Võ hiệp (giản thể: 武侠; phồn thể: 武俠; bính âm: wǔ xiá) hoặc kiếm hiệp (劍俠) là một thể loại trong văn hóa đại chúng Hoa ngữ nói về những cuộc phiêu du của những hiệp khách (cao thủ, kiếm khách) trên giang hồ. Mặc dù võ hiệp ban đầu là một thể loại văn học, sự ảnh hưởng của nó đã lan ra các hình thức nghệ thuật khác như tuồng cổ Trung Quốc, truyện tranh, phim điện ảnh, phim truyền hình và trò chơi điện tử. Nó là một thành phần cấu thành văn hóa đại chúng của các cộng đồng Hoa ngữ trên thế giới. “Võ hiệp” là một từ được ghép từ “võ” và “hiệp” (người hùng). Những võ sĩ hành hiệp thường được gọi là hiệp khách (俠客) hoặc du hiệp (遊俠). Trong một vài tác phẩm họ cũng được gọi là kiếm khách (劍客) dù không nhất thiết phải mang kiếm. Thông thường hiệp khách không phục vụ một chủ nhân, nắm giữ binh quyền hay thuộc về tầng lớp quý tộc. Họ thường xuất thân từ những tầng lớp thấp trong xã hội phong kiến Trung Quốc. Hiệp khách thường tuân theo quy tắc làm điều đúng, đấu tranh cho lẽ phải, xóa bỏ đàn áp, sửa chữa cái sai và khắc phục những lỗi lầm trong quá khứ. Truyền thống này được gọi là tinh thần hiệp khách (giản thể: 侠客精神; phồn thể: 俠客精神; bính âm: xiá kè jīng shén; Hán-Việt: hiệp khách tinh thần) và nó tương tự với võ sĩ đạo của các samurai Nhật Bản, phong thái hào hiệp của các hiệp sĩ châu Âu thời Trung Cổ và các tay súng miền Viễn Tây Hoa Kỳ.
(Theo wikipedia)
Mọi người đi tới còn cách đầu hẻm chừng mười trượng, mấy đồ đệ của Tiêu Công Lễ chạy ra đón, nói rằng: “Mẫn Tử Hoa cùng sư đệ của hắn là Động Huyền đạo nhân đang nói chuyện trong nhà.” Họ thấy Viên Thừa Chí đích thân tới giúp, tinh thần phấn chấn hẳn lên.
Tiêu Uyển Nhi hỏi Viên Thừa Chí: “Viên tướng công! Ra tay được chưa?”
Viên Thừa Chí bảo: “Cô nương dặn mọi người canh giữ bên ngoài, chúng ta vào trong thám thính một chút.”
Tiêu Uyển Nhi vâng dạ, khẽ dặn dò đám bang chúng, rồi cùng Viên Thừa Chí nhảy vào trong tường. Khinh công nàng hơi kém, khi đặt chân xuống đất phát ra một tiếng động nhỏ. Ngọn đèn trong nhà lập tức tắt phụt. Tiêu Uyển Nhi biết kẻ thù trong nhà đã phát giác, chắc chắn không thám thính được gì nữa. Nàng bèn thổi một tiếng sáo, lập tức bốn phía chung quanh nhà lố nhố đầu người.
Tiêu Uyển Nhi la lên: “Họ Mẫn kia! Ra đây xem thử ai đến!”
Trong nhà vẫn im lặng, không ai lên tiếng. Tiêu Uyển Nhi hô lớn: “Thắp đuốc, tiến vào.”
Bốn bang chúng Kim Long Bang lấy mồi lửa ra, thắp sáng đuốc đã mang sẵn, hiên ngang tiến vào. Bốn bang chúng khác đi theo, cầm đao bảo vệ. Đột nhiên bốn ngọn đuốc bị tắt mất ba, rồi hai cái bóng bay qua đỉnh đầu mọi người, vọt thẳng ra ngoài. Bang chúng Kim Long Bang lập tức ùa lên, vây chặt bốn phía. Những tiếng leng keng nổi lên liên tiếp, hai bên bắt đầu động thủ. Rất nhiều đuốc liên tiếp được thắp lên, soi cả một vùng rộng lớn sáng như ban ngày.
Mẫn Tử Hoa và Động Huyền đạo nhân biết đã lọt vào vòng vây, bèn tựa lưng vào nhau, cố hết sức mà tử chiến. Chỉ trong khoảnh khắc, hai người đã đả thương sáu bảy bang chúng Kim Long Bang. Những kẻ bị thương vừa lùi lại, lập tức có người tiến lên thế chỗ.
Mẫn Tử Hoa và Động Huyền đạo nhân đả thương ba bốn người nữa, thì tay trái của Động Huyền đạo nhân trúng một đao. Y chuyển kiếm qua tay phải, tiếp tục liều mạng chiến đấu. Nhưng y vốn cầm kiếm bên tay trái, Mẫn Tử Hoa cầm kiếm bên tay phải, tả hữu hô ứng, công thủ nhịp nhàng mới là Lưỡng Nghi Kiếm Pháp. Bây giờ hai thanh kiếm đều cầm bên tay phải, oai lực lập tức giảm đi. Chẳng bao lâu Mẫn Tử Hoa đã bị thương mấy chỗ.
Viên Thừa Chí đứng bên theo dõi trận chiến, bỗng nghĩ: “Một mạng đền một mạng, giết Mẫn Tử Hoa là đủ. Không nên để cả hai phải chết tại đây.” Chàng thấy hai người sắp mất mạng, bèn tung người nhảy vào vòng chiến. Kiếm quang vừa nháy động, những tiếng loảng xoảng liền vang lên. Chẳng những trường kiếm trong tay Động Huyền đạo nhân và Mẫn Tử Hoa bị Kim Xà Kiếm chặt gãy, mà bảy tám thanh kiếm bên Kim Long Bang cũng cùng số phận.
Mọi người bị bất ngờ, đều kinh hãi nhảy lùi ra sau. Viên Thừa Chí không ngờ thanh kiếm này có oai lực như thế, chính mình cũng ngẩn ra một lúc, nghĩ thầm: “Những thanh kiếm đó đều là binh khí quen tay của mọi người. Mình chỉ muốn hai bên dừng tay ngừng đấu, không ngờ lại làm hỏng rất nhiều binh khí.” Trong lòng chàng cảm thấy không yên.
Lúc này Mẫn Tử Hoa và Động Huyền đã máu me đầy người, thấy Viên Thừa Chí xuất hiện lại càng biết chắc mình không thoát được. Động Huyền quẳng thanh kiếm gãy xuống đất, cười thê thảm rồi nói: “Không hiểu sư huynh đệ chúng ta có gì đắc tội, mà các hạ bức hiếp đến thế này!”
Y xoay tay lại, lấy trong thắt lưng ra một thanh trủy thủ, đâm lẹ vào giữa ngực mình. Tả chưởng của Viên Thừa Chí phóng ra nhanh ra như gió, khẽ đẩy vào trước ngực Động Huyền; còn tay phải túm chặt lấy cổ tay y, thuận tay đoạt lấy trủy thủ. Dưới ánh đuốc, chàng thấy rõ thanh trủy thủ này giống hệt trủy thủ của Mẫn Tử Hoa đã đâm chết Tiêu Công Lễ. Trên cán có khắc hàng chữ: “Tiên Đô môn hạ, đệ tử Động Huyền thu chấp”.
Động Huyền tái xanh cả mặt, quát lên: “Ta học nghệ không tinh, không phải đối thủ của ngươi, chết cho ngươi xem là đủ rồi. Mau trả trủy thủ cho ta.”
Viên Thừa Chí sợ y lại tự tử, bèn cài trủy thủ vào thắt lưng mình, nghiêm trang nói: “Sau khi mọi chuyện xong xuôi, dĩ nhiên sẽ trả.”
Động Huyền đạo trưởng giận dữ nói: “Muốn giết thì giết, không được sỉ nhục ta như thế!”
Nói xong, y đánh một quyền vào mặt Viên Thừa Chí. Chàng nghiêng mình tránh né, ngạc nhiên hỏi lại: “Ta đâu dám sỉ nhục ai?”
Động Huyền nói rất lẫm liệt: “Thanh trủy thủ này do tôn sư ban tặng. Người đã dạy: thà mất mạng cũng không được để rơi vào tay người khác.”
Viên Thừa Chí ngẩn ra, lập tức sinh nghi tự hỏi: “Vật này quan trọng đến thế, tại sao Mẫn Tử Hoa đâm chết Tiêu Công Lễ rồi để lại trên xác nạn nhân, không chịu lấy về?” Chàng dùng hai tay trả thanh trủy thủ lại, lên tiếng: “Tại hạ có một việc không hiểu rõ, xin thỉnh giáo đạo trưởng.”
Động Huyền nhận lấy trủy thủ. Nghe Viên Thừa Chí nói chuyện khách sáo, y bèn đáp: “Cứ nói đi.”
Viên Thừa Chí quay lại, bảo Tiêu Uyển Nhi: “Tiêu cô nương, đưa cái bọc vải cho ta.”
Tiêu Uyển Nhi đưa bọc vải cho Viên Thừa Chí. Nàng cầm đao đứng bên, canh chừng Mẫn Tử Hoa nghiêm ngặt.
Viên Thừa Chí mở bọc vải ra, để lộ thanh trủy thủ. Mẫn Tử Hoa và Động Huyền đồng thời kinh hãi la lên. Bang chúng Kim Long Bang nhìn thấy hung khí, nghĩ đến cái chết thê thảm của bang chủ, ai cũng trừng mắt như sắp rách khóe, bất giác bước tới gần một chút.
Mẫn Tử Hoa run giọng nói: “Đây… đây… đây chính là trủy thủ của ta. Ngươi lấy ở đâu ra?” Y đưa tay toan lấy, nhưng Viên Thừa Chí đã rút tay về.
Tiêu Uyển Nhi vẫy đơn đao ra, chém vào cánh tay Mẫn Tử Hoa. Họ Mẫn vội rút tay lại, nên nhát đao đó không trúng đích. Tiêu Uyển Nhi muốn chém nữa, nhưng Viên Thừa Chí đã đưa tay cản lại, lên tiếng: “Hỏi rõ ràng trước đã.”
Tiêu Uyển Nhi ngừng đao không chém nữa, hai hàng nước mắt đã lăn xuống mặt.
Mẫn Tử Hoa giận dữ nói: “Hôm đó ở Nam Kinh chúng ta đã nói rõ ràng, thù oán hai bên bỏ hết. Tại sao Kim Long Bang không biết giữ tín nghĩa, liên tiếp tấn công ta? Ngươi gọi Tiêu Công Lễ ra đây, chúng ta ba mặt một lời nói chuyện rõ ràng. Họ Mẫn này có lỗi chỗ nào…”
Y chưa nói xong, bang chúng Kim Long Bang đã quát tháo om sòm: “Tên gian tặc đã hại chết bang chủ chúng ta, còn dám già mồm cãi cối.”
