Hồi 70: Phái Thiếu Lâm đại chiến Hắc Mộc Nhai

Nghỉ khoảng một tuần trà, hai người lại đi tiếp. Khi đi qua một thung lũng, bỗng nghe có người lớn tiếng nói:

– Tất cả ăn cơm mau lên rồi rời khỏi chỗ thị phi này.

Mấy chục người cùng đáp. Lệnh Hồ Xung dừng bước, thấy một bãi cỏ gần khe suối có mấy chục hán tử đang ngồi vòng tròn ăn cơm. Ngay lúc này những hán tử cũng đã nhìn thấy Lệnh Hồ Xung, có người nói:

– Lệnh Hồ công tử kìa!

Lệnh Hồ Xung mang máng nhận ra những người này tối hôm qua đã gặp trên Ngũ Bá Cương. Chàng muốn lên tiếng chào hỏi bỗng mấy chục người im bặt, cùng nhìn người ở sau lưng hắn.

Vẻ mặt của những người này đều rất cổ quái, có người ra vẻ kinh hãi, có người ra vẻ luống cuống sợ sệt, tựa hồ như bỗng nhiên gặp một quái sự khó hình dung, không cách nào ứng phó được. Lệnh Hồ Xung thấy vậy muốn quay đầu lại nhìn xem sau lưng mình có chuyện gì khiến mấy chục người kia bỗng nhiên ngây ra như tượng gỗ, nhưng lập tức hiểu ra: sở dĩ những người này như vậy là do họ nhìn thấy vị bà bà này. Ta đã hứa với bà bà là quyết không nhìn mặt bà.

Lệnh Hồ Xung vội quay đầu đi. Chàng dùng sức quá mạnh khiến cổ đau buốt nhưng lòng hiếu kỳ vẫn nổi lên: Tại sao bọn họ vừa thấy bà bà thì kinh hãi như vậy? Chẳng lẽ tướng mạo bà bà thật sự quái dị, trên đời này hiếm có ư?

Bỗng thấy một hán tử giơ cây trủy thủ lên đâm thẳng vào hai mắt của mình, máu tươi chảy dài xuống má. Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi la lên:

– Ngươi làm gì vậy?

Hán tử lớn tiếng nói:

– Tiểu nhân đã đui mắt ba ngày trước đây rồi, chẳng nhìn thấy gì cả.

Lại có tên hán tử khác rút đoản đao ra tự đâm vào hai mắt mình rồi nói:

– Tiểu nhân đui mắt đã lâu, chẳng nhìn thấy gì hết.

Lệnh Hồ Xung càng cảm thấy kinh dị. Những hán tử còn lại cũng lần lượt rút trủy thủ ra, toan đâm vào mắt mình. Chàng vội la lên:

– Này, này! Khoan đã! Có gì thì nói ra, đừng tự đâm vào mắt mình nữa. Vụ này… vụ này là tại vì sao?

Một tên hán tử buồn rầu nói:

– Tiểu nhân đã lập lời thề, quyết không dám nói nửa câu ra khỏi miệng, nhưng chỉ sợ khó thủ tín.

Lệnh Hồ Xung la lên:

– Bà bà, bà bà cứu bọn họ đi, bảo bọn họ đừng đâm vào mắt mình nữa.

Bà bà nói:

– Được, ta tin các ngươi. Ở Đông Hải có hòn đảo Bàn Long, có ai biết không?

Một lão già nói:

– Cách phía Đông Nam huyện Tuyền Châu tỉnh Phúc Kiến năm trăm dặm đường biển có hòn đảo Bàn Long, nghe nói chưa ai đặt chân đến, còn rất hoang sơ.

Bà bà nói:

– Đúng là hòn đảo nhỏ đó. Các ngươi lập tức ra đi ngay, đến đảo Bàn Long mà du ngoạn rồi đừng bao giờ trở về Trung Nguyên nữa.

Mấy chục tên hán tử cùng đáp dạ, vẻ mặt vui mừng, nói:

– Chúng ta lập tức đi ngay.

Có người nói:

– Chúng ta đi dọc đường, quyết không nói với ai nửa câu.

Bà bà lạnh lùng nói:

– Các ngươi nói hay không thì có liên quan gì đến ta?

Người đó đáp:

– Dạ, dạ! Tiểu nhân ăn nói hồ đồ.

Gã liền giơ tay lên, dùng lực tát mạnh vào má mình mấy cái.

Bà bà nói:

– Đi thôi!

Mấy chục tên hán tử vắt giò chạy thật nhanh. Ba tên hán tử tự đâm vào mắt được mấy người bên cạnh dìu chạy; trong khoảnh khắc, bọn họ biến mất chẳng còn một ai.

Lệnh Hồ Xung kinh hãi nghĩ thầm: Bà bà chỉ nói một câu mà khiến cả bọn phải đi ra hoang đảo ở Đông Hải, cả đời không được quay về. Vậy mà những người này còn vui mừng như được đại xá, thật khó mà hiểu nổi.

Lệnh Hồ Xung không nói gì, đi tiếp, luồng tư tưởng cứ lên xuống, cảm thấy vị bà bà đi sau mình là một quái nhân bình sinh chưa bao giờ gặp qua. Chàng nghĩ: Chỉ mong trên đường đi đừng gặp phải các bằng hữu trên Ngũ Bá Cương nữa. Bọn họ nhiệt tâm muốn trị bệnh cho ta mà đến, nếu bị bà bà bắt gặp, không tự đâm mù hai mắt thì cũng bị đày ra ngoài hoang đảo, há không oan uổng ư? Cứ như vậy thì xem ra Hoàng bang chủ, Tư Mã đảo chủ, Tổ Thiên Thu muốn ta nói chưa bao giờ gặp qua bọn họ và quần hào trên Ngũ Bá Cương, trong khoảnh khắc giải tán sạch sành sanh đều là sợ vị bà bà này. Bà bà… bà bà là một đại ma đầu đáng sợ hay sao? Nghĩ đến đây, bất giác chàng rùng mình.

Lại đi được bảy tám dặm, bỗng nghe phía sau có người lớn tiếng nói:

– Người phía trước là Lệnh Hồ Xung.

Giọng người này oang oang, vừa nghe thì biết ngay là Tân Quốc Lương của phái Thiếu Lâm. Bà bà nói:

– Ta không muốn gặp hắn, ngươi cứ nói qua loa với hắn vài câu.

Lệnh Hồ Xung đáp dạ, bỗng nghe tiếng loạt soạt, cây cối rung động. Bà bà đã nhảy vào trong một lùm cây rồi. Bỗng nghe Tân Quốc Lương nói:

– Sư thúc, Lệnh Hồ Xung đang bị thương, hắn đi không nhanh đâu.

Lúc này khoảng cách còn xa nhưng giọng nói của Tân Quốc Lương rất lớn, tuy lão chỉ nói một câu nhưng Lệnh Hồ Xung nghe rất rõ, thầm nghĩ: Thì ra lão đi với sư thúc.

Lệnh Hồ Xung bèn đứng lại, ngồi bên vệ đường đợi. Một lúc sau, tiếng bước chân trên đường vọng lại, mấy người chạy nhanh đến. Tân Quốc Lương và Dịch Quốc Tử đều có trong đó, lại có cả hai nhà sư và một hán tử trung niên. Trong hai lão tăng, một người tuổi rất cao, mặt đầy nếp nhăn, còn người kia khoảng ba mươi tuổi, tay cầm phương tiện sạn. Lệnh Hồ Xung đứng dậy, xá dài nói:

– Vãn bối Lệnh Hồ Xung phái Hoa Sơn xin tham kiến các vị tiền bối phái Thiếu Lâm. Xin thỉnh giáo cách xưng hô của các vị tiền bối.

Dịch Quốc Tử quát:

– Tiểu tử…

Vị lão tăng nói:

– Lão nạp pháp danh là Phương Sinh.

Lão tăng đó vừa nói thì Dịch Quốc Tử liền im miệng nhưng sự tức giận hằn rõ trên mặt lão. Rõ ràng là vừa rồi lão đã phẫn uất vô cùng. Lệnh Hồ Xung cúi người nói:

– Xin tham kiến đại sư.

Phương Sinh gật đầu, vẻ mặt hiền hòa, ôn tồn nói:

– Thiếu hiệp không cần đa lễ, tôn sư Nhạc tiên sinh mạnh khỏe chứ?

Lúc đầu Lệnh Hồ Xung nghe bọn họ hùng hổ đuổi tới, lòng rất hoang mang, giờ thấy hòa thượng Phương Sinh nói năng hòa nhã, thật là một cao tăng đắc đạo. Hắn biết vị cao tăng này thuộc hàng chữ “Phương” là nhân vật thuộc đời thứ nhất trong chùa Thiếu Lâm đương thời, sư huynh đệ với phương trượng Phương Chứng đại sư. Hắn đoán rằng lão sẽ không đến nỗi không biết phải trái như Dịch Quốc Tử, nên cảm thấy yên tâm, cung kính nói:

– Đa tạ đại sư đã quan tâm, tệ nghiệp sư vẫn khỏe.

Phương Sinh nói:

– Bốn người này đều là sư điệt của lão nạp. Vị sư tăng này pháp danh là Giác Nguyệt, còn đây là Hoàng Quốc Bách sư điệt, Tân Quốc Lương sư điệt và Dịch Quốc Tử sư điệt. Hai người họ Dịch, Tân ngươi đã gặp qua rồi.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Dạ đúng. Lệnh Hồ Xung xin tham kiến hai vị tiền bối. Vãn bối thân bị trọng thương, cử động bất tiện, lễ số không chu tất, xin các vị tiền bối miễn thứ.

Dịch Quốc Tử hừ một tiếng, nói:

– Ngươi bị trọng thương ư?

Phương Sinh nói:

– Ngươi đang bị thương thật ư? Quốc Tử, ngươi đả thương hắn phải không?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Vì nhất thời hiểu lầm, chẳng đáng gì cả. Dịch tiền bối đã phất tay áo đánh ngã vãn bối, lại đánh cho vãn bối một chưởng nữa. May mà vãn bối nhất thời chưa chết, xin đại sư đừng trách Dịch tiền bối nữa.

Lệnh Hồ Xung nói mình bị trọng thương rồi đem toàn bộ trách nhiệm đổ lên đầu Dịch Quốc Tử. Chàng nghĩ rằng Phương Sinh là vị tiền bối cao tăng chắc không thể để bốn tên sư điệt làm khó dễ mình, bèn nói:

– Sự việc trầm trọng như vậy, Tân tiền bối trên Ngũ Bá Cương đã tận mắt nhìn thấy. May được đại sư Phật giá thân lâm, vãn bối đã thỏa lòng, quyết không đề cập chuyện này trước mặt tệ nghiệp sư. Đại sư an tâm, tuy vãn bối bị trọng thương khó trị nhưng không vì thế mà dẫn đến bất hòa giữa Ngũ Nhạc kiếm phái và phái Thiếu Lâm.

Lệnh Hồ Xung nói như vậy cốt đổ lỗi mình bị trọng thương khó trị hoàn toàn do Dịch Quốc Tử.

Dịch Quốc Tử tức giận nói:

– Ngươi… ngươi… ngươi nói bậy. Ngươi đã bị trọng thương trước rồi, sao lại đổ thừa tại ta?

Lệnh Hồ Xung thở dài, lạnh lùng nói:

– Chuyện này xin Dịch tiền bối đừng nói nữa. Nếu truyền ra ngoài, há không làm tổn thương thanh danh phái Thiếu Lâm sao?

Tân Quốc Lương, Hoàng Quốc Bách và Giác Nguyệt đều khẽ gật đầu. Mỗi người đều hiểu rõ những tăng nhân thuộc hàng chữ Phương phái Thiếu Lâm đều là bậc chí tôn. Tuy phái Thiếu Lâm khác biệt với các môn phái trong Ngũ Nhạc kiếm phái nhưng vai vế so với chưởng môn nhân của Ngũ Nhạc kiếm phái thì còn cao hơn một bậc. Cho nên bọn Tân Quốc Lương, Dịch Quốc Tử thân phận đều cao hơn Lệnh Hồ Xung. Dịch Quốc Tử và Lệnh Hồ Xung động thủ vốn đã là ỷ lớn hiếp nhỏ rồi, huống chi cả hai sư huynh đệ phái Thiếu Lâm ở hiện trường mà Lệnh Hồ Xung trước khi động thủ đã bị thương nữa. Môn quy phái Thiếu Lâm rất nghiêm, nếu Dịch Quốc Tử đánh chết một hậu bối của phái Hoa Sơn thật, không bị xử tử thường mạng thì cũng bị phế truất võ công hay trục xuất khỏi môn tường. Dịch Quốc Tử nghĩ đến điều này, bất giác mặt lão trắng bệch ra.

Phương Sinh nói:

– Thiếu hiệp, ngươi qua đây để lão nạp xem thương thế của ngươi.

Lệnh Hồ Xung đi đến gần. Phương Sinh đưa tay phải bắt mạch cổ tay. Lão đặt ngón tay lên hai huyệt Đại uyên và Kinh cử , liền cảm thấy nội thể chàng phát ra một luồng nội lực cổ quái kỳ lạ hất văng ngón tay của lão ra. Phương Sinh giật mình. Lão là một trong những cao thủ trong số cao tăng đời thứ nhất của chùa Thiếu Lâm, lại bị nội lực của thiếu niên này hất văng ngón tay ra, thật là ngoài sức tưởng tượng. Lão đâu biết trong cơ thể của Lệnh Hồ Xung đã có chân khí của Đào Cốc lục tiên và Bất Giới hòa thượng, võ công của lão tuy cao nhưng vì không đề phòng, vả lại lão cũng không thể chống nổi hợp lực của bảy cao thủ này. Lão ồ lên một tiếng, hai mắt trợn lên nhìn Lệnh Hồ Xung rồi từ từ nói:

– Thiếu hiệp, thiếu hiệp không phải là người phái Hoa Sơn.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vãn bối xác thực là đệ tử phái Hoa Sơn, môn đồ thứ nhất được tệ nghiệp sư Nhạc tiên sinh thu nạp.

Phương Sinh hỏi:

– Vậy thì sao thiếu hiệp lại theo bọn bàng môn tả đạo để luyện võ công tà phái?

Dịch Quốc Tử nói xen vào:

– Sư thúc, tiểu tử này quả thật đã sử võ công tà phái, không sai chút nào, hắn không thể chối cãi được. Vừa rồi, chúng ta còn thấy một phụ nữ đi theo sau hắn, sao lại trốn đi đâu rồi? Lén lút như vậy chắc không phải là thứ đàng hoàng.

Lệnh Hồ Xung nghe lão nhục mạ bà bà, liền tức giận nói:

– Lão là đệ tử danh môn, sao lại ăn nói vô lễ như vậy? Bà bà lão nhân gia không muốn gặp lão để khỏi phải nổi giận mà thôi.

Dịch Quốc Tử nói:

– Ngươi gọi mụ ra đi. Mụ chính hay tà, pháp nhãn của sư thúc ta chỉ nhìn qua là biết ngay không nhầm lẫn được.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Sở dĩ lão và tại hạ tranh cãi với nhau là vì lão vô lễ với bà bà của tại hạ mà ra, bây giờ còn nói quấy nữa.

Giác Nguyệt nói tiếp:

– Lệnh Hồ thiếu hiệp, vừa rồi bần tăng đứng trên núi cũng nhìn thấy người phụ nữ đi sau thiếu hiệp chân bước rất nhẹ nhàng, dường như không phải là một bà già.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Bà bà của tại hạ là người trong võ lâm, dĩ nhiên chân đi nhẹ nhàng rồi, có gì lạ đâu?

Phương Sinh lắc đầu nói:

– Giác Nguyệt, chúng ta là người xuất gia, tại sao cứ muốn bái kiến trưởng bối nữ quyến người ta? Lệnh Hồ thiếu hiệp, trong chuyện này có rất nhiều nghi vấn, lão nạp nhất thời tham tường không hết. Quả nhiên thiếu hiệp thân bị trọng thương, nhưng nội thương quái dị này quyết không phải do Dịch sư điệt của bần tăng gây ra. Hôm nay chúng ta tương hội ở đây âu cũng là có duyên, mong thiếu hiệp sớm có ngày khỏi bệnh, sau này còn tái ngộ. Nội thương trên người của thiếu hiệp thật không nhẹ đâu. Lão nạp có hai viên dược hoàn để thiếu hiệp uống, chỉ sợ trị không khỏi…

Lão tăng nói xong đưa tay vào túi. Lệnh Hồ Xung rất kính phục lão, thầm nghĩ: Cao tăng Thiếu Lâm quả nhiên khí độ bất phàm.

Lệnh Hồ Xung cúi người nói:

– Vãn bối may mắn được gặp đại sư…

Lệnh Hồ Xung chưa nói hết câu, bỗng nghe soạt một tiếng, Dịch Quốc Tử đã rút trường kiếm ra khỏi vỏ, quát:

– Mụ đây rồi!

Cả người lẫn kiếm lão xông vào bụi cây, nơi bà bà đang ẩn mình. Phương Sinh quát:

– Dịch sư điệt không được vô lễ!

Chỉ nghe binh một tiếng, Dịch Quốc Tử đã từ trong lùm cây văng ra đến mấy trượng, rớt thẳng xuống đất, mặt ngửa lên trời, tay chân cựa quậy vài cái rồi nằm bất động. Bọn Phương Sinh giật mình kinh hãi, thấy đầu Dịch Quốc Tử bị thương, máu tươi chảy dài, tay vẫn còn cầm thanh trường kiếm nhưng lão đã tắt thở rồi.

Tân Quốc Lương, Hoàng Quốc Bách, Giác Nguyệt cả ba người đều tức giận, quát tháo rùm lên, mỗi lão cầm binh khí nhảy về phía lùm cây. Phương Sinh dang hai tay ra, tay áo tăng bào của lão phồng lên, một luồng kình phong ôn hòa cản ba người lại rồi hướng vào lùm cây lớn tiếng nói:

– Vị huynh đài Hắc Mộc Nhai nào ở đây?

Cây cối trong lùm cây vẫn im lặng không có tiếng đáp lại, Phương Sinh lại nói:

– Tệ phái đâu có xích mích gì với Hắc Mộc Nhai, sao huynh đài bỗng nhiên hạ độc thủ sát hại Dịch sư điệt của tệ phái?

Trong lùm cây vẫn không có tiếng trả lời. Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi: Hắc Mộc Nhai ư? Hắc Mộc Nhai là nơi tổng đà của Ma giáo, chẳng lẽ… chẳng lẽ vị bà bà này lại là tiền bối trong Ma giáo?

Phương Sinh đại sư nói:

– Lão nạp và Đông Phương giáo chủ năm xưa đã có duyên gặp nhau. Đạo hữu đã ra tay giết người, hai bên ai phải ai trái, thì hôm nay phải làm cho rõ. Sao đạo hữu không hiện thân tương kiến?

Lệnh Hồ Xung chấn động tinh thần, nghĩ: Đông Phương giáo chủ ư? Lão nói là giáo chủ Đông Phương Bất Bại của Ma giáo ư? Người này hiện xưng là đệ nhất cao thủ đương thời, vậy… vậy vị bà bà này quả nhiên là người trong Ma giáo rồi sao?

Bà bà ẩn trong lùm cây vẫn không lên tiếng. Phương Sinh nói:

– Đạo hữu nhất định không chịu lộ diện thì đừng trách lão nạp vô lễ.

Lão nói rồi hai tay đưa về sau, hai tay áo liền nổi lên một luồng kình khí đẩy thẳng về phía lùm cây. Chỉ nghe những tiếng răng rắc, mấy chục cây trong lùm đều bị gãy, cành lá bay tán loạn. Ngay lúc này, vù một tiếng, một bóng người từ trong lùm cây vọt ra, tuy Lệnh Hồ Xung muốn nhìn xem tướng mạo của bà bà nhưng nhớ đến lời hứa nên vội quay người đi. Tân Quốc Lương và Giác Nguyệt cùng la hét om sòm, tiếng binh khí giao nhau như bắp rang, đã nhanh còn mạnh. Bà bà cùng với bọn Phương Sinh đã đấu với nhau rồi.

Lúc này vào khoảng giờ Tỵ, ánh mặt trời rọi xiên xuống, Lệnh Hồ Xung đã có lời tín ước, tuy lòng vừa hồi hộp vừa hiếu kỳ nhưng không dám quay đầu lại nhìn cảnh năm người tương đấu. Chỉ thấy bóng đen thấp thoáng ở dưới đất, bọn Phương Sinh bốn người vây bà bà vào giữa. Trong tay Phương Sinh không có binh khí, còn Giác Nguyệt sử thanh phương tiện sạn, Hoàng Quốc Bách sử đao, Tân Quốc Lương sử kiếm. Bà bà sử một đôi binh khí rất ngắn hình như là trủy thủ, lại giống như Nga Mi thích. Thứ khí giới này vừa ngắn lại vừa mỏng tưởng chừng như trong suốt, nhìn hình bóng in dưới đất thì không nhận ra là loại binh khí gì. Bà bà và Phương Sinh đều không lên tiếng còn bọn Tân Quốc Lương ba người la hét om sòm. Tiếng la hét rất uy mãnh.

Lệnh Hồ Xung la lên:

– Có gì thì nói, bốn người các vị là đại nam tử mà vây đánh một bà bà lão niên thì còn ra thể thống gì?

Hoàng Quốc Bách cười nhạt nói:

– Lão niên bà bà! Hì hì, tiểu tử này mắt mở trừng trừng mà nói như nằm mơ. Cô…

Lão chưa nói hết câu, nghe Phương Sinh quát:

– Hoàng… cẩn thận!

Hoàng Quốc Bách rú lên một tiếng thất thanh, dường như lão bị thương không nhẹ.

Lệnh Hồ Xung sửng sốt: Võ công của bà bà này lợi hại thật! Vừa rồi Phương Sinh đại sư dùng tụ phong đánh gãy cây cối, nội lực rất mạnh nhưng bà bà lấy một địch bốn, lại còn chiếm được thượng phong.

Tiếp theo, Giác Nguyệt cũng la thất thanh, phương tiện sạn vụt khỏi tay bay qua đầu Lệnh Hồ Xung văng ra xa mấy trượng. Bóng đen chuyển động dưới đất giờ đã bớt đi hai người. Hoàng Quốc Bách và Giác Nguyệt đều đã bị loại rồi, chỉ còn Phương Sinh và Tân Quốc Lương tương đấu với bà bà.

Phương Sinh nói:

– Thiện tai, thiện tai! Ngươi hạ thủ tàn độc, liên tiếp giết ba sư điệt của lão nạp. Lão nạp không thể ra tay nương tình được nữa, đành phải toàn lực đấu với ngươi một phen.

Bốp bốp mấy tiếng liên tục, hiển nhiên là Phương Sinh đại sư đã sử khí giới nhưng khí giới của lão dường như là loại côn gỗ. Lệnh Hồ Xung cảm thấy kình phong ở sau lưng mình càng lúc càng mãnh liệt, bức bách chàng phải đi về phía trước mấy bước.

Phương Sinh đại sư vừa dùng binh khí, quả nhiên cao tăng Thiếu Lâm chẳng phải tầm thường, cục diện liền thay đổi. Lệnh Hồ Xung nghe thấy tiếng thở hổn hển của bà bà, dường như nội lực đã bị hao tổn. Phương Sinh đại sư nói:

– Quăng binh khí xuống, lão nạp không làm khó ngươi đâu. Ngươi hãy theo lão nạp về Thiếu Lâm tự, bẩm rõ với phương trượng sư huynh xin phương trượng phát lạc là xong.

Bà bà không đáp, liên tục hướng về Tân Quốc Lương tấn công vội mấy chiêu. Tân Quốc Lương chống đỡ không nổi nhảy ra ngoài vòng chiến chờ Phương Sinh đại sư tiếp đấu. Tân Quốc Lương định thần lại, múa tít thanh trường kiếm tấn công tới.

Lại đấu thêm một lúc nữa, tiếng binh khí chạm nhau thưa dần, nhưng kình phong càng lúc càng mạnh. Phương Sinh đại sư nói:

– Nội lực của ngươi không địch lại lão nạp, lão nạp khuyên ngươi mau quăng binh khí xuống theo lão nạp về Thiếu Lâm tự. Nếu không, ráng chống chọi một lúc nữa, ngươi sẽ bị nội thương trầm trọng mà thôi.

Bà bà hừ một tiếng. Bỗng nhiên một tiếng rú vang lên, Lệnh Hồ Xung cảm thấy sau cổ có mấy giọt nước văng vào, chàng đưa tay sờ thấy lòng bàn tay màu đỏ tươi, thì ra là máu. Phương Sinh đại sư nói:

– Thiện tai, thiện tai! Ngươi đã bị thương rồi, không chống chọi được nữa đâu. Lão nạp vẫn ra tay nương tình, ngươi nên biết như vậy.

Tân Quốc Lương tức giận nói:

– Mụ này là tà ma yêu nữ, sư thúc mau ra tay chém yêu tà, để báo thù cho ba vị sư đệ. Đối phó với yêu tà sao có thể từ bi được.

Tai Lệnh Hồ Xung nghe hơi thở của bà bà rất gấp, chân bước loạng choạng có thể té bất cứ lúc nào. Chàng thầm nghĩ: Bà bà bảo ta đi theo để làm bạn, thì ra là muốn ta bảo hộ cho bà bà. Bây giờ bà bà đang gặp đại nạn, làm sao ta có thể làm ngơ. Tuy Phương Sinh đại sư là vị cao tăng đắc đạo, lão họ Tân là hán tử ngay thẳng, nhưng ta cũng không nỡ để bà bà bị thương dưới tay bọn họ.

Soạt một tiếng, Lệnh Hồ Xung rút trường kiếm ra, lớn tiếng nói:

– Phương đại sư, Tân tiền bối, xin hai vị dừng tay nếu không vãn bối phải đắc tội.

Tân Quốc Lương quát:

– Hắn cũng là hạng yêu tà, giết luôn cả hai.

Véo một tiếng, lão đâm một kiếm về hướng Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung sợ nhìn thấy bà bà, không dám xoay người lại, chỉ né người tránh qua một bên, bà bà la lên:

– Cẩn thận!

Lệnh Hồ Xung nghiêng người, trường kiếm của Tân Quốc Lương đâm xéo lên. Bỗng nghe Tân Quốc Lương la lên một tiếng thất thanh, thân người từ bên trái của Lệnh Hồ Xung bay đi rồi rớt xuống đất. Lão cũng co giật một lúc thì xuội đơ, không biết sao lão lại bị bà bà hạ độc thủ.

Ngay lúc đó binh một tiếng, bà bà bị trúng một chưởng của Phương Sinh đại sư, bay ngửa về phía sau lùm cây.

Lệnh Hồ Xung kinh hãi gọi:

– Bà bà, bà bà, bà bà có sao không?

Bà bà ở trong lùm cây rên khẽ. Lệnh Hồ Xung biết bà bà vẫn còn sống nên cảm thấy hơi yên tâm.

Chàng nghiêng người phóng kiếm về hướng Phương Sinh, chiêu kiếm phương vị xảo diệu vô cùng, bức bách Phương Sinh phải nhảy lùi về phía sau để tránh. Lệnh Hồ Xung phóng thêm một chiêu kiếm nữa, Phương Sinh giơ binh khí lên đỡ, Lệnh Hồ Xung rút trường kiếm về, đã đứng đối diện với Phương Sinh đại sư. Chàng thấy lão tăng dùng một cây bổng cũ dài ba thước làm binh khí.

Lệnh Hồ Xung sửng sốt nghĩ: Không ngờ binh khí của đại sư chỉ là một cây đoản bổng. Vị cao tăng Thiếu Lâm này nội lực quá cao cường, nếu ta không dùng kiếm thuật để chế ngự lão thì bà bà không cách nào sống được.

Lệnh Hồ Xung liền phóng ra, một kiếm trên rồi lại một kiếm dưới, tiếp theo lại phóng thêm hai kiếm, tất cả đều là những chiêu kiếm mà Phong Thanh Dương đã truyền thụ.

Vẻ mặt của Phương Sinh đại sư liền đổi sắc, nói:

– Thiếu hiệp… thiếu hiệp…

Lệnh Hồ Xung không dám ngừng lại, tự biết mình không có chút nội lực, chỉ cần do dự một chút sẽ bị nội lực của lão đánh đến, chắc hắn sẽ toi mạng, bà bà cũng sẽ bị lão bắt đưa về Thiếu Lâm tự xử tử. Lòng chàng không còn đắn đo gì nữa, liền đem các chiêu thức biến hóa ảo diệu trong Độc Cô cửu kiếm tùy ý sử ra.

Kiếm pháp Độc Cô cửu kiếm tinh diệu khôn lường, tuy nội lực của Lệnh Hồ Xung đã mất hết, những chỗ tinh vi ảo diệu nhất trong kiếm pháp chàng cũng chưa lãnh ngộ hết nhưng cũng đủ để bức Phương Sinh đại sư phải thối lui ra sau. Lệnh Hồ Xung cảm thấy máu nóng trong ngực sôi lên, cánh tay mềm nhũn khó đưa lên nổi, chiêu kiếm sử ra càng lúc càng yếu.

Phương Sinh bỗng quát:

– Buông kiếm xuống!

Tay trái của đại sư chụp vào ngực của Lệnh Hồ Xung. Lệnh Hồ Xung đã kiệt sức, chiêu kiếm phóng ra, đến nửa chừng thì cánh tay trầm xuống. Trường kiếm cũng trầm xuống nhưng vẫn phóng ra, thế kiếm đi chậm lại, tay trái của Phương Sinh đại sư đã nắm được ngực của Lệnh Hồ Xung nhưng không nhả kình lực. Lão hỏi:

– Độc Cô cửu kiếm này của thiếu hiệp…

Lúc ấy, mũi kiếm của Lệnh Hồ Xung đã đâm vào ngực của đại sư.

Lệnh Hồ Xung đối với vị cao tăng Thiếu Lâm này rất kính ngưỡng, nên khi cảm thấy kiếm đã chạm vào da của đại sư thì vội dùng lực rút về. Lệnh Hồ Xung rút kiếm về lại dùng lực quá mạnh, thân người ngã về phía sau, ngồi phệt xuống đất, miệng phun máu tươi.

Phương Sinh đại sư bịt vết thương trước ngực mỉm cười nói:

– Hảo kiếm pháp! Nếu không phải thiếu hiệp kiếm hạ lưu tình thì tính mạng của lão nạp đã không còn nữa.

Đại sư không nhắc đến chính mình đã ra tay nương tình. Lão nói xong ho không ngớt. Lệnh Hồ Xung tuy kịp thời rút kiếm về, nhưng trường kiếm còn đâm vào ngực của đại sư hơn một tấc, vết thương không nhẹ. Lệnh Hồ Xung nói:

– Mạo… mạo phạm… tiền bối rồi.

Phương Sinh đại sư nói:

– Không ngờ kiếm pháp của Phong Thanh Dương tiền bối phái Hoa Sơn vẫn còn có truyền nhân trên thế gian. Năm xưa, lão nạp đã nhận đại ân của Phong tiền bối. Chuyện hôm nay, lão nạp… lão nạp không sao tự chủ được rồi.

Đại sư từ từ đưa tay vào trong áo cà sa lấy ra một gói giấy, mở ra bên trong có hai viên dược hoàn to bằng hạt nhãn, nói:

– Đây là linh dược trị thương của Thiếu Lâm tự. Thiếu hiệp hãy uống một viên đi.

Đại sư ngần ngừ rồi nói tiếp:

– Còn một viên đưa cho nữ thí chủ kia uống.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Thương thế của vãn bối trị không khỏi thì còn uống thuốc làm gì nữa! Viên này đại sư giữ lại để uống đi.

Phương Sinh đại sư lắc đầu nói:

– Không cần!

Đại sư để hai viên dược hoàn trước mặt Lệnh Hồ Xung rồi nhìn bốn thi thể bọn Giác Nguyệt, Tân Quốc Lương, thần sắc thê lương. Lão chắp tay khẽ niệm kinh văn, nét mặt dần dần hiền hòa lại, đến lúc sau gương mặt lão như phủ một làn thánh quang. Thật chỉ có bốn chữ “đại từ đại bi” mới có thể diễn tả được.

Lệnh Hồ Xung cảm thấy đầu choáng váng, mắt hoa lên, khó gắng gượng được nữa. Chàng lượm hai viên dược hoàn lên, uống một viên.

Phương Sinh đại sư niệm kinh văn xong, nhìn Lệnh Hồ Xung nói:

– Thiếu hiệp, truyền nhân Độc Cô cửu kiếm của Phong tiền bối quyết không phải là hạng yêu tà. Thí chủ đầy lòng nghĩa hiệp, theo lẽ không chết trẻ. Có điều trong người thiếu hiệp bị nội thương vô cùng quái dị, không thể dùng dược liệu để trị, nên phải tu tập nội công cao thâm mới có thể bảo toàn tính mạng. Theo ý lão nạp, thiếu hiệp hãy theo lão nạp lên Thiếu Lâm tự, để lão nạp cầu khẩn chưởng môn sư huynh, đem tâm pháp nội công chí cao vô thượng của phái Thiếu Lâm truyền thụ thì mới có thể trị được nội thương cho thiếu hiệp.

Đại sư ho vài tiếng rồi nói tiếp:

– Tu luyện môn nội công này, nghiên cứu tâm pháp này thì lão nạp lại vô duyên. Chưởng môn sư huynh phái Thiếu Lâm từ bi quảng đại, nếu có duyên với thiếu hiệp thì mới truyền tâm pháp được.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Đa tạ hảo ý của đại sư. Xin đợi vãn bối đưa bà bà đến nơi bình yên, nếu vãn bối may mắn còn sống thì sẽ đến Thiếu Lâm tự bái kiến đại sư và chưởng môn phương trượng.

Nét mặt Phương Sinh hiện ra vẻ kỳ dị nói:

– Thiếu hiệp… thiếu hiệp gọi nữ thí chủ đó là bà bà ư? Thiếu hiệp, thiếu hiệp là đệ tử danh môn chính phái, không thể cùng phe phái với bọn yêu tà. Lão nạp có lòng khuyên can, thiếu hiệp hãy suy xét kỹ.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Nam tử hán một lời đã nói, sao có thể bất tín?

Phương Sinh đại sư thở dài nói:

– Được! Lão nạp đợi thiếu hiệp đến Thiếu Lâm tự.

Đại sư liếc nhìn bốn thi thể ở dưới đất một lần nữa rồi nói:

– Bốn cái thây thúi này, chôn cũng được mà không chôn cũng được, lìa cõi trần này tất cả đều chỉ là không.

Lão tăng nói xong, quay người từ từ bước đi.

Hồi 71: Lão bà bà hóa thành giai nhân

Lệnh Hồ Xung ngồi dưới đất thở hồng hộc, toàn thân đau nhức không cử động được, hỏi:

– Bà bà, bà bà… Bà bà không sao chứ?

Chỉ nghe phía sau có tiếng sột soạt, bà bà từ trong lùm cây đi ra nói:

– Chết không được đâu! Ngươi đi theo lão hòa thượng đi. Lão nói có thể trị khỏi nội thương cho ngươi. Nội công tâm pháp phái Thiếu Lâm có một không hai đương thời, sao ngươi không đi?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Vãn bối đã nói là hộ tống bà bà, dĩ nhiên phải hộ tống bà bà đến nơi đến chốn.

Bà bà nói:

– Ngươi đang bị thương thì còn hộ tống được cái gì nữa?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Bà bà cũng bị thương, chúng ta cùng đi thôi.

Bà bà nói:

– Ta là yêu tà ngoại đạo còn ngươi là đệ tử danh môn. Ngươi đi cùng với ta sẽ bị bại hoại danh dự đệ tử danh môn.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Vãn bối vốn đã không có danh dự, mặc kệ ai nói tròn nói méo. Bà bà, bà bà đối đãi vãn bối rất tốt, Lệnh Hồ Xung không phải là người không biết điều. Bây giờ bà bà đang bị trọng thương, nếu vãn bối bỏ bà bà mà đi thì có đáng làm người không?

Bà bà nói:

– Nếu bây giờ ta không bị thương thì ngươi sẽ bỏ ta mà đi, có phải không?

Lệnh Hồ Xung sửng sốt rồi cười nói:

– Nếu bà bà không chê vãn bối là kẻ hậu sinh vô tri, muốn bầu bạn với vãn bối thì Lệnh Hồ Xung này sẽ ở bên bà bà để trò chuyện cho khuây khỏa. Chỉ e vãn bối tính tình thô lỗ, tự ý làm càn, không được mấy ngày thì bà bà không thèm nói chuyện với vãn bối nữa.

Bà bà hứ một tiếng. Lệnh Hồ Xung đưa tay về phía sau, đưa viên dược hoàn của Phương Sinh đại sư rồi nói:

– Vị cao tăng Thiếu Lâm này thật là tốt. Bà bà, bà bà giết bốn đệ tử môn hạ của lão nhưng lão vẫn tặng cho linh dược để bà bà trị thương, chính lão không chịu uống. Vừa rồi lão đấu với bà bà, có lẽ lão chưa xuất hết toàn lực.

Bà bà tức giận nói:

– Hừ! Lão chưa xuất hết toàn lực sao lại đánh ta đến bị thương? Mấy người này tự cho mình là danh môn chính phái, giả nhân giả nghĩa, ta chẳng coi ra cái thá gì.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Bà bà, bà bà lấy viên thuốc này uống đi. Sau khi vãn bối uống vào quả thật thấy trong người dễ chịu một chút.

Bà bà ậm ừ nhưng không nhận lấy. Lệnh Hồ Xung nói:

– Bà bà…

Bà bà nói:

– Bây giờ chỉ có ngươi và ta, sao cứ kêu bà bà, bà bà hoài vậy? Kêu bớt đi mấy tiếng không được sao?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Dạ, kêu bớt vài tiếng có gì đâu không được? Sao bà bà không lấy viên dược hoàn này uống đi?

Bà bà nói:

– Ngươi nói linh đan của phái Thiếu Lâm trị thương rất công hiệu tức là nói thuốc trị thương mà ta cho ngươi không công hiệu. Vậy sao ngươi không lấy luôn viên còn lại của lão hòa thượng uống đi?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Trời ơi, vãn bối nói thuốc trị thương của bà bà không công hiệu hồi nào, thật là oan ức cho người ta. Vả lại thuốc trị thương của phái Thiếu Lâm có công hiệu nên vãn bối muốn bà bà uống để có chút khí lực mà lên đường.

