Vi Tiểu Bảo nói “Thị vệ trong cung tuy đông nhưng không có đại cao thủ nào, chỉ là đông người thôi. Bản lãnh cung tiễn của người Mãn Châu rất lợi hại, có điều dĩ nhiên ba vị không coi vào đâu”. Quy nhị nương nói “Đội ơn chỉ giáo. Chúng ta từ biệt ở đây thôi”.

Vi Tiểu Bảo nói “Ba vị ăn bánh trôi nước đã, để có sức làm việc”, rồi bước ra cửa, cao giọng gọi “Người đâu, mang điểm tâm lên đi!”. Bọn người hầu ngoài cửa dạ ran. Quy nhị nương nói “Không cần đâu”, rồi dắt tay con trai, cùng Quy Tân Thụ sóng vai bước ra khỏi phòng. Hai vợ chồng đều nghĩ thầm “Trong bánh trôi nước khắc hoa của ngươi có quá nửa là đã động thủ cước vào. Bánh trôi nước thì khắc hoa làm gì? Đã mắc lừa một lần, không thể để mắc lừa lần thứ hai”. Ba người bọn họ trong phủ của Vi Tiểu Bảo từ đầu đến cuối, ngay nước trà cũng không uống nửa hớp.

Vi Tiểu Bảo tiễn ra cổng, chắp tay từ biệt, nói “Vãn bối chờ nghe tin mừng”.

Quy Tân Thụ vươn tay đập xuống đầu con sư tử đá ngoài cổng một chưởng, lập tức mảnh đá vụn bay rào rào, hắc hắc cười nhạt mấy tiếng, nghênh ngang bỏ đi.

Vi Tiểu Bảo ngẩn ra một lúc, nghĩ thầm “Nếu chưởng này đánh xuống đầu lão tử, thì mùi vị quả rất không hay. Y là cảnh cáo mình, không được làm hỏng chuyện của y, nếu không sẽ bị một chưởng như thế”. Rồi cũng vươn tay đập xuống đầu con sư tử đá một chưởng, a một tiếng nhảy dựng lên, bàn tay đau buốt. Con sư tử đá vốn nhẵn bóng, nhưng bị một chưởng của Quy Tân Thụ đánh vỡ không ít mảnh đá đã biến thành lởm chởm sắc nhọn. Vi Tiểu Bảo giơ bàn tay lên soi vào dưới đèn, may là không bị chảy máu.

***

Y quay về Đông sảnh, chỉ thấy bọn Trần Cận Nam đang uống rượu. Y báo cho sư phụ là đã nói rõ tình hình trong Cấm thành cho vợ chồng họ Quy nghe, vừa đưa ba người ra cửa. Trần Cận Nam gật gật đầu, thở dài nói “Cho dù vợ chồng họ Quy giết được hoàng đế Thát Đát chỉ e cũng không trở ra được”. Quần hùng im lặng uống rượu, người nào cũng có tâm sự, có ai ngẫu nhiên nói một hai câu, người bên cạnh cũng không bắt lời.

Qua hơn nửa giờ, ngoài cửa có người nói “Bẩm tước gia, Trương Đề đốc có việc xin cẩu kiến”. Vi Tiểu Bảo trong lòng mừng rỡ, nói “Khuya rồi, có chuyện gì quan trọng nữa chứ. Ngươi ra nói là ta ngủ rồi, có chuyện gì sáng mai hãy nói”. Người kia ứng tiếng “Vâng”. Trần Cận Nam hạ giọng nói “Có thể là tin tức gì trong hoàng cung, ngươi ra hỏi thử xem”. Vi Tiểu Bảo vâng dạ, ra tới đại sảnh, chỉ thấy ba người Triệu Lương Đống, Vương Tiến Bảo, Tôn Tư Khắc đứng ở đó, dáng vẻ hoảng hốt, nhưng không thấy Trương Dũng.

Vi Tiểu Bảo sửng sốt, hạ giọng hỏi “Trương Đề đốc đâu?”. Vương Tiến Bảo nói “Bẩm đại nhân, Trương Đề đốc có chuyện, ngất đi ngoài cổng phủ, đã khiêng vào sương phòng bên cạnh”. Vi Tiểu Bảo giật nảy mình, hỏi “Tại… tại sao lại ngất đi?”. Vội bước qua sương phòng, chỉ thấy Trương Dũng hai mắt nhắm nghiền, sắc mặt trắng bệch, ngực không ngừng nhô lên hụp xuống. Vi Tiểu Bảo nói “Trương Đề đốc, ngươi bị sao thế?”. Trương Dũng từ từ mở mắt, nói “Ty… ty…”, rồi hai mắt trợn ngược, lại ngất đi luôn. Vi Tiểu Bảo vội đưa tay vào bọc y mò lấy đạo tấu chương mở ra xem, quả nhiên đúng là bức thư họa song tuyệt “Bút xuống như mây khói” của mình, không kìm được ngấm ngầm kêu khổ.

Tôn Tư Khắc nói “Mới rồi quân sĩ canh đêm bẩm báo, ở ven đường cách cổng phủ vài trăm bước có một viên võ quan ngất đi dưới đất, có người nhận ra là Trương Đề đốc mới khiêng vào. Máu sau đầu Trương Đề đốc đều đã đông thành băng, xem ra đã ngất đi khá lâu”.

Vi Tiểu Bảo ngẫm nghĩ “Y ngất đi đã lâu, tấu chương cũng chưa chuyển đi, nhất định vừa ra khỏi cổng phủ đã bị trúng độc thủ, chẳng lẽ là ba con rùa đen kia phái người mai phục ngoài cổng phủ, sợ mình sai người đi báo tin cho hoàng đế, nên hạ thủ với Trương Đề đốc?”, trong lòng vô cùng lo lắng.

Lúc ấy Trương Dũng đã dần dần tỉnh lại. Vương Tiến Bảo vội cầm bình rượu lên cho y uống vài ngụm rượu nóng, Tôn Tư Khắc và Triệu Lương Đống chia nhau lấy rượu nóng xoa bóp hai bàn tay y. Trương Dũng tinh thần hơi tỉnh táo, nói “Ty chức đáng chết, ra khỏi cổng phủ… còn chưa đi… được vài trăm bước, đột nhiên trước ngực… trước ngực đau buốt như bị đao cắt, lại… lại đi thêm vài bước, thì trước mắt chợt tối sầm lại, không… không thể làm việc mà đại nhân giao phó, ty chức sẽ lập tức… lập tức… đi ngay…”, nói xong cố gắng ngồi dậy.

Vi Tiểu Bảo vội hỏi “Trương đại ca cứ nằm nghỉ. Chuyện này để ba người bọn họ làm cũng thế”. Rồi đưa tờ tấu chương cho Vương Tiến Bảo, sai y và Triệu Lương Đống, Tôn Tư Khắc ba người mang theo vệ sĩ đi gấp tới hoàng cung, trong lòng lo lắng “Ba người nhà họ Quy đã đi hơn nửa giờ rồi, chỉ e Tiểu Huyền tử không giữ được tính mạng, chúng ta chỉ còn cách lấy ngựa chết cứu ngựa sống”. Ba người bọn Vương Tiến Bảo vâng lệnh ra đi.

Trương Dũng nói “Lão già trong thư phòng của đại nhân… lão già ấy võ công rất lợi hại, lúc ta ra khỏi thư phòng, y đẩy nhẹ… đẩy nhẹ… khắc khắc… lên lưng ta một cái, lúc ấy cũng không thấy gì, nào ngờ đã bị nội thương, vừa ra khỏi cổng phủ thì lập tức… lập tức phát tác… làm lỡ việc lớn của đại nhân…”.

Vi Tiểu Bảo lúc ấy mới hiểu ra, nguyên là Quy Tân Thụ thấy tờ tấu chương ấy hoàn toàn không phải là mật báo tin tức, nhưng vẫn sinh nghi nên ngầm dùng trọng thủ để Trương Dũng không làm được việc, thấy y có vẻ xấu hổ, vội nói “Trương đại ca, ngươi cứ yên tâm tĩnh dưỡng, chuyện này không thể trách ngươi được chút gì. Con mẹ nó, con rùa đen già kia ám toán ngươi, chúng ta không thể bỏ qua”. Lại an ủi vài câu, sai thân binh tùy tùng mau nấu sâm thang, gọi y sinh tới chữa trị.

Y quay về Đông sảnh, nói “Không phải tin tức trong cung. Trương Đề đốc bị Quy nhị gia đánh trọng thương, chỉ e khó giữ được tính mạng”. Mọi người đều giật nảy mình, vội hỏi “Tại sao y lại đả thương Trương Đề đốc?”. Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Trương Đề đốc tuần tra ngoài phủ, thấy ba người bọn họ đi ra, bước lên tra hỏi, Quy nhị gia lập tức phát chưởng”. Mọi người gật đầu, đều nghĩ “Một võ quan tầm thường làm sao chịu nổi một ngón tay của Thần quyền vô địch?”.

Vi Tiểu Bảo cảm thấy hối hận “Nếu sớm biết Trương Đề đốc mắc phải độc thủ, không thể đưa tấu chương tới tiểu hoàng đế trước, thì tình hình trong cung quyết không thể nói rõ như vậy, phải đảo lộn bốn phía đông tây nam bắc mới nên. Lão tử dời núi dốc biển cho họ, đổi điện Hoàng Cực với cung Thọ An, cung Trùng Hoa thay điện Văn Hoa, cho ba con rùa đen chạy rối lên trong cung, bò tới mức choáng váng mờ mịt phương hướng luôn”.

Mọi người ngồi chờ, nghe tiếng cốc cốc keng keng, ngoài sảnh đã báo canh tư. Qua một lúc, trên phố xa xa chợt có tiếng chó sủa ran, mọi người đều đặt tay lên chuôi đao đứng bật dậy, lắng tai nghe ngóng, nhưng tiếng chó sủa ran một hồi lại dần dần yên ắng.

Qua hồi lâu, trong không khí tịch mịch, văng vẳng có tiếng gà gáy, kế đó tiếng gà bốn phía cùng gáy rộ, ngoài cửa sổ đã thấp thoáng màu trắng. Vi Tiểu Bảo nói “Trời sáng rồi, ta vào cung nghe ngóng thử xem”. Trần Cận Nam nói “Nếu vợ chồng cha con họ Quy bất hạnh thất thủ, thì ngươi nên nghĩ cách cứu ra. Chuyện Ngô Lục Kỳ đại ca là hiểu lầm, không trách họ được. Phải biết đại nghĩa là lớn, tình riêng là nhỏ. Họ khinh mạn chúng ta, cũng không nên để bụng”.

Vi Tiểu Bảo nói “Sư phụ sai bảo, đệ tử đã hiểu rồi. Chỉ có điều… chỉ có điều nếu họ đã giết chết tiểu hoàng đế, thì cho dù đệ tử liều mạng cũng không cứu nổi họ đâu”. Nghĩ tới tiểu hoàng đế có quá nửa là đã bị ba người nhà họ Quy đâm chết, không kìm được nỗi chua xót trong lòng, lập tức ứa nước mắt, nức nở nói “Chỉ đáng tiếc Ngô đại ca…”, mượn cớ ấy khóc thành tiếng.

Mộc Kiếm Thanh nói “Vợ chồng họ Quy đi chuyến này bất kể thành bại thế nào thì hôm nay trong thành Bắc Kinh nhất định cũng sẽ đại loạn, huynh đệ ở ngoài còn có không ít bằng hữu, phải đi thu xếp gấp, để mọi người phân tán tránh núp, đợi qua gió lớn rồi sẽ tính”. Trần Cận Nam nói “Đúng thế. Huynh đệ trong tệ hội phân tán ở các nơi trong thành cũng rất không ít, mọi người hãy chia nhau đi báo tin, tất cả các bằng hữu giang hồ quen biết ai cũng phải cẩn thận, đừng để gặp tai họa. Đầu giờ Dậu tối nay, chúng ta vẫn tụ họp ở đây, bàn việc từ nay trở về sau”. Mọi người đều vâng dạ. Lúc ấy trước tiên sai bốn huynh đệ Thiên địa hội ra trước quan sát, khi họ trở vào báo chung quanh không có gì khác lạ, mọi người mới lục tục rời phủ.

Vi Tiểu Bảo vừa định ra cửa, vừa khéo Tôn Tư Khắc trở về, bẩm lại là đã đưa tấu chương cho thị vệ ở cửa cung, viên thị vệ lãnh ban vừa nghe là mật tấu của Phó Đô thống Vi đại nhân liền đón lấy, sải chân chạy vào cung dâng lên. Ba người bọn họ đứng chờ ngoài cửa cung đến tận canh năm, viên thị vệ lãnh ban kia vẫn chưa trở ra. Hiện Vương Tiến Bảo và Triệu Lương Đống hai người vẫn đứng ngoài cửa cung chờ tin, vì sợ Vi đại nhân lo lắng nên về trước bẩm báo. Vi Tiểu Bảo nói “Được rồi, ngươi chiếu cố cho Trương Đề đốc đi”. Y lòng như lửa đốt, sai thân binh áp giải thái hậu giả Mao Đông Châu trên một chiếc kiệu nhỏ vào cung gặp hoàng đế.

***

Đi tới cửa cung, chỉ thấy bốn phía không có động tĩnh gì, mười mấy tên thị vệ canh giữ cửa cung bước tới thỉnh an, đều cười hì hì nói “Phó Tổng quản vất vả quá, chỗ Dương Châu chắc vui vẻ lắm”. Vi Tiểu Bảo hơi yên tâm, nghĩ thầm “Nếu trong cung xảy ra chuyện ầm ĩ thì nhất định họ không có lòng dạ nào mà nói chuyện Dương Châu với mình”. Liền mỉm cười gật gật đầu, hỏi “Mấy hôm nay mọi người đều yên ổn chứ?”. Một tên thị vệ nói “Nhờ hồng phúc của Phó Tổng quản, trên dưới đều bình an. Chỉ là lão tiểu tử Ngô Tam Quế tạo phản khiến hoàng thượng rất bận rộn, đêm hôm khuya khoắt vẫn thường sai triệu các đại thần vào bàn việc”. Vi Tiểu Bảo lại càng yên tâm hơn.

Một tên thị vệ khác cười nói “Phó Tổng quản đại nhân về kinh giúp hoàng thượng xử lý việc lớn, hoàng thượng có thể rảnh rỗi rồi”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Các ngươi không cần vỗ mông ngựa. Ta có mang ở Dương Châu về mấy thứ, các anh em ai cũng có phần, không ai thiếu đâu”. Đám thị vệ cả mừng, nhất tề thỉnh an tạ ơn.

Vi Tiểu Bảo chỉ chiếc kiệu nhỏ nói “Đây là khâm phạm mà thái hậu và hoàng thượng sai tróc nã, các ngươi xem qua một lượt đi”, rồi mở rèm kiệu ra cho bọn thị vệ khám xét. Đám thị vệ lần lượt thò tay vào kiệu, tra xét qua không thấy có hung khí vật cấm, cười nói “Phó Tổng quản đại nhân lần này công lao không nhỏ, bọn ta lại được uống rượu mừng người thăng quan rồi”.

Vi Tiểu Bảo vào tới trong cung, vừa hỏi túc vệ Nội ban ở cung Càn Thanh biết hoàng thượng triệu kiến đại thần bàn việc ở điện Dưỡng Tâm, từ chiều hôm qua đến lúc ấy vẫn chưa thoái triều. Vi Tiểu Bảo nghe thấy cả mừng, nghĩ thầm “Té ra hoàng thượng cả đêm không ngủ, lúc triệu kiến đại thần tự nhiên là chung quanh canh phòng nghiêm ngặt. Quanh điện Dưỡng Tâm có hàng trăm hàng ngàn chiếc đèn lồng soi sáng như ban ngày, ba con rùa đen nhà họ Quy làm sao tới gần được hoàng thượng? Nếu Tiểu Huyền tử đi ngủ sớm, tắt hết đèn lửa, chỉ e tối hôm qua đã xảy ra chuyện rồi. Đủ thấy y làm hoàng đế, quả nhiên hồng phúc tề thiên. May là lão tiểu tử Ngô Tam Quế đang thắng trận, hoàng thượng mới lo lắng trong lòng, bàn việc suốt đêm”.

Lúc ấy tới ngoài điện Dưỡng Tâm, yên lặng đứng chờ. Tuy y được Khang Hy sủng ái, nhưng hoàng đế đang bàn bạc chuyện quân quốc đại sự với vương công đại thần, nên không dám ngang nhiên bước vào.

Chờ qua hơn nửa giờ, túc vệ Nội ban mở cửa điện, chỉ thấy bọn Khang thân vương Kiệt Thư, Minh Châu, Sách Ngạch Đồ từng người bước ra. Các đại thần thấy Vi Tiểu Bảo đều mỉm cười chắp tay, không ai dám nói một câu. Thái giám báo vào, Khang Hy lập tức truyền kiến.

Vi Tiểu Bảo lên điện dập đầu, đứng lên thấy Khang Hy ngồi trên ngự tọa, tinh thần minh mẫn. Vi Tiểu Bảo trong lòng vui mừng, nói “Hoàng thượng, nô tài gặp được người, thật… thật là rất vui mừng”. Y lo lắng suốt đêm, nhìn thấy Khang Hy vẫn vô sự, nhịn không được ứa nước mắt. Khang Hy cười nói “Tại sao bỗng dưng lại khóc thế?”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài mừng quá nên phát khóc”.

Khang Hy thấy y bộc lộ chân tình, cười nói “Tốt lắm, tốt lắm! Lão tiểu tử Ngô Tam Quế quả thật làm phản rồi. Y đánh thắng vài trận, chỉ cho là ta sợ y, không dám giết con trai y. Con mẹ nó, hôm qua lão tử đã chém đầu Ngô Ứng Hùng rồi”.

Vi Tiểu Bảo giật nảy mình, a một tiếng, nói “Hoàng thượng giết Ngô Ứng Hùng rồi à?”.

Khang Hy nói “Chứ không phải sao? Các đại thần đều khuyên ta không nên giết Ngô Ứng Hùng, nói nào là nếu vương sư bất lợi, còn có thể giảng hòa với Ngô Tam Quế, cho y không triệt phiên, vĩnh viễn trấn thủ Vân Nam, lại nói nào là nếu giết Ngô Ứng Hùng thì Ngô Tam Quế trong lòng không kiêng dè gì nữa, lại càng hung hăng hơn. Phì, bọn tiểu quỷ hèn nhát!”.

Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng anh đoán. Nô tài xem vở Quần anh hội, Chu Du và Lỗ Túc nói với Tôn Quyền, bọn ta là bề tôi còn đầu hàng Tào Tháo được, chứ chúa công thì không đầu hàng được. Chúng ta ngày nay cũng thế. Vương công đại thần bọn họ còn có thể giảng hòa với Ngô Tam Quế, chứ hoàng thượng thì ngàn vạn lần không thể giảng hòa”.

Khang Hy cả mừng, vỗ bàn một cái, bước ra khỏi ghế, nói “Tiểu Quế tử, ngươi mà tới sớm một ngày, nói đạo lý ấy cho các đại thần thì họ đã không dám khuyên ta giảng hòa. Hừ, họ đầu hàng Ngô Tam Quế thì cũng làm Thượng thư tướng quân, có thiệt thòi gì đâu?”. Nghĩ thầm Vi Tiểu Bảo tuy bất học vô thuật, nhưng không như các đại thần chỉ tính toán cho riêng mình, bèn kéo tay y đi tới trước một cái bàn lớn. Trên bàn có một tấm bản đồ.

Khang Hy chỉ vào bản đồ, nói “Ta đã phái người suất lãnh tinh binh, một đường từ Kinh Châu tới giữ Thường Đức, một đường từ Vũ Xương tới giữ Nhạc Châu, sai Thuận Thừa quận vương Lặc Nhĩ Cầm làm Ninh Nam Tịnh khấu đại tướng quân, thống suất các tướng đánh dẹp. Mới rồi ta lại sai Thượng thư bộ Hình Mạc Lạc làm Kinh lược đóng giữ Tây An. Cho dù Ngô Tam Quế có Vân Quý Tứ Xuyên, tiến đánh Hồ Nam, chúng ta cũng không sợ y”.

Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng, người cũng phái nô tài một chức sai sử, mang quân đi đánh nhau với lão tiểu tử Ngô Tam Quế đi!”.

Khang Hy cười cười, lắc đầu nói “Chuyện hành quân đánh trận không phải là trò đùa. Ngươi cứ ở trong cung làm bạn với ta là được. Mà nói lại, lần này quân tướng phái đi đều là người Mãn Châu, chỉ sợ họ không tuân lệnh điệu độ của ngươi”. Vi Tiểu Bảo nói “Vâng”, nghĩ thầm “Ngô Tam Quế xúi giục người Hán trong thiên hạ đánh người Thát Đát. Mình là người Mãn Châu giả, tự nhiên hoàng thượng không tin được mình”.

Khang Hy đoán được ý y, nói “Ngươi đối với ta lòng trung rỡ rỡ, không phải ta không tin ngươi. Tiểu Quế tử, binh mã của Ngô Tam Quế lợi hại lắm, không đánh nhau năm ba năm, thậm chí bảy tám năm thì chưa dẹp được y đâu. Vài năm đầu chúng ta không thua trận không xong. Trận đại chiến này chúng ta khổ trước sướng sau, thua trước thắng sau. Ngươi thích thua trận hay thích thắng trận?”. Vi Tiểu Bảo nói “Tự nhiên là thích thắng trận. Vứt mũ cởi giáp, cắm đầu bỏ chạy thì khó tiêu lắm!”. Khang Hy cười nói “Ngươi trung thành với ta, ta cũng không thể để ngươi chịu thiệt. Năm ba năm đầu thua trận thì để người khác đánh. Đến khi Ngô nghịch khí cùng lực tận, đại cuộc đã định, ta sẽ phái ngươi đi đánh Vân Nam, chính tay bắt lão tiểu tử ấy về. Ngươi có biết trong chiếu thư thảo nghịch ta đã ưng thuận chuyện gì không?”.

Vi Tiểu Bảo cả mừng, nói “Ân đức của hoàng thượng thật như trời cao đất dày”. Khang Hy cười nói “Ta bố cáo cho thiên hạ, đã ưng thuận ai bắt được Ngô Tam Quế sẽ được phong quan chức của Ngô Tam Quế. Tiểu Quế tử, chuyện này còn phải xem thành tựu của ngươi nữa. Con mẹ nó, tính nết của ngươi có giống Bình Tây thân vương không thế? Hô hô, hô hô!”, nghiêng đầu nhìn y một lúc, cười nói “Bây giờ trông vẫn như một con khỉ, không giống chút nào cả, qua năm bảy năm nữa, ngươi hơn hai mươi tuổi, lúc ấy phong làm vương gia chỉ e vẫn có chút trẻ con đấy, hô hô!”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Chức quan lớn Bình Tây thân vương gì đó, chỉ e là nô tài không có phúc phận. Có điều nếu hoàng thượng phái ta làm đại tướng quân, mang quân tới Vân Nam bắt Ngô Tam Quế, đại tướng quân oai phong tám mặt, quát một tiếng: Ngô Tam Quế, báo danh đi, thì thật không gì hay hơn. Cầu xin trời đất cho Ngô Tam Quế đừng chết sớm quá, nô tài muốn chính tay bắt y tới đây quỳ xuống dập đầu với hoàng thượng”.

Khang Hy cười nói “Hay lắm, hay lắm!”, rồi lập tức lấy lại vẻ nghiêm trang, nói “Tiểu Quế tử, trong vài năm đầu chúng ta đánh nhau rất là khó khăn. Thua trận không hề gì, quan trọng là thua mà không loạn. Ất phải có tài đại tướng mới có thể thua mà không loạn, giữ được thế trận. Ngươi là phúc tướng chứ không phải dũng tướng, danh tướng, lại càng không phải là đại tướng, ờ, đáng tiếc là trong triều không có đại tướng nào”.

Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng là đại tướng rồi. Hoàng thượng đã nhận thấy trong vài năm đầu chúng ta nhất định phải thua trận, vậy thì cho dù có thua cũng nhất định không loạn. Cũng như chơi bài cẩu, hoàng thượng làm cái, chung luôn bảy tám ván đầu cũng không coi vào đâu. Tiền vốn của chúng ta nhiều, sánh với đá núi Thái Sơn, kìm nén cơn giận, chỗ tiền thua cũng coi như cho họ mượn thôi. Đến về sau, chúng ta cứ Hòa bài, Nhân bài, Địa bài, Thiên bài, Chí tôn bảo từng đôi từng đôi lật ra, ăn tất giết tất, chỉ giết cho lão tiểu tử Ngô Tam Quế người ngã ngựa đổ, thua sạch thua sẽ, hai tay không còn gì, đáy túi trơ ra, lật bài lên đôi nào cũng là Biệt thập!”.

Khang Hy hô hô cười rộ, nghĩ thầm “Triều đình không có đại tướng thì mình là đại tướng, câu ấy cũng không sai. Tám chữ tuy thua không loạn, kìm nén cơn giận thì ngoài mình ra trong triều không có tướng soái đại thần nào làm được”. Rồi lấy đạo mật tấu của Vi Tiểu Bảo trên bàn ra, nói “Ngươi nói có người định hành thích, bảo ta cẩn thận đề phòng phải không?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Đúng thế. Lúc ấy tình hình khẩn cấp, nô tài lại bị người ta giám sát, không thể gọi sư gia viết tấu chương, chỉ đành vẽ ra một bức đồ thư. Hoàng thượng thật thông minh, nhìn thấy là hiểu ngay. Bọn thích khách ấy mắt mở trao tráo nhìn vào mà không biết là trò gì. Vạn tuế gia hồng phúc tề thiên, bọn phản loạn nghịch tặc chỉ uổng phí tâm cơ thôi”. Khang Hy nói “Là bọn nghịch tặc nào thế?”. Vi Tiểu Bảo nói “Là do Ngô Tam Quế phái tới kinh”. Khang Hy gật đầu nói “Ngô nghịch vừa dấy quân, ta đã tăng số thị vệ lên gấp ba lần. Đêm qua nhận được tấu chương của ngươi, lại tăng thêm số túc vệ Nội ban”.

Vi Tiểu Bảo nói “Thích khách Ngô nghịch phái tới lần này võ công rất lợi hại. Tuy thánh thiên tử được bách thần phù hộ, nhưng chúng ta vẫn cứ nên cẩn thận, để hoàng thượng khỏi bị kinh động”. Chợt nghĩ ra một chuyện, nói “Hoàng thượng, nô tài có một tấm bối tâm bảo bối, mặc vào trong người thì đao thương không phạm được. Để nô tài cởi ra, xin hoàng thượng mặc vào”, nói xong đưa tay cởi cúc áo trường bào.

Khang Hy cười khẽ một tiếng, hỏi “Là lấy được lúc tịch biên gia sản nhà Ngao Bái, có phải không?”.

Vi Tiểu Bảo giật nảy mình, y tuy mặt dày nhưng lúc ấy bị bất ngờ cũng đỏ bừng mặt, quỳ xuống nói “Nô tài đáng chết, chuyện gì cũng không giấu được hoàng thượng”.

Khang Hy cười nói “Tấm Kim ty bối tâm ấy là lấy được trong cung nhà Tiền Minh, đương thời Ngao Bái lập nhiều công lao, lại xung phong hãm trận, trên người bị không ít vết thương vì đao thương tên đạn, vì thế Nhiếp chính vương ban thưởng cho y. Lúc ấy ta phái ngươi tới tịch biên gia sản nhà Ngao Bái, nhưng trong biên bản nộp lên không có tấm bối tâm này”. Vi Tiểu Bảo chỉ cười hì hì, mặt mũi sượng ngắt. Khang Hy cười nói “Hôm nay ngươi muốn cởi ra cho ta mặc, đủ thấy ngươi rất trung thành. Nhưng ta ở trong thâm cung, có hàng trăm hàng ngàn thị vệ bảo vệ, xem ra thích khách cũng không tới gần được, không cần dùng tới tấm bối tâm này. Ngươi ra ngoài làm việc cho ta, thường gặp nguy hiểm, tấm bối tâm này tính là hôm nay ta ban cho ngươi. Tội danh ăn cắp ấy thì từ nay về sau không phải mang nữa”. Vi Tiểu Bảo quỳ xuống tạ ơn, toàn thân đã toát mồ hôi lạnh, nghĩ thầm “Chuyện mình lấy trộm Tứ thập nhị chương kinh, hoàng thượng không biết mới hay”.

Khang Hy nói “Tiểu Quế tử, ngươi trung thành với ta, ta đã biết rồi. Nhưng ngươi làm việc cũng phải quy quy củ củ mới được. Tấm bối tâm này của ngươi nếu về sau cũng bị người ta tịch biên gia sản tìm ra, bị người ta giấu giếm nuốt đi thì không có gì hay đâu”. Vi Tiểu Bảo nói “Dạ, dạ, nô tài không dám”, mồ hôi trán không ngừng rơi xuống, lại dập đầu mấy cái mới đứng lên.

Khang Hy nói “Chuyện ở Dương Châu sau hãy nói”, nói xong ngáp một cái, y suốt đêm không ngủ, rốt lại cũng mệt mỏi. Vi Tiểu Bảo nói “Nhờ hồng phúc của hoàng thượng, nô tài đã bắt được con đĩ già tội lớn ác cực về rồi”. Khang Hy vừa nghe thấy, kêu lên “Giải mau vào đây, giải mau vào đây”.

Vi Tiểu Bảo ra ngoài gọi bốn tên thị vệ, giải Mao Đông Châu vào điện, quỳ uống trước mặt Khang Hy.

Khang Hy bước tới trước mặt thị, quát “Ngẩng mặt lên”. Mao Đông Châu hơi ngần ngừ rồi ngẩng lên, nhìn Khang Hy chằm chằm.

Khang Hy thấy thị sắc mặt trắng bệch, đột nhiên trong lòng cảm thấy khó xử “Cung nữ này hại chết mẹ ruột của mình, khiến phụ hoàng đau lòng xuất gia, khiến mình thành người không cha không mẹ. Thị lại giam cầm hành hạ thái hậu mấy năm, người tội lớn ác cực trên đời thật không ai hơn được. Nhưng mà… nhưng mà… mình lúc nhỏ mất mẹ, đều do thị chăm sóc đến khi lớn, trong bấy nhiêu năm ấy thị đối xử với mình quả thật rất từ ái, cũng như mẹ ruột của mình. Trong cung e cũng chỉ có người đàn bà này và gã Tiểu Quế tử giảo hoạt bậy bạ kia là thật sự tốt với mình”. Tận đáy lòng lại mơ hồ cảm thấy “Nếu không phải thị hại chết Đổng Ngạc phi và Vinh thân vương con trai bà, thì với sự sủng ái của phụ hoàng đối với Đổng Ngạc phi, ngôi vua này nhất định sẽ truyền lại cho Vinh thân vương, mình không những không làm được hoàng đế mà biết đâu còn có mối lo về tính mạng. Nói như thế thì người đàn bà này lại còn có công với mình kia”.

Mấy năm trước, Khang Hy còn nhỏ tuổi, chỉ cảm thấy chuyện đáng hận nhất trong đời người không gì bằng mất cha mất mẹ, nhưng mấy năm nay đích thân coi việc chính sự, biết rõ nếu ngai vàng bị người ta cướp mất thì muôn việc đều thôi, trong lòng y đã cảm thấy quyền lực hoàng đế quan trọng hơn tinh cảm đối với cha mẹ, chỉ là ý nghĩ ấy cố nhiên không thể nói ra miệng, ngay cả trong lòng nghĩ tới cũng không khỏi tội nghiệt quá lớn.

Mao Đông Châu thấy y hai má lõm xuống, thở dài một tiếng, nói “Ngô Tam Quế tạo phản, hoàng thượng không cần quá lo lắng, cũng phải bảo trọng. Hàng ngày sáng sớm ngươi vẫn ăn Phục linh yến sào thang đấy chứ?”. Khang Hy đang xuất thần, nghe bà ta hỏi, thuận miệng đáp “Vâng, mỗi sáng vẫn ăn”. Mao Đông Châu nói “Ta phạm tội quá lớn, ngươi… ngươi chính tay giết ta đi thôi”.

Khang Hy trong lòng khó xử, lắc lắc đầu, nói với Vi Tiểu Bảo “Ngươi đưa thị qua cung Từ Ninh gặp thái hậu, nói ta xin thái hậu thánh đoán phát lạc”. Vi Tiểu Bảo khuỵu gối phải xuống, dạ một tiếng. Khang Hy xua xua tay, nói “Ngươi đi đi”.

Vi Tiểu Bảo lấy trong bọc ra hai đạo tấu chương của Tang Kết và Cát Nhĩ Đan, bước lên hai bước, đưa cho Khang Hy, nói “Chúc mừng hoàng thượng. Hai lộ quân mã Tây Tạng và Mông Cổ đều đã trở mặt với Ngô Tam Quế, quyết ý ra sức cho hoàng thượng”.

Khang Hy suốt mấy hôm điều binh khiển tướng, rất lo ngại quân mã hai lộ Tây Tạng, Mông Cổ hưởng ứng Ngô Tam Quế, nghe Vi Tiểu Bảo nói thế bất giác vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, nói “Có chuyện đó à?”. Mở tấu chương ra xem, lại càng mừng vì được quá lòng mong mỏi, xua tay sai thị vệ giải Mao Đông Châu ra khỏi điện, hỏi Vi Tiểu Bảo “Ngươi làm sao lập được hai công lao lớn này? Con mẹ nó, ngươi thật là đại phúc tướng đấy”. Lúc ấy hai xứ Tây Tạng, Mông Cổ binh lực rất mạnh, Khang Hy đã biết Tang Kết, Cát Nhĩ Đan ngấm ngầm câu kết với Ngô Tam Quế, đã sắp xếp trọng binh chuẩn bị, lúc ấy thấy hai đạo tấu chương lời lẽ cực kỳ cung thuận, lại trở thành trợ thủ mạnh trong việc đánh Ngô Tam Quế, làm sao mà y không trong bụng mừng rơn? Chỉ là chuyện này xảy ra quá đột ngột, nhất thời còn chưa dám tin là thật.

Vi Tiểu Bảo biết mỗi khi tiểu hoàng đế nói câu “Con mẹ nó” với mình là trong lòng đang vui vẻ, liền cười hì hì nói “Nhờ hồng phúc của hoàng thượng, nô tài đã kết nghĩa anh em với họ, đại Lạt ma Tang Kết làm đại ca, Vương tử Cát Nhĩ Đan làm nhị ca, nô tài là tam đệ”.

Khang Hy cười nói “Ngươi thật thần thông quảng đại. Họ giúp ta đánh Ngô Tam Quế, ngươi đã ưng thuận cho họ cái gì hay rồi?”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Hoàng thượng thánh minh, biết chuyện kết nghĩa này chỉ là làm ra vẻ chứ không phải thật, họ nhất tâm nhất ý muốn hoàng thượng ban thưởng thôi. Tang Kết là muốn làm Phật sống, ngoài Phật sống Đạt Lai, Phật sống Ban Thiền, xin hoàng thượng ban ơn, phong y một chức Phật sống Tang Kết. Vương tử Cát Nhĩ Đan kia thì muốn làm Chỉnh Cá Nhi hảo gì đó, cái đó nô tài lại không rõ lắm”.

Khang Hy hô hô cười rộ, nói “Chỉnh Cá Nhi hảo à? A, phải rồi, y muốn làm Chuẩn Cát Nhĩ hãn. Hai chuyện ấy đều không khó, lại không tốn kém gì của triều đình, lúc cần thì viết ra một đạo sắc văn, đóng ngự bảo lên, sai ngươi làm Khâm sai đại thần tới tuyên đọc là xong. Ngươi đi nói với đại ca, nhị ca của ngươi, chỉ cần thật sự ra sức, thì ta đáp ứng chuyện họ mong muốn là được. Nhưng không được hai mặt ba đao, nói một đường làm một nẻo, theo gió phất cờ, xem bên nào thắng thế thì giúp bên ấy”.

Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng nói rất phải, hai người anh kết nghĩa của ta nhân phẩm cũng không cao minh gì lắm. Hoàng thượng cũng không thể tin tưởng hoàn toàn, cũng phải đề phòng một chút. Hoàng thượng đã nói mấy năm đầu chúng ta phải thua trận, như thế phải đề phòng hai người bọn họ không những không giúp nhà cái mà lại đánh nhà cái, đặt hết vào cửa Thiên môn”, nghĩ thầm cứ nói ra trước để tránh không bị liên lụy quá lớn. Khang Hy gật đầu nói “Câu ấy đúng lắm. Nhưng chúng ta cũng không sợ, chỉ cần họ dám đánh thì cửa Thiên môn, Tả Thanh long, Hữu Bạch hổ gì gì cũng ăn tất!”. Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, trong lòng cảm thấy khâm phục, té ra hoàng thượng về trò bài cẩu cũng là người trong nghề. (**)

***

Vi Tiểu Bảo áp giải Mao Đông Châu tới cung Từ Ninh yết kiến thái hậu. Thái giám truyền chỉ sai Vi Tiểu Bảo đưa khâm phạm vào gặp. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Trước đây mình là thái giám thì có thể ra vào tẩm điện của thái hậu. Hiện mình đã là đại thần, tại sao lại gọi mình vào tẩm điện của thái hậu? Chắc thái hậu nghe nói bắt được con đĩ già mừng quá nên quên mất mình đã không phải là thái giám nữa”. Lúc ấy giao cho bốn tên thái giám áp giải Mao Đông Châu, cùng tiến vào trong.

Chỉ thấy trong tẩm điện tối om, vẫn không khác gì lúc thái hậu giả còn ở ngày trước. Thái hậu ngồi ở mép giường, tấm màn sau lưng buông xuống, Vi Tiểu Bảo quỳ xuống dập đầu, cung kính thỉnh an.

Thái hậu nhìn Mao Đông Châu một cái, gật gật đầu, nói “Ngươi đã bắt được khâm phạm, ờ, ngươi ra ngoài đi”.

Vi Tiểu Bảo dập đầu cáo từ lui ra, để Mao Đông Châu ở lại trong tẩm điện. Y từ cung Từ Ninh ra, trong lòng rất bất mãn “Mình bắt được con đĩ già, lập được một công lao lớn, nhưng thái hậu tựa hồ không hề vui vẻ, ngay nửa câu khen ngợi cũng không có. Con bà nó, ai ở trong cung Từ Ninh cũng không ra gì, thái hậu thật cũng thế, thái hậu giả cũng thế, đều là con đĩ già”.

Y trong bụng chửi thầm, đi xuyên qua đường lát đá trong hoa viên, vòng qua cạnh một hòn non bộ. Đột nhiên bóng người chớp lên, sau hòn non bộ có ba người chuyển ra, một người vươn tay chụp tay trái Vi Tiểu Bảo, cười nói “Chào ngươi!”. Vi Tiểu Bảo giật nảy mình, nhìn thấy là một thái giám già, đang định quát hỏi thì đã thấy rõ thái giám già ấy là Quy nhị nương.

Lần hoảng sợ này thật không phải tầm thường, lại thấy hai người sau lưng bà ta rõ ràng là Quy Tân Thụ và Quy Chung, hai người mặc trang phục thị vệ Nội ban, Vi Tiểu Bảo ngấm ngầm kêu khổ “Té ra ba người các ngươi ẩn núp ở đây”. Tay trái y bị Quy nhị nương chụp giữ, nửa ngươi tê dại, biết chỉ cần kêu lớn một tiếng, Quy Tân Thụ vỗ nhẹ cho một chưởng thì cái đầu mình không vỡ nát ra từng mảnh không xong, đoán cái đầu mình không thể cứng bằng cái đầu con sư tử đá ở phủ bá tước, liền cười gượng nói “Chào lão nhân gia người”, trong lòng tính toán tìm cách thoát thân.

Quy nhị nương hạ giọng nói “Ngươi bảo bọn họ đứng đó không được động đậy, ta có câu muốn nói”. Vi Tiểu Bảo không dám trái lời, quay đầu nói với mấy tên thị vệ sau lưng “Các ngươi chờ ta ở đây”. Quy nhị nương kéo tay y đi về phía trước vài mươi bước, hạ giọng nói “Mau dắt bọn ta tới chỗ hoàng đế”.

Vi Tiểu Bảo nói “Tối hôm qua ba vị đã đi rồi, sao còn chưa tìm được hoàng đế?”. Quy nhị nương nói “Hỏi mấy tên thái giám và thị vệ, đều nói hoàng đế đang triệu kiến đại thần, suốt đêm không ngủ. Bọn ta không có cách nào tới gần, không sao hạ thủ”. Vi Tiểu Bảo nói “Mới rồi ta định đi gặp hoàng đế định thăm dò xem ba vị ra sao rồi. Nhưng hoàng đế đã ngủ, không gặp được. Ba vị đã thay đổi quần áo, thật không gì tốt hơn, chúng ta cứ ra khỏi cung thôi”. Quy nhị nương nói “Chuyện chưa làm xong, làm sao ra khỏi cung được?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ban ngày không làm được, nếu ba vị cao hứng, không ngại gì tối nay lại vào”. Quy nhị nương nói “Đâu dễ mà vào được đây, chuyện lớn không xong, quyết không ra được. Y ngủ ở đâu, mau dắt bọn ta đi”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta cũng không biết y ngủ ở đâu, phải tìm bọn thái giám hỏi xem”.

Quy nhị nương nói “Không cho ngươi nói chuyện với người khác! Ngươi vừa nói đi cầu kiến hoàng đế, tại sao không biết y ngủ ở đâu? Hừ, định giở trò trước mặt lão nương thì không dễ đâu”, nói xong siết chặt tay lại. Vi Tiểu Bảo thấy đau thấu xương, năm ngón tay như muốn gãy rời, nhịn không được hừ một tiếng.

Quy Tân Thụ vươn tay ra, sờ khẽ lên đỉnh đầu y một cái, nói “Tốt lắm!”.

Vi Tiểu Bảo biết không sao chống cự, chợt động tâm niệm “Mình dắt họ tới cung Từ Ninh, la lối thét lác một phen, tiểu hoàng đế được tin sẽ đề phòng. Nếu họ ra tay hại chết thái hậu, cũng không phải là chuyện của mình”. Liền nói “Mới rồi ta ở cung Từ Ninh ra, biết đâu hoàng đế đang thỉnh an thái hậu, chúng ta cứ tới đó xem”.

Quy nhị nương thấy mới rồi quả thật y vừa trong cung Từ Ninh ra, không phải là giả, bèn nói “Ba người bọn ta đã vào cung là không còn nghĩ tới việc sống mà trở ra nữa. Chỉ cần ngươi có chút cử động nào khác lạ thì chỉ còn cách lấy cái mạng nhỏ của ngươi thôi. Bốn người chúng ta cùng xuống gặp Diêm vương, trên đường cũng không tịch mịch, con ta rất thích ngươi làm bạn đấy”. Vi Tiểu Bảo cười gượng nói “Muốn làm bạn cũng không hề gì. Chúng ta cứ ở trong Ngự hoa viên này chơi đùa thôi. Đường xuống âm ty, ta thấy không cần đi đâu”. Quy nhị nương nói “Ngươi thích đi gặp Diêm vương hay thích đi gặp hoàng đế Thát Đát? Trong hai thằng đầy tớ ấy hôm nay nhất định ngươi phải gặp một người”.

Vi Tiểu Bảo thở dài nói “Vậy thì phải đi gặp hoàng đế thôi. Chúng ta phải nói trước, gặp hoàng đế xong thì ba người các vị cứ tự động thủ, ta không giúp được đâu”. Quy nhị nương nói “Ai cần ngươi giúp? Chỉ cần ngươi dắt bọn ta tới gặp hoàng đế là sẽ thả ngươi lập tức, chuyện sau đó không liên can gì tới ngươi”. Vi Tiểu Bảo nói “Được, cứ thế đi”.

Vi Tiểu Bảo bị ba người kẹp chặt đi tới cung Từ Ninh. Quy Chung nhìn thấy chim công, chim hạc trong hoa viên, thấy rất thú vị. Vi Tiểu Bảo chỉ chỉ trỏ trỏ, trò chuyện với y không thôi, chỉ mong chậm lại được khắc nào hay khắc ấy. Quy nhị nương tuy không sao chịu được, nhưng nghĩ tới con trai cả đời khổ vì bệnh tật, đã không còn sống trên đời được quá ba khắc một giờ, trước lúc chết cứ để y được khoan khoái trong lòng, cũng không nỡ không cho y quay lại nhìn ngó.

Từ xa nhìn thấy trong cung Từ Ninh có một đoàn người bước ra, khiêng hai chiếc kiệu, Quy nhị nương một tay kéo Vi Tiểu Bảo, một tay kéo con trai, nép người vào sau một luống mẫu đơn. Quy Tân Thụ núp sau bà ta.

Đoàn người kia dần dần đi tới gần, Vi Tiểu Bảo nhìn thấy người đi đầu là Thái giám cai quản Kính sự phòng, hai chiếc kiệu phía sau một là của hoàng thái phi, một là của hoàng thái hậu, cạnh kiệu đều có thái giám đỡ đòn kiệu, thái giám sau kiệu cầm lọng đi theo, nghĩ là hoàng đế sau khi được mình báo tin đã phái thêm thị vệ. Y linh cơ nhất động, hạ giọng nói “Cẩn thận! Trong chiếc kiệu đi trước là hoàng đế Thát Đát, trong chiếc kiệu sau là hoàng thái hậu đấy”.

Vợ chồng họ Quy thấy đoàn người nghi vệ rất có thanh thế, lại từ cung Từ Ninh đi ra, tự nhiên là hoàng đế và thái hậu, bất giác tim đập càng nhanh, hai người cùng nhìn qua con trai, trên mặt hiện ra vẻ ôn nhu. Quy nhị nương hạ giọng nói “Con, trong chiếc kiệu đầu tiên chính là hoàng đế, khi họ tới gần, ta quát một tiếng Ra, thì ba người chúng ta cứ đánh nát cả người lẫn kiệu!”. Quy Chung cười nói “Được, trò này chơi hay đấy!”.

Nhìn thấy hai chiếc kiệu càng lúc càng tới gần, Vi Tiểu Bảo lòng bàn tay toát mồ hôi lạnh, nghe thấy Thái giám cai quản Kính sự phòng không ngừng quát tháo “Tránh ra, tránh ra, tránh ra!”, thét mọi người tránh đường. Quy nhị nương hạ giọng quát “Ra!”. Ba người đồng thời vọt ra.

Ba người này vọt tới rất mau, thật như cuồng phong đổ tới, chỉ nghe bình một tiếng vang rền, ba người sáu chưởng đã đập vào chiếc kiệu thứ nhất. Quy nhị nương và Quy Tân Thụ sợ chưa đánh chết hoàng đế, lập tức rút trường kiếm ở hông ra, tay vung kiếm tới, đâm bốn năm kiếm vào kiệu, lúc rút kiếm ra đều có máu chảy ròng ròng, người trong kiệu cho dù có mười mạng sống cũng đều đã mất hết.

Bọn thị vệ tùy tùng cả kinh, nhao nhao la ó, rút đao xông tới cản trở. Quy nhị nương kêu lên “Đắc thủ rồi!”, tay trái kéo con trai vọt về phía bắc. Quy Tân Thụ trường kiếm vung mau vọt lên trước cướp đường, bọn thị vệ làm sao cản được? Nhìn thấy ba người vọt tới phía tây cung Thọ Khang thì rẽ vào luống hoa. Bọn thái giám cung nữ la thét ầm ĩ, dồn thành một đám.

Tiếng thanh la bốn phía vang lên, hàng trăm ngàn ngàn cánh cửa trong cung ầm ầm đóng lại. Túc vệ Nội ban, thị vệ cửa cung giữ chặt các chỗ thông lộ yếu đạo. Kế đó quan quân Hộ quân doanh, Tiền phong doanh, Kiêu kỵ doanh Tam kỳ nội phủ ngoài tường người người giương cung tuốt đao đổ ra dày đặc, canh giữ nghiêm mật.

Vi Tiểu Bảo thấy ba người nhà Quy gia đâm chết hoàng thái phi lại cho rằng đã đắc thủ, lập tức đào tẩu, trong lòng cả mừng, lập tức sau luống hoa nhảy ra, cao giọng quát “Mọi người không được hoảng hốt, bảo vệ hoàng thái hậu là chuyện gấp!”.

Đám thị vệ đang hỗn loạn như ruồi không đầu, đột nhiên thấy Vi Tiểu Bảo xuất hiện chỉ huy, trong lòng đều trấn định. Vi Tiểu Bảo quát “Mọi người vây lại quanh ngự kiệu của hoàng thái hậu, nếu thích thách phạm giá thì phải liều mạng chống cự!”. Bọn thị vệ đồng thanh đáp “Tuân lệnh!”. Vi Tiểu Bảo giật một thanh đao trong tay bọn thị vệ giơ cao lên, lớn tiếng nói “Hôm nay là lúc chúng ta tận trung báo quốc, xả thân vì thái hậu và hoàng thượng, cho dù có một ngàn tên thích khách tới đây thì mọi người cũng phải bảo vệ thánh giá của thái hậu”. Bọn thị vệ lại đồng thanh đáp “Tuân lệnh!”. Nhìn thấy Phó Tổng quản Thị vệ bá tước đại nhân oai phong lẫm lẫm, chỉ huy bình tĩnh, lòng trung rỡ rỡ, coi chết như về, không ai không khâm phục tới tận đáy lòng, đều nghĩ “Tuy y còn nhỏ tuổi nhưng rốt lại vẫn hơn người một bậc”. Hơn mười tên thị vệ lập tức xúm lại chung quanh ngự kiệu của hoàng thái hậu.

Vi Tiểu Bảo lại gọi bọn thái giám cung nữ “Các ngươi ầm ĩ cái gì thế? Mau xúm quanh thành một vòng tròn bảo vệ thái hậu. Nếu thích khách phạm giá thì phải chém mấy cái đầu không đáng tiền của các ngươi trước”. Bọn thái giám cung nữ nghĩ thầm cho dù đầu mình không đáng tiền song để người ta chém bừa thì cũng tiếc, nhưng thấy y cầm đao vung vẩy, thần sắc oai nghiêm, không ai dám chống lại, đành run run rẩy rẩy xúm quanh bọn thị vệ thành một vòng, có mấy người sợ vãi cả cứt đái.

Vi Tiểu Bảo lúc ấy mới buông cương đao xuống, bước tới trước ngự kiệu của thái hậu, nói “Nô tài Vi Tiểu Bảo tới cứu giá chậm, làm thánh giá thái hậu kinh động. Kính xin thái hậu yên tâm, thích khách đã bị đánh lùi”. Thái hậu trong kiệu nói “Tốt lắm”. Vi Tiểu Bảo đưa tay mở hé một góc rèm kiệu, thấy thái hậu sắc mặt trắng bệch, nhưng vẻ mặt tươi cười, liên tiếp gật đầu, nói “Vi Tiểu Bảo, ngươi tốt lắm, tốt lắm, lại cứu ta lần nữa!”. Vi Tiểu Bảo nói “Thái hậu vạn phúc thánh an, nô tài vô cùng vui mừng”, rồi nhẹ nhàng buông rèm kiệu xuống.

Y quay lại chỉ hai tên thị vệ, nói “Các ngươi mau đi tâu với hoàng thượng là thái hậu thánh cung bình an, xin hoàng thượng không cần lo lắng. Các ngươi nói nô tài Vi Tiểu Bảo cung kính thỉnh an hoàng thượng, các thị vệ ra sức hộ giá, thích khách đã bị đánh lùi”. Hai tên thị vệ nhận lệnh đi.

Chợt nghe thái hậu hạ giọng gọi “Vi Tiểu Bảo!”. Vi Tiểu Bảo ứng tiếng “Dạ, có nô tài!”. Thái hậu hạ giọng hỏi “Hai người trong kiệu trước chết chưa?”. Vi Tiểu Bảo nói “Hai người à?”. Thái hậu nói “Ngươi qua xem thử, cẩn thận lưu ý”. Vi Tiểu Bảo vâng dạ, trong lòng rất ngạc nhiên “Tại sao lại là hai người? Tại sao mình phải cẩn thận lưu ý?”. Y bước tới trước chiếc kiệu thứ nhất, vén rèm kiệu lên, không kìm được la lớn “A” một tiếng, buông rèm kiệu xuống, lui lại vài bước, suýt nữa ngã lăn ra đất.

Trong kiệu máu thịt bầy nhầy, quả nhiên có hai người chết! Hai người trên thân thể đều có mấy vết kiếm thương, máu vẫn chảy ròng ròng. Một người là thái hậu giả Mao Đông Châu, người kia là một người đàn ông lùn mập, ngũ quan đã bị chưởng lực đánh nát bét, nhưng nhìn vóc dáng thì rõ ràng là Sấu đầu đà. Hai người ôm chặt nhau mà chết.

Mao Đông Châu chết trong kiệu cũng không có gì kỳ lạ, thị là do Vi Tiểu Bảo áp giải tới cung Từ Ninh trình cho hoàng thái hậu, nhưng gã Sấu đầu đà này thì từ đâu mà ra? Hai người này rõ ràng lại ngồi trên ngự kiệu của hoàng thái phi, lại do hoàng thái hậu bồi tiếp, là định đi đâu?

Y định thần lại, bước tới trước ngự kiệu của thái hậu, hạ giọng nói “Bẩm thái hậu, hai người ấy chết rồi, chết nát bét ra, chết tới mức không sao chết hơn được nữa”.

Thái hậu cười một tiếng, nói “Tốt lắm! Chúng ta về cung Từ Ninh, chiếc kiệu này cũng khiêng theo, đừng để người khác mở rèm ra nhìn”.

Vi Tiểu Bảo vâng dạ truyền lệnh, đích thân khiêng ngự kiệu của thái hậu về cung Từ Ninh, mở rèm kiệu ra, đỡ thái hậu xuống. Thái hậu lại nhìn y cười một tiếng, nói “Ngươi tốt lắm!”. Vi Tiểu Bảo cười, nghĩ thầm “Mình có gì là tốt? Thái hậu tuy không còn trẻ, nhưng dung mạo còn xinh đẹp thật!”.

Thái hậu vẫy vẫy tay, bảo y theo vào tẩm điện, sai cung nữ và thái giám lui ra hết, rồi bảo Vi Tiểu Bảo cài then cửa lại.

Vi Tiểu Bảo tim đập thình thịch, không kìm được mặt đỏ bừng lên, nghĩ thầm “Ái chà, không xong rồi! Thái hậu không ngừng khen ngợi mình, chẳng lẽ muốn mình hóa thân làm Lão hoàng gia? Thái hậu giả có sư ca giả làm cung nữ, lại có Sấu đầu đà nằm chung trong chăn. Nếu thái hậu thật muốn mình giả làm cung nữ chui vào trong chăn của bà ta thì làm sao là tốt?”.

Thái hậu ngồi lên mép giường, xuất thần hồi lâu, nói “Chuyện này thật rất nguy hiểm, toàn là nhờ ngươi ra sức”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài đội ơn lớn của thái hậu và hoàng thượng, dẫu có tan xương nát thịt cũng không báo đáp được”. Thái hậu gật gật đầu, nói “Ngươi rất trung thành. Hoàng thượng dùng ngươi, cũng là phúc khí của bọn ta”. Vi Tiểu Bảo nói “Đây là ân điển của thái hậu và hoàng thượng. Nô tài chỉ biết hết lòng ra sức báo chúa thôi”, trong lòng chỉ nói “Ngọc Hoàng đại đế, Quan Thế Âm Bồ tát phù hộ, ngươi đừng sai ta làm cung nữ giả”.

Thái hậu lại nhìn y cười một tiếng, chỉ cười tới mức Vi Tiểu Bảo toàn thân nổi da gà, chỉ nghe bà nói “Hai tên phản tặc mà ngươi đánh chết, mang cả người cả kiệu đốt đi, không được tiết lộ ra một chữ nửa câu. Bọn thị vệ và cung nữ thái giám mới rồi có mặt ở đó…”, tới đó trầm ngâm không nói nữa. Vi Tiểu Bảo nói “Xin thái hậu yên tâm. Nô tài có cách để bọn chúng ngay cả đánh rắm nửa cái cũng không dám”. Thái hậu nghe y ăn nói thô tục, khẽ cau mày một cái, nói “Ngươi thu xếp ồn thỏa chuyện này cho ta, tự nhiên sẽ có cái hay cho ngươi”. Vi Tiểu Bảo thỉnh an, nói “Nô tài sẽ hết lòng thu xếp, nếu có ai tiết lộ nửa câu, thái hậu cứ chém đầu nô tài là được”. Thái hậu nói “Thế thì ta yên tâm rồi. Ngươi đi đi!”. Vi Tiểu Bảo cả mừng, dập đầu cáo từ lui ra.

Ra khỏi cung Từ Ninh, chỉ thấy ngự kiệu của Khang Hy đang từ bên kia đi tới, mấy trăm quân túc vệ xúm xít bảo vệ chung quanh, vệ sĩ đông gấp mấy lần so với ngày thường. Vi Tiểu Bảo tránh qua một bên đường. Khang Hy trong kiệu nhìn thấy y, kêu lên “Tiểu Quế tử, ngươi chờ ta ở đây”. Vi Tiểu Bảo vâng dạ, biết Khang Hy tới thỉnh an thái hậu, vắt óc suy nghĩ “Tại sao Sấu đầu đà lại núp trong kiệu của hoàng thái phi? Quả thật vô cùng kỳ quái!”.

(*) Ở đây có chỗ chơi chữ không dịch được. Vợ chồng Quy Tân Thụ tưởng ba chữ “Tiểu O (Huyền) tử“ mà Vi Tiểu Bảo viết là ba chữ “Tiểu đoàn tử” (viên bánh trôi nhỏ).

(**) Xét : Về sau Cát Nhĩ Đan và Tang Kết lần lượt làm loạn, bị Khang Hy lần lượt tiêu diệt. Cát Nhĩ Đan chết năm Khang Hy thứ 36, Tang Kết chết năm Khang Hy thứ 44.

Hồi 43: Lòng như cỏ biếc theo cơn gió – Thân giống mây hồng cạnh mặt trời

Khang Hy từ cung Từ Ninh ra, Vi Tiểu Bảo theo y về điện Dưỡng Tâm, đứng chờ ngoài điện. Qua hồi lâu, thấy Thống lãnh Tiền phong doanh A Tế Xích trong điện đi ra, Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Nhất định là hoàng thượng điều động thêm quân Tiền phong doanh, tăng cường đề phòng thích khách”. Kế đó thái giám gọi Vi Tiểu Bảo vào. Khang Hy cho thị vệ, thái giám lui ra hết, bảo y đóng cửa lại.

Khang Hy nhướng mày lên, đi tới đi lui trong điện, rõ ràng trong lòng rất khó nghĩ, không sao quyết định được. Vi Tiểu Bảo thấy thế, trong lòng hồi hộp. Tiểu hoàng đế dần dần lớn lên, oai thế ngày càng lớn, Vi Tiểu Bảo mỗi lần gặp y đều cảm thấy tình thân thiết giảm đi một ít, nỗi sợ sệt tăng thêm một phần, không còn như lúc đấu vật đánh nhau buông thả không hề úy kỵ trước kia nữa.

Qua một lúc, Khang Hy nói “Tiểu Quế tử, có một chuyện không biết làm sao là tốt”. Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng thông minh trí tuệ, Gia Cát Lượng cũng cam bái hạ phong, nghĩ ra chủ ý nhất định là cao minh”. Khang Hy nói “Chuyện này thì ngay cả Gia Cát Lượng cũng không biết làm sao. Ngươi có ba công lao lớn mà ta chưa hề ban thưởng cho ngươi. Bắt được Mao Đông Châu là một. Thuyết phục binh mã hai lộ Tây Tạng, Mông Cổ quy hàng là hai. Mới rồi sai người giết chết phản tặc, cứu được thái hậu là ba. Ngươi còn nhỏ tuổi mà đã được phong tước bá, ta lại không thể phong ngươi tước vương được!”, nói tới đó hô hô cười rộ.

Vi Tiểu Bảo mới biết hoàng thượng nói đùa với mình, cười nói “Mấy việc ấy đều là nhờ vào hồng phúc của thái hậu và hoàng thượng, công lao gì cũng là của hoàng thượng thôi. Tiếc là hoàng thượng không thể tự phong quan cho mình, nếu không thì hoàng thượng phải tự thăng cho mình lên luôn ba cấp mới đúng”.

Khang Hy lại cười ầm lên một hồi, nói “Tuy hoàng đế không thể tự thăng quan cho mình, nhưng từ xưa đến nay không biết có bao nhiêu hoàng đế thích thêm tôn hiệu cho mình. Có chuyện gì vui mừng, thắng được một trận nhỏ là tăng thêm vài tôn hiệu, tuy nói là bề tôi tâu xin, nhưng thật ra vẫn là hoàng đế tự trát vàng lên mặt mình. Hoàng đế tốt thật sự mà tự khen ngợi mình như thế cũng đã rất đáng cười, huống hồ rất nhiều hôn quân bạo chúa cũng xưng cả chuỗi Thánh nhân văn võ, hiền triết duệ trí gì đó. Hoàng đế càng hồ đồ, tôn hiệu càng dài, thật là thản nhiên không biết nhục. Các bậc chúa thánh vua hiền xưa nay có ai hơn Nghiêu Thuấn Võ Thang đâu? Nhưng Nghiêu chỉ là Nghiêu, Thuấn chỉ là Thuấn, người sau ngưỡng mộ trong lòng chẳng qua cũng chỉ gọi là Đại Nghiêu Đại Thuấn. Người làm hoàng đế nếu có ba phần sáng suốt tự biết mình thì cũng chẳng xưng tôn hiệu dài tới vài mươi chữ làm gì”.

Vi Tiểu Bảo nói “Té ra Điểu Sinh Ngư Thang không đặt thêm tôn hiệu cho mình. Hoàng thượng là Điểu Sinh Ngư Thang, tự nhiên cũng không đặt thêm. Có điều theo như nô tài thấy, sau khi đánh được Ngô Tam Quế, nếu hoàng thượng không thêm vài chữ cho vinh dự, thì không khỏi quá thiệt thòi”.

Khang Hy cười nói “Thiệt thòi cái gì?”. Vi Tiểu Bảo nói “Đánh được Ngô Tam Quế rồi, hoàng thượng sẽ phong thưởng công thần, khao thưởng ba quân, mọi người đều thăng quan phát tài. Chính hoàng thượng thì không được thăng quan mà còn phải mở kho tàng ra, vàng chói lòa, bạc trắng xóa cứ từng rương từng rương trút ra làm hoa sai hoa sai, há không phải là đại tán tài sao?”. Khang Hy cười nói “Ngươi thật là không có học vấn, không có chí khí. Đánh dẹp Ngô nghịch xong, thiên hạ thái bình, bách tính an cư lạc nghiệp, đó là vua của ngươi được thăng quan phát tài đấy”. Vi Tiểu Bảo nói “Té ra là thế”.

Khang Hy nói “Có điều đánh dẹp Ngô nghịch xong, quần thần nhất định sẽ dâng tôn hiệu. Bọn đại vương vỗ mông ngựa ấy lúc có chuyện thì không thể ra sức chia lo với trẫm, nhưng một khi đại công cáo thành lại xúm vào kiếm chác tiện nghi, ra sức vỗ mông ngựa”. Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng chuyện gì cũng đều sáng suốt có tiên kiến. Lúc ấy chúng ta cứ im lặng nhìn xem, viên quan nào xin hoàng thượng thêm tôn hiệu thì đó chính là đại vương vỗ mông ngựa”. Khang Hy cười nói “Đúng! Lúc ấy lão tử sẽ đá con mẹ nó vào cái mông chó của y”, vua tôi nhìn nhau cười ầm lên.

Quả nhiên không sai với dự đoán của Khang Hy, sau khi dẹp yên Ngô Tam Quế xong, quần thần liền dâng tôn hiệu, ca công tụng đức, ra sức vỗ mông ngựa. Khang Hy ban dụ nói “Tuy giặc đã dẹp yên, nhưng vết thương chưa lành, quần thần càng nên tu tỉnh, thương dân nuôi quân, tuyên dương đức hóa, phải lấy thanh liêm làm gốc, cùng đạt tới chỗ thái bình. Nếu cho đó là công đức, sùng thượng sự tôn xưng, lạm đòi điều ân thưởng thì thật rất nhục nhã”, lời lẽ mười phần nghiêm khắc nhưng quần thần vẫn không tỉnh ngộ, cho rằng Khang Hy chẳng qua chỉ giả vờ từ chối, lại xin dâng tôn hiệu. Khang Hy ban dụ nói “Trẫm từ nhỏ đọc sách, biết các bậc nhân quân thời cổ hành sự, thủy chung rất ít người trước sau như một, vẫn thường lấy đó làm răn. Chỉ e công việc có chỗ bỏ bê, không làm tới nơi tới chốn, dè xẻn cơm áo, mùa nắng mùa rét, không dám nhàn rỗi. Ngẫu nhiên có gì thất hòa, thì ra sức lắng nghe phán xét. Nửa đêm có việc gấp tâu báo là khoác áo trở dậy, chỉ vì lo lắng cho sinh linh trong thiên hạ. Nay là lúc ít kẻ liêm khiết, dân chưa sung túc, cả vua lẫn tôi đều không có công tích gì đáng nói. Nếu lại dâng tôn hiệu cho trẫm, thăng chức cho các ngươi thì chỉ thêm xấu hổ, có gì là vinh dự đâu?”. Quần thần vỗ mông ngựa lại thành mó dái ngựa, tối mắt tối mũi, mới không dám nói nữa. Nhưng đó là chuyện về sau, dưới đây không nói tới.

Khang Hy cười nói “Hoàng đế tự thêm tôn hiệu cho mình thì có nhiều lắm, không có gì lạ. Triều Minh có hoàng đế Chính Đức mới là kỳ lạ”. Vi Tiểu Bảo nói “Vị hoàng đế ấy, nô tài có thấy qua vài lần”. Khang Hy ngạc nhiên nói “Ngươi thấy y vài lần à? Nằm mơ thấy à?”. Vi Tiểu Bảo nói “Không phải. Nô tài là thấy trên sân khấu. Có một vở Mai Long trấn, hoàng đế Chính Đức xuống chơi Giang Nam, gặp một cô nương Lý Phượng Thư trong quán rượu ở Mai Long trấn, rất là xinh đẹp, bèn tằng tịu với cô ta”.

Khang Hy cười nói “Hoàng đế Chính Đức thích cải trang ra ngoài vi hành, chuyện Lý Phượng Thư là có thật cũng chưa biết chừng. Vị hoàng đế ấy không thêm tôn hiệu cho mình, nhưng lại thích phong chức cho mình, y phong mình làm Tổng đốc quân vụ Uy vũ đại tướng quân Tổng binh quan, gặp gió khua cỏ động gì là hạ một đạo thượng dụ nói: Giặc Bắc xâm phạm biên cảnh, đặc mệnh sai Tổng đốc quân vụ Uy vũ đại tướng quân Tổng binh quan Chu Thọ suất lãnh lục quân chinh phạt. Chu Thọ chính là tên y. Về sau đánh nhau một trận, thật ra là thua, nhưng y nói là thắng, công lao rất lớn, lại ra một đạo thánh chỉ gia phong cho mình làm Trấn quốc công, tăng thêm bổng lộc năm ngàn thạch gạo”.

Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, nói “Người ấy hoàng đế không làm, lại đi làm Trấn quốc công, thật là quá mức hồ đồ”.

Khang Hy cười nói “Đương thời các đại thần nhất tề phản đối, nói nếu phong là Trấn quốc công thì phải truy phong cho tổ tiên ba đời. Hoàng thượng tự xưng là Trấn quốc công không hề gì, nhưng tổ tiên ba đời của hoàng thượng đều là hoàng đế, nhất định họ không chịu bị giáng cấp. Hoàng đế Chính Đức không đếm xỉa gì tới, nhất định làm Trấn quốc công, về sau lại nói lập được công lao, gia phong mình làm Thái sư. May là y chết sớm, nếu phong chức quan càng lúc càng lớn, sau cùng chỉ còn cách tự soán ngôi của mình, làm hoàng đế thôi”. Vi Tiểu Bảo nghe tới hai chữ “soán ngôi”, không dám nhiều lời, chỉ cười khan mấy tiếng.

Khang Hy nói “Hoàng đế Chính Đức làm rất nhiều chuyện hồ đồ, hại bách tính đến khổ. Cố nhiên là chính y không tốt, nhưng một nửa cũng là bọn thái giám và bầy tôi làm y hư hỏng”. Vi Tiểu Bảo nói “Vâng, vâng. Hoàng đế xấu thích dùng thái giám xấu và gian thần, hoàng đế tốt thì dùng thái giám tốt và trung thần”. Khang Hy khẽ lắc đầu, nói “Cũng không phải thế. Bên cạnh hoàng đế tốt cũng có thái giám xấu và gian thần, chỉ có điều nếu hoàng đế không hồ đồ, cho dù bị họ qua mắt một lúc, nhưng cuối cùng thế nào cũng vạch mặt được bọn gian thần âm hiểm giảo hoạt”.

Vi Tiểu Bảo nói “Vâng, vâng”, bất giác tim đập thình thịch.

Khang Hy hỏi “Gã gian phu của mụ tiện nhân Mao Đông Châu tên gì?”. Vi Tiểu Bảo nói “Y tên Sấu đầu đà, còn tên thật là gì thì nô tài không biết”. Khang Hy nói “Y mập như thế, giống hệt một trái cầu thịt, tại sao lại gọi là Sấu đầu đà?”. Vi Tiểu Bảo nói “Nghe nói y vốn rất cao rất gầy, về sau uống phải độc hoàn của giáo chủ Thần Long giáo nên người co rút lại, biến thành một gã lùn mập”. Khang Hy lại hỏi “Làm sao ngươi biết Mao Đông Châu núp trong kiệu của hoàng thái phi, bức bách thái hậu đưa ra khỏi cung?”.

Vi Tiểu Bảo ý nghĩ xoay chuyển như chớp “Lúc đầu hoàng thượng nói mình sai người đánh chết phản tặc, cứu được thái hậu, công lao rất lớn, bây giờ lại nói hai người bọn họ núp trong kiệu của hoàng thái phi, bức bách thái hậu đưa ra khỏi cung. Thế thì việc ba người nhà họ Quy hành thích, hoàng thượng cũng không biết. Mình trả lời thế nào là tốt?”.

Khang Hy thấy y ngần ngừ không đáp, hỏi “Thế nào? Có chuyện gì kiêng kỵ à?”. Vi Tiểu Bảo nói “Không, không! Nô tài trong lòng ngạc nhiên là tại sao hai tên phản tặc ấy lại ngồi trong kiệu của hoàng thái phi, thật là suy nghĩ vỡ đầu cũng không hiểu được, còn xin hoàng thượng chỉ bảo”. Khang Hy nói “Ta hỏi ngươi trước: Làm sao ngươi biết người trong kiệu không phải là hoàng thái phi mà chỉ huy thị vệ tập kích vào ngự kiệu?”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Té ra hoàng thượng còn cho là thị vệ trong cung giết chết Sấu đầu đà và Mao Đông Châu, chuyện này rốt lại sẽ lộ ra, mình cứ nói thẳng thôi”. Liền nói “Nô tài tội đáng muôn chết, xin hoàng thượng tha tội”, nói xong quỳ xuống đất.

Khang Hy cau mày hỏi “Chuyện gì?”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài phụng thánh chỉ của hoàng thượng, áp giải phản nghịch Mao Đông Châu qua cung Từ Ninh, đi ngang Ngự hoa viên, đột nhiên soạt một tiếng, sau hòn non bộ có ba người mặc quần áo và thái giám nhảy ra bắt giữ nô tài, bắt ta dắt họ đi tìm hoàng thượng. Võ công của ba người ấy cực cao, suýt nữa ngón tay của nô tài bị họ bóp gãy cả rồi”. Nói xong giơ tay trái ra, quả nhiên năm ngón tay đều bầm đen sưng vù.

Khang Hy nói “Họ tìm ta làm gì?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ba người này nhất định là thích khách của Ngô Tam Quế phái tới, nhưng cho dù nô tài bị họ bóp chết cũng quyết không có dắt họ tới phạm giá. Vừa hay…, không, không phải vừa hay mà là vừa khéo, vừa khéo loan giá của thái hậu và thái phi đi ra, ba tên thích khách ấy hồ lý hồ đồ, cho rằng trong kiệu của thái phi là thánh giá của hoàng thượng, bèn xông ra hành hung. Đây là thái hậu và hoàng thượng hồng phúc tề thiên, nên thành ta phản tặc giết chết phản tặc. Ba tên thích khách ấy không biết đã bị các thị vệ giết chết hay bắt sống, nô tài sẽ đi tra xét rõ rồi trở về bẩm báo”.

Khang Hy nói “Chưa chắc là ba tên thích khách ấy hồ lý hồ đồ, có quá nửa là ngươi chỉ điểm, phải không? Ngươi nghĩ để cho thích khách phạm giá ta chẳng bằng để họ giết thái phi, họ vừa động thủ là trong cung sẽ đại loạn, không thể làm gì được ta nữa, mà cái mạng nhỏ của ngươi cũng giữ được, phải không?”. Vi Tiểu Bảo bị Khang Hy nói toạc tâm sự ra, biết không sao chối được, chỉ đành dập đầu lia lịa.

Khang Hy nói “Ngươi chỉ điểm cho thích khách tới hại thái phi, vốn là đáng chém đầu, nhưng tính ra ngươi đối với ta cũng có ba phần trung ái…”. Vi Tiểu Bảo vội nói “Không phải ba phần mà là mười phần, một trăm phần, một ngàn phần, một vạn phần trung ái”. Khang Hy mỉm cười hỏi “Làm sao thấy được?”. Vi Tiểu Bảo nói “Thấy được chứ, thấy được chứ! Rất là thấy được!”.

Khang Hy đưa chân khẽ đá vào trán y một cái, cười nói “Con mẹ nó, đứng lên đi”. Vi Tiểu Bảo sợ tới mức trán toát mồ hôi, dập đầu rồi đứng lên. Khang Hy cười nói “Ngươi lập được ba công lớn, ta vốn đang không nghĩ ra cách ban thưởng cho ngươi, bây giờ nghĩ ra rồi. Ngươi chỉ điểm cho thích khách, phạm thượng hành hung, có lòng bất thần, nhưng ta cũng không phạt ngươi. Lấy công trừ tội, giữa hai chúng ta sạch sẽ thôi”.

Vi Tiểu Bảo nói “Hay quá, hay quá! Cũng như hoàng thượng chơi bài cẩu, lúc đầu là nô tài thắng, về sau hoàng thượng thắng, mọi người tới đây là thôi. Hoàng thượng không thắng, cũng không chung cho ta”, nghĩ thầm “Không thăng quan thì không thăng quan. Chẳng lẽ ngươi còn phong ta làm Uy vũ đại tướng quân, Trấn quốc công à? Cho dù phong làm Thái sư cũng chẳng có gì hay ho. Năm xưa Đường Bá Hổ chấm Thu Hương, hai con trai của Hoa Thái sư là Hoa Đại, Hoa Nhị là hai thằng ngốc. Vi Thái sư ta sinh được hai con trai là Vi Đại, Vi Nhị cũng bừa bãi bậy bạ như thế thì đúng là rất rủi ro”.

Khang Hy nói “Thằng gian tặc lùn mập ấy dụng tâm rất gian hiểm. Sau khi người tình của y bị ngươi bắt, khó lòng cướp lại, y đoán là nhất định ngươi sẽ giải vào cung dâng cho thái hậu phát lạc bèn mạo hiểm xông vào cung Từ Ninh, phạm thượng làm loạn, bức bách thái hậu. Lúc ấy số thị vệ trong cung đã tăng lên gấp mấy lần, canh phòng nghiêm ngặt, y không thể nhân lúc người ta không đề phòng vượt qua tường chạy thoát giống như lần trước, chỉ còn cách ngồi trong kiệu của thái phi thật, do thái hậu đích thân đưa ra cửa cung, rồi sẽ cùng nhau đào tẩu. Y muôn ngàn lần không ngờ ma xui quỷ khiến, ngươi lại chỉ điểm cho thích khách tấn công vào loan kiệu của thái phi, giết chết hai tên phản tặc”.

Vi Tiểu Bảo sực hiểu ra, nói “Té ra là thế. Thái hậu và hoàng thượng hồng phúc tề thiên, quả nhiên nửa điểm cũng không sai”, nghĩ thầm “Chẳng trách gì lúc mình đưa con đĩ già tới, mặt thái hậu lại sa sầm cứ như mình thiếu bà ta ba trăm vạn lượng bạc không chịu trả. Té ra lúc ấy Sấu đầu đà đã núp trong tẩm điện, có quá nửa là núp trên giường, Sấu đầu đà đã ở trong cung Từ Ninh nhiều ngày, thông thạo đường lối cửa nẻo, cũng không biết đã ngủ trên cái giường ấy bao nhiêu đêm rồi nữa, cũng may là y đã nghĩ ra mưu kế khéo léo ấy. Không biết y chờ trong tẩm điện của thái hậu bao lâu rồi? Biết đâu cũng đã vài hôm. Ái chà, không xong! Sấu đầu đà và thái hậu một nam một nữ ở cùng phòng liên tiếp mấy hôm, không biết có giở trò hoa dạng gì ra không? Cái mũ hòa thượng của Lão hoàng gia trên núi Ngũ Đài chỉ e có chút màu xanh rồi”.

Khang Hy tự nhiên không đoán được ý nghĩ trong lòng y, cười nói “Thái hậu và ta hồng phúc tề thiên, còn ngươi phúc khí cũng không nhỏ đâu”.

Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài vốn không có phúc khí gì cả, chỉ là dính được một ít phúc khí của hoàng thượng thôi”.

Khang Hy hô hô cười rộ, hỏi “Gã Quy Tân Thụ ấy có ngoại hiệu là Thần quyền vô địch, võ công quả rất lợi hại phải không?”.

Khang Hy trong tiếng cười lớn buông ra câu ấy, Vi Tiểu Bảo như nghe sét nổ bên tai, thân hình lảo đảo, chỉ thấy hai chân như bị tưới đầy giấm, vừa tê dại vừa mềm nhũn, nói “Cái đó… cái đó…”.

Khang Hy cười nhạt nói “Thiên phụ địa mẫu, phản Thanh phục Minh! Vi Hương chủ, ngươi to gan lắm!”.

Vi Tiểu Bảo cảm thấy trời xoay đất chuyển, trong đầu đông cứng lại, ý nghĩ đầu tiên là định rút thanh chủy thủ trong ống giày ra, nhưng lập tức nghĩ thầm “Chuyện gì y cũng biết cả rồi! Đã hỏi câu ấy tức là ngửa bài ra so điểm với mình. Y võ công cao cường hơn mình, mình đâm một kiếm không giết y được. Mà cho dù giết được y, mình cũng quyết không giết!”. Lúc ấy không ngần ngừ gì nữa, lập tức quỳ xuống, kêu lên “Tiểu Quế tử đầu hàng, xin Tiểu Huyền tử tha mạng!”.

Ba chữ “Tiểu Huyền tử” vừa lọt vào tai, trong đầu Khang Hy lập tức hiện ra những hình ảnh đấu vật tỷ võ với y ngày trước, bất giác thở dài một tiếng, nói “Ngươi… vẫn che giấu ta khéo lắm”.

Vi Tiểu Bảo dập đầu nói “Nô tài tuy thân trong Thiên địa hội nhưng đối với hoàng thượng vẫn lòng trung rỡ rỡ, chưa làm chút gì không phải với hoàng thượng”. Khang Hy lạnh lùng nói “Nếu ngươi có chút ý định phản ta, thì làm sao ta để cho ngươi sống đến hôm nay?”. Vi Tiểu Bảo nghe lời lẽ của y có vẻ hòa hoãn hơn, vội dập đầu nói “Hoàng thượng Điểu Sinh Ngư Thang, sáng hơn Gia Cát Lượng. Nô tài tận trung vì chúa, dài tựa Quan Vân Trường”.

Khang Hy nhịn không được, chửi thầm trong bụng “Con mẹ nó, cái gì mà sáng hơn Gia Cát Lượng, dài tựa Quan Vân Trường?”. Chỉ là đang trò chuyện tới lúc quan trọng, nếu lời nói vẻ mặt hơi tỏ ra dịu lại thì thằng tiểu quỷ này sẽ nhân cơ hội theo cán chổi bò lên, không sao thu phục được nữa, liền quát “Ngươi cung khai tất cả từ đầu tới đuôi cho ta! Chỉ hơi có nửa câu bịa đặt, thì ta sẽ lập tức chém ngươi thành thịt chó băm nhừ!”, nói tới bốn chữ cuối cùng, trên khóe môi bất giác thoáng hiện nét cười.

Vi Tiểu Bảo bò rạp dưới đất, không thấy thần sắc của y đã trở nên hòa hoãn, chỉ nghe giọng nói nghiêm khắc, vội dập đầu nói “Vâng, vâng. Hoàng thượng đều biết cả rồi, nô tài làm sao dám giấu giếm chút gì?”. Lúc ấy liền kể lại chuyện tới phủ Khang thân vương giết Ngao Bái bị Thiên địa hội bắt đi thế nào, bái Trần Cận Nam làm sư phụ thế nào, bị ép gia nhập Thiên địa hội làm Hương chủ Thanh Mộc đường thế nào, nhất nhất theo sự thật nói ra, sau cùng kể việc gặp ba người nhà họ Quy thế nào, gieo xúc xắc thua Quy Chung thế nào, vẽ tranh mật tấu thế nào, bị Quy nhị nương bắt được trong hoa viên cung Từ Ninh thế nào, chỉ dẫn ba người tập kích loan kiệu của hoàng thái phi để báo động cho hoàng đế thế nào, còn như những chi tiết có liên quan tới việc lấy trộm bộ Tứ thập nhị chương kinh thì tự nhiên bỏ đi không nhắc tới. Y nói một hồi rất lâu, lại bịa đặt rất ít mà nói thật rất nhiều, tính ra cũng là lần nát óc đầu tiên trong đời.

Khang Hy không ngừng hỏi kỹ tình hình Thiên địa hội, Vi Tiểu Bảo cũng theo sự thật bẩm báo. Khang Hy nghe một lúc, gật gật đầu nói “Năm người chia nhau một bài thơ, Trên người Hồng Anh không ai hay”. Vi Tiểu Bảo ngẩn ra “Hoàng thượng biết cả bài thơ tiếng lóng nhận nhau của huynh đệ trong hội”, liền đọc câu tiếp theo “Từ đó truyền ra các huynh đệ, về sau nhận biết sẽ sum vầy”. Khang Hy nói “Vừa tới Hồng Môn kết đệ huynh, Hôm nay thề nguyện tỏ lòng thành”. Vi Tiểu Bảo nói “Tùng bách hai cây chia tả hữu, ở giữa Hồng hoa kết nghĩa đình”. Khang Hy nói “Trung nghĩa dưới thềm huynh đệ họp, Trong thành điểm tướng trăm vạn binh”. Vi Tiểu Bảo nói “Phúc đức cạnh đền cùng thệ ước, Phản Thanh phục Minh tạ Hồng Anh”.

Theo quy củ trong Thiên địa hội, đọc xong hai câu thơ ấy, đối phương sẽ phải tự báo tên họ, nói mình thuộc đường nào, giữ chức vụ gì trong hội, nhưng Khang Hy chỉ cười khẽ một tiếng. Vi Tiểu Bảo mừng rỡ nói “Té ra hoàng thượng cũng là huynh đệ trong hội, không biết là thuộc đường nào, thắp mấy nén hương…?”. Nói tới đó lập tức biết mình rất mực hồ đồ, y là hoàng đế Mãn Thanh, tại sao lại “Phản Thanh phục Minh”? Liền nói lia lịa “Đánh chết thằng tiểu tử hồ đồ, đánh chết thằng tiểu tử hồ đồ!”, rồi bộp bộp thành tiếng, tát khẽ vào mặt mình mấy cái.

Khang Hy đứng lên, đi tới đi lui trong điện, nói “Ngươi làm quan Mãn Châu, ăn lộc nhà Đại Thanh mà trong lòng lại mang ý nghĩ phản Thanh phục Minh. Nếu không nghĩ tới ngươi đã lập được vài công lao nhỏ, thì cho dù ngươi có một trăm cái đầu ta cũng đã chém cả rồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Vâng, vâng. Hoàng thượng khoan hồng đại lượng, cái đầu của nô tài mới còn giữ được tới hôm nay. Nô tài sẽ lập tức ra khỏi hội, chức Hương chủ Thiên địa hội này nói thế nào cũng không làm nữa. Từ nay trở đi quyết không phản Thanh phục Minh nữa, chỉ dốc lòng phản Minh phục Thanh thôi”. Khang Hy trong bụng cười thầm, chửi “Nhà Đại Thanh ta chưa mất nước, ngươi phục cái gì? Toàn ăn nói bậy bạ!”. Vi Tiểu Bảo vội nói “Vâng, vâng. Nô tài bảo vệ cho giang sơn thánh chúa bền vững muôn muôn năm. Hoàng thượng muốn ta phục cái gì thì ta phục cái ấy, muốn ta phản cái gì thì nô tài phản cái ấy”.

Khang Hy trầm giọng, chậm rãi từng tiếng từng tiếng nói “Được! Ta muốn ngươi phản Thiên địa hội!”

Vi Tiểu Bảo nói “Vâng, vâng”, trong lòng thầm kêu khổ, trên mặt không kìm được lộ ra vẻ khó khăn.

Khang Hy nói “Ngươi luôn miệng hoa ngôn xảo ngữ, nói nào là đối với ta lòng trung rỡ rỡ, cũng không biết là thật hay giả”. Vi Tiểu Bảo vội nói “Vàng mười đủ tuổi mà, vàng mười đủ tuổi mà! Không gì thật hơn đâu!”. Khang Hy nói “Ta hỏi kỹ ngươi, tính ra ngươi cũng chưa phạm tội gì đại nghịch bất đạo. Nếu ngươi nghe lời ta sai bảo, lần này bắt hết Thiên địa hội, nhổ cỏ bứt rễ, tiêu diệt hết bọn phản nghịch, lấy công chuộc tội, thì sẽ tha tội khi quân cho ngươi, biết đâu lại còn ban thưởng gì đó cho ngươi. Còn nếu ngươi vẫn giảo hoạt trí trá, hai đao ba mặt thì hừ hừ, chẳng lẽ ta lại không giết nổi Vi Hương chủ của Thiên địa hội à?”.

Vi Tiểu Bảo chỉ sợ tới mức toàn thân đổ mồ hôi lạnh, luôn miệng nói “Vâng, vâng. Hoàng thượng muốn giết nô tài chẳng qua cũng như bóp chết một con kiến. Có điều… có điều hoàng thượng là Điểu Sinh Ngư Thang, không giết trung thần”. Khang Hy hừ một tiếng, nói “Ngươi mà là trung thần gì? Ngươi là đại gian thần mặt trắng!”. Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng minh giám, đúng là có những chuyện nô tài không nói ra, giấu giếm hoàng thượng, có điều quả thật không phải là đại gian thần mặt trắng. Đổng Trác, Tào Tháo thì nhất định ta không làm”. Khang Hy nói “Được, cứ cho là không phải đại gian thần mặt trắng thì cũng là gã xấu xa mũi trắng”. Vi Tiểu Bảo nghe hoàng đế phân vai cho mình như thế lập tức thở phào một hơi, vội nói “Gã xấu xa mũi trắng cũng như… cũng như Thời Thiên, Chu Quang Tổ, cũng có thể lập công cho hoàng thượng”.

Khang Hy cười khẽ một tiếng, nói “Hừ, ngươi vẫn cứ cố nói mình thành người tốt. Thôi thế này, ngươi điểm quân mã đi bắt tất cả bọn phản tặc Thiên địa hội, Mộc vương phủ, Quy Tân Thụ về đây. Nếu có một tên chạy thoát thì chặt một cánh tay của ngươi, có bốn tên chạy thoát thì chặt hai tay hai chân của ngươi. Nếu có năm tên chạy thoát, thì chặt cái gì của ngươi?”. Vi Tiểu Bảo nói “Thế thì… thế thì nô tài chỉ còn cách làm thái giám thôi”. Khang Hy không nhịn được hô hô cười rộ, chửi “Con mẹ nó, ngươi cũng biết tính toán theo ý mình lắm”. Vi Tiểu Bảo mặt mày nhăn nhó nói “Hoàng thượng chặt hết hai tay hai chân của ta thì nô tài có quá nửa là không sống nổi rồi, cái đầu trên cổ có chặt hay không cũng không khác nhau bao nhiêu”, nghĩ thầm “Y biết cả Mộc vương phủ, quả nhiên tin tức linh thông”.

Khang Hy lấy trong tay áo ra một tờ giấy, đọc “Tổng đà chủ Trần Cận Nam, Hương chủ Thanh Mộc đường Vi Tiểu Bảo, bọn thuộc hạ là Lý Lực Thế, Từ Thiên Xuyên, Huyền Trinh đạo nhân, Tiền Lão Bản, Cao Ngạn Siêu, Phong Tế Trung vân vân trong Thiên địa hội, Mộc Kiếm Thanh, Liễu Đại Hồng, Ngô Lập Thân vân vân trong Mộc vương phủ, ba tên thích khách vào cung là Quy Tân Thụ, Quy nhị nương, Quy Chung. Một, hai, ba, bốn, năm…, tất cả gồm bốn mươi ba tên phản tặc, tạm thời trừ ngươi ra, tất cả có bốn mươi hai tên”.

Vi Tiểu Bảo lại quỳ xuống dập đầu hai cái, nói “Hoàng thượng, những người ấy tuy nói là phản Thanh phục Minh, có điều họ cũng không thể phản thành công, phục thành công. Để ta đi nói với họ hoàng thượng trên thông thiên văn, dưới hay địa lý, quá khứ vị lai chuyện gì cũng biết. Hoàng thượng đã nói giang sơn nhà Đại Thanh muôn muôn năm thì nhất định không sai. Phản Thanh thì phản không được rồi, chẳng bằng mọi người cứ giải tán thôi”.

Khang Hy đập mạnh bàn một cái, dằn giọng nói “Ngươi quyết ý kháng mệnh, không chịu đi bắt bọn phản tặc phải không?”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Hảo hán trên giang hồ, nghĩa khí là trọng. Nếu mình bắt hết bọn sư phụ, nhất định hoàng thượng sẽ chém đầu họ. Nếu thế thì Vi Tiểu Bảo là bán đứng bằng hữu, biến thành Ngô Tam Quế rồi. Ngày trước giả mạo ai không được, sao lại đi giả mạo Tiểu Quế tử. Tiểu Quế tử, Tiểu Quế tử, chẳng lẽ là con Ngô Tam Quế à? Chức bá tước đại nhân này cũng mình cũng không cần làm nữa, phải nghĩ cách báo tin cho bọn sư phụ bỏ trốn, lăn tròn như quả trứng vịt thối con mẹ nó đi thôi”.

Khang Hy thấy y không trả lời, trong lòng càng tức giận, quát “Rốt lại thế nào? Chẳng lẽ ngươi không biết đã phạm đại tội sao? Ta cho ngươi một cơ hội tốt để sửa đổi lỗi lầm, lấy công chuộc tội, mà ngươi còn trả giá với ta à?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng, họ muốn hại người, ta liều mạng cản trở, nô tài đối với người là biết nghĩa khí. Hoàng thượng muốn bắt họ, nô tài bị kẹp ở giữa, khó mà làm người, chỉ đành nài nỉ với người, đó cũng là biết nghĩa khí”.

Khang Hy tức giận nói “Ngươi trong lòng hướng về phản tặc, thế là không phân biệt thuận nghịch, trong mắt không có quân vương, còn nói là biết nghĩa khí à?”, ngừng lại một lúc rồi nói tiếp “Ngươi đã cứu mạng ta, đã cứu phụ hoàng, đã cứu thái hậu, hôm nay nếu ta giết ngươi, nhất định trong lòng ngươi sẽ không phục, sẽ nói là ta không biết nghĩa khí với ngươi, phải không?”. Đã đến bước này, Vi Tiểu Bảo cũng lên cơn ương bướng, nói “Đúng thế. Trước kia hoàng thượng ưng thuận với nô tài là cho dù nô tài có làm chuyện gì sai trái, hoàng thượng cũng tha mạng cho ta. Kim khẩu của Vạn tuế gia đã nói ra thì không được hối hận”. Khang Hy nói “Giỏi lắm, ngươi lo sâu tính xa, đã sớm mai phục một con cờ ấy, lòng dạ đáng giết”.

Vi Tiểu Bảo không hiểu bốn chữ “Lòng dạ đáng giết” là có ý tứ gì, nhưng đoán nhất định không phải là lời tốt đẹp, từ khi quen biết Khang Hy đến nay, chưa bao giờ thấy y giận dữ tới mức như vậy, nghĩ thầm “Cái đầu của mình có quá nửa là sẽ bị chém rồi. Tính nết của tiểu hoàng đế thì nài nỉ y cũng vô dụng, chỉ có nói lý lẽ với y thôi”, liền nói “Hoàng thượng, ta đã bái người làm sư phụ, người đã ưng thuận thu ta làm đồ đệ. Trần Cận Nam cũng là sư phụ ta. Nếu ta có lòng hại người, đó là khi sư diệt tổ. Nếu ta đi hại vị sư phụ kia, cũng là khi sư diệt tổ. Mà nói lại… mà nói lại…, hoàng đế chém đầu nô tài đương nhiên là chuyện bình thường, nhưng sư phụ mà chém đầu đồ đệ thì có chỗ không đúng đâu”.

Khang Hy nghĩ thầm “Lúc trước quả có đùa nhận y làm đồ đệ thật. Thằng tiểu tử này được yêu sinh kiêu, vô pháp vô thiên, lại đem mình ra so với gã đầu đảng bọn phỉ đồ Thiên địa hội, quả thật là bậy bạ hết mức…”. Vừa nghĩ tới đó, chợt nghe xa xa có tiếng người quát tháo, tiếng binh khí chạm nhau loảng xoảng.

Vi Tiểu Bảo nhảy bật lên, nói “Dường như có thích khách, xin sư phụ ngồi yên đừng động đậy, để đệ tử chắn trước mặt người”.

Khang Hy hừ một tiếng, nghĩ thầm “Thằng tiểu tử này quả thật là không giống ai, nhưng đối với mình rốt lại vẫn có lòng trung ái”, bèn nói “Trở đi ngươi đừng gọi ta là sư phụ nữa. Ngươi không giữ môn quy của bản môn, bản sư phụ trục xuất ngươi ra khỏi môn phái”, nói tới đó không kìm được bật cười.

Chỉ nghe tiếng bước chân vang lên, có mấy người chạy tới cửa điện, đứng lại bất động. Vi Tiểu Bảo chạy ra cửa điện, lập tức cầm then cửa lên cài lại, đây là đại sự có liên quan tới tính mạng, tay chân mau lẹ không gì sánh bằng, quát hỏi “Ai?”.

Ở ngoài có người cao giọng nói “Bẩm hoàng thượng, có ba tên thích khách tiến vào cung, túc vệ Nội ban đã vây chặt, không bao lâu sẽ bắt được”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Ba người nhà họ Quy rốt lại cũng không chạy thoát được”, liền quát “Hoàng thượng biết rồi. Điều ngay một trăm thị vệ tới trước sau điện Dưỡng Tâm hộ giá, ba mươi người lên nóc điện canh giữ”. Thủ lãnh thị vệ ngoài điện vâng dạ chạy đi.

Khang Hy nghĩ thầm “Y suy nghĩ rất chu đáo. Hôm trước gặp nguy hiểm trên núi Ngũ Đài, ni cô áo trắng kia từ nóc nhà phá ngói nhảy xuống, quả nhiên rất khó đề phòng, may mà thằng tiểu tử này không tiếc thân nhảy ra chịu cho mình một kiếm”.

Qua một lúc, tiếng ồn ào nhỏ dần, nhưng không lâu sau tiếng binh khí chạm nhau lại vang lên. Khang Hy cau mày nói “Cả ba tên thích khách cũng không bắt được. Nếu có ba trăm tên, ba ngàn tên tới thì làm sao?”. Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng không cần phiền não. Loại cao thủ như Quy Tân Thụ trên đời rất ít, nhiều lắm cũng chỉ có bốn năm người thôi”.

Lại qua một lúc, chỉ nghe tiếng bước chân vang lên, lại có tiếng đao kiếm khua động, thị vệ Nội ban được điều thêm đã tới ngoài điện, lại nghe bốn góc trên nóc điện có tiếng ngói khua, túc vệ đã nhảy lên nóc điện, bọn thị vệ biết hoàng thượng đang ở trong điện, nên đều chỉ canh giữ ở bốn góc nóc điện, không dám bước tới giữa nóc điện, nếu không là đứng trên đầu hoàng thượng, là đại đại bất kính.

Khang Hy biết chỉ chung quanh một điện Dưỡng Tâm ít nhất cũng đã có bốn năm trăm thị vệ canh giữ, quyết không có gì đáng lo, không đếm xỉa gì tới thích khách nữa, nói “Ngươi xem đây là cái gì?”, rồi lấy trong tay áo ra một tờ giấy trải lên trên bàn.

Vi Tiểu Bảo bước tới nhìn, thì là một bức tranh, ở giữa vẽ một ngôi nhà lớn, trước nhà có cán cờ và sư tử đá, có phần giống phủ bá tước của mình, chung quanh nhà có mười hai khẩu đại pháo, nòng pháo chĩa thẳng vào nhà. Lúc nhìn kỹ lại, thì càng nhìn càng thấy giống nhà mình.

Khang Hy nói “Ngươi nhận ra ngôi nhà này không?”. Vi Tiểu Bảo nói “Cũng có điểm rất giống cái ổ chó của nô tài”. Khang Hy nói “Ngươi nhận ra thì tốt”, rồi chỉ vào bốn chữ trên tấm biển ngạch trước cửa trong bức tranh, nói “Đây là bốn chữ Trung Dũng bá phủ, đã nhận ra chưa?”.

Vi Tiểu Bảo nghe thấy đúng là nhà mình, lại không kìm được toát mồ hôi lạnh. Chung quanh chỗ ở của mình lại có rất nhiều đại pháo chĩa vào, tự nhiên là chuyện lớn không hay. Y từng chính mắt nhìn thấy hai lão quỷ ngoại quốc Thang Nhược Vọng, Nam Hoài Nhân bắn pháo, đại pháo vừa bắn, ầm một tiếng, chỉ thấy cột lửa bốc lên trời, đất đá bay tung lên mấy mươi trượng, trong người mình cho dù mặc một trăm tấm bảo y hộ thân cũng nát bấy như thịt chó băm nhừ, nghĩ tới oai lực của đại pháo, bất giác run lên.

Khang Hy thong thả nói “Tối hôm nay Thiên địa hội các ngươi, Mộc gia Vân Nam, họ Quy phái Hoa Sơn, còn có một bọn đệ tử phái Vương Ốc đều hội họp ở nhà ngươi. Mười hai khẩu đại pháo của ta hiện đã bắc trong nhà dân chung quanh, thuốc súng đạn pháo cũng chuẩn bị đầy đủ rồi, chỉ cần phá bỏ cửa sổ, lộ nòng pháo ra, châm ngòi thuốc súng thì chỉ e không tên phản tặc nào trốn thoát được. Cho dù đại pháo bắn không chết, chạy được ra ngoài, thì mấy đội binh mã Tiền phong doanh bao vây bên ngoài cũng không phải không biết cả ăn cơm. Mới rồi ngươi có thấy A Tế Xích Thống lãnh Tiền phong doanh không? Y đã điểm binh mã chuẩn bị động thủ rồi. Tiền phong doanh trước nay không hòa thuận lắm với quân Kiêu kỵ doanh do ngươi thống lãnh, chưa chắc đã chịu buông tha cho ngươi đâu”.

Vi Tiểu Bảo run giọng nói “Hoàng thượng chuyện gì cũng tính tới cả, bây giờ nói rõ với nô tài chính là đã tha mạng cho nô tài. Trước đây nô tài có một chút công nhỏ, bây giờ lấy công trừ tội, trừ hết sạch cả rồi, không còn chút gì nữa cả”.

Khang Hy cười khẽ một tiếng, nói “Ngươi hiểu rõ là tốt, cũng như hai người chúng ta chơi bài cẩu, ngươi thắng trước không ít, nhưng trong một ván đều thua ta sạch sẽ. Tất cả những gì đã thắng được trước đó đều phải móc ra, từ đó không còn thua thắng gì nữa. Nếu chúng ta muốn chơi nữa, thì lại bắt đầu từ đầu”.

Vi Tiểu Bảo thở phào một hơi, nói “Thật là tạ ơn hoàng thượng, nô tài từ nay trở đi chỉ dốc lòng làm việc cho hoàng thượng, đừng nói là Thiên địa hội, cho dù là Hương chủ Thiên cửu hội nô tài cũng không làm”. Trong lòng thầm lo lắng “Bọn sư phụ đã hẹn rõ tối nay gặp nhau ở nhà mình, làm sao báo tin cho họ đây?”. Lại nói “Hoàng thượng sai ta bắt bọn phản tặc ấy chẳng qua chỉ là thử lòng nô tài, chứ thật ra hoàng thượng thần cơ diệu toán, cái gì đó trong cái gì đó mà cái gì đó ngoài ngàn dặm”.

Chỉ nghe ngoài cửa có người cao giọng nói “Bẩm hoàng thượng, đã bắt được phản tặc!”. Khang Hy lộ vẻ vui mừng, gọi “Mang vào đây!”. Vi Tiểu Bảo nói “Vâng”, quay ra rút then, mở toang cửa điện.

Mấy mươi tên thị vệ đưa ba người nhà họ Quy vào, cùng quát “Khấu kiến hoàng thượng, quỳ xuống mau!”. Mấy mươi tên thị vệ cùng quỳ xuống.

Quy Tân Thụ, Quy nhị nương, Quy Chung ba người toàn thân đầy máu, trên người đầy vết thương, nhưng vẫn ngang nhiên đứng thẳng. Ba người đều bị trói chặt, bên cạnh đều có hai tên thị vệ nắm giữ.

Tên thị vệ đứng đầu nói “Quỳ xuống, quỳ xuống!”, nhưng ba người nhà họ Quy đều không đếm xỉa gì tới. Chỉ nghe trên điện có tiếng tí tách vang lên, máu tươi trên người ba người nhà họ Quy và bọn thị vệ bị thương không ngừng nhỏ xuống. Quy nhị nương trừng mắt nhìn Vi Tiểu Bảo, quát “Thằng tiểu Hán gian, ngươi… thằng giặc thối tha!”. Vi Tiểu Bảo nhìn thấy thảm trạng của ba người, trong lòng không kìm được chua xót, mặc kệ bà ta nhục mạ, cũng không trả lời.

Khang Hy gật gật đầu, nói “Thần quyền vô địch Quy Tân Thụ, té ra là một lão già thế này! Chúng ta có bao nhiêu người tử thương?”. Tên thị vệ đứng đầu nói “Bẩm hoàng thượng, phản tặc rất hung hãn, các thị vệ có hơn ba mươi người tuẫn chức, hơn bốn mươi người bị thương”. Khang Hy hả một tiếng, xua xua tay, trong lòng khen thầm “Lợi hại thật!”. Tên thị vệ đứng đầu sai thủ hạ áp giải ba người ra.

Đột nhiên Quy Tân Thụ quát lớn một tiếng, vận nội lực lên, vai trái huých vào một tên thị vệ. Tên thị vệ ấy la lớn một tiếng, thân hình bay tung ra, đầu đập vào tường, chết ngay tại chỗ. Quy Tân Thụ chụp dây trói trên người Quy Chung giằng mạnh một cái, phựt một tiếng dây trói đứt tung, nắm người y quát “Con chạy mau đi, cha mẹ sẽ ra sau”, đẩy mạnh ra ngoài một cái, Quy Chung bay luôn ra ngoài cửa điện. Đúng lúc ấy vợ chồng họ Quy song song bật dậy nhảy xổ vào Khang Hy.

Vi Tiểu Bảo thấy biến cố đột ngột phát sinh, trong lúc cả kinh, sấn lên ôm chặt Khang Hy lăn xuống gầm bàn, lưng hướng ra ngoài che cho Khang Hy. Chỉ nghe chát chát hai tiếng vang rền, kế đó có mấy tên thị vệ bước lên đỡ Khang Hy và Vi Tiểu Bảo dậy. Lúc nhìn tới vợ chồng họ Quy, chỉ thấy hai người đều ngã lăn trong vũng máu, trên lưng cắm mấy thanh đao kiếm, nhìn thấy đã không còn sống nữa.

Quy Tân Thụ sau khi ra sức giết chết mấy mươi tên thị vệ, thân bị trọng thương, lúc sau cùng vận nội lực lên bứt đứt dây trói trên người con trai, rồi lập tức nhảy xổ vào Khang Hy. Quy nhị nương hiểu rõ ý chồng, một là chỉ mong trước lúc chết ra một đòn đả thương được tính mạng của hoàng đế Thát Đát, hai là để con trai nhân lúc hỗn loạn thoát thân. Hai người tay chân đều bị trói chặt, đã không còn sứt bứt đứt dây trói, vẫn nhất tề sấn vào tấn công Khang Hy. Nhưng hai người sau lúc ra sức đánh nhau đã như ngọn đèn cạn dầu, thân hình còn đang trên không đều cùng phun máu tươi, không sao chi trì được nữa, cùng rơi xuống đất. Cho dù bọn thị vệ không đâm chém thêm thì hai người cũng đã mất mạng rồi.

Khang Hy định thần lại, cau mày nói “Kéo ra ngoài đi, kéo ra ngoài đi!”.

Bọn thị vệ ứng tiếng vâng dạ, đang định khiêng hai cái xác ra ngoài, đột nhiên ở cửa điện có bóng người chớp lên, một người lỏn vào, thân pháp rất kỳ lạ, nhảy xổ lên xác vợ chồng họ Quy, kêu lớn “Cha, mẹ!”, chính là Quy Chung. Mấy tên thị vệ vung đao chém tới, Quy Chung lại không biết né tránh, tất cả binh khí đều chém trúng người y, chỉ nghe y thở hổn hển nói “Mẹ, không có mẹ thì con làm sao được? Con không biết đường…”, rồi ho khúc khắc hai tiếng, gục xuống chết luôn.

Y nhất sinh không rời khỏi mẹ nửa bước, chuyện gì cũng được mẹ thu xếp lo toan cho, lúc ấy rời khỏi cha mẹ, tay chân luống cuống, tuy đã chạy ra khỏi điện Dưỡng Tâm, nhưng rốt lại vẫn quay vào nương tựa cạnh cha mẹ.

Tổng quản thị vệ Đa Long bước vào điện, quỳ xuống nói “Bẩm hoàng thượng, thích khách trong cung đã bị tiêu diệt… tiêu diệt… toàn bộ…”. Nhìn thấy trong điện máu tươi vương vãi, trong lòng hoảng hốt, dập đầu nói “Thích khách làm kinh động thánh giá, nô tài… nô tài đáng chết!”.

Khang Hy mới rồi bị Vi Tiểu Bảo ôm lăn tròn một vòng, tuy vô cùng thảm hại, có chỗ tổn thất tới sự oai nghiêm, nhưng thấy người này liều mạng hộ giá, tấm lòng trung quân rõ ràng không còn nghi ngờ gì nữa, liền nói với Đa Long “Ở ngoài còn có người muốn hành thích Vi Tiểu Bảo, ngươi phải bảo vệ y cho cẩn thận, không được rời y nửa bước, lại càng không được để y rời cung. Sáng sớm ngày mai sẽ có lệnh khác”. Đa Long vội ứng tiếng “Dạ, dạ. Nô tài xin tận tâm bảo vệ Vi Đô thống”. Vi Tiểu Bảo ngấm ngầm kêu khổ “Đêm nay hoàng thượng pháo kích Thiên địa hội, sợ mình báo tin, nên sai Đa Long canh giữ mình”.

Khang Hy bước ra ngoài cửa điện, lại nghĩ “Tiểu Quế tử rất giảo hoạt, loại người thô mãng như Đa Long không phải là đối thủ của y”, bèn quay đầu nói “Đa Long, ngươi phái thêm nhiều người theo sát Vi Tiểu Bảo, không được để y nói chuyện với người khác, cũng không được để y đưa vật gì ra khỏi cung. Nói tóm lại tình thế rất nguy hiểm, ngươi cứ đối xử với y như khâm phạm vậy”. Đa Long ứng tiếng “Dạ, dạ. Hoàng thượng đối xử với bầy tôi thật là ơn đức tới cả chuyện nhỏ”, chỉ cho là hoàng thượng thương yêu Vi Tiểu Bảo, không muốn thích khách có cơ hội làm hại y. Vi Tiểu Bảo nói “Ân điển của hoàng thượng, nô tài có tan xương nát thịt cũng không báo đáp được”. Trong lòng biết hoàng đế nói như thế là còn chiếu cố thể diện cho mình, về sau còn có chỗ dùng mình.

Khang Hy cười khẽ một tiếng, nói “Ngươi lại thắng một ván rồi. Bắt đầu từ ngày mai chúng ta sẽ chơi tiếp thôi. Cái bát bằng vàng của ngươi, cố bưng cho chắc, đừng đánh vỡ đấy!”, nói xong bước ra cửa điện.

***

Hai câu ấy của Khang Hy tự nhiên chỉ có Vi Tiểu Bảo hiểu rõ. Mới rồi mình ôm Khang Hy hộ giá, y lại tính là mình lập được một công lao. Đêm nay sau khi giết bọn sư phụ Trần Cận Nam rồi, mình không còn dính líu gì với Thiên Địa hội nữa, hoàng đế lại sẽ trọng dụng. Cái bát vàng kia trên khắc bốn chữ “Công trung thể quốc”, hoàng đế là muốn mình đối với y lòng trung rỡ rỡ, không được lại có hai lòng.

Vi Tiểu Bảo nghĩ tới thảm trạng sư phụ và cả bọn huynh đệ Thiên địa hội máu thịt tung tóe, mà mình chắc sẽ được gia quan tấn tước, làm sao có thể yên tâm? Nghĩ thầm “Làm người không có nghĩa khí, không phải là con rùa đen khốn kiếp thì là cái gì?”.

Y nghĩ thầm “Tin tức của hoàng thượng linh thông như thế, là thằng khốn kiếp nào nói với y nhỉ? Sáng sớm hôm nay mình vừa gặp hoàng thượng, y đối xử với mình rất tốt, nói sẽ phái mình đi đánh trận, mong mình bắt được Ngô Tam Quế, phong mình làm Bình Tây vương. Lúc ấy nhất định hoàng thượng còn chưa biết chuyện Vi Hương chủ của Thiên địa hội. Y được tin rồi, thì mình áp giải con đĩ già tới chỗ thái hậu. Nhưng là thằng cẩu tặc nào báo tin? Hừ, có quá nửa là người của Mộc vương phủ, không thì là thủ hạ của Tư Đồ Hạc phái Vương Ốc. Nếu không thì tại sao những chuyện mình lấy trộm Tứ thập nhị chương kinh, làm Bạch Long sứ của Thần Long giáo thì hoàng thượng lại không biết?”.

Đa Long thấy y mặt mũi rầu rĩ, dáng vẻ hoảng hốt, liền vỗ vỗ vai y cười nói “Vi huynh đệ, hoàng thượng sủng ái ngươi như thế, thật không biết kiếp trước ngươi đã tu hành bao lâu. Trong triều bất kể là vị thân vương, bối lặc, tướng quân, đại thần nào trước nay cũng chưa từng được hoàng thượng phái Ngự tiền thị vệ bảo vệ đâu. Mọi người đều nói Vi Đô thống chưa đầy hai mươi tuổi là sẽ được phong tới tước công tước vương. Ngươi không cần lo, chỉ cần không bước ra khỏi cửa cung một bước thì cho dù bọn phản tặc có thiên quân vạn mã cũng không làm tổn thương được một sợi tóc của ngươi”.

Vi Tiểu Bảo chỉ đành cười gượng, nói “Ơn đức của hoàng thượng như trời cao đất dày. Bọn ta là nô tài, phải tận tâm kiệt lực, báo đáp ân điển của hoàng thượng”. Thấy chung quanh có mấy mươi tên thị vệ, muốn báo tin cho Thiên địa hội thì đúng là thiên nan vạn nan, nghĩ thầm “Phong vương phong công gì đó, lão tử cũng không cần. Thà là tiểu hoàng đế đá vào mông mình một cước, chửi một câu: Lăn quả trứng vịt thối con mẹ ngươi đi, từ nay không cho ngươi gặp mặt ta nữa. Lối bảo vệ này, thì đúng là giết luôn cái mạng già của mình rồi”.

Đa Long nói “Vi huynh đệ, hoàng thượng dặn ngươi không được tùy tiện đi lại, thôi cứ tới phòng ở của ngươi ngày trước uống rượu đi, hay tới phòng thị vệ, mọi người bồi tiếp ngươi gieo xúc xắc vài ván?”. Y biết gieo xúc xắc, đánh bài cẩu là hợp ý Vi Tiểu Bảo nhất.

Vi Tiểu Bảo chợt động tâm niệm, nói “Thái hậu sai ta một chuyện quan trọng, phải làm lập tức, xin Đa đại ca cùng đi với ta”. Đa Long trên mặt có vẻ khó khăn, nói “Việc sai sử thái hậu giao, đương nhiên phải làm lập tức, có điều… có điều… nghiêm chỉ của hoàng thượng là muốn Vi huynh đệ ngàn vạn lần không được ra khỏi cung…”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Chuyện này là làm trong cung thôi, Đa đại ca không cần lo lắng”. Đa Long lập tức yên tâm, cười nói “Chỉ cần không ra khỏi cung, thì không có gì phải kiêng kỵ ”.

Vi Tiểu Bảo sai bọn thị vệ lập tức khiêng chiếc kiệu của thái phi ra Hỏa thiêu trường phía tây cửa Thần Vũ, nói “Thái hậu đã dặn ai mở rèm kiệu ra, thì cứ chém đầu”.

Chuyện thích khánh tấn công vào kiệu thái phi, Đa Long và bọn thị vệ đều đã biết, tuy không biết chân tướng bên trong, nhưng đều biết là một chuyện bí mật của thái hậu, hồi hộp không yên, nghe Vi Tiểu Bảo nói phải khiêng tới Hỏa thiêu trường đốt đi, đó là bỏ đi một mầm họa lớn bằng trời, mọi người trong lòng đều lập tức cảm thấy như vừa buông được một khối đá nặng. Lúc ấy Đa Long đi cùng Vi Tiểu Bảo, đưa chiếc kiệu tới Hỏa thiêu trường, trên suốt đường đi, máu tươi trong kiệu vẫn nhỏ xuống. Còn như người chết trong kiệu là ai, tự nhiên không ai dám hỏi nửa câu. Tới Hỏa thiêu trường, bọn tô lạp tạp dịch chất củi khô lên chung quanh chiếc kiệu rồi châm lửa đốt.

Vi Tiểu Bảo tìm một mảnh gỗ, lấy than vẽ hình một con chim sẻ lên, hai tay ôm mảnh gỗ, nhìn chiếc kiệu lầm rầm khấn vái “Sấu đầu đà, con đĩ già, các ngươi lúc sống không làm được vợ chồng, xuống âm cung sẽ làm vợ chồng ngàn năm vạn năm. Người giết các ngươi là ba người nhà họ Quy, bây giờ cũng đã chết rồi. Các ngươi đi trước thì họ đi ngay theo sau. Nếu gặp nhau ở cầu Nại Hà, đài Vọng Hương, mọi người cứ thân thiết với nhau thôi”. Bọn Đa Long thấy y mấp máy môi, đoán là y khấn vái cho vong hồn người chết được siêu sinh, chỉ thấy y nhặt vài hòn đá chất thành một đống nhỏ, cắm mảnh gỗ xuống, cũng như một nén hương, nào ngờ đó là ký hiệu của y để báo tin cho Đào Hồng Anh.

Thấy chiếc kiệu và thi thể bên trong đều đã cháy thành tro, Vi Tiểu Bảo trở về chỗ ở của mình trước kia, đã sớm có bọn thái giám lấy lòng y quét dọn sạch sẽ, đưa các thức rượu thịt và điểm tâm tới.

Vi Tiểu Bảo thưởng tiền cho họ, rồi cùng Đa Long và bọn thị vệ ăn uống, nói “Đa đại ca, xin các ngươi cứ thong thả ngồi chơi. Hôm qua huynh đệ làm việc cho hoàng thượng suốt đêm, quả thật rất mỏi mệt”. Đa Long nói “Huynh đệ không cần khách khí, cứ đi ngủ đi, để ca ca bảo giá cho ngươi”. Vi Tiểu Bảo nói “Chuyện đó thì quả thật ngàn vạn lần không dám. Đa đại ca, ngươi muốn hoàng thượng ban thưởng cái gì? Ngươi nói với ta đi, huynh đệ sẽ ghi nhớ, lúc gặp hoàng thượng sẽ xin cho ngươi, e là có tám phần xong việc đấy”. Đa Long cả mừng, nói “Vi huynh đệ chịu cầu xin hoàng thượng giúp ta, chẳng lẽ lại không được sao?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Chuyện của Đa đại ca cũng là chuyện của huynh đệ, lẽ nào lại không ra sức chứ?”. Đa Long cười nói “Ca ca làm đương sai ở kinh cũng hơi khô khan, muốn được điều ra tỉnh ngoài bổ sung”. Vi Tiểu Bảo vỗ đùi một cái, cười nói “Đại ca nói không sai, trong thành Bắc Kinh không biết có bao nhiêu vương công đại quan cao hơn chúng ta, quả thật không sao tỏ rõ oai phong, chỉ cần rời kinh một lần là được tự do. Cho dù muốn có mấy lượng bạc để tiêu, chỉ cần ho một tiếng, người ta cũng sẽ lập tức hai tay dâng lên”. Hai người nhìn nhau cười rộ.

Vi Tiểu Bảo vào phòng, nửa nằm nửa ngồi trên giường, nghĩ thầm “Đa đại ca nhận được chỉ dụ của hoàng thượng giám sát mình rất chặt, muốn ra khỏi cung báo tin cho sư phụ thì quyết không sao làm được. Đợi Đào cô cô tới, mình sẽ nhờ bà đi báo tin, chỉ e bà tới quá muộn, nếu khuya mới tới gặp nhau, đại pháo ngoài kia đã bắn rồi, thì làm sao là tốt?”. Qua một lúc, lại nghĩ “Trước mắt chỉ có nghĩ cách sai bọn thị vệ đi khua cỏ động rắn”.

Nghĩ được chủ ý, lập tức nhắm mắt ngủ nửa giờ, lúc tỉnh dậy đã thấy bóng nắng chênh chếch, đã qua giờ Mùi, bèn ra khỏi phòng hỏi Đa Long “Đa đại ca, ngươi có biết bọn phản tặc định ra tay với ta lai lịch thế nào không?”. Đa Long nói “Chuyện đó thì ta không biết”. Vi Tiểu Bảo nói “Một bọn là người Thiên địa hội, một bọn là người Mộc vương phủ”. Đa Long lè lè lưỡi, nói “Hai bọn phản tặc ấy đều rất lợi hại, chẳng trách hoàng thượng lo lắng như thế”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta nghĩ chỉ trốn núp ở trong cung được một ngày chứ không thể trốn núp trọn đời. Hôm nay tuy có Đa đại ca bảo vệ nhưng bọn phản tặc chưa trừ diệt được thì vẫn còn hậu hoạn vô cùng”. Đa Long nói “Sáng mai hoàng thượng triệu kiến, ắt có kế hay, Vi huynh đệ không cần lo lắng”.

Vi Tiểu Bảo nói “Vâng. Không giấu gì đại ca, trong nhà huynh đệ có mấy cô nương như hoa như ngọc, huynh đệ rất yêu thương. Xem ra tối nay bọn phản tặc sẽ tới nhà ta hành thích, họ không hại được huynh đệ, có quá nửa sẽ giết chết mấy cô nương ấy, vậy thì… Vậy thì thật là đáng tiếc”.

Đa Long cười gật gật đầu, nghĩ tới hôm trước Vi Tiểu Bảo muốn mình giả vờ để làm khó Trịnh Khắc Sảng, cũng là vì một tiểu mỹ nhân, vị huynh đệ nhỏ này phong lưu hiếu sắc, tuy còn nhỏ tuổi nhưng trong nhà nhất định đã thu thập không ít hầu thiếp xinh đẹp, liền nói “Chuyện đó rất dễ, để ta sai người tới phủ của huynh đệ bảo vệ”.

Vi Tiểu Bảo cả mừng, chắp tay cảm ơn, nói “Nhưng cô nương xinh đẹp trong nhà huynh đệ, ta sủng ái nhất ba người, một người tên Song Nhi, một người tên Tăng Nhu, còn một người tên… tên Kiếm Bình (nghĩ thầm nếu nói chữ Mộc trong tên Mộc Kiếm Bình ra, chỉ e khiến Đa Long sinh nghi) tướng mạo đều rất không kém, huynh đệ thật không sao yên tâm. Xin đại ca sai người tới bảo vệ, nói với họ rằng, đêm nay có người Thiên địa hội và Mộc vương phủ tới hành thích, bảo họ trốn lánh đi. Tốt nhất là đại ca phái thêm nhiều người, bảo vệ trong nhà huynh đệ, nếu thích khách tới, cứ bắt tất cả con bà nó đi. Vị huynh đệ nào ra sức, tự nhiên sẽ có hậu tạ”.

Đa Long vỗ ngực một cái, cười nói “Chuyện đó rất dễ. Đây là chuyện trong phủ của Vi bá tước, có ai lại không liều mạng xông lên chứ?”. Lập tức gọi thủ lãnh thị vệ, bảo y ra cử người. Bọn thị vệ đều biết Vi Tiểu Bảo ra tay hào phóng, lúc bình thời không có chuyện gì cũng thường thưởng cho tám trăm một ngàn, lần này tới bảo vệ sủng cơ ái thiếp của y nhất định sẽ có trọng thưởng, lúc ấy ai cũng vui vẻ vâng lệnh, người nào không được cử đi thì trong bụng tức tối, rủa thầm vận khí không may.

Vi Tiểu Bảo hơi yên tâm, nghĩ thầm “Bọn Song Nhi nghe đám thị vệ nói thế, nói là trong cung sai người tới bảo vệ, chờ bắt thích khách Thiên địa hội và Mộc vương phủ, tự nhiên sẽ báo cho bọn sư phụ mình trốn tránh. Nhưng nếu bọn sư phụ mình trốn đi mà ba người Song Nhi, Tăng cô nương, tiểu quận chúa bị đại pháo bắn chết, thì thật hỏng bét! Có điều đại đội Ngự tiền thị vệ đang trong nhà mình, thì bọn pháo thủ bên ngoài nhất định sẽ không dám bắn bừa”.

Nhưng lại xoay chuyển ý nghĩ “Nếu bọn pháo thủ vâng chỉ dụ của hoàng đế, bất kể ba bảy hăm mốt, cứ đến giờ là phải nổ pháo thì làm thế nào?”. Tiểu quận chúa và Tăng Nhu thì cũng thôi, nhưng Song Nhi đối với mình tình sâu nghĩa nặng, là người quan trọng nhất trong lòng, quyết không thể để nàng mất mạng. Chỉ là tiến thoái lưỡng nan, nếu bảo bọn thị vệ đưa Song Nhi ra ngoài, thì không có ai ở lại báo tin cho sư phụ và các huynh đệ, nếu chỉ cứu Song Nhi, không cứu sư phụ, trọng sắc khinh bạn, thì lại là con rùa đen khốn kiếp”. Nhất thời y đi vòng vòng trong phòng, không nghĩ ra cách nào hay.

Qua hơn nửa giờ, thủ lãnh thị vệ mang người tới phủ Trung Dũng bá về bẩm báo, họ còn chưa tới gần phủ bá tước đã bị quan quân Tiền phong doanh cản lại, viên Tham lãnh dẫn đầu quân Tiền phong doanh nói phụng chỉ bảo vệ phủ bá tước, không cần các vị thị vệ đại nhân lo lắng. Bọn thị vệ muốn vào bảo vệ bên trong phủ, quân Tiền phong doanh nói thế nào cũng không cho vào, nói hoàng thượng đều đã sắp xếp đâu vào đấy. Đến sau cùng thì ngay A Thống lĩnh của Tiền phong doanh cũng đích thân ra ngăn cản, bọn thị vệ không sao xông qua được, chỉ đành trở về.

Vi Tiểu Bảo vừa nghe thấy, trong lòng liên tiếp kêu khổ. Đa Long cười nói “Huynh đệ, hoàng thượng đối xử với nói thật là chu đáo, còn phái cả Tiền phong doanh tới bảo vệ các tiểu mỹ nhân của ngươi, vậy thì ngươi còn lo gì nữa? Hô hô, hô hô!”.

Vi Tiểu Bảo chỉ đành cười khan mấy tiếng, nghĩ thầm “Tiểu hoàng đế cái gì đó trong cái gì đó mà cái gì đó ngoài ngàn dặm, phen này thì sư phụ mình đúng là đại họa lâm đầu rồi. Tiền phong doanh nhất định đã được nghiêm chỉ, canh giữ chung quanh phủ bá tước của mình, nhìn thấy bách tính tầm thường thì cứ cho vào phủ, để tiện tối đến bắn cho chết hết, còn nếu là quan viên văn võ thì cản trở không cho vào”.

