Hồi 10: Dập ngòi nổ hào kiệt nát mình – Ngửi thức ăn chí tôn méo mặt

Quần hùng ăn uống no nên rồi về phòng nghỉ ngơi. Đến giờ Dậu, một gã đầu mục tới báo: “Địa đạo đào vào tới phủ đề đốc thì gặp đá lớn chặn đường phía trước. Hiện giờ đã đào vòng xuống dưới, qua khỏi tảng đá rồi đào tiếp vào trong.”

Trần Gia Lạc và Từ Thiên Hoằng phân phối nhân mã, ai đánh bên trái ai đánh bên phải, ai tiếp ứng ai đoạn hậu, tất cả đều sắp xếp đàng hoàng. Đến giờ Dậu ba khắc, đầu mục lại đến báo: “Đã đào tới tấm thiết bản, sợ bị người bên trong phát giác nên tạm thời dừng lại.”

Trần Gia Lạc nói: “Đợi một giờ nữa cho khuya hẳn, chúng ta sẽ ra tay.”

Một giờ dài như thế kỷ, mọi người chờ đợi ngứa ngáy tay chân.

Lạc Băng ngồi đứng không yên.

Chương Tấn đi tới đi lui trong sảnh lẩm bẩm chửi mắng.

Thường thị huynh đệ lấy một bộ bài ra chơi bài cẩu với Dương Thành Hiệp và Vệ Xuân Hoa. Hai người Dương, Vệ chẳng để ý gì tới ván bài nên bị anh em họ Thường ăn hết ván này tới ván khác.

Chu Ỷ lấy Ngưng Bích Kiếm ra xem tỉ mỉ, rồi tìm mấy thanh đao kiếm cũ ra thử. Hễ chém xuống là đao thép kiếm thép gãy đôi, quả nhiên sắc bén vô cùng. Từ Thiên Hoằng ngồi cạnh nàng ngắm nghía, chốc chốc lại mỉm cười.

Mã Thiện Quân không ngớt lôi trong túi ra một cái đồng hồ bằng kim loại để xem giờ.

Triệu Bán Sơn cùng Lục Phi Thanh ngồi trong một góc, hàn huyên tình hình những năm xa cách.

Vô Trần cùng Chu Trọng Anh chơi cờ tướng. Vô Trần đã thiếu bình tĩnh mà kỳ nghệ cũng thấp hơn, nên thua hết ván này tới ván khác.

Trần Gia Lạc cầm tập thơ của Lục Phóng Ông ngâm nga.

Thạch Song Anh giương mắt nhìn trời, hoàn toàn không động đậy chút nào.

Hết một giờ, Mã Thiện Quân lên tiếng: “Đến giờ rồi.” Quần hùng lập tức đứng bật dậy, chia thành từng nhóm đi ra ngoài cửa. Mọi người đã cải trang và giấu binh khí từ lâu, bây giờ tập hợp trong một nhà dân ở gần phủ đề đốc. Người trong nhà này đã dọn đi lâu rồi.

Tưởng Tứ Cân thấy quần hùng đã đến đủ, bèn khẽ nói: “Quanh đây lính Thanh tuần tra rất khẩn trương, con mẹ nó, phải thật nhẹ nhàng mới được.” Y cầm thiết trượng canh giữ cửa ra vào con đường hầm mới đào. Quần hùng nối đuôi nhau chui vào. Đào rất sâu, Hàng Châu lại ẩm thấp nên nước trong đường hầm xâm xấp mắt cá, khi chui dưới tảng đá lớn thì bùn ngâm gần đến ngực. Đi được mấy trượng thì đến cuối đường hầm.

Bảy tám đầu mục đang chờ đợi dưới đó, người cầm đuốc, người cầm xẻng. Thấy tổng đà chủ đến, họ khẽ nói: “Trước mặt là tấm thiết bản.”

Trần Gia Lạc bảo: “Động thủ đi.”

Các đầu mục phấn chấn tinh thần hẳn lên, hợp sức dùng xẻng nạy tấm thiết bản. Đầu tiên thì đá vụn xung quanh rơi lả tả, đào thêm chút nữa thì cả tấm sắt lớn đã bị nạy lên, phía trước chính là con đường hầm trong phủ đề đốc. Vệ Xuân Hoa lập tức chạy vào, quần hùng kéo ùa theo.

Một tiểu đầu mục cầm đuốc đứng lại soi đường, quần hùng theo đường hầm chạy thẳng vào trong. Cuối đường hầm này là tấm cửa sắt chắn ngang, Vệ Xuân Hoa ẩn ngay vào giữa hình bát quái. Không ngờ cánh cửa hoàn toàn không động đậy, hình như cái nút đó đã mất tác dụng.

Từ Thiên Hoằng suy nghĩ một chút rồi nói: “Bát đệ, Cửu đệ! Mau mau ra canh giữ cửa vào đường hầm, đề phòng bọn giặc đó bày quỷ kế gì.” Dương Thành Hiệp và Vệ Xuân Hoa gật đầu đi ngay. Mấy tên tiểu đầu mục bắt tay vào nạy những tảng đá ở bên cửa sắt, rồi mọi người hợp lực bẩy cánh cửa sắt qua chỗ khác.

Trên cánh cửa có nhiều xích sắt neo vào những tảng đá lớn, Lạc Băng dùng Ngưng Bích Kiếm chặt đứt dây xích rồi lập tức chạy vào. Trong ngục đá trống rỗng.

Lạc Băng khổ sở kêu lên một tiếng, không thấy bóng dáng Văn Thái Lai đâu. Nàng đã ba bốn lần thất vọng, phen này không nhịn nổi nữa, ngồi phịch xuống đất rồi khóc rống lên. Chu Ỷ định tới an ủi, nhưng Chu Trọng Anh khẽ nói: “Để cô ấy khóc một chút cũng tốt.”

Trần Gia Lạc thấy trong phòng không còn đường nào khác, bèn cầm lấy thanh Ngưng Bích Kiếm đâm vào cánh cửa nhỏ mà lần trước Trương Triệu Trọng thoát ra. Cánh cửa này đúc bằng thép, mới chặt được mấy khe hở đã thấy phía sau có mấy tảng đá rất lớn chẹn mất đường.

Từ Thiên Hoằng nói: “Nhất định là tên Lý Khả Tú sợ chúng ta cướp ngục, đã đưa Tứ ca giam vào chỗ khác rồi.”

Trần Gia Lạc bảo: “Bây giờ chúng ta đánh thẳng vào phủ đề đốc. Bất cứ giá nào, hôm nay cũng phải cứu được Tứ ca ra.”

Mọi người chạy ra cửa đại lao, thấy Dương Thành Hiệp đang múa thiết tiên cố giữ không cho Thanh binh ập vào. Vệ Xuân Hoa thì không thấy đâu, chắc đã xông vào giữa vòng vây quân địch.

Vô Trần quát lớn một tiếng, nhảy ra khỏi địa lao, trường kiếm đưa tới đâu là quân Thanh ngã xuống tới đó. Quần hùng chạy theo ra ngoài, lúc này mới nhìn thấy sáu bảy tên tướng Thanh đang bao vây Vệ Xuân Hoa ác chiến. Lục Phi Thanh thầm nghĩ: “Ta với Lý Khả Tú dù sao cũng từng là chủ tớ, không tiện lộ diện.” Ông bèn xé mảnh trường bào bịt mặt lại, chỉ để lộ cặp mắt.

Quần hùng dần dần đẩy bọn lính Thanh dạt ra ngoài, Vệ Xuân Hoa hò hét đuổi theo. Từ Thiên Hoằng nhảy lên đầu tường đứng quan sát, thấy trong phủ đề đốc chỗ nào cũng có quan binh bảo vệ. Đột nhiên tiếng mõ báo động vang lên dồn dập, dĩ nhiên bọn tướng lĩnh nhà Thanh đang điều động binh mã chống cự. Từ Thiên Hoằng nhìn kỹ thấy phía nam có một tòa nhà hai tầng, mỗi tầng đều có năm sáu trăm quan binh canh giữ. Căn lầu trông không có gì đặc biệt mà quân phòng thủ lại đông như thế, chắc là Văn Thái Lai ở trong đó.

Từ Thiên Hoằng cầm đơn đao thiết quải nhảy xuống tường, vừa vẫy gọi vừa hô lớn: “Các vị huynh đệ, theo ta!” Chàng dẫn mọi người xung phong về hướng nam.

Quả nhiên càng gần tòa lầu đó, quân Thanh ứng chiến càng nhiều. Trong lúc hỗn chién, Mã Thiện Quân và Triệu Bán Sơn đã dẫn mấy chục tiểu đầu võ công kha khá vượt tường nhảy vào trong phủ. Quan binh nhà Thanh tuy đông, nhưng không sao cản trở được quần hùng Hồng Hoa Hội võ công tinh diệu. Chỉ chốc lát, quần hùng đã tiến sát tòa nhà đó.

Chương Tấn múa lang nha bổng ra chiêu Ô Long Tảo Địa, khom người xuống rồi vọt lên trên, giành vào nhà trước tiên. Nhưng giữa cửa có một người sử dụng trường thương quét ngang chọc thẳng, Chương Tấn nhất thời không sao xông vào được. Lúc này mấy người Vệ Xuân Hoa, Lạc Băng, Dương Thành Hiệp, Thạch Song Anh vài người cũng đang cận chiến với binh lính nhà Thanh. Dưới ánh đuốc sáng như ban ngày, trận đánh thật là kịch liệt. Võ nghệ của bọn quan quân phòng thủ tòa lầu này không phải là yếu.

Vô Trần bảo Triệu Bán Sơn: “Tam đệ! Chúng ta lên đó xem thử!” Triệu Bán Sơn gật đầu, Vô Trần nhảy liền hai bước tới trước cửa, bỗng có một thanh đao chém tới. Vô Trần không tránh né mà cũng không chống đỡ, cứ ra chiêu Mã Diện Khiêu Tâm. Trường kiếm ra sau mà đến trước, người sử đao gào lên một tiếng thảm khốc, cương đao rơi xuống đất. Trong chớp nhoáng, Triệu Bán Sơn cũng dùng ám khí đánh ngã hai tên võ quan, rồi hai người lập tức xông vào trong nội đường. Chu Trọng Anh, Lạc Băng theo sát sau lưng.

Lục Phi Thanh thấy đối thủ của Chương Tấn võ công khá cao, mà Chương Tấn lấy ngắn đánh dài không chiếm được lợi thế, lập tức chạy đến chi viện. Ông dùng trường kiếm xuất chiêu Thiên Ngoại Lai Vân đâm vào tay trái hắn. Hắn trở ngược cán thương lại, dùng sức đập mạnh xuống. Binh khí dài một tấc là mạnh một tấc, rõ ràng chiêu này có thể đập văng kiếm của đối thủ đi. Nhưng Lục Phi Thanh đã vận khí vào trường kiếm nên nghe “bình” một tiếng, cây thương văng ra mấy trượng. Cổ tay của người cầm thương cũng bị trật khớp. Hắn sợ đến bay cả hồn vía, nhảy ra ngoài xa mà vẫn chưa đứng vững được, té nhào xuống đất.

Chương Tấn xoay người lại, nghênh đón một trong hai tên đang đấu với Vệ Xuân Hoa. Vệ Xuân Hoa bớt một đối thủ, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Chàng dùng song câu xuất chiêu Ngọc Đới Vi Yêu tấn công vào hai bên trái phải địch thủ cùng một lúc. Tên kia dùng một cặp song đao, dĩ nhiên dùng chiêu Thoát Bào Nhượng Vị để chống đỡ, hai đao dựng đứng chia ra đỡ ở hai bên. Nhưng đột nhiên Vệ Xuân Hoa biến sang hiểm chiêu, rút song câu về đặt ngay trước ngực, rồi phóng người thẳng tới. Chiêu này vừa nhanh vừa ác, song câu vừa bảo vệ trước mặt vừa cắm lút vào giữa ngực đối thủ. Hắn la lên một tiếng cuối cùng, không sao sống được nữa.

Ác đấu một hồi, dưới lầu kẻ địch mỗi lúc một ít đi. Đột nhiên Vô Trần đứng trên lầu dùng ám ngữ lớn tiếng la lên: “Tứ đệ ở đây, chúng ta thành công rồi.” Quần hùng nghe thấy đều hoan hô vang dội.

Chu Ỷ không hiểu tiếng lóng Hồng Hoa Hội, bèn quay lại hỏi Từ Thiên Hoằng: “Đạo trưởng nói cái gì vậy?”

Từ Thiên Hoằng đáp: “Trên đó đã cứu được Tứ ca rồi.”

Chu Ỷ mừng rỡ nói: “Thế thì hay quá! Chúng ta lên, xem thử Tứ gia như thế nào?”

Từ Thiên Hoằng bảo: “Muội lên đi, ta phòng thủ ỏ đây.”

Chu Ỷ chạy vào trong nhà, bọn lính bảo vệ xung quanh đã bị Vô Trần và các huynh đệ dọn dẹp gần hết. Nàng tức tốc chạy lên lầu, thấy mọi người vây quanh một chiếc lồng lớn, Trần Gia Lạc đang dùng Ngưng Bích Kiếm cố chặt đứt những thanh sắt xung quanh lồng.

Chu Ỷ chạy đến gần, bất giác giận dữ la lên. Thì ra bên trong lồng sắt này lại còn một cái chuồng sắt nhỏ. Văn Thái Lai ngồi trong chuồng nhỏ, tay chân đều bị xiềng xích, giống như một con thú dữ bị nhốt vậy.

Lúc này Trần Gia Lạc đã chặt đứt hai thanh sắt của lồng sắt ngoài. Chương Tấn vận sức bẻ cong cho khoảng trống rộng ra. Lạc Băng thân hình nhỏ nhắn bèn chui vào trong đó, nhận lấy bảo kiếm rồi chặt tiếp then khóa và xiềng xích của chuồng sắt nhỏ. Quần hùng đều mỉm cười, thầm nghĩ: “Giả tỉ hôm nay Thanh triều phái thiên quân vạn mã đến đây, chúng ta cũng phải tử thủ trên lầu, cứu Văn Thái Lai ra rồi mới tính tiếp.”

Thường thị huynh đệ và Từ Thiên Hoằng đang chỉ huy đám đầu mục của Hồng Hoa Hội canh giữ dưới lầu, đột nhiên nghe có tiếng hiệu lệnh nổi lên, quan binh nhà Thanh lùi ra mười mấy trượng. Bọn chúng lùi lại rất thứ tự, ngay hàng thẳng lối, hình thành thế trận. Thường Hách Chí kêu lên: “Chắc là bọn con rùa đó chuẩn bị bắn tên, anh em lùi vào hết đi.”

Mọi người theo lời lùi vào nấp trong lầu, Thường thị huynh đệ đoạn hậu. Nào ngờ quân Thanh không bắn tên, chỉ nghe có người hô lớn: “Trần đương gia của Hồng Hoa Hội ở đâu? Hãy nghe ta nói chuyện!”

Trên lầu Trần Gia Lạc cũng nghe thấy. Chàng tiến đến gần cửa sổ, thấy Lý Khả Tú đang đứng trên một tảng đá mà kêu gọi: “Ta cần nói chuyện với Trần đương gia.”

Trần Gia Lạc lên tiếng: “Ta đây! Lý tướng quân có gì chỉ giáo?”

Lý Khả Tú nói: “Các ngươi phải mau mau lùi hết xuống lầu, không thì chết sạch.”

Trần Gia Lạc mỉm cười đáp: “Nếu sợ chết thì đã không đến. Xin lỗi nhé, hôm nay chúng ta nhất định phải dẫn Văn tứ gia đi khỏi đây.”

Lý Khả Tú kêu lên: “Người đừng cố chấp giả vờ không hiểu. Phóng hỏa!” Hiệu lệnh vừa ban, Tăng Đồ Nam lập tức dẫn binh lính đẩy từ phía sau đến một đống củi rơm rất lớn. Củi rơm đã tẩm dầu, đuốc vừa châm vào là quanh căn lều đã xuất hiện một vòng lửa bao vây quần hùng ở bên trong.

Trần Gia Lạc thấy tình hình nguy hiểm, trong lòng cũng thấy kinh hãi. Nhưng mặt chàng hoàn toàn không đổi sắc, im lặng một lúc rồi quay đầu lại nói: “Mọi người cùng động thủ đi, cố phá cái lồng sắt này cho lẹ.” Chàng lại quay ra nói với Lý Khả Tú: “Trận hỏa côn ngày của tướng quân cũng chẳng cao minh gì lắm.”

Phía sau Lý Khả Tú bỗng có một người bước ra, đưa tay chỉ trỏ, lớn tiếng thóa mạ: “Chết đến đít rồi còn không chịu quỳ xuống xin tha! Ngươi biết dưới tòa làu này có chôn cái gì không?” Dưới ánh lửa, nhìn thấy rõ ràng tên này là ngự tiền thị vệ Phạm Trung Ân, bên cạnh còn có mấy tên bọn Trừ Viên. Chắc là hoàng đế đã hay tin, phái bọn này tới đấy yểm trợ.

Trần Gia Lạc ngần ngừ một chút, bỗng nghe Từ Thiên Hoằng dùng ám ngữ la lớn: “Hỏng bét! Ở đây toàn là thuốc nổ.”

Trần Gia Lạc nhớ khi xông vào tòa lầu này đã thấy dưới lầu là một nhà kho chất đầy thùng gỗ, chẳng lẽ đó là thuốc nổ hay sao? Chàng đảo mắt n hìn quanh, thấy cũng toàn là thùng gỗ, liền chạy tới khẽ đánh một chưởng. Một thùng gỗ vỡ ra, bột đen bay ra mù mịt, đầy mùi lưu huỳnh tiêu thạch, nếu không phải thuốc nổ thì là gì nữa?

Trần Gia Lạc run rẩy trong lòng, âm thầm than thở: “Chẳng lẽ hôm nay toàn thể Hồng Hoa Hội phải nát thịt tan xương ở đây hay sao?” Chàng quay lại nhìn, thấy cái chuồng nhỏ đã mở được rồi, Lạc Băng dìu Văn Thái Lai bước ra ngoài.

Trần Gia Lạc hô lớn: “Tứ tẩu, Tam ca! Hai người bảo vệ Tứ ca, còn mọi người xung phong theo ta.” Chàng hô dứt câu, lập tức chạy xuống lầu. Chương Tấn khom lưng cõng Văn Thái Lai, có Lạc Băng, Triệu Bán Sơn, Lục Phi Thanh, Chu Trọng Anh bảo vệ trước sau, cùng kéo hết xuống lầu. Tên từ bên ngoài bắn vãi vào trong cửa như bầy châu chấu. Vệ Xuân Hoa và Thường thị huynh đệ thử xông ra ngoài mấy lần, nhưng đều phải rút vào.

Lý Khả Tú la lên: “Dưới chân các ngươi cũng có chôn thuốc nổ. Dây ngòi đang ở trong tay ta.” Hắn giơ cao ngọn đuốc, la tiếp: “Ta mà đốt sợi dây này thì tất cả các ngươi đều biến thành tro bụi. Mau mau bỏ Văn Thái Lai xuống!”

Trần Gia Lạc đã thấy thuốc nổ trong nhà, biết hắn không phải đe dọa suông, chỉ vì Văn Thái Lai là khâm phạm nên hắn còn kiêng nể chưa dám đốt dây ngòi ngay, không thì đã giết sạch huynh đệ mình rồi. Chàng lập tức quyết định, hô lớn: “Để tứ ca xuống, chúng ta chạy ra ngoài.” Rồi chàng cùng với Vệ Xuân Hoa, Thường thị huynh đệ xung phong ra trước.

Chương Tấn cúi đầu đứng yên, không tuân lời Trần Gia Lạc. Triệu Bán Sơn vội bảo: “Thả Tứ đệ xuống nhanh lên! Tình thế nguy hiểm vô cùng, chúng ta phải đi nhanh. Thập đệ làm như thế tức là hại chết Tứ đệ.”

Chương Tấn bèn đặt Văn Thái Lai trước cửa rồi chạy theo mọi người. Triệu Bán Sơn thấy Lạc Băng vẫn còn ngần ngừ đứng đó, liền nắm tay lôi nàng đi, múa kiếm xông ra ngoài. Dưới ánh lửa Lý Khả Tú nhìn rõ Văn Thái Lai đang nằm dưới đất, lập tức vẫy tay ra lệnh ngừng bắn, chỉ sợ làm tổn thương đến chàng.

Quần hùng lùi khỏi tòa lầu đó, tập hợp ở một góc tường. Trần Gia Lạc hạ lệnh: “Ngũ ca, Lục ca, Bát ca, Cửu ca, Thập ca! Các vị ca ca xung phong lên trước, đuổi bọn giặc kia ra xa tòa lầu. Thất ca! Ca ca tìm cách làm đứt dây dẫn. Đạo trưởng, Tam ca! Chúng ta đợi họ đắc thủ là lập tức xông vào cứu Tứ ca ra.” Thường thị huynh đệ cùng Từ Thiên Hoằng nhận lệnh đi ngay.

Lý Khả Tú đang sai người đi canh giữ Văn Thái Lai, bỗng thấy Thường thị huynh đệ lại xông vào chém giết, liền chia binh mã kháng cự. Bọn ngự tiền thị vệ Phạm Trung Ân, Chu Tổ Ấm, Trừ Viên, Thoại Đại Lâm cũng bước lên ngăn cản.

Lục Phi Thanh nhìn rõ phương hướng tiến thoái, khom người vọt đi như một mũi tên bắn tới chỗ Lý Khả Tú. Bọn Thanh binh la hét om sòm lập tức vung đao cản trở, nhưng Lục Phi Thanh không đánh trả. Ông tránh quá trái, đảo qua phải, lúc thì bay như chim, lúc thì lặn như cá, chốc lát đã vượt qua bảy tám tên lính, tới trước mặt Lý Khả Tú.

Lý Nguyên Chỉ đang mặc nam trang đứng cạnh phụ thân, đột nhiên nhìn thấy một quái khách bịt mặt xông đến, liền quát hỏi: “Muốn gì đây?” Nàng xuất chiêu Xuân Vân Trá Triển đâm từ trước ngực ra.

Lục Phi Thanh lại càng không muốn lên tiếng, hạ thấp người chui qua dưới lưỡi kiếm. Lý Khả Tú cũng phóng cước, xuất chiêu Khôi Tinh Khích Đẩu đá thẳng vào mặt quái khách bịt mặt. Lục Phi Thanh lạng đi một cái, đã luồn ra phía sau Lý Khả Tú. Ông đặt bàn tay lên lưng hắn, vừa nhả một chút kình lực đã hất thân thể mập mạp đó văng tuốt ra xa. Lý Nguyên Chỉ giật mình kinh hãi, hồi kiếm đâm ngược ra sau. Lục Phi Thanh né tránh, chiêu kiếm đó đâm vào khoảng không.

Thấy Lý Khả Tú ngã lăn dưới đất, bên này thì Tăng Đồ Nam chạy tới cứu, bên kia thì Dương Thành Hiệp chạy tới bắt. Hai người chạy ngược chiều nhau, càng lúc càng gần. Tăng Đồ Nam cử thiết thương xuất chiêu Ngọc Long Xuất Động đâm thẳng vào Dương Thành Hiệp, muốn ép họ Dương dạt ra để cứu thượng cấp. Dương Thành Hiệp nghiêng người né mũi thương, nhưng chân không dừng lại, thân hình to lớn vẫn lao tới gấp. “Bình” một tiếng, nguyên một tòa thiết tháp tông vào người Tăng Đồ Nam, hất hắn ngã ngửa ra sau.

Lúc này Lý Khả Tú đã bật dậy được, nhưng Lục Phi Thanh còn nhanh hơn nhiều, lướt tới trước mặt hắn như một cơn gió. Lý Nguyên Chỉ nghĩ tình cốt nhục, vội vã lao tới, trường kiếm ra chiêu Bạch Hồng Quán Nhật đâm thẳng tới lưng quái khách. Lục Phi Thanh nghe tiếng réo lên, lại càng không dám chậm chân. Ông nắm chặt tay trái của Lý Khả Tú, kéo hắn chạy thẳng vào trong vòng lửa.

Bọn quan binh nhà Thanh thấy chủ soái lọt vào hiểm địa, quên cả đánh nhau với Hồng Hoa Hội, ai cũng lo lắng đứng nhìn năm người trong vòng lửa. Sợi dây ngòi vốn do Tăng Đồ Nam cùng với một tên tổng binh canh giữ. Hai tên này đứng cạnh sợi dây, nhìn thấy chủ soái bị kiềm chế mà kinh hãi trong lòng. Đột nhiên có một người chạy tới, đoạt lấy ngọn đuốc châm vào sợi dây ngòi.

Tăng Đồ Nam giật mình nhìn lại, thì ra đó là ngự tiền thị vệ Phạm Trung Ân. Hôm trước hắn bị đánh lọt xuống Tây Hồ trước mặt hoàng đế, xấu hổ nhục nhã vô cùng, mối hận trong lòng càng nghĩ càng sâu. Bây giờ mắt thấy Văn Thái Lai sắp được cứu thoát, hắn mặc kệ Lý Khả Tú sống chết ra sao, cứ việc đốt dây giết bớt kể thù.

Sợi dây ngòi cháy lem lém dưới đất, ngọn lửa tiến vào nhanh chóng lạ thường. Rõ ràng họa lớn sắp xảy ra, không phải chỉ năm người Văn, Lý, Lục, Trương, Tưởng biến thành tro bụi. Trong lầu chất quá nhiều thuốc nổ, sẽ có rất nhiều người xung quanh phải chết lây. Vì thế bọn quan quân nhà Thanh lập tức đại loạn, chen nhau lùi lại phía sau.

Trong lúc lộn xộn, đột nhiên có một người chạy nhanh về phía vòng lửa. Người này khoác trường bào màu lam, mặt cũng bịt bằng vải màu lam chỉ để lộ hai mắt, tay cầm một cây roi ngắn. Y dùng đơn tiên đập loạn xạ lên sợi dây đang bốc cháy, nhưng ngọn lửa vẫn nhanh chóng liếm về phía trước. Trần Gia Lạc và Từ Thiên Hoằng thấy tình hình nguy hiểm, đều bất chấp tính mạng tung người tới toan cắt sợi dây đó, nhưng không tới kịp.

Mọi việc chỉ xảy ra trong chốc lát, chỉ lâu bằng một cái búng móng tay. Người bịt mặt thấy sợi dây đó không chịu tắt, đột nhiên phóng người đè lên chỗ đang cháy. Thân thể y lập tức bốc lửa, y phục cháy bùng bùng, nhưng dây ngòi đã bị dập tắt, không cháy tiếp về phía trong nữa.

Chậm hơn một chút, Chương Tấn và Tưởng Tứ Cân dìu Văn Thái Lai chạy ra khỏi vòng lửa, quần áo ba người đều đã bắt cháy. Thường thị huynh đệ chạy lên tiếp ứng, vội kêu: “Lăn xuống! Lăn xuống đất đi!”

Chương Tấn và Tưởng Tứ Cân đặt Văn Thái Lai xuống, rồi lăn chàng dưới đất mấy vòng, lửa trên y phục Văn Thái Lai liền được dập tắt. Lạc Băng vội chạy tới chăm sóc phu quân rồi Chương Tấn và Tưởng Tứ Cân cũng tự lăn mình để dập lửa.

Thường Thị Song Hiệp chạy vào trong vòng lửa, khiêng người bịt mặt đang ngất xỉu dưới dất ra ngoài. Lúc chạy được ra ngoài thì quần áo cả ba người đều cháy sém. Khi dập tắt được lửa, nhìn lại thì mình mẩy tay chân của người bịt mặt không nơi nào là không bị bỏng.

Lục Phi Thanh thấy Văn Thái Lai đã thoát hiểm, liền vác Lý Khả Tú trên vai, hít một hơi thật sâu thi triển khinh công Yến Tử Tam Sao Thủy, như một con chim lớn tung bay ra ngoài vòng lửa. Tuy ông phải cõng một người, nhưng nhờ khinh công tuyệt diệu nên ít bị cháy sém nhất.

Trần Gia Lạc hô lớn: “Thành công rồi! Rút nhanh, rút nhanh lên!” Trường kiếm của Vô Trần múa tít mở đường, Thường thị huynh đệ khiêng người bịt mặt, Chương Tấn và Tưởng Tứ Cân khiêng Văn Thái Lai, Lục Phi Thanh cõng Lý Khả Tú, theo sau tổng đà chủ mà chạy ra ngoài. Lý Nguyên Chỉ thấy cha bị bắt, lo lắng cầm kiếm đuổi theo, nhưng bị song câu của Vệ Xuân Hoa chặn lại không sao thoát được. Nàng vội vã quá thành ra sơ suất, suýt nữa trúng câu.

Bọn quan binh nhà Thanh hò hét đuổi theo, nhưng chúng đã nếm mùi lợi hại của Hồng Hoa Hội nên không dám đuổi quá gần. Chỉ có tám tên thị tiền ngự vệ phụng chỉ canh giữ Văn Thái Lai là không thể không lo lắng, để khâm phạm chạy thoát là bị tội chém đầu. Phạm Trung Ân xách đôi phán quan bút, liều mạng xông tới đầu tiên.

Trần Gia Lạc vừa thấy hắn hắn đốt cháy dây ngòi thầm nghĩ: “Con người này bụng dạ cực kỳ ác độc không thể dung tha được.” Chàng bèn giao Ngưng Bích Kiếm cho Triệu Bán Sơn rồi nói: “Tam ca! Huynh đoạn hậu giúp mọi người, để tiểu đệ thu dọn gã này.” Rồi chàng thò tay vào bọc lấy châu sách.

Mã Đại Đình đưa kiếm thuẫn ra, Trần Gia Lạc lên tiếng khen ngợi: “Hảo huynh đệ! Mã huynh thật là chu đáo.” Kiếm thuẫn và châu sách đáng lẽ là do Tâm Nghiễn mang theo, nhưng Tâm Nghiễn đang bị thương nên Mã Đại Đình giúp cho việc đó.

Tay phải của Trần Gia Lạc vừa vẫy ra, năm sợi dây châu sách đã bay vèo tới mặt Phạm Trung Ân. Họ Phạm chuyên nghề sử dụng phán quan bút, dĩ nhiên giỏi về điểm huyệt. Hắn nhìn thấy đầu mỗi sợi châu sách đều có gắn thêm một quả cầu thép, năm sợi chia ra điểm vào năm huyệt đạo của mình, bất giác kinh hãi trong lòng.

Chu Tổ Ấm kêu lớn: “Phạm đại ca! Mấy sợi dây của thằng lỏi đó lợi hại lắm, phải cẩn thận đấy!” Mã Đại Đình nghe hắn nhục mạ tổng đà chủ, giận dữ vung thiết côn đập cho một phát lên đầu. Chu Tổ Ấm nghiêng người né tránh, trả lại một đao.

Bên này Phạm Trung Ân loạn cả tay chân mới chiết giải được mấy chiêu với Trần Gia Lạc, liên tiếp gặp nguy hiểm. Hắn vừa đánh vừa âm thầm kêu khổ, chỉ muốn lùi lại thoát thân, nhưng toàn thân đã bị châu sách vây bủa, không sao chạy thoát được.

Trần Gia Lạc không muốn phí thời gian bèn quét tay phải ngang qua, châu sách biến thành chiêu Thiên Đẩu Vạn Trừ, điểm loạn xạ từ trên xuống. Phạm Trung Ân không biết chàng muốn đánh vào chỗ nào, bèn nhập hai bút làm một, phóng vào trước ngực Trần Gia Lạc. Người học võ thường nói ngắn một tấc là hiểm một tấc, phán quan bút là loại binh khí ngắn thường dùng hiểm chiêu để thủ thắng.

Phạm Trung Ân nghĩ chắc phen này đối phương phải tránh né, mình có thể thừa cơ chạy thoát. Nhưng hắn đột nhiên nhìn thấy thuẫn bài đón ngay trước mặt, trên thuẫn lại còn chín cái móc câu sáng loáng. Phạm Trung Ân giật mình kinh hãi, thu thế không kịp, phải dùng đôi bút điểm vào kiếm thuẫn để mượn sức ngửa người nhảy ngược ra sau.

Trần Gia Lạc nghiêng kiếm thuẫn qua một bên tránh né song bút, châu sách quăng tới buộc chặt hai chân đối thủ rồi dùng sức hất ra ngoài. Phạm Trung Ân không sao tự chủ được nữa, bay thẳng vào trong vòng lửa.

Trần Gia Lạc không chịu dừng tay, vẫy châu sách quét ngang, một quả cầu thép đánh trúng và lưng Chu Tổ Ấm. Tên này vừa kêu lên một tiếng, lại trúng thêm một thiết côn của Mã Đại Đình nện trúng mông. Mã Đại Đình đang bực tên này hỗn láo, nên đòn côn này đã dùng hết sức, đánh vỡ cả xương chậu lẫn hai cái xương đùi.

Lúc này phần lớn quần hùng đã vượt ra ngoài tường, Triệu Bán Son đoạn hậu đang chặn đánh ba tên thị vệ. Trần Gia Lạc vẫy tay gọi lớn: “Lùi thôi!”

Vệ Xuân Hoa cầm song câu tấn công Lý Nguyên Chỉ ba chiêu liên tiếp, cô nàng đỡ không nổi phảI lùi hai bước. Vệ Xuân Hoa quay sang phải, đánh một quyền khiến một tên Thanh binh mặt mày sưng húp;, rồi vung tay đoạt lấy ngọn đuốc của hắn, chạy đến chỗ sợi dây ngòi vừa bị người bịt mặt dập tắ[t, lại châm lửa đốt lên. Quan quân nhà Thanh còn đang kinh hoàng kêu cha gọi mẹ thì quần hùng Hồng Hoa Hội đã lùi hết ra xa.

Thoại Đại Lâm, Trừ Viên và bọn thị vệ đang đốc thúc quân lính rượt theo, đột nhiên thấy khói đen bay mù trời, ánh lửa nhấp nháy, rồi nghe một tiếng nổ điếc tai. Khói bay khét lẹt, đá văng lung tung, bọn quan binh và thị vệ nằm hết xuống đất. Tòa lầu này dự trữ quá nhiều thuốc nổ, tiếng này chưa dứt lại tiếp sang tiếng khác.

Quan quân đứng cách ngôi lầu đó khá xa, nhưng đất đá và gỗ vụn từ trên không rơi xuống rào rào nên không có ai dám đứng dậy. Tuy thế cũng có mấy chục tên bị đá gỗ rớt trúng bể đầu. Trong vòng lửa chỉ có một mình Phạm Trung Ân, vụ nổ này làm hắn không còn miếng da nào để an táng.

Đến lúc hết nổ, bọn binh tướng thị vệ mới dám bò dậy. Lúc đó quần hùng Hồng Hoa Hội đã chạy khuất, không còn tung tích để truy đuổi nữa.

Bọn chúng vội vàng lên ngựa, chia làm bốn hướng lùng soát.

* * *

Quần hùng Hồng Hoa Hội đưa Văn Thái Lai chạy ra khỏi thành, thấy không có ai đuổi theo nên rất yên tâm. Đi thêm một đoạn nữa, đến bên một dòng sông, mười mấy chiếc thuyền chèo bằng chân đã xếp hàng chờ đợi. Mã Thiện Quân bước lên nghênh tiếp chúc mừng, quần hùng đều vui vẻ lên thuyền.

Lục Phi Thanh khẽ nói với Trần Gia Lạc: “Lý Khả Tú với ta vốn là chỗ quen biết cũ. Văn tứ gia đã cứu được rồi, chúng ta thả hắn về đi.”

Trần Gia Lạc đáp: “Cứ theo ý tiền bối.” Chàng bèn sai tiểu đầu mục cởi trói cho Lý Khả Tú, quẳng lên bờ.

Trần Gia Lạc hô lớn: “Khởi hành! Chúng ta đến Gia Khánh trước đã.”

Sông ngòi ở tỉnh Triết Giang đã nhiều nhánh lại quanh co. Đoàn thuyền đi chừng một dặm, vòng vèo qua năm sáu chỗ ngoặt, Trần Gia Lạc mới nói: “Chúng ta đi về phía tây, hộ tống Tứ ca lên Thiên Mục Sơn dưỡng thương đã. Cứ để cho Lý Khả Tú mặc sức mà đuổi đến Gia Khánh.” Quần hùng đồng thanh cười rộ, mấy tháng trời uất hận đến giờ này mới gọi là xong.

Lúc này trời đã hơi sáng. Lạc Băng đã lau sạch người cho Văn Thái Lai, xiềng xích cũng đã dùng Ngưng Bích Kiếm chém gãy tháo ra. Thấy Văn Thái Lai ngủ say sưa, mọi người cũng không tới quấy rầy.

Từ Thiên Hoằng lên tiếng hỏi: “Tổng đà chủ! Thương thế của người bịt mặt vừa cứu Tứ gia rất nặng. Chúng ta có thể tháo khăn che mặt của y xem thử hay không?”

Quần hùng đều hiếu kỳ, muốn biết người này là ai. Nhưng Chu Trọng Anh nói: “Người đó dùng vải bịt mặt, chắc chắn không muốn để người khác nhìn thấy diện mạo của mình. Chúng ta nên tôn trọng y thì hơn.”

Vết thương của Tâm Nghiễn đã đỡ nhiều, cậu đang giúp mọi người thoa thuốc lên những vết bỏng của người bịt mặt. Người này cháy bỏng toàn thân, hôn mê mà vẫn đau đớn không năm yên được, miệng không ngớt rên rỉ. Tâm Nghiễn thấy mà kinh hãi, sợ y chết bèn chạy tới bẩm báo.

Trần Gia Lạc nhảy qua thuyền đó, thấy vết thương của y rất nặng, không khỏi lo lắng trong lòng. Người bịt mặt thần trí hôn mê, hai tay quơ loạn xạ, đột nhiên túm trúng miếng vải bịt mặt giật ra. Mọi người đồng thanh kêu lớn: “Thập tứ đệ!”

Thì ra người đó là Kim Địch Tú Tài Dư Ngư Đồng. Trên mặt chàng, chỗ nào sưng thì màu đỏ, chỗ nào cháy thì màu đen, còn những vết bỏng thì vô số. Khuôn mặt trước kia tuấn tú bây giờ cháy không giống mặt người, quần hùng nhìn mà nửa kinh hãi, nửa xót xa.

Lạc Băng đem tới một tấm khăn ướt, nhẹ nhàng lau những vết đất cát và thuốc nổ bám trên mặt chàng, rồi lấy một cọng lông gà thấm dầu me thoa lên chỗ bỏng. Trong lòng nàng rất khó chịu, biết họ Dư yêu mình say đắm, phen này liều mạng cứu Văn Thái Lai cũng không phải không liên can tới mối tình si đó. Nhưng tấm thân nàng đã thuộc về người khác, đối với chàng chỉ có tình bằng hữu kết nghĩa, hoàn toàn không còn gì nữa. Mỗi khi nàng nghĩ đến đêm Dư Ngư Đồng vô lễ với mình gần Thiết Đảm Trang đều thấy giận dữ, nhưng phen này chàng xả thân cứu phu quân mình, thì tình cảm trong lòng chàng dĩ nhiên không phải là tình dục đê tiện.

Khuôn mặt của Dư Ngư Đồng đã bị hủy hoại, tính mạng cũng đang nguy hiểm. Giả tỉ không chết thì chàng thanh niên tuấn tú này cùng phải mang bộ mặt ma chê quỷ hờn tới chết. Lạc Băng biết mình vĩnh viễn không thể đền đáp được mối tình si đó, bất giác ngơ ngẩn xuất thần.

Thuyền đi đến Như Hàng, Mã Thiện Quân liền cho người đi mời đại phu đến xem vết thương của Văn Thái Lai. Đại phu nói: “Vị gia gia này chỉ bị ngoại thương. Ông ấy gân cốt khỏe mạnh, thân thể tráng kiện, trị liệu vài tháng là không trở ngại gì nữa.” Y khám Dư Ngư Đồng, lại nói: “Vị gia gia này bị bỏng khá sâu, phải đề phòng hỏa độc chạy vào tim. Để tại hạ kê toa giải độc, uống thử hai thang xem sao.” Nghe giọng y nói, rõ ràng hông chắc mình trị khỏi.

Đại phu từ biệt lên bờ. Lát sau thì Văn Thái Lai mở mắt ra nhìn mọi người, ngạc nhiên hỏi: “Tại sao mọi người đều ở đây?”

Lạc Băng mừng rỡ nửa khóc nửa cười, kêu lên: “Đại ca! Huynh thoát ra rồi đó.” Văn Thái Lai gật đầu một cái, lại nhắm mắt thiếp đi.

Quần hùng đã biết chàng không việc gì, chuyển sang lo lắng cho Dư Ngư Đồng. Chương Tấn nói: “Thập tứ đệ thật là tinh quái, đột nhập được vào tận trong phủ đề đốc.”

Thường Bá Chí nói: “Lần trước y chỉ con đường đến địa lao, anh em ta không biết y là ai, còn đánh y một trận nữa.”

Thường Hách Chí nói: “Nhưng y lại cứu Lý Khả Tú, không biết tại sao.” Mọi người bàn cãi một hồi, khó mà lý giải nổi.

* * *

Thì ra trong đêm đại chiến ở bến Hoàng Hà, Lỵ Nguyên Chỉ lạc mất mọi người giữa đám loạn quân. Trong lúc hoang mang, nàng nhìn thấy một cỗ xe lớn bèn nhảy lên xe, quất ngựa chạy đị. Bọn Thanh binh muốn đến cản trở nên bị vung kiếm đánh lui. Nàng cứ thế mà liều, bất kể đông tây nam bắc, đến hôm sau đã xa đại quân mới xuống xe nghỉ ngơi. Lúc kéo rèm xe ra, nàng mới thấy trong thùng xe có một người đang nằm, chính là sư huynh Dư Ngư Đồng từng gặp hai lần dọc đường, đang nằm mê man như người bệnh nặng. Nàng khẽ kéo một góc chăn ra xem, thấy chàng băng bó đầy người, rõ ràng bị thương không nhẹ. Lý Nguyên Chỉ hồi hộp, suy nghĩ hồi lâu rồi cho xe đi tiếp, dọc theo đường cái về đến Vân Quang trấn.

Cô nàng vốn là tiểu thư con gái nhà quan, xưa nay sang trọng đã quen nên tìm tới gian nhà lớn nhất thị trấn, gõ cửa xin tá túc một đêm. Đó chính là nhà tên ác bá Đường lục gia, có ngoại hiệu là Thạch Tín Bọc Đường. Đường Thạch Tín thấy hai người có vẻ khác thường, bèn giữ lại chiêu đãi ân cầm. Về sau hắn phát hiện nàng là nữ cải nam trang, liền bàn kế với đại phu Tào Tư Bằng để ám toán. May là ông trời có mắt, Đường lục gia bị Chu Ỷ đâm chết trong phòng cô kỹ nữ Tiểu Mai Quế.

Sau đó thần trí Dư Ngư Đồng hồi phục, nghe nói chủ nhà bị tiết, nghĩ rằng nhất định quan phủ sẽ đến điều tra, mình không khỏi liên lụy. Chàng lập tức cùng Lý Nguyên Chỉ nhân lúc lộn xộn bỏ đi. Lý Nguyên Chỉ muốn về Hàng Châu đoàn tụ với song thân. Dư Ngư Đồng biết Văn Thái Lai bị giam ở Hàng Châu, nên cũng đi theo.

Chàng đang bị thương, dọc đường được Lý Nguyên Chỉ lo lắng cho tỉ mỉ. Cô nương này tính khí nghịch ngợm điêu ngoa, nhưng đối với Dư sư huynh lại rất đỗi quan tâm. Thấy thần sắc chàng phiền não lo âu, lại biết thân thể chàng thọ thương yếu đuối, nên nàng thường xuyên nói lời dịu dàng an ủi.

Đến Hàng Châu gặp lại gia đình, Lý Nguyên Chỉ kể là Dư Ngư Đồng vì cứu mình mà bị bọn cướp đánh bị thương. Vợ chồng Lý Khả Tú muôn phần cảm kích, giữ chàng lại phủ đề đốc, mời danh y điều trị. Lý Khả Tú thấy anh chàng này tuấn tú trang nhã, văn võ song toàn, lại có ơn cứu mạng cho con gái, nên có ý đợi vết thương chàng lành hẳn rồi nhận làm nữ tế. Hắn hoàn toàn không ngờ đây là một nhân vật lừng danh trong Hồng Hoa Hội.

Mấy tháng nay Lý Nguyên Chỉ lúc vui lúc buồn, suy nghĩ xoay chuyển lung tung. Nàng biết chắc vị lang quân này là đối thủ của cha mình, nhưng lại không nỡ chia ly, tình cảm ngày càng thâm trọng, cứ như đã gửi trọn quả tim mình cho người trong mộng từ lâu. Hôm ấy, dọc đường Cam Lương hoang vu đầy cát, vị sư ca tuấn tú này thổi sáo mỉm cười cản đường kẻ địch dưới cơn mưa, dáng vẻ tiêu sái đó đã làm rung động lòng người thiếu nữ. Mỗi khi nhớ tới hình ảnh đó, Lý Nguyên Chỉ lại bất giác đỏ mặt bồi hồi, rồi chỉ một lúc sau lại buồn rầu than thở.

Khi vết thương Dư Ngư Đồng vừa lành, quần hùng Hồng Hoa Hội lại liên tiếp tấn công phủ đề đốc. Hôm đó Dư Ngư Đồng cứu Lý Khả Tú, Lý Nguyên Chỉ mừng rỡ vô cùng, tưởng chàng đã đứng về phía phụ thân. Nào ngờ bây giờ chàng lại liều mình cứu mạng Văn Thái Lai, rồi đi theo Hồng Hoa Hội.

Toàn thân Dư Ngư Đồng phỏng rộp lên, đau đớn vô cùng. Trong lúc mơ hồ, chàng nghe một thanh âm nữ nhân la lớn: “Huynh càng lúc càng chẳng ra gì! Sao lại rủ tổng đà vào kỹ viện?” Dường như đó là giọng nói của Chu đại tiểu thư Thiết Đảm Trang. Lát sau chàng lại nghe Vô Trần hô lớn: “Mọi người quay về Hàng Châu đi. Vào kỹ viện thì vào kỹ viện, có gì phải sợ?” Dư Ngư Đồng hết sức ngạc nhiên, đạo trưởng là người xuất gia mà sao lại chui vào ổ nhện? Nhưng chàng đang trọng thương nên không suy nghĩ nhiều được, rồi lại ngất đi.

* * *

Càn Long thấy bọn ngự tiền thị vệ Trừ Viên thở hổn hển chạy về nhận tội, báo tin Hồng Hoa Hội cướp ngục cứu thoát Văn Thái Lai, dĩ nhiên vừa kinh hãi vừa giận dữ. Nhưng y nghĩ rằng yếu phạm trốn cũng đã trốn rồi, trách phạt bọn thị vệ này cũng vô ích, lại thấy tên nào cũng đầu tro mặt bụi, thương tích đầy mình, không cần hỏi cũng biết đã ráng hết sức rồi. Vì thế Càn Long chỉ nói nhẹ nhàng: “Thôi được, việc này ta không trách các ngươi.”

Bọn Trừ Viên tưởng phen này sẽ bị trách phạt nặng nề, nào ngờ hoàng thượng khoan dung tha thứ, tên nào cũng cảm kích đến rơi lệ. Chẳng bao lâu Lý Khả Tú cũng chạy tới. Càn Long thấy hắn cũng bị thương, bèn hạ thánh chỉ cách chức nhưng cho lưu nhiệm, để có cơ hội lập công chuộc tội. Lý Khả Tú cả mừng, dập đầu tạ ơn lia lịa.

Sau khi Lý Khả Tú lùi ra, Càn Long mới tập trung suy nghĩ: “Văn Thái Lai chạy thoát, thân thế mình không biết đã bị tiết lộ hay chưa? Họ Văn nói là không biết đại sự cơ mật này, nhưng nhìn thần sắc thì dường như còn giấu giếm nhiều điều. Hắn còn nhắc tới h ai món vật chứng quan trọng được gởi bên ngoài, chắc không phải bịa đặt, không biết là vật gì. Mình là người Hán thì chắc chắn rồi, nhưng nếu việc này bị tiết lộ ra ngoài thì phải làm sao?”

Càn Long đi qua đi lại trong phòng, nghĩ mãi chẳng ra kế sách gì. Y lo âu phiền não muôn phần, nghĩ mình là vạn thặng chí tốn mà không thắng nổi nhóm thảo khấu lỗ mãng, còn gì là thể diện? Việc này lại có liên quan đến thân thế mình, giả tỉ đối phương biết được thì chẳng lẽ suốt đời mình bị người ta kiềm chế hay sao? Y càng nghĩ càng tức giận, bỗng vớ lấy một cái bình hoa trên bàn, dùng hết sức đập mạnh xuống đất. “Choảng” một tiếng, cái bình thành mấy chục mảnh.

Bọn thị vệ và nội thị thái giám ở ngoài phòng nghe thấy rất rõ, biết hoàng thượng đang nổi cơn giận dữ, nhưng không được gọi thì chẳng ai dám đi vào trong đó. Tên nào cũng run rẩy đứng ngoài, thở cũng không dám thở mạnh. Mấy tên ngự tiền thị vệ lại càng sợ đến tái mặt, chỉ e hoàng thượng xét lại tội mình.

Tâm của Càn Long loạn mất nửa ngày, đột nhiên nghe thấy bên ngoài có tiếng sáo trúc du dương, từ xa đến gần, đi ngang cửa tuần phủ nha môn rồi lại xa dần, hồi lâu lại có một đợt sáo trúc khác tiến đến. Y là hoàng đế thời bình, trước nay rất thích ca nhạc nữ sắc, nghe thấy tiếng nhạc triền miên uyển chuyển không khỏi động lòng, bèn kêu lên: “Người đâu?”

Một tên thị độc học sĩ vội vã tiến vào. Đây là một gã sủng thần tên gọi Hòa THân, rất giỏi đoán ý người khác, thường được Càn Long ban thưởng. Bọn thị vệ nghe hoàng đế kêu gọi liền đẩy hắn vào trước.

Càn Long hỏi: “Tiếng sáo trúc bên ngoài là gì thế? Ngươi đi hỏi thử xem.”

Hòa Thân vâng dạ lùi ra, hồi lâu trở về bẩm báo: “Nô tài vừa ra ngoài hỏi, nghe nói đêm nay bọn danh kỹ trong thành Hàng Châu tụ tập ở Tây Hồ, để thi xem ai là hoa quốc trạng nguyên, lại còn bảng nhãn, thám hoa gì đó.”

Càn Long vừa cười vừa mắng: “Chúng dám đem chuyện thi tuyển nhân tài của quốc gia ra để làm trò đùa hay sao? Thật là vô lý!”

Hòa Thân thấy mặt hoàng thượng đã nở nụ cười, bèn bước tới gần khẽ nói: “Nghe nói Tiền Đường Tứ Diễm đều đến đấy cả.”

Càn Long hỏi: “Tiền Đường Tứ Diễm là gì?”

Hòa Thân đáp: “Nô tài có hỏi, dân bản xứ nói rằng đó là bốn ca kỹ nổi danh nhất Hàng Châu. Dọc đường ai cũng bàn tán, đoán xem năm nay cô nào sẽ là hoa quốc trạng nguyên.”

Càn Long mỉm cười nói: “Trạng nguyên của quốc gia thì do ta chấm, còn trạng nguyên của hoa quốc thì do ai chấm? Chẳng lẽ có một vị hoa quốc hoàng đến hay sao?”

Hòa Thân nói: “Nghe nói mỗi ca kỹ sẽ ngồi trên một chiếc thuyên hoa, trên thuyền đó bày hết tất cả đồ kim ngân châu báu của khách tặng cho, xem thử thuyền hoa của ai nhiều đồ quý trọng nhất là cô đó được thưởng nhiều nhất. Sau đó các vị phongl ưu danh sĩ đất Hàng Châu sẽ quyết định thứ bậc.”

Càn Long động lòng hỏi: “Lúc nào họ mới chơi cái trò này?”

Hòa Thân đáp: “Sắp rồi. Trời tối thêm một chút thì thuyền hoa sẽ đèn đuốc sáng trưng, khi đó sẽ tuyển hoa khôi. Nếu hoàng thượng có nhã hứng thì tới đó xem thử một chút.”

Càn Long mỉm cười nói: “Chỉ sợn người ta dị nghị. Giả tỉ thái hậu biết là ta đi chấm hoa quốc trạng nguyên gì gì đo, chắc chắn sẽ la rầy. Ha ha!”

Hòa Thân nói: “Hoàng thượng cứ cải trang thành bá tánh bình thường mà đi xem náo nhiệt, chắc không ai biết đâu.”

Càn Long khen: “Hay lắm! Ngươi bảo mọi người đừng có khoa trương khoác lác, chúng ta im lặng xem một chút rồi về ngay.”

Hòa Thân lập tức phục thị Càn Long thay đổi trường bào hồ thủy, khoác thêm áo ngắn bên ngoài, hóa trang thành một thân hào văn sĩ. Còn chính hắn thì vận sắc phục nhân sĩ bình thường, dẫn theo bọn Bạch Chấn mấy chục tên thị vệ đều thay y phục bình thường, đi về hướng Tây Hồ.

Đoàn người kéo tới bờ hồ, đã có thị vệ đợi ở đó mang du thuyền đến đón. Lúc này khắp mặt hồ vang tiếng ca nhạc, đèn lồng thắp sáng trưng, cảnh phù hoa không bút nào tả xiết. Trên mặt nước có khoảng hai chục chiếc hoa thuyền bơi qua lượn lại, thuyền nào cũng treo đầy màn sa và lồng đèn. Càn Long ra lệnh chèo tới gần để nhìn cho rõ, thấy đèn lồng đều có thêu truyện cổ tích, nào là Trương Sanh Kinh Diễm, nào là Lệ Nương Du Viên. Mấy chiếc hoa thuyền còn dùng vải vóc kết thành cỏ cây hoa lá, ở giữa thắp đèn dầu, hơi nóng bốc lên làm lồng đèn chuyển động từ từ, thiết kế thật là tinh xảo. Càn Long âm thầm khen ngợi dân phương nam biết sống phong lưu, phương bắc không thể nào bì được.

Cả trăm chiếc du thuyền qua lại như thoi đưa, trên đó nào là hào khách tầm hương, nào là văn nhân hiếu sự. Mọi người thi nhau chỉ trỏ, bàn luận, bình phẩm cách trang trí thuyền hoa tinh tế, thô thiển thế nào.

Đột nhiên kèn trống vang lên, tiếng hát ca đàn sáo trên hoa thuyền đều dừng bặt. Một loạt pháo bông được bắn lên, soi sáng bầu trời rồi từ từ rụng xuống mặt hồ. Bắn đầu tiên là mấy cái pháo bông ca tụng vĩnh khánh thanh bình, quốc thái dân an, thiên tử vạn niên, toàn những ý chúc tụng cát tường, Càn Long nhìn mà hoan hỉ trong lòng. Sau đó là những màn pháo bông tương đối phong lưu hơn, nào là quần phương tranh diễm, nào là tộc tộc oanh hoa.

Bắn hết pháo bông rồi đàn sáo lại vang lên. Dứt bài Hỷ Thuyên Oanh thì những chiếc thuyền hoa không hẹn mà đồng thời kéo rèm lên, trong mỗi thuyền đều có một cô nương trang điểm cực kỳ diễm lệ. Lập tức trên hồ nổi lên những tiếng vỗ tay hoan hô vang dội.

Bọn nội thị đem rượu quả thức ăn ra, phục vụ hoàng thượng uống rượu thưởng hoa. Du thuyền từ từ trôi trên mặt hồ, lướt giữa những chiếc thuyền hoa, chẳng khác gì dạo chốn thiên đường, hoa sắc chung quanh không sao nhìn xuể. Hậu cung của Càn Long có ba ngàn cung nữ, y từng gần không biết bao nhiêu người đẹp, nhưng lúc này dưới ánh đèn, trên mặt nước, trong tiếng mái chèo, trong hương son phấn lại có một sắc thái khác hẳn, bất giác trong lòng cảm thấy lâng lâng như say rượu.

Du thuyền chèo đến gần thuyền của Tiền Đường Tứ Diễm. Bốn chiếc thuyền hoa này lại càng đặc biệt. Chiếc đầu tiên trang hoàng như một chiếc thuyền đi hái sen trên hồ, xung quanh kết toàn lồng đèn dạng hoa sen, bông đỏ ngó trắng lá xanh, thì ra cô ca kỹ trên chiếc thuyền hoa này tên là Biện Văn Liên.

Chiếc thuyền hoa thứ hai lại kết hình hai cái đình, khí thế sang trọng hào hoa. Quanh đình là những chuỗi hạt châu, giữa đình viết bốn chữ lớn “ngọc lập đình đình”. Danh kỹ trên chiếc thuyền này tên là Lý Song Đình.

Chiếc thứ ba trang hoàng như kiểu cung Quảng Hàn, quanh thuyền dùng giấy và vải kết đủ phụ tùng trên cung trăng như thiềm thừ, ngọc thố, hoa quế, ngô cương. Ca kỹ trên thuyền hoa này tên là Ngô Thuyền Quyên, mặc trang phục thời cổ, tay phe phẩy quạt, trang điểm như Hằng Nga trên cung Quảng.

Càn Long nhìn kỹ từng cô, tán thưởng một hồi rồi mới cho du thuyền đến bên chiếc thuyền hoa thứ tư. Trên thuyền này toàn là hoa thật cây thật, cành lá xum xuê, hoa lá bài trí rất tự nhiên, trông như một bức tranh thủy mặc của danh họa vẽ nên. Người ngồi trên thuyền mặc toàn màu trắng, dáng vẻ phiêu diêu xuất thế, trông như nữ thần sông Lạc dạo chơi sóng nước. Càn Long mới thấy sau lưng đã không nén nổi hứng thú. Y ngâm nga một đoạn thơ trong Tây Sương Ký, kết thúc bằng câu: “Ôi, sao nàng không quay mặt lại?”

Kỹ nữ đó nghe tiếng ngâm thơ bèn quay đầu lại, nhoẻn nụ cười. Càn Long bất giác rung động trong lòng, thì ra cô nương này chính là Ngọc Như Ý mà mình đã gặp đêm trước, cũng trên mặt hồ này.

Đột nhiên nghe thấy tiếng oanh thỏ thẻ, trên chiếc thuyền hái sen Biện Văn Liên đã cất tiếng hát. Nàng hát dứt lời, thiên hạ vỗ tay hoan hô rồi tặng thưởng, những nén bạc to có nhỏ có chất đầy mặt bàn trên chiếc thuyền.

Sau đó Lý Song Bình ôm tỳ bà đàn bài Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ, rồi Ngô Thuyền Quyên thổi sáo. Càn Long ngeh nàng thổi xong bài Thừa Long Giai Khách, hạ lệnh cho Hòa Thân lấy mười lượng vàng ra thưởng.

Cuối cùng, bao nhiêu du thuyền trên hồ đều quay mũi về phía chiếc thuyền hoa của Ngọc Như Ý. Nàng hé môi để lộ hàm răng ngà ngọc, cất lên một bài ca tả cảnh Giang Nam, nào là thiếu phụ vén màn nhìn cửa thành xa xa xanh mù dương liễu, nào là chiều xuân đôi én song song bay lượn dưới mái nhà ai.

Bây giờ là cuối thu, gió hồ đã hơi lạnh. Thế mà tiếng hát của Ngọc Như Ý triền miên uyển chuyển, lời bài ca lại nồng ấm hoa hương, khiến cho người nghe chưa uống đã say. Càn Long thở dài rồi nói: “Thật là ngòi bút của tài tử, bao nhiêu phong vật Giang Nam đều nằm hết trong khúc ca này.”

Y cũng biết đây là bài Phỏng Thúy trong vở Đào Hoa Tiễn do Khổng Tượng Nhâm sáng tác thời Khang Hy, tả lại câu chuyện Hầu Phương Vực gặp gỡ Lý Hương Xuân. Ngọc Như Ý vừa hát vừa đong đưa khóe mắt, không ngớt liếc nhìn Càn Long. Càn Long hoan hỉ vô cùng, biết cô nàng tự coi mình là danh kỹ Lý Hương Quân, ví mình với danh sĩ Hầu Phương Vực.

Bản tính Càn Long thích khoe khoang tài học của mình. Lần này đi về phía nam, đến chỗ nào y cũng viết thơ đề chữ, gặp thắng cảnh nào cũng tả một bài. Bọn cận thần đi cùng cứ mở miệng khen dồi, câu nào cũng là cẩm tú, chữ nào cũng đáng khuyên son, thơ hơn Lý Đỗ, bút vượt Chung Vương. Nhưng bản thân y cũng biết nịnh bợ là chuyện bình thường, nên những lời khen đó mất đi phần nào giá trị.

Lúc này y mặc thường phục vi hành mà được danh kỹ để ý, rõ ràng không phải nhờ vào thân phận đế vương mà hoàn toàn dựa vào thực học chân tài của bản thân mình. Càn Long càng nghĩ càng tin chắc là mỹ nhân thấy mình tình tứ như Tống Ngọc, dáng vẻ sánh Phan An, tài hoa gần bằng Tử Kiến. Năm xưa từng có chuyện cùng tuệ nhãn Hồng Phất Nữ nhìn ra Lý Tĩnh, chốn phong trần Lương Hồng Ngọc hậu đãi Hàn Thê Chung, có thể thấy danh kỹ nào cũng rất có nhãn lực. Nếu không báo đáp đặng ân tình, làm sao xứng với mắt xanh của người tri kỷ? Y lập tức hạ lệnh cho Hòa Thân tưởng thưởng năm chục lạng hoàng kim, rồi chau mày xoa bụng một hồi rặn ra được hai câu thơ vắt dòng: “Hàng Châu có ả Ngọc Như Ý nghìn mỹ nữ kinh sư chẳng bằng.”

Xưa nay Hàng Châu vẫn là một thành phố phồn vinh, có lệ mỗi năm một lần mở hội tuyển chọn hoa khôi. Những người hiếu sự ở đây đều dốc sức tham dự, ngay cả nhân sĩ vùng xa như Tô, Tùng, Thái, Thường, Gia, Hồ ngày này cũng tụ tập đến Hàng Châu, hoặc để khoe khoang ta đây hào phóng, hoặc để tỏ mình phong lưu nho nhã. Vì thế mà tiền thưởng được quăng lên thuyền rất nhiều. Thuyền hoa của các danh kỹ đều chất quà cao như núi, đương nhiên Tiền Đường Tứ Diễm được nhiều hơn cả.

Lúc này đã gần giờ Tý, ban tổ chức cuộc thi này bắt đầu đếm quà tặng, giống như chấm thi kiểm phiếu vậy. Không những các cô lo lắng, mà du khách trên hồ cùng chăm chú quan tâm.

Càn Long nói nhỏ mấy câu, Hòa Thân gật đầu một cái rồi lên một chiếc thuyền nhỏ, gấp rút chèo về dinh tuần phủ. Lát sau hắn xách một gói đồ quay lại.

Tiền thưởng đã đếm xong, mọi du thuyền đều dồn đến xung quanh con thuyền của ban tổ chức để nghe tuyên bố thứ tự bảng vàng. Trưởng ban cất giọng hô lớn: “Lúc này quà thưởng của Lý Song Đình cô nương nhiều nhất.” Câu này vừa nói ra, mặt hồ ầm ĩ cả lên. Người thì vỗ tay hoan hô khen phải, cũng có người âm thầm chửi mắng.

Một người la lên: “Khoan đã! Ta tặng thêm Biện Văn Liên cô nương một trăm lạng vàng.” Lập tức có người bưng mâm vàng tới.

Lại có một hào khách cất tiếng: “Ta tặng cho Thuyền Quyên cô nương một đôi vòng phỉ thúy, nạm thêm mười hạt minh châu.” Dưới ánh đèn rực rỡ, mọi người đều thấy đôi vòng óng ánh sắc ngọc xanh, minh châu vừa lớn vừa tròn, giá trị vượt xa trăm lạng hoàng kim. Ai cũng thở ra một hơi, xem chừng ngôi trạng nguyên năm nay khó mà lọt khỏi tay vị Hằng Nga trên cung Quảng.

Trưởng ban đợi thêm một lúc, thấy không ai tặng thêm gì nữa. Y định tuyên bố Thuyền Quyên là trạng nguyên năm nay, thì đột nhiên Hòa Thân hô lớn: “Lão gia của chúng ta có một gói quà tặng cho Ngọc Như Ý cô nương.” Hắn đưa cái gói đó ra trước mặt.

Người trưởng ban trạc tuổi tứ tuần, diện mạo thanh tú, râu thưa mắt sáng, sai gia nhân cầm gói quà tới trước mặt mình. Y mở ra xem thì thấy ba cuộn thư họa, bèn nghiêng đầu nói với một lão già ngồi bên tay trái: “Phạm tiên sinh! Vị này cũng là người phong nhã, không biết tặng những loại tinh phẩm gì.” Rồi y mở thư họa ra xem.

Càn Long khẽ bảo Hòa Thân: “Ngươi đi hỏi thử xem ban giám khảo này có những ai.”

Hòa Thân đi một lúc, trở về bẩm báo: “Trưởng ban là Hàng Châu tài tử Viên Mai tú tài, còn những người khác đều là danh sĩ ở Giang Nam.”

Càn Long mỉm cười nói: “Từ lâu ta đã nghe nói Viên Mai tinh nghịch lắm trò, quả nhiên không sai.”

Vừa mở cuộn thứ nhất ra, Viên Mai và mọi người đều giật mình kinh hãi. Đó là bài thơ Vô Đề của Lý Nghĩa Sơn do Trúc Doãn Minh viết.

Người mà Viên Mai gọi là Phạm tiên sinh tên là Lợi Ngạc, cũng người Hàng Châu, văn thơ rất giỏi, đặc biệt là từ. Những bài từ của ông âm luật nghiêm cẩn, ý tứ tuyệt diệu, có thể nói là số một đương thời. Phạm Lợi Ngạc vừa thấy thư pháp của Trúc Doãn Minh đã la lên: “Thật là báu vật!”

Thi nhân Triệu Dực người Hàng Châu vội vàng mở cuộn thứ hai ra, thấy đó là bức tranh thiếu nữ ngắm hoa do Đường Dần vẽ, trên đó có đóng ấn son Càn Long ngự lãm chi bảo. Viên Mai kinh ngạc trong lòng, liền hỏi hai người ngồi cạnh: “Thẩm nhân huynh, Tưởng đại ca! Các vị đoán xem người tặng thư họa này lai lịch như thế nào?”

“Thẩm nhân huynh” chính là Thẩm Đức Tiềm, hiệu Qui Ngu, là một đại thi nhân giữa đời Càn Long, cùng đậu tiến sĩ với Viên Mai vào năm Càn Long thứ tư, nhưng một người đậu hồi trẻ, một người đậu lúc già. Năm đó Viên Mai mới hai mươi bón tuổi, còn Thẩm Đức Tiềm đã hơn sáu mươi rồi, nên người ta gọi họ Thẩm là Giang Nam Lão Danh Sĩ. Có người họ Tưởng tên là Sĩ Toàn, hiệu Tâm Như, là một người rất giỏi ca từ. Y cùng với Viên Mai, Triệu Dực được gọi chung là Giang Tả Tam Đại Gia. Hai người này xem xong đều trầm ngâm, không nói tiếng nào.

Thẩm Đức Tiềm là bậc lão thành trì trọng, bèn lên tiếng: “Chúng ta qua đó gặp họ xem thử?”

Thuyền bên phải đang có hai người ngồi, cũng là danh sĩ do Viên Mai mời đến, một là Kỷ Hiểu Lam khôi hài tuyệt đỉnh, một là Trịnh Bản Kiều thi họa tam tuyệt. Kỷ Hiểu Lam mỉm cười nói: “Chúng ta mà qua đó, chỉ sợ thiên hạ đánh giá giám khảo thiếu công bằng. Hai quyển thư họa này quý như thế, đương nhiên là Ngọc Như Ý trúng giải trạng nguyên rồi.”

Trịnh Bản Kiều nói: “Thế còn cuốn thứ ba là bảo vật gì, sao chúng ta không mở ra xem thử?”

Mọi người mở ra xem, thấy đó là một bức thư pháp viết thơ của Âu Dương Tu, bút pháp khá đẹp. Bên dưới không có lạc khoản và dấu ấn, chỉ có năm chữ nhỏ: Lâm triệu mãnh phù thư. Trịnh Bản Kiều nhận xét: “Cũng có tú khí, nhưng bút lực không đủ.”

Thẩm Đức Tiềm khẽ nói: “Ngự bút của đức kim thượng đấy.” Mọi người hoảng sợ muốn nhảy dựng lên, không ai dám phê phán tiếng nào nữa.

Viên tú tài dõng dạc tuyên bố: “Kiểm điểm quà tặng tiền thưởng đã xong. Trạng nguyên là Ngọc Như Ý, bảng nhãn là Ngô Thuyền Quyên, thám hoa là Biện Văn Liên.” Chung quanh lập tức nổi tiếng hoan hô vang dội.

Thấy ba quyển họa thư này, bọn Viên Mai đều biết người tặng nếu không phải tôn thất quý tộc, thì cũng là đại quan trong triều. Nhưng nhìn chiếc thuyền đó lại không thấy gì khác thường, trời tối nên khách trong thuyền cũng khó mà nhìn rõ diện mạo được. Ai cũng sợ cuộc thi hoa quốc này sẽ bị quan ngự sử bẩm cáo lên trên, đáng lẽ phải làm thơ từ câu đối gì đó để tả lại cảnh quang rực rỡ, nhưng bây giờ không dám nữa mà lén lút lên bờ giải tán.

* * *

Càn Long đang chuẩn bị quay về thì đột nhiên nghe thấy Ngọc Như Ý cất giọng hát trên thuyền bên kia. Nghe thanh âm dịu dàng mềm mại, y bất giác ngứa ngáy cả mình, bèn bảo Hòa Thân: “Ngươi gọi con bé kia qua đây.”

Hòa Thân vâng dạ định đi, Càn Long lại dặn thêm: “Nhớ đừng có nói cho cô ả biết ta là ai.”

Hòa Thân đáp: “Vâng, nô tài biết rồi.”

Du thuyền của Càn Long chèo tới gần cỗ thuyền hoa của Ngọc Như Ý. Hòa Thân bước qua thuyền kia, chốc lát đã cầm về một tờ giấy, dâng lên Càn Long rồi nói: “Cô ấy viết thư, bảo nô tài đưa cho lão gia.”

Càn Long cầm giấy, soi vào dưới ánh đèn đọc thấy bài thơ:

Hương thơm ngào ngạt trước lầu,

Lục Triều cảnh trí sánh nào bình khương,

Chơi xuân về mãi vấn vương,

Ngày mai chàng đến, đầy giường phủ hoa.

Chữ viết rất xấu, nhưng giấy thì hương thơm ngào ngạt, Càn Long vừa hít một hơi đã đê mê chỉ muốn lăn ra. Y mỉm cười nói: “Hôm nay đã đến thì đến luôn, sao lại phải ngày mai mới đến?”

Ngẩng đầu lên thì thuyền hoa của Ngọc Như Ý đã chèo khỏi đó. Càn Long là bậc đế vương, phi tần ở hậu cung muốn gặp y một lần đều phải tìm thiên phương bách kế, dĩ nhiên y chưa bao giờ biết mùi vị nữ nhân khước từ. Nhưng có câu theo tình tình trốn, trốn tình tình theo, Càn Long cảm thấy mùi vị này mới mẻ, nghĩ khi đạt được sẽ khoái lạc hơn nhiều, bèn truyền thánh chỉ bắt chèo nhanh hơn, cố đuổi kịp chiếc hoa thuyền kia.

Hoàng đế đang sốt ruột, kẻ thần tử không nhân cơ hội này tận trung báo quốc thì còn đợi đến chừng nào? Bọn thị vệ lập tức khua mái chèo ào ào, cố gắng hết sức. Chúng đều giỏi ngoại công mà nội lực cũng thâm hậu, bây giờ vì chữ Trung ra sức đáp tạ hoàng ân, mục tiêu phấn đấu rõ ràng, nên bao nhiêu kình lực đều dốc hết vào cánh tay, chèo thuyền lướt như tên bắn. Chỉ trong chốc lát, trước mắt đã hiện ra chiếc thuyền hoa của Ngọc Như Ý.

Càn Long đứng trước mũi thuyền, chỉ mong mau mau đuổi kịp con thuyền phía trước. Đèn đuốc trên hồ đã tắt dần, tiếng đàn sáo hát ca thì chưa dứt hẳn. Từ thuyền hoa phía trước vọng lại tiếng nói tiếng cười dịu dàng uyển chuyển, như có như không. Càn Long nghe thấy lại càng mê mẩn tâm thần, đột nhiên nhớ hai câu thơ: “Nữ tỳ nâng đỡ thân rũ liệt, Buổi đầu người đẹp thẩm ơn vua.”

Hai thuyền đã sát nhau. Cửa sổ của chiếc thuyền hoa chợt mở ra, một vật gì đó bay thẳng về phía Càn Long. Bạch Chấn giật mình, thầm la: “Hỏng bét!” Hắn lập tức tay trái xuất chiêu Hàng Long Phục Hổ, tay phải xuất chiêu Cầm Sư Tác Tượng. Đây là tuyệt kỹ thành danh Kim Câu Thiết Chưởng Đại Cầm Nã Thủ, xông trận có thể đoạt lấy đao thương, nửa đêm có thể đón bắt ám khí, trước nay chưa hề thất thủ. Phen này hắn đứng ở mũi thuyền bảo vệ cho hoàng đế, xuống tấn chắc như núi Thái Sơn, xuất chiêu nhanh như chớp giật, quả là phong độ của bậc đại gia tiền bối võ lâm. Bọn thị vệ nhìn thấy, không tên nào là không cất tiếng hoan hô.

Không ngờ khi Bạch Chấn bắt được vật đó vào tay lại thấy mềm mại dịu dàng, thì ra không phải là ám khí. Hắn bèn dâng lên hoàng đế. Càn Long đón lấy, mở ra xem thì đó là một cái khăn tay màu hồng, bốn góc đều thắt gút, bên trong có gói một miếng mứt ngó sen và một hợp mứt bách hợp.

Ngó sen tượng trưng cho giai ngẫu, bách hợp ý nói bách niên hảo hợp, đầu bạc răng long. Càn Long tự xưng tài cao lục đẩu, thi thần bát bộ, tuy ít hơn Tào Tử Kiến hai đẩu văn chương, làm thơ phải bước nhiều hơn một bước, nhưng cũng đủ hiểu ý tứ phong lưu. Chiếc khăn đó vừa mềm mại vừa thơm tho, hoàng đế cầm trong tay mà thần hồn điên đảo.

Lát sau, chiếc thuyền hoa cặp sát vào bờ. Dưới ánh đuốc ai cũng thấy Ngọc Như Ý bước lên một cỗ xe ngựa, nàng còn quay lại mỉm cười với Càn Long rồi mới từ từ buông rèm xe xuống. Cạnh cỗ xe có hai người cầm đuốc, nhưng họ bất ngờ ném ngọn đuốc đi, tất cả chìm lẫn trong bóng tối.

Hòa Thân vội vã kêu lớn: “Này, chờ một chút, khoan đi đã!” Nhưng cỗ xe ngựa đó mặc kệ, tiếng vó ngựa lộp cộp chạy chầm chập về hướng nam.

Hòa Thân ra lệnh: “Nhanh chóng đi tìm xe!” Nhưng đêm đã khuya, ở nơi hoang vắng này biết tìm xe ngựa đâu ra?

Bạch Chấn dặn nhỏ mấy câu, Thoại Đại Lâm lập tức thi triển khinh công, chỉ hai thế Thất Bọ Truy Hồn và Bát Bộ Cản Thiềm đã qua mặt cỗ xe ngựa, ra lệnh cho phu xe chậm lại. Chẳng bao lâu Trừ Viên đã tìm được một cỗ xe, đương nhiên là cướp của người ta.

Càn Long lên xe, Trừ Viên đích thân đánh xe, bọn thị vệ và nội thị rảo bước chạy theo. Cỗ xe phía trước từ từ mà chạy, Trừ Viên để hết tinh thần điều khiển ngự xa đi sát theo sau, oai phong xem ra chẳng kém gì Cảo Phụ đánh xe bát tuấn chở Chu Mục Vương đi tuần du khắp thiên hạ.

Bạch Chấn thấy hai cỗ xe ngựa đã tiến vào nơi thị tứ phồn hoa, tin chắc không có gì xảy ra nữa mới yên tâm. Rồi hắn nghĩ đêm nay hoàng thượng ngủ lại nhà cô ca kỹ này, mà hôm trước đã thấy cô ả cùng đi với bọn Hồng Hoa Hội, e có âm mưu quỷ kế không thể không đề phòng. Bạch Chấn liền hạ lệnh cho Thoại Đại Lâm điều thêm nhân mã tới đây, để hộ giá cho cẩn thận.

Chiếc xe của Ngọc Như Ý đi dọc mấy con đường lớn rồi rẽ vào một ngõ hẻm sâu, dừng trước một cánh cửa quét sơn đen, một hán tử xuống xe gõ cửa. Càn Long cũng xuống xe đứng nhìn.

Nghe mấy tiếng ken két, cánh cửa sơn đen mở ra, một bà lão bước ra vén rèm xe chào hỏi: “Tiểu thư đã về đấy ạ!”

Ngọc Như Ý bước xuống xe, liếc thấy Càn Long đứng ở một bên bèn mỉm cười lên tiếng: “Trời ơi, Đông Phương lão gia đến rồi ư? Ngàn lần đa tạ một phen lão gia hậu thưởng! Xin mời vào trong, uống một chung trà với thiếp.” Càn Long mỉm cười theo vào.

Trừ Viên đi sát theo sau, mắt nhìn sáu phương, tai nghe tám hướng, tay siết chặt chuôi kiếm, vừa đề phòng thích khách hành hung phạm giá, vừa đề phòng khách làng chơi say rượu giành gái. Nếu có tên nào ghen ẩu, dĩ nhiên hắn sẽ lập tức thi triển Đạt Ma Kiếm Pháp mà chém giết cho tả tơi hoa lá, manh giáp không còn. Lần này Trừ Viên cẩn thận cột quần bằng một sợi xích sắt, không sợ Vô Trần dùng trường kiếm cắt đứt dây lưng nữa.

Trong cổng là một khu vườn, vừa bước vào là thấy ngay hương hoa bay vào mũi, bóng cây đu đưa dưới đất. Trong vườn có hai cây quế, hoa quế đang nở rộ. Càn Long theo Ngọc Như Ý vào một căn phòng nhỏ, trong nhà có đèn cầy thắp sáng, bài trí cũng khá thanh nhã.

Bạch Chấn tra xét khắp chỗ trong phòng, xem xét tỉ mỉ dưới gầm giường, không có kẻ gian ẩn nấp, xoay ta gõ bốn vách để biết không có vách kép cửa lùa, rồi mới yên tâm lùa ra.

Một đứa a hoàn bưng thức ăn và rượu lên. Càn Long thấy tám đĩa đựng thịt ướp, gà nấu rượu, trứng bách thảo, dưa ngâm dấm, đều là những món ăn nhẹ buổi tối, so với thịt cá trong cung thì phong vị thanh nhã hơn nhiều. Lúc này bọn Bạch Chấn tuần tra bên ngoài, trong phòng chỉ còn một mình Hòa Thân phục vụ. Càn Long phẩy ta một cái, đuổi hắn ra ngoài nốt.

A hoàn rót hai chén rượu. Đây là Nữ Trinh cất lâu năm, chỉ một giọt là bay mùi thơm ngát. Ngọc Như Ý cạn trước một chén, mỉm cười nói: “Đông Phương lão gia! Hôm nay thiếp phải tạ ơn lão gia như thế nào đây?”

Càn Long cũng nâng chén uống cạn, cười đáp: “Nàng hát một bài trước đã, còn tạ ơn cách nào thì lát nữa chúng ta sẽ từ từ mà tính.”

Ngọc Như Ý lấy đờn tỳ bà xuống, nhẹ nhàng vuốt khẽ dây đàn. Tiếng đàn dìu dặt vang lên, rồi mỹ nhân cất tiếng: “Gió lạnh cắt da; Đường trơn như mỡ…” Đó là bài Thiếu Niên Du của Chu Mỹ Thành, Càn Long mới nghe hai câu đã mặt mày rạng rỡ.

Năm xưa hoàng đế Tống Huy Tông ban đêm ra khỏi hoàng cung, lẻ tới nhà danh kỹ Lý Sư Sư, đem cho mỹ nhân mấy trái cam quý. Lý Sư Sư muốn giữ hoàng đế ở lại qua đêm, bèn dịu dàng nói: “Gió lạnh cắt da; Đường trơn như mỡ; Sương khuya xuống như mưa đổ; Người ơi người ở đừng về.” Chẳng ngờ mấy câu này lọt vào tai thi sĩ Chu Mỹ Thành nằm ở phòng bên, rồi được phổ thành một bài ca nổi tiếng. Về sau Tống Huy Tông bị quân Kim bắt đi rồi bỏ xác xứ người, nhưng câu chuyện phong lưu này vẫn lưu truyền đến ngày nay.

Tống Huy Tông cũng là một hoàng đế có văn tài. Càn Long nghĩ bụng, mình với người xưa không chênh lệch bao nhiêu, diễm phúc đêm nay lại càng giống hệt. Y liền gân cổ hát theo: “Sương khuya xuống như mưa đổ; Người ơi người đuổi không về.”

Trong phòng thì hoàng đế khoan khoái uống rượu nghe hát, còn bên ngoài thì bọn Bạch Chấn bận bịu rối rắm như ngày hội. Thủy lục đề Lý Khả Tú vừa bị cách chức lưu nhiệm, đang cố công chuộc tội bằng cách thống lĩnh binh lính vây chặt từ đầu hẻm đến cuối hẻm. Toàn bộ tổng binh, phó tướng, tham tướng, du kích dưới tay hắn chia nhau lục soát hết mọi hộ gia đình trong con hẻm này, chỉ trừ lại căn nhà của Ngọc Như Ý là không xét. Bạch Chấn thì dẫn thị vệ tuần tra trên mái nhà. Bốn phía xung quanh đều bố trí cung tên và quân thiết giáp, bao vây nhiều tầng nhiều lớp.

Xưa nay khách vào lầu xanh phải tới hàng ngàn hàng vạn, nhưng dứt khoát lần chơi kỹ viện này của Càn Long là quy mô nhất, chẳng những người trước không bằng mà mãi mãi về sau cũng không ai hơn được. Người đời sau có thơ diễn tả tình hình lúc đó:

Vây chặt tầng tầng thiết giáp

Sáng lòe lớp lớp đao thương

Dốc lòng trung báo đáp quân vương

Quyết phò chúa bình an hưởng lạc

Trên hồ mày đưa mắt biếc

Về phòng trăng gió lả lơi

Cứ thỏa tình phỉ chí ai ơi

Nóc nhà có Kim Câu Thiết Chưởng.

Quan quân và thị vệ bận rộn từ nửa đêm mãi đến sáng sớm, may mà được bình yên vô sự, ngay cả gà chó cũng không dám làm ồn.

Mặt trời lên cao, Hòa Thân mới khẽ khàng đến cửa phòng Ngọc Như Ý, ghé mắt vào khe cửa sổ nhìn vào. Hắn thấy dưới chân giường có đôi giày của Càn Long và một đôi hài nhỏ xíu thêu hoa, màn vẫn còn buông rủ, hoàn toàn không có tiếng người, bèn lè lưỡi lùi ra phòng khách.

Nào ngờ hắn đợi từ giờ Mão qua giờ Thìn, đến giờ Tỵ mà vẫn chưa thấy hoàng thượng dậy, không khỏi lo lắng trong lòng, bèn đứng ngoài cửa sổ khẽ gọi: “Lão gia! Lão gia! Đến giờ ăn sáng rồi!” Gọi liền mấy tiếng mà bên trong vẫn không có tiếng trả lời.

Hòa Thân kinh hãi bước tới định đẩy cửa phòng, nhưng bên trong cài chốt nênm không đẩy được. Hắn gọi lớn thêm hai tiếng: “Lão gia! Lão gia!” mà trong phòng vẫn không thấy trả lời.

Hòa Thân lo lắng vô cùng, nhưng không dám đập cửa hay phá cửa vào, bèn ra ngoài bàn bạc với Lý Khả Tú và Bạch Chấn. Lý Khả Tú nói: “Chúng ta nhờ bà lão gọi cửa rồi đưa đồ điểm tâm vào, chắc hoàng thượng không trách.”

Bạch Chấn khen: “Lý tướng quân thật có nhiều diệu kế.” Ba người rủ nhau đi tìm bà lão, không ngờ cả cái ổ nhện này không có người nào.

Bọn chúng kinh hãi, biết hỏng việc rồi, liền đến gõ cửa phòng Ngọc Như Ý, càng gõ càng mạnh tay, nhưng bên trong vẫn không có tiếng động. Lý Khả Tú bảo: “Phá cửa!” Bạch Chấn vận sức lên song chưởng, ấn khẽ một cái là chốt cửa gãy nghe răng rắc.

Hòa Thân bước vào, nhẹn nhàng vén rèm ra nhìn, rồi ngất xỉu tại chỗ. Trên giường chăn đện lộn xộn, Càn Long và Ngọc Như Ý đã biến đâu rồi.

Bạch Chấn bèn gọi thị vệ vào lục soát trong nhà ngoài vườn, không có ngăn kéo nào là không xem xét tỉ mỉ, nhưng một chút xíu manh mối cũng không thấy. Cả bọn vừa sợ hãi vừa ngạc nhiên, suốt đêm phòng thủ nghiêm mật, một con chim bay vào bay ra cũng không lọt khỏi mắt, làm sao mà hoàng thượng mất tích được?”

Bạch Chấn lại kiểm tra một lượt các bức tường, xem có vách kéo cửa lùa hay cơ quan gì khác không, nhưng gõ mất nửa ngày vẫn không thấy chỗ nào đáng nghi.

Chẳng bao lâu, Phúc Khang An thống lĩnh ngự lâm quân và tuần phủ Triết Giang cũng được mật báo đến đây. Mọi người tập hợp trong lầu xanh, tay chân bối rối, hồn phách chơi xa, mặt tái như gà chết, ngơ ngác chẳng khác gì một bầy gà bằng gỗ.

Đúng là: “Hoàng thượng bất tri hà xứ khứ; Thử địa không dư tượng nha sàng.”

Vua Thanh ai bắt đi đâu;

Mà đây ổ nhện thanh lầu còn trơ;

Vua Thanh đi mất từ khuya;

Tổng binh thị vệ bây giờ còn đây;

Càn Long thân thể phơi bày;

Bãi xa Như Ý xanh đầy cỏ non;

Hoàng cung khuất bóng hoàng hôn;

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.(9)

Đêm đó Càn Long nghe Ngọc Như Ý hát một bài, uống cạn mấy chén rượu, tình cảm nổi dậy tràn trề, dằn không nổi nữa. Ngọc Như Ý cười đầy khêu gợi rồi thỏ thẻ nói: “Bây giờ tiện thiếp phục thị lão gia đi nghỉ nhé.” Càn Long mỉm cười gật đầu.

Ngọc Như Ý trút bỏ y phục giày dép cho Càn Long, dìu hắn năm trên giường, kéo mền đắp kín, rồi mỉm cười nói: “Tiện thiếp ra ngoài sửa soạn một chút, rồi trở lại ngay.”

Càn Long hít thở mùi hương u nhã của chăn gối, lim dim tưởng tượng đến những gì sắp xảy ra. Trong lúc mơ hồ, hắn nghe thấy trước giường có tiếng động, bèn mỉm cười nói: “Cô bé nghịch ngợm tai quái kia, còn không lên đây cho lẹ?”

Màn được vén ra, một cái đầu thò vào trong. Dưới ánh nến thấy rõ khuôn mặt rỗ chằng rỗ chịt, cặp mắt ốc nhồi trợn lên tròn xoe, dưới cằm thì râu ria rậm rạp hệt như con nhím. Thấy bộ mặt này thì cá cũng chìm, chim cũng rớt, nhưng hoàn toàn không giống vẻ trầm ngư lạc nhạn của Ngọc Như Ý. Càn Long tưởng mình bị hoa mắt, vừa đưa tay lên xoa xoa một chút, người kia đã móc ra một ngọn trủy thủ sáng loáng kề ngay vào cổ, nói rất khẽ: “Con mẹ nó! Tên hoàng đế chó má kia, ngươi mà lên tiếng là lão gia cho ăn dao lập tức.”

Nỗi bàng hoàng của Càn Long thật là không sao tả nổi. Lửa dục của hắn tắt ngấm trong nháy mắt, giống như bị xối một thùng nước lạnh từ đỉnh đầu tới chân. Người kia không nói năng gì nữa, lôi ra một chiếc khăn tọng ngay vào miệng Càn Long, rồi lấy chăn quấn hắn từ đầu đến chân như một đòn bánh, xách ra khỏi giường.

Càn Long không dám kêu là mà cũng không dám động đậy, mở to ra nhìn mà chỉ thấy trước mặt hoàn toàn đen tối. Hắn cảm thấy bị xách đi thấp dần xuống dưới, mũi ngửi thấy mùi đất ẩm thấp mốc meo, hồi lâu lại cảm thấy lên cao. Bây giờ hắn mới hiểu, thì ra bọn này đào đường hầm dưới đất chui lên vào trong phòng, nên không bị quan quân thị vệ cản trở.

Càn Long hiểu ra, bủn rủn cả tay chân. Sau đó hắn bị quẳng lên xe ngựa, rồi nghe tiếng bánh xe lăn lọc cọc. Hắn không biết bọn nào cả gan đại nghịch mưu phản, cùng không biết mình bị đem đi về đâu.

Xe đi một lúc thì đến đoạn đường gồ ghề, dằn xóc dữ dội, hình như đã ra ngoại thành. Khoảng nửa ngày thì xe ngựa đột nhiên dừng lại. Càn Long cảm thấy bị người ta khiêng đi càng lúc càng cao, lên mãi không dừng. Trong lòng hắn muôn phần sợ hãi, run bần bật cả tấm chăn, cơ hồ muốn khóc.

Lên mãi lên mãi, như đang trèo lên một ngọn núi rất cao, rồi đột nhiên hắn bị quẳng xuống đất đánh rầm một tiếng. Càn Long không dám nói năng gì, mà có dám thì cũng không nói được, chỉ biết im lặng mà chờ đợi. Rất lâu vẫn không thấy ai đến xỉa tới mình, Càn Long mới kéo mép chăn hở một chút, hé mắt nhìn ra ngoài.

Xung quanh tối thui chẳng thấy gì, chỉ nghe tiếng sóng xa xa vọng đến. Chú ý hơn thì tiếng chuông đồng thánh thót. Gió ngày càng lớn, thổi vào đến tận chỗ nằm. Hắn thấy mặt dưới lưng nhè nhẹ lắc lư, lại càng sợ hãi, bèn đẩy chăn ra toan đứng dậy xem thử đây là chỗ nào.

Hắn vừa động đậy hơi mạnh, trong bóng tối bỗng có một giọng trầm cất lên: “Muốn toàn mạng thì đừng nhúc nhích.” Dĩ nhiên ở đó đã có người canh gác từ lâu. Càn Long sợ quá, không dám động đậy nữa.

Cứ thế mà nằm suy nghĩ miên man, hồi lâu gió khuya nhẹ bớt, bầu trời sáng dần. Càn Long nhận ra mình đang nằm trong một căn phòng nhỏ. Nhưng rõ ràng hôm qua mình bị đưa lên rất cao, chẳng lẽ là một căn nhà trên núi hay sao? Đột nhiên hắn nghe thấy tiếng húp soàn soạt, quay lại nhìn thì thấy hai người canh gác đang ăn mì, há miệng to gắp từng đũa lớn. Càn Long bị dày vò suốt đêm, bây giờ đã thấy hơi đói. Nghe hương thơm của mì truyền đến từng cơn, bất giác nước bọt hắn ứa ra.

Lát sau, hai người kia ăn mình xong, một người bước tới đặt một tô mình trước mặt hắn, cách khoảng năm thước, trong tô cắm sẵn một đôi đũa. Càn Long nghĩ chắc đây là món ăn của mình, nhưng không nghe hai người đó nói năng gì, nên tuy đói mà cũng không tiện mở miệng hỏi xin.

Người kia lên tiếng: “Cho ngươi tô mì này, không có thuốc độc đâu.”

Càn Long cả mừng, ngồi dậy muốn lấy ăn, nhưng đột nhiên thấy da mình mát rượi, lập tức chui trở vào chăn. Thì ra đêm qua lúc Ngọc Như Ý phục thị hắn đi ngủ, nàng đã lột sách sẽ quần áo trên dưới trong ngoài của hắn. Bây giờ trên người hắn không có tới một sợi chỉ, làm sao dám chui ra khỏi chăn để ăn mì trước mặt mấy người này?

Người kia la lên: “Con mẹ nó! Thì ra ngươi sợ bị đánh thuốc độc. Để ta ăn cho ngươi xem!” Y lập tức bưng tô mì đó lên, húp sạch cả nước lẫn cái.

Người này mặt mày đầy sẹo, thần sắc rất nghiêm. Càn Long hơi run giọng nói: “Trên người trẫm không có y phục, nhờ ngươi mang đến một bộ đồ.” Tuy trong câu nói có một chữ “nhờ”, nhưng vẫn giữ được khẩu khí của hoàng đế.

Người kia hừ một tiếng rồi nói: “Lão gia không rảnh.” Đây chính là Quỷ Kiến Sầu Thập Nhị Lang Thạch Song Anh. Thần sắc y quỷ nhìn còn sợ, đừng nói con người.

Càn Long lập tức muốn nổi giận, nhưng nghĩ lại tính mạng mình đang nằm trong tay ngườikhác, oai nghi vương giả tạm thời gác lại thì hơn. Hắn đợi một lúc rồi nói: “Các ngươi là nhân vật Hồng Hoa Hội phải không? Ta muốn gặp Trần thủ lãnh của các ngươi.”

Thạch Song Anh lạnh lùng nói: “Văn tứ ca của bọn ta đã bị ngươi hành hạ cho thương tích đầy mình. Tổng đà chủ đang mời đại phu trị bịnh cho huynh ấy, không rảnh để gặp ngươi. Đợi Văn tứ ca khỏe mạnh hoàn toàn rồi hãy nói chuyện.” Càn Long nghĩ bụng, không biết phải đợi đến ngày nào tháng nào vết thương của họ Văn mới lành hẳn, không nén nỗi âm thầm lo lắng.

Một giọng khác vừa thô hào vừa oai nghiêm cất lên: “Nếu Tứ gia trị không khỏi mà phải quy tiên, lúc đó chúng ta chỉ còn cách bắt ngươi đền mạng.” Người này là Thiết tháp Dương Thành Hiệp. Đây không phải là lời hù họa, thật sự xuất phát tự đáy lòng. Càn Long không biết đường trả lời, đành giả vờ như không nghe thấy.

Hai người Dương Thạch không nói gì với Càn Long nữa, chuyển qua chửi mắng bọn rợ Mãn Châu chiếm đóng giang sơn người Hán, bọn quan lại thổ hào bức hiếp lương dân. Câu nào cũng trách mắng nặng nền, Càn Long càng nghe càng kinh tâm động phách.

Đến giờ Ngọ, Mạnh Kiện Hùng và An Kiện Khang đến thay phiên canh gác. Hai người vừa ăn cơm vừa kể chuyện bọn quan phủ tra khảo lương dân, dụng hình ác độ lấy tăm tre cắm vào móng tay, lấy sắt nung áp vào mông cho cháy khét thịt da, dùng kẹp mà kẹp rớt từng lóng tay một, diễn tả lâm ly sâu sắc như xảy ra trước mắt. Cuối cùng Mạnh Kiện Hùng kết luận một câu: “Sau này chúng ta quyết bắt cho hết bọn tham quan ô lại, cho chúng nếm thử mùi vị như thế.”

An Kiện Khang hưởng ứng: “Cần nhất là bắt tên đầu sỏ của bọn tham quan, cắm tăm vào mười đầu ngón tay, rồi đốt cháy mông đít của hắn.”

Hôm đó đúng là ngày dài nhất trong đời Càn Long, hắn cố gắng lắm mới chịu đựng nổi đến xế chiều. Người thay phiên gác là Thường thị song hiệp. Hai anh em khi mới bước vào thì chẳng nói chẳng rằng, cứ ngồi nốc rượu tì tì. Lát sau hơi men bốc lên, họ đem những câu chuyện báo thù ghê gớm trên chốn giang hồ ra kể.

Trại chủ Hắc Hổ Can năm xưa sa cơ bị bắt, sau khi vượt ngục lập tức móc lấy cặp mắt của Triệu tri phủ, người đã bắt ông ta. Bạch Mã Tôn Thất ở Sơn Tây vì trả thù cho ca ca mà chôn sống cả nhà của kẻ thù. Trịnh Đại Khoa Tử là sư đệ Trương Đức Phủ mà dám tằng tịu với tình nhân của sư huynh, họ Trương bèn chém sư đệ của mình chín đao ngang, chín đao dọc, chia thành tám mươi mốt miếng. Lúc này Càn Long vừa đói vừa sợ, bịt tai lại cố không nghe, nhưng những chuyện đó vẫn ghi vào đầu không sót câu nào.

Anh em họ Thường càng nói càng cao hứng, ngồi lảm nhảm đến tận sáng hôm sau, suốt đêm thóa mạ không biết mấy ngàn câu đồ con rùa, thằng chết giẫm. May mà họ biết Càn Long là anh ruột của tổng đà chủ, nên mới không dám động chạm đến ông bà cha mẹ của hắn.

Thường thị song hiệp ngoại hình dễ sợ, dưới ánh đèn lù mù trông như một cặp ma sống, khiến người ta không lạnh mà phải dựng hết tóc gáy lên. Càn Long suốt đêm không sao chợp mắt.

Sáng hôm sau, Triệu Bán Sơn và Vệ Xuân Hoa đến đổi phiên. Càn Long thấy một người hiền hòa, một người tuấn tú, không giống như đám hung thần ác sát hôm qua, lại đã từng gặp ở Tây Hồ nên đỡ sợ một chút. Hắn đã đói đến mức không chịu nổi, liền bảo Triệu Bán Sơn: “Ta muốn gặp Trần thủ lãnh của các ngươi, làm phiền thông báo giùm một tiếng.”

Triệu Bán Sơn đáp: “Tổng đà chủ hôm nay không rảnh, vài ngày nữa mới gặp được.”

Càn Long thầm nghĩ: “Mới có một ngày đã thế, thêm vài ngày nữa, biết ta còn sống để gặp hay không?” Hắn bèn nói: “Vậy phiền ngươi lấy cho trẫm thứ gì ăn cho đỡ đói đã.”

Triệu Bán Sơn gật đầu, rồi lớn tiếng hô: “Vạn tuế gia muốn dùng ngự thiện, mau mau bày tiệc lên đây.” Vệ Xuân Hoa dạ một tiếng rồi đi ra ngoài.

Càn Long cả mừng, lại bảo: “Lại phiền ngươi tìm cho trẫm một bộ quần áo.”

Triệu Bán Sơn lại lớn tiếng hô: “Vạn tuế gia muốn thay đổi y phục, mau lấy long bào.”

Càn Long hoan hỉ nói: “Ngươi đúng là hảo nhân. Mau cho biết tên, sau này nhất định trẫm sẽ ban thưởng.” Triệu Bán Sơn mỉm cười không đáp. Càn Long đột nhiên nhớ ra, bèn nói: “À, trẫm nhớ ra rồi. Công phu ám khí của ngươi khá lắm.”

Mạnh Kiện Hùng đem một bộ y phục vào, đặt trên chăn. Càn Long ngồi dậy, nhìn thấy rõ ràng đây là sắc phục người Hán kiểu đời Minh, không khỏi ngần ngừ một chút. Triệu Bán Sơn nói: “Bọn ta chỉ có loại quần áo này, ông mặc hay không thì tùy.”

Càn Long nghĩ: “Ta là hoàng đế Mãn Thanh, sao có thể mặc sắc phục triều Minh?” Nhưng hắn không thể không mặc, vì không mặc quần áo thì không dám ngồi dậy mà ăn uống. Nhịn một ngày hai đêm, đói rã ruột rồi, Càn Long đành bất chấp mọi sự, khoác y phục vào người. Hắn không quen mặc quần áo người Hán, nhưng mặc vào trông vẫn rất tiêu sái.

Càn Long đứng dậy đi mấy bước, nhìn qua cửa sổ bất giác hoảng sợ nhảy chồm lên. Xa tít phía dưới có những cánh buồm nhỏ xíu lững lờ trên mặt sông, cây cối rậm rạp đều thấp hơn tầm mắt, ruộng vườn giống như bàn cờ trải tới chân trời, thì ra mình đang ở trên đỉnh một tòa tháp cao. Tòa tháp này cao ngất, lại ở bên bờ một con sông lớn, nhất định là tòa Lục Hòa Tháp nổi danh nhất Hàng Châu.

Đợi thêm hai giờ nữa mới có người tới báo: “Tiệc rượu đã bày xong, xin mời dùng bữa.” Càn Long theo Triệu Bán Sơn và Vệ Xuân Hoa đi xuống tầng dưới, thấy giữa phòng bày một cái bàn tròn, trên bàn đã sắp chén đũa đàng hoàng sạch sẽ, bên bàn đã có mấy người ngồi, chừa lại ba chỗ trống. Mọi người thấy hắn xuống đều đứng dậy chắp tay đón tiếp. Càn Long thấy bọn này đột nhiên cung kính lễ phép, trong lòng âm thầm mừng rỡ.

Vô Trần đạo nhân lên tiếng: “Tổng đà chủ nói rằng vừa gặp hoàng thượng đã thấy như bạn cũ, đúng là có duyên, nên mới mời hoàng thượng đến tòa tháp này ở chơi mấy ngày, để tiện hàn huyên đàm đạo suốt đêm. Nào ngờ tổng đà chủ đột nhiên có việc quan trọng phải lam, không thể phân thân nên bảo bần đạo chuyển lời xin lỗi. Xin hoàng thượng bỏ qua.” Càn Long ừ hử một tiếng, không hiểu có chịu bỏ qua hay không.

Vô Trầnmời ngồi, Càn Long ngồi ngay vào vị trí thủ tọa. Đợi gia nhân mang rượu lên, Vô Trần cầm bình rượu trên tay mà nói: “Huynh đệ bọn ta đều là người thô lỗ, không biết phải phục thị hoàng thượng thế nào cho đúng cách, xin hoàng thượng đừng trách tội.” Ông vừa nói vừa rót rượu.

Rót vừa đầy chén, Vô Trần đột nhiên đổi sắc mặt, lớn tiếng quát: “Hoàng thượng phải uống loại rượu thượng đẳng, ngươi đem thứ rượu nhạt thế này đến đây làm gì?” Rồi ông hất luôn chén rượu vào mặt tên gia nhân.

Tên này sợ hãi đáp: “Ở đây chỉ có loại rượu này thôi. Để tiểu nhân vào thành mua rượu ngon hơn.”

Vô Trần giục: “Đi nhanh lên, đi nhanh lên! Rượu thế này thì bọn người thô lỗ như chúng ta còn uống tạm một hai chén, hoàng thượng thì làm sao nuốt cho trôi được?” Từ Thiên Hoằng đón lấy bình rượu, vừa không ngớt xin lỗi Càn Long vừa rót rượu cho mọi người, chỉ chừa lại cái chén trước mặt Càn Long là để trống.

Lúc sau một tên gia nhân khác bưng lên bốn món ăn nóng hổi, nào là tôm xào, sườn non xào, cá chua ngọt, canh chua lươn, hương thơm sực nức bay ập vào mũi. Vô Trần hít hít mấy cái rồi chau mày hỏi: “Thức ăn này do ai nấu?”

Đầu bếp bước tới hai bước đáp: “Là tiểu nhân nấu.”

Vô Trần giận dữ nói: “Ngươi là cái thá gì mà dám nấu cho hoàng thượng ăn? Sao không mời ngự trù Trương An Quang tới đây để nấu mấy món Tô Châu? Những thứ thô thiển ở Hàng Châu này, hoàng thượng làm sao mà ăn được?”

Càn Long sợ quá, vội nói: “Mấy món này đủ cả màu sắc hương vị, không thể gọi là thô thiển được.” Nói xong, hắn đưa đũa ra gắp ngay.

Lục Phi Thanh ngồi cạnh, đưa đũa ra cản rồi nói: “Những thứ thô thiển này hoàng thượng không nên ăn, dễ bị đau bụng lắm.” Ông dùng đũa gặp vào đôi đũa của Càn Long, nhìn rất nhẹ nhàng nhưng đũa của Càn Long đã gãy mất một khúc.

Quần hùng thấy Lục Phi Thanh vận công mà không để lộ ra ngoài mặt, ai cũng thán phục trong lòng. Vô Trần nghĩ: “Võ công sư đệ Trương Triệu Trọng của ông ấy có thể gọi là cao, nhưng nói về nội công thì chắc chắn không bằng sư huynh được. Miên Lý Châm quả nhiên danh bất hư truyền.”

Đôi đũa của Càn Long bị Lục Phi Thanh kẹp gãy, đưa ra không tiện mà rút vào cũng khó coi. Hắn lập tức đỏ mặt tía tai, ném hai khúc đũa gãy trên bàn nghe cạch một tiếng. Mọi người giả vờ không thấy, mời mọc nhau một hồi rồi bắt đầu ăn uống.

Từ Thiên Hoằng bảo tên đầu bếp: “Mau mau đi mời Trương An Quang đến đây nấu mấy món ngự thiện. Giờ này đã quá bữa hoàng thượng rồi, ngươi có biết không?” Đầu bếp vâng dạ mấy tiếng rồi lùi ra.

Càn Long đã biết họ cố ý trêu ghẹo mình. Hắn bụng đói như cào mà phải ngồi nhìn mọi người ăn uống vừa khen ngon, trong lòng tức hận nhưng không dám phát tác. Thức ăn bưng lên hết món này đến món khác, nhà bếp đặt ngay trong tháp nên món nào cũng vừa nóng hổi vừa thơm phức. Càn Long ngồi nuốt nước bốt mà đợi mọi người ăn xong bữa tiệc, thật không dễ dàng.

Cuối cùng, gia nhân bưng trà Long Tĩnh lên. Từ Thiên Hoằng nói: “Trà này không đến nỗi tồi, hoàng thượng có thể uống tạm mấy chung.” Càn Long đón lấy uống hai hớp. Bụng trống mà uống trà đặc vào, bao tử cồn cào lại càng cảm thấy đói thêm một mức.

Tưởng Tứ Cân đứng dậy, vừa xoa xoa bụng mình vừa lớn tiếng than: “No quá!”

Triệu Bán Sơn nói: “Bọn gia nhân đang gấp rút lo ngự thiện, xin hoàng thượng đợi một chốc nữa.”

Vô Trần đứng bên cứ giậm chân cằn nhằn là đón tiếp khách quý không được chu đáo, tổng đà chủ trở về nhất định sẽ không vui. Chu Trọng Anh thì vừa lắc hai quả thiết đảm leng keng vừa hỏi: “Hoàng thượng đã đói bụng chưa?”

Càn Long hừ mũi một tiếng, không nói gì. Tưởng Tứ Cân hỏi: “Ủa, có người đói hả? Ta đang no quá đây.”

Từ Thiên Hoằng nói: “Vậy mới nói là người no không biết cái khổ của người đói. Bá tánh khắp thiên hạ bị đói không biết mấy ngàn mấy vạn, những người lo việc triều chính có bao giờ nghĩ đếncái khổ của họ không? Hôm nay hoàng thượng nhịn đói chút ít, để sau này hiểu được bá tánh bị đói là khổ sở thế nào.”

Thường Bá Chí nói: “Người ta thì đói hết tháng này qua tháng khác, từ năm này qua năm khác, suốt đời không được một bữa no. Hắn chỉ một ngày hai ngày chưa ăn, cơn đói có chi đáng kể.”

Thường Hách Chí nói: “Anh em ta hồi nhỏ đã có lần phải ăn rễ cỏ lá cây liền hai tháng. Con rùa kia, có muốn thử một lần không?”

Đa số quần hùng Hồng Hoa Hội đều xuất thân con nhà nghèo khổ. Nhắc đến chuyện đói bụng, ai cũng nhớ lại những chuyện quá khứ, tất cả đều bốc lửa giận lên. Nghe người này một câu, người kia một câu, sắc mặt Càn Long từ đỏ biến thành xanh rồi từ xanh trở lại đỏ. Hắn nghe họ kể đầy vẻ chân thật, cũng không khỏi động lòng thương xót, nghĩ thầm: “Quả thật trên đời có những việc thê thảm như thế hay sao? Sinh ra làm con nhà nghèo, thật là muôn phần không may.”

Hắn càng nghe càng thấy khó chịu, bèn đứng dậy đi lên tầng trên. Quần hùng không ai cản trở, Từ Thiên Hoằng nói với theo: “Lát nữa ngự thiện chuẩn bị xong, lại xin tiếp giá.” Càn Long mặc kệ không nghe.

Nhịn thêm hai giờ nữa, Càn Long đột nhiên ngửi thấy mùi thơm của thịt dê xào tỏi ớt, rõ ràng là món ruột của ngự trù Trương An Quang. Hắn vừa kinh hãi vừa mừng rỡ, chẳng lẽ bọn này mời ngự trù đến thật hay sao? Đang suy nghĩ thì Trương An Quang đã trèo lên, nằm rạp xuống đất dập đầu rồi nói: “Mời hoàng thượng dùng bữa.”

Càn Long ngạc nhiên hỏi: “Sao ngươi lại đến đây?”

Trương An Quang đáp: “Hôm qua nô tài định đi nghe hát, vừa ra ngoài cửa đã bị bắt cóc ngay. Hôm nay nghe chúng nói hoàng thượng đang ở đây, cần nô tài phục thị, nô tài vui mừng khôn xiết.”

Càn Long gật đầu bước xuống tầng dưới, thấy trên bàn đã đặt sẵn một chén đậu hũ hầm với yến sào, một chén thịt dê xào tỏi ớt, một chén mì gà nấu măng, một chén thịt gà nấu cháo trắng, đều là những món thường ngày hắn thích ăn nhất. Ngoài ra còn có mười mấy món phụ nữa, vừa nhìn thấy nước bọt đã tuôn cuồn cuộn như nước Hoàng Hà.

Trương An Quang xới cơm, mọi người bọn Vô Trần đồng thanh nói: “Mời hoàng thượng dùng cơm.”

Càn Long nghĩ bụng: “Xem ra lần này họ mời ta ăn thật rồi.” Hắn đưa đũa lên, đột nhiên một cô nương khoảng mười tám mười chín tuổi ẵm một con mèo từ bên ngoài chạy vào, nói với Chu Trọng Anh: “Gia gia! Con mèo này đói quá rồi!”

Cô nương này chính là Chu Ỷ. Con mèo giãy giụa mấy cái, Chu Ỷ buông lỏng tay cho nó nhảy lên bàn. Nó ngoạm ngay hai miếng thức ăn, mọi người la hét om sòm cố đuổi đi. Đột nhiên con mèo duỗi thẳng bốn chân nằm cứng ngắc trên bàn, miệng ứa máu đen mà chết.

Càn Long lập tức biến sắc mặt. Trương An Quang sợ đến run rẩy, vội quỳ xuống nói: “Hoàng thượng… hoàng thượng… Thức ăn đã bị hạ độc rồi… ăn không được nữa.”

Càn Long cười ha hả rồi nói: “Các ngươi phạm thượng làm loạn, đại nghịch vô đạo, cả gan thí quân. Muốn giết thì cứ giết, cần gì hạ độc?” Hắn xô ghế ra, đứng phắt dậy.

Vô Trần hỏi: “Hoàng thượng thực sự không dám ăn bữa cơm này phải không?”

Càn Long giận dữ mắng: “Đồ loạn thần tặc tử! Ta phải xem các ngươi có kết cuộc thế nào?” Hắn nhìn thấy con mèo trúng độc, nghĩ rằng hôm nay mình chắc chết, nên mở miệng chửi mắng không kiêng nể gì nữa.

Vô Trần vỗ bàn một cái rồi nói: “Đại trượng phu sống chết có số, ngươi không dám ăn thì ta ăn. Ai có gan thì ăn chung với ta.” Nói xong, ông cầm đũa gắp vào đĩa con mèo vừa ăn, đưa lên miệng nhai nuốt ngon lành.

Quần hùng ngồi quanh đều kêu lên: “Chết thì cùng chết, có gì quan trọng đâu?” Mọi người cùng hăng say ăn uống. Càn Long thấy bọn này dám liều mạng ăn đồ có độc, ngạc nhiên không biết họ có dụng ý gì.

Chỉ chốc lát, quần hùng đã ăn sạch sẽ cơm và thức ăn trên bàn tiệc như bầy hổ đói, không ai bị làm sao cả. Thì ra họ đã hạ độc con mèo từ trước, còn trong thức ăn hoàn toàn không có độc. Thế là Càn Long thấy bàn tiệc ngon lành sắp tới miệng mình, nhưng không ăn được miếng nào mà còn bị chế nhạo một phen nữa.

Hôm ấy quần hùng thương nghị trên thuyền, tuy Văn Thái Lai đã cứu ra, nhưng Càn Long chắc chắn không chịu thôi, tìm cách để khỏi lo lắng về sau không phải là chuyện dễ. Vô Trần có ý kiến: “Không làm thì thôi làm thì phải làm đến nơi đến chốn. Chúng ta phải bắt cóc Càn Long, ép cho hắn không dám làm khó dễ Hồng Hoa Hội nữa.”

Lúc đó quần hùng đang cao hứng, ai cũng nổi hùng tâm tráng khí, lập tức quay lại Hàng Châu. May mà gặp lúc Tây Hồ sắp mở cuộc vui tuyển hoa trạng nguyên, họ bèn dùng kế dụ Càn Long lên giường của Ngọc Như Ý, rồi bắt cóc hắn tới đây.

Sau khi Văn Thái Lai bị bắt còn bị dao đâm cây đánh, thương tích đầy mình, quần hùng đều hận Càn Long. Hơn nữa Lạc Băng bị thương, Chu Trọng Anh mất con, Dư Ngư Đồng trọng bệnh, mọi việc đều từ đó mà ra cả. Ý kiến của Thường Thị Song Hiệp và Tưởng Tứ Cân là phải một đao lấy mạng Càn Long, không thì cũng phải đập một trận cho hả dạ. Nhưng Trần Gia Lạc và Từ Thiên Hoằng lấy đại cuộc làm trọng, cuối cùng đã khuyên mọi người chỉ nên hành hạ hắn một phen, một mặt là trả thù, hai là để hắn biết oai Hồng Hoa Hội. Sau này Trần Gia Lạc thương nghị đại sự, hắn sẽ dễ dàng chấp thuận hơn.

* * *

Hai ngày Càn Long bị bỏ đói, thành Hàng Châu bị lộn xộn cứ như trời đất đảo ngược. Tin tức hoàng thượng mất tích thì không ai dám tiết lộ ra ngoài, nhưng cả thành bị lùng xét triệt để. Mọi đường thủy lục rời khỏi Hàng Châu đều có binh lính canh giữ, không để một ai ra ngoài. Hai ngày này trong ngoài thành bắt được tới mấy ngàn kẻ tình nghi, mọi nhà ngục đều nhét chật người.

Dĩ nhiên các quan phụ mẫu địa phương có để ý lưu tâm bắt không ít thương gia có máu mặt nhốt vào tù để tống tiền. Đây là vì đại sự trung thân ái quốc, chắc chắn sau này không ai truy cứu.

Phúc Khang An, Lý Khả Tú, Bạch Chấn cùng đám đại thần hộ giá đều giống như kiến bò chảo nóng, thấy hoàng đế mất tích kỳ lạ mà không biết làm gì cho phải. Chúng tin chắc là Hồng Hoa Hội phạm giá, nên lập tức lùng xét khắp nơi. Nào ngờ hội chúng Hồng Hoa Hội trong thành và trong quân ngũ đều đã ẩn náu hoặc trốn đi lánh nạn, không bắt được người nào.

Đến sáng ngày thứ ba, Phúc An Khang lại triệu tập cả bọn vào dinh tuần phủ. Tên nào cũng rầu rĩ, hoàn toàn không có kế sách gì. Ngay cả việc có nên cấp báo cho hoàng thái hậu hay không, chúng cũng chưa quyết định được. Chuyện này quá lớn, chắc chắn không thể giấu giếm, nhưng bây giờ mà báo cáo thì hậu quả sẽ ra sao, không tên nào dám tưởng tượng.

Đang lúc trù trừ chưa quyết, đột nhiên ngự tiền thị vệ Thoại Đại Lâm mặt trắng như tờ giấy vội vã chạy tới, kề tai Bạch Chấn thì thầm rất nhỏ. Bạch Chấn lập tức đổi sắc mặt, đứng bật dậy hỏi: “Thật ư?”

Phúc An Khang hỏi rõ, Thoại Đại Lâm mới kể là sáu tên thị vệ canh giữ bên ngoài phòng ngủ của hoàng thượng đột nhiên bị giết. Phúc An Khang không những không kinh hãi mà còn ra vẻ hoan hỉ, lên tiếng: “Chúng ta đi xem thử. Việc này chắc chắn có liên quan đến vụ mất tích của hoàng thượng, không chừng có thể tìm được chút ít manh mối.

Cả bọn kéo nhau vào phòng ngủ của Càn Long trong dinh tuần phủ. Thoại Đại Lâm vừa đẩy cửa ra, mùi máu tươi lập tức xông vào mũi. Dưới đất có sáu cái thi thể nằm lăn lóc, cái thì lòi mắt ra ngoài, cái thì thủng lỗ trước ngực, trông vừa thê thảm vừa đáng sợ.

Mỗi khi Càn Long ngủ trong này, bao giờ cũng có sáu thị vệ canh giữ bên ngoài. Tuy hoàng đế mất tích nhưng bọn thị vệ vẫn đổi phiên gác như bình thường, nào ngờ phiên canh này bị giết sạch trong đêm.

Bạch Chấn hỏi: “Sáu anh em này cũng không phải tay vừa, sao lại bị giết hết mà không kịp lên tiếng báo động?” Cả đám chỉ biết giương mắt há mồm, không ai đoán được gì.

Bạch Chấn quan sátn kỹ thi thể, thấy có người bị chưởng lực đánh chết, có người bị kiếm vạt mất nửa cái đầu. Binh khí cả sáu còn nguyên trong bọc, chưa kịp rút ra. Rõ ràng thân thủ của thích khách cực kỳ nhanh chóng, bọn thị vệ không kịp hô hoán hay chống đỡ gì thì đã mất mạng rồi.

Bạch Chấn cau mày nói: “Phòng này không đủ chỗ cho nhiều người loạn đấu. Bọn thích khách tối đa chỉ có hai ba tên, vừa đột nhập đã giết xong sáu huynh đệ. Chúng xuất thủ vừa nhanh vừa độc, xem ra võ công cực cao.”

Lý Khả Tú nói: “Hoàng thượng đã bị mời đi, hà tất phải giết thêm sáu tên thị vệ. Hình như thích khách đêm qua và bọn bắt cóc hoàng thượng không phải cùng phe.”

Phúc An Khang gật đầu nói: “Không sai! Bọn thích khách này cũng tính chuyện đại nghịch mưu phản, nhưng chúng không biết hoàng thượng không có ở đây.”

Bạch Chấn nói: “Hai vị nghĩ rất đúng. Nếu người giết bọn thị vệ này là Hồng Hoa Hội thì chắc chắn hoàng thượng rơi vào tay người khác, nhưng ngoài Hồng Hoa Hội thì còn ai đủ gan làm chuyện đại nghịch bất đạo này? Còn nếu Hồng Hoa Hội bắt cóc hoàng thượng, thì còn ai võ công cao cường như thế nữa?” Hắn nghĩ, chỉ một mình Hồng Hoa Hội đã khó mà đối phó, bây giờ lại đột nhiên xuất hiện thêm cường địch, bất giác run rẩy toàn thân.

Bạch Chấn cúi người xem xét tỉ mỉ, bỗng phát hiện trước ngực một thi thể có dấu vuốt chó cào rách, và răng chó cắn thủng. Hắn động tâm suy nghĩ chút xíu, rồi nhờ Lý Khả Tú sai người đi tìm chó săn.

Khoảng một giờ sau, sai dịch mang đến ba người thợ săn và sáu con chó. Lý Khả Tú triệu tập hai ngàn binh lính, chuẩn bị xuất phát. Bạch Chấn hạ lệnh cho thợ săn dẫn chó hít ngửi sáu cái thi thể một chút, rồi ra ngoài tìm kiếm.

Chó săn dẫn mọi người đi thẳng đến bờ hồ, rồi hướng xuống lòng hồ sủa loạn một hồi. Bạch Chấn lẩm nhẩm gật đầu, đoán biết thích khách có mang theo chó, giết thị vệ rồi sai chó dẫn đường truy tìm hoàng đế.

Mấy con chó săn sủa một hồi rồi chạy loạn xạ quanh hồ. Chúng tìm được dấu vết ở một chỗ đất ẩm ướt, đúng là nơi mà hoàng thượng đã lên bờ tìm xe ngựa quay trở về thành. Chỗ này cũng có sẵn dấu chân của người và chó rồi.

Trong thành đông người, mùi vị phức tạp, nên chó săn đi chậm lại. Chúng vừa chạy vừa đánh hơi, chạy thẳng đến nhà Ngọc Như Ý. Tòa lầu xanh này đêm trước đông nghẹt quan binh canh giữ, nhưng bây giờ không thấy ai nữa.

Cả bọn đẩy cổng vào, thấy trong vườn có hai thị vệ và mười mấy quan binh bị giết. Thích khách ra tay rất độc, không để lại người nào sống sót. Có mấy tên lính chết vì bị chó cắn đứt yết hầu. Bạch Chấn xem kỹ bộ vị thương tích trên thân thể, nghĩ bụng: “Con chó này rất cao lớn, nhiều phần là giống chó săn lai sói ở vùng quan ngoại. Chẳng lẽ thích khách từ quan ngoại hay vùng biên cương tây bắc vào đây?”

Sáu con chó săn chạy quanh mấy vòng trong phòng ngủ của Ngọc Như Ý, rồi đua nhau cào loạn xạ xuống sàn. Bạch Chấn nhìn tỉ mỉ nền nhà vẫn không thấy chỗ nào khác lạ, nhưng thấy đám chó vẫn không ngừng vừa cào vừa sủa, liền hạ lệnh cho binh lính dùng vũ khí nạy nền nhà lên. Phía dưới lộ ra một phiến đá.

Bạch Chấn vội bảo: “Cậy nhanh lên!” Binh lính cạy phiến đá lên, xuất hiện một cái hang lớn, đám chó săn lập tức chui xuống. Lý Khả Tú và Bạch Chấn nhìn thấy con đường hầm, bấy giờ mới đột nhiên tỉnh ngộ. Cả ngàn binh lính canh giữ xung quanh và trênmái lầu xanh, thế mà hoàng đế vẫn mất tích một cách quỷ không hay thần không biết, thì ra thích khách từ dưới đất chui lên. Hai tên này hổ thẹn ra mặt, chỉ huy binh lính tiếp tục truy lùng.

Hồi 11: Bảo tháp ngất trời thề cửu đinh – Khoái chiêu như điện tiếp song ưng

Càn Long vừa đói vừa sợ vừa giận hai ngày hai đêm trên đỉnh tháp Lục Hòa, cả sức khỏe lẫn tinh thần đều bị dày vò dằn vặt, thật là khốn đốn vô cùng.

Sáng sớm ngày thứ ba, một gã thư đồng vào tháp, đến gần hắn và nói:

– “Thiếu gia mời Đông Phương lão gia sang đàm đạo.”

Càn Long nhận ra thư đồng Tâm Nghiễn của Trần Gia Lạc, mừng rỡ theo nó đi xuống lầu dưới. Hắn vừa tới cửa, Trần Gia Lạc đã tươi cười ra đón, chắp tay chào hỏi. Càn Long chắp tay trả lễ rồi vào trong. Tâm Nghiễn dâng trà lên, Trần Gia Lạc bảo nó mau dọn điểm tâm. Tâm Nghiễn bưng vào một cái khay, trong khay có một liễn bánh bao, một đĩa xíu mại thịt cua, một đĩa chả chiên giòn, một đĩa chạo tôm, một tô canh ngón sen gà xé. Khay chưa bưng tới, mùi thơm đã sực vào mũi.

Tâm Nghiễn sắp hai bộ chén đũa, rồi rót rượu.

Trần Gia Lạc nói:

– “Tiểu đệ phải đi thăm hương tích của một vị bằng hữu, nên đón tiếp có phần trễ nãi.

Xin ca ca thứ tội.”

Càn Long đáp:

– “Không cần nói vậy.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Mời ca ca dùng mấy món điểm tâm thô lậu này trước, rồi tiểu đệ xin thỉnh giáo mấy điều.”

Càn Long trước nay thân thể khỏe mạnh, ăn uống như hùm. Hắn đã hai ngày hai đêm không có gì bỏ bụng, da bụng đã dán sát vào xương sống, làm sao mà nhẫn nại thêm nữa? Hắn đợi Trần Gia Lạc cầm đũa gắp trước một miếng bánh bao, rồi lập tức múa đũa như bay, nhanh gấp mười lần múa bút làm thơ, chỉ trong chốc lát đã ăn sạch sẽ bốn món điểm tâm, ngay cả bát canh cũng húp cạn đến trơ đáy chén.

Trần Gia Lạc chi gắp mỗi đĩa tí xíu, múc một muỗng canh rồi buông đũa, ngồi mỉm cười nhìn Càn Long ăn như rồng càn qua mâm. Càn Long ăn xong, thấy người dễ chịu khôn tả, bưng chén trà Long Tĩnh màu xanh bích lên uống từ từ chậm rãi. Chẳng những miệng lưỡi hắn ngọt ngào, mà ngay cả hơi ợ lên từ bao tử cũng thấy thơm tho.

Trần Gia Lạc đứng lên mở cửa rộng ra rồi nói:

– “Họ xuống dưới canh giữ cả rồi. Chúng ta nói chuyện ở đây là thích hợp nhất, chắc chắn không có người thứ ba nghe thấy.”

Càn Long nhăn hẳn mặt lại, trầm giọng hỏi thẳng:

– “Ngươi bắt cóc ta đến đây là muốn gì vậy?”

Trần Gia Lạc bước tới hai bước, nhìn thẳng vào mặt hắn. Càn Long cảm thấy ánh mắt của Trần Gia Lạc như tia điện, tựa hồ rọi thấu tận đáy lòng mình, không chịu nổi phải từ từ quay đi.

Hồi lâu, Trần Gia Lạc mới lên tiếng:

– “Ca ca! Chẳng lẽ đến bây giờ mà ca ca vẫn chưa chịu nhìn nhận đứa em này hay sao?”

Câu nói này âm điệu rất ôn hòa khẩn thiết, nhưng lọt vào tai Càn Long chẳng khác gì sấm động giữa trời quang. Hắn nhảy chồm lên, run giọng hỏi:

– “Ngươi… ngươi… ngươi nói gì?”

Sắc mặt Trần Gia Lạc đầy vẻ thành khẩn. Chàng từ từ đưa tay ra nắm chặt tay Càn Long, rồi nói:

– “Chúng ta là anh em ruột thịt. Ca ca không cần giấu giếm nữa, tiểu đệ biết cả rồi.”

Từ khi Văn Thái Lai trốn thoát, Càn Long đã biết là bí mật này không thể giữ được nữa. Nhưng khi nghe Trần Gia Lạc đột nhiên kêu mình là “ca ca”, hắn cũng không nén nổi run rẩy muôn phần, thân thể như không có sức, ngã ngồi phịch xuống ghế.

Trần Gia Lạc tiếp:

– “Ca ca đến Hải Ninh tảo mộ, sai ngươi xây dựng công trình to tát để ngăn sóng biển, lại phong tặng song thân. Tiểu đệ biết ca ca không quên gốc rễ. Ca ca hãy tới đây, thử nhìn vào tấm gương này.”

Chàng kéo sợi dây ở cạnh một bức tranh treo trên tường. Bức tranh được cuộn lên, lộ ra một tấm gương lớn. Càn Long đứng dậy nhìn, thấy mình trong gương đang mặc y phục người Hán, thật sự không có dấu vết nào của dòng máu Mãn Châu. Hắn lại nhìn Trần Gia Lạc đứng bên, tuổi tác hai người tuy khác nhưng diện mạo có chỗ tương đồng. Càn Long thở ra một hơi, ngồi lại xuống ghế.

Trần Gia Lạc nói:

– “Ca ca! Huynh đệ chúng ta chưa biết gì nên mới động đao thương, gây chuyện cốt nhục tương tàn. Linh hồn của gia má trên trời nhất định đau lòng. May mà chưa gây ra những chuyện không thể vãn hồi, cũng chưa ai bị thương tích.”

Càn Long cảm thấy khô môi ráo họng, tim đập thình thình, hồi lâu mới nói được:

– “Ta đã kêu hiền đệ vào kinh làm việc, mà đệ không chịu đi.”

Trần Gia Lạc quay lại nhìn xuống dòng sông bên dưới, không đáp.

Càn Long lại tiếp:

– “Ta đã sai điều tra, biết hiền đệ từng đỗ thi Hương, vị thứ rất cao. Dựa vào tài học của đệ, thi Hội thi Đình chắc chẳng khó gì, rồi sau này những chức Tuần Vũ, Thượng Thư, Đại học sĩ cũng không lý gì không tới được. Như thế thì đối với gia đình, đối với quốc gia, đối với đệ, đối với ta đều có ích cả, cần gì phải khổ sở làm những chuyện bất trung bất hiếu, đại nghịch vô đạo thế này?”

Đột nhiên Trần Gia Lạc quay lại, lên tiếng:

– “Ca ca! Tiểu đệ không nói ca ca bất trung bất hiếu đại nghịch vô đạo thì thôi, sao ca ca lại nói tiểu đệ như thế?”

Càn Long hỏi lại:

– “Thần đối với quân thì phải tận trung, phản quân tức là đại nghịch. Ta đã là quân vương, làm sao gọi là bất trung được?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Rõ ràng ca ca là người Hán, nhưng lại phục vụ cho bọn man di, như vậy có phải là trung hay không? Hồi song thân còn sống trên đời, ca ca không phụng thị đàng hoàng, hơn nữa ngày nào phụ thân vào triều cũng phải quỳ lạy ca ca. Trong lòng của ca ca có yên hay không? Như vậy có phải là hiếu hay không?”

Càn Long mồ hôi trán từng giọt từng giọt thấm ướt cả mặt, xuống giọng đáp:

– “Trước kia ta không biết. Mùa xuân năm nay cố thủ lĩnh Vu Vạn Đình của Hồng Hoa Hội các ngươi vào cung, ta mới nghe nói. Bây giờ ta vẫn bán tín bán nghi, nhưng phận làm con thì thà tin là có chứ không dám nghi là không. Nếu tin lầm chẳng qua là mình ngu muội, còn nếu nghi lầm là bất hiếu. Vì thế ta mới đến Hải Ninh bái mộ.”

* * *

Thật ra vào mùa xuân năm nay, khi Vu Vạn Đình cùng Văn Thái Lai vào cung đã đem theo một lá thư của Trần phu nhân giao cho Càn Long. Trong thư kể tường tận chuyện đó xảy ra như thế nào, lại nhắc đến nốt son ở mông bên trái của hắn. Cái nốt đó là bằng chứng không sao cãi nổi, Càn Long vừa đọc thư đã tin hết chín phần rồi. Khi Vu Vạn Đình rời khỏi, hắn bí mật gọi nhũ mẫu Liêu thị năm xưa cho mình bú mớm lên hỏi, càng biết rõ tình hình hơn.

Vào ngày mười ba tháng tám năm Khang Hy thứ năm mươi, Tứ hoàng tử Nhậm Trinh và phúc tấn là Trác phi Nẫu Cô Lục Thị sinh hạ một đứa con gái. Ngay sau đó, Nhậm Trinh nghe nói phu nhân của đại thần Trần Thế Quang cũng sinh cùng ngày đó, bèn hạ lệnh mang con của Trần Thế Quang vào trong phủ để thăm hỏi. Nào ngờ khi ẵm vào là con trai, khi ẵm ra lại là con gái. Trần Thế Quang biết Tứ hoàng tử tráo con, không khỏi kinh hãi, nhưng không dám tiết lộ ra ngoài một câu nửa chữ.

Lúc đó đám con của Khang Hy đang tranh đoạt ngai vàng, hoặc công khai giành giật, hoặc âm thầm cấu xé, ai cũng dốc hết thủ đoạn. Tuy Khang Hy đã lập Nhị hoàng tử Nhậm Như làm thái tử, nhưng từ lâu đã muốn phế đi. Nhậm Trinh biết lúc này tâm ý phụ vương chưa quyết, vì đám anh em Nhậm Đề, Nhậm Tử, Nhậm Chỉ… tài cán so với mình đều làng nhàng như nhau, không ai vượt trội.

Lập tự là kế sách lâu dài. Khi chọn người thừa kế, hoàng thượng không những chỉ tính tới hoàng tử, mà phải nghĩ đến con trai của hoàng tử nữa. Lỡ khi thái tử chết sớm, thì hoàng tôn chính là hoàng đế tương lai. Lúc này Nhậm Trinh đã có hai đứa con trai. Đứa đầu là Hoàng Thời thì ngũ quan không ngay ngắn nên không được ông nội thương mến, mà lại chưa bị đậu mùa. Thời đó bệnh đậu mùa rất phổ biến, trẻ con mắc phải đậu mùa thì mười đứa chết năm, khỏi bệnh đậu mùa mới tin là nuôi được. Con của Nhậm Trinh chưa bị đậu mùa, coi như chưa có con trai, nên hắn ngày đêm mong mỏi có thể quý tử.

Nào ngờ đứa con trai là Hoàng Huy mới sinh ra đã chết ngay. Sau đó, Trác phi của Nhậm Trinh là Nẫu Cô Lục Thị có mang lần nữa. Hai vợ chồng cầu thần bái lạy, chỉ mong một đứa con trai, nào ngờ sinh ra con gái. Tình cờ lúc đó Trần Thế Quang được một đứa con trai, mặt sáng môi hồng, sắc thái thanh tú. Nhậm Trinh mặc kệ tất cả, vì thèm muốn ngôi hoàng đế nên dùng thủ đoạn đổi lấy đứa bé. Trong đám hoàng tử thì Nhậm Trinh nổi tiếng là thủ đoạn độc ác nhất. Trần Thế Quang làm sao dám lên tiếng? Đứa bé này được đặt tên là Hoàng Lịch.

Khi Khang Hy còn sống nó đã được phong làm Bảo Thân Vương, chính là Càn Long sau này. Càn Long từ nhỏ đã thông minh vũ dũng, mới sáu tuổi đã học thuộc lòng bài Ái Liên Thuyết. Lúc chín tuổi, xảy ra một việc khiến Khang Hy càng thương yêu hắn hơn nữa. Năm đó Hoàng Lịch theo ông nội đến Nhiệt Hà săn bắn. Quân cận vệ dồn từ trong núi ra một con gấu đen rất lớn, đuổi đến trước mặt hoàng đế. Khang Hy nâng cây súng hỏa thương lên, bắn trúng đầu con gấu đen, nó ngã lăn ra đất. Lúc Khang Hy bắn súng, Hoàng Lịch đang cưỡi một con ngựa nhỏ đứng bên ông nội. Cậu bé nhìn con gấu đen khủng khiếp như vậy mà không sợ hãi chút nào, cũng nâng cây súng của mình lên muốn thử sức.

Khang Hy thấy thế lấy làm thú vị, bèn bảo:

– “Cháu tới bắn nó một phát thử xem.”

Vì thương cháu nên Khang Hy mới bảo nó bắn, coi như nó giết chết con gấu đen, để về sau có thể khoe khoang trước mặt quần thần là hồi mình chín tuổi đã săn được gấu.

Hoàng Lịch xuống ngựa, chạy tới chỗ con gấu đen, kêu lớn:

– “Bắn chết mi! Bắn chết mi!”

Rồi nó nhắm vào bụng gấu bắn một phát. Bọn thị vệ lập tức hoan hô, Khang Hy cũng vuốt râu mỉm cười. Hoàng Lịch quay lưng lại, trèo lên ngựa trở về. Nào ngờ con gấu đen vẫn còn sống, đột nhiên chồm dậy, phóng tới trước ngựa của Khang Hy trông rất hung tợn. Bọn thị vệ kinh hãi, bắn tới tấp giết nó chết hẳn.

Khang Hy vừa sợ vừa mừng, bảo bọn thị vệ:

– “Đứa bé này phúc phận không nhỏ. Giả tỉ lúc nó đứng trước mặt mà con gấu đen này chồm dậy, thì làm sao còn mạng nữa?”

Từ đó về sau, Khang Hy cho rằng Hoàng Lịch đã văn võ toàn tài lại có phước lớn, nên cưng chiều nó nhất trong đám cháu. Sau này Nhậm Trinh lên ngôi (tức là Ung Chính), thật sự có phần dựa vào đứa con mà mình tráo được.

Vì thế suốt đời Ung Chính, nhà họ Trần ở Hải Ninh được sủng ái vô cùng.

Một là Ung Chính muốn báo đáp, hai là muốn mua chuộc để họ khỏi oán hận mà tiết lộ ra bí mật lớn bằng trời này. Còn đứa con gái được họ Trần nuôi nấng, sau này gả cho Tưởng Phổ ở Thường Phục. Cha của Tưởng Phổ là Tưởng Điền Tích, mới năm đầu thời Ung Chính đã được phong chức Hộ bộ thị lang, lúc đó Trần Thế Quang làm Tuần phủ Sơn Đông. Hai người Trần, Tưởng cùng trị thủy có công, nên đều được gọi vào triều, lần lượt lên chức Hộ bộ thượng thư, Lễ bộ thượng thư, Lại bộ thượng thư, rồi đến Đại học sĩ.

Suốt đời Ung Chính, nhà họ Tưởng được sủng ái chẳng kém ai. Ở vùng Thường Phục đến nay vẫn còn tòa nhà của Trần phu nhân trong Tưởng phủ, dân trong vùng đều gọi là Công chúa lâu.

Lúc Càn Long được ẵm vào phủ của Ung thân vương Nhậm Trinh, hắn khóc mãi không dứt, không chịu bú sữa. Trác phi Nẫu Cô Lục của Nhậm Trinh đành phải gọi nhũ mẫu Liêu thị của nhà họ Trần vào phủ, Càn Long mới chịu ngừng khóc mà bú. Chuyện đã lâu lắm rồi, bây giờ đột nhiên Càn Long hỏi tới. Đáng lẽ Liêu thị không muốn nói, nhưng nghe Càn Long nói chuyện thì hiểu hắn đã biết hết rồi, không giấu giếm được nữa. Bấy giờ Liêu thị đã ngoại lục tuần, thế mà ngay đêm đó bị Càn Long cho người thắt cổ chết để đề phòng bà làm lộ chuyện bí mật này. Càn Long nghĩ đến công ơn nuôi dưỡng của Liêu thị, nên khi hạ lệnh trong lòng cũng áy náy đôi chút.

* * *

Trần Gia Lạc lên tiếng hỏi:

– “Ca ca thấy mình có chỗ nào giống người Mãn không? Còn gì phải nghi ngờ nữa?”

Càn Long trầm ngâm chưa đáp, Trần Gia Lạc nói tiếp:

– “Ca ca là người Hán. Giang sơn cẩm tú của người Hán lại rơi vào tay bọn man di, thế mà ca ca lại làm thủ lĩnh bọn hồ lỗ, thống lãnh chúng để áp bức con cháu Viêm Hoàng người Hán chúng ta. Như vậy không phải bất trung, bất hiếu, đại nghịch vô đạo hay sao?”

Càn Long không còn gì để nói, đành giở giọng liều:

– “Dù sao thì hôm nay ta đã lọt vào tay các ngươi. Ngươi muốn giết thì giết, cần gì phải nhiều lời?”

Trần Gia Lạc vẫn nhỏ nhẹ:

– “Bên bờ biển, chúng ta đã hẹn ước sau này không ai hại ai. Câu nói đó vẫn còn văng vẳng bên tai, tiểu đệ làm sao phản bội lời thề được? Huống chi bây giờ đã biết ca ca là anh ruột, gặp nhau thân thiết sợ còn chưa đủ, lẽ nào lại hại nhau?”

Nói tới đây chàng không nén nổi, nước mắt lăn xuống má.

Càn Long hỏi:

– “Vậy bây giờ ngươi đối xử với ta thế nào? Ép ta bỏ ngôi thoái vị phải không?”

Trần Gia Lạc lau mắt rồi đáp:

– “Không! Ca ca vẫn làm hoàng đế, chỉ có điều không phải là một hoàng đế bất trung bất hiếu, mà là một vị vua khai quốc nhân hiếu anh minh.”

Càn Long ngạc nhiên hỏi:

– “Vua khai quốc ư?”

Trần Gia Lạc gật đầu:

– “Đúng thế! Ca ca làm hoàng đế của người Hán, chứ không phải của bọn Mãn Thanh.”

Càn Long nghe tới đây mới hiểu ý chàng, bèn hỏi:

– “Ngươi muốn ta đuổi họ ra ngoài quan ải hay sao?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Không sai! Ca ca vẫn được làm hoàng đế, mà khỏi phải nhận giặc làm cha để bị người đời sau đàm tiếu, thì sao không cố gắng hiển lộ bản lĩnh xây dựng cơ nghiệp nghìn đời?”

Càn Long vốn là người thích khoa trương, nghe mấy câu này không khỏi động lòng.

Trần Gia Lạc nhìn mặt hắn, biết mình thuyết phục có hiệu quả liền nói tiếp:

– “Bây giờ ca ca làm hoàng đế chỉ là thừa hưởng ân đức của bọn Mãn Thanh, có chi là kỳ lạ? Ca ca nhìn mấy người kia thử xem?”

Càn Long tới gần cửa sổ, nhìn theo tay Trần Gia Lạc thì nhìn thấy bên dưới có mấy nông phu đang cày xới trên thửa ruộng xa xa.

Trần Gia Lạc nói:

– “Nếu người này sống trong phủ Ung Thân Vương còn ca ca sống trong một nông gia, thì bây giờ y làm hoàng đế còn ca ca đang cầm cuốc mà cuốc ruộng.”

Trước nay Càn Long vẫn cho rằng mình có phúc phần, người bình thường không so sánh được, nhưng bây giờ ngẫm kỹ lời nói của Trần Gia Lạc, hắn không khỏi hơi thấy hụt hẫng trong lòng.

Trần Gia Lạc lại nói:

– “Đại trượng phu sống trên thế gian chỉ được trăm năm là cùng, chớp nhoáng đã qua, nếu không xây dựng cơ nghiệp thì chỉ thối nát cùng cây cỏ. Những bậc đế vương như Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông, Minh Thái Tổ mới là hào kiệt anh hùng thật sự. Đời Nguyên có Thành Cát Tư Hãn, đời Thanh có Thái Tổ là Nỗ Nhĩ Cáp Xích, Thái Tông là Hoàng Thái Cực, có thể gọi là đáng mặt đế vương. Còn như bọn Hán Hiến Đế, Tống Huy Tông, Minh Sùng Trinh, dù không phải loại vua vong quốc thì cũng lôi thôi lếch thếch, không đáng gọi đến tên.”

Trần Gia Lạc nói câu nào cũng động đến đáy lòng hoàng đế. Sau khi Càn Long biết mình là người Hán, hắn đã mấy lần toan hạ lệnh cho quan quân thay đổi sắc phục như người Hán, nhưng đều bị Thái hậu bọn đại thần Mãn Châu ngăn cản.

Bây giờ hắn nghĩ, nếu làm theo lời Trần Gia Lạc mà lật đổ nhà Thanh, thay đổi triều đại về cho người Hán, chính mình là vị vua khai quốc của vương triều họ Trần, thì chắc chắn công nghiệp có thể so với Lưu Bang, Lý Thế Dân.

* * *

Càn Long đang định lên tiếng, đột nhiên xa xa vọng đến tiếng chó sủa. Trần Gia Lạc hơi chau mày, quay nhìn ra ngoài thì thấy bốn con chó săn lớn chạy nhanh về phía tòa Lục Hòa Tháp này, phía sau còn có hai người. Trong nháy mắt hai người bốn chó đã chạy tới chân tháp, rồi dưới tháp có người lớn tiếng quát hỏi.

Tháp Lục Hòa cao mười ba tầng. Lúc này Càn Long và Trần Gia Lạc đang ở tầng thứ mười hai, khoảng cách rất xa nên không nghe thấy phía dưới nói chuyện gì, chỉ thấy người và chó đều chạy vào trong tháp. Đột nhiên lại thấy bốn con chó chạy ngược trở ra, Mạnh Kiện Hùng xách cung đuổi theo, bắn vãi một loại đạn vào bốn con chó săn này khiến chúng sủa vang lên. Trần Gia Lạc đang ngạc nhiên không hiểu hai người bốn chó kia thuộc phe nào, bỗng thấy trong tháp có một người chạy ra, thân pháp hết sức nhanh. Người đó vung tay đoạt lấy cây cung trên tay Mạnh Kiện Hùng, đồng thời dùng tả chưởng đánh vào đầu y.

Họ Mạnh không né được phải đưa tay đỡ gạt, liền bị người kia cầm cây cung điểm trúng huyệt đạo ngang hông, ngã quay ra đất. Người kia không thèm ngoảnh lại, cứ chạy thẳng vào trong. Y vừa vào khuất, lấp tức có một người văng từ trong tháp ra, nằm yên dưới đất ngửa mặt lên trời, hoàn toàn không động đậy. Đó chính là An Kiện Cương. Sau đó cha con Mã Thiện Quân, Mã Đại Đình ở trong tháp thổi sáo lên, báo cho mọi người phải đề phòng.

Càn Long thấy có cứu viện, trong lòng rất mừng. Trần Gia Lạc nhìn quanh bốn phía, thấy các nơi hoàn toàn không có động tĩnh gì, biết quân tấn công chỉ có hai người mà thôi. Đến bây giờ cha con họ Mã mới phát tín hiệu cảnh cáo, đủ thấy thân thủ của địch rất nhanh, vừa bị phát hiện đã vào trong tháp rồi. Hai người này võ công cao đến thế, nếu là cao thủ thị vệ trong đại nội thì so với Kim Câu Thiết Chưởng Bạch Chấn còn cao hơn một bậc.

Bốn con chó săn cùng chạy vào trong tháp. Sau đó nghe tiếng nữ nhân quát tháo, tiếng một thiếu niên kêu la, hòa chung với tiếng chó sủa ầm ĩ. Đó là Chu Ỷ và Tâm Nghiễn giữ ở tầng thứ hai đang đối phó với bọn chó săn. Đột nhiên có tiếng kêu kinh hãi, từ cửa sổ tầng thứ hai có hai món binh khi văng ra, một là đơn đao, một là nhuyễn tiên.

Trần Gia Lạc nhận ra vũ khí của Chu Ỷ và Tâm Nghiễn, nghĩ bụng:

– “Chắc chắn hai người đã bị địch nhân đoạt mất binh khí, không biết có nguy hiểm gì không?”

Trong lòng chàng thật lo lắng. Thấy thần sắc Trần Gia Lạc vốn điềm nhiên tự tại mà bây giờ tỏ vẻ lo âu, Càn Long biết thủ hạ mình đã chiếm thượng phong, âm thầm mừng rỡ. Đột nhiên hắn thấy họ Trần quay mặt lại mỉm cười, liền nhìn xuống dưới. Một đại hán đã múa thiết trượng đánh văng bốn con chó săn ra khỏi tháp. Tâm Nghiễn và Chu Ỷ chạy ra ngoài, dìu Mạnh Kiện Hùng và An Kiện Cương vào.

Bốn con chó săn này hung dữ khác thường, tựa như bốn con báo vậy. Đùi sau của một con đã bị thiết trượng đánh gãy, nhưng nó vẫn không chịu chạy trốn, cứ phóng tới mà cắn loạn xạ. Tưởng Tứ Cân bị bốn con chó này bao vây vào giữa, trượng pháp hơi loạn. Tâm Nghiễn lại từ trong tháp chạy ra, vẫy hai tay liên tiếp.

Lũ chó bị mười mấy miếng gạch ném trúng, sủa ỏm tỏi lên. Tưởng Tứ Cân đánh cho què hết, thì đột nhiên ở cửa sổ tầng thứ sáu có người thò đầu ra, cho ngón tay vào miệng huýt lên, âm thanh rất lạ tai. Bốn con chó săn vừa nghe thấy là cúp đuôi chạy trốn ra xa. Chu Ỷ và Tâm Nghiễn lập tức lượm binh khí lên, đứng canh giữ phía dưới tháp, sợ có địch tấn công tới nữa.

Trần Gia Lạc thấy địch thủ chỉ huy lũ chó từ tầng thứ sáu, nghĩ bụng:

– “Thế thì Thập nhị ca ở tầng thứ sáu cũng không cản được họ.”

Nghĩ đến đây, chàng thầm la lên:

– “Hỏng rồi! Võ nghệ kẻ địch cao cường, lại còn hai người hợp sức. Bên mình mỗi tầng chỉ có một người, chắc chắn không thể nào cản nổi.”

Chàng đang định ra lệnh tập hợp bốn người vào tầng thứ chín, đột nhiên thấy ở cửa sổ tần thứ bảy có một người nhảy ra ngoài, chính là Từ Thiên Hoằng. Họ Từ vừa nhảy ra ngoài cửa sổ, phía sau có một người thò tay với theo, tóm được chân trái của chàng. Trần Gia Lạc giật mình, móc lấy ba con cờ vây định phóng ra giải cứu, đột nhiên nghe Từ Thiên Hoằng hét lên:

– “Đỡ này!”

Tay phải chàng vẫy ra một cái, địch nhân vội rụt đầu tránh né, nhưng thật ra không có ám khí gì cả. Từ Thiên Hoằng thừa cơ giãy tuột được chiếc giày bên trái, chui ra ngoài đứng trên góc mái của bảo tháp. Lúc này khoảng cách đã gần, nhìn rõ địch nhân thấp hơn cả Từ Thiên Hoằng, mặc y phục toàn màu xám, đầu tóc bạc phơ, là một bà lão rất già. Sau lưng bà đeo kiếm, kiến còn nguyên trong vỏ. Bà lại nhảy ra ngoài, người còn lơ lửng trên không đã đưa tay ra vồ tới. Tay phải Từ Thiên Hoằng không có đao, chắc đã bị đánh văng mất rồi.

Chàng dùng thiết quải bên tay trái ra chiêu Nhất Phu Đương Quan cản trở trước ngực, hét lên:

– “Đỡ này!”

Lão bà kia cất tiếng thóa mạ:

– “Thằng khỉ kia, đừng hòng lừa gạt bà nội ngươi nữa.”

Mụ vẫn vọt tới, xoay tay chụp lấy cây quải. Nào ngờ lần này không phải giả vờ, Từ Thiên Hoằng đã gỡ một miếng ngói trên tháp ném tới. Bà lão tránh né không kịp phải phóng chưởng cản trở, đánh cho miếng ngói vỡ nát ra bay tứ tán. Thường Thị Song Hiệp giữ tầng thứ tám, hình như đang phải đối phó với người khác nên nãy giờ không ra ngoài trợ giúp cho ai cả. Võ công của Từ Thiên Hoằng không sao bì được bà lão kia, mới giao đỡ mấy chiêu đã liên tiếp gặp nguy hiểm. Chàng cố tìm cách giương đông kích tây, lại đỡ thêm được mấy chiêu.

Chu Ỷ ngẩng lên nhìn Từ Thiên Hoằng ác đấu với lão bà ấy trên góc mái, thấy chàng không địch nổi bèn lo lắng kêu lên:

– “Gia gia, gia gia! Mau mau ra tay đi.”

Chu Trọng Anh giữ tầng thứ mười, thấy hai đồ đệ bị đánh ngã từ lâu, bây giờ nghĩa tử lại gặp nguy hiểm.

Ông vươn mình ra ngoài cửa sổ, hô lớn:

– “Kẻ nào dám đến đây phá rối?”

Rồi ông ném hai trái thiết đảm, một trước một sau hướng tới bà lão. Thiết đảm chưa đến, bà lão đột nhiên tung người bay xuống dưới, ấn bàn tay lên mái ngói, lộn người một cái đứng trên tầng thứ sáu. Sau đó nghe thấy một loạt những tiếng tinh tang, nào là tụ tiễn, thiết liên tử, cương tiêu, đủ loại ám khí phóng vào mái ngói của tầng tháp thứ sáu.

Đó là Triệu Bán Sơn từ tầng thứ chín phóng ra để giúp Từ Thiên Hoằng.

Thiết đảm của Chu Trọng Anh trượt đích, đánh gãy một cây xà trên góc tháp nghe rắc một tiếng. Từ Thiên Hoằng khom người chụp được một trái. Còn trái kia lăn vào máng nước ở góc tháp. Chu Trọng Anh buông người nhảy xuống toan nhặt lấy, nhưng chưa tới nơi đã bị một luồng chưởng phong đánh vào giữa ngực. Chu Trọng Anh đang ở lưng trời, không có cách gì tránh né.

Ông thấy chưởng phong rất lợi hại, không thể ra tay đón đỡ vì trong không trung không có chỗ tựa, chắc chắn mình sẽ bị hất ra ngoài, rớt xuống chân tháp mà tan xương nát thịt. Nguy cấp thế này, ông chỉ còn cách dựng thanh Kim bối đại đao trước mặt, cả đao lẫn người phóng tới, gắng chịu một chưởng rồi sẽ lưỡng bại câu thương. Địch nhân thấy Chu Trọng Anh phóng tới, vội nghiêng người né tránh, xoay tay trái toan nắm lấy cổ tay ông. Chu Trọng Anh thấy thủ pháp của y vừa nhanh vừa ác, bất giác la lên một tiếng, kinh hãi nghĩ thầm:

– “Người này là ai thế?”

Ông né được chiêu trảo, nhảy qua một bên đứng xem Thường Thị Song Hiệp vọt ra cửa sổ tiếp chiến. Người kia khôi vĩ lạ thường. Thường Thị Song Hiệp đã ốm nhách lại cao nghều, thế mà lão còn cao hơn cả Song Hiệp. Lão già này mũi khoằm như mỏ chim ưng, mặt đỏ như châu sa, đầu thì trọc lóc không còn một sợi tóc nào.

Chu Trọng Anh thấy lão oai phong lẫm liệt, võ công lại cao kỳ lạ, bất giác thầm nghĩ:

– “Nhân vật thế này mà cũng làm chó săn cho Thanh triều được sao?”

Lão trọc kia múa tít song chưởng nhanh như gió, một mình đánh cho anh em họ Thường nhảy qua nhảy lại. Chu Trọng Anh thấy Thường Thị Song Hiệp tuy chưa thắng nổi nhưng cũng chưa đến nỗi thua, không cần trợ giúp. Ông nhìn xuống dưới, lại một phen kinh hãi. Trên tầng thứ sáu, bà lão tóc bạc đang ép Chu Ỷ liên tiếp lùi lại.

Từ Thiên Hoằng la lớn:

– “Ỷ muội! Lùi ra, lùi ngay!”

Chu Ỷ nghe lời Từ Thiên Hoằng, quay người chạy đi. Bà lão tóc bạc không đuổi theo, hình như muốn nhảy lên tầng trên.

Chu Ỷ lại dừng chân, la gọi:

– “Bà già kia, có dám đuổi theo ta không? Ta ở đây, có mai phục đây này.”

Bà lão nhún chân một cái, bay vọt tới nhanh như tên bắn.

Chu Ỷ hoảng sợ vô cùng, vội quay lưng chạy trốn. Chu Trọng Anh liền quăng thiết đảm đánh tới sau lưng mụ. Bà lão vừa đuổi kịp Chu Ỷ, đang thò tay nắm lấy lưng nàng thì đột nhiên nghe sau lưng có tiếng ám khí. Mụ không dám đưa tay đón bắt, lập tức thi triển khinh công Hàn Giang Độc Điếu, ngả hẳn thân hình ra ngoài khoảng không, chỉ dùng chân trái móc lại một góc mái tháp.

“Keng” một tiếng, thiết đảm đánh trúng mái tháp xẹt lửa, ngói bay tứ tán. Bà lão tránh xong thiết đảm, lại tiếp tục đuổi theo Chu Ỷ. Chu Trọng Anh nhảy xuống tầng thứ sáu, hoành đại đao cản đường. Lúc này Chu Ỷ đã chạy khuất ra sau, người chạy người đuổi vòng quanh bảo tháp. Từ khi đính hôn với Từ Thiên Hoằng, Chu Ỷ thường nghĩ, chồng mình thông minh xuất chúng, nếu mình cứ hành sự lỗ mãng thì dễ bị coi thường, nên không hành động bừa bãi như lúc trước nữa.

Phen này nghe Từ Thiên Hoằng kêu mình lùi lại, nàng cứ vừa đánh vừa lùi để kéo dài thời gian. Chu Trọng Anh đứng yên, nhìn thấy con gái từ phía sau tháp chạy ra trước mặt, bà lão kia vẫn hai bàn tay không đuổi theo. Phía sau còn có một người đuổi theo, hươi song câu đâm lia lịa vào lưng mụ, nhưng đâm thế nào cũng lệch đi mấy tấc.

Đây chính là Cửu mạng cẩm báo tử Vệ Xuân Hoa, rõ ràng y đang liều mạng cứu trợ Chu Ỷ. Lúc này, Dương Thành Hiệp, Thạch Song Anh cũng đã từ trên lao xuống tầng dưới để giúp. Chu Trọng Anh bước qua mặt Chu Ỷ, vung Kim đao lộng gió vù vù, liên tiếp chém xuống hai đao. Bà lão kia thấy đao lợi hại không dám khinh địch, liền lùi ba bước xoay tay rút kiếm.

Đột nhiên lão trọc ở phía trên la lên:

– “Ta đánh từ trên đỉnh tháp xuống, bà đánh từ phía dưới lên.”

Thanh âm của lão vang dội như chuông đồng, đứng dưới đất cũng nghe rất rõ. Bà lão nghe vậy, không loạn đấu với mọi người nữa, mà tung người lên, tay trái ấn vào nóc tầng thứ bảy, mượn lực vọt lên tầng thứ tám. Tầng này không còn ai cản trở nữa, nên mụ cứ thế mà vọt người lên tầng thứ chín. Từ dưới đánh lên, mụ đã biết càng lên trên thì võ công của người canh giữ càng lợi hại. Tuy mụ tránh được một quả thiết đảm, hai chiêu đại đao của Chu Trọng Anh, nhưng biết ông là cao thủ Thiếu Lâm, nếu tỉ đấu ở chỗ đất bằng thì chẳng kém gì mình.

Mụ sợ bên trên lại còn địch thủ lợi hại hơn, nên tập trung tinh thần, người chưa lên mà kiếm đã lên trước rồi, múa tít bảo vệ đỉnh đầu. Đột nhiên mụ thấy cổ tay bị chấn động, trường kiếm bị binh khí của địch nhân hút chặt lấy, suýt nữa đã tuột khỏi tay. Mụ biết gặp phải kình địch, vội sử trường kiếm thuận thế đâm mạnh tới để hóa giải sức lôi kéo của đối phương. Mụ không dám xông thẳng tới, đảo sang trái ba bước rồi mới đột ngột xoay người lạng về bên phải, cố nhảy lên tầng thứ mười, kiếm đâm thẳng ra trước mặt. Mụ lấy công làm thủ, soạt soạt ba chiêu đều nhằm vào chỗ yếu hại của đối phương.

Địch thủ dùng ba chiêu thức Vân Huy Tam Muội trong Thái Cực Kiếm để giải vây. Bà lão thấy đối phương dùng kiếm pháp nội gia hóa giải rất nhẹ nhàng, không đợi đối phương đánh trả đã nhảy ra ngoài hai bước, dừng chân nhìn lại. Thì ra địch thủ của mụ là một hán tử trung niên hơi mập, trên mặt đầy râu, tóc đã muối tiêu, tay trái nắm kiếm quyết, tập trung tinh thần quan sát chứ chưa vội truy đuổi.

Mụ bèn quát luôn:

– “Ngươi công phu khá như thế này… Đáng tiếc, thật là đáng tiếc!”

Người đó chính là Thiên thủ như lai Triệu Bán Sơn. Ông thấy bà lão tóc đã bạc phơ mà thân thủ cực kỳ nhanh nhạy, không khỏi vừa kinh hãi vừa thán phục.

Hai người vung kiếm lại tiếp tục tỉ đấu. Càn Long thấy hai bên đánh nhau, trong lòng âm thầm mừng rỡ. Nhưng hắn lại thấy Trần Gia Lạc ra vẻ nhàn nhã như không có gì quan trọng, còn kéo một chiếc ghế tới ngồi quan sát trận chiến.

Hắn bèn nghĩ:

– “Đến cứu ta chỉ có hai người, e rằng cuối cùng không địch nổi số đông của Hồng Hoa Hội.”

Tâm thần hắn đang hồi hộp bất an, lại nghe thấy xa xa vọng tới tiếng chó sủa, rồi có tiếng quát tháo, tiếng vó ngựa chạy tới. Có tiếng bước gấp lên cầu thang.

Tâm Nghiễn chạy lên lầu, dùng ám ngữ để bẩm báo Trần Gia Lạc:

– “Quân canh báo là có khoảng hai ngàn Thanh binh đang chạy tới, nhằm thẳng Lục Hòa Tháp.”

Trần Gia Lạc gật đầu, Tâm Nghiễn chạy trở xuống. Càn Long không hiểu Tâm Nghiễn nói gì, nhưng thấy thần sắc Trần Gia Lạc khẩn trương hơn, đoán là chàng vừa nghe tin bất lợi, bèn chăm chú dõi nhìn ra xa. Mùa này lá phong đỏ rực như lửa, giữa rừng nhìn rất rõ những lá cờ trắng lay động, trên cờ có chữ “Lý” rất lớn. Càn Long cả mừng, biết Lý Khả Tú đã mang quân đến đây cứu giá.

Trần Gia Lạc nhoài người ra ngoài cửa sổ, hô lớn:

– “Mã đại ca lùi vào trong tháp, chuẩn bị cung tên.”

Mã Thiện Quân từ dưới tháp dạ lớn một tiếng. Trần Gia Lạc hô vừa dứt tiếng, đột nhiên thấy ông lão đầu trọc mặt đỏ bay vù qua mặt mình từ dưới thẳng lên trên, Thường Thị Song Hiệp và Chu Trọng Anh đuổi theo sau. Thì ra lão trọc cứ chạy xung quanh tháp, mỗi khi có người phía sau đuổi gần đến thì quay lại đón tiếp mấy chiêu, cứ tìm được sơ hở lại nhảy lên một tầng.

Trong lúc Triệu Bán Sơn đang tỉ đấu với bà lão tới lúc khẩn trương, lão đã nhảy đến tầng thứ mười hai. Thường Hách Chí thấy lão tiến công mãnh liệt, mà tầng mười hai đã là nơi nhốt Càn Long rồi, nên không dám khinh suất. Y lấy phi trảo đeo ở bên hông ra, múa lên phong tỏa cửa sổ.

Thường Bá Chí thì hướng song chưởng xéo lên phía trên, đứng trước mặt anh hai bước. Hai người bày thế trận, dùng phi trảo đánh ngoài xa, dùng chưởng đánh nơi gần, song song cản trở trước cửa sổ.

Ông lão kia cũng biết Thường Thị Song Hiệp lợi hại, nên không xông vào cửa sổ mà nhảy thẳng lên trên đỉnh tháp. Chu Trọng Anh rượt theo không kịp, bèn nhảy qua cửa sổ vào trong. Càn Long thấy họ Chu cầm đao nhảy vào không khỏi giật mình kinh hãi. Nhưng Chu Trọng Anh chỉ đứng chỗ cầu thang, hoành đao chuẩn bị ngăn đón địch thủ. Triệu Bán Sơn với bà lão kia bản lĩnh tương tự như nhau, chớp nhoáng đã qua lại hơn trăm chiêu. Kiếm pháp của mụ nhanh chóng vô cùng.

Triệu Bán Sơn triển khai Thái Cực Khoái Kiếm dùng nhanh đánh nhanh, âm thầm kinh ngạc:

– “Bà già này tóc bạc hết rồi, lại là nữ nhân, mà sao ta thắng không nổi?”

Trong lòng ông lo lắng, định lấy ám khí ra mà thủ thắng. Nào ngờ bà lão kia thừa cơ hội tấn công gấp rút, quét một kiếm rách tay áo bên trái của ông. Tuy họ Triệu chưa tổn thương đến da thịt, nhưng không khỏi hoảng sợ một phen.

Từ Thiên Hoằng, Dương Thành Hiệp, Vệ Xuân Hoa, Thạch Song Anh và Chu Ỷ đều cầm binh khí đứng bên, xem Triệu Bán Sơn kịch đấu với bà lão kia. Nhìn kiếm quang của hai người nháy động như chớp giật, ai nấy cũng lo lắng, rồi bỗng giật mình khi tay áo Triệu Bán Sơn bị trúng một kiếm. Vệ Xuân Hoa giơ song câu ra, toan chạy lên ứng cứu, nhưng Triệu Bán Sơn đã xuất chiêu Lý Quảng Xạ Thạch ép mụ lùi lại một bước.

Chính ông cũng nhảy lùi lại, lên tiếng:

– “Lão thái thái quả nhiên thân thủ bất phàm. Xin mời lên trên.”

Vệ Xuân Hoa ngạc nhiên dừng lại.

Triệu Bán Sơn chỉ trúng kiếm vào tay áo, nhưng ông không đánh nữa vì thầm nghĩ:

– “Đại ca Lục Phi Thanh đang giữ tầng thứ mười một. Xa nhau mười mấy năm trời, chắc võ công huynh ấy tiến bộ rất nhiều, dư sức kiềm chế bà lão này. Anh em chỉ mới thán phục Lục huynh nghĩa khí cao ngất trời xanh, chứ chưa được thấy kiếm thuật siêu quần của huynh ấy.”

Vì thế ông mới cho bà lão lên trên đó, để Lục Phi Thanh được ra mặt giương danh. Không thì ông chỉ bị quẹt rách tay áo, vẫn có thể đánh tiếp như thường, chưa chắc đã thua.

Bà lão kia thấy họ Triệu khiêm nhường, bèn đưa kiếm lên thi lễ rồi nói:

– “Kiếm pháp các hạ cũng hay lắm.”

Rồi mụ tung người chạy thẳng lên trên.

Chu Ỷ la lên:

– “Triệu tam thúc! Ông đâu có thua, sao lại khách sáo như thế?”

Triệu Bán Sơn mỉm cười rồi nói:

– “Kiếm thuật của bà ta cực giỏi. Bây giờ chúng ta lên đó mà xem công phu phái Võ Đang của Lục đại gia. Mà này Chu cô nương, sao cô lại kêu ta là Tam thúc? Thất đệ kêu ta là Tam ca mà.”

Chu Ỷ đỏ mặt lên nói:

– “Ta gọi theo gia gia.”

Dương Thành Hiệp hỏi:

– “Thế thì cô cũng gọi huynh ấy là Thất thúc hả?”

Y vừa nói vừa chỉ Từ Thiên Hoằng.

Chu Ỷ gật bừa:

– “Cũng được, nhưng không biết Thất thúc có chịu hay không?”

Mọi người đều biết phe ta đông đảo, dù địch thủ võ công tinh thâm nhưng chỉ có hai người chắc chắn không làm gì được, vì thế cứ cười đùa mà lên tháp.

Tầng chín, tầng mười hoàn toàn không có người nào. Ai cũng nghĩ Lục Phi Thanh đang đấu kiếm với bà lão kia ở tầng thứ mười một, nhưng khi lên tới thì thấy trong phòng trống rỗng. Quần hùng kinh hãi một phen, liền lên tiếp một tầng nữa, lúc này mới nghe tiếng đao kiếm va chạm leng keng vang dội.

Vào cửa thì thấy Chu Trọng Anh múa cây Kim bối đại đao gió lộng vù vù, kịch chiến với bà lão tóc bạc. Người sử đao thì kình trầm, lực mạnh, người sử kiếm thì lui tới nhẹ nhàng, nhất thời không sao phân được cao thấp. Trần Gia Lạc kéo Càn Long qua một góc, ngồi bệt dưới đất mà xem tỉ đấu.

Từ Thiên Hoằng vẫy gọi Dương Thành Hiệp, Thạch Song Anh tới giữ cửa sổ, rồi lớn tiếng hô lên:

– “Mau bỏ binh khí xuống, sẽ tha cho khỏi chết.”

Bà lão thấy bị bao vây mà không sợ hãi, vẫn tiếp tục vũ lộng thanh trường kiếm.

Chu Ỷ khẽ hỏi:

– “Kiếm thuật của mụ này rất giống ai đó. Ca ca xem có phải không?”

Từ Thiên Hoằng gật đầu:

– “Không sai! Ca ca cũng thấy kỳ lạ.”

Bà lão đánh rát mấy chiêu ép Chu Trọng Anh lùi lại, đột nhiên kéo cái bàn tới cản trước mặt, đứng sát vào tường. Chu Trọng Anh múa đao chém tới, suýt nữa thì chém trúng cái bàn, vội thu đao lại.

Bà lão quay lại hỏi Càn Long:

– “Hoàng đế đây phải không?”

Càn Long đáp ngay:

– “Hoàng đế đây, ta là hoàng đế đây. Cứu binh đến cả rồi chứ?”

Bà lão nhảy phắt lên bàn, đưa kiếm lên trưóc ngực, rồi đột ngột bay thẳng về phía Càn Long như một con chim. Chiêu Bằng Bạt Vạn Lý này nhằm ngay vào ngực Càn Long, vừa mau lẹ vừa hung hãn.

Quần hùng đều tưởng mụ là thuộc hạ của Càn Long đến đây cứu ứng, nào ngờ mụ đột nhiên hành thích. Mọi người thật sự bất ngờ, ai cũng ngạc nhiên, thất sắc, không biết phải làm gì. Tuy Trần Gia Lạc đang đứng cạnh Càn Long, nhưng thế kiếm này quá nhanh, chàng không kịp chống đỡ. Chàng đành chĩa hai ngón tay trái ra nhằm điểm vào huyệt đạo dưới nách của bà lão, bắt địch thủ phải quay về tự cứu.

Bà lão sắp đâm thủng ngực Càn Long thì đột nhiên thấy ngón tay của Trần Gia Lạc đâm tới, tay trái liền xuất chiêu Kim Long Thám Trảo, bàn tay xoay ngược lại từ dưới chộp lên trên. Đây là một chiêu lợi hại trong ba mươi sáu đường Đại Cầm Nã Thủ, nhằm đúng vào huyệt đạo, nếu Trần Gia Lạc bị nắm trúng cổ tay là lập tức bủn rủn toàn thân. Nhờ diễn biến này mà trường kiếm bên tay phải mụ chậm đi một chút. Tay phải của Trần Gia Lạc đã kịp rút thanh đoản kiếm, đưa ra cản trở. “Keng” một tiếng, hai thanh kiếm chạm nhau tóe lửa.

Tay trái chàng đổi hướng đánh lên mặt địch thủ, tiếp theo phía dưới đá thêm một cước, đây là thế Thượng Hạ Giao Chinh. Quyền thuật của bà lão cũng không phải tầm thường, vừa thấy tay trái của chàng đánh tới là đưa tả chưởng ra chống đỡ, hạ bàn cũng đảo sang bên phải để né cước, trường kiếm trong tay thì đâm vào yết hầu của đối phương. Không ngờ chiêu số Bách Hoa Tá Quyền của Trần Gia Lạc cũng từ bên phải đá vào.

May mà mụ đã phóng trường kiếm đâm ra, nên đòn cước của Trần Gia Lạc chưa trúng đích đã vội thu về. Tình thế nguy cấp đã giải tỏa xong, hai người nghi ngờ lùi lại mấy bước. Trần Gia Lạc kéo Càn Long ra núp sau lưng mình, đứng chán trước mặt bà lão rồi chắp tay hỏi:

– “Xin thỉnh quý danh của lão thái thái.”

Lúc này bà lão cũng đang quát hỏi gì đó, âm thanh hỗn tạp nên cả hai đều không nghe rõ đối phương nói gì. Trần Gia Lạc ngậm miệng lại trước.

Bà lão nhắc lại câu hỏi vừa rồi:

– “Cây đoản kiếm của ngươi từ đâu mà có?”

Trần Gia Lạc nghe mụ vừa mở miệng đã hỏi về cây đoản kiếm, không khỏi kinh ngạc. Chàng đáp:

– “Đó là quà tặng của bằng hữu.”

Bà lão hỏi:

– “Bằng hữu cái gì? Ngươi là thị vệ của hoàng đế, làm sao nó tặng cho ngươi được? Thiên Trì Quái Hiệp là gì của ngươi?”

Câu hỏi cuối cùng được Trần Gia Lạc trả lời trước:

– “Thiên Trì Quái Hiệp là ân sư của vãn bối.”

Chàng nghĩ, bà lão này phóng kiếm đâm Càn Long thì nhất định cũng là đồng chí. Thấy tuổi tác của bà đã lớn, võ công lại cao, chàng bèn tự xưng là vãn bối.

Bà lão “à” một tiếng rồi nói:

– “Vậy là đúng rồi. Sư phụ của ngươi tuy có phần cổ quái nhưng cũng là chánh nhân quân tử. Sao ngươi lại làm bẽ mặt sư phụ, làm chó săn cho Thanh triều?”

Dương Thành Hiệp nhịn không nổi, hét lên:

– “Đây là Trần tổng đà chủ của bọn ta. Bà không được ăn nói bừa bãi.”

Bà lão kia lộ vẻ kỳ lạ, hỏi lại:

– “Các ngươi là Hồng Hoa Hội ư?”

Dương Thành Hiệp đáp:

– “Không sai.”

Bà lão quay sang Trần Gia Lạc, lớn tiếng hỏi:

– “Các ngươi đã đầu hàng triều đình rồi sao?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Hồng Hoa Hội hành hiệp trượng nghĩa, làm gì có chuyện quỳ gối trước Mãn Thanh? Mời lão thái thái ngồi, chúng ta từ từ nói chuyện.”

Bà lão không chịu ngồi, nhưng sắc mặt đã ôn hòa hơn. Mụ lại hỏi:

– “Thanh đoản kiếm của ngươi từ đâu mà có?”

Trần Gia Lạc đã thấy gia số võ công của mụ, lại nghe mụ hỏi về thanh đoản kiếm tới hai lần. Chàng đoán được mấy phần, bèn đáp:

– “Một bằng hữu người Hồi đã tặng cho vãn bối.”

Thời đó, nam nữ tặng quà cho nhau là chuyện không phải tầm thường. Tuy Trần Gia Lạc hào kiệt khoáng đạt, nhưng trước mặt đông người cũng có chỗ khó nói.

Bà lão kia lại hỏi:

– “Ngươi có quen Thúy Vũ Hoàng Sam ư?”

Trần Gia Lạc gật đầu.

Chu Ỷ thấy chàng ấp úng, nhịn không nổi bèn nói xen vào:

– “Đúng là quà tặng của Hoắc Thanh Đồng tỷ tỷ. Bà cũng quen tỷ ấy hay sao? Vậy thì chúng ta là người một nhà rồi.”

Bà lão kia đáp:

– “Nó là đồ đệ của ta.”

Trần Gia Lạc lập tức thi lễ, lên tiếng:

– “Thì ra hai vị tiền bối Thiên Sơn Song Ưng đến đây. Vãn bối không biết, đã mạo phạm rất nhiều.”

Bà lão hơi nghiêng mình không chịu nhận lễ, nghiêm giọng chất vấn:

– “Nếu là người một nhà thì sao các ngươi lại giúp tên cẩu hoàng thượng này, không để ta giết hắn?”

Dương Thành Hiệp và mọi người thấy Trần Gia Lạc hết sức cung kính, còn mụ này lại tỏ ra vẻ ngạo mạn, nên ai cũng giận dữ. Lúc này Thường Thị Song Hiệp đã từ bên ngoài cửa sổ nhảy vào trong phòng. Thường Bá Chí nói:

– “Hoàng đế là do chúng ta bắt đến đây, muốn giết cũng chưa đến phiên bà.”

Bà lão “ủa” một tiếng rồi hỏi:

– “Các ngươi bắt hắn đến đây thật à?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Tiền bối chưa biết, hoàng đế đúng là do bọn vãn bối mời đến. Vì tưởng lầm hai vị là thị vệ Thanh triều đến đây cứu giá, nên bọn vãn bối mới ra sức cản trở dọc đường. Võ công của hai vị thật cao minh, huynh đệ vãn bối không phải là đối thủ, vì không cản nổi nên mới để xảy chuyện hiểu lầm.”

Thật sự thì quần hùng Hồng Hoa Hội dư sức cản trở hai người này, ai cũng biết Trần Gia Lạc nói vậy là khiêm tốn mà thôi.

Bà lão đột nhiên quay nhìn ra cửa sổ, lớn tiếng gọi:

– “Lão kia! Xuống đây đi.”

Hồi lâu vẫn không thấy trả lời. Đột nhiên nghe véo một tiếng, một mũi tên bắn vào cửa sổ. Bà lão đưa tay trái ra chụp lấy, quay người lại ném mũi tên cắm lên mặt bàn, đuôi tên rung động không ngớt.

Mụ giận dữ quát:

– “Bọn tiểu bối bất tín, còn phóng ám khí nữa ư?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Xin tiền bối đừng giận dữ. Các huynh đệ dưới tháp chưa biết nên đắc tội, lát nữa vãn bối sẽ bảo họ lên đây xin lỗi.”

Rồi chàng ra cửa sổ, nhìn xuống hô lớn:

– “Người mình cả, đừng bắn tên nữa.”

Lời nói chưa dứt, lại có một mũi tên bắn lên. Lần này Trần Gia Lạc nhìn thấy rõ ràng, dưới đất có hơn ngàn Thanh binh đã vây chặt Lục Hòa Tháp. Chúng đều giương cung lắp tên, hễ thấy có người xuất hiện ngoài cửa sổ là bắn ngay.

Trần Gia Lạc bảo Triệu Bán Sơn:

– “Tam ca! Huynh cho người giữ chặt cửa tháp, đừng ra ngoài chém giết làm chi.”

Triệu Bán Sơn nhận lệnh đi xuống.

Chu Trọng Anh hỏi:

– “Chắc hẳn vị này là Tuyết Điêu Quan lão sư phụ? Tại hạ đã nghe tiếng từ lâu.”

Bà lão này chính là Tuyết Điêu Quan Minh Mai, là vợ của ông lão đầu trọc Trần Chính Đức. Hai người này một cao một lùn, một đầu trọc một tóc bạc, trên giang hồ được gọi là Thốc Cưu và Tuyết Điêu, gọi chung là Thiên Sơn Song Ưng. Quan Minh Mai nhìn Chu Trọng Anh gật đầu một cái.

Trần Gia Lạc nói:

– “Vị này là Thiết đảm trang Chu lão anh hùng.”

Bà lão nói:

– “Ta cũng từng nghe đại danh của ông.”

Nói đến đây, bỗng mụ hét lên:

– “Lão già kia! Mau mau xuống đây, ở trên đó làm gì lâu thế?”

Mụ đang nói chuyện đàng hoàng lại đột nhiên quát tháo, ai nghe cũng phải giật mình.

Chu Trọng Anh nói:

– “Trần lão sư đang đấu kiếm với Vô Trần đạo trưởng. Chúng ta mau mau lên đó để nói rõ sự tình.”

Trần Gia Lạc nháy mắt ra hiệu, Thường Thị Song Hiệp hiểu ý bèn đến cạnh Càn Long canh giữ. Trần Gia Lạc và Quan Minh Mai lập tức chạy tới cầu thang, lên tầng thứ mười ba. Không nghe tiếng đao kiếm gì cả, quần hùng có phần lo lắng.

Nhiều người nghĩ:

– “Võ công hai người đều tuyệt đỉnh, lưỡng hổ tương tranh khó tránh khỏi có người bị thương. Bất luận là ai lỡ tay hay sơ suất, đều thành chuyện phải ân hận suốt đời.”

Chỉ có Quan Minh Mai là thản nhiên, biết chồng mình suốt đời hiếm khi gặp đối thủ, chắc chắn không sao. Mọi người đến cửa thì thấy ánh sáng lóe mắt, kiếm quang dày đặc, hai bóng người chạy mù trời mù đất trong căn phòng nhỏ. Tuy chỉ có hai thanh kiếm mà bóng kiếm trùng trung, giống như mấy chục người đang loạn đấu vậy.

Quần hùng chưa kịp dừng chân, Vô Trần và Trần Chính Đức đã qua lại thêm mười mấy chiêu. Hai người tỉ đấu đang lúc cao hứng, chiêu sau nhanh hơn chiêu trước, vừa điểm tới đã lập tức thu về, hai thanh kiếm trước sau vẫn không chạm vào nhau.

Quan Minh Mai vốn tự cho mình giỏi, nhưng đứng xem mấy chục chiêu mà chồng mình vẫn chưa chiếm được thượng phong, mụ không khỏi kinh hãi nghĩ thầm:

– “Giang Nam cũng có nhân vật tài giỏi như thế ư?”

Hai người càng chiến đấu càng khẩn trương, không sao phân được cao thấp.

Trần Gia Lạc hô lớn:

– “Đạo trưởng, là người mình cả. Xin dừng tay!”

Vô Trần chĩa mũi kiếm lên cao, lùi lại một bước. Trần Chính Đức đang hứng không chịu thôi, múa kiếm truy kích như bóng với hình. Vô Trần mới lùi một bước, lão đã xuất chiêu Thần Đà Tuấn Túc đâm thẳng tới. Vô Trần né sang phải, liền đánh trả một kiếm, hai người lại tiếp tục giao đấu.

Được mấy chiêu nữa, Quan Minh Mai la lên:

– “Lão kia! Họ là Hồng Hoa Hội đó.”

Trần Chính Đức ngẩn ra một chút, hỏi lại:

– “Có đúng thế không?”