Bà bà nói:

– Ngươi thấy đi với ta buồn chán lắm phải không? Vậy ngươi cứ đi một mình đi, ta không giữ nữa.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Sao bây giờ bà bà khó tính quá vậy, cứ tìm cớ trách ta hoài? Đúng rồi, bà bà bị thương không nhẹ, người khó chịu nên đâm ra hay cáu kỉnh, ta cũng không nên trách bà. Lệnh Hồ Xung nghĩ vậy liền cười nói:

– Bây giờ vãn bối muốn đi nửa bước cũng không nổi, dù có muốn cũng đi không được. Huống chi… huống chi… hô hô…

Bà bà tức giận nói:

– Huống chi cái gì? Lại hô hô cái gì?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Hô hô là hô hô, huống chi dù vãn bối có thể đi được vẫn không muốn đi, trừ phi phải có bà bà đi cùng với vãn bối.

Lệnh Hồ Xung vốn nói năng với bà bà rất cung kính lễ độ nhưng bà bà tính khí thất thường, không cần phải trái nên hắn cũng không giữ khuôn phép nữa. Nào ngờ bà bà lại không tức giận, bỗng nhiên lặng thinh không biết đang nghĩ ngợi điều gì. Lệnh Hồ Xung gọi:

– Bà bà…

Bà bà nói:

– Lại bà bà nữa! Cả đời ngươi chưa được kêu qua hai tiếng bà bà phải không? Kêu hoài không thấy chán ư?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Từ nay về sau vãn bối không kêu bà bà là bà bà nữa, vậy vãn bối phải kêu bà bà bằng gì?

Bà bà lặng yên, một lúc sau mới nói:

– Bây giờ chỉ có hai chúng ta ở đây, cần gì phải kêu? Ngươi mở miệng ra dĩ nhiên là để nói với ta, chẳng lẽ còn nói với ai nữa?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Có lúc vãn bối thích tự nói một mình, bà bà đừng có hiểu lầm.

Bà bà hừ một tiếng rồi nói:

– Ngươi ăn nói không đứng đắn, chẳng trách tiểu sư muội của ngươi không thích ngươi.

Câu nói này như nhát dao đâm vào vết thương lòng của Lệnh Hồ Xung. Chàng chua xót, bất giác tự nhủ: Tiểu sư muội không thích ta mà thích Lâm sư đệ chắc tại ta nói năng hành sự không đứng đắn chút nào. Thậm chí tiểu sư muội cũng không muốn lấy ta. Đúng rồi, Lâm sư đệ theo đúng mực thước, đúng là một chính nhân quân tử chẳng khác gì sư phụ ta. Đừng nói tiểu sư muội, nếu ta là con gái cũng sẽ thích Lâm sư đệ mà không thích tên lãng tử Lệnh Hồ Xung vô hạnh này. Ôi, Lệnh Hồ Xung hỡi Lệnh Hồ Xung, ngươi uống rượu quậy phá, không giữ môn quy, thật không thuốc nào trị nổi. Ta đi kết giao với tên thái hoa dâm tặc Điền Bá Quang, ngủ trong kỹ viện thành Hành Dương, tiểu sư muội chán ghét ta là phải.

Bà bà thấy Lệnh Hồ Xung lặng thinh, liền hỏi:

– Sao? Câu nói của ta làm đau lòng ngươi sao? Ngươi bực mình lắm có phải không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Đâu có bực mình. Bà bà nói đúng lắm, vãn bối ăn nói không đứng đắn, hành sự cũng không đàng hoàng, chẳng trách tiểu sư muội không thích, sư phụ, sư nương cũng không ưa vãn bối.

Bà bà nói:

– Ngươi đừng buồn nữa. Sư phụ, sư nương, tiểu sư muội của ngươi không thích ngươi, chẳng lẽ… chẳng lẽ trên đời này không còn ai thích ngươi sao?

Bà bà nói câu này rất dịu dàng, đầy ý an ủi vỗ về. Lệnh Hồ Xung cảm động vô cùng, ngực nóng ran, cổ họng nghèn nghẹn. Hắn nói:

– Bà bà, bà bà đối đãi với vãn bối thật tốt, dù trên đời này không còn ai thích vãn bối nữa, cũng… cũng chẳng sao.

Bà bà nói:

– Cái miệng của ngươi thật dẻo, nói năng khiến cho người ta mát dạ. Chẳng trách nhân vật kiêu kỳ như Ngũ độc giáo Lam Phượng Hoàng cũng không ngớt ca ngợi ngươi. Được rồi, ngươi đi không được, ta cũng đi không được, hôm nay đành phải nghỉ lại bên sườn núi này. Cũng không biết hôm nay có bị giết không nữa.

Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:

– Hôm nay không chết, không biết ngày mai có bị chết không; ngày mai không chết, không biết ngày mốt có bị chết không?

Bà bà nói:

– Ngươi nói ít đi một chút. Ngươi từ từ bò lên, ta sẽ bò theo sau.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Nếu bà bà không chịu uống viên dược hoàn này của lão hòa thượng, vãn bối e rằng một bước vãn bối cũng bò không nổi.

Bà bà nói:

– Lại nói bậy bạ nữa. Ta không uống dược hoàn thì tại sao ngươi lại bò không nổi?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Không bậy bạ chút nào. Bà bà không chịu uống, thì thương thế trên người không thuyên giảm, không còn tinh thần để gảy đàn thì lòng vãn bối lo lắng, sao còn có lực khí để bò đi? Đừng nói là bò đi mà ngay cả nằm cũng không còn sức mà nằm nữa.

Bà bà cười hinh hích nói:

– Nằm ở đây mà cũng cần khí lực ư?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tất nhiên rồi. Chỗ này rất là dốc nghiêng, nếu vãn bối không còn chút khí lực thì sẽ bị lăn xuống khe suối, dù không chết nát thây thì cũng chết ngộp vì nước.

Bà bà thở dài nói:

– Ngươi đang bị trọng thương không biết chết lúc nào mà còn hứng chí nói đùa mãi. Người như ngươi thật hiếm có trên đời.

Lệnh Hồ Xung khẽ ném viên dược hoàn ra phía sau nói:

– Bà bà mau uống đi.

Bà bà nói:

– Hứ, những kẻ tự cho mình là danh môn chính phái đều chẳng ra gì cả. Ta uống dược hoàn của phái Thiếu Lâm làm gì cho dơ miệng.

Lệnh Hồ Xung kêu trời ơi rồi thân người nghiêng về mé trái, thuận dốc lăn lông lốc xuống phía khe suối. Bà bà giật mình kinh hãi la lên:

– Cẩn thận!

Lệnh Hồ Xung vẫn tiếp tục lăn xuống. Sườn núi này không cao nhưng rất dài, Lệnh Hồ Xung lăn một lúc đến bên bờ suối, chân tay cố sức chống đỡ mới dừng lại được.

Bà bà gọi:

– Này, này, ngươi có sao không?

Mặt, tay của Lệnh Hồ Xung bị đá nhọn cứa rỉ đầy máu. Chàng cố nhịn đau không lên tiếng. Bà bà la lên:

– Thôi được, ta uống dược hoàn thối tha của lão hòa thượng đây, ngươi… ngươi bò lên đi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đã nói thì phải nhớ đó.

Lúc này hai người cách nhau khá xa, Lệnh Hồ Xung không đủ khí lực nên giọng nói không truyền đi xa được. Bà bà chỉ nghe loáng thoáng vài tiếng nhưng không biết hắn nói cái gì bèn hỏi:

– Ngươi nói cái gì vậy?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vãn bối… vãn bối…

Lệnh Hồ Xung thở hồng hộc, nói không ra tiếng nữa.

Bà bà nói:

– Ngươi mau lên đây, ta hứa với ngươi sẽ uống viên dược hoàn này.

Lệnh Hồ Xung đứng dậy, run lẩy bẩy, muốn bò lên dốc nhưng thế lăn xuống thì dễ mà bò lên thì khó như lên trời. Hắn chỉ đi được hai bước thì chân đã nhũn ra, nghiêng một cái liền ngã vào khe suối.

Bà bà đứng trên cao thấy Lệnh Hồ Xung bị ngã xuống khe suối thì lo lắm. Bà liền thuận đà lăn xuống sườn dốc, lăn đến bên người Lệnh Hồ Xung, giơ tay trái nắm chặt gót chân trái của chàng, thở hổn hển mấy cái rồi đưa tay phải nắm lưng Lệnh Hồ Xung kéo lên. Người chàng ướt sũng.

Lệnh Hồ Xung đã uống mấy ngụm nước suối, mặt mũi hoa cả lên. Chàng định thần lại, nhìn vào mặt nước trong suốt, thấy hai bóng người. Một cô nương nhỏ tuổi đang nằm sau lưng mình.

Lệnh Hồ Xung ngẩn người, bỗng nghe cô nương ở phía sau ọe một tiếng, thổ ra một ngụm máu tươi nóng hổi đầy cổ chàng, sau đó cô ta nằm phục lên lưng chàng giống như người bị tê liệt.

Lệnh Hồ Xung cảm thấy da thịt mềm mại của cô gái áp vào người, lại cảm thấy trên mặt phất phơ mái tóc dài của cô ta, bất giác lòng cảm thấy bâng khuâng.

Lệnh Hồ Xung nhìn lại hình ảnh dưới nước, thấy một nửa gương mặt trái xoan của cô gái, đôi mắt nhắm nghiền, hàng lông mi rất dài. Tuy hình ảnh không rõ nhưng hiển nhiên dung mạo của cô nương thật xinh đẹp, không quá mười bảy mười tám tuổi.

Lệnh Hồ Xung rất ngạc nhiên: Cô nương này là ai? Sao đột nhiên lại có vị cô nương này đến cứu ta?

Nhìn bóng dưới nước, Lệnh Hồ Xung cảm giác cô nương ở trên lưng mình đã ngất đi. Chàng muốn quay người lại dìu cô ta dậy, nhưng toàn thân mềm nhũn, ngay cả muốn nhấc một ngón tay cũng không được. Chàng tưởng mình đang trong mơ, thấy được một dung nhan diễm lệ ở khe suối trong xanh giống như đang ở tiên cảnh, lòng chỉ nghĩ: Ta đã chết rồi sao? Đã lên trời rồi sao? Qua một lúc lâu sau, nghe cô nương sau lưng nấc một tiếng rồi hỏi:

– Rốt cuộc là ngươi dọa ta hay là… hay là ngươi không muốn sống nữa?

Lệnh Hồ Xung vừa nghe tiếng cô ta nói liền giật mình kinh hãi. Giọng nói này nghe giống y giọng nói của bà bà. Chàng sợ quá, thân người phát run, miệng lắp bắp:

– Cô… cô… cô…

Cô nương nói:

– Ngươi nói cái gì? Ta cứ không uống viên thuốc thối tha của lão hòa thượng, ngươi thử tự tử cho ta xem.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Bà bà, thì ra bà bà là một tiểu… tiểu cô nương xinh đẹp.

Cô nương giật mình nói:

– Sao ngươi biết? Ngươi… ngươi là đồ tiểu tử không biết giữ lời. Ngươi đã lén nhìn ta rồi ư?

Cô cúi đầu nhìn thấy bóng của mình rọi xuống rõ ràng dưới đáy nước đang đè lên lưng Lệnh Hồ Xung. Cô mắc cỡ không dám ngẩng mặt lên, vội cựa quậy tìm cách đứng dậy thì đầu gối lại mềm nhũn ra. Cô ngã vào lòng Lệnh Hồ Xung, chống đỡ vài cái lại muốn ngất đi nên đành nằm im.

Lệnh Hồ Xung cảm thấy kỳ lạ vô cùng, nói:

– Tại sao cô nương lại giả thành một lão bà bà để gạt ta? Dám mạo xưng là trưởng bối, hại ta phải… hại ta phải…

Cô nương nói:

– Hại ngươi cái gì?

Mắt của Lệnh Hồ Xung cách má cô ta rất gần, thấy da của cô ta trắng như tuyết, ẩn hiện sắc hồng, liền nói:

– Hại ta dọc đường cứ phải gọi cô nương một tiếng bà bà, hai tiếng bà bà. Hừ, thật là xấu hổ. Cô nương còn thiếu tuổi để làm muội muội của ta mà cứ muốn đòi làm bà bà người ta! Muốn làm bà bà thì đợi đến khoảng tám mươi tuổi hãy làm.

Cô nương cười khanh khách nói:

– Ta có nói ta là bà bà hồi nào đâu? Tại ngươi tự gọi đó thôi. Ngươi cứ luôn miệng gọi bà bà. Vừa rồi ta còn bực mình ngươi, bảo ngươi đừng gọi mà ngươi cứ gọi, đúng không?

Lệnh Hồ Xung nghĩ câu nói này quá đúng, nhưng bị cô ta gạt lâu rồi nên chàng đã thành một tên đại ngu ngốc. Chàng ấm ức nói:

– Cô nương không cho ta nhìn mặt cô nương là đã có ý gạt ta. Nếu ta và cô nương đối mặt nhau, chẳng lẽ ta còn gọi cô nương là bà bà hay sao? Ở thành Lạc Dương, cô nương đã gạt ta rồi, thông đồng với lão Lục Trúc Ông, bắt lão kêu cô nương là cô cô của lão. Lão đã già như vậy mà cô nương là cô cô của lão, vậy thì ta không gọi cô nương là bà bà sao được?

Cô gái cười nói:

– Sư phụ của Lục Trúc Ông gọi gia gia của ta là sư thúc, vậy thì Lục Trúc Ông gọi ta là gì mới phải?

Lệnh Hồ Xung ngẩn người ra, hỏi:

– Cô nương đúng là cô cô của Lục Trúc Ông ư?

Cô gái nói:

– Tiểu tử Lục Trúc Ông này là cái thá gì mà ta phải mạo xưng là cô cô của hắn? Làm cô cô có hay ho gì đâu?

Lệnh Hồ Xung thở dài nói:

– Ôi, ta thật là ngu, lẽ ra nên sớm biết như vậy.

Cô gái cười hỏi:

– Nên sớm biết cái gì?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Giọng nói của cô nương rất dễ nghe. Trên đời này làm gì có bà bà tám chục tuổi mà giọng nói lại trong trẻo êm tai như vậy?

Cô gái cười nói:

– Giọng nói của ta vừa gắt gỏng vừa ồm ồm như tiếng quạ kêu, chẳng trách ngươi coi ta là một lão bà bà.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Giọng nói của cô nương giống như tiếng quạ kêu ư? Ôi, thời thế đảo lộn rồi, tiếng quạ kêu nghe còn hay hơn cả tiếng chim hoàng oanh hót.

Cô gái nghe Lệnh Hồ Xung khen mình, mặt ửng hồng, lòng rất sung sướng. Cô cười nói:

– Được rồi, Lệnh Hồ công công, Lệnh Hồ gia gia! Ngươi kêu ta là bà bà lâu như vậy thì ta cũng kêu ngươi lại mấy tiếng để trả đũa; ngươi đừng xấu hổ cũng đừng tức giận.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Cô nương là bà bà, ta là công công, hai công công bà bà chúng ta há không phải là…

Lệnh Hồ Xung tính vốn lanh lợi, suýt chút nữa buột miệng nói ra “Há không phải là một đôi” nhưng chợt thấy cô gái chau mày, vẻ mặt tức giận, liền nín lại.

Cô gái tức giận hỏi:

– Ngươi nói bậy bạ gì đó?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Ta nói hai chúng ta mà làm công công bà bà há không phải là… há không phải là những bậc cao nhân tiền bối trong võ lâm ư?

Cô gái biết rõ Lệnh Hồ Xung cố ý nói trớ nên cũng không tiện phản bác, chỉ e càng nói càng khó nghe. Cô tựa vào lòng Lệnh Hồ Xung, nghe hơi thở của chàng thì lòng rất xao xuyến, muốn gắng gượng đứng dậy nhưng không còn chút khí lực. Mặt đỏ lên, cô nói:

– Này, ngươi đẩy ta ra coi.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Đẩy cô nương ra để làm gì?

Cô gái nói:

– Chúng ta như vậy… như vậy… còn ra cái thể thống gì nữa?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Công công với bà bà thì phải như vậy thôi.

Cô gái hứ một tiếng rồi gằn giọng nói:

– Ngươi còn nói vớ vẩn nữa thì ta giết ngươi đó.

Lệnh Hồ Xung run lên, nghĩ lại chuyện cô ta đã bức bách mấy chục tên đại hán tự đâm mù mắt rồi bị đày ra đảo Bàn Long ở Đông Hải nên không dám nói cười với cô nữa. Chàng nghĩ: Cô ta nhỏ tuổi mà vừa cất tay đã giết ngay bốn tên đệ tử phái Thiếu Lâm. Võ công cô ta cao cường, hành sự lại độc ác vô cùng, thật khiến cho người ta khó có thể tin đó là những hành động của một cô nương yêu kiều diễm lệ.

Cô gái thấy Lệnh Hồ Xung lặng thinh, hỏi:

– Ngươi lại giận nữa phải không? Đường đường là nam tử hán, sao khí độ lại nhỏ nhen như vậy?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Không phải ta giận, mà ta đang sợ, sợ bị cô nương giết.

Cô gái cười nói:

– Từ nay về sau, ngươi ăn nói cho ra quy củ một chút thì ai muốn giết ngươi làm gì.

Lệnh Hồ Xung thở dài nói:

– Cái tánh của ta vốn không theo quy củ nào hết, nếu đúng như vậy thì xem ra số trời đã định ta phải chết về tay cô nương rồi.

Cô gái cười nói:

– Ngươi đã từng gọi ta là bà bà, đối với ta rất cung kính, tỏ ra rất ngoan ngoãn. Từ nay về sau cứ như vậy mà làm.

Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:

– Không được! Ta đã biết bà bà là một tiểu cô nương thì không thể xem cô nương là bà bà được.

Cô gái nói:

– Ngươi… ngươi…

Cô nói hai tiếng “ngươi” thì bỗng nhiên mặt ửng hồng, không biết lòng đang nghĩ gì, liền lặng im không nói nữa.

Lệnh Hồ Xung cúi đầu xuống, thấy cô ta càng thẹn thùng lại càng xinh đẹp, không cầm lòng được nữa, liền hôn lên má cô một cái. Cô gái giật mình, bỗng phát sinh một luồng lực khí. Cô ta xoay lại, bốp một tiếng, tát một cái mạnh vào má Lệnh Hồ Xung. Tiếp theo, cô nhảy vọt lên. Nhưng lực nhảy của cô rất yếu, thân đang ở khoảng không thì lực đạo đã kiệt liền rớt xuống, lại rơi vào lòng Lệnh Hồ Xung, toàn thân mềm nhũn ra không nhúc nhích được nữa.

Cô sợ Lệnh Hồ Xung nổi cơn phóng đãng lả lơi nên cô rất nóng lòng, bèn nói:

– Nếu ngươi… ngươi còn vô lễ, thì ta giết… giết ngươi lập tức.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Cô nương giết ta cũng vậy mà không giết ta cũng vậy, dù sao thì mạng sống của ta không còn bao lâu nữa. Ta cứ muốn vô lễ với cô nương nữa thì sao?

Cô gái vô cùng sốt ruột nói:

– Ta… ta… ta…

Nhưng cô không sao nói được.

Lệnh Hồ Xung dùng hết sức, nhè nhẹ đỡ vai cô lên, rồi tự mình nghiêng người lăn qua một bên, cười nói:

– Cô nương làm sao?

Lệnh Hồ Xung nói xong liền ho lên sù sụ, vừa ho vừa thổ ra mấy ngụm máu. Nhất thời chàng nổi cơn tình ái, lỡ hôn cô gái liền hối hận vô cùng. Sau khi bị cô đánh cho một chưởng, chàng càng biết mình không phải, tuy miệng lưỡi cứng rắn, nhưng không dám cùng với cô ta gối tựa vai kề nữa.

Hồi 72: Nuôi hào kiệt, thánh cô bắt ếch

Cô gái thấy Lệnh Hồ Xung tự lăn ra xa, không như sự suy đoán của cô, lại thấy chàng bị thổ huyết thì lòng ngấm ngầm hối hận, nhưng ngoài mặt e thẹn, khó mở miệng nói câu xin lỗi. Cô chỉ dịu dàng hỏi:

– Ngươi… ngực của ngươi đau lắm phải không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Ngực không đau, nhưng chỗ khác đau dữ dội hơn.

Cô gái nói:

– Đau ở đâu?

Giọng nói của cô rất đỗi quan hoài. Lệnh Hồ Xung xoa vào má vừa bị cô tát, nói:

– Đau ở đây.

Cô gái mỉm cười nói:

– Ngươi muốn ta xin lỗi chứ gì? Thì ta xin lỗi ngươi vậy.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Ta không tốt. Bà bà, xin bà bà đừng trách.

Cô gái nghe Lệnh Hồ Xung lại mở miệng gọi mình là bà bà, nhịn không được, liền cười lên khanh khách.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Viên dược hoàn thối tha của lão hòa thượng đâu rồi? Cô nương vẫn chưa uống phải không?

Cô gái đáp:

– Ta chưa kịp lượm lên.

Cô nói rồi đưa tay chỉ lên sườn núi, nói:

– Còn ở trên đó.

Cô ngừng một lúc rồi nói:

– Ta nghe lời ngươi, chút nữa sẽ lên lấy uống dù nó có thối tha hay không.

Hai người nằm trên sườn núi. Nếu là lúc bình thường thì chỉ vọt mình lên là được, nhưng bây giờ hai người kiệt sức nên sườn núi giống như hàng ngàn ngọn núi hiểm trở cao ngất trời. Hai người ngẩng lên nhìn sườn núi rồi cúi xuống nhìn nhau buông tiếng thở dài.

Cô nương nói:

– Ta tĩnh tọa một lúc, ngươi không được quấy rầy ta.

Lệnh Hồ Xung thấy cô ta ngồi tựa vào bờ suối, hai mắt nhắm lại; ngón tay cái, ngón trỏ , ngón giữa của tay phải cùng nắm pháp quyết, rồi định lại không nhúc nhích nữa. Chàng nghĩ thầm: Phương pháp tĩnh tọa của cô ta cũng khác với mọi người, không ngồi xếp bằng.

Lệnh Hồ Xung cũng muốn định tâm lại nghỉ ngơi một lúc, nhưng khí tức nhộn nhạo, không sao yên tĩnh được. Bỗng nghe mấy tiếng ếch kêu, một con ếch vừa to vừa mập từ dưới khe suối nhảy lên. Lệnh Hồ Xung vui mừng, lòng nghĩ mình lăn lộn cả nửa ngày, bụng đã đói lắm rồi, bây giờ thức ăn ngon đưa đến bên miệng, thật là may mắn. Chàng đưa tay chụp con ếch, nào ngờ cánh tay mềm nhũn không còn khí lực, chụp một cái lại hụt. Con ếch kêu lên một tiếng rồi nhảy đi, lại kêu thêm vài tiếng nữa dường như vô cùng đắc ý, muốn trêu đùa Lệnh Hồ Xung vô dụng. Lệnh Hồ Xung thở dài. Khe suối rất nhiều ếch, lại có thêm hai con nhảy lên, chàng vẫn không sao bắt được. Bỗng một bàn tay xinh xắn trắng trẻo thò ra từ sau lưng chàng nhẹ nhàng bắt được một con ếch. Cô gái tĩnh tọa một lúc thì đã có thể hành động lại được, tuy vẫn còn mỏi mệt nhưng bắt ếch thì thật dễ dàng. Lệnh Hồ Xung vui mừng nói:

– Tuyệt quá, chúng ta có một bữa thịt ếch ăn rồi.

Cô gái mỉm cười, đưa tay ra thì bắt được một con, chỉ trong khoảnh khắc đã bắt được hơn hai chục con. Lệnh Hồ Xung nói:

– Đủ rồi. Xin cô nương đi lượm một ít củi khô để nhóm lửa, còn ta lột da moi ruột mấy con ếch này.

Cô gái nghe lời đi lượm củi khô. Lệnh Hồ Xung rút kiếm chặt đầu làm thịt ếch.

Cô nương nói:

– Cổ nhân nói: “Giết gà mà phải dùng đến dao mổ trâu”. Ngày nay, Lệnh Hồ đại hiệp dùng Độc Cô cửu kiếm để giết ếch.

Lệnh Hồ Xung cười ha hả nói:

– Độc Cô đại hiệp ở cửu tuyền có linh thiêng biết được truyền nhân của ngài hư hỏng như vậy, thật phải tức…

Lệnh Hồ Xung định nói đến chữ “chết” thì im miệng, lòng nghĩ: Độc Cô Cầu Bại tạ thế đã lâu, làm sao có thể nói hai chữ tức chết được?

Cô gái nói:

– Lệnh Hồ đại hiệp…

Trong tay Lệnh Hồ Xung cầm con ếch đã bị chặt đầu, nói:

– Hai tiếng đại hiệp vạn lần không dám nhận. Trong thiên hạ làm gì có đại hiệp giết ếch?

Cô gái cười nói:

– Thời cổ có anh hùng giết chó, thì ngày nay sao lại không có đại hiệp giết ếch? Độc Cô cửu kiếm của ngươi thần diệu phi thường, ngay cả lão hòa thượng phái Thiếu Lâm cũng đấu không lại ngươi. Lão nói vị tiền bối họ Phong truyền kiếm pháp này cho ngươi là ân nhân của lão, chuyện ấy như thế nào?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vị sư trưởng truyền kiếm pháp cho ta là một bậc tiền bối phái Hoa Sơn.

Cô gái hỏi:

– Vị tiền bối này kiếm thuật thần thông, sao trên giang hồ không nghe tên của lão?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Cái đó… cái đó… ta đã trót hứa với lão nhân gia, quyết không tiết lộ hành tung của lão nhân gia.

Cô nương nói:

– Hừ, thật hiếm thấy. Dù ngươi có nói với ta, ta cũng không muốn nghe nữa. Ngươi có biết ta là ai không? Lai lịch thế nào không?

Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:

– Ta không biết. Ngay cả tên của cô nương là gì ta cũng không biết nữa.

Cô gái nói:

– Ngươi giấu sự việc ấy không nói với ta, thì ta cũng không nói cho ngươi biết ta là ai đâu.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tuy ta không biết, nhưng cũng đoán được tám chín phần rồi.

Cô gái hơi biến sắc, hỏi:

– Ngươi đoán được rồi ư? Tại sao ngươi đoán được?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Bây giờ còn chưa biết, đến tối thì biết rõ ràng.

Cô gái càng kinh ngạc hỏi:

– Sao phải đợi đến tối mới biết rõ?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Ta ngẩng đầu nhìn lên trời, thấy trời thiếu vì sao nào thì biết cô nương là vì sao đó giáng hạ xuống phàm trần. Cô nương đẹp giống như tiên trên trời, ở trần gian làm gì có người đẹp như vậy?

Mặt cô gái ửng hồng, hứ một tiếng nhưng lòng cô vô cùng sung sướng. Cô nói khẽ:

– Lại nói bậy nữa rồi.

Lúc này cô đã đốt lửa lên, những con ếch đã được làm thịt rửa sạch xâu vào một cành cây đặt trên lửa nướng. Mỡ ếch rớt xuống đống lửa, phát ra những tiếng xèo xèo, mùi thơm ngào ngạt bốc lên. Cô gái nhìn làn khói trong đống lửa bốc lên, khẽ nói:

– Ta tên là Doanh Doanh. Nói cho ngươi nghe tên ta, không biết sau này ngươi có nhớ được không?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Doanh Doanh! Cái tên nghe hay quá. Nếu ta biết tên cô nương là Doanh Doanh thì quyết không gọi cô nương là bà bà rồi.

Doanh Doanh hỏi:

– Tại sao?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Hai chữ Doanh Doanh rõ ràng là tên của một tiểu cô nương, không phải là tên của lão bà bà.

Doanh Doanh cười nói:

– Ngày sau ta cũng sẽ thành một lão bà bà, nhưng không đổi tên, vẫn gọi là Doanh Doanh.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Cô nương không thể thành lão bà bà được. Cô nương đẹp như vậy, đến tám chục tuổi thì cũng vẫn còn là một tiểu cô nương đẹp tuyệt vời.

Doanh Doanh cười nói:

– Nếu vậy thì thành yêu quái sao?

Một lúc sau, Doanh Doanh nghiêm sắc mặt nói:

– Ta đem tên mình nói cho ngươi nghe, ngươi không được tùy tiện gọi lung tung.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Tại sao vậy?

Doanh Doanh đáp:

– Không được là không được, vì ta không thích.

Lệnh Hồ Xung lè lưỡi nói:

– Cái này không cho, cái kia thì cấm, sau này ai làm…

Lệnh Hồ Xung nói đến đấy, thấy nét mặt Doanh Doanh sa sầm thì vội im ngay. Doanh Doanh hứ một tiếng. Lệnh Hồ Xung nói:

– Vì sao cô nương lại tức giận? Ta nói sau này ai làm đồ đệ của cô nương, thì phải chịu khổ sở trăm bề.

Lệnh Hồ Xung muốn nói là “chồng” nhưng thấy tình thế không ổn vội đổi thành “đồ đệ”. Doanh Doanh biết tỏng ý đó, nên nói:

– Ngươi đã không đứng đắn lại không thành thực, nói ba câu thì đã có hai câu tào lao. Ta… ta không muốn cưỡng ép cái gì cả, ai thích nghe ta nói thì nghe còn không thích nghe thì mặc ai.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Ta thích nghe cô nương nói chuyện mà.

Trong câu này của Lệnh Hồ Xung hàm chứa ba phần trêu ghẹo. Doanh Doanh chau mày giống như sắp nổi giận nhưng lập tức mặt cô đỏ lên, liền quay mặt đi.

Lúc này, cả hai không ai lên tiếng. Bỗng ngửi thấy mùi khét, Doanh Doanh la lên hai tiếng “trời ơi”. Thì ra nguyên xâu ếch trong tay cô bị cháy. Cô tức giận nói:

– Tại ngươi mà ra cả.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Cô nương nên nói là vì cô tức giận ta mới nướng mấy con ếch cháy đen như vậy.

Lệnh Hồ Xung giành lấy một con ếch cháy, xé cái đùi bỏ vào miệng nhai ngon lành rồi luôn miệng khen:

– Ngon quá, ngon quá! Hỏa hầu thế này mới đến nơi đến chốn, trong vị ngọt có vị đắng, thật là khổ tận cam lai, trên đời này không có món nào ngon như vậy.

Doanh Doanh nghe hắn tán một hồi, phải bật cười khanh khách. Cô cũng cầm ếch xé thịt ăn.

Lệnh Hồ Xung giành ăn mấy con ếch cháy nhất, còn những con không bị cháy mấy thì dành cho Doanh Doanh. Hai người ăn xong xâu ếch, mặt trời ấm áp chiếu vào người, cả hai quá mệt, không biết nhắm mắt ngủ đi tự bao giờ.

Hai người cả đêm qua không ngủ, lại bị thương nên ngủ rất say. Trong giấc mơ, Lệnh Hồ Xung thấy mình và Nhạc Linh San cùng luyện kiếm trong thác nước, bỗng có thêm một người là Lâm Bình Chi, chàng và Lâm Bình Chi cùng đấu kiếm, nhưng tay không có chút lực khí, muốn liều mạng sử Độc Cô cửu kiếm, lại không nghĩ ra chiêu nào. Lâm Bình Chi phóng kiếm đâm vào ngực, bụng, đầu, vai của chàng trong khi Nhạc Linh San đứng cười ha hả. Lệnh Hồ Xung vừa kinh hãi vừa tức giận, la lên:

– Tiểu sư muội, tiểu sư muội…

Lệnh Hồ Xung kêu mấy tiếng liền giật mình tỉnh dậy, nghe giọng nói dịu dàng:

– Ngươi nằm mơ thấy tiểu sư muội ư? Cô ta đối với ngươi như thế nào?

Lệnh Hồ Xung chua xót nói:

– Có người muốn giết ta mà tiểu sư muội bỏ mặc, còn… còn cười nữa.

Doanh Doanh thở dài, nhẹ nhàng nói:

– Trán ngươi đổ mồ hôi ướt đẫm kìa.

Lệnh Hồ Xung đưa tay áo lên lau. Bỗng nhiên một cơn gió lạnh thổi tới khiến chàng run lên.

Chàng nhìn thấy bầu trời đầy sao, đã giữa đêm rồi.

Thần trí Lệnh Hồ Xung tỉnh táo, liền toan mở miệng nói, bỗng nhiên Doanh Doanh đưa tay bịt miệng chàng lại, nói khẽ:

– Có người đến.

Lệnh Hồ Xung ngưng thần lắng nghe, quả nhiên có tiếng bước chân của ba người từ xa vọng lại.

Qua một lúc sau, nghe một người nói:

– Ở đây còn hai cái xác nữa.

Lệnh Hồ Xung nhận ra giọng nói của Tổ Thiên Thu. Một người khác nói:

– Ồ, đây là một hòa thượng của phái Thiếu Lâm.

Đó chính là Lão Đầu Tử. Lão phát hiện thi thể của Giác Nguyệt.

Doanh Doanh từ từ rút tay về, nghe Kế Vô Thi nói:

– Ba người này đều là đệ tử tục gia của phái Thiếu Lâm, sao đều chết ở đây? Ồ, người này là Tân Quốc Lương, cao thủ phái Thiếu Lâm.

Tổ Thiên Thu nói:

– Ai mà lợi hại ghê gớm, giết một lúc cả bốn tên cao thủ phái Thiếu Lâm!

Lão Đầu Tử ấp úng hỏi:

– Chẳng lẽ… chẳng lẽ là nhân vật trên Hắc Mộc Nhai? Không chừng chính là Đông Phương giáo chủ?

Kế Vô Thi nói:

– Xem ra cũng có thể lắm. Chúng ta mau đem bốn cái xác này chôn đi để khỏi bị người phái Thiếu Lâm phát hiện.

Tổ Thiên Thu nói:

– Nếu đúng là nhân vật của Hắc Mộc Nhai hạ thủ thì bọn họ cũng không sợ phái Thiếu Lâm biết, không chừng người giết còn cố ý để thi thể lại đây nhằm thị uy với phái Thiếu Lâm.

Kế Vô Thi nói:

– Nếu muốn thị uy thì họ đã không để xác ở nơi hoang dã này. Bọn ta không tình cờ qua đây thì mấy cái xác này cũng sẽ bị chim thú ăn hết, chưa chắc bị người khác phát hiện. Nếu Nhật Nguyệt thần giáo muốn thị uy, thì đã bêu đầu ở thị trấn đông người, đề rõ là đệ tử phái Thiếu Lâm, mới khiến cho phái Thiếu Lâm mất mặt.

Tổ Thiên Thu nói:

– Đúng vậy, có lẽ sau khi giết bốn người, nhân vật Hắc Mộc Nhai tiếp tục truy kích địch nên chưa kịp chôn mấy cái xác.

Lại nghe tiếng cả ba người dùng binh khí đào đất để chôn bốn cái xác. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Ba người này và Hắc Mộc Nhai Đông Phương giáo chủ nhất định có quan hệ sâu sắc, nếu không thì việc gì phải phí sức như vậy.

Bỗng nghe Tổ Thiên Thu ồ một tiếng, nói:

– Đây là một viên dược hoàn.

Kế Vô Thi đánh hơi mấy lần, nói:

– Đây là linh dược trị thương của phái Thiếu Lâm, có công hiệu cải tử hoàn sinh, chắc ở trong túi mấy đệ tử Thiếu Lâm rớt ra.

Tổ Thiên Thu hỏi:

– Sao ngươi biết?

Kế Vô Thi nói:

– Nhiều năm trước, ta đã từng thấy qua chỗ lão hòa thượng Thiếu Lâm.

Tổ Thiên Thu nói:

– Nếu là linh dược trị thương thì thật tuyệt. Lão huynh, ngươi lấy nó cho Lão Bất Tử cô nương uống để trị bệnh cho cô.

Lão Đầu Tử nói:

– Sự sống chết của tiện nữ không quan trọng lắm, chúng ta mau đi tìm Lệnh Hồ Xung công tử đưa cho công tử uống.

Lệnh Hồ Xung cảm động vô cùng, thầm nghĩ: Đây là viên dược hoàn Doanh Doanh đánh rơi. Làm sao có thể đến gặp Lão Đầu Tử để xin lại cho cô ta uống?

Lệnh Hồ Xung quay đầu lại, dưới ánh trăng mờ ảo, thấy Doanh Doanh tủm tỉm cười làm ra vẻ ngây thơ lãng mạn, nụ cười làm xao xuyến lòng người. Thật không thể tin trước đây không lâu cô ta đã giết liền bốn tên cao thủ Thiếu Lâm.

Nghe tiếng lấp đất đá, ba người đã chôn xong bốn cái xác chết rồi. Lão Đầu Tử nói:

– Bây giờ có một vấn đề nan giải. Dạ miêu tử, ngươi nghĩ giúp ta.

Kế Vô Thi hỏi:

– Vấn đề gì?

Lão Đầu Tử đáp:

– Bây giờ nhất định Lệnh Hồ công tử đang ở cùng với… với Thánh cô. Nếu ta tặng viên dược hoàn này tất đụng phải Thánh cô; Thánh cô tức giận đem ta giết đi cũng không sao, có điều như vậy sẽ mạo phạm đến Thánh cô, Thánh cô sẽ tức giận, đó mới là cái nguy lớn.

Lệnh Hồ Xung liếc nhìn Doanh Doanh, thầm nghĩ: Thì ra bọn họ gọi cô nương này là Thánh cô, lại đối với cô nương sợ hãi đến vậy. Tại sao cô ta nhất cử nhất động đều phải giết người?

Kế Vô Thi nói:

– Hôm nay trên đường đi, chúng ta gặp ba tên mù mắt, có thể khiến họ làm việc này được. Sáng sớm mai chúng ta đuổi theo, bắt bọn họ đem viên dược hoàn này đưa cho Lệnh Hồ công tử. Bọn họ mù cả rồi, dù có biết Thánh cô và Lệnh Hồ công tử cùng đi với nhau cũng không bị mang họa sát thân.

Tổ Thiên Thu nói:

– Ta thấy hơi nghi ngờ, sở dĩ ba người này tự khoét mắt chắc là vì đã thấy Thánh cô và Lệnh Hồ Xung đi cùng nhau.

Lão Đầu Tử vỗ đùi nói:

– Đúng vậy, nếu không như vậy thì sao ba người họ bỗng dưng lại tự đâm mù mắt mình? Còn bốn tên đệ tử phái Thiếu Lâm này chỉ e cũng gặp vận xui, trong lúc vô tình chạm phải Thánh cô và Lệnh Hồ công tử.