Lại nghĩ thầm “Mình đột nhiên phóng ám khí Hàm sa xạ ảnh, kết liễu tính mạng của Đa đại ca không khó, nhưng bấy nhiêu thị vệ như thế, làm sao giết chết tất cả được? Đáng tiếc là Mông hãn dược trong người mình đã dùng hết ở nhà Trang gia rồi”. Nhìn thấy mặt trời càng lúc càng xuống thấp, y lại càng như con kiến bò trên chảo nóng, toàn thân nóng ran, đi tiểu hết lần này tới lần khác mà vẫn không nghĩ được chút chủ ý nào.

Qua hơn một giờ, trời tối dần, Vi Tiểu Bảo đẩy cửa sổ nhìn ra ngoài, chỉ thấy bảy tám tên thị vệ đi tới đi lui, canh giữ vô cùng cẩn mật. Y nhìn đông ngó tây, nhưng đâu thấy bóng dáng của Đào Hồng Anh? Bèn thở dài một tiếng, ngã vật xuống giường, nghĩ thầm lúc này e đã có không ít bằng hữu tiến vào phủ bá tước, còn chậm trễ thêm một khắc thì các huynh đệ càng gần đường xuống âm phủ thêm một bước.

Trong chớp mắt ấy thấy ở góc phòng đặt một chum nước lớn, chính là của Hải Đại Phú trước kia, lần trước mình toàn nhờ vào cái chum này mới giết được Thụy Đống, nghĩ thầm “Sao mình không lừa Đa đại ca vào phòng, phát ám khí bắn chết y rồi phóng hỏa trong phòng, nhân lúc hỗn loạn trốn ra. Đa đại ca đối xử với mình mười phần tử tế, bỗng không lại đi hại mạng y, quả thật là không phải với y. Nhưng nghĩa khí có lớn có nhỏ, tính mạng của mấy mươi người bọn sư phụ mình so ra thì quan trọng hơn một cái mạng của y nhiều”. Ngẫm nghĩ một lúc, tâm ý đã quyết, bèn cầm đá lửa dao lửa đánh lửa lên, thắp mấy ngọn nến, nghĩ thầm “Màn cháy nhanh nhất, giết Đa đại ca xong thì châm lửa vào màn”.

Đúng lúc ấy, nghe Đa Long ở phòng ngoài gọi “Vi huynh đệ, rượu thịt mang tới rồi, ra đây uống thôi”. Vi Tiểu Bảo nói “Hai chúng ta ăn trong này đi”. Đa Long nói “Được!”, rồi sai thái giám bưng rượu thịt vào phòng trong.

Tên thái giám kia khoảng mười sáu mười bảy tuổi, bước vào phòng thỉnh an Vi Tiểu Bảo, mở nắp hộp thức ăn, lấy cơm rượu ra bày lên bàn. Vi Tiểu Bảo trong óc chợt lóe lên một tia sáng, đã nghĩ ra chủ ý, nói “Ngươi ở lại đây hầu rượu”. Tên tiểu thái giám kia mười phần mừng rỡ, vốn biết Vi bá tước trước kia đứng đầu Ngự thiện phòng, đối với người dưới mười phần rộng rãi, hầu hạ y uống rượu nhất định có chỗ hay, lăng xăng bày chén đũa ra.

Đa Long bước vào phòng, cười nói “Huynh đệ, ngươi không còn làm đương sai trong cung nữa, mà hoàng thượng không triệt bỏ gian phòng này của ngươi. Cho dù là thân vương bối lặc, hoàng thượng cũng không ưu đãi như thế”. Vi Tiểu Bảo nói “Đây không phải là hoàng thượng ưu đãi, hoàng thượng phải quản biết bao nhiêu chuyện đại sự trong thiên hạ, đời nào lại dính dấp vào những chuyện nhỏ nhặt thế này? Nói thật ra, huynh đệ quay lại ở chỗ này thật mười phần trái quy củ”.

Đa Long cười nói “Người khác thì trái quy củ, chứ huynh đệ ngươi thì không hề gì”. Y biết Tổng quản thái giám trong cung muốn lấy lòng Vi Tiểu Bảo, ai cũng không muốn sai người tới ở chỗ này, trong cung cũng có phòng, gian phòng này của Hải Đại Phú vừa không có gì tốt, thái giám tiếp quản Ngự thiện phòng tự nhiên cũng có chỗ ở khác. Vi Tiểu Bảo cười nói “Đại ca mà không nói tới thì huynh đệ cũng quên mất, sáng mai phải báo cho thái giám Tổng quản, triệt hồi gian phòng này đi. Chúng ta làm bề tôi ở ngoài lại vào trong cung ở, bị Ngự sử đại nhân biết được, dâng một tờ tham hặc thì không thú vị gì đâu”. Đa Long nói “Hoàng thượng thích ngươi, ai mà quản được”.

Vi Tiểu Bảo nói “Mời ngồi, mời ngồi. Gian phòng này cũng chẳng có gì hay, chỉ là huynh đệ ở quen rồi, lại cảm thấy ở trong phủ Bá tước ngoài kia không thoải mái lắm”, từ từ bước tới sau lưng y, rút thanh chủy thủ ra cầm ở tay, cười nói “Tám đĩa thức ăn này đều là những món huynh đệ thích, Ngự thiện phòng vẫn còn nhớ, đại ca thử nếm bát Đầu sư tử bột thịt cua này xem sao?”. Đa Long nói “Những món huynh đệ thích, nhất định là rất ngon…”, câu nói chưa dứt, đột nhiên thấy sau lưng bên trái lạnh buốt, nằm gục luôn xuống bàn không động đậy nữa.

Nhát đao ấy không hề có tiếng động, tên tiểu thái giám kia hoàn toàn không hay biết, vẫn đang rót rượu. Vi Tiểu Bảo bước tới sau lưng y, lại nhẹ nhàng một đao đâm chết, rồi lập tức quay ra cài then cửa, mau lẹ cởi bỏ quần áo giày tất, chỉ để lại quần áo lót và tấm bối tâm hộ thân, đổi mặc quần áo của tên tiểu thái giám, mặc quần áo của mình vào cho y. Hai người cao suýt soát bằng nhau, quần áo cũng vừa vặn. Sau đó y bế xác tên tiểu thái giám lên đặt ngồi vào ghế, vung chủy thủ lên, rạch bừa lên mặt tên tiểu thái giám một hồi, cắt cho ngũ quan nát bét cả ra.

Y tay chân bận rộn, trong lòng thì nghĩ “Đa đại ca, ngươi là người Thát Đát, Thiên địa hội ta giết người Thát Đát là ăn cơm, không giết ngươi không được. Hôm nay làm hại tính mạng của ngươi, quả thật rất không phải. May mà rốt lại thế nào ngươi cũng phải chết. Tối hôm nay ta chạy trốn, sáng mai nhất định hoàng thượng sẽ chém đầu ngươi, ngươi chẳng qua cũng chỉ chết sớm nửa ngày, cũng không phải là thiệt thòi gì lắm. Huống hồ ta giết ngươi thì ngươi lại tuẫn chức vì việc công. Chứ nếu hoàng thượng chém đầu ngươi, thì ngươi ắt sẽ bị tịch biên gia sản, vợ con đều bị liên lụy, không bằng chết sớm nửa ngày để người nhà được phủ tuất ấm phong. Nếu giở bàn tính ra tính toán, thì quả thật ngươi còn chiếm tiện nghi nhiều lắm”. Nhưng Đa Long lúc bình thời đối xử với mình quả thật rất tốt, bất đắc dĩ phải giết y, trong lòng rốt lại cũng mười phần áy náy, nhịn không được ứa nước mắt.

Y lau lau nước mắt, xoay người nhìn tên tiểu thái giám, nghĩ thầm “Vị tiểu huynh đệ ngươi khoác hoàng mã quải, trông rất oai vệ. Vốn là ngươi có đầu thai mười kiếp cũng không choàng được nửa tấc hoàng mã quải, cái mũ của bá tước đại nhân thì chỉ một viên Hồng bảo thạch kia thôi cũng đủ cho ngươi tiêu mười bảy mười tám kiếp rồi, hà hà, ngươi thăng quan phát tài, là gặp may lớn rồi. Năm xưa Vi Tiểu Bảo ta giả mạo làm Tiểu Quế tử, từ đó thăng quan tiến chức, làm tới quan lớn. Hôm nay ngươi giả mạo Vi Tiểu Bảo, từ nay trở đi có thăng quan tiến chức hay không thì còn phải xem bản lãnh của ngươi”. Lại nghĩ “Trước kia mình giả làm tiểu thái giám, hôm nay lại để một tiểu thái giám giả làm mình, chuyện nợ nần qua lại kể như xóa sạch. Tiểu Huyền tử ơi Tiểu Huyền tử, ta cũng chẳng có gì là không phải với ngươi”.

Y chỉnh đốn quần áo trên người, nhìn thấy không còn chỗ nào sơ hở, bèn cao giọng nói “Thằng nhỏ, ngươi đi ra đi, ở đây không cần ngươi hầu hạ nữa. Năm lượng bạc này cho ngươi ăn kẹo”. Kế đó ậm à ậm ừ nói “Đa tạ bá tước đại nhân”. Lại cao giọng nói “Ta và Đa Tổng quản uống rượu tâm sự ở đây, không ai được vào quấy rầy!”.

Thái giám ở trong cung vốn chỉ hầu hạ hoàng đế, hoàng hậu, phi tần, hoàng tử và công chúa, nhưng các thái giám có chức vụ thì được tiểu thái giám hầu hạ, trước nay vốn vẫn như thế. Vi Tiểu Bảo tuy không còn làm thái giám, nhưng trước nay rất có oai thế trong cung, là thái giám được lòng hoàng đế nhất, gọi một tên tiểu thái giám hầu hạ rồi thưởng tiền quả thật là chuyện rất bình thường. Bọn thị vệ ở ngoài nghe thấy, không ai đếm xỉa gì tới, chỉ thấy cửa phòng mở ra, tên tiểu thái giám kia mang hộp đồ ăn bước ra, cúi đầu quay người đóng cửa lại.

Vi Tiểu Bảo mang hộp thức ăn, cúi đầu ra cửa.

Thấy bọn thị vệ đang ăn uống, không ai để ý, Vi Tiểu Bảo mừng thầm, nghĩ bụng “Bọn thị vệ ít nhất cũng phải qua một giờ nữa mới phát giác là hai người trong phòng đã chết, chỉ cho là Vi bá tước và Đa Tổng quản bị thích khách giết chết, lúc ấy thì ai cũng hoảng sợ vãi cả cứt đái”.

Ra tới cổng lớn, chợt thấy mấy tên thái giám cung nữ mang đèn lồng dẫn đường, khiêng một chiếc kiệu tới. Chiếc kiệu này trang trí bằng lông đuôi gà rừng, gọi là Tước kiệu. Thái giám đi đầu nói lớn “Công chúa giá đáo”.

Vi Tiểu Bảo giật nảy mình “Công chúa sớm không tới, muộn không tới, lại tới đúng lúc này, vừa vào tới phòng sẽ lập tức nhìn thấy Vi Tiểu Bảo mình bị người ta giết chết, trong cung há lại không ầm ĩ trời long đất lở sao? Lúc ấy mà muốn ra khỏi cung thì thật là thiên nan vạn nan”. Nhất thời tay chân luống cuống, chỉ thấy chiếc kiệu dừng lại, công chúa Kiến Ninh trong kiệu bước ra, hỏi lớn “Tiểu Quế tử ở trong kia phải không?”.

Vi Tiểu Bảo ngẩng đầu lên, bước tới hạ giọng nói “Công chúa, Vi Tước gia say rồi, để nô tài đưa công chúa vào”. Ánh đèn không sáng lắm, công chúa không nhận ra y, thấy bọn thị vệ trong phòng đều bước ra nghênh tiếp, nghĩ thầm “Sao lại đông người thế này?”, liền cau cau mày, xua tay trái một cái, nói “Mọi người ra ngoài chờ đi”, rồi bước thẳng vào phòng. Vi Tiểu Bảo theo sau.

Y vừa vào phòng, xoay tay đóng cửa lại. Công chúa nói “Ngươi cũng ra ngoài đi”. Vi Tiểu Bảo nói “Vâng, Vi Tước gia ở phòng trong”. Công chúa bước mau vào, đẩy cửa phòng ra, chỉ thấy “Vi Tiểu Bảo” và Đa Long nằm phục xuống bàn, rõ ràng đã uống quá say, bèn cau mày quát “Còn chưa mau đi ra à?”.

Vi Tiểu Bảo hạ giọng cười nói “Nếu ta ra ngoài thì không đốt được quân giáp mây”.

Công chúa giật mình, quay đầu lại nhìn, dưới ánh đèn rõ ràng thấy Vi Tiểu Bảo đứng sau lưng mình, bất giác vừa sợ vừa mừng, a một tiếng, nói “Ngươi… ngươi làm gì thế này?”. Vi Tiểu Bảo hạ giọng nói “Đừng lớn tiếng!”. Công chúa nhìn nhìn y, lại nhìn nhìn “Vi Tiểu Bảo” nằm phục trên bàn, hạ giọng hỏi “Ngươi giở trò ma gì vậy?”. Vi Tiểu Bảo kéo nàng vào phòng, lại cài then cửa, hạ giọng nói “Chuyện lớn không hay, hoàng thượng muốn giết ta!”. Công chúa nói “Hoàng đế ca ca đã giết phò mã, tại sao lại muốn giết cả ngươi? Nếu… nếu… nếu y giết ngươi, ta sẽ liều mạng với y”.

Vi Tiểu Bảo đưa hai tay ra ôm nàng, hôn lên má nàng một cái, nói “Chúng ta mau trốn ra khỏi cung, hoàng thượng biết được chuyện ta và cô, muốn chém đầu ta”. Công chúa bị y ôm hôn, lập tức toàn thân nhũn ra, nũng nịu nói “Hoàng đế ca ca giết phò mã, ta chỉ nghĩ là sẽ gả ta cho ngươi, tại sao… tại sao lại xảy ra chuyện này? Tại sao y biết được?”. Vi Tiểu Bảo nói “Nhất định là cô để lộ ra, có phải không?”. Công chúa chợt đỏ mặt, nói “Ta không có. Ta chỉ hỏi mấy lần, là lúc nào ngươi quay lại”. Vi Tiểu Bảo nói “Thế còn không phải à? Nhưng cũng không hề gì, dù sao thì chúng ta cũng là vợ chồng rồi. Bây giờ phải mau mau trốn ra khỏi cung thôi”. Công chúa ngần ngừ nói “Sáng mai ta tới nài nỉ hoàng đế ca ca, y không giết ngươi đâu. Y đã giết phò mã, đã nói là rất không phải với ta, ưng thuận để ta chọn một phò mã tốt. Trước nay y rất thích ngươi…”, nói tới đó chỉ cảm thấy mùi máu trong phòng càng lúc càng tanh, hắt hơi hai cái, hỏi “Tại sao…”, đột nhiên trước ngực nôn nao, ọe một tiếng, vịn vào lưng ghế nôn thốc nôn tháo, nhưng chỉ nôn ra toàn nước.

Vi Tiểu Bảo vỗ khẽ vào lưng nàng, hạ giọng an ủi “Sao thế? Ăn phải cái gì thế? Đã đỡ chưa?”. Công chúa vừa nôn hai chặp, đột nhiên lật tay lại, chát một tiếng đánh y một tát rất nặng, chửi “Ta ăn phải cái gì? Đều là ngươi không tốt, đều là ngươi không tốt!”, rồi nắm tay lại đánh tới tấp vào ngực y.

Công chúa trước nay hung dữ, lúc ấy đột nhiên phát tác, Vi Tiểu Bảo cũng không lấy làm lạ, nhưng tình thế trước mắt cấp bách, chần chừ thêm một khắc thì gần tới giờ đại pháo bắn thêm một khắc, quả thật không thể để nàng lằng nhằng vô vị, bèn nói “Được, được, là ta không tốt”.

Công chúa kéo tai y, quát “Ngươi theo ta tới gặp hoàng đế ca ca, hai chúng ta lập tức bái đường làm vợ chồng”. Vi Tiểu Bảo cuống lên, năn nỉ “Chuyện bái đường làm vợ chồng thì cứ để ta lo. Nhưng nếu đi gặp hoàng thượng thì chồng cô sẽ biến thành phò mã không đầu đấy. Chúng ta phải mau mau trốn ra khỏi cung”. Công chúa kéo mạnh một cái, Vi Tiểu Bảo vành tai đau buốt, nhịn không được bật kêu một tiếng. Công chúa chửi “Ngươi không có đầu thì có hề gì? Thằng tiểu quỷ nhà ngươi vốn là không có đầu rồi. Đứa nhỏ trong bụng ta làm sao để thu xếp đây?”. Nói tới đó, òa một tiếng bật khóc.

Vi Tiểu Bảo hoảng sợ giật nảy mình, hỏi “Cái… cái gì… mà đứa nhỏ?”.

Công chúa phi chân lên đá trúng bụng dưới y, khóc nói “Trong bụng ta có đứa nhỏ thối tha của ngươi, đều là ngươi không tốt. Nếu chúng ta không làm vợ chồng ngay lập tức, bụng ta… bụng ta cứ càng ngày càng to. Hoàng thượng biết Ngô Ứng Hùng là thái giám, không xong đâu, ta… ta không thể làm người được nữa”.

Vi Tiểu Bảo sắc mặt trắng bệch, đang lúc cấp bách ngàn cân treo sợi tóc lại gặp phải chuyện nhiêu khê thế này, vội nói “Nếu chúng ta không mau mau ra khỏi cung, thì đứa nhỏ sẽ không có cha đâu. Trốn ra ngoài rồi, chúng ta sẽ lập tức bái đường thành thân, cô sinh được đứa nhỏ, đó không phải là cháu hoàng thượng sao? Hoàng thượng làm ông cậu rất tiện nghi, y trở thành anh vợ ta, chẳng lẽ còn muốn giết em rể sao?”. Công chúa nói “Có gì mà không muốn? Ngô Ứng Hùng là em rể y, mà y cũng một đao chém chết đấy thôi”. Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng biết Ngô Ứng Hùng là em rể hờ, Vi Tiểu Bảo ta mới là hàng thật giá đúng, em rể hờ thì giết được, chứ em rể thật thì không giết được. Hảo công chúa, sau khi con chúng ta ra đời, nó ôm cổ cô gọi mẹ, há không phải là rất hay sao?”. Nói tới đó liền đưa tay ôm cổ công chúa.

Công chúa cười sặc lên một tiếng, mừng rỡ nói “Hay cái thằng khốn kiếp nhà ngươi, ta thì không cần thằng nhãi khốn kiếp gọi bằng mẹ”. Nói thì nói thế, nhưng bàn tay nắm vành tai Vi Tiểu Bảo cũng đã buông ra, nũng nịu nói “Lâu quá không gặp ngươi, ngươi có nhớ ta không?”. Nói xong rúc đầu vào lòng y.

Vi Tiểu Bảo nói “Nhớ chứ, ta ngày ngày nhớ, đêm đêm nhớ, lúc nào cũng nhớ”. Trong lòng chửi thầm “Cứ lằng nhằng thế này, đúng là con đĩ chết giẫm con mẹ nó”, nhìn thấy nàng tình ý vấn vít, má đỏ hồng lên, lúc ấy quả thật không thể thân mật với nàng nhưng cũng không dám đắc tội với nàng, liền hạ giọng nói “Chúng ta trốn ra khỏi cung rồi, từ nay trở đi ban ngày ban đêm đều ở cùng một chỗ, không rời nhau nữa. Bây giờ đi thôi”. Công chúa ưỡn người mấy cái, nói “Không được, đêm nay chúng ta phải làm vợ chồng”. Vi Tiểu Bảo nói “Được, được! Đêm nay thì đêm nay, nhưng phải trốn ra khỏi cung rồi sẽ nói”. Công chúa nói “Trốn cái gì? Hoàng đế ca ca rất thương yêu ta, y là sư phụ ngươi, cũng rất thích ngươi. Ngày mai chúng ta sẽ nài nỉ y, thế nào y cũng không tức giận đâu. Hoàng đế ca ca hận nhất là Ngô Tam Quế, ngươi xin chỉ mang quân đi đánh Ngô Tam Quế, ta sẽ đi với ngươi. Ta làm Binh mã đại nguyên soái, ngươi làm phó nguyên soái, đánh cho Ngô Tam Quế hoa rơi nước chảy, hoàng đế ca ca còn phong ngươi làm vương gia kia”, nói tới đó ôm chặt lấy y.

Vi Tiểu Bảo đang giữa lúc cấp bách, đột nhiên ngoài cửa sổ có tiếng người gõ khẽ ba cái, dừng lại một lúc, lại gõ hai tiếng. Vi Tiểu Bảo cả mừng, hạ giọng nói “Là Đào cô cô phải không?”, rồi nhẹ nhàng đẩy công chúa ra, bước qua mở cửa sổ, bóng người chớp lên, một người nhảy vào, chính là Đào Hồng Anh.

Hai người phụ nữ gặp nhau, đều giật nảy mình, Đào Hồng Anh hạ giọng gọi “Công chúa!”. Công chúa tức giận nói “Ngươi là ai? Tới đây làm gì?”. Vừa xoay chuyển ý nghĩ, đã nổi cơn ghen, nghĩ thầm đêm hôm khuya khoắt, cung nữ này lại từ cửa sổ nhảy vào phòng Tiểu Quế tử, vậy thì còn làm chuyện gì tốt đẹp nữa, nhất định là người tình của y không còn nghi ngờ gì, tuy Đào Hồng Anh đã lớn tuổi, nhưng nghĩ tới Tiểu Quế tử đối với loại cung nữ vừa già vừa xấu này cũng tằng tịu, càng không thể tha thứ được, nàng đang lửa tình bùng cháy, lại bị cung nữ này phá hỏng chuyện hay, lại càng tức giận như điên, cao giọng quát “Người…”.

Vi Tiểu Bảo đã sớm đề phòng, đời nào để nàng gọi hai tiếng “Người đâu” ra miệng, bèn đưa tay bịt mồm nàng lại.

Công chúa dùng lực giãy ra, lật tay chát một tiếng đánh Vi Tiểu Bảo một tát. Vi Tiểu Bảo trong lúc hoảng hốt, tay phải giữ chặt cổ nàng, ra sức bóp lại, chửi “Con đĩ, ta bóp chết ngươi”, công chúa lập tức hơi thở tắc nghẽn, tay chân giãy giụa rối lên. Vi Tiểu Bảo tay trái lật lại, đập vào đầu nàng hai quyền.

Đào Hồng Anh thấy y lớn mật đánh công chúa thì cả kinh, lập tức biết vỡ lở ra là lớn chuyện, đưa ngón tay ra điểm ba cái liên tiếp vào hông và ngực công chúa, phong tỏa mấy chỗ huyệt đạo của nàng. Lúc ấy Vi Tiểu Bảo mới buông tay ra, hạ giọng nói “Cô cô, chuyện lớn không hay, hoàng đế muốn giết cháu, phải chạy mau”. Đào Hồng Anh nói “Bên ngoài có rất đông thị vệ. Ta đã tới từ sớm, nhưng chờ sau tường hơn nửa giờ mới tìm được cơ hội nhảy vào, ngươi xem kìa”, rồi khẽ hé cửa sổ ra.

Vi Tiểu Bảo ghé mắt vào nhìn ra, quả nhiên thấy bảy tám tên thị vệ cầm đèn lồng đi lại tuần tra, vừa xoay chuyển ý nghĩ, nhớ lại cách của Sấu đầu đà và Mao Đông Châu, nghĩ thầm “Hai người bọn họ không may, gặp phải vợ chồng Quy Tân Thụ. Lão tử cứ bắt chước họ. Cũng không sợ gì ba người nhà họ Quy mượn xác hoàn hồn, lại đánh vào kiệu công chúa”. Rồi nhìn công chúa nói “Công chúa, cô đừng uống giấm. Bà ta là cô của ta, tức là em gái cha ta, chị gái mẹ ta, cô không cần nổi nóng bậy”.

Công chúa bị Đào Hồng Anh điểm huyệt, đã giận dữ suýt ngất, nghe Vi Tiểu Bảo nói mấy câu ấy, trong lòng lập tức hòa hoãn trở lại, cũng không nghĩ “Em gái của cha” và “Chị gái của mẹ” không thể là một người, tóm lại người phụ nữ này không phải là người tình của Tiểu Quế tử, thế thì không có chuyện gì, lúc ấy trên mặt lộ vẻ tươi cười, nói “Vậy thì mau thả ta ra”. Vi Tiểu Bảo muốn lấy lòng nàng, bèn nói “Cô là vợ ta, mau chào cô cô đi”. Công chúa rất vui vẻ, lại kêu một tiếng “Cô cô”.

Đào Hồng Anh không hiểu gì cả, nhìn thấy hai người mới đánh nhau, tại sao công chúa lại gọi mình là cô cô? Vi Tiểu Bảo nói “Cô ra gọi khiêng kiệu vào phòng, sau đó bảo người ra ngoài, đóng cửa lại, ta và cô cùng ngồi lên kiệu, chúng ta trốn ra khỏi cung, sẽ lập tức bái đường thành thân. Lúc bái đường nhất định phải có một người trưởng bối bên cạnh mới được. Cô của ta là trưởng bối, cô thấy được không?”. Công chúa cả mừng, mặt đỏ ửng lên, hạ giọng nói “Tốt lắm”. Vi Tiểu Bảo đẩy vào lưng nàng, thúc giục “Đi mau đi, đi mau đi!”.

Công chúa bị y thôi thúc, cũng không chờ huyệt đạo trên người được giải khai, bèn bước ra cửa gọi “Khiêng kiệu vào phòng!”.

Một bọn thái giám cung nữ đều cảm thấy ngạc nhiên, nhưng trước nay vị công chúa này hành sự luôn rất bất ngờ, lúc bình thời sai làm chuyện gì, nói chung là ít giống thường tình mà rất lạ lùng, lập tức đồng thanh vâng dạ, khiêng chiếc kiệu vào. Loan giá của Thận thái phi có thể khiêng vào cung Từ Ninh, rón rén khiêng Sấu đầu đà và Mao Đông Châu ra, nhưng cửa phòng của Vi Tiểu Bảo chỉ rộng vài thước, tước kiệu của công chúa làm sao khiêng vào? Chỉ có hai cái đòn khiêng lọt vào, chiếc kiệu đã lấp kín cửa, không sao vào được nữa. Công chúa tức giận nói “Quân vô dụng, cút hết ra ngoài cho ta”. Hai tên thái giám khiêng kiệu phía trước đều nghĩ “Cánh cửa chật thế này, tại sao lại trách bọn ta?”, bèn lập tức men theo cạnh kiệu bước ra ngoài.

Vi Tiểu Bảo nói khẽ với công chúa “Cô sai các thị vệ không được vào”. Công chúa cao giọng nói “Tiểu Quế tử, ngươi ở trong này ngủ yên cho ta, không được ra ngoài”. Vi Tiểu Bảo cao giọng nói “Vâng, không còn sớm nữa, xin công chúa về nghỉ cho sớm”. Công chúa chửi “Ta cứ muốn đi dạo dạo, ngươi quản được à?”. Vi Tiểu Bảo cao giọng nói “Trong cung có thích khách, công chúa điện hạ nên cẩn thận là hơn”. Công chúa nói “Hoàng thượng nuôi một đám thị vệ, chỉ biết ăn chứ không biết làm gì. Mọi người đứng yên ở ngoài cho ta, không được vào đây”, bọn thị vệ nhất tề vâng dạ.

Vi Tiểu Bảo chui vào kiệu ngồi, vẫy vẫy tay. Đào Hồng Anh giải khai huyệt đạo trên người công chúa, công chúa cũng bước lên kiệu, ngồi trước mặt y. Vi Tiểu Bảo tay trái ôm nàng, hạ giọng nói với Đào Hồng Anh “Cô cô, xin người đưa bọn cháu ra khỏi cung”, nghĩ thầm bà ta võ công cao cường, có bà ta hộ tống cạnh kiệu, nếu bị người ta vạch trần trò lòe bịp, cũng có người giúp đỡ.

Đào Hồng Anh lập tức ưng thuận. Bà mặc quần áo cung nữ, đứng cạnh kiệu công chúa không ai nghi ngờ. Công chúa quát “Khiêng kiệu ra”, hai tên thái giám khiêng kiệu vào lúc nãy lại men theo cạnh kiệu bước vào, cùng hai tên thái giám phía sau nhấc đòn kiệu lên, đưa chiếc kiệu giật lùi ra mấy bước, rồi quay kiệu lại nhấc lên, trong lòng đều rất ngạc nhiên “Tại sao chiếc kiệu đột nhiên nặng hẳn lên thế này?”.

***

Công chúa nghe lời Vi Tiểu Bảo, sai ra cửa Thần Vũ. Tước kiệu tới cửa Thần Vũ, thị vệ ở cửa cung thấy tước kiệu của công chúa muốn nửa đêm ra khỏi cung, bước lên hỏi han. Công chúa trong kiệu nhảy bật ra, quát “Ta muốn ra khỏi cung, mau mau mở cửa”.

Đêm ấy thị vệ lãnh ban canh giữ cửa Thần Vũ là Triệu Tề Hiền, y lập tức khom lưng làm lễ, tươi cười nói “Bẩm công chúa điện hạ, đêm nay trong cung có thích khách gây náo loạn, không được yên ổn lắm, xin điện hạ chờ sáng sẽ ra khỏi cung”. Công chúa tức giận nói “Ta có việc gấp, sợ gì thích khách?”. Triệu Tề Hiền vốn không dám trái lời, nhưng biết phò mã đã bị giết, công chúa ban đêm ra khỏi cung, biết đâu có liên quan gì tới việc Ngô Tam Quế tạo phản, sáng mai tra xét ra, không khỏi bị liên lụy rất lớn, liên tiếp thỉnh an, chỉ là không chịu ra lệnh mở cửa. Quả thật bị công chúa thúc bách, liền nói “Nếu đã như thế, thì xin đợi nô tài đi thỉnh thị Đa Tổng quản, xin công chúa đợi một lúc, nô tài thỉnh thị xong, sẽ lập tức trở về mở cửa cung”.

Vi Tiểu Bảo trong kiệu thấy công chúa cứ nổi giận, mà Triệu Tề Hiền thì nói thế nào cũng không chịu mở cửa cung, lại muốn đi tìm Đa Long, thế thì chuyện đã hỏng lại càng hỏng, lúc nguy cấp bèn nói “Triệu Tề Hiền, ngươi biết ta là ai không?”. Triệu Tề Hiền làm việc dưới trướng y đã lâu, tự nhiên nhận ra giọng y, vừa sợ vừa mừng, vội nói “Là Vi Phó Tổng quản à?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Đúng”. Rồi trong kiệu thò đầu ra, vẫy vẫy tay. Triệu Tề Hiền vội bước tới gần. Vi Tiểu Bảo hạ giọng nói “Ta vâng mật chỉ của hoàng thượng, đi làm một chuyện đại sự cơ mật, chỉ cần lộ mặt ra là hỏng chuyện vì thế hoàng thượng sai ta ngồi trong kiệu công chúa, nhờ công chúa che giấu đưa ra”. Triệu Tề Hiền vốn biết y rất được Khang Hy tin yêu, hành sự thần xuất quỷ nhập, càng không nghi ngờ gì, vội nói “Vâng, vâng. Ty chức sẽ mở cửa cung ngay”.

Vi Tiểu Bảo linh cơ nhất động, hạ giọng nói “Ngươi có muốn thăng quan phát tài không?”. Triệu Tề Hiền làm việc dưới quyền y, trong mấy năm đã thăng lên hai cấp, tiền bạc cũng đã phát được hai vạn lượng, lúc trong bụng mừng rơn, vội quỳ xuống thỉnh an, nói “Đa tạ Phó Tổng quản tài bồi. Phó Tổng quản có việc gì sai khiến, thì ty chức dù có phải tan xương nát thịt cũng không từ chối”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Câu này là ngươi tự nói ra. Đại pháo mà bắn là ngươi tan xương nát thịt, ngươi đã nói là không từ chối thì đừng trách ta”. Liền hạ giọng nói “Có một bọn phản tặc câu kết với Ngô Tam Quế. Hoàng thượng đã có diệu kế, bây giờ đã lừa được họ tụ họp trong phủ bá tước của ta. Hoàng thượng sai ta đem nhân mã Tiền phong doanh tới Bắc Kinh. Tiền phong vốn bất hòa với Kiêu kỵ doanh chúng ta, ngươi có biết tại sao hoàng thượng lại muốn ta dẫn đầu Tiền phong doanh không?”. Triệu Tề Hiền nói “Ty chức rất ngu xuẩn, quả thật không biết chuyện ấy”. Vi Tiểu Bảo hạ giọng nói “A Thống lãnh Tiền phong doanh câu kết với Ngô Tam Quế, hoàng thượng muốn nhân dịp một quẻ lưới quét sạch. Công chúa là con dâu của Ngô Tam Quế, họ vừa gặp công chúa, sẽ không nghi ngờ gì”. Triệu Tề Hiền sực nghĩ ra, nói “Té ra là thế. Thật không ngờ A Thống lãnh lại dám đại nghịch bất đạo, chuyện này có quá nửa cũng là do Vi Phó Tổng quản điều tra ra, lập nên công lớn”.

Vi Tiểu Bảo nói “Công lao này là hoàng thượng sắp xếp, giao vào tay ta thôi. Chúng ta là hảo huynh đệ, có quan thì cùng thăng, có tài thì cùng phát, ngươi dắt bốn mươi tên thị vệ theo ta cùng lập công thôi”.

Triệu Tề Hiền cả mừng, luôn miệng cảm tạ, vội mời công chúa lên kiệu, điểm bốn mươi tên thị vệ ngày thường vỗ mông ngựa mình, nói vâng mật chỉ làm việc, mở toang cửa Thần Vũ, hộ tống tước kiệu của công chúa ra cung, sai sáu mươi tên thị vệ còn lại canh giữ chặt chẽ. Vi Tiểu Bảo nói “Cửa cung này từ đêm nay trở đi bất kể thế nào cũng không được mở ra, trừ phi Đa Tổng quản và ta ra lệnh, nếu không thì bất kể là ai cũng không cho ra”. Triệu Tề Hiền quay đầu truyền lệnh của Vi Tiểu Bảo, sáu mươi tên thị vệ giữ cửa cung đồng thanh vâng dạ. Vi Tiểu Bảo cười thầm “Lão tử đi chuyến này thì không bao giờ quay về nữa, không biết hồn ma của Đa Tổng quản có về truyền lệnh mở cửa cung không”.

Đồng Mạo Nhi Hồ đồng cách hoàng cung không xa lắm, đoàn người đi không bao lâu đã tới phủ Trung Dũng bá. Trên đường Vi Tiểu Bảo tim đập thình thịch, chỉ sợ đi được nửa đường phía trước đã có tiếng pháo nổ vang trời, may là thủy chung vẫn im lặng không có tiếng động nào.

Vừa tới đầu hẻm, Thống lãnh Tiền phong doanh A Tế Xích đã được tin tước kiệu của công chúa tới, bước ra nghênh đón.

Công chúa trong kiệu được Vi Tiểu Bảo vừa ôm ôm ấp ấp, vừa dặn dò kỹ lưỡng nên làm thế nào, nghe A Tế Xích báo danh nghênh đón, lập tức từ trong kiệu thò đầu ra, nói “A Thống lãnh, hoàng thượng có mật chỉ, công việc giao cho ngươi đêm nay mười phần quan trọng, ngươi đã chuẩn bị xong hết chưa?”.

A Tế Xích khom lưng nói “Vâng, đã chuẩn bị xong cả rồi”. Công chúa hạ giọng nói “Số đại pháo kia cũng đã sắp xếp ổn thỏa cả rồi chứ”. A Tế Xích nói “Vâng, là Nam Hoài Nhân đại nhân đích thân chỉ huy”. Vi Tiểu Bảo trong kiệu nghe thấy rất rõ, nghĩ thầm “Hoàng thượng quả nhiên không lừa mình. Lão quỷ Tây dương Nam Hoài Nhân này đích thân tác xạ, thì làm sao mà bắn không trúng?”. Công chúa nói “Hoàng thượng phân phó, bảo ta vào phủ bá tước làm một việc, ngươi theo ta vào thôi”.

A Tế Xích nói “Bẩm công chúa điện hạ, đã sắp đến giờ rồi, bây giờ không thể vào nữa”. Công chúa tức giận nói “Cái gì mà không thể vào? Đây là thánh chỉ, ngươi dám chống à?”. A Tế Xích nói “Nô tài không dám. Có điều… có điều quả thật rất nguy hiểm. Điện hạ tấm thân ngàn vàng…”.

Vi Tiểu Bảo trong kiệu hắng giọng một tiếng, Đào Hồng Anh sấn lên một bước, phóng chỉ ra như gió điểm vào ba chỗ huyệt đạo trên hông và nách A Tế Xích. A Tế Xích la hoảng một tiếng, nửa người trên đã không động đậy gì được, lập tức sau lưng lạnh buốt, kế đó đau nhói lên, một thanh lợi đao đã rạch đứt một đường dài, lúc ấy hoảng sợ hồn phi phách tán, hoàn toàn không hiểu vì sao.

Công chúa nói “Mật chỉ của hoàng thượng, nếu ngươi không phụng chỉ, sẽ lập tức xử chém, còn xử chém cả nhà, tịch biên gia sản nữa”. A Tế Xích run lên nói “Vâng, vâng”. Vi Tiểu Bảo chợt động tâm niệm “Bọn Ngự tiền thị vệ này theo mình làm việc, trước nay rất vâng lời, cần gì bắt họ mất mạng? Chẳng bằng bắt Tiền phong doanh làm ma thế mạng”. Bèn nói khẽ vào tai công chúa “Bảo y điểm năm mươi tên quan quân Tiền phong doanh đi theo chúng ta vào trong”. Công chúa quát “Ngươi mang năm mươi tên quân sĩ thủ hạ theo bọn ta vào trong làm việc”. A Tế Xích run lên nói “Vâng… Vâng”, lúc ấy lập tức ra lệnh, điểm năm mươi tên quân sĩ, theo sau kiệu công chúa, đi thẳng vào phủ bá tước. Vi Tiểu Bảo sai Triệu Tề Hiền suất lãnh bọn thị vệ đứng chặn ngoài phủ.

Chiếc kiệu khiêng vào tới trước sảnh, công chúa và Vi Tiểu Bảo xuống kiệu, sai năm mươi tên quân sĩ đứng xếp hàng chờ trước thiên tỉnh. Đào Hồng Anh áp giải A Tế Xích, bốn người bước vào hoa sảnh.

Vừa đẩy cửa ra, chỉ thấy bọn Trần Cận Nam, Mộc Kiếm Thanh, Từ Thiên Xuyên đều đang trong sảnh. Mọi người thấy Vi Tiểu Bảo dắt một quý phụ, một cung nữ, lại thêm một viên võ tướng, đều vô cùng kinh ngạc.

Vi Tiểu Bảo vẫy vẫy tay, mọi người đều xúm lại. Y hạ giọng nói “Hoàng đế biết chúng ta hội họp ở đây, phía ngoài Hồ đồng đã có quan quân vây chặt, còn có hơn mười khẩu đại pháo nhắm thẳng vào đây”. Quần hào giật nảy mình, ai cũng biến hẳn sắc mặt. Liễu Đại Hồng nói “Mọi người xung sát xông ra thôi”. Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Không được đâu! Bên ngoài rất đông quan binh, đại pháo lại càng lợi hại. Ta đã mang mấy mươi tên quân sĩ vào. Mọi người lột quần áo của họ, rồi sẽ trà trộn đi ra”. Quần hào đều khen là diệu kế.

Vi Tiểu Bảo quay người lại, nói với công chúa. Công chúa gật gật đầu nói với A Tế Xích “Gọi hai mươi tên quân sĩ vào đây”.

A Tế Xích đã sớm thấy tình thế không hay, chỉ là cương đao kề vào cổ, không chống cự, đành lên tiếng truyền lệnh.

Quần hào Thiên địa hội và Mộc vương phủ đã sớm đứng cạnh cửa, hai mươi tên quân Tiền phong doanh vừa bước vào hoa sảnh, lập tức tay đánh chân đá, khuỷu hất chỉ điểm, đánh ngã hết hai mươi người. Lần thứ hai gọi mười lăm người, lần thứ ba lại gọi mười lăm người. Năm mươi tên quân sĩ đều bị đánh ngã lột hết quần áo, quần hào mặc vào người, cả công chúa cũng mặc vào.

Vi Tiểu Bảo thấy Mộc Kiếm Bình và Tăng Nhu cũng thay đổi quần áo với mọi người nhưng không thấy Song Nhi, vội hỏi Tăng Nhu, Tăng Nhu nói “Song Nhi muội tử thấy ngươi vào cung lâu quá không về, bọn Quy nhị hiệp vào cung hành thích, lại không có nửa điểm tin tức, không sao yên tâm, đã theo Phong đại gia ra ngoài nghe ngóng rồi”. Mộc Kiếm Bình nói “Hai người bọn họ ăn cơm trưa xong là đi, sao đến bây giờ vẫn không về”. Vi Tiểu Bảo cau mày, trong lòng lo lắng, tuy biết Phong Tế Trung võ công cao cường, có thể bảo vệ cho Song Nhi an toàn, nhưng hai người bọn họ không biết sự bố trí của hoàng đế, nếu sau khi mọi người đào tẩu hai người lại quay về, vừa khéo đại pháo bắn vào, há không hỏng bét? Ngưng thần ngẫm nghĩ một thoáng, nói với Tiền Lão Bản “Tiền đại ca, Phong đại ca và Song Nhi ra ngoài nghe ngóng tin tức, còn chưa quay về, phải lưu lại ký hiệu ở đây, để họ nhìn thấy là lập tức đi ngay”.

Tiền Lão Bản vâng dạ, lúc ấy tình thế khẩn cấp, bèn rút đoản đao chém mấy nhát vào chân hai tên quân Thanh, cắt vạt áo chấm máu tươi trên vết thương của hai người, viết hai chữ lớn “Trốn mau” lên cửa. Liên tiếp viết lên bảy tám cánh cửa, mọi người cũng đã thay quần áo xong.

Vi Tiểu Bảo dẫn mọi người ra chuồng ngựa dắt ngựa ra. Bốn hội chúng Thiên địa hội cải trang thành thái giám, khiêng tước kiệu của công chúa, áp giải A Tế Xích ra khỏi phủ bá tước, năm mươi tên quân sĩ kia hoặc điểm vào huyệt đạo, hoặc trói chặt tay chân, đều để lại trong phủ bá tước.

Vi Tiểu Bảo ngồi trên kiệu công chúa ra tới bên ngoài, thở phào một hơi, nghĩ thầm “Bấy nhiêu môn phòng, mã phu, đầu bếp, thân binh, nô bộc nam nữ hầu hạ trong phủ đều không khỏi bị pháo bắn chết, nhưng nếu gọi họ cùng ra thì không bị quan binh bên ngoài phát hiện không xong”. Lại nghĩ “Hôm trước trên núi Ngũ Đài, mọi người cải trang làm Lạt ma cứu được Lão hoàng gia, hôm nay lại dùng kế sách ấy. Kế sách ô quy thoát xác này, đầu tiên cứu Lão hoàng gia, lại cứu Tiểu Quế tử, quả thật rất có ích”.

Quần hào đưa công chúa và A Tế Xích ra tới đường, chỉ thấy quan quân lui tới tuần tra, canh gác vô cùng nghiêm ngặt, nhưng đại pháo đặt ở đâu thì nhất thời không nhìn thấy.

Vi Tiểu Bảo rời khỏi nơi nguy hiểm, thở phào một hơi, nhìn thấy sư phụ và các bằng hữu đều thoát khỏi tai nạn bị pháo bắn chết, cảm thấy rất được an ủi, nói với Triệu Tề Hiền “Gã A Thống lãnh này phạm thượng tác loạn, đại nghịch bất đạo, ngươi giải y về giam trong lao, trừ phi hoàng thượng đích thân nhắc tới, nếu không thì chờ ta về phát lạc là được”. Triệu Tề Hiền vâng dạ. Vi Tiểu Bảo lại nói “Người này là khâm phạm, hoàng thượng hận y thấu xương, nghe tới tên y là nổi giận. Ngươi nói với các huynh đệ là mọi người phải cẩn thận, đừng để hoàng thượng nghe tới tên thằng phản tặc này”. Triệu Tề Hiền nhận lệnh, suất lãnh bốn mươi tên Ngự tiền thị vệ áp giải A Tế Xích đi. A Tế Xích bị giam vào thiên lao, về sau lúc nào thoát thân, Vi Tiểu Bảo cũng không thèm đếm xỉa.

Quần hào im lặng không nói gì, chỉ nem nép đi ra. Đi được hơn một dặm, Vi Tiểu Bảo xuống kiệu lên ngựa. Trần Cận Nam hỏi y “Bọn Quy nhị hiệp vào cung hành thích, về sau thế nào?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ba người bọn họ…”.

Đột nhiên nghe bình bình bình tiếng pháo nổ ran, kế đó phủ bá tước khói đen bốc lên, từ xa nhìn lại, chỉ thấy gạch ngói gỗ đá bắn tung lên không. Quần hào chỉ cảm thấy đất dưới chân rung chuyển, lúc ấy đại pháo đã bắn ầm ầm không ngớt, trong phủ bá tước ngọn lửa bốc cao hơn mười trượng. Quần hào đã đi xa Đồng Mạo Nhi Hồ đồng, vẫn cảm thấy từng trận từng trận hơi nóng táp vào mặt. Mọi người nhìn nhau hoảng sợ, đều không ngờ oai lực của đại pháo lợi hại như thế, nếu chần chừ một lúc, thì làm sao sống được?

Liễu Đại Hồng chửi “Con bà nó, kinh thiên động địa thế này…”. Chỉ nghe tiếng pháo nổ ình ình, át hết tiếng nói của y. Từ xa nhìn về phủ bá tước chỉ thấy một màn lửa, ngọn lửa bốc cao, đỏ rực cả nửa bầu trời.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Nhất định tiểu hoàng đế đã nghe tiếng đại pháo, nếu y sai người gọi mình tới nói chuyện, trò lừa bịp sẽ bại lộ ngay”, bèn bước tới nói với Trần Cận Nam “Sư phụ, chúng ta phải ra thành mau. Nếu tin tức truyền ra, cửa thành bị canh giữ nghiêm ngặt, lại không dễ ra được”. Trần Cận Nam nói “Không sai, phải chạy mau thôi”. Công chúa liền nhảy xuống kiệu.

Vi Tiểu Bảo quay lại nhìn công chúa, nói “Cô về cung trước đi, đợi mọi việc lắng xuống, ta sẽ tới đón cô”. Công chúa vừa sợ vừa giận, quát “Ngươi nói gì?”. Vi Tiểu Bảo nói lại lần nữa. Công chúa quát “Ngươi qua cầu rút ván, định bỏ rơi không đếm xỉa gì tới ta nữa phải không?”. Vi Tiểu Bảo nói “Không, không phải…”. Câu nói chưa dứt, chát một tiếng, đã bị đánh một tát rất nặng.

Quần hào đều rất ngạc nhiên. Lúc ấy tiếng pháo nổ rền trời, mọi người đều nghĩ nếu không có Vi Tiểu Bảo bày kế giải cứu thì lúc này mọi người đều đã sớm thành tro rồi, không còn cơ hội nào thoát thân, vì thế cho dù ngày thường đối với vị Hương chủ trẻ tuổi này vẫn không coi ra gì, nhưng lúc ấy bất giác đều rất cảm kích khâm phục, đột nhiên thấy công chúa ra tay đánh y, lập tức có mấy người sấn tới xô nàng, lại có mấy người lên tiếng quát tháo.

Công chúa khóc lóc gào lên “Ngươi nói sẽ bái đường thành thân với ta, ta mới nghe lời ngươi, đưa ngươi ra khỏi hoàng cung, lại bảo Thống lãnh Tiền phong doanh vào cứu bạn ngươi, ngươi… thằng giặc thối tha nhà ngươi, ngươi định chối à, chuyện giữa chúng ta chưa xong đâu. Trong bụng ta…”. Vi Tiểu Bảo sợ nàng không giữ miệng, nói toạc chuyện xấu ra trước mặt mọi người, vội nói “Được, được, cô đi theo ta là được. Mọi người ra thành rồi sẽ nói”. Công chúa gạt lệ tươi cười, nhảy lên lưng ngựa.

Đoàn người ra cửa Triêu Dương Đông thành. Vi Tiểu Bảo kêu lên “Phụng mật chỉ của hoàng thượng ra thành đuổi theo phản tặc, mở cửa ra mau”. Quan quản trong ba doanh Kiêu kỵ doanh, Hộ quân doanh, Tiền phong doanh là thân binh Ngự lâm quân của hoàng đế, hoành hành trong thành Bắc Kinh, bá quan văn võ ai cũng kiêng nể ba phần. Quan quân canh cửa thấy một toán quân Tiền phong doanh, làm sao dám cản trở? Huống chi mới rồi nghe pháo nổ ầm ầm, trong thành quả vừa xảy ra chuyện, lập tức mở toang cổng thành.

***

Mọi người ra khỏi thành, phóng mau về hướng đông. Vi Tiểu Bảo phóng ngựa chạy song song với Trần Cận Nam, kể qua một lượt chuyện bọn Quy Tân Thụ hành thích thất thủ thế nào, hoàng đế phát giác ra bí mật của mình thế nào. Trần Cận Nam khen “Tiểu Bảo, bình thời ta thấy ngươi mồm mép trơn tuột, rất không thành thật, nhưng gặp lúc nguy hiểm lại có thể coi trọng nghĩa khí, không tham phú quý, bán đứng bạn bè, quả thật khó có”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Bạn bè khác thì cũng thôi, nhưng chuyện đại nghĩa diệt sư thì con ngàn vạn lần không làm”. Trần Cận Nam nói “Cái gì mà bạn bè khác thì cũng thôi? Chỉ cần là bạn bè, thì bất cứ là ai cũng không thể bán đứng, còn bốn chữ Đại nghĩa diệt sư ấy sử dụng cũng rất bậy bạ”. Vi Tiểu Bảo lè lưỡi, nói “Đệ tử không có học vấn nên lỡ lời, xin sư phụ đừng trách”. Nghĩ tới ngày trước ăn nói bừa bãi với tiểu hoàng đế vô cùng vui vẻ, đến chuyện hôm nay thì trở đi không thể còn gặp y được nữa, bất giác trong lòng buồn bã.

Trần Cận Nam nói “Chúng ta giả mạo làm quân sĩ Tiền phong doanh ra thành, qua nửa ngày người Thát Đát sẽ biết. Phải mau thay đổi quần áo mới được”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng thế, cứ tới thị trấn phía trước là vào mua quần áo cải trang thôi”.

Mọi người chạy về phía đông hơn hai mươi dặm, tới một thị trấn, nhưng trong thị trấn lại không có cửa hiệu bán quần áo cũ. Trần Cận Nam trong chuyện hành quân đánh trận, chính sự này nọ thì rất có tài năng, còn đối với nhưng việc lặt vặt thường ngày loại này nhất thời cũng bó tay không có cách nào, thấy không có chỗ nào mua quần áo thay đổi liền nói “Chỉ có cách tới thị trấn phía trước sẽ tính, chỉ mong tìm được cửa hiệu bán quần áo cũ thì hay”.

Đoàn người đi xuyên qua thị trấn, thấy đầu bên kia có một ngôi nhà lớn, tường cao cửa đỏ, lầu gác khang trang. Vi Tiểu Bảo chợt động tâm niệm, nói “Sư phụ, chúng ta tới ngôi nhà kia mượn mấy cái quần áo mặc thôi”. Trần Cận Nam ngần ngừ nói “Chỉ sợ người ta không chịu”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Chúng ta là quan quân mà. Quan quân không ăn cơm của nhà giàu, mượn đồ của nhà giàu thì ăn cơm của ai, mượn đồ của ai?”, rồi thúc ngựa tới, giật cái vòng đồng trên cửa leng keng loạn lên.

Bọn bộc dịch ra mở cửa, mọi người nhất tề ùa vào, thấy người là lột hết quần áo. Chủ nhà là một viên quan ở kinh về hưu, thấy đám quân Tiền phong doanh này hung dữ như lang như sói, luôn miệng kêu lên “Các vị tổng gia không cần động võ, để huynh đệ sai dọn rượu thịt, mời các vị dùng, lại tặng tiền lộ phí…”. Câu nói chưa dứt, đã bị mọi người túm lấy, áo trường bào, quần trên người lập tức bị lột ra. Y hoảng sợ la lớn “Huynh đệ lớn tuổi rồi, không được đùa thế này…”.

Quần hào hi hi hô hô, trong chớp mắt đã lột được mấy mươi bộ quần áo, vị quan kia và gia quyến ai cũng hồn bất phụ thể, may là đám quân sĩ Tiền phong doanh này cũng cổ quái, chỉ lột quần áo đàn ông chứ không chọc ghẹo nữ quyến, sau khi lột quần áo đàn ông cũng không giở trò gì, hô lớn một tiếng, lên ngựa phóng đi. Đàn ông trong nhà ấy người nào cũng trần truồng như nhộng, ngơ ngác nhìn nhau.

Quần hào ra tới nơi vắng vẻ, chia nhau cải trang. Công chúa, Mộc Kiếm Bình, Tăng Nhu ba người cũng đổi mặc nam trang. Mọi người lại lên ngựa đi tiếp. Vi Tiểu Bảo lo lắng cho Song Nhi, nói “Phong đại ca và một a hoàn của ta trong kinh không biết ra sao, ta muốn nhờ một vị huynh đệ lạ mặt ngoài tỉnh trở về kinh nghe ngóng”. Hai huynh đệ Thiên địa hội từ Thiểm Tây tới vâng lệnh lên đường.

Quần hào thấy không có quan binh đuổi theo, cũng hơi yên tâm. Lại đi một lúc, Mộc Kiếm Bình la hoảng một tiếng, kế bật cười khanh khách. Nguyên là con ngựa của Tăng Nhu đột nhiên phẹt ra một bãi phân nhão nát, suýt nữa dính vào chân Mộc Kiếm Bình.

Đi không bao lâu, lại có mấy con ngựa ỉa ra phân nhão, kế đó con ngựa Huyền Trinh đạo nhân cưỡi hí vang một tiếng quỵ xuống đất không đứng lên được nữa. Tiền Lão Bản nói “Đạo trưởng, hai chúng ta cưỡi chung một con ngựa”. Huyền Trinh nói “Hay lắm”, tung người nhảy lên ngựa, ngồi sau lưng y.

Vi Tiểu Bảo đột nhiên hiểu ra, bất giác cả kinh kêu lên “Sư phụ, quả báo, quả báo! Phen này hỏng bét rồi”. Trần Cận Nam hỏi “Chuyện gì?”. Vi Tiểu Bảo nói “Hồn ma của Ngô Ứng Hùng tìm con rồi. Y hận con… hận con bắt y về, lại cướp… cướp…”, hai chữ “Vợ y” quả thật không tiện nói ra miệng.

Y nghĩ tới hôm trước phụng chỉ đuổi bắt người, chỉ vì bầy ngựa bọn Ngô Ứng Hùng cưỡi đều ăn phải ba đậu, dọc đường không ngừng ỉa ra phân nhão, kế đó nối nhau chết gục, mới không sao chạy xa, bị y bắt được. Nếu Ngô Ứng Hùng chạy thoát về tới Vân Nam, hoàng đế đương nhiên không giết y được, xét tới cùng là vì mình sai người hạ độc bầy ngựa của y. Bây giờ thua tới mức mình phải bỏ chạy, từng con ngựa cũng ngã lăn ra chết như thế, há không phải hồn ma của Ngô Ứng Hùng tác quái sao? Huống chi mình dắt vợ y cùng chạy trốn, Ngô Ứng Hùng sau khi thành ma, trên đầu còn đội cái mũ màu xanh hạng nhất, nhất định không cam lòng. Y càng nghĩ càng sợ, bất giác thân hình run lên, chỉ nghe mấy tiếng hí vang, lại có hai con ngựa gục xuống.

Trần Cận Nam cũng nhìn thấy tình hình không xong, vội hỏi đầu đuôi. Vi Tiểu Bảo kể lại tình hình bắt Ngô Ứng Hùng hôm trước, rồi run giọng nói “Ngô Ứng Hùng âm hồn bất tán, hôm nay tới báo thù. Chuyện này… chuyện này…”. Công chúa tức giận nói “Thằng tiểu tử Ngô Ứng Hùng lúc sống là kẻ vô dụng, chết đi cũng là con ma bị thịt, ngươi sợ y cái gì?”. Trần Cận Nam cau mày nói “Giữa ban ngày ban mặt, làm sao có ma quỷ? Hôm trước ngươi hạ độc cho ngựa của Ngô Ứng Hùng, hoàng đế Thát Đát có biết không?”. Vi Tiểu Bảo nói “Biết, y còn khen con là phúc tướng nữa”. Trần Cận Nam gật đầu nói “Phải rồi. Hoàng đế Thát Đát dùng đạo của phúc tướng để trị phúc tướng đấy. Y sợ ngươi chạy trốn, nên đã sai người cho ngựa của ngươi ăn ba đậu rồi”.

Vi Tiểu Bảo lập tức hiểu ra, luôn miệng nói “Đúng, đúng. Hôm trước bắt được Ngô Ứng Hùng, tiểu hoàng đế mười phần vui vẻ, thưởng cho gã mã phu của con một chức quan, sai y tới làm việc ở Ty Xa giá bộ Binh. Lần này nhất định là sai y hạ độc cho ngựa của con”.

Trần Cận Nam nói “Đúng thế, y biết đường biết ngõ, tính nết con ngựa nào cũng biết rõ, muốn hạ độc thì tự nhiên là bách phát bách trúng”. Vi Tiểu Bảo tức giận nói “Lần sau mà bắt được y, bao nhiêu phân nhão này, đều nhét hết vào miệng y…”, câu nói chưa dứt, đột nhiên con ngựa đang cưỡi vọt lên một cái rồi quỵ xuống, Vi Tiểu Bảo nhảy ra, thấy con ngựa chòi đạp cố đứng lên, mấy lần run rẩy, nhưng cả chân sau cũng khuỵu xuống.

Trần Cận Nam nói “Bầy ngựa này đều vô dụng rồi. Phải tới thị trấn phía trước mua thôi”. Liễu Đại Hồng nói “Mua mấy mươi con ngựa một lúc cũng không phải dễ”. Trần Cận Nam nói “Đúng thế, mọi người tạm thời phân tán ra đi”.

Đang trò chuyện, chợt nghe trên đường văng vẳng có tiếng vó ngựa. Huyền Trinh mừng rỡ nói “Là quan binh đuổi theo. Chúng ta giết bọn dê đực con mẹ nó ấy một trận, tiện thể cướp ngựa”. Trần Cận Nam quát “Huynh đệ Thiên địa hội mai phục bên trái đường, huynh đệ Mộc vương phù và núi Vương Ốc mai phục bên phải đường, chờ quan binh tới nơi, nhân lúc bất ngờ xông ra. Ái chà, không xong,…”.

Chỉ nghe tiếng vó ngựa dần dần tới gần, mặt đất rung chuyển, quan quân đuổi theo ít nhất cũng có một hai ngàn người, quần hào không cần hỏi ý nghĩa bốn chữ “Ái chà, không xong” của y, đều không kìm được biến hẳn sắc mặt. Quần hào chỉ có bốn mươi người, võ công tuy không kém, nhưng giữa ban ngày ban mặt giao phong với đại đội binh mã trên đồng trống, quân địch bao vây trùng trùng điệp điệp, những người võ công cao cường thì còn có thể thoát thân, chứ quá nửa còn lại ắt phải mất mạng.

Trần Cận Nam gặp việc quyết đoán, quát “Quan quân nhân số không ít. Mọi người không thể liều mạng đánh nhau, chia ra chạy vào thôn xóm rừng núi thôi”. Chỉ nói được mấy câu ấy, tiếng vó ngựa lại gần hơn. Đưa mắt nhìn ra, trên đường bụi bay mịt mù, như có một đám mây đen ùn ùn kéo tới.

Vi Tiểu Bảo la lớn “Hỏng bét, hỏng bét!”, rồi sải chân bỏ chạy. Công chúa kêu lên “Này, ngươi đi đâu thế?”, rồi đuổi riết theo. Vi Tiểu Bảo kêu lên “Cô trở về cung đi, theo ta không có gì hay đâu”. Công chúa chửi “Tiểu Quế tử chết giẫm, ngươi định bỏ trốn à? Không phải dễ đâu”.

(*) Chú: Trong tên hồi này, “Mây hồng cạnh mặt trời” (Hồng vân bàng nhạt) là chỉ việc bầu bạn với hoàng đế, “Lòng theo cỏ biếc” (Tâm tùy bích thảo) là chỉ ý định đi xa.

Hồi 44: Người tới liều mình nơi đất lạ – Việc ra sự thật chi đau lòng

Vi Tiểu Bảo không ngừng kêu khổ, nghĩ thầm “Trốn tránh công chúa còn khó hơn trốn tránh quan binh”. Nhìn thấy góc phía đông có một đám cao lương mọc cao quá đầu người, lúc ấy lập tức liều mạng chạy qua đó. Vừa chạy tới gần, thấy sau ruộng cao lương có hai gian nhà, ngoài ra không còn chỗ nào ẩn núp, nghĩ thầm ngựa truy binh đuổi theo rất nhanh, trong chớp mắt sẽ tới, lập tức chui vào đám cao lương.

Chợt thấy sau lưng bị siết chặt, đã bị người ta nắm lấy, kế nghe tiếng công chúa cười nói “Ngươi trốn được à?”. Vi Tiểu Bảo không biết làm sao, chỉ đành quay lại cười gượng nói “Cô cứ núp ở đây đi, đợi truy binh đuổi qua rồi sẽ nói”. Công chúa lắc đầu nói “Không được! Ta muốn ở cùng một chỗ với ngươi”. Lúc ấy liền bò vào ruộng cao lương, ngồi dựa vào y. Hai người còn chưa núp kín đã nghe có tiếng bước chân, rồi tiếng Tăng Nhu gọi “Vi Hương chủ, Vi Hương chủ!”. Vi Tiểu Bảo thò đầu ra nhìn, thấy Tăng Nhu và Mộc Kiếm Bình sóng vai chạy tới. Vi Tiểu Bảo nói “Ta ở đây, mau lên”. Hai cô gái theo lời chui vào.

Bốn người đi vào chỗ cao lương mọc dày, cành lá che khuất, đoán là truy binh khó mà phát hiện ra được, cũng hơi yên tâm. Qua không bao lâu, lại nghe một tràng tiếng vó ngựa trên đường lớn phi tới. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Hôm ấy mình và A Kha, thêm sư phụ sư thái và thằng tiểu tử thối tha Trịnh Khắc Sảng, cũng là bốn người, đều núp trong đống rơm. Ờ, nếu bên cạnh không phải là công chúa dữ dằn mà là A Kha, thì thật sung sướng chết đi được. Bây giờ không biết A Kha ở đâu, có quá nửa là đã làm vợ Trịnh Khắc Sảng rồi. Song Nhi cũng không biết ở đâu”.

Chợt nghe xa xa có tiếng người quát tháo ra lệnh, kế đó một đội kỵ binh kìm ngựa lại, tiếng vó ngựa rầm rập, đang xông về phía này lục soát. Công chúa hoảng sợ nói “Họ thấy chúng ta rồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Đừng lên tiếng, họ không thấy đâu”. Công chúa nói “Không phải họ đang tới đây sao?”. Chỉ nghe một người quát “Ngựa của bọn phản tặc đều chết ở đây, nhất định chưa chạy xa đâu. Mọi người lục soát cho kỹ”. Công chúa nghĩ thầm “Té ra là thế. Mấy con ngựa chết này quả thật là hại người không ít”, rồi đưa tay nắm chặt tay Vi Tiểu Bảo.

Vùng Liêu Đông ở Quan ngoại đất rộng người thưa, đất đai màu mỡ, cao lương thường trồng hàng trăm hàng ngàn mẫu, nhìn ra không thấy đâu là giới hạn, cao lương mọc cao, gọi là “Màn the xanh dựng”, núp trong đó rất khó tìm. Nhưng ở cạnh Bắc Kinh ruộng cao lương thưa thớt, đám cao lương chỗ bốn người bọn Vi Tiểu Bảo núp chỉ rộng hai ba mươi mẫu, đại đội quan binh như thế tràn tới lục soát, trong chớp mắt thì đưa tay ra là bắt được.

Nghe thấy tiếng quan binh càng lúc càng tới gần, Vi Tiểu Bảo hạ giọng nói “Chạy vào mấy gian nhà kia”, rồi kéo tay áo Mộc Kiếm Bình chạy vào hai gian nhà. Ba cô gái chạy theo sau. Qua một hàng rào, đẩy cánh cửa ra, thấy trong nhà không có ai, trong góc nhà chất không ít nông cụ. Vi Tiểu Bảo bước tới lấy mấy cái áo tơi chia ra đưa ba cô gái, nói “Mặc vào đi”, mình cũng khoác một cái, đội một cái nón tre lên, ngồi ở góc nhà. Công chúa cười nói “Chúng ta đều làm người nhà quê, kể cũng thú vị”. Mộc Kiếm Bình suỵt một tiếng, hạ giọng nói “Tới rồi!”.

Cánh cửa bình một tiếng bật tung ra, bảy tám tên quan quân sấn vào. Vi Tiểu Bảo vội quay đầu đi. Qua một lúc chỉ nghe một người cao giọng nói “Trong này không có ai, người nhà quê đều ra đồng làm ruộng rồi”. Vi Tiểu Bảo nghe giọng nói của người này rất quen, từ dưới cái nón tre liếc mắt nhìn lên, té ra chính là Triệu Lương Đống, trong lòng vui mừng. Một tên quân sĩ nói “Tổng binh đại nhân, bốn người này…”. Triệu Lương Đống quát “Mọi người đều ra ngoài hết đi để ta lục soát kỹ , gian nhà nhỏ thế này mà con mẹ nó, các ngươi lại xúm cả vào trong này, có quay người cũng không được”. Đám quân sĩ luôn miệng khen phải, đều lui ra ngoài.

Triệu Lương Đống cao giọng hỏi “Trong nhà không có người lạ phải không?”, bước tới trước mặt Vi Tiểu Bảo thò tay vào bọc lấy ra hai nén vàng, ba nén bạc nhè nhẹ thả xuống dưới chân, cao giọng nói “Té ra bọn người này chạy lên phía bắc rồi! Họ biết hoàng thượng nổi giận, bắt được thì nhất định sẽ chém đầu, vì thế chạy đi thật xa, chạy càng xa càng tốt, lần này quả thật không phải tầm thường đâu”. Rồi cúi xuống ôm Vi Tiểu Bảo khẽ lắc mấy cái, xoay người bước ra cửa, quát “Bọn phản tặc chạy lên phía bắc rồi, mọi người mau đuổi theo!”.

Vi Tiểu Bảo thở dài một tiếng, nghĩ thầm “Triệu Tổng binh đối với mình tính ra cũng rất có nghĩa khí. Chuyện này mà bị người ta biết, thì cái đầu của y khó mà giữ được”. Chỉ nghe tiếng vó ngựa rầm rập, đám quan binh đã lên ngựa đuổi về phía bắc. Công chúa ngạc nhiên nói “Viên Tổng binh kia rõ ràng đã nhìn thấy chúng ta, tại sao lại nói… A, y lại còn tặng vàng bạc cho ngươi nữa, té ra là bạn của ngươi”. Vi Tiểu Bảo nói “Chúng ta theo cửa sau chạy thôi”. Rồi cho vàng bạc vào bọc, bước ra cửa sau.

Vừa nhảy ra khỏi nhà, chỉ thấy dưới hành lang có tám chín người ngồi, Vi Tiểu Bảo vừa liếc mắt nhìn thấy đã bật tiếng la hoảng, xoay người bỏ chạy, nhưng chỉ được hai bước sau cổ đã bị siết chặt, đã bị người ta nắm lấy nhấc lên. Người ấy lạnh lùng nói “Còn chạy được à?”. Người ấy chính là Hồng giáo chủ. Những người còn lại là Hồng phu nhân, Bạn đầu đà, Lục Cao Hiên, Thanh Long sứ Hứa Tuyết Đình, Xích Long sứ Vô Căn đạo nhân, Hắc Long sứ Trương Đạm Nguyệt, Hoàng Long sứ Ân Cẩm, tất cả các nhân vật đầu não của Thần Long giáo đều tụ họp ở đây, ngoài ra còn có một thiếu nữ tức Phương Di.

Công chúa tức giận nói “Ngươi làm gì y thế?”, rồi phi chân đá Hồng giáo chủ. Hồng giáo chủ tay trái khẽ buông xuống, ngón tay bật ra búng vào mu bàn chân nàng. Công chúa a một tiếng, ngã lăn ra đất.

Vi Tiểu Bảo người trên không, kêu lên “Giáo chủ và phu nhân tiên phúc mãi hưởng, thọ sánh ngang trời. Đệ tử Vi Tiểu Bảo tham kiến”. Hồng giáo chủ cười nhạt nói “May là ngươi còn nhớ hai câu ấy”. Vi Tiểu Bảo nói “Hai câu ấy lúc nào đệ tử cũng ghi nhớ trong lòng, sáng sớm ngủ dậy đọc một lần, lúc rửa mặt đọc một lần, lúc ăn sáng đọc một lần, lúc ăn trưa đọc một lần, lúc ăn chiều đọc một lần, buổi tối lúc đi ngủ lại đọc một lần, trước nay chưa từng bỏ bê. Có lúc nhớ tới ơn đức của giáo chủ và phu nhân, lại thêm gia vị, đọc thêm vài lần”.

Hồng giáo chủ từ khi sào huyệt đảo Thần Long bị phá hủy, giáo chúng người chết đã chết, người chạy đã chạy, bên người chỉ còn lưa thưa vài huynh đệ già, bôn ba giang hồ, mọi người với câu “Tiên phúc mãi hưởng, thọ sánh ngang trời” cũng đọc rất không hào hứng, một ngày khó mà được nghe một lần, lúc ấy nghe Vi Tiểu Bảo khoác lác tâng bốc, bất giác trong lòng vui vẻ, đặt y xuống đất, khuôn mặt vốn lạnh lùng thoáng hiện nét tươi cười.

Vi Tiểu Bảo nói “Thuộc hạ hôm nay gặp được giáo chủ, toàn thân khỏe khoắn, tinh thần phấn chấn, chỉ là có một chuyện quả không sao hiểu được”. Hồng giáo chủ hỏi “Chuyện gì?”. Vi Tiểu Bảo nói “Hôm trước chia tay với giáo chủ và phu nhân, đã qua không ít ngày, tại sao giáo chủ dường như lại trẻ lại bảy tám tuổi, phu nhân cũng trở thành như là em gái của ta, thật kỳ lạ quá”. Hồng phu nhân cười khanh khách, đưa tay véo má y một cái, cười nói “Con khỉ con, công phu vỗ mông ngựa của ngươi đúng là đệ nhất thiên hạ”. Công chúa cả giận, quát “Quân đàn bà mặt dày nhà ngươi, tại sao lại động tay động chân?”. Hồng phu nhân cười nói “Ta chỉ động tay chứ chưa động chân. Được thôi, thì cứ động động chân thử xem”, rồi nhấc chân trái lên, chát một tiếng đá công chúa một cước rất nặng. Công chúa đau quá la ầm lên.

Chỉ nghe tiếng vó ngựa vang lên, trong chớp mắt bốn phương tám hướng đều có tiếng vó ngựa, không biết có bao nhiêu quan binh đã vậy chặt khu nhà.

Cánh cổng lay động, mười mấy tên quan quân tràn vào. Hai người đi đầu bước vào viện, đưa mắt nhìn mọi người, một người nói “Đều là những người làm ruộng không có liên can”. Vi Tiểu Bảo nghe người nói là Vương Tiến Bảo, trong lòng cả mừng, quay đầu ra thấy bên cạnh Vương Tiến Bảo chính là Tôn Tư Khắc. Hai người đưa mắt ra hiệu, vung tay sai quân sĩ lui ra. Tôn Tư Khắc cao giọng nói “Đây chỉ là mấy người dân, ờ, các ngươi có thấy bọn phản tặc chạy trốn không? Không thấy à? Tốt, các ngươi đi chỗ khác đi”.

Vi Tiểu Bảo chợt động tâm niệm “Lần này mình rơi vào tay Thần Long giáo, bất kể hoa ngôn xảo ngữ thế nào cũng khó mà giữ được tính mạng, hay cứ đi theo bọn Vương tam ca, thoát khỏi độc thủ của Thần Long giáo trước rồi sẽ xin hai người bọn họ thả mình ra”, thấy Vương Tiến Bảo và Tôn Tư Khắc đang định xoay người bước ra, liền kêu lên “Vương tam ca, Tôn tứ ca, ta là Vi Tiểu Bảo, các ngươi mang ta đi thôi”.

Tôn Tư Khắc nói “Các ngươi là người nhà quê, mau đi cho thật xa đi”. Vương Tiến Bảo nói “Vị huynh đệ người nhà quê này nói không có tiền dùng, hỏi ngươi trong người có tiền không”. Tôn Tư Khắc nói “Cần tiền à? Có, có, có!”. Rồi móc trong bọc ra một tập ngân phiếu đưa cho Vi Tiểu Bảo, nói “Trong thành Bắc Kinh có phản tặc bỏ trốn, hoàng thượng rất tức giận, sai mấy ngàn binh mã đuổi theo bắt lại, bắt được là sẽ lập tức chém đầu. Tiểu huynh đệ, ở đây nguy hiểm lắm, nếu bị bắt oan, đến nỗi mất mạng, thì không được đâu”.

Vi Tiểu Bảo nói “Các ngươi bắt ta đi thôi, ta… thà là ta đi theo các ngươi”.

Vương Tiến Bảo nói “Ngươi muốn theo bọn ta làm quân ăn lương à? Đây không phải chuyện chơi đâu. Ngoài kia có Hỏa khí doanh do hoàng thượng phái đi, mang theo hỏa thương, bình bình ầm ầm bắn ra, thì cho dù võ công của ngươi có cao cường hơn cũng không chống đỡ được đâu”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Có Hỏa khí doanh lại càng hay, chắc bọn Hồng giáo chủ không dám làm bậy”, vội nói “Ta có câu muốn tâu với hoàng thượng, các ngươi mang ta đi thôi”. Vương Tiến Bảo nói “Hoàng thượng mà thấy mặt ngươi, sẽ lập tức chém đầu ngươi ngay. Hoàng thượng chẳng qua cũng chỉ có hai con mắt, một cái mồm, có gì hay mà gặp? Ờ, bọn ta để lại mười ba con ngựa, sai mười ba người nhà quê các ngươi mỗi người trông coi một con, qua mười năm tám năm đưa lên Bắc Kinh trả lại, chết con nào phải bồi thường con ấy. Ngàn vạn lần phải cẩn thận đấy”, nói xong bước ra ngoài.

Vi Tiểu Bảo cuống quýt, bước tới giữ y lại, kêu lên “Vương tam ca, ngươi mau mang ta đi”, đột nhiên có một bàn tay to lớn đặt lên đỉnh đầu, chỉ nghe Hồng giáo chủ nói “Tiểu huynh đệ, vị tổng gia đây một phen hảo tâm, y vừa từ Bắc Kinh ra, biết được tâm ý của hoàng thượng, ngươi đừng suy nghĩ bậy bạ nữa”. Tôn Tư Khắc lớn tiếng nói “Không sai, bọn ta đuổi mau theo bọn phản tặc thôi”. Vi Tiểu Bảo biết lúc này tính mạng nằm trong tay Hồng giáo chủ, chỉ cần y nhả nội kình ra thì đầu mình sẽ lập tức vỡ nát, nhưng bây giờ không chết, qua không bao lâu nữa cũng không chết không xong, bèn cao giọng gọi “Các ngươi mau bắt ta đi, ta chính là Vi Tiểu Bảo đây!”.

Mọi người ngẩn ra, đều dừng chân lại. Tôn Tư Khắc hô hô cười rộ, nói “Vi Tiểu Bảo là một thiếu niên mười mấy tuổi, vị lão công công này đã tám mươi lại mở miệng nói đùa như thế, há không làm người ta cười méo miệng sao?”. Rồi kéo tay áo Vương Tiến Bảo một cái, hai người sải chân bước ra. Chỉ nghe tiếng quát tháo ra lệnh vang lên “Để lại mươi ba con ngựa ở đây, cho truy binh phía sau dễ báo tin. Đốt hai gian nhà tranh kia đi, cho bọn phản tặc hết chỗ ẩn núp”. Đám quân sĩ ứng tiếng “Tuân lệnh!”, liền có người phóng hỏa đốt nhà, kế đó tiếng vó ngựa rầm rập vang lên, đại đội nhân mã phóng lên phía bắc.

Vi Tiểu Bảo thở dài một tiếng, nghĩ thầm “Phen này chắc chết rồi. Vương tam ca, Tôn tứ ca sợ mình nấn ná không đi, nếu có truy binh đuổi tới lại không nể mặt” chỉ thấy đống cỏ trong góc nhà bén lửa cháy bùng lên, ngọn lửa từ từ lan ra.

Hồng giáo chủ cười nhạt nói “Bạn bè của ngươi rất có nghĩa khí đấy, đã cho tiền, lại cho ngựa. Chúng ta đi thôi”. Mộc Kiếm Bình đỡ công chúa, mọi người theo cửa sau chạy ra, vòng qua phía trước, quả nhiên thấy dưới gốc cây buộc mười ba con ngựa tốt. Trong đó có hai con yên cương rất sang trọng, chính là ngựa của hai người Vương Tiến Bảo, Tôn Tư Khắc.

Mọi người lên ngựa phóng về phía đông, Vi Tiểu Bảo bị bốn người kẹp vào giữa. Vi Tiểu Bảo chỉ mong có truy binh đuổi tới, bắt mình trở về, tiểu hoàng đế tình nghĩa sâu nặng với mình, lần này tuy đắc tội với y rất lớn, nhưng chưa chắc đã không chém đầu mình không được, chứ Hồng giáo chủ âm hiểm tàn độc, rơi vào tay y không biết phải nếm mùi đau khổ tới mức nào. Nhưng trên suốt đường đi, không nghe có tiếng vó ngựa của truy binh đuổi theo. Ngựa mọi người cưỡi đều là ngựa tốt do Vương Tiến Bảo lựa chọn, phóng đi như bay, cho dù phía sau có truy binh cũng không sao đuổi kịp, huống chi ba viên Tổng binh Triệu, Vương, Tôn đều đã dắt truy binh đuổi lên phía bắc.

Trên đường ngoài công chúa la thét chửi mắng, ai cũng im lặng không nói tiếng nào, về sau Ân Cẩm điểm vào Á huyệt của công chúa, nàng tuy lửa giận đầy lòng, nhưng cũng không chửi ra tiếng được nữa.

Hồng giáo chủ suất lãnh mọi người, cứ chọn những nơi vắng vẻ chạy về phía đông nam, chiều tối cũng ngủ ngoài đồng trống. Mấy lần Vi Tiểu Bảo đã dùng kế định bỏ trốn, nhưng Hồng giáo chủ cơ trí không kém gì y, lần nào cũng bị Hồng giáo chủ đánh cho vài quyền, làm sao có thể thoát thân?

Mấy hôm sau tới bờ biển. Lục Cao Hiên mò trong người Vi Tiểu Bảo ra một nén bạc, đi thuê một chiếc thuyền lớn. Vi Tiểu Bảo trong lòng chỉ kêu khổ, nghĩ ngay cả tiền thuê thuyền cũng bắt mình trả, thật là bất nhẫn.

Lên thuyền xong, thuyền giương buồm lướt về phía đông. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Lần này tự nhiên là lại tới đảo Thần Long, con rùa đen già này nhất định đem mình cho rắn ăn thịt”. Nghĩ tới từng con từng con rắn độc trên đảo bao vây chung quanh, há miệng cùng cắn, bất giác toàn thân run lên, nghĩ thầm “Phải làm sao nghĩ cách đục thủng chiếc thuyền này, cho mọi người đồng quy ư tận”.

Nhưng mọi người trong Thần Long giáo biết y quỷ kế đa đoan, quản thúc rất chặt, làm sao có cơ hội? Vi Tiểu Bảo nhớ lại hai lần trước lên đảo Thần Long, lần thứ nhất cùng Phương Di trong thuyền nàng nàng ta ta, tận hưởng nhu tình, lần thứ hai là suất lãnh đại quân, oai phong tám mặt, lần này thì bị người ta tay đánh chân đá, tính mạng chỉ còn trong sớm tối, nỗi sướng khổ cách nhau một trời một vực. Từ khi gặp Phương Di ở gian nông xá ngoài thành Bắc Kinh, đường bộ sóng ngựa, đường biển cùng thuyền, mà thủy chung nàng vẫn không mừng không giận, lạnh lùng không nói câu nào, tuy không hành hạ mình nhưng không nhìn tới mình một cái, có lúc nghĩ nàng dưới sự uy hiếp của Hồng giáo chủ, cho dù có một mảnh thâm tình đối với mình cũng không dám hơi tỏ ra lời lẽ sắc mặt, có lúc lại nghĩ mấy lần mắc lừa con đĩ con này, đàn bà âm hiểm giảo hoạt trong thiên hạ thì thị là đứng đầu, lại không kìm được vô cùng căm hận.

Thuyền đi nhiều ngày, quả nhiên tới đảo Thần Long. Lục Cao Hiên và Bạn đầu đà áp giải Vi Tiểu Bảo, công chúa, Mộc Kiếm Bình, Tăng Nhu bốn người lên bờ. Ân Cẩm ép nhà thuyền rời thuyền. Một tên phu thuyền hơi tỏ ý tranh cãi, Ân Cẩm lập tức một đao chém chết. Bọn nhà thuyền còn lại đều sợ mất hồn mất vía, làm sao còn dám lên tiếng, chỉ đành ngoan ngoãn vâng lời.

Chỉ thấy trên đảo cây cối cháy sém, gạch ngói vương vãi, khắp nơi đều có dấu vết pháo kích trước đây. Trong rừng mùi hôi thối bốc lên, dọc đường đi đều có xương rắn nằm la liệt. Vào tới trước đại sảnh, chỉ thấy tường sập tre gãy, mấy mươi gian nhà trúc đã tan nát không còn gì.

Hồng giáo chủ đứng im không nói. Bọn Ân Cẩm đều có vẻ giận dữ, thỉnh thoảng lại trừng mắt hung dữ nhìn Vi Tiểu Bảo.

Trương Đạm Nguyệt cao giọng gọi lớn “Hồng giáo chủ đã trở về đảo! Giáo chúng các lộ, mau ra tham bái giáo chủ”. Y trung khí đầy rẫy, đề khí gọi lớn, âm thanh vang xa vài dặm. Qua một lúc, y lại gọi hai lượt. Chỉ nghe trong hang núi văng vẳng có tiếng dội lại “Đã trở về đảo! Tham bái giáo chủ! Đã trở về đảo! Tham bái giáo chủ!”.

Qua hồi lâu, bốn phía vẫn yên ắng không có tiếng động, không những không thấy giáo chúng như ong đổ ra, ngay cả tiếng đáp của một người cũng không có.

Hồng giáo chủ quay lại nhìn Vi Tiểu Bảo lạnh lùng nói “Ngươi pháo kích bản đảo, đánh cho một Thần Long giáo to lớn thế này như băng tan ngói vỡ, như thế đã thỏa lòng chưa?”.

Vi Tiểu Bảo thấy mặt y đầy vẻ oán độc, bất giác nổi gai ốc, run lên nói “Cái cũ không đi thì cái mới không… không tới. Hồng giáo chủ trùng chấn hùng phong, đại triển hồng đồ, lại… lại sáng lập giáo mới, khai trương phát tài, cái đó gọi là càng đốt càng phát, càng bắn càng vượng, giáo chủ và phu nhân tiên phúc mãi hưởng…”.

Hồng giáo chủ nói “Hay lắm!”, phi chân đá y bay tung ra, bùng một tiếng, đập mạnh xuống đất, xương cốt toàn thân như đều gãy nát, lồm cồm bò dậy. Tăng Nhu thấy Hồng giáo chủ hung dữ như thế, tuy rất sợ hãi nhưng cũng bước qua đỡ Vi Tiểu Bảo đứng lên.

Ân Cẩm bước lên khom lưng nói “Bẩm giáo chủ, thằng tiểu tặc này tội đáng muôn chết, xin để thuộc hạ từng đao từng đao cắt thịt y ra”. Hồng giáo chủ hừ một tiếng, nói “Không gấp”. Qua một lúc lại nói “Trong lòng thằng tiểu tử này còn giấu giếm một bí mật trọng đại, việc hưng phục của bản giáo toàn nhờ vào điều bí mật ấy, tạm thời không thể giết y”. Ân Cẩm nói “Vâng, vâng. Giáo chủ nhìn xa thấy rộng, thuộc hạ ngu xuẩn, không hiểu được điều ảo diệu bên trong”.

Hồng giáo chủ ngồi xuống một tảng đá lớn, ngưng thần suy nghĩ một lúc, nói “Trước nay thành được việc lớn, nhất định phải nhiều tai lắm nạn. Bản giáo nhất thời tổn thất, cũng không đáng lo. Trước mắt giáo chúng tan nát, chúng ta phải làm sao chỉnh đốn cờ trống, mọi người đừng ngại nêu ý kiến ra đi”.

Ân Cẩm nói “Giáo chủ anh minh trí tuệ, bọn ta có nghĩ mười ngày mười đêm, cũng không bằng giáo chủ linh cơ nhất động, còn xin giáo chủ chỉ thị kế hay, để mọi người tuân lệnh mà làm”.

Hồng giáo chủ gật gật đầu, nói “Chuyện quan trọng trước mắt là phải tụ họp giáo chúng trở lại. Lần trước quan quân Thát Đát pháo kích bản đảo, giáo chúng tuy bị thương vong không ít, nhưng chẳng qua cũng chỉ ba phần mất một, còn được hai phần, nhất định tan tác ra bốn phía. Bây giờ thăng Lục Cao Hiên làm Bạch Long sứ để bổ sung cho đủ số Ngũ Long sứ”. Lục Cao Hiên khom người cảm tạ. Hồng giáo chủ lại nói “Thanh Hoàng Xích Bạch Hắc Ngũ Long sứ ngay hôm nay chia nhau đi các nơi chiêu tập bộ thuộc cũ, nếu thấy những thiếu niên nam nữ có tư chất tốt đẹp thì thu nhận làm thuộc hạ, rủ gọi người cũ thu nhận người mới, trùng hưng thần giáo”.

Ân Cẩm, Trương Đạm Nguyệt, Lục Cao Hiên ba người khom lưng nói “Kính cẩn tuân lệnh giáo chủ”. Xích Long sứ Vô Căn đạo nhân và Thanh Long sứ Hứa Tuyết Đình thì im lặng không nói gì. Hồng giáo chủ liếc nhìn hai người, hỏi “Xích Long sứ, Thanh Long sứ có gì muốn nói?”. Hứa Tuyết Đinh nói “Bẩm giáo chủ, thuộc hạ có hai điều trần tình, mong giáo chủ ưng chuẩn”. Hồng giáo chủ hừ một tiếng, hỏi “Chuyện gì?”. Hứa Tuyết Đình nói “Bọn thuộc hạ trước nay trung thành với bản giáo và giáo chủ, nhưng giáo chủ thủy chung vẫn không tin tưởng các huynh đệ, không khỏi khiến người ta trong lòng chán nản. Chuyện thứ nhất là xin giáo chủ ra ơn ban cho thuốc giải Báo thai dịch cân hoàn, để các huynh đệ trong lòng không lo lắng, toàn tâm toàn ý ra sức cho giáo chủ”.

Hồng giáo chủ lạnh lùng nói “Nếu ta không cho thuốc giải, thì các ngươi không toàn tâm toàn ý làm việc phải không?”.

Hứa Tuyết Đình nói “Thuộc hạ không dám. Chuyện thứ hai là bọn thiếu niên nam nữ làm nên việc thì không đủ mà làm hỏng việc thì có thừa, một khi gặp việc lớn, người nào cũng bỏ chạy. Lần trước bản giáo gặp tai họa, nhưng thủy chung bên cạnh giáo chủ và phu nhân chỉ có mấy huynh đệ già bọn ta. Bọn thiếu niên đệ tử kia ngày thường luôn miệng nói quyết không hai lòng, lội qua nước sôi đạp lên lửa bỏng, muôn chết không từ gì gì, nhưng đến khi có việc thì có kẻ nào thật sự ra sức đâu? Theo ngu kiến của thuộc hạ, chúng ta trùng hưng bản giáo, nên chiêu mộ kẻ nam tử hán đại trượng phu có can đảm, có khí cốt. Bọn thiếu niên nam nữ nói một đằng làm một nẻo, ăn nói bừa bãi bậy bạ như thằng tiểu tặc phản nghịch Vi Tiểu Bảo này thì không cần chiêu nạp”. Y nói một câu, vẻ mặt Hồng giáo chủ lại sa sầm thêm một ít. Hứa Tuyết Đình trong lòng sợ sệt, nhưng vẫn ngẩng đầu nói hết câu.

Hồng giáo chủ ánh mắt bắn vào mặt Vô Căn đạo nhân, lạnh lùng nói “Còn ngươi thì nói gì?”. Vô Căn đạo nhân lui lại hai bước, nói “Thuộc hạ thấy lời Thanh Long sứ có chỗ có lý. Vết xe trước đã đổ, không nên đi theo đường cũ. Không trải qua một việc, không khôn thêm một chút, đã phạm một lỗi nhỏ, giáo chủ đại trí đại tuệ, tự nhiên đã hiểu rõ bọn thiếu niên nam nữ ấy không thể dùng được, cũng không tin được. Giống như… giống như…”, nói tới đó chỉ qua Mộc Kiếm Bình, nói “Cô nương nhỏ này vốn là thuộc hạ trong Xích Long môn ta, giáo chủ đối xử với cô ta ơn đức không nhỏ, nhưng vừa qua một phen hoạn nạn đã lập tức phản giáo hàng giặc. Loại người như thế này cần phải truy tìm bằng được, róc xương lột da để làm gương cho bọn phản đồ”.

Hồng giáo chủ ánh mắt quét qua từng người bọn Lục Cao Hiên, hỏi “Đây là ý mọi người bàn bạc kỹ với nhau phải không?”.

Mọi người im lặng không nói. Qua một lúc lâu, Bạn đầu đà nói “Bẩm giáo chủ, bọn ta không bàn bạc, có điều… có điều thuộc hạ cho rằng lời Thanh Long sứ, Xích Long sứ rất có đạo lý”. Hồng giáo chủ nhìn Trương Đạm Nguyệt, chờ y lên tiếng.

Trương Đạm Nguyệt run run nói “Lần trước bản giáo gặp tai họa suýt bị tiêu diệt, kẻ đầu sỏ tội ác tự nhiên chính là thằng tiểu tặc Vi Tiểu Bảo này. Thuộc hạ đối với loại người thì này thì ngàn vạn lần không tin được”. Hồng giáo chủ gật gật đầu, nói “Tốt lắm, ngươi cũng cùng bọn với họ. Lục Cao Hiên, ngươi thì sao?”. Lục Cao Hiên nói “Thuộc hạ được giáo chủ ra ơn đề bạt, thăng nhiệm làm Bạch Long sứ, dĩ nhiên phải ra sức tận trung vì giáo chủ. Tâm ý của bọn Thanh Long sứ lần này cũng là suy nghĩ cho bản giáo và giáo chủ, chứ quyết không có ý gì khác”.

Ân Cẩm cao giọng nói “Các ngươi nói thế đều rất sai. Giáo chủ trí tuệ cao hơn chúng ta hàng trăm lần. Mọi người cần gì nói nhiều, cứ nghe lời chỉ huy của giáo chủ và phu nhân là được. Quân Thát Đát pháo kích bản đảo chính là giúp bản giáo tẩy rửa những kẻ nhơ bẩn, bọn phản đồ không trung thành với giáo chủ đều đã tan đi hết. Nếu không như thế thì làm sao biết được ai trung ai gian? Đám thuộc hạ chúng ta đều là ếch ngồi đáy giếng, kiến thức hẹp hòi, chỉ thấy sự được mất nhất thời, chứ làm sao được như giáo chủ nhìn suốt trăm đời?”.

Hứa Tuyết Đình tức giận nói “Sở dĩ bản giáo thua một trận tan nát, có một nửa chính là vì bọn người vỗ mông ngựa các ngươi đấy. Ngươi vỗ bừa mông ngựa, có chỗ nào hay cho bản giáo, cũng có chỗ nào hay cho giáo chủ?”. Ân Cẩm nói “Cái gì mà vỗ mông ngựa? Ngươi… ngươi… ngươi định làm phản à?”. Hứa Tuyết Đình tức giận nói “Loại tiểu nhân vô sỉ như ngươi làm bại hoại bản giáo, ngươi mới là làm phản đấy”. Nói xong đặt tay lên chuôi kiếm. Ân Cẩm lui lại một bước, nói “Hôm trước ngươi làm loạn phạm thượng, phản bội giáo chủ, may được giáo chủ và phu nhân khoan hồng đại lượng không truy cứu nữa, hôm nay… hôm nay ngươi lại muốn tạo phản à?”.

Hứa Tuyết Đình, Vô Căn đạo nhân, Trương Đạm Nguyệt, Lục Cao Hiên, Bạn đầu đà năm người nhất tề trợn mắt nhìn giáo chủ, căm giận không nói gì.

Hồng giáo chủ quay nhìn Ân Cẩm, trong mắt lóe lên tia sáng tàn khốc. Ân Cẩm giật nảy mình, lại lui lại một bước, nói “Giáo chủ, năm… năm người bọn họ mưu đồ chuyện bất chấp, phải giết cả đi”. Hồng giáo chủ hạ giọng nói “Mới rồi ngươi nói gì?”. Ân Cẩm thấy thần sắc y không hay, lại càng khiếp sợ, run giọng nói “Thuộc hạ trung… trung… trung thành với giáo chủ, thề không… không cùng sống với bọn phản tặc này”. Hồng giáo chủ nói “Chúng ta đã lập lời trọng thệ, nếu nhắc lại chuyện cũ, tính toán nợ nần, thì sẽ thế nào?”. Ân Cẩm sợ mất vía, nói “Xin giáo… giáo chủ ra ơn, thuộc hạ chỉ là một tấm lòng trung, không… không hề có ý gì khác”. Hồng giáo chủ nói “Hôm trước ta và phu nhân đã lập lời trọng thệ, nếu trong lòng còn nhớ thù oán cũ, sẽ bị ném xuống đầm rồng, bị hàng vạn con rắn cắn xé. Chuyện đó đã sớm một nét bút xóa rồi, ai cũng đã quên hết, chỉ có ngươi còn khăn khắn không quên, cứ có cơ hội là khích bác ly gián, rốt lại là có ý gì, mưu tính chuyện gì?”.

Ân Cẩm trên mặt không còn chút huyết sắc, hai gối khuỵu xuống quỳ sụp xuống đất, nói “Thuộc hạ biết lỗi, trở đi vĩnh viễn không dám nhắc tới nữa”. Hồng giáo chủ lạnh lùng nói “Người trong bản giáo đã phát lời thề độc, há lại có thể tùy tiện vi phạm? Lời thề ấy nếu không ứng vào ngươi, thì sẽ ứng vào ta. Ngươi nói nên ném ngươi hay ném ta xuống đầm rồng?”. Ân Cẩm la lớn một tiếng, nhảy lùi lại hơn một trượng, xoay người sải chân bỏ chạy. Hồng giáo chủ chờ y chạy ra vài trượng, cúi xuống nhặt một viên đá ném ra, vù một tiếng trúng vào gáy y. Y la thảm một tiếng, nhảy bật lên ngã vật xuống đất, giật giật mấy cái rồi chết luôn.

Hồng giáo chủ nhìn thấy năm người bọn Hứa Tuyết Đỉnh mà liên thủ, bằng vào võ công của mình, thêm phu nhân và Ân Cẩm giúp đỡ cũng đủ chế phục được, nhưng sau khi nguyên khí trong giáo bị tổn thương trầm trọng, đã chỉ còn lơ thơ vài người, Ân Cẩm chỉ biết nịnh nọt gièm pha chứ không có bao nhiêu bản lãnh thật sự, nếu lại giết năm người này đi thì mình không còn bộ thuộc nào nữa. Y trong chớp mắt cân nhắc nặng nhẹ lợi hại, lập tức giết chết Ân Cẩm để dập tắt sự tức giận của bọn Hứa Tuyết Đình.

Trương Đạm Nguyệt và Lục Cao Hiên khom người nói “Giáo chủ nói ra như núi, giết kẻ gian tà, thuộc hạ rất khâm phục”. Hứa Tuyết Đình, Vô Căn đạo nhân, Bạn đầu đà ba người cũng đồng thanh nói “Đa tạ giáo chủ”. Năm người lúc bình thời thấy Ân Cẩm thổi da bò vỗ mông ngựa, nhân phẩm hèn hạ, đã mười phần khinh bỉ y. Lúc ấy thấy giáo chủ đích thân ra tay giết chết y, đều cảm thấy rất vui sướng.

***

Hồng giáo chủ chỉ Vi Tiểu Bảo nói “Không phải ta muốn tha mạng y, nhưng thằng tiểu tử này biết được ở vùng Liêu Đông cực bắc lạnh giá có một kho báu lớn. Nếu không phải y dẫn đường thì không sao tìm được. Sau khi tìm được kho báu rồi, chúng ta trùng kiến Thần Long giáo dễ như trở bàn tay”. Ngừng lại một lúc, lại nói “Mới rồi năm người các ngươi nói bọn thiếu niên nam nữ kia rất không đáng tin cậy, khuyên ta không nên đi vào vết xe đổ cũ. Bản tòa nghĩ kỹ , cũng không phải không có đạo lý. Vậy thì cứ theo chủ trương của các ngươi, từ nay về sau lúc bản giáo chiêu mộ giáo chúng mới, phải đặc biệt cẩn thận, để tránh chuyện bọn gian tà nịnh hót trà trộn vào giáo”. Bọn Hứa Tuyết Đình tỏ vẻ vui mừng, khom lưng cảm tạ.

Hồng giáo chủ lấy trong người ra hai cái bình sứ, đổ ra năm viên thuốc màu vàng, năm viên thuốc màu trắng. Y cất bình vào bọc, đặt thuốc trên lòng bàn tay, nói “Đây là thuốc giải Báo thai dịch cân hoàn, mỗi người các ngươi uống hai viên”. Bọn Hứa Tuyết Đình cả mừng, bước lên cảm tạ nhận thuốc. Hồng giáo chủ nói “Các ngươi uống ngay đi”. Năm người cho dược hoàn vào miệng, nuốt luôn xuống bụng.

Hồng giáo chủ trên mặt thoáng nét cười, nói “Thế thì tốt rồi…”, đột nhiên quát lớn “Lục Cao Hiên, trong tay trái ngươi cầm cái gì thế?”. Lục Cao Hiên lui lại hai bước, nói “Không… không có gì”, tay trái buông xuống nắm lại thành quyền. Hồng giáo chủ cao giọng quát “Xòe tay trái ra!”, tiếng quát ấy chấn động khiến mọi người đều nghe trong tai ong ong.

Lục Cao Hiên thân hình hơi loạng choạng, bàn tay trái từ từ xòe ra, cách một tiếng nhỏ, một viên dược hoàn màu trắng rơi xuống đất.

Bọn Hứa Tuyết Đình bốn người đều biến sắc, vốn biết Lục Cao Hiên kiến thức bất phàm, rất có mưu trí, y giấu viên thuốc màu trắng không uống ắt có đạo lý, nhưng mình đã nuốt xuống bụng rồi, làm sao là đúng?

Hồng giáo chủ dằn giọng nói “Viên thuốc màu trắng là Tuyết sâm hoàn cường thân kiện thể đại bổ, tại sao ngươi lại nghi ngờ bản tòa, giấu đi không uống?”. Lục Cao Hiên nói “Thuộc hạ… không… không dám. Gần đây thuộc hạ luyện nội công không ổn, khí huyết trong kinh mạch hơi bị trở ngại, vì thế… vì thế định là tối nay sau khi tọa công xong sẽ uống viên thuốc đại bổ mà giáo chủ ban cho này, để khỏi phí thuốc…”.

Hồng giáo chủ sắc mặt lập tức trở nên hòa hoãn, nói “Té ra là thế. Khí huyết trong kinh mạch nào của ngươi không ổn? Chuyện ấy cũng rất dễ, ta giúp ngươi điều hòa nội tức là được. Ngươi bước lại đây”.

Lục Cao Hiên lại lùi một bước, nói “Không dám làm phiền giáo chủ, thuộc hạ từ từ điều tức cũng được”. Hồng giáo chủ thở dài một tiếng, nói “Nói như thế là rốt lại ngươi không tin ta chứ gì?”. Lục Cao Hiên nói “Thuộc hạ nhất định không dám”. Hồng giáo chủ chỉ viên thuốc màu trắng dưới đất, nói “Vậy thì ngươi uống vào ngay đi, nếu uống vào mà khí huyết không điều hòa, lẽ nào ta lại buông tay đứng nhìn?”.

Lục Cao Hiên nhì nhìn viên thuốc, ngẩn ra một lúc, nói “Vâng!”. Rồi cúi xuống nhặt lên, đột nhiên ngón giữa bật ra, vù một tiếng, viên thuốc bay lên không rơi xuống sơn cốc xa xa, nói “Thuộc hạ đã uống rồi, đa tạ giáo chủ”.

Hồng giáo chủ hô hô cười rộ, nói “Được, được, được! Đầu óc của ngươi quả thật không kém”. Lục Cao Hiên nói “Thuộc hạ trung thành ra sức cho giáo chủ, giáo chủ đã ban thưởng cho thuốc giải, giải độc tính của Báo thai dịch cân hoàn, lại ban cho thuốc Bách diên hoàn còn độc hơn. Thuộc hạ không có tội, không muốn chịu phạt”. Bọn Hứa Tuyết Đình cùng hỏi “Bách diên hoàn à? Đó là thuốc độc gì?”. Lục Cao Hiên nói “Giáo chủ tìm nước bọt của một trăm loại độc xà độc trùng điều chế thành thuốc này. Có phải là thuốc kịch độc không thì không rõ lắm, biết đâu cũng có công hiệu đại bổ không chừng. Chỉ là ta nhút nhát không dám uống thử thôi”.

Bọn Hứa Tuyết Đình lại cảng hoảng sợ, đồng thời sấn tới cạnh Lục Cao Hiên, năm người đứng thành một hàng, trừng mắt nhìn Hồng giáo chủ.

Hồng giáo chủ lạnh lùng nói “Tại sao ngươi biết là Bách diên hoàn? Chỉ nói bậy bạ, khích bác ly gián, làm rối loạn nhân tâm”.

Lục Cao Hiên chỉ Phương Di một cái, nói “Hôm trước ta thấy Phương cô nương bắt oa ngưu trong bụi cỏ, ta hỏi để làm gì, cô ta nói vâng lệnh giáo chủ, bắt oa ngưu về làm thuốc. Trang dược phương Bách diên hoàn này của giáo chủ, ta cũng đã vô tình nhìn thấy. Tuy nói là độc tính của Bách diên hoàn sau ba năm mới phát tác, nhưng một là Bách diên hoàn này e giáo chủ chưa điều chế lần nào, cũng không biết có đúng là sau ba năm độc tính mới phát tác không, hai là thuộc hạ muốn sống thêm vài năm, không muốn sau ba năm sẽ chết”.

Hồng giáo chủ làn khí đen trên mặt càng dày, quát “Tại sao ngươi thấy được dược phương của ta?”.

Lục Cao Hiên đưa mắt nhìn Hồng phu nhân một cái, nói “Phu nhân muốn thuộc hạ tìm thuốc trong rương của giáo chủ cho để uống, dược phương này là trong rương thuốc”. Hồng giáo chủ cao giọng nói “Nói bậy! Cho dù phu nhân trong người không khỏe, chẳng lẽ lại không biết hỏi ta lấy thuốc à, cần gì nhờ ngươi tìm? Rương thuốc của ta trước nay khóa rất chặt, tại sao ngươi dám lén mở ra?”. Lục Cao Hiên nói “Thuộc hạ chưa từng lén mở ra”. Hồng giáo chủ quát “Ngươi không lén mở ra, chẳng lẽ là ta sai ngươi mở à?”. Xoay chuyển ý nghĩ hỏi Hồng phu nhân “Là cô mở cho y phải không?”.

Hồng phu nhân sắc mặt trắng bệch, từ từ gật đầu. Hồng giáo chủ nói “Cô muốn tìm thuốc gì? Tại sao không nói với ta?”. Hồng phu nhân đột nhiên trên mặt đỏ bừng, lại lập tức trắng bệch, thân hình run lên mấy cái, đột nhiên đè tay vào bụng dưới, cổ họng òng ọc thành tiếng, nôn ra không ít nước trong.

Hồng giáo chủ cau mày, ôn tồn hỏi “Cô không khỏe à? Ngồi xuống nghỉ đi”.

Công chúa Kiến Ninh đột nhiên la lên “Cô ta có em bé. Lão già ngu ngốc nhà ngươi, con của mình cũng không biết à?”.

Hồng giáo chủ giật nảy mình, tung người vọt tới, nắm cổ tay Hồng phu nhân cao giọng nói “Cô ta nói có đúng không?”. Hồng phu nhân gập người xuống không ngừng nôn ọe, càng lúc càng run dữ dội. Hồng giáo chủ lạnh lùng nói “Cô định tìm thuốc trục thai, có phải không?”

Ngoài Lục Cao Hiên, mọi người nghe thấy không ai không ngạc nhiên. Hồng giáo chủ hoàn toàn không có con, đối với phu nhân lại mười phần yêu thương, nếu phu nhân sinh được một đứa con cho y thì bất kể là trai hay gái cũng là một chuyện vui mừng lớn, tại sao nàng lại muốn phá thai? Chắc là Hồng giáo chủ đoán sai. Nào ngờ Hồng phu nhân từ từ gật đầu, nói “Không sai, ta muốn phá thai, mau giết ta đi”.

Hồng giáo chủ giơ chưởng trái lên, quát “Là con của ai?”. Mọi người đều biết y võ công cực cao, một chưởng này đập xuống, Hồng phu nhân ắt lập tức mất mạng, không ngờ nàng lại ngẩng đầu lên, ngang nhiên nói “Đã bảo ngươi giết ta mau đi, tại sao còn không xuống tay?”. Hồng giáo chủ mắt như tóe lửa, hạ giọng nói “Ta không giết cô. Là con của ai?”.

Hồng phu nhân nghiến nghiến răng, thái độ vô cùng quật cường, rõ ràng là đã sớm gác bỏ tính mạng ra ngoài rồi.

Hồng giáo chủ ngẩng đầu lên, trừng trừng nhìn Lục Cao Hiên, hỏi “Là ngươi phải không?”. Lục Cao Hiên vội nói “Không phải, không phải! Thuộc hạ kính trọng phu nhân như thiên thần, đâu dám mạo phạm?”. Hồng giáo chủ ánh mắt từ từ quét từ mặt Lục Cao Hiên qua Trương Đạm Nguyệt, Hứa Tuyết Đình, Vô Căn đạo nhân, Bạn đầu đà. Ánh mắt y nhìn tới người nào, người ấy lập tức rùng mình. Hồng phu nhân cao giọng nói “Không phải ai cả, ngươi giết ta là được, hỏi nhiều làm gì”. Công chúa kêu lên “Cô ta là vợ ngươi, đứa con này tự nhiên là của ngươi, còn nghi ngờ cái gì? Thật là hồ đồ quá mức”. Hồng giáo chủ quát “Câm miệng, ngươi mà nói thêm một câu, ta sẽ vặn cổ ngươi trước”. Công chúa không dám nói nữa, nhưng trong lòng không phục. Nàng làm sao biết được, Hồng giáo chủ mấy năm nay tu tập nội công thượng thừa, đã sớm không gần nữ sắc, tình cảm vợ chồng với phu nhân tuy đằm thắm nhưng không có chuyện vợ chồng, cũng chính vì như thế nên trong lòng có ý xấu hổ với nàng, lúc bình thời đối với nàng càng yêu thương kính trọng.

Lúc ấy y đột nhiên nghe nói phu nhân có thai, trong chớp mắt phẫn nộ, xấu hổ, hối hận, đau lòng, khổ sở, căm hận, đau xót, hoảng sợ đủ thứ tình cảm phát sinh đan xen vào nhau, tay chưởng giơ cao nhưng không đập xuống được, vừa quay lại nhìn, thấy trên mặt bọn Hứa Tuyết Đình người nào cũng lộ vẻ khiếp sợ, nghĩ thầm “Chuyện xấu xa này hôm nay đều bị bọn họ biết được. Mình còn mặt mũi nào làm giáo chủ của họ nữa? Phải giết sạch bọn người này không để một ai còn sống. Chỉ cần lộ ra nửa điểm phong thanh, hảo hán giang hồ ai cũng chê cười mình, thì mình còn làm anh hùng hào kiệt gì nữa?”. Y sát cơ vừa dấy, đột nhiên tay phải buông phu nhân ra, tung người vọt lên vung tay một cái chụp được Lục Cao Hiên, quát “Đều là thằng giáo đồ phản giáo nhà ngươi giở trò bên trong”.

Lục Cao Hiên la lớn “Ngươi muốn giết người bịt…”, chữ “miệng” còn chưa nói ra, trên đỉnh đầu đã chát một tiếng, bị Hồng giáo chủ đập mạnh một chưởng, lập tức hai mắt lồi ra, tắt hơi chết ngay.

Bọn Hứa Tuyết Đình nhìn thấy thảm trạng như thế, biết Hồng giáo chủ quả thật muốn giết người bịt miệng, nhất tề rút binh khí ra bảo vệ trước mặt. Hứa Tuyết Đình kêu lên “Giáo chủ, đây là chuyện riêng của ngươi, không liên can gì tới bọn thuộc hạ”.

Hồng giáo chủ cao giọng nói “Hôm nay mọi người cùng chết, đừng ai mong được sống nữa”. Rồi xông vào bốn người.

Bạn đầu đà nhấc hai thanh Bát phong đại hoàn đao nặng hơn hai mươi cân lên chém thẳng xuống, lực đạo cực kỳ mãnh liệt. Hồng giáo chủ nghiêng người tránh qua, chưởng phải đập xuống mũi đao. Hứa Tuyết Đình một cặp Phán quan bút đâm luôn hai chiêu liên hoàn vào lưng Hồng giáo chủ, đồng thời thanh Nhạn linh đao của Vô Căn đạo nhân cũng đã chém tới hông y. Hồng giáo chủ quát lớn một tiếng, nhảy vọt lên không, vẫn xông tới Trương Đạm Nguyệt.

Trương Đạm Nguyệt cầm một đôi Uyên ương đoản kiếm, trong chớp mắt đã đâm ra bảy kiếm, chiêu Thất tinh tụ nguyệt này là tuyệt kỹ bình sinh của y, bảy kiếm liên tiếp đâm ra vô cùng mau lẹ. Hồng giáo chủ chưởng phải hơi nghiêng đi, đè nhẹ xuống vai y một cái, mượn thế nhảy lên. Trương Đạm Nguyệt la lớn một tiếng, lăn tròn một vòng xuống đất rồi nhảy bật dậy, nhưng cảm thấy nửa người bên trái đau buốt không sao chịu được, quát lớn “Hôm nay mà không giết y, thì không ai sống được đâu”. Bốn người đều huy động binh khí, lại bao vây tấn công Hồng giáo chủ.

Bốn người này đều là nhân vật hạng nhất trong Thần Long giáo, nhất là Bạn đầu đà và Hứa Tuyết Đình võ công lại càng cao cường. Chín cái vòng lớn trên đại hoàn đao của Bạn đầu đà khua lên leng keng, oai thế rất cương mãnh. Cặp Phán quan bút của Hứa Tuyết Đình lại khéo léo mềm mại, chiêu nào cũng điểm vào yếu huyệt trên người đối phương. Vô Căn đạo nhân múa thanh Nhạn linh đao thành một vầng bạch quang, nghĩ thầm hôm nay đã uống Bách diên hoàn, tính mạng khó mà kéo dài, trước khi chết nhất định phải giết tên đại cừu nhân gian trá tàn độc này, nên trong mười chiêu có tới chín chiêu là tấn công, chỉ mong cùng địch nhân đồng quy ư tận. Trương Đạm Nguyệt nghĩ lại năm trước vì thuộc hạ làm việc bất lực, không lấy được Tứ thập nhị chương kinh, nếu không được Vô Căn đạo nhân và Hứa Tuyết Đình giúp đỡ thì đã sớm bị Hồng giáo chủ xử tử, mình đã sống thêm được bấy nhiêu ngày, cái mạng này quả thật là có thêm mà thôi, lúc ấy tuy vai trái đau kịch liệt, vẫn cố gắng phóng kiếm đâm ra.

Hồng giáo chủ võ công cao cường hơn hẳn bốn người, nếu muốn lấy tính mạng của một người trong bọn thì hoàn toàn không khó, nhưng bốn người liên hoàn tấn công, nếu giết một người thì chính mình cũng không khỏi bị thương. Đánh được vài mươi hiệp, nỗi uất ức trong lòng từ từ lắng xuống, đầu óc bình tĩnh lại, chiêu thức tùy tâm ứng thủ phát ra, một đôi nhục chưởng tới lui trong vòng vây của mấy món binh khí vẫn hoàn toàn không rơi vào thế hạ phong, nhìn thấy kiếm bên tay trái Trương Đạm Nguyệt phóng ra đã dần dần không còn sức lực, nghĩ thầm đó là chỗ yếu nhất của đối phương, nhắm vào đó ra tay, thì có thể phá tan cường địch.

***

Vi Tiểu Bảo thấy bốn người ác đấu, rón rén kéo tay áo Tăng Nhu và Mộc Kiếm Bình, lại ra hiệu cho công chúa bảo nàng đừng lên tiếng. Bốn người quay lại, nhón chân đi xuống dưới núi. Năm người bọn Hồng giáo chủ đánh nhau đến lúc quyết liệt, không ai nhìn thấy, mà cho dù có nhìn thấy, cũng không ai rảnh rỗi mà ra tay cản trở.

Bốn người đi được một lúc, cách bọn Hồng giáo chủ đã xa, trong lòng mừng thầm. Vi Tiểu Bảo quay đầu nhìn, thấy năm người vẫn đang ác đấu, ánh đao chớp chớp, bóng chưởng trùng trùng, nhất thời khó phân thắng bại, liền nói “Chúng ta chạy mau thôi”.

Bốn người gia tăng cước bộ, chợt nghe sau lưng có tiếng bước chân vang lên, hai người sải chân đuổi theo, chính là Hồng phu nhân và Phương Di. Bốn người giật nảy mình, khổ nỗi binh khí ám khí trên người đều đã bị lục soát lấy hết lúc bị bắt, Phương Di thì cũng thôi, chứ Hồng phu nhân thì rất lợi hại, nghĩ là không chống cự được, chỉ còn cách ra sức bỏ chạy.

Chạy được vài mươi bước, công chúa vấp chân vào đá ngã lăn xuống đất, kêu lên mấy tiếng. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Trong bụng cô ta có con của mình, không thể không cứu”, liền quay lại đỡ lên. Chỉ thấy Hồng phu nhân nhô lên hụp xuống mấy cái đã tới trước mặt, chống nạnh đứng nhìn, nói “Vi Tiểu Bảo, ngươi định trốn à?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Không phải là bọn ta trốn, phong cảnh ở đây rất đẹp, qua đây nhìn ngắm thôi”. Hồng phu nhân cười nhạt nói “Hay lắm, các ngươi tới đây ngắm cảnh, sao không gọi ta?”. Đang nói thì Phương Di đã chạy tới.

Mộc Kiếm Bình và Tăng Nhu thấy Vi Tiểu Bảo đã bị Hồng phu nhân chặn đường, quay người trở lại đứng bên cạnh y.

Mộc Kiếm Bình nói với Phương Di “Phương sư tỷ, ngươi đi với bọn ta thôi. Y… y…”, nói tới đó chỉ Vi Tiểu Bảo nói tiếp “… Trước nay đối xử với ngươi rất tốt, trước kia ngươi từng lập lời trọng thệ, chẳng lẽ đã quên rồi à?”. Phương Di nói “Ta chỉ trung thành với phu nhân, chỉ nghe lệnh phu nhân”. Mộc Kiếm Bình nói “Ngươi chẳng qua chỉ là đã uống thuốc của phu nhân, trước kia ta cũng đã uống…”.

Vi Tiểu Bảo sực hiểu ra, mới biết Phương Di trước nay liên tiếp đánh lừa mình đều là vì bị Hồng phu nhân khống chế, không thể không làm như thế, nỗi căm hận đối với nàng lập tức tiêu tan, nói “Di tỷ tỷ, cô đi cùng với bọn ta thôi”. Ba chữ “Di tỷ tỷ” ấy là y đã quen gọi lúc cùng Phương Di tới đảo Thần Long, trên thuyền thân thiết với nhau, Phương Di vừa nghe thấy, không kìm được đỏ mặt. Đột nhiên nghe Hồng giáo chủ quát lớn “Phu nhân, phu nhân! A Thuyên, A Thuyên! Cô… cô đi đâu rồi?”. Trong tiếng gọi đầy vẻ hoảng sợ lo lắng, rõ ràng rất sợ Hồng phu nhân bỏ y mà đi.

Nhưng Hồng phu nhân như không nghe thấy gì. Hồng giáo chủ lại gọi mấy tiếng nữa, nhưng Hồng phu nhân thủy chung vẫn không trả lời.

Năm người bọn Vi Tiểu Bảo đều nhìn Hồng phu nhân, cùng nghĩ “Tại sao ngươi không trả lời? Hồng giáo chủ gọi, tại sao ngươi không quay lại?”. Chỉ thấy mặt Hồng phu nhân đỏ bừng, lắc lắc đầu, hạ giọng nói “Chúng ta đi mau, lên thuyền chạy thôi!”. Vi Tiểu Bảo vừa sợ vừa mừng, hỏi “Ngươi… ngươi cũng đi cùng bọn ta à?”. Hồng phu nhân nói “Trên đảo chỉ có một chiếc thuyền, không đi cùng cũng không được. Giáo chủ muốn giết ta, ngươi không biết sao”, chợt đỏ mặt lên, bước lên đi trước.

Mọi người chạy xuống núi được vài trượng, chỉ nghe Hồng giáo chủ lại cao giọng gọi “Phu nhân, phu nhân! A Thuyên, A Thuyên! Mau quay lại!”. Đột nhiên có người cất tiếng gào thảm, rõ ràng là tiếng gào trước khi chết, chỉ không biết là người nào trong bọn Hứa Tuyết Đình.

Hồng giáo chủ kêu lên “Cô thấy đấy, cô thấy đấy! Thằng đầy tớ Trương Đạm Nguyệt bị ta giết rồi. Y suốt đời đều theo ta, đến lúc tuổi già, lại định phản ta, thật là hồ đồ quá mức. A Thuyên, A Thuyên, sao cô không quay lại? Ta không trách cô đâu. Chuyện kia ta bỏ qua cho cô. A! Con mẹ nó, ngươi chém trúng ta rồi! Hô hô, Bạn đầu đà, một chưởng ấy còn chưa lấy được cái mạng chó của ngươi sao? Ngươi đầu óc ngu ngốc, tại sao lại theo người làm phản ta, há không phải là đáng chết sao? Hô hô”.

Hồng phu nhân dừng chân, biến hẳn sắc mặt, nói “Y đã giết chết hai người rồi”.

Vi Tiểu Bảo vội nói “Chúng ta chạy mau”, rồi sải chân chạy đi.

Chợt nghe Hồng giáo chủ kêu lên “Hai thằng phản tặc các ngươi, ta sẽ từ từ thu thập sau. Phu nhân, phu nhân, mau quay lại!”, thanh âm càng lúc càng gần, là từ trên núi đuổi xuống. Vi Tiểu Bảo quay lại nhìn, chỉ thấy Hồng giáo chủ đầu tóc xõa tung, mau lẹ vọt tới, quả thật hoảng sợ hồn phi phách tán, cắm đầu chạy trối chết.

Hứa Tuyết Đình quát lớn “Chặn y lại, chặn y lại. Y bị trọng thương rồi, hôm nay không giết y không xong”. Vô Căn đạo nhân quát “Y không chạy được đâu”, hai người tay cầm binh khí đuổi theo, không bao lâu bọn Vi Tiểu Bảo đã chạy tới bờ biển, nhưng Hồng giáo chủ, Hứa Tuyết Đình, Vô Căn đạo nhân chạy tới rất mau, kẻ trước người sau đều đã chạy xuống núi, ba người trên người trên mặt đều đầy máu tươi.

Hồng giáo chủ gọi lớn “Phu nhân, tại sao cô không trả lời ta? Cô định đi đâu?”. Hứa Tuyết Đình kêu lên “Phu nhân không cần ngươi nữa! Cô ta đã có người tình trẻ tuổi tuấn tú rồi”. Hồng giáo chủ cả giận, quát “Ngươi nói bậy!”, rồi tung người vọt tới, chưởng trái đập mạnh xuống đỉnh đầu Hứa Tuyết Đình. Hứa Tuyết Đình ngọn bút trong tay trái đâm lại một nhát, Vô Căn đạo nhân cũng đã xông tới, vung đao chém vào hông Hồng giáo chủ. Lúc ấy đối thủ của Hồng giáo chủ chỉ còn hai người, nhưng y chân trái khập khiễng, thân thủ đã không còn mau lẹ như lúc nãy.

Hồng giáo chủ gọi lớn “A Thuyên, cô xem ta thu xếp hai thằng phản tặc này ngay bây giờ. Bốn đứa tiểu tặc kia, cô cứ giết cả đi, chỉ để lại thằng tiểu tặc không giết, để y dắt chúng ta đi lấy bảo tàng”. Miệng thì quát tháo, nhưng chưởng lực phát ra vẫn rất hùng hậu. Hứa Tuyết Đình và Vô Căn đạo nhân không sao vào gần y, Hồng phu nhân khẽ cười nhạt một tiếng, đưa mắt nhìn bọn Mộc Kiếm Bình một cái.

Vi Tiểu Bảo kêu lên “Phu nhân, bốn cô nương nhỏ này, chỉ cần ngươi làm hại một người, ta sẽ lập tức tự sát, có làm ma cũng không tha cho ngươi. Đại trượng phu một lời nói ra, ngựa… ngựa gì đó khó đuổi”. Lúc nguy cấp, cả câu “Ngựa tứ khó đuổi” cũng không nhớ ra.

Đột nhiên chát một tiếng vang rền, Hứa Tuyết Đình trên hông trúng chưởng, y thân hình lảo đảo, ngã vật xuống đất. Hồng giáo chủ hô hô cười rộ, phi chân đá ra. Hứa Tuyết Đình nhảy bật dậy xông vào, phát cước ấy chính đá trúng ngực y, răng rắc mấy tiếng, lập tức bị gãy mấy cái xương sườn trước ngực, nhưng chân phải của Hồng giáo chủ đã bị y ôm chặt. Hồng giáo chủ ra sức giằng ra nhưng không được. Vô Căn đạo nhân vọt mau tới vung đao chém xuống. Hồng giáo chủ nghiêng đầu tránh qua, lật tay đánh ngược lại, bộp một tiếng, bụng dưới Vô Căn đạo nhân trúng chưởng, nhát đao ấy của y cũng chém vào vai phải Hồng giáo chủ. Vô Căn đạo nhân miệng phun máu tươi ồng ộc đều tưới xuống gáy Hồng giáo chủ, đang định vung đao chém nhát nữa, nhưng thanh Nhạn linh đao đã mắc vào xương vai Hồng giáo chủ, trên tay không còn sức lực, không sao giật ra được.

Hồng giáo chủ kêu lên “Mau… mau tới… kéo y ra”. Hồng phu nhân cũng không biết là sợ tới mức ngẩn ra hay cố ý không ra tay giúp đỡ, nhìn thấy ba người níu kéo nhau ác đấu, vẫn đứng tại chỗ không hề nhúc nhích. Hứa Tuyết Đình quờ một ngọn Phán quan bút dưới đất, hết sức đẩy lên, cắm luôn vào sườn Hồng giáo chủ. Hồng giáo chủ gào lớn, chân trái đá ra hất Hứa Tuyết Đình bay thẳng ra ngoài, kế đó khuỷu tay trái thúc mạnh về phía sau một cái, thân hình Vô Căn đạo nhân từ từ gục xuống.

Hồng giáo chủ hô hô cười rộ, kêu lên “Bọn… phản tặc này, có… có kẻ nào là đối thủ của ta chứ? Họ… họ muốn tạo phản, khắc khắc, khắc khắc, lại không phải… lại không phải bị ta giết hết rồi sao”. Rồi quay lại nói với Hồng phu nhân “Tại… tại sao cô không giúp ta?”.

Hồng phu nhân lắc lắc đầu, nói “Ngươi võ công đệ nhất thiên hạ, cần gì người khác giúp?”. Hồng giáo chủ cả giận quát “Cô cũng phản ta à? Cô cũng là phản đồ của bản giáo à?”. Hồng phu nhân lạnh lùng nói “Không sai, ngươi chỉ biết có mình. Nếu ta giúp ngươi, rốt lại cũng không khỏi bị ngươi giết chết”. Hồng giáo chủ quát “Ta bóp chết cô, ta bóp chết đứa phản đồ là cô”, nói xong nhảy xổ vào Hồng phu nhân.