Mẫn Tử Hoa và Động Huyền đều kinh hãi la lên: “Cái gì? Tiêu Công Lễ chết rồi sao?”
Viên Thừa Chí thấy hai người kinh hãi thật sự, nghĩ thầm: “Không chừng bên trong còn có ẩn tình.” Chàng bèn hỏi: “Các hạ không biết thật ư?”
Mẫn Tử Hoa đáp: “Ta thua ngươi căn nhà, chẳng còn mặt mũi nào qua lại giang hồ nữa, định đến phủ Khai Phong tìm đại sư huynh Thủy Vân đạo trưởng. Nào ngờ chưa gặp sư huynh, dọc đường đã bị bang chúng Kim Long Bang vây đánh hai trận, chẳng có lý do gì cả. Tiêu Công Lễ đang khỏe mạnh như thế, sao lại chết đột ngột?”
Tiêu Uyển Nhi nghe y nói vậy, bất giác bối rối, nghẹn ngào nói: “Gia gia của ta… bị… bị thanh trủy thủ này đâm chết… Giả tỉ không phải chính tay ngươi, chắc cũng là bằng hữu của ngươi.”
Mẫn Tử Hoa bây giờ mới hiểu, lắp bắp: “À… à… vậy là đúng rồi…”
Tiêu Uyển Nhi thét lên: “Cái gì mà đúng?”
Mẫn Tử Hoa cố gắng tìm lời tự biện minh, nhưng ấp úng cả nửa ngày mà không nói được tiếng nào. Bang chúng Kim Long Bang dĩ nhiên phải nghĩ trong lòng y có chuyện sai quấy khó bề mở miệng, bèn hò nhau xách đao ào ào tiến tới.
Động Huyền đạo trưởng cầm lấy nửa thanh kiếm trên tay Mẫn Tử Hoa, hiên ngang nói: “Nếu các vị muốn mối thù của Tiêu bang chủ không được trả, muốn hung thủ thật sự ung dung cười ngạo, thì sư huynh đệ chúng ta mất hai cái mạng này cũng chẳng đáng gì.” Y phưỡn ngực ra, giơ tay chịu trói.
Mọi người thấy tình hình như vậy đều nhìn nhau, nhất thời không định được chủ ý. Viên Thừa Chí lên tiếng hỏi: “Nói vậy thì Tiêu bang chủ không phải bị Mẫn huynh giết hay sao?”
Mẫn Tử Hoa đáp: “Mẫn mỗ xuất thân từ Tiên Đô phái, cũng biết giang hồ phải lấy tín nghĩa làm đầu. Ta đã thua trận, lại biết có kẻ gian giở trò ly gián, còn đến Nam Kinh trả thù làm gì nữa?”
Viên Thừa Chí nói: “Tiêu bang chủ không phải bị hại ở Nam Kinh.”
Mẫn Tử Hoa kinh ngạc hỏi: “Vậy thì ở đâu?”
Viên Thừa Chí đáp: “Ở Từ Châu.”
Động Huyền đạo trưởng nói: “Sư huynh đệ chúng ta đã mười mấy năm trời không đến Từ Châu, mà cũng không biết phóng phi kiếm lấy mạng người ở xa ngàn dặm.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Câu này có thật không?”
Động Huyền đạo trưởng đưa tay chỉ vào cổ mình, nói: “Chém đầu ta cũng không sợ, hà tất phải nói dối.”
Tiêu Uyển Nhi hỏi: “Thế thì thanh trủy thủ này từ đâu mà có?”
Động Huyền nói: “Bây giờ mà ta nói, chỉ sợ quý vị chưa tin. Bây giờ ta dẫn hai vị đi tới chỗ này, nhìn một cái là biết ngay.”
Mẫn Tử Hoa lo lắng nói: “Sư đệ, không nên tới đó.”
Động Huyền nói: “Lời nói không đáng tin, phải có chứng cớ. Tiêu bang chủ bị kẻ gian giết hại, việc này không thể xem thường, phải điều tra cho rõ. Viên tướng công và Tiêu cô nương là nhân vật thế nào, nhất định không làm hỏng việc của chúng ta đâu.”
Mẫn Tử Hoa khẽ gật đầu.
Tiêu Uyển Nhi hỏi: “Đi tới đâu?”
Động Huyền đáp: “Chỉ có thể dẫn Viên tướng công và Tiêu cô nương đi, đông người thì không được.”
Có người trong Kim Long Bang la lên: “Coi chừng hắn dùng gian kế để chạy thoát.”
Tiêu Uyển Nhi quay lại hỏi Viên Thừa Chí: “Viên tướng công! Làm sao bây giờ?”
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Xem ra hai người này thật sự có chuyện khó nói. Cùng đi với họ, điều tra cho rõ là hay nhất. Cho dù họ dùng gian kế gì đi nữa, chắc cũng không thể thoát khỏi tay ta.” Chàng bèn nói: “Chúng ta tới đó xem thử.”
Tiêu Uyển Nhi bảo bang chúng Kim Long Bang: “Có Viên tướng công ở đây, họ không làm gì được đâu.”
Từ khi Tiêu Công Lễ mất đi, rõ ràng Tiêu Uyển Nhi đã là bang chủ. Phen này nàng thống lĩnh bang chúng đi trả thù, mọi người nghe lệnh nàng răm rắp. Viên Thừa Chí là thủ lĩnh Kim Xà Doanh, càng là đầu não của bang chúng. Mọi người đều biết chàng lòng dạ nhân nghĩa, võ công cao cường, nên một lòng tuân phục.
*
* *
Viên Thừa Chí và Tiêu Uyển Nhi theo sư huynh đệ Mẫn Tử Hoa đi về hướng bắc, đến bên tường thành. Động Huyền lấy một sợi dây có móc ném lên đầu tường, để Tiêu Uyển Nhi trèo lên trước. Sau đó tới lượt sư huynh đệ Mẫn Tử Hoa trèo trên đầu tường thành, để Viên Thừa Chí ở phía sau giám sát.
Ra khỏi thành, bốn người tiếp tục đi về hướng bắc. Lúc này đã giữa đêm, ánh trăng trong như nước, nhưng đường sá càng lúc càng gập ghềnh khó đi. Được chừng bốn năm dặm thì tới một ngọn đồi đá mọc ngổn ngang.
Viên Thừa Chí và Tiêu Uyển Nhi đều hoài nghi, không biết hai người kia dẫn mình tới vùng hoang vắng này là có dụng ý gì. Tiêu Uyển Nhi nghĩ bụng: “Chẳng lẽ họ đã mai phục sẵn nhiều người trợ giúp hay sao? Nhưng có Viên tướng công ở đây, cho dù đối phương thiên binh vạn mã thì nhất định huynh ấy cũng đưa mình thoát hiểm.”
Trèo lên đồi, tới hai ba dặm mới đến đỉnh đồi. Những tảng đá quái dị đâm lên loạn xạ, dưới ánh trăng trông như lũ ma quỷ đứng chờ, vẻ âm u khiến cho người ta phải rùng mình.
Động Huyền và Mẫn Tử Hoa đi đến một tảng đá lớn. Viên Thừa Chí và Tiêu Uyển Nhi theo sau, thấy một cỗ quan tài giấu phía sau tảng đá. Trong đêm mù mịt, giữa chốn hoang sơn mà bất ngờ nhìn thấy thứ này, trong xương sống Tiêu Uyển Nhi đột nhiên có một luồng khí lạnh bốc lên.
Động Huyền nhặt một hòn đá, gõ ba tiếng nhẹ lên nắp quan tài, dừng lại một lúc rồi lại gõ tiếp hai tiếng. Sau cùng y gõ ba tiếng nữa, rồi dùng hai tay giở nắp quan tài lên trên. Roạt một tiếng, xác chết trong quan tài ngồi bật dậy. Tiêu Uyển Nhi la lên một tiếng, hai tay níu chặt lấy tay trái Viên Thừa Chí. Nàng không tự chủ được, bất giác tựa sát vào người chàng.
Bỗng nghe xác chết lên tiếng: “Gì thế? Dẫn người ngoài đến đây ư?”
Động Huyền đáp: “Hai vị này là bằng hữu. Vị này là Viên tướng công, đệ tử của Kim xà lang quân Hạ đại hiệp. Vị này là Tiêu cô nương, thiên kim tiểu thư của Tiêu bang chủ Kim Long Bang.”
Xác chết nhìn Viên và Tiêu, nói: “Hai vị đừng trách. Bần đạo đang bị thương, không thể đứng dậy được.”
Động Huyền nói: “Đây là Thủy Vân sư huynh, chưởng môn tệ phái, vì tránh né kẻ thù mà phải dưỡng thương ở đây.”
Bây giờ Viên Thừa Chí và Tiêu Uyển Nhi mới biết đây không phải là một xác chết, bèn lập tức thi lễ. Thủy Vân đạo nhân chắp tay đáp lễ. Mặt ông trắng như giấy, hoàn toàn không có chút huyết sắc. Từ giữa trán đến sống mũi lại có một vết sẹo đỏ hỏn rất rộng. Vết sẹo này còn mới, chắc bị thương chưa được bao lâu, nổi bật trên sắc mặt trắng xanh nhìn càng đáng sợ hơn.
Thủy Vân đạo nhân nói: “Sư phụ của bần đạo là bạn thân của lệnh sư Hạ lão sư. Lúc Hạ lão sư đến Tiên Đô sơn, bần đạo đã từng thị phụng ông ấy. Lão nhân gia có khỏe không?”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Lúc này không cần giấu.” Chàng bèn đáp: “Lão nhân gia đã tạ thế nhiều năm rồi.”
Thủy Vân đạo trưởng thở dài một tiếng, ủ rũ không nói gì. Hồi lâu ông mới khẽ lên tiếng: “Lúc nãy nghe Động Huyền sư đệ nói các hạ là đệ tử của Kim Xà tiền bối, bần đạo đã mừng thầm nghĩ bụng, chỉ cần Kim Xà tiền bối ra tay là mối đại thù của sư phụ có thể trả xong. Ôi! Nào ngờ lão nhân gia đã về đạo sơn, e rằng bọn gian nhân mặc sức hoành hành.”
Tiêu Uyển Nhi thầm nghĩ: “Mình vì trả thù cha mà đến nơi này, nào ngờ ở đây cũng có một mối sư thù.”
Viên Thừa Chí lại nghĩ: “Trình bang chủ từng nói, Hoàng Mộc đạo nhân bị Ngũ Độc Giáo hại chết. Thế thì chúng ta đi chung một thuyền.”