Vì thế mà kiếm chiêu của lão hơi chậm lại một chút. Cao thủ tỉ kiếm, chỉ sơ hở chừng sợi tóc là có biến cố ngay. Nghe “soạt” một tiếng, tay áo bên phải của lão đã bị trường kiếm của Vô Trần xuyên thủng. May mà Vô Trần đã nghe Trần Gia Lạc kêu gọi nên mới hạ thủ lưu tình, chỉ đâm thủng tay áo.

Trần Chính Đức giận dữ hét lên:

– “Lão mũi trâu thối tha kia!” rồi đánh veo véo luôn ba kiếm.

Vô Trần không nhượng bộ chút nào, trả lại bốn chiêu, hai người lại tiếp tục tỉ đấu. Trần Chính Đức sử dụng những chiêu kỳ tuyệt trong Tam Phân Kiếm Thuật, hư hư thực thực, biến hóa khôn lường. Vô Trần thì dùng bảy mươi hai đường Truy Hồn Đoạt Mệnh Kiếm Pháp, chiêu nào cũng có thể lấy mạng đối phương. Trần Chính Đức xuất chiêu Băng Hà Khai Đông đâm vào sườn phải Vô Trần. Vô Trần né sang bên phải, trường kiếm của Trần Chính Đức lại hớt ngược lên trên, chiêu Dạ Bán Phong Yên cực nhanh chém vào khuỷu tay trái đối phương. Nào ngờ Vô Trần không còn tay trái nên lúc này lại chiếm thượng phong.

Ông vừa hét lên:

– “Hảo kiếm pháp!” vừa xuất chiêu Mạnh Bà Oán Thán đâm thẳng vào yết hầu địch thủ.

Chiêu kiếm của Trần Chính Đức chém vào chỗ trống.

Lão lập tức kinh hãi trong lòng:

– “Ta hồ đồ mất rồi! Hắn cụt tay trái, ta dùng chiêu này làm chi chứ?”

Trong lòng lão vừa khởi lên ý niệm thì trường kiếm của Vô Trần đã đâm tới yết hầu nhanh như điện chớp. Trần Chính Đức hết đường tránh né, đành nghiến răng vung kiếm quét ngang để chết cùng địch thủ. Mọi người thấy tình thế lưỡng bại câu thương khó mà tránh được, ai cũng kinh hãi la hét. Vô Trần đột nhiên ngã về bên phải, không đâm chết Trần Chính Đức mà thu kiếm lại đón chiêu. Nghe “keng” một tiếng, hai thanh kiếm chạm nhau rung động không ngớt.

Tiếng kiếm ngân như rồng gầm, u u rất lâu không dứt. Vô Trần khuỵu gối phải xuống đất, hai người đều không nhúc nhích, thành thế tỉ đấu nội lực. Hai thanh trường kiếm bằng thép ròng dần dần nứt ra ở chỗ chạm nhau, từ từ cắt vào lưỡi kiếm của đối phương.

Trần Gia Lạc thấy tình hình nguy cấp, chụp lấy cây cương tiên trong tay Dương Thành Hiệp chạy lên phía trước, định tách hai người ra.

Chàng mới bước lên nửa bước thì nghe trên đỉnh đầu có tiếng cười ha hả, rồi tiếng khen ngợi:

– “Hảo kiếm pháp, hảo kiếm pháp!”

Tiếng chưa dứt, người đã nhảy xuống. “Keng” một tiếng, trường kiếm của Vô Trần và Trần Chính Đức đều gãy lìa, mỗi người phải loạng choạng mấy bước mới thu thế về được. Hai người cầm kiếm gãy quay lại nhìn, thấy một người cầm trường kiếm đứng giữa, kiếm quang trong trẻo như mặt nước hồ thu.

Vô Trần nhận ra người vừa nhảy trên xà ngang xuống là Lục Phi Thanh, mỉm cười rồi khen lại:

– “Hảo kiếm pháp!”

Trần Chính Đức đỏ mặt lên, muốn xông lên tỉ đấu với người chặt gãy kiếm mình.

Lục Phi Thanh mỉm cười hỏi:

– “Thốc huynh không nhận tiểu đệ hay sao?”

Trần Chính Đức ngẩn ra một lát, ngắm nghía hồi lâu rồi bỗng la lên:

– “A! Lão đệ Miên Lý Châm đó phải không?”

Lục Phi Thanh cướp lời:

– “Đúng là tiểu đệ.”

Trần Chính Đức hỏi:

– “Sao lão đệ lại ở đây?”

Lục Phi Thanh không đáp, tra kiếm vào vỏ rồi quay lại chắp tay vái chào Quan Minh Mai:

– “Đại tẩu! Nhiều năm không gặp, công phu của đại tẩu lại cao thêm một mức.”

Quan Minh Mai mỉm cười đáp:

– “Lục đại ca!”

Thì ra Lục Phi Thanh đang canh phòng ở tầng thứ mười một thì thấy Thiên Sơn Song Ưng tấn công lên. Hai người này kỳ hình dị tướng, tuy ông nhiều năm không gặp mà nhìn thấy vẫn nhận ra ngay.

Lục Phi Thanh và vợ chồng này trước đây có quen biết. Ông nghĩ hai bậc cao nhân nghĩa hiệp này chắc chắn không phải là tay sai của Thanh triều. Bây giờ họ ra sức tấn công vào chỗ nhốt Càn Long, chắc chắn là có nguyên nhân gì khác. Ông quyết định tránh mặt để xem thử tình hình, nên Quan Minh Mai lên tầng thứ mười một không bị ai cản trở. Lục Phi Thanh thấy Quan Minh Mai phóng kiếm đâm Càn Long, rồi đối đáp với Trần Gia Lạc. Ông chạy lên tầng thứ mười ba trước mọi người một bước, núp trên xà nhà. Khinh công họ Lục tuyệt vời, mà lúc đó Trần Chính Đức và Vô Trần tỉ đấu kịch liệt nên không ai phát hiện. Lục Phi Thanh thấy hai người hết sức đấu với nhau, lâu dài chắc chắn sẽ có tổn thất. Vì thế ông tập trung tinh thần quan sát, gặp thời cơ là nhảy xuống giải vây ngay.

Trần Chính Đức nói:

– “Lục lão đệ! Thanh kiếm của đệ đúng là bảo vật.”

Lục Phi Thanh biết lão già này tính khí nóng nảy, bèn mỉm cười đáp:

– “Đây là vật của người khác, đệ chỉ giữ tạm thôi.”

Đó là thanh Ngưng Bích Kiếm của Trương Triệu Trọng, Lạc Băng lấy được ở Sư Tử Phong rồi giao cho tổng đà chủ. Trần Gia Lạc biết đây là danh kiếm truyền đời của phái Võ Đang, bèn chuyển cho Lục Phi Thanh.

Lục Phi Thanh lại nói:

– “Không đánh không quen. Trần đại ca, để đệ giới thiệu cho huynh được biết.”

Ông bắt đầu từ Trần Gia Lạc, giới thiệu từng người một. Cuối cùng ông nói:

– “Đệ cứ tưởng hai vị ở mãi trên Thiên Sơn để hưởng phúc thanh nhàn, nào ngờ lại đến Giang Nam để giết hoàng đế.”

Quan Minh Mai nói:

– “Các vị đã gặp tiểu đồ của ta là Hoắc Thanh Đồng rồi, việc này từ nó mà ra. Hoàng đế xuất binh đi đánh tộc Hồi. Phụ thân của Thanh Đồng là Mộc Trác Luân dẫn quân đi kháng cự, không sao địch nổi số đông nên liên tiếp thua mấy trận. Về sau lương thảo của quân Thanh bị cướp ở cạnh sông Hoàng Hà…”

Lục Phi Thanh xen vào:

– “Đó chính là hành động của các vị anh hùng Hồng Hoa Hội, vì tương trợ Mộc Trác Luân lão anh hùng mà cướp số lương thảo đó.”

Quan Minh Mai gật đầu:

– “Lúc ở chỗ tộc Hồi, ta cũng có nghe nói.”

Mụ nhìn Trần Gia Lạc một cái, nói tiếp:

– “Chẳng trách con bé đó tặng cho ngươi thanh đoản kiếm này.”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Chuyện đó là do trước đây Mộc lão anh hùng dẫn mọi người đi đoạt lại kinh sách, bọn vãn bối tình cờ giữa đường gặp phải.”

Quan Minh Mai nói:

– “Chuyện ông ấy đoạt lại kinh sách, các vị cũng có giúp đỡ. Người Hồi nhắc lại vụ đó đều kêu các vị bằng đại anh hùng.”

Thanh âm của mụ rõ ràng có vẻ chế giễu. Rồi mụ kể tiếp:

– “Thanh binh bị thiếu lương thảo, thua to một trận. Mộc Trác Luân tỏ ý nghị hòa, hai bên đình chiến thương lượng. Nào ngờ đang bàn bạc thì chúng nhận được lương thảo, lại tiếp tục tấn công.”

Lục Phi Thanh thở dài:

– “Quan binh của triều đình vốn không biết giữ chữ tín.”

Quan Minh Mai nói:

– “Dân chúng Hồi tộc bị Thanh binh chém giết thê thảm. Lão anh hùng Mộc Trác Luân chống đỡ không nổi, bèn mời chúng ta tới thương lượng. Phu phụ chúng ta vốn không muốn nhúng tay vào những chuyện thế này…”

Trần Chính Đức xen vào:

– “Cũng là do bà, bây giờ còn đến đây thanh minh thanh nga gì nữa?”

Quan Minh Mai vặc lại:

– “Cái gì mà do ta? Thanh binh giết người phóng hỏa, tàn hại bá tánh tộc Hồi, lão có yên lòng được không?”

Trần Chính Đức “hừ” một tiếng, toan cãi tiếp.

Lục Phi Thanh vội mỉm cười nói:

– “Hai vị đã già mà tính nóng như lửa, hễ nói chuyện là cãi nhau, không sợ bọn trẻ chê cười hay sao? Đại tẩu! Đại tẩu mặc kệ ông ấy, nói tiếp đi.”

Quan Minh Mai liếc xéo chồng một cái, rồi nói tiếp:

– “Chúng ta định đi giết thống binh của chúng là Triệu Tuệ. Sau này nghĩ lại, giết cái thằng chó Định Biên Đại Tướng Quân đó thì hoàng đế lại phái thằng khác đến, giết lui giết tới mất công, chi bằng giết quách hoàng đế một lần cho gọn. Chúng ta bèn đến Bắc Kinh, nhưng dọc đường lại được tinh hoàng đế đã đến Giang Nam. Chúng ta nhờ mấy con chó này lục soát ở Hàng Châu gần hết một đêm. Lúc đó chúng ta đều phải ngạc nhiên, sao hoàng đế lại nổi hứng chui vào đường hầm làm chi. Thì ra các vị theo đường hầm mà bắt cóc hoàng đế, báo hại chúng ta cũng phải chui qua đường hầm mà đuổi…”

Trần Chính Đức hỏi:

– “Cái gì? Hoàng đế là do các vị bắt đến đây ư?”

Trần Gia Lạc bèn kể lại sơ lược vụ bắt cóc này. Trần Chính Đức nghe xong bèn nói:

– “Việc này cũng không tệ lắm, nhưng thiếu phần sảng khoái. Bắt hắn nhịn đói làm gì? Cho một đao kết liễu ngay, không phải đẹp đẽ gọn ghẽ hơn hay sao?”

Vô Trần lạnh lùng nói:

– “Chuyện quốc gia đại sự đâu thể chỉ dùng một đao một kiếm mà lo liệu?”

Trần Chính Đức giận dữ nói:

– “Kiếm thuật của đạo trưởng cao minh lắm, nhưng chúng ta vẫn chưa phân cao thấp. Nếu có hứng thì chơi tiếp một phen, có được hay không?”

Vô Trần cười nhạt:

– “Tuổi tác ông lớn như thế, mà kiến thức không bằng đồ đệ là con bé Hoắc Thanh Đồng. Chúng ta là người một nhà cả, hà tất phải đánh nhau?”

Quan Minh Mai mỉm cười nói:

– “Lão già kia! Trước kia ta vẫn nói lão hồ đồ mà lão không chịu phục. Bây giờ người ngoài cũng chê bai lão rồi, lão đã thấy chưa?”

Đôi vợ chồng già này đúng là hễ mở miệng là gây gỗ. Trần Chính Đức nói:

– “Cứ coi như ta thiếu kiến thức đi.”

Rồi lão quay lại nói với Vô Trần:

– “Chúng ta đâu có liều mạng làm chi, tỉ thí kiếm pháp một lát có gì quan trọng? Kiếm pháp của ông thật sự không tồi, tên gọi là gì, ta nhất định phải thỉnh giáo.”

Lục Phi Thanh sợ hai người nói qua nói lại rồi động thủ tổn thương hòa khí, liền xen vào:

– “Tam Phân Kiếm Thuật của Thốc huynh cùng Truy Hồn Đoạt Mệnh Kiếm của đạo trưởng đều là tuyệt kỹ, cổ kim ít ai bì được.”

Trần Chính Đức cười khẩy:

– “Kiếm pháp đó chưa chắc đã truy hồn đoạt mệnh được người ta.”

Vô Trần đã nể mặt Lục Phi Thanh mà nhường một bước, nào ngờ lão trọc này cực kỳ hiếu thắng, không biết tình lý là gì. Ông nghe câu này không khỏi nổi giận, bèn nói:

– “Được! Vậy chúng ta lại tỉ thí một phen, nếu ta thua thì suốt đời không dùng kiếm nữa.”

Quần hùng nghe vậy đều vội vã khuyên ngăn. Nhưng Trần Chính Đức nói:

– “Lúc vợ chồng ta rời khỏi tộc Hồi, đã hứa là không giết được hoàng đế thì chắc chắn không về. Các vị đã không cho ta giết hắn, thì cùng phải biểu lộ chút ít bản lãnh để người khác tâm phục khẩu phục mới được. Đạo trưởng chịu chỉ giáo là hay lắm rồi. Nếu ta thua sẽ quay lưng đi ngay, từ nay về sau không đến hành thích nữa.”

Lão vừa nói xong đã lấy trường kiếm trong tay Quan Minh Mai.

Trần Gia Lạc bước lên một bước, vái dài sát đất mà nói:

– “Kiếm pháp của Vô Trần đạo trưởng tuy tinh diệu, nhưng hỏa hầu vẫn còn kém lão tiền bối một chút. Ai cũng thấy thế rồi, đâu cần tỉ thí nữa làm chi.”

Trần Chính Đức ngạo mạn nói:

– “Trần tổng đà chủ hà tất phải khách sáo như thế. Sư phụ của ngươi không chịu động thủ với loại phàm phu tục tử như chúng ta vì lão là thế ngoại cao nhân, nhưng ngươi thì không phải. Để ta nhờ đạo trưởng chỉ dạy mấy chiêu trước đã, rồi sẽ lãnh giáo tới ngươi, có được hay không?”

Mọi người đều thấy lão già này thật là vô tình vô lý, không biết trong lão vẫn canh cánh nỗi uất Thiên Trì quái hiệp Viên Sĩ Tiêu, bây giờ trút giận qua Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc vẫn nhẫn nại được, bình tĩnh đáp:

– “Vãn bối lại càng không phải là đối thủ của lão tiền bối. Ân sư vẫn thường nhắc đến Thiên Sơn Song Ưng cho vãn bối nghe, lần nào cũng tỏ vẻ ngưỡng mộ.”

Trần Chính Đức chỉ Quan Minh Mai, giận dữ nói:

– “Sư phụ ngươi ngưỡng mộ bà ấy chứ không phải ngưỡng mộ ta.”

Quan Minh Mai quát lên:

– “Trước mặt nhiều bằng hữu thế này, lão còn giở thói ghen tuông ra được ư?”

Quần hùng liếc nhìn nhau, ai cũng ngạc nhiên. Lục Phi Thanh mỉm cười nói:

– “Thốc huynh! Hiền phu phụ đều ngoại lục tuần cả rồi, chuyện này tranh chấp mấy chục năm mà vẫn chưa xong hay sao?”

Trần Chính Đức lại càng nổi nóng, mày râu dựng đứng cả lên. Đột nhiên lão phóng ra ngoài cửa sổ như một mũi tên, hét lớn:

– “Đạo sĩ mũi trâu kia! Không dám ra đây thì không phải là hảo hán.”

Quần hùng Hồng Hoa Hội đều cảm thấy Trần Chính Đức hiếp người quá đáng. Dương Thành Hiệp bực dọc nói:

– “Tiếc là Tứ ca không có ở đây, không thì có thể đánh cho lão một trận.”

Câu này lọt vào tai Vô Trần lại hóa thành câu nói khích. Ông không nhẫn nhịn được nữa, hô lớn:

– “Tam đệ! Đưa kiếm cho ta!”

Lúc này Triệu Bán Sơn đã từ dưới tháp đi lên, vừa trao kiếm vừa nói nhỏ:

– “Nhị ca! Cố gắng giữ tình nghĩa giữa chúng ta với Mộc Trác Luân và Hoắc Thanh Đồng.”

Vô Trần gật đầu một cái, cầm kiếm nhảy ra ngoài cửa sổ. Bọn lính Thanh đứng dưới đất, thấy trên tháp có người liền bắn rào rào như cào cào.

Vô Trần nói:

– “Chúng ta xuống thấp một chút, tỉ thí một phen giữa trận mưa tên, có được hay không?”

Trần Chính Đức dĩ nhiên không nhịn, đáp ngay:

– “Thế thì tuyệt diệu.”

Rồi lão nhún hai chân một cái, đầu dưới chân trên mà phóng thẳng từ tầng mười ba xuống tầng thứ sáu, ấn khẽ tay trái lên mái tầng thứ năm đã lộn người đứng trên góc mái. Ngoại hiệu của lão là Thốc Cưu, khinh công dĩ nhiên cực cao, phát nhảy vừa rồi giống hệt một con chim cưu thực lớn. Quần hùng trong tháp hoan hô vang dội. Dưới tháp Thanh binh bắn tên dày đặc. Trần Chính Đức không thèm quay đầu lại, vừa xoay kiếm gạt tên vừa ngẩng lên đợi Vô Trần. Vô Trần đứng khép hai chân, tay ép vào đùi như một khúc gỗ, rớt thẳng từ trên xuống. Bọn lính Thanh đứng dưới chân tháp vừa la hét vừa lùi ra, sợ ông rớt trúng đầu.

Vô Trần rơi đến tầng thứ năm vẫn chưa hề chậm lại, xuống sắp hết tầng thứ năm, mới đưa tay phải gạt ngang ra, vận kình vào lưỡi kiếm, ép bằng bặng lên mái tháp. Thanh kiếm bằng thép ròng của Triệu Bán Sơn khá mềm dẻo, bắn ngược trở lên. Vô Trần mượn sức nhún đó mà đứng vững trên mái tầng thứ năm. Trần Chính Đức thấy ông biểu diễn khinh công, nội lực, kiếm pháp đều tuyệt diệu, môn nào cũng hiếm thấy trên đời, không dám khinh suất chút nào nữa.

Lão đợi ông đứng vững lại mới nói:

– “Xuất chiêu đi.”

Rồi lão đưa kiếm ra đâm xéo tới. Bọn quân Thanh thấy hai người đánh nhau, nghĩ rằng có một ở phe mình mà không biết là ai. Chúng sợ nhầm lẫn nên dừng lại không bắn tên nữa.

Vô Trần nói:

– “Mỗi người chúng ta phóng một mũi tên để dụ chúng bắn tiếp.”

Trần Chính Đức hưởng ứng:

– “Hay lắm!”

Rồi hai người lượm tên trên mái tháp, dùng tay ném xuống đả thương hai tên lính. Bọn Thanh binh la hét om sòm rồi tiếp tục bắn tên. Lúc này cách mặt đất khá gần, mũi tên nào cũng có thể lấy mạng. Hai người vừa tấn công lẫn nhau vừa phải né đỡ loạn tiễn từ tầng dưới bắn lên, cách tỉ võ này có thể nói xưa nay chưa ai thấy. Quần hùng đều xuống tầng thứ sáu để xem.

Quan Minh Mai âm thầm lo lắng, nghĩ bụng:

– “Kiếm pháp đạo nhân này ghê quá. Chồng mình tuổi tác đã cao, tai mắt không nhanh như trước nữa. Nếu đấu kiếm dưới mặt đất thì chắc là không ai chết, nhưng bây giờ đang đứng trên cao mà quân lính lại bắn như mưa, thật là nguy hiểm.” Mụ bèn nắm sẵn ba viên Thiết liên tử, đứng trước cửa sổ sẵn sàng bảo vệ.

Hai người kịch đấu giữa trận mưa tên, ngay cả Thường Thị Song Hiệp đang canh giữ Càn Long ở tầng thứ mười hai cũng không nhịn thổi, phải thò đầu ra ngoài cửa sổ để xem. Mỗi người nắm lấy một tay của Càn Long, đề phòng hắn trốn. Hai cổ tay mềm mại của Càn Long bị đôi Hắc sa trưởng của Thường Thị Song Hiệp nắm chặt lấy. Tiếc là anh em họ Thường không vận chút kình lực nào, không thì cổ tay Càn Long chắc chắn nát xương, từ đó về sau không thể làm thơ viết chữ nữa. Nếu thế thì những tinh phẩm thư họa và danh lam thắng cảnh khắp thiên hạ khỏi bị hắn bôi bẩn lên, đỡ bớt một phen kiếp nạn. Lúc này Càn Long biết đã có cứu binh đến, nhưng bản thân mình đang nằm trong tay Hồng Hoa Hội, nếu họ thua thì không chừng sẽ tặng một đao cho hả giận.

Hắn thầm nghĩ:

– “Hồng Hoa Hội thắng thì tốt hơn. Nghe giọng điệu của Trần Gia Lạc, chắc bọn chúng sẽ thả mình ra thật.”

Hai kiếm thủ vẫn đánh nhau dữ dội giữa cơn loạn tiễn, thắng bại chưa quyết định được. Trần Gia Lạc lớn tiếng hô:

– “Kiếm pháp hai vị đều thần diệu, không cần tỉ thí nữa.”

Hai người giao đấu tới lúc khẩn trương, không ai chịu dừng tay. Trần Chính Đức nghĩ bụng:

– “Kiếm pháp của đạo nhân này quả nhiên cao minh, xem ra ta không đánh bại nổi.”

Nhưng lão vẫn còn hiếu thắng, từ từ xê dịch cho mặt hướng về phía đông, quay lưng lại bọn lính Thanh dưới tháp. Vị trí này cực kỳ bất lợi, vừa bị mặt trời chói mắt vừa phải hứng tên nhiều hơn.

Lão nghì bụng:

– “Bây giờ ta chỉ cần thủ hòa là thắng thế đối phương một chút.”

Vô Trần thấy lão tự đặt mình vào vị trí bất lợi, hiểu ngay dụng ý, thầm nghĩ:

– “Đó là ngươi tự chuốc khổ vào thân, đừng trách ta nhé.”

Ông lập tức xử mấy chiêu liên hoàn trong Truy Hồn Đoạt Mệnh Kiếm đâm vào mặt, cổ, yết hầu địch thủ. Trần Chính Đức bị lưỡi kiếm phản chiếu ánh sáng mặt trời làm hoa cả mắt, cuống cuồng chống đỡ ba chiêu, thầm la:

– “Hỏng bét!”

Đột nhiên lão nghe có tiếng la hét rồi sáu bảy mũi tên bắn lên.

Trần Chính Đức cúi người xuống tránh, đồng thời ra chiêu Bình Sa Lạc Nhạn đâm vào cánh tay phải địch thủ. Mấy mũi tên đó lướt qua lão, bay thẳng về phía Vô Trần. Vô Trần múa kiếm gạt tên, nhún chân nhảy lên đá vào huyệt Thái Dương của Trần Chính Đức. Họ Trần không biết cước pháp của ông tuyệt diệu như thế, giật mình lùi lại hai bước. Ngay lúc đó, một mũi tên gấp rút bắn tới sau lưng lão.

Mũi tên này là của bọn cao thủ thị vệ bắn ra, vừa nhanh vừa mạnh, lão lại đang quay lưng, đúng là hết đường tránh né. Quan Minh Mai la lên “Trời ơi”, ném Thiết liên tử ra ứng cứu nhưng không kịp.

Quần hùng đồng thời hô hoán kinh hãi. Vô Trần đột nhiên xuất chiêu Mã Diện Trật Xoa, ném thanh trường kiếm trong tay trúng vào mũi tên đó, cả kiếm lẫn tên cùng rơi xuống dưới tháp.

Quần hùng đều thở ra một hơi nhẹ nhõm, đang định reo hò thì dưới đất lại bắn lên một loạt tên. Vô Trần tay không, hết cách chống đỡ đành phải nhảy nhót tránh né. Quan Minh Mai ném Thiết liên tử ra đánh rơi ba mũi tên. Trần Chính Đức cũng quay lại gạt giúp. Hai người đang đánh nhau chí mạng, bây giờ lại cứu trợ lẫn nhau.

Bọn quan binh dưới tháp đều ngẩn ngơ không hiểu. Bạch Chấn thấy trong tay Vô Trần không có binh khí, nghĩ đến mối hận bị ông đả bại ở Tây Hồ, bèn hạ lệnh tập trung nhằm vào Vô Trần mà bắn. Lập tức loạn tiễn bay tới như mưa. Vô Trần tránh đông né tây, bối rối cả tay chân.

Trần Chính Đức thét lên:

– “Đừng sợ, để ta cản giúp!”

Lão vừa đưa kiếm lên toan gạt tên, đột nhiên từ cửa sổ tầng thứ sáu có một người bay vọt ra cản trước mặt. Người này chưa đứng vững đã chụp được mười mấy mũi tên, rồi ném ra đánh rơi hết những mũi bay sau. Thủ pháp của y thập phần kỳ diệu, tựa như có mấy chục cánh tay vậy. Bọn lính Thanh dưới tháp thấy vậy đều ngơ ngác, quên cả nhiệm vụ.

Dương Thành Hiệp cúi xuống quát to:

– “Hôm nay cho bọn ngươi coi thủ pháp của Thiên Tí Như Lai.”

Bọn võ quan thị vệ đều hết sức thán phục, hoan hô như sấm sét. Triệu Bán Sơn chắp tay, khom người cảm tạ. Quân lính thấy phong độ của ông như thế lại càng không nén nổi, vỗ tay vang dội một vùng. Ba người nhảy trở vào trong tháp, quần hùng đều bước tới chúc mừng. Lúc này vợ chồng Trần Chính Đức vừa phục võ công vừa phục tấm lòng hiệp nghĩa xả thân của Vô Trần và Triệu Bán Sơn, ai cũng khiêm nhường ca ngợi đối phương. Bọn lính Thanh dưới chân tháp lại bắt đầu la hét.

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Để thuộc hạ lên nhờ hoàng đế chút việc.”

Chàng nói xong, liền đi lên lầu.

Lát sau, mọi người thấy Càn Long thò đầu ra cửa sổ tầng thứ bảy, kêu lớn:

– “Ta đây!”

Bạch Chấn la lên:

– “Hoàng thượng ở trên tháp!”

Rồi hắn chỉ huy cả đám nằm rạp xuống đất tung hô vạn tuế.

Càn Long tiếp:

– “Ta ở đây có việc, các người đừng ồn ào nữa.”

Lát sau, hắn lại nói tiếp:

– “Các ngươi lùi ra sau ba chục bước.”

Lý Khả Tú lập tức phụng chỉ, hô quân lùi lại.

Trần Gia Lạc mỉm cười nói:

– “Thất ca chỉ huy hoàng đế, hoàng đế chỉ huy quan binh, so với chém giết còn tốt hơn nhiều. Hoàng đế là báu trong thiên hạ, giết đi không bằng để đó mà dùng.”

Chàng trích dẫn lời Khổng Tử nghe rất hoạt kê, quần hùng đều cười rộ. Quân Thanh đều lùi lại, mọi người mới thấy trong trận có mấy người thợ săn dẫn chó theo.

Vệ Xuân Hoa nói:

– “Ta nghĩ không ra tại sao chúng lại tìm được đến đây. Thì ra chúng mang theo chó.”

Rồi họ Vệ lấy cung tên từ tay thuộc hạ, giương cung lắp tên từ trên cao bắn xuống. Veo véo hai tiếng, hai con chó tru một hồi dài rồi lăn ra chết. Bọn Thanh binh la lên một tiếng, lại càng rút lui nhanh hơn.

Trần Gia Lạc nói với Lục Phi Thanh:

– “Lục tiền bối! Chu tiền bối! Phiền hai vị tiếp chuyện với Trần lão tiền bối, Quan lão tiền bối. Tại hạ lên đó tiếp tục thương lượng với hoàng đế.”

Mọi người đều nói:

– “Xin tổng đà chủ cứ tùy tiện.”

Lúc Trần Gia Lạc trở bước lên lầu, quần hùng Hồng Hoa Hội đều đứng dậy tiễn chân. Hai vị Lục, Chu cũng đứng dậy hơi cúi người thi lễ, chỉ có Trần Chính Đức và Quan Minh Mai ngồi yên không động đậy. Thấy Trần Gia Lạc trẻ tuổi tuấn tú, phong thái nhã nhặn như công tử con quan mà được quần hùng cung kính đến vậy, Song Ưng không khỏi kinh ngạc.

Trần Gia Lạc lên tới tầng thứ bảy, Thường Thị Song Hiệp và Từ Thiên Hoằng thi lễ rồi lui ra. Càn Long không biết phải làm gì, cứ ủ rũ ngồi trên ghế.

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Ca ca đã định được chủ ý chưa?”

Càn Long đáp:

– “Ta đã rơi vào tay các ngươi, muốn giết thì cứ giết, cần gì phải nói nhiều.”

Trần Gia Lạc than thở:

– “Đáng tiếc, đáng tiếc!”

Càn Long hỏi:

– “Đáng tiếc cái gì?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Trước nay tiểu đệ tưởng ca ca là con người hùng tài đại lược. Tiểu đệ vui sướng vì song thân có một người con tốt, mình có một người anh tốt. Nào ngờ…”

Càn Long hỏi ngay:

– “Nào ngờ cái gì?”

Trần Gia Lạc im lặng một hồi rồi mới đáp:

– “Nào ngờ ca ca chỉ hùng dũng bề ngoài, còn trong ruột thì hèn nhát.”

Càn Long giận dữ hỏi:

– “Ta nhát gan ở chỗ nào?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Không sợ chết thì dễ lắm, chỉ cần có cái dũng của kẻ thất phu là được. Nhưng nếu muốn mưu đồ đại sự thì người không đại dũng không sao làm được. Ca ca cũng không làm được.”

Càn Long đứng phắt dậy, hỏi:

– “Những chuyện kiến công lập nghiệp trên thiên hạ, đâu thể thành công vì bị người ta uy hiếp?”

Trần Gia Lạc biện luận:

– “Ngày xưa Đường Cao Tổ khởi nghĩa ở Thái Nguyên, ban đầu do dự không quyết. Con của Đường Cao Tổ là Lý Thế Dân đã bố trí nhiều mặt, ép phụ thân vào tình thế không thể không liều. Còn nếu không có vụ binh biến Trần Kiều, làm sao Tống Thái Tổ được khoác long bào? Hai vị vua khai quốc này ban đầu bị con trai cùng bộ hạ uy hiếp, bắt buộc phải mạo hiểm một phen. Cuối cùng hoàn thành đại sự, hậu thế có ai là không ngưỡng mộ?”

Càn Long suy nghĩ một hồi không đáp, hình như đã động lòng rồi.

Trần Gia Lạc lại nói tiếp:

– “Huống hồ ca ca tài vượt Lý Uyên, chí hơn Triệu Khuông Dẫn. Chỉ cần ca ca quyết tâm khôi phục thiên hạ cho người Hán hì đám thảo dân lỗ mãng bọn tiểu đệ sẽ lập tức chịu lệnh ca ca. Tiểu đệ vỗ ngực bảo đảm, từ nay về sau họ không dám bất kính với ca ca chút nào. Tất cả sẽ tận trung, giữ đạo thần tử.”

Càn Long gật gật đầu, nhưng trong lòng còn khúc mắc chưa tiện mở miệng.

Trần Gia Lạc hiểu ý, liền nói:

– “Chỉ cần được thấy ca ca đuổi hết bọn man di ra ngoài quan ải là tiểu đệ mãn nguyện rồi. Lúc đó, tiểu đệ nhất định phải xin ca ca cho phép qui ẩn hồi hương, cùng đám thủ hạ anh em ngắm hoa uống rượu hưởng thú an nhàn, sống nốt những năm còn lại.”

Càn Long cả mừng đáp:

– “Hiền đệ nói gì vậy? Nếu đại nghiệp hoàn thành, mọi việc lớn trong thiên hạ ta đều phải nhờ hiền đệ giúp một tay.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Chúng ta phải hẹn nhau trước, hễ đại sự thành công là ca ca phải chấp thuận cho bọn tiểu đệ về hưu. Chắc ca ca cũng biết, đám anh em của tiểu đệ không hiểu lễ pháp, chắc chắn sẽ xảy ra những việc không hợp ý ca ca. Như vậy chỉ tổ làm sứt mẻ lễ quân thần, nghĩa huynh đệ.”

Càn Long nghe chàng nói bằng một giọng chém đinh chặt sắt, yên tâm vỗ bàn mà nói:

– “Hay lắm, chúng ta cứ thế!”

Trần Gia Lạc vui mừng hỏi lại:

– “Ca ca không còn gì khuất tất trong lòng nữa chứ?”

Càn Long nghĩ bụng:

– “Nếu hôm nay ta không đồng ý thì khó mà thoát thân được.”

Hắn bèn đáp:

– “Hết rồi. À, chỉ còn một việc phải nhờ hiền đệ. Cố tổng đà chủ Vu Vạn Đình có mấy món đồ gửi ở Hồi tộc, nói đó là chứng cớ về xuất thân của ta. Phiền đệ đem tới cho ta xem thử. Sau khi ta xem xong, nếu không nghi ngờ gì về gốc Hán của mình nữa, chắc chắn sẽ cùng hiền đệ mưu đồ đại sự.”

Trần Gia Lạc thấy chuyện này hợp tình hợp lý, bèn nói:

– “Được! Văn tứ ca nói là những vật đó rất quan trọng. Ngày mai tiểu đệ lập tức khởi hành, đích thân đem về cho ca ca xem.”

Càn Long dặn:

– “Khi trở về, hiền đệ hãy đến xin vào ngự lâm quân. Ta sẽ phong đệ làm tổng quản ngự lâm quân, thống lãnh ba doanh Hộ Quân, Kiêu Kỵ, Tiền Phong. Qua một thời gian, đệ sẽ kiêm nhiệm chức Kinh sư cửu môn đề đốc. Binh quyền các tỉnh trong thiên hạ sẽ dần dần lọt vào tay người thân tín của chúng ta. Cuối cùng ta sẽ cho hiền đệ làm Binh Bộ Thượng Thư, rồi xé lẻ tinh binh Bát Kỳ phân tán khắp nơi. Lúc đó chúng ta có thể khởi sự.”

Trần Gia Lạc mừng rỡ nói:

– “Hôm nay mọi người phải cùng nhau lập thệ, không ai được nuốt lời.”

Càn Long gật đầu. Trần Gia Lạc vỗ tay gọi Tâm Nghiễn, bảo đem y phục Càn Long tới, rồi giúp hắn thay quần áo. Cuối cùng chàng hô lớn:

– “Mời mọi người vào đây tham kiến hoàng thượng.”

Quần hùng lục tục kéo vào. Trần Gia Lạc nói rõ Càn Long đã ưng thuận phản Thanh phục Hán, rồi dõng dạc nói:

– “Từ nay về sau chúng ta phải phù tá hoàng thượng, cùng mưu đồ đại sự. Nếu ai thay lòng đổi dạ tiết lộ việc này, xin trời tru đất diệt.”

Trần Gia Lạc trích máu lập thệ. Càn Long cùng mọi người đều uống một hớp rượu thề, chỉ có Trần Chính Đức và Quan Minh Mai vẫn đứng bên cười nhạt.

Lục Phi Thanh gọi:

– “Đại ca, đại tẩu! Hai vị cũng đến uống rượu thề đi!”

Trần Chính Đức đáp:

– “Bọn quan phủ nói sao thì nói ta cũng không tin, huống chi đây lại là đầu não của bọn quan phủ. Trần tổng đà chủ! Ngươi quá tin hoàng đế, chỉ sợ đây là cách nghĩ của bọn thư sinh.”

Quan Minh Mai lên tiếng:

– “Khôi phục giang sơn người Hán là việc của con cháu Viêm Hoàng, dù chết cũng không thể chối từ. Giả tỉ hoàng đế thật sự có lòng, chỗ nào càn vợ chồng chúng ta trợ giúp, Trần tổng đà chủ chỉ cần nhắn tin là được. Hai bộ xương già này dù phải nhúng vào dầu sôi lửa bỏng cũng chẳng tiếc gì. Còn ly rượu này, chúng ta không thể uống.”

Trần Chính Đức đưa tay nhẹ nhàng móc trong tường ra một viên gạch, giận dữ nói:

– “Nếu có ai lòng lang dạ sói, phụ nghĩa bội thề, bán đứng bằng hữu, làm hỏng đại sự, thì hãy nhớ tấm gương này.”

Lão khẽ vận kình vào ngón tay, gạch đá nát vụn ra thành bụi, rơi vãi xuống đất. Càn Long nhìn vết ngón tay trên tường mà kinh hãi trong lòng. Trần Gia Lạc nói:

– “Tuy hai vị lão tiền bối không cùng thề thốt, nhưng đã đồng lòng với mọi người rồi. Ở đây ai cũng là người tín nghĩa, tại hạ không cần phải nói nhiều. Chỉ mong hoàng thượng đừng tam tâm lưỡng ý, quên mất lời thề hôm nay.”

Càn Long đáp:

– “Mọi người cứ yên tâm.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Thế thì hay lắm. Bây giờ chúng ta tiễn hoàng thượng ra ngoài.”

Vệ Xuân Hoa liền chạy ra ngoài tháp, lớn tiếng gọi:

– “Các ngươi mau mau tới đây nghênh giá.”

Lý Khả Tú và Bạch Chấn nghe mà bán tín bán nghi, sợ Hồng Hoa Hội lại dùng quỷ kế nên thống lãnh binh lính từ từ mà tới. Khi thấy Càn Long từ trong tháp bước ra, chúng mới phục sát xuống đất để đón tiếp.

Bạch Chấn dắt ngựa lại, Càn Long lên ngựa rồi nói:

– “Ta ở đây uống rượu làm thơ với họ, muốn được mấy ngày thanh tịnh. Không ngờ các ngươi sợ hãi thế này, làm hỏng mất nhã hứng của ta.”

Bạch Chấn vội vã dập đầu:

– “Tội thần đáng chết, tội thần đáng chết!”

Sau đó cả đoàn quân tiền hô hậu ủng, cờ bay phất phới, uy phong lẫm liệt, ca khúc khải hoàn trở về Hàng Châu. Tiếc rằng trong tiếng trống chiêng có lạc mấy tiếng chó sủa gâu gâu, nếu không thì thật là toàn mỹ.

* * *

Quần hùng Hồng Hoa Hội trở về Lục Hòa Tháp.

Trần Chính Đức nói:

– “Phen này vợ chồng chúng ta được gặp gỡ quần hùng ở Giang Nam, được kiến diện Chu lão anh hùng xưa nay ngưỡng mộ, được trùng phùng với Lục lão đệ không gặp nhiều năm, đều là chuyện đáng mừng. Ta được giao đấu hai phen với Vô Trần đạo trưởng đúng là đại khoái trong đời. Bây giờ ta và bà lão còn mấy chuyện vặt phải làm, xin cáo biệt.”

Trần Gia Lạc vội nói:

– “Hai vị tiền bối hiếm khi đến Giang Nam, phải ở lại mấy ngày để dạy dỗ bọn hậu bối nhiều hơn.”

Trần Chính Đức trợn mắt lên nói:

– “Bản lãnh sư phụ ngươi còn hơn ta nhiều, ngươi cần gì ta dạy dỗ? Vô Trần đạo trưởng! Sau này chúng ta phải tỉ đấu một phen nữa, xem tửu lượng ai lợi hại hơn.”

Vô Trần mỉm cười đáp:

– “Chuyện này bần đạo nhất định phải chịu hạ phong.”

Quan Minh Mai kéo Trần Gia Lạc qua một bên, hỏi nhỏ:

– “Ngươi đã có thê tử chưa?”

Trần Gia Lạc đỏ mặt lên đáp:

– “Chưa.”

Quan Minh Mai lại hỏi:

– “Đã đính hôn chưa?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Cũng chưa.”

Quan Minh Mai mỉm cười, gật đầu đầy vẻ ôn hòa. Đột nhiên mụ giận dữ nói:

– “Nếu ngươi vô tình vô nghĩa, phụ lòng người tặng kiếm, bà lão này quyết không tha cho ngươi.”

Trần Gia Lạc giật mình kinh hãi, nhất thời không biết nói gì. Trần Chính Đức la gọi:

– “Này! Bà già rụng hết răng mà còn thích nói to nói nhỏ với thanh niêm mới lớn ư? Đi thôi.”

Lông mày Quan Minh Mai nhăn tít lại. Mụ quay người đi ngay, đột nhiên chúm môi huýt sáo. Bốn con chó săn trong rừng chạy ra, có một con bước thấp bước cao vì bị đánh gãy chân. Hai vợ chồng thi lễ với quần hùng, rồi dẫn bốn con chó săn rời khỏi đó.

Lục Phi Thanh gọi với theo:

– “Đại ca, đại tẩu! Hai vị đi đâu thế?”

Hai người không trả lời, chốc lát bóng người đã mất hút trong rừng, rồi tiếng chó sủa cũng xa dần. Thường Thị Song Hiệp vẫn còn bất bình. Thường Hách Chí nói:

– “Đúng là loại người ỷ mình lớn tuổi.”

Thường Bá Chí bồi thêm:

– “Những bậc thế ngoại cao nhân, đại để đều như vậy cả. Chúng ta vào tháp nói chuyện tiếp đi.”

Mọi người quay vào trong Lục Hòa Tháp. Trần Gia Lạc lên tiếng:

– “Ta đã hứa với hoàng thượng là tới chỗ sư phụ lấy hai vật quan trọng. Bây giờ chúng ta lên Thiên Mục Sơn để thăm hỏi Tứ ca và Thập tứ đệ trước, sau đó sẽ điều động nhân mã có được hay không?”

Mọi người đều hô vang đồng ý. Ra khỏi tháp, hai cha con Mã Thiện Quân, Mã Đại Đình quay về Hàng Châu. Quần hùng cưỡi ngựa đi về hướng tây, hôm sau đã đến Thuận An, thêm một ngày nữa là đến Vu Tiện, rồi kéo nhau lên núi thăm Văn Thái Lai và Dư Ngư Đồng.

Hồi 12: Từ gia cát phỉ tình hương lửa – Dư tú tài vì nghĩa lâm nguy

Trên núi là rừng cây rậm rạp. Lúc này đã là cuối thu, chỉ trừ những bụi trúc vẫn xanh biếc, còn khắp núi đều phủ sắc đỏ vàng của lá. Người gác trên núi đã về thông báo cho Chương Tấn xuống núi đón tiếp.

Trần Gia Lạc không thấy Lạc Băng đâu, trong lòng bỗng kinh hãi, sợ xảy ra chuyện ngoài ý muốn, liền hỏi:

– “Tứ tẩu đâu? Tứ ca cùng Thập tứ đệ có khoẻ không?”

Chương Tấn đáp:

– “Thập tứ đệ không sao cả. Tứ tẩu nói là đi tìm một vật cho Tứ ca, đã đi hai ngày rồi. Dọc đường các huynh đệ không gặp hay sao?”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Đi tìm vật gì?”

Chương Tấn mỉm cười đáp:

– “Thuộc hạ cũng không biết. Hai ngày nay vết thương của Tứ ca đã đỡ nhiều, phải nằm suốt ngày nên chán ngán phát sinh buồn bã, Tứ tẩu nảy ra ý kiến đi tìm cái gì để chơi. Phen này không biết nhà ai xúi quẩy.”

Triệu Bán Sơn cười nói:

– “Tứ đệ và Tứ muội đã lớn thế này mà còn thích đùa giỡn như trẻ con vậy. Sau này có con cái, chắc hẳn tính nghịch ngợm của tổ tông còn di truyền tiếp tục.”

Mọi người đều cười rộ lên.

Quần hùng vừa cười vừa lên núi, vào một trang viện lớn, đến thăm Văn Thái Lai trước. Văn Thái Lai đang rầu rĩ nằm trên chiếc giường bằng mây, vừa thấy mọi người là mừng rỡ nhổm dậy đón tiếp ngay. Quần hùng kể lại những chuyện vừa qua, rồi sang phòng đối diện thăm Dư Ngư Đồng.

Mọi người bước rón rén, khẽ đẩy cửa vào, chợt nghe tiếng nức nở. Trần Gia Lạc bước tới vén màn lên, thấy Dư Ngư Đồng nằm quay mặt vào tường, lưng lên xuống phập phồng, khóc lóc trông rất thảm thiết. Chuyện này làm ai cũng bất ngờ. Quần hùng đều là người khẳng khái mau lẹ, ngay cả đám nữ nhân như Lạc Băng, Chu Ỷ cũng ít khi khóc lóc.

Quần hùng nhìn chàng khóc, nửa thấy kinh ngạc, nửa thấy buồn rầu. Trần Gia Lạc khẽ gọi:

– “Thập tứ đệ! Mọi người đến thăm đệ đây. Đệ thấy như thế nào? Vết thương đau lắm phải không?”

Dư Ngư Đồng dừng tiếng khóc, nhưng vẫn không quay lại, đáp:

– “Tổng đà chủ, Chu lão gia tử, sư thúc, các vị ca ca! Đa tạ các vị đến thăm. Xin thứ lỗi cho tiểu đệ không ngồi dậy thi lễ được. Mấy hôm nay vết thương đã khá nhiều rồi, nhưng mặt của đệ bị cháy trông như quái thú, không sao gặp người ta được nữa.”

Chu Ỷ mỉm cười nói:

– “Thập tứ ca! Nam tử hán bị hỏng khuôn mặt có chi là quan trọng? Chẳng lẽ huynh sợ ế vợ hay sao?”

Nghe nàng nói chuyện không kiêng nể gì, có người mỉm cười, cũng có người không sao cười nổi.

Lục Phi Thanh lên tiếng:

– “Dư sư điệt! Ngươi bị cháy hỏng khuôn mặt là để cứu Tứ gia và cứu ta. Hào kiệt thiên hạ mà biết chuyện này thì không ai không nghiêng mình kính nể, không ai không khen ngươi là anh hùng hảo hán, đại nhân đại nghĩa. Mặt ngươi càng xấu xí thì người ta càng kính trọng, không cần lo lắng trong lòng.”

Dư Ngư Đồng đáp:

– “Sư thúc dạy bảo rất đúng, nhưng…”

Chàng lại nhịn không nổi, khóc rống lên.

Thì ra sau khi đến Thiên Mục Sơn, Dư Ngư Đồng sáng nào chiều nào cũng được Lạc Băng chăm sóc vết thương, ngày nào Văn Thái Lai cũng qua nói chuyện giải sầu. Chàng biết mối si tình của mình đối với Lạc Băng là hoàn toàn không phải, nhưng dù sao cũng không quên được. Đêm nào chàng cũng thao thức trên giường, vừa khổ sở vừa hối hận.

Thấy mỗi khi Lạc Băng, Văn Thái Lai, Chương Tấn nhìn mình lộ vẻ kinh hãi và thương xót, Dư Ngư Đồng biết rằng khuôn mặt của mình đã bị thiêu cháy đến bất thành nhân dạng. Mấy lần chàng muốn lấy gương soi thử, nhưng rốt cuộc vẫn chưa đủ dũng khí.

Phen này Dư Ngư Đồng quyết liều mạng để cứu Văn Thái Lai, báo đáp cho Lạc Băng, giải quyết mối oan nghiệt trong lòng, nào ngờ lại không được chết. Chàng nghĩ đến lúc mình dưỡng thương ở nhà họ Lý tại Hàng Châu, Lý Nguyên Chỉ đã tặng cho mối tình sâu nặng mà mình không có cách gì báo đáp, thế là vừa phụ lòng người vừa phụ ơn cứu mạng, khó chịu muôn phần. Ngày đêm suy nghĩ, vị Kim Địch Tú Tài phong lưu tiêu sái xưa kia bây giờ chỉ còn da bọc xương, tiều tụy không sao tả nổi.

Mọi người từ biệt Dư Ngư Đồng, quay về đại sảnh ngồi góp chuyện. Văn Thái Lai rầu rĩ lên tiếng:

– “Vì cứu ta mà mặt mày Thập tứ đệ bị hủy hoại đến thế. Y vốn là một thiếu niên tuấn tú, mà bây giờ… ôi!”

Vô Trần đạo trưởng nói:

– “Nam tử hán đại trượng phu hành hiệp giang hồ chỉ cần nghĩa khí là một, bản lãnh là hai. Còn dung mạo đẹp hay xấu thì chỉ có bọn không ra gì mới xem trọng. Tay trái ta bị cụt, lưng Chương thập đệ bị tật, dáng vẻ Thường gia huynh đệ hết sức cổ quái nhưng trên giang hồ có ai chê cười đâu? Thập tứ đệ đúng là có chỗ không thông suốt.”

Triệu Bán Sơn nói:

– “Y vẫn còn tính trẻ, lại đang cơn bệnh, sau này mọi người khuyên giải một chút là xong. Hôm nay chúng ta phải uống say một bữa để chúc mừng Tứ đệ.”

Mọi người reo hò vui vẻ, bảo thủ hạ đi chuẩn bị tiệc rượu. Chu Ỷ nói:

– “Tiếc là Băng tỷ không có ở đây, không biết hôm nay về kịp hay không? Tỷ tỷ vẫn cưỡi con ngựa trắng đấy chứ?”

Chương Tấn lắc đầu đáp:

– “Không, Tứ tẩu nói là con ngựa trắng đẹp quá dễ gây chú ý. Vết thương của Tứ ca và Thập tứ đệ chưa lành hẳn, không nên để bọn quỷ tìm đến.”

Dương Thành Hiệp mỉm cười:

– “Lúc này chúng ta ở đây cả rồi. Bọn quỷ tìm đến lại là chuyện tốt.”

Tưởng Tứ Cân nghe đến chữ “quỷ”, liền mỉm cười nhìn Thạch Song Anh một cái. Thạch Song Anh có ngoại hiệu là Quỷ Kiến Sầu, nhưng không ai nhắc đến cái ngoại hiệu này trước mặt Thường Thị Song Hiệp. Ngoại hiệu của Song Hiệp là Hắc Vô Thường, Bạch Vô Thường. Vô Thường cũng là quỷ, chẳng lẽ ca ca lại sợ tiểu đệ hay sao?

Trần Gia Lạc và Từ Thiên Hoằng thấp giọng bàn bạc một lúc, rồi vỗ tay một cái, mọi người đứng cả dậy. Trần Gia Lạc vội nói:

– “Mời hai vị Lục, Chu tiền bối ngồi xuống. Lần sau xin đừng khách sáo như thế.”

Lục Phi Thanh và Chu Trọng Anh cùng nói:

– “Xin phép,” rồi ngồi xuống.

Trần Gia Lạc lên tiếng:

– “Phen này công chuyện của chúng ta trôi chảy vô cùng, chỉ e sau này gặp phải những việc khó khăn. Chúng ta phải sắp xếp một chút. Cửu ca và Thập nhị ca đi Bắc Kinh thăm dò tin tức, xem hoàng đế có ý bội thề hay không, có âm mưu quỷ kế gì không. Việc này quan trọng hàng đầu, khó mà điều tra cho rõ được. Hai vị phải thận trọng.”

Vệ, Thạch hai người gật đầu đồng ý.

Trần Gia Lạc lại nói:

– “Nhờ hai vị Thường ca ca đến Vân Quế, Tứ Xuyên liên lạc với hào kiệt vùng Tây Nam. Bát ca đến vùng An Huy, Hồ Bắc. Vô Trần đạo trưởng đến vùng Lưỡng Hồ. Thập tam ca đến vùng Lưỡng Quãng. Tam ca cùng cha con họ Mã liên lạc hào kiệt ba tỉnh Triết Giang, Phúc Kiến và Giang Tây. Vùng Sơn Đông và Hà Nam nhờ Lục lão tiền bối chủ trì. Các tỉnh Tây Bắc nhờ Chu lão tiền bối cùng Mạnh đại ca, An đại ca, Thất ca và Chu cô nương chủ trì. Tứ ca, Thập tứ đệ dưỡng thương ở đây. vẫn nhờ Tứ tẩu và Chương thập ca lo liệu giùm, phải tuyệt đối bí mật, đừng để bọn quan phủ biết. Tâm Nghiễn cùng ta đi đến Hồi tộc. Các vị thấy thế nào?”

Mọi người đồng thanh nói:

– “Xin tuân lệnh tổng đà chủ.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Phen này các vị chia nhau đến các tỉnh, không phải là lo việc cử sự, chỉ là liên hệ và kết giao với anh hùng hào kiệt các nơi để làm gốc rễ cho đại sự sau này. Việc của chúng ta cơ mật khác thường, dù là thân cận như thê tử, tôn trọng như song thân cùng sư trưởng cũng không được tiết lộ.”

Mọi người đồng thanh nói:

– “Bọn thuộc hạ hiểu rồi.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Chúng ta hẹn nhau một năm. Ngày này sang năm mọi người tập hợp ở kinh sư. Lúc đó thương thế của Tứ ca và Thập tứ đệ đã lành, chúng ta sẽ làm chuyện lớn.”

Nói xong chàng vỗ bàn đứng dậy. Mọi người theo chàng đến trung đình, ai cũng phấn khởi vô cùng. Lục Phi Thanh, Văn Thái Lai, Thường Thị Song Hiệp vẫn cảm thấy lời nói của hoàng đế khó mà tin được, nhưng Trần Gia Lạc đang cao hứng nên không tiện dội nước lạnh ngay.

Chương Tấn nghe tổng đà chủ lại bắt mình hưởng nhàn trên Thiên Mục Sơn, mặt mày rầu rĩ. Văn Thái Lai biết ý, liền nói với Trần Gia Lạc:

– “Tổng đà chủ! Vết thương của thuộc hạ đã đỡ nhiều rồi. Thập tứ đệ tuy bị bỏng nặng nhưng cũng dễ trị thôi. Nếu bọn thuộc hạ phải nằm buồn trên núi một năm, thật sự rất khó chịu. Bốn người bọn thuộc hạ muốn theo tổng đà chủ đến chỗ Hồi tộc, cũng là để Thập tứ đệ được khoan khoái trong lòng hơn.”

Chương Tấn cả mừng nói:

– “Đúng thế! Đúng thế!”

Văn Thái Lai nói:

– “Dọc đường du sơn ngoạn thủy, vết thương nhất định sẽ mau lành.”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Thế cũng được. Nhưng không biết Thập tứ đệ có chịu nổi hay không?”

Văn Thái Lai nói:

– “Cứ để y ngồi xe mấy ngày nữa. Nhiều lắm cũng chỉ mười ngày nửa tháng là cưỡi ngựa như thường.”

Trần Gia Lạc gật đầu:

– “Hay lắm! Chúng ta cứ thế mà làm.”

Chương Tấn mừng rỡ chạy vào trong cho Dư Ngư Đồng biết, rồi lập tức chạy ra nói:

– “Thập tứ đệ cũng nói như vậy là hay nhất.”

Chu Trọng Anh kéo Trần Gia Lạc qua một bên, khẽ nói:

– “Tổng đà chủ! Bây giờ Tứ gia đã được cứu ra, lão đệ và hoàng thượng lại cốt nhục tương phùng, thật là hoan hỉ trùng trùng. Ta muốn thêm vào một việc vui mừng nữa, lão đệ thấy sao?”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Lão gia muốn tổ chức hôn lễ cho Thất ca và Chu đại cô nương chứ gì?”

Chu Trọng Anh mỉm cười đáp:

– “Đúng vậy.”

Trần Gia Lạc cười đáp:

– “Thế thì tuyệt diệu! Bây giờ mọi người đều ở đây, chúng ta cạn chén rượu mừng rồi hãy chia tay. Tiếc là hơi cập rập một chút, không thể mời hết bằng hữu các nơi đến chung vui với Chu đại cô nương.”

Chu Trọng Anh nói:

– “Bao nhiêu anh hùng hảo hán ở đây còn chưa đủ hay sao?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Được! Thế thì xin lão gia chọn một ngày lành.”

Chu Trọng Anh nói:

– “Người như chúng ta thì cần gì tính đến ngày lành hay ngày không lành? Ta muốn tổ chức ngay hôm nay.”

Trần Gia Lạc biết ông ta không muốn vì con gái mình mà làm chậm trễ mọi người, bèn đáp:

– “Lão gia đã lo nghĩ vẹn toàn như thế, tại hạ thật là muôn phần cảm kích.”

Chu Trọng Anh mỉm cười nói:

– “Lão đệ còn khách sáo với ta làm chi nữa?”

Trần Gia Lạc cười cười đi tới trước mặt Chu Ỷ, chắp tay lại nói:

– “Đại cô nương! Ta có lời chúc mừng cô.”

Chu Ỷ lập tức đỏ mặt lên hỏi lại:

– “Huynh nói gì vậy?”

Trần Gia Lạc mỉm cười nói:

– “À, ta phải gọi cô là Thất tẩu mới đúng. Thất tẩu! Ta có lời chúc mừng cô.”

Chu Ỷ bĩu môi ra nói:

– “Hứ! Làm tới tổng đà chủ mà cũng hay đùa đến thế à?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Được! Cô không tin ta phải không?”

Chàng vỗ tay ra hiệu, mọi người lập tức im lặng trở lại.

Trần Gia Lạc dõng dạc nói:

– “Chu lão gia vừa nói:

– hôm nay sẽ làm lễ thành hôn cho Thất ca và Chu đại cô nương. Chúng ta sắp có rượu uống rồi.”

Quần hùng nổi tiếng hoan hô như sấm, tới tấp kéo đến chúc mừng Chu Trọng Anh và Từ Thiên Hoằng. Bây giờ Chu Ỷ mới biết đây là chuyện thật, vội trốn vào nhà trong. Vệ Xuân Hoa mỉm cười nói:

– “Thập đệ mau mau giữ cô ấy lại, đừng để cô dâu chạy trốn.”

Chương Tấn giả vờ đưa tay kéo lại, Chu Ỷ liền vung tay đánh ngay một chưởng. Chương Tấn né qua một bên, cười rộ lên hô lớn:

– “Úi chà, cứu mạng! Cô dâu hung dữ đánh chết người rồi!”

Chu Ỷ cười khúc khích, chạy tuốt vào trong. Mọi người đang vui đùa thì ngoài cửa bỗng vang lên tiếng chuông thánh thót. Lạc Băng ôm một cái hộp, chạy vào trong la lên:

– “Hay quá! Mọi người đều đến cả rồi. Có gì mà vui vẻ thế?”

Vệ Xuân Hoa nói:

– “Cô hỏi Thất ca thử xem.”

Lạc Băng hỏi:

– “Thất ca! Có việc gì vậy?”

Từ Thiên Hoằng ấp úng không nói được tiếng nào. Lạc Băng kinh ngạc nói:

– “Lạ thật, lạ thật! Tại sao hôm nay Võ Gia Cát lại ngớ ngẩn như vậy?”

Tưởng Tứ Cân đứng sau lưng Từ Thiên Hoằng đưa ngón tay ra hiệu phu thê giao bái, rồi nói:

– “Hôm nay Gia Cát chiêu thân, làm chú rể ngốc.”

Lạc Băng hoan hỉ, vừa cười vừa la lên:

– “Hỏng bét, hỏng bét.”

Dương Thành Hiệp hỏi:

– “Tứ tẩu vui đến nỗi hồ đồ rồi sao? Thất ca thành hôn chứ có phải Tứ ca đâu mà Tứ tẩu lại nói là hỏng bét?”

Quần hùng lại cười ồ lên. Lạc Băng nói:

– “Nếu biết trước hôm nay Thất ca và Ỷ muội kết hôn, ta sẽ thuận tay dắt bò tìm thêm ít đồ quí trọng. Lúc này chẳng có gì để làm quà, há chẳng phải là hỏng bét hay sao?”

Dương Thành Hiệp hỏi:

– “Tứ tẩu mang về cho Tứ ca món gì vậy? Cho mọi người xem một chút có được không?”

Lạc Băng mỉm cười mở cái hộp ra, lập tức hào quang xông lên chói mắt. Thì ra đó chính là đôi bạch ngọc bình của người Hồi gửi đến để cầu hòa với hoàng đế. Quần hùng đều ngơ ngác, vội vàng hỏi kỹ.

Lạc Băng đáp:

– “Lúc nói chuyện với Tứ ca, ta có kể là cặp ngọc bình này rất đẹp, mỹ nhân vẽ trên bình vô cùng diễm lệ. Y không chịu tin…”

Từ Thiên Hoằng chặn đầu:

– “Chắc Tứ ca không tin là có người đẹp hơn Tứ tẩu, có đúng thế không?”

Lạc Băng cười cười không đáp, rõ ràng Văn Thái Lai đã nói đúng như thế. Từ Thiên Hoằng lại hỏi:

– “Vậy là Tứ tẩu đã đến chỗ hoàng đế để ăn cắp vật này?”

Lạc Băng gật đầu, ra vẻ rất đắc ý:

– “Ta đến Hàng Châu lấy ngọc bình về cho Tứ ca xem, sau đó xử lý thế nào thì tùy tổng đà chủ. Tặng lại cho Hoắc Thanh Đồng muội muội cũng được, mà chúng ta giữ lại cũng được.”

Văn Thái Lai thấy mỹ nhân Hồi tộc vẽ trên bình thật sự đẹp đẽ vô cùng, bất giác quay lại ngắm nghía vợ mình. Lạc Băng mỉm cười hỏi:

– “Muội nói không sai đấy chứ?”

Văn Thái Lai vừa cười vừa lắc đầu, Lạc Băng ngẩn ra một chút rồi hiểu ý, chắc phu quân muốn nói:

– “Cho dù mỹ nhân trên bình đó có đẹp lên gấp mười cũng không thể sánh kịp Băng muội.”

Nàng nhìn lại chồng, không nén nổi hai má đỏ bừng lên.

Vô Trần đạo trưởng lên tiếng:

– “Tứ đệ, Tứ muội! Bên cạnh hoàng đế cao thủ rất nhiều. Đôi ngọc bình này lại quí trọng như thế, nhất định là được canh gác rất nghiêm ngặt. Làm sao Tứ muội lấy trộm được? Đảm lược như Tứ muội, thật sự là kẻ nam tử như ta không thể nào sánh kịp. Đạo sĩ già này phục Tứ muội thật rồi.”

Lạc Băng mỉm cười từ từ kể lại, nàng lẻn vào dinh tuần phủ, bắt một tên thái giám để hỏi cung, dùng bánh bao tẩm thuốc độc để giết lũ chó canh, giả tiếng mèo kêu để lừa đám thị vệ, rồi mò mẫm trong bóng tối tìm được cặp ngọc bình này như thế nào. Quần hùng ngẩn ra nghe đến xuất thần, ai cũng tán thưởng tài ăn cắp thần kỳ của Lạc Băng.

Lục Phi Thanh bỗng lên tiếng:

– “Tứ phu nhân! Ta và phụ thân của cô là Lạc lão đệ đã kết giao sinh tử nên mới ỷ mình già mà nói mấy câu. Cô đừng trách ta nhé.”

Lạc Băng vội đáp:

– “Xin Lục lão bá dạy cho.”

Lục Phi Thanh nói:

– “Cô vừa gan dạ vừa tỉ mỉ, đơn thương độc mã làm được việc này, thật khiến cho người ta thán phục. Nhưng việc thì có nặng có nhẹ, có lúc gấp rút mà cũng có thể chần chừ. Nếu đôi ngọc bình này liên quan đến đại sự chúng ta đang mưu tính thì mạo hiểm vì điều hiệp nghĩa là chuyện nên làm. Nhưng chỉ vì một lời nói giỡn với Tứ gia mà cô một mình xông vào hiểm địa, lỡ gặp chuyện không may, thì chưa nói đến bạn bè lo lắng, riêng Tứ gia phải suy nghĩ thế nào?”

Nghe xong câu này, Lạc Băng toát mồ hôi đầy mình, vội đáp:

– “Đúng thế!”

Lục Phi Thanh lại tiếp:

– “May mà đêm đó hoàng đế bị chúng ta mời đi Lục Hòa Tháp, bọn thị vệ bối rối không biết làm gì chỉ lo tìm hoàng đế, nên dinh tuần phủ không có cao thủ cảnh giác. Nếu có bọn Kim câu thiết chưởng Bạch Chấn ở đó, thì mối nguy hiểm thật là không nhỏ.”

Lạc Băng vâng dạ liên hồi, quay lại thè lưỡi với Văn Thái Lai một cái.

Trần Gia Lạc bèn lên tiếng giải vây cho Lạc Băng:

– “Chắc là sau khi cứu được Tứ ca ra ngoài, Tứ tẩu vui mừng đến nỗi hồ đồ. Sau này đừng làm như thế nữa.”

Lạc Băng vội nói:

– “Không làm nữa, không làm nữa.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Được rồi, bây giờ chúng ta lo chuẩn bị đại lễ cho Thất ca. Này, Thất ca! Việc trước mắt gấp như cứu hỏa, trên núi chuẩn bị vật dụng không tiện chút nào. Huynh vốn thần cơ diệu toán, túc trí đa mưu, hãy mau mau nghĩ ra kế hoạc vẹn toàn.”

Mọi người trong sảnh đường đều cười rộ. Từ Thiên Hoằng nghĩ đến chuyện sắp được kết hôn với người trong mộng, hồn phách bay đâu mất hết, thật sự hồ đồ. Chàng nghe mọi người đùa giỡn mà chỉ biết bối rối mỉm cười, không nói được lời nào.

Trần Gia Lạc cười nói:

– “Võ Gia Cát của chúng ta đã trở thành chú rể ngốc thật rồi. Vậy thì ta phải có ý kiến. Nhà gái thì do Chu lão gia làm chủ hôn, chuyện đó thì rõ rồi. Nhà trai xin mời Tam ca làm chủ hôn, Lục lão gia làm ông mai. Cửu ca! Phiền huynh cưỡi con bạch mã của Tứ tẩu vào thành Vu Tiền, mua gấp những thứ phải dùng trong lễ cưới. Mạnh đại ca! Phiền huynh xuống dưới núi chuẩn bị tiệc rượu. Quà cưới thì tạm thời nợ lại, sau này Thất tẩu có con thì mỗi người tặng gấp đôi. Các vị thấy như vậy có được hay không?”

Vệ Xuân Hoa và Mạnh Kiện Hùng nhận lệnh đi ngay. Triệu Bán Sơn thì nói:

– “Bên họ nhà trai, dĩ nhiên tổng đà chủ phải đứng chủ hôn. Lát nữa thuộc hạ lo việc xướng lễ là được rồi.”

Trần Gia Lạc vẫn khiêm nhường đưa đẩy, nhưng ai cũng nói thủ lĩnh phải làm chủ hôn, nên cuối cùng chàng đồng ý.

Đến xế chiều, Mạnh Kiện Hùng về báo tiệc rượu đã chuẩn bị xong, chỉ có phần hơi thô thiển. Mọi người đều nói là không hề gì. Nửa giờ nữa Vệ Xuân Hoa cũng trở về, vật dụng đã mua sắm đủ. Mão phụng, áo cưới của cô dâu đều có, mua từ tiệm bán lễ phục.

Lạc Băng cầm y phục cô dâu, định vào trang điểm cho Chu Ỷ. Thấy ngay cả phấn son cũng mua đầy đủ, nàng mỉm cười nói:

– “Cửu ca! Huynh thật là chu đáo. Không biết sau này vị cô nương nào có phước được làm thê tử của huynh?”

Vệ Xuân Hoa cười nói:

– “Tứ tẩu đừng nói giỡn nữa. Tối nay chúng ta nghĩ trò gì chọc phá cô dâu chú rể thử xem.”

Lạc Băng vỗ tay cười lớn:

– “Hay lắm! Huynh có ý kiến gì không?”

Tưởng Tứ Cân và mọi người nghe bàn tán tới chuyện trêu ghẹo cô dâu đều quây cả lại, nhao nhao đề ra ý kiến. Vệ Xuân Hoa nói:

– “Tứ tẩu! Tứ tẩu lấy trộm được ngọc bình của hoàng đế, ai cũng thán phục. Nhưng hồi nãy Lục lão tiền bối đã nói, nếu có mặt bọn cao thủ trong đại nội thì e rằng không dễ dàng như thế.”

Lạc Băng mỉm cười đáp:

– “Ăn trộm là đấu trí chứ không phải đấu lực. Tuy ta đánh không lại bọn chúng, nhưng chưa chắc đã không đánh cắp được.”

Vệ Xuân Hoa nói:

– “Chuyện đó phải xem lại. Thất ca là người lanh lợi thông minh nhất hội. Nếu tối nay Tứ tẩu ăn cắp được của y, thì chúng ta đều phục Tứ tẩu”

Lạc Băng mỉm cười hỏi:

– “Huynh muốn ta lấy cắp thứ gì của Thất ca?”

Vệ Xuân Hoa cười nói:

– “Đợi cô dâu chú rể đi nghỉ, Tứ tẩu ăn cắp hết quần áo để sáng mai họ không dậy được.”

Chương Tấn và cả đám đều rộ lên khen hay. Triệu Bán Sơn tới hỏi:

– “Có gì mà vui thế?”

Tưởng Tứ Cân đẩy ông ra chỗ khác, nói:

– “Chuyện này không liên quan đến Tam ca.”

Mọi người nghĩ Triệu Bán Sơn lão thành bảo thủ, nên sợ ông lén nói cho Từ Thiên Hoằng biết.

Chờ Triệu Bán Sơn rời khỏi, Dương Thành Hiệp mới tiếp:

– “Khi đối phó với hoàng đế, chúng ta cũng dùng cách này. Quả nhiên hắn không mặc quần áo thì không dám ngồi dậy. Tứ tẩu! Việc này khó lắm, xem chừng Tứ tẩu không làm nổi đâu.”

Lạc Băng chau mày không đáp, thầm nghĩ:

– “Việc này thật sự không dễ. Hơn nữa trò đùa này hơi quá đáng, e rằng Ỷ muội sẽ trách.”

Nhưng nàng nghe Dương Thành Hiệp khích bác bèn nổi lòng hiếu thắng, hỏi lại:

– “Nếu ta lấy cắp được thì sao?”

Vệ Xuân Hoa nói:

– “Ở đây có Bát ca, Thập đệ, Thập nhị đệ, Thập tam đệ và ta. Năm người chúng ta sẽ làm cho con bạch mã của cô một bộ yên cương bằng vàng ròng, kiểu dáng thời trang, chất lượng cao, bảo đảm cô vừa ý.”

Lạc Băng gật đầu:

– “Hay lắm, chúng ta cứ thế. Còn nếu lấy cắp không được, ta sẽ thêu tặng mỗi vị một cái túi hoa.”

Dương Thành Hiệp và Vệ Xuân Hoa đồng thanh nói:

– “Hay lắm! Nói một lời thôi đấy nhé.”

Tưởng Tứ Cân dặn kỹ:

– “Cái túi hoa đó Tứ tẩu phải thêu cho đẹp, không được làm ẩu tả đâu.”

Lạc Băng mỉm cười:

– “Úi chà! Tứ tẩu đã ăn gian với đệ bao giờ đâu? Nhưng các vị không được nói với Thất ca, Thất tẩu.”

Dương Thành Hiệp và mọi người đều đồng thanh nói:

– “Việc đó đương nhiên. Chúng ta còn thích thua Tứ tẩu để có chuyện náo nhiệt mà xem.”

Sáu người thương lượng xong xuôi rồi chia tay nhau để chuẩn bị cho hôn lễ.

Lạc Băng đã nhận lời thách đố, nhưng nhất thời chưa biết phải thực hiện thế nào. Đối phó với Chu Ỷ thì dễ, còn Từ Thiên Hoằng là người đa mưu túc trí. Dùng kế thì nàng biết mình không phải là địch thủ của họ Từ, chỉ còn cách tùy cơ ứng biến, đi nước nào tính nước đó mà thôi.

Lát sau đèn lồng trong đại sảnh đã thắp sáng trưng. Từ Thiên Hoằng mặc trường bào, khoác thêm áo ngắn đứng phía bên trái. Lạc Băng dìu Chu Ỷ ra, Triệu Bán Sơn lớn tiếng xướng lễ. Hai vợ chồng bái thiên địa trước, rồi bái tới thần vị Hồng Hoa lão tổ. Sau đó, hai người hành lễ trước mặt vợ chồng Chu Trọng Anh, rồi Trần Gia Lạc. Chu Trọng Anh và Chu phu nhân trả lại nửa lễ, còn Trần Gia Lạc không dám nhận đại lễ nên quì xuống trả lễ. Chu Trọng Anh đứng bên liên tiếp nói lời khiêm tốn. Đôi vợ chồng mới lại cảm tạ ông mai Lục Phi Thanh.

Phu thê giao bái xong, theo thứ tự mà thi lễ với Vô Trần đạo trưởng, Triệu Bán Sơn, Văn Thái Lai, Thường Thị Song Hiệp. Tâm Nghiễn dìu Dư Ngư Đồng ra đại sảnh ngồi trên ghế. Chàng che mặt bằng tấm khăn xanh chỉ để lộ đôi mắt, cũng tới thi lễ với tân lang tân nương.

Không khí trong đại sảnh rất vui vẻ. Dư Ngư Đồng lấy kim địch ra thổi bài Phượng Cầu Hoàng. Mọi người thấy tinh thần chàng đã khá, lại thêm phần hoang hỉ.

Sau đó mọi người ngồi vào tiệc rượu. Vô Trần đạo trưởng cầm lấy bình rượu, hô lớn:

– “Hôm nay ai chưa say thì không được đi ngủ…”

Nói chưa xong, ông bỗng vung tay lên, ném cái bình vào cây quế trong vườn.

Bình rượu vừa ném ra, Vệ Xuân Hoa và Chương Tấn cũng tung người vọt theo. Hai người uống rượu không mang theo binh khí, tay không mà tung người đến cây quế. Cái bình chẳng đánh trúng ai, sắp rơi xuống đất thì Vệ Xuân Hoa đưa tay chụp được.

Chương Tấn nhảy lên đầu tường nhìn quanh tứ phía, vẫn không phát hiện người nào. Y quay lại báo cho Trần Gia Lạc biết, rồi hỏi có cần ra ngoaì lục soát hay không, Trần Gia Lạc mỉm cười nói:

– “Hôm nay là ngày vui của Thất ca, đừng để bọn chuột nhắt làm hỏng mất hứng thú của mình. Chúng ta cứ uống rượu đi.”

Chàng khẽ dặn Tâm Nghiễn đem mấy thủ hạ tuần tra bốn phía, đừng để kẻ gian vào đây phóng hỏa. Tâm Nghiễn tuân lệnh ra ngoài.

Mọi người thấy Trần Gia Lạc mặc kệ, lại tiếp tục vui vẻ mời nhau. Trần Gia Lạc nói nhỏ với Vô Trần đạo trưởng:

– “Đạo trưởng! Tại hạ cũng thấy bóng người nhảy lên cành cây. Nhìn thân thủ cũng biết hắn không cao minh gì lắm.”

Vô Trần đạo trưởng đáp:

– “Đúng thế! Cho hắn đi thôi.”

Trần Gia Lạc đứng dậy, dõng dạc nói:

– “Trên Lục Hòa Tháp đạo trưởng đại triển thần oai, khiến Thiên Sơn Song Ưng không dám coi thường chúng ta. Chúng ta kính đạo trưởng một ly.”

Mọi người đều đứng dậy, nâng ly chúc tụng. Vô Trần đạo trưởng mỉm cười nói:

– “Thiên Sơn Song Ưng quả nhiên danh bất hư truyền. Giả tỷ Trần Đức Chính trẻ lại hai mươi tuổi, bần đạo chắc chắn không phải là đối thủ của lão.”

Triệu Bán Sơn cười nói:

– “Nếu thế thì tay chân của lão có nhanh nhẹn hơn thật, nhưng công phu lại không được thuần thục đến thế.”

Bên một bàn khác, Chương Tấn đang hò hét đổ quyền với Thạch Song Anh. Tiếng reo hò càng lúc càng lớn. Dương Thành Hiệp, Tưởng Tứ Cân hai người một phe đấu rượu với Thường Thị Song Hiệp, mỗi người đã uống bảy tám chén lớn.

Văn Thái Lai và Dư Ngư Đồng vẫn còn mang thương tích, không dám uống rượu nhưng cũng ngồi tại bàn, uống trà chung vui với mọi người. Mọi người không ngớt đùa giỡn với Dư Ngư Đồng cho chàng đỡ buồn rầu.

Ăn xong mấy món, đôi vợ chồng mới ra mời rượu từng bàn một. Vợ chồng Chu Trọng Anh hoan hỉ vô cùng, ngoác miệng ra cười đến nỗi không ngậm lại được. Chu Ỷ trước nay rất mê uống rượu, nhưng hôm nay Chu phu nhân dặn nàng không được uống một hớp nào. Nàng đi mời rượu, mọi người không ngớt mời lại. Cô dâu cũng rất muốn uống say một bữa nhưng nghĩ đến lời mẹ dặn nàng đành phải chối từ, trong lòng không khỏi rầu rĩ. Vẻ không vui lộ rõ ra ngoài mặt.

Vệ Xuân Hoa mỉm cười nói:

– “Ái chà! Cô dâu đang giận chú rể kia kìa. Thất ca mau mau xin lỗi, quì xuống nhanh lên.”

Tưởng Tứ Cân cũng nói:

– “Thất ca! Huynh chịu nhịn một tí đi, quì xuống chút xíu. Nếu chú rể chịu quì thì con đầu lòng là con trai đó.”

Chu Ỷ nhịn không nổi nữa, cười khúc khích rồi nói:

– “Ca ca chưa có con, làm sao mà biết được? Chỉ nói bậy thôi.”

Mọi người thấy cô dâu mới ngây thơ, không ai là không cao hứng. Chu phu nhân lắc đầu, than thở liên hồi:

– “Nói thế mà cũng nói được, chẳng giống cô dâu chút nào.”

Lạc Băng khẽ bảo Vệ Xuân Hoa:

– “Các huynh ép Thất ca uống đi, giúp ta một chút.”

Vệ Xuân Hoa đảo mắt liếc Tưởng Tứ Cân một cái, hai người bèn đứng dậy cụng ly với chú rể. Từ Thiên Hoằng cũng thấy hai người lén lút, biết là có vấn đề. Nhưng hôm nay chú rể không thể từ chối rượu mời, nên chàng cứ sảng khoái cạn hết chén này đến chén khác. Uống được mười mấy chén, đột nhiên chàng cảm thấy lắc lư con tàu đi, ngồi phịch xuống, gục lên bàn.

Chu phu nhân rất yêu mến con rể, vội kêu lên:

– “Nó say rồi!”

Bà gọi An Kiện Cương dìu họ Từ vào phòng để nghỉ ngơi.

Dương Thành Hiệp thấy chú rể đã say, liền nói với Lạc Băng:

– “Lần này chắc là Tứ tẩu thắng rồi.”

Lạc Băng mỉm cười, tìm một bình trà. nàng đổ hết trà ra, rót rượu vào, rồi tới phòng cô dâu chú rể tìm Chu Ỷ. Thấy nàng vào, cô dâu mừng rỡ nói:

– “Băng tỷ mau mau vào đây! Muội đang buồn lắm.”

Lạc Băng hỏi:

– “Ỷ muội có khát nước không? Ta đem trà đến cho muội đây.”

Chu Ỷ đáp:

– “Muội không muốn uống trà đâu.”

Lạc Băng kê bình trà vào mũi cô bé, nói:

– “Trà này thơm lắm.”

Chu Ỷ ngửi thấy mùi rượu cả mừng, lập tức đón lấy tu một hơi. Hết nửa bình, nàng mới dừng lại để nói:

– “Băng tỷ! Tỷ thật là tốt với muội.”

Thấy Chu Ỷ ngây thơ hoàn toàn không phòng bị, Lạc Băng đã không nỡ trêu ghẹo. Nhưng nàng nghĩ lại, chọc phá cô dâu cũng chỉ là chuyện lấy hên, đùa giỡn quá đáng một chút cũng chẳng hề gì, liền nói:

– “Ỷ muội! Ta muốn nói với muội một việc. Lẽ ra việc này không thể nói, nhưng tỷ muội mình đã thân nhau như thế, thì giả sử nói năng quá đáng một chút, muội cũng không trách tỷ phải không?”

Chu Ỷ đáp:

– “Đương nhiên là thế. Tỷ tỷ nói nhanh lên.”

Lạc Băng bèn hỏi:

– “Mẫu thân của muội đã dạy cho muội chưa? Lát nữa trút bỏ y phục…”

Chu Ỷ mới nghe đến đó mặt đã đỏ chói lên, hỏi lại:

– “Cái gì vậy? Mẫu thân muội chưa nói gì cả.”

Lạc Băng nghiêm hẳn mặt, trịnh trọng nói tiếp:

– “Vậy thì chắc Chu phu nhân cũng không biết. Thế này, sau khi nam nữ kết hôn, nếu gió đông không ép gió tây thì gió tây cũng ép gió đông, bao giờ cũng có một người bắt nạt người kia.”

Chu Ỷ “à”

một tiếng rồi nói:

– “Muội không muốn bắt nạt huynh ấy, nhưng huynh ấy cũng đừng hòng ăn hiếp muội.”

Lạc Băng nói:

– “Đành là thế, nhưng nam nhân nào cũng có lúc cường hung bá đạo, khi đó họ chẳng biết tốt xấu gì nữa, thật sự là nữ nhân chúng ta không có cách nào đối phó. Hơn nữa Thất ca lại là người tinh minh lanh lợi, còn Ỷ muội thật thà trung hậu, lại càng nên để ý đề phòng.”

Câu này đã động tới những suy nghĩ tận đáy lòng Chu Ỷ. Tuy nàng đối với Từ Thiên Hoằng có tình ý rất sâu, nhưng mỗi khi nghĩ đến ông chồng điêu ngoa cổ quái, quỷ kế đa đoan là phải đau đầu. Trong lòng nàng cũng có phần sợ hãi, nhưng trước mặt Lạc Băng không chịu tỏ ra yếu đuối, bèn nói:

– “Giả tỉ huynh ấy hung dữ với muội, muội cũng không sợ. Cùng lắm thì hai người rút đao tính toán với nhau.”

Lạc Băng mỉm cười bảo:

– “Ỷ muội! Vợ chồng thì phải ôn hòa mới đúng, sao có thể động đao thương? Không sợ người ta chê cười hay sao? Hơn nữa Thất ca tình cảm với muội như thế, làm sao muội đủ can đảm thọc đao vào người huynh ấy?”

Chu Ỷ ngẩn mặt ra, không biết nói sao. Lạc Băng tiếp:

– “Công phu của Văn tứ ca giỏi hơn ta rất nhiều, nếu đánh nhau thì mười Lạc Băng này cũng không phải là đối thủ của huynh ấy. Nhưng xưa nay chúng ta chưa hề cãi nhau, chứ đừng nói tới đánh nhau. Huynh ấy rất nghe lời ta.”

Chu Ỷ gật đầu:

– “Đúng thế! Tỷ tỷ thật là…”

Nói đến đây, nàng đột nhiên dừng lại.

Lạc Băng nói:

– “Ỷ muội muốn hỏi tỷ dùng cách nào phải không?”

Chu Ỷ đỏ mặt, dứt khoát gật đầu.

Lạc Băng nghiêm trang nói:

– “Đáng lẽ chuyện này không thể nói ra, nhưng muội đã nhất định muốn biết thì ta nói cho muội biết. Nhưng muội không được nói với Thất ca, nếu tiết lộ bí mật này thì muội đừng có trách.”

Chu Ỷ suy nghĩ một chút rồi gật đầu. Lạc Băng nói:

– “Lát nữa hai người ngủ chung, muội khoan hãy cởi y phục. Phải đợi Thất ca cởi y phục trước, rồi muội mới thổi tắt đèn, đặt y phục của cả hai người lên cái bàn này.”

Nàng chỉ cái bàn ở bên cửa sổ, nói tiếp:

– “Muội phải đặt y phục của huynh ấy ở dưới, rồi lấy y phục của muội đè lên. Thế thì từ nay về sau, suốt đời huynh ấy sẽ nghe lời muội, không dám ăn hiếp muội nữa.”

Chu Ỷ bán tín bán nghi hỏi lại:

– “Có thật như vậy không?”

Lạc Băng nói:

– “Sao lại không thật? Có phải mẫu thân của muội rất sợ phụ thân không? Nhất định bà ấy không biết phương pháp này, không thì đã dạy cho muội rồi,.”

Chu Ỷ nghĩ thầm:

– “Quả nhiên mẫu thân sợ gia gia.”

Nàng bèn gật đầu một cái.

Lạc Băng nói tiếp:

– “Lúc đặt y phục lên bàn, muội đừng để huynh ấy nghi ngờ. Nếu huynh ấy phát hiện thì chắc chắn nửa đêm sẽ thức dậy đảo ngược y phục từ trên xuống dưới. Thế là hỏng bét.”

Chu Ỷ càng tưởng tượng càng thấy mắc cỡ, nhưng nghĩ đến chuyện phúc họa suốt đời nên quyết định làm theo. Nàng nghĩ bụng:

– “Chỉ cần chàng không ăn hiếp mình là được rồi, còn mình thì nhất định sẽ tử tế với chàng. Chàng mất cả song thân từ bé, lẽ nào mình lại ăn hiếp hay ngược đãi chàng?”

Lạc Băng muốn cô bé ngây thơ này tin chắc chắn hơn, lại dạy cho nàng rất nhiều bí quyết làm vợ. Đây là những lời khuyên thật sự, Chu Ỷ đỏ ửng mặt lên, vừa nghe vừa cảm kích Lạc Băng chỉ dạy.

Đang nói chuyện vui vẻ thì đột nhiên bên ngoài có bóng người lay động, sau đó nghe tiếng Từ Thiên Hoằng hô hoán. Chu Ỷ đứng dậy trước, vọt ra cửa, nhìn thấy họ Từ khoác trường bào, tay cầm đủ cả đơn đao thiết quải, từ trên tường nhảy xuống. Chu Ỷ liền hỏi:

– “Cái gì thế? Có ăn trộm hay sao?”

Từ Thiên Hoằng đáp:

– “Ta thấy trên tường có người lén nhìn vào, nhảy ra định đuổi bắt thì hắn đã chạy mất tích rồi.”

Chu Ỷ mở rương quần áo, lôi đơn đao dưới đáy rương ra. Thì ra Chu phu nhân bắt con gái đem hết hung khí ra khỏi phòng cưới, nhưng Chu Ỷ cố chấp không nghe, giấu đao vào cái rương này. Nàng cầm đao kêu gọi:

– “Mau mau ra ngoài lùng xét.”

Lạc Băng cười nói:

– “Thôi đi, bình tĩnh một chút. Vô số bá thúc huynh đệ ở đây, chẳng lẽ cô còn sợ bọn trộm vặt đến ăn cắp của hồi môn hay sao?”

Chu Ỷ nhoẻn cười, quay trở về phong. Lạc Băng chỉ mặt Từ Thiên Hoằng nói:

– “Hay lắm, thì ra huynh giả bộ say. Để ta đi bắt trộm trước rồi quay lại đây xem phải xử phạt ra sao. Huynh coi chừng cô dâu dùm ta, đừng để cô ấy động đao động thương nữa.”

Nàng vừa nói vừa giành lấy binh khí trong tay họ Từ.

Từ Thiên Hoằng mỉm cười trở về phòng, nghe trên mái nhà có nhiều người chạy, quần hùng đều ra ngoài lục soát. Chàng thầm nghĩ:

– “Chúng ta mới thề thốt với hoàng đế xong, chắc không phải triều đình sai người đến đây thăm dò. Chẳng lẽ hoàng đế mới về đã bội ước ngay hay sao? Nhìn thân thủ của người chạy trên tường cũng biết công phu của hắn chẳng giỏi gì, chắc là bạn bè hắc đạo đi ngang thấy có tiệc mừng nên ghé vào kiếm chác mà thôi.”

Đang suy nghĩ thì Lạc Băng, Vệ Xuân Hoa, Dương Thành Hiệp, Chương Tấn, Tưởng Tứ Cân kéo vào, tay ai cũng cầm bình rượu, hò hét loạn xạ:

– “Chú rể giả say để gạt mọi người, phải phạt thế nào đây?”

Từ Thiên Hoằng không còn gì để nói, đành uống với mỗi người ba chén. Mọi người đều muốn xem màn kịch tiếp theo, quyết chẳng chịu tha. Từ Thiên Hoằng cười khổ nói:

– “Tên giặc kia vẫn chưa bắt được. Mọi người uống bớt vài chén, đừng để đêm nay bị trộm mất đồ.”

Dương Thành Hiệp cười ha hả:

– “Huynh cứ việc uống tiếp. Tối nay hết thảy anh em sẽ thay phiên canh gác cho Thất ca cùng Thất tẩu.”

Đang láo nháo thì Chu Trọng Anh đi vào phòng. Ông thấy con rể say không đứng vững nữa, líu lưỡi nói không ra tiếng, liền tới nói đỡ mấy câu, cạn chén với mọi người. Quần hùng thấy Từ Thiên Hoằng đã say thật rồi, bèn đùa mấy câu với Chu Ỷ rồi lui ra hết.

Mọi người giải tán, Chu Ỷ thấy trong phòng chỉ còn lại mình với chồng, bất giác trái tim đập thình thịch. Nàng liếc nhìn Từ Thiên Hoằng, thấy chàng để nguyên quần áo nằm vật ra giường ngáy khò khò, bèn nhẹ nhàng đứng dậy chốt cửa phòng lại. Dưới ánh nến, trông mặt chàng càng đỏ. Chu Ỷ khẽ gọi:

– “Này huynh ngủ rồi sao?”

Từ Thiên Hoằng không đáp. Chu Ỷ biết chàng đã ngủ say, nhìn quanh thấy chẳng có ai, cố gắng lắng nghe nhưng tiếng ồn cũng hết từ lâu, bèn nghĩ:

– “Chắc tên trộm kia chạy trốn mất rồi.”

Nàng cởi áo ngoài ra, đến giường đẩy chồng lăn vào trong. Chu Ỷ cởi giày và trường bào cho chàng, định cởi cả áo lót nhưng đột nhiên hổ thẹn nghĩ thầm:

– “Cởi trường bào chắc cũng đủ rồi, mà mình cũng không muốn bức hiếp huynh ấy.”

Chu Ỷ làm theo lời Lạc Băng, để trường bào của chồng lên bàn cạnh cửa sổ rồi cởi y phục của mình đặt lên trên. Sau đó nàng quay lại giường lấy chăn đắp lên người Từ Thiên Hoằng, còn bản thân mình thì trùm một cái chăn khác, nằm co rút mé ngoài, không dám động đậy chút nào.

Hồi lâu Từ Thiên Hoằng bỗng trở mình. Chu Ỷ giật bắn người, lại càng cố gắng nằm dịch ra cạnh giường. Đúng lúc đó ngọn nến bỗng nổ lách tách. Chu Ỷ sợ chồng tỉnh dậy nhìn thấy cách sắp xếp quần áo, nên định đứng dậy thổi tắt nến đi. Nào ngờ cảm giác cởi áo ngoài nằm cạnh nam nhân lại khiến nàng sợ hãi, cố gắng mấy cũng không dám ngồi dậy. Nàng thầm tự trách mình vô dụng, lo lắng đến mức vã mồ hôi đầy mình. Đột nhiên nàng nảy ra sáng kiến, xé áo lót mình lấy hai mảnh nhỏ, cho vào mồm nhấm ướt, rồi vo thành hai viên tròn, thi triển thủ pháp phóng Thiết liên tử. Nghe hai tiếng phụt phụt, đôi nến lập tức tắt ngấm.

Từ Thiên Hoằng đang ngủ cực say. Tửu lượng của chàng vốn chẳng khá gì, lần này bị ép uống đến mười hai phần mười, có thể nói là bất tỉnh nhân sự. Chàng trở mình cái nữa, Chu Ỷ lại kinh hãi rúc sâu vào chăn. Không biết sau bao lâu, đột nhiên ngoài cửa sổ có tiếng chít chít nổi lên, rồi lát sau có tiếng mèo kêu. Nghe tiếng con mèo nhảy vào trong phòng, quanh quẩn một chút rồi chui vào gầm giường, ngủ dưới chân Chu Ỷ.

Chu Ỷ không nghe thấy gì nữa, trong phòng có thêm một con mèo lại cảm thấy yên tâm hơn, nên mơ hồ chợp mắt được một chút. Khoảng canh ba, đột nhiên ngoài cửa sổ có tiếng lách cách. Chu Ỷ chú ý lắng nghe, hình như có tiếng hô hấp, bèn nghĩ:

– “Hay là các vị huynh đệ bày trò náo nhiệt, nấp xem chuyện lạ trong phòng?”

Nàng muốn lên tiếng hỏi nhưng không dám, bất giác thấy mặt nóng ran nên ngậm chặt miệng lại. Đột nhiên có giọng Tâm Nghiễn bên ngoài quát lên:

– “Ai? Không được động đậy!”

Sau đó là tiếng đao kiếm chạm nhau, rồi nghe giọng Thường Thị Song Hiệp:

– “Con rùa nào mà to gan thế?”

Một thanh âm lạ tai “Úi chà” một tiếng, chắc vừa bị trúng đòn.

Chu Ỷ bước xuống đất, mò tìm đơn đao, rồi đến bàn để lấy y phục. Bất giác nàng kêu khổ, y phục không biết đâu hết rồi. Nàng bất kể xấu hổ hay không, vừa kéo Từ Thiên Hoằng dậy vừa gọi khẽ:

– “Tỉnh dậy mau lên! Mau mau ra ngoài bắt ăn trộm! Bọn trộm đã… đã… đã lấy cắp y phục của chúng ta rồi.”

Từ Thiên Hoằng giật mình thức giấc, cảm thấy một bàn tay vừa mềm vừa ấm nắm lấy tay mình. Trong bóng tối chàng ngửi thấy mùi hương thoang thoảng, cứ tưởng mình vẫn còn say, nghĩ lại mới biết đây là đêm động phòng hoa chúc của mình. Chàng bất giác động lòng, nhưng trước mắt có địch nên lập tức trấn tĩnh lại, kéo vợ ra giấu sau lưng, mình che chắn trước mặt nàng, rồi tiện tay vớ lấy một cái ghế đề phòng có địch. Nhưng nghe thấy trên mái nhà và xung quanh đều có tiếng vỗ tay nho nhỏ, chàng liền khẽ nói:

– “Huynh đệ chúng ta đã canh giữ hết xung quanh rồi, bọn trộm đó đừng hòng trốn thoát.”

Chu Ỷ hỏi:

– “Làm sao huynh biết?”

Từ Thiên Hoằng đáp:

– “Những tiếng vỗ tay này là ám hiệu để thông tin trong hội. Bốn phương tám hướng đều canh giữ cả rồi, chúng ta không cần ra ngoài nữa!”

Chàng để cái ghế xuống, quay lại ôm lấy Chu Ỷ, dịu dàng nói:

– “Ỷ muội! Ca ca uống rượu nhiều quá, ngủ say không biết tới ai, thật là tệ hại…”

Nghe một tiếng “choảng,” đơn đao trên tay Chu Ỷ đã rơi xuống đất. Hai người ôm nhau ngồi trên giường, Chu Ỷ rúc đầu vào ngực của chồng, không ai nói tiếng nào.

Lát sau nghe tiếng Vô Trần đạo trưởng la lên:

– “Thằng giặc cỏ này cũng lanh lẹ lắm, không biết trốn đâu mất rồi.”

Bên ngoài ánh lửa chói mắt, chắc mọi người đốt đuốc lên để kiểm tra mọi chỗ. Từ Thiên Hoằng bảo:

– “Muội ngủ đi, để ca ca ra ngoài xem thử.”

Chu Ỷ nũng nịu nói:

– “Muội cũng đi.”

Từ Thiên Hoằng đáp:

– “Cũng được. Mặc quần áo đi.”

Chu Ỷ bèn mở rương, lấy hai bộ y phục khác ra để mặc.

Từ Thiên Hoằng vừa rút chốt cửa đã thấy trường bào của mình và quần áo của Chu Ỷ xếp gọn gàng để ngay trước cửa, lập tức ngẩn ra. Chu Ỷ cũng kêu lên:

– “Tên giặc này thật là cổ quái! Sao hắn lại trả quần áo lại đây?”

Từ Thiên Hoằng nhất thời không hiểu nổi vụ này, bèn hỏi:

– “Y phục của chúng ta vốn để ở chỗ nào?”

Chu Ỷ ấp úng trả lời:

– “Hình như ở cạnh giường, muội cũng không nhớ chắc.”

Lúc này, Lạc Băng và mọi người xách đuốc tới gần. Vệ Xuân Hoa mỉm cười hỏi:

– “Têm trộm kia đánh thức được cả cô dâu chú rể hay sao?”

Lạc Băng giả vờ kinh hãi nói:

– “Ủa, sao ở đây lại có một đống quần áo?”

Vệ Xuân Hoa cười phì ra. Từ Thiên Hoằng nhìn là biết ngay hai người quậy phá. Nhưng chàng không nói ra làm chi, chỉ mỉm cười:

– “Ta uống nhiều rượu quá, ngay cả quần áo cũng bị bọn chuột nhắt tha đi mất.”

Lạc Băng cười nói:

– “Không biết Thất ca say rượu hay say cái gì nữa?”

Từ Thiên Hoằng mỉm cười không đáp.

Thì ra đợi đến nửa đêm, đoán Chu Ỷ đã ngủ say, Lạc Băng mới khẽ cạy cửa sổ phòng cô dâu chú rể. Nàng biết phải phát ra tiếng động, nên vừa cạy cửa vừa giả tiếng chuột kêu. Mở xong cửa sổ, ném vào một con mèo, vơ lấy đống quần áo trên bàn rồi khép cửa sổ lại.

Bọn Dương Thành Hiệp đang ngồi trong phòng chờ đợi, thấy nàng đem quần áo đến đều rất thán phục, nhao nhao lên hỏi nàng đã thi triển diệu thuật gì, nhưng Lạc Băng chỉ cười cười không đáp. Mọi người đùa giỡn một lúc, đang định đi ngủ thì nghe Tâm Nghiễn la lên:

– “Phát hiện kẻ địch rồi.”

Lạc Băng nghĩ:

– “Quần áo ăn cắp được rồi, nhân cơ hội này trả lại là hay nhất, để sáng mai Ỷ muội không phải xấu hổ.”

Nàng lại chạy tới cửa sổ phòng cô dâu, nghe trong phòng có tiếng nói chuyện, biết hai người đã tỉnh, bèn để quần áo trước cửa rồi chạy trốn.

Bấy giờ Trần Gia Lạc và mọi người đã tới đây, có cả Chu Trọng Anh. Trần Gia Lạc nói:

– “Quanh khu nhà đã vây chặt, không sợ hắn trốn ra ngoài. Chúng ta lục soát từng phòng một đi.”

Mọi người vào từng phòng tìm kiếm, tìm mãi vẫn không thấy bóng dáng tên trộm đâu. Vô Trần đạo trưởng nổi giận, bắt đầu quát tháo.

Từ Thiên Hoằng đột nhiên kinh hãi la lên:

– “Đi xem Thập tứ đệ thế nào.”

Vệ Xuân Hoa mỉm cười nói:

– “Tổng đà chủ đã nhờ Lục lão tiền bối bảo vệ Thập tứ đệ, nhờ Triệu tam ca bảo vệ Văn tứ ca, sợ hai người đang thụ thương dễ bị ám toán. Nếu không có ai trông nom Tứ ca thì Tứ tẩu làm gì còn tâm trí để đùa giỡn với anh em nữa.”

Từ Thiên Hoằng đáp:

– “Đúng vậy, nhưng chúng ta cũng nên xem qua một chút. Thằng giặc này mà không phải đến tìm Tứ ca thì cũng đến tìm Thập tứ đệ.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Thất ca nói rất có lý.”

Mọi người tới phòng Văn Thái Lai trước. Trong phòng thắp đèn sáng trưng, Văn Thái Lai đang đánh cờ với Triệu Bán Sơn, tiếng ồn ào bên ngoài cũng không nghe thấy.

Mọi người lại tới phòng Dư Ngư Đồng. Lục Phi Thanh đang ngồi trên thềm cửa ngẩng mặt nhìn trời, thấy mọi người đến liền nói:

– “Ở đây cũng không có động tĩnh gì.”

Đám anh hùng hảo hán này bắt cóc được cả hoàng đế, mà hôm nay lại không bắt được một tên trộm vặt, ai cũng vừa tức giận vừa thấy ngạc nhiên. Từ Thiên Hoằng ghé tai vào cửa sổ, nghe tiếng lửa nổ lách tách, rồi đèn tắt phụt, rõ ràng là có người trong phòng thổi tắt ngọn đèn. Chàng nảy dạ nghi ngờ, bèn nói:

– “Chúng ta vào xem Thập tứ đệ ra sao.”

Lục Phi Thanh nói:

– “Y ngủ say rồi, nên ta mới ngồi ngoài canh phòng.”

Lạc Băng nói:

– “Chúng ta đi nơi khác đi.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Không, chúng ta phải nhìn qua Thập tứ đệ một chút.”

Nói xong chàng đưa tay cầm lấy ngọn đuốc, tay trái đẩy cửa. Cánh cửa lập tức mở ra, thì ra chỉ khép hờ. Người nằm trên giường động đậy một cái, hình như trở mình.

Từ Thiên Hoằng kê ngọn đuốc vào định thắp đèn nến nhưng lại không thắp được. Thì ra tim nến đã bị lún sâu vào trong cây nến, rõ ràng vừa bị ám khí dập tắt. Từ Thiên Hoằng giật mình, sợ Dư Ngư Đồng đã gặp nguy, lập tức tới trước giường gọi lớn:

– “Thập tứ đệ! Đệ không sao đấy chứ?”

Dư Ngư Đồng từ từ xoay người lại, hình như vừa tỉnh cơn mê, trên mặt vẫn che khăn. Chàng định thần một chút mới đáp:

– “Thất ca đấy à? Hôm nay là đêm tân hôn của huynh, sao đến thăm tiểu đệ làm gì?”

Từ Thiên Hoằng thấy họ Dư vô sự, bấy giờ mới yên tâm cầm đưốc đi nhìn chỗ khác. Chàng phát hiện một mũi tên ngắn ghim trên cửa sổ, đầu tên còn dính đèn sáp. Biết mũi đoản tiễn này là từ kim địch của Dư Ngư Đồng phóng ra, chàng lại càng không sao hiểu nổi. Tại sao mọi người đến đây mà họ Dư phải tắt nến ngay, vội vã tới mức không kịp đứng dậy thổi tắt, mà phải dùng ám khí?

Lúc này cả đám Trần Gia Lạc cũng đã vào phòng. Dư Ngư Đồng kêu lên:

– “Úi cha, các vị ca ca đều đến cả đây. Tiểu đệ không sao cả, xin cứ yên tâm.”

Từ Thiên Hoằng đưa tay định rút mũi đoản tiễn trên cửa sổ, nhưng Trần Gia Lạc khẽ đẩy vào lưng chàng một cái. Từ Thiên Hoằng hiểu ý, rút tay về ngay. Lúc này mọi người đều nhìn thấy tấm chăn trên giường Dư Ngư Đồng hơi lồi lên, rõ ràng bên trong có một người nữa.

Trần Gia Lạc nói:

– “Thôi, Thập tứ đệ cứ nghỉ ngơi cho khoẻ.”

Rồi chàng dẫn mọi người ra khỏi phòng, nói với Lục Phi Thanh:

– “Lục tiền bối! Làm phiền tiền bối rồi. Xin tiếp tục chiếu cố cho Dư huynh đệ, bọn tại hạ đi lục soát chỗ khác.”

Lục Phi Thanh gật đầu, đợi mọi người rời khỏi lại ngồi xuống bậc thềm.

Mọi người kéo nhau vào phòng của Trần Gia Lạc. Họ Trần bảo:

– “Gọi những người canh gác về được rồi.”

Tâm Nghiễn ra ngoài truyền lệnh, gọi Thường Thị Song Hiệp, Chương Tấn, Thạch Song Anh, Tưởng Tứ Cân đang canh giữ bên ngoài vào hết trong phòng.

Trần Gia Lạc ngồi trên giường, mọi người đứng quanh, ai cũng thấy chuyện này khó xử, nhưng không ai muốn mở lời. Cuối cùng Vô Trần đạo trưởng không nhịn nổi nữa, lên tiếng hỏi:

– “Rõ ràng tên giặc đó trốn trong chăn của Thập tứ đệ. Rốt cuộc thì hắn là ai? Sao Thập tứ đệ lại bảo vệ hắn?”

Mọi người lập tức bàn tán ồn ào. Người thì nói:

– “Hành vi của Thập tứ đệ gần đây rất là kỳ lạ, không sao hiểu nổi.”

Có người lại hỏi:

– “Tại sao y lại trốn trong phủ của Lý Khả Tú lâu đến thế?”

Thường Thị Song Hiệp cũng nhắc đến chuyện chàng ra tay cứu Lý Khả Tú.

Nói qua nói lại một hồi, Chương Tấn hô lớn:

– “Đi! Mọi người đi hỏi cho rõ ràng! Không phải ta nghi ngờ Thập tứ đệ có gì lỗi lầm, y đáng mặt nam tử hán. Nhưng chúng ta là anh em khác họ, kết giao sinh tử, có gì mà không nói thẳng được với nhau? Tại sao y cứ phải giấu giếm chúng ta?”

Mọi người đều đồng thanh khen phải. Từ Thiên Hoằng nói:

– “Không chừng Thập tứ đệ có chuyện khó xử, hỏi trước mặt thì chắc y không chịu nói đâu. Bây giờ để Tâm Nghiễn đưa đồ điểm tâm vào trong, xem xét tình hình ra sao trước đã.”

Tưởng Tứ Cân nói:

– “Ý kiến của Thất ca không tệ.”

Chu Trọng Anh mấp máy môi, định lên tiếng. Nhưng ông nén lại, nhìn Trần Gia Lạc xem chàng chủ trương thế nào.

Trần Gia Lạc nói:

– “Có người chạy vào phòng và trốn trên giường của Thập tứ đệ, mọi người đều thấy rồi. Thập tứ đệ đã đồng sinh đồng tử với mọi anh em, vừa rồi lại liều mạng cứu Tứ ca, dứt khoát chúng ta không nghi ngờ gì y. Y làm như vậy, chắc chắn là có đạo lý bên trong. Vừa rồi ta nhờ Lục tiền bối tiếp tục ở ngoài phòng canh gác, chỉ vì sợ người đó bất ngờ ám hại. Chỉ cần y vô sự là đủ, ta nghĩ việc gì cũng không cần truy cứu. Chúng ta không nên làm tổn thương tình nghĩa anh em.”

Chu Trọng Anh kêu lên:

– “Trần tổng đà chủ nói rất đúng.”

Trần Gia Lạc tiếp:

– “Giả tỉ sau này y muốn nói thì y nói, không thì mọi người không cần nhắc lại chuyện này. Người trẻ tuổi thường thích khoe tài hiếu thắng, cũng có thể có chuyện phong lưu riêng tư gì đấy, chỉ cần y không phạm nội quy là dĩ nhiên Thập nhị ca không tìm y tính sổ. Mọi người cứ yên tâm đi ngủ, ngày mai chúng ta còn phải lên đường.”

Mấy câu này khiến cho mọi người tâm phục khẩu phục. Từ Thiên Hoằng thầm hổ thẹn, nghĩ bụng:

– “Nói về khí phách rộng rãi, lòng dạ khoáng đạt thì tổng đà chủ hơn ta rất nhiều.”

Lạc Băng mỉm cười nói:

– “Đêm xuân một khắc đáng giá ngàn vàng. Thất ca Thất tẩu còn ngồi đây làm gì nữa?”

Mọi người cười ồ lên, trong nhà lại tràn đầy không khí vui vẻ.

* * *

Dư Ngư Đồng đợi mọi người đi khỏi rồi bước xuống giường. Khi không còn nghe tiếng bước chân, chàng mới thắp lại nến, rồi khẽ hỏi:

– “Cô đến đây làm chi vậy?”

Người đang nằm trên giường liền chui ra khỏi chăn, ngồi cúi đầu không nói tiếng nào, đôi vai run rẩy, nước mắt tràn đầy. Đây chính là con gái yêu của Lý Khả Tú, đồ đệ quí của Lục Phi Thanh. Nàng mặc y phục màu đen bó sát người, càng khiến tay chân nhìn trắng hơn cả tuyết. Đôi tay như bạch ngọc đặt trên đầu gối, nước mắt rơi xuống lưng bàn tay từng giọt, từng giọt.

Sau trận đại chiến ở phủ đề đốc hôm trước, quần hùng Hồng Hoa Hội đem Dư Ngư Đồng theo. Lý Nguyên Chỉ khóc lóc cả ngày, cưỡi ngựa chạy lòng vòng khắp trong ngoài thành Hàng Châu. Lý Khả Tú hiểu tâm sự con gái nên không quản thúc, cứ để nàng tự tìm cách khuây khỏa.

Sáng hôm qua, nàng đang cưỡi ngựa phía tây thành thì gặp Lạc Băng vừa ăn cắp ngọc bình trong dinh tuần phủ trở về. Nàng đã gặp mấy lần, biết Lạc Băng là nhân vật trong Hồng Hoa Hội nên xa xa theo dõi đến tận Thiên Mục Sơn.

Lý Nguyên Chỉ không ngờ được người trong mộng của mình lại si mê thiếu phụ xinh đẹp này. Nàng rất cẩn thận, còn Lạc Băng trong lúc cao hứng không đề phòng gì cả, nên không phát giác phía sau có người âm thầm theo dõi.

Đêm hôm đó, Lý Nguyên Chỉ mấy lần bị phát hiện nhưng đều tránh được. Nàng muốn tìm gặp Dư Ngư Đồng để bày tỏ tâm sư, khi đến gần tân phòng của Từ Thiên Hoằng và Chu Ỷ thì bị Tâm Nghiễn phát giác la lên, mọi người kéo tới. Tay trái của Lý Nguyên Chỉ bị trúng một chưởng của Thường Bá Chí. Nàng cố nhịn đau, liệng mấy cục đá dương đông kích tây trong bóng tối, rồi chạy tới phía sau hậu viện.

Trong vườn nàng gặp phải Lục Phi Thanh, bị ôm túm lấy. Lý Nguyên Chỉ kinh hãi kêu lên:

– “Sư phụ”

Lục Phi Thanh giận dữ hỏi:

– “Ngươi đến đây làm gì?”

Lý Nguyên Chỉ đáp:

– “Con tìm Dư sư ca, có lời phải nói.”

Lục Phi Thanh thở dài lắc đầu, trong lòng bất nhẫn đưa tay chỉ một căn phòng ở phía trái. Lý Nguyên Chỉ tới gõ cửa, gọi luôn mấy tiếng:

– “Dư sư ca!”

Lúc mọi người tuần tra bốn phía, Dư Ngư Đồng đã tỉnh dậy, cầm kim địch ngồi ở cạnh giường, đề phòng kẻ địch tấn công tới. Chàng đột nhiên nghe giọng Lý Nguyên Chỉ, giật mình ra mở chốt cừa để nàng vào. Trong lòng thầm nghĩ:

– “Đêm tối mà cô nam quả nữ ở chung một phòng thật là không ổn,” bèn thắp nến lên, đang định hỏi han thì mọi người kéo đến tra xét.

Lúc này tình ngay lý gian, chàng thấy khó xử, đành phải giấu giếm trước rồi nói chuyện sau, để về sau nàng khỏi khó gặp mọi người. Chàng đang bị thương, đi đứng không tiện nên mới phóng đoản tiễn trong kim địch làm tắt lửa. Hai người nín thở một hồi, khi Từ Thiên Hoằng gõ cửa Lý Nguyên Chỉ mới khẽ nói:

– “Dư sư ca cứu muội!”

Dư Ngư Đồng vô kế khả thi, đành giấu nàng vào chăn của mình. May mà Trần Gia Lạc che chở cho chứ nếu mọi người mở tấm chăn này ra thì tình hình không sao tưởng tượng nổi. Bấy giờ thấy mỹ nhân nước mắt đầm đìa, tình sâu ý nặng, lòng dạ Dư Ngư Đồng đột nhiên mềm nhũn. Chàng thở ra một hơi rồi nói:

– “Cô đối với ta một lòng chân thật, ta không phải là trâu sắt mà cũng không phải là ngựa gỗ, sao lại không biết? Nhưng cô là tiểu thư nhà quan, còn ta là thành phần liều mạng trong chốn giang hồ, làm sao ta dám hại đời cô được?”

Lý Nguyên Chỉ vừa thút thít vừa nói:

– “Huynh đột ngột bỏ đi như vậy, coi như mọi chuyện xong xuôi hay sao?”

Dư Ngư Đồng đáp:

– “Ta cũng biết mình có lỗi với cô. Nhưng số mạng ta vốn khổ, bây giờ lại càng giống một đám tro tàn. Cô… cô về đi là hơn.”

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Huynh vì cứu bằng hữu mà chống đối với gia gia của muội, muội không trách. Huynh là như vậy cũng vì nghĩa khí.”

Nàng suy nghĩ một lúc, nói tiếp:

– “Người văn võ song toàn như huynh, sao lại không đi làm những chuyện đàng hoàng để tìm công danh phú quí, mà phải bôn tẩu giang hồ để làm chi? Chỉ cần huynh quay trở lại, gia gia của muội…”

Dư Ngư Đồng giận dữ ngắt lời:

– “Hồng Hoa Hội chúng ta hành hiệp trượng nghĩa, người nào cũng là hán tử cứng cỏi như sắt đá, sao lại cam chịu làm chó săn cho triều đình?”

Lý Nguyên Chỉ biết mình lỡ lời, đỏ hẳn mặt lên. Hồi lâu nàng mới dịu dàng nói:

– “Huynh nặng lời với gia gia của muội quá. Nhưng mỗi người đều có chí hướng riêng, muội không dám miễn cưỡng. Chuyện gì huynh thì thì muội cũng chấp nhận. Muội chịu nghe lời ca ca, sau này không giúp gia gia nữa. Chắc su phụ của muội cũng thích như thế.”

Hai câu cuối nàng nói rất rõ ràng, chắc chắn Lục Phi Thanh ngoài cửa cũng nghe. Dư Ngư Đồng cứ ngồi kế cái bàn, không nói gì. Lý Nguyên Chỉ nhẹ nhàng nói tiếp:

– “Ca ca chê muội là tiểu thư nhà quan thì muội không làm tiểu thư nhà quan nữa. Ca ca nói Hồng Hoa Hội tốt, thì muội cũng… cũng đi theo ca ca để… để làm giang hồ liều mạng.”

Mấy câu này nàng phải lấy hết sức lực mới thốt được ra khỏi miệng. Về cuối nàng vừa xấu hổ vừa lo lắng, nửa nói nửa khóc.

Dư Ngư Đồng dịu dàng đáp:

– “Thoạt đầu ta bị trọng thương, nếu không nhờ cô cứu từ ngàn dặm xa xôi đưa về Hàng Châu dưỡng thương trong phủ, thì cái mạng này đã mất lâu rồi. Ta dù tan xương nát thịt cũng không sao đền đáp được, nhưng… Thôi, ân đức này kiếp sau ta sẽ tìm cách báo đền.”

Lý Nguyên Chỉ đứng bật dậy hỏi:

– “Chắc trong lòng huynh đã có một mỹ nhân hiền thục khác, nên mới xem muội không đáng đồng xu phải không?”

Dư Ngư Đồng không sao chối được. Dù sao chàng vẫn không quên mối tình đối với Lạc Băng. Tướng mạo Lý Nguyên Chỉ không kém gì Lạc Băng cả, nhưng đã là mối chân tình thì không sao giải thích. Nghe nàng hỏi vậy, chàng thật sự không biết phải đáp sao.

Lý Nguyên Chỉ lại hỏi:

– “Huynh đã một lòng với cô ấy, dĩ nhiên cô ấy phải hơn muội gấp mười. Huynh dẫn muội đi gặp cô ấy được không?”

Dư Ngư Đồng bị ép đến nỗi không còn cách nào khác. Chàng đột ngột giật tấm khăn che mặt xuống, lạnh giọng nói:

– “Ta đã trở thành một con quỷ xấu xí như thế này, cô nhìn cho kỹ đi.”

Khuôn mặt lồi lõm của chàng đầy những vết cháy bỏng vàng khè, dưới ánh nến lay lắt trông càng đáng sợ. Lý Nguyên Chỉ bất giác nhảy chồm lên, lùi lại hai bước, khẽ la một tiếng.

Dư Ngư Đồng thản nhiên nói tiếp:

– “Cuộc đời ta thật là xúi quẩy. Tâm địa của ta cũng không tốt lắm, từng làm những việc bại hoại có lỗi với người khác. Ta không muốn làm khổ đời cô nữa. Bây giờ cô đi được rồi chứ?”

Lý Nguyên Chỉ đột nhiên nhìn thấy dáng vẻ chàng như vậy, trong lòng kinh hãi, tim đập thình thình không biết phải làm gì.

Dư Ngư Đồng cười ha hả, tiếp:

– “Bộ điệu xấu xí như thế này, cô mới nhìn một cái đã không chịu nổi. Lý tiểu thư! Cô có hối hận vì đêm nay đã đến đây hay không? Ha ha… ha ha…”

Chàng vừa nói vừa cười, giống như phát cuồng vậy. Lý Nguyên Chỉ lại càng sợ hãi, thét lên một tiếng, ôm mặt chạy ra khỏi phòng. Dư Ngư Đồng cười như điên dại, than thân trách phận một hồi, rồi gục xuống bàn khóc rống lên.

Lục Phi Thanh ngồi ngoài thềm, tuy không hiểu tường tận lắm, nhưng cũng đoán được bảy tám phần. Ông biết bây giờ có an ủi Dư Ngư Đồng thế nào cũng vô ích, lại nghĩ:

– “Nguy rồi! Nguyên Chỉ giữa đêm đến đây, tuy việc này liên quan đến danh tiết của nữ nhân, nhưng nếu ta không nói cho rõ mà tạ tội thì có lỗi với các vị đương gia trong Hồng Hoa Hội.”

Ông bèn đến phòng Trần Gia Lạc. Trần Gia Lạc vừa ngả lưng, Tâm Nghiễn nghe thấy tiếng Lục Phi Thanh gõ cửa liền chạy ra mở cửa phòng. Trần Gia Lạc ngồi dậy mặc áo đón tiếp.

Lục Phi Thanh lên tiếng:

– “Tổng đà chủ! Ta đến đây để nhận tội.”

Trần Gia Lạc kinh hãi hỏi:

– “Sao? Thập tứ đệ làm sao rồi?”

Chàng tưởng là Dư Ngư Đồng đã gặp nguy hiểm.

Lục Phi Thanh lắc đầu:

– “Không phải, nó không sao. Tổng đà chủ đoán xem người tối nay đến phá rối là ai?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Tại hạ không biết.”

Lục Phi Thanh nói:

– “Đó là tiểu đồ của ta. Ta giáo huấn không nghiêm, dung túng nó quen tùy hứng làm bừa. Hôm nay là ngày đại hỉ của Thất gia mà nó bất kính quấy nhiễu, làm kinh hãi mọi người. Ta thật vô cùng ân hận.”

Trần Gia Lạc im lặng không nói gì. Lục Phi Thanh tiếp:

– “Tiểu đồ đã rời khỏi đây rồi. Sau này ta nhất định đi tìm, bắt nó xin lỗi nhị vị. Bây giờ ta xin tạ tội trước.”

Nói xong ông đứng dậy vái lạy, Trần Gia Lạc vội vàng đứng lên trả lễ. Hồi lâu, Trần Gia Lạc bỗng nói:

– “Lệnh đồ đã được tiền bối chân truyền, hèn gì thân thủ phi phàm.”

Lục Phi Thanh tưởng Trần Gia Lạc nói về chuyện hôm nay Lý Nguyên Chỉ đột nhập, không biết hai người đã từng giao đấu trên mặt Tây Hồ. Ông đáp:

– “Nó còn trẻ nít, không biết lớn nhỏ gì cả, đi tới đâu gây họa tới đó, đắc tội với nhiều bằng hữu. Nhiều lúc ta phải hối hận vị nhận đứa đồ đệ chẳng ra gì.”

Trần Gia Lạc vội nói:

– “Tiền bối quá khách khí rồi. Lệnh đồ đã từng đến vùng Hồi tộc phải không?”

Lục Phi Thanh đáp:

– “Từ nhỏ nó đã sống ở vùng tây bắc.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Đúng rồi! Tại hạ cũng thấy y có quan hệ rất tốt với cô nương người Hồi kia.”

Lúc tạm biệt với Trần Gia Lạc, Hoắc Thanh Đồng đã nói một câu:

– “Y là người như thế nào, huynh có thể đi hỏi Lục lão tiền bối.”

Trần Gia Lạc mấy lần muốn hỏi Lục Phi Thanh nhưng thấy lộ liễu quá nên nén lại. Nhân lúc Lục Phi Thanh nhắc đến, chàng mới hỏi vu vơ mấy câu, tựa như mình không quan tâm lắm. Thật ra thì tim Trần Gia Lạc đang đập rầm rầm, ngay cả lòng bàn tay cũng thấm đẫm mồ hôi.

Lục Phi Thanh nói:

– “Cũng nhờ vụ đoạt lại thánh kinh nên mới quen biết nhau. Lúc đầu cũng có chút ít hiểu lầm, Hoắc cô nương hai lần giao đấu với tiểu đồ. Sau này, ta nhắc đến mối giao tình với Thiên Sơn Song Ưng, hai người mới kết thành bằng hữu. Bọn trẻ mới gặp mà thân thiết như quen biết đã lâu.”

Ông nói xong vuốt râu mỉm cười, nhưng Trần Gia Lạc càng nghe càng khó chịu.

Lục Phi Thanh tưởng chàng đã biết Lý Nguyên Chỉ là nữ nhân, nên mãi đến bây giờ vẫn không nhắc đến chuyện nàng cải nam trang. Nỗi buồn trong lòng Trần Gia Lạc không lộ ra mắt, nhưng giọng nói thì không khỏi có phần lãnh đạm. Lục Phi Thanh tưởng chàng cảm thấy mất mặt vì giận Lý Nguyên Chỉ vô lễ đột nhập, Hồng Hoa Hội rất nhiều nhân vật anh hùng mà không bắt được một thiếu nữ mới bước vào chốn giang hồ. Ông không ngờ Trần Gia Lạc còn có tâm sự khác, nên áy náy vô cùng, nói thêm mấy câu khách sáo, đang muốn cáo từ thì ngoài cửa Tâm Nghiễn bỗng hô lên:

– “Thiếu gia! Thập tứ gia đến đây.”

Rèm cửa vén lên, một trang đinh dìu Dư Ngư Đồng vào. Chàng thấy Lục Phi Thanh cũng ở đó, bất giác ngẩn ra một chút. Trang đinh lùi ra, Trần Gia Lạc bèn nói:

– “Đệ có việc muốn nói thì gọi ta qua đó là được. Đệ đang bị thương, không nên đi lại cử động nhiều.”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Tổng đà chủ! Lúc nãy có một người trốn trong phòng thuộc hạ, chắc tổng đà chủ đã nhìn thấy. Lúc đó tổng đà chủ làm như không biết, giữ thể diện cho thuộc hạ. Thuộc hạ cảm kích tấm lòng của tổng đà chủ vô cùng, tuy tổng đà chủ không hỏi nhưng thuộc hạ không thể không nói.”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Tình nghĩa chúng ta giống như anh em cốt nhục, có gì đáng nói đâu?”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Người đó đến đây để tìm một mình thuộc hạ, hoàn toàn không liên quan đến ai khác. Nhưng nếu nói ra việc này thì lại ảnh hưởng đến danh tiết của…”

Trần Gia Lạc vội ngắt lời:

– “Đã thế thì không cần phải nói nữa. Được rồi, từ nay về sau chúng ta không nhắc đến việc này là xong, đệ về nghỉ ngơi đi. Tâm Nghiễn dìu Thập tứ gia về.”

Dư Ngư Đồng tưởng Lục Phi Thanh đã kể hết chuyện vừa rồi, Trần Gia Lạc sợ mình khó chịu nên không muốn nhắc lại, bèn cảm tạ rồi trở về phòng. Lục Phi Thanh cũng rời khỏi đó.

* * *

Sáng sớm hôm sau, quần hùng cùng xuống núi. Mọi người cáo biệt nhau, rồi tách ra từng nhóm tiến hành công việc.

Trần Gia Lạc và Chu Trọng Anh cùng đi về hướng tây bắc. Dọc đường Chu Trọng Anh hỏi:

– “Năm xưa, lúc ta học võ nghệ ở Tung Sơn Thiếu Lâm Tự, từng nghe sư phụ và sư thúc bá nhắc đến Thiếu Lâm Hạ Viện ở Phổ Điền phương Nam, võ công hoàn toàn giống Tung Sơn Thiếu Lâm, truyền từ một gốc. Nhưng mấy trăm năm nay Phổ Điền Thiếu Lâm xuất hiện nhiều nhân vật kiệt xuất, phát dương thêm được võ công của phái Thiếu Lâm. Nhân tiện phen này đi về hướng nam, ta muốn đến đó thăm viếng, hy vọng gặp cơ duyên nghiên cứu và xin chỉ giáo.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Đệ tử Thiếu Lâm nam phái đầy khắp Giang Nam, thanh thế cực lớn. Trong thời gian nghiên cứu võ công, hy vọng tiền bối sẽ kết giao với các vị ấy nhiều hơn. Sau này, nếu chúng ta cử sự mà được Thiếu Lâm tự giúp cho một tay, thì thật là phúc cho bá tánh trong thiên hạ.”

Chu Trọng Anh đáp:

– “Xin phụng mạng!”

Ông bèn dẫn vợ và hai đồ đệ Mạnh Kiện Hùng, An Kiện Cương đi về hướng Nam.

Lúc từ biệt, Chu phu nhân cứ liền miệng dặn dò Chu Ỷ:

– “Bây giờ ngươi đã làm dâu nhà người ta rồi, không được nhõng nhẽo, ngang bướng, gặp đâu sinh sự đó nữa.”

Chu Ỷ dẩu môi ra nói:

– “Nhưng nếu huynh ấy bức hiếp con thì sao?”

Nàng vừa nói vừa liếc xéo sau lưng Từ Thiên Hoằng.

Chu phu nhân hỏi:

– “Nếu không có việc gì thì người ta bức hiếp ngươi làm chi?”

Đêm qua động phòng hoa chúc bị Lý Nguyên Chỉ đến quấy rối một phen, Lạc Băng đem quần áo hai vợ chồng bỏ sang chỗ khác. Chu Ỷ không biết diệu thuật của mình còn linh nghiệm hay không, trong lòng lo lắng nhưng chưa có dịp hỏi lại Lạc Băng. Bây giờ thấy sắp phải xa cha mẹ, nàng không kìm được nước mắt.

Chu Trọng Anh dặn dò con gái mấy câu, rồi bảo Từ Thiên Hoằng:

– “Vợ của con tính tình bộc trực, không hiểu chuyện nào lớn chuyện nào nhỏ. Con phải độ lượng bỏ qua cho nó, nếu lỡ có đụng chạm gì thì đừng chấp con bé thiếu hiểu biết này, để từ từ ta sẽ phạt sau.”

Chu Ỷ hờn dỗi nói:

– “Gia gia cũng bênh huynh ấy! Chẳng lẽ chuyện gì con cũng không tốt hay sao?”

Chu Trọng Anh mỉm cười rồi lên ngựa, chắp tay tạm biệt Trần Gia Lạc và Văn Thái Lai, đi về hướng Nam.

Tám người Trần Gia Lạc, Văn Thái Lai, Lạc Băng, Từ Thiên Hoằng, Chu Ỷ, Chương Tấn, Dư Ngư Đồng, Tâm Nghiễn đi về hướng bắc, qua Hiếu Phong, An Cát, Túc Dương là đến Giang Ninh. Qua khỏi sông Trường Giang, vết thương của Văn Thái Lai đã lành hẳn, Dư Ngư Đồng cũng khỏe hơn nhiều.

Càng đi về phương bắc tiết trời càng lạnh, bắt đầu có sương tuyết vì đã chớm đông rồi. Tới Khai Phong thì vết thương của Dư Ngư Đồng đã lành hẳn, mọi người liền bỏ xe đi ngựa.

Hôm đó ra khỏi cửa tây thành Khai Phong, tám con ngựa sải vó chạy theo đường cái, gió lộng vù vù, cát bụi bắn tung lên mặt. Con bạch mã của Văn Thái Lai chạy nhanh kỳ lạ, một người một ngựa vượt hẳn lên phía trước. Chàng chạy môt hơi năm chục dặm đến một thị trấn, vào phạn điếm bảo giết gà nấu nướng, lo cơm nước để mọi người đến là có thể ăn ngay.

Chàng đang ngồi trong tiệm uống trà, lấy khăn lau mặt thì đột nhiên ở phòng phía đông có bóng người nháy động. Một người thò đầu ra nhìn, vừa nhìn thấy chàng đã vột rụt vào. Văn Thái Lai để ý nghi ngờ, cứ quay lại uống trà.

Nửa giờ sau, mọi người Trần Gia Lạc đến nơi. Văn Thái Lai khẽ kể lại. Từ Thiên Hoằng nhìn vào căn phòng phía đông, thấy giấy dán cửa đã bị thấm ướt, một con mắt đen nhánh đang nhìn họ. Khi mắt Từ Thiên Hoằng nhìn tới, ánh mắt kia lập tức tránh ra. Từ Thiên Hoằng khẽ cười, nói nhỏ:

– “Đúng là một đứa trẻ mới vào giang hồ, chút xíu quy luật cũng không biết, để ý là lộ tẩy ngay.”

Lạc Băng mỉm cười:

– “Người như thế mà cũng vào chốn giang hồ để kiếm ăn hay sao? Lại dám nhằm vào chúng ta nữa!”

Trần Gia Lạc bảo Tâm Nghiễn:

– “Ngươi qua xem thử, nếu hắn thiếu thốn tiền bạc thì tiếp tế cho hắn chút ít.”

Tâm Nghiễn vâng lời đứng dậy, tới trước cửa phòng đó dõng dạc hô lớn:

– “Trăm sông ngàn suối về biển cả. Hồng hoa lục diệp cũng một nhà.”

Đây là tín hiệu của Hồng Hoa Hội để chào hỏi đồng đạo võ lâm.

Các bang hội giang hồ đều có cách thức riêng để tương trợ lẫn nhau. Nếu ai không phải hội hữu của Hồng Hoa Hội mà lễ phép nói một câu:

– “Tiểu đệ là thuộc hạ của Mỗ Mỗ đà chủ, Mỗ Mỗ bang, mong các đại huynh Hồng Hoa Hội tương trợ…” thì ít ra cũng được biếu cho mấy lạng bạc.

Nghe trong phòng không có tiếng đáp, Tâm Nghiễn nhắc lại một lần nữa thì đột nhiên cửa phòng mở ra. Một người mặc áo đen xuất hiện, đội nón lớn che khuất hẳn nửa khuôn mặt, đưa ra một mảnh giấy rồi nói:

– “Chuyển cho Thập tứ gia của các vị.”

Tâm Nghiễn định hỏi thêm, thì người đó vọt chạy ra khỏi cửa, lên ngựa đi ngay. Tâm Nghiễn bèn chuyển mảnh giấy cho Dư Ngư Đồng rồi nói:

– “Người đó kêu tiểu nhân đem đến cho Thập tứ gia.”

Dư Ngư Đồng nhận giấy mở ra xem, thấy mười sáu chữ rất nhỏ:

– “Tình tận đáy lòng. Xấu đẹp đáng chi. Ngàn núi vạn sông. Vẫn theo chàng đi.”

Nhìn nét chữ tú lệ, Dư Ngư Đồng nhận ngay ra Lý Nguyên Chỉ. Chàng không ngờ nàng theo mình suốt dọc đường, bèn chau mày một cái rồi trao thư cho Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc liếc qua một cái, biết đây là chuyện tình cảm nam nữ nên không hỏi nhiều, trả lại cho Dư Ngư Đồng.

Dư Ngư Đồng nói:

– “Người này quấy rầy thuộc hạ mãi không chịu buông tha, nhất định vẫn đang đợi phía trước. Thuộc hạ muốn không đi đường bộ nữa mà đi đường sông để tránh né y. Đến Đồng Quan sẽ gặp lại mọi người.”

Chương Tấn giận dữ nói:

– “Ở đây chúng ta đông người, làm gì phải sợ? Mà nếu hắn có bản lãnh bằng trời thì chúng ta cũng phải giao đấu một phen.”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Không phải tiểu đệ sợ y mà là không muốn gặp.”

Chương Tấn nói:

– “Thế thì chúng ta phải dạy dỗ một phen, để hắn không dám đi theo chúng ta nữa. Đó là hạng người nào mà không biết phải trái?”

Dư Ngư Đồng khó trả lời, bèn im lặng. Trần Gia Lạc biết chàng khó xử, bèn lên tiếng:

– “Thập tứ đệ muốn đi bằng thuyền cũng tốt. Trên thuyền được nghỉ ngơi nhiều hơn, không mệt mỏi như cưỡi ngựa. Tâm Nghiễn! Ngươi đi theo để phục vụ Thập tứ gia.”

Tâm Nghiễn lập tức vâng dạ. Nó còn trẻ nít thích náo nhiệt, dĩ nhiên không thích đi thuyền, tuy không thể cãi lệnh chủ nhân nhưng không khỏi hơi rầu rĩ.

Dư Ngư Đồng hiểu ý, bèn nói là vết thương của mình đã lành hẳn, không cần Tâm Nghiễn đi cùng. Khi mọi người đến bờ sông Hồng Hà, chàng thuê một chiếc thuyền đi thẳng tới Đồng Quan. Trần Gia Lạc tiễn Dư Ngư Đồng xuống thuyền, chính mắt nhìn con thuyền đó giương buồm tách bến rồi mới cưỡi ngựa đi tiếp.

Chương Tấn không thích thái độ ấp úng của Dư Ngư Đồng, mở miệng cằn nhằn:

– “Không biết anh tú tài kiết đó còn tính chuyện gì nữa đây?”

Lạc Băng nói:

– “Thập tứ đệ bị thiêu hỏng khuôn mặt, trong lòng buồn bã đến cực điểm, không tránh khỏi hành sự có chỗ khác thường. Chúng ta cứ chiều theo y một tí thử xem.”

Chu Ỷ nói:

– “Lần truớc, bọn muội ở Vân Quang trấn cũng nghe nói huynh ấy ở chung với một cô nương. Sau này không biết đi đến Hàng Châu rồi như thế nào?”

Chương Tấn nói:

– “Y lén lút như vậy, chắc là làm hại con gái nhà lành rồi! Không thì sao lại sợ người khác tìm mình?”

Văn Thái Lai hét lên:

– “Thập đệ đừng nói bừa nữa.”

* * *

Dư Ngư Đồng di thuyền được mấy ngày, không thấy Lý Nguyên Chỉ theo sau mới yên tâm. Hôm ấy gặp cơn gió nghịch, bầu trời đã tối, thị trấn còn xa, dòng nước lại chảy rất xiết. Thuyền không dám đi đêm nên đậu lại ở một vùng hoang dã. Dư Ngư Đồng uống mấy chén rượu rồi lên giường ngủ.

Nửa đêm chàng tỉnh dậy thấy vầng trăng trên trời rất sáng ánh xuống dòng sông, xúc cảnh sanh tình nơi rơi lệ liên hồi. Sóng Hoàng Hà dạt dào, khí thế hùng vĩ khiến chàng nổi hứng, rút kim địch ra thổi du dương. Chàng rất cảm khái về thân thế của mình, đầy lòng tâm sự đều trút hết vào tiếng sáo, lúc thì kịch liệt, lúc thì thê lương.

Dư Ngư Đồng đang tập trung thổi sáo, đột nhiên phía sau có tiếng khen ngợi:

– “Tiếng sáo hay quá!”

Chàng ngừng thổi, từ từ quay đầu lại. Dưới ánh trăng có ba người men theo bờ sông bước tới. Ba người đến gần, một người lên tiếng:

– “Bọn tại hạ đi vội lỡ đường, đang tìm chỗ nghì. Nghe thấy tiếng sáo thánh thót, tại hạ không nén nổi nên thất thố buông lời, xin đừng trách.”

Dư Ngư Đồng nghe người ấy nói chuyện rất khách sáo, bèn đứng dậy đáp:

– “Tiểu đệ chỉ thổi bừa bãi nơi hoang dã, không ngờ làm mất sự yên tĩnh của quí vị. Thật là có lỗi.”

Người ấy nghe Dư Ngư Đồng nói chuyện nho nhã như người có học, bèn từ từ tiến đến gần. Dư Ngư Đồng lại nói:

– “Nếu không phiền thì xin mời xuống thuyền uống mấy chén rượu được chăng?”

Người ấy đáp:

– “Thế thì hay lắm!”

Rồi ba người đi đến bên bờ, tung người nhảy lên, nhẹ nhàng đáp xuống đầu thuyền. Đi đầu là một đại hán khôi vĩ xách theo binh khí rất nặng, lúc bước xuống thuyền làm mũi thuyền chìm hẳn xuống. Dư Ngư Đồng giật mình thầm nghĩ:

– “Võ công ba người này không tệ, không biết là nhân vật thế nào? Mình cẩn thận là hơn.”

Chàng bèn ra vẻ thư sinh yếu đuối nhát gan, hai tay nắm chặt lấy cạnh thuyền, như sợ thuyền nghiêng mà rơi xuống nước.

Người to lớn đi đầu mặc cẩm bào bằng lụa tơ tằm, trông như một thương nhân. Người thứ hai râu ria mọc đen đầy mặt. Người thứ ba lại ăn mặc theo kiểu Mông Cổ, khoác áo bằng da cừu lộn trái ra ngoài, từ cử chỉ đến dáng dấp đều ra vẻ ngang tàng. Ba người đều mang theo bao đựng binh khí.

Dư Ngư Đồng biết cây kim địch của mình rất bắt mắt, nên trước khi ba người lên thuyền đã cất kỹ rồi. Chàng kêu thuyền phu dậy, nhờ hâm rượu làm thức ăn để đãi khách. Thuyền phu nhìn thấy đêm khuya mà đột nhiên có ba người xa lạ đến đây, không khỏi hoảng sợ. Nhưng dọc đường Dư Ngư Đồng chi tiền rất hào phóng, nên chàng dặn sao thì y cứ thế mà làm.

Người to lớn nói:

– “Đêm khuya quấy nhiễu thế này, thật là mạo muội.”

Dư Ngư Đồng đáp:

– “Bốn biển đều là huynh đệ, nói đến hai chữ mạo muội làm gì?”

Người kia nghe Dư Ngư Đồng nói chuyện rất văn vẻ, bèn nói:

– “Xin thỉnh giáo tôn tánh đại danh các hạ.”

Dư Ngư Đồng đáp:

– “Tiểu đệ họ Vu tên Thông, là nhân sĩ vùng Kim Linh. Tên là Thông, nhưng học vấn lại nhiều chỗ không thông, phen này đi thi bị hỏng. Nghĩ tới về quê hổ thẹn với phụ lão, tiểu đệ xấu hổ vô cùng.”

Người kia nói:

– “Thì ra là một vị tú tài. Thật là thất kính, thất kính.”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Tiểu đệ trượt kỳ thi Hương lại còn họa vô đơn chí, nhà cửa bị lửa thiêu sạch. Nhà thì không còn mảnh ngói nào lành, mặt mũi cũng bị hủy hoại, khó mà gặp người khác. Bây giờ tiểu đệ không biết làm gì, nên định đến Cam Túc tìm bà con để kiếm một nơi dạy học, ăn nhờ ở đậu. Ôi! Thời đã như thế, mạng đã như thế, còn gì để nói.”

Mấy câu văn vẻ này làm hai người kia nghe xong nhìn nhau không hiểu. Còn người ra dáng thương nhân thì có đọc qua sách vở, bèn đáp:

– “Các hạ không cần nản lòng.”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Xin thỉnh giáo tôn tánh ba vị.”

Người kia đáp:

– “Tiểu đệ họ Tất.”

Rồi y chỉ người râu ria rậm rạp nói:

– “Vị này họ Cố.”

Tiếp đến lại chỉ người mặc đồ Mông Cổ, nói:

– “Vị này họ Kha, là người Mông Cổ.”

Dư Ngư Đồng chắp tay rồi nói:

– “Cửu ngưỡng, cửu ngưỡng. Bình thủy tương phùng, tam sanh cửu hạnh.”

Họ Tất thấy chàng câu nào cũng xổ nho, thầm cười trong bụng. Dư Ngư Đồng thì nghe y nói giọng Liêu Đông, trong lòng nghĩ:

– “Ba người này không biết là thù hay bạn? Nếu là giang hồ hảo hán thì mình nên kết giao, sau này khởi sự có thể giúp một tay.”

Chàng liền nói:

– “Ba vị đi đường ban đêm như thế rất là nguy hiểm.”

Họ Tất hỏi:

– “Không biết có nguy hiểm gì?”

Dư Ngư Đồng đáp:

– “Nơi xa xôi hẻo lánh thế này, vương pháp không sao phủ tới.”

Người họ Cố kéo tay áo của họ Tất, hỏi:

– “Y nói gì thế?”

Họ Tất khẽ đáp:

– “Y nói dọc con đường này rất nhiều trộm cướp.”

Người họ Cố và họ Kha vừa nghe thấy đã cười ha hả.

Lúc này thuyền phu đã mang thức ăn và rượu ra. Mấy người kia không khách sáo với Dư Ngư Đồng, ăn uống thoải mái. Họ Tất nói:

– “Các hạ thổi sáo rất hay, thổi thêm một bài nữa được không?”

Dư Ngư Đồng sợ lấy kim địch ra sẽ tiết lộ hành tung, bèn chối từ:

– “Tiểu đệ rất hay hổ thẹn, hễ có người khác là tay chân lóng ngóng không biết làm gì. Kỳ thi vừa rồi cũng bị hỏng vì tật đó.”

Họ Kha bèn nói:

– “Để tại hạ thổi một khúc.”

Y lấy trong túi áo ra một chiếc sừng dê có khảm bạc, rồi đứng thẳng dậy thổi những tiếng u u. Dư Ngư Đồng nghe âm điệu bị tráng, lộ rõ khí phách của vùng sa mạc, trong lòng rất thán phục, thầm ghi nhớ lấy điệu nhạc đó.

Uống rượu xong, ba người đứng dậy cảm tạ cáo từ. Dư Ngư Đồng muốn kết giao bèn nói:

– “Nếu ba vị không chê, xin ở lại một đêm trên chiếc thuyền này, sáng mai hãy đi tiếp có được hay không?”

Họ Tất đáp:

– “Vậy thì hay quá, chỉ sợ quấy rầy.”

Dư Ngư Đồng ngủ ở phía nam, còn ba người kia không cởi áo mà nằm ngay ở đầu thuyền. Một lúc sau, họ Dư giả bộ ngáy khò khò để nghe họ nói chuyện. Họ Kha nói:

– “Tên tú tài này nghèo đến phát ghét, nhưng không đến nỗi nhỏ mọn.”

Họ Cố nói:

– “Coi như nó gặp may.”

Họ Kha hỏi:

– “Ngày mai đến kịp Lạc Dương hay không?”

Họ Tất nói:

– “Sau khi qua sông, tìm ba con ngựa mà phi thì có thể kịp.”

Họ Kha tiếp:

– “Ta chỉ lo Hàn đại ca không có ở nhà, chúng ta đi một chuyến vô ích.”

Họ Cố nói:

– “Nếu không gặp y thì chúng ta cứ tìm đến sào huyệt của Hồng Hoa Hội ở Thái Hồ, cho chúng một trận đảo ngược cả trời đất lên.”

Họ Tất khẽ quát:

– “Nói nhỏ lại.”

Dư Ngư Đồng kinh hãi một phen, nghĩ bụng:

– “Thì ra ba người này là kẻ thù của Hồng Hoa Hội. Họ đến Lạc Dương để tìm người họ Hàn, chắc là Hàn Văn Xung rồi.”

Họ Tất nói tiếp:

– “Trong Hồng Hoa Hội cao thủ rất đông. Lão đương gia của họ tuy đã chết, nhưng nghe nói tổng đà chủ tân nhiệm cũng là tay lợi hại. Ở đây không phải Quan Đông, hai ngươi chớ có làm bừa.”

Họ Cố nói:

– “Quan Đông Lục Ma chúng ta hoành hành nơi quan ngoại, giang hồ hảo hán trong võ lâm nhắc đến danh tiếng của chúng ta đều phải kính nể mấy phần. Nào ngờ lão Tam, lão Ngũ và lão Lục lại bị Hồng Hoa Hội giết chết một cách không minh bạch. Thù này mà không trả thì chúng ta không nên làm người nữa.”

Giọng nói cực kỳ giận dữ.

Dư Ngư Đồng nghĩ:

– “Thì ra là bọn Quan Đông Lục Ma. Tam ma Tiêu Văn Kỳ do Lục sư thúc giết chết, còn Ngũ ma Diêm Thế Khôi và Lục ma Diêm Thế Trương chết dưới tay người Hồi. Sao chúng lại trút hết món nợ này lên đầu Hồng Hoa Hội?”

Thì ra đại ma Tất Nhất Lôi là một phú hào ở Liêu Đông, gia sản không sao tính hết, có không ít sâm trường và khoáng sản. Nhị ma Cố Kim Tiêu là một mã tặc trứ danh. Tứ ma Kha Hợp Đài vốn là một người chăn nuôi ở Mông Cổ lưu lạc đến Liêu Đông rồi làm trộm cướp. Ở Liêu Đông chúng nghe nói Tiêu Văn Kỳ được thuê tìm kiếm một công tử đã bị Hồng Hoa Hội bắt cóc, rồi đột nhiên mất tích, mấy năm nay tuyệt vô âm tín. Gần đây sư đệ của Tiêu Văn Kỳ là Hàn Văn Xung gửi thư đến, cho biết họ Tiêu đã bị hại ở Thiểm Tây.

Ba người giận dữ không sao nhịn được, lập tức đi về phía nam tìm Hồng Hoa Hội để trả thù. Khi đến Bắc Kinh lại nghe anh em họ Diêm bị giết, việc này cũng có liên ca đến Hồng Hoa Hội. Chúng vừa kinh hãi vừa giận dữ hơn, định đến Lạc Dương tìm Hàn Văn Xung hỏi rõ ràng, nhưng tình cờ gặp Dư Ngư Đồng trên sông Hoàng Hà.

Ba người nói chuyện một lúc rồi ngủ. Dư Ngư Đồng trằn trọc mãi đến gần sáng mới thiếp đi một lúc. Đột nhiên nghe thấy tiếng người rất ồn ào, hò hét vang dội, chàng mới giật mình tỉnh dậy, nhảy chồm lên rút kim địch ra tay, ngồi trong khoang thuyền nhìn ra ngoài. Mấy trăm chiếc thuyền đang kéo nhau dọc sông tiến đến. Thuyền đầu tiên có dựng một lá cờ lớn, ghi “Định biên đại tướng quân lương vận.”

Thì ra đây là đoàn thuyền tiếp tế quân lương cho Triệu Tuệ. Thuyền lớn qua hết, phía sau còn có mấy chục chiếc thuyền nhỏ, đều là thuyền của quan binh chở những món đồ cướp bóc được ở ven sông.

Thuyền phu thấy tình hình không êm, đang muốn tránh né thì bảy tám tên lính Thanh đã cầm đao thương nhảy qua rồi. Chúng không hỏi han gì cả, tát cho thuyền phu một phát, ra lệnh cho y lái thuyền đi theo. Dư Ngư Đồng biết bọn quan binh này thói quen chèn ép bá tánh, khó mà lý giải được, nên cứ thuận theo. Kha Hợp Đài vô cùng giận dữ, muốn ra ngoài đấu với bọn lính Thanh một phen, nhưng bị Tất Nhất Lôi kéo lại.

Bọn lính Thanh ra sau khoang thuyền, thấy Dư Ngư Đồng ăn mặc kiểu tú tài nên thái độ có hòa nhã hơn, nhưng vẫn quát hỏi bọn Tất Nhất Lôi đang đi đâu. Tất Nhất Lôi đáp:

– “Chúng ta đến Lạc Dương thăm bà con.”

Một tên lính Thanh khác lại quát:

– “Dồn hết lên khoang trước, để khoang sau này cho chúng ta.”

Kha Hợp Đài trừng mắt, giận dữ muốn động thủ ngay. Tất Nhất Lôi la lên:

– “Lão tứ, ngươi làm gì vậy?”

Kha Hợp Đài đành dằn lại. Dư Ngư Đồng ngoan ngoãn đi ra khoang trước nhỏ nhẹ nói:

– “Tú tài mà gặp quân lính thì có lý cũng không cãi nổi. Ta thà không nói là hơn, xem thử quan binh làm gì được.”

Mấy tên lính Thanh nhảy qua một con thuyền khác, đón mấy người qua đây. Một tên nói:

– “Ngôn lão gia, thuyền này sạch sẽ hơn nhiều, lão gia qua xem thử có vừa ý hay không?”

Ngôn lão gia từ đuôi thuyền kia bước qua thuyền này, lên tiếng:

– “Ở đây cũng được.”

Rồi hắn oai vệ ngồi xuống.

Dư Ngư Đồng liếc nhìn Ngôn lão gia một cái, tim đột nhiên đập lên thình thịch. Thì ra đây chính là Ngôn Bá Càn, từng đến Thiết Đảm trang để bắt Văn Thái Lai, rồi bị đoản tiễn của Dư Ngư Đồng bắn mù một mắt. Hắn dưỡng thương xong lại dẫn theo một tên sư đệ, nhập vào đội quân của Triệu Tuệ để ra sức lập công.

Tuy Ngôn Bá Càn chỉ còn một mắt, nhưng nhãn quang vẫn rất lợi hại. Hắn vừa thấy thân hình của Dư Ngư Đồng đã lập tức nghi ngờ, thấy mặt chàng che vải lại càng nghi hơn. Hắn giả bộ đến khoang thuyền nói chuyện mấy câu với Tất Nhất Lôi rồi đột nhiên loạng choạng một tí, như đứng trên thuyền không vững. Tay phải hắn quơ loạn xạ một hồi, rồi túm lấy cái khăn che mặt của Dư Ngư Đồng kéo xuống.

Cố Kim Tiêu thấy hắn sắp ngã lên người mình, bèn đưa tay trái lên đỡ lấy rồi nhẹ nhàng nắm lấy đầu vai hắn. Ngôn Bá Càn đột nhiên co người lại không để y nắm được. Cả hai đều biết võ công đối phương không tệ, nhìn nhau một cái.

Ngôn Bá Càn chăm chú nhìn vào mặt Dư Ngư Đồng, thấy đầy thẹo rất khó coi, khác hẳn tiểu tử tuấn tú từng bắn mù mắt mình, bèn nói:

– “Thuyền lắc lư quá, ta không đứng vững. Xin lỗi nhé.”

Rồi trả lại khăn che mặt cho chàng.

Dư Ngư Đồng đón lấy, che lại trên mặt rồi nói:

– “Phen này tại hạ bị cháy nhà, bỏng hết khuôn mặt, dáng vẻ này thật không dám gặp ai. Đại gia không khó chịu đấy chứ?”

Ngôn Bá Càn nghe khẩu âm của chàng quen quen, trong lòng lại nhói lên một cái, nhưng nhìn lại diện mạo thì hết nghi ngờ. Hắn quay lại nói với Cố Kim Tiêu:

– “Thì ra lão huynh là đồng đạo trên chốn giang hồ. Xin mời vào trong này ngồi.”

Bọn Tất Nhất Lôi ba người không khách sáo nữa, bèn hỏi danh tánh của Ngôn Bá Càn. Nghe hắn xưng là chưởng môn Ngôn gia quyền ở Thần Châu, trên giang hồ cũng hơi có tiếng tăm, chúng bèn không giấu giếm nữa, nói rõ danh tánh của mình. Sư đệ của Ngôn Bá Càn tên là Bành Tam Xuân, là người Hiệu Dương tỉnh Hồ Nam. Hai bên kể cho nhau nghe những giai thoại võ lâm ở quan ngoại và Tam Tương, nói chuyện rất tâm đắc.

Đúng là phản khách vi chủ, Dư Ngư Đồng bị họ lạnh nhạt bỏ mặc một bên. Chàng thấy mình đơn thương độc mã mà gặp cả hai phe thù địch, thật sự nguy hiểm vô cùng. Trong lòng chàng đang chán nản nhưng gặp cường địch trước mắt lại phát hùng tâm, phấn chấn hẳn lên. Chàng ngồi một mình phía trước thuyền, ngâm nga những bài văn bát cổ trước kia học thi tú tài, hết “Tiên vương chi đạo, thánh vương chi tâm” lại đến “Hình bất thượng đại phu, hạ bất thượng thứ phu,” càng đọc âm thành càng vang dội, ra vẻ đắc ý vô cùng. Tai chàng thì lại cố gắng nghe lén xem chúng nói chuyện gì.

Ngôn Bá Càn nghe tiếng chàng đồ kiết học bài mà phát ghét, không còn nghi ngờ gì nữa. Đến giờ cơm tối, Dư Ngư Đồng lấy rượu ra khoản đãi đám khách trên thuyền, Ngôn Bá Càn lịch sự nói chuyện mấy câu. Dư Ngư Đồng xổ một loạt “chi hồ giả dã,” bốn người kia càng nghe càng chán tai, bèn mặc kệ chàng mà tiếp tục nói chuyện.

Ngôn Bá Càn hỏi thăm tam ma vào quan ải có việc gì. Tất Nhất Lôi chỉ nói là đến Lạc Dương thăm bạn. Về sau nói đến những bang hội võ lâm ở phương nam, Kha Hợp Đài đột nhiên nhắc đến Hồng Hoa Hội. Ngôn Bá Càn hơi đổi sắc mặt, liền hỏi họ quen biết với ai trong Hồng Hoa Hội. Tất Nhất Lôi thản nhiên đáp là không quen biết, cũng không nhắc gì đến chuyện trả thù. Hai bên vòng vo thăm dò qua lại, ai cũng sợ đối phương có dây mơ rễ má gì với Hồng Hoa Hội. Từ lúc chúng có phần đố kỵ phòng hờ nhau, câu chuyện không được thoải mái như trước nữa.

Hôm nay gió nghịch vẫn khá mạnh, suốt ngày thuyền chỉ chạy được hơn hai mươi dặm. Chưa đến Mạnh Tân, đoàn thuyền đã dừng lại ăn cơm tối. Bọn Tất Nhất Lôi ngủ chung với Dư Ngư Đồng ở phía trước thuyền. Dư Ngư Đồng chui vào trong chăn, không dám cởi áo, giấu kim địch ở trong người.

Khoảng canh hai, đột nhiên từ thuyền kế bên truyền đến những tiếng kêu la thảm khốc. Trong đêm vắng lặng, ai nghe thấy cũng phải dựng tóc gáy lên. Tiếp theo là một giọng nữ nhân la lên:

– “Cứu mạng, cứu mạng!”

Dư Ngư Đồng đoán là bọn quan lính bên thuyền đó đang làm chuyện thương thiên bại lý. Đáng lẽ chàng phải qua cứng cứu, nhưng lúc này thế lực quan binh rất lớn, hơn nữa kế bên đã có hai nhóm cường địch, chỉ cần thân phận mình bị lộ là lập tức mang họa sát thân. Chàng đành kéo chăn trùm kín đầu, bịt tai lại cố không nghe. Nữ nhân kia kêu gào càng thảm khốc hơn:

– “Đại gia, làm phước giùm đi. Tha cho tiểu nhân…”

Rồi lại nghe tiếng một đứa bé kêu lên:

– “Má má! Má má!”

Dư Ngư Đồng nhịn không nổi nữa, ngồi bật dậy. Lại có tiếng khóc của một nữ nhân khác, rồi một tên lính Thanh la lên:

– “Người không chịu thì lão gia phải giết con của ngươi trước! “Nữ nhân đó van xin thê thảm thêm mấy câu, rồi có tiếng cười điên cuồng của bọn lính. Sau đó hai nữ nhân chỉ khóc mà không kêu nữa, rồi tiếng khóc cũng im bặt, chỉ còn những tiếng ú ớ. Chắc chắn là miệng của họ đã bị nhét chặt.

Dư Ngư Đồng giận dữ vô cùng, mặc kệ chuyện an nguy sinh tử của bản thân mình, đi đến đầu thuyền. Chàng nghe Kha Hợp Đài nói:

– “Chúng ta qua đó xem thử.”

Tất Nhất Lôi cản:

– “Lão tứ, ngươi đừng nhúng tay vào việc của người khác. Sư huynh đệ họ Ngôn kia cũng có mấy chiêu, nếu họ cùng phe với Hồng Hoa Hội thì chúng ta lộ tẩy đấy.”

Dư Ngư Đồng chưa nghe hết câu đã vận kình vào chân, nhảy qua thuyền kế bên. Quan Đông tam ma thấy vị tú tài này khinh công cao diệu, lập tức kinh hãi ra hiệu với nhau rồi nhảy hết sang. Lúc này Ngôn Bá Càn và Bành Tam Xuân cũng đã tỉnh dậy. Chúng thấy Dư Ngư Đồng cùng ba người nhảy qua thuyền kia liền cầm binh khí, đứng trên đầu thuyền xem xét.

Dư Ngư Đồng thấy đằng lái thuyền không có ai, bèn cúi người nhìn vào trong. Những ngọn nến trong khoang nhấp nháy lúc sáng lúc tối. Bảy tám tên lính Thanh đang túm lấy hai nữ nhân, định giở trò cưỡng đạo. Một nữ nhân quì dưới đất không ngừng khóc lóc van xin, còn nữ nhân kia ôm con nhỏ, hai người run rẩy vì hoảng sợ. Trên ván thuyền còn có thi hài của mấy nam nhân. Mấy cái rương bị bật nắp ra, quần áo và ngân lượng vương vãi. Xem tình hình này thì biết bọn lính Thanh vừa vận chuyển lương thực vừa thừa cơ cướp bóc dân chúng ven sông, giữa đêm giết hại thương khách để cướp của hiếp dâm.

Dư Ngư Đồng nổi giận, định nhảy vào trong khoang thì nghe Kha Hợp Đài nói sau lưng:

– “Lão đại! Chuyện này ta không thể không nhúng tay vào.”

Tất Nhất Lôi nói:

– “Không được.”

Ngay lúc đó, một tên lính Thanh giật lấy đứa bé trong tay nữ nhân, quẳng mạnh xuống ván thuyền làm đầu nó vỡ phọt cả óc ra. Mẹ nó giật bắn lên, rồi ngất xỉu tại chỗ. Hai tên lính cười ha hả, đè cô ta xuống mà xé quần áo.

Dư Ngư Đồng thầm khấn Hồng Hoa lão tổ trên trời:

– “Đệ tử Dư Ngư Đồng hôm nay xả mạng cứu người, xin lão tổ bảo hộ.”

Chàng không rút kim địch, hét lớn một tiếng, tay không nhảy vào khoang thuyền. Chân trái chàng phóng cước, tay phải xuất chưởng đánh ngã ngay hai tên lính Thanh đang quấn chặt nữ nhân đó. Sau đó chàng vặn sái cổ một tên lính Thanh khác, hắn đau đến nỗi kêu cha gọi mẹ. Chàng tiện tay giật lấy thanh đao, chém gãy chân phải một tên nữa.

Bọn lính Thanh còn lại rút binh khí ra chống đỡ. Dư Ngư Đồng tuy sử đao không quen lắm nhưng chỉ mấy hiệp lại chém ngã hai tên lính. Đám còn lại đều chạy về phía đầu thuyền. Nghe mấy tiếng “tủm, tủm,” chúng đã bị Kha Hợp Đài đá lọt xuống sông.

Dư Ngư Đồng kéo hai nữ nhân kia dậy, khẽ bảo:

– “Mau mau lên bờ chạy trốn đi.”

Họ hoảng sợ cứ đứng ngẩn ra. Đám lính Thanh ở thuyền kế bên nghe tiếng la hét đấm đá, đã có tên thắp đuốc lên, đứng trên đầu thuyền mà hô hoán. Kha Hợp Đài chạy vào trong khoang cất tiếng khen:

– “Tú tài giỏi quá! Thán phục, thán phục!”

Dư Ngư Đồng kẹp một nữ nhân nhảy lên bờ, Kha Hợp Đài kẹp người còn lại nhảy theo. Cố Kim Tiêu rút cây điệp hồ xoa cán ngắn sau lưng ra, đứng bên bờ để chặn bọn đuổi theo. Hai chân Tất Nhất Lôi vừa chạm đất, hai tay liền nắm lấy cạnh thuyền quát lên một tiếng, vận hết sức hất chiếc thuyền lộn ngược, đáy thuyền hướng lên trời. Tất cả đồ vật, kể cả tử thi đều rơi hết xuống nước. Dư Ngư Đồng âm thầm kinh hãi:

– “Người này khí lực mạnh quá.”

Bốn người thừa lúc quan binh hỗn loạn xúm quanh chiếc thuyền lật ngược, trong bóng tối dẫn hai nữ nhân chạy thoát. Dư Ngư Đồng chạy đến chỗ cây cối rậm rạp, thấy bọn lính Thanh không đuổi theo mới dừng lại hỏi:

– “Nam nhân trong nhà đều bị bọn quan binh kia giết hết rồi phải không?”

Nữ nhân đó chưa trấn tĩnh lại được, cứ quí dưới đất không ngớt khấu đầu, không nói được tiếng nào. Dư Ngư Đồng lại bảo:

– “Trước mắt cô đã thoát hiểm rồi, trốn ở đây đừng động đậy. Đợi ngày mai đoàn thuyền kia rời khỏi rồi hãy ra ngoài.”

Chàng cao giọng nói với ba người ở phía sau:

– “Đa tạ ba vị đại ca tương trợ. Tiểu đệ xin cáo từ.”

Chàng không đợi họ trả lời, quay người đi ngay. Nhưng vừa bước được ba bước, đã nghe thấy phía trước có một giọng âm hiểm cất lên:

– “Dư thập tứ gia, xin nán lại chốc lát.”

Dư Ngư Đồng lui lại một bước. Người kia từ trong bóng tối bước ra, chính là kình địch Ngôn Bá Càn. Phía sau hắn còn có tên sư đệ Bành Tam Xuân, hai tay nắm cây tam tiết côn đứng để giám thị, đề phòng Dư Ngư Đồng chạy thoát.

Lúc này bọn ba người Tất Nhất Lôi dẫn nữ nhân kia chạy tới, thấy Ngôn Bá Càn đột nhiên xuất hiện đều rất kinh ngạc. Dư Ngư Đồng chắp tay lại nói:

– “Hậu hội hữu kỳ!” rồi chạy vào giữa Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu.

Bành Tam Xuân khuỵu gối phải xuống một chút, hét lên một tiếng rồi vung cây tam tiết côn đánh vào hạ bàn Dư Ngư Đồng. Họ Dư vội sử chiêu Lý Dược Long Môn nhảy qua cây côn, chân trái vừa chấm đất đã vọt ra mấy trượng. Bành Tam Xuân một chiêu không trúng, cây tam tiết côn đang quét tới đôi chân của Cố Kim Tiêu đã nhanh chóng biến thế hất mạnh ra trước, nhằm thẳng vào sau lưng Dư Ngư Đồng.

Dư Ngư Đồng phóng về phía trước, khom mình cho côn lướt ngang qua đầu, vẫn không đánh trả mà nhân lúc sơ hở chạy trốn. Đột nhiên có kình phong xô tới. Trong màn đêm chỉ thấy bạch quang lấp loáng, hai cây đơn đao chém tới trước mặt. Thì ra hai tên đồ đệ Tống Thiên Bảo, Đàm Thiên Thừa của Ngôn Bá Càn đã tới.

Dư Ngư Đồng ba mặt đều bị bao vây không sao tránh né được, bèn đưa tay phải rút kim địch giấu trong tay áo bên trái ra, keng keng hai tiếng đã gạt được hai đao. Bành Tam Xuân đang muốn xông lên hợp công, Kha Hợp Đài đứng bên nhìn bỗng giận dữ nói:

– “Ba đánh một có gì là hảo hán?”

Bành Tam Xuân ngẩn ra một chút, Kha Hợp Đài đã nắm lấy đầu côn giật ra. Họ Bành quyết kéo trở về, hai người đều không buông tay. Bành Tam Xuân tiến lên nửa bước, dùng tay trái vỗ mạnh vào tam tiết côn. Cây côn đang nắm ở tay phải đột nhiên rời khỏi tay, bay ngược lại đánh vào tay trái của Kha Hợp Đài. Đây là một chiêu cứu mạng của tam tiết côn, gọi là Độc Xà Bái Vỹ.

Kha Hợp Đài không ngờ được, trong bóng tối nghe tiếng côn đánh tới mới vội tránh sang phải, bị đuôi côn quét trúng vào vai nghe “binh” một tiếng rất đau. Họ Kha giận dữ, buông lỏng tay bỏ côn ra, chỉ dùng một tay nắm chặt eo lưng của Bành Tam Xuân, quát lớn rồi nhấc bổng thân hình mập mạp của hắn lên đầu, quật xuống đất. Kha Hợp Đài rất sành môn đô vật của người Mông Cổ. Đòn quật này khiến Bành Tam Xuân choáng váng, trước mắt thấy ba mươi sáu ngôi sao nhấp nháy loạn xạ.

Tất Nhất Lôi thấy Kha Hợp Đài đã thắng, bèn hô lớn:

– “Đừng gây họa, rời khỏi đây nhanh lên.”

Ngôn Bá Càn lên tiếng:

– “Hay lắm! Thì ra Quan Đông Lục Ma đã đầu hàng Hồng Hoa Hội.”

Cố Kim Tiêu quay lại, giận dữ nói:

– “Ngươi nói gì mà thối thế?”

Ngôn Bá Càn hỏi lại:

– “Nếu các ngươi không đầu hàng Hồng Hoa Hội thì sao lại giúp cho tên đầu mục này?”

Tất Nhất Lôi ngạc nhiên bèn hỏi:

– “Y là người của Hồng Hoa Hội hay sao?”

Ngụy Bất Túc thấy hai đứa đồ đệ của mình bị Dư Ngư Đồng ép đến nỗi tay chân loạn xạ, tình thế rất nguy cấp. Hắn không rảnh để trả lời, lấy dưới áo choàng ra một đôi Cương hoàn khua lên loảng xoảng, đánh vào sau lưng Dư Ngư Đồng. Họ Dư xoay kim địch lại, điểm vào kỳ môn huyệt của hắn. Hai người vừa giao thủ đã qua lại mấy chiêu.

Tất Nhất Lôi kêu gọi dừng tay, Ngôn Bá Càn vẫn không nghe, cứ nghĩ đến mối hận làm mù mắt, huy động song hoàn như cuồng phong bạo vũ công tới kẻ thù. Tất Nhất Lôi bèn lấy độc cước đồng nhân sau lưng ra, tung người nhảy tới, đập từ trên xuống. Nghe một tiếng choảng rất lớn, hai món binh khí bị chấn động rời ra. Cánh tay của Dư Ngư Đồng và Ngôn Bá Càn tê liệt một lúc, cả hai đều âm thầm kinh hãi. Đồng nhânh của Tất Nhất Lôi bên ngoài bọc vàng ruột đúc bằng thép rất nặng, lợi hại vô cùng.

Tất Nhất Lôi quay lại hỏi Dư Ngư Đồng:

– “Các hạ là người của Hồng Hoa Hội phải không?”

Dư Ngư Đồng nghĩ:

– “Hôm nay tẩu vi thượng sách.”

Chàng không đáp, nhảy về phía đêm tối. Tống Thiên Bảo đứng gần nhất vội đuổi theo. Dư Ngư Đồng quay người lại, thổi kim địch một cái. Một tiếng “rít,” đoản tiễn đã cắm trên má Tống Thiên Bảo, hắn đau đớn kêu la oai oái. Tất Nhất Lôi và Ngôn Bá Càn cũng đuổi theo sau, nhưng đêm tối nhìn không rõ, lại sợ Dư Ngư Đồng thổi đoản tiễn nên không dám đến quá gần.

Dư Ngư Đồng chạy một đoạn xa rồi từ từ đi về phía bờ sông, trong lòng nghĩ:

– “Mình trốn lên thuyền vận chuyển lương thực của bọn lính Thanh là yên ổn nhất. Ngày mai khởi hành không gặp trở ngại gì nữa.”

Chàng nấp trong lùm cây lắng nghe tiếng binh lính đuổi theo, rồi nằm rạp xuống đất, chầm chậm bò lên. Đột nhiên nghe tiếng la kinh hãi của nữ nhân xen kẽ với tiếng thóa mạ của bọn lính Thanh. Thì ra hai nữ nhân vừa được cứu ra lại bị bọn lính tìm thấy.

Lúc này chàng cảm thấy thân mình khó giữ, không sao lo liệu cho người khác được nữa, bèn rút người lại. Nhưng nghe tiếng kêu càng lúc càng thảm thiết, chàng không nhịn nổi nữa, thò đầu ra ngoài mà nhìn. Một tên lính Thanh, hai tay mỗi tay kéo một nữ nhân đi đến bờ sông. Hai nữ nhân không chịu đi, lớn tiếng khóc lóc, bị bọn lính kéo lê lết dưới đất. Dư Ngư Đồng nghĩ:

– “Tham sinh úy tử không phải là đại trượng phu!”

Chàng bèn dùng kim địch thổi ra, đoản tiễn bay đi cắm ngay vào gáy tên lính. Hắn điên cuồng gào lên một tiếng, lập tức mất mạng.

Dư Ngư Đồng thổi tên xong, vội vã chạy ra xa bờ. Mũi tên này khiến chàng bị lộ hành tung. Mới chạy được vài trượng, cây điệp hổ xoa của Cố Kim Tiêu đã cản trở phía trước. Dư Ngư Đồng phải triển khai Nhu Vân kiếm thuật, toan đánh ngã hắn để chạy trốn, nào ngờ qua lại mấy chiêu vẫn chưa chiếm được thượng phong. Cố Kim Tiêu thân pháp nhanh nhạy, quả là kình địch. Hắn vừa đánh vừa huýt sáo liên hồi.

Dư Ngư Đồng nhìn thấy xa xa có những bóng đen chạy tới, không dám ứng chiến, bèn quyết tấn công để tìm đường chạy. Cả người chàng phóng lên phía trước, hai ngón tay bên trái điểm thẳng vào yếu huyệt trước ngực địch thủ. Cố Kim Tiêu đưa hổ xoa đỡ ngang trước ngực. Dư Ngư Đồng lùi lại để nhảy ra nhưng tam tiết côn của Bành Tam Xuân đã đánh tới, đồng thời ba người Tất Nhất Lôi, Ngôn Bá Càn, Đàm Thiên Thừa cũng đã chạy tới bao vây cả bốn mặt.

Tất Nhất Lôi la lên:

– “Bỏ binh khí xuống!”

Dư Ngư Đồng mặc kệ, vẫn múa kim địch như gió, trong lúc hỗn chiến phóng cước đá ngã Đàm Thiên Thừa. Tất Nhất Lôi vẫy đồng nhân vù một tiếng, đập từ trên đầu xuống. Dư Ngư Đồng biết hắn sức lực dị thường, không dám cản trở, vội chuyển người tránh sang một bên.

Binh khí của Tất Nhất Lôi rất nặng, nhưng hắn khí lực hơn người nên sử dụng vừa nhanh vừa linh hoạt. Chiêu đầu đánh xuống không trúng, hắn lập tức thu thế, biến thành chiêu Hoành Tảo Thiên Quân đánh ngang lưng Dư Ngư Đồng. Dư Ngư Đồng cúi xuống cho đồng nhân bay qua đỉnh đầu, rồi chồm dậy xông đến chỗ Tất Nhất Lôi, đưa kim địch điểm vào huyệt Khí Lưu của hắn. Đồng nhân của Tất Nhất Lôi vừa đưa lên định hất văng kim địch của Dư Ngư Đồng, họ Dư đã tung người lên, nhảy qua đầu Tống Thiên Bảo. Lúc rơi xuống chàng thừa thế huých đầu gối vào sau lưng hắn. Tống Thiên Bảo đứng không vững, loạng choạng ngã vào đồng nhân của Tất Nhất Lôi.

Ngôn Bá Càn vội vã lôi họ Tống lại, la toáng lên:

– “Muốn chết hay sao?”

Tất Nhất Lôi cất tiếng khen ngợi Dư Ngư Đồng:

– “Thân thủ tuyệt lắm!”

Bên này, Bành Tam Xuân và Cố Kim Tiêu đã chặn đường lui của họ Dư. Kha Hợp Đài đứng bên theo dõi mọi người hỗn chiến, thấy Dư Ngư Đồng sắp trúng chiêu, trong lòng kính nể chàng có lòng hiệp nghĩa, nên đột ngột xông vào vùng hỗn chiến hô lên:

– “Lão đại, lão nhị lùi ra.”

Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu liền nhảy ra ngoài. Dư Ngư Đồng dốc sức chống chọi đông người, mồ hôi ướt cả người, múa kim địch không ra chiêu pháp gì nữa. Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu vừa nhảy ra, cương hoàn bên phải của Ngôn Bá Càn đã tròng vào đầu kim địch, cương hoàn bên trái vận sức đánh vào thân kim địch. “Keng” một tiếng, kim địch đã rời tay chủ bay ra. Cương hoàn lại thừa tế tấn công vào huyện Thái Dương của Dư Ngư Đồng.

Kha Hợp Đài kéo Dư Ngư Đồng lùi ra sau, né được chiêu này. Đồng thời y dùng phép đô vật của Mông Cổ đưa chân phải ra quét ngang, tay trái ấn xuống đầu vai họ Dư. Dư Ngư Đồng đứng không vững nữa, té nhào xuống rồi bị Kha Hợp Đài đè chặt dưới đất. Kim địch từ trên không trung rơi xuống, Cố Kim Tiêu đưa tay đón lấy rồi cắm vào bên hông mình. Tống Thiên Bảo và Đàm Thiên Thừa đã ăn mấy đòn của Dư Ngư Đồng, bèn chạy tới đòi đánh. Kha Hợp Đài bảo:

– “Khoan đã!”

Y xé trường bào của Dư Ngư Đồng buộc chéo tay chàng lại, kéo cho đứng dậy rồi nói:

– “Bằng hữu, ta biết người là hảo hán, có gì cứ nói đàng hoàng. Chúng ta không làm khó dễ ngươi đâu.”

Dư Ngư Đồng “hừ” một tiếng, không nói tiếng nào.

Tất Nhất Lôi hỏi:

– “Bằng hữu là người của Hồng Hoa Hội phải không?”

Dư Ngư Đồng đáp:

– “Ta họ Dư, tên Ngư Đồng, người trên giang hồ thường gọi là Kim Địch Tú Tài. Trong Hồng Hoa Hội, ta ngồi ghế thứ mười bốn.”

Tất Nhất Lôi gật đầu nói:

– “Vậy là đúng rồi. Ta đã từng nghe danh tiếng của ngươi. Ta muốn hỏi ngươi về mấy người.”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Ngươi muốn hỏi về tung tích của Tiêu Viễn Kỳ và Diêm thị huynh đệ chứ gì? Nói thật với ngươi, không phải Hồng Hoa Hội chúng ta giết họ.”

Ngôn Bá Càn đứng bên lạnh nhạt nói:

– “Dĩ nhiên là bây giờ ngươi phải chối.”

Dư Ngư Đồng mắng:

– “Thằng giặc chột kia, ta đâu có nói chuyện với ngươi? Mắt của ngươi là do ta bắn đấy, rồi sao nào? Lão gia mà sợ ngươi thì không phải là hảo hán.”

Tống Thiên Bảo giận dữ vung đao chém tới. Kha Hợp Đài thấy vậy bèn buông lỏng chân đang đè họ Dư. Hai chân Dư Ngư Đồng được tự do, chàng nghiêng sang trái né chiêu đao, rồi phóng chân phải đá ra trúng ngay huyệt Phục Cố của Tống Thiên Bảo. Hắn buông đơn đao rớt khỏi tay, rồi bủn rủn nằm xuống đất. Đàm Thừa Thiên vội chạy tới đỡ dậy. Bành Tam Xuân thấy sư điệ của mình bị mất mặt, bèn vung quyền đánh tới. Kha Hợp Đài nói:

– “Muốn đánh nhau thì để ta thả y ra, lấy một đấu một cho tử tế.”

Bành Tam Xuân giận dữ nói:

– “Vậy để ta đấu với ngươi cũng được.”

Rồi hắn vung côn ra loảng choảng. Kha Hợp Đài cười hỏi:

– “Ngươi muốn bị quật té một lần nữa hay sao?”

Ngôn Bá Càn liền kéo Bành Tam Xuân lùi ra để xem Tất Nhất Lôi xử trí thế nào. Tất Nhất Lôi hỏi Dư Ngư Đồng:

– “Giang hồ đều nói ba huynh đệ của chúng ta bị Hồng Hoa Hội hại chết. Oan có đầu, nợ có chủ, chỉ cần ngươi nói thật một câu là việc này do ai gây ra, đương nhiên chúng ta sẽ tìm người đó mà tính nợ. Ngươi không cần giấu giếm hay hoảng sợ gì cả. Chẳng lẽ chúng ta vô cớ giết người của Hồng Hoa Hội hay sao?”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Hôm nay ta lọt vào tay các ngươi, muốn giết thì giết, hà tất phải nói nhiều. Ngươi tưởng Hồng Hoa Hội sợ mấy mạng các ngươi hay sao? Thật là chuyện nằm mơ.”

Kha Hợp Đài nói:

– “Huynh đúng là hảo hán, ta rất kính phục. Ta chỉ muốn hỏi, ba vị huynh đệ của chúng ta bị ai hại chết?”

Dư Ngư Đồng đáp:

– “Nói thật, ai giết hết ba người này ta biết rất rõ ràng, chắc chắn không phải là Hồng Hoa Hội.”

Cố Kim Tiêu nói:

– “Thế thì nói ra đi, chúng ta lập tức thả ngươi ra ngay.”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Dư mỗ này tuy vô danh tiểu tốt, nhưng đã là người của Hồng Hoa Hội thì không thể để người khác uy hiếp được. Giết chết ba người đó là ai, ta nói cho ngươi biết cũng chẳng hề gì, mà người đó cũng không sợ các ngươi đi trả thù đâu. Nhưng các ngươi ép bức ta phải nói thì ta lại không thèm nói.”

Cố Kim Tiêu vẫy cây điệp hồ xoa cho ba vòng sắc trên cây xoa vang lên những tiếng tinh tang, rồi hét lên:

– “Ngươi nói hay không?”

Dư Ngư Đồng ngẩng đầu lên quát trả:

– “Không nói thì sao? Nếu ngươi có gan thì cứ đâm xoa vào ngực ta đi. Khi trả thù cho ta, huynh đệ Hồng Hoa Hội chắc chắn không gà mờ như ngươi đâu, đến nay mà kẻ thù là ai cũng không biết.”

Cố Kim Tiêu tức đến nỗi cây xoa rung lên bần bật, la mắng liên hồi. Kha Hợp Đài lên tiếng:

– “Nếu huynh cho rằng người như ta có thể kết giao được, thì hãy nói cho ta biết.”

Dư Ngư Đồng thấy trong đám người này chỉ có Kha Hợp Đài là tử tế hơn cả, bèn nói:

– “Tại sao các ngươi không đi hỏi Hàn Văn Xung? Hiện nay hắn không ở Lạc Dương, mà ở chung với Oai chấn hà sóc Vương Duy Dương tại Hàng Châu.”

Tất Nhất Lôi gặn hỏi:

– “Thật không?”

Dư Ngư Đồng hét lên:

– “Ta không thèm lừa dối các ngươi đâu!”

Kha Hợp Đài thấy chàng tuy bị bắt nhưng càng lúc càng ngoan cường hơn, thật khiến cho người ta kính nể, bèn kéo Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu qua một bên mà khuyên:

– “Ép nữa cũng vô dụng, thả y cho xong.”

Cố Kim Tiêu hỏi:

– “Thả hắn ra à? Giang hồ chắc chắn sẽ nói Quan Đông Lục Ma chúng ta không dám động đến Hồng Hoa Hội. Theo ý ta thì giết hắn đi cho rồi.”

Tất Nhất Lôi nói:

– “Giết cũng vô ích. Bây giờ chúng ta nên đến Hàng Châu để tìm Hàn Văn Xung. Mang hắn theo, dọc đường từ từ vặn hỏi tiếp, chắc chắn sẽ hỏi được rõ ràng. Lúc đó giết cũng chưa muộn.”

Cố Kim Tiêu nói:

– “Được lắm! Hãy làm như thế.”

Tất Nhất Lôi quay lại nói với Dư Ngư Đồng:

– “Chúng ta đem ngươi đến Hàng Châu để đối chất với Hàn đại ca. Nếu ngươi nói không sai, chúng ta sẽ thả ngươi ra.”

Dư Ngư Đồng thầm nghĩ:

– “Thế thì rất tốt. Dọc đường nếu không gặp ai cứu viện thì ta cũng tìm kế thoát thân.”

Vì thế chàng gật đầu đồng ý. Tất Nhất Lôi vẫy tay, nói với Ngôn Bá Càn một câu “Hậu hội hữu kỳ,” rồi quay mình đi ngay.

Ngôn Bá Càn vọt lên một bước nói:

– “Khoan đã, khoan đã! Người này do chúng ta bắt được chẳng lẽ để các ngươi mang đi một cách dễ dàng hay sao?”

Kha Hợp Đài nói:

– “Vậy ngươi muốn thế nào?”

Ngôn Bá Càn nghĩ:

– “Bên ta tuy có bốn người, nhưng ba người bọn chúng võ công lại cao hơn. Ta có thể đối phó nhưng sư đệ và đồ đệ thì không, động thủ không lợi.”