Hồng phu nhân a một tiếng, vội vàng tránh qua. Hồng giáo chủ sau lúc trọng thương, hành động vẫn vô cùng mau lẹ, tay trái đã chụp trúng cánh tay phải nàng, tay phải bóp cổ nàng, quát “Cô nói đi, cô nói đi, cô có tạo phản không? Nếu cô nói không phản, ta sẽ tha cô”.

Hồng phu nhân thong thả nói “Rất lâu rất lâu trước đây, trong lòng ta đã phản ngươi rồi. Từ ngày ngươi ép ta làm vợ ngươi, ta đã căm hận ngươi thấu xương. Ngươi… ngươi bóp chết ta đi”. Hồng giáo chủ máu tươi trên người không ngừng nhỏ xuống đầu xuống mặt nàng, Hồng phu nhân trừng mắt nhìn y, không hề chớp mắt. Hồng giáo chủ quát lớn “Phản đồ, phản đồ! Các ngươi người nào cũng phản ta, ta… ta sẽ chiêu mộ người mới, lập lại Thần Long giáo”. Tay phải vận kình lên, Hồng phu nhân lập tức nghẹt thở, lưỡi thè ra ngoài.

Vi Tiểu Bảo bên cạnh nhìn thấy vô cùng sợ hãi, thấy Hồng phu nhân sẽ lập tức bị y bóp chết ngạt, bèn nhặt một hòn đá lớn trên bãi cát, ném mạnh vào lưng Hồng giáo chủ, bộp một tiếng, trúng vào giữa lưng. Hồng giáo chủ trước mắt đột nhiên tối sầm, cánh tay bóp cổ Hồng phu nhân lỏng ra, quay người lại quát “Ngươi… thằng tiểu tặc nhà ngươi, ta không cần bảo tàng nữa, giết ngươi rồi sẽ nói”, rồi vung chưởng đánh tới Vi Tiểu Bảo.

Vi Tiểu Bảo sải chân bỏ chạy. Hồng giáo chủ đuổi theo, trên bãi cát phía sau có một vệt máu tươi kéo dài.

Vi Tiểu Bảo biết lần này mà bị y bắt được thì không thể sống, bỏ chạy trối chết. Đột nhiên soạt một tiếng, vạt áo trên lưng đã bị Hồng giáo chủ xé rách một mảng, nếu không phải y có tấm bảo y hộ thân thì biết đâu da thịt cũng đã bị bóc ra một mảng, y cả kinh càng ra sức chạy mau, thi triển khinh công Thần hành bách biến mà Cửu Nạn dạy cho, lách đông lủi tây vòng vòng qua lại trên bãi cát, Hồng giáo chủ mấy lần vươn tay ra là chụp trúng, nhưng y đều tránh thoát được trong đường tơ kẽ tóc.

Nếu y chạy thẳng, thì rốt lại sức lực có hạn, đã sớm bị bắt, nhưng Thần hành bách biến là tuyệt kỹ của Thiết Kiếm môn, lại được Mộc Tang đạo nhân sáng chế bổ sung, quả thật vô cùng tinh kỳ ảo diệu.

Vi Tiểu Bảo về hai chữ “Thần hành” thì nhất định không thể đạt tới, nhưng hai chữ “Bách biến” thì gần giống với tính nết của y, nên cũng học được ba bốn thành. Vì thế tuy không phải là cao thủ võ công, nhưng tính ra cũng là loại “Cao cước” hạng nhất hạng nhì trong võ lâm đương thời.

Hồng giáo chủ luôn miệng gào thét, đánh luôn mấy chưởng. Vi Tiểu Bảo tránh được hai chưởng, tới chưởng thứ ba thì không tránh kịp, bình một tiếng trúng vào hậu tâm, lộn nhào hai vòng. May mà Hồng giáo chủ đã bị trọng thương, chưởng lực giảm hẳn, Vi Tiểu Bảo lại có tấm bảo y hộ thân, tuy bị đánh tới mức tối sầm mặt mũi nhưng không bị thương. Y đang định bò dậy, đột nhiên đầu vai bị siết chặt, đã bị Hồng giáo chủ chụp được.

Lần này thì quả tim y đúng là như nhảy ra khỏi lồng ngực, trong lúc hoảng sợ, đúng là Đói không chọn cơm, gấp không chọn đường, cúi đâu một cái chui luôn qua háng Hồng giáo chủ, đột nhiên nghĩ ra, đây chính là nửa đầu của một trong ba chiêu cứu mạng mà năm xưa Hồng giáo chủ dạy cho, chiêu này gọi là Quý phi kỵ ngưu hay Tây Thi kỵ dương gì đó, nhưng lúc ấy làm sao còn nhớ được? Y dùng sức nhảy bật lên, thân hình đã cưỡi lên trên đầu Hồng giáo chủ.

Chiêu này vốn là y chưa luyện tập thuần thục, mà cho dù có luyện tập thuần thục thì muốn sử dụng với loại cao thủ hạng nhất như Hồng giáo chủ cũng không thể có hiệu quả, nhưng Hồng giáo chủ vừa ra sức ác đấu với bốn cao thủ Thần Long giáo, lúc phát hiện ra Hồng phu nhân bỏ rơi mình, tâm thần hoảng loạn, liên tiếp bị thương, lúc ấy trên vai còn thanh Nhạn linh đao dính chặt vào xương, bụng dưới lại bị ngọn Phán quan bút cắm vào, chạy mau vài trăm trượng đã mất khá nhiều máu, nội lực cạn kiệt, hai tay nắm Vi Tiểu Bảo lúc ấy đã sớm mềm nhũn không còn sức, bị y giãy một cái vùng ra được, cưỡi lên trên cố.

Vi Tiểu Bảo cưỡi trên vai y, sợ bị y hất xuống, tự nhiên là hai tay giữ chặt đầu y, hai ngón giữa đè xuống mi mắt y. Hồng giáo chủ trong óc đột nhiên như có tia chớp lóe lên, nhớ đây là một chiêu năm xưa chính mình đã dạy cho y, vừa cưỡi lên cổ địch nhân là lập tức móc mắt, không ngờ mình một đời anh hùng lại phải mất mạng dưới tay thằng nhỏ ranh mãnh ương bướng này, mà chiêu thức y dùng lại do chính mình dạy cho, quả thật là báo ứng rất mau, nghĩ tới mình cả đời giết người không biết bao nhiêu mà kể, bị quả báo thế này cũng không phải oan uổng, không kìm được thở dài một tiếng, buông rủ hai tay xuống. Vừa thở hắt ra, không chi trì được nữa, ngã ngửa xuống đất.

Vi Tiểu Bảo còn cho rằng y sử dụng chiêu số gì lợi hại, vội nhảy xuống bỏ chạy. Chỉ nghe Hồng giáo chủ khò khè kêu lên “A Thuyên, A Thuyên… cô qua đây”. Hồng phu nhân bước tới vài bước, còn cách y hơn một trượng thì đứng lại. Hồng giáo chủ nói “Đứa con… trong bụng cô, rốt lại… là của ai?”. Hồng phu nhân lắc đầu nói “Ngươi cần gì nhất định phải biết”, nói xong kìm không được đưa mắt liếc Vi Tiểu Bảo một cái, mặt đỏ bừng lên.

Hồng giáo chủ vừa sợ vừa giận, quát “Chẳng lẽ… chẳng lẽ là thằng tiểu quỷ này à?”. Hồng phu nhân cắn cắn môi, im lặng không nói, rõ ràng là mặc nhận. Hồng giáo chủ quát lớn “Ta giết thằng tiểu quỷ này!”, rồi tung người lên nhảy xổ vào Vi Tiểu Bảo.

Chỉ thấy Hồng giáo chủ khuôn mặt đầy máu, miệng há to ra để lộ hàm răng sứt mẻ không còn nguyên vẹn, hai tay cũng đầy máu ròng ròng vọt tới, Vi Tiểu Bảo sợ tới mức hồn bất phụ thể, co rúm người lại, lại chui qua dưới hai chân Hồng phu nhân, núp sau lưng nàng.

Hồng phu nhân hai tay giang ra, đối diện với Hồng giáo chủ, lãnh đạm nói “Ngươi oai phong một đời, cũng quá đủ rồi!”.

Hồng giáo chủ người đang trên không, hơi chân khí cuối cùng đã tan biến không còn dấu vết, phịch một tiếng tiếng rơi xuống cạnh phu nhân, hung dữ nói “Ta là giáo chủ, các ngươi… các ngươi đều phải nghe… phải nghe lời ta, tại sao… tại sao đều phản ta? Các ngươi… các ngươi đều không đúng, chỉ có… chỉ có ta là đúng. Ta muốn giết tất cả các ngươi, chỉ có một mình ta mới… mới tiên phúc vĩnh hưởng, thọ sánh ngang… ngang… ngang”, chữ “trời” sau cùng không nói ra được, miệng há hốc ra, hơi thở tắt luôn, hai mắt vẫn mở lớn.

***

Vi Tiểu Bảo bò ra mấy bước, lật người nhảy bật dậy, lại chạy thêm vài trượng mới quay đầu nhìn lại, chỉ thấy Hồng giáo chủ nằm dưới đất không hề động đậy. qua một lúc mới bước lên vài bước, nhưng tư thế vẫn lúc nào cũng sẵn sàng bỏ chạy, hỏi “Y chết chưa?”. Hồng phu nhân thở dài một tiếng, khẽ nói “Chết rồi”. Vi Tiểu Bảo lại bước tới hai bước, hỏi “Tại… tại sao y không nhắm mắt lại thế?”.

Đột nhiên chát một tiếng, trên mắt đã bị đánh một tát, kế đó tai phải lại bị nắm chặt, chính là công chúa Kiến Ninh. Nàng lại đá vào mông Vi Tiểu Bảo một cước, chửi “Thằng nhãi khốn nạn này, y không nhắm mắt là vì ngươi ăn trộm vợ y. Tại… tại sao ngươi gian díu cả với loại đàn bà không biết xấu hổ này”.

Hồng phu nhân hừ một tiếng, đưa tay nắm cổ công chúa Kiến Ninh nhấc lên, chát một tiếng đánh nàng một tát rất nặng, vung tay một cái, ném công chúa ngã lăn ra. Như thế Vi Tiểu Bảo lại càng khổ, công chúa vẫn nắm vành tai y, thân hình nàng ngã ra phía sau, kéo Vi Tiểu Bảo vành tai đau buốt, ngã lên người nàng. Hồng phu nhân quát “Ngươi mà ăn nói không có quy củ nữa, ta sẽ lập tức giết chết ngươi đấy”.

Công chúa cả giận, nhảy bật lên xông vào Hồng phu nhân. Hồng phu nhân chân trái móc một cái, công chúa lại ngã lăn xuống. Lần thứ ba công chúa xông vào, lại bị hất ngã lộn nhào, rốt lại biết võ nghệ của mình kém người ta rất xa, ngồi luôn dưới đất, vừa khóc vừa chửi. Nàng không dám chửi Hồng phu nhân, chỉ luôn miệng nói “Thằng nhãi khốn nạn! Thái giám chết giẫm! Tiểu súc sinh! Tiểu Quế tử thối tha!”.

Vi Tiểu Bảo ôm vành tai, chỉ thấy bàn tay đầy máu, nguyên là vành tai bị công chúa kéo rách một đường dài.

Hồng phu nhân hạ giọng nói “Ta với y cũng có một thời làm vợ chồng, ta an táng y có được không?”, giọng nói ôn nhu, lại là năn nỉ xin Vi Tiểu Bảo ưng thuận. Vi Tiểu Bảo vừa sợ vừa mừng, vội nói “Được lắm, phải chôn cất y chứ”, rồi nhặt một ngọn Phán quan bút dưới đất lên, cùng Hồng phu nhân đào một cái huyệt trên bãi cát, Phương Di và Mộc Kiếm Bình bước qua giúp đỡ, chôn cất cho Hồng giáo chủ.

Hồng phu nhân quỳ xuống dập đầu mấy cái, hạ giọng nói “Tuy ngươi bắt ép ta làm vợ, nhưng… nhưng sau khi thành thân, ngươi thủy chung luôn đối xử với ta rất tốt. Ta trước nay lại không thật lòng với ngươi. Ngươi có khôn thiêng, cũng không cần ghi nhớ trong lòng”. Nói xong đứng lên, không kìm được nước mắt thánh thót rơi xuống.

Nàng ngẩn ra một lúc rồi lau sạch nước mắt, hỏi Vi Tiểu Bảo “Chúng ta ở lại đây hay trở về Trung Nguyên?”. Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Chỗ này ngàn vạn lần không ở được, hồn ma của bọn Hồng giáo chủ, Lục tiên sinh không về đòi mạng chúng ta không xong, quả rất đáng sợ. Có điều trở về Trung Nguyên thì tiểu hoàng đế lại bắt ta chém đầu. Tốt nhất, tốt nhất là tìm một nơi nào yên ổn để trốn tránh”. Đột nhiên nghĩ tới một nơi, mừng rỡ nói “Có rồi. Chúng ta tới đảo Thông Ngật, ở đó đã không có ma, tiểu hoàng đế lại không tìm ta được”. Hồng phu nhân nói “Đảo Thông Ngật ở đâu?”. Vi Tiểu Bảo chỉ về phía tây một cái, cười nói “Là hòn đảo nhỏ kia, ta gọi là đảo Thông Ngật”. Hồng phu nhân gật đầu nói “Ngươi đã muốn tới đó thì tới đó thôi”, bất kể thế nào đối với y cũng ngoan ngoãn vâng lời.

Vi Tiểu Bảo cả mừng, kêu lên “Đi thôi, đi thôi, mọi người cùng đi thôi!”, bước qua đỡ công chúa lên, cười nói “Mọi người lên thuyền thôi!”. Công chúa vung tay đánh ra một chưởng, Vi Tiểu Bảo cúi đầu tránh được. Công chúa nói “Ngươi cứ đi, ta không đi!”. Vi Tiểu Bảo nói “Trên đảo này có rất nhiều ma, ma không đầu, ma cụt cẳng, có ma bị đại pháo bắn lòi ruột, có ma nhiều tay chuyên sờ soạng phụ nữ có thai…”. Công chúa nghe thấy vô cùng sợ hãi, giẫm chân nói “Còn có con ma chuyên ăn nói bậy bạ nhà ngươi nữa”. Rồi phi chân đá mạnh vào mông Vi Tiểu Bảo một cước. Vi Tiểu Bảo a một tiếng, nhảy lùi ra ngoài.

Hồng phu nhân từ từ bước tới. Công chúa lùi lại mấy bước. Hồng phu nhân nói “Từ nay trở đi nếu ngươi đánh Vi công tử một cái ta sẽ đánh ngươi mười cái, nếu ngươi đá y một cước ta sẽ đá ngươi mười cước. Ta nói ra trước nay lúc nào cũng giữ lời”. Công chúa giận tái mặt, nói “Ngươi là người gì của y mà muốn bảo vệ y, ngươi… chồng ngươi chết rồi, lại tới cướp chồng người ta à?”. Phương Di chen vào “Không phải chồng ngươi cũng chết rồi sao?”. Công chúa giận quá, chửi “Con tiện nhân, chồng ngươi cũng chết rồi”.

Hồng phu nhân chậm rãi nói “Từ nay trở đi, ngươi mà dám nói một câu vô lễ, thì ta cho ngươi một mình ở lại trên đảo này, không ai làm bạn với ngươi cả”. Công chúa nghĩ con mụ này nói được là làm được, quả thật bảo một mình mình ở lại trên đảo, có rất nhiều ma lòi ruột, ma nhiều tay tìm tới, thì làm sao được? Nàng cả đời ăn sung mặc sướng, quen thói sai khiến, lúc ấy chỉ đành thu liễm tính nết ngang ngược của con nhà cành vàng là ngọc, ngoan ngoãn không dám lên tiếng. Vi Tiểu Bảo cả mừng, nghĩ thầm “Con tiểu ác bà này hôm nay gặp phải kẻ đối đầu, từ nay trở đi có người chế phục thị rồi, khỏi phải một câu không hợp là vung tay đòi đánh”. Rồi đưa tay sờ sờ vết thương trên vành tai, vẫn vô cùng đau đớn.

Hồng phu nhân nói với Phương Di “Phương cô nương, ngươi ra sai bọn phu thuyền chuẩn bị lên đường”. Phương Di nói “Vâng”, lại nói “Sao phu nhân lại khách khí với thuộc hạ như thế, thật không dám nhận”. Hồng phu nhân mỉm cười nói “Từ nay trở đi chúng ta gọi nhau là chị em, đừng xưng hô là phu nhân thuộc hạ gì nữa. Ngươi gọi ta là Thuyên tỷ tỷ, ta gọi ngươi là Di muội muội thôi. Thuốc giải độc hoàn kia, lên thuyền sẽ lấy cho ngươi uống, từ nay trở đi không cần lo lắng gì nữa”. Phương Di và Mộc Kiếm Bình đều vô cùng mừng rỡ.

Đoàn người lên thuyền, chiếc thuyền giương buồm đi về phía tây. Vi Tiểu Bảo nhìn trái liếc phải, vô cùng đắc ý. Hồng phu nhân quả nhiên lấy thuốc giải ra đưa cho Phương Di uống, lại mở rương sắt trong khoang, lấy thanh chủy thủ, hộp ám khí Hàm xa sạ ảnh, các thứ ngân phiếu của Vi Tiểu Bảo đưa lại cho y. Binh khí của bọn Tăng Nhu cũng được trả lại.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Từ nay ta cũng gọi cô là Thuyên tỷ tỷ được không?”. Hồng phu nhân mừng rỡ nói “Hay lắm, chúng ta so tuổi tác xem ai lớn ai nhỏ”. Mọi người lần lượt báo ngày tháng năm sinh của mình, tự nhiên là Hồng phu nhân Tô Thuyên lớn nhất, kế là Phương Di, kế nữa là công chúa. Tăng Nhu, Mộc Kiếm Bình, Vi Tiểu Bảo ba người sinh cùng năm, Tăng Nhu lớn hơn y ba tháng, Mộc Kiếm Bình nhỏ hơn y vài ngày.

Bọn Tô Thuyên, Phương Di bốn cô gái tỷ tỷ muội muội xưng hô với nhau rất thân thiết, chỉ có công chúa bên cạnh tức tối không nói gì. Tô Thuyên nói “Cô ta là công chúa điện hạ, không muốn xưng hô tỷ tỷ muội muội với bình dân bách tính chúng ta, mọi người cứ gọi cô ta là công chúa điện hạ thôi”. Công chúa lạnh lùng nói “Ta không dám nhận đâu”, nghĩ tới bọn họ kéo bè kết đảng, mình lẻ loi một mình, mà gã thái giám Tiểu Quế tử chết giẫm vô lương tâm này xem ra cũng nghiêng về bốn người bọn họ nhiều hơn, nghiêng về mình ít hơn, giữa lúc đau lòng, nhịn không được buông tiếng khóc lớn.

Vi Tiểu Bảo kéo nàng tới cạnh, cầm tay nàng an ủi, ôn tồn nói “Được rồi, mọi người vui vẻ, đừng khóc…”. Công chúa giơ tay lên, vung chưởng đánh ra, nhưng lập tức nhớ tới lời Tô Thuyên đã nói, một chưởng này đánh ra rất mạnh, không sao thu hồi, chỉ đành nửa đường chuyển hướng, chát một tiếng đập luôn vào bụng mình, a một tiếng la lên, mọi người nhịn không được đều hô hô cười rộ. Công chúa càng đau khổ uất ức, phục vào lòng Vi Tiểu Bảo khóc lớn.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Được rồi, được rồi. Mọi người không cần cãi nhau, chúng ta đánh bài, để ta làm cái”.

Nhưng tìm kỹ trong cái rương sắt của Hồng giáo chủ không thấy hai hạt xúc xắc của Vi Tiểu Bảo đâu, là lúc Lục Cao Hiên lục soát trong người y đã tiện tay vứt hai hạt xúc xắc đi. Vi Tiểu Bảo rầu rĩ không vui. Tô Thuyên cười nói “Chúng ta gọt gỗ làm hai hạt xúc xắc vậy”. Vi Tiểu Bảo nói “Xúc xắc gỗ nhẹ lắm, gieo không thú vị”.

Tăng Nhu thò tay vào bọc, lúc rút ra thì tay nắm thành quyền, cười nói “Ngươi đoán xem là cái gì đây?”. Vi Tiểu Bảo nói “Đoán đồng tiền à? Trò ấy chán lắm, chẳng có gì hơn đánh bạc”. Tăng Nhu cười nói “Ngươi đoán là có bao nhiêu?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Ba”. Tăng Nhu xòe tay ra, trong bàn tay vừa hồng vừa trắng rõ ràng là hai hạt xúc xắc. Vi Tiểu Bảo a lớn một tiếng, nhảy bật lên luôn miệng hỏi “Ở đâu ra thế này, ở đâu ra thế này?”. Tăng Nhu cười khẽ một tiếng, thả xúc xắc lên bàn.

Vi Tiểu Bảo cầm xúc xắc lên gieo xuống hai ba cái, vô cùng vui vẻ, có cảm giác hai hạt xúc xắc này thường nặng nhẹ khác nhau, rõ ràng là xúc xắc có rót thủy ngân ở trong, nghĩ thầm Tăng Nhu trước nay văn nhã thẹn thò, tại sao lại dùng xúc xắc giả lừa người lấy tiền? Vừa ngưng thần suy nghĩ, lập tức nhớ ra, trong lòng lại càng vui mừng, lật tay trái lại ôm hông nàng, hôn lên mặt nàng một cái, cười nói “Cám ơn cô nhiều lắm, Nhu tỷ tỷ, may là cô vẫn giữ hai hạt xúc xắc này trong người”.

Tăng Nhu mặt đỏ bừng, chạy ra ngoài khoang. Vốn hôm ấy Vi Tiểu Bảo và các đệ tử phái Vương Ốc đánh bạc bằng tính mạng, tha hết mọi người, lúc Tăng Nhu bước ra khỏi trướng đã hỏi xin y hai hạt xúc xắc. Vi Tiểu Bảo đã sớm quên chuyện ấy, nhưng Tăng Nhu trước nay vẫn giữ trong người.

Xúc xắc tuy đã có nhưng mấy cô gái không ai có máu cờ bạc, tuy làm ra vẻ vui vẻ, nhưng tiền đặt bạc đã ít, thua hay thắng cũng không để ý, chơi không đầy thời gian một bữa cơm, mọi người đều không muốn động đậy nữa, so với việc đỏ mặt tía tai đánh bạc trong kỹ viện, sòng bạc ở Dương Châu, trong cung, trong doanh thì cục diện khác xa một trời một vực. Vi Tiểu Bảo ngán ngẩm, nói “Không chơi nữa, không chơi nữa, các cô đều không biết chơi”. Nghĩ tới từ nay trở đi tránh nạn trên đảo Thông Ngật, tuy có năm người đẹp làm bạn, nhưng không có đánh bạc, không có xem hát, ngày tháng trôi qua sẽ rất buồn bã. Mà nói lại trên đảo cho dù có hàng ngàn hàng vạn lượng vàng lượng bạc thì có ích gì? Vàng bạc cũng như sỏi đá gạch ngói mà thôi, thắng được tiền cũng như thắng được sỏi đá gạch ngói. Mà Song Nhi sống chết ra sao, A Kha đang ở nơi nào, lúc nào cũng lo lắng nhớ nhung trong lòng, há lại có thể vứt bỏ hai người bọn họ không đếm xỉa gì tới?

Y càng nghĩ càng mất vui, nói “Hay chúng ta đừng tới đảo Thông Ngật nữa”. Tô Thuyên nói “Vậy ngươi thấy nên đi đâu?”. Vi Tiểu Bảo ngẫm nghĩ một lúc, nói “Chúng ta tới Liêu Đông, đi đào một bảo tàng lớn”. Tô Thuyên nói “Mọi người sống yên ổn trên hoang đảo, không phải rất hay sao? Cho dù đào được bảo tàng lớn cũng vô dụng”. Vi Tiểu Bảo nói “Vàng bạc châu báu có hàng ngàn hàng vạn, sao lại vô dụng?”.

Phương Di nói “Hoàng đế Thát Đát nhất định sẽ phái binh mã đi khắp nơi bắt ngươi, chúng ta cứ trốn tránh cho qua cơn gió lớn, qua một hai năm, sự tình lắng xuống, ngươi thích đi Liêu Đông thì lúc ấy mọi người sẽ cùng đi, cũng không có gì muộn”.

Vi Tiểu Bảo hỏi Tăng Nhu và Mộc Kiếm Bình “Hai người các cô thấy thế nào?”.

Mộc Kiếm Bình nói “Ta thấy lời sư tỷ rất đúng”. Tăng Nhu nói “Nếu ngươi thấy buồn chán thì chúng ta chỉ trốn tránh trên đảo vài tháng thôi”, nhìn thấy trên mặt Vi Tiểu Bảo có vẻ không vui, lại nói “Hàng ngày bọn ta gieo xúc xắc với ngươi, thua thì phạt đánh vào lòng bàn tay, có được không?”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Con mẹ nó, đánh vào lòng bàn tay thì có gì là vui?”. Nhưng thấy nàng trên mặt có vẻ xấu hổ, dáng vẻ khả ái, không kìm được thấy trong lòng lâng lâng, nói “Được, được cứ nghe lời các cô thôi”.

Phương Di đứng lên mỉm cười nói “Trước đây ta rất không phải với ngươi, để ta đi nấu mấy món ăn, mời ngươi uống rượu, kể như là tạ tội với ngươi, được không?”. Vi Tiểu Bảo lại càng vui vẻ. Vội nói “Cái đó thì không dám”. Phương Di bước ra sau khoang nấu nướng.

Tài nghệ nấu nướng của Phương Di rất khéo léo, lần này dốc lòng điều chế, tuy gia vị trên thuyền không đầy đủ, nhưng mọi người ăn vào đều không ngớt lời khen ngợi.

Vi Tiểu Bảo kêu lên “Chúng ta xai quyền đi”. Mộc Kiếm Bình, Tăng Nhu và công chúa ba người không biết xai quyền, Vi Tiểu Bảo liền dạy cho họ, Ca lưỡng hảo, Ngũ kinh khôi thủ, Tứ quý bình an xai quyền ầm lên. Công chúa vốn buồn rầu không vui, xai quyền một lúc, uống vài chén rượu, cũng nói nói cười cười.

Ở trong thuyền qua một đêm, trưa hôm sau tới đảo Thông Ngật. Chỉ thấy lều trại của quân Thanh ngày trước vẫn còn dấu vết, ngôi nhà tranh tạm làm trung quân hôm trước vẫn còn nguyên vẹn, nhưng dáng vẻ oai vệ đại tướng quân chỉ huy của Vi Tiểu Bảo tự nhiên đã hết sạch không còn gì.

Vi Tiểu Bảo cũng không để ý, nắm tay Phương Di cười nói “Di tỷ tỷ, hôm trước là ở đây, cô lừa ta lên thuyền, suýt nữa mất luôn cái mạng nhỏ này ở nước La Sát rồi”. Phương Di cười khanh khách nói “Ta làm bầu bạn với ngươi không được, chẳng lẽ còn muốn khấu đầu tạ tội với ngươi à?”. Vi Tiểu Bảo nói “Chuyện đó không cần. Có điều hảo tâm sẽ có hảo báo, ta nếm qua muôn cay ngàn đắng, hôm nay rốt lại cũng đã được thật sự làm bầu bạn với cô”. Mộc Kiếm Bình phía sau kêu lên “Hai người các ngươi nói gì thế, cho người ta nghe với được không?”. Phương Di cười nói “Y nói muốn bắt ngươi, khắc lên mặt ngươi một con rùa đen”.

Tô Thuyên nói “Chúng ta khoan hãy chơi đùa, trước tiên lo việc chính đã”. Lúc ấy sai bọn phu thuyền đưa tất cả lương thực dụng cụ trong thuyền lên đảo. Lại sai gỡ cánh buồm, bánh lái, dây buồm, mái chèo trên thuyền ra, mang lên trên đảo, cho vào một hang đá trên dốc núi. Vi Tiểu Bảo khen “Thuyên tỷ tỷ thật cẩn thận. Chúng ta chỉ cần giữ mấy thứ này, thì chiếc thuyền không đi được, không cần phải sợ họ bỏ trốn”.

***

Chưa dứt lời chợt nghe xa xa trên biển bình một tiếng, tựa hồ tiếng đại pháo, sáu người giật nảy mình, nhìn ra mặt biển. Chỉ thấy trên biển khói trắng từ từ tan ra, trong màn khói thấp thoáng có hai chiếc thuyền lướt tới, kế đó lại bình bình hai tiếng, quả nhiên là trên thuyền nổ pháo.

Vi Tiểu Bảo kêu lên “Không xong! Tiểu hoàng đế phái người tới bắt ta!”. Tăng Nhu nói “Chúng ta mau lên thuyền chạy thôi”. Tô Thuyên nói “Cánh buồm bánh lái đều trên dốc núi, không kịp lắp lại, chỉ còn cách ẩn núp, xem tình hình mà hành sự thôi”. Trong sáu người thì ngoài công chúa, năm người còn lại đều từng trải nhiều nguy hiểm, rốt lại cũng không hoảng sợ gì lắm. Tô Thuyên lại nói “Bất kể là trốn núp bí mật thế nào sau cùng cũng sẽ bị quan quân lục soát tìm ra. Chúng ta cứ núp trong hang trên dốc núi, quan binh chỉ có thể từng người xông lên núi, lên một người giết một người, khỏi bị bọn họ nhất tề xông vào. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng, cái đó gọi là một người chặn cửa quan, bắt ba ba trong rọ”. Tô Thuyên mỉm cười nói “Đúng thế”.

Công chúa lại nhịn không được hô hô cười rộ. Vi Tiểu Bảo trừng mắt nói “Có gì hay mà cười?”. Công chúa bĩu môi cười nói “Không có gì. Ngươi dùng thành ngữ thật hay, khiến người ta bội phục”. Vi Tiểu Bảo cũng có ba phần sáng suốt tự biết mình, đoán ắt là mình dùng thành ngữ sai, nên trừng mắt nhìn công chúa một cái.

Sáu người đi vào hang núi. Tô Thuyên vung đao chặt cành cây, xếp trước hang núi che lấp thân hình, từ kẽ hở nhìn ra. Chỉ thấy hai chiếc thuyền một trước một sau, tiến thẳng vào đảo Thông Ngật. Chiếc phía sau không ngừng phát pháo, đạn pháo rơi xuống chung quanh chiếc phía trước, cột nước dựng lên. Vi Tiểu Bảo nói “Thuyền sau nổ pháo bắn vào thuyền trước”. Tô Thuyên nói “Đúng thế. Té ra hai chiếc thuyền này đánh nhau”. Vi Tiểu Bảo mừng rỡ nói “Vậy thì hai chiếc thuyền này e không phải là tới bắt ta đâu”. Tô Thuyên nói “Chỉ mong là thế. Có điều họ lên tới đảo, gặp bọn phu thuyền, vừa hỏi là biết ngay, không lên lục soát không xong, cho dù chúng ta giết chết bọn phu thuyền trước, cũng không kịp chôn giấu xác chết”. Vi Tiểu Bảo nói “Sao thuyền phía trước không bắn trả? Thật là vô dụng, tốt nhất ngươi bắn ta một phát, ta bắn ngươi một phát, đôi bên đều bắn trúng, hai chiếc cùng chìm xuống biển”.

Chiếc thuyền chạy trước nhỏ hơn, cánh buồm căng gió lướt đi rất mau. Đột nhiên một phát pháo bắn tới đánh gãy cột buồm, lá buồm bốc cháy. Bọn Vi Tiểu Bảo nhịn không được la hoảng. Chiếc thuyền trước lập tức nghiêng qua một bên, thân thuyền xoay ngang, trên thuyền buông thuyền nhỏ xuống, mười mấy người nhảy lên, khua nhanh mái chèo. Lúc ấy đã gần tới đảo, chiếc thuyền sau dần dần đuổi tới, nước cạn không thể ghé bờ, trên thuyền cũng thả thuyền nhỏ xuống, nhưng là năm chiếc.

Chiếc thuyền nhỏ đi trước tháo chạy, năm chiếc thuyền nhỏ phía sau đuổi theo. Không bao lâu hơn mười người trong chiếc thuyền nhỏ đi trước đã nhảy lên bờ, quan sát tình hình chung quanh. Có người cao giọng gọi “Chỗ dốc núi bên kia có thể cố thủ, mọi người qua bên đó đi”.

Vi Tiểu Bảo nghe giọng nói dường như là sư phụ Trần Cận Nam, lúc hơn mười người chạy theo sườn núi lên dốc, gần tới bên cạnh, người đi đầu tay cầm trường kiếm, đứng trên dốc núi chỉ huy, không phải Trần Cận Nam thì là ai?

Vi Tiểu Bảo cả mừng, nhảy trong hang núi ra, gọi lớn “Sư phụ, sư phụ!”. Trần Cận Nam vừa quay lại, thấy là Vi Tiểu Bảo cũng vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, kêu lên “Tiểu Bảo, sao ngươi ở đây?”. Vi Tiểu Bảo sải chân chạy tới, đột nhiên ngẩn ra, chỉ thấy trong mười mấy người tới có một cô nương da trắng mắt sáng, chính là A Kha.

Y gọi lớn một tiếng “A Kha!” rồi bước mau tới. Lại thấy bên cạnh nàng có một người, rõ ràng là Trịnh Khắc Sảng.

Đã thấy A Kha, lại thấy Trịnh Khắc Sảng, vốn là chuyện thuận lý thành chương, nhưng Vi Tiểu Bảo đang lúc mừng như phát điên, lại nhìn thấy thằng đầy tớ đáng ghét này, lập tức quả tim chùng xuống, đứng ngẩn người ra.

Bên cạnh có một người gọi “Tướng công!”, một người khác gọi “Vi Hương chủ!”. Y thuận miệng ừ một tiếng, khóe mắt cũng không liếc hai người lấy một cái, chỉ ngây ra nhìn A Kha. Chợt thấy một bàn tay nhỏ nhắn mềm mại cầm lấy bàn tay trái y, Vi Tiểu Bảo run lên, quay đầu nhìn lại, chỉ thấy một khuôn mặt xinh đẹp rạng rỡ ướt đẫm nước mắt, chính là Song Nhi. Vi Tiểu Bảo cả mừng, ôm chặt lấy nàng, kêu lên “Hảo Song Nhi, ta nhớ cô chết đi được”. Quả tim mừng rỡ như muốn nổ tung ra, trong chớp mắt quên luôn cả A Kha.

Trần Cận Nam kêu lên “Phùng đại ca, Phong huynh đệ, chúng ta giữ chặt đường thông đạo này”.

Hai người đồng thời vâng dạ, cùng rút binh khí ra sóng vai đứng chặn một con đường hẹp thông lên dốc núi. Nguyên một người là Phùng Tích Phạm, một người là Phong Tế Trung.

Vi Tiểu Bảo đột nhiên gặp rất nhiều người quen, chỉ hỏi “Sao các ngươi lại tới đây?”. Song Nhi nói “Phong đại ca dắt tôi đi tìm người khắp nơi, gặp Trần Tổng đà chủ, nghe nói các ngươi lên thuyền ra biển, cho nên… cho nên…”. Nói tới đó mừng rõ quá mức, nghẹn lời không nói được nữa.

Lúc ấy quan quân trên năm chiếc thuyền nhỏ đều đã kéo lên bãi cát, từ trên dốc núi nhìn xuống thấy đều là quân Thanh, tất cả có bảy tám mươi người. Người đi đầu cầm một thanh trường đao, thân hình cao lớn, không thấy rõ mặt, chỉ huy quân Thanh bày thành trận thế. Đoàn người đứng lại xa xa, viên tướng kia ra lệnh một tiếng, quân sĩ đều giương cung lắp tên, chĩa lên dốc núi.

Trần Cận Nam quát “Mọi người nằm xuống!”. Gặp tình cảnh này thì Vi Tiểu Bảo không cần sư phụ sai bảo, vừa thấy quân Thanh cầm cung ra tay đã co người lại núp kín sau một tảng đá lớn. Chỉ nghe viên tướng kia quát “Phóng tên!”, lập tức tiếng tên rít gió vù vù vang lên không ngớt.

Phùng Tích Phạm và Phong Tế Trung một người cầm trường kiếm, một người cầm đơn đao gạt tên bắn tới.

Phùng Tích Phạm quát “Thi Lang, ngươi là thằng Hán gian không biết xấu hổ, có gan thì lên đây một chọi một tử chiến một phen với lão tử”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Té ra người cầm quân dưới kia là Thi Lang. Hành quân đánh trận thì người này quả là một hảo thủ”. Chỉ nghe Thi Lang quát “Ngươi có giỏi thì xuống đây, đơn đả độc đấu, lão tử cũng không sợ ngươi”. Phùng Tích Phạm nói “Được!”, đang định xông xuống thì Trần Cận Nam nói “Phùng đại ca, đừng mắc lừa y. Người này ti tiện vô sỉ, chuyện gì cũng làm được”. Phùng Tích Phạm vừa được một bước đã lập tức dừng lại, quát “Ngươi nói đơn đả độc đấu, tại sao còn phái năm chiếc thuyền nhỏ…, con mẹ nó, là sáu chiếc, lấy trộm cả thuyền của bọn ta, thằng Hán gian thối tha, ngươi cho thuyền nhỏ đón người lên, còn không phải định cậy đông thủ thắng a?”.

Thi Lang cười nói “Trần quân sư, Phùng Đội trưởng, hai người các vị võ công cao cường, Thi mỗ trước nay rất khâm phục. Có câu Biết thời thế mới là tuấn kiệt, cứ dắt cả Trịnh công tử xuống đây, tất cả đầu hàng đi thôi. Hoàng thượng nhất định sẽ phong hai vị làm quan lớn mà”.

Thi Lang năm xưa là đại tướng thủ hạ của Trịnh Thành Công, cùng bốn người Chu Toàn Bân, Cam Huy, Mã Tín, Lưu Quốc Hiên hợp xưng là “Ngũ hổ tướng”. Trần Cận Nam là quân sư. Phùng Tích Phạm tuy võ công cao cường nhưng không có tài cầm quân, chỉ là Đội trưởng vệ sĩ của Trịnh Thành Công. Thi Lang và Trần Phùng hai người từng sóng vai huyết chiến, cùng chung hoạn nạn, lúc ấy vẫn xưng hô như trong quân ngũ năm xưa. Dốc núi và bên dưới cách nhau bảy tám trượng, Thi Lang đứng khá xa, nhưng y trung khí sung mãn, từng câu từng câu vang lên dốc núi, mọi người nghe thấy rất rõ.

Trịnh Khắc Sảng biến sắc, run lên nói “Phùng sư phụ, ngươi… ngươi không được đầu hàng”. Phùng Tích Phạm nói “Công tử yên tâm, Phùng mỗ chỉ cần còn một hơi thở cũng quyết không đầu hàng người Thát Đát”. Trần Cận Nam tuy biết Phùng Tích Phạm âm hiểm gian trá, từng năm lần bảy lượt hại mình, muốn giúp Trịnh Khắc Sảng lên ngôi thế tử của Diên Bình quận vương, nhưng lúc ấy nghe lời lẽ của y đại nghĩa đường đường cũng nảy lòng kính trọng, nói “Phùng đại ca, hôm nay ngươi và ta sóng vai tử chiến, nói thế nào cũng phải bảo vệ cho nhị công tử an toàn”. Phùng Tích Phạm nói “Tự nhiên là phải theo quân sư”. Trịnh Khắc Sảng nói “Lần này quân sư bảo giá có công, lúc trở về Đài Loan, nhất định ta sẽ tâu rõ với phụ vương, phong thưởng… phong thưởng thật hậu”. Trần Cận Nam nói “Đây là phận sự mà thuộc hạ phải làm thôi”, nói xong bước ra dốc núi quan sát tình hình quân địch.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Trịnh công tử, phong thưởng thật hậu cũng không cần đâu. Chỉ cần ngươi không trở mặt vô tình, hại sư phụ ta, thì đã đa tạ ngươi rồi”. Trịnh Khắc Sảng trừng mắt nhìn y một cái.

Vi Tiểu Bảo hạ giọng nói “Sư tỷ, hay chúng ta bắt sống Trịnh công tử đem nộp cho quân Thanh đi”. A Kha xì một tiếng, nói “Vừa thấy mặt đã nói bậy rồi. Tại sao ngươi lại dọa y?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Dọa vài câu chơi thôi, dọa cũng không chết mà. Mà cho dù dọa chết cũng không hề gì”. A Kha phì một tiếng, đột nhiên đỏ mặt cúi đầu xuống.

Vi Tiểu Bảo hỏi Song Nhi “Sao mọi người lại đi chung?”. Song Nhi nói “Trần Tổng đà chủ dẫn Phong đại ca và tôi ra biển tìm người. Tôi nghĩ người từng tới đảo Thông Ngật, bèn nói với Trần Tổng đà chủ, nên tới đây xem thử. Trên biển vừa khéo gặp pháo thuyền của quân Thanh đuổi theo Trịnh công tử, bắn chìm thuyền của y, bọn tôi cứu y lên thuyền chạy tới đây. Tạ ơn trời đất, cuối cùng đã gặp được người”, nói tới đó mi mắt lại đỏ lên.

Vi Tiểu Bảo đưa tay vỗ vỗ vai nàng, nói “Hảo Song Nhi, trong bấy nhiêu hôm ta không ngày nào không nghĩ tới cô”. Câu ấy không phải là khẩu thị tâm phi, ngày nào y cũng nghĩ tới hai người A Kha và Song Nhi nếu không phải hàng chục lần cũng là bảy tám lần, mà tính ra còn nhớ Song Nhi nhiều hơn.

Trần Cận Nam kêu lên “Các vị huynh đệ, nhân lúc quan quân Thát Đát chưa tới, chúng ta xông xuống xung sát một trận. Nếu không sáu chiếc thuyền chở quân Thát Đát kéo lên thì không dễ đối phó”. Mọi người đều khen phải. Trong hơn mười người tới đảo lần này, ngoài Trần, Phùng, Trịnh, Phong, A Kha và Song Nhi còn có tám huynh đệ Thiên địa hội và ba vệ sĩ của Trịnh Khắc Sảng. Trần Cận Nam nói “Trịnh công tử, Trần cô nương, Tiểu Bảo, Song Nhi, bốn người các ngươi ở lại đây, còn tất cả xông xuống theo ta”, rồi vung trường kiếm lên đi đầu chạy xuống dốc núi. Phùng Tích Phạm, Phong Tế Trung dẫn mười một người còn lại chạy xuống theo, lớn tiếng hò hét, xông mau vào quân Thanh. Quân Thanh bắn tên rào rào, đều bị ba người Trần, Phùng, Phong vung kiếm gạt ra.

Lúc trước cưỡi thuyền thủy chiến, Thi Lang cưỡi thuyền chiến lớn, hỏa pháo lợi hại, bọn Trần Cận Nam chỉ có cách tháo chạy. Lúc ấy cận chiến xung sát, quân Thanh ngoài Thi Lang thì số còn lại đều võ công bình thường, làm sao chống nổi Trần, Phùng, Phong ba cao thủ? Huynh đệ Thiên địa hội và vệ sĩ Trịnh phủ thân thủ cũng cao cường, mười bốn người vừa xông vào trận, quân Thanh lập tức tan tác.

Vi Tiểu Bảo nói “Sư tỷ, Song Nhi, chúng ta cũng xuống xung sát một phen”. A Kha và Song Nhi đồng thanh ưng thuận. Trịnh Khắc Sảng nói “Ta cũng đi!”, thấy Vi Tiểu Bảo rút thanh chủy thủ ra, xông xuống dốc núi, Song Nhi và A Kha trước sau chạy xuống. Trịnh Khắc Sảng chỉ chạy được vài bước thì dừng lại, nghĩ thầm “Mình là tấm thân quý trọng ngàn vàng, lại sao lại cùng xông vào chỗ nguy hiểm với bọn thuộc hạ?”. Bèn kêu lên, “A Kha, cô cũng đừng đi nữa”. A Kha không đáp, theo sát sau lưng Vi Tiểu Bảo.

Vi Tiểu Bảo võ công rất bình thường, nhưng có bốn bảo vật, xông vào trận địch vẫn giữa nguy như yên. Bốn bảo vật ấy là gì? Bảo vật thứ nhất là thanh chủy thủ sắc bén, binh khí của quân địch chạm vào là gãy, bảo vật thứ hai là tấm bảo y hộ thân, đao thương không thể xâm phạm, bảo vật thứ ba là công phu chạy trốn tinh diệu, bảo vật thứ tư là Song Nhi bên cạnh, quân Thanh khôn địch. Dựa vào bốn bảo vật ấy mà đối địch với cao thủ thì cố nhiên không khỏi thất bại, nhưng để đối phó với quân Thanh thì hơn hẳn có thừa, trong chớp mắt đã liên tiếp đánh ngã mấy người, quả nhiên oai phong lẫm lẫm, sát khí đằng đằng, nghĩ thầm “Năm xưa Triệu Tử Long bảy lần vào bảy lần ra trong trận Trường Bản chẳng qua cũng chỉ thế này, biết đâu so với Vi Tiểu Bảo mình…”.

Mọi người xung sát một trận, quân Thanh bỏ chạy tứ tán. Trần Cận Nam đánh nhau với Thi Lang, nhất thời khó gỡ khó phân. Phùng Tích Phạm và Phong Tế Trung chém giết bọn quan quân như cắt dưa thái rau, không đầy thời gian ăn xong một bữa cơm, hơn tám mươi tên quân Thanh đã có năm mươi người tử thương, tàn binh bại tướng nhao nhao chạy xuống biển. Quân thủy sư tinh thông thủy tính, vội vàng bơi ra thuyền lớn. Bên này huynh đệ Thiên địa hội có hai người chết, một người trọng thương, số còn lại xúm vào vây chặt Thi Lang.

Thi Lang thanh cương đao bay lượn, đánh nhau với thanh trường kiếm trong tay Trần Cận Nam rất kịch liệt, tuy đang giữa vòng vây nhưng không hề sợ sệt. Vi Tiểu Bảo kêu lên “Thi tướng quân, ngươi mà không buông đao đầu hàng, trong chớp mắt sẽ biến thành thịt chó băm nhừ đấy”. Nhưng Thi Lang đang ngưng thần tiếp chiến, đối với lời lẽ cử động của người ngoài hoàn toàn không thấy không nghe.

Đánh đến lúc hăng, Trần Cận Nam hú dài một tiếng, liên tiếp đâm ra ba nhát, đến nhát thứ ba thì thanh kiếm dính luôn vào cương đao của Thi Lang. Y cổ tay rung động xoay mau hai vòng, chỉ nghe Thi Lang a một tiếng, thanh cương đao tuột khỏi tay bay tung ra. Trần Cận Nam mũi kiếm hất lên chĩa vào cổ họng y, quát “Thế nào?”. Thi Lang tức giận nói “Ngươi đánh thắng thì cứ giết ta là được, có gì phải nói nữa?”. Trần Cận Nam nói “Đến nước này mà ngươi còn tự cho mình là anh hùng hảo hán sao? Ngươi phản chủ bán bạn, anh hùng hảo hán lại có hành vi như thế à?”

Thi Lang đột nhiên thân hình ngửa ra phía sau một cái lăn tròn xuống đất, cổ họng đã tránh ra khỏi mũi kiếm, hai chân liên hoàn phóng ra đá mau vào bụng dưới Trần Cận Nam. Trần Cận Nam trường kiếm dựng lên chĩa ra trước chân y. Thi Lang nếu hai cước ấy tiếp tục đá tới là tự đưa chân mình vào mũi kiếm, lúc nguy cấp ấn mạnh tay trái xuống đất một cái, hai chân trượt qua đá lên không, lộn một vòng ra phía sau, vừa nhảy bật dậy đứng thẳng người lên, mũi kiếm của Trần Cận Nam lại đã chĩa vào cổ họng.

Thi Lang trong lòng hoảng sợ, tự biết võ công của mình không phải là đối thủ của y, đột nhiên hỏi “Quân sư, Quốc tính gia đối xử với ta thế nào?”.

Câu ấy hỏi ra, Trần Cận Nam vô cùng bất ngờ, trong chớp mắt ấy, bao nhiêu ân oán giữa Trịnh Thành Công và Thi Lang lướt qua trong óc Trần Cận Nam, y thở dài một tiếng, nói “Bình tâm mà nói, Quốc tính gia quả thật có chỗ không phải với ngươi. Nhưng chúng ta chịu ơn lớn của Quốc tính gia, cho dù bị oan khuất thì cũng có cách nào khác đâu?”.

Thi Lang nói “Chẳng lẽ ngươi muốn ta học Nhạc Phi ôm nỗi oan mà chết à?”.

Trần Cận Nam dằn giọng nói “Cho dù ngươi không làm được Nhạc Phi, cũng không thể làm Tần Cối, ngươi đã chạy thoát cũng đã được rồi. Nam tử hán đại trượng phu sao lại có thể đầu hàng người Thát Đát, đi làm Hán gian không bằng cả heo chó?”. Thi Lang nói “Cha mẹ anh em vợ con của ta phạm tội gì mà Quốc tính gia giết sạch họ không để ai sống sót? Y giết chết cả nhà ta, ta phải giết chết cả nhà y để trả thù!”. Trần Cận Nam nói “Trả thù là chuyện nhỏ, làm Hán gian là chuyện lớn. Hôm nay ta giết ngươi, xem ngươi còn mặt mũi nào đi gặp Quốc tính gia không?”.

Thi Lang ngẩng đầu lên, cao giọng nói “Ngươi giết ta đi. Chỉ e là Quốc tính gia không có mặt mũi nào gặp ta, chứ không phải là ta không có mặt mũi nào gặp y đâu”.

Trần Cận Nam dằn giọng nói “Đến bây giờ mà ngươi vẫn còn cứng cỏi”. Đã định phóng kiếm đâm vào cổ họng y, nhưng bất giác lại nhớ tới tình nghĩa đồng sinh đồng tử trên chiến trận ngày xưa. Trong bộ hạ của Quốc tính gia thì Thi Lang đi trước tướng sĩ, tắm máu khổ chiến, công lao quả thật không nhỏ, nếu không phải là Đổng phu nhân dự vào việc quân, khinh mạn đại tướng thì hôm nay nhất định người này vẫn là bề tôi can thành của Đài Loan, tuy đầu hàng nước địch, tuyệt không thể tha thứ, nhưng cả nhà y vô tội mà bị giết, quả thật về tình cũng đáng thương, bèn nói “Ta cho ngươi một con đường sống. Nếu ngươi lập lời thề đầu hàng, trở về làm bộ thuộc của Trịnh vương gia, thì hôm nay ta tha mạng cho ngươi. Từ nay trở đi ngươi lấy công chuộc tội, hết sức với đại nghiệp khôi phục, thì vẫn là một hán tử đường đường. Thi huynh đệ, ta lời hay khuyên nhủ, mong ngươi quay đầu”, câu cuối cùng ngữ điệu cực kỳ tha thiết.

Thi Lang cúi đầu, trên mặt có vẻ hổ thẹn, nói “Nếu ta trở về Đài Loan, há không phải là kẻ tiểu nhân phản phúc vô thường sao?”.

Trần Cận Nam tra kiếm vào vỏ, bước tới nắm tay y, nói “Thi huynh đệ, làm người cốt phải biết đại nghĩa đại tiết, chỉ cần ngươi từ nay trở đi lòng son vì nước, thì quá khứ nhất thời hồ đồ, ai dám cười ngươi? Ngay Quan vương gia năm xưa cũng từng đầu hàng Tào Tháo mà”.

Đột nhiên sau lưng có một người nói “Thằng ác tặc này nói gia gia ta giết hết cả nhà y, Đài Loan ta quyết không dung y được. Ngươi mau giết y đi”. Trần Cận Nam quay đầu nhìn, thấy người nói chính là Trịnh Khắc Sảng, liền nói “Nhị công tử, Thi tướng quân giỏi việc dùng binh, trong quân của Quốc tính gia năm xưa không ai hơn được. Y đầu hàng trở lại, thì rất hay cho đại nghiệp phản Thanh phục Minh của chúng ta. Chúng ta nên lấy quốc gia làm trọng, chuyện thù oán riêng tư trong quá khứ không ai nên để bụng nữa”.

Trịnh Khắc Sảng cười nhạt nói “Hừ, người này mà tới Đài Loan, tay cầm binh quyền, thì họ Trịnh ta còn được sống à?”. Trần Cận Nam nói “Chỉ cần Thi tướng quân lập lời trọng thệ, thì ta xin đem tính mạng cả nhà ra đảm bảo y quyết không hai lòng”. Trịnh Khắc Sảng cười nhạt nói “Đến khi y giết chết cả nhà ta, thì tính mạng cả nhà của ngươi đền được à? Đài Loan là của Trịnh gia ta, chứ không phải là của Trần gia Trần quân sư ngươi”.

Trần Cận Nam tức giận tới mức tay chân lạnh ngắt, cố nén cơn giận, đang còn định nói, Thi Lang đột nhiên sải chân bỏ chạy, kêu lên “Quân sư, ngươi đối xử với ta nghĩa khí sâu nặng, huynh đệ vĩnh viễn không quên. Nhưng nô tài của Trịnh gia, thì huynh đệ không làm được…”.

Trần Cận Nam kêu lên “Thi huynh đệ, quay lại đã, có gì…”, đột nhiên sau lưng đau buốt, một thanh kiếm sắc đã đâm xuyên từ sau lưng ra trước ngực.

Nhát kiếm ấy là Trịnh Khắc Sảng sau lưng y đột nhiên ra tay ám toán. Với võ công của Trần Cận Nam thì cho dù mười Trịnh Khắc Sảng cũng không giết được y, chỉ là y nhìn thấy Thi Lang đã có ý đầu hàng nhưng lại bị Trịnh Khắc Sảng chửi mắng mà bỏ chạy, biết người này là tướng tài khó có, chỉ mong vãn hồi trở lại, nhưng ngàn vạn lần không ngờ Trịnh Khắc Sảng sau lưng lại đột nhiên hạ độc thủ.

Năm xưa sau khi Trịnh Thành Công chiếm lại được Đài Loan, sai con trai là Trịnh Kinh đóng giữ Kim Môn, Hạ Môn. Trịnh Kinh rất được lòng quân, nhưng hành sự không cẩn thận, tư thông với nhũ mẫu sinh được con trai. Trịnh Thành Công được tin đùng đùng nổi giận, sai người cầm lệnh tiễn tới Hạ Môn giết Trịnh Kinh. Các tướng cho rằng đó là “Mệnh lệnh lúc không sáng suốt”, không chịu vâng lệnh, cùng làm tờ tâu, trong có những câu như “Báo đáp ơn sâu có buổi, Chầu về cửa khuyết không ngày”. Trịnh Thành Công thấy bộ tướng kháng mệnh, lại càng tức giận, không bao lâu mắc bệnh mà chết, năm ấy mới ba mươi chín tuổi. Tổng binh tướng lãnh ở Đài Loan lập em Trịnh Thành Công là Trịnh Tập lên ngôi. Trịnh Kinh từ Kim Môn Hạ Môn kéo quân về Đài Loan, đánh tan quân Đài Loan mà lên nối ngôi làm Diên Bình quận vương. Đổng phu nhân vợ Trịnh Thành Công cho rằng trong nhà sinh biến, vương gia mất sớm đều bắt đầu từ việc người nhũ mẫu sinh con trai mà ra, nên mười phần căm hận Khắc Bân do người nhũ mẫu sinh ra, cực lực chủ trương lập cháu nội đích tôn là Khắc Sảng làm thế tử. Trịnh Kinh lại không nghe lời mẹ. Trần Cận Nam trước nay đối với Trịnh gia lòng trung rỡ rỡ, con gái y lại là vợ Khắc Bân, Đổng phu nhân và bọn Phùng Tích Phạm ngấm ngầm bàn mưu, biết muốn ủng lập Khắc Sảng thì phải giết Trần Cận Nam trước để y khỏi cản trở, đã mấy lần gia hại nhưng đều bị y tránh thoát. Không ngờ y cứu mạng Trịnh Khắc Sảng mà lại mắc phải độc thủ của người này. Một nhát kiếm ấy đột nhiên phóng ra, không ai ngờ tới.

***

Phùng Tích Phạm đang định đuổi theo Thi Lang, chợt thấy Vi Tiểu Bảo đang vung chủy thủ đâm tới Trịnh Khắc Sảng. Phùng Tích Phạm vung kiếm gạt ra, xoẹt một tiếng, thanh trường kiếm trong tay đã đứt làm hai đoạn. Nhưng một kiếm ấy của y nội kình hùng hậu, thanh chủy thủ của Vi Tiểu Bảo bị hất tung ra khỏi tay. Phùng Tích Phạm phóng ra một cước đá Vi Tiểu Bảo ngã lộn một vòng, đang định truy kích, Song Nhi đã sấn tới cản lại. Phong Tế Trung và hai huynh đệ Thiên địa hội cũng sấn vào giáp công.

Vi Tiểu Bảo bò dậy, nhặt thanh chủy thủ, căm giận gào lên “Thằng ác tặc này hại chết Tổng đà chủ, mọi người liều mạng với y đi!”, rồi xông vào Trịnh Khắc Sảng.

Trịnh Khắc Sảng nghiêng người tránh qua, vung kiếm đâm vào gáy Vi Tiểu Bảo. Y võ công cao minh hơn Vi Tiểu Bảo nhiều, một kiếm ấy lại rất xảo diệu, đã thấy Vi Tiểu Bảo khó mà né tránh, đột nhiên bên cạnh có một thanh đao phóng tới gạt ra, chính là A Kha. Nàng quát “Không được đả thương sư đệ của ta!”, kế lại có hai huynh đệ Thiên địa hội xông vào tấn công Trịnh Khắc Sảng.

Phùng Tích Phạm đánh nhau với bốn người bọn Phong Tế Trung và Song Nhi vẫn chiếm thượng phong, chát một tiếng đánh một huynh đệ Thiên địa hội miệng phun máu tươi chết lăn xuống đất. Chợt nghe Trịnh Khắc Sảng la lên be be, Phùng Tích Phạm bỏ đối thủ lao tới bên cạnh Trịnh Khắc Sảng, vung chưởng đánh chết một huynh đệ Thiên địa hội. Y biết Trần Cận Nam đã chết, những người này là do Vi Tiểu Bảo đứng đầu, cứ thu thập thằng tiểu quỷ này trước, lập tức vung chưởng đập xuống đỉnh đầu Vi Tiểu Bảo.

Song Nhi kêu lên “Tướng công, chạy mau đi!”, rồi tung người nhảy xổ vào sau lưng Phùng Tích Phạm.

Vi Tiểu Bảo nói “Cô cũng cẩn thận đấy!”, kế sải chân bỏ chạy.

Phùng Tích Phạm nghĩ thầm “Nếu mình đuổi theo thằng tiểu quỷ kia thì không có ai chiếu cố cho công tử”. Liền vươn tay trái ra ôm Trịnh Khắc Sảng, đuổi theo Vi Tiểu Bảo. Y tuy ôm một người mà vẫn chạy nhanh hơn Vi Tiểu Bảo mấy phần.

Vi Tiểu Bảo quay đầu lại nhìn, giật nảy mình, đưa tay định ấn lên cơ quan Hàm sa xạ ảnh, nhưng bước chân hơi chậm lại, Phùng Tích Phạm tới quá nhanh, chưởng phải đã vỗ ra. Lúc ấy tính mạng ngàn cân treo sợi tóc, nếu đứng lại phóng ám khí ra thì có quá nửa là bị y đánh vỡ sọ, chỉ đành nghiêng người tránh qua, sử dụng tuyệt kỹ Thần hành bách biến tránh ra bỏ chạy.

Phùng Tích Phạm mất đà xô tới, vội thu chân xoay người đuổi theo. Vi Tiểu Bảo kêu lên “Hồn ma của sư phụ ta đuổi theo kìa! Đang sờ lên đầu ngươi đấy”. Nói hai câu ấy, hơi thở thoát ra, Phùng Tích Phạm lại tới gần thêm một bước. Phía sau Song Nhi và Phong Tế Trung ra sức đuổi theo, chỉ mong chặn được Phùng Tích Phạm. Vi Tiểu Bảo luồn đông lách tây, biến ảo khôn lường, Phùng Tích Phạm ôm Trịnh Khắc Sảng, thân hình rốt lại không thật linh hoạt nên nhất thời không sao đuổi kịp. Song Nhi và Phong Tế Trung lại cách phía sau vài trượng.

Bên chạy bên đuổi một lúc, Vi Tiểu Bảo dần dần thấy mệt, trong lúc cấp bách, sải chân chạy lên dốc núi. Phùng Tích Phạm cả mừng, nghĩ thầm ngươi tự chạy vào đường cùng, nhìn thấy trên dốc núi ngoài một đường sơn đạo hẹp thì hai bên là vực sâu, không có đường lui, lại không đuổi gấp nữa. Chỉ thấy Vi Tiểu Bảo chạy cuống lên trên đường sơn đạo, công phu Thần hành bách biến không thể sử dụng được, y vừa đạp chân lên đầu vực, Phùng Tích Phạm cũng sấn tới. Vi Tiểu Bảo la lớn “Vợ lớn, vợ vừa, vợ nhỏ, mọi người tới giúp ta mau, nếu vẫn không ra thì sẽ phải làm quả phụ cả đấy”.

Lúc y chạy lên dốc núi, năm cô gái trên dốc đã sớm nhìn thấy. Tô Thuyên thấy Phùng Tích Phạm tay trái cắp một người vẫn chạy như bay, võ công cao cường so với Hồng giáo chủ chỉ kém một bậc, đã sớm cầm đao phục bên dốc núi, chờ Phùng Tích Phạm vừa tới, vù một tiếng quét ra chém mau vào hông y.

Lúc đầu Phùng Tích Phạm nghe Vi Tiểu Bảo la thét inh ỏi, chỉ nghĩ là y cố ý làm người ta phân tâm, chứ ngàn vạn lần không ngờ ở đây quả nhiên có người mai phục, chỉ thấy nhát đao ấy chiêu số tinh kỳ, hơi thoáng giật mình, lui lại một bước, quát lớn một tiếng, chân trái hơi rung một cái, chân phải đột nhiên phi ra đá trúng cổ tay Tô Thuyên. Tô Thuyên a một tiếng, thanh liễu diệp đao tuột khỏi tay bắn thẳng lên không.

Chính trong khoảnh khắc ấy Vi Tiểu Bảo đã xoay người nhắm đúng vào Phùng Tích Phạm, tay phải ấn mạnh cơ quan Hàm sa xạ ảnh ở hông, tiếng vù vù vù rít lên, một chùm cương châm rất nhỏ bắn ra, tất cả đều đánh trúng vào Phùng Tích Phạm và Trịnh Khắc Sảng.

Phùng Tích Phạm bật tiếng la thảm, buông lỏng tay thả Trịnh Khắc Sảng xuống, hai người cùng la lớn như heo bị chọc tiết, không ngừng lăn lông lốc theo đường sơn đạo xuống dưới. Cũng là Hà Dịch Thủ sau khi gia nhập phái Hoa Sơn tuân lời giáo huấn của sư phụ, bỏ tất cả những loại thuốc âm hiểm kịch độc, chỉ dùng thuốc tê tẩm lên cương châm, hoàn toàn không phải là chất kịch độc trí mạng, nếu không với ám khí tẩm độc của giáo chủ Ngũ Độc giáo năm xưa truyền lại, thấy máu là tắt thở, ai trúng là mất mạng, thì Phùng Trịnh hai người chưa lăn tới chân dốc đã đứt hơi rồi. Tuy thế nhưng cương châm cắm vào người vẫn tê buốt không sao chịu nổi, hai người trên toàn thân như có mấy trăm con bò cạp, rết độc đồng thời cắn rứt. Phùng Tích Phạm tuy cứng cỏi nhưng cũng không nhịn được kêu la không ngớt.

Vi Tiểu Bảo, Song Nhi, Phong Tế Trung, Tô Thuyên, Phương Di, Mộc Kiếm Bình, công chúa, Tăng Nhu, A Kha trước sau chạy tới, nhìn thấy tình trạng của hai người Phùng Trịnh, đều nhìn nhau hoảng sợ.

Vi Tiểu Bảo định thần lại, thở ra mấy hơi, chạy tới cạnh Trần Cận Nam, chỉ thấy thanh kiếm của Trịnh Khắc Sảng xuyên qua ngực y vẫn còn cắm trên người, nhưng y chưa tắt hơi, bất giác buông tiếng khóc rống, đỡ y ngồi lên.

Trần Cận Nam nội công thâm hậu, nội tức chưa tan, hạ giọng nói “Tiểu Bảo, người ta rồi cũng phải chết. Ta… ta cả đời vì nước vì dân, không có gì thẹn với trời đất. Ngươi… ngươi cũng không cần phải đau lòng”.

Vi Tiểu Bảo chỉ kêu “Sư phụ, sư phụ!”. Thời gian y và Trần Cận Nam ở chung với nhau rất ít, mỗi lần gặp nhau lại chỉ lo sư phụ tra vấn võ công của mình tiến bộ tới đâu, trong lòng hồi hộp, chỉ tính toán làm sao để che giấu lấp liếm chuyện mình không có lòng cầu tiến, rất ít có ý cảm kích ơn thầy. Nhưng lúc ấy nhìn thấy y sẽ mất mạng trong khoảnh khắc, thì vô số việc làm không nói mà dạy của sư phụ lúc bình thời, tình thương như cha của sư phụ đối với mình lập tức tràn ngập trong lòng, chỉ hận không thể chết thay cho y, liền nói “Sư phụ, con không phải với người, võ công của người truyền thụ, con… con… con chưa học được chút gì”.

Trần Cận Nam mỉm cười nói “Chỉ cần ngươi làm người tốt thì sư phụ đã rất vui rồi, còn học hay không học võ công, chuyện… chuyện đó cũng không hề gì”. Vi Tiểu Bảo nói “Con nhất định nghe lời người, làm người tốt, không… không làm người xấu”. Trần Cận Nam mỉm cười nói “Thằng nhỏ ngoan, trước nay ngươi vẫn là một thằng nhỏ tốt mà”.

Vi Tiểu Bảo nghiến răng nói “Thằng ác tặc Trịnh Khắc Sảng hại người, hu hu, hu hu, sư phụ, con đã chế phục y, nhất định con sẽ băm vằm y ra báo thù cho người, hu hu, hu hu…”, vừa khóc vừa nói, nước mắt ròng ròng.

Trần Cận Nam thân hình run lên, vội nói “Không, không! Ta là bộ thuộc của Trịnh vương gia, Quốc tính gia đối với ta ơn nặng như núi, chúng ta bất kể thế nào cũng không thể giết hại cốt nhục của Quốc tính gia… Thà là y vô tình, chứ ta không thể bất nghĩa. Tiểu Bảo, ta sắp chết rồi, ngươi không thể làm nhơ danh tiếng trung nghĩa của ta. Ngươi… ngàn vạn lần phải nghe lời ta…”, vẻ mặt y vốn thoáng nét cười, nhưng lúc ấy đột nhiên tỏ ra vô cùng lo sợ, lại nói “Tiểu Bảo, ngươi ưng thuận với ta đi, nhất định phải thả y về Đài Loan, nếu không… nếu không thì ta chết cũng không nhắm mắt”.

Vi Tiểu Bảo không biết làm sao, đành nói “Sư phụ đã muốn tha thằng ác tặc ấy thì con nghe… thì con nghe lời người là được”.

Trần Cận Nam lập tức yên tâm, thở phào ra một hơi, chậm rãi nói “Tiểu Bảo, đại nghiệp phản Thanh phục Minh… của Thiên địa hội, ngươi phải cố gắng mà làm, người Hán chúng ta đồng tâm hiệp lực, rốt lại cũng có thể khôi phục được giang sơn, chỉ tiếc là… chỉ tiếc là ta không thấy… không thấy… được nữa rồi”, giọng nói càng lúc càng nhỏ, không hít vào được nữa, lúc ấy qua đời.

Vi Tiểu Bảo ôm xác y, gào lên “Sư phụ, sư phụ!”, gào tới mức khản tiếng kiệt sức, nhưng Trần Cận Nam không hề lên tiếng.

Bọn Tô Thuyên nãy giờ đứng cạnh y, thấy Trần Cận Nam đã chết, Vi Tiểu Bảo vô cùng đau thương, ai cũng mủi lòng. Tô Thuyên khẽ vỗ vai y, dịu dàng nói “Tiểu Bảo, sư phụ ngươi qua đời rồi”.

Vi Tiểu Bảo khóc nói “Sư phụ chết rồi, chết rồi”. Y trước nay không có cha, từ trong đáy lòng đã sớm lấy sư phụ thay cha để bù đắp chỗ thiếu thốn về tinh cảm, chỉ là chính mình cũng không tự biết mà thôi, lúc ấy sư phụ qua đời, nỗi đau đớn trong lòng như nước lụt phá vỡ đê, không sao kìm chế, té ra rốt lại mình vẫn là một thằng nhỏ cù bơ cù bất không cha.

***

Tô Thuyên muốn y quên bớt nỗi đau lòng, nói “Hung thủ hại chết sư phụ ngươi, chúng ta xử trí thế nào?”.

Vi Tiểu Bảo nhảy bật lên, ngoác miệng chửi lớn “Mẹ kiếp, quân khốn kiếp. Sư phụ ta là bộ thuộc của Trịnh gia ngươi, chứ Vi Tiểu Bảo ta chưa ăn một miếng cơm, chưa tiêu một đồng bạc nào của Trịnh gia ngươi cả. Con bà thằng giặc thối tha nhà ngươi, ngươi còn thiếu ta một vạn lượng bạc chưa trả. Sư phụ muốn ta tha mạng cho ngươi, được, mạng thì tha rồi, nhưng mau đưa một vạn lượng bạc ra đây. Ngươi mà không đưa ra thì ta cắt thịt ngươi, cứ một nhát trừ đi một lượng”. Trên miệng chửi mắng không ngớt, cầm chủy thủ sấn tới trước mặt Trịnh Khắc Sảng, vung chân đá vào y túi bụi.

Trịnh Khắc Sảng trúng độc châm ít hơn Phùng Tích Phạm, lúc ấy vết thương đã bớt đau ngứa, nghe nói Trần Cận Nam tha mạng cho mình, quả thật là mừng vì được quá cả lòng mong mỏi, nhưng chủ nợ muốn đòi tiền, trong người lại không mang theo tiền bạc, liền năn nỉ “Ta… ta về tới Đài Loan, nhất định sẽ trả gấp mười, không, trả gấp một trăm lần”. Vi Tiểu Bảo đá vào đầu y một cước, chửi “Thằng giặc thối tha lòng heo dạ chó, quên ơn phụ nghĩa nhà ngươi, nói năng như đánh rắm. Một vạn nhát đao ấy không cắt không xong”, rồi đưa thanh chủy thủ ra liếc lên mặt y hai cái.

Trịnh Khắc Sảng hoảng sợ hồn xiêu phách lạc, chỉ mong A Kha lên tiếng nài nỉ, đột nhiên nghĩ ra “Không được, không được! Thằng tiểu tặc này rất yêu thương A Kha, lúc này mà nàng lên tiếng nài nỉ cho mình, chỉ e y càng căm hận mình, một vạn nhát đao này e một nhát cũng không thiếu được”. Liền nói “Một trăm vạn lượng bạc ấy, nhất định ta sẽ trả. Nếu Vi Hương chủ, Vi tướng công không tin…”.

Vi Tiểu Bảo đá y một cước, quát “Tự nhiên là ta không tin! Sư phụ ta tin ngươi, mà ngươi hại chết người rồi”. Trong lòng không kìm được nỗi bi phẫn, vung chủy thủ đâm xuống mặt y.

Trịnh Khắc Sảng kêu lên “Nếu ngươi không tin, thì ta nhờ A Kha bảo lãnh”. Vi Tiểu Bảo nói “Bảo lãnh cũng vô dụng. Cô ta đã bảo lãnh cho ngươi rồi, nhưng về sau ngươi vẫn chây ra không trả”. Trịnh Khắc Sảng nói “Ta có cái để gán nợ”. Vi Tiểu Bảo nói “Được, cứ cắt cái đầu chó của ngươi ra mà gán nợ, ngươi trả một trăm vạn lượng bạc xong, ta sẽ trả cái đầu chó của ngươi lại cho ngươi”. Trịnh Khắc Sảng nói “Ta đem A Kha gán nợ cho ngươi”.

Trong chớp mắt ấy, Vi Tiểu Bảo thấy trời xoay đất chuyển, bàn tay lỏng ra, thanh chủy thủ rơi xuống, sột một tiếng cắm xuống đất cách đầu Trịnh Khắc Sảng chỉ vài tấc. Trịnh Khắc Sảng “Ái chà” một tiếng, vội rụt đầu lại nói “Ta đem A Kha gán nợ cho ngươi thì ngươi phải tin, lúc nào ta đưa một trăm vạn lượng bạc tới, ngươi sẽ trả A Kha lại cho ta”. Vi Tiểu Bảo nói “Chuyện đó còn phải thương lượng”.

A Kha kêu lên “Không được, không được! Ta là gì của ngươi, mà ngươi đem ta gán nợ?”, nói xong khóc òa lên.

Trịnh Khắc Sảng vội nói “Lúc này ta đang đại họa lâm đầu, mà A Kha không hề quan tâm tới ta, loại con gái vô tình vô nghĩa ấy ta không cần. Nếu Vi Hương chủ muốn cô ta thì ta bán đứt cho ngươi một vạn lượng bạc đấy. Chúng ta không ai thiếu ai, ngươi cũng không cần cắt ta một vạn nhát nữa”.

Vi Tiểu Bảo nói “Trong lòng cô ta chỉ hướng về ngươi, ngươi có bán đứt cho ta cũng vô dụng”.

Trịnh Khắc Sảng nói “Trong bụng cô ta đã có con của ngươi, lẽ nào còn hướng về ta nữa?”. Vi Tiểu Bảo vừa sợ vừa mừng, run lên nói “Ngươi… ngươi nói gì?”. Trịnh Khắc Sảng nói “Hôm trước trong Lệ Xuân viện ở Dương Châu, ngươi và cô ta ngủ cùng giường, cô ta đã có con…”.

A Kha lớn tiếng la hoảng, nhảy bật dậy ôm mặt chạy ra biển. Song Nhi vọt theo mấy bước đuổi kịp, nắm tay nàng kéo lại. A Kha khóc nói “Ngươi… ngươi đã ưng thuận là không nói ra, tại sao… tại sao lại nói? Ngươi nói năng cứ như đánh… đánh…”, tuy đang lúc căm giận xấu hổ, vẫn thấy chữ “rắm” quá bất nhã, không sao nói ra được.

Trịnh Khắc Sảng thấy Vi Tiểu Bảo thần sắc thay đổi bất định, chỉ sợ y lại trở quẻ, vội nói “Vi Hương chủ, đứa con ấy đích xác là của ngươi. Ta và A Kha thanh thanh bạch bạch, cô ta nói phải bái đường thành thân xong mới làm vợ chồng với ta. Ngươi… ngươi ngàn vạn lần đừng đa nghi”. Vi Tiểu Bảo hỏi “Chuyện chiếm tiện nghi với lão tử như thế, sao ngươi không làm?”. Trịnh Khắc Sảng nói “Sau khi trong bụng cô ta có con của ngươi, thường nghĩ tới ngươi, suốt ngày từ sáng đến tối chỉ nói về ngươi. Ta nghe mà phát chán, còn cần cô ta làm gì?”.

A Kha không ngừng giẫm chân, mặt lúc đỏ lúc trắng, tức giận nói “Chuyện gì… chuyện gì ngươi cũng nói ra cả”, nói như thế chính là thừa nhận lời y không phải là giả.

Vi Tiểu Bảo cả mừng, nói “Được, vậy thì lăn quả trứng thối con mẹ ngươi đi”. Trịnh Khắc Sảng cũng cả mừng nói “Đa tạ, đa tạ! Chúc hai vị bách niên hảo hợp. Phần lễ mừng này, sau này… sau này huynh đệ sẽ đưa tới bù lại”. Nói xong từ từ bò dậy.

Vi Tiểu Bảo phì một tiếng, nhổ toẹt một bãi nước bọt xuống đất, nói “Ta đời này kiếp này không muốn thấy mặt thằng giặc thối tha nhà ngươi nữa đâu”, nghĩ thầm “Mình ưng thuận với sư phụ hôm nay tha mạng cho y, nhưng sau này không ngại gì sai người tới giết y trả thù cho sư phụ. Chỉ cần không phái người trong Thiên địa hội, thì người ngoài không thể đổ lên đầu sư phụ mình được”.

Ba tên vệ sĩ Trịnh phủ nãy giờ co rúm một bên, đến lúc thấy Vi Tiểu Bảo tha mạng cho chủ nhân, mới bước tới đỡ Trịnh Khắc Sảng lên, lại đỡ Phùng Tích Phạm đang nằm dưới đất dậy. Trịnh Khắc Sảng nhìn ra biển, trong lòng ngần ngừ, chiến thuyền của Thi Lang đã đi xa rồi, trên bờ biển còn hai chiếc thuyền đang đậu, chiếc của mình đã bị đại pháo của quân Thanh bắn gãy cột buồm, khó mà đi được nữa, chiếc kia thì còn nguyên vẹn, rõ ràng là của bọn Vi Tiểu Bảo, quyết không lẽ nào lại nhường cho mình. Y hạ giọng hỏi “Phùng sư phụ, chúng ta không có thuyền thì làm thế nào?”. Phùng Tích Phạm nói “Lên thuyền nhỏ rồi sẽ nói”.

Một đoàn người từ từ đi ra bờ biển, đột nhiên phía sau có một người cao giọng nói “Khoan đã! Vi Hương chủ tha mạng cho các ngươi, chứ ta chưa tha”. Trịnh Khắc Sảng giật nảy mình, chỉ thấy một người cầm đao đuổi tới, chính là Phong Tế Trung cao thủ của Thiên địa hội. Trịnh Khắc Sảng run lên nói “Ngươi… ngươi là huynh đệ Thiên địa hội, Thiên địa hội trước nay vẫn chịu sự tiết chế của Diên Bình vương phủ Đài Loan, ngươi… ngươi…”. Phong Tế Trung cao giọng nói “Ta thì sao? Đứng lại cho ta!”. Trịnh Khắc Sảng trong lòng khiếp sợ, chỉ đành ứng tiếng “Vâng”.

Phong Tế Trung trở lại trước mặt Vi Tiểu Bảo, nói “Vi Hương chủ, người này hại chết Tổng đà chủ, là đại cừu nhân không đội trời chung của mấy vạn huynh đệ Thiên địa hội ta, quyết không tha y được. Tổng đà chủ từng chịu ơn Quốc tính gia, không chịu giết con cháu y. Vi Hương chủ lại phụng di mệnh của Tổng đà chủ, không thể hạ thủ. Nhưng thuộc hạ thì trước nay chưa từng gặp Quốc tính gia, di mệnh của Tổng đà chủ cũng không phải nói lại với ta. Hôm nay thuộc hạ giết chết thằng ác tặc này, trả thù cho Tổng đà chủ”.

Vi Tiểu Bảo xòe bàn tay phải ra đặt lên sau vành tai, nghiêng đầu làm ra vẻ như đang lắng nghe, nói “Ngươi nói gì? Ta đột nhiên lãng tai, không nghe thấy gì cả. Phong đại ca, ngươi muốn làm gì thì cứ làm thôi, không cần nghe lệnh ta đâu. Tai ta có chuyện, ờ, nhất định là bị đại pháo của thằng đầy tớ Thi Lang kia làm điếc đặc rồi”. Câu nói không còn gì rõ ràng hơn, là nếu Phong Tế Trung muốn giết Trịnh Khắc Sảng thì cứ việc ra tay, y quyết không cản trở.

Thấy Phong Tế Trung có vẻ ngần ngừ, Vi Tiểu Bảo lại nói “Lúc sư phụ lâm tử chỉ dặn ta không được giết Trịnh Khắc Sảng chứ không dặn ta bảo vệ cho y suốt đời suốt kiếp. Chỉ cần không phải ta đích thân ra tay là được. Trong thiên hạ có hàng vạn vạn người, người nào cũng có thể giết y, chuyện ấy ai mà quản được?”.

Phong Tế Trung kéo tay áo Vi Tiểu Bảo một cái, nói “Mời Vi Hương chủ bước ra đây nói chuyện”. Hai người đi ra vài mươi trượng, Phong Tế Trung dừng lại, nói “Vi Hương chủ, trước nay hoàng thượng rất ưa thích ngươi, phải không?”. Vi Tiểu Bảo rất ngạc nhiên, nói “Đúng thế. Vậy thì sao?”. Phong Tế Trung nói “Hoàng thượng muốn ngươi giết Tổng đà chủ, ngươi không chịu mà bỏ trốn đi, đủ thấy ngươi nghĩa khí sâu nặng. Anh hùng hảo hán trên giang hồ, ai cũng mười phần khâm phục”.

Vi Tiểu Bảo lắc lắc đầu, buồn bã nói “Nhưng rốt lại sư phụ đã chết rồi”. Phong Tế Trung nói “Tổng đà chủ là bị thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng hại chết, có điều việc sai sử mà hoàng thượng giao cho Vi Hương chủ kể như cũng đã làm xong…”. Vi Tiểu Bảo vô cùng ngạc nhiên, hỏi “Ngươi… tại sao ngươi lại nói… nói như thế?”.

Phong Tế Trung nói “Trong lòng hoàng thượng lo sợ ba người, ba người này không trừ thì ngai vàng của hoàng thượng vẫn không yên ổn. Người thứ nhất là Ngô Tam Quế, chuyện đó không cần phải nói. Người thứ hai là Tổng đà chủ, huynh đệ Thiên địa hội rải ra trong khắp thiên hạ, chí hướng phản Thanh phục Minh trước nay chưa hề lay chuyển, hoàng thượng mười phần đau đầu. Hiện Tổng đà chủ chết rồi, trừ bỏ được một mối lo lớn của hoàng thượng…”.

Vi Tiểu Bảo nghe tới đó, trong óc đột nhiên lóe lên một tia sáng “Là ngươi, là ngươi, té ra là ngươi!”.

Hồi 45: Vẫn có chằm sâu giăng mảnh lưới – Còn thừa trúc gãy thả cần câu

Vi Tiểu Bảo trong Thiên địa hội làm gì nói gì, Khang Hy đều biết rõ từng chi tiết, thậm chí cả tiếng lóng trong hội cũng có thể đọc thuộc lòng trôi chảy, nhưng những việc như Vi Tiểu Bảo lấy Tứ thập nhị chương kinh, nhận chức Bạch long sứ trong Thần Long giáo thì Khang Hy lại hoàn toàn không biết. Vi Tiểu Bảo nghĩ kỹ lại, nhất định trong hội có gian tế, vả lại còn là người rất gần gũi với mình. Nhưng bấy nhiêu bằng hữu trong Thanh Mộc đường người nào cũng mật đỏ lòng son, nghĩa khí sâu nặng, quyết không đi làm gian tế, bán đứng bạn bè, vì thế tuy trong lòng vẫn mang mối nghi ngờ rất lớn nhưng không có chút đầu mối nào để tìm hiểu, chỉ cảm thấy chuyện này mười phần cổ quái, khó có thể giải thích mà thôi.

Lúc ấy Phong Tế Trung nói như thế, Vi Tiểu Bảo lập tức hiểu ra, nghĩ thầm “Mình thật đáng chết, tại sao không nghĩ tới người này. Hôm ấy hoàng đế muốn mình bắn phá phủ bá tước, trong Thiên địa hội chỉ có một mình y không có mặt trong phủ. Chuyện đó đã không còn gì rõ ràng hơn. Những người tới phủ bá tước quyết không có ai là gian tế, nếu không đạn pháo bắn vào thì còn gì tính mạng? Chỉ có y đã sớm biết được, nên đi trước để tránh, ờ, mình đúng là một đứa ngu xuẩn, nếu bây giờ y không nói ra thì mình vẫn còn chưa hay biết gì”.

Phong Tế Trung trầm mặc ít nói, dáng vẻ rất thật thà, võ công tuy cao cường nhưng cử chỉ lại như một ông già nhà quê ngu ngốc. Vi Tiểu Bảo thỉnh thoảng đoán xem ai là gian tế, chỉ nghĩ tới Tiền Lão Bản ăn nói lanh lợi, buôn bán chợ búa, Từ Thiên Xuyên cử chỉ mau lẹ, tinh minh khôn khéo, Cao Ngạn Siêu làm việc chu đáo, tài cán lão luyện, Huyền Trinh đạo nhân tính nết nóng nảy, tham ăn thích uống, cả Phàn Cương kiến thức rộng rãi, hào sảng khảng khái cho tới Lý Lực Thế vài năm nay tuổi già sức yếu, Kỳ Thanh Bưu ăn nói chua cay khắc bạc cũng đều nghĩ tới, còn đối với Phong Tế Trung không có chút nào giống gian tế thì trước nay hoàn toàn không hề nghĩ tới.

Đột nhiên lại nghĩ “Lúc ấy Song Nhi cũng không có trong phủ bá tước, chẳng lẽ nàng… nàng cũng là gian tế, cũng không tốt với mình sao?”. Nghĩ tới chi tiết ấy bất giác trong lòng chua xót, nhưng lập tức hiểu ra “Song Nhi là Phong Tế Trung cố ý dắt đi. Y biết a hoàn này là mạng sống của mình, nếu nàng bị bắn chết, về sau sự tình lộ ra, nhất định mình sẽ căm hận y suốt đời. Y chẳng qua chỉ là một tên gian tế của hoàng thượng, ngấm ngầm thông báo tin tức mà thôi, Thiên địa hội mà bị tiêu diệt thì hoàng thượng không cần dùng y nữa. Nếu mình làm khó y trước mặt hoàng thượng, thì y không chống đỡ được, vì thế không dám thật sự đắc tội với mình”.

Sự suy tưởng ấy nói ra thì dài, nhưng đương thời trong lòng Vi Tiểu Bảo chỉ là linh cơ lóe lên một cái đã lập tức minh bạch, bèn nói “Phong đại ca, đa tạ ngươi đã dắt Song Nhi ra khỏi phủ bá tước, để cô ta không bị đại pháo bắn chết”.

Phong Tế Trung a một tiếng, sắc mặt lập tức thay đổi hẳn, lui lại hai bước, tay đặt lên chuôi đao, nói “Ngươi… ngươi…”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Ta và ngươi đều hiểu trong lòng không cần nói ra, chuyện gì hoàng thượng cũng đã nói cho ta nghe rồi”. Phong Tế Trung biết hoàng đế rất sủng ái y, câu này ắt không phải giả, liền hỏi “Vậy tại sao ngươi không tuân thánh chỉ?”. Câu hỏi này chính là thừa nhận tất cả chuyện kia.

Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói “Phong đại ca, chuyện đó ngươi cần gì biết rồi mà còn cố ý hỏi? Cái đó gọi là trung nghĩa không thể lưỡng toàn. Hoàng thượng đối đãi với ta thật là không còn chỗ nào mà nói, quả thật là hoàng ân hạo đãng, nhưng sư phụ đối với ta cũng không tệ. Bây giờ sư phụ chết rồi, ta còn có gì phải nghĩ ngợi nữa. Chỉ không rõ hoàng thượng có tha tội chết cho ta hay không thôi”.

Phong Tế Trung nói “Hiện có một cơ hội tốt để lập công chuộc tội. Mới rồi ta nói hoàng thượng quyết ý trừ diệt ba cái đinh trong mắt, ngoài việc trừ diệt Ngô Tam Quế, Trần Vĩnh Hoa, người thứ ba chính là Trịnh Kinh cát cứ Đài Loan. Chúng ta bắt con Trịnh Kinh giải về Bắc Kinh, chưa biết chừng còn ép được Trịnh Kinh phải đầu hàng. Phen này hoàng thượng vui mừng, Vi Đô thống, cho dù ngươi mắc tội lớn tày trời, hoàng thượng cũng tha thứ thôi”.

Vi Tiểu Bảo trong lòng tức giận “Thằng gian tặc không có nghĩa khí nhà ngươi, lại dám gọi thẳng tên sư phụ ta”. Nhưng nghĩ tới việc có thể làm lành với Khang Hy, cũng rất vui vẻ, có làm quan hay không cũng thôi, nhưng thỉnh thoảng được chuyện trò với tiểu hoàng đế thì thật vô cùng vui vẻ.

Phong Tế Trung lại nói “Vi Đô thống, chúng ta trở về Bắc Kinh, vẫn cứ đừng nói ra. Người trong Thiên địa hội biết Trần Cận Nam đã chết, có quá nửa sẽ tôn ngươi làm Tổng đà chủ. Ngươi nghĩa khí sâu nặng, cam tâm vứt bỏ vinh hoa phú quý, Bá tước không làm, Đô thống không làm, chỉ vì muốn cứu tính mạng của huynh đệ trong Thiên địa hội, chuyện ấy đã đồn ra khắp thiên hạ. Trong bấy nhiêu ngày giang hồ đồn đại ầm lên, chỉ bàn tán chuyện ấy, ai lại không bội phục hào khí anh hùng của Vi Đô thống?”.

Vi Tiểu Bảo rất đắc ý, hỏi “Quả thật mọi người nói thế à? Ngươi không lừa dối đấy chứ?”. Phong Tế Trung vội nói “Không, không… ty chức quyết không dám lừa dối Đô thống đại nhân”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Y tự xưng là ty chức, không biết đã làm tới chức quan gì?”, tuy tò mò nhưng không dám hỏi, sợ hỏi sẽ lòi đuôi, câu “Chuyện gì hoàng thượng cũng đã nói cho ta nghe rồi” lại không đúng, nhưng lại xoay chuyển ý nghĩ “Nhưng không ngại gì hỏi y đã được thăng chức gì”. Bèn mỉm cười hỏi “Ngươi lập được công lớn ấy, hoàng thượng nhất định thăng chức cho ngươi, bây giờ đã làm tới chức gì rồi?”. Phong Tế Trung nói “Hoàng thượng ban ơn phong cho ty chức chức Đô ty”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Té ra chỉ là chức quan võ nhỏ như hạt mè hạt đậu, so với lão tử còn thua tới mười bảy hăm tám bậc”. Trong quan chế nhà Thanh, Bá tước là quan lớn siêu phẩm, Đô thống Kiêu kỵ doanh là Tùng nhất phẩm. Võ quan người Hán cao nhất là Đề đốc hàm Tùng nhất phẩm, Tổng binh hàm Chánh nhị phẩm, trở xuống là Phó tướng, Tham tướng, Du kích rồi mới tới Đô ty. Nhưng thấy Phong Tế Trung trên mặt tuy có vẻ rất thật thà, nhưng ánh mắt vẫn không kìm được lộ ra tia đắc ý, bèn chắp tay cười nói “Chúc mừng, chúc mừng! Đây là hoàng thượng đích thân đề bạt, khác hẳn mọi người”.

Phong Tế Trung thỉnh an, nói “Từ nay còn xin nhờ đại nhân tài bồi nhiều cho”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Chúng ta là người mình, cần gì phải nói thế? Làm việc cho hoàng thượng thì bản lĩnh của ngươi còn hơn ta nhiều”. Phong Tế Trung cười nói “Ty chức làm sao bằng được đại nhân trong muôn một? Bẩm đại nhân, hoàng thượng dặn ty chức là nếu gặp được đại nhân thì bất kể thế nào cũng phải mời bằng được đại nhân về kinh, không được kháng mệnh trái chỉ. Ty chức nghe ý tứ của hoàng thượng thì rất coi trọng đại nhân, có thể nói là mười phần nhớ nhung. Lần này lập được công lớn, bắt con trai của nghịch tặc họ Trịnh Đài Loan về kinh, hoàng thượng vui vẻ, nhất định sẽ thăng quan cho đại nhân”.

Vi Tiểu Bảo ờ một tiếng, nói “Vậy thì ngươi sẽ được thăng làm Du kích rồi”. Phong Tế Trung nói “Ty chức chỉ muốn ra sức cho hoàng thượng, hoàng thượng gặp đại nhân rồi, trong lòng vui vẻ thì bọn nô tài chúng ta đã mừng lắm rồi, còn thăng chức hay không thì đó là ân điển của hoàng thượng”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Trước nay ta cứ cho rằng ngươi là người thành thật, té ra là một kẻ rất biết làm quan”.

Phong Tế Trung lại nói “Đại nhân giữ chức Tổng đà chủ của Thiên địa hội, điều hết Hương chủ trong mười tám tỉnh và đầu mục quan trọng trong các nơi về một chỗ, nói là để mai táng Trần Cận Nam, lúc ấy một mẻ lưới quét sạch, cho bọn phản tặc mưu việc bất pháp, đại nghịch bất đạo không kẻ nào chạy thoát. Công lao ấy so với công lao bắn tan phủ Bá tước hôm trước còn lớn hơn gấp mười lần. Đại nhân người nghĩ xem, hôm ấy nếu người tuân chỉ giết chết Trần Cận Nam, Lý Lực Thế thì tỉnh nào cũng có bọn phản nghịch Thiên địa hội, giết một Tổng đà chủ thì họ lại lập lên một Tổng đà chủ, rốt lại cũng không giết hết được. Chỉ có đại nhân tự mình làm Tổng đà chủ, lúc ấy mới có thể nhổ cỏ tận gốc, vĩnh viễn tiêu trừ mối đại họa tâm phúc cho hoàng thượng”.

Mấy câu này khiến Vi Tiểu Bảo nghe thấy sống lưng lạnh toát, nghĩ thầm “Độc kế này quả nhiên rất lợi hại, có lẽ chưa chắc chính ngươi nghĩ ra được, mười phần thì có tới chín phần là kế sách của tiểu hoàng đế. Mình về tới Bắc Kinh có quá nửa là sẽ được tiểu hoàng đế sẽ tha tội, nhưng nhất định sẽ lại bắt mình đi tiêu diệt Thiên địa hội. Lần này nhất định y có cách hay để đối phó với mình, không thể chạy thoát ra khỏi lòng bàn tay y nữa”. Y càng nghĩ càng khiếp sợ “Tiểu hoàng đế muốn mình đầu hàng, muốn đánh vào mông mình, chuyện đó không hề gì, nhưng bắt mình đi làm Tổng đà chủ Thiên địa hội, giết hết tất cả huynh đệ, chuyện này thì ngàn vạn lần không làm được. Một khi làm chuyện này thì hảo hán khắp thiên hạ ai cũng chửi bới tổ tông mười tám đời của mình, sau khi chết đi còn mặt mũi nào gặp sư phụ được. Bọn vợ lớn vợ nhỏ ở đây trong lòng cũng sẽ không coi mình ra gì. Cho dù người ngoài không đáng đếm xỉa, thì Vi Tiểu Bảo lương tâm tuy không có nhiều nhưng rốt lại cũng có một chút chứ”.

Y nhìn Phong Tế Trung một cái, miệng liên tiếp ồ, ồ, nghĩ thầm “Nếu mình không ưng thuận, y sẽ lập tức trở mặt với mình. Nếu động thủ thì bên mình đông người, cũng chưa chắc thua y. Chỉ là thằng khốn này võ công cao cường, nếu để y giết chết vài người trong đám vợ lớn vợ nhỏ của mình thì không được. Mình không ngại gì giở trò Hàm sa xạ ảnh một phen”. Bèn trầm ngâm nói “Đi gặp hoàng thượng thì ta vốn cũng rất muốn, chỉ có điều… phải giết quá nhiều huynh đệ Thiên địa hội thì rất không có nghĩa khí, không đáng là bạn bè, phải bàn bạc cho kỹ ”.

Phong Tế Trung nói “Đại nhân nói rất đúng. Nhưng có câu rất hay là Lượng nhỏ không quân tử, Không độc chẳng anh hùng”.

Vi Tiểu Bảo nói “Đúng, đúng, Không độc chẳng anh hùng… ủa, ái chà, thẳng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng trốn đâu rồi?”.

Phong Tế Trung giật nảy mình, quay đầu lại nhìn. Vi Tiểu Bảo ngực nhắm đúng vào y, đưa tay đang định ấn cơ quan phóng độc châm ra, lại thấy Song Nhi sấn tới trước mặt, kêu lên “Tướng công, có chuyện gì vậy?”.

Vốn nàng thấy hai người trò chuyện không thôi, nãy giờ vẫn quan tâm, đã lần bước tới gần, chợt nghe Vi Tiểu Bảo la lên “Ái chà”, lập tức tung người vọt ra. Hàm sa xạ ảnh của Vi Tiểu Bảo mà phóng ra cố nhiên sẽ đánh trúng Phong Tế Trung, nhưng cũng sẽ trúng cả vào Song Nhi, lúc ấy ngón tay đã đè lên cơ quan, nhưng không dám ấn xuống.

Phong Tế Trung vừa quay lại nhìn, thấy Trịnh Khắc Sảng và Phùng Tích Phạm vẫn đứng trên bờ biển, không có gì khác lạ, lập tức biết ngay là không hay, thân hình hụp xuống một cái, lật tay đã chụp được Song Nhi kéo nàng đứng che trước mặt mình. Với võ công của Song Nhi thì Phong Tế Trung vốn chưa chắc đã chụp một cái là bắt được, chỉ là y đột nhiên ra tay, Song Nhi không hề đề phòng, lập tức bị y nắm cứng huyệt mạch môn trên cổ tay, không sao động đậy. Phong Tế Trung trầm giọng “Vi đại nhân, xin ngươi giơ tay lên”.

Cơ hội tốt đánh lén đã mất, Song Nhi lại bị kìm chế, Vi Tiểu Bảo lập tức rơi vào thế hạ phong, gượng cười hì hì nói “Phong đại ca, ngươi nói đùa gì thế?”.

Phong Tế Trung nói “Món ám khí không hình không bóng ấy của Vi đại nhân quá lợi hại, ty chức rất sợ sệt. Xin người giơ hai tay lên, nếu không ty chức đành đắc tội”. Nói xong đẩy Song Nhi ra trước, mình núp phía sau nàng, cho Vi Tiểu Bảo không phát ám khí được.

Bọn Tô Thuyên, Phương Di, A Kha, Tăng Nhu thấy bên này xảy ra biến cố, nhao nhao chạy tới. Phong Tế Trung nghĩ thầm “Thằng tiểu tử này thương yêu con a đầu này nên không dám động thủ, chứ đám đàn bà này thì không tiếc gì mạng thị, chỉ thương yêu thằng tiểu tử thôi”. Tay trái rút cương đao bên hông ra, vươn tay một cái, mũi đao đã kề vào cổ họng Vi Tiểu Bảo, quát “Mọi người không được bước tới”.

Bọn Tô Thuyên thấy Vi Tiểu Bảo đang bị nguy hiểm, lập tức dừng bước, ai cũng vừa lo sợ vừa ngạc nhiên, Phong Tế Trung rõ ràng là bằng hữu của Vi Tiểu Bảo, mới rồi còn liên thủ chống địch, mà chớp mắt một cái, một lời không hợp đã động thủ sao? Đoán là nhất định Vi Tiểu Bảo muốn thả Trịnh Khắc Sảng, nhưng Phong Tế Trung muốn giết y để trả thù cho Trần Cận Nam.

Mũi đao kề vào cổ, Vi Tiểu Bảo hơi ngửa đầu về phía sau, Phong Tế Trung lại đẩy mũi đao tới phía trước, quát “Vi đại nhân, xin ngươi đừng động đậy, trên đao không có mắt, nếu đắc tội xin đừng trách, và xin giơ tay lên”. Vi Tiểu Bảo không biết làm sao, từ từ giơ hai tay lên, cười nói “Phong đại ca, ngươi muốn thăng quan lớn, phát tài nhiều, thì nên khách khí với ta một chút là hay”.

Phong Tế Trung nói “Thăng quan phát tài cố nhiên rất cần, nhưng trước hết phải giữ được tính mạng đã”. Đột nhiên thân hình hơi nghiêng đi đã lạng ra phía sau lưng Vi Tiểu Bảo, vươn tay rút thanh chủy thủ trong ống giày của y kề vào hậu tâm y, nói “Vi đại nhân, thanh chủy thủ này của ngươi rất sắc bén, ty chức đã thấy ngươi dùng qua vài lần”.

Vi Tiểu Bảo chỉ còn cách cười gượng, cảm thấy bối tâm hơi đau, biết thanh chủy thủ đã đâm thủng áo ngoài, tuy có tấm bảo y hộ thân nhưng không chống được thanh bảo kiếm này.

Phong Tế Trung quát “Mọi người các ngươi quay lưng lại, ném hết binh khí xuống”.

Bọn Tô Thuyên thấy tình thế như vậy chỉ còn cách theo lời quay người lại ném binh khí xuống. Phong Tế Trung thấy còn sáu huynh đệ Thiên địa hội đứng một bên, bèn gọi họ “Mọi người qua đây, ta có câu muốn nói”. Sáu người kia không rõ nguyên do, bèn bước tới gần.

Phong Tế Trung khuỷu tay phải chợt hất lên một cái, chát một tiếng đã đánh trúng huyệt Đại chuy trên lưng Vi Tiểu Bảo, thanh cương đao trong tay trái vung ra, soạt soạt, á á, chát chát, ái ôi mấy tiếng vang lên, tất cả sáu huynh đệ Thiên địa hội đã trúng đao mất mạng. Y trong khoảnh khắc chém chết sáu người, nhát đao nào cũng chém trúng chỗ yếu hại. Đao nhanh đòn độc, quả thật ít thấy. Bọn Tô Thuyên nghe tiếng la thảm, nhất tề quay nhìn, thấy sáu người nằm ngổn ngang dưới đất, hoặc ở đầu, hoặc ở cổ, hoặc ở ngực, hoặc ở lưng, hoặc ở nách, hoặc ở hông, chỗ vết thương đều máu phun ra có vòi, các cô gái ai cũng bật tiếng la hoảng, mặt không còn sắc máu.

Nguyên là Phong Tế Trung thấy đã bị lộ mặt, nếu động thủ thì mình chỉ lẻ loi có một mình, vì thế bèn giết sáu huynh đệ Thiên địa hội trước, một là để ra oai cho Vi Tiểu Bảo và các cô gái không dám kháng cự, hai là cũng để bớt đi sáu người. Như vậy thì đối phương nhân số tuy đông nhưng cũng chỉ có một thiếu niên, bảy cô gái. Thanh đao trong tay y rút về, lại kề vào cổ Vi Tiểu Bảo, nói “Vi đại nhân, chúng ta xuống thuyền thôi”. Y chỉ muốn bắt Vi Tiểu Bảo và Trịnh Khắc Sảng hai người về dâng cho hoàng thượng, là đã lập được kỳ công. Còn bảy cô gái thì cứ lưu lại trên đảo, để xuống thuyền khỏi phát sinh tai họa khác, mình đã thủ hạ lưu tình, không giết bảy cô gái, đó cũng là để lại chỗ lùi, để khỏi kết thù oán quá sâu với Vi Tiểu Bảo. Sau này hoàng thượng xử trí gã thiếu niên này thế nào thì là chuyện không ai đoán trước được.

Các cô gái thấy Vi Tiểu Bảo bị y khống chế trong lòng đều run sợ, không biết làm sao là tốt. Công chúa Kiến Ninh lại giận dữ lớn tiếng mắng “Ngươi là cái gì mà dám lớn mật vô lễ như thế? Mau buông đao xuống!”. Phong Tế Trung hừ một tiếng, không đếm xỉa gì tới. Y từng theo Vi Tiểu Bảo hộ tống nàng tới Vân Nam thành hôn, biết được công chúa nên không dám buông lời xúc phạm.

Công chúa thấy y không đếm xỉa gì tới, lại càng giận dữ, trên đời ngoài thái hậu, hoàng đế, Vi Tiểu Bảo và Tô Thuyên bốn người thì ai nàng cũng không coi ra gì, liền khom người nhặt một thanh đơn đao dưới đất sấn tới chém xuống giữa đầu Phong Tế Trung.

Phong Tế Trung nghiêng người tránh qua, công chúa vù vù vù chém luôn ba đao, Phong Tế Trung lách trái lách phải tránh khỏi. Nếu đổi là một cô gái khác thì y đã sớm phi chân đá tung ra rồi. Nhưng người cầm đao chém tới lại là ngự muội của hoàng đế, là công chúa cành vàng lá ngọc, điều y muốn trong lòng chỉ là lập công thăng quan, ra sức cho hoàng gia, thì làm sao dám đắc tội với công chúa? Lúc ấy chỉ đành né tránh. Công chúa mắng “Quân nô tài khốn kiếp nhà ngươi, đứng yên không được động đậy! Ta muốn chém đầu ngươi, tại sao cái đầu thối tha của ngươi cứ lắc tới lắc lui làm ta chém không trúng? Ta sẽ nói với hoàng đế ca ca băm vằm ngươi ra!”. Phong Tế Trung cả kinh, nghĩ thầm nữ nhân này nói được là làm được, thị với hoàng đế là anh em thân thiết, mình chỉ là một viên võ quan nhỏ như hạt đậu hạt mè, làm sao hơn được công chúa? Nhưng nếu nghe lời nàng phân phó, để yên cái đầu thối tha của mình không động đậy, cho cánh tay quý báu của công chúa điện hạ ngàn vàng vung đao chém xuống, thì tựa hồ có chỗ khó mà vâng lệnh.

Công chúa chửi ầm lên, đơn đao cứ trái một nhát phải một nhát chém tới tấp. Phong Tế Trung thân hình hơi nghiêng đi, nhẹ nhàng tránh qua, tuy nhát nào cũng cách y chẳng qua chỉ vài tấc nhưng thủy chung vẫn không trúng. Công chúa nổi nóng, vung đao từ hông quét ngang ra. Phong Tế Trung kêu lên “Cẩn thận!”, tung người nhảy vọt lên, nhìn thấy nhát đao ấy của nàng thu lại không được, chém thẳng vào đầu vai Vi Tiểu Bảo, y thân hình đang trên không, chân trái phóng ra đá Vi Tiểu Bảo ngã lăn xuống đất, đồng thời mượn lực nhảy ra hơn một trượng.

Song Nhi nhảy xổ tới, bế xốc Vi Tiểu Bảo lên sải chân bỏ chạy.

Phong Tế Trung cả kinh, cầm đao đuổi theo. Song Nhi võ công cao cường nhưng rốt lại sức yếu, so với Vi Tiểu Bảo còn thấp hơn nửa cái đầu, bế y nằm ngang chạy được vài trượng thì Phong Tế Trung đã đuổi sát tới. Vi Tiểu Bảo huyệt đạo sau lưng bị phong tỏa, chân tay không thể động đậy, chỉ nói “Buông ta xuống để ta phóng ám khí”. Nhưng Phong Tế Trung đuổi theo rất mau, Song Nhi có muốn buông Vi Tiểu Bảo xuống để y phóng ám khí Hàm sa xạ ảnh ra dĩ nhiên đã không kịp, trong lúc nguy hiểm dùng hết sức ném thân hình y ra.

Phong Tế Trung cả mừng, vội sấn tới vươn tay đón lấy, đột nhiên sau lưng có một tiếng rắc khẽ vang lên, giống như tiếng đao lửa, đá lửa chạm nhau, kế đó bình một tiếng vang rền, thân hình y bay tung lên đập mạnh xuống đất, lập tức không động đậy gì nữa.

Vi Tiểu Bảo rơi xuống bãi cát, tuy không bị thương nhưng nhất thời không bò dậy được, chỉ thấy Song Nhi trước người có một làn khói mù mịt, trong tay cầm một khẩu đoản thương, chính là lễ vật năm xưa Ngô Lục Kỳ đã tặng lúc kết nghĩa anh em với nàng. Đây là hỏa khí tinh xảo do nước La Sát chế tạo, quả thật vô cùng lợi hại. Phong Tế Trung tuy võ công trác tuyệt, nhưng tấm thân huyết nhục cũng chịu không nổi.

Song Nhi cũng hoảng sợ ngẩn ra, khẩu hỏa thương nổ một phát, chấn động khiến tay nàng tê chồn, khẩu hỏa thương rơi xuống đất.

Vi Tiểu Bảo chỉ sợ Phong Tế Trung chưa chết, sấn lên vài bước, ngực hướng thẳng vào y, ấn cơ quan ở hông, một chùm ngân châm bắn ra cắm hết vào người y. Nhưng Phong Tế Trung không hề động đậy, hỏa thương vừa bắn trúng, y đã mất mạng rồi.

Các cô gái đồng thanh reo hò xúm lại, bảy cô gái thêm Vi Tiểu Bảo, đúng là năm người mười miệng, không trừ không bớt, ngươi một câu, ta một câu, nhao nhao hỏi han lý do. Vi Tiểu Bảo thuật lại vắn tắt.

Song Nhi và Phong Tế Trung sống cạnh nhau rất lâu, trước nay y trọng hậu chất phác, đối với mình lễ số đầy đủ, quả thật là một ông già cực kỳ tốt bụng, nào ngờ tâm cơ sâu sắc như thế, càng nghĩ càng sợ. Nàng quay người nhặt khẩu đoản thương, đột nhiên hiểu ra thâm ý của Ngô Lục Kỳ lúc kết nghĩa anh em với mình năm xưa: vị kỳ nhân võ lâm này mong mỏi về sau Vi Tiểu Bảo sẽ cưới mình làm vợ, có điều mình là một a hoàn, thân phận không xứng đáng, nhưng sau khi làm nghĩa muội của Hồng Kỳ Hương chủ Thiên địa hội thì hoàn toàn có thể làm vợ Hương chủ Thanh Mộc đường Thiên địa hội. Nàng nghĩ tới hảo ý của nghĩa huynh, lại thấy người mất súng còn, không kìm được rơi nước mắt.

***

Vi Tiểu Bảo quay lại, chỉ thấy bốn người bọn Trịnh Khắc Sảng đang đi ra bờ biển, định lên thuyền nhỏ, nghĩ thầm “Nếu để y giết chết sư phụ rồi yên yên ổn ổn rời đảo như thế thì tiện nghi cho y quá”. Lập tức cầm chủy thủ đuổi theo, kêu lên “Khoan đã!”. Trịnh Khắc Sảng dừng bước quay đầu, mặt xám như tro, nói “Vi… Vi Hương chủ, ngươi đã ưng thuận thả… thả bọn ta đi rồi mà”. Vi Tiểu Bảo cười gằn nói “Ta ưng thuận không giết ngươi, chứ chưa ưng thuận không chặt hai chân ngươi”. Phùng Tích Phạm cả giận, đã định phát tác, chỉ là vừa giơ tay lên thì toàn thân đã nhũn ra, không sao sử dụng nửa phần lực đạo. Lúc ấy Trịnh Khắc Sảng đã sợ nát gan vỡ mật, hai gối nhũn ra quỳ luôn xuống đất, nói “Vi… Vi Hương chủ, ngươi… ngươi… mà chặt hai chân ta, thì nhất định là ta không sống được đâu”.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Sống được chứ. Ngươi thiếu ta một trăm vạn lượng bạc, nói là dùng A Kha gán nợ. Nhưng cô ta đã bái thiên địa với ta, là vợ của ta cưới hỏi đàng hoàng, trong bụng lại có con của ta, tình nguyện theo ta. Tại sao ngươi lại đem vợ ta để gán nợ cho ta chứ? Trong thiên hạ có đạo lý nào như thế không?”.

Lúc ấy bọn Tô Thuyên, Phương Di, Tăng Nhu, công chúa đều đã đứng cạnh Vi Tiểu Bảo, đồng thanh cười nói “Lẽ nào lại thế?”.

Trịnh Khắc Sảng trong óc đã sớm mịt mờ rối loạn, nhưng cũng biết lẽ ấy không thông, nói “Vậy… vậy thì làm sao?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta chặt một tay, một chân ngươi làm vật gán nợ. Sau này ngươi trả ta một trăm vạn lượng bạc, thì ta sẽ trả lại tay chân cho ngươi”. Trịnh Khắc Sảng nói “Mới rồi ngươi nói bán đứt A Kha cho ngươi, thì một… một trăm vạn lượng bạc kể như hết nợ”. Vi Tiểu Bảo lắc đầu lia lịa nói “Không được. Mới rồi ta hồ đồ nên mắc lừa ngươi. A Kha là vợ ta, ngươi làm sao có thể đem bán vợ ta cho ta chứ? Được! Ta bán mẹ ngươi cho ngươi, giá một trăm vạn lượng, lại bán cha ngươi cho ngươi, giá một trăm vạn lượng, lại bán bà nội ngươi cho ngươi, giá một trăm vạn lượng, lại bán bà ngoại ngươi cho ngươi, giá một trăm vạn lượng…”. Trịnh Khắc Sảng nói “Bà ngoại ta chết rồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Người chết cũng bán. Ta bán xác của bà ngoại ngươi cho ngươi, người chết bớt giá còn tám phần, tính là tám mươi vạn lượng, quan tài thì biếu thôi, không lấy tiền”.

Trịnh Khắc Sảng nghe y càng nói càng nhiều, nghĩ thầm cả người chết cũng bán, nếu ông tằng tổ, ông cao tổ, bà tằng tổ, bà cao tổ của mình người nào y cũng bán thì mình không trả nổi, cho dù người chết bớt giá còn tám phần, thậm chí bảy phần sáu phần thì cũng quyết không tiêu được, nhưng lúc ấy không dám nói không mua, chỉ đành nài nỉ “Ta… thật là ta mua không nổi”. Vi Tiểu Bảo nói “Được, ngươi mua không nổi thì tha cho ngươi. Nhưng hàng đã mua rồi thì không được trả lại. Ngươi thiếu ta ba trăm tám mươi vạn lượng bạc, định trả thế nào?”.

Công chúa cười nói “Phải đấy, ba trăm tám mươi vạn lượng bạc, mau mau trả đi”.

Trịnh Khắc Sảng mặt như đưa ma, nói “Trong người ta một ngàn lượng cũng không có, lấy đâu ra ba trăm tám mươi vạn lượng?”. Vi Tiểu Bảo nói “Thôi được! Không có tiền thì cho ngươi trả hàng lại. Ngươi mau mau đem cha ngươi, mẹ ngươi, bà nội ngươi, bà ngoại đã chết của ngươi trả lại cho ta, thiếu một sợi tóc cũng không được”. Trịnh Khắc Sảng nghĩ cứ lằng nhằng mãi thế này thì rốt lại không kết thúc được, nhìn nhìn A Kha, chỉ mong nàng tới đề nài nỉ, nhưng nàng cứ đứng xa xa, quay lưng lại, quyết ý đứng ra ngoài cuộc. Y trong lòng cuống lên, thấy tình thế này thì Vi Tiểu Bảo nhất định sẽ chặt một tay một chân mình, bất giác dập đầu lia lịa, nói “Vi Hương chủ, ta… ta hại Trần quân sư, quả thật tội đáng muôn chết, chỉ mong ngươi khoan hồng đại lượng, tha mạng cho tiểu nhân. Cứ tính là ta thiếu lão nhân gia người ba trăm tám mươi vạn lượng bạc, ta… ta nhất định sẽ tìm cách trả lại”.

Vi Tiểu Bảo thấy hành hạ y tới mức thảm hại như thế, nỗi căm hận cũng giảm bớt, nói “Vậy ngươi viết cho ta một tờ giấy nợ đi”. Trịnh Khắc Sảng cả mừng, vội nói “Vâng, vâng”. Rồi quay lại nói với vệ sĩ “Lấy giấy bút ra đây”. Nhưng đang ở trên đảo hoang, lấy đâu ra giấy bút? Tên vệ sĩ ấy cũng nhanh trí, lập tức xé vạt áo trường bào của mình, nói “Ở đây người chết rất nhiều, chúng ta cứ lấy máu viết là được”. Nói xong bèn đi kéo xác Phong Tế Trung tới. Vi Tiểu Bảo vươn tay trái ra một cái chụp cổ tay phải Trịnh Khắc Sảng, ánh bạch quang lóe lên, vung chủy thủ cắt đứt một đốt ngón trỏ của y. Trịnh Khắc Sảng lớn tiếng la thảm. Vi Tiểu Bảo nói “Dùng máu của ngươi mà viết”.

Trịnh Khắc Sảng đau tới mức run bắn cả người, nhất thời tay chân luống cuống, Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi cứ thong thả viết thôi, nếu máu khô không viết được thì ta sẽ cắt đốt thứ hai”. Trịnh Khắc Sảng vội nói “Vâng, vâng”. Lẽ nào còn dám chần chừ, dùng ngón tay cụt viết lên mảnh vải áo “Thiếu ba trăm tám mươi vạn lượng bạc chẵn, Trịnh Khắc Sảng ký”. Viết xong mười ba chữ, đã đau tới mức cơ hồ ngất đi.

Vi Tiểu Bảo cười gằn nói “Uổng cho ngươi đường đường là công tử trong vương phủ, mà ngày thường không chịu tập viết, viết một tờ giấy nợ có mấy chữ mà xiên xiên xẹo xẹo, toàn là bại bút, không có chữ nào là thắng bút”. Rồi đón lấy mảnh vải áo, đưa cho Song Nhi, nói “Cô cất đi. Đọc xem số bạc có đúng không. Người này gian trá giảo hoạt, đừng để y viết bớt đi vài lượng”.

Song Nhi cười nói “Ba trăm tám mươi vạn lượng bạc, không thiếu đâu”, rồi cất tờ giấy nợ viết bằng máu vào bọc.

Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, nhắm đúng cằm Trịnh Khắc Sảng phóng ra một cước, quát “Cút con bà ngươi đi”. Trịnh Khắc Sảng ngã lộn một vòng, lăn nhào ra ngoài. Tên vệ sĩ vội chạy tới đỡ y lên, buộc vết thương trên ngón tay cho y. Hai tên vệ sĩ chia nhau đỡ Trịnh Khắc Sảng và Phùng Tích Phạm lên một chiếc thuyền nhỏ, chèo ra ngoài biển. Vi Tiểu Bảo cười ran không ngớt, nhưng chợt nhớ tới sư phụ chết thảm, nhịn không được lại buông tiếng khóc lớn.

Chiếc thuyền nhỏ chèo ra biển được vài mươi trượng, Trịnh Khắc Sảng mới hơi định thần, nói “Chúng ta qua cướp chiếc thuyền lớn mà đi, chắc bọn trai gái chó má kia không đuổi kịp đâu”. Nhưng chèo tới gần chiếc thuyền lớn, thì thấy thuyền không có bánh lái, tất cả đồ dùng trên thuyền đều không có. Phùng Tích Phạm tức tối nói “Bọn trai gái chó má kia lấy đi hết rồi”. Nhìn thấy biển rộng mênh mông, sóng nước cuồn cuộn, trên chiếc thuyền nhỏ không có thức ăn nước uống, làm sao có thể đi xa? Trịnh Khắc Sảng nói “Chúng ta quay lại nài nỉ thằng tiểu tặc ấy, hỏi mượn thuyền của y, nhiều lắm là viết thêm một tờ giấy nợ ba trăm tám mươi vạn lượng bạc nữa”. Phùng Tích Phạm nói “Họ cũng chỉ có một chiếc thuyền ấy, làm sao cho chúng ta mượn được? Ta có chôn thây trong bụng cá cũng không muốn nài nỉ thằng tiểu tặc ấy lần nữa”.

Trịnh Khắc Sảng nghe y nói rất dứt khoát, không dám trái lời, thở dài một tiếng, sai ba tên vệ sĩ chèo thuyền ra biển.

***

Bọn Vi Tiểu Bảo thấy chiếc thuyền nhỏ của Trịnh Khắc Sảng chèo tới thuyền lớn, phát hiện thuyền lớn không đi được mới chèo đi, đều thấy buồn cười. Tô Thuyên thấy Vi Tiểu Bảo lúc khóc lúc cười, vẫn không quên được nỗi đau sư phụ chết, muốn gợi chuyện cho y vui vẻ, liền nói “Vị Trịnh nhị công tử này gian trá cực kỳ, rõ ràng định cướp thuyền lớn của chúng ta. Tiểu Bảo, món nợ ba trăm tám mươi vạn lượng bạc này, ta thấy y thế nào cũng chối”. Vi Tiểu Bảo nói “Chắc thằng đầy tớ ấy cũng không trả đâu”. Tô Thuyên cười nói “Ngươi làm chuyện gì cũng rất tinh minh, nhưng mới rồi thằng đầy tớ ấy đem vợ ngươi bán cho ngươi, một vạn lượng bạc kể như trả xong, ngươi cũng không suy nghĩ gì, cứ thế ưng thuận, nhất định là ngươi yêu thương A Kha muội tử tới mức hồ đồ rồi. Lúc ấy nếu y hỏi ngươi lấy một trăm vạn lượng bạc, ta thấy chắc ngươi cũng ưng thuận”. Vi Tiểu Bảo đưa tay áo lau nước mắt bật cười, nói “Kể gì y ba bảy hăm mốt, cứ ưng thuận rồi sẽ tính, từ từ sẽ tính nợ với y”. Phương Di nói “Về sau tại sao mới nghĩ ra là bị thua thiệt?”.

Vi Tiểu Bảo gãi gãi đầu, nói “Giết được Phong Tế Trung rồi, trong lòng ta không còn lo lắng chuyện gì nữa, đột nhiên đầu óc sáng ra”. Y vốn không hề nghi ngờ Phong Tế Trung, chỉ là trong tận đáy lòng vẫn mơ hồ cảm thấy bên cạnh mình có một tai họa lớn, song rốt lại là tai họa gì thì không sao nói ra được, chỉ là nỗi sợ sệt không có lý do, đến khi Phong Tế Trung vừa chết, lập tức như buông được gánh nặng, vô cùng khoan khoái, nghĩ thầm “Biết đâu mình đã sớm sợ thằng giặc này, chỉ là ngay cả mình cũng không tự biết mà thôi”.

Mọi người thoát khỏi mối nguy hiểm lớn, đến lúc ấy cường địch vốn có kẻ chết đã chết, kẻ chạy đã chạy, trên đảo mới được yên ổn. Người nào cũng cảm thấy đầu óc mệt mỏi chân tay rã rời. Vỉ Tiểu Bảo lúc ấy hai chân như nặng ngàn cân, không chi trì được nữa, lăn luôn ra bãi cát nằm nghỉ. Tô Thuyên tới xoa bóp chỗ bị Phong Tế Trung điểm huyệt cho y.

Ánh chiều hắt lên, sóng nước lấp lánh, trên biển như có hàng vạn con rắn vàng đua nhau quẫy lộn, cảnh sắc vô cùng tươi đẹp. Các cô gái ai cũng ngồi xuống. Qua không bao lâu, Vi Tiểu Bảo cất tiếng ngáy trước, kế đó không các cô gái cũng lần lượt thiếp đi.

***

Qua hơn một giờ, Phương Di tỉnh dậy trước, vào gian nhà tranh chỗ trướng trung quân của Vi Tiểu Bảo trước kia nấu cơm, rồi gọi mọi người dậy ăn. Trong đại đường đốt hai cây gỗ thông lớn, soi rõ cả phòng. Tám người ngôi thành một vòng, ăn cơm xong Phương Di và Song Nhi đem bát đũa ra rửa.

Vi Tiểu Bảo lần lượt nhìn vào mặt bảy người Tô Thuyên, Phương Di, công chúa, Tăng Nhu, Mộc Kiếm Bình, Song Nhi, A Kha, chỉ thấy có người diễm lệ, có người ôn nhu, có người hoạt bát, có người đoan trang, người nào cũng có chỗ hay, bất giác trong lòng vui sướng, lúc ấy kề hồng dựa biếc, trong lòng thanh thản, so với hôm trước quậy phá ngủ chung chăn lớn với bảy người trong Lệ Xuân viện thì có một nỗi vui bình an đầy đủ khác, bèn cười nói “Năm ấy ta đặt tên cho đảo này là đảo Thông Ngật, té ra đã sớm có tiên kiến sáng suốt, biết là bảy vị tỷ muội đều phải làm vợ ta, đây là trong cõi mờ mịt có ý trời, có chạy cũng không thoát. Từ nay trở đi, tám người chúng ta cứ ở trên đảo Thông Ngật này, thọ sánh ngang trời, tiên phúc mãi hưởng”.

Tô Thuyên nói “Tiểu Bảo, tám chữ ấy không hay, từ nay trở đi đừng nói nữa”. Vi Tiểu Bảo lập tức hiểu ra, biết nàng không muốn nhắc tới những chuyện có liên quan tới Hồng giáo chủ, vội nói “Đúng, đúng, là ta nói bậy”. Tô Thuyên nói “Thi Lang và Trịnh Khắc Sảng trở về rồi, có quá nửa là sẽ mang quân tới trả thù, chúng ta không thể ở trên đảo này lâu được”. Mọi người đồng thanh khen phải. Phương Di nói “Thuyên tỷ tỷ, ngươi nói chúng ta đi đâu là tốt?”. Tô Thuyên nhìn Vi Tiểu Bảo, cười nói “Chuyện đó thì cứ nghe chủ ý của Chí tôn bảo thôi”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Cô nói ta là Chí tôn bảo à?”. Tô Thuyên cười nói “Nếu không phải Chí tôn bảo, thì làm sao ăn tất?”.

Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, nói “Trong tên ta có chữ bảo, vốn chỉ là nói một đôi bảo nho nhỏ, là hai quân Đối ngũ, Bản đăng gì đó, té ra lại là Chí tôn bảo”. Thấy các cô gái đều nhìn vào mình, y thoáng trầm ngâm rồi nói “Về Trung Nguyên thì không được rồi. Đảo Thần Long lại cách đây quá gần, cũng không hay. Tóm lại là phải tới một nơi vừa thoải mái, vừa không có người”.

Nhưng một nơi hẻo lánh không có người thì nhất định không thoải mái, nơi thoải mái nhất định phải có nhiều người. Huống hồ đối với Vi Tiểu Bảo thì thoải mái phải là đánh bạc, xem hát, nghe kể chuyện, xem trò diễn, ca hát, thức ăn ngon, quà bánh, gái đẹp, không gì không càng nhiều càng tốt. Ngoài gái đẹp bên cạnh thì không thiếu, các mục còn lại nếu không phải ở những nơi phồn hoa đệ nhất thiên hạ như Bắc Kinh, Dương Châu thì nhất định khó mà vui vẻ. Y vừa nghĩ tới bấy nhiêu chuyện phong lưu nhiệt náo, chợt thấy nhớ mẹ, nói “Chúng ta đoàn tụ ở đây, cũng tính là mười phần vui thú, chỉ không biết mẹ ta một mình cô khổ lênh đênh, bây giờ ra sao”.

Các cô gái trước nay chưa từng nghe y nói về mẹ mình, đều nghĩ y hiếu thảo như thế, kể cũng khó có, cùng hỏi “Hiện giờ mẹ ngươi ở đâu?”. Có người thì nghĩ “Mẹ ngươi là mẹ chồng ta, phải tìm cách sum họp, hầu hạ lão nhân gia người”.

Vi Tiểu Bảo thở dài một tiếng nói “Mẹ ta trong Lệ Xuân viện ở Dương Châu”.

Các cô gái nghe thấy mấy chữ “Lệ Xuân viện ở Dương Châu”, ngoài công chúa ra, sáu người còn lại đều lập tức đỏ bừng mặt lên, có người quay mặt đi, có người cúi đầu xuống.

Công chúa nói “A, Lệ Xuân viện ở Dương Châu, ngươi có nói qua rồi. Đó là nơi vui vẻ nhất trong thiên hạ, ngươi đã ưng thuận sẽ đưa ta tới đó chơi”. Phương Di mỉm cười nói “Y nói móc ngươi đấy, đừng tin lời y. Đó là nơi rất không đàng hoàng”. Công chúa nói “Tại sao không đàng hoàng? Ngươi tới chơi rồi à? Tại sao vẻ mặt các ngươi đều kỳ quái như thế?”. Phương Di nhịn cười không trả lời. Công chúa ôm vai Mộc Kiếm Bình nói “Hảo muội tử, ngươi nói cho ta nghe đi”. Mộc Kiếm Bình đỏ mặt nói “Đó… đó là một kỹ viện”. Công chúa vẫn không hiểu, hỏi “Mẹ y làm gì trong kỹ viện? Nghe nói đó là nơi đàn ông tới chơi mà”. Phương Di cười nói “Y trước nay vẫn ăn nói bậy bạ, ngươi chỉ cần tin y nửa câu thôi cũng đủ đau đầu rồi”.

Hôm ấy trong Lệ Xuân viện, Vi Tiểu Bảo và bảy phụ nữ đắp chăn lớn cùng ngủ, ngoài con đĩ già Mao Đông Châu thay vào công chúa thì sáu người còn lại lúc này đều có mặt. Công chúa tính nết hung dữ không kém gì Mao Đông Châu, chỉ là không âm hiểm tàn độc như mẹ, lại trẻ tuổi xinh đẹp hơn nhiều. Vi Tiểu Bảo thầm lấy làm may, vụ thay đổi này rất có đạo lý, nếu lúc này không phải công chúa bầu bạn vừa mình mà là mẹ nàng thì thật không biết làm sao là tốt, chưa biết chừng về sau mình cũng giống như Lão hoàng gia, lại lên núi Ngũ Đài xuất gia làm hòa thượng, nếu không làm hòa thượng không được, thì nhất định phải dắt cả bảy người vợ này theo.

Nhìn thấy sáu cô gái dáng vẻ xấu hổ, dường như người nào cũng nhớ lại tình cảnh đêm ấy, y liền nghĩ “Đêm ấy trong bóng tối, mình làm bừa một hồi, cũng không rõ là ai. A Kha và Thuyên tỷ tỷ trong bụng đang có con của mình, là hai người rồi, còn một người nữa không biết là ai, phải từ từ hỏi cho ra”. Bèn cười hề hề nói “Cho dù chúng ta vĩnh viễn ở lại trên đảo Thông Ngật này thì cũng không tịch mịch đâu. Thuyên tỷ tỷ, công chúa, A Kha, trong bụng ba cô đều có con của ta, không biết còn người nào trong bụng có con chưa?”.

Câu ấy vừa buông ra, bốn người bọn Phương Di mặt càng đỏ bừng. Mộc Kiếm Bình vội nói “Ta không có, ta không có”. Tăng Nhu thấy Vi Tiểu Bảo nhìn nhìn vào mình, bèn lườm y một cái, nói “Không có!”. Vi Tiểu Bảo nói “Hảo Song Nhi, vậy thì nhất định chúng ta đã đại công cáo thành rồi”. Song Nhi nhảy bật lên, nép vào góc phòng nói “Không, không!”. Vi Tiểu Bảo nhìn Phương Di cười nói “Di tỷ tỷ, phải cô không? Lúc cô tới Lệ Xuân viện, độn gối vào bụng, giả như đang có thai, nhất định là có tiên kiến sáng suốt”. Phương Di nhịn không được cười sặc lên, chì chiết “Phì, thái giám chết giẫm, ta không có… không có chuyện gì với ngươi cả”.

Mộc Kiếm Bình nói “Đúng đấy, bốn người sư tỷ, Tăng thư thư, Song Nhi muội tử và ta còn chưa bái thiên địa thành thân với ngươi, làm sao có con được? Tiểu Bảo ngươi xấu chết đi, ngươi bái thiên địa với Thuyên tỷ tỷ, công chúa và A Kha tỷ tỷ lúc nào cũng không nói cho ta biết, cũng không mời ta uống rượu mừng nữa”. Theo nàng suy nghĩ, trên đời phải bái thiên địa thành thân thì mới có thể sinh con.

Mọi người nghe nàng nói rất ngây thơ, đều cười ầm lên. Phương Di vừa cười vừa đưa tay ôm lưng nàng, nói “Tiểu sư muội, vậy tối nay ngươi bái thiên địa làm vợ chồng với y đi”. Mộc Kiếm Bình nói “Không được, trên đảo hoang này không có kiệu hoa. Ta thấy các cô dâu mới đều phải mặc áo quần màu đại hồng, còn phải đội phượng quan, nhưng chúng ta đều không có”. Tô Thuyên cười nói “Cứ làm một ít thôi, cũng không hề gì. Bọn ta đi hái hoa, kết thành hoa quan, kể như là phượng quan đi”.

Vi Tiểu Bảo nghe họ đùa giỡn, nhưng trong lòng vẫn rất lo lắng “Còn một người nữa là ai? Chẳng lẽ là A Kỳ? Mình nhớ đã ôm cô ta bước tới bước lui, sau đó đặt cô ta ngồi xuống ghế, chứ không có bế lên giường. Có điều hôm ấy các ả đông quá, lúc mình mờ mờ mịt mịt đã bế cô ta lên giường cũng chưa biết chừng. Nếu trong bụng cô ta có con của mình, thì thằng đầy tớ ấy sau này sẽ làm vương tử Mông Cổ. Ái chà, không xong, chẳng lẽ là con đĩ già? Nếu là thị, thì chắc bọn Quy Tân Thụ đã đánh chết cả con mình rồi”.

Chỉ nghe Mộc Kiếm Bình nói “Cho dù bái thiên địa ở đây, cũng phải là Phương sư tỷ bái trước”. Phương Di nói “Không, ngươi là quận chúa nương nương, đương nhiên là ngươi bái trước”. Mộc Kiếm Bình nói “Chúng ta là người mất nước, nói làm gì chuyện quận chúa với không quận chúa”. Phương Di mỉm cười nói “Vậy thì Song Nhi muội tử bái thiên địa với y trước đi. Ngươi theo y đã lâu, cùng nhau ra sống vào chết, hoạn nạn chi giao, khác hẳn mọi người”. Song Nhi đỏ mặt nói “Ngươi mà nói nữa thì ta bỏ đi đấy”, nói xong chạy ra cửa nhưng bị Phương Di ôm lại. Tô Thuyên nhìn Vi Tiểu Bảo cười nói “Tiểu Bảo, ngươi tự nói đi”.

Vi Tiểu Bảo nói “Chuyện bái thiên địa thì thong thả hãy nói. Sáng mai chúng ta phải chôn cất sư phụ đã”.

Các cô gái nghe thấy lập tức lấy lại vẻ nghiêm trang, không ngờ người này lại tôn sư trọng đạo, nói ra một câu đầy đủ lễ nghĩa như vậy.

Nào ngờ y nói câu sau lại bộc lộ bản tính “Các cô có bảy người, người nào cũng là vợ ruột của ta, mọi người không phân biệt trước sau lớn nhỏ. Từ nay trở đi cứ đến chiều thì các cô gieo xúc xắc quyết hơn thua, ai thắng thì bầu bạn với ta”­­. Nói xong lấy trong bọc ra hai hạt xúc xắc, thổi vào một hơi, gieo xuống lăn lông lốc trên bàn. Công chúa phì một tiếng, nói “Ngươi thơm lắm chắc? Ai thua thì mới bầu bạn với ngươi”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Đúng, đúng! Cũng như xai quyền làm lệnh vậy, ai thua thì phạt một chén rượu. Ai gieo trước nào?”.

Đêm ấy trong gian nhà thô sơ trên đảo hoang ý xuân tràn ngập, gieo xúc xắc ai thua ai thắng cũng không cần nói rõ. Từ đó trở đi, các cô gái nhà họ Vi gieo xúc xắc thành thói quen. Vi Tiểu Bảo trước nay vẫn gieo xúc xắc đánh bạc với người ta, đánh bằng vàng bạc châu báu, trong lúc sợ được sợ mất vô cùng vui thú, nhưng y đề ra cách ấy là tự đào mồ chôn mình, từ đó trở đi biến thành tiền đặt bạc của các cô gái, bị gạt ra ngoài sòng, tuy có cái phúc ôn nhu nhưng không có niềm vui đánh bạc. Nhưng hoa lúc nở lúc tàn, trăng khi tròn khi khuyết, chuyện đời vốn không thể đều như ý người.

***

Hôm sau mọi người ngủ đến lúc mặt trời đã lên ba con sào mới dậy. Vi Tiểu Bảo suất lãnh bảy cô gái chôn cất di thể Trần Cận Nam, nhìn thấy đất vàng lấp kín thân hình sư phụ, nhịn không được buông tiếng khóc lớn. Các cô gái nhất tề quỳ xuống làm lễ trước mộ.

Công chúa trong lòng rất không thích, nghĩ thầm ta đường đường là công chúa nhà Đại Thanh, tại sao lại phải quỳ lạy tên phản tặc nhà ngươi? Nhưng trong lòng hiểu rõ tuy mình là cành vàng lá ngọc, nhưng trong mắt Vi Tiểu Bảo chỉ e là địa vị lại thấp nhất, thân thiết thì không bằng Song Nhi, xinh đẹp thì không bằng A Kha, võ công thì không bằng Tô Thuyên, khôn ngoan thì không bằng Phương Di, ngây thơ thiện lương thì không bằng Mộc Kiếm Bình, ôn nhu văn nhã thì không bằng Tăng Nhu, thua sút rất xa, chẳng qua chỉ ngang ngạnh hung dữ mà thôi, nếu không lạy một lạy, chỉ sợ từ nay Vi Tiểu Bảo sẽ nhìn bằng con mắt khác, giở trò ma trong xúc xắc, mỗi lúc chiều tối gieo xúc xắc cứ cho mình thường xuyên thắng lớn. Bèn lập tức nhịn nhục quỳ xuống, trong lòng khấn thầm “Phản tặc ơi phản tặc, công chúa điện hạ ta lạy ngươi một lạy, nhưng ngươi không có phúc mà hưởng, chỉ e xuống tới âm ty lại phải nếm mùi đau khổ thôi”.

Mọi người lạy xong đứng lên quay lại. Phương Di đột nhiên kêu lên “Ái chà, thuyền đâu? Thuyền đâu mất rồi?”.

Mọi người nghe nàng la lên hoảng sợ, cùng nhìn ra biển, chỉ thấy chiếc thuyền lớn đậu trên bến không còn bóng dáng đâu nữa, ai cũng giật nảy mình, đưa mắt nhìn ra xa, chỉ thấy biển biếc không bờ nối liền với trời xanh xa xa, trên mặt biển có mấy mươi con chim trắng bay lượn lên xuống. Tô Thuyên chạy lên dốc núi, nhìn khắp quanh đảo, đông tây nam bắc đều không thấy bóng dáng chiếc thuyền. Phương Di chạy vào hang núi xem những bánh lái cánh buồm vật dùng trên thuyền cất giấu trong đó thì đúng như nàng đoán, quả nhiên không biết đã đi đàng nào.

Mọi người xúm lại một chỗ, ngớ mặt nhìn nhau, trong lòng không kìm được sợ sệt. Tối qua tám người nói cười đùa giỡn đến khuya mới đi ngủ, quên việc thay phiên canh gác, để bọn phu thuyền lấy trộm vật dùng trên thuyền lên thuyền giong đi, từ nay bị hãm trên đảo, càng khó thoát thân hơn. Vi Tiểu Bảo nghĩ tới chuyện Thi Lang và Trịnh Khắc Sảng nhất định sẽ mang quân tới trả thù, tám người bọn mình làm sao chống cự? Cho dù Tô Thuyên, công chúa, A Kha khẩn cấp sinh thêm ba đứa con thì chẳng qua cũng chỉ có mười một người.

Tô Thuyên an ủi mọi người “Chuyện đã như thế, có lo lắng cũng vô dụng. Chúng ta cứ thong thả nghĩ cách”.

Trở về trong nhà, mọi người khác miệng cùng lời chửi bọn phu thuyền, chửi hơn một giờ, cũng không ra được câu chửi nào mới lạ nữa. Tô Thuyên nói với Vi Tiểu Bảo “Trước mắt phải đề phòng quân Thanh lại tới. Tiểu Bảo, ngươi thấy nên làm thế nào?”. Vi Tiểu Bảo nói “Quân Thanh mà trở lại thì nhân số nhất định không ít, đánh thì không đánh lại rồi. Chúng ta chỉ còn cách trốn núp, chỉ mong họ tìm một lượt không thấy, cho rằng chúng ta đã cưỡi thuyền rời đảo”. Tô Thuyên nói “Câu ấy rất đúng. Nhất định quân Thanh không đoán được rằng thuyền của chúng ta đã bị người ta lấy trộm”. Vi Tiểu Bảo vui vẻ trở lại, nói “Nếu ra là Thi Lang, thì sẽ không quay lại. Y đương nhiên đoán là chúng ta sẽ lập tức dưới chân bôi dầu, lẽ nào lại ngu ngốc ngẩn ra ở đây chờ y tới bắt?”.

Công chúa nói “Nếu y bẩm báo với hoàng đế ca ca, hoàng đế ca ca sẽ phái người tới xem, cho dù chúng ta đã trốn đi cũng dễ tìm manh mối, xem thử chúng ta đi đâu”. Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Thi Lang không bẩm báo với hoàng thượng đâu”. Công chúa trừng mắt nói “Tại sao chứ?”. Vi Tiểu Bảo nói “Nếu y bẩm báo, tự nhiên hoàng thượng sẽ hỏi tại sao không bắt chúng ta về. Y chỉ còn cách thừa nhận là bị đánh bại, há không phải tự chuốc khổ vào thân à?”.

Tô Thuyên cười nói “Rất đúng, rất đúng. Bản lãnh làm quan của Tiểu Bảo rất cao minh. Lừa trên không lừa dưới, là yếu quyết hàng đầu trong việc làm quan”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Nếu Thuyên tỷ tỷ mà đi làm quan thì bảo đảm sẽ thăng quan phát tài”. Tô Thuyên cười khẽ một tiếng, nghĩ thầm “Trò hoa dạng của bấy nhiêu người trong Thần Long giáo chẳng lẽ lại không khác với trong quan trường bao nhiêu sao?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Thi Lang mà nói ra, hoàng thượng trách y vô dụng, thế thì cũng thôi, nhưng nhất định sẽ phái y mang quân tới bắt. Thi Lang đoán chúng ta đã trốn chạy, làm sao còn bắt được nữa? Như thế há không phải là tự chuốc lấy sự phiền phức cho mình sao? Chẳng bằng cứ ngậm miệng phát tài thôi”.

Các cô gái nghe thấy có lý, mới bớt lo buồn.

Công chúa nói “Còn thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng thì sao? Chỉ sợ nỗi giận ấy y nuốt không trôi”. Nói xong nhìn A Kha một cái. Mọi người đều biết nàng có ý nói “A Kha như hoa như ngọc thế này mà y chịu buông tay, không mang quân tới cướp lại à?”.

A Kha đỏ bừng mặt, cúi đầu xuống, nói “Nếu y trở lại, ta… ta sẽ tự sát, chứ quyết không theo y đâu”, giọng nói rất kiên quyết.

Vi Tiểu Bảo cả mừng, nghĩ thầm A Kha đối với mình trước nay vốn vô tình, mình dùng đủ quỷ kế, trộm cướp lừa đảo mới cướp được vào tay, lúc ấy nghe nàng nói thế, quả thật còn mừng rỡ hơn là vớ được mười chiếc thuyền lớn, không kìm lòng được bèn ôm chặt nàng, hôn vào má nàng chụt một cái, nói “Hảo A Kha, y không dám tới đâu, y còn nợ ta ba trăm tám mươi vạn lượng bạc mà. Y có gan to bằng trời, dám tới gặp chủ nợ à?”.

Công chúa nói “Ái chà, dơ dáng chưa! Y sẽ mang binh thuyền tới bắt ngươi, cướp lại giấy nợ, lại cướp A Kha đi, lại bán cha mẹ bà nội bà ngoại của ngươi lại cho ngươi, tất cả bảy trăm sáu mươi vạn lượng bạc, cắt đầu ngón tay ngươi, bảo ngươi viết một tờ giấy nợ, lại mắc nợ y”.

Vi Tiểu Bảo càng nghe càng tức, nếu quả chuyện ấy mà y đối phó được thì cũng không nổi giận, nhưng nếu Trịnh Khắc Sảng làm như thế thật, theo đúng bài bản, đem cha mẹ bà nội bà ngoại của y bán lại cho y, mẹ y thì cũng thôi, nhưng cha y là ai thì trước nay y không hề biết, không biết cha là ai thì tự nhiên cũng không biết bà nội là ai, muốn đem hai người cả y cũng không biết là ai bán lại cho y, lại còn cậy thế ra giá, nói thách lên gấp đôi, thì làm sao chịu nổi? Y trong cơn giận dữ, cao giọng quát “Im ngay! Nếu thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng đem quân tới đây, thì người khác ta đều không bán, chỉ đem ngự muội của hoàng đế đáng tiền nhất thiên hạ bán cho y, kèm thêm một đứa con trong bụng, ra giá một ngàn vạn lượng, thì y vẫn còn thiếu ta hai trăm bốn mươi vạn lượng bạc. Vụ làm ăn này kể ra cũng được”.

Công chúa òa một tiếng bật khóc, ôm mặt chạy đi. Mộc Kiếm Bình vội đuổi theo an ủi, nói chắc Vi Tiểu Bảo quyết không có ý ấy, chẳng qua chỉ là dọa nàng thôi, không cần lo lắng.

Vi Tiểu Bảo nổi giận một hồi, cũng bó tay không có cách nào. Mọi người chỉ đành nghe Tô Thuyên chỉ huy, tìm tới một hang đá lớn trong rừng rậm trên đảo, dọn dẹp bày biện, làm nơi ăn ở, không đặt chân tới gian nhà tranh kia một bước, chỉ mong lúc Thi Lang hoặc Trịnh Khắc Sảng trở lại, thấy trên đảo không có vết người sẽ cho rằng họ đã chạy xa rồi, không nghĩ tới chuyện lục soát nữa.

Lúc đầu mọi người còn lo lắng, thay phiên nhau ngày đêm nhìn ra biển trông chừng, nhưng qua vài tháng, đừng nói là chiến thuyền của Thanh đình hay Đài Loan, mà ngay cả thuyền đánh cá cũng không thấy một chiếc, mọi người dần dần yên tâm, đoán là Thi Lang không dám nhiều chuyện, còn Trịnh Khắc Sảng ngồi trên thuyền nhỏ chắc đã gặp bão chết đuối giữa biển rồi. Tám người trên đảo bắt cá săn thú, bắn chim hái quả, suốt ngày bận rộn vất vả, nhưng cũng thái bình vô sự. May là trên đảo chim thú không ít, dưới biển tôm cá cực nhiều, tám người đều biết võ công, đánh bắt rất dễ, nên không thiếu cái ăn.

***

Thu qua đông tới, khí trời ngày càng lạnh hơn. Tô Thuyên, công chúa, A Kha ba người cũng bụng ngày càng lớn. Phương Di và Song Nhi bận rộn lột da thú may áo lạnh cho tám người, quần áo cho ba đứa nhỏ cũng may dần từng cái từng cái. Lại qua nửa tháng, chợt có tuyết lớn rơi xuống. Chỉ trong vòng một ngày một đêm mà toàn đảo đã đầy tuyết trắng xóa. Tám người đã chuẩn bị trước, cá sấy thịt muối, củi cỏ quả khô đã chất đầy trong hang, hàng ngày trò chuyện, đề mục đều là về ba đứa nhỏ sắp chào đời.

Chiều hôm ấy tuyết ngừng rơi, gió bấc thổi mạnh, gió lạnh không ngừng lùa qua cửa gỗ ngoài hang thổi vào trong. Song Nhi cho thêm củi khô vào đống lửa, Vi Tiểu Bảo lấy xúc xắc ra cho các cô gái gieo. Năm người gieo xong, Mộc Kiếm Bình gieo được ba điểm nhỏ nhất, thấy tối nay nàng chắc chắn phải thua. Tăng Nhu cười nói “Là Kiếm Bình muội tử thua, ta không cần gieo nữa”, Mộc Kiếm Bình cười nói “Gieo mau đi, gieo mau đi! Biết đâu ngươi gieo được hai điểm”, Tăng Nhu cầm xúc xắc lên, bắt chước Vi Tiểu Bảo, thổi vào mấy hạt xúc xắc trong tay một hơi, đang định gieo xuống chợt một trận gió bấc thổi tới, trong tiếng gió văng vẳng có tiếng người.

Mọi người lập tức biến sắc. Tô Thuyên vốn đã ngủ, đột nhiên ngồi dậy, tám người ngươi nhìn nhìn ta, ta nhìn nhìn ngươi, trong chớp mắt người nào cũng trên mặt không còn sắc máu. Mộc Kiếm Bình kêu khẽ một tiếng, rúc đầu vào lòng Phương Di.

Qua một lúc, trong gió truyền tới một tiếng hô rất lớn, lần này nghe thấy rất rõ ràng, tiếng hô là “Tiểu Quế tử, Tiểu Quế tử, ngươi ở đâu? Tiểu Huyền tử rất nhớ ngươi!”.

Vi Tiểu Bảo nhảy bật dậy, run lên nói “Tiểu… Tiểu Huyền tử tới tìm ta”. Công chúa hỏi “Tiều Huyền tử là ai?”, Vi Tiểu Bảo nói “Là… là…”. Chỉ có một mình y biết “Tiểu Huyền tử” chính là Khang Hy, trước nay y chưa từng nói với ai, Khang Hy lại càng không để người khác biết được, đột nhiên có người kêu lên như thế, mà thanh âm lại vang dội như thế. Y toàn thân nổi gai ốc, chỉ cảm thấy chuyện này vô cùng cổ quái, nhất định Khang Hy chết rồi, hồn y nhớ nhung mình, tìm tới đảo Thông Ngật. Trong chớp mắt không kìm được nước mắt ứa ra, từ cửa hang chạy ra ngoài kêu lên “Tiểu Huyền tử, Tiểu Huyền tử, ngươi tới tìm ta à? Tiểu Quế tử ở đây!”.

Chỉ nghe âm thanh kia lại kêu lên “Tiểu Quế tử, Tiểu Quế tử, ngươi ở đâu? Tiểu Huyền tử rất nhớ ngươi!”. Âm thanh rất lớn, không phải do một người hô, giống như hàng trăm hàng ngàn người cùng hô, nhưng hàng trăm hàng ngàn người cùng hô thì không thể đồng đều như thế, mà một người hô thì cho dù nội lực cao cường tới đâu cũng quyết không thể vang rền như sấm như thế, đây nhất định là hồn ma của Khang Hy rồi.

Vi Tiểu Bảo trong lòng vô cùng xốn xang, nước mắt tràn ra, nghĩ thầm Tiểu Huyền tử đối với mình nghĩa khí sâu nặng, sau khi chết rồi, hồn y còn tới tìm mình. Y ngày thường rất sợ ma, nhưng lúc ấy thì nói thế nào cũng muốn gặp hồn Tiểu Huyền tử một lần, liền sải chân chạy mau về phía chỗ phát ra tiếng gọi, kêu lên “Tiểu Huyền tử, ngươi đừng đi, Tiểu Quế tử ở đây!”. Trên mặt đất đẩy băng tuyết, trơn trợt dị thường, y liên tiếp ngã lộn nhào hai vòng, lại bò dậy chạy tiếp.

Chuyển qua sườn núi, chỉ thấy dưới bãi cát đèn lửa chi chít, la liệt như sao, mấy trăm người tay cầm đèn lồng và đuốc xếp hàng ngay ngắn. Vi Tiểu Bảo giật nảy mình, kêu lên “Ái chà!”, rồi xoay người bỏ chạy.

Trong đám đông có một người bước ra, kêu lên “Vi Đô thống, tìm ra được ngươi rồi!”. Vi Tiểu Bảo chạy được hai bước, đã hiểu rõ ngay tình thế trước mắt, tung tích của mình đã bị phát hiện, đối phương có mấy trăm người cưỡi thuyền tới đây, trên một hòn đảo Thông Ngật nhỏ xíu thế này quyết không sao ẩn nấp được nữa, nghe giọng nói người kia tựa hồ rất quen, lập tức dừng chân, tính ương bướng nổi lên, từ từ quay người lại.

Người kia kêu lên “Vi Đô thống, mọi người đều rất nhớ ngươi. Tạ ơn trời đất, rốt lại cũng tìm được ngươi rồi”, trong giọng nói đầy vẻ vui mừng. Người ấy tay cầm đuốc giơ cao lên, rảo bước đi tới, tới gần nhìn ra thì là Vương Tiến Bảo.

Vi Tiểu Bảo gặp lại cố nhân, cũng một phen vui vẻ, nhớ lại hôm trước ở ngoài thành Bắc Kinh y phụng chỉ đem quân tróc nã, nhưng lại cố ý làm ra vẻ không nhìn thấy, liều mạng vứt bỏ tất cả tiền đồ tính mạng, thả cho mình chạy đi, thật là nghĩa khí sâu nặng, hôm nay là y dẫn đầu, cho dù hung hiểm cũng có chỗ để bàn bạc, lúc ấy mỉm cười nói “Vương tam ca, diệu kế gì đó của ngươi hay thật, lại lừa được ta ra”.

Vương Tiến Bảo ném bó đuốc xuống đất, khom người nói “Thuộc hạ quyết không dám lừa dối, quả thật không biết Đô thống đang trên đảo này”. Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói “Đây là cẩm nang diệu kế của hoàng thượng trao cho phải không?”. Vương Tiến Bảo nói “Hôm ấy hoàng thượng biết Đô thống trốn ra ngoài biển, liền phái thuộc hạ đem ba chiếc hải thuyền, phụng thánh chỉ đi tìm khắp từng hòn đảo nhỏ. Sau khi lên đảo thì theo thánh chỉ của hoàng thượng hô hoán như thế”.

Lúc ấy Song Nhi, Tô Thuyên đều đã chạy tới đứng sau lưng Vi Tiểu Bảo, qua một lúc, Phương Di, công chúa, A Kha ba người cũng đều chạy tới. Vi Tiểu Bảo quay đầu nói với công chúa “Hoàng đế ca ca của cô bản lãnh rất giỏi, rốt lại đã tìm được chúng ta”.

Vương Tiến Bảo nhận ra công chúa, liền quỳ xuống làm lễ. Công chúa nói “Hoàng thượng sai ngươi bắt bọn ta về Bắc Kinh phải không?”, Vương Tiến Bảo vội nói “Không, không phải. Hoàng thượng chỉ phái tiểu tướng ra biển tìm Vi Đô thống, hoàn toàn không biết công chúa điện hạ cũng đang ở đây”. Công chúa cúi đầu liếc cái bụng đang nhô lên của mình, trên mặt đỏ bừng.

Vương Tiến Bảo nói với Vi Tiểu Bảo “Thuộc hạ ra biển hơn bốn tháng, đã lên hơn tám mươi hòn đảo nhỏ hô hoán tìm kiếm, rốt lại tối nay đã gặp được Vi Đô thống, quả thật rất vui mừng”, Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói “Ta là người phạm tội lớn, đã sớm không còn là thượng ty của ngươi rồi, cách xưng hô Đô thống, thuộc hạ ấy, chúng ta miễn đi thôi”. Vương Tiến Bảo nói “Ý tứ của hoàng thượng thì Đô thống nghe tuyên dụ thánh chỉ rồi, tự nhiên sẽ minh bạch”. Y quay người về đám đông vẫy vẫy tay, gọi “Ôn công công, mời ngươi qua đây”.

Trong đám đông có một người bước ra, mặc sắc phục thái giám, chính là thái giám trong Thượng thư phòng Ôn Hữu Phương người quen cũ của Vi Tiểu Bảo. Y bước tới gần, cao giọng nói “Có thánh chỉ!”.

***

Ôn Hữu Phương là bạn cờ bạc của Vi Tiểu Bảo lúc mới vào cung, gieo xúc xắc không biết gian lận, là một gã Dê đực, không biết đã thiếu nợ y bao nhiêu lượng bạc. Vi Tiểu Bảo sau khi đường mây nhẹ bước, mỗi lần gặp nhau, thường vẫn thưởng cho y tám chục một trăm. Vi Tiểu Bảo nghe ba tiếng “Có thánh chỉ” lập tức quỳ xuống, Ôn Hữu Phương nói “Đây là mật chỉ, người khác tránh ra”.

Vương Tiến Bảo vừa nghe thấy, lập tức lùi ra xa, bọn Tô Thuyên cũng lui ra. Công chúa lại nói “Thánh chỉ của hoàng đế ca ca, ta cũng nghe được chứ?”. Ôn Hữu Phương nói “Hoàng thượng dặn đây là mật chỉ, chỉ có thể nói cho một mình Vi Tiểu Bảo nghe, nếu tiết lộ ra một chữ nửa câu thì nô tài sẽ cả nhà chết chém”. Công chúa hừ một tiếng, nói “Ghê gớm thế kia đấy! Ngươi cũng đáng cả nhà chết chém lắm”, đoán là mình đứng đó thì nhất định y không chịu ban chỉ, chỉ đành lùi ra.

Ôn Hữu Phương lấy ra hai phong bì giấy vàng trong người, Vi Tiểu Bảo lập tức quỳ xuống, nói “Nô tài Vi Tiểu Bảo nhận chỉ”. Ôn Hữu Phương nói “Hoàng thượng có dặn, lần này bảo ngươi cứ đứng mà nhận chỉ, không được quỳ xuống dập đầu, cũng không được tự xưng là nô tài”.

Vi Tiểu Bảo vô cùng kỳ quái, hỏi “Như thế là đạo lý gì?”. Ôn Hữu Phương nói “Hoàng thượng dặn như thế thì ta cứ nói với ngươi như thế, còn rốt lại là đạo lý gì, thì khi ngươi gặp hoàng thượng cứ tự mình hỏi thôi”. Vi Tiểu Bảo đành cao giọng nói “Vâng, cảm tạ ân điển của hoàng thượng”, rồi đứng lên. Ôn Hữu Phương đưa một cái phong bì giấy vàng qua cho y, nói “Ngươi bóc ra mà xem”, Vi Tiểu Bảo hai tay đón lấy, xé phong bì, rút ra một tờ giấy vàng, Ôn Hữu Phương tay trái nhấc cao đèn lồng soi lên tờ giấy.

Vi Tiểu Bảo thấy trên giấy vẽ sáu bức tranh. Bức thứ nhất vẽ hai đứa nhỏ níu kéo đánh nhau dưới đất, chính là tình hình mình và Khang Hy đánh vật tỷ võ năm xưa. Bức thứ hai vẽ một bọn trẻ con đang bắt Ngao Bái, Ngao Bái nhảy xổ vào Khang Hy, Vi Tiểu Bảo rút đao đâm Ngao Bái. Bức thứ ba vẽ một hòa thượng nhỏ cõng một hòa thượng già trên lưng sải chân bỏ chạy, phía sau có sáu bảy Lạt ma cầm đao đuổi theo, đó là tình hình y cứu Lão hoàng gia ở chùa Thanh Lương. Bức thứ tư vẽ ni cô áo trắng lăng không nhảy xuống, vung kiếm hành thích Khang Hy, Vi Tiểu Bảo nhảy ra đứng chặn trước mặt y, chịu thay cho y một kiếm. Bức thứ năm vẽ Vi Tiểu Bảo trong tẩm điện cung Từ Ninh đạp thái hậu giả xuống đất, đỡ thái hậu thật dưới giường ra. Bức thứ sáu vẽ Vi Tiểu Bảo và một cô gái La Sát, một vương tử Mông Cổ, một Lạt ma già nhất tề giữ chặt bím tóc của một tướng quân già, nhìn trang phục của tướng quân già ấy thì chính là Bình Tây thân vương, tự nhiên là nói Vi Tiểu Bảo dùng kế triệt tiêu ba lực lượng viện trợ cho Ngô Tam Quế.

Khang Hy giỏi về đan thanh, sáu bức tranh vẽ rất sinh động, chỉ là bốn người Ngô Tam Quế, Vương tử Cát Nhĩ Đan, Lạt ma Tang Kết, công chúa Tô Phi Á thì y chưa từng gặp mặt, tướng mạo không giống, còn những nhân vật khác người nào cũng rất giống, nhất là Vi Tiểu Bảo bộ dạng ương bướng ranh mãnh lại càng giống hệt. Trên sáu bức tranh không viết một chữ nào, nhưng Vi Tiểu Bảo tự nhiên hiểu rõ, đây là sáu công lao lớn mà mình lập được. Chuyện tỷ võ đùa giỡn với Khang Hy vốn không thể coi là công lao gì, nhưng Khang Hy trong lòng canh cánh không quên. Còn như những công lao nổ pháo đánh tan Thần Long giáo, bắt sống thái hậu giả, bắt được Ngô Ứng Hùng so ra thì không đáng nói.

Vi Tiểu Bảo ngẩn người ra nhìn, không kìm được chảy nước mắt, nghĩ thầm “Y mất bao nhiêu thời gian vẽ ra sáu bức tranh này, ghi lại công lao của mình, vậy thì trong lòng không trách mình rồi”.

Ôn Hữu Phương chờ hồi lâu, nói “Ngươi xem kỹ chưa?”, Vi Tiểu Bảo nói “Rồi”, Ôn Hữu Phương xé phong bì màu vàng thứ hai, nói “Tuyên đọc mật chỉ của hoàng thượng”, rút ra một tờ giấy vàng, đọc:

“Tiểu Quế tử, con mẹ nó, ngươi đi đâu thế? Ta nhớ ngươi lắm, thằng đầy tớ xấu xa nhà ngươi vô tình vô nghĩa, quên lão tử rồi à?”.

Vi Tiểu Bảo lẩm bẩm “Ta không quên, quả thật là không quên”. Trung Quốc từ Tam hoàng Ngũ đế trở đi, trong thánh chỉ của hoàng đế lại dùng ba chữ “Con mẹ nó”, mà hoàng đế lại tự xưng là “Lão tử”, thì xem ra đạo mật chỉ này của Khang Hy không những không tiền mà còn tuyệt hậu.

Ôn Hữu Phương ngừng một lúc, lại đọc tiếp:

“Ngươi không nghe lời ta, không chịu đi giết sư phụ ngươi, lại dắt công chúa Kiến Ninh trốn đi, con mẹ nó như thế không phải là bảo ta làm đại cữu tử có lợi của ngươi à? Có điều ngươi công lao rất lớn, đối với ta lại rất trung thành, có tội lỗi gì, ta đều tha cho ngươi. Ta sắp lấy vợ rồi, ngươi không về uống rượu mừng thì lão tử quả thật rất không vui. Ta nói với ngươi nhé, ngươi ngoan ngoãn đầu hàng đi, lập tức trở về Bắc Kinh, ta đã xây cho ngươi một phủ bá tước khác, so với tòa trước còn to lớn hơn…”.

Vi Tiểu Bảo trong lòng mừng rơn, cao giọng nói “Được, được, ta sẽ lập tức về uống rượu đám cưới”.

Ôn Hữu Phương đọc tiếp:

“Chúng ta phải nói trước, từ nay trở đi, nếu ngươi còn không nghe lời thì ta không chém đầu ngươi không xong, đừng nói là ta lừa ngươi về Bắc Kinh rồi lại giết ngươi. Sư phụ họ Trần của ngươi chết rồi, Thiên địa hội không có liên quan gì với ngươi nữa, ngươi nên bỏ ra chút sức lực tiêu diệt Thiên địa hội cho sạch sẽ. Ta sẽ phái ngươi đi đánh Ngô Tam Quế. Công chúa Kiến Ninh cũng cho ngươi lấy làm vợ. Ngày sau phong công phong vương, thăng quan phát tài, có nhiều chuyện vui cho ngươi. Tiểu Huyền tử là bạn tốt của ngươi, lại là sư phụ của ngươi, Điểu Sinh Ngư Thang, nói ra là ngựa tứ khó đuổi, ngươi mau về đây cho ta!”.

Ôn Hữu Phương đọc xong mật chỉ, hỏi “Ngươi nghe rõ cả chứ?”, Vi Tiểu Bảo nói “Vâng, nghe rõ”. Ôn Hữu Phương đưa tờ mật chỉ vào chiếc đèn lồng, dí vào ngọn nến, lúc rút ra đã biến thành một mớ tro tàn. Vi Tiểu Bảo nhìn thấy đạo mật chỉ bị đốt thành tro, trong lòng muôn ngàn ý nghĩ cuồn cuộn dâng lên, ngồi xổm xuống đất, khều khều mớ tro.

Ôn Hữu Phương vẻ mặt rạng rỡ, thỉnh an rồi cười nói “Vi đại nhân, hoàng thượng sủng ái ngươi, đúng là không còn chỗ nào để nói. Từ nay trở đi, tiểu nhân còn nhờ ngươi đề bạt cho”.

Vi Tiểu Bảo thầm lắc đầu, nghĩ thầm “Y muốn mình tiêu diệt Thiên địa hội, chuyện này thì rất không phải với bạn bè. Nếu mình làm loại chuyện như thế, thì há không khác gì bọn Ngô Tam Quế, Phong Tế Trung, cũng trở thành đại Hán gian, quân rùa đen khốn kiếp sao? Bát cơm này của Tiểu Huyền tử thật không dễ ăn rồi. Lần này y tha không giết mình, nhưng lời lẽ thì rất rõ ràng, lần sau nhất định không tha nữa. Nhưng nếu mình không chịu về, thì không biết y sẽ đối phó với mình thế nào?”. Bèn hỏi “Nếu ta không về Bắc Kinh, hoàng thượng sẽ làm gì? Bảo các ngươi bắt ta về, hay là giết chết ta?”.

Ôn Hữu Phương trên mặt đầy vẻ kinh ngạc, nói “Vi đại nhân không phụng chỉ à? Sao… Sao lại có chuyện như thế? Như vậy… như vậy không phải là… ờ, chuyện trái chỉ thì nói ra cũng không được nữa kia”.

Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi nói thật với ta đi, nếu ta không phụng chỉ thì sẽ thế nào?”, Ôn Hữu Phương gãi gãi đầu, nói “Hoàng thượng chỉ bảo tiểu nhân làm hai việc, một việc là đưa một đạo mật chỉ cho đại nhân, việc kia là chờ Vi đại nhân xem đạo mật chỉ thứ nhất xong thì đọc đạo mật chỉ thứ hai. Trong mật chỉ nói những gì thì tiểu nhân nửa điểm cũng không biết, những chuyện khác thì lại càng không biết”.

Vi Tiểu Bảo gật gật đầu, bước tới trước mặt Vương Tiến Bảo, nói “Vương tam ca, mật chỉ của hoàng thượng là bảo ta về kinh làm việc, nhưng mà… nhưng mà… ngươi thấy đấy, bụng công chúa đã rất to, ta quả thật không đi được, nếu ta không phụng chỉ về kinh, hoàng thượng bảo ngươi đối phó với ta thế nào?”, nghĩ thầm “Trước hết cứ nghe đối phương ra giá thế nào đã. Nếu nói là giết ngay không bàn thì mình sẽ đầu hàng, nếu không thì không ngại gì cứ cò kè trả giá”.

Vương Tiến Bảo nói “Hoàng thượng chỉ sai thuộc hạ tới các nơi hải đảo tìm kiếm Vi Đô thống, tìm được rồi sẽ có Ôn công công tuyên đọc mật chỉ. Còn chuyện sau đó thì tự nhiên là nhất thiết thuộc hạ đều tuân theo lệnh Vi Đô thống sai khiến”.

Vi Tiểu Bảo cả mừng, nói “Hoàng thượng không bảo ngươi bắt ta, giết ta à?”. Vương Tiến Bảo vội nói “Không có đâu, không có đâu, lẽ nào lại có chuyện ấy? Hoàng thượng rất coi trọng Vi Đô thống. Vi Đô thống mà tới kinh, nhất định sẽ được đại dụng, không làm Thượng thư cũng làm Đại tướng quân”, Vi Tiểu Bảo nói “Vương tam ca, không giấu gì ngươi, hoàng thượng muốn ta về kinh mang người đi tiêu diệt Thiên địa hội. Ta là Hương chủ trong Thiên địa hội, chuyện giết hại bằng hữu như thế thì thật ngàn vạn lần không làm được”. Vương Tiến Bảo là người rất có nghĩa khí, đối với việc của Vi Tiểu Bảo đã sớm hiểu rõ mười phần, nghe y nói thế, không kìm được liên tiếp gật đầu, nghĩ thầm vì được thăng quan phát tài mà bán đứng bạn bè thì đúng là không bằng heo chó.

Vi Tiểu Bảo lại nói “Hoàng thượng đối với ta ơn nặng như núi, nhưng sai ta đi làm chuyện này thì quả thật ta không làm được. Ta không dám về gặp mặt hoàng thượng, chỉ còn cách đợi kiếp sau làm trâu ngựa báo đáp ơn lớn của hoàng thượng thôi. Ngươi về gặp hoàng thượng, nhờ đem chỗ khó xử của ta biện hộ giùm, vốn là trung nghĩa không thể lưỡng toàn, trong rạp hát là phải tự sát báo chúa, tuy cắt cổ đau lắm, nhưng ta không biết làm sao, chỉ còn cách tận trung báo quốc thôi”.

Vương Tiến Bảo so sánh trong lòng, nếu mình gặp phải chuyện khó khăn thế này cũng chỉ còn cách tự sát, đã báo đáp được ơn tri ngộ của vua mà cũng không phụ nghĩa kết giao với bạn, vội khuyên “Vi Đô thống không thể dùng hạ sách như thế, chúng ta từ từ nghĩ cách khác. Đợi thuộc hạ bẩm báo lại với hoàng thượng nỗi khổ tâm này của Vi Đô thống đã. Trương Đề đốc, Triệu Tổng binh, Tôn Phó tướng trong mấy tháng qua đều đã lập được công lao, rất được hoàng thượng coi trọng, mọi người liều mạng bỏ hết tiền đồ không tính tới nữa, bất kể thế nào cũng phải dập đầu nài nỉ cho Vi Đô thống”.

Vi Tiểu Bảo thấy y dáng vẻ cuống quít, trong lòng cười thầm “Muốn Vi Tiểu Bảo tự sát thì đúng là mặt trời mọc ở phía tây. Đừng nói tự sát, lão tử chỉ tự cắt một ngón tay út của mình cũng nhất định không làm. Mà nói lại, Tiểu Huyền tử muốn giết ta thì giết, muốn tha ta thì tha, tự y không biết là có bao nhiêu chủ ý, bằng vào mấy người các ngươi dập đầu bình bình lại làm được gì à?”. Nhưng thấy y nghĩa khí sâu nặng, trong lòng cũng cảm kích, nắm tay y nói “Nếu đã như thế, thì phiền Vương tam ca tâu với hoàng thượng, nói Vi Tiểu Bảo trước sau đều khó xử, rút kiếm tự vẫn, may được ngươi cứu nên mới không chết”.

Vương Tiến Bảo nói “Vâng, vâng!”. Nghĩ thầm Ôn thái giám đang ở bên cạnh, nhìn thấy tất cả, khi quân như thế chỉ e sẽ lộ trò lừa bịp, bất giác trên mặt có vẻ khó khăn. Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, nói “Vương tam ca đừng tưởng thật, ta chỉ nói đùa thôi. Hoàng thượng biết rõ Vi Tiểu Bảo là người thế nào, tự sát thì rất sợ đau. Ngươi cứ tâu thật lại tất cả mọi việc cho hoàng thượng thôi”. Vương Tiến Bảo lúc ấy mới yên tâm.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm nếu theo thuyền của y trở về Trung Nguyên rồi bỏ trốn, nhất định hoàng thượng sẽ giáng tội, có quá nửa sẽ chém đầu y, nếu mình lên tiếng nài nỉ thì y ở vào thế không thể cự tuyệt, nhưng như thế thì không khỏi quá không phải với người ta, bèn nói “Chuyện chính chúng ta đã nói xong rồi. Vương tam ca, huynh đệ sống trên đảo hoang này, lâu lắm chưa đánh bạc, quả thật rất buồn bã, chúng ta gieo vài sòng xúc xắc nên chăng?”.

Vương Tiến Bảo cả mừng, y về khoản máu me cờ bạc thì hoàn toàn không kém gì Vi Tiểu Bảo, lúc không có đối thủ thường tay trái đánh bạc với tay phải, lúc ấy luôn miệng khen hay, nôn nóng không kịp chờ, sai quân sĩ thủ hạ khiêng một tảng đá lớn bằng phẳng tới, sáu tên quân sĩ nhấc cao đèn lồng soi vào, hô yêu xướng lục, bắt đầu đánh bạc với Vi Tiểu Bảo. Không bao lâu Ôn Hữu Phương và mấy viên Tham tướng, Du kích cũng nhập bọn gieo xúc xắc, người xúm quanh tảng đá càng lúc càng đông.

Mộc Kiếm Bình nhìn thấy vô cùng nghi ngờ, khẽ hỏi Phương Di “Sư tỷ, tại sao họ lại gieo xúc xắc, chẳng lẽ thua thì sẽ… sẽ… nhưng họ đều là đàn ông cả mà”, Phương Di hù một tiếng, bật cười hạ giọng nói “Ai thua thì sẽ tới làm bầu bạn với ngươi”. Mộc Kiếm Bình tuy không hiểu chuyện đời nhưng cũng biết quyết không có chuyện ấy, bèn đưa tay cù vào nách Phương Di, hai cô gái cười sặc lên.

Một trường đánh bạc kéo dài tới sáng mới tan. Trước mặt Vi Tiểu Bảo bạc trắng chất thành ba đống, một là y rất gặp may, hai là giở trò hoa dạng, đám quan binh mười người thì chín người thua sạch. Vi Tiểu Bảo vô cùng cao hứng, vừa quay đầu lại, chỉ thấy công chúa, A Kha, Mộc Kiếm Bình ba người đã dựa vào tảng đá thiếp đi, Tô Thuyên, Phương Di, Song Nhi, Tăng Nhu bốn người thì mi mắt sụp xuống, cố gắng chi trì để bồi tiếp bên cạnh, bất giác cảm thấy xấu hổ, đẩy ba đống bạc trước mặt ra một cái, nói “Vương tam ca, mấy ngàn lượng bạc này, xin ngươi thay ta thưởng cho các anh em thôi. Các vị tới chỗ đảo hoang này, không có gì khoản đãi, quả thật rất áy náy”.

Đám quan binh vốn đã thua tới mức ai cũng mặt xám như tro, vừa nghe thấy thế, lập tức reo hò như sấm, cùng lên tiếng cảm tạ. Vương Tiến Bảo sai quân sĩ chèo thuyền nhỏ trở về thuyền, chở lương khô, heo dê, rượu ngon, thuốc men, cho tới các vật cần dùng như đũa bát, bàn ghế, nồi cháo, dao thái rau lên đảo. Lại sai quân sĩ xây mấy gian nhà tranh trong rừng. Người nhiều dễ làm việc, mấy trăm quân sĩ ra sức làm việc trong vòng vài hôm, trên đảo Thông Ngật mọi cái đều đã chu tất, sau đó từ biệt Vi Tiểu Bảo.

Ôn Hữu Phương lúc lên đường mới biết đảo này tên là đảo Thông Ngật, bất giác liên tiếp giẫm chân than thở, nói nếu sớm biết như thế thì nhất định phải xin Vi Tiểu Bảo nhường cho mình làm cái vài sòng. Trên đảo Thông Ngật mà ngồi làm cái thì lẽ nào lại có chuyện không ăn tất?

***

Qua hơn mười ngày, A Kha sinh một con trai trước, hôm sau Tô Thuyên lại sinh được một con trai. Công chúa thì hơn một tháng sau mới sinh được một con gái, nàng thấy người ta sinh được con trai mà mình lại sinh con gái, trong lòng tức giận, khóc lóc suốt mấy ngày. Vi Tiểu Bảo không ngừng an ủi, nói mình chỉ thích con gái không thích con trai, lúc ấy mới lừa được nàng nín khóc bật cười.

Ba đứa nhỏ có tới bảy bà mẹ, tuy không ai có kinh nghiệm nuôi con, bảy tay tám chân, không khỏi đủ chuyện buồn cười, nhưng ba đứa nhỏ cũng đều khỏe mạnh hoạt bát. Các cô gái cung kính xin Vi Tiểu Bảo đặt tên. Vi Tiểu Bảo cười nói “Ta mù chữ, muốn đặt tên cho con cái thì khó lắm. Thôi thế này, chúng ta tới gieo xúc xắc, gieo được nước bài gì thì đặt tên như thế”.

Lúc ấy lấy xúc xắc ra, trong miệng lầm rầm “Đổ thần Bồ tát phù hộ, ban cho ba đứa nhỏ tên hay một chút. Đứa thứ nhất!”, gieo xúc xắc xuống, một hạt ra sáu điểm, một hạt năm điểm, là nước Hổ đầu. Vi Tiểu Bảo cười nói “Tên thằng lớn không kém, gọi là Vi Hổ Đầu”. Lần thứ hai gieo được một điểm và sáu điểm, thành nước Đồng trùy yêu lục, lão nhị tên là Vi Đồng Trùy.

Gieo lần thứ ba, một hạt xúc xắc lăn ra hai điểm, hạt thứ hai xoay tròn không ngừng, rốt lại cũng ra hai điểm, thành một nước Bản đăng. Vi Tiểu Bảo sửng sốt, hô hô cười rộ, nói “Tên của đại cô nương nhà chúng ta kỳ quái thật, tên là Vi Bản Đăng!”. Các cô gái ai cũng kinh ngạc.

Công chúa tức giận nói “Khó nghe chết đi! Con gái đàng hoàng, tại sao lại đặt tên là Bản Đăng, mau gieo lần nữa xem”.

Vi Tiểu Bảo nói “Tên của Đổ thần Bồ tát đã ban cho, sao có thể tùy tiện sửa bừa?”, rồi bế con gái lên, hôn vào mặt nó chụt một cái, cười nói “Vi Bản Đăng cục cưng, cái tên ấy rất hay”.

Công chúa tức giận nói “Không được, không được! Nói thế nào cũng không thể gọi là Bản Đăng. Con gái là do ta sinh ra, cái tên khó nghe như thế thì ta không cần”. Vi Tiểu Bảo nói “Hừ, con gái là do cô sinh, nhưng một mình cô mà sinh được à?”. Công chúa giật xúc xắc, nói “Để ta gieo, gieo ra thế nào thì đặt tên thế ấy”. Vi Tiểu Bảo không biết làm sao, chỉ đành theo lời nàng, nói “Được rồi, lần này thì không được chối đấy! Nếu cũng gieo được nước Hổ đầu, Đồng trùy thì sao?”. Công chúa nói “Thì cũng như anh nó, cũng gọi là Hổ Đầu, Đồng Trùy là được”. Rồi lắc lắc xúc xắc trong tay, nói “Đổ thần Bồ tát, nếu ngươi không ban cho con gái ta một cái tên dễ nghe, ta sẽ đập nát hai hạt xúc xắc của ngươi”.

Vừa gieo xuống xong, hai hạt xúc xắc lăn tròn mấy vòng rồi đứng lại, chuyện thiên hạ lại vừa khéo như thế, rõ ràng lại là hai mặt hai điểm, vẫn là một nước Bản đăng. Công chúa sau lúc trợn mắt há miệng, òa một tiếng bật khóc.

Mọi người vừa kinh ngạc vừa buồn cười. Tô Thuyên cười nói “Muội tử, ngươi đừng sốt ruột! Hai hạt là một đôi tức song, hai hạt hai điểm là song song. Con gái chúng ta tên Vi Song Song, ngươi thấy được không?”. Công chúa nín khóc bật cười, lập tức vui lên, cười nói “Hay, hay! Tên ấy nghe rất hay, gần giống như Song Nhi muội tử”. Song Nhi cũng rất vui vẻ, bế Vi Song Song vào lòng, hôn nó một cái.

Mộc Kiếm Bình cười nói “Song Nhi muội muội, ngươi thương nó như thế, mau cho nó bú đi”, Song Nhi đỏ mặt xì một tiếng, nói “Ngươi cho bú đi!”, rồi đưa tay cởi cúc áo nàng. Mộc Kiếm Bình vội vàng bỏ chạy. Các cô gái cười ầm lên.

Trên đảo Thông Ngật có thêm ba đứa trẻ, sinh hoạt càng thêm nhiệt náo. Từ khi Vương Tiến Bảo đưa tặng nhiều vật dụng gia đình, đồ dùng đầy đủ, không cần phải hàng ngày đánh cá đi săn, chỉ là đến lúc cần, muốn ăn cá tôm hay thịt rừng tươi mới phải động thủ. Lúc đầu mọi người cũng còn lo Khang Hy gọi mà Vi Tiểu Bảo không về, oai trời khó lường, có thể có hậu hoạn, nhưng qua vài tháng không thấy có tin tức gì, cũng dần dần quên chuyện ấy đi.

Đến mùa hè năm ấy, đột nhiên Vương Tiến Bảo lại suất lãnh mấy chiếc thuyền lớn tới tuyên đọc thánh chỉ. Lần này thánh chỉ viết bằng văn tứ lục biền ngẫu, văn chương sâu sắc. Vi Tiểu Bảo một câu cũng không hiểu, toàn nhờ Tô Thuyên giải thích.

Nguyên là Khang Hy không nói gì tới chuyện trước, nhưng phái một viên Tham tướng mang năm trăm quân đóng trên đảo bảo vệ công chúa. Ngoài ra có sáu mươi tên bộc dịch, tám nữ bộc, tám a hoàn, đủ thứ vật dùng thức ăn chở đầy ba chiếc thuyền lớn.

Vi Tiểu Bảo thẩm rầu rĩ “Tiểu Huyền tử thưởng cho mình rất nhiều, chỉ e muốn bảo mình cứ sống suốt đời trên đảo Thông Ngật”. Tính y hiếu động, sống trên đảo mấy tháng tuy không phải lo lắng, lại có bảy người vợ như hoa như ngọc làm bạn, nhưng sống an nhàn quá lâu, quả thật cảm thấy vô vị, có lúc nhớ lại chuyện cũ, cảm thấy ở trong Lệ Xuân viện bị người ta túm bím tóc vừa đánh vừa chửi, lại còn thoải mái hơn.

***

Tháng mười hai năm ấy, Khang Hy sai Triệu Lương Đống tới ban chỉ, hoàng đế lập con trai thứ Doãn Nhưng làm Thái tử, đại xá cho thiên hạ, Vi Tiểu Bảo được thăng một cấp, phong làm Nhị đẳng Thông Ngật bá.

Vi Tiểu Bảo bày tiệc khoản đãi Triệu Lương Đống, trong tiệc Triệu Lương Đống nói về chiến sự thảo phạt Ngô Tam Quế, nói binh tướng của Ngô Tam Quế lợi hại, vương sư các nơi thất lợi. Vi Tiểu Bảo nói “Triệu nhị ca, xin ngươi về tâu với hoàng thượng, nói ta ở đây quả thật rất buồn chán, xin hoàng thượng phái ta đi đánh lão tiểu tử Ngô Tam Quế đi”. Triệu Lương Đống nói “Hoàng thượng đã đoán Tước gia trung quân ái quốc, biết Ngô tặc lộng hành, nhất định sẽ xin ra trận. Hoàng thượng nói Vi Tiểu Bảo muốn đi đánh Ngô Tam Quế cũng được, có điều trước hết y phải tiêu diệt Thiên địa hội cho ta đã. Nếu không thì cứ ở đảo Thông Ngật mà câu cá bắt rùa thôi”.

Vi Tiểu Bảo mi mắt đỏ hoe, suýt nữa bật khóc.

Triệu Lương Đống nói “Hoàng thượng nói, trước đây lúc Hán Quang Vũ nhà Hán còn trẻ tuổi, có một người bạn tên Nghiêm Tử Lăng. Sau khi Hán Quang Vũ làm hoàng đế, Nghiêm Tử Lăng không chịu làm quan, đi câu cá trên sông Phú Xuân. Hoàng thượng lại nói đại thần Khương Thái công của Chu Vũ vương trước kia cũng câu cá trên sông Vị. Chu Vũ vương, Hán Quang Vũ đều là hoàng đế tốt thời cổ, đủ thấy phàm là hoàng đế tốt thì đều có một đại thần câu cá. Hoàng thượng nói, hoàng thượng muốn làm Điểu Sinh Ngư Thang, nếu Vi Tước gia không bắt chim câu cá cho y, thì hoàng thượng làm sao làm được Điểu Sinh Ngư Thang? Vi Tước gia, thuộc hạ là người thô lỗ, quả thật không hiểu tại sao hoàng thượng lại phái Tước gia bắt chim câu cá ở đây. Có điều hoàng thượng vô cùng anh minh, chắc trong đó ắt phải có đạo lý rất lớn”.

Vi Tiểu Bảo nói “Phải, phải!”, chỉ đành cười gượng. Y biết rõ Khang Hy chế nhạo mình, xem ra nếu mình không ưng thuận tiêu diệt Thiên địa hội thì hoàng đế sẽ bắt mình câu cá suốt đời ở đây. Năm trăm quan binh kia nói là bảo vệ công chúa nhưng thật ra là cai ngục lính ngục, giám thị nghiêm ngặt, không cho mình rời khỏi đảo một bước. Y càng nghĩ càng đau xót, buổi tiệc kết thúc sớm, sau khi uống rượu cũng không đánh bạc, trở về phòng ngồi ngẩn ra rơi nước mắt.

Bảy vị phu nhân thấy Vi Tiểu Bảo khóc, đều rất kinh ngạc, xúm tới hỏi han. Y nói lại lời Khang Hy. Công chúa tức giận nói “Phải rồi! Nếu quả thật Hoàng đế ca ca muốn thăng chức cho ngươi thì từ Tam đẳng bá thăng làm Nhị đẳng bá là được, chứ Nhị đẳng Thông Ngật bá thì còn có đạo lý gì chứ? Nhà Đại Thanh chúng ta chỉ có Chiêu Tín bá, Oai Nghị bá, nếu không thì là Tương cần bá, Vĩnh Ân bá. Ngươi vốn là Tam đẳng Trung Dũng bá, như thế rất hay, chứ ba chữ Thông Ngật bá rõ ràng là muốn chế nhạo người ta. Y… y… không hề nghĩ tới ta”.

Vi Tiểu Bảo nói “Thông Ngật bá cũng không sao, tên đảo Thông Ngật này là do ta đặt, cũng không thể trách hoàng thượng. Ta là đảo chủ đảo Thông Ngật, tự nhiên là Thông Ngật bá, so với Thông Bồi bá thì tốt hơn nhiều. Thuyên tỷ tỷ, cô nên nghĩ cách, chúng ta trốn về Trung Nguyên, ta… ta quả thật rất nhớ mẹ ta”.

Tô Thuyên lắc đầu nói “Chuyện ấy quả thật rất khó, phải từ từ chờ cơ hội thôi”.

Vi Tiểu Bảo cầm chén trà lên, choang một tiếng ném xuống đất vỡ nát, tức giận nói “Là cô không chịu nghĩ cách, được rồi, sắp tới ta sẽ một mình rón rén trốn đi, mọi người đừng trách ta. Ta… ta… ta thà về Lệ Xuân viện làm thằng khốn hầu trà, chứ không cần làm Thông Ngật bá con mẹ nó gì cả, thật khiến người ta buồn bực mà chết”.

Tô Thuyên cũng không tức giận, mỉm cười nói “Tiểu Bảo, ngươi đừng sốt ruột, rồi cũng sẽ có một ngày hoàng thượng sai ngươi đi làm việc thôi”.

Vi Tiểu Bảo cả mừng đứng lên vái dài một vái, nói “Hảo tỷ tỷ, ta xin lỗi đã không phải với cô. Nói mau đi, hoàng thượng sẽ phái ta đi làm chuyện gì? Chỉ cần không phải là đánh Thiên địa hội, thì ta… chuyện gì ta cũng làm”.

Công chúa nói “Hoàng đế ca ca muốn sai ngươi đổ nước tiểu, rửa thủng xí thì sao?”.

Vi Tiểu Bảo tức giận nói “Ta cũng làm. Có điều hàng ngày sẽ phái cô làm thay”. Công chúa thấy y càng giận dữ, không dám nói nữa.

Mộc Kiếm Bình nói “Thuyên tỷ tỷ, ngươi nói mau đi, Tiểu Bảo đúng là rất sốt ruột rồi đấy”.

Tô Thuyên trầm ngâm nói “Làm chuyện gì thì ta không biết, nhưng suy đoán tâm ý của hoàng đế thì rốt lại sẽ có một ngày gọi ngươi về Bắc Kinh. Y đang ép ngươi đầu hàng, muốn ngươi ưng thuận đi đánh Thiên địa hội. Ngày nào ngươi còn chưa đầu hàng thì y còn làm khó ngươi ngày ấy. Tiểu Bảo, ngươi muốn làm anh hùng hảo hán, muốn chu toàn nghĩa khí với bạn bè, thì phải chịu khổ cực một chút. Còn muốn làm anh hùng, lại muốn nghe hát bài Thập bát mô, loại anh hùng như thế cũng dễ làm thôi”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thấy cũng có lý, bèn đứng lên cười nói “Ta sẽ làm anh hùng, sẽ tự hát bài Thập bát mô, như thế được không?”, kế đó cất giọng hát “Sờ một cái, sờ hai cái, sờ tới cạnh đầu Thuyên tỷ tỷ…”. Rồi đưa tay sờ lên đầu Tô Thuyên, trong tiếng cười ran của mọi người, một trường sóng gió cũng tiêu tan trong cõi vô hình.

***

Sau đó ngày lại qua ngày, năm lại qua năm, Vi Tiểu Bảo và bảy người vợ vẫn ở trên đảo Thông Ngật. Tháng chạp hàng năm, Khang Hy theo lệ phái người tới ban thưởng, thưởng cho Vi Tiểu Bảo xúc xắc pha lê, bài cẩu phỉ thúy, những dụng cụ đánh bạc dát vàng khảm ngọc không biết bao nhiêu mà kể. May là trên đảo Thông Ngật có tới năm trăm quan binh, Vi Tiểu Bảo cũng không thiếu đối thủ để đánh bạc.

Năm ấy Tôn Tư Khắc tới ban thưởng. Vi Tiểu Bảo thấy y đội mũ đính bảo thạch màu đỏ, mặc sắc phục võ quan nhất phẩm, biết y đã được thăng làm Đề đốc, vội chúc mừng y “Tôn tứ ca, chúc mừng ngươi lại được thăng chức”.

Tôn Tư Khắc vẻ mặt rạng rỡ, hướng về y thỉnh an làm lễ, nói “Đây đều là nhờ hoàng thượng ban ơn, Vi Tước gia tài bồi đề bạt”.

Đến khi mở thánh chỉ ra đọc, thì vốn là triều đình đã bình định được Tam phiên, Bình Tây vương Ngô Tam Quế ở Vân Nam, Bình Nam vương Thượng Chi Tín ở Quảng Đông, Tịnh Nam vương Cảnh Tinh Trung ở Phúc Kiến trước sau lần lượt bị đánh bại. Khang Hy luận công ban thưởng, vì Nhị đẳng Thông Ngật bá Vi Tiểu Bảo tiến cử đại tướng lập được công lớn, rất đáng khen ngợi, đặc biệt thăng làm Nhất đẳng Thông Ngật bá, cho con trưởng là Vi Hổ Đầu được tập ấm làm Vân kỵ úy. Vi Tiểu Bảo tạ ơn xong, nhận những đồ vật Khang Hy ban thưởng, trong đó có một bức bình phong bằng đá Đại Lý, tức bức binh phong đã thấy trong cung Ngũ Hoa của Ngô Tam Quế năm trước, là một trong ba bảo vật của Ngô Tam Quế. Trương Dũng, Triệu Lương Đống, Vương Tiến Bảo, Tôn Tư Khắc đều có lễ vật trọng hậu.

Trong buổi tiệc tối hôm ấy, Tôn Tư Khắc kể lại tình hình bình định Ngô Tam Quế. Nguyên là Trương Dũng đại phá đại quân của Ngô Tam Quế ở một dải Cam Túc, Ninh Hạ, lập được đại công, hiện được phong là Nhất đẳng hầu gia Thiếu bảo kiêm Thái tử Thái bảo, quan tước đã cao hơn Vi Tiểu Bảo rất nhiều. Tôn Tư Khắc nói Trương hầu gia năm xưa sau khi bị Quy Tân Thụ đánh một chưởng, thủy chung vẫn không thể lành hẳn, không cưỡi ngựa được, cũng không đứng được, lúc ra trận toàn phải ngồi kiệu chỉ huy đại quân. Vi Tiểu Bảo tấm tắc khen lạ, nói “Người khiêng kiệu phải toàn là dũng sĩ mới được, nếu không Trương đại ca quát lớn xung phong, bốn tên phu kiệu lại khiêng y chạy lui lại, há lại không hỏng bét à?”, Tôn Tư Khắc nói “Đúng đấy, lúc Trương hầu gia ra trận, phía sau kiệu nhất định có dàn đao phủ thủ, nếu bọn khiêng kiệu muốn chạy lùi sẽ bị đại đao chém rụng đầu ngay”.

Tôn Tư Khắc lại kể chuyện Triệu Lương Đống chiếm ải Dương Bình, lấy Hán Trung, hạ Thành Đô, đánh Côn Minh thế nào, công lao rất lớn, hoàng thượng phong y làm Dũng Lược tướng quân kiêm Tổng đốc Vân Quý, gia hàm Thượng thư bộ Binh.

Vương Tiến Bảo và y cũng đều nhờ chiến công được thăng làm Đề đốc.

Vi Tiểu Bảo thấy y nói tới mức mặt mày hớn hở, mình thì không được tao ngộ như thế, bất giác u uất không vui, nhưng nghĩ tới bốn người bạn tốt này đều lập được đại công, được phong làm đại quan, lại thấy mừng thay cho họ.

Tôn Tư Khắc nói “Bốn người bọn ta thường nói mấy năm nay đánh trận đều mười phần vui vẻ, uống nước nhớ nguồn, đều là nhờ ơn tri ngộ của hoàng thượng, ơn tiến cử của Vi Tước gia, nếu Vi Tước gia làm Bình Tây đại nguyên soái, dắt bốn người bọn ta đánh Ngô Tam Quế thì mới là thập toàn thập mỹ . Triệu nhị ca và Vương tam ca vẫn thường cãi nhau, cãi nhau cả trước mặt hoàng thượng, ngay Trương đại ca cũng không can được, hoàng thượng mấy lần nói tới Vi Tước gia, nói cãi nhau như thế là có lỗi với ngươi, hai người bọn họ mới không cãi nhau nữa”.

Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói “Hai người bọn họ vốn vừa gặp mặt là đã cãi nhau, tại sao làm tới đại tướng quân rồi mà tính nết vẫn không thay đổi?”, Tôn Tư Khắc nói “Chứ không phải sao, hai người chia nhau dâng tờ tâu, ngươi nói ta không phải, ta nói ngươi không phải. May mà hoàng thượng khoan hồng đại lượng, đều không truy cứu, nếu không chỉ e hai người đều đã bị giáng chức”.

Vi Tiểu Bảo nói “Lão tiểu tử Ngô Tam Quế thế nào rồi? Ngươi có nắm chặt bím tóc y, đá con mẹ nó cho y mấy cước không?”. Tôn Tư Khắc lắc đầu nói “Lão tiểu tử ấy vận khí cũng rất may…”, Vi Tiểu Bảo ngạc nhiên hỏi “Y trốn thoát à?”. Tôn Tư Khắc nói “Không phải thế. Y thua trận khắp nơi, không còn mảnh đất đứng chân, thấy không chi trì nổi, lại muốn làm hoàng đế một lần trước khi chết cho thỏa mãn, lúc ấy bèn mặc hoàng bào, lên ngôi đại bảo, định đô ở Hàng Châu, bọn ta nghe y làm hoàng đế bèn hy lý hoa lạp đánh bừa tới, y mấy phen đại bại, vừa sợ vừa tức, đã ô hô ai tai rồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Té ra là thế, lão tiểu tử ấy thật cũng rất được tiện nghi”. Tôn Tư Khắc nói “Sau khi Ngô tặc chết, chư tướng bộ hạ của y tôn lập cháu nội là Ngô Thế Phan nối ngôi, lui về Côn Minh. Triệu nhị ca đánh tới Côn Minh, bắt được bọn đại tướng của Ngô tặc là Hạ Quốc Tướng, Mã Bảo đem chém. Ngô Thế Phan tự sát, thiên hạ thái bình”.

Vi Tiểu Bảo nói “Côn Minh có một quốc bảo, không biết ra sao?”, Tôn Tư Khắc nói “Quốc bảo nào? Thuộc hạ không nghe nói tới”. Vi Tiểu Bảo nói “Đây là quốc bảo sống, tức thiên hạ đệ nhất mỹ nhân Trần Viên Viên”. Tôn Tư Khắc cười nói “Té ra là Trần Viên Viên, nhưng không nghe nói bà ta hạ lạc ở đâu. Không biết là chết trong đám loạn quân hay chạy trốn rồi”. Vi Tiểu Bảo luôn miệng nói “Đáng tiếc, đáng tiếc!”, nghĩ thầm “A Kha là vợ mình, Trần Viên Viên là nhạc mẫu đại nhân hàng thật giá đúng của mình. Triệu nhị ca mà bắt được bà, biết là nhạc mẫu của mình, tự nhiên sẽ đưa tới đảo Thông Ngật, để mẹ con họ được sum họp. Mẹ con họ sum họp cũng không hề gì, mẹ vợ con rể mình sum họp mới là khác hẳn. Chuyện khác không nói, chỉ nói chuyện nghe bà đánh đàn tỳ bà, hát bài Viên Viên khúc, Phương Phương ca, quả thật không phải tầm thường. Mẹ vợ có ăn tất hay không ăn tất, thì chẳng qua là con rể thấy mẹ vợ, nước bọt nuốt vào bụng, chỉ thế mà thôi”.

Tiệc xong y vào nội đường, nói chuyện với bảy vị phu nhân. A Kha nghe nói mẹ mình không biết tung tích ra sao, tuy từ nhỏ nàng đã bị Cửu Nạn bắt đi, không ở cạnh mẹ, nhưng tình mẹ con cũng không khỏi thương tâm.

Vi Tiểu Bảo khuyên A Kha không cần lo lắng, nói bất kể mẹ nàng tới đâu thì Bách thắng đao vương Hồ Dật Chi nhất định cũng sẽ bảo vệ bên cạnh, nửa bước không rời, nói “A Kha, Hồ đại ca võ công vô cùng cao cường, cô đã chính mắt nhìn thấy rồi đấy, muốn bảo vệ một mình mẹ cô thì dễ như trở bàn tay”. A Kha nghĩ thấy không sai, mới bớt buồn rầu.

Vi Tiểu Bảo đột nhiên đập bàn một cái, kêu lên “Ái chà, không xong!”, A Kha kinh ngạc hỏi “Cái gì, ngươi nói là mẹ ta bị nguy hiểm à?”, Vi Tiểu Bảo nói “Hồ đại ca là anh em kết nghĩa với ta. Nếu y giữa đám binh hoang mã loạn ôm ôm ấp ấp, thân thân thiết thiết với mẹ cô, lại không phải là nhạc phụ của ta à? Vai vế này thật là một phen hồ đồ rồi”. A Kha xì một tiếng, trừng mắt nhìn y nói “Vị Hồ bá bá ấy không ai đứng đắn thành thật bằng, ngươi nói đàn ông trong thiên hạ đều như ngươi, thấy nữ nhân là ôm ôm ấp ấp, thân thân thiết thiết à?”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Nào nào nào, chúng ta lại đây ôm ôm ấp ấp, thân thân thiết thiết nào!”, nói xong giơ tay ôm chầm lấy nàng.

***

Vi Tiểu Bảo sau khi được thăng là Nhất đẳng Thông Ngật bá, nhà bếp, người hầu, nữ tỳ trên đảo lại tăng thêm vài mươi người. Vi Hổ Đầu đang trong tã, cũng có tước phong là Vân kỵ úy. Sinh hoạt trên đảo tự nhiên cũng ăn ngon mặc đẹp, vinh hoa phú quý, chỉ có điều quá nhàn rỗi buồn chán, Vi Tiểu Bảo trăm phương ngàn kế nghĩ cách sinh sự thị phi, giở ra đủ trò kỳ quái, nên biết không làm chuyện hoang đường thì làm sao khuây khỏa cho qua đời người có hạn? Chỉ tiếc là bảy vị phu nhân người nào cũng đứng đắn, ngày đêm cai quản rất chặt chẽ, ngay công chúa là người bậy bạ bừa bãi như thế cũng không chịu làm gió góp sóng với y, vị Nhất đẳng Thông Ngật bá này bị trói buộc tay chân, chỉ đành thở dài.

Nhớ tới những trận đánh lớn nhỏ chinh phạt Ngô Tam Quế mà Tôn Tư Khắc nói, có lúc vô cùng nguy hiểm, có lúc thống khoái lâm ly, mình thì lại bị gạt ra ngoài, không thể đại hiển thân thủ, quả thật vô cùng nuối tiếc, nếu mình ở giữa chiến trường thì nhất định không để Ngô Tam Quế chết đi như thế, mà sẽ nghĩ cách bắt sống y, nhốt vào xe tù, giải từ Hàng Châu Hồ Nam tới thẳng Bắc Kinh, ai muốn nhìn y một cái thì thu năm đồng, nhổ một bãi nước bọt vào y thì thu một lượng, trẻ con giảm một nửa, gái đẹp thì miễn phí. Bách tính thiên hạ căm hận thằng đại Hán gian này thấu xương, Vi Tiểu Bảo mình lại không có tiền hoa sai à?

Ngô Tam Quế đã dẹp yên, không còn được đánh trận nữa, nhưng trên đời ngoài đánh trận còn có rất nhiều chuyện vui, chỉ cần tới chỗ đông người, tự nhiên sẽ phát sinh nhiệt náo, nói tóm lại trước hết phải rời khỏi đảo Thông Ngật, nhưng bảy người vợ, hai đứa con trai, một đứa con gái không rời khỏi mình, đúng là mười khối đá lớn buộc vào cổ, nếu muốn tất cả cùng rón rén rời khỏi đảo Thông Ngật thì quả là trên cái khó lại chồng thêm cái khó, chẳng bằng vứt bỏ cả mười người, tự mình tìm cách bỏ trốn. Sau khi tiễn Tôn Tư Khắc về, hàng ngày y vẫn thường tính toán chuyện ấy. Có lúc ngồi trên tảng đá lớn buông câu, tưởng tượng đang ngồi trên lưng rùa giữa biển, rẽ gió phá sóng, ung dung thẳng tới Trung Nguyên, chẳng cũng vui sao?

Một hôm sắp tới Trung thu, khí trời vẫn còn nóng bức, Vi Tiểu Bảo câu một lúc, trong lòng mệt mỏi, dựa vào tảng đá mơ màng thiếp đi, đột nhiên nghe có tiếng nói “Bẩm Vi Tước gia, Hải Long vương có lời mời!”.

Vi Tiểu Bảo rất kinh ngạc, lúc ngưng thần nhìn ra, chỉ thấy dưới biển có một con rùa biển nổi lên, ngẩng cao đầu nói tiếng người “Đông Hải Long vương lão nhân gia người ở trong cung Thủy Tinh tịch mịch buồn chán, đặc sai tiểu tướng tới mời Vi Tước gia phó yến, sau khi ăn yến sẽ đánh bạc lớn. Hải Long vương đặt bạc bằng san hô, thủy tinh, ngân phiếu trên đất liền cũng dùng”. Vi Tiểu Bảo cả mừng, kêu lên “Hay quá, hay quá! Vị láng giềng tốt này khách khí như thế, tự nhiên là phải vâng lệnh bồi tiếp”. Con rùa lớn nói “Trong cung Thủy Tinh có một ban hát, diễn các vở Quần anh hội, Định Quân sơn, Chung Húc giá muội, Bạch Thủy than rất hay. Có tiên sinh kể chuyện chuyên kể các sách hay như Đại Minh Anh liệt truyện, Thủy hử truyện. Lại có vô số ca nữ, các tiểu điệu mới như Thán ngũ canh, Thập bát mô, Tứ quý tương tư không gì không biết. Bảy vị công chúa của Hải Long vương ai cũng dung mạo như hoa như nguyệt, từ lâu đã ngưỡng mộ Vi Tước gia phong lưu lanh lợi, đều tha thiết được gặp mặt một lần”.

Vi Tiểu Bảo chỉ nghe tới mức cảm thấy ngứa ngáy, luôn miệng nói “Tốt, tốt, tốt! Chúng ta đi ngay thôi”

Con rùa lớn nói “Xin mời Tước gia ngồi lên lưng tiểu nhân tới cung Thủy Tinh”.

Vi Tiểu Bảo tung người nhảy lên, ngồi trên lưng con rùa lớn. Con rùa lớn rẽ sóng ra, vững vàng đi tới cung Thủy Tinh.

Đông Hải Long vương đích thân ra ngoài cung nghênh tiếp, dắt tay y vào cung. Nam Hải Long vương đã ngồi chờ trong cung.

Trong lúc ăn tiệc, lại có khách khứa lục tục kéo tới, có hai con yêu tinh Trư Bát Giới và Ngưu Ma vương, bốn vị đại tướng Trương Phi, Lý Quỳ, Ngưu Cao, Trình Giảo Kim, bốn vị hoàng đế Trụ vương, Sở Bá vương, Tùy Dạng đế, vua Chính Đức nhà Minh. Bốn vị vua, bốn vị tướng, bốn vị thần ma một heo, một trâu, hai rồng, ai cũng là Dê đực hồ đồ nhất trên trời dưới đất đáy biển từ xưa đến nay.

Đến lúc thắng luôn cả đôi búa của Lý Quỳ, Lý Quỳ tình nết cờ bạc không hay, khuôn mặt đen bóng căng lên thoáng nét đỏ, quát lớn một tiếng “Quân khốn kiếp, làm người thì phải biết cái gì nên lấy chứ. Ngươi thắng được mẹ được bà người ta cũng không hề gì, nhưng hai thằng đầy tớ ăn cơm của ta mà cũng lấy đi, thì quá không có nghĩa khí”, rồi vươn tay nắm ngực Vi Tiểu Bảo, vung nắm tay to như cái vò giấm đánh tới, bình một tiếng, đánh trúng mang tai y, chỉ chấn động tới mức trong tai y ù lên ong ong.

Vi Tiểu Bảo la lớn một tiếng, hai tay giật lại, sợi giây câu tung lên, lưỡi câu móc vào giữa gáy y, giằng mạnh một cái, lưỡi câu móc vào thịt, toàn thân nhảy dựng lên.

Trong chớp mắt, Lý Quỳ, Trương Phi, Hải Long vương đều không thấy đâu, lập tức hiểu ra đó là một giấc mộng, nhưng lại nghe một tiếng bình bình vang lên trên biển.

Hồi 46: Ngàn dặm cột buồm ra ngoại vực – Chín trời mưa gió tới đầu thành

Khi ngẩng đầu lên nhìn ra biển, chỉ thấy khoảng mười chiếc thuyền lớn đang giương buồm thuận gió lướt mau vào đảo. Vi Tiểu Bảo thấy tình thế không hay, giật mạnh một cái, không giật được lưỡi câu ra, mà lại móc vào sau cổ đau nhói lên, lập tức sải chân chạy mau, mặc chiếc cần câu kéo xềnh xệch sau lưng, nghĩ thầm chắc là thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng đem quân tới trả nợ, trả nợ vốn là rất tốt nhưng người mắc nợ tìm tới cửa mà trước tiên lại bắn vài phát pháo, khí thế hung dữ, ắt không phải là điều hay.

Y còn chưa chạy tới trước nhà, Bành Tham tướng đã thở hổn hển chạy tới nói “Vi… Vi Tước gia… chuyện… chuyện lớn không hay, binh thuyền Đài Loan kéo tới”. Vi Tiểu Bảo hỏi “Sao ngươi biết là binh thuyền Đài Loan?”. Bành Tham tướng nói “Ty chức vừa… Vừa lấy kính thiên lý ra nhìn, ở đuôi… đuôi thuyền… không phải, ở đầu thuyền sơn hình nhật nguyệt, đều là huy hiệu của nghịch… nghịch tặc họ Trịnh ở Đài Loan, mỗi chiếc cũng phải chở tới năm trăm quân, hai chiếc hai ngàn, ba chiếc cũng phải có tới sáu bảy ngàn…”.

Vi Tiểu Bảo đón lấy chiếc kính thiên lý trong tay y nhìn ra, đếm qua thấy tất cả có mười ba chiếc thuyền lớn, lại nhìn kỹ đầu thuyền, quả nhiên rõ ràng sơn huy hiệu mặt trời và mặt trăng, bèn quát “Mau đem quân bố phòng, giữ trên bờ biển, lúc địch nhân cưỡi thuyền nhỏ lên bờ thì phát lên”. Bành Tham tướng luôn miệng vâng dạ, sải chân chạy mau đi.

Bọn Tô Thuyên nghe thấy đều đổ ra, chỉ nghe tiếng pháo bình bình bình vang tới. Công chúa nói “A Kha muội tử, lúc ngươi đi Đài Loan có mang Hổ Đầu theo không?”. A Kha tức giận giẫm chân nói “Ngươi… ngươi đùa gì thế?”.

Vi Tiểu Bảo càng thêm bực dọc, chửi “Để công chúa thối tha mang Song Song của thị đi Đài Loan…”

Tô Thuyên chợt nói “Này, tại sao đạn pháo rơi xuống biển mà không thấy có cột nước?”. Chợt nghe bình bình hai tiếng, miệng pháo khói tỏa mù mịt, nhưng không có đạn pháo bắn lên bờ, cũng không có đạn pháo rơi xuống biển. Vi Tiểu Bảo thoáng sửng sốt, hô hô cười rộ, nói “Đây là pháo chào, không phải là tới làm khó chúng ta”. Công chúa nói “Tiên lễ hậu binh thôi!”. Vi Tiểu Bảo tức giận nói “Con a đầu Song Song đâu? Mau qua đây, lão tử muốn đánh vào mông nó”. Công chúa nói “Tại sao bỗng không lại đánh con gái?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ai bảo mẹ nó đáng ghét!”.

Thuyền dần dần tới gần, nhìn qua kính thiên lý thấy rõ ràng, trên thuyền kéo cờ rồng vàng Đại Thanh chứ không phải cờ nhật nguyệt Đài Loan. Vi Tiểu Bảo vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, đưa kính thiên lý cho Tô Thuyên, nói “Cô nhìn xem, thật kỳ lạ!”.

Tô Thuyên nhìn một lúc, mỉm cười nói “Đây là thủy sư của Đại Thanh, không phải của Đài Loan”.

Vi Tiểu Bảo đón ống kính nhìn tiếp, cười nói “Đúng rồi, quả thật là thủy sư của Đại Thanh. Ái chà, làm gì thế? Con mẹ nó đau quá!”. Quay đầu lại nhìn, té ra Vi Hổ Đầu mà A Kha bế đang nắm chặt cần câu ra sức kéo, lưỡi câu còn móc vào cổ Vi Tiểu Bảo, tự nhiên khiến y đau nhói lên. A Kha nhịn cười, vội nhẹ nhàng gỡ lưỡi câu ra cho y, cười nói “Xin lỗi, đừng giận”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Thằng con ngoan, mới bấy nhiêu tuổi đã có thủ đoạn của Khương Thái công, giỏi quá!”.

Công chúa hừ một tiếng, mắng “Đồ thiên vị!”.

Chỉ thấy Bành Tham tướng sải chân chạy tới kêu lên “Vi Tước gia, trên thuyền treo cờ hiệu Đại Thanh, e là có chuyện gian trá”. Vi Tiểu Bảo nói “Không sai! Chỉ cho một thuyền nhỏ chở người lên đảo, hỏi cho rõ ràng rồi sẽ nói chuyện”. Bành Tham tướng vâng lệnh chạy đi.

Công chúa nói “Nhất định là thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng giả treo cờ hiệu Đại Thanh, đây rõ ràng là thuyền Đài Loan mà”. Vi Tiểu Bảo nói “Tốt lắm, tốt lắm. Công chúa, gần đây dung mạo cô xinh đẹp lắm”, công chúa sửng sốt, nghe chồng khen mình, cũng không kìm được vui vẻ, cười khẽ nói “Thì cũng như thế, có gì đẹp hơn đâu?”. Vi Tiểu Bảo nói “Cô môi hồng mặt trắng, lông mày cong vút, giống như Hằng Nga trong Nguyệt điện xuống trần, Trịnh Khắc Sảng mà nhìn thấy nhất định sẽ rất vui vẻ”. Công chúa phì một tiếng.

Không bao lâu thuyền tới gần, buông neo đậu lại, sáu bảy tên quân thủy chèo một chiếc thuyền nhỏ vào bờ. Bành Tham tướng chỉ huy quân sĩ, giương cung lắp tên chĩa vào chiếc thuyền nhỏ. Chiếc thuyền nhỏ tới gần, người trong thuyền đưa loa lên miệng gọi “Thánh chỉ tới! Thủy sư Đề đốc Thi Quân môn truyền chỉ cho Vi Tước gia”.

Vi Tiểu Bảo cả mừng, chửi “Con mẹ nó, thằng đầy tớ Thi Lang này giở trò quái gì mà lại ngồi chiến thuyền Đài Loan tới truyền chỉ”. Tô Thuyên nói “Chắc là y trên biển gặp thủy sư Đài Loan, đánh nhau thắng được nên đem cả chiến thuyền Đài Loan bắt được tới đây”. Vi Tiểu Bảo nói “Nhất định là thế. Thuyên tỷ tỷ đoán việc như thần”.

Công chúa vẫn không phục, lẩm bẩm “Ta đoán là Thi Lang đầu hàng Đài Loan, Trịnh Khắc Sảng phái y tới giả truyền thánh chỉ”, Vi Tiểu Bảo trong lòng vui mừng, cũng không trách mắng nữa, véo mông nàng một cái, vỗ một cái, vội vã đi xuống bãi biển tiếp chỉ.

Trong chiếc thuyền nhỏ tới quả nhiên có Thi Lang. Y đứng trên bãi cát, cao giọng tuyên chỉ. Nguyên là Khang Hy sai Thi Lang tấn công Đài Loan, trong trận Bành Hồ, thủy sư quân Trịnh đại bại, Thi Lang thừa thắng tiến vào Đài Loan. Diên Bình quận vương Trịnh Khắc Sảng của nhà Minh không đánh mà hàng, từ đó Đài Loan thuộc về bản đồ Đại Thanh. Khang Hy luận công ban thưởng, vì Thi Lang năm xưa nhàn rỗi ở Bắc Kinh không được dùng, nhờ Vi Tiểu Bảo tiến cử mà lập được đại công, nên đặc biệt thăng Vi Tiểu Bảo làm Nhị đẳng Thông Ngật hầu, gia hàm Thái tử Thái bảo, con trưởng là Vi Hổ Đầu được ấm thụ hàm Khinh xa Đô úy.

Vi Tiểu Bảo tạ ơn xong, thẫn thờ như bị mất vật gì, không nghĩ rằng Đài Loan đã bị Thi Lang bình định.

Y và Trịnh Khắc Sảng vừa gặp mặt là thành kẻ thù, sư phụ Trần Cận Nam lại bị Trịnh Khắc Sảng hại chết, lại càng căm hận thấu xương, nhưng Đài Loan vừa bình định xong, thiên hạ của nhà Đại Minh từ đó trở đi không còn tấc đất nào, cũng không khỏi có chỗ bâng khuâng. Y tuy còn nhỏ tuổi, trước nay không đọc sách, chuyện phân biệt Mãn Hán, mối thù quốc tộc gì gì đó trước nay không hề để ý, chỉ là theo Thiên Địa hội đã lâu, ngày thường nghe các huynh đệ trong hội nói rất nhiều, tự nhiên cũng cảm thấy người Mãn Châu chiếm cứ giang sơn của người Hán chúng ta là mười phần không đúng. Lúc ấy nghe nói Thi Lang đã giải Trịnh Khắc Sảng về Bắc Kinh, lại hoàn toàn không thấy vui mừng. Lại nhớ tới sư phụ suốt đời hết lòng kiệt sức, chỉ mong khôi phục thiên hạ của Đại Minh, cho dù không thành công cũng phải giữ gìn một mảnh đất của Đại Minh ngoài biển, nào ngờ sư phụ bị hại chưa bao lâu, Trịnh Khắc Sảng đã lập tức đầu hàng, sư phụ dưới suối vàng mà biết được, nhất định sẽ khóc lớn.

Vi Tiểu Bảo nhớ tới hôm trước sư phụ bị hại, cũng là vì sau khi ra sức đánh nhau với Thi Lang vô cùng mỏi mệt mới bị Trịnh Khắc Sảng ám toán sau lưng, thấy Thi Lang dáng vẻ nghênh ngang tự đắc, bất giác khí tức đầy ruột, nói “Thi đại nhân lập được công lớn này, chắc nhất định đã được phong làm quan lớn”. Thi Lang mỉm cười nói “Đội ơn hoàng thượng, phong ty chức làm Tam đẳng Tịnh Hải hầu”. Vi Tiểu Bảo nói “Chúc mừng, chúc mừng”. Nghĩ thầm “Mình vốn là Nhất đẳng Thông Ngật bá, nếu thăng một cấp là Tam đẳng Thông Ngật hầu, tiểu hoàng đế thăng luôn hai cấp, là muốn mình vẫn hơn Thi Lang, để hai người không phải đều là Tam đẳng hầu, khỏi phải khó xử”. Nhưng nghĩ tới Thi Lang đại chiến bình định Đài Loan, tình cảnh nhiệt náo tới mức nào, mà mình thì ngồi buồn chán trên cái đảo hoang Thông Ngật này, vừa ghen tỵ vừa phiền muộn, bất giác càng ngứa miệng với y.

Thi Lang thỉnh an, rồi cung cung kính kính nói “Hoàng thượng triệu kiến ty chức, ôn tồn phủ dụ, khen ngợi một hồi, sau cùng nói: Thi Lang, ngươi lần này ra quân lập công, có biết là ai tài bồi đề bạt cho ngươi không? Trước đây ngươi ở Bắc Kinh, không ai coi ngươi ra gì, là ai tiến cử ngươi thế? Ty chức tâu: Bẩm hoàng thượng, đây là Vi Tước gia bảo tấu đề bạt, hoàng thượng ban ơn. Hoàng thượng nói: Ngươi không quên gốc, như thế là được. Ngươi lập tức tới đảo Thông Ngật tuyên chỉ cho Vi Tước gia, ban ơn thăng tước, thưởng y sáng suốt biết người, lập công với triều đình. Cho nên ty chức vội vàng tới đây”.

Vi Tiểu Bảo thở dài một tiếng, nghĩ thầm “Người mình đề bạt thì lập công, chỉ có mình thì bị giam cầm trên cái đảo hoang này không nhích chân được một bước. Tiểu hoàng đế không ngừng thăng quan tước cho mình, nhưng cho dù mình được phong tới Thông Ngật vương, thì cũng có gì quý báu?”. Liền nói “Thi đại nhân, ngươi cưỡi chiến thuyền Đài Loan tới làm ta phát hoảng, cứ tưởng thủy sư Đài Loan tới đánh, nào ngờ là ngươi diễu võ dương oai”.

Thi Lang vội vàng thỉnh an, nói “Không dám, không dám. Ty chức phụng thánh chỉ, vội vàng tới gặp Tước gia, chiến thuyền Đài Loan chế tạo rất tốt, đi biển nhanh hơn nhiều, nên mới đi chiến thuyền Đài Loan tới đây”.

Vi Tiểu Bảo nói “Té ra chiến thuyền Đài Loan đi rất nhanh, nên trên đầu thuyền sơn huy hiệu mặt trời mặt trăng. Lúc nãy trong lòng ta lại đoán bậy, chỉ cho rằng Thi đại nhân muốn tự lập làm vương ở Đài Loan, nên nói thật cũng rất lo sợ”.

Thi Lang giật nảy mình, vội nói “Ty chức thật là hồ đồ, đại nhân chỉ điểm rất đúng. Ty chức làm việc sơ suất, không xóa huy hiệu trên chiến thuyền Đài Loan đi”. Thật ra đây không phải là y sơ suất, mà là y bình định được Đài Loan, muôn phần đắc ý, cưỡi chiến thuyền bắt được của Đài Loan bắc tới Thiên Tân, nam tới đảo Thông Ngật, cố ý không xóa huy hiệu Đài Loan trên đầu thuyền, để mọi người nhìn thấy là chỉ trỏ, kể lại lai lịch của chiến thuyền này, có ý khoe khoang chiến công. Không ngờ Vi Tiểu Bảo lại nói là ngờ vực y có ý tự lập làm vương ở Đài Loan, đây là chuyện tối kỵ , bất giác lưng toát mồ hôi lạnh, nghĩ thầm “Tiểu hoàng đế đối với gã thiếu niên này thủy chung mười phần sủng ái, mình thì huyết chiến mới bình định được Đài Loan, y thì nhàn nhã ngồi chơi trên đảo mà công lao vẫn lớn hơn mình, y được phong là Nhị đẳng hầu, mình thì chỉ được phong là Tam đẳng hầu. Nếu y trở về Bắc Kinh, thừa hơi nói mấy câu trước mặt hoàng thượng, thì thật là mình hỏng bét”.

Thi Lang trong lòng hoảng sợ, lập tức thu hết dáng vẻ oai vệ lúc mới bước chân lên đảo, sai bọn thuộc quan tùy tùng bước lên bái kiến. Trong đó có một người Vi Tiểu Bảo vốn rất quen, là Lâm Hưng Châu hảo thủ Địa Đường môn năm xưa theo Trần Cận Nam tới Liễu Châu. Vi Tiểu Bảo trong lòng thoáng sửng sốt “Y là tướng lãnh của Đài Loan, tại sao lại là thủ hạ của Thi Lang?”, nghe y tự báo chức hàm là Thủy sư Đô ty.

Lâm Hưng Châu từ lúc lên bờ nhìn thấy Vi Tiểu Bảo rồi, đã sớm kinh nghi bất định “Y là đệ tử của Trần quân sư, tại sao lại làm đại quan của triều đình, ngay cả Thi Đề đốc gặp y cũng cung kính như thế?”.

Thi Lang chỉ Lâm Hưng Châu và một người tên Hồng Triều làm Thủy sư Thủ bị, nói “Lâm Đô ty và Hồng Thủ bị vốn trong quân đội Đài Loan theo Trịnh Khắc Sảng Tước gia và Lưu Quốc Hiên đại nhân về hàng triều đình. Hai người này am hiểu chuyện trên biển, vì thế lần này ty chức đưa họ cùng đi, để hai người bọn họ lo liệu chiến thuyền Đài Loan”.

Vi Tiểu Bảo ồ một tiếng, nói “Té ra là thế”. Thấy Lâm Hưng Châu và Hồng Triều đều cúi đầu, trên mặt có vẻ xấu hổ.

Đài Loan từ sau khi Trịnh Thành Công khai phủ, thông thương với Nhật Bản, Lữ Tống, Tiêm La, An Nam, vô cùng giàu có. Thi Lang bình định được Đài Loan, lấy được rất nhiều trân châu dị vật của nước ngoài, mình không lấy một món, đều nộp hết lên cho triều đình. Khang Hy sai y mang một ít tới ban thưởng cho Vi Tiểu Bảo. Ngoài ra Thi Lang cũng có lễ vật của mình, nhưng toàn là thổ sản của Đài Loan như giỏ tre chiếu tre, đều là những vật thô lậu. Vi Tiểu Bảo vừa nhìn thấy, lại càng bực tức, nghĩ thầm “Trương đại ca, Triệu nhị ca, Vương tam ca, Tôn tứ ca đánh được Ngô Tam Quế, lễ vật tặng ta hậu hĩ thế nào, còn ngươi thì đem những thứ rách nát của bọn ăn mày cho ta, ta lại thèm để vào mắt à?”.

***

Chiều hôm ấy Vi Tiểu Bảo mở tiệc, mời Thi Lang ngồi ghế đầu, ngoài ra có bốn viên võ quan chức cao trong thủy sư cùng Lâm Hưng Châu và Hồng Triều. Rượu được ba tuần, Vi Tiểu Bảo hỏi “Lâm Đô ty, Diên Bình quận vương ở Đài Loan vốn là Trịnh Kinh Trịnh vương gia, tại sao lại biến thành thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng? Nghe nói y là con thứ hai của Trịnh vương gia, thì đâu tới lượt y làm vương gia?”.

Lâm Hưng Châu nói “Vâng. Bẩm Tước gia, ngày hai mươi tám tháng giêng năm nay Trịnh vương gia tạ thế, di mệnh đại công tử Khắc Bân nối ngôi. Đại công tử anh minh cương nghị, trước nay quân dân Đài Loan vốn vẫn kính phục. Nhưng Thái phu nhân Đổng quốc thái lại không thích y, sai Phùng Tích Phạm hành thích, giết chết y, lập nhị công tử Khắc Sảng nối ngôi. Trần phu nhân của đại công tử tới gặp Đổng quốc thái nói đại công tử vô tội. Đổng quốc thái cả giận, sai người đuổi ra, Trần phu nhân ôm xác đại công tử khóc lớn một hồi rồi treo cổ tự tử. Vị Trần phu nhân này chính là đại tiểu thư của Trần… Trần quân sư. Chuyện này thì người Đài Loan trên dưới ai cũng rất không phục”.

Vi Tiểu Bảo nghe nói con gái của sư phụ bị người ta bức tử, nhớ tới sư phụ, trong lòng chua xót, đập bàn một cái chửi “Con mẹ nó, thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng tầm thường hồ đồ, làm sao làm được vương gia?”.

Lâm Hưng Châu nói “Vâng. Nhị công tử lên ngôi rồi, phong nhạc phụ của y là Phùng Tích Phạm làm Tả Đề đốc, tất cả chính sự đều giao cho y xử lý. Người này xử sự không công bằng, luôn theo ý riêng. Có người to gan nói mấy câu công đạo đều bị y giết chết, vì thế văn võ bá quan đều dám giận không dám nói. Hồn ma của đại công tử và Trần phu nhân lại thường hiển linh, đến tháng tư, Đổng quốc thái bị hồn ma dọa nạt mà chết”.

Vi Tiểu Bảo nói “Khoái thật, khoái thật. Mụ Đổng quốc thái ấy xuống tới suối vàng, Quốc tính gia cũng không thể tha cho thị”. Lâm Hưng Châu nói “Ai nói là không phải. Chuyện Đổng quốc thái bị hồn ma dọa chết đồn ra, mọi người đều hả dạ, cả Đài Loan từ bắc tới nam, mọi người đốt pháo suốt ba ngày, nói là để xua đuổi tà ma, nhưng thật ra là ăn mừng mụ già ấy chết!”, Vi Tiểu Bảo luôn miệng nói “Thú vị thật, thú vị thật!”.

Thi Lang nói “Chuyện hồn ma cũng chưa chắc có thật, chắc sau khi Đổng quốc thái giết chết cháu nội trưởng, bức tử cháu dâu trưởng, trong lòng bất an, người già lòng sợ sinh ma, nên ngày đêm thấy ma”. Vi Tiểu Bảo nghiêm trang nói “Ma quỷ là chuyện có thật, nhất là những người chết oan, sau khi thành ma rồi, nhất định sẽ đòi mạng trả thù. Thi đại nhân, lần này ngươi bình định Đài Loan giết người rất nhiều, trong những chiến thuyền Đài Loan này nhất định có rất nhiều ma, Thi đại nhân nên cẩn thận là hay”, Thi Lang hơi biến sắc, nhưng lập tức cười nói “Ra trận đánh nhau, không thể không giết người. Nếu quân tướng địch nhân chết trận đều biến thành ma quỷ đòi mạng, thì tất cả các võ tướng đều không ai được chết yên lành”.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Không phải thế. Thi đại nhân vốn là đại tướng bộ hạ của Quốc tính gia ở Đài Loan, lại trở lại giết chết tướng sĩ Đài Loan, những hồn ma đã chết đương nhiên trong lòng không phục. Chuyện này khác với các tướng quân khác chứ”.

Thi Lang im lặng, trong lòng rất bực tức. Y là người Tấn Giang Phúc Kiến, bộ thuộc của Trịnh Thành Công mười người thì có tám chín là người Phúc Kiến, nhất là người vùng Mân Nam. Y bình định được Đài Loan rồi, đã nghe không ít lời đồn đại, chửi y là Hán gian, Mãn gian, lại có người làm văn chương nặc danh, làm thơ chửi mắng châm chọc y. Y vốn trong lòng cũng hổ thẹn, chỉ là dám giữa mặt châm chọc thế này thì chỉ có một mình Vi Tiểu Bảo. Y với Vi Tiểu Bảo thì không biết làm sao, lập tức trút giận qua Lâm Hưng Châu, trừng mắt nhìn y một cái, nghĩ thầm “Rời khỏi đảo này, lão tử sẽ cho ngươi biết tay”.

Vi Tiểu Bảo nói “Thi đại nhân, ngươi thật may mắn, nếu Trần quân sư chưa bị hại, giúp đỡ Trịnh Khắc Bân ở Đài Loan, thì bọn Đổng quốc thái, Trịnh Khắc Sảng sẽ không cướp ngôi được. Trần quân sư thống suất quân dân Đài Loan cố thủ, trên dưới một lòng, chưa chắn ngươi đã thành công được”.

Thi Lang im lặng, nghĩ tài năng của mình quả thật còn thua xa Trần Cận Nam, nếu người này không chết, cục diện tự nhiên sẽ khác.

Hồng Triều đột nhiên nói chen vào “Vi Tước gia nói rất đúng. Tướng sĩ bách tính Đài Loan cũng đều nói thế. Mọi người oán hận Trịnh Khắc Sảng giết hại trung thần, tự phá bức trường thành, đúng là con cháu bất tiếu của Quốc tính gia”, Thi Lang tức giận nói “Hồng Thủ bị, người đã hàng nhà Đại Thanh, tại sao còn nói những lời đại nghịch bất đạo như thế?”. Hồng Triều vội đứng lên, nói “Ty chức hồ đồ, xin đại nhân thứ lỗi”.

Vi Tiểu Bảo nói “Hồng lão huynh, ngươi ăn nói thành thật, cho dù hoàng thượng nghe được cũng không trách tội. Ngồi xuống uống rượu đi”, Hồng Triều nói “Vâng”. Rồi run run ngồi xuống, nhấc chén rượu lên, hai tay không ngừng run lên, rượu sánh ra ngoài mất quá nửa.

Vi Tiểu Bảo nói “Trần quân sư bị Trịnh Khắc Sảng hại chết, người Đài Loan đều biết, phải không?”. Hồng Triều nói “Vâng. Trịnh Khắc Sảng về tới Đài Loan y… y nói Trần quân sư… bị… bị…”, rồi nhìn Thi Lang một cái, không dám nói tiếp. Vi Tiểu Bảo nói “Chỉ cần ngươi nói sự thật, thì không ai trách ngươi”. Hồng Triều nói “Vâng, vâng. Trịnh Khắc Sảng và Phùng Tích Phạm hai người mang mấy tên vệ sĩ, ngồi thuyền nhỏ trôi dạt trên biển, gặp thuyền đánh cá, được họ cứu về Đài Loan. Trịnh Khắc Sảng nói Trần quân sư bị Thi tướng quân giết chết. Trịnh vương gia được tin, đau xót khóc lóc suốt mấy hôm. Về sau Trịnh Khắc Sảng soán ngôi rồi mới nói ra với mọi người, rằng Trần quân sư là do y giết chết, còn khoe khoang võ công của mình cao cường. Trong bộ hạ của Trần quân sư có rất nhiều người không phục, tới chất vấn y là Trần quân sư phạm tội gì, đều bị Phùng Tích Phạm sai người bắt giết”.

Vi Tiểu Bảo dằn mạnh chén rượu trong tay xuống bàn, chửi “Con bà nó chứ!”, đột nhiên hô hô cười rộ, nói “Hàng ngày chúng ta cứ chửi con bà người ta, bà người ta quả thật rất oan uổng, chỉ có bà Trịnh Khắc Sảng thì đúng là trời đất sinh ra vô cùng hiếm có, quả thật không có người thứ hai”.

Câu này Thi Lang vừa nghe thấy, lại cảm thấy mười phần khoan khoái. Sở dĩ y đắc tội với Trịnh Thành Công, cả nhà bị giết, đều là vì Đổng quốc thái gây ra, bèn nói “Vi Tước gia nói rất đúng, chúng ta đều chửi con bà nó. Quốc tính gia anh hùng hào kiệt, chuyện gì cũng tốt, chỉ là lấy nhầm người vợ này”.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Người ngoài đều chửi con bà nó với Trịnh Khắc Sảng, nhưng trong thiên hạ chỉ có một mình Thi tướng quân là không chửi được. Công danh phú quý của Thi tướng quân đều là từ con mụ ấy mà ra đấy. Tuy cha mẹ vợ con ngươi đều bị thị giết, nhưng lại đổi được chức Thủy sư Đề đốc, tước Tam đẳng Tịnh Hải hầu thì chuyến làm ăn này kể ra cũng được”.

Thi Lang lập tức mặt mũi đỏ bừng, trong lòng giận dữ thầm chửi “Lão tử chửi con bà Vi Tiểu Bảo ngươi”, bèn cố nén giận, nhấc chén rượu lên uống một hớp lớn, nhưng hơi thở không thông, hớp rượu vừa xuống cổ, lập tức ho sặc lên một hồi.

Vi Tiểu Bảo nghĩ “Xem vẻ mặt ngươi thì trong lòng tự nhiên là đang chửi con bà ta, nhưng ngay cha ta là ai còn không rõ, thì bà nội ta là ai lại càng không rõ, ngươi muốn chửi con bà ta nhất định không chửi nhầm không xong. Trong lòng ngươi có quá nửa là muốn làm cha ta, vậy thì bà nội ta là mẹ ngươi, ngươi chửi con bà ta há không phải là chửi mẹ ngươi, một trường hồ đồ sao?”, rồi cười hề hề nhìn y.

Một viên Thủy sư Phó tướng họ Lộ trong tiệc sợ hai người bọn họ cãi nhau, bèn nói “Vi Tước gia, lần này Thi Quân môn bình định Đài Loan, toàn là dựa vào công lao liều mình tử chiến. Thi Quân môn vâng thánh chỉ, ngày bốn tháng sáu suất lãnh hơn sáu trăm chiến thuyền, hơn sáu vạn quân tấn công Đài Loan, trên biển gặp gió nghịch, đi mười một ngày mới tới Bành Hồ, ngày mười sáu đại chiến với thủy quân Đài Loan do Lưu Quốc Hiên thống lãnh, trận ấy quả thật đánh nhau mờ trời tối đất, mặt trăng mặt trời đều không còn ánh sáng, cả Thi Quân môn cũng…”.

Vi Tiểu Bảo thấy Lâm Hưng Châu và Hồng Triều đều cúi đầu, trên mặt có vẻ tức giận, đoán hai người này cũng có mặt trong trận Bành Hồ, nghĩ thầm trận này đương nhiên là Thi Lang thắng, không muốn Lộ Phó tướng nói chuyện đắc ý của y nữa, bèn hỏi “Thi tướng quân, năm xưa Quốc tính gia đánh lấy Đài Loan, cũng là bắt đầu từ Bành Hồ tấn công vào phải không?”. Thi Lang nói “Đúng thế”. Vi Tiểu Bảo nội “Lúc ấy ngươi là bộ hạ của Quốc tính gia, không biết đương thời đánh nhau ở Bành Hồ thế nào?”, Thi Lang nói “Bọn quỷ Hồng Mao không sai quân giữ Bành Hồ”.

Vi Tiểu Bảo hỏi Lâm Hưng Châu “Năm xưa Quốc tính gia ra biển đông chinh, nghe nói Lâm đại ca suất lĩnh quân khiên mây chém chân bọn giặc, không biết là chém thế nào?”. Lâm Hưng Châu nghĩ thầm “Chuyện quân khiên mây chém chân bọn giặc, mình đã kể cho y nghe rồi. Bây giờ y lại hỏi tới, tự nhiên là không muốn nghe trang sử xấu xa Thi Lang bình định Đài Loan, muốn mình nói sự tích anh hùng của Quốc tính gia và Trần quân sư. Chuyện của mình thì không nên nói nhiều, Thi Lang trong lòng căm hận, nhất định sẽ đối phó, chẳng bằng cứ tâng bốc y là hay”. Liền nói “Thi Quân môn hai lần tấn công Đài Loan, công lao quả thật rất lớn. Năm xưa Quốc tính gia tập hợp chư tướng bàn việc vượt biển đông chinh, rất nhiều tướng lĩnh đều nói Đài Loan hiểm trở khó đánh, sóng gió trên biển lại lớn, hỏa pháo của bọn quỷ Hồng Mao rất lợi hại, chuyện này quả thật rất nguy hiểm. Nhưng Trần quân sư và Thi tướng quân cực lực tán thành, rốt lại lập được công lớn”.

Thi Lang nghe y nói thế, trên mặt có vẻ tự đắc.

Lâm Hưng Châu lại nói “Đó là tháng hai năm Vĩnh Lịch thứ mười lăm…”

Thi Lang nói “Lâm Đô ty, niên hiệu nhà Tiền Minh không thể nói tới nữa, đó là năm Thuận Trị thứ mười tám nhà Đại Thanh”.

Lâm Hưng Châu nói “Vâng, vâng. Tháng hai năm ấy, Quốc tính gia dời đại bản doanh tới thành Kim Môn. Ngày mùng một tháng ba toàn quân làm lễ thệ sư tế biển. Ngày mùng mười, Quốc tính gia và Trần quân sư thống lãnh thân quân gồm chiến thuyền trong Tả Vũ vệ, Tả Hữu Hổ vệ, Kiêu kỵ trấn, Tả Tiên phong, Trung xung, Hậu vệ trấn, Tuyên Nghị Tiền Hậu trấn, Viện Tiễu Hậu trấn các lộ, tập hợp ở vũng Liệu La đợi gió. Lúc ấy lòng quân hoảng hốt, rất nhiều người sợ ra biển, Quốc tính gia và Trần quân sư, Thi tướng quân chia nhau tới các trấn khích lệ quân tâm. Đến trưa ngày hai mươi ba, trời mới yên tĩnh, sóng gió vừa yên, lúc ấy đại quân lên đường, trưa ngày hai mươi bốn thì tới Bành Hồ. Nhưng sau khi tới Bành Hồ lại có gió lớn, trên biển sóng nổi ầm ầm, mấy ngày không thể đi được. Các đảo ở Bành Hồ không có lương thực, trong quân thiếu lương, mọi người chỉ đành ăn khoai lang qua ngày, quân tâm lại náo động. Đến ngày ba mươi, quả thật không chờ được nữa, Quốc tính gia ra lệnh xuất phát, bất kể gió to sóng lớn cũng cứ đông chinh. Sau canh một đêm ấy trên súy hạm của Quốc tính gia kéo cờ súy lên, nổ ba phát pháo, chiêng trống cùng khua, chiến thuyền giương buồm tiến về phía đông. Lúc ấy mây đen đầy trời, sóng lớn trên biển như những hòn núi nhỏ xô tới trước thuyền, mưa to gió lớn, người nào cũng ướt đẫm, Quốc tính gia đứng ở đầu thuyền, tay cầm trường kiếm, quát lớn: Tận trung báo quốc, không sợ sóng gió! Mấy vạn tướng sĩ đồng thanh quát lớn: Tận trung báo quốc, không sợ sóng gió! Hô lớn mấy lần, át cả tiếng sóng gió”.

Vi Tiểu Bảo nhìn Thi Lang nói “Lúc ấy chắc Thi tướng quân cũng hô lớn chứ?”. Thi Lang nói “Lần ấy ty chức phụng mệnh trấn thủ Hạ Môn, không đi Đài Loan”, Vi Tiểu Bảo nói “Té ra là thế, đáng tiếc, đáng tiếc!”.

Lộ Phó tướng nói “Trịnh vương gia tới Bành Hồ chẳng qua chỉ gặp sóng to gió lớn, nhưng Thi Quân môn huyết chiến ở Bành Hồ mới thật là kinh tâm động phách. Thủy sư do Lưu Quốc Hiên thống suất bố phòng ở vũng Ngưu Tâm, đảo Kê Lung trong Bành Hồ, trên bờ đắp lũy dài hai mươi dặm, mỗi lũy có một khẩu đại pháo. Lúc thủy sư Đại Thanh kéo tới, đại pháo trên bờ cùng bắn, lại có tên lửa, ống phun lửa, vô cùng lợi hại…”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Lộ Phó tướng, ta thấy ngươi cũng gan dạ không kém ta bao nhiêu”. Lộ Phó tướng nói “Không dám, ty chức làm sao dám sánh với Tước gia?”. Vi Tiểu Bảo hỏi “Ngươi không bằng ta à?”, Lộ Phó tướng nói “Tự nhiên là không bằng”. Vi Tiểu Bảo nói “Chuyện này mới lạ đây, ta lại cho rằng ngươi gan nhỏ như chuột, thật sai quá xa, té ra ngươi còn vô dụng hơn cả ta nữa, hô hô, kỳ lạ thật, kỳ lạ thật!”. Lộ Phó tướng đỏ bừng mặt, không dám lên tiếng.

Vi Tiểu Bảo hỏi Lâm Hưng Châu “Quốc tính gia thống lĩnh đại quân ra biển rồi, về sau thế nào?”.

Lâm Hưng Châu nói “Chiến thuyền đi hai canh trong sóng to gió lớn, đến canh ba thì đột nhiên sóng yên gió lặng, mây đen tan hết, lại qua một lúc, lại chuyển qua gió thuận, tướng sĩ reo hò như sấm, đều nói trời cao phù hộ, trận này ắt thắng. Vừa sáng ra, chiến thuyền tới ngoài cửa Lộc Nhĩ, dùng sào tre đo mức nước, không ngờ cát cao nước cạn, không sao tiến được. Quốc tính gia vô cùng lo lắng, bèn bày hương án cầu khẩn với trời, qua không bao lâu đột nhiên thủy triều dâng cao, chiến thuyền nhất tề vào cửa Lộc Nhĩ. Quân Hồng Mao trên bờ nổ pháo bắn ra. Quân Hồng Mao đắp hai tòa thành ở đó, một gọi là thành Nhiệt Lan Già, một gọi là Phổ La Dân Già…”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Tên đất của người ngoại quốc cũng cổ quái, cái gì mà Nhiệt Lai Già, Lãnh Lai Già, Nam vô Ba La Mật Đa Quan Thế Âm Bồ Tát già.

Lâm Hưng Châu mỉm cười nói “Lúc ấy Quốc tính gia dùng kính thiên lý nhìn ra, thấy chủ lực của quân Hồng Mao có hai chiến hạm, hai chiếc tuần dương hạm, còn có vài trăm chiếc thuyền nhỏ các đạo, lúc ấy bèn ra lệnh, sai Trấn đốc Trần Dịch suất lãnh chiến thuyền trấn Tuyên Nghị Tiền lên bờ ở cửa Lộc Nhĩ, giữ chặt bãi Bắc Sán đề phòng hạm đội của quân Hồng Mao tới cứu viện, sai Hoàng Chiêu mang năm trăm quân, hai mươi khẩu pháo liên hoàn chia làm ba đội tới bày trận ở bãi Côn Thân đóng ở phía nam quân địch, phái ty chức suất lãnh năm trăm quân khiên mây đi vòng qua thành Quỷ Tử đánh giết tới bên trái bãi Côn Thân, lại phái Tiêu Củng Chấn mang hai mươi khoái thuyền, vừa thấy hạm đội của quân Hồng Mao tới đánh Côn Thân thì giả như lên bờ đánh thành, lớn tiếng hò hét để cản trở. Các tướng được lệnh, chia nhau xuất phát, đại pháo trên thuyền cũng bắn trả. Bên kia Trần quân sư suất lãnh thủy sư bao vây đánh rát hai đại hạm của quân Hồng Mao, nổ pháo bắn rát, tiếng hò hét ầm ầm, trên mặt biển khói lửa mù mịt, đánh nhau hơn một giờ, chợt ầm ầm mấy tiếng vang rền, một đại hạm của quân Hồng Mao bị quân ta bắn chìm, về sau mới biết đó là chiếc Cụ Khắc Đức Á, là chiến hạm tinh nhuệ trong thủy sư Hồng Mao. Còn chiếc Mã Lợi Á kia cũng bị hỏng nặng, chạy ra biển lớn phía đông không biết đi đâu. Hai chiếc tuần dương hạm của quân Hồng Mao cũng rút lui. Lúc ấy huynh đệ do Tần Dịch suất lãnh đã gặp quân bộ của bọn quỷ Hồng Mao, người nào cũng ra sức xông lên, người Hồng Mao tuy súng đạn lợi hại nhưng thấy quân ta anh dũng xông lên, hoảng sợ không còn lòng dạ nào đánh nhau, thua chạy vào thành. Quân ta lên bờ ở Xích Khảm, đánh thẳng tới thành Phổ La Dân Già”

Vi Tiểu Bảo rót một chén rượu, hai tay bưng lên đưa qua Lâm Hưng Châu, nói “Lâm đại ca, đánh rất hay, ta kính ngươi một chén”. (*)

Lâm Hưng Châu đứng lên đón lấy, cảm ơn uống cạn, rồi nói tiếp “Quân ta lên bờ ở Xích Khảm xong, người Trung Quốc ở đó nhao nhao tới đón mừng, rất nhiều người mừng quá phát khóc, đều nói: Cứu tinh của chúng tôi tới rồi. Vi Tước gia, Trịnh Thái sư lão thái gia của Quốc tính gia vốn làm nghề buôn bán không vốn trên biển, Đài Loan chính là sào huyệt cũ của lão nhân gia người, về sau lão nhân gia người dắt bọn huynh đệ thủ hạ trở về Trung Nguyên, Đài Loan bị quân binh Hà Lan và Tây Ban Nha chia nhau chiếm cứ. Bọn quỷ Hà Lan ở phía nam, bọn quỷ Tây Ban Nha ở phía bắc, hai bên tranh giành nhau, Tây Ban Nha thua, toàn bộ Đài Loan đều bị Hà Lan chiếm cứ. Người Trung Quốc chúng ta trên đảo bị bọn quỷ Hà Lan tàn hại. Bộ hạ cũ của Trịnh Thái sư có vị huynh đệ tên Quách Hoài Nhất, là bậc anh hùng hảo hán. Y ở lại trên đảo không đi, thấy người Trung Quốc bị bọn quỷ Hồng Mao hà hiếp, ngấm ngầm hẹn ước với bọn huynh đệ, thông báo cho người Trung Quốc các nơi, định ngày Trung thu khởi sự, giết toàn bộ bọn quỷ Hồng Mao trên đảo. Không ngờ có tên Hán gian tên Phổ Tử đi bẩm báo cho bọn quỷ Hồng Mao…”.

Vi Tiểu Bảo đập bàn chửi “Con bà nó, chuyện của người Trung Quốc đều do bọn Hán gian làm hỏng”.

Lâm Hưng Châu nói “Đúng thế. Quách Hoài Nhất đại ca vừa thấy Phổ Tử bỏ trốn, biết là sự tình đã hỏng, lập tức suất lãnh hơn một vạn sáu ngàn người Trung Quốc tiến đánh thành Phổ La Dân Già, phóng hỏa đốt chết bọn quan quân Hồng Mao giữ thành. Bọn quỷ Hồng Mao điều động đại quân phản công, súng đạn lợi hại. Người Trung Quốc chúng ta ngoài vài khẩu súng, đều là dùng đại đao, thương sắt, lưỡi cuốc, côn gỗ làm võ khí, đánh nhau một trăm năm mươi ngày ở thành Xích Khảm, Quách Hoài Nhất đại ca bất hạnh bị đại pháo của bọn quỷ Hồng Mao bắn chết…”. Vi Tiểu Bảo kêu lên “Ái chà, thế thì hỏng bét”. Lâm Hưng Châu nói “Đúng thế. Quách đại ca vừa chết, rắn không đầu không bò được, người Trung Quốc thua chạy khỏi thành, huyết chiến bảy ngày bảy đêm cạnh Đại Hồ, người Trung Quốc bị chết hơn bốn ngàn, phụ nữ trẻ con cũng thà chết không chịu khuất phục, bị giết hơn năm trăm người. Phàm những ai bị bọn quỷ Hồng Mao bắt được, phụ nữ thì bị ép làm doanh kỹ , đàn ông nếu không phải là ngũ mã phân thây, thì dùng que sắt từ từ đốt chết…”.

Vi Tiểu Bảo cả giận, kêu lên “Bọn quỷ Hồng Mao tàn nhẫn như thế, còn tàn độc hơn quân Thanh tàn sát ở thành Dương Châu chúng ta!”.

Thi Lang và Lộ Phó tướng ngớ mặt nhìn nhau, chỉ còn cách cười gượng, đều nghĩ thầm “Gã thiếu niên này ăn nói quả thật không biết nặng nhẹ”.

Lâm Hưng Châu nói “Đó là chuyện tháng tám năm Vĩnh Lịch thứ sáu…”. Hồng Triều bấm đốt ngón tay tính rồi nói “Năm Vĩnh Lịch thứ sáu chính là năm Thuận Trị thứ bảy… tám… chín, năm Thuận Trị thứ chín”. Lâm Hưng Châu nói “Phải không? Sau trường đại thảm sát ấy, người Trung Quốc ở Đài Loan và bọn quỷ Hồng Mao thề không cùng sống, bọn quỷ Hồng Mao chỉ cần một cớ nhỏ là giết bừa người Trung Quốc. Vì thế mọi người vừa thấy đại quân của Quốc tính gia, đúng là Bồ tát xuống cứu mạng, trai gái già trẻ nhao nhao tố khổ với bọn ta. Đúng tối hôm ấy, Thái thú Quỳ đại nhân của bọn quỷ Hồng Mao sau khi thua lớn, giận lây qua người Trung Quốc, đem hết người Trung Quốc ở Côn Thân, bất luận già trẻ lôi ra bắn hết, giết chết hơn năm trăm người. Hôm sau Quốc tính gia phái quân đánh thành Phổ La Dân Già. Trần quân sư bày ra kế sách, luyện quân giáp mây lăn tròn vào chém chân bọn quỷ Hồng Mao, nên hạ được thành Phổ La Dân Già”.

Vi Tiểu Bảo nói “Đây cũng là công lao của lão huynh”. Lâm Hưng Châu nói “Đây toàn là diệu kế của Trần quân sư, chứ ty chức không có công lao gì”. Lại nói “Quốc tính gia chỉ huy quân tấn công trú sở của Quỳ Thái thú Hồng Mao là thành Nhiệt Lai Già. Trên thành bắn pháo ra ầm ầm, quân ta bị thương vong rất nhiều. Nhưng tướng quân Mã Tín và tướng quân Lưu Quốc Hiên vẫn hăng hái hạ được Côn Thân. Quốc tính gia thấy các huynh đệ thương vong quá nhiều, lúc ấy bèn đắp lũy dài bao vây thành Nhiệt Lai Già, đem đại pháo bắn vào thành. Không bao lâu chiến thuyền các trấn Tả Vệ, Tiền Xung, Trí Vũ, Anh Binh, Du Binh, Điện Binh trong thủy sư lộ thứ hai của quân ta cũng đều đánh tới, thanh thế rất lớn. Quốc tính gia một mặt sai quân khai khẩn ruộng đất, một mặt vây chặt thành. Bao vây năm tháng, đột nhiên viện binh của quỷ Hồng Mao từ Ba Đạt Duy Á tới, quân Hồng Mao trong thành xông ra giáp công. Thủy lục đại chiến, quân ta hăng hái xông lên, nước biển đều bị máu nhuộm biến thành màu đỏ”.