Động Huyền nhỏ giọng kể lại chuyện Kim Long Bang tới trả thù, nhờ đại sư huynh giải thích với Tiêu Uyển Nhi. Thủy Vân đạo nhân vừa nghe vừa hừ hừ, tiếng hừ càng về sau càng tức tối. Đột nhiên ông xoay tay vỗ mạnh vào thành gỗ cái quan tài, rồi lên tiếng: “Tiêu cô nương! Đệ tử phái Tiên Đô chúng ta, mỗi người thành tài xuống núi đều được sư phụ tặng cho một thanh trủy thủ. Bần đạo là chưởng môn bản phái, tuy bản lĩnh kém cỏi nên phải chui vào đây mà dưỡng thương, nhưng chưa đến nỗi vọng ngữ ăn nói bừa bãi. Tiêu cô nương biết thanh trủy thủ đó dùng để làm gì không?”
Tiêu Uyển Nhi giận dữ đáp: “Không biết.”
Thủy Vân đạo nhân ngẩng đầu nhìn trăng, nói tiếp: “Cúc Đàm sư tổ là chưởng môn đời thứ mười bốn của tệ phái, kiếm thuật tinh diệu vô cùng. Tiếc là tính tình sư tổ cương trực ngạo mạn, lại lắm lúc không phân biệt thị phi, giết chết không ít những người vô tội, kết oán rất nhiều. Rốt cuộc, kiếm khách nhiều phái hẹn nhau tại Hằng Sơn, dùng biện pháp xa luân chiến để tỉ đấu với một mình sư tổ. Cúc Đàm đạo trưởng tuy đả thương được mười tám đối thủ, nhưng cuối cùng cũng kiệt sức, bị trọng thương rồi rút trủy thủ ra tự sát. Vụ này khiến cho bản phái thương tổn nguyên khí, lại đắc tội với anh hùng khắp thiên hạ, nên từ đó về sau đã ban hành quy luật. Mỗi đệ tử sau khi học xong võ nghệ đều được ban cho một thanh trủy thủ. Động Huyền sư đệ, ngươi qua kia đi.”
Động Huyền không hiểu ý, nhưng vẫn theo hướng mà sư huynh chỉ, đi về phía tây. Thủy Vân đợi y đi xa hơn trăm bước, mới lớn tiếng gọi: “Được rồi.”
Động Huyền dừng bước, Thủy Vân quay sang khẽ hỏi Mẫn Tử Hoa: “Mẫn sư đệ! Thanh trủy thủ này gọi là gì?”
Mẫn Tử Hoa đáp: “Đây là Giới Sát Đao của phái Tiên Đô.”
Thủy Vân lại hỏi: “Khi sư phụ truyền cho ngươi Giới Sát Đao, đã có bốn câu huấn thị. Ngươi nói nhỏ ta nghe.”
Mẫn Tử Hoa nghiêm trang đọc: “Tỉ võ tranh tài; Nghiêm cấm chém giết; Thua đến nước cùng; Dùng đao tự sát.”
Thủy Vân gật đầu, chỉ sang hướng đông mà bảo: “Ngươi qua đó đi.”
Đợi Mẫn Tử Hoa đi xa, ông mới gọi Động Huyền trở lại, hỏi: “Động Huyền sư đệ! Thanh trủy thủ này gọi là gì?”
Động Huyền đáp: “Đây là Giới Sát Đao của phái Tiên Đô.”
Thủy Vân lại hỏi: “Khi sư phụ cho ngươi thanh đao này, có huấn thị gì không?”
Động Huyền đạo trưởng cũng nghiêm trang đọc: “Tỉ võ tranh tài; Nghiêm cấm chém giết; Thua đến nước cùng; Dùng đao tự sát.”
Bấy giờ Thủy Vân mới gọi Mẫn Tử Hoa về, rồi nói với Viên Thừa Chí và Tiêu Uyển Nhi: “Bây giờ hai vị đã tin chưa? Mặc dù tệ phái đã có lời huấn thị, nhưng chắc cũng có khi đệ tử hạ sát người vô cớ. Tuy nhiên đệ tử tệ phái ngỗ ngược đến thế nào, cũng không đến mức dùng Giới Sát Đao để giết người.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Tại sao thanh trủy thủ này gọi là Giới Sát Đao?”
Thủy Vân đáp: “Tệ phái quyết lấy chuyện Cúc Đàm sư tổ làm gương, nên từ đời sư tổ thứ mười lăm đã có thêm một môn quy, nghiêm cấm sát hại những người vô tội. Bản phái cứ hai năm một lần lại mở đại hội trên núi Tiên Đô. Nếu có người phạm giới, thì phải dùng Giới Sát Đao để tự kết liễu trước mặt sư trưởng cùng sư huynh đệ. Tuy rằng năm xưa Mẫn Tử Diệp sư huynh có hành vi không đoan chính, tội đáng chết, nhưng trước kia Mẫn sư đệ muốn hạ sát Tiêu bang chủ là để trả thù cho anh, vốn không phải là vọng sát. Nhưng sau này đã biết bị kẻ gian ly gián mà còn gia hại, tức là phạm vào môn quy trọng đại này. Ta nghĩ Mẫn sư đệ không dám.”
Ông thở ra một hơi dài rồi nói tiếp: “Giới Sát Đao dùng để tự tử. Nếu đệ tử Tiên Đô Phái võ công không bằng địch thủ, bị đối phương bức hiếp đến hết đường tiến thoái, thì phải dùng thanh trủy thủ này tự sát để khỏi làm tổn hại đến oai danh của phái Tiên Đô. Cứ cho là Mẫn sư đệ phạm vào nghiêm giới của sư môn, nhưng vũ khí trong thiên hạ rất nhiều, đâu cần phải dùng Giới Sát Đao để giết người? Hơn nữa, sau khi hành thích, sao không lấy đao đi?”
Viên Thừa Chí và Tiêu Uyển Nhi nghe vậy, bất giác gật đầu.
Thủy Vân đạo trưởng lại tiếp: “Tiêu cô nương! Để bần đạo cho cô nương xem lá thư này.”
Ông lấy trong góc quan tài ra một bọc vải, mở ra thì bên trong là một đống giấy tờ tạp nhạp. Thủy Vân đạo trưởng nhặt ra một bức thư, đưa cho Tiêu Uyển Nhi. Nàng đưa mắt nhìn Viên Thừa Chí, thấy chàng gật đầu mới đưa tay nhận lấy.
Dưới ánh trăng nhìn rõ trên bì thư có mấy chữ: “Thư khẩn, Thủy Vân đại sư huynh chính tay mở ra. Mẫn.” Thì ra đây là thư của Mẫn Tử Hoa viết cho Thủy Vân đạo trưởng.
Thủy Vân đạo trưởng bảo: “Tiêu cô nương, xem thư đi.”
Tiêu Uyển Nhi gật đầu, rút lá thư ra. Nàng thấy trên đầu tờ giấy viết thư có mấy chữ tiêu đề màu đỏ: “Thông Thương đại khách sạn”.
Chữ viết trong thư nghiêng ngả, câu văn lộn xộn, nhưng xem cũng hiểu: “Kính chào Thủy Vân đại sư huynh. Chuyện Tiêu Công Lễ, tiểu đệ đã biết bị người ta lừa gạt, trả thù là hồ đồ nên không trả thù nữa. Đêm qua, Giới Sát Đao của đệ không hiểu bị bọn cẩu tặc nào lấy cắp, thật sự xấu hổ vô cùng. Nếu không tìm lại được, tiểu đệ không còn mặt mũi nào gặp đại sư huynh nữa. Tiểu đệ Mẫn Tử Hoa bái thượng, ngày mười tám tháng tám”.
Tiêu Uyển Nhi đọc xong thư, thầm nghĩ: “Giữa tháng bảy mình và gia gia tham gia đại hội trên đỉnh Thái Sơn, sau đó đi về phía nam đến Từ Châu. Gia gia bị hại ở Từ Châu ngày hai tháng mười một. Lá thư này viết ngày mười tám tháng tám, vậy là không phải giả rồi.” Nàng lập tức hết hoài nghi, run rẩy khuỵu xuống đất, vừa lạy Mẫn Tử Hoa vừa nói: “Mẫn thúc thúc! Thì ra tiểu điệt trách lầm người tốt, mạo phạm đến thúc thúc.”
Nàng thi lễ xong, lại quay sang tạ tội Động Huyền đạo trưởng. Hai người đều vội vàng trả lễ. Mẫn Tử Hoa nói: “Không biết tên cẩu tặc nào đã ăn cắp con dao này, đi hại chết Tiêu bang chủ. Hắn để lại trủy thủ trên thi hài, chính là muốn cô nương nghi ngờ ta.”
Tiêu Uyển Nhi nói: “Tiểu điệt thật là lỗ mãng, không nghĩ đến chuyện đó. Tiểu điệt lại nghĩ là Mẫn thúc thúc hại chết gia gia rồi để lại thanh trủy thủ này để thị uy, ra vẻ anh hùng hảo hán.”
Mẫn Tử Hoa nói: “Ta bị mất thanh Giới Sát Đao, lập tức bẩm báo lên chưởng môn sư huynh, sau đó cùng Động Huyền sư đệ tìm kiếm khắp nơi, nhưng không có chút manh mối nào. Sau này nhận được thư của đại sư huynh gọi đến kinh sư, rồi suốt dọc đường bị các vị đuổi theo chém giết. Bọn ta không hiểu nổi lý do, nhưng phải đánh trả. May mà Viên tướng công đến kịp, làm rõ được chuyện này.”
Thủy Vân đạo trưởng nói: “Giả tỉ bần đạo may mắn giữ được tính mạng, nhất định sẽ giúp Tiêu cô nương đi tìm kẻ gian tặc trộm đao giết người. Việc này nói gì thì nói, Tiên Đô Phái cũng không sao tránh khỏi liên lụy.”
Tiêu Uyển Nhi lại quỳ xuống bái tạ, rồi trả thanh trủy thủ cho Mẫn Tử Hoa.
Viên Thừa Chí nghĩ: “Nhất định sư huynh đệ họ còn những chuyện bí mật cần thương lượng, người ngoài không nên can dự.” Chàng bèn chắp tay nói: “Tại hạ xin cáo biệt.”
Hai người cùng Thủy Vân thi lễ xong, đi được vài chục bước, sắp xuống đồi thì Động Huyền đột nhiên la lên: “Xin hai vị dừng bước!”
Viên Thừa Chí và Tiêu Uyển Nhi dừng chân, Động Huyền chạy lẹ tới nói: “Viên tướng công, Tiêu cô nương! Bần đạo có một câu muốn nói, xin hai vị đừng trách.”
Viên Thừa Chí bảo: “Đạo trưởng nói đi, không sao đâu.”
Động Huyền nói: “Những chuyện ở đây, xin hai vị tuyệt đối không tiết lộ. Câu này đáng lẽ bần đạo không nên nói, nhưng liên quan đến tính mạng của tệ sư huynh nên không thể không mạo muội cầu xin.”