Cả ba người lặng thinh hồi lâu. Lệnh Hồ Xung càng lúc càng thấy hoài nghi. Bỗng nghe Tổ Thiên Thu thở dài nói:

– Chỉ mong sao thương thế của Lệnh Hồ công tử mau lành để Thánh cô và Lệnh Hồ công tử sớm thành thần tiên quyến thuộc. Hai người họ ngày nào mà chưa thành thân thì trên giang hồ khó được bình an.

Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi, trộm nhìn Doanh Doanh.

Hồi 73: Ngươi suốt đời phải ở bên ta

Trong bóng đêm mờ ảo, thấp thoáng mặt cô ửng hồng, nhưng ánh mắt lộ vẻ tức giận. Lệnh Hồ Xung sợ cô ta nhảy ra hạ sát bọn Lão Đầu Tử ba người, liền đưa tay phải nhè nhẹ nắm chặt tay trái cô. Hắn cảm thấy toàn thân cô phát run lên, không biết vì e thẹn hay vì tức giận.

Tổ Thiên Thu nói:

– Chúng ta tụ tập trên Ngũ Bá Cương khiến Thánh cô tức giận đùng đùng. Kỳ thực nam nữ yêu nhau là chuyện thường tình. Lệnh Hồ công tử là một hào kiệt phong lưu anh tuấn, Thánh cô là cô nương mỹ miều, quả thật xứng đôi. Sao Thánh cô là nhân vật phi thường như vậy mà lại học cái thói thẹn thùng e lệ của thiếu nữ thế tục? Rõ ràng lòng Thánh cô rất yêu Lệnh Hồ công tử nhưng không muốn cho ai đề cập đến, càng không để lộ cho ai thấy được. Đây không phải… không phải là điều phi lý sao?

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Thì ra là vậy. Không biết lời họ nói có đúng không? Bỗng Lệnh Hồ Xung cảm thấy bàn tay nhỏ nhắn của Doanh Doanh cựa quậy muốn tuột khỏi tay mình. Chàng vội dùng sức nắm chặt lại, sợ cô ta nổi giận thì sẽ giết ngay bọn Tổ Thiên Thu.

Kế Vô Thi nói:

– Tuy Thánh cô là nhân vật hàng đầu trên Hắc Mộc Nhai, Đông Phương giáo chủ trước nay cũng chưa bao giờ làm cô phật lòng nhưng cô vẫn là một cô nương nhỏ tuổi. Trên đời này những cô nương nhỏ tuổi lần đầu yêu một nam tử thì dù lòng có yêu đến đâu ngoài mặt vẫn làm ra vẻ lạnh nhạt. Lần này chúng ta ton hót nịnh bợ Lệnh Hồ công tử tuy có hảo ý nhưng đã khiến cho Thánh cô tức giận. Chỉ trách chúng ta đều là hán tử thô lỗ, không hiểu tâm sự của nữ nhi. Tụ họp trên Ngũ Bá Cương cũng có chừng mười người phụ nữ, cứ theo tính cách của bọn họ thì chẳng khác gì bọn nam tử hán. Quần hào tụ hội trên Ngũ Bá Cương ton hót khiến Thánh cô tức giận. Chuyện này nếu đồn ra ngoài thì bọn chó má trong danh môn chính phái sẽ cười đến rớt cả răng mất.

Lão Đầu Tử lớn tiếng nói:

– Thánh cô đã có ơn với chúng ta nên huynh đệ chúng ta phải cảm ơn báo đức, chỉ mong có thể trị khỏi bệnh cho ý trung nhân của Thánh cô. Bậc đại trượng phu ân oán phân minh, có ân báo ân có thù báo thù, có gì sai đâu? Tên rắm chó nào dám cười nhạo bọn ta thì lão tử sẽ rút gân, lột da hắn.

Lúc này Lệnh Hồ Xung mới hiểu rõ. Trên đường đi, quần hào nịnh nọt hắn như vậy đều là vì Thánh cô Doanh Doanh này. Còn chuyện bỗng nhiên quần hào trên Ngũ Bá Cương chạy tháo thân cũng là vì Thánh cô không muốn người ngoài đoán biết tâm sự của cô ta rồi đem đồn đại trên chốn giang hồ khiến cô ta tức giận. Lệnh Hồ Xung lại chuyển đổi ý nghĩ: Thánh cô là một cô nương nhỏ tuổi mà có thể khiến cho bao nhiêu anh hùng hào kiệt đều lấy lòng ta, dĩ nhiên là một nhân vật có địa vị kinh thiên động địa trong Ma giáo. Nghe Kế Vô Thi nói ngay cả Đông Phương Bất Bại có hiệu xưng là Đệ nhất võ công thiên hạ mà cũng chưa bao giờ làm phật ý cô ta. Lệnh Hồ Xung ta chỉ là một tên vô danh tiểu tốt trong võ lâm, chưa hề quen cô ta, chẳng qua chỉ qua tiếng đàn cách một bức rèm trúc trong ngõ hẻm ở Lạc Dương, không thể nói có chút tình ý gì. Có phải vì Lục Trúc Ông hiểu nhầm ý cô ta mà truyền ra ngoài khiến cho Thánh cô tức giận ghê gớm như vậy?

Tổ Thiên Thu nói:

– Lão Đầu Tử nói không sai. Thánh cô có đại ân đại đức với chúng ta, chỉ mong mối nhân duyên này trọn vẹn để Thánh cô hạnh phúc suốt đời, dù chúng ta có tan xương nát thịt, có chết cũng không hối tiếc. Vụ trên Ngũ Bá Cương bị lộ tẩy cũng có sao đâu? Có điều… có điều Lệnh Hồ công tử là đồ đệ phái Hoa Sơn lại ở vào tình thế không đội trời chung với Hắc Mộc Nhai, muốn kết thành mối lương duyên mỹ mãn này, ta e sẽ gặp nhiều trở ngại.

Kế Vô Thi nói:

– Ta có một kế này. Tại sao chúng ta không bắt Nhạc Bất Quần, chưởng môn nhân phái Hoa Sơn rồi uy hiếp, ra lệnh cho lão phải chủ trì cuộc hôn nhân này?

Tổ Thiên Thu và Lão Đầu Tử cùng nói:

– Kế này của Dạ miêu tử thật tuyệt! Việc không nên chậm, chúng ta lên đường đi bắt Nhạc Bất Quần ngay.

Kế Vô Thi nói:

– Có điều Nhạc tiên sinh là chưởng môn của một phái, nội công kiếm pháp rất cao. Chúng ta động thủ với lão, một là khó thắng nổi, hai là dù bắt được lão, lão thà chết chứ không khuất phục thì làm sao?

Lão Đầu Tử nói:

– Vậy thì chúng ta đành phải bắt vợ và con gái của lão để uy hiếp.

Tổ Thiên Thu nói:

– Đúng vậy! Nhưng chuyện này phải làm thật bí mật, không thể để cho người ngoài biết kẻo phái Hoa Sơn bị mất mặt. Nếu Lệnh Hồ công tử biết chúng ta đắc tội với sư phụ của công tử thì nhất định công tử sẽ rất đau lòng.

Ba người bàn kế hoạch làm thế nào để bắt Nhạc phu nhân và Nhạc Linh San. Doanh Doanh đột nhiên lớn tiếng nói:

– Này, ba tên to gan dám làm càn, mau cút ngay để bổn cô nương khỏi phải nổi giận!

Lệnh Hồ Xung bỗng nghe cô ta lên tiếng thì sợ giật bắn người. Hắn liền thò tay nắm chặt tay cô ta. Bọn Kế Vô Thi vô cùng kinh hãi. Lão Đầu Tử nói:

– Dạ… dạ… tiểu nhân… tiểu nhân… tiểu nhân…

Lão nói liên tục ba tiếng “tiểu nhân” rồi kinh hoảng quá độ, không nói tiếp được nữa. Kế Vô Thi nói:

– Dạ, dạ! Bọn tiểu nhân ăn nói bậy bạ, Thánh cô đừng tin thật. Sáng mai bọn tiểu nhân xin đi Tây Vực, không bao giờ quay về Trung Nguyên nữa.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Lại có thêm ba người xung phong tự đi đày.

Doanh Doanh đứng dậy nói:

– Ai bảo các ngươi đi Tây Vực? Ta có một chuyện yêu cầu ba ngươi làm cho ta.

Bọn Kế Vô Thi vui mừng, đồng thanh nói:

– Xin Thánh cô dạy bảo, bọn tiểu nhân phải tận tâm tận lực.

Doanh Doanh nói:

– Ta muốn giết một người, nhất thời chưa tìm được hắn. Các ngươi truyền lệnh xuống giùm ta: vị bằng hữu nào trên giang hồ giết được người này thì ta sẽ trọng thưởng.

Tổ Thiên Thu nói:

– Không ai dám nói đến chuyện được Thánh cô trọng thưởng. Thánh cô muốn giết người nào, ba huynh đệ tiểu nhân dù phải truy đuổi đến tận chân trời góc biển cũng phải giết cho bằng được hắn. Nhưng không biết tên tặc tử này là ai mà dám cả gan đắc tội với Thánh cô?

Doanh Doanh nói:

– Các ngươi chỉ có ba người làm sao nghe rộng trông xa được, phải lập tức truyền ngôn ra mới được.

Ba người cùng đáp:

– Dạ, dạ!

Doanh Doanh nói:

– Các ngươi đi đi!

Tổ Thiên Thu hỏi:

– Dạ, xin hỏi Thánh cô muốn giết tên ác tặc to gan nào?

Doanh Doanh hừ một tiếng, nói:

– Người này họ Lệnh Hồ, tên Xung, là đệ tử phái Hoa Sơn.

Cô vừa nói vậy thì cả bốn người Lệnh Hồ Xung, Lão Đầu Tử, Kế Vô Thi, Tổ Thiên Thu đều giật mình kinh hãi, không ai dám lên tiếng.

Qua một lúc, Lão Đầu Tử mới ấp úng:

– Chuyện này… chuyện này…

Doanh Doanh gằn giọng nói:

– Chuyện này sao? Các ngươi sợ Ngũ Nhạc kiếm phái nên không dám động đến đệ tử phái Hoa Sơn phải không?

Kế Vô Thi nói:

– Đã làm việc cho Thánh cô, đừng nói Ngũ Nhạc kiếm phái mà ngay cả Ngọc Hoàng đại đế, Diêm La lão tử cũng phải ra tay. Bọn tiểu nhân sẽ tìm cách đi bắt Lệnh Hồ… Lệnh Hồ Xung giao cho Thánh cô xử lý. Lão Đầu Tử, Tổ Thiên Thu, chúng ta đi thôi.

Lão Đầu Tử nghĩ bụng: Chắc Lệnh Hồ công tử đã làm gì đắc tội với Thánh cô. Người trẻ tuổi càng thương yêu nhau thì càng dễ giận nhau. Năm xưa, ta và má má của Bất Tử thân mật mặn nồng nhưng đâu có ngày nào không cãi vã, đánh nhau? Ôi, Bất Tử hài nhi đã mang bệnh từ trong bụng mẹ, đâu phải vì lúc má má mang thai hài nhi mình đã đánh một chưởng mạnh vào bụng má má Bất Tử, làm tổn thương thai nhi? Dù sao cũng phải đi mời Lệnh Hồ công tử về để Thánh cô tự đối phó với công tử.

Lão đang nghĩ ngợi miên man, nào ngờ Doanh Doanh tức giận nói:

– Ai bảo các ngươi đi bắt hắn? Nếu Lệnh Hồ Xung còn sống trên đời này ngày nào thì ngày ấy thanh danh trong sạch của ta còn bị tổn thương. Giết hắn sớm chừng nào thì ta hả dạ sớm chừng đó.

Tổ Thiên Thu ấp úng nói:

– Thánh cô…

Doanh Doanh nói:

– Được, các ngươi có giao tình với Lệnh Hồ Xung, không muốn thay ta làm chuyện này cũng không sao. Ta sẽ sai người khác truyền tin cũng được.

Ba người nghe cô nói vậy tưởng thật, liền cùng cúi người nói:

– Xin tuân lệnh của Thánh cô!

Lão Đầu Tử lại nghĩ: Lệnh Hồ công tử là một người nhân nghĩa, hôm nay Lão Đầu Tử phụng mệnh Thánh cô, không thể không đi giết công tử. Sau khi giết công tử rồi, Lão Đầu Tử sẽ tự tử theo công tử.

Lão lấy từ trong túi ra viên linh dược trị thương để xuống đất. Ba người quay lưng đi xa dần.

Lệnh Hồ Xung nhìn Doanh Doanh, thấy cô ta cúi đầu trầm tư, thầm nghĩ: Cô ta vì muốn bảo toàn thanh danh của mình mà ra lệnh giết ta. Muốn giết ta thì đâu có khó gì?

Hắn liền nói:

– Cô nương muốn giết ta thì tự động thủ được rồi, hà tất phải làm nhọc sức người khác.

Lệnh Hồ Xung từ từ rút trường kiếm ra, xoay chuôi lại đưa cho Doanh Doanh. Doanh Doanh nhận trường kiếm, rồi khẽ nghiêng đầu nhìn Lệnh Hồ Xung chằm chằm. Lệnh Hồ Xung cười ha hả, ưỡn ngực ra. Doanh Doanh nói:

– Ngươi sắp chết đến nơi rồi còn cười gì nữa?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Chính vì sắp chết cho nên phải cười cho đã.

Doanh Doanh nhấc trường kiếm lên, co tay lại, làm thế toan chém xuống. Bỗng cô quay người đi, dùng sức liệng trường kiếm ra xa. Trong đêm tối, trường kiếm lóe sáng thành một đường. Choang một tiếng, trường kiếm đã văng xa rồi.

Doanh Doanh dậm chân nói:

– Chỉ tại ngươi mà ra cả, khiến cho trên giang hồ bao nhiêu người đều cười nhạo ta. Chúng cho là cả đời ta… cả đời ta không ai thèm ưa, nên ta phải tìm trăm phương ngàn kế cầu cạnh ngươi. Ngươi… ngươi có gì hay ho đâu mà khiến ta từ nay về sau chẳng thể nhìn mặt ai nữa?

Lệnh Hồ Xung cười ha hả. Doanh Doanh tức giận nói:

– Ngươi còn cười ta ư? Còn cười ư?

Bỗng cô khóc òa lên khiến Lệnh Hồ Xung luống cuống. Tình cảm dâng trào, chàng liền hiểu ra: Thánh vị của cô ta trên giang hồ rất được tôn kính, biết bao anh hùng hào kiệt đều rất kính sợ cô ta, tất nhiên cô ta rất kiêu ngạo. Mà cô ta lại là một thiếu nữ, tính vốn bẽn lẽn, bỗng nhiên ai ai cũng nói cô yêu ta nên khó tránh khỏi khiến cho cô không vui. Cô ta bảo bọn Lão Đầu Tử truyền tin như vậy, chưa chắc là muốn giết ta thật, chẳng qua là để cải chính mà thôi. Cô ta đã nói như vậy tất nhiên không ai nghi ngờ mình đang ở cùng với cô ta nữa.

Lệnh Hồ Xung nghĩ vậy liền nhỏ nhẹ nói:

– Đúng là ta không tốt, làm tổn thương đến thanh danh của cô nương. Bây giờ ta xin cáo từ.

Doanh Doanh đưa tay áo lên lau nước mắt hỏi:

– Ngươi tính đi đâu?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Đi bước nào biết bước đó, đến đâu cũng được.

Doanh Doanh nói:

– Ngươi đã hứa hộ tống ta, sao bây giờ bỏ đi một mình?

Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:

– Ta không biết trời cao đất dày nên hứa những lời vô vị như vậy khiến cô nương cười cho. Võ công của cô nương cao cường đâu cần người bảo hộ? Một trăm tên Lệnh Hồ Xung cũng không bằng một cô nương.

Lệnh Hồ Xung nói xong liền quay người bỏ đi.

Doanh Doanh vội nói:

– Ngươi đừng đi!

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Tại sao?

Doanh Doanh nói:

– Bọn Tổ Thiên Thu đã truyền lời ra ngoài, trong vòng mấy ngày thì giang hồ không ai không biết, lúc đó ai cũng muốn giết ngươi, tiền đồ của ngươi đầy chông gai, đừng nói ngươi đang bị trọng thương, dù ngươi đang lành mạnh cũng khó thoát khỏi họa sát thân.

Lệnh Hồ Xung cười nhạt nói:

– Lệnh Hồ Xung này có chết vì lời nói của cô nương cũng không sao.

Lệnh Hồ Xung nói xong, lượm trường kiếm tra vào vỏ, tự biết mình không có sức để leo nên thuận theo khe suối mà đi. Doanh Doanh thấy Hồ Xung đi càng lúc càng xa liền chạy theo gọi:

– Này, ngươi đừng đi!

Lệnh Hồ Xung nói:

– Lệnh Hồ Xung ở cùng với cô nương chỉ có làm phiền cô thôi, thà tự bỏ đi còn hơn.

Doanh Doanh nói:

– Ngươi… ngươi…

Cô cắn môi, lòng rất bồn chồn. Thấy Lệnh Hồ Xung vẫn không chịu dừng, cô liền chạy thêm mấy bước nói:

– Lệnh Hồ Xung, ngươi định ép ta phải tự miệng nói ra mới vừa lòng phải không?

Lệnh Hồ Xung ngạc nhiên hỏi:

– Nói cái gì? Ta không hiểu.

Doanh Doanh lại cắn môi rồi nói:

– Ta bảo bọn Tổ Thiên Thu truyền tin là muốn giữ ngươi… muốn ngươi mãi mãi ở bên ta, không xa rời ta một bước.

Sau khi cô nói câu này, người phát run lên, đứng không vững nữa. Lệnh Hồ Xung vô cùng ngạc nhiên hỏi:

– Cô nương… cô nương muốn ta làm bạn ư?

Doanh Doanh nói:

– Đúng vậy! Sau khi bọn Tổ Thiên Thu truyền tin ra, ngươi chỉ có bầu bạn bên cạnh ta mới có thể bảo toàn tính mạng. Không ngờ ngươi là một tiểu tử không màng sự sống chết, vậy thì… vậy thì ta đã hại ngươi rồi.

Lệnh Hồ Xung cảm động thầm nghĩ: Thì ra cô nương này thật sự yêu ta, nhưng trước mặt mấy tên hán tử, cô ta thà chết chứ không chịu nhận đã yêu ta.

Lệnh Hồ Xung nghĩ vậy liền quay người đi đến trước mặt cô, đưa tay nắm chặt hai bàn tay, cảm thấy hai lòng bàn tay cô ướt đẫm mồ hôi lạnh ngắt. Chàng nói khẽ:

– Sao cô nương lại khổ não như vậy?

Doanh Doanh nói:

– Ta sợ.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Sợ cái gì?

Doanh Doanh đáp:

– Ta sợ ngươi là một tiểu tử ngu ngốc không nghe lời ta, muốn dấn thân vào chốn giang hồ nguy hiểm, chỉ e không đến ngày mai thì bị chết dưới tay những kẻ thối tha không đáng giá một đồng xu.

Lệnh Hồ Xung thở dài nói:

– Những người đó đều là những hán tử đầy nhiệt huyết, họ đối với cô nương rất tốt mà tại sao cô lại khinh rẻ họ như vậy?

Doanh Doanh nói:

– Bọn chúng cười giễu ta ở sau lưng vì ta muốn giết ngươi, chúng không phải là thứ hán tử thối tha đáng chết sao?

Lệnh Hồ Xung không nhịn được, bật cười nói:

– Cô nương bảo bọn họ giết ta, giờ tại sao lại trách bọn họ? Vả lại họ cũng không dám cười sau lưng cô nương đâu. Cô nương nghe Kế Vô Thi, Lão Đầu Tử, Tổ Thiên Thu bàn luận về cô nương, nói năng rất kính cẩn, đâu có chút gì dám giễu cợt cô nương đâu?

Doanh Doanh nói:

– Bọn chúng không cười ngoài miệng nhưng cười trong bụng.

Lệnh Hồ Xung cảm thấy khó mà nói lý cũng khó mà cãi được, đành nói:

– Được, cô nương không cho ta đi thì ta ở đây bầu bạn với cô nương cũng được. Ôi, bị người ta chém thành mười bảy mười tám mảnh chắc cũng chẳng hứng thú gì.

Doanh Doanh nghe Lệnh Hồ Xung đồng ý không đi, mừng rỡ như nở hoa trong lòng, nói:

– Cái gì chẳng hứng thú? Làm như bị cực hình vậy.

Lúc nói câu này, mặt cô nghiêng lại. Dưới ánh trăng sao mờ ảo, gương mặt trắng như tuyết của cô dường như phát ra một luồng sáng êm dịu.

Lòng Lệnh Hồ Xung xao xuyến thầm nghĩ: Kỳ thực cô nàng này còn đẹp hơn tiểu sư muội nhiều, lại đối đãi với ta tốt như vậy. Nhưng… nhưng… lòng ta làm sao có thể quên được tiểu sư muội?

Doanh Doanh không biết Lệnh Hồ Xung đang nghĩ đến Nhạc Linh San. Cô hỏi:

– Cây đàn ta tặng cho ngươi đâu rồi? Mất rồi có phải không?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đúng vậy, trên đường hết tiền xài, ta đem nó đến tiệm cầm đồ mất rồi.

Lệnh Hồ Xung vừa nói vừa lấy cái túi sau lưng xuống, đem cây đoản cầm ra. Doanh Doanh thấy Lệnh Hồ Xung gói cẩn thận, đủ thấy hắn đối với vật mình tặng rất trân trọng. Lòng cô rất vui, nói:

– Một ngày ngươi phải nói mấy câu cà rỡn thì lòng mới dễ chịu phải không?

Cô nhận cây đàn, khẽ dạo mấy ngón, rồi tấu lên khúc Thanh tâm phổ thiện chú. Cô hỏi:

– Ngươi học thuộc khúc này chưa?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Còn kém xa lắm.

Lệnh Hồ Xung lắng nghe tiếng đàn ưu nhã dưới ngón tay cô, cảm thấy rất sảng khoái.

Nghe một lúc, chàng nhận ra tiếng đàn hiện nay khác lúc cô đàn ở trong ngõ Lục Trúc thành Lạc Dương; nó giống như chim hót líu lo đầu cành, như tiếng suối róc rách, tiếng tình tang làm mê đắm lòng người. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Tuy cùng một khúc điệu nhưng âm tiết lại khác nhau. Thì ra khúc Thanh tâm phổ thiện chú này còn có nhiều biến hóa.

Bỗng nghe bựt một tiếng, một dây huyền cầm bị đứt. Doanh Doanh chau mày rồi tiếp tục tấu, qua một lúc lại đứt thêm một sợi nữa. Lệnh Hồ Xung nghe tiếng đàn của cô đượm ý buồn phiền, cầm chỉ Thanh tâm phổ thiện chú kỳ thú dị thường, lúc tấu đến khúc kỳ dị thì huyền cầm bựt một tiếng, lại đứt thêm một sợi nữa.

Doanh Doanh sửng sốt, đẩy cây đàn ra. Cô cáu kỉnh nói:

– Ngươi ngồi bên cạnh người ta quấy nhiễu thì sao mà đàn cho được?

Lệnh Hồ Xung nghĩ: Ta ngồi yên lặng, có quấy nhiễu cô ta hồi nào đâu?

Nhưng rồi chàng liền hiểu ra: Chính cô ta tâm thần bất định mà lại đổ thừa do mình.

Lệnh Hồ Xung không muốn tranh biện với cô ta nữa. Chàng nằm trên cỏ nhắm mắt dưỡng thần, vì quá mệt mỏi nên không biết ngủ đi tự lúc nào.

Hôm sau tỉnh dậy, chàng thấy Doanh Doanh đang ngồi rửa mặt bên khe suối. Cô ta rửa mặt xong, lấy lược chải tóc. Cánh tay cô đẹp như ngọc, tóc dài chấm đất khiến lòng hắn bất giác ngẩn ngơ.

Doanh Doanh quay đầu lại, thấy Lệnh Hồ Xung đang ngẩn ngơ nhìn mình, mặt cô ửng hồng, cười nói:

– Ngủ như quỷ, bây giờ mới thức.

Lệnh Hồ Xung ngại ngùng nói:

– Ta đi bắt ếch tiếp để xem có đủ sức không.

Doanh Doanh nói:

– Ngươi nằm nghỉ thêm chút đi, để ta đi bắt cho.

Lệnh Hồ Xung gắng gượng muốn đứng dậy, nhưng tay chân nhũn ra. Hắn cố vận chút lực thì khí huyết trong ngực lại nhộn nhạo, lòng cảm thấy phiền não, nghĩ bụng: Chết thì chết, sống thì sống, chứ cứ dở sống dở chết như vậy khác nào một phế nhân. Đừng nói người ta nhìn vào đã khó ưa mà chính mình cũng chán ghét.

Doanh Doanh thấy nét mặt Lệnh Hồ Xung không vui liền an ủi:

– Nội thương của ngươi chưa chắc không trị được. Nơi đây thật yên tĩnh, không có chuyện gì rắc rối, từ từ dưỡng thương, hà tất phải sốt ruột?

Khe suối này rất yên tĩnh, từ buổi tối bọn Kế Vô Thi ba người đi qua thì hoàn toàn không có người lai vãng. Hai người đã ở đây hơn mười ngày. Nội thương của Doanh Doanh đã sớm bình phục, mỗi ngày cô đi hái quả dại, bắt ếch làm thức ăn, nhưng Lệnh Hồ Xung mỗi ngày một gầy đi. Cô ép chàng phải uống viên dược hoàn mà Phương Sinh đại sư để lại, tấu cầm khúc để ru chàng ngủ, nhưng thương thế của chàng vẫn không đỡ chút nào.

Lệnh Hồ Xung tự biết mình sắp chết, nhưng tính chàng vốn phóng khoáng, chẳng lấy vậy làm buồn, hằng ngày vẫn cười nói với Doanh Doanh.

Doanh Doanh tính vốn tự đại nhưng thấy Lệnh Hồ Xung mỗi khắc đều có thể đột ngột ngã lăn ra chết nên cô đối với hắn càng dịu dàng, chiều chuộng hắn đủ điều. Gặp lúc cô không nhịn nổi thì nổi nóng chút ít nhưng liền hối hận rồi xin lỗi hắn ngay.

Hôm ấy, Lệnh Hồ Xung ăn xong hai trái đào, liền cảm thấy khó chịu, nửa mê nửa tỉnh rồi thiếp đi.

Trong lúc mơ màng, nghe có tiếng ai khóc nức nở. Chàng hé mắt ra thấy Doanh Doanh nằm phục bên chân mình, cô đang khóc. Lệnh Hồ Xung giật mình, toan muốn hỏi vì sao cô khóc, bỗng hiểu ra: Cô ta biết ta sắp chết nên quá đau lòng.

Lệnh Hồ Xung liền đưa tay trái nhẹ nhàng vuốt mái tóc dài của cô rồi cười gượng nói:

– Đừng khóc, đừng khóc! Ta còn sống tám chục năm nữa mà, đâu có đi Tây Thiên sớm như vậy.

Doanh Doanh vừa khóc vừa nói:

– Ngươi càng ngày càng gầy nhom, ta… ta… ta cũng không muốn sống nữa.

Lệnh Hồ Xung nghe cô nói vừa thành khẩn vừa đau đớn, bất giác cảm động vô cùng. Ngực nóng lên, chàng cảm thấy trời đất quay cuồng, máu không ngớt trào lên cổ họng, rồi ngất đi không biết gì nữa.

Hồi 74: Không quy đầu làm mô hạ phái Thiếu Lâm

Lệnh Hồ Xung hôn mê không biết qua bao nhiêu ngày, có lúc hơi tỉnh lại, thân người như bay bổng trên tầng mây, không bao lâu lại ngất đi, chập chờn lúc mê lúc tỉnh, có lúc chàng mơ hồ cảm thấy dường như có người đút nước cho mình, có lúc lại cảm thấy có người lấy lửa sưởi khắp thân mình. Tay chân chàng không cách nào cử động được, mí mắt cũng không mở ra nổi.

Hôm ấy thần trí hơi tỉnh táo, chàng cảm thấy huyệt Mạch môn hai cổ tay bị ai nắm chặt, một luồng khí nóng từ hai tay truyền vào, xung đột với những luồng chân khí trong nội thể.

Toàn thân Lệnh Hồ Xung khó chịu vô cùng. Chàng chỉ muốn há miệng la lên nhưng la không ra tiếng, thật giống như bị cả ngàn ngọn đao chém chặt, vạn nhục hình tàn khốc.

Lệnh Hồ Xung mê man như vậy không biết qua bao nhiêu ngày, chỉ cảm thấy mỗi lần chân khí truyền vào thì bớt đau đớn hơn một chút. Lòng hơi hiểu ra, chàng biết có một người nội công cao thâm đang trị thương cho mình. Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng: Chẳng lẽ là sư phụ sư nương mời tiền bối cao nhân đến cứu tính mạng ta? Doanh Doanh đi đâu? Sư phụ sư nương đâu? Sao ta không thấy tiểu sư muội?

Lệnh Hồ Xung vừa nghĩ đến Nhạc Linh San thì khí huyết trong ngực lại nhộn nhạo lên, liền mê man không biết gì nữa.

Cứ như vậy, ngày ngày có người đến truyền nội lực cho Lệnh Hồ Xung. Hôm ấy, sau khi được truyền chân khí, thần trí Lệnh Hồ Xung tỉnh táo hơn trước. Chàng nói:

– Đa… đa tạ tiền bối, tại hạ… tại hạ đang ở đâu?

Nói xong, từ từ mở mắt ra, nhìn thấy một gương mặt đầy nếp nhăn đang lộ ra nụ cười hiền từ.

Lệnh Hồ Xung cảm thấy gương mặt này rất quen thuộc. Chàng mơ màng nhìn lão một lúc, thấy người này đầu không có tóc, trên đầu có chín đốt tàn nhang, là một hòa thượng. Chàng loáng thoáng nhớ ra, nói:

– Đại sư… đại sư là Phương… Phương… đại sư…

Lão hòa thượng vẻ mặt vui mừng, mỉm cười nói:

– Hay lắm, hay lắm! Thiếu hiệp nhận ra lão nạp rồi. Lão nạp là Phương Sinh.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Phải, phải. Tiền bối là Phương Sinh đại sư.

Lúc này Lệnh Hồ Xung phát giác mình đang nằm trên chiếc chõng tre trong một gian nhà nhỏ, mình đắp chăn, trên bàn đặt một ngọn đèn như hạt đậu phát ra ánh sáng vàng nhạt.

Từ đó về sau cứ sáng chiều, Phương Sinh đến gian nhà nhỏ dùng nội lực trị thương cho Lệnh Hồ Xung. Qua hơn mười ngày, Lệnh Hồ Xung đã có thể ngồi dậy, tự ăn cơm được. Nhưng mỗi lần chàng hỏi Doanh Doanh đâu, tại sao mình có thể đến được đây thì Phương Sinh chỉ mỉm cười chứ không đáp.

Hôm nay, Phương Sinh lại truyền chân khí cho Lệnh Hồ Xung, rồi nói:

– Lệnh Hồ thiếu hiệp, bây giờ tính mạng của thiếu hiệp đã có thể tạm thời bảo toàn rồi. Nhưng công phu của lão nạp chỉ có hạn, vẫn không cách nào hóa giải mấy luồng chân khí dị chủng trong cơ thể thiếu hiệp được. Trước mắt chỉ có thể kéo dài ngày nào hay ngày đó, e rằng không qua một năm thì nội thương của thiếu hiệp tái phát như cũ. Lúc đó dù có Đại La kim tiên cũng khó cứu được tính mạng của thiếu hiệp.

Lệnh Hồ Xung gật đầu nói:

– Ngày trước, Bình Nhất Chỉ Bình đại phu cũng nói với vãn bối như vậy. Đại sư tận tâm tận lực cứu chữa cho vãn bối, vãn bối cảm kích vô cùng. Một người sống lâu hay mau đều do thiên mệnh, công lực đại sư có cao hơn nữa cũng không thể hành sự trái với mệnh trời.

Phương Sinh lắc đầu nói:

– Nhà Phật không tin thiên mệnh, lão nạp chỉ nói về duyên pháp. Ngày trước lão nạp đã từng nói với thiếu hiệp rằng trụ trì của bổn tự là Phương Chứng sư huynh nội công uyên thâm, nếu thiếu hiệp có duyên với người thì có thể người sẽ truyền bí thuật Dịch cân kinh cho thiếu hiệp. Gân cốt cũng có thể chuyển dời huống chi hóa giải mấy luồng nội tức dị khí này? Bây giờ lão nạp dẫn thiếu hiệp đi bái kiến phương trượng, mong thiếu hiệp ứng đáp cho khéo.

Lệnh Hồ Xung từng nghe thanh danh của phương trượng Phương Chứng đại sư chùa Thiếu Lâm, lòng rất vui mừng, đáp:

– Phiền đại sư dẫn kiến phương trượng. Dù vãn bối không có duyên, không được phương trượng đại sư rủ lòng thương nhưng được bái kiến vị cao tăng đương thời là cơ hội ngàn năm một thuở.

Lệnh Hồ Xung từ từ đứng lên choàng áo khoác vào, theo Phương Sinh đại sư ra khỏi phòng.

Vừa ra ngoài phòng, ánh nắng rực rỡ khiến Lệnh Hồ Xung lóa mắt, giống như đi vào một cảnh giới khác. Tinh thần hắn rất sảng khoái.

Lệnh Hồ Xung đi rất khó khăn vì hai chân mềm nhũn. Hắn phải bước từ từ, đưa mắt nhìn các tòa điện đường có lối kiến trúc hùng vĩ. Trên đường đi, chàng gặp rất nhiều tăng nhân. Từ xa họ đều nép sang một bên, hướng về Phương Sinh cúi đầu thủ lễ rất cung kính. Đi qua ba dãy hành lang dài, đến ngoài một gian thạch thất, Phương Sinh gọi một chú tiểu lại nói:

– Phương Sinh có chuyện muốn cầu kiến phương trượng sư huynh.

Chú tiểu đi vào bẩm báo rồi liền quay lại chấp tay nói:

– Phương trượng mời vào.

Lệnh Hồ Xung theo sau Phương Sinh, đi vào trong thất, thấy một lão tăng thân người nhỏ thó ngồi trên bồ đoàn. Phương Sinh cúi người hành lễ nói:

– Phương Sinh bái kiến phương trượng sư huynh. Xin dẫn kiến Lệnh Hồ Xung, Lệnh Hồ thiếu hiệp, đồ đệ phái Hoa Sơn.

Lệnh Hồ Xung bèn quỳ xuống khấu đầu hành lễ. Phương trượng Phương Chứng hơi nghiêng người, đưa tay phải ra nói:

– Thiếu hiệp, miễn lễ, mời ngồi.

Lệnh Hồ Xung bái xong rồi ngồi xuống bồ đoàn phía dưới Phương Sinh, thấy Phương Chứng đại sư dáng người tiều tụy, thần sắc hiền hòa, cũng không đoán được là bao nhiêu tuổi. Lòng chàng ngấm ngầm sửng sốt: Không ngờ vị cao tăng danh chấn đương thời tướng mạo lại hiền hòa như vậy. Nếu không biết trước thì không ai ngờ được lão là chưởng môn một môn phái lớn nhất trong võ lâm.

Phương Sinh đại sư nói:

– Lệnh Hồ thiếu hiệp đã trải qua hơn ba tháng điều dưỡng, đã đỡ nhiều rồi.

Lệnh Hồ Xung giật mình: Thì ra, ta hôn mê bất tỉnh đã hơn ba tháng rồi, ta cứ tưởng chỉ mới hai mươi mấy ngày.

Phương Chứng nói:

– Hay lắm!

Lão quay qua nói với Lệnh Hồ Xung:

– Thiếu hiệp, tôn sư Nhạc tiên sinh chấp chưởng phái Hoa Sơn là người nghiêm chính ngay thẳng, thanh danh lừng lẫy giang hồ, xưa nay lão nạp vô cùng kính phục.

Lệnh Hồ Xung đứng dậy nói:

– Không dám. Vãn bối thân bị trọng thương, hôn mê không biết gì, may nhờ Phương Sinh đại sư cứu chữa, thì ra đã hơn ba tháng. Sư phụ và sư nương của vãn bối chắc cũng bình an?

Đáng lẽ sư phụ, sư nương Lệnh Hồ Xung có bình an hay không thì hắn không nên hỏi người ngoài nhưng bởi vì lòng hắn lúc nào cũng nhớ họ nên buột miệng hỏi ra như vậy.

Phương Chứng nói:

– Nghe nói Nhạc tiên sinh, Nhạc phu nhân và bọn đệ tử phái Hoa Sơn bây giờ đang ở Phúc Kiến.

Lệnh Hồ Xung an tâm nói:

– Đa tạ phương trượng đại sư cho biết.

Lệnh Hồ Xung không nén được chua xót: Sư phụ và sư nương rốt cuộc đã dẫn tiểu sư muội đến nhà Lâm sư đệ rồi.

Phương Chứng nói:

– Mời thiếu hiệp ngồi. Nghe Phương Sinh sư đệ nói, kiếm thuật của thiếu hiệp rất tinh thâm, đã được chân truyền của tiền bối Phong lão tiên sinh phái Hoa Sơn, thật là đáng mừng.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vãn bối không dám.

Phương Chứng nói:

– Phong lão tiên sinh quy ẩn đã lâu, lão nạp tưởng rằng Phong lão tiên sinh đã tạ thế, nhưng lão vẫn còn trên thế gian khiến người nghe vui mừng khôn xiết.

Lệnh Hồ Xung dạ. Phương Chứng từ từ nói:

– Sau khi thiếu hiệp bị thương, vì người ta nhầm lẫn, đưa nhiều loại chân khí truyền vào nội thể thiếu hiệp nên khó mà hóa giải được. Phương Sinh sư đệ đã nói rõ cho lão nạp biết. Lão nạp tham tường tỉ mỉ, chỉ còn cách luyện tập Dịch cân kinh, nội công bí yếu của tệ phái, mới có thể dùng nội công bản thân mà trục hóa dần. Nếu dùng ngoại lực miễn cưỡng điều trị cho thiếu hiệp thì có thể kéo dài mạng sống một thời gian mà thật ra chẳng khác gì lấy nước muối uống cho đỡ khát, khiến cho mối họa càng sâu dày hơn. Trong ba tháng nay, Phương Sinh sư đệ đã dùng nội lực để kéo dài mạng sống cho thiếu hiệp, khiến trong thân thể của thiếu hiệp lại có thêm một luồng chân khí nữa. Thiếu hiệp thử vận khí thì sẽ biết.