Vi Tiểu Bảo vỗ bàn khen “Lợi hại thật, lợi hại thật!”, nhìn qua Thi Lang nói “Tiếc là lúc ấy Thi tướng quân đang ở Hạ Môn, nếu không thì trong mấy trận đại chiến ấy, giết con mẹ nó mấy trăm tên quỷ Hồng Mao, thì mới kể là anh hùng hảo hán thực sự”. Thi Lang im lặng.

Vi Tiểu Bảo hỏi Hồng Triều “Hồng đại ca, lúc ấy ngươi đánh ở mặt nào?”.

Hồng Triều nói “Lúc ấy ty chức là thuộc hạ dưới trướng tướng quân Lưu Quốc Hiên, hợp quân với thủy sư do tướng quân Trần Trạch thống lĩnh bao vây tấn công viện binh của quân Hồng Mao, đại chiến ở một dải Bắc Sán Vĩ. Quân Hồng Mao chiến hạm rất lớn, súng đạn lợi hại, đạn pháo của quân ta bắn lên chiến thuyền của Hồng Mao đều bị vỏ sắt hất ra, không sao làm chúng tổn thương. Lâm Tiến Thân Lâm tướng quân ở trấn Tuyên Nghị Tiền thấy chi trì không được, đích thân suất lãnh hai trăm quân cảm tử, thân mang thuốc súng, liều chết nhảy lên chiến hạm của bọn quỷ Hồng Mao, phá hỏng đại pháo trên đó. Bọn quỷ Hồng Mao thấy chúng ta dũng mãnh tấn công không sợ chết như vậy đều hoảng sợ rối loạn, quân ta giết chết một tên hạm trưởng của bọn quỷ Hồng Mao, bắt sống hai chiến hạm chủ lực, thủy sư của quân Hồng Mao tan vỡ. Trên bờ Trần quân sư dẫn quân đại chiến, cũng thu được toàn thắng, về sau Trần quân sư mổ trên người lấy ra được bảy viên đạn chì của quân Hồng Mao”.

Vi Tiểu Bảo nói “Hà, sư phụ ta không chết vì súng đạn của quân Hồng Mao mà lại chết dưới kiếm của con mẹ nó thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng. Thi tướng quân, nam tử hán đại trượng phu, tóm lại phải đánh bọn quỷ ngoại quốc mới tính là giỏi. Người Trung Quốc giết người Trung Quốc, cho dù có giết được nhiều cũng không kể là hảo hán được, ngươi nói có phải không?”. Thi Lang hừ một tiếng, im lặng không đáp.

Lâm Hưng Châu nói “Bọn quỷ Hồng Mao thua liền mấy trận, lại định tới đốt lương thực của quân ta, nhưng lần nào cũng bị Trần quân sư biết được, chỉ là nhử gà không được lại mất gạo. Thái thú Hồng Mao khốn khổ giữ cô thành, bó tay không còn cách nào, bèn sai người vượt biển, liên lạc với Tổng đốc Mân Chiết nhà Đại Thanh là Lý Suất Thái, xin y phái binh cứu viện. Vị Lý đại nhân này cũng rất thú vị, gửi thư mời bọn quỷ Hồng Mao phái binh tới Phúc Kiến trước, đánh dẹp quân của Quốc tính gia đang đóng giữ ở một dải Kim Môn Hạ Môn, rồi quân Đại Thanh sẽ tới cùng tấn công Đài Loan. Lúc ấy quân Hồng Mao tự mình không giữ được mạng, như con rùa rụt cổ trong thành Nhiệt Lai Già, làm sao phái quân đi đánh Kim Môn, Hạ Môn?”

Vi Tiểu Bảo nói “Bọn quỷ Hồng Mao nói chuyện như đánh rắm, bọn họ thủy chung đâu có tới đánh Kim Môn, Hạ Môn phải không? Đại Thanh chúng ta nói ra là nhớ lời, về sau há không phái quân đánh Đài Loan sao? Chỉ có điều chậm mất hai ba mươi năm, cũng không quan hệ gì. Lúc Thi tướng quân đem quân đánh tới Đài Loan, không biết có bọn quỷ Hồng Mao trong ứng ngoài hợp không?”.

Thi Lang đã không nhịn nổi nữa, đứng phắt dậy, tức giận nói “Vi Tước gia, huynh đệ với ngươi là nhất điện chi thần, đều làm quan của nhà Đại Thanh, tại sao ngươi ăn nói khủng khỉnh, cứ châm chọc huynh đệ như thế?”.

Vi Tiểu Bảo ngạc nhiên nói “Ờ, chuyện này mới lạ đây, ta châm chọc Thi tướng quân lúc nào? Thi tướng quân không tư thông với người ngoại quốc thì rất tốt. Mà nếu muốn tư thông với người ngoại quốc, thì ta thấy vẫn còn kịp mà. Thi tướng quân tay cầm trọng binh, quỷ Hồng Mao, quỷ Tây Ban Nha, quỷ Bồ Đào Nha, quỷ La Sát đều rất thích kết giao với ngươi đấy”.

Thi Lang trong lòng hoảng sợ “Không xong! Thằng tiểu quỷ này chỉ cần tố cáo với hoàng thượng một lần, vu hãm mình tư thông với ngoại quốc, thì một đời mình sẽ bị hủy hoại trong tay y”, nhưng mới rồi nhất thời nổi nóng, mở miệng vô lễ, bất giác vô cùng hối hận, vội cười lấy lòng nói “Huynh đệ uống quá vài chén, nên có xúc phạm, xin Vi Tước gia tha tội”.

Vi Tiểu Bảo thấy y nổi giận, vốn cũng hơi sợ sệt, đến khi thấy y dịu nét mặt xin lỗi, biết y sợ mình liền cười nói “Thi tướng quân nếu quả muốn tự lập làm vương ở Đài Loan thì cứ đem huynh đệ giết trước mà bịt miệng là được, để ta khỏi bẩm báo với hoàng thượng. Còn nếu chẳng qua chỉ là lớn tiếng hò hét, lên cơn nổi giận thì huynh đệ tuy nhát gan cũng không sợ đâu”.

Thi Lang sắc mặt trắng bệch, rời chỗ ngồi vái dài một vái, nói “Vi Tước gia, đại nhân không nhớ lỗi tiểu nhân, ty chức hoang đường, xin nhận trách phạt. Có điều chuyện tự lập làm vương, tư thông ngoại quốc thì ty chức quyết không có ý ấy. Ty chức một lòng một dạ ra sức vì hoàng thượng, đặt chữ trung lên đầu, quyết không hai lòng”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Mời ngồi, mời ngồi. Chúng ta cứ chờ xem”, rồi quay qua nói với Lâm Hưng Châu “Ngươi kể chuyện còn hay hơn các tiên sinh kể chuyện, hồi Quốc tính gia huyết chiến Đài Loan, Hồng Mao quỷ té cứt vãi đái này về sau thế nào?”.

Lâm Hưng Châu nói “Lúc ấy tin Quốc tính gia suất lãnh đại quân đánh được Đài Loan đã truyền vào nội địa, Hoàng Ngô Hoàng đại nhân bèn dâng lời với triều đình đề ra cái gọi là

Kiên bích thanh dã Bình hải ngũ sách”. Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng Ngô là ai?”, Lâm Hưng Châu nhìn Thi Lang một cái, ấp úng mấy tiếng, không trả lời ngay. Thi Lang nói “Vị Hoàng đại nhân này vốn là thuộc hạ của Quốc tính gia, làm chức Tổng binh, sau khi y quy thuận triều đình, quan vận hanh thông, lúc qua đời đã được phong là Nhất đẳng Hải Trừng công”, Vi Tiểu Bảo nói “Hà, té ra nguyên là một tên đại Hán…”, chữ “gian” cuối cùng lại nuốt trở vào. Thi Lang mặt đỏ bừng, nghĩ thầm “Ngươi chửi ta là Hán gian, nhưng ta thấy ngươi cũng là người Mãn Châu giả, mọi người không phải ai cũng như nhau sao?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Gã Hoàng Ngô này có kế sách kỳ diệu gì vỗ mông ngựa hoàng đế mà được phong tới tước công? Bản lãnh của y không nhỏ đâu? Cách thức của y chúng ta cũng nên rèn luyện, học tập cho khéo”.

Lâm Hưng Châu nói “Năm xưa Quốc tính gia phái Hoàng Ngô phòng thủ Hải Trừng, y lại đem Hải Trừng đầu hàng triều đình, các tướng sĩ không chịu quy hàng đều bị y giết chết. Lúc ấy triều đình đang không có cách nào bắt Quốc tính gia, đột nhiên có một viên đại tướng của đối phương suất lãnh quân đội, đem cả thành trì quy hàng, triều đình mười phần mừng rỡ, vì thế đặc biệt phong thưởng”. Vi Tiểu Bảo nói “Té ra là thế. Y hiến kế sách gì thế?”. Lâm Hưng Châu thở dài nói “Vị Hoàng đại nhân này quả thật là làm hại bách tính đến khổ. Bình hải ngũ sách của y, điều thứ nhất là dời tất cả bách tính ở ven biển vào nội địa, cho Kim Môn, Hạ Môn và Đài Loan không được tiếp tế. Điều thứ hai là thiêu hủy tất cả thuyền bè ở ven biển, trở đi không một tấc gỗ nào được đưa ra biển. Điều thứ ba là giết Trịnh Thái sư cha của Quốc tính gia. Điều thứ tư là khai quật lăng mộ tổ tiên của Quốc tính gia, phá hủy phong thủy của y. Điều thứ năm là dời tất cả quan binh bộ thuộc cũ của Quốc tính gia vào khai khẩn đất hoang trong nội địa, để khỏi sinh hậu hoạn”.

Vi Tiểu Bảo nói “Hà, kế sách của thằng đầy tớ ấy quả thật tàn độc”.

Lâm Hưng Châu nói “Chứ không phải sao? Lúc ấy hoàng đế Thuận Trị vừa băng hà, hoàng thượng lên ngôi, vẫn còn nhỏ tuổi, Ngao Bái một mình nắm đại quyền. Thằng gian tặc Ngao Bái này thấy Bình hải ngũ sách của Hoàng Ngô, cho rằng mười phần có lý, bèn hạ lệnh từ Liêu Đông tới Trực Lệ, Giang Tô, Chiết Giang, Phúc Kiến cho tới Quảng Đông, suốt vùng duyên hải không cho ai ở gần bờ biển ba mươi dặm, tất cả thuyền bè đều phải đốt sạch, lúc ấy ngàn ngàn vạn vạn bách tính ở duyên hải lưu ly thất sở, không sống được qua ngày”.

Thi Lang lắc đầu nói “Kế sách ấy của Hoàng Ngô cũng rất quá đáng. Đến khi kim thượng đích thân coi chính sự, Vi đại nhân bắt được Ngao Bái, mới thủ tiêu lệnh cấm hải. Nhưng bách tính bảy tỉnh vùng duyên hải đã nếm đủ mùi đau khổ. Lúc ấy triều đình ra nghiêm lệnh, phàm bách tính vượt quá ranh giới, bắt được là lập tức chém đầu. Rất nhiều dân nghèo không sống được, ra bờ biển bắt cá, không biết bị giết bao nhiêu mà kể. Trịnh Thái sư cũng bị giết lúc ấy. Ngao Bái còn đặc biệt sai Thượng thư bộ Binh Tô Nạp Hải tới huyện Nam An Tuyền Châu Phúc Kiến đào mồ họ Trịnh”.

Vi Tiểu Bảo nói “Ngao Bái tự xưng là dũng sĩ, mà lối làm việc lại không ra sao. Có bản lĩnh thì cứ đánh nhau một trận với Quốc tính gia. Dời bách tính ở duyên hải vào nội địa, không phải là nói rõ sợ người ta sao? Hoàng thượng yêu thương bách tính, nếu kế sách của Hoàng Ngô trình lên hoàng thượng, thì y không bị chém đầu không xong”. Thi Lang nói “Đúng thế. Hoàng Ngô chết sớm, tính ra là may cho y”.

Lâm Hưng Châu nói “Tin Trịnh Thái sư qua đời truyền tới Đài Loan, Quốc tính gia sợ dao động quân tâm, nói đó là lời bịa đặt, không được tin theo, nhưng theo lời thân binh nói thì Quốc tính gia thường nửa đêm khóc lóc. Quốc tính gia lại nói với Trần quân sư và mấy vị đại tướng rằng mấy điều kế sách ấy của Hoàng Ngô quả nhiên rất tàn độc, may là đã đánh Đài Loan, nếu không thì hơn mười vạn đại quân không sao đứng chân được ở Kim Môn, Hạ Môn. Lúc ấy bọn ta vây đánh đã lâu, quân Hồng Mao mấy lần định phá vây đều bị đánh lùi. Lúc ấy Quốc tính gia truyền lệnh, trước tết phải hạ thành Nhiệt Lai Già”. Y quay qua hỏi Hồng Triều “Là tổng tấn công ngày hai mươi hai tháng mười một phải không?”.

Hồng Triều nói “Đúng, hôm ấy mưa to gió lớn, đại pháo các nơi trên lũy đất của chúng ta nhất tề bắn rát, bắn sụp một góc tường thành, đồn bảo phía đông phía tây hành đều bị bắn nát. Quân Hồng Mao liều mạng xông ra, nhưng bị giết mấy trăm người lại phải lui vào, Quỳ Thái thú Hồng Mao bèn kéo cờ trắng đầu hàng. Lúc ấy người Trung Quốc ở Đài Loan đều muốn trả thù, muốn giết hết bọn quỷ Hồng Mao. Quốc tính gia hiểu dụ bách tính, nói Trung Quốc chúng ta là nước lễ nghĩa, địch nhân đã đầu hàng thì không được giết, chuẩn y mười bốn điều khoản trong hàng thư của Thái thú Hồng Mao, cho y suất lãnh tàn binh bại tướng lên thuyền rời Đài Loan, trốn về Ba Đạt Duy Á. Bọn quỷ Hồng Mao chiếm cứ Đài Loan từ năm Thiên Khải thứ tư nhà Đại Minh, chiếm đóng ba mươi tám năm, đến năm Vĩnh Lịch thứ mười lăm… cũng chính là ngày hai mươi chín tháng mười một năm Thuận Trị thứ mười tám thì Đài Loan trở về bản đồ Trung Quốc”.

Lâm Hưng Châu nói “Quốc tính gia ra lệnh không cho giết quân Hồng Mao đầu hàng, nhưng bách tính Trung Quốc căm hờn không chịu nổi, nhao nhao chửi bới ném đá vào chúng. Bọn trẻ con còn đặt vè để hát. Quân Hồng Mao người đứt tay kẻ cụt chân, cúi đầu ủ rũ, không dám nói một câu. Lúc binh thuyền của họ nhổ neo, kéo cờ hàng lên, lại bắn pháo chào, nói là tạ ơn không giết của Quốc tính gia”. Vi Tiểu Bảo nói “Hay lắm! Người Trung Quốc chúng ta thật rất có oai phong. Hỏa pháo của bọn quỷ Hồng Mao lợi hại như thế, đánh được Đài Loan quả thật rất không dễ, rất không dễ!”. Hồng Triều nói “Quốc tính gia đổi thành Nhiệt Lai Già là trấn An Bình, thành Phổ La Dân Già đổi tên là phủ Thừa Thiên, vĩnh viễn làm trọng trấn của Đài Loan”.

Lộ Phó tướng nói chen vào “Thi Quân môn lấy Đài Loan, đi theo con đường cũ của Quốc tính gia năm xưa, từ cửa Lộc Nhĩ tiến vào…”. Vi Tiểu Bảo xua xua tay ngắt lời y, ngáp một cái thật lớn, nói “Người Trung Quốc đánh bọn quỷ Hồng Mao tháo chạy ra biển thì nghe mới sướng tai, chứ người mình đánh người mình, trước sau chẳng qua cũng chỉ đến thế. Thi tướng quân, chúng ta uống rượu cũng nhiều rồi, đi nghỉ thôi”. Thi Lang đứng lên nói “Vâng. Đa tạ Tước gia ban rượu, ty chức xin cáo từ”.

***

Vi Tiểu Bảo vào nội đường, kể chuyện cản trở lời Thi Lang, tóm lại là không cho y khoe khoang chiến công đánh Đài Loan, sáu vị phu nhân nghe thấy đều buồn cười. Chỉ có A Kha im lặng không nói gì, nghĩ thầm nếu năm xưa lấy Trịnh Khắc Sảng, thế ắt cũng bị bắt sống với y về Bắc Kinh, vợ kẻ vong quốc không khỏi bị chịu nhục lớn. Hôm trước nhìn thấy Trịnh Khắc Sảng cưỡi thuyền rời đảo Thông Ngật, đối với sự còn mất sống chết của y đã không còn quan tâm gì nữa, lúc ấy nghe y mất nước đầu hàng, lại càng không để ý, nhưng nhớ lại chuyện xưa, mình lại có thể bị phong thái dung mạo của y mê hoặc như thế, biết rõ người ấy là hạng tử đệ khố gấm không có khí cốt, không ra gì, mà mình lại như mù lòa, đối với y một mảnh thâm tình, bây giờ nhớ lại vẫn thấy vô cùng hổ thẹn.

Công chúa nói “Hoàng đế ca ca đối xử với người ta quá khoan dung, thằng đầy tớ Trịnh Khắc Sảng đầu hàng, lại phong cho y tước công nhất đẳng, hơn cả Tiểu Bảo, thật khiến người ta bất phục”.

Vi Tiểu Bảo xua tay nói “Không hề gì, không hề gì, Quốc tính gia là đại anh hùng hảo hán, hoàng thượng nể mặt Quốc tính gia mới phong cháu nội của y làm tước công nhất đẳng. Chứ nếu chỉ dựa vào bản lĩnh của Trịnh Khắc Sảng, thì chỉ phong cho y làm sâu róm nhất đẳng thôi”.

***

Trưa hôm sau, Vi Tiểu Bảo mời riêng Lâm Hưng Châu, Hồng Triều hai người ăn tiệc, hỏi lại tình hình Thi Lang tấn công Đài Loan.

Nguyên quân Thanh cùng quân Đài Loan huyết chiến mấy ngày ở vũng Ngưu Tâm, đảo Kê Lung, hôm đầu tiên Thi Lang bị thua, về sau viện binh của quân Thanh kéo tới, lại đánh lớn, chiến thuyền Đài Loan bị đốt cháy đại bại, tướng sĩ tử thương hơn một vạn người, chiến thuyền hoặc bị đánh chìm hoặc bị đốt cháy, tổn thất ba trăm chiếc. Lưu Quốc Hiên suất lãnh tàn quân lui về Đài Loan.

Thi Lang suất lãnh thủy sư tấn công Đài Loan, cửa Lộc Nhĩ nước cạn, chiến thuyền không vào được, đậu trên bờ biển mười hai ngày, đang lúc vô kế khả thi, đột nhiên mù lớn đầy trời, thủy triều dâng cao, chiến thuyền quân Thanh nhất tề kéo vào. Đài Loan trên dưới ai cũng hoảng sợ, đều nói “Năm xưa Quốc tính gia nhân thủy triều dâng lên ở cửa Lộc Nhĩ mà đánh lấy được Đài Loan, bây giờ thủy triều ở cửa Lộc Nhĩ lại dâng cao, địa thế hiểm trở đã bị mất, đây là ý trời, có đánh nữa cũng vô dụng”.

Trịnh Khắc Sảng được tin thủy sư của quân Thanh đã qua cửa Lộc Nhĩ, hoảng sợ run bần bật. Phùng Tích Phạm khuyên y đầu hàng, tự nhiên y ưng thuận ngay, chỉ là sợ Thi Lang muốn trả thù riêng, làm khó con cháu họ Trịnh, nên còn ngần ngừ. Lúc ấy Lưu Quốc Hiên gửi thư cho Thi Lang, nói đầu hàng thì được, nhưng phải bảo toàn cho con cháu của Quốc tính gia, nếu không thì quân dân trên toàn Đài Loan cảm niệm ơn nghĩa của Quốc tính gia, sẽ chiến đấu tới người cuối cùng. Thi Lang lập tức gửi thư trả lời, bảo đảm quyết không nhớ thù cũ, nếu không thì trời người cùng giết, tuyệt tử tuyệt tôn. Lúc ấy Trịnh Khắc Sảng, Phùng Tích Phạm, Lưu Quốc Hiên bèn suất lãnh văn võ bá quan ở Đài Loan ra hàng.

Từ khi tôn thất nhà Minh Đoan vương Chu Xung Quế tự sát tuẫn quốc, kế đó năm người cùng tử tiết chết theo, nhà Minh tới đó là chấm dứt.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Con cháu của vị hoàng đế nhà Minh này tự sát tuẫn quốc, năm người vợ cùng chết theo họ. Nếu Vi Tiểu Bảo mình tự sát, không biết trong bảy người vợ có mấy người chết theo? Song Nhi thì nhất định sẽ chết theo, công chúa thì nhất định thứ lỗi không chết theo được. Còn năm người kia có quá nửa sẽ gieo xúc xắc để quyết định sống chết. Phương Di lúc gieo xúc xắc nhất định sẽ giở trò gian lận, bảo người chết là mình là đồ Dê đực”.

Lâm Hưng Châu lại nói sau khi Thi Lang đem quân lên bờ cũng rất thủ tín, hoàn toàn không làm khó con cháu họ Trịnh, còn đích thân tới tế Diên Bình quận vương Trịnh Thành Công, khóc lớn một lúc. Hồng Triều nói “Trong bài văn tế của y có câu: Từ khi Đồng An hầu vào Đài Loan, đất Đài Loan mới có người ở. Được ban họ mở đất, bắt đầu trở thành cương giới, không ông thì ai? Nay Lang nhờ uy linh thiên tử, sức lực tướng sĩ, lấy được đất này, không tru diệt kẻ mất nước là vì chức phận trung thành với triều đình mà báo đáp cho cha anh. Duy Lang xuất thân bộ ngũ, cùng kẻ được ban họ có duyên cá nước, giữa đường vì chuyện hiềm khích, trở thành oán thù. Lang và kẻ được ban họ tuy thế đã thành kẻ thù, nhưng tình vẫn là chúa tôi. Kẻ sĩ cùng khốn trong bụi lau, vì nghĩa mà có chuyện không làm. Ơn riêng nghĩa chung, chỉ thế mà thôi. Mấy câu ấy được truyền tụng một thời”. Vi Tiểu Bảo nói “Y ky lý cô lô nói những gì thế?”, Hồng Triều nói “Kẻ sĩ cùng khốn trong bụi lau là chỉ Ngũ Tử Tư, năm xưa Ngũ Tử Tư diệt nước Sở, đào mộ Sờ Bình vương, đánh vào xác ba trăm roi để trả mối thù giết hại cha anh. Thi Lang nói y quyết không làm chuyện như thế”.

Vi Tiểu Bảo cười nhạt nói “Hừ, y dám à, tuy Quốc tính gia đã chết, nhưng y còn sợ gần chết. Y phá hoại cơ nghiệp Trịnh gia, chỉ sợ anh hồn của Quốc tính gia tìm y làm khó dễ, nên tới miếu thờ Quốc tính gia dập đầu nài nỉ. Người này rất gian hoạt, các ngươi đừng mắc lừa y”. Lâm Hồng hai người đồng thanh khen phải.

Vi Tiểu Bảo nói “Chuyện Ngũ Tử Tư thì ta đã được xem diễn rồi, có một vai Ngũ Tử Tư qua cửa quan, trong một đêm mà đầu bạc trắng, có phải không?”. Hồng Triều nói “Vâng, vâng, Tước gia trí nhớ rất tốt”. Vi Tiểu Bảo rất lâu không nghe người ta kể chuyện, lúc ấy bèn hỏi lại sự tích trước sau của Ngũ Tử Tư. May là Hồng Triều năm xưa từng đi thi Tú tài, tuy không thi đậu, nhưng văn chương trong bụng vẫn còn ngấn mực, lúc ấy năm mười mười lăm kể rõ lại. Vi Tiểu Bảo nghe rất say sưa, nói “Ta ở trên đảo hoang này quả thật rất buồn chán, nay mà hai vị tới kể chuyện cho ta giải sầu. Tốt nhất là các ngươi ở thêm vài ngày, không nên đi vội”.

Lâm Hưng Châu nói “Bọn ta là hàng tướng Đài Loan, tối hôm qua nói chuyện đã đắc tội với Thi tướng quân. Thi tướng quân muốn đối phó với bọn ta cũng như bóp chết hai con kiến, chỉ cần tùy tiện khoác cho tội danh mang lòng phản phúc, mưu việc bất pháp là có thể lập tức chém trước tâu sau. Cho dù chém mà không tâu cũng không có ai truy vấn. Vi đại nhân, xin người nói với Thi tướng quân giữ hai người bọn ta ở lại hầu hạ ngươi đi”. Vi Tiểu Bảo cả mừng, hỏi “Hồng đại ca, ngươi thấy thế nào?”. Hồng Triều nói “Đêm qua ty chức đã bàn kỹ với Lâm đại ca, nếu không được Vi đại nhân cứu mạng, thì hai người bọn ta ắt chết không có đất chôn”. Vi Tiểu Bảo nói “Hai vị theo ta thì nhất thiết phải nghe lời ta”. Hồng Triều hai người nhất tề khom lưng, nói “Bất kể Vi Tước gia sai bảo việc gì, bọn ty chức cũng tuân lệnh”.

Vi Tiểu Bảo rất mừng, nghĩ thầm “Có hai người trợ thủ thế này thì có cách rời khỏi cái đất ma này rồi”.

Khang Hy phái Bành Tham tướng mang quân giữ đảo Thông Ngật, trước đó đã có nghiêm chỉ, quyết không được cho Vi Tiểu Bảo và người nhà rời khỏi đảo một bước. Bành Tham tướng đầu óc không sáng láng lắm, cũng chẳng có bản lĩnh gì nhiều, nhưng với thánh chỉ của hoàng thượng thì cho dù có chém mười bảy mười tám cái đầu y, y cũng không dám làm trái. Khang Hy muốn y cai quản chặt chẽ thì y cai quản chặt chẽ. Vi Tiểu Bảo mà muốn lấy mạng y thì chỉ cần nhấc tay một cái, nhưng cho dù giết sạch năm trăm lẻ một tướng sĩ cai quản mà không có thuyền bè, rốt lại cũng không rời đảo được. Lâm Hồng hai người đều là tướng giỏi trong thủy sư, trong chuyện giong thuyền ra biển ắt có tài năng.

***

Đêm ấy y lại mời tiệc Thi Lang, lần này chỉ có hai người Lâm Hưng Châu, Hồng Triều bồi tiếp. Nói chuyện phiếm một lúc, Vi Tiểu Bảo nói “Thi tướng quân, ngươi có ở lại đây được một hai tháng không?”. Thi Lang nói “Ty chức vốn muốn ở lại thêm vài hôm để thường được nghe đại nhân chỉ dạy. Có điều Đài Loan vừa yên, không thể đi xa quá lâu, sáng mai định cáo từ đại nhân”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi nói muốn ở lại thêm vài hôm để thường được nghe ta chỉ dạy không biết là thật lòng hay để lấy lòng ta thế?”, Thi Lang nói “Tự nhiên là rất thật lòng, là lời tận đáy lòng của ty chức. Năm xưa ty chức theo hầu đại nhân, đóng ở đảo Thông Ngật, bắn phá Thần Long giáo, hàng ngày được nghe đại nhân chỉ dạy, cùng nhau uống rượu đánh bạc cười đùa, những ngày ấy mới vui vẻ làm sao!”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Nếu có thể được sống lại những ngày như thế, ngươi có vui không?”. Thi Lang nói “Tự nhiên là vui chứ. Sau này hoàng thượng phái đại nhân đi làm việc quân quốc trọng đại, ty chức sẽ xin lệnh theo hầu đại nhân”. Vi Tiểu Bảo gật đầu nói “Chuyện đó rất dễ, ngươi muốn theo hầu ta, nghe ta nói đùa thì không khó gì. Ngày mai chúng ta sẽ cùng đi Đài Loan”.

Thi Lang giật nảy mình, đứng phắt lên, run giọng nói “Chuyện… chuyện… chuyện này chưa có thánh chỉ của hoàng thượng, ty chức không dám phụng mệnh. Xin… xin đại nhân tha thứ”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Ta cũng không muốn đi Đài Loan làm gì, chỉ là nghe các ngươi nói rất nhiệt náo, Quốc tính gia khai khẩn đất đai ở Đài Nam Đài Bắc, mở ra một thế giới hoa lệ, ta muốn chính mắt nhìn thấy. Tới Đài Loan rồi, chẳng phải ngươi thường được nghe ta chỉ dạy sao? Câu ấy là chính miệng ngươi nói ra, chẳng qua ta thấy ngươi là người tốt, trước đây lại từng theo ta, chúng ta là thượng ty thuộc hạ cũ, giao tình không phải tầm thường, mới miễn cưỡng nghĩ ra cách ấy để đáp ứng lời cầu xin của ngươi thôi. Ta đi Đài Loan chơi một hai tháng lại về, thần không hay quỷ không biết, chỉ cần ngươi không nói, ta không nói thì hoàng thượng cũng không biết đâu”.

Thi Lang mặt mũi nhăn nhó, khom lưng nói “Vi đại nhân, chuyện này quả thật rất khó. Đại nhân có lệnh, ty chức vốn phải vâng lời, chỉ có điều nếu hoàng thượng trách tội, quả thật có chỗ rất bất tiện. Nếu ty chức không tâu lên là phạm tội khi quân, ty chức quả thật ngàn vạn lần không dám”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Mời ngồi, mời ngồi. Thi tướng quân, ngươi đã không chịu, đó cũng là chuyện nhỏ, không cần nói nữa”. Thi Lang như trút được gánh nặng, luôn miệng khen phải, lại ngồi xuống ghế. Vi Tiểu Bảo cười nói “Nói tới tội khi quân thì không giấu gì ngươi, ta cũng đã lừa dối hoàng thượng mấy lần, có điều hoàng thượng khoan hồng đại lượng, sau khi biết rồi chẳng qua cũng chỉ chửi vài câu, cũng chẳng có gì lớn”. Thi Lang nói “Vâng, vâng. Mọi người đều nói hoàng thượng đối với Vi đại nhân ơn sâu đức dày, đúng là ít thấy. Vua tôi hợp nhau như thế quả thật từ xưa chưa có. Nhưng loại tiểu tướng ngoại thần phúc phận nhỏ như ty chức thì ngàn vạn lần không dám học theo Vi đại nhân”.

Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói “Thi tướng quân ngoài miệng nói năng giống như vô cùng nhút nhát, nhưng theo ta thấy ấy à, ngươi cũng to gan lắm. Nghe nói sau khi Thi tướng quân đánh được Đài Loan, làm một bài văn tới tế Quốc tính gia, chuyện ấy có không?”.

Thi Lang nói “Bẩm đại nhân, ba chữ Quốc tính gia ấy không được nói, bây giờ quốc tính là Ái Tân Giác La. Chúng ta nói tới Trịnh Thành Công thì cũng phải khách sáo một chút, chỉ nên nói là được nhà Tiền Minh ban cho quốc tính. Vì thế trong bài văn tế ấy của ty chức chỉ nói hai chữ Ban họ, quyết không dám phạm điều cấm kỵ ”. Y đoán là không ưng thuận đưa Vi Tiểu Bảo đi Đài Loan thì nhất định thằng tiểu quỷ này sẽ tìm xương trong trứng gà, bới móc tội lỗi của mình. Ba chữ Quốc tính gia thì mọi người nói đã quen, nhưng Trịnh Thành Công được nhà Minh ban cho họ Chu, quốc tính của y là quốc tính của nhà Minh, không phải là quốc tính của nhà Thanh, nếu Vi Tiểu Bảo nắm lấy ba chữ ấy mà làm văn, nói y không quên quốc tính họ Chu, báo lên triều đình, thì chuyện này có thể lớn có thể nhỏ, biết đâu lại nuôi thành đại họa, vì thế bèn nói rõ ra trước.

Thật ra Vi Tiểu Bảo không có nửa điểm học vấn, những chi tiết về chữ nghĩa ấy nói thế nào y cũng không nghĩ tới, nhưng Thi Lang phân biện qua y lại nắm được cán, nói “Thi tướng quân từng chịu tước lộc của triều Minh, nhung nhớ không quên kẻ được ban họ của tiền triều, chuyện đó cũng không trách được. Nếu thật sự trung thành với nhà Đại Thanh ta, thì phải gọi Trịnh Thành Công là Nghịch tính, Ngụy tính, Phỉ tính, Cẩu tính mới đúng”.

Thi Lang cúi đầu im lặng, trong lòng tuy có tới mười hai phần không cho là đúng, nhưng cảm thấy không nên biện luận với y nhiều về chuyện này, vì gọi Trịnh Thành Công là “Kẻ được ban họ” quả nhiên cũng không khỏi có ý không quên nhà Tiền Minh.

Vi Tiểu Bảo nói “Bài văn tế ấy của Thi tướng quân nhất định là rất hay, đọc cho ta nghe được không?”.

Thi Lang giỏi cầm quân đánh nhau, đời nào biết làm văn tế gì, bài văn tế ấy là do một viên sư gia mạc khách trong bọn liêu thuộc viết ra. Viên sư gia này rất có tài tình, bài văn tình cảm văn chương trọn vẹn, ý tứ lời lẽ thê thiết, Thi Lang nghe không ít người ca ngợi, trong lòng đắc ý, học thuộc lòng rất nhiều câu trong đó để khoe khoang với mọi người, lúc ấy bèn nói “Ty chức nhớ qua loa vài câu, chỉ để làm trò cười cho Vi đại nhân”, rồi đọc mấy câu quan trọng trong bài văn tế ra.

Vi Tiểu Bảo nghe y đọc thuộc lòng tới câu “Duy Lang xuất thân bộ ngũ, cùng kẻ được ban họ có duyên cá nước, giữa đường vì chuyện hiềm khích, trở thành oán thù. Lang và kẻ được ban họ tuy thế đã thành kẻ thù, nhưng tình vẫn là chúa tôi. Kẻ sĩ cùng khốn trong bụi lau, vì nghĩa mà có chuyện không làm. Ơn riêng nghĩa chung, chỉ thế mà thôi”, gật đầu khen “Văn chương hay, văn chương hay. Bài văn này, đừng nói là có giết chết ta cũng không làm được, mà dù người ta làm xong bảo ta học thuộc lòng, chỉ e ta cũng phải học mười bữa nửa tháng. Thi tướng quân văn võ toàn tài, trí nhớ rất tốt, bội phục, bội phục”.

Thi Lang thoáng đỏ mặt, nghĩ thầm “Ngươi biết rõ là ta không làm được, là người khác làm, ta chỉ là đọc thuộc lòng thôi. Cái lối châm chọc này, cũng không cần phải nói chuyện nhiều với ngươi”.

Vi Tiểu Bảo nói “Mấy chữ Kẻ sĩ cùng khốn trong bụi lau, vì nghĩa mà có chuyện không làm là có ý gì? Ta học vấn kém cỏi, vẫn không hiểu được”.

Thi Lang nói “Kẻ sĩ cùng khốn trong bụi lau là nói Ngũ Tử Tư. Năm xưa y từ nước Sở chạy qua nước Ngô, tới cạnh bờ sông, có một ông chài đưa y qua sông, quay về lấy cơm cho y ăn, Ngũ Tử Tư sợ truy binh đuổi theo bắt được, núp trong bụi lau cạnh bờ sông. Ông chài quay lại, thấy trong bụi lau có người núp, bèn hát: Người trong bụi lau, người trong bụi lau, không phải kẻ sĩ cùng khốn sao? Về sau Ngũ Tử Tư suất lãnh quân Ngô, đánh phá nước Sở, đào mộ Sở Bình vương đánh ba trăm roi vào xác để trả cái thù giết cha anh y. Người được ban họ… Trịnh Thành Công từng giết cha anh vợ con của ta, người Đài Loan sợ ta sau khi chiếm được Đài Loan cũng sẽ đào mộ trả thù. Ty chức trong bài văn tế này nói loại việc như thế ta quyết không làm, Trịnh Thành Công trên trời khôn thiêng có thể yên tâm, quân dân Đài Loan cũng không cần lo lắng”.

Vi Tiểu Bảo nói “Té ra là thế. Thi tướng quân là tự ví mình với Ngũ Tử Tư”.

Thi Lang nói “Ngũ Tử Tư là đại anh hùng đại hào kiệt, ty chức làm sao dám so sánh? Chỉ có điều Ngũ Tử Tư cả nhà gặp nạn, một mình lẻ loi trốn đi, cuối cùng mang quân trở lại, trả được mối đại thù, về chi tiết ấy thì cũng không khác những tao ngộ của ty chức bao nhiêu”.

Vi Tiểu Bảo gật đầu nói “Chỉ mong tương lai kết cục của Thi tướng quân khác hẳn Ngũ Tử Tư, nếu không thì quả rất không hay”.

Thi Lang lập tức nhớ tới Ngũ Tử Tư lập công lớn với nước Ngô, về sau lại bị Ngô vương giết chết, bất giác biến hẳn sắc mặt, bàn tay cầm chén rượu không ngừng run lên.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Nghe nói Ngũ Tử Tư sau khi được lập công lớn thì trở nên kiêu ngạo, đối với Ngô vương rất bất kính. Thi tướng quân, ngươi tự ví với Ngũ Tử Tư quả thật rất không ổn đấy. Bài văn tế ấy của ngươi đương nhiên đã sớm truyền tới Bắc Kinh, hoàng thượng ắt cũng nhìn thấy rồi. Nếu không có ai phân biện cho ngươi trước mặt hoàng thượng, thì theo ta thấy, ha ha, ờ, đáng tiếc, đáng tiếc, một công lao to lớn như thế chỉ e đành gởi theo nước chảy…”. Thi Lang vội nói “Vi đại nhân minh giám, ty chức không nói mình là Ngũ Tử Tư, cũng không dám nói muốn làm Ngũ Tử Tư, chuyện này… hoàn toàn… hoàn toàn khác”.

Vi Tiểu Bảo nói “Bài văn tế ấy của ngươi lưu truyền khắp nơi, Thi tướng quân tự ví với Ngũ Tử Tư, thiên hạ đều biết cả rồi”.

Thi Lang đứng lên, run giọng nói “Hoàng thượng thánh minh, ơn đức như núi, bề tôi có công đều được bảo toàn. Ty chức hầu hạ một vị chúa tốt, so với Ngũ Tử Tư thì may mắn hơn nhiều”.

Vi Tiểu Bảo nói “Câu ấy không sai. Ngũ Tử Tư rốt lại suy nghĩ những gì thì ta không hiểu lắm. Có điều ta đã xem hát, lúc Ngô vương giết y, Ngũ Tử Tư nói hãy móc mắt ta treo ở cửa thành, để ta nhìn thấy quân Việt đánh vào kinh thành, nhìn thấy nước Ngô diệt vong, về sau dường như nước Ngô quả nhiên bị diệt. Thi tướng quân văn võ toàn tài, nhất định biết chuyện ấy, đúng không?”.

Thi Lang bất giác thấy một luồng hơi lạnh chạy suốt sống lưng, y lúc đầu chỉ nghĩ tới việc Ngũ Tử Tư lập đại công mà về sau bị Ngô vương giết chết là chuyện không hay, dĩ nhiên cảm thấy bất an, nhưng không nghĩ tới việc Ngũ Tử Tư lúc lâm tử còn nói mấy câu ấy. Trong bài văn tế của mình nói “Kẻ sĩ cùng khốn trong bụi lau, vì nghĩa mà có chuyện không làm”, tuy nói không làm việc mà Ngũ Tử Tư làm, nhưng ý ví mình với Ngũ Tử Tư thì rõ ràng hiển hiện trước mắt mọi người, trong bài văn tế nói tới Ngũ Tử Tư là chỉ nói tới việc “Đánh xác trả thù”, nào ngờ Vi Tiểu Bảo lại kéo cả chuyện “Rủa cho mất nước” vào, tội danh phạm điều cấm kỵ to lớn như thế lại để người ta trút lên đầu mình, đúng là vô cùng hỏng bét. Vi Tiểu Bảo nói năng như thế, chỉ cần đồn tới tai hoàng thượng thì cho dù hoàng thượng thánh minh, hoàn toàn không trách tội, trong lòng nhất định cũng không thích, từ nay mình cũng đừng mơ tưởng được thăng quan tiến chức nữa. Chỉ cần kẻ thân tín với hoàng đế như Vi Tiểu Bảo lửa đổ thêm dầu, bới móc thêu dệt, nói mình có lòng oán vọng, châm chọc mỉa mai triều đình giết hại công thần, thì quả thật rất khó giữ được cái đầu trên cổ.

Nhất thời ý nghĩ dồn dập kéo tới, tự hận mình ngàn lần không nên vạn lần không nên, không nên tới tế Trịnh Thành Công, không nên bảo sư gia làm bài văn tế ấy, đến nỗi bị thằng tiểu quỷ ranh mãnh này nắm được chỗ hở, Y đứng ngẩn ra đó, không biết nói câu gì để phân biện là hay.

Vi Tiểu Bảo nói “Thi tướng quân, sau khi hoàng thượng đích thân coi việc chính sự, việc lớn đầu tiên làm là việc gì?”. Thi Lang nói “Là giết chết gian thần Ngao Bái”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng thế. Ngao Bái cố nhiên là gian thần, nhưng y là cố mệnh đại thần, năm xưa xông thành hãm trận, có công rất lớn với nhà Đại Thanh ta. Hoàng thượng từng nói: Ta giết Ngao Bái, chỉ sợ có người nói ta không thể tuất công thần, nói chim gì đó cung gì đó. Câu ấy là thế nào nhỉ, ta lại không nhớ được”. Thi Lang nói “Là Điểu tận cung tàng”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng rồi, cả ngươi cũng nói thế”. Thi Lang vội nói “Không, không ta không phải là nói hoàng thượng, chỉ nói một câu thành ngữ thôi”, Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi nói một câu thành ngữ hình dung việc hoàng thượng giết Ngao Bái”. Thi Lang vội nói “Đại nhân hỏi ta là câu thành ngữ gì, ty chức chẳng qua là trả lời đại nhân, chứ ngàn vạn lần không dám… không dám chê bai phỉ báng hoàng thượng”.

Vi Tiểu Bảo hai mắt nhìn chằm chặp vào y, nhìn tới mức khiến Thi Lang tâm hoảng ý loạn.

Từ xưa đến nay người làm bề tôi nếu tự cho rằng công to mà được thưởng nhỏ, thì hoàng đế nhất định sẽ rất căm hận, bề tôi cũng không cần nói ra lời oán vọng, chỉ cần bốn chữ “Có lòng oán vọng” là đã phạm tội mất đầu. Thi Lang trong lúc hoảng hốt, bị Vi Tiểu Bảo dẫn dụ nói ra câu “Điểu tận cung tàng”, vừa nói ra khỏi miệng, lập tức biết là không hay, nhưng đã không kịp rút lại, huống chi ngoài Vi Tiểu Bảo còn có hai người Lâm Hưng Châu và Hồng Triều bên cạnh, nếu muốn chối cũng không được.

Vi Tiểu Bảo nói “Thi tướng quân nói Điểu tận cung tàng, câu ấy có chê bai phỉ báng hoàng thượng không thì ta không biết. Trong triều có nhiều Đại học sĩ, Thượng thư, Hàn lâm có học vấn, chúng ta không ngại gì mời họ bình phẩm. Có điều ta theo hoàng thượng đã lâu, dường như hoàng thượng thích nghe người ta nói y Điểu Sinh Ngư Thang chứ không thích nghe người ta nói y Điểu tận cung tàng. Cùng là điểu cả, nhưng chỉ sợ là rất khác nhau, một con là chim tốt, một con là chim xấu, đúng không?”.

Thi Lang vừa sợ vừa giận, nghĩ thầm một là không làm, hai là làm thì không thôi, ngươi vu hãm ta như thế thì cứ giết sạch ba người các ngươi, cũng khỏi lưu lại hậu hoạn, vừa nghĩ tới đó, bất giác trên mắt lộ ra hung quang.

Vi Tiểu Bảo thấy y đột nhiên vẻ mặt hung dữ, trong lòng không kìm được hoảng sợ, cười gượng nói “Thi tướng quân một lời nói ra, ngựa tứ khó đuổi. Trước mắt ngươi có hai cách. Thứ nhất là lập tức giết chết ta và Lâm Hồng hai người, lại giết hết các vị phu nhân và con ta, sau đó phát binh ở Đài Loan tự lập làm vương. Chỉ là quân ngươi mang theo đều là quân Thanh, chưa chắc đã chịu theo ngươi làm phản, quân dân Đài Loan cũng chưa chắc phục ngươi”.

Thi Lang trong lòng chính đang tính toán chuyện ấy, nghe y một câu nói toạc ra, vội vàng làm ra vẻ hòa hoãn, nói “Ty chức hoàn toàn không có ý đó, xin đại nhân đừng nghi ngờ, đổ cho ty chức tội danh nặng nề. Nhưng không biết cách thứ hai mà đại nhân nói là gì, xin đại nhân ra ơn chỉ giáo”.

Vi Tiểu Bảo nghe y nói nhũn, lập tức hơi yên tâm, ngồi bắt chéo chân rung đùi mấy cái, nói “Cách thứ hai thì phải được huynh đệ và hai vị Lâm Hồng giúp đỡ mới được. Mới rồi lúc Thi tướng quân nói về hoàng thượng quả thật có nói chữ Điểu, cung kính nói hoàng thượng là Điểu Sinh Ngư Thang thì quá tốt rồi, về sau ta gặp mặt hoàng thượng nhất định nói Thi tướng quân đặt chữ trung lên đầu, khăn khắn không quên hoàng ân hạo đãng, trong lúc nói chuyện phiếm thường nói Ngũ Tử Tư vong ơn phụ nghĩa, Ngô vương phát binh giúp y trả mối thù cho cha anh, về sau bất kể sai y làm việc gì y cũng phải xông vào nước lửa mà làm, tại sao lại có thể mở lời oán vọng, bất mãn trong lòng? Năm xưa nếu Thi tướng quân là Ngũ Tử Tư thì không những giữ được giang sơn của Ngô vương bền vững muôn muôn năm, đừng nói có thể giữ được loại mỹ nhân như Tây Thi, mà cả Đông Thi, Nam Thi, Bắc Thi, Trung Thi cũng có thể cướp tất về dâng cho Ngô vương. Ngũ Tử Tư khăn khắn không quên chính mình, còn Thi tướng quân khăn khắn không quên là thiên tử thánh minh nhà Đại Thanh ta. Có lòng tốt sẽ gặp điều tốt, thánh thượng luận công ban thưởng, Thi tướng quân tự nhiên sẽ được công hầu vạn đại”.

Câu ấy khiến Thi Lang trong lòng mừng rơn, vội vái dài một vái, nói “Nếu đại nhân nói tốt cho như thế trước mặt hoàng thượng, thì ty chức vĩnh viễn không dám quên ơn đức của đại nhân”.

Vi Tiểu Bảo đứng lên đáp lễ, mỉm cười nói “Nói câu ấy ra là Làm ơn không tốn tiền, chỉ cần lúc nào ta tâm tình khoan khoái, tự nhiên sẽ tâu với hoàng thượng thôi”.

Thi Lang nghĩ thầm “Nếu không cho ngươi đi Đài Loan một chuyến, thì thằng tiểu tử ngươi tâm tình làm sao khoan khoái được?”. Bèn ngồi xuống ghế nói “Đài Loan vừa bình, lòng người chưa định, ty chức định tâu lên hoàng thượng, sai một đại viên ngôi cao vọng trọng tới tuyên dụ đức âm của thánh thượng, vỗ về bách tính. Vị đại viên ấy tự nhiên chỉ có Vi đại nhân là thích hợp nhất. Ty chức sẽ lập tức dâng biểu tâu lên, xin hoàng thượng giáng chỉ ủy phái đại nhân tới Đài Loan tuyên chỉ vỗ về”.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Ngươi dâng biểu vào kinh, rồi chờ đến khi hoàng thượng có chỉ ban xuống, đi đi về về, ít nhất cũng phải mất mấy tháng, chỉ e những lới đồn đại này nọ lọt vào tai hoàng thượng không phải một ngàn thì cũng đã tám chín trăm câu. Nhưng việc thế này thì không được chậm trễ ba khắc một giờ. Tốt nhất là Thi tướng quân lập tức mời một đại viên thân tín của hoàng thượng cùng đi Đài Loan tra khám, mới có thể chứng minh ngươi tuyệt đối không có ý tự lập làm vương ở Đài Loan, ở ngoài đồn rằng ngay cả danh hiệu ngươi cũng đã quyết định rồi, gọi là Đại Minh Đài Loan Tịnh Hải vương gì đó, phải không?”.

Thi Lang nghe tới bảy chữ Đại Minh Đài Loan Tịnh Hải vương, bất giác hoảng sợ giật nảy mình, nghĩ thầm ngươi ở trên đảo hoang mà nghe tin đồn ở đâu được, tự nhiên là ngươi thuận miệng nói bừa ra, nhưng câu này mà truyền tới Bắc Kinh thì nhất định triều đình thà tin là có, đừng ngờ là không, mình sẽ chết không có đất chôn, vội nói “Đó là lời đồn, xin đại nhân ngàn vạn lần đừng tin”.

Vi Tiểu Bảo hờ hững nói “Đúng đấy. Ta và ngươi quen nhau đã lâu, tự nhiên là không tin. Có điều Thi tướng quân bình định Đài Loan, giết chết nhiều người, nhất định đã kết oán không ít. Kẻ thù của ngươi muốn hại ngươi, ta thấy không sao đề phòng, khó mà phân biện. Có câu rất hay là Nếu không vây cánh chớ làm quan. Không biết trong các đại quan trong triều có ai chịu đem hết thân gia tính mạng, ra sức che chở cho Thi tướng quân không?”.

Thi Lang tim càng đập thình thịch, quả thật trong triều mình không được người nào có thế lực giúp đỡ, nếu không năm xưa cũng không đến nỗi phải ngồi chơi xơi nước, khắp nơi từ tạ không còn cửa nào chạy chọt ở Bắc Kinh, người quả thật có thể nói giúp cho mình cũng chỉ có vị Vi đại nhân trước mặt, lúc ấy cắn cắn môi, nói “Đại nhân chỉ giáo, ty chức vô cùng cảm kích. Sự tình đã gấp rút, ty chức lớn mật mời đại nhân sáng mai khởi hành, tới Đài Loan tra xét rõ chân tướng”.

Vi Tiểu Bảo cả mừng, nhưng nghĩ là ngươi mời ta, không ngại gì làm khó, liền nói “Bằng vào giao tình giữa hai chúng ta thì để phân biện nỗi oan cho Thi tướng quân, có vất vả một phen cũng không đáng gì. Chỉ là ta ở trên đảo đã lâu, ra biển chỉ e bị say sóng. Đồng thời vợ con ta ngày nào cũng bên cạnh, cũng không nỡ chia tay với họ”.

Thi Lang trong bụng thầm hoảng sợ “Không biết ngươi ra biển đã bao nhiêu lần, mà trước nay cũng chưa từng thấy ngươi say sóng con mẹ nó lần nào!”. Bèn cười lấy lòng nói “Các vị phu nhân, công tử và tiểu thư của đại nhân tự nhiên cũng đi cùng. Ty chức sẽ chọn chiếc thuyền lớn nhất mời đại nhân ngồi, mấy hôm nay trên biển cũng không có sóng gió gì, xin đại nhân yên tâm”, Vi Tiểu Bảo cau mày nói “Nếu đã thế thì huynh đệ chỉ còn cách miễn cưỡng làm chuyện khó, đi một phen vì Thi tướng quân vậy”. Thi Lang luôn miệng cảm tạ.

Hôm sau Vi Tiểu Bảo mang bảy vị phu nhân, hai con trai là Hổ Đầu, Đồng Trùy và con gái là Song Song lên kỳ hạm của Thi Lang. Bành Tham tướng định cản trở, Thi Lang lập tức ra lệnh trói y vào một gốc cây. Đoàn thuyền nhổ neo lên đường.

Vi Tiểu Bảo nhìn nhìn đảo Thông Ngật đã cư trú mấy năm, cười nói “Nhà cái đã rời đảo rồi, chỗ đó không thể gọi là đảo Thông Ngật nữa, chúng ta phải đổi tên khác mới được”, Thi Lang nói “Đúng thế. Xin đại nhân xem thử đổi tên gì thì hay?”. Vi Tiểu Bảo ngẫm nghĩ rồi nói “Hoàng thượng phái người tới truyền chỉ, nói Chu Văn Vương có Khương Thái công câu cá, Quang Vũ đế có Nghiêm Tử Lăng câu cá, phàm là thiên tử thánh minh thì đều có trung thần câu cá. Hoàng thượng phái ta ở đây câu cá, chúng ta cứ gọi là đảo Điếu Ngư thôi”, Thi Lang vỗ tay khen hay, nói “Cái tên đại nhân đặt thật không gì tốt hơn, một là ca ngợi hoàng thượng giống Chu Văn vương, Hán Quang Vũ, hai là tỏ rõ đại nhân vừa như Khương Thái công văn võ toàn tài, vừa như Nghiêm Tử Lăng thanh cao phong nhã. Đúng, đúng, từ nay trở đi chúng ta gọi đây là đảo Điếu Ngư thôi”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Chỉ có điều tước Thông Ngật hầu của ta phải đổi là Điếu Ngư hầu, về sau thăng quan tiến tước, gọi là Điếu Ngư công gì đó thì nói ra nghe không hay lắm”, Thi Lang cười nói “Ngư ông được lợi, thu hoạch rất lớn, nói ra nghe tốt lắm chứ”, Vi Tiểu Bảo gật đầu nói “Hoàng thượng phong ta làm Thông Ngật bá, Thông Ngật hầu, ta thấy cũng dễ nghe, nhưng mấy vị phu nhân của ta lại không thích lắm. Về sau xin hoàng thượng đổi thành Điếu Ngư hầu, biết đâu mọi người sẽ rất vui vẻ”.

Thi Lang trong bụng thấy buồn cười, nghĩ thầm cái gì mà Thông Ngật bá, Thông Ngật hầu, đều là hoàng thượng đùa vui với ngươi, chỉ coi ngươi là một gã bề tôi làm trò hề, hoàn toàn không có ý tôn trọng, cho dù đổi làm Điếu Ngư hầu thì cũng có gì dễ nghe chứ, nhưng ngoài miệng lại nói “Từ xưa đã nói ngư tiều canh độc, ngư ông là đứng đầu, người đọc sách là ở cuối, các danh hiệu Điếu Ngư công, Điếu Ngư vương so ra còn tôn quý hơn Trạng nguyên, Hàn lâm nhiều”.

Đảo Điếu Ngư này có phải là đảo Điếu Ngư Đài về sau không thì đáng tiếc là sử sách không ghi chép nên không biết dựa vào đâu mà khảo cứu. Nếu có thể tìm được di tích của Vi Tiểu Bảo trên đảo, thì đúng là đầu niên hiệu Khang Hy, đảo này từng có người Trung Quốc cư ngụ lâu dài, mà còn từng phái năm trăm quân đóng giữ.

Sau một hải trình, Vi Tiểu Bảo ngồi trên kỳ hạm của Thi Lang đã tới Đài Loan, lên bờ ở phủ An Bình, dọc đường Lâm Hưng Châu và Hồng Triều kể rõ năm xưa Trịnh Thành Công tiến quân thế nào, đại phá quân Hồng Mao thế nào, Vi Tiểu Bảo nghe thấy rất thú vị. Thi Lang đã đưa y tới Đài Loan, lời lẽ của y cũng không còn ý châm chọc nữa.

Thi Lang mở đại tiệc trong phủ tướng quân, tiếp đón long trọng. Đang uống rượu, chợt có tin báo có chỉ dụ trong kinh đưa tới.

Thi Lang vội ra tiếp chỉ, lúc trở vào vẻ mặt khác lạ, nói “Vi đại nhân, thượng dụ nói muốn bỏ Đài Loan, thế thì hỏng bét”. Vi Tiểu Bảo ngạc nhiên nói “Vì sao thế?”. Thi Lang nói “Thượng dụ ra lệnh cho ty chức sắp xếp kế hoạch bỏ Đài Loan, dời tất cả quân dân trên toàn Đài Loan vào nội địa, không cho để lại một nhà một người. Ty chức thỉnh vấn sứ thần truyền chỉ, té ra đại thần trong triều kiến nghị, nói Đài Loan lẻ loi giữa biển, dễ trở thành sào huyệt giặc cướp, triều đình không dễ mà khống chế được, nếu phái quân đóng giữ lại tốn thêm binh lương, vì thế quyết ý bỏ luôn”.

Vi Tiểu Bảo trầm ngâm hồi lâu, hỏi “Thi tướng quân có biết dụng ý thật sự của các vị đại quan trong triều là thế nào không?”, Thi Lang cả kinh, run lên nói “Chẳng lẽ… chẳng lẽ câu nói của Ngũ Tử Tư gì đó đã đồn tới Bắc Kinh rồi sao?”, Vi Tiểu Bảo nội “Có câu Chuyện tốt không ra khỏi cửa, chuyện xấu đồn đi ngàn dặm. Triều đình lo Thi tướng quân quả thật muốn làm Đại Minh Đài Loan Tịnh Hải vương gì đó, chuyện ấy là có”.

Thi Lang nói “Vậy thì… vậy thì làm thế nào? Bách tính ở Đài Loan có mấy mươi vạn người an cư lạc nghiệp ở đây đã vài mươi năm, một phen kéo vào hết nội địa, bảo họ làm sao sống được? Nếu bức ép di cư, ắt xảy ra biến cố, huống chi quan binh Đại Thanh vừa bỏ đi, quân Hồng Mao sẽ lại tới chiếm cứ, cơ nghiệp người Trung Quốc chúng ta gian lao vất vả khai sáng ra, lại hai tay bưng lên đưa bọn quỷ Hồng Mao, như thế thì làm sao bảo người ta cam tâm cho được?”.

Vi Tiểu Bảo trầm ngâm một lúc, nói “Chuyện này ta thấy cũng không phải hoàn toàn không cứu vãn lại được. Hoàng thượng rất thể tất bách tính, tướng quân chỉ cần vì bách tính thỉnh mệnh, biết đâu hoàng thượng sẽ ưng thuận”. Thi Lang hơi yên tâm, nói “Có điều nếu trong triều đình lại có tiếng đồn đại gì đó, mà ty chức lại tâu xin với hoàng thượng như thế, thì tựa hồ không muốn rời khỏi Đài Loan, tỏ rõ ra… tỏ rõ ra có chỗ chưa hết lòng trung thành”, Vi Tiểu Bảo nói “Như vậy ngươi chỉ có cách lập tức lên Bắc Kinh, tâu hết mọi chuyện với hoàng thượng. Ngươi đã tới Bắc Kinh thì tất cả những lời đồn đại muốn tự lập làm vương ở Đài Loan gì đó tự nhiên sẽ không có ai tin nữa”.

Thi Lang vỗ đùi nói “Đúng, đúng! Đại nhân chỉ giáo rất đúng, ngày mai ty chức sẽ lên đường”. Đột nhiên linh cơ nhất động, nói “Văn võ quan viên ở Đài Loan xin đại nhân tạm thời thống lãnh. Hoàng thượng rất tín nhiệm đại nhân, chỉ cần đại nhân ngồi trấn Đài Loan thì đại thần trong triều không ai dám thừa hơi nói nửa câu”.

Vi Tiểu Bảo cả mừng, nghĩ thầm làm quan ở Đài Loan cũng rất thú vị, cười nói “Ngươi không có thánh chỉ, lại giao hết binh mã đại quyền cho ta, hoàng thượng mà trách phạt thì làm thế nào?”.

Thi Lang vừa nghe, lại cảm thấy ngần ngừ, nghĩ thầm “Y là đệ tử của Trần Cận Nam, đồng đảng của bọn phản nghịch Thiên Địa hội. Hoàng thượng tuy rất sủng ái y, nhưng mấy năm nay an trí y trên đảo Thông Ngật, không cho y cầm quyền làm việc. Y mà nắm được đại quyền binh mã vào tay, nếu lại liên kết với Thiên Địa hội tạo phản tác loạn, thì mình… mình cũng phải chịu tội chết”, chợt xoay chuyển ý nghĩ, đã nghĩ ra cách “Mình cứ mang tất cả thủy sư đi, y sẽ không dám động đậy. Nếu y to gan làm bậy, lớn mật làm phản, thủy sư quay lại, sẽ lập tức tiêu diệt y”. Lập tức cười nói “Bỉnh mã đại quyền nếu giao cho người khác biết đâu hoàng thượng sẽ trách phạt, chứ giao cho đại nhân thì không hề gì”.

Lúc ấy uống rượu qua loa rồi tan tiệc. Thi Lang suốt đêm ra lệnh triệu tập tất cả quan viên văn võ ở Đài Loan tới tham kiến Vi Tiểu Bảo, do y toàn quyền chỉ huy, tiện nghi hành sự, lại mời sư gia viết giúp Vi Tiểu Bảo một đạo tấu chương, nói là lo lắng việc nước, đặc biệt tới đảo Đài Loan tạm thời trấn thủ để triều đình không có mối lo về phía đông, xin tha cho tội chuyên quyền, lại nói bách tính ở Đài Loan an cư đã lâu, theo như thần ở Đài Loan chính mắt nhìn thấy thì dường như không triệt thoái là nên.

Mọi sự đâu vào đấy xong đã đến sáng, Thi Lang lập tức lên thuyền. Vi Tiểu Bảo hỏi “Có một việc lớn, ngươi đã chuẩn bị xong chưa?”. Thi Lang nói “Không biết chuyện lớn gì?”, Vi Tiểu Bảo cười nói “Hoa sai hoa sai!”, Thi Lang không hiểu, hỏi lại “Hoa sai hoa sai à?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Đúng thế. Lần này ngươi bình định Đài Loan công lao không nhỏ, đối với các vị đại thần trong triều, định tặng biếu bao nhiêu lễ vật?”. Thi Lang ngẩn ra, nói “Đây là nhờ oai đức của thiên tử, sức lực của tướng sĩ mới bình định được Đài Loan, chứ các đại thần trong triều chẳng mất chút sức lực nào”. Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Lão Thi này, ngươi vừa đắc ý thì thói cũ lại phát tác rồi. Ngươi bình định được Đài Loan, mọi người đều nói ngươi một mình nuốt hết bao nhiêu núi vàng núi bạc, vừa phát tài lớn. Những người làm quan trong triều, ai không nóng mắt?”, Thi Lang vội nói “Đại nhân minh giám, nếu Thi Lang mà có lấy riêng một lượng bạc của Đài Loan thì lần này cứ cho ta về Bắc Kinh sẽ bị hoàng thượng băm thành muôn mảnh, lăng trì xử tử”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi muốn làm quan liêm nhưng không thể bắt mọi người phải làm quan liêm như ngươi. Ngươi càng thanh liêm người ta càng dễ nói xấu ngươi, nói ngươi ở Đài Loan mua chuộc lòng người, mưu đồ bất pháp. Nói thế thì lần này ngươi tới Bắc Kinh là đi hai tay không, không mang lễ vật gì theo à?”, Thi Lang nói “Thổ sản của Đài Loan có đồ gỗ chạm, giỏ tre, chiếu cói, rương da, cũng có mang theo một ít”.

Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, cười tới mức khiến Thi Lang đỏ mặt tía tai, kế đó sực hiểu, rốt lại quyết tâm sửa lỗi, lập tức hướng về Vi Tiểu Bảo vái dài, nói “Đa tạ đại nhân chỉ giáo. Lần này suýt nữa ty chức lại gây ra đại họa”.

Vi Tiểu Bảo triệu tập văn võ bá quan, nói “Thi tướng quân lần này lên kinh là để thỉnh mệnh cho bách tính, nếu không thành công thì mọi người đều phải nhà tan cửa nát. Món thỉnh mệnh phí này, chẳng lẽ lại bắt một mình Thi tướng quân gánh vác sao? Các vị lão huynh, mọi người mau mau đi trù biện trù biện, thu xếp thu xếp!”

Thi Lang làm quan thanh liêm, sau khi tới Đài Loan chưa từng thu tiền bạc gì của dân gian. Lúc ấy Vi Tiểu Bảo thay quyền, mệnh lệnh đầu tiên là trưng thu “thỉnh mệnh phí.” Bách tính Đài Loan nghe tin phải dời vào nội địa, lòng người nơm nớp, được tin Thi Lang theo kế của Vi Tước gia, lên kinh thỉnh mệnh cho bách tính, xin không phải dời vào nội địa, nên món “thỉnh mệnh phí” này ai cũng cam tâm tình nguyện bỏ ra. May là dân gian Đài Loan giàu có, trong vòng nửa ngày đã thu xếp được hơn ba mươi vạn lượng bạc. Vi Tiểu Bảo sai quan khố trích ra hơn sáu mươi vạn lượng nữa, góp thành một trăm vạn lượng, lại chỉ dẫn cho y người nào phải tặng nhiều, người nào tặng ít cũng không sao. Thi Lang vô cùng cảm kích, đến canh một đêm ấy mới khai thuyền.

Hôm sau Vi Tiểu Bảo ra sảnh nói với các quan viên “Đêm qua Thi tướng quân lên đường về kinh, món thỉnh mệnh phí ấy tính tới tính lui, cũng chỉ có một trăm vạn lượng. Huynh đệ nghĩ cho bách tính Đài Loan, chỉ đành bỏ tiền túi ra, lại lấy hết trang sức châu báu của bảy vị phu nhân, tất cả góp được một trăm vạn lượng nữa, đưa cho Thi tướng quân mang đi để chi dùng, ờ, làm quan ở Đài Loan quả thật không dễ, huynh đệ chẳng qua chỉ mới là tạm giữ quyền mà ngay hôm đầu tiên đã lỗ mất một trăm vạn lượng. Phen này thì ta khuynh gia bại sản, toàn quân tan vỡ rồi”.

Tri phủ Đài Loan khom lưng nói “Đại nhân thương yêu bách tính, là bậc cha mẹ của dân, đúng là Vạn gia sinh Phật. Ngoài sáu mươi vạn lượng trong công khố, một trăm vạn lượng ấy của Vi đại nhân tự nhiên cũng phải do bách tính toàn Đài Loan trả lại”.

Vi Tiểu Bảo gật đầu nói “Mỗi người các ngươi cũng đều góp tiền vào đó, người nào cũng trở thành hai tay áo toàn gió mát, chuyện đó ta cũng không phải không biết. Các ngươi người làm quan lớn thì góp hàng vạn lượng, người làm quan nhỏ thì góp vài ngàn lượng, vài trăm lượng khác nhau, mọi người đồng tâm hiệp lực, làm tới làm lui, đều là vì bách tính thôi. Khoản tiền ấy tự nhiên cũng phải đòi địa phương trả lại. Chúng ta là quan phụ mẫu, cũng không thể đòi bách tính trả lãi, mọi người chịu thiệt một chút, lấy lại tiền vốn là kể như xong, cái đó gọi là Thương dân như con đấy”.

Các quan cả mừng, nhất tề cảm tạ, đều cảm thấy vị Vi đại nhân này thể thiếp thuộc hạ, có tiền thì mọi người cùng phát tài, quả nhiên là một vị thượng ty tốt.

Vi Tiểu Bảo hôm đầu tiên làm quan đã bỏ túi một trăm vạn lượng bạc, sau đó tiền bạc vào như nước, hoa dạng nhiều trò, không cần nói rõ.

***

Qua vài hôm, Vi Tiểu Bảo sai chuẩn bị tế khí, tới đền thờ Trịnh Thành Công tế lễ, muốn xem vị đại anh hùng Quốc tính gia lừng lẫy thiên hạ này rốt lại ra sao.

Vào tới trong đền, lúc ngẩng đầu nhìn, chỉ thấy tượng Trịnh Thành Công ngồi trên ghế, mặt tròn tròn dài dài, trên môi, dưới cằm đều có râu ngắn, hai vành tai rất lớn nhưng mắt lại nhỏ, lông mày cong cong, dáng vẻ rất hiền từ, hoàn toàn không có khí thế anh hùng oai mãnh. Vi Tiểu Bảo rất thất vọng, hỏi quan lại đi theo “Tướng mạo của Quốc tính gia có đúng thế này hay không?”. Lâm Hưng Châu nói “Pho tượng này rất giống Quốc tính gia. Quốc tính gia xuất thân là người đọc sách, tuy là đại anh hùng đại hào kiệt nhưng tướng mạo rất văn nhã”. Vi Tiểu Bảo nói “Té ra là thế”. Thấy mỗi bên tượng Trịnh Thành Công đều có một pho tượng nhỏ, bên trái là nữ bên phải là nam, liền hỏi “Hai người này là ai?”. Lâm Hưng Châu nói “Người nữ là Đổng thái phi, người nam là Tự vương gia”. Vi Tiểu Bảo nói “Cái gì mà Tự vương gia?”. Lâm Hưng Châu nói “Chính là công tử của Quốc tính gia, nối ngôi làm vương gia”. Vi Tiểu Bảo gật đầu nói “À, là Trịnh Kinh, cũng hơi giống thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng. Tượng Trần quân sư sư phụ ta đâu?”. Lâm Hưng Châu nói “Trần quân sư không có tượng”. Vi Tiểu Bảo nói “Đổng thái phi này rất xấu xa, mau kéo tượng thị ra, sai người mau tạc tượng Trần quân sư đặt vào đó để bầu bạn với Quốc tính gia”.

Lâm Hưng Châu cả mừng, đích thân bò vào khám thần, kéo tượng Đổng thái phi xuống. Vi Tiểu Bảo quỳ xuống trước tượng Trịnh Thành Công, dập đầu mấy cái, nói “Quốc tính gia, người là anh hùng hào kiệt, ta dập đầu với người, nghĩ chắc người cũng nhận. Con mụ kia làm hỏng việc lớn của người, mà hàng ngày bầu bạn với người, nhất định người sẽ tức giận, ta giúp người đuổi đi, để Trần quân sư sư phụ ta tới bầu bạn với người”. Y nghĩ tới sư phụ chết thảm, bất giác nước mắt ròng ròng.

Bách tính toàn Đài Loan căm hận Đổng thái phi thấu xương, mà Trần Vĩnh Hoa lập đồn điền dựng học đường, khơi nguồn lợi trừ mối tệ, có ơn đức với dân, bách tính gọi là Gia Cát Lượng của Đài Loan. Lúc Trịnh Khắc Sảng nắm quyền, không ai dám chê Đổng thái phi một câu, không dám khen Trần Vĩnh Hoa một câu. Lúc ấy Vi Tiểu Bảo ra lệnh bỏ tượng Đổng thái phi tạc tượng Trần Vĩnh Hoa, ai cũng hả dạ, lại nghe nói y dập đầu ứa lệ trước tượng Quốc tính gia, bách tính lại càng cảm kích. Tuy vị Vi đại nhân này làm tiền khá bạo tay, nhưng một vì y là đệ tử của Trần quân sư, quân dân Đài Loan không khỏi mến lây, hai là vì Thi Lang đem quân Thanh đánh chiếm Đài Loan, tiêu diệt một mảnh giang sơn còn lại ngoài biển của nhà Đại Minh, nên tuy “Thi liêm Vi tham”, nhưng bách tính lại cảm thấy vị Vi đại nhân trẻ tuổi này hòa nhã dễ gần, thà cứ để y trấn thủ Đài Loan, còn Thi Lang thì tốt nhất là vĩnh viễn đừng trở lại.

***

Nhưng việc trái với lòng, qua hơn một tháng, Thi Lang lại mang thủy sư trở lại Đài Loan.

Vi Tiểu Bảo ra bờ biển đón, chỉ thấy Thi Lang bồi tiếp một vị đại quan mặc quần áo nhất phẩm từ khoang thuyền bước ra. Viên đại quan ấy còn đang trên tấm ván lên bờ đã cao giọng gọi “Vi huynh đệ, ngươi khỏe không? Ca ca nhớ ngươi chết được!”, té ra là Sách Ngạch Đồ. Vi Tiểu Bảo cả mừng, vội bước lên đón. Hai người nắm tay nhau trên tấm ván, hô hô cười rộ.

Sách Ngạch Đồ cười nói “Huynh đệ, có tin mừng lớn, có tin mừng lớn. Hoàng thượng hạ chỉ gọi ngươi về Bắc Kinh”.

Vi Tiểu Bảo trong lòng vừa mừng vừa lo, nghĩ thầm “Nếu mình muốn về Bắc Kinh, thì đã về rồi. Tiểu hoàng đế rất cố chấp, y quyết không chịu đầu hàng mình. Mình không chịu đánh Thiên Địa hội, y cũng không chịu gặp mặt mình”.

Thi Lang cười hì hì nói “Hoàng ân hạo đãng, đúng là không sao nói được. Hoàng thượng đã ưng thuận thu lại chỉ ý dời dân Đài Loan vào nội địa”.

Hơn một tháng nay quân dân Đài Loan ngày đêm lo lắng, sợ hoàng đế cứ nhất định giữ ý bỏ Đài Loan, miệng hoàng đế là “Kim khẩu”, đã nói ra thì quyết không lẽ nào hối hận. Thi Lang vừa nói câu ấy ra, quan quân trên bờ nghe thấy, nhịn không được lớn tiếng hò reo, nhất tề hô lớn “Vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế”.

Tin tức không có kinh mạch mà truyền đi, khắp nơi reo hò ầm ầm, kế đó pháo nổ tạch tạch đùng đùng, còn nhiệt náo hơn cả ngày tết. (**)

Thi Lang từng tâu xin giảm thuế ruộng đất cho Đài Loan, Khang Hy theo lời, rất có ơn huệ với bách tính Đài Loan. Con thứ của Thi Lang là Thi Thế Luân, làm quan thanh liêm, bình dân bách tính mà có tranh chấp với quan lại thân hào, Thi Thế Luân ắt bênh vực bình dân, vì thế dân gian gọi ông là Thi Thanh Thiên, tức nhân vật chính trong bộ Thi công án đời sau. Con thứ sáu của Thi Lang là Thi Thế Phiêu, làm Đề đốc Thủy sư Phúc Kiến, năm Khang Hy thứ 60 trấn thủ Đài Loan, sử sách khen “Ngày mười ba tháng tám, bão lớn mưa to gây ra thiên tai, quân dân nhiều người chết, Thế Phiêu cả đêm ngoài trời nên bị bệnh, tháng chín chết trong quân, triều đình hạ chỉ hậu tuất, tặng hàm Thái tử Thái bảo”. Người này giữa lúc Đài Loan bị bão lớn mà suốt đêm ở ngoài trời chỉ huy quân sĩ cứu nạn, vì thế bệnh chết, cũng có thể nói là vị quan tốt thương dân.

Sách Ngạch Đồ truyền chỉ của hoàng đế khen ngợi Vi Tiểu Bảo, sai y lập tức về kinh để giao việc khác. Vi Tiểu Bảo tạ ơn xong, hai người vào nội đường mật đàm.

Sách Ngạch Đồ nói “Huynh đệ, lần này ngươi thể diện thật không nhỏ đâu, hoàng thượng sợ ngươi còn lo lắng, nên sai ta tới giục ngươi về. Ngươi có biết lần này hoàng thượng định sai ngươi làm việc gì không?”. Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Hoàng thượng thần cơ diệu toán, bọn nô tài chúng ta ngàn vạn lần không sao đoán được”. Sách Ngạch Đồ ghé sát vào tai y, hạ giọng nói “Đánh bọn quỷ La Sát!”.

Vi Tiểu Bảo sau lúc sửng sốt, nhảy bật lên kêu lớn “Hay quá!”.

Sách Ngạch Đồ nói “Hoàng thượng nói ngươi biết tin xong nhất định sẽ vô cùng mừng rỡ, quả nhiên không sai. Huynh đệ, từ niên hiệu Thuận Trị bọn quỷ La Sát đã chiếm một dải Hắc Long Giang của chúng ta, mười phần ngang ngược. Tiên đế và hoàng thượng khoan hồng đại lượng, không thèm tranh chấp, nào ngờ bọn quỷ La Sát được đàng chân lân đàng đầu, chiếm đất ngày càng nhiều. Liêu Đông là đất căn bản của nhà Đại Thanh ta, làm sao có thể để bọn họ uy hiếp? Hiện đã dẹp yên bọn phản nghịch Tam phiên và họ Trịnh Đài Loan, thiên hạ yên ổn, hoàng thượng đã quyết ý dùng quân với La Sát”.

Vi Tiểu Bảo ở không trên đảo Thông Ngật mấy năm, bứt rứt như chơi bài cẩu rút phải đôi Biệt thập liên tiếp mười ván, bây giờ nghe được tin ấy, vui mừng tới mức há miệng ra không ngậm lại được.

Sách Ngạch Đồ lại nói “Hoàng thượng để bớt việc yên dân, từng hạ mấy đạo dụ chỉ cho đại hãn nước La Sát, nhưng đối phương thủy chung vẫn không phúc đáp. Về sau sứ thần Hà Lan thuật lại, nói nước La Sát tuy lớn nhưng là nước man di, cả nước không có người nào biết văn tự của Trung Hoa thượng quốc, nên nhận được dụ chỉ của hoàng thượng không biết nói gì, vì thế chỉ còn cách không phúc đáp. Nhưng việc quân La Sát xuống nam chiếm đất thì thủy chung vẫn không chấm dứt. Hoàng thượng nói Trung Hoa thượng quốc chúng ta hiểu rõ nhân nghĩa, đối với Man Di không thể không dạy mà giết, phải làm cho họ biết lỗi trước, có cơ hội sửa bỏ lỗi lầm, nếu sau khi dạy bảo rồi vẫn cứng cổ không tuân giáo hóa, thì lúc ấy chỉ còn cách tru diệt thôi. Các đại thần trong triều, chỉ có một mình huynh đệ biết tiếng La Sát”. (***)

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Té ra vì mình biết tiếng La Sát, nên tiểu hoàng đế mới đầu hàng mình”, không kìm được hoa chân múa tay, vô cùng đắc ý.

Sách Ngạch Đồ cười nói “Huynh đệ tinh thông tiếng La Sát, cố nhiên mười phần tài giỏi, nhưng còn có một việc lớn càng không ai bằng được. Nghe nói Nhiếp chính nữ vương nước La Sát là chị đại hãn, vị nữ vương này là người tình cũ của huynh đệ, phải không?”. Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, nói “Nữ nhân La Sát toàn thân đẩy lông vàng, Nhiếp chính nữ vương Tô Phi Á ấy tướng mạo quả thật không kém, nhưng da dẻ trên người thị sờ vào thì rất nhám tay”. Sách Ngạch Đồ cười nói “Hoàng thượng là muốn huynh đệ xuất mã, cố làm chuyện khó, tới sờ thêm cô ta vài cái”. Vi Tiểu Bảo cười lắc đầu, nói “Không ngon, không ngon”. Sách Ngạch Đồ nói “Huynh đệ sờ một cái thì hai nước giao hiếu, từ nay tránh được tai họa binh đao, là một công lao an bang định quốc lớn đấy”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Té ra hoàng thượng không phải phái ta cầm quân đánh nhau, mà muốn ta thi triển Thập bát mô thần công, hô hô!”. Rồi nghêu ngao “Sờ một lần, sờ hai lần, Sờ tới cạnh đầu nữ vương nước La Sát. Đầu tóc nữ vương nước La Sát như vàng, Sách đại ca và Vi Tiểu Bảo hoa sai hoa sai thôi!”. Hai người nhìn nhau cười rộ.

Vi Tiểu Bảo hỏi kỹ tình hình nước La Sát xâm chiếm Hắc Long Giang, Sách Ngạch Đồ kể lại tỉ mỉ.

Nguyên là từ niên hiệu Vạn Lịch nhà Minh, người nước La Sát đã quyết ý nam xâm (La Sát tức Nga La Tư. Thanh sử cảo, Lang hoàn đẳng truyện nói “Nga La Tư gọi là La Sát, là do dịch âm nhanh chậm mà khác nhau vậy”. Đọc chậm thì là Nga La Tư, đọc nhanh thì là La Sát. Đọc theo đúng tiếng Nga thì giống La Sát hơn)(****). Trước sau họ xây thành tại Thác Mộc Tư Khắc, Diệp Ni Tư Khắc, Nhã Khố Thứ Khắc, Ngạc Hoắc Thứ Khắc ở Tây Bá Lợi Á. Năm Thuận Trị thứ sáu, người La Sát xây thành ở núi Lộc Đỉnh, gọi là A Nhĩ Ba Thanh (Trung Quốc gọi là thành Nhã Khắc Tát), đồng thời theo sông tiến xuống phía nam, cướp bóc trên đường. Năm Thuận Trị thứ chín, Đô thống Ninh Cổ Tháp nhà Thanh là Hải sắc dẫn hai ngàn quân đánh lùi quân La Sát trên bờ Hắc Long Giang, về sau lại giao chiến ở cửa sông Tùng Hoa, Đô thống Minh An nhà Thanh là Đạt Lý hăng hái đánh nhau, đại phá quân La Sát. Quân La Sát lui về phía bắc, xây thành ở Ni Bố Sở, lại sai sứ giả về Mạc Tư Khoa xin viện binh. Sứ giả trên đường phao tin, nói ở một dải Hắc Long Giang vàng bạc đầy đất, bò ngựa thành đàn, nhà dân đều dát vàng. Người La Sát mong phát tài lớn, kết đoàn xuống nam, dọc đường cướp bóc, tàn hại bách tính, kỵ binh Ca Tát Khắc là hung ác nhất. Đô thống Ninh Cổ Tháp nhà Thanh là Sa Nhĩ Hồ Đạt, Tướng quân Ninh Cổ Tháp là Ba Hải dẫn quân ngăn chặn, năm Thuận Trị thứ mười sáu, mười bảy liên tiếp đánh thắng mấy trận, giết chết đại tướng thống lãnh quân La Sát, chém chết quá nửa kỵ binh Ca Tát Khắc. Từ đó người La Sát không dám tới vùng Hắc Long Giang nữa.

Đến đầu niên hiệu Khang Hy, quân dân La Sát lại ào ạt kéo xuống phía nam, lấy thành Nhã Khắc Tát làm căn cứ. Khang Hy dần lớn lên, biết người nước La Sát dã tâm rất lớn, bèn tăng cường phòng thủ, lại dời thủy sư Cát Lâm tới đóng ở Hắc Long Giang. Quân La Sát cũng không ngừng gia tăng quân số, xây dựng thành Nhã Khắc Tát mười phần kiên cố, đồng thời đặt dịch trạm dọc theo những đường giao thông quan trọng nối liền với nước La Sát, quyết tâm thôn tính hết vùng đất rộng lớn ở một dải Hắc Long Giang. Lúc ấy Khang Hy đang dốc toàn lực đối phó với Ngô Tam Quế, không thể chia quân ngăn chặn quân La Sát xâm lược, đến khi Tam phiên đã bình, họ Trịnh Đài Loan đã hàng, không có mối lo bên trong, mới chuyên tâm ứng phó. Nhớ tới Vi Tiểu Bảo từng tới Mạc Tư Khoa, không những hiểu rõ tình hình nước ấy mà còn có quan hệ không phải tầm thường với Nhiếp chính nữ vương nắm đại quyền của nước La Sát, từng hiến kế giúp cô ta thoát nạn đoạt quyền, nhận tước phong của cô ta, đây là một con cờ lợi hại trong tay, sao lại không dùng? Biết y đã tới Đài Loan, lập tức sai Sách Ngạch Đồ tới tuyên triệu.

Vi Tiểu Bảo dắt vợ con, sai phu phen khiêng vác “Tiền Thỉnh mệnh” phát tài được ở Đài Loan, tay áo đầy vàng, xuống thuyền lên bắc. Lúc lên đường hỏi Thi Lang đem bọn tướng lĩnh cũ của họ Trịnh ở Đài Loan là Hà Hựu, Lâm Hưng Châu, Hồng Triều và năm trăm quân khiên mây theo. Thi Lang biết lần này y tới kinh nhất định sẽ được trọng dụng, mình đang rất cần y hết sức giúp đỡ trong triều, tự nhiên luôn miệng ưng thuận, lại tặng biếu y và Sách Ngạch Đồ rất trọng hậu.

Bách tính Đài Loan biết triều đình thu lại chỉ ý dời tất cả dân Đài Loan vào nội địa là nhờ công lao rất lớn của vị Vi đại nhân trẻ tuổi này, người người cảm kích, tiễn tặng vô số lọng Vạn dân, cờ Vạn dân. Lúc Vi Tiểu Bảo lên thuyền, hai vị kỳ lão tụt giày của y bưng cao lên, nói là giữ lại để nhớ ơn. Nghi thức “Thoát hài” này vốn là quan địa phương thanh liêm ngay thẳng, bách tính yêu thương mới tiến hành, mà loại tham quan như Vi Tiểu Bảo cũng mặc nhiên được hưởng vinh dự, thật không những Tiền vô cổ nhân, mà e còn Hậu vô lai giả.

Chuyện pháo trúc nổ ran đưa tiễn, thì càng không cần phải nói.

(*) (Xét : Trịnh Thành Công từ Bành Hồ tấn công vào Đài Loan, là từ vùng phụ cận Đài Nam hiện nay lên bộ, lúc ấy trọng binh của người Hà Lan đều đóng ở một dải Đài Nam).

(**) Chú : Theo sử sách ghi chép, lúc ấy triều đình nhà Thanh quyết ý bỏ Đài Loan, đã thành chủ trương, toàn nhờ Thi Lang ra sức tranh biện, Đại học sĩ Lý Úy lại ra sức giúp đỡ bên trong, mới quyết định thiết lập quan lại, phái quân đồn trú. Lúc bấy giờ chuyện này giống như việc nhỏ, nhưng với hậu thế lại có ảnh hưởng rất to tát. Nếu năm ấy Thi Lang không ra sức tranh biện, triều đình nhà Thanh đánh dẹp họ Trịnh xong lại lập tức bỏ luôn Đài Loan, dời tất cả quân dân vào nội địa, thì người Hà Lan ắt sẽ quay lại, Đài Loan từ đó sẽ không còn thuộc bản đồ Trung Quốc nữa. Vì thế lúc ấy tuy không ít người gọi Thi Lang là Hán gian, nhưng đối với dân tộc Trung Hoa mà nói thì việc ra sức bài bác chủ trương bỏ Đài Loan, giữ được một vùng đất rộng lớn trên bản đồ Trung Quốc, công lao cũng có thể nói là rất lớn.

(***) Xét : Đường thời việc giao thiệp Trung Nga thường không biết ngôn ngữ văn tự của nhau, quả có chuyện ấy. Sử chép Sa hoàng nước Nga gửi thư cho Khang Hy có nói “Trước đây thư của hoàng đế gửi cho, hạ quốc không ai hiểu được, chưa nghe theo là vì như thế”.

(****) Tức phiên âm Hoa Nga của từ Russia- ND.

Hồi 47: Mây điểm tinh kì thu tới ải – Gió truyền còi trống tối qua quan

Một hôm, thuyền tới Đường Cô. Đoàn người bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ lên bộ đi tiếp, qua Thiên Tân tới Bắc Kinh. Vi Tiểu Bảo vào tới cửa kinh đô, quả có cảm giác như vừa qua kiếp khác, trong lòng mừng rơn, lập tức vào yết kiến hoàng đế.

Khang Hy đang trong Thượng thư phòng, lập tức truyền kiến. Vi Tiểu Bảo bước tới trước mặt Khang Hy, quỳ xuống dập đầu, còn chưa đứng lên, trong lòng vui buồn xen lẫn, nhịn không được phục luôn xuống đất buông tiếng khóc lớn.

Khang Hy thấy Vi Tiểu Bảo tới, trong lòng nửa mừng nửa giận, nghĩ thầm “Thằng tiểu tử này vô pháp vô thiên, lại dám trái chỉ. Lần này tuy phái y đi làm việc nhưng cũng phải răn dạy y một phen, để y khỏi được sủng ái mà kiêu căng, lại không quản thúc được”. Nào ngờ Vi Tiểu Bảo vừa gặp mặt đã khóc lớn, Khang Hy trong lòng cũng mềm ra, cười nói “Con mẹ nó, thằng tiểu tử ngươi gặp lão tử, tại sao lại khóc?”.

Vi Tiểu Bảo khóc nói “Nô tài chỉ cho rằng suốt đời suốt kiếp không được thấy mặt hoàng thượng nữa. Hôm nay lại được gặp, quả thật rất vui mừng”. Khang Hy cười nói “Đứng lên đi, đứng lên đi! Để ta nhìn ngươi nào”. Vi Tiểu Bảo bò dậy, trên mặt đầy nước mắt nước mũi, nhưng khóe miệng lại hé nụ cười.

Khang Hy cười nói “Con mẹ nó, thằng tiểu tử ngươi cũng cao lên đấy”. Đột nhiên nổi ý trẻ thơ, bước xuống ngự tọa, nói “Chúng ta đo đo xem rốt lại là ngươi cao hơn hay ta cao hơn”, rồi bước tới đứng sóng vai với y. Vi Tiểu Bảo nhìn thấy y cao suýt soát mình, nhưng hoàng thượng muốn so cao thấp, há lại có thể cao hơn hoàng thượng, lập tức hơi khuỵu gối xuống một chút.

Khang Hy đưa tay đo đo trên đầu hai người, thấy mình cao hơn khoảng không đầy một tấc, cười nói “Chúng ta cao bằng nhau”, rồi bước ra mấy bước, cười nói “Tiểu Quế tử, ngươi sinh được mấy đứa con rồi?”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài rất vô dụng, chỉ sinh được hai trai một gái”. Khang Hy hô hô cười rộ, nói “Thế thì ta hơn ngươi nhiều, ta đã có bốn con trai, ba con gái rồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng hùng tài đại lược, tự nhiên… tự nhiên rất cao cường”. Khang Hy cười nói “Mấy năm không gặp nhau, học vấn của ngươi cũng chẳng tiến bộ chút nào. Chuyện sinh con thì có liên quan gì với hùng tài đại lược chứ?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Chu Văn vương trước kia có một trăm con trai, phàm là hoàng đế tốt thì nhất định đông con”. Khang Hy cười hỏi “Sao ngươi biết?”. Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng phái nô tài đi câu cá, chúng ta cũng giống như Chu Văn vương và Khương Thái công. Chuyện Chu Văn vương tự nhiên nô tài phải hỏi rõ, để lúc gặp hoàng thượng không đến nỗi không biết lấy gì mà trả lời”.

Mấy năm nay Khang Hy bận rộn lo đánh Ngô Tam Quế, ngày đêm vất vả lo lắng việc nước, bên cạnh không có gã bầy tôi thiếu niên Vi Tiểu Bảo này để cười đùa giải muộn, có lúc cũng cảm thấy rất tịch mịch, lúc ấy vua tôi trùng phùng, vô cùng vui mừng, nói chuyện phiếm hồi lâu, hỏi cuộc sống của y trên đảo Thông Ngật, lại hỏi tới phong thổ dân tình Đài Loan.

Vi Tiểu Bảo nói “Đài Loan đất đai màu mỡ, khí hậu ấm áp, có nhiều sản vật, bách tính sống rất sung sướng, biết hoàng thượng chuẩn cho họ được ở lại Đài Loan, ai cũng cảm kích hoàng ân hạo đãng, đều nói hoàng thượng đúng là Điểu Sinh Ngư Thang không bớt không trừ”. Khang Hy gật đầu nói “Làm chính sự thì lấy việc không quấy nhiễu dân làm đầu. Bách tính đã an cư lạc nghiệp ở Đài Loan, nếu bắt họ phải dời vào nội địa quả là quấy nhiễu dân rất lớn. Các đại thần trong triều không biết rõ tình hình Đài Loan, nghị luận bừa bãi, suýt lỡ mất việc lớn. Ngươi và Thi Lang ra sức can ngăn, công lao không nhỏ”.

Vi Tiểu Bảo phịch một tiếng quỳ xuống, dập đầu nói “Nô tài nhiều lần trái chỉ, có chém mười bảy mười tám cái đầu cũng đáng tội, bất kể có công lao gì cũng xin hoàng thượng không cần nhớ tới. Chỉ xin hoàng thượng ra ơn, tha mạng cho nô tài, cho ta được hầu hạ bên cạnh người”.

Khang Hy mỉm cười nói “Ngươi biết là chém mười bảy mười tám cái đầu cũng đáng tội, nhưng tiếc là ngươi không có mười tám cái đầu, nếu không thì ta nhất định đã chém mười bảy cái rồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Vâng, vâng. Nô tài cũng không cần có nhiều đầu, chỉ cần giữ được một cái, có cái miệng để nói chuyện ăn cơm thì trong lòng cũng thỏa mãn rồi”. Khang Hy nói “Cái đầu này có giữ được không thì còn phải xem từ nay trở đi ngươi có trung thành không, dám trái chỉ không”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài Để chữ trung lên đầu, Lòng trung rỡ rỡ, Mật đỏ lòng trung, Tận trung báo quốc”.

Khang Hy nói “Ngươi nhớ được nhiều thành ngữ có chữ trung đấy, còn gì nữa không?”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài trong lòng chỉ có một chữ trung, tự nhiên là nhớ rất nhiều. Ví dụ như… ví dụ như Trung quân ái quốc, Trung thần không sợ chết, sợ chết chẳng trung thần, còn có Trung hậu thành thật…”. Khang Hy nói “Thôi đứng lên đi. Ngươi mà trung hậu thành thật thì trên đời không còn kẻ điêu ngoa xảo trá nữa”.

Vi Tiểu Bảo đứng lên, nói “Bẩm hoàng thượng, ta chỉ trung với một mình người thôi. Đối với người khác thì không trung gì lắm, có lúc biết đâu cũng gian gian một chút. Tính nô tài có chút lưu manh, chuyện đó hoàng thượng rất biết mà. Có điều ta đối với hoàng thượng rất biết trung thành, đối với bằng hữu thì rất biết nghĩa khí, lúc trung nghĩa đôi bề không thể trọn vẹn thì nô tài chỉ đành co đầu rụt cổ, câu cá trên đảo Thông Ngật thôi”.

Khang Hy nói “Ngươi không cần lo, không cần nói trước, ta không bắt ngươi đánh Thiên Địa hội đâu”. Rồi chắp tay sau lưng, đi đi lại lại, thong thả nói “Ngươi đối với bằng hữu rất biết nghĩa khí, đó là nết tốt, ta cũng không trách ngươi. Bậc thánh nhân hiểu rõ đạo trung thứ, chữ trung ấy cũng không chỉ nói chuyện thờ vua, mà hết lòng hết sức với bất kỳ ai cũng đều là trung. Hai chữ trung nghĩa, vốn là một mà hai, hai mà một. Ngươi thà chết không chịu phản bạn, không chịu vì vinh hoa phú quý mà bán đứng bạn bè, cũng kể là hiếm có, rất có phong thái cổ nhân. Ngươi đã không chịu phản bạn, tự nhiên sẽ không phản ta. Tiểu Quế tử, ta tha tội cho ngươi không phải chỉ vì những công lao trước đây của ngươi, không phải chỉ vì hai chúng ta từ nhỏ đã rất hợp nhau, mà còn vì ngươi coi trọng nghĩa khí thì hoàn toàn không có gì xấu”.

Vi Tiểu Bảo cảm kích rơi lệ, nghẹn ngào nói “Nô tài… nô tài chuyện gì cũng không biết, chỉ biết người khác thật lòng đối xử tốt với ta, thì quả thật… quả thật không thể… không thể có lỗi với y”.

Khang Hy gật gật đầu, nói “Nhiếp chính nữ vương nước La Sát đối với ngươi cũng không kém đâu, ta phái ngươi đi đánh thị thì thế nào?”.

Vi Tiểu Bảo phì một tiếng bật cười, nói “Cô ta bị ngươi ta giam cầm, suýt nữa không giữ được tính mạng, nô tài xúi cô ta dùng súng gây loạn, đoạt được ngôi cao, cũng tính là tốt với cô ta rồi. Cô ta phái quân định tới xâm chiếm giang sơn cẩm tú của hoàng thượng thì ngàn vạn lần không tha thứ cho cô ta được. Cô gái này tính tình lẳng lơ, hôm nay lẹo tẹo với người đàn ông này, ngày mai lẹo tẹo với người khác, không thể coi là thật lòng. Chỉ tiếc nước La Sát quá xa, nếu không nô tài đem một đội quân đi bắt nữ vương ấy về cho hoàng thượng xem thì cũng thú vị”.

Khang Hy nói “Năm chữ Nước La Sát quá xa rất quan trọng, chỉ bằng vào năm chữ ấy thì trận này chúng ta sẽ nắm chắc phần thắng. Nước La Sát tuy có hỏa khí lợi hại, kỵ binh kiêu dũng, nhưng họ ở xa, chúng ta ở gần. Họ vạn dặm xa xôi xuống nam, quân lính, ngựa chiến, súng ống, đạn dược, lương thực, quần áo, cái gì cũng không dễ tiếp tế. Hiện ta đã phái Thượng thư bộ Hộ Y Tang A tới Ninh Cổ Tháp xây dựng hai thành Ái Hồn, Hô Mã Nhĩ, tích trữ lương thảo đạn dược, lại đặt mười dịch trạm để việc cung ứng lương thực quân nhu được thông suốt, ùn ùn không dứt. Hôm trước lại đã truyền chỉ cho Mông Cổ sai không được buôn bán với người La Sát. Lại sai Tướng quân Hắc Long Giang là Tát Bố Tố phái kỵ binh túa ra các nơi, nếu thấy xe lương thảo của người La Sát thì phóng hỏa đốt con mẹ nó đi, thấy ngựa chiến của quân La Sát thì lập tức giết con mẹ nó đi”.

Vi Tiểu Bảo cả mừng, nói “Hoàng thượng điều động như thế, đúng là cái gì trong cái gì mà cái gì ngoài ngàn dặm, trận này đã nắm chắc bảy tám phần thắng rồi”.

Khang Hy nói “Không phải như thế. La Sát là nước lớn, theo Nam Hoài Nhân nói thì địa giới còn rộng lớn hơn cả Trung Quốc chúng ta, quyết không thể khinh địch. Nếu chúng ta thua trận, Liêu Đông mà mất, gốc nước sẽ lung lay. Họ mà thua thì cũng không quan hệ gì tới đại cuộc, chẳng qua là lui về phía bắc mà thôi. Vì thế trận này chỉ được thắng không được thua, nếu ngươi thua thì ta sẽ dẫn quân ra ngoài cửa quan thân chinh. Chuyện đầu tiên sẽ là chém đầu ngươi đấy”, lúc nói câu này thanh âm rất nghiêm khắc.

Vi Tiểu Bảo nói “Xin hoàng thượng yên tâm. Nếu cái đầu trên cổ của nô tài không giữ được thì cũng để quân La Sát chém, chứ quyết không để hoàng thượng chém đâu”. Khang Hy nói “Ngươi biết rõ như thế thì tốt. Binh là việc dữ, đánh là việc nguy, ai cũng khó nắm chắc phần thắng. Ta chỉ là dặn ngươi ngàn vạn lần không được khinh suất, đánh nhau không phải là chuyện mồm mép trơn tuột đâu”. Vi Tiểu Bảo cung cung kính kính nói “Vâng”.

Khang Hy lại nói “Nếu chỉ nói việc hành quân đánh nhau thì vốn cũng không cần tới ngươi. Có điều lần này đánh nhau với nước La Sát hoàn toàn không phải là muốn tiêu diệt họ, chỉ là muốn họ biết khó mà lui, không dám tới xâm lấn đất đai của chúng ta là được rồi. Vì thế phải dùng cả ân uy, muốn họ mang ơn đội đức, hai nước vĩnh viễn giao hiếu. Chứ nếu chỉ biết cắm đầu đánh giết, vua nước La Sát thẹn quá hóa giận, dốc cả nước tới đánh, thì cho dù chúng ta có thắng cũng binh lửa liên miên, kết oán với người, cái được không bù được cái mất. Có thể hòa thì hòa, không đánh mà khuất phục được người, đó mới là điều hay nhất. Nếu ngươi có thể nói để Nhiếp chính nữ vương nước La Sát ra lệnh lui quân, hai nước giảng hòa, mới là công lao lớn”.

Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài gặp tướng quân của nước La Sát sẽ đem lới thánh luận của hoàng thượng chỉ giáo cho y, bảo y báo lại cho Nhiếp chính nữ vương nước La Sát”.

Khang Hy nói “Ta đã cho gọi vài giáo sĩ Tây dương tới, hỏi rõ lai lịch các triều, phong thổ địa lý, việc quân việc dân của nước La Sát…”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng, đúng. Hoàng thượng đã biết họ lại biết mình như thế, sẽ trăm trận trăm thắng”. Khang Hy cười khẽ một tiếng, nói “Các giáo sĩ ấy nói, người La Sát khinh người lành mà sợ kẻ ác, nếu chỉ nói ngọt với họ, họ sẽ được đằng chân lân đằng đầu, càng lúc càng hung hăng, cần phải tỏ rõ ra cho họ biết chúng ta không dễ chơi. Vì thế chúng ta một mặt phát động đại quân, chuẩn bị đầy đủ, cần đánh lả đánh, mặt khác phải tỏ rõ ra chúng ta là nước lễ nghĩa, Trung Hoa thượng quốc, hoàn toàn không tùy tiện cậy mạnh khinh người”.

Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài hiểu rồi. Chúng ta có lúc bôi mặt đỏ, rút đao múa may con mẹ nó, có lúc thì bôi mặt trắng, cười hì hì vuốt ve họ mấy cái. Cũng giống như Gia Cát Lượng bảy lần bắt Mạnh Hoạch, phải cho y thua tới mức khép nép vâng dạ, từ đó không dám làm phản nữa”.

Khang Hy cười ha hả, nói “Đúng là thế đấy”. Vi Tiểu Bảo thấy vẻ mặt y cười rất khác lạ, vừa xoay chuyển ý nghĩ đã hiểu rõ lý do, liền cười nói “Cũng như Vạn tuế gia bảy lần bắt Tiểu Quế tử, khiến nô tài vừa cảm kích vừa sợ hãi, từ đó không dám giở trò gì nữa. Tiểu Quế tử lại giống như Tôn Ngộ Không, rốt lại không sao nhảy ra khỏi lòng bàn tay Phật Như Lai của Vạn tuế gia”.

Khang Hy cười nói “Ngươi lớn thêm vài tuổi, càng lớn càng khiêm tốn. Nếu ngươi muốn nhảy ra khỏi lòng bàn tay ta, thì đúng là ta không bắt được ngươi đâu”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài ở trong lòng bàn tay của hoàng thượng rất thoải mái, cần gì phải nhảy ra?”.

Khang Hy nói “Việc đánh dẹp Ngô Tam Quế nói ra thì công lao của ngươi cũng không nhỏ, chuyến ấy ngươi lại không đi được. Bây giờ ta phái ngươi thống lĩnh ba quân thủy bộ đánh dẹp La Sát. Thành Nhã Khắc Tát ở núi Lộc Đỉnh, ta phong ngươi làm Tam đẳng Lộc Đỉnh công, Phủ viễn đại tướng quân. Bên võ thì có Đô thống Bằng Xuân, Tướng quân Hắc Long Giang Tát Bố Tố, Tướng quân Ninh Cổ Tháp Ba Hải, bên văn thì có Sách Ngạch Đồ giúp ngươi. Trước tiên chúng ta phát ra bốn vạn quân mã bộ, năm ngàn quân thủy, nếu không đủ thì cần bao nhiêu sẽ có bấy nhiêu. Tất cả ngựa chiến quân nhu đều đã chuẩn bị đủ, quân lương tích trữ ở Ái Hồn, Ninh Cổ Tháp đủ cho đại quân dùng trong ba năm. Pháo dã chiến có ba trăm năm mươi khẩu, pháo công thành có năm mươi khẩu. Như thế đủ chưa?”.

Khang Hy nói một câu, Vi Tiểu Bảo tạ ơn một câu, đợi y nói xong, vội vàng quỳ xuống dập đầu lia lịa.

Khang Hy nói “Quân La Sát ở Nhã Khắc Tát và Ni Bố Sở bất quá chỉ có sáu ngàn quân mã bộ. Chúng ta lấy số quân đông gấp bảy tám lần đối phó, là thế sấm sét ngàn cân, chỉ mong ngươi đừng làm mất oai phong của Trung Hoa chúng ta mới được”.

Vi Tiểu Bảo nói “Trận này là nô tài đi đánh thay hoàng thượng, chúng ta chỉ cần hơi thua thiệt cũng đã bị người La Sát coi thường rồi. Xin hoàng thượng yên tâm”. Khang Hy nói “Tốt lắm. Ngươi còn cần gì nữa không?”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài có mang năm trăm quân khiên mây từ Đài Loan về kinh, họ từng đánh nhau với người Hồng Mao, giỏi chống cự hỏa khí, nô tài muốn mang họ đi đánh La Sát”.

Khang Hy mừng rỡ nói “Vậy thì tốt quá, bộ thuộc cũ của Trịnh Thành Công từng đánh bại quân Hà Lan, ngươi mang họ đi đánh quân La Sát, chúng ta lại nắm chắc thêm ba phần. Ta vốn lo quân La Sát hỏa khí lợi hại, e tướng sĩ của chúng ta bị thương vong nhiều”. Vi Tiểu Bảo nói “Khiên mây có thể đỡ được đạn, quân khiên mây thì lăn tròn dưới đất xông vào dùng đại đao chém chân quân địch”. Khang Hy cả mừng, luôn miệng khen “Tuyệt diệu, tuyệt diệu!”.

Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài có người tiểu thiếp, năm xưa từng cùng tới Mạc Tư Khoa, biết tiếng La Sát. Xin hoàng thượng ân chuẩn cho nàng theo quân làm việc”. Theo quy củ nhà Thanh, lúc ra quân mang theo gia quyến trong quân là tội rất lớn, vì thế phải xin trước.

Khang Hy gật gật đầu, nói “Được rồi. Ngươi cố gắng lập công đi”.

Vi Tiểu Bảo dập đầu cáo từ, lúc lui ra tới cửa, Khang Hy hỏi “Nghe nói Trần Vĩnh Hoa sư phụ ngươi bị Trịnh Khắc Sảng giết chết, phải không?”. Vi Tiểu Bảo sửng sốt, ứng tiếng “Vâng”. Khang Hy nói “Trịnh Khắc Sảng đã quy hàng triều đình, ta đã ưng thuận với y sẽ bảo toàn tất cả con cháu họ Trịnh, ngươi đừng làm khó y”. Vi Tiểu Bảo chỉ đành vâng dạ.

Lần này y tới kinh, đã sớm chuẩn bị tìm dịp Trịnh Khắc Sảng rủi ro, nào ngờ Khang Hy đã đoán được bèn dặn dò như thế, nếu lại tới kiếm chuyện với y thì là trái chỉ, nghĩ thầm “Chẳng lẽ mối đại thù thằng tiểu tử này hại chết sư phụ mình lại bỏ qua à?”. Y cúi đầu chậm rãi bước ra, chợt nghe có người nói “Vi huynh đệ, chúc mừng ngươi”.

***

Vi Tiểu Bảo nghe thấy giọng nói rất quen, ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy người trước mặt thân cao lưng rộng, cười hề hề nhìn mình, chính là Tổng quản Ngự tiền thị vệ Đa Long, vô cùng hoảng sợ. Hôm ấy y trốn ra khỏi cung, rõ ràng đã một kiếm đâm chết Đa Long trong phòng mình, hay là hồn y tới đòi mạng?”, Trong lúc nhất thời chỉ hoảng sợ tới mức toàn thân run lên, đã định quay người bỏ chạy, lại định quỳ xuống xin tha mạng, nhưng hai chân như bị đóng đinh xuống đất, không sao nhích được nửa bước, nửa người dưới trước sau đều căng ra, suýt nữa là són đái vãi phân luôn tại chỗ.

Đa Long bước tới gần, nắm tay y cười nói “Hảo huynh đệ, nhiều năm không gặp, ca ca rất nhớ ngươi. Từ khi chia tay đến nay chắc mọi việc đều được như ý. Nghe nói ngươi câu cá cho hoàng thượng ở đảo Thông Ngật, hoàng thượng thỉnh thoảng lại thăng tước cho ngươi, ta nghe được cũng rất mừng”.

Vi Tiểu Bảo cảm thấy bàn tay y ấm áp, ánh nắng mặt trời soi vào hành lang, bên cạnh y cũng có cái bóng, tựa hồ không phải ma quỷ, cũng bớt sợ hãi, lẩm bẩm “Vâng, vâng”, lại sợ y nhớ tới thù xưa, muốn tính nợ cũ, chỉ là rõ ràng nhát chủy thủ ấy đã đâm đúng vào bối tâm y, tại sao y vẫn không chết, đang lúc hoảng loạn, làm sao nghĩ ra được?

Đa Long lại nói “Hôm ấy ca ca bị ám toán trong phòng huynh đệ, may là huynh đệ đánh đuổi được thích khách, cái mạng của ta mới còn giữ được. Chuyện này trước nay chưa đích thân gặp ngươi cám ơn được, trong lòng vẫn thường nghĩ tới. Ngươi lại dặn Thi Lang đem lễ vật từ Đài Loan về tặng ta, quả thật không biết phải nói thế nào”.

Vi Tiểu Bảo thấy y thái độ thành thật, quyết không phải là cố ý nói ngược, nghĩ thầm “Y là Tổng quản Ngự tiền thị vệ, cận thần bên cạnh hoàng thượng. Lần ấy Thi Lang tới tặng lễ vật, tự nhiên là y có phần. Chắc y hỏi thăm Thi Lang về mình, Thi Lang bèn thuận nhân tình, nói trong số lễ vật có một phần là mình tặng để tiện tỏ ra có giao tình sâu đậm với mình, người ngoài nể mặt mình cũng không làm khó y. Chỉ là tại sao y nói mình đánh đuổi thích khách, chuyện này quả thật không hiểu được”.

Đa Long thấy y sắc mặt lúc trắng lúc xanh, dáng vẻ bồn chồn, chỉ cho là y bị Khang Hy trách phạt, bèn an ủi “Gần đây tâm tình hoàng thượng có lúc không được tốt, có quá nửa là vì bọn La Sát khinh người quá đáng, huynh đệ không cần lo lắng. Đợi hết phiên trực, chúng ta uống rượu một bữa, nói chuyện một phen”. Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng ơn đức như trời cao đất dày, mới rồi lại thăng chức cho ta. Huynh đệ trong lòng cảm kích, thật không biết làm sao để báo đáp ơn vua”, Đa Long cười nói “Chúc mừng, chúc mừng. Huynh đệ làm việc có tài, có thể chia sẻ được mối lo với hoàng thượng, được thăng quan tiến tước là chuyện đương nhiên”, thái độ ngưỡng mộ hiện rõ ra mặt.

Vi Tiểu Bảo thấy lời lẽ thái độ của y vừa thân thiết vừa cung kính với mình, vốn biết y là hán tử thành thật, không biết giả trá, nỗi sợ trong lòng tiêu tan hết, cười nói “Đa đại ca, xin ngươi chờ một lúc, huynh đệ mắc tiểu quá. Hoàng thượng truyền kiến, dặn dò rất nhiều, huynh đệ nhịn lâu quá, quả thật không nhịn được nữa”.

Đa Long hô hô cười rộ, biết hoàng đế triệu kiến bề tôi, nếu không tỏ vẻ triệu kiến đã xong thì bề tôi không được cáo từ. Kẻ bề tôi mà buồn đi tiểu, quả là một chuyện vô cùng khó khăn. Chỉ có điều cũng chỉ có loại bề tôi được sủng ái như Vi Tiểu Bảo thì hoàng đế mới nói chuyện với y lâu như thế. Các đại thần khác thì chỉ nói năm câu ba chuyện là sai lui ra, cũng không tới lượt họ buồn đi tiểu. Đa Long và Vi Tiểu Bảo trước nay thân thiết, hôm nay xa cách lâu ngày gặp lại, trong lòng rất vui vẻ, lập tức kéo tay y, dắt y tới cửa nhà xí, đứng ngoài cửa chờ y rửa tay xong trở ra.

Hôm ấy Vi Tiểu Bảo để cứu mạng sư phụ và các huynh đệ trong Thiên Địa hội, không biết làm sao đành đâm Đa Long, nhưng nghĩ tới lúc ngày thường y đối xử với mình rất tốt, trong lòng cũng rất xấu hổ, không ngờ y vẫn không chết, lại không có chút gì trách móc mình, đi tiểu xong cảm thấy vô cùng sảng khoái, ra khỏi nhà xí, bèn hỏi han chuyện hôm ấy.

Đa Long nói “Hôm ấy lúc ta tỉnh dậy, thì đã nằm trên giường ba ngày bốn đêm. Quan Thái y nói may là tim ta nằm lệch về một bên, nhát đao ấy của thích khách chỉ đâm vào phổi chứ không trúng tim. Y nói loại người tim nằm lệch về một bên như ta thì trong mười vạn người cũng không có một người”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Thật xấu hổ, té ra là thế”, bèn cười nói “Trước nay ta chỉ nói đại ca là hảo hán có gan ruột, nào ngờ đại ca là người tim lệch. Đại ca tim lệch là đặc biệt sủng ái tiểu di thái hay thiên lệch với con cái thế?”. Đa Long sửng sốt, cười nói “Huynh đệ mà không nói thì ta cũng không nghĩ ra đâu. Ta đối với người tiểu thiếp thứ tám có thương yêu hơn một chút, chắc là vì tim ta nằm lệch”.

Hai người cười ầm một lúc. Vi Tiểu Bảo nói “Thích khách ấy võ công rất cao cường, y tới ám toán đại ca, trước đó huynh đệ cũng không phát giác được gì”. Đa Long nói “Đúng thế”, rồi hạ giọng nói “Vừa khéo lúc ấy công chúa Kiến Ninh điện hạ tới thăm huynh đệ. Chuyện ấy bọn ta làm nô tài thì không dám hỏi nhiều. Ta dưỡng thương ba tháng mới bình phục. Hoàng thượng xuống dụ, nói Vi huynh đệ ra sức cứu ta, chính tay giết chết thích khách. Những tình tiết bên trong, huynh đệ cũng không cần nói nữa, nói tóm lại là ca ca rất cám ơn ngươi”.

Vi Tiểu Bảo mặt dày tính ra cũng thứ nhất thứ nhì trong niên hiệu Khang Hy nhưng nghe mấy câu ấy cũng không khỏi hơi đỏ mặt, mới biết là hoàng đế che giấu cho mình. Một là hoàng đế đích thân nói ra, Đa Long tự nhiên tin cậy không hề ngờ vực, hai là có dính líu tới chuyện riêng tư của công chúa, người trong cung ai cũng biết rõ là càng ít nói tới càng hay, cho dù có mối nghi ngờ to bằng trời cũng chỉ đành giấu kín trong lòng. Nếu không như thế thì phải bịa ra một câu chuyện để che giấu, lại càng hao tổn tâm lực.

Vi Tiểu Bảo trong lòng xấu hổ, cảm thấy phải báo đáp cho con người trung hậu thành thật này một phen, liền nói “Huynh đệ có mang từ Đài Loan về một ít thổ nghi, để về tới nhà sẽ sai người đưa qua phủ đại ca”, Đa Long xua xua tay nói “Không cần đâu, không cần đâu. Chúng ta là người nhà, cần gì phải khách sáo như thế? Lần trước Thi Lang mang lễ vật của huynh đệ tới, đã quá nhiều rồi”.

Vi Tiểu Bảo đột nhiên nghĩ tới một chuyện “Chuyện này thì đúng là làm ơn mà không mất tiền, cho dù hoàng thượng biết được cũng không thể trách mình trái chỉ”. Bèn hỏi “Đa đại ca, sau khi thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng quy hàng, sống ở Bắc Kinh thế nào?”. Đa Long nói “Hoàng thượng đối đãi với y không tệ, phong y làm Nhất đẳng công. Thằng tiểu tử ấy chẳng ra cái gì, nhờ vào phúc của ông cha mà tước vị còn cao hơn huynh đệ”.

Vi Tiểu Bảo nói “Hôm trước chúng ta đùa giỡn, vu cáo y thiếu các thị vệ một vạn lượng bạc, do huynh đệ trả lại. Chuyện ấy đại ca còn nhớ không?”. Đa Long hô hô cười rộ, nói “Nhớ chứ, nhớ chứ. Cô nương thân thiết ấy của huynh đệ về sau thế nào? Nếu vẫn theo Trịnh Khắc Sảng, thì chúng ta đi cướp về”. Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói “Cô nương ấy đã là vợ ta rồi, sinh được con trai rồi”.

Đa Long cười nói “Chúc mừng, chúc mừng. Nếu không thì thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng ấy đang ở trong kinh, mặc mẹ y là Nhất đẳng công hay Nhị đẳng công, cũng chỉ là một gã Tước gia không quyền không thế, chúng ta mà tìm tới chắc thằng tiểu tử ấy cũng không dám đánh rắm lấy một cái đâu. Loại phiên vương quy thuận đầu hàng ấy thì suốt ngày run run rẩy rẩy, sợ hoàng thượng nghi ngờ là trong lòng không phục, lại định tạo phản”.

Vi Tiểu Bảo nói “Chúng ta cũng không cần hà hiếp y. Chỉ có điều giết người phải đền mạng, thiếu nợ phải trả tiền, đó là chuyện thiên kinh địa nghĩa. Đừng nói y chẳng qua chỉ là Nhất đẳng công, cho dù là thân vương bối lặc cũng không thể mắc nợ mà chảy ra không trả”. Đa Long nói “Đúng, đúng. Hôm ấy y thiếu huynh đệ một vạn lượng bạc, không ít người trong bọn Ngự tiền thị vệ chúng ta đều nhìn thấy, chúng ta tới đòi nợ thôi”. Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói “Thằng tiểu tử ấy rất không ra sao. Nếu chỉ là một vạn lượng bạc thì là chuyện nhỏ. Về sau y còn liên tiếp hỏi mượn không ít tiền của ta, có viết giấy nợ hiện trong tay ta. Họ Trịnh y ba đời làm vương gia ở Đài Loan, tiền bạc châu báu tích lũy được còn ít à? Nhất định đều phải mang cả tới Bắc Kinh. Trịnh Thành Công và Trịnh Kinh là người tốt, chắc không đến nỗi liếm láp máu mỡ của bách tính, nhưng chẳng lẽ thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng này lại khách khí sao? Y làm vương gia một ngày ít nhất cũng liếm láp một trăm vạn lượng, hai ngày là hai trăm vạn, ba ngày là ba trăm vạn. Y làm vương gia tất cả bao nhiêu ngày, ngươi tính thử xem nào!”, Đa Long há miệng đớ lưỡi, nói “Lợi hại thật, lợi hại thật!”.

Vi Tiểu Bảo nói “Huynh đệ về nhà lấy giấy nợ đưa qua đại ca. Món tiền này thì riêng huynh đệ cũng không cần…”. Đa Long vội nói “Chuyện đó ngàn vạn lần không được, ca ca đòi nợ giúp ngươi, đảm bảo ngươi không thiếu một đồng bạc. Ta dắt bọn thị vệ thủ hạ tới cửa ngồi đòi nợ, cho dù y có gan to bằng trời cũng không dám không trả”. Vi Tiểu Bảo nói “Món nợ này lớn đấy, năm ấy thằng tiểu tử này trời hoa đất rượu, tiêu tiền như nước. Muốn trả hết một lần cũng không phải dễ đâu, thế này đi, đại ca dắt người đi đòi, nếu mười bữa nửa tháng y vẫn không trả thì cứ cho y biến nợ chẵn thành nợ lẻ, chia ra viết thành nhiều giấy nợ, chỗ tên chủ nợ cứ ghi tên của các anh em thị vệ. Mỗi tờ viết một ngàn lượng cũng được, hai ngàn lượng cũng được. Thị vệ nào đòi được, là của người ấy”.

Đa Long nói “Như vậy không được! Bọn thị vệ ai cũng là thuộc hạ cũ của ngươi, đi đòi nợ cho thượng ty cũ là chuyện nhỏ mà lại đòi thưởng thì còn ra gì nữa?”. Vi Tiểu Bảo nói “Họ đều là thuộc hạ cũ của ta, là anh em tốt, bạn bè tốt, mấy năm nay huynh đệ ngựa tốt thêm roi thăng quan tiến chức, mà trước nay không có gì hay đem cho mọi người, nghĩ lại cũng áy náy. Mấy trăm vạn lượng bạc này, các anh em thị vệ cứ chia nhau thôi”.

Đa Long giật nảy mình, run lên nói “Cái… cái gì mà có mấy… mấy trăm vạn lượng bạc?”. Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói “Tiền vốn thì cũng không bao nhiêu, trong đó có thêm tiền lãi, có thêm tiền này nọ, lãi mẹ đẻ lãi con, con số không nhỏ. Món tiền này, đại ca cứ lấy vài phần”. Đa Long vẫn không tin, lẩm bẩm “Mấy trăm vạn lượng à? Như… như thế không khỏi quá nhiều sao?”. Vi Tiểu Bảo nói “Cho nên muốn y chia ra viết làm nhiều giấy nợ, đòi cũng tiện hơn”. Rồi hạ giọng nói “Chuyện này đừng lôi ta vào. Nếu để các quan Ngự sử biết được, dâng một tờ tâu, nói huynh đệ giao kết với ngoại phiên, cho vay lấy lãi, không lớn thì nhỏ cũng là có tội. Nhưng nếu các Ngự tiền thị vệ đòi nợ y, mỗi người đòi một ngàn hai ngàn lượng bạc thì hoàn toàn không hề gì. Nếu đại ca sợ Ngự tiền thị vệ ăn một mình quá lớn chuyện, thì không ngại gì hẹn với quan quân trong Kiêu kỵ doanh cùng đi. Họ cũng là thuộc hạ cũ của ta, cũng nên cho họ một ít cái hay”. Đa Long luôn miệng khen phải, quyết định chủ ý, nếu đòi được món nợ này, ít nhất cũng phải trả hơn một nửa cho Vi Tiểu Bảo, tuy y khảng khái rộng rãi nhưng không thể để y không thu hồi được chút tiền vốn nào.

Vi Tiểu Bảo mười phần đắc ý, nghĩ thầm Đa Long mà dắt bọn Ngự tiền thị vệ và quan quân Kiêu kỵ doanh như sói như cọp tới đòi nợ thì Trịnh Khắc Sảng không khỏi không đau đầu. Tuy ngại vì hoàng thượng đã dặn dò trước, không thể tự mình tới làm khó Trịnh Khắc Sảng để báo thù cho sư phụ, nhưng giở trò thế này, ít nhất cũng phá tán được một nửa gia sản của y. Chuyện này thì Trịnh Khắc Sảng có quá nửa giống như thằng câm ăn phải ớt, không dám la lớn, cho dù bị người ta biết được thì cũng là Ngự tiền thị vệ và quan quân Kiêu kỵ doanh đòi nợ, chỉ là chuyện riêng, người ta chỉ có thể nói Trịnh Khắc Sảng là hạng tử đệ khố gấm, hành sự không cẩn thận, tới kinh sư vẫn còn cờ bạc bừa bãi, không ai có thể trút tội lên đầu Vi Tiểu Bảo y.

***

Vừa ra khỏi cung, các đại thần Mãn Hán là bọn Khang thân vương Kiệt Thư, Lý Úy, Minh Châu, Sách Ngạch Đồ, Lặc Đức Hồng, Đỗ Lập Đức, Mã Phổ, Đồ Hải, Vương Hy, Hoàng Cơ, Ngô Chính Trị, Tống Đức Nghi đã chờ ngoài cửa cung, nhao nhao bước tới chúc mừng, đưa y về Đồng Mạo Nhi Hồ đồng.

Về tới trước ngõ, chỉ thấy một tòa phủ đệ to lớn sừng sững ở đó, so với phủ bá tước cũ còn lớn hơn nhiều. Trên cổng lớn treo một tấm biển ngạch sơn đen, nhưng không có chữ nào. Vi Tiểu Bảo thì chữ to bằng quả dưa cũng không biết được một gánh, nhưng trên tấm biển không có chữ nào rốt lại vẫn nhận ra được, không kìm được ngẩn ra.

Khang thân vương cười nói “Vi huynh đệ, ân trạch của hoàng thượng đối với ngươi thật như trời cao đất dày, năm ấy phủ bá tước của ngươi bị phát hỏa, ngươi lại không ở kinh, hoàng thượng biết được liền sai ca ca xây cho ngươi một phủ đệ khác. Trong thánh chỉ không nói là chi bao nhiêu tiền, chỉ nói cần bao nhiêu thì cứ vào kho mà lãnh. Đây là hoàng thượng thưởng cho ngươi, ca ca lẽ nào lại tiết kiệm cho hoàng thượng? Tự nhiên là cứ vung tay chi tiền. Huynh đệ, ngươi nhìn xem có vừa ý không?”, nói xong vuốt râu mỉm cười.