Theo quy luật giang hồ, ai lỡ biết những chuyện bí mật của phái khác thì tuyệt đối không được loan truyền hay bàn bạc; không thì tai họa lập tức trút xuống đầu. Chuyện này ai cũng đều biết, nhưng Động Huyền đạo trưởng vẫn không yên tâm nên mạo phạm dặn dò, dĩ nhiên không phải sự việc tầm thường.
Viên Thừa Chí bỗng động tâm. Tuy sự việc không liên quan đến bản thân mình, nhưng chàng nghĩ mọi người đều là nhân vật võ lâm, cần phải tương trợ lẫn nhau, bèn nói: “Không biết lệnh sư huynh gặp phải nguy nan gì? Tại hạ có thể giúp chút sức mọn hay không?”
Động Huyền từng giao đấu với Viên Thừa Chí, biết võ công của chàng cao hơn mình không chỉ mười lần, so với Thủy Vân sư huynh là đệ nhất cao thủ của phái Tiên Đô còn siêu việt hơn nhiều. Nghe Thừa Chí nói vậy, trong lòng y vô cùng mừng rỡ, vội đáp: “Được Viên tướng công trượng nghĩa tương trợ, thật là cầu cũng không được. Để bần đạo bẩm với đại sư huynh.”
Y lập tức chạy về thì thầm bàn bạc với Thủy Vân đạo trưởng và Mẫn Tử Hoa. Ba người thảo luận hồi lâu, hình như khó mà quyết định. Viên Thừa Chí nghĩ: “Họ có điều gì khó xử, không muốn người ngoài nhúng tay vào, thì mình không cần nhiều chuyện làm chi.” Chàng bèn lớn tiếng nói: “Hai vị đạo trưởng, Mẫn huynh! Tại hạ đi trước, hẹn ngày sau gặp lại.”
Chàng chắp tay thi lễ, toan đi xuống đồi. Thủy Vân đạo trưởng vội hô lớn: “Viên tướng công, xin mời qua đây nói vài câu.”
Viên Thừa Chí quay lại bước đến gần. Thủy Vân đạo trưởng nói: “Viên tướng công chịu rút đao tương trợ, sư huynh đệ bần đạo thật cảm kích không hết. Nhưng đây là việc riêng của bản môn, tình thế vô cùng hung hiểm, thật không dám để Viên tướng công vô cớ gặp nguy. Xin Viên tướng công đừng trách bần đạo không biết phân biệt phải trái.”
Nói xong, ông chắp tay thi lễ. Viên Thừa Chí biết ông vì hảo ý mà từ chối, nghĩ người này thật có khí phách anh hùng, bèn nói: “Đạo trưởng khách sáo rồi. Nếu vậy, xin cáo từ. Khi nào đạo trưởng cần trợ giúp, tại hạ nhất định sẽ dốc sức. Chỉ cần đưa một lá thư đến hẻm Chính Điện Tử là được.”
Thủy Vân đạo trưởng cúi đầu không nói gì. Đột nhiên ông thở dài, lên tiếng: “Viên tướng công thật là nghĩa khí. Tuy rằng việc này nói ra thì xấu hổ cho bản môn, nhưng giấu giếm nữa thì không đủ nghĩa khí với bằng hữu. Mời hai vị ngồi. Động Huyền sư đệ, kể với hai vị đi.”
Động Huyền đạo trưởng chờ hai người ngồi đàng hoàng trên tảng đá rồi mới bắt đầu kể: “Ân sư Hoàng Mộc đạo nhân của bần đạo tính tình hiếu động, trước giờ thích đi vân du các nơi. Ngoài hai năm một lần đại hội trên núi Tiên Đô, bình thường ân sư rất ít khi ở trên núi. Trung thu hai năm trước là ngày đại hội, ân sư không về núi chủ trì, cũng không gửi thư về. Đây là việc chưa từng xảy ra, nên bọn đệ tử vừa kinh ngạc vừa lo lắng. Lần này ân sư vân du đến Vân Nam tìm thuốc, nên mọi người chia nhau tìm kiếm ở Vân Nam, Quế Châu, Quảng Châu, Quảng Tây, nhưng không ai được chút tung tích gì. Bần đạo cùng Mẫn sư huynh đang ở khách sạn thì nhận được thư của Truy phong kiếm Vạn Lý Phong phái Điểm Thương, nói rằng có việc gấp cần gặp. Hai người chúng ta liền đến nhà Vạn đại ca ở Đại Lý tỉnh Vân Nam, thấy ông ấy trọng thương nằm trên giường. Hỏi ra, thì biết ông ấy vì ân sư của bần đạo mà bị thương.”
Viên Thừa Chí nhớ lại, Trình Thanh Trúc đã nói Hoàng Mộc đạo nhân chết dưới tay Ngũ Độc Giáo, bèn khẽ gật đầu một cái. Động Huyền đạo trưởng kể tiếp: “Truy phong kiếm Vạn đại ca nói, hôm đó ông ấy đến thành Đại Lý thăm bạn, thấy ân sư của bần đạo đang bị nhiều người bao vây giáp công. Phái Điểm Thương cùng phái Tiên Đô xưa nay có qua lại với nhau, dĩ nhiên ông ấy rút kiếm ra tương trợ. Nào ngờ đối phương toàn là cao thủ, hai người không sao địch nổi. Vạn đại ca trúng độc thủ trước, ngất xỉu lăn ra đất, về sau có người cứu trợ đưa về. Còn ân sư thì sống chết ra sao không rõ. Trên vai và dưới nách Vạn đại ca đều bị cương trảo đả thương, trên trảo có tẩm kịch độc, nhất định là do Ngũ Độc Giáo gây ra. Sau này ông ấy cực khổ tìm được thuốc giải, nên mới thoát chết.”
“Sau đó Tiên Đô Phái bọn bần đạo cả thảy ba mươi hai đệ tử kéo nhau tới Vân Nam, vừa tìm ân sư, vừa tìm Ngũ Độc Giáo để trả thù, nhưng bốn năm nay tuyệt vô âm tín. Ân sư chắc đã dữ nhiều lành ít. Ngũ Độc Giáo thì vô cùng bí ẩn, tìm hết tỉnh Vân Nam vẫn không được chút xíu dây mơ rễ má nào. Mọi người không làm gì được, cuối cùng phải rời khỏi Vân Nam. Không bao lâu phương bắc có tin truyền tới, nói rằng giáo chủ Hà Thiết Thủ của Ngũ Độc Giáo đã đến phủ Thuận Thiên…”
Viên Thừa Chí “à” một tiếng. Động Huyền hỏi: “Viên tướng công biết ả này hay sao?”
Viên Thừa Chí đáp: “Hôm qua mấy bằng hữu của tại hạ vừa trúng độc thủ của cô ấy.”
Động Huyền hỏi: “Bằng hữu của Viên tướng công không sao chứ?”
Viên Thừa Chí đáp: “Trước mắt không có gì nguy hiểm nữa.”
Động Huyền đạo trưởng nói: “Thế là may rồi. Khi đó vừa nhận được tin tức, đại sư huynh gấp rút hạ lệnh triệu tập toàn bộ đệ tử Tiên Đô Phái ở kinh sư. Dọc đường đến kinh sư, hai người bần đạo gặp phải Tiêu cô nương, chuyện này không cần nói nữa. Đại sư huynh đến trước, gặp phải Hà Thiết Thủ, thật là oan gia ngõ hẹp. Con tiện tì đó buông lời trêu chọc, vô lễ đến cùng cực. Đại sư huynh bèn động thủ, nhưng thân thủ ả thật là nhanh nhẹn. Đại sư huynh sơ suất một chút, trên trán bị cái móc sắt bên tay trái của ả đả thương, dưới hạ bàn lại trúng năm mũi ám khí. Tiện tì cho rằng trên thiết câu có kịch độc, đại sư huynh không thể sống được, bèn cười nhạt bỏ đi. May mà nội công của đại sư huynh tinh thâm, lại biết đối thủ chất độc đầy mình, nên trước khi động thủ đã uống sẵn không ít thuốc, lại mang theo không ít linh đơn giải độc, nhờ vậy mà chưa gặp đại nạn.”
Thủy Vân đạo trưởng thở dài rồi nói: “Bần đạo sợ ả biết mình không chết, sẽ tìm đến giết cho tận tuyệt, nên không dám dưỡng thương trong nhà, phải tìm một chỗ kỳ quái thế này để tịnh dưỡng. Ba tháng nữa, độc khí sẽ từ từ trục hết ra khỏi thân thể. Chắc là sư phụ đã bỏ mạng dưới tay con tiện tì đó. Thù này không thể không trả, nhưng đối thủ quá hung ác, độc vật lại quá lợi hại, nên bần đạo không dám liên lụy đến bằng hữu.”
Mẫn Tử Hoa hỏi: “Viên tướng công cũng có xích mích với Ngũ Độc Giáo hay sao?”
Viên Thừa Chí kể lại chuyện mình gặp bọn Ngũ Độc Giáo ở Huệ vương phủ, rồi lại kể việc Trình Thanh Trúc bị mụ ăn mày đả thương.
Thủy Vân đạo trưởng nói: “Viên tướng công không thâm thù gì lắm với họ, thiệt thòi chút ít như vậy thì nên cho qua. Thân thể tướng công quý tựa ngàn vàng, không cần chấp loại người độc như rắn rít đó.”
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Mình mang nặng mối thù giết cha, lại phải hỗ trợ Sấm Vương và nghĩa huynh Lý Nham mưu đồ đại sự. Những thù oán lặt vặt trên chốn giang hồ không nên coi là việc chính, nếu khuấy động lên thì không bao giờ kết liễu được.” Chàng gật đầu nói: “Đạo trưởng chỉ dạy rất đúng. À, tại hạ có một con Chu Tinh Băng Thiềm, có thể hút độc cho đạo trưởng.”
Chàng lập tức dùng con băng thiềm hút một lần độc. Trên đồi này chỉ có đá tảng lổn ngổn, không có rượu để ngâm rút chất độc trong băng thiềm ra, nên chàng cho Động Huyền đạo trưởng mượn con băng thiềm, dạy cách dùng, bảo y hút hết độc khí cho Thủy Vân đạo trưởng rồi hãy gửi trả. Thủy Vân đạo trưởng, Động Huyền đạo trưởng và Mẫn Tử Hoa đa tạ không ngớt miệng.
Viên Thừa Chí và Tiêu Uyển Nhi từ từ xuống đồi. Nửa chừng, đột nhiên Tiêu Uyển Nhi ngồi xuống một tảng đá, thút thít khóc. Viên Thừa Chí nhẹ nhàng vỗ vai nàng, hỏi nhỏ: “Sao thế Tiêu cô nương? Không khỏe ư?”