Lệnh Hồ Xung hơi vận khí, quả thấy nội tức trong huyệt Đan điền cuồn cuộn lên, khó mà ức chế được. Chàng đau đến thấu tim, thân người lảo đảo, trán toát mồ hôi lạnh ngắt.

Phương Sinh chấp tay nói:

– Phương Sinh bất tài khiến cho thiếu hiệp thêm đau khổ.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Sao đại sư lại nói như vậy? Đại sư vì vãn bối mà tận tâm tận lực, hao tổn nhiều công lực thanh tu. Vãn bối như người được sống lại, thật muốn bái lạy đại sư đã ra ân tái tạo.

Phương Sinh nói:

– Không dám. Năm xưa Phong lão tiên sinh có đại ân đại đức với lão nạp, chuyện này chẳng qua lão nạp cũng chỉ báo đáp một phần ân đức của Phong lão tiên sinh mà thôi.

Phương Chứng ngẩng đầu lên nói:

– Đệ tử Phật môn lấy từ bi làm gốc, đã biết thiếu hiệp bị nội thương như vậy thì lão nạp đương nhiên phải tận tâm cứu giải. Thần công Dịch cân kinh đó do Thiền tông sơ tổ Đạt Ma lão tổ ở Đông Thổ sáng chế ra. Thiền tông nhị tổ Huệ Khả đại sư được lão tổ truyền lại. Huệ Khả đại sư vốn có pháp danh là Thần Quang, là người ở Lạc Dương, từ nhỏ đã thông suốt Khổng học và Lão học, tinh thâm huyền lí. Lúc Đạt Ma lão tổ trụ trì bổn tự, Thần Quang đại sư lên chùa xin thụ giáo thêm. Đạt Ma lão tổ thấy sở học của Thần Quang đại sư phức tạp, kiến thức hơn người, rất thâm sâu nên tự cho mình thông minh, khó lĩnh ngộ được nguyên lý Thiền, liền cự tuyệt không thu nạp. Thần Quang đại sư khổ cầu rất lâu, vẫn không được nhập môn liền cầm trường kiếm lên chém đứt cánh tay trái của mình.

Lệnh Hồ Xung ồ lên một tiếng, thầm nghĩ: Vị Thần Quang đại sư này tha thiết với việc học đạo mà kiên nghị đến vậy.

Phương Chứng nói:

– Đạt Ma lão tổ thấy Thần Quang đại sư thành tâm như vậy mới thu nhận làm đệ tử, đổi tên là Huệ Khả, về sau được Đạt Ma lão tổ truyền y bát và truyền Thiền tông pháp thống. Sở học của Đạt Ma lão tổ và nhị tổ là đạo lớn của Phật pháp, dựa theo kinh Lăng già mà minh tâm kiến tánh. Danh tiếng võ công của tông phái lão nạp tuy được lưu truyền trong thiên hạ, nếu thực ra chỉ học sau này thì không thể đủ được. Năm xưa, Đạt Ma lão tổ chỉ truyền thụ cho bọn đệ tử một ít pháp môn để rèn luyện thân thể, thân thể khỏe mạnh thì tâm mới sáng suốt, tâm sáng suốt thì mới dễ lĩnh ngộ. Nhưng đệ tử môn hạ đời sau thường mê học võ, lấy ngọn mà bỏ gốc, không theo tông chỉ võ công mà năm xưa lão tổ truyền thụ. Thật đáng buồn!

Phương trượng nói vậy rồi lắc đầu mấy cái. Một lúc sau Phương Chứng lại nói:

– Sau khi lão tổ viên tịch, nhị tổ tìm thấy một quyển kinh văn ở bên bồ đoàn của lão tổ, đó chính là Dịch cân kinh. Quyển kinh văn này nghĩa lý thâm ảo, nhị tổ gắng sức nghiên cứu nhưng không giải được, lòng nghĩ Đạt Ma lão tổ diện bích chín năm, để lại quyển kinh này bên bức tường, tuy ngôn từ sơ sài nhưng nhất định không phải tầm thường. Ngài đi khắp nơi tìm gặp cao tăng để cầu giải diệu đế. Nhưng thời đó nhị tổ đã là cao nhân đắc đạo, nhị tổ lão nhân gia đã khổ tâm suy nghĩ mà không giải được nên chuyện muốn cầu một bậc trí tuệ uyên thâm hơn nhị tổ trên đời này thì thật là khó. Cho nên suốt hơn hai mươi năm, mật nghĩa của kinh văn vẫn chưa có thể giải được. Một ngày nọ, nhị tổ gặp tuyệt đại pháp duyên, được cùng nhà sư ở Thiên Trúc pháp hiệu là Ban Thích Mật Đế tại núi Nga Mi tỉnh Tứ Xuyên đàm luận Phật học, ý hợp tâm đầu. Nhị tổ lấy quyển Dịch cân kinh ra cùng với Ban Thích Mật Đế nghiên cứu. Hai vị cao tăng ở trên đỉnh Nga Mi cùng nhau lý giải, trải qua bốn mươi chín ngày, cuối cùng cũng không hiểu hết.

Phương Sinh chấp tay niệm:

– A Di Đà Phật. Thiện tai, thiện tai!

Phương Chứng phương trượng nói tiếp:

– Nhưng Ban Thích Mật Đế đại sư là một vị cao tăng về Thiền tông Phật học. Cho đến hai mươi năm sau, trên đường đi Trường An, nhị tổ gặp một vị thanh niên tinh thông võ nghệ, nhị tổ cùng người này đàm luận ba ngày ba đêm mới lĩnh ngộ hết bí ảo võ học trong Dịch cân kinh.

Phương trượng ngừng một lúc rồi nói tiếp:

– Vị thanh niên này là khai quốc đại công thần của Đường triều, về sau phò tá Thái Tông bình định rợ Đột Quyết, ra biên cương là tướng võ, vào triều đình làm quan văn, được phong tước Lý Vệ Công bình định. Sở dĩ Lý Vệ Công lập được kỳ công tuyệt thế như vậy, xem ra cũng nhờ vào Dịch cân kinh không ít.

Lệnh Hồ Xung ồ một tiếng thầm nghĩ: Thì ra Dịch cân kinh có nhiều lai lịch như vậy.

Phương Chứng lại nói:

– Công phu của Dịch cân kinh bao quát các mạch của con người, liên hệ đến tinh thần ngũ tạng; tròn trịa mà không tan, đi mà không dứt, khí từ trong phát sinh, huyết từ ngoài truyền vào. Sau khi luyện thành kinh này thì động lực phát, vừa tích tụ vừa phóng ra, tự nhiên mà thi triển, xuất ra ở thời điểm mà nó tự xuất, như nước triều dâng, như tiếng sấm dậy. Thiếu hiệp, luyện Dịch cân kinh này chẳng khác nào con thuyền nhỏ đương đầu trên làn sóng dữ, đợt sóng dâng lên hạ xuống thì con thuyền nhỏ cũng cao lên hạ xuống, đâu cần phải dùng lực? Nếu muốn dùng lực thì cũng đâu có lực mà dùng? Có lực cũng không biết dùng vào đâu.

Lệnh Hồ Xung liên tục gật đầu, cảm thấy đạo lý này thật uyên bác tinh thâm, cùng với đạo lý về kiếm thuật mà Phong Thanh Dương dạy có nhiều điều tương đồng.

Phương Chứng lại nói:

– Chỉ vì uy lực của Dịch cân kinh này như vậy nên mấy trăm năm nay không phải kỳ nhân thì không truyền, không có duyên cũng không truyền, dù là đệ tử xuất chúng của bổn phái, nếu không có phúc duyên cũng không được truyền. Như Phương Sinh sư đệ, võ công rất cao, trì giới cũng rất tinh nghiêm, là nhân vật kiệt xuất của bổn tự mà không được sư phụ đời trước truyền thụ kinh này.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Dạ. Vãn bối không có phúc duyên này, không dám vọng tự can cầu.

Phương Chứng lắc đầu nói:

– Không phải. Thiếu hiệp là người có phúc duyên đó.

Lệnh Hồ Xung vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, trái tim đập thình thịch, không ngờ bí mật tuyệt kỹ hàng đầu của Thiếu Lâm, ngay cả Phương Sinh đại sư là vị cao tăng của Thiếu Lâm cũng không được truyền thụ mà mình lại có duyên.

Phương Chứng từ từ nói:

– Phật môn quảng đại, chỉ độ cho người có duyên. Thiếu hiệp là truyền nhân của Phong lão tiên sinh, đây là duyên thứ nhất; thiếu hiệp đến Thiếu Lâm tự của lão nạp là duyên thứ hai. Nếu thiếu hiệp không luyện Dịch cân kinh thì phải mất mạng, riêng Phương Sinh đại sư nếu luyện tập dĩ nhiên sẽ có ích, nhưng không luyện cũng không hại gì, chỗ phân biệt này lại là duyên thứ ba.

Phương Sinh chấp tay nói:

– Lệnh Hồ thiếu hiệp phúc duyên thâm hậu, Phương Sinh cũng được an ủi.

Phương Chứng nói:

– Sư đệ, tính sư đệ vốn cố chấp, cái chí lý của môn giải thoát “vô tướng, vô tác” này, sư đệ vẫn chưa thấu triệt, vấn đề sinh tử cũng chưa thấu đáo. Có điều ta không truyền Dịch cân kinh cho sư đệ thật sự là sợ sau khi đệ nghiên cứu luyện tập môn võ học thượng thừa này thì chìm đắm vào nó, không tránh khỏi hoang phế chính nghiệp tham thiền.

Vẻ mặt Phương Sinh lo sợ. Lão đứng lên cung kính nói:

– Sư huynh giáo hối phải lắm.

Phương Chứng gật nhẹ, biểu thị ý khích lệ. Một lúc sau thấy vẻ mặt Phương Sinh lộ vẻ tươi cười, lão mới vui mừng lại gật đầu. Lão quay qua Lệnh Hồ Xung nói:

– Bên trong chuyện này vốn có một trở ngại lớn, bây giờ cũng vượt qua được. Từ Đạt Ma tổ sư đến nay, Dịch cân kinh này chỉ truyền cho đệ tử bổn tự, không truyền cho người ngoài. Cho nên thiếu hiệp phải quy đầu làm môn hạ Thiếu Lâm tự, làm đệ tử tục gia của phái Thiếu Lâm.

Lão ngừng một lúc lại nói tiếp:

– Nếu thiếu hiệp không tỵ hiềm, chịu làm môn hạ của lão nạp là đệ tử thuộc hàng chữ Quốc, thì tên sẽ đổi thành Lệnh Hồ Quốc Xung.

Phương Sinh vui mừng nói:

– Chúc mừng thiếu hiệp. Bình sanh phương trượng sư huynh của lão nạp chỉ thu nhận hai người đệ tử, đó là chuyện ba mươi năm về trước. Thiếu hiệp làm đệ tử chân truyền của phương trượng sư huynh lão nạp, không những được truyền thụ võ học cao thâm của Dịch cân kinh mà mười hai môn tuyệt nghệ Thiếu Lâm phương trượng sư huynh của lão nạp tinh thông cũng có thể lượng tài của thiếu hiệp mà truyền thụ cho. Lúc đó nhất định thiếu hiệp có thể làm rạng danh môn phái của lão nạp, trong võ lâm lại xuất hiện một kỳ nhân.

Lệnh Hồ Xung đứng lên nói:

– Đa tạ ý tốt của phương trượng đại sư, vãn bối cảm kích vô cùng, nhưng vãn bối là đệ tử môn hạ phái Hoa Sơn, không thể cải đầu minh sư khác được.

Phương Chứng mỉm cười nói:

– Lão nạp nói trở ngại thì cũng chỉ nói để cho có nói thôi. Thiếu hiệp, bây giờ thiếu hiệp đã không còn là đệ tử phái Hoa Sơn rồi, chỉ e thiếu hiệp chưa biết.

Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi, run run nói:

– Vãn bối… vãn bối… tại sao không còn là môn hạ phái Hoa Sơn?

Phương Chứng lấy một phong thư từ trong tay áo ra nói:

– Mời thiếu hiệp xem qua.

Lão khẽ phóng bàn tay một cái, phong thư bay thẳng đến trước mặt Lệnh Hồ Xung.

Lệnh Hồ Xung đưa hai tay đón lấy, cảm thấy toàn thân chấn động, không kìm được ngạc nhiên: Vị phương trượng đại sư này quả nhiên nội công cao thâm khôn lường, chỉ một phong thư mỏng như vậy mà có thể truyền được nội lực thâm hậu vào để phóng qua.

Lệnh Hồ Xung thấy trên phong thư có đóng ấn đỏ “Chưởng môn phái Hoa Sơn”, phong thư đề:“Cẩn trình chưởng môn đại sư phái Thiếu Lâm”, chín chữ này viết ngay ngắn, nét bút nghiêm trang, đúng là đích thân sư phụ Nhạc Bất Quần chấp bút. Lệnh Hồ Xung linh tính có chuyện chẳng lành, hai tay run run rút bức thư ra, xem một lượt. Chàng thật không thể tin nổi trên đời này lại có chuyện này, lại xem một lượt nữa, liền cảm thấy trời đất quay cuồng, ú ớ mấy tiếng rồi ngã lăn xuống đất.

Lúc tỉnh dậy, Lệnh Hồ Xung thấy mình đang ở trong lòng Phương Sinh đại sư. Chàng chống tay đứng dậy, không kìm được khóc òa lên. Phương Sinh hỏi:

– Vì sao thiếu hiệp đau lòng đến vậy? Chẳng lẽ tôn sư có điều chi bất trắc?

Lệnh Hồ Xung đưa trả bức thư lại cho Phương Sinh nghẹn ngào nói:

– Xin đại sư coi đi.

Phương Sinh cầm bức thư, thấy bức thư viết: “Nhạc Bất Quần chưởng môn phái Hoa Sơn dập đầu sát đất, trình thư lên chưởng môn đại sư phái Thiếu Lâm: Kẻ hèn này bất đức, chấp chưởng môn hộ phái Hoa Sơn, đã lâu không vấn an đại sư, thật là khiếm khuyết. Nay nghịch đồ tệ phái là Lệnh Hồ Xung tính khí ương ngạnh, nhiều lần vi phạm môn quy, gần đây còn kết giao với yêu nghiệt, hòa mình cùng bọn thổ phỉ. Bất Quần bất tài, tuy đã nghiêm huấn trừng trị vẫn không hiệu quả. Để duy trì chính khí võ lâm, bảo toàn danh dự chính phái, bổn phái đã trục xuất nghịch đồ Lệnh Hồ Xung ra khỏi môn hộ. Từ nay về sau, tên nghịch đồ này không còn là đệ tử của tệ phái, nếu hắn cấu kết với dâm tà, gây họa cho giang hồ thì Nhạc Bất Quần mong các bằng hữu chính phái tru diệt hắn đi. Thư bẩm lên rất hoảng sợ, nói không hết ý, mong đại sư lượng thứ”.

Phương Sinh xem xong cũng rất đỗi ngạc nhiên, nghĩ không ra lời gì để an ủi Lệnh Hồ Xung. Lão liền đưa bức thư lại cho Phương Chứng, thấy Lệnh Hồ Xung nước mắt đầm đìa, lão thở dài nói:

– Thiếu hiệp, thiếu hiệp giao du với người trên Hắc Mộc Nhai thì không nên.

Phương Chứng nói:

– Các chưởng môn nhân chính phái chắc đều đã nhận được thư của tôn sư và truyền xuống môn hạ. Dù thiếu hiệp không bị thương thì chỉ cần ra khỏi cửa bổn tự cũng gặp lắm chông gai trên giang hồ vì các đệ tử môn hạ chính phái đều coi thiếu hiệp là thù địch.

Lệnh Hồ Xung ngẩn người ra, nhớ lúc ở bên khe suối, Doanh Doanh cũng nói như vậy. Bây giờ không những những kẻ bàng môn tả đạo muốn giết mình mà môn hạ của chính phái ai ai cũng coi mình là địch. Thật là trời đất bao la nhưng không còn chỗ dung. Lệnh Hồ Xung lại nghĩ đến thâm ân nghĩa trọng của sư môn, sư phụ và sư nương đối với mình xưa nay như phụ mẫu, không những đã có ân đức truyền nghệ mà còn có ân đức dưỡng dục. Không ngờ tính ta ngông cuồng nên bị trục xuất khỏi sư môn. Chàng cho rằng lúc sư phụ viết bức thư này chắc còn đau lòng hơn nữa. Nhất thời chàng vừa đau lòng vừa hổ thẹn, hận không đập đầu tự tử đi cho rồi. Trong làn nước mắt mờ mờ, Lệnh Hồ Xung thấy Phương Chứng và Phương Sinh hai vị đại sư đều lộ vẻ thương xót. Bỗng nhiên chàng lại nhớ đến chuyện Lưu Chính Phong muốn rửa tay gác kiếm thối xuất võ lâm, chỉ vì kết giao với Khúc Dương trưởng lão Ma giáo mà bị mất mạng dưới tay phái Tung Sơn. Có thể thấy chính tà không đội trời chung, ngay cả Lưu Chính Phong là người nghệ cao thế lớn như vậy cũng không tránh khỏi, huống chi chàng là thiếu niên đơn độc không người thân thuộc, hèn hạ không đáng nói. Lại nữa, còn tụ hội quần tà trên Ngũ Bá Cương, gây ra chuyện động trời như vậy?

Phương Chứng từ từ nói:

– Khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn. Dù là gian nhân không từ thập ác, mà biết hồi tâm hối lỗi, Phật môn cũng mở rộng. Thiếu hiệp còn nhỏ tuổi, nhất thời sẩy chân, vô tình kết giao với bọn phỉ, chẳng lẽ không còn đường sám hối? Mối liên quan giữa thiếu hiệp và phái Hoa Sơn dù đã bị đứt đoạn, nhưng từ nay về sau làm môn hạ Thiếu Lâm của lão nạp, sửa đổi lỗi lầm, làm lại cuộc đời, thì trong võ lâm cũng chẳng có ai làm khó dễ gì thiếu hiệp nữa.

Phương Chứng nói mấy câu này rất dịu dàng, nhưng lại nghiêm nghị vô cùng.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Bây giờ ta không còn đường nào để đi, nếu nương dựa vào môn hạ phái Thiếu Lâm, không những có thể học được nội công thần diệu, cứu được tính mệnh mà uy danh của phái Thiếu Lâm trên giang hồ khiến không ai dám sinh sự với đệ tử của Phương Chứng đại sư.

Nhưng lúc này, ngực chàng lại bùng lên chí khí quật cường. Lệnh Hồ Xung nghĩ: Bậc đại trượng phu không thể ngang nhiên tự lập giữa trời đất, phải chai mặt nương tựa vào phái khác để mà cầu an thì còn gì là anh hùng hảo hán? Trên giang hồ ngàn vạn người muốn giết ta, cứ để bọn họ giết cho rồi. Sư phụ không cần ta, trục xuất ta ra khỏi phái Hoa Sơn, thì ta độc lai, độc vãng cũng có sao đâu?

Lệnh Hồ Xung nghĩ đến đây, bất giác bầu nhiệt huyết bùng lên miệng khô khốc, chỉ muốn uống mấy chục bát rượu mạnh. Cái gì sinh tử môn phái, buồn phiền số mạng đều gạt ra ngoài hết. Ngày trước, lòng chàng lúc nào cũng canh cánh hình bóng của Nhạc Linh San, nhưng bây giờ cô cũng như người dưng nước lã thôi.

Lệnh Hồ Xung đứng dậy, quỳ xuống trước mặt Phương Chứng và Phương Sinh, cung kính khấu đầu mấy cái. Hai lão tăng cho rằng Lệnh Hồ Xung đã quyết ý quy đầu phái Thiếu Lâm, nét mặt lộ vẻ tươi cười.

Lệnh Hồ Xung đứng dậy lớn tiếng nói:

– Vãn bối đã không được sư môn dung tình, không còn mặt mũi nào cải đầu phái khác. Hai vị đại sư có lòng từ bi, vãn bối cảm kích vô cùng. Bây giờ xin bái biệt.

Phương Chứng ngạc nhiên, không ngờ thiếu niên này lại tuyệt không sợ chết như vậy.

Phương Sinh khuyên:

– Thiếu hiệp, chuyện này có liên quan đến sự sống chết của thiếu hiệp, không nên sinh cường hiếu thắng nhất thời.

Lệnh Hồ Xung cười hề hề, quay người đi ra. Lòng chất chứa bao nỗi bất bình, chân bước càng nhanh ra khỏi Thiếu Lâm tự.

Hồi 75: Lão cao gầy mặc áo trắng là ai?

Lệnh Hồ Xung ra khỏi chùa, lòng cảm thấy thê lương. Chàng ngẩng mặt lên trời cười một tràng rồi thầm nghĩ: Người trong chính phái coi ta là thù địch, người trong tà đạo ai cũng muốn giết ta, chắc Lệnh Hồ Xung khó sống qua ngày hôm nay. Để coi ai lấy cái mạng của ta đây.

Chàng đưa tay mò lên người, túi chẳng còn tiền, lưng không có kiếm, ngay cả cây đoản cầm của Doanh Doanh tặng cũng không biết biến đâu rồi, thật là chẳng còn gì, liền đi xuống núi.

Lệnh Hồ Xung đi đến lúc gần tối, thấy Thiếu Lâm tự đã cách xa rồi, người đã mỏi mệt, bụng đói meo, thầm nghĩ: Ta đi đâu kiếm chút gì ăn đây?

Bỗng nghe tiếng bước chân, bảy tám người từ phía Tây chạy đến, toàn là người mặc võ phục, đeo binh khí, rất vội vã. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Bọn này muốn giết ta, cứ động thủ ngay đi để ta khỏi nhọc sức đi kiếm cơm ăn. Ăn no cũng phải chết, hà tất đi kiếm ăn làm chi cho mệt?

Lệnh Hồ Xung liền đứng ở giữa đường, hai tay khoanh trước ngực, lớn tiếng nói:

– Lệnh Hồ Xung ở đây! Muốn giết ta thì tới đây!

Nào ngờ mấy tên hán tử lúc chạy đến trước mặt Lệnh Hồ Xung chỉ liếc nhìn hắn một cái rồi né người chạy tiếp.

Một người nói:

– Đồ điên!

Lại một người khác nói:

– Đúng, đừng sinh sự với hắn để lỡ đại sự.

Một người khác nói:

– Nếu để lão trốn mất, thật là hỏng bét.

Trong khoảnh khắc bọn họ đã chạy xa rồi. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Thì ra bọn họ truy nã một người nào đó.

Tiếng bước chân của mấy người vừa im thì tiếng vó ngựa ở phía Tây vọng đến, năm kỵ mã phi nhanh như gió, lướt qua bên mình Lệnh Hồ Xung. Chạy qua hơn hai mươi trượng, bỗng một kỵ mã đứng lại, trên ngựa là một phụ nữ trung niên nói:

– Khách quan, xin hỏi khách quan có thấy một lão già mặc áo bào trắng không? Người này cao ốm, lưng mang một thanh loan đao.

Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:

– Không thấy.

Người phụ nữ không nói nữa, quay đầu ngựa lại đuổi theo bốn kỵ mã kia. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Bọn họ truy đuổi một lão già mình mặc áo bào trắng ư? Bây giờ không có việc gì, ta đi xem vụ náo nhiệt này cũng hay.

Lệnh Hồ Xung bèn rẽ qua hướng Đông mà đi. Đi chưa được khoảng một bữa ăn, phía sau lại có hơn mười người đuổi đến. Sau khi những người này vượt qua Lệnh Hồ Xung, một lão già khoảng năm chục tuổi quay lại hỏi:

– Huynh đệ, huynh đệ có thấy một lão già mặc áo bào trắng, người cao ốm, lưng mang loan đao không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Không thấy.

Lệnh Hồ Xung lại đi một lúc nữa, đến một ngã ba đường, nghe tiếng nhạc ngựa ở phía Tây Bắc, ba kỵ mã phóng nhanh đến. Cả ba đều là thanh niên khoảng hai mươi tuổi. Người đi trước vung roi ngựa hỏi:

– Này, cho hỏi, huynh đài có thấy một…

Lệnh Hồ Xung tiếp lời:

– Các hạ muốn hỏi một lão già ốm cao, mặc áo bào trắng, lưng mang loan đao có phải không?

Cả ba đều lộ vẻ vui mừng cùng nói:

– Đúng rồi, hắn ở đâu?

Lệnh Hồ Xung thở dài nói:

– Tại hạ chưa gặp qua.

Người thanh niên đứng trước tức giận quát:

– Ngươi giỡn mặt với lão tử ư? Người chưa gặp, sao lại biết lão?

Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:

– Chưa gặp qua thì không thể biết được sao?

Người thanh niên vung roi ngựa lên toan đánh xuống đầu Lệnh Hồ Xung thì một thanh niên khác nói:

– Nhị đệ, đừng sinh sự nữa, chúng ta mau đuổi theo.

Gã thanh niên toan đánh Lệnh Hồ Xung liền hừ một tiếng, rồi vung roi ngựa lên trời, thúc ngựa phóng đi.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Mấy người này cùng truy tìm một lão già mặc áo bào trắng, không biết vì chuyện gì? Ta đi xem vụ náo nhiệt này chắc vui lắm, nhưng nếu bọn chúng biết ta là Lệnh Hồ Xung thì nhất định sẽ giết ngay tại chỗ.

Lệnh Hồ Xung nghĩ đến đây, bất giác hơi sợ nhưng lại chuyển ý nghĩ: Bây giờ cả hai phe chính tà đều muốn lấy mạng ta, ta cố lén lút cũng chỉ kéo dài chút hơi tàn, sống được mấy ngày cũng không tránh khỏi bị rơi đầu. Như vậy cái chết của ta có dài thêm một ngày cũng đâu hay ho gì? Chi bằng tới đâu hay tới đó để xem cái mạng ta rơi vào tay ai.

Lệnh Hồ Xung liền theo lối ba con ngựa vừa lao đi, cát bụi còn tung bay, mà tiến. Phía sau Lệnh Hồ Xung lại có một tốp nữa chạy đến, cũng đều hỏi thăm về lão già cao ốm, mình mặc áo bào trắng, lưng mang loan đao. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Những người cùng truy đuổi lão già mặc áo bào trắng đó đều không biết lão đang ở đâu nhưng tất cả đều chạy tìm một hướng, thật là kỳ lạ.

Lệnh Hồ Xung đi thêm hơn một dặm, xuyên qua một rừng tùng, trước mặt bỗng nhiên hiện ra một vùng đất bằng phẳng, người đứng đông nghẹt, ít ra cũng có sáu bảy trăm. Khu đất này rất rộng nên sáu bảy trăm người đứng tụm lại cũng chỉ chiếm một khoảnh nhỏ. Một con đường lớn chạy thẳng đến đám đông. Lệnh Hồ Xung đi theo con đường hướng về phía trước.

Đi gần đến nơi, thấy giữa đám đông có một ngôi lương đình nho nhỏ, đó là nơi để người lữ hành nghỉ ngơi giữa vùng hoang dã nên được dựng lên sơ sài. Đám đông vây quanh lương đình cách khoảng vài trượng chứ không ai dám lại gần.

Lệnh Hồ Xung đi gần thêm hơn mươi trượng, thấy trong đình có một lão già mặc áo bào trắng ngồi sờ sờ ra đó, trơ trọi một mình. Lão già ngồi bên một cái bàn uống rượu, nhất thời hắn chưa nhìn thấy được, lưng lão có mang loan đao hay không. Tuy người này ngồi nhưng dường như còn cao hơn cả người thường đứng.

Lệnh Hồ Xung thấy lão bị quần địch vây khốn, nhưng vẫn thản nhiên uống rượu, bất giác sinh lòng kính ngưỡg. Bình sinh những anh hùng hảo hán chàng từng nghe thấy tuyệt chưa có người nào có hào khí ngất trời như vậy. Lệnh Hồ Xung từ từ đi về trước, nhập vào đám đông.

Đám người vây quanh không rời mắt khỏi lão già mặc áo trắng nên khi Lệnh Hồ Xung đến, chẳng ai để ý tới. Lệnh Hồ Xung ngưng thần nhìn lão già, thấy dung mạo của lão thanh mảnh, chòm râu bạc trắng lơ thơ rủ dài xuống tới ngực, tay cầm bát rượu, mắt đăm đăm nhìn ra xa đến tận chân trời, chẳng thèm liếc mắt nhìn bọn người vây quanh mình một cái. Trên lưng lão có đeo một cái túi, sau lưng lão không có loan đao. Thì ra ngay cả binh khí lão ta cũng không đeo bên mình.

Lệnh Hồ Xung không hề biết lai lịch của lão, cũng không biết vì sao có nhiều người trong võ lâm muốn làm khó lão, càng không biết lão là chính hay tà. Có điều chàng khâm phục hào khí ngất trời của lão, xem bên mình như chẳng có ai. Không hiểu sao chàng cảm thấy đồng cảnh ngộ với lão, liền nảy ra một ý, bước lên phía trước, lớn tiếng nói:

– Xin chào tiền bối, tiền bối uống rượu một mình không ai bầu bạn, không tránh khỏi sự buồn tẻ. Vãn bối xin bồi rượu tiền bối.

Lệnh Hồ Xung đi vào quán lương đình, vái lão một cái rồi ngồi xuống.

Lão già quay đầu lại, ánh mắt sắc bén như hai luồng điện lạnh lùng nhìn Lệnh Hồ Xung, thấy hắn không mang binh khí, mặt lại tiều tụy, là một thiếu niên chưa từng quen biết. Mặt lão lộ vẻ ngạc nhiên, chỉ hừ lên một tiếng chứ không trả lời. Lệnh Hồ Xung bưng hũ rượu lên, rót vào cái bát để trước mặt lão, rồi lại rót vào một bát nữa, nâng lên uống, nói:

– Mời tiền bối!

Hà một tiếng, chàng uống cạn bát rượu. Rượu này cực mạnh, uống vào miệng như dao cắt, lại giống như nuốt phải than đỏ vào bụng. Hắn lớn tiếng khen:

– Hảo tửu!

Một hán tử giọng ồm ồm ngoài lương đình quát:

– Tiểu tử kia mau cút đi. Chúng ta sắp liều mạng với lão già này, đừng đứng ở đây mà làm vướng chân vướng tay chúng ta.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tại hạ uống rượu với lão tiền bối, có cản trở gì các hạ đâu?

Lệnh Hồ Xung lại rót thêm một bát rượu, ực một tiếng. Chàng ngẩng cổ uống cạn bát rượu rồi giơ ngón tay cái lên khen:

– Hảo tửu!

Bên trái có người lạnh lùng nói:

– Tiểu tử cút ngay, đừng ngồi đó nữa mà chết uổng mạng. Bọn ta phụng mệnh Đông Phương giáo chủ đi bắt phản đồ Hướng Vấn Thiên. Nếu kẻ nào đến quấy rối sẽ bị chết thê thảm.

Lệnh Hồ Xung nhìn về phía người vừa nói, thấy một hán tử ốm nhom, mặt vàng vọt, mình mặc áo đen, lưng thắt đai màu vàng. Đứng bên cạnh hắn có khoảng hai ba trăm người mặc cũng áo đen, lưng thắt dây đai đủ các màu sắc. Bỗng Lệnh Hồ Xung nhớ lại ngày trước ở ngoài thành Hành Dương, Khúc Dương trưởng lão của Ma giáo cũng mặc áo đen, hình như lưng lão cũng thắt đai màu vàng. Gã ốm nhom đó nói là phụng mệnh Đông Phương giáo chủ truy nã phản đồ, vậy người này cũng là giáo chúng trong Ma giáo. Phải chăng gã ốm này cũng là trưởng lão của Ma giáo?

Lệnh Hồ Xung lại rót thêm một bát rượu, ngửa cổ uống cái ực rồi khen:

– Hảo tửu!

Lệnh Hồ Xung nhìn qua lão già mặc áo trắng tên là Hướng Vấn Thiên, nói:

– Hướng tiền bối, vãn bối đã uống ba bát rượu của tiền bối. Xin đa tạ, đa tạ!

Bỗng nghe có người ở phía Đông quát:

– Tiểu tử này là khí đồ Lệnh Hồ Xung phái Hoa Sơn.

Lệnh Hồ Xung liếc mắt nhìn, nhận ra người nói là Hầu Nhân Hùng, đệ tử phái Thanh Thành. Bây giờ chàng mới nhìn kỹ lại, bên cạnh gã còn có không ít nhân vật trong Ngũ Nhạc kiếm phái.

Một đạo sĩ lớn tiếng nói:

– Lệnh Hồ Xung, sư phụ ngươi nói ngươi hòa mình với yêu tà, quả nhiên không sai. Hai tay tên Hướng Vấn Thiên này nhuốm đầy máu của anh hùng hiệp sĩ, ngươi hòa mình cùng với hắn làm gì? Mau cút đi kẻo bị băm nát như tương bây giờ.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Vị sư thúc này thuộc phái Thái Sơn phải không? Tại hạ và vị tiền bối này chưa bao giờ quen biết, nhưng vì thấy mấy trăm người vây một mình lão thì chẳng ra gì cả. Có bao giờ Ngũ Nhạc kiếm phái lại liên thủ với Ma giáo đâu? Song phương chính tà tại sao lại cùng nhau đối phó với một mình Hướng tiền bối, khiến cho anh hùng thiên hạ chê cười?

Đạo sĩ tức giận nói:

– Bọn ta liên thủ với Ma giáo hồi nào? Bọn Ma giáo truy nã phản đồ của họ còn bọn ta phục thù thay các vị bằng hữu đồng môn đã táng mệnh dưới tay tên ác tặc này. Hai chuyện không có liên can gì với nhau cả.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Hay lắm, hay lắm, chỉ cần các vị lấy một chọi một thì tại hạ tình nguyện ngồi uống rượu ở đây để xem cuộc náo nhiệt.

Hầu Nhân Hùng quát:

– Ngươi là cái thá gì? Mọi người hãy giết tiểu tử này trước rồi tính sổ lão họ Hướng sau.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Nếu giết một mình Lệnh Hồ Xung sao phải cần đến nhiều người động thủ? Xin mời Hầu huynh lên đây là đủ rồi.

Hầu Nhân Hùng đã từng bị Lệnh Hồ Xung đá một cước rớt xuống tửu lâu, biết võ công của mình không bằng nên không dám tiến lên động thủ với hắn. Gã đâu biết nội lực của Lệnh Hồ Xung đã mất hết, dĩ nhiên còn thua xa ngày trước. Còn những người khác dường như kỵ úy Hướng Vấn Thiên nên cũng không dám xông vào lương đình.

Hán tử ốm nhom của Ma giáo quát:

– Họ Hướng kia, chuyện đến nước này thì ngươi mau theo bọn ta đi gặp giáo chủ, xin giáo chủ lão nhân gia xá tội cho, chưa chắc không còn đường sống. Ngươi cũng là anh hùng của bổn giáo, chẳng lẽ muốn đấu nhau cho tan xương nát thịt để người ta cười chê ư?

Hướng Vấn Thiên hừ một tiếng, nâng bát rượu uống cạn, bỗng nghe những tiếng leng keng phát ra.

Lệnh Hồ Xung thấy hai tay lão bị cột bằng một sợi dây xích, vô cùng kinh ngạc, nghĩ: Thì ra lão là tù vượt ngục, ngay cả xích tay cũng chưa tháo ra.

Lệnh Hồ Xung cảm thấy đồng tình với lão, lại nghĩ: Người này đã không thể kháng cự được thì mình phải giúp lão chống đỡ một lúc để chết luôn ở đây cho xong. Nghĩ vậy liền đứng dậy, hai tay chấp sau lưng lớn tiếng nói:

– Vị Hướng tiền bối này tay còn bị xích làm sao có thế động thủ với các vị được? Tại hạ uống ba bát rượu của tiền bối lão nhân gia nên có nghĩa vụ phải giúp tiền bối chống đỡ cường địch. Ai muốn động thủ với Hướng tiền bối thì phải bước qua xác Lệnh Hồ Xung này trước.

Hướng Vấn Thiên thấy Lệnh Hồ Xung khùng khùng điên điên, bỗng dưng lại đưa đầu ra che chở cho mình. Bất giác lão rất ngạc nhiên, hỏi khẽ:

– Tiểu tử, tại sao ngươi muốn giúp ta?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Giữa đường gặp chuyện bất bình, phải rút đao tương trợ.

Hướng Vấn Thiên hỏi:

– Đao của ngươi đâu?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Tại hạ sử kiếm nhưng đáng tiếc không có kiếm.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Kiếm pháp của ngươi thế nào? Ngươi ở phái Hoa Sơn, e rằng kiếm pháp không cao minh lắm.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Không những kiếm pháp chẳng cao minh mà tại hạ lại đang bị trọng thương, nội lực mất hết nên càng hỏng bét.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Ngươi chẳng hiểu gì cả. Được, để ta lấy kiếm cho ngươi.

Chỉ thấy thoáng một cái, lão đã xông về phía quần hào. Trong nháy mắt ánh đao lóe lên, mười mấy binh khí cùng nhắm Hướng lão chém tới. Hướng Vấn Thiên nghiêng người né tránh, lao đến gần một đạo sĩ phái Thái Sơn. Đạo sĩ vung kiếm phóng ra, thoáng một cái Hướng Vấn Thiên lạng người ra sau lưng lão, khuỷu tay trái thúc ngược lại. Bụp một tiếng, lão đánh trúng lưng của đạo sĩ. Lão vung tay một cái, hai thanh trường kiếm trong tay lão đạo sĩ bị dây xích trong tay lão quấn đi. Lão điểm chân phải vọt người về lại lương đình. Mấy cái vọt người của lão thần tốc vô cùng, quần hào chính phái muốn chặn lão lại cũng không kịp. Một tên hán tử đuổi rất nhanh, đến cách lương đình khoảng mấy thước, giơ đơn đao lên chém xuống. Hướng Vấn Thiên giống như có mắt sau lưng, không quay đầu lại, chân trái đá ngược ra sau, mũi chân trúng ngực gã hán tử. Gã hán tử rú lên một tiếng bay thẳng ra, đơn đao tay phải thế chém quá mạnh, chát một tiếng, gã lại chém lên đùi phải của mình.

Đạo nhân phái Thái Sơn loạng choạng mấy cái rồi ngã lăn, máu tươi trong miệng không ngừng phun ra. Mấy chục tên giáo chúng Ma giáo reo lên như sấm:

– Hướng tả sứ thân thủ tuyệt diệu!