Vi Tiểu Bảo vội vàng cảm ơn. Từ cổng lớn đi vào, quả nhiên càng vào càng lộng lẫy, không kém phủ Khang thân vương bao nhiêu, các quan tặc lưỡi khen ngợi, chỗ nào cũng hoàn hảo.

Khang thân vương nói “Tòa phủ đệ này xây xong đã lâu, vẫn chờ huynh đệ ngươi tới ở, chỉ là không biết hoàng thượng sẽ ra ơn thế nào, sẽ phong ngươi làm chức quan gì, vì thế biển ngạch trên cổng vẫn bỏ trống chưa viết. Bốn chữ Lộc Đỉnh công phủ, còn xin Lý Đại học sĩ của chúng ta vung bút viết cho”.

Lý Úy là Bảo Hòa điện Đại học sĩ kiêm Thượng thư bộ Hộ, học vấn uyên bác nhất trong các đại học sĩ, là người đứng đầu, lúc ấy cũng không chối từ, cầm bút viết bốn chữ đại tự Lộc Đỉnh công phủ. Bọn tùy tùng bưng xuống, sai thợ đúc thành chữ vàng, gắn lên tấm biển.

Tối hôm ấy trong phủ Lộc Đỉnh công mở tiệc lớn, khoản đãi các vị đại thần tới chúc mừng. Bọn hàng thần Đài Loan là Trịnh Khắc Sảng, Phùng Tích Phạm cũng đưa lễ vật tới, nhưng không đích thân tới mừng.

Tiễn khách về xong, Vi Tiểu Bảo lại mở gia yến, bảy vị phu nhân nâng chén chúc mừng. Vi Tiểu Bảo nói chuyện mang Song Nhi cùng bắc chinh, sáu người còn lại đều không chịu, nói y quá thiên vị. Vi Tiểu Bảo đành hoa ngôn xảo ngữ, nói là hoàng đế hạ chỉ, biết Song Nhi từng qua nước La Sát, biết tiếng La Sát, đây là phái nàng theo quân hiệu lực. Sáu vị phu nhân đành phải thôi. May là Song Nhi tính tình ôn nhu khiêm hòa, thân thiết với cả sáu vị phu nhân, nên mọi người cũng không ghen tỵ với nàng, chỉ có công chúa Kiến Ninh cậy là ngự muội của hoàng thượng, cành vàng lá ngọc mà lại không bằng một a hoàn xuất thân hèn hạ, trong lòng rất tức giận. Có điều bảy vị phu nhân nếu lúc bình thời có chuyện cãi cọ thì sáu người kia nhất định sẽ liên minh chống lại công chúa. Công chúa Kiến Ninh một mình lẻ loi, Vi Tiểu Bảo lại không che chở cho nàng, nên mấy năm nay tính nết đã hòa hoãn hơn nhiều, không dám khinh suất gây sự.

Hôm sau Vi Tiểu Bảo sai Song Nhi lấy tờ giấy nợ của Trịnh Khắc Sảng viết bằng máu trên đảo Thông Ngật năm trước ra, mời Đa Long tới đưa cho y. Đa Long cả mừng, nói “Đã có giấy nợ ở đây thì có là đầu bằng đá bọn ta cũng vắt ra được dầu. Thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng mà dám lớn mật chây ra không trả, thì Ngự tiền thị vệ và Kiêu kỵ doanh bọn ta cũng không cần phải ở trong kinh nữa làm gì”.

***

Sau đó vài hôm, Khang Hy liên tiếp triệu Vi Tiểu Bảo vào cung, đưa cho y một tấm bản đồ rất lớn, tiến quân thế nào, tiếp ứng thế nào, vây thành trì thế nào, đánh viện binh thế nào, nhất nhất chỉ thị chi tiết, dùng bút son chia ra vẽ rõ trên bản đồ.

Vi Tiểu Bảo nói “Trận này là hoàng thượng đích thân cầm quân đánh nhau, nô tài không dám đưa ra chủ trương gì cả, cứ tuân theo lời hoàng thượng phân phó mà làm là được. Nếu không thì dù thắng hoàng thượng cũng không vui”.

Khang Hy mỉm cười gật đầu, Vi Tiểu Bảo nói câu ấy rất hợp ý y. Y lúc nhỏ học võ nghệ, không có cách nào thi triển, chỉ còn cách đánh nhau với Vi Tiểu Bảo, về sau không ngừng sai Vi Tiểu Bảo ra ngoài làm việc, trong thâm tâm đều cho rằng y là hóa thân của mình. Vi Tiểu Bảo nhỏ tuổi hơn mình, võ công mưu trí, học vấn kiến thức không gì bằng mình, y làm việc thành công thì tự nhiên mình càng thành công dễ hơn.

Nghĩ tới việc hoàng đế Chính Đức nhà Minh tự phong là Oai vũ đại tướng quân Trấn quốc công, đích thân cầm quân xuất chinh, cũng chỉ là không chịu nổi cảnh tịch mịch, muốn bộc lộ thân thủ một lần mà thôi. Khang Hy không làm nhộn như hoàng đế Chính Đức, nhưng sai Vi Tiểu Bảo đi làm việc, trong lòng cũng cảm thấy thỏa mãn, năm xưa Ngô Tam Quế tạo phản, y là mãnh tướng thân trải trăm trận, không phải tầm thường, phải có bậc túc tướng đại thần đối phó, nếu để Vi Tiểu Bảo cầm quân nhất định hỏng việc. Lần ấy đánh nhau mấy năm, Khang Hy tuy không đích thân ra trận, nhưng mỗi trận đánh đều hỏi han tỉ mỉ, chuyện lợi hại được mất đều nắm vững như trong lòng bàn tay, học được binh pháp qua thực tế chiến tranh. Lúc ấy đánh nhau với nước La Sát, bất kể chuyện lớn nhỏ gì cũng đã sắp xếp ổn thỏa, đại quân còn chưa rời kinh mà đã đoán trận này ắt thắng, so với lúc đánh nhau với Ngô Tam Quế năm xưa lúc nào cũng nơm nớp lo sợ quả thật khác hẳn.

Vi Tiểu Bảo phải lập tức xuất chinh, không dám tới gọi các huynh đệ trong Thiên Địa hội, nghĩ thầm “Hoàng thượng không bảo mình đi tiêu diệt Thiên Địa hội, đó là y đầu hàng mình, đã nể mặt mình nhiều rồi. Nếu mình không biết điều, lại tụ họp với bọn Lý Lực Thế, Từ Thiên Xuyên, để hoàng thượng biết được, lại nhắc tới chuyện cũ, đó là Vi Tiểu Bảo tự vác đá đập chân mình, làm người đã quá chậm hiểu lại còn ngu lâu”.

Khâm thiên giám chọn ngày hoàng đạo cát nhật, đại quân bắc chinh. Hôm ấy Khang Hy ban yến ở cửa Thái Hòa, ngoài Ngọ môn bày đủ nghi vệ, dưới bệ giăng lều vải vàng, đặt ngự tọa, bày sắc ấn, vương công bá quan đều tụ họp. Khang Hy lên bục, Phủ viễn đại tướng quân Lộc Đỉnh công Vi Tiểu Bảo dẫn bọn võ tướng xuất chinh là Bằng Xuân, Tát Bố Tố, Lang Thân, Lâm Hưng Châu, quan vận lương là Sách Ngạch Đồ quỳ xuống. Đại thần nội viện đọc sắc thư bằng ba thứ tiếng Hán Mãn Mông, trao sắc ấn đại tướng quân, ban cho áo giáp, ngựa chiến, cung tên, bội đao. Các tướng xuất chinh chia nhau ngồi phía bắc cầu Kim Thủy, hai bên tấu nhạc diễn trò. Khang Hy gọi đại tướng quân tới trước ngự tọa dặn dò phương lược, đích thân ban cho ngự tửu, đại tướng quân quỳ xuống đón lấy uống cạn, bọn Đô thống, Phó Đô thống nối nhau tiến vào, hoàng đế sai thị thần ban rượu, sau đó sai bá quan mời rượu các tướng, ban cho tiền lụa. Bá quan và chúng tướng tạ ơn, đại quân lên đường, Khang Hy đích thân tiễn ra cửa Ngọ môn. Đại tướng quân và các tướng quỳ xuống xin hoàng đế hồi giá, sau đó thủy lục đại quân theo đường lên bắc.

Các đại thần nhìn thấy Vi Tiểu Bảo thân mang giáp trụ mà miệng cười toe toét, không hề có nửa điểm oai vũ của đại tướng quân thống soái, vốn biết người này bất học vô thuật, là một gã vô lại ở chợ búa, mang quân xuất chinh có quá nửa sẽ làm hỏng việc lớn, làm mất thể diện quốc gia, nhưng biết Khang Hy rất sủng ái y, ai dám khuyên can nửa câu? Không ít vương công đại thần ngoài mặt tươi cười, trong lòng lo lắng. Đúng là:

Thừa tướng ngu ngơ lo giữ hốt,

Tướng quân nhảy nhót bước lên đàn.

***

Vi Tiểu Bảo vâng lệnh hoàng đế làm việc, trước nay chưa lần nào oai phong như thế này, trong lòng đắc ý thế nào không cần phải nói, biết lần này việc có quan hệ rất lớn, trong quân cố gắng kìm chế, không dám mở sòng bạc, dọc đường lúc buồn bực, cũng chẳng qua mời mấy viên đại tướng tới gieo xúc xắc vài ván, người thua bị phạt rượu mà thôi.

Một hôm, đại quân ra tới Sơn Hải quan, tiến lên Liêu Đông phía bắc. Đây là nơi Vi Tiểu Bảo từng đi qua, chỉ là năm xưa cùng Song Nhi trong rừng bắt hươu để ăn, trốn đông núp tây, vô cùng thảm hại, làm gì có oai phong ra ải bắc chinh như hôm nay?

Lúc ấy khí thu mát mẻ, trời quang muôn dặm, đại quân dần dần đi lên phía bắc, gió bấc ngày càng mạnh. Hôm ấy còn cách thành Nhã Khắc Tát hơn một trăm dặm, tiên phong Hà Hựu tới đại doanh bẩm báo quân xích hậu được bách tính ở địa phương cho biết, quân La Sát đổ ra bốn phía quấy nhiễu nhân dân, giết người đốt nhà, cướp bóc hãm hiếp, không chuyện ác nào không làm, cứ qua mười ngày lại kéo ra một lần, chắc vài hôm nữa sẽ lại ra cướp bóc.

Vi Tiểu Bảo đã được Khang Hy chỉ thị cơ nghi, cho đại quân đóng lại không tiến, sai Hà Hựu thống suất mười đội một trăm quân chia ra mai phục cách thành Nhã Khắc Tát ba mươi dặm. Nếu đại quân La Sát kéo ra thì núp kín tránh không giao chiến, nếu gặp toán nhỏ ít người thì hoặc giết hoặc bắt, tiêu diệt tất cả, không cho tên nào về thành. Hà Hựu vâng lệnh kéo quân đi.

Qua vài hôm, trước giờ Ngọ nghe ở xa văng vẳng có tiếng súng nổ, chỗ này lắng xuống chỗ kia vang lên, hồi lâu không dứt, đoán là đội tiên phong đã giao chiến với quân La Sát. Đến sau giờ Ngọ, Hà Hựu sai người về đại doanh báo tiệp, nói là giết được hai mươi lăm tên, bắt được mười hai tên quân La Sát. Vi Tiểu Bảo được tin cả mừng. Đến xế chiều, tướng tiên phong giải hai mươi tên tù binh La Sát vào đại doanh.

Vi Tiểu Bảo lên trướng, đích thân thẩm vấn. Mười hai tên quân La Sát nghe Vi Tiểu Bảo nói tiếng La Sát vô cùng kinh ngạc, nhưng người nào cũng mười phần quật cường, nói là bị trúng mai phục, quân Thanh đông người, có thắng cũng không vinh dự.

Vi Tiểu Bảo cả giận, gọi hai tên quân La Sát tới, móc xúc xắc trong bọc ra, nói “Hai người các ngươi gieo xúc xắc đi!”.

Trò gieo xúc xắc này, ở Tây dương từ xưa đã có, trong mộ cổ ở Ai Cập cũng đã khai quật được, cũng không khác gì xúc xắc ở Trung Quốc, quân La Sát cũng quen chơi, hai tên quân La Sát nhìn nhau ngạc nhiên, không biết vị tướng quân trẻ nhà Thanh này giở trò gì, nhưng cũng theo lời gieo xúc xắc. Hai người gieo xúc xắc, một người được bảy điểm, một người được năm điểm.

Vi Tiểu Bảo chỉ tên quân La Sát gieo được năm điểm nói “Ngươi thua rồi, tử man cơ!”. Trong tiếng La Sát “Tử man cơ” là có ý “tử vong”. Y quay đầu gọi thân binh “Lôi ra chém!”, bốn tên thân binh kéo tên quân La Sát ấy ra ngoài trướng, một đao chém chết, đem thủ cấp vào dâng lên. Mười một tên còn lại vừa nhìn thấy, ai cũng biến sắc.

Vi Tiểu Bảo chỉ hai tên La Sát khác nói “Hai người các ngươi ra gieo xúc xắc”, hai người này đời nào còn dám gieo, không hẹn mà cùng nói “Ta không gieo!”. Vi Tiểu Bảo nói “Được, các ngươi không gieo”, nói với thân binh “Lôi cả hai ra chém!”, trong khoảnh khắc lại giết chết hai người.

Vi Tiểu Bảo lại chỉ vào hai tên La Sát nói “Hai người các ngươi ra gieo”, hai người biết nếu không gieo sẽ lập tức bị giết, gieo xúc xắc một lần thì còn một nửa cơ hội sống sót. Một người run rẩy cầm xúc xắc lên đang định gieo, người kia giơ tay giật lấy nói với Vi Tiểu Bảo “Ta gieo với ngươi!”, thần sắc vô cùng ngạo mạn.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Giỏi lắm, ngươi lại lớn mật dám khiêu chiến với ta. Ngươi gieo trước đi”. Tên La Sát ấy gieo được bảy điểm, Vi Tiểu Bảo gieo được mười điểm, cười nói “Thế nào?”. Tên La Sát ấy thần sắc thê thảm, nói “Ta không may, chẳng có gì để nói cả”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi tới Trung Quốc bọn ta, đã giết bao nhiêu người Trung Quốc rồi?”. Tên La Sát ấy ngang nhiên nói “Không nhớ rõ, nhưng ít nhất cũng là mười bảy mười tám người. Ngươi giết ta đi, dù sao ta cũng không bị thiệt”. Vi Tiểu Bảo sai kéo y ra chém, rồi chỉ vào một tên La Sát nói “Ngươi gieo đi”.

Tên La Sát ấy cầm lấy xúc xắc, bàn tay run lên, hai hạt xúc xắc một trước một sau rơi xuống bàn, ra mười một điểm, cơ thắng rất lớn. Vi Tiểu Bảo muốn giở trò để gieo ra mười hai điểm, nào ngờ lâu quá không luyện tập, thủ pháp không linh, hai hạt xúc xắc mặt sáu đều không lật lên mà cùng úp xuống, biến thành chỉ có hai điểm. Y sửng sốt rồi hô hô cười rộ, nói “Ta thắng rồi!”. Tên La Sát kia vội nói “Ta được mười một điểm, ngươi chỉ có hai điểm, tại sao lại là ngươi thắng?”. Vi Tiểu Bảo nói “Lần này điểm ít hơn là thắng, điểm nhiều hơn là thua”. Tên La Sát kia không phục, nói “Tự nhiên điểm lớn là thắng, quy củ của người La Sát bọn ta trước nay là thế”. Vi Tiểu Bảo làm mặt lạnh, nói “Đây là đất Trung Quốc hay đất La Sát?”. Tên La Sát kia nói “Là… là đất Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo nói “Đã là đất Trung Quốc, tự nhiên là phải theo quy củ Trung Quốc. Ai bảo các ngươi tới Trung Quốc làm gì? Lần sau nếu ta tới đất La Sát, lại gieo xúc xắc với ngươi, thì sẽ tuân theo quy củ của nước La Sát là được. Ngươi tử man cơ!” rồi quay qua gọi thân binh “Lôi ra chém!”.

Y lại gọi một tên quân La Sát ra, tên này tâm tư cũng tinh tế, trước hết là hỏi rõ “Theo quy củ Trung Quốc thì lần này điểm nhiều hơn là thắng hay điểm ít hơn là thắng?”. Vi Tiểu Bảo nói “Theo quy củ Trung Quốc thì người Trung Quốc thắng. Người Trung Quốc điểm nhiều hơn thì điểm nhiều thắng, người Trung Quốc điểm ít hơn thì điểm ít thắng”. Tên La Sát ấy tức tối nói “Ngươi thật quá ngang ngược, không biết đạo lý”. Vi Tiểu Bảo nói “Quân La Sát các ngươi tới Trung Quốc giết người cướp của chứ không phải người Trung Quốc bọn ta tới nước La Sát giết người cướp của, rốt lại người Trung Quốc ngang ngược hay người La Sát ngang ngược?”. Tên La Sát ấy im lặng. Vi Tiểu Bảo nói “Gieo mau đi, gieo mau đi!”. Tên La Sát ấy nói “Dù sao ta cũng thua, còn gieo làm gì?”. Vi Tiểu Bảo nói “Không gieo thì tử man cơ! Lôi ra chém!”.

Y lại gọi một tên quân La Sát ra, tên này thân hình cao lớn, trên mặt đầy râu, cao giọng nói “Thằng tiểu tử Trung Quốc, ngươi không cần giở trò, cứ sảng khoái giết ta là được. Lần này các ngươi đông người, mai phục trong tuyết, đột nhiên xông ra, có thắng cũng không vinh dự. Quân nước La Sát bọn ta tới, sẽ giết hết tất cả các ngươi”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi bị ta bắt, thua cũng không phục, phải không?”. Tên quân La Sát ấy nói “Tự nhiên là không phục!”. Vi Tiểu Bảo nói “Nếu bọn ta số người bằng nhau, đối diện giao phong, thì các ngươi nhất định thắng, phải không?”.

Tên La Sát ấy ngạo nghễ nói “Cái đó tự nhiên. Người La Sát bọn ta một người đánh thắng năm người Trung Quốc, nếu không thế bọn ta đã không tới Trung Quốc. Ta đánh cuộc với ngươi, các ngươi gọi năm người ra đây đánh nhau với ta. Các ngươi mà thắng thì cứ giết ta, nếu ta thắng thì phải lập tức thả ta ra”. Tên này là dũng sĩ nổi tiếng trong quân La Sát, sinh ra có thần lực, nhìn thấy tướng sĩ thân binh trong doanh Vi Tiểu Bảo so với y đều thấp hơn ít nhất là một cái đầu, lấy một chống năm thì mình vẫn nắm nhiều phần thắng hơn.

Song Nhi nãy giờ vẫn đứng bên cạnh, lúc ấy nghe y nói năng ngạo mạn, liền nói “Người La Sát vô dụng. Phụ nữ Trung Quốc cũng thắng được ngươi”, nói xong bước ra đứng bên cạnh Vi Tiểu Bảo. Tên La Sát ấy thấy nàng thân hình thấp nhỏ, dung mạo xinh đẹp, nhịn không được cười phá lên, nói “Ngươi muốn tỷ võ với ta à?”. Vi Tiểu Bảo sai thân binh cởi trói cho y, mỉm cười nói “Song Nhi ngoan, cho y biết phụ nữ Trung Quốc chúng ta lợi hại đi”. Tên La Sát kia nói “Nữ nhân Trung Quốc lại biết tiếng La Sát, giỏi lắm, giỏi lắm!”.

Tiếng La Sát của Song Nhi so với Vi Tiểu Bảo thì kém xa, nói ra lời không tỏ được ý, không muốn nói nhiều với y, tay trái vung ra, đánh hờ vào mặt y một chưởng. Tên La Sát ấy vội ngửa đầu ra, vung tay đỡ gạt. Song Nhi chân phải phi ra, chát một tiếng đá trúng bụng dưới y. Tên La Sát ấy bị đau, gầm lớn một tiếng, hai quyền cùng phát. Y là hảo thủ quyền thuật của nước La Sát, ra quyền mau lẹ, lực đạo trầm trọng. Song Nhi thấy lợi hại, lách người ra sau lưng y ra chiêu Tả hữu phùng nguyên, chát chát hai tiếng, đá trúng eo lưng y hai đá. Tên quân La Sát ấy đau quá ngồi thụp xuống, kêu lên “Ngươi dùng chân, phạm quy, phạm quy!”. Nguyên là người La Sát đấu quyền, quy định không được dùng chân.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Đây là đất Trung Quốc, đánh nhau cũng phải theo quy củ Trung Quốc”.

Song Nhi kêu lên “Người La Sát, ta thắng rồi” rồi lách người chuyển ra trước mặt y, quyền phải đánh vào bụng dưới y, tên quân La Sát ấy vung tay gạt ra. Song Nhi một quyền ấy là hư chiêu, không chờ y đỡ, quyền phải đã rút lại, chưởng trái đã đánh vào ngực y, tên La Sát ấy lại vung tay gạt ra. Song Nhi trái một quyền, phải một quyền, liên tiếp đánh ra mười hai quyền, quyền nào cũng là hư chiêu, chiêu này trong võ thuật Trung Quốc có một cái tên gọi là Hải thị thần lâu, ý tứ đều là hư ảo, chỉ vì chiêu nào cũng không đánh thật, không để lâu, nên so với quyền pháp bình thường còn nhanh hơn mấy lần.

Tên La Sát kia đỡ liên tiếp mấy cái đều gạt vào khoảng không, hô hô cười rộ cười nói “Con gái đùa giỡn, chỉ vô dụng…”. Câu nói chưa dứt, chát chát hai tiếng, hai má liên tiếp bị trúng hai chưởng. Tên La Sát ấy lớn tiếng quát tháo, hai tay đánh thẳng ra.

Song Nhi đảo người tránh qua, ngón trỏ tay phải phóng ra đã điểm trúng huyệt Thái dương bên phải của y. Tên La Sát choáng váng, thân hình lảo đảo. Song Nhi sấn lên, vung chưởng chém trúng huyệt Ngọc chẩm sau gáy y, đây là đại huyệt trên thân thể con người, tên La Sát ấy tuy to khỏe nhưng cũng không chi trì được, ngã vật xuống đất không bò dậy nổi.

Vi Tiểu Bảo cả mừng, nắm tay Song Nhi, đá vào gáy tên La Sát ấy một đá, hỏi “Ngươi có phục hay không?” tên La Sát ấy mơ mơ hồ hồ nói “Nữ nhân Trung Quốc… dùng yêu pháp… là bà đồng…”. Vi Tiểu Bảo chửi “Con heo thối tha, yêu pháp cái gì? Lôi ra chém! Bọn La Sát các ngươi có ai không phục, muốn ra tỷ võ nữa không?”.

Năm tên tù binh La Sát còn lại ngớ mặt nhìn nhau, nhìn thấy đại lực sĩ như thế còn thua thì mình quyết không phải là đối thủ, không ai dám lên tiếng. Vi Tiểu Bảo nói “Các ngươi nhận thua đầu hàng thì sẽ tha không giết, nếu không thì tới đây gieo xúc xắc với ta, mọi người theo quy củ Trung Quốc, thắng được ta thì sống, thua thì tử man cơ!”, nói xong vung tay phải một cái ra hiệu chém đầu. Năm người kia đều nghĩ “Theo quy củ Trung Quốc thì bất kể đổ được bao nhiêu điểm cũng phải thua y”. Liền có một người khom lưng nói “Đầu hàng!”. Vi Tiểu Bảo mừng rỡ nói “Tốt lắm! Mang rượu thịt ra thưởng cho y”. Bọn thân binh đi vào sau trướng bưng ra một bát rượu lớn, một bát thịt lớn, cởi trói cho tên La Sát ấy, cho y ăn uống.

Nước La Sát khí hậu lạnh lẽo, ai cũng thích rượu. Vi Tiểu Bảo tuy không thích uống rượu, nhưng trong quân có sẵn rượu cao lương cực phẩm, vừa bưng ra lập tức bốc mùi thơm phức cả trướng. Bốn người còn lại vừa ngửi thấy mùi rượu, đã sớm chảy nước bọt, lại nhìn thấy tên La Sát kia uống rượu rất vui vẻ, trong lòng ngứa ngáy không sao chịu nổi, từng người lần lượt nói “Đầu hàng, đầu hàng! Muốn uống rượu”.

Vi Tiểu Bảo sai cởi trói cho bốn người, bảo thân binh lấy bốn phần rượu thịt ra chia cho họ. Quân La Sát uống hết rượu cũng chưa thỏa mãn, Vi Tiểu Bảo lại sai thưởng thêm cho mỗi người một phần rượu. Năm tên tù binh La Sát uống đến lúc ngà ngà say, nắm tay nhau hát, hát được một lúc, nghĩ tới giữa cái chết lại được sống, lại còn được ăn to uống lớn vui vẻ thế này, đều khom người tạ ơn Vi Tiểu Bảo.

Sau đó vài hôm, tiên phong Hà Hựu không ngừng giải tù binh La Sát về, nhiều thì mười sáu mười bảy người, ít thì một hai người. Bọn tù binh này nói chuyện với năm người đầu hàng trước tiên xong, biết nếu gieo xúc xắc với vị tướng quân thiếu niên Đại Thanh này ắt sẽ phải chết không còn nghi ngờ gì nữa, nếu đầu hàng sẽ được khoản đãi rượu thịt, lập tức đều đầu hàng. Đám quân La Sát này vốn là bọn vô lại vong mạng, nếu không phải trộm cướp cũng là tội phạm đi đày, trong mười người có đến tám chín là bọn không điều ác nào không làm, mạo hiểm xuống nam, chẳng ai có ý tốt. Lúc đầu hại chết thường dân Trung Quốc mười phần thuận lợi, lại càng có ý khinh thường người Trung Hoa, nên tuy bị bắt vẫn ngạo nghễ tự đại. Đến lúc Vi Tiểu Bảo chém chết mấy tên ra oai, số còn lại mới biết sợ. Bọn người này ngang tàng hung dữ, khinh người lành sợ kẻ ác, thấy đối phương ngang tàng hơn hung dữ hơn, chỉ còn cách lập tức ngoan ngoãn đầu hàng.

***

Lúc ấy Tổng đốc Cao La Tân đã phụng mệnh công chúa Tô Phi Á triệu về Mạc Tư Khoa, thăng chức cao hơn. Tổng binh đại tướng ở thành Nhã Khắc Tát tên Đồ Nhĩ Bố Thanh (Alexi Tolbusin). Quân La Sát từng toán nhỏ ra ngoài cướp bóc liên tiếp mấy ngày bị thất tung, Đồ Nhĩ Bố Thanh sai người nghe ngóng, thủy chung cũng không thấy về báo, biết là không hay, lúc ấy điểm một nửa binh mã trong thành, tất cả hơn hai ngàn người, đích thân suất lãnh kéo ra ngoài thành.

Đồ Nhĩ Bố Thanh dọc đường đi không thấy dấu vết địch nhân, thấy nhà ở của nông dân Trung Quốc là hạ lệnh phóng hỏa đốt hết, nam nữ bách tính đều nhất loạt giết chết, đi được hơn hai mươi dặm chợt nghe tiếng vó ngựa vang lên, một toán quân mã xông tới.

Đồ Nhĩ Bố Thanh ra lệnh cho bộ ngũ tản ra, chỉ thấy một đội kỵ mã quân Thanh thúc ngựa phóng tới, khoảng năm trăm người, tên bắn rào rào. Đồ Nhĩ Bố Thanh hô hô cười rộ, nói “Bọn Man tử Trung Quốc chỉ biết bắn tên, làm sao chống lại được hỏa thương ghê gớm của người La Sát chúng ta?”. Bèn quát một tiếng ra lệnh, quân sĩ cùng nổ súng, mười mấy kỵ binh quân Thanh ngã ngựa.

Trong quân Thanh có tiếng thanh la vang lên, quân Thanh quay đầu ngựa lại chạy về phía nam, Đồ Nhĩ Bố Thanh ra lệnh đuổi theo, đội quân Thanh này toàn cưỡi ngựa tốt tuyển chọn đặc biệt, phóng đi rất nhanh, nhất thời không sao đuổi kịp. Đuổi được bảy tám dặm, chỉ thấy cạnh khu rừng phía trước dựng một lá cờ vàng, quân La Sát phóng mau tới, thấy là bảy tám doanh trướng của quân Thanh. Quân La Sát nổ súng ầm ầm, trong doanh trướng có mấy trăm quân Thanh chạy ra, bắn vài loạt tên rồi cưỡi ngựa phóng về phía nam. Đội tiên phong của quân La Sát xông vào doanh trướng, thấy quân Thanh đã chạy sạch.

Đồ Nhĩ Bố Thanh xuống ngựa vào trướng, chỉ thấy trên bàn bày rượu thịt, hơi nóng còn bốc nghi ngút, dưới đất vứt đầy vàng bạc, quần áo, châu báu. Đồ Nhĩ Bố Thanh cả mừng, nói “Đây là đại tướng của bọn Man tử Trung Quốc, vội vàng bỏ chạy, ngay cả vàng bạc cũng không kịp mang theo hết. Mọi người lên ngựa đuổi mau! Bắt được đại tướng của bọn Man tử sẽ có trọng thưởng. Đại tướng của bọn Man tử nhất định mang rất nhiều vàng bạc châu báu trong người, mọi người đuổi theo mà cướp”.

Đám quân tướng thấy vàng bạc châu báu đã sớm ngươi giành ta cướp, có người lấy rượu thịt trên bàn ăn uống, nghe chủ tướng hạ lệnh đều lớn tiếng reo hò, đổ ra khỏi trường, nhao nhao lên ngựa, theo vết chân ngựa đuổi về phía đông nam, dọc đường chỉ thấy vàng bạc, đao thương, cung tên rải rác bên vệ đường. Đám binh tướng đều nói quân Trung Quốc thấy đại quân La Sát kéo tới đã sợ vãi cứt vãi đái, ngay cả binh khí cũng ném đi không cần tới nữa.

Lại đuổi một lúc, chỉ thấy trên đường có mấy đôi hài, mấy cái nón chóp đỏ. Đồ Nhĩ Bố Thanh kêu lên “Nguyên soái tướng quân của bọn Man tử Trung Quốc cải trang chạy trốn, có quá nửa là cải trang thành binh sĩ. Đừng để y qua mặt”. Bọn tùy tùng đều nói “Tướng quân đoán việc như thần, nhất định là thế”, Đồ Nhĩ Bố Thanh sai nhặt hài và mũ, nói “Bắt được bọn Man tử Trung Quốc thì bất kể binh sĩ hay phu phen cũng bảo đội mũ mang hài thử, nếu vừa vặn thì có quá nửa chính là đại tướng”. Bọn bộ thuộc đều ca ngợi tướng quân thông minh trí tuệ, mọi người không sao bằng được.

Lại đuổi thêm vài dặm, lại cướp được một doanh trại khác của quân Thanh, chỉ thấy dưới đất ngoài vàng bạc binh khí còn có rất nhiều quần áo phụ nữ màu hồng màu lục, màu sắc tươi đẹp, ngoài doanh trướng còn có những vật trang sức của phụ nữ như phấn sáp nước hoa, khăn tay thoa vòng. Đám quân tướng lửa dục bừng lên, cùng reo hò “Đuổi mau, đuổi mau, bọn Man tử Trung Quốc có mang theo phụ nữ”.

Cứ thế suốt đường đuổi theo, liên tiếp cướp được bảy nơi doanh trại, nghe phía trước văng vẳng có tiếng kêu la hoảng sợ vang lên. Đồ Nhĩ Bố Thanh đứng lên yên ngựa, lấy kính thiên lý nhìn ra, chỉ thấy cách vài dặm có một toán quân Trung Quốc đang nhao nhao chạy trốn, cờ xí nghiêng ngả, hàng ngũ rối loạn. Đồ Nhĩ Bố Thanh cả mừng kêu lên “Đuổi mau!” rồi tuốt mã đao ra, chém gió trên không, quát lớn “Xông lên, giết!”. Y suất lãnh binh tướng xông mau tới, dọc đường nhìn thấy hơn hai mươi con ngựa của quân Thanh ngã chết trên đường. Bọn binh tướng mừng rỡ kêu lên “Ngựa của bọn Man tử kiệt sức rồi!”. Bèn ra sức thúc ngựa, càng đuổi càng gần, nhìn thấy quân Thanh chạy vào một đường sơn đạo nhỏ hẹp.

Đồ Nhĩ Bố Thanh đuổi tới cửa núi, thấy địa thế hiểm trở, thoáng sửng sốt “Nếu quân địch mai phục ở đây thì rất không hay”. Chợt nghe trong sơn cốc phía trước có người kêu lên bằng tiếng La Sát “Bọn Man tử Trung Quốc, các ngươi đầu hàng rồi, tốt lắm, tốt lắm!”, lại có người kêu lên “Hô hô, lần này bọn Man tử Trung Quốc thảm bại rồi”, đúng là tiếng của quan binh bản quốc, không hề sai chạy. Đồ Nhĩ Bố Thanh cả mừng, lúc ấy càng không nghi ngờ gì nữa, thúc ngựa xông vào, hơn hai ngàn kỵ binh cũng theo sau xông vào sơn cốc. Đồ Nhĩ Bố Thanh quát lớn “Phía trước là đội nào đấy? Các ngươi ở đâu thế?”. Chỉ nghe sau vách núi có hơn mười người đồng thanh kêu lên “Bọn ta ở đây! Bọn Man tử Trung Quốc đầu hàng rồi!”. Đồ Nhĩ Bố Thanh kêu lên “Hay quá!”, vừa giật cương ngựa, chợt nghe sau lưng có tiếng súng nổ ầm ầm.

Đồ Nhĩ Bố Thanh giật nảy mình, quay lại nhìn, chỉ thấy chỗ cửa sơn cốc khói bay mù mịt, trong rừng cây trên vách núi hai bên đường sơn đạo ánh lửa lóe lên, hàng loạt hỏa thương bắn xuống. Binh tướng La Sát hoảng sợ kêu la. Đồ Nhĩ Bố Thanh kêu lên “Quay ngựa lại, lui ra khỏi sơn cốc”.

Chợt nghe hai bên vách núi có tiếng mấy ngàn người đồng thanh quát lớn “Quân La Sát, đầu hàng đi, đầu hàng đi!”, kế đó có vô số đá lớn, lôi mộc lăn xuống, trong khoảnh khắc đã lấp tắc đường sơn đạo. Quân La Sát đều bị vướng trong đường sơn đạo nhỏ hẹp, ngươi xô ta đẩy, người kêu ngựa hí, ầm ầm một tràng. Quân Thanh trên cao đánh xuống, cung tên súng đạn không ngừng bắn ra.

Đồ Nhĩ Bố Thanh thầm kêu khổ, biết đã trúng kế địch nhân, thấy đường về đã bị chặn, chỉ còn cách quay ngựa lại, quát lớn “Mọi người xông về phía trước!”. Vừa xông lên được vài trượng, chợt nghe bình bình vang rền, đạn pháo bắn tới, giết chết mấy mươi binh sĩ. Đồ Nhĩ Bố Thanh hoảng sợ hồn phi phách tán, không ngờ hỏa khí của quân Thanh lại lợi hại như thế, mà trong chỗ đường núi gập ghềnh này lại mai phục được đại pháo. Y vội nhảy xuống ngựa, kêu lên “Bỏ hết ngựa, tập trung hỏa lực, theo đường cũ xông ra”.

Quân La Sát nhao nhao xuống ngựa, bò lên mớ cây đá lấp đường sơn đạo, hậu đội bắn lên vách núi hai bên để yểm hộ. Hỏa lực súng ống của quân La Sát rất lợi hại, bắn đi rất xa, cũng bắn chết không ít quân Thanh. Nhưng quân Thanh đại pháo không ngừng bắn xuống, thế rất mãnh liệt.

Mấy trăm binh tướng La Sát bò qua khỏi mớ cây đá lấp đường, đột nhiên ầm một tiếng vang rền, dưới đất nổ tung lên, mấy trăm binh tướng tung lên mười mấy trượng, có người đứt đầu cụt tay, máu thịt bắn tung tóe, số may mắn không chết vội vàng bò trở lại.

Đồ Nhĩ Bố Thanh thấy trước sau đều không có đường, bó tay không còn cách nào. Một tên binh sĩ rất kiêu dũng, suất lãnh mấy mươi tên cảm tử leo lên vách núi phía bắc, định mở đường máu. Nhưng vách núi dựng đứng, lại nhẵn bóng không có chỗ đặt chân, leo lên được vài trượng đã có hơn mười tên ngã xuống, không chết thì bị thương. Lúc ấy quân Thanh lại không ngừng bắn đại pháo xuống, trên vách núi vang lên tiếng quân La Sát kêu gào thê thảm.

Nhìn thấy nếu lại qua một lúc nữa, thế ắt toàn quân tan vỡ, Đồ Nhĩ Bố Thanh kêu lên “Đừng đánh nữa, ngừng bắn, ngừng bắn!”, nhưng tiếng pháo và tiếng binh sĩ kêu la át mất tiếng y. Bọn quân sĩ đứng gần y đồng thanh kêu lớn “Ngừng bắn, ngừng bắn!”. Số quân còn lại cũng kêu lên theo.

Pháo của quân Thanh ngừng bắn, có người kêu lên bằng tiếng La Sát “Ném hết súng ống đao kiếm xuống, tất cả cởi hết quần áo ra!”. Đồ Nhĩ Bố Thanh cả giận, quát lớn “Chỉ ném võ khí xuống, không cởi quần áo đâu!”. Quân Thanh có người quát “Ném hết súng ống đao kiếm xuống, cởi hết quần áo ra, sợ gì bị cười chứ! Ra ngoài uống rượu. Không cởi quần áo, thì tử man cơ!”. Đồ Nhĩ Bố Thanh kêu lên “Không cởi quần áo đâu!”.

Câu ấy vừa buông ra, tiếng ầm ầm vang lên, đại pháo của quân Thanh lại bắn tới. Trong quân La Sát có nhiều kẻ sợ chết, lập tức nhao nhao vứt súng ống xuống, bắt đầu cởi quần áo. Đồ Nhĩ Bố Thanh giơ súng ngắn lên, bắn chết một tên binh sĩ đang cởi áo, quát “Ai cởi quần áo đều bị xử tử!”. Nhưng dưới làn đạn pháo của quân Thanh ầm ầm bắn xuống, chỉ đành không đếm xỉa gì tới nghiêm lệnh của tướng quân, hơn mười tên binh sĩ trần truồng như nhộng, bò lên đống gỗ đá chặn đường. Quân Thanh hai bên vách núi vỗ tay cười lớn, kêu lên “Cởi quần áo ra mau!”. Đám binh sĩ cởi quần áo để được sống sót càng lúc càng nhiều, Đồ Nhĩ Bố Thanh súng ngắn liên tiếp bắn ra, lại bắn chết hai người, nhưng làm sao cản được?

Đại pháo của quân Thanh tạm ngừng bắn, trên đỉnh núi có người quát “Muốn sống thì mau cởi quần áo ra”. Lúc ấy binh tướng La Sát đã không còn lòng dạ nào đánh nhau, mười người có tới tám chín cởi giày ra.

Đồ Nhĩ Bố Thanh thở dài một tiếng, kề miệng súng vào thái dương đang định tự sát. Viên Phó quan đứng bên cạnh đè khẩu súng trong tay y xuống, nói “Tướng quân, không được! Chim ưng già giữ lại lông cánh, mới có thể bay qua núi cao”. Câu này là thành ngữ La Sát, cũng có ý nghĩa như câu “Non xanh còn giữ được, lo gì thiếu củi đun” của Trung Quốc.

Chỉ nghe trong quân Thanh có người kêu lên bằng tiếng La Sát “Mọi người cởi hết quần áo của Đồ Nhĩ Bố Thanh ra, thì tất cả cùng ra, nếu không sẽ nổ pháo”, câu ấy nói bằng tiếng La Sát rất đúng giọng, chính là quân La Sát đầu hàng phát thoại.

Đồ Nhĩ Bố Thanh tức giận không sao nén được, chỉ thấy mấy tên bộ thuộc trợn mắt nhìn mình, rõ ràng không có ý tốt, bèn đưa tay rút bội đao đeo ở lưng ra. Ngón tay y vừa chạm vào chuôi đao, một tên quân sĩ sau lưng đã sấn tới cặp cổ y, năm sáu người khác cùng xông vào đè y xuống đất, bảy tay tám chân lập tức cởi hết quần áo của y, vác lên bước ra.

Quân tướng La Sát cứ một người bước ra là có hai tên quân Thanh bước tới, trói quặt hai tay ra sau lưng, giải đi vài dặm, tới một bãi đất rộng. Trận ấy hơn hai ngàn quân La Sát ngoài sáu bảy trăm người chết và bị thương, hơn một ngàn tám trăm người còn lại đều bị trói quặt hai tay ra sau lưng, trần truồng đứng xếp hàng, gió thu nổi lên, không kìm được run lên cầm cập.

Quân Thanh áp giải Đồ Nhĩ Bố Thanh tới đứng phía trước hàng quân La Sát. Quân tướng La Sát vốn ai cũng cúi đầu rũ rượi, trong lòng run sợ, đột nhiên thấy vị tướng quân lúc bình thời oai nghiêm dữ tợn lại trở thành như thế, đều cảm thấy buồn cười, trong đó có mấy mươi người nhìn thấy cái mông nhồng nhộng của chủ tướng, nhịn không được bật cười. Tiếng cười càng lúc càng lan ra, không bao lâu hơn một ngàn quan binh đều cười ha hả.

Đồ Nhĩ Bố Thanh cả giận, quay lại cao giọng quát “Đứng thẳng, nghiêm! Cười cái gì?”. Y trên người không có một mảnh vải mà làm ra vẻ oai nghiêm như thế, lại càng vô cùng buồn cười. Đám quan binh ngày thường tuy rất sợ sệt y, nhưng lúc bấy giờ làm sao nhịn cười được?

Trong tiếng cười lớn, đột nhiên có tiếng súng bình bình bình, trống hiệu vang lên, một đội quân Thanh từ sau núi xông ra, giương cờ vàng đứng xếp hàng ở phía đông, kế đó lại có ba đội quân Thanh mang cờ ba màu đỏ, trắng, lam chia đứng ở ba phía nam, tây, bắc, vây quân La Sát vào giữa. Quân La Sát thấy quân Thanh người cầm trường thương, người cầm đại đao, người giương cung tên, người chĩa hỏa thương, giáp trụ sáng loáng, binh khí sắc bén, mình thì trên người không mảnh vải, liền cảm thấy bị khí thế của địch quân uy hiếp, không ai dám cười nữa, trong lòng vô cùng run sợ.

Quân Thanh xếp hàng xong, sau núi lại vang lên ba tiếng pháo lớn, kế đó nhã nhạc trỗi lên, hai lá cờ giương lên tiến ra, lá bên trái đề “Phủ viễn đại tướng quân Vi”, lá bên phải đề “Đại Thanh Lộc Đỉnh công Vi”, mấy trăm đao thủ xúm xít đưa một vị tướng quân trẻ cưỡi ngựa đi tới. Vị tướng quân trẻ này đầu đội mũ chóp đỏ, thân khoác áo choàng vàng, vẻ mặt rạng rỡ, hai mắt láo liên, tay trái phẩy nhẹ quạt lông, giống hệt Gia Cát Lượng, tay phải cắp ngược đại đao, giống hệt Quan Vân Trường, chính là Vi công Vi Tiểu Bảo.

Y thúc ngựa xông ra trước, hô hô hô ngẩng đầu lên trời cười lớn ba tiếng, bắt chước Tào Tháo trên sân khấu, chỉ tiếc bên cạnh thiếu mất một người đưa đẩy, không ai hỏi câu “Tại sao tướng quân lại cười?”.

Lúc ấy Đồ Nhĩ Bố Thanh nỗi giận đầy lòng không nơi phát tiết, đã sớm nảy ý ương ngạnh, đặt việc sống chết ra ngoài, cao giọng mắng “Thằng tiểu quỷ Trung Quốc, ngươi dùng quỷ kế bắt được ta, không phải là anh hùng. Muốn giết thì giết, tại sao còn làm nhục ta thế này?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Ta làm nhục ngươi cái gì?”. Đồ Nhĩ Bố Thanh tức giận nói “Ta… ta như thế này, chẳng lẽ… chẳng lẽ không phải bị làm nhục à?”. Vi Tiểu Bảo cười hỏi “Quần của ngươi là ai cởi thế?”. Đồ Nhĩ Bố Thanh lập tức nghẹn lời, quần áo của mình đều bị thuộc hạ của mình đè xuống cởi ra, tựa hồ không thể đổ cho tên tướng quân tiểu quỷ này. Y trong lúc cuồng nộ, khuôn mặt đỏ bừng, xông mau tới định liều mạng với Vi Tiểu Bảo. Bốn tên thân binh bên cạnh Vi Tiểu Bảo xông ra, nhấc trường thương lên, mũi thương sáng loáng chĩa vào người y. Đồ Nhĩ Bố Thanh chỉ còn cách dừng lại, không kìm được hai tay vung lên che trước mặt, quân tướng hai bên nhìn thấy thế đều cười ầm lên.

Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi đã đầu hàng, nên quy thuận Đại Thanh, tới Bắc Kinh dập đầu lạy hoàng đế Trung Quốc đi!”. Đồ Nhĩ Bố Thanh nói “Không hàng, có băm làm muôn mảnh ta cũng không hàng”. Vi Tiểu Bảo cao giọng hỏi quân La Sát “Các ngươi có đầu hàng không?”. Quan binh La Sát đều cúi đầu im lặng. Vi Tiểu Bảo bèn chỉ lá cờ trắng phía tây, nói “Ai đầu hàng thì qua đứng bên kia!”, đám quan binh ngẩn ra bất động, có vài người muốn hàng, nhưng thấy không ai bước ra, cũng không dám bước ra trước.

Vi Tiểu Bảo nói “Được, các ngươi không ai đầu hàng cả! Nhà bếp ra đây!”. Phía sau bọn thân binh có mười tên đầu bếp bước ra, nửa người trên cởi trần, tay cầm đao nhọn xiên sắt, bước tới khom người nghe lệnh. Vi Tiểu Bảo nhìn Đồ Nhĩ Bố Thanh nói “Nước La Sát các ngươi có một món ăn gọi là Hà thư ni khắc, năm trước lúc ta ở Mạc Tư Khoa đã ăn qua, mùi vị rất không kém, bây giờ ta lại muốn ăn”. Rồi quay lại mười tên nhà bếp nói “Làm món Hà thư ni khắc!”. Mười tên nhà bếp ứng tiếng “Tuân lệnh!”. Liền có hai mươi tên quân sĩ đẩy mười cái lò sắt ra, trong lò đốt lửa đỏ rực. Quan binh La Sát ngớ mặt nhìn nhau, không biết vị tướng quân Trung Quốc này giở trò ma gì.

Vi Tiểu Bảo vẫy tay một cái, liền có hai mươi tên thân binh kéo mười tên quân La Sát ra. Vi Tiểu Bảo nói bằng tiếng La Sát “Cắt thịt trên người chúng, nướng món Hà thư ni khắc!”.

“Hà thư ni khắc” là thịt bò xỏ qua xiên sắt nướng lên, là một món ăn nổi tiếng ở nước La Sát.

Mười tên nhà bếp bước tới trước mặt mười tên quân La Sát, đao nhọn trong tay sáng loáng giơ lên hạ xuống. Mười tên quân La Sát cùng bật tiếng la thảm. Bọn thân binh kéo mười tên quân La Sát ra sau núi, chỉ thấy trên mặt đất máu tươi vương vãi. Mười tên nhà bếp trên xiên sắt trong tay trái đã xâu một khối thịt, đặt lên lò nướng. Quân La Sát nhìn nhau hoảng sợ. Trong khung cảnh yên lặng chỉ nghe tiếng than nổ lách tách, tiếng mỡ nhỏ xuống lửa xèo xèo.

Vi Tiểu Bảo quát “Kéo mười tên La Sát khác ra đây làm món Hà thư ni khắc!”, hai mươi tên thân binh lại bước qua bắt người.

Trong mười tên quân La Sát bị kéo ra, có bốn tên la lên “Đầu hàng, đầu hàng!”. Vi Tiểu Bảo nói “Được! Đầu hàng thì kéo qua bên kia”. Thân binh kéo bốn tên ấy tới dưới lá cờ trắng, liền có người đem rượu thịt ra cho ăn. Bọn thân binh trở lại kéo bốn tên khác. Bốn tên này nhìn thấy đầu hàng được khoản đãi rượu thịt, không hàng thì bị khoét thịt trên người nướng món Hà thư ni khắc, tuy không nhìn thấy thịt bị cắt là ở chỗ nào, nhưng thấy ánh mắt quân Thanh cứ nhìn tới nhìn lui vào hạ thể của mình, dấu hiệu rất không hay, trong lòng hoảng sợ, bất giác cũng la lớn “Đầu hàng!”. Sáu tên quân La Sát cứng cỏi lúc đầu đến lúc ấy cũng mất hết khí thế, đều la lên “Đầu hàng!”.

Đã có người đầu hàng, số quân binh còn lại cũng không dám khoe khoang dũng cảm, có người không chờ thân binh tới kéo ra, đã bước qua dưới lá cờ trắng, trong giây lát, hơn một ngàn tám trăm quan binh La Sát đều đầu hàng, chỉ còn một mình Đồ Nhĩ Bố Thanh đứng sừng sững ở đó.

Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi có đầu hàng không?”. Đồ Nhĩ Bố Thanh nói “Thà chết không hàng!”, Vi Tiểu Bảo nói “Được! Ta tha ngươi về Nhã Khắc Tát”. Rồi sai Hồng Triều suất lãnh năm trăm quân hộ tống y về thành Nhã Khắc Tát. Đồ Nhĩ Bố Thanh chỉ nghĩ mình quật cường như thế thì nhất định viên tướng quân nhà Thanh này sẽ giết, nhưng y lại chịu tha về, vô cùng bất ngờ, nói “Ngươi đã tha ta, thì trả lại quần áo cho ta!”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Quần áo thì không trả được”, rồi dặn Hồng Triều “Ngươi đưa y về dưới thành Nhã Khắc Tát, truyền lệnh của ta tạm thời ngừng công thành, dắt vị tướng quân La Sát cởi truồng này đi quanh thành ba vòng, rồi thả y vào thành”

Hồng Triều nhận tướng lệnh, lúc ấy trong tiếng cười tiếng thét ầm ĩ huyên náo của quân Thanh, dắt quân áp giải Đồ Nhĩ Bố Thanh trần truồng như nhộng đi.

***

Lâm Hưng Châu nói “Xin hỏi đại soái, đã bắt được tướng quân La Sát, sao lại thả ra? Chỗ ảo diệu trong đó, xin đại soái chỉ giáo”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Hôm nay chúng ta giành được toàn thắng, ngươi có biết là dùng kế sách gì không?”. Lâm Hưng Châu nói “Đây là đại soái thần cơ diệu toán, thuộc hạ khâm phục sát đất”. Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Đây không phải là ta thần cơ diệu toán, mà là mưu kế của hoàng thượng an bài. Hoàng thượng nói năm xưa Gia Cát Lượng bảy lần bắt Mạnh Hoạch, kế sách rất hay, bảo ta học theo. Ngươi xem vở Thất cầm Mạnh Hoạch chưa? Nếu chưa xem, thì cũng đã nghe kể rồi chứ? Gia Cát Lượng sai Ngụy Diên ra đánh, chỉ cho thua không cho thắng, thua liên tiếp mười lăm trận, bỏ cho Mạnh Hoạch chiếm được bảy trại, dụ y tiến vào hang Bàn Xà, sau đó hỏa thiêu quân giáp mây. Hôm nay là chúng ta sử dụng mưu kế của Gia Cát Lượng”. Các tướng đều khâm phục.

Vi Tiểu Bảo lại nói “Hoàng thượng lòng dạ nhân từ, nói Gia Cát Lượng hỏa thiêu quân giáp mây quá tàn nhẫn, đến nỗi bị giảm thọ. Nếu quân La Sát chịu đầu hàng, thì nên tha mạng cho họ”. Phó Đô thống Lang Thân nói “Nếu không phải đại soái dùng kế Hà thư ni khắc, cắt thịt mười tên quân La Sát ra nướng, dọa cho chúng hồn phi phách tán, thì đám quan binh La Sát này vô cùng cứng cổ, e là không chịu đầu hàng. Kế sách này thật hơn cả Gia Cát Lượng”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Mười tên nhà bếp đã giấu sẵn mười tảng thịt bò trong người, chẳng qua chỉ rạch vài nhát trên đùi mười tên quân La Sát kia cho chúng la ầm lên. Thịt nướng trên lò thì là thịt bò, mùi vị thế nào, các vị đừng ngại nếm thử”. Các tướng bật tiếng cười rộ, sai đám nhà bếp đưa lên mười tảng thịt Hà thư ni khắc, cắt ra chia nhau ăn, quả nhiên vừa thơm vừa mềm, vô cùng ngon ngọt.

Các tướng lại hỏi “Đại soái đã bắt được tù trưởng quân địch, lại thả cho y về, cũng là muốn bảy lần bắt bảy lần tha khiến từ nay trở đi y không dám phản nữa phải không?”, Vi Tiểu Bảo nói “Không phải thế. Chuyện này lúc ở Bắc Kinh ta đã thỉnh vấn hoàng thượng. Ta nói hoàng thượng là Điểu Sinh Ngư Thang, lòng dạ khoan hồng độ lượng, chúng ta có nên học Gia Cát Lượng, bắt được nguyên soái La Sát thì tha y bảy lần không? Hoàng thượng nói: Như thế không đúng. Học Gia Cát Lượng là phải vận dụng linh hoạt, không thể cứ nhất nhất làm theo. Mạnh Hoạch là tù trưởng Man tử, y nói không phản là vĩnh viễn không phản. Chúng ta thì chỉ bắt được tướng quân nguyên soái của La Sát, y nói không phản cũng vô dụng, Sa hoàng và Nhiếp chính nữ vương nước La Sát sẽ lại phái nguyên soái khác đem quân tới xâm phạm cương giới của chúng ta”. Các tướng gật đầu khen phải. Vi Tiểu Bảo nói “Thành Nhã Khắc Tát quân sĩ hung hãn, hỏa pháo lợi hại. Nếu chúng ta giết chết nguyên soái La Sát, quan binh trong thành sẽ suy cử thống soái khác, đánh nhau lại càng hung hãn, bây giờ chúng ta lột truồng nguyên soái La Sát, dắt y đi quanh thành ba vòng, từ nay trở đi quan quân trong thành sẽ coi thường y. Y không có oai phong, thì trở đi ban bố mệnh lệnh cũng không có hiệu quả gì”.

Chư tướng đồng thanh khen phải. Lâm Hưng Châu hỏi “Là hoàng thượng chỉ dạy, bảo lột truồng tù trưởng địch quân à?”, Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, nói “Hoàng thượng đâu lại làm nhộn như thế? Hoàng thượng chỉ bảo ta nghĩ cách nuôi dưỡng lòng hăng hái của quân ta, làm giảm oai phong của quân La Sát. Hoàng thượng nói: Quân La Sát cao lớn, toàn thân đầy lông, giống như người rừng, hỏa khí lại mười phần lợi hại. Lúc ra trận giao phong, quân ta thấy dáng vẻ của họ như thế, có quá nửa đã sợ sệt trong lòng, mất hết nhuệ khí, rất khó đánh nhau. Hoàng thượng nói: Tiểu Quế tử, ngươi rất nhiều trò hoa dạng, phải làm sao để quân ta từ trên xuống dưới đều coi thường quân Man tử. Ta không nghĩ ra cách nào hay, một hôm đột nhiên nghĩ tới chuyện ta đánh bạc lúc nhỏ”.

Các tướng đều nghĩ “Chuyện ngươi đánh bạc lúc nhỏ thì có liên quan gì tới quân La Sát?”.

Vi Tiểu Bảo mỉm cười nói “Lúc nhỏ ta ở Dương Châu đánh bạc với người ta, kỹ thuật gieo xúc xắc kém cỏi, lúc thua sạch túi chỉ còn cách giở trò vô lại, muốn đánh nhau thì đánh nhau, ta cũng không sợ. Có một lần bị người ta đánh cho thê thảm, người thắng còn bắt ta lột quần trừ nợ, để ta cởi truồng về nhà, mọi người lớn nhỏ trên phố đều chỉ trỏ cười cợt. Từ đó trở đi, kỹ thuật gieo xúc xắc của ta tiến bộ không ít”. Các tướng đều cười ầm. Vi Tiểu Bảo cười nói “Hoàng thượng nói điều quan trọng trong việc đánh trận là phải biến hóa linh hoạt, hoàng thượng chỉ có thể chỉ giáo phương lược đại kế, còn khi làm thì ta phải tự mình động não. Ta nghĩ năm ấy ta còn rất nhỏ mà đã sợ bị người ta lột truồng thì quân La Sát lẽ nào lại không sợ, quả nhiên vừa bị lột mất quần, mọi người đều ngoan ngoãn đầu hàng”. Các tướng đồng thanh ca ngợi, vô cùng khâm phục. Có người nghĩ thầm “Lối lột quần này, trong Tôn tử binh pháp cũng chưa có. Bộ Vi tử binh pháp này quả thật lợi hại”

Lúc ấy Vi Tiểu Bảo sai hàng binh La Sát mặc trang phục quân Thanh, sai một viên Tham tướng suất lãnh hai ngàn quân Thanh áp giải hàng binh về Bắc Kinh dâng tù binh cho hoàng thượng. Trong doanh giữ lại hai trăm tên hàng binh to mồm để dùng vào việc quát tháo. Sư gia trong đại doanh viết một tờ tấu chương, nói Phủ viễn đại tướng quân Vi Tiểu Bảo tuân theo phương lược hoàng thượng chỉ dạy, kỳ khai đắc thắng, quân La Sát ngưỡng mộ Trung Hoa thượng quốc, rửa lòng quy thuận, quả thật hoàng thượng ta thánh đức như trời, cảm hóa được cả bọn Man Di, vân vân.

Đêm ấy Vi Tiểu Bảo khao thưởng ba quân. Sáng hôm sau đích thân suất lãnh chư quân kéo tới thành Nhã Khắc Tát. Chỉ thấy trên thành khói lửa mù mịt, trong thành ngoài thành quân sĩ đôi bên quát tháo vang trời, tiếng súng ầm ầm không ngớt.

Chủ tướng chỉ huy quân công thành là Bằng Xuân vào đại doanh bẩm báo hỏa pháo trong thành bắn rất dữ dội, sĩ tốt quân ta công thành thương vong không ít. Vi Tiểu Bảo nói “Chúng ta bắc đại pháo lên, bắn con mẹ nó đi”. Bằng Xuân ra lệnh, không bao lâu hai phía đông nam tây bắc tiếng pháo cùng nổ ran, ầm ầm ầm ầm bắn vào thành. Nhưng người La Sát xây dựng thành Nhã Khắc Tát đã lâu, công sự mười phần kiên cố, quân tướng đều núp sau lũy bền. Đại pháo của quân Thanh tuy nhiều, đạn pháo bắn sập không ít nhà cửa, nhưng quân La Sát giữ lũy không ra, cũng không làm gì được họ.

Đánh được vài ngày, Hà Hựu suất lãnh một ngàn dũng sĩ xông sát leo lên thành, trên thành hỏa thương bắn xuống rào rào, quân Thanh lập tức bị chết ba bốn trăm người. Bằng Xuân thấy tình hình bất lợi, khua chiêng thu quân. Quân La Sát đứng trên thành vỗ tay cười lớn, lại có mấy trăm tên cởi quần đứng trên thành đái xuống, cực kỳ ngạo mạn.

Tướng quân Hắc Long Giang Tát Bố Tố cả giận, đích thân dẫn quân công thành. Đội hỏa thương trên thành bắn xuống, Tát Bố Tố trúng đạn ngã ngựa, quân Thanh lập tức rối loạn. Cửa thành chợt mở toang, mấy trăm quân La Sát xông ra. Lâm Hưng Châu suất lãnh quân khiên mây lăn tròn dưới đất xông vào, đại đao vung lên. Quân La Sát vội nhảy lên tránh né. Đội quân khiên mây này là do Lâm Hưng Châu đích thân huấn luyện, rất thành thục Địa Đường đao pháp, lăn tròn dưới đất xông tới, tay trái cầm khiên mây đỡ đạn chì của quân địch, tay phải cầm đại đao nhằm vào chân quân La Sát mà chém. Đồ Nhĩ Bố Thanh thấy tình thế không hay vội hạ lệnh thu quán. Lâm Hưng Châu cứu Tát Bố Tố trở về. Tát Bố Tố bị trúng đạn vào trán phải, may là chưa vào tới óc, tuy bị thương nặng nhưng không đáng lo về tính mạng. Trận này đôi bên đều bị tổn thất, nhưng quân Thanh tử thương nhiều hơn.

Vi Tiểu Bảo dẫn thầy thuốc trong quân đích thân vào trướng Tát Bố Tố thăm hỏi an ủi, lại trọng thưởng cho Lâm Hưng Châu. Rồi hạ lệnh lui quân năm dặm hạ trại, đêm ấy hội họp các tướng trong trướng bàn cách công thành.

Các tướng có người nói hôm nay quân khiên mây lập được công lớn, ngày mai cứ dụ quân La Sát ra thành để quân khiên mây chém chân chúng, có người nói quân La Sát đã mất nhuệ khí, e sẽ không dám ra đánh, không bằng cứ xây lũy dài bao vây bốn phía cho chúng chết đói trong thành, lại có người nói đào địa đạo dưới đất tiến vào công thành.

Dùng địa đạo đánh thành vốn là cách thức lâu đời của Trung Quốc, câu ấy lập tức thức tỉnh Vi Tiểu Bảo, nhớ tới thành Nhã Khắc Tát vốn có địa đạo, năm trước mình đã ôm được bắp chân của công chúa Tô Phi Á trong địa đạo, hiện nàng đã là Nhiếp chính nữ vương, chấp chưởng đại quyền quân chính của nước La Sát, còn mình lại đánh nhau với quân sĩ thuộc hạ của nàng ở đây. Lại nghĩ “Nếu lúc này thị đích thân chỉ huy trong thành Nhã Khắc Tát, mình từ địa đạo lỏn vào thành, bò lên giường thị, sờ một cái, sờ hai cái, sờ cho thị toàn thân nhũn ra, thì con nhãi lẳng lơ này không la lớn đầu hàng không xong”.

Các tướng thấy Vi Tiểu Bảo trầm ngâm không nói, trên mặt thoáng nét tươi cười, cho rằng y đã có diệu kế, lập tức im bặt chờ nghe đại soái phân phó, nào ngờ lúc ấy y đang nghĩ tới việc sờ mó da thịt của công chúa Tô Phi Á toàn thân đầy lông vàng. Chỉ thấy y hai mắt như nhắm mà không phải nhắm, lẩm bẩm “Đĩ quá, cao cường, không thắng được thị”. Các tướng ngớ mặt nhìn nhau, lại nghe đại soái nói “Con mẹ nó, một cước đá mình trên giường rơi xuống”, các tướng càng không hiểu gì, chỉ nghe y nói tiếp “Con nhãi La Sát lẳng lơ này tuy lợi hại nhưng lão tử cũng có cách đối phó với thị”. Bằng Xuân nói “Đại soái nói rất đúng. Bọn quỷ La Sát có lợi hại hơn, chúng ta cũng có cách đối phó”.

Vi Tiểu Bảo ngẩn ra, mở to hai mắt, ngạc nhiên nói “Chúng ta à? Ngươi cũng tới sờ à?”, kế đó hô hô cười rộ, nói “Đúng rồi, đúng! Địa đạo ấy rất hẹp, chỉ có thể từng người một bò vào, chỗ ra là phòng tướng quân, chắc bây giờ cũng đã lấp lại rồi. Chúng ta phải đào một địa đạo khác”. Các tướng càng không biết nên nói gì. Vi Tiểu Bảo đứng lên, nói “Kế sách của các vị tướng quân đều rất hay, chúng ta ăn hết các cửa Thanh long, Bạch hổ, Thiên môn. Sáng sớm ngày mai mọi người chia nhau đi đắp lũy, đào địa đạo, đồng thời bắn đại pháo dụ cho họ ra đánh, cho quân khiên mây chém chân”. Các tướng thấy kế sách của mình đề nghị đều được đại soái thu nạp, vui vẻ bước ra.

Sáng sớm hôm sau, các tướng đều dẫn bộ thuộc của mình chia nhau làm việc, Bằng Xuân đốc suất quân sĩ gánh đất đắp lũy, Lang Thân chỉ huy bắn pháo, Ba Hải lo đào địa đạo. Hồng Triều suất lãnh năm trăm quân sĩ học bọn hàng binh La Sát những câu chửi người, đứng dưới thành ngoác miệng chửi lớn. Chỉ tiếc là người La Sát thô lậu ít văn, những câu chửi người rất có hạn, quân sĩ chửi bới tuy lớn tiếng, nhưng ý nghĩa lại rất tầm thường, trở đi trở lại cũng chỉ có mấy câu như “Ngươi là con heo thối tha”, “Ngươi ăn cứt”, làm sao bằng được lời chửi của Trung Hoa thượng quốc nhiều màu nhiều vẻ, biến hóa vô cùng? Vi Tiểu Bảo nghe được một lúc, cảm thấy chán ngắt.

Quân La Sát hôm trước đã nếm mùi đau khổ bị chặt chân, nhìn thấy quân Thanh thanh thế rất lớn nên cố thủ không ra, cứ núp sau tường đất trên thành chửi trả. Đại pháo của quân Thanh bắn vào thành cũng không làm tổn thương bao nhiêu. Đại pháo thời ấy nhồi thuốc đạn vào nòng súng, châm lửa bắn ra, chỉ là đẩy đạn chì bắn đi, người bị trúng đạn thì đứt gân gãy xương, nhưng nếu rơi xuống đất thì không có gì đáng lo.

Bách tính chung quanh bị quân La Sát hà hiếp hơn mười năm nay, nhà tan người chết không biết bao nhiêu mà kể, được tin hoàng thượng phát binh tới đánh bọn quỷ La Sát, ai cũng mừng rỡ như điên, lúc ấy lại mang rượu thịt tới thăm hỏi quan quân, có người mang cuốc xẻng quang gánh tới giúp quan quân đắp lũy. Tin tức truyền ra, cả bách tính cách đó vài mươi dặm cũng tới giúp sức.

Đồ Nhĩ Bố Thanh trên thành nhìn xuống, chỉ thấy đầu người như kiến, một dãy lũy dài bao vây ngoài thành càng lúc càng cao, xem ra tình thế không xong, chỉ mong quân La Sát ở thành Ni Bố Sở phía tây sớm tới cứu viện, trong ngoài giáp công mới có hy vọng thắng. Y đâu biết Khang Hy vốn đã dự liệu tới chuyện này, đã sai một đội kỵ binh tới đánh để kìm chân quân La Sát ở Ni Bố Sở, tướng giữ thành Ni Bố Sở hàng ngày cũng mong Đồ Nhĩ Bố Thanh mang quân tới cứu viện.

Súng đạn của quân La Sát có thể bắn xa, quân Thanh không dám tới gần đánh thành. Thành Nhã Khắc Tát là nền tảng kinh doanh về phía đông của người La Sát, người La Sát dã tâm sôi sục, đã định sau khi chiếm cứ được vùng đất rộng lớn ở một dải Hắc Long Giang, Tùng Hoa Giang xong sẽ xâm lược phía nam, chiếm cứ toàn bộ Trung Quốc nhập vào bản đồ của mình, muốn hàng ngàn ngàn vạn vạn người đều phải thuần phục, trở thành nông nô, vì thế thành Nhã Khắc Tát tường vách kiên cố, đạn dược đầy đủ, lương thảo chất cao như núi, cho dù bị bao vây năm ba năm cũng không sợ thiếu. Trong thành đào giếng sâu, không thiếu nước uống, Đồ Nhĩ Bố Thanh sợ người Trung Quốc trong thành làm nội ứng, đều đem hết đàn ông Trung Quốc lên thành giết chết, ném xác xuống dưới, quân dân người Trung Quốc trong thành ngoài thành nhìn thấy, ai cũng căm giận chửi mắng.

Lúc ấy địa đạo đã dần dần đào tới cạnh thành. Vi Tiểu Bảo nghĩ núi Lộc Đỉnh là nơi có long mạch của hoàng đế, nếu đào đứt long mạch, hại chết Khang Hy, thì rất không yên tâm, bèn ra lệnh không được đào địa đạo vào trong thành, chỉ cần đào tới dưới chân thành, chôn thuốc súng phá hủy tường thành, đại quân có thể xông vào. Hôm ấy giếng trong thành đột nhiên cạn nước, Đồ Nhĩ Bố Thanh giỏi việc dùng binh, sau khi được tin ngưng thần ngẫm nghĩ, đoán là quân địch đào địa đạo, đến nỗi nguồn nước dưới đất theo địa đạo chảy ra ngoài, lập tức đo đạc phương vị, đặt thuốc nổ trên địa đạo của quân Thanh đốt, ầm một tiếng lớn giết chết mấy trăm quân Thanh đang đào địa đạo, địa đạo cũng lập tức bị lấp kín.

***

Nhất thời không hạ được thành Nhã Khắc Tát, khí trời ngày một lạnh lẽo. Ở vùng phía bắc lạnh giá này, vừa đến cuối mùa thu đã rét thấu xương, đến mùa đông, thì càng lạnh, một giọt nước vừa rơi xuống đã đông thành băng, chỉ cần không giữ gìn cẩn thận, lỗ mũi vành tai sẽ bị lạnh cóng rụng luôn xuống, còn như đầu ngón tay cứng đờ rụng xuống, tay chân bị lạnh mà thành tàn phế, lại càng là chuyện bình thường. Tuyết rơi được mấy ngày, bách tính giúp đỡ công thành đã không chịu nổi, nhao nhao từ biệt quan quân, nói đầu mùa hè năm sau băng tan sẽ lại tới giúp, lại khuyên quan quân lui về phía nam, để khỏi bị chết cóng giữa trời băng đất tuyết.

Bọn tướng quân Tát Bố Tố, Ba Hải đã trấn thủ ở phía bắc lâu năm, đều biết cục diện lúc vào đông vô cùng nguy hiểm, nếu buổi tối bị hơi lạnh xâm nhập, thì trong một đêm quan quân bị chết cóng một nửa cũng không phải là chuyện lạ. Quân La Sát trú trong phòng ốc, tường dày có thể ngăn được hơi lạnh, quân Thanh thì đóng trong lều trại ngoài đồng trống, cho dù có đốt lửa sưởi cũng không được việc gì. Lúc ấy bèn đề nghị Vi Tiểu Bảo tạm lui quân về phía nam để tránh rét.

Vi Tiểu Bảo nghĩ hoàng thượng sai mình bắc chinh, ngay cả một tòa thành cũng hạ không được, nếu lui quân thì không khỏi quá bị thịt, do dự mấy ngày, rốt lại vẫn không quyết định được chủ ý. Bộ tướng tới báo, có mấy trăm quân sĩ bị thương không chịu lạnh nổi đã chết cóng. Vi Tiểu Bảo đang rầu rĩ chán nản, đột nhiên có thánh chỉ tới.

Trong chỉ dụ của Khang Hy nói “Phủ viễn đại tướng quân Vi Tiểu Bảo ra quân đắc lợi, rất đáng khen ngợi. Nay đã sai hàng tướng La Sát phụng lãnh sắc thư Đại Thanh, tới Mạc Tư Khoa tuyên dụ cho quốc chủ nước La Sát, bảo y bãi binh lui quân, hai nước vĩnh viễn hòa hiếu, đến nay khí trời rất lạnh, tướng sĩ vất vả, dầm sương dãi tuyết, trẫm rất thương xót. Vi Tiểu Bảo có thể rút quân về đóng ở hai thành Ái Hồn, Hô Mã Nhĩ để tướng sĩ dưỡng sức, đến mùa xuân năm sau nếu quân La Sát vẫn chống cự, không tuân vương hóa thì sẽ tiến quân, một trận quét sạch. Nay ban cho Phủ viễn đại tướng quân và các Tướng quân, Đô thống, Phó tướng cho tới quân sĩ thuộc hạ quần áo, vàng bạc, rượu thịt có thứ bậc khác nhau. Các tướng quân thống lĩnh nên tuân theo ý trẫm, thương yêu sĩ tốt, đừng tham mau lẹ lập công. Vương sư bắc chinh, vốn là vì thương dân, mà quân vốn cũng là dân vậy. Kính đấy”.

Vi Tiểu Bảo và chư tướng nhận chỉ tạ ơn. Các tướng đều nói Vạn tuế gia thương yêu tướng sĩ, hoàng ân hạo đãng, chỉ là nghĩ tới một lần triệt thoái không khỏi bao nhiêu công lao trước đây đều vứt đi hết, lại đều thấy tiếc. Khâm sai truyền chỉ đi tới các doanh tuyên chỉ ban thưởng, quân sĩ vui mừng reo hò như sấm.

Hôm sau Vi Tiểu Bảo sai Tát Bố Tố dẫn quân lui trước, sai Ba Hải và Lâm Hưng Châu mang quân đoạn hậu, nếu quân La Sát dám ra thành đuổi theo, sẽ đánh giết cho họ như hoa rơi nước chảy.

Quân La Sát thấy quân Thanh rút lui, trong thành tiếng reo hò vang lên ầm ầm, hơn một ngàn quân La Sát lại lên trên mặt thành đái xuống. Vi Tiểu Bảo cả giận, hạ lệnh quân sĩ nhất tề đái lên thành. Quân Thanh hàng vạn cột nước tiểu cùng phun, xem ra cũng rất tráng quan. Trên thành dưới thành tiếng cười tiếng chửi râm ran ầm ĩ. Chỉ là quân La Sát trên cao đái xuống, nước tiểu bắn xuống dưới thành, quân Thanh lại không bắn lên tới trên, trong trận đánh nhau bằng nước tiểu này bị đại bại. Dưới thành khắp nơi đều là nước tiểu, gió lạnh thổi qua, trong khoảnh khắc đông thành một lớp băng nước tiểu vàng vàng trong suốt.

Vi Tiểu Bảo cơn tức ấy nuốt không trôi, sai chỉ lên đầu thành chửi lớn. Viên Khâm sai tới tuyên chỉ khuyên “Quân La Sát như dã thú, đại soái không cần so đo với chúng”, Vi Tiểu Bảo nói “Không được, chịu thua thì mất mặt lắm!” bèn sai lấy thủy long tới.

Thủy long là vật dùng cứu hỏa, trong quân đề phòng thất hỏa nên hành quân đóng trại nhất định phải mang theo, bọn thân binh kéo hơn mười giá thủy long tới, Vi Tiểu Bảo sai kéo lên lũy đất, lúc ấy nước sông đã đóng thành băng, không có nước mà dùng, bèn sai quân nhà bếp đun băng tuyết trong chảo lớn, đổ nước nóng vào thủy long. Vi Tiểu Bảo cởi quần ra, đái vào nước nóng, rồi quát sai thân binh “Phun lên thành!”.

Bọn thân binh thấy chủ soái nghĩ ra diệu kế này, đều vui mừng nhảy nhót, nhất tề hăng hái xúm vào thôi động đòn cán thủy long, vừa đổ vừa nén, nước nóng trong ống nước liền phun thẳng lên thành. Đám thân binh quát lớn “Vi đại soái thưởng nước đái cho bọn quỷ La Sát”.

Nước nóng phun tới, quân La Sát nhao nhao chửi mắng tránh né. Các tướng có người kêu thầm trong bụng “Làm nhộn quá”, có người muốn lấy lòng đại soái, lại đứng cạnh hò hét trợ oai. Chỉ là khí trời quả thật rất lạnh, nước nóng trong thủy long không bao lâu đã kết lại thành băng, lại thêm nước nóng vào.

Vi Tiểu Bảo vô cùng cao hứng, tự khen ngợi mình “Gia Cát Lượng hỏa thiêu hang Bàn Xà, Vi Tiểu Bảo đái tưới núi Lộc Đỉnh, đều oai phong như nhau!” Phó Đô thống Lang Thân đứng cạnh khen “Một bầu nước tiểu của đại soái, đã bẻ gãy nhuệ khí của quân La Sát”.

Vi Tiểu Bảo đột nhiên ngẩn người, hai mắt trố ra, ngơ ngẩn xuất thần, rồi òa một tiếng nhảy bật lên, hô hô cười rộ, kêu lên “Tuyệt diệu, tuyệt diệu!”.

***

Vi Tiểu Bảo sai thúc trống lên trướng, tập họp chư tướng, hỏi “Trong doanh của chúng ta có tất cả bao nhiêu giá thủy long?”. Tham tướng chưởng quản việc quân nhu bẩm “Bẩm đại soái, tất cả có mười tám giá”. Vi Tiểu Bảo cau cau mày nói “Quá ít, quá ít! Tại sao không mang nhiều hơn?”. Viên Tham tướng ứng tiếng “Dạ!”, nghĩ thầm “Quân doanh bị thất hỏa không phải là chuyện thường xảy ra, mười tám giá thủy long cũng quá đủ rồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta cần một ngàn giá thủy long để dùng, hãy tức khắc sai người tới các thành trấn xung quanh đây trưng thu điều động, lúc nào thì có đủ?”.

Vùng ấy ở biên thùy cực bắc, đất rộng người thưa, thành trấn gần nhất cũng cách đó vài trăm dặm, mỗi thành trấn chỉ lơ thơ vài trăm hộ gia đình, cư dân nghèo khổ, chưa chắc đã có thủy long, muốn trưng tập một ngàn giá thủy long, quyết không sao làm được. Viên Tham tướng kia trên mặt có vẻ khó khăn, nói “Bẩm đại soái, một ngàn giá thủy long, ở quan ngoại e không tìm được, phải vào cửa quan, tới Bắc Kinh, Thiên Tân chở tới”. Vi Tiểu Bảo tức giận nói “Nói như đánh rắm! Đi Bắc Kinh, Thiên Tân chở thủy long tới thì mất bao nhiêu thời gian? Chuyện chiến trận mà chậm nửa ngày đã không được rồi!”. Viên Tham tướng kia luôn miệng vâng dạ, biến hẳn sắc mặt, nghĩ “Lần này thì cái đầu của mình không khéo bị rơi xuống rồi”.

Viên Khâm sai ngồi bên cạnh, nhịn không được bèn khuyên “Đại soái, quý nước tiểu của ngươi đã bắn lên thành La Sát rồi. Cái này… cái này cốt tinh không cốt nhiều, trận này chúng ta đã thắng rồi. Theo thiển kiến của huynh đệ dường như nên Giặc cùng… Giặc cùng chớ đái”.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Không được! Không có một ngàn giá thủy long thì không làm được việc lớn này”. Viên Khâm sai kia nghĩ thầm “Đại soái ngươi làm nhộn như thế, bắn nước đái tranh đua với nhau, là chuyện ngẫu nhiên đùa giỡn, cũng không làm tổn thương sự văn nhã, há lại có thể mở cờ gióng trống mà làm? Hoàng đế thiếu niên ưa thích tướng quân thiếu niên, vua tôi họ hợp nhau, người ngoài cũng không dám nhiều lời. Nhưng nếu làm nhộn quá đáng, không còn thể thống gì, lại không khỏi để thiên hạ chê cười”, đã định khuyên nữa thì nghe Vi Tiểu Bảo nói “Các vị tướng quân, vị nào có thể nghĩ ra diệu kế, ngay lập tức tìm được một ngàn giá thủy long thì đó là công lao không gì lớn bằng”.

Bằng Xuân nói “Xin hỏi đại soái, cần một ngàn giá thủy long là dùng để… là dùng để bắn nước tiểu lên thành phải không?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Chúng ta mà có được một ngàn giá thủy long, nếu bắn nước tiểu lên thành, thì phải có bao nhiêu người đái? Một trăm vạn quân cũng không đủ đâu”. Bằng Xuân nói “Đúng thế. thuộc hạ rất ngu xuẩn, xin đại soái chỉ giáo”.

Vi Tiểu Bảo nói “Mới rồi ta thấy quý nước tiểu của bản soái phun lên thành lập tức đông thành băng. Nếu chúng ta dùng một ngàn giá thủy long, suốt ngày suốt đêm phun nước vào thành thì sẽ như thế nào?”.

Các tướng ngẩn người ra, mấy người đầu óc mau lẹ nhất reo ầm lên, kế đó mọi người cũng đều minh bạch, trong trướng ầm ầm như sấm, các tướng đồng thanh kêu lên “Diệu kế, diệu kế! Nước tưới Nhã Khắc Tát, băng đóng Lộc Đỉnh sơn!”.

Qua một lúc, tiếng reo hò ngớt dần, có người nói “Tính ra phải về Bắc Kinh, Thiên Tân lo liệu, một ngàn giá thủy long phải suốt ngày suốt đêm chở tới”. Lúc ấy liền có mấy viên Phó tướng, Tá lãnh khoe khoang hăng hái, xin sai mình đi trưng tập thủy long.

Hồng Triều chức vụ thấp kém, ngồi ở sau cùng, lúc ấy khom lưng nói “Bẩm chủ soái, mạt tướng có thiển kiến, xin chủ soái định đoạt”, Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi nói đi!”. Hồng Triều nói “Mạt tướng là người Phúc Kiến, xứ ấy rất nghèo khổ, không chế tạo được thủy long, nếu trong thôn bị thất hỏa thì mọi người dùng thủy thương bắn nước cứu hỏa. Loại thủy thương bắn nước ấy dùng một cây tre to đục thủng các đốt, một đầu khoét lỗ to bằng đồng tiền, đầu kia dùng gỗ làm một cái nút có thể chạy lên chạy xuống. Lúc cứu hỏa thì nhúng đầu có lỗ nhỏ xuống nước, rút nút gỗ lên, ống tre lập tức hút đầy nước, rồi dùng sức đẩy cái nút, nước trong ống tre sẽ phun ra”.

Vi Tiểu Bảo ờ một tiếng, ngưng thần ngẫm nghĩ về loại thủy thương này.

Hà Hựu nói “Bẩm chủ soái, loại thủy thương này có thể lớn có thể nhỏ, lúc ty chức còn nhỏ đã thấy bạn bè chơi đùa, dùng thủy thương bắn nhau, cũng rất thú vị. Đáng tiếc là ở đây không có tre lớn, muốn làm thủy thương lớn, thì loại tre lớn ấy phải qua sông Trường Giang mới có”.

Vi Tiểu Bảo hỏi Hồng Triều “Ngươi có cách nào không?”. Hồng Triều nói “Mạt tướng nghĩ ở vùng này không có loại tre ấy, thì cây tùng lớn, cây sam lớn cũng có rất nhiều. Chúng ta chặt những cây lớn, khoét rỗng trong ruột, có thể làm thủy thương lớn”. Vi Tiểu Bảo nói “Muốn khoét rỗng ruột cây tùng lớn thật không phải dễ”.

Một viên Phó tướng họ Ban xuất thân là thợ mộc người Sơn Tây nói “Bẩm chủ soái, chuyện đó không khó. Trước tiên cứ xẻ dọc cây gỗ lớn làm hai, mỗi mảnh khoét nửa hình tròn, bào cho nhẵn nhụi, sau đó ghép vào nhau sẽ có một cây gỗ rỗng ruột, lúc ghép nếu muốn thật khít thì dùng đai sắt siết lại, nếu chỉ cần qua loa thì dùng đinh ghép lại cũng được”. Vi Tiểu Bảo cả mừng, kêu lên “Tuyệt diệu! Thế làm một khẩu thủy thương lớn như vậy mất bao nhiêu thời gian?” Ban Phó tướng nói “Nếu tiểu tướng đích thân ra tay thì một ngày có thể chế tạo được một khẩu, nếu làm cả đêm thì có thể được hai khẩu”. Vi Tiểu Bảo cau mày nói “Chậm quá, chậm quá. Ngươi đi các doanh chọn người giúp việc, tất cả cùng làm, ngươi làm sư phụ, lập tức chỉ dạy đồ đệ. Đây chỉ là làm thô, không phải thùng xí sơn đen sơn đỏ cho cô dâu mới, cũng không phải quan tài bằng gỗ nam mộc của nhà giàu, vỏ cây bên ngoài thủy thương cũng không cần bào, chỉ cần bắn được nước vào thành là được. Các tướng quân, lập tức động thủ, hạ cây chế tạo thủy thương đi!”.

Các tướng tuân lệnh, chia nhau mang quân sĩ bộ thuộc lập tức xuất phát, vào rừng chặt gỗ, đồng thời tung khoái mã phóng đi trưng tập hỏi mượn rìu búa cưa bào để dùng.

Ở quan ngoại khắp nơi đều có tùng sam, nhất là ở một dải Cổ Nạp Hà thì chỗ nào cũng là rừng rậm, những cây gỗ hàng trăm năm cao chọc trời nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Đại quân quân Thanh ra tay, không đầy nửa ngày đã hạ được mấy ngàn cây gỗ lớn, trong quân có hơn một trăm người từng làm thợ mộc, Ban Phó tướng bèn điều động tất cả, lại chọn bốn năm trăm quân sĩ khéo tay giúp đỡ, làm việc suốt đêm, gấp rút chế tạo thủy thương.

Ban Phó tướng làm trước một khẩu làm mẫu, khẩu thủy thương ấy đường kính hai thước, dài hơn một trượng, cuối cái nút gỗ đóng một cây gỗ ngang, dùng sức kéo đi kéo lại, nước nóng từ thủy thương phun ra, bắn xa hơn hai trăm bước.

Vi Tiểu Bảo xem làm thử, luôn miệng khen ngợi, nói “Đây không phải là hỏa thương mà là thủy thương, chúng ta phải đặt cho nó một cái tên hay, gọi là… gọi là Bạch long thủy pháo”. Rồi lấy vàng bạc ra thưởng cho Ban Phó tướng và các quan binh chế tạo, sai gấp rút chế tạo suốt ngày suốt đêm.

Đồ Nhĩ Bố Thanh thấy quân Thanh đã rút đi lại quay lại, đứng trên thành nhìn ra, thấy trong doanh quân Thanh chất vô số cây gỗ, nghĩ thầm “Bọn Man tử Trung Quốc hạ gỗ định đốt lửa sưởi ấm, xem ra muốn vây thành không chịu bỏ đi. Hừ, đợi nửa tháng nữa gió tuyết nổi lên xem các ngươi chịu nổi không, có đốt lửa to hơn cũng không chống nổi âm phong hàn khí trong cái địa ngục này”. Y xuống thành, sai thân binh đốt lò sưởi trong phòng, rót rượu mạnh La Sát ra, gọi hai thiếu nữ Trung Quốc bị bắt tới hầu rượu.

Bằng Xuân, Hà Hựu sai kỵ binh chia nhau đi mượn nồi sắt chảo sắt của bách tính trong vòng một trăm dặm mang về đại doanh, đào đất làm lò. Củi cành, băng tuyết chất đống như núi, những khẩu Bạch long thủy pháo đã chế tạo xong đều dùng cành cây che kín để khỏi bị quân La Sát phát giác.

Qua vài hôm, Ban Phó tướng bẩm báo đã chế tạo xong ba ngàn khẩu Bạch long thủy pháo. Hôm sau là ngày hoàng đạo cát nhật, giờ Mão Vi Tiểu Bảo lên trướng thúc trống tập hợp chư tướng, hạ lệnh đem thủy pháo lên lũy đất, chĩa miệng pháo vào thành. Chiêng trống trong quân cùng khua, pháo hiệu nổ bình bình bình vang rền chín tiếng. Tướng sĩ các doanh nhất tề động thủ, xúc tuyết đổ vào chảo, đun cho tan ra.

Đồ Nhĩ Bố Thanh đang ngủ say trong chăn ấm, chợt nghe tiếng pháo nổ ran ngoài thành, vội nhảy bật dậy, hớt hải mặc quần áo, khoác áo da điêu lên thành xem, lúc ấy gió tuyết đang lớn, sắc trời mờ mịt, chỉ lờ mờ nhìn thấy trên lũy đất của quân Thanh dày đặc những gốc cây lớn, còn đang kinh ngạc, chợt nghe quân Thanh đồng thanh reo hò như trời long đất lở, trong mấy ngàn cây gỗ lớn đột nhiên có nước phun ra, bốn phương tám hướng phun nước vào thành.

Đồ Nhĩ Bố Thanh cả kinh, chỉ kêu lên một tiếng “Trời ơi!”, một luồng nước nóng đã phun tới ngực. Tính ra trời rất lạnh, nước nóng bắn tới thì đã nguội đi rất nhiều, nhưng cũng khiến y chân đứng không vững, loạng choạng ngã xuống, thân binh bên cạnh vội tới đỡ lên. Chỉ nghe bốn phía đều có tiếng hò hét quát tháo, trên thành tia nước rơi xuống rào rào, từng cột nước như rồng trắng bay vào thành. Trong khoảnh khắc, thành Nhã Khắc Tát mờ mịt hơi nước, là hơi nước nóng gặp khí lạnh kết thành.

Đồ Nhĩ Bố Thanh trong lòng hoảng sợ, kêu lên “Bọn Man tử Trung Quốc lại dùng yêu pháp!”, giữa cây gỗ lớn lại có nước phun ra, tự nhiên là yêu pháp không còn nghi ngờ gì nữa. Y trong lúc hoảng sợ, quát tớn “Mọi người nổ súng, đừng để bọn Man tử xông lên thành”.

Từ hôm y bị quân Thanh bắt sống lột hết quần áo, giải quanh thành ba vòng, uy tín giảm hẳn, ra hiệu lệnh thì bộ thuộc đã không nghiêm túc tuân thủ như trước nữa. Chỉ là quân Thanh đánh thành rất gấp, quân tướng La Sát đều sợ nếu thành bị hạ thì không ai may mắn được sống sót mới miễn cưỡng đánh nhau, lúc ấy biến cố lớn đột nhiên xảy ra, mấy ngàn cột nước phun vào thành, quân tướng chạy tứ tán, còn ai đếm xỉa tới y?

May mà quân Thanh chỉ bắn nước chứ không thừa cơ đánh thành, quân La Sát rối loạn một lúc, bắt đầu định thần lại, nhưng thấy mặt đất nước đóng thành băng, trên đầu thì những cột nước vẫn trút xuống như rót như đổ, tiếp tục tưới xuống.

Đàn ông Trung Quốc trong thành Nhã Khắc Tát đã bị giết hết, chỉ còn một số phụ nữ trẻ tuổi làm doanh kỹ , cung đốn dâm nhạc. Trong thành ngoài binh tướng La Sát, còn có các quan viên văn chức do Mạc Tư Khoa phái tới, giáo sĩ truyền giáo, thương nhân theo quân đội buôn bán và bọn vong mệnh đầu trộm đuôi cướp định tới phương đông kiếm chác. Trong khoảnh khắc, người nào cũng ướt đẫm như gà rơi vào nồi nước, lúc đầu nước còn ấm, không bao lâu thấm qua áo ngoài lạnh dần, lại qua một lúc, áo ngoài đã bị đóng băng, mọi người cả sợ, nhao nhao cởi áo quần giày tất ra, đều biết áo ngoài mà đóng băng dính vào da thịt, lúc ấy ngón tay sẽ bị cứng đờ không sao cởi ra được nữa. Cho dù có người giúp đỡ thì cởi được áo quần giày tất da cũng bị lột ra theo, quả thật không gì nguy hiểm bằng.

Nước dưới đất đọng lại cao dần, từ từ đông lại, biến thành sền sệt như cháo, người La Sát đi chân không trên đó, băng lạnh thấu xương, nhịn không được nhảy nhảy rối lên, kêu lớn “Lạnh chết mất thôi, lạnh chết mất thôi”. Mọi người tranh nhau chạy lên chỗ cao, có người trèo lên nóc nhà.

Đồ Nhĩ Bố Thanh khoác áo lông điêu, tay trái cầm dù, cưỡi một con ngựa cao to đi đi lại lại quan sát, nghe có người la lớn “Đầu hàng” bèn tức giận lớn tiếng quát “Ai làm rối loạn lòng quân ở đây? Bọn gian tế! Lôi ra bắn chết đi”.

Mọi người thấy Đồ Nhĩ Bố Thanh mặc áo da có thể đỡ nước, trong người ấm áp, đứng đó quát tháo chửi mắng, người bên cạnh đều lạnh chết đi sống lại, ai cũng không nhịn được, lập tức có người bốc tuyết ném vào y. Đồ Nhĩ Bố Thanh giơ súng ngắn lên đoàng một tiếng bắn vào đám đông, lập tức bắn chết hai người. Những người còn lại bốc tuyết ném bừa vào y, có người xông lên kéo y xuống ngựa. Bọn vệ binh vung đao chém, nhưng làm sao ngăn chặn được?

Đang lúc hỗn loạn, một toán quân kỵ phóng tới, loạn dân La Sát la một tiếng chạy tứ tán, Đồ Nhĩ Bố Thanh dưới đất bò lên, vừa khéo trên đầu bị hai cột nước rót xuống, lập tức khiến y toàn thân ướt đẫm. Y hai chân nhảy rối lên, lớn tiếng chửi rủa, chỉ đành sai vệ binh giúp mình cởi áo cởi giày.

Quân Thanh nhìn thấy tình trạng thảm hại của quân La Sát trong thành, đứng trên lũy đất hò hét như sấm, Nam xoang Bắc điệu, hát ví ru em, trong đó tự nhiên cũng không thể thiếu bài Thập bát mô “Sờ một cái, sờ hai cái” của Vi Tiểu Bảo.

Bọn Bằng Xuân lo việc chỉ huy. Ban Phó tướng suất lĩnh đám thợ mộc sửa chữa những khẩu pháo bị hỏng. Đội đun nước thêm củi, xúc tuyết đổ vào chảo, đội chuyển nước đưa từng thùng từng thùng nước nóng đổ vào miệng pháo. Khi miệng pháo đầy nước, thì “Một, hai, ba, bắn!”, sáu người pháo thủ ra sức đẩy cái nút về phía trước, một tia nước từ miệng pháo vọt ra, bắn vào trong thành.

Nước nóng trong thủy pháo của quân Thanh lúc bắn ra thì dựng đứng thành cột nước, nhưng khi rơi xuống thành thì tan ra thành thủy châu, như mưa lớn rào rào đổ xuống, có khi rơi xuống rất nhẹ, có khi ngưng tụ không tan, nhắm đúng vào người bắn thẳng tới. Thủy pháo tinh thô khác nhau, có khẩu lực đạo rất mạnh, bắn đi rất xa, có khẩu bắn rất gần, rất nhiều khẩu bắn vài lần thì thân pháo tách ra, lại làm không ít các “pháo thủ” của quân Thanh bị bỏng.

Ba ngàn khẩu thủy pháo bắn hơn một giờ đã có hơn sáu trăm khẩu bị hỏng. Đồng thời đun tuyết thành nước nóng cũng không kịp cho pháo bắn, “Đạn dược” về sau đã không tiếp tế kịp. Lại bắn thêm nửa giờ, pháo hỏng càng nhiều, nước nóng càng thiếu, chỉ còn tám chín trăm khẩu thủy pháo tiếp tục bắn, uy lực giảm hẳn.

Vi Tiểu Bảo đang cảm thấy chán nản, chợt thấy cổng thành mở toang, mấy trăm người La Sát tràn ra, la lớn “Đầu hàng, đầu hàng!”.

Tát Bố Tố lúc ấy vết thương trên trán đã khỏi được quá nửa, lập tức suất lãnh một ngàn kỵ binh phóng tới, quát “Ai đầu hàng thì ngồi xuống đất!”, người La Sát ngớ mặt nhìn nhau không hiểu ý tứ. Một viên Bả tổng quân Thanh ngồi xuống đất kêu lên “Ngồi xuống, ngồi xuống!”.

Đúng lúc ấy cổng thành chợt đóng lại, trên thành có mấy loạt súng bắn xuống, bắn chết mấy mươi người La Sát. Số người La Sát đầu hàng còn lại bỏ chạy tứ tán. Thủy pháo của quân Thanh nhắm thật chuẩn vào binh tướng La Sát trên thành, bắn qua tới tấp, quân La Sát nhao nhao ngã xuống.

Lúc ấy nước trong thành đã đọng lại hơn hai thước, đều đã đóng thành băng, nếu lấy nước rót cho toàn thành đóng thành một tòa thành bằng băng lớn thì ít nhất cũng phải mất mười bữa nửa tháng, nhưng quân La Sát không áo không giày, lại không đốt lửa được, người nào cũng lạnh run cầm cập, sắc mặt tái ngắt. Có khi mấy người đứng ôm lấy nhau, dùng hơi ấm của cơ thế để sưởi cho nhau.

Đồ Nhĩ Bố Thanh vẫn lớn tiếng quát tháo, đốc thúc quân tướng giữ thành. Đám quân sĩ đều quay đầu không đếm xỉa gì tới. Đồ Nhĩ Bố Thanh cả giận, vung tay đánh một tên võ quan, tên võ quan ấy xoay người tránh qua, Đồ Nhĩ Bố Thanh đuổi theo, đột nhiên trượt chân trên băng một cái, ngã xuống dưới thành. Một tên quân sĩ bên cạnh tiện tay xô một cái, đẩy y vào một hố nước. Đồ Nhĩ Bố Thanh ra sức giãy giụa nhưng tay chân cứng đờ không bò lên được, la lớn “Cứu ta với, cứu ta với!”. Đám binh tướng người nào cũng tỏ vẻ khinh bỉ, đều xúm lại vây quanh hố nước đứng nhìn. Qua không bao lâu, nước trong hố đông lại thành băng, giữ chặt Đồ Nhĩ Bố Thanh dưới đó, y nửa người trên vẫn còn ngoài hố, vẫn còn thở nhưng ngực đã bị băng đông cứng, giống như bị chôn sống.

Lúc ấy mọi người tâm ý tương đồng, mở toang cửa thành kêu lên “Đầu hàng” rồi chạy túa ra.

***

Vi Tiểu Bảo mừng rỡ như điên, hoa tay múa chân, ăn nói bừa bãi, hiệu lệnh phát ra không ai hiểu gì cả. May là các tướng lĩnh trong quân Thanh đều là bậc túc tướng thân trải trăm trận, miệng thì hô lớn “Tuân lệnh!”, nhưng tự đi lo các việc nhận hàng, vào thành giam trói, dọn dẹp, tất cả đều đâu vào đấy, hoàn toàn không có quan hệ gì với lệnh của Vi đại soái.

Lúc đầu bắn nước vào thành, chỉ sợ không đủ nhiều, lúc bấy giờ thấy trong thành quá nhiều nước, nước tràn ra cả ngoài thành, rất khó đi lại, chỉ còn cách thuận theo tự nhiên. Lang Thân đốc thúc quân sĩ dọn dẹp phủ Tổng đốc sạch sẽ, mời Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ và Khâm sai vào ở, sau đó tới kho thuốc súng, kho vũ khí, kho vàng bạc niêm phong cẩn thận, sai quân canh giữ. Lúc ấy nhà Thanh thế nước đang mạnh, kỷ luật trong quân rất nghiêm. Đại quan như bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ thì không khỏi có lúc thừa cơ phát tài lớn, nhưng quan quân binh sĩ thì một vật cũng không dám lấy bừa.

Trong thành ngoài thành giết bò giết dê, mở tiệc mừng lớn. Bọn Sách Ngạch Đồ ra sức tâng bốc, nói Vi đại soái dùng quân như thần, cho dù Tôn Ngô ngày xưa phục sinh cũng không bằng được. Viên Khâm sai nói “Huynh đệ lần này rời kinh, hoàng thượng cứ dặn đi dặn lại, nói Vi đại soái không nên sát thương quá nhiều. Hôm nay Vi đại soái hạ thành Nhã Khắc Tát vốn là kỳ công, nhưng chuyện khó hơn còn là không hề dùng tới đao thương kiếm kích, cung tên hỏa khí, mà quân ta không hề bị thương vong một binh một tốt. Trong vòng một ngày khống chế đại địch, chiếm được thành lớn mà không mất một viên tướng sĩ, xưa nay chỉ có một mình Vi đại soái mà thôi. Đây không những là trước kia không có, mà nhất định sau này cũng không có”.

Vi Tiểu Bảo đắc ý nghênh ngang, ra sức khoe khoang “Muốn hạ thành Nhã Khắc Tát vốn cũng không phải chuyện khó. Khó là ở chỗ hoàng ân hạo đãng, thể tuất tướng sĩ, không muốn thương vong quá nhiều, vì thế huynh đệ phải chờ đến hôm nay mới dùng kế sách này, để Khâm sai đại thần chính mắt nhìn thấy, bọn ta làm việc cho hoàng thượng, đánh nhau thắng trận thì cũng thôi, ai cũng làm được, chẳng có gì lạ. Nhưng ngẩng tuân thánh ý của hoàng thượng, thắng trận mà không chết người nào, đó mới là chuyện khó”.

Chúng tướng đều cảm thấy y tuy khoe khoang hơi nhiều, nhưng muốn thắng trận mà bên mình không chết người nào quả thật là chuyện rất khó, lúc ấy ai cũng gật đầu.

Sách Ngạch Đồ nói “Đó là hồng phúc của hoàng thượng, kỳ tài của Vi đại soái”. Vi Tiểu Bảo nói “Hôm nay từ sáng đến chiều, người nào cũng có công rất lớn. Nếu không có Khâm sai đại nhân và Sách đại nhân đích thân xông lên, hăng hái đốc chiến thì bọn ta cũng không thắng trận được dễ dàng như vậy”. Khâm sai và Sách Ngạch Đồ cả mừng, vô cùng cảm kích. Lúc đánh nhau mới rồi hai người văn quan bọn họ ở xa xa phía sau, chỉ sợ tên rơi đạn lạc làm bị thương, làm gì có chuyện “Đích thân xông lên, hăng hái đốc chiến”? Nhưng Vi Tiểu Bảo đã nói như thế, thì trong tập tâu báo tin thắng trận nhất định mình cũng có một phần công lao. Nhà Mãn Thanh ban thưởng quân công là trọng hậu nhất, hơn hẳn tất cả những công lao khác.

Lời tục có câu “Kiệu hoa lộng lẫy người khiêng người”. Vi Tiểu Bảo hiểu rõ cách thức làm quan, dâng cho Khâm sai một phần công lớn, bản thân mình làm ơn mà không tốn tiền, không mất chút gì. Lần này Khâm sai về tới Bắc Kinh, nhất định trước mặt hoàng thượng sẽ ra sức khen ngợi mình, năm phần công lao nói lên thành mười phần, thì mình trong quân nếu có chuyện gì phạm lỗi quá phận, Khâm sai và Sách Ngạch Đồ cũng nhất định ra sức che giấu cho, thủ khẩu như bình.

Mọi người ăn uống một lúc, thuộc hạ của Tát Bố Tố được quân La Sát bẩm báo đã mang Đồ Nhĩ Bố Thanh trong hố băng ra, khiêng lên trước bục. Lúc ấy Đồ Nhĩ Bố Thanh đã chết cứng, toàn thân xanh tím. Vi Tiểu Bảo thở dài nói “Người này cái tên thật không hay, nếu không gọi là Đồ Nhĩ Bố Thanh mà là Đồ Nhĩ Bố Tài, thì đã không xanh tím thế này mà phát tài to rồi”, rồi sai người lấy quan tài chôn cất y.

Kiểm tra số lượng hàng binh, tài vật khí giới trong thành xong, ba người Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ và Khâm sai cùng liên danh làm tờ tâu, sai phi kỵ đưa mau về Bắc Kinh báo tiệp cho hoàng đế.

Hồi 48: Ngọc Môn không đặt quan Đô hộ – Đồng trụ còn nêu cột tướng quân

Đêm ấy Vi Tiểu Bảo và Song Nhi nghỉ lại trong phòng ngủ ở phủ Tổng đốc, lò sưởi đốt thật lớn, chăn đơn nệm gấm, lai láng tình xuân.

Đây là nơi y từng đi qua, mở nắp cái rương lớn cạnh giường lên nhìn, thấy trong rương có quân phục và súng. Song Nhi mỉm cười nói “Tướng công nhìn tới cái rương, lại mong công chúa La Sát chui ra, phải không?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Cô là công chúa Trung Quốc, so với công chúa La Sát còn hay hơn nhiều”. Song Nhi cười nói “Đáng tiếc là công chúa Trung Quốc đang ở Bắc Kinh chứ không phải ở đây”. Vi Tiểu Bảo nói “Song Nhi ngoan, hôm nay chúng ta có tính là đại công cáo thành chưa?”. Song Nhi nhoẻn miệng cười, hai má đỏ lên, nàng tuy làm vợ chồng với Vi Tiểu Bảo đã lâu nhưng lúc chồng nói đùa vẫn có ý xấu hổ.

Vi Tiểu Bảo ôm chặt lưng nàng, hai người cùng ngồi lên giường. Vi Tiểu Bảo hỏi “Cô chắp tấm bản đồ, tốn không ít tâm huyết, rốt lại chúng ta cũng đã tới núi Lộc Đỉnh, hoàng thượng phong ta làm Lộc Đỉnh công, tòa thành này có quá nửa cũng sẽ giao cho ta thống quản. Dưới núi này có cất giấu vô số vàng bạc châu báu, chúng ta thong thả đào lên, Vi Tiểu Bảo ta có thể đổi tên là Vi Đa Bảo rồi”. Song Nhi nói “Tướng công đã có rất nhiều vàng bạc, dùng mấy đời cũng không hết, có nhiều châu báu hơn cũng chỉ vô dụng. Ta thấy thôi cứ làm Vi Tiểu Bảo cũng được”.

Vi Tiểu Bảo khẽ hôn lên má nàng một cái, nói “Đúng, đúng! Trong mấy hôm nay ta đã quyết định chủ ý, nếu muốn đào lấy châu báu, chỉ sợ đào đứt long mạch của người Mãn Châu, hại chết hoàng đế. Trước nay hoàng đế đối xử với ta rất tốt, nếu hại chết y thì không khỏi có chỗ không phải với y. Nếu không đào thì lại cảm thấy tiếc. Thôi thế này, chúng ta tạm thời không đào kho báu lên, chờ khi nào hoàng thượng ngự giá lên trời, chúng ta lại thiếu cơm ăn, lúc ấy hãy đào cũng không muộn”.

Nói tới đó chợt nghe trong chiếc rương gỗ có tiếng lách cách khẽ vang lên. Hai người đưa mắt nhìn nhau, chăm chú nhìn vào cái rương nhưng qua một lúc cũng không thấy có động tĩnh gì. Vi Tiểu Bảo khẽ vỗ vào tay Song Nhi ba cái, Song Nhi bước ra mở cửa phòng, bốn tên thân binh canh cửa khom người nghe lệnh. Vi Tiểu Bảo chỉ vào cái rương gỗ, hạ giọng nói “Trong đó có người!”.

Bốn tên thân binh giật nảy mình, sấn tới cạnh cái rương, giở nắp ra, nhưng thấy trong rương chứa đầy đồ vật quần áo. Vi Tiểu Bảo lấy tay ra hiệu, bọn thân binh bới đồ vật ra, bới tới đáy rương thì lộ ra một miệng hang, đúng lúc ấy bình một tiếng vang rền, dưới hang có một phát súng bắn ra. Một tên thân binh a một tiếng, vai bị trúng đạn, ngã ngửa ra phía sau.

Song Nhi vội kéo Vi Tiểu Bảo một cái ra phía sau mình. Vi Tiểu Bảo chỉ chỉ cái lò sưởi, ra hiệu lật lại. Một tên thân binh bước qua bưng cái lò sưởi lên, trút luôn xuống miệng hang.

Chỉ nghe trong hang có người la lên bằng tiếng La Sát “Đừng trút than xuống, đầu hàng!”, kế ho sặc sụa không ngớt. Vi Tiểu Bảo dùng tiếng La Sát nói “Vứt súng lên trước, rồi bò lên sau”, trong miệng hang có một khẩu súng ngắn vứt lên, kế đó một tên quân La Sát thò đầu lên. Một tên thân binh nắm tóc y kéo lên, một tên thân binh khác đưa đao kề vào cổ y, tên lính ấy hàm râu bị cháy vẫn chưa tắt, rát quá kêu be be ầm lên, vô cùng thảm hại bò ra. Vi Tiểu Bảo nói “Ở dưới còn có ai không?”, dưới hang có người kêu lên “Còn một người nữa! Đầu hàng, đầu hàng”. Vi Tiểu Bảo quát “Ném võ khí lên” ở miệng hang bạch quang chớp lên, một thanh mã đao ném ra, kế đó một đám than lửa nhô lên, nguyên là tên lính La Sát ấy đầu tóc bị cháy.

Bọn thân binh bảo vệ ngoài cửa nghe trong đại soái có chuyện, lại mấy người nữa chạy vào. Bảy tám tên thân binh giữ chặt hai tên quân La Sát, phủi tắt lửa trên tóc trên râu hai người, trói quặt hai tay ra sau lưng.

Vi Tiểu Bảo đột nhiên chỉ vào một tên quân La Sát kêu lên “Ồ, ngươi là Vương Bát Tử Kê”, tên quân ấy trên mặt lộ vẻ vui mừng, nói “Vâng, vâng, đại nhân trẻ con Trung Quốc, ta là Hoa Bá Tư Cơ”, tên La Sát còn lại cũng kêu lên “Đại nhân trẻ con Trung Quốc, ta… ta là Tề Lạc Nặc Phu”. Vi Tiểu Bảo nhìn y chăm chú hồi lâu, thấy bộ râu của y bị cháy lỗ chỗ, trên mặt của bị bỏng vừa đỏ vừa sưng, nhưng cuối cùng cũng nhận ra được, cười nói “Phải rồi, ngươi là Trư La Nhụ Phu!”, Tề Lạc Nặc Phu cả mừng kêu lên “Đúng, đúng, đại nhân trẻ con Trung Quốc, ta là bạn cũ của ngươi”.

Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu là vệ sĩ của công chúa Tô Phi Á. Năm trước họ cùng đi với Vi Tiểu Bảo từ thành Nhã Khắc Tát lên Mạc Tư Khoa.

Hai người cùng quân hỏa thương trong Lạp cung tạo phản, lập được công lao không nhỏ. Sau khi công chúa Tô Phi Á chấp chưởng quốc chính, ban thưởng cho họ, tất cả vệ sĩ của mình đều được thăng làm Đội trưởng, trong đó có bốn người tới phương đông định lập công cướp bóc. Lúc thua quân mất thành, một người chết trận, một người chết cóng. Còn lại hai người rón rén chui vào địa đạo, định ra thành bỏ trốn, nào ngờ miệng địa đạo ngoài thành đã bị lấp kín, hai người tiến thoái đều khó, rốt lại hình tích bị bại lộ. Năm xưa Vi Tiểu Bảo gọi hai người bọn họ là Vương Bát Tử Kê và Trư La Nhụ Phu(1). Hai người làm sao biết được ý tứ, chỉ nói là trẻ con Trung Quốc phát âm không đúng, gọi thì cũng lên tiếng. Nghe công chúa gọi y là “Trẻ con Trung Quốc”, lúc đầu cũng gọi theo như thế, đến khi Vi Tiểu Bảo lập công, công chúa phong tước vị cho y, các vệ sĩ lại gọi y là “Đại nhân trẻ con Trung Quốc”.

Vi Tiểu Bảo hỏi rõ chuyện đã qua, sai thân binh cởi trói, mang rượu thịt ra khoản đãi.

Bọn thân binh sợ dưới địa đạo còn có gian tế, bèn xuống lục soát một lượt, biết rõ trong phòng ngoài chỗ này ra thì không còn địa đạo tường đôi nào khác, lúc ấy mới lui ra. Đội trưởng thân binh trong lòng sợ sệt, luôn miệng nhận tội, nghĩ thầm quả là may mắn bằng trời, nếu hai tên quân La Sát này nửa đêm từ địa đạo chui ra định trốn, đâm chết Vi đại soái, thì mình không bị cả nhà chết chém tịch biên gia sản không xong.

Hôm sau Vi Tiểu Bảo gọi Hoa Bá Tư Lạc và Tề Lạc Nặc Phu hai người tới hỏi han tình hình của công chúa Tô Phi Á gần đây. Hai người nói công chúa điện hạ tổng lý triều chính, vương công đại thần, tướng quân chủ giáo toàn nước La Sát ai cũng không dám chống đối. Hai vị Sa hoàng còn nhỏ tuổi, mọi chuyện đều nghe lời chị. Tề Lạc Nặc Phu nói “Công chúa điện hạ rất nhớ đại nhân trẻ con Trung Quốc, dặn bọn ta nghe ngóng tin tức của ngươi, bảo bọn ta gặp được ngươi thì mời ngươi tới Mạc Tư Khoa chơi, công chúa sẽ có trọng thưởng”.

Hoa Bá Tư Cơ nói “Công chúa điện hạ không biết đại nhân trẻ con Trung Quốc đem quân tới đây đánh nhau, nếu không thì mọi người thân thiết, là bạn bè tốt, trận này cũng không cần đánh nhau nữa”. Vi Tiểu Bảo nói “Các ngươi bịa đặt, lừa dối!”. Hai người đều thề thốt, nói đó là sự thật, quyết không phải giả.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Hoàng thượng vốn muốn mình nghĩ cách giảng hòa với nước La Sát, không ngại gì sai hai thằng đầy tớ này về nói với công chúa Tô Phi Á”. Bèn nói “Ta muốn viết một lá thư, các ngươi đưa về cho công chúa, có điều ta không biết chữ La Sát ngoằn ngoèo như con giun, các ngươi viết thay ta thôi”. Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu ngớ mặt nhìn nhau, đều có vẻ khó khăn, hai người bọn họ chỉ biết cưỡi ngựa bắn súng, còn nói tới việc cầm bút viết chữ thì cũng một khiếu không thông. Tề Lạc Nặc Phu nói “Đại nhân trẻ con Trung Quốc muốn viết thư tình, thì hai người bọn ta không làm được. Bọn ta… bọn ta đi tìm giáo sĩ viết giúp”, Vi Tiểu Bảo ưng thuận, sai thân binh dắt hai người đi tìm trong bọn tù binh La Sát.

Qua không bao lâu, hai người dắt một giáo sĩ râu quai nón xồm xoàm tới. Lúc ấy phần lớn quân lính La Sát đều không biết chữ, giáo sĩ theo quân ngoài việc cầu nguyện Thượng đế, khích lệ sĩ khí, còn có một chức trách trọng yếu khác là viết giúp thư gửi về nhà cho tướng sĩ. Viên giáo sĩ kia mặc trang phục quân Thanh, quần áo quá chật, bó sát vào người, trông rất buồn cười. Y sợ sệt run rẩy, theo hai viên Đội trưởng tham kiến Vi Tiểu Bảo, nói “Thượng đế ban phúc cho đại tướng quân đại tước gia Trung Quốc, cầu cho đại tướng quân Trung Quốc cả nhà bình an”.

Vi Tiểu Bảo cho y ngồi, nói “Ngươi viết cho ta một lá thư, gửi công chúa Tô Phi Á của các ngươi”. Viên giáo sĩ luôn miệng vâng dạ. Thân binh đã bày văn phòng tứ bảo ra trên bàn. Viên giáo sĩ cầm bút lông, giở giấy ra, cong cong queo queo viết chữ La Sát lên, nhưng cảm thấy bút lông quá mềm, nét bút lúc to lúc nhỏ, nói không hết sự khó khăn, nhưng không dám có nửa câu bình luận về bút mực Trung Quốc, chỉ sợ vị tướng quân Trung Quốc này nổi giận.

Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi viết thế này: Từ sau khi chia tay, thường nghĩ tới công chúa, chỉ mong cưới được công chúa làm vợ…”. Viên giáo sĩ hoảng sợ giật nảy mình, bàn tay lỏng ra, ngọn bút lông quẹt lên tờ giấy một vệt mực lớn. Tề Lạc Nặc Phu nói “Vị đại nhân trẻ con Trung Quốc này rất được công chúa điện hạ Tô Phi Á ưa thích. Công chúa điện hạ rất yêu thương y, thường nói người tình Trung Quốc hơn người tình La Sát gấp hàng trăm lần”. Y muốn lấy lòng Vi Tiểu Bảo, không khỏi có chỗ nói tăng thêm lên. Viên giáo sĩ luôn miệng vâng dạ, nói “Vâng, vâng, hơn gấp hàng trăm lần, hàng trăm lần”. Y tâm thần bất định, văn tứ bế tắc, nhưng lại không dám cầm bút ngẫm nghĩ, chỉ đành dùng lối ăn nói sáo rỗng thường ngày viết ra, đều là lời lẽ lẳng lơ của tướng sĩ La Sát gởi cho vợ con, người tình ở quê thường ngày. Nào là “Quả tim thân yêu”, “Đêm qua anh mơ thấy em”, “Hôn em một vạn cái”, không như nhau mà đầy đủ.

Vi Tiểu Bảo thấy y ngòi bút chạy như bay, vô cùng thỏa mãn, nói “Quân La Sát cô tới chiếm đất đai Trung Quốc, giết chết rất nhiều bách tính Trung Quốc. Đại hoàng đế Trung Quốc rất tức giận, sai ta đem quân tới, bắt sống hết quân tướng của cô. Ta muốn chặt họ ra từng mảnh từng mảnh, nướng lên làm món Hà thư ni khắc…”. Viên giáo sĩ lại giật nảy mình, a một tiếng, nói “Lạy Chúa tôi!” Vi Tiểu Bảo nói tiếp “Có điều nể mặt công chúa cô, tạm thời không cắt không nướng. Nếu cô ưng thuận từ nay về sau quân La Sát không xâm phạm cương giới Trung Quốc ta nữa, Trung Quốc và La Sát sẽ làm bạn tốt. Nếu ngươi không nghe lời, ta sẽ sai quân tới giết sạch đàn ông La Sát, cô sẽ không còn có người đàn ông La Sát nào để ngủ chung nữa. Cô muốn có đàn ông ngủ chung, thì thiên hạ chỉ có người Trung Quốc thôi”.

Viên giáo sĩ trong lòng rất không cho là đúng, nghĩ thầm “Thiên hạ ngoài đàn ông La Sát không phải chỉ có đàn ông Trung Quốc, câu này rất không có lý”. Lại cảm thấy loại ngôn ngữ vô lễ như thế quyết không thể nói với công chúa, quyết ý đổi viết thành mấy câu vừa cung kính vừa thân mật, đoán là vị tướng quân Trung Quốc này cũng không sao biết được. Nhưng y là người cẩn thận, sợ bị nhìn ra chỗ sơ hở, nên mấy câu ấy đều viết thành tiếng Lạp Đinh, viết xong bất giác trên mặt lộ nét tươi cười.

Vi Tiểu Bảo lại nói “Bây giờ ta sai Vương Bát Tử Kê và Trư La Nhụ Phu đưa thư này tới cho cô, lại tặng lễ vật cho cô. Cô muốn làm tình nhân hay địch nhân của ta, là do tự cô quyết định thôi”.

Viên giáo sĩ lại sửa câu cuối cùng thành cực kỳ cung kính, viết “Tiểu thần Trung Quốc nhớ nhung ngưỡng mộ hậu ân của điện hạ, kính cẩn dâng cống vật, để tỏ lòng trung. Tiểu thần còn sống năm nào, cũng đều là bề tôi trung thành của điện hạ. Chỉ mong hai nước hòa hiếu, những quân dân La Sát bị bắt làm tù binh được trở về nước cũ, thì đó là ân đức vô lượng của điện hạ”. Câu cuối cùng là xuất phát từ lòng riêng của y, nghĩ nếu hai nước hòa nghị không thành, thì mình và đám hàng quân La Sát thế ắt chết nơi đất khách quê người, vĩnh viễn không được về nước.

Vi Tiểu Bảo đợi y viết xong, nói “Hết rồi. Ngươi đọc lại một lượt cho ta nghe”. Viên giáo sĩ hai tay cầm tờ giấy đọc, đọc tới những câu mình sửa vẫn nói theo nguyên ý của Vi Tiểu Bảo. Vi Tiểu Bảo vốn cũng chỉ biết tiếng La Sát rất có hạn, nghe ra tựa hồ cũng không sai gì lắm, đâu ngờ tới việc y dám tùy ý sửa đổi? Bèn gật gật đầu nói “Tốt lắm”. Rồi lấy ấn vàng “Phủ viễn đại tướng quân chi ấn” ra đóng mực son lên lá thư. Lá thư này là thư tình không ra thư tình, công văn không ra công văn hợp thành.

Vi Tiểu Bảo sai giáo sĩ ra ngoài lãnh thưởng, sai sư gia trong đại doanh cho lá thư vào phong bì, trên phong bì viết tên công chúa Tô Phi Á bằng chữ Trung Quốc. Viên sư gia kia chấm đẫm mực ngòi bút, dòng thứ nhất viết “Đại Thanh quốc Phủ viễn đại tướng quân Lộc Đỉnh công Vi phụng thư”, dòng thứ hai viết “Ngạc La Tư quốc Nhiếp chính nữ vương Tô Phi Hà Cố luân trưởng công chúa điện hạ”. Hai chữ “La Sát” trong kinh Phật là ma quỷ, dùng gọi nước Nga là có ý khinh thường, nên trong văn thư đều gọi là “Ngạc La Tư”. Viên sư gia kia lại biết ba chữ “Tô Phi Á” rất không trang nhã, chữ Phi kia khiến người ta nghĩ tới câu “Phương thảo phi phi” (Cỏ thơm bời bời), tựa hồ châm chọc nàng toàn thân đầy lông, vì thế viết thành Tô Phi Hà, đã hợp với điển “Lạc hà dữ cô vụ tề phì” (Ráng chiều và cò lẻ cùng bay), lại có nghĩa “Phi hà phốc diện” (Ráng bay trùm mặt). “Cố luân trưởng công chúa” là phong hiệu tôn quý nhất của các công chúa nhà Thanh, chị hoàng đế là trưởng công chúa, con gái hoàng đế là công chúa, cô gái này là Nhiếp chính vương, lại là chị của hai vị Sa hoàng, tự nhiên là công chúa đứng đầu. Chỉ nghe Vi Tiểu Bảo cười nói “Công chúa La Sát có một chuyện với ta, mấy năm không gặp, không biết cô ta ra sao?”. Viên sư gia liền viết sau phong bì hai hàng “Phù hòa Nhung Địch, quốc chi phúc dã. Như lạc chi hòa, vô sở bất giai, thỉnh dữ tử lạc chi” (Phàm hòa với Nhung Địch, là phúc của nước vậy. Nếu vui chuyện hòa, không gì không hay, xin cùng người cùng vui), nghĩ đây là câu trong Tả truyện, chỉ tiếc La Sát là nước Nhung Địch, chưa chắc đã hiểu được kinh truyện của Trung Hoa thượng quốc mình, ý nghĩa song quan trong đó lại càng không hiểu được, lông mày đẹp cho thằng mù ngó, không khỏi có chỗ đáng tiếc ngọc sáng vứt ra chỗ tối.

Vi Tiểu Bảo không những không hiểu được hàm nghĩa của chữ Trung Quốc trong câu “Ngạc La Tư quốc Cố luân trưởng công chúa Tô Phi Hà”, mà ngay cả câu “Đại Thanh quốc Phủ viễn đại tướng quân Lộc Đỉnh công Vi”, ngoài chữ Vi họ của mình và chữ Đại thì không biết chữ nào, thấy viên sư gia viết sau phong bì hai hàng chữ, bèn nói “Đủ rồi, đủ rồi. Ngươi viết chữ rất đẹp, hơn cả gã râu xồm La Sát”.

Y dặn viên sư gia chuẩn bị một phần lễ vật trọng hậu, may là đều lấy được trong thành Nhã Khắc Tát, không phải tốn kém gì. Lại gọi hai viên Đội trưởng Hoa Bá Tư Cơ, Tề Lạc Nặc Phu tới bảo họ chọn trong đám hàng binh La Sát lấy một trăm người làm hộ vệ, lập tức đưa thư về Mạc Tư Khoa. Hai viên Đội trưởng mừng rỡ quá lòng mong mỏi, không ngừng khom lưng cám ơn, lại nắm tay Vi Tiểu Bảo, liên tiếp hôn vào mu bàn tay y. Vi Tiểu Bảo mu bàn tay bị râu hai người cọ vào vừa nhột vừa ngứa, nhịn không được hô hô cười rộ.

Thành Nhã Khắc Tát nhỏ, không đủ cho đại quân đóng, lúc ấy Vi Tiểu Bảo bàn bạc với Khâm sai và Sách Ngạch Đồ, sai hai người Lang Thân, Lâm Hưng Châu dẫn hai ngàn quân giữ thành, đại quân kéo về nam chia đóng ở hai thành Ái Hồn và Hô Mã Nhĩ chờ chỉ dụ. Vi Tiểu Bảo lúc lên đường trịnh trọng dặn hai tướng Lang Thân, Lâm Hưng Châu quyết không được đào giếng, đào địa đạo trong thành Nhã Khắc Tát.

Đại quân về nam. Bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ, Bằng Xuân đóng ở thành Ái Hồn, Tát Bố Tố suất lãnh một cánh quân khác đóng ở thành Hô Mã Nhĩ. Vi Tiểu Bảo sai hàng binh La Sát đổi mặc trang phục quân Thanh, sai người dạy tiếng Trung Quốc cho, bắt họ học thật thuộc những câu “Hoàng đế vạn tuế vạn vạn tuế”, “Thánh thiên tử vạn thọ vô cương”, “Hoàng đế Trung Quốc đức ban bốn bể, hoàng ân hạo đãng”, sau đó sai quân áp giải về Bắc Kinh, muốn họ hô lớn trên đường phố ở kinh thành, lúc triều kiến Khang Hy lại càng phải lớn tiếng reo hò, nói nếu hô càng vang rền, hoàng thượng ban thưởng càng trọng hậu.