Tiêu Uyển Nhi lắc đầu, lau khô nước mắt, rồi đứng bật dậy như không có việc gì. Viên Thừa Chí nghĩ: “Phen này Kim Long Bang của nàng đã hòa giải với Tiên Đô Phái thành bằng hữu, nhưng mối thù cha thì không giải quyết được. Chuyện này thật khó mà chịu đựng, không ngờ một cô gái trẻ tuổi mà cứng cỏi được đến như thế.”
*
* *
Khi hai người trở vào thành thì trời đã mờ sáng. Viên Thừa Chí đưa Tiêu Uyển Nhi về nơi Kim Long Bang đang ở, rồi quay về hẻm Chính Điện Tử. Chàng nhảy lên nóc một dãy nhà dân, thi triển khinh công chỉ chốc lát là qua mấy con đường. Chàng nổi hứng chạy nhanh, bèn sử dụng tuyệt kỹ Thần Hành Bất Biến, thật sự giống như chim yến lượn trên sóng nước, như sao băng xẹt ngang bầu trời, bên tai nghe tiếng gió vù vù, dưới chân tuyệt không phát ra tiếng động.
Đột nhiên chàng nghe thấy tiếng khen: “Hảo công phu!”
Viên Thừa Chí lập tức dừng chân. Bóng trắng thấp thoáng, một người lướt qua bên cạnh chàng, vừa mỉm cười vừa hỏi rất kiêu kỳ: “Có đuổi kịp ta không?”
Âm thanh vừa dứt, người đã xa bảy tám trượng rồi. Viên Thừa Chí thấy người này thân pháp cực nhanh, trong lòng bỗng kinh hãi: “Nữ nhân mà công phu đến thế hay sao?” Dù sao chàng cũng là thiếu niên hiếu thắng, bèn đề khí nhanh chóng đuổi theo. Người kia thủy chung không quay đầu lại, cứ chạy như bay, mỗi lúc một nhanh.
Nội lực cùng khinh công của Viên Thừa Chí vẫn cao hơn một bậc. Chàng gia tăng kình lực dưới chân, chỉ trong chốc lát đã qua mặt người đó, vượt qua mấy trượng rồi mới quay lại nhìn.
Người đó cười khúc khích rồi nói: “Viên tướng công! Hôm nay muội phải phục huynh rồi.” Nàng đưa cánh tay áo dài che miệng, thân hình uyển chuyển như một đóa hoa, chính là giáo chủ Hà Thiết Thủ của Ngũ Độc Giáo.
Toàn thân nàng mặc y phục trắng như tuyết, chân đang đứng trên mái ngói màu đen, màu sắc tương phản nên đen lại càng đen, trắng lại càng trắng. Nhân vật võ lâm khi đi đêm, nếu không mặc đồ đen thì cũng là đồ xám, để khó bị phát giác, mà địch thủ phóng ám khí cũng không thể chính xác được. Cô gái này lại mặc nguyên bộ đồ màu trắng, nếu không ỷ vào võ nghệ cao cường thì nhất định không thể kiêu ngạo như thế.
Viên Thừa Chí chắp tay hỏi: “Hà giáo chủ có gì chỉ giáo?”
Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Hôm qua Viên tướng công đến Huệ vương phủ, có nhiều người vướng víu tay chân, ai cũng phân tâm nên khó mà đấu một trận để phân cao thấp. Tiểu muội hôm nay cố ý đến đây để lãnh giáo mấy chiêu. Viên tướng công nửa đêm đưa một vị cô nương xinh đẹp về nhà, phong lưu đa tình thật.” Nàng vừa nói vừa cười, thanh âm nghe rất khêu gợi.
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Ta đưa Tiêu cô nương về nhà, thì ra đã bị cô này phát giác.” Chàng không muốn nhắc tới việc này, bèn nói: “Thân pháp giáo chủ như thế, nam tử hán đại trượng phu cũng khó mà bì được. Tại hạ vô cùng thán phục, không cần phải so tài nữa.”
Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Hôm qua tỉ thí quyền cước, Viên tướng công chưởng phong lợi hại vô cùng, tiểu muội khí lực không đủ nên không dám tiếp chiêu. Hôm nay chúng ta tỉ thí binh khí xem sao.”
Nàng không đợi Viên Thừa Chí trả lời, “vù” một tiếng đã rút nhuyễn tiên trong lưng ra. Trời sáng mờ mờ, đủ thấy trên cây roi này gắn đầy móc ngược rất nhỏ, chỉ cần quét trúng một cái là lôi được một mảnh thịt ra.
Hà Thiết Thủ dịu dàng nói tiếp: “Viên tướng công, cây roi này gọi là Yết Vĩ Tiên. Những cái gai trên đó có độc, tướng công phải chú ý đấy.”
Viên Thừa Chí nghe vậy, bất giác rùng mình. Ngữ khí của nàng dịu dàng ra vẻ quan tâm thân thiết, nhưng hàm ý lại cực kỳ ác độc, hai chuyện này thật là tương phản. Chàng không muốn tỉ thí bừa bãi như thế, bèn chắp tay nói: “Xin cáo biệt!”
Hà Thiết Thủ không để chàng lùi ra, cổ tay đã vẫy ra. Yết Vĩ Tiên bay vèo tới, rít lên quất thẳng vào trước ngực. Thân trên của Viên Thừa Chí ngửa ra sau tránh né, không đợi chiêu thứ hai đánh tới đã chạy ra mấy trượng. Hà Thiết Thủ biết mình không đuổi kịp, bèn dõng dạc hô lớn: “Đệ tử của Kim Xà Lang Quân vô dụng đến thế hay sao? Bại hoại oai danh của sư môn rồi.”
Viên Thừa Chí ngẩn ra dừng bước, thầm nghĩ: “Ta mấy lần nhường nhịn, Ngũ Độc Giáo quen thói làm tới. Cô này tưởng ta sợ thật”. Chàng mới nghĩ một chút, bóng trắng đã nhoáng lên, Yết Vĩ Tiên cuốn tới, mang theo một luồng gió hôi tanh.
Viên Thừa Chí chau mày nghĩ bụng: “Loại binh khí tẩm thuốc độc này dù lợi hại, nhưng chính nhân quân tử quyết không dùng. Cô gái này là nhân vật tà giáo, chẳng trách hành sự không ngay ngắn”. Chàng biết cây Yết Vĩ Tiên đầy gai độc, không thể chạm tay vào được, bèn giấu cả hai tay vào trong áo, thân hình tùy ý mà chuyển động, tránh đông né tây vô cùng thoải mái.
Viên Thừa Chí sử dụng khinh công của Mộc Tang đạo nhân truyền thụ, tiên pháp Hà Thiết Thủ nhanh đến thế nào cũng không sao đụng tới chéo áo của chàng. Viên Thừa Chí bay nhảy như chim, Hà Thiết Thủ nhìn mà say mê điên đảo, không ngờ trên thế gian lại có võ học cao thâm đến thế.
Chốc lát hai bên đã qua lại hai mươi mấy chiêu. Hà Thiết Thủ khẽ quát lên: “Tránh né hoài như vậy, đâu phải là hảo hán?”
Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Cô nương muốn khích ta đoạt lấy cây roi chứ gì? Có gì khó đâu!”
Chàng hơi cúi xuống, hai tay gỡ lấy hai miếng ngói trên mái nhà, nhìn kỹ vào bóng roi mờ mờ, xem rõ ràng rồi hô lớn: “Buông roi!”
Hai miếng ngói một trên một dưới, kẹp Yết Vĩ Tiên vào giữa. Chân chàng phóng ra, chớp nhoáng đã đá ba cước. Hà Thiết Thủ vận kình toan đoạt lại nhuyễn tiên, nhưng bàn chân của đối phương đã sát đến thân mình. Nàng chỉ còn cách buông roi lùi lại, không ngờ chân đạp vào khoảng trống, té nhào xuống mái nhà.
Viên Thừa Chí nắm lấy cán roi, hỏi: “Đệ tử của Kim Xà Lang Quân thế nào?”
Bỗng nghe thanh âm dịu dàng khêu gợi của Hà Thiết Thủ vang lên: “Giỏi lắm.”
Thân pháp của nàng cực nhanh, té vừa chạm đất đã nhảy lên mái nhà lại ngay. Tuy Viên Thừa Chí cũng có khinh công tuyệt đỉnh, nhưng không sao nén nổi thán phục.
Tay phải của Hà Thiết Thủ chống vào hông, thân hình lay động trông rất yểu điệu, như mềm mại ẻo lả quá không đứng vững nổi. Nàng mỉm cười nói: “Muội còn muốn lãnh giáo công phu ám khí của Viên tướng công. Ngũ Tiên Giáo bọn muội có một thứ gọi là Hàm Sa Xạ Ảnh.”
Viên Thừa Chí nghe vậy, chú ý nhìn nhưng không thấy nàng đưa tay lên. Đột nhiên trước mắt chàng có vô số tia sáng nhấp nháy, giật mình biết là hỏng rồi, liền sử ngay chiêu Nhất Phi Xung Thiên nhảy lên cao mấy trượng. Tai chàng nghe thấy những tiếng vun vút rất nhỏ, mấy chục mũi ám khí đã ghim vào mái nhà.
Thì ra ám khí này là vô số những cây kim thép mạ vàng, cơ quan đặt ở trước ngực. Khi phát xạ không cần phải nhắm chính xác, chỉ cần đứng đối diện với địch thủ, ấn nút ở hông là cả một dãy cương châm được lò xo rất mạnh bắn ra ngoài. Đúng là thần không hay quỷ không biết. Cương châm vừa nhỏ vừa nhiều, lại tẩm chất kịch độc.
Bất luận ám khí nào trong võ lâm, dù là cương tiêu, tụ tiễn, thiết liên tử… khi phóng ra cũng phải vung tay, nếu đối phương là cao thủ thì nhìn thấy có thể đón đỡ. Nhưng loại độc châm này phát ra hoàn toàn không có dấu hiệu, người ngoài nhìn không thể biết, đã thấy thì tám chín phần mười không chết cũng bị thương, đã bị thương thì chẳng bao lâu là mất mạng. Ám khí này gọi là Hàm Sa Xạ Ảnh, đáng gọi là độc bộ võ lâm, thiên hạ vô song.
Thân hình Viên Thừa Chí chưa hạ xuống, chàng đã ném ba đồng tiền nhằm vào yếu huyệt đối thủ, giận dữ hét lên: “Không thù không oán, sao cô nương lại hạ độc thủ như thế?”
Hà Thiết Thủ nghiêng người tránh né hai đồng tiền, xoay tay phải chụp lấy đồng thứ ba, ỏn ẻn kêu lên: “Trời ơi, mạnh quá! Đồng tiền này làm đau tay của người ta rồi.”