Hắn bèn nói:

– “Hắn đã bắn mù một mắt của ta, nên ta muốn lấy cặp mắt của hắn để xóa nợ. Sau đó các ngươi muốn mang hắn đi đâu thì mang.”

Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu nghĩ:

– “Bắt được Dư Ngư Đồng phen này, hắn cũng có công lao. Vả lại hắn cũng là quan quân, chẳng nên đắc tội với hắn. Mà nếu Dư Ngư Đồng bị mù, lại càng khỏi sợ bỏ trốn dọc đường.”

Nghĩ vậy nên chúng không cản trở gì cả. Ngôn Bá Càn bèn đưa ngón trỏ và ngón giữa tay phải ra, xuất chiêu Song Long Thương Châu đâm ngay vào cặp mắt Dư Ngư Đồng. Dư Ngư Đồng lùi lại một bước để tránh nhưng Cố Kim Tiêu lại túm lấy lưng chàng đẩy lên một bước, khiến chàng không sao động đậy được.

* * *

Nhóm người Trần Gia Lạc men theo sông Hoàng Hà đi về phía tây, thấy cả một vùng sình lầy cát đá ngổn ngang, vết tích để lại sau trận lũ. Thỉnh thoảng còn thấy xác người nằm trôi sông, phơi trên ruộng đồng. Nghĩ đến thảm cảnh lũ lụt từ trời rơi xuống khiến bá tánh phải chạy nạn, giãy giụa tìm con đường sống, nhiều người đuối sức phải vùi mình trong nước thật không khỏi run rẩy cả người.

Trần Gia Lạc chợt nghĩ:

– “Hồng Hoa Hội chúng ta bây giờ chỉ biết cầm kiếm giết giặc, không hiểu ngày nào mới được cầm kiếm chỉ huy muôn dân trị thủy. Đó mới đúng là tâm nguyện của ta.”

Chưa đầy một ngày đã đến Đồng Quan. Từ Thiên Hoằng và Chương Tấn chia nhau xem xét các góc tường nơi đầu đường, tìm dấu hiệu của Dư Ngư Đồng mà không thấy. Biết chàng chưa đến, họ bèn trọ lại mà đợi.

Đã ba ngày vẫn chưa thấy Dư Ngư Đồng đến, Từ Thiên Hoằng và Chương Tấn bèn tìm đến các bến thuyền dò hỏi, nhưng mọi người đều nói chưa thấy một vị thư sinh tú tài như thế. Đến ngày thứ tư mọi người bàn bạc một lúc, đều nhận thấy bất thường, e rằng dọc đường có chuyện.

Ở Đồng Quan này, bang hội chiếm lĩnh vùng sông nước là Long Môn bang. Hồng Hoa Hội xưa nay chưa hề kết giao với bang này, sợ rằng Dư Ngư Đồng đã bị họ bắt giữ. Vì vậy Từ Thiên Hoằng cầm danh thiếp đến bái phỏng Long đầu ca Thượng Quan Nghị Sơn của Long Môn bang. Thượng Quan Nghị Sơn nghe có người đến thăm, báo danh là Thất đương gia của Hồng Hoa Hội. Võ Gia Cát từ lâu đã nổi tiếng trên giang hồ, y bèn đích thân ra đón tiếp.

Từ Thiên Hoằng nói rõ ý của mình, Thượng Quan Nghị Sơn bèn đáp:

– “Ta từ lâu đã ngưỡng mộ quí hội nhân nghĩa ngất trời, chỉ vì quí hội khai nghiệp ở mãi Giang Nam nên chưa có duyên hội ngộ. Nếu ta biết Thập tứ đương gia của quí hội đang đi thuyền dọc sông Hoàng Hà này, nhất định sẽ tiếp đãi chu đáo. Bâu giờ ta sẽ lập tức cho tìm kiếm.”

Ngay trước mặt Từ Thiên Hoằng, y bèn phái bốn huynh đệ ra ngoài dò hỏi, dặn chúng đi dọc sông Hoàng Hà, nếu thấy Thập tứ đương gia Dư Ngư Đồng thì đón về Đồng Quan. Từ Thiên Hoằng thấy y làm việc đắc lực, có tình có nghĩa nên không ngừng cảm tạ. Thượng Quan Nghị Sơn giữ chàng lại gia trang, nhưng chàng nhất định không chịu. Đến chiều Thượng Quan Nghị Sơn tới hồi bái, nhưng Trần Gia Lạc tránh mặt không gặp, chỉ để Từ Thiên Hoằng đón tiếp.

Đêm đó Thượng Quan Nghị Sơn bày tiệc tiếp đãi Từ Thiên Hoằng, mời hết các vị võ lâm anh hùng trong vùng tới dự. Rất nhiều nhân sĩ võ lâm vùng này đã nghe danh Chu Trọng Anh. Nghe nói Từ Thiên Hoằng là con rể của Thiết Đảm Chu Trọng Anh vang tiếng vùng Tây Bắc, ai cũng muốn kết giao. Có người âm thầm nghị luận, Võ Gia Cát vang tiếng giang hồ mà vóc dáng lại thấp lùn như thế thật không thể xem tướng mà đoán người được. Mọi người thấy chàng nói năng phóng khoáng hào hùng, đầy tình hữu nghị, ai cũng có lòng kính ngưỡng.

Sáng sớm hôm sau Thượng Quan Nghị Sơn lại đến nhà trọ bái phỏng, nói rằng thuộc hạ của mình vẫn chưa tìm ra tung tích Dư Ngư Đồng, nhưng có được một chút manh mối. Anh em trên bến nói rằng, mấy ngày nay có một đạo quân đang vận chuyển quân lương trên sông Hoàng Hà, nên phong tỏa không cho xuôi ngược. Có thể Dư thập tứ gia đã bị đội thuyền cản trở. Từ Thiên Hoằng yên tâm một chút, vội cảm tạ anh em Long Môn bang.

Xế chiều, Thượng Quan Nghị Sơn lại cấp tốc đến thông báo, có huynh đệ cho biết:

– “Mười ngày trước đây có một tú tài xấu xí phi thường đánh nhau ở Túy Tiên lâu trong thành Mạnh Tân, làm náo loạn cả tửu lầu.”

Nghe xong Từ Thiên Hoằng cả kinh nói:

– “Đúng là Dư thập tứ đệ rồi. Sau đó thì sao?”

Thượng Quan Nghị Sơn nói:

– “Vị huynh đệ đó được phái đi dò la nhưng chưa trở về. Đây chỉ là tin tức chuyển về, tình hình thực tế ra sao chưa rõ.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Thượng Quan đại ca tận tâm như thế, tiểu đệ cảm kích muôn phần. Để tiểu đệ giới thiệu mấy vị bằng hữu.”

Họ Từ bèn qua phòng bên mời Trần Gia Lạc, Văn Thái Lai, Lạc Băng, Chương Tấn, Chu Ỷ qua để giới thiệu làm quen. Thượng Quan Nghị Sơn vô cùng mừng rỡ. Hai bên nói vô số những lời khách sáo ngưỡng mộ.

Trần Gia Lạc nói:

– “Thập tứ đệ là người tỉ mỉ tinh tế, chắc chắn không vô cớ gây chuyện ở tửu lâu đâu. Y đánh nhau với người khác, nhất định đã gặp phải kẻ thù. Chúng ta phải mau mau đến Mạnh Tân.”

Văn Thái Lai nói:

– “Đúng thế!”

Mọi người toan đi ngay. Thượng Quan Nghị Sơn bèn nói:

– “Các vị đã đến Đồng Quan này thì tại hạ phải có phần trách nhiệm. Để tại hạ phái thêm người cùng đi với các vị.”

Trần Gia Lạc thấy Thượng Quan Nghị Sơn nặng tình nặng nghĩa, bèn không từ chối. Thượng Quan Nghị Sơn dẫn theo mấy người, cả đoàn gấp rút đi về hướng Mạnh Tân. Văn Thái Lai cưỡi con ngựa trắng chạy vượt đi trước. Đoàn người còn cách Mạnh Tân sáu chục dặm, Văn Thái Lai đã quay lại đón, nói rằng:

– “Ta đã dò hỏi ở Túy Tiên lâu. Bọn tửu bảo nói là có xảy ra chuyện đó. Người đánh nhau với Thập tứ đệ là một hào sĩ địa phương tên là Tôn Đại Thiện Nhân gì đấy, lại còn mấy tên bộ khoái của nha môn.”

Thượng Quan Nghị Sơn kinh ngạc nói:

– “Tôn Đại Thiện Nhân năm nay đã ngoại lục tuần, không biết võ công, xưa nay đối xử với người khác rất lịch thiệp, sao lại đánh nhau được?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Sau đó thì sao?”

Văn Thái Lai nói:

– “Chuyện sau đó thì bọn tửu bảo nói năng ấp úng, dường như không biết rõ ràng.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Được rồi. Chúng ta mau mau đi tới đó.”

Mọi người bèn thúc ngựa đi nhanh về phía trước. Vừa đến Mạnh Tân, Thượng Quan Nghị Sơn lập tức đi tìm ông chủ Túy Tiên lâu. Chủ quán thấy Long đầu đại ca của Long Môn bang liền thiết tiệc chiêu đãi, hoàn toàn không dám che giấu điều gì. Những chuyện y kể không khác gì Văn Thái Lai nghe được. Y còn chỉ cho thấy những vết đâm chém để lại trên lan can và vách tường, nói rằng do vụ đánh nhau hôm đó gây ra.

* * *

Nhắc lại hôm đó Ngôn Bá Càn định đâm mù cặp mắt của Dư Ngư Đồng. Ngón tay của hắn chưa thọc tới nơi, Kha Hợp Đài đã đưa tay túm lấy lưng hắn kéo ngược ra sau mấy thước. Ngôn Bá Càn vô cùng giận dữ, xoay tả chưởng đánh ra sau, trúng vào cổ tay phải Kha Hợp Đài nghe “chát” một tiếng. Kha Hợp Đài bị đau liền buông tay ra. Hai người đều nhảy lùi một bước, chuẩn bị giao đấu.

Tất Nhất Lôi vội vã chạy vào giữa, đưa đồng nhân ra cản trở mà nói:

– “Chúng ta làm bằng hữu đừng làm tổn thương hòa khí.”

Kha Hợp Đài bảo Ngôn Bá Càn:

– “Ngươi muốn trả thù thì đợi chuyện của chúng ta xong đã. Sau đó ngươi cứ đi tìm y, chúng ta không giúp bên nào. Bây giờ ngươi muốn làm bừa thì không được.”

Tất Nhất Lôi biết Kha Hợp Đài tánh tình cương trực thẳng thắn, đã nói ra điều gì thì không dễ thay đổi. Tuy hắn cũng thấy không ổn, nhưng trước mặt người khác mà huynh đệ tranh luận thì dễ bị chê cười, nên không lên tiếng gì nữa. Ngôn Bá Càn biết không thể dùng võ lực thủ thắng, bèn giận dữ thu song hoàn về, gằn giọng nói:

– “Rồi cũng có ngày ta lấy cặp mắt của hắn cho ngươi xem.”

Kha Hợp Đài nói:

– “Hay lắm! Tạm biệt nhé!”

Quan Đông Tam Ma bèn áp giải Dư Ngư Đồng đi. Ngôn Bá Càn giải khai huyệt đạo cho đệ tử, trong lòng không phục nên cứ đi theo sau.

Đến khoảng giờ tỵ, bọn Tất Nhất Lôi đến Mạnh Tân, lên tửu lâu ăn cơm. Tửu lâu này chính là Túy Tiên lâu. Tất Nhất Lôi kêu rượu và thức ăn, ngồi ăn chung với Dư Ngư Đồng. Uống được mấy chén thì có tiếng bước chân, từ dưới lầu đi lên bảy tám người bộ khoái và một ông lão ăn mặc rất sang trọng. Ông lão gọi không ít rượu và thức ăn để mời đám bộ khoái ăn uống. Bộ khoái và bọn tửu bảo đều gọi lão là “Tôn lão gia,” điệu bộ rất cung kính. Xem ra đây là một phú hào rất có thể diện ở địa phương này.

Lát sau lại có bốn người đi lên. Kha Hợp Đài đột nhiên thay đổi sắc mặt, thì ra thầy trò Ngôn Bá Càn cũng theo đến đây. Dư Ngư Đồng vờ như không thấy, thần thái vẫn rất tự nhiên, tiếp tục uống rượu.

Tất Nhất Lôi bảo Kha Hợp Đài:

– “Lão tứ, chúng ta đến đây là để trả thù cho lão tam, sao ngươi cứ bảo vệ cho kẻ thù hoài? Lão tam và các huynh đệ dưới cửu tuyền chắc chắn sẽ trách ngươi đấy.”

Kha Hợp Đài đáp:

– “Đệ có bảo vệ kẻ thù đâu. Chẳng qua đệ thấy y là hảo hán, không nỡ để người khác hành hạ y bừa bãi. Nếu điều tra ra y là kẻ thù chắc chắn đệ sẽ lấy mạng y ngay.”

Cố Kim Tiêu nói:

– “Từ đây tới Hàng Châu còn xa xôi lắm. Chúng…”

Hắn bĩu môi, liếc qua Ngôn Bá Càn một cái rồi tiếp:

– “… cứ lẳng nhẳng bám theo như âm hồn bất tán. Cho chúng moi cặp mắt của tên này là xong ngay, không thì dọc đường dễ gặp chuyện phiền.”

Kha Hợp Đài vẫn không chịu, ba người bắt đầu tranh luận. Họ Kha thế cô, mà xưa nay vẫn thường nghe lời lão đại Tất Nhất Lôi, nên cãi không lại. Y giận dữ đứng dậy nói:

– “Lão đại, lão nhị! Đệ đi trước một bước, chờ hai huynh ở Hàng Châu. Việc của người này đệ không lo nữa.”

Y bỏ dở bữa ăn, đi thẳng xuống lầu. Cố Kim Tiêu kéo lại nhưng bị y hất ra, suýt nữa té nhào. Kha Hợp Đài từ nhỏ đã quen đấu vật, chỉ vẫy tay bừa một cái mà kình lực cũng rất lợi hại.

Tất Nhất Lôi nói:

– “Lão nhị, mặc kệ nó đi. Tính tình nó bướng như trâu vậy. Ngươi phải xem chừng tên này.”

Cố Kim Tiêu rút trủy thủ ra để lên mặt bàn, khẽ nói với Dư Ngư Đồng:

– “Ngươi định chạy trốn thì ta phải đâm thủng ngươi mấy lỗ trước.”

Dư Ngư Đồng mặc kệ không đáp. Tất Nhất Lôi đứng dậy, tới bàn Ngôn Bá Càn chào hỏi. Thấy Kha Hợp Đài bỏ đi, Dư Ngư Đồng đã biết là tai họa sắp đến. Chàng thấy Ngôn Bá Càn lộ vẻ vui mừng, dĩ nhiên Tất Nhất Lôi vừa mời hắn qua móc mắt mình, lo lắng vô cùng mà không làm gì được. Đúng lúc đó, tửu bảo bưng ra một tô canh cá chép nóng hổi. Cố Kim Tiêu húp một miếng, gọi lớn:

– “Lão đại! Canh cá này ngon lắm, lại đây mà ăn.”

Dư Ngư Đồng cũng lấy thìa ra, múc một muỗng canh. Đột nhiên chàng chụp lấy cái tô, hất cả tô canh nóng hổi lên mặt Cố Kim Tiêu. Họ Cố đang khoan khoái thưởng thức mùi vị canh cá, hoàn toàn bị bất ngờ. Cả một tô canh nóng bỏng bay thẳng vào mặt, mặt mũi bỏng rát, hắn đau đớn kêu toáng lên.

Dư Ngư Đồng không để hắn định thần, hất cả cái bàn lên. Tất cả chén bát, thức ăn trút hết lên người Cố Kim Tiêu. Hắn mở mắt còn chưa được, dĩ nhiên không thể tránh né. Tất Nhất Lôi và Ngôn Bá Càn vội chạy qua cứu viện.

Dư Ngư Đồng hất đổ thêm một bàn khác để cản đường kẻ địch:

– “Tuy bây giờ ta có thể chạy thoát, nhưng chắc chắn chạy không bao xa sẽ bị bắt lại. Bây giờ chỉ còn cách tìm chỗ tránh né để đợi cứu viện. Trong thành đông đúc thế này, nơi trốn tránh ổn thỏa nhất, an toàn nhất chính là nhà giam của quan phủ.”

Tửu lâu hỗn loạn, khách uống rượu tới tấp chạy xuống lầu. Dư Ngư Đồng tung người đến trước mặt Tôn lão gia, vỗ bàn một cái, tát cho lão một phát vào mặt. Tôn lão gia thấy trước mắt sao mọc đầy trời, ngồi phệt xuống đất. Dư Ngư Đồng túm lấy râu xách bổng lão lên, kẹp chặt vào nách. Bọn bộ khoái kinh hãi vội vàng xông tới bao vây. Dư Ngư Đồng cứ ôm lấy Tôn lão gia không chịu thả, vẫy tay gọi bọn Tất Nhất Lôi:

– “Lão đại, lão nhị! Mau mau tới đây! Ta bắt được con mồi rồi, hai vị đuổi bọn ưng trảo này đi là xong.”

Đám bộ khoái nghe nói bọn thổ phỉ định bắt cóc Tôn Đại Thiện Nhân, lập tức rút đơn đao và xích sắt ra, quát lớn:

– “Bọn nào cả gan như thế?”

Rồi chúng chạy đến chỗ Tất Nhất Lôi. Dĩ nhiên mấy tên bộ khoái này chẳng đáng cho Tất Nhất Lôi quan tâm nhưng Mạnh Tân là một địa phương lớn, nếu xô xát với nha dịch thì quan binh nhất định sẽ đến ngay. Tất Nhất Lôi thầm thóa mạ Dư Ngư Đồng xảo quyệt, đành đá ngã một tên bộ khoái rồi kéo Cố Kim Tiêu phi thân xuống lầu.

Ngụy Bất Túc la lên:

– “Chúng ta là quan binh, đến đây để bắt cường đạo.”

Nhưng trong lúc hỗn loạn, không một ai nghe cho rõ được. Bành Tam Xuân lại đánh ngã một tên bộ khoái, bọn còn lại liền huýt sáo triệu tập đồng bọn. Xa xa lập tức có tiếng trống chiêng vang lên, xem ra viện binh sẽ đến ngay. Ngôn Bá Càn hét lên:

– “Bành sư đệ, mau mau chạy đi!”

Cả bốn thầy trò vội vã chạy xuống lầu. Đám bộ khoái không sao cản trở được, đành trói chặt một mình Dư Ngư Đồng. Bọn Ngôn Bá Càn chạy khỏi Mạnh Tân, tìm chỗ hoang vắng để nghỉ ngơi. Bành Tam Xuân lớn tiếng nguyền rủa Dư Ngư Đồng quỷ kế đa đoan. Ngôn Bá Càn âm trầm nói:

– “Cái nha môn Mạnh Tân nhỏ xíu không che nổi hắn đâu. Đêm nay chúng ta đi cướp ngục, bắt tên ác tặc ra đây hành hạ cho thỏa chí.”

Bành Tam Xuân sợ quan phủ, nghe nói chuyện cướp ngục không khỏi trù trừ, nhưng không dám cãi lệnh sư huynh. Đến canh ba, hai huynh đệ bịt mặt chạy về hướng nha môn Mạnh Tân. Bành Tam Xuân xịu mặt chạy sau, Ngôn Bá Càn cũng biết hắn miễn cưỡng nhưng không nói gì.

Đến gần nha môn đột nhiên có bóng người nhoáng lên, một người chạy ngang qua. Ngôn Bá Càn thấy thân thủ của y rất nhanh, bèn dặn dò sư đệ cẩn thận. Đột nhiên phía sau lại có người khẽ hỏi:

– “Ngôn huynh đó phải không?”

Ngôn Bá Càn quay lại, thấy đó là Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu bèn dừng lại bàn bạc. Tất Nhất Lôi nói:

– “Mọi người hợp sức làm việc này thì tốt hơn.”

Cố Kim Tiêu nói:

– “Chúng ta quyết không để thằng giặc thúi đó bị đao chém chết mau lẹ, phải bắt hắn đau khổ thêm một chút mới được.”

Mặt hắn đã bị tô canh nóng bỏng làm phồng rộp lên vô số bọt nước, nên hận Dư Ngư Đồng đến thấu xương. Sáu người vượt tường nhảy vào trong nhà ngục.

* * *

Trần Gia Lạc và Thượng Quan Nghị Sơn hỏi han tỉ mỉ ông chủ Túy Tiên lâu nhưng không thêm được gì, chỉ biết tú tài đó đã bị bộ khoái xích lại mang đi. Trần Gia Lạc nghe nói Dư Ngư Đồng bị bắt thì yên tâm hơn, dù phạm vào tử tội thì công văn của quan phủ cũng phải qua lại rất lâu mới xử được. Chàng cùng Thượng Quan Nghị Sơn đi bái phỏng Tôn Đại Thiện Nhân.

Tôn Đại Thiện Nhân là phú hào số một ở địa phương này, nhà cửa và tiệm cầm đồ của lão nhiều không đếm xuể. Lão thấy Thượng Quan Nghị Sơn và một công tử tự xưng họ Lục đến bái phỏng, trong lòng hoảng sợ, nghĩ bụng nếu Long Môn bang vòi vĩnh thì mình phải bỏ tiền tránh nạn. Nào ngờ Thượng Quan Nghị Sơn chỉ nói mấy câu khách sáo rồi chuyển qua hỏi việc người tú tài gây chuyện trên tửu lâu hôm ấy.

Tôn Đại Thiện Nhân càng kinh hãi hơn, liền nói:

– “Tại hạ đã lớn tuổi thế này, xưa nay không dám đắc tội với ai. Hễ gặp bằng hữu giang hồ bị thiếu hụt tiền bạc là tại hạ cố gắng giúp đỡ, tuyệt đối không dám nhỏ mọn.”

Thượng Quan Nghị Sơn nói:

– “Vị tú tài kia có quen biết với tiểu đệ. Không biết vì lý do gì mà y xung đột với Tôn lão gia?”

Tôn Đại Thiện Nhân đáp:

– “Tại hạ cũng không biết. Dường như họ muốn bắt cóc tại hạ.”

Lão bèn kể lại tình hình lúc đó một lượt.

Trần Gia Lạc thầm nghĩ:

– “Tại sao Thập tứ đệ lại hẹn người bắt cóc lão này? Bên trong chắc chắn có ẩn tình. Mấy tên bộ khoái Mạnh Tân thì làm sao bắt được Thập tứ đệ đi? Chẳng lẽ ở đây lại có cao thủ hay sao?”

Chàng bèn nói với Thượng Quan Nghị Sơn:

– “Thế thì nhờ Tôn lão gia dẫn chúng ta vào ngục xem thử.”

Tôn Đại Thiện Nhân nói:

– “Ngay đêm hôm đó, tú tài đã bị cướp ra khỏi ngục rồi. Chẳng lẽ các vị chưa biết?”

Trần Gia Lạc kinh ngạc, liếc mắt ra dấu với Thượng Quan Nghị Sơn rồi cáo từ ra về. Chàng thấy rất nhiều quan sai, bộ khoái cải trang đang bảo vệ trước sau nhà của Tôn Đại Thiện Nhân.

Thượng Quan Nghị Sơn và Trần Gia Lạc tới gặp đầu mục Long Môn bang tại Mạnh Tân, rồi sai người tới nha môn dò hỏi. Quả nhiên, tú tài đã bị cướp ra khỏi ngục ngay đêm hôm đó, mấy tên cai ngục bị đả thương. Cặp lông mày của Trần Gia Lạc chau lại, cùng Từ Thiên Hoằng suy nghĩ hơn nửa ngày mà vẫn tìm không ra đầu mối nào cả.

Sau giờ cơm tối, mọi người đi quanh nhà lao xem xét. Lạc Băng đột nhiên chỉ vào dưới chân tường nói:

– “Xem đây.”

Mọi người đều mừng rỡ, chỉ có Thượng Quan Nghị Sơn không hiểu. Từ Thiên Hoằng giải thích:

– “Đây là ký hiệu của Thập tứ đệ để lại. Y nói là bị kẻ thù truy đuổi, chạy về phía tây.”

Chương Tấn nói:

– “Kẻ thù nào? Lại là tên thiếu niên đang quấy rầy y hay sao?”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Võ công người đó không bằng Thập tứ đệ, cục diện không thể khẩn trương đến thế. Chắc chắn là chuyện khác.”

Văn Thái Lai nói:

– “Chúng ta mau mau đi về hướng tây.”

Mọi người chạy đến ngoại thành, thấy dưới một gốc cây lớn có ký hiệu vẽ loạn xạ, rõ ràng hoàn cảnh của Thập tứ đệ vô cùng nguy hiểm. Quần hùng càng nhanh chân hơn, đến một con đường lên núi lại nhìn thấy một ký hiệu khác.

Văn Thái Lai và Chương Tấn lập tức chạy lên núi. Ký hiệu vẽ dọc đường càng lúc càng khó nhìn, có lúc chỉ là thuận tay vẽ bừa một móc, một gạch. Qua mấy khúc quanh, Chương Tấn đột nhiên “hừ” một tiếng, tung người lên một cành cây nhỏ, rút một mũi tên tre ra.

Văn Thái Lai và Từ Thiên Hoằng đồng thời la lên. Hai người này rất nhiều kinh nghiệm giang hồ, kiến thức rộng rãi, đã nhận ra đây là ám khí độc môn của Ngôn gia quyền ở Thần Châu tỉnh Hồ Nam. Văn Thái Lai giận dữ nói:

– “Thì ra người truy bắt Thập tứ đệ là tên gian tặc Ngôn Bá Càn.”

Lúc này Lạc Băng lại tìm thấy mấy mũi tên tre trong một lùm cây. Chu Ỷ đột nhiên hô một tiếng nhảy tới trước. Mọi người cùng thấy vết máu vương vãi dưới đất, theo đó mà vạch một lùm cây ra, quả nhiên nhìn thấy một sơn động tối om. Sơn động này rất cạn, chỉ núp được một hai người. Ngoài động có cả một đống tên tre, cương tiêu, phi trùy, kim thoa. Rõ ràng Dư Ngư Đồng đã bị bao vây ở đây, có đánh nhau kịch liệt. Mọi người đều rất lo lắng, không biết tính mạng chàng đã ra sao.

Từ Thiên Hoằng và Văn Thái Lai nhặt ám khí lên nhìn tỉ mỉ. Cương tiêu và phi trùy là ám khí thường dùng trong võ lâm, không thể nhận ra thân phận người sử dụng. Người phóng kim thoa thì ít hơn nhưng cũng không biết là nhân vật nào. Xem ám khí thì biết tối thiểu cũng có bốn năm người tấn công Dư Ngư Đồng.

* * *

Hôm đó cả bọn sáu người Tất Nhất Lôi, Ngôn Bá Càn vượt tường vào ngục, muốn tìm ngục tốt để hỏi chỗ nhốt Dư Ngư Đồng. Tống Thiên Bảo đột nhiên vướng chân suýt té, cúi xuống nhìn thì thấy một người nằm dưới đất. Hắn liền xách người đó dậy, lấy lửa thắp lên. Thì ra đó là một tên ngục tốt, trong miệng bị nhét cái gì đó, cặp mắt cứ đảo lung tung mà không nói được lời nào. Ngôn Bá Càn bóp vào cổ hắn rồi moi vật đang nhét trong miệng ra, thì ra là hai cái khăn tay thêu hoa.

Ngôn Bá Càn khẽ hỏi:

– “Tú tài bị bắt hôm nay đang nhốt ở đâu? Nói nhanh lên! Ngươi mà la lên thì ta đâm chết ngay.”

Ngục tốt hoảng sợ run rẩy không ngớt, lắp bắp:

– “Ở nhà lao… ở nhà lao… số ba.”

Ngôn Bá Càn không thèm nhét miệng hắn lại, vận thêm kình lực vào tay bóp cho ngộp thở mà chết. Tất Nhất Lôi nói:

– “Mau mau tới đi. E rằng có người đến đây cướp ngục trước rồi.”

Cả bọn đi đến nhà lao, quả nhiên nghe thấy tiếng dũa xích. Cố Kim Tiêu đánh lửa nhìn thấy một người áo đen đang cúi xuống bên Dư Ngư Đồng, hiển nhiên là bạn bè của chàng đến cứu. Dư Ngư Đồng nhìn thấy ánh lửa, vội kêu lên:

– “Có người đến”

Người áo đen kia mặc kệ, càng dũa gấp rút hơn. Tất Nhất Lôi hỏi nhỏ:

– “Ai thế?”

Người áo đen đột nhiên nhảy chồm lên, quay người lại chĩa kiếm ra. Chiêu kiếm này vừa nhanh vừa chính xác, hàn quang vừa nhấp nháy là mũi kiếm đã đến trước mặt. Tất Nhất Lôi tuy thân thể mập mạp nhưng động tác lại cực kỳ nhanh nhạy, tay phải liền đưa đồng nhân lên đỡ kiếm.

Người áo đen bị chấn động, cổ tay đau đớn, biết đối phương sức mạnh vô cùng nên không dám ứng chiến, xoay kiếm lại đâm tới Đàm Thừa Thiên. Họ Đàm vội vã né qua, người áo đen bèn nhảy ra khỏi lao.

Cố Kim Tiêu la lên:

– “Đừng đuổi nữa, cướp người quan trọng hơn.”

Trong lúc giao đấu, bọn cai ngục đã tỉnh dậy, biết có người cướp ngục, lập tức đại loạn. Tất Nhất Lôi chặn cửa nhà lao, hét lên:

– “Anh em nhanh chóng dũa đi, ta cản ở đây.”

Ngôn Bá Càn và Cố Kim Tiêu đều lấy dũa ra, chỉ vận sức chốc lát đã dũa đựt sợi dây xích đang khóa tay chân Dư Ngư Đồng.

Ngôn Bá Càn nắm lấy mạch môn của Dư Ngư Đồng, cùng Bành Tam Xuân khiêng chàng rời khỏi nhà lao. Bọn binh sĩ, nha dịch chạy đến cản trở đều bị Tất Nhất Lôi múa đồng nhân đánh cho bị thương. Mọi người thấy hắn hung dữ không dám đến gần, chỉ đứng xa xa hò hét.

Cố Kim Tiêu đi trước mở đường. Tống Thiên Bảo, Đàm Thừa Thiên đi sau đoạn hậu, ôm lấy Dư Ngư Đồng vượt tường nhảy ra. Lúc này phía ngoài nhà lao đã có một đại đội quân sĩ canh giữ, đao thương đưa lên tua tủa bao vây cả nhóm. Cố Kim Tiêu, Ngôn Bá Càn, Bành Tam Xuân chia nhau giao chiến, lập tức đả thương mấy người. Quan binh cậy đông người, hò hét tiến lên.

Đang hỗn chiến, đột nhiên trên đầu tường có một bóng đen bay tới kế bên Dư Ngư Đồng. Đàm Thiên Thừa tiến ra ngăn cản. Người kia vung tay một cái, Đàm Thiên Thừa lập tức cảm thấy trước ngực đau nhói, hình như đã trúng ám khí gì đó. Hắn không kêu la gì được, khom người quỵ xuống, Tống Thiên Bảo ngẩn ra một chút, người kia đã kéo Dư Ngư Đồng đi.

Tống Thiên Bảo la lên:

– “Sư phụ! Hắn… hắn chạy rồi!”

Dư Ngư Đồng không vội chạy mà cúi xuống đất, gấp rút vẽ ký hiệu gì đó. Ngôn Bá Càn phóng tới, nhưng bên cạnh có một kiếm đâm tới, hắn phải đưa cương hoàn toan khóa lấy thanh kiếm đó. Kiếm pháp của người kia cực nhanh, lập tức biến chiêu.

Chưa tới hai chiêu, Dư Ngư Đồng đã lôi được một tên võ quan xuống đất rồi phi thân lên ngựa, quát lớn một tiếng xông tới trước mặt Ngôn Bá Càn. Hắn vừa né sang một bên, Dư Ngư Đồng đã kéo tay của người sử kiếm nhấc bổng y lên. Hai người cưỡi chung một ngựa chạy về hướng tây.

Lúc này Tất Nhất Lôi đã vội vã chạy ra ngoài. Thấy Dư Ngư Đồng trốn thoát, hắn vừa chửi mắng thầy trò Ngôn Bá Càn vô dụng vừa la lớn:

– “Đuổi theo.”

Bành Tam Xuân và Tống Thiên Bảo cùng xốc nách Đàm Thiên Thừa chạy theo con ngựa của Dư Ngư Đồng. Bọn này đi rất nhanh, được vài dặm đã bỏ xa quan binh lại sau lưng. Đám quan quân sai dịch thấy không sao đuổi kịp nữa, bèn kéo nhau trở về.

Đuổi nhau một hồi, công phu đã phân cao thấp. Tất Nhất Lôi chạy đầu, Cố Kim Tiêu cách hắn không xa lắm, còn Ngôn Bá Càn lùi lại phía sau, Bành Tam Xuân càng bị bỏ xa hơn nữa. Thì ra Tất Nhất Lôi tuy sống sung sướng ở Liêu Đông mà công phu vẫn không giảm, khinh công rất khá.

Đường núi ngựa đi không tiện, một ngựa chở hai người mà cũng không phải là ngựa tốt, nên Tất Nhất Lôi càng đuổi càng gần. Trong bóng tối, con ngựa bỗng bước vào một cái hố dọc đường. Chân trái nó khuỵu xuống, hất Dư Ngư Đồng ra trước.

Dư Ngư Đồng lộn một vòng, nhẹ nhàng đáp xuống. Người kia vội vã kéo dây cương, con ngựa hí lên một tiếng nhưng không đứng dậy được, xương chân của nó đã bị gãy rồi. Người kia thấy Tất Nhất Lôi đến gần bèn phi thân xuống ngựa, dắt Dư Ngư Đồng chạy đi. Được mấy bước thì thấy một hang động, hai người bèn chui vào đó. Dư Ngư Đồng cất tiếng than:

– “Lý sư muội! Muội lại cứu ta nữa rồi.”

Người mặc áo đen đó chính là Lý Nguyên Chỉ. Nàng bám theo đoàn người Hồng Hoa Hội nhưng không thấy Dư Ngư Đồng, suy nghĩ một lúc đoán được chàng đi đường thủy, nên men theo bờ sông Hoàng Hà mà hỏi thăm đến đây. Tới Mạnh Tân, nghe thấy trà quán tửu lâu nào cũng bàn tán chuyện một tú tài xấu xí bắt cóc Tôn Đại Thiện Nhân, nên giữa đêm tới đây cướp ngục. Tên ngục tốt bị bịt miệng là kiệt tác của nàng.

Lý Nguyên Chỉ cứu được Dư Ngư Đồng ra, trong lòng mừng rỡ, bèn bảo Dư Ngư Đồng nằm xuống nghỉ ngơi, còn mình canh gác nơi cửa động. Dư Ngư Đồng ngồi xuống, nhìn tấm lưng thon mà cảm khái vô cùng. Một cơn gió lạnh thổi qua, chàng thấy mỹ nhân run rẩy bèn cởi trường bào ra khoác lên người nàng. Từ khi quen biết vị đại ca này, đây là lần đầu tiên Lý Nguyên Chỉ được chàng trìu mến. Nàng không nén nổi, quay lại mỉm cười với chàng một cái, từ đầu đến chân đều cảm thấy ấm áp lạ thường.

Nàng toan mở miệng thì đột nhiên có tiếng gió rít lên. Dư Ngư Đồng thấy nàng không phát giác bèn đưa tay đón bắt ám khí. Chàng chụp được mũi tên tre, vội kêu lên:

– “Cẩn thận ám khí.”

Lời còn chưa dứt, bên ngoài lại bay vào một viên phi hoàng thạch. Dư Ngư Đồng nghiêng người né tránh rồi nghe phía ngoài có người lớn tiếng:

– “Gian tặc! Mau ra đây để lão gia khỏi phải động thủ.”

Mấy bóng đen đang tiến tới cửa động. Dư Ngư Đồng cầm đuốc tên phóng trở ra. Một người la lên đau đớn rồi nhảy lùi, thì ra Bành Tam Xuân vừa trúng phải tên.

Bọn Tất Nhất Lôi biết địch tối ta sáng nên không dám tới gần, chỉ dùng đủ loại ám khí tới tấp phóng vào động. Dư Ngư Đồng cùng Lý Nguyên Chỉ ép sang một bên, nhặt lấy phí tiêu rơi vãi dưới đất, để địch đến gần thì phóng trả.

Lý Nguyên Chỉ tựa sát người vào Dư Ngư Đồng. Tuy tình thế nguy cấp nhưng nàng lại cảm thấy đây là một cảnh giới rất đẹp mà mình chưa bao giờ gặp. Trong động thì lạnh lẽo âm u, tăm tối dơ bẩn, ngoài động thì cường địch bao vây tấn công, nhưng nàng lại cảm thấy ấm áp yên bình hơn cả buồng khuê trong đề đốc phủ.

Dư Ngư Đồng khẽ nói:

– “Làm sao chúng ta ra ngoài đây?”

Lý Nguyên Chỉ mỉm cười đáp:

– “Cần gì phải ra ngoài? Dù sao thì chúng cũng không tấn công vào đây được.”

Dư Ngư Đồng lo lắng hỏi:

– “Khi trời sáng thì sao?”

Lý Nguyên Chỉ nghe giọng chàng có vẻ lo lắng, bèn đáp:

– “Được, để muội nghĩ cách… Hừ, ám khí lại đến rồi.”

Dư Ngư Đồng vội lùi ra sau, một cây tiểu cương xoa ghim ngay dưới đất, kế bên chân chàng. Cố Kim Tiêu phóng thêm hai cây tiểu cương xoa nữa rồi múa điệp hồ xoa bảo vệ trước mặt, xông đến cửa động.

Lý Nguyên Chỉ đưa tay lên, phóng ba mũi phù dung kim châm. Loại ám khí này nhỏ xíu, trong bóng tối rất khó tránh né. Thủ pháp phát châm của nàng cũng chưa đến mức cao siêu, nên Cố Kim Tiêu phát hiện kịp thời, rụt đầu lại một cái, chỉ bị một mũi ghim vào tóc, làm trầy da đầu một chút. Đầu hắn nhói lên một cái, nghĩ rằng loại ám khí nhỏ bé này chắc phải có độc, bèn kinh hãi nhảy ra, rút kim xuống soi thử. Hắn thấy máu dính trên kim châm không phải màu đen, biết không có độc nên mới yên tâm trở lại.

Tất Nhất Lôi đón lấy kim châm, ngó qua rồi kêu lên:

– “Trên đầu của lão tam cũng chính là loại kim châm này. Thì ra hung thủ giết lão tam chính là tên tú tài gian tặc đó.”

Năm xưa Tiêu Văn Kỳ bị Lục Phi Thanh dùng kim châm đâm mù hai mắt, mấy năm sau người ta mới phát hiện thi thể hắn trong sơn cốc. Lúc đó da thịt đã tan rữa hết rồi, chỉ nhận ra nhờ binh khí và y phục. Da thịt trên mặt hắn tiêu hết, lộ ra mấy mũi kim châm dính trên xương đầu. Hôm đó Lục Phi Thanh phóng một nắm kim châm vào mặt Tiêu Văn Kỳ, đã lấy lại phần lớn nhưng những mũi đâm lút vào xương thì không sao nhổ ra được. Hàn Văn Xung viết thư đã tường thuật lại hình dạng kim châm. Nào ngờ người giết Tiêu Văn Kỳ ngày trước không phải là Dư Ngư Đồng, mà người phóng kim châm đả thương Cố Kim Tiêu ngày nay cũng không phải là Kim Địch Tú Tài nốt.

Họ Tất và họ Cố giận dữ vô cùng, nhưng lại sợ kim châm lợi hại nên không dám đến gần cửa động. Lý Nguyên Chỉ đưa mắt nhìn ra ngoài động, vừa đề phòng kẻ địch vừa nói với Dư Ngư Đồng:

– “Huynh… huynh tránh né muội hay sao? Chẳng lẽ huynh ghét muội ư?”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Lý sư muội! Muội nói vậy để làm chi? Chúng ta thoát khỏi đây rồi hãy nói.”

Lý Nguyên Chỉ im lặng hồi lâu, lại hỏi:

– “Tại sao lúc đó huynh tránh né muội?”

Dư Ngư Đồng nghe trong giọng nói có phần khổ sở nên cũng hơi động lòng, cảm thấy áy náy khó chịu. Đột nhiên nghe “vèo” một tiếng, một ngọn đuốc văng vào trước cửa động. Dư Ngư Đồng ngơ ngác, trong ánh đuốc nhìn thấy vẻ mặt của Lý Nguyên Chỉ đang oán trách mình, nước mắt giàn giụa. Khuôn mặt trái xoan hồng hào dưới ánh đuốc lại càng kiều diễm.

Lý Nguyên Chỉ la lên:

– “Chúng muốn xông khói vào đây.”

Nàng định dập tắt ngọn đuốc nhưng ám khí phóng tới rào rào, đành phải lui lại. Không ngờ nàng đoán đúng. Bọn Ngôn Bá Càn và Tống Thiên Bảo đã đem không ít cỏ tới trước cửa động, quăng vào ngọn đuốc đó. Khói nồng nặc lập tức bay lên, theo chiều gió ùa vào trong động, khiến hai người không ngừng ho hắng. Không bao lâu thì lửa tắt, nhưng khói lại càng dày đặc hơn.

Lý Nguyên Chỉ biết không thể trốn trong sơn động này được nữa, bèn bảo:

– “Huynh giữ cửa động một lát.”

Nàng đưa cho Dư Ngư Đồng thanh kiếm, rồi lùi ra sau lưng chàng

Dư Ngư Đồng nghe sau lưng mình có tiếng quần áo sột soạt, nhưng không rõ nàng đang làm gì. Chàng vừa quay đầu lại nhìn một cái, Lý Nguyên Chỉ đã la lên:

– “Huynh quay ra ngay, không được nhìn.”

Trong màn khói bay mù mịt, Dư Ngư Đồng đã kịp thấy nàng đang cởi áo ngoài, không khỏi ngạc nhiên. Bây giờ đôi mắt chàng đã bị khói xông mờ hẳn, chảy nước mắt không ngừng nhưng vẫn cố giương lên.

Lý Nguyên Chỉ bước ra lấy lại trường kiếm, ném một chiếc áo lên người chàng rồi bảo:

– “Mặc vào nhanh lên!”

Dư Ngư Đồng muốn hỏi, nhưng Lý Nguyên Chỉ hối thúc:

– “Mặc nhanh lên đi, mặc nhanh lên đi!”

Thấy Dư Ngư Đồng đã mặc xong, nàng liền giao thanh kiếm cho chàng. Khói đã bớt hẳn, rồi lại có một ngọn đuốc quăng tới. Lần này ngọn đuốc cháy mạnh, soi sáng cả một vùng sơn động. Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Chúng ta chia nhau rời khỏi đây. Huynh nhất định không được đi theo muội.”

Không đợi Dư Ngư Đồng trả lời, nàng đã ra tay xông thẳng ra ngoài. Dư Ngư Đồng kinh hãi, đưa tay muốn kéo lại nhưng không kịp.

Hồi 13: Bôn Lôi Thủ ra tay sấm sét – Tuyết liên hoa sa mạc tỏa hương

Đoàn người Trần Gia Lạc xem xét quanh sơn động, thấy dầu lửa cháy, nhưng tính mạng của Dư Ngư Đồng ra sao và chàng đi về hướng nào thì hoàn toàn không có manh mối nào cả. Văn Thái Lai ruột nóng như lửa đốt, bẻ gãy vụn mấy mũi tên đang nắm trong tay.

Lạc Băng nói:

– “Thập tứ đệ cảnh giác vô cùng, nếu đánh không lại thì nhất định tìm cách chạy trốn. Chúng ta nhờ Thượng Quan đại ca phái anh em tìm kiếm xung quanh, chắc sẽ có manh mối.”

Thượng Quan Nghị Sơn nói:

– “Văn tứ phu nhân nói đúng lắm. Chúng ta lập tức trở về đi.”

Mọi người lập tức trở về Mạnh Tân. Thượng Quan Nghị Sơn phái hầu hết huynh đệ đắc lực của Lương Môn bang ra ngoài, dặn nếu phát hiện ai lạ mặt khả nghi lập tức trở về báo cáo.

Đến canh một, mọi người đều khuyên Văn Thái Lai nghỉ ngơi. Từ Thiên Hoằng nói:

– “Tứ ca! Huynh không ăn không ngủ, nếu cần đi cứu Thập tứ đệ thì làm sao có đủ tinh thần đối phó với kẻ địch?”

Văn Thái Lai chau mày nói:

– “Làm sao ta ngủ được.”

Lát sau, Thượng Quan Nghị Sơn vào phòng lắc đầu nói:

– “Không có tin tức gì.”

Từ Thiên Hoằng hỏi:

– “Mấy hôm nay trong thành này có chuyện gì đặc biệt không?”

Thượng Quan Nghị Sơn suy nghĩ một lúc rồi nói:

– “Chỉ nghe nói Bảo Tướng tự ở tây thành có người tới quấy rối ồn ào, còn dọa phóng hỏa thiêu đốt chùa chiền. Ta nghĩ chuyện này không liên quan gì đến Thập tứ gia đâu.”

Mọi người đều nghĩ hòa thượng gây gổ với lưu manh là chuyện tầm thường, đúng là không liên quan đến Dư Ngư Đồng. Họ lại bàn chuyện hôm sau chia nhau tìm kiếm.

Văn Thái Lai nằm trằn trọc trên giường, nghĩ đến Dư Ngư Đồng mấy phen nghĩa khí xả thân cứu mạng mình, máu nóng nổi lên không sao ngủ được. Thấy Lạc Băng nằm bên đã ngủ rất say, chàng bèn lẻn ngồi dậy, mở cửa sổ nhảy ra ngoài phòng, nghĩ bụng:

– “Nằm trong phòng mà ngủ không được, chỉ tổ nóng ruột. Ta thử xem xét một vòng còn tốt hơn.”

Chàng thi triển khinh công chạy ngoài đường phố, chưa đến nửa giờ đã dạo hết một vòng đông tây nam bắc thị trấn Mạnh Tân, thần trí đã có phần thư thái. Đột nhiên chàng thấy bóng đen nháy động, một người chạy về hướng tây. Văn Thái Lai trấn tĩnh tinh thần, lập tức đề khí đuổi theo.

Người kia chạy một lúc, rồi khẽ vỗ tay một cái. Xa xa có mấy người vỗ tay trả lời. Văn Thái Lai thấy đối phương đông người, cứ âm thầm theo dõi phía sau. Người kia vẫn chạy về hướng tây, chỉ một lát là ra ngoại thành, địa thế bốn bề trống trải. Văn Thái Lai sợ bị phát giác nên giữ khoảng cách xa hơn.

Đi được bảy tám dặm, người kia chạy lên một ngọn đồi. Văn Thái Lai cũng theo lên. Chàng thấy trên đỉnh đồi có một tòa nhà, đoán rằng người kia nhất định đi đến đó, nên không đuổi theo nữa mà rút mình vào nấp trong lùm cây. Khi ngẩng đầu lên nhìn, chàng không nén nổi thất vọng. Thì ra căn nhà đó là một ngôi miếu cổ. Dưới mái ngói có một tấm biển ghi ba chữ rất lớn, trời sáng mờ mờ vẫn có thể đọc được:

– “Bảo Tướng tự.”

Văn Thái Lai kêu thầm:

– “Xúi quẩy thật! Theo dõi mất nửa ngày trời, thì ra bọn lưu manh làm khó dễ đám hòa thượng trong chùa này.”

Chàng lại nghĩ:

– “Mình đã đến đây rồi thì cứ vào xem thử ai phải ai trái. Nếu có bên nào cậy sức ăn hiếp kẻ yếu, ta sẽ ra tay xử lý một phen để trút bớt bực dọc mấy hôm nay.”

Chàng bèn đi đến ngôi chùa, vượt tường nhảy vào bên trong. Từ cửa sổ phía đông nhìn vào đại điện, thấy một hòa thượng đang quì trên bồ đoàn lạy phật. Lát sau, hòa thượng đó từ từ đứng dậy, quay đầu lại. Văn Thái Lai vừa nhìn thấy mặt, bất giác vừa kinh hãi vừa mừng rỡ.

* * *

Nhắc lại hôm đó bọn Tất Nhất Lôi thấy một người che mặt khoác trường bào từ trong ánh lửa bước ra, liền chạy đến ngăn cản. Người ấy hét lên:

– “Kim Địch Tú Tài đây, các ngươi dám đuổi theo không?”

Cả ba người họ Tất, họ Cố, họ Ngôn đều muốn bắt được chàng mới cam lòng, nên bỏ mặc người áo đen còn trong động mà gấp rút đuổi theo. Bộ pháp của Tất Nhất Lôi nhanh nhất, chớp nhoáng đã phóng đến sau lưng người bịt mặt, vung độc cước đồng nhân xuất chiêu Độc Long Xuất Động đánh tới. Người kia nhảy tới một bước, quay đầu lại, đưa tay lên. Tất Nhất Lôi vội vã lùi ra, sợ kim châm lợi hại.

Thật ra đó là Lý Nguyên Chỉ. Nàng mặc trường bào của Dư Ngư Đồng, cố ý dụ địch rời khỏi để họ Dư thoát hiểm. Trong tay nàng nắm sẵn kim châm, đợi địch thủ đến gần liền phát châm cản trở. Họ Tất và họ Cố đã biết Tiêu Văn Kỳ võ công không tệ mà cũng bỏ mạng dưới loại kim châm này, nên trong đêm không dám áp tới gần, chỉ xa xa mà đuổi.

Đuổi nhau về thị trấn Mạnh Tân thì trời đã hơi sáng. Lý Nguyên Chỉ nhìn thấy một khách điếm đang mở cửa, liền chạy vào trong. Tiểu nhị giật mình hoảng sợ, vừa mở miệng muốn hỏi thì Lý Nguyên Chỉ nhét ngay một thỏi bạc vào tay, bảo:

– “Tìm cho ta một căn phòng.”

Tiểu nhị thấy thỏi bạc trong tay mình phải tới ba bốn lạng nên không hỏi nhiều nữa, dẫn nàng vào một căn phòng trống ở phía đông. Lý Nguyên Chỉ lại nói:

– “Ngoài kia có mấy tên chủ nợ đang đuổi theo ta đòi nợ, ngươi đừng nói ta ở đây. Ta chỉ trú một đêm, chỗ tiền thừa tặng hết cho ngươi.”

Tiểu nhị cả mừng đáp:

– “Đại gia cứ yên tâm, tiểu nhân là chuyên gia về môn đuổi chủ nợ đi.”

Hắn dẫn nàng vào phòng rồi lại chạy ra cửa.

Bọn Tất Nhất Lôi xông vào khách điếm mà hỏi:

– “Người tú tài vừa vào đây đi đâu rồi? Bọn ta tìm hắn có việc.”

Tiểu nhị hỏi:

– “Tú tài nào?”

Ngôn Bá Càn nói:

– “Người mới vào trong này đó.”

Tiểu nhị cười đáp:

– “Mới sáng sớm làm gì có ai vào đây? Hay là lão gia hoa mắt rồi? Vương gia tể tướng thì ở đây có mấy người, còn tú tài thì không có.”

Cố Kim Tiêu giận dữ đưa tay muốn đánh. Tất Nhất Lôi kéo hắn lại, khẽ bảo:

– “Đêm qua chúng ta vừa cướp ngục, bây giờ nhất định đang bị truy lùng, đừng gây chuyện nữa.”

Ngôn Bá Càn gằn giọng quát tên tiểu nhị:

– “Được. Chúng ta đi lục từng căn phòng một, nếu tìm ra thì ngươi sẽ biết tay.”

Tiểu nhị nói:

– “Úi chà! Lão gia hung hăng thế này, chẳng lẽ là vương thân quốc thích hay sao?”

Lúc này chưởng quỹ cũng tới hỏi han. Tất Nhất Lôi mặc kệ hắn, gạt tên tiểu nhị qua một bên rồi chạy lên dãy phòng phía bắc. “Binh” một tiếng, hắn đá một cánh cửa tung ra. Trong phòng có một gã mập giật mình kinh hãi, trần truồng từ trong chăn nhảy ra. Gã mập kia buông ra một tràng những câu thô lỗ tục tĩu, cả mười tám đời tổ tông của Tất Nhất Lôi đều bị thóa mạ thậm tệ.

Khách điếm đang đại loạn, đột nhiên một cửa phòng ở phía đông xịch mở, một nữ nhân đẹp đẽ bước ra ngoài. Ngôn Bá Càn quay lại nhìn một cái, thấy cô gái này xinh đẹp phi thường nhưng không phải người mình muốn tìm, lại tiếp tục tìm từng phòng một.

Lý Nguyên Chỉ đã đổi lại y phục nữ nhân, mỉm cười ung dung ra khỏi khách điếm. Nàng vừa ra ngoài đường đã thấy một đoàn bộ khoái, quan nha ào ào chạy tới. Thì ra chưởng quỹ của khách điếm đã đi báo cho công sai đến đây bắt người.

* * *

Dư Ngư Đồng thấy kình địch đã bị dụ đi, bèn cầm kiếm đi ra khỏi động. Ba tên Bành Tam Xuân, Tống Thiên Bảo, Đàm Thiên Thừa xông tới hợp công, nhưng Dư Ngư Đồng thi triển Nhu Vân kiếm thuật. Chỉ ba bốn chiêu đã đâm trúng cánh tay trái của Đàm Thiên Thừa vốn đã bị thương, rồi nhân chỗ trống chạy ào ra ngoài.

Tam tiết côn của Bành Tam Xuân quét sát dưới đất. Dư Ngư Đồng tung người lên cho côn lướt qua dưới chân. Đột nhiên chàng “úi chà” một tiếng, ngã nhào ra trước. Bành Tam Xuân và Tống Thiên Bảo cả mừng phóng tới, tin rằng đã bắt được địch thủ. Không ngờ họ Dư đột nhiên quay người lại, tay trái vung lên, ném một nắm tro vào mặt chúng.

Hai tên Tống, Bành lập tức dính đầy mặt cát bụi và tro than, chính là tro do chúng vừa đốt cỏ. Bành Tam Xuân lăn dưới đất mấy vòng. Tống Thiên Bảo đứng yên đó, quơ hai tay loạn xạ lên mặt. Dư Ngư Đồng phóng kiếm đâm vào chân trái của hắn một nhát, rồi quay người chạy đi ngay.

Bành Tam Xuân chùi hết đất trong mắt, chỉ còn thấy hai tên sư điệt đau đớn nhào lăn dưới đất, đứa gọi ông bà đứa kêu cha mẹ, còn địch thủ thì không biết đã biến đâu rồi. Họ Bành vừa tức giận vừa hổ thẹn, băng bó lại vết thương cho chúng, bảo chúng tạm thời nghỉ ngơi trong sơn động, còn mình thì đi truy tìm tiếp.

Bành Tam Xuân theo đường núi đi được bảy tám dặm thì gặp Ngôn Bá Càn, Tất Nhất Lôi, Cố Kim Tiêu, Kha Hợp Đài (đã cùng đi), lại còn một người không quen biết. Người này khoảng bốn mươi tuổi, sau lưng cài một cây Thiết tỳ bà, bước chân rất nhanh nhẹn, xem ra võ công không thấp.

Ngôn Bá Càn thấy sư đệ nhìn ngang liếc dọc thần sắc bối rối, liền tới hỏi chuyện. Bành Tam Xuân hổ thẹn kể lại. May mà bọn Tất Nhất Lôi cũng không được tích sự gì, nên hai bên hòa nhau, quả là nửa cân tám lạng.

Trở về sơn động, Ngôn Bá Càn giới thiệu với Bành Tam Xuân người đeo thiết tỳ bà chính là Hàn Văn Xung. Ở Hàn Châu hắn bị Hồng Hoa Hội trêu ghẹo đến mức khóc cười đều không được, mất hết ý chí. Vương Như Dương gọi hắn trở về Trấn Viễn tiêu cục làm việc, nhưng nói sao thì nói hắn cũng không chịu, lại khuyên tổng tiêu đầu về hưu cho sớm.

Vương Như Dương tỉ đấu với Trương Triệu Trọng trên Sư Tử phong, đúng là từ cõi chết trở về. Từ giờ trở đi, lão giúp cho Hồng Hoa Hội thì không dám, mà chống đối Hồng Hoa Hội cũng không được, tiến thoái lưỡng nan. Nghe Hàn Văn Xung khuyên bảo, lão bèn khen “Đúng thế, đúng thế!” rồi đi về phương bắc, thu dọn đóng cửa tiêu cục.

Hàn Văn Xung trở về Lạc Dương, tưởng là rút khỏi giang hồ, phong đao quy ẩn, nào ngờ dọc đường lại gặp Kha Hợp Đài đang trên đường đến Hàng Châu tìm hắn. Hắn không muốn gặp bằng hữu võ lâm nữa, bèn cúi đầu giả lơ không thấy. Nhưng cây thiết tỳ bà trên lưng hắn lại đập vào mắt người ta nên không thể tránh né được, bị Kha Hợp Đài nhận ra.

Hai người tìm chỗ trò chuyện. Hàn Văn Xung kể tỉ mỉ về Tiêu Văn Kỳ và Diêm thị song ma. Kha Hợp Đài mới biết Kim Địch Tú Tài và Hồng Hoa Hội không phải là kẻ thù. Kha Hợp Đài có thiện cảm với Dư Ngư Đồng, bèn rủ Hàn Văn Xung đi cứu chàng. Họ Hàn không muốn quay lại vòng luẩn quẩn thị phi của giang hồ nữa, nhưng Kha Hợp Đài nói là hắn phải đi giải thích thì hai người họ Tất và Cố mới thôi làm khó dễ Dư Ngư Đồng. Lỡ họ Dư mất mạng thì Hồng Hoa Hội sẽ truy cứu trả thì, khi ấy Hàn Văn Xung cũng khó lòng tránh khỏi trách nhiệm.

Hàn Văn Xung thấy chuyện đó có lý, nên hai người cùng đến Mạnh Tân, rồi gặp bọn Tất Nhất Lôi đang chạy trốn sau khi đánh đuổi quan sai ra khỏi nhà trọ. Năm người hợp lại, quay về tìm người áo đen còn trong sơn động.

* * *

Sau khi Dư Ngư Đồng thoát hiểm, chàng cứ nghĩ ba địch thủ võ công khá nhất đều đuổi theo Lý Nguyên Chỉ, nàng là phận nữ nhi thì làm sao chống đỡ nổi, vô cùng lo lắng. Dọc đường chàng không ngừng tìm kiếm, nhưng không thấy bóng dáng Lý Nguyên Chỉ ở đâu. Đến ngoài thành Mạnh Tân, chàng cũng biết rất nhiều người trong nha môn có thể nhận ra mình, bèn đợi đến nửa đêm mới tìm một khách điếm nhỏ tá túc.

Đêm đó chàng không ngủ được, trong lòng mãi tự trách mình vô tình. Lý Nguyên Chỉ đã hai lần cứu mình, thế mà cả trước mắt lẫn trong lòng mình hoàn toàn chỉ có hình bóng, thanh âm, nụ cười của Lạc Băng. Từ xa vang đến tiếng mõ lóc cóc đổi canh, thì ra đã đến canh hai rồi.

Đang định trùm mền nhắm mắt mà ngủ, đột nhiên nghe thấy tiếng “tinh tang,” phòng bên có người khẽ gãy tỳ bà. Dư Ngư Đồng cũng hiểu âm luật, bèn lắng tai nghe. Tiếng đàn tỳ bà dịu dàng uyển chuyển làm động lòng người, rồi sau đó lại có giọng nữ nhân nhẹ nhàng ca hát:

– “Đa tình chỉ tổ đa sầu, đa tình chỉ tổ đa ưu, ưu sầu cam tâm nhận lấy, ai bảo mình phong lưu.”

Chàng nghe câu “đa tình thì tổ đa ưu” mà động lòng, không khỏi ngẩn ngơ một lúc. Lát sau tiếng ca ở phòng bên nhỏ lại nghe không rõ nữa, chỉ loáng thoáng nghe được mấy chữ:

– “Mỹ nhân như hoa như ngọc, một mai cát bụi mà thôi.”

Dư Ngư Đồng bất giác rơi nước mắt, rồi đột nhiên la lớn một tiếng, nhảy qua cửa sổ ra ngoài. Chàng chạy như điên như cuồng trong vùng hoang dã, rồi bước chân từ từ chậm lại. Câu hát “Mỹ nhân như hoa như ngọc, một mai cát bụi mà thôi.” vẫn còn văng vẳng bên taikhông chịu tan đi. Chàng nghĩ đến Lạc Băng, Lý Nguyên Chỉ, bây giờ vẫn lá ánh mắt trong veo lay động lòng người, răng trắng như ngọc kiều mỵ vô song, nhưng trăm năm sau chẳng lẽ không trở thành một đống xương? Bây giờ mình vì hai nữ nhân ấy mà lo âu thương cảm, một trăm năm sau nghĩ lại có tức cười không?

Nghĩ đến đó, chàng không khỏi mơ hồ, cúi đầu mà đi bừa bãi. Nhìn thấy dưới chân núi có một gốc cây lớn, tán cây rất rộng, chàng liền tới ngồi nghĩ dưới gốc cây. Mấy ngày trời bôn ba khắp chốn, vừa mệt mỏi vừa kinh hãi, bây giờ chàng kiệt lực rồi, bèn dựa vào thân cây, chốc lát đã ngủ thiếp đi.

Trong cơn mơ, Dư Ngư Đồng bỗng nghe thấy tiếng chuông “binh boong,” lập tức giật mình thức dậy. Chàng đưa tay định rút cây kim địch bên mình mà không được, nhớ lại đã bị Cố Kim Tiêu cướp mất lâu rồi, bất giác ngẩn ngơ một lúc. Bây giờ trời đã sáng, tiếng chuông thánh thót ngân dài từ xa vọng đến. Chàng nghĩ được khá lâu, tinh thần đã hồi phục, thầm nghĩ:

– “Tiếng chuông triệu mộ thật sự khiến cho người ta sảng khoái,” bèn cất bước đi về hướng phát ra tiếng chuông. Thì ra đó là một ngôi chùa trên đỉnh đồi.

Chàng cứ theo đường mòn trèo lên đồi, thấy ngôi chùa này cũ kỹ xiêu vẹo, trên biển viết ba chữ rất lớn:

– “Bảo Tướng tự.”

Vào trong đại điện, thấy trên điện có một pho tượng phật cúi đầu, hình như đang thương xót cho nỗi sầu bi khổ não vô tận của loài người. Trong lòng chàng vô cùng cảm khái, lại xem những bức họa treo đầy bốn bức tường. Đang xem thì một lão hòa thượng bước ra, chấp tay vấn an rồi hỏi:

– “Cư sĩ đến tiểu tự này có việc gì không?”

Dư Ngư Đồng đáp:

– “Tại hạ du ngoạn khắp nơi, thấy bảo tháp này thanh nhã nên muốn ở tạm mấy ngày, xin gởi chút tiền nhang khói. Không biết có quấy rầy hay không?”

Lão tăng nói:

– “Tiểu tự vốn do thập phương bố thí mà dựng lên, thập phương cần ở thì cứ ở. Xin mời cư sĩ vào.”

Rồi lão lệnh cho tri khách tăng dẫn Dư Ngư Đồng vào phòng khách, dọn bát mì chay. Dư Ngư Đồng ăn mì rồi ngủ thêm hai giờ nữa, khi tỉnh dậy thì nằng chói chang khung cửa sổ, đã là giờ ngọ. Trong điện phật vọng đến tiếng gõ mõ. Chàng ra khỏi phòng, định xuống núi đi tìm Lý Nguyên Chỉ. Đi ngang chánh điện, chàng nhìn thấy bích họa bèn dừng lại để xem. Trong tranh có vẽ sự tích xuất gia của tám vị cao tăng. Một bức có đề từ, kể rằng một vị đại giác đại ngộ nhờ nghe một câu ca trên tửu lầu. Dư Ngư Đồng không nhìn tiếp nữa, nhắm mắt lại suy nghĩ:

– “Đó là câu ca nào? Sao lại có sức lực đến thế?”

Chàng mở mắt ra xem tiếp, thấy trong tranh ghi bảy chữ:

– “Nhĩ ký vô tâm ngã tiện hưu,” người đã vô tâm ta phải thôi. Bảy chữ này như một cái búa gõ trúng đỉnh đầu, trong tai chàng vang lên tiếng “ù ù,” lập tức ngẩn ra đứng đó.

Chàng cứ ngẩn ngơ mà bước vào phòng, trong miệng nhẩm đi nhẩm lại:

– “Nhĩ ký vô tâm ngã tiện hưu”

Đầu óc lúc như ngộ đạo, lúc lại mơ hồ mù mịt, cả ngày hôm đó điên khùng không ăn không uống. Tri khách tăng đến thăm mấy lần, nghĩ rằng chàng bị bệnh nên khuyên đi nghỉ sớm.

Dư Ngư Đồng nằm trên giường nghe tiếng gió vi vu như tiếng sóng trong rừng thông, trong lòng cũng như có tiếng sóng nổi dậy không ngừng. Quá khứ hai mươi ba năm trời hiện lại trong lòng từng màn một. Thi đậu tú tài, hành thích kẻ thù, bôn tẩu giang hồ, hành hiệp trượng nghĩa, trải qua không biết bao nhiêu nguy hiểm mà lúc nào cũng vô tư lự, tiêu diêu tự tạo. Nào ngờ một hôm ở tổng đà bên Thái Hồ gặp phải oan gia kiếp trước, từ đó không sao buông bỏ được, khổ não vô cùng. Lạc Băng đối với mình đã có chút xíu tình ý gì đâu? Người đã vô tâm thì ta phải thôi, nhưng làm sao mà thôi, làm sao mà bỏ được? Trong lòng cực kỳ phiền não, chàng ngồi dậy thắp đèn, thấy trên bàn có một cuốn kinh sách. Đó là Tứ Thập Nhị Chương Kinh, quyển kinh đầu tiên từ Thiên Trúc truyền sang Trung Quốc.

Dư Ngư Đồng thuận tay lật ra, đọc một câu chuyện trong kinh. Câu chuyện này kể lại thiên thần phụng hiển một ngọc nữ diễm lệ vô cùng cho đức phật. Đức phật nói:

– “Chỉ là một đám máu thịt ô uế bọc trong túi da”

Đọc đến đây, chàng như bị trúng một quyền rất nặng, mất cả thần trí, hồi lâu mới tỉnh tái lại. Chàng nghĩ:

– “Tại sao ta có thể chấp trước mê muội đến thế?”

Chàng không suy tính gì nữa, lập tức chạy ra ngoài đánh thức lão hòa thượng, cầu xin tế độ cho mình. Lão tăng khuyên ngăn nhiều lần, nhưng tâm ý của Dư Ngư Đồng đã quyết, không sao thuyết phục được. Sáng sớm hôm sau, lão bèn tập hợp hết tăng chúng đến trước tượng phật, xuống tóc cho chàng, dạy về giới luật, đặt pháp danh là Không Sắc.

Dư Ngư Đồng cứ lễ phật tụng kinh, sống được vài ngày thanh tịnh. Một hôm chàng đang quì trước tượng phật làm công phu khuya, mặc niệm “Ngã phật từ bi, phổ độ chúng sanh,” trong lòng thanh thoát sáng suốt như không nhiễm hạt bụi trần nào, thì đột nhiên nghe thấy sau lưng có người nói tiếng lóng kiểu giang hồ:

– “Quanh vùng Mạnh Tân ta đã tìm nát rồi, không còn chỗ nào trốn được. Không hiểu thằng lỏi đó chui vào xó nào?”

Dư Ngư Đồng kinh hãi vì thanh âm này rất quen thuộc. Lại nghe một người khác âm trầm nói:

– “Dù phải lật ngược cả thị trấn Mạnh Tân, ta cũng phải tìm được tên tiểu tặc đó.”

Dư Ngư Đồng nghiến chặt răng, thầm nghĩ:

– “Hay lắm! Các ngươi rốt cuộc cũng tìm đến đây rồi.”

Thì ra bọn Tất Nhất Lôi và Ngôn Bá Càn đang đứng sau lưng chàng.

Chàng hoàn toàn không động đậy, cố gắng lắng nghe Kha Hợp Đài và Tất Nhất Lôi đứng sau lưng mình cãi nhau kịch liệt. Kha Hợp Đài thì muốn lập tức khởi hành đi đến Hồi Cương tìm Hoắc Thanh Đồng để trả thù. Tất Nhất Lôi không chịu, đòi tìm cho ra Dư Ngư Đồng trước đã.

Lát sau Ngôn Bá Càn hỏi trụ trì:

– “Có tú tài xấu xí nào đến chùa này hay không?”

Trụ trì ngơ ngác ứ à không rõ. Ngôn Bá Càn nổi dạ nghi ngờ, liền vào hậu viện xem xét từng căn phòng một. Hắn tìm thấy cái áo đen của Lý Nguyên Chỉ, lập tức thay đổi sắc mặt quay lại chất vấn.

Trụ trì nói:

– “Vị tú tài đó từ lâu không còn ở đây. Các vị vĩnh viễn không thể gặp y nữa.”

Dư Ngư Đồng đứng dậy, vừa gõ mõ vừa từ từ đi vào hậu viện. Ngôn Bá Càn nghi ngờ, hất đầu với Tống Thiên Bảo một cái. Tống Thiên Bảo hiểu ý, bèn đi theo sau mà gọi:

– “Này! Hòa thượng kia, ta có chuyện muốn hỏi.”

Dư Ngư Đồng mặc kệ, chân bước càng nhanh hơn. Tống Thiên Bảo đuổi theo, đưa tay túm lấy vai chàng. Dư Ngư Đồng nghiêng người một chút, hất tay áo bên trái lên che hết mặt mình. Tống Thiên Bảo vội vã lùi ra, nhưng bỗng cảm thấy dưới nách đau đớn không chịu nổi, thì ra đã bị cây dùi gõ mõ đánh trúng một đòn rất nặng. Hắn la lên:

– “Úi chà! Đau quá!” rồi ngồi phệt xuống đất.

Dư Ngư Đồng vẫn tiếp tục niệm phật:

– “A di đà phật! Đau tức thị không đau, không đau tức thị đau.”

Chàng tiếp tục vừa gõ mõ vừa đi vào hậu viện.

Bọn Ngôn Bá Càn nghe tiếng mõ “cóc cóc” xa dần, lại không thấy Tống Thiên Bảo trở về, liền bỏ sư trụ trì lại đó, chạy ra sau điện. Thấy họ Tống ngồi dưới đất, vẻ mặt sầu bi khổ não ôm lấy nách mình, Bành Tam Xuân hét lên:

– “Ngồi đó làm gì? Hòa thượng kia đâu?”

Tống Thiên Bảo không nói được tiếng nào, mồ hôi đầy đầu, chỉ tay một cái. Bành Tam Xuân và Cố Kim Tiêu chạy về phía sau, nhưng chỉ thấy một người đầu bếp chứ hoàn toàn không có ai khác.

Ngôn Bá Càn kéo Tống Thiên Bảo dậy, nhìn vết thương dưới nách hắn chỉ thấy một mảng thâm đen, thật sự không nhẹ. Họ Ngôn liền hỏi:

– “Hòa thượng kia đả thương ngươi phải không?”

Tống Thiên Bảo gật đầu. Ngôn Bá Càn lại hỏi:

– “Hòa thượng đó mặt mũi thế nào?”

Tống Thiên Bảo ấp úng không nói được gì vì hắn chưa nhìn được mặt đối phương.

Lúc này Tất Nhất Lôi đã kéo sư trụ trì vào trong, thấy tay chân lão mềm yếu rõ ràng không hiểu võ công. Hắn quát hỏi:

– “Hòa thượng vừa rồi từ đâu mà đến?”

Nhà sư đáp:

– “Ông ấy là một hòa thượng từ nơi khác đến đây ngoạn cảnh, bần tăng không hiểu lai lịch.”

Tất Nhất Lôi tuy nghi ngờ, nhưng tra hỏi nửa ngày vẫn không được gì nên đành phải thôi. Ngôn Bá Càn dọa phóng hỏa đốt chùa, nhưng sư trụ trì rất có chí khí, hoàn toàn không sợ hãi.

Tất Nhất Lôi nháy mắt một cái, cả đám bỏ ra khỏi chùa. Hắn nói:

– “Ngôi chùa này có chỗ kỳ lạ, đêm nay chúng ta đến dò xét tiếp.”

Chúng đến vùng quê quanh chùa để mua thức ăn, đợi đến đêm vượt tường vào chùa khám xét. Lục soát hơn một giờ mà vẫn không thấy động tĩnh gì. Ngày hôm sau Hàn Văn Xung cố hết sức khuyên mọi người đừng gây thù oán với Hồng Hoa Hội. Kha Hợp Đài cũng la lên:

– “Phải đến Hồi Cương để tìm Hoắc Thanh Đồng.”

Cố Kim Tiêu thì nhớ đến mối hận bị tạt tô canh sôi vào mặt, nên lại vào chùa cãi nhau với trụ trì một hồi, rồi nói với Kha Hợp Đài:

– “Nếu đêm nay không tìm được tên hòa thượng ác ôn kia, sáng mai ta sẽ đi theo ngươi.”

Mấy bóng đen mà Văn Thái Lai nhìn thấy đêm đó chính là bọn Tất Nhất Lôi, Ngôn Bá Càn.

* * *

Hòa thượng kia quay đầu lại, Văn Thái Lai thấy mặt đầy vết bỏng, đúng là Thập tứ đệ Dư Ngư Đồng. Chàng vừa ngạc nhiên vừa vui vẻ muôn phần, trong lòng tự hỏi:

– “Sao Thập tứ đệ lại trốn ở đây? Sao đã là hòa thượng?”

Chàng tạm thời không chào hỏi, né sang một bên xem động tĩnh thế nào. Đúng lúc đó, cửa chánh điện bị xô ngã “rầm” một tiếng, bảy tám người xông vào trong. Trong đó Văn Thái Lai chỉ biết một người là Ngôn Bá Càn, tên này đã từng bắt mình ở Thiết Đảm trang. Về sau ở Dương Châu lại hành hạ sỉ nhục mình vô kể. Chàng gặp kẻ thù, cơn giận nổi lên, thầm nghĩ:

– “Bồ tát hiển linh! Thế là hôm nay tên àc tặc này lọt vào tay ta.”

Bọn Tất Nhất Lôi chạy vào đại điện, cảm đám cầm binh khí vây quanh Dư Ngư Đồng. Không ngờ chàng cứ quì trước tượng phật, không đếm xỉa gì đến chúng, vẫn chắp tay mà khấn:

– “Đệ tử tội nghiệt nặng nề, dẫn dụ tà ma ngoại đạo đến quấy rầy phật địa thanh tịnh. Ngã phật từ bi!”

Mọi người thấy chàng như thế, ai cũng vô cùng kinh ngạc. Ngôn Bá Càn nắm lấy cánh tay phải của chàng, quát:

– “Làm trò khỉ gì thế? Đi theo chúng ta nhanh lên.”

Sư trụ trì và chúng tăng trong chùa đã nghe tiếng chạy tới. Họ thấy bọn này tay cầm binh khí sáng loáng trông như hung thần ác sát, đều trốn sau điện không dám bước ra. Dư Ngư Đồng hoàn toàn không chống cự, đi theo Ngôn Bá Càn. Đàm Thiên Thừa chen lên phía trước, đẩy cửa điện ra.

Không ngờ có một người im lặng đứng ngay trước cửa. Cả bọn bất ngờ, đều lùi một bước. Người kia mặc y phục toàn màu xám, lưng thắt dây vải, trợn tròn cặp mắt, oai phong như hổ.

Ngôn Bá Càn nhận ra Văn Thái Lai lại càng đặc biệt kinh hãi. Hắn chưa biết chuyện chàng vượt ngục, bèn hét lên:

– “Ngươi… ngươi là…”

Nói còn chưa xong, Văn Thái Lai đã đánh vào cổ tay của Ngôn Bá Càn. Chiêu này nhanh vô tưởng, họ Ngôn không kịp chống đỡ, vội vàng co tay nhảy lùi ra, nhưng cổ tay đã bị điểm trúng. Dư Ngư Đồng cũng bị kéo lùi về phía sau. Ngôn Bá Càn lùi hai bước mới cảm thấy cổ tay đau đớn kịch liệt, dường như xương đã gãy thành mấy khúc.

Bọn người Tất Nhất Lôi chưa từng gặp Văn Thái Lai, nhưng thấy thủ pháp chàng nhanh đến kỳ lạ đều không nén nổi kinh tâm động phách. Tất Nhất Lôi nắm lấy đồng nhân đứng ngay trước cửa, thầm nghĩ:

– “Chúng ta có tới tám người, năm là hảo thủ bậc nhất giang hồ. Đối phương lợi hại tới đâu cũng không địch nổi số đông.”

Hắn đứng chặn cửa, đề phòng địch nhân chạy thoát.

Văn Thái Lai kéo tay Dư Ngư Đồng, hai người cùng nhảy sang bên trái của chánh điện. Dư Ngư Đồng la lên:

– “Tứ ca, huynh…”

Văn Thái Lai hỏi:

– “Đệ có việc gì hay sao?”

Dư Ngư Đồng đáp:

– “Không có.”

Dương Thành Hiệp nói:

– “Thế thì hay lắm. Hôm nay huynh đệ chúng ta phải đánh một trận cho thỏa thích.”

Dư Ngư Đồng chưa kịp trả lời, Tống Thiên Bảo và Đàm Thiên Thừa đã cầm binh khí phóng tới. Văn Thái Lai nhìn thấy thân pháp, biết hai tên này là người ở Ngôn gia quyền phủ Thần Châu.

Văn Thái Lai vốn coi kẻ ác như kẻ thù, mấy tháng nay lại gặp lắm chuyện uất ức cả đời chưa thấy, nên bây giờ hạ thủ không dung tình nữa. Chàng vừa nhún người một cái đã ra đến sau lưng hai tên Tống, Đàm. Binh khí chúng chưa đánh xuống, địch thủ đột nhiên biến mất. Chúng chưa kịp thu chiêu xoay lại, sau gáy đã bị túm chặt.

Bành Tam Xuân đứng gần đó nhất, vung tam tiết côn ra chiêu Độc Xà Xuất Động đánh vào sau lưng Văn Thái Lai. Họ Văn hai tay nắm hai người, đột nhiên quay lại xách cổ chúng lên quay một vòng, quát lên một tiếng như sấm nổ lúc trời quang. Bành Tam Xuân giật mình, buông tam tiết côn rơi loảng xoảng xuống đất. Trong tiếng quát, Văn Thái Lai vận sực vào hai tay đập lại. Đầu của họ Đàm và họ Tống đụng vào nhau nghe “ầm” một tiếng, máu me lẫn lộn, óc não văng hết ra ngoài.

Văn Thái Lai không chịu dừng tay, quăng hai cái thi thể đó về phía địch. Bọn Cố Kim Tiêu nhảy ra tránh né, còn Ngôn Bá Càn xót tình thầy trò đưa tay đón lấy Đàm Thiên Thừa, vẫn chưa kịp nghĩ ra đó là một cái xác. Sự việc xảy ra chỉ trong chớp nhoáng.

Bành Tam Xuân hoảng sợ đến nỗi không biết phải làm gì, tay chân lóng ngóng, không nhặt côn lên mà cũng không chạy trốn. Văn Thái Lai bước lên một bước, vung tay trái tống ra một quyền. Bành Tam Xuân đưa tay lên đỡ, “rắc” một tiếng xuơng tay đã gãy ngay. Văn Thái Lai thừa thế sấn lên, túm lấy ngực áo của hắn. Bành Tam Xuân bí thế chỉ còn cách liều mạng, bay lên đá Uyên Ương Liên Hoàn Cước vào ngực chàng.

Văn Thái Lai vung tay ra túm được chân trái của hắn, tay phải kéo xuống, tay trái đưa lên làm hắn xoay ngược hẳn người lại. Cố Kim Tiêu và Ngôn Bá Càn xông đến cứu, nhưng Văn Thái Lai lại quát một tiếng, hai tay dùng sức đập Bành Tam Xuân xuống đất, giống như cầm dùi đánh trống. Họ Bành va đầu vào tảng đá xanh lót nền chánh điện, chân vẫn chưa dùng. Bành Tam Xuân chuyên dùng Liên Hoàn Cước, hễ chân trái đá ra là chân phải đá theo. Lần này đầu hắn vỡ toang rồi chân phải mới đá ra.

Bôn Lôi Thủ đại triển thần oai, chỉ trong khoảnh khắc đã đánh chết ba kẻ địch. Chàng thấy Cố Kim Tiêu và Ngôn Bá Càn từ hai bên phải trái tấn công tới, biết hai tên này là kình địch, ba tên vừa rồi không thể sánh được, bèn đột ngột nhảy ngược ra sau, thuận tay nắm lấy lư hương trên bàn thờ ném đến Cố Kim Tiêu. Cái lư hương này nặng tới bảy tám chục cân, rít gió bay vù vù, Cố Kim Tiêu không dám đón lấy, phải nghiêng người tránh né. Họ Tất vốn bị Cố Kim Tiêu cản trở tầm nhìn, vừa thấy là cái lư đã đến trước mặt. Kha Hợp Đài vội vã la lên:

– “Lão đại, coi chừng!”

Tất Nhất Lôi không kịp tránh né, liền vận hết sức đưa độc cước đồng nhân ra đỡ. Một tiếng “binh” vang lên, cái lư hương bằng đá vỡ nát ra, đá vụn và tro bụi bay tứ tán.

Lúc này Ngôn Bá Càn và Văn Thái Lai đã giao đấu. Dư Ngư Đồng cầm cây dùi trống, đứng sau lưng Văn Thái Lai hộ vệ. Hai người Tất và Cố bị đá vụn văng trúng mặt, chảy máu mấy chỗ. Cố Kim Tiêu giận dữ xách cương xoa tiến lên, định xông vào hỗn chiến.

Văn Thái Lai chuyển thân nhanh như gió, đánh dứ một chưởng vào mặt Ngôn Bá Càn rồi xông vào Kha Hợp Đài. Thì ra chàng nhận định tình thế, tuy đã giết chết ba người nhưng địch vẫn đông hơn, mà số còn lại không phải tầm thường, phải bất ngờ đả thương thêm mấy tên nữa mới chắc thắng được. Chàng nhìn thấy Kha Hợp Đài và Hàn Văn Xung đứng riêng ra, nên đột nhiên xông tới phát chưởng đánh vào sau lưng Kha Hợp Đài.

Kha Hợp Đài cúi người né phát chưởng đó, xoay ngược tay móc lấy cổ tay địch thủ. Văn Thái Lai thấy y thủ pháp rất nhanh, “ủa” một tiếng rồi phóng tả chưởng quét qua trước mặt, đánh vào cổ đối phương. Kha Hợp Đài lại cúi đầu né tránh, đưa tay ra túm lấy cổ tay Văn Thái Lai. Văn Thái Lai thấy y sử dụng Cầm nã thủ nhưng thủ pháp rất quái lạ, cũng hơi kinh hãi.

Kha Hợp Đài đã xuất hai chiêu mà chưa túm được cổ tay Văn Thái Lai. Đây vốn là tuyệt kỹ bách phát bách trúng, nên y không khỏi sợ hãi trong lòng, rồi nghe “bình” một tiếng, sau lưng đá trúng một chưởng. Văn Thái Lai phóng chưởng mà không đánh ngã được y lại càng kinh ngạc hơn. Chàng không biết Kha Hợp Đài tuy ở Trung Nguyên đã lâu nhưng vẫn theo tập tục Mông Cổ mà mặc áo lót ngắn tay bằng da trâu. Phát chưởng đó đánh trúng vào áo giáp, nhưng Văn Thái Lai lại tưởng đối phương có công phu kỳ dị.

Tuy thế Kha Hợp Đài cũng đau điếng trước ngực, đột nhiên ngồi thụp xuống đất đưa tay ra nắm lấy lưng Văn Thái Lai. Họ Văn đưa hữu chưởng cản trở, xuất chiêu Điện Mẫu Chiếu Kinh đánh vào mặt đối phương. Kha Hợp Đài nghiêng đầu lại, nắm được cổ tay họ Văn, vận sực nhấc bổng chàng lên. Y đang định quẳng Văn Thái Lai xuống đất thì đột nhiên cổ tay tê liệt, nửa người bủn rủn.

Dư Ngư Đồng thấy Văn Thái Lai gặp nguy, kinh hãi xông tới cứu. Nhưng chàng vừa tiến một bước đã thấy Văn Thái Lai đáp xuống đất, kẹp Kha Hợp Đài dưới nách của mình. Thì ra Văn Thái Lai đã thuận tay điểm trúng huyệt đạo, phản đòn khống chế đối phương rồi vung hai tay ra, hất họ Kha bay vù đi. Dư Ngư Đồng vội vã la lên:

– “Tứ ca! Y là bằng hữu!”

Kha Hợp Đài đầu đi trước, chân đi sau, đang bay vèo tới một cái chuông lớn. Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu đứng tận ngoài cửa, muốn chạy tới cứu cũng không sao kịp được. Văn Thái Lai vừa nghe Dư Ngư Đồng la gọi, lập tức bay người phóng tới như một mũi tên, nhanh hơn cả Kha Hợp Đài bị ném. Trong lúc ngàn cân treo sợi tóc, chàng kịp đưa tay ra nắm lấy chân phải Kha Hợp Đài, vận sức kéo giật y trở lại. Chàng vỗ lên huyệt Kiên Tĩnh của y, đỡ y đứng dậy rồi nói:

– “Bằng hữu, xin lỗi nhé!”

Kha Hợp Đài đột nhiên thoát chết, nghệch mặt ra đứng yên ở đó. Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu thấy Văn Thái Lai cứu huynh đệ của mình, đang định xông tới liều mạng bỗng đột nhiên dừng hẳn lại. Tất Nhất Lôi dìu Kha Hợp Đài qua một bên.

Dư Ngư Đồng la lên:

– “Cẩn thận phía sau.”

Văn Thái Lai cũng cảm thấy sau gáy có một cơn gió, liền xoay người lại xuất chiêu Tảo Đường Thối, không thèm tránh né mà đá vào kẻ địch trước. Ngôn Bá Càn cầm cặp cương hoàn vội tung người nhảy lên. Vòng bên tay phải hộ thân, vòng bên tay trái vung ra quét lên người Văn Thái Lai. Họ Văn quát lên một tiếng, đưa tay toan đoạt lấy chiếc vòng.

Phen này kẻ thù gặp lại, chưa sống chết quyết chẳng chịu ngừng tay. Trong phật điện đèn đuốc mờ mờ, đức phật như lai vẫn cúi đầu nhìn xuống, quan sát hai người ác đấu trước mặt. Dư Ngư Đồng ngồi bên tượng phật. Bọn Tất Nhất Lôi, Cố Kim Tiêu, Kha Hợp Đài, Hàn Văn Xung bốn người đứng ở gần cửa, xoay mặt nhìn vào trong chánh điện. Dưới nền điện ngổn ngang ba cái thi thể nát đầu vỡ óc, máu thịt lẫn lộn.

Ngôn Bá Càn thấy bọn Tất Nhất Lôi không tiến lên trợ giúp, trong lòng giận dữ vô cùng, huy động song hoàn phát ra tiếng gió vù vù. Chẳng những quyền pháp của hắn có chỗ độc đáo, mà đôi hoàn này cũng có mấy chục năm công phu. Văn Thái Lai qua lại mười mấy chiêu, thấy thế công thủ của hắn đều rất cẩn mật, vừa linh hoạt vừa có lực. Chàng bèn quát lên một tiếng dữ dội, múa tít song chưởng, quyền pháp đã thay đổi. Mỗi chiêu quyền chưởng đều kèm theo một tiếng thét, khi thì thét trước rồi chưởng mới đến, khi thì quyền đấm trước rồi thét say mà không phát quyền. Tiếng thét và quyền chưởng hợp thành một thể, thân pháp càng nhanh thì tiếng thét càng vang dội, thần oai khủng khiếp ép người. Ngôn Bá Càn dần dần không sao chống đỡ được nữa.

Pho Bích Lịch Chưởng này của Văn Thái Lai chưởng phong phải nhờ tiếng thét trợ oai, tỷ như cuồng phong lại thêm sấm sét. Ngôn Bá Càn gắng gượng đến lúc này thì cả người đã đẫm mồ hôi, hai vai đã tê liệt, bèn gác chéo song hoàn lùi lại một bước. Hắn biết Văn Thái Lai nhất định sẽ công đến ngay. Quả nhiên đối phương không chịu thả lỏng chút nào, lập tức bước tới phát chưởng. Song hoàn của Ngôn Bá Càn đang ra chiêu Bạch Yến Tiến Vỹ, hữu hoàn ở bên trái, tả hoàn ở bên phải, bây giờ đột nhiên biến thế dạt ra hai bên, rõ ràng cánh tay địch thủ sắp sửa bị đôi vòng này chém gãy.

Nào ngờ Văn Thái Lai tương kế tựu kế, cứ đưa thẳng tay ấn tới trước ngực đối phương. Ngôn Bá Càn biết rằng trúng chưởng này thì không chết cũng trọng thương, chỉ còn cách xoay tả hoàn lại thủ trước ngực, còn hữu hoàn đánh vào vai địch thủ. Văn Thái Lai lại quát lớn một tiếng, năm ngón tay cong lại vồ trúng tả hoàn, rồi lập tức chuyển người ra phía sau lưng kẻ địch.

Ngôn Bá Càn vừa giật mình một cái, hữu hoàn cũng bị Văn Thái Lai nắm chặt nốt. Họ Văn vận sức xoay đi một cái, hai bàn tay của Ngôn Bá Càn bị cong ngược lại. Hắn mà ngoan cố thì hai bàn tay lập tức bị gãy, đành phải buông lỏng mười ngón tay cho đôi cương hoàn lọt vào tay địch thủ. Họ Ngôn phải tung người về phía trước ba bước mới quay lại được.

Văn Thái Lai hét lên:

– “Trả cho ngươi!”

rồi ném song hoàn về phía hắn. Chiêu này kình lực vô cùng, Ngôn Bá Càn tuy mắt thấy binh khí của mình bay trở về nhưng tai nghe tiếng gió rít lên khủng khiếp. Nếu đưa tay đón lấy thì mười ngón tay phải gãy hết, hắn liền né sang bên phải. “Keng keng” hai tiếng, cặp hoàn lún sâu vào trong chiếc chuông đồng lớn. Tất Nhất Lôi, Cố Kim Tiêu và đồng bọn không nén nổi, bất giác hoan hô vang dội.

Đột nhiên cặp mắt Ngôn Bá Càn trợn ngược lên, đưa hai tay ngang vai, thân hình cứng nhắc, từng bước nhảy tới, trông hệt như một bộ cương thi. Đây là môn võ công kỳ lạ nhất trong Ngôn gia quyền, đã phối hợp với Nhiếp Tâm thuật của Túc Du Hoa ở Thừa Châu. Mắt hắn trợn trừng thu nhiếp hồn phách của địch, hai tay lên xuống đánh ra loạn xạ, đầu gối hoàn toàn không co duỗi nhưng nhảy cực kỳ nhanh nhạy.

Văn Thái Lai vừa chạm mắt với hắn là lập tức rùng mình một cái, trong lòng run rẩy, vội vã thi triển Bích Lích Chưởng tiếp chiến môn Cương Thi Quyền hiếm thấy trên giang hồ. Qua lại được mười mấy chiêu, chàng bỗng thét lớn một tiếng, tung mình nhảy ra. Thân hình Ngôn Bá Càn không ngừng lay động, đôi mắt đờ đẫn như người say rượu, rồi đột nhiên ứa máu ra. Mọi người đang kinh ngạc thì hắn bỗng hộc lên một tiếng, một vũng máu tươi phun từ trong miệng ra. Thân hình hắn cứng đờ đứng ngay tại chỗ, hoàn toàn không động đậy nữa.

Mọi người thấy tên này âm độc đáng sợ, đều cảm thấy một luồng hơi lạnh ép người. Văn Thái Lai thấy hắn chảy máu mắt, phun máu miệng, nên không tiếp tục tấn công nữa. Dư Ngư Đồng lên tiếng:

– “Phước họa chỉ do tự mình chuốc lấy mà thôi. Ngươi đi đi!”

Cặp mắt Ngôn Bá Càn cứ nhìn thẳng, thân hình hoàn toàn không động đậy.

Hàn Văn Xung cũng gọi:

– “Ngôn huynh, chúng ta đi thôi.”

Y thấy họ Ngôn cứ đứng yên, bèn kéo hắn một cái. Không ngờ Ngôn Bá Càn ngã phịch xuống, thì ra đã tắt thở từ lâu rồi. Trước ngực và sau lưng hắn liên tiếp bị trúng hai chưởng của Văn Thái Lai, bị chấn động mà chết.

Hàn Văn Xung thở ra một hơi, chắp tay hỏi Văn Thái Lai:

– “Chắc vị này là Văn tứ gia phải không?”

Văn Thái Lai gật đầu một cái. Họ Hàn lại nói:

– “Tại hạ là Hàn Văn Xung.”

Văn Thái Lai biết y là người của Trấn Viễn tiêu cục, lại gật đầu một cái nữa. Trước đây Đồng Triệu Hòa của Trấn Viễn tiêu cục đã dẫn quan binh đến Thiết Đảm trang bắt chàng, nhưng lần tỷ đấu với Trương Triệu Trọng trên Sư Tử phong ở Hàng Châu thì tiêu cục đó lại liên thủ với Hồng Hoa Hội. Có thể nói mối quan hệ này nửa là đồng minh nửa là địch thủ.

Hàn Văn Xung chỉ ba người Tất Nhất Lôi, giới thiệu danh tánh rồi nói:

– “Trước đây họ có chút hiểu lầm với Hồng Hoa Hội, bây giờ tại hạ đã nói rõ ràng rồi.”

Ba người gật đầu một cái, không nói gì cả. Hàn Văn Xung thấy Văn Thái Lai mặt mày lạnh nhạt, biết trong lòng chàng vẫn còn tức giận Trấn Viễn tiêu cục, bèn nói:

– “Xin cáo từ.”

Rồi chắp tay thi lễ, quay người đi ra khỏi chùa. Quan Đông tam ma cũng theo y ra khỏi chánh điện. Lúc Cố Kim Tiêu quay người lại, Văn Thái Lai thấy sau lưng hắn có cắm cây kim địch của Dư Ngư Đồng, bèn bước tới hai bước la lên:

– “Cố huynh, để binh khí của huynh đệ ta lại đây.”

Cố Kim Tiêu quay đầu lại, giận dữ nói:

– “Được thôi, nếu hắn có bản lãnh thì cứ đến mà lấy.”

Võ công của Cố Kim Tiêu tuy chẳng cao gì, nhưng mười mấy năm trời tung hoành ở Liêu Đông giết người cướp của hiếm khi gặp địch thủ, chỉ biết kiêng nể lão đại Tất Nhất Lôi chứ không coi ai ra gì cả. Hễ nhớ đến mối hận Dư Ngư Đồng tạt canh sôi vào mặt là hắn nghiến răng kèn kẹt. Vừa rồi thấy thần oai của Văn Thái Lai, hắn biết mình không phải là địch thủ nên không dám sanh sự. Nhưng bây giờ họ Văn đã hỏi đến mình, hắn không thể tỏ ra yếu kém mà nộp trả cây kim địch, bèn đưa cây điệp hổ xoa lên chuẩn bị giao đấu.

Văn Thái Lai đưa tay ra muốn đoạt lấy cây xoa của hắn. Hai người đang muốn đánh nhau, Dư Ngư Đồng bỗng tiến lên nói:

– “Tứ ca, tiểu đệ đã xuất gia rồi. Cây sáo này không cần dùng nữa, cứ để Cố huynh mang đi.”

Văn Thái Lai nghe chàng nói vậy, không tiện ra mặt đòi vật nên chỉ “hừ” một tiếng, lùi ra hai bước. Cố Kim Tiêu thu cây điệp hổ xoa về, nhảy ra khỏi chánh điện.

Tất Nhất Lôi thầm nghĩ:

– “Họ Văn này thật là ngang ngược. Võ công của hắn tuy khá nhưng chẳng lẽ chúng ta sợ hắn hay sao? Tốt nhất là hiển thị chút ít bản lãnh cho hắn biết chúng ta lợi hại.”

Ba người đã ra ngoài điện, nhìn thấy tượng hộ pháp nắm cây Hàng Ma chữ đứng ở chính giữa, còn Tứ Đại Kim Cang ngồi ở hai bên. Tất Nhất Lôi nhảy lên vận nội công lắc mỗi pho tượng một cái rồi hét lên:

– “Đi thôi.”

Văn Thái Lai và Dư Ngư Đồng nghe thấy ngoài điện vang lên những tiếng lách cách, vội chạy ra xem. Đột nhiên năm pho thần tượng giống như sống lại, từng pho một nghiên đi ngã xuống. Bây giờ muốn quay lại cũng không kịp nữa, Văn Thái Lai thầm kêu:

– “Hỏng bét!” rồi nắm cánh tay trái của Dư Ngư Đồng, sử dụng khinh công Đà Túc Thiên Lý nhảy ra khỏi cổng chùa. Chân còn chưa chấm đất, tai đã nghe tiếng ầm ầm trong chánh điện. Khói bụi bay mù mịt, thần tượng vỡ nát tứ tung. Tứ Đại Kim Cang vừa lớn vừa nặng, khi ngã xuống thanh thế cực kỳ ác liệt.

Văn Thái Lai giận dữ, định cất bước đuổi theo. Dư Ngư Đồng bèn nói:

– “Hôm nay Tứ ca đã giết bốn người, đủ rồi.”

Văn Thái Lai ngẩn ra, quay lại hỏi:

– “Tại sao đệ làm hòa thượng?”

* * *

Tất Nhất Lôi xô ngã thần tượng nhưng lại sợ Văn Thái Lai chạy theo gây sự, nên cùng cả bọn co giò chạy nhanh xuống núi. Cố Kim Tiêu đột nhiên cảm thấy sau lưng có ai động vào một cái, đưa tay sờ thử thì kim địch không còn ở đó nữa. Hắn kinh hãi “úi chà” một tiếng. Bọn Tất Nhất Lôi vội dừng lại hỏi. Cố Kim Tiêu vừa giận vừa sợ, cất tiếng thóa mạ:

– “Con mẹ mười tám đời tổ tông nhà nó. Tên họ Văn này như ma quỉ vậy, lại ăn cắp cây kim địch đi rồi.”

Bốn người đều thấy lúc Văn Thái Lai và Dư Ngư Đồng từ trong điện chạy ra, khoảng cách rất xa. Thế mà trong chớp nhoáng chàng có thể tới đây đoạt lại kim địch, thân pháp nhanh như vậy khiến cho người ta không lạnh mà run. Kha Hợp Đài nói:

– “Lão nhị đừng chửi nữa. Nếu y không lấy lại kim địch, mà tặng cho một chưởng vào lưng thì huynh còn mạng hay không?”

Cố Kim Tiêu nghĩ đúng là Văn Thái Lai đã hạ thủ lưu tình, bèn không nói gì nữa. Bốn người bàn chuyện đến chỗ Hồi tộc để tìm Hoắc Thanh Đồng, trả thù cho bọn Diêm Thế Khôi. Hàn Văn Xung nhất định không chịu đi cùng. Nghĩ không ép được nên đến Mạnh Tân thì họ chia tay. Từ đó Hàn Văn Xung quay về Lạc Dương ẩn cư, đóng cửa hưởng nhàn, lấy đàn tỳ bà ra gảy những bài Bình sa lạc nhạn, Chiêu quân xuất tái, vui vẻ không gì sánh được. Từ đó y không bước vào giang hồ nữa, yên ổn sống tới già.

* * *

Nghe Văn Thái Lai hỏi sao mình lại xuất gia, Dư Ngư Đồng thở ra một hơi rồi nói:

– “Tứ ca, huynh có chịu tha lỗi cho đệ không?”

Văn Thái Lai nói:

– “Chúng ta là hảo huynh đệ. Đừng nói là đệ không có lỗi gì với ta, mà nếu có thì chắc chắn cũng do vô ý, ta để bụng làm chi?”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Không phải do vô ý mà đệ cố ý vong ơn phụ nghĩa.”

Văn Thái Lai mỉm cười nói:

– “Đệ xả thân cứu ta không chỉ một lần, nếu nói đệ bất nghĩa với ta thì ai mà tin được?”

Dưới ánh trăng sáng, chàng nhìn thấy họ Dư khoác áo cà sa, diện mạo hủy hoại khác hẳn người thiếu niên tuấn tú trước kia, bất giác chua xót trong lòng, khẽ vỗ lên vai Dư Ngư Đồng rồi nói:

– “Thập tứ đệ! Chúng ta tình như cốt nhục. Đệ là thiếu niên, chuyện hồ đồ trong lúc nhất thời Tứ ca này quyết không để lòng. Hà tất đệ phải nản lòng thối chí đến thế.”

Từ khi song thân bị hại, Dư Ngư Đồng đã lưu lạc giang hồ. Chàng gia nhập Hồng Hoa Hội, tình cảm huynh đệ trong hội rất tốt, nhưng chưa có ai nói chuyện với chàng như huynh trưởng ruột thịt thế này. Chàng không khỏi động lòng, nhưng nghĩ lại:

– “Mình đã xuất gia thì bao nhiêu tư tình, duyên nghiệp đều phải chặt đứt cả.”

Dư Ngư Đồng bèn cố giữ lòng dạ cứng rắn, lạnh nhạt nói:

– “Tứ ca hãy trở về đi, sau này chưa chắc chúng ta có dịp gặp lại nhau. Tiểu đệ là Không Sắc, Tứ ca đừng gọi đệ là Thập tứ đệ nữa.”

Nói xong, chàng quay lưng đi trở vào chùa. Văn Thái Lai ngơ ngác một hồi, nhìn dáng vẻ họ Dư biết có khuyên ngăn nữa cũng vô dụng. Tuy chàng đã phóng chưởng đánh chết kình địch, báo được mối thù, nhưng thấy Dư Ngư Đồng như thế trong lòng không khỏi phiền muộn. Bất giác chàng thở dài một tiếng, quay về Mạnh Tân.

Dư Ngư Đồng vào chùa, thấy trong chánh điện đầy mảnh vụn của tượng phật, lại còn bốn cái xác nằm ngổn ngang dưới đất. Chàng quỳ giữa đống đổ nát, trước tượng phật mà chân thành sám hối. Đột nhiên chàng nghe những tiếng “tinh tang”

nhè nhẹ rồi thấy cây kim địch lấp loáng ở ngay trước mặt. Chàng hơi giật mình, quay đầu lại thì thấyLý Nguyên Chỉ đứng sau lưng. Lúc này nàng đã mặc y phục nữ nhân, dưới ánh nến lại càng diễm lệ nhưng mặt đầy vẻ u uất, oán hận.

Dư Ngư Đồng chắp tay, cúi mình một cái, hoàn toàn không lên tiếng. Lý Nguyên Chỉ thấy chàng nhẫn tâm như thế, không nói được gì mà cũng nhịn không nổi, bèn ngồi phịch xuống đất, đưa tay che mặt khóc òa.

* * *

Lúc Văn Thái Lai quay về nhà trọ, Lạc Băng đã mặc xong quần áo, xách binh khí chuẩn bị ra ngoài tìm chồng. Thấy chàng trở về, trong lòng nàng vô cùng mừng rỡ nhưng cũng trách mắng:

– “Sao lén lút ra ngoài mà không kêu người ta một tiếng?”

Văn Thái Lai đáp:

– “Ai bảo muội ngủ ngon đến thế? Giả tỉ bị người ta bắt cóc đi chắc muội vẫn ngủ chẳng biết tí gì.”

Lạc Băng mỉm cười nói:

– “Như vậy cũng tốt, cho ca ca nếm thủ mùi vị lo lắng một lần.”

Nàng thấy thần sắc trượng phu ủ rũ, liền hỏi:

– “Sao thế?”

Văn Thái Lai đáp:

– “Ta đã gặp Thập tứ đệ. Y làm hòa thượng rồi.”

Lạc Băng ngẩn ra, Văn Thái Lai tiếp:

– “Chúng ta đi gặp tổng đà chủ đi.”

Chàng gọi mọi người dậy, kể rõ những chuyện đã qua. Chương Tấn là người đầu tiên không nhịn nổi, nhảy chồm lên. Mọi người lập tức đến Bảo Tướng tự. Vào trong chùa chỉ thấy trống rỗng không một bóng người, ai cũng nghĩ:

– “Tăng chúng trong chùa thấy đánh nhau ác liệt, hoảng sợ chạy trốn không dám trở về.”

Lạc Băng thấy trên bàn thờ phật có một tờ giấy bèn cầm lên đọc. Mọi người quây lại xem, thấy thư viết:

– “Tổng đà chủ cùng các vị ca ca! Tiểu đệ tội nghiệp nặng nề, xuất gia sám hối, quyết dứt nợ trần. Mọng các vị nỗ lực hoàn thành đại sự, dựng nên công nghiệp. Tiểu đệ sẽ ngày đêm khẩn cầu trước tượng phật vì sự nghiệp này. Bây giờ tiểu đệ phải ra ngoài quyên góp để trùng tu kim thân phật tổ, mấy tháng nữa mới có thể trở về đây. Hiện nay Quan Đông tam ma đã đi đến Hồi Cương tìm kiếm Thúy Vũ Hoàng Sam, phải tìm cách cản trở. Tiểu đệ Ngư Đồng bái tạ.”

Mọi người đọc xong đề có phần thương cảm, trong lòng Lạc Băng lại càng bứt rứt khó chịu. Chương Tấn giận dữ nói:

– “Xuất gia cái con mẹ gì? Chúng ta phóng hỏa đốt quách cái chùa nát này đi, xem cái thằng tú tài kiết đó còn làm thầy chùa được hay không?”

Nói xong, y lập tức cầm lấy cây nến, muốn đi phóng hỏa. Lạc Băng vội quát lên ngăn cản. Từ Thiên Hoằng nói:

– “Ta thấy Thập tứ đệ trần tâm chưa dứt, không làm hòa thượng suốt đời đâu.”

Văn Thái Lai hỏi:

– “Sao đệ biết?”

Từ Thiên Hoằng đáp:

– “Thứ nhất, y vẫn còn lo đến đại sự của chúng ta. Thứ hai, y muốn đi quyên giáo để trùng tu tượng phật. Xưa nay y tâm khí cao ngạo, không biết cầu xin người khác, làm sao đi xin tiền được?Xem chừng y phải theo đường cũ, cướp bóc những nhà giàu bất nhân bất nghĩa.”

Mọi người đều bật cười. Trần Gia Lạc nói:

– “Thế thì tu làm chi nữa?”

Từ Thiên Hoằng tiếp:

– “Ngay cả Thúy Vũ Hoàng Sam mà y vẫn còn lo tới, vậy thì làm hòa thượng không phải dễ. Cuối thư y lại ký tên tục, không viết pháp danh, rõ ràng không coi trọng thân phận hòa thượng của mình lắm.”

Mọi người nghe chàng giải thích có lý, đều vui vẻ hơn. Văn Thái Lai lên tiếng:

– “Quan Đông tam ma võ công cao cường, không biết Thúy Vũ Hoàng Sam có địch nổi hay không?”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Chúng ta đã từng xem cô nương Hoắc Thanh Đồng đấu với Lục ma Diêm Thế Chương. Hoắc cô nương thua hắn một bậc, nếu không nhờ tổng đà chủ ra tay giải cứu thì chắc cô ấy đã trúng độc thủ của Lục ma rồi.”

Văn Thái Lai nói:

– “Hỏng rồi. Đại ma Tất Nhất Lôi sức lực hơn người, võ công cũng giỏi.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Vậy chúng ta phải nhanh chóng khởi hành tới vùng Hồi tộc, cản trở tam ma dọc đường. Khi lo xong việc rồi mới trở về khuyên Thập tứ đệ.”

Mọi người đều khen phải. Về đến Mạnh Tân thì trời đã sáng, cả hội ghé vào tửu lầu ăn mỳ, uống rượu. Từ Thiên Hoằng nói:

– “Tam ma đã khởi hành rồi, tốt nhất là chúng ta phải cử người cưỡi con ngựa trắng qua mặt chúng trước. Quân tình ở Hồi Cương đang khẩn trương, lão anh hùng Mộc Trác Luân phải bận rộn đối phó. Không thể để Thúy Vũ Hoàng Sam bị bất ngờ, bị tam ma đánh cho trở tay không kịp.”

Trần Gia Lạc thầm nghĩ:

– “Đúng là như vậy,” nhưng vẫn chau mày không nói gì. Chương Tấn lên tiếng:

– “Vậy để ta đi trước. Các huynh đệ theo sau ngay nhé.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Lúc nào đệ cũng vội vã, dọc đường rất dễ gây chuyện làm hỏng đại sự.”

Chương Tấn nói:

– “Đệ không sanh sự là được rồi.”

Lạc Băng hiểu ý Từ Thiên Hoằng, bèn nói:

– “Đệ không biết tiếng Hồi, dọc đường chắc có điều bất tiện. Bây giờ nơi nào cũng có chiến sự, đừng để người Hồi sinh chuyện hiểu lầm.”

Trong mọi người ở đây, chỉ có Trần Gia Lạc và Tâm Nghiễn đã sống gần mười năm ở Hồi Cương là biết tiếng Hồi. Rõ ràng Lạc Băng muốn hai người này đi, nhưng Trần Gia Lạc vẫn không lên tiếng. Tâm Nghiễn nói:

– “Thiếu gia, vậy để tiểu nhân đi trước một bước.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Tổng đà chủ! Thuộc hạ thấy tổng đà chủ đi trước ổn thỏa hơn. Tổng đà chủ biết tiếng Hồi, công phu lại giỏi. Quan Đông tam ma chưa biết mặt tổng đà chủ, lỡ gặp phải dọc đường thì động thủ hay không động thủ cũng không sao. Sau khi đến nơi, nếu bọn tam ma vẫn không chịu dừng tay, tổng đà chủ có thể tỏ ý để giúp người Hồi.”

Trần Gia Lạc suy nghĩ một lúc rồi nói:

– “Được rồi.”

Ăn mỳ xong, chàng cảm tạ Thượng Quan Nghị Sơn, từ biệt mọi người rồi cưỡi con ngựa trắng của Lạc Băng đi về phía tây.

* * *

Biết tin Quan Đông tam ma đi tìm Hoắc Thanh Đồng để trả thù, Trần Gia Lạc hết sức quan tâm. Hình ảnh Thúy Vũ Hoàng Sam mất hút dần trong đại mạc vẫn còn chiếm trọn tấm lòng chàng. Nhưng mỗi khi nghĩ đến, chàng lại nhớ người thiếu niên họ Lý và nàng thân mật khác thường. Thiếu niên đó trông như nữ cải nam trang, dung mạo mỹ miều giống như kép hát. Trong lòng Trần Gia Lạc lúc nào cũng xem thường y, thế mà Hoắc Thanh Đồng lại coi trọng y mà không để mắt đến tổng đà chủ Hồng Hoa Hội như mình vào mắt. Tuy nàng đã từng tặng chàng đoản kiếm, trong lòng chàng cũng nổi lên ý ghen tỵ, nên cảm thấy khó mà thân cận. Mỗi lần nghĩ đến nàng, chàng chỉ muốn coi đó là một bằng hữu anh hùng hiệp nghĩa, cố dứt tình nhi nữ.

Con ngựa trắng này quả rất phi thường, cưỡi nó chỉ cảm thấy gió thổi ào ào qua bên tai, đồi núi, cây cối ở hai bên đường lùi về sau lưng như biết bay vậy. Đến giờ ngọ chàng đã chạy hơn hai trăm dặm, chắc đã bỏ Quan Đông tam ma lại phía sau từ lâu rồi. Nghỉ ăn cơm xong, chàng lên ngựa chạy tiếp, biết mình chạy thêm một ngày nữa là Quan Đông tam ma đừng hòng đuổi kịp, có thể yên tâm nghĩ đêm trong khách điếm.

Chưa đầy một ngày nữa, Trần Gia Lạc đã tới Tiêu Châu. Lên đỉnh Gia Cốc quan, đứng tựa vào tháp canh, chàng đảo mắt nhìn quanh thấy trường thành uyển chuyển như sợi chỉ vòng vo ôm lấy giang san, khống chế một vùng hoang mạc rộng lớn. Ra ngoài quan ải, chàng cũng theo lệ mà ném một cục đá vào trường thành ở quan ngoại. Hành trình ở vùng gió cát lắm chuyện gian nan, người ta đồn rằng nếu ra ngoài quan mà lấy đá ném vào trường thành thì có thể sống sót trở về quan nội.

Đi tiếp mấy dặm nữa chỉ còn thấy khói bụi cuồn cuộn, mặt trời đã ngả hoàng hôn. Nghe văng vẳng tiếng hát của mấy người cưỡi lạc đà:

– “Mỗi lần qua ải Gia Cốc, hai mắt không sao ráo lệ. Ông bà gươm giáo giết nhau, con cháu chỉ còn bãi cát hoang vu.”

Tiếng ca thê lương truyền đi cả một vùng hoang vắng. Dọc đường ngày đi đêm nghỉ, qua khỏi Ngọc Môn rồi tới Tây An, sa mạc từ màu vàng nhạt trở thành vàng đậm, rồi từ màu vàng đậm trở thành màu xám tro, sắp đến Qua Bích rồi. Ở vùng này thì không có nhà cửa bếp núc gì nữa. Sa mạc mênh mông, mắt nhìn không vướng, đúng là nơi dụng võ của con ngựa trắng. Tinh thần nó phấn chấn hẳn lên, phi càng nhanh chóng, chẳng bao lâu phía trước đã thấy một dãy núi xuất hiện mờ mờ.

Vách đá càng lúc càng gần, dựng thành hình chữ nhất vươn hẳn ra ngoài. Phía sau núi đá, mây mù bao phủ dày đặc, cứ như trong đó có một khu đất trời khác hẳn. Đi đến gần, người ta mới đột nhiên thấy giữa vách đá có một khe nứt. Con ngựa trắng theo hẻm núi đó mà chạy thẳng vào trong. Đó chính là Tinh Tinh Hiệp, đường giao thông quan trọng nối giữa Cam Túc và Hồi Cương.

Hai bên hẻm núi này vách đá dựng thẳng đứng lên trời, giống như dao gọt mà thành. Ngẩng đầu nhìn lên chỉ thấy bầu trời xanh xám, giống như nhìn từ dưới đáy biển vậy. Nếu ban đêm thì nhìn lên chỉ thấy toàn sao có lẽ vì thế mà hẻm núi này có tên là Tinh Tinh Hiệp.Trong hẻm núi, nham thạch toàn một màu đen tuyền, bóng loáng đến mức phát ra ánh sáng. Con đường quanh qua quẹo lại, khúc chiết lạ thường.

Lúc này đã mùa đông, trong hẻm núi bắt đầu có tuyết. Tuyết trắng đá đen phản chiếu vào nhau, thật là kỳ quan khó tả. Trần Gia Lạc thầm nghĩ, khe núi này địa thế hiểm trở, dùng binh tấn công qua đây thật là không dễ. Năm xưa, khi chàng còn nhỏ vừa đến Hồi Cương đã thấy cảnh này nhưng lúc đó không lưu ý lắm.

Qua khỏi Tinh Tinh Hiệp, chàng nghĩ lại một đêm trong căn nhà nhỏ, hôm sau lại khởi hành đi tiếp. Hai bên đều là những ngọn núi đá đen nhánh liên miên bất tận. Chạy mấy giờ nữa thì đến đại mạc Qua Bích. Qua Bích bằng phẳng như một mặt gương rất lớn, hoàn toàn không có đồi cát như sa mạc thông thường. Trần Gia Lạc đưa mắt nhìn ra xa chỉ thấy trời đất nối tiếp nhau, cả một vùng thiên địa mênh mông không có một tiếng động, dường như vũ trụ chỉ còn một người một ngựa. Tuy võ công của chàng cao cường nhưng thấy cảnh tượng này cũng bất giác sợ hãi, cảm thấy thế giới bao la không bờ bến, còn bản thân mình thì chỉ là hạt bụi vô nghĩa.

Đến trước thành Ha Mật, chàng nghĩ là quân tình đang khẩn cấp, lữ khách từ quan ngoại đến đây chắc sẽ bị tra xét nghiêm mật. Vì thế chàng vòng sang Nhị Bảo, chỉ cần đi tiếp về phía tây là có thể hỏi thăm chỗ ở của Hoắc Thanh Đồng rồi. Nhưng chàng nghĩ:

– “Mình là người Hán, chỉ sợ bị người Hồi nghĩ là gian tế, làm sao họ tin mình được? Chắc phải tốn một phen giải thích. Nếu thay đổi trang phục của người Hồi thì hơn.”

Chàng bèn ghé vào Nhị Bảo mua một cái nón thêu hoa, một đôi ủng bằng da, mấy bộ y phục có hoa văn mà người Hồi thường mặc. Sau đó chàng tìm chỗ hoang vắng thay đổi y phục, chôn quần áo cũ của mình vào cát. Lúc đi ngang một khe nước, chàng soi vào thấy mình trông chẳng khác một thiếu niên Hồi tộc, bất giác mỉm cười lòng cảm thấy vui vui.

Nhưng chàng đi mãi mà không gặp người Hồi nào cả. Nhà cửa, làng mạc của người Hồi đều đã bị san thành bình địa, dĩ nhiên đó là tác phẩm của đại quân triều đình. Nhất định người Hồi đã chạy trốn vào giữa sa mạc hết rồi.

Trần Gia Lạc không khỏi lo lắng. Trong vùng sa mạc mênh mông này, phải đi đâu mới tìm được Hoắc Thanh Đồng? Chàng nghĩ nếu mình tiếp tục đi theo đường cái thì chưa chắc sẽ gặp người nào, bèn rẽ theo một con đường nhỏ chạy về hướng nam, cố gắng đi vào vùng núi hoang vắng.

Hồi Cương vốn hoang vu, không đi dọc con đường cái thì rất khó gặp nhà cửa. Chàng đi về hướng nam được ba ngày thì ăn hết cả lương khô, may mà bắt được một con dê lạc. Đi thêm hai ngày nữa, dọc đường chàng gặp được mấy người chăn nuôi. Hỏi ra thì họ đều là người Kha Tát Khắc. Họ chỉ biết sau khi đại quân Mãn Thanh đến đây, dân chúng Hồi tộc đều về phía tây, nhưng không biết lùi đến chỗ nào.

Trần Gia Lạc không tính toán gì được cả, chỉ biết giục ngựa chạy về phía tây, mặc cho ngựa đi đâu thì đi, không thèm điều khiển nữa. Mỗi ngày chạy được ba bốn trăm dặm, được bốn ngày thì trước mắt chỉ nhìn thấy mênh mông cát, màu trời xám xịt, không biết đâu mới là chỗ tận cùng.

Một hôm, khí trời đột ngột nóng lên. Thời tiết trên sa mạc trở nên khắc nghiệt, trong vòng một ngày mà biến đổi nóng lạnh mấy lần. Nước đựng trong túi da hết đóng thành băng lại nóng như sôi. Lúc mặt trời tới đỉnh đầu, cả ngựa lẫn người đều ướt đẫm mồ hôi.

Trần Gia Lạc muốn tìm chỗ có bóng râm, nhưng nhìn quanh tứ phía đều mênh mông bãi cát. Chàng phải chạy về phía một đồi cát khá lớn, che khuất nắng một chút, rồi mở túi da đựng nước ra uống ba hớp. Tuy chưa đã khát nhưng chàng không dám uống nhiều. Giả tỉ uống cạn mà chưa tìm được nguồn nước, thật chỉ còn con đường chết.

Nghỉ ngơi khoảng một giờ, chàng lại nhảy lên lưng ngựa. Đi không có mục đích, cả người lẫn ngựa đều chậm chạp mệt mỏi. Đột nhiên con ngựa trắng ngẩng đầu lên ngửi ngửi mấy cái, hí vang một tiếng rồi quay đầu chạy sang hướng khác. Trần Gia Lạc biết con ngựa này rất có linh tính, nên mặc kệ nó đưa mình đi đâu thì đi. Chạy không bao lâu, trên mặt cát đột nhiên xuất hiện những bãi cỏ thưa thớt, rồi cỏ mọc càng lúc càng nhiều hơn.

Trần Gia Lạc biết ở phía trước chắc chắn có nguồn nước, trong lòng rất mừng rỡ. Con ngựa trắng lúc này cũng phấn chấn hẳn lên, tung bốn vó phi như bay, chỉ chốc lát đã nghe thấy tiếng nước chảy róc rách, phía trước xuất hiện một khe nước nhỏ. Con ngựa trắng chạy đến bên khe nước, Trần Gia Lạc nhảy xuống ngựa. Nước trong khe này trong veo nhìn thấy đáy. Chàng vỗ vỗ vào lưng ngựa, mỉm cười nói:

– “May mà ngươi tìm được con suối này. Chúng ta cùng uống đi.”

Chàng cúi xuống khe, vốc mộc hớp nước, uống vào cảm thấy mát mẻ thấu tới tim gan. Nước đã ngọt ngào lại có hương thơm thoang thoảng, chắc chắn phải từ một nguồn suối tuyệt vời chảy ra. Trong khe nước lại có vô số mảnh băng vụn chạm vào nhau phát ra những tiếng lanh canh thánh thót, nghe như tiếng nhạc. Con ngựa trắng uống mấy hơi dài rồi hí lên một tiếng, nhảy quẩn quanh mấy cái, rõ ràng nó cũng hết sức vui mừng mà không nói được.

Trần Gia Lạc uống đã nước suối, tinh thần khoáng đạt sảng khoái hẳn lên. Chàng nhìn xuống thấy thân thể mình đầy cát bụi, bèn xắn ống quần lên bước xuống nước, rửa đầu mình chân tay sạch sẽ. Sau đó chàng dẫn ngựa tới, tắm rửa cho nó một phen, cuối cùng mới lấy hai cái túi da ra múc đầy nước.

Đột nhiên chàng thấy giữa những miếng băng óng ánh có mấy cánh hoa. Khe nước này có mùi thơm chắc chắn trên thượng nguồn có hoa mọc. Chàng nghĩ đi dọc theo khe suối này không chừng sẽ gặp được ai đó, hy vọng hỏi được hành tung của Hoắc Thanh Đồng, bèn tung người lên ngựa mà đi dần lên thượng nguồn con suối.

Càng đi thì dòng khe càng rộng ra. Trên vùng sa mạc, bất cứ dòng suối nào trên thượng nguồn cũng nhiều nước hơn, đến hạ lưu thì nước dần dần bị sa mạc hút cạn, rồi cuối cùng mất hút. Chàng đã ở Hồi Cương rất lâu nên không thấy thế là lạ, cứ phi ngựa chạy nhanh.

Địa thế cao dần, đi vào một vùng núi. Khe nước cứ vòng vo quanh qua quanh lại, dẫn chàng đến một vùng đất cao hơn. Đột nhiên trước mắt chàng hiện ra một cái thác bạc, xối xuống ầm ầm không dứt. Nước từ ngọn núi đổ xuống, bụi nước bay tứ tán khắp xung quanh, thật là một kỳ quan.

Trong vùng sa mạc hoang vu mà nhìn thấy cảnh đẹp thế này, bất cứ là ai cũng phải sảng khoái. Lòng hiếu kỳ của Trần Gia Lạc nổi lên, muốn xem phía trên cái thác này còn những phong cảnh gì nữa. Chàng bèn dẫn ngựa đi vòng từ phía tây lên. Qua mấy khúc quanh, băng qua một rừng thông rất cao, chàng bất giác phải giật mình.

Trước mặt xuất hiện một cái hồ lớn, ở bên kia hồ là một thác nước khá hùng vĩ. Bụi nước bắn ra tứ phía, ánh mắt trời chiếu vào làm xuất hiện một cái cầu vồng. Quanh hồ cây cỏ hoa lá xum xê, hoa trắng, hoa đỏ cùng ánh vào màu xanh bích của mặt hồ, trông kỳ ảo vô cùng. Xa xa là một bình nguyên đầy cỏ xanh trải ra mênh mông như nối liền với chân trời. Trên bãi cỏ có mấy trăm con dê trắng vừa tung tăng đùa giỡn vừa gặm cỏ. Phía tây của thảo nguyên có một ngọn núi cao chọc thẳng lên trời, xuyên qua những đám mây. Trên đỉnh núi tuyết phủ trắng xóa, giữa lưng chừng núi trở xuống thì cây cối xanh tươi.

Lúc đó Trần Gia Lạc đứng ngẩn ra giương mắt mà nhìn tâm thần không biết phiêu diêu tới chỗ nào. Lại còn tiếng chim hót trên cành cây, tiếng những tảng băng khua vào nhau trên mặt hồ, hòa cùng tiếng thác đổ thành một bản nhạc tiên.

Chàng nhìn xuống mặt hồ, đột nhiên thấy có vòng sóng lan ra. Một cánh tay trắng như ngọc từ dưới hồ đưa lên, rồi đến một cái đầu nhô lên khỏi mặt nước. Người đó vừa quay đầu lại bỗng nhìn thấy chàng liền la lên kinh hãi rồi lại lặn xuống dưới nước.

Trong chớp nhoáng Trần Gia Lạc đã nhìn thấy rõ ràng đó là một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt vời. Chàng kinh hãi nghĩ thầm:

– “Chẳng lẽ có sơn tinh, thủy quái thật hay sao?” bèn cho tay vào bọc lấy ra ba con cờ vây hờm sẵn.

Trên mặt hồ bỗng xuất hiện gợn nước dẫn về hướng đông, rồi sột soạt mấy tiếng, đầu của thiếu nữ ấy từ giữa rừng hoa chui ra. Giữa đám cỏ cây xanh tươi lộ ra một chút da thịt trắng tuyết, mớ tóc dài đen nhánh vẫn xõa trên mặt hồ, đôi mắt trong sáng như sao trời thì nhìng sang bên này lộ vẻ ngần ngừ. Trần Gia Lạc không thể coi đó là yêu tinh được nữa. Chàng nghĩ:

– “Người phàm làm sao đẹp như thế được? Nếu đây không phải là thủy thần thì cũng là thiên tiên xuống tắm.”

Một thanh âm thánh thót cất lên:

– “Huynh là ai? Đến đây làm gì?”

Nàng nói tiếng Hồi, tuy Trần Gia Lạc nghe hiểu mà lại như không hiểu, cứ ngơ ngẩn hồi lâu không đáp, hồn phách tiêu điêu giống như đang nằm mơ hay say rượu vậy. Giọng nói đó lại vang lên:

– “Huynh đi đi, để ta mặc quần áo.”

Mặt của Trần Gia Lạc đỏ bừng lên, lập tức quay người đi vào trong rừng. Chàng ngồi xuống đất, tim đập thình thịch, thầm nghĩ:

– “Chẳng lẽ đây chỉ là một cô gái người Hồi bình thường hay sao? Nàng khỏa thân tắm rửa trong hồ, thế mà ta còn không biết tránh ra cho nàng sửa sang y phục, thật là không nên không phải.”

Thật sự chàng không biết phải làm gì, muốn lập tức chạy trốn đi, nhưng lại nghĩ:

– “Đâu có dễ gì gặp được một người, sao ta không hỏi cô ấy về tin tức của Hoắc Thanh Đồng?”

Chàng đang phân vân không quyết, đột nhiên từ bên kia hồ vang lên tiếng hát dịu dàng thánh thót:

– “Người đại ca đi qua đường, huynh trở lại đây!Sao huynh không mở miệng, chạy trốn quá nhanh? Ta đang tắm, huynh lén lút nhìn. Ta hỏi huynh rằng:

– có nên như thế hay không?”

Giọng nàng nhẹ nhàng hoạt bát, chỉ nghe cũng tưởng tượng được trên môi hát đang nở một nụ cười rất tươi.

Trần Gia Lạc nghe trong lời ca phần đùa giỡn nhiều hơn là trách móc, bèn từ từ quay về phía hồ, lại từ từ ngẩng đầu lên. Chàng thấy ở bờ hồ đối diện, dưới tán hoa đỏ có một thiếu nữ mặc y phục toàn một màu trắng như tuyết, tóc dài xõa ngang vai, đang dùng lược chải hết sức chậm rãi. Nàng còn để chân trần, trên khuôn mặt và mái tóc còn vương những giọt nước.

Nhìn thấy cô gái trong sáng như hạt minh châu, Trần Gia Lạc tim đập rộn lên, thầm nghĩ:

– “Trên đời lại có người đẹp đến thế hay sao?”

Nàng ngồi bên hồ, thư thái tự tại, thanh nhã, trong sáng tuyệt vời, không thể tin là người phàm. Màu áo trắng ánh lên mặt nước, từng cánh hoa rơi xuống tóc nàng, áo nàng, bóng nàng. Bình thường Trần Gia Lạc vẫn tiêu sái tự nhiên, nhưng lúc này không nói được một lời nào cả.

Thiếu nữ kia đưa mắt nhìn chàng, mỉm cười rồi vẫy tay gọi đến gần. Bấy giờ Trần Gia Lạc mới dùng tiếng Hồi nói một câu:

– “Tại hạ đi qua vùng này, trời nóng, cổ rất khát. Đột nhiên trông thấy khe suối trong mát nên tìm đến đây, không ngờ vô ý gặp phải cô nương. Thật là tội lỗi, xin cô nương tha thứ.”

Nói xong, chàng khom người thi lễ. Thiếu nữ nghe chàng nói chuyện phong nhã, lại mỉm cười rồi hát một bài nữa:

– “Người đại ca qua đường, huynh đến từ đâu? Huynh đi qua bao nhiêu sa mạc, bao nhiêu ngọn đồi? Huynh ở trên thảo nguyên này chăn dê hay chăn bò? Hay huynh đang đưa lạc đà, đưa ngựa đi mua bán?”

Trần Gia Lạc biết người Hồi rất thích ca hát, khi nói chuyện họ vẫn thường ứng khẩu mà hát, hễ mở miệng là có âm điệu, nghe rất tự nhiên. Tuy chàng sống ở đại mạc nhiều năm, nhưng chỉ siêng năng rèn luyện võ công mà không học được bản lãnh này. Chàng không biết lai lịch thiếu nữ ra sao, chưa muốn nói cho nàng rõ, bèn đáp:

– “Ta đến từ phía đông, vốn ở vùng quan ngoại buôn bán lạc đà. Hiện ta đang cần tìm một người, muốn hỏi thăm cô nương.”

Thiếu nữ thấy chàng không biết hát, mỉm cười chế giễu rồi hỏi:

– “Huynh tên gì vậy?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Ta tên là A Mật Đạt.”

Đó là tên nam nhân thông dụng nhất của người Hồi,

Thiếu nữ cười nói:

– “Cũng được! Nếu thế thì muội tên là Ái Tây Hạn.”

Đây cũng là tên nữ nhân mà người Hồi thường dùng nhất, giống như Vân, Phượng, Trinh, Thục gì gì đó của người Hán vậy.

Thiếu nữ lại hỏi:

– “Huynh cần tìm ai?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Ta muốn tìm lão anh hùng Mộc Trác Luân.”

Thiếu nữ mỉm cười, ngạc nhiên hỏi:

– “Huynh quen biết ông ấy hay sao? Huynh cần tìm ông ấy có việc gì?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Ta có quen ông ấy. Ta cũng quen biết con trai ông ấy là Hoắc A Y, con gái ông ấy là Hoắc Thanh Đồng.”

Thiếu nữ hỏi:

– “Huynh đã gặp họ ở đâu?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Khi họ đến Trung Nguyên để đoạt lại thánh kinh, ta đã hân hạnh được gặp.”

Thiếu nữ gật đầu:

– “Vậy thì đúng rồi. Huynh ngồi xuống đây để muội đi lấy chút ít thức ăn trước đã!”

Nàng cứ chân đất chạy vào lùm cây, lát sau lấy ra một trái dưa màu xanh ngọc, một chén lớn sữa ngựa hòa với rượu đưa cho chàng. Trần Gia Lạc cảm tạ, uống trước một hớp sữa ngựa, cảm thấy thơm ngon khó tả. Thiếu nữ lại đưa chàng một con dao nhỏ bằng bạc để xẻ dưa ra. Ruột dưa vàng như vải đoạn, cắn vào một miếng thơm ngát cả mồm, ngọt ngào hơn cả mật ong.

Thiếu nữ lại hỏi:

– “Huynh tìm Mộc Trác Luân lão gia có chuyện gì không?”

Trần Gia Lạc nghe nàng ra vẻ rất tôn kính Mộc Trác Luân, liền hỏi:

– “Lão anh hùng Mộc Trác Luân là người cùng tộc với cô hay sao?”

Thiếu nữ gật đầu. Trần Gia Lạc tiếp:

– “Lúc cái vị đoạt lại thánh kinh đã giết mấy người tiêu sư. Bây giờ bọn chúng định tới tìm Hoắc Thanh Đồng cô nương để trả thù. Ta biết tin này nên đến báo tin, để cô ấy biết đường phòng bị.”

Từ nãy thiếu nữ vẫn mỉm cười, bây giờ mới lộ vẻ lo lắng, bèn hỏi:

– “Người đến trả thù có đông không? Nguy hiểm lắm không?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Người thì không nhiều nhưng võ nghệ rất cao. Nếu mình có chuẩn bị trước thì không đáng sợ lắm.”

Thiếu nữ nói:

– “Vậy thì muội lập tức dẫn huynh đi, phải mấy ngày mới tới.”

Nàng vừa chải đầu, thắt bím vừa nói tiếp:

– “Đại quân Mãn Thanh vô duyên vô cớ đánh bộ tộc bọn muội. Nam nhân đều đi đánh trận hết cả rồi. Muội và các tỉ tỉ ở đây chăm sóc gia súc. Thời tiết nóng bức nên muội xuống hồ để tắm, không ngờ ở đây lại có nam nhân.”

Trần Gia Lạc nghe cô gái này nói chuyện thật ngây thơ, hoàn toàn không giấu giếm gì, hơn nữa sắc đẹp lại tuyệt trần. Chàng có nằm mơ cũng không nghĩ được mình sẽ gặp tình cảnh này, giống như không phải chốn nhân gian vậy, chỉ chốc lát đã ngơ ngác si mê.

Thiếu nữ chải xong tóc rồi cầm lấy chiếc sừng trâu, thổi mấy tiếng u u. Lát sau có mấy cô gái Hồi tộc cưỡi ngựa đến. Thiếu nữ bước lên đón họ, nói mấy câu gì đó. Dường như nàng nói là phải dẫn khách đến chỗ Mộc Trác Luân, nhờ họ giúp trông nom gia súc ở đây. Mấy cô gái kia không ngớt liếc nhìn Trần Gia Lạc, có vẻ rất hiếu kỳ.

Thiếu nữ quay về căn lều trong rừng, lấy một ít lương khô và vật dụng, rồi dẫn con ngựa đỏ bước ra. Con ngựa này từ trên xuống dưới một màu nâu đỏ, không lẫn một sợi lông màu khác. Bốn chân của nó rắn chắc vô cùng, hiển nhiên là giống lương câu.

Trần Gia Lạc cũng dẫn con ngựa trắng tới. Thiếu nữ khen:

– “Con ngựa đẹp quá! Chúng ta đi thôi!”

Nàng nhảy lên ngựa, dáng vẻ vô cùng nhẹ nhõm, đi trước dẫn đường, men theo khe suối mà đi về hướng nam.

Lát sau thiếu nữ bỗng hỏi:

– “Khi huynh đi đến chỗ người Hán, người Hán đối xử với huynh có tốt không?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Có người tốt, có người xấu, nhưng người tốt thì nhiều hơn.”

Chàng rất muốn nói rõ mình là người Hán, nhưng lúc này cô gái hoàn toàn không chút nghi ngờ, nên chàng không sao nói ra được. Thiếu nữ lại hỏi về phong thổ, tập tục của người Hán, Trần Gia Lạc chọn mấy chuyện vui vui mà kể, nàng hứng thú nghe đến ngơ ngẩn xuất thần.

Một buổi hoàng hôn, hai người đi tới một ngọn núi lớn. Thiếu nữ chợt nghiêng đầu, kinh ngạc la lên. Trần Gia Lạc nhìn theo, thấy trên một vách đá dựng đứng có hai đóa hoa kỳ lạ, lớn bằng cái bát, cánh hoa màu xanh bích. Bốn bề đầy tuyết, giữa tuyết trắng ánh lên màu xanh bích của hoa, lại thêm màu vàng của ánh chiều tà soi vào, diễm lệ sang trọng phi thường, muôn phần kỳ lạ.

Thiếu nữ nói:

– “Đây là loại tuyết liên rất khó gặp. Huynh ngửi mùi hương thử xem.”

Quả nhiên Trần Gia Lạc đã ngửi thấy hương thơm ngọt dịu từ trên vách đá tỏa xuống. Đóa hoa đang cách mặt đất hơn hai mươi trượng mà đã tỏa ngát mùi hương, đủ biết hoa thơm đến mức nào.

Thiếu nữ nhìn mãi hai đóa hoa, dường như quyến luyến không muốn rời khỏi đó. Trần Gia Lạc biết nàng rất thích, bèn nói:

– “Cô nương muốn hái phải không?”

Thiếu nữ thở ra một hơi rồi nói:

– “Đi thôi! Hôm nay chúng ta gặp được tuyết liên, được ngửi mùi hương của nó cũng là có phước lắm rồi.”

Trần Gia Lạc khẽ mỉm cười, đột nhiên tung người rời khỏi yên ngựa, chạy về phía vách núi. Thiếu nữ kinh hãi la lên:

– “Này! Huynh làm gì thế?”

Trần Gia Lạc đã tập trung hết tinh thần vào hai đóa hoa đó, dồn nội lực xuống đan điền, hoàn toàn không nghe nàng gọi. Chàng thật sự không tin chắc khinh công của mình lên được vách đá dựng đứng thế này, nhưng lúc này không tính toán gì đến vấn đề sinh tử cả. Chàng sử dụng cả hai chân hai tay từ từ trèo lên một lúc đã được mười mấy trượng. Trên vách núi này tuyết đã kết thành băng, trơn trượt vô cùng. Chàng đã mấy lần sẩy chân, phải dùng khinh công tuyệt đỉnh chuyển hướng sang bên mới không rơi xuống.

Còn cách hai đóa hoa hơn một trượng, vách núi đột nhiên nghiêng đổ ra ngoài. Phía dưới nhìn không rõ, đến đây mới thấy không thể trườn lên đó được. Trần Gia Lạc nghĩ thầm:

– “Chẳng lẽ đã tới đây rồi mà phải bỏ cuộc hay sao?”

Chàng ngẫm nghĩ giây lát, nảy ra một kế, lấy châu sách trong người ra, nhắm kỹ một tảng đá gồ lên cạnh hai đóa hoa đó, quăng dây buộc lại. Kiếm thuẫn cầm bên tay trái, tay phải dùng sức giật mạnh châu sách, chàng nhảy ra giữa lưng chừng trời, rồi đặt chân chính xác vào kế bên hai đóa tuyết liên, kiếm thuẫn bên tái trái đâm dính vào một tảng băng giữ người lại. Lúc này chàng mới thở ra một hơi, cảm giác hương hoa rất dễ say người. Chàng nhẹ nhàng hái luôn hai đóa hoa, cầm bên tay trái, che trong kiếm thuẫn.

Người bình thường thì xuống núi còn khó khăn nguy hiểm hơn cả lúc trèo lên, nhưng người có võ công thì lại thấy dễ dàng. Chàng cứ men theo vách đá mà tuột xuống, khi tuột quá nhanh thì dùng kiếm thuẫn ấn vào vách đá. Những móc nhọn trên kiếm thuẫn cắm sâu vào những tảng băng cứng, làm đà rơi chậm hẳn lại.

Đến lúc cách mặt đất khoảng ba bốn trượng, chàng chống hai chân vào vách núi rồi phi thân xuống như một con chim lớn, nhẹ nhàng chạm đất ngay trước con ngựa của thiếu nữ. Chàng bỏ kiếm thuẫn và châu sách xuống, mỉm cười rồi hai tay đưa hai đóa tuyết liên ra trước mặt nàng.

Thiếu nữ đưa đôi tay trắng trẻo ra đón lấy. Trần Gia Lạc thấy rõ tay nàng hơi run rẩy, ngẩng lên nhìn thì thấy hai dòng nước mắt như trân châu rơi xuống. Mấy giọt đã rơi lên cánh hoa, nhẹ nhàng lay động óng ánh như những hạt sương mai. Trần Gia Lạc không hiểu vì sao mỹ nhân rơi lệ, nhưng không dám hỏi.

Hai người vẫn im lặng không nói gì, lên ngựa đi một hồi. Trần Gia Lạc nghĩ bụng:

– “Hôm nay mình giống như điên khùng, thật không hiểu vì sao. Chỉ vì cô gái này thích hoa mà mình bất kể tính mạng đi hái cho nàng.”

Chàng quay đầu lại nhìn vách núi đá thấy nguy nga dựng đứng, khí tượng thâm nghiêm, không sao nén nổi kinh hãi, rồi đột nhiên cảm thấy thân thể lạnh cóng. Thì ra lúc nãy trèo lên vách núi, mồ hôi tuôn ra đầm đìa ướt đẫm quần áo, bây giờ mồ hôi đã đóng thành băng. Tay chân chàng cũng mệt mỏi rã rời.

Trong vẻ đẹp của thiếu nữ này hình như ẩn giấu một sức mạnh thần kỳ, có thể bắt người ta tan xương nát thịt, chết không hối hận vì nàng.

Trời tối, hai người nghĩ lại trên một tảng đá lớn bên sông. Thiếu nữ nổi lửa lên, nướng thịt dê khô mang theo, cắt ra cùng ăn với Trần Gia Lạc. Nàng vẫn không nói chuyện gì, Trần Gia Lạc cũng không dám mở miệng. Chàng sợ lời nói sẽ làm ô uế mất tình cảnh thanh khiết này.

Thiếu nữ im lặng nhìn chàng ta một lúc, rồi đột nhiên chạy xa mấy chục bước, nằm rạp xuống thành khẩn cầu xin gì đấy. Ánh lửa nhảy múa trên tấm lưng thon thả, bốn bề vắng lặng, chỉ có hương thơm của tuyết liên âm thầm bay tới.

Thiếu nữ đứng dậy, mặt cười rạng rỡ. Nàng quay lại rồi hỏi:

– “Huynh không sợ ngã chết hay sao?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Lúc đó ta không sợ ngã chết, chỉ sợ không hái được đóa hoa mà cô nương thích.”

Thiếu nữ mỉm cười, trao một đóa tuyết liên cho chàng rồi bảo:

– “Đóa này của huynh.”

Trần Gia Lạc định từ chối, nhưng mỗi câu nói dịu dàng uyển chuyển của cô gái này lại như một mệnh lệnh nghiêm khắc, khiến cho người ta không thể nào kháng cự được. Chàng đón lấy đóa hoa, thầm nghĩ:

– “Nếu huynh đệ Hồng Hoa Hội thấy tổng đà chủ ngoan ngoãn vâng lời đàn bà con gái, không biết họ sẽ nghĩ sao?”

Thiếu nữ lại hỏi:

– “Huynh đã học võ công phải không? Sao huynh lại có thể trèo lên vách núi cao như thế?”

Trần Gia Lạc nghe cách hỏi thì biết nàng hoàn toàn không hiểu võ công, không nhìn ra khinh công thượng thừa của mình. Chàng bèn đáp:

– “Thật ra cũng không khó, chỉ cần có can đảm là hái được.”

Thiếu nữ không biết đây là lời khiêm nhường, ngẫm nghĩ một lát rồi khen:

– “Huynh thật là dũng cảm.”

Nàng kể cho chàng biết, từ nhỏ mình đã chăn dê trên thảo nguyên này, rất yêu hoa cỏ. Nàng còn nói:

– “Trên thảo nguyên có rất nhiều loại hoa đẹp. Mỗi khi nhìn chúng, muội lại tưởng những đóa hoa đó từ trên trời rơi xuống. Muội có thể nhịn ăn thịt dê nhưng không thể nhịn ăn hoa.”

Trần Gia Lạc kinh ngạc hỏi:

– “Hoa cũng ăn được hay sao?”

Thiếu nữ đáp:

– “Đương nhiên là được, từ nhỏ muội đã ăn rồi. Gia gia và ca ca vốn không cho phép nhưng khi muội đi ra ngoài chăn dê một mình thì họ không quản thúc được. Sau này thấy muội ăn hoa không có hại gì, họ không lo nữa.”

Trần Gia Lạc định nói:

– “Có lẽ vì thế mà cô xinh đẹp như một đóa hoa vậy.”

Nhưng câu nói này vừa đến cửa miệng đã bị nuốt vào, không nói ra nữa. Ngồi bên thiếu nữ, chàng cảm thấy từng đợt hương thơm thanh khiết phát xuất từ thân thể nàng. Đó không phải là hương của tuyết liên, cũng không phải là hương của bất cứ loài hoa nào trên thế gian này. Mùi hương đó thanh nhã vô cùng, ngọt ngào khó nói. Trong lòng chàng nghĩ:

– “Không biết nàng dùng loại phấn son gì mà thơm đến thế? Trên thế gian này có loại phấn son nào mà hương thơm thanh nhã, dịu dàng như vậy hay không?”

Trong lúc thần hồn điên đảo, đột nhiên chàng nghĩ đến lễ giáo, bất giác ngồi dịch ra xa một chút.

Thiếu nữ cũng biết chàng đang thưởng thức mùi thơm, bèn mỉm cười mà nói:

– “Chắc huynh nghĩ rằng vì muội thích ăn hoa nên từ nhỏ đã có mùi hương như vậy. Huynh có thích không?”

Trần Gia Lạc bị câu hỏi này làm đỏ mặt tía tai, không biết nói gì. Hồi lâu chàng nhìn thẳng nàng mà đáp:

– “Ta rất thích.”

Thiếu nữ ra vẻ cao hứng, nụ cười càng vui vẻ. Trần Gia Lạc cũng ngẩng lên cười, nghĩ bụng:

– “Cô nương này ngây thơ vô cùng, tấm lòng thẳng thắn. Nếu mình đối xử với cô bằng kiểu thế tục bình thường thì thật sự không quang minh lỗi lạc chút nào.”

Chàng hết hẳn khách sáo, nói chuyện với nàng một cách tự nhiên.

Thiếu nữ huyên thuyên không dứt về những câu chuyện chăn cừu chăn dê trên thảo nguyên, hái hoa, đếm sao, tìm cỏ, nhưng trò chơi với bạn gái. Từ khi rời khỏi nhà Trần Gia Lạc chỉ lấy đao thương quyền cước làm bạn, đối với những chuyện trẻ con đã quên sạch cả rồi. Bây giờ nghe nàng nhắc đến, thật sự chàng không biết giữa hai người thì ai mới không phải là người của thế gian này.

Thiếu nữ kia nói một hồi, rồi ngẩng đầu nhìn lên trời. Con sông bạc dài vô tận đang bắc ngang bầu trời, hai ngôi sao Ngưu Lang, Chức Nữ đối diện nhau ở hai bên dải ngân hà.

Trần Gia Lạc chỉ ngôi sao Chức Nữ mà nói:

– “Đây là một vị cô nương.”

Chàng lại chỉ vào sao Ngưu Lang:

– “Còn đây là ý trung nhân của cô ấy.”

Thiếu nữ cảm thấy thú vị, bèn giục:

– “Huynh kể câu chuyện đó cho muội nghe đi.”

Trần Gia Lạc bèn kể câu chuyện Ngưu Lang Chức Nữ cho nàng nghe. Thiếu nữ nghe xong, ngẩng mặt nhìn lên sông ngân hà, thấy hai ngôi sao cách một dòng sông không thể gặp nhau, bèn mơ màng nói:

– “Trước đây mỗi lần muội nhìn chim ô thước chỉ thấy đen thui chẳng đẹp đẽ gì, không thích chút nào. Nào ngờ loại quạ đó lại tốt như thế, biết bắc cầu cho Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau. Sau này muội sẽ cho bọn ô thước ăn nhiều thứ hơn.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Hai vị tiên đó trên trời tuy rằng một năm chỉ gặp nhau một lần, nhưng hàng ngàn hàng vạn năm sau vẫn còn có thể gặp nhau. Đối với người phàm chỉ mấy chục năm đã phải chết đi, họ còn khoái lạc hơn nhiềi.”

Thiếu nữ gật đầu một cái. Trần Gia Lạc lại nói tiếp:

– “Có một thi nhân người Hán đã làm một bài ca nói đến chuyện này.”

Chàng bèn dịch bài ca “Tước kiều tiên” thành tiếng Hồi, đọc cho nàng nghe.

Nghe xong bài thơ, trong mắt người thiếu nữ óng ánh mấy giọt lệ, im lặng không nói lời nào, mãi nhìn vào ánh lửa. Hồi lâu nàng mới khẽ nói:

– “Người Hán thật là thông minh, có thể viết nên những ca từ đẹp đẽ đến thế.”

Ở vùng đại mạc này, hễ đêm đến là khí hậu lạnh một cách kỳ lạ. Trần Gia Lạc tìm mấy cánh cây khô đốt cho ngọn lửa bừng lên, rồi mỗi người tự chui vào chăn mà ngủ. Họ nằm cách nhau rất xa, nhưng trong mơ Trần Gia Lạc vẫn phảng phất ngửi thấy hương thơm dịu ngọt trên người thiếu nữ kia.

Sáng hôm sau, họ lại đi tiếp. Họ đi về phía tây bốn ngày trời, đã đến sông Thác Lý Mộc. Chiều hôm đó, đột nhiên từ phía nam xuất hiện hai người Hồi cưỡi ngựa cầm đao. Thiếu nữ chạy lên đón họ, nói chuyện mấy câu. Hai người Hồi thi lễ lui ra, thiếu nữ chạy về nói với Trần Gia Lạc:

– “Bọn lính Mãn Thanh đã chiếm A Khắc Tô và Ô Thập. Lão anh hùng Mộc Trác Luân đã lùi về Diệp Nhĩ Khương. Từ đây về đó phải mất mười ngày đường nữa.”

Trần Gia Lạc nghe quân Thanh thắng trận, ra vẻ lo âu. Thiếu nữ bèn nói:

– “Hai vị đại ca đó vừa nói Thanh binh đông người, chúng ta phải lùi về phía tây để chúng tiếp tế lương thảo không tiện. Trong vùng đại mạc Qua Bích này, hễ bị đói là không còn sức đánh nhau nữa.”

Trần Gia Lạc vốn mãi lo lắng chuyện an nguy của Hoắc Thanh Đồng, nghe vậy bèn nghĩ:

– “Người Hồi lùi về phía tây, chắc chắn quân Thanh nhất thời không làm gì được. Khi sắc lệnh đình chiến của Càn Long truyền đến, Triệu Tuệ nhất định phải lui binh. Bây giờ Hoắc Thanh Đồng đã xa trung thổ hàng vạn dặm, lại ở trong vòng bảo vệ của quân binh, chắc chắn không sợ ba người bọn Tất Nhất Lôi đến trả thù.”

Chàng lập tức cảm thấy yên lòng.

Hai người cứ ngày đi đêm nghỉ, cười nói không dừng, càng ngày càng thân mật hơn. Dường như Trần Gia Lạc nảy ra mong muốn, tốt nhất là con đường này vĩnh viễn không có tận cùng, cứ đi như thế hết cả kiếp người. Nhưng chàng không dám suy nghĩ tiếp vì khi trong lòng vừa xuất hiện ý niệm đó, chàng liếc nhìn qua cô gái trong trắng ngây thơ kia, lập tức có cảm giác hổ thẹn vì mình chỉ là phàm phu tục tử. Được đi chung với thần tiên vài ngày cũng là có phước lắm rồi, sao còn dám mong cầu gì khác?

Xế chiều hôm ấy, khi mặt trời sắp sửa khuất, sau thảo nguyên nơi cuối trời, đột nhiên nghe “soạt” một tiếng, một con nai nhỏ từ giữa rừng cây nhảy ra. Thiếu nữ hoảng sợ giật mình một cái, rồi vỗ tay mỉm cười la lên:

– “Nai nhỏ, nai nhỏ ơi!”

Con nai vừa mới lọt lòng chưa được bao lâu còn rất yếu đuối, chỉ kêu hai tiếng “be be”

rồi chạy vào một lùm cây. Thiếu nữ đưa mắt nhìn theo rồi đột nhiên lui lại, khẽ nói:

– “Bên đó có người.”

Trần Gia Lạc nhìn về hướng lùm cây, thấy mấy tên lính Thanh đang xúm lại làm thịt một con nai lớn. Con nai nhỏ chạy qua chạy lại xung quanh, không ngừng kêu lên thảm thiết. Chắc con nai lớn đang bị làm thịt là mẹ của nó.

Một tên lính la lên:

– “Con mẹ nó! Lão gia phải ăn thịt cả ngươi.”

Hắn đứng dậy, giương cung lắp tên nhắm con nai nhỏ toan bắn. Con nai nhỏ không biết chạy trốn, lại còn chạy đến gần hơn. Thiếu nữ kinh hãi la lên một tiếng, từ trong lùm cây chạy ra cản trước mặt con nai nhỏ, kêu to:

– “Đừng bắn, đừng bắn!”

Tên lính Thanh giật mình, rồi khi nhìn rõ thiếu nữ đó diễm lệ phi thường, hắn không tự chủ được phải lùi một bước. Bốn tên lính Thanh còn lại cũng đứng dậy hết. Lúc này Trần Gia Lạc cũng đã nhảy ra đứng bên thiếu nữ để bảo vệ.

Thiếu nữ ẵm con nai nhỏ lên, vuốt ve bộ lông mềm mại của nó, dịu dàng nói:

– “Mẹ của ngươi bị người ta bắn chết rồi, đáng thương quá.”

Nàng nghiêng đầu hôn vào con nai nhỏ, nhìn bọn lính Thanh một cách giận dữ rồi quay đi khỏi lùm cây. Năm tên lính Thanh trao đổi mấy câu rồi đột nhiên hô vang lên, xách đao đuổi theo. Thiếu nữ rảo bước đến chỗ ngựa. Một tên ra hiệu lệnh, cả năm lập tức chia ra bao vây.

Trần Gia Lạc bèn kéo tay thiếu nữ mà nói:

– “Đừng sợ! Để ta đánh chết bọn xấu xa này trả thù cho mẹ của con nai.”

Lúc này thiếu nữ đã hoàn toàn tin tưởng nơi chàng. Nghĩ rằng một người đối phó với năm người chắc không phải dễ nhưng nghe nói như vậy nàng không hoài nghi gì nữa, ôm lấy con nai nhỏ mà đứng tựa vào chàng. Trần Gia Lạc cũng đưa tay nhẹ nhàng vuốt ve con nai.

Năm tên lính Thanh đã đuổi tới, bao vây bốn phía. Tên chỉ huy dùng tiếng Hồi lơ lớ mà quát hỏi:

– “Làm gì vậy? Qua đây!”

Thiếu nữ ngẩng đầu nhìn Trần Gia Lạc, Trần Gia Lạc cũng mỉm cười với nàng. Nàng cũng mỉm cười đáp lại, lập tức khoan khoái cả lòng, thầm nghĩ:

– “Chàng mỉm cười, vậy thì bọn Thanh binh đó chắc chắn không đáng sợ.”

Tên chỉ huy kêu lên:

– “Bắt lấy hắn!”

Bốn tên lính Thanh liền giương binh khí lên, phóng tới. Đám lính này bình thường rất thích bức hiếp phụ nữ, nhưng thấy dung mạo và ánh mắt thần tiên của thiếu nữ này lại không dám xúc phạm, cả bốn đều nhào tới Trần Gia Lạc. Thiếu nữ kinh hãi kêu lên, nhưng kêu chưa dứt đã nghe “bịch bịch” mấy tiếng, bốn tên lính Thanh bay ngược ra sau. Chúng té lăn ra đất, ú ớ không bò dậy nổi thì ra đã bị điểm huyệt.

Tên chỉ huy thấy tình hình không ổn, quay người định chạy. Trần Gia Lạc hô lớn:

– “Quay lại đây!”

Chàng quăng châu sách ra, quấn cổ hắn giật lại. Tên chỉ huy lộn đi hai vòng, lăn về trước mặt chàng. Thiếu nữ vỗ tay mỉm cười, ánh mắt lộ vẻ kính phục vô cùng.

Trần Gia Lạc dắt tay nàng đến ngồi trên tảng đá, dùng tiếng Hồi mà hỏi:

– “Sao các ngươi đến đây?”

Tên chỉ huy cố lắm mới bò dậy được, nhìn thấy bốn tên thuộc hạ đều nằm dưới đất không cục cụa. Hắn biết hôm nay đã gặp phải sát tinh, không dám cứng đầu bèn nói:

– “Bọn tại hạ là tiểu tốt của Triệu Tuệ tướng quân. Thượng cấp bảo đi đâu là phải đi tới đó.”

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Chuyện này không sai.”

Chàng hỏi tiếp:

– “Bọn ngươi đang đi đâu? Ngươi không nói thật thì ta không thả ngươi, cũng không cứu chữa, để bọn ngươi đói khát mà chết trong sa mạc.”

Tên chỉ huy nghe vậy run rẩy cả người, vội đáp:

– “Tiểu nhân không dám giấu. Cấp trên sai đi Tinh Tinh Hiệp đón người.”

Hắn nói tiếng Hồi ấp úng không thành câu cú, nghe không rõ ràng gì cả. Trần Gia Lạc bèn dùng tiếng hán để hỏi:

– “Đi đón ai?”

Hắn cũng dùng tiếng Hán trả lời:

– “Đi đón một vị tướng lĩnh của Kiêu Kỵ Doang.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Hắn tên gì? Ngươi đưa cho ta xem.”

Tên chỉ huy chần chừ một lúc, rồi lấy trong người ra một tờ công văn. Trần Gia Lạc vừa liếc qua đã giật mình. Ngoài bì công văn có ghi:

– “Gửi Trương Triệu Trọng đại nhân.”

Trần Gia Lạc nghĩ bụng:

– “Sau trận chiến trên Sư Tử phong ở Hàng Châu, Trương Triệu Trọng đã bị sư huynh bắt về quản thúc, sao lại đến Hồi Cương này được?”

Chàng bèn tiện tay xé bì thư ra. Tên chỉ huy muốn cản trở, nhưng Trần Gia Lạc mặc kệ, vẫn rút công văn ra xem.

Công văn viết:

– “Đã biết Trương đại nhân phụng chỉ đi đến Hồi Cương, thật là an ủi vô cùng, vội phái người đi đón tiếp.”

Bên dưới ký tên Triệu Tuệ.

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Trương Triệu Trọng phụng mệnh đến đây, tức là có mang theo sắc lệnh triệu tập binh lính. Nếu vậy ta không nên cản trở.”

Chàng bèn trả lại công văn, giải huyệt cho bốn tên lính, không nói gì nữa, cùng thiếu nữ lên ngựa đi ngay.

Thiếu nữ mỉm cười nói:

– “Huynh giỏi quá. Người như huynh ở trong Hồi tộc phải rất nổi danh. Tại sao trước nay muội chưa từng nghe nói?”

Trần Gia Lạc mỉm cười, nói sang chuyện khác:

– “Con nai nhỏ nhất định đã đói rồi, cô nương phải cho nó ăn gì chứ?”

Thiếu nữ nói:

– “Không sai, không sai!”

Nàng tháo túi da, đổ một ít sữa ngựa vào trong lòng bàn tay cho con nai liếm. Lòng bàn tay nàng trắng trẻo, ửng hồng, trông như một cái chén bạch ngọc đựng sữa ngựa.

Con nai nhỏ uống mấy miếng, rồi lại kêu “be be.”

Thiếu nữ nói:

– “Chắc là nó đang gọi mẹ.”

Hồi 14: Vũ hội trao duyên quàng dây gấm – Hồ cát tận tình nghĩa đệ huynh

Hai người lại đi thêm sáu ngày. Đến sáng sớm ngày thứ bảy, đi chưa bao lâu đã thấy xa xa đã thấy sương mù dầy đặc bốc lên tới lưng chừng trời.

Trần Gia Lạc nói:

– “Cuồng phong sắp đến rồi.”

Thiếu nữ nhìn kỹ một lúc rồi nói:

– “Đó không phải là mây đen, mà là cát bụi dưới đất.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Sao lại nhiều cát bụi đến thế?”

Thiếu nữ nói:

– “Muội cũng không biết. Chúng ta đến đó thử xem.”

Hai người giục ngựa phóng nhanh về phía đó. Đi được một lúc cát bụi càng mù mịt hơn, lại nghe thấy tiếng trống chiêng văng vẳng truyền tới. Trần Gia Lạc giật mình, vội vã thắng ngựa lại nói:

– “Đó là quân binh. Cô nương nghe kỹ xem.”

Trong chốc lát đã nghe thấy tiếng truyền hiệu lệnh, trống chiêng vang như sấm sét. Trần Gia Lạc lớn tiếng hô:

– “Hai bên sắp sửa đại chiến rồi. Chúng ta mau mau tránh khỏi đây đi.”

Hai người giục ngựa chạy nhanh, nhưng chẳng bao lâu phía trước cũng có một đám bụi bay lên. Một đội kỵ mã chạy thẳng tới, nghe có tiếng thiết giáp khua lẻng kẻng. Trong đám bụi xuất hiện một lá cờ lớn, viết một chữ Triệu rất lớn.

Trần Gia Lạc ở bắc Hoàng Hà đã từng giao đấu với đội quân thiết giáp của Triệu Tuệ, biết mùi lợi hại nên đưa tay ra hiệu, cho ngựa chạy về hướng nam. May mà cả hai con ngựa đều chạy rất nhanh lên chỉ mấy chốc lát đã cách xa đội quân này.

Thiếu nữ ra vẻ lo âu hỏi:

– “Không biết quân của chúng ta có địch nổi hay không?”

Trần Gia Lạc đang muốn nói vài lời an ủi, thì đột nhiên phía trước quân hiệu cũng vang lên. Từng dãy bộ binh hàng ngũ chỉnh tề đang bước tới. Rồi phía trái cũng có tiếng chiêng trống rộn ràng. Mặt đất rung lên dưới mấy chục ngàn vó ngựa gõ đều. Kỵ binh tràn ngập cả một vùng hoang dã. Trần Gia Lạc đưa tay trái đỡ thiếu nữ qua ngồi chung ngựa với mình. Lấy kiếm thuẫn ra che trước ngực, lên tiếng:

– “Cô nương đừng sợ!”

Thiếu nữ quay đầu lại, gật đầu mỉm cười nói:

– “Huynh bảo không sợ thì muội không sợ đâu.”

Hơi thở của nàng thơm dịu như hoa lan, Trần Gia Lạc ngồi sát nàng, không khỏi say đắm vì mùi hương đó. Tuy chàng đang ở giữa vòng vây trùng điệp, nhưng trong lòng vẫn sinh tình ý triền miên.

Chàng thấy ở ba mặt đông, bắc, nam đều có quân lính, liên cho ngựa chạy về hướng tây. Thiếu nữ vẫn ôm lấy con nai nhỏ, con ngựa hồng chạy theo sau. Chạy được một lúc, đột nhiên lại thấy một đám lính Thanh bày thành đội ngũ đi qua đi lại như đang dàn trận, cả bốn phía đều không còn đường để đi nữa.

Trần Gia Lạc thầm kinh hãi, phi ngựa lên đồi cao, muốn nhìn rõ tình hình chiến sự rồi mới tìm chỗ sơ hở mà chạy ra ngoài. Chàng càng nhìn càng ngơ ngác. Phía tây thì xếp đầy bộ binh Mãn Thanh, hai cánh lại là kỵ binh. Xa xa phía đối diện là người Hồi tộc mặc quân phục có hoa văn đan dọc. Trường thương dựng như khu rừng, đơn đao nhiều như cây cỏ, thanh thế thật là dữ dội. Hai bên đã bày trận xong xuôi, có lẽ chỉ trong chốc lát là khởi sự giao tranh.

Thì ra Trần Gia Lạc và thiếu nữ đã lọt vào giữa trận địa quân Thanh. Trong trận có mấy tên tướng tá cưỡi trên lưng ngựa, chạy qua chạy lại chỉ huy. Hàng ngàn quân sĩ đều im lặng, không có một tiếng động nào. Lúc này quân Thanh đã phát hiện hai người lạ, có mấy tên phụng mệnh chạy đến điều tra.

Trần Gia Lạc nghĩ thầm:

– “Hôm nay ma xui quỉ khiến thế nào mà ta lại lọt vào giữa trận của bọn nhà Thanh. Cái mạng này mất ở đây hay sao?”

Nghĩ đến chuyện sắp được chết cùng cô nương đang ngồi trong vòng tay của mình, trên miệng chàng bỗng nở một nụ cười. Tay phải cầm châu sách, tay trái nắm lấy dây cương, đột nhiên chàng la lớn:

– “Chạy nhanh lên!”

Hai chân Trần Gia Lạc kẹp chập vào bụng ngựa, thúc ngựa phi nhanh như tên thẳng về phía trước. Đám lính Thanh chưa kịp quát hỏi thì con ngựa trắng đã chạy qua mặt chúng rồi.

Con ngựa này chạy nhanh như chớp chốc lát đã vượt qua ba đội quân Thanh. Trần Gia Lạc chưa kịp mừng, nó bỗng dừng vó lại. Trước mặt là đội quân thiết giáp xếp chặt, không sao chạy xuyên qua được.

Trần Gia Lạc nín thở, quay đầu ngựa chạy vòng qua đội quân thiết giáp, bỗng thấy bọn cung tiễn thì đang giương cung lắp tên, lại còn vô số trường mâu đang chĩa lên trời. Quân lính xếp sát ken đặc, không rõ đông tới bao nhiêu. Chỉ cần tướng quân ra lệnh, hàng ngàn trường mâu và hàng ngàn mũi tên sẽ nhằm Trần Gia Lạc và thiếu nữ bắn tới, dù bản lĩnh bằng trời cũng không thoát được.

Trần Gia Lạc bèn dứt khoát hãm ngựa lại, từ từ đi tới. Chàng ngồi thẳng lưng, không thèm nhìn bọn lính nhà Thanh nữa, bỏ chuyện sinh tử ra ngoài suy nghĩ của mình.

Lúc đó mặt trời vừa ló lên. Hai người đi chậm rãi về phía mặt trời mọc. Trên tóc thiếu nữ, trên mặt, trên tay, trên áo đều óng ánh nắng mai. Mấy vạn cặp mắt của quan binh nhà Thanh đều chăm chú nhìn nàng đến xuất thần, mấy vạn con tim đập loạn trong lồng ngực. Bất kể là võ quan hay binh sĩ đều ngẩn ra trước vẻ đẹp của nàng. Mấy vạn nhân mã cung đã lắp tên đều thúc thủ, không ai ban hiệu lệnh, dường như tất cả đã bị trúng tà, người nào cũng ngơ ngác đứng yên.

Nghe xoảng một tiếng, một cây trường mâu rơi xuống đất. Tiếp theo là những tiếng loảng xoảng liên hồi, trường mâu hạ xuống hàng loạt. Bọn cung tiễn thủ cũng buông lỏng dây cung, nhìn theo hai người từ từ đi xa dần.

Tướng quân Triệu Tuệ đứng đầu đội quân Thanh cũng ngơ ngác nhìn theo người thiếu nữ vừa đi khuất. Hình như trước mắt hắn vẫn còn bóng dánh của nàng, trong lòng bỗng thấy hòa bình yên tĩnh, không muốn chém giết nữa. Quay đầu nhìn lại, hắn thấy hết thảy đô thống, phó đô thống, tham tướng, đội trưởng, quân sĩ của mình người nào thần sắc cũng hiền hòa, tra đao vào vỏ để đợi chủ soái hạ lệnh thu binh.

Triệu Tuệ không tự chủ được, hô lớn:

– “Thu binh hạ trại!”

Lệnh vừa ban xuống, mấy vạn bộ binh, kỵ binh đã cuồn cuộn lùi ra chừng vài chục dặm, dừng lại lập doang trại bên sông Hắc Thủy. Trần Gia Lạc thoát được phen này, mồ hôi lạnh ướt đẫm cả người, hai tay run rẩy. Còn thiếu nữ thần sắc vẫn tự nhiên, không biết mình vừa trải qua nguy hiểm chín phần chết một phần sống (thập tử nhất sinh). Nàng giao lại con nai nhỏ trong lòng cho Trần Gia Lạc, tung người nhảy lên lưng con ngựa hồng, mỉm cười nói:

– “Phía trước là đội ngũ của chúng ta rồi.”

Trần Gia Lạc cất kiếm thuẫn, hai người đi về phía trận địa người Hồi. Một nhóm kỵ binh Hồi tộc vừa chạy ra đón vừa hoan hô vang dội. Sắp tới nơi, mọi người đều nhảy xuống ngựa, thi lễ với thiếu nữ. Nàng nói mấy câu, đội trưởng đội kỵ binh liền đến trước mặt Trần Gia Lạc thi lễ rồi nói:

– “Huynh đài vất vả quá. Cầu nguyện thánh A-la phù hộ cho huynh đài.”

Trần Gia Lạc vội vàng đáp lễ. Thiếu nữ đưa tay tạm biệt chàng, rồi giục ngựa chạy vào trong trận. Hình như nàng có địa vị rất cao trong Hồi tộc, con ngựa hồng đi đến đâu thì tiếng hoan hô nổi lên đến đó. Đội trương kỵ binh mời Trần Gia Lạc vào doanh trại, nghỉ ngơi rồi ăn cơm. Trần Gia Lạc xin gặp Mộc Trác Luân, y bèn nói:

– “Tộc trưởng đã ra ngoài xem xét tình hình quân địch rồi. Khi ông ấy trở về, bọn tại hạ sẽ báo cho huynh đài biết ngay.”

Trần Gia Lạc đi đường mệt mỏi, lại trải qua một phen nguy hiểm khác thường, thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Chàng lập tức ngủ thiếp đi trong doanh trại. Hết giờ ngọ, đội trưởng kỵ binh vào nói Mộc Trác Luân phải chiều tối mới trở về. Trần Gia Lạc hỏi thiếu nữ mặc áo trắng là ai, đội trưởng kỵ binh chỉ cười nói:

– “Ngoài cô ấy ra thì còn ai diễm lệ như thế được? Tối nay có đại hội Ô Lang, mời huynh đến.”

Một hồi kèn lại vang lên, ba đội chiến sĩ đi thành hàng ngũ ra ngoài. Người nào cũng tay trái dẫn ngựa, tay phải nắm trường đao. Hoắc A Y ngồi trên chiến mã dẫn đầu, hô lớn:

– “Mong thánh A-la phù hộ cho đêm nay các bạn được đoàn tụ với vị cô nương mà mình yêu.”

Bọn chiến sĩ thanh niên đồng thanh hô lớn:

– “Thánh A-la phù hộ! Đa tạ các huynh đài đã mệt mỏi chống đỡ với cường địch.”

Hoắc A Y vung trường đao một cái, dẫn ba đội chiến sĩ ra ngoài canh gác. Trần Gia Lạc thấy người Hồi điều động rất có phương pháp, bố trí trận mạc rất nghiêm, nên thầm khen ngợi và cảm thấy yên tâm. Chàng đã ở Hồi Cương lâu năm, biết chuyện hôn nhân của người Hồi phần lớn do cha mẹ quyết định, và cũng do tài sản, địa vị chi phối, nhưng so với lễ giáo của người Hán thì thoáng hơn rất nhiều. Đại hội Ôi Lang của người Hồi đã có từ xưa. Trong đại hội này, thanh niên nam nữ chưa thành thân có thể gặp gỡ và tự mình đính hôn.

Hai chữ Ôi Lang có nghĩa là người thiếu nữ đi tới chỗ người tình, khoác cho một sợi dây gấm lên cổ, dắt tay ra cùng nhảy múa để xác định việc chung thân. Việc này do bên nữ chủ động, đúng là “Hoàng cầu phụng” chứ không phải là “Phụng cầu hoàng” nữa.

Không bao lâu, tiếng nhạc đột nhiên thay đổi, khúc nhạc chuyển từ rộn rã thành êm dịu hơn. Cửa một chiếc lều được mở ra, một nhóm thiếu nữ người Hồi tộc chạy ra, áo quần xinh tươi đẹp đẽ, đội nón nhỏ dệt sợi vàng sợi bạc phát ra ánh sáng. Họ vừa ca hát, vừa nhảy múa, chạy đến bên đống lửa.

Trần Gia Lạc đột nhiên rùng mình một cái, thấy hai thiếu nữ sánh vai nhau đi tới chỗ Mộc Trác Luân. Một cô áo vàng, một cô áo trắng, tay nắm chặt tay đầy vẻ thân thiện. Người áo trắng chính là thiếu nữ đã cùng quay về Hồi tộc với chàng. Còn người áo vàng thì trên nón có cắm một cọng lông vũ, chính là Hoắc Thanh Đồng. Dưới ánh trăng, cả hai trông đều yểu diệu, kiêu sa. Hai người đến ngồi hai bên trái phải Trác Mộc Luân.

Trần Gia Lạc bỗng nghĩ:

– “Chẳng lẽ cô nương áo trắng này chính là tiểu muội của Hoắc Thanh Đồng hay sao?”

Chàng đỏ mặt, lòng bàn tay ướt đẫm, tim cũng đập loạn xạ. Từ lúc chàng gặp gỡ Hoắc Thanh Đồng, tình ý đã chớm nở rồi, nhưng thấy nàng thân mật với đồ đệ của Lục Phi Thanh lên cho rằng nàng đã có người yêu. Hơn nữa, người thiếu niên kia tuấn tú hơn nhiều, mình không sánh kịp. Chàng nửa tự kiêu nửa tự ti, cố gắng không nghĩ tới nàng nữa.

Mấy hôm nay chàng lại được kề cận với một thiếu nữ tuyệt sắc, thì ra tình ý đã lay động và chuyển sang thiếu nữ áo trắng này rồi. Lúc này đồng thời nhìn thấy cả hai chị em, chàng không nén nổi vừa mơ màng vừa hoảng hốt.

Tiếng nhạc dừng lại, Mộc Trác Luân nói chậm rãi:

– “Thánh Muslim đã ban kinh Koran để dạy dỗ chúng ta. Tiết 120 chương 2 có nói:

– Các ngươi phải chủ động chống trả người tiến công các ngươi. Tiết 29 chương 32 cũng nói:

– Người bị tấn công thì phải chống trả. Vì họ bị thiệt thòi, thánh A-la sẽ giúp đỡ họ. Chúng ta đã bih ức hiếp, nhất định thánh A-la sẽ phù hộ chúng ta.”

Toàn bộ người Hồi hoan hô hưởng ứng. Mộc Trác Luân cười rồi nói lớn:

– “Các vị huynh đệ tỉ muội, hãy vui vẻ cho thỏa sức đi.”

Tiếng đàn tiếng hát vang lên rộn rã khắp một vùng. Những người lo việc bếp núc đã đem cơm nắm, thịt nướng, dưa lê, nho khô và rượu sữa ngựa ra phân phát. Mỗi người đều cầm một cái chén nhỏ tạc bằng đá lửa đựng rượu sữa ngựa, lấy thịt nướng chấm vào trong chén mà ăn.

Khi trăng lưỡi liềm đã lên cao, không khí lại càng náo nhiệt. Các thiếu nữ ra nhảy múa xung quanh đống lửa; sau đó nhảy đến bên người mà mình ưa thích, tháo sợi dây gấm trên lưng mình choàng qua cổ chàng rồi dẫn chàng ra. Càng lúc càng có thêm nhiều đôi nam nữ bước ra ca hát xung quanh đống lửa này.

Trần Gia Lạc xuất thâm trong một gia đính nghiêm thủ lễ giáo, trước nay chưa từng gặp cảnh tượng nào phóng khoáng như thế này. Tiếng ca hát đầy tai, nỗi phấn khích say lòng. Chàng uống cạn chén rượu sữa ngựa mặt đã hơi đỏ, thật sự vui vẻ vô cùng.

Đột nhiên tiếng nhạc dừng lại, sau đó lại vang lên, nhưng lần này tiết tấu gấp rút hơn. Những đôi nam nữ đang hát múa đều nắm tay nhau, tản ra khắp nơi. Mặt họ lộ vẻ kỳ lạ, đều nhìn về phía Mộc Trác Luân. Trần Gia Lạc cũng nhìn theo ánh mắt của họ, thấy thiếu nữ áo trắng đang tiến ra, nhẹ nhàng đi về phía đống lửa.

Tất cả người Hồi đều vô cùng hưng phấn, xì xào bàn tán. Trần Gia Lạc nghe người đội trưởng kỵ binh đứng bên khẽ nói:

– “Hương Hương công chúa của chúng ta cũng có người yêu rồi. Không biết ai xứng đáng với nàng đây?”

Mộc Trác Luân thấy cô con gái yêu cũng đứng dậy, ông vừa bất ngờ vừa vui sướng, cảm động giương mắt lên nhìn. Hoắc Thanh Đồng cũng chưa biết em gái mình đã có người yêu, nên vừa kinh ngạc vừa vui mừng.

Em gái nàng là Hoắc Kha Tu Lệ, chỉ mới mười tám tuổi mà vẻ diễm lệ đã nổi danh khắp nam bắc Thiên Sơn. Thân thể nàng lại tỏa ra mùi hương thiên nhiên thanh khiết nhẹ nhàng, nên mọi người đều gọi nàng là Hương Hương công chúa. Thanh niên Hồi tộc mỗi khi nhìn thấy dung nhan tuyệt trần đó đều không dám nhìn lâu, chưa ai mơ tưởng mình sẽ trở thành tình lang của nàng. Bây giờ họ đột nhiên thấy nàng rời khỏi chỗ ngồi, tham gia ca múa, đúng là sự kiện rất lớn trong Hồi tộc.

Hương Hương công chúa nhẹ nhàng xoay chuyển mấy vòng, rồi từ từ rời khỏi đống lửa, vủa múa vừa đi. Nàng cầm một sợi dây gấm óng ánh sang trọng, miệng khe khẽ hát:

– “Ai đã giúp muội hái đóa tuyết liên, huynh nhanh chóng ra đi! Ai đã cứu con nai nhỏ cho muội, muội đang tìm huynh đấy.”

Trần Gia Lạc nghe mà ù cả tai, ngẩn ngơ ngồi đó. Đột nhiên một cánh tay trắng muốt nhỏ xinh khoát qua vai chàng, sợi dây gấm đã quành qua cổ chàng, nhẹ nhàng kéo chàng dậy. Trần Gia Lạc mơ hồ đứng dậy bước theo. Tất cả người Hồ đều hoan hô nhiệt liệt, cất cao tiếng hát. Tất cả các đôi nam nữ khác đều ùa tới chúc mừng.

Dưới ánh trăng mông lung, Mộc Trác Luân và Hoắc Thanh Đồng chưa nhìn rõ diện mạo Trần Gia Lạc, tuởng đó chỉ là một người Hồi bình thường thôi. Hai cha con đang định chen vào đám đông để gặp họ thì đột nhiên xa xa vọng đến ba hồi kèn sừng trâu. Đó chính là tín hiệu báo hiệu quân tình khẩn cấp.

Mọi người vừa nghe thấy lập tức tản ra, Mộc Trác Luân và Hoắc Thanh Đồng trở về chỗ ngồi. Hương Hương công chúa nắm tay Trần Gia Lạc ngồi sau đám đông. Trần Gia Lạc cảm thấy tấm thân mềm mại đang tựa vào lòng, mùi u hương thoang thoảng truyền vào mũi, đúng là thần hồn phách tán, không biết mình đang mơ hay đã bay lên trời nữa.

Biết Hương Hương công chúa quàng sợi dây gấm qua cổ mình chính là biểu lộ tình yêu, Trần Gia Lạc mừng rỡ như sắp nổ tung ra vậy. Nhưng đột nhiên chàng tỉnh táo đôi chút, bắt đầu suy nghĩ:

– “Cô em gái yêu mình đương nhiên mình thích. Còn cô chị thì sao? Nàng đã tặng mình đoản kiếm, không phải là tỏ rõ tình ý với mình rồi sao? Mình đã nhận đoản kiếm của nàng, có nghĩa là đã nhận tấm chân tình đó. Nam tử hán đại trượng phu sao có thể lật lọng, nói một đằng làm một nẻo, không giữ tín nghĩa? Ta có nên nói rõ với cô nương Kha Tư Lệ hay không? Ta có thể làm một kẻ tiểu nhân phụ nghĩa hay không?”

Mọi người đều tập trung nhìn về phía có tiếng kèn lệnh, đám thanh niên nắm lấy binh khí, chuẩn bị nghênh chiến. Hai con ngựa phi đến gần, hai người Hồi nhảy xuống ngựa quỳ xuống báo tin:

– “Tướng quân nhà Thanh phái sứ giả cầu kiến.”

Mộc Trác Luân đáp:

– “Được! Dẫn hắn vào đây.”

Hai người phi ngựa ra ngoài, chỉ chốc lát có năm con ngựa chạy về phía đám đông. Còn cách năm trượng chúng mới xuống ngựa bước tới. Sứ giả Mãn Thanh mặt mũi khôi ngô, bước đi nhẹ nhàng. Bốn người tùy tùng đi phía sau mới làm cho người ta giật mình hoảng sợ. Cả bốn đều cao hơn bảy thước, so với người bình thường thì cao hơn đến hai cái đầu, thân hình rắn chắc, đúng là khổng lồ chưa từng thấy.

Sứ giả đi đến chỗ Mộc Trác Luân, gật đầu một cái rồi nói:

– “Ngươi là tộc trưởng phải không?”

Thần thái của hắn vô cùng ngạo mạn. Quân Thanh vô cớ phóng hỏa giết chóc, người Hồi tộc đã hận đến tận xuơng tủy từ lâu. Bây giờ thấy sư giả ngạo mạn đến thế, bọn thiếu niên không nhịn nổi nữa. Có tiếng xì xào bàn tán, mấy thanh đao đã rút ra khỏi vỏ.