Qua hơn hai mươi ngày, Khang Hy ban chiếu thư xuống, khen ngợi tướng sĩ xuất chinh, thăng Vi Tiểu Bảo làm Nhị đẳng Lộc Đỉnh công, các tướng sĩ còn lại đều được thăng thưởng. Khâm sai truyền chỉ đưa một cái hộp gỗ sơn đen cho Vi Tiểu Bảo, là hoàng thượng ngự tứ. Vi Tiểu Bảo dập đầu tạ ơn, mở nắp hộp ra, không kìm được ngẩn người. Trong hộp là một cái bát ăn cơm bằng vàng, trên khắc bốn chữ “Công trung thể quốc”, chính là cái bát năm xưa Thi Lang tặng y, chỉ là hoa văn vết chữ đều bị sứt mẻ, lại được tu sửa hoàn chỉnh.

Vi Tiểu Bảo nhớ năm xưa cái chén vàng này để trong phủ Bá tước ở Đồng Mạo Nhi Hồ đồng, đêm ấy lúc hoảng sợ chạy trốn hoàn toàn không mang theo, vừa ngưng thần nhớ lại đã hiểu lý do. Nhất định là đêm ấy sau khi phủ Bá tước bị pháo bắn tan nát, quân sĩ Tiền phong doanh đã lập biên bản thu nhặt những đồ vật trong phủ trình lên hoàng đế. Cái bát vàng này tuy bị hư hại nhưng chưa vỡ nát. Khang Hy sai thợ tu bỗ, lại ban cấp cho y, ý tứ tự nhiên là nói: Cái bát vàng của ngươi đã bị vỡ một lần, lần này phải bưng cho khéo, đừng để vỡ nữa. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Tiểu hoàng đế đối với mình rốt lại cũng có nghĩa khí, chúng ta có qua có lại, mình cũng không đào long mạch của y”. Đêm ấy mở đại yến khoản đãi Khâm sai, các tướng cùng ngồi bồi tiếp, ăn tiệc xong đánh bạc.

Lại qua hơn một tháng, Khang Hy lại có thượng dụ gởi tới, lần này thì nghiêm khắc quở phạt, nói Vi Tiểu Bảo làm việc bậy bạ, muốn quân La Sát hô lớn “Vạn thọ vô cương” thì rất vô vị. Trong thượng dụ nói “Làm bậc nhân quân chăn dân phải thể theo lòng trời, yêu thương lê dân. La Sát tuy là nước man di ngoài giáo hóa, nhưng tiểu dân cũng là người, đã hàng phục quy thuận, không nên khinh khi làm nhục. Ngươi là đại thần, phải khuyên nhà vua nhân đức thương dân. Nếu trẫm có ban ơn cho mọi người thì không đáng gọi là minh quân, nhưng nếu kiêu nịnh tàn ngược, thì vạn thọ vô cương chỉ làm khổ thiên hạ mà thôi. Đại thần xiểm nịnh, đặt nhà vua vào chỗ bất đức thì không tội gì lớn hơn, nên lấy đó làm răn”.

Vi Tiểu Bảo lần này vỗ mông ngựa lại thành sờ dái ngựa, rất là mất mặt, may là y da mặt dày, cũng không để ý gì, trước mặt viên Khâm sai truyền chỉ lớn tiếng chửi mình đáng chết, nghĩ thầm “Thiên hạ lại có người không thích đội mũ cao à? Nhất định lần này quân La Sát nói tiếng Trung Quốc không hay, hoàng thượng nghe thấy lăng líu không ra sao, nên y mới tức giận”. Bèn gọi mấy viên giáo thụ dạy tiếng Hoa cho quân La Sát tới chửi cho một trận. Sau khi chửi xong lại mở sòng đánh bạc với họ, gieo được vài ván xúc xắc, đã quên hết những lời giáo huấn của Khang Hy.

Thấm thoắt vài tháng, đông qua xuân tới. Vi Tiểu Bảo đóng quân ở thành Ái Hồn tuy thoải mái, nhưng nhớ bọn vợ con là A Kha, Tô Thuyên và Hổ Đầu, nhiều lần sai thân binh đưa lễ vật về nhà. Sáu vị phu nhân cũng đều gởi quần áo thức ăn tới. Mọi người biết y không biết chữ, nên cũng không gửi thư, chỉ sai thân binh nhắn miệng, nói trong nhà lớn nhỏ đều bình an, mong đại soái sớm khải hoàn trở về.

***

Hôm ấy trong kinh lại có thượng dụ ban xuống, sai Vi Tiểu Bảo và Sách Ngạch Đồ làm Nghị hòa đại thần, bàn bạc ký kết hòa ước với nước La Sát, lại phái Đô thống Hán quân Liêm Hoàng kỳ Nhất đẳng công Đông Quốc Cương, Hộ quân thống lĩnh Mã Lạt, Thượng thư A Nhĩ Nê, Tả Đô Ngự sử Mã Tề bốn người cùng tới giúp đỡ.

Đông Quốc Cương tuyên chỉ xong, lại lấy ra một tờ công văn tuyên đọc, chính là quốc thư của hai vị tiểu Sa hoàng nước La Sát gởi Khang Hy, lúc ấy đã được giáo sĩ Hà Lan truyền giáo ở Bắc Kinh dịch ra chữ Hán. Trong quốc thư nói:

“Kính phụng thượng quốc Hoa Hạ, hoàn vũ mênh mông, suất lãnh hiền thần cùng lo trị nước, chia vạch cương thổ, Mãn Hán kiêm quản, thanh danh lẫy lừng, đại thánh hoàng đế nói: Trước đây giao cho A Liệt Khắc Tịch Mễ Hãn La làm đại hãn, từng sai bọn Ni Quả Lai mang thư và lễ vật tới thông hiếu với thiên triều, vì không biết điển lễ Trung Quốc, lời lẽ cử chỉ thô lậu không văn nhã, đã khoan hồng tha tội cho. Còn như ca ngợi hoàng đế, thì sơ xuất thất lễ, cũng vì là người ở xa, điển lễ vốn chưa nhìn thấy, may không trách tội. Thư của hoàng đế ban cho ngày trước, hạ quốc không ai hiểu được, chưa hiểu lý do. Đến khi bọn Nê Quả Lai trở về hỏi lại, chỉ nói đại thần thiên triều không chịu trả bọn Căn Đặc Mộc Nhĩ bỏ trốn, lại kết tội quấy nhiễu biên cảnh. Gần đây nghe hoàng đế ra quân, nhọc nhằn tới biên giới, có chỗ mất ý thông hiếu. Nếu quả dân ở biên giới của hạ quốc gây hấn làm loạn, thiên triều sai sứ tỏ ý, tự nhiên sẽ nghiêm trị tội ấy, cần gì phải nhọc công dấy động can qua? Nay được chiếu chỉ mới hiểu rõ đầu đuôi, đã ra lệnh cho tướng sĩ hạ quốc phái đi đến lúc ấy không được giao phong. Kính xin trả lại những người làm loạn ở nước tôi, sẽ mang về chính pháp, sai sứ thần tới bàn việc phân định biên giới, trước hết sai bọn Mạt Khởi, Phật Nhi Ngụy Ngưu Cao, Nghi Phiên, Pháp Nga La Ngõa ngày đêm mang lễ vật và thư tới. Xin triệt thoái quân đang vây thành Nhã Khắc Tát, viết thư rõ ràng, hiểu dụ cho hạ quốc, thì mọi sự êm đẹp, vĩnh viễn hòa mục. Đại thần thượng quốc là Vi Tiểu Bảo các hạ, năm xưa có quen biết với Nhiếp chính nữ vương Tô Phi Á điện hạ hoàng tỷ của ta, giá lâm tới kinh sư Mạc Tư Khoa, giúp đỡ dẹp loạn, có công lớn với hạ quốc, đó là ơn huệ của thượng quốc, vua tôi hạ quốc thật không dám quên. Kính dâng đại thánh hoàng đế bệ hạ lễ vật trọng hậu, lễ vật kém trọng hậu hơn thì dâng cho đại thần Vi Tiểu Bảo các hạ, để tỏ ý thành tín hòa mục của hạ quốc” (2).

Đông Quốc Cương đọc xong quốc thư, sư gia giải thích ý tứ trong lá thư cho Vi Tiểu Bảo và các tướng. Đây là thông lệ trong quân, văn thư qua lại, chữ nghĩa có lúc sâu sắc khó hiểu, có nhiều tướng lĩnh cầm quân không biết chữ, cho dù học hành vài năm thì hiểu biết cũng rất có hạn, văn thư qua lại trong quân lại có liên quan tới quân cơ đại sự, nếu hiểu lầm thì can hệ rất lớn, vì thế trong quân chế Mãn Châu có quy định chức sư gia giải thích văn thư.

Đông Quốc Cương cười nói “Vị nữ vương Nhiếp chính nước La Sát này rất nhớ tình nghĩa cũ của Vi đại soái, lễ vật gởi tới quả không ít. Hoàng thượng sai huynh đệ mang theo ở đây, giao cho đại soái thu nạp”, Vi Tiểu Bảo chắp tay nói “Đa tạ, đa tạ”, lại nói “Người La Sát không hiểu lễ tiết, không nói lễ vật của mình nhỏ mọn mà lại khoe khoang nói lễ vật rất trọng hậu, lễ vật tặng cho hoàng thượng rất trọng hậu, lễ vật tặng ta thì không trọng hậu bằng, cũng không sợ người ta chê cười”.

Đông Quốc Cương nói “Vâng. Bọn hàng binh La Sát mà Vi đại soái dâng về kinh, hoàng thượng đích thân tra hỏi, phát hiện trong bọn quân sĩ có một viên quan lớn La Sát…”. Vi Tiểu Bảo a một tiếng, kêu lên “Có chuyện đó à?”. Đông Quốc Cương nói “Người này mười phần giảo hoạt, trà trộn trong đám quân sĩ, hoàn toàn không động thanh sắc. Hôm ấy hoàng thượng thẩm vấn đám hàng binh, có một giáo sĩ truyền giáo người Hà Lan làm thông dịch, hỏi tới đoạn sau, hoàng thượng nói mấy câu bằng tiếng Lạp Đinh với viên giáo sĩ. Trong bọn hàng binh La Sát có một tên trên mặt đột nhiên có vẻ kinh ngạc. Hoàng thượng hỏi y có biết tiếng Lạp Đinh không, tên quân ấy không ngừng lắc đầu. Hoàng thượng dùng tiếng Lạp Đinh nói: Lôi tên này ra chém đầu. Tên lính ấy biến sắc, quỳ xuống xin tha, nhận là biết tiếng Lạp Đinh”.

Vi Tiểu Bảo hỏi “Tiếng Lạp Đinh là tiếng gì? Lời người La Sát bọn họ nói lúc kéo trang đinh (3) gánh quân lương thì làm sao hoàng thượng biết được?”. Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng thông minh trí tuệ, không gì không biết. Lời người La Sát nói lúc kéo trang đinh cũng biết”. Vi Tiểu Bảo nói “Tại sao tiếng người La Sát nói lúc bình thời thì hoàng thượng không biết, mà lúc họ kéo trang đinh hoàng thượng lại biết?”.

Đông Quốc Cương không sao trả lời, cười nói “Đạo lý ở trong đó thì chúng ta đều không hiểu. Lần sau đại soái triều kiến hoàng thượng, cứ tự mình dập đầu thỉnh vấn thôi”. Vi Tiểu Bảo gật gật đầu, hỏi “Vậy người La Sát ấy về sau thế nào?”, Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng thẩm vấn tỉ mỉ, người ấy cuối cùng không sao che giấu, lần lượt thổ lộ tất cả. Nguyên là người ấy tên Á Nhĩ Thanh Tư Cơ, là Đô Tổng đốc của cả hai thành Ni Bố Sở, Nhã Khắc Tát”.

Mọi người nghe thấy đều không kìm được cùng a một tiếng. Vi Tiểu Bảo nói “Chức quan của thằng đầy tớ ấy không nhỏ đâu”. Đông Quốc Cương nói “Chứ không phải sao? Trong những quan lại nước La Sát phái tới phương đông thì y là lớn nhất. Hôm thành Nhã Khắc Tát bị hạ, nhất định là y đổi mặc y phục quân sĩ, đến nỗi bị y qua mặt”, Vi Tiểu Bảo lắc đầu cười nói “Hôm hạ thành Nhã Khắc Tát, tướng quân, quân sĩ, quan lớn, quan nhỏ người La Sát đều cởi hết quần áo, nhìn đi nhìn lại thì người nào cũng thế, quả thật không có gì khác nhau. Không biết được là làm quan lớn nhỏ thế nào, nói năng cũng như nhau. Huynh đệ… huynh đệ không nhận ra được đại quan của họ, cũng không phải là lỗi lầm của bọn ta”.

Các tướng hô hô cười rộ, giải thích cho Đông Quốc Cương biết tình hình hôm hạ thành Nhã Khắc Tát.

Đông Quốc Cương cười nói “Té ra là thế, thế thì cũng không trách được. Hoàng thượng nói: Vi Tiểu Bảo bắt được Đô Tổng đốc hai thành Ni Bố Sở, Nhã Khắc Tát, công lao không nhỏ, có điều y lại cho rằng người này là quân sĩ bình thường, làm việc cũng quá hồ đồ, lấy công trừ tội, chuyện này không thưởng cũng không phạt”. Vi Tiểu Bảo đứng lên, cung kính nói “Ân điển của hoàng thượng, nô tài vô cùng cảm kích”

Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng thẩm vấn A Nhĩ Thanh Tư Cơ, hỏi liên tiếp sáu ngày, quân chính đại sự, cương vực vật sản của nước La Sát đều hỏi tỉ mỉ. Hoàng thượng quả thật là trời sinh anh minh, lại phát hiện được trên người A Nhĩ Thanh Tư Cơ một bí mật. Theo Vi đại soái nói, người ấy lúc bị bắt, trên không có mảnh vải nào, không ngờ y lại có cách giấu giếm một văn kiện bí mật”.

Vi Tiểu Bảo chửi “Con bà nó, con gà chết này thật là quỷ kế đa đoan, lần sau mà gặp y, không nhìn kỹ y không được. Văn kiện bí mật ấy là cất giấu ở chỗ nào, chẳng lẽ ở… ở…”.

Đông Quốc Cương nói “Trước khi hàng binh La Sát triều kiến hoàng thượng, tự nhiên đều bị Ngự tiền thị vệ lục soát khắp người, râu tóc đều bị sờ hết, tất cả quần và giày cũng đều phải cởi ra. Người Phiên bang lòng dạ khó lường, nếu giấu giếm hung khí trong người, thì làm sao được? Gã Á Nhĩ Thanh Tư Cơ này đương nhiên cũng bị lục soát, trên thân thể cũng không có vật gì lạ. Nhưng hoàng thượng quan sát tỉ mỉ, thấy trên vai phải y có một khối lồi lên, lại thỉnh thoảng liếc mắt vào đó, bèn hỏi y trên tay trái có vật gì. A Nhĩ Thanh Tư Cơ kéo tay áo lên, trên tay băng bó, nói là bị thương lúc ở thành Nhã Khắc Tát. Hoàng thượng bảo y bước tới gần, dùng sức bóp cánh tay y một cái. A Nhĩ Thanh Tư Cơ ối chao một tiếng, nhưng trong thanh âm lại không tỏ vẻ đau đớn gì lắm”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Thú vị thật, thú vị thật! Vậy thì gã La Sát ấy bị thương chỉ là giả”. Đông Quốc Cương nói “Chứ không phải sao? Hoàng thượng lập tức sai thị vệ cởi lớp băng trên cánh tay y ra. A Nhĩ Thanh Tư Cơ mặt xám như tro, hoảng sợ run bắn cả người. Vi đại soái, ngươi đoán trong lớp băng là giấu vật gì?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi vừa nói là văn kiện bí mật, chẳng lẽ là bó trong lớp băng ấy sao?”. Đông Quốc Cương vỗ tay cười nói “Đúng thế. Chẳng trách hoàng thượng thường khen ngươi thông minh, quả nhiên đoán một lần là đúng ngay. Dưới lớp băng của gã Á Nhĩ Thanh Tư Cơ rõ ràng là một văn kiện, là mật dụ của Sa hoàng nước La Sát gởi y. Hoàng thượng bảo giáo sĩ Hà Lan dịch ra, phó bản của bản sao ở đây”, rồi rút trong bọc ra một tờ công văn, cao giọng đọc:

“Ngươi nên nói với hoàng đế Trung Quốc: Đại quân chủ hoàng đế thống trị Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư kiêm đại vương nhiều nước Nga hoàng bệ hạ, oai danh vang tới nơi xa, đã có quân vương nhiều nước chịu thần phục dưới sự thống trị của đại quân chủ hoàng đế bệ hạ. Hoàng đế Trung Quốc y cũng nên xin nhận ân huệ của đại quân chủ thống trị Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, thần phục dưới sự thống trị của đại quân chủ hoàng đế bệ hạ. Đại hoàng đế bệ hạ nhất định sẽ thương yêu hoàng đế Trung Quốc trong hoàng ân hạo đãng, lại che chở cho, để khỏi bị địch nhân xâm chiếm, hoàng đế Trung Quốc y cứ một mình thần phục đại quân chủ bệ hạ, chịu ở dưới sự thống trị tối cao của Nga hoàng bệ hạ, vĩnh viễn không thay đổi, tiến cống phú thuế cho đại quân chủ, đại quân chủ hoàng đế bệ hạ sẽ ưng chuẩn cho những người thần thuộc tự do buôn bán ở Trung Quốc và trong hai nước, vì thế hoàng đế Trung Quốc y nên để cho sứ thần của đại hoàng đế bệ hạ đi lại không ngăn trở, lại gửi thư phúc đáp cho đại hoàng đế bệ hạ” (4).

Đông Quốc Cương đọc một câu, Vi Tiểu Bảo chửi một tiếng “Đánh rắm!”. Đến khi y đọc xong, Vi Tiểu Bảo đã chửi hơn mười tiếng “Đánh rắm”.

Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng dụ rằng: Người La Sát dã tâm sôi sục, rất là vô lễ. Hoàng đế gởi đạo mật dụ ấy là cha của hai Sa hoàng hiện nay, y đã chết rồi. Lúc ấy y không biết người Trung Quốc chúng ta lợi hại. Bây giờ người La Sát đã nếm mùi đau khổ, chắc không còn dám ngông cuồng như trước nữa. Có điều lúc họ nghị hòa, nhất định sẽ vừa cứng vừa mềm, không thể coi thường”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng thế. Hoàng thượng đã dặn dò rồi, chúng ta hung dữ đánh vài tát, đá vài cước, rồi sẽ vỗ vỗ vai, vuốt vuốt lưng họ”. Đông Quốc Cương nói “Nhiếp chính nữ vương gì đó rất giảo hoạt, cô ta giả như không biết thành Nhã Khắc Tát đã bị chúng ta hạ, nói đã hạ lệnh cho quân La Sát không được giao phong với chúng ta. Nhưng trong quốc thư lại để lòi đuôi, xin hoàng thượng giao lại những người La Sát bị bắt cho họ chính pháp”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Làm gì có chuyện tiện nghi như thế? Cô ta đưa tới cho ta mấy tấm da điêu, mấy viên bảo thạch, mà lại muốn chúng ta thả hết quan quân của cô ta à?”.

Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng dặn người La Sát đã xin giảng hòa thì nghị hòa với họ cũng không hề gì, có điều chúng ta phải mang đại quân tới, thề ước dưới thành”. Vi Tiểu Bảo hỏi “Cái gì là thề ước dưới thành?”. Đông Quốc Cương nói “Hai nước giao binh, quân chúng ta bao vây thành trì Phiên bang, Phiên bang cầu hòa, soạn thảo hòa ước ngay dưới thành, như thế gọi là thề ước dưới thành. Bọn Phiên bang tuy nói đầu hàng nhưng vẫn không chịu nhận thua đâu”. Vi Tiểu Bảo nói “Té ra là thế. Thật ra nếu chúng ta ra quân đánh thành Ni Bố Sở, cũng không phải chuyện khó”.

Đông Quốc Cương nói “Hoàng thượng dụ rằng đánh thắng La Sát thêm vài trận nữa vốn là việc đã nắm chắc. Có điều La Sát là nước lớn hiện nay, thống hạt rất nhiều nước nhỏ. Nếu họ thua to ở phương đông, mất hết oai phong, các nước nhỏ thần thuộc sẽ không phục. Đến lúc ấy thì nước La Sát không mang đại quân tới báo thù không xong, sẽ chiến tranh liên miên, gây ra tai họa, không biết đánh nhau đến năm nào tháng nào mới xong. Hoàng thượng tra hỏi Á Nhĩ Thanh Tư Cơ, biết phía tây nước La Sát có một nước lớn khác, gọi là Thụy Điển, hiện có thế đụng nhau là đánh lớn với nước La Sát. Nếu nước La Sát đồng thời đánh nhau với cả hai phía đông tây thì rất đau đầu. Chúng ta nhân cơ hội này buộc họ ký hòa ước thì nhất định có thể chiếm phần tiện nghi, ít nhất cũng có thể giữ cho phương bắc thái bình được một trăm năm”.

Vi Tiểu Bảo sau khi đại thắng, rất muốn một hồi trống thừa thế hạ luôn thành Ni Bố Sở, nghe hoàng thượng ưng thuận cho La Sát cầu hòa, thấy không thỏa mãn, nhưng đây là quyết sách của hoàng đế, cũng là anh vợ mình, y muốn cái gì đó trong cái gì đó mà cái gì đó ngoài vạn dặm, mình cũng khó có thể trái chỉ, lại xoay chuyển ý nghĩ “Ngươi là cậu hoàng thượng, cũng là cậu vợ ta, tính vai vế thì là bậc trưởng bối của ta, ngươi là Nhất đẳng công, ta chỉ là mới được thăng Nhị đẳng công. Lần này nghị hòa với La Sát, hoàng thượng lại phái ngươi làm phó cho ta, thì hoàng thượng đã cho ta có thể diện nhiều lắm rồi”.

Đông Đồ Lại cha Đông Quốc Cương là cha Hiếu Khang hoàng hậu mẹ ruột Khang Hy, là người Hán, vì thế huyết thống của Khang Hy là nửa Mãn nửa Hán. Lúc ấy Đông Đồ Lại đã chết, Đông Quốc Cương được tập phong là Nhất đẳng công. Đông Đồ Lại năm xưa đã sớm quy phục nhà Mãn Thanh ngoài cửa quan, thuộc đạo Liêm Hoàng kỳ, quân công hiển hách, oai vọng lẫy lừng, Vi Tiểu Bảo lại nghe sai tên y là Đổ Lại, Đổ Lại nói rõ là đánh bạc thua thì muốn giở trò vô lại, đường đường là quốc trượng mà như thế thì có gì hay? Tối hôm ấy sau tiệc tiếp khách, các đại thần dưới sự đề xướng của Vi đại soái đánh bạc vài ván. Đông Quốc Cương quả nhiên thua, nhưng đẩy ngân phiếu sáu trăm lượng bạc ra không hề để ý, hoàn toàn không có ý muốn giở trò vô lại. Vi Tiểu Bảo thấy y thua rất sảng khoái, không hề có phong thái của cha, không kìm được vô cùng kinh ngạc, lúc trở về phòng, lên giường đi ngủ mới sực nghĩ ra “Y tên Đông Cốt Quang, nói rõ là chơi bài xương thì phải thua sạch. Người này phẩm chất cờ bạc rất tốt, có thể kết giao với y” (5).

Hôm sau Vi Tiểu Bảo bàn bạc với các đại thần, mọi người nói nếu đã phải thề ước dưới thành thì không ngại gì đem quân tới đó, dĩ dật đãi lao. Vi Tiểu Bảo gật đầu khen phải, ra lệnh hai đạo quân ở thành Ái Hồn và thành Hô Mã Nhĩ cùng xuất phát, hội sư dưới thành Ni Bố Sở. Lúc ấy đã vào mùa hè, trời ấm tuyết tan, hành quân rất tiện.

Hôm ấy tới cạnh sông Hải Lạp Nhĩ Hà, quân tiên phong báo về là có một toán quân La Sát nhỏ kéo tới, hai viên Đội trưởng đứng đầu xin ra mắt đại soái. Vi Tiểu Bảo truyền kiến, té ra là hai người Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu. Vi Tiểu Bảo mừng nói “Hay lắm, hay lắm! Té ra là Vương Bát Tử Kê và Trư La Nhụ Phu”. Hai người khom lưng làm lễ, dâng thư trả lời của công chúa Tô Phi Á.

Viên giáo sĩ La Sát lúc ấy vẫn còn trong đại doanh quân Thanh để chờ khi cần tới. Khang Hy vì việc soạn thảo văn kiện nghị hòa, lại phái thêm một giáo sĩ Hà Lan tới giúp đỡ. Vi Tiểu Bảo truyền gọi hai viên giáo sĩ vào trướng, bảo họ dịch thư trả lời của công chúa.

Viên giáo sĩ La Sát hôm trước sửa đổi nguyên ý lá thư tình của Vi Tiểu Bảo, lúc ấy trong lòng hồi hộp, chỉ sợ trong thư trả lời của công chúa để lộ ra, vội cầm lá thư đọc qua một lượt, lúc ấy mới yên tâm. Viên giáo sĩ Hà Lan lập tức dịch chữ La Sát trong thư ra tiếng Hoa.

Trong thư nói: Từ khi chia tay đến nay, vẫn thường tưởng nhớ, mong sau khi hòa ước đã thành, Vi Tiểu Bảo sẽ tới Mạc Tư Khoa một chuyến để tâm tình với cố nhân. Vi Tiểu Bảo được vua hai nước sủng ái, nên nói rõ những chuyện hiểu lầm bên trong, xóa bỏ ngăn cách, xây dựng nền tảng cho sự hòa hiếu giữa hai nước hiện nay. Trong thư lại nói: Trung Quốc và La Sát chia ở hai phía đông tây, đều là nước lớn, nếu liên thủ kết minh thì có thể cầm quyền thiên hạ, cho dù nước nào cũng không thể kháng cự. Nếu hòa nghị không thành, chiến tranh kéo dài thì không khỏi lưỡng bại câu thương. Vi thế mong Vi Tiểu Bảo xúc tiến hoàn thành việc này, đối với Trung Hoa dĩ nhiên là lập được công lớn, nhưng nước La Sát cũng sẽ có báo đáp trọng hậu. Lại xin Vi Tiểu Bảo tâu với hoàng đế Trung Quốc thả các tướng sĩ La Sát bị bắt về cho họ được đoàn tụ cùng gia đình vân vân.

Viên giáo sĩ Hà Lan dịch xong, Vi Tiểu Bảo thấy hai người Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu liên tiếp đưa mắt ra hiệu, biết còn có chuyện khác, lúc ấy sai hai viên giáo sĩ lui ra, hỏi “Các ngươi còn có lời gì muốn nói?”. Hoa Bá Tư Cơ nói “Công chúa điện hạ muốn bọn ta nói với đại nhân trẻ con Trung Quốc là công chúa điện hạ rất nhớ người, đàn ông La Sát không tốt, chỉ có đại nhân trẻ con Trung Quốc tốt nhất trên đời, mời người nhất định phải tới Mạc Tư Khoa”. Vi Tiểu Bảo hừ một tiếng, nghĩ thầm “Đây là thuốc mê La Sát, ngàn vạn lần không tin được”.

Tề Lạc Nặc Phu nói “Công chúa điện hạ còn có mấy việc muốn nhờ đại nhân trẻ con Trung Quốc thu xếp. Đây là công chúa điện hạ gởi cho người”. Nói xong lấy trên cổ ra một cái vòng đồng, dưới cái vòng có buộc một cái bao da, Hoa Bá Tư Cơ cũng làm như vậy. Chắc là hai người lặn lội đường xa, sợ bị thất lạc nên dùng vòng đồng đeo bao da vào cổ. Miệng hai cái bao da đều dùng khóa đồng khóa chặt. Hoa Bá Tư Cơ lấy ở hông ra một cái chìa khóa bước tới mở khóa trên cái bao da của Tề Lạc Nặc Phu, Tề Lạc Nặc Phu cũng lấy ra một cái chìa khóa mở khóa trên cái bao da của Hoa Bá Tư Cơ. Hai người cung cung kính kính đặt cái bao da lên cái bàn trước mặt Vi Tiểu Bảo.

Vi Tiểu Bảo trút ngược cái bao da, tiếng leng keng vang lên, mấy mươi viên bảo thạch lăn ra, màu sắc hình dạng khác nhau, rực rỡ lấp lánh, đều là hồng bảo thạch, lam bảo thạch, hoàng bảo thạch cực lớn, trong cái bao kia thì đựng đầy toàn thạch và phỉ thúy. Lập tức cả trướng sáng ngời, thật mờ cả mắt.

Vi Tiểu Bảo bình sinh đã nhìn thấy vô số châu báu, nhưng rất nhiều viên bảo thạch lớn cùng ở một chỗ thế này thì chưa từng thấy qua, cười nói “Công chúa tặng ta lễ vật trọng hậu thế này, quả thật không thể nhận được” (6).

Hoa Bá Tư Cơ nói “Công chúa điện hạ nói nếu đại nhân trẻ con Trung Quốc làm xong việc lớn, sẽ còn có lễ vật quý trọng hơn tặng cho người, lại có gái đẹp mười nước Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, Ca Tát Khắc, Đạt Đán, Thụy Điển, Ba Tư, Ba Lan, Nhật Nhĩ Man, Đan Mạch, mỗi nước một người, người nào cũng trẻ tuổi xinh đẹp, người nào cũng là xử nữ, quyết không phải là gái góa, nhất tề tặng cho đại nhân trẻ con Trung Quốc”.

Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, nói “Bảy người vợ của ta đã ứng phó không xong, lại thêm mười cô gái đẹp nữa thì đại nhân trẻ con Trung Quốc sẽ lập tức một mạng ô hô”, Hoa Bá Tư Cơ luôn miệng nói “Không sao đâu, không sao đâu, mười xử nữ xinh đẹp, công chúa điện hạ đã chuẩn bị rồi, bọn ta đã chính mắt nhìn thấy, người nào dung mạo cũng như hoa mai côi, da trắng như sữa, giọng nói như tiếng chim oanh”. Vi Tiểu Bảo đột nhiên động tâm, hỏi “Công chúa điện hạ muốn ta làm chuyện gì?”.

Tề Lạc Nặc Phu nói “Chuyện thứ nhất là hai nước hòa hiếu, hoạch định biên giới công bằng, từ nay không đánh nhau nữa”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Tiểu hoàng đế đang muốn như thế, chuyện này thì làm được”, liền cau cau mày, nói “Phía tây nước La Sát các ngươi có nước Thụy… Thụy gì đó phái sứ giả tới muốn bọn ta cùng xuất binh, đông tây giáp công La Sát, chia đôi nước các ngươi. Lúc ấy thì các loại mỹ nữ Nga La Tư lớn, Nga La Tư nhỏ, Nga La Tư vừa vừa không lớn không nhỏ, Nga La Tư đen, Nga La Tư trắng, Nga La Tư đủ màu lốm đốm gì đó muốn bao nhiêu là có bấy nhiêu, cũng không cần công chúa điện hạ các ngươi tặng nữa. Huống hồ mỗi loại chỉ tặng có một người, thật nhỏ mọn quá!”.

Hai viên Đội trưởng La Sát vừa nghe thấy đều giật nảy mình. Lúc ấy vua Tra Lý thứ mười một của Thụy Điển là một nhà vua trẻ tuổi anh minh có tài, chỉnh đốn quân đội chấn hưng võ bị, rất có ý đông chinh đánh nước La Sát, hàng ngày quân mã ùn ùn tiến về phía đông. Đại thần văn võ trong triều đình Mạc Tư Khoa đang lo lắng chuyện ấy, không ngờ Thụy Điển lại nghĩ tới việc muốn liên minh với Trung Quốc. La Sát tuy mạnh, nhưng nếu trước mặt sau lưng đều thù địch, thì vô cùng nguy hiểm.

Vi Tiểu Bảo nhìn sắc mặt hai người, biết mình ra hư chiêu đã có hiệu quả, liền nói “Nhưng ta và công chúa điện hạ là bạn thân, làm sao ưng thuận bọn Man tử nước Thụy gì đó được? Hiện hoàng đế Trung Quốc bọn ta còn chưa quyết định chủ ý, nếu quả thật nước La Sát thật lòng cẩu hòa, thì ta có thể đuổi sứ giả nước Thụy gì đó về nước”.

Hai viên Đội trưởng cả mừng, luôn miệng nói “Nước La Sát mười phần thật lòng, không có chút nào giả trá. Xin đại nhân trẻ con Trung Quốc mau đuổi sứ giả Thụy Điển về, hay tốt nhất là cứ một đao chém đầu y đi”.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Đầu sứ giả thì không chém được. Huống chi y đã tặng ta rất nhiều bảo thạch, mười mấy mỹ nữ, nhát đao ấy cũng không chém được, đúng không?”. Hai viên Đội trưởng luôn miệng khen phải, nghĩ thầm “Té ra nước Thụy Điển cố ý lấy lòng, đưa hàng trước, thu tiền sau, chiêu này còn khôn ngoan hơn bọn mình”. Lại nghĩ “May mà đại nhân trẻ con Trung Quốc là người tình của công chúa bọn mình, nếu không thì chuyện này quả thật hỏng bét”.

Vi Tiểu Bảo hỏi “Công chúa điện hạ còn muốn ta làm chuyện gì nữa?”. Hoa Bá Tư Cơ mỉm cười nói “Chuyện công chúa điện hạ thật lòng muốn đại nhân trẻ con Trung Quốc làm là muốn mời người tới làm việc trong tẩm thất của công chúa ở cung Khắc Lý Mụ Lâm tại Mạc Tư Khoa”. Vi Tiểu Bảo cười hắc lên một tiếng, nghĩ thầm “Đây là thuốc mê La Sát, nói tắt là thuốc La Sát, uống được không tin được”. Bèn cười nói “Té ra đàn ông La Sát các ngươi đều vô dụng”. Tề Lạc Nặc Phu nói “Cũng không phải là đàn ông La Sát vô dụng, chẳng qua là công chúa điện hạ đặc biệt nhớ nhung đại nhân trẻ con Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Lại một chén thuốc La Sát nữa”. Liền hỏi “Nếu thế thì công chúa không còn chuyện gì khác muốn ta làm phải không?”.

Hoa Bá Tư Cơ nói “Công chúa điện hạ muốn xin hoàng đế bệ hạ Trung Quốc ưng thuận cho thương nhân hai nước có thể qua lại hai nước, tự do thông thương”. Tề Lạc Nặc Phu nói “Thương nhân hai nước qua lại thường xuyên, công chúa cũng tiện thỉnh thoảng gởi thư tặng quà cho đại nhân trẻ con Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Con mẹ nó, lại một chén nữa”, rồi nói “Nói thế thì hai nước thông thương là công chúa vì chuyện riêng chứ không phải vì chuyện công à?”. Tề Lạc Nặc Phu nói “Vâng, vâng, hoàn toàn là vì đại nhân trẻ con Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo nói “Hiện ta đã không phải là trẻ con, các ngươi không được gọi là đại nhân trẻ con Trung Quốc gì đó nữa”. Hai người nhất tề khom lưng thật thấp, nói “Vâng, vâng, đại nhân các hạ Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo cười khẽ một tiếng, nói “Được, các ngươi lui ra nghỉ ngơi đi. Bọn ta định tới Ni Bố Sở, các ngươi đi cùng là được”.

Hai người cùng giật nảy mình, nhìn nhau một cái, nghĩ thầm “Đại quân Trung Quốc tới Ni Bố Sở làm gì? Chẳng lẽ là tới đánh thành sao?”. Vi Tiểu Bảo nói “Các ngươi yên tâm. Ta đáp ứng công chúa, hai nước hòa hiếu, không đánh nhau nữa là được”. Hai người nhất tề khom lưng, nói “Đa tạ đại nhân trẻ…, không phải, các hạ Trung Quốc”.

Hoa Bá Tư Cơ lại nói “Công chúa nghe nói cầu ở Trung Quốc xây dựng rất tốt, bất kể mặt sông lớn rộng thế nào cũng có thể dùng đá lớn xây cầu, bên dưới không cần trụ đá. Công chúa yêu thích đại nhân các hạ Trung Quốc, cũng yêu thích đồ vật của Trung Quốc, nên xin đại nhân phái vài kỹ sư giỏi xây cầu tới Mạc Tư Khoa xây vài chiếc cầu đá Trung Quốc thần kỳ. Công chúa điện hạ hàng ngày nhìn thấy cầu đá Trung Quốc, đi lại tản bộ trên cầu, cũng như hàng ngày được thấy mặt đại nhân các hạ”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Thuốc La Sát cứ đổ hết chén này tới chén khác, uống nữa thì mình phải ói ra mất. Công chúa đặc biệt vừa ý cầu đá Trung Quốc chúng ta, vì lý do gì? Trong này ắt có chuyện kỳ lạ, không thể mắc lừa con hồ ly La Sát này được”. Liền nói “Công chúa nhớ nhung ta thì không cần xây cầu đá, công trình lớn quá. Để ta gởi cô ta mấy cái chăn, mấy cái gối bằng gấm Trung Quốc là được, cho cô ta hàng đêm ôm ấp nằm ngủ, giống như đêm nào cũng có đại nhân các hạ Trung Quốc bầu bạn với cô ta”.

Hai viên Đội trưởng La Sát nhìn nhau một cái, trên mặt đều có vẻ nhăn nhó. Tề Lạc Nặc Phu nói “Như thế… giống như…”. Hoa Bá Tư Cơ đầu óc mau lẹ hơn, nói “Chủ ý của đại nhân các hạ rất cao minh, ôm chăn ôm gối Trung Quốc ngủ cũng rất hay. Có điều chăn gối bằng gấm qua vài năm sẽ cũ rách, không vững chắc bằng cầu đá, vì thế mới xin đại nhân phái kỹ sư tới xây dựng cầu đá”.

Vi Tiểu Bảo nghe khẩu khí của hai người thì triều đình La Sát có nhu cầu rất cấp thiết về kỹ sư xây dựng cầu đá, đoán ắt là có âm mưu quỷ kế. Y không biết đương thời kỹ thuật xây cầu của Trung Quốc đứng đầu thiên hạ, người ngoại quốc tới Trung Quốc nhìn thấy cầu đá quy mô bề thế ắt tặc lưỡi khen lạ, tán thưởng không thôi, làm sao có thể bắc cầu qua mặt sông rộng mà phía dưới không cần trụ cầu, càng cảm thấy thần kỳ không lường được. Người La Sát mong mỏi học được cách thức xây cầu ấy rốt lại là xuất phát từ lòng hâm mộ khoa học kỹ thuật Trung Quốc chứ hoàn toàn không có âm mưu gì. (7)

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Các ngươi càng cần thì lão tử càng không cho”, bèn nói “Biết rồi, lui ra đi!”

Hai viên Đội trưởng không dám nói nữa, làm lễ lui ra.

***

Chẳng bao lâu, Khâm sai đại thần nước La Sát là Phí Yếu Đa La ở thành Ni Bố Sở được tin quân Thanh kéo tới, vội sai người đưa thư, xin quân Thanh đóng lại ở chỗ cũ, y sẽ lập tức tới gặp (8).

Vi Tiểu Bảo nói “Không cần khách khí, cứ để bọn ta tới chào khách thôi!”. Quân Thanh ùn ùn cuồn cuộn kéo tới dưới thành Ni Bố Sở. Tát Bố Tố, Bằng Xuân, Mã Lạt chia nhau thống lãnh người ngựa, đi vòng quanh đóng giữ các đường yếu đạo phía bắc, phía nam, phía tây thành Ni Bố Sở, đã chặn đường rút lui của quân La Sát, lại cản trở viện binh phía tây. Vi Tiểu Bảo đích thân thống lãnh trung quân đóng ở phía đông thành. Pháo lưu tinh trong trung quân bắn lên không, pháo hiệu bốn phía cùng vang lên ầm ầm.

Đại thần, võ quan, sĩ tốt La Sát trong thành Ni Bố Sở thấy quân Thanh đông nghịt như mây vây thành, quân dung hùng tráng, không ai không mất hết khí thế. Phí Yếu Đa La lập tức sắp xếp lễ vật sai người đưa tới quân Thanh, lại gởi thư cho Khâm sai đại thần Trung Quốc nói hoàng đế hai nước đã quyết định bãi binh nghị hòa, lần này gặp nhau cốt để bàn định hòa ước, quân đội hai bên không nên cách nhau quá gần, để tránh dẫn tới xung đột, làm tổn thương tới ý hòa hiếu của hai nước.

Vi Tiểu Bảo bàn bạc với các đại thần. Mọi người đều nói Trung Hoa thượng quốc không thể ngang ngược, phải nên tiên lễ hậu binh. Lúc ấy Vi Tiểu Bảo ra lệnh lui lại vài dặm, đóng từ sông Thập Nhĩ Khách qua phía đông, lại sai quân Thanh ở ba phía bắc, tây, nam thành Ni Bố Sở lui vào rừng núi chờ lệnh.

Phí Yếu Đa La thấy quân Thanh lui lại, cũng hơi yên tâm, lại viết một văn thư đề ra bốn điều kiện khi hội kiến: thứ nhất là chỗ hội kiến phải ở giữa thành Ni Bố Sở và sông Thập Nhĩ Khách, thứ hai là hôm hội kiến Khâm sai mỗi nước đều dắt theo bốn mươi tùy viên, thứ ba là hai nước đều đem năm trăm quân ra, quân Nga đóng ở ngoài thành Ni Bố Sở, quân Thanh đóng ở bờ sông Thập Nhĩ Khách, thứ tư là thân binh tùy tùng nghi vệ của Khâm sai mỗi nước mang theo chỉ giới hạn trong số hai trăm sáu mươi người, ngoài đao kiếm không được mang theo hỏa khí. Sở dĩ y đề ra bốn điều kiện ấy, vì quân Thanh thế mạnh, quân Nga ít người, nếu hai bên không giới hạn nhân số, thì quân Nga sẽ rơi vào thế hạ phong. Nhưng hỏa khí của quân La Sát lợi hại, nếu so sánh đôi bên thì quân Nga chiếm ưu thế, đoán là đối phương không chịu, nên đề ra trước, quy định vệ binh chỉ được mang theo đao kiếm. Trong văn thư lại đề nghị hôm sau sẽ hội kiến.

Vi Tiểu Bảo bàn bạc với các đại thần xong, đều thấy là được, lập tức tiếp nhận, sai quân liền đêm dựng trướng làm chỗ hội kiến.

Sáng sớm hôm sau, bọn Khâm sai Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương dẫn các tùy viên, mang theo hai trăm sáu mươi quân khiên mây tới chỗ hội sở. Chỉ thấy chỗ cổng thành Ni Bố Sở mở ra, có hơn hai trăm kỵ binh Ca Khắc Tát cầm trường đao hộ tống một đám quan viên La Sát phi ngựa tới.

Đội kỵ binh này người cao ngựa lớn, oai phong lẫm lẫm, quân khiên mây Trung Quốc đều là bộ binh, so ra thanh thế kém xa.

Đông Quốc Cương chửi “Con bà nó, bọn quỷ La Sát giảo hoạt thật, bước đầu tiên chúng ta đã mắc lừa rồi. Đã nói rõ là mỗi bên chỉ mang theo hai trăm sáu mươi vệ binh, chỉ là quên nói kỵ binh hay bộ binh. Họ nhiều hơn chúng ta hai trăm sáu mươi con ngựa”. Sách Ngạch Đồ nói “Chuyện này nhắc nhở chúng ta, lúc bàn bạc với người La Sát phải dốc hết hai trăm vạn phần tinh thần, chỉ sơ suất nửa phần là mắc lừa đấy”.

Trong lúc nói chuyện, quân La Sát đã phi ngựa tới. Đông Quốc Cương nói “Chúng ta tuân lời hoàng thượng dặn dò, chuyện gì cũng phải nghĩ tới Trung Hoa thượng quốc là nước lễ nghĩa, mọi người xuống ngựa đi”. Vi Tiểu Bảo nói “Được, mọi người xuống ngựa”. Mọi người nhất tề xuống ngựa, chắp tay đứng nghiêm. Khâm sai La Sát Phí Yếu Đa La nhìn thấy tình hình như thế, lập tức ra lệnh một tiếng, các quan viên cũng đều xuống ngựa, khom lưng làm lễ, đôi bên đi tới gần nhau.

Phí Yếu Đa La nói “Khâm sai Nga La Tư Phí Yếu Đa La, phụng mệnh Sa hoàng, kính chúc hoàng đế nước Đại Thanh thánh thể an khang”. Vi Tiểu Bảo bắt chước y, cũng nói “Khâm sai nước Đại Thanh Vi Tiểu Bảo, phụng mệnh đại hoàng đế, kính chúc Sa hoàng nước La Sát thánh thể an khang”, lại thêm một câu “Lại chúc Nhiếp chính nữ vương Tô Phi Á công chúa điện hạ xinh đẹp sung sướng”. Phí Yếu Đa La cười khẽ một tiếng, nghĩ thầm “Hoàng đế Đại Thanh chúc công chúa của bọn mình xinh đẹp sung sướng, câu chúc này kể cũng kỳ lạ hiếm có, có điều nếu công chúa nghe được, chắc sẽ rất vui vẻ”. Hai bên chúc tụng qua lại xong, giới thiệu Phó sứ. Người phiên dịch của hai bên dịch ra.

Vi Tiểu Bảo thấy quan viên La Sát nghiêm trang kính cẩn đứng nghe, lễ số cũng đầy đủ, nhưng hai trăm sáu mươi tên kỵ binh Ca Tát Khắc vẫn ngang nhiên ngồi trên lưng ngựa, tay cầm trường đao, bày thành đội hình có dáng vẻ từ trên nhìn xuống, thấp thoáng có thế uy hiếp, càng nhìn càng tức giận, nói “Bọn vệ binh của các ngươi vô lễ quá, nhìn thấy đại nhân các hạ Trung Quốc, tại sao không xuống ngựa?”. Y nói đảo lộn ngữ pháp tiếng La Sát, từ ngữ lầm lẫn, nhưng trong cơn tức giận, không kịp chờ người phiên dịch, tiếng La Sát tuôn luôn ra miệng. Phí Yếu Đa La nói “Theo quy củ của tệ quốc, kỵ binh trong đội hình, cho dù gặp Sa hoàng bệ hạ, cũng không cần xuống ngựa”.

Vi Tiểu Bảo nói “Đây là đất Trung Quốc, tới Trung Quốc thì phải theo quy củ Trung Quốc”. Phí Yếu Đa La lắc đầu nói “Xin lỗi, các hạ lầm rồi. Đây là lãnh địa của Sa hoàng Nga La Tư, không phải là đất Trung Quốc”. Vi Tiểu Bảo nói “Đây rõ ràng là đất Trung Quốc, là các ngươi dùng sức mạnh chiếm đoạt thôi”. Phí Yếu Đa La nói “Xin lỗi, Khâm sai đại thần Trung Quốc các hạ lầm rồi. Đây là lãnh địa của Sa hoàng Nga La Tư. Thành Ni Bố Sở là người Nga La Tư xây lên”.

Lần này hai nước họp bàn vốn là để chia vạch địa giới, chỗ ấy thuộc Trung Quốc hay Nga La Tư có quan hệ then chốt rất lớn. Hai viên Khâm sai đại thần vừa gặp mặt, còn chưa vào trướng bắt đầu đàm phán, đã tranh cãi rồi.

Vi Tiểu Bảo nói “Người La Sát các ngươi xây một ngôi thành trên đất Trung Quốc là nơi ấy kể như của các ngươi, trên đời có đạo lý nào như thế không?”. Phí Yếu Đa La nói “Đây là đất Nga La Tư, người Nga La Tư xây thành ở đây, người Trung Quốc không xây thành ở đây, điều đó chứng minh đây là thuộc nước Nga. Khâm sai đại thần Trung Quốc các hạ nói đây là đất Trung Quốc, không biết có chứng cứ nào không?”.

Một dải Ni Bố Sở trước nay không ai cai quản, biên giới hai nước Trung Nga cũng chưa từng phân chia rạch ròi, rốt lại thuộc Trung Quốc hay Nga La Tư, vốn không ai có chứng cứ gì. Vi Tiểu Bảo nghe y hỏi câu ấy không kìm được nghẹn lời, đã định cãi bừa, khổ nỗi nói tiếng La Sát không diễn đạt được ý mình, trò chuyện bình thường cũng đã cảm thấy khó khăn, mà muốn khéo léo biện bác thì làm sao được? Trong lòng cả giận, liền nói “Đây là đất Trung Quốc, có rất nhiều chứng cứ”. Kế đó dùng giọng Dương Châu chửi “Mẹ kiếp, ta chửi tổ tông mười bảy mười tám đời bọn quỷ La Sát nhà ngươi”. Câu ấy buông ra xong, những câu chửi người thô tục ở Dương Châu thao thao bất tuyệt tuôn ra như suối, chửi từ bà cao tổ, bà tằng tổ cho tới bà nội, mẹ, chị em gái, bà ngoại, các dì, các cô của Phí Yếu Đa La tới mức tối mày tối mặt. Những người đàn bà họ Phí nước La Sát không ai thoát nạn.

Quan viên hai bên Trung Nga thấy đại thần Khâm sai Trung Quốc nổi giận, ai cũng hoảng sợ. Chỉ là y nói như pháo nổ liên thanh một tràng, đừng nói Phí Yếu Đa La không hiểu gì, ngay cả quan viên Trung Quốc và phiên dịch của đôi bên cũng ngơ ngác không hiểu. Những câu chửi người ấy của Vi Tiểu Bảo đều là những lời thô tục của bọn vô lại đầu đường xó chợ ở Dương Châu, các thân sĩ thục nữ ở Dương Châu cũng chưa chắc đã hiểu được hai ba phần, bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương hoặc là người Bát kỳ, hoặc là võ quan ở phương bắc lâu ngày, cũng làm sao hiểu được?

Vi Tiểu Bảo chửi mắng một tràng xong, trong lòng thoải mái, nhịn không được hô hô cười rộ.

Phí Yếu Đa La tuy không hiểu lời y, nhưng qua dáng vẻ giọng nói, đoán ắt là y nổi giận, chợt thấy y buông tiếng cười rộ, lại càng không hiểu gì, hỏi “Xin hỏi thiên lý luận dài của quý sứ là chỉ giáo chuyện gì thế. Lời lẽ của quý sứ sâu sắc kín đáo, tệ nhân học vấn nông cạn, không sao hiểu được, xin ngươi thong thả nói lại từng câu một lượt, để tiện lãnh giáo”. Vi Tiểu Bảo nói “Mới rồi ta nói ngươi quá không hiểu đạo lý. Ta muốn làm người tình, làm chồng của bà nội ngươi”.

Phí Yếu Đa La mỉm cười nói “Bà nội ta là mỹ nhân nổi tiếng ở Mạc Tư Khoa, là con gái Bá tước Bỉ Đắc Lạc Phu Tư Cơ. Té ra đại nhân các hạ Trung Quốc cũng nghe tiếng của bà nội ta, tệ nhân thật vinh hạnh khôn xiết. Chỉ tiếc là bà nội ta đã qua đời ba mươi tám năm rồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Vậy thì ta muốn mẹ ngươi làm người tình của ta, làm vợ của ta”.

Phí Yếu Đa La mặt mày rạng rỡ, lại càng vui vẻ, nói “Mẹ ta là con nhà danh môn vọng tộc, da dẻ vừa trắng trẻo vừa mịn màng, bà biết làm thơ bằng tiếng Pháp. Trong thành Mạc Tư Khoa có không ít các vương công tướng quân rất sùng bái bà. Nước Nga bọn ta có một vị đại thi nhân từng làm mấy mươi bài thơ ca tụng mẹ ta. Năm nay bà đã sáu mươi ba tuổi mà tướng mạo vẫn như các thiếu phụ hơn ba mươi tuổi. Sắp tới đại nhân các hạ Trung Quốc tới Mạc Tư Khoa, nhất định tệ nhân sẽ giới thiệu làm quen với mẹ ta. Muốn kết hôn thì e không được, còn muốn làm người tình, thì chỉ cần mẹ ta ưng thuận chắc cũng được thôi”. Nguyên theo phong tục người Tây dương, nếu có người khen ngợi mẹ mình, vợ mình xinh đẹp, thì không những không phật lòng, mà còn cảm thấy rất vinh dự, còn vui vẻ hơn là khen ngợi chính y.

Vi Tiểu Bảo lại cho rằng người này sợ mình, rõ ràng đã đem mẹ ruột dâng cho mình, có ý nhận mình làm cha nuôi, lửa giận đầy lòng lập tức tắt ngấm, cười nói “Tốt lắm, tốt lắm. Sau này nếu tới Mạc Tư Khoa, nhất định sẽ tới làm khách ở phủ ngươi” rồi kéo tay y, đi vào trong trướng.

Phó sứ và tùy viên đôi bên cũng vào theo. Bọn Vi Tiểu Bảo ngồi một hàng phía đông, bọn Phí Yếu Đa La ngồi một hàng phía tây.

***

Phí Yếu Đa La nói “Nhiếp chính nữ vương công chúa điện hạ tệ quốc dặn dò, lần này bàn bạc chuyện phân chia ranh giới chúng ta phải hết sức thành thật, đôi bên đều phải công bằng, không được lấn lướt đối phương. Vì thế tệ quốc đề xuất, hai nước lấy Hắc Long Giang làm ranh giới, phía nam sông thuộc về Trung Quốc, phía bắc sông thuộc về Nga La Tư. Chia vạch biên giới xong, quân Nga La Tư không được qua sông xuống bờ nam, quân Trung Quốc cũng không được qua sông lên bờ bắc”. Vi Tiểu Bảo hỏi “Thành Nhã Khắc Tát là ở nam hay ở bắc sông?”. Phí Yếu Đa La nói “Là ở bắc sông. Thành này là do người Nga La Tư bọn ta xây lên, đủ thấy phía bắc Hắc Long Giang đều là thuộc nước ta”.

Vi Tiểu Bảo vừa nghe thấy, lại lên cơn tức giận, hỏi “Trong thành Nhã Khắc Tát có một hòn núi nhỏ, ngươi biết tên là gì không?”. Phí Yếu Đa La quay lại hỏi tùy viên, rồi đáp “Là núi Cao Thư Lược”. Vi Tiểu Bảo biết trong tiếng La Sát Cao Thư Lược có nghĩa là Lộc, liền nói “Trong tiếng Trung Quốc bọn ta gọi là núi Lộc Đỉnh. Ngươi biết ta được phong tước gì không?”. Phí Yếu Đa La nói “Các hạ là Lộc Đỉnh công, nói theo tiếng La Sát của bọn ta thì là Công tước Cao Thư Lược”. Vi Tiểu Bảo nói “Như thế, thì ngươi có ý không tốt với ta rồi. Đã biết ta là Lộc Đỉnh công, lại muốn chiếm núi Lộc Đỉnh của ta, há không phải là muốn ta không làm được công tước nữa phải không?”. Phí Yếu Đa La vội nói “Không, không, quyết không có ý ấy”.

Vi Tiểu Bảo hỏi “Ngươi là tước gì?”. Phí Yếu Đa La nói “Tệ nhân là Hầu tước Lạc Mạc Nặc Sa Phạt”. Vi Tiểu Bảo nói “Được, vậy thì Lạc Mạc Nặc Sa Phạt là thuộc đất Trung Quốc”. Phí Yếu Đa La giật nảy mình, lập tức mỉm cười nói “Lạc Mạc Nặc Sa Phạt đất phong của tệ nhân ở phía tây Mạc Tư Khoa, làm sao là đất Trung Quốc được?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi nói đất phong của ngươi gọi là Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp…”(9). Phí Yếu Đa La nói “Lạc Mạc Nặc Sa Phạt”. Vi Tiểu Bảo không đếm xỉa gì tới y, tiếp tục nói “Từ kinh thành Bắc Kinh của bọn ta tới Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp tất cả bao nhiêu đường đất, phải đi trong bao lâu?”. Phí Yếu Đa La nói “Từ Lạc Mạc Nặc Sa Phạt tới Mạc Tư Khoa tất cả hơn năm trăm dặm, đi mất năm ngày. Từ Mạc Tư Khoa tới Bắc Kinh, tất cả phải đi hơn ba tháng”. Vi Tiểu Bảo nói “Nói như thế thì từ Bắc Kinh tới Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp thì phải đi ba tháng năm ngày, đường đi thật là xa quá”. Phí Yếu Đa La nói “Rất xa, rất xa”. Vi Tiểu Bảo nói “Đường sá như thế thì Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp tất nhiên không thuộc Trung Quốc ta rồi”. Phí Yếu Đa La mỉm cười nói “Lời công tước thật không gì đúng hơn”.

Vi Tiểu Bảo nâng chén rượu lên, nói “Mời uống rượu”. Người La Sát thích rượu như tính mạng, chén rượu đặt trước mặt Phí Yếu Đa La đã lâu, mùi rượu từng trận từng trận bốc lên, chủ nhân chưa bưng chén nên y không dám tùy tiện, lúc ấy thấy Vi Tiểu Bảo nâng chén trong lòng cả mừng, vội vàng uống cạn một hơi.

Tùy viên bên phía nước Thanh rót rượu cho y, lấy thức ăn trong hộp ra, đều là do các đầu bếp nổi tiếng ở Bắc Kinh nấu nướng. Lúc ấy nước La Sát khai hóa chưa lâu, phải tới về sau lúc Bỉ Đắc đại đế lớn lên, giành được quyền lực từ tay công chúa Tô Phi Á chị mình, giam Tô Phi Á vào nhà tu kín, sau đó mới tiến hành du nhập văn hóa Tây Âu rầm rộ. Thời Vi Tiểu Bảo tất cả khí vật chế độ, văn minh giáo hóa của nước La Sát đều thua kém Trung Quốc rất xa, còn như sự nấu nướng tinh tế thì đến hiện nay nước Nga vẫn còn thua Trung Quốc mười vạn tám ngàn dặm. Năm ấy ở ngoài thành Ni Bố Sở, Phí Yếu Đa La lần đầu tiên được nếm món ngon Trung Hoa, tự nhiên là trợn mắt há miệng, cơ hồ nuốt luôn cả lưỡi của mình vào bụng. Vi Tiểu Bảo bồi tiếp y nếm qua mấy món thức ăn, giải thích thế nào gọi là vây cá, thế nào gọi là yến sào, làm sao để biến chân vịt thành món ngon, làm sao để biến gân gà thành mỹ vị, chỉ khiến Phí Yếu Đa La vui mừng tán thưởng, vô cùng thích thú.

Vi Tiểu Bảo thuận miệng hỏi “Lần này quý sứ rời khỏi Mạc Tư Khoa hôm nào?”. Phí Yếu Đa La nói “Ngày mười hai tháng tư tệ nhân vâng lời dụ của công chúa điện hạ, lên đường từ Mạc Tư Khoa”. Vi Tiểu Bảo nói “Hay lắm. Nào, uống thêm chén nữa. Vị Đông công gia kia của bọn ta tửu lượng rất cao, hai người các ngươi uống với nhau vài chén”. Lúc ấy Đông Quốc Cương hướng về phía Phí Yếu Đa La mời rượu, uống liền ba chén.

Vi Tiểu Bảo nói “Quý sứ tới thành Ni Bố Sở trong tháng này à?”. Phí Yếu Đa La nói “Tệ nhân tới đây ngày mười lăm”. Vi Tiểu Bảo nói “Ờ, từ ngày mười hai tháng tư đến ngày mười lăm tháng bảy, đi đường mất hơn ba tháng”. Phí Yếu Đa La nói “Vâng, đi mất hơn ba tháng. May mà trời ấm, trên đường cũng không khó đi lắm”. Vi Tiểu Bảo giơ ngón tay cái lên, khen ngợi “Hay lắm! Lần này quý sứ nói rất thành thật, rốt lại đã thừa nhận Ni Bố Sở không phải thuộc đất La Sát”.

Phí Yếu Đa La uống hơn mười chén rượu, đã hơi ngà ngà, ngạc nhiên nói “Ta… ta thừa nhận lúc nào?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Từ Bắc Kinh tới Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp đi hơn ba tháng, đường đi rất xa, vì thế Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp không thuộc đất Trung Quốc. Từ Mạc Tư Khoa tới Ni Bố Sở, ngươi cũng đi hơn ba tháng, đường đi cũng rất không gần, Ni Bố Sở tự nhiên cũng không thuộc đất La Sát”.

Phí Yếu Đa La mở tròn mắt, nhất thời không biết trả lời thế nào, ngẩn ra suốt nửa ngày mới nói “Nước Nga La Tư bọn ta rất rộng lớn, chuyện này khác chứ”. Vi Tiểu Bảo nói “Nước Đại Thanh bọn ta cũng không nhỏ đâu”. Phí Yếu Đa La cười gượng nói “Quý sứ hay nói đùa quá, hai… hai chuyện này là… là không thể coi như nhau được”.

Vi Tiểu Bảo nói “Quý sứ nhất định nói Ni Bố Sở là đất La Sát, vậy chúng ta đánh đổi một phen. Để ta tới Mạc Tư Khoa, xin công chúa phong ngươi làm Bá tước Ni Bố Sở, phong ta làm Công tước Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp. Thành Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp ấy kể như thuộc đất Trung Quốc”. Phí Yếu Đa La mặt mũi đỏ bừng, vội nói “Như thế… như thế thì làm sao được?”, không kìm được vô cùng lo sợ, nghĩ thầm công chúa là người tình của y, nếu bị y đổ thuốc mê Trung Quốc trên gối lại đồng ý trao đổi thì thật hỏng bét. Lại nghĩ “Đất Lạc Mạc Nặc Sa Phạt của mình là ấp phong tổ tiên truyền lại, sản vật giàu có, nếu lại bị công chúa đổi phong ở Ni Bố Sở, chỗ này khí hậu lạnh lẽo, nhân đinh thưa thớt, thì xong cái mạng già của mình rồi. Huống hồ hiện tại mình là hầu tước, đổi phong là bá tước Ni Bố Sở, há không phải là bị giáng sao?”

Vi Tiểu Bảo thấy y có vẻ vô cùng lo lắng, cười nói “Ngươi muốn chiếm cả thành Nhã Khắc Tát đất phong của ta, cho ta không làm được Lộc Đỉnh công, thì ta còn cách nào? Chỉ có cách đi làm Công tước Lão Miêu Lạp Thỉ Pháp. Tuy tên đất phong của ngươi rất là khó nghe, cái gì mà mèo già kéo phân, chó con vãi đái, nhưng cũng chỉ còn cách gắng chịu gắng chịu thôi”.

Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Trung Quốc ngươi định chiếm Lạc Mạc Nặc Sa Phạt của ta à? Có điều Vi Tiểu Bảo ngươi đã nhận tước phong của đế quốc Nga La Tư bọn ta, nếu lại tính cướp đất phong của ta thì cũng phiền phức. Bọn ta cũng không thật sự muốn có thành Nhã Khắc Tát, Nhã Khắc Tát đã bị các ngươi chiếm rồi, nếu muốn các ngươi rút lui, tất nhiên không chịu”. Lúc ấy lộ vẻ tươi cười, nói “Nếu thành Nhã Khắc Tát đã là đất phong của quý sứ, thì bọn ta có thể nhường một bước, lấy Hắc Long Giang làm ranh giới, có điều thành Nhã Khắc Tát và khu vực mười dặm quanh thành là thuộc Trung Quốc. Đây là hoàn toàn vì nể mặt quý sứ, đã nhượng bộ rất nhiều rồi”.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Các ngươi thua trận, lại còn ra vẻ. Nếu trận này người La Sát các ngươi mà thắng, chỉ e ngay cả thành Bắc Kinh cũng muốn chiếm làm đất của các ngươi luôn rồi”. Bèn nói “Chúng ta đánh nhau một trận, không biết các ngươi thắng hay bọn ta thắng?”. Phí Yếu Đa La cau mày nói “Mới đụng độ nhỏ, cũng không thể nói ai thắng ai thua. Công chúa điện hạ của bọn ta đã sớm có nghiêm lệnh, là để chu toàn sự hòa hiếu giữa hai nước, không cho đánh nhau, vì thế lúc quân đội của quý quốc tấn công, tướng sĩ của tệ quốc đều không đánh trả. Nếu không thì cục diện đã khác hẳn rồi”. Vi Tiểu Bảo nghe thấy cả giận, nói “Té ra quân La Sát súng ống cùng bắn, không phải là đánh trả à?”. Phí Yếu Đa La nói “Bọn họ chẳng qua chỉ là bảo vệ đất đai của bản quốc, không thể kể là đánh trả. Người La Sát mà đánh nhau thật sẽ không có chuyện chỉ thủ mà không công. Nếu hai nước đại chiến thì hỏa thương thủ và kỵ binh Ca Tát Khắc của nước La Sát có thể tiến chiếm cả thành Bắc Kinh kia”.

Vi Tiểu Bảo giận quá, nghĩ thầm “Con bà ngươi, con quỷ lông vàng nhà ngươi lại còn lớn lối dọa người. Ta mà bị ngươi dọa, thì ta theo họ ngươi, làm con ngươi, chứ không phải là Vi Tiểu Bảo, mà gọi là Tiểu Bảo Phí Yếu Đa La”. Y từng qua Mạc Tư Khoa, biết tập quán của người La Sát gọi tên trước gọi họ sau, nhưng Phí Yếu Đa La là tên chứ không phải họ, y lại không biết, nói “Như vậy rất hay, chào đại nhân. Hầu tước đại nhân, ngươi có biết trong lòng ta mong mỏi điều gì nhất không?”.

Phí Yếu Đa La nói “Chuyện đó thì không biết, xin chỉ giáo”. Vi Tiểu Bảo nói “Hiện ta là công tước, trong lòng chỉ mong được thăng quan tiến tước, phong làm quận vương, thân vương”. Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Gia quan tấn tước, thì ai lại không muốn?”. Bèn mỉm cười nói “Công tước đại nhân tinh minh tài cán, rất được hoàng đế quý quốc tin yêu, chỉ cần lập thêm vài công lao, thì chuyện được phong làm quận vương thân vương quả thật không còn gì phải nghi ngờ nữa. Tệ nhân thành tâm thành ý kính chúc ngươi sớm thành công”. Vi Tiểu Bảo hạ giọng nói “Chuyện này phải nhờ ngươi giúp đỡ mới xong, nếu không thì e là không làm được”. Phí Yếu Đa La kinh ngạc, nói “Tệ nhân tự nhiên phải ra sức, chỉ có điều không biết là làm thế nào?”.

Vi Tiểu Bảo ghé miệng vào tai y, khẽ nói “Theo quy củ nước Đại Thanh bọn ta, chỉ cần thắng trận, lập được quân công mới có thể được phong vương. Hiện nay nước ta thái bình vô sự, bọn phản tặc đều đã bị tiêu diệt, chờ thêm hai ba mươi năm nữa cũng e không có đánh nhau, ta muốn phong vương quả thật rất khó. Lần này nghị hòa bàn chuyện chia vạch biên giới, chỉ cần các ngươi chuyện gì cũng không nhượng bộ, tốt nhất là phái quân tới khiêu chiến với bọn ta, giết đi một hai đại thần bọn ta ở đây. Hai nước chúng ta đánh lớn một trận. Ngươi phái quân hỏa thương, kỵ binh Ca Tát Khắc tới đánh Bắc Kinh. Bọn ta liên minh với nước Thụy Điển, phái quân tới đánh Mạc Tư Khoa, chỉ đánh nhau khói lửa mịt mù, máu chảy thành sông, lúc ấy ta sẽ được phong vương, xin gởi gắm, xin gởi gắm, ngàn vạn lần nhờ ngươi giúp đỡ cho. Ngươi nói khẽ thôi, đừng để người khác nghe thấy”.

Phí Yếu Đa La càng nghe càng sợ, nghĩ thầm gã thiếu niên này lớn mật làm càn, vì muốn được phong vương mà không tiếc khơi lên cuộc chiến tranh giữa hai nước, lại còn muốn liên minh với Thụy Điển, trận đánh nhau này mà xảy ra, tương lai ai thắng ai bại tuy là không biết, nhưng lúc ấy họ đông mình ít, số quân hai bên chênh lệch, thì trước mắt nhất định phải chịu thua thiệt, trong lòng rất hối hận, quả thật không nên lên tiếng dọa dẫm, nói nào là quân hỏa thương, nào là kỵ binh Ca Tát Khắc đánh chiếm Bắc Kinh, gã thiếu niên này tưởng là thật, không những không sợ, mà lại mừng mừng rỡ rỡ, thế này thật là khéo quá hóa vụng, nhưng nếu để lộ ý khiếp nhược thì không khỏi bị y coi thường, nhất thời bất giác luống cuống.

Vi Tiểu Bảo lại nói “Mạc Tư Khoa cách đây rất xa, quân Đại Thanh mở cuộc tấn công, quả thật không nắm chắc, biết đâu sẽ bị thua trận, hoàng thượng lại trách phạt ta…”. Phí Yếu Đa La vừa nghe có cơ hội xoay chuyển lại, trên mặt lộ vẻ mừng rỡ, vội nói “Đúng, đúng. Xin các hạ đừng nên mạo hiểm là hơn”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta chỉ là muốn lập công phong vương, chứ không muốn tiêu diệt nước La Sát, đất đai quý quốc rất rộng, ta cũng không có bản lãnh mà tiêu diệt được”. Phí Yếu Đa La lại luôn miệng khen phải. Vi Tiểu Bảo hạ giọng nói “Thế này đi, ngươi phát binh đánh Bắc Kinh, ta sẽ phát binh đánh Ni Bố Sở, hai chúng ta mỗi người đánh một nơi, đánh được Bắc Kinh là công lao của ngươi, đánh được Ni Bố Sở là công lao của ta. Ngươi thấy kế sách ấy có hay không?”.

Phí Yếu Đa La ngấm ngầm kêu khổ, trong tay mình chỉ có hơn hai ngàn người ngựa, muốn đánh chiếm lại thành Nhã Khắc Tát cũng không đủ sức lại còn nói tấn công thành Bắc Kinh, nghĩ thầm nếu không nhận là sai, biết đâu gã thiếu niên này sẽ lộng giả thành chân, chỉ đành cười gượng nói “Xin công tước đừng để bụng. Mới rồi ta nói quân hỏa thương và quân Ca Tát Khắc tấn công Bắc Kinh không phải là thật, là ta nói sai, xin rút lời lại”.

Vi Tiểu Bảo ngạc nhiên nói “Lời nói đã ra miệng làm sao rút lại được?”. Phí Yếu Đa La nói “Tệ nhân năn nỉ công tước đại nhân, xin ngươi quên câu ấy đi”. Vi Tiểu Bảo nói “Nói như thế là quân La Sát các ngươi không tấn công thành Bắc Kinh à?”. Phí Yếu Đa La nói “Không, nhất định không”. Vi Tiểu Bảo nói “Còn thành Ni Bố Sở các ngươi nhất định không cần phải không?”. Phí Yếu Đa La sửng sốt, nói “Thành Ni Bố Sở là lãnh địa của Sa hoàng bọn ta. Xin công tước đại nhân bỏ qua”. Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Người Tô Châu nói Ra giá trên trời, trả giá sát đất. Mình đòi Ni Bố Sở thì không đòi được. Cứ đòi y vùng đất từ thành Ni Bổ Sở qua phía tây, xem y nói thế nào”. Liền nói “Lần này chúng ta nghị hòa, nhất định phải mua bán sòng phẳng, già trẻ không lừa, không ai phải chịu thiệt, đúng không?”. Phí Yếu Đa La gật đầu nói “Đúng thế. Hai nước thành tâm thành ý chia vạch cương giới, xây dựng nền hòa bình vĩnh viễn”. Vi Tiểu Bảo nói “Vậy thì tốt quá. Nếu đường biên giới này quá gần Mạc Tư Khoa, thì người La Sát các ngươi chịu thiệt, nếu quá gần Bắc Kinh, thì người Trung Quốc bọn ta chịu thiệt. Cách tốt nhất là vạch ra ở giữa. Cứ chia năm năm”.

Phí Yếu Đa La hỏi “Chia năm năm là thế nào?”. Vi Tiểu Bảo nói “Từ Mạc Tư Khoa tới Bắc Kinh đại khái đi khoảng ba tháng, có đúng không?”. Phí Yếu Đa La nói “Đúng”. Vi Tiểu Bảo nói “Ba tháng chia đôi là bao nhiêu thời gian?”. Phí Yếu Đa La không hiểu ý y, bèn thuận miệng đáp “Là một tháng rưỡi”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng rồi. Chúng ta không cần bàn nhiều nữa, mọi người cứ trở về kinh thành nước mình. Sau đó ngươi từ Mạc Tư Khoa lên đường đi về phía đông, ta từ thành Bắc Kinh lên đường đi về phía tây, mỗi bên đi một tháng rưỡi, tự nhiên là sẽ gặp nhau, có phải không?”. Phí Yếu Đa La nói “Phải. Nhưng không biết đại nhân làm như thế là có dụng ý gì?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Đó là cách chia vạch biên giới công bằng nhất đấy. Chỗ chúng ta gặp nhau, chính là biên giới giữa hai nước. Chỗ đó cách Mạc Tư Khoa một tháng rưỡi ngày đường, cách Bắc Kinh cũng một tháng rưỡi ngày đường. Các ngươi không chiếm tiện nghi, bọn ta cũng không chiếm tiện nghi. Nhưng trận này giữa chúng ta kể như đánh suông. Tính ra thì các ngươi vẫn còn chiếm tiện nghi, đúng không?”.

Phí Yếu Đa La mặt mày đỏ bừng, nói “Cái này… cái này… cái này…”, rồi đứng lên.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Ngươi cũng cảm thấy cách này rất công bằng, đúng không?”. Phí Yếu Đa La xua tay lia lịa, nói “Không, không, tuyệt đối không thể được. Nếu chia vạch biên giới như thế, há không phải là một nửa đất đai đế quốc Nga La Tư phải cắt cho các ngươi à?”. Vi Tiểu Bảo nói “Không tới một nửa đâu. Từ Mạc Tư Khoa qua phía tây, các ngươi còn nhiều đất đai lắm, chỗ đất đai ấy không cần chia năm năm với Trung Quốc, cần gì phải khách khí?”.

Phí Yếu Đa La tức giận tới mức thở phì phì, qua một lúc lâu mới nói “Công tước đại nhân, nếu ngươi thành tâm nghị hòa, thì lẽ ra phải đề ra chủ trương thông tình đạt lý, chứ… chứ cách thức thế này, lại muốn cắt một nửa đất đai nước ta, vậy thì… vậy thì khinh người quá lắm”. Nói xong tức giận thở hồng hộc ngồi xuống ghế ầm một tiếng.

Vi Tiểu Bảo hạ giọng nói “Thật ra chuyện nghị hòa chia vạch biên giới chẳng có gì hay, chúng ta cứ đánh nhau một trận trước, ngươi nói có hay không?”.

Phí Yếu Đa La không ngừng thở hổn hển, nhịn không được đập bàn đứng lên, cao giọng nói “Đánh nhau thì đánh nhau!”, nhưng nghĩ đánh nhau một trận xong, hậu quả quả thật rất nghiêm trọng, bên mình không có hy vọng thắng được, chỉ đành cố nhịn, im lặng không nói gì nữa.

Vi Tiểu Bảo đột nhiên đưa tay đập bàn một cái, cười nói “Có cách rồi, có cách rồi, ta có một cách thức công bằng khác”. Rồi đưa tay vào bọc, lấy ra hai hạt xúc xắc, thổi một hơi vào gieo xuống mặt bàn, nói “Ngươi muốn đánh nhau chứ không muốn chia năm năm, chúng ta cứ gieo xúc xắc. Từ Bắc Kinh tới Mạc Tư Khoa cứ tính là một vạn dặm, chúng ta chia làm mười phần, mỗi phần một ngàn dặm, ta và ngươi gieo xúc xắc mười ván, mỗi ván đánh bằng một ngàn dặm đất đai. Nếu ngươi may mắn thắng được hết cả mười ván, vậy thì đất đai cho tới thành Bắc Kinh cũng đều thuộc người La Sát”. Phí Yếu Đa La hừ một tiếng, nói “Thế nếu ta thua cả mười ván thì sao?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Vậy thì tự ngươi nói đi”. Phí Yếu Đa La nói “Chẳng lẽ núi sông ngàn dặm phía đông Mạc Tư Khoa đều thuộc về Trung Quốc cả à?”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta đoán là ngươi cũng không rủi ro quá như thế, trong mười ván cũng không đến nỗi không thắng được ván nào. Ngươi chỉ cần thắng được một ván là giữ gìn được một ngàn dặm đất đai, thắng hai ván thì giữ được hai ngàn dặm, nếu thắng sáu ván là chiếm tiện nghi rồi”. Phí Yếu Đa La tức giận nói “Chiếm tiện nghi cái gì? Từ Mạc Tư Khoa về phía đông sáu ngàn dặm vốn là thuộc nước ta, bảy ngàn dặm tám ngàn dặm cũng đều thuộc nước ta”.

Vi Tiểu Bảo và Phí Yếu Đa La hai người không ngừng trao đổi, giáo sĩ người Hà Lan làm phiên dịch bên cạnh không ngừng hạ giọng dịch ra tiếng Trung Quốc. Bọn Đông Quốc Cương, Sách Ngạch Đồ nghe thấy, lúc đầu cảm thấy Phí Yếu Đa La ngang ngược vô lý, lại đòi lấy Hắc Long Giang làm ranh giới, lấn sát tới đất Liêu Đông của Trung Quốc, đây là đất long hưng của người Mãn Châu, làm sao có thể để cho Di Địch tới gần? Trong lòng đều cảm thấy tức giận, về sau nghe Vi Tiểu Bảo nói muốn đánh nhau lập công để được cắt đất phong vương, sứ thần nước Nga lập tức tỏ vẻ khép nép, không dám khoe khoang, lại nghe Vi Tiểu Bảo lôi đông kéo tây, nào là đánh đổi đất phong, nào là chia năm năm, nào là gieo xúc xắc chia vạch biên giới, mỗi ván là một ngàn dặm đất đai, rõ ràng là ăn nói bừa bãi, nhất định đối phương sẽ không ưng thuận, nhưng Phí Yếu Đa La khí thế đã bị giảm sút, đều nghĩ “Người La Sát ương ngạnh đúng là danh bất hư truyền, nếu đàm phán đứng đắn với họ, thì không rơi vào thế hạ phong không xong. Hoàng thượng lại phái Vi Công tước tới chủ trì hòa nghị, quả thật sáng suốt biết người, gã phiên bang này là người ngang ngược, thì cũng chỉ có loại lưu manh đầu đường xó chợ bất học vô thuật như Vi Tước gia mới có thể đối phó với y, lấy ngang ngạnh trị ngang ngạnh”.

Bọn đại thần Đông Quốc Cương, Sách Ngạch Đồ ngoài mặt đối với Vi Tiểu Bảo tuy mười phần cung kính khách khí nhưng trong lòng quả thật không coi y ra gì, đều cảm thấy y chẳng qua chỉ là một thằng hề được hoàng thượng sủng ái, ngôn ngữ cử chỉ hàng ngày vẫn thường để lòi cái xấu, lại cứ điềm nhiên không biết nhục, khoe khoang đắc ý, lần này mà chịu nhục với sứ thần nước ngoài trên tiệc, khó mà không để ngoại bang chê cười, làm mất thể diện quốc gia, nào ngờ hoàng thượng chọn tài mà dùng, lại dám sai y, nếu không sai một nhân vật mặt dày như y đi làm chuyện sai sử này thì trong các đại thần văn võ trong triều quả thật tìm không ra được người thứ hai. Các đại thần càng nghe càng khâm phục, càng thấy hoàng thượng anh minh duệ trí, các bề tôi không sao bằng được.

Sách Ngạch Đồ nghe tới đó, đột nhiên chen vào “Mạc Tư Khoa vốn là đất Trung Quốc bọn ta”.

Giáo sĩ Hà Lan dịch câu ấy ra. Phí Yếu Đa La giật nảy mình, nghĩ thầm “Gã thiếu niên này ăn nói bừa bãi thì cũng thôi, sao lão già như ngươi cũng mặt dày nói bừa, nói Mạc Tư Khoa kinh thành nước ta là đất Trung Quốc các ngươi?”.

Sách Ngạch Đồ lại nói “Theo cách nói của quý sứ, thì chỉ cần đất đai mà người La Sát tạm thời chiếm được thì tính là đất La Sát rồi, có phải không?”. Phí Yếu Đa La nói “Vốn là phải như thế đấy. Quý sứ lại nói Mạc Tư Khoa là đất của quý quốc, ha ha, thật là buồn cười”. Sách Ngạch Đồ nói “Nhân dân nước La Sát có người Đại Nga La Tư, Tiểu Nga La Tư, Bạch Nga La Tư, lại có người Ca Tát Khắc, Đạt Đán vân vân, đó đều là người La Sát”. Phí Yếu Đa La nói “Không sai chút nào, nước ta đất đai rộng lớn, nhân dân rất đông. Sách Ngạch Đồ nói “Bách tính nước ta cũng rất nhiều chủng loại, có người Mãn Châu, người Mông Cổ, người Hán, người Miêu, người Hồi, người Tạng vân vân”. Phí Yếu Đa La nói “Đúng thế. Nước ta là lớn, Trung Quốc cũng là nước lớn. Hai nước chúng ta là lớn nhất trên đời hiện nay”.

Sách Ngạch Đồ nói “Vệ binh quý sứ mang theo lần này dường như đều là kỵ binh Ca Tát Khắc”. Phí Yếu Đa La mỉm cười một tiếng, nói “Kỵ binh Ca Tát Khắc anh dũng vô địch, là dũng sĩ lợi hại nhất trong thiên hạ”. Sách Ngạch Đồ nói “Kỵ binh Ca Tát Khắc lợi hại hơn người Nga La Tư à?”. Phí Yếu Đa La nói “Cũng không thể nói như thế. Ca Tát Khắc là người La Sát, Nga La Tư cũng là người La Sát, không hề phân biệt. Cũng như người Mãn Châu là người Trung Quốc, người Mông Cổ, người Hán cũng là người Trung Quốc, không hề phân biệt”. Sách Ngạch Đồ gật đầu nói “Vậy thì đúng rồi. Vì thế nên Mạc Tư Khoa là thuộc đất Trung Quốc bọn ta”.

Vi Tiểu Bảo nghe hai người bọn họ nói tới đó, cũng không hiểu rõ dụng ý của Sách Ngạch Đồ, y biết rõ Mạc Tư Khoa cách đó hàng vạn dặm xa xôi, quyết không phải là đất Trung Quốc, nhưng nghe Sách Ngạch Đồ trò chuyện giống như có ý e dè, mà Phí Yếu Đa La thì trán nổi gân xanh, mặt lúc xám xanh lúc đỏ bừng, rõ ràng trong lòng giận dữ như điên, liền chen vào “Mạc Tư Khoa là đất Trung Quốc, chuyện đó thì nửa điểm cũng không sai, Hoàng đế Trung Quốc khoan hồng đại lượng, cho các ngươi Lưu Bị mượn Kinh Châu, một lần cho mượn thì mãi mãi không chịu trả”.

Phí Yếu Đa La tự nhiên không biết “Lưu Bị mượn Kinh Châu” là ý gì, chỉ cảm thấy bọn Man tử Trung Quốc này không biết lý lẽ, ăn nói hoàn toàn không giống người văn minh, cười nhạt nói “Trước đây ta nghe nói Trung Quốc có lịch sử lâu đời, người Trung Quốc rất có học vấn, nào ngờ… ha ha lại chuyên thích nói những chuyện không có bằng cứ”.

Sách Ngạch Đồ nói “Quý sứ là đại thần nước La Sát, cho dù không có học vấn gì thì chắc cũng biết lịch sử nước La Sát chứ?”. Phí Yếu Đa La nói “Lịch sử nước ta đều có sách vở làm bằng chứng, viết ra rõ ràng trên giấy trắng mực đen, quyết không phải là dựa vào lời người ta thuận miệng nói bừa”. Sách Ngạch Đồ nói “Vậy thì tốt lắm, Trung Quốc trước đây có một vị hoàng đế gọi là Thành Cát Tư Hãn…”.

Phí Yếu Đa La nghe tới bốn chữ Thành Cát Tư Hãn, bất giác “Ái chà” một tiếng, trong lòng kêu thầm “Hỏng bét, hỏng bét, tại sao mình lại hồ đồ, quên mất chuyện lớn này nhỉ?”.

Sách Ngạch Đồ nói tiếp “Vị Thành Cát Tư Hãn này, Trung Quốc chúng ta gọi là Nguyên Thái tổ, vì y là Thái tổ khai sáng nhà Nguyên. Y là người Mông Cổ. Quý sứ vừa nói qua, người Mãn Châu, người Mông Cổ, người Hán đều là người Trung Quốc, không hề phân biệt. Lúc ấy kỵ binh Mông Cổ tây chinh, từng đánh nhau với quân La Sát mấy trận. Lịch sử quý quốc có sách vở làm chứng, tất cả đều có ghi chép rõ ràng, quyết không thể là dựa vào lời người ta thuận miệng nói bừa. Trận đánh nhau lớn ấy không biết là người Trung Quốc bọn ta thắng hay là người La Sát quý quốc thắng?.

Phí Yếu Đa La im lặng không nói, qua một lúc lâu mới nói “Là người Mông Cổ thắng”. Sách Ngạch Đồ nói “Người Mông Cổ là người Trung Quốc”. Phí Yếu Đa La hai mắt trợn lên suốt nửa ngày rồi từ từ gật đầu.

Vi Tiểu Bảo không biết trước đó có chuyện gì, nhưng vừa nghe thấy thế, lập tức tinh thần phấn chấn, nói “Người Trung Quốc đánh nhau với người La Sát, nhất định người La Sát phải thua không còn nghi ngờ gì nữa. Bản lãnh của các ngươi quả thật kém lắm, lần sau đánh nhau bọn ta chỉ dùng một tay là được. Nếu không đôi bên chênh lệch quá nhiều, đánh nhau chẳng có gì thú vị”.

Phí Yếu Đa La trừng mắt nhìn, nghĩ thầm “Nếu không phải là công chúa đã có nghiêm lệnh là lần này chỉ được hòa không được đánh, thì bằng vào mấy câu ngươi hạ nhục người La Sát bọn ta, ta cũng phải quyết đấu với ngươi”.

Vi Tiểu Bảo cười hì hì hỏi Sách Ngạch Đồ “Sách đại ca, Thành Cát Tư Hãn đánh bại quân La Sát thế nào?”.

Sách Ngạch Đồ nói “Năm ấy Thành Cát Tư Hãn phái hai đội quân tây chinh, tất cả hai vạn người ngựa, đánh bại liên quân La Sát mười mấy vạn người. Cháu nội Thành Cát Tư Hãn là Bạt Đô cũng là một vị đại anh hùng, suất lãnh quân đội đánh quân La Sát như nước chảy hoa rơi, chiếm được Mạc Tư Khoa, đánh thẳng tới Ba Lan, Hung Gia Lợi, qua sông Đa Não. Sau đó mấy trăm năm, vương công quý tộc La Sát đều phải nghe lời người Trung Quốc chúng ta. Lúc ấy anh hùng Mông Cổ Trung Quốc chúng ta đóng trong lều trướng dát vàng. Đại công tước Mạc Tư Khoa thường tới dập đầu với người Trung Quốc. Người Trung Quốc muốn đánh vào mông là đánh vào mông, muốn tát vào mặt là tát vào mặt, người La Sát còn cười hì hì nói là đánh rất hay, nếu không thì không làm được công tước”(10).

Vi Tiểu Bảo nghe tới mức mặt mày rạng rỡ, đập bàn khen lớn “Ông chủ rồng ngoan ngoãn! Té ra Mạc Tư Khoa quả nhiên là thuộc Trung Quốc”.

Phí Yếu Đa La mặt lúc xanh lúc trắng, lời Sách Ngạch Đồ đúng là sự thật, hoàn toàn không phải giả trá, chỉ là người La Sát trước nay không thừa nhận người Mông Cổ là người Trung Quốc. Lúc ấy Mông Cổ thuộc Trung Quốc, từ đó suy ra nói Mạc Tư Khoa từng thuộc về người Trung Quốc cũng không phải là không có bằng cứ.

Vi Tiểu Bảo nói “Hầu tước các hạ, ta thấy chúng ta không cần bàn chuyện biên giới nữa, xin ngươi trở về hỏi công chúa, lúc nào thì trả Mạc Tư Khoa lại cho Trung Quốc. Ta cũng phải về gấp Bắc Kinh mua da bò và vàng để tiện may mấy cái lều chóp vàng, sau đó đập tan cung Khắc Lý Mụ Lâm, dựng Kim trướng lên, mời công chúa Tô Phi Á tới ngủ, hô hô, hô hô!”.

Phí Yếu Đa La nghe tới đó, không nhịn được nữa, đứng phắt lên bỏ ra ngoài trướng, chỉ nghe y giận dữ quát tháo như sấm, lớn tiếng ra lệnh, kế đó có tiếng vó ngựa rầm rập, hơn hai trăm kỵ binh nhất tề xông tới.

***

Vi Tiểu Bảo giật nảy mình, kêu lên “Ái chà, gã này muốn đánh nhau, chúng ta tháo thân là quan trọng”.

Đông Quốc Cương thân trải trăm trận, vô cùng trầm tĩnh, quát “Vi Công gia đừng sợ, muốn đánh thì đánh, ai sợ họ chứ”.

Chỉ nghe kỵ binh Ca Tát Khắc đồng thanh reo hò ngoài trướng. Vi Tiểu Bảo sợ tới mức toàn thân run bắn lên, cúi đầu chui xuống gầm bàn. Đông Quốc Cương và Sách Ngạch Đồ ngớ mặt nhìn nhau, trong lòng không kìm được hoảng sợ.

Cửa viên môn mở tung, một viên tướng sải chân bước vào, chính là Lâm Hưng Châu suất lãnh quân khiên mây, cao giọng nói “Bẩm đại soái…”, nhưng không thấy đại soái đâu. Vi Tiểu Bảo dưới gầm bàn nói “Ta… ta… ta ở đây. Mọi người phải mau… mau mau chạy trốn thôi”. Lâm Hưng Châu ngồi xổm xuống, nói với Vi đại soái dưới gầm bàn “Bẩm đại soái, quân La Sát khí thế hung hăng, chúng ta không thể tỏ ra khiếp nhược, muốn đánh thì đánh con mẹ nó luôn”.

Vi Tiểu Bảo nghe y nói rất cương dũng, tâm thần lập tức trấn tĩnh, lúc ấy bò ra khỏi gầm bàn, mới rồi chuyện xảy ra bất ngờ đến nỗi núp xuống gầm bàn, thật ra y cũng không phải chỉ có khiếp sợ, vỗ ngực nói “Đúng, muốn đánh thì đánh con bà nó luôn, lão tử đích thân đi đầu quân sĩ, dũng cảm xông lên không… không tiền. Không đúng, dũng cảm xông lên đáng tiền” (y tưởng dũng cảm xông lên mới đáng tiền(11), không dũng cảm xông lên không đáng tiền) rồi nắm tay Lâm Hưng Châu bước ra ngoài trướng.

Vừa ra tới cửa trướng, chỉ thấy hai trăm sáu mươi tên kỵ binh Ca Tát Khắc giơ trường đao, cỡi ngựa khỏe phóng quanh trướng diễu võ dương oai, một vòng tròn không ngừng phi nhanh. Phí Yếu Đa La ra lệnh một tiếng, bọn kỵ binh phóng ra xa xa, cách hơn hai trăm trượng lại xếp thành đội ngũ, hai trăm sáu mươi con ngựa một hàng, một hàng kỵ binh xếp ngay ngắn, đột nhiên quát tháo ầm ĩ, phóng mau về phía Vi Tiểu Bảo.

Vi Tiểu Bảo kêu lên “Mẹ ơi!”, đang định chui trở vào trướng, chợt xoay chuyển ý nghĩ “Nếu bọn quỷ La Sát muốn giết mình, thì có chui vào trướng cũng bị họ lôi ra, mà lại rất mất mặt”. Lúc ấy toàn thân run bắn lên, mặt xám như tro, nhưng vẫn đứng yên bất động.

Lâm Hưng Châu quát “Quân khiên mây bảo vệ đại soái! Tới đây!”.

Hai trăm sáu mươi quân khiên mây đồng thanh ứng tiếng “Dạ”. Rồi rảo chân bước tới đứng trước mặt Vi Tiểu Bảo và các đại thần.

Vi Tiểu Bảo rút thanh chủy thủ trong ống giày ra, nghĩ thầm “Nếu bọn quỷ La Sát muốn động võ thật, thì mọi người liều mạng đánh nhau một trận, cũng không thể không nghĩ tới nghĩa khí”. Rồi rảo chân bước tới đứng trước mặt Sách Ngạch Đồ, kêu lên “Sách đại ca đừng sợ, ta sẽ bảo vệ ngươi”.

Sách Ngạch Đồ là văn quan, đã sớm sợ tới mức hồn bất phụ thể, nói “Toàn… toàn nhờ cậy vào huynh đệ”.

Nhìn thấy mười hàng kỵ binh Ca Tát Khắc xông tới, còn cách quân Thanh năm trượng, viên Đội trưởng đi đầu vung trường đao chém hờ, quát lớn một tiếng, đám kỵ binh đều kìm ngựa lại, hai trăm sáu mươi con ngựa đồng thời đứng im bất động. Viên Đội trưởng kia lại quát một tiếng, đám kỵ binh chia làm hai, một trăm ba mươi con ngựa rẽ qua phía bắc, một trăm ba mươi con ngựa rẽ qua phía nam, phóng ra vài mươi trượng, lượn quanh một vòng, lại quay lại đứng cách trướng hơn hai trăm trượng, đội hình hoàn toàn không chút rối loạn, hai trăm sáu mươi người ngựa mà như một người một ngựa, quả nhiên là tinh binh được huấn luyện rất thuần thục.

Phí Yếu Đa La hô hô cười rộ, cao giọng gọi “Công tước đại nhân, ngươi thấy quân La Sát bọn ta thế nao?”.

Vi Tiểu Bảo đến lúc ấy mới biết y chẳng qua chỉ thị uy, trong lòng cả giận, quát “Đây là bọn khỉ diễn trò trên ngựa, chứ đem đánh nhau thì hoàn toàn vô dụng”.

Phí Yếu Đa La tức giận nói “Bọn ta lại xông tới đấy!”, nghĩ thầm “Lần này cứ xông tới trước mặt ngươi, xem ngươi có bỏ chạy hay không?”, quát “Giật hết mũ của quân Trung Quốc”. Đội trưởng kỵ binh Ca Tát Khắc quát một tiếng, hai trăm sáu mươi tên kỵ binh xông mau tới.

Vi Tiểu Bảo quát “Chém chân ngựa!”. Lâm Hưng Châu kêu lên “Tuân lệnh! Chém chân ngựa, không đả thương người!”.

Chỉ nghe tiếng vó ngựa như sấm, hai trăm sáu mươi con ngựa dần dần phi tới gần, trường đao trong tay kỵ binh Ca Tát Khắc lấp lóe ánh mặt trời, nhìn thấy đã phóng tới trước mặt còn cách ba mươi trượng, hai mươi trượng, mười trượng… Vẫn chưa dừng lại, lại phóng lên bốn năm trượng nữa. Lâm Hưng Châu quát “Cổn Đường đao, xông lên!”. Hai trăm sáu mươi quân khiên mây nhất tề tiến lên, lăn tròn xuống đất. Hai trăm sáu mươi người này đều là hảo thủ Địa Đường đao do Lâm Hưng Châu đích thân huấn luyện, thân pháp đao pháp đều rất thuần thục, lăn tròn tới trước, dùng khiên mây che kín người, không hề lộ ra một chút bóng đao.

Trong khoảnh khắc, hàng kỵ binh thứ nhất đã gặp quân khiên mây, đột nhiên đàn ngựa hí ran, nhao nhao đổ xuống. Quân khiên mây đao sắc chém ra, một nhát đao chém đứt một chân ngựa, khiên mây che người không ngừng lăn tròn qua. Trong tiếng người kêu ngựa hí của quân La Sát, quân khiên mây đã lăn qua mười hàng kỵ binh, chém đứt một trăm bảy tám mươi cái chân ngựa, bày thành đội ngũ phía sau quân La Sát. Lâm Hưng Châu suất lãnh quân khiên mây rảo chân chạy mau trở về, lại dàn hàng trước mặt bọn Vi Tiểu Bảo. Trong hai trăm sáu mươi người chỉ có hơn mười người bị ngựa giẫm bị thương, nhưng thương thế đều nhẹ, người bị thương gắng gượng nhịn đau, vẫn đứng thẳng trong đội hình.

Hai trăm sáu mươi kỵ binh Ca Tát Khắc có quá nửa ngã ngựa, có người bị ngựa đè, nằm dưới đất kêu gào rên rỉ, chỉ có vài mươi người nhảy ra khỏi ngựa, phần lớn đều đứng dưới đất, tay chân luống cuống. Đám kỵ binh này cả đời sống trên lưng ngựa, chỉ có cưỡi trên lưng ngựa mới ngang tàng kiêu dũng, nhưng hai chân vừa chạm đất lại như cá ra khỏi nước, không có gì để nhờ cậy.

Vi Tiểu Bảo kêu lên “Chia một nửa quân bao vây đại quan La Sát”. Lâm Hưng Châu ra lệnh, liền có một trăm quân khiên mây sấn lên vây chặt mười mấy viên quan bọn Phí Yếu Đa La, một trăm thanh đại đao kết thành một vòng, mũi đao chớp chớp, chỉ cần một tiếng ra lệnh, một trăm thanh đại đao đồng thời phóng tới, bọn Phí Yếu Đa La lại không trở thành nhân bánh bao La Sát sao?

Viên Chánh Đội trưởng kỵ binh Ca Tát Khắc thấy tình hình như thế, sải chân chạy tới, kêu lên “Không được đả thương người, không được đả thương người!”.

Vi Tiểu Bảo quay đầu nhìn Song Nhi cải trang làm thân binh đứng bên cạnh “Qua điểm huyệt bọn họ đi!”. Song Nhi nói “Được!”, rồi vọt người ra, nghiêng người sấn vào sau lưng viên Đội trưởng kỵ binh Ca Tát Khắc, vươn tay điểm vào huyệt đạo trên lưng y, kế đó lại điểm huyệt viên Phó Đội trưởng.

Một tên Tiểu Đội trưởng thò tay vào bọc, rút ra một khẩu đoản thương, quát “Không được động đậy!”. Song Nhi chụp một tên quân La Sát kéo ra che trước mặt, sấn tới vài bước. Viên Tiểu Đội trưởng kia không dám nổ súng, lại quát “Không được động đậy!”. Song Nhi nhấc tên lính La Sát kia ném vào y. Viên Tiểu Đội trưởng giật mình, nghiêng người tránh qua, Song Nhi đã vọt ra, điểm vào huyệt đạo trên ngực và hông y, vươn tay giật khẩu đoản thương của y chĩa lên trời bóp cò bình một tiếng.

Vi Tiểu Bảo lớn tiếng nói “Hay lắm, đôi bên đã nói rõ là không được mang hỏa khí, bọn quỷ La Sát các ngươi thật không biết giữ chữ tín”. Rồi bước lên mấy bước, nói với Phí Yếu Đa La “Này, ngươi bảo thủ hạ buông hết đao kiếm, tất cả xuống ngựa xếp hàng, móc tất cả hỏa khí trong người ra ném xuống”. Phí Yếu Đa La thấy trước mắt không còn cách nào kháng cự, bèn theo lời ra lệnh.

Kỵ binh Ca Tát Khắc chỉ đành ném hết đao kiếm, xuống ngựa đứng xếp hàng. Vi Tiểu Bảo sai một trăm sáu mươi quân khiên mây bao vây bốn phía, lục soát người quân La Sát. Trong người hai trăm sáu mươi người, lục soát được hai trăm tám mươi khẩu đoản thương, có người một mình mang hai khẩu.

Quân La Sát dưới thành Ni Bố Sở nhìn thấy tình thế ở xa có biến, từ từ tiến lên. Quân Thanh ở phía đông cũng lục tục kéo tới. Đôi bên còn cách nhau vài trăm bước, bày trận đối diện. Quân La Sát thấy chủ soái bị bao vây, chỉ đành ngấm ngầm kêu khổ, không dám làm gì.

Vi Tiểu Bảo hỏi Phí Yếu Đa La “Hầu tước đại nhân, ngươi mang rất nhiều hỏa khí tới để làm gì vậy?”. Phí Yếu Đa La buông tay cúi đầu, nói “Rất xin lỗi, bọn vệ binh của ta không tuân mệnh lệnh, ngầm mang hỏa khí, lúc trở về ta sẽ trừng phạt thật nặng”. Vi Tiểu Bảo gọi “Quân khiên mây, cởi áo ra cho họ nhìn xem các ngươi có mang hỏa khí không?”. Hai trăm sáu mươi quân khiên mây ném khiên mây xuống, dùng tay trái cởi áo, tay phải vẫn giơ cao đại đao đề phòng đối phương có hành động gì khác. Mọi người cởi áo ra, để lộ ngực trần, nhảy lên mấy cái, quả nhiên không ai mang theo hỏa khí. Phí Yếu Đa La trong lòng xấu hổ, cúi đầu không nói gì.

Vi Tiểu Bảo dùng tiếng La Sát cao giọng nói “Người La Sát làm việc không biết xấu hổ, lột hết quần áo của họ ra, xem họ có mang hỏa khí hay không?”. Phí Yếu Đa La cả kinh, vội nói “Công tước đại nhân, xin ngươi ra ơn. Ngươi… nếu ngươi lột quần áo của ta, thì ta… ta chỉ còn cách tự sát thôi”. Vi Tiểu Bảo nói “Quần thì không lột ra không được”. Phí Yếu Đa La nói “Xin ngươi tha thứ cho một lần, tất cả mọi chuyện nhất thiết đều theo ngươi phân phó”. Vi Tiểu Bảo nói “Mới rồi kỵ binh của ngươi xông qua, làm ta hoảng sợ chui vào gầm bàn, mất hết thể diện của công tước đại nhân, chuyện ấy tính sao?”. Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Là ngươi nhát gan, ta làm thế nào được?”. Nhưng mũi đao của quân Thanh đang chớp chớp trước mặt, chỉ đành nói “Tệ nhân tình nguyện bồi thường tổn thất”.

Vi Tiểu Bảo trong lòng vui sướng, tự nhủ “Cái ống tre La Sát tự tới cửa rồi”. Nhưng nhất thời không nghĩ ra là đòi y bồi thường thế nào, liền ra lệnh “Cắt hết thắt lưng của quan lớn lính nhỏ La Sát”.

Quân khiên mây lớn tiếng đáp “Tuân lệnh!”, rồi nhấc mũi đao lẽn rọc vào thắt lưng người La Sát, lưỡi đao hướng ra ngoài, kéo xuống một cái, thắt lưng lập tức bị cắt đứt.

Từ Phí Yếu Đa La trở xuống, người La Sát ai cũng hoảng sợ hồn bất phụ thể, hai tay giữ chặt lưng quần, chỉ sợ tuột xuống. Vi Tiểu Bảo hô hô cười rộ, ra lệnh “Áp giải người La Sát, đắc thắng về dinh!”.

Lúc ấy quan binh La Sát người nào cũng sợ quần bị tuột xuống, không hề kháng cự, theo quân Thanh xếp hàng đi về phía đông.

Đông Quốc Cương cười nói “Diệu kế của Vi đại soái quả thật khiến người ta khâm phục, cắt đứt thắt lưng, chỉ trong khoảnh khắc mà trói chặt hai tay của hai trăm sáu mươi quan binh La Sát”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Đàn ông La Sát sợ bị cởi quần, đàn bà La Sát lại không sợ, như thế không kỳ quái à?”. Bọn Đông Quốc Cương đều cười hô hố.

Đoàn người họp với đại quân, quân Thanh đẩy ra hơn bốn trăm khẩu đại pháo, lột hết vải che, chĩa pháo vào quân La Sát. Lúc ấy nước La Sát tuy có hỏa khí lợi hại, nhưng ở phương đông thì không chuẩn bị chu đáo bằng Khang Hy, đã dốc hết một nửa đại pháo trong nước điều lên Ni Bố Sở, bất kể về binh lực hay hỏa lực thì quân Thanh cũng đều mạnh hơn gấp mấy lần. Quân La Sát đột nhiên thấy rất nhiều đại pháo, đều ngớ mặt nhìn nhau, vô cùng khiếp sợ. Viên tướng thống lãnh vội ra lệnh rút về thành, đóng chặt cửa thành lại. Quân Thanh cũng không đánh thành.

Lúc ấy Đội trưởng, Phó Đội trưởng và một viên Tiểu Đội trưởng kỵ binh Ca Tát Khắc bị điểm huyệt vẫn không động đậy được. Ba người vẫn như tượng đất đứng trên bãi đất trống. Lúc quân La Sát rút về thành Ni Bố Sở vô cùng hớt hải, chưa từng lưu ý, lúc ấy trên thành nhìn xuống đều thấy kinh ngạc, nhưng đều không dám ra thành để cứu. Qua hơn nửa giờ, thấy ba người vẫn cứng đờ không hề động đậy, liền có một đội kỵ binh Ca Tát Khắc ra thành tới cứu, nhưng chỉ đi được hơn mười trượng, đại pháo của quân Thanh đã bắn luôn mấy phát. Viên tướng giữ thành vội ra lệnh thổi kèn lui quân, gọi đội kỵ binh ấy trở về, sợ quân Thanh đổ tới, thì cả quân trong thành ra cứu cũng bị vây hãm.

Trên thành dưới thành, quân sĩ đôi bên nhìn thấy ba người đứng đờ ra không động đậy ở xa xa, tư thế rất kỳ dị. Quân Thanh vỗ tay cười ầm, còn quân La Sát đều vô cùng khiếp sợ.

***

Vi Tiểu Bảo mời bọn Phí Yếu Đa La vào quân trướng, chia ngôi chủ khách ngồi xuống. Vi Tiểu Bảo chỉ cười hì hì không nói gì.

Phí Yếu Đa La tức giận nói “Công tước đại nhân, ngươi không cần đem ta làm trò đùa, muốn giết thì cứ giết đi”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Ta với ngươi là bạn bè, tại sao lại giết ngươi? Chúng ta còn phải đàm phán điều khoản về biên giới”. Y nghĩ lúc này đại thần hoạch định biên giới của đối phương đã rơi vào tay mình, bất kể mình đề ra điều kiện thế nào, đối phương cũng rất khó cự tuyệt.

Không ngờ Phí Yếu Đa La xuất thân là quân nhân, tính nết mười phần quật cường, ngang nhiên nói “Ta là tù binh của ngươi, không phải là sứ thần hoạch định biên giới ngang hàng với nhau nữa. Ta bị ngươi uy hiếp, không thể bàn bạc bất cứ điều khoản nào. Cho dù bàn xong, ký tên vào, cũng không có hiệu lực”. Vi Tiểu Bảo nói “Tại sao không có hiệu lực?”. Phí Yếu Đa La nói “Tất cả điều khoản đều do ngươi đặt ra, còn bàn bạc gì nữa? Ngươi không thể ép ta đàm phán với ngươi”. Vi Tiểu Bảo nói “Tại sao không thể ép ngươi đàm phán?”. Phí Yếu Đa La nói “Ta quyết không khuất phục. Ngươi vung đao chém ta, nổ súng bắn ta, cứ việc động thủ đi”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Còn nếu ta sai lột quần của ngươi ra thì sao?”.

Phí Yếu Đa La cả giận, đứng phắt lên quát “Ngươi…”, chỉ nói được chữ “Ngươi”, quần đã tuột xuống, vội đưa tay giữ lại. Thắt lưng của y đã bị cắt đứt, ngồi trên ghế thì không cần dùng tay giữ, nhưng lúc thịnh nộ đứng phắt lên lại quên mất chuyện ấy, may mà kịp thời chụp được, mới không để lòi cái xấu. Đại quan tùy tùng phía quân Thanh trong trướng, ai cũng cười ầm lên.

Phí Yếu Đa La tức giận tới mức sắc mặt trắng bệch, hai tay giữ lưng quần, dáng vẻ rất thảm hại, vốn là định nói một tràng lời lẽ khảng khái kích ngang, khổ nỗi hai tay không thể vung vẩy để làm điệu bộ phụ họa thêm thanh thế, muốn khảng khái kích ngang tới mức nào cũng chỉ rất có hạn, phì mạnh một tiếng, ngồi xuống trở lại, nói “Ta là Khâm sứ của Sa hoàng bệ hạ nước La Sát, ngươi không được hạ nhục ta”.

Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi yên tâm, ta không hạ nhục ngươi đâu. Chúng ta cứ bình tĩnh bàn chuyện hoạch định biên giới thôi”.

Phí Yếu Đa La lấy trong túi áo ra một cái khăn tay bịt miệng mình lại, thắt mối ra sau gáy, tỏ ý là quyết không đàm phán gì cả. Vi Tiểu Bảo sai thân binh đưa rượu ngon nhắm tốt lên, bày ra trên bàn, rót rượu vào chén, cười nói “Mời, mời, không cần khách khí”. Phí Yếu Đa La nghe mùi rượu thịt thơm phức, không nhịn được nữa, cởi khăn tay ra, nhấc chén rượu lên uống. Vi Tiểu Bảo cười nói “Hầu tước lại dùng miệng à?”. Phí Yếu Đa La uống rượu ăn thịt, không hề trả lời, tỏ ý là chỉ dùng miệng để ăn chứ không làm việc khác. Vi Tiểu Bảo không ngừng mời rượu, nghĩ thầm đồ cho y say, hoặc giả có thể bắt y khuất phục, nào ngờ Phí Yếu Đa La uống hơn mười chén rượu, ăn mấy tảng thịt bò xong thì lấy khăn tay chùi miệng, tự bịt miệng lại như cũ.

Vi Tiểu Bảo thấy tình hình như thế cũng cảm thấy buồn cười, sai thân binh dẫn y ra sau trướng nghỉ ngơi, canh giữ cẩn thận, rồi cùng bọn Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương bàn bạc kế sách đối phó.

Đông Quốc Cương nói “Người này quật cường như thế, kiên quyết không chịu đàm phán trong quân chúng ta, nhưng nếu cứ thế thả y về thì lại thật không cam tâm”. Sách Ngạch Đồ nói “Cứ nhốt y mười bữa nửa tháng, mỗi ngày mổ bụng một tên quỷ La Sát trước mặt y, xem y có quật cường được nữa không”. Đông Quốc Cương nói “Nếu bức tử y thì chuyện này không khỏi trở nên căng thẳng. Chúng ta dùng võ lực bắt sống đại thần hoạch định biên giới của đối phương, biết đâu hoàng thượng sẽ trách phạt”. Sách Ngạch Đồ nói “Đông công gia nói rất đúng, nếu cứ dùng biện pháp cứng rắn với y, cũng không phải cách hay”

Các đại thần bàn bạc hồi lâu vẫn không tìm được kế sách nào hay. Hôm nay bắt được Phí Yếu Đa La, tuy là một trận thắng, nhưng quyết không phải là bản ý giảng hòa của hoàng thượng, có thể nói là làm trái kế sách của triều đình, chỉ cần có một chuyện xử lý không hay là sẽ trở thành trọng tội làm trái ý chỉ, nói tới nói lui, các đại thần đều khuyên Vi Tiểu Bảo thả Phí Yếu Đa La vế.

Vi Tiểu Bảo nói “Được! Chúng ta cứ giữ y lại ở đây một đêm, sáng mai sẽ thả y về là xong”. Y trở về tẩm trướng, đi qua đi lại ngẫm nghĩ, đột nhiên nghĩ ra “Đầu tiên đã học Gia Cát Lượng hỏa thiêu hang Bàn Xà, đại thắng ở thành Nhã Khắc Tát rồi, lão tử lại học màn Hội Quần anh Chu Du đùa Tưởng Cán vậy”, ngẫm nghĩ tính toán một hồi, đã có kế sách.

Y trở ra quân trướng, mời viên giáo sĩ Hà Lan làm thông dịch tới, thì thào bàn bạc với y một lúc, lại bảo y dạy cho hai mươi câu tiếng La Sát, đọc đi đọc lại thật chính xác, không lầm chữ nào, rồi truyền gọi bốn viên tướng và Đội trưởng thân binh tới, dặn dò như thế như thế. Mọi người vâng lệnh ra đi.

***

Phí Yếu Đa La ở sau trướng, trong lòng ý nghĩ cuồn cuộn dâng lên, lúc thì sợ sệt, lúc thì hối hận, làm sao ngủ được. Lăn qua lăn lại đến nửa đêm, chỉ nghe chỗ cửa trướng tiếng ngáy như sấm, ba tên thân binh canh gác đều đã ngủ say. Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Nếu không đáp ứng điều khoản của thằng Man tử Trung Quốc này thì nhất định rất khó thoát thân. Sáng mai nếu thằng tiểu quỷ này lên cơn tức giận, lôi mình ra giết, há không oan uổng sao? May mà ba tên vệ binh này đều ngủ say, sao không mạo hiểm trốn đi?”. Rồi nhón chân bước xuống giường, cởi áo ra buộc vào ngang hông để quần khỏi tuột xuống, rón rén bước ra của trướng, chỉ thấy ba tên thân binh đang nằm chỗ cột lều ngay cửa trướng, đang ngủ rất say.

Y đưa tay sờ lên lưng một tên thân binh, định rút thanh bội đao, tên thân binh ấy đột nhiên hắt hơi một cái. Phí Yếu Đa La giật nảy mình, vội rút tay lại, chờ qua một lúc, không thấy có động tĩnh gì, lại định tới lấy bội đao của một tên thân binh khác. Tên thân binh ấy đột nhiên ưỡn lưng một cái, nói mớ vài câu. Phí Yếu Đa La không dám chần chừ, rón rén bước ra khỏi trướng, may mà ba tên thân binh đều không hay biết gì.

Y đi tới ngoài trướng, co người trong bóng tối, thấy phía ngoài có vệ binh tay cầm đèn lồng, cầm đao tuần tra, ba phía bắc, đông, nam đều có quân đi tuần, chỉ có phía tây tối om tựa hồ không có ai. Lúc ấy bèn từng bước từng bước đi về phía đó, mỗi khi thấy quân đi tuần thì co người lại núp phía sau trướng, may mà suốt trên đường đi đều được thái bình vô sự. Vừa tới sau một ngôi trướng, đột nhiên phía tây có một toán quân đi tuần kéo tới, Phí Yếu Đa La vội núp vào phía sau trướng, nghe trong trướng có người nói chuyện, là nói bằng tiếng La Sát.

Chỉ nghe người ấy nói “Công tước đại nhân quyết ý đánh thẳng tới Mạc Tư Khoa cũng không phải không được, chỉ có điều đường sá xa xôi, mười phần nguy hiểm”. Phí Yếu Đa La cả kinh, lập tức bò rạp xuống, vén vải dưới chân trướng nhìn vào bên trong, vừa nhìn thấy, lập tức tim đập thình thịch.

Trong trướng đèn lửa soi sáng như ban ngày, Vi Tiểu Bảo thân khoác áo choàng, mặc nhung trang ngồi chính giữa, hai bên có hơn mười viên đại tướng đứng, dưới trướng có mấy mươi tên thân binh tay cầm đại đao. Cạnh bàn Vi Tiểu Bảo là viên giáo sĩ người Hà Lan làm thông dịch đang đứng, nói chuyện với y.

Chỉ nghe Vi Tiểu Bảo nói tiếng La Sát “Chúng ta uống rượu, nói chuyện với Phí Yếu Đa La ở đây là giả, không phải là thật, có bàn bạc một tháng hai tháng, bàn lui bàn tới cũng đều là giả, đại quân cứ lặng lẽ tiến về phía tây. Công chúa La Sát thỉnh thoảng lại nhận được báo cáo của thằng ngốc Phí Yếu Đa La, nói đang đàm phán với chúng ta, cô ta không sợ, hàng ngày vẫn vui vẻ khiêu vũ, ngủ nghê. Đại quân Trung Quốc đột nhiên tới dưới thành Mạc Tư Khoa, tấn công, tấn công kỳ lạ, bắt hết hai Sa hoàng, công chúa Tô Phi Á. Người La Sát khóc lóc, quỳ xuống, đầu hàng!”. Viên giáo sĩ Hà Lan nói “Chuyện hành quân đánh nhau thì ta không biết. Có điều một mặt nghị hòa với người La Sát, một mặt lại lén tới đánh úp kinh thành của họ, như thế không phải là không giữ tín nghĩa sao? Đạo lý của Chúa dạy chúng ta không nên lừa dối, không nên bịa đặt”. Vi Tiểu Bảo nói “Hô hô, là người La Sát lừa dối người ta trước. Y cắn ta một cái, ta cắn lại y hai cái, cắn thật mạnh!”.

Viên giáo sĩ cười hắc lên một tiếng, qua một lúc lại nói “Ta khuyên công tước đại nhân không nên đánh nhau thì hay. Hai nước đánh nhau, người chết đều là con dân của Chúa…”. Vi Tiểu Bảo xua tay nói “Đừng nhiều lời nữa. Ta chỉ tin Bồ tát, không tin Chúa trời, nếu gã Phí Yếu Đa La kia đàm phán công bằng, để Trung Quốc chiếm một phần đất đai thì vốn cũng có thể nghị hòa được. Nhưng y một dặm đất cũng không chịu nhường. Đợi chúng ta hạ thành Mạc Tư Khoa xong, tất cả đàn ông La Sát sẽ lên thiên đường, tất cả đàn bà sẽ làm vợ người Trung Quốc”.

Phí Yếu Đa La càng nghe càng khiếp sợ, nghĩ thầm “Lạy Chúa tôi, thằng Man tử Trung Quốc này thật vô pháp vô thiên, lớn mật làm bậy”.

Chỉ nghe Vi Tiểu Bảo nói tiếp “Hôm nay ta phái một tên thân binh dùng ngón tay xỉa mấy cái vào người ba viên Đội trưởng kỵ binh Ca Tát Khắc khiến họ không thể động đậy, ngươi nhìn thấy không?”. Viên giáo sĩ nói “Ta có nhìn thấy, đó là ma thuật gì vậy, thật là vô cùng kỳ quái”. Vi Tiểu Bảo nói “Ma thuật của Trung Quốc là do Thành Cát Tư Hãn truyền lại. Thành Cát Tư Hãn dùng cách thức này, đánh cho người La Sát phải quỳ xuống đất đầu hàng, bọn ta lại dùng cách này đánh họ, nước La Sát, lại chết rồi!”.

Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Năm xưa người Mông Cổ có hai vạn người ngựa, đánh thẳng tới Ba Lan, Hung Gia Lợi, thiên hạ không ai ngăn chặn được, xem ra nhất định là có ma thuật. Người phương đông rất cổ quái, nếu họ lại sử dụng pháp thuật, thì… thì làm sao là tốt?”.

Chỉ nghe viên giáo sĩ nói “Nếu người La Sát từ xa nổ súng, thì ma thuật của các ngươi vô dụng”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Đúng thế, vì thế nên ta phải giả đàm phán ở đây, còn quân đội thì tới đánh Mạc Tư Khoa, cũng như ăn trộm, lén vào trong thành. Ta đã tới Mạc Tư Khoa rồi, trong thành rất nhiều người Đạt Đán. Quân của bọn ta hóa trang thành mục dân Đạt Đán trà trộn vào thành, quân La Sát canh giữ nhất định không sao phát hiện được”.

Phí Yếu Đa La trên lưng toát mồ hôi lạnh, nghĩ thầm “Độc kế của thằng tiểu quỷ Trung Quốc này quả thật rất lợi hại. Quân Trung Quốc cải trang thành mục dân Đạt Đán trà trộn tiến vào kinh thành, thi triển ma thuật, thì làm sao chống cự được?”. Y không biết thuật điểm huyệt của Song Nhi là một loại võ công cao thâm, phải luyện nội công tới cảnh giới thượng thừa mới có thể sử dụng, quan binh của quân Thanh có mấy vạn người nhưng chỉ có một mình nàng biết công phu điểm huyệt mà thôi. Phí Yếu Đa La lại cho rằng ma thuật ấy chỉ cần truyền thụ qua một lần thì mọi người đều biết sử dụng, giơ ngón tay ra xỉa một cái là đối phương không sao động đậy, mấy vạn quân Trung Quốc dùng phép thuật ấy tập kích Mạc Tư Khoa thì La Sát chỉ e phải mất nước diệt chủng.

Chỉ nghe viên giáo sĩ nói “Nếu công tước đại nhân phái hai vạn quân Trung Quốc trà trộn tiến vào thành Mạc Tư Khoa, dùng ma thuật của Thành Cát Tư Hãn truyền lại khống chế quân La Sát, vậy thì sẽ bắt sống được hai vị Sa hoàng và Nhiếp chính nữ vương, rõ ràng là có thể thành công. Có điều… có điều chuyện này phải mười phần bí mật, lúc đại quân tiến về phía tây, không thể để cho người La Sát biết. Công tước đại nhân, hiện nay nước La Sát đã mười phần lớn mạnh, khác hẳn với lúc người La Sát đánh nhau với Thành Cát Tư Hãn trước kia rồi”. Vi Tiểu Bảo nói “Ta từng tới Mạc Tư Khoa, tình hình nước La Sát đều hiểu rất rõ, sáng sớm ngày mai bọn ta sẽ thả Phí Yếu Đa La về, sau đó đàm phán với y, đều là giả thôi, y không chịu ưng thuận đâu. Bọn ta ở đây đàm phán thêm một ngày thì quân Trung Quốc rút ngắn được một ngày lộ trình tới Mạc Tư Khoa”. Viên giáo sĩ nói “Vâng, vâng, đại nhân nhất thiết đều nên cẩn thận, chuyện này nguy hiểm lắm đấy”. Vi Tiểu Bảo nói “Biết rồi. Ngươi không được nói ra, không được để Phí Yếu Đa La nảy ý ngờ vực”. Viên giáo sĩ vâng dạ lui ra.

Vi Tiểu Bảo quát “Gọi Vương Bát Tử Kê, Trư La Nhụ Phu vào đây”. Bọn thân binh ra khỏi trướng, dắt Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu vào. Vi Tiểu Bảo nói với hai người “Ngày mai ta sai hai đội quân tới Mạc Tư Khoa, mang rất nhiều rất nhiều lễ vật, tặng cho công chúa Tô Phi Á, trên đường rất nhiều trộm cướp, nên phải phái nhiều quan binh hộ tống”. Hoa Bá Tư Cơ nói “Từ đây tới Mạc Tư Khoa, chỉ có một đoạn ngắn là có bọn cường đạo người Đạt Đán, cũng không hung dữ gì lắm, xin Công tước đại nhân cứ yên tâm”. Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi không biết. Bọn cướp Đạt Đán có toán tám chín ngàn người, có toán hai mươi một ngàn người, ba mươi một ngàn người”. Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu nhìn nhau một cái, đều có vẻ không tin.

Vi Tiểu Bảo nói “Hai đoàn người của ta, chia làm hai đường nam bắc tới Mạc Tư Khoa, Vương Bát Tử Kê dẫn đường cho toán phía bắc, Trư La Nhụ Phu dẫn đường cho toán phía nam. Hai đường đi, như thế nào?”. Hoa Bá Tư Cơ nói “Theo đường phía bắc thì từ đây đi qua phía tây tới Xích Tháp, qua Ô Tư Ô Đức, vòng qua đầu phía nam hồ Bối Gia Nhĩ đi về phía tây qua các thành Thác Mộc Tư Khắc, Ngạc Mộc Tư Khắc thì tới Mạc Tư Khoa”. Tề Lạc Nặc Phu nói “Đường phía nam lúc bắt đầu đi cũng thế, qua hồ Bối Gia Nhĩ thì chia ra, đi về phía tây nam qua vùng người Ha Tát Khắc cư trú, thẳng về phía tây, qua các xứ Áo Tư Khắc, Ô Lạp Nhĩ Tư Khắc thì tới Mạc Tư Khoa”.

Vi Tiểu Bảo gật đầu nói “Không sai, cứ thế đi thôi. Lễ vật, thư của ta sẽ do sứ giả Trung Quốc giao cho công chúa, hai người các ngươi dẫn đường. Dẫn đường tốt, có thưởng, nhiều đấy. Dẫn đường không tốt, tướng quân Trung Quốc chém đầu các ngươi. Lui ra đi!”.

Hai viên Đội trưởng La Sát lui ra xong, Vi Tiểu Bảo cầm lệnh tiễn bằng vàng lên ban bố hiệu lệnh, các viên đại tướng Trung Quốc lần lượt khom người nhận lệnh. Phí Yếu Đa La không biết họ nói những gì, chỉ thấy các viên đại tướng Trung Quốc nhận lệnh đều dáng vẻ khảng khái kích ngang, vỗ ngực nắm tay, chỉ trời thề thốt, rõ ràng là đảm bảo với chủ soái, nói thế nào cũng sẽ phải đại công cáo thành, có người còn xòe tay chặt chặt vào cổ mình, có người rút chủy thủ đâm hờ vào ngực mình, miệng không ngừng nói “Mạc Tư Khoa, Mạc Tư Khoa”, chắc là nói nếu không hạ được Mạc Tư Khoa, thà là tự sát.