Hướng Vấn Thiên mỉm cười, chắp tay hướng về phía bọn Ma giáo đáp tạ tiếng khen, sợi dây xích trong tay lão kêu leng keng. Lão hất tay một cái, phập một tiếng trường kiếm đã cắm lên bàn rồi nói:

– Cầm kiếm đi.

Lệnh Hồ Xung vô cùng khâm phục, thầm nghĩ: Người này oai trấn quần hào, quả nhiên thân thủ thật phi thường. Chàng không đưa tay rút kiếm mà nói:

– Võ công Hướng tiền bối cao cường như vậy, vãn bối hà tất phải khoa trương sự kém cỏi ở đây.

Hồi 76: Lúc nguy hiểm liên thủ chiến đấu

Lệnh Hồ Xung liền cung tay nói:

– Vãn bối xin cáo từ.

Hướng Vấn Thiên chưa kịp trả lời, đã thấy kiếm quang lấp loáng, ba thanh trường kiếm chỉ vào lương đình. Đó là ba tên đệ tử thuộc bọn Hầu Nhân Hùng tấn công đến. Cả ba tên đều chỉ kiếm nhắm vào Lệnh Hồ Xung, một kiếm chỉ vào lưng, hai kiếm chỉ vào hông, khoảng cách không đầy một thước. Hầu Nhân Hùng quát:

– Lệnh Hồ Xung, quỳ xuống đi!

Tiếng quát vừa dứt thì gã đã phóng lên trước, đụng vào người Lệnh Hồ Xung.

Lệnh Hồ Xung nghĩ bụng: Ta đường đường là nam tử hán, tuy hôm nay không mong sống sót nhưng cũng không cam tâm chết dưới kiếm của mấy tên đê tiện phái Thanh Thành nhà ngươi.

Lúc này Lệnh Hồ Xung đã biết đang bị ba mũi kiếm bao vây, chỉ cần xoay người thì một kiếm sẽ đâm vào ngực còn hai kiếm kia sẽ đâm vào bụng dưới. Chàng liền cười ha hả nói:

– Quỳ thì quỳ.

Đầu gối phải hơi quỵ xuống, tay phải đã rút trường kiếm trên bàn, vung một cái, Lệnh Hồ Xung đã chặt đứt cổ tay của ba tên đệ tử phái Thanh Thành. Ba thanh trường kiếm rơi xuống đất. Cả ba tên mặt không còn giọt máu, chúng khó tin rằng trên đời này lại có chuyện như vậy. Chúng hết hồn, đứng ngây một lúc rồi mới nhảy về sau. Một tên trong bọn đệ tử Thanh Thành chỉ khoảng mười tám mười chín tuổi đau quá khóc rống lên. Lệnh Hồ Xung áy náy nói:

– Huynh đệ, tại huynh đệ muốn giết ta trước.

Hướng Vấn Thiên trầm trồ:

– Hảo kiếm pháp!

Rồi lão nói tiếp:

– Thế kiếm không mạnh, nội lực quá yếu.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Nội lực không chỉ quá yếu mà chẳng có chút nào.

Bỗng nhiên Hướng Vấn Thiên quát một tiếng, tiếp theo tiếng dây xích kêu leng keng. Hai tên hán tử mặc áo đen đã xông vào lương đình, tấn công nhanh về Hướng Vấn Thiên. Hai người này một tay lăm lăm cây song hoài trượng làm bằng thép nguyên chất còn tay kia cầm cây song thiết bài, đều là nhữ ng thứ binh khí rất nặng. Bốn thứ binh khí va chạm vào dây xích nơi tay Hướng Vấn Thiên phát ra những tia lửa tung tóe. Hướng Vấn Thiên lạng người mấy cái, muốn vòng ra phía sau để đoạt hoài trượng nhưng người cầm song trượng nghiêm mật phòng thủ, bảo vệ nhữngnđiểm yếu hại trên người. Hai tay của Hướng Vấn Thiên bị dây xích trói chặt nên lão xoay chuyển không linh hoạt lắm.

Bọn Ma giáo liên tục la hét, lại có thêm hai người xông vào lương đình. Hai người này đều sử bát giác đồng chùy vung lên vung xuống rất mãnh liệt. Hai người cầm bốn cây chùy vừa xông đến, thì người sử song hoài trượng liền chuyển từ thế thủ sang thế tấn công. Hướng Vấn Thiên lạng qua lạng lại, thân pháp cực kỳ linh động nhưng cũng không cách nào đả thương được đối thủ. Mỗi khi có cơ hội, lão dùng dây xích tấn công một người, thì ba người kia liều mạng xông vào, thế đánh rất hung hãn.

Hai bên tỉ đấu mười mấy chiêu, tên thủ lãnh bọn Ma giáo quát:

– Bát thương xông vào!

Tám tên hán tử áo đen tay cầm trường thương phân ra bốn phía xông vào lương đình, bốn hướng đều có hai cây trường thương xông vào nhắm Hướng Vấn Thiên mà đâm.

Hướng Vấn Thiên nhìn Lệnh Hồ Xung quát:

– Tiểu bằng hữu, mau tránh ra đi!

Tiếng quát chưa dứt, tám cây trường thương cùng một lúc đâm vào lão. Ngay lúc này bốn cây đồng chùy toan đánh vào ngực, cây song hoài trượng sắp đánh vào chân, hai cây thiết bài nhắm đánh vào mặt, bốn phương tám hướng chỗ nào cũng có sát thủ. Mười hai tên cao thủ Ma giáo mỗi tên đều hạ thủ không chút lưu tình. Xem ra ai ai cũng đều biết giao thủ với Hướng Vấn Thiên là chuyện nguy hiểm nhất trên đời, nếu kéo dài cuộc đấu thì càng bước gần đến Quỷ môn quan.

Lệnh Hồ Xung thấy bọn người này đánh kiểu man rợ, tình thế Hướng Vấn Thiên khó thoát khỏi nguy hiểm liền quát:

– Quân đê tiện!

Hướng Vấn Thiên đột nhiên xoay người một cách thần tốc, vung dây xích đụng vào các binh khí kêu leng keng loảng xoảng. Người lão giống như con vụ xoay tít đến nỗi ai cũng hoa cả mắt. Chỉ nghe loang choang hai tiếng, hai cây thiết bài đụng phải dây xích của lão bị hất văng lên xuyên qua nóc lương đình bay ra ngoài. Hướng Vấn Thiên không thèm để ý các chiêu tấn công của đối phương, lão xoay người càng nhanh khiến cho tám người cầm trường thương phải lùi ra xa. Tên thủ lĩnh của Ma giáo quát:

– Tấn công từ từ để tiêu hao khí lực của lão.

Tám tên sử thương cùng dạ, mỗi tên lùi lại hai bước, chỉ đợi lúc lực của Hướng Vấn Thiên suy giảm, thế dây xích sơ hở thì lập tức tấn công.

Một số người bàng quan từng trải đều nhận ra điều đó. Võ công Hướng Vấn Thiên dù có cao thâm đến đâu cũng quyết khó xoay người liên tục nhanh như vậy. Cách đánh này cuối cùng sẽ hao tổn hết khí lực, phải bó tay chịu trói.

Hướng Vấn Thiên cười ha hả. Bỗng nhiên chân trái hơi lún xuống, lão vung dây xích ra, đánh vào lưng một tên sử đồng chùy. Tên đó thét lên một tiếng, cây đồng chùy tay trái đánh ngược lại trúng đầu gã khiến gã vỡ đầu. Tám tên sử thương cùng xông ra, phân ra trái phải trước sau. Hướng Vấn Thiên vung dây xích hất hai cây trường thương, trường thương của sáu người còn lại không hẹn mà cùng đâm vào hông trái của lão. Trong tình cảnh đó, Hướng Vấn Thiên có tránh được cây thương thứ nhất thì không tránh được cây thương thứ hai, có tránh được cây thương thứ hai thì không tránh được cây thương thứ ba, huống hồ cả sáu cây thương cùng đồng thời đâm tới.

Lệnh Hồ Xung giật mình khi thấy sáu cây thương cùng đâm tới mà Hướng Vấn Thiên không cách nào né được. Đầu chàng lóe lên một ý nghĩ, chàng nhớ ra chiêu thứ tư Phá thương thức trong Độc Cô cửu kiếm. Gặp lúc nguy hiểm trong đường tơ kẽ tóc, đâu có thể nghĩ ngợi gì thêm nữa? Thanh trường kiếm lóe lên, chỉ nghe mấy tiếng choang choang, tám cây trường thương cùng rơi xuống, tám tên sử thương ngã lăn ra đất, chỉ nghe một tiếng loảng xoảng cơ hồ như mấy cây thương cùng rớt xuống một lúc. Một kiếm của Lệnh Hồ Xung phân ra đâm vào tám cổ tay của tám người dĩ nhiên có trước có sau, nhưng vì thế kiếm quá mau lẹ nên tám tên này dường như đồng thời bị trúng kiếm.

Lệnh Hồ Xung đã xuất kiếm ra, thế kiếm khó dừng lại, chàng lại sử tiếp chiêu thứ năm Phá tiên thức. Chiêu Phá tiên thức này chỉ là một tên gọi chung, bên trong biến hóa vô cùng, bất kể cương tiên, thiết giản, điểm huyệt quyết, phán quan bút, trượng tử, Nga Mi thích, trủy thủ, bản phủ, thiết bài, bát giác chùy, thiết thôi và các đoản khí đều có thể phá giải được. Kiếm quang lấp loáng, hai cây hoài trượng và hai cây đồng chùy đã bị đánh rớt. Trong mười hai tên Ma giáo tấn công vào lương đình ngoài một tên bị Hướng Vấn Thiên giết, một người bị đánh rơi thiết bài ra còn mười tên đều bị trúng kiếm nơi cổ tay, binh khí bị rơi xuống. Mười một người la hoảng, vội chạy lùi ra ngoài.

Quần hào chính phái không kìm được đều lớn tiếng reo hò:

– Hảo kiếm pháp!

– Kiếm pháp phái Hoa Sơn khiến cho người ta mở rộng tầm mắt.

Tên thủ lĩnh Ma giáo phát một câu hiệu lệnh, lập tức có năm người tấn công vào lương đình. Một phụ nữ trung niên tay cầm song đao nhắm Lệnh Hồ Xung mà chém; bốn tên đại hán thì vây đánh Hướng Vấn Thiên. Đao pháp của người phụ nữ cực nhanh, một đao hộ thân một đao tấn công, lúc đao tay trái tấn công thì đao tay phải phòng thủ, lúc đao tay phải tấn công thì đao tay trái phòng thủ. Song đao sử liên tục, mỗi chiêu đều vừa tấn công vừa phòng thủ; thủ thì rất nghiêm mật, công thì rất mãnh liệt. Lệnh Hồ Xung nhìn không rõ đường đao, liên tiếp lùi lại bốn bước.

Chỉ nghe tiếng gió vù vù, tựa như có người dùng binh khí mềm đấu với Hướng Vấn Thiên. Lệnh Hồ Xung gặp lúc cấp bách cũng liếc qua một cái, thấy người sử liễn tử chùy và hai người sử nhuyễn tiên đấu kịch liệt với sợi dây xích trên tay Hướng Vấn Thiên. Sợi dây thép ở trên cây liễn tử chùy rất dài, vung lên một cái quất ngang hơn một trượng. Đã mấy lần sợi dây vượt qua đầu Lệnh Hồ Xung. Hướng Vấn Thiên chửi:

– Tổ mẹ đồ chó má!

Một tên hán tử quát:

– Hướng tả sứ, đắc tội!

Thì ra một sợi dây thép trên liễn tử chùy đã quấn chặt sợi dây xích trên tay Hướng Vấn Thiên.

Trong khoảnh khắc, ba tên kia với ba thứ binh khí đồng thời nhắm đánh vào Hướng Vấn Thiên.

Hướng Vấn Thiên hú một tiếng, vận kình lực kéo mạnh, lão đã kéo được người sử liễn tử chùy về phía mình để đỡ cho mình. Hai cây nhuyễn tiên và cương chùy đều đánh vào lưng người đó.

Lệnh Hồ Xung phóng kiếm chênh chếch đâm ra, thế kiếm phiêu bồng đâm trúng vào cổ tay trái của người phụ nữ. Nghe choang một tiếng, trường kiếm oằn lại, cây liễu diệp đao trong tay người phụ nữ không bị rớt xuống, mụ vung lưỡi đao quét ngang một cái. Lệnh Hồ Xung giật mình hiểu ra: Trên cổ tay mụ có đeo thiết bố sam bảo vệ nên kiếm đâm không vào được.

Cổ tay Lệnh Hồ Xung hơi nhích lên, chàng phóng trường kiếm bật cao lên, chát một tiếng, kiếm đâm trúng vào huyệt Kiên trinh trên vai trái của mụ. Người phụ nữ sửng sốt, nhưng mụ ta rất hung hãn, tuy vai trái đau buốt nhưng đao tay phải vẫn cố sức chém tới. Trường kiếm của Lệnh Hồ Xung lóe lên, huyệt Kiên trinh trên vai phải của mụ ta lại bị trúng kiếm. Mụ cầm binh khí không vững nữa, liền sử kình lực ném song đao về phía Lệnh Hồ Xung nhưng hai cánh tay mụ không phát huy được lực đạo nên hai thanh đao chỉ văng ra hơn một thước liền rớt xuống đất.

Lệnh Hồ Xung vừa chế phục được người phụ nữ thì một đạo nhân mặt xanh lè trong đám quần hào chính phái bên mé phải vung kiếm xông đến quát:

– Phái Hoa Sơn e không có thứ kiếm pháp yêu tà này.

Lệnh Hồ Xung thấy trang phục của lão thì biết lão là trưởng bối của phái Thái Sơn, vừa rồi một đồng môn của lão bị Hướng Vấn Thiên đả thương nên lão xông lên để trả thù. Tuy Lệnh Hồ Xung bị sư phụ trục xuất nhưng từ nhỏ đã làm môn hạ phái Hoa Sơn, Ngũ Nhạc kiếm phái đồng khí liên chi, nên thấy vị tiền bối phái Thái Sơn này thì tự nhiên có ý cung kính. Chàng liền xoay trường kiếm lại, chĩa mũi kiếm xuống đất rồi cung tay nói:

– Đệ tử không dám đắc tội với sư bá phái Thái Sơn.

Đạo nhân này có đạo hiệu là Thiên Ất, cùng hàng với Thiên Môn đạo nhân và Thiên Tùng đạo nhân. Lão lạnh lùng hỏi:

– Người sử thứ kiếm pháp gì vậy?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Kiếm pháp mà đệ tử sử là do một vị trưởng bối phái Hoa Sơn truyền cho.

Thiên Ất đạo nhân hừ một tiếng nói:

– Nói bậy, không biết ngươi đã đi bái tên yêu ma nào làm sư phụ. Xem kiếm đây!

Lão vung kiếm lên nhắm vào ngực Lệnh Hồ Xung đâm tới, kiếm quang lấp loáng, trường kiếm phát ra tiếng vù vù, chỉ một chiêu kiếm này mà bảy đại huyệt Thiện trung, Thần tàng, Linh khư, Thần phong, Bộ lang, U môn, Thông cốc ở trước ngực Lệnh Hồ Xung đều bị khống chế. Bất luận Lệnh Hồ Xung né về hướng nào cũng có một huyệt đạo sẽ bị mũi kiếm của lão đâm trúng. Chiêu kiếm này gọi là Thất tinh lạc trường không, là một chiêu tinh yếu của Thái Sơn kiếm pháp. Chiêu này phát ra thì đối phương phải có khinh công cao cường tung người lên hơn một trượng mới có thể né tránh được. Nhưng cũng phải biết được chiêu Thất tinh lạc trường không để lúc chiêu kiếm vừa phát ra phải bay vọt lên ngay, không được do dự mới có thể tránh bị mũi kiếm đâm xuyên qua ngực, và sau khi rớt xuống đất lại phải ứng phó với ba chiêu kiếm cực kỳ lợi hại tiếp theo. Ba chiêu này hiểm độc như nhau được phát ra theo thế liên hoàn thật khó chống đỡ.

Thiên Ất đạo nhân thấy kiếm pháp lợi hại của Lệnh Hồ Xung nên lão ra chiêu kiếm đầu tiên là chiêu này. Từ khi tiền bối phái Thái Sơn sáng chế ra chiêu kiếm này lão chưa từng với ai động thủ, đây là lần đầu tiên.

Lệnh Hồ Xung giật mình, bỗng nhớ mình đã thấy qua chiêu này khắc trên vách đá sau hậu động trên ngọn núi sám hối, ngày trước đã học qua để đối phó với Điền Bá Quang. Có điều chàng chưa học đến nơi nên chưa thể thủ thắng, nhưng thế đánh của chiêu kiếm pháp này chàng đã thuộc lòng. Lúc này kiếm khí mịt mùng sắp chụp vào người, không nghĩ ngợi gì nữa, chàng liền vung kiếm đâm thẳng vào bụng dưới của Thiên Ất đạo nhân. Chiêu kiếm này đúng là chiêu học từ đồ hình trên vách đá mà Lệnh Hồ Xung dùng để phá giải, mới nhìn tưởng như chàng liều mạng với lão theo kiểu đồng quy ư tận. Kỳ thực chiêu Thất tinh lạc trường không này của phái Thái Sơn phân làm hai phần, phần thứ nhất dùng kiếm khí để phong tỏa bảy đại huyệt ở trước ngực địch nhân, khiến địch nhân kinh hoàng luống cuống, phần thứ hai là chọn một huyệt đạo mà đâm vào. Kiếm khí tuy bao trùm cả bảy huyệt, nhưng chỉ một kiếm là đâm địch chết ngay. Chiêu kiếm này bất luận đâm trúng một huyệt nào đều có thể khắc địch thủ thắng, nên không cần đâm trúng bảy huyệt một lúc, mà cũng không thể đâm trúng cùng lúc bảy huyệt. Chiêu này có hai phần, đó chính là chỗ lợi hại, nhưng năm xưa Ma giáo trưởng lão đã nghiên cứu tỉ mỉ tìm ra nhược điểm về chỗ lợi hại này. Đợi sau khi đối phương sử ra phần thứ nhất của kiếm pháp liền tấn công vào bụng dưới của đối phương, chiêu Thất tinh lạc trường không này bị đứt đoạn, không hoàn thành hết chiêu thức được.

Thiên Ất đạo nhân thấy thế kiếm ảo diệu của Lệnh Hồ Xung, tuyệt không cách nào đỡ gạt được. Lão kinh hãi thất sắc, la toáng lên, nghĩ rằng bụng của mình chắc bị kiếm đâm vào. Trong lúc kinh hoàng tưởng không biết đau đớn, lão hoảng loạn cho rằng mình đã chết rồi liền ngã xuống đất. Kỳ thực mũi kiếm của Lệnh Hồ Xung vừa đến bụng dưới của lão liền dừng lại không phát ra nữa, không ngờ Thiên Ất đạo nhân kinh hãi quá mức, chỉ bị dọa cũng ngất đi.

Môn hạ phái Thái Sơn thấy Thiên Ất ngã xuống đất đều cho là lão bị Lệnh Hồ Xung đả thương liền đua nhau mắng chửi, năm tên thanh niên đạo nhân liền phóng kiếm tấn công. Năm người này đều là môn hạ của Thiên Ất, vì nóng lòng báo thù cho sư phụ nên năm thanh trường kiếm vội phóng ra xoay tít như gió táp mưa sa. Trường kiếm của Lệnh Hồ Xung liên tục điểm, cổ tay của năm tên đạo sĩ đều bị trúng kiếm, trường kiếm của chúng rớt loảng xoảng xuống đất. Năm tên này kinh hãi nhảy lùi ra. Thấy Thiên Ất đạo nhân đứng dậy run cầm cập la lên:

– Hắn đâm chết ta rồi, hắn đâm chết ta rồi!

Năm tên đệ tử thấy người lão không bị thương mà miệng vẫn không ngớt la om sòm, chúng đều kinh ngạc, không biết lão sống hay chết nữa. Thiên Ất đạo nhân la rùm mấy tiếng, thân người loạng choạng lại té ngã xuống. Hai tên đệ tử chạy đến đỡ lão dậy vội vã thối lui.

Quần hào thấy Lệnh Hồ Xung mới sử nửa chiêu đã khiến cho Thiên Ất đạo nhân cao thủ phái Thái Sơn không biết mình sống hay chết nên ai cũng kinh sợ.

Lúc này bọn vây đánh Hướng Vấn Thiên lại thay đổi mấy người. Hai tên hán tử sử kiếm là người trong phái Hành Sơn, song kiếm vung lên chém xuống rất thần tốc nhằm tìm chỗ sơ hở trong sợi dây xích trên tay Hướng Vấn Thiên. Còn một tên khác tay trái cầm lá mộc, tay phải sử đao, là một nhân vật trong Ma giáo. Tên này dùng mộc để hộ thân, đồng thời triển khai Địa đường đao pháp, lăn xả vào gần chân Hướng Vấn Thiên, dùng đao chém hạ bàn của lão. Hướng Vấn Thiên liên tiếp vung dây xích đánh hai cái mạnh lên cái lá mộc nhưng đều không đả thương được gã. Cây cương đao ở dưới cái mộc bỗng đưa ra bỗng thụt vào, chiêu số rất tàn độc.

Lệnh Hồ Xung nghĩ: Người này dùng lá thuẫn hộ thân, phòng thủ nghiêm mật, nhưng gã vừa xuất đao tấn công thì trên người lại sơ hở, có thể lập tức chặt đứt cánh tay gã.

Bỗng nghe đằng sau có người quát:

– Tiểu tử, ngươi còn muốn sống nữa không?

Tuy tiếng quát không lớn nhưng cự ly rất gần dường như không đầy một hai thước. Lệnh Hồ Xung giật mình quay lại thì mặt đối mặt với người quát, cơ hồ mũi cả hai sắp đụng nhau. Chàng vội né qua nhưng song chưởng của người đó đã nắm lấy ngực chàng lạnh lùng nói:

– Ta mà nhả nội lực ra thì bao nhiêu xương sườn của ngươi gãy hết.

Lệnh Hồ Xung biết lão nói thật, nên đứng không dám nhúc nhích, trái tim dường như ngừng đập. Hai mắt lão nhìn chằm chằm, nhưng vì khoảng cách quá gần nên chàng không cách nào nhìn rõ dung mạo của lão, nhưng thấy thần quang hai mắt của lão lấp loáng rất uy mãnh thì nghĩ: Thì ra mình chết vì tay người này.

Lệnh Hồ Xung nghĩ việc sống chết là đại sự chung quy chỉ xảy ra một lần nên cảm thấy thư thái.

Lúc đầu, người này thấy ánh mắt của Lệnh Hồ Xung có vẻ kinh hoàng nhưng chỉ trong khoảnh khắc trở lại vẻ thản nhiên. Đến lúc sắp chết mà không sợ thì dù là cao nhân tiền bối trong võ lâm cũng khó có thể bình thản như vậy. Bất giác lão sinh lòng khâm phục, cười ha hả nói:

– Ta đánh lén ngươi mà đắc thủ, kìm chế được yếu huyệt của ngươi. Tuy ta giết ngươi nhưng ngươi có chết cũng không phục.

Gã liền buông tay ra, thụt lùi ba bước.

Lúc đó, Lệnh Hồ Xung mới nhìn rõ. Người này mập lùn, da mặt vàng khè, khoảng năm chục tuổi, hai bàn tay vừa nhỏ vừa dày, một chưởng đưa lên cao, một chưởng để xuống thấp, rõ ràng là chiêu thức Tung dương thủ. Lệnh Hồ Xung mỉm cười nói:

– Vị này là tiền bối phái Tung Sơn, xin hỏi tôn tính đại danh là gì? Đa tạ tiền bối chưởng hạ lưu tình.

Người này nói:

– Ta là Hiếu cảm Lạc Hậu.

Lão ngừng một lúc rồi nói tiếp:

– Kiếm pháp của ngươi quả thật rất cao thâm, có điều chưa đủ kinh nghiệm lúc lâm địch.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Thật hổ thẹn. Thân pháp của Đại âm dương thủ Lạc sư bá thật mau lẹ phi thường.

Lạc Hậu nói:

– Hai tiếng sư bá ta không dám nhận.

Lão liền giơ chưởng trái lên, chưởng phải phóng ra một chiêu. Thân người lão xấu xí, nhưng vừa phóng chưởng ra thì oai phong lẫm liệt, khí phách hiên ngang, đẹp không sao tả nổi.

Lệnh Hồ Xung thấy toàn thân lão không có chỗ nào sơ hở liền cất tiếng khen:

– Hảo chưởng pháp!

Chàng phóng trường kiếm chênh chếch đâm ra. Vì thấy trong chiêu thức chưởng pháp của Lạc Hậu không chỗ sơ hở, nên chiêu kiếm này vừa thủ vừa công, chín phần hư chỉ một phần thực. Lạc Hậu thấy trường kiếm của Lệnh Hồ Xung phóng chênh chếch ra, song chưởng của mình bất luận là đánh vào bộ vị nào của hắn thì lòng bàn tay cũng tự đâm vào mũi kiếm. Song chưởng chỉ đánh ra hơn một thước, lão liền thu chưởng về, nhảy lùi lại hoan hô:

– Hảo kiếm pháp!

Lệnh Hồ Xung nói:

– Vãn bối vô lễ.

Lạc Hậu quát:

– Cẩn thận!

Song chưởng lão đưa lên cao đẩy ra, một luồng chưởng phong mãnh liệt xông đến. Lệnh Hồ Xung la thầm: Không xong rồi!

Lúc này khoảng cách giữa Lạc Hậu và Lệnh Hồ Xung rất xa, song chưởng kình lực đánh tới, Lệnh Hồ Xung không cách nào dùng trường kiếm đỡ gạt được. Chàng vừa toan né tránh bỗng cảm thấy một luồng khí lạnh chụp lên người, liền run lên cầm cập. Chưởng lực song chưởng của Lạc Hậu không xuất ra đồng thời, một âm một dương, trước khi dương chưởng xuất ra thì âm chưởng đã đánh vào cơ thể. Lệnh Hồ Xung ngẩn người ra, một luồng chưởng phong nóng đánh đến, khiến chàng muốn nghẹt thở, người loạng choạng.

Chưởng lực âm dương của song chưởng đã xông vào người thì không thể thoát được. Nội lực của Lệnh Hồ Xung tuy đã mất hết nhưng chân khí lại đầy rẫy. Chàng đã có sáu luồng chân khí của Đào Cốc lục tiên, lại có thêm chân khí của Bất Giới hòa thượng; khi ở trong Thiếu Lâm tự dưỡng thương lại có thêm chân khí của Phương Sinh đại sư. Mỗi luồng chân khí đều rất hùng hậu. Hai luồng chưởng lực một âm một dương này đánh vào người Lệnh Hồ Xung khiến chân khí trong nội thể của chàng tự nhiên phát sinh lực tương ứng để bảo vệ tim mạch nội tạng nên không bị tổn thương. Nhưng lúc này toàn thân Lệnh Hồ Xung bị chấn động khó chịu vô cùng. Chàng sợ Lạc Hậu dùng chưởng lực đánh tiếp, liền cầm kiếm xông ra ngoài lương đình rồi vung kiếm phóng nhanh ra.

Song chưởng của Lạc Hậu đắc thủ, cho rằng đối phương không táng mệnh ngay tại chỗ cũng bị trọng thương ngã lăn xuống đất. Nào ngờ Lệnh Hồ Xung lại bình an vô sự. Lão lại thấy kiếm quang của hắn lấp loáng chỉ vào lòng bàn tay mình thì kinh dị vô cùng. Song chưởng giao nhau, một chưởng đánh vào mặt của Lệnh Hồ Xung còn một chưởng đánh vào bụng dưới của hắn. Chưởng lực vừa nhả ra, đột nhiên lão thấy đau thấu tận tâm can, chỉ thấy hai bàn tay của mình dính lại, đã bị trường kiếm của Lệnh Hồ Xung xuyên qua. Lão không biết hắn dùng trường kiếm liên tiếp đâm vào song chưởng của mình hay là song chưởng của mình tự đánh lên mũi kiếm của hắn. Nhưng lão chỉ thấy chưởng trái ở trên chưởng phải ở dưới, mũi kiếm từ lưng bàn tay của chưởng trái xuyên qua năm tấc.

Nếu Lệnh Hồ Xung thuận thế phóng trường kiếm tới thì lập tức đâm vào ngực của lão nhưng chàng nghĩ lại vừa rồi lão đã nương tình, nên sau khi kiếm xuyên qua song chưởng, chàng liền dừng kiếm lại.

Lạc Hậu thét lên, rụt song chưởng về, rút tay ra khỏi lưỡi kiếm rồi vọt người lùi ra.

Lệnh Hồ Xung áy náy gọi:

– Tại hạ đắc tội.

Lệnh Hồ Xung đã sử tuyệt chiêu Phá chưởng thức trong Độc Cô cửu kiếm. Từ khi Phong Thanh Dương quy ẩn, chưa bao giờ thấy chiêu này xuất hiện trên giang hồ.

Bỗng nghe tiếng loảng xoảng, ầm ầm vang lên. Lệnh Hồ Xung quay đầu lại thấy bảy tám tên hán tử vây đánh Hướng Vấn Thiên, trong đó có hai người sử chưởng lực rất lợi hại, đã đánh gãy cả cột của quán lương đình, ngói trên nóc rơi xuống. Mọi người chiến đấu hăng say, bị ngói rớt trên đỉnh đầu cũng mặc.

Lệnh Hồ Xung đưa mắt nhìn thấy Lạc Hậu xông gần đến mình, từ xa đã phát ra chưởng lực đánh vào ngực hắn. Thân người Lệnh Hồ Xung bay đi, trường kiếm bị rớt khỏi tay. Lưng của Lệnh Hồ Xung chưa chạm đất đã có bảy tám người đuổi đến cùng vung binh khí nhắm đánh lên người. Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Ta chết dễ dàng vậy sao?

Bỗng nhiên cảm thấy lưng của mình bị siết chặt. Một sợi dây xích bay đến quấn chặt người Lệnh Hồ Xung lại, rồi tung lên tưởng chừng như đang đằng vân giá vũ. Chàng đã được người ôm lên mà chạy.

Hồi 77: Hướng Vân Thiên trí dũng hơn người

Người cứu tính mạng của Lệnh Hồ Xung chính là Ma giáo cao thủ Hướng Vấn Thiên. Lão bị bọn Ma giáo và chính giáo cùng vây đánh, truy kích, lúc thế cùng lực kiệt bỗng có một thiếu niên không sợ trời đất thấy chuyện bất bình ra tay tương trợ khiến lão cảm kích vô cùng, xem như tri kỷ. Lão vừa thấy Lệnh Hồ Xung thất thủ thì biết thiếu niên này tuy kiếm pháp rất cao thâm nhưng nội lực lại kém cỏi, bị cường địch vây đánh như vậy thì rất nguy hiểm. Cho nên một mặt lão đối phó với địch nhân, một mặt lại để ý đến tình huống chiến đấu của Lệnh Hồ Xung. Khi thấy Lệnh Hồ Xung bị đánh văng ra, lão liền vung dây xích quấn lấy hắn phóng đi như cuồng phong. Hướng Vấn Thiên triển khai khinh công nhanh như ngựa phi, trong khoảnh khắc lão đã chạy được mấy chục trượng.

Ở đằng sau mấy chục người chạy như bay đến, chỉ nghe mấy chục cái miệng la lối ỏm tỏi:

– Hướng Vấn Thiên trốn rồi! Hướng Vấn Thiên trốn rồi!

Hướng Vấn Thiên tức giận, bỗng quay người lại, xông về trước mấy bước. Những người đuổi theo giật mình kinh hãi vội dừng lại. Có một người công phu hạ bàn còn non nớt, chạy nhanh quá không dừng lại được, cứ lao thẳng về trước. Hướng Vấn Thiên vung chân trái lên đá trúng gã hất ngược về giữa đám đông rồi quay người chạy tiếp. Mọi người lại truy đuổi theo sau, nhưng ai cũng không dám đuổi hết sức và khoảng cách càng lúc càng xa dần.

Hướng Vấn Thiên vừa chạy vừa nghĩ: Thiếu niên này với ta chưa từng quen biết, lại chịu hy sinh vì ta. Bằng hữu như vậy trong thiên hạ tìm đâu cho thấy? Nhưng những âm hồn của bọn nhãi con cứ bám theo mãi, làm sao thoát khỏi bọn chúng đây?

Lão chạy một lúc, chợt nhớ ra một nơi liền mừng thầm trong bụng. Lão lẩm bẩm: Nơi đó hay lắm.

Lão lại chuyển đổi ý nghĩ: Nhưng cách đây rất xa, không biết có đủ sức để chạy đến đó không? Không sao, nếu ta không còn sức thì bọn nhãi con kia cũng kiệt lực.

Lão ngẩng đầu lên nhìn mặt trời, định phương hướng, rồi chạy vượt qua đồng lúa mạch, nhắm hướng Đông Bắc mà tiến. Sau khi chạy hơn mười dặm, gặp một con đường lớn, có ba con ngựa chạy lướt qua. Hướng Vấn Thiên chửi:

– Bà mẹ nó!

Lão đề khí lao nhanh tới, đuổi kịp sau lưng con ngựa, vọt người lên không phóng cước đá người cưỡi ngựa rớt xuống đất rồi ngồi xuống lưng ngựa thế chỗ. Lão đặt Lệnh Hồ Xung nằm ngang ngựa rồi vung dây xích đánh rớt hai người cưỡi ngựa khác xuống đất. Hai người này bị té xuống gãy xương, chắc khó sống được. Cả ba người đều là thường dân, xem cách ăn mặc của họ thì không phải là người trong võ lâm, nhưng họ không may gặp phải sát tinh nên bị uổng mạng. Hai người cưỡi ngựa rớt xuống đất, hai con ngựa vẫn tiếp tục chạy theo. Hướng Vấn Thiên vung dây xích lên quấn lấy dây cương, sợi dây xích trong tay lão chuyển động theo ý muốn giống như một cánh tay rất dài.

Lệnh Hồ Xung thấy lão lạm sát người vô tội, bất giác ngấm ngầm than thở.

Hướng Vấn Thiên cướp được ba con ngựa, tinh thần phấn chấn, lão ngửa mặt lên trời cười hô hố rồi nói:

– Tiểu huynh đệ, những thằng nhãi con đó đuổi không kịp chúng ta đâu.

Lệnh Hồ Xung cười nhạt nói:

– Hôm nay đuổi không kịp thì ngày mai chúng đuổi cũng kịp.

Hướng Vấn Thiên chửi:

– Tổ mẹ nó, đuổi con mẹ nó! Ta sẽ giết sạch từng tên một.

Hướng Vấn Thiên luân phiên cưỡi ba con ngựa, chạy trên đường lớn một lúc rồi quẹo qua một con đường núi. Đường đi dần dần dốc lên, sau cùng thì ngựa không đi được nữa. Hướng Vấn Thiên hỏi:

– Tiểu huynh đệ có đói không?

Lệnh Hồ Xung gật đầu hỏi:

– Tiền bối có mang theo lương khô ư?

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Không có lương khô thì uống máu ngựa vậy.

Lão nhảy xuống ngựa, đưa năm ngón tay phải bấu vào cổ con ngựa xuyên thủng một lỗ, máu ngựa tuôn ra như suối. Hướng Vấn Thiên kê miệng vào uống ừng ực mấy ngụm máu ngựa rồi nói:

– Tiểu huynh đệ uống đi.

Lệnh Hồ Xung thấy tình cảnh như vậy, lòng rất kinh hãi. Hướng Vấn Thiên hỏi:

– Không uống máu ngựa làm sao có sức để nghênh địch?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Còn đánh nữa ư?

Hướng Vấn Thiên hỏi:

– Tiểu huynh đệ sợ à?

Lệnh Hồ Xung bỗng nổi hào khí, cười ha hả nói:

– Tiền bối nói tại hạ sợ phải không?

Chàng liền đưa miệng vào cổ ngựa, cảm thấy máu ngựa chảy vào cổ họng liền nuốt xuống.

Lúc đầu mùi tanh xông vào mũi nhưng uống vài ngụm thì không còn thấy khó ngửi nữa. Lệnh Hồ Xung uống một hơi mười mấy ngụm lớn đến lúc bụng no mới thôi. Hướng Vấn Thiên lại kề miệng vào uống tiếp nhưng không bao lâu thì con ngựa đứng không vững, hý lên một tiếng dài thống thiết rồi ngã lăn xuống đất. Hướng Vấn Thiên giơ chân trái đá con ngựa rớt xuống khe suối.

Lệnh Hồ Xung không khỏi ngạc nhiên. Con ngựa to như vậy, nặng ít nhất cũng khoảng năm sáu trăm cân mà lão tùy ý nhấc chân đá đi. Hướng Vấn Thiên lại đá con ngựa thứ hai xuống rồi lão quay người lại vung chưởng chém đứt chân sau của con ngựa thứ ba và chặt luôn đùi sau của con ngựa đó. Con ngựa hý lên vang trời, bị Hướng Vấn Thiên đá rớt xuống khe núi mà vẫn còn hý không dứt.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tiểu huynh đệ cầm một đùi, có thể làm lương thực cho cả mười ngày.

Lệnh Hồ Xung mới hiểu ra. Thì ra lão chặt đùi ngựa là dùng để làm lương thực chứ không phải vì tính tàn nhẫn hiếu sát. Chàng liền nghe lời lấy một đùi ngựa. Thấy Hướng Vấn Thiên cầm cái đùi ngựa leo lên núi, chàng liền đi theo sau lão. Hướng Vấn Thiên đi rất chậm, lão bước khoan thai. Nội lực của Lệnh Hồ Xung không còn nên đi không được nửa dặm thì đã rớt lại tuốt đằng sau, thở hồng hộc, mặt xanh mét. Hướng Vấn Thiên đành phải dừng bước đợi. Lệnh Hồ Xung đi thêm khoảng được một dặm thì không nổi nữa liền ngồi xuống bên đường nghỉ chân. Hướng Vấn Thiên nói:

– Tiểu huynh đệ, tiểu huynh đệ thật là kỳ lạ. Nội lực đã kém như vậy nhưng lại bị trúng hai lần chưởng lực Đại âm dương thủ của cái quân trứng thúi Lạc Hậu mà không sao cả, khiến người ngoài thật không hiểu nổi.

Lệnh Hồ Xung cười gượng nói:

– Làm gì có chuyện không sao cả. Lục phủ ngũ tạng của vãn bối đã bị chấn động lộn nhào cả lên rồi, cũng không biết đã bị mười mấy loại nội thương. Chính vãn bối cũng thấy kỳ quái, sao đến lúc này mình vẫn còn sống. Chỉ e vãn bối sẽ ngã ra bất cứ lúc nào, có muốn bò cũng bò không nổi.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tiểu huynh đệ, chúng ta hãy nghỉ thêm một chút nữa.