Sứ giả không thèm để ý, vẫn dõng dạc nói:

– “Ta phụng mệnh đại tướng quân Triệu Tuệ, đến đây hạ chiến thư. Nếu các người biết thời cuộc hãy đầu hàng. Đại tướng quân nói, nếu vậy sẽ tha mạng cho các ngươi. Còn nếu không sáng sớm ngày mốt hai bên quyết chiến. Khi ấy chúng ta sẽ giết sạch bọn Hồi các ngươi, đừng hối hận.”

Hắn nói tiếng Hồi, mọi người vừa nghe xong đã nhốn nháo hẳn lên. Mộc Trác Luân thấy dân chúng nổi giận, liền vẫy tay ra lệnh cho mọi người ngồi xuống. Sau đó ông dõng dạc nói với sứ giả:

– “Các ngươi vô cớ đến giết hại chúng ta, cướp bóc chúng ta. Thánh A-la trên trời nhất định sẽ trừng phạt hành vi bất nghĩa của các ngươi. Muốn đánh thì đánh! Bọn ta còn một người cũng quyết không đầu hàng.”

Người hồi đều đưa đao lên, hô lớn:

– “Muốn đánh thì đánh! Bọn ta còn một người cũng quyết không đầu hàng.”

Dưới ánh trăng đao quang như tuyết, thần thái ai cũng bi tráng hào hùng. Mọi người đều biết khí thế quân Thanh hùng mạnh, quyết chiến thì thắng ít thua nhiều; nhưng dân Hồi từ đời này sang đời khác đều tin vào tôn giáo, yêu chuộng tự do, quyết không làm nô lệ cho ngoại tộc.

Sứ giả thấy tính hình như vậy, bĩu môi mà nói:

– “Được! Ngày mốt bọn ta sẽ dạy cho các ngươi một bài học. Các ngươi sẽ chết sạch không còn một mống.”

Nói xong hắn giận dữ phun nước bọt xuống đất. Đây là chuyện sỉ nhục thậm tệ, nên có ba thiếu niên Hồi tộc nhảy ra khỏi đâm đông quát lên:

– “Hôm nay các ngươi là sứ giả, chúng ta tôn trọng lễ nghi mới để các ngươi lành lặn ra về. Ngày mốt gặp nhau trên chiến trường, chúng ta không khách sáo với ngươi nữa.”

Sứ giả lại bĩu môi một cái. Bốn người tùy tùng khổng lồ kia lập tức bước lên, xô bắn ba thiếu niên Hồi tộc trở về, rồi đứng vây quanh sứ giả. Sứ giả lại nói:

– “Hừ! Hôm nay ta cho các ngươi xem chút ít thủ đoạn của người Mãn Châu chúng ta.”

Hắn vẫy tay một cái rồi hô lớn:

– “Đằng kia!”

Một người khổng lồ nhìn theo thấy một con lạc đà bị cột dưới gốc bạch dương. Hắn liền cất bước đi tới, hai tay ôm lấy cây bạch dương, vận sức lắc mạnh mấy cái rồi quát lên một tiếng:

– “Ngã xuống!”

Cây bạch dương liền lập tức bị nhổ bật rễ lên, rồi quăng xuống đất. Mọi người thấy thần lực của hắn như vậy, ai cũng hoảng sợ. Hắn lại giật một cái, bứt đứt sợi dây cương của con lạc đà rồi đá vào mông nó một phát. Con lạc đà bị đau phóng thẳng tới phía trước. Bình thường thì lạc đà đi chậm rãi, nhưng khi cần nó còn chạy nhanh hơn ngựa nữa.

Đợi con lạc đà chạy khoảng mười trượng, người khổng lồ thứ hai mới xông lên. Thân thể hắn to lớn nhưng bước chân lại cực kỳ nhanh chóng, chỉ chớp mắt đã đuổi kịp con lạc đà, túm lấy bốn chân rồi xốc ngược lên. Con lạc đà nặng mấy trăm cân mà hắn vác trên vai, sải bước quay về, rồi ngạo mạn đặt kế bên đống lửa.

Người khổng lồ thứ ba “hừ” một tiếng, đưa bàn tay vĩ đại ra đánh một quyền vào giữa đầu con lạc đà. Nó đứng không vững, lắc lư mấy cái rồi ngã lăn ra đất. Người khổng lồ thứ tư nắm lấy một chân con lạc đà nhấc bổng qua đầu, quay trên không hai ba vòng, hô vang một tiếng rồi quẳng nó ra xa sáu bảy trượng.

Bốn người khổng lồ này là anh em sinh tư, tên là Cốt Luân Đại Hổ, Cốt Luân Nhị Hổ, Cốt Luân Tam Hổ, Cốt Luân Tứ Hổ là người Ninh Cổ Tháp ở Liêu Đông. Khi mẫu thân chúng hạ sinh bốn đứa con khổng lồ này, bà cực nhọc quá độ, gắng gượng chống chọi đến khi sinh đứa thứ tư là Cốt Luân Tứ Hổ mới chết vì mất máu quá nhiều.

Phụ thân chúng là một người thợ săn nghèo khó, khi vợ chết thì không biết lấy đâu ra sữa để nuôi bốn đứa con. Ông đang phiền não thì nghe thấy trong rừng có tiếng hổ gầm, thì ra một con hổ cái đã mắc vào bẫy thú. Ông và bạn bè ra bắt con hổ cái, thấy bên cạnh còn có ba con hổ nhỏ mới sinh ra, bèn nảy ra ý định giết hổ con, nuôi hổ mẹ, mỗi ngày săn mấy con thú để lấy sữa hổ nuôi bốn đứa con của mình.

Vì thế bốn huynh đệ này từ nhỏ đã có sức lực như hùm; khi lớn lên thì có thân hình to lớn, thần lực kinh người, chỉ có điều hơi đần độn. Khi đi săn chúng không cần dùng khí giới, hễ nhìn thấy dã thú là túm lấy cổ đập vào núi đá, thú nào cũng chết ngay. Bốn người này ăn không biết no, săn bắn bao nhiêu cũng không thỏa mãn cái bụng được.

Một hôm Triệu Tuệ đi săn ở núi Trường Bạch thấy bốn người tướng mạo khác thường bèn nhận về làm thân binh, ngày nào cũng cho ăn uống thoả thích. Lần này hắn bảo họ đến đây, cốt ý là biểu diễn oai phong cho người Hồi khiếp sợ.

Người Hồi nhìn thấy thần lực bốn người này như thế, đều âm thầm kinh hãi. Nhưng trước mặt kẻ địch họ không lộ vẻ lo sợ, cứ nhao nhao la hét:

– “Con lạc đà như thế mà các ngươi nỡ giết chết! Các ngươi có phải là con người không?”

Tên sứ giả lên tiếng đối đáp, người Hồi càng giận dữ hơn. Tranh chấp càng lúc càng quyết liệt, dường như sắp biến thành ẩu đả. Sứ giả bèn lớn tiếng hỏi:

– “Các ngươi muốn ỷ nhiều thắng ít, bức hiếp sứ giả phải không?”

Hắn biết kinh Koran có dạy người Hồi phải khoản đãi tân khách, nên không sợ hãi chút nào. Mộc Trác Luân bèn quát mọi người im lặng rồi nói:

– “Ngươi là sứ giả, nhưng hạ lệnh cho tùy tùng giết chết lạc đà của chúng ta thì thật là vô lễ. Nếu ngươi không phải là tân khách thì chúng ta chắc chắn không tha cho ngươi. Ngươi trở về đi!”

Sứ giả ngang nhiên nói:

– “Chúng ta đường đường là người Mãn Châu, chẳng lẽ lại sợ lũ người vô dụng các ngươi hay sao? Ngươi mau viết trả lời giao cho ta mang về. Xem ra bọn ngươi không có tên nào dám đi gặp Triệu Tuệ tướng quân của ta đâu.”

Câu này vừa buông ra, mọi người lập tức la ó om sòm đòi chém giết. Hoắc Thanh Đồng bỗng đứng dạy nói lớn:

– “Ngươi nói chúng ta không dám đi gặp Triệu Tuệ hay sao? Hừ! Người nào ở đây cũng dám đi. Đừng nói là nam nhân, nữ nhân cũng dám đi.”

Tên sứ giả liền ngửa mặt lên trời, cười hô hố:

– “Nữ nhân ư? Nữ nhân nhìn thấy đại quân của chúng ta mà không hoảng sợ đến chết mới là chuyện lạ.”

Hoắc Thanh Đồng giận dữ nói:

– “Ngươi đừng xem thường người khác, chúng ta lập tức phái người cùng đi với ngươi. Ngươi cứ việc chọn. Ngươi chọn người nào, người đó sẽ đi với ngươi. Cho ngươi thấy khí phách của người Hồi giáo chúng ta.”

Tất cả người Hồi cả nam lẫn nữ đều hô lớn:

– “Ngươi cứ việc chọn. Ngươi chọn người nào thì người đó sẽ đi với ngươi.”

Sứ giả cười gằn:

– “Được!”

Hắn muốn tìm một cô gái yếu đuối vô dụng nhất, bắt cô ấy hoảng sợ phát khóc ngay tại chỗ, để người Hồi ê mặt tức thì. Hắn đảo mắt nhìn vào đám đông, đột nhiên mắt sáng lên, bước đến trước mặt Hương Hương công chúa, chỉ vào mặt nàng nói:

– “Vậy thì để cô gái này đi.”

Hương Hương công chúa nhìn thẳng hắn, từ từ đứng dậy nói dõng dạc:

– “Vì các bậc trưởng lão, các huynh đệ, tỉ muội trong toàn tộc, ta đi đến nơi nào cũng chẳng sợ. Thánh A-la nhất định sẽ phù hộ cho ta.”

Sứ giả thấy nàng khí phách anh hùng, hoàn toàn khác hẳn với dáng vẻ yếu đuối bên ngoài. Càng nhìn càng thấy nàng đẹp đẽ tuyệt trần, hắn bất giác cúi đầu xuống, cảm thấy thiếu nữ này thật sự không thể sỉ nhục được.

Mộc Trác Luân, Hoắc Thanh Đồng và mọi người Hồi thấy sứ giả chỉ định Hương Hương công chúa mà nàng không hề nhu nhược, tuy thán phục dũng khí của nàng, nhưng cũng không khỏi âm thầm lo lắng. Hoắc Thanh Đồng cảm thấy hối hận. Tình cảm giữa đôi tỉ muội này rất nồng nàn. Nàng không nỡ để cô em yếu đuối không biết võ nghệ này đi vào hang hùm ổ sói nguy hiểm không sao kể hết, bèn lên tiếng:

– “Cô ấy là muội muội của ta, để ta đi thay thế là được rồi.”

Sứ giả cười khảy:

– “Ta biết lời nói của nữ nhân hoàn toàn không đáng tin. Các ngươi không dám thì hà tất phải đi, đánh hay hàng cứ nói để ta về thông báo là đủ.”

Hoắc Thanh Đồng giận dữ nói:

– “Ngươi thật là vô lễ! Lần sau gặp nhau trên chiến trường ngươi đừng chạy trốn, để ta cho ngươi thấy nữ nhân chúng ta có vô dụng hay không?”

Sứ giả mỉm cười nói:

– “Người đẹp như cô, tất nhiên ta muốn bắt chứ không muốn giết.”

Người Hồi nghe hắn buông lời khinh bạc, ai cũng nghiến răng ngiến lợi. Hương Hương công chúa nói với HoắcThanh Đồng:

– “Tỉ tỉ, để muội đi cũng được. Muội không sợ đâu.”

Nàng cúi xuống, dắt tay Trần Gia Lạc đứng dậy, lại nói:

– “Huynh ấy sẽ cùng đi với muội.”

Dưới ánh lửa, Hoắc Thanh Đồng đột nhiên nhìn thấy khuôn mặt của Trần Gia Lạc. Nàng lập tức run rẩy toàn thân, không nói được lời nào. Trần Gia Lạc khẽ vẫy tay với Hoắc Thanh Đồng, tỏ ý khoan hãy chào hỏi, rồi quay lại nói với sứ giả:

– “Nam hay nữ nhân của chúng ta đều hễ nói là làm. Một mình ta cũng dám theo cô ấy đến chỗ các ngươi gặp Triệu Tuệ tướng quân, không như ngươi phải đem theo bốn người hộ vệ. Thật ra bốn tên to xác này thì làm được gì?”

Hương Hương công chúa lên tiếng:

– “Lạc đà có thể vác ngàn cân, người chỉ có thể vác trăm cân. Người cưỡi lạc đà hay lạc đà cưỡi người?”

Mọi người nghe câu ví này đều cười ồ lên. Cốt Luân Đại Hổ liền quay sang hỏi tên sứ giả :

– “Họ cười gì vậy?”

Sứ giả đáp:

– “Họ cười các ngươi tuy thân hình to lớn, sức lực tuy mạnh bạo, nhưng lại là đồ vô dụng.”

Cốt Luân Đại Hổ giận dữ đấm bình bịch vào ngực gầm lên:

– “Ai dám tới đây tỉ võ với ta?”

Sứ giả nói với Trần Gia Lạc:

– “Còn ngươi thì làm được cái gì? Ốm yếu như ngươi thì mười người cộng lại cũng chưa bằng được hắn.”

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Hôm nay phải làm nhụt tính ngạo mạn của tên sứ giả này, để bọn Mãn Châu không dám xem thường người Hồi nữa.”

Chàng lập tức tiến lên ba bước, dõng dạc nói:

– “Ta là người vô dụng nhất trong số người Hồi, nhưng so với bọn Mãn Châu các ngươi thì hữu dụng hơn chút ít. Bảo bốn thằng to xác đến đây đi!”

Lúc này Mộc Trác Luân cũng đã nhìn rõ diện mạo Trần Gia Lạc. Ông vừa kinh hãi vừa mừng rỡ kêu lên:

– “Thanh nhi! Con xem huynh ấy là ai!”

Hoắc Thanh Đồng không đáp. Mộc Trác Luân nghiêng đầu nhìn lại, thấy mắt con gái mình rưng rưng, khóe môi rung động. Ông hiểu ngay, trong lòng khó chịu:

– “Hai đứa con gái đều là bảo bối của mình, sao lại cùng yêu một người? Không biết tại sao Trần công tử lại quen đứa con gái út của mình?”

Nhất thời có rất nhiều việc không giải thích cuồn cuộn trong đầu. Thấy chàng sắp tỉ võ với bốn người kia, ông vừa kinh hãi vừa lo lắng.

Người Hồi thấy Trần Gia Lạc thư sinh ốm yếu, mặt mày tuấn nhã, đứng cạnh tên sứ giả còn thấp hơn nửa cái đầu, so với bốn người khổng lồ kia thì đúng là trẻ nít đứng bên người lớn. Họ biết chàng là ý trung nhân của Hương Hương công chúa, vì Hương Hương công chúa bị sứ giả đối phương chỉ định đi tới doanh trại quân Thanh, nên chàng không thể không ra ứng chiến để khỏi làm mất oai phong của bổn tộc. Ý chí can trường như thế đương nhiên là đáng khâm phục, nhưng mạnh yếu chênh lệch quá xa, làm sao chàng địch nổi bọn khổng lồ này?

Cả tộc Hồi cùng chung một mối thù, trong tộc đã có mấy người lực sĩ trứ danh đứng dậy, muốn thay chàng quyết đấu. Trần Gia Lạc đưa tay đa tạ rồi nói:

– “Các vị ca ca! Mấy tên Mãn Châu này chỉ là đồ bị thịt, chưa phải phiền để các vị ra tay. Để tiểu đệ là người vô dụng nhất ra thử, xem bản lãnh bọn chúng ra sao.”

Câu nói này vô cùng khinh miệt. Sứ giả vừa dịch lại là bốn gã khổng lồ kia lập tức nổi giận, cùng lúc xông lên toan túm Trần Gia Lạc. Chàng đứng yên không động đậy, chỉ mỉm cười. Sứ giả đưa tay cản trở bốn người, rồi nói với Mộc Trác Luân:

– “Tên này muốn tỷ võ với tùy tùng của ta, dù kết quả thế nào cũng không thể trách ta được. Hơn nữa phải một đấu một, người đứng bên ngoài không được tương trợ.”

Hắn nghĩ, tuy thần lực của tứ hổ kinh người, nhưng hảo hán không địch nổi số đông. Nếu đánh chết Trần Gia Lạc xong, cả bộ tộc ùa vào tấn không thì không sao chống nổi. Mộc Trác Luân chỉ “hừ” một tiếng. Trần Gia Lạc bỗng lên tiếng:

– “Lấy một đánh một thì chẳng thú vị gì. Ngươi bảo bốn gã khổng lồ kia đồng thời xông lên đi.”

Sứ giả hỏi:

– “Thế thì bên ngươi có mấy người?”

Trần Gia Lạc mỉm cười bảo:

– “Cần gì phải mấy người? Chỉ một mình ta là đủ.”

Mọi người vừa nghe thấy liền náo động lên, ai cũng cảm thấy chàng có phần quá đáng.

Tên sứ giả cười nhạt:

– “Hừ, chẳng lẽ người Hồi các ngươi lợi hại thế hay sao. Đại Hổ ngươi lên trước đi.”

Cốt Luân Đại Hổ dạ một tiếng rồi bước lên ngay. Sứ giả lại hỏi Trần Gia Lạc:

– “Ngươi thích văn thí hay là thích võ thí?”

Trần Gia Lạc Gia Lạc hỏi:

– “Văn thí thì như thế nào? Võ thì thì phải làm sao?”

Sứ giả nói:

– “Văn thí là hắn đánh ngươi một quyền, ngươi đánh lại hắn một quyền, không ai được chống đỡ hay né tránh, người nào té xuống trước là thua. Còn võ thí là đánh nhau thỏa thích.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Một người thì không đủ cho ta đánh, muốn đánh thì bốn gã kia phải lên cùng lúc.”

Sứ giả nghĩ bụng:

– “Nhìn tên này không giống với kẻ điên khùng, chắc là có quỷ kế gì đây.”

Hắn liền nói:

– “Giả tỉ ngươi đánh bại người này, cả bốn sẽ lên cùng lúc cho ngươi thỏa chí. Hà tất phải gấp rút như thế.”

Trần Gia Lạc cười nhạt nói:

– “Được! Văn thí, võ thí gì cũng được thôi.”

Sứ giả nói:

– “Bây giờ chúng ta chỉ so khí lực, thử công phu. Võ thí thì tổn thương hòa khí, hay là văn thí đi.”

Hắn thấy thân hình Trần Gia Lạc nhỏ bé, biết chàng nhanh nhẹn hơn, nếu nhảy nhót thì Cốt Luân Đại Hổ không đánh trúng được, nên mới đòi văn thí cho hết đường tránh né. Cốt Luân Đại Hổ gầm lên một tiếng, cởi bỏ áo để ngực trần. Mọi người đều thấy cơ bắp trên người hắn đường nét rất rõ ràng, trông như đám rễ của một cây to vậy. Mỗi nắm đấm to bằng một cái tô đựng canh, ngay cả con lạc đà lớn cũng không chịu nổi một quyền, huống chi một thanh niên văn nhã tuấn tú như thế này.

Mộc Trác Luân và Hoắc Thanh Đồng đã rời khỏi chỗ ngồi, bước lại gần. Hoắc Thanh Đồng liếc qua em gái một cái, thấy nàng cứ đắm đuối nhìn Trần Gia Lạc, ánh mắt lộ vẻ ngàn lần ngưỡng mộ, không lo lắng sợ hãi chút nào. Hoắc Thanh Đồng bất giác thở ra một hơi, quay lại nhìn Trần Gia Lạc thấy chàng thần sắc ổn định, khí khái nhàn hạ, dáng vẻ tự nhiên vô cùng. Ánh mắt hai người chạm nhau, Trần Gia Lạc mỉm cười khẽ gật đầu. Hoắc Thanh Đồng hơi đỏ mặt lên, quay đi ngay.

Sứ giả lên tiếng:

– “ Chúng ta bắt thăm xem ai đánh trước.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Các ngươi là khách, cứ để hắn đánh trước đi.”

Hoắc Thanh Đồng cướp lời:

– “Không cần khách sáo với bọn này. Chúng ta bắt thăm là hơn.”

Nàng biết võ công Trần Gia Lạc thuộc loại tinh thâm, nếu tỷ thí về quyền thuật hay binh khí, dù không thắng nổi thì cũng không thua tên khổng lồ này. Còn nếu người này một quyền, người kia một quyền nhắm mắt mà đánh, đối thủ không được tránh né đỡ gạt, thì dù sao thân thể chàng cũng là máu thịt, bản lãnh có cao hơn cũng không sao chịu nổi nắm đấm như búa sắt. Nếu để chàng đánh trước, không chừng có thể ra đòn kỳ ảo mà dành được phần thắng.

Trần Gia Lạc mỉm cười với Hoắc Thanh Đồng một cái tỏ ý cảm kích, rồi bước lên hai bước về phía Cốt Luân Đại Hổ, ưỡn ngực ra nói:

– “Ngươi đánh đi.”

Sứ giả nói với Hoắc Thanh Đồng:

– “Mời cô qua đây, hai chúng ta đứng đây xem xét. Nếu ai nhích chân đi, hoặc dùng tay chống đỡ, hoặc đảo người né mình đều coi là thua cả.”

Hoắc Thanh Đồng đi đến bên Trần Gia Lạc thì thầm:

– “Đừng đánh nữa! Chúng ta tìm cách khác để thắng hắn đi.”

Trần Gia Lạc khẽ đáp:

– “Cô nương cứ yên tâm.”

Hoắc Thanh Đồng không làm gì được, đành đứng cạnh tên sứ giả để làm chứng. Trần Gia Lạc cùng Cốt Luân Đại Hổ đứng đối diện nhau, khoảng cách chưa đầy một cánh tay. Mọi người đều tập trung ánh mắt nhìn chăm chú, mấy ngàn người mà không có tiếng động nào phát ra.

Sứ giả dõng dạc lên tiếng:

– “Hảo hán Mãn Châu đánh quyền thứ nhất, hảo hán Hồi tộc đánh quyền thứ hai. Nếu mọi người vô sự thì hảo hán Mãn Châu đánh quyền thứ ba, hảo hán Hồi tộc đánh quyền thứ tư.”

Hoắc Thanh Đồng phản đối ngay:

– “Hiệp đầu các ngươi đã đánh trước, thì hiệp hai phải do chúng ta đánh trước. Đến hiệp ba mới cho các ngươi đánh lại. Thay phiên nhau như vậy mới là công bằng.”

Sứ giả chưa kịp trả lời, Trần Gia Lạc đã nói:

– “Chúng là khách, chúng ta nên nhường một chút.”

Sứ giả mỉm cười đáp:

– “Ngươi thật là khẳng khái.”

Rồi hắn cao giọng hô lên:

– “Được rồi, hảo hán Mãn Châu đánh quyền đầu tiên.”

Cả một vùng lại càng vắng lặng, chỉ nghe tiếng thở “phù phù” và tiếng vặn xương răng rắc của Cốt Luân Đại Hổ. Gã khổng lồ đang đề khí vận kình, ngực bên phải lồi lên, cánh tay bên phải nở ra to gấp bội. Trần Gia Lạc đứng tấn không ra chữ đinh mà cũng không ra chữ bát, thân thể hơi nghiêng về phía trước, mỉm cười nói:

– “Đấm đi!”

Đám thanh niên Hồi tộc nhìn thấy oai thế của Cốt Luân Đại Hổ, đều sợ Trần Gia Lạc trúng quyền văng tuốt ra xa, không chừng sẽ té nhào xuống đất vỡ sọ nát xương, liền đứng về phía sau Trần Gia Lạc thủ thế, chuẩn bị chụp lấy chàng. Mộc Trác Luân và Hoắc Thanh Đồng âm thầm cầu nguyện chân thánh A-la phù hộ. Chỉ có Hương Hương công chúa bình tĩnh đứng yên, thầm nghĩ:

– “Lang quân của mình đã nói là không sợ, thì chắc chắn không đáng sợ.”

Cốt Luân Đại Hổ hơi khuỵu chân, dồn kình lực vào tay phải, “hừ” một tiếng. Ngọn thiết quyền rít gió vù vù tống vào giữa ngực Trần Gia Lạc. Đột nhiên hắn thấy thân hình đối phương mỏng lại, lồng ngực thuận theo thế quyền mà lõm vào. Ngực Trần Gia Lạc hóp vào nhanh chậm là hoàn toàn phù hợp với thế quyền đấm tới, một ly cũng không sai lệch. Người đứng bên chỉ thấy nắm đấm này đánh lún vào ngực chàng, nhưng phải kinh ngạc vì hoàn toàn không có tiếng động phát ra.

Cốt Luân Đại Hổ phóng ra quyền này đã hết đà. Hắn biết đưa tới nửa tấc nữa là chắc chắn đánh trúng vào ngực đối phương, nhưng không sao thêm nửa tấc được, đầu quyền chỉ chạm nhẹ vào ngực áo. Hắn ngơ ngác đến mức quên cả rút nắm đấm về .

Trần Gia Lạc mỉm cười hỏi :

– “Đánh xong chưa?”

Mặt Cốt Luân Đại Hổ đỏ ửng lên, bấy giờ mới thu quyền lại. Mọi người đều thấy rõ ràng thoi quyền này trúng đích, nhưng lại giống như là đánh vào khoảng không chẳng ai là không kinh ngạc. Chỉ có Trác Mộc Luân và Hoắc Thanh Đồng biết nội công của Trần Gia Lạc vô cùng thâm hậu, nên chàng vận kình rút người vào để triệt tiêu thế đánh của đối phương. Hai cha con vừa thán phục, vừa hoan hỉ, Hoắc Thanh Đồng nhoẻn cười tươi tắn như hoa. Tên sứ giả cũng hiểu võ công, nhìn thấy vậy vô cùng kinh ngạc.

Trần Gia Lạc mỉm cười nói:

– “Bây giờ đến lượt ta đánh.”

Cốt Luân Đại Hổ quát như sấm nổ:

– “Đánh đi!”

Hắn nín hơi ưỡn ngực ra, những chòm lông đen trên ngực dựng đứng hẳn lên. Trần Gia Lạc không cần co tay lấy thế. Hình như chàng chỉ tùy tiện đưa tay, nhẹ nhàng đấm vào ngực Cốt Luân Đại Hổ, nhưng đã sử dụng một thủ pháp rất nặng trong Đại Lực Kim Cang Chưởng, Cốt Luân Đại Hổ cảm thấy ngực mình không đau lắm, nhưng có một luồng lực đạo vô cùng lớn đẩy mình ngã ra sau. Hắn biết nếu chân mình nhúc nhích một tí là thua, liền vận hết công lực toàn thân hướng về phía trước để chống đỡ sức đẩy của đối phương.

Biến diễn chỉ xảy ra trong một sát na. Trần Gia Lạc phát quyền đã nhanh mà thu quyền càng nhanh hơn, kình lực chưa tới nơi đã đột ngột thu hồi lại. Cốt Luân Đại Hổ vận sức ngàn cân mà đỡ, đột nhiên cảm thấy phía trước mất đi đối trọng, muốn thu lực lại cũng không kịp nữa. Mọi người chỉ thấy thân hình Gia Lạc nghiêng qua một chút, rồi nghe “rầm” một tiếng, bụi cát bay mù. Thân thể to lớn của Cốt Luân Đại Hổ đã đổ ập xuống đất.

Ai cũng ngơ ngác, một lúc sau mới vỗ tay cười rộ. Trần Gia Lạc đánh ngã người khổng lồ này cũng kỳ lạ lắm rồi, nhưng kỳ lạ hơn nữa là hắn không té ngửa ra sau mà té sấp ra trước. Tên sứ giả đưa tay đỡ hắn dậy, mới thấy miệng hắn đầy máu tươi, khạc một tiếng nhổ ra hai cái răng cửa.

Ba huynh đệ nhà Cốt Luân thấy đại ca bị thương liền thét lên be be, đồng thời phóng về phía Trần Gia Lạc. Cốt Luân Đại Hổ định thần lại, gầm lên một tiếng rồi xông tới đánh. Mọi người Hồi thấy vậy cũng vội bước lên cứu viện.

Đang hỗn loạn thì thấy hai bóng người lướt ngang qua đỉnh đầu mọi người. Trần Gia Lạc và Hoắc Thanh Đồng biến khỏi đám đông. Bốn huynh đệ Cốt Luân đột nhiên không thấy địch thủ đâu nữa, ngơ ngác đứng đó.

Hoắc Thanh Đồng hô lớn:

– “Mọi người lùi lại!”

Mọi người Hồi đều theo lệnh nàng mà lùi ra. Trần Gia Lạc chậm rãi bước lên phía trước, mỉm cười nói:

– “Từ lâu ta đã bảo bốn người các ngươi cùng lúc xông vào rồi. Muốn đánh thì đánh đi.”

Đại Hổ giận dữ vô cùng, múa quyền đấm ngay vào đầu. Trần Gia Lạc đảo người ra sau Tam Hổ, hai tay đẩy vào lưng hắn. Tam Hổ loạng choạng, suýt nữa té nhào lên người Nhị Hổ.

Tứ Hổ đưa khuỷu tay trái thọc xuống đầu Trần Gia Lạc. Chàng luồn qua dưới nách hắn, tiện tay cù cho một phát. Tứ Hổ ngứa ngáy khó chịu, thân thể co rút thành một khối, run rẩy loạn xạ rồi cười lên ha hả.

Một gã đại hán cường tráng khổng lồ mà lại sợ nhột như một thiếu nữ, cảnh tượng thật khó coi. Mọi người đều cười rộ lên. Hương Hương công chúa kêu lớn:

– “Này! Huynh cù hắn nữa đi.”

Trần Gia Lạc chiều ý nàng, lại tiến đến chọc vào sườn hắn một cái. Tứ Hổ cười sằng sặc đến nỗi ngồi phẹt xuống đất, song quyền quơ múa lung tung, làm sao mà đánh trúng ai.

Hoắc Thanh Đồng đột nhiên kêu lớn:

– “Cẩn thận phía sau!”

Trần Gia Lạc cũng cảm thấy sau lưng có quyền phong đánh tới, bèn từ dưới đất tung người nhảy lên khoảng một trượng, né khỏi thoi quyền của Nhị Hổ. Tứ Hổ vẫn cười chưa dứt, xoay người lại, tay phải đấm mạnh ra, trúng ngay vào nắm tay của Nhị Hổ, cả hai đều loạng choạng một chút. Bốn tên đều lùi ra ba bước, hét lên giận dữ, chỉ muốn bắt lấy Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc luồn qua luồn lại giữa bốn người này như một con bướm bay giữa rừng hoa, nảy ý trêu ghẹo bọn chúng nên không ra tay đánh trả. Tám nắm đấm to đùng cứ lên lên xuống xuống liên tục, tìm người chàng để đấm, nhưng ngày cả y phục của chàng cũng không sao chạm trúng.

Lúc đầu mọi người thấy Trần Gia Lạc phải luôn tránh né chỉ cách chừng sợi tóc, ai cũng lo lắng cho chàng, nhưng lát sau họ đều nhận ra bốn tên khổng lồ này không làm gì được. Trong những tiếng gầm thét của bốn gã khổng lồ đột nhiên nghe “phựt”một tiếng, cái áo của Nhị Hổ bị xé rách một mảng lớn. Người Hồi lại cười rộ lên. Tên sứ giả nhìn ra Trần Gia Lạc là cao thủ võ lâm, tứ hổ không phải là địch thủ của chàng, bèn liên miệng kêu la:

– “Dừng tay! Đừng đánh nữa!”

Bốn anh em nhà Cốt Luân đang tức phát điên đâu có chịu thôi. Đại Hổ huýt sáo một tiếng đột nhiên nhảy lên, như một con chim khổng lồ phóng tới Trần Gia Lạc. Đồng thời Nhị Hổ, Tam Hổ, Tứ Hổ đứng sau lưng Trần Gia Lạc, đưa sáu cánh tay ra để chặn đường lùi. Đây là phương pháp để săn thú của bốn anh em nhà họ, dù là hung dữ như hổ báo, nhanh nhẹn như khỉ vượn cũng khó mà trốn thoát. Người Hồi nhìn thấy đều kinh hãi, nhiều thiếu nữ hét lên.

Thấy Đại Hổ phóng tới, Trần Gia Lạc định lùi, nhưng nhờ ánh lửa mà chàng nhìn thấy dưới mặt đất có ba cái bóng khổng lồ đang giang tay bao vây sẵn sàng nuốt chửng mình. Chàng cúi xuống ngay không né nữa. Đợi Đại Hổ phóng tới, đột nhiên chàng vươn dài cánh tay như tia chớp, túm lấy nách hắn dùng sức đẩy ra. Đại Hổ lập tức quay nửa vòng trong không trung mặt hướng ra sau.

Lúc này tay trái Trần Gia Lạc đã nắm được chân trái Đại Hổ, liền xô về trước, nửa thì dùng kình lực của mình, nửa thì dùng sức của đối phương. Thân hình to lớn của Đại Hổ lập tức bay thẳng về phía trước, rồi nghe “bình” một tiếng đầu dưới chân trên trồng chuối vào một cái hố. Đây chính là cái hố mà hắn vừa nhổ cây bạch dương, cây càng to thì hố càng sâu. Đại Hổ ngập đến ngang hông, hai chân đá loạn xạ lên trời, giãy giụa thế nào cũng không thoát ra khỏi cái hố cát.

Tứ Hổ gầm thét điên cuồng đuổi theo. Trần Gia Lạc chạy với hắn được nửa vòng tròn, chọn đúng bộ vị rồi đột nhiên dừng lại. Tứ Hổ phóng chân phải đá vào ngực chàng. Trần Gia Lạc đảo người sang phía bên phải hắn, tay phải nắm lấy quần hắn, tay trái nắm lấy lưng hắn, thuận thế hắn đá tới mà vận sức quẳng ra ngoài.

Tứ Hổ bay ra như đằng vân giá vũ, tay chân quơ loạn trên không, miệng không ngớt gào lên, chỉ sợ phen này phải nhào xuống đất e rằng gãy hết một nửa số xương. Không ngờ khi hắn rơi xuống lại trúng một chỗ rất mềm mại, bèn trở người ngồi dậy. Thì ra hắn ngã đè vào đúng con lạc đà đã chết vừa rồi.

Lúc nãy Trần Gia Lạc thấy hắn dùng tay để quẳng con lạc đà, bây giờ chàng dùng phương pháp đó để trị hắn. Kình lực của chàng thực chất không bằng Cốt Luân Tứ Hổ, nhưng chỉ mượn thế đẩy thêm, phần lớn là sử dụng lực đạo trong phát cước của hắn. Tứ Hổ đang bay trên trời, Nhị Hổ, Tam Hổ đã từ hai bên chạy tới. Nhị Hổ khom lưng cúi cổ phóng tới ào ào, định dùng đầu húc ngã đối phương. Tam Hổ thì đưa cao tay toan đánh xuống đầu Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc vẫn đứng yên không động đậy. Khi hai con hổ điên còn cách mình chưa tới bốn thước, đột nhiên chàng mới vận kình giậm mạnh, thân thể bắn đi như một mũi tên, nghe “vù” một tiếng giạt hẳn ra ngoài. Chàng đợi đến giây phút cuối cùng mới tránh né, là muốn hai tên khổng lồ này không thu thế được. Quả nhiên đầu của nhị Hổ húc vào bụng của Tam Hổ, còn song quyền của Tam Hổ đánh trúng lưng của Nhị Hổ. Nghe mấy tiếng “bình bình” hai gã đại hán như hai tòa bảo tháp đổ sập xuống.

Trần Gia Lạc không đợi chúng định thần. Chàng vội tung người tới, nhân lúc chúng đang hoa mắt chóng mặt mà nắm lấy hai cái bím tóc thắt thành một cái gút. Bấy giờ chàng mới bật cười, bước tới bên Hương Hương công chúa. Hương Hương công chúa mặt mày rạng rỡ, vỗ tay hoan hô vang dội. Mọi người Hồi đều lớn tiếng reo hò.

Tứ Hổ đứng dậy, tới nắm lấy chân đại ca nhổ lên khỏi hố. Nhị Hổ và Tam Hổ thì không biết bím tóc của mình đã bị thắt vào nhau, cứ cố giãy giụa lăn thành một khối. Sứ giả vội chạy tới để gỡ, nhưng chúng vừa dùng hết sức để kéo lên cái gút đó thắt càng chặt hơn. Tên sứ giả phải gỡ mất nửa ngày mới tháo ra được.

Bốn huynh đệ Cốt Luân đứng ngơ ngác nhìn Trần Gia Lạc, không hằn thù mà sinh lòng kính ngưỡng. Đại Hổ bước tới, giơ ngón tay cái lên mà nói:

– “Huynh đài giỏi quá! Đại Hổ phục rồi.”

Nói xong hắn quì xuống vái lạy mấy cái, ba tên kia cũng tới vái theo. Trần Gia Lạc cũng quì xuống đáp lễ. Chàng thấy bốn người này thiên tính ngây thơ chất phác, vừa rồi mình chọc ghẹo họ quá đáng cũng có phần hối hận. Cả năm đồng thời đứng dậy. Trần Gia Lạc không ngừng xin lỗi, lại khen bốn người sức mạnh phi thường. Tứ hổ đều rất vui mừng.

Đột nhiên Tứ Hổ chạy thẳng ra ngoài, xách con lạc đà đã chết trở vào. Tam Hổ dắt bốn con ngựa đến trước mặt Mộc Trác Luân, lên tiếng:

– “Ta đánh chết con lạc đà của các vị, thật là có lỗi. Bây giờ chúng ta đến bốn con ngựa này cho các vị.”

Nhưng Mộc Trác Luân không chịu nhận. Tên sứ giả thấy tình hình xoay chuyển như thế, khó chịu nhưng không biết làm gì, bèn thét bảo anh em nhà Cốt Luân:

– “Chúng ta đi thôi.”

Hắn nhảy lên lưng ngựa, trong lòng vẫn ấm ức không phục bèn quay lại hỏi Hương Hương công chúa:

– “Cô nương thật sự dám đi phải không?”

Hương Hương công chúa đáp ngay:

– “Có gì mà không dám?”

Nàng tới trước mặt Mộc Trác Luân, cất tiếng:

– “Gia gia! Gia gia viết thư để con mang đi.”

Mộc Trác Luân trù trừ chưa quyết. Sứ giả Mãn Châu khích bác, con gái mình không thể không đi, nếu không đi thì mất thể diện của toàn tộc. Nhưng để con gái đi thì lại không yên tâm chút nào. Ông liền vẫy tay gọi Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc bước tới, Mộc Trác Luân đứng dậy đón, dắt chàng đi vào lều của mình. Chị em Hoắc Thanh Đồng và Hương Hương công chúa cũng theo vào lầu.

Vừa vào trong lều, Mộc Trác Luân liền ôm lấy Trần Gia Lạc mà hỏi:

– “Trần tổng đà chủ! Ngọn gió tốt lành nào thổi tổng đà chủ đến đây vậy?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Tại hạ có việc cần đến Thiên Sơn, dọc đường nhận được tin tức nên vội vã đến đây để gặp lão gia. Không ngờ dọc đường được gặp nhị tiểu thư.”

Hương Hương công chúa nghe phụ thân gọi chàng là Trần tổng đà chủ, không khỏi ngơ ngác một lúc. Trần Gia Lạc nói chuyện với Mộc Trác Luân nhưng vẫn để ý thần sắc của hai chị em. Chàng thấy Hương Hương công chúa lộ vẻ bàng hoàng, vội vàng quay lại nói:

– “Thật là có lỗi với cô nương. Ta chưa kịp nói rõ mình là người Hán.”

Mộc Trác Luân lên tiếng:

– “Trần tổng đà chủ là ân nhân của cả bộ tộc chúng ta, giúp đoạt lại thánh kính, cứu mạng tỉ tỉ con, gần đây lại cướp hết quân lương của Triệu Tuệ khiến quân Thanh không thể nhanh chóng tiến công, nhờ vậy chúng ta mới kịp điều động nhân mã để chống đỡ. Trần tổng đà chủ đã giúp chúng ta rất nhiều, nói thế nào cũng không hết được.”

Trần Gia Lạc liên tiếp ngỏ lời khiêm tốn. Hương Hương công chúa mỉm cười nói:

– “Huynh không muốn nói mình là người Hán, thì ra không muốn nhắc đến ân huệ của mình đối với bọn muội. Dĩ nhiên muội không trách huynh đâu.”

Mộc Trác Luân nói:

– “Sứ giả Mãn Châu ngông cuồng ngạo mạn, thật là vô lễ. May mà tổng đà chủ xuất hiện làm giảm ngạo khí của hắn. Hắn khích bác Kha Tư Lệ đi làm sứ giả, tổng đà chủ xem có lên đi hay không?”

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Đại sự trong bộ tộc của họ, người ngoài không nên quyết định chủ ý. Mình chỉ có thể đứng bên tận tình giúp đỡ mà thôi.”

Chàng liền nói:

– “Tại hạ từ nội địa xa xôi đến đây, hoàn toàn không hiểu tình hình. Nếu Mộc lão anh hùnh nói là nên đi, đương nhiên tại hạ sẽ ra sức hộ tống. Nếu lão gia thấy không đi là hay hơn, chúng ta sẽ tìm cách cự tuyệt tên sứ giả.”

Hương Hương công chúa nói rất dứt khoát:

– “Gia gia! Gia gia cùng tỉ tỉ ngày nào cũng phải lo lắng về việc trong bộ tộc, cũng phải liều mạng ở chiến trường. Con chỉ ân hận mình vô dụng, không có chút sức nhỏ mọn nào để góp vào. Phen này con đi làm sứ giả không phải là việc lớn lao gì, nếu không đi thì chắc chắn bọn Mãn Châu sẽ xem thường chúng ta.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Muội muội! Tỉ chỉ sợ bọn Mãn Châu kia làm khó dễ cho muội.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Mỗi lần tỉ tỉ ra trận đều nguy hiểm đến tính mạng, muội mạo hiểm lần này cũng là việc nên làm. Hơn nữa bản lãnh huynh ấy cao cường như thế, đi cùng với muội thì không có gì đáng sợ nữa. Tỉ tỉ, muội thật sự không sợ gì hết.”

Hoắc Thanh Đồng thấy em gái bày tỏ mối tình thâm hậu với Trần Gia Lạc, trong lòng bỗng nảy sinh một cảm giác khó mà diễn tả được. Nàng bèn bảo Mộc Trác Luân:

– “Gia gia, hãy để muội muội đi.”

Mộc Trác Luân nói:

– “Được! Trần tổng đà chủ, vậy ta phải nhờ tổng đà chủ chăm sóc cho đứa con gái này.”

Trần Gia Lạc đỏ mặt lên một chút. Ánh mắt trong vắt như nước hồ thu của Hương Hương công chúa đang từ từ liếc qua mặt chàng, trên môi nhoẻn một nụ cười. Hoắc Thanh Đồng quay vội sang phía khác.

Mộc Trác Luân viết thư trả lời, chỉ có mấy chứ lớn:

– “Chống quân tàn bạo, thần ắt giúp ta.”

Thấy khẩu khí bi tráng, Trần Gia Lạc gật đầu tấm tắc khen hay. Mộc Trác Luân trao thư cho Hương Hương công chúa, rồi hôn lên má nàng chúc phúc. Hoắc Thanh Đồng cũng nói:

– “Muội muội, chân thánh sẽ phù hộ cho muội. Nguyện cho muội được bình an.”

Hương Hương công chúa ôm lấy tỉ tỉ cảm ơn. Bốn người ra khỏi lều. Mộc Trác Luân hạ lệnh thiết yến để khoản đãi thầy trò sứ giả. Trên bàn tiệc sứ giả mới chịu báo tên là Hòa Nhĩ Đại.

Ăn uống xong, người Hồi liền nổi trống chiêng ca hát tiễn khách. Hòa Nhĩ Đại đưa tay chào, tung người lên ngựa đi trước. Hương Hương công chúa cùng mọi người cưỡi ngựa đi theo.

Hoắc Thanh Đồng nhìn theo bảy người khuất dần vào bóng đêm, trong lòng cảm thấy hoàn toàn trống rỗng. Hình như trái tim nàng đã theo tiếng vó của bẩy con ngựa ấy mà mất hút trong vùng hoang mạc.

Mộc Trác Luân lên tiếng:

– “Thanh nhi! Muội muội của con thật là dũng cảm.”

Hoắc Thanh Đồng khẽ gật đầu, rồi đưa tay ôm mặt chạy vào trong lều. Lúc đó hình như có một quả đại thiết trùy khổng lồ không ngớt gõ vào lồng ngực, nàng đau đớn chua xót vô cùng, chỉ hận không thể lập tức chết đi.

Hương Hương công chúa và Trần Gia Lạc đi theo sứ giả mất hơn nửa đêm, gần sáng mới tới doanh trại quân Thanh. Hoà Nhĩ Đại mời họ nghỉ trong một cái lều, còn mình đi gặp Triệu Tuệ trước.

Thi lễ với Triệu Tuệ xong, hắn thấy ngồi bên họ Triệu có một võ quan lạ mặt, mặc sắc phục tá lãnh của Kiêu Kỵ Doanh, thân binh của hoàng đế. Hoà Nhĩ Đại gật đầu chào y một cái, rồi nói với Triệu Tuệ:

– “Bẩm đại tướng quân, tiểu tướng đã đưa chiến thư qua đó. Bọn người Hồi thật là ngang ngược, còn dám phái người đưa chiến thư đến đây.”

Triệu Tuệ hừ lên một tiếng nói:

– “Thật là đến chết vẫn không chừa.”

Hắn bảo bon Thanh binh hầu cận:

– “Truyền lệnh thăng trướng.”

Lệnh vừa truyền xuống, kèn lệnh lập tức nổi lên. Bọn chánh phó đô thống, tham lãnh, tá lãnh các doanh đều tập hợp vào lều lớn để đợi. Triệu Tuệ đi vào lều, bọn võ quan lớn nhỏ đều khom lưng thi lễ.

Triệu Tuệ ra lệnh đặt thêm một chỗ ngồi vào cạnh ghế mình, dành cho tên võ quan Kiêu Kỵ Doanh phụng lệnh hoàng đế đến đây. Hắn lại cho gọi ba trăm quân thiết giáp xếp thành hai dãy cho thêm phần oai vệ, rồi mới truyền gọi sứ giả người Hồi vào gặp.

Hương Hương công chúa đi trước, Trần Gia Lạc theo sau. Trên mặt Hương Hương công chúa luôn là nụ cười, không có chút gì là hoảng sợ. Nhìn thấy sứ giả người Hồi là đôi thanh niên nam nữ đã gặp ở trong trận, bọn người Thanh phải kinh ngạc. Triệu Tuệ định ra oai đánh phủ đầu, nào ngờ người đi vào giữa rừng đao thương lại là một thiếu nữ diễm lệ như thế.

Hương Hương công chúa thi lễ với Triệu Tuệ, rồi lấy thư trình lên. Một tên thân binh của Triệu Tuệ bước tới nhận thư. Đến trước mặt nàng hắn đột nhiên ngửi thấy một mùi hương ngọt dịu, vội cúi mặt xuống không dám nhìn lên. Lúc đưa tay nhận lấy thư, đột nhiên trước mắt hắn sáng bừng lên, ánh sáng phát ra từ một bàn tay ngọc ngà thon thả trắng trẻo tuyệt không một tì vết ngay trước mặt mình. Trong lòng hắn mơ mơ hồ hồ, nhất thời không biết mình phải làm gì.

Triệu Tuệ quát lên:

– “Nhận thư đi.”

Tên thân binh giật bắn lên, loạng choạng suýt nữa té nhào. Hương Hương công chúa đặt thư vào tay hắn, thần sắc vẫn ôn hòa, miệng vẫn mỉm cười. Hắn lấy hết can đảm ngẩng mặt lên nhìn nàng một cái. Hương Hương công chúa chỉ về phía Triệu Tuệ rồi khẽ đẩy hắn một cái, bấy giờ hắn mới lấy lá thư đặt lên bàn tay Triệu Tuệ.

Triệu Tuệ thấy hắn thần hồn điên đảo, lập tức giân dữ thét lên:

– “Lôi ra ngoài chém đi!”

Mấy tên binh lính chạy tới, kéo tên thân binh đó ra khỏi lều. Chỉ trong nháy mắt chúng đã đặt cái thủ cấp máu thịt bầy nhầy lên mâm, bưng vào trong trướng dâng lên Triệu Tuệ.

Triệu Tuệ hạ lệnh:

– “Bêu đầu thị chúng!”

Bọn đao phủ liền bưng mâm ra. Hương Hương công chúa thấy hắn tàn bạo như thế, nghĩ đến người thân binh này vì mình mà chết, không khỏi thương tâm. Nàng đưa tay giữ cái mâm lại nhìn cái đầu mà nhỏ lệ.

Hết thảy quan quân trong trướng nhìn thấy nàng đều phải say sưa, chỉ mong muốn tan xương nát thịt vì nàng. Ai cũng nghĩ, giả tỉ thủ cấp của mình được nàng rớt cho mấy giọt lệ như vậy thì đứt đầu cũng không ân hận gì nữa.

Triệu Tuệ thấy bọn tướng tá của mình thần sắc đảo điên, liền lớn tiếng chửi mắng. Quan quân cúi đầu xuống hết, không dám lên tiếng. Trong đại trướng chỉ còn nghe thấy tiếng nấc của Hương Hương công chúa. Trần Gia Lạc thấy Hương Hương công chúa nhìn mãi thủ cấp của tên thân binh đó, sắc thái thương đau cứ như một người mẹ vừa mất đứa con vậy. Khóc mãi như thế thật chẳng giống sứ giả chút nào, chàng bèn khẽ đưa tay an ủi nàng.

Triệu tuệ xưa nay ác ôn tàn bạo, thế mà cũng bị tiếng khóc của nàng làm lay động. Hắn hạ lệnh:

– “Chôn cất người này tử tế.”

Rồi hắn mở thư, sai một người biết tiếng Hồi dịch ra, “hừ” một tiếng rồi nói:

– “Được, ngày mốt quyết chiến, các ngươi trở về đi.”

Tên võ quan ngồi cạnh hắn bỗng lên tiếng:

– “Đại tướng quân! Thiếu nữ này chính là người hoàng thượng cần.”

Trần Gia Lạc vốn dồn hết tâm ý vào Hương Hương công chúa, nãy giờ chưa nhìn gì đến quân tướng trong lều. Nghe thấy câu này chàng mới ngẩng lên nhìn, nhận ra ngay người ngồi cạnh Triệu Tuệ là kẻ tử thù Trương Triệu Trọng. Lúc này Trương Triệu Trọng cũng nhận ra Trần Gia Lạc, thấy chàng mặc y phục kiểu người Hồi, không khỏi giật mình. Hai người giương bốn mắt nhìn nhau, đều bất ngờ vì đối phương xuất hiện ở đây.

Trần Gia Lạc dắt tay Hương Hương công chúa quay lưng đi ra. Trương Triệu Trọng bỗng đứng bật dậy, người chưa bước tới mà chưởng phong đã phóng tới lưng Trần Gia Lạc rồi. Trần Gia Lạc đưa tay trái quàng ngang hông Hương Hương công chúa tay phải phóng ngược lại một chưởng, mượn sức chưởng của Trương Triệu Trọng vọt nhanh ra ngoài. Trương Triệu Trọng lập tức đuổi theo thân pháp nhanh kỳ lạ.

Bọn tướng Thanh đều có cảm tình với Hương Hương công chúa, ai cũng nghĩ:

– “Đại tướng quân đã để họ trở về, sao tên võ quan Kiêu Kỵ Doanh này lại nhúng tay vào.”

Họ đều bất mãn, nên không ai giúp họ Trương cản hai người lại. Trần Gia Lạc ôm lấy Hương Hương công chúa chạy như bay về phía con ngựa của mình. Nhưng mới được mấy bước thì Trương Triệu Trọng đã đứng cản cản trước mặt, cười nhạt:

– “Trần tổng đà chủ! Hạnh ngộ, hạnh ngộ.”

Trần Gia Lạc thầm kinh hãi, ném ngay sáu quân cờ vậy chia làm ba đường trên dưới đánh tới đối phương, khẽ bảo Hương Hương công chúa:

– “Ta phải cản trở tên này. Muội mau lên ngựa chạy trốn đi.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Không! Huynh đánh ngã hắn trước đi, rồi chúng ta cùng về.”

Lúc này, Trần Gia Lạc không còn đủ thời gian để giải thích với nàng là võ công của đối thủ cao hơn mình. Chàng biết sáu con cờ không thể đánh trúng hắn, chỉ nhân lúc hắn né tránh mà ôm lấy Hương Hương công chúa đặt lên yên ngựa.

Trương Triệu Trọng hai tay bắt lấy hai quân cờ ở giữa, vừa khom lưng vừa lao người phóng tới Trần Gia Lạc, né được bốn quân cờ còn lại. Phát nhảy này vừa né ám khí vừa đuổi quân địch, nửa thủ nửa công, không cho đối thủ rảnh tay chút nào. Trần Gia Lạc không dám ham chiến, cúi người xuống luồn qua bụng con ngựa trắng. Trương Triệu Trọng nhảy tới nơi, đưa tay ấn nhẹ xuống mông con ngựa, người chưa chạm đất đã phóng cước đá về phía Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc đang ở dưới bụng ngựa, xoay trở không tiện mà phát cước của địch thủ lại nhanh như tia chớp. Lúc khẩn cấp chàng nảy ra sáng kiến, đột nhiên đưa tay từ dưới bụng ngựa vỗ lên. Con ngựa trắng giật mình chồm lên, hai chân sau đá ngược ra. Trương Triệu Trọng vội vận kình nhảy ra xa một trượng.

Trần Gia Lạc xoay mình lên ngựa, hô lớn:

– “Chạy nhanh lên!”

Hương Hương công chúa lập tức giật cương cho ngựa chạy đi. Trương Triệu Trọng lại phi thân nhảy xổ tới. Trần Gia Lạc kinh hãi, hai đùi ép chặt vào bụng ngựa, hai chân đạp lên bàn đạp. Chàng biết công lực của mình không bằng đối phương, nếu thẳng thắn đón đỡ thì chắc chắn thua thiệt, lên tay phải đã rút trủy thủ đâm ra. Trương Triệu Trọng xoay ngược cổ tay, móc lấy cổ tay cầm kiếm của chàng, hai người cùng rơi xuống đất. Tay phải Trương Triệu Trọng lập tức phát chưởng. Trần Gia Lạc thi triển tuyệt kỹ cầm nã của sư môn, tay trái vừa đưa ra đã gạt được hữu chưởng của Trương Triệu Trọng. Hai người lăn lộn dưới đất mà đánh cận chiến.

Binh tướng nhà Thanh đã chạy ào ào ra khỏi lều để xem. Bốn huynh đệ Cốt Luân đều nghĩ:

– “Khi chúng ta đến chỗ người Hồi để đưa thư, họ đối xử với mình rất lịch sự. Tại sao họ đưa thư đến, chúng ta lại vô lý thế này?”

Lần trước tỉ thí, họ đã có lòng kính trọng Trần Gia Lạc. Phen này thấy chàng gặp nguy cả bốn đều nghĩ như nhau, đồng thời xông tới. Trần Gia Lạc và Trương Triệu Trọng đang tận lực chọi nhau; lúc đầu còn tương đối quân bình, về sau thì dần dần không chống nổi. Chàng thấy bốn người khổng lồ chạy tới liền nghĩ:

– “Thôi rồi, phen này hỏng bét!”

Nào ngờ bốn huynh đệ Cốt Luân lại đưa tay ra đè Trương Triệu Trọng xuống, cùng hô lớn:

– “Huynh đài chạy đi!”

Hương Hương công chúa giục con ngựa trắng chạy đến bên chờ đợi. Võ công Trương Triệu Trọng tuy cao, nhưng đang giao đấu với Trần Gia Lạc thì bất ngờ bị bốn người đè xuống. Hắn không có đủ sức chống đỡ mà cũng không có đường lùi, bị sức mạnh ngàn cân của tứ hổ ép xuống không động đậy được. Hắn vừa lỏng tay, Trần Gia Lạc đã nhảy bật lên rồi nói:

– “Bây giờ mà giết người thì không phải hành vi của đại trượng phu. Ta tha mạng cho ngươi một lần nữa.”

Nói xong, chàng thu kiếm rồi lên ngựa. Trên lưng Trương Triệu Trọng bị bốn ngọn núi nhỏ đè xuống, võ nghệ đầy mình mà không thi triển được, chỉ biết giương to cặp mắt nhìn hai người hai ngựa chạy đi. Hai người giục ngựa chạy cực nhanh, thoáng mắt đã vượt ra khỏi doanh trại của quân Thanh. Khi Triệu Tuệ tập trung binh lính đuổi theo thì họ đã chạy đi khá xa rồi.Trần Gia Lạc vừa phải kịch đấu, tuy thời gian ngắn ngủi nhưng cực kì hung hiểm, đến lúc này khí lực đã kiệt quệ, chạy được một hồi thì dần dần không chịu nổi nữa. Hương Hương công chúa thấy chàng mệt mỏi, lại thấy cổ tay chàng bị bóp cho hằn tím một vùng, nổi lòng thương sót liền nói:

– “Chúng đuổi không kịp nữa rồi. Chúng ta xuống ngựa nghỉ ngơi một chút đi.”

Trần Gia Lạc lảo đảo trèo xuống ngựa, nằm ngửa ra đất thở dốc một hồi. Hương Hương công chúa đổ trong túi da ra một ít sữa dê, thoa lên tay Trần Gia Lạc. Chàng điều hòa hơi thở một lúc, vừa đỡ mệt đã nghe tiếng vó ngựa đuổi theo gấp rút, tiếng hô hoán vang dội, mấy chục kỹ mã đang phi tới. Hai người không kịp thu dọn túi da, vội nhảy lên lưng ngựa phi về phía trước. Đột nhiên thấy phía trước cũng có bụi đất bay mù, lại có một đội kỵ mã chạy tới. Trần Gia Lạc thầm kêu khổ, hai đùi kẹp lại con ngựa trắng bay tới như tên. Khi vượt qua ngựa Hương Hương công chúa, Trần Gia Lạc hô lớn:

– “Chạy theo ta!”

Chàng phi như bay thẳng tới trước, con ngựa hồng của Hương Hương công chúa chạy theo cách một quãng. Thấy rõ phía trước chỉ có bảy tám con ngựa, chàng thầm mừng trong bụng, cho ngựa chạy chậm lại để đợi Hương Hương công chúa tới nơi.

Đám ngựa trước mặt chạy tới gần, Trần Gia Lạc lấy châu sách ra chuẩn bị nghênh chiến. Chàng bỗng thấy cổ tay mình tê buốt, trước mắt sao múa lung tung, vội cố sức định thần. Bỗng thấy kỵ sĩ đi đầu bỗng tung người xuống ngựa, kêu lớn:

– “Tổng đà chủ! Phải tổng đà chủ đó không?”

Giữa đám bụi cuồn cuộn bốc lên, Trần Gia Lạc thấy lấp loáng những cái răng nhọn trên cây lang nha bổng, rồi thấy người đó thân thể hơi gù. Chàng cả mừng la lên:

– “Thập ca mau qua đây!”

Lời còn chưa dứt, đám lính Thanh đuổi sau lưng đã bắn tên tới veo véo. Chương Tấn nhảy trở lên lưng ngựa. Trần Gia Lạc lại hô:

– “Có địch đuổi theo, mau cản trở giúp ta.”

Chương Tấn la lớn:

– “Hay quá!” rồi vỗ ngựa chạy nhanh tới trước. Y vừa tới chỗ Trần Gia Lạc, lại có một người nữa giục ngựa như bay chạy tới, chớp mắt đã qua mặt Chương Tấn, xông thẳng vào giữa trận quân Thanh. Người này dũng mãnh như rồng như cọp, không gì chống đỡ nổi, không phải Cửu mạng cẩm báo tử Vệ Xuân Hoa thì còn ai nữa?

Trần Gia Lạc chưa kịp ngạc nhiên, lại thấy Văn Thái Lai, Lạc Băng, Từ Thiên Hoằng, Chu Ỷ bốn người phi ngựa tới. Mỗi người qua mặt chàng đều hô lên một tiếng:

– “Tham kiến tổng đà chủ!” rồi xông vào đám lính Thanh.

Sau đó Tâm Nghiễn cũng chạy tới, xuống ngựa khấu đầu với Trần Gia Lạc. Cậu đứng dậy hoan hỉ nói:

– “Thiếu gia! Bọn tiểu nhân đến đây cả rồi.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Sao Cửu gia lại đến đây?”

Tâm Nghiễn chưa kịp đáp, thì lại có một người lướt qua bên cạnh, chạy về phía địch. Trần Gia Lạc thấy y mặc tăng bào màu xám tro, bịt mặt, đầu trọc, tay cầm kim địch. Chàng ngạc nhiên kêu lên:

– “Thập tứ đệ phải không?”

Dư Ngư Đồng từ xa gọi với lại:

– “Tham kiến tổng đà chủ!”

Lúc Dư Ngư Đồng chạy tới, nhóm Văn Thái Lai đã bắt đầu chém giết đội quân Thanh tiên phong. Nhưng họ đều nhìn thấy phía sau có bụi bốc lên, đại quân đang kéo tới. Mọi người bèn rút về chỗ Trần Gia Lạc, Văn Thái Lai hỏi:

– “Bây giờ chúng ta lùi về hướng nào?”

Trần Gia Lạc thấy thanh thế truy binh cực kỳ hùng hậu, nghĩ bụng:

– “Người Hồi đang ở phía tây. Nếu chúng ta lùi về phía tây, quân Thanh đuổi theo mà họ phòng bị không kịp, e rằng tổn thất rất nhiều.”

Chàng bèn ra lệnh:

– “Hướng về phía nam.”

Tay chàng vẫy một cái, mười con ngựa tung vó chạy về hướng nam. Mọi người bất ngờ gặp nhau đều cao hứng, mà ai cũng cưỡi ngựa rất tốt, nên khoảng cách với quân Thanh càng lúc càng xa. Tuy nhiên vùng sa mạc này tựa như không bờ bến, không có chỗ nào ẩn nấp, khoảng cách dù xa nhưng không thể ra khỏi tầm mắt được.

Trần Gia Lạc thấy Triệu Tuệ cho đại quân rượt theo mình, không khỏi thầm chê:

– “Thật là quá đáng, chuyện nhỏ như vậy mà phải xuất đại quân. Thế thì sao làm đại tướng được?”

Đột nhiên chàng nhớ lại Trương Triệu Trọng đã khẽ nói với Triệu Tuệ:

– “Thiếu nữ này chính là cô gái mà hoàng thượng cần.”

Trần Gia Lạc nhớ lại câu nói này, không khỏi ngẫm nghĩ. Đột nhiên chàng lại nhìn thấy một đội quân từ phía nam đang tiến vòng lên tạo thế bao vây. Mọi người kinh hãi, đều dừng ngựa lại. Từ Thiên Hoẳng nói:

– “Chúng ta phải nhanh tay làm công sự để phòng thủ, đợi đến đêm mới chạy tiếp.”

Trần Gia Lạc gật đầu nói:

– “Không sai! Ở vùng sa mạc này, ban ngày chạy không thoát được đâu.”

Mọi người đều xuống ngựa. Người dùng vũ khí, người dùng hai bàn tay trắng đào trên cát một cái hố lớn. Trần Gia Lạc bảo Hương Hương công chúa:

– “Muội muội! Muội trốn vào trong đó trước đi.”

Hương Hương công chúa không hiểu tiếng Hán, mỉm cười đứng yên, Quân Thanh đã đuổi tới gần, Lạc Băng ôm lấy Hương Hương công chúa nhảy ngay xuống hố, mọi người đều nhảy theo.

Phen này, Văn Thái Lai, Chương Tấn, Từ Thiên Hoằng, Tâm Nghiễn bốn người đi đến Hồi Cương có mang theo cung tên, bèn giương cung lắp tên, lập tức bắn ngã mười mấy quan binh. Văn Thái Lai, Từ Thiên Hoằng, Tâm Nghiễn ba người bắn phát nào cũng trúng, chỉ có Chương Tấn là không biết bắn cung, bảy tám mũi mà không trúng mũi nào. Y nổi giận quăng cung xuống đất, xách Lang nha bổng toan xông lên chém giết.

Chu Ỷ vội nắm lấy tay y kéo lại, la lên:

– “Đi nạp mạng cho chúng phải không?”

Quần hùng đều thấy cô này biết đường tiến thoái, không đánh bừa đánh ẩu, đương nhiên là do công dạy dỗ của Từ Thiên Hoằng. Lạc Băng không nén nổi, cười khì một tiếng. Chu Ỷ liếc xéo nàng một cái hỏi:

– “Muội nói không đúng phải không?”

Lạc Băng cười đáp:

– “Đúng lắm, đúng lắm!”

Vệ Xuân Hoa nhặt lấy cây cung của Chương Tấn vừa ném, bắn ra một loạt tên liên hoàn đốn ngã sáu tên lính Thanh. Tâm Nghiễn vỗ tay khen ngợi:

– “Bắn hay quá!”

Trong tiếng hoan hô, một đội lính Thanh đã chạy tới gần cái hố. Văn Thái Lai bắn ra một phát, tên chỉ huy đội lính đó lập tức bị tên xuyên thủng ngực. Mũi tên mang theo một vòi máu, bay xa thêm mấy trượng mới rới xuống đất. Bọn lính thấy sức bắn mạnh như thế, hồn phiêu phách tán hoảng sợ chạy ngay.

Tuy chúng phải thối lui, nhưng cả bốn phương tám hương đều có nhân mã trùng trùng điệp điệp bao vây. May mà quân Thanh không bắn tên, nếu không thì dù có hố cát cũng không ai tránh nổi hàng vạn mũi tên bay tới như bầy châu chấu.

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Hố cát này đủ sâu rồi. Nhanh tay đào rộng ra đi.”

Khoảng sa mạc này là cát nổi, chỉ đào mấy thước là tới nền đất cứng. Trần Gia Lạc, Lạc Băng, Chu Ỷ, Hương Hương công chúa đều ra tay đào bới lấy đất cát lắp lên miệng hầm thành một cái lũy thấp, tạm thời ngăn được tên bắn tới. Lúc đó mọi người mới thở ra một hơi.

Chương Tấn bảo Tâm Nghiễn:

– “Để ta bảo vệ, ngươi lên đó lượm cung tên.”

Y múa tít cây Lang nha bổng nhảy lên miệng hố cát, Tâm Nghiễn lập tức nhảy theo. Cậu tới chỗ bọn lính Thanh bị bắn chết, nhặt lấy bảy tám cây cung và ôm một đống tên trở về.

Lúc này Trần Gia Lạc mới giới thiệu Hương Hương công chúa với mọi người. Mọi người nghe nàng là muội muội của Hoắc Thanh Đồng, lại thấy nàng dung nhan tuyệt thế, hiền dịu thanh nhã, ai cũng có ý thân cận, chỉ vì ngôn ngữ bất đồng lên không nói chuyện với nhau được.

Lạc Băng nói:

– “Cô ấy nhìn hơi giống cô nương vẽ trong ngọc bình, nhưng đẹp hơn nhiều.”

Chu Ỷ gật đầu khen phải.

Trần Gia Lạc nghỉ ngơi đã lâu, khí lực đã hồi phục. Chàng nghĩ bụng:

– “Trương Triệu Trọng quả là tài giỏi. Ta chỉ đấu với hắn một lát mà bây giờ hai vai còn đau nhức, không sao kéo cung nổi.”

Chàng lên tiếng hỏi:

– “Cửu ca! Sao cửu ca lại đến đây? Còn Thập nhị ca đâu?”

Vệ Xuân Hoa từ bên hố cát nhảy xuống nói:

– “Tổng đà chủ khỏe rồi phải không? Thuộc hạ bẩm báo được chưa?”

Trần Gia Lạc gật đầu, rồi dõng dạc nói:

– “Tứ ca, Thập ca, Thập tứ đệ, Tâm Nghiễn! Các vị ở trên đó theo dõi động tĩnh quân địch. Chúng ta đợi đến nửa đêm mới đột kích ra khỏi vòng vây.”

Văn Thái Lai ngồi trên lớn tiếng vâng dạ.

Vệ Xuân Hoa nói:

– “Thuộc hạ cùng Thập nhị đệ phụng lệnh tổng đà chủ trở về Bắc Kinh thám thính tin tức ở triều đình, nhất thời chưa điều tra được gì. Nhưng một hôm đột nhiên nhìn thấy tên gian tặc Trương Triệu Trọng và sư huynh của hắn là Mã Chân đạo trưởng.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Chúng ta đã giao Trương Triệu Trọng cho Mã Chân đạo trưởng đem về núi Võ Đang quản thúc. Ta đang ngạc nhiên tại sao hắn lại xuất hiện ở đây. Thì ra hắn đã đến Bắc Kinh.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Tổng đà chủ vừa gặp hắn ư?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Ta giao vừa đấu với hắn, thật là nguy hiểm.”

Chàng kể lại chuyện vừa rồi, mọi người vừa kinh hãi vừa giận dữ.

Vệ Xuân Hoa kể:

– “Bọn thuộc hạ thấy hai sư huynh đệ này dọc đường nói chuyện rất vui vẻ, chẳng lẽ Mã Chân đạo trưởng lại thông đồng với sư đệ lừa gạt chúng ta, bèn lén lút theo dõi thì thấy họ đi vào một căn nhà trong hẻm, đến tối vẫn chưa ra ngoài chắc là ngủ tại đấy. Thuộc hạ bèn thương lượng với Thập nhị đệ phải đi dò xét cho rõ ràng, chờ đến canh hai thì vượt tường nhảy vào. Đó là hai cao thủ tuyệt đỉnh, thuộc hạ liên thủ với Thập nhị đệ vẫn chưa phải đối thủ của Trương Triệu Trọng, huống chi còn có sư huynh của hắn. Vì thế thuộc hạ không dám thở mạnh, nằm rạp trong vườn không nhúc nhích. Đợi hơn nửa đêm mới nghe trong nhà có tiếng người, bọn thuộc hạ lén lút đến xem. Nhìn qua khe cửa sổ thấy Mã Chân đạo trưởng đang nằm trên giường, còn tên gian tặc kia đi qua đi lại không dừng, hai người tranh luận lớn tiếng. Bọn thuộc hạ không dám nhìn lâu, nằm xuống lắng nghe. Thì ra Trương Triệu trọng nói là phải đến Bắc Kinh để lo liệu tài sản và mấy việc riêng rồi mới về Hồ Bắc được, nên sư huynh của hắn mới cùng đến Bắc Kinh. Được mấy hôm thì hoàng đế cũng về cung.”

Trần Gia Lạc nghe Càn Long đã trở về kinh liền gật đầu một cái. Vệ Xuân Hoa kể tiếp:

– “Trương Triệu Trọng nói là hoàng đế hạ chỉ bảo hắn đến Hồi tộc để lo một việc lớn.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Việc lớn gì thế?”

Vệ Xuân Hoa nói:

– “Hắn không nói rõ là việc gì, hình như là đến đây tìm một người nào đó.”

Trần Gia Lạc chau mày một cái, linh cảm thấy có chuyện không hay.

Vệ Xuân Hoa tiếp:

– “Mã Chân đạo trưởng nói rất nghiêm, bắt hắn lập tức từ quan ngay. Trương Triệu Trọng lại lấy hoàng đế ra để dọa sư huynh, nói là thánh chỉ không thể kháng, nếu vi chỉ thì e rằng núi Võ Đang sẽ bị đại quân đạp cho bằng phẳng.”

Mã Chân đạo trưởng nói:

– “Giang sơn của chúng ta đã bị bọn man di đó chiếm hết rồi, hủy thêm một núi Võ Đang thì có gì đáng tiếc?”

Hai người càng tranh luận càng quyết liệt. Mã Chân đạo trưởng giận dữ nhảy xuống giường quát hỏi:

– “Trước mặt bằng hữu Hồng Hoa Hội, ta đã nói những gì?”

Trương Triệu Trọng đáp:

– “Đó chỉ là bọn nghịch tặc tạo phản, sư huynh hà tất phải giữ lời với chúng.”

Nghe xoảng một tiếng, hình như Mã Chân đạo trưởng đã rút kiếm ra. Thuộc hạ ghé mắt nhìn vào khe cửa sổ, thấy trường kiếm đã nằm trong tay đạo trưởng rồi. Mặt ông ấy xanh mét, la lên:

– “Ngươi còn nhớ lời di huấn của sư phụ hay không? Ngươi là đồ khốn nạn vong ân phụ nghĩa, một lòng muốn làm chó săn cho nhà Thanh, cực kỳ vô sỉ. Hôm nay ta phải lấy mạng ngươi.”

Thập nhị đệ giơ ngón tay cái lên, thầm khen Mã Chân đạo trưởng thiện ác phân minh, nghĩa khí lẫm liệt. Trương Triệu Trọng lập tức nhũn ra, thở dài rồi nói:

– “Sư huynh đã nói vậy, thôi thì ngày mai đệ theo sư huynh về Hồ Bắc là xong.”

Bấy giờ Mã Chân đạo trưởng mới tra kiếm vào vỏ, an ủi hắn mấy câu rồi lên giường ngủ tiếp. Trương Triệu Trọng ngồi trên ghế, mặt đầy sát khí. Hình như hắn trù trừ không quyết định được, thân thể không ngừng run rẩy. Thuộc hạ cùng Thập nhị đệ chỉ sợ hắn phát giác, đợi hắn ngủ rồi mới rút lui, nhưng đợi hơn nửa giờ mà Trương Triệu Trọng vẫn không chịu đi ngủ. Hắn đứng lên ngồi xuống mấy lần, cuối cùng nhíu mày nghiến răng, khẽ gọi:

– “Đại sư huynh!”

Mã Chân đạo trưởng vẫn ngáy đều, rõ ràng là ngủ rất say. Trương Triệu Trọng đi đến bên giường.

Vệ Xuân Hoa kể đến đây, Hương Hương công chúa đột nhiên kinh hãi kêu lên một tiếng. Tuy nàng không hiểu Vệ Xuân Hoa nói gì, nhưng cảm thấy trong lời nói chứa đầy sát khí nên bất giác run rẩy, nắm chặt lấy tay Trần Gia Lạc, khẽ tựa đầu vào vai chàng. Chu Ỷ giận dữ liếc nàng một cái, mấp máy môi, hình như muốn nói gì đó nhưng lại thôi.

Vệ Xuân Hoa kể tiếp:

– “Trương Triệu Trọng đến bên giường, phóng lên một cái rồi lập tức lùi ra. Sau đó nghe Mã Chân đạo trưởng la lên một tiếng thảm khốc, nhảy bật lên, mặt chảy máu đầm đìa. Cặp mắt của ông ấy đã bị tên gian tặc lòng lang dạ sói kia móc ra rồi.”

Trần Gia Lạc nổi giận nhảy chồm lên, vỗ mạnh vào thành hố cát làm đất đá bay lên tứ tung. Chàng nghiến chặt răng mà nói:

– “Không giết tên gian tặc này, ta thề không làm người nữa. Lẽ ra vừa rồi ta không nên tha mạng cho hắn.”

Hương Hương công chúa chưa bao giờ thấy chàng giận dữ đến thế, sợ hãi nắm chặt tay chàng. Bọn Từ Thiên Hoằng đã nghe Vệ Xuân Hoa kể trước rồi, nhưng lúc này cũng giận dữ vô cùng.

Người Vệ Xuân Hoa run bần bật là song câu khua thành tiếng, giọng nói cũng run rẩy. Chàng kể tiếp:

– “Mã Chân đạo trưởng không nói tiếng nào, đi từng bước từng bước về phía Trương Triệu Trọng, vẻ mặt kinh người. Đột nhiên ông tung chân đá ra một cước, Trương Triệu Trọng lùi ra tránh né. Đạo trưởng nhìn không thấy gì lại đá vào giường nghe “ầm”một tiếng, cái giường vỡ một mảng lớn, trong nhà bụi bay mù mịt. Trương Triệu Trọng hình như có phần sợ hãi, muốn trốn ra cửa. Nhưng Mã Chân đạo trưởng đã đứng giữa cửa chặn đường, lắng tai nghe ngóng.

Trương Triệu Trọng không ra ngoài được, đột nhiên cười lên ha hả. Mã Chân đạo trưởng nhắm hướng tiếng cười phóng tới, chân trái đá ngang qua. Không ngờ Trương Triệu trọng cố ý dụ địch, dựng sẵn trường kiếm trước người mình. Mã Chân đạo trưởng phóng cước đá trúng cây kiếm, chân trái lập tức bị tiện đứt lìa.

Chu Ỷ nghiến chặt răng, cầm đơn đao không ngớt băm vằm mặt đất. Vệ Xuân Hoa lại kể:

– “Lúc ấy thuộc hạ và Thập nhị đệ không chịu nổi nữa, bất kể mình đang ở nơi hiểm địa, cũng bất kể mình không phải là địch thủ của hắn, hai người không hẹn mà cùng phá cửa sổ nhảy vào, phóng tới tên gian tặc mà chém giết. Chắc là hắn vừa làm chuyện đại ác nên trong lòng bất an, lại sợ bọn thuộc hạ còn đông người theo sau nên chỉ chống đỡ mấy hiệp rồi chạy trốn. Bọn thuộc hạ đuổi theo, tên gian tặc phóng kim châm rồi chạy thoát. Thuộc hạ dìu Thập nhị đệ vào trong nhà, định cầm máu cho Mã Chân đạo trưởng trước. Nhưng ông ấy chỉ nói một câu rồi đập đầu vào tường mà chết.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Ông ấy nói gì?”

Đột nhiên một cơn gió lạnh thổi qua, ai cũng rùng mình một cái.

Vệ Xuân Hoa nói:

– “Mã Chân đạo trưởng dặn:

– “Nhờ Lục sư đệ cùng Ngư Đồng trả thù cho ta!”

Lúc đó bên ngoài nghe tiếng đánh nhau, đã có người thức dậy đến xem. Thuộc hạ phải dìu Thập nhị đệ trở về chỗ trọ hôm sau trở lại xem xét thì họ đã thu liệm, chôn cất Mã đạo trưởng rồi. Thập nhị đệ bị trúng kim châm, thuộc hạ đã lấy ra. Bây giờ Thập nhị đệ đang dưỡng thương ở hẻm Song Liễu Tử thành Bắc Kinh.

Trương Triệu Trọng nói là hoàng đế bảo hắn đến Hồi Cương tìm người, thuộc hạ đoán là tìm sư phụ của tổng đà chủ. Nghe nói Viên lão tiền bối đang giữ hai món đồ liên quan trọng đại tới hoàng đế. Viên lão tiền bối võ công thâm hậu dĩ nhiên không sợ hắn, nhưng tên gian tặc ấy ác độc đến thế, mọi người tưởng hắn đã sửa đổi không chừng sẽ trúng vào gian kế, nên thuộc hạ phải đi suốt ngày đêm để báo tin. Ở Hà Nam gặp người của Long Môn Bang, nghe nói tổng đà chủ đã gặp Thượng Quan đại ca bang chủ của họ, thuộc hạ liền đến gặp ông ấy. Đến đó lại gặp Tứ ca, rồi cùng đi tìm Thập tứ đệ. Nghe tin sư phụ bị hại, Thập tứ đệ thương tâm không sao tả xiết. Mọi người gấp rút chạy đến đây, rồi bất ngờ gặp tổng đà chủ.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Vết thương của Thập nhị ca ra sao?”

Vệ Xuân Hoa đáp:

– “Thương tích không nhẹ, nhưng cũng may là không trúng chỗ yếu hại.”

Bây giờ, gió lạnh càng thổi mạnh, trên trời mây đen dày đặc như sắp sửa đè xuống đầu người. Hương Hương công chúa nói:

– “Sắp có tuyết rồi.”

Nàng cảm thấy giá lạnh khó có thể chịu, bèn nép sát thêm vào Trần Gia Lạc. Trong lòng Chu Ỷ đang ấm ức, đến bây giờ nhịn không nổi phải buột miệng nói ra:

– “Cô ấy nói gì vậy?”

Trần Gia Lạc nghe giọng nàng gây gổ, hơi ngạc nhiên nhưng cũng đáp:

– “Cô ấy nói là sắp có tuyết.”

Chu Ỷ giận dữ nói:

– “Hừ! Cô ấy mà biết cái gì.”

Lát sau nàng lại nhăn mặt nói:

– “Tổng đà chủ! Rốt cuộc là tổng đà chủ yêu Hoắc Thanh Đồng tỉ tỉ, hay là yêu cô gái này?”

Trần Gia Lạc đỏ mặt không đáp. Từ Thiên Hoằng kéo vạt áo, bảo nàng đừng quấy rầy nữa. Chu Ỷ nói một hơi:

– “Huynh kéo muội làm gì? Hoắc tỉ tỉ rất tốt, không thể để người khác hiếp đáp cô ấy.”

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Ta có bức hiếp cô ấy đâu?”

Chàng biết Chu Ỷ là người thẳng thắn, chưa minh bạch thì chẳng chịu thôi, bèn nói:

– “Hoắc Thanh Đồng cô nương là người rất tốt. Mọi người ở đây ai cũng thán phục cô ấy…”

Chu Ỷ cướp lời:

– “Thế thì tại sao vừa thấy muội muội của cô ấy đẹp hơn là huynh lập tức thay lòng đổi dạ?”

Trần Gia Lạc nghe hỏi mà đỏ mặt tía tai. Lạc Băng vội lên tiếng giảng hòa:

– “Tổng đà chủ cũng như mọi người chúng ta, chỉ gặp cô ấy vài lần, nói được mấy câu. Chỉ là bằng hữu bình thường thôi, có gì mà gọi là thay lòng đổi dạ?”

Chu Ỷ càng nói mạnh hơn:

– “Băng tỉ tỉ, sao tỉ lại bênh huynh ấy? Khi Hoắc Thanh Đồng tỉ tỉ tặng thanh đoản kiếm, ánh mắt của tổng đà chủ nhìn cô ấy tràn đầy tình ý. Muội tuy ngốc nghếch, nhưng cũng biết đó là tiếng sét ái tình, vừa gặp đã phải lòng nhau…”

Lạc Băng mỉm cười ngắt lời:

– “Ai dám nói muội muội ngốc nghếch? Muội muội nói chuyện thật là văn vẻ, nào là tràn đầy tình ý, nào là tiếng sét ái tình gì gì đó.”

Chu Ỷ giận dữ nói:

– “Tỉ tỉ đừng đánh trống lảng nữa có được hay không? Băng tỉ tỉ! Chúng ta đã từng nói với nhau, hai người họ thật là xứng đôi. Sao đột nhiên tỉ lại nói khác đi? Tuy huynh ấy là tổng đà chủ nhưng, nhưng muội cũng phải hỏi lại cho rõ ràng.”

Hương Hương công chúa nghe hai người nói chuyện có vẻ khẩn trương, cứ mở to đôi mắt mà nhìn, cảm thấy ngạc nhiên. Trần Gia Lạc không biết làm sao, đành phải nói:

– “Trước khi gặp ta, Hoắc Thanh Đồng cô nương đã có ý trung nhân rồi. Dù ta có nghĩ tốt về cô ấy, nhưng chỉ là tự chuốc lấy phiền não mà thôi.”

Chàng cũng biết mình nói vậy là không phải thật lòng, chỉ là lời nói để không khí hòa dịu lại, trong lòng không khỏi áy náy, mặt hơi lộ vẻ hổ thẹn.

Chu Ỷ ngơ ngác hỏi:

– “Có thật như thế không?”

Trần Gia Lạc hỏi lại:

– “Sao ta phải lừa gạt cô?”

Chu Ỷ lập tức thấy thoải mái, bèn nói:

– “Vậy là được rồi. Huynh đúng là người tốt, muội trách lầm huynh. Thế mà muội lại giận dữ mất nửa ngày. Xin lỗi tổng đà chủ, tổng đà chủ đừng trách nhé.”

Mọi người thấy nàng ngây thơ chất phác, mới đó đã nhận lỗi ngay, ai cũng cười rộ lên.

Chu Ỷ vừa gầm gừ Hương Hương công chúa, bây giờ bước tới nắm lấy tay nàng đầy vẻ thân mật. Đột nhiên trên mặt cảm thấy mát mẻ, ngẩng đầu lên thì thấy những đóa hoa tuyết trắng như lông ngỗng từ từ bay xuống. Chu Ỷ hoan hỉ nói:

– “Muội muội nói rất đúng, quả nhiên có tuyết rơi rồi.”

Trần Gia Lạc nhảy chồm lên, cất tiếng:

– “Chúng ta cố gắng xông ra khỏi vòng vây!”

Mọi người đều đứng dậy, kéo ngựa ra khỏi hố cát. Thanh binh thấy vậy bèn reo hò xung phong tới. Mọi người nhảy lên ngựa, cố sức phi càng xa càng tốt. Mới được mấy trượng, đột nhiên Vệ Xuân Hoa “úi chà” một tiếng, cả người lẫn ngựa té lăn ra đất. Văn Thái Lai kinh hãi vỗ ngựa chạy lên, nhưng chưa tới thì con ngựa mình cưỡi trúng tên ngã xuống.

Văn Thái Lai nhảy bật dậy, lại chạy đến thì Vệ Xuân Hoa đã đứng dậy nói:

– “Ngựa của đệ bị bắn chết rồi, còn đệ thì vô sự…”

Nói chưa dứt câu, Chương Tấn và Lạc Băng đã giục ngựa chạy tới. Hai người cúi xuống đưa tay, mỗi người nắm một người, kéo Vệ Xuân Hoa và Văn Thái Lai lên lưng ngựa. Lúc đó ngựa của Tâm Nghiễn và Chương Tấn lại trúng tên ngã xuống. Trần Gia Lạc phải ra lệnh:

– “Quay về! Quay về gấp!”

Mọi người quay đầu, lại chạy về hố cát. Bọn lính Thanh thừa thế đuổi theo, nhưng Văn Thái Lai, Dư Ngư Đồng, Vệ Xuân Hoa bắn một loạt tên bắt chúng quay trở lại. Phen này không chạy thoát khỏi vòng vây, lại bị bắn chết bốn con ngựa. Không hiểu bọn Thanh binh có cố ý hay không, mà chúng chỉ nhắm bắn ngựa chứ không bắn người. Trong vùng sa mạc, không có ngựa thì không thể xông đột trùng vây được. Mọi người đều không có kế hoạch gì, ai cũng rầu rĩ, mặt mày ủ rũ.

Lạc Băng nói:

– “Nếu không có cứu binh, chúng ta chỉ còn đường chết.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Lão anh hùng Mộc Trác Luân thấy con gái đi đã lâu mà chưa trở về, nhất định sẽ phái binh ra đón tiếp.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Nhất định họ đã xuất binh từ lâu rồi, nhưng chúng ta chạy về hướng nam xa xôi như thế này, sợ họ khó mà tìm đến đây được.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Vậy thì phải cử người đi cầu cứu.”

Tâm Nghiễn lên tiếng:

– “Để tiểu nhân đi, tiểu nhân biết nói tiếng Hồi.”

Trần Gia Lạc suy nghĩ một hồi rồi nói:

– “Được!”

Tâm Nghiễn mở bao lấy ra văn phòng tứ bảo, Hương Hương công chúa viết thư cầu cứu. Trần Gia Lạc bảo Tâm Nghiễn:

– “Ngươi lấy con ngựa trắng của Tứ phu nhân mà cưỡi. Chúng ta giả vờ xông ra phía đông, còn ngươi chạy ra phía tây.”

Chàng lại dặn cậu bé phương hướng tìm đến doanh trại người Hồi. Sau đó mọi người đồng thanh hô vang, cất bước chạy về hướng đông, chỉ có Chu Ỷ và Hương Hương công chúa ngồi lại hố cát.

Tâm Nghiễn lén dẫn con ngựa trắng lên, nằm sát dưới bụng ngựa, hai tay ôm lấy cổ ngựa, hai chân móc lên lưng ngựa, khẽ thúc vào sườn ngựa một cái. Con ngựa trắng lập tức sải vó chạy về hướng tây. Bọn lính Thanh bắn theo mấy mũi tên thưa thớt, tên bay vừa yếu ớt vừa không chính xác, cách con ngựa tới vài trượng.

Thấy Tâm Nghiễn đã đi xa, mọi người lùi trở về hố, tập trung tinh thần canh giữ bốn mặt. Họ thấy con ngựa trắng phi như bay trong gió tuyết, nhanh chóng thoát khỏi vòng vây, đều cất tiếng hoan hô.

Mấy năm nay Trần Gia Lạc coi Tâm Nghiễn như anh em ruột. Chàng thấy cậu bé còn nhỏ tuổi mà cũng phải mạo hiểm đi cầu cứu, không biết tính mạng sẽ ra sao, trong lòng cũng thấy bứt rứt. Lát sau, chàng lệnh cho Từ Thiên Hoằng và Vệ Xuân Hoa lên trên canh gác, thay cho Văn Thái Lai xuống nghỉ ngơi. Văn Thái Lai ở nơi nguy hiểm mà chẳng lo lắng gì, vừa nhảy xuống đã lập tức cất tiếng hát những bài ca ngợi mảnh đất Giang Nam. Lạc Băng cũng hòa nhịp theo:

– “Lên núi hái củi ta cứ hát ca; Ta không sợ báo, ta không sợ hổ; cuộc sống người nghèo khiến ta cứng cỏi; Tiền tài tuy ít nhưng nhân nghĩa nhiều.”

Hương Hương công chúa nói với Trần Gia Lạc:

– “Người Hán các huynh ca hát cũng hay lắm. Hai người ấy đang hát về cái gì vậy?”

Trần Gia Lạc bèn dịch lời ca cho nàng nghe. Hương Hương công chúa khe khẽ hát theo, bắt trước điệu hát của Văn Thái Lai. Nàng hát được một lúc rồi ngủ thiếp đi.

Lúc này tuyết rơi càng lớn, nhìn ra ngoài chỉ thấy một màu trắng xóa. Trời gần sáng mà Hương Hương công chúa vẫn chưa ngủ dậy, trên tóc và trên vai đều bám đầy tuyết. Những đóa hoa tuyết bám trên mặt nàng bị chảy tan thành những giọt nước rung động theo hơi thở.

Lạc Băng khẽ cười:

– “Cô bé này chẳng biết lo lắng gì cả.”

Hồi lâu, đôi mày của Từ Thiên Hoằng chau lại, nói chậm rãi:

– “Sao lâu đến thế này mà chưa thấy cứu binh?”

Văn Thái Lai nói:

– “Không biết dọc đường Tâm Nghiễn có gặp chuyện gì không?”

Từ Thiên Hoằng lại nói:

– “Đệ lại lo lắng về chuyện khác.”

Chu Ỷ hỏi:

– “Việc gì thế? Sao lại ấp úng như vậy, không nói thẳng ra đi.”

Khi đoạt thánh kinh ở vùng Cam Lương, Từ Thiên Hoằng đã thấy Hoắc Thanh Đồng ra hiệu lệnh, tất cả người Hồi răm rắp tuân theo. Chàng bèn hỏi Trần Gia Lạc:

– “Doanh trại người Hồi do ai chỉ huy? Lão anh hùng Mộc Trác Luân hay cô nương Hoắc Thanh Đồng?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Cả hai cùng chỉ huy. Việc gì lão anh hùng cũng thương lượng với con gái.”

Từ Thiên Hoằng thở dài nói:

– “Nếu cô nương Hoắc Thanh Đồng không chịu xuất binh thì… thì khó rồi.”

Mọi người đều hiểu ý chàng nên im lặng không nói gì. Chỉ có Chu Ỷ nhảy chồm lên, nói một hơi:

– “Huynh… sao huynh lại nghĩ Hoắc tỉ tỉ là con người như thế? Không phải cô ấy đã có ý trung nhân khác rồi sao? Hơn nữa, dù có ganh tị với muội muội đi nữa, chẳng lẽ cô ấy không lo cứu người mình yêu thích hay sao?”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Khi ghen, nữ nhân có thể làm bất cứ việc gì.”

Chu Ỷ lại càng giận dữ, la hét lung tung. Hương Hương công chúa tỉnh dậy, mở to mắt nhìn nàng mỉm cười. Mọi người mới chỉ gặp Hoắc Thanh Đồng một lần, tuy cảm thấy nàng rất tốt, nhưng nàng là người như thế nào thì không biết rõ lắm, nghe Từ Thiên Hoằng nói vậy không phải là vô lý. Chỉ có Chu Ỷ là tuyệt đối không chịu tin.

Ai cũng thấy Hương Hương công chúa diễm lệ khả ái, dù Trần Gia Lạc không muốn thay lòng đổi dạ cũng khó mà tự chủ, đó là chuyện bình thường của con người. Hơn nữa thấy chàng ăn nói ấp úng, hình như trong lòng cũng có phần hối hận, mọi người lại càng không khỏi lo âu.

Ra khỏi vòng vây, Tâm Nghiễn theo con đường Trần Gia Lạc đã chỉ, tìm tới doanh trại người Hồi đưa lá thư lên. Mộc Trác Luân đang phái người tìm kiếm khắp nơi, nhưng sa mạc mênh mông tìm kiếm hai người thật không phải dễ, lại không thể đến gần doanh trại quân Thanh thám thính. Ông đang muôn phần lo lắng thì được thư con gái, lập tức cả mừng hạ lệnh:

– “Triệu tập quân sĩ ngay!”

Hoắc Thanh Đồng hỏi Tâm Nghiễn:

– “Có khoảng bao nhiêu quân Thanh bao vây các ngươi?”

Tâm Nghiễn đáp:

– “Phải tới ba bốn ngàn người.”

Hoắc Thanh Đồng cắn chặt môi, im lặng đi qua đi lại không nói gì cả.

Lát sau bên ngoài nghe tiếng hiệu lệnh nổi lên, người thì chạy tới chạy lui, ngựa thì hí vang giậm vó, đao kiếm đã tuốt trần, đội ngũ đã tập hợp. Mộc Trác Luân đang định ra ngoài lều để dẫn người đi cứu, Hoắc Thanh Đồng bỗng nghiến răng lại nói:

– “Gia gia! Đừng đi cứu.”

Mộc Trác Luân giật mình quay đầu lại, nửa kinh ngạc nửa nghi ngờ, cứ tưởng mình nghe lầm. Hồi lâu ông mới hỏi:

– “Con… con nói gì vậy?”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Con nói là không thể đi cứu.”

Mộc Trác Luân tái mặt, suýt nữa thì nổi giận, nhưng lập tức nghĩ lại:

– “Con gái ta trước nay vẫn tinh tế đa mưu, không chừng có lý do gì khác.”

Ông bèn hỏi:

– “Tại sao thế?”

Hoắc Thanh Đồng đáp:

– “Triệu Tuệ rất biết dụng binh, chắc chắn không chỉ vì muốn bắt hai sứ giả mà phái bốn năm ngàn người đuổi theo vây chặt. Nhất định là có quỉ kế bên trong.”

Mộc Trác Luân nói:

– “Cứ cho là có quỉ kế, chẳng lẽ chúng ta nhẫn tâm đứng nhìn quân Thanh giết hại muội muội của con và những bằng hữu Hồng Hoa Hội hay sao?”

Hoắc Thanh Đồng cúi đầu không đáp, hồi lâu mới nói:

– “Con chỉ sợ dẫn binh đi mà cứu người không được, lại còn tổn thương thêm mấy ngàn người nữa.”

Mộc Trác Luân đập tay vào đùi, la lớn:

– “Khoan hãy nói muội muội của con là cốt nhục thân tình. Các bằng hữu Hồng Hoa Hội như Trần tổng đà chủ đối với chúng ta đã nhân nghĩa tận cùng như thế, cho dù chúng ta vì họ mà chết thì có sao đâu? Con… con…”

Ông thấy con gái mình đột nhiên không hiểu đạo nghĩa, trong lòng vừa giận dữ, vừa tội nghiệp.

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Gia gia! Gia gia nghe lời con đi! Không những chúng ta sẽ cứu họ ra, mà chúng ta còn có thể thắng một trận to.”

Mộc Trác Luân cả mừng noi:

– “Con gái ngoan, sao con không nói sớm một tí? Phải làm sao đây? Gia gia sẽ nghe lời con.”

Hoắc Thanh Đồng hỏi:

– “Gia gia nghe lời con thật phải không?”

Mộc Trác Luân mỉm cười nói:

– “Vừa rồi ta lo lắng đến nỗi hồ đồ, con đừng để bụng làm gì. Phải làm như thế nào, nói mau đi.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Thế thì gia gia hãy giao lệnh tiễn cho con đi, trận này để con chỉ huy.”

Mộc Trác Luân ngần ngừ một chút, nhưng ông biết con gái mưu trí hơn mình rất nhiều, bèn nói:

– “Được! Ta giao cho con.”

Ông lấy toàn bộ lệnh kỳ, lệnh tiễn ra, hai tay trao cho Hoắc Thanh Đồng. Hoắc Thanh Đồng quì xuống nhận lấy, khẩn cầu chân thánh A-la rồi mới đứng dậy. Nàng nói:

– “Vậy thì gia gia và ca ca cũng phải nghe lệnh của con.”

Mộc Trác Luân nói:

– “Chỉ cần con có thể cứu người, đánh bại quân Thanh thì muốn gia gia làm gì cũng được.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Được! Chúng ta cứ thế!”

Rồi nàng cùng phụ thân ra khỏi lều. Các đội trưởng đã xếp thành hai dãy chờ đợi.

Mộc Trác Luân nói với binh lính:

– “Hôm nay chúng ta quyết một trận sinh tử với bọn lính Mãn Châu. Trận chiến này do Hoắc Thanh Đồng cô nương ra hiệu lệnh.”

Chiến sĩ đều đưa trường đao lên, lớn tiếng hô:

– “Cầu xin chân thánh A-la hãy phù hộ Thúy Vũ Hoàng Sam. Cầu xin chân thánh A-la sẽ phù hộ cho chúng ta thắng lợi.”

Hoắc Thanh Đồng phất lệnh kỳ một cái rồi nói:

– “Hay lắm! Bây giờ giải tán, mọi người về doanh nghỉ ngơi cho khỏe.”

Các đội trưởng hướng dẫn mọi người giải tán. Mộc Trác Luân ngẩn ra không nói được tiếng nào.

Trở về lều, Tâm Nghiễn quì rạp xuống đất, không ngớt khấu đầu với Hoắc Thanh Đồng. Cậu vừa khóc vừa nói:

– “Nếu cô nương không phát binh đi cứu, công tử của tiểu nhân chắc chắn không sống được.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Ngươi đứng dậy đi. Ta chưa nói là không đi cứu.”

Tâm Nghiễn lại tiếp:

– “Ở đó chỉ có chín người, trong đó có muội muội của cô nương không biết võ công. Quân địch lại đông tới mấy ngàn. Nếu cứu binh tới trễ một bước, công tử sẽ… sẽ…”

Hoắc Thanh Đồng hỏi:

– “Đội quân thiết giáp của bọn Thanh binh có xung phong hay không?”

Tâm Nghiễn đáp:

– “Chưa, nhưng sợ lúc này chúng đã xung phong rồi. Chúng mặc áo giáp, tên bắn không thủng thì làm sao chúng ta cản trở…”

Cậu càng nghĩ càng sợ, khóc càng lớn hơn. Hoắc Thanh Đồng chau mày không nói gì.

Mộc Trác Luân thấy Tâm Nghiễn khóc rất thảm thiết, trong lòng nghĩ:

– “Tuổi tác của nó còn nhỏ mà đối với chủ nhân đã trung thành nghĩa khí như vậy. Nếu chúng ta không đi cứu thì làm sao không có lỗi với họ.”

Ông đi qua đi lại trong lều, bàng hoàng không biết làm sao.

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Gia gia! Gia gia đã thấy cái bẫy để bắt sói chưa? Trên móc sắt có móc một miếng thịt dê, con sói mà cắn vào miếng thịt một cái là khởi động cơ quan, bị kẹp dính ngay. Triệu Tuệ muốn chúng ta làm con sói, muội muội chính là miếng thịt dê. Trong sa mạc không có chỗ nào thủ được. Hồng Hoa Hội anh hùng tới đâu cũng chỉ có tám người, chắc chắn không chống đỡ được bốn năm ngàn nhân mã. Nhất định là Triệu Tuệ cố ý không chịu tấn công.”

Mộc Trác Luân gật đầu, Hoắc Thanh Đồng lại nói:

– “Cậu bé này nói quân thiết giáp của bọn Thanh cũng chưa xung phong, vậy chúng ta tới đó làm chi?”

Nàng cúi xuống đất, dùng cán của lệnh kỳ vẽ một vòng tròn rồi nói:

– “Đây là miếng thịt dê.”

Nàng lại vạch hai đường ở hai bên vòng tròn rồi nói:

– “Đây là quân thiết giáp, chính là cái bẫy. Nếu chúng ta từ đây đi cứu, quân thiết giáp từ hai bên đánh kẹp vào, chúng ta còn mạng hay không?”

Mộc Trác Luân quay lại nhìn Tâm Nghiễn, không nói được tiếng nào.

Hoắc Thanh Đồng lại tiếp:

– “Bọn lính Thanh đã cố ý thả cậu bé này tới đây cầu cứu. Nếu không một người một ngựa làm sao trốn khỏi vòng vây bốn năm ngàn kỵ binh được?”

Mộc Trác Luân nói:

– “Con nói là Triệu Tuệ muốn dụ chúng ta phải không? Thế thì chúng ta từ hai bên đội ngũ của hắn mà tấn công vào, đánh cho chúng hết đường chống đỡ.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Chúng có bốn vạn quân, ta chỉ có một vạn rưỡi. Nếu đánh nhau chính diện thì chắc chắn phải thua.”

Mộc Trác Luân la lên:

– “Cứ theo con nói thì muội muội của con và các bằng hữu phải chết chắc rồi sao? Ta không nỡ bỏ muội muội của con, cũng không nỡ nhìn các bằng hữu Hồng Hoa Hội gặp nạn. Ta chỉ dẫn năm trăm người đi, nếu cứu được thì do chân thánh A-la phù hộ, nếu không cứu được thì chết chung với họ.”

Hoắc Thanh Đồng im lặng không đáp.

Tâm Nghiễn thấy Hoắc Thanh Đồng nhất định không chịu xuất quân, lại quì xuống khóc lóc, vừa dập đầu vừa nói:

– “Nếu công tử có lỗi gì với cô nương, xin cô nương khoan dung tha lỗi mà đi cứu. Tiểu nhân nhất định sẽ cầu xin công tử đền tội cho cô nương. Cô nương mà chịu cứu mạng cho công tử thì bọn tiểu nhân không ai không cảm kích ân đức. Xin cô nương cứu mạng!”

Hoắc Thanh Đồng nghe mấy câu này, biết Tâm Nghiễn đã có ý nghi ngờ mình, đôi mày bèn cau lại giận dữ nói:

– “Ngươi đừng nói lăng nhăng nữa!”

Tâm Nghiễn nhảy chồm lên nói:

– “Cô nương đã nhẫn tâm như thế, thì tiểu nhân phải trở về chết với công tử.”

Cậu vừa khóc rống lên vừa cưỡi con ngựa trắng phóng đi như bay.

Mộc Trác Luân lớn tiếng nói:

– “Chúng ta mà không xuất binh thì còn thua cả đứa bé này. Dù lên núi đao hay xuống chảo dầu thì ta cũng quyết liều một phen. Thánh A-la đã dạy, chết vì nghĩa thì hồn được lên thiên quốc.”

Ông càng nói càng kịch liệt hơn.

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Gia gia! Người Hán có một quyển sách là Tam quốc diễn nghĩa. Sư phụ của con đã kể không ít chuyện dùng mưu thắng trận cho con nghe, thật là kỳ diệu. Quyển sách đó có nói:

– Tướng giỏi ở mưu chứ không ở dũng. Chúng ta ít quân, phải dùng kỳ mưu mới mới thắng được đối phương. Triệu Tuệ đã có độc kế, chúng ta phải tương kế tựu kế đánh cho một trận.”

Mộc Trác Luân bán tín bán nghi hỏi lại:

– “Thật ư?”

Hoắc Thanh Đồng run giọng nói:

– “Gia gia! Chẳng lẽ gia gia cũng nghi ngờ con?”

Mộc Trác Luân thấy đôi mắt nàng đầy lệ, sắc mặt nửa trắng nửa xanh. Trong lòng ông không nỡ bèn nói:

– “Được thôi, tùy ý con. Vậy thì con lập tức xuất binh đi cứu người đi.”

Hoắc Thanh Đồng suy nghĩ một lúc rồi bảo bọn thân binh:

– “Nổi trống thăng trướng!”

Tiếng trống vang vang, đội trưởng các đội đều kéo vào lều. Hoắc Thanh Đồng ngồi giữa, Mộc Trác Luân và Hoắc A Nhỹ ngồi hai bên. Lúc này ngoài lều tuyết rơi rất lớn, dưới đất đã phủ dày mấy tấc. Mộc Trác Luân nghĩ đến đứa con gái nhỏ bị vây trong sa mạc lại gặp phải trận tuyết này, không chết đói thì cũng chết rét. Trong lòng ông không khỏi lo lắng, bàng hoàng.

Hoắc Thanh Đồng cầm lệnh tiễn mà nói:

– “Đội trưởng đội một Thanh Kỳ! Huynh đem nhân mã bản đội tới vùng sình lầy phía tây Qua Bích, làm như thế này… Đội hai, ba, tư, năm, sáu Thanh Kỳ! Các huynh thống lãnh nhân mã, triệu tập mục dân và nông dân ở cùng đầm lầy, làm như thế này…”

Sáu đội trưởng Thanh Kỳ nhận lệnh, mỗi người dẫn một ngàn binh lính đi ngay. Mộc Trác Luân thấy con gái đưa hết quân tinh nhuệ đi làm những chuyện xây dựng công sự mà không đi cứu người, bắt đầu cảm thấy bất mãn.

Hoắc Thanh Đồng lại nói:

– “Đội một, hai, ba Bạch Kỳ! Các vị tới thành Diệp Nhĩ Khương và hai bên bờ sông Hắc Thủy làm như thế này… Đội trưởng đội một Hắc Kỳ, đội trưởng Kha Tất Khắc! Hai vị đem quân lên ngọn núi bên sông Hắc Thủy làm như thế… Đội trưởng đội Mông Cổ! Đội các vị đến đợi trên đỉnh núi Kỳ Bàn, làm những việc như sau…”

Đội trưởng của các đội đều nhận lệnh dẫn quân đi. Phen này quân Thanh xâm lược hướng tây, không những người Hồi bị giết hại rất nhiều mà các bộ lạc như Kha Tất Khắc, Mông Cổ trong vùng núi Thiên Sơn cũng bị họa lây. Vì thế mà không ít bộ tộc đã liên hiệp với Hồi tộc để chống trả quân Thanh.

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Gia gia! Gia gia chỉ huy các đội Thanh Kỳ ở mặt đông. Ca ca! Huynh chỉ huy các đội nhân mã ở mặt tây, gồm Bạch Kỳ, Kha Tất Khắc, Mông Cổ. Còn con thống lĩnh đội hai Hắc Kỳ, ở giữa điều động và tiếp ứng. Trận chiến này phải như thế.”

Nàng giải thích tường tận xong, Mộc Trác Luân đứng bật dậy quát hỏi:

– “Vậy thì ai đi cứu người?”

Hoắc Thanh Đồng lại nói:

– “Đội trưởng đội ba Hắc Kỳ dẫn đội từ phía đông, đội trưởng đội bốn Hắc Kỳ dẫn đội từ phía tây xông vào cứu người, nếu gặp quân Thanh phải làm như vậy… hai đội này phải đổi ngựa với đội Thanh Kỳ để lấy những con ngựa tốt nhất, không được cưỡi con nào chạy chậm.”

Hai đội trưởng Hắc Kỳ cũng nhận lệnh mà ra điểm quân. Mộc Trác Luân la lên:

– “Con đem một vạn ba trăm ngàn tinh binh đi làm những công việc không gấp rút, còn cứu người phái hai ngàn binh lính già yếu trẻ con, cũng không phải đi đánh trận mà đi chạy trốn. Như vậy là có dụng ý gì?”

Thì ra trong Hồi tộc thì Thanh kỳ và Bạch Kỳ là hai đội quân tinh nhuệ nhất, Hắc Kỳ không thể bì được. Đội ba, đội tư Hắc kỳ chỉ gồm những người già yếu và thiếu niên chưa trưởng thành. Đó là hai đội yếu kém nhất, thường chỉ làm những chuyện canh gác và vận tải, rất ít khi ra trận. Hoắc A Y trước nay vẫn kính phục em gái, bây giờ trên mặt cũng đầy vẻ hoài nghi.

Hoắc Thanh Đồng lại tiếp:

– “Kế sách của con là…”

Mộc Trác Luân lửa giận đã bốc tới đầu, gầm lên:

– “Ta không tin lời ngươi nữa. Ngươi… ngươi thích Trần Gia Lạc công tử, mà y lại thích muội muội của ngươi, nên ngươi muốn hai người này phải chết. Ngươi… ngươi thật là nhẫn tâm.”

Nghe vậy Hoắc Thanh Đồng tay chân lập tức lạnh như băng, suýt ngất xỉu tại chỗ. Mộc Trác Luân giận đến mất khôn, nói xong mới cảm thấy mình quá nặng lời. Ông ngơ ngác một chút rồi tung người lên ngựa hô lớn:

– “Ta đi chết chung với Kha Tư Lệ.”

Mộc Trác Luân vung trường đao một cái, ra lệnh:

– “Đội ba, đội bốn Hắc Kỳ đi theo ta!”

Đổi ngựa tốt xong, hai đội chiến sĩ già yếu và trẻ con liền chạy theo tộc trưởng vào sa mạc trong cơn gió tuyết. Hoắc A Y thấy muội muội mặt mũi bơ phờ, bất giác nảy lòng thương xót. Y lên tiếng dỗ dành:

– “Muội muội! Trong lòng gia gia rối loạn, chính ông ấy cũng không biết mình đang nói gì nữa. Muội muội đừng để tâm.”

Hoắc Thanh Đồng đưa tay đè lên ngực, trán đẫm mồ hôi lạnh, hồi lâu mới nói:

– “Muội đi tiếp ứng gia gia.”

Hoắc A Y nói:

– “Cứ nhìn cũng biết muội muội mệt mỏi quá rồi. Muội muội đi nghỉ một lúc, để huynh đi tiếp ứng cho gia gia trước.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Không được! Ca ca phải lo chỉ huy các đội Thanh Kỳ ở hướng đông. Để muội đi.”

Nàng lập tức nhảy lên chiến mã, dẫn đội hai Hắc Kỳ ra đi.

Lúc này doanh trại người Hồi chỉ còn lại hai ba trăm thương bệnh binh. Một vạn năm trăm ngàn chiến sĩ đã rời khỏi doanh trại đi bày trận. Tâm Nghiễn tức tối vô cùng, cưỡi con ngựa trắng vừa khóc vừa chạy về chỗ Trần Gia Lạc đang bị bao vây. Lúc này, về đến gần quân Thanh cũng chẳng cản trở gì, chỉ bắn qua loa mười mấy mũi tên, mũi nào cũng trật xa hơn trượng.

Lúc cậu chạy đến gần hố cát, Chương Tấn la lớn:

– “Tâm Nghiễn đã trở về rồi.”

Tâm Nghiễn không nói gì, nhảy xuống ngựa dẫn con ngựa trắng vào hố cát rồi ngồi bệt xuống đất, cất tiếng khóc ròng. Chu Ỷ vội dỗ:

– “Đừng khóc, đừng khóc. Ra sao rồi?”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Có gì mà phải hỏi? Hoắc Thanh Đồng không chịu xuất binh.”

Tâm Nghiễn thút thít nói:

– “Tiểu nhân quì xuống dập đầu, cầu xin khổ sở… Thế mà cô ấy quát mắng tiểu nhân.”

Nói xong, cậu lại khóc. Mọi người đều im lặng không nói lời nào. Hương Hương công chúa hỏi Trần Gia Lạc:

– “Tại sao chú bé này khóc vậy?”

Trần Gia Lạc không muốn nàng khó chịu, bèn nói:

– “Nó đi cầu cứu, mất nửa ngày mà vẫn không thoát ra được.”

Hương Hương công chúa lấy khăn tay đưa cho cậu. Tâm Nghiễn đón lấy đang định chùi nước mắt nước mũi bỗng cảm thấy trên khăn có một mùi hương thanh khiết, bèn không dám dùng. Cậu lấy tay áo lau mặt, trả lại khăn tay.

Từ Thiên Hoằng hỏi:

– “Bây giờ chúng ta có nên xung phong xông ra ngoài hay không? Tứ ca! Huynh thấy chúng ta phải làm sao?”

Văn Thái Lai nghe Từ Thiên Hoằng hỏi mình chứ không hỏi Trần Gia Lạc, suy nghĩ một chút liền hiểu được dụng ý của họ Từ. Chàng lên tiếng:

– “Tổng đà chủ! Tổng đà chủ cùng vị cô nương này cưỡi con ngựa trắng xông ra.”

Trần Gia Lạc kinh ngạc hỏi:

– “Chỉ hai người thôi ư?”

Văn Thái Lai đáp:

– “Đúng vậy. Chúng ta cùng xông ra thì chắc chắn không thoát được. Trên vai tổng đà chủ còn gánh vác trách nhiệm rất nặng, không những mấy chục ngàn huynh đệ Hồng Hoa Hội cần sự chỉ huy, mà cả giang sơn người Hán phải được khôi phục nữa.”

Vệ Xuân Hoa, Dư Ngư Đồng, Chu Ỷ đồng thanh nói:

– “Nếu tổng đà chủ thoát được ra ngoài, bọn thuộc hạ chết cũng nhắm mắt.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Các vị chết đi, chẳng lẽ ta sống một mình?”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Tổng đà chủ, tình hình cấp bách lắm rồi. Nếu tổng đà chủ không chịu đi ngay, bọn thuộc hạ phải có biện pháp.”

Trần Gia Lạc ngập ngừng một chút rồi nói:

– “Được.”

Chàng dẫn con ngựa trắng ra khỏi hố cát, chắp tay thi lễ với mọi người, dìu Hương Hương công chúa lên ngựa rồi phóng đi. Bọn Văn Thái Lai biết phen này sinh ly tử biệt, ai cũng buồn bã vô cùng, Lạc Băng mắt đẫm lệ. Trần Gia Lạc thì chẳng tỏ thái độ gì, cùng Hương Hương công chúa đi ngay. Mọi người đều trầm uất, lại thêm lo lắng cho Trần Gia Lạc có thoát được ra khỏi vòng vây hay không. Xưa nay Văn Thái Lai vẫn hào sảng nhất, lên tiếng đầu tiên:

– “Ở đây, kể cả tổng đà chủ và cô nương người Hồi chỉ có mười người. Bây giờ chúng ta giết được bảy tám chục quân địch rồi. Các vị huynh đệ, chúng ta phải giết bao nhiêu rồi mới chết đây?”

Lạc Băng đáp:

– “Tối thiểu phải giết thêm một trăm tên.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Bọn quân Thanh này tệ hại vô cùng, chúng ta phải giết đủ số ba trăm.”

Chương tấn nói:

– “Bét ra cũng được năm trăm thằng.”

Vệ Xuân Hoa đang canh gác ở trên, quay xuống nói:

– “Chúng ta đây còn lại tám người. Anh hùng hảo hán của Hồng Hoa Hội phải lấy một chọi trăm. Xem đây!”

Lúc đó có ba tên lính Thanh từ từ trườn tới trên mặt tuyết. Vệ Xuân Hoa giương cung liên tiếp bắn ra, không mũi nào không trúng. Tâm Nghiễn đếm:

– “Một, hai, ba. Hay quá! Cửu gia, hay tuyệt!”

Dư Ngư Đồng cũng cao hứng kêu lên:

– “Cứ như vậy mà làm. Bắt chúng ta chết cũng không phải dễ, nộp trước cho đủ tám trăm mạng cái đã.”

Từ Thiên Hoằng mỉm cười nói:

– “Việc này càng lúc càng không dễ. Nếu không giết đủ số, thì đúng là chúng ta chết không nhắm mắt.”

Lạc Băng cũng cười nói:

– “Vậy phải dặn Ngũ ca, Lục ca từ từ mà tới.”

Mọi người cười ồ lên. Thương Hách Chí, Thường Bá Chi có biệt hiệu là Hắc Vô Thường, Bạch Vô Thường. Quỉ vô thường tới bắt hồn thì người ta mới chết. Quần hùng đã quyết tâm chấp nhận cái chết, ai cũng thoải mái trong lòng. Tâm Nghiễn vốn đang hoảng sợ, thấy mọi người như vậy cũng can đảm hẳn lên. Cậu nghĩ:

– “Công tử là anh hùng hào kiệt, ta không nên làm công tử phải xấu hổ.”

Chương Tấn cười ha hả, cao hứng la lên:

– “Hôm nay lão gia phải giết cho đủ tám trăm thằng chó rồi sẽ về trời.”

Đột nhiên nghe tiếng Vệ Xuân Hoa quát hỏi:

– “Ai đó?”

Rồi có tiếng Trần Gia Lạc cười đáp:

– “Sao chúng ta không giết cho đủ số một ngàn?”

Vệ Xuân Hoa la lên:

– “Tổng đà chủ! Sao lại trở về đây?”

Trần Gia Lạc tung người nhảy xuống hố cát, mỉm cười nói:

– “Đưa cô ấy đi rồi, đương nhiên ta phải về đây. Năm xưa Lưu Quan Trương từng thề, không được sinh cùng năm cùng tháng cùng ngày, nhưng phải chết cùng ngày cùng tháng cùng năm. Nghĩa khí của họ lưu truyền vạn kiếp, nhưng rốt cuộc cũng không thực hiện được lời thề. Thế mà hôm nay, chín huynh đệ tỉ muội chúng ta lại làm được như vậy.”

Mọi người thấy chàng nói vậy, biết là không thể khuyên can được nữa, nên đồng thanh hô lớn:

– “Hay lắm! Chúng ta sẽ chết cùng ngày cùng tháng cùng năm.”

Trần Gia lạc nói:

– “Tâm Nghiễn hảo huynh đệ! Ngươi đừng gọi ta là thiếu gia nữa, làm Thập ngũ đệ của chúng ta đi.”

Mọi người đều nói:

– “Không sai! Không sai!”

Tâm Nghiễn cảm động khóc rống lên.

Lúc này tuyết rơi vào hố cát đã dầy mấy tấc. Mọi người vừa hốt tuyết bỏ đi vừa nói chuyện huyên thuyên. Từ Thiên Hoằng cười nói:

– “Bây giờ mà có một hũ rượu lâu năm thì tuyệt diệu.”

Chu Ỷ liếc xéo chàng:

– “Lại trêu muội nữa rồi.”

Mọi người lại bật cười.

Dư Ngư Đồng ngẩn ngơ một lúc rồi bồng lên tiếng:

– “Tứ ca! Đệ có một chuyện rất không phải với huynh, không muốn mang nó trong lòng mà chết.”

Văn Thái Lai kinh ngạc hỏi:

– “Chuyện gì thế?”

Dư Ngư Đồng liền kể lại mình đã si tình với Lạc Băng như thế nào, đã xúc phạm nàng bên ngoài Thiết Đảm Trang ra sao. Cuối cùng chàng nói:

– “Đệ tâm trí điên rồ, đáng chết từ lâu nhưng không chết được. Trong lòng đệ mãi không yên mới đi làm hòa thượng. Tứ ca! Huynh có thể tha lỗi cho đệ hay không?”

Văn Thái Lai cười rộ lên đáp:

– “Thập tứ đệ! Đệ tưởng ta chưa biết hay sao? Nhưng ta đối xử với đệ có khác gì đâu? Tứ tẩu của đệ trước nay không nhắc đến chuyện đó, nhưng ta vẫn nhìn thấy. Ta biết đệ còn trẻ tuổi, hồ đồ trong lúc nhất thời nên không để chuyện đó vào lòng, đã tha lỗi cho đệ từ lâu rồi. Hôm nay đệ không cần phải cầu xin ta làm chi nữa.”

Dư Ngư Đồng vừa áy náy lại vừa cảm kích.

Lạc Băng mỉm cười nói:

– “Thập tứ đệ! Chuyện này đã qua lâu rồi, không cần nhắc tới nữa. Nhưng có một việc mà thật sự Tứ tẩu không được hài lòng.”

Dư Ngư Đồng ấp úng hỏi:

– “Chuyện… chuyện gì?”

Lạc Băng nói:

– “Đệ là hòa thượng, sau khi quy thiên thì được Như Lai tiếp nhận về Tây Phương cực lạc. Còn tám người chúng ta lại bị Ngũ ca, Lục ca dẫn xuống âm tào địa phủ, chắc chắn không tránh khỏi lên núi đao, xuống chảo dầu. Như vậy há chẳng phản lại lời thề có phước cùng hưởng có họa cùng chịu trước đây.”

Mọi người càng nghe càng thấy tức cười. Dư Ngư Đồng lập tức xé bỏ tăng bào đang khoác trên người cười rộ lên nói:

– “Dù sao thì hôm nay đệ cũng đã đại khai sát giới. Ngã phật từ bi, hôm nay đệ tử quyết định hoàn tục. Đệ thà đi với các vị ca ca tỉ tỉ xuống địa ngục, còn hơn một mình về nơi cực lạc.”

Mọi người cùng vỗ tay tán thưởng.

Đang cười đùa lớn tiếng, thì Vệ Xuân Hoa và Tâm Nghiễn đang canh gác phía trên bỗng la lên. Mọi người cùng nhảy lên bờ hố cát chuẩn bị đón địch. Dưới ánh trăng lạnh lẽo mờ nhạt, giữa những đóa tuyết hoa đang bay múa, một người mặc áo trắng dẫn con ngựa trắng từ từ bước tới. Lúc này cả trời đất trắng xóa một màu thanh khiết, nhưng người áo trắng còn thanh khiết hơn cả tuyết, trông như tiên nữ hạ phàm. Đó chính là Hương Hương công chúa. Trần Gia Lạc giật mình, nhảy ra khỏi hố cát chạy tới đón nàng.

Hương Hương công chúa hỏi:

– “Sao huynh bỏ muội lại một mình?”

Trần Gia Lạc giậm chân nói:

– “Ta đã bảo muội chạy về bộ tộc đi. Ở đây chỉ có chết chứ không sao sống được.”

Hương Hương công chúa ứa lệ mà nói:

– “Huynh chết mà muội sống được hay sao? Chẳng lẽ huynh… huynh chưa hiểu lòng muội hay sao?”

Trần Gia Lạc ngẩn ngơ một chút rồi nói:

– “Được! Vậy chúng ta cùng ở lại đây.”

Chàng bèn dắt tay nàng trở vào hố cát.

Chu Ỷ thở dài nói:

– “Tổng đà chủ! Lúc nãy muội còn trách tổng đà chủ là tâm trí không kiên định, thật ra muội đã sai rồi.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Chuyện gì thế?”

Chu Ỷ đáp:

– “Không ngờ tiểu cô nương này lại tình sâu nghĩa trọng như thế. Đừng nói là cô ấy trông như tiên nữ, mà dù cô ấy xấu xí như Mẫu Dạ Xoa thì chỉ cần tấm lòng như thế cũng đáng yêu rồi.”

Trần Gia Lạc mỉm cười không đáp, nghĩ thầm:

– “Hôm nay bằng hữu và người yêu đều ở cả đây, nếu ta phải chết cũng không có gì phải hối hận. Nếu thật sự Hoắc Thanh Đồng hận mình vô tình bạc nghĩa mà không chịu cho quân đến cứu, thì ta cũng nên xem mình là con người thay lòng đổi dạ, đáng bị trừng phạt.”

Nghĩ như vậy, chàng thấy trong lòng thoải mái, những gì tự trách đã giảm bớt nhiều. Chàng lại nghĩ:

– “Thúy Vũ Hoàng Sam anh hùng lẫm liệt, chưa chắc đã hay hờn oán như những cô gái tầm thường nhỏ mọn. Ôi! Rốt cuộc cũng là mình có lỗi với nàng, không chừng trong lúc này nàng còn đau lòng khổ sở hơn mình nhiều.”

Lạc Băng nói với Chu Ỷ:

– “Ỷ muội yêu thất ca như thế, chẳng lẽ tấm lòng của huynh ấy lại tốt hay sao?”

Chu Ỷ cãi:

– “Còn không phải ư? Tuy huynh ấy tinh ranh quỷ quyệt, nhưng bụng dạ lại tốt vô cùng.”

Từ Thiên Hoằng được ái thê khen ngợi trước đám đông, trong lòng cực kỳ vui sướng.

Hương Hương công chúa nói với Trần Gia Lạc:

– “Để muội hát một câu chuyện cho mọi người nghe.”

Trần Gia Lạc vỗ tay khen hay. Nàng dịu dàng cất tiếng hát:

– “Bên bờ sông Khổng Tước có Thiết Mãn Quan, dương liễu soi bóng trên mặt nước. Trên đỉnh núi cao có một ngôi mộ, trong đó có đôi lứa Tháp Y Nhĩ và Du Hoạ Na.”

Nàng cứ hát một đoạn, Trần Gia Lạc lại khẽ dịch ra cho mọi người hiểu. Bài ca nàng đang hát là môt truyền thuyết của người Hồi.

Ngày xửa ngày xưa có một nước tên là Cổ Nhiên Kỳ quốc. Công chúa là Du Hoạ Na và con trai của tể tướng là Tháp Y Nhĩ thân thiết với nhau từ nhỏ. Sau này, vì can gián nhà vua quá thẳng, tể tướng bị quốc vương xử tử. Quốc vương không cho phép con gái giao du với Tháp A Nhĩ nữa, muốn gả cho Hoắc Anh Hùng là con trai của gian thần. Ông nhốt Tháp A Nhĩ vào một cái rương, thả xuống dòng sông Khổng Tước để chàng trôi ra khỏi biên giới. May mà công chúa Phủ Sa quốc đang dạo chơi trên sông, cứu được Tháp A Nhĩ về. Quốc vương Phủ Sa quốc thấy chàng tuấn tú tài ba, muốn chọn làm phò mã và cho thừa kế ngôi vua. Nhưng Tháp A Nhĩ lại nói:

– “Tài sản và vương miện của bệ hạ, cộng thêm nàng công chúa mỹ miều nhất trên đời, cũng không thể làm cho tại hạ phụ mối thâm tình của Du Họa Na.”

Chàng kiên quyết không nhận hảo ý của quốc vương Phủ Sa quốc, về sau này lén trở về Cổ Nhiên Kỳ quốc. Lúc này, Du Họa Na vì tưởng nhớ người tình mà phải bệnh, quốc vương cho ngụy tạo lá thư của Tháp A Nhĩ để an ủi nàng. Đến khi nàng lành bệnh, quốc vương lại ép gả cho Hoắc Anh Hùng. Nàng vừa rơi lệ vừa mở chiếc rương là quà cưới của dân chúng gửi đến chúc mừng, không ngờ Tháp y Nhĩ từ trong rương nhảy ra.

Ngay lúc đó Hoắc Anh Hùng xông vào, đánh nhau với Tháp A Nhĩ và bị chàng giết chết. Quốc vương hạ lệnh xử tử Tháp A Nhĩ, công chúa khóc lóc cầu xin, rồi cũng bị phụ vuơng thắt cổ đến chết. Dân chúng vừa hát điếu ca vừa khiêng thi hài của đôi tình nhân này lên đỉnh núi cao mà an táng.

Khi nàng hát đến những đoạn thê lương bi thảm, Lạc Băng và Chu Ỷ tuy không hiểu ngay ý nghĩa của lời ca mà cũng không nén nổi nước mắt đầm đìa. Mọi người im lặng hồi lâu, ngẫm nghĩ đến vận mệnh bất hạnh của đôi tình nhân ở thời đại cổ xưa.

Đột nhiên Vệ Xuân Hoa ở trên cười ha hả kêu lên:

– “Mau lên đây mà xem!”

Mọi người trèo lên bờ hố, thấy sáu bảy tên Thanh binh nằm yên rên rỉ, không động đậy được. Thì ra chúng định bò đến đánh lén. Vệ Xuân Hoa phát hiện từ lâu, định để chúng tới gần mới bắn tên. Nào ngờ chúng nghe giọng hát của Hương Hương công chúa mà mê mẩn tâm thần, nằm yên trên mặt tuyết để lắng nghe. Trời lạnh thế này, chỉ chốc lát là tuyết bám trên người đã kết thành băng. Khi bài ca chấm dứt, chúng muốn tiếp tục bò tới nhưng băng đã bám chặt lên người, giãy giụa thế nào cũng không thoát ra được.

Tuyết vẫn không ngừng rơi xuống, xuống tới đất là đóng băng ngay. Chỉ trong chốc lát, mấy tên lính Thanh này đã bị chôn vùi trong băng tuyết. Quần hùng cũng lạnh đến mức khó mà chịu nổi. Tâm Nghiễn nhặt về một đống tên và cành cây, nhóm lửa trong hố cát để sưởi cho ấm.

Sáng sớm ngày thứ ba, tuyết vẫn rơi rất lớn. Từ Thiên Hoằng nói:

– “Chúng ta phải đề phòng, e rằng hôm nay quân Thanh sẽ bất ngờ tấn công.”

Ngoài Hương Hương công chúa ra, mọi người đều chuẩn bị cung tên, canh gác bên bờ hố cát.

Trời đã sáng hẳn mà bọn lính Thanh cũng chỉ bắn tên thưa thớt, không hề tập hợp đội ngũ tán công. Từ Thiên Hoằng không sao hiểu nổi, nhưng đột nhiên nghĩ tới một chuyện, liền hỏi Tâm Nghiễn:

– “Hoắc Thanh Đồng cô nương đã hỏi tiểu đệ những gì?”

Tâm Nghiễn nói:

– “Cô ấy hỏi tiểu đệ có bao nhiêu quân Thanh bao vây chúng ta, lại hỏi quân thiết giáp có xung phong hay không.”

Từ Thiên Hoằng mừng rỡ la lên:

– “Chúng ta được cứu rồi!”

Mọi người đều ngẩn ra, giương mắt lên nhìn chàng. Từ Thiên Hoằng tiếp:

– “Ta hồ đồ nghi ngờ Hoắc Thanh Đồng cô nương, đúng là lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử. Cô ấy thông minh hơn ta rất nhiều.”

Chu Ỷ ngạc nhiên hỏi:

– “Cái gì?”

Từ Thiên Hoằng hỏi lại:

– “Giả tỉ đội quân thiết giáp của bọn Thanh xung phong tới đây, chúng ta giữ được mạng hay không?”

Chu Ỷ nói:

– “À, chuyện đó cũng lạ.”

Từ Thiên Hoằng lại nói:

– “Dù chúng không dùng quân thiết giáp, nhưng nếu mấy ngàn người xung phong cùng lúc, chúng ta tám chín người làm sao mà chống đỡ? Mấy ngàn nhân mã không cần đâm chém, chỉ cần xếp hàng bước tới là đạp chúng ta nát bét như tương. Hơn nữa, chúng không bắn tên thật sự về phía chúng ta, chỉ làm bộ mà thôi.”

Mọi người nghe nói, nghĩ lại thấy đúng là như vậy. Tại sao phen này quân Thanh lại khách sáo, hạ thủ lưu tình như thế?

Trần Gia Lạc hiểu ra, hét toáng lên:

– “Đúng rồi, đúng rồi! Chúng cố ý không xung phong là muốn dụ cứu binh của người Hồi đến, nhưng Hoắc Thanh Đồng cô nương không bị chúng lừa.”

Chương Tấn nói:

– “Cô ấy không bị lừa, có nghĩa là chúng ta hỏng bét.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Không hỏng đâu! Nhất định cô ấy sẽ có cách.”

Chu Ỷ cười nói:

– “Đã đúng chưa? Muội chẳng bao giờ tin cô ấy là con người tệ bạc.”

Mọi người lập tức phấn chấn tinh thần, chỉ để lại Dư Ngư Đồng và Tâm Nghiễn canh giữ phía trên, còn tất cả nhảy xuống hố cát nghỉ ngơi.

Hồi 15: Triệu Tuệ ngốc toàn quân tan vỡ – Nguyên Chỉ buồn trêu ghẹo tam ma

Nhắc lại, nhờ bốn anh em Cốt Luân xông tới đè Trương Triệu Trọng mà Trần Gia Lạc mới thoát thân được. Mãi đến khi Triệu Tuệ bước ra quát tháo, họ mới chịu buông tay.

Trương Triệu Trọng giận dữ tột độ, từ dưới đất nhảy bật lên, xoay tay đánh một chưởng vừa nhanh vừa nặng. Phải đến nửa hàm răng của Cốt Luân Nhị Hổ rơi lốp cốp xuống đất, tên này đau quá suýt ngất ngay tại chỗ. Ba tên kia nổi giận, đồng thời nhảy tới đấm đá loạn xạ. Triệu Tuệ phải la mắng liên hồi, bốn huynh đệ này mới chịu hậm hực lùi ra.

Trương Triệu Trọng bực bội nói:

– “Đại tướng quân! Phen này hoàng thượng phái ty chức đến Hồi Cương có hai nhiệm vụ, mà một là bắt cô gái đó vào kinh.”

Triệu Tuệ hỏi:

– “Trương huynh chưa từng đến đây làm sao mà biết cô gái ấy?”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Người Hồi đã dâng tặng hoàng thượng một đôi ngọc bình để cầu hòa. Trên ngọc bình có vẽ hình một mỹ nữ thời xưa của Hồi tộc, kiều diễm vô cùng. Hoàng thượng khen ngợi không thôi, còn nói là thời nay không thể có người đẹp như thế. Sứ giả nói, hiện nay trong Hồi tộc có người còn đẹp hơn cô gái vẽ trên ngọc bình. Hoàng thượng không tin, muốn tận mắt nhìn thấy mỹ nhân đó, bèn sai ty chức đến đây lo liệu. Cô gái vừa rồi đẹp đẽ vô song, bình sinh ty chức chưa từng thấy, chắc chắn là người đó rồi.”

Triệu Tuệ “úi chà” một tiếng. Trương Triệu Trọng lại tiếp:

– “Hán tử vừa rồi không phải người Hồi, mà là đại thủ lĩnh Hồng Hoa Hội, tên Trần Gia Lạc.”

Triệu Tuệ kinh ngạc hỏi:

– “Có phải vậy không? Sao hắn lại tới đây?”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Hoàng thượng nhờ hắn đến đây lấy mấy món đồ, hạ lệnh cho ty chức là đợi hắn lấy được rồi chặn đường cướp lấy. E rằng những món mà hoàng thượng cần hiện đang ở trong người hắn. Hai người này tự dẫn xác đến đây, đúng là hồng phúc của hoàng thượng. Thế mà chúng ta lại bỏ qua cơ hội, để chúng dễ dàng thoát thân. Thật là đáng tiếc!”

Nói xong, hắn không ngớt vỗ đùi than thở. Triệu Tuệ mỉm cười nói:

– “Trương huynh không cần phải than thở luyến tiếc như thế. Ta đã điều binh khiển tướng, bố trí xong xuôi, định dùng bọn sứ giả này làm mồi để câu một con cá lớn. Hoàng thượng muốn bắt hai người này, thì đúng là nhất cử lưỡng tiện.”

Hắn quay lại bảo một tên thân binh đứng cạnh:

– “Đi dặn Đức Ngạn đô thống không được hại mạng hai người đó.”

Tên thân binh nhận lệnh đi ngay. Triệu Tuệ nói:

– “Hai tên sứ giả không phải tầm thường, bọn Hồi nhất định sẽ phái trọng binh đến cứu. Đợi chúng đến, quân thiết giáp của chúng ta từ hai bên kẹp lại.”

Hắn vừa nói vừa giang hai cánh tay ra, rồi ép hai tay vào nhau, mỉm cười nói:

– “Như vậy là xong.”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Đại tướng quân thần cơ diệu toán, không ai sánh kịp. Hoàng thượng thánh minh nên mới giao việc chinh phục Hồi tộc này cho đại tướng quân.”

Triệu Tuệ vô cùng đắc ý, cười lên ha hả. Trương Triệu Trọng nói:

– “Trận này đại tướng quân thắng chắc rồi. Nhưng giả tỉ hai người đó bị giết lầm hay mất tích trong đám loạn quân, hoàng thượng nhất định sẽ trách mắng.”

Triệu Tuệ hỏi:

– “Theo Trương huynh thì phải làm thế nào?”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Ty chức muốn xin lệnh đi bắt hai người này trước. Sau đó quân ta cứ tiếp tục vây chặt để dụ chủ lực quân Hồi đến.”

Triệu Tuệ suy nghĩ một lúc rồi nói:

– “Bây giờ đi ngay thì không chừng bọn Hồi sẽ đoán ra kế hoạch của chúng ta. Trương huynh hãy đợi vài ngày nữa.”

Mãi đến sáng sớm ngày thứ ba, Triệu Tuệ mới phát lệnh tiễn. Trương Triệu Trọng dẫn một trăm quân thiết giáp đi ngay. Vừa đến gần, trong hố cát đã có mười mấy mũi tên bắn ra. Ba tên quân thiết giáp trúng tên vào mặt ngã nhào xuống ngựa, thế tấn công liền chậm lại. Trương Triệu Trọng dẫn đầu quát tháo xung phong chúng lại tiếp tục xông đến.

Từ Thiên Hoằng kinh hãi nói:

– “Quân thiết giáp đã đến đây rồi. Chẳng lẽ ta đoán sai hay sao?”

Vệ Xuân Hoa la lên:

– “Tên gian tặc Trương Triệu Trọng kìa!”

Dư Ngư Đồng nghĩ ngay đến cái chết thê thảm của ân sư. Chàng nổi giận điên cuồng, mắt nảy lửa như muốn nổ tung, cầm kim địch tung người ra khỏi hố cát, chạy thẳng về phía Trương Triệu Trọng, đánh liều mạng không cần chiêu thức.

Trương Triệu Trọng đột nhiên thấy một hòa thượng xấu xí dùng võ thuật bản môn xông vào tấn công tới tấp. Hắn chưa kịp kinh ngạc, thì lại thấy Vệ Xuân Hoa cầm song câu phóng tới, phải vội vàng đưa kiếm cản trở. Võ công của hắn so với hai người này thì cao hơn nhiều, nhưng Vệ Xuân Hoa xưa nay hễ đánh nhau là liều mạng, Dư Ngư Đồng lại càng chán sống, chỉ muốn chết chung với kẻ thù của mình. Người xưa từng nói:

– “Một người liều mạng, vạn người khó địch,” huống chi bây giờ có tới hai người liều mạng. Ba người quây quần nhau mà loạn đả bên hố cát.

Lúc này đã có mấy chục tên quân thiết giáp chạy tới gần. Trần Gia Lạc, Văn Thái Lai, Từ Thiên Hoằng, Chương Tấn, Lạc Băng, Tâm Nghiễn đều nhảy lên trên. Chương Tấn vung cây lang nha bổng đập loạn lên, phát ra những tiếng leng keng. Bọn này mũ áo đều rèn bằng sắt dày nên y không đả thương được chúng, lại suýt bị trường mâu đâm trúng mấy lần.

Lạc Băng, Tâm Nghiễn, Từ Thiên Hoằng chỉ biết cố gắng chống đỡ, không thể nào làm tổn thương kẻ địch. Đơn đao cùa Văn Thái Lai chém vào giáp sắt cũng dội ngược về. Họ Văn bèn quát lên một tiếng, vứt bỏ đơn đao, tay không nhảy xổ vào một tên lính thiết giáp. Hắn vội đưa mâu lên đâm, Văn Thái Lai liền túm lấy đầu mâu, giật mạnh một cái.

Tên lính đó “úi chà” một tiếng, trường mâu đã tuột khỏi tay. Văn Thái Lai không cần xoay mâu lại, sử dụng cán mâu mà đâm vào mặt hắn, xuyên thủng cả sọ. Chàng chưa kịp rút mâu về, bỗng nghe tiếng Lạc Băng kêu lên:

– “Cẩn thận phía sau.”

Văn Thái Lai cảm thấy sau lưng có kình phong thốc tới, lập tức quờ tay trái lại, kẹp được một cây trường mâu khác dưới nách. Chàng vận kình đoạt lấy cây mâu đánh lén sau lưng. Tay phải Văn Thái Lai đưa lên, rút lấy cây mâu đang cắm trong đầu của tên lính Thanh trước mặt, đâm ngược lại trúng vào sống mũi của tên đánh lén sau lưng, mũi mâu xuyên lộ ra sau gáy.

Đội quân thiết giáp này được lệnh bắt sống Trần Gia Lạc và Hương Hương côn chúa, khác hẳn bọn lính bao vây cầm chừng mấy hôm nay. Chúng liều mạng chiến đấu, chém giết thật sự, tuy thấy Văn Thái Lai thần dũng vô song mà vẫn không lùi.

Văn Thái Lai hai tay cầm trường mâu xông vào trận địch, mâu này xuống mâu kia lên, dũng mãnh không ai chống nổi. Chỉ trong chốc lát chín tên lính thiết giáp đã bị trường mâu của chàng đâm vào mặt mà chết.

Trần Gia Lạc không cầm binh khí, cất tiếng gọi:

– “Tâm Nghiễn, Thập ca! Đi theo ta!”

Thấy một tên lính thiết giáp cầm trường mâu đâm tới ngực mình, Trần Gia Lạc hơi nghiêng người một chút cho mâu đâm trượt qua. Chàng vung roi ngựa quấn vào một chân của hắn, rồi giật mạnh cây roi cho hắn nhào từ trên ngựa xuống đất.

Trần Gia Lạc la lên:

– “Tâm Nghiễn! Cởi nón sắt của hắn ra.”

Bọn này mặc giáp sắt rất nặng nề, hễ té xuống thì rất lâu mới đứng dậy được. Tâm Nghiễn lập tức tháo nón sắt của hắn ra, Chương Tấn tiện tay đánh tới một bổng, hắn nát óc chết ngay.

Ba người cứ thế mà lôi xuống ngựa, tháo mũ sắt đập đầu, chỉ trong chốc lát đã đánh chết tám chín tên thiết giáp, bọn còn lại sợ đến vỡ mật. Lại thấy Văn Thái Lai cầm mâu chạy tới, chúng la lên một tiếng rồi lùi lại hết.

Lúc này, Vệ Xuân Hoa và Dư Ngư Đồng đã dần dần không chống nổi Nhu Vân kiếm thuật của Trương Triệu Trọng. Từ Thiên Hoằng bèn xông lên trợ chiến. Trương Triệu Trọng thấy chỉ còn lại một mình, liền đâm veo véo mấy kiếm ép ba người lùi lại hai bước, rồi quay lưng bỏ chạy. Văn Thái Lai xách trường mâu muốn đuổi theo nhưng bọn lính Thanh đã bắn tên rào rào tới.

Lạc Băng bỗng la lên:

– “Các huynh mau mau tới đây!”

Nàng nhảy vào hố cát, mọi người đều nhảy theo. Trong hố cát, Chu Ỷ đầu tóc rối bù, mặt đầy vết máu, cầm đơn đao tả xung hữu đột, tử chiến với bốn tên lính thiết giáp cầm trường đao. May mà trong hố chật hẹp, trường mâu khó mà xoay trở nên nàng mới cầm cự được.

Quần hùng giận dữ, đồng phóng tới. Bốn tên lính thì một bị song đao của Lạc Băng chém chết, một bị song câu của Vệ Xuân Hoa móc ngay vào miệng. Hai tên còn lại thì Văn Thái Lai tay trái nắm lưng một tên, tay phải nắm đầu một tên, tréo lại bẻ gãy xương cổ.

Từ Thiên Hoằng vội chạy tới dìu Chu Ỷ dậy, thấy trên vai và cánh tay của nàng đã bị đao chém phải. Hương Hương công chúa bèn xé vạt áo mình băng bó cho nàng.

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Triệu Tuệ chỉ muốn bao vây chúng ta để dụ người Hồi tới, rồi xuất binh mai phục đánh kẹp vào. Nhất định là tên gian tặc Trương Triệu Trọng nhìn thấy tổng đà chủ nên không nhẫn nại được nữa, chỉ muốn lập công.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Nhất định hắn chẳng chịu thôi, sẽ dẫn binh đánh tiếp.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Thế thì chúng ta phải mau mau đào bẫy để bắt tên gian tặc đó.”

Mọi người vô cùng phấn chấn, theo chỉ dẫn của Từ Thiên Hoằng mà khoét vách hố cát thành một cái hầm nằm dưới mặt tuyết đã kết thành băng. Ở phía trên băng tuyết khá dày, đông cứng dày hơn một thước, hoàn toàn không thấy gì khác lạ.

Đào bẫy xong chưa được bao lâu, quả nhiên Trương Triệu Trọng lại dẫn quân thiết giáp tấn công đến. Hắn đã trót khoe trước mặt Triệu Tuệ, muốn giữ thể diện nên không thèm xin thêm viện binh, chỉ dẫn theo vài chục quân thiết giáp còn lại. Lần này mỗi tên lính cầm thêm một cái thuẫn bài để cản tên của quần hùng.

Trong chốc lát chúng đã xung phong tới chỗ hố cát. Trần Gia Lạc nhảy ra khỏi hố, hét lên:

– “Qua đây đánh một trận, phân biệt thắng thua.”

Trương Triệu Trọng thấy chàng không cầm khí giới liền quăng trường kiếm xuống đất mà nói:

– “Hay lắm! Hôm nay chưa phân thắng bại quyết chẳng chịu thôi.”

Thế là một người thi triển Bách Hoa Tả Quyền, một người thi triển Vô Cực Huyền Không Quyền giao đấu bên hố cát. Sáu người Văn Thái Lai, Từ Thiên Hoằng, Chương Tấn, Vệ Xuân Hoa, Dư Ngư Đồng, Tâm Nghiễn cũng nhảy ra khỏi hố mà lược trận.

Trần Gia Lạc vừa đánh vừa di chuyển bước chân, từ từ tiến vào chỗ hố bẫy. Trương Triệu Trọng chỉ bước thêm hai bước nữa là sập bẫy, không ngờ một tên quân thiết giáp lớ ngớ chạy tới. Hắn vừa đạp chân vào cái bẫy đã kinh hoàng kêu lên, té nhào ngay xuống đó. Sau đó nghe một tiếng kêu thê thảm, hắn đã bị Lạc Băng canh giữ phía dưới dùng dao đâm chết.

Trương Triệu Trọng giật bắn người, thầm la lên:

– “May quá!”

Tay chân hắn bất giác hơi chậm lại. Trần Gia Lạc thấy cạm bẫy đã lộ, bén phóng người tới ôm lấy Trương Triệu Trọng, định đẩy hắn rơi xuống. Hắn đứng vững hai chan trên mặt băng rắn chắc, cố vận sức để đẩy ngược lại, thế là hai người giằng co bên hố cát. Một người muốn giãy ra thoát đi mà không được, một người muốn đẩy đối phương xuống cũng không xong, không ai chịu buông tay.

Hai tên lính thiết giáp lại chạy đến, phóng mâu đâm Trần Gia Lạc. Từ Thiên Hoằng đứng bên liền cúi xuống dùng hai tay đẩy mạnh một cái, xô cả Trần lẫn Trương ngã vào hố cát. Hai cây trường mâu đâm vào mặt tuyết.

Trần Gia Lạc và Trương Triệu Trọng đồng thời buông tay đứng dậy. Lạc Băng dùng đoản đao bên tay phải chém tới Trương Triệu Trọng, nhưng bị hắn sử dụng công phu Không Thủ Đoạt Bạch Nhân xoay tay bắt được tay mình, rồi giật một cái đoạt lấy đoản đao.

Trần Gia Lạc tung người đá tới sau lưng, Trương Triệu Trọng không kịp tấn công Lạc Băng nữa, quay người lại vung đao lên đỡ. Trần Gia Lạc nghiêng người tránh né, đưa hai ngón tay ra điểm vào huyệt Âm Thị trên chân Trương Triệu Trọng. Chân phải Trương Triệu Trọng vừa rút lại, Lạc Băng tức khắc phóng ra ba mũi phi đao. Trong hố cát không đủ chỗ để xoay, thế mà Trương Triệu Trọng vẫn tránh được hết ba mũi phi đao này chỉ cách chừng sợi tóc.

Lạc Băng vội la tên:

– “Tổng đà chủ! Nhận đao.”, rồi ném cây trường đao tới. Trần Gia Lạc chụp lấy cây đao, sử ngay Kim Cương phục hổ đao đánh nhau dữ dội với cây đoản đao trên tay Trương Triệu Trọng.

Võ công của Trần Gia Lạc thiên về tạp nham, binh khí nào cũng sử dụng được, khác với Trương Triệu Trọng chỉ tinh thông kiếm thuật, nên chàng lập tức chiếm ưu thế về binh khí. Mới đánh được mười mấy chiêu mà Trương Triệu Trọng đã liên tiếp gặp nguy hiểm, tay trái phải dùng thêm quyền thuật mới hóa giải được.

Lạc Băng vốn yêu quý đôi uyên ương đao như nhau, nhưng bây giờ nàng lại mong cây trường đao thắng, cây đoản đao bại. Chu Ỷ cầm đao bảo vệ trước mặt Hương Hương công chúa, tai nghe trường đao và đoản đao va chạm liên tục phát ra những tiếng leng keng.

Trương Triệu Trọng đột nhiên quẳng thanh đoản đao ra khỏi hố cát, hô lớn:

– “Ta dùng tay không đón tiếp binh khí của ngươi.”

Hắn tay trái dùng quyền, tay phải dùng chưởng đánh ào ào tới lưỡi đao sáng lòe của Trần Gia Lạc. Trần Gia Lạc bèn gọi Lạc Băng:

– “Đón đao!”

Chàng ném trả thanh trường đao cho nàng, chĩa ngón tay trỏ tay trái về phía huyệt Khúc Trì của địch. Hố cát chỉ rộng chừng một trượng, xoay trở cũng không tiện chứ đừng nói là tránh né. Hai người sử dụng hết tuyệt kỹ bình sinh mà đánh nhau liều chết, sau mấy chục chiêu đã dần dần phân cao thấp. Bách Hoa Tả Quyền của Trần Gia Lạc tuy tinh diệu, nhưng hỏa hầu và nội lực của chàng không sao bì kịp Trương Triệu Trọng, càng về sau lại càng công ít thủ nhiều. Lạc Băng đứng bên lo lắng. Thấy hai người giao đấu tới lúc khẩn trương, nàng muốn trợ giúp mà không sao xen vào được.

Trần Gia Lạc càng đánh càng bị hạ phong. Trương Triệu Trọng phóng chân đã tới, Trần Gia Lạc vừa né sang bên trái thì Trương Triệu Trọng lại vung tả chưởng đánh như cuồng phong bạo vũ. Đột nhiên trên hố cát có một người quát lớn:

– “Đỡ thiết đảm!”

Tả chưởng của Trương Triệu Trọng lập tức thu lại, bảo vệ đỉnh đầu. Quả nhiên có một trái thiết đảm đen sì quẳng từ trên xuống. Trương Triệu Trọng rùng mình nghĩ:

– “Lão già này đã đến đây rồi sao?”

Thiết đảm từ trên cao đánh xuống, lực đạo càng khủng khiếp hơn. Trương Triệu Trọng không dám đón bắt mà cụng không dám tránh né, vội giật lùi lại ba thước, va mạnh vào vách của hố cát. Sau đó nghe “bịch” một tiếng, trái thiết đảm đã đánh vào giữa lòng hố cát, rồi Từ Thiên Hoằng nhân cơ hội tung người nhảy xuống.

Thì ra ngày trước Chu Trọng Anh nhận chàng là nghĩa tử, đã dạy cho chàng công phu Tử Mẫu Thiết Đảm. Sau đó Từ Thiên Hoằng bôn ba khắp chốn, nhưng ngày nào cũng cố gắng dành ít thì giờ để tập luyện tuyệt kỹ xưng bá võ lâm này. Hôm nay lần đầu dùng thử, chàng dựa vào oai phong của nhạc phụ, tuy ra tay chưa trúng nhưng đã bắt Trương Triệu Trọng hoảng sợ rút lui.

Trương Triệu Trọng điểm chân xuống đất vận sức tung lên, toan nhảy ra khỏi hố. Đột nhiên có một chưởng đánh xuống đầu hắn, kình lực dũng mãnh cả đời chưa từng gặp. Hắn vội xoay tay phải ra hóa giải phát chưởng đó, vì thế mà không nhảy ra khỏi hố cát. Hắn vừa rơi xuống vừa thầm kinh hãi:

– “Người này là ai vậy? Công phu của hắn thật sự không dưới ta!”

Chân hắn vừa chấm đất, một người đã xuống theo, thét vang như sấm sét:

– “Gian tặc! Có nhận ra ta không?”

Người này thân hình khôi vĩ, ngực to vai rộng, oai phong lẫm liệt, chính là Bôn Lôi thủ Văn Thái Lai. Vệ Xuân Hoa và mọi người đã đánh lui bọn quân thiết giáp, đứng vây quanh mà xem Văn Thái Lai tỉ đấu Trương Triệu Trọng.

Họ Văn nhớ đến cái nhục bị bắt ở Thiết Đảm trang, rồi bị hành hạ dọc đường, lông mày bèn dựng ngược lên, hai mắt lóe sáng, thét lên một tiếng rồi xuất ngay tuyệt kỹ Bích Lịch chưởng của mình. Chưởng phong của chàng phóng ra nghe tiếng vù vù, nhanh như điện chớp, thế như sấm sét.

So với lúc Trần, Trương ác chiến vừa rồi, trận này còn kịch liệt hơn. Hương Hương công chúa thấy Văn Thái Lai vừa quát như sấm nổ vừa phóng chưởng như sét đánh vào Trương Triệu Trọng, không khỏi hoảng sợ. Trần Gia Lạc thấy mặt nàng lộ vẻ kinh hãi, liền kéo nàng tựa vào vách hố, đứng bên cầm lấy tay nàng rồi mỉm cười trấn an.

Hương Hương công chúa nhìn lên mặt chàng, ra vẻ dò hỏi. Trần Gia Lạc biết nàng muốn hỏi là trận đấu vừa rồi mình mệt hay không, bèn chầm chậm lắc đầu. Hương Hương công chúa vén tay áo lên, lau chùi mồ hôi và đất cát trên mặt cho chàng. Trần Gia Lạc lấy ra ba quân cờ vây, phòng khi Văn Thái Lai gặp nguy thì có thể ra tay ứng cứu. Chàng nắm quân cờ, trong lòng chợt nảy ra ý nghĩ:

– “Trận chiến này thật sự giống như một bàn cờ, chém giết đã hung hiểm mà tình thế càng phức tạp. Ở giữa thì Văn tứ ca và Trương Triệu Trọng dốc toàn lực đánh nhau thí mạng. Chúng ta bao vây bên ngoài hai người đó. Bên ngoài chúng ta lại có vòng vây của lính Thanh. Hoắc Thanh Đồng cô nương lại đang ở bên ngoài vòng vây đó, tìm cách ứng cứu. Bên ngoài của Hoắc Thanh Đồng cô nương còn có đại quân Thanh đang kéo đến bao vây hay không? Cục diện như thế nào, chỉ đi sai một nước cờ là thua ngay lập tức.”

Quần hùng biết Văn Thái Lai đầy lòng oán giận, phen này nhất định phải đích thân ra tay để trả thù, nên họ chỉ đứng bên mà xem, đề phòng Trương Triệu Trọng chạy thoát chứ không ra tay trợ giúp. Ai cũng biết võ công Văn Thái Lai tinh thâm tuyệt diệu, dù không thắng thì cũng chắc chắn không thua.

Một người tấn công mãnh liệt, một người phòng thử vững vàng, giống như những đợt sóng biển vỗ vào tảng đá. Sóng đập hết cơn này tới cơn khác, nhưng tảng đá vẫn đứng vững không rung chuyển. Sau mỗi đợt sóng rút về, tảng đá lại lộ ra mặt nước.

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Người khác ra tay, Tứ ca chắc sẽ không vui. Nhưng nếu Tứ tẩu giúp một tay thì huynh ấy không trách đâu.”

Chàng liền nháy mắt với Lạc Băng một cái. Lạc Băng hiểu ý, muốn phóng phi đao tương trợ. Nhưng hai đối thủ đứng gần nhau quá, nàng sợ lỡ tay đả thương chồng mình, bèn cất tiếng gọi:

– “Tổng đà chủ ra tay nhanh lên, thuộc hạ không xong rồi.”

Trần Gia Lạc đang đợi nàng nói câu này. Nghe tiếng “soạt, soạt”, ba quân cờ phóng ngay tới yếu huyệt của Trương Triệu Trọng. Họ Trương phải dừng tay tránh né. Văn Thái Lai thừa thế tấn công. Rõ ràng chàng sắp đắc thủ thì bỗng nghe thấy bên trên có tiếng la hét ầm trời, tiếng vó ngựa phi tới, tiếng đao thương va chạm liên tục. Một người chạy đến gần hố kêu lớn:

– “Trần công tử, Kha Tư Lệ! Hai người đang ở đâu?”

Hương Hương công chúa vội la lên:

– “Gia gia! Chúng con ở đây.”

Trần Gia Lạc hô lớn:

– “Cứu binh đến rồi! Mọi người cùng xông lên giết tên gian tặc này trước đã.”

Mọi người đồng thời cầm binh khí xông vào. Trương Triệu Trọng bỗng múa song chưởng nhanh như gió, bất ngờ đánh tới Hương Hương công chúa. Quần hùng kinh hãi, không hẹn mà cùng nhảy tới cứu viện.

Không ngờ chiêu này của Trương Triệu Trọng chỉ là dương đông kích tây. Hắn vội nép vào thành hố, vốc một nắm cát quăng ra. Nhân lúc trong hố cát bụi mùi mịt, ai cũng nhìn không rõ, hắn nhảy được lên khỏi hố cát. Trương Triệu Trọng “hự” lên một tiếng, mông đã trúng một viên thiết đảm của Từ Thiên Hoằng, nhưng rốt cuộc cũng chạy thoát. Quần hùng đều nhảy lên truy kích.

Mộc Trác Luân múa tít trường đao, cưỡi ngựa xung phong đi đầu, quân Hồi bám sát theo sau. Quân Thanh la hét cản trở, Trương Triệu Trọng lùi vào đám đông, lạng người mấy cái rồi không thấy bóng dáng đâu nữa. Văn Thái Lai đoạt lấy một cây trường đao, nhảy lên con ngựa trắng toan xông vào giữa trận địch mà đuổi nhưng bị Lạc Băng đưa tay kéo lại.

Đội Hắc Kỳ của Mộc Trác Luân chỉ toàn những người già yếu, nhưng ai cũng hăm hở hăng hái, giương thuẫn bài tiến theo chủ soái. Hương Hương công chúa thấy phụ thân đang chạy tới, mặt mũi râu tóc vấy đầy máu tươi, lập tức nhảy vào lòng ông mà gọi:

– “Gia gia!”

Mộc Trác Luân ôm lấy nàng, vỗ vỗ vào lưng dỗ dành:

– “Con ngoan, đừng sợ! Gia gia đến cứu con đây.”

Từ Thiên Hoằng nhảy lên lưng ngựa đứng quan sát tình hình, thấy ở hướng Đông có bụi nổi lên. Mặt đất đầy băng tuyết thế này mà nổi bụi lên, chắc chắn là đội quân thiết giáp đang kéo tới. Chàng vội kêu lên:

– “Mộc lão anh hùng! Chúng ta mau mau chạy về vùng đất cao ở phía tây.”

Từ lúc đoạt lại thánh kinh, Mộc Trác Luân đã biết họ Từ lắm mưu nhiều trí, bèn lập tức ra lệnh chạy về hương tây. Quân Thanh đuổi theo được một hồi, ở phía tây lại có một đội Thanh binh xung phong tới. Thế là đội quân của người Hồi bị kẹp vào chính giữa. Mộc Trác Luân và Văn Thái Lai hai ngựa song song, định xông đột trủng vây, nhưng bị một trận mưa tên của quân Thanh bắn tới nên phải thối lui.

Mộc Trác Luân thầm nghĩ:

– “Thanh nhi quả nhiên nói đúng! Ta vừa trách lầm nó, nhất định nó đang rất thương tâm. Ôi! Phen này dữ nhiều lành ít.”

Ông chỉ còn cách thống lĩnh mọi người chạy lên một đồi cát lớn, đợi cơ hội để thoát khỏi vòng vây. Người Hồi đứng trên cao đánh xuống, bọn lính Thanh nhất thời không có cách nào xung phong lên được.

* * *

Hoắc Thanh Đồng dẫn đội quân của mình tới hạ trại ở cách trận địch chừng mười dặm. Khoảng giữa trưa hôm ấy, đội trưởng các đội cùng phi ngựa về báo là đã bố trí xong xuôi theo lệnh.

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Hay lắm! Thật đã làm phiền các vị.”

Sau đó nàng lại lấy lệnh tiễn ra, hạ lệnh:

– “Đội trưởng đội hai Thanh Kỳ! Huynh thống lĩnh hai trăm huynh đệ, cố thủ ở bờ nam sông Hắc Thủy, không được để Thanh binh qua sông. Không cần liều mạng đánh nhau, nhưng với chúng, chỉ cần cố thủ một thời gian ngắn, nhưng nếu để một tên Thanh binh vượt qua sông thì huynh đừng về gặp ta nữa.”

Người đội trưởng đó liền nhận lệnh đi bố trí. Hoắc Thanh Đồng lại nói:

– “Đội trưởng đội một Bạch Kỳ! Huynh thống lĩnh nhân mã đội hình, dụ cho Thanh binh đuổi theo về hướng Tây. Dọc đường có thể ứng chiến nhưng chỉ được thua không thắng, cố chạy vào đại mạc càng xa càng tốt.”

Đội trưởng đó từ trước nay vốn can trường hiếu thắng, bèn nói:

– “Người Hồi chúng ta chỉ biết cách đánh thắng, không biết cách đánh thua.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Đây là mệnh lệnh. Người còn phải mang theo bốn ngàn bò dê, thả ra dọc đường để dụ chúng đuổi bắt.”

Hắn lại cãi:

– “Sao phải đem thú vật mình nuôi tặng cho người khác? Việc này ta không biết làm.”

Hoắc Thanh Đồng mím miệng thật chặt, lát sau mới hỏi:

– “Người có nghe lệnh hay không?”

Hắn đưa đao lên quát lớn:

– “Cô ra lệnh cho chúng ta đánh thắng thì ta nghe. Còn cô ra lệnh cho chúng ta đánh thua thì dù chết ta cũng không phục.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Ta đang chỉ huy các ngươi đánh thắng. Phải giả thua trước rồi sẽ phản công.”

Hắn tức tối đỏ mặt la lên:

– “Ngay cả gia gia của cô cũng không tin chuyện quỷ đó, thì làm sao cô gạt được ta? Cô tưởng mọi người không biết cô đang nghĩ gì hay sao? Cô bảo chúng ta thua chạy tán loạ, buông bỏ vật nuôi, chính vì không muốn cứu Hương Hương công chúa.”

Hoắc Thanh Đồng hét lên:

– “Bắt hắn lại.”

Bốn tên thân binh chạy đến, nắm chặt hai cánh tay của người đội trưởng kỵ binh. Hắn không chống đỡ gì, đứng yên cười nhạt. Hoắc Thanh Đồng lớn tiếng hô:

– “Quân Mãn Châu đang hiếp đáp chúng ta, toàn quân phải một lòng mới thắng nổi chúng. Cuối cùng thì ngươi có nghe lệnh ta hay không?”

Hắn quát trả:

– “Không nghe! Cô dám làm gì với ta nào?”

Hoắc Thanh Đồng nghiêm giọng nói:

– “Lôi hắn ra chém đầu.”

Người đội trưởng đó tự phụ mình là thiện chiến, vẫn tưởng Hoắc Thanh Đồng không dám làm gì. Khi nghe thấy câu này hắn mới đổi thái độ, sắc mặt xám như tro tàn. Đám thân binh kéo hắn ra ngoài, chém một đao đứt cổ. Hoắc Thanh Đồng hạ lệnh bêu đầu thị chúng, toàn quân không ai không toát mồ hôi.

Hoắc Thanh Đồng hạ lệnh cho đội phó đội một Bạch Kỳ lên làm đội trưởng, dẫn quân chạy về hướng sa mạc, khi thấy phía đông có khói phân chó sói bay lên mới vòng ngược trở về. Y lập tức nhận lệnh đi bố trí. Hoắc Thanh Đồng lại hạ lệnh cho tất cả các đội còn lại tập trung về khu đầm lầy ở phía đông.

Phát lệnh xong xuôi, một mình nàng phi ngựa về hướng tây, quì xuống đất nước mắt đầm đìa, khe khẽ cầu nguyện:

– “Chân thánh A-la vạn năng! Cầu mong thánh đạo của người đắc thắng, đánh bại quân địch đang xâm lược chúng ta. Bây giờ gia gia không tin con, ca ca không tin con, ngay cả bộ hạ của con cũng không tin con. Vì muốn họ nghe lệnh mà con buộc phải giết người. Thánh A-la vạn năng! Cầu xin người phù hộ cho chúng con được thắng để gia gia và muội muội bình yên trở về. Nếu họ phải chết, cầu xin người để con chết thay cho họ. Cầu xin người cho Trần công tử và muội muội vĩnh viễn yêu thương nhau, vĩnh viễn hạnh phúc bên nhau. Nhất định người yêu thương muội muội đặc biệt hơn người khác, nên mới tạo ra muội muội xinh đẹp như thế. Mong người hãy yêu thương muội muội cho đến cùng.”

Sau khi cầu nguyện, nàng lên ngựa quay về, tuốt kiếm hô lên:

– “Đội một, đội hai Hắc Kỳ đi theo ta. Các đội còn lại chia nhau phòng thủ khắp nơi.”

* * *

Nhắc lại Mộc Trác Luân và Trần Gia Lạc cố thủ trên đồi cát, quân Thanh đã xung phong hai lần đều bị người Hồi anh dũng đẩy lùi. Xung quanh đồi cát thi thể đã dồn thành đống, hai bên đều tổn thất nặng nề.

Hết giờ ngọ, đột nhiên Thanh binh nhốn nháo, một đội kỵ quân đang tấn công tới. Dưới lá cờ có hình trăng lưỡi liềm là một cô gái mặc áo vàng, tay cầm trường kiếm, trên đầu có một cọng lông vũ màu xanh bích hơi rung động. Đó chính là Hoắc Thanh Đồng.

Mộc Trác Luân hô lớn:

– “Xung phong.”

Ông dẫn đầu quân Hồi chạy ào xuống dưới, hai mặt giáp công. Bọn lính Thanh cản không nổi, ba đội Hắc Kỳ hợp lại thành một. Hương Hương công chúa chạy vội tới, ôm chầm lấy tỷ tỷ. Hoắc Thanh Đồng vừa nắm tay muội muội vừa hạ lệnh:

– “Đội trưởng đội ba Hắc Kỳ! Huynh dẫn đội mình chạy về hướng tây, hợp với đội một Bạch Kỳ rồi nghe lệnh của đội trưởng đội một Bạch Kỳ.”

Đội trưởng nhận lệnh, dẫn quân đi ngay. Đội này cưỡi toàn ngựa đuợc tuyển chọn kỹ lưỡng. Xa xa nhìn thấy cờ đỏ phấp phới, thì ra quân tinh nhuệ cờ đỏ của Thanh binh đã đuổi theo họ.

Hoắc Thanh Đồng cả mừng nói:

– “Tuyệt diệu! Đội trưởng đội một Hắc Kỳ, huynh lui vào trong thành Diệp Nhĩ Khương, nghe lệnh ca ca ta. Đội trưởng đội hai Hắc Kỳ, huynh lùi về bờ nam sông Hắc Thủy gặp đội trưởng đội hai Thanh Kỳ rồi nghe lệnh của huynh ấy.”

Hai đội Hắc Kỳ lại xông ra khỏi vòng vây. Đội cờ trắng và đội cờ viền vàng của quân Thanh liền chia hai đường đuổi theo. Hoắc Thanh Đồng hô lớn:

– “Mọi người chạy về hướng đông.”

Ba trăm thân binh cầm trường đao hộ vệ chủ soái lập tức mở đường. Mộc Trác Luân, Hương Hương công chúa cùng với mọi người Trần Gia Lạc chạy về hướng đông, theo sau là nhân mã của đội bốn Hắc Kỳ.

Triệu Tuệ đích thân dẫn đội quân thiết giáp bao vây từ hai phía. Hai cánh quân tả hữu đều là tinh binh cờ lam của Mãn Châu, ai cũng cầm thương dài kích lớn dũng mãnh đuổi theo. Bên Hồi chỉ có mấy trăm người đoạn hậu, vừa đánh vừa lùi. Chỉ chớp nhoáng là mấy trăm quân này bị Thanh binh vây chặt rồi giết sạch.

Triệu Tuệ vô cùng mừng rỡ, chỉ lá cờ trăng lưỡi liềm ở cạnh Hoắc Thanh Đồng mà nói:

– “Ai đoạt được lá đại kỳ đó, ta thưởng ngay một trăm lạng.”

Đội thiết giáp liền tranh nhau mà truy đuổi điên cuồng trong vùng đại mạc. Nhưng ngựa của đội bốn Hắc Kỳ đều được tuyển chọn đặc biệt, còn đội quân thiết giáp nặng nề, ngựa đi chậm rãi không sao đuổi kịp ngay.

Chạy được ba bốn chục dặm thì số ngựa bên quân Hồi bị đuối sức lùi lại phía sau. Mấy chục chiến sĩ cố gắng chống trả đến cùng, nhưng chỉ nháy mắt là bị quân Thanh giết chết.

Triệu Tuệ thấy quân Hồi bị giết toàn là người già con nít, cả mừng nói:

– “Thì ra bọn chúng không còn tinh binh nữa.”

Thanh binh lại càng cố gắng đuổi theo. Đuổi được bảy tám dặm thì đội ngũ người Hồi càng lúc càng tán loạn, nhưng vẫn thấy lá đại kỳ hình trăng lưỡi liềm bay phấp phới trên một đồi cát lớn. Triệu Tuệ cưỡi ngựa tốt, cầm đại đao hướng dẫn toàn quân xông tới, có bọn thân binh hộ vệ trước sau. Hoắc Thanh Đồng thấy đại quân Thanh đã đuổi tới nơi, liền ruổi ngựa chạy xuống đồi cát này.

Triệu Tuệ đứng trên đồi cát nhìn xuống dưới, lập tức kinh hoảng đến độ hồn phi phách tán, như vừa rơi vào một cái hố băng. Hắn nhìn thấy ở phía nam vô số chiến sĩ người Hồi đã dàn trận chỉnh tề, hoàn toàn không phát ra tiếng động. Nhìn xa xa chỉ thấy những lá cờ màu xanh mọc như rừng rậm, những chiếc thuẫn hình tròn vây quanh như những đám mây.

Hai tay Triệu Tuệ chợt bủn rủn, đại đao rơi xuống đất. Hắn rùng mình một cái, thầm nghĩ:

– “Bọn Hồi thật là gian xảo! Thì ra đại đội nhân mã của chúng đã tập trung ở đây.”

Nhìn về hướng bắc, thấy một đám cờ trắng đang tung bay phấp phới, lại một số rất đông quân Hồi đang từ từ ép tới. Hắn không còn thời gian suy nghĩ nữa, vội vã hô lên:

– “Quay lại! Hậu đội đổi thành tiền đội, lùi nhanh lên.”

Nghe thanh âm của chủ tướng đầy vẻ hoảng hốt, quân Thanh lập tức đại loạn. Tên của quân Hồi bắt đầu bắn tới như châu chấu. Quân Thanh vốn đông gấp mấy quân Hồi, nhưng chia thành nhiều nhóm nhỏ đuổi theo, đến đây chỉ còn khoảng một vạn quân thiết giáp. Còn chủ lực của quân Hồi đều tập trung ở đây, mạnh yếu chênh lệch rất rõ.

Phía tây lại có hai đội người Hồi xung phong tới. Triệu Tuệ thấy phía tây, phía nam và phía bắc đều có quân địch, chỉ còn hở phía đông, bèn truyền lệnh:

– “Toàn quân chạy về phía đông!”

Hắn đích thân chỉ huy thân binh đoạn hậu. Quân Hồi từ ba phía dần dần ép đến gần. Đại quân Thanh đang hỗn loạn chạy về phía đông, đột nhiên đội quân thiết giáp đi đầu la hét om sòm. Một tên kỵ binh chạy vội đến trước mặt Triệu Tuệ mà bẩm báo:

– “Tướng quân, không xong rồi! Phía trước là một bãi lầy.”

Triệu Tuệ thấy cả ngàn kỵ mã thiết giáp của mình lăn lộn trong sình lầy, từ từ lún xuống mặt đất nhão nhoẹt. Thì ra trong sa mạc có những dòng sông không thể tìm ra biển cả, tụ lại mà hình thành những cái hố, rồi dần dần khô cạn đi trở thành sình lầy. Khu đầm lầy lớn này chu vi khoảng mười mấy dặm, bùn sình sâu hơn mười trượng, chỉ có loài bò sát sinh sống chứ người và dã thú không đến được. Bây giờ tuyết đã rơi lấp lên, trên mặt đầm lầy hoàn toàn không có dấu vết gì. Không phải là người sống ở nơi này thì không thể biết dưới mặt tuyết là cạm bẫy chết người. Hoắc Thanh Đồng cho quân mai phục sẵn, Triệu Tuệ vì ham thắng mà nhắm mắt đuổi theo, tự mình dẫn quân vào nơi tuyệt địa.

Trần Gia Lạc cùng mọi người đứng trên đồi cát quan sát trận chiến, thấy quân Thanh rơi vào bãi lầy mỗi lúc một nhiều. Quân mã phía sau cũng muốn chạy ra phía ngoài, nhưng người Hồi đã đào trước những con hào sâu, ngựa khó mà vượt qua được.

Quân thiết giáp bị ép từ ba phía, giẫm đạp lên nhau. Chúng không tự chủ được, từng tên một bị đẩy lọt xuống vũng lầy, giáp sắt nặng nề nên lún xuống càng nhanh chóng. Đất bùn từ dưới chân dâng dần lên đầu gối, rồi tới eo lưng. Vô số quân Thanh ngập nửa người trong bãi lầy, kêu la như điên như dại, đến khi đất bùn ập vào miệng thì tiếng thét mới dừng. Sau đó chỉ còn trông thấy hai cánh tay quơ quào một lúc, rồi hoàn toàn biến mất dưới bãi lầy.

Hơn một vạn chiến sĩ người Hồi tay trái cầm thuẫn tay phải cầm đao, đao quang lẫn trong màu tuyết trắng, hoàn toàn không lên tiếng, tập trung chốt chặn bên ngoài hào. Còn hai đội tinh binh thì không ngừng tấn công mãnh liệt vào đội quân thiết giáp.

Quân Thanh càng lúc càng ít. Không đầy nửa giờ, hơn một vạn tinh binh thiết giáp cờ lam đã bị ép hết xuống đầm lầy. Triệu Tuệ chỉ còn hơn trăm thân binh liều chết bảo vệ, mở một con đường máu chạy thoát ra ngoài. Nhìn thấy vô số người ngựa không sao đếm xuể đang giãy giụa giữa vùng lầy, Hương Hương công chúa đột nhiên mặt bật khóc. Nàng cố tự kiềm chế, rồi quay mặt đi không dám nhìn nữa.

Mộc Trác Luân mừng rỡ hóa cuồng, lớn tiếng cười vang. Nhưng ông chợt im bặt, rồi nói với Hoắc Thanh Đồng:

– “Thanh nhi! Vừa rồi ta đã lỡ lời, con đừng trách. Gia gia tính tình nóng nảy, thật là có lỗi.”

Hoắc Thanh Đồng mím chặt môi, không đáp. Tâm Nghiễn cũng quì dưới đất, dập đầu mấy cái rồi nói:

– “Tiểu nhân đáng chết, không biết cô nương thần cơ diệu toán nên buông lời mạo phạm. Cô nương là bậc đại nhân, chắc sẽ tha thứ cho tiểu nhân…”

Nói chưa xong, Hoắc Thanh Đồng đã giật cương cho ngựa chạy xuống đồi cát, bỏ mặc Tâm Nghiễn quì bất động ở đó. Chương Tấn mỉm cười nói:

– “Thôi đi! Lát nữa tổng đà chủ xin lỗi là được rồi.”

Y vung tay múa chân cười ha hả rồi nói:

– “Ta nghĩ mãi vẫn chưa hiểu, tại sao cô ấy lại không dụ hết toàn bộ quân Thanh vào vũng sình lầy đó?”

Từ Thiên Hoằng cười đáp:

– “Tại đây quân Hồi nhiều hơn quân Thanh, nên mới ép chúng vào được đầm lầy. Nếu dồn hết toàn bộ quân lính Thanh, bọn chúng xung phong ngược lại thì làm sao mà cản nổi?”

Chương Tấn gật đầu nói:

– “Không sai! Vừa rồi mọi người đều trách lầm cô ấy cả.”

Lúc này phần lớn quân Thanh đã biến trong sình lầy không còn vết tích, chỉ còn một số nhân mã mới lún đến nửa người, vẫn còn vẫy tay kêu la được. Không gian đầy những tiếng gào thê thảm, rồi một lát sau từ từ im lặng trở lại.

Mấy vạn quân thiết giáp đã bị vũng lầy này nuốt sạch. Người ngựa, đao thương, giáp sắt không thấy đâu nữa, chỉ còn mấy trăm lá cờ nổi trên mặt đất sình.

Hoắc Thanh Đồng lớn tiếng truyền lệnh:

– “Toàn quân hướng về phía tây, tập hợp ở bờ nam sông Hắc Thủy.”

Các đội quân Hồi tộc đều tuân lệnh chạy về phía tây.

Dọc đường Trần Gia Lạc kể lại những chuyện đã qua, trong lòng Mộc Trác Luân không sao yên được. Ông thương yêu nhất là hai cô con gái, bây giờ cả hai cùng yêu thanh niên người Hán này. Theo luật của người Hồi thì một nam nhân có thể cưới bốn vợ, nhưng Trần Gia Lạc lại không phải là giáo đồ Hồi giáo. Nghe nói người Hán chỉ được cưới một vợ, nữ nhân từ thứ hai trở đi không thể gọi là chính thức.

Việc này thật không biết phải tính sao. Ông đành tạm thời gác lại, đợi đến khi đánh bại quân Thanh rồi suy nghĩ tiếp. Thanh Đồng thông minh lanh lợi, Kha Tư Lệ dịu dàng chất phác, hai chị em lại rất thương nhau, chắc chắn sẽ có cách giải quyết.

Đến xế chiều, mọi người mới tới bờ nam sông Hắc Thủy. Một kỵ binh thở hổn hển chạy đến báo cáo:

– “Quân Thanh tấn công mãnh liệt. Đội trưởng đội hai Thanh Kỳ đã tử vong, đội trưởng đội hai Hắc Kỳ bị trọng thương. Huynh đệ hai đội thương vong rất nặng.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Bảo đội phó đội hai Thanh Kỳ đốc chiến, không được lùi một bước.”

Người kỵ binh đó nhận lệnh đi ngay. Mộc Trác Luân nói:

– “Chúng ta xông lên tiếp ứng đi.”

Hoắc Thanh Đồng đáp gọn:

– “Không!”

Nàng quay lại bảo đám thân binh:

– “Toàn bộ quân sĩ ngồi nghỉ ngay tại chỗ. Không được đốt lửa, không được lên tiếng, lấy lương khô ra ăn.”

Mấy vạn người im lặng nghỉ ngơi trong bóng tối. Xa xa vọng tới tiếng dòng Hắc Thủy chảy ào ào, và tiếng con người chém giết lẫn nhau. Một tên kỵ binh gấp rút chạy tới báo cáo:

– “Đội phó đội hai Thanh Kỳ đã trận vong. Phe ta không chống nổi nữa.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Đội trưởng đội ba Thanh Kỳ! Huynh dẫn đội mình đi tăng viện. Các huynh đệ ở đó giao cho huynh chỉ huy.”

Đội trưởng đó giơ trường đao lên, lớn tiếng nhận lệnh rồi lập tức dẫn đội mình đi cứu viện. Chương Tấn la lớn:

– “Hoắc Thanh Đồng cô nương! Ta cũng xông lên chém giết, có được không?”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Vừa rồi các vị mệt mỏi lắm rồi, nghỉ ngơi một lát đã.”

Chương Tấn thấy nàng chỉ huy đại quân oai phong lẫm liệt, không dám nói nữa. Đội ba Thanh Kỳ xuất phát chưa được bao lâu đã nghe những tiếng la hét dữ dội, đương nhiên là hai bên đã giáp chiến ác liệt. Một lát sau, Hoắc Thanh Đồng thấy tinh thần chiến sĩ đã phục hồi bèn lên tiếng:

– “Các đội Thanh Kỳ mai phục sau dải đất cao này. Đội Bạch Kỳ, đội Kha Tác Khắc, đội Mông Cổ đi về phía tây mai phục.”

Nàng vẫy trường kiếm mà nói:

– “Mọi người còn lại theo ta!”

Thân binh đi đầu, mọi người xung phong lên phía trước. Càng tiến tới gần, tiếng reo hò chém giết càng dữ dội. Chạy gần tới nơi, nghe cả tiếng vũ khí chạm nhau chan chát. Quân Hồi đang liều mạng canh giữ, cây cầu gỗ bắc qua dòng sông Hắc Thủy, bọn Thanh binh cờ viền vàng đang liều mạng xông lên chiếm lấy cây cầu.

Hoắc Thanh Đồng hô lớn:

– “Lùi lại!”

Quân Hồi giữ cầu lập tức lùi ra, cả ngàn lính thiếp giáp xung phong tới. Đợi quân Thanh qua cầu được một nửa, Hoắc Thanh Đồng la lên:

– “Kéo gãy cầu.”

Người Hồi đã giấu sẵn mấy trăm con ngựa hai bên dòng sông, những cây trụ cầu đã được tháo lỏng từ trước rồi dùng dây thừng buộc vào ngựa. Nghe tiếng hạ lệnh, họ vừa giật cương vừa dùng roi quất, mấy trăm con ngựa lập tức cất vó tiến về phía trước.

Nghe răng rắc mấy tiếng, những cây trụ cầu bị kéo rời ra, cầu gỗ gãy lìa. Mấy trăm quân thiết giáp trên cầu bị rơi xuống dòng sông. Quân Thanh bị chia làm hai đoạn đứng cách con sông, nhìn thấy nhau mà không thể cứu viện cho nhau được.