Vi Tiểu Bảo ky lý cô lô nói một tràng, bốn tên thân binh cầm một tấm bản đồ lớn trên bàn lên, vừa khéo đối diện với Phí Yếu Đa La.

Chỉ thấy ngón tay Vi Tiểu Bảo từ thành Ni Bố Sở di động về phía tây, dọc theo một đường màu đỏ, chỉ tới một vòng tròn màu đỏ. Phí Yếu Đa La tuy không biết chữ Trung Quốc trên bản đồ, nhưng nhìn vị trí, cũng biết đó là Mạc Tư Khoa. Vi Tiểu Bảo nói một hồi, ngón tay lại chỉ dọc theo một con đường tới Mạc Tư Khoa. Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Thằng Man tử Trung Quốc này thật rất đáng ghét, té ra bọn họ lòng mang dã tâm, đã sớm chuẩn bị đánh Mạc Tư Khoa rồi”

Vi Tiểu Bảo lại nói một lúc, kế đó liên tiếp nói tên “Phí Yếu Đa La” các tướng vừa nghe thấy, đều cười ầm lên.

Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Nhất định các ngươi cười ta ngu ngốc, lừa được ta đàm phán hoạch định biên giới, kéo dài thời gian, ngấm ngầm đánh úp Mạc Tư Khoa. Hừ ta không mắc lừa đâu”. Rồi từ từ đứng lên, nghĩ thầm “Nhờ Chúa phù hộ, cho mình phát hiện quỷ kế của thằng Man tử Trung Quốc này. Đủ thấy đế quốc Nga La Tư mình được Thượng đế thương xót, nhất định vận nước sẽ hưng thịnh. Dù sao thì ngày mai y cũng sẽ thả mình, đêm nay không cần mạo hiểm bỏ trốn”. Chỉ thấy phía tây quân tuần tra đi lại không ngớt, phía đông thì tối om không người, rón rén quay trở lại, may mà quân Thanh không hề phát hiện, về tới ngoài trướng của mình, chỉ thấy ba tên thân binh vẫn đang ngủ say, lúc ấy vào trướng đi ngủ.

Sáng sớm hôm sau Phí Yếu Đa La ăn sáng xong, theo thân binh tới trướng trung quân. Vi Tiểu Bảo cười nói “Hầu tước đại nhân, tối qua ngủ có ngon không?”. Phí Yếu Đa La hừ một tiếng, nói “Vệ binh của ngươi bảo vệ chu đáo, tự nhiên là ta ngủ rất ngon”.

Vi Tiểu Bảo nói “Hôm nay ngươi không tức giận nữa đấy chứ? Chúng ta bàn bạc về việc hoạch định biên giới được không?”. Phí Yếu Đa La không đáp, lấy khăn tay trong người ra, lại buộc lên miệng. Vi Tiểu Bảo cả giận, quát “Ngươi cứng cổ như thế, ta sẽ giết ngươi lập tức”. Phí Yếu Đa La không hề sợ sệt, nghĩ thầm “Ngươi định hôm nay thả ta ra, còn làm ra vẻ giận dữ như thế, ai sợ ngươi chứ?”.

Vi Tiểu Bảo nổi giận một lúc, thấy y thủy chung vẫn không chịu khuất phục, không biết làm sao, đành nói “Được! Ngươi can đảm như thế, ta rất khâm phục. Thả cho ngươi về thôi. Ngươi về xin cứ nghỉ ngơi cho khỏe. Sau mười ngày nữa ta sẽ bàn chọn địa điểm khác để thương nghị, hoạch định biên giới”.

Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Ngươi ra sức kéo dài, lúc này chỉ e quân đội đánh úp Mạc Tư Khoa đã lên đường rồi. Ta quyết không mắc lừa ngươi đâu”. Liền nói “Ngươi thả ta về, thì rất cám ơn. Để bày tỏ thành ý giữa chúng ta, ta đề nghị chiều hôm nay có thể bắt đầu đàm phán, không cần chờ sau mười hôm nữa”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Chuyện ấy không gấp, mọi người cứ nghỉ ngơi, từ từ đàm phán là được”. Phí Yếu Đa La nói “Vua hai nước đều mong mỏi việc đàm phán thành công sớm, cứ ký kết điều ước hoạch định biến giới trước, rồi sẽ nghỉ ngơi cũng không muộn”. Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng của bọn ta cũng chẳng gấp gáp gì, vậy thì sau năm ngày chúng ta sẽ đàm phán thôi”. Phí Yếu Đa La lắc đầu nói “Không cần nấn ná, cứ bàn luôn trong hôm nay”. Vi Tiểu Bảo nói “Hay sau ba hôm nữa đi”. Phí Yếu Đa La nói “Không, hôm nay!”. Vi Tiểu Bảo nói “Hay ngày mai nhé?”. Phí Yếu Đa La nói “Hôm nay!”.

Vi Tiểu Bảo thở dài một tiếng, nói “Ngươi kiên quyết như thế, ta chỉ còn cách nhượng bộ. Có điều ta cảnh cáo ngươi, lúc bàn tới việc hoạch định biên giới giữa hai nước, thì ta quyết không tùy tiện nhượng bộ đâu. Chúng ta sẽ ra giá trả giá về từng thước từng tấc đấy”.

Phí Yếu Đa La nghĩ thầm “Hoạch định biên giới giữa hai nước thì phải bàn kỹ từng thước từng tấc, nhưng đến khi bàn xong thì các ngươi đã đánh tới Mạc Tư Khoa rồi. Ngươi nói ta là thằng ngốc thật à?”. Lập tức đứng lên, nói “Vậy thì tệ nhân cáo từ, đa tạ Công tước đại nhân mời rượu”. Vi Tiểu Bảo đưa y ra cửa trướng, sai một đội quân khiên mây hộ tống y về thành Ni Bố Sở. Nhưng hai trăm sáu mươi tên kỵ binh Ca Tát Khắc thì không thả về.

Phí Yếu Đa La ra khỏi trướng, chỉ thấy chỗ trại quân đóng san sát hôm qua đã vắng vẻ không còn gì, đại đội quân Thanh đã nhổ trại kéo đi. Y ngấm ngầm hoảng sợ “Thằng Man tử Trung Quốc này nói là làm, quả thật đáng sợ”.

Đoàn người đi tới trước trướng chỗ hội đàm hôm qua, chỉ thấy ba viên Đội trưởng Ca Tát Khắc vẫn đứng ngẩn ra ở đó, tư thế vẫn giống hệt hôm qua, không hề nhúc nhích. Trong toán quân Thanh có một tên quân sĩ nhỏ thó nhảy ra, bước tới trước mặt ba viên Đội trưởng, cao giọng niệm thần chú, quát lớn “Thành Cát Tư Hãn, Thành Cát Tư Hãn”, rồi vỗ mấy chưởng vào người ba người. Ba viên Đội trưởng từ từ cử động được, chỉ là đứng suốt nửa ngày một đêm, quả thật đã rất mệt mỏi, hai chân tê dại, nhất tề ngồi phệch xuống đất. Sáu tên quân khiên mấy bước lên đỡ dậy, dìu đi vài mươi trượng, ba viên Đội trưởng mới tự mình đi được.

Phí Yếu Đa La lại càng khiếp sợ “Ma thuật của Thành Cát Tư Hãn truyền lại quả nhiên vô cùng lợi hại, chẳng trách năm xưa y tung hoành thiên hạ, không ai chống nổi. May mà hiện đã phát minh ra hỏa khí, có thể không để địch nhân tới sát người, nếu không bọn giáo đồ dị giáo Trung Quốc lại muốn thống trị toàn thế giới, giáo đồ Chính thống giáo bọn ta đều phải biến thành nô lệ”.

Quân khiên mây hộ tống Phí Yếu Đa La tới trước cửa đông thành Ni Bố Sở, rồi quay trở về.

Phí Yếu Đa La hỏi ba viên Đội trưởng về tình hình bị trúng ma thuật. Ba viên Đội trưởng đều nói lúc ấy chỉ thấy hậu tâm và trước ngực tê rần lên một cái, lập tức toàn thân không sao động đậy. Phí Yếu Đa La nói “Trên người các ngươi có mang Thập tự giá không?”. Ba viên Đội trưởng cởi áo ngoài ra, đều lộ ra Thập tự giá đeo trên cổ, trong đó một người còn đeo thêm một tấm ảnh Gia tô.

Phí Yếu Đa La cau mày, nghĩ thầm “Ma thuật của Thành Cát Tư hãn quả thật lợi hại, ngay cả Thập tự giá của Gia tô Cơ đốc cũng không ngăn chặn được”. Lúc ấy lập tức viết ba đạo tấu chương, sai mười lăm tên kỵ binh chia làm ba đường, cáo cấp với Mạc Tư Khoa là quân đội Trung Quốc đã lên đường tới đánh úp, sẽ hóa trang làm mục dân người Đạt Đán, trà trộn vào kinh thành, xin tăng cường đề phòng.

Đến giữa trưa, ba toán đưa thư trước sau đều quay về, nói đường đi về phía tây đều đã bị quân Trung Quốc cắt đứt, vừa thấy kỵ binh La Sát từ xa đã bắn tên rào rào, quả thật khó mà đi lọt. Phí Yếu Đa La trong lòng lo sợ, nghĩ thầm “Chỉ có thỏa thuận điều ước hoạch định biên giới với thằng Man tử Trung Quốc này thật mau, thì họ mới triệt hồi binh mã”.

***

Đến giờ Mùi, Phí Yếu Đa La dắt mười mấy tùy viên tới chỗ sứ thần hai bên bàn bạc. Lần này y hoàn toàn không mang theo kỵ binh Ca Tát Khắc, để tỏ rõ là quyết không có ý gì khác, huống chi cho dù có mang theo vệ binh, cũng không chống đỡ được “Ma thuật Thành Cát Tư Hãn” của quân Trung Quốc, cũng là vô dụng. Phí Yếu Đa La học vấn uyên bác, làm việc tài giỏi, vốn không phải dễ dàng bị người ta đánh lừa, nhưng người La Sát đối với Thành Cát Tư Hãn có mối lo sợ thâm căn cố đế, thuật điểm huyệt của Song Nhi lại mười phần tinh diệu, y chính mắt nhìn thấy, không thể không tin.

Y tới trướng trước, không lâu sau các đại thần phía nhà Thanh là bọn Vi Tiểu Bảo, Sách Ngạch Đồ, Đông Quốc Cương cũng tới. Vi Tiểu Bảo thấy đối phương không mang theo vệ binh, liền sai quân khiên mây hộ vệ lui về.

Hai bên nói vài câu khách sáo, hoàn toàn không nhắc tới chuyện hôm qua, lập tức bàn bạc việc hoạch định biên giới. Phí Yếu Đa La muốn đàm phán thật nhanh, chuyện gì cũng nhượng bộ, khác hẳn với thái độ hôm qua. Vi Tiểu Bảo trong bụng cười thầm, biết kế sách “Hội Quần anh Chu Du đùa Tưởng Cán” đã thành công, y đối với việc hoạch định biên giới thì một khiếu cũng không thông, lúc ấy bèn để Sách Ngạch Đồ qua sự phiên dịch của viên giáo sĩ bàn bạc điều khoản với đối phương.

Chỉ thấy Sách Ngạch Đồ và Phí Yếu Đa La hai người trải một tấm bản đồ lớn ra bàn, ngón tay của Sách Ngạch Đồ không ngừng chỉ lên phía bắc, Phí Yếu Đa La cau mày, ngón tay cứ từng tấc từng tấc lui về phía bắc. Một tấc ấy lui lại trên bản đồ là thêm hơn mấy trăm dặm đất đai thuộc về Trung Quốc. Vi Tiểu Bảo nghe một lúc, trong lòng phát chán, bèn ngồi ra một cái bàn khác, sai thị tùng mang thức ăn ra, ngồi bắt chéo chân, từ từ nhấm nháp các thức quà bánh điểm tâm, trong mũi ư ử điệu Thập bát mô.

Phí Yếu Đa La quyết tâm nhượng bộ, Sách Ngạch Đồ sợ xảy ra biến cố, cũng không ép người quá đáng. Nhưng chữ nghĩa trong điều ước rất nghiêm ngặt, giáo sĩ hai bên nhất nhất dịch ra tiếng Lạp Đinh, trao đổi bàn bạc cũng mất rất nhiều thời gian. Đến trưa hôm thứ tư, Điều ước Ni Bố Sở gồm sáu điều đã bàn bạc ổn thỏa.

Vi Tiểu Bảo được Sách Ngạch Đồ và Đông Quốc Cương giải thích, nói nội dung điều ước này rất có lợi cho Trung Quốc, phần đất cắt về Trung Quốc rất rộng lớn, còn hơn rất nhiều so với trong chỉ dụ của Khang Hy. Điều ước có tất cả bốn bản, một bản chữ Trung Quốc, một bản chữ La Sát, hai bản chữ Lạp Đinh, có chú rõ là nếu văn tự đôi bên có chỗ nào ý nghĩa không phù hợp thì lấy bản chữ Lạp Đinh làm chuẩn.

Lúc ấy tùy tùng mài mực thật đậm, thấm đẫm ngòi bút, cung kính mời Khâm sai đại thần đứng đầu phía Trung Quốc ký tên.

Vi Tiểu Bảo biết được ba chữ tên mình, chỉ có điều có lúc nhìn chữ Chương ra chữ Vi, chữ Mãi ra chữ Bảo, ba chữ viết liền một chỗ thì không đến nỗi sai lắm, nhưng nói tới chuyện viết thì chữ Tiểu còn có thể miễn cưỡng đối phó được, chứ hai chữ kia thì bất kể thế nào cũng không viết được. Y bình sinh rất khó mà đỏ mặt, nhưng lúc ấy mặt lại đỏ như chu sa, không phải tức giận, không phải say rượu, mà quả thật là có ba phần xấu hổ.

Sách Ngạch Đồ là tri kỷ của y, liền nói “Loại văn tự hợp đồng này, chỉ cần đóng dấu hoa áp lên cũng được. Vi đại nhân cứ viết bừa một chữ Tiểu, cũng kể như đã ký tên rồi”.

Vi Tiểu Bảo cả mừng, nghĩ thầm viết chữ Tiểu thì mình nắm chắc trong tay, lúc ấy bèn nhấc bút lên, vẽ một hình tròn bên trái, một hình tròn bên phải sau đó sổ một nét thẳng xuống ở giữa.

Sách Ngạch Đồ mỉm cười nói “Được rồi, viết rất đẹp”. Vi Tiểu Bảo nghiêng đầu ngắm nghía chữ Tiểu, đột nhiên ngẩng lên trời cười rộ. Sách Ngạch Đồ ngạc nhiên hỏi “Vi đại soái có gì mà cười?”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Ngươi nhìn chữ này một con chim hai quả trứng, há không phải là như thế sao?”. Các quan lớn bên nhà Thanh không kìm được đều hô hô cười rộ, cả đám tùy tùng và thân binh cũng cười thành tiếng.

Lúc ấy Vi Tiểu Bảo đều vẽ chữ vào bốn bản điều ước, trên văn bản tiếng La Sát vẽ một nét sổ cực lớn, sau đó Phí Yếu Đa La, Sách Ngạch Đồ và Phó sứ phía Nga đều ký tên vào. Bản điều ước đầu tiên giữa hai nước Trung Nga như vậy đã ký xong.

Đây là bản điều ước đầu tiên được ký kết giữa Trung Quốc và nước ngoài, nhờ Khang Hy trù tính chu đáo, ra sức thu xếp, mà những người được sai đi đều mười phần đắc lực, nên việc hoạch định biên giới trong điều ước Ni Bố Sở thì Trung Quốc chiếm tiện nghi rất lớn. Trong điều ước quy định phía bắc lấy rặng núi Hưng An làm ranh giới, toàn bộ đất đai tỉnh A Mục Nhĩ và tỉnh Tân Hải thuộc Tô Liên ngày nay đều thuộc Trung Quốc, phía đông và đông nam thì tới biển. Lúc đôi bên hoạch định biên giới khu vực ấy vốn không thuộc về bên nào, đất đai Trung Quốc chiếm cũng không phải thuộc La Sát, mà nơi La Sát đã xây thành di dân thì sau khi ký điều ước bắt buộc phải triệt thoái, quả thật là một thắng lợi quân sự và ngoại giao của Trung Quốc. Đất đai được cắt về Trung Quốc trong điều ước lên tới khoảng hai trăm vạn cây số vuông, to hơn gấp đôi các tỉnh vùng Đông bắc Trung Quốc hiện nay. Điều ước ấy ký kết xong, khiến biên giới Trung Quốc ở phía Đông bắc được yên ổn hơn một trăm năm mươi năm, mà việc xâm lấn về phía đông của người La Sát bị cản trở, dã tâm xâm lược cũng tan tành. Sau các triều Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, các Điều ước của nhà Thanh với người ngoại quốc không gì là không mất quyền mất đất, việc đại chấn hùng phong quốc gia của Khang Hy và Vi Tiểu Bảo năm ấy về sau không còn thấy nữa (12).

Theo tập quán đương thời, đôi bên đồng thời nổ pháo, hướng lên trời lập thệ, thủ tín giữ lời. Hơn bốn trăm khẩu đại pháo của quân Thanh đồng thời nổ vang ở bốn phía đông tây nam bắc thành Ni Bố Sở, mặt đất rung chuyển. Đại pháo của bên Nga chỉ có hơn hai mươi khẩu, tiếng pháo rời rạc, mạnh yếu cách nhau không biết bao nhiêu dặm. Phí Yếu Đa La thầm lấy làm may, nếu hòa nghị không thành, chiến sự nổ ra thì phía Nga không một phen thua tan nát không xong.

Lúc ấy sứ thần hai nước tặng nhau lễ vật. Phí Yếu Đa La tặng cho bọn Vi Tiểu Bảo đồng hồ, kính thiên lý, đồ bạc, da điêu, các loại đao kiếm. Vi Tiểu Bảo tặng sứ thần đối phương ngựa, yên cương, chén uống rượu bằng vàng, quần áo gấm đoạn, the lụa, ngoài ra còn tặng mỗi kỵ binh Ca Tát Khắc hai mươi lượng bạc để bồi thường việc bị quân Thanh cắt đứt thắt lưng.

Đếm ấy mở tiệc lớn, ăn mừng đã ký kết xong điều ước. Phí Yếu Đa La vẫn rất lo lắng, không biết quân Thanh đi đánh úp Mạc Tư Khoa trước đó đã được gọi về chưa, không ngừng dùng lời dò xét, nhưng Vi Tiểu Bảo chỉ làm ra vẻ không biết gì.

Qua hai hôm, Phí Yếu Đa La được tin báo có đại đội quân Thanh tứ phía tây kéo tới, y lên thành dùng kính thiên lý nhìn ra, quả thấy từng từng đội quân Thanh từ phía tây kéo tới, qua phía đông sông Ni Bố Sở hạ trại. Phí Yếu Đa La cả mừng, biết quân Thanh kéo về phía tây đã triệt thoái. Y nào biết đại đội quân Thanh ấy chỉ đóng lại cách phía tây thành Ni Bố Sở hơn hai trăm dặm chờ lệnh, vừa nghe tiếng pháo nổ, đã lập tức nhổ trại từ từ rút về.

Lại qua vài hôm, trụ đá cắm mốc ranh giới đã làm xong. Trên trụ đá có năm loại chữ Mãn Châu, Hán, Mông Cổ, Lạp Đinh và La Sát.

Bia cắm mốc ranh giới chia dựng ở bờ phía đông sông Cách Nhĩ Tất Tề, bờ nam sông Ngạch Nhĩ Cổ Nạp, cho tới các nơi trong rặng núi Uy Y Khắc A Lâm Đại phía đông bắc. Trên bia khắc rõ hai nước lấy sông Cách Nhĩ Tất Tề làm ranh giới “Lên tới tận vùng núi non không có cây cỏ ở thượng lưu, có tên là Đại Hưng An cho tới bờ biển, phàm tất cả những sông ngòi chảy vào sông Hắc Long Giang phía nam núi đều thuộc Trung Quốc, tất cả những sông ngòi phía bắc núi, đều thuộc Nga La Tư”, lại viết rõ “Lấy sông Ngạch Nhĩ Cổ Nạp chảy vào sông Hắc Long Giang làm ranh giới, bờ nam sông thuộc về Trung Quốc, bờ bắc sông thuộc về Nga La Tư. Quân phòng trú của Nga La Tư ở cửa sông Mi Lặc Nhĩ Khắc ở bờ nam, dời lên bờ bắc”, lại viết rõ “Tất cả người Nga La Tư cư trú ở thành Nhã Khắc Tát đều phải rút về đất Sát Hãn Hãn”, lại viết rõ “Phàm những người đi săn bắn không được vượt qua ranh giới, nếu có ai tụ họp cầm khí giới giết người cướp của sẽ lập tức bắt về chính pháp, không để chuyện nhỏ làm hỏng việc lớn, để việc giao hảo giữa hai nước chúng ta không phát sinh tranh chấp”.

Khâm sai hai nước sai phái thuộc hạ tra xét địa hình không lầm lẫn, cắm bia nêu ranh giới. Những đất cắm bia ấy vốn phải là ranh giới bất di bất dịch giữa hai nước Trung Nga, nhưng hơn một trăm mấy mươi năm sau, nước Nga nhân Trung Quốc suy yếu, từng bước tằm ăn dâu xâm chiếm, không đếm xỉa gì tới biên giới đã hoạch định năm ấy, thôn tính một vùng đất màu mỡ rộng lớn của Trung Quốc. Người sau đọc sử tới đó, thường ngậm ngùi than rằng “Làm sao dựng được Khang Hy, Vi Tiểu Bảo dưới đất lên, để đánh đuổi người La Sát tham lam lấy lại đất đai của chúng ta?”.

Dựng bia cắm mốc biên giới xong, Khâm sai hai nước làm lễ từ biệt, cùng lên đường về kinh phục mệnh.

Vi Tiểu Bảo gọi Hoa Bá Tư Cơ và Tề Lạc Nặc Phu tới, bảo hai người dâng lễ vật lên công chúa Tô Phi Á, trong đó có chăn gấm, lại có gối thêu hoa. Phương bắc hoang vu thô lậu, những sản vật này không tìm đâu ra, đều là vật của Song Nhi. Vi Tiểu Bảo cười nói “Nếu công chúa quả thật nhớ tới ta, thì cứ ôm những chăn gối này mà ngủ”. Hoa Bá Tư Cơ nói “Tình ý của công chúa điện hạ đối với đại nhân các hạ là thiên trường địa cửu, chăn gấm gối bông rất dễ hư nát, xin đại nhân cứ phái vài kỹ sư xây cầu tới Mạc Tư Khoa xây cầu đá, như thế thì vĩnh viễn không hư hỏng”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Ta đã nghĩ tới chuyện ấy, các ngươi không cần chót chét”. Rồi sai thân binh vác ra một cái rương gỗ lớn, dài tám thước rộng bốn thước, giống như một cái quan tài lớn, tám tên thân binh dùng kiệu lớn khiêng ra, rõ ràng bên trong rất nặng, phía ngoài rương có dây sắt buộc chặt, dán dấu niêm phong, dùng sơn đen gắn lại. Vi Tiểu Bảo nói “Lễ vật này không phải tầm thường, các ngươi phải giữ gìn cho tốt, không được để hư hỏng, công chúa nhìn thấy nhất định sẽ vui lòng, tình ý thiên trường địa cửu ấy cũng bền vững như cầu đá Trung Quốc vậy”.

Hai viên Đội trưởng La Sát không dám hỏi nhiều, nhận lãnh cái rương gỗ ra đi. Cái rương gỗ ấy nặng cả ngàn cân, từ Ni Bổ Sờ xa xôi chờ tới Mạc Tư Khoa, trên đường đi vô cùng vất vả.

Công chúa Tô Phi Á nhận được mở rương ra, thì là một pho tượng Vi Tiểu Bảo khỏa thân bằng đá, tươi cười rạng rỡ, sinh động như thật.

Nguyên Vi Tiểu Bảo sai thợ làm bia đá cắm mốc biên giới tạc bức tượng ấy, lại nhờ giáo sĩ Hà Lan viết mấy chữ La Sát “Ta mãi mãi yêu cô” khắc trước ngực pho tượng. Công chúa Tô Phi Á vừa nhìn thấy, dở khóc dở cười, nghĩ tới thằng nhỏ Trung Quốc này quỷ quái khôn ngoan, đàn ông La Sát không sao bằng được, bất giác tình ý miên man, hồn bay vạn dặm.

Pho tượng đá ấy cất trong cung Khắc Lý Mụ Lâm, về sau Bỉ Đắc đại đế phát động chính biến, đuổi công chúa Tô Phi Á ra khỏi cung, đập nát pho tượng đá ấy, chỉ có một phần tàn khuyết được quân sĩ mang ra, các phụ nữ La Sát ngu dốt trong dân gian tới đó cầu khấn xin con, vuốt ve hạ thể của pho tượng đá, nghe nói rất là linh nghiệm.

(1) Ở đây có chỗ chơi chữ không dịch được. “Vương Bát Tử Kê” có nghĩa là “Gà chết khốn khiếp”, “Trư La Nhụ Phu” có nghĩa là “Thằng hèn con heo”, đây là Vi Tiểu Bảo có ý trêu chọc xỏ xiên.

(2) Xét : Đây là sao chép từ sử tịch trong văn kiện giao thiệp với Nga La Tư tại Đồ thư quán, chính xác không sai, duy đoạn cuối cùng có liên quan tới Vi Tiểu Bảo thì e là lời của nhà tiểu thuyết, có khi chưa thể tin được.

(3) Ở đây có chỗ chơi chữ không dịch được. “Lạp Đinh” là phiên âm tiếng Hoa từ “Latin”, Vi Tiểu Bảo lại hiểu là “kéo trang đinh”.

(4) Xét : Đây là văn kiện có thật, năm ấy Khang Hy bắt được sứ thần nước Nga, giam cầm nửa tháng rồi cho giải về nước, tịch thu được văn kiện này cất ở hồ sơ trong cung. Bức ảnh bản kiện này xem trong “Cố cung Nga văn sử liệu”.

(5) Ở đây có chỗ chơi chữ rất khó dịch, Vi Tiểu Bảo nghe “Đồ Lại” thành “Đổ Lại”, và hiểu là “đánh bạc thua thì muốn giở trò vô lại”, “Quốc Cương” thành “Cốt Quang” và hiểu là “chơi bài xương thì phải thua sạch”.

(6) Xét: Theo Lưu Tuyển Dân trong bài Trung Nga tảo kỳ mậu dịch khảo trên Yên Kinh học báo số 25, nước Nga phái đại sứ Phí Yếu Đa La Quả La Văn đàm phán việc phân định biên giới, hoạt động thông thương với Trung Quốc. Quả La Văn dọc đường qua phía đông, lại nhận được mật chỉ của triều đình ra lệnh, trịnh trọng chỉ thị : Nếu có thể giành được mối lợi thông thương với Trung Quốc thì không ngại gì nhường thành Nhã Khắc Tát cho Trung Quốc, ngoài ra trong phạm vi hoàn toàn không làm tổn thương sự oai nghiêm của Sa hoàng, cứ bí mật tặng biếu hối lộ thật hậu cho đại biểu Trung Quốc.

(7) Xét : Năm Khang Hy thứ mười lăm, nước Nga phái Tư Ba Tháp Lôi N. G. Spatuary làm Khâm sai, dẫn theo các chuyên gia về bảo thạch và dược liệu tới Bắc Kinh, đề xuất nhiều yêu cầu, trong đó có một điều là “Trung Quốc ưng thuận cho Nga quốc mượn kỹ sư xây câu”. Nhưng vì viên Khâm sai này không chịu dập đầu lạy Khang Hy, nên bị triều đình nhà Thanh đuối về nước.

(8) Xét : Khâm sai nghị hòa của nước La Sát tên Phí Yếu Đa La Quả La Văn Fedor A. Golovin, đương thời không biết tập quán người phương Tây là tên trước họ sau, nên sử sách Trung Quốc gọi là Phí Yếu Đa La.

(9) Ở đây có chỗ chơi chữ không dịch được. “Lão Miêu Lạp My Pháp” trong tiếng Hoa có nghĩa là “Cách mèo già giàu cứt”, ở đây Vi Tiểu Bảo đặt ra để xỏ xiên chế nhạo viên Khâm sứ người Nga

(10) Xét : Năm 1238 đại tướng Mông Cổ Bạt Đô công hãm Mạc Tư Khoa và Cơ Phụ, trong hai trăm bốn mươi năm từ 1240 đến 1480 người Mông Cổ thống trị lãnh thổ rộng lớn của Nga Ba Tư, xây dựng Kim trướng Hãn quốc. Đại Anh bách khoa toàn thư ghi chép về từ Nga La Tự như sau “Vương công tử tước ở Mạc Tư Khoa đều phải tới thành Tát Lai ở cửa sông Phục Nhĩ Gia triều kiến Khả hãn Mông Cổ trong hoàng kim trướng, tiếp nhận phong hiệu. Họ thường phải chịu đựng đủ chuyện nhục mạ, sau khi triều bái trở về Mạc Tư Khoa, thì có thể nộp thuế cho người Thát Đát, khinh rẻ các chư hầu nước nhỏ chung quanh”.

(11) Ở đây có chỗ chơi chữ rất khó dịch. Nguyên thành ngữ này là “Dũng vãng bất tiền” (Dũng cảm xông lên, không ai đi trước được mình), Vi Tiểu Bảo lại tưởng chữ “tiền” (trước) là “tiền” (tiền bạc) nên sửa lại như thế.

(12) Xét : Chữ ký của Vi Tiểu Bảo trên điều ước kỳ lạ không thế nhận ra được, các sử gia đời sau chỉ biết được chữ ký của Sách Ngạch Đồ và Phí Yếu Đa La, các nhà khảo cổ học như bọn Quách Mạt Nhược biết giáp cốt văn, mà không biết trong Điều ước Ni Bố Sở có thêm chữ Tiểu, nên đại danh của Vi Tiếu Bảo đến nay bị mai một. Sử sách đời sau đều nói người ký kết Điều ước Ni Bố Sở là Sách Ngạch Đồ và Phí Yếu Đa La. Từ xưa đến nay, chỉ có độc giả sách Lộc Đỉnh ký mới biết trên đời có Vi Tiểu Bảo thôi. Việc ký kết và nội dung Điều ước Ni Bố Sở thuật trong sách này, ngoài nhân vật Vi Tiểu Bảo bổ sung cho những điều thiếu sót trong sử sách thì đều căn cứ vào những ghi chép trong thư tịch.

(*) Chú : “Đô hộ” là chức Tổng đốc quân chính do nhà Hán đặt ra để thống trị các nước Tây Vực, “Ngọc Môn quan” là đường yếu đạo thông qua tây vực thời Hán, câu “Ngọc Môn không đặt” ý nói cương vực rộng lớn, Ngọc Môn đã không thể trở thành cửa ải hiểm yếu. “Đồng trụ còn nêu” là nói việc sau khi Mã Viện nhà Đông Hán chinh phục Giao Chỉ (An Nam), khai thương thác thố, dựng cột đồng làm ranh giới, có ý là cắm mốc biên giới khác có lợi cho Trung Quốc.

Hồi 49: Khí sắc quan to xe ngựa đẹp – Tâm tư khách lẻ cố nhân ngờ

Vi Tiểu Bảo khải hoàn về kinh. Đại quân vừa tới ngoài thành Bắc Kinh, các đại thần trong triều đã ra ngoài cửa thành đón tiếp. Vi Tiểu Bảo suất lãnh bọn Đông Quốc Cương, Sách Ngạch Đồ, Mã Lạt, A Nhĩ Nê, Mã Tề, Bằng Xuân, Tát Bố Tố, Lang Thân, Ba Hải, Lâm Hưng Châu vào triều kiến Khang Hy. Hoàng đế ôn tồn khen ngợi, hạ chiếu phong Vi Tiểu Bảo là Lộc Đỉnh công nhất đẳng, bọn đại thần Đông Quốc Cương, Sách Ngạch Đồ cho tới tướng sĩ đều được thăng thưởng.

Sau đó vài hôm, Khang Hy lại liên tiếp triệu kiến Vi Tiểu Bảo, hỏi kỹ tình hình tấn công thành Nhã Khắc Tát, ký kết điều ước vạch rõ cương giới. Vi Tiểu Bảo cứ theo sự thật tâu trình, hoàn toàn không có chút gì khoe khoang, Khang Hy rất vui vẻ, khen y tiến bộ rất nhiều, phong tặng cho bảy vị phu nhân và hai con trai y.

Hôm ấy Khang Hy ban yến cho Phủ viễn đại tướng quân, Lộc Đỉnh công Vi Tiểu Bảo và các bề tôi có công trong chiến dịch vừa qua. Trong tiệc Khang Hy làm hai bài thơ, các Hàn lâm học sĩ trong tiệc đều kính cẩn họa lại, ca ngợi công đức. Tan tiệc, Vi Tiểu Bảo mang các bảo vật ngự tứ đắc ý nghênh ngang ra khỏi cửa cung, tùy tùng tiền hô hậu ủng dẹp đường về phủ, chợt nghe cạnh đường có tiếng người kêu lớn “Vi Tiểu Bảo, ngươi là thằng cẩu tặc vong ân phụ nghĩa!”.

Vi Tiểu Bảo giật nảy mình, lại nghe giọng nói ấy rất quen, quay đầu lại nhìn, chỉ thấy một đại hán tử mái hiên sấn ra giữa đường, chỉ vào y ngoác miệng chửi lớn “Vi Tiểu Bảo, thằng tiểu tặc đáng băm vằm ngàn đao muôn kiếm, rõ ràng là người Hán lại đi đầu hàng Mãn Thanh, làm nô tài chó săn cho Thát Đát. Ngươi hại chết sư phụ, giết chết anh em, hôm nay hoàng đế Thát Đát phong ngươi làm công hầu, ngươi vinh hoa phú quý, oai vệ sang trọng. Con bà ngươi, lão tử đao trắng đâm vào đao đỏ rút ra, chém thằng tiểu tặc ngươi mười bảy hăm tám đao, xem ngươi còn làm được Lộc Đỉnh công, Giáp quy công nữa không?”. Đại hán này nửa người trên cởi trần, ngực đầy lông đen, mày rậm mắt to, dáng vẻ hung dữ, chính là Mao Thập Bát ngày trước đưa Vi Tiểu Bảo lên Bắc Kinh.

Vi Tiểu Bảo còn đang ngẩn ra, đã có mấy mươi tên thân binh sấn lên bao vây. Mao Thập Bát rút đoản đao ở đùi ra định chống cự, bọn thân binh đã nhất tề động thủ, người kề đao vào cổ, người đoạt đao trên tay, đè y xuống đất trói lại. Mao Thập Bát vẫn không ngớt chửi lớn “Vi Tiểu Bảo, thằng tiểu tặc con gái điếm, năm xưa lão tử đưa ngươi tới Bắc Kinh, đúng là rất sai lầm, ta có lỗi với Trần Cận Nam Trần Tổng đà chủ, có lỗi với các anh hùng hảo hán trong Thiên Địa hội. Lão tử hôm nay cũng không cần sống nữa, mà muốn cho mọi người trong thiên hạ đều biết rõ Vi Tiểu Bảo ngươi là thằng cẩu tặc bán bạn cầu vinh, quên ơn phụ nghĩa, ngươi chỉ muốn thăng quan phát tài, làm chó săn cho hoàng đế Thát Đát…”. Đám thân binh vả vào miệng y, nhưng y thủy chung vẫn chửi mắng không ngớt. Vi Tiểu Bảo vội quát đám thân binh ngừng tay, không được lỗ mãng. Một tên thân binh lấy khăn tay ra nhét vào miệng Mao Thập Bát. Mao Thập Bát vẫn ư ư không ngớt, chắc là vẫn không ngừng chửi mắng.

Vi Tiểu Bảo sai thân binh “Mang người này về phủ canh giữ cẩn thận, đừng làm khó y, đem rượu thịt cho y ăn uống, lát nữa ta sẽ đích thân thẩm vấn”.

Vi Tiểu Bảo về tới phủ, dọn tiệc trong thư phòng, mời Mao Thập Bát lên gặp, nhưng sợ y lỗ mãng động võ, bèn bảo Tô Thuyên và Song Nhi giả làm tùy tùng đứng hầu bên cạnh. Thân binh áp giải Mao Thập Bát vào, Vi Tiểu Bảo sai cởi xiềng khóa cho y, rồi bảo thân binh lui ra.

Vi Tiểu Bảo tươi cười bước lên đón tiếp, nói “Mao đại ca, lâu quá không gặp, ngươi khỏe chứ?”. Mao Thập Bát tức giận nói “Ta có gì mà khỏe với không khỏe. Từ khi quen biết thằng tiểu tặc nhà ngươi, vốn là rất khỏe cũng trở thành không khỏe”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Mời Mao đại ca ngồi xuống đã, để huynh đệ mời người ba chén rượu cho bớt giận trước. Huynh đệ đắc tội với đại ca chỗ nào, ngươi uống rượu xong nói ra cũng không muộn”. Mao Thập Bát sải chân bước tới, quát lớn “Ta đánh chết thằng tiểu tặc nhà ngươi trước rồi sẽ uống rượu”. Rồi vung nắm tay to bằng cái bát, vù một tiếng đánh vào giữa mặt Vi Tiểu Bảo.

Tô Thuyên bước mau lên, vươn tay trái chụp cổ tay Mao Thập Bát kéo nhẹ một cái, tay phải vỗ xuống đầu vai y hai cái. Mao Thập Bát lập tức toàn thân tê rần, bất giác không tự chủ được ngồi xuống ghế. Y vừa sợ vừa giận, vận kình nhảy bật lên chửi “Tiểu tặc…”. Tô Thuyên đứng sau lưng y, hai tay đánh vào huyệt Kiên trinh trên hai vai y, lại khẽ đè xuống một cái, Mao Thập Bát không chống cự nổi, đành ngồi xuống như cũ. Y thân hình cao lớn, ít nhất cũng phải to gấp đôi Tô Thuyên, nhưng bị nàng võ công cao thâm chế phục, trói tay buộc chân, chỉ đành ngoan ngoãn ngồi xuống, lại càng căm giận, lớn tiếng nói “Lão tử hôm nay đón đường chửi thằng tiểu Hán gian ngươi, vốn đã quyết ý không cần sống nữa, chỉ là muốn tất cả người đời biết ngươi hèn hạ vô sỉ lừa thầy phản bạn…”.

Vi Tiểu Bảo nói “Mao đại ca, ta làm việc cho hoàng thượng là đi đánh người La Sát, không phải giết người Hán, không thể nói là Hán gian được”. Mao Thập Bát nói “Vậy… vậy tại sao ngươi giết Trần Cận Nam sư phụ ngươi?”. Vi Tiểu Bảo vội nói “Tại sao ta lại giết hại sư phụ ta chứ? Sư phụ ta rõ ràng là bị thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng giết chết mà”. Mao Thập Bát tức giận nói “Đến bây giờ mà ngươi còn chối sao? Trong thánh chỉ con mẹ nó của hoàng đế Thát Đát nói rất rõ ràng”. Vi Tiểu Bảo ngạc nhiên nói “Trong thánh chỉ của hoàng thượng… sao… sao lại nói là ta hại chết sư phụ?”. Trong lòng mờ mịt, quay đầu nhìn qua Tô Thuyên.

Tô Thuyên nói “Mấy hôm trước hoàng thượng thăng ngươi làm Lộc Đỉnh công nhất đẳng, trong cáo mệnh kể lại công lao của ngươi, cũng không biết là do ai viết, trong đó nói ngươi Tiến cử tướng giỏi, bình định nghịch tặc họ Ngô, thu Đài Loan về đồ bản, cầm quân ra trận, hạ thành Khắc Tát La Sát, nêu oai nước ở biên cương, đó đều đúng. Nhưng lại có hai câu Bắt giết đầu đảng Thiên Địa hội là bọn Trần Cận Nam, Phong Tế Trung, khiến bọn phản nghịch trong thiên hạ suy sụp không gượng dậy được, nghịch tặc loạn đảng rửa mặt thay lòng, thì không đúng”.

Vi Tiểu Bảo cau mày nói “Cái gì mà rửa mặt cắt tim, rốt lại là nói chuyện gì?”. Tô Thuyên nói “Trong cáo mệnh nói người bắt giết Trần Cận Nam, Phong Tế Trung, khiến người trong Thiên Địa hội sợ hãi, không dám làm phản nữa”. Vi Tiểu Bảo nhảy dựng lên, la lớn “Làm… làm gì có chuyện ấy? Đó không phải là oan uổng cho người ta sao?”. Tô Thuyên chậm rãi lắc đầu, nói “Phong Tế Trung làm gian tế, đúng là do chúng ta giết, lời trong thánh chỉ không sai, chỉ thêm ba chữ Trần Cận Nam”. Vi Tiểu Bảo vội nói “Trần Cận Nam là ân sư của ta, tại… tại sao ta lại giết lão nhân gia người chứ? Đạo… đạo thánh chỉ ấy của hoàng thượng… ờ… cô thấy thánh chỉ sao không nói với ta?”. Tô Thuyên nói “Bọn ta bàn với nhau, là trong thánh chỉ thừa ba chữ Trần Cận Nam, nếu ngươi biết được nhất định sẽ không vui”. Vi Tiểu Bảo biết cái gọi là “Bọn ta bàn với nhau” chính là bảy vị phu nhân bàn bạc với nhau, bèn quay nhìn Song Nhi, Song Nhi gật gật đầu.

Vi Tiểu Bảo nói “Mao đại ca, sư phụ ta đích xác không phải do ta hại. Phong Tế Trung là phản đồ của Thiên Địa hội, y… y lén lút báo tin cho hoàng đế…”. Mao Thập Bát cười nhạt nói “Vậy thì ngươi là người tốt chứ gì?”.

Vi Tiểu Bảo ngồi phệch xuống mép ghế, nói “Ta sẽ đi phản biện với hoàng thượng, xin y sửa lại… sửa lại… sửa lại…”. Y nói liên tiếp ba chữ “Sửa lại”, nhưng biết Khang Hy nhất định không vì thừa ba chữ “Trần Cận Nam” mà chịu đưa ra tờ thượng dụ khác, nghĩ thầm “Không biết là thằng cẩu tặc nào lắm mồm, nói với hoàng thượng là mình hại chết sư phụ. Đối với hoàng thượng thì như vậy là mình trung thành, nhưng… nhưng Vi Tiểu Bảo mình còn xứng đáng là con người không?”. Y trong lòng quẫn bách, đột nhiên òa một tiếng bật khóc, kêu lên “Mao đại ca, Thuyên tỷ tỷ, hảo… hảo Song Nhi, ta không có hại chết sư phụ mà!”.

Ba người thấy Vi Tiểu Bảo đột nhiên khóc lớn, đều giật nảy mình. Tô Thuyên vội bước qua ôm chặt vai y, dịu dàng nói “Trịnh Khắc Sảng hại chết sư phụ ngươi trên đảo Thông Ngật, chúng ta đều chính mắt nhìn thấy”. Nói xong lấy khăn tay ta lau nước mắt cho y.

Mao Thập Bát lúc ấy mới nhận ra, tên “thân binh” võ nghệ cao cường này vốn là phụ nữ, không kìm được kinh ngạc.

Vi Tiểu Bảo nghĩ tới một việc, nói “Mao đại ca, thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng cũng đang ở Bắc Kinh, chúng ta tới chất vấn y, chắc y không dám chối đâu. Đúng, đúng, chúng ta đi ngay thôi!”.

Vừa nói tới đó, chợt nghe thân binh ngoài cửa lớn tiếng nói “Thánh chỉ tới. Ngự tiền thị vệ Đa Tổng quản phụng sắc tuyên chỉ. Vi Tiểu Bảo đứng lên ra cổng đón, chỉ thấy Đa Long đã cười hề hề bước vào. Vi Tiểu Bảo hướng về phía bắc quỳ xuống, kính cẩn thỉnh an.

Đa Long đợi y lạy xong, nói “Hoàng thượng phân phó, muốn bắt tên phản tặc chửi người trên đường để đích thân thẩm vấn”.

Vi Tiểu Bảo hoảng sợ, nói “Người… người ấy à? Huynh đệ bắt y về, đã tra hỏi kỹ càng, té ra là một thằng điên, luôn miệng xưng là Ngọc Hoàng đại đế, Thái thượng lão quân, ăn nói bậy bạ. Huynh đệ không hỏi được gì, đánh y một trận no đòn, đã thả y ra rồi. Hoàng thượng làm sao biết được chuyện này thế? Thật ra cũng chẳng có gì quan trọng…”.

Mao Thập Bát nghe tới đó không nhịn được nữa, đập mạnh lên bàn một cái, chén bát tung lên rơi xuống đất loảng xoảng vỡ nát, lớn tiếng chửi “Con mẹ nó Vi Tiểu Bảo, ai là thằng điên? Người chửi hoàng đế Thát Đát trên đường hôm nay chính là lão tử! Lão tử ngàn đao muôn kiếm cũng không sợ, chẳng lẽ lại sợ hoàng đế Thát Đát con mẹ nó à?”.

Vi Tiểu Bảo ngấm ngầm kêu khổ, chỉ mong qua mặt được Đa Long sẽ lập tức thả Mao Thập Bát ra, nào ngờ y hoàn toàn không hiểu ý mình bao che cho lần này, lại công nhiên nhục mạ hoàng thượng như thế, Mao Thập Bát cho dù quả thật có mười tám cái đầu cũng không giữ được.

Đa Long thở dài một tiếng, nói với Vi Tiểu Bảo “Huynh đệ, ngươi đối đãi với bằng hữu trên giang hồ rất có nghĩa khí, ta cũng rất khâm phục. Chuyện này ngươi đã làm hết sức, tính ra cũng đã trọn nhân trọn nghĩa rồi. Chúng ta đi thôi”. Mao Thập Bát sải chân bước ra cửa, đột nhiên quay đầu phun một bãi nước bọt vào Vi Tiểu Bảo. Vi Tiểu Bảo đang lo nghĩ, không kịp tránh né, bụp một tiếng, bị trúng ngay giữa hai mắt. Mấy tên thân binh rút yêu đao ra xông vào Mao Thập Bát. Vi Tiểu Bảo xua xua tay, buồn rầu nói “Được rồi, đừng làm khó y”. Bọn thuộc hạ Đa Long dẫn theo lấy khóa tay ra khóa tay Mao Thập Bát lại.

Vi Tiểu Bảo nghĩ thầm “Hoàng thượng đích thân thẩm vấn Mao Thập Bát, hỏi chưa tới ba câu là nhất định sẽ kéo y ra chém đầu. Mình phải lập tức tới gặp hoàng thượng, bất kể thế nào cũng phải nghĩ cách cứu người”. Bèn nói với Đa Long “Ta muốn đi cầu kiến hoàng thượng để bẩm rõ nội tình, đừng để hán tử thô lỗ này xúc phạm hoàng thượng”.

***

Đoàn người tới hoàng cung. Vi Tiểu Bảo nghe nói hoàng đế đang trong Thượng thư phòng, bèn xin ra mắt. Khang Hy liền triệu y vào. Vi Tiểu Bảo dập đầu xong đứng lên.

Khang Hy nói “Kẻ chửi ngươi, lại chửi cả ta trên phố hôm nay là bạn tốt của ngươi phải không?”. Vi Tiểu Bảo nói “Hoàng thượng thấy rõ vạn dặm, chuyện gì cũng không cần phải đoán tới lần thứ hai”. Khang Hy nói “Y là người Thiên Địa hội à?”. Vi Tiểu Bảo nói “Y chưa chính thức vào hội, có điều y quen biết không ít người trong hội. Y rất khâm phục sư phụ ta. Trong thánh chỉ của hoàng thượng nói ta giết chết sư phụ, y nghe thế giận sôi lên nên tới chửi mắng ta một trận. Còn đối với hoàng thượng thì y muôn vạn lần không dám có nửa phần bất kính”.

Khang Hy mỉm cười nói “Ngươi và Thiên Địa hội đã một đao cắt đứt, từ nay trở đi không đi lại nữa phải không?”. Vi Tiểu Bảo nói “Vâng. Lần này đi đánh bọn quỷ La Sát, nô tài không mang người Thiên Địa hội cùng đi”. Khang Hy hỏi “Sau này nếu bạn cũ trong Thiên Địa hội tìm tới, thì ngươi tính sao?”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài nhất định không gặp mặt, để mọi người tránh được sự bất tiện”.

Khang Hy gật đầu nói “Vì thế trong tờ cáo mệnh kia ta đã đích thân viết thêm tên hai người Trần Cận Nam, Phong Tế Trung để tránh cho ngươi nhiều chuyện phiền phức sau này. Tiểu Quế tử, một người không thể chân đứng trên hai thuyền mãi được. Nếu ngươi trung thành với ta, một lòng một dạ làm việc cho triều đình, thì không thể dấn thân vào vũng nước đục Thiên Địa hội nữa. Còn nếu ngươi quyết tâm làm Hương chủ của Thiên Địa hội, thì cứ một lòng một dạ phản lại ta mới phải”. Vi Tiểu Bảo giật nảy mình, quỳ xuống dập đầu nói “Nô tài quyết ý sẽ không làm phản. Nô tài lúc trẻ làm việc hồ đồ, không hiểu đạo lý, hiện giờ hiểu rõ đại nghĩa, rửa mặt thay lòng, khác hẳn ngày trước rồi”.

Khang Hy gật đầu cười nói “Vậy thì rất tốt. Gã điên chửi bới trên phố hôm nay, sáng mai ngươi đích thân làm giám trảm, chém đầu y đi”. Vi Tiểu Bảo dập đầu nói “Hoàng thượng minh giám, nô tài tới được Bắc Kinh, có thể nhìn thấy long nhan, toàn là nhờ người này. Nô tài còn chưa báo đáp được ơn y, nên lớn mật xin hoàng thượng tha cho y, thà là… thà là bao nhiêu công lao đánh La Sát của nô tài lần này hoàng thượng cứ cách hết, nô tài làm Lộc Đỉnh hầu cũng được”. Khang Hy chợt sa sầm mặt, nói “Việc phong tước của triều đình mà ngươi coi như trò đùa của trẻ con à? Thưởng cho ngươi tước Lộc Đỉnh công nhất đẳng là ân điển của ta. Ngươi lại lấy cáo phong tước lộc ra mua bán với ta, cò kè trả giá, thật là to gan!”.

Vi Tiểu Bảo dập đầu lia lịa, nói “Nô tài ra giá trên trời, hoàng thượng cứ trả giá sát đất. Giáng xuống tước Lộc Đỉnh hầu không được thì giáng xuống tước Thông Ngật bá, Thông Ngật tử cũng được mà”.

Khang Hy vốn định dọa y một phen cho y biết quy củ của triều đình, nào ngờ người này sinh ra là tiểu nhân nơi chợ búa, tuy làm tới tước công nhất đẳng, Đại tướng quân mà tính nết vô lại vẫn không hề thay đổi, bất giác vừa tức giận vừa buồn cười, quát “Con mẹ nó, ngươi đứng lên đi!”. Vi Tiểu Bảo dập đầu một cái rồi đứng lên.

Khang Hy vẫn làm mặt lạnh, nói “Con bà ngươi, lão tử trả giá sát đất với ngươi. Ngươi muốn ta tha tên phản nghịch kia, thì cứ cắt đầu ngươi mà đổi đầu y”.

Vi Tiểu Bảo mặt mày nhăn nhó, nói “Hoàng thượng trả giá thấp quá, xin người trả thêm giá nữa”. Khang Hy nói “Được, ta nhường ngươi một bước. Ngươi tự thiến đi, vào cung làm thái giám thật cũng được”. Vi Tiểu Bảo nói “Xin hoàng thượng trả thêm giá nữa”. Khang Hy nói “Không thêm nữa. Ngươi không đi giết người kia là bất trung với ta. Một người trung thành là trung thành, bất trung là bất trung, chuyện đó thì có giá nào mà nói được?”. Vi Tiểu Bảo nói “Nô tài với hoàng thượng thì trung, với bạn bè thì nghĩa, với mẫu thân thì hiếu, với vợ con thì ái…”.

Khang Hy hô hô cười rộ, nói “Thằng đầy tớ nhà ngươi rõ ràng trung hiếu tiết nghĩa, cái gì cũng trọn vẹn. Giỏi, bội phục, bội phục. Giờ này ngày mai cứ đem một cái đầu tới đây là xong, nếu không phải là đầu thằng phản nghịch kia thì là đầu ngươi”. Vi Tiểu Bảo không biết làm sao, đành dập đầu lui ra.

Khang Hy thấy y ra tới cửa, liền nói “Tiểu Quế tử, ngươi lại định bỏ trốn à?”.

Vi Tiểu Bảo nói “Lần này thì không dám. Nô tài về tới nhà sẽ lên giường gối đầu nằm cao nghĩ cách, tốt nhất là vừa làm hoàng thượng vui vẻ, vừa trọn vẹn được nghĩa khí với bạn bè, mà cái đầu này của nô tài vẫn dính chặt trên cổ”.

Khang Hy cười khẽ nói “Hay lắm. Ta và công chúa Kiến Ninh lâu quá không gặp, rất nhớ cô ta, nên đã sai đón vào cung”. Y ngừng một lúc rồi nói tiếp “Sáu vị phu nhân kia của ngươi cũng theo công chúa vào cung triều kiến thái hậu. Thái hậu nói ngươi có nhiều công lao, muốn ban thưởng cho vợ con ngươi”. Vi Tiểu Bảo nói “Đa tạ ân điển của thái hậu và hoàng thượng, nô tài quả thật có tan xương nát thịt cũng không báo đáp được”. Y lùi lại hai bước, không nhịn được bèn nói “Hoàng thượng, trước kia nô tài từng nói người là Phật Như Lai, ta là Tôn Ngộ Không, nô tài nói thế nào cũng không nhảy ra khỏi bàn tay của người”. Khang Hy mỉm cười nói “Ngươi thần thông quảng đại, cần gì khách sáo chứ?”.

***

Vi Tiểu Bảo ra khỏi Thượng thư phòng, bất giác thở dài một hơi, nghĩ thầm “Hoàng thượng giữ hết bảy người vợ, ba đứa con của mình, cho dù mình bỏ trốn cũng không bỏ họ được”.

Đi tới hành lang, thấy Đa Long bước tới đón, cười nói “Quế huynh đệ, thái hậu triệu kiến phu nhân, công tử, tiểu thư của ngươi, nhất định sẽ ban thưởng rất nhiều. Xin chúc mừng ngươi”. Vi Tiểu Bảo chắp tay nói “Nhờ phúc của ngươi, nhờ phúc của ngươi”. Đa Long cười khẽ nói “Trước lúc huynh đệ mang quân xuất chinh có dặn ta đòi nợ giúp, đến nay đã đòi được bảy tám phần. Ngân phiếu hai trăm sáu mươi mấy vạn lượng bạc, khi trở về ta sẽ đưa tới quý phủ”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Đa đại ca bản lĩnh không nhỏ, đã đòi được bấy nhiêu”, rồi lập tức căm hờn nói “Thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng hại chết sư phụ ta, đến nay vẫn còn làm ta rất đau đầu. Con bà nó, hôm nay thằng điên kia trên phố chửi người, há chẳng phải do Trịnh Khắc Sảng gây tai họa sao?”. Càng nghĩ càng tức giận, nói “Đại ca, xin ngươi mang theo nhiều người, chúng ta tới đó đòi nợ”.

Đa Long nghe nói lại tới Trịnh phủ đòi nợ, đó là chuyện vui vẻ hạng nhất, hôm nay lại có Phủ viễn đại tướng quân, Nhất đẳng Lộc Đỉnh công Vi công gia dẫn đầu, đi đòi nợ lại càng không cần úy kỵ , lập tức luôn miệng vâng dạ, dặn Phó Tổng quản Ngự tiền thị vệ trực ban trong cung, dẫn theo một trăm thị vệ đưa Vi Tiểu Bảo tới Trịnh phủ.

Trịnh Khắc Sảng tuy cũng được phong tước công, nhưng so với tước công của Vi Tiểu Bảo thì khác xa một trời một vực, một người là phiên vương phản nghịch quy hàng, một người là đại sủng thần, đại công thần của hoàng đế. Cũng là phủ công tước nhưng lớn nhỏ khí phái lại khác hẳn nhau, bốn chữ “Hải Trừng công phủ” trên biển ngạch sơn đen, không như bốn chữ “Lộc Đỉnh công phủ” ở nhà Vi Tiểu Bảo là mạ vàng. Vi Tiểu Bảo vừa nhìn thấy đã có mấy phần vui vẻ, nói “Bảng hiệu ở cổng của thằng tiểu tử này không bằng bảng hiệu chữ vàng của ta”.

Bọn Ngự tiền thị vệ cứ ba ngày thì có hai ngày tới phủ Hải Trừng công đòi nợ, vốn đã quen nếp, cũng không chờ người giữ cổng thông báo, cứ xồng xộc đi luôn vào phủ. Vi Tiểu Bảo ngồi vào ghế giữa trong đại sảnh. Đa Long ngồi bên cạnh.

Trịnh Khắc Sảng nghe nói Phủ viễn đại tướng quân Vi Tiểu Bảo tới, đây là khắc tinh đệ nhất trong đời y, bất giác tay chân luống cuống, nhưng lại không dám không gặp, chỉ đành thay mặc triều phục, run rẩy ra đón, bước tới vòng tay làm lễ, kêu lên “Vi đại nhân!”.

Vi Tiểu Bảo cũng không đứng dậy, vẫn ngồi chễm chệ trên ghế, ngẩng đầu lên trời, hừ một tiếng trong mũi, quay qua nói với Đa Long, “Đa đại ca, thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng này cũng quá vô lễ. Chúng ta tới đây suốt nửa ngày rồi mà y vẫn không ngó ngàng gì tới, há không phải là coi thường người ta sao?”. Đa Long nói “Phải lắm! Giết người thì đền mạng, thiếu nợ phải trả tiền. Nếu cứ làm con rùa đen co đầu rút cổ suốt đời, rốt lại cũng có ngày không trốn núp được nữa”.

Trịnh Khắc Sảng tức giận tới cực điểm, nhưng “Đi qua hiên kẻ khác, đâu dám chẳng cúi đầu”, hai người trước mặt, một người là Đại tướng quân tay nắm binh quyền, một người là Tổng quản Ngự tiền thị vệ, mình thì không quyền không thế, tuy nói là tước vị tôn vinh chứ thật ra xử cảnh còn không bằng một người dân tầm thường, chỉ đành cố nén giận, khẽ đằng hắng một tiếng, nói “Vi đại nhân, Đa Tổng quản, chào hai ngài!”.

Vi Tiểu Bảo từ từ cúi xuống nhìn, chỉ thấy lão già trước mặt lưng còng hông vẹo, đầu tóc hoa râm, vẻ mặt vô cùng tiều tụy, nhìn kỹ lại thì người này cũng không lớn tuổi gì lắm, chỉ là mặt mày ủ rũ, đuôi mắt đầy nếp nhăn, dưới cằm để một bộ râu ngắn, cũng đã lốm đốm bạc, lại chăm chú nhìn kỹ lần nữa, không phải là Trịnh Khắc Sảng thì là ai? Vài năm không gặp mà y đã già hẳn đi hai ba mươi tuổi. Vi Tiểu Bảo đầu tiên rất ngạc nhiên, nhưng lập tức hiểu rõ ngay, là trong mấy năm nay y bị hành hạ khổ nhục, đến nỗi đột nhiên già sọm, không kìm được nảy ý thương xót, nhưng lập tức nhớ lại năm xưa y tàn độc giết chết Trần Cận Nam trên đảo Thông Ngật, nộ khí bốc lên, cười nhạt hỏi “Ngươi là ai?”.

Trịnh Khắc Sảng nói “Tại hạ là Trịnh Khắc Sảng, Vi đại nhân không nhận ra sao?”. Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Trịnh Khắc Sảng à? Trịnh Khắc Sảng không phải đang làm Diên Bình quận vương ở Đài Loan sao? Tại sao lại tới Bắc Kinh chứ? Ngươi là hàng giả”. Trịnh Khắc Sảng nói “Tại hạ quy thuận nhà Đại Thanh, đội ơn hoàng thượng ban cho tước lộc”. Vi Tiểu Bảo nói “Ủa, té ra là thế. Năm xưa ngươi ở Đài Loan khoe khoang khoác lác, nói sẽ đánh tới Bắc Kinh, bắt sống hoàng thượng, muốn ngắn thì ngắn, muốn dài thì dài, câu ấy nói ra còn nhớ không?”.

Trịnh Khắc Sảng toát mồ hôi lưng, nghĩ thầm “Y muốn khoác tội danh cho mình, bịa đặt nói bừa, hoàng thượng rốt lại nghe lời y chứ quyết không nghe lời mình”. Từ khi Đa Long suất lĩnh bọn Ngự tiền thị vệ và quân sĩ Kiêu kỵ doanh không ngừng tới quấy nhiễu, Trịnh Khắc Sảng quả thật thấy một ngày dài như một năm. Một gia sản lớn mang từ Đài Loan về, mười phần có tới tám chín đã bị họ vòi vĩnh hạch sách, đã phải bán hết châu báu trang sức để trả món nợ lớn hai trăm mấy mươi vạn lượng bạc. Y trong lòng hối hận không biết bao nhiêu lần, ngày xưa quả thật không nên đầu hàng. Lúc Thi Lang tấn công, nếu mang quân hết sức tử chiến cũng chưa chắc đã thua, mà cho dù không thắng thì liều mạng chết giữa chiến trường cũng không thẹn với anh linh của ông cha trên trời, không đến nỗi sau khi đầu hàng lại phải chịu khốn khổ nhục nhã tới mức này. Lúc ấy nghe Vi Tiểu Bảo nói mấy câu như thế, lại càng buồn rầu chỉ muốn chết ngay.

Vi Tiểu Bảo nói “Đa đại ca, vị Trịnh Khắc Sảng này năm xưa oai phong lắm nhé. Huynh đệ gần đây nghe nói có người muốn đón Trịnh vương gia về Đài Loan, lại lên ngôi vương. Trịnh vương gia, người tới đón ngươi nói thế nào? Huynh đệ muốn điều tra cho rõ ràng để hồi báo với hoàng thượng”.

Trịnh Khắc Sảng run lên nói “Vi đại nhân, xin người giơ cao đánh khẽ. Chuyện người nói đó, vốn… vốn hoàn toàn không có…”.

Vi Tiểu Bảo nói “Ờ, thế thì lạ thật. Đa đại ca, chẳng phải là hôm qua chúng ta bắt được một tên phản tặc sao? Y ngoác miệng chửi mắng hoàng thượng, chửi luôn cả ta. Người ấy nói là bộ hạ cũ của Trịnh vương gia, nói Trịnh vương gia ở Bắc Kinh bị người ta khinh rẻ, muốn báo thù cho y, muốn giết hết bọn Thát Đát Mãn Thanh gì đó mà?”.

Trịnh Khắc Sảng nghe tới đó lại càng chi trì không nổi, hai gối khuỵu xuống quỳ luôn dưới đất, run lên nói “Xin Vi đại nhân tha mạng! Tiểu nhân trước kia tội đáng muôn chết, đắc tội với lão nhân gia người. Người đại nhân đại lượng, xin mở cho ta một con đường sống, trời sẽ phù hộ cho người công hầu vạn đại”.

Vi Tiểu Bảo cười nhạt nói “Ngày trước lúc ngươi giết sư phụ ta, chắc không nghĩ là có ngày hôm nay phải không?”.

Đột nhiên phía sau sảnh có một người rảo chân bước ra, thân hình cao gầy, dáng vẻ dữ tợn, chính là Nhất kiếm vô huyết Phùng Tích Phạm. Y sấn tới cạnh Trịnh Khắc Sảng, vươn tay ra kéo y đứng lên, rồi quay qua Vi Tiểu Bảo nói “Năm xưa giết chết Trần Cận Nam toàn là chủ ý của ta, không liên quan gì tới Trịnh gia. Ngươi muốn trả thù cho sư phụ thì cứ việc giết ta đi”.

Vi Tiểu Bảo đối với Phùng Tích Phạm vốn mười phần sợ sệt, thấy y dáng vẻ hung hăng dữ tợn, bất giác co rúm người trên ghế, run lên nói “Ngươi… ngươi định đánh người à?”. Đa Long nhảy bật dậy quát “Người đâu!”, liền có hơn mười tên thị vệ cùng sấn tới vây chặt Phùng Tích Phạm. Vi Tiểu Bảo thấy bên mình người đông thế mạnh mới yên tâm, cao giọng nói “Người này ở giữa kinh đô lại dám hành hung, bắt lấy”. Bốn tên thị vệ cùng vươn tay ra chụp vào vai Phùng Tích Phạm.

Phùng Tích Phạm cũng không chống cự, lớn tiếng nói “Bọn ta quy hàng triều đình, hoàng thượng phong cho Trịnh công gia là Hải Trừng công, phong ta là Trung Thành bá. Hoàng thượng còn nói tất cả chuyện cũ bỏ hết, không nhắc tới nữa. Vi đại nhân, ngươi muốn giả công làm tư, vu cáo người tốt, bọn ta chỉ còn cách tới trước mặt hoàng thượng để phân biện cho rõ ràng thôi”.

Vi Tiểu Bảo cười nhạt nói “Người là người tốt, ha ha, té ra Nhất kiếm vô huyết Phùng đại nhân là một người rất rất tốt, đúng là chuyện hôm nay ta mới nghe thấy lần đầu đấy”.

Phùng Tích Phạm nói “Sau khi bọn ta tới Bắc Kinh, yên phận giữ mình, trước nay không gặp người ngoài, cũng không dám phạm vào nửa điều cấm lệnh. Các vị thị vệ đại nhân này không ngừng tới đây chìa tay đòi tiền, bọn ta khuynh gia đãng sản để đáp ứng, chuyện đó cũng chưa đáng gì. Vi đại nhân, ngươi muốn khoác bừa tội danh cho bọn ta, hoàng thượng sáng suốt thấy rõ muôn dặm, chỉ e không phải tùy ý ngươi đâu”.

Người này có kiến thức có can đảm, hơn xa Trịnh Khắc Sảng, sang sảng nói mấy câu ấy khiến Vi Tiểu Bảo nhất thời cũng khó biện bác, nghĩ thầm hai người bọn họ là hàng thần Đài Loan nhưng đã được triều đình phong tước, khinh rẻ cố nhiên không khó, nhưng nếu muốn đánh đổ họ thật thì hoàng thượng chỉ cần hỏi vài câu là sẽ biết rõ ngay lập tức. Hoàng thượng đoán được là mình trả thủ cho sư phụ thì nhất định sẽ xử tội. Y trong lòng đã sợ sệt nhưng ngoài miệng vẫn cứng cỏi, nói “Hôm qua bọn ta bắt được một tên phản tặc, chính miệng y nói muốn đón Trịnh vương gia về lại Đài Loan, chẳng lẽ còn là giả sao?”.

Phùng Tích Phạm nói “Hạng người ấy mở miệng nói bừa, kể tới làm gì? Xin Vi đại nhân đưa người đó tới đây, bọn ta sẽ lên bộ Hình đối chất”.

Vi Tiểu Bảo nói “Ngươi muốn đối chất à? Vậy thì rất tốt, rất hay, rất quang quác, rất tưng tưng”. Rồi quay qua hỏi Trịnh Khắc Sảng “Trịnh vương gia, số tiền ngươi nợ ta, rốt lại lúc nào sẽ trả xong?”.

Phùng Tích Phạm nghe Vi Tiểu Bảo nhìn phải nhìn trái nói qua chuyện khác, xem mặt xét sắc, đoán là y sợ bị hoàng đế biết được, nghĩ thầm chuyện đã tới bước này bèn định lớn mật làm ầm lên với hoàng đế. Hoàng đế tuy còn nhỏ tuổi nhưng mười phần anh minh, chuyện phải trái đen trắng nhất định có thể nhận ra. Nếu không nhân cơ hội này để dứt khoát một lần, trở đi sẽ chịu lụy vô cùng. Quả thật là bị thằng tiểu tử họ Vi này bức ép tới mức không sao nhường nhịn được nữa, Chó cùng cắn giậu, người cùng làm ẩu, ngươi ép ta tới mức phải đưa cổ vào tròng, thì mọi người liều mạng với nhau một phen. Y tâm ý đã quyết, liền nói “Vi đại nhân, Đa Tổng quản, chúng ta cùng tới cáo ngự trạng thôi”.

Vi Tiểu Bảo giật nảy mình, nghĩ thầm nếu kiện cáo trước mặt hoàng thượng thì mình không có bằng chứng nào mà chạy tội, nhưng chuyện này quyết cũng không thể tỏ ra sợ sệt, bèn nói “Tốt lắm! Dắt cả gã họ Trịnh đi luôn! Trước hết cứ giải họ vào thiên lao giam lại cho họ yên ổn hưởng phúc trong đó, qua sáu tháng một năm, chúng ta sẽ thong thả tâu rõ với hoàng thượng”.

Đa Long trong lòng ngần ngừ, Trịnh Khắc Sảng được phong tước công, tới y đòi nợ vòi tiền thì không hề gì, nhưng nếu muốn bắt người thật thì không tâu lên hoàng thượng không được, hạ giọng nói “Vi đại nhân, chúng ta cứ tâu lên hoàng thượng trước, rồi sẽ tới bắt người”.

Trịnh Khắc Sảng trong lòng chợt nhẹ nhõm, vội nói “Đúng đấy, ta không phạm tội gì, sao lại bắt ta?”.

Theo gió phất cờ vốn là trò chơi quen tay của Vi Tiểu Bảo, y lập tức nói “Có phạm tội hay không thì hiện tại còn chưa biết được. Ngươi thiếu tiền của ta còn chưa trả đủ, bây giờ tính sao? Ngươi trả tiền hay đi theo bọn ta?”.

Trịnh Khắc Sảng nghe thấy khỏi phải bị bắt, luôn miệng nói lia lịa “Ta trả tiền, ta trả tiền!”. Rồi vội vàng đi vào nhà trong đem ra một tập ngân phiếu, hai tên gia đinh bưng ra một cái mâm trên đặt nữ trang vàng bạc. Trịnh Khắc Sảng nói “Vi đại nhân, ty chức dốc rương vét tủ tìm được ba bốn vạn lượng, quả thật không còn gì nữa”. Vi Tiểu Bảo nói “Có thật là không còn gì không? Ta không tin, huynh đệ bồi tiếp ngươi vào trong tìm thử”. Trịnh Khắc Sảng nói “Chuyện này… chuyện này… như thế e không tiện lắm”.

Phùng Tích Phạm cao giọng nói “Bọn ta không phạm vương pháp, mà Vi đại nhân lại định lục soát nhà cửa của bọn ta, là vâng thánh chỉ hay có văn thư của Hình bộ đại đường?”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Đây không phải là lục soát nhà cửa. Trịnh vương gia nói không còn gì nữa, ta lại thấy y còn rất nhiều. Chỉ e vàng bạc châu báu, lại còn nhiều đao thương binh khí, long bào long ỷ gì đó của y giấu trong phòng hầm bí mật, nhất thời tìm không ra, mọi người đi tìm giúp y thôi mà”.

Trịnh Khắc Sảng vội nói “Ta… ta làm sao dám cất giấu đao thương võ khí, long ỷ long bào gì gì? Mà nói lại, ty chức chỉ là… chỉ là tước công, cách gọi vương gia ấy thật ngàn vạn lần không dám nhận”.

Vi Tiểu Bảo nói với Đa Long “Đa đại ca, nhờ ngươi đếm qua xem tất cả có bao nhiêu tiền?”.

Đa Long và hai tên thị vệ đếm số ngân phiếu, nói “Ngân phiếu có tất cả ba vạn bốn ngàn ba mươi lượng bạc, còn có một mớ nữ trang không biết đáng giá bao nhiêu”.

Vi Tiểu Bảo đưa tay vào mớ nữ trang xốc xáo vài cái, nhặt một chiếc thoa hình chim phượng lên, kinh sợ nói “Ái chà, Đa đại ca, đây là vật phạm vào cấm lệnh rồi. Hoàng thượng là rồng, chánh cung nương nương là phượng, tại… tại sao vương phi của Trịnh vương gia cũng cài phượng thoa?”.

Phùng Tích Phạm càng tức giận, lớn tiếng nói “Vi đại nhân, ngươi muốn tìm xương trong trứng gà, họ Phùng ta hôm nay liều mạng với ngươi. Các cửa hiệu bán vàng bạc nữ trang trong khắp thiên hạ có nhà nào không có phượng thoa? Nữ quyến nhà các quan trong thành Bắc Kinh người nào không cài phượng thoa?”. Vi Tiểu Bảo nói “Té ra Phùng đại nhân đã thấy hết nữ quyến nhà các quan trong thành Bắc Kinh, ờ, vậy ngươi nói thái thái tiểu thư nhà nào là xinh đẹp nhất thế? Chặc chặc chặc, lợi hại thật, lợi hại thật, nhìn thấy hết nữ quyến của bao nhiêu người như vậy thật nhãn phúc không nhỏ đâu. Vương phi của Khang thân vương, tiểu thư của đại nhân Minh Châu Thượng thư bộ Binh, ngươi đều thấy qua hết rồi phải không?”. Phùng Tích Phạm giận tới mức không nói được ra lời, trong lòng quả thật cũng sợ sệt, biết gã thiếu niên này chơi thân với nhiều người quyền quý trong triều, nếu lại đem câu vừa rồi thêm mắm dặm muối nói ầm lên ra ngoài, thì mình không gặp rủi ro không xong.

Trịnh Khắc Sảng khom người vái lia lịa, nói “Vi đại nhân, tất cả mọi việc xin người khoan dung, ty chức năn nỉ người mà”.

Vi Tiểu Bảo thấy mấy câu vừa rồi khiến Phùng Tích Phạm khiếp đảm không dám lên tiếng, theo gió phất cờ như thế là đủ, bèn cười ha hả, nói “Đa đại ca, thể diện của huynh đệ so với ngươi còn thua xa. Đa đại ca tới đòi nợ lấy được hơn hai trăm vạn lượng bạc, mà huynh đệ đích thân xuất mã chỉ được có một chút này”. Trịnh Khắc Sảng nói “Quả thật ty chức trong nhà không còn gì, chứ quyết không dám… quyết không dám chây nợ không trả”. Vi Tiểu Bảo nói “Chúng ta đi thôi. Đợi qua mười bữa nửa tháng nữa, Trịnh vương gia chở vàng bạc từ Đài Loan tới thì tới đòi nợ là được”. Nói xong đứng lên, bước ra khỏi sảnh.

Phùng Tích Phạm nghe lời lẽ của Vi Tiểu Bảo câu nào cũng vu hãm Trịnh Khắc Sảng mưu đồ chuyện bất pháp, vẫn câu kết với bộ thuộc cũ ở Đài Loan, đó là tội diệt tộc, nếu không phân biện cho rõ ràng thì suốt đời sẽ bị đè nén, khó mà làm người, bèn cao giọng nói “Bọn ta vâng lệnh giữ phép, không dám đi ngang về tắt nửa bước. Những lời mà Vi đại nhân và Đa Tổng quản nói ở đây hôm nay, bọn ta sẽ năm mười mười lăm tâu rõ với hoàng thượng, nếu không thì trời đất tuy rộng lớn, bọn ta cũng không có đất đứng chân đâu”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Cần đất đứng chân à? Có chứ, có chứ. Trịnh vương gia và Phùng tướng quân trở về Đài Loan, đó không phải là một mảnh đất đứng chân rộng lớn sao? Hai người các vị cần bàn đại sự đứng chân, bọn ta không quấy rầy nữa”. Nói xong kéo tay Đa Long, nghênh ngang ra cửa.

***

Vi Tiểu Bảo về tới phủ, lập tức mở tiệc mời bọn thị vệ uống rượu. Đa Long sai thủ hạ mang tới bốn cái rương lớn, mở nắp ra, đều là vàng bạc châu báu và từng chồng từng chồng ngân phiếu, cười nói “Đòi nợ suốt mấy tháng, gia sản của thằng tiểu tử Trịnh Khắc Sảng có quá nửa là trong này rồi. Vi huynh đệ, ngươi kiểm lại rồi nhận đi”.

Vi Tiểu Bảo rút một tập ngân phiếu khoảng mười mấy vạn lượng, nói “Thằng cẩu tặc này hại chết sư phụ ta, nhưng hoàng thượng lại phong tước cho y, mối thù này không trả được nữa rồi. Đa tạ đại ca và các anh em trị cho y thê thảm như thế, giúp huynh đệ hả giận được một chút. Sư phụ ta không có gia quyến, huynh đệ lấy số tiền này sai người tới Đài Loan dựng một ngôi từ đường thật lớn để thờ cúng sư phụ ta. Còn bao nhiêu thì xin đại ca và các anh em cứ chia nhau thôi”.

Đa Long xua tay lia lịa, nói “Không được, không được. Đây là tiền Trịnh Khắc Sảng thiếu huynh đệ. Ngươi chỉ cần sai vài tên thân binh hàng ngày tới cửa đòi nợ cũng không sợ gì y không trả. Bọn ta được ngươi sai sử làm giúp một việc nhỏ, mọi người đều là người mình, tại sao lại đòi tiền ngươi?”. Vi Tiểu Bảo nói “Không giấu gì đại ca, gia sản của huynh đệ đã nhiều tới mức không sao tiêu hết, bạn bè tốt có tiền thì mọi người cùng tiêu, còn phân biệt của người này người kia làm gì?”.

Nhưng Đa Long nói thế nào cũng không chịu nhận, hai người cãi nhau đỏ mặt tía tai, sau cùng các thị vệ nhận một trăm vạn lượng tiền “Đòi nợ phí”, hơn ba mươi vạn lượng thì đưa qua cho các anh em bên Kiêu kỵ doanh chia nhau, số còn lại Đa Long đích thân cầm lên mang vào nội đường của Vi phủ.

Bọn thị vệ kể cả số đang trực ban trong cung cùng chia thì mỗi người được vài ngàn lượng bạc. Ai cũng vô cùng cao hứng, cơm no rượu say rồi bèn mở sòng bạc lớn chơi bài cẩu, gieo xúc xắc trong hoa sảnh phủ công tước.

Đã là anh em tốt thì Vi Tiểu Bảo gieo xúc xắc cũng không giở trò. Đánh bạc đến canh hai, Vi Tiểu Bảo nhìn Đa Long nói “Đa đại ca, huynh đệ còn muốn làm phiền ngươi một chuyện”. Đa Long đánh bạc đang may, tâm tinh khoan khoái, cười nói “Được, bất kể là chuyện gì, chỉ cần ngươi phân phó thôi”. Nhưng lại lập tức nhớ tới một chuyện, bèn nói “Chỉ có một chuyện là không được! Thằng điên chửi người trên phố kia thì hoàng thượng đã dặn ta phải canh giữ nghiêm ngặt, sáng mai sẽ do ngươi làm giám trảm. Nếu ta vì tư tình mà thả ra, thì hoàng thượng sẽ chém đầu ta”.

Vi Tiểu Bảo chính là định nhờ y làm chuyện ấy, nào ngờ y nói ra từ đầu, đã từ chối trước, bèn nghĩ thầm “Hoàng thượng thần cơ diệu toán, chuyện gì cũng đoán trước được. Một trăm vạn lượng bạc mà cũng không mua được tính mạng của Mao đại ca”. Trong lòng não nộ, lại định tới nhà Trịnh Khắc Sảng đòi nợ, nhưng lại nhớ tới dáng vẻ suy sụp của Trịnh Khắc Sảng, cảm thấy đi khinh rẻ hà hiếp loại sâu bọ đáng thương ấy cũng không có gì là anh hùng, liền xoay chuyển ý nghĩ, nói “Thằng điên ấy thì hoàng thượng đã đích thân phân phó, cho dù ta gan to bằng trời cũng không dám tha y. Hôm nay chúng ta đi đòi nợ, Trịnh Khắc Sảng thì cũng thôi, nhưng gã thủ hạ Phùng Tích Phạm của y, con dê đực ấy mới thật là ghê gớm, chúng ta đều bị y coi thường. Huynh đệ nhớ lại, nỗi giận này thật là nuốt không trôi”.

Mấy tên thị vệ bên cạnh nghe thấy, cùng lên tiếng phụ họa, nói “Hôm nay bọn ta nhìn thấy, ai cũng tức giận. Vi đại nhân không cần phiền não, mọi người cứ tìm tới nhà y. Y là một tên hàng tướng thua trận, còn dám lớn mật sính cường ở Bắc Kinh, loại người vô pháp vô thiên ấy chúng ta lại tha cho à?”. Đám thị vệ càng nói càng tức giận, đều nói phải lập tức tới phá phủ bá tước của Phùng Tích Phạm.

Vi Tiểu Bảo nói “Chúng ta tính con rùa đen này thì không thể công khai tìm tới, nếu để quan Ngự sử biết được, dâng một tờ tâu lên, thì tiếng tăm của Ngự tiền thị vệ không được tốt lắm”. Đa Long vội nói “Phải, phải, huynh đệ lo lắng rất đúng”. Vi Tiểu Bảo nói “Đa đại ca cũng không cần đích thân xuất mã, mời Trương đại ca và Triệu đại ca dắt người đi”, rồi nhìn qua Trương Khang Niên và Triệu Tề Hiền nói “Các ngươi giả làm thủ hạ của Thái Đô thống Tiền phong doanh, nói có việc gấp mời con rùa đen Phùng Tích Phạm tới thương nghị. Y cho dù trong lòng ngờ vực cũng không dám không đi. Đi được nửa đường thì cùm tay khóa chân, bịt vải đen lên mắt, nút miệng y lại, dắt đi một vòng qua Đông thành Tây thành, sau cùng mới mang về đây. Mọi người dần cho y một trận, lột hết quần áo y, đem tới bỏ lên giường dì thái thái của Thái Đô thống”.

Bọn thị vệ cười ầm lên, luôn miệng khen là diệu kế. Ngự tiền thị vệ và quan quân Tiền phong doanh trước nay bất hòa, gặp nhau là thường xô xát, Đô thống Tiền phong doanh vốn là A Xích Tế, hôm trước bị Vi Tiểu Bảo dùng kế giam vào thiên lao, về sau tuy được thả ra nhưng Khang Hy trách y vô dụng, làm việc bất lực nên đã cách chức, Đô thống hiện nay họ Thái. Đa Long và Thái Đô thống minh tranh ám đấu đã ầm ĩ từ lâu, chỉ là chẳng ai làm gì được ai.

Đa Long lại càng trong lòng mừng rơn, nói “Thằng đầy tớ lão Thái ấy sợ vợ, cưới hầu thiếp không dám đưa về nhà. Dì thái thái thứ tám y mới cưới là ở Cam Thủy Tỉnh Hồ đồng, buổi tối lão Thái không ngủ lại đó. Chúng ta lột trần truồng Phùng Tích Phạm ra đặt lên giường dì thái thái, lão Thái mà không uất ức suýt chết không xong. Cho dù y nghi ngờ chúng ta giở trò ma, nhưng chỉ cần mọi người không tiết lộ phong thanh thì y cũng không làm gì được”.

Lúc ấy bọn thị vệ tháo hết tiêu ký thị vệ trên người, hi hi hô hô ra cửa kéo đi.

***

Vi Tiểu Bảo và Đa Long uống rượu ngồi chờ trong sảnh. Thân binh thủ hạ của Vi Tiểu Bảo không ngừng đi nghe ngóng tin tức về báo: bọn thị vệ đã tới trước cổng phủ Trung Thành bá, tự xưng là người của Tiền phong doanh, gõ cửa cầu kiến, Phùng Tích Phạm ra đón vào, định mời bọn thị vệ uống trà, Trương Khang Niên nói vâng lệnh Thái Đô thống, có việc quân khẩn cấp ở Đài Loan mời y lập tức tới thương nghị, Phùng Tích Phạm đã lên kiệu, bọn thị vệ đưa tới Tây thành, bọn thị vệ đã cùm khóa Phùng Tích Phạm, bắt hết bọn tùy tùng y dắt theo, đoàn người đi tới Bắc thành, quân tuần đêm của Cửu môn Đề đốc xét hỏi, Triệu Tề Hiền lớn tiếng đáp là quan quân Tiền phong doanh, Phùng Tích Phạm trong kiệu nhất định nghe thấy rất rõ, mọi người đang trên đường về phủ…

Qua khoảng thời gian tàn một nén hương, bọn thị vệ giải Phùng Tích Phạm vào. Trương Khang Niên lớn tiếng nói “Khải bẩm Thái Đô thống, đã giải phạm quan Phùng Tích Phạm tới”. Vi Tiểu Bảo nắm chặt tay, ra hiệu đánh thật tàn nhẫn. Bọn thị vệ quát “Phạm quan Phùng Tích Phạm câu kết với bọn phản nghịch, mưu đồ làm việc bất pháp. Thái Đô thống có lệnh tra khảo thật nặng”, rồi lập tức quát tháo sấn vào y, tay đấm chân đá.

Phùng Tích Phạm võ công cực cao, tính nết cũng mười phần cơ cảnh, lúc bọn thị vệ giả mạo là quan quân Tiền phong doanh tới mời y đã nhìn thấy đường lối không đúng, nếu muốn chạy trốn thì bọn thị vệ tuy đông người cũng quyết không sao bắt được. Nhưng y sau khi đầu hàng được phong tước bá, nghĩ cho dù đối phương có ý làm hại nhưng hoàng đế anh minh, sẽ phân biện được, nếu mình lại trốn chạy thì không khỏi bị khép vào tội danh sợ tội bỏ trốn, từ đây tước lộc tôn vinh kể như trôi theo dòng nước, nên hoàn toàn không hề chống cự. Chỉ vì tham luyến giàu sang mà đến nỗi thân là cao thủ võ công trên đời lại bị bọn thị vệ đánh cho chết đi sống lại.

Nhìn thấy y miệng mũi chảy máu, nội thương rất nặng, Vi Tiểu Bảo vô cùng khoái trá, mối thù giết hại sư phụ đã trả được non nửa, nếu đánh nữa thì y sẽ chết, bèn xua tay ra hiệu ngừng lại, sai thân binh lột hết quần áo của y, cho y vào một cái bao nỉ. Lúc ấy Phùng Tích Phạm hơi thở thoi thóp, đã bất tỉnh nhân sự rồi.

Đa Long cười nói “Tới nhà dì thái thái thứ tám của lão Thái thôi”. Triệu Tề Hiền cười nói “Tốt nhất là cũng lột hết quần áo dì thái thái thứ tám của lão Thái ra, trói hai người vào nhau”. Bọn thị vệ rất vui vẻ, khen hay ầm ĩ. Đa Long muốn thấy dì thái thái thứ tám của Thái Đô thống lột hết quần áo thì ra sao, bèn nói “Lần này thì ta chỉ huy”.

Đoàn người vác Phùng Tích Phạm đang định xuất phát, chợt hai tên thân binh sải chân chạy mau vào bẩm với Vi Tiểu Bảo “Bẩm Vi Tước gia, nhà ngoài của Thái Đô thống ở Cam Thủy Tỉnh Hồ đồng đang ầm ĩ long trời lở đất, có người đánh nhau”.

Bọn thị vệ giật nảy mình, đều nghĩ “Sao lại tiết lộ phong thanh ra được? Thái Đô thống đã có phòng bị, chuyện này rủi ro rồi”.

Vi Tiểu Bảo hỏi “Ai đánh nhau?”. Một tên thân binh nói “Tám người bọn tiểu nhân vâng lệnh đại nhân do thám ở trước sau Cam Thủy Tỉnh Hồ đồng, chợt thấy một đội nương tử quân, tất cả hơn ba mươi người…”. Vi Tiểu Bảo cau mày nói “Cái gì mà nương tử quân?”. Tên thân binh kia nói “Bẩm đại nhân, đại đội người này toàn là phụ nữ bàn chân to, người cầm chày giã tiêu, người cầm thước may áo, người cầm then cửa đòn gánh, xông vào nhà ngoài của Thái Đô thống, ầm ầm chát chát đập phá loạn lên, lôi một nương tử nhỏ không còn xinh đẹp ra lấy roi da đánh túi bụi”. Vi Tiểu Bảo nói “Chuyện này mới là kỳ quái! Đi thám thính lại xem!”. Hai tên thân binh vâng dạ bước ra.

Tiếp đó toán thám tử thứ hai về báo “Bẩm đại nhân, Thái Đô thống cưỡi khoái mã, đã tới Cam Thủy Tỉnh Hồ đồng. Y còn chưa kịp mặc xong quần áo, chân trái đi giày, chân phải thì không. Nguyên là người suất lãnh đội nương tử quân tấn công Cam Thủy Tỉnh Hồ đồng chính là phu nhân của Thái Đô thống”.

Mọi người nghe tới đó cùng cười phá lên, mới biết phu nhân của Thái Đô thống lên cơn ghen, tới phá nhà ngoài của y.

Tên thân binh kia nói tới đó cũng không nhịn cười được, lại nói tiếp “Vị thái thái kia túm Thái Đô thống chát chát đánh hai tát tai, kế đá thêm một cước, rất là ghê gớm. Thái Đô thống khom người vái dài, luôn miệng nói: Xin thái thái bớt giận!”.

Đa Long hoa chân múa tay nói “Phen này thì lão Thái chịu khổ rồi!”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Đại ca, ngươi mau suất lãnh người ngựa tới đó khuyên can. Phen này lão Thái bị ngươi túm được bím tóc, bảo đảm Tiền phong doanh của y từ nay trở đi không dám đối đầu với Ngự tiền thị vệ chúng ta nữa đâu”.

Đa Long được y một câu thức tỉnh, trong lúc cả mừng giơ tay đập mạnh vào trán mình một cái, cười nói “Ta lại ngu ngốc thế đấy! Co hội tốt thế này cũng không biết nắm lấy. Các anh em, mọi người đi xem nhiệt náo đi”, rồi suất lãnh bọn thị vệ chạy mau tới Cam Thủy Tỉnh Hồ đồng.

***

Vi Tiểu Bảo nhìn Phùng Tích Phạm dưới đất, ngẫm nghĩ “Thằng đầy tớ này thì xử trí làm sao là tốt? Tha y ra xong nhất định y sẽ bẩm cáo với hoàng thượng. Cho dù không có bằng chứng gì là mình, ắt hoàng thượng cũng đoán được là mình ra tay”. Y chắp tay sau lưng, đi qua đi lại trong sảnh, lại nghĩ “Trời sáng là phải xử chém Mao đại ca, có cách nào cứu được tính mạng y không? Cướp pháp trường như trong vở Đại Danh phủ thì không được rồi. Cướp pháp trường, cướp pháp trường…”.

Đột nhiên lại nhớ tới một vở tuồng khác “Pháp trường hoán tử! Đúng rồi! Tiết Cương gây họa, cả nhà chết chém, có lão già Từ gì đó râu trắng đem con ruột mình đánh tráo đứa nhỏ Tiết gì đó trong pháp trường ra…”.

Y xem không ít tuồng hát, tên các nhân vật trong vở thì không nhớ rõ lắm, nhưng cốt truyện thì nhớ rất rõ ràng. Vừa nhớ tới vở Pháp trường hoán tử, lại nhớ tới một vở khác Sưu cô cứu cô. “Chuyện này cũng không khác lắm, có một người tên Trình Anh râu đen, đem con trai mình thay vào con chủ, để con mình bị giết mà cứu sống được con chủ. Nhưng không làm thế được, may mà Mao đại ca tuổi tác khác hẳn con mình, nếu không mà bảo mình đem Hổ Đầu, Đồng Trùy tới pháp trường giết đi, đổi Mao đại ca ra, tuy nói bạn bè nghĩa khí là trọng, nhưng những việc như thế thì mình ngàn vạn lần không sao làm được. Tốt lắm, tốt lắm!”. Y đá mạnh một cước vào Phùng Tích Phạm dưới đất, nói “Ngươi thật may mắn, Vi đại nhân nhận ngươi làm con nuôi. Con ruột thì Vi đại nhân không bỏ được, chứ con nuôi thì thương qua loa thôi”.

Lúc ấy lập tức gọi Đội trưởng thân binh vào, thì thào dặn dò một lượt, thưởng y một ngàn lượng bạc, lại đưa thêm một ngàn lượng để y chia cho số thân binh lo việc còn lại. Viên Đội trưởng khom người cảm tạ, nói “Xin đại nhân cứ yên tâm, tất cả sẽ thu xếp chu đáo, quyết không có gì sơ suất đâu”.

Vi Tiểu Bảo sắp xếp xong, đi vào nội đường. Bảy người vợ và các con đã được thái hậu triệu kiến vào cung, trong phòng vắng ngắt, y để cả quần áo nằm xuống giường một lúc, không bao lâu thì trời sáng.

Đến giờ Thìn, trong cung truyền chỉ ra nói “Giang dương đại đạo Mao Thập Bát đại nghịch bất đạo, nhục mạ đại thần, lập tức xử trảm, sai Phủ viễn đại tướng quân, Nhất đẳng Lộc Đỉnh công Vi Tiểu Bảo làm giám trảm”.

Vi Tiểu Bảo nghênh tiếp chỉ dụ, điểm thân binh ra chờ ngoài cổng phủ, chỉ thấy Đa Long suất lãnh mấy mươi tên Ngự tiền thị vệ áp giải Mao Thập Bát tới.

Mao Thập Bát mắt bầm mũi sưng, trên mặt đầy máu, hiển nhiên là bị tra khảo. Y vừa thấy Vi Tiểu Bảo là ngoác miệng chửi lớn “Vi Tiểu Bảo, thằng tiểu Hán gian vô sỉ nhà ngươi, hôm nay ngươi làm giám trảm quan chém đầu lão tử, lão tử chết đi không oan uổng chút nào. Ai bảo hôm ấy ta mù, dắt thằng tiểu Hán gian ngươi từ ổ điếm ở Dương Châu lên Bắc Kinh?”. Bọn thân binh lớn tiếng quát tháo, nhưng Mao Thập Bát càng chửi càng hung dữ.

Vi Tiểu Bảo không đếm xỉa gì tới y, hỏi Đa Long “Lão Thái thế nào?”. Đa Long cười nói “Tối qua lúc ta tới nơi, lão Thái đã bị phu nhân cào cấu tới mức máu me đầy mặt. Y vừa nhìn thấy ta, dáng vẻ vô cùng thảm hại. Ta vừa dỗ dành vừa dọa dẫm, khuyên giải phu nhân y, lại đón dì thái thái thứ tám của y về nhà ta, sai hai người tiểu thiếp làm bạn với cô ta. Lão Thái cảm ơn luôn miệng, rất là cảm kích”.

Vi Tiểu Bảo cười nói “Vị dì thái thái thứ tám ấy dung mạo ra sao?”. Đa Long giơ ngón tay cái lên nói “Ha ha, khá lắm!”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Nhưng ngươi không được thấy sắc động tâm, nhân lúc cháy nhà xông vào hôi của đấy”. Đa Long hô hô cười rộ, nói “Huynh đệ cứ yên một trăm hai mươi cái tâm đi, đại ca của ngươi đâu lại kém cỏi thế? Tuy lão Thái đối đầu với ta, nhưng những việc như thế thì Đa đại ca ngươi không làm đâu”.

Lúc ấy hai người giải Mao Thập Bát ra pháp trường chỗ cửa chợ Thái Thị. Đa Long cưỡi ngựa, Vi Tiểu Bảo đi một chiếc xe ngựa lớn. Mao Thập Bát ngồi trong một chiếc xe bò bỏ mui, hai tay bị trói, trên cổ cắm một tấm biển gỗ viết “Khâm phạm Mao Thập Bát bị xử chém”. Chiếc xe bò từ phố lớn Loa Mã thị đi về phía tây, bách tính nhao nhao kéo ra xem. Mao Thập Bát dọc đường vừa la vừa hát, kêu lớn “Mười tám năm sau lão tử sẽ lại là một trang hảo hán. Sở dĩ ta lấy tên Mao Thập Bát vì đã sớm biết là phải bị chém đầu”. Bách tính hai bên đường lớn tiếng khen ngợi, khen y “Giỏi lắm, là một hán tử cứng cỏi”.

Tới pháp trường cửa chợ Thái Thị ở ngã tư phố lớn Loa Mã thị và phố lớn Tuyên Vũ môn, thân binh của Vi Tiểu Bảo đã dựng xong rạp và hàng rào trước sau trong đêm, canh gác cực kỳ nghiêm mật. Đa Long được Khang Hy dặn dò, sợ người Thiên Địa hội tới cướp pháp trường, đã báo cho Cửu môn Đề đốc phái hai ngàn quân tới canh giữ chung quanh.

Mao Thập Bát hiên ngang đứng giữa pháp trường, quát lớn “Chúng ta đều là bách tính Đại Hán, giang sơn tươi đẹp này lại bị người Thát Đát chiếm cứ, thế nào phải có một ngày giết sạch quân Thát Đát”.

Vi Tiểu Bảo xuống xe vào rạp, chiếc xe dừng ở cạnh rạp. Vi Tiểu Bảo lên bục, mời Đa Long ngồi bên cạnh. Đa Long cau này nói “Tên phạm nhân này toàn nói những lời đại nghịch bất đạo, kích động nhân tâm ở đây, chúng ta phải chém y mau đi”. Vi Tiểu Bảo nói “Vâng”, rồi quát “Mang phạm nhân ra”. Bốn tên thân binh giải Mao Thập Bát vào rạp, định bắt y quỳ xuống, nhưng Mao Thập Bát nói thế nào cũng không chịu quỳ. Vi Tiểu Bảo nói “Không cần quỳ”. Rồi quay đầu nói với Đa Long “Đại ca, tra nghiệm đúng người rồi, không lầm phải không?”. Đa Long nói “Không lầm!”.

Vi Tiểu Bảo nói “Tra nghiệm đúng người, xử chém phạm nhân Mao Thập Bát”, cầm bút son lên khuyên một vòng tròn trên tấm bài gỗ ném ra ngoài. Một tên thân binh nhặt lên, giải Mao Thập Bát ra ngoài.

Vi Tiểu Bảo nói “Đa đại ca, ta cho ngươi xem một cái rất hay”. Nói xong lấy trong tay áo ra một xấp khăn tay, đưa qua trước mặt Đa Long, trên thêu một bức Xuân cung đồ, nam nữ trong tranh mặt mũi xinh đẹp, tư thế sinh động. Đa Long vừa nhìn thấy, ánh mắt lập tức bị hút vào đó, lật qua bức ấy, chiếc bên dưới lại thêu một bức khác, tư thế vô cùng kỳ lạ. Đa Long cười nói “Dáng vẻ thế này thật kỳ quái quá”, liên tiếp lật qua, nhân vật tư thế thêu trên các bức tiếp theo càng lúc càng lạ lùng, có bức một nam hai nữ, có bức lại hai nam ba nữ. Đa Long chỉ thấy máu trong người chảy rần rật, cười nói “Huynh đệ, bảo bối này ở đâu ra vậy? Ngươi bán lại cho ca ca một ít”. Vi Tiểu Bảo cười nói “Đây là huynh đệ kính biếu đại ca mà”. Đa Long như nhặt được vật chí bảo, mặt mày rạng rỡ luôn miệng cảm tạ, trân trọng cất xấp khăn tay vào bọc.

Đúng lúc ấy, bên ngoài bình bình liên tiếp ba tiếng pháo nổ, Đội trưởng thân binh bước vào bẩm “Đến giờ rồi, xin đại nhân giám trảm”. Vi Tiểu Bảo nói “Được” rồi đứng dậy kéo tay Đa Long bước ra ngoài rạp. Chỉ thấy Mao Thập Bát cúi đầu rũ rượi quỳ giữa pháp trường, giống như đã ngất đi. Quân đánh trống thúc trống ầm ầm, tiếng trống vừa ngừng đao phủ khoác áo hồng giơ cánh tay lên, thanh quỷ đầu đao trong tay hạ mạnh xuống, lập tức chém rơi đầu phạm nhân, chân trái phi lên đá cái đầu bay đi. Thân hình phạm nhân đổ vật ra phía trước, máu tươi từ cổ phun ra ồng ộc.

Đa Long nói “Việc sai sử đã làm xong rồi, chúng ta chia tay thôi, ta phải về gặp hoàng thượng phục chỉ”. Vi Tiểu Bảo nghẹn ngào nói “Đa đại ca, người này vốn có giao tình với ta, quả thật là vì có nghiêm chỉ của hoàng thượng, không cứu y được, ồ!”. Nói xong đưa tay áo lau nước mắt, nghẹn ngào sụt sịt khóc lóc. Đa Long thở dài nói “Huynh đệ rất có nghĩa khí. Ngươi cứ thu xếp chôn cất y cho chu đáo, thì cũng là rất tốt với người đã chết rồi”. Vi Tiểu Bảo dạ một tiếng, vẫn khóc lóc không thôi.

Vi Tiểu Bảo lấy tay áo lau nước mắt, thật ra là dùng gừng sống chuẩn bị sẵn trong tay áo quẹt lên hai mắt, cay tới mức hai mắt đỏ lên, nước mắt chảy ròng ròng, trong bụng thì cười thầm, may mà mưu kế đã thành công. Đa Long lại an ủi vài câu, đưa y lên xe rồi mới lên ngựa ra về. Đám thân binh xúm xít quanh xe, đưa y về thẳng phủ công tước. Mấy tên thân binh khác lấy chiếu cói bó thi thể phạm nhân, đặt vào một cái quan tài đã chuẩn bị sẵn bên cạnh, đậy nắp lại rồi đóng đinh lên.

Bách tính xem xử chém nhao nhao bàn tán, đều nói Mao Thập Bát trước lúc chết còn ngoác miệng chửi lớn, quả thật là anh hùng hảo hán, cũng có người sợ sệt thì lên tiếng trách móc, nói gã phạm nhân này đại nghịch bất đạo, quyết không được khen ngợi y, để khỏi chuốc họa vào thân.

Vi Tiểu Bảo về tới trước phủ thì xuống xe, chiếc xe ấy vẫn đi thẳng về phía nam, ra khỏi thành Bắc Kinh, vẫn đi về phía nam, hướng tới Dương Châu.

***

Vi Tiểu Bảo vào cung phục chỉ. Khang Hy lập tức triệu kiến. Y đã được Đa Long về báo, biết Vi Tiểu Bảo lúc giám trảm Mao Thập Bát chảy nước mắt không thôi, lúc ấy thấy y hai mắt đỏ hoe sưng vù, trong lòng cảm thấy hơi xấu hổ, lại nghĩ tới y trung thành vì chúa, rất là khó có, bèn ôn tồn an ủi mấy câu, nói “Tiểu Quế tử, số quân La Sát ngươi bắt được, phần lớn xin ta thả về nước, ta đã thả rồi, nhưng có hơn hai trăm tên tình nguyện ở lại Trung Quốc”.

Vi Tiểu Bảo nói “Ở Bắc Kinh nhiệt náo vui vẻ hơn Mạc Tư Khoa, theo làm việc cho hoàng thượng thì vinh dự hơn nhiều so với theo làm việc cho gã tiểu Sa hoàng vô dụng kia”. Khang Hy mỉm cười nói “Ta phiên chế số quân La Sát này thành hai đội Nga La Tư Tá lãnh. Hai đội quân này cứ giao cho ngươi quản lãnh thôi. Ngươi phải quản thúc cho tốt, đừng để chúng sinh sự ở Bắc Kinh”. Vi Tiểu Bảo cả mừng, quỳ xuống tạ ơn.

Ra khỏi cung, hai đội quân La Sát đã chờ ở cạnh cầu Kim Thủy cửa Thái Hòa. Quân La Sát mặc trang phục quân Thanh vừa may, toàn thân sáng loáng, cũng rất oai vệ. Vi Tiểu Bảo sai thưởng mỗi người hai mươi lượng bạc, cho nghỉ ba ngày. Quân La Sát lớn tiếng “Hua ra” không ngớt.

Cuối đời Khang Hy, hai đội quân La Sát này vẫn phục dịch trong quân Thanh, vô cùng trung thành. Sứ thần nước ngoài tới Bắc Kinh, thấy hoàng đế Trung Quốc sai khiến quân La Sát, ai cũng kính sợ. Đến khi quân La Sát dần dần chết già, biên chế Nga La Tư Tá lãnh mới giải tán. (*)

Vi Tiểu Bảo trở về phủ, công chúa và các vị phu nhân, ba đứa con đều đã từ cung trở về, người nào cũng được thái hậu ban thưởng không ít, nhưng công chúa lại bực dọc không vui.

Vi Tiểu Bảo vừa hỏi, nguyên là thái hậu đối với bảy người nhất thị đồng nhân, tuy công chúa là con ruột nhưng bà vẫn không có nửa câu thân thiết. Vi Tiểu Bảo tự nhiên hiểu rõ nguyên cớ bên trong, nghĩ thầm “Thái hậu không đặc biệt đối xử không tốt với cô là đã nể mặt chồng cô lắm rồi”. Bèn nói “Thái hậu rất biết đại thể, chỉ sợ đối xử đặc biệt với cô, thì sáu chị em kia sẽ ghen tức”. Công chúa tức giận nói “Bà là mẹ của ta, đối xử tốt với ta, chẳng lẽ họ cũng ghen tức à?”. Vi Tiểu Bảo ôm nàng cười nói” Ta đối xử với cô đặc biệt tốt, xem họ có ghen tức không nhé”. Các vị phu nhân cười rộ. Công chúa là người thẳng tính, mọi người đùa giỡn một lúc, cũng cảm thấy thư thái trở lại.

Sau đó hơn mười ngày, vương công đại thần từng người bày yến chúc mừng Vi Tiểu Bảo, xem hát đánh bạc, không ngày nào rảnh.

Hôm ấy Đa Long tới thăm, nói Phùng Tích Phạm đã thất tung hơn mười ngày, gia nhân của y đã báo với phủ Thuận Thiên. Đa Long hạ giọng hỏi “Huynh đệ, đêm ấy chúng ta đánh y một trận, về sau ra sao?”. Vi Tiểu Bảo nói “Về sau đã đưa y về nhà, thằng đầy tớ ấy đi đâu rồi?”. Đa Long nói “Không phải ngươi giết y sao?”. Vi Tiểu Bảo nói “Nếu ta bảo người giết y, ngươi bên cạnh nhất định cũng nhìn thấy. Đa đại ca, ngươi có nhìn thấy không?”. Đa Long vội nói “Không có, không có. Chúng ta chỉ đánh y một trận, chứ đâu có giết y?”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng đấy, huynh đệ sau khi vâng chỉ cầm quân, tuy đã giao lại chức sai sử Phó Tổng quản Ngự tiền thị vệ, nhưng chỉ cần Ngự tiền thị vệ làm việc gì, bất kể là quan hệ thế nào, huynh đệ cũng gánh vác với đại ca.

Đa Long mỉm cười nói “Làm bậy thì không có đâu. Phùng gia nhất định nói rằng đêm ấy lão Thái ở Tiền phong doanh phái người tới đón y đi, sau đó không thấy về nhà. Phủ Thuận Thiên đích thân tới gặp lão Thái, hỏi về chuyện đêm ấy. Lão Thái nhăn nhăn nhó nhó, ấp a ấp úng không muốn nói nhiều, về sau thẹn quá hóa giận, nổi nóng làm ầm lên, phủ Thuận Thiên không dám điều tra nữa”. Nói xong đứng lên, vỗ vỗ vai Vi Tiểu Bảo, cười nói “Huynh đệ, ngươi là phúc tướng. Không ngờ sự tình lại vừa khéo như thế, phu nhân của lão Thái muộn không muộn, sớm không sớm, lại đúng đêm ấy nổi cơn ghen, suất lãnh bọn nương tử quân tới đánh Cam Thủy Tỉnh Hồ đồng. Như thế thì chuyện gì lão Thái cũng phải chịu rồi”. Y đoán Phùng Tích Phạm đã bị Vi Tiểu Bảo ngấm ngầm giết chết, chuyện này tuy mình không dính líu gì tới, nhưng giá họa cho Đô thống Tiền phong doanh thì rất hợp ý mình.

Y nào biết phu nhân của Thái Đô thống không sớm không muộn ra quân đúng lúc ấy hoàn toàn không phải là tình cờ, mà là do Vi Tiểu Bảo tính đúng thời khắc, sai người tới báo tin cho bà ta. Y tự nhiên càng không biết Vi Tiểu Bảo đã phái thân binh dựng hai lớp vách trong rạp lúc giám trảm, giấu Phùng Tích Phạm trong đó. Đến khi tra nghiệm Mao Thập Bát xong, kéo ra ngoài rạp, Vi Tiểu Bảo lấy khăn tay thêu Xuân cung đồ ra để thu hút ánh mắt của Đa Long, bọn thân binh thủ hạ lập tức đánh tráo Mao Thập Bát và Phùng Tích Phạm. Lúc ấy Phùng Tích Phạm đã hôn mê bất tỉnh, mặt đầy máu tươi, trên người cũng mặc quần áo giống hệt Mao Thập Bát, cúi đầu quỳ xuống giữa pháp trường, lập tức bị chém đầu, diện mạo vóc dáng hai người Mao Phùng tuy khác nhau, nhưng không ai phát giác ra người bị giết thật ra là Phùng Tích Phạm.

Thân binh bọc Mao Thập Bát cho vào xe của Vi đại nhân, bịt miệng y lại, ngựa không dừng vó, đưa thẳng về Dương Châu, qua sông Hoàng Hà mới nói thật mọi chuyện với y, lại tặng y ba ngàn lượng bạc. Mao Thập Bát giữa cái chết tìm được sự sống, mất hết nhuệ khí, chỉ cảm thấy Vi Tiểu Bảo liều mạng cứu mình, hoàn toàn không phải là người không có nghĩa khí, nên cũng không nói ầm lên.

***

Vi Tiểu Bảo uống rượu mấy ngày liên tiếp, cũng hơi mệt mỏi, nhớ tới các huynh đệ trong Thiên Địa hội, nghĩ thầm hoàng đế thủ đoạn ngày càng lợi hại, mình hưởng phúc trong phủ công tước nhưng các huynh đệ trong Thanh Mộc đường thì đừng để bị hoàng đế một mẻ lưới quét sạch, phải thương lượng kế sách mới xong. Lúc ấy cải trang như công tử con nhà giàu, bảo Song Nhi giả làm tùy tùng, hai người tới Thiên Kiều, trà trộn trong đám đông nửa giờ thì thấy Từ Thiên Xuyên lưng mang rương thuốc ngồi uống trà trong một quán trà nhỏ.

Vi Tiểu Bảo lập tức bước vào quán trà, ngồi xuống đầu bàn của Từ Thiên Xuyên, hạ giọng gọi “Từ đại ca!”. Từ Thiên Xuyên đứng phắt lên, mặt đầy vẻ tức giận, sải chân bước ra ngoài. Vi Tiểu Bảo kinh ngạc, cũng bước ra theo, thấy Từ Thiên Xuyên đi vào chỗ vắng, lập tức cùng Song Nhi bám theo phía sau.

Từ Thiên Xuyên đi qua ba con hẻm, vòng qua hai phố nhỏ, tới trước một hẻm nhỏ, đầu hẻm có hai cây ngân hạnh lớn. Y bước vào hẻm, tới trước căn nhà thứ năm gõ cửa mấy cái. Chỗ cánh cửa mở có Phàn Cương bước ra. Y vừa thấy Vi Tiểu Bảo, đang sửng sốt thì trên mặt cũng đã đầy vẻ tức giận. Vi Tiểu Bảo bước lên cười nói “Phàn đại ca, chào ngươi!”. Phàn Cương hừ một tiếng, cũng không trả lời. Từ Thiên Xuyên làm mặt lạnh, hỏi “Vi đại nhân, ngươi mang binh mã tới bắt bọn ta phải không?”.

Vi Tiểu Bảo vội nói “Từ tam ca… tại… tại sao lại nói đùa như thế?”. Phàn Cương rảo chân bước ra ngoài hẻm nhìn quanh, rồi trở vào nhà, đóng cửa lại. Vi Tiểu Bảo và Song Nhi theo hai người vào viện, vào tới đại sảnh, chỉ thấy bọn Lý Lực Thế, Kỳ Thanh Bưu, Huyền Trinh đạo nhân, Cao Ngạn Siêu, Tiền Lão Bản đang tụ họp trong đó. Mọi người vừa thấy Vi Tiểu Bảo đều “A” lên một tiếng, đứng phắt cả dậy.

Vi Tiểu Bảo chắp tay nói “Các vị ca ca, mọi người đều khỏe chứ?”. Huyền Trinh đạo nhân giận dữ nói “Bọn ta còn chưa bị ngươi hại chết, tính ra cũng còn khỏe!”. Soạt một tiếng, rút bội kiếm ở lưng ra. Vi Tiểu Bảo lùi lại một bước, run lên nói “Các… các ngươi tại sao lại đối xử với ta… với ta như thế? Ta có chuyện gì không… không phải với các ngươi đâu?”.

Huyền Trinh đạo nhân cao giọng giận dữ nói “Tổng đà chủ bị ngươi hại chết, Phong nhị ca cũng bị ngươi hại chết, mấy hôm trước ngươi lại giết Mao Thập Bát! Bọn… bọn ta chỉ hận không rút gân lột da ngươi được thôi”. Vi Tiểu Bảo cả sợ, vội nói “Không… không có chuyện ấy, đó đều là giả mà”. Huyền Trinh sấn tới một bước, tay trái chụp cổ áo y, cao giọng nói “Bọn ta đang không nghĩ ra được cách nào giết ngươi, thì ngươi… thằng tiểu Hán gian ngươi hôm nay lại tới cửa nộp mạng, đúng là Tổng đà chủ trên trời khôn thiêng”.

Vi Tiểu Bảo thấy tình thế không xong, quay đầu lại định thi triển công phu Thần hành bách biến, chạy là thượng sách, lại thấy Từ Thiên Xuyên và Phàn Cương hai người tay cầm binh khí đứng sau lưng mình, đành nói “Mọi người đều là huynh đệ, cần gì… cần gì phải nóng nảy như thế?”, Huyền Trinh nói “Ai xưng huynh gọi đệ với thằng tiểu Hán gian nhà ngươi? Thằng tiểu quỷ ngươi hoa ngôn xảo ngữ, chẳng có chỗ nào đáng nghe cả. Trước hết cứ móc bộ lòng chó của ngươi ra tế Tổng đà chủ và Phong nhị ca rồi sẽ nói chuyện”. Tay trái rút lại một cái, kéo y vào sát người mình. Vi Tiểu Bảo la lớn “Oan uổng quá, oan uổng quá!”.

Song Nhi nhìn thấy nguy cấp, rút đoản thương La Sát trong bọc ra, chĩa lên nóc nhà đoàng một tiếng bắn luôn một phát, trong phòng lập tức khói bay mù mịt, kế đó chụp hậu tâm Vi Tiểu Bảo, dùng sức kéo một cái. Huyền Trinh năm xưa từng nếm mùi đau khổ vì hỏa khí Tây dương, cha anh đều chết vì hỏa khí, vừa nghe tiếng súng, trong lòng rúng động, Vi Tiểu Bảo đã bị Song Nhi giật mất.

Song Nhi nhảy lên một góc nóc nhà, đứng chặn trước mặt Vi Tiểu Bảo, chĩa súng vào mọi người quát “Các ngươi có biết nói lý lẽ không?”.

Huyền Trinh hai mắt đỏ ngầu, quát lớn “Mọi người xông lên, liều mạng với chúng đi!”. Rồi vung kiếm sấn tới, Tiền Lão Bản đưa tay kéo lại, nói “Đạo trưởng, khoan đã!”, rồi nói với Song Nhi “Ngươi có lý lẽ gì thì nói ra nghe thử”.

Song Nhi nói “Được!”. Lúc ấy bèn nói việc Vi Tiểu Bảo vì cứu Trần Cận Nam và các hảo hán mà phải xuất vong thế nào, bị Thần Long giáo bắt lên đảo Thông Ngật, Trần Cận Nam bị Trịnh Khắc Sảng và Phùng Tích Phạm hai người giết chết thế nào, Phong Tế Trung mưu phản bại lộ bị mình bắn chết thế nào, nhất nhất kể lại. Nàng không phải là người mồm mép lanh lợi, nói năng rất không dễ nghe, nhưng quần hào tiếp xúc với nàng lâu ngày, biết nàng tính tình thật thà, lại thấy nàng thuận miệng kể ra, không hề có chút ngần ngừ, bao nhiêu tình tiết như thế không phải trong phút chốc có thể bịa đặt ra được, Vi Tiểu Bảo vì cứu giúp mọi người mà bị cách chức quan, phủ bá tước bị đại pháo bắn tan tành, mọi người vốn đã đích thân trải qua, lại nhớ kỹ lại việc làm của Phong Tế Trung, quả nhiên tất cả đều phù hợp, bất giác đều tin tưởng.

Huyền Trinh nói “Nếu như thế, thì tại sao trong thánh… thánh… con mẹ nó thánh chỉ của hoàng đế Thát Đát lại nói Vi Hương chủ hại chết Tổng đà chủ?”. Y đổi giọng gọi là “Vi Hương chủ”, đủ thấy trong lòng đã tin được chín phần. Song Nhi lắc đầu nói “Chuyện đó thì ta không biết”. Kỳ Thanh Bưu nói “Đây là âm mưu của hoàng đế Thát Đát, muốn Vi Hương chủ một đao cắt đứt với bản hội, từ nay trở đi dốc lòng làm quan lớn của người Thát Đát”.

Từ Thiên Xuyên nói “Lời Kỳ huynh đệ nói không sai”, rồi tra đao vào vỏ, hai gối cong lại quỳ xuống trước mặt Vi Tiểu Bảo, nói “Cả đám bọn ta rất ngu xuẩn hồ đồ lỗ mãng, đắc tội với Vi Hương chủ, đáng chết hàng vạn lần, xin cam tâm chịu phạt”. Quần hào cũng đều nhất tề quỳ xuống, Huyền Trinh tát vào mặt mình mấy cái, nói “Đáng chết, đáng chết!”.

Vi Tiểu Bảo và Song Nhi vội quỳ xuống đáp lễ. Vi Tiểu Bảo vừa định thần, nói “Xin các vị ca ca đứng lên, có câu Không biết thì không bắt tội. Nhất thời lầm lẫn thì có hề gì?”. Quần hào đứng lên, lại lên tiếng xin lỗi. Vi Tiểu Bảo lúc ấy rất đắc ý, hoa chân múa tay kể lại mọi chuyện. Y kể tự nhiên rõ ràng sinh động, chuyện gì cũng vô cùng nguy hiểm nhưng trong tai quần hào thì khó tin hơn lời Song Nhi nhiều.

Quần hào chụm đầu ghé tai bàn bạc một hồi, Lý Lực Thế nói “Vi Hương chủ, Tổng đà chủ bất hạnh bị gian nhân hại chết, Thiên Địa hội quần long vô thủ, huynh đệ mười đường đang bàn suy cử chức Tổng đà chủ. Huynh đệ trong Thanh Mộc đường chúng ta muốn suy cử ngươi làm Tổng đà chủ. Chỉ là sợ huynh đệ trong chín đường kia không phục, có khi lại có người mang lòng nghi kỵ , nên mọi người muốn mời ngươi lập một công lao”.

Vi Tiểu Bảo xua tay lia lịa, nói “Chức Tổng đà chủ thì nhất định là ta không làm được”, nhưng lại nảy ý tò mò, hỏi “Nhưng không biết các vị muốn ta lập công lao gì?”. Lý Lực Thế nói “Loạn Tam phiên đã yên, Đài Loan lại bị người Thát Đát chiếm rồi, người La Sát phía bắc cũng bị Vi Hương chủ đánh lui, đại nghiệp phản Thanh phục Minh của chúng ta càng lúc càng khó”. Vi Tiểu Bảo thở dài một tiếng, nói “Đúng thế”, nhưng trong lòng lại nghĩ “Đã là khó thì mọi người cứ ngãng ra, không làm việc phản Thanh phục Minh là xong”.

Lý Lực Thế nói “Hoàng đế Thát Đát tuy còn nhỏ tuổi nhưng mười phần tinh minh tài giỏi, lại biết thu phục nhân tâm. Bách tính thiên hạ đối với tiền triều đã dần dần lãng quên. Nếu cứ chần chừ thêm vài năm, chỉ e ngai vàng của người Thát Đát càng thêm yên ổn”. Vi Tiểu Bảo lại thở dài một tiếng, nói “Đúng thế”, nghĩ thầm “Tiểu Huyền tử ngai vàng yên ổn cũng không có gì là không tốt”. Lý Lực Thế nói “Vi Hương chủ rất được hoàng đế tin dùng, mọi người xin ngươi nghĩ cách mang các huynh đệ trà trộn vào cung hành thích hoàng đế Thát Đát”.

Vi Tiểu Bảo cả kinh, run lên nói “Chuyện… chuyện ấy không làm được đâu”. Phàn Cương nói “Xin hỏi Vi Hương chủ, không biết bên trong có chỗ nào khó khăn?”. Vi Tiểu Bảo nói “Trong hoàng cung có rất đông thị vệ, lại có Kiêu kỵ doanh, Tiền phong doanh, Hộ quân doanh, Hỏa khí doanh, Kiện nhuệ doanh, Hồ thương doanh bảo giá, không làm bừa được. Chỉ nói thị vệ thôi cũng đã có Ngự tiền thị vệ, Càn Thanh môn thị vệ, Tam kỳ thị vệ. Hôm trước Thần quyền vô địch Quy Tân Thụ Quy lão gia anh hùng như thế mà còn thất thủ mất mạng, huống chi là ta? Muốn hành thích hoàng thượng thì đúng là trên chuyện khó chồng thêm chuyện khó”.

Quần hào nghe y thẳng thừng từ chối, đã rất không vui, lại nghe y nói hai chữ “hoàng thượng” đầy hơi hám nô tài, ai cũng lộ vẻ tức giận.

Phàn Cương đưa mắt nhìn mọi người một cái rồi nói với Vi Tiểu Bảo “Vi Hương chủ, hành thích hoàng đế Thát Đát dĩ nhiên rất khó, nhưng do ngươi chủ trì đại cuộc, cũng không phải tuyệt nhiên không có hy vọng thành công. Anh em bọn ta mà đã vào cung thì không ai mong còn sống trở ra, nhưng bất kể thế nào cũng phải bảo vệ cho Vi Hương chủ được bình an. Ngươi từng lập không ít công lao cho bản hội, trong mười mấy vạn huynh đệ của bản hội quả thật không có ai bằng được ngươi. Thiên Địa hội và người Thát Đát không đội trời chung, từ nay trở đi trọng trách phản Thanh phục Minh toàn nhờ vào Vi Hương chủ gánh vác”.

Vi Tiểu Bảo lắc đầu nói “Chuyện đó thì ta nhất định không làm. Hoàng thượng muốn ta tiêu diệt Thiên Địa hội, ta không chịu làm, đó là biết nghĩa khí. Các ngươi muốn ta hành thích hoàng thượng, ta cũng không làm, đó cũng là biết nghĩa khí”.

Huyền Trinh tức giận nói “Ngươi là người Hán mà lại biết nghĩa khí với hoàng đế Thát Đát, vậy không phải là… không phải là Hán…”. Y vốn định chửi ra hai chữ “Hán gian”, nhưng rốt lại vẫn nhịn được. Phàn Cương nói “Chuyện này mười phần trọng đại. Vi Hương chủ khó mà ưng thuận được ngay lập tức, đó cũng là chuyện thường. Xin ngươi cứ suy nghĩ kỹ , rồi sẽ sai bảo mọi người là được”.

Vi Tiểu Bảo vội nói “Được, được! Ta sẽ về suy nghĩ kỹ , ta sẽ về suy nghĩ kỹ ”.

Từ Thiên Xuyên thấy y không có chút nào thật lòng, bèn nói “Chỉ mong Vi Hương chủ đừng quên di chí của cố Tổng đà chủ, không quên thảm họa vong quốc, phàm người Hán chúng ta thì quyết không thể làm nô tài cho người Thát Đát”. Vi Tiểu Bảo nói “Đúng, đúng, chuyện đó thì không thể quên được”. Quần hào biết y nói không thật lòng, ai cũng im lặng.

Vi Tiểu Bảo nhìn nhìn người này, ngó ngó người kia, cười nói “Các vị ca ca sao không ai nói gì cả thế?”. Quần hào cũng không ai lên tiếng. Vi Tiểu Bảo cảm thấy cụt hứng, trong lòng nhột nhạt, liền nói “Vậy hôm nay chúng ta tạm thời chia tay, để ta về suy nghĩ kỹ rồi sẽ tới bàn với các vị đại ca”, nói xong đứng dậy. Quần hào đưa y ra tới đầu hẻm, cung kính làm lễ từ biệt.

(*) Xét : về tình tiết liên quan tới việc tù binh La Sát phiên chế vào quân Thanh, xin xem Du Chính Quy, Quý Tỵ loại cảo, quyển 9 Nga La Tư Tá lãnh khảo. Tiếu Nhất Sơn trong Thanh đại thông sử nói “Tù binh về kinh sư, Huyền Hoa tha cho, phiên chế làm Tả Lãnh, là quân người Nga La Tư, con cháu hiện nay vẫn còn”. Vậy thì quân Nga La Tư có người lấy phụ nữ Trung Quốc sinh con đẻ cái.