Nàng nhắm chính xác vị trí Viên Thừa Chí rơi xuống, ném trả đồng tiền đó lại, nghe tiếng cũng biết lực đạo không phải tầm thường. Viên Thừa Chí đưa tay định chụp, bỗng sực nghĩ ra: “Trên tay cô này có độc, ta đừng để bị lừa!”
Chàng bèn vẫy tay áo, hất đồng tiền trở lại. Kình lực yếu hơn ném bằng tay, Hà Thiết Thủ nhẹ nhàng đón lấy, bỏ vào trong bọc, mỉm cười nói: “Đa tạ! Nhưng chỉ cho muội một đồng, có nhỏ mọn lắm không.”
Nàng vung tay, một cơn gió nổi lên. Mười mấy sợi dây không phải bằng vàng cũng không phải bằng tơ, ào tới chụp lên đầu Viên Thừa Chí.
Viên Thừa Chí vẫn còn giận nàng phóng độc châm bằng thủ đoạn ác độc vừa rồi, nên không khách sáo gì nữa. Chàng vung cây Yết Vĩ Tiên lên, toan quấn lấy mớ dây mà nàng đánh tới.
Hà Thiết Thủ đột ngột thu hết dây về, cười hỏi: “Yết Vĩ Tiên là của muội. Huynh dùng binh khí của muội, có hổ thẹn không?”
Nàng nói giọng thổ dân Vân Nam, nghe vừa giòn vừa dẻo, đã nhõng nhẽo lại kiêu kỳ, nhưng xuất thủ thì không chậm chút nào.
Viên Thừa Chí quẳng cây Yết Vĩ Tiên rất xa sau lưng, quát lên: “Giả tỉ ta đoạt hết mấy sợi dây của cô, thì từ nay Ngũ Độc Giáo các cô đừng đến quấy rầy ta nữa. Có được hay không?”
Hà Thiết Thủ vẫn cười rất ngọt, đáp: “Đừng gọi Nhuyễn Hồng Châu Sách là mấy sợi dây. Nếu huynh muốn đoạt thì cứ thử.”
Nói xong, nàng vẫy châu sách ngang ra, cuộn vào lưng Viên Thừa Chí. Châu sách vừa mảnh vừa dài, uyển chuyển từ bốn bên tám hướng đồng thời đánh tới. Viên Thừa Chí đảo người né tránh, muốn tìm chỗ sơ suất của đối thủ. Nào ngờ mười mấy sợi châu sách này, sợi thì tấn công, sợi thì phòng thủ. Những sợi tấn công cũng có thể thu về phòng ngự; những sợi đang phòng ngự cũng có thể đột ngột phóng ra công kích. Thật là công thủ liên hoàn, không chút sơ sót.
Giao đấu được mười mấy chiêu, Viên Thừa Chí đã thấy chỗ ảo diệu của món binh khí này, nghĩ bụng: “Công phu châu sách nhất định được biến hóa từ lưới nhện mà ra.” Thừa lúc nàng sử một chiêu sắp xong, những sợi dây tấn công chưa thu hồi lại, những sợi dây phòng thủ cũng chưa kịp phát ra, chàng hơi nghiêng người một chút, luồn ra phía sau lưng, điểm vào dưới nách nàng.
Chiêu này vừa cực nhanh vừa hiểm hóc, Hà Thiết Thủ không sao tránh né được. Nàng bèn xoay người lại. Viên Thừa Chí thấy phen này có thể điểm trúng, nhưng đầu ngón tay mình chắc chắn sẽ đụng vào trước ngực nàng. Mặt chàng tự nhiên đỏ lên, dừng tay không điểm tới, thầm nghĩ: “Chiêu này có vẻ vô lại.”
Hà Thiết Thủ dùng thiết câu bên tay trái vạch chéo sang phải. Viên Thừa Chí vội vàng co tay lại, nhưng đã nghe soạt một tiếng, tay áo bị thiết câu quẹt rách một đường.
Hà Thiết Thủ la lên: “Úi chà! Muội lỡ làm rách tay áo Viên tướng công rồi. Huynh cởi áo ra đi, để muội vá lại cho.”
Viên Thừa Chí thấy cô ả xảo trá lại càng giận dữ, bèn giật rách hẳn cánh tay áo bên phải ra, tiện thể sử dụng làm vũ khí, vung lên phát ra tiếng gió vù vù. Chỉ mấy chiêu, cánh tay áo đã quấn hết những sợi châu sách lại. Chàng dùng sức vẫy mạnh, cả tay áo cùng châu sách cùng lúc rơi xuống đất.
Viên Thừa Chí hỏi: “Sao?”
Hà Thiết Thủ vẫn cười khanh khách, nói: “Sao trên trời! Chẳng phải binh khí của huynh cũng tuột khỏi tay rồi sao? Chúng ta chưa phân cao thấp.”
Nàng quờ tay phải ra sau lưng, lại rút ra một cái móc lấp lánh ánh vàng.
Viên Thừa Chí thấy cô gái này pháp bảo đầy mình, hết món này lại có món khác, không khỏi hoa mắt. Chàng nói: “Ta đã nói rồi, đoạt lấy châu sách của cô thì cô không được quấy rầy ta nữa.”
Hà Thiết Thủ mỉm cười, cãi lại: “Đó là Viên tướng công nói, còn muội đã đồng ý đâu?”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Không sai, ả thật sự chưa đồng ý. Nhưng nếu từng món mà tỉ thí thế này, biết đến khi nào mới dứt?” Chàng “hừ” một tiếng rồi nói: “Để xem thử cô còn bao nhiêu binh khí.”
Chàng nghĩ bụng: “Ló ra món binh khí nào, mình đoạt món ấy. Dĩ nhiên cô ả phải biết khó mà lùi.”
Hà Thiết Thủ lên tiếng: “Cái này gọi là Kim Ngô Câu.” Nàng giơ tay trái lên, để lộ cái thiết câu, lại nói: “Còn đây là Thiết Ngô Câu. Vì luyện cái thứ này mà gia gia đã cắt mất một bàn tay của muội. Gia gia nói: Binh khí cầm trên tay, không thể linh hoạt bằng ráp vào tay. Muội chỉ mới luyện mười tám năm, chưa tinh thông lắm. Viên tướng công! Trên cái câu này cũng có chất độc, tướng công đừng dùng tay để đoạt lấy.”
Nàng vừa cười vừa nói, từ từ tiến đến gần. Viên Thừa Chí bề ngoài thì tỏ ra bình tĩnh tự nhiên, nhưng trong lòng cực kỳ cảnh giác, sợ cô ả lại có gian mưu gì khác. Đang đề phòng nghiêm ngặt, đột nhiên nghe xa xa có tiếng huýt sáo, chàng bỗng nghĩ ra một chuyện, la thầm: “Hỏng bét! Chẳng lẽ cô này ở đây quấy rầy ta, để đồng bọn rảnh tay đi hại Thanh Thanh hay sao?”
Không để đối phương nói gì nữa, chàng quay lưng bỏ đi ngay. Hà Thiết Thủ cười ha hả, la lên: “Bây giờ đi thì muộn rồi.”
Kim câu xuất ra một hư chiêu, còn thiết câu đưa vèo tới, đánh vào dưới lưng Viên Thừa Chí. Chàng đảo người né tránh, chân trái đá quét ngang qua. Hà Thiết Thủ nhảy lên tránh né, dùng cả song câu phản kích. Lúc này trời đã sáng hẳn, nhìn rõ một luồng hắc khí, một vầng kim quang vây kín người chàng, tung hoành ngang dọc. Công phu binh khí của nàng khá lợi hại, chỉ hơi kém Ngọc Chân Tử chàng đã gặp trong kinh thành chút xíu.
Viên Thừa Chí lo lắng cho mọi người và Thanh Thanh, không dám ham chiến. Chàng mấy lần ép vào gần để đoạt lấy kim câu, nhưng đều bị nàng xoay tay phản kích, hoặc dùng thiết câu để bảo vệ. Thiết câu được ráp vào cổ tay, vận dụng quả nhiên linh hoạt như một bàn tay sống.
Đánh hơn ba mươi chiêu, Viên Thừa Chí vẫn không sao đẩy lùi đối thủ được. Chàng bèn đưa tay ra sau lưng, rút Kim Xà Kiếm ra. Kiếm quang vừa lóe lên, nụ cười trên miệng Hà Thiết Thủ lập tức biến mất. Nàng hét lên: “Kim Xà Kiếm là của Ngũ Tiên Giáo chúng ta, sao huynh lấy cắp?”
Viên Thừa Chí múa kiếm veo véo mấy chiêu, võ công Hà Thiết Thủ dù cao hơn cũng không cản nổi. “Keng” một tiếng, kim câu đã bị Kim Xà Kiếm tiện đứt một nửa. Viên Thừa Chí quát lên: “Nếu cô tiếp tục quấy rầy, ta phải chặt đứt nốt thiết câu.”
Sắc mặt Hà Thiết Thủ có phần sợ hãi, quả nhiên không dám tới gần nữa. Nhưng nàng lập tức mỉm cười, khom người thi lễ rồi nói rất nghiêm chỉnh: “Viên tướng công! Hôm qua gặp tướng công, suốt đêm muội không ngủ được, đêm nay lại càng khó ngủ. Muội… muội… rất muốn gọi tướng công… là… sư phụ.”
Viên Thừa Chí đáp: “Không dám!”
Chàng cất kiếm, rảo bước chạy lẹ về. Vừa đến đầu hẻm đã thấy Hồng Thắng Hải nằm dưới đất, gần cổ có một vũng máu. Chàng nhảy xổ đến đỡ dậy, rất may là còn hơi thở. Hồng Thắng Hải bị thương ở yết hầu, không nói được, đưa tay chỉ vào trong nhà. Viên Thừa Chí ôm y vào trong, thấy bàn ghế trong nhà không gãy cũng đổ nhào, cửa sổ bị phá vỡ, hiển nhiên vừa có một trận ác chiến.
Viên Thừa Chí càng nhìn càng kinh tâm động phách, xé một cánh tay áo bó lại vết thương trên yết hầu Hồng Thắng Hải, rồi chạy vào nội đường. Bên trong cũng bị phá hoại tan tành, Hồ Quế Nam và Trình Thanh Trúc nằm rên rỉ dưới đất, Viên Thừa Chí vội hỏi: “Sao rồi?”
Hồ Quế Nam đáp: “Thanh cô nương… bị… bị Ngũ Độc Giáo bắt đi rồi.”
Viên Thừa Chí kinh hãi hỏi: “Còn Sa Thiên Quảng đâu?”
Hồ Quế Nam đưa tay chỉ lên mái nhà. Viên Thừa Chí không kịp hỏi nhiều, gấp rút nhảy lên, quả nhiên thấy ông câm và Sa Thiên Quảng nằm trên mái ngói, cả hai đều trúng độc.