Lệnh kỳ của Hoắc Thanh Đồng vẫy xuống, quân mai phục ở hai bên đều xông lên chém giết. Bọn lính Thanh được huấn luyện kỹ lưỡng, trong lúc hỗn loạn mà chúng vẫn nghe lệnh của chỉ huy, tập hợp vào một chỗ sắp thành trận thế.

Quân Hồi chạy đến cách trận của quân Thanh vài trăm bước, đội nhiên dừng lại. Hoắc Thanh Đồng lại vẫy lệnh kỳ một cái, lập tức nghe tiếng “rầm rầm” liên hồi không dứt, nổ điếc cả tai, khói đen bay mù mịt. Thì ra dưới chân quân Thanh đã chôn sẵn thuốc nổ. Thuốc nổ vừa đốt lên, máu thịt bắn vãi ra loạn xạ. Đội ngũ quân Thanh rối loạn hẳn lên, đối diện lại có loạn tiễn bắn tới, không còn chỗ nào mà chạy trốn.

Mấy trăm tên hoảng quá, nhảy bừa xuống sông. Nhưng chúng mặc giáp sắt nặng nề, xuống nước là lập tức chìm xuống đáy. Số còn lại hoảng loạn không còn đội ngũ gì nữa, chỉ chốc lát là bị đại quân Hồi diệt sạch. Trên dòng sông vốn chỉ trắng xóa những tảng băng, bây giờ nổi lều bều những lá cờ. Một nửa quân Thanh còn lại ở bờ đối diện cũng sợ đến vỡ gan vỡ mật, chạy ngay về phía thành Diệp Nhĩ Khương.

Hoắc Thanh Đồng hô lớn:

– “Vượt sông truy kích!”

Quân Hồi lập tức bắc cây cầu gỗ đã chuẩn bị sẵn, đại quân đuổi tới thành Diệp Nhĩ Khương. Dân cư trong thành Diệp Nhĩ Khương đã được sơ tán, để lại tòa thành trống rỗng. Khi thấy đội quân Thanh cờ trắng tấn công tới, Hoắc A Y đã theo lời dặn của muội muội mà chống đỡ qua loa, sau đó dẫn quân rút lui.

Đội quân Thanh cờ vàng từ sông Hắc Thủy lùi về, hội quân trong thành để nghỉ ngơi chốc lát. Lúc này chủ soái Triệu Tuệ cũng đã dẫn hơn trăm tàn binh chạy về tới đây. Hắn thấy đội tinh binh cờ vàng cũng đại bại, vừa kinh hãi vừa giận dữ vô cùng.

Đột nhiên có bộ hạ đến bẩm báo:

– “Mấy trăm quan binh uống nước giếng trong thành này đã bị trúng độc mà chết.”

Triệu Tuệ bèn phái binh lính ra ngoài thành lấy nước. Chỉ trong chốc lát lại thấy bầu trời đỏ rực, trong thành chỗ nào cũng có ánh lửa. Thân binh liên tiếp chạy tới cấp báo:

– “Cả tòa thành đã bốc cháy!”

Thì ra trong vùng Hồi Cương có không ít giếng dầu rất dễ đào. Khi dân chúng rời khỏi thành, Hoắc Thanh Đồng đã hạ lệnh tồn trữ dầu tại đó. Bây giờ quân mai phục phóng hỏa, nơi đây trở thành một lò lửa cháy hừng hực.

Triệu Tuệ được thân binh bảo vệ, cố gắng xông ra khỏi chảo lửa mà giữ mạng. Trong thành quân Thanh chà đạp lẫn nhau, múa đao chém nhau để cướp một con đường máu chạy về phía cửa tây. Không ngờ quân thiết giáp từ phía đội diện chạy tới, nói là cửa thành đã bị người Hồi chặn lại, không thể xông ra ngoài được.

Lúc này thế lửa càng mãnh liệt hơn. Giáp sắt nóng bỏng, sát vào người không sao chịu nổi, bọn lính Thanh dần dần trút hết áo giáo, chạy lung tung. Hàng vạn nhân mã trong thành Diệp Nhĩ Khương vừa đạp lên nhau vừa la hét ầm trời.

Trong lúc hỗn loạn, bỗng có một đội kỵ binh chạy tới hô lớn:

– “Đại tướng quân ở đâu?”

Thân binh của Triệu Tuệ vội la lên:

– “Ở đây!”

Một người phi tới nhanh như gió, chính là tên sứ giả Hòa Nhĩ Đại. Hắn vội gọi Triệu Tuệ:

– “Phía cửa đông ít địch, chúng ta mau mau chạy tới đó.”

Triệu Tuệ lâm nguy nhưng vẫn trấn tĩnh được, thống lĩnh số tướng sĩ còn lại đột kích về phía cửa đông. Người Hồi bắn tới hàng ngàn hàng vạn mũi tên, quân Thanh đã cởi bỏ áo giáp nên chết mất khá nhiều, mấy lần xung phong ra ngoài nhưng không được.

Thế lửa trong thành càng lúc càng mãnh liệt, đã có mấy ngàn quân Thanh bị thiêu sống. Trong bụi khói bây giờ có thêm mùi thịt nướng nghe mà lợm giọng. Toàn thành đầy những tiếng la khóc ỏm tỏi. Trong lúc nguy cấp, Trương Triệu Trọng từ đâu cầm trường kiếm chạy tới, dẫn một đội thân binh liều mạng đánh ra, cứu được Triệu Tuệ ra ngoài.

Hoắc Thanh Đồng đứng trên gò cao cũng nhìn thấy hắn. Mộc Trác Luân kêu lên:

– “Đáng tiếc! Đáng tiếc!”

Hoắc Thanh Đồng gọi:

– “Đội trưởng đội bốn Thanh Kỳ! Huynh thống lĩnh bản đội đi tăng viện, bao vây cửa đông.”

Người đội trưởng bèn dẫn quân đi ngay.

Triệu Tuệ đã thoát ra ngoài, quân Thanh bên trong không còn ai chỉ huy nữa, mà bốn cửa thành đều bị trọng binh người Hồi giữ chặt. Chúng chạy đông chạy tây một hồi, rốt cuộc cũng bị thiêu chết trong biển lửa.

Hoắc Thanh Đồng hô lớn:

– “Đốt lang yên!”

Thân binh liền đốt một đống phân sói đã đã chuẩn bị sẵn, khói đen bay thẳng lên trời như một cây cột đen khổng lồ. Phân của loài sói có khói đậm đặc nhất, xa mấy chục dặm vẫn có thể nhìn thấy.

Chu Ỷ hỏi Từ Thiên Hoằng:

– “Đốt thứ này để làm chi vậy?”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Để liên lạc với người ở xa.”

Quả nhiên không bao lâu, cách hai mươi dặm về phía tây có một luồng khói đen tương tự bay lên. Từ Thiên Hoằng nói:

– “Người ở phía tây nhìn thấy làn khói này, lập tức đốt phân sói lên, cứ thế mà truyền đi, trong chốc lát có thể truyền tín hiệu ra xa mấy trăm dặm.”

Chu Ỷ gật đầu nói:

– “Phương pháp này hay quá.”

Người Hồi thắng liền ba trận, tiêu diệt ba vạn tinh binh của nhà Thanh. Hàng ngàn hàng vạn chiến sĩ ôm nhau vui vẻ, ca múa ngoài thành Diệp Nhĩ Khương. Hoắc Thanh Đồng tập hợp các đội trưởng, hạ lệnh:

– “Nhân mã các đội đến địa điểm đã định mà dựng trại. Tối nay mỗi người lính phải đốt mười đống lửa, càng cách xa nhau càng tốt.”

* * *

Lúc đó đô thống Đức Ngạn đang chỉ huy đội tinh binh cờ đỏ đông tới vạn người rượt theo đội ba Hắc Kỳ của quân Hồi. Ngựa của đội Hắc Kỳ đề là tuấn mã được đặc biệt tuyển chọn, tung vó chạy thẳng vào giữa sa mạc. Đức Ngạn được lệnh của Triệu Tuệ đuổi theo binh mã quân Hồi để tiêu diệt sạch nên cứ thế mà đuổi sát sau lưng.

Hai đội kỵ binh đuổi nhau trong vùng sa mạc làm bụi bặm tốc cuồn cuộn lên trời, tiếng vó ngựa rền như sấm sét. Chạy được mấy chục dặm, đột nhiên phía trước có hàng ngàn bò dê chạy lộn xộn. Bọn lính Thanh mừng rỡ, kéo nhau ra bắt để dành ăn, nên truy đuổi chậm hẳn lại.

Không bao lâu đội ba Hắc Kỳ đã hội quân với đội một Bạch Kỳ, tiếp tục tháo chạy, quyết không dàn trận đánh nhau với quân Thanh. Mãi đến xế chiều, nhìn thấy cột khói đen nổi lên ở hướng đông, đội trưởng đội một Bạch Kỳ mới la lên:

– “Thúy Vũ Hoàng Sam thắng trận rồi! Chúng ta lập tức quay về hướng đông.”

Chiến sĩ Hồi tộc tinh thần phấn chấn hẳn lên, liền cho ngựa quay đầu lại. Quân Thanh hết sức kinh ngạc, định xung phong lên chém giết. Nào ngờ quân Hồi không nghênh chiến mà chạy vòng ra xa để quay về.

Ðức Ngạn hô lớn:

– “Giả tỉ bọn chúng chạy đến chân trời, chúng ta cũng phải đuổi đến chân trời mới chịu thôi.”

Thế là hai đội quân lại đuổi nhau suốt một đêm về hướng đông. Ðô thống Ðức Ngạn quyết chí lập công, dẫn thiết giáp quân cờ đỏ của nhà Thanh truy đuổi không ngừng. Dọc đường rất nhiều con ngựa kiệt sức té ngã, hắn hạ lệnh cho tên lính nào không có ngựa phải chạy bộ theo sau.

Chạy đến nửa đêm, mấy tên kỵ binh phi nhanh tới báo:

– “Ðại tướng quân đang ở bên phải phía trước.”

Ðức Ngạn liền chạy tới đón, thấy Triệu Tuệ cùng hơn ba ngàn quân bại trận, bối rối vô cùng. Triệu Tuệ thấy đội tinh binh cờ đỏ đã đến, tinh thần phấn chấn hẳn lên, thầm nghĩ:

– “Quân địch vừa đại thắng, chắc chắn đêm nay sẽ không phòng bị. Quân ta bất ngờ đánh úp, có thể chuyển bại thành thắng.”

Hắn bèn ra lệnh tiến quân về phía sông Hắc Thủy. Ði được khoảng ba chục dặm, tiền quân về báo cáo:

– “Quân đội bọn Hồi lập doanh trại ở ngay phía trước.”

Triệu Tuệ, Ðức Ngạn, Trương Triệu Trọng và Hòa Nhĩ Ðại kéo nhau lên một đồi cao để quan sát, bất giác không lạnh mà run. Cả một sườn núi và vùng hoang dã đầy những đám lửa, ra xa đến vô cùng vô tận, văng vẳng nghe tiếng quân reo ngựa hí, không biết có tới bao nhiêu quân Hồi đang hạ trại.

Triệu Tuệ yên lặng không nói gì. Hòa Nhĩ Ðại lên tiếng:

– “Thì ra bọn Hồi có tới mười vạn quân ẩn nấp ở đây. Chúng ta ít người không địch nổi số đông, nên mới bị…mới bị…thua thiệt chút ít.”

Chúng không biết đây là kế hư trương thanh thế của Hoắc Thanh Ðồng. Nàng đã ra lệnh cho mỗi người lính Hồi phải đốt mười đống lửa, từ xa nhìn tới dĩ nhiên oai thế kinh người.

Triệu Tuệ vội hạ lệnh cho quân sĩ nhanh chóng lên ngựa lùi về hướng Nam, không được phát ra tiếng động. Mệnh lệnh truyền đi, binh lính chưa kịp ăn cơm đã vội chạy trốn. Hòa Nhĩ Ðại bẩm báo:

– “Hướng đạo đã nói là từ đây đi về hướng nam phải vượt qua dãy núi Kỳ Bàn. Khi có tuyết rơi, đường núi rất khó đi.”

Triệu Tuệ nói:

– “Thanh thế của địch lớn quá, ngươi xem, chỗ nào cũng đầy rẫy quân của chúng. Tướng quân Phó Ðức đang dẫn quân từ phía đông, vượt Qua Bích đến đây. Chúng ta chỉ còn cách đi về hướng nam hội quân với ông ấy.”

Hòa Nhĩ Ðại tán luôn:

– “Ðại tướng quân dùng quân thật là kỳ diệu.”

Triệu Tuệ chỉ “hừ” một tiếng. Vừa đại bại mà phải nghe những lời xiểm nịnh thế này, da mặt dày tới đâu cũng không thể thản nhiên mà vênh váo được.

Ðại quân tiến về phía nam, đường đi càng lúc càng hiểm trở. Bên trái là dòng sông Hắc Thủy, phía bên phải là núi Kỳ Bàn. Trời tối đen không có trăng sao gì cả, chỉ có tuyết trắng trên đỉnh núi hắt sáng xuống mờ mờ. Triệu Tuệ hạ lệnh, ai để phát ra chút xíu âm thanh là lập tức bị chém đầu.

Ðại đa số kỵ binh này đến từ vùng đất Liêu Ðông lạnh lẽo, biết trên núi có một lớp tuyết dày, lỡ gây âm thanh chấn động cho lớp tuyết đó lở xuống là đại họa. Ai cũng cẩn thận, xuống ngựa rón rén mà đi.

Ðược hơn mười dặm, đường càng dốc hơn, may mà sắc trời đã dần dần sáng. Quân Thanh phải nhịn đói vừa đánh vừa chạy suốt một ngày một đêm, mặt tên nào cũng xanh hẳn đi.

Ðột nhiên phía trước có tiếng la hét, báo hiệu có quân Hồi tấn công. Ðức Ngạn đích thân dẫn tinh binh chạy lên đón đánh. Hắn thấy mấy trăm người Hồi đang từ trên núi phi ngựa xuống. Khi đến gần họ đội nhiên xuống ngựa, rút trủy thủ ra chích vào mông ngựa.

Ðàn ngựa bị đau, phóng như điên về phía quân Thanh. Ðường đi vốn đã rất hẹp, mấy trăm con ngựa chạy ào ào tới khiến binh lính dồn thành một khối, rất nhiều người ngựa rơi tõm xuống sông. Còn phía trên thì người Hồi đã bẩy xuống vô số tảng đá lớn, phong tỏa mất đường tiến. Ðức Ngạn gấp rút hạ lệnh cho đại quân rút lui lại, nhưng nghe thấy phía sau cũng có tiếng la ỏm tỏi. Thì ra đường lui cũng bị chặn mất rồi.

Ðức Ngạn liều mạng vượt qua mưa tên và mưa đá, xung phong lên phía trước. Trên đỉnh núi Kỳ Bàn có một lá cờ trăng lưỡi liềm đang bay phấp phới, dưới lá cờ có hơn mười người đang đứng chỉ huy. Triệu Tuệ hạ lệnh nhanh chóng xông lên, bất kể sống chết.

Một đội quân thiết giáp lập tức tiến lên. Nhóm thì cầm thuẫn bài đỡ tên bắn tới, nhóm thì lo dọn đường khiêng những tảng lớn, xác ngựa và xác người quăng xuống lòng sông. Bọn chúng liều mạng xung phong chỉ mong vượt ra khỏi đoạn đường chật hẹp.

Mỗi đội quân Hồi chặn giữa đường cản trở. Ðường đi chật hẹp, tuy quân Thanh rất nhiều nhưng không thể cùng lúc xung phong lên được. Phía sau dồn lên phía trước, chỉ chốc lát là dọc con đường núi này đầy nghẹt nhân mã.

Có tiếng ra lệnh, nhóm quân Hồi cản đường đột nhiên tản ra, sau lưng lộ ra mấy chục khẩu pháo. Bọn lính Thanh hoảng sợ đến hồn phi phách tán, gào lên thê thảm, lập tức quay lưng chạy trốn. Nhưng pháo đã phát hỏa, vô số mảnh sắt vụn và đinh sắt bắn thẳng vào giữa đội quân Thanh.

Loại pháo này mỗi lần chỉ bắn được một phát, sau đó phải nhét thuốc pháo, sắt vụn, đinh sắt vào, mất nửa ngày mới bắn tiếp được. Do đó quân Hồi chỉ bắn một loạt rồi lùi, nhưng mấy chục phát pháo này đã bắn chết hơn hai trăm quân Thanh. Xác thịt chúng kín đường đi.

Triệu Tuệ vừa lo lắng vừa giận dữ, đột nhiên lại nghe thấy những tiếng sột soạt. Sau gáy hắn chợt buốt lên, một miếng băng nhỏ đã rơi vào cổ áo. Hắn ngẩng đầu lên thì thấy trên đỉnh núi, những tảng băng đang từ từ rơi xuống.

Hòa Nhĩ Ðại la lên:

– “Ðại tướng quân, hỏng rồi! Chúng ta mau mau lùi lại đi.”

Triệu Tuệ lập tức quay đầu, chuồn hết tốc lực. Lúc này quân Thanh đánh chém nhau loạn xạ, đẩy nhau lọt xuống vực sâu để kiếm đường thoát thân. Nhưng tiếng ầm ầm mỗi lúc một lớn hơn nghe điếc cả tai, vô số tảng băng lăn xuống kèm theo đất đá, quang cảnh hệt như trời sập.

Hòa Nhĩ Ðại và Trương Triệu Trọng kèm sát hai bên trái phải, bảo vệ Triệu Tuệ chạy xa mười dặm mới dám quay lại nhìn. Chúng thấy con đường núi đã bị lấp dưới lớp tuyết dày mười mấy trượng. Mấy ngàn tinh binh đã bị vùi dưới tuyết, ngay cả đô thống Ðức Ngạn cũng không thoát được.

Bây giờ con đường phía trước đầy tuyết phủ, không thể đi lại được nữa, Triệu Tuệ lâm vào tuyệt cảnh. Hắn nghĩ đến bốn vạn tinh binh chỉ trong một đêm hoàn toàn mất trắng, không sao nén nổi bi ai, cất tiếng khóc ròng.

Trương Triệu Trọng lên tiếng:

– “Ðại tướng quân! Chúng ta trèo lên núi đi.”

Hắn đưa tay trái kéo Triệu Tuệ, đề khí trèo lên. Hòa Nhĩ Ðại cũng thi triển khinh công, cầm đao bảo vệ phía sau. Hoắc Thanh Ðồng đứng rất xa cũng nhìn thấy, bèn kêu lên:

– “Có người chạy trốn, mau mau chặn lại.”

Một đội trưởng Mông Cổ lập tức dẫn mấy chục quân chạy tới. Ðến gần, nhìn thấy ba người đang trèo lên đều mặc sắc phục đại quan, họ xoa tay cả mừng chỉ đợi bắt sống. Triệu Tuệ âm thầm kêu khổ, nghĩ bụng:

– “Hôm nay ta đã bại trận thế này, chẳng lẽ còn phải chịu cái nhục bị bắt sống hay sao?”

Trương Triệu Trọng không nói tiếng nào, cứ vận kình mà chạy lên núi. Hắn phải đưa tay dìu Triệu Tuệ, sườn núi lại đóng băng rất trơn, nhưng vẫn sải bước như bay. Hòa Nhĩ Ðại đi một mình, nhưng cố gắng thế nào cũng không đuổi kịp được.

Trương Triệu Trọng vừa dùng sức nhấc bổng Triệu Tuệ lên đỉnh núi, mấy người lính Mông Cổ lập tức xông tới. Hắn kẹp Triệu Tuệ tướng quân vào dưới nách, sử dụng thân pháp Nhất Hạc Xung Thiên nhảy vọt lên, ra khỏi vòng vây. Ðám lính Mông Cổ xô vào nhau đến sưng mày sưng mặt, khi quay lại toan đuổi theo thì hai người đã chạy xuống núi mất dạng.

Hòa Nhĩ Ðại lên sau bị một người Mông Cổ phóng tới ôm chặt lấy. Hai người lăn lộn dưới đất rồi mấy người Mông Cổ khác tới giúp sức bắt sống được hắn. Các đội trưởng quân Hồi đều tới gặp Hoắc Thanh Ðồng báo tin thắng trận. Chiến dịch này tinh binh của Ðại Thanh coi như mất trắng. Ngoài Triệu Tuệ và Trương Triệu Trọng ra, chỉ thêm mấy chục người vừa mau lẹ vừa may mắn là trốn thoát.

Hoắc Thanh Ðồng cùng mọi người trở về doanh trại. Quân Hồi lấy được vô số lương thảo, binh khí, giải bọn lính Thanh bị bắt sống tới trình diện. Trong đám tù binh có cả bốn huynh đệ Cốt Luân. Quân sĩ báo cáo là khi tấn công vào đại doanh thì thấy bốn anh em họ bị trói trong một chiếc lều.

Trần Gia Lạc hỏi nguyên do, Cốt Luân Ðại Hổ đáp:

– “Triệu Tuệ đại tướng quân trách mắng chúng ta giúp đỡ huynh đài, khép vào tội chém đầu, nhưng giam lại đợi thắng trận rồi mới giết.”

Trần Gia Lạc bèn bảo Hoắc Thanh Ðồng thả họ về. Từ đó bốn người trở về Liêu Ðông, tiếp tục làm thợ săn. Lính canh bỗng vào cấp báo, trong Qua Bích có bốn năm ngàn Thanh binh từ phía đông kéo đến. Hoắc Thanh Ðồng nhảy chồm lên, dẫn mười đội quân Hồi ra đón địch. Ði được vài chục dặm, quả nhiên thấy trước mặt có bụi bặm nổi lên. Lệnh kỳ của Hoắc Thanh Ðồng vừa vẫy, hai đội Thanh kỳ ào ào xông tới.

Thì ra đây là phó tướng Phú Ðức của Triệu Tuệ mang viện binh tới. Dọc đường hắn gặp Triệu Tuệ và Trương Triệu Trọng, biết tin đại quân Mãn Thanh hoàn toàn tan vỡ, liền thu gom tàn binh chạy về phía đông, nhưng lại bị Hoắc Thanh Ðồng chặn đánh. Viện binh quân Thanh vừa tới nơi, người ngựa mệt mỏi mà số lượng cũng không nhiều, không thể cản trở được đại quân Hồi đang hừng hực khí thế, thừa thắng xông lên.

Triệu Tuệ không dám đánh nữa, hạ lệnh cho tất cả nhân mã dàn trận thành vòng tròn, dùng cung tên cố thủ. Quân Hồi xung phong mấy lần mà không sao xông vào được.

Hoắc Thanh Ðồng nói:

– “Chúng đã quyết tâm tử thủ, nếu chúng ta tấn công trực diện thì tổn thất nặng nề. Bây giờ ta đông chúng ít, chúng ta cứ từ từ mà đợi cơ hội.”

Mộc Trác Luân gật đầu:

– “Ðúng là như thế.”

Hoắc Thanh Ðồng hạ lệnh đào hào. Cả vạn lính Hồi ra sức đào một con hào sâu ở ngoài tầm tên, bao vây quân Thanh vào giữa sa mạc cho đói khát mà chết. Ðến xế chiều, Hoắc A Y dẫn tới thêm mấy ngàn quân Hồi nữa, đắp thêm lũy đất ở sau con hào sâu này.

Thế là bên sông Hắc Thủy, dưới núi Kỳ Bàn, người Hồi đại phá quân Thanh rồi lại tiếp tục bao vây hơn bốn tháng. Sử có chép lại trận chiến này, gọi đó là “trận bao vây Hắc Thủy doanh.”

* * *

Văn Thái Lai đứng ở chỗ khá cao, từ xa nhìn thấy kế bên Triệu Tuệ có một người đưa tay chỉ trỏ, chính là Trương Triệu Trọng. Chàng giận dữ trong lòng, lấy từ trong tay quân Hồi một cây cung. Từ Thiên Hoàng cũng tức giận nói:

– “Thì ra tên gian tặc này đang ở đây. Tiếc là quá xa, không bắn tới được.”

Văn Thái Lai thi triển thần lực, nghe “rắc” một tiếng, cây cung cứng như sắt bị gãy lìa. Chàng bèn lấy hai cây cung chập lại làm một, lắp tên vào. Hai cây thiết cung đều kéo căng hết mức, vừa buông tay là mũi tên bay ra như sao xẹt, nhằm thẳng vào mặt Trương Triệu Trọng. Tên bay gần tới nơi, nghe tiếng gió réo lên, Trương Triệu Trọng né người tránh khỏi. Mũi tên đó ghim vào ngực một tên thân binh đang đứng cạnh.

Vệ Xuân Hoa nói:

– “Tứ ca! Chúng ta xông vào trong đó để bắt tên gian tặc.”

Từ Thiên Hoàng cản:

– “Không được! Ðừng có mạo phạm tướng lệnh của Hoắc Thanh Ðồng cô nương.”

Văn Thái Lai, Vệ Xuân Hoa đều gật đầu khen phải. Mọi người đành nhìn Trương Triệu Trọng mà nghiến răng thóa mạ:

– “Sẽ có một ngày chúng ta bắt tên gian tặc này mà chém thành ba khúc.”

Trong trại người Hồi tấu lên những bản nhạc bi ai. Người Hồi đào hố sâu chung quanh để an táng tướng sĩ trận vong, sắp cho mặt hướng về phía tây rồi mới chôn cất. Trần Gia Lạc và quần hùng thấy lạ bèn hỏi một chiến sĩ đứng bên. Y nói:

– “Chúng ta là giáo đồ Hồi giáo, sau khi chết hồn sẽ về Thiên Trúc, nên mới đặt xác nằm thẳng, mặt hướng về thánh địa Ba Tư ở phía tây.”

Mai táng xong xuôi, Mộc Trác Luân chỉ huy quân Hồi làm lễ cầu nguyện, cảm tạ chân thánh A-la phù hộ đánh thắng trận này. Dứt lễ cầu nguyện, toàn quân nổi tiếng hoan hô như sấm động. Ðội trưởng các đội diễu qua trước mặt Mộc Trác Luân và Hoắc Thanh Ðồng, nâng trường đao lên để chào.

Vệ Xuân Hoa nói:

– “Trận này khiến cho bọn lính Thanh phải vỡ gan vỡ mật, còn chúng ta thì một phen hả dạ.”

Từ Thiên Hoàng suy nghĩ một lúc rồi nói:

– “Rõ ràng hoàng đế đã thề thốt với chúng ta, sao lại không chịu lui quân? Chẳng lẽ hắn chủ tâm làm vậy để tiêu hao tinh binh của Mãn Thanh, muốn chúng bị tiêu diệt trong sa mạc hay sao?”

Văn Thái Lai nói:

– “Ta không tin tên cẩu hoàng đế đó. Làm sao hắn ngờ được Hoắc Thanh Ðồng cô nương đánh thắng trận này? Hoàng đế đã phái Trương Triệu Trọng đến đây, cứ xem đó là biết.”

Văn Thái Lai và mọi người đều hoài nghi lời thề kết nghĩa của Càn Long là không thành thật, chắc chắn bên trong có gian kế khác. Nhưng vì nể mặt Trần Gia Lạc mà họ không tiện nói rõ, trước mặt những người như Chương Tấn chỉ biết lắc đầu.

Văn Thái Lai lén bàn với Từ Thiên Hoàng là phải nhắc nhở tổng đà chủ, đây là cơ hội rất tốt để phục hưng cho nhà Hán, đuổi bọn Mãn Thanh, sau này e rằng không có cơ hội nào tốt hơn nữa. Nhưng mọi người đều nói cần phải cẩn thận, không khéo lại đắc tội với tổng đà chủ.

Quần hùng lại bàn tới tài dụng binh của Hoắc Thanh Ðồng. Dư Ngư Ðồng nói:

– “Tôn Tử đã nói, ta tập trung một chỗ, địch chia ra mười nơi, thế thì ta nhiều địch ít, ta phải thắng địch phải thua. Không ngờ một cô nương trẻ tuổi người Hồi mà dụng binh rất hợp với Tôn Tử binh pháp.”

Chu Ỷ trợn to mắt lên nói:

– “Huynh chỉ nói bừa bãi. Cô ấy đánh trận tài tình như thế, mà huynh còn nói là cô ấy dùng binh pháp con cháu gì gì. Phải nói là Gia Gia binh pháp, là Tổ Tông binh pháp.”

Mọi người cười rộ lên không dứt.

Ðang bàn tán thì thấy Trần Gia Lạc chăm chú nhìn về phía Hoắc Thanh Ðồng, tỏ vẻ quan tâm lo lắng. Mọi người nhìn theo ánh mắt của chàng, thấy Hoắc Thanh Ðồng sắc mặt xanh xao, cứ ngẩn ngơ nhìn vào đống lửa đến xuất thần.

Lạc Băng bước tới định nói chuyện với nàng, Hoắc Thanh Ðồng liền đứng dậy đón tiếp. Nhưng đột nhiên nàng lảo đảo đứng không vững, thổ ra một ngụm máu tươi. Lạc Băng giật mình, lập tức chạy đến nâng đỡ, vội hỏi:

– “Thanh muội! Muội làm sao rồi?”

Hoắc Thanh Ðồng không nói, cố gắng điều hòa hơi thở, nhưng lại thổ ra thêm một ngụm máu nữa. Hương Hương công chúa. Mộc Trác Luân, Hoắc A Y, Trần Gia Lạc, Chu Ỷ cùng chạy tới hỏi han.

Hương Hương công chúa lạc giọng kêu lên:

– “Tỉ tỉ! Ðừng thổ huyết ra nữa.”

Nàng dìu tỉ tỉ vào lều, trải thảm cho Hoắc Thanh Ðồng nằm nghỉ. Mộc Trác Luân hết sức đau lòng, biết con gái mình đã kiệt sức sau khi chỉ huy trận chiến này. Nàng không chỉ đích thân xông pha trận mạc, lại còn bị người thân và bộ tướng hoài nghi, dĩ nhiên phẫn uất. Chuyện khiến nàng khó chịu nhất, có thể là chính việc Trần Gia Lạc thân mật với Kha Tư Lệ. Nhất thời Mộc Trác Luân không nghĩ ra cách nào để an ủi con gái. Ông thở dài sườn sượt đi ra khỏi lều.

Mộc Trác Luân đi tuần tra mấy chỗ, nghe quân lính ở đâu cũng khen ngợi Hoắc Thanh Ðồng thần cơ diệu toán. Bỗng ông thấy mấy trăm chiến sĩ đang vây quanh một vị giáo sĩ để nghe kể chuyện. Vị giáo sĩ nói:

– “Năm thứ hai sau khi thánh Muslim di cư đến Mecca, quân tà đạo đến tấn công. Ðịch có chín trăm năm chục chiến sĩ võ trang đầy đủ, một trăm con chiến mã, bảy trăm con lạc đà. Dưới trướng thánh Muslim chỉ có ba trăm mười ba chiến sĩ, hai chục chiến mã, bảy tám chục con lạc đà, áo giáp chỉ có sáu bộ. Ðịch mạnh gấp ba lần, nhưng cuối cùng thánh Muslim vẫn đánh bại kẻ địch.”

Một chiến sĩ trẻ la lên:

– “Phen này chúng ta cũng lấy ít thắng nhiều.”

Giáo sĩ nói tiếp:

– “Không sai! Hoắc Thanh Ðồng cô nương tuân theo di huấn của thánh Muslim mà lãnh đạo chúng ta đánh thắng trận này. Cầu nguyện chân thánh A-la phù hộ cô ấy. Chương thứ ba kinh Koran đã nói:

– Nếu hai đội quân đang giao chiến, một đội vì thánh A-la mà chiến đấu, đội kia là quân tà đạo, dù cho quân tà đạo đông gấp đôi thì nhất định thánh A-la cũng phù hộ cho đội quân bảo vệ đức tin chiến thắng.”

Hết thảy mọi người hoan hô như sấm sét, ai cũng hô vang:

– “Cầu cho chân thánh A-la phù hộ Thúy Vũ Hoàng Sam để cô ấy tiếp tục chỉ huy chúng ta đánh thắng.”

Mộc Trác Luân lo âu cho con gái nên trằn trọc suốt đêm. Trời chưa sáng ông đã đến lều của Hoắc Thanh Ðồng để thăm nom. Mở cửa lều ra thì thấy trong lều không có ai, ông giật mình vội hỏi bọn vệ sĩ ở trước lều. Vệ sĩ nói:

– “Hoắc Thanh Đồng cô nương đã ra ngoài được một giờ rồi.”

Mộc Trác Luân hỏi:

– “Đi đâu vậy?”

Vệ sĩ đáp:

– “Tiểu nhân không biết. Cô ấy bảo tiểu nhân trình lá thư này lên tộc trưởng.”

Mộc Trác Luân nhận thư, mở ra xem. Bên trong chỉ có mấy chữ:

– “Gia gia! Việc lớn đã xong, chỉ cần vây chặt mấy ngày nữa là diệt sạch quân Thanh. Thanh nhi bái bút.”

Mộc Trác Luân ngẩn ngơ một lúc rồi hỏi:

– “Cô ấy đi về hướng nào?”

Vệ sĩ chỉ hướng đông, ông bèn lên ngựa đuổi theo đến nửa ngày.

Trên vùng sa mạc mênh mông này có thể nhìn xa vài chục dặm, thế mà ông không thấy bóng người nào, trên mặt cát cũng không thấy vết vó ngựa, đành phải trở về. Về đến giữa đường thì Hương Hương công chúa, Trần Gia Lạc, Từ Thiên Hoằng được tin kéo nhau ra đón. Mọi người rất lo âu, biết bệnh tình của Hoắc Thanh Đồng không nhẹ, nàng ra ngoài một mình thật là nguy hiểm.

Trở về doanh trại, Mộc Trác Luân liền phái bốn tiểu đội đi tìm theo bốn hướng đông tây nam bắc. Đến xế chiều, ba tiểu đội trở về tay không, chỉ có tiểu đội đi theo hướng đông là dẫn về một thiếu niên người Hán mặc đồ đen.

Dư Ngư Đồng giật mình kinh ngạc, thì ra đó là Lý Nguyên Chỉ đang mặc nam trang. Chàng bước tới hỏi:

– “Sao cô nương lại đến đây?”

Lý Nguyên Chỉ nửa mừng nửa giận, đáp:

– “Muội đến tìm huynh chứ sao nữa. May mà gặp họ.”

Nàng chỉ tiểu đội lính Hồi, nói tiếp:

– “Họ dẫn muội tới đây. Sao huynh không mặc áo cà sa nữa?”

Dư Ngư Đồng mỉm cười nói:

– “Ta hết làm hòa thượng rồi.”

Lý Nguyên Chỉ mừng rỡ vô cùng, khóe mắt đỏ lên, suýt nữa rơi nước mắt. Hương Hương công chúa thấy không tìm được tỉ tỉ, lo lắng nói với Trần Gia Lạc:

– “Tại sao tỉ tỉ lại bỏ đi? Bây giờ chúng ta phải làm gì?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Bây giờ ta sẽ đi tìm cô ấy, bất cứ giá nào cũng khuyên cô ấy trở về.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Để muội cùng đi với huynh.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Được! Muội vào nói với gia gia đi.”

Hương Hương công chúa liền đi tìm Mộc Trác Luân xin phép cùng đi với Trần Gia Lạc để tìm tỉ tỉ. Mộc Trác Luân lại càng bối rối, biết rằng Hoắc Thanh Đồng bỏ đi chính là vì họ. Hai người này cùng đi tìm chỉ khiến cho nàng thêm phiền não mà thôi. Nhưng ông không biết phải nói như thế nào, đành giận dữ bảo:

– “Các ngươi muốn làm gì thì cứ làm, ta không lo liệu được nữa.”

Hương Hương công chúa mở to mắt ra nhìn, thấy trong mắt phụ thân đầy vằn đỏ. Nàng biết phụ thân đang lo lắng, bèn nhẹ nhàng nắm lấy tay ông. Lý Nguyên Chỉ thì hoàn toàn không lý gì đến người khác, không ngớt hỏi han Dư Ngư Đồng.

Trần Gia Lạc nói với Hương Hương công chúa:

– “Nguời yêu của Thanh Đồng tới đây rồi. Nhất định y có thể khuyên cô ấy trở về.”

Hương Hương công chúa mừng rỡ nói:

– “Thật thế ư? Tại sao từ trước đến giờ tỉ tỉ không nói với muội? Tỉ tỉ thật là tệ quá.”

Nàng liền tới trước mặt Lý Nguyên Chỉ quan sát tỉ mỉ. Mộc Trác Luân nghe vậy cũng chạy tới xem. Lý Nguyên Chỉ từng gặp Mộc Trác Luân, bèn chắp tay thi lễ. Nàng thấy Hương Hương công chúa diễm lệ tuyệt trần, bất giác ngẩn ngơ không nói được lời nào. Hương Hương công chúa bảo Trần Gia Lạc:

– “Huynh nói với vị đại ca này đi, rủ huynh ấy cùng đi tìm tỉ tỉ.”

Bấy giờ Trần Gia Lạc mới thi lễ với Lý Nguyên Chỉ, rồi hỏi:

– “Sao Lý đại ca cũng đến đây rồi? Gần đây có được bình an không?”

Lý Nguyên Chỉ đỏ mặt lên cười khúc khích. Nàng nhìn Dư Ngư Đồng nháy mắt một cái, tỏ ý bảo chàng nói rõ. Dư Ngư Đồng nói:

– “Tổng đà chủ! Đây là đồ đệ của Lục sư thúc của thuộc hạ.”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Ta biết rồi! Chúng ta đã gặp nhau mấy lần.”

Dư Ngư Đồng lại nói:

– “Cô ấy là sư muội của thuộc hạ.”

Trần Gia Lạc kinh ngạc hỏi:

– “Cái gì?”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Khi có việc ra ngoài, cô ấy thường cải nam trang.”

Trần Gia Lạc bèn nhìn Lý Nguyên Chỉ tỉ mỉ, thấy nàng mày thưa miệng nhỏ, kiều diễm vô cùng, chẳng giống nam nhân chút nào. Chàng đã gặp cô ta mấy lần, chỉ vì trong lòng luôn nghĩ đến chuyện của cô ấy với Hoắc Thanh Đồng, cảm thấy người này tuấn tú hơn mình, thầm hổ thẹn mình không bằng người ta, do đó mà không muốn nhìn đối phương nữa. Trong lòng chàng lại cố ý xem thường, coi người đó là loại thiếu niên công tử bột, hoàn toàn không có khí khái anh hùng, không đáng đếm xỉa tới.

Nhất thời chàng ngẩn ra đứng đó, đầu óc suy nghĩ rối ren. “Thì ra đây là một cô nương, thế thì mình đã suy nghĩ bừa bãi, hiểu lầm Hoắc Thanh Đồng rồi. Nàng đã từng bảo mình hỏi Lục lão tiền bối, nhưng mình lại cảm thấy khó chịu nên không mở miệng hỏi kỹ. Phen này nàng rời khỏi đây, há chẳng phải vì mình? Muội muội của nàng lại đối với mình tình nghĩa sâu đậm như thế, bây giờ mình phải làm như thế nào mới đúng?”

Mọi người thấy chàng đột nhiên mất hồn mất vía, đứng đó xuất thần, đều cảm thấy kỳ lạ. Khi biết Lý Nguyên Chỉ là một cô nương, Lạc Băng liền bước tới nắm tay ra chiều thân mật. Thấy nàng nhìn Dư Ngư Đồng say đắm, Lạc Băng lại nhớ tới những chuyện ở Thiên Mục Sơn và Mạnh Tân. Hôm nay nàng tìm tới tận bãi cát xa vạn dặm này, tình ý của nàng đối với Dư Ngư Đồng không nói ra thì ai cũng biết. Lạc Băng nghĩ, Dư Ngư Đồng vốn si mê mình, bây giờ được một cô nương xinh đẹp thế này thật tình thương mến, chắc sẽ hóa giải được những gì khổ não trong quá khứ. Nhưng Dư Ngư Đồng lại ra vẻ ngơ ngác, không có tí gì là hoan hỉ hay thân mật, đúng là chưa ổn. Lạc Băng bèn quyết định sẽ cố gắng tác hợp mối nhân duyên này.

Lý Nguyên Chỉ bỗng hỏi:

– “Hoắc Thanh Đồng tỉ tỉ đâu? Muội có chuyện rất quan trọng muốn nói với cô ấy.”

Lạc Băng đáp:

– “Thanh muội không biết đi đâu rồi. Chúng ta cũng đang đi tìm cô ấy.”

Lý Nguyên Chỉ hỏi:

– “Cô ấy đi một mình ư?”

Lạc Băng đáp:

– “Đúng vậy! Mà cô ấy lại đang mắc bệnh.”

Lý Nguyên Chỉ lộ vẻ khẩn trương hỏi:

– “Cô ấy đi về hướng nào?”

Lạc Băng đáp:

– “Ban đầu theo hướng đông bắc nhưng sau đó có rẽ sang hướng khác hay không thì không biết được.”

Lý Nguyên Chỉ giậm chân la lên:

– “Hỏng rồi! Hỏng rồi!”

Mọi người thấy nàng lo lắng liền hỏi nguyên do. Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Quan Đông tam ma đang tìm Thúy Vũ Hoàng Sam để trả thù. Các vị chưa biết , ba tên này dọc đường đã bị muội trêu cho khốn đốn, đang đuổi theo sau lưng muội. Bây giờ Hoắc Thanh Đồng tỉ tỉ đi về hướng đông bắc thì chắc chắn sẽ gặp phải chúng.”

* * *

Khi thấy Dư Ngư Đồng xuất gia làm hòa thượng trong Bảo Tướng tự vùng Mạnh Tân, Lý Nguyên Chỉ sầu khổ vô cùng, ôm mặt mà khóc. Dư Ngư Đồng lòng như gỗ đá, chỉ viết thư để lại cho Trần Gia Lạc và huynh đệ rồi rời khỏi chùa, không đếm xỉa gì đến mỹ nhân. Lý Nguyên Chỉ khóc cả đêm khi nín khóc đuổi theo thì không biết Dư Ngư Đồng đã đi về hướng nào. Nàng về thành Mạnh Tân, tìm hết các nơi chùa chiền khách điếm, nào ngờ người trong mộng đâu không thấy, lại gặp ba người Tất Nhất Lôi, Cố Kim Tiêu và Kha Hợp Đài.

Ba tên này vừa chạy khỏi Bảo Tướng Tự, nghỉ lại một khách điếm rất vắng người. Lý Nguyên Chỉ nghe lén chúng nói chuyện, biết chúng định tìm đến Hồi Cương để trả thù Thúy Vũ Hoàng Sam. Nàng đang tức tối bọn này bức hiếp Dư Ngư Đồng, bèn ra ngoài mua một bao lớn bả đậu, về khách sạn sắc thành một chén nước rất đặc đựng trong bình rượu. Nàng vào khách điếm mà bọn Tất Nhất Lôi đang ở, đợi chúng ra ngoài đường bèn đổ nước ba đậu vào cái bính trà lớn đặt trên bàn.

Quan Đông tam ma về khách sạn, khát nước liền rót trà mà uống. Tuy chúng cảm thấy có vị lạ, nhưng chỉ nghĩ rằng trà ở đây thô thiển, không để ý lắm. Đến giữa đêm, cả ba cùng đau bụng, tranh nhau đi nhà xí, người này vừa ra người kia lại vào.

Ba người ra vào không dứt, bị Tào Tháo đuổi suốt một đêm, đến sáng hôm sau vẫn chưa dứt cơn thổ tả. Bọn chúng mệt mỏi hết sức, khốn đốn vô cùng, lẽ ra phải lên đường nhưng không thể nào đi nổi nữa. Tất Nhất Lôi đi tìm ông chủ khách điếm mắng cho một trận, nói rằng thức ăn trong tiệm này không sạch sẽ, ăn vào đau bụng.

Ông chủ thấy ba quái khách này hung hăng lợi hại, đành liền miệng tạ lỗi rồi mời đại phu đến chẩn mạch. Đại phu không ngờ chúng bị ám toán, tưởng là trúng gió đau bụng, bèn kê một đơn thuốc khu phong cho ấm bụng. Ông chủ bèn bỏ tiền ra hốt thuốc, kêu tiểu nhị sắc cho chúng uống.

Lý Nguyên Chỉ từ cửa sau khách điếm chạy vào nhìn lén, thấy tam ma thay nhau ra vào nhà xí như đèn kéo quân, trong lòng khoái chí vô cùng. Nàng lại thấy tiểu nhị trong khách điếm sắc thuốc, bèn nhân lúc hắn đi khỏi mà mở vung siêu thuốc ra, bỏ thêm vào một nắm bả đậu. Bọn Tất Nhất Lôi tưởng là uống thuốc vào sẽ đỡ hơn, nào ngờ tiêu chảy càng khủng khiếp.

Đến thế mà Lý Nguyên Chỉ vẫn chưa chịu thôi. Nàng nửa đêm đột nhập vào tiệm thuốc bắc, mở mấy chục ngăn thuốc, cứ mỗi vị bốc lấy một nắm. Bất kể là Sinh Địa hay Đại Hoàng, Phụ Tử hay Bối Mẫu, Mao Lan hay Lan Độc, Hồng Hoa hay Hoàng Kỳ, mỗi thứ một nắm gói chung lại với nhau. Đến ngày hôm sau, khi tiểu nhị tiếp tục nổi lửa sắc thuốc, nàng lén bỏ gói thuốc này vào siêu.

Ba chén thuốc cực đậm được bưng lên, Quan Đông tam ma nhắm mắt nốc cạn. Mấy chục vị thuốc đánh nhau loạn cào cào trong bụng, dù là thần tiên cũng không chịu nổi. Thế là ba gã đại hán lợi hại như rồng như cọp bị hành hạ đến nỗi trông chẳng ra người nữa. May mà võ công của chúng khá tinh thâm, thân thể cường tráng, nên mới giữ lại được một nửa sinh mạng còn một nửa trút xuống nhà xí.

Trong lúc Trần Gia Lạc cưỡi con ngựa trắng tung vó về phía tây, Quan Đông tam ma vẫn đang giành nhau gian nhà xí trong thành Mạnh Tân. Tất Nhất Lôi biết trong chuyện này có âm mưu, nhưng tưởng là mình vào lầm hắc điếm, chủ khách điếm muốn đoạt tài hại mệnh. Hắn bèn dặn hai người huynh đệ đừng uống thuốc nữa, quả nhiên hôm sau đã đỡ hơn. Cố Kim Tiêu xách cương xoa đi ra ngoài, toan giết sạch cả chưởng quỷ lẫn tiểu nhị.

Tất Nhất Lôi vội kép lại nói:

– “Lão nhị, khoan đã! Dưỡng sức thêm một ngày, đợi khí lực đầy đủ rồi làm gì thì làm. Không chừng trong khách điếm này cũng có tay khá, bây giờ mà gây chuyện dễ bị thiệt thòi.”

Cố Kim Tiêu nghe vậy, đành dằn lửa giận xuống mà chịu đựng. Đến xế chiều, tiểu nhị trong khách điếm đưa vào một lá thư. Trên bì thư đề gửi cho Quan Đông tam ma.

Tất Nhất Lôi giật mình hỏi:

– “Ai gửi đến?”

Tiểu nhị nói:

– “Một thằng bé chưa biết mặc quần mang đến, nói là gửi cho ba vị gia gia đang bị tiêu chảy trong khách điếm này.”

Tất Nhất Lôi mở ra xem, lập tức giận dữ nhảy chồm chồm như con sóc. Cố Kim Tiêu và Kha Hợp Đài tranh nhau mà đọc, thì ra trong thư viết rằng:

– “Thúy Vũ Hoàng Sam ta là nữ trung hào kiệt, đâu có sợ ngươi? Tạm thời cảnh cáo ba kẻ bất tài, cho ăn no bả đậu. Nếu không lập tức trở về, ta sẽ không tha.”

Chữ viết rất đẹp, rõ ràng là thủ bút của nữ nhân. Cố Kim Tiêu xé vụn bức thư, hằn học nói:

– “Chúng ta đang muốn tìm con tiện nhân đó, không ngờ nó đang ở đây. Thật là may mắn.”

Ba người không dám trú ở khách điếm này nữa, lập tức dọn qua chỗ khác. Chúng nghỉ ngơi thêm hai ngày mới phục hồi sức khỏe, rồi tìm kiếm khắp nơi trong thành Mạnh Tân, nhưng không thấy bóng dáng Thúy Vũ Hoàng Sam đâu cả.

Lúc này Lý Nguyên Chỉ nhờ những bang hội ở sông Hoàng Hà điều tra, biết quần hùng Hồng Hoa Hội đang đi về hướng Hồi Cương, có cả Dư Ngư Đồng. Người trong mộng đã rời khỏi đây, nàng không đếm xỉa đến bọn tam ma nữa mà lập tức đi về phía tây.

Tam ma không tìm được Hoắc Thanh Đồng, đoán chắc nàng đã trở về Hồi tộc, nên cũng đuổi về hướng tây. Đến tỉnh Cam Túc, chúng gặp lại Lý Nguyên Chỉ. Tất Nhất Lôi thấy người này hình như quen quen, hơi ngạc nhiên một chút. Hắn định nhìn lại cho kỹ, nhưng nàng đã lẩn đi mất rồi.

Sáng hôm sau, Quan Đông tam ma vừa điểm tâm xong, đang định lên đường thì đột nhiên bên ngoài có mười mấy người kéo vào. Người thì gánh, người thì khiêng, nói là những thứ Tất gia cần mua đều đã đem đến.

Tất Nhất Lôi thấy họ đưa đến đồ tam sinh để cúng, nào là gà, vịt, trứng, có cả một con trâu và một con heo. Hắn quát hỏi:

– “Những thứ này để làm gì?”

Người khiêng heo nói:

– “Có một vị khách quan họ Tất sai tiểu nhân đưa đến đây.”

Tiểu nhị nói:

– “Đây chính là Tất đại gia.”

Người đó liền bỏ con heo xuống, đưa tay đòi tiền. Tất Nhất Lôi giận dữ hỏi:

– “Ai bảo chúng bay đem những thứ này tới?”

Trong lúc cãi cọ, đột nhiên bên ngoài lại có một trận ồn ào. Một đám phu đòn khiêng vào ba cỗ quan tài, lại thêm một người chuyên việc tẩm liệm mang theo giấy thấm, đá vôi và đồ nghề liệm xác. Họ hỏi:

– “Người quá cố đang nằm ở đâu?”

Chưởng quỹ bước ra chửi mắng:

– “Bọn ngươi làm trò gì thế? Khiêng quan tài đến đây làm chi?”

Người chuyên tẩm liệm bèn hỏi:

– “Không phải trong tiệm này vừa có người chết hay sao?”

Chưởng quỹ vung tay tát cho y một phát. Y rụt đầu tránh né, lại hỏi:

– “Rõ ràng ở đây có ba người mới chết mà? Một người họ Tất, một người họ Cố, lại còn một người Mông Cổ họ Kha.”

Tất Nhất Lôi nổi giận xung thiên, phóng tới đánh ra một chưởng. Người chuyên tẩm liệm lập tức té nhào, miệng đầy máu tươi, rụng mất ba cái răng cửa. Đột nhiên nghe thấy tiếng nhạc đưa ma, một thằng bé bưng một đôi liễn tiến vào. Tất Nhất Lôi tuy đang giận như điên, nhưng cũng biết đây là kẻ thù quấy rối. Hắn mở tấm liễn ra xem, thấy viết:

– “Kính thỉnh ba vị huynh đệ Tất Nhất Lôi, Cố Kim Tiêu, Kha Hợp Đài giá lâm để cùng xum họp.”

Hạ khoản ghi là:

– “Nghĩa đệ Tiêu Văn Kỳ, Điềm Thế Khôi, Diêm Thế Chương nóng lòng chờ đợi.”

Còn tấm biển ngang thì viết bốn chữ lớn:

– “Hề thủ cửu tuyền.”

Nét chữ đúng là của thiếu nữ đã gửi thư hôm trước. Kha Hợp Đài xé vụn tấm liễn, túm lấy ngực áo thằng bé quát hỏi:

– “Ai bảo ngươi đưa đến đây?”

Nó run rẩy đáp:

– “Một vị công tử đã cho tiểu nhân một trăm quan tiền, nói rằng có ba người bạn vừa chết ở đây, đưa liễn đến phúng điếu.”

Kha Hợp Đài biết nó chỉ nhận tiền mà làm, nên không đánh mà chỉ đẩy mạnh một cái. Tuy thế thằng bé cũng ngã nhào về phía trước, nằm ngửa mặt lên trời mà khóc rống lên. Tất Nhất Lôi lại hỏi những người đưa đồ cúng, khiêng quan tài và tấu nhạc đám ma, ai cũng nói là một vị công tử đã trả tiền thuê họ tới đây.

Tất Nhất Lôi xách đồng nhân lên hô:

– “Lập tức đuổi theo.”

Ba người liền chạy ra khỏi khách điếm mà lùng sục, nhưng chẳng thấy công tử nào hết. Tất Nhất Lôi lại nói:

– “Phải đuổi gấp, bắt con nha đầu kia mà băm viên nướng chả.”

Chúng tưởng là Hoắc Thanh Đồng quấy rối, giận dữ không sao tả xiết, cố gắng đuổi nhanh. Một hôm nghỉ lại khách điếm ở Lương Châu, đến nửa đêm thì đột nhiên nhà sau có ánh lửa, ba người lập tức nhảy ra xem xét. Tất Nhất Lôi thấy đám cháy chỉ là một đống cỏ khô, ngẩn ra một chút rồi tỉnh ngộ nói:

– “Lão Nhị, lão Tứ! Nhanh chóng về phòng!”

Khi trở về phòng, quả nhiên ba túi đồ của mình không thấy đâu nữa. Trên giường lại có ba xâu tiền giấy vẫn dùng để đốt cho người chết. Cố Kim Tiêu nhảy lên mái nhà nhưng không thấy bóng người. Tất Nhất Lôi đập bàn thóa mạ:

– “Muốn đánh nhau thì đánh cho quang minh chính đại, quyết một trận thắng thua. Thủ đoạn kiểp cướp gà trộm chó thế này, con mẹ nó, mà dám xưng là hào kiệt?”

Kha Hợp Đài nói:

– “Phen này thì ngày mai không có tiền mà trả tiền phòng tiền cơm nữa.”

Cố Kim Tiêu giận dữ nói:

– “Phải mau mau tìm cách trừ khử con tiện nhân này. Không thì nó cứ quấy rầy mãi.”

Tất Nhất Lôi nói:

– “Không sai! Lão Nhị, lão Tứ! Hai ngươi suy nghĩ thử xem chúng ta phải làm sao?”

Võ nghệ ba tên này tuy khá, nhưng đầu óc lại kém phần linh hoạt. Chúng suy nghĩ mất nửa ngày chỉ được một phương pháp là buổi tối đi ngủ không cởi quần áo, thay phiên canh gác, hễ thấy tung tích địch thủ là lập tức nhảy ra chém giết. Tất Nhất Lôi cũng biết biện pháp này không cao minh gì lắm, nhưng không phải lúc nào ba thợ thuộc da cũng thành một Gia Cát Lượng, nên đành phải chấp nhận.

Kha Hợp Đài băn khoăn nói:

– “Thế thì tiền phòng, tiền cơm làm sao mà trả? Hoặc là chúng ta phải ra ngoài kiếm chút ít, hoặc là sáng sớm mai lén trốn khỏi đây.”

Cố Kim Tiêu nói:

– “Có trốn thì trưa mai cũng phải ăn cơm. Để ta ra ngoài kiếm chác chút đỉnh.”

Hắn bèn phi thân lên mái nhà nhìn quanh tứ phía, chọn dãy nhà lầu cao nhất trong vùng mà chạy tới, nghĩ bụng:

– “Bất kể là cướp hay trộm, miễn có mấy trăm lạng bạc làm lộ phí là yên tâm rồi.”

Thấy một gian phòng vẫn còn ánh sáng, hắn nép qua một bên quan sát. Đột nhiên sau lưng nghe tiếng rôm rốp, một mảnh ngói rơi xuống đất vỡ tan. Rồi có người la lên:

– “Bắt lấy kẻ trộm! Bắt lấy kẻ trộm!”

Tiếng kêu nghe rất thanh tao, rõ ràng là tiếng nữ nhân. Cố Kim Tiêu giật bắn người, nhưng tự cho là mình võ nghệ cao cường nên cứ mặc kệ mà nhảy vào phòng. Thì ra mấy đứa gia nhân đang đánh bạc, trên bàn chỉ có mấy trăm đồng tiền. Thấy hắn xông vào, bọn chúng cùng hoảng sợ la lên.

Cố Kim Tiêu thầm kêu:

– “Xúi quẩy rồi!”

Hắn định lùi ra, nhưng bên ngoài đã có tiếng chân rầm rập, đuốc thắp sáng trưng, mười mấy người xách đao xách côn xông tới. Cố Kim Tiêu vội hốt mấy đồng lẻ trên bàn bỏ vào bọc, phá cửa sổ nhảy lên mái nhà. Nghe tiếng gió rít lên sau gáy, hắn vội quay người đón bắt, thì ra ám khí chỉ là một miếng đá vụn.

Hắn bèn tung người chạy tới chỗ người vừa ném đá. Người đó lập tức đâm ra một kiếm. Dưới ánh sáng lờ mờ chỉ thấy người đó mặc y phục màu đen, tay chân rất nhanh nhẹn. Cố Kim Tiêu mấy ngày nay uất hận mà không biết kẻ địch ở đâu, bây giờ đã thấy dĩ nhiên không chịu bỏ qua. Hắn đâm veo véo ba xoa, toàn nhằm vào chỗ yếu hại.

Người đó chính là Lý Nguyên Chỉ. Thấy Cố Kim Tiêu múa xoa rất nhanh, nàng chỉ đánh vài chiêu rồi vung kiếm ra một hư chiêu để cản đường, lập tức quay lưng bỏ chạy. Cố Kim Tiêu xách xoa đuổi theo, thấy đối thủ vẫy tay ngược lại, rồi có tiếng ám khí nhỏ xíu rít lên bay tới. Ngoài thành Mạnh Tân hắn đã từng trúng loại kim châm này, biết mùi lợi hại nên vội vã lộn người tránh né, nhảy xuống khỏi mái nhà.

Dưới đất mọi người hò hét xông tới. Cố Kim Tiêu huy động cương xoa đánh cho đao côn của họ tuột hết khỏi tay, rồi nhảy lên mái nhà tiếp tục đuổi theo. Nhưng lúc đó địch thủ đã chạy đâu mất dạng rồi. Cố Kim Tiêu trở về nhà trọ, bực bội kể lại chuyện vừa xảy ra. Kha Hợp Đài thở dài sườn sượt mà nói:

– “Biết thế thì đệ đã đi chung với huynh rồi. Có hai người thì chắc chắn bắt được tên khốn đó.”

Cố Kim Tiêu quát luôn:

– “Nói làm gì nữa? Bây giờ đi thôi. Đợi đến mai không trả được tiền phòng tiền cơm thì còn gì là mặt mũi?”

Vừa chuẩn bị xong, đột nhiên có người gõ cửa. Ba người nhìn nhau một cái, rút binh khí cầm tay, rồi Kha Hợp Đài ra mở cửa. Thì ra đó là chưởng quỹ trong khách điếm này. Y cầm một cây nến nhỏ, run run nói:

– “Bọn tiểu nhân tiệm nhỏ yếu vốn, xin các vị khách quan thanh toán tiền phòng rồi hãy đi.”

Thì ra y đang ngủ bỗng có người đánh thức, nói cho biết là ba người này không có tiền trả, đang chuẩn bị chuồn. Y thức dậy khoác áo, thì người đó không biết đã đi đâu, liền đến đây gõ cửa, quả nhiên thấy bọn Tất Nhất Lôi đang chuẩn bị bỏ trốn.

Cố Kim Tiêu bí quá hóa liều:

– “Lão gia hết tiền xài rồi, bây giờ phải mượn tạm ngươi một trăm lượng bạc.”

Hắn vung cương xoa loảng xoảng, ép chưởng quỹ đi lấy bạc. Chưởng quỹ nhăn nhó nhưng cũng đành phải quay đi. Đột nhiên bên ngoài có tiếng hô hoán, rất đông người la lớn:

– “Đừng để bọn cướp này chạy thoát.”

Tam ma đứng trong cửa nhìn ra, thấy ngoài tiệm đèn đuốc sáng trưng, ít ra cũng có tới hơn trăm người. Nhóm đi đầu đã tới nơi, vừa chạy vừa hô:

– “Bắt cướp! Bắt cướp!”

Tất Nhất Lôi múa đồng nhân gạt họ ra, kêu lên:

– “Nhảy lên mái nhà!”

Cố Kim Tiêu còn cố chặt gãy ổ khóa trên quầy vốc một nắm bạc vụn nhét vào trong bọc. Sau đó ba tên nhảy lên mái nhà chạy trốn. Nửa đêm chưởng quỹ tới đòi tiền, lại có đông người đến bắt, dĩ nhiên Quan Đông tam ma phải biết là do Hoắc Thanh Đồng sắp xếp. Cố Kim Tiêu đã từng giao đấu với Lý Nguyên Chỉ, thấy địch thủ là một thiếu niên người Hán chứ không phải là thiếu nữ người Hồi, nghĩ rằng bên địch đông người lại càng không dám sơ suất. Vì thế đêm nào bọn chúng cũng thay phiên canh gác, văng ra tổng số không biết bao nhiêu câu thóa mạ thô tục.

Lúc qua Gia Cốc quan, Tất Nhất Lôi nói:

– “Từ đây trở đi là địa giới của địch, chúng ta phải cẩn thận đề phòng hơn nữa.”

Đêm đó đến phiên Kha Hợp Đài canh gác. Y đang gà gật nửa thức nửa ngủ, đột nhiên nghe phía sau nhà có hai hòn đá rơi xuống đất. Y biết vị khách không mời này ném đá dò đường để thăm dò động tĩnh, liền nhẹ nhàng đẩy cửa sổ ra, khom lưng đi rón rén ra sau, quyết bắt sống kẻ địch.

Đợi hồi lâu, không thấy có ai nhảy xuống, rồi đột nhiên nghe Cố Kim Tiêu la lên trong nhà. Kha Hợp Đài kinh hãi, biết là hỏng bét, trúng kế điệu hổ ly sơn. Y lập tức chạy về, thấy Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu đang cầm nến chạy ra ngoài phòng, vẻ mặt đầy vẻ kinh hoàng.

Kha Hợp Đài cầm nến soi vào cửa sổ, bất giác giật mình. Thì ra trong phòng đầy rắn rít cóc nhái, vừa bò vừa nhảy lung tung dưới đất, trên giường, trên bàn. Trước cửa sổ còn hai cái giỏ tre, hiển nhiên là của địch thủ đựng độc vật đem tới. Tất Nhất Lôi quát mắng:

– “Con nha đầu này thật là thối tha, dám bắt vô số bà con dòng họ nhà nó đến đây.”

Dĩ nhiên chúng không biết nỗi phẫn uất trong lòng Lý Nguyên Chỉ là do Dư Ngư Đồng vô tình với nàng mà có. Chuyện này nàng cưỡng bức cũng không làm được, năn nỉ cũng vô dụng, nên lòng đầy nỗi ấm ức không nơi phát tiết. Dọc đường nàng cứ nghĩ ra những trò nghịch ngợm, quái ác để làm khó dễ ba người này. Đám rắn rít cóc nhái này là do nàng bỏ tiền ra thuê bọn trẻ bắt về.

Tuy chỉ là trò đùa con nít, nhưng cũng khiến tam ma phải nhức đầu. Chúng có nằm mơ cũng không thấy mình phải gặp nhiều rắc rối đến thế, mà nguyên do lại là tên tú tài xấu xí không chịu yêu tiểu thư con nhà đề đốc.

Bị quấy rầy ba lần bốn lượt, Quan Đông tam ma không dám nghỉ trong khách điếm nữa, dọc đường cứ tìm nông gia hay cổ miếu mà ngủ. Lý Nguyên Chỉ biết võ công mình so với chúng chênh lệch rất xa nên không dám công khai gây chuyện, chỉ nghịch ngợm đùa giỡn quái ác, hết trò này lại chế ra trò khác không chịu dừng tay.

Dù sao thì nàng cũng chỉ là một cô nương yếu đuối, đi trên con đường vạn dặm toàn những cát và cát, trong lòng thì chịu nổi khổ tương tư vò xé. May mà nàng trút được những cơn tức tưởi lên đầu bọn tam ma để giải sầu, không thì chắc chắn phải ngã bệnh dọc đường. Cứ thế mà bốn người kéo đến Hồi Cương.

Lý Nguyên Chỉ vừa kể vừa cười khúc khích, nhưng quần hùng chỉ buồn cười được nửa phần, vì phải lo lắng cho Hoắc Thanh Đồng. Trần Gia Lạc nói:

– “Chuyện không thể chậm trễ được nữa rồi. Ta lập tức đi tìm cô ấy.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Quan Đông tam ma không phải thứ thường, chớ nên khinh địch. Tổng đà chủ, hai vị đi trước đi. Lý cô nương và Thập tứ đệ đi thành đợt thứ hai. Vợ chồng thuộc hạ tiếp ứng đợt thứ ba. Tứ ca, Tứ tẩu và mọi người ở đây bao vây Trương Triệu Trọng.”

Trần Gia Lạc khen phải. Lạc Băng dẫn con ngựa trắng ra cho Trần Gia Lạc cưỡi. Hương Hương công chúa lập tức dắt con ngựa hồng đến, rồi gọi:

– “Đi thôi!”

Hai người cùng phi ngựa đi ngay. Không bao lâu Dư Ngư Đồng cùng Lý Nguyên Chỉ, Từ Thiên Hoằng cùng Chu Ỷ, hai nhóm này cũng rời khỏi doanh trại đi về hướng đông bắc. Giờ ngọ hôm ấy, những người còn lại đang nói chuyện với Mộc Trác Luân trong lều, bỗng một tên quân Hồi chạy đến báo:

– “Hòa Nhĩ Đại đã được cứu thoát, bốn chiến sĩ canh gác hắn đã bị giết!”

Mộc Trác Luân kinh hãi, cùng Văn Thái Lai đi xem xét, thấy ba người lính Hồi chết vì trúng kiếm, người thứ tư thì trước ngực còn cắm một thanh trủy thủ. Trên chuôi trủy thủ có quấn một tờ giấy, ghi mười hai chữ:

– “Trương Triệu Trọng bái tặng các vị anh hùng Hồng Hoa Hội.”

Văn Thái Lai đọc xong phẫn nộ, bất giác siết chặt tờ giấy đó trong lòng bàn tay. Vệ Xuân Hoa muốn lấy xem, Văn Thái Lai xòa tay ra thì tờ giấy đó đã nát thành bụi, bay như đàn bướm ra khỏi lều. Mộc Trác Luân cực kỳ thán phục. Lần trước giao đấu với Vô Trần đạo trưởng, ông tưởng anh hùng thiên hạ chỉ thế là cùng, nào ngờ võ công vị Văn tứ gia này còn cao cường hơn nữa.

Văn Thái Lai nói với Mộc Trác Luân:

– “Tộc trưởng ở đây bao vây quân Thanh, còn bọn tại hạ đi đuổi bắt tên gian tặc Trương Triệu Trọng.”

Mộc Trác Luân gật đầu đồng ý. Văn Thái Lai lập tức cùng Vệ Xuân Hoa, Lạc Băng, Chu Trọng Anh, Tâm Nghiễn, năm người theo dấu chân ngựa in rõ trên sa mạc mà truy đuổi suốt đêm.

* * *

Sau khi đại thắng quân Thanh, Hoắc Thanh Đồng cảm thấy trong lòng hiu quạnh, nỗi cô đơn không sao tả được. Đêm hôm đó nàng nằm trong lều suy nghĩ mông lung, nghe phía ngoài lều có người vừa kéo đàn vừa hát tình ca miên man bất tận, lại càng thêm phần thê lương. Phụ thân nghi ngờ mình, ý trung nhân lại yêu muội muội, mà muội muội là người mình yêu thương nhất, dĩ nhiên mình không tìm cách tranh đoạt người tình của nó.

Trong lúc nghĩ quẫn, nàng âm thầm thức dậy, viết thư để lại cho phụ thân, dẫn theo hai con chim ưng của sư phụ tặng, cầm đao lên ngựa đi về hướng đông bắc. Nàng định đi tìm sư phụ, cùng hai vị lão nhân phiêu bạt khắp nơi trong vùng sa mạc. Nếu không tìm thấy thì cứ vùi thân xác này trong bãi cát mênh mông cũng chẳng sao.

Bệnh tình không nhẹ, nhưng nàng đã luyện võ từ nhỏ, căn cơ rất chắc, có thể chịu đựng được. Muốn đến nơi ở của Thiên Sơn Song Ưng phải mất bốn năm ngày đường nữa. Hoắc Thanh Đồng mệt mỏi vô cùng, đêm đó tìm một cái đời cát có ít cỏ khô mà nghĩ lại. Nàng cho ngựa gặm cỏ khô, còn mình thì căng một tấm lều nhỏ để trú qua đêm.

Ngủ đến nửa đêm, nàng đột nhiên nghe thấy từ xa có tiếng vó ngựa. Ba con ngựa từ phía đông tới, đến đồi cát này cũng dừng lại gặm cỏ khô, không chịu đi nữa. Ba kỵ sĩ liền xuống ngựa nghỉ ngơi, cách một sườn đồi nên họ không thấy lều của Hoắc Thanh Đồng.

Ba người ngồi xuống nói chuyện bằng tiếng Hán. Hoắc Thanh Đồng trong lúc mơ hồ cũng không để ý lắm, nhưng đột nhiên có người cất tiếng thóa mạ:

– “Con nha đầu Thúy Vũ Hoàng Sam thật là khốn kiếp, bắt chúng ta khổ sở quá chừng.”

Hoắc Thanh Đồng giật mình liền chú ý lắng tai, nghe một người khác giận dữ nói:

– “Nếu lão gia không bắt được con giặc cái đó để rút gân lột da thì tổ tông mười tám đời của lão gia không phải họ Cố.”

Thì ra ba người này chính là Quan Đông tam ma. Chúng đuổi vào sa mạc, nghe nói quân Hồi đang giao tranh với quân Thanh ở phía tây, nên không dám tìm người Hồi để hỏi đường. Chúng đi lòng vòng trong sa mạc, nên đến đây sau Lý Nguyên Chỉ tới mười ngày. Đêm nay thật là trùng hợp, vì ngựa phải ăn cỏ nên hai bên đều nghỉ ngơi tại đó, chỉ cách nhau một sườn đồi cát mà thôi.

Hôm đó Trần Gia Lạc cấp tốc chạy tới để báo tin, nhưng mấy ngày liền quân tình khẩn cấp không có lúc nào rảnh rỗi. Hoắc Thanh Đồng lại cố ý tránh mặt nên chàng chưa nhắc tới việc Quan Đông tam ma tìm đến trả thù. Trần Gia Lạc thấy nàng ở giữa đại quân, chỉ trơ trọi có tam ma thì không đáng sợ, nên chàng thấy không cần phải nói ngay.

Hoắc Thanh Đồng nghe ba người này thóa mạ mình, ban đầu tưởng là tàn binh bại tướng của Triệu Tuệ, nhưng nghe tiếp thì hình như không phải.

Lát sau một người nói:

– “Diêm lục đệ võ công cao như thế, ta không tin một nữ nhân mà giết được y. Con mụ đó nhất định đã sử dụng quỷ kế gì đây.”

Một người khác nói:

– “Dĩ nhiên là thế, nên ta mới nhắc lão Nhị lão Tứ lần này tuyệt đối không được lỗ mãng. Người Hồi ở đây có cả ngàn cả vạn, chúng ta chỉ có thể ám toán chứ nhất định không thể công khai thách đấu với con quỷ cái đó.”

Hoắc Thanh Đồng bây giờ mới hiểu, thì ra bọn Quan Đông lục ma đã đến đây. Trong vùng sa mạc có thể nhìn xa mấy chục dặm, mà mình lại mang bệnh trong người, bất luận thế nào cũng không thể tránh né, chỉ còn cách thừa cơ mà hành sự, tìm kế để thoát thân.

Lại nghe một người nói:

– “Nước trong túi da đã vơi hẳn rồi. Không biết đi bao lâu nữa mới tìm được nguồn nước. Bắt đầu ngày mai chúng ta phải uống ít lại.”

Một lúc sau chúng đã ngáy khò khò. Hoắc Thanh Đồng quyết định:

– “Mình phải chủ động gặp chúng trước, rồi sẽ tìm cách dẫn chúng đến gặp sư phụ.”

Sáng sớm hôm sau Quan Đông tam ma thức dậy, nhìn thấy cái lều nhỏ của Hoắc Thanh Đồng đều rất kinh ngạc. Hoắc Thanh Đồng không mặc áo vàng, cái lông chim xanh trên nón đã cất đi, trường kiếm giấu trong bọc quần áo, tay không đi ra khỏi lều.

Tất Nhất Lôi thấy chỉ có một cô gái, bèn hỏi:

– “Cô nương! Cô có nước không? Chia cho chúng ta một ít đi.”

Nói xong, hắn lấy ra một thỏi bạc. Hoắc Thanh Đồng lắc đầu, tỏ ý không hiểu tiếng Hán. Kha Hợp Đài bèn dùng tiếng Mông Cổ nói một lần nữa. Ở phía bắc Thiên Sơn, người Mông Cổ và người Hồi sống lẫn lộn, trong số bộ hạ của Hoắc Thanh Đồng có người Mông Cổ. Nàng cũng biết tiếng Mông Cổ ít nhiều, bèn trả lời:

– “Nước của ta không đủ để chia. Thúy Vũ Hoàng Sam phái ta đưa một lá thư quan trọng, hôm nay ta phải trở về cấp báo. Nếu ngựa thiếu nước uống, bị khát sẽ chạy không nhanh.”

Nàng vừa nói vừa thu dọn lều trại chuẩn bị lên ngựa. Kha Hợp Đài bước tới nắm lấy dây cương ngựa của nàng, hỏi:

– “Thúy Vũ Hoàng Sam ở đâu?”

Hoắc Thanh Đồng hỏi lại:

– “Các ông hỏi cô ấy làm gì?”

Kha Hợp Đài đáp:

– “Chúng ta là bằng hữu của cô ấy, có việc quan trọng cần tìm.”

Hoắc Thanh Đồng bĩu môi một cái, nghĩ bụng:

– “Trước mặt ta mà dám nói dối!”

Nàng đáp:

– “Thúy Vũ Hoàng Sam ở Ngọc Vương Côn. Các ông đi về phía tây nam mà nói là tìm cô ấy, đừng lừa gạt người ta nữa.”

Nói xong, nàng giật cương định đi. Kha Hợp Đài kéo nàng lại hỏi:

– “Chúng ta không biết đường. Cô dẫn chúng ta đi có được không?”

Y nói với Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu:

– “Cô gái này đang tới chỗ con giặc cái kia.”

Quan Đông tam ma thấy mặt nàng như người bệnh, yếu đuối bạc nhược, vừa nói chuyện vừa không ngừng thở hổn hển. Chúng thấy nàng bất cứ lúc nào cũng có thể té xỉu, hoàn toàn không biết võ công, nên không hoài nghi chút nào. Tưởng nàng không biết tiếng Hán nên dọc đường chúng thoải mái bàn bạc, quyết định khi đến Ngọc Vương Côn sẽ giết cô gái này, sau đó mới đi tìm Thúy Vũ Hoàng Sam.

Cố Kim Tiêu thấy nàng tiều tụy nhưng vẫn có phần diễm lệ, đã nổi máu dâm. Hoắc Thanh Đồng thấy hắn cặp mắt ti hí ra vẻ bất hảo liếc mình không ngớt, bèn nghĩ:

– “Tuy chúng không nhận ra mình, nhưng tới Ngọc Vương Côn còn tới bốn năm ngày đường. Mấy ngày cùng đi với ba tên ma đầu thật là nguy hiểm!”

Nàng bèn xé một miếng vải hoa trên áo buột vào chân một con chim ưng, lấy một miếng thịt dê cho nó ăn rồi thả bay lên không trung. Con chim ưng đó vỗ cánh bay đi ngay. Tất Nhất Lôi nảy dạ nghi ngờ, bèn hỏi:

– “Cô làm gì vậy?”

Hoắc Thanh Đồng lắc đầu. Kha Hợp Đài dùng tiếng Mông Cổ hỏi lại, nàng mới đáp:

– “Từ đây đi tiếp bảy tám ngày nữa mới gặp nguồn nước. Các ông mang theo ít nước, làm sao đủ uống? Ta thả chim ưng để nó tự bay đi tìm nước.”

Nói xong, nàng thả nốt con chim ưng kia. Kha Hợp Đài hỏi:

– “Hai con chim ưng này thì uống được bao nhiêu nước?”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Khi sắp chết khát thì một giọt nước cũng có thể cứu mạng. Mấy ngày nữa các ông sẽ biết.”

Nàng sợ chúng hạ độc thủ, bèn cố ý nói đường xa hơn. Kha Hợp Đài lẩm bẩm trong miệng:

– “Ở Mông Cổ chúng ta, dù ở giữa sa mạc cũng không có con đường nào bảy tám ngày liền không tìm được nước. Đây thật là một địa phương quỷ quái.”

Đến tối, cả bốn người đốt lửa ngủ lại trên sa mạc. Dưới ánh lửa bập bùng Hoắc Thanh Đồng thấy cặp mắt Cố Kim Tiêu không ngớt liếc mình, không khỏi kinh hãi. Nàng vào lều của mình, rút kiếm cầm sẵn trên tay, cột chặt cửa lều, tuyệt không dám ngủ. Đến canh hai, quả nhiên nghe tiếng chân rón rén. Tim nàng đập mạnh, mồ hôi lạnh ướt lưng, nghĩ bụng:

– “Ta vừa tiêu diệt mấy vạn Thanh binh, chỉ mong đừng bị báo ứng bởi tay ba con ma này.”

Đột nhiên nàng nghe ớn lạnh, một cơn gió rét từ bên ngoài thổi vào. Thì ra Cố Kim Tiêu đã cắt đứt sợi dây vải cột lều, chui vào bên trong. Hắn sợ Hoắc Thanh Đồng kêu cứu, lão Đại lão Tứ nghe thấy thì chẳng hay gì, nên vừa chui vào là đưa tay định bịt miệng nàng ngay. Nào ngờ hắn bịt vào khoảng trống, trong chăn không có người nằm. Một bên cổ hắn tự nhiên lạnh buốt, cảm giác một thứ binh khí cực kỳ sắc bén đã kề sát vào. Hoắc Thanh Đồng dùng tiếng Hán nói rất nhỏ:

– “Ngươi động đậy một chút là ta phải đâm ngay.”

Cố Kim Tiêu tuy võ nghệ đầy mình, nhưng lúc này chỗ yếu hại đã bị kiềm chế, không dám phản kháng chút nào. Hoắc Thanh Đồng bảo:

– “Nằm sát xuống đất!”

Cố Kim Tiêu vâng lời nằm rạp xuống. Hoắc Thanh Đồng ngồi dưới đất, kề mũi kiếm vào hậu tâm hắn. Hai người cứ giữ tư thế đó không động đậy. Hoắc Thanh Đồng nghĩ:

– “Nếu mình giết thằng khốn này hoặc chặt cụt tay chân của hắn, chắc chắn hai tên kia sẽ không tha mình. Phải đợi sư phụ đến cứu rồi sẽ tính kế sau.”

Một canh sau, Tất Nhất Lôi giữa đêm chợt tỉnh, phát hiện Cố Kim Tiêu không có trong lều. Hắn nhảy chồm dậy, gọi lớn:

– “Lão Nhị! Lão Nhị!”

Hoắc Thanh Đồng khẽ bảo:

– “Trả lời đi, nói là ở đây!”

Cố Kim Tiêu không làm gì được, đành phải kêu lên:

– “Lão Đại! Ta ở đây này.”

Tất Nhất Lôi vừa cười vừa mắng:

– “Cái thằng giặc này, phong lưu đến chết cũng không chừa. Ngươi biết hưởng phước lắm!”

Sáng hôm sau, Hoắc Thanh Đồng đợi đến khi Tất Nhất Lôi và Kha Hợp Đài đứng ngoài hối thúc không ngừng mới chịu thả Cố Kim Tiêu ra. Kha Hợp Đài trách móc:

– “Lão Nhị! Chúng ta đến đây là để trả thù chứ không phải làm chuyện bậy bạ đâu nhé.”

Cố Kim Tiêu hận đến ngứa ngáy cả tay chân, khổ sở mà không dám nói ra. Chuyện xúi quẩy này mà bị người ta biết thì thật là nhục nhã suốt đời. Hắn quyết chí đêm nay phải thoả lòng mong ước, đạt được mục đích rồi sẽ đâm cho cô ả một dao. Đợi đến nửa đêm, Cố Kim Tiêu tay phải cầm cây điệp hổ xoa, tay trái cầm mồi lửa đi vào trong lều, nghĩ bụng:

– “Cho dù con bé này biết võ, chẳng lẽ ba chiêu hai thức mà ta không bắt được nó?”

Dưới ánh lửa hắn thấy nàng nằm rúc trong một góc lều, lập tức khoái chí phóng qua, nhưng đột nhiên thấy vướng dưới chân. Hắn thầm kêu:

– “Hỏng bét!”, muốn nhảy ra ngoài lều nhưng hai chân đã bị thòng lọng dưới đất thít lại. Hắn khom lưng xuống muốn tìm lấy sợi dây, nhưng đã bị Hoắc Thanh Đồng dùng sức giật mạnh, đứng không vững té nhào xuống đất, ngửa mặt lên trời. Sau đó hắn nghe mỹ nhân quát khẽ:

– “Không được động đậy.”, mũi trường kiếm nhọn hoắt đã kề vào bụng dưới.

Hoắc Thanh Đồng nghĩ:

– “Nếu phải thức trắng như đêm qua thì mình không chịu nổi nữa. Nhưng không thể giết một mình hắn, mà phải đồng thời giết cả ba tên.”

Nàng bèn hạ lệnh:

– “Gọi lão Đại của người qua đây!”

Cố Kim Tiêu là tay lão luyện giang hồ, biết dụng ý của nàng nên không lên tiếng. Hoắc Thanh Đồng nhấn tay một chút, mũi kiếm xuyên thủng qua áo, rạch đứt một vệt da. Cố Kim Tiêu biết bị đâm vào bụng là đau khổ nhất, muốn lành thì không lành được, muốn chết lại không thể chết ngay. Vì thế hắn không dám chống cự, chỉ khẽ nói:

– “Y không chịu qua đâu.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Được! Vậy ta phải đâm chết ngươi rồi sẽ tính sau.”

Nàng lại nhấn tay thêm chút nữa. Cố Kim Tiêu đành phải la lên:

– “Lão Đại! Huynh qua đây! Mau mau qua đây!”

Hoắc Thanh Đồng khẽ bảo:

– “Ngươi cười lên!”

Cố Kim Tiêu nhăn nhó khổ sở, rặn ra hai tiếng cười khan. Hoắc Thanh Đồng bảo:

– “Ráng cười vui vẻ hơn.”

Cố Kim Tiêu mắng thầm:

– “Con mẹ nó! Lúc này mà vui vẻ cái nỗi gì?”

Nhưng mũi kiếm nhọn đã bắt đầu xuyên thủng thịt, hắn chỉ còn cách gắng gượng cười lên ha hả, nửa đêm nghe giống hệt tiếng cú kêu. Tất Nhất Lôi và Kha Hợp Đài bị tiếng cười đánh thức. Tất Nhất Lôi quát tháo:

– “Lão Nhị, đừng vui vẻ nữa. Nghỉ ngơi dưỡng sức đi!”

Hoắc Thanh Đồng thấy hắn không chịu qua, lại khẽ bảo:

– “Gọi lão Tứ tới!”

Cố Kim Tiêu lại kêu gọi mấy tiếng. Kha Hợp Đài tuy sống bằng nghề cướp bóc, nhưng không bức hiếp người già phụ nữ. Y hết sức bất mãn hành vi của Cố Kim Tiêu, nhưng là chỗ huynh đệ kết nghĩa nên không thể nói gì, lúc này chỉ biết giả bộ không nghe.

Hoắc Thanh Đồng nghiến chặt răng, nghĩ thầm:

– “Khi ta thoát nạn, không giết chết ba tên gian tặc này thì không sao giải được mối nhục hôm nay.”

Tay phảu nàng vẫn giữ kiếm uy hiếp, tay trái dùng dây trói gô Cố Kim Tiêu lại, buộc nút thật chặt. Bấy giờ nàng mới yên tâm ngồi tựa vách lều mà ngủ, không dám nằm xuống. Cứ thế đến sáng hôm sau, Cố Kim Tiêu đang nhắm mắt thiếp đi thì Hoắc Thanh Đồng vung roi ngựa quất loạn xạ, mũi kiếm vẫn kề ngay tim hắn, dọa hễ rên một tiếng là giết chết ngay. Cố Kim Tiêu mặt mày bê bết máu, nhưng vẫn phải nghiến răng nghiến lợi chịu đau.

Hoắc Thanh Đồng nghĩ bụng:

– “Việc này bị lộ rồi, nhưng nếu giết hắn thì lập tức gặp họa ngay, đành phải cho hắn sống thêm mấy bữa. Tính ra thì chiều nay sư phụ chắc chắn sẽ đến đây.”

Nàng còn chém thêm một kiếm vào tay trái hắn rồi mới cởi trói, xô hắn ra khỏi lều. Tất Nhất Lôi thấy người hắn vấy đầy máu, sinh nghi bèn hỏi:

– “Lão Nhị! Con bé đó là người của phe nào vậy? Coi chừng trúng kế.”

Cố Kim Tiêu nghĩ:

– “Con quỷ cái đó đang bệnh mà cũng đủ sức kéo ngã mình. Nó mang theo kiếm, lại biết nói tiếng Hán, chắc chắn không phải là một con bé người Hồi tầm thường.”

Hắn bèn nháy mắt với Tất Nhất Lôi một cái, khẽ bảo:

– “Chúng ta đi bắt nó đi.”

Hai người từ từ đến gần lều. Hoắc Thanh Đồng thấy thái độ bọn chúng khác thường, bèn đột ngột chạy tới chỗ con ngựa của mình. Nàng rút trường kiếm ra đâm thủng ngay túi da đựng nước đang treo trên ngựa của Kha Hợp Đài và Cố Kim Tiêu, sau đó cắt rơi cái túi nước to nhất đang treo trên lưng ngựa của Tất Nhất Lôi, chụp lấy rồi nhảy lên lưng ngựa.

Tam ma ngẩn ra mà nhìn hai túi nước chảy tuôn xuống đất, bị cát vàng hút sạch trong nháy mắt. Trong sa mạc này, hai túi nước đó còn quí trọng hơn hai túi châu báu. Bọn chúng vừa lo lắng vừa tức giận, xách binh khí xông tới định chém giết.

Hoắc Thanh Đồng nằm rạp xuống cổ ngựa, vừa không ngừng ho hắng vừa kêu lên:

– “Các ông mà bước tới thì ta lại đâm thêm một kiếm.”

Mũi kiếm đang chỉ vào túi nước cuối cùng, quả nhiên Quan Đông tam ma phải dừng lại, không động đậy.

Hoắc Thanh Đồng ho một chập rồi nói:

– “Ta có hảo ý dẫn các ông đi gặp Thúy Vũ Hoàng Sam, thế mà các ông lại định bức hiếp ta. Từ đây tới chỗ có nguồn nước còn sáu ngày đường nữa. Nếu các ông không chịu tha ta, ta sẽ đâm thủng cái túi nước này cho mọi người cùng chết khô trong sa mạc.”

Quan Đông tam ma nhìn nhau không biết nói gì, chỉ thầm thóa mạ con bé này ác độc. Tất Nhất Lôi nghĩ:

– “Tạm thời phải đồng ý với nó, đợi qua khỏi sa mạc rồi sẽ xử trí sau.”

Hắn bèn nói:

– “Chúng ta không làm khó dễ cô nữa. Mọi người đi thôi.”

Hoắc Thanh Đồng bảo:

– “Các ông đi trước đi.”

Thế là ba nam nhân đi trước, một thiếu nữ đi sau, bốn người tiếp tục cuộc hành trình trong vùng đại mạc. Tới giờ ngọ ánh nắng chói chang, bốn người đều môi cháy lưỡi khô.Hoắc Thanh Đồng thấy trước mặt đầy sao nhấp nháy ,trong đầu buốt nhói từng cơn chỉ muốn té xuống ngất đi, bụng đã nghĩ:

– “Chẳng lẽ hôm nay ta phải mất mạng ở đây hay sao?”

Bỗng nàng nghe Kha Hợp Đài gọi:

– “Này, cho ta chút nước uống.”

Y đang quay lại, tay cầm một cái bát sành. Hoắc Thanh Đồng cố trấn tĩnh tinh thần để nói:

– “Đặt bát dưới đất!”

Kha Hợp Đài tuân lời, để cái bát trên mặt cát. Hoắc Thanh Đồng lại nói:

– “Các ông lùi xa một trăm bước.”

Cố Kim Tiêu có vẻ ngần ngừ, Hoắc Thanh Đồng gắt ngay:

– “Không lùi ra thì không cho nước.”

Cố Kim Tiêu lầm bầm thóa mạ, nhưng cuối cùng ba người cũng phải lùi lại. Hoắc Thanh Đồng cho ngựa bước lên, rút nút túi da, rót ra nửa bát nước rồi thúc ngựa lùi lại. Ba người chạy tới, mỗi người nửa hớp là cái bát không còn một giọt.

Bốn người đi tiếp chừng hai giờ nữa, bên đường bỗng nhiên xuất hiện một bụi cỏ xanh. Mắt của Tất Nhất Lôi sáng rực lên, lớn tiếng reo:

– “Phía trước nhất định có nước.”

Hoắc Thanh Đồng âm thầm kinh hãi, cố gắng tìm biện pháp nhưng không sao suy nghĩ được. Nàng đang lo lắng thì đột nhiên nghe thấy tiếng chim ưng rít trên trời. Bóng đen vừa nhấp nháy, một con chim ưng lớn đã phóng xuống. Hoắc Thanh Đồng cả mừng đưa cánh tay trái ra cho nó đậu lên. Nàng thấy trên đùi chim ưng có cột một mảnh vải đen, biết sư phụ sẽ tới ngay, mừng quá bất giác hoa mắt, trước mặt tối đen.

Tất Nhất Lôi biết là có chuyện, bèn vẫy tay phóng một mũi tụ tiễn tới tay phải nàng, hy vọng đánh rơi trường kiếm rồi sẽ xông tới đoạt lấy túi nước. Hoắc Thanh Đồng múa kiếm gạt được tụ tiễn, tay trái giật cương tung ngựa vọt đi. Quan Đông tam ma lớn tiếng hò hét, lập tức đuổi theo. Chạy được bảy tám dặm thì Hoắc Thanh Đồng bủn rủn cả người, không gượng được nữa. Con ngựa chồm lên một cái, nàng ngã ngay xuống đất.

Tam ma mừng rỡ, giục ngựa chạy tới. Hoắc Thanh Đồng giãy giụa, muốn leo lên lưng ngựa, nhưng tay chân không còn chút sức nào. Nàng bỗng nảy ra một ý, liền lấy sợi dây cột vào túi nước quàng vào cổ con chim ưng, thả nó bay lên, miệng huýt sáo ra lệnh.

Những con chim ưng này đã được Thiên Sơn Song Ưng huấn luyện từ nhỏ, dùng để truyền tin hoặc đi săn. Cũng vì thích nuôi chim ưng mà vợ chồng họ có ngoại hiệu như thế. Con chim ưng của Hoắc Thanh Đồng vừa nghe tiếng huýt sáo là lập tức bay về phía Thiên Sơn Song Ưng, mang theo túi nước.

Thấy túi nước duy nhất bay lên trời, Tất Nhất Lôi lo lắng vô cùng. Hắn quay đầu ngựa lại rượt theo con chim ưng. Cố Kim Tiêu và Kha Hợp Đài cũng nghĩ, dù sao thì con nha đầu này cũng không chạy thoát được, đuổi theo chim ưng lấy lại túi nước mới là quan trọng. Vì thế chúng cũng giục ngựa đuổi theo.

Cố Kim Tiêu lấy ra một cây xoa nhỏ, toan phóng lên con chim ưng. Bỗng hắn nghe tiếng roi da quát vào một phát, cổ tay đau nhói lên, ngọn tiểu xoa rơi xuống đất. Thì ra Kha Hợp Đài vừa dùng roi ngựa đánh hắn. Cố Kim Tiêu giận dữ hỏi:

– “Ngươi làm gì vậy?”

Kha Hợp Đài hỏi lại:

– “Nếu phóng xoa trúng vào túi nước, thì chúng ta còn mạng hay không?”

Cố Kim Tiêu nghĩ lại thấy đúng, bèn cúi rạp xuống yên ngựa mà phi gấp rút. Hắn xuất thân là ăn cắp ngựa ở Liêu Đông, cưỡi ngựa rất giỏi, chốc lát đã qua mặt Tất Nhất Lôi. Trong túi còn phân nửa nước, không phải là nhẹ. Vì thế mà chim ưng bay không được nhanh, nhưng ba con ngựa cũng không thể đuổi kịp, khoảng cách chẳng rút ngắn được bao nhiêu.

Ba người đuổi gấp được mười mấy dặm thì ngựa đã đuối sức, rõ ràng không sao đuổi kịp được nữa. Đột nhiên con chim ưng đang bay trên trời bỗng sà thẳng xuống như một tảng đá. Phía trước có bụi bốc lên, hai kỵ sĩ đang phi nhanh tới. Con chim ưng lượn hai vòng trên trời, rồi đậu lên vai một người.

Quan Đông tam ma thúc ngựa chạy lên, nhìn thấy hai người thì một là ông lão đầu trọc mặt đỏ, một là lão bà đầu tóc bạc phơ. Ông giận dữ quát hỏi:

– “Hoắc Thanh Đồng đâu?”

Tam ma ngơ ngác không trả lời. Ông lão bèn tháo túi nước trên cổ con chim ưng ra, thả nó bay lên không trung. Ông huýt sáo một tiếng, con chim ưng cũng rít lên một tiếng rồi bay ngược lại hướng vừa rồi.

Hai lão nhân không đếm xỉa gì đến tam ma nữa, cứ giục ngựa chạy theo con chim ưng. Tất Nhất Lôi biết họ đi cứu cô gái Hồi tộc đó, nhưng hắn ỷ mình võ nghệ cao cường nên không để ông bà già này vào mắt, hơn nữa túi nước đã bị họ mang đi, không thể không đoạt lại. Vì thế hắn giơ tay lên, cả ba cùng đuổi theo sau.

Hai lão nhân này chính là Thiên Sơn Song Ưng. Trong chốc lát họ đã vượt qua mười mấy dặm đường, rồi con chim ưng từ trên trời phóng xuống chỗ Hoắc Thanh Đồng đang nằm dưới đất. Quan Minh Mai lập tức phi thân xuống đất, chạy tới. Hoắc Thanh Đồng tựa vào lòng bà, bật khóc ngay.

Thấy đồ đệ cưng trông thê thảm thế này, Quan Minh Mai kinh hãi hỏi:

– “Ai bức hiếp con?”

Lúc này Quan Đông tam ma đã đuổi gần tới nơi. Hoắc Thanh Đồng chỉ về phía bọn chúng rồi ngất xỉu tại chỗ. Quang Minh Mai dữ dội hét lên:

– “Lão già kia! Còn chưa ra tay ư?”

Tay trái bà ôm lấy Hoắc Thanh Đồng, tay phải mở nút túi nước, từ từ rót nước vào miệng của nàng. Trần Chính Đức nghe vợ mình kêu réo, biết ba tên đó là địch. Ông lập tức quay đầu ngựa lại chạy về hướng tam ma, lúc chạy đến gần vươn dài cánh tay toan nắm lấy cương ngựa của Kha Hợp Đài. Kha Hợp Đài dùng thủ thức của đô vật để chống đỡ, đập trúng cổ tay ông một cái.

Cổ tay của Trần Chính Đức tê đi một chút, trong lòng không khỏi kinh ngạc, thì ra tên này xuất thủ đã nhanh mà kình lực cũng không nhỏ. Ông không đợi địch thủ quay đầu ngựa lại, lập tức nhảy lên không trung, bay qua đầu y ra phía sau lưng. Kha Hợp Đài vội đưa tay trái ra đỡ, tay phải xoay ngược lại toan nắm lấy ngực đối phương. Trần Chính Đức quát lên một tiếng, vỗ một chưởng xuống trúng ngay vào vai y.

Kha Hợp Đài rung chuyển cả người, ngồi trên yên không vững nữa, té nhào xuống ngựa. Tất Nhất Lôi cùng Cố Kim Tiêu kinh hãi, đồng thời xông tới cứu. Nhưng Kha Hợp Đài vừa rớt xuống ngựa đã lộn đi một vòng đứng vững dưới đất, trong tay đã xuất hiện một lưỡi trủy thủ, lại phóng lên phía trước.

Trần Chính Đức dùng tay trái xuất hư chiêu về phía mặt Cố Kim Tiêu, tay phải chụp lấy cây cương xoa trong tay hắn toan giật lấy. Cố Kim Tiêu thấy cổ tay tê chồn, lập tức phóng hai cây tiểu xoa bên tay trái ra. Tay trái hắn đã bị thương nên tiểu xoa phóng ra không có sức, nhưng Trần Chính Đức cũng phải cúi người xuống tránh, cây điệp hổ xoa bị họ Cố đoạt trở về.

Trần Chính Đức nghĩ bụng:

– “Không hiểu ở đâu chui ra ba thằng tạp chủng này, võ công không tệ chút nào. Hèn chi đồ đệ mình bị thua thiệt về tay bọn chúng.”

Sau gáy ông bỗng nghe tiếng vù vù, độc cước đồng nhân đang quét tới. Trần Chính Đức xoay người lại, khom xuống dùng song chưởng đánh vào hạ bàn của Tất Nhất Lôi. Họ Tất thu đồng nhân lại, đâm tới huyệt Ngọc Chẩm của ông già. Trần Chính Đức kinh hãi “úi chà” một tiếng, nhảy lùi lại hai bước rồi hỏi:

– “Ngươi điểm huyệt ta đấy ư?”

Tất Nhất Lôi đáp gọn:

– “Không sai!”

Hắn lại xoay đồng nhân điểm vào huyệt Vân Môn trên vai đối thủ. Đồng nhân chỉ có một chân, nhưng có đủ hai tay. Khi hai tay đưa lên đỉnh đầu thì nhập vào nhau, nếu điểm trúng huyệt thì cực kỳ lợi hại. Cây đồng nhân này rất nặng, ngoài điểm huyệt ra, còn có thể quét ngang đánh thẳng so với búa sắt hoặc cương tiên còn hung hãn hơn nhiều.

Trần Chính Đức nghĩ bụng:

– “Những loại võ khí dùng để điểm huyệt trong võ lâm, bất kể là phán quan bút, bế huyệt quyết, hay điểm huyệt cương hoàn, thứ nào cũng phải nhẹ nhàng để biến thế cho linh hoạt, nhận huyệt cho chính xác. Tên này lại sử dụng một thứ vũ khí nặng nề như thế để điểm huyệt, đương nhiên phải là kình địch.”

Ông bèn tập trung hết tinh thần, hai bàn tay không nào điểm, nào vỗ, nào chụp, khi quyền khi chưởng ác đấu với ba đối thủ. Quang Minh Mai thấy Hoắc Thanh Đồng từ từ tỉnh lại, lòng đã hơi yên, quay lại nhìn thấy chồng mình ở thế hạ phong. Trường kiếm của Trần Chính Đức cài trên lưng ngựa chưa kịp lấy ra. Lúc ông ta nhảy tới, con ngựa đã giật mình chạy ra xa mười trượng. Ông lại ngạo mạn, hiếu thắng không chịu chạy đi lấy kiếm, cứ dùng tay không đấu với ba hảo thủ nên dần dần không chống nổi.

Quang Minh Mai bèn rút trường kiếm ra nhảy vào vòng chiến, xuất chiêu Sắc Phong Cuồng Tiêu đâm tới sau lưng Tất Nhất Lôi. Họ Tất vội quay đồng nhân lại đỡ. Quang Minh Mai không sử hết chiêu đã biến thế ngay, đâm soạt soạt liền ba nhát nhanh như điện chớp.

Tất Nhất Lôi chưa đến vùng tây bắc, chưa nghe nói đến Tam Phân Kiếm Thuật bao giờ, vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, thầm nghĩ:

– “Tại sao kiếm pháp của bà già ốm yếu này lại lợi hại đến thế?”

Hắn chỉ còn cách bảo vệ chặt phía trước để đợi xem có thay đổi gì nữa hay không. Quan Minh Mai đâm liền ba kiếm, chiêu sau nhanh hơn chiêu trước, đây là tuyệt chiêu Mục Vân Bá Tuấn Âm Dao Trì của Tam Phân Kiếm Thuật. Bà thấy Tất Nhất Lôi tuy tay chân bối rối nhưng vẫn cố gắng ngăn đỡ được, bất giác âm thầm khen giỏi.

Trần Chính Đức bớt được một kình địch, lập tức chiếm thế thượng phong. Ông múa tít song chưởng, chiêu nào cũng nhằm vào chỗ yếu hại của địch thủ, rồi đột nhiên cúi xuống nhặt lấy hai cây tiểu xoa của Cố Kim Tiêu vừa bắn rơi xuống đất. Ông có binh khí trong tay giống như hổ thêm cánh, thi triển ngay những chiêu thức của Nga Mi thích mà tấn công, đánh luôn bảy tám chiêu nhanh như điện chớp về phía Kha Hợp Đài. Nghe “soẹt” một tiếng, tay trái của Kha Hợp Đài trúng xoa, trên vai bị vạch đứt một đường dài.

Cố Kim Tiêu thấy tình hình bất lợi, đột nhiên bỏ chạy về phía Hoắc Thanh Đồng. Trần Chính Đức kinh hãi, lập tức bỏ mặc Kha Hợp Đài, chạy tới để cản trở. Ngươi còn chưa tới, tiểu xoa đã rời khỏi tay, bay thẳng về phía hậu tâm của Cố Kim Tiêu.

Cố Kim Tiêu đưa tay trái ra muốn đón lấy tiểu xoa, nào ngờ cây tiểu xoa này lực đạo rất mạnh. Tuy hắn đã vớ được đuôi xoa, nhưng không đủ sức nắm chặt, phải khuỵu gối xuống cho ngọn tiểu xoa bay vèo qua đỉnh đầu.

Khi hắn đứng dậy thì Trần Chính Đức đã chạy tới nơi. Kha Hợp Đài vội chạy theo tương trợ, lấy hai chọi một mà vẫn không sao chống nổi. Bên này Tất Nhất Lôi tự thân lo còn chưa xong, nói gì đến chuyện cứu viện nhau. Hoắc Thanh Đồng ngồi phệt xuống đất, thấy sư phụ và sư công chắc thắng nên rất hoan hỉ. Năm người đều dùng binh khí, càng đánh càng quyết liệt.

Đột nhiên xa xa vọng đến những tiếng hú dài của dã thú. Thanh âm thê thảm khốc liệt, đầy vẻ sợ hãi đói khát, lại có phần tàn nhẫn hung ác, giống như hàng trăm con thú cùng hú vang rất lâu không dứt. Hoắc Thanh Đồng vội vã đứng dậy, kinh hãi la lên:

– “Sư phụ! Sư phụ nghe…”

Thiên Sơn Song Ưng đang đánh tới lúc cao hứng, nhưng vừa nghe thấy tiếng tru đó là đồng thời bước lui mấy bước, nghiêng đầu nghe ngóng. Quan Đông tam ma đang bị ép đến bối rối tay chân, mấy lần gặp nguy hiểm. Đội nhiên thấy địch thủ buông tay, chúng chỉ lo điều hòa hơi thở, không dám tiến lên đuổi đánh.

Tiếng tru càng lúc càng vang dội, rồi xa xa đã thấy một đám đen sì chạy ào tới như một đám mây, tiếng ồn như sấm từ đó phát ra. Thiên Sơn Song Ưng biến hẳn sắc mặt. Trần Chính Đức chạy đi dắt hai con ngựa tới, Quang Minh Mai bế Hoắc Thanh Đồng dậy đặt lên lưng ngựa.

Trần Chính Đức tung người nhảy lên đứng trên yên con ngựa kia, gọi lớn:

– “Bà lên đây xem thử, tìm chỗ tạm thời tránh né!”

Quang Minh Mai để Hoắc Thanh Đồng ngồi vững xong, lập tức nhảy qua lưng ngựa của Trần Chính Đức. Họ Trần chắp hai tay đưa lên khỏi đỉnh đầu, đứng thẳng dậy. Quang Minh Mai nhảy lên đứng trên vai phu quân, rồi lộn người đứng lên trên hai bàn tay đang giơ cao của ông ấy.

Quan Đông tam ma thấy địch thủ đang thắng thế rõ ràng mà đột nhiên dừng tay ngừng đánh, lại biểu diễn thân pháp Điệp La Hán trên lưng ngựa. Chúng bất giác ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu gì cả. Cố Kim Tiêu la lên:

– “Chắc hai lão già này sử dụng yêu pháp gì đây.”

Tất Nhất Lôi thấy hai lão nhân kinh hãi thật sự không phải giả vờ, biết là có chuyện gì kỳ lạ sắp xảy ra. Nhưng hắn không sao đoán được là chuyện gì, chỉ còn cách hết sức đề phòng.

Quang Minh Mai giương mắt nhìn quanh rồi hô lớn:

– “Ở phía bắc hình như có hai cây to.”

Trần Chính Đức vội nói:

– “Bất luận là đúng hay không, chúng ta phải chạy gấp tới đó.”

Quang Minh Mai nhảy qua ngồi chung ngựa với Hoắc Thanh Đồng, hai lão nhân lập tức giật cương chạy về hướng bắc, không đếm xỉa gì đến tam ma nữa. Kha Hợp Đài thấy họ vội vã chạy đi không mang theo túi nước, bèn cúi người nhặt lên. Bây giờ tiếng gào thét lại càng vang dội, nghe mà kinh tâm động phách. Cố Kim Tiêu bỗng hét lên:

– “Bầy sói…”

Hắn mới nói được hai chữ, sắc mặt đã xám xịt như người chết. Tam ma lập tức nhảy lên ngựa phi theo Song Ưng. Chúng chạy một lúc, đã phân biệt rõ sau lưng có tiếng cọp gầm, tiếng sói tru, còn tiếng chân chạy rầm rập thì vô cùng khủng khiếp. Quay lại nhìn giữa đám bụi mù dày đặc thấy vô số hổ báo, lạc đà, dê cừu, ngựa hoang thi nhau mà chạy bán mạng. Phía sau chúng là cả một mảng lớn màu xám tro, không hiểu là mấy ngàn hay mấy vạn con sói đói đang rượt theo.

Phía trước bầy thú lại có một người đang cưỡi ngựa chạy nhanh. Con ngựa đó rất tốt, chạy trước bầy hổ báo mấy chục trượng, cứ như đang dẫn đường cho chúng vậy. Trong nháy mắt con ngựa đó đã chạy tới nơi. Tam ma thấy kỵ sĩ mặc y phục màu xám, nhưng bụi cát bay mù nên áo xám đã biến thành màu vàng, mặt mũi không sao nhìn rõ được, hình như cũng là một ông lão.

Lão quay đầu lại, la lớn:

– “Muốn chết hay sao? Chạy nhanh lên đi!”

Con ngựa của Tất Nhất Lôi nhìn thấy vô số thú dữ chạy tới, hoảng sợ đến nỗi bốn vó nhũn ra, ngã khuỵu ngay tại chỗ, hất chủ nhân văng ra đất. Mười mấy con hổ báo nhảy ào ào qua mình hắn. Đám hổ báo này cũng chạy trối chết, không nghĩ gì đến chuyện bắt người nữa.

Tất Nhất Lôi thấy rõ tính mạng mình chỉ còn trong khoảnh khắc, vội mở miệng ra gào thét điên cuồng. Hai người Cố, Kha nghe thấy tiếng kêu liền quay ngựa lại cứu, nhưng bầy sói đói đã ào tới nơi như sóng thủy triều. Tất Nhất Lôi đưa cây đồng nhân ra hộ thân, cũng biết là vô dụng, nhưng dù sao thì trước khi chết cũng phải giãy giụa chút ít. Hắn đã nhìn rõ một con sói lớn há rộng hàm răng trắng nhởn nhảy sổ vào mình, thì bỗng nghe tiếng vó ngựa vang lên bên cạnh.

Ông lão áo xám đã phi ngựa tới, đưa tay túm được cổ áo rồi xách bổng thân thể mập mạp của hắn lên, ném về phía ngựa của Kha Hợp Đài. Tất Nhất Lôi thi triển khinh công, lộn người trên không một cái đã ngồi vững sau lưng họ Kha. Ba người lại quay đầu ngựa mà chạy như điên.

Ở phía trước, Thiên Sơn Song Ưng cùng Hoắc Thanh Đồng cũng quất ngựa mà phi như bay. Họ sống ở vùng sa mạc này rất lâu, biết không có gì hung ác hơn bầy sói này. Bất kể là loài mãnh thú lợi hại như thế nào, hễ gặp bầy sói là không sao sống sót. Chạy thêm một hồi, quả nhiên trước mặt có hai gốc cây to. Thiên Sơn Song Ưng thầm la lên:

– “May thật! Lần này chúng ta chưa đến nỗi làm thức ăn cho sói đói…”

Chạy đến gần, Trần Chính Đức nhảy lên cây, Quang Minh Mai đưa Hoắc Thanh Đồng lên. Trần Chính Đức đón lấy, đỡ nàng ngồi lên một cành trên cao. Chỉ chốc lát mà bầy sói đã đến gần hơn, Quang Minh Mai vội cầm roi quất mạnh hai con ngựa, kêu lớn:

– “Tự mình chạy trốn đi! Ta không lo nổi cho bọn mi nữa.”

Hai con ngựa bèn cuốn vó chạy ngay. Ba người vừa yên ổn trên cây, bầy sói đã chạy gần tới nơi. Nhìn thấy ông lão áo xám dẫn đầu, Quang Minh Mai kinh hãi đến thất sắc, kêu lên:

– “Đúng là huynh ấy.”

Trần Chính Đức cũng hét:

– “Ừ! Đúng là y.”

Ông liếc qua thấy vợ mình đầy vẻ lo âu, bất giác tức giận nói:

– “Nếu ta gặp nguy hiểm như vậy, chưa chắc bà đã lo lắng đến thế.”

Quang Minh Mai giận dữ nói:

– “Bây giờ mà còn ghen tuông gì nữa? Mau mau cứu người đi.”

Bà dùng tay phải bám lấy cành cây, thòng người xuống. Trần Chính Đức “hứ” một tiếng, nhưng cũng đưa tay phải nắm lấy tay trái của bà, hai người đu đưa trên cành cây lấy đà. Lúc ông lão áo xám chạy ngang, Trần Chính Đức phóng mạnh ra, ôm lấy hông mà xách lão lên cành cây.

Ông lão kia chưa kịp phản đối thì thân thể đã lơ lửng trên không, con ngựa của mình đã chạy thẳng về phía trước, dưới chân toàn là hổ báo dê cừu. Lão lộn người một cái đã ngồi trên cành cây, liếc xéo Thiên Sơn Song Ưng một cái.

Trần Chính Đức ngạc nhiên hỏi:

– “Cái gì? Viên huynh cũng sợ sói đói hay sao?”

Ông lão kia giận dữ quát:

– “Ai bảo huynh nhiều chuyện?”

Quang Minh Mai nói:

– “Này! Phu quân của ta vừa cứu huynh, thế mà huynh còn nói lung tung được ư?”

Nghe vợ bênh mình, Trần Chính Đức hết sức đắc ý. Ông lão kia lạnh nhạt nói:

– “Cứu ta ư? Các vị làm hỏng đại sự của ta thì có.”

Trần Chính Đức bật cười:

– “Huynh bị bầy sói làm cho hoảng sợ đến nỗi hồ đồ rồi phải không? Nghỉ ngơi một lát đi.”

Ông lão kia nổi giận quát lên:

– “Viên mỗ mà sợ cái lũ súc sinh đó hay sao?”

Ông lão áo xám này chính là Thiên Trì Quái Hiệp Viên Sĩ Tiêu, sư phụ của Trần Gia Lạc. Thuở bé lão chơi rất thân với Quang Minh Mai. Hai người có tình thanh mai trúc mã, cùng nhau lớn lên, từ nhỏ đã có tình ý. Nhưng tính tình họ Viên có phần cổ quái nên hai người rất thường cãi nhau.

Nghe một câu không thuận tai, Viên Sĩ Tiêu bỏ vào sa mạc, mười mấy năm trời không quay về, tuyệt vô âm tín. Quang Minh Mai cho rằng ông vĩnh viễn không trở lại, bèn nhận lời lấy Trần Chính Đức. Không ngờ bà lấy chồng chưa được bao lâu, Viên Sĩ Tiêu đột nhiên trở về quê. Hai người gặp nhau vô cùng ủ rũ, nhưng chỉ là chuyện đã rồi.

Trần Chính Đức hết sức bất mãn, đi tìm Viên Sĩ Tiêu để nói chuyện phải trái, nhưng võ công không bằng người ta. Nếu Viên Sĩ Tiêu không nể mặt Quang Minh Mai mà hạ thủ lưu tình, thì họ Trần đã mất mạng mấy lần rồi. Vì thế Trần Chính Đức giận dữ dẫn vợ đi tới Hồi Cương.

Nào ngờ Viên Sĩ Tiêu khó quên được mối tình xưa, cũng dời tới Thiên Sơn mà sống. Tuy hai bên chẳng bao giờ qua lại, nhưng cảm thấy ý trung nhân ở không xa lắm thì trong lòng cũng an ủi ít nhiều, quả là tình ý tràn đầy.

Thấy họ Viên đi theo, Trần Chính Đức đương nhiên bực bội. May mà Quang Minh Mai vì tránh hiềm nghi mà cố gắng không gặp mặt người tình cũ. Tuy nhiên Trần Chính Đức không khỏi đa tâm suy nghĩ, còn Quang Minh Mai thường xuyên sầu muộn, tính khí càng ngày càng thay đổi. Mấy chục năm trời đôi phu thê này không ngừng cãi cọ. Bây giờ họ đều sắp xuống lỗ rồi, nhưng cả ba người không ngày nào là không nghĩ đến “chuyện ba người” phiền phức không minh bạch này.

Phen này cứu được Viên Sĩ Tiêu, Trần Chính Đức đắc ý nghĩ bụng:

– “Xưa nay lúc nào ngươi cũng chiếm thế thượng phong, nhưng từ nay về sau ngươi có phải nhớ ơn ta hay không?”

Quang Minh Mai nghe Viên Sĩ Tiêu nói là mình làm hỏng mất đại sự, không hiểu bèn hỏi:

– “Chúng ta làm hỏng đại sự gì của ông?”

Viên Sĩ Tiêu đáp:

– “Bầy súc sinh này càng ngày càng sinh sôi nảy nở, thật là một đại họa trong sa mạc. Có mấy bộ lạc người Hồi đã bị chúng ăn sạch cả gia súc lẫn người. Ta đang bố trí một cái bẫy để dụ bầy sói này đi vào con đường chết, nào ngờ các vị lại nhiều chuyện nhúng tay vào.”

Trần Chính Đức biết họ Viên nói thật, không khỏi cảm thấy áy náy. Viên Sĩ Tiêu thấy thần sắc Quang Minh Mai ra vẻ hối lỗi, bèn an ủi:

– “Dù sao Trần huynh và Quan muội cũng vì hảo ý mà làm thế. Thôi, bây giờ ta đa tạ hai vị là xong.”

Trần Chính Đức hỏi:

– “Huynh bố trí cạm bẫy như thế nào?”

Viên Sĩ Tiêu đột nhiên la lên:

– “Cứu người là gấp!”

Lão nhảy xuống đất, xông vào giữa bầy sói. Lúc này Quan Đông tam ma đã bị đuổi kịp, ba người tựa lưng vào nhau ra sức chống chọi. Hai con ngựa đã bị bầy sói ăn hết sạch từ lâu rồi. Ba người đã dùng binh khí đánh chết mười mấy con sói, nhưng bầy sói vẫn không ngừng phóng tới. Thân thể mỗi người đã bị bảy tám vết thương, khó mà cầm cự được nữa. Viên Sĩ Tiêu vừa nhảy xuống vừa vung song chưởng đánh ra, hai con sói lập tức vỡ sọ mà chết. Lão túm lấy Kha Hợp Đài ném lên cây, hô lớn:

– “Đón lấy!”

Trần Chính Đức đưa tay chụp được họ Kha. Viên Sĩ Tiêu cứ thế mà ném Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu lên cành cây. Sau đó lão lại xuất hai chưởng đánh chết hai con sói nữa, nắm lấy cổ chúng múa tít xung quanh để mở đường, chạy đến gốc cây rồi tung người nhảy lên.

Quan Đông tam ma thoát chết, thấy ông lão này giết sói dễ như bắt thỏ, thân thủ cực nhanh, kình lực cực mạnh, đúng là suốt đời mình chưa từng thấy. Khi lão nhảy lên cây, chúng không ngớt lời lên tiếng cảm ơn.

Mấy trăm con sói đói bao vây dưới gốc cây, vừa cào cấu vừa ngẩng đầu lên tru tréo. Đằng xa, mấy chục con hổ báo đã bị bầy sói đuổi kịp vây quanh, tiếng cắn xé vang lên thảm khốc. Chỉ chớp nhoáng là đám hổ báo đã bị bầy sói này xé nát ra, nhai nuốt sạch sẽ. Bảy người trên cây đều là hào khách giang hồ, nhưng đây là lần đầu tiên họ nhìn thấy cảnh tượng đáng sợ như thế này. Không ai là không kinh tâm động phách.

Lúc nãy Trần Chính Đức đón lấy tam ma ném bừa lên cành cao, bây giờ trợn to mắt lên mà nhìn chúng. Hoắc Thanh Đồng lên tiếng:

– “Sư công! Ba tên này không phải là người tốt.”

Trần Chính Đức nói:

– “Được! Để ta bắt bọn này cho sói ăn.”

Ông xoa tay muốn nhảy lên, nhưng nhìn thấy tình hình thảm khốc bầy sói đang xé xác lũ hổ báo dê cừu dưới gốc cây nên có phần không nỡ. Trong lúc ông ngần ngừ, Tất Nhất Lôi vội la lên:

– “Qua đây.” rồi nhảy qua cái cây bên cạnh. Cố Kim Tiêu và Kha Hợp Đài cũng nhảy theo. Quang Minh Mai hỏi Hoắc Thanh Đồng:

– “Thanh nhi! Làm sao đây?”

Bà muốn hỏi ý kiến của Hoắc Thanh Đồng xem có cần giết chúng cho tận tuyệt không. Hoắc Thanh Đồng cũng mềm lòng trở lại, bèn nói:

– “Thôi!”

Nàng nghĩ đến những nỗi khổ vừa qua bất giác thở dài, nước mắt ứa ra. Nhưng nàng lập tức định thần trở lại, dõng dạc nói với tam ma:

– “Ta chính là Thúy Vũ Hoàng Sam Hoắc Thanh Đồng. Các ngươi muốn tìm ta trả thù, sao bây giờ không xông vào đi?”

Bọn Tất Nhất Lôi nghe nói nàng chính là Hoắc Thanh Đồng, vừa sợ vừa giận vừa tiếc, nhưng nói gì thì nói cũng không dám nhảy qua. Bầy sói đến nhanh mà đi cũng rất nhanh. Chúng chạy quanh gốc cây mấy vòng, tru lên mấy tiếng rồi đi tìm dã thú khác mà đuổi. Quan Minh Mai bảo Hoắc Thanh Đồng tham kiến Thiên Trì Quái Hiệp. Viên Sĩ Tiêu thấy sắc mặt nàng ốm yếu võ vàng, bèn lấy trong bọc ra hai viên thuốc màu đỏ sậm mà nói:

– “Cho con! Đây là Tuyết sâm hoàn.”

Thiên Sơn Song Ưng từ lâu đã biết Tuyết sâm hoàn là do nhiều dược vật trân quý phối chế mà thành, công dụng cải tử hoàn sinh. Quang Minh Mai vội bảo:

– “Mau đa tạ đi con.”

Hoắc Thanh Đồng đang thi lễ, Viên Sĩ Tiêu đã nhảy từ trên cây xuống. Lão bỏ đi rất nhanh, trông như một lằn chỉ màu tro. Chỉ chốc lát sau, giữa bãi cát vàng chỉ còn thấy một dấu chấm đen.

Hồi 16: Hai lão nhân thương tình không nỡ – Ba thiếu niên dụng kế thoát thân

Quan Minh Mai ôm Hoắc Thanh Đồng nhảy xuống gốc cây, bảo nàng uống thuốc ngay đi. Hoắc Thanh Đồng vừa nuốt viên Tuyết sâm hoàn đã thấy một luồng hơi nóng từ đan điền bốc lên, dễ chịu vô cùng. Quan Minh Mai nói:

– “Con thật là may mắn mới được uống linh đơn diệu dược, lành bệnh ngay thôi.”

Trần Chính Đức lạnh nhạt nói:

– “Nó không uống viên thuốc này thì cũng chẳng chết.”

Quan Minh Mai hỏi:

– “Chẳng lẽ ông muốn Thanh nhi khổ sở hay sao?”

Trần Chính Đức nói:

– “Thuốc của y, thì ta thà chết cũng không chịu uống, còn bà dù không có bệnh cũng muốn uống như thường.”

Quan Minh Mai nổi giận, định tìm một câu trả đũa. Nhưng bà nhìn thấy Hoắc Thanh Đồng rớm lệ, ốm yếu đầy vẻ đáng thương, bèn nhẫn nhịn không cãi nữa, cõng Hoắc Thanh Đồng lên lưng chạy về phía bắc. Trần Chính Đức chạy theo phía sau, dọc đường cứ lải nhải cằn nhằn không dứt.

Về tới chỗ ở của Song Ưng tại Ngọc Vương Côn, Hoắc Thanh Đồng uống nốt viên thuốc còn lại rồi ngủ say một giấc, tinh thần đã sảng khoái hơn rất nhiều. Quan Minh Mai ngồi bên giường nàng, hỏi:

– “Tại sao con đang bệnh mà phải ra ngoài một mình?”

Hoắc Thanh Đồng kể lại chuyện diệt sạch quân Thanh, chuyện gặp tam ma dọc đường, nhưng không nói đến lý do khiến mình rời khỏi doanh trại. Nhưng Quan Minh Mai tính tình nóng nảy, chất vấn tới cùng.

Hoắc Thanh Đồng vô cùng kính yêu sư phụ nên không giấu nữa, vừa khóc vừa kể:

– “Huynh ấy… Huynh ấy tốt với muội muội của con. Vì thế lúc con điều động binh lính… gia gia và mọi người đều nảy dạ nghi ngờ.”

Quan Minh Mai nhảy dựng lên, kêu lớn:

– “Chính là gã Trần tổng đà chủ gì gì đó mà con đã tặng cây đoản kiếm phải không?”

Hoắc Thanh Đồng gật đầu. Quan Minh Mai giận dữ nói tiếp:

– “Trai thì có mới nới cũ, gái thì không có tình tỉ muội, hai đứa đều đáng giết.”

Hoắc Thanh Đồng vội vã lắp bắp:

– “Không… không…”

Quan Minh Mai cứ nói:

– “Để ta đi đòi nợ giùm con.”

Bà lập tức chạy ra khỏi phòng. Trần Chính Đức nghe vợ la lối om sòm, liền chạy đến xem có chuyện gì. Hai người suýt va vào nhau trước cửa. Quan Minh Mai hô:

– “Đi theo ta! Đi giết hai kẻ vô nghĩa bạc tình.”

Trần Chính Đức nói:

– “Được!”

Đôi vợ chồng già lập tức chạy ra ngoài. Hoắc Thanh Đồng nhảy chồm dậy, muốn đuổi theo nói cho rõ mọi chuyện trước sau, nhưng trên người chỉ mặc áo lót nên không dám chạy ra. Nàng lo lắng đến ngất xỉu ngay tại chỗ, khi tỉnh lại thì sư phụ và sư công đã đi từ lâu rồi.

Tính tình hai vị lão nhân gia nóng nảy khác thường, võ công lại tuyệt cao, một mình Trần Gia Lạc không sao địch nổi. Nếu hai vị giết mất chàng và muội muội thì phải làm sao? Bất chấp cơ thể còn bạc nhược, nàng tức tốc lên ngựa đuổi theo.

Dọc đường Quan Minh Mai nói:

– “Bọn nam nhân bạc nghĩa vô tình trên thiên hạ đều đáng chết cả. Thanh nhi đã đem thanh cổ kiếm là báu vật hiếm có trên đời tặng cho hắn, đủ biết coi trọng hắn như thế nào. Thế mà hắn mặc kệ, quẳng Thanh nhi ra sau, đi vui vẻ với muội muội của Thanh nhi. Thật là đáng chém ngàn đao, xẻo ngàn miếng thịt.”

Song Ưng cực kỳ yêu quý Hoắc Thanh Đồng. Trần Chính Đức cũng nói:

– “Không hiểu sao muội muội của Thanh nhi lại vô sỉ đến thế, tranh đoạt người yêu của chị ruột mình? Thanh nhi tức giận đến sinh bệnh là phải.”

Họ phi ngựa đến sáng sớm ngày thứ ba thì thấy ở phía trước có bụi cát bốc lên, hai con ngựa từ phía nam chạy nhanh tới. Quan Minh Mai bỗng “à” lên một tiếng, Trần Chính Đức vội hỏi chuyện gì, nhưng cũng nhìn ra ngay. Trong hai kỵ sĩ đang chạy tới thì một chính là Trần Gia Lạc.

Trần Chính Đức lập tức đưa tay rút kiếm. Quan Minh Mai cản:

– “Khoan đã! Ông xem, ngựa của chúng chạy nhanh quá. Nếu chúng giục ngựa chạy trốn thì không sao đuổi kịp. Chúng ta cứ vờ như không biết, từ từ ra tay cũng không muộn.”

Trần Chính Đức khẽ gật đầu, rồi hai người từ từ tiến lên phía trước. Trần Gia Lạc cũng nhìn thấy họ, liền thúc ngựa tới, nhảy xuống thi lễ rồi nói:

– “Lại hân hạnh diện kiến hai vị tiền bối. Hai vị tiền bối có gặp Hoắc Thanh Đồng cô nương hay không?”

Quan Minh Mai ôm hậm hực trong lòng:

– “Ngươi còn giả vờ tưởng nhớ đến nó hay sao?”

Bà đáp:

– “Ta không thấy. Có việc gì hay sao?”

Đột nhiên trước mắt bà sáng rực lên, một thiếu nữ cực kỳ diễm lệ giục ngựa chạy tới. Trần Gia Lạc bảo:

– “Đây là sư phụ của Thanh Đồng. Muội mau thi lễ đi.”

Hương Hương công chúa lập tức xuống ngựa, thi lễ rồi mìm cười nói:

– “Con vẫn thường nghe tỉ tỉ nhắc tới hai vị. Hai vị có thấy tỉ tỉ của con đâu không?”

Trần Chính Đức thầm nghĩ:

– “Con bé này đẹp hơn Thanh nhi nhiều, chẳng trách thằng lỏi kia thay lòng đổi dạ.”

Quan Minh Mai thì nghĩ:

– “Mới ranh con mà đã xảo trá đến thế!”

Bà không để lộ vẻ gì, cứ vờ hỏi về Thanh Đồng.

Trần Gia Lạc kể xong, Quan Minh Mai nói:

– “Được! Chúng ta cùng đi tìm.”

Thế là bốn con ngựa cùng tiến về phía bắc. Quan Minh Mai thấy cả hai người đều sắc mặt lo âu, thầm nghĩ:

– “Đã làm những việc như thế, trong lòng bất an là phải. Nhưng không biết chúng tìm Thanh nhi có việc gì. Hai đứa cùng đi, chắc là muốn chọc tức cho Thanh nhi mau chết.”

Bà càng nghĩ càng hận, càng nghĩ càng tức, lùi lại phía sau khẽ nói với chồng:

– “Lát nữa ông giết thằng lỏi kia, để tôi giết đứa con gái.”

Trần Chính Đức gật đầu.

Đến xế chiều, bốn người dựng lều nghỉ lại bên một đồi cát. Sau khi ăn cơm xong, họ quây quần nói chuyện. Hương Hương công chúa lấy trong túi của mình ra một cây nến bằng mỡ bò, thắp lên. Dưới ánh nến Song Ưng thấy một người hiên ngang như ngọc thụ, một người kiều diễm như mai quế, hết sức xứng đôi. Họ thầm than thở:

– “Người như thế này, sao lại có tấm lòng tồi tệ?”

Hương Hương công chúa hỏi Trần Gia Lạc:

– “Huynh nói là tỉ tỉ không gặp nguy hiểm hay sao?”

Thật sự thì Trần Gia Lạc lo lắng vô cùng, nhưng muốn an ủi nàng bèn nói:

– “Võ công của Thanh Đồng rất giỏi, lại thông minh hơn người, chỉ một trận đã giết sạch mấy vạn Thanh binh. Nhất định không xảy ra chuyện gì đâu.”

Hương Hương công chúa tin tưởng chàng tuyệt đối, nghe chàng bảo tỉ tỉ của mình vô sự liền không nghi ngờ gì nữa, chỉ nói:

– “Nhưng tỉ tỉ đang mắc bệnh. Sau khi tìm được, nhất định phải khuyên tỉ tỉ về doanh trại nghỉ ngơi.”

Trần Gia Lạc gật đầu khen phải. Quan Minh Mai tin chắc là hai người này đang tung hứng diễn kịch. Bà tức giận đến nỗi mặt mày trắng bệch.

Chưa thấy ai buồn ngủ, Hương Hương công chúa bỗng gọi Trần Chính Đức:

– “Lão gia! Chúng ta chơi một trò được không?”

Trần Chính Đức đảo mắt nhìn vợ. Quan Minh Mai từ từ gật đầu, tỏ ý đừng để đối phương nghi hoặc. Trần Chính Đức bèn nói:

– “Được! Chơi trò gì đây?”

Hương Hương công chúa mỉm cười với Quan Minh Mai và Trần Gia Lạc, cất tiếng hỏi:

– “Hai vị cùng chơi nhé?”

Hai người gật đầu đồng ý.

Hương Hương công chúa tháo yên ngựa xuống, đặt giữa bốn người. Nàng vốc cát đắp cao lên yên ngựa, dùng tay ép chặt lại, trên đống cát đó đặt một cây nến nhỏ. Nàng thắp cây nến lên rồi nói:

– “Mỗi người chúng ta dùng con dao nhỏ này để gạt một mảnh cát trong đống cát xuống. Người nào gạt cuối cùng làm ngã cây nến thì phạt người đó ca hát, kể chuyện, hay múa cũng được. Trần lão gia làm trước đi.”

Rồi nàng đưa con dao nhỏ cho Trần Chính Đức. Mấy chục năm trời Trần Chính Đức chưa từng chơi lại trò chơi trẻ nít này, tay cầm con dao nhỏ mà mặt ngẩn ngơ không biết nghĩ gì. Quan Minh Mai đưa khuỷu tay thúc chồng một cái, bảo:

– “Cắt đi!”

Trần Chính Đức khẽ cười một tiếng, gạt một mảng cát xuống rồi đưa con dao cho vợ. Quan Minh Mai cũng gạt một miếng. Cứ thế luân phiên, sau ba vòng thì đống cát đã biến thành một cây trụ cát, chẳng to hơn cây nến bao nhiêu nữa. Chỉ cần đụng khẽ một cái, cây nến có thể rơi xuống bất cứ lúc nào.

Trần Gia Lạc cầm cây dao nhỏ, khều một lỗ hổng giữa cái trụ cát này. Hương Hương công chúa cười nói:

– “Huynh khôn quá!”

Rồi nàng nhận lấy con dao, khều một lỗ hổng ở chỗ khác. Bây giờ cái trụ cát bắt đầu lung lay. Lúc Trần Chính Đức nhận lấy con dao, tay ông run thấy rõ. Quan Minh Mai mỉm cười, mắng:

– “Thật chẳng ra gì cả!”

Hương Hương công chúa lên tiếng động viên:

– “Lão gia cứ khều thật nhẹ, khều một hạt cát thôi cũng được.”

Trần Chính Đức theo lời khều một tí, nhưng ông hơi mạnh tay, cái trụ cát đổ sụp. Cây nến rơi xuống tắt ngấm. Trần Chính Đức la lên một tiếng:

– “Trời ơi!”

Hương Hương công chúa vỗ tay cười lớn, Quan Minh Mai và Trần Gia Lạc đều cảm thấy thú vị.

Hương Hương công chúa vừa cười vừa nói:

– “Trần lão gia! Bây giờ lão gia muốn hát hay là muốn múa?”

Khuôn mặt già nua của Trần Chính Đức vốn đã đỏ rồi, bây giờ mắc cỡ đến nỗi đỏ gấp đôi. Ông ra sức thoái thác. Đôi vợ chồng này đã thành thân đã lâu, nhưng những lúc không cãi nhau thì luyện võ nghiêm chỉnh hoặc phải cùng nhau đối phó với kẻ thù, chưa bao giờ chơi đùa vui vẻ thế này.

Thấy chồng xấu hổ, Quan Minh Mai cảm thấy vui vẻ trong lòng, mỉm cười nói:

– “Ông lớn tuổi rồi, ăn hiếp trẻ nít như vậy là không được đâu.”

Trần Chính Đức không trốn được, đành nói:

– “Thôi được, để ta hát một đoạn Côn Nô Bản Mã Ký.”

Rồi ông cất giọng hát lên. Hát tới câu:

– “Vợ chồng trẻ đùa chơi như con trẻ; chàng trêu già nàng ngồi đó khóc nhè…”, ông không ngớt đưa mắt liếc qua bà vợ.

Trong lòng Quan Minh Mai đột nhiên ấm áp, nhớ lại những ngày tháng ngọt ngào hồi mới cưới nhau. Nếu Viên Sĩ Tiêu không đột nhiên trở lại, chắc chắn họ sẽ vui vẻ hạnh phúc suốt đời. Bà nghĩ lại mấy năm nay mình đối xử với chồng không được đàng hoàng, lắm khi trách mắng giận dữ vô lý, nhưng chồng đối với mình vẫn thâm tình như cũ. Có lúc ông ấy nổi ghen cãi cọ, nhưng chuyện đó cũng vì yêu mình mà ra.

Đột nhiên bà cảm thấy mình bất công với chồng mấy chục năm trời, trong lòng áy náy, bèn đưa tay ra nắm chặt lấy tay chồng. Trần Chính Đức được vợ tỏ tình mà giật mình kinh hãi, cảm thấy cảnh tượng trước mặt hơi nhòe, thì ra khóe mắt đã ràn rụa. Quan Minh Mai thấy mình mới biểu lộ chút xíu tình cảm mà chồng đã cảm kích muôn phần, đủ thấy trước nay mình quá lạnh lùng. Bà lại mỉm cười với chồng lần nữa.

Trần Gia Lạc và Hương Hương công chúa đều cảm nhận được tình cảm nồng nhiệt của đôi vợ chồng già, bèn khẽ liếc nhau cười một cái. Bốn người lại tiếp tục chơi trò gạt cát. Lần này Trần Gia Lạc bị thua, chàng bèn kể chuyện Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài.

Dĩ nhiên Thiên Sơn Song Ưng cũng biết câu chuyện này. Hai người không hẹn mà cùng nghĩ như nhau, Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài có tình mà không thành duyên phận, chẳng bằng vợ chồng mình được sống bên nhau đến răng long đầu bạc. Mấy chục năm qua nhiều khi cãi cọ, nhưng đến già nghĩ lại thấy tình cảm vẫn là thân thiết, cả hai bất giác trìu mến nhau.

Đây là lần đầu tiên Hương Hương công chúa nghe kể chuyện này. Nàng cười khúc khích mà nói:

– “Lương Sơn Bá không biết Chúc Anh Đài là nữ cải nam trang, thật là ngốc nghếch.”

Trần Gia Lạc chợt nghĩ:

– “Ta có ngốc nghếch không? Chẳng lẽ ta thật sự nhìn không ra Lý Nguyên Chỉ là nữ cải nam trang hay sao?”

Tuy nàng giả trang rất giống, nhưng diện mạo vẫn kiều diễm, nhìn kỹ là biết ngay. Chỉ vì lúc đó chàng vừa nhận chức tổng đà chủ, chỉ sợ gánh vác không nổi, lại gặp chuyện Văn Thái Lai bị bắt, không biết phải làm gì để cứu ra. Chàng chẳng còn tâm trí để dây vào chuyện tình nam nữ.

Những nữ nhân Trần Gia Lạc quen biết chỉ là Tình Họa, Vũ Thi, mấy cô tiểu nha đầu dịu dàng tuân phục, bảo sao làm vậy. Còn Hoắc Thanh Đồng thì anh hùng lẫm liệt, đẹp thì có đẹp nhưng khó mà thân cận, ai gặp cũng chỉ muốn nhìn từ xa, không dám tới gần. Hình như chính chàng cố ý tìm lý do để lùi xa một bên.

Khi thấy diện mạo Lý Nguyên Chỉ tuấn tú, nặng mùi son phấn, Trần Gia Lạc chỉ tường đó là một tên công tử chuyên đi lừa gạt tình cảm của đàn bà con gái, thế mà mình lại chịu hạ phong. Chàng thầm so sánh mình với người khác, bất giác tức giận rồi lại ganh tị, nên không khỏi cố ý xem thường người ta, không chịu xét kỹ người ta nên không nhận ra chân tướng.

Trong đêm động phòng của Từ Thiên Hoằng ở Thiên Mục Sơn, Lý Nguyên Chỉ tới phá rối, cũng có lúc Trần Gia Lạc nghĩ rằng đó là nữ đệ tử của Lục Phi Thanh. Nhưng trong vô thức chàng lại không muốn tin vào chuyện đó, vì sợ rút ngắn bớt khoảng cách giữa mình với Hoắc Thanh Đồng. Về sau chàng đem lòng yêu thương Hương Hương công chúa, nghĩ lại đúng là phụ bạc tình ý của Hoắc Thanh Đồng, không khỏi nảy lòng hổ thẹn.

Trần Chính Đức lại thua một lần nữa. Lão không còn bài nào để hát, Quan Minh Mai bèn nói:

– “Để ta kể chuyện thay cho ông.”

Hương Hương công chúa vỗ tay đồng tình. Quan Minh Mai liền kể câu chuyện Vương Khôi phụ bạc Quế Anh.

Đêm đã rất khuya, Hương Hương công chúa thấy hơi lạnh, dần dần tựa vào người Quan Minh Mai. Bà thấy nàng yếu đuối bèn khẽ ôm vào lòng, rồi dịu dàng lấy tay vuốt lại mái tóc bị gió thổi rối cho nàng. Khi kể câu chuyện này, Quan Minh Mai định dạy cho hai người một bài học trước khi giết, để họ biết tội mà chết không oán trách. Khi kể được một nửa bà bỗng cảm thấy một mùi hương lạ, cứ như mình đang ở trong một đám kỳ hoa dị thảo, bèn ngừng kể cúi đầu nhìn Hương Hương công chúa. Thì ra nàng đã ngủ thiếp đi trong lòng bà rồi.

Thiên Sơn Song Ưng không có con cái. Đôi vợ chồng già sống cô độc trong vùng đại mạc, lắm lúc thấy tịch mịch không sao chịu nổi. Hoắc Thanh Đồng thì không yếu đuối chút nào, tính khí của nàng cương trực mạnh mẽ, thường chỉ nói chuyện với Song Ưng về đề tài võ công hay trận mạc. Quan Minh Mai đột nhiên nghĩ:

– “Giả tỉ chúng ta có một đứa con gái xinh đẹp đáng yêu như thế này thì tốt biết dường nào.”

Lúc này ngọn lửa đã bị gió thổi tắt, nhưng ánh sao mờ ảo vẫn đủ thấy Hương Hương công chúa mỉm cười trong giấc mộng, tay phải quàng ôm lấy Quan Minh Mai như một đứa con gái nhỏ ôm lấy mẹ hiền vậy.

Trần Chính Đức lên tiếng:

– “Mọi người đi nghỉ đi.”

Quan Minh Mai nói nhỏ:

– “Đừng ồn ào, kẻo nó thức giấc.”

Rồi bà nhẹ nhàng đứng dậy, bế nàng vào trong lều, lấy một tấm thảm đắp lên. Nàng mơ hồ nói mê trong giấc ngủ:

– “Tỉ tỉ! Lấy ít sữa dê cho con nai con của muội đi, đừng để nó bị đói.”

Quan Minh Mai hơi kinh ngạc, khẽ bảo:

– “Ừ, con ngủ đi!”

Bà nhẹ chân lùi ra, nghĩ bụng:

– “Nó rõ ràng là một đứa bé ngây thơ vô tội, tâm địa rất lương thiện. Tại sao nó lại làm những chuyện như thế?”

Bà lại thấy Trần Gia Lạc dựng một cái lều khác, cách rất xa cái lều của Hương Hương công chúa, bèn đứng đó lẩm nhẩm gật đầu. Trần Chính Đức bước tới nói nhỏ:

– “Chúng không ở chung lều.”

Quan Minh Mai gật đầu. Trần Chính Đức vừa sờ sờ thanh kiếm vừa nói:

– “Hắn vẫn chưa ngủ. Chúng ta đợi hắn ngủ rồi mới ra tay, hay bây giờ tới đó nói rõ tội trạng để hắn được chết một cách rõ ràng?”

Quan Minh Mai trù trừ hỏi lại:

– “Ông tính sao?”

Trong lòng của Trần Chính Đức đang tràn đầy những suy nghĩ ngọt ngào, hoàn toàn không có ý niệm giết người, bèn nói:

– “Chúng ta ngồi đây một lát. Đợi hắn ngủ rồi mới giết, để hắn làm con quỉ hồ đồ cũng được.”

Trần Chính Đức nắm tay vợ, hai người ngồi tựa vào nhau trên bãi cát không nói một lời. Chẳng bao lâu Trần Gia Lạc cũng vào lều mà ngủ. Nửa giờ sau, Trần Chính Đức nói:

– “Để ta qua đó xem thử hắn ngủ chưa.”

Quan Minh Mai gật đầu, nhưng Trần Chính Đức lại không đứng dậy, ư ử trong miệng không biết đang hát bài gì. Quan Minh Mai hỏi:

– “Ra tay được rồi chứ?”

Trần Chính Đức đáp:

– “Ừ, ra tay được rồi.”

Nhưng hai người không ai nhúc nhích, hiển nhiên đều không quyết tâm hạ thủ.

Cả đời Thiên Sơn Song Ưng giết người không chớp mắt, nhân vật giang hồ mất mạng dưới tay họ không sao đếm xuể. Thế mà bây giờ họ không thể nào ra tay hạ sát hai người trẻ tuổi đang say giấc điệp.

Sao trời từ từ di chuyển, không khí mỗi lúc một lạnh lẽo hơn. Hai vợ chồng già ôm lấy nhau, Quan Minh Mai vùi mặt vào trong lòng chồng, Trần Chính Đức nhẹ nhàng đưa tay vuốt ve lưng vợ. Chẳng bao lâu hai người cũng ngủ say.

Sáng hôm sau Trần Gia Lạc cùng Hương Hương công chúa thức dậy, thấy hai vị lão tiền bối đã bỏ đi không khỏi ngạc nhiên. Hương Hương công chúa bỗng hỏi:

– “Huynh xem, đó là cái gì vậy?”

Trần Gia Lạc quay lại nhìn, thấy dưới mặt cát bằng phẳng có viết tám chữ lớn:

– “Ngươi không sửa đổi thì ta lấy mạng.”

Chữ nào cũng vuông vắn cỡ năm thước, chắc chắn vẽ bằng mũi kiếm. Trần Gia Lạc chau mày ngẫm nghĩ:

– “Mình ngoan cố chuyện gì mà họ đòi lấy mạng của mình?”

Hương Hương công chúa không biết chữ Hán, lại hỏi:

– “Họ vẽ cái gì vậy?”

Trần Gia Lạc không muốn nàng lo lắng nên đáp:

– “Họ nói là có việc cần đi trước.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Hai vị sư phụ của tỉ tỉ thật là tốt bụng…”

Chưa nói dứt câu, đột nhiên nàng giật mình, kinh hãi nói:

– “Huynh nghe…”

Trần Gia Lạc cũng nghe thấy xa xa vọng đến những tiếng kêu rùng rợn, vội bảo:

– “Bầy sói đến rồi, chạy nhanh lên!”

Hai người lập tức thu dọn lều trại, nước uống, rồi lên ngựa chạy điên cuồng, chỉ sợ mình chậm một chút là bầy sói kéo tới nơi. May mà ngựa của hai người đều là thiên lý mã, chốc lát đã bỏ xa bầy sói. Bầy sói đã nhịn đói từ lâu, hễ thấy người ngựa là truy đuổi tới cùng. Tuy khoảng cách đã xa, khuất khỏi tầm mắt từ lâu, nhưng chúng vẫn theo dấu vết trên mặt cát mà đuổi miết không tha.

Trần Gia Lạc và Hương Hương công chúa đã chạy nửa ngày, tưởng mình đã thoát hiểm. Nhưng vừa xuống ngựa để uống nước, định nổi lửa nấu ăn thì họ lại nghe tiếng sói tru càng lúc càng gần. Hai người lại nhảy lên ngựa phi đến tối, đoán mình đã cách xa bầy sói hơn trăm dặm, mới dám dựng lều để nghỉ ngơi.

Đến giữa khuya, con ngựa trắng bỗng cất tiếng hí vang, gọi Trần Gia Lạc tỉnh dậy. Nghe tiếng bầy sói đang kéo đến, hai người không kịp thu dọn lều trại nữa, chỉ xách lương khô và túi nước lên ngựa, cứ thế khi chạy khi dừng. Họ chạy một vòng lớn trong sa mạc, rốt cuộc vẫn không thoát được bầy sói truy đuổi, mà mình và ngựa đã mệt mỏi đến kiệt sức.

Cuối cùng con ngựa hồng không chịu nổi nữa, ngã lăn ra chết. Hai người cưỡi chung con ngựa trắng mà chạy trốn. Con ngựa trắng phải chở nặng hơn, nên bước đi chậm lại. Đến sáng ngày thứ ba thì nó không sao bỏ xa bầy sói được nữa.

Trần Gia Lạc biết, nếu con ngựa trắng không phải là thần mã thì đã chết vì mệt mỏi rồi. Nó đã cố chạy hai ngày hai đêm liên tiếp, chỉ nửa ngày nữa chắc chắn sẽ ngã gục. Chàng cố đi thêm nửa giờ, thấy bên đường có một lùm cây nhỏ bèn xuống ngựa nói:

– “Chúng ta tạm dừng ở đây, cho ngựa nghỉ chân một lát.”

Chàng cùng Hương Hương công chúa lấy cát đắp thành một cái lũy thấp, kiếm một ít cành khô chất lên xung quanh, sau đó nhóm lửa lên. Lũy cát biến thành một bức tường lửa, vây bọc hai người một ngựa ở trong.

Bố trí xong xuôi thì bầy sói chạy tới nơi. Chúng sợ lửa nên cứ đứng xung quanh mà tru, không dám tới sát. Trần Gia Lạc nói:

– “Đợi con ngựa phục hồi sức lực, chúng ta sẽ xông ra ngoài.”

Hương Hương công chúa hỏi:

– “Huynh nghĩ là có thể xông ra hay không?”

Trần Gia Lạc không nắm chắc, nhưng muốn an ủi Hương Hương công chúa bèn nói:

– “Dĩ nhiên là có thể.”

Hương Hương công chúa thấy bầy sói gầy đến da bọc xương, không biết đã phải nhịn bao nhiêu ngày, bèn nói:

– “Lũ sói này thật đáng thương.”

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Cô bé này từ bi đến mức không sao hiểu nổi. Mình sắp biến thành thức ăn cho chúng, mà vẫn thấy chúng đáng thương. Không hiểu mình có đáng thương hay không?”

Bầy sói vừa tru vừa sủa, chỉ đợi vòng lửa có chỗ trống là lập tức xông vào. Trần Gia Lạc nhìn đôi má trắng hồng của nàng, lại nhìn những hàm răng vừa trắng nhởn vừa nhọn hoắt của bầy sói đang há hốc bên ngoài vòng lửa, bất giác trong lòng chua xót, để rơi mấy giọt nước mắt trên mặt cát.

Hương Hương công chúa thấy chàng buồn như vậy, biết hy vọng sống sót của hai người quá nhỏ nhoi, liền lại gần chàng mà nói:

– “Chỉ cần được ở bên huynh là muội không sợ gì cả. Có chết thì hai chúng ta vẫn sung sướng ở trên Thiên Quốc, mãi mãi không rời nhau.”

Trần Gia Lạc ôm nàng vào lòng, nghĩ bụng:

– “Mình lại không tin là có Thiên Quốc. Nếu có, chắc chắn nàng sẽ lên thiên đường, còn mình thì xuống địa ngục.”

Chàng nhìn dáng dấp tiên nữ của nàng trong bộ y phục trắng, bỗng hình dung thấy cảnh nàng tựa vào lan can mà nghĩ đến mình, từng giọt nước mắt rơi từ trên trời xuống đất. Dĩ nhiên nước mắt của nàng phải rất thơm tho; nhỏ trúng đóa hoa nào thì đóa hoa ấy sẽ tươi đẹp và thơm ngát hơn hẳn bình thường.

Thấy trên khóe miệng chàng có nụ cười nhưng thần sắc lại bi thương, Hương Hương công chúa bất giác thở dài. Đột nhiên nàng thấy một cành khô vừa cháy hết, ngọn lửa hạ dần xuống, vội la lên một tiếng rồi chạy tới đó bỏ thêm củi.

Lúc đó ba con sói đói đã nhảy vào, Trần Gia Lạc vội nắm tay nàng kéo lùi lại. Con ngựa trắng phóng chân đá văng một con sói ra ngoài. Trần Gia Lạc đảo người túm lấy cổ một con sói lớn, quật nó vào mặt con sói xám hung dữ nhất. Con sói xám nhảy lùi tránh né, rồi lại phóng lên. Hai con sói khác lại nhảy qua chỗ khuyết vào trong vòng lửa, Trần Gia Lạc dùng sức quăng con sói trong tay mình ra đó. Ba con lăn lóc thành một khối, vừa cắn nhau loạn xạ vừa chạy ra ngoài.

Chàng nhặt lấy một cành cây đang cháy, quay lại con sói xám. Nó há hốc mồm, chồm cả thân mình đứng dậy toan táp vào yết hầu đối thủ. Trần Gia Lạc đưa tay tới, nhét trọn cành cây đang cháy phừng phừng vào miệng con sói, sâu tới hai thước. Con sói bị phỏng từ gan ruột phỏng ra, lập tức phóng ra ngoài mà lăn lộn giữa bầy.

Trần Gia Lạc bỏ thêm củi vào chỗ khuyết. Chàng thấy cành cây khô cháy rất mau tàn, nhất định phải ra ngoài tìm thêm. May mà phía sau có một lùm cây, chỉ cách chừng mười mấy trượng. Tay trái cầm kiếm thuẫn, tay phải cầm châu sách, chàng bảo Hương Hương công chúa:

– “Huynh đi nhặt củi. Muội ở đây, trông cho lửa cháy đều.”

Hương Hương công chúa vâng dạ rồi thêm củi vào đống lửa. Nàng biết ngọn lửa này bảo vệ cho cuộc sống của hai người. Lửa mà tắt đi, hai cuộc đời lập tức tắt theo. Trần Gia Lạc dùng kiếm thuẫn hộ thân, châu sách mở đường, thi triển khinh công chạy về phía lùm cây. Thấy trong vòng lửa có người nhảy ra, bầy sói liền phóng tới. Hai con đi đầu bị châu sách đánh ngã ngay.

Chàng chỉ nhấp nhô ba bước đã đến nơi. Lùm cây này nhỏ quá, không thể trèo lên để tránh sói được. Chàng dùng tay trái huy động kiếm thuẫn đỡ gạt, tay phải vội vã bẻ cành cây. Mấy chục con sói đói vây quanh, hễ thấy sơ hở là phóng tới, nhưng cứ đến gần lại bị chín mũi kiếm có móc sáng lòa trên thuẫn đẩy lùi.

Trần Gia Lạc hái được một mớ củi khô, dùng chân hất cho gọn lại, rồi lấy châu sách mà buộc. Ngay lúc đó, một con sói lớn hung ác thừa cơ phóng tới. Kiếm thuẫn kịp thời vung lên, con sói lập tức mất mạng. Nhưng mũi kiếm có móc, nên dính vào người nó không rút lại được ngay.

Lũ sói thấy vậy, vừa hú vang vừa nhảy vào. Chàng vội dùng hết sức giật mạnh một cái, hất xác con sói văng ra ngoài. Bầy sói lập tức nhảy chồm lên xác đồng loại, giành giật cắn xé mà nhai ngấu nghiến. Trần Gia Lạc thừa cơ nhặt lấy bó củi khô, nhảy trở vào trong vòng lửa.

Thấy chàng bình yên trở về, Hương Hương công chúa hoan hỉ chạy tới gieo người vào trong lòng chàng. Trần Gia Lạc cũng tươi cười ôm lấy nàng, bỏ ôm củi xuống đất. Vừa ngẩng đầu lên, chàng bất giác giật bắn mình. Thì ra trong vòng lửa đã có thêm một người nữa.

Người này thân hình khôi vĩ, y phục trên người đã bị sói đói xé rách tơi tả, tay cầm trường kiếm, toàn thân vấy máu, nhưng sắc mặt vô cùng trấn tĩnh, lạnh nhạt nhìn chàng. Đó chính là Hỏa thủ phán quan Trương Triệu Trọng.

Hai kẻ tử thù đối đầu gương mắt nhìn nhau, chần chừ chưa nói gì. Hương Hương công chúa lên tiếng:

– “Ông ấy từ giữa bầy sói thoát ra, thấy ở đây có lửa nên chạy tới trú ẩn. Huynh xem, ông ấy mệt mỏi đến như thế rồi.”

Nàng lấy túi nước rót ra một chén đưa qua, Trương Triệu Trọng cầm uống một hơi hết sạch, đưa tay áo lau qua mặt, gạt bớt mồ hôi và máu.

Hương Hương công chúa kinh hãi la lên một tiếng, bây giờ mới nhận ra đây chính là tên võ quan từng đánh nhau với Trần Gia Lạc trong doanh trại của Triệu Tuệ, sau này lại ác chiến với Văn Thái Lai trong hố cát.

Trần Gia Lạc che kiếm thuẫn trước ngực, vừa vung châu sách vừa thóa mạ:

– “Quân khốn kiếp!”

Ánh mắt Trương Triệu Trọng đột nhiên dại hẳn đi, rồi hắn ngã ngửa ra sau. Thì ra sau khi hắn cứu Hòa Nhĩ Đại, cả hai rủ nhau đi truy bắt Trần Gia Lạc và Hương Hương công chúa, rồi giữa đường gặp phải bầy sói. Hòa Nhĩ Đại đã bị xé xác, còn Trương Triệu Trọng nhờ võ công tuyệt cao mà giết được mấy chục con sói dữ, tạm thời thoát thân. Hắn phi liền một ngày một đêm trong vùng đại mạc rồi con ngựa lăn ra chết. Hắn đành nhịn đói nhịn khát chạy bộ hơn một ngày nữa, từ xa nhìn thấy ánh lửa bèn vận hết sức tàn chạy tới.

Trương Triệu Trọng chỉ dựa vào nội tức mà chống cự, vừa buông lỏng người là không vận khí được nữa, nên mới ngất xỉu ngay tại đó. Hương Hương công chúa định tới cứu chữa, nhưng Trần Gia Lạc kéo tay nàng lại nói:

– “Tên này nham hiểm vô cùng, đừng để hắn lừa.”

Hồi lâu thấy hắn không động đậy gì, hai người mới dám đến gần quan sát. Hương Hương công chúa lấy một ít nước lạnh xối vào trán hắn, lại đổ cho một ít sữa dê vào miệng. Trương Triệu Trọng hơi tỉnh, uống được nửa chén sữa dê rồi lại ngủ thiếp đi.

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Ma xui quỉ khiến thế nào mà tên gian tặc này lọt vào tay ta. Bây giờ mà giết hắn thì dễ như phủi bụi, nhưng thừa cơ hội thì không phải hành vi của bậc đại trượng phu. Hơn nữa Kha Tư Lệ có tấm lòng nhân hậu, thấy ta giết một người không còn sức chống cự thì chắc chắn không được vui lòng. Nhưng nếu ta tha cho hắn, khi hắn khôi phục được khí lực thì mình lại không phải là đối thủ.”

Chàng chưa quyết định được chủ ý, bèn quay lại nhìn thì thấy Hương Hương công chúa đang nhìn Trương Triệu Trọng bằng ánh mắt xót thương. Trần Gia Lạc thấy thái độ của nàng như thế, quyết định tha cho tên gian tặc này một lần nữa. Thứ nhất là dù gian nan nguy hiểm đến thế nào, chàng quyết không làm việc gì buồn lòng Kha Tư Lệ. Thứ hai là ba người đang cùng hoàn cảnh khó khăn, mà họ Trương võ công tuyệt diệu, đợi hắn phục hồi thì hai người hợp sức có thể cứu được Hương Hương công chúa ra; còn chỉ dựa vào sức một mình chàng thì tuyệt đối không thể. Vì thế chàng uống một hớp sữa dê rồi nhắm mắt lại dưỡng thần.

Lát sau Trương Triệu Trọng tỉnh dậy. Hương Hương công chúa đưa cho hắn một miếng thịt dê khô, lấy vải buộc lại chỗ vết thương bị sói cắn. Trương Triệu Trọng thấy hai người này lấy đức báo oán, không khỏi xấu hổ, cúi đầu im lặng.

Trần Gia Lạc lên tiếng:

– “Trương huynh! Bây giờ chúng ta cùng cảnh nguy nan. Mọi ân oán trước kia hãy tạm gác sang bên, lúc này phải giúp đỡ nhau mới được.”

Trương Triệu Trọng đáp:

– “Không sai! Nếu bây giờ ba người chúng ta giao đấu với nhau, nhất định sẽ trở thành miếng mồi ngon cho lũ sói đói này.”

Hắn được nghỉ ngơi hơn một giờ, tinh thần và khí lực đã khôi phục, âm thầm tính kế thoát thân. Hắn thầm nghĩ:

– “Hoàng thiên phù hộ, hai đứa này đã lọt vào tay ta. Nếu cả ba đều bị sói ăn thịt thì không có gì phải tính nữa. Nếu thoát được nguy, ta phải bất ngờ ra tay trước, chế ngự tên công tử họ Trần rồi sẽ bắt cô gái này đi. Vậy là nắm chắc được công danh phú quí mấy chục năm sau.”

Trần Gia Lạc lại nghĩ:

– “Tình hình cứ căng thẳng mãi thế này, làm sao giải quyết được đây?”

Chàng thấy bên ngoài vòng lửa có rất nhiều phân sói, nhớ lại Hoắc Thanh Đồng đã đốt lang yên để truyền tin, bèn dùng châu sách gom lấy một mớ phân sói xung quanh, dồn đống rồi đốt lên. Một luồng khói đặc xông thẳng lên trời.

Trương Triệu Trọng lắc đầu nói:

– “Cho dù có người nhìn thấy, họ cũng không dám đến cưới đâu. Trừ khi đại quân kéo tới thì mới đuổi được cả ngàn cả vạn con sói dữ này.”

Trần Gia Lạc cũng biết biện pháp này chưa chắc đã có ích, chỉ hy vọng một phần vạn mà thôi.

Trời tối dần. Ba người ở trong vòng lửa thay phiên nhau, kẻ nghỉ ngơi, người lo châm thêm củi. Trần Gia Lạc khẽ bảo Hương Hương công chúa:

– “Người này tệ hại vô cùng. Khi huynh ngủ, nhất định muội phải lưu ý đề phòng.”

Hương Hương công chúa gật đầu vâng dạ. Trần Gia Lạc dồn một mớ cành cây đặt giữa mình và Trương Triệu Trọng, đề phòng hắn ám toán khi chàng ngủ; lúc đó Hương Hương công chúa sẽ không thể nào chống cự.

Đến nửa đêm đột nhiên lũ sói tru vang lên, nghe điếc cả tai. Ba người kinh hãi bật dậy, thấy mấy ngàn con sói cùng ngồi dưới đất ngẩng lên nhìn trăng ở đỉnh đầu, đồng thanh tru lên nghe dựng cả tóc gáy. Tru được mấy hồi, lũ sói đột nhiên ngừng lại. Đây là tập tính truyền đời cả vạn năm của giống sài lang. Mãi đến sau này được thuần dưỡng thành chó nuôi trong nhà, chúng vẫn thường sủa trăng vào ban đêm như vậy.

Sáng hôm sau, ba người thấy bầy sói vẫn luẩn quẩn quanh vòng lửa, chẳng có vẻ gì muốn bỏ đi. Trần Gia Lạc nói:

– “Chỉ biết hy vọng có lạc đà hay loài thú hoang gì đi ngang qua. Có thế thì bầy ác quỉ này mới chịu rời khỏi đây.”

Bỗng nghe tiếng sói tru ở xa xa, rồi càng lúc càng gần. Trương Triệu Trọng chau mày nói:

– “Lũ quỉ lại đông thêm rồi!”

Giữa gió thổi cát bay mù mịt, bỗng thấy ba kỵ sĩ đang gấp rút phi tới gần, mấy trăm con sói đuổi sát theo sau. Một lát sau, mấy người cưỡi ngựa phát hiện bầy sói đói ở đây còn đông hơn nhiều, muốn vòng đi tránh né. Nhưng bầy sói ở đây đã kéo sang, thành thế bao vây ba con ngựa vào giữa. Ba kỵ sĩ phải huy động vũ khí, cố hết sức chống đỡ.

Hương Hương công chúa kêu lên:

– “Mau mau đón họ vào đây đi!”

Trần Gia Lạc bảo Trương Triệu Trọng:

– “Chúng ta đi cứu người!”

Hai người lập tức cầm binh khí chạy thẳng về phía ba con ngựa kia. Chỉ chốc lát là họ mở được một con đường máu, dẫn ba con ngựa vào trong vòng lửa. Trên lưng ngựa còn có một người bị trói giật cánh khuỷu nằm yên, thân thể mềm oặt, không biết còn sống hay đã chết, mặc y phục kiểu thiếu nữ người Hồi.

Ba kỵ sĩ nhảy xuống ngựa, đỡ cô nương người Hồi đó xuống. Hương Hương công chúa lập tức kinh hãi kêu lên:

– “Tỉ tỉ”, rồi vội vã chạy tới ôm lấy cô gái ấy.

Trần Gia Lạc cũng phải giật mình. Hương Hương công chúa đỡ cô gái ấy dậy, nhìn rõ dung nhan ảm đạm, hai mắt nhắm nghiền, đúng là Thúy vũ hoàng sam Hoắc Thanh Đồng.

Thì ra Hoắc Thanh Đồng mang bệnh mà đuổi theo sư phụ sư công, chẳng bao lâu gặp phải Quan Đông tam ma. Nàng không còn sức để chống trả, đành rút kiếm toan tự tử. Nhưng Cố Kim Tiêu nhanh tay giật được trường kiếm, rồi bắt sống nàng.

Quan Đông tam ma bắt được kẻ thù, vô cùng mừng rỡ. Kha Hợp Đài thì muốn lập tức giết chết để trả thù cho ba huynh đệ kết nghĩa. Cố Kim Tiêu còn độc địa hơn, muốn đem tới mộ ba người kia mà tế sống. Bậc huynh trưởng đã tỏ ý như vậy, Kha Hợp Đài không có cách nào cãi được.

Thế là chúng cùng giục ngựa đi về hướng đông. Được ba ngày thì Hoắc Thanh Đồng cố ý dẫn đi lạc đường, rồi mất phương hướng giữa sa mạc. Hôm đó chúng thấy xa xa có một luồng khói đen bay lên, nghĩ là có nhà cửa nên lập tức chạy tới. Nào ngờ đó là lang yên mà Trần Gia Lạc đốt để cầu cứu.

Cố Kim Tiêu thấy Trần Gia Lạc nhảy tới chỗ con ngựa, lập tức vung Điệp hổ xoa lên loảng xoảng, quát lên:

– “Ngươi định làm gì?”

Hoắc Thanh Đồng bệnh chưa khỏi, thân thể còn rất yếu. Khi thấy bầy sói rượt theo, nàng ngất xỉu trên lưng ngựa. Bây giờ từ từ tỉnh dậy, đột nhiên nhìn thấy Trần Gia Lạc cùng muội muội ở một nơi, trong lòng nàng bỗng dậy lên cảm giác khó tả, không biết là thương tâm hay vui mừng.

Hương Hương công chúa vừa khóc vừa gọi Trần Gia Lạc:

– “Huynh bảo họ thả tỉ tỉ ra đi.”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Muội cứ yên tâm.”

Rồi chàng quay lại hỏi Cố Kim Tiêu:

– “Các vị là cao nhân phương nào, sao lại làm khó bằng hữu của ta?”

Tất Nhất Lôi bước lên hai bước cản trước mặt Cố Kim Tiêu, lạnh lùng nhìn ba người đối diện mà nói:

– “Trước tiên xin cảm tạ hai vị ra tay cứu viện. Xin thỉnh giáo cao danh quý tánh.”

Trần Gia Lạc chưa kịp trả lời, Trương Triệu Trọng đã nói:

– “Người này là Trần tổng đà chủ của Hồng Hoa Hội.”

Tam ma đều kinh hãi một phen. Tất Nhất Lôi lại hỏi:

– “Xin thỉnh giáo cao danh các hạ?”

Trương Triệu Trọng đáp:

– “Ta họ Trương, thảo tự là Triệu Trọng.”

Tất Nhất Lôi “úi chà”

một tiếng rồi nói:

– “Thì ra là Hỏa Thủ Phán Quan. Thảo nào võ công của hai vị cao cường đến thế.”

Hắn cũng tự giới thiệu họ tên ba người bên mình.

Trần Gia Lạc buồn rầu nghĩ bụng:

– “Bị sói bao vây còn chưa biết thoát được hay không, lại gặp thêm bốn đối thủ khó chơi này. Bây giờ phải tìm cách bắt chúng thả Thanh Đồng trước, rồi sẽ tính tiếp.”

Chàng bèn nói:

– “Ân cừu của chúng ta tạm thời gác lại, khoan hãy nói. Bầy sói đói đang vây quanh đây, các vị có cách nào thoát hiểm hay không?”

Câu hỏi này làm tam ma nhìn nhau ngơ ngác, không sao trả lời được. Kha Hợp Đài lên tiếng:

– “Xin thỉnh giáo Trần đương gia.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Chúng ta hợp sức chống chọi với bầy sói thì còn một tia hy vọng. Nếu tàn sát lẫn nhau, chỉ trong chớp nhoáng là tất cả mọi người chui vào bụng sói.”

Hai người Tất và Kha khẽ gật đầu, chỉ có Cố Kim Tiêu trợn mắt ra vẻ dữ dằn không đáp. Trần Gia Lạc nói:

– “Vậy thì xin Cố lão huynh lập tức thả bằng hữu của ta ra, rồi mọi người cùng bàn kế hoạch đẩy lùi bọn sói.”

Cố Kim Tiêu gằn giọng:

– “Ta không thả. Ngươi làm gì được nào?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Nếu thế thì trong bảy người chúng ta, người đầu tiên bị sói ăn thịt chính là các hạ.”

Cố Kim Tiêu rung cây hổ xoa, hét lên:

– “Ta lại muốn bắt ngươi cho sói ăn trước.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Bằng hữu của ta, các hạ không thể không thả. Giả tỉ chúng ta không động thủ thì mọi người cũng chưa chắc đã sống sót. Nhưng nếu các hạ xuất thủ, bất kể ai thắng ai bại thì kết cuộc vẫn là mọi người cùng chết. Xin Cố bằng hữu suy nghĩ cho kỹ.”

Tất Nhất Lôi nhẹ nhàng lên tiếng:

– “Lão Nhị thả cô ấy ra đi.”

Cố Kim Tiêu bắt được Hoắc Thanh Đồng chẳng dễ dàng gì. Mỹ nữ như hoa như ngọc đã lọt vào tay, nếu phải thả ra thì còn đau hơn mất mạng. Hắn cứ lắc đầu quầy quậy.

Tất Nhất Lôi thầm tính toán:

– “Ba người bên ta đấu với ba người bọn chúng, thế thì nhân số tương đồng. Nhưng nghe nói kiếm thuật quyền thuật của Hỏa Thủ Phán Quan cực kỳ lợi hại, là nhân vật số một số hai trong võ lâm. Vừa rồi xem hai người này giết sói, thân thủ thật sự tuyệt vời. Cô gái xinh đẹp kia cùng đi với họ, chưa chắc võ công đã yếu. Bây giờ mà thật sự giao đấu, e rằng chúng ta không phải là đối thủ.”

Hắn nghĩ vậy không khỏi nản lòng, bèn nói nhỏ nhẹ:

– “Lão Nhị, ngươi thả hay không thì tự mình quyết định. Nếu xảy ra chuyện thì ta không có cách giúp ngươi đâu.”

Cố Kim Tiêu thèm khát Hoắc Thanh Đồng tới mức chấp mê không chịu ngộ, nhưng đã từng nghe danh của Trương Triệu Trọng nên quyết định khiêu chiến với Trần Gia Lạc trông có vẻ văn nhã thư sinh. Hắn bèn hùng hổ nói:

– “Nếu người thắng được cây hổ xoa này, ta sẽ giao cô gái lại cho ngươi. Nếu đúng là anh hùng hảo hán thì hai người chúng ta đơn đả độc đấu, quyết một phen thắng bại.”

Thật sự Trần Gia Lạc không muốn tàn sát lẫn nhau giữa bầy sói này, suy nghĩ chưa trả lời ngay. Trương Triệu Trọng bỗng lên tiếng:

– “Các hạ cứ yên tâm. Ta không giúp bên nào là xong.”

Câu này tựa như nói với Trần Gia Lạc, nhưng thật ra là nói cho Cố Kim Tiêu biết không cần phải lo lắng, cứ việc khiêu chiến đi.

Cố Kim Tiêu cả mừng, lại hô lên:

– “Nếu ngươi nhát gan sợ chết thì đừng nhúng tay vào chuyện của người khác nữa. Nếu có gan thì thử sức với ta một phen, quyền cước hay binh khí gì cũng được. Ba người huynh đệ kết nghĩa của ta đã chết dưới tay Hồng Hoa Hội, chẳng lẽ thù này không báo?”

Câu cuối cùng là nói cho hai người Tất và Kha nghe, hàm ý:

– “Ta đánh nhau vì việc chung chứ không phải vì ham muốn riêng tư. Các ngươi không thể khoanh tay đứng nhìn được.”

Trần Gia Lạc nhìn hai cô gái. Thấy Hoắc Thanh Đồng ra vẻ oán hận giận dữ, còn Hương Hương công chúa thì lo lắng vô cùng, chàng nghiến răng tự nhủ:

– “Cả hai cô này đều có tình nghĩa với ta. Hôm nay ta phải vì họ mà chết để báo đáp ân tình, cũng là để khỏi làm tổn thương tình tỉ muội giữa họ.”

Chàng bèn khẳng khái lên tiếng:

– “Cô nương này là hảo bằng hữu của ta. Chết thì chết, ta cũng phải bắt ngươi thả cô ấy ra.”

Mặt của Hoắc Thanh Đồng đỏ hẳn lên, trong lòng nghĩ:

– “Huynh ấy không phải hoàn toàn vô tình vô nghĩa với mình đâu.”

Cố Kim Tiêu nói:

– “Ta cũng thế! Chết thì chết, quyết không chịu thả.”

Trương Triệu Trọng mỉm cười nói:

– “Hay lắm! Thế thì hai vị quyết đấu một trận sinh tử cho ta xem.”

Nghe giọng điệu này, tam ma đều biết hắn muốn Trần Gia Lạc gặp phải tai họa.

Trần Gia Lạc nói:

– “Nếu hai chúng ta giao đấu, dù ngươi giết ta hay ta giết ngươi đều chẳng có ích gì. Bây giờ, hai chúng ta cùng xông ra ngoài để giết sói, ai giết được nhiều hơn là thắng.”

Theo ý chàng thì ít ra cũng giảm bớt phần nào sự nguy hiểm của bầy sói, không đến nỗi tiêu hao lực lượng một cách vô ích. Kha Hợp Đài lập tức tán thành, vỗ tay khen ngợi. Trương Triệu Trọng nói:

– “Vậy nếu Trần đương gia thắng, Cố lão huynh phải giao trả cô nương này. Nếu Cố lão huynh giết sói nhiều hơn, dĩ nhiên Trần đương gia không được dị nghị gì thêm.”

Trần Gia Lạc và Cố Kim Tiêu trợn mắt giận dữ nhìn nhau, đều không nói gì. Vụ giết sói này chẳng ai nắm chắc phần thắng, nhưng cũng chẳng ai chịu để Hoắc Thanh Đồng lọt vào tay của đối phương. Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Tên này sử dụng cây Điệp hổ xoa nhất định giỏi nghề săn bắn, thủ đoạn giết sói chắc phải cao cường.”

Cố Kim Tiêu lại nghĩ:

– “Thằng lỏi đưa ra chuyện thi giết chó sói, nhất định là nắm chắc phần thắng. Ta không thể bị hắn lừa gạt.”

Hắn bèn nói:

– “Ta chỉ muốn quyết đấu sinh tử với ngươi, một sống hai chết. Còn những trò đùa nhẹ nhàng kiểu đàn bà con gái thì ta không hứng.”

Đột nhiên Trương Triệu Trọng nói:

– “Ta mới được gặp ba vị lần đầu, nhưng trước nay vẫn rất ngưỡng mộ. Còn ta với Trần đương gia thì quá khứ có điều xích mích, nhưng bây giờ cũng chẳng nhắc lại làm chi. Vì thế ta không giúp đỡ bên nào. Bây giờ ta có một ý, có thể phân được thắng bại mà hai bên không tổn thương hòa khí. Các vị xem thử có được hay không?”

Tất Nhất Lôi nghe hắn nói đã từng xích mích với Trần Gia Lạc, trong lòng hoan hỉ bèn nói:

– “Trương đại nhân mau nói đi! Hỏa Thủ Phán Quan oai chấn võ lâm, ý kiến chắc phải cao minh tuyệt đỉnh.”

Trương Triệu Trọng mỉm cười đáp:

– “Không dám! Chúng ta đang bị bao vây giữa bầy sói đói, tàn sát lẫn nhau là chuyện không nên. Trần đương gia thấy có phải không?”

Trần Gia Lạc gật đầu. Trương Triệu Trọng tiếp:

– “Nếu thi giết sói thì Cố lão huynh lại cảm thấy quá nhẹ nhàng, không đáng mặt anh hùng hảo hán. Bây giờ ta có cách này. Hai vị tay không nhảy vào bầy sói, người nào nhát gan chạy về trước là thua.”

Mọi người nghe thấy đều rùng mình thầm nghĩ:

– “Tên này thật vô cùng hiểm độc. Tay không đi vào trong bầy sói, làm gì có ai sống sót trở về?”

Trương Triệu Trọng lại tiếp:

– “Nếu một vị không may bị sói ăn thịt, người nào sống sót trở vào trong vòng lửa dĩ nhiên được coi là thắng.”

Trần Gia Lạc chau mày hỏi:

– “Nếu cả hai người chúng ta đều chết thì sao?”

Kha Hợp Đài lên tiếng:

– “Ta kính trọng huynh là hảo hán, chuyện đó ta sẽ lo liệu giùm huynh. Thả cô nương này ra là xong chứ gì?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Ta rất tin tưởng lời nói của Kha huynh. Nhưng các vị cũng không được hà hiếp cô nương này.”

Chàng đưa tay chỉ Hương Hương công chúa. Kha Hợp Đài nói:

– “Có hoàng thiên chứng giám, ta hứa làm theo lời của Trần đương gia. Nếu làm trái với lương tâm thì ta là người đầu tiên bị chó sói ăn thịt.”

Trần Gia Lạc chắp tay nói:

– “Hay lắm! Xin đa tạ trước.”

Chàng đã tính toán xong, đừng nói là có bầy sói bao vây, dù không có con sói nào mà mình phải đơn thương độc mã đấu với bốn kẻ cường địch này, chắc chắn phải chết chứ không sao sống được. Vì thế chàng đã quyết tâm hy sinh tính mạng, bất luận thế nào cũng phải quay vào vòng lửa chậm hơn Cố Kim Tiêu, cứu được tỉ muội Hoắc Thanh Đồng là đủ toại nguyện rồi. Còn đại nghiệp quang phục nhà Hán, đành phải nhờ các huynh đệ trong Hồng Hoa Hội mà thôi.

Trần Gia Lạc liền ném kiếm thuẫn và châu sách của mình xuống đất, vẫy tay gọi Cố Kim Tiêu:

– “Cố bằng hữu, đi thôi!”

Cố Kim Tiêu vẫn nắm cây Điệp hổ xoa, trù trừ chưa quyết. Tuy hắn vốn hung hãn liều mạng, nhưng tay không xông vào bầy sói thì thật sự không dám. Trương Triệu Trọng chỉ sợ vụ thách đố này không thành, bèn khích bác:

– “Sao rồi? Cố bằng hữu sợ rồi phải không? Chuyện này quả là nguy hiểm.”

Cố Kim Tiêu vẫn im lặng suy nghĩ. Hương Hương công chúa không hiểu họ nói gì, nhưng cũng thấy thần sắc mọi người lo lắng khẩn trương. Còn Hoắc Thanh Đồng nghe Trần Gia Lạc cam tâm liều chết vì mình, trong lòng vô cùng cảm kích. Nàng kêu lên:

– “Huynh đừng đi! Muội thà chết còn hơn bắt huynh phải chịu tổn thương.”

Nàng ít khi để lộ chân tình, nhưng lúc này trước cảnh sinh ly tử biệt lại không nén nổi. Bỗng nghe “choảng” một tiếng, cây Điệp hổ xoa đã bị quăng xuống đất.

Thì ra Cố Kim Tiêu thấy nàng đa tình với Trần Gia Lạc, lập tức lửa ghen ghét bốc lên. Tính khí ngông cuồng tàn bạo của hắn mà đã nổi dậy thì trời đất gì cũng không sợ. Hắn ném vũ khí, quát lên:

– “Ta thà bị chó sói cắn đứt mất nửa cái đầu chứ nhất định không về trước thẳng lỏi này. Đi thôi!”

Trần Gia Lạc quay lại Hoắc Thanh Đồng và Hương Hương công chúa mỉm cười một cái, sánh vai với Cố Kim Tiêu mà đi. Hoắc Thanh Đồng hoảng sợ muốn ngất đi, la lớn:

– “Đừng! Đừng đi!”

Hương Hương công chúa mở to đôi mắt vừa đen vừa sáng, hoang mang không hiểu chuyện gì.

Hai người đang định nhảy ra ngoài vòng lửa, Tất Nhất Lôi đột nhiên hô lên:

– “Khoan đã!”

Hai người dừng chân quay lại nhìn, Tất Nhất Lôi bèn nói:

– “Trần đương gia! Trên người huynh còn đeo một thanh đoản kiếm.”

Trần Gia Lạc mỉm cười nói:

– “Xin lỗi! Ta quên mất.”

Chàng lập tức tháo đoản kiếm ra, đặt trước mặc Hoắc Thanh Đồng rồi nói:

– “Muội đừng đau lòng, nhìn thấy cây kiếm này cũng như nhìn thấy huynh.”

Hoắc Thanh Đồng nước mắt đầm đìa, cổ họng nghẹn ngào không nói được gì. Đúng lúc đó, một ý nghĩ đột nhiên lóe lên trong đầu nàng nhanh như tia chớp. Nàng khẽ bảo:

– “Huynh cúi xuống đây.”

Trần Gia Lạc cúi xuống lắng nghe. Hoắc Thanh Đồng thì thào rất nhỏ:

– “Nhớ đem mồi lửa!”

Trần Gia Lạc ngẩn ra một chút rồi hiểu ngay, quay lại bảo Trương Triệu Trọng:

– “Trương huynh! Vừa rồi ta quên mất cởi bỏ thanh đoản kiếm. Nhờ Trương huynh xem thử chúng ta còn quên gì nữa không.”

Trương Triệu Trọng lục soát hai người một hồi rồi nói:

– “Cố lão huynh! Phiền huynh để lại ám khí trong này.”

Cố Kim Tiêu giận dữ lấy trong người ra mười mấy ngọn tiểu xoa, ném mạnh xuống đất. Hắn lấy bím tóc quấn quanh đầu một vòng, thần sắc thay đổi hẳn, mắt đỏ như máu sắp phun ra. Đột nhiên hắn chạy đến trước mặt Hoắc Thanh Đồng, vòng tay ôm lấy nàng, cúi xuống định hôn vào mặt, nhưng bỗng bị túm lấy lưng rồi nhấc bổng lên quật xuống đất.

Cố Kim Tiêu vẫn thường luyện võ với mấy huynh đệ kết nghĩa, biết ngay chiêu này là của Kha Hợp Đài chứ không còn ai khác. Quả nhiên đã nghe họ Kha hét lên:

– “Lão Nhị! Ngươi có biết xấu hổ hay không?”

Cố Kim Tiêu bị quật cho một cú, đầu óc đã tỉnh táo hơn. Hắn quát lên một tiếng rồi nhảy vào giữa bầy sói. Trần Gia Lạc nhún chân xuống đất thi triền khinh công, nhảy ra ngoài cùng một lúc. Bầy sói đang chạy vòng vòng bên ngoài bức thành lửa mà gào thét, thấy người chạy ra ngoài liền phóng tới ngay.

Cố Kim Tiêu biết mình chưa từng nguy hiểm đến thế này, kéo dài được phút nào là may phút ấy. Thấy hai con sói dữ từ hai bên trái phải đồng thời phóng tới, hắn đảo người né một con, tay trái vung ra nắm lấy cổ con kia, tay phải túm được đuôi nó xách bổng lên.