Lệnh Hồ Xung muốn nói rõ với lão mạng của mình chẳng còn bao lâu nữa, không cần phải đợi khiến cho địch nhân đuổi kịp. Nhưng chàng chuyển đổi ý nghĩ, cho rằng người này rất hào hiệp, quyết không chịu bỏ rơi mình mà trốn đi. Nếu nói như vậy không chừng lão sẽ coi thường mình.

Hướng Vấn Thiên ngồi trên tảng đá hỏi:

– Tiểu huynh đệ, nội lực của tiểu huynh đệ vì sao mất hết?

Lệnh Hồ Xung mỉm cười:

– Chuyện này nói ra thật nực cười.

Lệnh Hồ Xung liền đem chuyện mình bị thương thế nào, Đào Cốc lục tiên vì mình mà truyền chân khí để trị thương ra sao, sau đó Bất Giới hòa thượng lại truyền thêm chân khí vào nội thể mình thế nào. Chàng lần lượt kể lại tất cả.

Hướng Vấn Thiên cười ha hả, tiếng cười chấn động cả sơn cốc, lão nói:

– Chuyện kỳ lạ như vậy, lão Hướng ta hôm nay mới nghe lần đầu.

Lão đang cười, bỗng nghe có tiếng quát từ xa truyền lại:

– Hướng Vấn Thiên, ngươi chạy không thoát đâu, hãy ngoan ngoãn đầu hàng đi.

Hướng Vấn Thiên vẫn cười ha hả nói:

– Nực cười thật! Nực cười thật! Đào Cốc lục tiên và Bất Giới hòa thượng là những tên đại ngu ngốc nhất trong thiên hạ.

Lão lại cười ba tràng liên tiếp, nhếch cặp lông mày lên chửi:

– Tổ mẹ nó, bầy trứng thúi đuổi đến rồi.

Lão dang hai tay ôm Lệnh Hồ Xung vào lòng, cái đùi ngựa đành bỏ lại bên đường, đề khí chạy nhanh.

Lão vắt giò chạy cật lực, Lệnh Hồ Xung có cảm giác như mình đang đằng vân giá vũ. Không bao lâu, bỗng thấy trước mặt một vùng sương núi, lão đã chuồn vào trong làn sương mù dày đặc.

Lệnh Hồ Xung nghĩ: Tuyệt diệu! Trên ngọn núi này thì mấy trăm người kia không cách nào vào một lúc được, đành phải từng người một vào độc chiến. Ta và vị Hướng tiên sinh này có thể đối phó được.

Nhưng ở phía sau, tiếng hô hoán càng lúc càng gần, hiển nhiên bọn người đuổi theo cũng đều là những cao thủ khinh công cao cường. Tuy so với Hướng Vấn Thiên thì không bằng nhưng vì lão đang ôm thêm Lệnh Hồ Xung nên tốc độ không khỏi bị chậm lại.

Hướng Vấn Thiên chạy đến một khúc quanh, đặt Lệnh Hồ Xung xuống, nói khẽ:

– Đừng lên tiếng.

Hai người đứng nép mình vào vách đá. Trong khoảnh khắc, tiếng bước chân mỗi lúc một gần, có người đuổi đến.

Hai người đuổi theo chạy quá nhanh, trong sương mù không thấy Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung. Họ chạy vượt qua khỏi hai người thì mới phát hiện ra, toan dừng bước quay lại. Song chưởng của Hướng Vấn Thiên phóng ra vừa mãnh liệt vừa chuẩn xác, bọn chúng chưa kịp lên tiếng thì đã rớt xuống khe núi, một lúc sau mới vọng lên hai tiếng uỳnh uỳnh. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Lúc hai người này rớt xuống, sao không có tiếng kêu la? Phải rồi, hai người trúng chưởng lực đã chết trước khi rớt xuống.

Hướng Vấn Thiên cười ha ha nói:

– Hai tên khốn kiếp này bình thường giễu võ giương oai, tự xưng cái gì là Điểm Thương song kiếm, kiếm khí xung thiên. Mẹ kiếp, rớt xuống khe núi, xú khí xung thiên thì có!

Lệnh Hồ Xung đã từng nghe đến tên Điểm Thương song kiếm, nghe nói kiếm pháp của hai người này rất cao thâm, đã từng giết không ít nhân vật lợi hại trong hắc đạo. Không ngờ họ chết ở đây mà không biết tại sao, ngay cả tướng mạo của họ chàng cũng chưa kịp nhìn rõ.

Hướng Vấn Thiên lại ôm Lệnh Hồ Xung lên nói:

– Từ đây đến Tiên Sầu Giáp còn khoảng mười dặm, khi đến đó rồi thì chẳng ngại những tên khốn kiếp nữa.

Lão nói xong, chạy càng lúc càng nhanh. Có tiếng bước chân phía sau, mấy người đuổi đến. Đường núi đi quẹo qua hướng Đông, bên cạnh không có vực thẳm, Hướng Vấn Thiên không thể giở lại trò núp vách núi đánh lén nữa, đành phải đề khí chạy thẳng.

Bỗng nghe vù một tiếng, một thứ ám khí xé gió bay đến rất mạnh, rõ ràng là ám khí có trọng lượng rất nặng. Hướng Vấn Thiên để Lệnh Hồ Xung xuống, quay người lại bắt lấy, cất tiếng chửi:

– Họ Hà kia, ngươi cũng hòa mình vào dòng nước đục này ư?

Có tiếng người từ trong đám sương mù vọng lại:

– Ngươi là tai họa của võ lâm, ai ai cũng phải tru diệt. Hãy tiếp một chùy nữa của ta.

Chỉ nghe tiếng vù vù bất tuyệt, miệng hắn nói một chùy mà ít nhất cũng có bảy tám phi chùy ném tới.

Lệnh Hồ Xung nghe tiếng ám khí rít lên thì ngấm ngầm lo lắng: Phong thái sư thúc tổ truyền kiếm pháp cho ta tuy có thể đánh được bất kỳ loại ám khí nào, nhưng phi chùy này được ném với kình lực lợi hại như vậy, trường kiếm của ta dù có đánh trúng nhưng nội lực không còn, tất trường kiếm bị chấn động, sẽ gãy mất.

Hướng Vấn Thiên hai chân dạng ra, người cúi về phía trước, nét mặt rất căng thẳng, không thản nhiên như lúc ở trong lương đình bị quần địch bao vây. Từng quả phi chùy bay đến trước mặt lão đều tắt hẳn âm thanh, chắc đã bị lão thu hết rồi.

Bỗng nghe tiếng vù vù dữ dội, không biết có bao nhiêu phi chùy cùng lúc ném ra. Lệnh Hồ Xung biết đây là thủ pháp Mãn thiên hoa vũ, vốn chỉ để phóng những ám khí nhỏ bé như kim tiền tiêu, thiết liên tử. Tiếng phi chùy rít lên trong không khí, mỗi quả chùy nếu không nửa cân thì cũng một cân, sao có thể cùng một lúc phóng ra mấy chục quả được? Lệnh Hồ Xung nghe tiếng phi chùy rít lên, hắn liền nằm phục xuống đất. Hướng Vấn Thiên thét lên thất thanh:

– Úi chao!

Dường như lão bị trọng thương. Lệnh Hồ Xung kinh hãi cố nhảy lên chắn trước mặt lão, vội hỏi:

– Hướng tiên sinh, tiên sinh bị thương rồi ư?

Hướng Vấn Thiên nói ấp úng:

– Ta… ta không xong rồi. Ngươi… ngươi mau chạy.

Lệnh Hồ Xung lớn tiếng nói:

– Hai chúng ta đồng sinh cộng tử, Lệnh Hồ Xung quyết không bỏ tiên sinh đi tìm cái sống một mình.

Bọn người đuổi theo lớn tiếng reo hò.

– Hướng Vấn Thiên trúng phi chùy rồi!

Trong làn sương trắng mịt mờ ẩn hiện mười mấy người dần dần đến gần.

Giữa lúc này một luồng kình phong mãnh liệt lướt qua bên mình của Lệnh Hồ Xung. Hướng Vấn Thiên cười ha hả, mười mấy người ở trước mặt lần lượt ngã xuống đất. Thì ra mấy chục quả phi chùy đều bị lão giữ lại trong tay. Lão giả vờ trúng chùy bị thương, khiến cho địch nhân không phòng bị rồi dùng thủ pháp Mãn thiên hoa vũ phát xạ trở lại.

Sương mù dày đặc, mắt nhìn không rõ mà tiếng la của Lệnh Hồ Xung hoảng hốt rõ ràng đúng sự thực khiến đối phương nghe đều tin, không còn nghi ngờ gì nữa. Hướng Vấn Thiên lại có thể dùng thủ pháp Mãn thiên hoa vũ phát xạ ám khí nặng như vậy là vượt ra ngoài dự liệu của những kẻ truy đuổi. Mười mấy người đi đầu hoặc chết hoặc bị thương, không một người nào thoát.

Hướng Vấn Thiên ôm Lệnh Hồ Xung lên rồi quay người chạy tiếp, lão nói:

– Hay lắm, tiểu huynh đệ rất có nghĩa khí.

Lão nghĩ Lệnh Hồ Xung ôm mối bất bình chẳng qua là tính cách cổ quái của người thiếu niên, nhưng vừa rồi mình giả vờ bị trọng thương thật giống; Lệnh Hồ Xung lại không chịu bỏ mình để trốn thoát, quyết ý đồng sinh cộng tử, thật là nghĩa khí quý báu nhất giang hồ.

Chạy không được bao lâu, địch nhân lại dần dần đuổi đến gần, chỉ nghe tiếng vèo vèo bất tuyệt, ám khí liên tục bay đến. Hướng Vấn Thiên trồi lên hụp xuống để né tránh. Người đuổi theo càng đến gần, lão để Lệnh Hồ Xung xuống, quát to một tiếng, xoay người xông vào giữa đám đông.

Mấy tiếng bốp bốp vang lên, lão trở lại trên lưng đã thấy cõng một người. Lão dùng dây xích trên cổ tay mình quấn chặt hai tay người đó. Hướng Vấn Thiên ôm Lệnh Hồ Xung chạy tiếp, cười nói:

– Chúng ta có thêm tấm lá chắn sống.

Người kia lớn tiếng la:

– Đừng phóng ám khí, đừng phóng ám khí nữa!

Nhưng bọn người đuổi theo không thèm để ý cứ phóng ám khí không ngừng. Đột nhiên người đó thét lên một tiếng:

– Chao ôi!

Lưng gã đã bị ám khí đánh trúng. Hướng Vấn Thiên lưng mang tấm lá chắn sống, tay ôm Lệnh Hồ Xung, vẫn chạy như bay. Người trên lưng lớn tiếng thóa mạ:

– Vương Sùng Cổ, mẹ kiếp ngươi không có chút nghĩa khí, biết rõ ta… úi chao, là tên bắn lén. Tổ mẹ nó, Trương Phù Dung gặp phải hồ ly, ngươi… ngươi mượn đao giết người.

Chỉ nghe mấy tiếng phù phù, tiếng chửi mắng của người đó càng lúc càng nhỏ dần, cuối cùng không lên tiếng nữa. Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Lá chắn sống biến thành lá chắn chết rồi.

Hướng Vấn Thiên quên cả hiểm nguy, đề khí chạy nhanh, quẹo qua hai thung lũng rồi nói:

– Đến rồi!

Lão thở phào nhẹ nhõm, nổi lên một tràng cười ha hả, lòng sung sướng vô cùng. Mười dặm đường núi sau cùng thật là nguy hiểm, không biết có thể thoát được sự truy đuổi không, tưởng như cái chết đã nắm chắc trong tay.

Lệnh Hồ Xung nhìn ra, lòng hơi sợ hãi, thấy trước mắt có cây cầu đá nhỏ hẹp bắc qua một vực sâu muôn trượng. Cầu đá chỉ thấy được không quá tám chín thước, xa hơn nữa thì mây mù dày đặc, không nhìn được đầu bên kia. Hướng Vấn Thiên nói khẽ:

– Trong làn sương trắng có một dây xích sắt, đừng tùy tiện dẫm lên.

Lệnh Hồ Xung đáp dạ nhưng lòng không kìm được sự kinh sợ: cầu đá này rộng không quá một thước, phía dưới là vực thẳm, vốn đã nguy hiểm vô cùng, lại bắc qua một sợi dây xích, công lực của mình bây giờ thật khó mà qua được.

Hướng Vấn Thiên cởi xích quấn trên tay lá chắn chết ra, rút thanh trường kiếm sau lưng gã đưa cho Lệnh Hồ Xung, rồi dựng lá chắn chết ở trước mặt, yên lặng đợi địch.

Không đầy thời gian uống một tuần trà, tốp người đầu tiên đã đuổi đến, có cả nhân vật trong chính giáo và Ma giáo. Mọi người thấy địa hình hiểm ác, Hướng Vấn Thiên ở chỗ vào thế trận quay lưng vào vực thẳm, cũng không dám đến gần. Một lúc sau, người đuổi đến càng đông, đứng ở ngoài năm sáu trượng lớn tiếng thóa mạ hoặc phóng ra các loại ám khí. Phi hoàng thạch, tụ tiễn tới tấp được phóng ra. Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung ở phía sau lá chắn, các thứ ám khí không thể bắn trúng hai người.

Bỗng một tiếng gầm làm chấn động cả sơn cốc, một đầu đà múa cây thiền trượng xông đến. Cây thiền trượng đúc bằng thép nặng bảy tám chục cân nhắm đánh vào lưng Hướng Vấn Thiên. Hướng Vấn Thiên cúi xuống, thiền trượng lướt qua đầu lão. Lão vung dây xích lên quấn lấy hai chân của gã đầu đà trong khi lão đầu đà lỡ dùng sức phóng trượng quá mạnh không thu lại kịp để chống đỡ. Hướng Vấn Thiên lập tức quay dây xích đã quấn chặt gót chân phải của đầu đà dùng phép tá lực đả lực thừa thế đẩy về trước. Gã đầu đà đứng không vững, ngã nhào về phía trước, rớt xuống vực thẳm. Hướng Vấn Thiên vừa hất vừa đẩy, đã mở dây xích ở gót chân của gã. Tiếng rú thảm thiết của gã đầu đà từ vực thẳm vọng lên, khiến mọi người không ai không kinh hãi nổi da gà, bất giác tự lùi về sau, như sợ Hướng Vấn Thiên sắp cuốn mình xô xuống vực thẳm.

Hai bên giằng co nhau một lúc, bỗng có hai người vượt đám đông xông ra. Một người tay cầm song kích, người kia là một hòa thượng cầm một cây nguyệt nha sạn. Đôi kích một trên một dưới nhằm đâm vào bụng dưới và mặt của Hướng Vấn Thiên, còn cây nguyệt nha sạn nhằm đâm vào sườn trái của lão. Cả ba thứ binh khí đều rất nặng, lại được vận nội lực thâm hậu nên lúc tấn công ra uy thế rất mãnh liệt. Hai người xem đúng địa hình tấn công, khiến cho Hướng Vấn Thiên không cách nào né tránh được, chỉ còn cách vung dây xích đánh đỡ. Quả nhiên dây xích của Hướng Vấn Thiên vung ra, choang choang ba tiếng, cả song kích và nguyệt nha sạn đều bị đánh giạt ra hết, bốn thứ binh khí đều xẹt ra tia lửa. Đây là cách lấy mạnh đánh mạnh, không thể lấy kỹ xảo để thủ thắng. Trong đám đông có tiếng reo hò vang dội.

Binh khí trong tay hai người bị dây xích hất ra thì liền tấn công tới, choang choang choang, lại giao nhau lần nữa. Hòa thượng và hán tử đó đều loạng choạng. Ngược lại Hướng Vấn Thiên vẫn đứng vững vàng. Lão không đợi địch nhân lấy hơi đã quát một tiếng thật to, vung nhanh dây xích đánh ra. Hai người giơ binh khí gạt đỡ. Binh khí chạm nhau ba tiếng chát chúa. Hòa thượng gầm lên một tiếng, liệng cây nguyệt nha sạn, miệng phun máu tươi, còn hán tử giơ cao song kích nhằm đâm vào Hướng Vấn Thiên. Hướng Vấn Thiên ưỡn ngực ra không đỡ không gạt, cười ha ha.

Song kích đâm đến ngực lão cách khoảng nửa thước bỗng nhiên rũ xuống. Hán tử cũng nằm phục xuống đất không nhúc nhích nữa. Hắn đã bị kình lực của Hướng Vấn Thiên làm chấn động chết ngay lập tức.

Quần hào tụ tập ở sườn núi nhìn nhau thất sắc, không ai dám tiến lên.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tiểu huynh đệ, chúng ta hao tổn hơi sức với chúng khá nhiều rồi, tiểu huynh đệ ngồi xuống nghỉ một lát đã.

Lão nói xong liền ngồi xuống, hai tay ôm gối ngửa mặt lên trời, không thèm liếc nhìn quần hào một cái. Bỗng nghe có người lớn tiếng quát:

– Yêu tà to gan, dám coi thường anh hùng thiên hạ như vậy ư?

Bốn tên đạo nhân cầm kiếm xông tới trước mặt Hướng Vấn Thiên. Cả bốn người cầm ngang thanh trường kiếm nói:

– Đứng dậy giao thủ!

Hướng Vấn Thiên cười khinh bạc, lạnh lùng nói:

– Hướng mỗ đâu có gây chuyện gì với phái Nga Mi của các vị?

Một đạo sĩ bên trái nói:

– Tà ma ngoại đạo làm hại giang hồ. Ta là bậc chân tu tuyên dương chính nghĩa, trừ yêu diệt ma, trách nhiệm không đổ cho người khác được.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Hay cho quân trừ yêu diệt ma, trách nhiệm không đổ cho người khác! Sau lưng của các vị trong đám người đó có hơn một nửa là người trong Ma giáo, sao không trừ yêu diệt ma đi?

Đạo nhân đó nói:

– Tru diệt ác ma đầu sỏ trước.

Hướng Vấn Thiên ngồi ôm gối ngẩng đầu trông những đám mây trôi lờ lững trên trời, ỡm ờ nói:

– Thì ra là vậy. Hay lắm, hay lắm!

Đột nhiên lão quát một tiếng thật to, vọt người lên, dây xích giống như con thuồng luồng từ dưới vực sâu nhảy vọt lên nhằm bốn người quét ngang qua một cái rất mau. Lão ra đòn tập kích quá đột ngột, dù bốn đạo nhân đều là cao thủ của phái Nga Mi cũng không kịp chống đỡ. Trong lúc thảng thốt, trường kiếm của ba đạo nhân dựng đứng đỡ sau lưng, còn đạo nhân thứ tư đứng bên mé phải phóng trường kiếm ra nhằm vào yết hầu của Hướng Vấn Thiên đâm tới. Chỉ nghe choang một tiếng, ba thanh trường kiếm đều bị dây xích đánh cong, Hướng Vấn Thiên nghiêng đầu tránh chiêu kiếm của đạo nhân thứ tư. Thế kiếm của đạo nhân như gió, phóng ba kiếm liên hoàn bức bách Hướng Vấn Thiên không cách nào chậm tay lại được. Còn ba đạo nhân kia lùi ra, đổi kiếm rồi lại xông vào đấu tiếp. Thế kiếm của bốn đạo nhân phối hợp hỗ tương, giống như một kiếm trận nho nhỏ, bốn thanh trường kiếm lượn tới lượn lui như rồng bay phượng múa, lúc phân ra, lúc hợp lại.

Lệnh Hồ Xung nhìn một lúc, thấy Hướng Vấn Thiên lúc múa vung dây xích tất phải cử động hai tay thì không linh hoạt bằng một tay. Nếu còn kéo dài, lão sẽ không tránh khỏi thất bại. Chàng liền bước qua mé phải của Hướng Vấn Thiên, trường kiếm đâm ra, phóng nhanh vào bên sườn của một đạo nhân. Chiêu kiếm này phương vị xuất chiêu rất cổ quái, đạo nhân đó khó mà tránh khỏi, soạt một tiếng, lão đã bị trúng kiếm. Lệnh Hồ Xung lóe lên tâm niệm: Nghe nói phái Nga Mi xưa nay tự hào trong sạch, bỏ mặc chuyện trên giang hồ, thanh danh lừng lẫy. Ta giúp Hướng tiên sinh giải vây, không nên làm tổn thương tính mệnh của đạo nhân này.

Khi mũi kiếm vừa chạm vào da của đạo nhân, chàng liền rút về, nhưng lúc rút lại kiếm sử không nhanh. Đạo nhân cố chịu đau, đưa song chỉ kẹp chặt trường kiếm của Lệnh Hồ Xung lại.

Lệnh Hồ Xung rút trường kiếm về, vạch một đường trên cánh tay và mé sườn đạo nhân. Chàng rút chậm lại một chút, trường kiếm của một đạo sĩ trung niên khác chém tới, đè lên kiếm của chàng. Cánh tay Lệnh Hồ Xung tê buốt, muốn buông kiếm ra nhưng nghĩ nếu buông kiếm thì mình sẽ thành phế nhân. Chàng liền gắng sức nắm chặt chuôi kiếm, cảm thấy một kình lực hùng hậu trên kiếm truyền đến, tấn công vào tâm mạch của mình.

Đạo nhân thứ nhất bị trường kiếm gây vết thương không nặng nhưng vì lão lấy tay chụp kiếm lại, lúc Lệnh Hồ Xung rút kiếm về khiến lão bị kiếm vạch một vết thương thấu tận xương, máu tươi chảy ra lênh láng không thể đấu được nữa. Hai đạo nhân còn lại lúc này ở sau lưng Lệnh Hồ Xung đang đấu kịch liệt với Hướng Vấn Thiên, kiếm pháp rất tinh kỳ, song kiếm liên thủ nghiêm cẩn dị thường.

Hướng Vấn Thiên đấu tiếp mấy chiêu liền lùi về sau một bước, rồi lão liên tục lùi hơn mười bước, thân mình lọt dần vào làn sương trắng. Hai đạo nhân tiếp tục tấn công về trước, nửa thanh trường kiếm đã phóng vào sương mù. Bỗng phía bên kia cầu đá có người la lên:

– Cẩn thận, đi tiếp nữa là cầu bằng dây xích đó!

Chữ “xích” vừa ra khỏi miệng thì nghe tiếng hai đạo nhân cùng rú lên thảm thiết, thân người hai lão xông mạnh về trước, rớt xuống làn sương trắng. Rõ ràng hai lão không tự chủ được, bị Hướng Vấn Thiên kéo tới. Tiếng rú thê thảm kéo dài đến tận vực thẳm, trong khoảnh khắc thì im bặt.

Hướng Vấn Thiên cười ha hả từ trong làn sương trắng đi ra. Lão thấy Lệnh Hồ Xung lảo đảo muốn té, giật mình sợ hãi.

Lệnh Hồ Xung lúc ở lương đình đã dùng Độc Cô cửu kiếm liên tục đả thương người, bốn tên đạo sĩ phái Nga Mi tận mắt chứng kiến nên tự biết kiếm pháp của mình quyết không phải là địch thủ của chàng, nhưng chúng thấy nội lực của Lệnh Hồ Xung không đáng kể, liền đem nội lực uyên thâm của mình ra tấn công liên tiếp vào Lệnh Hồ Xung. Đừng nói bây giờ nội lực của Lệnh Hồ Xung đã mất hết mà ngay lúc trước, khi còn sung sức cũng không thể bì được hơn ba mươi năm luyện nội công tâm pháp của lão đạo nhân phái Nga Mi. May mà chân khí nội thể của Lệnh Hồ Xung sung mãn nên nhất thời cũng không đến nỗi bị thương nhưng khí huyết bị nhộn nhạo cả lên, mắt nảy đom đóm.

Lệnh Hồ Xung bỗng cảm thấy trên huyệt Đại truy ở sau lưng có một luồng nhiệt khí truyền vào, áp lực trên tay lập tức nhẹ hẳn. Tinh thần Lệnh Hồ Xung phấn chấn, biết đã được Hướng Vấn Thiên trợ giúp, nhưng chàng liền phát giác Hướng Vấn Thiên lại đem nội lực tấn công của đối phương dẫn từ cánh tay truyền qua sống lưng rồi đến hai chân, rồi truyền thẳng xuống đất, mất hẳn.

Đạo nhân phát giác sắp gặp nguy hiểm bèn lớn tiếng la lên, rút kiếm nhảy ra sau, quát:

– Hấp tinh yêu pháp! Hấp tinh yêu pháp!

Quần hào vừa nghe bốn chữ “Hấp tinh yêu pháp” không ít người đổi sắc mặt.

Hướng Vấn Thiên cười ha hả nói:

– Đúng vậy! Đây là Hấp tinh đại pháp. Vị nào có hứng thú thì lên đây thử chơi.

Một trưởng lão tên Hoàng Đái trong Ma giáo la lên:

– Chẳng lẽ Nhậm… Nhậm… lại tái xuất? Chúng ta về bẩm báo giáo chủ ngay để giáo chủ định đoạt.

Bọn người Ma giáo dạ, cùng quay người, lập tức đám đông hơn một trăm người liền giải tán một nửa. Còn lại người trong chính giáo bàn bạc to nhỏ với nhau một lúc, liền có một số người lục tục bỏ về, sau cùng chỉ còn hơn mươi người lèo tèo.

Một người giọng sang sảng nói:

– Hướng Vấn Thiên, Lệnh Hồ Xung! Các ngươi lại sử Hấp tinh đại pháp, trụy nhập vào cảnh vạn kiếp không được siêu sinh. Từ nay về sau, bằng hữu trong võ lâm đối phó với hai ngươi không cần phải dùng thủ đoạn chính đáng. Đây là việc các ngươi tự làm tự chịu, đến nước này đừng có hối hận!

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Hướng mỗ đã làm việc gì thì có bao giờ hối hận đâu? Các ngươi mấy trăm người vây đánh hai chúng ta, chẳng lẽ là thủ đoạn chính đáng ư? Hì hì, buồn cười thật, buồn cười thật!

Tiếng bước chân vọng lại, mười mấy người còn lại cũng đi hết. Hướng Vấn Thiên lắng tai nghe, biết xác thực bọn địch đuổi đến đã đi xa rồi. Lão nói khẽ:

– Bọn chó má đó nhất định sẽ quay lại, tiểu huynh đệ hãy nằm lên lưng ta.

Lệnh Hồ Xung thấy vẻ mặt của lão rất trịnh trọng, cũng không hỏi nhiều, liền nằm phục lên lưng lão. Hướng Vấn Thiên khom người xuống, chân trái từ từ đưa ra, lần mò leo xuống vực thẳm.

Lệnh Hồ Xung hơi kinh hãi, thấy sợi dây xích của Hướng Vấn Thiên vung ra, quấn chặt vào một gốc cây bên vách núi, thử giật xem gốc cây có chịu nổi sức nặng của hai người không rồi mới nhè nhẹ leo xuống. Hai người đu lơ lửng trong không khí, Hướng Vấn Thiên lắc lư mấy cái, tìm được chỗ đặt chân liền vung tay thu dây xích lại. Sợi dây xích rời khỏi gốc cây. Hai tay của Hướng Vấn Thiên bám vào vách núi, rồi dừng lại một lúc, sợi dây xích đã quấn chặt vào mỏm đá lớn bên dưới chân lão, thân hình của hai người lại từ từ hạ xuống hơn một trượng.

Cứ theo cách như vậy mà lão đu xuống. Có lúc vách núi không có gốc cây cũng không có mỏm đá lồi ra, Hướng Vấn Thiên mạo hiểm, dán người vào vách núi rồi từ từ tụt xuống. Lão tụt hơn mười trượng, vách đá càng trơn, lão tụt càng nhanh. Nhưng chỉ cần có chỗ có thể đỡ lại được thì lão thi triển thần công hoặc phát chưởng, hoặc đạp chân tạo thế cho người trượt chậm lại.

Lệnh Hồ Xung thấy mình và lão quá mạo hiểm, sợ đến nỗi hồn vía lên mây. Lão cứ như vậy mà tụt xuống vực thẳm, thật nguy hiểm chẳng khác nào trận kịch đấu vừa rồi. Nhưng chàng nghĩ bình sinh chưa bao giờ có chuyện kỳ lạ hiếm có, nguy hiểm thì quá nguy hiểm nhưng nếu không gặp một kỳ nhân như Hướng Vấn Thiên chỉ e rằng qua một trăm kiếp cũng khó gặp ai có gan như vậy. Lúc Hướng Vấn Thiên đạp hai chân xuống đáy vực rồi, Lệnh Hồ Xung cảm thấy hơi tiếc nuối, hận sao cái vực này không sâu thêm vài trăm trượng nữa. Chàng ngẩng đầu lên nhìn, miệng vực toàn là mây trắng, cái cầu đá đã trở thành một sợi dây màu đen rất nhỏ.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Hướng tiên sinh!

Hướng Vấn Thiên đưa tay bịt miệng Lệnh Hồ Xung lại, ngón tay cái bên tay trái chỉ lên trên. Lệnh Hồ Xung liền hiểu ra, biết bọn địch quả nhiên đã quay trở lại, chàng cố nhướng mắt nhìn lên nhưng không thấy bóng người nào trên cầu đá cả.

Hướng Vấn Thiên buông tay ra, kề sát tai vào vách núi lắng nghe. Qua một lúc sau lão mới mỉm cười nói:

– Bà mẹ nó, có giữ ở trên đó thì cứ đi Tây thiên mà tìm.

Lão ngoái lại nhìn Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiểu huynh đệ là đệ tử của danh môn chính phái, Hướng mỗ lại là bàng môn yêu tà, song phương xưa nay là kẻ tử thù của nhau. Tại sao tiểu huynh đệ lại cam tâm tình nguyện đắc tội với chính giáo bằng hữu, để xả thân cứu tính mệnh của ta?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Vãn bối vừa hội ngộ thì đã liên thủ với tiên sinh đấu một trận sinh tử với bọn quần hào song phương chính giáo và Ma giáo mà không sao cả, thật là may mắn vô cùng. Hướng tiên sinh lại còn nói chuyện cứu mạng với không cứu mạng, thật là… thật là…

Hướng Vấn Thiên tiếp lời:

– Thật là vớ vẩn phải không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vãn bối không dám nói Hướng tiên sinh ăn nói vớ vẩn, nhưng nếu nói vãn bối có công cứu mạng tiên sinh thì thật chẳng đúng chút nào.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Hướng mỗ đã nói vậy thì không rút lời lại. Ta nói tiểu huynh đệ có ân cứu mạng ta thì là có ân cứu mạng.

Lệnh Hồ Xung cười cười, không biện luận nữa. Hướng Vấn Thiên nói:

– Vừa rồi bọn chó má la to cái gì Hấp tinh đại pháp, chúng sợ đến nỗi giải tán hết. Tiểu huynh đệ có biết Hấp tinh đại pháp là công phu gì không? Tại sao bọn chúng sợ đến như vậy?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Vãn bối đang muốn thỉnh giáo Hướng tiên sinh.

Hướng Vấn Thiên cau mày nói:

– Cái gì vãn bối với trưởng bối, tiên sinh với hậu sinh, khiến cho người nghe thật bực mình. Ta dứt khoát không chịu, tiểu huynh đệ cứ gọi ta là Hướng huynh còn ta gọi tiểu huynh đệ là huynh đệ được rồi.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Chuyện này vãn bối thật không dám…

Hướng Vấn Thiên tức giận nói:

– Được, vì huynh đệ thấy ta là người trong Ma giáo nên coi thường ta. Huynh đệ đã cứu tính mạng ta, cái mạng của lão tử này sống hay chết cũng là chuyện nhỏ, nhưng tiểu huynh đệ coi thường ta là chuyện lớn, vậy chúng ta phải động thủ.

Tuy lão nói nhỏ nhưng vẻ mặt rất tức giận. Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Đâu cần phải động thủ. Hướng huynh đã cố chấp như vậy thì tiểu đệ đành tuân mệnh thôi.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Ngay cả Điền Bá Quang là một tên thái hoa dâm tặc như vậy mà ta cũng kết giao bằng hữu, giờ kết giao thêm một Hướng Vấn Thiên thì có sao đâu? Người này khí phách hào hùng, thật là một hảo hán tử, ta cũng vốn thích những người như vậy.

Lệnh Hồ Xung liền phục người xuống bái rồi nói:

– Hướng huynh ở trên xin nhận một lạy của tiểu đệ.

Hướng Vấn Thiên mừng rỡ nói:

– Khắp thiên hạ kết nghĩa kim lan với Hướng mỗ chỉ có một mình huynh đệ thôi. Huynh đệ phải nhớ điều đó.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Tiểu đệ được Hướng huynh thương mến thật là hân hạnh.

Chiếu theo quy củ của giang hồ thì hai người kết nghĩa huynh đệ ít nhất cũng phải thắp hương tuyên thệ, lập thệ có phúc cùng hưởng có họa cùng gánh. Nhưng hai người này đều là người lãng mạn phóng khoáng, vừa trải qua một cuộc chiến nảy lửa, đều cảm thấy ý hợp tâm đầu, hiểu thấu lòng nhau, chỉ cần khấu đầu kết giao nhau là đủ, không cần lễ nghi phiền phức. Đã nói là huynh đệ tức là huynh đệ rồi.

Hướng Vấn Thiên là người của Ma giáo nhưng huynh đệ trong Ma giáo chẳng mấy ai coi trọng lão, hôm nay nhận được một huynh đệ kết nghĩa, lòng lão rất vui sướng. Lão nói:

– Đáng tiếc ở đây không có rượu, nếu không thì chúng ta uống một hơi hết tổ mẹ nó mấy chục bát nữa mới đã.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Đúng vậy, cổ họng của tiểu đệ ngứa ngáy quá rồi, ca ca nhắc đến rượu thì càng không chịu được.

Hướng Vấn Thiên chỉ lên trên nói:

– Bọn chó đẻ chưa đi xa đâu, chúng ta đành phải ở dưới đáy vực sâu cố nhịn mấy bữa. Huynh đệ, vừa rồi lão mũi trâu phái Nga Mi đó dùng nội lực tấn công huynh đệ, ta dùng nội lực giúp đỡ huynh đệ tiêu hao nội lực của lão mũi trâu ra sao, huynh đệ biết không?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Dường như đại ca đem nội lực của đạo nhân đó dẫn xuống đất hết.

Hướng Vấn Thiên vỗ đùi cái bốp, vui mừng nói:

– Đúng vậy, đúng vậy! Huynh đệ thật thông minh. Môn công phu này của ta là do ta vô tình nghĩ ra, trong võ lâm không ai biết cả, ta đặt cho nó cái tên là Hấp công nhập địa tiểu pháp.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Cái tên nghe cũng kỳ quái.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Môn công phu này của ta so với Hấp tinh đại pháp trong võ lâm cũng như nhau nên ai nghe cũng biến sắc, cũng giống như bợm nhỏ gặp bợm lớn, cho nên mới gọi là “tiểu pháp”. Công phu này của ta chỉ là một tiểu xảo di hoa tiếp mộc, mượn lực để đánh lực, đem nội lực của đối phương dẫn xuống đất khiến cho đối phương không thể hại mình, mà cũng chẳng có lợi lộc gì cho mình cả. Vả lại, môn công phu này chỉ nên sử dụng lúc tương đấu với đối phương chứ không thể đem ra mà đả thương người. Đối phương gặp lúc thấy nội lực cuồn cuộn tiết ra ngoài thì không khỏi cả kinh thất sắc, một lúc sau liền phục hồi lại nguyên khí. Ta đoán rằng bọn chúng bỏ đi rồi nhất định quay lại cho nên công lực của lão mũi trâu phái Nga Mi vừa hồi phục thì lão biết Hấp công nhập địa tiểu pháp này của ta chỉ là dọa trêu người thôi, kỳ thực chẳng có gì đáng sợ. Ca ca của tiểu đệ vốn không thích gạt người bằng cái trò này cho nên xưa nay chưa bao giờ dùng qua.

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Hướng Vấn Thiên chưa bao giờ gạt người, hôm nay vì tiểu đệ đành phải phá giới.

Hướng Vấn Thiên cười hì hì nói:

– Chưa bao giờ gạt ai thì cũng chưa chắc, có điều lão Tùng Văn đạo nhân phái Nga Mi kiến văn quảng bác như vậy nên ca ca của huynh đệ thật không muốn gạt lão. Nếu gạt người thì phải chọn đại sự, gạt phải kinh thiên động địa để thiên hạ đều biết.

Hai người nhìn nhau cười, sợ bị địch nhân ở trên vực nghe được, nên tuy cố cười nhỏ lại nhưng tiếng cười cũng rất sảng khoái.

Hồi 78: Thay tên đổi họ tìm đến Mai Trang

Lúc này hai người rất mệt, phân ra ngồi dựa vào vách đá nhắm mắt dưỡng thần.

Không bao lâu, Lệnh Hồ Xung đã ngủ thiếp đi. Trong giấc ngủ, chàng bỗng mơ thấy Doanh Doanh tay cầm ba con ếch nướng đưa cho mình hỏi: “Ngươi quên ta rồi phải không?” Lệnh Hồ Xung lớn tiếng nói: “Đâu có quên, đâu có quên! Cô nương… cô nương đi đâu vậy?” Hình bóng của Doanh Doanh bỗng tan biến, chàng vội la lên: “Cô nương đừng đi! Ta có rất nhiều điều muốn nói với cô nương”. Lại thấy đao thương kiếm kích tới tấp đâm đến, chàng thét lên một tiếng rồi tỉnh lại. Hướng Vấn Thiên cười hì hì hỏi:

– Mơ thấy tình nhân phải không? Muốn nói rất nhiều điều phải không?

Mặt Lệnh Hồ Xung đỏ lên, không biết trong mơ đã nói gì mà lão nghe được. Hướng Vấn Thiên nói:

– Huynh đệ, nếu huynh đệ muốn gặp lại người tình thì phải dưỡng thương cho khỏe, trị khỏi bệnh mới có thể đi tìm cô ta.

Lệnh Hồ Xung ủ rũ nói:

– Tiểu đệ… tiểu đệ chưa có người tình. Vả lại thương thế của tiểu đệ trị không khỏi đâu.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Ta thiếu nợ huynh đệ một lần cứu mạng, tuy là huynh đệ nhưng lòng ta vẫn còn áy náy. Ta phải trả một cái mạng cho huynh đệ mới được. Ta dẫn huynh đệ đi đến một nơi, ở đó nhất định có thể trị khỏi thương thế cho huynh đệ.