Phen này rất may là không ai mất mạng, nhưng trong nhà người nào cũng bị trọng thương, thật là thua tàn thua mạt. Thanh Thanh thì không biết bị bắt đi đâu. Viên Thừa Chí giận dữ, tự trách mình: “Ta hồ đồ quá, bị cô ả kia quấy rối mà không biết đường cảnh giác.”
Trong lúc ác đấu, đám nô bộc trong nhà chạy tán loạn hết; bây giờ kẻ địch rút đi chúng mới từ từ trở về. Viên Thừa Chí ẵm ông câm và Sa Thiên Quảng vào trong nhà, viết một bức thư, sai một tên nô bộc đưa ngay đến chỗ Kim Long Bang, nhờ Tiêu Uyển Nhi đi lấy Chu Tinh Băng Thiềm về để cứu người. Chàng băng bó vết thương cho Sa Thiên Quảng, Hồ Quế Nam và mọi người rồi mới hỏi tình hình địch đến đánh lén thế nào.
Thiết La Hán lần trước bị thương còn nằm trên giường chưa dậy được, may mà không bị hạ độc thủ. Y kể: “Lúc canh ba, Hồ Quế Nam là người đầu tiên phát hiện có địch, cùng ông câm lên xem xét. Hai người vừa lên tới mái nhà, lập tức có mười mấy địch thủ bao vây. Tại hạ nhìn qua cửa sổ thấy rất rõ ràng, nhưng toàn thân không có chút sức, chỉ biết nằm mà lo lắng. Ông câm lão huynh, Sa lão huynh và Trình lão gia đả thương được mấy tên, nhưng đối phương quá đông nên quân ta vừa đánh vừa lùi, cứ mỗi phòng lại cầm cự một hồi. Cuối cùng người nào cũng bị thương, Thanh Thanh bị bắt đi. Viên tướng công! Bọn tại hạ thật sự có lỗi với tướng công.”
Viên Thừa Chí nói: “Địch thủ ác độc, ta lại hồ đồ, không thể trách các vị. Trước mắt cứu người là quan trọng.”
Chàng xuống chuồng ngựa chọn một con, phi ra ngoại thành. Gần đến Huệ vương phủ, chàng xuống ngựa, buộc ngựa ở gốc cây, tới cổng phủ lớn tiếng kêu gọi: “Hà giáo chủ! Xin mời ra đây, ta có mấy câu muốn nói.”
Cửa vừa mở là nghe chó sủa vang, mười mấy con chó vừa to vừa dữ phóng ra, phía sau còn có mấy chục người. Chàng nghĩ: “Lần này không thể khách sáo nữa”. Tay trái chàng vẫy lia lịa, bắn lẹ ra mười mấy mũi Kim Xà Truy. Hào quang nhấp nháy, mỗi con chó đều trúng một mũi truy vào gáy, lăn ra chết sạch dưới đất. Chàng chạy quanh lũ chó một vòng, hai tay nhổ hết Kim Xà Truy cất lại vào trong bọc.
Giáo chúng Ngũ Độc Giáo định thừa lúc chàng đối phó với lũ chó săn mà phun chất độc ra, nào ngờ Viên Thừa Chí giết hết bầy chó thần tốc như vậy. Chúng bất giác đứng ngẩn ra đó, tên nào cũng ngơ ngác. Đợi chàng thu hồi hết ám khí, một tên mới la lên, quay lưng bỏ chạy. Bọn còn lại cũng ùa vào trong phủ, muốn đóng cửa thì không kịp nữa. Viên Thừa Chí đã nhảy qua đầu cả đám, chạy lẹ vào trong.
Vào tới bên trong, thần khí Viên Thừa Chí lại tỏ ra rất ung dung. Chàng hô lớn: “Hà giáo chủ! Nếu không ra đây, đừng trách ta vô lễ.”
Nghe tiếng huýt sáo, mười mấy nhân vật Ngũ Độc Giáo xếp thành hai hàng từ giữa nhà bước ra. Đi đầu là Hà Hồng Dược, sau đó là tả hữu hộ pháp Phan Tú Đạt, Trầm Kỳ Tư, cùng Cẩm y đồng cái Tề Vân Ngạo và một số cao thủ khác.
Viên Thừa Chí nói: “Tại hạ trước nay chưa hề quen biết với quý vị, oán cũ không có, thù mới càng không. Thế mà các vị đến nhà tại hạ, đả thương rất nhiều bằng hữu, bắt cóc huynh đệ của tại hạ. Lý do thế nào, tại hạ phải thỉnh giáo Hà giáo chủ.”
Hà Hồng Dược nói: “Trong nhà ngươi thì những người khác không có thù oán gì với chúng ta cả. Điều đó không sai, nên chúng ta mới hạ thủ lưu tình, không lấy mạng họ ngay lúc đó. Còn thằng lỏi họ Hạ, hừ, chúng ta sẽ từ từ hành hạ cho nó biết mùi đau đớn.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Tuổi y còn trẻ như vậy, đã có lỗi gì với các vị?”
Hà Hồng Dược cười nhạt, nói: “Ai bảo hắn là con của Kim Xà Lang Quân? Thế thì cũng thôi, nhưng ai bảo hắn chui từ trong bụng con tiện tì kia ra?”
Viên Thừa Chí ngẩn ra nghĩ bụng: “Thì ra mụ này có hiềm khích, thù hằn gì với mẹ của Thanh Thanh.”
Hà Hồng Dược thấy Viên Thừa Chí im lặng, bèn trầm giọng hỏi tiếp: “Ngươi xông bừa vào đây để làm gì?”
Viên Thừa Chí hỏi lại: “Nếu các vị có xích mích với Kim Xà Lang Quân, sao không tìm chính ông ấy mà trả thù?”
Hà Hồng Dược nói: “Cha cũng phải giết, con cũng phải giết. Ngươi là đệ tử của hắn, phải giết cả ngươi.”
Viên Thừa Chí không muốn tranh luận vô bổ nữa, bèn hô lớn: “Hà giáo chủ! Giáo chủ có chịu ra mặt không? Có chịu thả người không?”
Trong nhà không ai đáp lại. Viên Thừa Chí lo lắng cho Thanh Thanh, bèn lạng người qua kế bên Hà Hồng Dược, chạy tới cửa sảnh. Hai tên giáo chúng đứng đó bị song chưởng của chàng hất văng đi.
Viên Thừa Chí chạy vào trong sảnh, thấy bên trong vắng tanh, không một bóng người. Chàng quay lại, chạy tới dãy phòng ở hướng đông, đá bật cửa ra. Có hai tên giáo chúng đang nằm trên giường, đã bị chàng bẻ trật khớp xương hôm trước. Thấy Viên Thừa Chí xông vào, chúng hoảng sợ đến nỗi quên cả đau đớn, nhảy bật lên.
Viên Thừa Chí chạy lung tung trong nhà, tìm kiếm khắp nơi. Giáo chúng Ngũ Độc Giáo đang ở nhà khách của Chiêu Hiền Quán, giữa căn nhà này với Huệ vương phủ có một bức tường dày ngăn cách. Chẳng bao lâu Viên Thừa Chí đã lục lọi khắp các xó xỉnh trong nhà, chẳng những không gặp Thanh Thanh mà cả Hà Thiết Thủ cũng không thấy đâu. Chàng lo lắng vô cùng, đá ngã hết những chiếc lu và rương, chuồng nhốt trùng độc. Bọn rắn rít cùng độc vật chạy lung tung ra ngoài, giáo đồ Ngũ Độc Giáo kinh hãi vội chia nhau bắt lại. Trong nhà khách này còn những nhân vật giang hồ khác nữa, nhưng họ thấy tình hình nguy hiểm đều chạy trốn, bỏ lại khu nhà trống rỗng.
Phan Tú Đạt la lên: “Nếu là hảo hán thì ra đây, quyết một phen thắng bại.”
Viên Thừa Chí biết tên này rất có địa vị trong Ngũ Độc Giáo, bèn quyết ý bắt hắn để buộc phải nói ra tung tích của Thanh Thanh. Chàng bèn hô lớn: “Được! Để ta lãnh giáo công phu của các hạ.”
Chàng lập tức thi triển khinh công Thần Hành Bách Biến, vừa nhún chân một cái đã nhảy đến trước mặt hắn. Phan Tú Đạt thấy Viên Thừa Chí nói đến là đến ngay, kinh hãi đánh liền hai chưởng.
Viên Thừa Chí nói: “Người khác sợ độc chưởng của ngươi, nhưng ta không sợ.”
Phan Tú Đạt la lên: “Được! Ngươi thử xem”
Viên Thừa Chí đưa tay phải lên, ra vẻ đối chưởng với hắn.
Phan Tú Đạt cả mừng nghĩ bụng: “Ngươi cả gan đụng vào độc chưởng của ta là tự tìm con đường chết, đừng oán trách nhé.” Hắn vận hết kình lực vào song chưởng, đẩy về phía trước, nhằm thẳng bàn tay địch thủ. Khoảng cách còn chưa đến một tấc, đột nhiên hắn thấy đối phương gấp rút rụt tay về, rồi sau gáy nghe tiếng gió nhẹ nhàng. Lúc này kình lực toàn thân hắn đang dồn ra trước, chưa kịp thu về phòng thủ thì cổ đã bị nắm chặt, thân hình đã bị xách bổng lên.
Giáo chúng Ngũ Độc Giáo la hét om sòm, toan chạy đến cứu. Viên Thừa Chí nắm Phan Tú Đạt quay thành một vòng tròn, chúng sợ làm tổn thương hộ pháp nên không dám ép tới gần.
Viên Thừa Chí quát hỏi: “Người mà các ngươi bắt về đang ở đâu? Nói nhanh lên!”
Phan Tú Đạt nhắm mắt không nói gì. Viên Thừa Chí vận Hỗn Nguyên Công, đưa ngón tay điểm vào huyệt đạo ở bên xương sườn hắn. Phan Tú Đạt lập tức thấy xương sống đau nhói, như có một thanh thép chọc từ trên xuống dưới rồi vặn qua vặn lại. Viên Thừa Chí buông lỏng tay, hất hắn nhào xuống đất. Phan Tú Đạt đau đến nỗi chết đi sống lại, lăn lộn dưới đất, nếu muốn nói chắc cũng không nói được.
Viên Thừa Chí quát: “Được, ngươi không nói! Còn người khác thì sao?” Chàng bỗng nghĩ: “Phương pháp điểm huyệt của ta, ngoài Hỗn Nguyên Công thì trong thiên hạ không ai cứu được. Ta điểm hết bọn chúng, nhất định Hà Thiết Thủ không dám hại Thanh đệ nữa.” Chàng lập tức thi triển thân pháp, chạy xuyên qua xuyên lại giữa đám đông. Những tên giáo chúng võ công cao cường còn có thể chống đỡ được ba chiêu hai thức, còn đa số thì chưa thấy địch đâu đã bị điểm trúng huyệt đạo.