Trong võ học có một công phu gọi là đăng thoái, dùng ghế dài làm võ khí. Nghe nói xưa kia có một vị tiền bối võ lâm đang nằm nghỉ dưới giàn hoa trong một đêm hè, thì bị địch thủ bất ngờ tấn công. Lúc đó bốn phương tám hướng đều là cường địch tay cầm vũ khí, còn ông chỉ hai bàn tay trắng, bèn tiện tay nắm lấy cái ghế dài chống đỡ, đánh cho địch thủ cúp đuôi mà chạy. Từ đó công phu đăng thoái truyền mãi về sau, trong võ lâm cũng nhiều người luyện để phòng thân, lỡ khi tay không gặp địch. Ghế dài thì chỗ nào cũng có, học được môn này thì bất cứ nơi đâu cũng có sẵn binh khí cho mình.

Cố Kim Tiêu túm lấy con sói, nảy ra sáng kiến coi nó như một cái ghế dài, thi triển những chiêu thức đăng thoái mà quét ngang, quật thẳng. Thân thể con sói dài khoảng bằng cái ghế, cũng có bốn chân. Hắn vũ lộng phát sinh tiếng gió vù vù, nhất thời bầy sói không sao tiến sát vào người được.

Trần Gia Lạc thì sử dụng thân pháp Bát Quái Du Thân Chưởng mà chạy loạn xạ không dừng giữa bầy sói, vừa rẽ sang đông lại ngoặt sang tây. Đây vốn là tuyệt kỹ của Oai chấn Hà Sóc Vương Duy Dương, trên Sư Tử Phong ở Hàng Châu đã từng đánh cho Trương Triệu Trọng hết đường chống đỡ. Khi thí võ với Chu Trọng Anh ở Thiết Đảm Trang, Trần Gia Lạc đã từng thi triển công phu này.

Về pho chưởng pháp này thì dĩ nhiên Trần Gia Lạc không thể sánh kịp Vương Duy Dương, nhưng bước chân của chàng cũng rất nhẹ, thân pháp cũng biến ảo vô cùng. Lúc đầu bầy sói không thể đuổi kịp chàng, nhưng bọn sói đói dần dần ào tới, chen đặc bốn phía đến mức nước cũng không chảy qua nổi, làm sao mà có khoảng trống cho chàng chạy qua chạy lại nữa?

Trần Gia Lạc biết Bát Quái Du Thân Chưởng không dùng được, bèn thò tay vào bọc lấy mồi lửa ra. Chàng phất ngược hướng gió một cái cho mồi lửa cháy sáng lên, rồi cầm xoay những vòng tròn. Ánh lửa rất yếu ớt, nhưng bầy sói cũng lập tức hoảng sợ lùi lại. Chúng vẫn nhe nanh múa vuốt để chờ cơ hội, nhưng chẳng con nào dám phóng lên, chỉ vây quanh gào thét, trong cổ họng phát ra những tiếng u u.

Thấy Trần Gia Lạc đột nhiên xông vào bầy sói, Hương Hương công chúa không hiểu gì cả. Nàng chạy đến hỏi Hoắc Thanh Đồng:

– “Tỉ tỉ! Huynh ấy làm gì vậy?”

Hoắc Thanh Đồng vừa khóc vừa đáp:

– “Huynh ấy liều chết để cứu tỉ muội chúng ta.”

Hương Hương công chúa khẽ rùng mình một cái, nhưng lập tức bình thản cười nói:

– “Huynh ấy chết thì muội không sống nữa đâu.”

Nàng nói hết sức tự nhiên, giống như đây là một chuyện thiên kinh địa nghĩa, không ra vẻ kích động mà cũng không cần suy nghĩ. Đủ thấy tình cảm của nàng dành cho Trần Gia Lạc sâu nặng đến thế nào, có thế nói là đã hòa vào máu thịt, là một phần của tâm linh.

Nhìn thấy hai người Trần và Cố trong chốc lát đã bị bầy sói bao vây, Trương Triệu Trọng âm thầm mừng rỡ. Khi thấy Trần Gia Lạc lấy mồi lửa ra, bầy sói hoảng sợ lùi lại phía sau, hắn bất giác ngẩn ra, nhưng lại nghĩ:

– “Mồi lửa thì cháy được bao lâu, chẳng qua kéo dài thời gian một chút mà thôi.”

Tất Nhất Lôi và Kha Hợp Đài lo lắng nhìn Cố Kim Tiêu. Thấy hắn thi triển võ công cương mãnh, múa tít con sói đến nỗi gió mưa không thể tạt vào, cả hai đều hoan hỉ.

Lúc này họ Cố xuất chiêu Lãng Hán Thuyên Môn, hai tay cầm con sói lớn đó hất mạnh ra ngoài, cản đường một con sói khác đang phóng tới trước mặt. Cả hai con sói đều lo cho tính mạng của mình, há miệng đớp ngay. Một con bị cắn đến vỡ xương gò má, con kia thì một vòi máu phun ra từ cổ họng. Bầy sói ngửi thấy mùi máu lại càng chạy ào ào tới, phóng lên mà đớp. Con này một miếng, con kia một miếng, con sói to lớn trong tay Cố Kim Tiêu bị xé nhỏ dần.

Cuối cùng, tay trái của hắn chỉ còn nắm một cái đầu sói, tay phải cầm cái đuôi dính một bên mông sói, tình thế trở nên vô cùng nguy hiểm. Hắn quẳng hết đi, toan bắt một con sói khác làm võ khí, nhưng nó quay lại đớp thật nhanh. Cố Kim Tiêu nếu không mau lẹ rút tay về thì tay trái đã bị cắn gãy rồi. Ngay lúc đó, bên phải lại có hai con sói nữa phóng tới.

Kha Hợp Đài tháo sợi nhuyễn tiên quấn quanh hông ra, la lên:

– “Lão Đại! Để ta đi cứu y.”

Tất Nhất Lôi chưa kịp trả lời, Hoắc Thanh Đồng đã lạnh nhạt hỏi:

– “Hào kiệt ở Quan Đông có thể diện hay không?”

Kha Hợp Đài lập tức ngẩn ra, lại nhìn hai người trong bầy sói. Tình hình bây giờ đã khác hẳn. Trần Gia Lạc thấy mồi lửa của mình sắp sửa cháy hết, vừa co giò chạy về phía lùm cây vừa xé vạt áo trước ra mà đốt. Vì thế chàng chậm đi một chút, hai con sói dữ đã phóng đến trước mặt. Chàng chạy vào giữa hai con, bẻ được một cành cây, vận kình xoay tay đánh ngược lại. Con sói chạy trước trúng đòn, vỡ sọ mà chết. Bầy sói lập tức xô vào để chia nhau cái xác đồng loại.

Trần Gia Lạc rảnh tay được một chút, liền dùng chân hất một mớ lá khô lại, châm lửa vào, rồi nhặt một cành cây khô mà đốt lên, cầm đuổi bầy sói dạt ra. Vừa có khoảng trống, chàng liền bẻ tiếp mấy cành cây nữa dồn vào cho ngọn lửa lớn hơn, trong chốc lát đã tạo được một vòng lửa nhỏ quanh mình, giữ chân bầy sói đói ở ngoài.

Hoắc Thanh Đồng và Hương Hương công chúa thấy chàng thoát hiểm đều hoan hỉ vô cùng. Còn bên kia, Cố Kim Tiêu khó mà chống nổi nữa. Hắn muốn bắt chước biện pháp của Trần Gia Lạc nhưng trong mình lại không có mồi lửa, đành múa quyền đánh nhau với vuốt bén răng nhọn của bầy sói đói. Tay chân hắn dần dần chậm đi, liên tiếp bị lũ sói cắn trúng.

Kha Hợp Đài kinh hãi nói với Hoắc Thanh Đồng:

– “Coi như Trần đương gia đã thắng là xong.”

Y rút đoản kiếm cắt đứt sợi dây đang trói tay chân nàng, lại nói:

– “Bây giờ ta đi cứu người được rồi chứ?”

Y múa nhuyễn tiên nhảy xổ ra ngoài, nhưng chạy chưa được mấy bước thì bầy sói đã ào ào phóng tới, cắn luôn hai miếng vào chân. Tuy y đánh chết được mấy con sói, nhưng không có cách nào tiến lên nữa. Tất Nhất Lôi gọi lớn:

– “Lão Tứ, quay về đi!”

Kha Hợp Đài nhảy trở vào, lấy một nhánh cây khô đang đốt cháy, định chạy tiếp ra ngoài. Nhưng y thấy khoảng cách khá xa mà Cố Kim Tiêu sắp bị bầy sói nhai xương rồi, bèn lớn tiếng gọi Trần Gia Lạc:

– “Trần đương gia! Huynh thắng rồi, chúng ta đã thả bằng hữu huynh ra. Xin huynh đại nhân đại nghĩa, cứu Cố lão nhị một phen.”

Trần Gia Lạc đứng xa mà nhìn, quả nhiên thấy Hoắc Thanh Đồng đã được cởi trói đang đứng trong vòng lửa. Chàng nghĩ:

– “Cần đối phó với bầy ác thú, có thêm người nào là hay người ấy”, bèn nhặt một cành cây đang cháy ném cho Cố Kim Tiêu, hô lớn:

– “Đón lấy!”

Cố Kim Tiêu tay chân bê bết máu tươi, nhìn thấy cành cây ném tới bèn tung người nhảy lên đón lấy, vẫy một vòng tròn. Sợ lửa là tập tính truyền đời mấy ngàn mấy vạn năm của giống sài lang, chúng thấy trên tay người có lửa là lập tức lùi ra.

Cố Kim Tiêu vung cành cây quanh người, tiến dần đến chỗ Trần Gia Lạc. Chàng lại ném thêm cho hắn một cành nữa. Hai tay Cố Kim Tiêu cầm hai ngọn đuốc, chỉ trong chốc lát đã đi tới lùm cây.

Trần Gia Lạc bảo:

– “Mau mau lượm củi!”

Hai người bèn lấy dây buộc cành khô thành bó mà vác lên vai, tay cầm cây củi cháy bừng bừng, vung lên mở đường tiến về vòng lửa lớn. Bầy sói không ngừng gào thét giận dữ, nhưng vẫn phải nhường ra một lối.

Hai người về gần đến nơi, Trần Gia Lạc đang đi trước. Hương Hương công chúa dang rộng hai cánh tay chào đón chàng trở về. Trần Gia Lạc đang định nhảy vào thì Hoắc Thanh Đồng kêu lớn:

– “Khoan đã! Để hắn vào trước.”

Trần Gia Lạc lập tức tỉnh ngộ, ném bó củi vào rồi lùi một bước, đợi Cố Kim Tiêu vào trong vòng lửa trước. Chàng nghĩ:

– “Hai bên đã giao hẹn ai về vòng lửa trước là thua. Tuy mình vừa cứu mạng hắn, nhưng không thể tin được loại tiểu nhân vô liêm sỉ này.”

Cố Kim Tiêu hai mắt đỏ ngầu, ném đống củi trên lưng xuống rồi vung ngọn đuốc lên mặt Trần Gia Lạc. Nhân lúc chàng phải nghiêng mình tránh né, hắn đưa tả chưởng xô vào lưng chàng, muốn đẩy chàng vào trong vòng lửa. Trần Gia Lạc lại đảo người, phát chưởng đó trượt trên vai áo. Cố Kim Tiêu lại vung tay phải, ném cành cây đang cháy vào mặt đối phương. Trần Gia Lạc cúi xuống né tránh.

Cành cây đó vừa bay vào đống lửa, Cố Kim Tiêu lại tung ra một quyền. Tám mươi mốt chiêu trường quyền của hắn kình lực đầy đủ, xuất thủ linh hoạt, quyền này vừa đến quyền thứ hai đã nối theo.

Trần Gia Lạc thấy hắn trở mặt lấy oán báo đức, trong lòng vô cùng giận dữ. Chàng đưa tay phải ra toan nắm lấy mạch môn của hắn, tay trái xuất chiêu Kim Châm Độ Kiếp đâm thẳng vào trước mặt. Đây là một chiêu lấy ngón tay làm kiếm của Bách Hoa Tá Quyền. Cố Kim Tiêu trước nay chưa từng gặp phải loại quyền pháp kỳ lạ này, phải bối rối lùi lại. Chân hắn đạp trúng đầu một con sói đói, làm nó đau đớn gào lên, há miệng táp ngay.

Trần Gia Lạc mới phản kích một chiêu đã chiếm thượng phong, quyết không để hắn có cơ hội đánh trả. Chàng dùng chưởng làm đao, dùng chỉ làm kiếm, sử toàn những chiêu lợi hại trong Bách Hoa Tá Quyền. Tất Nhất Lôi và Kha Hợp Đài đứng trong vòng lửa quan sát, nhìn thấy quyền pháp của chàng mà không khỏi kinh tâm động phách.

Trần Gia Lạc đưa hai ngón tay trái ra điểm vào huyệt Thái Dương của đối phương. Cố Kim Tiêu vung tay ra gạt, trả lại một quyền, tin chắc Trần Gia Lạc phải lùi lại. Nào ngờ Trần Gia Lạc không lùi mà lại bước chân trái ra lót sau lưng Cố Kim Tiêu, rồi nhanh như chớp túm chặt cổ tay phải của hắn. Chàng kéo mạnh, đợi địch thủ vừa cố giãy ra là đột ngột đổi chiều kình lực từ kéo thành đẩy.

Cố Kim Tiêu đã mất đà lại phải chịu hai đạo kình lực, không sao đứng vững được nữa. Hắn lập tức té nhào. Ở giữa bầy sói mà ngã xuống đất, đám sói xung quanh sẽ lập tức ùa lên đè chặt, nhất định không còn xác để chôn. Mọi người trong vòng lửa đều kinh hãi la lên.

Trong lúc nguy cấp Cố Kim Tiêu vội sử chiêu Lý Ngư Đả Đỉnh bật người dậy, tay trái đánh ra trúng đầu một con sói đói đang phóng tới, mượn thế lộn nửa vòng trên không trung, rồi đầu trên chân dưới hạ cánh an toàn. Trần Gia Lạc điểm hờ chân trái xuống đất bay vọt tới, tay phải vẫy ra điểm trúng hai huyệt đạo ở đầu gối trái và mông phải của hắn.

Hai chân của Cố Kim Tiêu vừa chạm đất bỗng nhũn ra không cử động được, nện mông thẳng xuống đất. Hắn la thầm:

– “Hỏng bét!”, chống hai tay cố ngồi dậy, nhưng bầy sói đã từ bốn phương tám hướng ào tới.

Bầy sói đã nhanh mà Trần Gia Lạc còn nhanh hơn, đưa tay phải ra túm lấy lưng hắn nhấc lên. Cố Kim Tiêu hung hãn vô cùng, tuy nửa người dưới không động đậy được mà vẫn hét lên một tiếng, dùng toàn lực đấm cả song quyền vào ngực Trần Gia Lạc, muốn liều mạng để hai người cùng chết.

Trần Gia Lạc quát mắng:

– “Tên khốn kiếp!”

Chàng đưa tay trái điểm nhanh như gió vào hai huyệt Trung Thủ, Huyền Cơ của địch thủ. Song quyền của Cố Kim Tiêu vừa đánh đến giữa đường, hai cánh tay đột nhiên rũ liệt buông xuống. Trần Gia Lạc xách hắn vung một vòng tròn, ép lũ sói lùi lại, rồi định quăng hắn vào giữa bầy sói.

Hoắc Thanh Đồng la lên:

– “Đừng giết hắn!”

Trần Gia Lạc lập tức nghĩ lại:

– “Giết tên này thì vẫn địch đông ta ít, lại kết thành mối tử thù với hai người Tất, Kha. Chi bằng bây giờ tạm tha mạng cho hắn, không chừng khi mình tranh chấp với Trương Triệu Trọng thì tam ma sẽ không giúp bên nào.”

Chàng bèn xoay chuyển phương vị, ném hắn vào bên trong vòng lửa cho Kha Hợp Đài đón lấy, rồi tung người nhảy vào. Thế là cuộc thách đố sinh tử này Trần Gia Lạc đã thắng. Chàng định tới nói chuyện với Hoắc Thanh Đồng và Hương Hương công chúa, thì Hoắc Thanh Đồng đột nhiên la lên:

– “Cẩn thận phía sau!”

Trần Gia Lạc cảm thấy sau gáy có một cơn gió ào tới, lập tức cúi đầu rùn người xuống. Hai con sói đói vọt qua đỉnh đầu chàng. Thì ra chúng thấy hai miếng mồi ngon đã nhảy vào trong vòng lửa, thèm không chịu được bèn lấy hết dũng khí nhảy vào theo. Một con phóng về phía Hương Hương công chúa, Trần Gia Lạc vội nắm đuôi kéo lại. Nó đau đớn quay người lại, cắn như điên dại.

Một con sói nữa phóng tới. Trần Gia Lạc xoay chưởng chém trở lại, nó nghiêng đầu tránh né nên phát chưởng đánh trúng vào cổ. Con sói lăn dưới đất một vòng, lại phóng lên cắn tiếp. Hoắc Thanh Đồng trở ngược thanh đoản kiếm, cầm lấy mũi nhọn mà ném cho Trần Gia Lạc, kêu lên:

– “Đón lấy!”

Trần Gia Lạc đưa tay chụp được chuôi kiếm, bèn vung kiếm sang bên trái đâm vào con sói lớn. Con sói này thân hình đồ sộ nhưng nhanh nhẹn phi thường. Trần Gia Lạc liên tiếp đâm hai nhát đều bị nó tránh được.

Lúc này bên ngoài vòng lửa lại có ba con sói khác nhảy vào. Một con bị Kha Hợp Đài dùng thủ pháp đô vật nắm lấy cổ quăng ra ngoài, một con bị Trương Triệu Trọng vung kiếm chém thành hai khúc, con thứ ba bị Tất Nhất Lôi chặn đánh. Kha Hợp Đài vội lấy bó củi Cố Kim Tiêu vừa mang về châm thêm vào đống lửa. Ngọn lửa bốc cao lên, lũ sói không dám nhảy vào thêm nữa.

Bên này Trần Gia Lạc cầm đoản kiếm đâm qua bên trái. Dĩ nhiên con sói to không biết đó là hư chiêu, bèn né sang bên phải. Đoản kiếm vòng lại rất nhanh, đâm xuống như điện chớp. Con sói không tránh né được nữa, nhưng đột nhiên há hốc miệng ra, cắn chặt lấy lưỡi kiếm.

Trần Gia Lạc vận sức đâm thêm tới trước. Tuy lưỡi của con sói đã bị cắt một đường, nhưng nó biết đây là lúc sống chết nên cố chịu đau mà cắn chặt. Trần Gia Lạc bèn cố gắng giật kiếm về. Con sói này đúng là trời gầm không nhả, mặc dù thân thể bị giật hẳn lên không trung mà hai hàm răng vẫn nghiến chặt, giống như đã bắt rễ vào lưỡi kiếm vậy.

Lúc này con sói vừa bị chàng túm đuôi quẳng ra lại từ phía sau xông tới. Trần Gia Lạc không khỏi lo lắng, hơi nghiêng sang một bên rồi phóng chân đá vào mông nó. Con sói vừa tru lên mấy tiếng vừa văng tuốt ra ngoài vòng lửa.

Trần Gia Lạc quyết thu kiếm về, bèn dùng tay trái phóng chưởng đánh vào giữa cặp mắt con sói, hất đầu nó ngật ra sau. Tay chàng thấy lỏng lại, từ từ rút đoản kiếm về. Mọi người bỗng thấy hàn quang nháy động, đột nhiên lưỡi đoản kiếm phát ra ánh sáng màu tím chói lòa, hoa cả mắt.

Nhìn lại thì con sói đã bị đánh vỡ xương đầu mà chết, nhưng miệng nó vẫn còn nghiến chặt lưỡi kiếm giữa hai hàm răng. Mọi người đều phải ngạc nhiên. Thanh đoản kiếm trong tay Trần Gia Lạc còn nguyên chưa gãy, thế thì đoạn kiếm trong miệng sói từ đâu mà có?

Trần Gia Lạc bước lên, định dùng ba ngón tay trái cầm lưỡi kiếm trong miệng sói định rút ra. Nào ngờ con sói đã chết mà hàm răng vẫn cắn chặt như một cái kềm vậy. Chàng dùng thanh đoản kiếm trên tay vạch một đường quanh hàm nó, bỗng thấy gân cốt trên mặt con sói bị cắt đứt dễ dàng như đậu hủ vậy. Chàng ngạc nhiên cầm thanh đoản kiếm lên nhìn, bất giác cảm thấy hàn khí quạt ràn rạt vào mặt mình, dựng cả tóc gáy lên.

Lưỡi kiếm phát ra tử quang óng ánh, không phải là lưỡi kiếm của Hoắc Thanh Đồng đã tặng, nhưng chuôi kiếm lại hoàn toàn không thay đổi gì cả. Chàng lại càng không hiểu, bèn cúi xuống nhặt lưỡi kiếm trong hàm răng sói ra. Lúc này mới biết lưỡi kiếm này rỗng ở giữa, như một cái vỏ kiếm vậy. Cắm thử thanh đoản kiếm này vào cái vỏ đó thì hoàn toàn khớp với nhau.

Thì ra thanh đoản kiếm này có tới hai lần vỏ kiếm. Lớp vỏ thứ hai cũng có lưỡi bén mũi nhọn, mọi người đều tưởng đó là lưỡi kiếm, nào ngờ bên trong lại có một lưỡi bảo kiếm khác có thể cắt vàng gọt ngọc, lợi hại vô cùng. Khi tặng kiếm cho chàng, Hoắc Thanh Đồng từng nói:

– “Nghe nói bên trong có ẩn chứa một bí mật cực lớn, mấy trăm năm nay truyền đời đồn đại, nhưng mãi đến nay vẫn chưa có ai tìm ra được.”

Hôm nay gặp đúng cơ duyên, con sói kia cắn chặt đến chết không buông, hai bên dùng hết sức mà kéo mới rút được cái vỏ kiếm thứ hai ra. Nếu không thì ai mà ngờ được trong đoản kiếm lại chứa một thanh bảo kiếm vô cùng sắc bén, đúng là kiếm trung hữu kiếm.

Lúc này Tất Nhất Lôi đã đánh chết con sói cuối cùng nhảy vào trong vòng lửa. Hắn giải huyệt cho Cố Kim Tiêu, rồi rút trủy thủ ra cắt lấy bốn cái đùi sói, nướng trên ngọn lửa. Hoắc Thanh Đồng vội la lên:

– “Mau mau lấy ra! Ngươi không muốn sống nữa hay sao?”

Tất Nhất Lôi kinh ngạc hỏi:

– “Cô nói gì?”

Hoắc Thanh Đồng hỏi lại:

– “Giả tỉ lũ sói đói này ngửi thấy mùi thơm của thịt nướng, chúng có chịu đứng ngoài chờ đợi nữa hay không?”

Tất Nhất Lôi thấy đúng, vội vàng lấy mấy cái đùi sói ra khỏi ngọn lửa. Cố Kim Tiêu ngồi bên thở hổn hển một lúc rồi lấy vải ra băng bó sáu bảy chỗ bị sói cắn sâu, còn những vết thương lặt vặt thì không sao lo xiết được. Hắn đói bụng lắm rồi, bèn nhặt một cái đùi sói còn chảy máu đầm đìa mà nhai nuốt.

Hương Hương công chúa cầm xem thanh đoản kiếm, khen ngợi mãi người thợ thông minh, chạm khắc lần vỏ thứ hai rất tinh xảo, không để lộ chút xíu sơ hở nào. Nàng nhìn vào trong vỏ kiếm thấy một hạt màu trắng, lúc lắc được nhưng không đổ ra được, bèn tìm một cái que nhỏ khều vào. Một viên tròn nhỏ xíu, màu trắng lăn ra.

Trần Gia Lạc và Hoắc Thanh Đồng đều thấy lạ, nhìn kỹ thì ra đó là một hoàn sáp. Trần Gia Lạc hỏi:

– “Mở xem có được hay không?”

Hoắc Thanh Đồng gật đầu, chàng bèn dùng ngón tay bóp khẽ. Hoàn sáp nứt ra, bên trong có một tờ giấy vo tròn. Mở ra xem thì đó là một tờ giấy mỏng như cánh ve, có viết rất nhiều chữ, loại chữ Hồi thời xưa.

Trương Triệu Trọng thấy họ tìm ra tờ giấy, bèn giả vờ bỏ thêm củi vào lửa để đi qua đi lại lén nhìn. Hắn thấy trong giấy toàn là chữ Hồi, không biết chữ nào nên cảm thấy thất vọng.

Trần Gia Lạc có biết chút ít tiếng Hồi nhưng không giỏi lắm. Trong tờ giấy này lại dùng văn tự cổ nên chàng không hiểu gì, bèn đặt tờ giấy trước mặt Hoắc Thanh Đồng. Hoắc Thanh Đồng vừa xem vừa ngẫm nghĩ mất nửa ngày mới cất tờ giấy vào trong túi. Trần Gia Lạc liền hỏi:

– “Trong đó viết gì vậy?”

Hoắc Thanh Đồng không trả lời, cứ im lặng suy nghĩ. Hương Hương công chúa hiểu tính chị mình, bèn mỉm cười nói:

– “Tỉ tỉ đang suy nghĩ một vấn đề khó giải quyết, không nên quấy rầy.”

Hoắc Thanh Đồng dùng ngón tay vẽ lăng nhăng trên cát, vẽ xong vòng tròn này lại xóa đi vẽ vòng khác. Lát sau nàng lại ngồi bó gối, suy nghĩ trông rất khổ sở. Trần Gia Lạc khuyên:

– “Muội còn yếu, đừng suy nghĩ nhiều. Những chuyện khó hiểu trong tờ giấy, sau này sẽ suy nghĩ tiếp. Bây giờ vấn đề quan trọng nhất là tìm cách thoát thân.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Thì muội cũng đang nghĩ cách tránh khỏi bầy sói ác, lại còn phải tránh lũ sói người nữa.”

Nói xong, nàng bĩu môi về phía bọn kia. Hương Hương công chúa nghe tỉ tỉ gọi chúng là “sói người”, danh từ đầy vẻ khinh bỉ, bèn vỗ tay cười thành tiếng.

Hoắc Thanh Đồng suy nghĩ một lúc nữa, rồi bảo Trần Gia Lạc:

– “Nhờ huynh đứng trên lưng ngựa nhìn về phía Tây, xem có đỉnh núi màu trắng nào không.”

Trần Gia Lạc gật đầu, dẫn con ngựa trắng tới, rồi nhảy lên lưng ngựa chăm chú nhìn về phía Tây. Tuy chung quanh có nhiều ngọn núi cao dựng đứng lên, nhưng không có đỉnh nào màu trắng cả. Chàng đứng xem kỹ một hồi vẫn không thấy gì, bèn nhìn Hoắc Thanh Đồng lắc đầu một cái.

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Theo văn tự trên tờ giấy thì cổ thành cách đây không xa, lẽ ra phải thấy ngọn núi đó mới phải.”

Trần Gia Lạc đã nhảy xuống ngựa, hỏi ngay:

– “Cổ thành nào?”

Hoắc Thanh Đồng đáp:

– “Hồi nhỏ muội đã nghe kể, xưa kia có một tòa thành phồn thịnh, nhưng đột nhiên bị một trận bão cát rất lớn thổi qua vùi lấp. Trong cổ thành có mấy vạn ngươời, không ai thoát ra được.”

Nàng quay sang bảo Hương Hương công chúa:

– “Muội muội! Những chuyện này thì muội biết rõ nhất, kể cho huynh ấy nghe đi.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Có rất nhiều truyền thuyết về tòa cổ thành ấy, nhưng chưa có ai chính mắt nhìn thấy. Nhiều người tìm đến đó, nhưng ít người sống sót trở về. Nghe nói trong đó có vô số kim ngân châu báu. Có người đi lạc giữa sa mạc, tình cờ lạc vào cổ thành. Y nhìn thấy kim ngân châu báu mà hoa cả mắt, dĩ nhiên hoan hỉ vô cùng, bèn chất đầy lên lưng lạc đà định mang về. Nhưng y cứ đi vòng vòng mãi trong cổ thành, làm cách nào cũng không rời khỏi được.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Tại sao lại thế?”

Hương Hương công chúa đáp:

– “Nghe nói dân trong cổ thành phải chết bất đắc kỳ tử, đều biến thành quỉ hết. Họ rất thích tòa thành đó, nên sau khi chết vẫn không chịu rời khỏi. Bọn quỉ không muốn tài sản của mình bị lấy đi, nên đã mê hoặc người ta không cho rời khỏi đó. Ai chịu bỏ lại hết kim ngân châu báu, không lấy món nào thì sẽ thoát ra một cách dễ dàng.”

Trần Gia Lạc nhận xét:

– “Nếu thế thì chẳng có ai rời khỏi được.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Đúng vậy! Nhìn thấy nhiều kim ngân châu báu như thế, ai mà không lấy? Người ta còn nói, nếu khách không lấy kim ngân châu báu mà còn bỏ lại mấy lạng bạc trong cổ thành, thì trong giếng sẽ chảy ra nước mát cho họ uống. Để tiền lại càng nhiều, nước chảy ra càng lắm.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Thế thì bọn quỉ trong cổ thành tham lam quá.”

Hương Hương công chúa lại kể:

– “Trong Hồi tộc bọn muội, chỉ những người mắc nợ không trả nổi mới tìm đến đó, nhưng đã đi thì vĩnh viễn không trở lại. Có lần một đoàn thương nhân trong sa mạc cứu được một người bán sống bán chết. Người đó kể là đã vào được cổ thành, nhưng cứ đi qua đi lại mãi cùng một chỗ. Y nhìn trên mặt cát thấy có một đường dấu chân, tưởng có người đã đi qua, nên cố gắng hết sức bám theo dấu vết đó, hy vọng sẽ rời khỏi được vùng sa mạc. Nào ngờ dấu chân đó lại chính là dấu chân của y, nên y cứ thế mà đi những vòng tròn lớn, cuối cùng thì kiệt sức ngã quỵ. Đoàn thương nhân nhờ y dẫn vào cổ thành, nhưng y thà chết cũng không chịu. Y còn nói, dù cho y toàn bộ tài sản trong cổ thành, y cũng không muốn bước vào tòa thành quỉ quái đó một bước nào nữa.”

Trần Gia Lạc trầm ngâm nói:

– “Đi theo vết chân của mình thành vòng tròn trên sa mạc! Chuyện này nghĩ lại thật là dễ sợ.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Có chuyện còn đáng sợ hơn. Một người đang đi một mình trên sa mạc thì đột nhiên nghe tiếng người gọi tên mình. Y đi theo tiếng gọi nhưng không thấy gì cả, thế là bị lạc đường.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Con người nhìn thấy quá nhiều tài sản, thần trí nhất định trở nên bất thường. Trên sa mạc khó nhận ra phương hướng nên càng dễ lạc. Chỉ cần con người hạ quyết tâm, không để châu báu mê hoặc thì sẽ tìm thấy đường đi. Chưa chắc là cổ thành có quỉ hại người.”

Hoắc Thanh Đồng im lặng lắng nghe, lát sau mới lên tiếng:

– “Tờ giấy trong vỏ kiếm có nói rõ phương hướng và đường đi tới cổ thành.”

Trần Gia Lạc “À” lên một tiếng.

Hương Hương công chúa mỉm cười nói:

– “Chúng ta không muốn lấy kim ngân châu báu, mà lấy được thì bọn quỉ cũng không thả cho đi, biết đường tới đó cũng vô dụng. Chỉ may ở chỗ tìm được thanh bảo kiếm sắc bén phi thường này. Khi giao đấu chỉ cần đụng nhẹ một cái là có thể chém gãy vũ khí của đối phương.”

Nàng nhổ ba sợi tóc, đặt gần lưỡi kiếm rồi tiếp:

– “Gia gia từng nói, nếu đúng là bảo kiếm thì thổi tóc qua là đứt ngay. Không biết thanh kiếm này có được như thế hay không?”

Nàng thổi nhẹ tóc vào lưỡi đoản kiếm, ba sợi tóc lập tức đứt thành sáu đoạn. Hương Hương công chúa hoan hỉ vỗ tay. Hoắc Thanh Đồng cũng lấy một cái khăn tơ ném lên trời, khi nó từ từ rơi xuống bèn cầm thanh đoản kiếm khẽ đưa một nhát. Cái khăn lập tức bị cắt làm ba khúc.

Trương Triệu Trọng và Quan Đông tam ma cùng ồ lên thán phục. Đã là người học võ mà nhìn thấy vũ khí lợi hại như thế, chúng không khỏi thèm thuồng đến đỏ mắt, người nóng ran lên.

Trần Gia Lạc thở dài nói:

– “Kiếm tuy sắc bén, nhưng không thể giết nhiều sói như vậy. Thật là uổng phí cho thanh bảo kiếm này.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Trong giấy đã nói rõ, tòa thành cổ này được kiến trúc tựa vào một đỉnh núi cao, trắng như ngọc. Tính ra thì đỉnh núi đó cách đây không xa, lẽ ra có thể nhìn thấy. Thế mà nhìn mãi không thấy, thật là không sao hiểu nổi.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Tỉ tỉ không cần suy nghĩ những chuyện rườm rà đó. Dù tìm thấy ngọn núi đó thì có ích gì?”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Nếu tìm được, chúng ta có thể trốn vào cổ thành. Trong cổ thành nhất định phải có nhà cửa. Có nhà cửa thì có chỗ để tránh bầy sói, chắc chắn tốt hơn ở đây rất nhiều.”

Trần Gia Lạc kêu lớn:

– “Đúng thế!”

Chàng lập tức nhảy trở lên lưng ngựa, đứng chăm chú nhìn về phía Tây, nhưng chỉ thấy cả bầu trời trắng xóa, chẳng có bóng dáng ngọn núi nào.

Trương Triệu Trọng thấy ba người nói chuyện mãi không thôi, lắng tai mà không nghe được chữ nào. Hắn thấy Trần Gia Lạc hai lần trèo lên lưng ngựa mà đứng, lại càng không hiểu chàng làm trò quỉ quái gì. Bốn người bọn chúng cũng đang bàn cách thoát khỏi vòng vây của bầy sói, nhưng không có kết quả.

Hương Hương công chúa lấy lương khô ra, chia cho mọi người cùng ăn. Lúc này nàng mới nghĩ đến con nai nhỏ mà mình bắt về nuôi, không biết có ai cho nó ăn no hay không. Nàng ngẩng đầu lên nhìn về phía chân trời, đột nhiên kêu lên:

– “Tỉ tỉ! Tỉ tỉ xem kìa!”

Hoắc Thanh Đồng nhìn theo tay nàng chỉ, thấy một chấm đen hoàn toàn không động đậy, bèn hỏi:

– “Cái gì vậy?”

Hương Hương công chúa nói:

– “Một con chim ưng. Muội thấy nó bay từ hướng này tới chỗ đó, không hiểu sao lại đột nhiên dừng lại giữa lưng chừng trời, không động đậy chút nào.”

Hoắc Thanh Đồng hỏi:

– “Hay là muội muội hoa mắt rồi?”

Hương Hương công chúa quả quyết lắc đầu:

– “Không phải đâu! Muội nhìn thấy rõ ràng con chim ưng bay tới chỗ đó.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Nếu không phải chim ưng thì chấm đen đó là gì? Còn nếu là chim ưng, thì sao nó không động đậy? Thật là chuyện lạ.”

Ba người nhìn một lúc, chấm đen đó đột nhiên chuyển động, càng đến gần càng thấy lớn hơn, đúng là một con chim ưng. Chỉ chốc lát là nó bay ngang đầu họ. Hương Hương công chúa đưa tay vuốt lại mái tóc vừa bị gió thổi tung lên.

Trần Gia Lạc nhìn bàn tay trắng muốt của nàng lướt qua bộ y phục màu trắng, không hiểu tay trắng hơn hay áo trắng hơn. Chàng đột nhiên tỉnh ngộ, nói với Hoắc Thanh Đồng:

– “Muội nhìn tay cô ấy mà xem.”

Hoắc Thanh Đồng nhìn, không hiểu gì nhưng cũng nói:

– “Kha Tư Lệ! Tay của muội thật là đẹp.”

Hương Hương công chúa mỉm cười. Trần Gia Lạc cười thành tiếng:

– “Tay của Kha Tư Lệ đương nhiên là đẹp rồi. Nhưng muội có để ý không, vì tay của cô ấy rất trắng nên khi để trước áo trắng thì hoàn toàn không thể phân biệt được chỗ nào là tay, chỗ nào là áo.”

Hoắc Thanh Đồng khẽ “À” một tiếng, mặt vẫn ngơ ngác. Hương Hương công chúa nghe hai người tán dương bàn tay của mình, không khỏi mắc cỡ bèn cúi mặt xuống mà lắng nghe.

Trần Gia Lạc tiếp:

– “Con chim ưng đó đã đậu trên đỉnh của một ngọn núi màu trắng.”

Hoắc Thanh Đồng khẽ la lên:

– “Không sai! Bầu trời ở hướng đó trắng như sữa dê vậy. Nhất định đỉnh núi cũng có màu như thế, nhìn từ xa không thể nào phân biệt được.”

Trần Gia Lạc cười:

– “Đúng vậy. Còn con chim ưng màu đen, nên chúng ta mới nhìn thấy nó dễ dàng.”

Hương Hương công chúa bây giờ mới hiểu là hai người đang thảo luận về ngôi cổ thành, bèn hỏi:

– “Làm sao chúng ta đi tới đó được?”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Phải suy nghĩ đã.”

Nàng lại lấy tờ giấy ra xem một lúc, ngẫm nghĩ rồi nói:

– “Đợi mặt trời ngả về hướng Tây, nếu thật sự ở đó có một ngọn núi cao thì chắc chắn phải có bóng nghiêng dưới đất. Khi ấy sẽ tính được ngôi thành cổ đó cách đây bao xa.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Đừng để lộ chút manh mối nào, kẻo bọn khốn này đoán được ý đồ của chúng ta.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Không sai! Chúng ta giả vờ bàn luận về con sói chết này đi.”

Trần Gia Lạc lôi tới một cái xác sói lớn. Ba người quây quanh nói chuyện, không ngớt chỉ trỏ con sói chết. Họ nhổ một cọng lông sói lên để quan sát tỉ mỉ, rồi cạy miệng sói ra để xem hàm răng của nó.

Mặt trời từ từ nghiêng xuống. Ở phía Tây của sa mạc quả nhiên đã xuất hiện một bóng đen. Bóng đen này càng lúc càng dài ra, giống như một người khổng lồ đang nằm trên mặt cát vậy. Ba người nhìn thấy đều mừng rỡ vô cùng. Hoắc Thanh Đồng vẽ dưới đất một loạt hình tròn, hình vuông, hình tam giác để tính toán, rồi kết luận:

– “Từ đây tới chân núi đó khoảng hai mươi hai mốt dặm.”

Nàng vừa nói vừa lật ngửa con sói chết ra. Trần Gia Lạc cầm một cái chân sói lên, sờ vào móng vuốt bén nhọn của nó rồi nói:

– “Nếu ba người chúng ta có một con ngựa nữa, cộng thêm con ngựa trắng này thì có thể chạy gấp một hơi hai mươi mấy dặm.”

Hoắc Thanh Đồng bảo:

– “Huynh cố nghĩ cách để chúng tự ý thả chúng ta ra ngoài.”

Trần Gia Lạc gật đầu:

– “Được! Để ta thử xem.”

Sau đó chàng tiện tay dùng thanh đoản kiếm mổ bụng con sói chết ra.

Trương Triệu Trọng và Quan Đông tam ma thấy họ cứ lật qua lật lại xem xét tỉ mỉ cái xác sói, lại không ngừng nói chuyện bằng tiếng Hồi ra vẻ buồn rầu. Trương Triệu Trọng sinh nghi, bước tới hỏi:

– “Con sói này có gì lạ đâu? Trần đương gia! Các vị đang bàn bạc nghi lễ an táng nó đấy ư?”

Trần Gia Lạc lập tức nảy ra một ý, bèn đáp:

– “Chúng ta đang bàn bạc cách thoát hiểm. Huynh xem, trong bụng con sói này chẳng còn thứ gì cả.”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Dĩ nhiên là nó đói quá rồi, nên quyết ăn thịt chúng ta.”

Quan Đông tam ma nghe vậy cũng phải suy nghĩ. Kha Hợp Đài nói:

– “Lần trước gặp bầy sói, chúng ta leo lên cây mà trốn. Bầy sói chỉ quẩn quanh gốc cây mấy vòng rồi bỏ đi ngay. Lần này chúng kiên nhẫn hơn nhiều, bao vây chúng ta mãi không chịu buông tha.”

Tất Nhất Lôi nói:

– “Lần trước may mà có con lạc đà dụ lũ sói đi. Bây giờ thì chắc bầy sói đã ăn sạch sẽ dã thú trong vòng vài trăm dặm rồi, chỉ còn mấy người chúng ta mà thôi.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Bụng sói đã trống rỗng đến như thế này, phát hiện ra thứ gì nhét vào bụng được thì nhất định chúng không chịu bỏ qua.”

Trương Triệu Trọng hỏi:

– “Huynh nghiên cứu con sói chết cả nửa ngày, chỉ phát hiện ra lý thuyết đó thôi sao?”

Trần Gia Lạc cười:

– “Muốn rời khỏi nơi nguy hiểm này, phải dựa vào lý thuyết đó.”

Quan Đông tam ma lập tức bật dậy, tới gần để nghe. Trương Triệu Trọng hỏi:

– “Trần đương gia có biện pháp gì?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Chúng ta đang bị vây ở đây, hễ đốt hết củi là phải đi lấy thêm. Nhưng rốt cuộc cũng có lúc không còn củi để lấy. Lúc đó bảy người chúng ta cùng lúc bỏ mạng phải không?”

Trương Triệu Trọng và Quan Đông tam ma đều gật đầu.

Trần Gia Lạc lại tiếp:

– “Người học võ chúng ta hễ mở miệng là tự khoe hành hiệp trượng nghĩa, liều mạng cứu người. Lúc này bảy người lâm nguy ở đây, chỉ cần một người chịu liều mạng vì bằng hữu là được. Bầy sói thấy lửa không dám nhảy vào, nhưng khi thấy có người cưỡi ngựa chạy ra, nhất định sẽ đuổi theo. Người đó dụ bầy sói đi càng xa càng tốt, sáu người còn lại sẽ thoát thân.”

Trương Triệu Trọng hỏi:

– “Thế thì người đó sẽ ra sao?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Nếu người đó may mắn gặp được quân Thanh hay quân Hồi thì có thể thoát nạn. Nếu không thoát thì coi như chết vì cứu người, đỡ uổng phí hơn chết chung với mọi người ở đây.”

Tất Nhất Lôi nói:

– “Biện pháp này rất tốt. Nhưng bây giờ ai sẽ dụ bầy sói rời khỏi đây? Người đó chết chắc, không thể nào sống được.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Các vị có cao kiến gì không?”

Tất Nhất Lôi im lặng. Kha Hợp Đài nói:

– “Tốt nhất là bốc thăm, trúng ai thì người đó đi.”

Trương Triệu Trọng cũng nghĩ là ngoài cách này ra không còn cách nào khác. Nghe Kha Hợp Đài đề nghị bốc thăm, hắn chợt nghĩ ra cách ăn gian, liền nói:

– “Được! Chúng ta bốc thăm đi.”

Trần Gia Lạc đã định tình nguyện xông ra cùng tỉ muội Hoắc Thanh Đồng. Nhưng nghe chúng đề nghị bốc thăm, nếu mình tình nguyện sẽ bị nghi ngờ, bèn nói:

– “Thế thì năm người chúng ta bốc thăm đi, miễn cho hai vị cô nương.”

Cố Kim Tiêu hỏi:

– “Nam nữ gì cũng là người, sao lại miễn cho hai người đó?”

Kha Hợp Đài dõng dạc nói:

– “Nam tử hán đại trượng phu không bảo vệ được hai vị cô nương là xấu hổ muôn phần rồi, còn muốn họ hy sinh cứu mình khỏi thảm cảnh hay sao? Ta thà chết trong miệng sói đói còn hơn. Nếu không, có giữ được mạng thì suốt đời cũng bị bằng hữu giang hồ khinh miệt.”

Tất Nhất Lôi lại nói:

– “Tuy nam nữ có khác, nhưng nam nhân cũng là một mạng, nữ nhân cũng là một mạng. Không bốc thăm thì thôi, nếu bốc thăm thì mọi người đều phải bốc.”

Hắn nghĩ:

– “Có thêm hai người bốc thăm, thì phần rủi ro rơi trúng mình sẽ giảm đi rất nhiều.”

Cố Kim Tiêu đối với Hoắc Thanh Đồng vừa thèm vừa hận, nghĩ bụng:

– “Người đẹp như thế này mà đại gia không ôm được vào tay, thà để sói ăn thịt còn hơn để người khác ôm.”

Thế là mọi người nhìn Trương Triệu Trọng để nghe ý kiến. Trương Triệu Trọng đã tính được kế, biết chắc không trúng phải mình, bèn nghĩ:

– “Hai mỹ nhân này nên giữ lại. Một cô thì hoàng thượng cần, còn cô kia chẳng lẽ mình không đoạt được hay sao?”

Hắn bèn nói rất ngang tàng:

– “Đại trượng phu thà mất mạng chứ không chịu mất danh. Ta là nam tử hán lừng danh thiên hạ, lẽ nào chịu để nữ nhân liều mạng cứu mình?”

Hai người Tất, Cố nghe hắn nói lời khẳng khái, bèn không tranh cãi nữa. Cố Kim Tiêu nói:

– “Được! Thế thì coi như hai cô này may mắn.”

Tất Nhất Lôi nói:

– “Để ta làm que để bốc thăm.”

Hắn cúi xuống định bẻ mấy cành cây. Trương Triệu Trọng nói:

– “Dùng cành cây thì dễ làm dấu, dùng tiền đồng tốt hơn.”

Hắn lấy trong bọc ra mười mấy đồng tiền, chọn năm đồng lớn nhỏ bằng nhau, những đồng khác cất lại vào bọc, rồi nói:

– “Đây có bốn đồng Ung Chính thông bảo, một đồng Thuận Trị thông bảo. Các vị hãy xem, tất cả đều to nhỏ như nhau cả.”

Tất Nhất Lôi kiểm tra từng đồng một, thấy không có gì đáng nghi ngờ. Hắn bèn nói:

– “Vậy ai bốc trúng đồng Thuận Trị thông bảo thì người đó phải đi ra ngoài dụ bầy sói.”

Trương Triệu Trọng gật đầu:

– “Đúng là như vậy. Tất đại ca! Huynh giấu tiền đi.”

Tất Nhất Lôi liền bỏ năm đồng tiền đó vào túi của mình.

Trương Triệu Trọng hỏi:

– “Ai muốn bốc trước?”

Hắn đưa mắt nhìn Cố Kim Tiêu, thấy tay hắn run bần bật, bèn mỉm cười nói:

– “Cố huynh đừng sợ. Sống chết có mạng, phú quí do trời. Để ta bốc trước cho.”

Hắn thò tay vào túi Tất Nhất Lôi, ngón tay vừa sờ là biết ngay dày mỏng, lấy ra một đồng Ung Chính thông bảo, mỉm cười nói:

– “Tiếc là ta không có cơ hội để làm anh hùng.”

Rồi hắn xòe tay ra cho bốn người xem.

Thì ra bốn đồng Ung Chính tuy kích cỡ to nhỏ giống hệt tiền Thuận Trị, nhưng đúc vào năm cuối đời Ung Chính, sau đời Thuận Trị tới sáu bảy chục năm. Tiền Thuận Trị lưu hành trong dân gian lâu ngày, bị mòn nhiều hơn, dĩ nhiên mỏng hơn một chút. Chênh lệch chút đỉnh người thường khó mà phát hiện, nhưng khi Trương Triệu Trọng luyện Phù Dung Kim Châm trên núi Võ Đang, hắn đã luyện qua Kim tiền tiêu. Để vận kình chính xác khi phóng Kim tiền tiêu thì phải biết rất rõ độ nặng nhẹ lớn nhỏ của đồng tiền. Vì thế tay hắn sờ đồng tiền đã quen lắm rồi, chỉ cần chạm đầu ngón tay vào là phân biệt được ngay.

Sau đó Trần Gia Lạc bốc thăm. Chàng chỉ muốn bốc được đồng Thuận Trị để dẫn hai cô gái thoát thân, nhưng không nghĩ đến đồng tiền dày mỏng khác nhau nên bốc bừa trúng một đồng Ung Chính thông bảo.

Trương Triệu Trọng gọi:

– “Cố huynh bốc đi.”

Cố Kim Tiêu xách cây hổ xoa lên khua loảng xoảng, lớn tiếng nói:

– “Vậy thì một trong ba huynh đệ chúng ta phải bốc trúng Thuận Trị thông bảo rồi. Chắc chắn là có chuyện gian dối.”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Mọi người đều trông vào số phận, làm gì có chuyện ăn gian?”

Cố Kim Tiêu quát:

– “Tiền là tiền của ngươi, người bốc thăm đầu tiên cũng là người. Ai mà tin được ngươi chưa đánh dấu mấy đồng tiền đó?”

Trương Triệu Trọng tái mặt lại nói:

– “Vậy thì lấy tiền của ngươi ra đi, mọi người bốc thăm lần nữa.”

Cố Kim Tiêu nói:

– “Mỗi người lấy ra một đồng, vậy thì không ai oán trách được ai.”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Được! Chết thì chết! Làm gì có loại nam tử hán đại trượng phu nhát gan sợ chết?”

Tất Nhất Lôi lấy ba đồng tiền còn lại ra trả cho Trương Triệu Trọng, rồi cho tay vào túi lấy thêm một đồng Ung Chính thông bảo. Hai người Cố và Kha lấy tiền ra, toàn là tiền Ung Chính. Lúc này cách đời Ung Chính không xa lắm, tiền Ung Chính phổ biến hơn tiền Thuận Trị rất nhiều.

Trần Gia Lạc nói:

– “Ta không mang theo tiền đồng, dùng tiền của Trương huynh cũng được.”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Quả nhiên Trần đương gia khí khái khác người. Thế là có đủ bốn đồng tiền Ung Chính thông bảo rồi, Thuận Trị thông bảo thì dùng đồng này đi. Cố lão huynh thấy có được không?”

Cố Kim Tiêu giận dữ nói:

– “Không dùng Thuận Trị thông bảo. Trên đồng tiền có chữ Thuận Trị, Ung Chính khác nhau, sờ vào là biết.”

Thật ra chỉ dùng đầu ngón tay sờ trong khoảnh khắc mà phân biệt mấy chữ nhỏ xíu trên đồng tiền không phải là dễ. Cố Kim Tiêu biết vậy nhưng vẫn nghi ngờ, bèn đề nghị:

– “Trong tay Trương huynh có một đồng Ung Chính đúc bằng đồng trắng, còn bốn đồng kia bằng đồng vàng. Vậy ai bắt được đồng tiền trắng sẽ đi dụ sói.”

Trương Triệu Trọng ngẩn ra một chút, rồi mỉm cười nói:

– “Cứ theo ý kiến của huynh. Chỉ sợ vẫn là huynh phải đi nuôi sói.”

Họ Trương khẽ vận kình vào ngón tay, uốn đồng tiền màu trắng hơi cong một chút, rồi trộn chung vào bốn đồng màu vàng.

Cố Kim Tiêu giận dữ nói:

– “Nếu hai chúng ta đều không trúng thăm, chắc sẽ phải đánh nhau một trận.”

Trương Triệu Trọng đáp:

– “Đương nhiên ta sẽ đón tiếp huynh.”

Hắn bỏ năm đồng tiền đó vào túi của Kha Hợp Đài, lại nói:

– “Ba người các vị lấy trước đi, sau đó đến ta, rồi cuối cùng là Trần đương gia. Vậy thì không sợ gian dối nữa chứ?”

Hắn nghĩ thầm:

– “Dù phải chọn một trong hai đồng tiền, ta vẫn chắc chắn bốc được đồng vàng. Thằng lỏi họ Trần tính khí kiêu ngạo, nhất định không giành bốc trước mình.”

Họ Trương đề nghị như thế, dĩ nhiên Quan Đông tam ma không phản bác gì nữa. Tất Nhất Lôi bảo:

– “Lão Tứ! Ngươi bốc trước đi.”

Kha Hợp Đài cũng nói:

– “Lão Đại! Huynh bốc trước đi.”

Trương Triệu Trọng mỉm cười nói:

– “Bốc trước bốc sau cũng vậy thôi, hoàn toàn không có gì khác biệt.”

Thấy trong thời điểm sống chết mà Trương Triệu Trọng vẫn vô cùng trấn tĩnh, cười nói tự nhiên, Quan Đông tam ma không khỏi thán phục dũng khí của hắn.

Kha Hợp Đài thò tay vào túi. Hoắc Thanh Đồng đột nhiên dùng tiếng Mông Cổ kêu lên:

– “Đừng lấy cái bị cong.”

Kha Hợp Đài ngẩn ra một chút, sờ tới đồng đầu tiên thì đúng là hơi cong, bèn chọn một đồng khác. Khi y lấy ra xem thì đúng là một đồng tiền màu vàng.

Thì ra trong lúc năm người bàn bạc bốc thăm, Hoắc Thanh Đồng đứng bên bình tĩnh xem xét, đã thấy Trương Triệu Trọng vận nội lực bẻ cong đồng tiền. Nàng thấy trong Quan Đông tam ma thì Kha Hợp Đài là người đàng hoàng nhất. Trước đây Cố Kim Tiêu bắt được nàng toan cưỡng hiếp, Kha Hợp Đài đã từng ra sức cản trở. Phen này cũng chính y cắt đứt dây trói cho nàng. Vì thế nàng dùng tiếng Mông Cổ báo cho Kha Hợp Đài biết để trả ơn.

Người thứ hai bốc thăm là Cố Kim Tiêu. Kha Hợp Đài dùng tiếng lóng của hắc đạo ở Quan Đông mà nói:

– “Đừng có xoay vòng!”

Câu này có nghĩa là “Đừng lấy cái cong!”

Cố Kim Tiêu và Tất Nhất Lôi giận dữ liếc nhìn Trương Triệu Trọng, thầm nghĩ:

– “Quả nhiên tên này đã giở trò!”

Hai người đã biết bí mật bên trong, đương nhiên đều chọn được đồng vàng. Trần Gia Lạc và Trương Triệu Trọng nghe Hoắc Thanh Đồng nói tiếng Mông Cổ, rồi lại nghe Kha Hợp Đài nói tiếng lóng, đều chẳng hiểu gì. Trên mặt cả hai đều lộ vẻ nghi hoặc. Trần Gia Lạc nhìn Hoắc Thanh Đồng ra ý hỏi, Hương Hương công chúa bèn nói:

– “Đừng lấy cái bị cong.”

Hoắc Thanh Đồng cũng dùng tiếng Hồi mà nói:

– “Đồng tiền màu trắng đã bị tên này uốn cong rồi.”

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Chúng ta đang tìm kế để rời khỏi đây. Bây giờ đến phiên tên gian tặc này bốc thăm, nhất định hắn sẽ chọn đồng màu vàng không bị bẻ cong, để lại đồng trắng cho ta. Ta không chối được, phải ra ngoài dụ bầy sói, hai tỉ muội đòi đi theo. Vậy là chúng ta bị ép phải đi, chúng nhất định không nghi ngờ.”

Trương Triệu Trọng thì nghĩ:

– “Phen này ngươi phải làm thức ăn cho bầy sói rồi. Chết đừng trách ta nhé!”

Hắn thò tay vào túi Kha Hợp Đài. Trần Gia Lạc đột nhiên thấy Cố Kim Tiêu giương mắt lên nhìn Hoắc Thanh Đồng đầy vẻ thèm thuồng. Chàng chợt nghĩ:

– “Nhất định chúng sẽ dùng vũ lực giữ lại, không để hai cô này đi theo ta. Thế thì hỏng bét!”

Tay của Trương Triệu Trọng đã thò vào trong túi, Trần Gia Lạc không còn thời gian để suy nghĩ nữa, vội kêu lên:

– “Trương huynh lấy đồng cong đi! Đồng không cong để lại cho ta.”

Trương Triệu Trọng giật mình rụt tay về, hỏi:

– “Cái quái gì mà cong với không cong?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Trong túi còn hai đồng tiền, một đồng đã bị huynh bẻ cong. Ta muốn lấy đồng không cong.”

Chàng vừa nói vừa đưa tay vào túi của Kha Hợp Đài lấy đồng vàng ra, mỉm cười nói:

– “Huynh tự làm tự chịu, giữ lại đồng tiền màu trắng đó cho mình đi.”

Sắc mặt của Trương Triệu Trọng thay đổi hẳn, lập tức tuốt trường kiếm ra khỏi vỏ, hét lên:

– “Vừa rồi đã nói là ta bốc thăm trước, sao ngươi lại tranh giành?”

Hắn ra chiêu Xuân Phong Phất Liễu đâm vào cổ Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc cúi xuống tránh, đưa hai ngón tay ra điểm vào huyệt Thiên Đỉnh trên cổ hắn. Trương Triệu Trọng không thèm lùi tránh, trở kiếm lại lướt một đường, ra chiêu Tà Dương Nhất Mạt chém vào ngón tay Trần Gia Lạc. Trần Gia Lạc cũng không tránh né mà xoay ngược cổ tay lại, ngón út và ngón cái đã âm thầm kẹp lấy thanh đoản kiếm đưa ra. “Keng” một tiếng, trường kiếm của Trương Triệu Trọng gãy làm đôi, đoản kiếm tiện đà lướt về phía trước.

Trương Triệu Trọng thấy ánh tử quang nhoáng lên, hàn khí nặng nề ép tới mặt mình. Hắn gặp nguy, nhưng đánh liều trong chỗ nguy mà tìm thắng, vung năm ngón tay ra chụp tới cặp mắt Trần Gia Lạc. Chiêu này lợi hại vô cùng, Trần Gia Lạc vội đưa cánh tay trái ra đỡ, đoản kiếm chậm lại một chút. Thế là Trương Triệu Trọng thoát thân, vội tung người nhảy lùi ra sau ba bước.

Quan Đông tam ma và Hoắc Thanh Đồng thấy hai người này xuất thủ nhanh như điện chớp, chiêu nào cũng suýt trúng không thể chen thêm sợi tóc, không khỏi vừa thán phục vừa kinh hãi.

Trần Gia Lạc thừa thắng xông lên, nhảy xổ tới. Trương Triệu Trọng tay không binh khí, đột nhiên ném nửa cây trường kiếm về phía Hoắc Thanh Đồng. Trần Gia Lạc sợ nàng đang bệnh không có sức tránh né, bèn bay tới như tên cản trước mặt nàng, đưa tay vỗ vào chuôi kiếm một cái. Nửa cây trường kiếm lập tức rơi xuống đất.

Nào ngờ đây là kế dương đông kích tây. Dụ được Trần Gia Lạc nhảy đến chỗ Hoắc Thanh Đồng, Trương Triệu Trọng lập tức tung người đến bên Hương Hương công chúa, túm lấy hai tay nàng rồi quay mặt lại hét lên:

– “Ra ngay!”

Trần Gia Lạc ngẩn ra, dừng chân lại. Trương Triệu Trọng lại quát:

– “Ngươi mà không đi thì ta phải quăng cô gái này ra nuôi bầy sói.”

Hắn xách Hương Hương công chúa lên quơ một vòng trên không trung, chỉ cần buông tay là nàng lập tức bay ra khỏi vòng lửa.

Biến diễn quá bất ngờ, Trần Gia Lạc cảm thấy một luồng máu nóng từ giữa ngực trồi lên, tâm trí rối loạn, mất hết chủ ý. Trương Triệu Trọng lại la lên:

– “Ngươi mau mau cưỡi ngựa ra ngoài, dụ bầy sói rời khỏi đây.”

Trần Gia Lạc biết tên gian tặc này độc ác vô cùng, dám nói dám làm. Tình thế đã vậy, chàng chỉ còn cách tháo dây cương buộc con ngựa trắng ra, từ từ trèo lên yên.

Trương Triệu Trọng đưa Hương Hương công chúa lên cao xoay một vòng nữa, hô lớn:

– “Ta đếm đến ba, nếu ngươi chưa ra khỏi vòng lửa thì ta sẽ quẳng nó ra trước. Một… hai… ba…”

Chữ “ba” của hắn vừa ra khỏi miệng, đã thấy hai con ngựa đồng thời phóng ra ngoài vòng lửa.

Thì ra nhân lúc tam ma lo nhìn Trần Gia Lạc và Trương Triệu Trọng, Hoắc Thanh Đồng lén cắt đứt dây cương một con ngựa khác, trèo lên yên, cầm lấy một cành cây đang cháy rồi giục ngựa vọt ra ngoài. Nàng thầm nghĩ:

– “Huynh ấy vừa liều mạng vì mình, tay không đi vào bầy sói. Bây giờ mình liều mình vì huynh ấy. Không cần đi tới cổ thành làm chi, cứ để bầy sói đói trong sa mạc cắn mình ra thành từng mảnh cho xong chuyện. Mong rằng huynh ấy và Kha Tư Lệ có thể thoát hiểm để tìm được hạnh phúc chung thân.”

Ngay lúc đó, Trần Gia Lạc cũng tung ngựa nhảy ra ngoài vòng lửa. Quan Đông tam ma đồng thanh la lớn. Trần Gia Lạc túm lấy hai con sói đói đang phóng tới trước mặt, xách cổ quẳng vào trong. Đùi phải chàng ép sát lên cổ con ngựa trắng, đùi trái nhấn mạnh vào bụng nó. Con ngựa này thật là linh mẫn, bèn quay người lại. Trần Gia Lạc đưa mũi bàn chân khẽ nhấn lên cổ ngựa, con ngựa trắng liền hí một tiếng dài, co bốn chân lên cao nhảy vào trong thành lửa.

Trong tiếng hét của Trần Gia Lạc, hai con sói đói phóng vào Trương Triệu Trọng. Họ Trương nhìn thấy hai hàm răng nhọn há hốc trước mặt mình, chỉ còn cách để Hương Hương công chúa xuống, đảo người tránh né. Trần Gia Lạc phóng ngay một loạt quân cờ, cúi xuống vươn tay ra ôm lấy hông Hương Hương công chúa. Chàng kẹp hai đùi một cái, con ngựa trắng liền bay trở ra ngoài vòng lửa.

Trương Triệu Trọng dùng cạnh bàn tay chém xuống, đánh gục một con sói rồi nhảy xổ theo Trần Gia Lạc. Trong lúc gấp rút, mấy con cờ vây phát xạ chẳng chính xác gì, đều bị hắn tránh né hết.

Trương Triệu Trọng duỗi dài người bay tới, vừa tránh ám khí vừa tấn công địch thủ. Tay trái hắn chụp được cái đuôi con ngựa trắng, dùng sức định kéo nó lùi trở lại. Nhưng thân thể hắn đang lơ lửng trên không, không có chỗ tựa để vận kình. Còn con ngựa trắng lại khỏe vô cùng, cứ phi tới trước, kéo theo hắn ra khỏi vòng lửa.

Đôi chân Trương Triệu Trọng đang ở trên cao, vẫn có thể xoay trở được. Hắn định nhảy lên lưng ngựa rồi sẽ ra tay đoạt lấy Hương Hương công chúa, nhưng đột nhiên cảm thấy một luồng gió thổi tới sau lưng. Biết là có chuyện, hắn lập tức thay đổi tư thế, lộn thêm một vòng. Trần Gia Lạc cầm đoản kiếm đâm vào lưng hắn, tưởng là chắc chắn thành công, nào ngờ võ công tên này trên cả tuyệt vời, đang ở trên không mà trong chớp nhoáng vẫn quay người lại được. Sau đó chàng thấy hắn đạp nhẹ lên đầu một con sói, nhảy trở lại vào trong vòng lửa.

Hoắc Thanh Đồng tay vung ngọn đuốc đã chạy vào giữa bầy sói từ lâu, Trần Gia Lạc vội giục ngựa đuổi theo. Nhiều con sói phóng tới cản đường, nhưng không bị đoản kiếm đâm trúng yết hầu thì cũng bị xẻo mất phần mõm. Thanh bảo kiếm đó cắt xương ngọt như cắt rau, bén không thể tả.

Hai con ngựa chỉ trong chốc lát đã chạy ra khỏi vòng vây, nhanh chóng phi về hướng Tây. Bầy sói không chịu buông tha, kéo nhau rượt theo sau. Ngựa chạy nhanh hơn sói rất nhiều, chớp nhoáng đã bỏ bầy sói lại sau mấy dặm. Muốn chạy khỏi vòng vây của bầy sói không phải là chuyện khó, mà khó là ở chỗ không thoát khỏi sự truy đuổi ngày đêm không ngừng nghỉ của chúng.

Ba người tạm thời thoát hiểm, xuống ngựa nghỉ ngơi một chút. Hoan hỉ không nén nổi, cả ba bất giác ôm chầm lấy nhau. Mặt Hoắc Thanh Đồng chợt đỏ lên, nàng khẽ đẩy cánh tay Trần Gia Lạc ra rồi lên ngựa chạy tiếp về hướng Tây.

Hai ngựa ba người đi không bao lâu thì mặt cát dần dần có nhiều tảng đá, đường đi khúc khuỷu hơn. Ngẩng mặt nhìn lên thấy ngọn núi đó không xa lắm, nhưng đi trên mặt đất thì cứ vòng vèo, mãi đến trời tối vẫn còn thấy đỉnh núi màu trắng dựng đứng trước mặt. Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Mật thư viết là cổ thành được kiến trúc xung quanh ngọn núi ngọc. Từ đây đến đó chắc không tới mười dặm.”

Ba người xuống ngựa nghỉ ngơi, lấy nước cho ngựa uống. Trần Gia Lạc không ngớt vuốt ve bờm con ngựa trắng, thầm nghĩ:

– “Nếu không nhờ thần lực của con tuấn mã này, dù mình chạy được ra ngoài thì Hương Hương công chúa vẫn còn trong tay bọn gian tặc. Thế thì mình nhất định phải quay trở về vòng lửa.”

Hoắc Thanh Đồng lại nghĩ tới lúc ôm Trần Gia Lạc vừa rồi, mặt đỏ ửng lên. Bây giờ tình thế khả quan hơn, dĩ nhiên nàng không tính tới chuyện liều chết báo ơn như vừa rồi nữa.

Nghỉ ngơi chốc lát, sức ngựa hồi phục, xa xa đã nghe tiếng sói tru. Trần Gia Lạc nói:

– “Đi thôi!” rồi nhảy lên lưng con ngựa kia. Hoắc Thanh Đồng nhìn chàng một cái là hiểu ý ngay, bèn cưỡi chung con ngựa trắng với muội muội, tiếp tục đi về hướng Tây.

Đêm lạnh, trăng trong như nước, ngọn núi trắng nhìn như một thỏi ngọc không chút tì vết. Hương Hương công chúa ngẩng lên nhìn, nói với Hoắc Thanh Đồng:

– “Muội đoán là trên đỉnh núi này phải có thần tiên. Tỉ tỉ có nghĩ như vậy hay không?”

Hoắc Thanh Đồng tay phải cầm dây cương, tay trái ôm muội muội, mỉm cười nói:

– “Chúng ta cứ đi xem thử. Không biết là tiên nam hay tiên nữ đây?”

Cười đùa một lúc, bóng núi đã đổ trên người họ. Ba người ngẩng nhìn đỉnh núi, đột nhiên nảy sinh lòng tôn kính thiên nhiên. Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Người xưa có câu Cao sơn ngưỡng chỉ. Ba người chúng ta vừa gặp đại nạn mà không chết, lúc này nhìn núi non hùng vĩ còn thấy đẹp hơn nhiều.”

Nhìn thì tưởng chỉ đưa tay ra là sờ được đỉnh núi, nhưng mấy dặm đường cuối cùng lại gồ ghề rất khó đi. Địa thế ở đây khác hẳn những nơi khác trong vùng sa mạc, giữa bãi cát vàng có lẫn những tảng đá nhô lên. Nhiều chỗ đá nhọn lởm chởm, ngựa cũng khó bước.

Đi mấy dặm nữa thì con đường bỗng rẽ về bên trái, nhưng chia thành năm ngã, không biết rẽ ngã nào mới là đường đúng. Trần Gia Lạc nói:

– “Phức tạp thế này, chẳng trách người ta phải lạc đường.”

Hoắc Thanh Đồng lấy tờ giấy ra soi dưới ánh trăng, xem một lúc rồi nói:

– “Trong mật thư có viết, muốn đến cổ thành thì phải theo đường Tả tam hữu nhị.”

Trần Gia Lạc ngạc nhiên hỏi:

– “Thế nào là Tả tam hữu nhị? Trái ba phải hai nghĩa là gì?”

Hoắc Thanh Đồng lắc đầu:

– “Trong giấy không nói rõ.”

Đột nhiên nghe tiếng cả ngàn cả vạn con sói cùng tru thê thảm. Tiếng tru kéo dài mãi không dứt, nghe bi ai cực độ. Ba người đều dựng tóc gáy lên.

Hương Hương công chúa hỏi:

– “Chúng kêu gào thảm thiết như thế, không biết là vì lý do gì?”

Trần Gia Lạc mỉm cười đáp:

– “Chắc chúng đang đói bụng, mà không có ai cho ăn.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Đã gần giờ Tý rồi, bầy sói dừng lại để hú trăng. Lát nữa chúng ngừng kêu, nhất định lại điên cuồng đuổi tiếp. Chúng ta phải nhanh chóng tìm đường đi vào.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Năm con đường ở đây đều rẽ về bên trái. Mật thư viết là Tả tam hữu nhị, vậy chúng ta thử đi đường thứ ba.

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Giả tỉ phía trước là đường cụt thì lùi lại không kịp nữa.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Thế thì ba người chúng ta chết chung một chỗ.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Hay quá! Tỉ tỉ, chúng ta đi thôi.”

Hoắc Thanh Đồng nghe “ba người chết chung một chỗ”, trước ngực cảm thấy ấm áp, nhưng khóe mắt bỗng hơi ướt. Nàng kéo cương ngựa, quay đầu đi vào con đường thứ ba.

Con đường này càng đi vào sâu lại càng dốc lên, hai bên là vách đá dựng đứng, hiển nhiên do nhân công đẽo núi mà thành. Một lúc sau, bên phải lại xuất hiện ba ngã rẽ. Hoắc Thanh Đồng cả mừng nói:

– “Thoát rồi!”

Tinh thần ba người phấn chấn hẳn lên, thúc ngựa đi vào con đường thứ hai. Nhất định rất nhiều năm không ai qua lại đường này, có chỗ cỏ mọc lút đầu người, có chỗ hoàn toàn bị cát che khuất. Ba người phải xuống ngựa để kéo hai con ngựa vượt qua những đống cát cao. Trần Gia Lạc tiện tay khuân mấy tảng đá để trên đống cát, cho bầy sói khó theo một chút.

Sau một dặm, bên trái phía trước lại có năm ngã rẽ. Hương Hương công chúa đột nhiên kinh hãi kêu lên:

– “Có một đống xương kìa!”

Trần Gia Lạc xuống ngựa quan sát, thấy rõ là hài cốt của một người và một con lạc đà. Chàng thở dài nói:

– “Người này nhất định là bị lạc đường, không tìm được lối ra nên bỏ xác lại đây.”

Ba người lại theo con đường thứ ba đi vào. Đường càng dốc hơn nữa, như một tia sáng soi từ trên trời xuống. Không khí nơi đây âm u lạnh lẽo. Bên đường lại có một đống xương trắng, giữa mớ xương có ánh sáng lấp lánh, thì ra là rất nhiều châu ngọc. Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Người này đã lấy được châu báu rồi, nhưng không thể thoát ra ngoài.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Chúng ta đi đúng đường mà vẫn gặp nhiều hài cốt như thế, không biết những con đường khác còn ghê rợn đến thế nào.”

Hương Hương công chúa rùng mình nói:

– “Khi ra ngoài, chúng ta đừng mang theo châu báu được không?”

Trần Gia Lạc mỉm cười hỏi lại:

– “Muội sợ bọn quỉ không cho chúng ta đi ra phải không?”

Hương Hương công chúa năn nỉ:

– “Ca ca hứa với muội đi.”

Trần Gia Lạc nghe âm điệu đầy vẻ dịu dàng, liền đáp:

– “Nhất định ta không mang theo châu báu đâu. Muội cứ yên tâm.”

Chàng nghĩ, đã có hai mỹ nhân ở bên mình thì tất cả trân châu báu vật trên thế gian dồn lại cũng không bằng được. Đột nhiên chàng cảm thấy hổ thẹn, tự trách:

– “Sao mình lại nghĩ đến cả hai tỉ muội?”

Ba người hết lên cao lại xuống thấp, rẽ trái rẽ phải gần trọn một đêm, sắp sáng thì người ngựa đều mệt mỏi. Hoắc Thanh Đồng lên tiếng đề nghị:

– “Nghỉ một lát đi!”

Trần Gia Lạc nói:

– “Chúng ta cố tìm được nhà cửa rồi yên tâm mà ngủ cho ngon.”

Hoắc Thanh Đồng gật đầu đồng ý.

Đi chẳng bao lâu nữa, đột nhiên thấy phía trước có khoảng trống. Mặt trời của một ngày mới bắt đầu ló dạng, cảnh tượng đẹp đẽ không sao tả được. Đỉnh núi bằng bạch ngọc đâm thẳng lên trời, trước đỉnh núi là một dãy cả ngàn gian nhà. Tất cả đều đổ nát cũ kỹ, không còn gian nào hoàn chỉnh, nhưng vẫn thấy được quy mô kiến trúc hùng vĩ, tưởng tượng được thành phố năm xưa rất phồn vinh.

Nhà cửa san sát như bát úp, nhưng lắng tai nghe lại không có chút âm thanh nào, thậm chí tiếng chim hót tiếng dế kêu cũng không có. Chưa từng gặp phải quang cảnh kỳ lạ và đáng sợ thế này, ba người đều bị không khí tịch mịch làm cho khiếp đảm, thở cũng không dám thở mạnh. Một lát sau Trần Gia Lạc mới giục ngựa đi trước vào thành.

Nơi này cực kỳ khô cằn, hoàn toàn không có cây cỏ. Ba ngườ tiến vào một gian nhà gần nhất. Không biết đã trải qua bao nhiêu năm tháng rồi, nhưng phần lớn đồ đạc trong nhà trông vẫn nguyên vẹn. Hương Hương công chúa thấy dưới nền có một đôi giày hoa của nữ nhân, màu sắc tươi tắn. Nàng khẽ kêu lên một tiếng, định cầm lên để xem. Nào ngờ vừa đụng tay vào, đôi giày lập tức nhũn ra thành bụi, nàng hoảng sợ nhảy vội ra xa.

Trần Gia Lạc nói:

– “Đây là một thung lũng, bốn bề đều có núi cao vây bọc, nên gió mưa không xâm nhập vào được. Đồ đạc ở đây tuy đã ngàn năm mà vẫn nguyên vẹn như vậy, thật là hiếm thấy.”

Ba người đi dọc đường thấy rất nhiều xương trắng. Đao thương, kiếm kích, ám khí vương vãi lung tung. Trần Gia Lạc nói:

– “Truyền thuyết thì nói cổ thành bị một trận bão cát chôn vùi, nhưng xem ra không phải thế.”

Hoắc Thanh Đồng gật đầu:

– “Đúng vậy! Đâu có dấu tích của bão cát? Trông như đã trải qua một trận ác chiến, toàn bộ dân cư trong thành đều bị quân thù giết sạch.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Ngoài thành có cả trăm cả ngàn ngã rẽ, nếu không biết bí quyết để vào thì ai cũng phải lạc đường. Thế thì làm sao quân địch vào đây được?”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Nhất định là có gian tế dẫn vào.”

Nàng lại vào trong nhà, lấy tờ giấy ra trải lên bàn định xem lại tỉ mỉ. Nào ngờ cái bàn đó đã mục, nhìn thì vẫn nguyên vẹn, nhưng vừa để tay nặng một chút là đổ sập xuống ngay.

Hoắc Thanh Đồng nhặt tờ giấy lên xem một lúc rồi nói:

– “Nhà cửa ở đây chắc đã hư hỏng hết, không chống đỡ được bầy sói ấy đâu.”

Trên mặt thư ngoài chữ ra còn có một bản đồ nhỏ. Nàng chỉ vào một điểm trên bản đồ rồi nói:

– “Ở trung tâm thành phố ký hiệu chi chít như vậy, chắc là nơi quan trọng như cung điện hay thành trì gì đó. Nơi đó kiên cố hơn, chúng ta tới đó để tránh bầy sói.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Hay lắm!”

Ba người theo đường vẽ trong bản đồ chỉ dẫn mà tiếp tục đi về phía trước. Đường sá quanh qua quẹo lại như một mê cung, khiến người ta hoa cả mắt. Nếu không có bản đồ chỉ dẫn thì không sao tìm đến đó được. Đi khoảng nửa giờ thì đến trung tâm, ba người không khỏi vô cùng thất vọng. Thì ra đó là chân của đỉnh núi ngọc, chẳng có cung điện hay thành trì gì cả.

Ngọc phong nhìn càng gần càng đẹp, trắng như tuyết lại còn sáng lấp lánh, toàn khối thuần khiết tuyệt không tì vết. Thợ ngọc chỉ tìm được một thỏi ngọc nhỏ là đủ sống sung sướng suốt đời, thế mà ở đây có nguyên một ngọn núi bằng bạch ngọc thế này. Ba người ngẩng đầu nhìn lên, đều thấy lòng thanh thản nhẹ nhõm, mọi lo âu biến hết. Họ đều thầm phục sự kỳ lạ của tạo hóa.

Trong không khí vắng lặng, xa xa bỗng truyền đến tiếng hú của bầy sói. Hương Hương công chúa kinh hãi kêu lên:

– “Bầy sói đến rồi! Chẳng lẽ chúng cũng có mật thư chỉ đường hay sao?”

Trần Gia Lạc mỉm cười nói:

– “Mũi sói chính là mật thư chỉ đường cho chúng. Chúng ta đi dọc đường đã để lại mùi, bầy sói đánh hơi mà đuổi thì không bao giờ trật.”

Hoắc Thanh Đồng cũng cười:

– “Muội thơm tho như thế, đừng nói là sói mà con người cũng có thể tìm theo…”

Nàng nói chưa dứt câu bỗng chỉ tay vào bản đồ, hỏi Trần Gia Lạc:

– “Huynh xem, đây rõ ràng là ngọn núi, sao trong bản đồ lại vẽ nhiều đường như vậy?”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Chẳng lẽ bên trong ngọn núi này trống rỗng, có thể đi vào?”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Ngoài lý do đó thì không còn nguyên nhân nào khác. Nhưng làm sao mà vào trong ấy được?”

Nhìn lại thì thấy có mấy chữ giải thích, nàng bèn dịch ra tiếng Hán:

– “Muốn vào trong cung thì trèo lên đỉnh cây to, hướng về phía núi thần mà gọi lớn ba lần:

– “Ai long a ba sinh.”

Hương Hương công chúa hỏi:

– “Ai long a ba sinh? Nghĩa là gì vậy?”

Hoắc Thanh Đồng đáp:

– “Chắc là ám hiệu. Nhưng ở đây đâu có cây lớn nào?”

Nàng lại nghe tiếng bầy sói tru vang, liền bảo:

– “Chúng ta trốn vào trong nhà đi.”

Ba người quay lưng, định tới gian nhà gần nhất. Trần Gia Lạc vừa bước được hai bước thì thấy dưới đất lồi lên một vật gì đó, hình dạng rất kỳ lạ. Cúi xuống nhìn kỹ, thì ra có nhiều rễ cây chồng chéo lên nhau, rõ ràng là một gốc cây rất lớn. Chàng bèn gọi to:

– “Chắc là cái cây lớn ở đây.”

Hai chị em bước đến nhìn, Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Cái cây lớn khi xưa, bây giờ chỉ còn lại mớ rễ này. Trèo lên ngọn cây mà hô lớn thì cửa cung sẽ mở; vậy cung điện nằm trong ngọn núi. Chẳng lẽ đây là một câu phù chú? Hay là có phép thần tiên?”

Trước nay Hương Hương công chúa vẫn rất tin vào thần tiên, bèn nói:

– “Dĩ nhiên là có phép tiên.”

Trần Gia Lạc mỉm cười nói:

– “Nếu trong núi có người nghe ám hiệu mà khởi động cơ quan, dĩ nhiên cửa động sẽ mở.”

Chàng kêu lớn ba lân:

– “Ai long a ba sinh” ,dĩ nhiên là không có động tĩnh gì. Mọi người không khỏi bật cười.

Hương Hương công chúa nói:

– “Đã bao nhiêu năm rồi, chắc người trong núi đã chết hết.”

Nàng lại ngẩng đầu nhìn lên ngọn núi rồi nói:

– “Không chừng cửa động ở ngay trên này. Tỉ tỉ và ca ca thử nhìn xem, tảng đá trên kia không giống như bàn đạp hay sao?”

Trần Gia Lạc và Hoắc Thanh Đồng nhận ra trên đó có vết tích do người đẽo gọt, đều rất vui mừng. Trần Gia Lạc nói:

– “Để ta nhảy lên xem thử.”

Chàng cầm cây đoản kiếm, đề khí nhảy lên vách núi. Lên cao được một trượng, chàng lấy kiếm đâm vào vách núi, mượn sức nhảy lên thêm một trượng nữa là đến nơi có thể dừng chân. Hương Hương công chúa và Hoắc Thanh Đồng cùng lên tiếng hoan hô.

Trần Gia Lạc vẫy tay chào hai chị em rồi quay vào quan sát vách núi. Dấu vết của cửa động nhìn rất rõ ràng, nhưng bao nhiêu tang thương biến đổi, cửa động đã bị đất cát nhét chặt lại. Trần Gia Lạc dùng tay trái nắm chặt một tảng ngọc lồi ra trên vách núi, tay phải dùng đoản kiếm khều dần từng mảnh đất đá ở cửa động ra, hất xuống dưới. Chẳng bao lâu, cửa động đã mở ra. Chàng thò đầu vào nhìn, rồi chui vào trong động, ngồi lấy châu sách trong túi ra, tháo những sợi dây nối lại cho dài, thòng xuống phía dưới.

Hoắc Thanh Đồng cột dây vào lưng muội muội, Trần Gia Lạc từ từ kéo lên. Gần đến cửa động, Hương Hương công chúa đột nhiên kinh hãi thét to. Trần Gia Lạc kéo mạnh một cái nhấc nàng lên cạnh mình; tay phải đưa ra quàng ngang hông nàng mà an ủi:

– “Đừng sợ, đến nơi rồi.”

Hương Hương công chúa vẫn sợ đến tái mặt, la lên:

– “Sói! Sói!”

Trần Gia Lạc nhìn xuống, bỗng thấy bảy tám con sói dữ đã chạy đến vách núi. Hoắc Thanh Đồng đang huy động thanh trường kiếm cố sức chống cự. Con ngựa trắng hí dài lên, chạy khuất vào những gian nhà của cổ thành.

Trần Gia Lạc gỡ mấy cục đá ở bên cửa động, từ trên cao ném mạnh vào mấy con sói ở gần Hoắc Thanh Đồng khiến chúng chạy loạn lên. Chàng lập tức thòng châu sách xuống. Hoắc Thanh Đồng sợ mình mới khỏi bệnh còn yếu, không đủ sức nắm chặt sợi dây, bèn đưa kiếm sang tay trái múa lên chống cự lũ sói, còn tay phải lấy châu sách buộc vào lưng mình. Buộc xong nàng kêu lên:

– “Được rồi!”

Trần Gia Lạc vận sức giật Hoắc Thanh Đồng bay vọt lên. Hai con sói đói cũng nhảy theo, Hoắc Thanh Đồng vung kiếm chặt đứt đầu một con. Con kia cắn trúng chiếc giày của nàng không chịu nhả, Hương Hương công chúa sợ hãi kêu thét lên. Hoắc Thanh Đồng lơ lửng trên không, co chân để kéo con sói lại gần, múa kiếm chặt đứt đôi con sói. Nửa dưới con sói rớt xuống, nửa trên vẫn cắn chặt chiếc giày, rồi được kéo lên cùng với nàng.

Trần Gia Lạc đỡ nàng ngồi yên, định gỡ nửa con sói ra, nhưng không gỡ được. Chàng liền hỏi:

– “Muội đã bị cắn trúng chưa?”

Hoắc Thanh Đồng chau mày nói:

– “May mà chưa trúng.”

Nàng cầm lấy thanh đoản kiếm trong tay chàng, chặt đứt mõm sói. Thì ra hai hàm răng sói không chỉ cắn ngập vào chiếc giày, có một ít máu chảy ra. Hương Hương công chúa kêu lên:

– “Tỉ tỉ! Chân của tỉ tỉ bị thương rồi.”

Nàng tháo giày cho chị, xé một mảnh vạt áo để bó lại vết thương. Trần Gia Lạc quay đi, không dám nhìn bàn chân để trần trắng muốt của Hoắc Thanh Đồng. Băng bó vết thương xong, Hương Hương công chúa chỉ mấy ngàn con sói đang chạy loạn xạ ở dưới mà mắng:

– “Bọn hư hỏng này đã cắn đau chân của tỉ tỉ ta. Ta sẽ không thương xót bọn mi nữa!”

Trần Gia Lạc và Hoắc Thanh Đồng không khỏi mỉm cười. Họ quay đầu nhìn vào trong sơn động, nhưng tối thui không thấy gì cả. Hoắc Thanh Đồng lấy mồi lửa ra vẫy cho cháy lên, nhưng vừa soi vào động thì tắt ngay. Thì ra nền động thấp hơn bên ngoài rất nhiều, sâu tới mười bảy mười tám trượng. Trần Gia Lạc nói:

– “Động này đã rất lâu không thông gió, chưa xuống được đâu.”

Qua một hồi, nghĩ rằng chướng khí bên trong đã bay ra phần lớn rồi, Trần Gia Lạc mới nói:

– “Để ta xuống trước xem thử.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Xuống dưới đó rồi, muốn trở lên không phải chuyện dễ.”

Trần Gia Lạc mỉm cười nói:

– “Không lên được thì ở luôn dưới đấy.”

Hoắc Thanh Đồng đỏ mặt quay ngoắt đi, không dám nhìn vào mắt chàng. Trần Gia Lạc cột chắc châu sách vào một mô đá lồi ra, rồi theo sợi dây mà tuột xuống. Đến cuối sợi dây thì còn cách mặt đất chừng mười trượng. Chàng men theo vách đá lại tuột xuống mấy trượng nữa, rồi nhẹ nhàng buông người xuống nền đất chắc chắn.

Chàng thò tay vào bọc tìm mồi lửa, chợt nhớ hôm qua mình liều mạng với Cố Kim Tiêu giữa bầy sói đã dùng hết rồi, bèn ngẩng lên gọi lớn:

– “Có mồi lửa đó không?”

Hoắc Thanh Đồng ném xuống, chàng đón lấy rồi thắp sáng lên. Bốn mặt hang này đều là bạch ngọc, óng ánh lên dưới ánh lửa. Dưới đất có mấy cái bàn ghế, ấn thử thì vẫn còn chắc chắn. Thì ra sơn động này kín mít, không thông gió nên đồ vật trong động không bị mục nát. Trần Gia Lạc bẻ một cái chân bàn, đốt lên như một ngọn đuốc.

Chị em Hoắc Thanh Đồng nhìn xuống dưới thấy đột nhiên sáng hơn, rồi nghe Trần Gia Lạc gọi:

– “Xuống đây đi!”

Hoắc Thanh Đồng bảo:

– “Muội muội! Muội xuống trước đi.”

Hương Hương công chúa nắm sợi dây từ từ tuột xuống. Thấy Trần Gia Lạc dang rộng hai tay đứng dưới, nàng nhắm mắt buông người, lập tức cảm thấy hai cánh tay rắn chắc ôm lấy thân thể mình rồi nhẹ nhàng đặt xuống. Tiếp đến Hoắc Thanh Đồng nhảy xuống. Khi Trần Gia Lạc ôm lấy, nàng hổ thẹn đến đỏ mặt tía tai.

Lúc này tiếng hú của bầy sói ở ngoài vẫn có thể nghe thấy, nhưng không rõ nữa. Trần Gia Lạc nhìn thấy trên vách núi bạch ngọc có ba bóng người. Hai bên mình là hai tuyệt thế giai nhân, phản chiếu lên ánh ngọc lại càng diễm lệ khác thường. Ba người đang ở trong lòng sơn động, họa phúc ra sao thì chưa biết được, nhưng trong đời gặp chuyện kỳ ngộ thế này là hứng thú lắm rồi.

Hương Hương công chúa thấy sơn động này đẹp đẽ, hoan hỉ đốt thêm một cái chân ghế nữa, cầm đi về phía trước. Trần Gia Lạc lại bẻ thêm bảy cái chân ghế, chia cho ba người cầm trên tay. Đi qua một con đường hầm rất dài thì phía trước có vách núi cản đường, dường như đã đến chỗ tận cùng rồi.

Trần Gia Lạc kinh hãi thầm nghĩ:

– “Chẳng lẽ hết đường đi rồi hay sao? Tiến cũng không được, lùi cũng không xong, như vậy ta phải làm gì?”

Chàng thấy ở cuối đường hầm có chỗ nhấp nháy phát ra ánh hoàng kim. Đến gần thì ra đó là một bộ áo giáp bằng vàng, che chở cho một bộ xương khô. Bộ áo giáp này được chế tạo rất tinh tế, Hương Hương công chúa nói:

– “Hồi còn sống, người này nhất định là quí tộc hay đại quan gì đấy.”

Hoắc Thanh Đồng thấy trước ngực áo giáp có khắc một con lạc đà có cánh, bèn nói:

– “Không chừng ông ấy còn là quốc vương hay hoàng tử nữa. Nghe nói, thời xưa phải là quốc vương mới được dùng lạc đà có cánh làm huy hiệu.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Thế thì cũng giống như con rồng ở Trung Thổ.”

Chàng đón lấy ngọn đuốc từ tay Hương Hương công chúa, xem thử trên vách đá có rãnh cửa hay dấu vết cơ quan gì không. Vừa đưa ngọn đuốc lên là lập tức nhìn thấy một cây búa bằng vàng cán dài, ở cách bộ áo giáp vàng khoảng sáu thước. Cán búa đang cắm vào một cái vòng để làm chốt cửa. Hoắc Thanh Đồng cả mừng nói:

– “Cửa đây rồi!”

Trần Gia Lạc đưa ngọn đuốc cho nàng, rút cây búa vàng ra. Nhưng vòng cửa bằng sắt, gỉ sắt đã bám chặt vào cán búa không sao rút ra được. Chàng phải dùng thanh đoản kiếm để cạo bớt gỉ sắt, rồi dùng cả hai tay rút cán búa ra. Cầm trên tay thấy rất nặng, chàng mỉm cười nói:

– “Nếu vị quốc vương kia dùng cây búa này làm binh khí, thì quả là thần lực kinh người.”

Bên phải cánh cửa đá còn có bốn cái vòng cửa nữa, được chốt lại bằng những cái gióng sắt rất to, dài tới hai thước. Chàng cạo bớt gỉ sắt rồi cạy chốt ra, nắm vòng cửa thử kéo vào bên trong thì hoàn toàn không thấy nhúc nhích. Thử vận sức đẩy ra phía ngoài, thì cánh cửa lớn bằng ngọc thạch kêu kèn kẹt mấy tiếng rồi hé mở. Cửa dày tới một trượng, giống như một tảng đá lớn chặn đường hơn là một cánh cửa.

Ba người nhìn nhau, đều lộ vẻ mừng rỡ. Tay phải Trần Gia Lạc đưa cao ngọn đuốc, tay trái cầm đoản kiếm đi vào cửa trước. Mới bước được một bước đã nghe sột soạt dưới chân, thì ra mình vừa đạp vụn một đống xương khô. Chàng đưa cao ngọn đuốc soi xung quanh, thấy đây là một con đường hầm vừa dài vừa hẹp, chỉ lọt một người đi qua. Đao kiếm vứt lung tung, xương khô đầy đất.

Hoắc Thanh Đồng chỉ vào mặt sau cánh cửa mà nói:

– “Huynh xem kìa.”

Dưới ánh đuốc, thấy rõ mặt sau cánh cửa lồi lõm nham nhở, có rất nhiều vết dao gọt đẽo. Trần Gia Lạc kinh hãi nói:

– “Những người bên này đã bị ông vua kia khóa cửa nhốt lại. Họ cố gắng phá cửa, nhưng cửa quá dày, ngọc thạch quá cứng nên đành chịu chết.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Cho dù họ có mấy chục cây đoản kiếm lợi hại cũng không thể nào phá cánh cửa ngọc đồ sộ như một ngọn núi nhỏ này.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Nhất định họ đã ngồi đây tính đủ mọi cách, nhưng rốt cuộc thì mọi người tuyệt vọng mà chết…”

Hương Hương công chúa vội kêu lên:

– “Thôi! Đừng nói nữa, đừng nói nữa…”

Tình cảnh đó quá đỗi thê thảm, nàng không đủ sức nghe tiếp. Trần Gia Lạc gượng cười, im lặng không nói nữa.

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Tại sao ông vua kia không đi ra ngoài mà lại đứng giữ cánh cửa, chịu chết chung với những người này? Thật là không sao hiểu được.”

Nàng lại mở bản đồ ra xem, mừng rỡ nói:

– “Đi hết con đường này sẽ tới một gian đại sảnh.”

Ba người chầm chậm tiến lên, bước qua những đống xương trắng. Qua hai khúc quanh thì phía trước quả nhiên xuất hiện một tòa điện lớn. Đi tới cửa điện, họ thấy trong đại điện chỗ nào cũng có hài cốt, đao kiếm rớt lung tung, nhất định năm xưa đã có một phen ác chiến. Hương Hương công chúa thở dài nói:

– “Không hiểu tại sao họ phải ác đấu như thế? Mọi người bình yên vui vẻ sống qua ngày không phải tốt hơn hay sao?”

Ba người đi vào đại điện, Trần Gia Lạc đột nhiên cảm thấy một luồng đại lực kéo mạnh thanh đoản kiếm trên tay, rồi “keng” một tiếng, đoản kiếm rời khỏi tay cắm xuống đất. Đồng thời cây trưởng kiếm trên người Hoắc Thanh Đồng cũng đứt mất dây đeo, rơi xuống nền điện. Ba người hoảng sợ nhảy lùi lại. Hoắc Thanh Đồng cúi xuống định nhặt thanh kiếm, nhưng vừa khom xuống thì đột nhiên mấy chục hạt Thíêt liên tử trong bọc bay vọt ra ngoài, rơi leng keng xuống đất.

Tình hình này thật là đáng sợ. Trần Gia Lạc vội đưa tay trái kéo Hương Hương công chúa, tay phải kéo Hoắc Thanh Đồng nhảy lùi mấy bước. Chàng đứng chặn phía trước hai cô gái, bắt chéo song chưởng trước ngực, tập trung đón đỡ, nhưng đợi mãi mà không thấy động tĩnh gì nữa.

Trần Gia Lạc dùng tiếng Hồi hô lớn:

– “Ba người bọn vãn bối đến đây để tránh né bầy sói, hoàn toàn không có ý định gì khác. Nếu có chỗ nào mạo phạm, xin tha lỗi.”

Hồi lâu vẫn không có tiếng trả lời. Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Chủ nhân nơi đây không biết dùng loại công phu gì mà cách không đoạt hết binh khí của chúng ta, hút được cả Thiết liên tử trong bọc áo. Công phu cao thâm như thế, không những ta chưa từng thấy mà cũng chưa nghe ai nói đến.”

Chàng lại lớn tiếng hô:

– “Xin quí chủ nhân hiện thân, để bọn vãn bối tham kiến.”

Chỉ nghe thấy từ hậu điện vọng lại tiếng vang, ngoài ra không còn tiếng động gì khác. Hoắc Thanh Đồng bớt sợ, lại bước đến nhặt kiếm. Nào ngờ cây kiếm đó giống như bị dán xuống nền, tốn rất nhiều sức mới cầm lên được, nhưng lỏng tay là lại bị hút rơi xuống đất.

Trần Gia Lạc chợt hiểu ra, lớn tiếng la lên:

– “Dưới nền có từ thạch.”

Hoắc Thanh Đồng hỏi:

– “Từ thạch là cái gì?”

Trần Gia Lạc giải thích:

– “Những người đi biển có nói, ở vùng cực bắc có một quả núi gọi là Đại Từ Sơn có thể hút tất cả các loại sắt trong thiên hạ. Những kim sắt treo lơ lửng đều bị nó hút, nên mới chỉ về hướng nam bắc. Họ vượt qua đại dương rộng lớn mà không bị lạc, hoàn toàn dựa vào chuyện này mà chế ra la bàn.”

Hoắc Thanh Đồng hỏi:

– “Vậy là dưới đất có từ thạch, nên ám khí binh khí của chúng ta mới bị hút hay sao?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Nhiều phần là như vậy. Hãy thử lại xem.”

Chàng nhặt cây đoản kiếm lên, cầm chung với một cái chân ghế. Tay vừa thả lỏng là cây đoản kiếm lập tức bắn xuống đất, cắm nghiêng vào mặt đá, còn chân ghế bằng gỗ thì hoàn toàn không động đậy. Trần Gia Lạc nói:

– “Muội xem, sức hút của từ thạch thật là không nhỏ.”

Chàng lại nhặt đoản kiếm lên, nắm thật chặt rồi nói:

– “Xưa kia Hoàng Đế đã chế tạo ra Chỉ Nam Xa, đi đúng hướng trong sương mù dày đặc để đại phá Xi Vưu, cũng vì hiểu được nguyên lý từ thạch hút sắt. Tài trí của người xưa thật đáng cho chúng ta ngưỡng mộ.”

Chị em Hoắc Thanh Đồng không biết Hoàng Đế là ai, Trần Gia Lạc bèn kể lại sơ lược. Hoắc Thanh Đồng bước được mấy bước, lại kêu lên:

– “Mau qua đây mà xem!”

Trần Gia Lạc vội vã bước qua, thấy nàng chỉ vào một bộ hài cốt đứng thẳng, còn dính một ít y phục chưa mục nát hết. Bộ xương này rất hoàn chỉnh, tay phải nắm một cây kiếm màu trắng cắm vào lồng ngực một bộ hài cốt khác đứng đối diện. Nhất định năm xưa y đã dùng cây kiếm trắng này giết chết người kia.

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Đây là một thanh ngọc kiếm.”

Trần Gia Lạc khẽ rút thanh kiếm ngọc đó ra. Hai bộ hài cốt mất thăng bằng, lập tức rơi lịch bịch xuống thành một đống xương. Lưỡi thanh ngọc kiếm được mài rất sắc, không khác gì kiếm thép. Chỉ vì chất ngọc tuy cứng nhưng giòn, đụng chạm với bình khí kim loại dễ bị chặt gãy, nên không thực dụng lắm.

Sau đó họ lại thấy dưới nền điện có rất nhiều vũ khí lớn nhỏ được làm bằng ngọc. Đao thương kiếm kích thứ gì cũng có, nhưng hình dạng có phần cổ quái, khác hẳn những loại thường thấy ở Trung Thổ. Trần Gia Lạc đang thấy lạ, Hoắc Thanh Đồng bỗng nói:

– “Muội hiểu rồi!”

Nàng dừng lại một chút rồi tiếp:

– “Chủ nhân tòa động này đã lo liệu tỉ mỉ, bố trí nghiêm ngặt.”

Trần Gia Lạc chưa hiểu, bèn hỏi:

– “Thế nào?”

Hoắc Thanh Đồng giải thích:

– “Ông ấy nhờ sức từ thạch để hút hết binh khí của địch, chuẩn bị sẵn cho bộ hạ các loại binh khí làm bằng ngọc.”

Hương Hương công chúa chỉ một bộ hài cốt có bọc giáp sắt, kêu lớn lên:

– “Úi chà! Những người tấn công vào đây lại còn mặc giáp sắt. Chắc họ bị từ thạch hút cứng xuống nền, không sao bò dậy được.”

Nàng thấy tỉ tỉ vẫn ra vẻ suy nghĩ, bèn hỏi:

– “Tình hình rõ ràng lắm rồi, tỉ tỉ còn suy nghĩ gì nữa?”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Những người cầm ngọc kiếm có thể dễ dàng giết địch, mà sao họ cũng chết như bên đối thủ? Ta chưa hiểu được.”

Nhất thời Trần Gia Lạc không thể nghĩ ra. Hoắc Thanh Đồng lại nói:

– “Chúng ta ra phía sau xem thử.”

Hương Hương công chúa run giọng gọi:

– “Tỉ tỉ đừng đi!”

Hoắc Thanh Đồng ngạc nhiên nhìn lại, thấy sắc mặt em gái có phần sợ hãi, bèn đưa tay ôm lấy vai mà dỗ:

– “Muội đừng sợ! Không chừng bên đó không có người chết thì sao?”

Phía sau đại điện là một gian điện nhỏ hơn. Cảnh tượng trong điện này lại càng dễ sợ. Mấy chục bộ hài cốt từng cặp một bám vào nhau, phần lớn vẫn đứng thẳng như lúc sống. Một nửa thì tay cầm vũ khí, một nửa tay không. Trần Gia Lạc nói:

– “Họ chết như thế, chắc phải có nguyên do kỳ lạ.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Ở đây toàn là người này chém một đao, người kia đánh lại một quyền, chết cùng một lúc.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Cao thủ võ lâm quyết đấu, nếu công lực ngang nhau thì cũng có khi đồng quy ư tận. Nhưng nhiều cặp cùng chết như vậy một lúc, thật khó mà giải thích.”

Ba người đi tiếp vào bên trong, qua một khúc quanh rồi đẩy một cánh cửa nhỏ ra, phía trước đột nhiên sáng hẳn lên. Một luồng ánh sáng từ vách núi trên cao mấy chục trượng soi xuống. Nơi này được ánh dương quang soi tới sáng lòa, nhìn rõ là một gian phòng ngọc. Nhất định kiến trúc sư năm xưa đã cố ý lấy ánh sáng thiên nhiên, chọn đúng vị trí dưới khe núi mà bố trí gian ngọc thất.

Ánh nắng đột nhiên xuất hiện, dù chỉ một tia nhỏ cũng đủ làm con người phấn chấn. Trong ngọc thất còn có giường ngọc, bàn ngọc, ghế ngọc, tất cả đều điêu khắc tinh tế. Trên giường có một bộ hài cốt, trong góc phòng có hai bộ, một lớn, một nhỏ.

Trần Gia Lạc tắt đuốc rồi nói:

– “Chúng ta nghỉ ngơi ở đây.”

Mọi người lấy lương khô và nước ra, ăn uống chút ít. Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Không biết bầy sói sẽ chờ đợi ở ngoài kia đến lúc nào. Chúng ta thi gan với chúng, lương thực và nước uống phải tiết kiệm một chút.”

Mấy ngày nay ba người chưa được thả lỏng một khoảnh khắc nào, bây giờ được vào gian phòng ngọc yên tĩnh này họ mới thấy mệt mỏi không chịu nổi. Chỉ chốc lát, cả ba đều tựa vào những chiếc ghế bằng ngọc mà ngủ thật say.

Hồi 17: Vì dân trừ hại xứng danh hiệp – Nhơ thân diệt bạo vẫn trinh

Trương Triệu Trọng và Quan Đông tam ma giương mắt lên nhìn toàn bộ bầy sói chạy ào ào đuổi theo Trần Gia Lạc và hai cô gái. Chúng thấy hai người đẹp như hoa bị chôn vào bụng sói dĩ nhiên phải tiếc, nhưng bản thân thoát khỏi đại nạn là mừng lắm rồi, đều tự cho mình may mắn. Bốn người ngồi xuống nghỉ ngơi, nướng thịt sói lên vòng lửa mà ăn.

Cố Kim Tiêu thấy củi sắp hết nhưng lười đi kiếm thêm, bèn dồn mấy đống phân sói vào để ngọn lửa hừng hơn mà nướng thịt. Không bao lâu một trụ khói đen dựng đứng lên trời, tuy có gió nhẹ mà vẫn không tản ra.

Đang ăn ngấu nghiến thịt sói nướng, đột nhiên phía đông lại có bụi bặm nổi lên. Bốn người nghĩ bầy sói lại kéo tới, vội đi lấy ngựa. Lúc này chỉ còn hai con ngựa, đều của Quan Đông tam ma cả. Trương Triệu Trọng dắt ngay dây cương một con. Kha Hợp Đài phóng người tới giật lấy dây cương, quát hỏi:

– “Ngươi muốn gì?”

Trương Triệu Trọng vung chưởng gạt họ Kha ra, rồi thấy Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu xách binh khí chạy tới. Trường kiếm của hắn đã bị Trần Gia Lạc chặt đứt nên không còn vũ khí. Trong lúc nguy cấp, hắn nảy ra một gian kế, giả vờ kêu lên:

– “Gấp gì? Có phải sói đâu?”

Quan Đông tam ma đều quay lại nhìn, Trương Triệu Trọng nhân cơ hội tung người nhảy lên lưng ngựa. Hắn nhìn thấy giữa đám bụi cát cuồn cuộn là một bầy lớn lạc đà và dê, hoàn toàn không có con sói nào, vừa rồi nói dối giải nguy không ngờ lại đúng. Hắn định lấy ngựa để chạy trốn, bây giờ không cần trốn nhưng không biết nói sao để xuống ngựa, bèn quay đầu lại phi về phía đám bụi, hô lớn:

– “Ta tới đó xem thử!”

Chạy không đến một dặm, đã thấy trước mặt có một kỵ sĩ phi nhanh tới. Đến trước mặt hắn, người đó giật cương một cái, con ngựa lập tức dừng lại, không chạy thêm bước nào. Trương Triệu Trọng thầm khen:

– “Kỵ thuật hay quá!”

Người cưỡi ngựa là một ông lão mặc áo xám tro. Thấy Trương Triệu Trọng ăn mặc theo kiểu quan quân nhà Thanh, lão bèn dùng tiếng Hán để hỏi:

– “Bầy sói đâu?”

Trương Triệu Trọng chỉ về phía tây.

Lúc này bầy lạc đà và dê đã chạy tới nơi. Phía sau chúng lại có một ông lão đầu trọc mặt đỏ và một bà lão gầy ốm tóc bạc đang cưỡi ngựa áp giải, tiếng dê kêu ngựa hí loạn xạ cả lên. Trương Triệu Trọng đang muốn hỏi thì Quan Đông tam ma đã dẫn ngựa chạy tới. Chúng vừa thấy ông lão áo xám bèn vội vàng thi lễ, lên tiếng vấn an:

– “Lại gặp lão nhân gia rồi! Lão nhân gia có khỏe không?”

Ông lão kia “hừ”

một tiếng rồi nói:

– “Có gì mà không khỏe?”

Thì ra ông lão này chính là Thiên trì quái hiệp Viên Sĩ Tiêu.

Sáng sớm hôm đó, Thiên Sơn Song Ưng bỏ Trần Gia Lạc và Hương Hương công chúa lại, âm thầm ra đi. Họ nghĩ đến Hoắc Thanh Đồng đang bệnh chưa khỏi, định đi tìm nàng, nhưng đi được hai ngày thì thấy Viên Sĩ Tiêu dắt một bầy lạc đà và dê đến. Trần Chính Đức muốn lấy lòng vợ yêu, bèn tới chào hỏi tử tế. Viên Sĩ Tiêu thấy họ Trần đột nhiên thay đổi tính tình, không khỏi ngạc nhiên.

Trần Chính Đức hỏi:

– “Viên huynh đuổi bầy lạc đà và dê này đi đâu vậy?”

Viên Sĩ Tiêu trợn mắt lên đáp:

– “Ngươi đã làm ta bị khuynh gia bại sản rồi.”

Trần Chính Đức kinh ngạc hỏi:

– “Chuyện gì thế?”

Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Lần trước ta dốc vốn mua được một bầy ngựa và dê, muốn dụ bầy sói chui vào trong bẫy. Nào ngờ…”

Trần Chính Đức mỉm cười nói:

– “Nào ngờ bị ông lão đui mắt này quấy rối làm hỏng đại sự chứ gì?”

Viên Sĩ Tiêu hỏi lại:

– “Còn không phải hay sao? Ta đành phải đi mượn tiền mua lại bầy lạc đà và dê này.”

Trần Chính Đức cười nói:

– “Viên đại ca đã tốn hết bao nhiêu tiền, đệ sẽ bồi hoàn đầy đủ.”

Từ lúc được vợ mình dịu dàng quan tâm, những ý nghĩ đố kỵ của họ Trần đã hoàn toàn biến mất. Ông muốn làm đẹp lòng ái thê nên hết sức lịch sự với Viên Sĩ Tiêu, đón ý chiều chuộng vô cùng, thật sự trước nay chưa từng có.

Viên Sĩ Tiêu hỏi:

– “Ai cần ngươi đền?”

Trần Chính Đức nói:

– “Thế thì hai ta sẽ góp sức mọn để giúp huynh một tay, nghe lệnh huynh cùng đi tìm bầy sói, có được hay không?”

Viên Sĩ Tiêu nhìn Quan Minh Mai, thấy người đẹp mỉm cười gật đầu, bèn đáp:

– “Thế cũng được.”

Vì thế ba người cùng lùa đàn lạc đà và dê này đi theo dấu vết bầy sói, tìm dần đến đây. Hôm nay họ thấy lang yên bốc lên mà phân sói cũng càng lúc càng nhiều, tưởng bầy sói đang ở phía này và có người đang cầu cứu, liền nhắm hướng đi tới, gặp Trương Triệu Trọng và Quan Đông tam ma.

Trương Triệu Trọng không biết ông lão này là nhân vật thế nào, nhưng thấy Quan Đông tam ma cung kính thi lễ bèn nghĩ:

– “Chắc người này không phải tầm thường.”

Viên Sĩ Tiêu quan sát bốn hướng một lúc, rồi nói với bốn người:

– “Chúng ta đang đi bắt sói, các ngươi phải đi theo.”

Bốn người đều kinh hãi ngẩn ra một lúc, nghĩ bụng:

– “Ông lão này chắc bị điên rồi. Chạy trốn bầy sói còn không kịp, thế mà nói chuyện đi bắt sói.”

Quan Đông tam ma từng được Trần Chính Đức cứu, biết võ công của ông rất cao cường, nên không nói gì mà chỉ im lặng. Trương Triệu Trọng thì hừ mũi một tiếng, lên giọng đáp:

– “Xin lỗi nhé! Ta còn muốn ăn cơm thêm vài năm nữa, không thể đi cùng.”

Nói xong hắn quay người đi ngay. Trần Chính Đức giận dữ đưa tay túm lấy hông hắn, quát hỏi:

– “Ngươi không nghe lời Viên đại hiệp, muốn chết hay sao?”

Trương Triệu Trọng vận kình vào hữu chưởng xuất chiêu Cung Vân Thác Nguyệt, bàn tay ngửa ra, khuỷu tay ở dưới xoay một vòng nhỏ, đánh lên cánh tay Trần Chính Đức. Dưới ánh dương quang, họ Trương chợt thấy năm ngón tay của đối phương trông như bộ vuốt chim ưng chụp xuống tay mình, kinh hãi thu chiêu biến trảo thành quyền, đánh vào cổ tay của lão.

Trần Chính Đức xuất trảo không trúng đích, cũng biến chiêu đấm xuống. Hai quyền chạm nhau, hai người cùng bị chấn động, công lực không phân cao thấp. Mỗi bên lui lại ba bước, trong lòng đều kinh ngạc, không ngờ giữa sa mạc này lại gặp đối thủ cao cường như thế.

Trương Triệu Trọng hét:

– “Bằng hữu! Để tên tuổi lại đây!”

Trần Chính Đức mắng luôn:

– “Bản lãnh như ngươi mà xứng đáng làm bằng hữu của ta sao? Cuối cùng thì ngươi có chịu nghe lời Viên đại hiệp hay không?”

Giao thủ một chiêu, Trương Triệu Trọng đã biết võ công ông lão này ngang ngửa với mình. Thế mà lão hễ mở miệng là gọi ông lão áo tro kia bằng Viên đại hiệp, xem ra lão họ Viên còn có võ công cao hơn. Cao thủ nào họ Viên? Nhất thời hắn không nhớ ra được, bèn nghĩ bụng:

– “Trong võ lâm có rất nhiều kẻ hư danh, ta không nên mắc lừa. Nhưng bây giờ mà quật cường thì sáu người bọn chúng cùng lúc ra tay, bản thân mình lại đơn thương độc mã, khó mà chống đỡ.”

Hắn bèn nói một câu vô thưởng vô phạt:

– “Tại hạ đang muốn thỉnh giáo cao tánh đại danh của Viên đại hiệp. Nếu là cao nhân tiền bối, sẽ lập tức tuân mệnh ngay.”

Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Hà hà! Thì ra ngươi muốn thử thách ông lão này hay sao? Suốt đời lão phu chỉ thử thách người khác, chưa từng bị hỏi han như vậy. Ta hỏi ngươi, vừa rồi ngươi ra chiêu Cung Vân Thác Nguyệt, sau đó biến thành Tuyết Ủng Lam Quan. Nếu ta công vào bên trái bằng chiêu Hạ Sơn Trảm Hổ, tay trái điểm vào huyệt đạo, chân trái đá vào dưới đầu gối ngươi ba tấc, thì ngươi làm sao đối phó?”

Trương Triệu Trọng giật mình đáp:

– “Hạ bàn sử dụng Bàng Cung Xạ Điêu, hai tay dùng cầm nã thủ bắt ngược lại cổ tay đại hiệp.”

Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Trong thủ có công, đúng là đệ tử của cao thủ Võ Đang rồi.”

Trương Triệu Trọng lại giật mình cái nữa, nghĩ thầm:

– “Ta chỉ đánh một chiêu với lão trọc kia, nói một câu với lão này, thế mà lão đã biết mình ở phái nào rồi.”

Viên Sĩ Tiêu lại nói:

– “Năm xưa ta có qua Hồ Bắc, từng ấn chứng võ công với Mã Chân đạo trưởng.”

Lồng ngực Trương Triệu Trọng bỗng rung động một cái, sắc mặt thay đổi xám như tro tàn. Viên Sĩ Tiêu lại nói:

– “Tay phải ta dùng Miên chưởng để hóa giải cầm nã thủ của ngươi, khuỷu tay bên trái đánh thẳng vào giữa ngực…”

Trương Triệu Trọng cướp lời:

– “Đó là Thốn Chùy của Đại Hồng Quyền.”

Viên Sĩ Tiêu gật đầu:

– “Không sai! Nhưng Thốn Chùy chỉ là hư chiêu. Đợi ngươi hóp ngực vào lùi ra sau, tả chưởng của ta liền phát ra đánh vào mặt ngươi. Năm xưa Mã Chân đạo trưởng không tránh được chiêu này, về sau ta mới nói cho ông ấy nghe cách hóa giải. Để xem ngươi nghĩ ra hay không.”

Trương Triệu Trọng tập trung suy nghĩ, hồi lâu mới nói:

– “Nếu đại hiệp biến chiêu nhanh, dĩ nhiên tại hạ không kịp tránh né. Tại hạ phải sử dụng Uyên Ương Thối để tấn công sườn trái, buộc đại hiệp phải thu chiêu lui về.”

Viên Sĩ Tiêu cười ha hả rồi nói:

– “Chiêu này không tệ. Phái Võ Đang hiện nay, có thể coi ngươi là số một.”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Lúc đó tại hạ lập tức điểm vào huyệt Huyền Cơ ở trước ngực đại hiệp.”

Viên Sĩ Tiêu la lên:

– “Hay, hay lắm! Thế công uyển chuyển như phi hồ, đáng gọi là cao thủ. Ta đạp vào cung Quy Muội ở tây bắc, tấn công vào hạ bàn của ngươi.”

Trương Triệu Trọng đáp:

– “Tại hạ lùi về Tốn, tiến tới Vô Vọng, điểm vào Thiên Tuyệt.”

Cố Kim Tiêu và Kha Hợp Đài nghe hai người nói chuyện đầy những chữ lạ tai, mù tịt chẳng hiểu gì cả. Kha Hợp Đài kéo áo Tất Nhất Lôi, khẽ hỏi:

– “Họ nói loại ám ngữ gì vậy?”

Tất Nhất Lôi đáp:

– “Không phải ám ngữ đâu. Đó là phương vị sáu mươi bốn quẻ của Phục Hy lẫn lộn với tên các huyệt đạo.”

Hai người Cố, Kha bây giờ mới hiểu, thì ra hai bên đang tỉ võ bằng miệng. Xưa nay chỉ nghe có người luận binh trên giấy, còn đánh nhau bằng miệng thì chưa thấy bao giờ.

Lại nghe Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Bên phải tiến về Minh Di, bắt lấy Kỳ Môn.”

Trương Triệu Trọng đáp:

– “Lui về Trung Phù, dùng Phụng Nhân Thủ hóa giải.”

Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Tiến tới Ký Tế, điểm Hoàn Khiêu, tả chưởng ấn vào Khúc Hoành.”

Thần sắc Trương Triệu Trọng lo lắng rõ ràng, dừng lại một chút mới nói:

– “Lùi về Chấn, lùi tiếp về Phục, sau đó lại lùi về Vị Tế.”

Kha Hợp Đài khẽ hỏi:

– “Sao hắn cứ lùi mãi vậy?”

Tất Nhất Lôi vội ra hiệu đừng nói. Hai đối thủ càng nói càng nhanh. Viên Sĩ Tiêu thì vui vẻ mỉm cười, còn mặt Trương Triệu Trọng thì mỗi lúc một đỏ. Mỗi chiêu hắn phải suy nghĩ rất lâu rồi mới miễn cưỡng đưa ra cách hóa giải. Quan Đông tam ma đều nghĩ:

– “Nếu thật sự giao đấu thì ngươi làm gì có thời gian để suy nghĩ? Chậm một chút xíu là bị người ta đánh ngã rồi.”

Hai người trao đổi mấy chiêu nữa. Trương Triệu Trọng nói:

– “Dùng Tiểu Suất thủ ở Trung Văn.”

Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Chiêu này không khá. Ngươi thua rồi.”

Trương Triệu Trọng chưa hiểu, bèn hỏi:

– “Xin thỉnh giáo?”

Viên Sĩ Tiêu đáp:

– “Ta tiến tới chiếm vị trí Phấn, chân đạp vào Âm Thị, rồi điểm vào Thần Phong. Ngươi không thể giải nguy được nữa.”

Trương Triệu Trọng cãi:

– “Nói là nói vậy, nhưng đại hiệp đang ở vị trí Phấn, khuỷu tay không thể thúc tới huyệt Thần Phong của tại hạ.”

Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Không phải dùng khuỷu tay. Ngươi không tin thì ta phải thử xem. Cẩn thận!”

Ông xoay lưng lại, đạp ngược chân phải ra sau, thúc gót vào huyệt Âm Thị ở cách đầu gối đối thủ ba tấc. Trương Triệu Trọng tung người nhảy lùi ra, hô lớn:

– “Làm sao mà…”

Nói chưa dứt câu, tay phải Viên Sĩ Tiêu đã vung ngược qua vai, đầu ngón tay điểm trúng huyệt Thần Phong ở trước ngực đối thủ. Trương Triệu Trọng đau đớn kịch liệt, nổi cơn ho không ngớt. Hắn phải đưa tay xoa lên ngực để thôi cung quá huyệt, tiếng ho mới ngừng lại.

Viên Sĩ Tiêu mỉm cười hỏi:

– “Thế nào?”

Mọi người thấy ông chỉ hơi nhúc nhích người một chút, đầu ngón tay trong chớp nhoáng đã vươn tới điểm trúng huyệt đạo đối phương, võ công thật sự cao siêu không thể lường được. Ai cũng phải kinh hãi.

Trương Triệu Trọng ra vẻ ủ rũ, không dám khoe mình tài giỏi nữa. Hắn lên tiếng:

– “Tại hạ xin nghe lời dặn của Viên đại hiệp.”

Trần Chính Đức nói:

– “Võ công của ngươi cũng có thể gọi là tuyệt đỉnh võ lâm rồi. Xin cho biết tên tuổi.”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Không dám, tại hạ họ Trương, tên Triệu Trọng. Xin thỉnh giáo ba vị.”

Trần Chính Đức nói:

– “À thì ra là Hỏa Thủ Phán Quan. Viên đại ca, hắn chính là sư đệ của Mã Chân đạo trưởng.”

Viên Sĩ Tiêu gật đầu nói:

– “Sư huynh của hắn không bằng hắn đâu. Chúng ta đi thôi.”

Ông bèn giục ngựa đi trước, dẫn cả đoàn theo sau. Trong bầy lạc đà và dê có không ít ngựa. Trương Triệu Trọng và Kha Hợp Đài bèn chọn hai con mà cưỡi. Sáu người dẫn đoàn gia súc đi theo Viên Sĩ Tiêu.

Chạy được một hồi, Trương Triệu Trọng hỏi Trần Chính Đức:

– “Lão gia! Sói nhiều lắm, bây giờ làm sao mà bắt?”

Quan Đông tam ma cũng đang lo lắng đến chuyện này, không sao yên lòng nổi. Trần Chính Đức đáp:

– “Các ngươi cứ nhìn theo tay của Viên đại hiệp mà làm. Mấy con chó sói cỏn con này có gì đáng sợ đâu? Thật là vô dụng.”

Trương Triệu Trọng không hỏi nữa, thầm nghĩ:

– “Lão đã nắm chắc như thế rồi, chẳng lẽ mình lại tỏ ra yếu kém hay sao?”

Thật ra Trần Chính Đức cũng không biết Viên Sĩ Tiêu bắt sói kiểu nào. Ông cao tuổi hơn nên ỷ già nói bừa vậy thôi, chứ nghĩ đến bầy sói hung dữ cũng không khỏi run rẩy trong lòng. Biết chồng mình hư trương thanh thế, Quan Minh Mai cười thầm trong bụng.

Chạy được một hồi, Viên Sĩ Tiêu quay ngựa lại nói với mọi người:

– “Phân sói ở chỗ này rất tươi, bầy sói chắc mới qua đây không lâu. Có lẽ đi về phía tây hai chục dặm nữa là gặp bầy ác quỷ này. Đi mười dặm nữa, các vị hãy đổi lấy ngựa khỏe mà cưỡi.”

Mọi người gật đầu đồng ý. Viên Sĩ Tiêu lại nói:

– “Đuổi tới bầy sói, ta sẽ dẫn đường trước. Các vị chia ra ba người bên trái, ba người bên phải để dồn lạc đà, dê, ngựa chạy ở chính giữa. Không để chúng chạy loạn xạ, kẻo bầy sói sẽ phân tán ra.”

Tất Nhất Lôi muốn hỏi kỹ hơn, nhưng Viên Sĩ Tiêu đã quay ngựa chạy trước rồi.

Mọi người chạy thêm khoảng mười tám mười chín đặm, thấy phân sói càng lúc càng ẩm ướt. Quan Minh Mai nói:

– “Bầy sói ở ngay trước mặt rồi. Nhưng sao chúng nghe tiếng lạc đà kêu ngựa hí mà không đuổi ra đây?”

Trần Chính Đức nói:

– “Chuyện này cũng thật kỳ lạ.”

Thêm mấy dặm nữa, địa thế càng lúc càng dốc hơn. Một quả núi hiện ra trước mặt, chính giữa có một đỉnh cao trắng xóa chọc thẳng lên trời. Thiên Sơn Song Ưng đã ở vùng sa mạc rất lâu, từng nghe truyền thuyết thần kỳ về Ngọc Phong, nào ngờ hôm nay có duyên nhìn thấy. Ánh dương quang chiếu xiên xiên lên đỉnh ngọc, nhuộm cho nó đủ loại màu sắc kỳ ảo đẹp đẽ vô cùng.

Viên Sĩ Tiêu kêu lên:

– “Bầy sói đã vào mê cung rồi. Các vị lấy roi quất lạc đà và ngựa đi.”

Mọi người bèn vung roi ngựa lên mà quất, chỉ trong chốc lát tiếng ngựa hí lạc đà kêu đã vang động khắp vùng. Lát sau, một con sói lớn từ sau một tảng đá thò đầu ra.

Viên Sĩ Tiêu vẫy cây roi dài phát ra những tiếng lách cách, giục ngựa chạy về phía nam. Thiên Sơn Song Ưng, Trương Triệu Trọng, Quan Đông tam ma áp giải nguyên bầy lạc đà và ngựa lập tức chạy theo.

Chạy được mấy dặm, tiếng sói hú vang ở sau lưng nghe vang rền như sấm. Trần Chính Đức quay lại nhìn, thấy trời đất toàn một màu xám. Trời xám do bụi mù, đất xám do màu lông sói, không biết có tới mấy ngàn mấy vạn con sói đói đang nhe nanh múa vuốt đuổi theo.

Ông vội giục ngựa chạy theo Trương Triệu Trọng và Quan Đông tam ma. Bốn tên này cố trấn tĩnh, nhưng sắc mặt đều xám như tro. Kha Hợp Đài trợn mắt muốn rách khóe nhỏ máu ra, điên cuồng quát tháo, thúc bầy lạc đà và ngựa. Y xuất thân là dân chăn nuôi du mục, rất hiểu cách lùa gia súc. Có mấy con muốn tách bầy chạy trốn, đều bị y dùng miệng la hét hay dùng roi quất đuổi về.

Cả bầy gia súc cứ thế mà chạy bên nhau, hoàn toàn không có con nào chạy tản ra ngoài. Vì thế mà bầy sói không bị phân tán. Quan Minh Mai lên tiếng khen ngợi:

– “Kha lão đệ! Bản lãnh ngươi giỏi quá.”

Bầy sói ngoan cường hung hãn, chạy đường dài thì bền bỉ nhưng cự ly ngắn thì không nhanh lắm, sau mười dặm đã không nhìn thấy chúng nữa. Chạy thêm mười dặm nữa, Viên Sĩ Tiêu hô lên:

– “Nghỉ ngơi một lúc, mọi người xuống ngựa tranh thủ ăn uống.”

Kha Hợp Đài đi dồn bọn lạc đà, ngựa, dê về một chỗ. Viên Sĩ Tiêu thấy nghề chăn gia súc của y đúng là tuyệt kỹ, bèn mỉm cười nói:

– “Công của lão đệ thật là lớn.”

Khi bầy sói đuổi gần tới thì đội lạc đà và ngựa đã nghỉ ngơi được một lúc rồi. Cả đoàn cứ thế hết chạy trốn lại ngừng nghỉ, chạy về phía nam khoảng tám chục dặm thì thấy phía trước có bụi bốc lên. Hai người Hồi giục ngựa chạy tới, kêu to lên hỏi:

– “Viên lão gia! Thành công chưa?”

Viên Sĩ Tiêu đáp lớn:

– “Đến rồi, đến rồi! Mau về bảo mọi người chuẩn bị.”

Hai người Hồi bèn quay ngựa chạy trước. Mọi người thấy phía trước có quân tiếp ứng, ai cũng yên tâm hơn nhiều.

Chạy không bao lâu nữa, trên mặt sa mạc bỗng xuất hiện một tòa thành cát hình tròn cực lớn. Đến gần thì thấy tường thành cao khoảng bốn trượng, chỉ có một cửa rất hẹp. Viên Sĩ Tiêu chạy đầu, giục ngựa qua cửa vào thành. Thiên Sơn Song Ưng và Kha Hợp Đài đuổi trọn bầy lạc đà và ngựa chạy vào theo.

Lạc đà và ngựa vào hết, thì bầy sói đã chạy tới nơi. Trương Triệu Trọng tới cửa bỗng hơi ngần ngừ, rồi lập tức kéo dây cương ngựa đi dọc bờ thành mà vòng qua chỗ khác. Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu thấy vậy, cũng bắt chước giật ngựa chạy tránh.

Hàng ngàn hàng vạn con sói đói ùa vào trong thành cát, nhảy xổ lên bọn lạc đà và ngựa mà cắn xé. Lúc bầy sói đã vào hết trong thành, tiếng tù và nổi vang lên. Từ hai bên chạy ra mấy trăm người Hồi, mỗi người đều mang theo sau lưng một bao cát. Họ chạy đến chỗ cửa thành quăng bao cát xuống, chỉ chốc lát đã lấp kín cái cửa duy nhất của vòng thành này.

Thấy họ vỗ tay hoan hô, Trương Triệu Trọng nghĩ:

– “Không biết lão già đó ra sao rồi?”

Hắn thấy mấy chục người Hồi đứng trên đầu tường cát, cũng nhảy xuống ngựa men theo thang cấp mà chạy lên đỉnh tường. Thì ra những người Hồi đó đang dùng dây dài để kéo Viên Sĩ Tiêu và ba người kia lên.

Trương Triệu Trọng nhìn xuống dưới, bất giác giật bắn cả mình. Vòng thành cát này đường kính hơn trăm trượng, vách bên trong rất dốc, dường như xếp bằng gạch rồi đổ cát lên cho trơn tru, không có chỗ nào bước chân lên được. Mấy trăm con lạc đà và ngựa đã bị nhốt trong này cùng gần một vạn con sói đói. Tiếng cắn xé tru gào nghe kinh hồn động phách, chỉ chốc lát là máu chảy kín cả mặt cát trong thành.

Viên Sĩ Tiêu và Thiên Sơn Song Ưng đứng trên đầu tường cười ha hả, đắc ý vô cùng. Trần Chính Đức nói:

– “Bầy sói này làm hại dân chúng ở vùng Nam Bắc Thiên Sơn, giết người vô số, mấy trăm năm nay không sao trừ khử được. Viên đại ca phen này diệt sạch chúng, tạo công đức ngàn đời, trừ hại cho dân. Đúng là xứng danh đại hiệp.”

Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Chúng ta ở đây ăn chén cơm của các bằng hữu người Hồi mấy chục năm rồi, hôm nay coi như báo đáp chút ít.”

Lão ngừng một chút rồi lại nói:

– “Nhưng nếu không có mọi người đồng tâm hiệp lực thì một mình ta làm được cái gì? Chỉ riêng tòa thành cát này thôi, phải hơn ba ngàn người làm mất nửa năm mới xong. Hôm nay lại được nhiều cao thủ ra tay giúp đỡ.”

Quan Minh Mai nói:

– “Muốn bầy sói này chết đói, chắc phải chờ một thời gian khá lâu.”

Viên Sĩ Tiêu gật đầu:

– “Dĩ nhiên là thế. Trong này có nhiều lạc đà và ngựa như vậy, cứ để bọn súc sinh kia ăn no một bữa rồi mới chết.”

Mọi người Hồi đều lên tiếng ca hát hoan hô, vẻ mừng rỡ lộ ra ngoài mặt. Họ chen nhau kéo tới trước mặt Viên Sĩ Tiêu tỏ lời cảm tạ, lấy thịt dê và rượu sữa ngựa ra chiêu đãi. Thủ lãnh người Hồi nói:

– “Bên bờ sông Hắc Thủy, Thúy Vũ Hoàng Sam đang bao vây giết sạch bọn Thanh binh, còn chúng ta ở đây bao vây bầy sói. Sói đã bị thu phục rồi, bây giờ mọi người đi giúp Thúy Vũ Hoàng Sam đi…”

Nói còn chưa dứt, đột nhiên y nhìn thấy Trương Triệu Trọng đứng xa xa, trên người mặc trang phục quan binh nhà Thanh. Y nảy dạ nghi ngờ, nhưng nghĩ rằng người này cùng đến với Viên đại hiệp, đã góp sức diệt bầy sói nên không hỏi nhiều.

Trần Chính Đức lên tiếng:

– “Viên đại ca! Ta có một việc không thể không nói, huynh đừng trách.”

Viên Sĩ Tiêu mỉm cười:

– “Ha ha! Tới lúc già rồi huynh mới lo khách sáo.”

Trần Chính Đức nghiêm trang nói:

– “Đồ đệ của huynh tính tình hư hỏng, huynh phải dạy dỗ đàng hoàng mới được.”

Viên Sĩ Tiêu ngẩn ra hỏi:

– “Đồ đệ của ta? Gia Lạc à?”

Trần Chính Đức gật đầu:

– “Không sai!”

Rồi ông kéo họ Viên qua một bên, kể lại chuyện Trần Gia Lạc dụ dỗ tình cảm của Hoắc Thanh Đồng, rồi ruồng bỏ nàng để chạy theo cô muội muội.

Viên Sĩ Tiêu bán tín bán nghi, bèn nói:

– “Trần Gia Lạc là người rất trọng tín nghĩa, chắc chắn không có chuyện này đâu.”

Quan Minh Mai nói:

– “Chuyện đó là chúng ta đích thân nhìn thấy.”

Bà kể lại chuyện gặp gỡ Trần Gia Lạc và Hương Hương công chúa.

Viên Sĩ Tiêu ngẩn ngơ một lúc, không thể không tin. Lão bỗng nổi giận quát lên:

– “Nghĩa phụ của nó nhờ ta nuôi nấng, dạy dỗ cho nó. Nào ngờ nhân phẩm của nó lại đê tiện như thế, sau này ta còn mặt mũi nào gặp Vu đại ca dưới cửu tuyền?”

Quan Minh Mai thấy hai mắt lão đã rơm rớm, đương nhiên là do vừa giận vừa buồn. Bà đang muốn tìm lời an ủi, Viên Sĩ Tiêu bỗng kêu lên:

– “Chúng ta đi tìm chúng để đối chất cho rõ ba mặt một lời. Nhất định ta không thể dung tha loại người vô tình bạc nghĩa, táng tận lương tâm như thế.”

Quan Minh Mai khẽ nói:

– “Nếu ai cũng nói rõ ràng trước mặt, thật không còn gì hay hơn nữa. Đừng đè nén trong lòng. Đè nén mấy chục năm trời vẫn không giải quyết xong, chẳng những làm hại người khác mà còn làm hại chính mình.”

Viên Sĩ Tiêu nghe câu này, dĩ nhiên cũng biết có ẩn ý. Mấy chục năm trời lão ngày đêm hối hận, thời trẻ vì nóng giận mà làm cho đôi uyên ương không thành quyến thuộc. Trước mặt là Quan Minh Mai tóc đã pha sương, nhưng lão lại nhìn thấy một cô nương đôi mắt trong veo, tính ưa hờn dỗi hồi mười tám mười chín tuổi. Lão quay mặt nhìn ra xa thẳm, thờ dài rồi nói:

– “Hôm nay được gặp mặt trò chuyện với nhau, ta cảm thấy hài lòng lắm rồi. Dù sao thì cuộc đời này không đến nỗi uổng phí.”

Quan Minh Mai nhìn mặt trời dần dần lặn xuống sa mạc, chầm chậm nói:

– “Cái gì cũng do một chữ duyên. Trước đây muội thường cảm thấy khổ sở, nhưng gần đây thấy dễ chịu hơn.”

Thấy một cái cúc trên áo ngắn khoác ngoài của Trần Chính Đức bị bung ra, bà vừa đưa tay cài lại vừa nói:

– “Nhiều người ngày nào cũng hưởng phúc mà không biết đó là hạnh phúc, cứ mong muốn những gì ở tận đâu đâu trên trời mà mình không thể có, nào ngờ bảo bối quí giá nhất lại đang ở trong tay mình. Bây giờ muội đã hiểu rồi.”

Trần Chính Đức sắc mặt hồng hào đầy vẻ sảng khoái, hạnh phúc nhìn ngắm vợ mình.

Quan Minh Mai đi đến bên Viên Sĩ Tiêu, nói dịu dàng:

– “Con người vẫn thích tự dày vò chính mình. Giày vò mấy chục năm thì tội lỗi gì cũng phải sạch hết rồi, huống chi là không có tội lỗi. Muội sống vui vẻ, huynh đừng tiếp tục giày vò bản thân mình nữa.”

Viên Sĩ Tiêu không dám quay đầu lại, lập tức phi thân lên ngựa mà nói:

– “Chúng ta đi tìm chúng đi.”

Thiên Sơn Song Ưng lên ngựa chạy theo.

Trương Triệu Trọng thấy cường địch đã rời khỏi, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Hoàng đế phái hắn đến đây để tìm Hương Hương công chúa và Trần Gia Lạc. Hai người này không biết đã chôn vào miệng sói hay chưa, phải đi điều tra cho rõ để về triều còn biết đường trình tấu. Hắn thầm nghĩ:

– “Nếu thẳng lỏi họ Trần và hai mỹ nhân kia đã bị bầy sói ăn thịt hết rồi thì không còn gì để nói, nhưng nếu chúng còn sống sót thì sao? Võ công thằng lỏi đó chỉ thua ta một chút, nếu Hoắc Thanh Đồng ra tay tương trợ thì ta nhất định phải thua. Bây giờ mà kéo được tam ma cùng đi là hay nhất.”

Trương Triệu Trọng bèn khẽ kéo tay áo Cố Kim Tiêu, hai người đi ra mấy bước. Họ Trương thì thầm hỏi:

– “Cố lão huynh! Huynh còn khoái con nhỏ xinh đẹp ấy không?”

Cố Kim Tiêu tưởng đang bị trêu ghẹo, giận dữ hỏi:

– “Ngươi muốn gì?”

Trương Triệu Trọng bình thản nói:

– “Ta có đại thù với thẳng lỏi họ Trần kia, phải đi giết nó. Nếu huynh cùng đi thì con bé đó thuộc về huynh.”

Cố Kim Tiêu ngần ngừ rồi nói:

– “Chỉ sợ cả ba người bọn chúng đã bị sói ăn cả rồi. Không biết lão đại có chịu đi hay không.”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Nếu chúng bị sói ăn rồi, thì coi như huynh không có phúc hưởng thụ. Còn lão đại thì để ta nói chuyện.”

Cố Kim Tiêu khẽ gật đầu, trong lòng nghĩ:

– “Lão đại không hiếu sắc, chưa chắc đã chịu cùng đi.”

Trương Triệu Trọng đến chỗ Tất Nhất Lôi, nói nhỏ:

– “Tất lão huynh! Ta phải đi kiếm thẳng lỏi họ Trần kia để thanh toán một món nợ. Nếu lão huynh chịu giúp một tay, thì thanh đoản kiếm kia thuộc về lão huynh.”

Bảo vật như thế, chẳng ai học võ mà không thèm muốn. Tất Nhất Lôi nghĩ:

– “Giả tỉ bầy sói đã nuốt Trần Gia Lạc vào trong bụng, thì chúng cũng không sao nuốt thanh đoản kiếm được.”

Hắn bèn lập tức đồng ý. Trương Triệu Trọng cả mừng, lại nghe Tất Nhất Lôi gọi lớn:

– “Lão tứ! Chúng ta đi thôi.”

Kha Hợp Đài đang trên đầu tường thành cát, cùng đám người Hồi vui vẻ bàn luận về bầy sói. Nghe đại ca kêu, y quay lại hỏi:

– “Đi đâu?”

Tất Nhất Lôi nói:

– “Đi tìm Trần đương gia của Hồng Hoa Hội. Nếu thi hài của họ còn sót chút nào thì chúng ta sẽ mai táng hộ, coi như tình nghĩa một phen quen biết.”

Từ khi gặp Dư Ngư Đồng và Trần Gia Lạc, Kha Hợp Đài đã đem lòng thán phục những nhân vật Hồng Hoa Hội. Nghe Tất Nhất Lôi rủ đi an táng Trần Gia Lạc, y tán đồng ngay. Tức thì bốn người xin chút ít lương khô và nước uống của người Hồi, lập tức lên ngựa chạy ngược về hướng Bắc.

Đến nửa đêm Tất Nhất Lôi muốn nghỉ ngơi một chút, nhưng Trương Triệu Trọng và Cố Kim Tiêu nhất quyết đòi đi suốt đêm cho kịp. Mặt trăng vằng vặc giữa trời, phủ ánh sáng trong trẻo xuống vùng sa mạc rõ như ban ngày vậy. Được một đoạn nữa, đột nhiên chúng thấy bên đường có bóng người thấp thoáng, rồi chui vào một cái mộ rất lớn được xây bằng đá.

Bốn người nảy dạ nghi ngờ, bèn giục ngựa đi đến trước mộ. Trương Triệu Trọng quát hỏi:

– “Ai thế?”

Hồi lâu, một người Hồi đội nón hoa thò đầu từ một cái lỗ tròn trên phần mộ ra, mỉm cười rồi đáp bằng tiếng Hán:

– “Ta là người chết ở trong mộ này.”

Bốn người không khỏi hoảng sợ, bèn hỏi:

– “Người chết thì chạy ra ngoài này làm gì?”

Y đáp:

– “Ra ngoài để tinh thần thoải mái hơn một chút.”

Tất Nhất Lôi giận dữ hỏi:

– “Người chết rồi còn đòi thoải mái nữa ư?”

Người kia bèn nói:

– “Vâng, vâng! Các vị nói rất đúng, coi như ta đã sai rồi. Xin lỗi nhé! Xin lỗi nhé!”

Rồi y rút đầu vào trong mộ.

Kha Hợp Đài cười lên ha hả. Tất Nhất Lôi giận dữ xuống ngựa, thò tay vào trong mộ muốn lôi người đó ra, nào ngờ sờ tới sờ lui cũng không chạm được vào y.

Trương Triệu Trọng nói:

– “Mặc kệ hắn! Lão huynh, chúng ta đi thôi.”

Bốn người quay đầu ngựa định đi, đột nhiên thấy một con lừa vừa nhỏ vừa gầy đang gặm cỏ bên ngôi mộ. Tất Nhất Lôi cả mừng nói:

– “Lương khô ăn ngán quá rồi, có thịt lừa mà nướng thì tuyệt. Người ta vẫn nói:

– Thiên thượng long nhục, địa hạ lư nhục. Trên trời thì ăn thịt rồng, dưới đất thì ăn thịt lừa.”

Họ Tất lập tức giục ngựa chạy tới nắm lấy dây cương đang buộc con lừa đó. Thấy mông lừa trơ trụi không có đuôi, hắn mỉm cười nói:

– “Không biết ai đã xẻo mất đuôi lừa ăn trước rồi…”

Chưa nói dứt câu, bỗng nghe soạt một tiếng, trên lưng lừa có thêm một người. Dưới ánh trăng nhìn rất rõ ràng, người này không phải ai xa lạ, chính là người vừa chui vào phần mộ. Thân pháp của y cực kỳ nhanh chóng, chỉ nháy mắt là chui ra khỏi mộ phần rồi phi thân lên lưng lừa.

Bốn người không dám khinh địch, vội cho ngựa lùi ra. Người kia cười ha hả rồi lấy trong áo ra một cái đuôi lừa, vừa phe phẩy vừa nói:

– “Cái đuôi lừa này dính nhiều đất cát quá, chẳng đẹp đẽ gì. Ta đã cắt nó ra rồi.”

Trương Triệu Trọng thấy người này râu ria đầy mặt, nói chuyện như kẻ điên khùng, không hiểu từ đâu tới mà thân pháp nhanh đến thế. Hắn bèn kéo dây cương, lén cho ngựa chạy tới bên con lừa, tay phải phóng chưởng đánh vào vai người ấy. Người kia né qua, tay trái Trương Triệu Trọng lập tức đoạt được cái đuôi lừa.

Hắn thấy đuôi lừa quả thật dính đầy bùn đất, đột nhiên cảm thấy trên đầu mát mẻ, đưa tay sờ lên thì cái nón đã biến đâu mất rồi. Quay lại nhìn thì thấy người kia đang cầm cái nón của mình, mỉm cười nói:

– “Thì ra ngươi là quan quân nhà Thanh đến đây đánh người Hồi giáo chúng ta. Cái nón này đẹp thật, đã có lông chim lại còn một hòn bi thủy tinh nữa.”

Trương Triệu Trọng vừa sợ sệt vừa giận dữ, tiện tay quăng cái đuôi lừa trả lại, người kia đưa tay chụp lấy ngay. Trương Triệu Trọng bắt chéo song chưởng, nhảy xuống ngựa hô lớn:

– “Ngươi là loại người gì? Đến đây thử một tí xem sao?”

Người đó lấy cái mũ quan của Trương Triệu Trọng chụp lên trên đầu con lừa, vỗ tay cười rộ rồi la lên:

– “Lừa ngốc đội mũ quan, lừa ngốc đội mũ quan!”

Hai chân y kẹp lại, con lừa liền chạy về phía trước. Trương Triệu Trọng chạy theo, đột nhiên nghe “vù” một tiếng, gió rít lên rất gấp. Hắn biết có ám khí vội đưa tay đón lấy, thì ra là một cục tròn tròn mát lạnh, sáng lóng lánh, đúng là hạt lam bảo thạch trên mũ quan của mình. Họ Trương lại càng giận dữ không sao nhịn nổi.

Nhưng hắn chậm lại một chút nên con lừa đã đi xa rồi, bèn nhặt một hòn đá nhắm ngay hậu tâm của người kia ném tới. Người kia hoàn toàn không tránh né, Trương Triệu Trọng cả mừng nghĩ bụng:

– “Phen này thì ngươi khổ rồi!”

Nhưng bỗng nghe một tiếng “keng”, hòn đá đó trúng vào một vật bằng sắt. Tiếng ngân vang lên không dứt, giống như tiếng thanh la não bạt gì vậy. Người kia kêu lên:

– “Trời ơi! Đánh chết cái chảo sắt của ta rồi!”

Bốn người còn ngạc nhiên nhìn nhau, người kia đã đi xa. Trương Triệu Trọng kinh hãi thóa mạ:

– “Con mẹ nó! Không biết là người hay ma đây?”

Tam ma đều lắc đầu không nói gì. Trương Triệu Trọng bèn nói:

– “Đi thôi! Xứ này thật là quỷ quái tà môn, loại quái vật gì cũng có.”

Bốn người tiếp tục cho ngựa đi gấp, giữa đường chỉ nghỉ hai giờ. Sáng sớm hôm sau chúng đã đi đến ngoài khu mê thành. Tuy đường rẽ nhiều đến kỳ lạ, nhưng phân của bầy sói rải rác dọc đường là ký hiệu tuyệt vời. Chúng cứ theo dấu phân sói mà đến trước bạch ngọc phong, ngẩng đầu lên là thấy cửa sơn động mà Trần Gia Lạc đã phá ra.

* * *

Trần Gia Lạc ngủ đến nửa đêm, tinh thần sức lực đã hồi phục. Một luồng nhỏ ánh trăng từ giữa khe núi soi xuống, cho thấy Hoắc Thanh Đồng và Hương Hương công chúa đang tựa vào ghế bạch ngọc mà ngủ say sưa. Ban đêm tĩnh mịch nghe rõ cả hơi thở hai người, trong thạch thất ngập tràn mùi hương thanh thoát. Hương hoa không thể thanh nhã thế này, xạ hương lại càng không phải. Đó chính là loại hương kỳ lạ phát ra từ Hương Hương công chúa.

Trần Gia Lạc cứ nghĩ mãi:

– “Không biết ngoài kia còn bầy sói không? Ba người chúng ta có thoát hiểm được không? Hoàng đế ca ca đã thề với mình sẽ dốc sức đuổi bọn rợ Mãn Châu ra ngoài quan ải. Sau khi mình thoát hiểm, không biết ca ca có giữ lời thề hay không?”

Tiếng thở nhẹ nhàng của Hương Hương công chúa đầy vẻ an tâm khoan khoái. Trần Gia Lạc lại nghĩ:

– “Tại sao ở nơi hiểm địa thế này mà nàng an tâm như vậy? Dĩ nhiên vì nàng tin tưởng mình có thể dẫn nàng ra khỏi nơi nguy hiểm. Vậy mình càng phải thương yêu bảo vệ nàng hơn nữa.”

“Tự đáy lòng thì mình thật sự yêu ai?” Câu hỏi này mấy ngày nay không giây phút nào không quanh quẩn trong lòng Trần Gia Lạc. Chàng lại nghĩ:

– “Thế thì ai mới là người thật sự yêu mình? Nếu mình chết, nhất định Kha Tư Lệ không sống được nữa, còn Hoắc Thanh Đồng thì có thể. Nhưng chuyện đó không chứng tỏ Kha Tư Lệ yêu mình hơn…”

“Lúc mình tỉ võ với bốn huynh đệ Cốt Luân, Hoắc Thanh Đồng cố gắng khuyên ngăn, lo lắng rầu rĩ vì mình. Còn muội muội của nàng vẫn thản nhiên, vì tin chắc rằng mình sẽ thắng. Hôm gặp Trương Triệu Trọng, Kha Tư Lệ cũng mỉm cười bảo mình đánh ngã hắn trước rồi sẽ cùng đi. Nàng tưởng mình là người có bản lãnh tuyệt vời nhất trong thiên hạ… Nếu ta thân mật với Hoắc Thanh Đồng, chắc chắn Kha Tư Lệ phải đau lòng mà chết. Tấm lòng của nàng lương thiện chất phác như thế, chẳng lẽ mình có thể không thương mến hay sao?”

Chàng không nén nổi chua xót, lại nghĩ:

– “Mình với Kha Tư Lệ đã từng nói rõ ràng: nàng yêu mình, mình yêu nàng. Còn Hoắc Thanh Đồng thì sao mình chưa từng nói đến chuyện đó? Hoắc Thanh Đồng tài giỏi như thế, mình kính trọng nàng, thậm chí có phần kiêng nể. Bất luận nàng bảo mình làm việc gì, chắc chắn mình sẽ đi làm. Còn Kha Tư Lệ thì sao? Nếu nàng bắt mình chết, chẳng lẽ mình không hoan hỉ mà chết vì nàng? Thế thì mình có yêu Hoắc Thanh Đồng hay không? Ôi, thật sự chính mình cũng không hiểu được bản thân. Hoắc Thanh Đồng là một cô gái thông minh tài giỏi, đối với mình lại tình sâu nghĩa nặng. Nàng thổ huyết sinh bệnh suýt nữa mất mạng, có phải vì mình hay không? Một cô vừa khả kính vừa đa tình, còn một cô vừa khả ái vừa thân thiết. Thật khó mà so sánh được.”

Lúc này luồng sáng soi đúng vào khuôn mặt Hoắc Thanh Đồng. Trần Gia Lạc thấy dung nhan nàng tiều tụy, dưới ánh trăng càng lộ vẻ xanh xao, thầm nghĩ:

– “Tuy chúng ta lâu nay chưa từng thổ lộ tình cảm, nhưng mình đã xiêu lòng vì cô ấy rồi. Chỉ vì Lý Nguyên Chỉ cải nam trang phá rối mà tình cảm của mình có phần thay đổi. Mình bôn ba vạn dặm chạy đến đây để báo tin, không phải vì yêu nàng hay sao? Nàng tặng đoản kiếm cho mình, chẳng lẽ chỉ vì báo đáp cái ơn đoạt lại thánh kinh? Chúng ta chưa nói chữ nào, nhưng chẳng khác gì từng nói thiên ngôn vạn ngữ.”

“Ngày sau khởi sự quang phục nhà Hán, không biết sẽ có bao nhiêu chuyện gian nan phức tạp đổ lên vai mình. Mưu lược của Hoắc Thanh Đồng hơn hẳn Thất ca, nếu được nàng giúp một tay, chắc chắn sẽ ích lợi rất nhiều, nhưng… Ôi, chẳng lẽ tận đáy lòng mình không thích vì nàng quá tài giỏi hay sao? Đúng vậy! Mình trọng nàng nhiều hơn là yêu nàng, thậm chí có phần sợ hãi nàng.”

Nghĩ đến đây, chàng đột nhiên kinh hãi la thầm:

– “Trần Gia Lạc ơi là Trần Gia Lạc! Chẳng lẽ bụng dạ ngươi lại hẹp hòi đến thế?”

Hơn nửa giờ sau, ánh trăng từ từ di chuyển đến người Hương Hương công chúa. Trần Gia Lạc tự nhủ:

– “Ở bên Kha Tư Lệ, mình chỉ biết vui vẻ, vui vẻ, vui vẻ… Ngày động thủ với Lý Nguyên Chỉ ở Tam Đàm Ấn Nguyệt trên Tây Hồ, rõ ràng mình đã biết cô ấy là nữ nhân. Nhưng sau này mình lại say mê Kha Tư Lệ, say mê đến nỗi chưa hề tự kiềm chế tình cảm của mình, chưa hề nghĩ đến việc có lỗi với Hoắc Thanh Đồng. Trần Gia Lạc ơi là Trần Gia Lạc! Đúng là ngươi bạc nghĩa vô tình, có mới nới cũ. Đừng tự bênh vực cho mình nữa.”

Chàng cứ giương to mắt mà nhìn ánh trăng trên đỉnh đầu rọi xuống. Rất lâu sau, ánh trăng từ từ nhạt dần, rồi nắng mai bắt đầu chiếu xiên vào thạch thất, gian phòng sáng dần lên. Hương Hương công chúa ngáp một cái rồi tỉnh dậy, đôi mắt còn nửa nhắm nửa mở đã nhìn chàng nhoẻn một nụ cười, khuôn mặt trông như một đóa hoa tươi mới nở.

Nàng từ từ ngồi dậy, đột nhiên kinh hãi nói:

– “Huynh nghe xem!”

Từ bên ngoài đường hầm bỗng vọng vào tiếng bước chân nhẹ nhàng của mấy người. Nơi này là cố cung, cả ngàn năm không ai qua lại, chẳng lẽ có ma thật hay sao?

Tiếng bước chân càng lúc càng gần. Tuy khoảng cách khá xa, nhưng không gian cực kỳ vắng lặng nên mỗi bước đều nghe rất rõ ràng. Hai người không khỏi dựng tóc gáy lên. Trần Gia Lạc lay khẽ Hoắc Thanh Đồng, nàng choàng tỉnh khỏi cơn mơ rồi cả ba liền chạy ra ngoài.

Ra tới đại điện, Trần Gia Lạc nhặt lấy ba thanh kiếm ngọc, đưa mỗi cô một thanh rồi nói nhỏ:

– “Đồ ngọc có thể tránh tà.”

Lúc này, tiếng bước chân đã tới ngoài điện. Ba người tìm chỗ nấp kín, không dám động đậy. Ánh lửa nhấp nháy, rồi có bốn người đi vào. Hai người cầm đuốc đi đầu là Trương Triệu Trọng và Cố Kim Tiêu.

Đột nhiên nghe những tiếng keng keng, binh khí bốn người bọn Trương Triệu Trọng đều vuột khỏi tay, rơi xuống đất. Độc cước đồng nhân của Tất Nhất Lôi có lõi bằng thép nên cũng rơi đánh ầm một tiếng, mười hai mũi phi tiêu trong túi đựng ám khí của hắn bay hết ra ngoài.

Trần Gia Lạc biết cơ hội này không thể bỏ qua. Nhân lúc chúng ngơ ngác kinh hoàng không biết làm gì, chàng hét lên một tiếng, tay cầm ngọc kiếm từ chỗ nấp nhảy xổ ra ngoài, xuất liền hai chiêu đánh rơi hai ngọn đuốc trên tay của Trương và Cố. Trong đại điện lập tức tối om.

Trương Triệu Trọng vội bắt chéo song chưởng trước ngực để hộ thân, xoay người lại chạy ra ngoài. Quan Đông tam ma cũng chạy theo. Nghe một tiếng “bịch”, rồi một tiếng “úi chà”, không hiểu tên nào đã va đầu rất mạnh vào đá.

Tiếng chân bốn người chạy xa dần. Hoắc Thanh Đồng bỗng la lên một tiếng, vội nói:

– “Hỏng rồi! Đuổi theo nhanh lên.”

Trần Gia Lạc hiểu ngay, đưa tay dò dẫm tìm đường để đuổi. Nhưng chàng chưa đi hết con đường hầm thì đã nghe thấy tiếng ken két vọng đến, sau đó là một tiếng “ầm”, cánh cửa đá đã bị đóng rồi. Trần Gia Lạc bay người phóng tới, nhưng đã trễ mất một bước.

Phía sau cánh cửa này phẳng lì, hoàn toàn không có chỗ đặt tay để kéo. Thế là không mở được nữa.

Hoắc Thanh Đồng và Hương Hương công chúa cũng đã chạy tới. Trần Gia Lạc quay lại nhặt một khúc gỗ đốt lên chiếu sáng, thấy trên cửa đá đầy vết tích đao búa. Nhìn đống hài cốt dưới đất thì biết họ đã cố gắng phá cửa một cách vô vọng cho đến phút cuối cùng. Hoắc Thanh Đồng la lên:

– “Thế là hết!”

Hương Hương công chúa nắm tay chị dỗ dành:

– “Tỉ tỉ đừng sợ.”

Trần Gia Lạc gượng cười rồi nói:

– “Bất quá thì ba người chúng ta cùng chết ở đây là xong.”

Không biết tại sao, trong lòng chàng đột nhiên nhẹ nhõm, hình như một vấn đề khó khăn vừa được giải tỏa, một gánh nặng vừa được cất đi Chàng nhặt một cái đầu lâu ở dưới đất lên, nói đùa:

– “Lão huynh! Thế là huynh có thêm ba người bạn mới.”

Hương Hương công chúa cười khúc khích. Hoắc Thanh Đồng nhìn hai người một lúc, hồi lâu mới nói:

– “Chúng ta về ngọc thất đi, bình tĩnh suy nghĩ một chút.”

Ba người trở về ngọc thất. Hoắc Thanh Đồng nằm rạp xuống đất để cầu nguyện, rồi lại lấy bức mật thư ra xem xét tỉ mỉ bản đồ, chăm chú suy nghĩ.

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Ở nơi tuyệt địa thế này, muốn thoát thì phải có cứu binh từ bên ngoài đến, hoặc bọn Trương Triệu Trọng đổi ý mà quay lại bắt mình. Ngoại viện thì không thể tìm đến chỗ bí ẩn này, còn bọn Trương Triệu Trọng thì vừa hoảng sợ tới cực độ, mười phần chắc chín là chúng không dám mạo hiểm vào trong nữa.”

Hương Hương công chúa đột nhiên thấy mệt, bèn ngồi tựa vào một cái ghế ngọc mà ca hát dịu dàng. Hoắc Thanh Đồng như hoàn toàn không nghe tiếng hát, hai tay cứ ôm chặt lấy đầu mà nhăn mặt chau mày.

Một lúc sau, Hương Hương công chúa dừng lại không hát nữa, cất tiếng gọi:

– “Tỉ tỉ! Tỉ tỉ nghỉ một chút đi.”

Nàng đứng dậy đi đến chỗ chiếc giường bằng ngọc, nói với đống xương khô đang nằm trên giường:

– “Xin lỗi nhé! Cảm phiền nằm nhích qua một chút, để tỉ tỉ ta có chỗ nghỉ ngơi.”

Nàng nhẹ nhàng đẩy đống xương khô đó dồn qua một bên góc giường. Đột nhiên nàng ủa một tiếng, nhặt một vật lên rồi hỏi:

– “Đây là cái gì vậy?”

Trần Gia Lạc và Hoắc Thanh Đồng đến gần xem, thấy đó là một quyển sổ da cừu, cũ kỹ đến mức đen kịt lại, quanh viền hơi bị mốc. Dưới ánh sáng nàng nhìn rõ quyển sổ này viết đầy chữ, đều là chữ Hồi thời xưa.

Thời gian làm da dê sẫm màu đi, nhưng chữ viết lại càng sẫm hơn nên vẫn có thể đọc được. Hoắc Thanh Đồng lật vài trang xem thử, rồi chỉ vào đống hài cốt trên giường mà nói:

– “Cuốn sổ này là do cô ấy viết bằng máu trước khi chết. Cô ấy tên là Mã Mễ Nhi.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Mã Mễ Nhi ư?”

Hương Hương công chúa nói:

– “Mã Mễ Nhi có nghĩa là tuyệt sắc. Mỹ nhân được vẽ trên ngọc bình chính là cô ấy. Người Hồi bọn muội thường vẽ hình cô ấy trên bích họa, thêu trên thảm. Ai cũng nói muội có phần giống cô ấy. Mã Mễ Nhi là nữ anh hùng vĩ đại nhất của Hồi tộc.”

Hoắc Thanh Đồng bỏ quyển sổ da cừu xuống, lại xem xét tấm bản đồ tỉ mỉ. Trần Gia Lạc hỏi:

– “Chẳng lẽ trên bản đồ có vẽ đường đi ra ngoài hay sao?”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Hình như có một con đường bí mật nào đó, nhưng muội nghĩ không ra.”

Trần Gia Lạc thở ra một hơi, rồi bảo Hương Hương công chúa:

– “Muội đọc lá thư tuyệt mệnh của cô nương này cho huynh nghe được không?”

Hương Hương công chúa khe khẽ gật đầu, cầm sách lên đọc:

– “Trong thành này hàng vạn người đã chết cả rồi. Bạo chúa cùng bọn vệ binh ở Thần Phong đã chết hết, những dũng sĩ Islam cũng đã chết hết. A Lý của ta đã đến chỗ chân thánh A-la, Mã Mễ Nhi của chàng cũng sắp theo chàng. Ta chép câu chuyện này vào đây, để con cháu sau này của chân thánh A-la được biết, bất kể thắng hay bại thì những dũng sĩ Islam cũng chiến đấu đến hơi thở cuối cùng, không bao giờ khuất phục.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Thì ra vị cô nương này không những xinh đẹp mà còn dũng cảm.”

Hương Hương công chúa đọc tiếp:

– “Bạo chúa Long A đã áp bức chúng ta bốn chục năm trời. Trong bốn chục năm, hắn đã trưng dụng hàng ngàn hàng vạn dân chúng để xây tòa mê cung này, đục đẽo một cung điện nguy nga giữa ngọn thần phong. Số dân chúng này đều bị hắn giết sạch. Sau khi hắn chết, con trai của hắn là Sang La Ba còn hung ác hơn rất nhiều. Giáo đồ Islam nuôi mười con cừu thì phải cống nạp bốn, nuôi năm con lạc đà thì mỗi năm bị hắn cướp hai con. Chúng ta cứ năm sau nghèo hơn năm trước. Con gái nhà ai đẹp đẽ đều bị hắn bắt vào Mê Thành. Đã vào Mê Thành rồi thì không có cô nào sống sót trở ra.”

“Chúng ta là con cháu anh hùng của thánh giáo Muslim, có để yên cho bọn dị giáo áp bức hay không? Đương nhiên là không. Trong vòng hai mươi năm, quân ta đã năm lần tấn công vào Mê Thành, nhưng vì không biết đường đi nước bước nên không thể thoát ra. Có hai lần họ tấn công vào tới Thần Phong, nhưng không biết bị bạo chúa Sang La Ba sử dụng yêu thuật gì mà đoạt hết đao kiếm, rồi cuối cùng bị vệ sĩ của hắn giết không sót người nào.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Đó chính là do sức của từ thạch ở dưới đại điện.”

Hương Hương công chúa gật đầu, tiếp tục đọc:

– “Năm đó ta vừa tròn mười tám tuổi. Phụ thân cùng thân mẫu ta đã bị thủ hạ của Sang La Ba giết chết. Ca ca của ta là tộc trưởng của giáo đồ Islam. Mùa xuân năm đó ta quen A Lý. Chàng là đệ nhất anh hùng trong bộ tộc, từng giết ba con cọp trắng. Bầy sói nhìn thấy chàng là bỏ chạy tán loạn, lũ chim ưng trên đỉnh Thiên Sơn hoảng sợ khôngdám đến gần chàng. Sức lực của chàng sánh ngang với mười trang hảo hán, không, phải sánh ngang với cả trăm người. Mắt của chàng dịu dàng như mắt nai, thân thể của chàng tráng kiện đẹp đẽ như đóa hoa tươi, oai vũ của chàng ghê gớm như những cơn bão trong sa mạc…”

Trần Gia Lạc cười nói:

– “Vị cô nương này đúng là thích khoe khoang, diễn tả người trong mộng bằng những lời hay ho như thế.”

Hương Hương công chúa liếc chàng một cái rồi nói rất nghiêm trang:

– “Sao lại nói cô ấy khoe khoang? Chẳng lẽ không có người nào như thế hay sao?”

Rồi nàng lại đọc tiếp:

– “A Lý đến lều của ta, cùng ca ca bàn cách tấn công vào Mê Thành. Chàng đã tìm được một quyển sách bằng thẻ tre của người Hán, đọc kỹ một năm trời, nghiền ngẫm ra đạo lý của võ công, dù tay không đao kiếm vẫn có thể đánh chết bọn võ sĩ của Sang La Ba. Chàng triệu tập năm trăm dũng sĩ, đem đạo lý đó dạy cho họ. Họ đã luyện tập được một năm rồi. Lúc này ta đã thuộc về A Lý. Lần đầu tiên nhìn thấy chàng, ta đã thuộc về chàng ngay. Chàng là trái tìm của ta, là máu của ta, là dung mạo của ta. Chàng nói với ta, vừa gặp ta là chàng biết ngay phen này có thể đánh thắng.”

“Họ đã luyện xong võ công, nhưng không biết đường đi vào Mê Thành, lại càng không biết những bí mật trong lòng Thần Phong. A Lý và ca ca đã bàn bạc mười ngày mười đêm vẫn không tìm ra biện pháp. Người bên ngoài vừa vào Mê Thành là bị giết ngay, không ai sống sót trở ra. Mọi người cùng bàn bạc mười ngày mười đêm nữa vẫn không có cách. Bản lãnh hơn nữa, dũng cảm hơn nữa cũng không vào được Mê Thành. Mọi người chỉ biết nói suông thôi.”

“Lúc đó ta nói:

– “Ca ca, để muội đi.”

Họ đều biết ta muốn làm gì. A Lý là dũng sĩ vĩ đại nhất, nhưng chàng cũng chảy nước mắt. Ta bèn dắt một trăm con cừu đến chăn thả ngoài Mê Thành. Đến sáng sớm ngày thứ tư, thủ hạ của Sang La Ba bắt ta vào trong thành, đem dâng cho hắn. Ta khóc ba ngày ba đêm rồi mới chịu thuần phục. Hắn rất thích ta, ta muốn cái gì là cho ngay cái đó.”

Nghe đến đây, Trần Gia Lạc không khỏi đem lòng kính nể vị cô nương thời xưa này. Chàng nghĩ:

– “Một cô nương mười tám tuổi mà có thể hy sinh bản thân mình, đã là cao quý lắm rồi. Cô ấy lại còn có thể hy sinh tình yêu cao đẹp của mình, đúng là không ai bì được.”

Hương Hương công chúa lại tiếp tục đọc:

– “Lúc đầu Sang La Ba không cho ta rời khỏi phòng nửa bước, càng ngày hắn càng thích ta hơn. Ngày nào ta cũng nhớ đến những người cùng bộ tộc, nghĩ đến những bài hát khi chăn dê chăn cừu ở thảo nguyên rộng lớn trong những tháng ngày hạnh phúc. Ta nhớ nhất là A Lý của mình. Sang La Ba thấy ta càng ngày càng tiều tụy, hỏi ta muốn gì. Ta nói muốn ra ngoài vui chơi một chút, hắn nổi giận tát vào mặt ta. Sau đó ta không nói chuyện với hắn bảy ngày bảy đêm, không cười với hắn bảy ngày bảy đêm. Đến sáng ngày thứ tám, hắn phải dẫn ta ra ngoài. Rồi cứ ba ngày hắn lại dẫn ta ra ngoài một lần. Ban đầu còn đi dạo ở các nơi trong Mê Thành, cuối cùng đã dẫn ta đến tận cửa ra vào Mê Thành. Ta ghi nhớ rõ ràng, hiểu ra đường đi trong Mê Thành bố trí theo quy tắc Tả tam hữu nhị. Cuối cùng thì ta nhắm mắt vẫn có thể đi lại trong Mê Thành, không sợ lạc đường nữa. Nửa năm sau đó ta cứ nghĩ đến ca ca và A Lý, nhất định họ chờ đợi đến sốt ruột mà không sao biết được bí mật của Thần Phong.”

Về sau trong bụng ta đã có một đứa bé, đó là nghiệt chủng của Sang La Ba. Hắn rất vui mừng, còn ta thì uất hận khóc lóc mỗi ngày. Hắn hỏi tại sao, ta nói:

– “Ta đã có con cho ông, nhưng ông chẳng yêu ta chút nào.”

Hắn hỏi:

– “Sao lại nói ta không yêu cô? Cô muốn cái gì mà ta không cho được? Cô thích san hô đỏ dưới bể, hay lam bảo thạch ở phương nam, ta cũng cho cô hết.”

Ta nói:

– “Ông có một cái hồ phỉ thúy, người đẹp được tắm trong hồ này thì đẹp thêm, người xấu tắm xong sẽ xấu hơn, thế mà không cho ta đến.”

Mặt hắn trắng bệch như tờ giấy, run giọng hỏi ta:

– “Ai nói vậy?”

Ta gạt hắn, nói là ta nằm mơ thấy thần tiên nói cho mình biết.”

“Thật ra ta cũng không biết hắn có hồ phỉ thúy hay không, nhưng những nữ nhân trong cung đều lén kể như vậy. Xưa nay Sang La Ba không cho phép ai nhìn thấy cái hồ đó, nhắc tới cũng không được. Hắn nói:

– “Muốn tắm thì cũng được, nhưng bất luận là ai đã thấy cái hồ này đều phải bị cắt đầu lưỡi để khỏi tiết lộ bí mật này ra. Đó là quy luật tổ tông truyền lại.”

Hắn năn nỉ ta đừng đi, nhưng ta nhất định đòi đi. Ta nói:

– “Nhất định là ông thấy ta xấu xí. Ông sợ ta tắm vào hồ phỉ thúy sẽ càng xấu hơn, có phải vậy không?”

Từ đó ta không nói chuyện với hắn nữa, không cười với hắn nữa, cuối cùng hắn phải dẫn ta đi.”

“Đi tới hồ phỉ thúy phải băng qua cung điện trong Thần Phong. Ta giấu trong người một con dao nhỏ, định tới hồ phỉ thúy sẽ giết hắn. Trong cung này, bất cứ chỗ nào cũng có vệ sĩ hung dữ canh gác, chỉ ở bên hồ phỉ thúy là không có người nào. Nhưng con dao nhỏ này đã bị từ thạch ở dưới nền đại điện hút mất. Sau khi tắm xong, không biết ta có xinh đẹp hơn thật không, nhưng hắn lại yêu ta thêm nữa. Tuy thế hắn vẫn cắt đi một khúc đầu lưỡi của ta, sợ ta đem bí mật này kể ra ngoài. Ta không chết, ít lâu sau thì vết thương lành hẳn.”

“Thế là ta đã biết tất cả, nhưng không có cách nào để nói cho ca ca và A Lý nghe. Ngày đêm ta cầu xin chân thánh, cuối cùng thì chân thánh cũng nghe thấy lời cầu nguyện của người con gái đáng thương mà ban cho trí tuệ. Sang La Ba có một thanh đoản kiếm quý báu, đeo bên mình không lúc nào rời. Đoản kiếm này có hai lần vỏ, lớp vỏ bên trong trông như một lưỡi kiếm vậy. Ta xin hắn, hắn cho ta. Ta ghi lại đường đi vào mê cung, lại vẽ bản đồ Mê Thành, vẽ tỉ mỉ tất cả đường đi lối lại lên một tờ giấy. Rồi ta vò tờ giấy đó trong một viên hoàn bằng sáp, giấu vào trong lớp vỏ kiếm thứ hai. Sau khi sinh con được ba tháng, hắn dẫn ta ra ngoài săn bắn. Thừa lúc không ai nhìn thấy, ta ném thanh đoản kiếm ở bên hồ Đằng Bạc, ngoài Mê Thành. Sau khi trở về, ta thả rất nhiều chim ưng ra ngoài. Trên chân mỗi con chim ưng đều viết ba chữ Đằng Bạc Hồ.”

Hoắc Thanh Đồng đã để mật thư xuống tự lúc nào, chăm chú nghe muội muội đọc quyển sổ cũ đó.

“Có mấy con chim ưng đã bị tay chân của Sang La Ba bắn rơi. Chúng nhìn thấy ba chữ Đằng Bạc Hồ, nhưng nghĩ hồ Đằng Bạc rất nổi tiếng, đứa trẻ nào ở sa mạc cũng biết, nên không nghi ngờ gì cả. Trong số rất nhiều chim ưng đó, nhất định sẽ có con bị người Hồi tộc chúng ta bắt được. Ca ca và A Lý nhất định sẽ đến vùng hồ Đằng Bạc tìm kiếm tỉ mỉ, lúc đó sẽ biết đường vào Mê Thành.”

“Than ôi! Tuy họ đã tìm được thanh đoản kiếm, nhưng lại không tìm ra bí mất giấu trong kiếm, vì không biết thanh kiếm đó có hai lần vỏ. Ca ca và A Lý tưởng ta gửi thanh kiếm là có ý bảo họ mau giết bạo chúa Sang La Ba, nên họ liền tấn công vào. Đa số dũng sĩ đều bị lạc đường, vòng qua vòng lại, vĩnh viễn không ra ngoài được nữa. Ca ca của ta, ca ca có sức mạnh bằng hai con lạc đà, đã bị lạc như thế. A Lý và những dũng sĩ khác đã bắt được một bộ hạ của Sang La Ba, buộc hắn dẫn đường, tấn công vào trong lòng Thần Phong. Tới đại điện thì đao kiếm của các dũng sĩ đều bị từ thạch hút mất hết. Còn võ sĩ của Sang La Ba thì dùng đao kiếm bằng ngọc mà chém giết họ. May mà các dũng sĩ đã được A Lý dạy cho bản lãnh, tay không nhưng vẫn có thể bắt quân thù chết theo mình. Đám võ sĩ và dũng sĩ đều chết sạch. Sang La Ba bị A Lý truy đuổi rất gắt, bèn chạy vào thạch thất, Hắn muốn dẫn ta tới hồ phỉ thúy để trốn ra ngoài…”

Hoắc Thanh Đồng bỗng nhảy chồm lên, la lớn:

– “Ái chà! Họ có thể từ hồ phỉ thúy mà thoát ra ngoài.”

Hương Hương công chúa đọc tiếp:

– “A Lý đuổi theo đến đây. Ta và chàng nhìn thấy nhau đều không kiềm chế nổi, xông tới ôm chặt lấy nhau. Chàng gọi ta bằng những cái tên êm ái dễ nghe. Lưỡi của ta đã mất đi một khúc, không thể nói thành tiếng được, nhưng chàng vẫn hiểu được tiếng nói từ đáy lòng ta. Đột nhiên tên Sang La Ba đê tiện, tên Sang La Ba ác ôn, còn ác ôn hơn ngàn con ma quỉ, vạn con ma quỉ, từ phía sau dùng búa…”

Hương Hương công chúa đọc đến đây bất giác thét lên một tiếng, buông quyển sổ da cừu rơi xuống giường, mặt đầy vẻ kinh hoàng. Hoắc Thanh Đồng xoa nhẹ vai nàng, rồi nhặt quyển sách cổ đó lên đọc tiếp giúp nàng:

–  “… từ phía sau dùng búa chém đầu A Lý của ta thành hai mảnh, máu của chàng xối tràn lên người ta. Sang La Ba bế đứa con trên giường đặt vào tay ta, gọi:

– “Đi thôi!”

Ta nhấc đứa nghiệt chủng đó lên, dùng sức ném xuống đất, nó chết ngay trên vũng máu tươi của A Lý. Sang La Ba thấy ta ném chết con của chính mình, kinh hãi đứng sững ở đó. Rồi hắn vung cây búa vàng lên, ta vươn dài cổ ra cho hắn chém. Nhưng hắn chỉ thở dài rồi chạy ra ngoài.”

“A Lý đã được tới bên mình chân thánh, ta cũng đi theo chàng. Dũng sĩ của chúng ta chết rất nhiều, nhưng võ sĩ của Sang La Ba đã bị giết sạch cả rồi. Nhất định hắn không thể sống được nữa. Hắn vĩnh viễn không thể áp bức giáo đồ Islam chúng ta được nữa. Con trai của hắn bị ta ném chết rồi, thế là dòng dõi của hắn không thể bức hiếp chúng ta được nữa, vì hắn không còn dòng dõi. Từ nay về sau, người Hồi chúng ta có thể sống trên thảo nguyên bình yên hạnh phúc. Những cô nương trẻ tuổi có thể nằm trong lòng người yêu mà ca hát. Ca ca của ta, A Lý của ta, cả ta đều phải chết, nhưng chúng ta đã đánh bại tên bạo chúa này. Dù cho thành trì của bạo chúa có chắc chắn gấp mười, chúng ta vẫn có thể tấn công tiêu diệt. Mong rằng chân thánh A-la sẽ phù hộ người Hồi tộc chúng ta.”

Đọc đến chữ cuối cùng, Hoắc Thanh Đồng từ từ xếp quyển sách cổ này lại. Ba người đều bị lòng dũng cảm và trinh liệt của Mã Mễ Nhi làm chấn động, rất lâu không ai nói được gì. Hương Hương công chúa tuôn nước mắt, buông lời than thở:

– “Vì không chịu để mọi người bị bạo chúa hà hiếp, nàng đã chịu vĩnh biệt người yêu, chịu cắt đứt đầu lưỡi, lại còn chính tay ném chết con mình.”

Trần Gia Lạc bất giác toát mồ hôi lạnh, nghĩ thầm:

– “Nghĩ tới vị cô nương thời cổ này, ta thật sự hổ thẹn vô cùng. Ta phải gánh vác đại nghiệp quang phục giang sơn người Hán, thế mà trong lòng chỉ nghĩ đến chuyện tình cảm của bản thân. Ta không lo dốc sức đuổi bọn man rợ ra ngoài quan ải để lấy lại giang sơn, lại ở đây lo suy nghĩ yêu tỉ tỉ hay yêu muội muội… Vì dũng khí bồng bột nhất thời mà ta đích thân đưa Kha Tư Lệ vào doanh trại quân Thanh, không nghĩ đến nếu mình gặp chuyện không may thì hỏng mất đại sự quang phục nhà Hán. Hôm nay bị giam vào lòng núi, ta chết cũng chẳng tiếc gì, nhưng làm sao xứng với ngàn vạn huynh đệ Hồng Hoa Hội, làm sao xứng với vô số phụ lão, huynh đệ, tỉ muội đang chịu cực khổ dưới gót sắt của quân thù?”

Chàng càng hối hận càng khó chịu, mồ hôi lạnh từ trên trán từng giọt rơi xuống. Hương Hương công chúa thấy thần sắc của chàng khác lạ, vội lấy khăn tay ra lau giúp mồ hôi. Trần Gia Lạc bất giác gạt tay nàng, đẩy cái khăn ra.

Thấy người yêu đột nhiên ra vẻ chán ghét mình, Hương Hương công chúa ngơ ngác chẳng hiểu gì. Trần Gia Lạc định thần lại, nhận lấy chiếc khăn của nàng mà lau mồ hôi, trong lòng đã có chủ ý:

– “Trước khi hoàn thành sự nghiệp quang phục nhà Hán, ta quyết không nghĩ đến chuyện tình duyên nữa. Hai cô gái này từ nay về sau đều là hảo bằng hữu của ta, là hảo muội muội của ta.”

Chàng rút thanh đoản kiếm ra cắm lên cái bàn tròn trước mặt, lập tức cảm thấy sảng khoái, bao nhiêu phiền não mấy ngày nay hoàn toàn sạch hẳn. Thấy thần sắc chàng lại vui vẻ, Hương Hương công chúa yên tâm hơn một chút.

Tất cả những chuyện đó, hình như Hoắc Thanh Đồng không nghe thấy, không nhìn thấy. Nàng vẫn chăm chú đọc những dòng chữ nhỏ xíu và bản đồ trên tờ giấy, vừa nghiền ngẫm hồi lâu vừa lẩm bẩm ngắt quãng:

– “Rõ ràng gian ngọc thất này đã là chỗ tận cùng, không có đường đi nữa… Thế mà di thư lại nói, Sang La Ba đến ngọc thất này bảo cô ta chạy ra hồ phỉ thúy… Về sau Sang La Ba không chạy trốn, mà vòng ra ngoài đánh trở về. Nhất định là hắn vừa dũng cảm vừa thần lực hơn người, đám dũng sĩ Islam không cản nổi nên bị hắn hất vào sau cửa đá, nhốt trong đó cho đến chết… Bản đồ có vẽ một con đường hầm đi đến bên hồ…”

Trần Gia Lạc không bị tình yêu và dục vọng chi phối nữa, đầu óc lập tức sáng suốt hẳn ra. Chàng kêu lên:

– “Nếu có đường thông đạo, nhất định phải ở trong gian ngọc thất này.”

Chàng nhớ tới vụ cứu Văn Thái Lai ra khỏi phủ đề đốc tại Hàng Châu, Trương Triệu Trọng từng trốn qua một cái cửa bí mật ở trên tường. Ba người bèn đốt lửa lên tìm kiếm tỉ mỉ ở trên vách ngọc thất, xem thử có khe hở nào không. Soi khắp bốn phía cả trên lẫn dưới vẫn không phát hiện được gì. Hoắc Thanh Đồng kiểm tra tỉ mỉ chiếc giường bằng ngọc cũng không thấy gì khác lạ.

Trần Gia Lạc nghĩ đến vụ Văn Thái Lai bị bắt trong Thiết Đảm Trang, lại kêu lên:

– “Chẳng lẽ dưới cái bàn này có đường hầm hay sao?”

Chàng vận nội lực toan nhấc cái bàn đá lên, nhưng không thấy động đậy bèn mừng rỡ nói:

– “Nhất định cái bàn này có chỗ kỳ quái.”

Với nội lực của chàng mà hết sức nhấc lên, dù cái bàn này nặng tới ngàn cân cũng phải nhúc nhích mới đúng. Nhưng dù đẩy ngang kéo thẳng thế nào, cái bàn đá này cũng lì ra đó, cứ như chân bàn đã dính chặt xuống nền phòng.

Hoắc Thanh Đồng cả mừng cầm đuốc soi xuống chân bàn để kiểm tra, rồi lập tức thất vọng. Thì ra đúng là chân bàn dính chặt xuống nền phòng. Cái bàn tròn này được chạm trổ từ nguyên khối ngọc thạch liền với nền đá, dĩ nhiên không di chuyển được.

Ba người vất vả nửa ngày hoàn toàn vô ích, bụng đã đói meo. Hương Hương công chúa lấy thịt dê ướp và lương khô ra, mọi người ăn một chút rồi ngồi tựa vào ghế mà nghỉ sức dưỡng thần.

Nửa giờ sau, luồng ánh sáng mặt trời rọi đúng vào mặt bàn. Hương Hương công chúa bỗng nói:

– “Úi chà! Trên cái bàn này có chạm trổ hoa văn.”