Tuy Lệnh Hồ Xung chẳng màng gì đến chuyện sống chết, nhưng không thể thản nhiên khi nghe Hướng Vấn Thiên nói thương thế của mình có thể trị khỏi. Nếu lời này từ miệng người khác nói ra thì chưa chắc tin được nhưng Hướng Vấn Thiên tài trí hơn người, võ công lại cao cường, ngoài thái sư thúc tổ Phong Thanh Dương ra, bình sinh chàng chưa thấy ai như lão. Lão chỉ nói phớt một câu mà rất có trọng lượng khiến lòng chàng vô cùng hưng phấn. Chàng lắp bắp nói:

– Tiểu đệ… tiểu đệ…

Lệnh Hồ Xung nói hai tiếng “tiểu đệ” thì không nói được nữa. Lúc này mảnh trăng lưỡi liềm chiếu xuống miệng vực, ánh sáng tỏa khắp nơi, dưới vực thẳm tuy âm u nhưng trong ánh mắt của Lệnh Hồ Xung đầy ngập ánh dương quang.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Chúng ta đi gặp một người. Người này tính tình rất cổ quái, sự việc đừng nói trước cho lão biết. Huynh đệ, nếu huynh đệ tin ta thì nhất thiết phải để ta sắp đặt.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Có gì đâu mà không tin? Ca ca muốn tìm cách trị thương cho tiểu đệ, đó là chuyện cải tử hoàn sinh mà tiểu đệ vốn không còn hy vọng nữa. Nếu trị khỏi bệnh thì tạ ơn trời đất, trị không khỏi thì cũng là chuyện thường tình mà thôi.

Hướng Vấn Thiên thè lưỡi liếm môi nói:

– Không biết cái đùi ngựa biến đâu rồi? Mẹ kiếp, giết không biết bao nhiêu thằng nhãi mà ở dưới đáy vực này lại chẳng thấy cái xác nào cả.

Lệnh Hồ Xung nghe lão nói, biết lão muốn tìm xác chết để ăn. Lòng chàng cảm thấy kinh sợ, không dám nói nhiều, liền nhắm mắt ngủ.

Sáng sớm hôm sau, Hướng Vấn Thiên nói:

– Huynh đệ, ở đây ngoài cỏ xanh và rong rêu ra thì không có cái gì khác. Chúng ta sống lây lất ở đây e phải đi tìm xác chết mà ăn, nhưng ngày hôm qua mấy tên rớt xuống đáy vực này vừa già vừa gầy, ta nghĩ huynh đệ ăn vào cũng chẳng thấy ngon lành gì.

Lệnh Hồ Xung vội nói:

– Dứt khoát chẳng có chút mùi vị gì.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Chúng ta phải tìm đường ra khỏi đây. Ta cải trang cho huynh đệ trước đã.

Lão đến vũng bùn bốc một nắm bôi lên mặt Lệnh Hồ Xung, rồi đưa tay tự bôi lên mặt mình. Lão bôi mạnh quá, bôi đến đâu thì tóc rụng đến đó. Xong lão đưa hai tay lên vò đầu, mái tóc hoa râm của lão đã rụng trọc lóc. Lệnh Hồ Xung thấy trong khoảnh khắc tướng mạo lão đã hoàn toàn thay đổi, hắn vừa tức cười vừa khâm phục. Hướng Vấn Thiên lại bốc một ít bùn đắp cho mũi to lên, hai má cũng dày lên, bây giờ có đứng đối mặt nhìn kỹ cũng không thể nhận ra lão nữa.

Hướng Vấn Thiên đi trước dẫn đường. Lão để hai tay lọt vào trong tay áo để che kín sợi dây xích trên cổ tay lại, chỉ cần lão không động thủ thì không ai nhận ra được cái lão mập đầu láng bóng là Hướng Vấn Thiên oai phong quắc thước.

Hai người đi quanh quẩn đến giờ ngọ, thấy ở thung lũng có một cây đào dại, trái còn xanh, bỏ vào miệng nhai vừa chua vừa chát. Hai người bụng đã quá đói, liền hái ăn đến kỳ no. Nghỉ ngơi hơn một canh giờ, họ lại đi tiếp. Đến lúc hoàng hôn, Hướng Vấn Thiên đã tìm được lối ra khỏi hang, nhưng phải vượt qua một vách núi dài mấy trăm thước. Lão cõng Lệnh Hồ Xung trên lưng trèo lên vách.

Lúc leo lên trên vách núi, họ nhìn thấy một con đường nhỏ ngoằn ngoèo, hai bên đường cỏ mọc rậm rạp. Cảnh vật hoang dã, ngay cả vết chân chim thú cũng không hề thấy. Hai người đều thở dài.

Sáng sớm hôm sau, hai người đi về hướng Đông đến một thị trấn lớn. Hướng Vấn Thiên lấy trong túi một miếng vàng lá bảo Lệnh Hồ Xung đi đến tiệm đổi thành bạc, sau đó tìm đến một khách điếm thuê phòng. Hướng Vấn Thiên gọi thức ăn, bảo tiểu nhị đem đến một vò rượu lớn, cùng Lệnh Hồ Xung uống hết nửa vò thì đã say mèm, không ăn cơm nữa. Một người nằm phục trên bàn ngủ, còn một người thì nằm lăn ra giường. Đến hôm sau, khi mặt trời rọi vào khe cửa cả hai mới tỉnh dậy. Hai người nhìn nhau cười, hồi tưởng lại cuộc ác đấu mấy ngày trước ở quán lương đình và trên chiếc cầu đá, tưởng chừng như đã qua một kiếp người.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Huynh đệ, huynh đệ ở đây nghỉ đi, ta đi ra ngoài một lúc.

Lão đi ra ngoài hơn một canh giờ . Lệnh Hồ Xung đang lo lắng, sợ lão gặp phải địch nhân, lại thấy hai tay lão cầm bao lớn bao nhỏ, kẹp thêm bên người rất nhiều đồ đạc. Sợi dây xích trên tay lão đã biến mất, chắc lão đã bảo thợ rèn chặt bỏ rồi. Hướng Vấn Thiên mở bao ra, bao nào cũng đựng đầy quần áo sang trọng. Lão nói:

– Hai huynh đệ ta đều cải trang thành đại phú thương, càng ra vẻ phong lưu càng tốt.

Lão và Lệnh Hồ Xung liền thay đổi cả quần trong áo ngoài. Lúc ra khỏi điếm, đã thấy tiểu nhị dẫn hai con ngựa cao to, yên mới cáu cạnh. Ngựa này cũng do Hướng Vấn Thiên mua về.

Hai người cưỡi ngựa thong thả đi về hướng Đông. Đi được hai ngày, Lệnh Hồ Xung cảm thấy mệt, Hướng Vấn Thiên liền thuê một cỗ xe lớn để hắn ngồi. Đến bờ sông Vận Hà, hai người xuống ngựa lên thuyền đi về hướng Nam. Trên đường đi, Hướng Vấn Thiên tiêu tiền như nước, tưởng chừng như vàng lá bên người lão xài hoài không hết. Qua Trường Giang, hai bên bờ sông chợ búa phồn thịnh. Hướng Vấn Thiên lại mua thêm quần áo, càng lúc càng sang trọng hơn.

Đi thuyền lâu ngày, Hướng Vấn Thiên nhàn rỗi kể lại nhiều chuyện thú vị trên giang hồ. Lão kể nhiều chuyện mà Lệnh Hồ Xung chưa hề biết khiến chàng nghe một cách thích thú. Nhưng những chuyện liên quan đến Ma giáo trên Hắc Mộc Nhai, Hướng Vấn Thiên tuyệt không đề cập tới, Lệnh Hồ Xung cũng không hỏi.

Hôm ấy, thuyền đến Hàng Châu. Ở trong thuyền, Hướng Vấn Thiên lại cải trang cho Lệnh Hồ Xung và mình thật vừa ý rồi mới rời thuyền lên bờ. Lão mua hai con tuấn mã rồi cưỡi ngựa vào thành Hàng Châu.

Thời cổ, Hàng Châu gọi là phủ Lâm An, thời Nam Tống dựng thành kinh đô, xưa nay là nơi rất nổi tiếng. Vào trong thành, trên đường người đi đông nghẹt, ca nhạc xập xình khắp nơi. Lệnh Hồ Xung đi theo Hướng Vấn Thiên đến bờ Tây Hồ, thấy mặt hồ xanh biếc như gương, liễu rủ phất phơ, cảnh vật thơ mộng như cảnh thần tiên. Lệnh Hồ Xung nói:

– Người ta thường nói: thượng giới có thiên đàng, hạ giới có Tô Hàng. Tô Châu chưa đi qua không biết ra sao chứ hôm nay tận mắt thấy Hàng Châu, gọi đây là thiên đàng quả thực không sai.

Hướng Vấn Thiên cười. Cả hai cưỡi ngựa đi đến một ngọn núi nhỏ bên bờ hồ, cách bờ một con đê dài, phong cảnh rất yên tĩnh. Hai người xuống ngựa, cột ngựa vào gốc cây liễu bên bờ hồ rồi đi theo bậc tam cấp lên núi. Hướng Vấn Thiên dường như đã từng du ngoạn nơi đây, lão rất thông thuộc đường lối. Quẹo qua mấy khúc quanh, khắp nơi đều trồng mai. Những cây mai già vươn dài cành lá rậm rạp, giống như ngày đầu xuân hoa mai nở rộ, hương thơm ngào ngạt, sắc hoa trắng trông như một biển tuyết. Phong cảnh đẹp khiến người ta ngây ngất biết chừng nào.

Hai người đi xuyên qua rừng mai lên một con đường lát đá xanh rộng lớn, đi đến ngoài một đại trang viện có tường trắng, cổng sơn đỏ. Gần đến nơi, thấy ngoài cổng lớn đề hai chữ to “Mai trang”, bên cạnh đề bốn chữ “Ngu Doãn Văn đề”. Lệnh Hồ Xung ít đọc sách nên không biết Ngu Doãn Văn là đại công thần đã đánh tan giặc Kim đời Nam Tống, nhưng cũng cảm thấy trong mấy chữ nho nhã này tràn đầy anh khí.

Hướng Vấn Thiên đi đến trước cổng, nắm chiếc vòng bằng đồng lớn ở trên cửa, quay đầu lại nói khẽ:

– Nhất thiết phải nghe lời ta sắp đặt.

Lệnh Hồ Xung gật đầu thầm nghĩ: Cái tòa Mai trang này hiển nhiên là chỗ ở của nhà đại phú thành Hàng Châu. Chẳng lẽ đây là chỗ ở của một vị danh y đương thời sao?

Hướng Vấn Thiên gõ bốn tiếng vào cái vòng đồng; ngừng một lúc lại gõ hai cái nữa, ngừng một lúc lại gõ thêm năm cái. Rồi lão lại ngừng một lúc, gõ thêm ba cái nữa. Sau đó, lão buông vòng đồng ra, đứng lùi về một bên.

Một lúc sau, cánh cổng lớn từ từ mở ra, có hai lão gia nhân ăn mặc chỉnh tề sánh vai đi ra. Lệnh Hồ Xung hơi giật mình. Ánh mắt hai lão này sáng quắc, bước đi nghiêm trang, hiển nhiên là người có võ công cao cường, sao lại chịu ở đây làm phận nô bộc? Người bên trái cúi người nói:

– Hai vị giá lâm tệ trang có điều chi dạy bảo?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Môn hạ phái Tung Sơn và đệ tử môn hạ phái Hoa Sơn có chuyện muốn cầu kiến Giang Nam tứ hữu bốn vị tiền bối.

Người đó nói:

– Gia chủ tại hạ xưa nay không tiếp khách.

Lão nói xong liền muốn đóng cửa.

Hướng Vấn Thiên thò tay vào bọc, lấy ra một vật. Lệnh Hồ Xung kinh hãi vì trong tay lão là một cây cờ ngũ sắc, có đính nhiều hạt minh châu. Hắn biết đây là Ngũ Nhạc minh kỳ của Tả minh chủ phái Tung Sơn. Minh kỳ đi đến đâu cũng như Tả minh chủ thân hành đến đó. Người trong Ngũ Nhạc kiếm phái từ bậc tôn sư đến bọn đệ tử, không ai không tuân lệnh của người cầm cờ.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Chắc Hướng đại ca đã dùng thủ đoạn bất chính cướp được lá cờ nầy, không chừng đại ca đã giết người phái Tung Sơn. Đại ca còn xưng là đệ tử Tung Sơn, không hiểu mưu đồ chuyện chi đây.

Chàng đã hứa mọi chuyện nghe theo cách bố trí của lão nên lẳng lặng không nói gì.

Hai lão gia nhân nhìn thấy Ngũ Nhạc minh kỳ, sắc mặt thay đổi, hỏi:

– Phải chăng đây là minh kỳ của Tả minh chủ phái Tung Sơn?

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Đúng vậy!

Gã gia nhân đứng bên phải nói:

– Giang Nam tứ hữu và Ngũ Nhạc kiếm phái trước nay không hề qua lại. Dù có Tả minh chủ đến đây thì… thì… chưa chắc…

Rồi lão không nói tiếp nữa nhưng ý nghĩa câu nói đã rất rõ ràng: “Dù Tả minh chủ có thân hành đến thì chủ nhân của tại hạ cũng chưa chắc chịu tiếp kiến”.

Tả minh chủ phái Tung Sơn là một nhân vật đức cao vọng trọng, người này không muốn mở miệng nói lời coi thường nhưng rõ ràng lão cho rằng địa vị của Giang Nam tứ hữu còn cao hơn Tả minh chủ nhiều.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Giang Nam tứ hữu này là những nhân vật nào? Nếu bọn họ thực là những nhân vật sừng sỏ trong võ lâm thì sao ta chưa từng nghe sư phụ và sư nương đề cập đến bọn họ? Ta hành tẩu trên giang hồ từng nghe nhiều người nói đến những bậc tiền bối cao nhân trong võ lâm đương thời, nhưng chưa từng nghe ai đề cập đến bốn chữ “Giang Nam tứ hữu”.

Hướng Vấn Thiên mỉm cười, xếp cờ lệnh bỏ vào túi nói:

– Tả sư điệt của ta không phải đem cờ lệnh này đến để dọa người. Bốn vị tiền bối ở Giang Nam là những nhân vật thế nào, tất không coi lá cờ lệnh này vào đâu.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Lão nói “Tả sư điệt” ư? Lão lại mạo xưng là sư thúc của Tả minh chủ, càng lúc lão càng chẳng ra làm sao cả.

Lại nghe Hướng Vấn Thiên nói tiếp:

– Có điều tại hạ không có danh phận gì e khó được bái kiến bốn vị tiền bối Giang Nam nên đưa cờ lệnh này ra, chẳng qua chỉ để làm tín vật mà thôi.

Hai gia nhân ồ một tiếng, nghe trong lời nói của lão có vẻ đề cao thân phận Giang Nam tứ hữu thì nét mặt họ hòa dịu lại một chút.

Một người nói:

– Các hạ là sư thúc của Tả minh chủ ư?

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Đúng vậy. Tại hạ là hạng vô danh tiểu tốt trong võ lâm nên hai vị dĩ nhiên không quen. Nghĩ lại năm xưa, Đinh huynh ở dưới núi Tà Liên đơn chưởng đánh tứ bá, một kiếm phục song hùng; Thi huynh ở Hồ Bắc tung hoành giang hồ cứu kẻ cô thế, một thanh tử kim bát quái đao giết được mười ba tên đầu sỏ của Thanh Long bang, máu nhuộm một vùng Hán Thủy. Hình ảnh oai hùng như vậy khiến tại hạ vẫn ghi nhớ trong lòng.

Hai người ăn mặc như gia nhân, một người tên là Đinh Kiên, người kia là Thi Lệnh Oai. Trước khi quy ẩn ở Mai trang, họ là những nhân vật nửa chính nửa tà, trên giang hồ hành sự rất độc ác. Tính khí của hai người rất giống nhau, sau khi làm chuyện gì tuyệt không lưu danh cho nên tuy võ công họ cao cường nhưng tên tuổi thì ít ai biết đến. Hướng Vấn Thiên nói đến hai chuyện này chính là những kiệt tác đắc ý trong cuộc đời hai lão. Một là đối thủ rất cao cường mà hai lão lại lấy ít địch nhiều nhưng thủ thắng một cách oanh liệt; hai là hai chuyện này đối phương đều sai quấy còn hai lão đã hành hiệp trượng nghĩa, những hành động bình sinh hai lão rất ít khi làm.

Phàm làm việc gì tốt, tuy không cố ý tuyên dương để ai cũng biết, nhưng nếu có người vô tình biết đến thì hai lão rất khoái chí. Đinh Kiên và Thi Lệnh Oai nghe Hướng Vấn Thiên nói một lèo như vậy, bất giác mặt hai lão lộ vẻ hớn hở. Đinh Kiên mỉm cười nói:

– Chuyện nhỏ nhặt này đâu có chi đáng kể. Kiến văn của các hạ rất rộng.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Trong võ lâm, kẻ tranh danh đoạt lợi rất nhiều còn kẻ sĩ thanh cao có chân tài thực học, làm nên đại sự mà không muốn tuyên dương thật khó có được. Nhất tự điện kiếm Đinh đại ca và Ngũ lộ thần Thi cửu ca là những tên tuổi mà tại hạ ngưỡng mộ đã lâu. Tả sư điệt từng nói, có chuyện gì nên đến thỉnh giáo Giang Nam tứ hữu ở Hàng Châu. Tại hạ quy ẩn đã lâu, lòng nghĩ chưa chắc được gặp Giang Nam tứ hữu nhưng nếu có thể gặp được hai vị Nhất tự điện kiếm và Ngũ lộ thần thì coi như không uổng chuyến đi cho nên mới đồng ý đến Hàng Châu một chuyến. Tả sư điệt nói: nếu Tả sư điệt đích thân đến chỉ sợ bốn vị tiền bối không chịu tiếp kiến vì mấy năm gần đây trên giang hồ hắn làm nhiều chuyện thái quá, e rằng các tiền bối coi thường hắn. Còn tại hạ lâu nay ít đi ra ngoài, nói không chừng được các vị chiếu cố. Ha ha, ha ha!

Hai lão Đinh, Thi nghe Hướng Vấn Thiên đã tâng bốc Giang Nam tứ hữu lại còn đề cao hai người mình nên rất cao hứng, cùng cười bồi theo mấy tiếng. Họ thấy cái tướng mập, cái đầu láng bóng của Hướng Vấn Thiên tuy khó ưa nhưng lời nói cử chỉ tỏ ra rất có phong độ , xác thực lão không phải là nhân vật tầm thường. Lão đã là sư thúc của Tả Lãnh Thiền võ công tất nhiên rất cao, trong lòng hai lão cũng đã có mấy phần kính nể.

Thi Lệnh Oai đã quyết định đi vào bẩm báo, lão quay sang Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Vị này là môn hạ của phái Hoa Sơn ư?

Hướng Vấn Thiên cướp lời nói:

– Vị này là Phong huynh đệ, sư thúc của Nhạc Bất Quần, đương kim chưởng môn phái Hoa Sơn.

Lệnh Hồ Xung nghe lão nói liều như vậy, hắn đã sớm đoán được lão muốn đặt cho mình một cái tên và một thân phận nhưng hắn không ngờ rằng lão lại nói mình là sư thúc của sư phụ. Tuy Lệnh Hồ Xung không màng đến mọi chuyện nữa nhưng nếu hắn mạo nhận là trưởng bối của ân sư thì trong lòng rất áy náy. Hắn không khỏi giật mình, may mà trên mặt hắn đã trét một lớp phấn dày nên vẻ khích động không bị lộ ra ngoài chút nào.

Đinh Kiên và Thi Lệnh Oai liếc nhìn nhau, lòng đều có chút hoài nghi:

– Vị này tuy không biết bao nhiêu tuổi nhưng có lẽ không quá bốn mươi, sao có thể là sư thúc của Nhạc Bất Quần được?

Hướng Vấn Thiên tuy đã trang điểm diện mạo cho Lệnh Hồ Xung già đi rất nhiều nhưng lại khó hóa trang cho hắn thành một lão già, nếu hóa trang thêm nữa thì không khỏi bị lộ tẩy. Lão liền tiếp lời nói:

– Vị Phong huynh đệ này so với Nhạc Bất Quần thì vẫn còn ít tuổi, nhưng là truyền nhân duy nhất về Độc Cô kiếm pháp của Phong sư huynh Phong Thanh Dương, kiếm thuật tinh thâm, trong phái Hoa Sơn ít ai bì kịp.

Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi: Tại sao Hướng đại ca biết mình là truyền nhân của Phong thái sư thúc tổ?

Nhưng chàng liền hiểu ra: Kiếm pháp của Phong thái sư thúc tổ tuyệt diệu như vậy, năm xưa nhất định uy chấn giang hồ. Hướng đại ca kiến thức bất phàm, sau khi thấy kiếm pháp của mình thì tự suy luận ra được. Phương Sinh đại sư đã nhìn ra được thì tất nhiên Hướng đại ca cũng nhìn ra được.

Đinh Kiên ồ lên một tiếng. Lão là danh gia sử kiếm, nghe nói kiếm pháp của Lệnh Hồ Xung tinh thông, lão cảm thấy ngứa nghề, nhưng thấy người này da mặt vàng vọt, sưng húp, tướng mạo bần tiện, thật chẳng giống là một người tinh thông kiếm pháp chút nào. Lão bèn hỏi:

– Không biết phải xưng hô đại danh hai vị thế nào?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tại hạ họ Đồng tên gọi là Đồng Hóa Kim, vị Phong huynh đệ này có đại danh là Phong Nhị Trung.

Hai lão Đinh, Thi đều cung tay nói:

– Ngưỡng mộ, ngưỡng mộ!

Hướng Vấn Thiên cười thầm. Lão tự xưng là Đồng Hóa Kim có ý nói đồng mà hóa thành vàng tức là đồ giả. Còn hai chữ “Nhị Trung” tức là chữ Xung tách rời ra. Trong võ lâm làm gì có hai người này, vậy mà hai lão này lại nói “ngưỡng mộ, ngưỡng mộ”, không biết ngưỡng mộ cái gì?

Đinh Kiên nói:

– Mời hai vị vào sảnh dùng trà, đợi tại hạ đi bẩm báo với tệ chủ nhân. Còn các vị lão gia có chịu tiếp kiến hay không cũng khó mà nói được.

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Hai vị và Giang Nam tứ hữu tuy là chủ tớ mà tình chẳng khác gì huynh đệ, nên chắc bốn vị tiền bối sẽ nể mặt hai vị.

Đinh Kiên mỉm cười nép qua một bên. Hướng Vấn Thiên liền bước vào trong, Lệnh Hồ Xung đi theo sau.

Đi qua một cái sân lớn, hai bên tả hữu có trồng hai cây mai già, cành cứng như sắt, đúng là lão mai. Đến đại sảnh, Thi Lệnh Oai mời hai người ngồi còn lão đứng một bên bồi tiếp, Đinh Kiên vào trong bẩm báo.

Hướng Vấn Thiên thấy Thi Lệnh Oai đứng mà mình lại ngồi thì không khỏi bất bình cho lão, nhưng ở trong Mai trang thân phận lão là nô bộc nên không thể mời lão cùng ngồi, bèn nói:

– Phong huynh đệ, Phong huynh đệ xem bức họa này tuy chỉ có vài nét sơ sài mà khí thế thể hiện thật bất phàm.

Hướng Vấn Thiên vừa nói vừa đứng dậy đi đến trước bức họa treo ở đại trung đường trong sảnh.

Lệnh Hồ Xung và lão đồng hành nhiều ngày rồi nên biết lão tuy thông minh cơ trí vô cùng nhưng đối với văn mặc thư họa lão chẳng biết gì cả. Lúc này bỗng nghe lão tấm tắc khen bức họa, biết ngay lão đang có thâm ý khác. Chàng liền dạ một tiếng rồi đi đến trước bức họa. Bức họa vẽ một tiên nhân quay lưng ra, nét mực tràn trề, bút lực hùng tráng, tuy Lệnh Hồ Xung không hiểu về thư họa nhưng cũng biết xác thực đây là bức họa dùng lực tác thành. Lại thấy phía trên bức họa có đề tám chữ “Đan Thanh sinh đại túy hậu pháp mặc”, bút pháp nghiêm mật, từng nét cứng cỏi như nét khắc họa của trường kiếm. Lệnh Hồ Xung xem một lúc nói:

– Đồng huynh, tiểu đệ thấy chữ “Túy” trên bức họa này thì vô cùng thích thú. Trong mấy chữ đề trên bức họa dường như ẩn chứa một bộ kiếm thuật cực kỳ cao minh.

Lệnh Hồ Xung thấy bút pháp của tám chữ này và thủ thế y chiết của tiên nhân trong bức họa, bỗng nghĩ đến kiếm pháp khắc trên vách đá trong hậu động trên ngọn núi sám hối.

Hướng Vấn Thiên chưa trả lời thì Thi Lệnh Oai đứng sau hai người nói:

– Phong gia quả nhiên là một kiếm thuật danh gia. Tứ trang chủ tệ gia là Đan Thanh lão gia nói: ngày hôm đó, sau khi lão gia say túy lúy đã vẽ bức họa này. Trong lúc vô tình tiên sinh đem kiếm pháp đưa vào thư pháp, đây là kiệt tác đắc ý nhất trong đời lão gia. Sau khi tỉnh rượu, lão gia có muốn vẽ thêm một bức nữa cũng không được. Phong gia lại có thể coi bức họa mà nhìn ra kiếm ý, tứ trang chủ nhất định sẽ coi Phong gia là tri kỷ. Tại hạ đi báo cho lão gia biết.

Lão nói xong liền hớn hở chạy đi.

Hướng Vấn Thiên đằng hắng một tiếng rồi nói:

– Phong huynh đệ, thì ra huynh đệ hiểu được cả thư họa.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Tiểu đệ có hiểu gì đâu, chỉ nói bừa vài câu không ngờ lại trúng. Nếu vị Đan Thanh tiên sinh này đàm luận thư họa với tiểu đệ thì tiểu đệ chắc bị lộ tẩy.

Bỗng nghe ngoài cửa có người lớn tiếng nói:

– Hắn xem bức họa của ta mà nhìn ra kiếm pháp ư? Nhãn quan của người này thật hiếm có.

Người này vừa lớn tiếng nói vừa đi vào, râu lão dài đến bụng, tay trái cầm một bát rượu, vẻ mặt say sưa ngây ngất.

Thi Lệnh Oai đi theo sau lão nói:

– Hai vị này là Đồng gia phái Tung Sơn và Phong gia phái Hoa Sơn. Vị này là tứ trang chủ Đan Thanh tiên sinh của Mai trang. Tứ trang chủ, vị Phong gia này vừa thấy nét mực, bút pháp của trang chủ thì nói trong bức họa có ẩn chứa một bộ kiếm thuật cao minh.

Tứ trang chủ Đan Thanh tiên sinh nghiêng mắt say khướt nhìn Lệnh Hồ Xung một lúc rồi hỏi:

– Các hạ hiểu được thư họa ư? Biết sử kiếm ư?

Hai câu này lão hỏi rất vô lễ.

Lệnh Hồ Xung thấy trong tay lão cầm một cái chén màu xanh biếc, đúng là chén Phỉ thúy, lại ngửi được mùi rượu Lê hoa ở trong chén. Chàng bỗng nhớ tới lời nói của Tổ Thiên Thu trên sông Hoàng Hà, bèn nói:

– Bạch Lạc Thiên ở Hàng Châu lúc cao hứng có thơ rằng: “Hồng tụ chức lăng khoa thị diệp. Thanh kỳ khiết tửu sấn lê hoa”. Uống rượu Lê hoa nên dùng chén Phỉ thúy. Tứ trang chủ quả đúng là một tay uống rượu sành sỏi.

Lệnh Hồ Xung ít đọc sách, cái gì thi từ ca phú hắn chẳng hiểu, nhưng tính vốn thông minh, chỉ cần người khác nói qua thì hắn nhớ nằm lòng ngay. Lúc này hắn nhớ lời Tổ Thiên Thu nên nói ra thôi.

Đan Thanh tiên sinh vừa nghe, lão trố hai mắt lên, bỗng ôm lấy Lệnh Hồ Xung rồi lớn tiếng reo:

– A ha, hảo bằng hữu đến rồi! Nào nào, chúng ta cùng uống ba trăm chén đi. Phong huynh đệ, lão phu hảo tửu, hảo thư, hảo kiếm, nên người ta gọi là tam tuyệt. Trong tam tuyệt, lấy tửu làm đầu, thứ hai là họa, còn kiếm thì sau cùng.

Lệnh Hồ Xung vui mừng thầm nghĩ: Thư họa mình chẳng biết gì hết, mình đến để cầu danh y trị thương, cũng không nên tỉ kiếm động thủ với người ta. Còn việc uống rượu lại là việc chẳng mong.

Lệnh Hồ Xung liền đi theo Đan Thanh tiên sinh vào trong, Hướng Vấn Thiên và Thi Lệnh Oai đi theo sau. Đi qua một dãy hành lang, đến một gian phòng ở đầu mé Tây, vén rèm cửa ra, mùi rượu thơm xông lên nức mũi.

Lệnh Hồ Xung từ nhỏ đã thích rượu, nhưng vì sư phụ sư nương không cho hắn nhiều tiền tiêu xài nên rượu đến thì uống ngay, cũng không cần phân biệt người mời rượu là hạng tốt hay xấu. Từ hôm hắn nghe Lục Trúc Ông ở Lạc Dương tỉ mỉ luận về tửu đạo, lại được lão mời uống nhiều thứ rượu ngon, một là tính khí hợp nhau, hai là được danh sư chỉ điểm. Từ đó về sau, hắn thưởng thức giám định rất tinh, vừa ngửi được hương rượu thì reo lên:

– Hay quá, ở đây có cả rượu Phần lâu năm. Ồ, Bách thảo tửu chỉ e cất được bảy mươi lăm năm, Hầu nhi tửu lại càng hiếm có.

Lệnh Hồ Xung ngửi đến hương Hầu nhi tửu thì chợt nhớ đến Lục sư đệ Lục Đại Hữu, không kìm được lòng chua xót.

Đan Thanh tiên sinh vỗ tay cười, lớn tiếng reo lên:

– Tuyệt diệu, tuyệt diệu! Phong huynh đệ vừa vào tửu thất của ta thì đã nói đúng tên ba loại rượu quý mà ta cất giấu, thật là một đại danh gia. Tài thật, tài thật!

Hồi 79: Hướng Vân Thiên đưa đồ đánh cược

Lệnh Hồ Xung thấy trong phòng đầy ắp những thứ quý giá, khắp nơi đều là vò rượu, bình rượu, bầu rượu, chén uống rượu, bèn nói:

– Rượu mà tiền bối tàng trữ há đâu chỉ có ba loại mà thôi. Đây là Thiệu Hưng nữ nhi hồng, thứ thượng hạng. Đây là Bồ đào tửu ở Thổ Lỗ Phồn bên Tây Vực, phải bốn lần chưng cất mới được, trên đời này tìm đâu cho thấy.

Đan Thanh vừa kinh ngạc vừa vui mừng, bèn hỏi:

– Rượu Bồ đào bốn lần chưng, bốn lần cất của Thổ Lỗ Phồn được ta niêm kỹ trong thùng gỗ, sao lão đệ cũng đánh hơi ra được vậy?

Lệnh Hồ Xung mỉm cười, nói:

– Thứ hảo tửu này dù chôn sâu dưới đất mấy trượng cũng không khỏa lấp được mùi hương của nó.

Đan Thanh tiên sinh reo lên:

– Nào nào, chúng ta lại uống thứ rượu Bồ đào bốn lần chưng, bốn lần cất này đi!

Lão bê cái thùng gỗ ở trong góc phòng ra. Thùng gỗ cũ đến nỗi màu gỗ đen sì, trên nắp viết nhiều chữ Tây Vực ngoằn ngoèo, nắp gỗ niêm bằng keo sơn, đóng ấn đỏ rất trịnh trọng. Đan Thanh tiên sinh đưa tay vào nắp gỗ khẽ nạy lên, lập tức hương rượu ngào ngạt tỏa ra khắp nhà.

Thi Lệnh Oai xưa nay không hề uống một giọt rượu nào, khi ngửi mùi rượu sực nức, bất giác lão như ngà ngà say. Đan Thanh tiên sinh vẫy tay cười nói:

– Ngươi đi đi, ngươi đi đi, đừng để say lăn ra ở đây.

Lão bày ba cái chén lên bàn rồi ôm thùng rượu rót vào chén. Thứ rượu này đỏ như máu, lão rót cao hơn miệng chén mà không bị tràn ra giọt nào. Lệnh Hồ Xung khen thầm: Võ công của người này thật tuyệt. Lão bê cái thùng gỗ nặng khoảng một trăm cân, rót rượu vào trong cái chén nhỏ xíu đầy tới hơn miệng mà rượu không bị tràn ra giọt nào. Thật là tuyệt!

Đan Thanh tiên sinh ôm cái thùng bên hông, tay trái cầm chén rượu lên, nói:

– Mời, mời!

Hai mắt lão chăm chú nhìn Lệnh Hồ Xung, để coi vẻ mặt chàng ra sao khi uống rượu. Lệnh Hồ Xung bưng chén rượu uống một nửa, thưởng thức mùi vị, có điều do trét một lớp phấn dày nên sắc mặt vẫn bình thường như không có vẻ gì thích thú lắm. Vẻ mặt Đan Thanh tiên sinh lo âu, dường như lão sợ “tửu trung hành gia” này cảm thấy thùng rượu của lão bình thường, chẳng có gì lạ.

Lệnh Hồ Xung nhắm mắt một lúc mới mở ra nói:

– Kỳ lạ, kỳ lạ!

Đan Thanh tiên sinh hỏi:

– Kỳ lạ cái gì?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Chuyện này thật khó giải thích, vãn bối thật không hiểu.

Cặp mắt Đan Thanh tiên sinh lộ ra vẻ vui mừng, nói:

– Các hạ nói là…

Lệnh Hồ Xung nói:

– Rượu này ở thành Lạc Dương vãn bối chỉ mới được uống qua một lần, tuy rượu cực kỳ ngon nhưng trong rượu lại có vị chua chua. Theo lời một vị tửu quốc tiền bối nói đó là do lúc vận chuyển làm rượu dao động. Rượu Bồ đào của Thổ Lỗ Phồn bốn lần chưng bốn lần cất này dịch chuyển một lần thì làm vị rượu giảm đi. Từ Thổ Lỗ Phồn về đến Hàng Châu không biết có mấy vạn dặm đường nhưng rượu này của tiền bối lại tuyệt không có vị chua. Chuyện này…

Đan Thanh tiên sinh cười ha hả, vô cùng đắc ý nói:

– Đây là bí quyết bất truyền của ta. Ta dùng ba chiêu kiếm pháp để đánh đổi lấy bí quyết của kiếm khách Mạc Hoa Nhĩ ở Tây Vực. Các hạ có muốn biết không?

Lệnh Hồ Xung lắc đầu nói:

– Vãn bối được thưởng thức thứ rượu này đã là mãn nguyện lắm rồi, còn bí quyết của tiền bối thì vãn bối không dám hỏi.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Uống rượu, uống rượu đi!

Lão lại rót ba chén rượu nữa. Lão thấy Lệnh Hồ Xung không hỏi bí quyết này thì trong lòng ngứa ngáy khó chịu, bèn nói:

– Kỳ thực bí quyết này nói ra thì không hay ho gì, có thể nói không có gì kỳ lạ.

Lệnh Hồ Xung biết mình càng không muốn nghe thì lão lại càng muốn nói, vội cung tay nói:

– Tiền bối dù thế nào cũng đừng nói ra. Ba chiêu kiếm của tiền bối đương nhiên không phải tầm thường. Tiền bối đã trả nó bằng một cái giá đắt mà vãn bối học được một cách dễ dàng thì lòng vô cùng áy náy. Người ta thường nói: Vô công bất thụ lộc…

Đan Thanh tiên sinh ngắt lời:

– Các hạ uống rượu với ta, lại nói được lai lịch của những loại rượu này thì là có công lao lớn lắm. Bí quyết này các hạ phải nghe mới được.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Vãn bối được tiền bối tiếp kiến, lại được ban cho rượu ngon thượng hạng. Vãn bối cảm kích vô cùng, sao có thể…

Đan Thanh tiên sinh ngắt lời:

– Ta muốn nói, các hạ phải nghe mới được.

Hướng Vấn Thiên khuyên:

– Tứ trang chủ có hảo ý, Phong huynh đệ không nên từ chối.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Đúng vậy, đúng vậy!

Lão cười híp mắt nói:

– Ta muốn khảo nghiệm các hạ, các hạ có biết rượu này cất được bao nhiêu năm rồi?

Lệnh Hồ Xung bưng chén rượu uống cạn, phân biệt vị rượu, hồi lâu mới nói:

– Rượu này còn có điểm kỳ lạ, dường như cất khoảng một trăm hai mươi năm, nhưng giống như mới cất có mười hai, mười ba năm. Trong cái mới có cái cũ, trong cái cũ có cái mới; nếu đem nó so sánh với loại rượu ngon bình thường cất hơn một trăm năm thì còn một phong vị khác.

Hướng Vấn Thiên chau mày, thầm nghĩ: Chuyện này có thể bị lộ tẩy. Một trăm hai mươi năm và mười hai, mười ba năm cách nhau hơn một trăm năm, sao có thể đem ra luận chung với nhau được.

Lão sợ Đan Thanh tiên sinh nghe xong sẽ không vui, nhưng thấy Đan Thanh tiên sinh lại cười ha hả, bộ râu dài bị thổi tung lên. Lão cười nói:

– Hảo huynh đệ quả nhiên rất lợi hại. Bí quyết của ta là ở chỗ đó. Ta nói cho huynh đệ biết: kiếm khách Mạc Hoa Nhĩ ở Tây Vực đã tặng cho ta mười thùng rượu ngon ba lần chưng, ba lần cất của vùng Thổ Lỗ Phồn đã để lâu một trăm hai mươi năm, dùng năm con ngựa Đại Uyển chở đến Hàng Châu. Sau đó ta dựa theo phương pháp cũ mà chưng một lần, cất một lần nữa. Mười thùng rượu ngon này cất lại còn một thùng. Ta bấm ngón tay tính lại đúng là chuyện mười hai năm rưỡi về trước. Thứ rượu ngon này vận chuyển đến quan san vạn lý mà không bị chua, vị rượu trong cũ có mới, trong mới có cũ là vì chỗ đó.

Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung cùng vỗ tay nói:

– Thì ra là vậy.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Có thể cất thành loại rượu ngon như vậy thì đem mười chiêu kiếm pháp đánh đổi cũng xứng đáng. Tiền bối chỉ lấy ba chiêu kiếm pháp đi đổi là đã chiếm được tiện nghi của thiên hạ rồi.

Đan Thanh tiên sinh càng khoái chí, nói:

– Lão đệ đúng là tri kỷ của ta. Ngày trước, đại ca và tam ca đều oán giận việc ta lấy ba chiêu kiếm đổi lấy rượu, làm cho tuyệt chiêu của Trung Nguyên truyền vào Tây Vực. Tuy nhị ca cười không nói nhưng trong lòng e cũng không vừa ý. Chỉ có lão đệ mới hiểu ta đã chiếm được tiện nghi lớn, chúng ta cùng uống một chén nữa.

Lão thấy Hướng Vấn Thiên rõ ràng không hiểu về tửu đạo, nên chẳng coi lão ra gì.

Lệnh Hồ Xung lại uống một chén nữa rồi nói:

– Tứ trang chủ, rượu này còn có một cách uống khác, đáng tiếc bây giờ không thể làm được.

Đan Thanh tiên sinh vội hỏi:

– Còn cách uống nào nữa? Tại sao làm không được?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Thổ Lỗ Phồn là nơi nóng nhất trong thiên hạ, nghe nói năm xưa Huyền Trang đại sư đến Thiên Trúc thỉnh kinh phải đi qua Hỏa Diệm sơn, là vùng Thổ Lỗ Phồn.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Đúng vậy, nơi đó rất nóng. Vừa đến mùa hạ thì suốt ngày người ta phải ngâm mình trong thùng nước lạnh mà vẫn còn thấy nóng; đến mùa đông, vùng này lại lạnh thấu xương. Vì thời tiết như vậy nên trái bồ đào mới khác hẳn những nơi khác.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Lúc vãn bối ở trong thành Lạc Dương uống loại rượu này, trời đang mùa đông, vị tửu quốc tiền bối đó lấy một tảng băng lớn đặt bát uống rượu lên. Rượu ngon có hơi lạnh thấm vào, nên có một mùi vị khác. Bây giờ đang đầu hạ, vị lạ của rượu ngon lành lạnh không thể thưởng thức được.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Lúc ta ở Tây Vực không may cũng đúng vào mùa hạ, Mạc Hoa Nhĩ cũng nói qua chuyện lấy băng ướp rượu tạo ra một phong vị tuyệt diệu. Lão đệ, vậy thì dễ quá, lão đệ ở đây với ta hơn nửa năm, đến mùa đông, chúng ta cùng thưởng thức rượu ướp lạnh.

Lão ngừng một lúc rồi chau mày nói:

– Có điều phải chờ lâu như vậy thì thật nóng lòng.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Đáng tiếc một dải Giang Nam không có nhân vật nào luyện Hàn băng chưởng hay Âm phong trảo, thứ công phu thuần âm, nếu không thì…

Lão nói chưa hết lời thì Đan Thanh tiên sinh vui mừng nói:

– Có rồi, có rồi!

Lão nói vậy liền đặt thùng rượu xuống, hối hả chạy đi.

Lệnh Hồ Xung đưa mắt nhìn Hướng Vấn Thiên, lòng đầy nghi ngờ. Hướng Vấn Thiên nín cười không nói. Không bao lâu, Đan Thanh tiên sinh dắt một lão già mặc áo đen, ốm nhom, cao nghệu đi vào, nói:

– Nhị ca, lần này bất luận thế nào cũng phải giúp tiểu đệ.

Lệnh Hồ Xung thấy người này mày thanh mắt sáng, có điều sắc mặt trắng bệch như một cương thi khiến cho ai vừa trông qua cũng cảm thấy ớn lạnh. Đan Thanh tiên sinh dẫn nhị ca vào, thì ra lão là nhị trang chủ Hắc Bạch Tử ở Mai trang. Tóc của lão rất đen mà da thì trắng bạch, quả nhiên là hắc bạch phân minh. Hắc Bạch Tử lạnh lùng nói:

– Giúp cái gì?

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Xin nhị ca biểu diễn công phu hóa nước thành băng cho hai vị hảo bằng hữu của tiểu đệ xem một chút.

Hắc Bạch Tử đảo cặp quái nhãn hắc bạch phân minh, lạnh lùng nói:

– Cái tài vặt đó có gì đáng nói đâu, không khéo khiến người ta cười cho.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Nhị ca, không giấu gì nhị ca, Phong huynh đệ này nói rượu Bồ đào ở Thổ Lỗ Phồn dùng băng để ướp lạnh, khi uống vào có vị rất kỳ thú. Trời nóng như vậy thì đi tìm đâu ra băng bây giờ?

Hắc Bạch Tử nói:

– Hương rượu này rất thuần túy, hà tất phải ướp lạnh.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Thổ Lỗ Phồn là nơi cực nóng…

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Đúng vậy, rất nóng!

Lệnh Hồ Xung nói tiếp:

– Bồ đào mọc ở vùng này tuy ngon nhưng không khỏi có khí nóng thấm vào.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Đúng vậy, đó là chuyện đương nhiên.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Khí nóng đó truyền vào trong rượu, để qua một trăm năm tuy đã giảm đi nhiều nhưng vị rượu vẫn còn cay nồng là điều khó tránh khỏi.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Đúng vậy, đúng lắm! Lão đệ không nói thì ta cứ tưởng là lúc ta chưng rượu để lửa hơi mạnh nên đã trách oan tên nhà bếp rồi.

Lệnh Hồ Xung hỏi:

– Cái gì nhà bếp?

Đan Thanh tiên sinh cười nói:

– Ta chỉ sợ lúc chưng rượu để lửa không đủ làm hỏng hết mười thùng rượu ngon nên lẻn vào hoàng cung ở Bắc Kinh bắt một lão nhà bếp của hoàng đế về cho lão chưng rượu.

Hắc Bạch Tử lắc đầu nói:

– Thực là chuyện bé mà xé ra to.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Thì ra là vậy. Nếu là anh hùng hiệp sĩ bình thường lúc uống thứ rượu này thấy hơi cay một chút chẳng đáng gì. Nhưng nhị trang chủ, tứ trang chủ ẩn cư nơi phong cảnh tuyệt mỹ bên cạnh Tây Hồ, là những bậc thanh cao không giống những người thô kệch trong võ lâm. Rượu này ướp băng cho lạnh một chút để khử đi khí nóng thì mới xứng với thân phận thanh cao của hai vị cao nhân. Ví như đánh cờ, cứ lo những chuyện nhỏ nhặt tìm thế bắt quân mà không nghĩ đến đại cục là hạng bỏ đi.

Hắc Bạch Tử đảo cặp quái nhãn, chụp vai Hướng Vấn Thiên vội hỏi:

– Ngươi cũng biết đánh cờ sao?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Bình sinh tại hạ thích nhất là đánh cờ nhưng đáng tiếc tay cờ không cao, nên đã đi khắp Giang Nam, Giang Bắc, Hoàng Hà để sưu tầm kỳ phổ. Ba mươi năm qua, tại hạ nhớ không ít các danh cục từ xưa tới nay.

Hắc Bạch Tử vội hỏi:

– Ngươi nhớ được những danh cục nào?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tỉ như cuộc đấu cờ của Vương Chất gặp tiên trên núi Lạn Kha. Cuộc cờ của Lưu Trọng Phủ đánh với tiên bà trên núi Ly Sơn, cuộc cờ của Vương Tích Tân đấu với Cô Tiên…

Lão nói chưa hết câu thì Hắc Bạch Tử đã lắc đầu lia lịa nói:

– Những thần thoại này làm sao có thể tin được? Làm gì có kỳ phổ thật?

Hắc Bạch Tử nói rồi buông tay ra. Hướng Vấn Thiên nói:

– Lúc đầu tại hạ cũng cho rằng những cố sự này do kẻ hiếu kỳ bịa đặt ra. Nhưng hai mươi lăm năm về trước, tại hạ đã thấy được phổ đồ của cuộc đấu giữa Lưu Trọng Phủ và tiên bà ở núi Ly Sơn. Nước cờ tuyệt diệu, người thường không thể bì được nên tại hạ mới tin những chuyện đó có thực chứ không phải là bịa đặt. Tiền bối cũng thích chơi cờ lắm phải không?

Đan Thanh tiên sinh cười ha hả, bộ râu dài của lão bay phấp phới.

Hướng Vấn Thiên hỏi:

– Sao tiền bối lại cười?

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Các hạ hỏi nhị ca của ta có thích đánh cờ không? Ha ha, nhị ca ta có đạo hiệu là Hắc Bạch Tử, các hạ nói xem nhị ca thích hay không thích đánh cờ? Nhị ca mê cờ cũng như ta mê rượu vậy.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tại hạ nói bậy, thật là múa rìu qua mắt thợ, xin nhị trang chủ đừng trách.

Hắc Bạch Tử nói:

– Có thật ngươi đã thấy qua đồ phổ cuộc đấu cờ giữa Lưu Trọng Phủ và tiên bà trên núi Ly Sơn không? Ta xem trong bút ký của tiền nhân có ghi lại rằng Lưu Trọng Phủ là quốc thủ đương thời bị đại bại dưới tay của một bà già thôn quê ở chân núi Ly Sơn nên thổ huyết mấy tháng trời. Do vậy, cuộc cờ đó được gọi là “Ẩu huyết phổ”. Chẳng lẽ trên đời này thật có cuộc Ẩu huyết phổ này ư?

Lúc lão vào phòng, vẻ mặt rất lạnh lùng, bây giờ lại rất thân mật.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Hai mươi lăm năm về trước, tại hạ đã từng thấy qua kỳ phổ trong một nhà thế gia ở Thành Đô, Tứ Xuyên. Chỉ vì cuộc cờ này có những nước đi kinh tâm động phách, nên tuy chuyện đã qua hai mươi lăm năm, toàn bộ có một trăm mười hai nước cờ đến hôm nay tại hạ vẫn còn nhớ rõ.

Hắc Bạch Tử nói:

– Tất cả có một trăm mười hai nước ư? Lão huynh thử bày ra cho ta coi. Nào nào, đến kỳ thất của ta để bày cờ đi.

Đan Thanh tiên sinh dang tay cản lại nói:

– Khoan đã. Nhị ca, nhị ca không làm cho tiểu đệ một tảng băng thì tiểu đệ không cho nhị ca đi đâu.

Lão vừa nói vừa bưng một chậu bằng sứ trắng đựng đầy nước đến.

Hắc Bạch Tử thở dài nói:

– Tứ đệ cũng có cái say mê, thôi ta đành chịu vậy.

Lão đưa ngón trỏ của tay phải ra nhúng vào chậu nước. Trong khoảnh khắc, mặt nước nổi lên những bọt khí trắng li ti, không bao lâu quanh miệng chậu đã có một lớp sương trắng. Tiếp theo trên mặt nước kết thành một lớp băng mỏng. Lớp băng kết càng lúc càng dày, trong khoảng thời gian uống cạn một tuần trà, nước trong chậu đều biến thành băng.

Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung lớn tiếng khen ngợi. Hướng Vấn Thiên nói:

– Công phu Hắc phong chỉ nghe nói thất truyền trong võ lâm đã lâu, thì ra nhị trang chủ…

Đan Thanh tiên sinh ngắt lời:

– Đây không phải là Hắc phong chỉ mà là Huyền thiên chỉ, nó cùng với công phu bá đạo Hắc phong chỉ có chỗ sai biệt rất lớn.

Lão vừa nói vừa đem bốn cái chén để lên chậu băng, rót đầy rượu Bồ đào vào chén. Không bao lâu, trên mặt rượu nổi lên những hạt khí trắng li ti. Lệnh Hồ Xung nói:

– Được rồi.

Đan Thanh tiên sinh cầm chén rượu uống một hơi, quả nhiên lão cảm thấy vị rượu vừa đậm vừa ngon, một luồng thanh lương thấm nhập vào tâm phế. Lão lớn tiếng khen:

– Tuyệt diệu! Rượu này ta cất đã ngon, cách bình phẩm rượu của Phong huynh đệ thật cao, băng của nhị ca làm cũng tuyệt. Còn lão huynh?

Lão quay sang Hướng Vấn Thiên nói:

– Lão huynh ngồi bên cạnh lúc tung lúc hứng lại càng tuyệt.

Hắc Bạch Tử cũng cầm bát rượu đưa lên miệng uống nhưng không nói vị rượu ngon hay dở mà kéo tay Hướng Vấn Thiên nói:

– Đi đi! Đi bày cuộc cờ Ẩu huyết phổ của Lưu Trọng Phủ cho ta xem.

Hướng Vấn Thiên kéo tay áo Lệnh Hồ Xung, Lệnh Hồ Xung hiểu ý nói:

– Tại hạ cũng đi xem.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Có gì hay đâu mà xem, chi bằng ta với lão đệ ở đây uống rượu.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Chúng ta vừa uống rượu vừa xem cờ.

Lệnh Hồ Xung nói xong liền đi theo Hắc Bạch Tử và Hướng Vấn Thiên. Đan Thanh tiên sinh không còn cách nào khác, đành ôm thùng rượu lớn đi vào kỳ thất.

Đó là một gian phòng rất lớn, ngoài cái bàn đá với hai cái ghế mềm ra, không có cái gì khác. Trên cái bàn đá khắc ngang dọc mười chín đường[5], bên cạnh đặt hộp cờ đen và một hộp cờ trắng. Trong kỳ thất ngoài bàn ghế ra, không bày một vật gì khác để người đấu cờ khỏi bị phân tâm.

Hướng Vấn Thiên đi đến trước bàn đá, bày ra bốn thế bình, thượng, khứ, nhập ở bốn góc bàn cờ.

Tiếp theo lão đặt vào vị bình ở điểm lục tam một con cờ trắng, sau đó đặt ở điểm cửu tam một con cờ đen, ở điểm lục ngũ đặt một con cờ trắng, ở điểm cửu ngũ đặt một con cờ trắng. Cứ như vậy lão đặt không nghỉ, dần dần lão đặt càng lúc càng chậm lại.

Lão bày xong, song phương cờ đen, cờ trắng thành thế tỉ đấu kịch liệt, ở giữa không còn một chỗ trống. Hắc Bạch Tử xem đến toát mồ hôi trán.

Lệnh Hồ Xung ngấm ngầm sửng sốt. Chàng thấy vừa rồi lão dùng Huyền thiên chỉ để hóa nước thành băng, thì biết nội lực tu luyện của lão cao cường đến thế nào. Lúc đó lão rất bình thường. Còn đánh cờ chỉ là chuyện nhỏ mà lão nhìn đến toát mồ hôi; có thể thấy lão chẳng quan tâm chuyện gì khác để khỏi loạn thần trí. Lão này say mê cờ đến nỗi trở thành điên khùng, chắc Hướng Vấn Thiên đã tìm được nhược điểm của lão mà tấn công.

Hắc Bạch Tử thấy Hướng Vấn Thiên đi xong nước cờ thứ sáu mươi sáu thì một lúc sau không đi thêm nước cờ nào nữa. Không nhịn được, lão hỏi:

– Nước kế tiếp đi thế nào?

Hướng Vấn Thiên mỉm cười nói:

– Đây là nước cờ then chốt, theo cao kiến của nhị trang chủ thì nên đi thế nào?

Hắc Bạch Tử suy nghĩ hồi lâu, trầm ngâm nói:

– Nước cờ này ư? Bỏ thì không ổn, liên cũng không phải, xông ra thì không được, làm cho sống cũng không xong. Cái này… cái này… cái này…

Lão cầm một con cờ trắng gõ lách cách lên bàn đá, qua khoảng thời gian một bữa ăn, không biết đi nước nào. Lúc này Đan Thanh tiên sinh và Lệnh Hồ Xung đã uống mười bảy, mười tám chén rượu Bồ đào.

Đan Thanh tiên sinh thấy sắc mặt của Hắc Bạch Tử càng lúc càng xanh mét, lão nói:

– Đồng lão huynh, Ẩu huyết phổ này chẳng lẽ Đồng huynh muốn nhị ca của ta phải thổ huyết mới được ư? Nước cờ kế tiếp ra sao, lão huynh thẳng thắn nói ra thôi.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Được! Nước cờ thứ sáu mươi bảy đặt ở chỗ này.

Nói rồi lão đặt con cờ xuống điểm thất tứ ở thượng bộ. Hắc Bạch Tử vỗ bốp một cái vào đùi, reo lên:

– Hay quá, con cờ này đặt ở đây thật là tuyệt diệu!

Hướng Vấn Thiên nói:

– Nhị trang chủ thử nghĩ xem.

Hắc Bạch Tử suy nghĩ rất lâu, cảm thấy ván cờ sắp bại, khó lòng cứu vãn, bèn lắc đầu nói:

– Đã là tiên thì hàng phàm phu tục tử như ta sao nghĩ ra được? Đồng huynh đừng thử thách nữa.

Hướng Vấn Thiên mỉm cười nói:

– Nước cờ này thần cơ diệu toán, thật chỉ có thần tiên mới nghĩ ra được.

Hắc Bạch Tử là người giỏi đánh cờ cũng là người biết dò xét tâm ý của đối phương một cách rất tinh vi. Lão thấy Hướng Vấn Thiên không chịu nói huỵch toẹt ra nước cờ này khiến cho lão cảm thấy ngứa ngáy khó chịu, nghĩ rằng Hướng Vấn Thiên chắc là có đòi hỏi gì đó, bèn nói:

– Đồng huynh, Đồng huynh cứ đem thế cờ này nói ta cho ta nghe, ta cũng không nghe chùa của Đồng huynh đâu.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Chẳng lẽ Hướng đại ca biết thần công Huyền thiên chỉ của nhị trang chủ có thể trị được bệnh cho ta nên mới bày chuyện để cầu xin lão?

Hướng Vấn Thiên ngẩng đầu lên cười ha hả, nói:

– Tại hạ và Phong huynh đệ tuyệt không có yêu cầu gì đối với bốn vị trang chủ. Nhị trang chủ nói như vậy là coi thường bọn tại hạ rồi.

Hắc Bạch Tử xá dài nói:

– Tại hạ lỡ lời, xin miễn thứ.

Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung trả lễ. Hướng Vấn Thiên nói:

– Bọn tại hạ đến Mai trang là muốn đánh cuộc với bốn vị trang chủ.

Hắc Bạch Tử và Đan Thanh tiên sinh cùng hỏi:

– Đánh cuộc ư? Đánh cuộc cái gì?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tại hạ đánh cuộc trong Mai trang không ai có thể thắng được kiếm pháp của Phong huynh đệ đây.

Hắc Bạch Tử và Đan Thanh tiên sinh quay qua nhìn Lệnh Hồ Xung, vẻ mặt của Hắc Bạch Tử thản nhiên, không nói gì. Đan Thanh tiên sinh thì cười ha hả nói:

– Đặt cược thế nào?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Nếu bọn tại hạ thua thì bức họa này xin tặng cho tứ trang chủ.

Lão nói rồi cởi cái bao cột trên lưng xuống, mở ra. Bên trong có hai cuộn tròn. Lão mở một cuộn ra thì là một bức họa rất cũ, trên góc trái bức họa đề mười chữ “Bắc Tống Phạm Trung Lập khê sơn hành lữ đồ”. Bức họa vẽ một ngọn núi cao ngất trời, nét mực đen thẫm, khí thế rất hùng vĩ. Tuy Lệnh Hồ Xung không hiểu về thư họa song cũng biết bức họa sơn thủy này thật là một tuyệt tác; ngọn núi cao chót vót rậm rạp tuy chỉ được vẽ trên giấy cũng khiến cho người xem cảm thấy ngưỡng mộ, bất giác không tự chủ được.

Đan Thanh tiên sinh reo lên:

– Úi chà!

Hai mắt lão nhìn vào bức họa không chớp. Một lúc sau, lão mới nói:

– Đây là chân tích của Phạm Khoan đời Bắc Tống. Lão… lão… có được từ đâu vậy?

Hướng Vấn Thiên mỉm cười không đáp, từ từ cuộn bức họa lại. Đan Thanh tiên sinh nói:

– Khoan đã!

Lão đưa tay kéo tay Hướng Vấn Thiên muốn cản không cho Hướng Vấn Thiên cuốn lại. Nào ngờ bàn tay lão vừa đụng vào tay Hướng Vấn Thiên thì một luồng nội lực ôn hòa nhưng hùng hậu phát sinh làm cánh tay của lão bị đẩy nhẹ ra.

Hướng Vấn Thiên vờ như không biết gì, tiếp tục cuộn bức họa lại. Đan Thanh tiên sinh cảm thấy sửng sốt. Vừa rồi, lão đụng đến tay của Hướng Vấn Thiên, sợ làm rách bức họa nên chưa dùng nội lực nhưng Hướng Vấn Thiên vận nội kình hất tay lão ra như vậy, rõ ràng nội lực của Hướng Vấn Thiên vào hàng thượng thừa. Lão ngấm ngầm khâm phục, nói:

– Lão Đồng, thì ra võ công của lão Đồng tuyệt diệu như vậy, chỉ e không thua gì tứ trang chủ ta.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tứ trang chủ nói đùa. Ngoài kiếm pháp ra, môn công phu nào của bốn vị trang chủ Mai trang đều là vô địch đương thời. Đồng Hóa Kim vô danh tiểu tốt này làm sao dám so với tứ trang chủ.

Đan Thanh tiên sinh sa sầm nét mặt nói:

– Tại sao lão nói “Ngoài kiếm pháp ra”? Chẳng lẽ kiếm pháp của ta không bằng kiếm pháp của Phong huynh đệ?

Hướng Vấn Thiên mỉm cười nói:

– Nhị vị trang chủ, xin xem bức thư pháp này thế nào?

Lão đem một cuộn khác mở ra. Đây là một bức thảo thư, nét bút tinh xảo như rồng bay phượng múa.

Đan Thanh tiên sinh lấy làm lạ thốt lên:

– Úi chà, úi chà, úi chà!

Lão thốt lên ba tiếng úi chà rồi đột nhiên lớn tiếng gọi:

– Tam ca, tam ca! Cái bảo bối mà tam ca quý như tính mệnh đang ở đây này.

Tiếng lão gọi rất vang dội, làm chấn động cả tường vách cửa sổ, bụi cát ở trên tường rớt xuống. Lão la lên một cách đột ngột khiến Lệnh Hồ Xung không khỏi giật mình.

Từ xa có người hỏi:

– Chuyện gì mà la hoảng vậy?

Đan Thanh tiên sinh lại la lên:

– Tam ca mà không đến xem, người ta cuốn lại thì tam ca hối hận cả đời.

Bên ngoài có người nói:

– Ngươi lại tìm được bức thư pháp giả mạo nào nữa phải không?

Rèm cửa vén ra, một người đi vào. Người này mập lùn, cái đầu hói bóng lưỡng không có một cọng tóc nào, tay phải cầm một cây bút lớn, quần áo dính đầy vết mực. Lão đi đến gần vừa nhìn qua, bỗng hai mắt trợn ngược lên, hơi thở dồn dập, run run nói:

– Đây… đây là chân tích! Đúng là… đúng là Suất ý thiếp của Trương Húc đời Đường… Không… không giả được.

Thảo thư trên tấm thiếp múa lượn giống như một tay cao thủ võ lâm triển khai khinh công, lên cao rồi xuống thấp, tuy hành động thần tốc nhưng không làm mất đi sự phong lưu tao nhã. Trong mười chữ này, Lệnh Hồ Xung không đọc được chữ nào, nhưng thấy phía dưới thiếp viết đầy tên người đề tặng, không ít người có quan hàm rất cao, hắn đoán chừng tấm thiếp này không phải tầm thường.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Vị này là tam ca Ngốc Bút Ông của ta. Tam ca lấy ngoại hiệu này vì tính tam ca rất mê thư pháp, tam ca viết cùn hết hàng trăm ngàn cây bút chứ không phải vì đầu tam ca nhẵn bóng. Điểm này các vị chớ nhầm lẫn.

Lệnh Hồ Xung mỉm cười đáp dạ.

Ngốc Bút Ông đưa ngón trỏ tay phải vẽ trong không khí nét móc lên thuận theo đường bút họa trên thiếp, vẻ mặt say sưa ngây ngất không để ý gì đến Hướng Vấn Thiên và Lệnh Hồ Xung. Ngay cả Đan Thanh tiên sinh nói gì lão cũng bỏ ngoài tai.

Trong lúc đó Lệnh Hồ Xung đột nhiên chấn động đầu óc. Chàng nghĩ: Hướng đại ca bày chuyện này chỉ e đã có âm mưu từ trước. Nhớ lần đầu mình gặp đại ca ở trong lương đình thì trên lưng đại ca đã có bao này rồi.

Nhưng Lệnh Hồ Xung chuyển đổi ý nghĩ: Trong cái bao lúc đó chưa chắc có đựng hai cuộn tròn này. Nói không chừng vì Hướng đại ca đến cầu bốn vị trang chủ của Mai trang trị bệnh cho ta, lúc ta nghỉ ngơi trong khách điếm, đại ca đã đi ra ngoài mua hoặc là ăn trộm về. Hừ, chắc là ăn trộm thì đúng hơn, báu vật vô giá như vậy dễ gì mua được?

Tai chàng nghe Ngốc Bút Ông vẽ chữ trong không khí, chỉ phong phát ra tiếng veo véo nho nhỏ, nội lực của lão thật mạnh, chẳng thua kém gì Hắc Bạch Tử . Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Nội thương của ta là vì Đào Cốc lục tiên và Bất Giới hòa thượng mà ra, mà nội công của ba vị trang chủ Mai trang dường như mạnh hơn cả Đào Cốc lục tiên và Bất Giới đại sư. Còn vị đại trang chủ không chừng càng lợi hại hơn nữa. Thêm vào nội lực của Hướng đại ca, năm người hợp lại thì có thể trị thương cho ta. Nhưng chỉ mong bọn họ đừng phí công nhiều mới được.

Hướng Vấn Thiên không đợi Ngốc Bút Ông viết xong, đã cuộn bức thiếp thư lại, cho vào bao.

Ngốc Bút Ông sửng sốt nhìn Hướng Vấn Thiên, một lúc sau mới nói:

– Lão huynh đổi cái gì?

Hướng Vấn Thiên lắc lắc đầu nói:

– Cái gì cũng không thể đổi được.

Ngốc Bút Ông nói:

– Hai mươi tám chiêu Thạch cổ đả huyệt bút pháp được không?

Hắc Bạch Tử và Đan Thanh tiên sinh cùng la lên:

– Không được!

Ngốc Bút Ông nói:

– Được chứ, tại sao không được? Có thể đổi lấy được chân tích bức thảo thư của Trương Húc thì Thạch cổ đả huyệt bút pháp của ta đâu có gì phải tiếc?

Hướng Vấn Thiên lắc đầu nói:

– Không được!

Ngốc Bút Ông sốt ruột hỏi:

– Vậy tại sao huynh lại đem đến cho ta xem?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Dù tại hạ không phải nhưng tam trang chủ cứ coi như chưa từng xem qua là được.

Ngốc Bút Ông nói:

– Đã xem qua rồi, làm sao có thể cho rằng chưa từng xem qua?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tam trang chủ muốn có được bức chân tích của Trương Húc này cũng đâu có khó, chỉ cần đánh cược với bọn tại hạ.

Ngốc Bút Ông vội hỏi:

– Đánh cược thế nào?

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Tam ca, người này hơi khùng khùng điên điên. Lão đánh cược trong Mai trang chúng ta không ai có thể thắng được kiếm pháp của vị Phong bằng hữu phái Hoa Sơn này.

Ngốc Bút Ông hỏi:

– Nếu có người thắng được vị bằng hữu này thì sao?

Hướng Vấn Thiên đáp:

– Nếu trong Mai trang bất luận vị nào thắng được trường kiếm trong tay Phong huynh đệ của tại hạ thì tại hạ sẽ đem bức Suất ý thiếp chân tích của Trương Húc phụng tặng tam trang chủ, đem bức Khê sơn hành lữ đồ chân tích của Phạm Khoan phụng tặng tứ trang chủ, đem hai mươi danh cục cờ vây của thần tiên quỷ quái mà tại hạ thuộc nằm lòng nhất nhất viết ra để tặng cho nhị trang chủ.

Ngốc Bút Ông nói:

– Còn đại ca của bọn ta thì sao? Lão huynh sẽ tặng đại ca ta cái gì?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Tại hạ có một bộ cầm phổ “Quảng Lăng tán”, không chừng đại trang chủ…

Hướng Vấn Thiên chưa nói hết lời thì bọn Hắc Bạch Tử ba người cùng thốt lên:

– “Quảng Lăng tán” ư?

Lệnh Hồ Xung cũng giật mình: Cầm phổ “Quảng Lăng tán” này là do Khúc trưởng lão quật mộ cổ mà có được. Lão đem khúc cầm phổ này đưa vào khúc “Tiếu ngạo giang hồ”, sao Hướng đại ca lại có nó?

Lệnh Hồ Xung liền hiểu ra: Hướng đại ca là tả sứ của Ma giáo mà Khúc trưởng lão là trưởng lão trong Ma giáo, chắc hai người có mối giao hảo. Sau khi Khúc trưởng lão được bộ cầm phổ này thì vui mừng khôn xiết nên nói với Hướng đại ca. Hướng đại ca muốn mượn để sao chép, tất nhiên Khúc trưởng lão đồng ý.

Lệnh Hồ Xung nghĩ đến khúc phổ của người đã mất, bất giác thở dài. Ngốc Bút Ông lắc đầu nói:

– Từ sau khi Kê Khang chết, “Quảng Lăng tán” bị thất truyền. Đồng huynh nói vậy chắc để lừa dối người.

Hướng Vấn Thiên mỉm cười nói:

– Tại hạ có một vị bằng hữu thâm giao mê đàn đến hóa điên. Lão nói sau khi Kê Khang chết thì từ đó thiên hạ không còn nghe khúc “Quảng Lăng tán”. Bộ cầm phổ này sau đời Tây Tấn thì không còn nữa, nhưng trước đời Tây Tấn thì sao?

Bọn Ngốc Bút Ông ba người sửng sốt nhìn nhau, nhất thời không hiểu ý Hướng Vấn Thiên muốn nói gì. Hướng Vấn Thiên nói tiếp:

– Vị bằng hữu này của tại hạ thông minh hơn người, dám to gan làm càn. Lão đi quật mộ của các danh nhân gảy đàn trước đời Tấn. Quả nhiên người có chí thì việc hoàn thành, sau khi lão quật mấy chục ngôi mộ cổ, cuối cùng tìm được trong ngôi mộ cổ của Thái Ung đời Đông Hán khúc phổ này.

Ngốc Bút Ông và Đan Thanh tiên sinh đều giật mình ồ lên một tiếng. Hắc Bạch Tử gật đầu nói:

– Trí dũng song toàn, thật tuyệt!

Hướng Vấn Thiên mở bao lấy một cuốn sách, trên bìa sách viết năm chữ “Quảng Lăng tán cầm khúc”. Lão giở sách ra, quả là cầm phổ. Lão đưa cuốn sách cho Lệnh Hồ Xung rồi nói:

– Phong huynh đệ, trong Mai trang nếu có vị cao nhân nào thắng được kiếm pháp của huynh đệ thì huynh đệ đem cầm phổ này tặng cho đại trang chủ.

Lệnh Hồ Xung nhận sách, bỏ vào trong túi, thầm nghĩ: Nói không chừng đây là di vật của Khúc trưởng lão. Khúc trưởng lão đã chết, Hướng đại ca muốn lấy quyển cầm phổ này thì đâu có khó gì?

Đan Thanh tiên sinh cười nói:

– Vị Phong huynh đệ này tinh thông tửu lý, kiếm pháp chắc cũng cao minh nhưng tuổi của Phong huynh đệ còn trẻ, chẳng lẽ trong Mai trang ta, hì hì… hì hì, thật là nực cười.

Hắc Bạch Tử nói:

– Nếu trong Mai trang ta quả nhiên không ai có thể thắng được Phong thiếu hiệp thì bọn ta phải thua cuộc cái gì?

Lệnh Hồ Xung và Hướng Vấn Thiên đều có giao ước trước mọi chuyện phải theo sự sắp đặt của lão. Nhưng sự việc diễn biến đến thế này, chàng cảm thấy Hướng Vấn Thiên làm hơi thái quá, đã đến cầu danh y sao lại cuồng vọng coi nhẹ đối phương? Huống hồ nội lực của mình đã mất hết, làm sao có thể là đối thủ của những cao nhân trong Mai trang được? Lệnh Hồ Xung nói:

– Đồng đại ca thích nói đùa. Kẻ hèn này thuộc hàng hậu bối, học chưa đến nơi, sao dám giảng võ luận kiếm với các vị trang chủ ở Mai trang?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Mấy câu khách khí này Phong huynh đệ đương nhiên phải nói, nếu không người ta sẽ cho rằng Phong huynh đệ là kẻ cuồng vọng tự đại.

Dường như Ngốc Bút Ông chẳng để tai nghe hai người nói, lão lẩm bẩm ngâm: “Trương Húc tam bôi thảo thánh truyền. Thoát mạo lộ đỉnh vương công tiền. Huy hào lạc chỉ như vân yến”. Nhị ca, Trương Húc hiệu xưng là Thảo thánh, là thánh của môn chữ thảo, nhưng ba câu thơ này là của Đỗ Phủ trong bài “Ẩm trung bát tiên ca” viết về Trương Húc. Người này cũng là một trong Ẩm trung bát tiên. Nhị ca xem Suất ý thiếp này có tưởng tượng ra tình cảnh năm xưa lúc lão say rượu hạ bút. Ôi, thật là thiên mã hành không, không có dây cương để dừng lại. Chữ đẹp, chữ đẹp quá!

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Đúng vậy, người này mê uống rượu thì dĩ nhiên là một đại hảo nhân, nên chữ viết đương nhiên không chê vào đâu được.

Ngốc Bút Ông nói:

– Hàn Dũ bình phẩm về Trương Húc rằng: “Hỷ nộ bần cùng, ưu bị sảng khoái, oán hận nhớ thương, say sưa túy lúy. Lòng động nỗi bất bình, đem phác cả thành chữ thảo”. Vị công chính này là người cùng làng với ta, hễ lòng có chuyện bất bình thì phác cả vào chữ thảo, giống như vung kiếm múa trượng há chẳng khoái ư?

Lão đưa ngón tay lên, lại viết trong không khí, lão viết được mấy nét thì nói với Hướng Vấn Thiên:

– Này, lão huynh mở ra cho ta xem chút nữa đi.

Hướng Vấn Thiên lắc đầu cười nói:

– Sau khi tam trang chủ thủ thắng thì tấm thiếp này là của tam trang chủ. Bây giờ hà tất phải sốt ruột?

Hắc Bạch Tử giỏi về đánh cờ, trầm ngâm suy nghĩ đắn đo mãi, không nghĩ thắng mà lo bại trước, lại hỏi:

– Nếu trong Mai trang không ai thắng được kiếm pháp của Phong thiếu hiệp thì bọn ta phải thua cái gì?

Hướng Vấn Thiên nói:

– Bọn tại hạ không cầu chuyện gì, cũng không cầu vật gì. Phong huynh đệ bất quá là tìm đến chỗ võ học tuyệt đỉnh thiên hạ này để chứng thực kiếm pháp với các tay cao thủ đương thời. Nếu may mắn thắng được các vị, thì bọn tại hạ quay người đi, cái gì đặt cược ta cũng không cầu.

Hắc Bạch Tử nói:

– Ồ, vị Phong thiếu hiệp này chỉ muốn cầu danh tiếng. Một kiếm liên tục đả bại Giang Nam tứ hữu dĩ nhiên oai danh sẽ chấn động giang hồ.

Hướng Vấn Thiên lắc đầu nói:

– Nhị trang chủ đoán sai rồi. Hôm nay Mai trang chứng thực kiếm pháp bất luận ai thắng ai bại, nếu có một lời tiết lộ ra ngoài thì tại hạ và Phong huynh đệ sẽ bị trời tru đất diệt, là hạng người không bằng cứt chó.

Đan Thanh tiên sinh nói:

– Được, được! Nói thật là hay! Căn phòng này rất rộng, ta và Phong huynh đệ thử tỉ hoạch mấy chiêu. Phong huynh đệ, kiếm của Phong huynh đệ đâu?

Hướng Vấn Thiên cười nói:

– Đến Mai trang, sao dám mang binh khí?

Đan Thanh tiên sinh lớn tiếng gọi:

– Đem hai thanh kiếm ra đây!

Bên ngoài có người đáp dạ. Đinh Kiên và Thi Lệnh Oai mỗi lão cầm một thanh kiếm đi đến trước mặt Đan Thanh tiên sinh cúi người dâng lên. Đan Thanh tiên sinh nhận kiếm từ tay Đinh Kiên, nói:

– Đưa thanh kiếm này cho Phong huynh đệ.

Thi Lệnh Oai đáp dạ, rồi hai tay cầm kiếm đi đến trước mặt Lệnh Hồ Xung.

Lệnh Hồ Xung cảm thấy lúng túng trước chuyện này, chàng quay đầu nhìn Hướng Vấn Thiên.

Hướng Vấn Thiên nói:

– Kiếm pháp thần thông của tứ trang chủ Mai trang, Phong huynh đệ chỉ cần học được một chiêu nửa thức thì có thể thụ dụng bất tận cả đời.

Lệnh Hồ Xung đứng trước tình thế này, biết không thể từ chối trận tỉ kiếm, đành phải cúi người, hai tay nhận lấy trường kiếm.

Hắc Bạch Tử bỗng nói:

– Tứ đệ khoan đã. Vị Đồng huynh này đánh cược là bất kỳ ai trong Mai trang chúng ta thắng được Phong huynh, Đinh Kiên cũng biết sử kiếm mà lão cũng là người trong Mai trang, nên đâu cần nhất định tứ đệ phải đích thân ra tay.

Lão càng nghe Hướng Vấn Thiên nói có vẻ chắc chắn thắng thì lão càng cảm thấy chuyện này không ổn, liền quyết định để Đinh Kiên ra tay thử chiêu trước. Lão nghĩ kiếm pháp của Đinh Kiên cũng tuyệt diệu mà thân phận chỉ là gia nhân của Mai trang, dù thua cũng không làm tổn thương oai danh của Mai trang. Chỉ cần lão ra một chiêu thì có thể biết được thực hư trong kiếm pháp của gã Phong Nhị Trung này.