Nàng tới gần xem kỹ, thì ra mặt bàn có khắc một bầy lạc đà có cánh. Hoa văn cực nhuyễn, nếu ánh nắng không rọi thẳng vào thì không thể nhìn thấy được. Hình chạm trổ rất công phu nhưng có vẻ lệch lạc, đầu con lạc đà nào cũng cách thân mình tới hơn một thước. Nàng nhìn thấy không hài lòng, bèn nắm lấy cạnh bàn định xoay từ bên phải sang bên trái cho khớp vào nhau, không ngờ xoay được. Thì ra viền ngoài cái bàn tròn không dính liền vào phần giữa.

Hương Hương công chúa xoay chừng một tấc thì không thấy nhúc nhích nữa. Trần Gia Lạc và Hoắc Thanh Đồng phải hợp sức mới từ từ xoay được cho hoa văn điêu khắc ở viền ngoài và trung tâm trùng khít vào nhau. Khi đầu và mình đám lạc đà vừa nhập lại thành một, bỗng nghe tiếng lách cách. Trên cái giường ngọc xuất hiện một lỗ lớn, bên dưới là những bậc đá dẫn xuống.

Ba người vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, cùng lên tiếng hoan hô. Trần Gia Lạc cầm đuốc bước xuống, hai cô gái theo sau. Qua bốn năm khúc quanh, đi thêm mười mấy trượng nữa đột nhiên thấy trước mặt sáng bừng, tới một vùng đất bằng phẳng rộng lớn, chung quanh núi non vây bọc như một cái chảo. Chính giữa lòng chảo có một hồ nước êm ả, xanh như phỉ thúy. Cái hồ hình tròn này đã ngàn năm mà không khô cạn, có lẽ dưới đáy hồ phải có nguồn nước chảy vào.

Nhìn thấy cảnh tượng kỳ lạ đẹp đẽ này, ba người đều hoan hỉ. Hoắc Thanh Đồng mỉm cười nói:

– “Kha Tư Lệ! Di thư có nói, mỹ nhân mà tắm trong hồ này sẽ càng diễm lệ hơn. Muội muội xuống tắm một chút đi.”

Hương Hương công chúa đỏ mặt lên đáp:

– “Tỉ tỉ lớn tuổi hơn thì tắm trước đi.”

Hoắc Thanh Đồng cười:

– “Ái chà! Tỉ tỉ xấu xí thế này, tắm chỉ tổ xấu thêm.”

Hương Hương công chúa quay lại gọi Trần Gia Lạc:

– “Huynh mau mau xử lý công bằng! Tỉ tỉ nói là mình không đẹp, nhất định là có ý trêu ghẹo muội.”

Trần Gia Lạc mỉm cười không đáp. Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Kha Tư Lệ! Rốt cuộc thì muội có tắm hay không?”

Hương Hương công chúa lắc đầu.

Hoắc Thanh Đồng đi đến bên hồ, chưa chạm vào nước đã thấy mát tới tận xương. Nàng vốc một chút nước lên, thấy trong sạch vô cùng, không có chút rong rêu hay đất cát gì cả. Thì ra bốn phía bờ hồ đều là ngọc phỉ thúy, nên nước trong hồ ánh màu xanh biếc, uống vào một hớp là ngọt ngào mát lạnh từ miệng xuống tận tâm can.

Ba người uống đến no, rồi ngồi nhìn ngọc phong trắng muốt ánh xuống nước hồ xanh bích. Trong trắng có xanh, trong xanh hiện trắng, màu sắc thanh nhã phi thường. Hương Hương công chúa cứ đưa tay nghịch nước, không muốn rời khỏi.

Hoắc Thanh Đồng lên tiếng:

– “Bây giờ phải nghĩ cách tránh xa bốn con quỉ kia.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Trước tiên chúng ta hãy đem hài cốt của Mã Mễ Nhi an táng ở cạnh hồ này, có được không?”

Hương Hương công chúa vỗ tay khen hay, lại nói:

– “Tốt nhất là đem hài cốt của A Lý chôn cùng cô ấy.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Được! Chắc chắn bộ hài cốt trong góc ngọc thất là của A Lý.”

Ba người trở về ngọc thất thu dọn hài cốt, bỗng thấy bên hài cốt A Lý có một bó thẻ tre. Trần Gia Lạc cầm lên xem thử. Sợi dây da để xâu bó thẻ tre này đã mục nát rồi, nên vừa xách lên là bó thẻ rơi xuống lả tả. Những cái thẻ này được sơn đen, vẫn còn nguyên vẹn, trên thẻ viết đầy những chữ Hán bằng son màu đỏ.

Trần Gia Lạc cả mừng, đọc thử một thẻ thì thấy:

– “Bắc minh hữu ngư kỳ danh vi côn”, lật tiếp mấy thẻ nữa cũng là văn chương trong Nam Hoa Kinh của Trang Tử. Ban đầu chàng tưởng đó là kỳ thư bảo điển gì, nên không khỏi thất vọng vì sách Trang Tử từ nhỏ đã thuộc lòng.

Hương Hương công chúa hỏi:

– “Đó là sách gì vậy?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Đó là một quyển sách cổ của người Hán chúng ta. Mớ thẻ tre này tuy là cổ vật nhưng không có ích gì lắm, chỉ những người ham mê đồ cổ mới thích.”

Chàng thả bừa xuống đất, khi mớ thẻ tản ra bỗng thấy trong đó có những mảnh khác hẳn, có chú thích bằng chữ Hồi cổ. Trần Gia Lạc nhặt lên xem, thấy thẻ đó chép mấy câu trong đoạn Bao Đinh Giải Ngưu, thiên Dưỡng Sinh Chủ của sách Trang Tử. Chàng chỉ vào chỗ chữ Hồi, hỏi Hương Hương công chúa:

– “Những chữ này viết gì vậy?”

Hương Hương công chúa đọc lên:

– “Bí quyết phá địch đều ở chỗ này.”

Trần Gia Lạc ngạc nhiên hỏi:

– “Thế là thế nào?”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Trong di thư của Mã Mễ Nhi có nói, A Lý được đọc một quyển sách của người Hán, từ đó mà nghĩ ra cách dùng tay không đối địch. Chẳng lẽ là bó thẻ tre này?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Trang Tử dạy cho người ta sống lạc quan, thuận theo trời đất. Hoàn toàn không liên quan gì đến võ công.”

Chàng lại bỏ mớ thẻ tre xuống, thu nhặt hài cốt đi ra ngoài. Ba người đặt hai bộ hài cốt vào cùng một huyệt, chôn ở dưới núi bên hồ phỉ thúy, cùng nhau khấn vái và cầu nguyện.

Sau đó Trần Gia Lạc bảo:

– “Bây giờ chúng ta đi thôi. Không hiểu con ngựa trắng có thoát khỏi bầy sói đói hay không?”

Hương Hương công chúa nói:

– “Nhờ nó mà chúng ta còn mạng. Nó đã thông minh lại chạy rất nhanh…”

Trần Gia Lạc tưởng tượng ra cảnh bầy sói hung hãn xé xác con bạch mã, không khỏi nổi lòng trắc ẩn. Hoắc Thanh Đồng bỗng hỏi:

– “Đoạn sách đó nói về cái gì vậy?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Nói về bản lãnh mổ bò tuyệt diệu của một người đồ tể. Ông ấy tay khẽ co duỗi, chân khẽ tiến lùi, xuống dao không cần dùng sức, động tác vô cùng xảo diệu, cử chỉ giống như nhảy múa.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Uyển chuyển như vậy, nhảy múa nhất định rất là đẹp.”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Nếu có thể uyển chuyển quật ngã đối phương thì càng tuyệt diệu hơn.”

Trần Gia Lạc nghe vậy, lập tức ngẩn ra. Bộ Trang Tử này chàng đã thuộc từ lâu, nhuần nhuyễn trong lòng, tưởng là không còn gì mới mẻ. Bây giờ nghe một người chưa đọc nhận xét một câu, bất giác chàng lại thấy một khía cạnh khác, bèn thầm nhắc lại từng chữ trong đoạn Bao Đinh Giải Ngưu:

– “Sau ba năm, đồ tể Bao Đinh không thấy nguyên cả con bò nữa, chỉ thấy những khoảng trống rất nhỏ giữa những khớp xương và gân cốt, gọi là hữu gian. Con dao mổ bò không cần cắt qua gân cốt và cơ bắp, chỉ cần nhẹ nhàng lướt qua những chỗ hữu gian đó, thì cả con bò lớn không tốn khí lực mà đã phân ra thành từng mảnh một.”

Chàng lại nghĩ:

– “Trương Triệu Trọng dù giỏi đến đâu, trong võ công của hắn chắc chắn cũng phải có chỗ sơ xuất. Đó chính là hữu gian của hắn. Ta chỉ cần phát hiện, nhẹ nhàng di chuyển để chọn phương vị tiến vào hữu gian, là có thể giết được tên gian tặc đó ngay…”

Đột nhiên thấy chàng ngơ ngẩn xuất thần, chị em Hoắc Thanh Đồng liếc nhìn nhau, không hiểu chàng đang nghĩ gì.

Trần Gia Lạc bỗng lên tiếng:

– “Hai cô đợi ta một chút!” rồi lập tức phóng vào trong đại điện. Hai chị em chờ đợi hồi lâu không thấy chàng ra, không yên tâm cũng vào trong đó. Thì ra Trần Gia Lạc đang phấn khởi cười tươi rói, đứng múa tay múa chân bên một bộ hài cốt trong đại điện.

Hương Hương công chúa lo lắng, tưởng thần trí của chàng bị hồ đồ, vội cất tiếng gọi:

– “Huynh đang làm gì vậy?”

Trần Gia Lạc không biết có người gọi mình, cứ tiếp tục múa máy, rồi lát sau lại đứng ngẩn ra nhìn một bộ hài cốt khác. Hương Hương công chúa la lên:

– “Huynh đừng làm muội sợ, tới đây đi!”

Trần Gia Lạc bỗng cử động tay chân cho giống hệt tư thế của bộ xương, miệng hô lên:

– “Hữu gian!”, rồi theo chiều hướng xương cánh tay của bộ hài cốt đó mà chụp vào một kẻ địch tưởng tượng.

Hoắc Thanh Đồng thấy trong lúc chàng vung tay múa chân có tiếng kình phong rít lên, bỗng hiểu là chàng đang nghiên cứu võ công. Nàng bèn kéo tay muội muội mà nói:

– “Đừng sợ, chàng không sao đâu. Chúng ta ra ngoài đợi chàng đi.”

Hai người quay lại bờ hồ phỉ thúy. Hương Hương công chúa hỏi:

– “Tỉ tỉ! Chàng làm gì trong đó vậy?”

Hoắc Thanh Đồng nói:

– “Chắc là sau khi xem mấy cái thẻ tre, chàng ngộ được mấy chiêu võ công kỳ lạ, bây gìờ nghiên cứu theo tư thế những bộ hài cốt đó. Chúng ta đừng vào trong quấy nhiễu.”

Hương Hương công chúa gật đầu, lát sau lại hỏi:

– “Tỉ tỉ! Sao tỉ tỉ không vào đó mà luyện tập?”

Hoắc Thanh Đồng đáp:

– “Văn chương chữ Hán trên thẻ tre đó rất kỳ lạ, tỉ tỉ không hiểu nên không luyện theo được. Võ công huynh ấy cao thâm hơn tỉ tỉ nhiều.”

Hương Hương công chúa thở ra một hơi rồi nói:

– “Bây giờ muội hiểu rồi. Trên đại điện có nhiều hài cốt như vậy, thì ra lúc còn sống họ đã luyện được võ công. Binh khí của họ bị từ thạch hút đi hết, phải dùng tay không đánh nhau với võ sĩ của Sang La Ba.”

Hoắc Thanh Đồng gật đầu:

– “Đúng vậy! Nhưng võ công họ không cao lắm, dường như chỉ học được mấy chiêu sát thủ lợi hại nhất. Trong lúc khẩn cấp họ phải đánh vào chỗ yếu hại của địch thủ để đồng quy ư tận.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Những người đó dũng cảm thật… Trời ơi! Vậy chàng học thứ đó để làm gì? Chẳng lẽ tính chuyện cùng chết với địch thủ hay sao?”

Hoắc Thanh Đồng đáp:

– “Không! Người có võ công tuyệt đỉnh không bao giờ đồng quy ư tận. Chàng chỉ nghiên cứu những chiêu số kỳ lạ đó mà thôi.”

Hương Hương công chúa mỉm cười rồi nói:

– “Thế thì muội yên tâm rồi.”

Nàng nhìn vào mặt hồ xanh bích, đột nhiên nói:

– “Tỉ tỉ! Chúng ta cùng xuống đó tắm, có được không?”

Hoắc Thanh Đồng cười đáp:

– “Đừng nói bậy! Lỡ chàng đột ngột ra đây thì sao?”

Hương Hương công chúa nói:

– “Muội muốn xuống tắm quá.”

Nàng nhìn mặt nước trong xanh mát rượi mà ngơ ngẩn, hồi lâu lại nói:

– “Nếu ba người chúng ta được vĩnh viễn sống ở chỗ này thì tốt biết dường nào.”

Trái tim của Hoắc Thanh Đồng đập rộn ràng, hai má đỏ bừng. Nàng vội quay đi, nhìn sang ngọn núi bạch ngọc.

Đợi rất lâu mà Trần Gia Lạc vẫn chưa ra. Hương Hương công chúa cởi giày, ngâm chân xuống nước, gối đầu lên đùi tỉ tỉ mà ngắm nhìn những cụm mây trắng bay tự do tự tại trên trời. Lát sau nàng ngủ thiếp đi.

—————————————

Trong nguyên bản chữ Hán, Kim Dung phiên âm Muslim là Mộc Sĩ Lâm, Islam là Y Tư Lan, kinh Koran là Khả Lan Kinh. Nếu cao nhân độc giả nào dị ứng với chuyện thấy “chữ tây chữ u” xuất hiện giữa đao quang kiếm ảnh, xin cứ đọc theo phiên âm Hán-Việt (chú thích của ND).

Hồi 18: Quái hiệp gỡ tơ lòng nhi nữ – Gian tặc lầm mưu hận mỹ nhân

Nhắc lại chuyện Dư Ngư Đồng cùng Lý Nguyên Chỉ đi tìm Hoắc Thanh Đồng. Dĩ nhiên họ đều hiểu Thất ca sắp xếp hai người đi chung là có dụng ý.

Lý Nguyên Chỉ tình nghĩa sâu nặng, đã mấy lần cứu mạng Dư Ngư Đồng, trong lòng họ Dư đương nhiên có phần cảm kích. Nhưng nàng càng si tình thì chàng lại càng muốn tránh, tại sao thì chính chàng cũng không tự biết. Dọc đường Lý Nguyên Chỉ cười nói huyên thuyên, còn chàng cứ nghiêm mặt làm thinh.

Lý Nguyên Chỉ không khỏi bực mình. Một hôm nàng lén trốn vào sau một đồi cát, xem thử chàng có lo lắng hay không. Nào ngờ khi thấy nàng biến mất, anh chàng chỉ kêu gọi mấy tiếng cho có lệ, không nghe ai trả lời liền một mình đi tiếp. Lý Nguyên Chỉ tức tối vô cùng, núp sau đồi cát đó mà khóc một trận cho hả dạ, rồi mới trấn tĩnh tinh thần để đuổi theo. Khi đuổi kịp, Dư Ngư Đồng chỉ nói một câu nhạt nhẽo:

– “Thì ra cô đi sau. Ta lại tưởng cô đi trước rồi.”

Lý Nguyên Chỉ có muôn ngàn trò nghịch ngợm đùa cợt, nhưng đối với trái tim sắt đá này thì nàng phải bó tay. Nàng đã thầm quyết định, nếu tên oan gia này ép mình đến mức không còn đường để đi, thì mình sẽ rút kiếm ra tự cứa ngang cổ một nhát, thế là xong chuyện.

Một buổi trưa, đột nhiên từ phía trước có một con lừa vừa nhỏ vừa ốm, từng bước cà nhắc trên mặt cát đi đến trước mặt hai người. Dường như nó cũng đang ngủ gà ngủ gật như ông chủ cưỡi trên lưng. Khi đến gần, nhìn rõ người đó mặc y phục kiểu người Hồi, trên lưng đeo một cái chảo sắt to, tay cầm một cái đuôi lừa, còn mông của con lừa lại trụi lủi không đuôi. Trên đầu lừa có đội mũ kiểu võ quan Kiêu Kỵ Doanh nhà Thanh, nhưng hạt lam bảo thạch trên đỉnh nón bị đổi thành một hòn sỏi nhỏ. Người này tuổi khoảng bốn mươi, dưới cằm để một hàm râu rất lớn. Khi thấy hai người ông cười rạng rỡ, dáng vẻ hiền hòa thân thiện.

Dư Ngư Đồng nghĩ bụng:

– “Hoắc Thanh Đồng rất nổi danh trong vùng sa mạc, người Hồi không ai không biết.”

Chàng bèn dừng ngựa hỏi thăm:

– “Xin cho hỏi, đại thúc có thấy Thúy Vũ Hoàng Sam đâu không?”

Chàng đang lo người này không biết tiếng Hán, nào ngờ ông cười khì một tiếng rồi hỏi lại cũng bằng tiếng Hán:

– “Hai vị tìm cô ấy để làm gì?”

Dư Ngư Đồng nói:

– “Có ba kẻ xấu muốn hại cô ấy, bọn vãn bối đến để báo tin. Nếu đại thúc biết cô ấy ở đâu, có thể chỉ cho bọn vãn bối không?”

Người kia đáp:

– “Được chứ, nhưng bọn xấu đó như thế nào?”

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Một người to lớn xách độc cước đồng nhân, một người cầm Điệp hổ xoa, người thứ ba ăn mặc kiểu Mông Cổ.”

Người kia gật đầu rồi nói:

– “À, ba tên này đúng là xấu thật. Chúng muốn ăn thịt con lừa của ta, nhưng lại bị ta giật mất một cái mũ.”

Dư Ngư Đồng và Lý Nguyên Chỉ bất giác nhìn nhau. Dư Ngư Đồng hỏi:

– “Chúng còn có đồng bọn hay sao?”

Người kia nói:

– “Chính là tên có cái mũ quan này. Hai vị là ai vậy?”

Dư Ngư Đồng đáp:

– “Bọn vãn bối là bạn của lão anh hùng Mộc Trác Luân. Mấy kẻ xấu đó đang ở đâu? Không được để chúng gặp Thúy Vũ Hoàng Sam.”

Người kia nói:

– “Nghe nói con nhỏ Hoắc Thanh Đồng đó không xấu. Bốn tên khốn đó không ăn thịt được con lừa của ta, không chừng đói bụng sẽ nướng cô nương đó lên mà chén. Vậy thì hỏng bét.”

Lý Nguyên Chỉ nghĩ thầm:

– “Quan Đông tam ma hữu dũng vô mưu, chỉ thêm một tên quan quân nhà Thanh thì không đáng ngại. Tốt nhất là ta tìm cách giết chúng, để cái tên Dư sư ca thích coi thường người khác này phải thán phục bản lãnh của mình.”

Nàng bèn hỏi:

– “Chúng đang ở đâu vậy? Đại thúc có thể dẫn bọn vãn bối đi hay không? Vãn bối xin tặng đại thúc thỏi bạc này.”

Người kia đáp:

– “Bạc thì không cần, nhưng phải hỏi xem con lừa này chịu đi hay không đã.”

Ông kề miệng vào tai của con lừa, nói tràng giang đại hải một hồi xí xô xí xào gì gì đó. Rồi ông lại kề tai vào mõm của con lừa, ra vẻ cố gắng lắng nghe, sau đó gật đầu lia lịa.

Hai người thấy ông giả bộ điên khùng, không khỏi tức cười. Người kia nghe được một lúc, bỗng chau mày rồi nói:

– “Từ lúc được đội mũ quan, con lừa này cứ tưởng là mình cao siêu lắm. Nó xem thường hai con ngựa của các vị, không muốn đi cùng vì sợ mất thể diện.”

Dư Ngư Đồng giật mình nghĩ:

– “Người này hành sự kỳ dị khác thường. Ông không nói ra miệng câu khen chê nào, nhưng ý tại ngôn ngoại lại thóa mạ bọn tiểu nhân bạo phát cậy thế hiếp người. Chẳng lẽ đây là một bậc dị nhân ở chốn phong trần hay sao?”

Lý Nguyên Chỉ thì nghĩ con lừa đã ốm yếu lại thọt chân, người dính đầy sình mà còn làm bộ. Nàng không nén nổi, bỗng cười khúc khích.

Người kia liếc nàng một cái, hỏi:

– “Cô không tin hay sao? Thế thì để con lừa của ta chạy thi với ngựa của hai vị thử xem.”

Hai người đang cưỡi những con tuấn mã của Mộc Trác Luân tặng, so với con lừa thọt này dĩ nhiên khác xa một trời một vực. Lý Nguyên Chỉ đáp ngay:

– “Được lắm! Nếu bọn vãn bối thắng, thì đại thúc phải dẫn đi tìm ba tên xấu xa đó.”

Người kia nói:

– “Bốn tên xấu xa chứ không phải ba. Còn nếu hai vị thua thì sao?”

Lý Nguyên Chỉ đáp:

– “Thì đại thúc cứ nói đi!”

Người kia nói:

– “Ta muốn hai vị tắm rửa con lừa này sạch sẽ, cho nó oai phong một tí.”

Lý Nguyên Chỉ mỉm cười nói:

– “Được rồi, cứ thế! Chạy thi như thế nào đây?”

Người kia nói:

– “Thì cô cứ nói đi!”

Thấy ông nói chuyện chắc ăn, tuyệt không nghi ngờ mình sẽ thua, Lý Nguyên Chỉ không khỏi lo âu. Nàng bỗng hoài nghi, chẳng lẽ con lừa què này chạy nhanh đến thế? Nàng ngẫm nghĩ một chút rồi hỏi:

– “Đại thúc đang cầm cái gì vậy?”

Người kia đưa cái đuôi lừa ra, vẫy vẫy mấy cái rồi nói:

– “Cái đuôi của con lừa này. Từ lúc được đội mũ quan, nó chê cái đuôi của mình dính bùn không đẹp, nên không thèm đeo nữa.”

Nghe ông nói chuyện châm biếm, hàm ý sâu xa, Lý Nguyên Chỉ lại càng không dám khinh suất. Nàng liếc nhìn Dư Ngư Đồng một cái, tỏ ý bảo chàng cẩn thận, rồi lên tiếng:

– “Đại thúc cho vãn bối mượn xem thử!”

Người kia ném cái duôi lừa qua. Lý Nguyên Chỉ đưa tay đón lấy, cầm xem một tí rồi chỉ vào một đồi cát nhỏ xa xa, nói:

– “Chúng ta chạy từ đây tới đồi cát đó. Nếu lừa của đại thúc tới trước thì đại thúc thắng. Nếu ngựa của vãn bối tới trước thì vãn bối thắng.”

Người ấy nói:

– “Được! Lừa ta đến trước thì ta thắng, ngựa cô đến trước thì cô thắng.”

Lý Nguyên Chỉ bảo Dư Ngư Đồng:

– “Huynh làm trọng tài, qua đó trước đi.”

Dư Ngư Đồng gật đầu đồng ý, giục ngực chạy trước.

Lý Nguyên Chỉ chờ một chút rồi hô lớn:

– “Đi thôi!”

Tiếng hô vừa dứt, nàng lấy roi vút vào mông ngựa, con ngựa tung vó chạy ngay. Được mấy chục trượng, nàng quay lại nhìn vẫn thấy con lừa đi cà nhắc từng bước một, rơi lại phía sau rất xa. Nàng cười ha hả, lỏng cương chạy chậm lại một chút.

Đột nhiên một bóng đen lướt qua mặt, nàng định thần nhìn lại thì ra người kia đã vác con lừa lên vai, co giò chạy như bay về phía trước. Nàng kinh hãi vô cùng, suýt nữa không ngồi vững trên yên ngựa mà té nhào xuống đất.

Lý Nguyên Chỉ thúc ngựa chạy gấp đuổi theo, nhưng người kia phóng nhanh như tia chớp, càng lúc càng bỏ xa ngựa của nàng. Chỉ trong khoảnh khắc hai người đã chạy đến đồi cát đó. Rốt cuộc, lừa cưỡi người lại nhanh hơn người cưỡi ngựa, tới đỉnh đồi cát sớm hơn mấy trượng.

Lý Nguyên Chỉ liệng cái đuôi lừa còn nắm trong tay ra sau lưng, giục ngựa chạy lên đồi cát rồi la lớn:

– “Ngựa của vãn bối tới trước rồi!”

Người kia và Dư Ngư Đồng ngạc nhiên nhìn nhau, rõ ràng lừa tới trước mà sao nàng nói ngựa đến trước? Người kia nói:

– “Này cô nương! Chúng ta đã hẹn hễ lừa đến trước là ta thắng, ngựa đến trước là cô thắng, có phải vậy không?”

Lý Nguyên Chỉ vừa đưa tay sửa lại mái tóc đang bay rối trong gió vừa đáp:

– “Không sai!”

Người kia nói:

– “Chúng ta không hẹn là nhất định người phải cưỡi lừa, có phải vậy không?”

Lý Nguyên Chỉ lại đáp:

– “Không sai!”

Người kia nói:

– “Người cưỡi lừa cũng được, mà lừa cưỡi người cũng không sao, miễn là lừa tới trước. Cô cũng thấy con lừa này đang đội mũ quan. Lừa ngốc mà được làm quan thì có thể ngồi trên đầu người ta nữa đấy.”

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Chúng ta đã giao hẹn đàng hoàng, lừa đến trước thì đại thúc thắng, ngựa đến trước thì vãn bối thắng, có phải vậy không?”

Người kia đáp:

– “Đúng vậy!”

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Chúng ta không hẹn là một phần lừa đến trước thì đại thúc thắng, có phải vậy không?”

Người kia nhìn trời vuốt râu, ra vẻ mơ màng rồi nói:

– “Chuyện này thì ta hồ đồ không hiểu. Thế nào thì gọi là một phần lừa đến đích?”

Lý Nguyên Chỉ trỏ cái đuôi bị nàng ném ra xa, cười nói:

– “Toàn bộ con ngựa của vãn bối đã đến đây, còn con lừa của đại thúc mới đến có một phần. Cái đuôi của nó chưa đến đích.”

Người ấy ngẩn ra một chút, cười ha hả rồi nói:

– “Đúng vậy, đúng vậy, cô thắng rồi. Bây giờ ta dẫn hai vị đi tìm bốn tên khốn đó.”

Ông đi nhặt cái đuôi, rồi bảo con lừa:

– “Lừa ơi là lừa, ngốc ơi là ngốc! Ngươi đừng tưởng hễ đội mũ quan là có thể vứt đi cái đuôi dính sình. Ngươi nghĩ là không sao, nhưng người ta không chịu quên đâu!”

Ông nhảy lên lưng lừa, lại nói:

– “Lừa ngốc ơi, ngươi cưỡi trên đầu người ta chưa được bao lâu, bây giờ bị cưỡi lại rồi.”

Con lừa đó tuy nhỏ bé nhưng cũng nặng tới mấy chục cân, thế mà người này vác lên vai chạy nhanh hơn ngựa, đủ thấy võ công thâm hậu tới mức nào. Dư Ngư Đồng liền bước lên thi lễ rồi nói:

– “Sư muội của vãn bối tính tình nghịch ngợm. Coi như cô ấy nhờ lão tiền bối chỉ điểm đường đi, để bọn vãn bối đi tìm là được rồi. Không dám làm phiền đại giá lão tiền bối.”

Người kia mỉm cười đáp:

– “Ta thua rồi, làm sao mà chối được?”

Ông bèn quay lừa lại, giục đi luôn.

Thấy ông chịu đi cùng, Dư Ngư Đồng mừng rỡ trong lòng. Chàng biết Quan Đông tam ma võ công ghê gớm, lại có mối thâm thù với mình, lỡ chạm trán nhau trong vùng đại mạc này thì đúng là tai họa. May mà có ông râu người Hồi võ công cao cường như thế giúp đỡ mình, không còn gì đáng sợ nữa.

Ba người hai ngựa một lừa, chậm rãi song song tiến bước. Dư Ngư Đồng thử hỏi họ tên, nhưng người kia mỉm cười không đáp. Ông không ngớt đùa giỡn chọc cười, nhưng nói ra câu nào cũng tuyệt diệu vô cùng, nửa trang nghiêm nửa hài hước, nửa ngạo đời nửa chế giễu. Ngay cả Lý Nguyên Chỉ cũng phải âm thầm thán phục.

Con lừa thọt chân đi rất chậm, hơn nửa ngày mới được ba chục dặm đường. Bỗng nghe thấy phía sau có tiếng chuông vang lên, Từ Thiên Hoằng và Chu Ỷ đã cưỡi ngựa chạy tới. Dư Ngư Đồng giới thiệu:

– “Vị đại hiệp này đang dẫn bọn đệ đi tìm Quan Đông tam ma.”

Từ Thiên Hoằng nghe chàng xưng hô cung kính, bèn xuống ngựa thi lễ. Người Hồi kia không đáp lễ, chỉ mỉm cười nói:

– “Phu nhân của lão đệ nên nghỉ ngơi cho khỏe, cực khổ tới đây làm gì?”

Từ Thiên Hoằng ngạc nhiên không hiểu, còn Chu Ỷ đỏ ửng mặt, ra roi thúc ngựa chạy vượt lên trước.

Người kia rất rành đường trên sa mạc, tới xế chiều đã dẫn mọi người đến một thị trấn nhỏ. Tới nơi thấy gà chó chạy lung tung, bụi bặm bay mù, thì ra một toán nhỏ quân Thanh vừa càn qua đó. Dân chúng Hồi tộc loạn cả lên, lo dẫn con cái đi trốn.

Từ Thiên Hoằng kinh ngạc nói:

– “Phần lớn quân Thanh đã bị giết, còn sót một ít tàn quân cũng đang bị bao vây. Tại sao ở đây lại có quân Thanh?”

Đang nói chuyện, bỗng phía trước có hơn hai chục người Hồi chạy tới, mười mấy tên lính Thanh hò hét xách đao đuổi theo. Đám dân Hồi này vừa thấy ông râu cưỡi lừa đã mừng rỡ vô cùng, vội kêu lớn:

– “Nạp Tư Nhĩ Linh A Phàm Đề!(10) Mau cứu chúng tôi với!”

Từ Thiên Hoằng không hiểu họ nói gì, nhưng nghe mấy chữ “Nạp Tư Nhĩ Linh A Phàm Đề” lặp đi lặp lại, đoán đó là tên của ông ta.

A Phàm Đề la lên:

– “Mọi người chạy trốn đi!”

Rồi ông kéo dây cương cho con lừa chạy vào sa mạc, đám người Hồi và quân Thanh cũng chạy theo sau.

Chạy khỏi thị trấn một quãng xa, mấy nữ nhân Hồi tộc chậm chân đã bị bọn lính Thanh bắt được. Chu Ỷ nhịn không nổi nữa, liền rút đao thúc ngựa xông tới chém giết. Mới hai đao, nàng đã vạt mất nửa cái đầu của một gã lính Thanh. Bọn còn lại giận dữ vô cùng, kéo tới bao vây nàng. Từ Thiên Hoằng, Dư Ngư Đồng, Lý Nguyên Chỉ đồng thời xông tới.

Đột nhiên Chu Ỷ cảm thấy khó chịu muốn nôn, trước mắt nhấp nháy đầy sao. Nàng phải thu đao về đưa tay ôm ngực. Một tên lính Thanh thấy vậy, liền phóng tới định bắt. Chu Ỷ ọe một tiếng rồi nôn vọt ra, xối từ trên đầu xuống mặt của hắn. Tên lính Thanh không thấy đường phải vội vàng đưa tay chùi mặt, Chu Ỷ tiện tay đưa một đao chém chết.

Tay chân nàng bủn rủn hẳn đi, thân mình lắc lư ngồi không vững. Từ Thiên Hoằng vội chạy tới dìu vợ, kinh hãi hỏi:

– “Sao vậy?”

Lúc này Dư Ngư Đồng và Lý Nguyên Chỉ mỗi người đã giết hai ba tên lính. Số còn lại la lên một tiếng, quay lưng bỏ chạy tứ tán. A Phàm Đề liền tháo cái chảo sắt trên lưng xuống cầm trong tay, vừa đưa ra đã chụp trúng đầu một tên lính thanh, la lên:

– “Trong chảo có một quả bí thối.”

Lý Nguyên Chỉ phóng kiếm đâm tới. Tên lính kia bị che mắt, không sao tránh né được, lập tức mất mạng. A Phàm Đề xách cái chảo sắt chụp xuống một tên khác, Lý Nguyên Chỉ lại chạy theo tặng cho một kiếm. Không biết ông dùng thủ pháp gì mà chụp chảo xuống phát nào trúng phát đó, đám lính không sao tránh được.

Một người dùng chảo, một người dùng kiếm, trong chốc lát đã giết xong mười mấy tên lính. Lý Nguyên Chỉ cả mừng la lên:

– “Đại thúc râu! Cái chảo của đại thúc nấu bí thật là tốt.”

A Phàm Đề mỉm cười nói:

– “Con dao xắt bí của cô cũng bén lắm.”

Dư Ngư Đồng thấy Lý Nguyên Chỉ giết nhiều Thanh binh, bất giác nghĩ thầm:

– “Gia gia của nàng là đề đốc Mãn Thanh, thế mà nàng lại giết bọn này chẳng kiêng kị gì. Thế thì nàng đã quyết định theo ta thật rồi.”

Chàng vừa vui mừng vừa rầu rĩ, không khỏi buông tiếng thở dài.

Tên lính Thanh cuối cùng đã bị Từ Thiên Hoằng bắt sống, vặn hỏi đội quân này từ đâu đến đây. Hắn quì xuống xin tha mạng, ấp úng hồi lâu mới nói được rõ ràng. Thì ra chúng là viện quân từ phía đông kéo đến, nghe nói đại quân của Triệu Tuệ bị thảm bại nên chia thành từng nhóm gấp rút đến giải vây.

Từ Thiên Hoằng chọn trong đám người Hồi ra hai hán tử khỏe mạnh, nhờ họ lập tức đến thành Diệp Nhĩ Khương báo cho Mộc Trác Luân biết, để lão anh hùng tiện bề đối phó. Hai người này vâng lệnh đi ngay.

Từ Thiên Hoằng phóng chân đá cho tên lính một cước vào mông, hét lên:

– “Cút con bà mày đi!”

Hắn lập tức quàng chân lên cổ mà chạy trốn.

Họ Từ quay lại nhìn ái thê, thấy thần sắc nàng đã trở lại bình thường. Chàng không biết tại sao nàng đột nhiên chóng mặt, liền hỏi:

– “Muội không được khỏe ư?”

Mặt Chu Ỷ đỏ lên một chút, quay đi không đáp. A Phàm Đề mỉm cười nói:

– “Trâu mẹ sắp sinh nghé con rồi. Trâu đực ăn cỏ thì vui mừng mà chạy xung quanh trâu cái. Còn trâu đực ăn cơm chỉ biết đứng đó hỏi lung tung.”

Từ Thiên Hoằng cả mừng, mỉm cười hỏi:

– “Sao tiền bối lại biết?”

A Phàm Đề đáp:

– “Chuyện này mới là cổ quái! Trâu cái sắp đẻ nghé con, lừa già đã biết rồi mà trâu đực lại chưa biết.”

Mọi người đều cười ha hả. Dư Ngư Đồng chạy tới chúc mừng.

Cả đoàn người đông đúc lên ngựa, đi vòng qua thị trấn. Đến xế chiều, mọi người mới dựng lều trại để nghỉ ngơi. Từ Thiên Hoằng lén hỏi vợ mình:

– “Mấy tháng rồi? Sao ta không biết?”

Chu Ỷ cười đáp:

– “Trâu đực ngốc thì làm sao biết được?”

Hồi lâu nàng mới nói tiếp:

– “Nếu chúng ta có một đứa con trai thì nó sẽ mang họ Chu, gia gia cùng má má nhất định sẽ rất vui. Tốt nhất là nó đừng cổ quái điêu ngoa giống ca ca.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Sau này muội phải cẩn thận hơn, đừng động đao thương nữa.”

Chu Ỷ gật đầu rồi nói:

– “Lúc nãy mới giết một tên mà mùi máu xông lên tanh không chịu nổi, chỉ muốn nôn mửa. Thật là khổ sở.”

Sáng hôm sau, A Phàm Đề nói với Từ Thiên Hoằng:

– “Đi thêm ba chục dặm nữa là đến nhà của ta. Ta có một bà vợ rất đẹp đang sống ở đó…”

Lý Nguyên Chỉ nói xen vào:

– “Thật ư? Thế thì vãn bối nhất định phải đi gặp bà ấy, hỏi sao bà ấy lại thích hàm râu rậm rạp này?”

A Phàm Đề cười phá lên rồi đáp:

– “Ha ha! Đó là một bí mật cực lớn.”

Ông lại bảo Từ Thiên Hoằng:

– “Vợ của lão đệ cưỡi ngựa chạy tới chạy lui, vung tay múa chân, không tốt cho nghé con trong bụng. Hay là nghỉ lại ở nhà ta, đợi chúng ta tìm được mấy tên khốn kia, xử lý chúng rồi sẽ quay lại đón.”

Từ Thiên Hoằng lập tức đa tạ. Chu Ỷ không muốn vậy, nhưng nghĩ đến hai người huynh trưởng và một đứa em trai đã chết, đứa con trong bụng phải nối nghiệp nhà họ Chu, nên cuối cùng cũng đồng ý.

* * *

Qua khỏi một thị trấn, A Phàm Đề dẫn mọi người về nhà mình. Ông xách cái chảo lên khua lẻng kẻng một tràng, trong nhà lập tức có một nữ nhân khoảng ba mươi tuổi bước ra. Quả nhiên bà ta rất xinh đẹp, da dẻ trơn tru trắng trẻo. Nhìn thấy A Phàm Đề, bà vui mừng như bắt được của, nhưng miệng lại không ngớt mắng nhiếc:

– “Lão râu kia! Biến đi đâu, đến tận bây giờ mới về? Có nhớ ta ở nhà hay không?”

A Phàm Đề mỉm cười nói:

– “Thôi, đừng la nữa. Chẳng phải ta đã về rồi hay sao? Lấy gì ra ăn đi, hàm râu của bà đã đói đến cong queo rồi đây này.”

Vợ của A Phàm Đề vừa cười vừa nói:

– “Ông nhìn khuôn mặt đẹp đẽ của ta còn chưa đủ no hay sao?”

A Phàm Đề nói:

– “Bà nói đúng lắm. Khuôn mặt trái xoan diễm lệ của bà chính là món ăn. Chỉ cần có thêm một ít mì hay bánh gì đó để ăn với món ăn này, thế là tuyệt lắm rồi.”

Bà ta đưa tay kéo tai A Phàm Đề một cái rồi nói:

– “Ta không cho ông đi ra ngoài nữa.”

Bà quay vào trong, lát sau bưng ra rất nhiều thức ăn, nào là mì, bánh, dưa, mật ong, thịt dê để đãi khách. Lý Nguyên Chỉ không hiểu hai người Hồi đó nói những gì, nhưng chỉ nhìn họ đùa giỡn cũng thấy được tình cảm thâm sâu. Trong lòng nàng nổi lên một cơn khổ sở.

Đang ăn uống thì bên ngoài bỗng có tiếng ồn ào, một đám đông kéo vào nhà. Người này một câu người kia một câu tố cáo nhau, khiếu nại với A Phàm Đề, rồi kéo ông ta ra chợ để làm trọng tài. Từ Thiên Hoằng cùng với mọi người bèn đi theo để xem náo nhiệt.

A Phàm Đề vừa giỡn vừa cười, giải quyết cho họ rất nhiều tranh chấp, không ngừng trích dẫn kinh Koran để làm bằng chứng, ai cũng hài lòng. Dư Ngư Đồng thấy ông này bụng đầy kinh sách, mở miệng là trích dẫn thao thao bất tuyệt, không sao nén nổi thán phục.

Cuối cùng, A Phàm Đề kết luận:

– “Chỉ cần theo đúng lời dạy của chân thánh A-la và tiên tri Muslim, chắc chắn giải quyết chuyện gì cũng không bị sai lầm.”

Đột nhiên phía sau có người gọi lớn:

– “Lão râu kia! Ngươi lại làm chuyện gì ngu ngốc nữa đây?”

A Phàm Đề quay đầu lại nhìn thấy Thiên trì quái hiệp Viên Sĩ Tiêu, mừng rỡ vô cùng. Hai người này một Hồi một Hán, một ở Bắc một ở Nam Thiên Sơn, làm toàn những việc cứu khổn phò nguy, hành hiệp trượng nghĩa, vì thế mà xưa nay có giao tình rất tốt.

A Phàm Đề nắm chặt cánh tay Viên Sĩ Tiêu mà nói:

– “Hà hà! Lão đã đến rồi thì mau mau đến nhà ta, vừa nhìn vợ ta vừa ăn cơm.”

Viên Sĩ Tiêu hỏi:

– “Vợ của ngươi có gì đẹp đâu?”

Nói chưa dứt câu, Từ Thiên Hoằng và Dư Ngư Đồng đã chạy tới bái kiến. Viên Sĩ Tiêu gạt đi:

– “Thôi, thôi! Ta không phải sư phụ của các ngươi, đa lễ làm gì? Gia Lạc đâu?”

Từ Thiên Hoằng đáp:

– “Tổng đà chủ đã đi trước một bước… À, thì ra hai vị lão gia cũng đã đến rồi.”

Chàng quay lại thi lễ với Thiên Sơn Song Ưng đứng sau lưng Viên Sĩ Tiêu. Thấy Quan Minh Mai đang dẫn con ngựa trắng mà Trần Gia Lạc cưỡi, họ Từ kinh hãi hỏi ngay:

– “Lão tiền bối gặp con ngựa này ở đâu vậy?”

Quan Minh Mai nói:

– “Ta từng nhìn thấy tổng đà chủ của các ngươi cưỡi con ngựa này, thấy là nhận ra ngay. Vừa rồi gặp nó chạy lung tung trong sa mạc, ba người chúng ta khó khăn lắm mới bắt được.”

Từ Thiên Hoằng lo lắng hỏi:

– “Chẳng lẽ tổng đà chủ đã gặp nguy hiểm hay sao? Chúng ta phải mau mau đi cứu.”

Mọi người lại trở về nhà A Phàm Đề, ăn no một bụng rồi tạm biệt Chu Ỷ mà đi. Vợ chồng Từ Thiên Hoằng và Chu Ỷ từ khi thành thân đến nay mới phải xa nhau, bịn rịn là chuyện dĩ nhiên. Vợ của A Phàm Đề cũng thế, thấy chồng mình vừa về nhà chút xíu đã lại đi ngay, bèn túm lấy bộ râu của ông mà la khóc om sòm.

A Phàm Đề vừa cười vừa an ủi:

– “Ta đã tìm một vị thái thái đến ở chung với bà. Cô ấy cũng đẹp đẽ như bà vậy, lại còn đang mang một đứa bé trong người, thế thì có đến hai người làm bạn với bà rồi. Cả hai người đó đều không có râu, dĩ nhiên ăn đứt lão già râu ria đầy mặt này.”

Bà vợ vẫn khóc không chịu nín, la lên:

– “Nhưng ta yêu hàm râu của ông! Ta quyết giữ bộ râu này lại!”

A Phàm Đề mỉm cười hỏi:

– “Bà quyết giữ bộ râu này lại phải không? Được!”

Ông đưa tay vặt một nắm mười mấy sợi râu, nhét vào trong tay bà vợ, rồi chạy thẳng ra ngoài cửa. Con lừa của A Phàm Đề chỉ cao bằng một con chó lớn. Ông cưỡi nó mà hai chân gần chạm đất, đứng xa mà nhìn thì giống như con lừa đó có sáu chân vậy. Viên Sĩ Tiêu hỏi:

– “Lão râu kia! Ngươi đang cưỡi giống gì vậy? Chuột hay mèo?”

A Phàm Đề hỏi lại:

– “Chuột thì làm sao có thể lớn như thế được?”

Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Vậy thì chắc là một con chuột đầu to rồi.”

Lý Nguyên Chỉ cưỡi con ngựa trắng của Lạc Băng đi đầu. Nàng buông lỏng dây cương, để nó tự tìm đường đến chỗ Trần Gia Lạc.

Con lừa của A Phàm Đề đi quá chậm, mọi người cứ đi một đoạn lại phải đứng lại chờ. Nửa ngày mà chỉ đi được ba chục dặm đường, ai cũng thấy nóng ruột. Từ Thiên Hoằng bèn nói với A Phàm Đề:

– “E rằng tổng đà chủ của bọn vãn bối đang gặp nguy hiểm. Bọn vãn bối muốn đi trước một bước.”

A Phàm Đề nói:

– “Được thôi, được thôi! Tới thị trấn phía trước, ta sẽ mua một con lừa khác giỏi hơn con lừa này. Con lừa này ngốc thật, mà lại tưởng rằng mình giỏi.”

Ông bèn thúc con lừa tiến lên một chút, đi cạnh Lý Nguyên Chỉ. Con ngựa trắng cao gấp đôi con lừa, A Phàm Đề phải ngửa cổ lên mà nói chuyện:

– “Lý cô nương! Sao lúc nào cô cũng không vui vậy?”

Lý Nguyên Chỉ thầm nghĩ:

– “Vị quái hiệp này giả bộ khờ dại, nhưng thật sự thông minh tuyệt đỉnh. Người Hồi thỉnh giáo việc khó khăn nào, ông ấy cũng lập tức giải quyết được ngay.”

Nàng bèn hỏi:

– “Đại thúc râu này, đối với loại người không biết tốt xấu, đại thúc có cách nào đối phó không?”

A Phàm Đề nói:

– “Thì ta dùng cái chảo này chụp vào đầu hắn, cô tặng thêm một kiếm.”

Lý Nguyên Chỉ lắc đầu:

– “Không được! Giả tỉ như chàng… Chàng là người… là người mà mình rất thương mến, nhưng mình đối đãi với người ta càng tốt, người ta lại càng bướng bỉnh như lừa.”

A Phàm Đề vuốt râu một cái, hình như đã hiểu. Ông mỉm cười nói:

– “Ngày nào ta cũng cưỡi lừa. Đối với tính khí của bọn lừa ngốc, ta hiểu rất rõ. Nhưng phương pháp này không thể tùy tiện dạy cho cô được.”

Lý Nguyên Chỉ xuống giọng năn nỉ:

– “Đại thúc râu! Vậy phải thế nào đại thúc mới chịu dạy?”

A Phàm Đề nói:

– “Chúng ta phải đánh cược. Nếu cô thắng, ta sẽ dạy cho cô.”

Lý Nguyên Chỉ mỉm cười nói:

– “Được! Chúng ta chạy đua nữa đi.”

A Phàm Đề lắc đầu:

– “Thôi, hãy đánh cược chuyện khác. Chạy đua thì cô thua chắc rồi.”

Ông lấy cái đuôi lừa ra, vừa cầm phe phẩy vừa nói:

– “Phen này ta không để cô gạt nữa đâu.”

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Nếu đại thúc chắc ăn thì cứ thử xem.”

A Phàm Đề nói:

– “Được! Để xem cô còn quỉ kế gì nữa không.”

Ông chỉ vào thị trấn nhỏ trước mặt, nói:

– “Ai đến được căn nhà đầu tiên là người đó thắng.”

Lý Nguyên Chỉ đáp:

– “Được! Đại thúc râu lại thua nữa rồi.”

Nàng kẹp hai đùi lại, giật cương một cái, con ngựa trắng lập tức phóng vèo như một mũi tên.

A Phàm Đề vác con lừa lên, co giò chạy theo. Nhưng con ngựa trắng này là thần mã có một không hai trên đời, chạy nhanh như điện chớp, ông không sao đuổi kịp. Con lừa chưa tới nửa đường, con ngựa trắng đã đến thị trấn rồi.

A Phàm Đề liền bỏ con lừa xuống, cười rộ lên ha hả:

– “Lại bị con bé này gạt rồi! Ta đã biết con ngựa đó chạy nhanh, nhưng không ngờ nó chạy nhanh đến thế.”

Thấy võ công của ông râu này tuyệt cao, mọi người đều kinh hãi. Vác con lừa mấy chục cân trên vai không phải là chuyện lạ, mà lạ ở chỗ khinh công của ông ta. Chỉ vì con ngựa này là thần mã, chứ loại ngựa bình thường thì chắc chắn đã bị ông đuổi kịp rồi.

Qua khỏi thị trấn chưa được bao lâu, đột nhiên con ngựa trắng hí dài một tiếng rồi nhảy dựng lên, sải vó chạy như điên. Lý Nguyên Chỉ vội ghìm cương lại, nhưng không sao quản thúc được nó. Mọi người kinh hãi tản ra, rồi vội đuổi theo.

Họ thấy con ngựa trắng chạy thẳng vào sa mạc, tới chỗ một nhóm người đột nhiên dừng lại, Lý Nguyên Chỉ xuống ngựa nói chuyện. Khoảng cách rất xa, nhóm người đó là ai thì nhìn không rõ được. Lát sau lại thấy con ngựa trắng quay đầu chạy về. Nó chạy đến giữa đường, Từ Thiên Hoằng và Dư Ngư Đồng mới nhận ra người cưỡi trên lưng ngựa là Lạc Băng, đều mừng rỡ chạy lên tiếp đón.

Phía sau Lạc Băng là Vệ Xuân Hoa, Văn Thái Lai, Chương Tấn, Tâm Nghiễn. Sau cùng là một ông lão đầu tóc bạc phơ, lưng đeo trường kiếm, nắm tay Lý Nguyên Chỉ hỏi han không ngớt, chính là lão tiền bối Miên lý châm Lục Phi Thanh. Thì ra con ngựa trắng quyến luyến chủ cũ, trong lòng đã có linh tính, từ xa ngửi thấy Lạc Băng liền chạy tới ngay.

Dư Ngư Đồng chạy tới trước mặt Lục Phi Thanh quì xuống, vừa khóc lóc thảm thiết vừa gọi:

– “Sư thúc…”

Lục Phi Thanh vội đưa tay đỡ chàng dậy. Ông cũng không kìm nổi nước mắt, nghẹn ngào nói:

– “Ta biết chuyện sư phụ của ngươi rồi… Vừa nhận được tin là ta không kể ngày đêm tìm đến đây… Giữa đường gặp nhóm Văn tứ gia, họ cũng đang truy lùng tên gian tặc đó. Ngươi yên tâm đi, chúng ta nhất định sẽ trả thù cho sư phụ của ngươi.”

Hai bên gặp nhau chào hỏi. Văn Thái Lai cùng với mọi người nghe chuyện, đều lo lắng cho Trần Gia Lạc.

Mọi người ghé vào thị trấn để ăn cơm. A Phàm Đề đi mua một con lừa khác, Lý Nguyên Chỉ lén lút đi theo. A Phàm Đề mặc kệ nàng, cứ đi chọn một con lừa to lớn, cao gấp đôi con lừa cụt đuôi. Ông để rẻ con lừa cụt đuôi cho người bán lừa, rồi mỉm cười nói:

– “Cái mũ quan này làm hư hỏng con lừa ngốc, ta không cho con vật nào đội nữa.”

Ông bèn liệng cái mũ quan đó xuống đất, đạp cho nát bét. Đợi ông thanh toán tiền xong, Lý Nguyên Chỉ bước tới dẫn hộ con lừa. Nàng mỉm cười, im lặng đi song song bên ông một đoạn.

A Phàm Đề lên tiếng:

– “Trước kia ta có nuôi một con lừa tính khí kỳ cục. Hễ ta kêu nó đi thì nó đứng, hễ ta muốn nó đứng thì nó lại đi. Có lần ta bắt nó vào nhà để kéo cối xay, nó chỉ đi mấy chục bước là dừng lại, nói sao thì nói cũng không chịu kéo tiếp. Càng lôi nó tới, nó càng lùi lại. Dụ dỗ thế nào, nó cũng không chịu. Đánh đòn, nó cũng không chịu. Kêu nó bằng gia gia bằng phu nhân gì gì, nó cũng không chịu. Cô biết rồi sao nữa không?”

Lý Nguyên Chỉ biết ông ta đang kể ngụ ngôn để dạy dỗ mình, chú ý lắng nghe, không dám mỉm cười. Nghe hỏi vậy, nàng đáp:

– “Lão nhân gia…”

A Phàm Đề phá lên cười, cắt lời ngay:

– “Hay lắm! Cô nương này muốn có chú rể quá rồi, cái gì cũng nhường nhịn mấy phần. Lúc nãy cô kêu ta là Đại thúc râu, bây giờ lại kêu là Lão nhân gia.”

Lý Nguyên Chỉ đỏ mặt lên cãi bướng:

– “Vãn bối đâu có gọi đại thúc là lão nhân gia, vãn bối đang kêu đại thúc gọi con lừa bằng lão nhân gia đấy chứ!”

A Phàm Đề nói:

– “Được rồi, thế thì thôi vậy. Sau này ta suy nghĩ một chút là xong. Ta thắng con lừa ngốc đó ngược đầu lại, cối quay về hướng đông thì ta để lửa quay mặt về hướng tây. Sau đó ta giả vờ đuổi nó đi, để nó cứ lùi từng bước. Nó bước lùi mấy trăm vòng là ta xong việc.”

Lý Nguyên Chỉ lẩm bẩm:

– “Bắt nó đi về hướng đông thì nó lại bướng bỉnh đi về hướng tây… Thế thì ta giả vờ bắt nó đi về hướng tây…”

A Phàm Đề giơ ngón tay cái lên nói:

– “Hay lắm, đúng là như thế! Sau đó ta còn nghĩ ra một cách nữa. Ta dùng ngọn roi treo một cái củ cải ở trước mõm con lừa ngốc đó. Nó rất thích ăn củ cải, nên không ngừng đi về phía trước. Đi được mấy chục dặm đường, đến nơi mình cần, ta mới cho nó ăn củ cải thật sự.”

Lý Nguyên Chỉ lập tức tỉnh ngộ, bèn nói:

– “Đa tạ lão nhân gia chỉ dạy.”

A Phàm Đề bảo:

– “Bây giờ cô đi tìm củ cải đi.”

Lý Nguyên Chỉ suy nghĩ:

– “Dư sư ca mong muốn nhất là cái gì? Lúc nãy chàng vừa gặp sư phụ đã khóc lóc thảm thương. Thế thì đối với chàng, quan trọng nhất là giết Trương Triệu Trọng để trả thù cho Mã sư bá. Ta phải tìm cách đi giết Trương Triệu Trọng mới được. Nhưng tên họ Trương võ công cao cường như thế, mình làm sao giết nổi? Dù giết được hắn thì chàng cũng chỉ đa tạ mình là xong, không như con lừa chạy theo củ cải, đuổi không thể kịp mà cứ đuổi không ngừng.”

Nàng lại nghĩ:

– “Hồi nhỏ thấy con cái bọn gia nhân chơi búp bê bằng đất, ta cứ khóc lóc đòi, chúng càng không chịu thì ta càng đòi dữ. Đại thúc râu nói đúng thật. Mình càng đối xử tốt với chàng, chàng lại càng tránh né mình. Từ nay về sau ta cứ lãnh đạm với chàng, đợi chàng thấy cần rồi mình sẽ cho chàng nếm thử mùi vị cầu xin người khác. Để bài trừ hết tính khí bướng bỉnh của con lừa ngốc, thì biện pháp của đại thúc râu là hay nhất.”

Đã định chủ ý như vậy, bắt đầu từ lúc đó Lý Nguyên Chỉ không đếm xỉa gì đến Dư Ngư Đồng nữa. Lạc Băng và Từ Thiên Hoằng thấy vậy đều kinh ngạc không hiểu, chỉ có A Phàm Đề là vuốt bộ râu ria rậm rạp mà cười mỉm.

Con lừa mới của A Phàm Đề đi nhanh gấp mấy lần con lừa cụt đuôi. Đoàn người cứ theo con ngựa trắng mà vượt qua bãi cát vàng, đến trước ngọn Bạch Ngọc Phong. Dường như con ngựa trắng vẫn còn sợ hãi bầy sói, nên khi đến đường rẽ vào cổ thành là nó dừng lại không chịu đi nữa. Lạc Băng vỗ về thế nào, nó cũng không chịu tiến thêm.

Viên Sĩ Tiêu nhìn quanh rồi nói:

– “Rất nhiều sói đã tụ lại ở đây. Chúng ta cứ theo đường có phân sói mà tìm vào trong.”

Mọi người thấy phân sói rất nhiều, nghĩ đến chuyện an nguy của Trần Gia Lạc đều ruột nóng như lửa đốt. Lạc Băng để ngựa trắng ở ngoài, cưỡi chung ngựa với Văn Thái Lai.

Đi quanh co hơn nửa ngày, đột nhiên nghe tiếng bước chân, từ một con đường rẽ có bốn người tiến ra, người đi đầu chính là Trương Triệu Trọng. Từ Thiên Hoằng huýt một tiếng sáo, lập tức cùng Vệ Xuân Hoa, Chương Tấn, Tâm Nghiễn chạy vòng ra phía sau lưng bốn người đó.

Trương Triệu Trọng chạm mặt quần hùng đã không khỏi kinh hãi, khi nhìn thấy sư huynh của mình là Lục Phi Thanh thì lập tức sắc mặt tái mét, mồ hôi trán chảy đầm đìa. Dư Ngư Đồng vung cây kim địch toan phóng lên để liều mạng. Nhưng Viên Sĩ Tiêu nắm lấy cánh tay chàng kéo nhẹ, Dư Ngư Đồng không tự chủ được phải lùi ra.

Viên Sĩ Tiêu chỉ vào mặt Trương Triệu Trọng mà thóa mạ:

– “Mấy hôm trước gặp ngươi, ta coi ngươi là cao thủ của phái Võ Đang. Nào ngờ ngươi là một tên giặc không có điều gì ác mà không làm, dám giết cả sư huynh. Mau mau bước ra đây, tự kết liễu cho xong đi.”

Trương Triệu Trọng thấy bên đối phương ít nhất có năm người bản lãnh ngang mình, lại có người hơn hẳn mình, nếu dùng võ lực thì chắc chắn không thể thắng. Hắn bèn nói:

– “Bên ta chỉ có bốn người. Các ngươi ỷ nhiều để thắng, Trương mỗ dù chết cũng không phục.”

Viên Sĩ Tiêu nổi giận đã toan một mình xông lên, nhưng nghĩ lại:

– “Ba tên kia chống chọi được với bầy sói, có thể gọi là cao thủ rồi. Nếu bốn người bọn chúng liên thủ, một mình ta không đối phó được. Phải gọi lão râu giúp một tay mới xong.”

Ông bèn “hừ” một tiếng rồi nói:

– “Ta muốn giết loại ác đồ như ngươi thì không cần ỷ nhiều để thắng. Bọn ngươi xông lên cả đi, ta và lão râu này tiếp chiêu. Giả tỉ bốn người bọn ngươi không bại dưới tay hai người chúng ta, ta sẽ thả cho bọn ngươi đi.”

Trương Triệu Trọng chăm chú nhìn A Phàm Đề, thấy ông này đen thui, râu ria mọc lấp hết khuôn mặt, khi mỉm cười thì cặp mắt chỉ còn hai sợi chỉ, trông chẳng giống cao nhân mình đầy tuyệt kỹ chút nào. Hắn nghĩ:

– “Võ công của lão họ Viên thì đúng là kinh người, nhưng chẳng lẽ tên Hồi râu ria này cũng lợi hại hay sao? Chỉ cần Quan Đông tam ma cử một người giúp ta, ta đã có thể đánh ngang tay với lão họ Viên rồi. Còn hai người cầm cự với tên râu đó, chắc là cũng được. Hoàn cảnh thế này, ta không nên để bọn chúng dị nghị thêm người.”

Họ Trương bèn nói:

– “Thế thì chúng ta cứ thử một phen. Xin Viên đại hiệp hạ thủ lưu tình.”

Viên Sĩ Tiêu giận dữ quát lên:

– “Ta không lưu tình đâu!”

Ông quay lại bảo A Phàm Đề đang ngồi trên lưng lừa:

– “Lão râu! Trước mặt nhiều bằng hữu mới quen thế này, hai huynh đệ ta đừng để xấu mặt nhé.”

A Phàm Đề gật đầu đáp:

– “Đúng là như thế, nhưng ta vốn quê mùa, mỗi khi gặp phải đại quan là có phần khiếp sợ. Không hiểu có đánh được không.”

Nhoáng lên một cái, không ai thấy chân ông nhúc nhích, nhưng ông đã đứng dưới đất rồi. Trương Triệu Trọng thấy thân pháp này, đoán ra đây chính là người đã giật lấy mũ của hắn ở bên phần mộ. Bất giác hắn kinh tâm động phách.

Viên Sĩ Tiêu la lên:

– “Các ngươi xông lên đi! Chú tâm mà đánh, đừng có tính chuyện chạy trốn. Ta không cho phép các ngươi chạy đâu.”

Kha Hợp Đài bước lên một bước, nói với Viên Sĩ Tiêu:

– “Viên đại hiệp có đại ân cứu mạng, ba huynh đệ tại hạ nhất định không dám tiếp cao chiêu. Hơn nữa, bọn tại hạ cùng người họ Trương này mới lần đầu gặp nhau, hoàn toàn chưa có giao tình, không nhất định phải giúp ông ấy.”

Thấy hành vi của Trương Triệu Trọng vô cùng đê tiện, từ lâu Kha Hợp Đài đã có ý coi thường hắn. Nhưng lúc này đối phương quá đông người, nếu y nói huỵch toẹt ra thì không khỏi mang tiếng khiếp nhược trốn tránh, nên chỉ nói đến đấy rồi dừng. Tam ma đứng thành một dãy phía sau, rõ ràng muốn đứng ngoài chuyện này.

Viên Sĩ Tiêu chau mày rồi nói:

– “Họ không chịu ra tay, còn một mình ngươi thì phải làm sao đây? Hồi ba mươi tuổi, ta từng thề nặng trước mặt tổ sư là không đánh tay đôi với một người nào nữa.”

Nói xong, ông liếc nhìn Thiên Sơn Song Ưng một cái. Thì ra năm đó ông sợ lửa ghen nổi lên, trong lúc điên cuồng lỡ tay giết chết Trần Chính Đức, nên lập lời trọng thệ đó để tự kiềm chế bản thân mình.

Ông bèn quay lại bảo:

– “Lão râu kia! Bây giờ chỉ còn việc của ngươi thôi.”

A Phàm Đề cởi cái chảo trên lưng xuống, mỉm cười nói:

– “Được rồi, được rồi, được rồi!”

Bỗng “vù” một tiếng, cái chảo đã chụp lên đầu Trương Triệu Trọng. Họ Trương vội tránh qua bên trái, tập trung tinh thần để xem địch thủ sử dụng loại binh khí gì. Hắn thấy đó là một miếng sắt đen thui, tròn vo, mặt lồi mặt lõm, mặt lồi thì dính đầy muội than, y như một cái chảo sắt.

A Phàm Đề cười nói:

– “Chắc chắn ngươi đang thắc mắc đây là thứ gì mà giống cái chảo quá. Nói cho ngươi biết, nó đúng là một cái chảo. Bọn quân Thanh các ngươi vô duyên vô cớ đến Hồi Cương, đập bể biết bao nhiêu là chảo, khiến cho người Hồi chúng ta không nấu được cơm ăn. Bây giờ ta phải cho cái chảo này báo thủ quân Thanh.”

Ông vừa nói vừa tung chảo ra chụp lên đầu Trương Triệu Trọng. Họ Trương dùng chiêu Tiên Hạc Lượng Xí cúi xuống đất, né sang một bên, trở ngược tay lại xuất chưởng phản công. A Phàm Đề hơi nghiêng người để tránh, đưa tay trái xoa vào đáy chảo cho dính đầy muội than.

Từ khi đặt chân vào chốn giang hồ cho đến bây giờ, Trương Triệu Trọng đã trải qua hơn trăm trận chiến, nhưng chưa bao giờ gặp đối thủ quái lạ như thế. Lão râu một tay cầm chảo, tay kia bôi đầy muội khói, bước chân xiên vẹo không thành chương pháp gì cả, nhưng mỗi khi xuất chiêu tấn công lại hung hãn vô cùng. Những chiêu thức họ Trương tấn công đều bị ông tránh né dễ dàng, nên hắn không dám sơ ý chút nào, lập tức thi triển Vô Cực Huyền Công Quyền, bảo nguyên quy nhất hộ vệ toàn thân, không hề để lộ sơ hở.

Đoạn đường này đã chật hẹp lại còn đá mọc lởm chởm. Hai đại cao thủ tỉ đấu ở nơi hiểm trở, mỗi chiêu tấn công phòng thủ đều kịch liệt phi thường.

Viên Sĩ Tiêu lên tiếng than thở:

– “Gian tặc ơi là gian tặc! Công phu của ngươi không phải dễ dàng mà có được. Nếu không biết tâm địa ngươi gian trá ác độc như thế, chắc lão già này không nhịn nổi mà phải thương xót ngươi.”

Dư Ngư Đồng vội la lên:

– “Không được! Lão gia, tuyệt đối không được!”

Tâm Nghiễn hỏi Vệ Xuân Hoa:

– “Cửu ca! Ông râu này sử dụng võ công gì thế?”

Vệ Xuân Hoa lắc đầu. Thiên Sơn Song Ưng, Lục Phi Thanh, Văn Thái Lai và quần hùng đều không biết gia số võ công của A Phàm Đề, chỉ ngẩn ra mà nhìn.

Đột nhiên A Phàm Đề phóng chân trái đá tới, cái chảo quạt ngang ra. Trương Triệu Trọng không còn chỗ nào tránh né, phải vội vàng ngồi thụp xuống. Nào ngờ A Phàm Đề đã đưa tả chưởng ra đợi ngay dưới chảo, họ Trương giật mình không kịp tránh né liền đưa tả quyền ra chiêu Xung Thiên Pháo đánh từ dưới đáy chảo lên.

A Phàm Đề la lên:

– “Cái này để nấu cơm, ngươi không được đánh vỡ.”

Ông nhấc cái chảo cao lên, tiện tay vuốt lên mặt Trương Triệu Trọng một cái. Trên mặt của Hỏa Thủ Phán Quan lâp tức có năm đường muội than.

Hai đối thủ đều nhảy ra một bước. A Phàm Đề la lên:

– “Đến đây! Thắng bại chưa quyết, ta đấu thêm một trận nữa.”

Trương Triệu Trọng không nói gì, trợn mắt lên nhìn cái chảo trong tay địch thủ.

A Phàm Đề nói:

– “À, ngươi không mang binh khí, chắc thua cũng không chịu phục.”

Ông quay lại bảo Lý Nguyên Chỉ:

– “Đại cô nương! Cô cho cái củ cải này mượn con dao xắt bí một lát đi.”

Trong lúc hai người đánh nhau, Lý Nguyên Chỉ đứng gần nhất, chỉ đợi Trương Triệu Trọng bị cái chảo chụp xuống đầu là nhảy vào tặng thêm một kiếm. Đột nhiên nàng bị vị quái hiệp này nói ra tâm sự, bất giác đỏ mặt lên.

Trước nay A Phàm Đề vẫn nói chuyện rất hoạt kê. Mọi người đứng bên nghe ông gọi Trương Triệu Trọng là “cái củ cải”, không ai thấy ý nghĩa gì, nào ngờ trong đó lại có cả một thiên tình sử.

Thấy Lý Nguyên Chỉ không nhúc nhích, A Phàm Đề hạ giọng bảo nàng:

– “Cô đưa con dao xắt bí cho hắn đi, ta vẫn bắt được hắn thôi.”

Lý Nguyên Chỉ gật đầu, vừa ném thanh trường kiếm ra vừa hô lớn:

– “Kiếm đây, đón lấy!”

Trương Triệu Trọng đưa tay phải lên bắt lấy chuôi kiếm. Đột nhiên hắn xoay người lại, tay trái vung ra, một nhúm Phù Dung Kim Châm bay về phía nhóm Từ Thiên Hoằng, Vệ Xuân Hoa đang đứng cản đường. Từ Thiên Hoằng và mọi người biết mùi lợi hại vội nhào người rạp xuống, nghe tiếng gió rít qua đỉnh đầu.

Trương Triệu Trọng thừa cơ lướt qua người họ, xông đến chỗ Kha Hợp Đài, đưa tay trái ra nắm lấy cổ tay phải của họ Kha, la lớn:

– “Chạy nhanh lên!”

Kha Hợp Đài nhất thời không tự chủ được, bị hắn kéo chạy vào trong Mê Thành. Tất Nhất Lôi và Cố Kim Tiêu không kịp suy nghĩ gì, lập tức chạy theo.

Biến diễn xảy ra quá đột ngột. Khi Từ Thiên Hoằng và mọi người đứng dậy thì bốn người bọn chúng đã khuất sau một khúc quanh đồi. Viên Sĩ Tiêu và A Phàm Đề rất giận dữ, cùng tung người lên như hai con chim khổng lồ bay vọt qua đầu bọn Từ Thiên Hoằng.

Thân pháp của Thiên Trì Quái Hiệp cực nhanh, người chưa chạm đất đã túm được gáy Tất Nhất Lôi, nhấc bổng thân thể mập mạp của hắn lên. Tất Nhất Lôi không biết người bắt mình là ai, chỉ cảm thấy mình lơ lửng trên không. Hắn không có chỗ tựa để vận kinh, đành vẫy độc cước đồng nhân đánh bừa ra sau. Đột nhiên hắn cảm thấy mình bị một luồng lực đạo rất mạnh quẳng đi, rồi đập đầu vào vách núi nghe “bốp” một tiếng, óc não văng ra mà chết.

Viên Sĩ Tiêu ném chết Tất Nhất Lôi mà chân vẫn không dừng. Ông chạy qua một khúc quanh, thấy phía trước là ba con đường rẽ, không biết Trương Triệu Trọng đã chạy theo đường nào. Ông chỉ đường bên phải, la lên:

– “Lão râu! Ngươi đuổi bên này.”

Ông lại chỉ đường bên trái, bảo Thiên Sơn Song Ưng:

– “Hai vị đuổi bên này.”

Bản thân ông thì theo đường ở giữa mà truy đuổi tiếp.

Chỉ trong khoảnh khắc, bốn người đều quay về tay không. Họ nói là phía trước lại xuất hiện rất nhiều đường rẽ, không biết đâu mà đuổi nữa. Từ Thiên Hoằng xem xét mặt đường tỉ mỉ rồi nói:

– “Bãi phân sói này mới bị người ta đạp trúng. Nhất định là chúng theo con đường có phân mà chạy vào trong.”

Viên Sĩ Tiêu la lên:

– “Không sai! Mau mau đuổi theo!”

Mọi người theo dấu phân sói vào trong, đuổi mãi đến Bạch Ngọc Phong vẫn chưa thấy bóng dáng của bọn Trương Triệu Trọng. Quần hùng chia nhau tìm kiếm trong những gian nhà, chẳng bao lâu thì Vệ Xuân Hoa phát hiện cửa động trên vách núi.

Viên Sĩ Tiêu và Trần Chính Đức tung người nhảy lên trước, tiếp đến là Lục Phi Thanh, Văn Thái Lai và Quan Minh Mai. Còn những người khác khinh công kém hơn thì Lục Phi Thanh và Văn Thái Lai thòng dây xuống kéo lên. Cuối cùng còn lại Tâm Nghiễn, A Phàm Đề bỗng mỉm cười nói:

– “Tiểu huynh đệ! Để ta xem thử gan của ngươi có to hay không.”

Ông dùng một tay nắm chặt lấy lưng cậu bé, vừa hét lên “Đón lấy!” vừa ném cậu lên cửa động. Văn Thái Lai đưa tay ra chụp được, A Phàm Đề nhảy lên sau. Lúc đó Viên Sĩ Tiêu đã đẩy cánh cửa đá mở ra.

Cánh cửa đó mở về phía trong. Nếu bên ngoài bị người khác móc lại, thì bên trong dù có thiên quân vạn mã cũng không thể xông ra được; nhưng từ ngoài muốn vào trong lại rất dễ dàng. Năm xưa, khi tên bạo chúa xây dựng tòa ngọc cung trong lòng núi, có lẽ hắn đã tính rằng đường vào Mê Thành rắc rối, ngàn ngã rẽ vạn khúc quanh, ngoại địch khó mà xâm nhập, đáng lo nhất là nội bộ có người làm phản. Vì thế hắn mới thiết kế cánh cửa đá này như thế để nhốt quân phản loạn hết đường trốn thoát.

Viên Sĩ Tiêu vội vàng tiến vào đường hầm, quần hùng nối đuôi theo sau. Từ Thiên Hoằng bẻ gãy nhiều chân ghế chân bàn, đốt lên làm đuốc chia cho mọi người cầm. Lúc vào đại điện, binh khí của mọi người đều bị từ thạch hút mất, không khỏi kinh hãi một phen. May mà A Phàm Đề tay chân nhanh nhẹn, kịp chụp lại cái chảo nên nó mới không rơi vỡ. Mọi người thấy lúc này quan trọng nhất là tìm ra địch thủ, nên không kịp nghiên cứu tỉ mỉ nguyên nhân, chỉ lập tức nhặt lại binh khí, nắm thật chặt mà đi thẳng vào trong ngọc thất.

Khi thấy giữa mặt giường lại có đường hầm, quần hùng lại càng kinh ngạc. Ở trong lòng núi như thế này, không ai dám lên tiếng, chỉ theo Viên Sĩ Tiêu mà đi thật nhanh. Đột nhiên trước mặt sáng bừng lên, rồi họ thấy sáu người đứng bên một cái hồ nước màu xanh bích.

Xa xa vẫn có thể nhận ra, ở bên kia hồ là Trần Gia Lạc, Hoắc Thanh Đồng và Hương Hương công chúa. Còn bên này là Trương Triệu Trọng, Cố Kim Tiêu và Kha Hợp Đài. Mọi người đều mừng rỡ, Tâm Nghiễn la gọi:

– “Thiếu gia, thiếu gia! Bọn thuộc hạ đến đây cả rồi!”

Văn Thái Lai cùng với quần hùng vội vàng chạy tới gặp mặt. Quan Minh Mai vừa chạy vừa hỏi lớn:

– “Đồ nhi! Ngươi… ngươi làm sao rồi?”

Hoắc Thanh Đồng kêu lên trả lời:

– “Sư phụ, sư công! Đồ nhi vẫn khỏe. Sư phụ, sư công mau mau giết tên gian tặc này đi.”

Nói xong, nàng chỉ mặt Cố Kim Tiêu.

Lần trước Trần Chính Đức dùng tay không đánh nhau với tam ma, suýt bị lỗ vốn. Phen này ông không dám coi thường nữa, rút trường kiếm ra đâm tới Cố Kim Tiêu. Họ Cố đã vào đây hai lần, lúc qua đại điện đã nhặt lại binh khí, lập tức vung cây Hổ xoa lên tiếp chiêu. Bên này thì Quan Minh Mai giao đấu với Kha Hợp Đài.

Quần hùng đều cầm binh khí từ từ tiến lại bao vây, canh chừng Trương Triệu Trọng. Họ Trương đang cầm thanh kiếm của Lý Nguyên Chỉ cho mượn. Lục Phi Thanh thấy đồ đệ tay không, bèn đưa nàng thanh Ngưng Bích Kiếm đoạt từ tay Trương Triệu Trọng trên Sư Tử Phong ở Hàng Châu.

Cố Kim Tiêu và Kha Hợp Đài đã rơi vào chỗ cùng đường, phải liên tiếp liều mạng mới gắng gượng chịu nổi mười mấy chiêu. Tam Phân kiếm thuật của Song Ưng càng lúc càng vây bủa chặt hơn, nhị ma chỉ biết chống đỡ mà thôi. Trong màn kiếm quang trắng xóa bỗng nghe Trần Chính Đức quát lên một tiếng, ngực áo Cố Kim Tiêu nhuộm đỏ màu máu. Họ Trần lại bồi thêm một kiếm đâm vào hạ bàn, Cố Kim Tiêu gượng nhảy sang bên tránh né. Trần Chính Đức bèn phóng chân ra đá. “Ùm” một tiếng, Cố Kim Tiêu lọt xuống hồ phỉ thúy làm nước bắn tứ tung, máu tươi loang khắp mặt hồ.

Bên kia Kha Hợp Đài cũng bị kiếm quang của Quan Minh Mai vây bọc. Dư Ngư Đồng chợt nghĩ đến mấy lần Kha Hợp Đài cứu mạng mình. Chàng biết sư thúc và Song Ưng có giao tình nồng hậu, bèn lên tiếng:

– “Sư thúc! Người này không đến nỗi đồi bại. Sư thúc cứu y một lần đi.”

Lục Phi Thanh gật đầu.

Quan Minh Mai đâm một kiếm ở trên, một kiếm ở dưới, bên trái một chiêu, bên phải một chiêu. Kha Hợp Đài mồ hôi đầy đầu, mặt tái nhợt, không ngừng lùi bước. Lục Phi Thanh tung người nhảy ra, đưa thanh Bạch Long Kiếm đỡ trường kiếm của Quan Minh Mai nghe “keng” một tiếng. Ông la lên:

– “Trần đại tẩu! Con người này chưa phải là hư hỏng lắm, tha cho hắn đi.”

Nghe Lục Phi Thanh lên tiếng, Quan Minh Mai nể mặt ông lập tức thu kiếm lại.

Lục Phi Thanh quay lại nhìn, thấy Kha Hợp Đài đứng thở hổn hển, vì dùng sức quá độ nên thân mình run rẩy không ngớt. Ông bèn quát lên:

– “Mau tạ ơn tha mạng của Quan đại hiệp đi!”

Kha Hợp Đài thầm nghĩ:

– “Đại trượng phu mà phải tạ ơn người ta tha mạng thì còn sống làm chi nữa?”

Y quát trả:

– “Ta cần gì bà tha mạng?”, rồi lại phóng lên chém giết.

Đột nhiên nghe tiếng nước róc rách, Cố Kim Tiêu từ dưới mặt hồ ngoi lên, từ từ bơi đến bờ hồ. Kha Hợp Đài vội quẳng đao xuống đất, tay không chạy tới để kéo hắn lên. Cố Kim Tiêu bị thương rất nặng, lại uống thêm một bụng nước, khốn đốn vô cùng. Kha Hợp Đài không ngừng xoa xoa trước ngực hắn, mặc kệ mọi người đang đứng kế bên.

Hoắc Thanh Đồng chạy tới, la lên một tiếng:

– “Đồ gian tặc!”

Nàng đưa kiếm chém xuống ngực Cố Kim Tiêu.

Trong lúc cấp bách, Kha Hợp Đài liều đưa cánh tay ra cản trở. Kiếm của Hoắc Thanh Đồng vẫn chém xuống, rõ ràng sắp chặt đứt cánh tay của y. May mà Viên Sĩ Tiêu nghĩ đến y có công dụ bầy sói vào bẫy, bèn nhặt một viên sỏi nhỏ ném tới. “Keng” một tiếng, cánh tay Hoắc Thanh Đồng tê rần, buông trường kiếm rơi xuống đất. Nàng ngẩn ra một chút, rồi nghe Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Để lo liệu tên gian tặc họ Trương kia trước đã. Hai tên này không trốn được đâu.”

Trương Triệu Trọng bị quần hùng vây chặt, đứng yên mà nhìn nhị ma ác chiến rồi bị bắt ngay tại trận. Hắn bị Văn Thái Lai, A Phàm Đề, Trần Gia Lạc, Lục Phi Thanh giám thị cẩn mật xung quanh, tuyệt không còn cơ hội thoát thân, chỉ biết lắc đầu thở dài.

Hắn đang định buông kiếm để chịu tội cho xong, đột nhiên sau lưng Lục Phi Thanh có một người nhảy ra, chính là Lý Nguyên Chỉ. Nàng xách trường kiếm xông tới quát tháo:

– “Đồ gian tặc!”

Mọi người còn đang ngơ ngác, nàng đã nhảy tới trước mặt Trương Triệu Trọng, nói rất nhỏ:

– “Ta cứu ông!” rồi phóng kiếm đâm veo véo mấy chiêu. Trương Triệu Trọng không hiểu nàng có dụng ý gì, phải đảo người tránh né. Đột nhiên Lý Nguyên Chỉ vờ bị mất đà ngã về phía trước, thì thầm:

– “Bắt ta đi!”

Trương Triệu Trọng hiểu ngay, vừa đưa kiếm gạt thanh kiếm của nàng ra, vừa vung tay trái túm chặt cổ tay nàng. “Keng” một tiếng, hắn thấy trường kiếm của mình bị gãy, chưa kịp ngạc nhiên thì đã thấy cô gái này đang cầm thanh Ngưng Bích Kiếm của mình. Họ Trương lập tức hoan hỉ vô cùng.

Văn Thái Lai, Dư Ngư Đồng, Vệ Xuân Hoa, Trần Chính Đức đồng thời chạy lên để cứu người. Trương Triệu Trọng giật lấy Ngưng Bích Kiếm khua một vòng tròn, kim địch và song câu vừa chạm tới đã bị chặt đứt ngay. Văn Thái Lai và Trần Chính Đức phải vội vã thu chiêu, binh khí mới còn nguyên vẹn.

Trương Triệu Trọng kề bảo kiếm vào hậu tâm của Lý Nguyên Chỉ, hét lên:

– “Tránh ra!”

Biến diễn thật sự bất ngờ. Ai cũng thấy tên gian tặc sắp sửa bị trói, nào ngờ Lý Nguyên Chỉ nhỏ tuổi chẳng hiểu biết gì, vì tham công mà bị hắn bắt làm bùa hộ mạng.

Lý Nguyên Chỉ giả vờ nhũn người ra, tựa vào vai Trương Triệu Trọng, ra vẻ bị điểm huyệt không động đậy được. Thấy mọi người đứng ngẩn ra không dám tấn công, họ Trương bèn nghĩ cách chạy trốn. Lý Nguyên Chỉ khẽ nói vào tai hắn:

– “Trở vào lòng núi!”

Hắn suy nghĩ một chút, thấy có lý liền cất bước đi về hướng đường hầm.

Viên Sĩ Tiêu và Trần Chính Đức giận dữ vô cùng. Một người nhặt một viên đá, một người lấy ra ba hạt Thiết bồ đề ném tới lưng Trương Triệu Trọng. Hắn cúi rạp người xuống tránh ám khí, nhưng chân không dừng bước, cứ chạy vào trong đường hầm. Bỗng nghe Lý Nguyên Chỉ la lên một tiếng:

– “Úi chà!”

Lục Phi Thanh kinh hãi hô lớn:

– “Mọi người đừng nhắm mắt làm bừa. Chúng ta phải tìm cách khác.”

Ông sợ Trương Triệu Trọng bí quá hóa liều, dùng đồ đệ của mình làm lá chắn. Mọi người bèn đuổi theo Trương Triệu Trọng, vào trong đường hầm.

Chỉ có Hoắc Thanh Đồng tay cầm trường kiếm giận dữ đứng nhìn Cố Kim Tiêu, Kha Hợp Đài lo buộc vết thương trước ngực cho người anh kết nghĩa, hai người này hình như không nghe không thấy những chuyện vừa xảy ra. Trần Gia Lạc sợ Hoắc Thanh Đồng một mình ở lại có gì sơ suất, khi đến cửa đường hầm bèn dừng chân bảo Hương Hương công chúa:

– “Chúng ta ở đây với Thanh Đồng đi.”

Trương Triệu Trọng kéo Lý Nguyên Chỉ gấp rút chạy về phía trước. Mọi người không dám đuổi sát quá, mà đường hầm này lại rất nhiều chỗ ngoắt ngoéo, không thể phóng ám khí được. Sắp hết con đường hầm, thấy Trương Triệu Trọng đang băng qua cánh cửa đá, Viên Sĩ Tiêu tức quá bèn nhún người một cái, xông lên toan tấn công hắn. Trong bóng tối ông bỗng nghe tiếng vi vu, vội nép mình vào vách đá mà gọi:

– “Lão râu! Chảo đâu?”

A Phàm Đề bước lên hai bước, xoay chảo ra đỡ. Nghe một loạt những tiếng “keng keng” nho nhỏ, trong chảo đã có thêm mấy chục mũi Phù Dung Kim Châm. A Phàm Đề bèn la lên:

– “Mấy cái kim này đâu có xào ăn được?”

Thế là chậm mất một bước. Trương Triệu Trọng và Lý Nguyên Chỉ đã chạy qua khỏi cửa đá, hai người hợp sức kéo cánh cửa đóng lại. Viên Sĩ Tiêu và Trần Chính Đức xông tới định mở cửa, nhưng bên trong cánh cửa đá hoàn toàn không có chỗ nào bám được. Hai người cùng nổi nóng, chỉ biết ngoác mồm ra mà thóa mạ.

Trương Triệu Trọng lấy cây búa vàng cắm lại vào khoen sắt, thở ra một hơi dài rồi nói với Lý Nguyên Chỉ:

– “Đa tạ Lý tiểu thư cứu mạng.”

Lý Nguyên Chỉ mỉm cười nói:

– “Phụ thân của tiểu điệt và Trương sư thúc đều là mệnh quan của triều đình, dĩ nhiên tiểu điệt phải cứu sư thúc.”

Trương Triệu Trọng hỏi:

– “Lý tướng quân gần đây có khỏe không? Thái phu nhân vẫn bình an đấy chứ?”

Hắn chắp tay để thỉnh an, dùng lễ nghi kiểu quan trường.

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Tiểu điệt không dám nhận lễ của sư thúc. Chúng ta mau mau tìm cách trốn đi. Nhất định sư phụ đã nhìn ra tiểu điệt cứu sư thúc, nếu để ông ấy đuổi kịp thì chúng ta mất mạng.”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Tặc đảng đông người, ta phải mau mau quay về nội địa, gọi thêm người giúp rồi trở lại mà bắt chúng.”

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Nhất định họ sẽ trở về cái hồ đó, tìm đường khác thoát ra mà đuổi. Trương sư thúc, chúng ta nên tìm cách khác. Trên sa mạc trơ trụi này, không dễ dàng chạy thoát đâu.”

Trương Triệu Trọng võ công tuyệt cao, tâm địa gian xảo, nhưng mưu trí chỉ vào hạng bình thường. Hắn chau mày ngẫm nghĩ, nhất thời không nghĩ ra được cách nào. Lý Nguyên Chỉ ra vẻ lo lắng khác thường, nằm phục trên một tảng đá mà khóc lóc.

Trương Triệu Trọng vội tới an ủi:

– “Lý tiểu thư đừng sợ, chúng ta nhất định sẽ chạy thoát.”

Lý Nguyên Chỉ vẫn khóc:

– “Dù chạy được khỏi Mê Thành, nhưng chỉ một hai ngày cũng bị đuổi kịp thôi. Má má ơi… hu hu… má má ơi…”

Trương Triệu Trọng bị tiếng khóc làm loạn cả tâm trí, đứng xoa tay mãi chẳng suy nghĩ gì được. Lý Nguyên Chỉ đột nhiên ngưng khóc, hỏi hắn:

– “Hồi nhỏ sư thúc có chơi trò cút bắt không?”

Trương Triệu Trọng mồ côi cha mẹ từ nhỏ, mới năm tuổi đã được sư phụ nhận về nuôi dưỡng và dạy cho võ nghệ. Mã Chân và Lục Phi Thanh đều lớn tuổi hơn hắn nhiều, nên những trò chơi trẻ nít hắn chưa từng chơi bao giờ. Mặt hắn lộ vẻ mơ hồ, lắc đầu một cái.

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Bây giờ chúng ta cứ trốn trong Mê Thành. Nhất định họ không tìm được, tưởng chúng ta đã chạy ra ngoài nên cố gắng đuổi theo. Chúng ta đợi ba bốn ngày rồi sẽ từ từ mà ra.”

Trương Triệu Trọng giơ ngón tay cái lên nói:

– “Lý tiểu thư thông minh thật. Nhưng chúng ta không mang theo lương thực, ba bốn ngày thì…”

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Trên yên ngựa ngoài kia có cả lương khô lẫn nước uống.”

Trương Triệu Trọng mừng rỡ nói:

– “Hay lắm! Bây giờ chúng ta phải trốn kỹ trước đã.”

Rồi hai người theo sợi dây dài mà trèo lên cửa động ở lưng chừng vách núi. Sợi dây dài này là lần trước Trương Triệu Trọng và tam ma vào núi đã để lại. Kha Hợp Đài xuất thân du mục, lúc nào cũng mang theo dây thừng trong người.

Ra khỏi động, hai người men theo vách núi tuột xuống. Mỗi người cưỡi một con ngựa, chạy ra phía ngoài. Tới một chỗ rẽ, Lý Nguyên Chỉ xuống ngựa rồi nói:

– “Sư thúc xem phân sói dưới đất thì biết, đường bên trái là đường dẫn ra ngoài. Bây giờ chúng ta đi về bên phải…”

Nói đến đây, nàng thấy con ngựa mình đang dắt bỗng cong đuôi lên, hình như muốn đi đại tiện. Nàng liền lấy lương thực và túi nước trên lưng nó xuống, xoay đầu hai con ngựa hướng về phía tay trái, dùng sức quất cho một roi. Hai con ngựa bị đau, lập tức tung vó chạy thẳng tới trước.

Trương Triệu Trọng ngạc nhiên không hiểu, bèn hỏi:

– “Tiểu thư làm gì vậy?”

Lý Nguyên Chỉ đáp:

– “Khi tìm đến đây, thấy dấu chân ngựa và phân ngựa còn mới ở bên tay trái, dĩ nhiên họ sẽ đuổi về phía đó.”

Trương Triệu Trọng mừng rỡ, lại khen:

– “Diệu kế, diệu kế!”

Hai người đi vào ngã rẽ bên tay phải. Mỗi khi đến chỗ rẽ, Lý Nguyên Chỉ lại lấy ba tảng đá nhỏ sắp thành ký hiệu ở chỗ khuất. Trương Triệu Trọng nói:

– “Ở đây có hàng ngàn con đường rẽ. Nếu không có ký hiệu này, chắc chắn hai người chúng ta không có cách nào tìm được đường ra.”

Hai người đi được nửa ngày, không biết đã qua bao nhiêu chỗ rẽ. Lý Nguyên Chỉ thấy trời tối dần bèn nói:

– “Chúng ta nghỉ ngơi ở đây đi.”

Hai người ăn một ít lương khô, uống một ít nước. Trương Triệu Trọng nói:

– “Lương thực và túi nước trên con ngựa kia không kịp lấy xuống, thật là đáng tiếc.”

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Chúng ta phải tiết kiệm một chút.”

Trương Triệu Trọng gật đầu:

– “Đúng vậy!”

Lý Nguyên Chỉ để túi lương thực và túi nước ở cạnh người Trương Triệu Trọng, bảo:

– “Sư thúc trông chừng cẩn thận, đây là mạng sống của chúng ta đấy.”

Trương Triệu Trọng lại gật đầu đồng ý. Lý Nguyên Chỉ đi ngược lại mười mấy thước, tìm chỗ sạch sẽ mà nằm nghỉ.

Ngủ đến nửa đêm, Trương Triệu Trọng chợt nghe Lý Nguyên Chỉ kinh hãi la lên, liền thức dậy chạy tới. Hắn thấy nàng chỉ vào con đường dẫn đến đây mà kêu lớn:

– “Một con sói lớn! Nhanh lên!”

Trương Triệu Trọng rút soạt Ngưng Bích Kiếm, tung người đuổi theo. Hắn rẽ qua hai chỗ ngoặt mà vẫn không thấy bóng dáng con sói đâu, sợ lạc đường nên không dám đuổi nữa. Khi quay lại thì không thấy bóng dáng Lý Nguyên Chỉ đâu, hắn kinh hãi gọi lớn:

– “Lý tiểu thư!”

Bỗng thấy mặt đất ẩm ướt, cái túi nước nằm lăn lóc, hắn vội chạy đến nhặt lên thì trong túi chỉ còn một hai giọt nước. Đang ủ rũ thì Lý Nguyên Chỉ từ một ngã rẽ khác quay ra, lên tiếng:

– “Bên kia có một con sói chạy tới đây. Chắc nó định cướp nước uống.”

Trương Triệu Trọng giơ cao túi nước lên mà nói:

– “Không ngờ bọn sói dữ đó vẫn chưa chết sạch. Tiểu thư xem này!”

Lý Nguyên Chỉ ngồi dưới đất, hai vai rung lên bần bật, khóc ngay. Trương Triệu Trọng nói:

– “Không có nước thì không thể ở lại lâu hơn. Ngày mai chúng ta phải ra khỏi đây.”

Lý Nguyên Chỉ đứng dậy nói:

– “Để tiểu điệt ra ngoài xem thử. Sư thúc ở đây đợi nhé.”

Trương Triệu Trọng hỏi:

– “Sao chúng ta không cùng đi?”

Lý Nguyên Chỉ đáp:

– “Nếu gặp phải họ, sư thúc có toàn mạng không? Tiểu điệt dù sao cũng đỡ hơn.”

Trương Triệu Trọng suy nghĩ một chút, thấy có lý bèn nói:

– “Lý tiểu thư phải hết sức cẩn thận!”

Lý Nguyên Chỉ đáp:

– “Vâng! Sư thúc cho tiểu điệt mượn kiếm đi.”

Trương Triệu Trọng liền đưa Ngưng Bích Kiếm qua. Lý Nguyên Chỉ cầm kiếm quay lại, theo đường có ký hiệu mà đi ra ngoài. Mỗi khi đến chỗ đường rẽ, nàng cũng đặt ba viên sỏi nhỏ giống hệt ký hiệu thật sự, nhưng rải thêm một chút cát bên cạnh. Nếu Trương Triệu Trọng tự tìm ra ngoài, chắc chắn hắn không thể phân biệt ký hiệu thật hay giả, chạy đông chạy tây cũng không làm gì được, trước sau gì cũng phải quay lại chỗ cũ.

Nàng vừa đi vừa bố trí như vậy, buồn cười nghĩ bụng:

– “Con sói làm đổ túi nước là chuyện bịa đặt mà Trương Triệu Trọng vẫn tin đến sái cổ. Thế là hắn không sao thoát khỏi tay mình nữa.”

Lúc trời gần sáng, Lý Nguyên Chỉ đang đi trên con đường chính thì nghe sau một khúc quanh có người lớn tiếng thóa mạ:

– “Ta phải rút gân lột da tên gian tặc đó.”

Lại nghe một người khác mỉm cười nói:

– “Muốn rút gân lột da thì trước tiên phải tìm cho ra hắn đã chứ?”

Lý Nguyên Chỉ la lên một tiếng “Trời ơi”, rồi ngã xuống đất, giả vờ ngất xỉu tại chỗ.

Hai người đang nói chuyện chính là Viên Sĩ Tiêu và A Phàm Đề. Họ kéo cửa đá không được, đành quay lại bờ hồ. Hoắc Thanh Đồng nghiên cứu bản đồ tìm được con đường bí mật, dẫn quần hùng từ phía sau núi xông ra tới đây. Không biết Trương Triệu Trọng và Lý Nguyên Chỉ đã biến tới đâu rồi, Viên Sĩ Tiêu đang nổi giận thì nghe thấy tiếng la, lập tức chạy tới thấy Lý Nguyên Chỉ nằm dưới đất. Ông nửa giận nửa mừng, nhìn qua thấy nàng không có vết thương nào, bèn yên tâm lay gọi nàng dậy. Lý Nguyên Chỉ vẫn nằm yên không chịu tỉnh.

Viên Sĩ Tiêu ra vẻ khẩn trương, còn A Phàm Đề vừa cười vừa mắng:

– “Con bé nghịch ngợm này! Giả tỉ ngươi là con gái của ta, ta không đập cho một trận mới là chuyện lạ.”

Thấy nàng vẫn nằm không nhúch nhích, ông lại nói:

– “Nếu bất tỉnh thật sự thì ta đánh tới mười roi cũng chưa động đậy.”

Ông làm thật sự, vung cái roi lừa lên quất vào vai nàng nghe “soạt” một tiếng. Viên Sĩ Tiêu định lên tiếng trách ông ta lỗ mãng, nhưng Lý Nguyên Chỉ sợ bị đánh tiếp nên đã mở mắt, rên lên một tiếng.

A Phàm Đề đắc ý vô cùng, mỉm cười nói:

– “Cây roi của ta còn tuyệt diệu hơn cả phép Thôi Cung Quá Huyệt của ông. Chỉ một roi là cô nàng tỉnh dậy ngay.”

Viên Sĩ Tiêu thầm nghĩ:

– “Quả nhiên lão râu này cũng có chút bản lãnh.”

Ông cúi xuống hỏi:

– “Có bị sao không? Gian tặc đâu rồi?”

Lý Nguyên Chỉ đáp:

– “Vãn bối bị bắt, sợ quá ngất đi. Đêm hôm qua hắn ngủ nửa mê nửa tỉnh, vãn bối thừa cơ lén chạy ra ngoài.”

Viên Sĩ Tiêu hỏi:

– “Hắn đang ở đâu? Mau dẫn chúng ta đi.”

Lý Nguyên Chỉ gật đầu rồi đứng dậy, vờ lảo đảo mấy cái. Viên Sĩ Tiêu vội đưa tay ra đỡ. A Phàm Đề nói:

– “Hai người đi đi, để ta đợi ở đây.”

Viên Sĩ Tiêu trợn mắt lên nói:

– “Lão râu nổi cơn lười biếng rồi sao? Được! Dù không có ngươi, ta vẫn có thể đối phó với hắn.”

Lý Nguyên Chỉ dẫn Viên Sĩ Tiêu đi chưa được bao lâu, Lục Phi Thanh, Trần Chính Đức, Trần Gia Lạc và mọi người kéo tới tập hợp, sau khi lùng sục các nơi khác không có kết quả. A Phàm Đề không kể những chuyện mới xảy ra, chỉ ngồi cười cười nghe họ bàn tán với nhau. Chương Tấn cùng Tâm Nghiễn đã khống chế Cố Kim Tiêu và Kha Hợp Đài, bắt chúng ngồi yên dưới đất.

Lát sau Viên Sĩ Tiêu và Lý Nguyên Chỉ quay lại, Lục Phi Thanh và Lạc Băng liền chạy tới hỏi han. Viên Sĩ Tiêu nói với A Phàm Đề:

– “Lão râu khôn thật, đỡ phải đi một buổi phí công. Cô bé này không nhớ nổi đường, cứ dẫn tới dẫn lui. Suýt nữa là chúng ta không quay về được.”

Mọi người thương lượng một lúc, đều nói là chưa bắt được Trương Triệu Trọng thì nhất định chưa chịu quay về. Nhưng đường xá trong Mê Thành biến ảo như thế, làm sao mà tìm được hắn?

Từ Thiên Hoằng và Hoắc Thanh Đồng tuy lắm mưu nhiều kế, nhưng vẫn không nghĩ ra được biện pháp nào. Từ Thiên Hoằng nói:

– “Nếu có một vài con chó thì hay biết mấy!”

Trần Chính Đức nói:

– “Ở nhà ta có mấy con chó lai sói rất lớn, nhưng tiếc là nước xa không cứu được lửa gần.”

Trong lúc nói chuyện, Từ Thiên Hoằng thấy trên miệng của A Phàm Đề luôn có nụ cười, đoán trong lòng vị quái hiệp này đã có cao kiến, bèn tới gần mà hỏi:

– “Bọn vãn bối thật sự không biết phải làm gì. Xin tiền bối chỉ cho một con đường sáng.”

A Phàm Đề chỉ Dư Ngư Đồng rồi đáp:

– “Con đường sáng chính là vị tú tài này. Sao không tới hỏi y?”

Dư Ngư Đồng kinh ngạc hỏi lại:

– “Vãn bối à?”

A Phàm Đề gật đầu một cái, ngửa mặt lên trời cười rộ, rồi trèo lên lưng lừa mà tà tà đi dạo. Lúc đầu Từ Thiên Hoằng vẫn tưởng ông ta đùa giỡn, nhưng nghĩ lại tỉ mỉ thì thấy lời nói và cử chỉ của Lý Nguyên Chỉ có nhiều chỗ kỳ cục. Chàng nghĩ:

– “Việc này thì phải tìm cách hỏi cô ấy mới rõ được.”

Chàng bèn tới nói thầm với Lạc Băng.

Lạc Băng nghĩ thấy cũng có lý, bèn rót một ly nước, cầm một miếng thịt dê nướng đem tới cho Lý Nguyên Chỉ, rồi hỏi:

– “Lý muội muội này, muội thật là bản lãnh. Làm sao muội thoát khỏi bàn tay ác độc của tên tồi tệ đó?”

Lý Nguyên Chỉ đáp:

– “Lúc đó muội hoảng sợ đến nỗi mất cả hồn vía, nên chỉ liều mạng chạy bừa. Lại sợ tên ác tặc đó đuổi kịp nên muội cứ rẽ trái rẽ phải loạn xạ, không nhận ra đường lối gì nữa. May mà hoàng thiên phù hộ, nhắm mắt vẫn chạy được ra đây.”

Nàng biết Lạc Băng nhất định sẽ vặn hỏi đường đi của mình, nên nói mấy câu này cho Lạc Băng hết hỏi.

Lạc Băng vốn bán tín bán nghi, không biết Lý Nguyên Chỉ có thật sự không biết chỗ Trương Triệu Trọng trốn hay không. Nhưng khi nghe cô nàng chối sạch tới mức vô lý thì trong lòng Lạc Băng bỗng sáng hẳn lên, mỉm cười thầm nghĩ:

– “Cô bé này xảo trá quá.”

Rồi Lạc Băng nói:

– “Muội muội! Muội cố suy nghĩ cho kỹ xem, chắc chắn sẽ nhận ra được đường đi tới đó.”

Lý Nguyên Chỉ đáp:

– “Nếu muội bình tĩnh một chút, không đến nỗi mất hết hồn phách, thì có lẽ không hồ đồ đến mức như vậy. Bây giờ hoàn toàn quên sạch, không nhớ được một tí gì.”

Lạc Băng nghĩ “Được rồi, được rồi!”, rồi nói rất dịu dàng:

– “Tâm sự của muội muội ra sao, tỉ tỉ hiểu cả rồi. Chỉ cần muội giúp chúng ta việc này, mọi người sẽ giúp muội hoàn thành tâm nguyện.”

Mặt Lý Nguyên Chỉ lập tức đỏ lên, đỏ tới tận khóe mắt, đau khổ nói:

– “Muội là người không ai thương nổi, đúng ra không nên chạy trốn ra đây. Chi bằng để tên gian tặc họ Trương kia chém một nhát cho xong việc.”

Lạc Băng thấy cô nàng chuyển sang giọng điệu ăn vạ nhõng nhẽo, biết mình không khuyên bảo được. Nàng bèn nói:

– “Thôi, chắc muội mệt mỏi rồi. Uống một ít nước rồi nghỉ ngơi đi.”

Lý Nguyên Chỉ khẽ gật đầu.

Lạc Băng kéo Dư Ngư Đồng qua một bên, thì thầm nói chuyện một lúc rất lâu. Thần sắc Dư Ngư Đồng lúc đầu ra vẻ khó xử, nhưng cuối cùng thì nghiến răng lại, hạ quyết tâm, vỗ đùi một cái rồi tuyên bố:

– “Được! Để trả thù cho ân sư, chuyện gì tiểu đệ cũng làm!”

Lý Nguyên Chỉ nhắm mắt dưỡng thần, hoàn toàn không đếm xỉa tới ai. Bỗng nàng nghe tiếng chân người đi đến chỗ mình, thì ra là Dư Ngư Đồng.

Chàng lên tiếng:

– “Sư muội! Sư muội đã mấy lần cứu mạng của ta. Không phải ta không biết thẹn, nhưng bây giờ phải mặt dày nhờ sư muội giúp cho một lần nữa.”

Nói xong, chàng thi lễ rất sâu.

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Trời ơi! Tại sao Dư sư ca thi lễ như vậy? Chúng ta là sư huynh đệ đồng môn, sư ca muốn sai bảo sư muội chuyện gì thì chỉ cần nói thẳng là xong, không phải thế hay sao?”

Nghe nàng nói chuyện theo kiểu người dưng, Dư Ngư Đồng khó chịu trong lòng. Nhưng đang có việc cầu xin, nên chàng gắng gượng nói:

– “Tên gian tặc Trương Triệu Trọng đã hại chết ân sư của ta. Nếu ai có thể giúp ta trả được mối thù này, dù người đó bắt ta suốt đời phải làm trâu ngựa, ta vẫn cảm tạ ơn đức như thường.”

Lý Nguyên Chỉ nghe vậy nổi giận ngay lập tức, nghĩ thầm:

– “Chẳng lẽ ngươi coi việc cưới ta giống như cả đời phải làm trâu ngựa?”

Nàng quay lại nhìn thẳng, mặt lạnh như băng giá, nghiến răng mà nói:

– “Tại đây có rất nhiều đại anh hùng đại hiệp khách, có cả các loại đà chủ lớn bé của huynh. Sao huynh không đi cầu xin họ đi? Suốt dọc đường huynh cứ tránh né ta, cứ như hễ gặp ta là sẽ bị lây bệnh cùi hủi, xúi quẩy suốt đời vậy. Ta làm gì có bản lãnh giúp đỡ huynh? Huynh biến đi cho ta nhờ, không thì ta phải dùng những câu thô lỗ để nói nặng huynh đấy.”

Mọi người đang bàn luận tìm cách truy bắt Trương Triệu Trọng, không để ý đến ba người Lạc Băng, Lý Nguyên Chỉ, Dư Ngư Đồng. Đột nhiên họ thấy Lý Nguyên Chỉ quát mắng lớn tiếng, giận dữ đỏ mặt tía tai, lại thấy Dư Ngư Đồng ủ rũ cúi đầu rời khỏi đó, ai cũng cảm thấy ngạc nhiên.

Từ Thiên Hoằng và Lạc Băng thấy Dư Ngư Đồng bị mắng một trận như vậy, chỉ biết nhìn nhau cười đau khổ. Hai người bèn kéo Trần Gia Lạc qua một bên, thì thầm bàn tán. Trần Gia Lạc nói:

– “Chúng ta nhờ Lục lão tiền bối nói chuyện, cô ấy không thể không nghe sư phụ…”

Nói chưa dứt câu, đột nhiên nghe tiếng của Tâm Nghiễn và Chương Tấn, một người kinh hãi la lên, một người giận dữ quát tháo. Quay lại nhìn thì thấy Cố Kim Tiêu đang chạy như điên về hướng Hoắc Thanh Đồng.

Trần Gia Lạc giật mình lập tức xông tới, nhưng khoảng cách khá xa, khó mà can thiệp kịp. Vệ Xuân Hoa lạng người ra cản trở, bị Cố Kim Tiêu húc ngã, văng ra hai bước. Họ Cố tiếp tục phóng về phía Hoắc Thanh Đồng, la lên:

– “Nàng giết ta đi!”

Hoắc Thanh Đồng vừa kinh hãi vừa giận dữ, đưa kiếm đâm ngay vào ngực hắn. Hắn hoàn toàn không tránh né đỡ gạt gì, lại còn ưỡn ngực lên phía trước. Nghe một tiếng “sột”, trường kiếm đã đâm xuyên qua lồng ngực. Khi Hoắc Thanh Đồng rút kiếm về, một luồng máu tươi từ ngực hắn bắn vọt ra, nhuộm đỏ hết cái áo vàng của nàng.

Khi mọi người ùa tới thì Cố Kim Tiêu đã ngã xuống đất. Kha Hợp Đài quì bên người hắn, rối rít toan cầm máu, nhưng máu phun ra như suối không sao ngăn lại được. Cố Kim Tiêu vừa ngáp ngáp vừa nói:

– “Oan nghiệt… oan nghiệt!”

Kha Hợp Đài hỏi:

– “Lão nhị! Lão nhị còn việc gì chưa thỏa mãn hay không?”

Cố Kim Tiêu nói:

– “Ta muốn hôn vào tay nàng… chết cũng nhắm mắt…”

Hắn cố gượng hơi thở cuối cùng, nhìn thẳng Hoắc Thanh Đồng.

Kha Hợp Đài lên tiếng năn nỉ:

– “Cô nương! Y sắp chết rồi. Cô thương xót… thương xót…”

Hoắc Thanh Đồng không nói tiếng nào, quay lưng bỏ đi, giận dữ đến nỗi mặt trắng bệch lại. Cố Kim Tiêu thở hắt ra, ngoẹo đầu sang một bên mà chết. Kha Hợp Đài không nén nổi nước mắt tuôn ra ướt mặt. Y nhảy chồm lên, chỉ vào lưng Hoắc Thanh Đồng mà thóa mạ:

– “Con mụ này thật quá nhẫn tâm! Ngươi giết huynh ấy, ta không trách ngươi, đó là do y không tốt. Nhưng người đưa bàn tay cho huynh ấy hôn một cái để yên tâm mà chết, thì đã hại gì đến ngươi?”

Chương Tấn quát tháo:

– “Đừng nói bậy bạ, ngậm cái miệng thối của ngươi lại đi!”

Kha Hợp Đài không lý gì đến y, vẫn tức tối buông lời thóa mạ. Chương Tấn bước lên muốn đánh, nhưng bị Dư Ngư Đồng cản lại.

Lục Phi Thanh dõng dạc lên tiếng:

– “Tiêu Văn Kỳ tam gia của các ngươi là do ta giết chết, hoàn toàn không liên can đến người khác. Rất nhiều xích mích sau này cũng từ đó mà ra. Sáu người huynh đệ ở Quan Đông bây giờ chỉ còn một mình ngươi. Chúng ta đều biết ngươi có lòng nghĩa hiệp, nên không nhẫn tâm giết hại. Bây giờ ngươi đi đi, sau này muốn trả thù thì tìm một mình ta là xong.”

Kha Hợp Đài không đáp, xốc thi thể Cố Kim Tiêu lên, định rời khỏi đó.

Dư Ngư Đồng vội vàng lấy một túi nước, một túi lương khô buộc lên yên ngựa, rồi dẫn ngựa đuổi theo mà gọi:

– “Kha huynh! Ta ngưỡng mộ huynh là một người đáng mặt nam tử hán đại trượng phu. Xin huynh hãy mang con ngựa này theo.”

Kha Hợp Đài khẽ gật đầu, đặt thi thể Cố Kim Tiêu lên lưng ngựa. Dư Ngư Đồng mở túi nước rót ra một chén, tự mình uống một nửa rồi đưa cho Kha Hợp Đài, bảo:

– “Lấy nước thay rượu, từ nay cáo biệt!”

Kha Hợp Đài ngửa cổ uống cạn.

Dư Ngư Đồng rút kim địch ra. Cây sáo này đã bị Trương Triệu Trọng chặt ngắn một đầu, đoản tiễn trong đó đã rơi hết cả, nhưng vẫn có thể thổi lên. Chàng bèn lựa điệu cung thương mà tấu lên một khúc.

Kha Hợp Đài nhận ra khúc điệu đó là âm nhạc vùng thảo nguyên Mông Cổ. Y đợi họ Dư thổi một lúc, rồi lấy trong túi ra một cái sừng dê, thổi lên hòa tấu. Thì ra trên sông Hoàng Hà ở bến Mạnh Tân ngày ấy, Kha Hợp Đài dùng sừng dê thổi khúc điệu này, Dư Ngư Đồng đã ghi nhớ vào lòng. Bây giờ hai người cáo biệt, chàng bèn thổi lên để tiễn đưa.

Hai người hợp tấu đầy vẻ khẳng khái, quần hùng đều chăm chú mà nghe. Dứt khúc rồi, Dư Ngư Đồng dang rộng hai tay ôm lấy vai Kha Hợp Đài. Họ Kha cất sừng dê vào túi, lên ngựa đi ngay, không quay lại nhìn lần nào nữa.

Lạc Băng chỉ vào lưng của Kha Hợp Đài và Dư Ngư Đồng, nói với Lý Nguyên Chỉ:

– “Hai người này đều là hảo hán tử.”

Lý Nguyên Chỉ đáp:

– “Đúng là như thế.”

Lạc Băng hỏi:

– “Thế thì sao muội không chịu giúp đỡ huynh ấy?”

Lý Nguyên Chỉ thở dài đáp:

– “Nếu muội có thể giúp đỡ huynh ấy thì hay quá.”

Lạc Băng mỉm cười:

– “Muội muội! Trước mặt chân nhân không nên nói dối. Muội không chịu nói, lát nữa Lục lão bá cũng bắt muội nói. Khi đó thì chẳng hay gì.”

Lý Nguyên Chỉ lắc đầu:

– “Đừng nói là muội không nhận ra đường, cho dù có nhận ra mà muội không thích dẫn đi thì sư phụ cũng chẳng làm gì được. Người xưa chỉ dạy nữ nhân phải tam tòng tứ đức. Trong tam tòng thì không có cái khoản tòng sư.”

Lạc Băng cười nói:

– “Gia gia của ta chỉ dạy cho ta cách múa đao, cách ăn trộm, chứ chưa dạy câu nào của Khổng Phu Tử cả. Muội muội ngoan, nói cho ta nghe thử xem cái gì là tam tòng tứ đức.”

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Tứ đức là Công, Dung, Ngôn, Hạnh. Nữ nhân thì quan trọng nhất là đạo đức, dung mạo, lời nói, và những chuyện nội trợ trong gia đình.”

Lạc Băng lại mỉm cười:

– “Những cái khác thì tạm thời chấp nhận được, nhưng dung mạo là do trời sinh. Lỡ phụ mẫu sinh mình xấu xí, thì mình làm sao thay đổi được? Thế còn tam tòng thì sao?”

Lý Nguyên Chỉ dịu dàng đáp:

– “Tỉ tỉ chỉ giả vờ. Muội không thích nói nữa.”

Nàng quay đầu sang hướng khác, không lý gì đến Lạc Băng nữa.

Lạc Băng mỉm cười rời khỏi đó, chạy qua hỏi Lục Phi Thanh. Họ Lục suy nghĩ một lúc rồi nói:

– “Tam tòng là lễ nghĩa đời xưa, gồm tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Đó là chuyện dành cho con nhà đi học làm quan, còn người trong giang hồ như chúng ta thì từ xưa đến giờ không coi trọng những lý thuyết đó lắm.”

Lạc Băng mỉm cười nói:

– “Đúng là như vậy! Khi chưa xuất giá, thì tòng phụ là việc nên làm. Tòng phu hoặc không tòng phu thì phải xem thử phu quân của mình có lý hay không rồi tính. Phu tử tòng tử lại càng tức cười hơn nữa. Giả tỉ khi chồng chết mà con trai mới hai ba tuổi, mình nói nó không nghe lời thì không được đánh đòn hay sao?”

Lục Phi Thanh lắc đầu nói:

– “Con bé đồ đệ của ta thật là cổ quái. Theo Tứ phu nhân thì tại sao nó không chịu dẫn đường?”

Lạc Băng nói:

– “Theo vãn bối thì cô ấy nhắc đến chuyện tam tòng là có lý do. Cô ấy chưa lấy chồng thì phải tòng phụ, nếu phụ thân bắt nói thì phải nói. Nhưng Lý Khả Tú đang ở tận Hàng Châu, mà nếu bắt về đây thì cũng chưa chắc hắn chịu giúp chúng ta. Vậy phải xem đến khoản thứ hai.”

Lục Phi Thanh ra vẻ ngần ngại:

– “Khoản thứ hai ư? Nó chưa có chồng.”

Lạc Băng mỉm cười nói:

– “Vậy thì chúng ta lập tức kiếm chồng cho cô ấy. Nếu vị phu quân đó bắt cô ấy dẫn đường, thì cô ấy phải tòng phu rồi.”

Lục Phi Thanh nghe câu này, bỗng nhiên tỉnh ngộ. Tâm sự của đồ đệ thì ông đã biết từ lâu, sư điệt Dư Ngư Đồng cũng rất xứng đáng. Ông đã định sau khi hoàn thành đại sự sẽ tìm cách tác hợp hai người, nhưng xem ra chuyện này phải gấp rút hơn mới được.

Lục Phi Thanh bèn mỉm cười nói:

– “Nó vòng vo tam tòng tứ đức, thật ra chỉ vì vấn đề này. Đúng là kiến bò miệng chén, quanh quẩn mãi cũng một chỗ mà thôi.”

Hai người bèn thương lượng với Trần Gia Lạc, gọi Dư Ngư Đồng tới hỏi ý. Sau đó họ lập tức mời Viên Sĩ Tiêu làm mai cho bên nhà trai, mời Thiên Sơn Song Ưng làm mai cho bên nhà gái.

Lúc đó Viên Sĩ Tiêu và Song Ưng đang đứng trên vách núi cao, quan sát tứ phía để tìm tung tích của Trương Triệu Trọng. Nhưng có tới hàng ngàn hàng vạn ngọn đồi, thật là không sao tìm được. Lục Phi Thanh bèn mời họ xuống đây, nói cho biết mấu chốt đơn giản của vụ này.

Viên Sĩ Tiêu cười ha hả rồi nói:

– “Lục lão huynh! Chắc lão huynh cũng khổ sở vì có một đứa đồ đệ nhõng nhẽo như thế. Cả bọn ta đều thua dưới tay con bé này rồi.”

Mọi người vừa cười vừa kéo nhau tới trước mặt Lý Nguyên Chỉ. Lục Phi Thanh nói:

– “Nguyên nhi! Ta với con đã nhiều năm tình cảm thầy trò, gần như phụ tử vậy. Con là nữ nhi mà đơn thương độc mã phiêu bạt bên ngoài, ta làm sư phụ không thể yên tâm. Lệnh tôn không có ở đây, ta tạm thời gánh vác trách nhiệm của người cha để lo cho con yên bề gia thất.”

Lý Nguyên Chỉ cúi đầu không nói tiếng nào. Lục Phi Thanh lại tiếp:

– “Mã sư bá của con đã bị hại, dĩ nhiên Dư sư ca của con cũng do ta chiếu cố. Bây giờ ta tác hợp con với nó, sau khi kết thành phu phụ thì hai đứa sẽ quan tâm chăm sóc lẫn nhau, thế là ta nhẹ gánh.”

Những lời này đều có sẵn trong dự liệu của Lý Nguyên Chỉ, nhưng bây giờ được nói ra trước mặt mọi người cũng làm nàng đỏ ửng mặt lên, khe khẽ đáp:

– “Việc này phải để gia gia làm chủ, làm sao con biết?”

Chương Tấn vốn nhanh mồm nhanh miệng, đốp ngay:

– “Còn cái gì mà cô không biết nữa? Đêm ở Thiên Mục Sơn, cả đám đi khắp nơi tìm cô không gặp, thì ra cô đang chui vào trong chăn…”

Nghe tới đây, Vệ Xuân Hoa vội vàng xoay tay bịt ngay miệng Chương Tấn.

Lục Phi Thanh nói:

– “Lệnh tôn từng giữ Dư sư điệt trong nhà lâu như thế, rõ ràng đã có ý chọn nó làm chàng rể đông sàng. Bây giờ ở đây chúng ta cứ làm lễ đính hôn trước, rồi bẩm báo với ông ấy sau. Lệnh tôn nhất định sẽ rất vui mừng.”

Lý Nguyên Chỉ cúi đầu không nói. Lạc Băng la lên:

– “Được rồi, được rồi! Thế là Lý muội muội đồng ý rồi. Thập tứ đệ! Đệ lấy gì để đính ước đây?”

Dư Ngư Đồng lục lọi trong người một lát, ngoài tiền bạc ra thì không có thứ gì. Chàng đang khó xử thì tay bỗng chạm vào một vật gì đó mát lạnh. Thì ra đó là một đoạn kim địch của chàng bị bảo kiếm của Trương Triệu Trọng chém rời ra, chàng nhặt lấy để sau này tìm thợ kim hoàn hàn lại.

Dư Ngư Đồng bèn lấy khúc kim địch đó ra, cất tiếng:

– “Sư thúc! Trên người tiểu điệt chẳng có gì quí trọng cả, chỉ có đoạn sáo này bằng vàng.”

Lục Phi Thanh mỉm cười nói:

– “Vậy là tuyệt diệu! Đợi đến ngày đại hỉ, chúng ta sẽ hàn hai đoạn kim địch này liền thành một.”

Quần hùng vỗ tay chúc mừng. Lý Nguyên Chỉ vờ không chịu nhận, Lạc Băng ráng nhét đoạn kim địch đó vào tay nàng, mỉm cười hỏi:

– “Còn muội muội lấy gì để đính ước với Thập tứ đệ?”

Lúc này Lý Nguyên Chỉ đã hết hổ thẹn, mặt mày rạng rỡ hẳn lên, cười nói:

– “Muội chẳng có thứ gì cả.”

Lục Phi Thanh hỏi:

– “Nguyên nhi, ám khí của con không phải bằng vàng hay sao?”

Lạc Băng la lên:

– “Không sai!”

Nàng giật lấy cái túi ám khí của Lý Nguyên Chỉ, lựa ra mười mũi Phù Dung Kim Châm giao cho Dư Ngư Đồng cất giữ.

Trần Gia Lạc mỉm cười nói:

– “Như vậy có thể gọi là Châm Địch Kỳ Duyên rồi.”

Thấy mọi người vui vẻ, Hương Hương công chúa bèn hỏi Trần Gia Lạc:

– “Họ đang làm gì vậy?”

Trần Gia Lạc giải thích xong, Hương Hương công chúa hoan hỉ vô cùng. Nàng một tay vịn vào vai chàng, một tay nắm lấy cánh tay tỉ tỉ bước lên phía trước, tháo chiếc nhẫn bạch ngọc trên tay mình đeo vào ngón tay của Lý Nguyên Chỉ, lên tiếng:

– “Ba người chúng ta tặng cô nương cái này. Chúc mừng cô nương!”

Đột nhiên Hoắc Thanh Đồng cảm thấy thương tâm, nghĩ bụng:

– “Nếu ngươi không cải nam trang phá rối thì bây giờ…”

Trần Gia Lạc mỉm cười:

– “Chúng ta có thể vào ngọc cung lấy ra mấy cây đao ngọc kiếm ngọc, để dành làm quà mừng cưới hai người.”

Hoắc Thanh Đồng gật đầu, nhoẻn một nụ cười.

Viên Sĩ Tiêu và Thiên Sơn Song Ưng đã hỏi rõ đầu đuôi câu chuyện ba người trốn bầy sói rồi vào ngọc cung, lại thấy ba người rất thân mật với nhau. Xem ra Trần Gia Lạc không phải loại người có mới nới cũ, vong ân bội nghĩa. Hai chị em vẫn rất hòa thuận, Hoắc Thanh Đồng chẳng có vẻ gì là oán hận trách móc chàng và muội muội của mình. Vì thế ba vị lão nhân đều cảm thấy hoan hỉ.

Thiên Sơn Song Ưng đột nhiên nghĩ lại:

– “May mà đêm đó chúng ta không lỗ mãng giết chết hai người. Nếu không, chẳng những Viên đại ca không chịu bỏ qua, mà còn Thanh nhi sẽ ra sao? Đúng là khó mà tưởng tượng.”

Sau lễ đính hôn, mọi người chúc mừng xong xuôi rồi lần lượt kiếm cớ đi chỗ khác. Dư Ngư Đồng thấy xung quanh không còn ai nữa, liền hỏi:

– “Sư muội! Tên gian tặc Trương Triệu Trọng ở đâu vậy?”

Thấy chàng chẳng thân mật nồng nhiệt gì, mở miệng là hỏi ngay về Trương Triệu Trọng, Lý Nguyên Chỉ bất giác thất vọng, giận dữ hỏi lại:

– “Làm sao muội biết được?”

Sắc mặt của Dư Ngư Đồng trắng bệch hẳn đi. Chàng đột nhiên quì xuống lạy nàng ba lạy, dập đầu xuống đất phát ra những tiếng binh binh, vừa khóc vừa nói:

– “Năm xưa gia đình ta bị giết sạch, ta tưởng không sống được nữa, may mà được ân sư thương xót nuôi dưỡng, truyền thụ võ công. Ta chưa báo đáp được chút ân tình nào, thì ân sư đã bị Trương Triệu Trọng giết chết thảm thương. Sư muội! Cầu xin sư muội chỉ cho ta đường đi tìm tên gian tặc đó.”

Lúc này Lý Nguyên Chỉ thật sự bất ngờ. Thấy chàng tiếp tục dập đầu xuống đất, nàng bối rối đưa tay ra kéo chàng dậy, lấy khăn tay đưa cho chàng rồi dịu dàng nói:

– “Mau lau nước mắt đi, rồi muội dẫn huynh tới đó.”

Bỗng nghe “soạt” một tiếng, Lạc Băng từ sau núi nhảy ra, vừa vỗ tay vừa hát:

– “Tiểu tú tài, không sợ xấu, chỉ sợ vợ, phải dập đầu!”

Lý Nguyên Chỉ xấu hổ đỏ bừng mặt, nhảy chồm dậy rồi chạy đi. Dư Ngư Đồng còn ngơ ngác, Lạc Băng vội vẫy tay la lên:

– “Đuổi theo nhanh lên!”

Dư Ngư Đồng hiểu ra, lập tức vắt chân lên cổ mà chạy. Lạc Băng lớn tiếng kêu gọi, quần hùng đuổi theo sau.

* * *

Trương Triệu Trọng chờ đợi mỏi mòn vẫn chưa thấy Lý Nguyên Chỉ trở về. Hắn ăn một chút lương khô, rồi suy nghĩ lung tung, hết tính chuyện sau khi thoát hiểm sẽ triệu tập cao thủ đến triệt phá Hồng Hoa Hội, lại nghĩ:

– “Lý Nguyên Chỉ là con gái đại quan đề đốc, lại xinh đẹp khác thường. Ta đã lớn tuổi mà chưa thành gia thất, nếu cưới được nàng làm vợ thì tương lai công danh phơi phới. Nhưng hình như cô ả được cưng chiều quá mức, nếu dùng phương pháp mạnh bạo sẽ hỏng mất đại sự. May mà đường từ Hồi Cương trở về Hàng Châu xa xôi vạn dặm, dọc đường ta có thể dùng mưu kế để chiếm đoạt nàng trước đã, rồi sẽ nói chuyện sau.”

Vừa xây xong mộng đẹp, trước mắt hắn bỗng có bóng người thấp thoáng, chính là Lý Nguyên Chỉ tươi cười bước tới. Trương Triệu Trọng mừng rỡ đứng dậy đón tiếp, đột nhiên sau lưng Lý Nguyên Chỉ có một người nhảy xổ ra.

Trương Triệu Trọng kinh hãi lùi lại hai bước, tay trái xuất chiêu Bạch Vân Kiến Nhật đánh tạt ngang. Người kia luồn qua dưới chưởng Trương Triệu Trọng, tay phải cầm ống sáo gãy đâm thẳng tới, hai ngón tay trái chĩa ra đâm thẳng vào trước ngực hắn.

Lúc này Trương Triệu Trọng đã thấy rõ địch thủ chính là Dư Ngư Đồng, đồ đệ của Mã Chân. Hắn rất hiểu võ công của chàng, tay phải liền ra chiêu Bạch Lộ Thành Giang, tay trái hờm sẵn. Dư Ngư Đồng vừa đảo người né tránh, tay trái họ Trương đã túm được lưng chàng, vừa quát lên một tiếng vừa quẳng vào vách núi bên cạnh.

Lý Nguyên Chỉ giật nảy người, phóng lên ôm lấy họ Dư. Nhưng lực đạo của Trương Triệu Trọng cực lớn, nên cả nàng cũng bay vọt đi. Nàng sắp đập lưng vào vách núi thì đột nhiên cảm thấy sau lưng có hai bàn tay đỡ lại, đẩy nàng và Dư Ngư Đồng cùng té nhào xuống đất, tuy ngã khá đau nhưng không đến nỗi bị thương.

Hai người tung mình đứng dậy, nhìn lại mới biết người vừa xuất chưởng cứu mạng là Lục Phi Thanh. Dư Ngư Đồng nói:

– “Sư muội! Đa tạ sư muội cứu ta một lần nữa.”

Lý Nguyên Chỉ liếc chàng một cái, khẽ nói:

– “Huynh còn nói với muội chữ đa tạ đó ư?”

Trương Triệu Trọng thấy cường địch đến đông, đã tính bài chạy trốn. Nhưng hắn bỗng nghe hai tiếng vù vù, hai người chạy băng qua bên cạnh, cản đường phía trước. Đó là Viên Sĩ Tiêu và Trần Chính Đức. Còn sau lưng hắn thì Lục Phi Thanh hét lên:

– “Họ Trương kia! Ngươi còn muốn gì nữa? Mau mau đi theo chúng ta cho xong.”

Trương Triệu Trọng không tính toán gì được nữa, hừ một tiếng rồi thõng tay bước ra. Thế là Lục Phi Thanh, Trần Gia Lạc, Vệ Xuân Hoa, Hoắc Thanh Đồng đứng trước, còn Viên Sĩ Tiêu, Trần Chính Đức, Quan Minh Mai đứng sau, kẹp Trương Triệu Trọng vào giữa mà đi ra ngoài.

Trương Triệu Trọng tưởng Lý Nguyên Chỉ không cẩn thận để địch nhân phát hiện, quần hùng âm thầm theo dõi mà kéo vào đây, nên chỉ tự trách mình xúi quẩy. Nhưng đi được một đoạn, hắn thấy Lý Nguyên Chỉ thì thào nói chuyện với Lạc Băng ở ngay trước mặt, miệng cười rạng rỡ, niềm vui tràn từ trong lòng ra tận bên ngoài. Hắn tức tối đến nỗi muốn vỡ lồng ngực ra, nghiến chặt răng âm thầm thóa mạ:

– “Được lắm! Thì ra con nha đầu này đã bán đứng ta.”

Mọi người đã bắt được tên ác ôn đầu sỏ, không ai là không vui mừng tột đỉnh. Khi mặt trời sắp lặn xuống núi, quần hùng đã ra khỏi mê thành. Trần Gia Lạc lấy châu sách ra, bảo Chương Tấn và Tâm Nghiễn:

– “Trói chặt hắn lại đi!”

Chương Tấn nhận lấy châu sách.

Trương Triệu Trọng đột nhiên quát lên một tiếng dữ dội, tung người vọt lên phía trước, tay trái đưa ra túm lấy cổ tay Lý Nguyên Chỉ mà đoạt lấy Ngưng Bích Kiếm, tay phải xuất chiêu Bạch Hồng Quán Nhật sử dụng toàn lực đánh vào hậu tâm của nàng. Lý Nguyên Chỉ vội vã nghiêng mình, nhưng không sao tránh kịp, trúng chưởng vào vai trái. Nghe “rắc” một tiếng, vai nàng trật khớp ngay. Phát chưởng thứ hai của Trương Triệu Trọng lập tức đánh bồi tới.

Lúc hắn ra tay đoạt kiếm, Lục Phi Thanh đã biết là có chuyện, nhưng không kịp cản trở phát chưởng thứ nhất. Bây giờ ông đã chạy tới nơi, phóng chưởng nhắm vào huyệt Thái Dương của Trương Triệu Trọng. Họ Trương phải thu chưởng về cản trở.

“Bùng” một tiếng, hai chưởng chạm nhau, mỗi người phải lùi bảy bước. Từ khi luyện võ một thầy, hơn hai mươi năm rồi hai người chưa từng giao thủ với nhau. Bây giờ cả hai đều cảm thấy công lực đối phương thâm hậu, khác hẳn khi còn chung một sư môn.

Lý Nguyên Chỉ bị trọng thương té nhào xuống đất. Lạc Băng đỡ dậy, thấy nàng đã đau đớn mà ngất xỉu ngay tại chỗ. Viên Sĩ Tiêu vội lấy một viên thuốc, nhét vào miệng nàng.

Quần hùng thấy Trương Triệu Trọng đến nước này mà vẫn còn ra tay tàn độc, không ai là không giận dữ, kéo đến bao vây rất chặt.

Trương Triệu Trọng nghĩ bụng:

– “Ai cũng phải chết một lần. Hòa Thủ Phán Quan mỗ nhất định chết một cách anh hùng.”

Hắn bèn hoành kiếm ngang ngực, ngang nhiên lên tiếng:

– “Các ngươi cùng xông lên, hay từng người một? Ta thấy cả đám xông lên thì hay hơn.”

Trần Chính Đức giận dữ nói:

– “Ngươi bản lãnh bao nhiêu mà ăn nói phách lối như vậy? Để ta đấu với ngươi trước!”

Văn Thái Lai nói:

– “Trần lão gia! Tên gian tặc này đã sỉ nhục vãn bối tới mức không tưởng tượng nổi. Nhường cho vãn bối trước đi.”

Dư Ngư Đồng la lên:

– “Hắn đã hại chết ân sư của đệ. Bản lãnh của đệ không bằng hắn, nhưng phải là người đầu tiên xông vào. Tứ ca hãy đợi, khi nào đệ không địch nổi thì ca ca mới tiếp ứng.”

Mọi người đều phẫn hận đến cực điểm, nhao nhao giành đánh trước. Trần Gia Lạc lên tiếng:

– “Bây giờ chúng ta bốc thăm đi.”

Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Hắn không phải đối thủ của ta. Ta không đánh đâu.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Chúng ta lại không phải là đấu thủ của hắn. Ta và Tứ tẩu, Cửu đệ, Thập đệ, Thập tứ đệ, Thập ngũ đệ một phe. Sáu người chúng ta hợp sức đấu với hắn.”

Trương Triệu Trọng bỗng lên tiếng:

– “Trần đương gia! Khi ở Hàng Châu chúng ta có hẹn tỉ thí với nhau. Cuộc hẹn đó còn hiệu lực không?”

Trần Gia Lạc biết Trương Triệu Trọng chọn mình để ra tay, bèn nói:

– “Không sai! Lần đó ở Sư Tử Phong, ngươi bị thương ở tay. Chúng ta đã thỏa thuận dời cuộc hẹn đó lại ba tháng. Đây đúng là lúc ta hoàn thành tâm nguyện cho ngươi.”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Vậy để ta đấu với Trần đương gia một trận trước đã, rồi mới đến người khác. Có được hay không?”

Trương Triệu Trọng đã giao đấu với Trần Gia Lạc mấy phen, biết võ công của chàng còn kém mình một bậc. Nếu bắt được chàng thì có thể uy hiếp mọi người, tìm cách thoát thân. Nếu bắt không được thì cũng có thể đánh chết thủ lãnh của Hồng Hoa Hội, một mạng đổi một mạng coi như đủ vốn.

Từ Thiên Hoằng đoán được suy nghĩ của hắn, vội la lên:

– “Tên gian tặc này đã chui vào rọ, nếu tổng đà chủ phải đích thân ra tay thì té ra huynh đệ Hồng Hoa Hội chúng ta vô dụng hay sao? Cửu đệ, Thập đệ, Thập tứ đệ! Chúng ta cùng lên đi.”

Vệ Xuân Hoa, Chương Tấn, Dư Ngư Đồng, Tâm Nghiễn cùng bước lên hai bước.

Trương Triệu Trọng cười lên ha hả, lớn tiếng nói rằng:

– “Ta tưởng Hồng Hoa Hội phạm thượng gây loạn nhưng vẫn hiểu đạo nghĩa giang hồ, nào ngờ chỉ là đồ bắt gà trộm chó không biết giữ chữ tín.”

Trần Gia Lạc vẫy tay rồi nói:

– “Thất ca, chưa chắc hắn thắng ta đâu. Nếu ta không ra tay để phân thắng bại thì hắn chết cũng không cam lòng. Họ Trương kia! Bất luận ngươi sử dụng gian kế thế nào, hôm nay cũng đừng hòng trốn thoát. Ngươi muốn thoát thân thì chỉ là ảo tưởng mà thôi. Lên đi!”

Trương Triệu Trọng chĩa thanh Ngưng Bích Kiếm ra trước mặt mà nói:

– “Thì ra ngươi cũng khẳng khái lắm. Lấy binh khí ra đi!”

Trần Gia Lạc nói:

– “Dùng binh khí thắng ngươi, chưa thể gọi là anh hùng. Ta dùng tay không mà đấu với ngươi.”

Chàng đã ngộ được võ công thượng thừa trong ngọc cung, tự tin mình có thể thắng được Trương Triệu Trọng.

Trương Triệu Trọng cả mừng. Dĩ nhiên hắn không bỏ qua cơ hội, liền nói:

– “Nếu ta dùng kiếm mà không thắng được ngươi, ta sẽ lập tức tự sát, không cần ai giết. Còn nếu ta thắng được ngươi thì sao?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Thì các vị tiền bối cùng huynh đệ ta sẽ giết ngươi. Chắc ngươi hy vọng hễ thắng ta thì được thả cho đi chứ gì? Đừng hòng! Mãi đến hôm nay mà ngươi còn chưa biết thân mình đầy tội lỗi hay sao?”

Trương Triệu Trọng vung trường kiếm lên hét lớn:

– “Trên đời chẳng ai là không chết. Chuyện sống chết Trương mỗ đã để ngoài tai rồi.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Dưới địa đạo trong đề đốc phủ ở Hàng Châu, Văn tứ gia và ta đã bắt được ngươi, nhưng tha không giết. Dưới chân Sư Tử Phong, ngoài đại doanh Triệu Tuệ, ta lại tha mạng ngươi hai lần nữa. Mới hôm trước, trong vòng vây bầy sói ta lại cứu ngươi một lần. Thế là Hồng Hoa Hội đối với ngươi đã hết lòng hết dạ, nhân nghĩa tận cùng rồi, không ngờ ngươi đến chết vẫn chưa chịu hiểu. Hôm nay bất luận thế nào, chúng ta cũng không tha ngươi.”

Trương Triệu Trọng nói:

– “Ngươi lên đi! Ta nhường ngươi trước bốn chiêu.”

Trần Gia Lạc hô lớn:

– “Được!”

Chàng lập tức phóng đến, tấn công liền hai chiêu. Trương Triệu Trọng đảo người né tránh, quả nhiên không đánh trả. Chân trái Trần Gia Lạc đá quét ngang qua, hắn tung người nhảy lên tránh. Đột nhiên Trần Gia Lạc thi triển Uyên Ương Liên Hoàn Thối, chân phải lại đá ra.

Theo quyền thuật thông thường, khi đối thủ đã nhảy khỏi mặt đất thì dĩ nhiên mình phải lập tức tấn công, vì đối thủ đang lơ lửng trên không thì khó tránh né hơn.

Thế mà phát đá thứ hai Trần Gia Lạc lại nhằm vào khoảng trống dưới chân hắn, nhưng bộ vị rất chính xác, kẻ địch rơi xuống đúng vào đòn cước của mình. Đây chính là yếu quyết tuyệt diệu của Bách Hoa Tá Quyền, khiến cho đối thủ bị bất ngờ khó đề phòng.

Viên Sĩ Tiêu thấy đồ đệ yêu quí sử dụng môn quyền thuật của mình sáng tác hết sức xảo diệu. Ông đắc ý, quay đầu lại hỏi Quan Minh Mai:

– “Thế nào?”

Trần Chính Đức giơ ngón tay cái lên nói:

– “Quả nhiên bất phàm!”

Trương Triệu Trọng mắt thấy Trần Gia Lạc sử dụng quái chiêu mà hết đường tránh né, chỉ còn cách lấy công làm thủ, vung kiếm ra chiêu Đẩu Bính Nam Chỉ đâm vào trước ngực chàng. Trần Gia Lạc phải thu cước về né tránh.

Chương Tấn la lên:

– “Đồ gian tặc vô sỉ! Ngươi nói là nhường bốn chiêu, sao mới sau ba chiêu đã đánh trả rồi?”

Trương Triệu Trọng gầm mặt xuống, không cãi được tiếng nào. Hắn vũ lộng thanh Ngưng Bích Kiếm, hàn quang chớp nhoáng đầy trời, kình phong rít lên veo véo, đâm chém tới tấp vào Trần Gia Lạc.

Lục Phi Thanh kinh hãi nghĩ thầm:

– “Võ công của tên gian tặc quả nhiên tiến bộ phi thường. Kiếm pháp của sư phụ năm xưa cũng không thần tốc đến thế.”

Ông cầm kiếm trong tay, chăm chú nhìn Trần Gia Lạc, hễ chàng thất thế một chút là xông vào cứu viện.

Hai người càng đánh càng nhanh, thân ảnh Trần Gia Lạc xuyên qua xuyên lại trong màn kiếm quang. Nhu Vân Kiếm Pháp của Trương Triệu Trọng tuy tinh xảo, nhưng nhất thời chưa làm gì chàng được.

Lý Nguyên Chỉ đang được Dư Ngư Đồng và Lạc Băng săn sóc. Lúc này nàng đã hồi tỉnh, cảm thấy trên vai trước ngực đau nhói từng cơn. Cố mở mắt ra nhìn, thấy Dư Ngư Đồng đang dìu đỡ mình, nàng cảm thấy có phần an ủi.

Dư Ngư Đồng hỏi:

– “Muội có đau lắm không? Đợi một lát, Lục sư thúc sẽ nắn xương lại cho muội. Muội cố chịu đựng một chút.”

Lý Nguyên Chỉ gượng cười, rồi lại nhắm mắt. Hương Hương công chúa nắm chặt tay tỉ tỉ mà hỏi:

– “Tại sao huynh ấy không dùng binh khí? Có thắng được hay không?”

Hoắc Thanh Đồng đáp:

– ”Chúng ta đông người như thế, muội đừng lo lắng.”

Tâm Nghiễn cũng nôn nóng vô cùng, chỉ muốn xông ngay vào tương trợ. Cậu nghe Hoắc Thanh Đồng nói vậy, bèn hỏi:

– “Cô nương thấy công tử không nguy hiểm hay sao?”

Hoắc Thanh Đồng nhớ lại chuyện cũ, liếc nó một cái rồi quay đi không thèm đáp. Tâm Nghiễn cũng muốn phân bua tạ lỗi, nhưng khổ nỗi lúc này cậu không dám rời mắt khỏi Trần Gia Lạc.

Văn Thái Lai trợn mắt tròn xoe, nhìn chòng chọc vào thanh Ngưng Bích Kiếm. Song câu của Vệ Xuân Hoa đã bị chém đứt mũi nhọn, nhưng y vẫn nắm chặt trong tay, thân thể căng cứng như một cây cung bị giương hết mức. Lạc Băng thủ sẵn ba lưỡi phi đao trong tay áo, ánh mắt không rời hậu tâm của Trương Triệu Trọng.

Lý Nguyên Chỉ lại mở mắt ra, nhìn về phía Đông rồi đột nhiên khẽ kêu lên. Dư Ngư Đồng quay lại nhìn, thấy phía trước xuất hiện một cảnh sắc kỳ ảo. Xa xa là một cái hồ rất lớn, sóng nước lăn tăn xanh biếc. Bên hồ có một ngọn tháp trắng rất cao, nhà cửa trùng điệp, đúng là một thành phố lớn. Dư Ngư Đồng kinh hãi suýt nhảy dựng lên, nhưng lập tức hiểu ra. Đây chỉ là hiện tượng hải thị thần lâu, thường nhìn thấy trong sa mạc. Những người còn lại để hết tâm thần vào trận chiến, nên không nhìn thấy.

Lý Nguyên Chỉ thều thào hỏi:

– “Cái gì vậy? Chúng ta về Hàng Châu rồi ư?”

Dư Ngư Đồng nói nhỏ nhẹ:

– “Đó chỉ là ảo ảnh, do ánh dương quang phản chiếu trên mặt cát nóng. Muội nhắm mắt lại, dưỡng thần một lát đi.”

Lý Nguyên Chỉ nói:

– “Không, bảo tháp đó là Lôi Phong Tháp ở Hàng Châu. Muội đã từng cùng gia gia đi đến đó chơi. Gia gia đâu? Muội muốn gặp gia gia.”

Dư Ngư Đồng đồng ý kết hôn với nàng chỉ là miễn cưỡng, vì muốn trả thù cho ân sư nên bất chấp mọi chuyện trên đời. Bây giờ thấy nàng bị thương nặng đến mức thần trí mơ hồ, chàng bất giác xót thương, tình cảm trìu mến nảy sinh. Chàng nhẹ nhàng vỗ vào lưng bàn tay nàng mà nói:

– “Bây giờ chúng ta lập tức quay về. Ta cũng rất muốn gặp gia gia của muội.”

Khóe miệng Lý Nguyên Chỉ lộ ra một nụ cười, hỏi:

– “Huynh là ai vậy?”

Thấy ánh mắt nàng mờ đục lạc thần, Dư Ngư Đồng kinh hoảng trả lời:

– “Ta là Dư sư ca của muội đây. Hai ta đã đính hôn rồi, từ đây ta nhất định sẽ đối xử tốt với muội.”

Lý Nguyên Chỉ rưng rưng nước mắt, kêu lên:

– “Trong lòng ca ca không thích muội, muội biết. Ca ca mau mau đi tìm gia gia giùm muội đi, muội sắp chết rồi.”

Nàng lại đưa mắt nhìn cảnh tượng huyền ảo kia, nói:

– “Đó là Tây Hồ. Gia gia của muội đang làm đề đốc ở cạnh Tây Hồ. Ông ấy… Ông ấy… Ca ca có biết ông ấy không?”

Dư Ngư Đồng bỗng thấy đau đớn trong lòng. Nàng đã cứu mình nhiều lần, mình nợ cả ân đức lẫn tình cảm, thế mà mình lại hoàn toàn không đếm xỉa gì đến nàng. Cũng vì mình mà nàng trọng thương sắp chết, bây giờ phải làm sao? Chàng bất giác đưa tay ra ôm chặt lấy nàng vào lòng, nói rất dịu dàng:

– “Ta thật sự thương yêu muội. Muội không chết đâu.”

Lý Nguyên Chỉ thở hắt ra một hơi.

Dư Ngư Đồng vội giục:

– “Muội nói đi, nói là muội không chết!”

Lý Nguyên Chỉ “hự” một tiếng, trước ngực nổi cơn đau nhói kịch liệt, lại ngất đi. Lúc nãy Trương Triệu Trọng giận dữ điên cuồng, vận hết sức bình sinh mà phóng chưởng. Chẳng những nàng bị trật một bên vai, mà trước ngực cũng bị chấn thương.

Hồi 19: Canh khuya oai vượt năm tòa điện – Hoàng hôn buồn hẹn vạn đời sau

Trương Triệu Trọng và Trần Gia Lạc xoắn vào nhau ác đấu, đã qua lại hơn trăm chiêu. Lúc đầu Trần Gia Lạc ỷ vào sự biến ảo của Bách Hoa Tá Quyền mà tấn công liên tục. Trương Triệu Trọng thì bị cường địch bao vây, không khỏi mất tinh thần, tuy trong tay có binh khí nhưng cũng không dám liều mạng tấn công. Hắn vừa phải chiết giải những chiêu thức phức tạp không thành chương pháp của đối phương, vừa cố tìm sơ hở để ra một đòn là khống chế ngay được Trần Gia Lạc. Hắn lại thấy Lạc Băng, Lục Phi Thanh và Hoắc Thanh Đồng đang thủ ám khí trên tay, lại phải nghiêm mật phòng thủ không dám để lộ ra chút sơ suất nào, đề phòng người đứng bên ám toán.

Vì Trương Triệu Trọng bị phân tâm như vậy, Trần Gia Lạc mới giữ được thế quân bình. Lát sau họ Trương bỗng nghĩ:

– “Cứ tiếp tục thế này thì ta không kết liễu được hắn. Mà cho dù ta thắng được, thì chúng lại tiếp tục xa luân chiến, không đánh chết ta thì cũng bắt ta mệt mỏi mà chết.”

Lúc này Trương Triệu Trọng đã hơi nắm được yếu quyết của Bách Hoa Tá Quyền, đỡ bị bất ngờ vì những quái chiêu của đối phương. Hắn tự tin hơn, kiếm pháp đột nhiên thay đổi, thi triển Nhu Vân Kiếm Pháp toàn những chiêu thức tấn công. Xuất tới chiêu Cánh Cánh Ngân Hà, thanh Ngưng Bích kiếm lướt ngang một cái rồi điểm tới trước mặt Trần Gia Lạc, chỉ một mũi kiếm mà như điểm pháp mọi nơi mọi chỗ, giống như những ngôi sao dày đặc trong giải ngân hà.

Trần Gia Lạc nhảy ra khỏi vòng chiến, định tránh khỏi mấy chiêu tấn công liên tiếp của hắn rồi sẽ đánh trả sau. Chiêu Cánh Cánh Ngân Hà chưa sử đến hết đà nên Trương Triệu Trọng không ngừng tay, cứ vung đến cùng. Soạt soạt hai tiếng, Chương Tấn và Vệ Xuân Hoa đứng gần đó đã bị hắn đả thương. Văn Thái Lai quát lên một tiếng, vung đao phóng tới, nhưng chợt thấy Trần Gia Lạc lướt qua mặt mình bèn dừng lại.

Trong mắt Trần Gia Lạc lúc này thì toàn thân Trương Triệu Trọng chỗ nào cũng có sơ hở. Chàng vỗ nhẹ hai chưởng vào mặt hắn. Hai phát chưởng này không mạnh mà cũng không nhanh lắm, nhưng bộ vị ảo diệu vô cùng, bất luận hắn cúi đầu tránh né thế nào cũng không kịp. Nghe “bốp bốp” hai tiếng, Trương Triệu Trọng liên tiếp trúng hai cái tát. Hắn vừa kinh hãi vừa giận giữ, vội lùi lại hai bước, trợn to mắt dữ tợn nhìn Trần Gia Lạc.

May mà Trương Tấn và Vệ Xuân Hoa bị thương không nặng lắm, Lạc Băng và Tâm Nghiễn lập tức chạy tới băng bó vết thương. Mọi người vây chặt tứ phía, quyết không để địch thủ có cơ hội thoát thân.

Trần Gia Lạc gác tréo song chưởng, lên tiếng gọi:

– “Lại xông vào đi!”

Chàng xoay người nửa vòng,chân phải đá một hư chiêu, sau lưng để lộ sơ hở rất lớn. Trương Triệu Trọng thấy cơ hội tốt bèn hạ thủ không chút lưu tình, chĩa ngay bảo kiếm đâm vèo tới.

Trong lúc mọi người la hoảng, Trần Gia Lạc quay lại dùng tay trái túm lấy bím tóc Trương Triệu Trọng, kéo vào Ngưng Bích Kiếm. Cái bím dài đen nhánh của hắn lập tức bị tiện đứt. Tay phải Trần Gia Lạc vỗ ra một cái, vai Trương Triệu Trọng lại trúng một chưởng.

Họ Trương liên tiếp bị đánh trúng ba chiêu, may mà không nặng lắm nên hắn chưa bị thương. Nhưng với bản lãnh của hắn mà không tránh né được, hơn nữa cũng không kịp thấy đối phương dùng thủ pháp gì, bị cắt đứt cả bím tóc, thật là sỉ nhục vô cùng. Dù sao thì hắn vẫn là cao thủ nội gia, lâm nguy không loạn, bèn lùi lại mấy bước, trấn tĩnh tinh thần để tiếp chiến.

Trần Gia Lạc cứ từ từ chậm rãi, chợt lui chợt tiến, bộ pháp và động tác tiêu sái vô cùng, Hoắc Thanh Đồng cả mừng, nói với Hương Hương công chúa:

– “Muội xem kìa! Đây chính là võ công mà chàng học được trong sơn động.”

Hương Hương công chúa vỗ tay, tươi cười rạng rỡ lại càng diễm lệ phi thường.

Trần Gia Lạc cứ chầm chậm phóng chưởng, hễ Trương Triệu Trọng đưa kiếm cản trở là lại thu tay về đánh tới chỗ khác. Bây giờ họ Trương chỉ còn đường phòng thủ cho nghiêm mật. Khi đối phương ép tới gần, hắn chỉ đánh trả mấy chiêu rồi lại thu kiếm về giữ chặt môn hộ.

Trần Chính Đức nói với Viên Sĩ Tiêu:

– “Viên đại ca! Hôm nay ta phục huynh sát đất. Đồ nhi của huynh bản lãnh đến thế này, đủ biết huynh tài giỏi đến mức nào.”

Viên Sĩ Tiêu im lặng không đáp, trong lòng cũng thấy bất ngờ về công phu của Trần Gia Lạc, chẳng những không phải do mình truyền dạy, mà mình cũng chưa từng thấy. Kiến thức của ông rất rộng, thế mà không biết quyền pháp Trần Gia Lạc đang sử dụng là của môn phái nào. Hồi lâu, ông mới nói:

– “Không phải ta dạy! Ta không biết loại võ công này.”

Thiên Sơn Song Ưng biết suốt đời Thiên Trì Quái Hiệp không nói dối không thêm bớt, câu này không phải khiêm cung khách sáo. Trong lòng họ lại càng âm thầm kinh ngạc.

Quyền pháp của Trần Gia Lạc lúc đầu vụng về không nhuyễn, nhưng càng lâu thì chàng càng ngộ ra được nhiều điều. Bộ vị xuất chiêu của những thi hài dũng sĩ Islam trong ngọc cung đều hiện rõ mồn một trong lòng. “Dĩ vô hậu, nhập hữu gian”, chàng nhìn ra những chỗ sơ hở trong chiêu thức của Trương Triệu Trọng dễ như nhìn vào bàn tay. Khi đã thấy chỗ sơ hở, thì công kích lần nào cũng gây khó khăn cho địch thủ.

Được khoảng trăm chiêu nữa, Trương Triệu Trọng đã tuôn mồ hôi đầy mình, áo quần ướt đẫm, rồi đột nhiên hắn thét lên một tiếng. Cổ tay của hắn đã bị Trần Gia Lạc điểm trúng, bảo kiếm buông rơi xuống đất. Trần Gia Lạc lại dùng cả hai tay đánh trúng hậu tâm của hắn, rồi thõng tay buông tiếng cười dài. Đòn này chàng vận đầy đủ kình lực, lợi hại vô cùng.

Trương Triệu Trọng loạng choạng bước đi mấy bước, giống hệt một tên say rượu. Chương Tấn vừa chửi mắng vừa định xông lên đánh thêm mấy cái, nhưng y bị Lạc Băng kéo lại. Họ Trương bước thêm hai bước nữa thì đứng không vững, ngã lăn xuống đất. Quần hùng mừng rỡ, Từ Thiên Hoàng và Tâm Nghiễn xông tới đè hắn xuống, trói nghiến lại. Sắc mặt Trương Triệu Trọng xanh nhợt như tàu lá chuối, hoàn toàn không kháng cự.

Dư Ngư Đồng quay lại nhìn Lý Nguyên Chỉ thấy nàng vẫn chưa tỉnh, lộ vẻ lo lắng.

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Sư phụ! Lục lão tiền bối! Bắt được tên ác tặc rồi, bây giờ chúng ta làm gì?”

Dư Ngư Đồng nghiến răng nói:

– “Đem đi nuôi sói! Hắn đã hạ độc thủ hại chết sư phụ, bây giờ phải… phải…”

Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Hay lắm! Bắt hắn đi nuôi sói. Ta cũng muốn tới xem thử bầy sói đói ra sao rồi.”

Mọi người đều biết tên gian tặc này đã làm nhiều điều tàn ác, xử tử là đúng tội. Lục Phi Thanh đã nắn lại chỗ trật khớp vai của Lý Nguyên Chỉ, dùng dây bó chặt lại. Viên Sĩ Tiêu lấy thêm một viên Tuyết Sâm Hoàn cho nàng uống, cầm tay xem mạch rồi bảo Dư Ngư Đồng:

– “Ngươi yên tâm đi! Vợ ngươi không chết đâu.”

Lạc Băng mỉm cười, khẽ bảo:

– “Đệ ôm cô ấy càng chặt thì cô ấy càng mau khỏi.”

Mọi người cùng đi về hướng tòa thành cát đang nhốt bầy sói, không ai là không vui mừng hớn hở. Dọc đường Viên Sĩ Tiêu hỏi về lai lịch bộ quyền pháp Trần Gia Lạc vừa sử dụng, chàng liền kể rõ cho mọi người biết, Viên Sĩ Tiêu cả mừng nói:

– “Đây thật sự là một kỳ duyên, chỉ có thể tình cờ mà gặp chứ không thể cưỡng cầu.”

* * *

Mấy hôm sau, mọi người đã đến thành cát. Trèo lên tường thanh đứng nhìn vào bên trong, họ thấy bầy sói đã ăn sạch lạc đà, ngựa và cừu, bây giờ đang giành giật những cái xác của đồng loại chết trước. Bầy sói điên cuồng cấu xé lẫn nhau, cảnh tượng thảm khốc phi thường. Quần hùng không ai là không kinh hãi, Hương Hương công chúa lại càng không sao nhìn nổi. Nàng rời khỏi tường thành, xuống nói chuyện với những người Hồi đang canh gác.

Dư Ngư Đồng kéo Trương Triệu Trọng lên đầu tường thành, âm thầm khấn vái:

– “Ân sư ở trên trời có hiển linh xin về chứng giám. Hôm nay đồ nhi và bằng hữu đã báo cừu tuyết hận cho ân sư rồi!”

Chàng nhận lấy đơn đao từ trên tay Từ Thiên Hoằng, cắt đứt dây trói tay chân Trương Triệu Trọng, rồi phóng chân quét ngang qua, đá hắn lọt vào trong thành. Họ Trương tay chân bủn rủn, hoàn toàn không kháng cự. Bầy sói không đợi hắn rơi tới đất, thi nhau nhảy lên không trung mà giành giật.

Trương Triệu Trọng bị Trần Gia Lạc đánh trúng hai chưởng, vết thương không nhẹ, nhưng nhờ nội lực thâm hậu nên dưỡng sức mấy ngày đã khỏe hơn nhiều. Hắn suy nghĩ nát óc vẫn không hiểu nổi tại sao võ công của Trần Gia Lạc lại tiến bộ vượt bậc như thế.

Hắn bị đá lọt vào thành sói, không dám hy vọng được sống nữa, nhưng trước khi chết cũng phải hết sức giãy giụa một phen. Chân hắn sắp chạm tới đất, bảy tám con sói đói đã phóng lên tới nơi. Hắn trợn trừng cặp mắt đỏ ngầu, vung hai tay ra, mỗi tay nắm lấy cổ một con sói đói, quét một vòng xung quanh, lập tức ép được đám sói đói đó rơi trở xuống đất. Hắn từ từ lùi lại, dựa lưng vào tường thành, đứng yên một góc mà ác đấu với bầy sói. Hai tay nắm hai con sói, hắn thi triển võ công Song Chùy của phái Võ Đang phát ra tiếng gió vù vù, nhất thời không cho bầy sói tiến sát vào mình.

Quần hùng đều biết là hắn chắc chắn phải chết. Tuy rất hận hắn gian xảo ác độc, nhưng không nỡ nhìn thấy cảnh tượng đó, bèn kéo nhau xuống khỏi tường thành. Trần Gia Lạc và Lạc Băng có tấm lòng mềm yếu nhất, xuống đầu tiên.

Lục Phi Thanh cặp mắt đầy lệ, vừa thương xót vừa phẫn hận, đứng lại một mình nhìn Trương Triệu Trọng sử dụng hai mươi bốn chiêu Phá Kim Chùy. Một con sói đói bỗng lăn xả tới cắn vào đùi, họ Trương vội rút chân lại, nhưng răng sói đã xé rách một mảnh vải dài trên quần của hắn. Trong đầu Lục Phi Thanh đột nhiên tái hiện một chuyện cũ, bốn mươi mấy năm trước. Hôm đó ông và Trương Triệu Trọng trốn sư phụ, lén xuống thị trấn mua ít quà bánh. Họ Trương té ngã, quần bị đá nhọn cào rách một đường. Hắn vừa tiếc cái quần vừa sợ sư phụ trách mắng, bèn òa lên khóc. Lục Phi Thanh suốt dọc đường phải an ủi, khi trở về núi lập tức lấy kim chỉ ra vá lại quần cho sư đệ.

Ông lại nghĩ, bộ Phá Kim Chùy này là do mình đích thân chỉ điểm cho sư đệ. Năm xưa Trương Triệu Trọng vừa khôi ngô vừa thông minh lạ thường, luyện võ rất siêng năng. Tình cảm giữa hai sư huynh đệ chẳng khác nào anh em ruột. Không ngờ sau này hắn lại tham lam phú quí, càng lúc càng lún sâu hơn vào vũng lầy công danh.

Thấy thảm trạng của sư đệ trước mắt, Lục Phi Thanh không nén nổi nước mắt tuôn xuống như mưa. Ông nghĩ:

– “Tuy tội nghiệt của hắn rất sâu, nhưng mình vẫn nên cho hắn một con đường sửa lỗi, giúp hắn trở lại thành người tốt.”

Ông bèn hô lớn:

– “Sư đệ! Ta đến cứu ngươi đây.”

Rồi ông tung người nhảy vào trong thành sói. Mọi người đứng bên đều kinh hãi la lên.

Lục Phi Thanh chân chưa chạm đất, thanh Bạch Long Kiếm đã múa thành một vùng kiếm hoa, đẩy bạt bầy sói ra ngoài. Ông đứng cạnh Trương Triệu Trọng mà nói:

– “Sư đệ đừng sợ!”

Trương Triệu Trọng biết tính mạng chỉ còn trong khoảnh khắc, thần trí rối loạn, trong đầu toàn những tư tưởng oán hận và độc ác. Lúc này hắn mất hết tính người, hệt như một con sói hung dữ vậy. Đột nhiên hắn quăng hai con sói đi, chồm tới ghì chặt lấy Lục Phi Thanh, la lên:

– “Ngươi phải chết chung với ta! Mọi người đừng hòng sống sót!”

Lục Phi Thanh hoàn toàn bị bất ngờ, để rơi thanh Bạch Long kiếm xuống đất. Hai cánh tay ông đã bị hắn ôm chặt sát vào thân, giống như bị một cái vòng thép khóa chặt lại vậy. Ông vận công cố giãy giụa, nhưng thú tính của Trương Triệu Trọng đã nổi lên, quyết tâm chết cùng với ông một lúc, làm sao mà ông giẫy thoát ra nổi?

Bầy sói thấy hai người lăn lôn dưới đất, lập tức phóng vào cắn xé. Hai người đều vận nội lực cố lật đối phương lên trên, để đối phương bị bầy sói ăn thịt trước.

Trần Gia Lạc và quần hùng đang ở dưới chân tường thành, đột nhiên nghe trong thành có tiếng hô hoán, lập tức kinh hãi phóng lên đầu tường. Lúc này Lục Phi Thanh thấy mình vì lòng tốt mà bị thảm báo như vậy, cơn giận nổi lên, tay chân đột nhiên bủn rủn. Lập tức ông bị Trương Triệu Trọng dùng cầm nã thủ bắt lấy cổ tay, không phản kháng được nữa.

Trương Triệu Trọng đưa tay trái giật một cái, tay phải hất lên, lật Lục Phi Thanh nằm che trên người mình. Đột nhiên hắn tỉnh ngộ, nhận ra sư huynh bèn kêu lên:

– “Sư ca! Sư ca đấy ư? Lúc nào sư ca cũng đối xử với tiểu đệ rất tốt, hệt như anh ruột vậy…”

Hắn vội vã lật người lên nằm trên Lục Phi Thanh, che chắn ông khỏi móng vuốt sắc bén của bầy sói dữ. Hai con sói đã cắn ngập vào lưng hắn, mọi người đều la lên kinh hãi.

Văn Thái Lai lập tức nhảy xuống, múa tít đơn đao, liên tiếp chém chết mấy con sói, bầy sói lại lùi ra mấy trượng. Dư Ngư Đồng giật lấy đơn đao trong tay Từ Thiên Hoằng nhảy theo. Vì tường thành quá cao, chàng loạng choạng một cái mới đứng vững được, tình cờ mũi đao lại ghim ngay vào vai Trương Triệu Trọng. Họ Trương gào lên một tiếng cuối cùng, cánh tay đang ôm Lục Phi Thanh lập tức lỏng ra.

Lúc này quần hùng đã thòng sợi dây dài xuống, kéo Lục Phi Thanh và Dư Ngư Đồng lên trước, rồi kéo Văn Thái Lai lên. Sau đó họ nhìn xuống, thấy bầy sói đã nhai xương Trương Triệu Trọng nghe rau ráu. Tim mọi người đều đập thình thịch, nhất thời không ai nói được tiếng nào. Nghĩ đến chuyện nguy hiểm vừa rồi, trong lòng mọi người đều cảm thấy có phần may mắn.

Hồi lâu Lạc Băng mới lên tiếng:

– “Lục bá bá! Thanh Bạch Long Kiếm của bá bá không lấy lên được, thật là đáng tiếc.”

Viên Sĩ Tiêu nói:

– “Một hai tháng nữa bầy sói đói này chết sạch, có thể lấy lại dễ dàng.”

Lục Phi Thanh im lặng rơi nước mắt.

* * *

Đến xế chiều, sau khi dựng trại, Trần Gia Lạc kể sư phụ nghe tình hình mấy lần gặp Càn Long. Viên Sĩ Tiêu nghe hết đầu đuôi, không dấu vẻ khinh miệt. Ông lấy trong bọc ra một cái túi bằng vải vàng, đưa Trần Gia Lạc rồi nói:

– “Mùa xuân năm nay, nghĩa phụ của ngươi đã sai Thường thị huynh đệ đến nhờ ta giữ giùm cái túi vải này, nói là trong đó có hai vật rất quan trọng. Họ không nói là vật gì, mà ta cũng chưa từng mở ra xem. Không chừng đó là những vật chứng mà hoàng đế cần lấy.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Nhất định là thế rồi! Nghĩa phụ đã có di mạng, bây giờ đồ nhi mở ra xem thử.”

Chàng mở cái túi vải ra, thấy bên trong còn bọc ba lớp giấy dầu rất chắc chắn. Trong cùng là hai lá thư, vì đã trải qua bao năm tháng nên màu giấy đã vàng khè. Trên bì thư không có chữ.

Trần Gia Lạc rút lá thư đầu tiên ra, thấy trên giấy có hai dòng chữ:

– “Thế Quan tiên sinh túc hạ. Ông sai người mang thằng con mới sinh vào cho ta xem.”

Bên dưới có ký hai chữ “Ung Để”. Chữ viết rất tháu, nhưng nét bút tròn trịa. Ngoài ra còn có một dấu son rất nhỏ, ghi bốn chữ “Tứ thời ưu du”.

Viên Sĩ Tiêu đọc không hiểu gì cả, bèn hỏi:

– “Lá thư này có ý nghĩa gì mà nghĩa phụ của ngươi lại xem nó quan trọng như thế?”

Trần Gia Lạc đáp :

– “Đây là thư của hoàng đế Ung Chính viết.”

Viên Sĩ Tiêu hỏi:

– “Sao ngươi biết?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Trong nhà đồ nhi có rất nhiều thủ bút của các hoàng đế nhà Thanh ban thưởng, Khang Hy, Ung Chính, Càn Long đều có cả. Đồ nhi thấy bút tích của họ là nhận ra ngay.”

Viên Sĩ Tiêu mỉm cười nói:

– “Chữ của Ung Chính không tồi, nhưng tại sao văn chương lại thô lậu đến thế?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Đồ nhi từng thấy hắn phê vào tấu chương của tiên phụ gỏn lọn mấy chữ: Hiểu rồi, Khâm thử.”

Khi nhắc đến những người mà hắn không thích, thì lại viết:

– “Thằng này láu cá, phải cẩn thận. Khâm thử.”

Viên Sĩ Tiêu cười ha hả rồi nói:

– “Chính hắn cũng là một thằng láu cá, quả nhiên phải cẩn thận đề phòng.”

Lát sau ông lại nói:

– “Lá thư này do Ung Chính viết thì cũng đâu có gì quan trọng?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Lúc viết lá thư này, hắn chưa làm hoàng đế.”

Viên Sĩ Tiêu hỏi:

– “Sao ngươi biết?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Hắn ký hai chữ “Ung Để”, đó chính là tên phủ đệ khi hắn còn là bối lặc. Hơn nữa, khi đã là hoàng đế rồi thì hắn sẽ không gọi tiên phụ là tiên sinh nữa. Bốn chữ trên con dấu lại ra vẻ hắn không muốn làm hoàng đế, chỉ cầu được nhàn du trong những ngày sắp tới. Chứ “Tứ” còn hàm ý hắn là Tứ A Ca.”

Viên Sĩ Tiêu gật đầu. Trần Gia Lạc đếm ngón tay để tính nhẩm ngày tháng, suy nghĩ một lúc rồi lẩm bẩm:

– “Ung Chính chưa làm hoàng đế, lúc đó mình chưa sinh ra, nhị ca cũng chưa ra đời, con mới sinh phải là tỷ tỷ. Nhưng trong thư lại nói:

– Thằng con mới sinh…”

Nghĩ đến truyện Văn Thái Lai đã kể trong địa đạo, chàng bỗng la lên:

– “Đây đúng là chứng cớ tuyệt vời.”

Viên Sĩ Tiêu hỏi:

– “Cái gì?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Ung Chính đưa đại ca của đồ nhi vào trong cung, khi trả về lại là một bé gái. Cô gái đó chính là đại tỉ của đồ nhi, thật ra lại là công chúa con Ung Chính. Còn đại ca thật sự của đồ nhi thì đang làm hoàng đế.”

Văn Sĩ Tiêu hỏi:

– “Càn Long ư?”

Trần Gia Lạc gật đầu, rồi rút lá thư thứ hai ra. Chàng vừa nhìn thấy bút tích đã không nén nổi chua xót trong lòng, ứa nước mắt ra. Viên Sĩ Tiêu hỏi:

– “Gì thế?”

Trần Gia Lạc nghẹn ngào đáp:

– “Đây là bút tích của tiên mẫu.”

Chàng lau nước mắt, mở lá thư ra đọc:

– “Đình ca! Chúng ta có duyên mà không có phận, muội thật không biết phải nói gì, chỉ ngày đêm mong nhớ canh cánh chẳng lúc nào nguôi. Tiếc là anh hùng đỉnh thiên lập địa như ca ca mà vừa bị muội phụ nghĩa, vừa không được ở lại sư môn. Muội sinh được ba con, Đại Quan ở chốn thâm cung, Tam Quan ở vùng sa mạc. Chỉ có Nhị Quan kề cận, nhưng nó khờ dại ham chơi, bản tính ngoan cố, nhân phẩm rất xấu, khiến muội vừa lo lắng vừa đau lòng. Tam Quan thông minh lanh lợi, đã phó thác cho minh sư, muội tuy thương nhớ nhưng không phải lo lắng chút nào. Đại Quan thì không biết thân thế của mình, nghiễm nhiên làm hoàng đế cho ngoại tộc.

Đình ca! Ca ca hãy vì muội mà nói cho nó biết thân thế của mình. Bên mông trái của nó có một cái bớt son, lấy đó làm bằng chứng thì chắc chắn nó sẽ tin. Tinh lực muội ngày một yếu đi, ngày đêm chỉ thấy những hình ảnh vui cùng ca ca trong thời niên thiếu. Mong hoàng thiên thương xót, từ kiếp sau trở đi, đời đời kiếp kiếp đôi ta được thành quyến thuộc. Muội muội Triều Sinh thủ bút.”

Đọc thư xong Trần Gia Lạc kinh hãi, run bần bật mà hỏi:

– “Sư phụ! Đình ca trong lá thư này, chẳng lẽ chính là nghĩa phụ của đồ nhi?”

Viên Sĩ Tiêu ủ rũ đáp:

– “Chứ còn gì nữa! Hồi niên thiếu ông ấy đã có tình ý với mẫu thân ngươi. Sau này hoàng thiên chẳng biết chiều người, tách đôi uyên ương này mỗi người một ngả. Vì thế mà suốt đời ông ấy không thành gia thất.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Sao mẫu thân lại giao đồ nhi cho nghĩa phụ dẫn đi, lại bảo coi nghĩa phụ như cha ruột?”

Viên Sĩ Tiêu không đáp, lại nói:

– “Tuy ta cùng nghĩa phụ của ngươi là tri kỷ, nhưng ta chỉ biết vì ông ấy vi phạm môn quy của phái Thiếu Lâm mà bị trục xuất ra khỏi sư môn. Những chuyện đáng thẹn như vậy, chính ông ấy không nhắc tới thì người khác không tiện hỏi han. Nhưng ta tin rằng ông ấy là hảo hán tử quang minh lỗi lạc, chắc chắn không làm những việc trái với lương tâm.”

Ông tức giận vỗ đùi một cái rồi nói tiếp:

– “Năm xưa, khi ông ấy bị trục xuất khỏi chùa Thiếu Lâm Phúc Kiến, ta đoán chắc là ông ấy bị oan ức gì không rõ. Ta bèn triệu tập võ lâm đồng đạo, kéo lên chùa Thiếu Lâm tìm phương trượng chưởng môn mà cãi lý, suýt nữa đã làm võ lâm nổi sóng. Sau đó nghĩa phụ của ngươi đứng ra bênh vực, cứ nói tới nói lui là mình không tốt, trị tội không oan, ta mới chịu thôi. Nhưng mãi đến nay ta vẫn không tin là ông ấy lầm lỗi, gây hại gì cho người khác. Trừ phi bọn hòa thượng trong chùa Thiếu Lâm có quy luật gì cổ quái, thì chuyện đó ta không biết được.”

Nói tới đây, ông lại càng giận dữ hơn.

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Sư phụ! Việc của nghĩa phụ đồ nhi, sư phụ biết chừng đó thôi sao?”

Văn Sĩ Tiêu nói:

– “Sau khi bị trục xuất khỏi sư môn, ông ấy ẩn cư vài năm rồi sáng lập Hồng Hoa Hội, cuối cùng cũng dựng nên đại nghiệp oanh oanh liệt liệt.”

Trần Gia Lạc muốn hỏi về thân thế của mình, nhưng Viên Sĩ Tiêu lại kể đến những chuyện năm xưa về nghĩa phụ Vu Vạn Đình. Rõ ràng đến bây giờ họ Viên vẫn còn bất bình về vụ đó.

Trần Gia Lạc lại hỏi:

– “Tại sao nghĩa phụ và mẫu thân của đồ nhi lại bắt đồ nhi rời khỏi gia đình, sư phụ có hiểu không?”

Viên Sĩ Tiêu cứ giận dữ nói tiếp:

– “Sư phụ triệu tập nhân mã để đứng ra đòi lại công bằng cho nghĩa phụ của ngươi, nhưng đột nhiên ông ấy lại đứng ra nhận hết lỗi lầm về bản thân mình, hệt như dội một thau nước lạnh lên đầu của mọi người. Lúc ấy ta thật không biết giấu mặt vào đâu nữa. Vì thế ta không muốn quan tâm đến những chuyện đã qua của ông ấy. Ông ấy gửi ngươi đến đây, thì ta chỉ biết tận tâm nuôi dưỡng truyền dạy võ nghệ cho ngươi, cuối cùng cũng tự thấy mình xứng đáng với chuyện người ta giao phó.”

Trần Gia Lạc biết hỏi nữa cũng chẳng được gì. Chàng nghĩ bụng:

– “Mưu đồ quang phục nhà Hán là chuyện rất lớn, mà mấu chốt chính là thân thế của đại ca. Nếu bên trong có sơ xuất chút nào, thì những công trình trước đây coi như uổng phí. Việc này cần nhất là phải thành công, còn sớm muộn mấy năm thì không phải là vấn đề. Nhất định ta phải đến chùa Thiếu Lâm ở Phúc Kiến để dò hỏi rõ ràng, khi đó Ung Chính tráo con như thế nào. Đại ca của mình là người Hán, sao Ung Chính lại dám cho kế ngôi hoàng đế? Đến đó, nhất định mình có thể hỏi ra manh mối.”

Chàng hỏi ý sư phụ, Viên Sĩ Tiêu đáp:

– “Không sai! Đi hỏi được tỉ mỉ thì tốt, chỉ sợ lão hòa thượng cổ quái đó không chịu nói.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Nếu thế thì đành phải thừa cơ mà hành sự.”

Hai sư đồ đàm luận một hồi nữa, Trần Gia Lạc nhắc đến võ công học được trong ngọc phong. Điểm cốt yếu là chiêu thức của mình phải giống như Bao Đinh Giải Ngưu, nhìn thấy những chỗ sơ hở trống trải rất nhỏ của đối phương mà tấn công vào. Cầm con dao mổ bò mà lách vào khoảng trống không gân không xương, có thể mổ trăm ngàn con bò mà dao không sứt mẻ.

Ấn chứng với sư phụ, Trần Gia Lạc ngộ thêm không ít những chỗ tinh diệu. Hai người ra khỏi lều vừa nói chuyện vừa luyện tập thật là hứng thú. Chợt nhận ra trời đã sáng hẳn, họ mới về lều nghỉ ngơi.

Văn Sĩ Tiêu lại hỏi:

– “Hai cô nương người Hồi đều rất tốt. Rốt cuộc ngươi thích cô nào?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Đời Hán, Hoắc Khứ Bênh đã nói: Hung Nô chưa diệt, gia thất chưa thành. Đệ tử cũng có ý này.”

Viên Sĩ Tiêu khen:

– “Rất có chí khí! Ta phải kể lại với Thiên Sơn Song Ưng, để họ khỏi trách ta dạy ra một tên đồ đệ hư hỏng.”

Thanh âm của ông đầy vẻ đắc ý. Trần Gia Lạc kinh ngạc hỏi:

– “Vợ chồng Trần lão tiền bối chê đệ tử không tốt ở điểm nào?”

Viên Sĩ Tiêu cười nói:

– “Họ trách ngươi có mới nới cũ, gặp em quên chị. Ha ha… Thật ra ba ngươi cùng tốt với nhau, có gì là không được?”

Trần Gia Lạc nhớ lại đêm đó Song Ưng bỏ đi không từ biệt, để lại tám chữ lớn trên mặt cát, thì ra là vì chuyện đó. Chàng không nén nổi kinh hãi trong lòng.

Hôm sau Trần Gia Lạc nói cho quần hùng biết mình phải đi Thiếu Lâm Tự ở Phúc Kiến một phen, rồi tạm biệt Viên Sĩ Tiêu, Thiên Sơn Song Ưng và chị em Hoắc Thanh Đồng. Hương Hương công chúa bịn rịn không nỡ chia tay. Trong lòng Trần Gia Lạc cũng thấy bứt rứt. Phen này từ biệt, không biết đến bao giờ mới gặp lại nhau. Nếu hoàng thiên phù hộ cho hoàn thành đại sự, sau này chắc chắn có lúc trùng phùng. Nếu không, hết thảy anh em vùi mình trong Trung thổ, không thể trở về Hồi Cương được nữa.

Hai cô gái tiễn chân một đoạn đường dài. Đương nhiên trong lòng Hoắc Thanh Đồng cũng ngổn ngang trăm mối, nhưng nàng ra vẻ cứng rắn để hối thúc muội muội quay về. Hương Hương công chúa mãi không chịu nghe lời.

Trần Gia Lạc lấy hết dũng khí để nói:

– “Muội muội về cùng tỉ tỉ đi.”

Hương Hương công chúa gạt nước mắt rồi dặn:

– “Nhất định huynh phải trở lại đây.”

Trần Gia Lạc gật đầu. Hương Hương công chúa lại nói:

– “Huynh mười năm không trở lại, muội sẽ đợi huynh mười năm. Huynh một đời không trở lại, muội sẽ đợi huynh một đời.”

Trần Gia Lạc muốn tặng nàng một kỷ vật để nàng đỡ nhớ nhung khi mình không có ở đây. Chàng thò tay vào túi tìm kiếm, bỗng chạm vào một vật ấm áp, đó là miếng ôn ngọc mà Càn Long đã tặng ở bên đê chắn sóng. Chàng lấy miếng ôn ngọc ra đặt vào tay Hương Hương công chúa, dịu dàng khẽ nói:

– “Muội nhìn thấy miếng ngọc này cũng như nhìn thấy ca ca.”

Hương Hương công chúa nói trong nước mắt:

– “Nhất định muội phải gặp huynh. Dù phải chết đi nữa, muội cũng gặp huynh rồi mới chết.”

Trần Gia Lạc cố cười:

– “Sao muội phải thương tâm như thế? Đợi khi đại sự thành công, chúng ta sẽ cùng lên Vạn Lý Trường Thành ở ngoại thành Bắc Kinh mà thưởng ngoạn.”

Hương Hương công chúa ngẩn ngơ một lúc, miệng hơi lộ ra một nụ cười, nói:

– “Huynh nói gì thì đừng quên nhé!”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Đã bao giờ ca ca gạt muội chưa?”

Bấy giờ Hương Hương công chúa mới thôi không đi theo nữa. Thỉnh thoảng Trần Gia Lạc quay lại nhìn, thấy hình bóng hai tỉ muội dần dần mờ nhạt, rồi mất hút trong sa mạc. Quần hùng cho ngựa từ từ tiến bước.

Phen này giết được Trương Triệu Trọng, Dư Ngư Đồng đã báo đại thù, trong lòng an ủi. Chàng lại nảy ra tình cảm với Lý Nguyên Chỉ, dọc đường không tránh né gì nữa, trìu mến chăm sóc vết thương cho nàng.

Đi được vài ngày thì quần hùng về đến nhà A Phàm Đề, không may là vị quái hiệp cưỡi lừa đeo chảo lại đang đi vắng. Chu Ỷ nghe nói Trương Triệu Trọng đã chết, thù em đã báo, hết sức vui mừng. Trần Gia Lạc muốn để Từ Thiên Hoằng ở lại với nàng tại Hồi Cương, đợi sinh nở song, thân thể khỏe mạnh rồi mới trở về Trung Nguyên. Nhưng Chu Ỷ sợ vùng này buồn chán, lại nghe mọi người định đến Thiếu Lâm Tự ở Phúc Kiến, phen này có thể gặp được gia gia nên nhất định đòi theo. Mọi người không sao cản được, đành phải dẫn nàng đi cùng. Từ Thiên Hoằng thuê một chiếc xe lớn, để vợ và Lý Nguyên Chỉ ngồi cho đỡ mệt.

Vào trong Gia Cốc Quan thì khí trời dần dần ấm áp, đã cảm thấy hơi hám mùa xuân. Càng tiến về phía nam, trời càng oi bức. Việc đi đứng của Chu Ý cũng càng lúc càng khó khăn hơn.

Vết thương của Lý Nguyên Chỉ đã đỡ nhiều. Nàng không đi xe nữa mà chuyển sang cưỡi ngựa, dọc đường cứ liền miệng nói chuyện với Lạc Băng. Quần hùng đều phải ngạc nhiên, không hiểu tại sao hai người có nhiều chuyện để nói đến thế, nói hoài không dứt.

* * *

Một hôm mọi người đến địa giới tỉnh Phúc Kiến, thấy núi đầy hoa cỏ, bướm chim bay múa khắp nơi. Trần Gia Lạc chợt nghĩ:

– “Nếu Kha Tư Lệ có ở đây, nhìn thấy vô số hoa tươi như vậy, không biết nàng sẽ vui mừng đến thế nào.”

Vài ngày nữa thì đến thành Đức Hóa, đoàn người định tìm một tửu lầu để uống rượu ăn cơm. Lúc đi ngang nha môn, họ thấy dọc đường cái có khoảng ba chục nam nhân đeo gông, tay chân đều bị xiềng xích, xếp thành một dãy ở chân tường. Người nào cũng cúi đầu ủ rũ, thần sắc rất tiều tuỵ. Nắng đang cháy bỏng mà họ bị phơi trần mình ra, có người thở thoi thóp, rõ ràng sắp ngã xuống chết ngay tại chỗ.

Mười mấy tên sai dịch cầm roi da đứng cạnh, liên tục quát mắng:

– “Bọn bay mau mau giao nộp quần lương, chúng ta sẽ thả ra lập tức.”

Chu Ỷ nhịn không nổi bèn hỏi:

– “Này, họ phạm vào vương pháp gì vậy? Đã bị gông xiềng còn phải phơi nắng, thật là tội nghiệp.”

Một tên hình như là chỉ huy của bọn sai dịch đáp:

– “Các ngươi là dân xứ khác thì mau mau rời khỏi đây đi, đừng nhúng tay vào việc của người khác.”

Chu Ý cãi:

– “Việc của thiên hạ thì người thiên hạ phải lo. Sao gọi là nhúng tay vào việc của người khác?”

Tên chỉ huy bèn lấy roi da chỉ vào một bản văn đang dán trên tường, quát hỏi:

– “Ngươi có biết chữ hay không? Đại quan Phương phiên đài trên tỉnh đã đích thân tới thành Đức Hóa này để thôi thúc quân lương. Hoàng thượng muốn ra quân bình định Hồi Cương, chuyện lương thảo đâu có đùa giỡn được? Người đi đường mà đến đây lải nhải, bổn quan phải bắt nhốt để đóng gông thị chúng.”

Tiếng Phúc Kiến không phải dễ nghe, Chu Ý mặc kệ hắn nói gì thì nói không thèm để ý. Trần Gia Lạc cùng mọi người nhìn vào bản văn, quả nhiên là phiên đài của tỉnh Phúc Kiến đến đây đôn đốc việc trưng lương. Cáo thị cũng nói, quân lương gấp như cứu hỏa, tên ngu dân nào kháng cự không chịu nạp thì nghiêm trị không tha.

Một người đang bị xiềng bỗng la lên:

– “Làm ơn làm phúc đi! Bọn tiểu nhân không phải là không chịu nộp, nhưng ngay một lúc phải nộp mầy chục lượng bạc, thì chém đứt đầu tiểu nhân cũng không lấy đâu ra được.”

Tên sai dịch liền quất cho người đó một roi, quát mắng:

– “Ngươi còn dám kêu la nữa, thì ta phải chém đứt đầu ngươi trước.”

Hắn vung roi lên định quất nữa, nhưng Chu Ý đã bước tới nắm chặt lấy ngọn roi. Từ Thiên Hoằng bỗng kêu lên:

– “Ỷ muội, khoan đã!”

Chu Ý buông chiếc roi da ra, hỏi lại:

– “Gì thế?”

Từ Thiên Hoằng chỉ vào bản văn mà nói:

– “Phương phiên đài này họ Phương, tên Hữu Đức.”

Chàng hạ giọng nói tiếp:

– “Không biết có phải cái thằng Phương Hữu Đức con mẹ nó hay không?”

Mọi người bước vào một tửu lâu. Sau khi tửu bảo rót rượu, Từ Thiên Hoằng nói với Trần Gia Lạc:

– “Tổng đà chủ! Xin cho phép thuộc hạ báo thù rửa hân. Không chừng tên Phương Hữu Đức này chính là đại cừu nhân của gia đình thuộc hạ. Trước đây hắn từng làm tri phủ Thiệu Hưng ở tỉnh Triết Giang, hại chết cả nhà thuộc hạ. Thuộc hạ chưa báo được thù vì tìm hắn mãi mà không thấy, không ngờ gặp hắn ở đây. Nhưng không biết có đúng là hắn không, phải điều tra cho rõ ràng trước đã…”

Chu Ỷ tức giận ngắt lời:

– “Không cần điều tra nữa! Loại cẩu quan này có giết dư một hai tên cũng không phải giết nhầm.”

Trần Gia Lạc chậm rãi nói:

– “Nếu là tên đó, thì mối thù cả giết gia đình Thất ca sẽ được rửa. Phương Hữu Đức tuổi tác khoảng bao nhiêu rồi?”

Từ Thiên Hoằng đáp:

– “Hình như đã ngoại lục tuần.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Nếu hôm nay buông tha cho hắn, thì mấy năm nữa hắn cũng lâm trọng bệnh mà mất mạng.”

Chu Ỷ lớn tiếng:

– “Vậy thì mối thù của Thất huynh sẽ vĩnh viễn không trả được.”

Trần Gia Lạc suy nghĩ một lúc rồi nói:

– “Chúng ta đang có đại sự bên mình. Thất ca, chúng ta phải cân nhắc một chút. Nên giết chết Phương Hữu Đức để trả thù, nhưng đừng để dính líu tới Hồng Hoa Hội.”

Từ Thiên Hoằng nói:

– “Chúng ta còn phải lo cướp lương tiền trả lại cho dân chúng Phúc Kiến, để bọn chúng không thể triển khai đại quân đi đánh Hồi tộc.”

Lục Phi Thanh cũng nói:

– “Trên thiên hạ có nhiều người cùng họ cùng tên. Từ hiền điệt! Hai chúng ta phải đến nha môn điều tra cho rõ, xem thử tên Phương Hữu Đức này có phải kẻ thù hiền điệt hay không?”

Tứ Thiên Hoằng đáp:

– “Tiền bối chỉ dạy rất phải, xin đa tạ trước.”

Mọi người nhanh chóng ăn xong bữa cơm, rồi đi tìm khách điếm nghỉ lại, chỉ có Từ Thiên Hoằng theo Lục Phi Thanh ra ngoài xem xét. Chu Ỷ lo lắng chuyện trả thù của Từ Thiên Hoằng nên đứng ngồi không yên, đi qua đi lại trước cửa khách điếm không ngừng.

Đến tận xế chiều Từ Thiên Hoằng mới rảo bước chạy về, đưa tay ra hiệu chém giết trước mặt Chu Ỷ, khẽ nói:

– “Chính là tên gian tặc đó!”

Chu Ỷ nhảy chồm lên mà nói:

– “Hay quá!”

Từ Thiên Hoằng vội bảo:

– “Muội đừng nhảy, coi chừng cái bụng!”

Rồi chàng vào phòng Trần Gia Lạc để bẩm báo:

– “Tổng đà chủ! Thuộc hạ đã cùng Lục lão tiền bối nhìn thấy rõ ràng. Tên Phương phiên đài này ở má trái có một cái bớt đen rất lớn, đúng là gian tặc đã hại chết cả nhà tiểu đệ. Lục lão tiền bối hành sự rất tỉ mỉ, còn bảo Thập tứ đệ đi. Thập tứ đệ biết nói tiếng Phúc Kiến, đã vào nha môn tìm được một ông lão mời đi uống rượu, tặng hai chục lượng bạc để hỏi cho kỹ lưỡng. Ông lão ấy nói, Phương phiên đài vốn là tri huyện ở Triết Giang, về sau lập công được thăng làm liên đạo, mấy năm trước đây mới bổ về Phúc Kiến để làm chức phiên đài.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Thế thì không sai được nữa. Tối nay chúng ta sẽ ra tay! Thất ca! Huynh đi mời Lục lão tiền bối đến đây, để mọi người tính kế làm sao cho gọn.”

Tứ Thiên Hoằng cả mừng, chạy ra ngoài mời Lục Phi Thanh.

Dư Ngư Đồng bước vào phòng rồi nói:

– “Tổng đà chủ! Thuộc hạ còn thám thính được một tin tức rất lạ. Có năm người võ quan thị vệ gì đó trong kinh thành, lãnh thánh chỉ đi khẩn cấp từ Bắc Kinh đến Phúc Châu để tìm Phương phiên đài. Khi biết Phương phiên đài đang tới thành Đức Hóa này công cán, chúng liền theo đến Đức Hóa. Nhưng bọn sai dịch trong nha môn chức vụ thấp hèn, không thể biết thánh chỉ sai chúng làm gì.”

Lục Phi Thanh cũng nói:

– “Dường như bọn đến từ Bắc Kinh có chức vụ không nhỏ.”

Trần Gia Lạc nghe nói có thánh chỉ đặc biệt khẩn cấp, lập tức nghĩ bụng:

– “Không chừng vụ này có liên quan đến đại sự quang phục của hoàng đế ca ca.”

Chàng trầm ngâm suy nghĩ, không trả lời ngay. Dư Ngư Đồng bỗng vỗ tay cười nói:

– “Còn một chuyện may mắn nữa. Khi đến nha môn, thuộc hạ có lén nhìn một cái. Trong năm tên võ quan này có tới hai người quen cũ, một là thị vệ Thoại Đại Lâm, một là tổng binh Thành Hoàng. Hai tên này đã từng đến Thiết Đảm trang để bắt Tứ ca. Để tiểu đệ đi nói với Tứ ca một tiếng, không chừng huynh ấy sẽ mừng rỡ mà nhảy cẫng lên. Thế là hai mối đại thù của chúng ta được trả cùng một lúc, thật là tuyệt diệu.”

Trần Gia Lạc lên tiếng:

– “Thập tứ đệ! Đệ cùng Cửu ca đến ngoài nha môn xem xét tình hình, đừng để bọn gian tặc này trốn thoát. Tuy nhiên, có thể bọn võ quan này truyền thánh chỉ gì đó về chuyện điều động binh mã, tạm thời chúng ta không nên đả thảo kinh xà.”

Từ Thiên Hoằng gật đầu nói:

– “Tư thù là việc nhỏ, dĩ nhiên chúng ta phải lấy đại cục làm trọng. Nếu hoàng đế thật sự giữ lời thề, thì dĩ nhiên phải truyền thánh chỉ đi các tỉnh để điều binh khiển tướng.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Chỉ mong là như thế. Quả là Thất ca rất hiểu đại nghĩa. Bây giờ chúng ta đi bắt năm tên võ quan đó về đây hỏi rõ, rất có lợi cho đại cuộc.”

Trần Gia Lạc lập tức ra lệnh, mọi người kéo đến bên ngoài nha môn của huyện Đức Hóa. Dư Ngư Đồng đang định vào trong dò hỏi tin tức, thì đột nhiên nghe tiếng vó ngựa vang lên, mười mấy con ngựa từ trong nha môn chạy ra ngoài. Mấy tên dẫn đầu đội nón có dây tua màu đỏ màu lam, đều là quan lớn trong triều. Văn Thái Lai nhận ra một trong số đó chính là Thành Hoàng, bất giác trợn mắt lên, chỉ muốn bước tới chém ngay.

Thấy đoàn người khá đông, quần hùng liền lên ngựa chạy theo, ra khỏi cửa Đông thành Đức Hóa. Chạy được khoảng ba bốn chục dặm, họ dừng lại ăn cơm, khi hỏi đám tiểu nhị trong phạn điếm thì biết bọn chúng mới rời khỏi đây chẳng bao lâu.

Văn Thái Lai nói:

– “Ngựa của ta chạy nhanh hơn. Để ta chạy lên trước, chặn năm thằng cẩu tặc này lại đã.”

Lạc Băng vội cản:

– “Chúng có tới năm người, không thể chạy thoát được đâu.”

Văn Thái Lai biết, từ khi mình gặp nạn thì ái thê lại càng quan tâm chu đáo tới mình. Chàng không nỡ để Lạc Băng lo lắng, nên đi cùng với mọi người. Đêm đó quần hùng ăn tối ở Tiên Du, trưa hôm sau đã đến Giao Vỹ. Nghe mấy nông dân nói là năm người võ quan đã chuyển sang hướng bắc, Trần Gia Lạc mỉm cười rồi nói:

– “Bọn này thật biết chọn đường chạy chốn! Từ đây đi về phía bắc là tới Thiếu Lâm Tự ở Phổ Điền. Chúng ta vừa truy đuổi chúng, vừa không phải đi xa oan uổng.”

Chạy được mấy chục dặm nữa thì trời sắp tối, đã gần tới Thiếu Lâm Tự. Quần hùng ghé vào Vạn Hải trấn, tìm một gian khách điếm để nghỉ ngơi. Năm người Lục Phi Thanh, Văn Thái Lai, Vệ Xuân Hoa, Từ Thiên Hoằng, Tâm Nghiễn chia nhau ra ngoài thăm dò tung tích bọn thị vệ.

* * *

Văn Thái Lai tìm mãi không thấy tung tích của bọn Thành Hoàng đâu. Lúc này trời đã tối, tiếng ve kêu ran ran, khí nóng mùa hè oi bức. Chàng phanh ngực áo ra, cầm một cây quạt bằng lá phe phẩy cho mát. Bỗng nhiên phía trước có ngọn gió thổi lại, đưa theo mùi rượu thơm phức.

Trước mặt là một quán rượu nhỏ, cửa còn mở. Nóng bức thế này, tốt nhất là uống mấy chén để giải khát. Chàng vừa vào quán đã ngẩn người ra, đúng là đi mòn gót sắt tìm không thấy, thấy ra lại chẳng chút công phu. Thành Hoàng, Thoại Đại Lâm và ba tên thị vệ kia đang ngồi trong quán, uống rượu cười nói huyên thuyên.

Thấy Văn Thái Lai đi vào trong quán, năm tên lập tức kinh hãi thất sắc, há hốc mồm không thốt nên lời. Văn Thái Lai làm như không thấy chúng, cứ gọi lớn:

– “Chủ quán, lấy rượu!”

Tiểu nhị lấy bình rượu, chén đũa đặt trước mặt chàng. Văn Thái Lai quát lên:

– “Chén nhỏ xíu này mà uống cái gì? Đem bát lớn tới đây.”

Chàng dằn một thoi bạc xuống bàn nghe “cộp”một tiếng. Thấy khí thế chàng dũng mãnh, tiểu nhị không dám nói nhiều. Hắn lập tức đem ra một cái bát lớn, rót đầy. Văn Thái Lai đưa bát lên một hơi cạn sạch, khen:

– “Rượu ngon!”

Tiểu nhị nói:

– “Đây là rượu Tam Bạch, nổi tiếng ở vùng này.”

Văn Thái Lai hỏi:

– “Giết một con heo nên uống mấy bát rượu?”

Tiểu nhị không hiểu ý chàng nhưng không dám hỏi, bèn đáp bừa:

– “Ba bát.”

Văn Thái Lai nói:

– “Hay lắm! Đem mười lăm cái bát lớn ra đây, rót đầy vào cho ta.”

Chàng rút soạt đơn đao ra đặt trên bàn. Tiểu nhị hoảng sợ nhảy dựng lên, nhưng cũng phải nghe lời đi lấy mười lăm cái bát lớn, dàn ra chật cả mặt bàn rồi rót đầy rượu vào. Bọn Thành Hoàng nhìn nhau kinh hãi vô cùng, chỉ vì Văn Thái Lai ngồi cản ngay giữa cửa nên chúng không dám bước ra.

Thành Hoàng và Thoại Đại Lâm thấy tình hình chẳng tốt lành gì, bèn đứng dậy muốn chuồn ra cửa sau. Văn Thái Lai đứng dậy quát lên một tiếng như sấm nổ lưng trời, rồi hỏi:

– “Lão gia chưa uống xong, bọn ngươi vội gì thế?”

Thành, Thoại lập tức đứng yên, không dám động đậy. Văn Thái Lai đạp một chân lên ghế dài, chỉ hai hớp đã uống cạn một bát rượu, lại khen:

– “Rượu ngon.”

Chàng bưng bát thứ hai lên.

Tiểu nhị biết điều, tự động xắt hai cân thịt bò đặt lên mâm rồi bưng lên. Văn Thái Lai vừa ăn vừa uống, chỉ chốc lát là mười năm bát rượu và hai cân thịt bò đã sạch sành sanh. Thành Hoàng và Thoại Đại Lâm nhìn nhau kinh hoảng. Ba tên thị vệ kia nháy mắt với nhau, cầm binh khí rồi cả bọn cùng phóng lên.

Văn Thái Lai hơi rượu đã bốc tới đầu, đầy người mồ hôi như tắm. Đợi ba người phóng tới, chàng phóng chân hất mạnh, cái bàn bay ra ngoài. Dĩ nhiên toàn bộ chén bát, cả thanh đơn đao trên bàn đều rơi loảng xoảng xuống đất. Chàng không thèm nhặt đao, xách cái ghế dài quét qua ba tên thị vệ.

Ba tên này, một cầm lê hoa thương, một dùng đao, một thì sử đôi Nga Mi Thích. Chúng vừa né cái ghế dài vừa tiến sát đến. Văn Thái Lai dựng ghế thẳng lên đón đỡ, lấy một địch ba. Trong lúc hỗn chiến, tên dùng đao bỗng chém dính vào cái ghế, nhất thời không kịp rút đao về. Văn Thái Lai xoay tả chưởng tát ngược lại trúng ngay sống mũi của hắn, lập tức ngũ quan máu thịt hồ đồ, xương gò má cũng vỡ nát.

Lúc này đôi Nga Mi Thích đang nhằm đâm tới nách phải Văn Thái Lai. Chàng dùng tay trái giật thanh đao đính trên ghế ra, chém thẳng xuống. Tên sử song thích đâm chưa tới nơi đã nghe trên đỉnh đầu có tiếng gió rít lên khủng khiếp, vội vã nhào ngược ra sau, lăn người tránh né.

Tên cầm thương liền vung ra một đóa thương hoa rất lớn, xuất chiêu Độc Long Xuất Động đâm vào bụng dưới Văn Thái Lai. Tay trái họ Văn vứt bỏ đơn đao, chụp lấy cán thương. Tên kia vận hết sức lực bình sinh để giật thương về, nhưng không sao địch nổi thần lực của Văn Thái Lai, bị chàng kéo cho loạng choạng, té nhào tới trước. Tay phải Văn Thái Lai xách cái ghế dài đập ngay vào giữa ngực hắn, hất hắn bay thẳng vào vách tường. Dư lực vẫn còn, bức tường sập xuống, gạch đá rơi thành một đống đè lên người hắn.

Trong quán rượu bụi đất bay mù, ngói trên mái nhà lả tả rơi xuống. Văn Thái Lai quay người lại định đánh tiếp. Chàng thấy tên thị vệ mập mạp sử dụng song thích nằm co rút lại thành một khối không động đậy, bèn xách hắn lên định hỏi cung, bỗng thấy mặt hắn trắng bệch như tờ giấy, tắt hơi từ lâu rồi. Thì ra hắn sợ quá mà chết.

Văn Thái Lai đã định để lại một tên sống sót để tiện hỏi thông tin, thế mà không được. Chàng quay lại tìm Thành Hoàng và Thoại Đại Lâm thì không thấy đâu nữa, nhất định hai tên này đã nhân lúc lộn xộn mà chuồn mất.

Ra khỏi quán rượu, Văn Thái Lai cảm thấy có một ngọn gió mát thổi lên đầu, ngẩng lên nhìn thấy sao lác đác, bây giờ đã là canh một. Chàng trở vào trong quán nhặt lấy đơn đao, rồi chạy ra tìm kiếm khắp nơi, phi thân nhảy lên nóc căn nhà cao nhất mà nhìn tứ phía. Thấy hai cái bóng đang chạy như ma đuổi về phía bắc, chàng cả mừng nhảy xuống đất, xách đao đuổi gấp.

Chạy được mấy dặm, phía trước có một đám ruộng trồng mía. Mía mọc khá cao, hai bóng người vừa chui vào ruộng mía đã mất tích không thấy đâu nữa. Văn Thái Lai phải chui vào theo, vừa quát tháo vừa đuổi. Đi hết ruộng mía, phía trước lại là một khu rừng vừa rậm rạp vừa tối đen.

Chàng tìm trong rừng một hồi không thấy, bỗng tự trách mình ngu ngốc rồi nhảy lên túm lấy một cành cây, trèo lên ngọn cây nhìn quanh quất. Chàng thấy xa xa hình như có một thôn nhỏ, nhưng nhà cửa xây rất lớn. Hai cái bóng người đã gần tới mấy gian nhà đó, nếu không nhờ thân hình động đậy thì trong đêm tối thật khó mà nhìn thấy.

Văn Thái Lai thầm hổ thẹn:

– “Ta mò mẫm trong rừng mất cả nửa ngày, suýt nữa là để chúng thoát thân!”

Chàng lập tức nhảy xuống đất, chạy về phía thôn nhỏ ấy, thi triển khinh công đến tột độ, bên tai lộng gió vù vù. Trong chốc lát đã thấy hai người đó nhảy vượt qua tường, trốn vào trong nhà. Văn Thái Lai thét lên:

– “Trốn đi đâu?”

Rồi chạy ngay tới bức tường đó. Dưới ánh sao thưa mờ nhạt, chàng thấy những gian nhà này đều mái xanh, tường vàng, thì ra là một tòa tự viện. Chàng vòng ra cổng trước ngẩng lên nhìn, chính giữa có bảng ghi bốn chữ bằng vàng:

– Thiếu Lâm Cổ Sát.

Văn Thái Lai ngẫm nghĩ:

– “Thì ra đã đến Thiếu Lâm Tự rồi. Thiếu Lâm Tự ở Phúc Kiến tuy chỉ là hạ viện, nhưng trước nay vẫn nghe nói võ công của tăng nhân trong chùa này cũng rất cao cường, chẳng kém gì chùa gốc ở Tung Sơn. Đây lại là nơi xuất thân của cố tổng đà chủ, đúng ra mình không nên lỗ mãng. Nhưng hai tên Thành Hoàng và Thoại Đại Lâm hiếp người quá đáng, không thể buông tay tha chúng được.”

Cửa chùa đã đóng chặt, chàng liền cầm đao nhảy lên đầu tường, thấy bên trong là một khu vườn khá rộng nhưng trống rỗng. Lắng tai nghe thì hoàn toàn không có âm thanh gì, không biết Thành Hoàng và Thoại Đại Lâm đã chạy về hướng nào nên chàng cứ cúi người xuống mà đưa mắt quan sát chung quanh.

Đột nhiên chánh điện mở cửa nghe “ầm” một tiếng, một hòa thượng to mập bước ra ngoài, kéo theo sau một cây phương tiện sạn cán dài tới bảy thước. Y quát hỏi:

– “To gan! Dám trèo tường vào cửa Phật ư?”

Văn Thái Lai chắp tay nói:

– “Tại hạ đang truy đuổi hai tên chó săn của triều đình, vô ý làm kinh động đại sư. Xin thứ lỗi!”

Hòa thượng nói:

– “Ngươi là người học võ, phải biết Thiếu Lâm Tự là chỗ như thế nào chứ? Sao dám vô lễ xách đao xông vào chùa?”

Văn Thái Lai đã hơi tức giận, nhưng chàng nghĩ lại thì đêm tối mà mình cầm đao chạy loạn vào chùa là không nên không phải, bèn chắp tay thi lễ mà nói:

– “Tại hạ xin lỗi!”

Chàng nhảy ra ngoài tường, vẫn để ngực trần ngồi tựa vào một gốc cây, nghĩ bụng:

– “Nhất định hai tên gian tặc đó cũng phải bị đuổi ra ngoài. Ta ngồi đây mà đợi cũng được.”

Chàng ngồi xuống, bỗng thấy hòa thượng mập kia nhảy lên tường quát tháo:

– “Tên kia! Muốn gì mà chưa chịu rời khỏi đây? Muốn thừa cơ trộm cắp phải không?”

Văn Thái Lai giận dữ hỏi lại:

– “Ta ngồi ở ngoài chùa, có liên quan gì đến đại sư?”

Hòa thượng mập nói:

– “Chắc ngươi đã được ăn gan hổ gan báo gì đó rồi, dám đến chùa Thiếu Lâm mà quấy rối. Đi nhanh lên! Đi nhanh lên!”

Văn Thái Lai nhịn không nổi nữa, quát lên:

– “Ta không đi! Ngươi làm gì ta?”

Hòa thượng mập không nói tiếng nào, vung cây phương tiện sạn vù vù rồi nhảy từ trên đầu tường xuống. Những cái vòng ở cán sạn khua lên lẻng kẻng, lưỡi sạn dài chừng một thước đẩy thẳng tới ngực chàng.

Văn Thái Lai định vung đao đánh trả, nhưng bỗng nghĩ lại:

– “Tổng đà chủ xa xôi ngàn dặm tới đây, đang có việc muốn nhờ cái chùa Thiếu Lâm này. Ta không nên lỗ mãng nhất thời mà làm hỏng đại sự.”

Chàng bèn nghiêng người tránh lưỡi sạn, buông thõng đơn đao quay người đi ngay. Chàng mới đi được mấy bước, trước mặt lại có đao quang lóe lên. Một hòa thượng khác sử một cặp giới đao chém thẳng tới. Văn Thái Lai không muốn đánh nhau, rẽ sang một bên bỏ chạy. Hai hòa thượng cùng la lên:

– “Để binh khí lại đây, chúng ta sẽ thả ngươi đi.”

Văn Thái Lai sắp chạy được vào rừng thì bỗng nghe tiếng gió trên đỉnh đầu, vội dạt qua bên trái để tránh né. “Rầm” một tiếng, một cây thiền trượng đập xuống mặt đất làm bụi cát văng lên, thế đập cực kỳ hung hãn. Một hòa thượng vừa thấp vừa lùn vừa bé nhỏ đứng cản đường phía trước.

Văn Thái Lai nói:

– “Tại hạ đến đây hoàn toàn không có ác ý, xin ba vị đại sư cho đi. Sáng mai tại hạ sẽ quay lại tạ tội.”

Hòa thượng thấp bé nói:

– “Giữa đêm mà ngươi dám xông vào chùa Thiếu Lâm, chắc chắn võ nghệ kinh người. Hiển lộ chút bản lãnh đi, rồi mới được rời khỏi đây.”

Y không đợi chàng trả lời, liền quét ngang thiền trượng vào ngực Văn Thái Lai. Chàng vội luồn qua dưới cây thiền trượng.  Người sử giới đao cất tiếng khen ngợi:

– “Thân pháp rất hay!”, rồi vung đao chém tới. Người cầm phương tiện sạn cũng nhảy tới giáp công.

Văn Thái Lai đã nhường ba chiêu, binh khí đối phương đều quét sát sạt bên mình, khoảng cách không thể chèn thêm sợi tóc. Chàng biết ba người này đều là cao thủ trong chùa Thiếu Lâm, nếu mình tiếp tục nhường nhịn thì đêm tối rất dễ bất cẩn, không chết cũng bị thương. Cho dù ba tăng nhân này không có ý giết mình, nhưng oai danh một đời của mình không khỏi trôi theo dòng nước.

Thế là Văn Thái Lai chém liền ba đao veo véo, xuyên qua xuyên lại giữa ba món binh khí mà đánh trả, thân pháp vừa linh hoạt vừa lợi hại. Ba hòa thượng đột nhiên lùi ra, đồng thời niệm Phật hiệu “A Di Đà Phật.”

Người cầm thiền trượng nói:

– “Chúng ta đều là thượng tọa ở Đạt Ma Viện trong chùa.”

Y chỉ hòa thượng sử giới đao, nói:

– “Vị này pháp danh là Nguyên Vi.”

Chỉ qua người cầm phương tiện sạn, nói:

– “Vị này pháp danh là Nguyên Thống, còn ta là Nguyên Thương. Xin hỏi cao danh quí tánh của cư sĩ?”

Văn Thái Lai đáp:

– “Tại hạ họ Văn, tên là Thái Lai.”

Nguyên Thống nói:

– “À, thì ra là Bôn lôi chủ Văn tứ gia, chẳng trách bản lãnh cao cường như vậy. Văn tứ gia xông vào tệ tự, có phải là theo di mạng của Vu Vạn Đình lão đương gia của quí hội không?”

Văn Thái Lai đáp:

– “Vu lão đương gia không có di mạng gì cả. Tại hạ đang truy đuổi hai tên ưng trảo, lầm lỡ xông vào quí tự. Xin được thứ lỗi.”

Ba hòa thượng khẽ thương lượng mấy câu, rồi Nguyên Thống nói:

– “Oai danh của Văn tứ gia lừng lẫy trong thiên hạ. Hôm nay may được gặp, tiểu tăng xin được thỉnh giáo mấy cao chiêu.”

Văn Thái Lai nói:

– “Thiếu Lâm Tự là thánh địa của võ học, tại hạ sao dám làm bừa? Xin cáo từ!”

Chàng lập tức cho đao vào vỏ, chắp tay thi lễ rồi quay người bỏ đi. Ba tăng nhân thấy địch thủ khiêm nhường lùi bước, lại biết người này quyết không nhát gan sợ sệt, chắc chắn là có ẩn tình gì đây. Họ nghĩ:

– “Cố tổng đà chủ Vu Vạn Đình của Hồng Hoa Hội là đệ tử bị trục xuất của Thiếu Lâm. Không chừng người này đến đây tính chuyện rửa hận cho thủ lĩnh.”

Ba người nhìn nhau một cái, Nguyên Thống huy động cây phương tiện sạn cho những cái vòng vàng trên cán khua loảng xoảng, đâm thẳng ra trước. Văn Thái Lai là anh hùng đương thế, quyết không chịu bó tay khuất phục, chỉ còn cách múa đao chống đỡ.

Nguyên Thống múa tít cây sạn đến nỗi mặt sạn phát ra ánh sáng, hàn khí ép người. Nhưng bây giờ Văn Thái Lai đã hết cơn say, tinh lực dồi dào, xuất chiêu đao nào cũng tuyệt diệu tinh kỳ, Nguyên Thống dần dần không chống đỡ nổi. Nguyên Thương bèn cầm thiền trượng bước vào vòng chiến. Đánh đến lúc hăng say, đôi giới đao của Nguyên Vi cũng tham gia.

Văn Thái Lai lấy một địch ba, nhưng vẫn công nhiều thủ ít. Đột nhiên dưới ánh trăng chàng thấy dưới đất có mấy chục bóng người, thì ra tăng chúng trong chùa đã kéo tới rất đông. Bất giác chàng rùng mình một cái. Chỉ phân tâm một chút, chàng để cây thiền trượng của Nguyên Thương quét trúng sống đao của mình. Tia lửa bắn ra tứ tung, thanh đao văng tuốt ra xa, mất hút trong rừng.

Bôn Lôi Thủ thật sự nhanh như sấm sét. Văn Thái Lai hơi cúi xuống một chút, tay phải đã chụp được cán cây phương tiện sạn của Nguyên Thống đang xắn xuống, dùng sức vặn ngược lại. Nguyên Thống phải buông sạn ra, Văn Thái Lai lại phóng chân phải ra đá trúng đầu gối của y. Thân hình mập mạp của Nguyên Thống lập tức bị hất văng ra ngoài.

Lúc này thiền trượng của Nguyên Thương và giới đao của Nguyên Vi đồng thời công tới. Văn Thái Lai nắm chắc cây sạn, gạt mạnh vào thiền trượng. “Choảng” một tiếng điếc tai, hai món binh khí nặng nề bằng thép ròng va chạm, tiếng động âm vang cả một vùng sơn cốc, ngân rền hồi lâu chưa dứt. Hổ khẩu của Nguyên Thương bị chấn động toạc ra, máu tươi nhỏ giọt xuống đất, buông rơi thiền trượng.

Văn Thái Lai nghiêng mình tránh né cặp giới đao, đâm thẳng lưỡi sạn vào mặt Nguyên Vi. Nguyên Vi đang hoảng sợ đến độ mất tinh thần, trước mặt sơ hở vô cùng, ai cũng thấy lưỡi sạn sắp xắn đứt nửa cái đầu của y. Văn Thái Lai không muốn đả thương, đang định thu sạn về thì bỗng nghe có tiếng ám khí phóng tới.

Chàng định tránh né thì nghe “keng” một tiếng, tay mình chấn động, cây sạn bị hất ra ngoài một thước. Sau đó lại nghe hai tiếng bịch bịch, từ trên cành cây có hai người rớt xuống. Văn Thái Lai vội nhảy tới nhặt cây phương tiện sạn, khi quay đầu lại thì thấy Trần Gia Lạc cùng mọi người đã tới. Chàng đang mừng rỡ, lại thấy trong đám tăng nhân đối diện có một ông lão đầu tóc bạc phơ bước ra lên tiếng:

– “Văn tứ gia! Ta phải ra tay ngăn cản, thật tình xin lỗi.”

Ông lão đang chắp tay thi lễ thì Chu Ý hô lớn:

– “Gia gia!”

Thì ra đây chính là Thiết đảm Chu Trọng Anh.

Văn Thái Lai nhìn thấy lưỡi sạn trong tay bị đánh móp một mảng lớn, khuyết mất một chỗ, trong lòng vô cùng thán phục Chu Thiết Đảm danh bất hư truyền. Chàng nhìn xuống hai người vừa rơi xuống đất, lại càng cảm thấy kỳ lạ. Một người là Thành Hoàng, người kia chính là Thoại Đại Lâm.

Thì ra lúc chạy trốn vào chùa, hai tên này đã bị đại sư giám tự là Đại Khổ đuổi ra ngoài, rồi lén trốn trên cây. Khi thấy Văn Thái Lai sắp thắng ba hòa thượng kia, Thoại Đại Lâm trên cành cây ngầm phóng tụ tiễn. May mà Đại Si là thủ tọa Tàng Kinh Các dùng Thiết bồ đề đánh rơi ám khí, rồi lại đánh hai tên kia rơi xuống.

Chu Trọng Anh giới thiệu quần hùng Hồng Hoa Hội và quần tăng Thiếu Lâm Tự với nhau.

Ngày đó Chu Trọng Anh, Mạnh Kiện Hùng, An Kiên Cương và Chu đại phu nhân rời khỏi Thiên Mục sơn, đi về phía nam tới Phúc Kiến, đến chùa Thiếu Lâm gặp phương trượng là Thiên Hồng đại sư. Nam Thiếu Lâm và Bắc Thiếu Lâm vốn cùng một nhà, gia số võ công không khác biệt gì lắm. Chu Trọng Anh danh tiếng lừng lẫy võ lâm, quần tăng ở Nam Thiếu Lâm trước nay đã từng ngưỡng mộ. Hai bên ấn chứng trao đổi võ công tâm đầu ý hợp, Thiên Hồng đại sư thiết tha giữ khách, nên Chu Trọng Anh ở lại chùa suốt mấy tháng nay.

Đêm nay nghe tiếng báo động liên hồi, nói là có một cao thủ xông vào tự viện giao đấu với ba vị thượng tọa Đạt Ma Viện, ông ra xem thì không ngờ là Văn Thái Lai. Trong lúc nguy cấp ông ra tay cản trở, sợ Văn Thái Lai trách liền bước tới để tạ lỗi. Dĩ nhiên Văn Thái Lai không bắt bẻ gì. Chàng chắp tay tạ lỗi với giám tự là Đại Khổ về việc quấy rầy Thiếu Lâm Tự, rồi xin đem Thành Hoàng và Thoại Đại Lâm đi. Đại Khổ nói:

– “Hai vị thí chủ này vì tránh nạn mà đến bổn tự. Cửa Phật rộng lớn lấy từ bi làm gốc, xin Văn thí chủ nể mặt tiểu tăng mà tha cho họ.”

Văn Thái Lai không làm gì được, đành phải theo lời. Lục Phi Thanh bèn dẫn hai tên đó qua một bên, lịch sự hỏi chúng đi từ Bắc Kinh đến Phúc Kiến để truyền mật chỉ gì.

Thành Hoàng đáp:

– “Hoàng thượng đã phái Kim câu thiết chưởng Bạch Chấn dẫn mười mấy cao thủ thị vệ tới Phúc Kiến, ra lệnh cho tổng binh Phúc Kiến triệu tập ba ngàn lính Mãn Thanh và quân Hán, đợi lệnh ở thành Đức Hóa. Hoàng thượng có gửi mật chỉ cho Phương phiên đài, bảo ông ấy cùng Bạch Chấn và tổng binh theo lệnh hành sự. Còn số binh mã sử dụng vào đâu, thì khi mở mật chỉ ra mới biết được.”

Lục Phi Thanh nghĩ:

– “Dụng binh đương nhiên phải như vậy, không nên tiết lộ bí mật sớm. Hoàng đế sai tới Bạch Chấn, đủ biết chuyện này không phải là nhỏ, nhất định hai tên này không thể biết được.”

Trước mặt tăng chúng chùa Thiếu Lâm mà gia hình lấy khẩu cung thì không tiện, ông bèn giải khai huyệt đạo thả chúng đi, rồi thầm kể cho Trần Gia Lạc biết.

Đại Khổ đại sư mời quần hùng vào trong chùa. Thiên Hồng đại sư dẫn thủ tọa Đạt Ma Viện là Thiên Kính đại sư, thủ tọa Giới Trì Viện là Đại Điên đại sư ra cửa chùa đón tiếp. Thông báo danh tánh xong, Thiên Hồng đại sư nói với Lục Phi Thanh:

– “Từ lâu đã nghe danh Miên Lý Châm ở phái Võ Đang. Hôm nay may được gặp, thật là vinh hạnh cho tệ tự.”

Lục Phi Thanh đa tạ. Thiên Hồng mời quần hùng đến tịnh thất dùng trà, rồi hỏi nguyên nhân đến Thiếu Lâm Tự.

Trần Gia Lạc thấy trong phòng đều là những vị cao tăng giữ trọng trách trong chùa, không có loại người tạp nhạp. Chàng đột nhiên bước tới, quì xuống trước mặt Thiên Hồng đại sư. Thiên Hồng vội đưa tay đỡ dậy rồi hỏi:

– “Trần tổng đà chủ có gì xin cứ nói, sao lại thi đại lễ?”

Trần Gia Lạc lên tiếng:

– “Tại hạ có một việc không hợp tình hợp lý, theo quy củ võ lâm thì không nên mở miệng, nhưng vì hàng vạn hàng ức sinh linh mà cả gan cầu xin đại sư.”

Thiên Hồng bảo:

– “Xin cứ nói ra, đừng ngại.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Vu Vạn Đình lão gia là nghĩa phụ của…”

Vừa nghe thấy tên Vu Vạn Đình, sắc mặt Thiên Hồng thay đổi hẳn, đôi mày bạc trắng hơi dựng lên. Trần Gia Lạc kể lại ngắn gọn những chuyện liên quan giữa mình với Càn Long, rồi nhắc đến kế hoạch đuổi Mãn phục hưng nhà Hán. Chàng xin Thiên Hồng đại sư cho biết nguyên nhân nghĩa phụ mình bị trục xuất ra khỏi môn phái, vì rất có thể chuyện này liên quan đến thân thế thật sự của Càn Long. Cuối cùng chàng nói:

– “Mong đại sư nghĩ đến bá tánh trong thiên hạ mà…”

Thiên Hồng im lặng không nói gì, đôi mày dài ủ xuống, hai mắt nhắm nghiền, tập trung suy nghĩ. Mọi người đều không dám quấy rầy.

Chừng cạn tuần trà, Thiên Hồng mới hé mắt ra mà nói:

– “Trần tổng đà chủ đến bổn tự để hỏi về những chuyện ngoài thế tục của Vu Vạn Đình là đệ tử đã bị trục xuất khỏi sư môn. Việc này nếu theo quy củ của bản tự thì không thể được, nhưng lại có liên quan đến sinh linh khắp thiên hạ, dĩ nhiên bần tăng phải phá lệ một phen. Mời Trần tổng đà chủ phái người vào Giới Trì Viện trong tệ tự, lấy án quyển mà xem.”

Trần Gia Lạc vội khom người cảm ơn, rồi tri khách tăng dẫn quần hùng vào nhà khách để nghỉ ngơi. Quần hùng đang hoan hỉ, bỗng thấy Chu Trọng Anh nhăn tít mặt mày, sắc mặt lo âu mà nói:

– “Phương trượng nói là Trần tổng đà chủ cứ phái người vào Giới Trì Viện. Muốn tới Giới Trì Viện phải vượt qua năm tòa điện, mỗi điện đều có một đại sư võ công cực cao phòng thủ. Vượt qua năm điện này, than ôi, cực kỳ khó khăn, cực kỳ khó khăn…”

Nghe vậy, mọi người mới biết còn phải trải qua ác chiến. Văn Thái Lai nói:

– “Chu lão gia thì nhất định không giúp bên nào rồi. Để bọn vãn bối thử cố gắng một phen.”

Chu Trọng Anh lắc đầu nói:

– “Khó ở chỗ một người phải liên tiếp vượt qua năm tòa điện. Nếu có người tương trợ thì Thiếu Lâm Tự cũng sẽ cử người tới giúp, gây ra hỗn chiến thì không ổn chút nào. Các đại sư thủ điện thì vị sau mạnh hơn vị trước. Dù qua được mấy điện ở phía trước thì cũng hao tổn sức lực, một hai điện cuối cùng thật khó qua.”

Trần Gia Lạc suy nghĩ một lúc rồi nói:

– “Phải liên tiếp vượt qua năm tòa điện, e rằng khó mà làm nổi. Chỉ cầu mong ngã Phật từ bi sẽ giúp vãn bối đi qua.”

Chàng lập tức cởi áo dài, mang theo một túi quân cờ vây, cài thanh đoản kiếm vào hông, rồi nhờ Chu Trọng Anh dẫn đến Diệu Pháp Điện.

Tới cửa điện, Chu Trọng Anh khẽ nói:

– “Trần lão đệ! Nếu qua không nổi hãy quay về ngay, chúng ta sẽ tìm cách khác. Đừng gắng gượng quá sức để tránh tổn thương.”

Trần Gia Lạc vâng dạ. Chu Trọng Anh chúc chàng vạn sự như ý, rồi đứng qua một bên.

Trần Gia Lạc đẩy cửa bước vào, thấy trong điện đèn đuốc sáng trưng, chính giữa có một tăng nhân ngồi trên bồ đoàn, chính là giám tự Đại Khổ đại sư. Ông đứng dậy mỉm cười nói:

– “À, thì ra Trần tổng đà chủ đích thân thỉnh giáo, thật là tuyệt diệu. Bần tăng xin thỉnh giáo mấy chiêu quyền pháp.”

Trần Gia Lạc đứng ở mé dưới, chắp tay nói:

– “Xin mời!”

Đại Khổ tay trái nắm thành quyền, vung ra thành một vòng lớn, sau đó đưa hữu chưởng lên. Trần Gia Lạc biết chiêu này là Nan Thủ Kích Thiên, thì ra Đại Khổ dùng Túy Quyền để đấu với mình. Tuy chàng đã từng học loại quyền này, nhưng nhớ lại hồi tỉ võ với Chu Trọng Anh ở Thiết Đảm Trang, mình dùng Thiếu Lâm quyền để đấu với Thiếu Lâm quyền của Chu lão gia suýt nữa bị thua, nên bây giờ không dám khinh suất.

Chàng lập tức vỗ hai chưởng vào nhau một cái, nhảy ra một bước rồi xoay tay đánh lại, lập tức xuất một tuyệt chiêu của Bách Hoa Tá quyền. Đại Khổ bị bất ngờ, suýt trúng chưởng phải nhào ngửa ra mới tránh kịp. Ông bèn thuận thế ra chiêu Quái Liễu Tảo Vân, ngẩng mặt lên trời chống tay dưới đất, hai chân vung lên phản kích. Sau đó ông nhảy bật lên, rồi bước chân nghiêng ngả, tay vung loạn xạ, dương đông kích tây, chỉ trước đánh sau, ngã bên này té bên kia giống hệt một người say rượu.

Trần Gia Lạc đã biết loại quyền này, liền chăm chú tinh thần mà chiết giải. Pho Túy Quyền của Đại Khổ có mười sáu đường, hạ bàn giống như hư ảo mà rất ổn định, quyền chiêu như phủ bụi mà lại nặng nề, bộ pháp cứ suýt té rồi lại phóng tới, biến hóa vô cùng sinh động.

Tỉ đấu đến lúc hăng say, Đại Khổ phóng tới một bước, vọt cả người lên không. Khi chạm đất ông đưa chân quét thành vòng như một đóa hoa, ra chiêu Thiết Ngưu Canh Địa, hữu quyền đánh vào hạ bàn đối thủ. Trần Gia Lạc đảo người lùi lại, biết chắc ông xuất quyền không trúng đích sẽ nhảy lên biến chiêu thành Diêu Tử Phiên Thân. Chàng nhằm bộ vị chính xác, đợi chân trái đối thủ chạm đất liền đưa chân phải quét ra, tay nhẹ nhàng ấn vào lưng.

Đại Khổ không xoay người lại được, liền té sấp xuống. May mà Trần Gia Lạc dùng tay đỡ nhẹ vào vai, Đại Khổ mượn thế nhảy lên nên mới không vập mặt xuống đất. Mặt ông đỏ ửng lên, chỉ tay vào trong mà nói:

– “Xin mời!”

Trần Gia Lạc chắp tay thi lễ rồi đáp:

– “May được đại sư nhân nhượng.”

Đi vào trong, lại là một đại điện. Thủ tọa Đại Điên của Giới Trì Viện ngồi chính giữa. Thấy chàng đi vào, ông lập tức đứng dậy, cầm cây thiền trượng vĩ đại dựng bên dộng xuống đất một cái, làm chấn động cả vách tường, bụi bặm trên mái nhà rơi xuống ào ào. Trần Gia Lạc âm thầm kinh hãi:

– “Người này quả là thần lực!”

Đại Điên tay trái cầm trượng, tay phải phóng hai chưởng hai bên trái phải. Sau đó trượng bên tay trái quét ngang, tay phải ngửa lên đón lấy đầu trượng, bước lên hai bước. Đây chính là những chiêu khởi đầu của Phong Ma trượng pháp.

Thấy địch thủ vung trượng phát ra tiếng gió, bộ pháp vững chắc phi thường, Trần Gia Lạc không dám khinh địch. Chàng liền rút thanh đoản kiếm ra, tháo bỏ lớp vỏ, một làn hào quang màu tím từ lưỡi kiếm lập tức chiếu ra. Đại Điên nhìn thấy kiếm khí ép người không khỏi chấn động tinh thần, bèn xuất chiêu Hổ Vĩ Tiên quét trượng ngang qua, tốc độ đã nhanh mà bộ vị cũng chính xác. Trần Gia Lạc cúi người luồn dưới trượng, xông vào đánh trả một kiếm. Binh khí một người cực dài, một người cực ngắn, khai diễn một trường ác đấu trong tòa đại điện.

Trần Gia Lạc từng thấy trượng pháp của Tưởng Tứ Cân, biết yếu quyết của Phong Ma Trượng là điên khùng như ma nhập. Trượng pháp này bắt nguồn từ một trăm lẻ tám đường côn pháp của Cẩn Na La vương ở Thiên Trúc, khi truyền vào Trung Nguyên lại được bổ sung những tinh hoa của Dọa Xa Côn và Thủ Kinh Côn, lợi hại vô cùng.

Những người chuyên về trượng pháp đều phải tay dài vai rộng, sức lực hơn người. Đại Điên đại sư có thần lực trời sinh, xuất luôn mấy chiêu Phiên Thân Bích Sơn, Dạ Xoa Thám Hải, Lôi Trâm Oanh Mộc, chiêu nào cũng mãnh liệt, đầy vẻ liều mạng như một kẻ điên đang bị ma nhập, vũ lộng cây thiết trượng nặng mấy chục cân công kích chẳng nể nang gì.

Trần Gia Lạc thầm khen:

– “Phải sử dụng được thế này thì mới xứng với hai chữ Phong Ma.”

Chàng không dám mạo hiểm tấn công mà cứ mãi tránh né, nghĩ rằng cương mãnh thì khó duy trì, đợi khi nhuệ khí đối phương giảm bớt rồi mình sẽ phản kích. Nào ngờ nội công Đại Điên cũng rất thâm hậu, tấn công ác liệt một hồi lâu mà trượng pháp vẫn không lộ ra chút sơ suất nào, ngược lại càng đánh càng nhanh, lát sau đã ép Trần Gia Lạc lùi tới góc tường.

Đại Điên thấy chàng không còn chỗ nào tránh né nữa, dùng hai tay liên tiếp xoay thiền trượng thành những vòng tròn, rồi xuất chiêu Hồi Long Trượng đập từ trên xuống vô cùng mãnh liệt.

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Bên trong này hãy còn ba cao thủ nữa, ta không nên kéo dài dễ hao sức lực.”

Thấy chiêu trượng này dữ dội, chàng quyết chí mạo hiểm để cầu thắng, bèn không tránh né. Đại Điên biết Trần Gia Lạc là bạn chứ không phải địch, nên khi thiền trượng còn cách đỉnh đầu chàng chừng hai thước thì đột nhiên ông giật trượng về, biến chiêu từ đập xuống thành quét ngang. Ông tưởng có thể quét ngã chàng, ít ra cũng khiến chàng biết khó mà lùi, bỏ ý định tiến vào trong.

Trần Gia Lạc thì đang đợi thiền trượng xuống gần rồi đột ngột phóng tới đánh vào ngực đối phương, nhập nội lấy ngắn đánh gần. Đột nhiên chàng thấy địch thủ nửa chừng biến chiêu, kình lực suy giảm rất nhiều, bèn lập tức tùy cơ ứng biến. Tay trái chàng chụp lấy đầu trượng, tay phải vận kình vào thanh đoản kiếm quét ra. Thiền trượng bị gãy đôi, mỗi người nắm lấy một đầu.

Đại Điên đại sư lập tức nổi giận, phóng lên tái đấu. Trần Gia Lạc nhảy ra một trượng, khom lưng lên tiếng:

– “Đại sư hạ thủ lưu tình, tại hạ vô cùng cảm kích.”

Đại Điên mặc kệ, cứ cầm nửa cây thiền trượng đánh thẳng tới trước mặt. Nhưng chẳng được mấy chiêu, nửa cây trượng lại bị đoản kiếm chém gẫy đôi.

Trần Gia Lạc cũng thấy áy náy. Chàng sợ ông đòi đánh tay không, bèn chạy thẳng vào phía sau tòa điện. Đại Điên nghĩ mình vì lòng nhân ái mà thua, tức giận đuổi theo. Ông đuổi mấy bước thấy không kịp, dừng chân thét một tiếng vang trời dậy đất, quẳng mạnh một phần tư cây thiết trượng xuống đất, lửa bắn ra tứ phía.

Trần Gia Lạc vào tòa điện thứ ba, bỗng thấy trước mặt sáng bừng lên. Hai bên tòa điện này thắp chi chít nến và nhang, phải đến mấy trăm cây. Đại Si thủ tọa Tàng Kinh Các mỉm cười đầy vẻ hiền hòa thân mật rồi nói:

– “Trần đương gia! Chúng ta tỉ thí một phen về ám khí đi.”

Trần Gia Lạc khom lưng nói:

– “Xin đại sư chỉ giáo!”

Đại Si thiền sư mỉm cười nói:

– “Chúng ta mỗi người phòng thủ một bên. Mỗi bên đều có chín cây nến, tám mươi mốt cây nhang. Người nào dập tắt hết nhang đèn của đối phương trước thì người ấy thắng. Cách tỉ thí này không tổn thương hòa khí.”

Ông đưa tay chỉ cái bàn bày cúng phẩm ở dưới điện, nói tiếp:

– “Tụ tiễn, Thiết liên tử, Bồ đề tử, Phi tiêu… loại ám khí nào trên bàn cũng có. Sau khi dùng hết có thể lấy tiếp.”

Trần Gia Lạc lấy trong bọc ra một nắm quân cờ vây, nghĩ bụng:

– “Vị đại sư này chắc chắn có công phu độc đáo về ám khí. Nếu bình thời ta chịu khó thỉnh giáo Triệu tam ca, thì bây giờ nắm chắc hơn nhiều.”

Chàng bèn nói:

– “Xin mời!”

Đại Si thiền sư mỉm cười nói:

– “Tiên khách hậu chủ.”

Trần Gia Lạc suy nghĩ:

– “Ta phải ra chiêu Mãn Thiên Hoa Vũ để đánh phủ đầu, cướp tinh thần đối thủ.”

Chàng bèn ném ra năm quân cờ một lúc. Ở chân tường bên kia, năm cây nhan đồng thời tắt ngóm.

Đại Si thiền sư khen ngợi:

– “Hảo công phu!”

Ông tháo xâu chuỗi trên ngực xuống, giật đứt sợi chỉ xâu, lấy năm hạt niệm châu quăng ra dập tắt năm cây nhang. Tiếng gió rít lên, Trần Gia Lạc lại dập tắt năm cây nhang nữa. Đại Si đáp lại bằng hai cái vẫy tay, chín cây nến tắt hết. Nến vừa tắt, trong bóng tối những bóng lửa ở đầu nhang nhìn rất rõ ràng, dễ đánh trúng hơn nhiều.

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Đúng là phải như vậy. Sao mình không nghĩ tới?”

Chàng lập tức búng ra chín quân cờ, chia làm ba đường bắn thẳng vào ba ngọn nến, nhưng chỉ nghe thấy những tiếng lốp đốp, lửa nến vẫn y nguyên. Thì ra chín quân cờ vây đó đều bị Đại Si dùng niệm châu đánh rớt giữa đường.

Trần Gia Lạc chưa hết ngơ ngác, Đại Si đã thừa cơ đánh tắt thêm bốn cây nhang. Ông lại ném tới năm hạt niệm châu nữa, Trần Gia Lạc bèn ném quân cờ ra đón lấy niệm châu. Nhưng vì nến bên mình đã tắt hết, đầu nhang chỉ có một chút ánh sáng, không thể nhìn rõ được những hạt niệm châu nhỏ xíu của đối phương. Năm hạt niệm châu đó chàng chỉ đỡ được hai hạt, còn ba hạt thì đánh tắt ba cây nhang nữa.

Tới lúc này Đại Si đại sư tạm thời dẫn trước chín ngọn nến và hai cây nhang. Ông dùng niệm châu vừa cố gắng bảo vệ chín ngọn nến, vừa tranh thủ tấn công đối phương, thêm vài hiệp lại dập tắt mười bốn cây nhang nữa. Trần Gia Lạc dốc hết toàn lực cũng chỉ đánh tắt được hai ngọn nến, ruột nóng như lửa đốt.

Đại Si thừa thắng tấn công, đánh một hơi tắt luôn mười chín cây nhang. Trần Gia Lạc thấy bên đối phương đèn đuốc huy hoàng, còn mình chỉ còn hơn hai chục cây nhang, nghĩ bụng:

– “Chẳng lẽ ta không qua được tòa điện thứ ba này?”

Trong lúc nguy cấp chàng đột nhiên nghĩ đến Phi Yến ngân châm của Triệu Bán Sơn, bèn chọn đúng phương vị, rồi ném ba quân cờ vây thẳng vào tường.

Đại Si thấy chàng ném trật rất xa, mỉm cười thầm nghĩ:

– “Dù sao thì y vẫn còn trẻ không biết trấn tĩnh, mới thua đã nổi nóng.”

Nào ngờ ba quân cờ đó chạm vào tường liền bắn ngược trở lại, chỉ có một quân không trúng, còn hai quân đánh tắt được hai ngọn nến. Đại Si không khỏi giật mình, bất giác lên tiếng khen ngợi.

Trần Gia Lạc biết, nếu mình liên tiếp dùng biện pháp này thì Đại Si không có cách nào giữ được số nến còn lại. Nhưng Đại Si thấy đã hơn hẳn mấy chục cây nhang, bây giờ không cần phòng thủ nữa, cứ vẫy lia lịa hai tay để dập tắt nhang của đối phương. Đột nhiên trong điện tối hẳn đi, Trần Gia Lạc đã đánh tắt hết những ngọn nến. Bên chàng chỉ còn lại bảy cây nhang, còn đối diện thì đốm lửa chi chít, ít ra cũng tới ba mươi cây.

Chàng đang nản lòng, thì đột nhiên Đại Si gọi lớn:

– “Trần đương gia! Ám khí của ta hết rồi. Chúng ta tạm ngưng, tới chỗ bàn bày đồ cúng tế để lấy thêm, rồi sẽ đấu tiếp.”

Trần Gia Lạc sờ vào bọc, thấy chỉ còn khoảng năm sáu quân cờ vây. Lại nghe Đại Si bảo:

– “Trần đương gia đi lấy trước đi.”

Chàng đi đến cái bàn, trong lòng bỗng hạ quyết tâm:

– “Đây là việc liên quan đến đại sự, ta đành phải giở trò vô lại.”

Chàng giũ rộng tay áo bên trái ra, tay phải quét lên mặt bàn một cái, lùa sạch sẽ mọi thứ ám khí trên mặt bàn vào tay áo. Sau đó chàng nhảy trở về vị trí, vừa cười vừa nói:

– “Một, hai, ba! Tại hạ phát ám khí đây!”

Đại Si nhảy đến chỗ cái bàn, đưa tay sờ thì trên mặt bàn không còn món nào. Trần Gia Lạc liên tiếp phát xạ nào là Thiết liên tử, nào là Bồ đề tử, chỉ trong nháy mắt là ba mươi mấy cây nhang của đối phương tắt sạch.

Trong tay Đại Si không còn ám khí, chỉ biết trợn mắt mà nhìn chứ không làm gì được. Ông cười ha hả rồi nói:

– “Trần đương gia thật nhiều thủ đoạn, đúng là quân tử đấu trí không đấu sức. Thí chủ thắng rồi, xin mời vào.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Thật là xấu hổ! Tại hạ nhất định phải thua, nhưng vì sự việc liên quan trọng đại nên không thể không dùng hạ sách này. Cúi xin đại sư tha lỗi!”

Đại Si tính tình rất hiền hòa, không giận mà lại mỉm cười nói:

– “Hai tòa điện phía sau do hai vị sư thúc của ta canh giữ. Hai vị này võ công hết sức thâm hậu, thí chủ phải cẩn thận.”

Trần Gia Lạc cảm kích đáp:

– “Đa tạ đại sư chỉ điểm!”

Chàng bước ra sau điện.

Tòa điện thứ tư cũng đèn đuốc sáng trưng, nhưng chu vi nhỏ hơn ba tòa điện phía trước rất nhiều. Giữa điện có hai cái bồ đoàn. Thủ tòa Thiên Kính đại sư của Đạt Ma Viện đang ngồi xếp bằng trên bồ đoàn bên trái, khi thấy Trần Gia Lạc tiến vào liền đứng dậy đón rồi nói:

– “Mời ngồi!”

Trần Gia Lạc không biết ông muốn tỉ thí kiểu nào, cứ vâng lời mà ngồi vào bồ đoàn bên phải. Chàng nghĩ:

– “Võ công của Đại Điên, Đại Si đã cao đến thế rồi. Thiên Kính là sư thúc, lại là thủ tòa của Đạt Ma Viện, dĩ nhiên thâm hậu hơn nhiều, khỏi nói cũng biết mình không phải là địch thủ. Đành phải tùy cơ ứng biến mà thôi.”

Thiên Kính đại sư thân hình cao nghệu, ngồi trên bồ đoàn mà so với người đứng chẳng khác bao nhiêu. Hai má ông hóp rất sâu, cả người hầu như không có thịt, nét mặt không tức giận mà vẫn oai nghiêm.

Thiên Kính nói:

– “Thí chủ liên tiếp vượt qua ba điện, đúng là bậc cao minh. Tuy nghĩa phụ của thí chủ không còn là môn hạ của Thiếu Lâm, nhưng dù sao thí chủ cũng là vãn bối, ta không thể đối chiêu bình thường với thí chủ. Thôi thì thế này, nếu sau mười chiêu mà thí chủ chưa thua, ta sẽ để thí chủ đi qua.”

Trần Gia Lạc đứng dậy thi lễ rồi nói:

– “Xin đại sư rủ lòng từ bi.”

Thiên Kính “hừ” một tiếng rồi bảo:

– “Ngồi xuống tiếp chiêu đi.”

Trần Gia Lạc vừa ngồi xuống bồ đoàn đã cảm thấy một đạo kình phong ập tới trước ngực. Chàng đưa song chưởng lên chống đỡ, nhưng vừa chạm vào tay của đối thủ là lập tức cảm thấy mình không đỡ nổi, nếu đương nhiên chống chọi thì có thể bị hất văng khỏi tấm bồ đoàn, liền dùng Vân Thủ định dẫn kình lực của đối phương sang hướng khác. Nào ngờ kình lực của Thiên Kính mãnh liệt khủng khiếp, Vân Thủ không làm bàn tay ông nhúc nhích chút nào. Trần Gia Lạc chỉ còn cách dùng hết sức lực toàn thân mà thẳng thắn tiếp chiêu.

Tuy Trần Gia Lạc đỡ được phát chưởng này, nhưng đã bị chấn động, vai trái đau như sắp gãy. Thiên Kính thiền sư hô lớn:

– “Chiêu thứ hai!”

Trần Gia Lạc không dám đỡ thẳng nữa, đợi chưởng tới rồi hơi nghiêng mình qua một bên, xoay ngược tay đánh một quyền vào cánh tay đối thủ. Đây là một chiêu kỳ dị trong Bách Hoa Tá quyền, buộc địch thủ phải thu hồi kình lực để tránh né. Không ngờ tay phải của Thiên Kính lại ra chiêu Hoành Tảo Thiên Quân, khuỷu tay gập lại, nhằm chính xác đầu quyền của chàng mà thúc ngang.

Chiêu này quá nhanh, quyền lực của Trần Gia Lạc chưa phát ra đã bị khuỷu tay đối phương cản lại. Chàng vội vận kình xuống chân, bật thẳng người lên để tránh cú thúc này, khi rơi xuống vẫn ngồi vững trên tấm bồ đoàn. Thấy chàng biến chiêu nhanh chóng, đang ngồi xếp bằng mà nhảy lên ngay được, Thiên Kính gật đầu khen ngợi, rồi lại vung trảo ra chụp.

Trần Gia Lạc thấy đối phương ra chiêu sau lợi hại hơn chiêu trước, thầm nghĩ:

– “Mười chiêu này, chắc ta không đón đỡ hết được.”

Đột nhiên nghe tiếng boong boong, thì ra trời đã gần sáng, trong chùa vừa nổi đại hồng chung. Trong lòng chàng bỗng nảy ra ý niệm, tả chưởng nhẹ nhàng vỗ ra theo dạng tiếng chuông lan tỏa khắp nơi, cả kình lực phương vị đều hoàn toàn thuận theo tự nhiên, tuyệt không miễn cưỡng chút nào.

Thiên Kính “ủa” một tiếng, phải thu tay về cản trở. Trần Gia Lạc tiếp tục sử dụng pho chưởng pháp đã ngộ được ở Ngọc Phong, chuyển vận như ý, thuận theo tiếng chuông mà phát ra từng chưởng, từng chưởng một. Thiên Kính phải tập trung tinh thần phòng thủ, không sao xuất chưởng phản kích được.

Đến khi hồi chuông dứt hẳn, Trần Gia Lạc thu chưởng lại rồi khiêm nhường nói:

– “Nếu cứ tiếp tục thì vãn bối không thể chống đỡ thêm nữa.”

Thiên Kính nói:

– “Hay lắm! Hay lắm! Chúng ta đã chiết giải hơn bốn mươi chiêu rồi. Quả nhiên chưởng pháp cực kỳ linh diệu. Xin mời!”

Trần Gia Lạc đứng dậy định đi, đột nhiên lảo đảo đứng không vững, phải tựa vào vách một lúc, thấy trước mắt đầy sao nhấp nháy. Thiên Kính vội đỡ chàng ngồi xuống, bảo:

– “Khi công nhiên đón đỡ phát chưởng đầu tiên, chắc nguyên khí thí chủ đã bị tổn thương. Ngồi xuống đây mà điều hòa hơi thở một chút, không có gì đáng ngại đâu.”

Trần Gia Lạc theo lời mà nhắm mắt, ngồi trên bồ đoàn vận khí. Hồi lâu nội tức chàng mới thông suốt trở lại nhưng đôi vai và hai bàn tay vẫn hơi đau nhức, không khỏi nghĩ thầm:

– “Vị lão tăng này quả nhiên lợi hại!”

Thiên Kính bỗng hỏi:

– “Lộ chưởng pháp này thí chủ học được ở đâu vậy?”

Trần Gia Lạc kể xong, Thiên kính lại nói:

– “Thì ra ở Tây Vực có chưởng pháp tinh diệu như thế, hoàn toàn thuận với tự nhiên. Ta thật sự được mở rộng tầm mắt. Nếu thí chủ mới vào đã dùng chưởng pháp này ngay, thì chắc chắn không bị tổn thương.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Vãn bối đã bị thương, tòa điện cuối cùng chắc khó mà qua được. Xin đại sư chỉ điểm cho một con đường sáng.”

Thiên Kính thiền sư nói:

– “Nếu không qua được, thì không qua nữa là xong.”

Trần Gia Lạc nghĩ bụng:

– “Đệ tử nhà phật thì lúc nào cũng muốn người khác quay đầu. Nhưng bọn hào kiệt chúng ta thì câu cửa miệng lại là cố gắng xông lên, chết không hối hận.”

Chàng bèn thi lễ, cố gắng đề cao dũng khí bước vào hậu điện. Vừa vào trong cửa Trần Gia Lạc đã giật mình một cái. Thì ra trong này là một căn thiền phòng nhỏ xíu, phương trượng Thiên Hồng đại sư ngồi ngay ngắn giữa phòng. Chàng nghĩ:

– “Thiên Kính đã lợi hại đến thế, Thiên Hồng lại là số một trong chùa, mình làm sao địch nổi? Tịnh thất này lại chật hẹp, không thể tỉ thí về quyền cước hay ám khí, nhất định là ông ấy bắt ta tỉ thí nội công, chẳng có cách nào dùng kỹ xảo mà thủ thắng.”

Chàng đang kinh hãi trù trừ, Thiên Hồng đã đứng dậy, chắp tay cúi người nói:

– “Mời ngồi!”

Trần Gia Lạc ngồi một bên thiền phòng. Giữa hai người có mấy cái ghế nhỏ, trên ghế có đặt lư nhang, trong lư nhang có khói trầm hương bốc lên thoang thoảng. Trên vách tường đối diện có treo bức tranh vẽ Hàn Sơn Thập Đắc, chỉ mấy nét bút đơn sơ mà lột tả được thần thái cao điệu của hai vị cao tăng.

Thiên Hồng ngẫm nghĩ một lúc rồi lên tiếng:

– “Ngày xưa có một người chăn dê rất giỏi, nhờ thế mà giàu lên thành một phú hào, nhưng bản tính tiết kiệm, không chịu xài phí tiền bạc…”

Trần Gia Lạc đột nhiên thấy ông kể chuyện, không khỏi ngạc nhiên, vội tập trung tinh thần để lắng nghe. Thiên Hồng tiếp tục kể:

– “Có một người rất xảo trá, biết người chăn dê ngu muội lỗ mãng mà đang muốn cưới vợ, bèn đến lừa gạt:

– “Ta biết một cô gái rất xinh đẹp, để ta giúp ông cưới cô đó làm vợ.”

Người chăn dê hoan hỉ, đưa cho y rất nhiều tiền bạc. Một năm sau, y đến nói:

– “Vợ của ông đã sinh cho ông được một đứa con trai rồi.”

Người chăn dê trước nay chưa từng gặp vợ, thế mà bây giờ nghe nói vợ đẻ con lại rất vui mừng, đưa cho y nhiều tiền hơn nữa.

Sau đó, y lại tới nói:

– “Chẳng may con của ông đã chết rồi.”

Người chăn dê bèn đau khổ khóc mãi không ngừng.”

Trần Gia Lạc sở học tạp nhạp, nhưng nghe đến đây cũng biết Thiên Hồng kể một câu chuyện trong kinh Bách Dụ của Phật giáo đại thừa. Lại nghe ông nói:

– “Thật ra mọi chuyện trên thế gian đều giống như thế cả. Nào ngôi cao hoàng đế, nào phú quý bốn biển, hết thảy đều hư ảo như vợ con của người chăn dê vậy. Đã là hư ảo thì hà tất phải khổ tâm phí sức để mong đạt được? Thế mà khi đoạt được lại hoan hỉ vui mừng, khi mất đi lại rầu rĩ bi thương.”

Trần Gia Lạc bèn nói:

– “Ngày xưa, một cặp vợ chồng có ba cái bánh. Mỗi người ăn một cái, còn một cái thì hai người hẹn nhau, ai mở miệng nói chuyện trước thì người đó không có bánh ăn.”

Thiên Hồng thiền sư biết chàng cũng kể một câu chuyện trong kinh Bách Dụ, bèn gật đầu một cái. Trần Gia Lạc kể tiếp:

– “Thế là hai người im lặng không nói chuyện nữa. Không bao lâu, có một tên trộm vào lấy hết tiền tài đồ vật trong nhà của họ. Hai vợ chồng đã thách nhau không nói chuyện nên cứ giương mắt mà nhìn, không nói tiếng nào. Tên trộm thấy vậy lại càng to gan hơn, toan cưỡng hiếp bà vợ ngay trước mặt ông chồng. Người chồng vẫn mặc kệ không nói, nhưng người vợ không nhịn nổi phải la lên.

Tên trộm liền ôm tiền tài và đồ vật mà chạy trốn. Lúc đó người chồng mới vỗ tay cười rộ:

– “Thế là bà thua rồi nhé! Cái bánh này ta được ăn.”

Thiên Hồng đã biết câu chuyện này, nhưng nghe đến đây cũng không khỏi mỉm cười. Trần Gia Lạc nói:

– “Vì một chút an nhàn hưởng lạc mà quên mất những nỗi khổ lớn sau này! Vì một miếng khoái khẩu nhỏ xíu mà để mặc cho kẻ trộm lấy hết tài sản, xâm phạm người thân! Ngay cả người trong cửa Phật cũng lo phổ độ chúng sinh, không thể nhẫn tâm chỉ lo cho riêng mình thành đạo.”

Thiên Hồng thiền sư thở dài nói:

– “Chư hành vô thường, chư pháp vô ngã. Con người thường xuyên chấp nhặt, thấy không mà tưởng là có. Nếu tâm mình hiểu được mọi thứ vốn là không, thì những loại dục vọng, suy nghĩ sẽ tự nhiên mất hết.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Chúng sinh có vạn điều khổ não. Cao tăng Chi Đạo Lâm từng nói: Kiệt Trụ tính ưa tàn sát, đâu thể để chúng tự do sống theo bản tính của mình?”

Thiên Hồng biết chàng đầy lòng nhiệt huyết, đã quyết chí giải trừ nỗi khổ cho muôn dân. Ông nảy lòng kính trọng, bèn nói:

– “Tấm lòng của Trần đương gia thật khiến cho người ta phải kính nể. Lão nạp xin hỏi thêm một việc nữa, sau đó thì thí chủ cứ tuỳ tiện.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Vãn bối ngu muội, xin đại sư chỉ điểm.”

Thiên Hồng thiền sư kể:

– “Ngày xưa có một bà lão đang nằm dưới gốc cây, đột nhiên có một con gấu lớn tới đòi ăn thịt. Bà lão chạy quanh cái cây đó, con gấu quờ hai bàn tay ra sau cây định bắt. Bà lão liền nắm hai bàn tay gấu, đè vào thân cây. Con gấu cứ đứng ôm cây không động đậy được, nhưng bà lão cũng không dám buông tay mà chạy. Về sau có một người đi ngang qua, bà lão nhờ giúp đỡ để cùng chia thịt gấu. Người đó tin lời, đến giữ hộ hai bàn tay gấu. Thế là bà lão thoát thân chạy trốn. Người kia phải đứng đó mà chờ.”

Trần Gia Lạc biết ngụ ý câu chuyện của Thiên Hồng kể, bèn đáp:

– “Vì cứu nguy cho người, có thể không lo cho mình. Đức Phật lúc sinh tiền đã từng xả thân nuôi chim ưng, nuôi hổ dữ.”

Hai bên đều kể những câu chuyện trong kinh Bốn Sanh. Nghĩa phụ Vu Vạn Đình của Trần Gia Lạc là tục gia đệ tử của phái Thiếu Lâm, bên mình thường mang theo mấy quyển kinh Phật nhập môn. Khi theo ông đến Hồi Cương, Trần Gia Lạc thường coi đó như tiểu thuyết mà đọc tới đọc lui.

Thiên Hồng thiền sư đưa phất trần phẩy một cái rồi nói:

– “Xin mời vào!”

Trần Gia Lạc lập tức cúi rạp xuống sàn phòng, thi lễ rồi nói:

– “Vãn bối phải vào nơi trọng địa, xin phương trượng tha tội.”

Thiên Hồng thiền sư khẽ gật đầu. Trần Gia Lạc quay người đi vào trong, còn nghe thấy sau lưng có tiếng thở dài.

Qua khỏi một hành lang dài, chàng tới một gian phòng lớn. Trong phòng có thắp hai cây nến rất lớn, ngọn lửa lay động không ngừng. Bốn vách tường kê đầy tủ gỗ, trên tủ đều dán giấy màu vàng. Trần Gia Lạc cầm nến bước tới, theo thứ tự dần dần tìm kiếm. Khi tìm đến tủ gỗ có dán chữ Khiêm, chàng mở cửa tủ ra thấy bên trong có ba túi vải màu vàng, trên túi vải bên tay trái có ghi ba chữ Vu Vạn Đình bằng mực đỏ.

Trần Gia Lạc không nén nổi, tay chân run rẩy làm ngọn nến chao hẳn đi. Chàng cố định thần lại, nhẹ nhàng cầm lấy túi vải đó, âm thầm khấn vài rồi mới mở túi ra xem.

Trong túi là một cái áo ngắn không tay của nam nhân có thêu hoa, một cái áo lót mình của nữ nhân màu trắng đã bị xé rách, trên áo có nhiều vết loang lổ, hình như là vết máu do lâu năm mà đen lại. Ngoài ra còn có một xấp giấy vàng. Trần Gia Lạc mở xấp giấy đó ra, trong lòng bỗng nhói lên một cái. Bút tích trên giấy đúng là của nghĩa phụ chàng.

Trần Gia Lạc đọc từ trang đầu:

– “Môn hạ đời thứ hai mươi mốt của Phúc Kiến Thiếu Lâm Tự, tục gia đệ tử Vu Vạn Đình là kẻ có tội xin kính bạch.

Đệ tử xuất thân làm ruộng nghèo khổ, từ nhỏ đã quen với cô gái họ Từ tên Triều Sinh ở nhà bên trái. Khi lớn lên, hai người thương yêu nhau…”

Đọc đến đây, trái tim Trần Gia Lạc đột nhiên đập lên thình thịch, trong lòng nghĩ:

– “Chẳng lẽ chuyện phạm môn quy của nghĩa phụ lại có liên quan đến mẫu thân của mình?”

Rồi chàng đọc tiếp:

– “Về sau, hai người đã lén thề ước chung thân, hẹn nhau: không phải Từ thị thì đệ tử không cưới làm vợ, không phải đệ tử thì Từ thị không lấy làm chồng. Sau khi tiên phụ qua đời, thiên tai hạn hán liên miên, ruộng đất mấy năm không thu hoạch được gì. Đệ tử phải bỏ quê kiếm sống, được ân sư từ bi thu làm môn hạ. Bây giờ nộp lên cái áo ngắn thêu hoa, chính là quà tặng của Từ thị lúc đệ tử rời khỏi quê hương.”

Trần Gia Lạc càng xem càng kinh ngạc, tiếp tục đọc:

– “Vì lo lắng và thương nhớ ân tình của Từ thị, đệ tử học võ công bản phái chưa tới nơi tới chốn đã tự tiện xuống núi, duyên trần không sao cắt nổi. Khi trở về quê hương, bỗng nghe cha của Từ thị đã đem con gái gả cho Trần Ngôn, một phú hào ở địa phương. Đệ tử trong lúc đau thương cực điểm, dựa vào võ nghệ của sư môn đã truyền thụ mà ban đêm vượt tường vào Trần phủ. Vì chuyện tư tình của bản thân mà xâm nhập nhà người khác, đây là một điều đệ tử phạm vào giới luật.

Sau này Từ thị theo chồng rời đến kinh thành, nhưng đệ tử vẫn có lòng luyến ái không bỏ được, ba năm sau lại đến thăm lần nữa. Ngẫu nhiên mà đêm đó Từ thị hạ sinh một đứa con trai. Trong lúc gia đình bận rộn, đệ tử chỉ đứng ngoài cửa sổ nhìn một chút, bốn ngày sau mới trở lại. Từ thị thần sắc bàng hoàng tuyệt vọng, kể với đệ tử là đứa con trai mình sinh ra đã bị Tứ hoàng tử Nhậm Trinh bắt mất, trả lại một đứa con gái. Lại nói là Nhậm Trinh đang âm mưu để được truyền ngôi, hai đứa con trai của hắn thì một chết sớm, một xấu xí không được ông nội yêu thích, nên hắn phải gấp rút tìm con.

Nói chuyện chưa xong thì từ ngoài lầu đột nhiên có bốn tên sát thủ của phủ Ung Để xông vào, đều là cao thủ. Hiển nhiên Nhậm Trinh phái chúng tới để giám sát, hạ lệnh nếu trong Trần phủ có ai tiết lộ bí mật này thì lập tức giết chết. Đệ tử kinh hãi chạy trốn, nhưng bị chúng đuổi kịp. Quyết đấu một trận, đệ tử trúng đao vào trán, nhưng gắng gượng liều mạng giết hết bọn sát thủ, quay về lầu rồi mới ngất xỉu. Từ thị lấy áo mình bó lại vết thương cho đệ tử. Bây giờ xin trình cái áo đó lên. Đệ tử vô ý mà nghe biết bí mật của hoàng thất, hiển lộ võ công phái Thiếu Lâm, gây họa cho sư môn. Đó là chuyện lớn thứ hai mà đệ tử phạm vào giới luật bổn môn.”

Đọc đến đây, Trần Gia Lạc cầm cái áo cũ của mẫu thân mà không nén nổi nước mắt tuôn xuống như mưa. Hồi lâu chàng mới đọc tiếp:

– “Từ đó mãi tới mười mấy năm sau, tuy đệ tử ở Bắc Kinh nhưng vẫn tuân thủ nghiêm ngặt giới luật của sư môn, không dám gặp mặt Từ thị lần nào. Đến khi Ung Chính băng hà, Càn Long nối ngôi, đệ tử tính thời gian thì biết Càn Long chính là con trai của Từ thị. Sợ con người Ung Chính nham hiểm ác độc, nhất định sẽ sai thích khách giết Từ thị diệt khẩu, nên đêm đó đệ tử lại vào Trần phủ, nấp trong phòng Từ thị. Quả nhiên có hai tên sát thủ tìm tới, nhưng đều bị đệ tử giết chết. Đệ tử lục soát bọn chúng, lấy được mật chỉ của Ung Chính, bây giờ cũng xin trình lên.”

Trần Gia Lạc giở đến trang cuối cùng, quả nhiên thấy một mảnh giấy nhỏ xíu dán vào cuối xấp giấy đó. Trên giấy có ghi:

– “Nếu lúc trẫm băng hà mà Trần Thế Quan và vợ là Từ thị chưa chết, phải giết hết già trẻ cả nhà, không để sót người nào.”

Bút tích đúng là của Ung Chính, lại có đóng một dấu son rất nhỏ, khắc hai chữ Vũ Oai viết theo thể triện.

Trần Gia Lạc từng nghe nghĩa phụ kể là Ung Chính có nuôi một nhóm sát thủ gọi là Thiết Chức Tử, chuyên đi ám sát theo lệnh hoàng thượng. Mỗi khi Ung Chính ban mật lệnh cho Thiết Chức Tử giết người, thì dùng dấu ấn son Vũ Oai làm ký hiệu. Chàng nghĩ:

– “Lúc đó võ công nghĩa phụ đã cực cao, hai tên Thiết Chức Tử đó dĩ nhiên không phải là địch thủ. Thế là nghĩa phụ không chỉ cứu mẫu thân của mình mà cứu cả phụ thân, cứu cả nhà mình. Ung Chính biết hắn còn tại thế thì song thân mình nhất định không dám tiết lộ bí mật này, nên hắn mới ra mật chỉ như vậy.”

Chàng lại đọc tiếp xấp giấy đó:

– “Càn Long không biết việc này nên không sai thích khách đến nữa. Nhưng đệ tử khó nỗi yên lòng, bèn cải trang vào làm nô bộc trong Trần phủ, lo việc chẻ củi gánh nước. Năm năm sau, tin chắc không còn hậu hoạn nữa, đệ tử mới rời khỏi đó. Đệ tử xuất thân từ danh môn mà cả gan làm như vậy, nếu người ngoài biết được thì không khỏi buông lời chế nhạo, làm bại hoại danh dự phái Thiếu Lâm. Đây là lỗi lớn thứ ba mà đệ tử phạm vào giới luật.”

Trần Gia Lạc đọc đến đây, bùi ngùi ngẫm nghĩ. Những việc không giải thích được trong quá khứ, tại sao mẫu thân lại bảo mình theo nghĩa phụ trốn ra ngoài, tại sao khi mẫu thân qua đời nghĩa phụ thương tâm mà chết… chàng đều đã hiểu. Trong lòng chàng nổi lên cảm giác khó chịu không thể diễn tả, nhưng lại nghĩ:

– “Nghĩa phụ vì bảo vệ mẫu thân mình mà cam chịu làm nô bộc năm năm, thật là tình sâu nghĩa nặng. Lúc đó mình còn nhỏ tuổi chẳng hiểu gì, không biết trong mấy chục gia nhân lại có một vị đại hiệp đương thời.”

Chàng ngồi ngẩn ngơ một lúc, rồi lau khô nước mắt để đọc tiếp:

– “Đệ tử đã phạm phải ba điều đại giới, trong lòng bàng hoàng sợ hãi. Nghiêm túc đem hết mọi việc trước sau trình lên sư phụ, cúi xin khai ân xử lý.”

Lời cung của Vu Vạn Đình tới đó là hết. Bên dưới còn mấy dòng bút phê bằng chu sa, chắc chắn là bút tích sư phụ của ông:

– “Vu Vạn Đình đã phạm phải ba giới luật, may mà lỗi không quá ác. Nếu chịu hối cải, vào chùa quy y tam bảo thì như Ngã Phật đã nói, tội thập ác cũng có thể tha, huống chi là những lỗi này. Nếu còn luyến ái duyên trần, không đủ Đại trí huệ, không đủ sức cắt đứt tơ tình, thì lập tức trục xuất ra khỏi sư môn. Mong Vu Vạn Đình tự mình lo liệu, theo yếu chỉ Phật môn mà cẩn thận hành sự.”

Xấp giấy không còn chữ nào khác nữa.

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Vậy là cuối cùng nghĩa phụ không quên được mẫu thân mình, nên không thể xuất gia làm hòa thượng, chấp nhận bị trục xuất khỏi phái Thiếu Lâm. Ông tự biết mình có lỗi, nên khi sư phụ mình triệu tập anh hùng hảo hán đến giúp cãi lý, ông đã nhất quyết chối từ.”

Lúc này những nghi hoặc trong lòng chàng đã giải quyết được hết. Ngẩng đầu lên, thấy phía chân trời ánh sao đã nhạt, những tia sáng đầu tiên đã xuất hiện ở phương Đông. Chàng thổi tắt mấy ngọn nến, gói lại mấy vật vào trong tấm vải vàng, đóng cửa tủ, cầm lấy gói vải đi ra khỏi phòng. Thấy trước mặt có một pho tượng Di Lặc đang cười rất thân ái, cúi nhìn những ai qua lại, chàng bỗng nghĩ:

– “Năm xưa nghĩa phụ bị trục xuất khỏi sư môn, lúc ông từ Giới Trì Viện đi ra nhìn thấy pho tượng Phật này, không biết trong lòng đã nghĩ những gì?”

Dọc đường đi ra, chàng thấy năm tòa điện hoàn toàn không có người nào. Ra khỏi tòa điện cuối cùng, Chu Trọng Anh, Lục Phi Thanh và quần hùng Hồng Hoa Hội cùng bước lên đón tiếp. Mọi người lo âu chờ đợi suốt đêm, bây giờ thấy chàng bình an vô sự đi ra, trong tay còn cầm gói vải, ai cũng mừng rỡ. Khi đến gần, thấy chàng thần thái có vẻ mệt mỏi, cặp mắt đỏ ngầu sưng húp, họ không khỏi kinh ngạc.

Trần Gia Lạc kể lại qua loa về tình nghĩa của nghĩa phụ đối với mẫu thân mình, còn những chuyện ảnh hưởng đến danh tiết của hai người thì hoàn toàn không nhắc đến. Chàng nói sang chuyện Lục Phi Thanh tra hỏi được, về việc hoàng đế phái Bạch Chấn tới triệu tập binh lính đợi mật chỉ, e rằng vụ này có liên quan đến đại sự khởi nghĩa, rồi khuyên Văn Thái Lai và Từ Thiên Hoằng tạm thời gác lại tư thù. Hai người Văn, Từ đồng ý, mọi người đều tán dương họ biết lấy đại cuộc làm trọng.

Chu Trọng Anh theo Trần Gia Lạc vào trong, xin gặp hai vị đại sư Thiên Hồng, Thiên Kính để từ biệt, rồi thu dọn hành trang để khởi hành. Vừa ra khỏi cửa chùa, đột nhiên sắc mặt Chu Ỷ tái nhợt, ra vẻ sắp ngất, Chu Trọng Anh phải đỡ nàng vào lại trong chùa để nghỉ ngơi. Ông biết con gái đang mang thai, không chừng đường sá xa xôi mệt nhọc làm động thai, bèn nhờ một tăng nhân tinh thông y lý trong chùa Thiếu Lâm bắt mạch. Vị tăng đó nói nàng không thể đi tiếp một đoạn đường dài như vậy nữa, phải ở lại mà tĩnh dưỡng chờ ngày chuyển dạ. Lúc này Chu Ỷ chỉ còn cách gật đầu đồng ý.

Mọi người bàn bạc, quyết định để vợ chồng Chu Trọng Anh cùng hai đệ tử và Từ Thiên Hoằng ở lại. Năm người sẽ lo liệu cho nàng, đợi sinh xong phục hồi sức lực, rồi sẽ lên kinh thành tụ tập. Chu Trọng Anh liền tìm thuê mấy gian nhà quanh đó, còn Lục Phi Thanh, Trần Gia Lạc và mọi người lên đường đi về hướng Bắc.

* * *

Một hôm đi tới Thái An tỉnh Sơn Đông thì đệ tử trong phân đà vào báo là Hương chủ Hình đường Thạch Song Anh từ Bắc Kinh đến. Quần hùng nghe thấy, lập tức cả mừng chạy ra đón tiếp. Thạch Song Anh thi lễ với Trần Gia Lạc và mọi người rồi đi vào nội đường.

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Thập nhị ca! Vết thương của huynh lành hẳn rồi chứ?”

Thạch Song Anh đáp:

– “Đa tạ tổng đà chủ quan tâm, đã lành hẳn rồi. Lục lão tiền bối, các vị ca ca, chắc dọc đường mệt mỏi lắm!”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Trong kinh có tin tức gì không?”

Thần sắc Thạch Song Anh đột nhiên ủ rũ, đáp:

– “Trong kinh không có việc gì. Nhưng thuộc hạ gấp rút đến đây là để bẩm báo, toàn quân của Mộc Trác Luân đã bị tiêu diệt.”

Trần Gia Lạc giật mình đứng bật dậy, định thần một lát mới hỏi được:

– “Cái gì?”

Quần hùng không ai là không kinh hãi. Lạc Băng nói:

– “Khi chúng ta rời khỏi Hồi Cương, tàn binh bại tướng của Triệu Tuệ vẫn còn bị vây khốn ở Hắc Thủy Doanh, không lọt ra được một tên nào. Tại sao quân Thanh lại thắng?”

Thạch Song Anh thở ra một hơi rồi nói:

– “Quân Thanh đột nhiên có tăng viện. Chúng chuyển từ phía Nam Tân Cương đến một đội viện quân lớn, cùng bọn tàn quân Triệu Tuệ nội ngoại giáp công. Những người Hồi chạy thoát kể lại, lúc đó cô nương Hoắc Thanh Đồng đang bệnh không thể chỉ huy, lão anh hùng Mộc Trác Luân và con trai chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Còn cô nương Hoắc Thanh Đồng thì không rõ tung tích ở đâu.”

Trần Gia Lạc đau buồn, buông mình ngồi phịch xuống ghế. Lục Phi Thanh nói:

– “Cô nương Hoắc Thanh Đồng võ nghệ đầy mình, bọn lính Thanh làm sao đả thương cô ấy được?”

Trần Gia Lạc và mọi người đều biết ông ta đang cố tự an ủi. Trong đám loạn quân, một cô gái đang bị bệnh làm sao tự vệ nổi?

Lạc Băng lại hỏi:

– “Hoắc Thanh Đồng có một cô em gái, người Hồi gọi là Hương Hương công chúa. Huynh có nghe thấy tin tức cô ấy hay không?”

Nói xong, nàng nháy mắt một cái. Thạch Song Anh hiểu ý, nhưng không có chứng cớ để ngụy tạo tin lành, đành chỉ nói:

– “Chuyện này thì không nghe thấy. Cô ấy là một nhân vật nổi danh, nếu không may thiệt mạng thì chắc trong kinh thành sẽ có người đồn đãi. Đệ hoàn toàn không nghe thấy gì, chắc là không có chuyện đó.”

Trần Gia Lạc dĩ nhiên biết mọi người đang tìm cách an ủi mình, bèn nói:

– “Ta vào trong nghỉ ngơi một lát.”

Mọi người đều nói:

– “Xin tổng đà chủ tùy tiện!”

Đợi chàng đi khuất, Lạc Băng vội bảo Tâm Nghiễn:

– “Tiểu đệ mau mau vào trong đó chăm sóc tổng đà chủ.”

Tâm Nghiễn liền vội vã đi vào.

Mọi người đều nghĩ đến cái chết của Mộc Trác Luân và Hoắc A Y. Tuy họ vì bảo vệ quê hương mà hy sinh cuộc sống, bỏ mạng sa trường không uổng một đời hào kiệt, nhưng cũng khiến người ta có phần thương cảm. Còn chị em Hoắc Thanh Đồng sống chết chưa rõ, xem ra lành ít dữ nhiều. Vì thế mọi người ủ rũ, ai cũng im lặng không nói năng gì, không khí hết sức nặng nề.

Chẳng bao lâu, Trần Gia Lạc vén màn bước ra, lên tiếng:

– “Chúng ta ăn cơm đi! Sáng sớm mai còn phải về Bắc Kinh.”

Quần hùng thấy chàng đột nhiên trấn tĩnh lại được, đều cảm thấy ngạc nhiên. Lục Phi Thanh khẽ bảo Văn Thái Lai:

– “Trước đây ta thấy tổng đà chủ của các vị lúc nào cũng coi trọng chuyện tình cảm nữ nhi, mất đi một ít khí khái anh hùng. Phen này y có thể bỏ ra ngoài tâm trí, đáng là hào kiệt lãnh đạo quần hùng. Ta thật sự thán phục.”

Văn Thái Lai chĩa ngón tay cái lên trời, im lặng ăn cơm.

Dọc đường quần hùng đều thấy Trần Gia Lạc cố gắng nói cười, nhưng thần sắc ngày càng tiều tụy. Ai cũng lo lắng cho chàng, nhưng không sao tìm được những lời an ủi khuyên can. Không đầy một ngày đoàn người đã đến Bắc Kinh.

Thạch Song Anh đã mua một căn nhà lớn trong con hẻm Hồ đồng song liễu tử. Năm người Vô Trần, Thường thị song hiệp, Triệu Bán Sơn, Dương Thành Hiệp ở đó chờ đợi từ lâu. Mọi người kể sơ lại những chuyện trong lúc phân ly, rồi Trần Gia Lạc nói:

– “Triệu tam ca! Nhờ huynh cùng Tâm Nghiễn đi gặp tổng quản thị vệ. Huynh đem theo cây đàn Lai Phụng của ta và ngọc bình của Tứ tẩu đã lấy cắp, tới bảo tổng quản trình lên hoàng thượng. Nhất định hoàng đế sẽ biết chúng ta đã đến đây.”

Triệu Bán Sơn cùng Tâm Nghiễn nhận lệnh mà đi. Sau nửa ngày, họ trở về bẩm báo. Tâm Nghiễn nói:

– “Thuộc hạ cùng Triệu đương gia…”

Triệu Bán Sơn mỉm cười ngắt lời:

– “Sao lại gọi ta là đương gia?”

Tâm Nghiễn nói:

– “Vâng! Thuộc hạ cùng Triệu tam… Triệu tam ca đi gặp tổng quản của hoàng thượng. Người tổng quản này tên là Vương Thanh. Y nói mình vốn là phó tổng quản, còn tổng quản Bạch Chấn đã phụng chỉ xuất kinh lo việc. Bạch tổng quản có dặn y phải đối xử nhiệt tình với tổng đà chủ và mọi huynh đệ trong Hồng Hoa Hội. Sau đó y kéo bọn thuộc hạ ra khỏi cửa, uống một bữa rượu rồi mới chịu cho về, thái độ rất thân mật.”

Trần Gia Lạc gật đầu, nghĩ bụng:

– “Chắc là Bạch Chấn nhớ ơn mình cứu mạng khỏi sóng Tiền Đường, nên mới dặn dò thuộc hạ đối đãi với Hồng Hoa Hội một cách đàng hoàng.”

Sáng sớm hôm sau Vương Thanh đến đây hồi bái, trò chuyện một lúc với Triệu Bán Sơn rồi cầu kiến Trần Gia Lạc. Trần Gia Lạc thấy gã Vương Thanh này tuổi trạc ngũ tuần, ra vẻ tinh minh lanh lợi, võ công không kém, thần thái nghiêm cẩn. Y khẽ nói:

– “Hoàng thượng lệnh cho tại hạ dẫn Trần công tử vào cung.”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Được! Xin Vương tổng quản chờ đợi trong chốc lát.”

Chàng vào trong thương nghị với Lục Phi Thanh và mọi người, ai cũng nói:

– “Nên cảnh giác nghiêm mật, đề phòng bất trắc.”

Trần Gia Lạc cùng sáu người Lục Phi Thanh, Vô Trần, Triệu Bán Sơn, Thường thị song hiệp và Vệ Xuân Hoa vào cung. Văn Thái Lai chỉ huy mọi người còn lại tiếp ứng bên ngoài.

Bảy người được Vương Thanh dẫn vào, nên bọn thị vệ gác ở cửa cung đều cung kính thi lễ. Mọi người thấy hoàng cung khí thế hùng vĩ, tường dày chắc chắn, phòng thủ nghiêm ngặt, ai cũng bất giác đề phòng. Đi được một hồi, hai tên thái giám vội vã chạy tới nói với Vương Thanh:

– “Vương tổng quản! Hoàng thượng đang ở Bảo Nguyệt Lâu, bảo tổng quản dẫn Trần công tử đến.”

Vương Thanh vâng dạ, rồi quay lại nói với Trần Gia Lạc:

– “Từ đây trở đi đã là cấm cung, xin công tử bảo mọi người để binh khí lại.”

Mọi người tuy thấy chuyện này nguy hiểm, nhưng chỉ còn cách tuân lời mà tháo đao kiếm ra đặt lên bàn. Vương Thanh dẫn mọi người đi qua nhiều cung điện, nhiều vườn tược, đến trước một tòa lầu. Tòa lầu đó cao đến năm tầng, huy hoàng sáng sủa, được chạm trổ đầy vách đầy cột sang trọng vô cùng.

Hai tên thái giám từ trên lầu bước xuống, gọi:

– “Truyền Trần Gia Lạc!”

Trần Gia Lạc chỉnh lại y phục mũ nón, theo chúng lên lầu. Còn sáu người bọn Vô Trần thì bị giữ lại ngoài lầu.

Trần Gia Lạc theo thái giám đến tầng thứ năm, vào phòng thì thấy Càn Long đang mỉm cười ngồi đó. Chàng vội quì xuống, cung kính thi lễ quân thần. Càn Long cười nói:

– “Ngươi đến đây rồi, hay lắm! Ngồi xuống đi.”

Hắn vẫy tay một cái, bọn thái giám kéo ra ngoài hết. Trần Gia Lạc vẫn khoanh tay đứng yên, Càn Long lại bảo:

– “Ngồi xuống mà nói chuyện.”

Trần Gia Lạc đa tạ rồi mới dám ngồi. Càn Long hỏi:

– “Ngươi thấy tòa lầu này có đẹp không?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Nếu không phải nơi hoàng cung nội viện, chỗ khác không thể có tòa lầu cao nào vừa sang trọng vừa tinh tế đến thế.”

Càn Long mỉm cười nói:

– “Ta bảo chúng xây dựng gấp, tổng cộng chưa tới hai tháng. Nếu thời gian rộng rãi thì có thể kiến trúc hoa mỹ sang trọng hơn rất nhiều, thế này chỉ là tạm được.”

Trần Gia Lạc “Vâng” một tiếng, nghĩ bụng:

– “Xây dựng tòa Bảo Nguyệt Lâu này không biết đã tốn kém bao nhiêu sức dân, tiền của. Lại còn xây dựng gấp rút, không chừng đã giết chết rất nhiều nhân công.”

Càn Long đứng dậy rồi nói:

– “Ngươi vừa tới Hồi Cương, đến đây xem thử có giống cảnh sắc vùng đại mạc hay không.”

Trần Gia Lạc theo hắn đến bên cửa sổ, đứng trên nhìn xuống không khỏi giật mình một cái.

Đây là ngự hoa viên muôn hồng nghìn tía, vừa rồi chàng đi từ hướng đông đến chỉ thấy những cảnh sang trọng hào hoa, phú quý vô cùng. Thế mà đứng trên lầu cao nhìn về hướng tây, cảnh tượng hoàn toàn khác hẳn. Mặt đất trong vòng một dặm đã phủ kín cát vàng, còn đắp thành mấy đồi cát nhỏ. Nhìn kỹ vẫn còn thấy dấu vết đình đài lầu các vừa dời đi, ao hồ vừa lấp cạn, cây cối hoa cỏ vừa đào bỏ. Dĩ nhiên nơi đây không thể có khí thế hùng vĩ của vùng đại mạc nhìn không biết đâu là chỗ tận cùng, nhưng cũng có đôi chút dáng vẻ của sa mạc.

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Hoàng thượng thích cảnh sắc vùng sa mạc hay sao?”

Càn Long cười cười không đáp, hỏi lại:

– “Thế nào?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Nhất định là đã cố gắng hết sức người.”

Trên bãi cát vàng đang sắp dựng lên mười mấy căn lều loại người Hồi thường dùng, bên lều còn có ba con lạc đà. Chàng nghĩ đến tỉ muội Hoắc Thanh Đồng, không nén nổi chua xót trong lòng. Phía trước còn mấy trăm nhân công đang tháo dỡ nhà, chắc hoàng đế chê bãi cát này chưa đủ lớn, cần phải mở rộng thêm.

Trần Gia Lạc không khỏi ngạc nhiên nghĩ:

– “Mặt cát khô cằn như vậy có gì là đẹp? Tại sao trong Ngự Hoa Viên phồn hoa cẩm tú này lại dựng mấy cái lều của người Hồi cho nghịch mắt? Tâm tư của hoàng đế thật khiến cho người ta khó hiểu.”

Càn Long từ cửa sổ quay vào, chỉ cây cổ cầm Lai Phụng đang đặt trên bàn mà nói:

– “Hãy đàn cho ta nghe một bản, có được không?”

Trần Gia Lạc thấy hắn mãi không nhắc đến việc chính, nhưng không tiện nói trước. Chàng bèn ngồi ngay ngắn, tấu lên một khúc Triều Thiên Tử. Càn Long hoan hỉ mà nghe.

Trần Gia Lạc nghiêng đầu đánh đàn, đột nhiên thấy trên một cái bàn có đặt cặp ngọc bình của sứ giả Hồi tộc đưa đến cầu hòa. Trên bình có vẽ mỹ nhân Mã Mễ Nhi trông như đang mỉm cười khích lệ bản thân mình, bím tóc dài, mũ chỏm nhỏ, đôi mắt thoạt nhìn giống hệt Hương Hương công chúa. Đột nhiên “tưng” một tiếng, một dây đàn đứt ngay.

Càn Long mỉm cười hỏi:

– “Sao thế? Vào cấm cung có phần sợ hãi phải không?”

Trần Gia Lạc đứng dậy cung kính nói:

– “Có thiên oai ở đây, vi thần mất hết tự tin.”

Càn Long cười ha hả, đắc ý thầm nghĩ:

– “Cuối cùng thì ngươi cũng sợ ta rồi.”

Trần Gia Lạc cúi đầu xuống, đột nhiên thấy bên tay trái Càn Long có buộc một miếng vải trắng, hình như đã bị thương. Càn Long hơi đỏ mặt, vội giấu bàn tay ra sau lưng rồi hỏi:

– “Những thứ ta cần, mang đến cả rồi chứ?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Bằng hữu của vi thần đang giữ ở dưới lầu.”

Càn Long cả mừng, cầm cái búa nhỏ trên bàn gõ nhẹ lên tấm ván hai cái, một tên tiểu thái giám lập tức chạy vào. Càn Long bảo:

– “Gọi tùy tùng của Trần công tử lên đây.”

Tiểu thái giám vâng dạ rồi đi xuống.

Lục Phi Thanh cùng mọi người chờ đợi ở dưới lầu, không biết Trần Gia Lạc đàm luận với hoàng đế ra sao. Lát sau nghe thấy trên lầu vọng xuống tiếng đàn, họ mới yên tâm. Khi tiểu thái giám xuống gọi, cả sáu đều theo hắn lên lầu.

Đi tới cầu thang tầng thứ hai, đột nhiên sau lưng có tiếng bước chân gấp rút, hai người bước lẹ tới. Vô Trần và Vệ Xuân Hoa đi ở sau cùng, nép sát ra hai bên để nhường đường. Hai người kia bước qua, thấy Thường thị song hiệp không chịu né ra bèn khẽ quát:

– “Nhường đường!”

Rồi cả hai đưa tay ra đẩy vào hông của song hiệp, toan xô ra hai bên.

Thường thị song hiệp đều nghĩ:

– “Con rùa nào vô lễ đến thế?”, lập tức vận kình đẩy ngược lại, hất hai người đó ra. Chúng thấy song hiệp không động đậy mà lại có lực đạo rất lớn phản kích, đều kinh hãi một phen. Sau đó Thường thị song hiệp mới né sang hai bên, nhường ra một lối đi.

Hai tên này ăn mặc theo kiểu thái giám, một tên tay không, một tên đang bưng một cái hộp lớn. Vừa rồi chúng ra tay đã chứng tỏ nội công thâm hậu. Trong nội điện mà có người giỏi võ công như thế, không khỏi khiến quần hùng phải bất ngờ.

Tới sau lưng Lục Phi Thanh và Triệu Bán Sơn, hai tên nhìn nhau một cái, đồng thời đưa tay nắm lấy vai của hai người Lục, Triệu, hét lên:

– “Nhường đường!”

Cảm thấy có người đánh lén, Lục Phi Thanh liền ra chiêu Chiêm Y Thập Bát Trật, còn Triệu Bán Sơn thì dùng nửa chiêu Đơn Tiên lập tức hóa giải được thế công. Hai tên thái giám đã nắm không trúng lại bị nội kình phản kích, vội co giò chạy lên lầu, rồi quay lại giận dữ nhìn hai người Lục, Triệu. Một tên hỏi Vương Thanh:

– “Vương lão tam! Hoàng thượng lại tuyển thị vệ phải không?”

Vương Thanh mỉm cười nói:

– “Mấy vị này đều là cao nhân võ học, đâu có tầm thường như bọn tại hạ?”

Hai tên thái giám “hừ” một tiếng, tiếp tục lên lầu.

Lục Phi Thanh cùng mọi người thấy hai tên thái giám này mình đầy tuyệt kỹ mà chịu làm sai dịch ở đây, đối với Vương Thanh lại chẳng lịch sự chút nào, nên đều sinh lòng hoài nghi:

– “Không biết hai người này lai lịch ra sao?”

Chốc lát đã lên tới tầng lầu thứ năm. Vương Thanh đứng ngoài bẩm báo:

– “Sáu vị tùy tùng của Trần công tử đã đến rồi.”

Một tên tiểu thái giám vén rèm bước ra nói:

– “Xin đợi một lát.”

Lát sau hai tên thái giám biết võ đi ra tay không, nhìn qua sáu người một cái rồi bước xuống lầu. Tiểu thái giám bước ra gọi:

– “Vào đi!”

Sáu người theo Vương Thanh vào trong, thấy Càn Long ngồi chính giữa, Trần Gia Lạc ngồi bên cạnh. Trần Gia Lạc đảo mắt một cái rồi đứng dậy. Lục Phi Thanh cùng mọi người không làm gì được, đành phải quì xuống dập đầu với Càn Long. Vô Trần âm thầm thóa mạ:

– “Con mẹ nó! Hôm ở trên Lục Hòa Tháp, tên hoàng đế thối tha này hoảng sợ đến hồn lìa khỏi xác, hôm nay lại bày đặt làm phách chó ở đây. Lão gia mà không nể mặt tổng đà chủ, thì phải cầm kiếm chọc xuyên qua thân thể nhà ngươi ba lỗ.”

Trần Gia Lạc nhận từ tay Triệu Bán Sơn một cái hộp gỗ niêm phong cẩn thận, đặt trên bàn rồi nói:

– “Ở đây cả rồi.”

Càn Long nói:

– “Được! Ngươi về trước đi, sau khi ta xem xong sẽ cho người gọi đến.”

Trần Gia Lạc khấu đầu xin cáo biệt. Càn Long bảo:

– “Cây đàn này ngươi cũng mang về đi.”

Trần Gia Lạc vâng dạ, nhận lấy cây đàn giao cho Vệ Xuân Hoa rồi nói:

– “Hoàng thượng đã bình được Hồi Cương rồi, cầu xin thánh ân hạ chỉ đừng chém giết nhiều nữa.”

Càn Long gật đầu một cái, vẫy tay bảo mọi người ra ngoài. Trần Gia Lạc không làm gì được, đành dẫn quần hùng theo Vương Thanh ra khỏi phòng. Xuống dưới lầu, hai tên thái giám biết võ bước tới chặn đường, cất tiếng hỏi:

– “Vương lão tam! Bằng hữu nào vậy? Cho chúng ta làm quen đi.”

Hình như Vương Thanh có phần sợ hãi hai tên thái giám này, bèn quay lại nói với Trần Gia Lạc:

– “Để tại hạ giới thiệu cho các vị gặp hai cao thủ trong cung. Vị này là Trì Huyền công công, vị này là Võ Minh Phu công công.”

Trần Gia Lạc đang mưu đồ đại sự, không muốn đắc tội với mọi người trong cung, bèn chắp tay mỉm cười nói:

– “Hân hạnh, hân hạnh!”

Vương Thanh nói với hai người Trì, Võ:

– “Trong lúc hoàng thượng đi chơi ở Giang Nam đã gặp vị Trần công tử này, rồi đem lòng sủng ái. Lần này triệu kiến, chẳng bao lâu sẽ trọng dụng.”

Trì Huyền cười khẩy rồi nói:

– “Một công tử trẻ tuổi đẹp trai như thế, nếu muốn làm Đại Học Sĩ e rằng hơi sớm một chút.”

Trần Gia Lạc nghe giọng điệu của hắn đầy vẻ khinh thường, nhưng nhẫn nại không nói gì. Thường thị huynh đệ trợn to cặp mắt giận dữ mà nhìn, suýt nữa buột miệng thóa mạ “đồ con rùa.”

Sau đó Vương Thanh tiếp tục giới thiệu tới Lục Phi Thanh và Vô Trần.

Phụ thân của hai tên Trì, Võ đều là sát thủ dưới tay Ung Chính. Ung Chính từng sai đi ám sát vương công đại thần, rồi sợ tiết lộ bí mật nên hãm hại hai người đó. Sau đó hắn đưa con trai của họ vào cung, tịnh thân cho làm thái giám. Hai tên Trì, Võ này từ nhỏ đã vào cung, được đông đảo bằng hữu của phụ thân chỉ điểm nên võ nghệ đầy mình, nhưng đối với những nhân vật giang hồ thì hoàn toàn không biết gì. Ngay cả cái tên lừng lẫy như Vô Trần mà chúng cũng không biết.

Võ Minh Phu mỉm cười nói:

– “Chúng ta thân cận một chút.”

Rồi hai tên đưa tay ra nắm lấy tay của Lục Phi Thanh và Triệu Bán Sơn. Khi chúng lên lầu, muốn túm lấy vai của Lục và Triệu mà không trúng, trong lòng không phục nên bây giờ muốn thử lại.

Trì Huyền học Lục Hợp Quyền, còn Võ Minh Phu tinh thông về Phách Quyền. Chúng vừa nắm tay đã vận kình bóp lại, muốn bắt Lục Phi Thanh và Triệu Bán Sơn phải kêu đau. Nào ngờ khi Trì Huyền dùng sức bóp vào thì thấy tay của Triệu Bán Sơn trơn tru như cá, tuột khỏi lòng bàn tay hắn.

Còn Lục Phi Thanh có biệt hiệu là Miên Lý Châm, ngoài mềm trong cứng. Võ Minh Phu vừa vận kình đã có cảm giác như nắm phải một khối bông gòn, trong lòng biết là không hay bèn lập tức rút tay lại. Lòng bàn tay hắn đã trúng phải âm kình, may là rút tay khá sớm nên chưa bị thương, cố gượng cười mà nói:

– “Nội công của Lục lão gia thật là tinh tuyệt.”

Trì Huyền nhìn Thường thị huynh đệ mà nói:

– “Hai vị này có dị tướng, võ công nhất định kinh người. Chúng ta thân cận một chút.”

Thường thị huynh đệ cứ để Trì và Võ nắm chặt tay mình, đều nghĩ:

– “Hai con rùa này đã mất trứng rồi mà còn cố ngang tàng. Phải dạy dỗ chúng chút xíu cho biết đường lợi hại.”

Họ bèn sử dụng công phu Hắc Sa Chưởng. Sắc mặt của hai tên Trì, Võ lập tức tái đi, trên trán từng giọt mồ hôi to như hạt đậu lăn xuống mặt.

Hai tên Trì, Võ này là tâm phúc của thái hậu, được mụ sủng ái nên cực kỳ điêu ngoa ngang ngược, bình thường bọn thị vệ trong cung đối với chúng bằng mặt mà chẳng bằng lòng. Lúc này Vương Thanh thấy chúng nếm mùi đau khổ, giả vờ không nhìn thấy nhưng trong lòng lại âm thầm hoan hỉ.

Thường thị huynh đệ mỉm cười buông tay. Hai tên Trì, Võ đau thấu tâm can, cúi xuống nhìn những dấu ngón tay thâm đen trên bàn tay mình, giương mắt giận dữ nhìn song hiệp rồi quay đầu đi ngay. Vệ Xuân Hoa nghĩ bụng:

– “Võ công như Trương Triệu Trọng mà khi ở Ô Sào Lãnh vừa bị Thường ngũ ca nắm một cái đã trọng thương, nói gì đến hai tên này.”

Vương Thanh dẫn quần hùng ra ngoài cửa cung, thấy mọi người Văn Thái Lai, Dương Thành Hiệp, Chương Tấn vẫn đứng đợi.

* * *

Càn Long đợi Trần Gia Lạc rời khỏi liền bảo bọn thái giám lùi ra. Hắn mở cái hộp gỗ, nhìn thấy mật chỉ của Ung Chính và lá thư do mẫu thân mình viết. Cái bớt đỏ son trên mông trái, nếu không phải mẹ ruột thì ai biết được? Chuyện đã rõ ràng, hắn không nghi ngờ gì nữa.

Nghĩ đến công ơn sinh thành của song thân, hắn không khỏi trầm ngâm một lúc khá lâu. Sau đó hắn bảo tên tiểu thái giám đem bếp lửa vào, đem từng vật chứng bỏ vào lửa. Thấy ngọn lửa cháy hừng hực, đột nhiên trong lòng hắn cảm thấy thoải mái hơn, suy nghĩ một chút rồi bỏ nốt cái hộp gỗ đó vào lửa. Ngọn lửa bốc cao, gian phòng ấm áp hẳn lên.

Càn Long ngẩn ra nhìn đôi ngọc bình trên bàn một lúc, rồi bảo tiểu thái giám:

– “Gọi người đó lên đây.”

Tiểu thái giám xuống lầu, lát sau trở về quì xuống bẩm báo:

– “Nô tài đáng chết! Nương nương không chịu lên.”

Càn Long mỉm cười rồi lại thở ra, chỉ đôi ngọc bình rồi đứng dậy đi xuống lầu. Hai tên tiểu thái giám liền ôm lấy ngọc bình đi theo.

Xuống tới tầng dưới, hai cung nữ đang đứng trước cửa lập tức vén rèm lên, Càn Long đi vào. Trong phòng đầy ngập hoa tươi. Hai cung nữ đón lấy ngọc bình từ tay tiểu thái giám, nhẹ nhàng đặt lên bàn.

Trong phòng có một thiếu nữ mặc áo trắng, vốn ngồi hướng mặt ra cửa, khi nghe thấy tiếng chân liền quay lại nhìn vào vách. Càn Long vẫy tay, bọn cung nữ lùi hết ra ngoài. Hắn đang định lên tiếng thì rèm cửa lại vén ra, Trì Huyền và Võ Minh Phu bước tới, khoanh tay đứng ngay giữa cửa.

Càn Long giận dữ hỏi:

– “Các ngươi đến đây làm gì? Ra ngoài mau lên!”

Trì Huyền đáp:

– “Nô tài phụng ý chỉ của thái hậu, đến đây để bảo vệ hoàng thượng.”

Càn Long hỏi:

– “Ta có gì mà phải bảo vệ?”

Trì Huyền đáp:

– “Thái hậu biết cô ấy… biết nương nương tính khí… tính khí cang cường, sợ sẽ tiếp tục làm tổn thương tấm thân vạn thặng của hoàng thượng.”

Càn Long nhìn xuống bàn tay trái đang bị thương, quát lên:

– “Ta không cần! Ra ngoài nhanh lên!”

Trì, Võ đều gật đầu vâng dạ, nhưng lại không lui.

Càn Long biết chúng đã phụng mệnh thái hậu, bất luận thế nào cũng không chịu ra ngoài. Hắn bèn mặc kệ, quay lại nói với thiếu nữ mặc áo trắng:

– “Cô quay lại đây, ta có chuyện nói với cô.”

Hắn nói bằng tiếng Hồi.

Thiếu nữ cũng mặc kệ hoàng đế, tay phải vẫn nắm chặt chuôi một thanh đoản kiếm. Càn Long thở ra một hơi rồi nói:

– “Cô xem thử trên bàn là cái gì?”

Thiếu nữ vốn không muốn đếm xỉa gì đến hắn, nhưng rốt cuộc cũng nổi tính hiếu kỳ, lát sau nghiêng đầu liếc nhìn một cái, thấy đôi bạch ngọc bình màu sắc như mỡ dê đặt trên bàn. Nàng vừa khẽ nghiêng đầu, Càn Long và hai tên Trì, Võ đều cảm thấy trước mắt sáng bừng. Thì ra thiếu nữ này chính là Hương Hương công chúa.

Sau khi Mộc Trác Luân thua trận, Hương Hương công chúa bị bộ hạ của Triệu Tuệ bắt được. Triệu Tuệ từng nghe Trương Triệu Trọng nói hoàng thượng cần cô gái này, bèn đặc phái thân binh dùng hương xa bảo mã long trọng đưa nàng về hoàng cung ở Bắc Kinh.

Khi Càn Long mới nhìn thấy mỹ nhân Hồi tộc vẽ trên ngọc bình, hắn tưởng rằng đó là do họa sĩ thời xưa tưởng tượng vẽ ra. Sau đó nghe sứ giả người Hồi nói là hiện nay còn có người đẹp hơn cả hình vẽ trên ngọc bình, hắn không khỏi thần hồn điên đảo, bèn sai Trương Triệu Trọng đi đến Hồi Cương, truyền lệnh:

– “Phải tìm cho được cô gái sắc nước hương trời của Hồi tộc, đưa về kinh cho trẫm.”

Vừa sai Trương Triệu Trọng đi, hắn đã ngày đêm trông ngóng. Đột nhiên nghĩ, người đẹp đến đây mà nói chuyện không thông, há chẳng giảm đi tình thú? Hắn quả là thành ý, bèn tuyển thầy giáo đến để học tiếng Hồi.

Càn Long vốn rất thông minh, lại chuyên tâm nên chỉ mấy tháng đã tương đối nói được, làm cả một bài thơ. Dưới bài thơ hắn còn tự chú thích, nói là:

– “Tiếng Hồi và tiếng Mông Cổ ta đã thông thạo, không cần thông ngôn để phiên dịch nữa.”

Hắn hết sức tự hào về chuyện mình học được tiếng Hồi.

Nhưng Hương Hương công chúa thì tơ tình đã buộc chặt với Trần Gia Lạc, mà Càn Long lại là kẻ thù giết cha, làm sao nàng chịu phục tùng? Nàng mấy lần bị ép bức quá, đã có ý định tự vẫn, nhưng nghĩ đến Trần Gia Lạc từng hứa là sẽ dẫn mình lên du ngoạn ở Trường Thành.

Từ khi quen biết Trần Gia Lạc, nàng từng thấy chàng hái tuyết liên, bắt quân Thanh, cứu con nai nhỏ, thoát khỏi vòng vây của bầy lang sói, xông vào doanh trại địch, tìm vào núi Ngọc Phong, vượt qua vô số nguy nan, hoàn thành rất nhiều việc khó. Chàng đã nói ra, là nàng hoàn toàn không nghi ngờ nữa. Chàng nói là dẫn nàng lên du ngoạn Trường Thành, thì nhất định sẽ đi.

Vì thế bất luận Càn Long dụ dỗ ép bức thế nào, nàng vẫn giữ được lòng tin, kiên định mà kháng cự, trong lòng nghĩ:

– “Giống như mình đang bị bầy sói vây khốn vậy. Con sói dữ này muốn hại mình, nhưng chắc chắn lang quân của mình sẽ đến cứu mình thoát ra ngoài.”

Càn Long thấy nàng ngày càng tiều tụy, sợ nàng u uất buồn phiền mà chết, nên không dám ép bức quá đáng. Hắn lại triệu tập thợ giỏi ở kinh thành kiến trúc tòa Bảo Nguyệt Lâu này để nàng trú ngụ. Dựng xong tòa lầu này, hắn vô cùng đắc ý, tự soạn một bài Bảo Nguyệt Lâu ký so sánh Bảo Nguyệt Lâu với Quảng Hàn Cung trên mặt trăng, là nơi Hằng Nga cư ngụ. Hắn còn soạn thêm một bài Bảo Nguyệt Lâu thi ca tụng Hương Hương công chúa, gọi nàng là tiên nữ chốn Dao Trì.

Nhưng Hương Hương công chúa không thèm để mắt đến. Đối với toàn bộ những bảo vật hào nhoáng trong Bảo Nguyệt Lâu nàng nhìn mà không thấy, chỉ ngồi ngắm bốn bức họa cảnh sắc Hồi Cương do Lang Thế Linh vẽ mà ngơ ngẩn xuất thần, hồi tưởng lại những ngày tháng tươi đẹp đắm say khi được ở bên Trần Gia Lạc.

Càn Long có lúc lén nhìn, mỗi khi thấy nàng mơ mộng lộ ra nụ cười trên miệng là bất giác thần hồn điên đảo. Có ngày hắn nhịn không nổi nữa, đưa tay ra toan nắm lấy tay nàng. Đột nhiên hàn quang nhấp nhoáng, một lưỡi đoản kiếm đâm thẳng tới. May mà Hương Hương công chúa không biết võ công, nên Càn Long mới khỏi mất mạng, nhưng bàn tay trái cũng bị đâm thủng, máu tươi đầm đìa. Hắn hoảng sợ đến nỗi mặt xanh xao, môi trắng bệch, toàn thân đầy mồ hôi lạnh. Từ đó hắn không dám mạo phạm đến nàng chút nào.

Sau đó thái hậu biết được vụ này, hạ lệnh cho thái giám đi tước thanh đoản kiếm của nàng. Hương Hương công chúa bèn kề mũi kiếm vào trước ngực, hễ ai đến gần là tự sát ngay. Càn Long chỉ còn cách hạ lệnh cho mọi người lùi ra, không được quấy nhiễu.

Hương Hương công chúa lại sợ chúng bỏ thuốc mê vào đồ ăn thức uống, nên trừ những trái cây tươi do chính mình xẻ ra, nàng hoàn toàn không ăn uống một thứ gì khác. Càn Long có xây sẵn một hồ tắm theo kiểu người Hồi để nàng tắm rửa, nhưng nàng lại may chặt hết y phục của mình lại. Nàng có dị tướng, nhiều ngày không tắm mà hương thơm trên người lại càng lúc càng nồng.

Một thiếu nữ vốn không hiểu chuyện đời, ngây thơ vui vẻ, bỗng dưng phải một mình kháng cự với quân tà ác đến mấy chục ngày. Bây giờ nàng đã kiên cường sáng suốt hơn nhiều, biết được lòng người gian hiểm. Lúc này vừa thấy ngọc bình, lòng nàng không khỏi hơi rung động, nhưng lại sợ Càn Long có quỷ kế gì liền quay mặt lại vào vách, nắm chặt chuôi kiếm.

Càn Long thở dài rồi nói:

– “Trước đây nhìn thấy hình vẽ trên đôi ngọc bình này, ta nghĩ đó chỉ là họa sĩ ngày xưa tưởng tượng, chứ trên thế gian không thể có người xinh đẹp đến thế. Khi gặp cô rồi ta mới biết, bất cứ họa sĩ nào trên thiên hạ cũng không thể vẽ được một phần vạn vẻ diễm lệ của cô.”

Hương Hương công chúa vẫn không lý gì đến hắn. Càn Long lại nói:

– “Suốt ngày cô cứ phiền não mãi. Đừng buồn chán quá, dễ sinh bệnh. Cô có nhớ quê hương hay không? Ra ngoài cửa sổ thử xem.”

Rồi hắn bảo thái giám dùng búa sắt nhổ hết đinh đóng trên cửa sổ, mở cửa sổ ra. Thì ra Càn Long sợ nàng thương tâm phẫn uất nhảy lầu tự tử, nên tất cả cửa sổ của tầng lầu này đều được đóng đinh chắc chắn.

Thấy Càn Long và hai tên thái giám đứng bên cửa sổ, Hương Hương công chúa “hừ” rồi bĩu môi một cái. Càn Long hiểu ý, đứng dậy đi về phía đông, rồi bảo hai tên Trì, Võ rời khỏi đó. Hương Hương công chúa thấy chúng đứng xa cửa sổ mới từ từ tới gần, nhìn ra ngoài thấy một bãi cát rất bằng phẳng, có dựng mấy cái lều của người Hồi, xa xa lại có một ngôi giáo đường Hồi giáo.

Trong lòng nàng vừa đau đớn vừa chua xót, hai giọt lệ từ từ lăn ra khỏi khóe mắt. Nghĩ đến phụ thân, ca ca và vô số người cùng tộc đã bị binh tướng của Càn Long sai đến giết hại, một cơn phẫn nộ từ dưới đáy lòng nàng nổi lên. Nàng quay đầu lại, cầm lấy một cái ngọc bình trên bàn ném vào đầu Càn Long.

Võ Minh Phu lướt ra như một mũi tên, đưa tay trái ra chụp lấy. Nào ngờ men sứ của ngọc bình nhẵn nhụi khác thường, tuy đón được nhưng vẫn tuột tay rơi xuống đất, nát vụn. Ngọc bình đầu tiên vừa vỡ, ngọc bình thứ hai lại bay tới. Trì Huyền dùng cả hai tay đón bắt, nhưng ngọc bình vẫn lọt qua khe hở giữa hai tay hắn mà rơi xuống. Một tiếng kêu thánh thót vang lên, thế là một vật trân quý hiếm có trên đời đã từ nay hủy diệt.

Võ Minh Phu thấy nàng dám ra tay vô lễ với hoàng đế, liền chạy tới định bắt. Hương Hương công chúa liền đưa đoản kiếm lên, quay mũi kiếm chỉ vào yết hầu mình. Càn Long vội la lên:

– “Dừng tay!”

Võ Minh Phu giậm chân một cái, rút tay về. Hương Hương công chúa vội vã lùi lại mấy bước, bỗng “keng” một tiếng, một vật gì đó trong người nàng rơi xuống. Võ Minh Phu sợ là ám khí, bèn cúi nhặt, thấy đó là một miếng ngọc bội bèn quay lại trao cho hoàng đế.

Càn Long vừa cầm trên tay, bất giác thay đổi sắc mặt. Đây chính là miếng ôn ngọc mà hắn đã tặng Trần Gia Lạc trên đê chắn sóng ở huyện Hải Ninh. Trên ngọc bội có dùng chỉ vàng khắc bốn câu văn:

– “Tình sâu quá chẳng bền, Cương cường quá tất nhụt, Khiêm hòa như quân tử, Ôn nhuận như bảo ngọc.”

Lúc tặng cho Trần Gia Lạc, hắn đã bảo chàng sau này đem tặng cho người yêu, coi như vật hẹn ước. Chẳng lẽ giữa hai người này có liên hệ hay sao?

Càn Long liền hỏi:

– “Cô quen biết hắn ư?”

Rồi lại hỏi tiếp:

– “Miếng ngọc này từ đâu cô có?”

Hương Hương công chúa chìa tay ra nói:

– “Trả cho ta!”

Càn Long nổi ghen, gắt:

– “Cô nói đi, ai đã cho cô. Ta sẽ trả cho cô.”

Hương Hương công chúa đáp:

– “Chồng của ta cho ta.”

Càn Long hết sức bất ngờ, hỏi lại:

– “Cô có chồng rồi ư?”

Hương Hương công chúa ngạo mạn nói:

– “Tuy huynh ấy chưa có thân thể của ta, nhưng đã có trái tim của ta từ lâu rồi. Huynh ấy là người dũng cảm nhất, nhân từ nhất trên thế gian. Ngươi bắt được ta, nhất định huynh ấy sẽ cứu ta ra ngoài. Tuy rằng ngươi là hoàng đế, nhưng huynh ấy không sợ ngươi, ta cũng không sợ ngươi.”

Càn Long càng nghe càng khó chịu, giận dữ nói:

– “Ta biết hắn là ai rồi, chính là Trần Gia Lạc, tổng đà chủ của Hồng Hoa Hội. Đó chỉ là một tên giang hồ cầm đầu một đám phỉ, có gì ghê gớm đâu?”

Nghe nhắc đến tên Trần Gia Lạc, trong lòng Hương Hương công chúa đột nhiên hớn hở. Nàng có vẻ sinh động hẳn lên, vội nói:

– “Vậy sao? Ngươi cũng biết huynh ấy, thế thì mau thả ta ra đi.”

Càn Long ngẩng lên, bỗng nhìn thấy mặt mình trong tấm gương lớn ở phía trên bàn trang điểm. Hắn bỗng nghĩ đến Trần Gia Lạc trẻ tuổi tuấn tú, văn võ toàn tài, mình chẳng có điểm nào hơn được, không khỏi vừa đố kỵ vừa tức giận. Hắn dùng hết sức ném ra, miếng ôn ngọc đập vỡ vụn bóng mình trong gương, thủy tinh rải đầy dưới đất.

Hương Hương công chúa vội chạy tới nhặt ngay miếng ngọc bội, dùng tay áo phủi đi phủi lại ra vẻ xót xa. Càn Long lại càng giận dữ, giậm chân một cái rồi quay người đi xuống lầu.

Càn Long trở về gian tĩnh thất thường dùng để đọc sách làm thơ, thấy trên bàn vẫn còn một bài thơ làm dở, thuộc mớ thơ phú ca tụng Bảo Nguyệt Lâu, trong đó có hai câu:

– “Lâu danh Bảo Nguyệt hữu Thường Nga, thiên tử tức thời mộng kiến chí”, bằng trắc sai luật, vần điệu khiếm khuyết. Hắn định từ từ suy nghĩ làm tiếp, nghĩ mình là thánh thiên tử hồng phúc tề thiên, không chừng sẽ được bách thần phù hộ cho ngòi bút tuôn ra mấy câu tuyệt diệu. Nhưng lúc này trong cơn giận dữ, hắn tiện tay xé vụn bài thơ đó thành những mảnh giấy.

Ngồi hơn nửa ngày, cơn giận dữ mới từ từ lắng xuống. Hắn suy nghĩ:

– “Ta là thiên tử hùng cứ tứ phương, thế mà đứa con gái dị tộc này lại quật cường đến thế, không chịu thuận theo ý mình. Thì ra là có Trần Gia Lạc xen vào giữa tác oai tác quái… Hắn khuyên ta đuổi hết người Mãn Châu ra ngoài quan ải để khôi phục thiên hạ cho người Hán… Hừ… Ý kiến cũng hay lắm.”

Nghĩ đến việc này, trong lòng hắn lại phân vân không dứt:

– “Bây giờ ta muốn làm gì thì làm, thật là khoái lạc tiêu diêu. Cho dù đại sự thành công thì không khỏi chỗ nào cũng bị người ta áp chế, bản thân mình chẳng trở thành một con rối hay sao? Hà tất ta phải vứt bỏ những cái lợi trước mắt để tìm một chút hư danh?”

“Giả tỉ sau này đại sự thành công, đương nhiên sử sách có tên ta, công nghiệp sánh ngang Tần Hoàng, Hán Vũ, Đường Tông, Tống Tổ, từ nay không còn bị thái hậu áp chế nữa, đúng là chân mạng thiên tử. Nhưng trước mắt nguy nan trùng trùng, nếu sai một nước cờ thì không tránh khỏi thân bại danh liệt. Việc đó chắc được bao nhiêu phần?”

“Còn nếu ta tiêu diệt Hồng Hoa Hội, diệt cỏ phải diệt tận gốc, không khỏi phải giết em trai ruột của mình. Hừ! Năm xưa Lý Thế Dân mưu đồ đại sự, chẳng phải đã giết Kiến Thành, Nguyên Cát hay sao? Cô gái Hồi tộc này dành trọn trái tim cho Trần Gia Lạc. Được! Ta phải dồn hai việc làm một, tính sổ một lần cho gọn.”

Lòng ganh tị nổi lên, tình nghĩa huynh đệ thủ túc gì gì bị vứt hết ra sau. Tâm ý Càn Long đã quyết, bèn ra lệnh cho thái giám triệu Vương Thanh vào.

Chỉ một lát sau, Vương Thanh vào trình tấu:

– “Đại nội tổng quản Bạch Chấn đã từ Phúc Kiến về kinh, nói là những việc hoàng thượng dặn dò đã làm xong hết.”

Càn Long cả mừng, hạ lệnh:

– “Trên tòa Bảo Nguyệt Lâu này, bố trí mỗi tầng lầu bốn tên nhất đẳng thị vệ. Ngoài lầu phái thêm hai chục tên thị vệ nữa, không được để lộ chút dấu vết nào.”

Vương Thanh vâng dạ. Càn Long lại dặn:

– “Gọi Trần Gia Lạc đến đây, ta có việc quan trọng cần nói. Bảo hắn đừng mang theo tùy tùng.”

Vương Thanh tuân chỉ lui ra, bố trí thị vệ trước rồi mới đi mời Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc nghe mình được tuyên triệu vào cung, liền vào trong thương lượng với mọi người. Lục Phi Thanh, Văn Thái Lai đều lo lắng nói:

– “Sao lại không cho mang theo tùy tùng? Hơn nữa bây giờ đã tối, e rằng bên trong có âm mưu.”

Trần Gia Lạc đáp lời:

– “Những vật chứng đem từ Hồi Cương và Thiếu Lâm Tự về, ta đã trình lên hoàng thượng cả rồi. Vừa rồi hoàng thượng mới gặp ta, bây giờ lập tức lại gọi ta vào, nhất định là để thương lượng việc này. Đối với đại sự khôi phục nhà Hán, dù lên núi đao xuống chảo dầu, ta cũng phải đi một phen.”

Chàng lại bảo Vô Trần:

– “Đạo trưởng! Nếu ta không trở về, thì nhờ đạo trưởng thống lãnh Hồng Hoa Hội để trả thù.”

Vô Trần khẳng khái đáp:

– “Tổng đà chủ yên tâm! Thù thì nhất định phải trả, còn Hồng Hoa Hội do ai thống lãnh cũng chẳng sao.”

Trần Gia Lạc lại nói:

– “Lần này các vị không nên đi tiếp ứng. Nếu hoàng thượng đã có lòng hãm hại ta, thì từ ngoài cung muốn tiếp ứng cũng không kịp, lại còn tổn thất nặng nề hơn.”

Quần hùng thấy tình thế đã như vậy, chỉ còn cách đồng ý.

Trần Gia Lạc cùng Vương Thanh vào tới Tử Cấm Thành thì đã sang canh một. Hai tên thái giám xách lồng đèn đi trước, mặt đất loang lổ bóng của cây do ánh trăng soi xuống.Trần Gia Lạc theo thái giám đến Bảo Nguyệt Lâu, lần này thì lên đến tầng thứ tư. Thái giám vừa thông báo, Càn Long đã lập tức gọi vào căn phòng nhỏ ở một bên lầu. Càn Long ngồi trên một tấm phản ngơ ngẩn xuất thần. Sau khi Trần Gia Lạc quì lạy thi lễ, Càn Long bảo chàng ngồi xuống, rất lâu không lên tiếng.

Trần Gia Lạc nhìn thấy trên vách đối diện có treo bức tranh Hán Cung Xuân Hiểu Đồ do Thù Thập Châu vẽ cảnh đình viên. Bố cục và nhân vật trên tranh rất sống động, nét bút tuyệt vời. Bên cạnh lại là một đôi liễn của Càn Long viết, hàm ý so sánh mình với Hán vương.

Càn Long thấy Trần Gia Lạc đang nhìn chữ mình viết, bèn mỉm cười hỏi:

– “Thế nào?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Chí khí của hoàng thượng ngất trời, đúng là một bậc thiên tử thần dũng anh minh. Sau này hoàn thành đại nghiệp khôi phục thiên hạ cho người Hán, thì cho dù Hán Vương thu phục nhà Tần tàn bạo, cho dù Minh Đế trục xuất bọn Nguyên man rợ, cũng không sánh nổi công đức vạn đại như trời như đất của hoàng thượng.”

Nghe Trần Gia Lạc ca tụng mình, Càn Long không khỏi dương dương tự đắc. Hắn vuốt râu mỉm cười, thích chí một lúc rồi nói:

– “Ta với ngươi tuy nghĩa quân thần nhưng lại là tình huynh đệ. Sau này tiểu đệ phải phụ tá đàng hoàng cho ta mới được.”

Trần Gia Lạc nghe câu này, biết sau khi hắn nhìn thấy thư từ và vật chứng đã thừa nhận quan hệ huynh đệ với mình, cũng không phản bội lời thề mà tỏ ý cùng nhau mưu đồ đại sự. Chàng không nén nổi mừng rỡ, bao nhiêu nghi ngờ lo âu mất sạch, quì xuống vái lạy rồi nói:

– “Hoàng thượng anh minh thần võ, thật là phúc của muôn dân.”

Càn Long đợi Trần Gia Lạc đứng dậy rồi mới than thở:

– “Ta tuy có ngôi báu thiên tử, nhưng phúc khí không bằng tiểu đệ.”

Trần Gia Lạc ngạc nhiên không hiểu. Càn Long tiếp:

– “Tháng tám năm ngoái, ở bên đê chắn sóng huyện Hải Ninh, ta đã cho ngươi một mảnh ngọc bội. Miếng ngọc đó ngươi có mang theo trên người hay không?”

Trần Gia Lạc ngẩn người nói:

– “Hoàng thượng lệnh cho thần đem tặng người khác, bây giờ thần đã tặng rồi.”

Càn Long tiếp:

– “Nếu người đó đã hợp ý ngươi, thì chắc chắn phải là tuyệt thế giai nhân.”

Khóe mắt Trần Gia Lạc đỏ hẳn lên, nhẹ giọng:

– “Tiếc rằng bây giờ cô ấy sống chết ra sao chưa biết, không hiểu lưu lạc nơi nào. Đợi khi đại sự của hoàng thượng thành công, thần phải đi khắp chân trời góc bể mà tìm cô ấy.”

Càn Long lại hỏi:

– “Vậy nhất định ngươi thương yêu cô nương đó lắm?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Đúng vậy!”

Càn Long nói:

– “Thái hậu là người Mãn Châu, chuyện này ngươi biết chứ?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Vâng!”

Càn Long tiếp:

– “Thái hậu có ơn nuôi nấng ta từ bé, cũng là người hiền đức. Nếu ta cùng ngươi mưu đồ đại sự, nhất định bà ấy dù chết cũng phải chống lại. Lúc đó ngươi nghĩ ta phải làm sao?”

Câu hỏi này thì Trần Gia Lạc không thể trả lời. Chàng đành nói:

– “Hoàng thượng thánh minh! Vi thần ngu muội lỗ mãng, không dám đoán bừa.”

Càn Long nói:

– “Việc nước, tình riêng không thể lưỡng toàn. Muốn hoàn thành đại sự thì phải hy sinh tính mạng của thái hậu. Trước mắt, ta có một tâm sự nhưng tiếc là không ai có thể lo lắng hộ.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Nếu hoàng thượng có lệnh, thần dù chết cũng không từ.”

Càn Long than thở:

– “Quân tử không nên đoạt lấy vật người khác yêu thích, nhưng đó là oan nghiệt, số phận đã an bài. Ôi, đã là chữ Tình thì làm gì được? Ngươi qua đó thử xem.”

Nói xong, hắn chỉ vào cánh cửa ở phía tây, rồi đứng dậy bỏ lên lầu.

Nghe xong mấy câu cổ quái đó, Trần Gia Lạc không hiểu gì cả. Chàng liền vén tầm rèm dày cộp để đi vào. Bên trong là gian phòng ngủ cực kì sang trọng, cửa sổ rèm che kín mít. Trong phòng đang thắp một cây nến đỏ. Một thiếu nữ áo trắng ngồi nhìn ngọn nến. Giữa chốn thâm cung mà đột nhiên gặp Hương Hương công chúa, Trần Gia Lạc lập tức ngơ ngác, thân hình lảo đảo, không nói được tiếng nào.

Hương Hương công chúa thoạt nghe tiếng bước chân là siết chặt thanh đoản kiếm trong tay, khi ngẩng lên nhìn, thì ra người đối diện chính là tình lang ngày đêm mơ tưởng. Vẻ mặt giận dữ của nàng lập tức chuyển thành vui sướng. Nàng kêu lên một tiếng, vội vã chạy tới, nhảy vào lòng Trần Gia Lạc thì thầm:

– “Muội biết, ca ca nhất định sẽ đến đây cứu muội. Muội cứ nhẫn nại chờ đợi ở đây, rốt cuộc ca ca đã đến.”

Trần Gia Lạc ôm chặt lấy thân thể mềm mại của nàng, khẽ hỏi:

– “Kha Tư Lệ! Có phải chúng ta đang nằm mơ không?”

Hương Hương công chúa ngước lên lắc đầu một cái, hai giọt nước mắt đã chảy xuống. Trần Gia Lạc cảm kích vô cùng, thầm nghĩ:

– “Hoàng đế đúng là một vị ca ca rất tốt. Ca ca biết nàng là người yêu của mình, vạn dặm xa xôi đón nàng từ Hồi Cương về cho mình gặp mặt tại đây, để mình vừa bất ngờ vừa vui sướng.”

Trần Gia Lạc ôm lấy Hương Hương công chúa, không sao nén nổi tình cảm, cúi xuống đặt lên môi nàng một nụ hôn. Hai người đắm đuối trong nụ hôn dài vô tận, gạt bỏ hết thiên địa ra ngoài.

Hồi lâu, rất lâu, Trần Gia Lạc mới từ từ buông nàng ra, ngắm nghía khuôn mặt ửng hồng. Đột nhiên chàng thấy phía sau nàng có một tấm gương vỡ nát. Bóng hai người ôm nhau phản chiếu trên từng mảnh gương vụn, hiện thành vô số hóa thân. Trần Gia Lạc khẽ nói:

– “Muội xem kìa! Nếu trên thế gian có một ngàn ca ca thì một ngàn ca ca cũng chỉ ôm lấy muội.”

Hương Hương công chúa khẽ nhìn tấm gương vỡ, lấy trong bọc ra mảnh ngọc bội rồi nói:

– “Hắn đã dùng miếng ngọc này để ném vỡ vụn tấm gương đó, may mà không làm hỏng ngọc.”

Trần Gia Lạc kinh hãi hỏi:

– “Ai?”

Hương Hương công chúa đáp:

– “Tên hoàng đế xấu xa đó.”

Trần Gia Lạc lại càng kinh hãi hơn, hỏi:

– “Sao?”

Hương Hương công chúa đáp:

– “Hắn cứ ép bức muội. Muội nói không sợ, ca ca nhất định sẽ đến cứu muội ra. Hắn giận dữ muốn hiếp đáp muội, nhưng muội đã có thanh kiếm này.”

Đầu óc của Trần Gia Lạc choáng váng, ngẩn ngơ lẩm nhẩm lại câu nói của nàng. Hương Hương công chúa nói:

– “Lúc gia gia của muội bị chúng giết, muội ở bên cạnh. Gia gia cho muội thanh kiếm này, dặn muội khi bị quân địch xâm phạm thì dùng kiếm để chống cự, giết địch chứ không được giết mình. Kinh Koran đã dạy, ai mà tự tử thì chân thánh A-la nhất định sẽ trách phạt, sau khi chết sẽ rơi vào hỏa ngục.”

Trần Gia Lạc cúi xuống, nhìn thấy nàng đã dùng chỉ để may kín hết y phục, quấn chặt vào mình. Chàng thầm nghĩ:

– “Cô gái mềm yếu ngây thơ thế này mà phải kháng cự với bạo lực, không hiểu đã bao nhiêu lần suýt chết rồi?”

Trong lòng chàng dấy lên nỗi thương xót lẫn đau lòng, lại siết chặt nàng vào lòng. Hồi lâu chàng mới định thần lại, nghĩ kỹ về tình hình trước mắt.

Việc đầu tiên chàng nghĩ ra, là hoàng đế đón Kha Tư Lệ vào cung là vì hắn thèm muốn nàng. Trong Ngự Hoa Viên mà hắn lập sa mạc, dựng lều kiểu người Hồi, xây thánh đường Hồi giáo, đương nhiên vì muốn lấy lòng nàng. Nhưng Kha Tư Lệ thà chết cũng không khuất phục. Nhất định hắn đã dùng oai vũ mà ép bức, dùng mềm dẻo mà dụ dỗ, không biết bao nhiêu thủ đoạn rồi, nhưng kết quả vẫn là không. Chàng thở dài, nghĩ:

– “Phúc khí không bằng ta được, chính là nhắc đến chuyện này.”

Hương Hương công chúa được Trần Gia Lạc ôm vào lòng, bỗng mơ hồ nhắm mắt. Dĩ nhiên là nàng trải qua những ngày tháng đơn độc kháng cự với bạo tàn, tâm lực đều mệt mỏi quá rồi. Lúc này nhìn thấy người thương, buông lỏng ý chí nên nàng không gượng được nữa, bất giác ngủ say trong lòng Trần Gia Lạc.

Chàng lại nghĩ đến Càn Long:

– “Hắn để ta gặp nàng, có dụng ý gì đây? Hắn nhắc đến thái hậu, nói rằng nếu mưu đồ đại sự thì phải hy sinh tính mạng của thái hậu, việc nước và tình riêng không thể lưỡng toàn. Đúng rồi! Ý hắn là…”

Nghĩ đến đây, mồ hôi chàng toát ra lạnh ngắt, thân mình run rẩy, bỗng cảm giác Hương Hương công chúa trong lòng mình cũng run lên một cái. Lại thấy nàng nhẹ nhàng thở ra một hơi đầy vẻ an tâm, trên mặt lộ ra một nụ cười giống như đóa hoa nở rộ.

“Ta nên vì Kha Tư Lệ mà chống lại hoàng đế, hay nên vì đại sự mà khuyên nàng khuất phục?”

Suy nghĩ này bỗng hiện lên trong lòng chàng. Quyết định này quá đau lòng, chàng không muốn nghĩ tới, nhưng không thể nào không nghĩ. “Nàng đối với mình tình sâu nghĩa nặng, vì mình mà dám lấy cái chết để bảo vệ tấm thân trong trắng, hết lòng tin tưởng rằng mình có thể cứu nàng ra. Chẳng lẽ mình nhẫn tâm bỏ rơi nàng, phản bội nàng sao? Nhưng nếu chỉ nghĩ đến hai người là Kha Tư Lệ và mình, sẽ phải chống đối với ca ca. Để trôi tuột mất cơ hội phục quốc trăm năm khó gặp, hai người chúng ta há chẳng trở thành thiên cổ tội nhân.”

Đầu óc chàng cực kì hỗn loạn, thật không biết giải quyết như thế nào. Hương Hương công chúa bỗng mở to mắt ra nói:

– “Chúng ta đi thôi! Muội sợ phải gặp lại tên hoàng đế xấu xa đó.”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Được! Chúng ta đi!”

Chàng cầm lấy thanh đoản kiếm của nàng, nghiến răng nghĩ bụng:

– “Thiên cổ tội nhân cũng mặc kệ! Nếu không xông ra được thì cả hai ta cùng chết ở đây. Nếu may mắn mà thoát, mình sẽ cùng nàng tìm nơi rừng sâu núi thẳm ẩn cư suốt kiếp, còn tốt hơn để nàng bị kẻ kia hà hiếp.”

Trần Gia Lạc đi tới cửa sổ phóng mắt nhìn ra tứ phía, xem thử có thị vệ thái giám nào cản trở không. Quanh đó không có tiếng động gì, nhưng xa xa thì đèn đuốc sáng trưng. Chàng để ý nhìn ra xa hơn, thấy dưới ánh đèn đầy nghẹt nhân công đang làm việc. Họ đang tháo dỡ rất nhiều nhà cửa của dân chúng để tạo nên một vùng sa mạc giả. Nhất định Càn Long đã hạ chỉ nên hàng ngàn hàng vạn người mới phải làm việc thâu đêm.

Thấy vậy, lửa giận trong lòng Trần Gia Lạc bốc cao lên, thầm nghĩ:

– “Vậy thì không biết bao nhiêu bá tánh bị mất nhà ở. Tên hoàng đế này tham công hiếu thắng, không biết thương dân lành khốn khó. Nếu để hắn tiếp tục làm thủ lĩnh của bọn man di mà bức hiếp người Hán, thì hàng ngàn hàng vạn dân chúng khắp thiên hạ không biết phải cực khổ bao lâu nữa.”

Chàng buồn bã nghĩ:

– “Ông trời đã bắt người ta phải khổ, không thể nào thay đổi được. Thà đem nỗi khổ đó để hai người là mình và Kha Tư Lệ gánh chịu còn hơn. Mình gánh chịu là chuyện đương nhiên, nhưng sao ông trời lại bắt Kha Tư Lệ phải chịu nỗi đau này?”

Thật sự ruột chàng đứt thành trăm khúc, thương tâm không sao tả xiết. Nhưng chàng cố định thần lại, bảo Hương Hương công chúa:

– “Muội đợi ở đây! Ca ca ra ngoài một chút, sẽ trở về ngay.”

Hương Hương công chúa gật đầu, nhận lại thanh đoản kiếm từ tay chàng, mỉm cười đưa mắt tiễn chàng ra khỏi phòng. Trần Gia Lạc lên tầng lầu thứ năm, thấy Càn Long mặt mày nhợt nhạt đang ngồi trên phản. Chàng lên tiếng:

– “Việc nước là trọng, tình riêng là khinh. Thần có thể khuyên cô ấy phục tùng hoàng thượng.”

Càn Long vui mừng thấy rõ, nhảy xuống phản kêu lên:

– “Thật ư?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Đúng thế! Nhưng hoàng thượng phải thề trước đã.”

Chàng vừa nói vừa nhìn hắn trừng trừng. Càn Long tránh né ánh mắt của chàng, hỏi lại:

– “Thề chuyện gì?”

Trần Gia Lạc tiếp:

– “Nếu hoàng thượng không chịu ra sức đuổi bọn Mãn Châu ra ngoài quan ải, lúc đó thì sao?”

Càn Long suy nghĩ một lát rồi đáp:

– “Nếu như thế, thì có thể lúc sinh tiền ta vinh hoa phú quí không ai bì được, nhưng sau khi chết thì lăng mộ của ta sẽ bị đào lên, hài cốt của ta sẽ bị đập nát.”

Đế vương bao giờ cũng ước mong cơ nghiệp mình ngàn đời không lay chuyển. Nếu lăng tẩm không giữ được, thì tức là vương triều bị lật đổ rồi. Lời thề này đúng là rất nặng.

Trần Gia Lạc đáp:

– “Được! Vậy thần sẽ khuyên cô ấy. Nhưng thần phải dẫn cô ấy ra khỏi hoàng cung.”

Càn Long kinh hãi hỏi:

– “Ra khỏi hoàng cung ư?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Đúng vậy! Bây giờ cô ấy đang hận hoàng thượng đến tận xương tủy. Ở trong hoàng cung, nàng ấy không thể yên tâm nghe thần nói chuyện. Thần phải dẫn cô ấy lên Trường Thành mới khuyên giải được.”

Càn Long nảy dạ nghi ngờ:

– “Sao phải xuất cung đi xa đến thế?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Thần đã từng hứa dẫn cô ấy lên Trường Thành du ngoạn. Hoàn thành tâm nguyện này rồi, từ đây thần vĩnh viễn không gặp cô ấy nữa.”

Càn Long gặng hỏi:

– “Nhất định ngươi sẽ dẫn nàng trở về đây chứ?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Đã là nhân vật giang hồ thì hai chữ tín nghĩa còn nặng hơn tính mạng. Quân tử chỉ nói một lời, ngựa tốt chỉ quất một roi. Hơn nữa, trục xuất Mãn Thanh khôi phục nhà Hán lại là đại sự to lớn nhất. Thần quyết không vì một người thiếu nữ mà làm thiên cổ tội nhân.”

Càn Long thầm nghĩ:

– “Giả tỉ Trần Gia Lạc dẫn cô gái này cao chạy xa bay, thì ta biết đi đâu mà tìm hắn?.”

Đắn đo một hồi, cuối cùng hắn nghĩ:

– “Nhưng phải liều để hắn tìm cách thuyết phục nàng, không thì nàng nhất quyết không chịu phục tùng. Hắn đã quyết tâm mưu đồ đại sự, chắc không vì một cô gái mà phản bội ta.”

Suy nghĩ xong, Càn Long vỗ bàn hô lớn:

– “Được, được! Nhưng ta cần sắp xếp một chút, hai ngươi đợi đến trời sáng rồi hãy đi!”

Trần Gia Lạc gật đầu, lập tức xuống lầu.

Càn Long ngồi lại lo lắng không thôi, chỉ sợ Trần Gia Lạc thần thông quảng đại, dẫn mỹ nhân cao chạy xa bay, không bắt lại được. Hắn biết bản lãnh của phó tổng quản Vương Thanh không bằng Bạch Chấn, bèn hạ lệnh gọi Bạch Chấn vào gặp.

Bạch Chấn vào trong, dập đầu thi lễ rồi nói:

– “Những chuyện hoàng thượng dặn dò, hạ thần đã hợp sức cùng quan phiên đài ở Phúc Kiến là Phương Hữu Đức lo liệu ổn thỏa.”

Càn Long gật đầu nói:

– “Gọi Phương Hữu Đức vào đây.”

Bạch Chấn vội vã đi gọi. Phương Hữu Đức dập đầu xong, bẩm báo:

– “Thần đã cùng Bạch tổng quản đi xử lý chùa Thiếu Lâm. Lúc đó, bọn thủ lãnh Hồng Hoa Hội đều có mặt ở đó, hạ thần sợ đả thảo kinh xà nên đợi chúng đi ba ngày rồi mới ra tay lúc nửa đêm. Đầu tiên là quan binh mai phục phía sau chùa phóng hỏa, đốt Giới Trì Viện và Tàng Kinh Các thành bãi đất bằng. Sau đó, đại điện phía trước và khắp nơi trong chùa đều nổi lửa, mọi vật trong chùa đều cháy sạch. Bọn ác tăng trong chùa liều mạng kháng cự, nhưng Bạch tổng quản đã chỉ huy cao thủ đại nội và mấy ngàn quan binh giết chết không ít. Phương trượng cũng mất mạng, lũ trọc còn lại chạy tán loạn. Không ngờ ở cạnh chùa còn có dư đảng Hồng Hoa Hội mai phục. Chúng cũng điên cuồng kháng lệnh, tương trợ cho bọn ác tăng chùa Thiếu Lâm. Bạch tổng quản đánh cho chúng cúp đuôi mà chạy, còn cướp được một đứa bé sơ sinh. Đó là con của họ Từ, một đại đầu lĩnh của Hồng Hoa Hội, hiện đã đem vào kinh thành.”

Bạch Chấn lên tiếng:

– “Đứa bé này rất có ích. Nếu sau này hoàng thượng có muốn tiêu diệt Hồng Hoa Hội, có thể dùng nó để uy hiếp bọn phỉ.”

Càn Long gật đầu không ngớt, cuối cùng nói:

– “Việc này trẫm sẽ trọng thưởng sau. Đứa bé đó giao cho Bạch Chấn cai quản. Hai ngươi tạm thời ở lại trong cung để chờ lệnh.”

Phương Hữu Đức và Bạch Chấn quì lạy tạ ơn.

Càn Long tiếp:

– “Trần Gia Lạc đã phụng chỉ dẫn cô gái Hồi tộc đi, nói là để khuyên nhủ cô ta. Bạch Chấn! Ngươi chọn người đắc lực đi theo giám sát, phải hộ tống hai người về cung. Nhất là cô gái Hồi tộc, tuyệt đối không cho trốn thoát.”

Bạch Chấn nhận chỉ xuống lầu.

Càn Long yên tâm thầm nghĩ:

– “Thiếu Lâm Tự đã bị thiêu rụi thành bình địa, vậy thì không còn chứng cớ gì nữa. Còn Bạch Chấn tinh minh lanh lợi, binh mã trong cung rất nhiều. Trần Gia Lạc dù muốn trốn cũng không thoát khỏi tay mình.”

Trần Gia Lạc trở xuống lầu thứ tư, nắm lấy tay Hương Hương công chúa mà nói:

– “Đợi trời sáng, chúng ta sẽ đi ngay!.”

Hương Hương công chúa hoan hỉ vô cùng.

Trời mờ sáng, hai người cùng đi xuống lầu. Thị vệ đã tiếp được ý chỉ nên dọc đường ra khỏi cung không thấy ai cản trở. Hương Hương công chúa đang vui sướng, trước nay vẫn hoàn toàn tin tưởng tình lang không việc gì là không làm được, thấy mình thoát khỏi hoàng cung một cách dễ dàng như vậy mà chẳng ngạc nhiên gì.

Ra khỏi cung thì trời đã sáng hẳn. Tâm Nghiễn đang dắt con ngựa trắng đứng ngoài nhìn tới nhìn lui, khi thấy Trần Gia Lạc liền vội vã chạy tới, thấy Hương Hương công chúa đứng bên chàng lập tức vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ. Trần Gia Lạc đón lấy dây cương ngựa, bảo:

– “Ta phải ra ngoài thành một ngày, đến tối mới trở về. Nói mọi người yên tâm là được.”

Hai người cưỡi chung ngựa, tiến về phía bắc. Lát sau vó ngựa vang lên, mấy chục thị vệ giục ngựa đuổi theo. Tâm Nghiễn thấy người đi đầu thân thể khô cằn, nhận ra Bạch Chấn. Cậu giật mình kinh hãi, vội trở về báo tin.

Ra khỏi thành, con ngựa trắng càng chạy càng nhanh. Hương Hương công chúa tựa sát vào người Trần Gia Lạc, nhìn cây cối hai bên đường vùn vụt chạy lùi, những nỗi ưu sầu mấy tháng nay như đã tiêu tan hết. Chưa đến nửa ngày, con ngựa trắng đã vượt qua Thanh Hà, Sa Hà, Xương Bình, rồi đến Nam Khẩu.

Trần Gia Lạc bỗng nói:

– “Chúng ta đi viếng lăng mộ của hoàng đế triều Minh đi.”

Chàng giục ngựa chạy về phía Thiên Thọ Sơn, đi qua cầu ngọc thạch thì thấy một tấm bia ghi chín chữ lớn:

– “Đại Minh Trường Lăng Thần Công Thánh Đức Bi.”

Bên phải bia đá có khắc mấy hàng chữ của Càn Long, ý nói:

– “Triều Minh mất nước, không phải mất vì có ngoại xâm, mà mất vì thời Thiên Khải Thành Tông ngu xuẩn, thái giám lộng hành, đại thần chỉ mong tiền tài tước vị, bá quan chỉ chuyên a dua nịnh hót. Khi Tư Tông lên ngôi, tuy bọn thái giám bị diệt, nhưng tình thế thiên hạ lúc này đã như con đê vỡ, không thể chữa lại. Hơn nữa chính sách hà khắc quá đáng, dân chúng bất mãn. Dân chúng khổ sở mà không có chỗ nào để kiện cáo đòi hỏi công bằng, nên tụ tập làm giặc cướp. Thiên hạ chỗ nào cũng có giặc cướp thừa cơ nổi lên, nên xã tắc nhà Minh sụp đổ. Than ôi! Người cai trị thiên hạ không thể không biết để mà cảnh giác.”

Trần Gia Lạc đọc mấy dòng chữ này, nghĩ bụng:

– “Hắn cũng biết dân chúng khổ sở mà không có nơi nào để kiện cáo cho công bằng, nên mới tụ tập lại làm giặc. Thì ra hắn không phải là không có kiến thức.”

Hương Hương công chúa hỏi:

– “Huynh đang đọc cái gì vậy?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Đó là bút tích của hoàng đế Càn Long.”

Hương Hương công chúa tức giận, nói:

– “Tên này xấu xa đến chết đi được, đừng thèm nhìn chữ của hắn.”

Rồi kéo tay Trần Gia Lạc đi vào bên trong.

Hai bên lăng tẩm có bày cả đàn sư tử, voi, lạc đà, kỳ lân, cùng tượng của văn võ bá quan. Hương Hương công chúa nhìn những con lạc đà bằng đá, chợt nhớ đến quê hương, lệ tràn ra khóe mắt.

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Thời gian gần gũi chỉ còn ngày hôm nay, phải làm sao cho nàng được vui vẻ mới đúng. Hết ngày hôm nay, trọn đời hai người chúng ta không còn lúc nào vui vẻ thế này nữa.”

Chàng cố gắng tập trung tinh thần, mỉm cười hỏi:

– “Muội muốn cưỡi lạc đà phải không?”

Rồi chàng ôm lấy nàng, nhún chân nhảy lên. Hai người cùng ngồi lên lưng một con lạc đà bằng đá, miệng hò hét loạn xạ. Hương Hương công chúa cười gập cả lưng xuống, lát sau bỗng thở dài nói:

– “Nếu con lạc đà này biết chạy, đưa chúng ta về chân núi Thiên Sơn thì tốt biết mấy.”

Trần Gia Lạc bèn hỏi:

– “Lúc đó muội sẽ làm gì?”

Hương Hương công chúa dõi mắt nhìn thẫn thờ ra xa, rồi nói:

– “Lúc đó thì muội bận rộn lắm. Phải hái hoa dạy huynh ăn, phải xén lông cho bọn cừu, phải đút sữa dê cho con nai nhỏ, phải chăm sóc phần mộ của gia gia, má má và ca ca, lại còn phải cố tìm ra tỉ tỉ…”

Trần Gia Lạc run lên một cái, liền hỏi:

– “Tỉ tỉ thế nào rồi?”

Hương Hương công chúa buồn bã đáp:

– “Đêm đó, đột nhiên bọn lính Thanh từ bốn phương tám hướng tràn tới. Tỉ tỉ đang mắc bệnh mà phải cố gắng xung phong vào đám loạn quân, rồi thất lạc. Từ đó trở đi, muội không nghe được tin tức gì về tỉ tỉ nữa. Chúng ta phải tìm ra tỉ tỉ, dù phải đi ngàn vạn dặm cũng phải tìm cho được tỉ tỉ, có đúng không?”

Trần Gia Lạc ảm đạm gật đầu, lòng đau như cắt, mãi không nói được lời nào.

Hai người lại lên ngựa đi tiếp, nhắm thẳng con đường lên núi, chẳng bao lâu đã tới Cư Dung Quan. Thấy hai bên là tầng tầng lớp lớp vách núi dựng đứng tới trời, còn Trường Thành liên miên bất tận như một con rắn dài uốn khúc từ núi này sang núi nọ, Hương Hương công chúa hỏi:

– “Tại sao người ta phải bỏ rất nhiều công sức ra xây bức tường dài như thế?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Để đề phòng quân địch từ phương Bắc đánh vào. Ở hai phía nam bắc dãy Trường Thành này, đã có không biết bao nhiêu người vì nó mà mất mạng.”

Hương Hương công chúa lại nói:

– “Nam nhân thật là kỳ lạ. Nếu mọi người cứ vui vẻ cùng nhảy múa, ca hát với nhau thì hay biết mấy. Thế mà họ lại thích đánh nhau, khiến cho bao nhiêu người phải cực khổ hay mất mạng, hoàn toàn chẳng có ích lợi gì.”

Trần Gia Lạc lại hỏi:

– “Nếu hoàng đế chịu nghe lời muội, muội có đồng ý bảo y đừng đi đánh những người đáng thương ở chốn biên cương nữa hay không?”

Hương Hương công chúa thấy chàng nói ra vẻ trịnh trọng, bèn đáp:

– “Muội vĩnh viễn không muốn gặp tên hoàng đế xấu xa đó nữa.”

Trần Gia Lạc lại hỏi:

– “Nếu muội có thể bắt y nghe lời muội, thì muội phải khuyên y đừng làm việc xấu nữa, hãy làm điều tốt cho bá tánh. Muội có đồng ý với ca ca không?”

Hương Hương công chúa mỉm cười nói:

– “Ca ca nói gì mà kỳ vậy? Ca ca muốn muội làm việc gì, chẳng lẽ muội không làm theo ư?”

Trần Gia Lạc nói:

– “Kha Tư Lệ, đa tạ muội!”

Hương Hương công chúa mỉm cười. Hai người tựa vào nhau đi một đoạn trên Trường Thành, nàng bỗng nói:

– “Đột nhiên muội nghĩ đến một việc.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Việc gì thế?”

Hương Hương công chúa nói:

– “Hôm nay muội đi chơi rất vui, có phải vì phong cảnh ở đây đẹp đẽ hay không? Chắc không phải vậy, mà vì có ca ca ở đây. Chỉ cần có ca ca ở bên, dù là nơi xấu xí nhất muội cũng thích.”

Càng thấy nàng vui vẻ, Trần Gia Lạc càng đau khổ trong lòng. Chàng bèn hỏi:

– “Muội có việc gì muốn ca ca làm hay không?”

Hương Hương công chúa ngẩn ra một chút rồi nói:

– “Ca ca đối xử với muội rất tốt, việc gì cũng làm cho muội. Những thứ mà muội thích, muội khỏi cần nói mà ca ca cũng đi lấy cho muội rồi.”

Nói xong, nàng lấy trong lòng ra đóa Tuyết Trung Liên, tuy đã khô héo nhưng hương thơm vẫn nồng nàn. Nàng mỉm cười nói:

– “Chỉ có một việc ca ca không chịu làm. Muội muốn nghe ca ca hát, mà ca ca cứ nói là không biết.”

Trần Gia Lac cười nói:

– “Thật sự ca ca chưa từng hát bao giờ cả.”

Hương Hương công chúa giả vờ nhăn nhó:

– “Hay lắm! Thế là từ nay về sau, muội cũng không hát cho ca ca nghe nữa.”

Trần Gia Lạc nghĩ:

– “Đời này kiếp này, hai người chúng ta chỉ còn gặp nhau ngày hôm nay là hết. Mình hát cho nàng nghe, để nàng tươi cười một chút cũng là việc tốt.”

Chàng liền đáp:

– “Hồi nhỏ, ca ca từng nghe má má hát mấy bài, còn nhớ loáng thoáng. Bây giờ, ca ca hát cho muội nghe, nhưng muội không được cười đâu.”

Hương Hương công chúa vỗ tay nói:

– “Được! ca Ca hát nhanh lên đi!”

Trần Gia Lạc ngẫm nghĩ một lúc, rồi cất giọng hát:

– “Dưới cơn mưa phùn nho nhỏ, trong tiếng gió thổi nhẹ nhàng, dưới một ngôi lầu có chàng trai đang hát những bài hát cổ xưa. Cô gái tưởng là tình lang, mở miệng mắng thầm. Nhìn kỹ thì không phải chàng trai tuấn tú của mình, trong lòng cô hoảng sợ.”

Chàng hát xong, dùng tiếng Hồi giải thích một lần. Hương Hương công chúa nghe xong cười nói:

– “Thì ra mắt của vị cô nương này không tốt lắm”

Nàng đang vui cười, đột nhiên thấy khóe mắt của Trần Gia Lạc đỏ lên và lệ đã chảy xuống mặt, kinh hãi nói:

– “Tại sao huynh lại thương tâm? À, nhất định là ca ca đang nhớ đến mẫu thân, nhớ đến lúc được nghe bài hát đó. Chúng ta đừng hát nữa.”

Hai người nhìn khắp trong ngoài tường thành. Bên ngoài tường thành là vách cao ngất, bên trong lại có bậc thang bằng đá, chính giữa có đường đi rộng rãi, cứ ba chục trượng lại có một phong hỏa đài. Trần Gia Lạc nhìn thấy những cái bệ để đốt lửa này, chợt nghĩ đến Hoắc Thanh Đồng từng đốt lang yên ở Hồi Cương mà đại phá quân Thanh, không hiểu bây giờ nàng sống chết thế nào. Chàng càng rầu rĩ hơn, tuy cố gắng mỉm cười với Hương Hương công chúa nhưng không khỏi lộ ra vẻ mặt sầu bi.

Hương Hương công chúa lên tiếng:

– “Muội biết ca ca đang nghĩ gì rồi.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Muội nói xem có đúng không?”

Hương Hương công chúa đáp:

– “Ca ca đang nhớ tỉ tỉ của muội.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Tại sao muội biết?”

Hương Hương công chúa đáp:

– “Trước đây ba người chúng ta cùng ở trong cổ thành, tuy rằng nguy hiểm nhưng muội thấy ca ca vui vẻ biết bao. Ôi! Ca ca cứ yên tâm đi!”

Trần Gia Lạc nắm chặt lấy tay nàng mà hỏi:

– “Muội nói gì thế?”

Hương Hương công chúa thở dài rồi nói:

– “Trước đây muội chỉ là một đứa bé, cái gì cũng không hiểu. Nhưng mấy tháng nay ở trong hoàng cung, ngày nào muội cũng nghĩ lại những lúc được ở bên cạnh ca ca, hiểu ra rất nhiều chuyện trước kia không biết. Nhất định tỉ tỉ của muội rất thích ca ca, và ca ca cũng rất thích tỉ tỉ, có phải vậy không?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Đúng vậy! Chuyện này ca ca không nên giấu muội.”

Hương Hương công chúa nói tiếp:

– “Nhưng muội biết ca ca cũng thật sự thích muội. Muội không có ca ca thì không thể nào sống nổi. Chúng ta mau mau đi tìm tỉ tỉ, dù phải đến chân trời góc bể cũng quyết tìm ra. Sau khi tìm được tỉ tỉ, ba người chúng ta sẽ vĩnh viễn sống chung vui vẻ. Ca ca nghĩ xem, như vậy thì tốt biết mấy.”

Nói đến đây, ánh mắt nàng đột nhiên sáng rực, sắc mặt tươi tỉnh, chứng tỏ trong lòng hoan hỉ đến cực độ. Trần Gia Lạc nắm chặt bàn tay mềm mại của Hương Hương công chúa, dịu dàng nói:

– “Kha Tư Lệ, muội thật là tốt! Muội cùng tỉ tỉ đều là những người tốt nhất, đẹp nhất trên thế gian này.”

Hương Hương công chúa ngồi trên một cái bệ để đốt lửa, nhìn ra xa xa. Đột nhiên nàng thấy ở phía tây có mặt nước óng ánh dưới mặt trời, chăm chú lắng nghe lại có tiếng nước róc rách, bèn vui vẻ hỏi:

– “Ca ca có nghe âm điệu đó không?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Rất giống tiếng đàn.”

Hương Hương công chúa bảo:

– “Chúng ta qua đó xem thử!”

Hai người đi vòng qua những tảng đá núi lộn xộn, đến gần thì thấy một nguồn nước suối từ giữa núi đá chảy vọt ra. Tiếng nước rơi xuống đá vang ra những tiếng lúc bổng lúc trầm, đúng là giống như tiếng nhạc.

Hương Hương công chúa đến gần nguồn suối, mỉm cười hỏi:

– “Muội rửa chân ở đây có được không?”

Trần Gia Lạc cười đáp:

– “Thì muội cứ rửa đi.”

Nàng cởi giầy, cởi tất, vừa nhúng chân vào nước đã cảm thấy mát rượi cả người. Nguồn suối trong xanh chảy qua bàn chân trắng như bọc một lớp mỡ dê. Trần Gia Lạc đột nhiên nhìn thấy bóng mình ánh trên mặt nước, thì ra mặt trời đã nghiêng về phía tây rồi. Chàng lấy trong bọc ra một ít lương khô để hai người cùng ăn.

Hương Hương công chúa tựa vào người chàng, vừa ăn bánh vừa dùng khăn tay để lau chân. Trần Gia Lạc nghiến chặt răng lại, nói:

– “Kha Tư Lệ! Ca ca có một việc cần nói với muội.”

Nàng quay mặt lại, vòng hai tay ôm lấy chàng, rồi vùi đầu vào ngực chàng mà dịu dàng nói:

– “Muội biết ca ca rất yêu muội. Ca ca không nói muội cũng hiểu, không cần nói nữa”

Trần Gia Lạc đau nhói trong lòng, không sao nói ra nổi câu mình muốn nói. Hồi lâu chàng mới lên tiếng:

– “Khi ở Ngọc Phong, chúng ta đã đọc di thư của Mã Mễ Nhi. Muội còn nhớ hay không?”

Hương Hương công chúa nói:

– “Bây giờ cô ấy đã cùng ở với A Lý của mình trên trời rồi, thật là sung sướng.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Đạo Islam của muội tin rằng những người tốt sau khi chết sẽ vĩnh viễn được hưởng phúc trên thiên đường. Có phải vậy không?”

Hương Hương công chúa đáp:

– “Đương nhiên là vậy”

Trần Gia lạc nói:

– “Gần đây ngày nào ca ca cũng đọc kinh Koran, nhưng có rất nhiều chỗ không hiểu. Sau khi trở về Bắc Kinh, ca ca sẽ đi tìm một vị giáo sĩ của đạo Islam, nhờ ngài dạy dỗ cho ca ca trở thành một giáo đồ Islam ngoan đạo.”

Hương Hương công chúa cả mừng, không ngờ chàng tự động qui theo Hồi Giáo. Nàng ngẩng đầu lên hỏi:

– “Ca ca! Ca ca làm như thế thật ư?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Ca ca nhất định sẽ làm như thế.”

Hương Hương công chúa nói:

– “Vì yêu muội, ngay cả việc này ca ca cũng chịu làm. Đó vốn là một điều muội không dám tưởng tượng.”

Trần Gia Lạc từ từ nói:

– “Ca ca muốn sau khi chết ngày nào cũng được ở bên muội, vì suốt đời này chúng ta không được ở cùng một chỗ nữa.”

Nghe xong câu này, Hương Hương công chúa như bị sét đánh, ngơ ngác hồi lâu, run giọng nói:

– “Ca ca… Ca ca nói gì vậy? Suốt đời này chúng ta không được ở cùng một chỗ nữa ư?”

Trần Gia Lạc đáp:

– “Đúng vậy! Hết ngày hôm nay, chúng ta sẽ không thể gặp nhau được nữa.”

Hương Hương công chúa kinh hãi hỏi:

– “Tại sao lại thế?”

Thân thể của nàng run lên bần bật, hai giọt lệ đã nhỏ lên vạt áo Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc dịu dàng ôm chặt lấy nàng, khẽ nói:

– “Kha Tư Lệ! Chỉ cần được ở bên muội, dù không có cơm ăn áo mặc, ngày nào cũng bị đánh mắng sỉ nhục, ca ca cũng cam lòng. Nhưng muội có nhớ Mã Mễ Nhi hay không? Cô nương ấy xinh đẹp dũng cảm, vì không muốn để người Hồi tộc tiếp tục bị bọn bạo chúa bức hiếp, nàng chấp nhận chia tay tình lang A Lý, chấp nhận cho tên bạo chúa kia sỉ nhục…”

Hương Hương công chúa bủn rủn cả người, tuột xuống gối trên đùi chàng, hỏi nhỏ:

– “Ca ca muốn muội đi theo tên hoàng đế đó để đâm chết hắn, có phải không?”

Trần Gia Lạc lắc đầu:

– “Không phải vậy! Y là anh ruột của ca ca.”

Sau đó, chàng kể tường tận cho nàng biết mối quan hệ giữa mình với Càn Long, mưu đồ của Hồng Hoa Hội, lời thề trên Lục Hòa Tháp, và lời yêu cầu của Càn Long đêm qua.

Hương Hương công chúa nghe xong, biết hạnh phúc ngày đêm trông đợi tưởng như đã đến tay mà trong chốc lát bỗng tuột mất rồi. Nàng chấn động tâm thần, không gượng nổi nữa, ngất xỉu ngay trên đùi Trần Gia Lạc.

Khi nàng tỉnh dậy thì thấy Trần Gia Lạc đang ôm lấy mình, áo mình ướt sũng một khoảng lớn, dĩ nhiên là do nước mắt của hai người làm ướt. Nàng đột nhiên đứng dậy, nói:

– “Ca ca chờ muội một chút!”

Nàng quay lưng, từ từ bước tới một tảng đá lớn xa xa, quì rạp xuống, hướng về phía Tây mà cầu nguyện chân thành. Nàng cầu xin chân thánh A-la chỉ điểm, hướng dẫn mình phải làm gì. Ánh chiều nhợt nhạt trên áo nàng, trên tấm lưng đẹp như tranh, rất đỗi dịu dàng, nhưng lại lộ ra nỗi đau khổ vô bờ bến.

Lát sau nàng quay lại nói:

– “Ca ca muốn muội làm gì, muội sẽ nghe theo.”

Trần Gia Lạc tung người nhảy đên, hai người ôm chặt lấy nhau, không nói thêm được câu nào. Rất lâu, nàng mới khẽ lên tiếng:

– “Nếu biết trước chỉ có một ngày hôm nay, muội sẽ không đến chỗ này. Muội sẽ đòi ca ca ôm chặt muội suốt ngày, không thả muội ra.”

Trần Gia Lạc không đáp, chỉ trìu mến ôm chặt lấy nàng. Rất lâu nữa, nàng bỗng nói:

– “Từ lúc rời khỏi quê hương, muội chưa tắm lần nào. Bây giờ muội muốn tắm rửa.”

Nàng lấy thanh đoản kiếm ra, cắt đứt hết những sợi chỉ đã may chặt y phục, từ từ cởi bỏ. Trần Gia Lạc đứng dậy nói:

– “Ca ca qua bên kia chờ muội.”

Hương Hương công chúa vội nói:

– “Không, không! Muội muốn huynh nhìn muội. Lần đầu tiên ca ca gặp muội, muội cũng đang tắm… Hôm nay là lần cuối cùng, muội muốn huynh nhìn thấy muội tắm để vĩnh viễn đừng quên muội.”

Trần Gia Lạc hỏi:

– “Kha Tư Lệ! Muội nghĩ rằng ca ca sẽ quên muội hay sao?”

Nàng vẫn nài nỉ:

– “Muội nói sai rồi, nhưng ca ca đừng rời khỏi đây!”

Trần Gia Lạc chỉ còn cách ngồi lại, nhìn nàng trút bỏ y phục. Trong tiếng nước chảy róc rách, ánh nắng màu vàng xuyên vào giữa hai ngọn núi mà chiếu lên thân thể xinh đẹp tuyệt trần. Trần Gia Lạc bỗng thấy ngây ngất choáng váng, không dám nhìn thẳng. Nhưng khi nhìn thấy vẻ mặt ngây thơ của nàng, đột nhiên chàng cảm thấy nàng như một đứa bé ba bốn tuổi, cũng khả ái và trong sáng như thế.

Đột nhiên chàng nghĩ:

– “Đấng tạo hóa của nàng đã tạo ra được một tạo vật đẹp đẽ như thế, nhất định phải là một vị thần toàn trí toàn năng.”

Trong lòng chàng nảy ra ý nghĩ cảm tạ, tình cảm tôn kính, bất giác quì xuống đất nhìn về phía tây, để hai tay lên trán rồi lạy phục xuống. Từ thời niên thiếu chàng đã ở Hồi Cương, thường xuyên nhìn thấy nghi lễ của người Hồi cầu nguyện thánh A-la.

Hương Hương công chúa đợi chàng cầu nguyện xong mới đứng dậy, lau khô những giọt nước trên mình, chậm rãi mặc y phục vào. Nàng vừa luyến tiếc vừa thương cảm, thầm nghĩ:

– “Thế là tấm thân này không bao giờ được cho người yêu nhìn thấy nữa.”

Nàng lau khô tóc, rồi lại ngồi vào trong lòng Trần Gia Lạc.

Trần Gia Lạc nói:

– “Ca ca đã từng kể muội nghe chuyện Ngưu Lang Chức Nữ, muội còn nhớ hay không?”

Hương Hương công chúa đáp:

– “Nhớ chứ! Ca ca còn đọc cho muội nghe một bài thơ, nói rằng mỗi năm gặp một lần, nhưng muôn triệu năm còn gặp, hơn hẳn đời người gặp nhau chỉ được trăm năm.”

Trần Gia Lạc nói:

– “Tuy rằng chúng ta không được cùng ở một nơi nữa, nhưng nhất định chân thánh A-la sẽ cho chúng ta gặp nhau trên trời. Trên sa mạc và ở đây, chúng ta đã rất hạnh phúc. Thời gian ngắn ngủi, nhưng so với nhiều đôi vợ chồng sống bên nhau mấy chục năm trời, hai người chúng ta còn vui vẻ hơn rất nhiều.”

Hương Hương công chúa nghe chàng dịu dàng an ủi, nhìn mặt trời từ từ lặn xuống phía sau dãy núi. Tấm lòng nàng hình như cũng theo mặt trời mà lặn xuống vậy. Nàng đột nhiên nhảy chồm lên, dậm chân khóc lóc:

– “Đại ca, đại ca! Mặt trời xuống núi rồi.”

Trần Gia Lạc nghe thấy câu này mà trái tim vỡ vụn, nắm tay nàng nói:

– “Kha Tư Lệ! Sao ca ca lại bắt muội phải khổ sở thế này?”

Hương Hương công chúa nhìn vào chỗ mặt trời sắp khuất, khẽ nói:

– “Ước gì mặt trời có thể mọc trở lên, dù chỉ một phút một giây ngắn ngủi…”

Trần Gia Lạc nói:

– “Ca ca vì đồng bào của mình mà chịu khổ là việc nên làm. Nhưng những người đó, muội muội chưa bao giờ gặp, cũng chưa từng thương yêu họ…”

Hương Hương công chúa đáp:

– “Muội yêu ca ca, vậy họ không phải đồng bào của muội hay sao? Tất cả huynh đệ người Hồi của muội, không phải ca ca cũng yêu họ hay sao?”

Nhìn thấy trời tối dần, mặt trời đã khuất hẳn, trong lòng nàng giá lạnh hẳn đi. Nàng bảo:

– “Chúng ta trở về đi! Hôm nay muội rất hạnh phúc. Kiếp này, đối với muội như thế là đủ rồi.”

Trần Gia Lạc buồn rầu không đáp. Hai người lên ngựa, theo đường cũ trở về. Hương Hương công chúa không nói gì nữa, cũng không ngoảnh lại nhìn những cảnh đẹp vừa được cùng nhau hưởng thụ.

Đi chưa tới nửa giờ, đột nhiên nghe tiếng vó ngựa rộn lên, mấy chục kỵ sĩ từ phía trước chạy tới. Người đi đầu chính là Kim câu thiết chưởng Bạch Chấn, vừa thấy Trần Gia Lạc và Hương Hương công chúa là rạng rỡ hẳn lên, vẫy tay ra sau một cái, rồi nhảy xuống ngựa đứng ở bên đường. Bốn mươi mấy tên thị vệ đi sau y đều xuống ngựa hết.

Thì ra Bạch Chấn phụng chỉ giám thị hai người, nào ngờ con ngựa trắng mà Trần Gia Lạc và Hương Hương công chúa cưỡi chạy nhanh như gió, những con ngựa bình thường không sao đuổi kịp. Dọc đường y hỏi thăm liền miệng, đổi ngựa mấy lần, không dám ăn uống nghỉ ngơi gì hết, cứ đuổi theo mãi đến xế chiều. Hắn đang lo lắng thì đột nhiên gặp hai người dọc đường, thật giống như bắt được báu vật từ trên trời rơi xuống.

Trần Gia Lạc không lý gì đến chúng, cứ thúc ngựa chạy về phía trước. Đột nhiên phía Nam cũng có tiếng vó ngựa vang lên. Vệ Xuân Hoa cưỡi con ngựa đầu tiên, vừa chạy tới vừa la lớn:

– “Tổng đà chủ! Bọn thuộc hạ đã đến đây rồi!”

Tiếp theo là Lục Phi Thanh, Vô Trần, Triệu Bán Sơn, Văn Thái Lai, Thường thị song hiệp nối nhau chạy tới.