Chỉ trong chốc lát, trong sân đã có hai mươi ba người nằm la liệt. Thông thường, nếu bị bế huyệt đạo, dù thủ pháp điểm huyệt tuyệt diệu đến mức người khác khó giải được, chỉ mấy giờ là huyết khí có thể lưu chuyển để tự giải khai. Nhưng phen này Viên Thừa Chí đã sử Hỗn Nguyên Công, đưa chân lực đánh thấu vào kinh mạch, huyệt đạo không chỉ mấy ngày mà giải được. Sau khi giải được cũng đau đớn khó chịu mười ngày nửa tháng, thậm chí suốt đời phải chịu tổn thương. Ở Tịnh Nham Cù Châu ngày trước, Viên Thừa Chí điểm huyệt bốn lão họ Ôn chính là thủ pháp này.
Hà Hồng Dược thấy tình hình có vẻ không êm, la lớn một tiếng rồi phóng tới cửa chạy ra ngoài. Bang chúng cũng ùa theo chạy trốn, chỉ trong chốc lát là gian nhà lớn đã trống rỗng, chỉ còn mấy chục người nằm yên dưới đất. Người thì nằm thõng thượt mà rên khe khẽ. Cũng có người không rên được, chỉ giương mắt lên giận dữ mà nhìn.
Viên Thừa Chí lớn tiếng hô hoán: “Thanh đệ! Thanh đệ ở đâu?” Nhưng chỉ nghe tiếng mình vọng lại, hoàn toàn không có tiếng trả lời. Chàng không chịu thôi, lại tìm khắp các phòng của gian nhà sát vách Huệ vương phủ này lần nữa, nhưng rốt cuộc cũng vô ích. Chàng xách mấy tên giáo chúng lên tra hỏi, nhưng chẳng tên nào biết đường trả lời.
Viên Thừa Chí vô kế khả thi, đành quay về hẻm Chính Điện Tử. Về tới, thì ra Uyển Nhi đã lấy được băng thiềm, dẫn thêm mấy đệ tử Kim Long Bang đến tương trợ, hút hết độc khí và băng bó xong vết thương cho bọn Sa Thiên Quảng. Tính mạng mọi người không nguy hiểm nữa, nhưng Thanh Thanh đã rơi vào tay địch, Viên Thừa Chí không khỏi rầu rĩ, lo lắng muôn phần. Uyển Nhi dịu dàng an ủi, sai phái bang chúng Kim Long Bang đi thám thính khắp nơi.
Khoảng nửa giờ sau, đột nhiên nghe “bình” một tiếng, một cái bao lớn từ trên mái nhà rớt xuống. Mọi người đều giật mình. Viên Thừa Chí càng lo lắng khác thường, vội vã xé bao, giật đứt dây cột. Chưa mở xong đã ngửi thấy mùi máu tanh, trái tim chàng nhảy lên thình thịch, hai tay ướt đẫm mồ hôi. Mở bao ra, rõ ràng là một thi thể đã bị chặt thành tám miếng. Da mặt của thủ cấp đã đen sì, nhưng tóc râu vẫn trắng phau. Nhìn kỹ, đây chính là Độc nhãn thần long Đơn Thiết Sinh.
Viên Thừa Chí nhảy lên mái nhà nhìn quanh bốn phía, thấy phía tây nam có một bóng đen đang nhanh chân chạy trốn. Chàng đoán đây là kẻ đưa thi hài tới, lập tức đề khí rượt theo. Được mấy dặm, người đó chạy vào một khu rừng.
Viên Thừa Chí theo vào, đến giữa rừng thì thấy mấy chục giáo chúng Ngũ Độc Giáo đang ngồi vây quanh đống lửa, nói chuyện ồn ào. Một tên tình cờ quay đầu lại, thấy Viên Thừa Chí đến bèn kinh hãi la lên: “Hung thần đến rồi!”
Cả đám bỏ chạy tứ tán. Viên Thừa Chí cứ nhắm người chạy xa nhất mà đuổi, vung tay phóng chân điểm huyệt những ai cản trở mình. Gần thì chàng dùng tay điểm huyệt hoặc dùng khuỷu tay mà đánh, xa thì dùng đồng tiền phóng tới. Khắp chỗ trong rừng vang lên tiếng chân chạy, tiếng la ó kinh hãi, tiếng quát mắng. Sau thời gian uống xong chung trà, mọi âm thanh đột nhiên tắt hẳn. Viên Thừa Chí xoa tay đi ra, vỗ vỗ phủi bụi bám trên người.
Phen này chàng điểm ngã được hết cao thủ Ngũ Độc Giáo như Trầm Kỳ Tư, Tề Vân Ngạo… Chỉ sót Hà Thiết Thủ và Hà Hồng Dược không ở đó. Viên Thừa Chí tương đối yên lòng, thầm nghĩ: “Chỉ cần Thanh đệ lúc này chưa bị hạ độc thủ. Dù chúng oán hận thấu trời cũng không dám ra tay giết hại.”
*
* *
Viên Thừa Chí quay về nhà, lo lắng chờ đợi. Đến xế chiều thì những người thám thính đã trở về hết, không ai tìm được manh mối. Khoảng canh hai, chàng bảo Ngô Bình và La Lập Như đem thi hài Đơn Thiết Sinh đến nha môn Thuận Thiên Phủ. Quan phủ thấy tình trạng xác chết như thế, dĩ nhiên sẽ biết hung thủ là bọn Ngũ Độc Giáo.
Tiêu Uyển Nhi cùng mấy người trong bang ở lại nhà Viên Thừa Chí, chăm sóc những người bị thương và canh gác đề phòng kẻ địch.
Viên Thừa Chí lo lắng trong lòng không sao ngủ được, xếp bằng ngồi trên giường, suy nghĩ làm sao ngày mai tìm được Thanh Thanh. Ngồi khoảng một canh, bốn bề không có âm thanh gì cả, chỉ nghe xa xa vọng đến tiếng chó sủa và tiếng mõ cầm canh, từ xa đến gần rồi lại từ gần đến xa. Viên Thừa Chí ân hận mãi, phen này trúng kế địch nhân, lần đầu thảm bại từ khi xuống núi.
Trong vắng lặng, đột nhiên chàng nghe thấy trên đầu tường có tiếng động rất khẽ. Nếu Ngô Bình và La Lập Như trở về thì khinh công không cao đến thế, chắc chắn là kẻ địch. Chàng im lặng ngồi trên giường chờ biến cố. Phía ngoài cửa sổ có tiếng động như một mảnh lá rơi xuống đất, rồi có tiếng cười khanh khách.
Tiếng cười hấp dẫn, giọng nói dịu dàng: “Viên tướng công! Có khách đây.”
Viên Thừa Chí lên tiếng: “Làm phiền đại giá giáo chủ, mời vào!” Rồi chàng lấy mồi lửa ra thắp sáng đèn nến, mở cửa đón khách.
Hà Thiết Thủ tự nhiên đi vào. Thấy trong phòng Viên Thừa Chí trần thiết đơn giản, ngoài giường và một cái bàn ra không còn gì nữa, nàng mỉm cười nói: “Viên tướng công thật là bậc danh sĩ thanh cao.”
Viên Thừa Chí hừ một tiếng.
Hà Thiết Thủ lại nói: “Ý của tiểu muội đến đây, chắc Viên tướng công đã biết rồi.”
Viên Thừa Chí nói: “Xin Hà giáo chủ cho biết.”
Hà Thiết Thủ nói: “Tướng công có việc cần tiểu muội, tiểu muội cũng có việc cần tướng công. Đến lúc này hai chúng ta vẫn chưa phân thắng bại.”
Viên Thừa Chí đáp: “Không cần phải so tài nữa. Hà giáo chủ có trí có dũng, tại hạ vô cùng thán phục.”
Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Đây mới là hiệp đầu. Trừ khi tướng công trong chốc lát mà diệt sạch Ngũ Tiên Giáo bọn muội, không thì còn lắm chuyện để tướng công phải đau đầu.”
Viên Thừa Chí rùng mình nghĩ bụng: “Nếu họ quấy rầy không chịu dứt, thật sự không dễ đối phó.” Chàng bèn nói: “Hà giáo chủ đã có oán thù với phụ thân của huynh đệ tại hạ, tốt nhất là tìm chính ông ấy, hà tất làm khó kẻ hậu sinh. Người xưa thường nói, oan gia nên giải chứ không nên kết…”
Chàng chưa dứt lời, Hà Thiết Thủ đã mỉm cười ngắt lời: “Nếu người đó thật sự là huynh đệ của tướng công thì còn dễ. Nhưng một đại cô nương nhan sắc như thế, ngay cả tiểu muội nhìn thấy cũng phải động lòng, nhất định Viên tướng công không muốn để cô ấy rơi vào tay một nhóm người gian ác. Mà khách đến nhà, tướng công không mời được ly rượu hay sao?”
Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Cô ả này thật là cổ quái!” Chàng hạ lệnh cho người hầu dọn rượu thịt. Uyển Nhi không yên tâm, bèn thay đổi sắc phục như một thư đồng, đích thân bưng rượu thịt vào trong phòng.
Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Thật là dưới tay tướng mạnh không có quân hèn. Thư đồng của Viên tướng công tuấn tú khác thường.”
Viên Thừa Chí rót hai ly rượu, Hà Thiết Thủ nâng ly uống cạn ngay. Nàng uống thêm hai ly mới mỉm cười nói: “Viên tướng công không nể mặt mà uống rượu của bọn muội, thế là tiểu muội gan dạ hơn nhiều.”
Uyển Nhi nói: “Rượu của chúng ta nhất định không có thuốc độc.”
Hà Thiết Thủ cười nói: “Hay quá, hay quá! Thật là một quản gia miệng lưỡi lanh lợi. Cạn ly!”
Viên Thừa Chí cùng nàng lại cạn một ly. Dưới ánh nến, dung mạo cô gái này đẹp đẽ, hai má ửng hồng, khóe miệng lúc nào cũng có nụ cười, thần sắc vừa yểu điệu vừa khêu gợi. Chàng thầm nghĩ: “Trong những cô gái mà mình quen biết, nói về mặt mày xinh đẹp, cử chỉ dễ thương, đương nhiên A Cửu đứng đầu, không ai sánh kịp. Tiểu Huệ thì thành khẩn chân thật, Uyển Nhi lại hào phóng dễ gần. Còn Thanh đệ tuy hơi nhỏ mọn, nhưng đối với mình toàn tâm toàn ý, trọn mối chân tình, khiến người ta phải cảm động. Bây giờ lại có một cô xinh đẹp như hoa mà ác độc như rắn rết. Thiên hạ thật là rộng lớn, không gì kỳ lạ mà không có.”
Hà Thiết Thủ thấy chàng ngơ ngẩn không nói gì, cứ ngồi yên mỉm cười. Hồi lâu, nàng mới khẽ lên tiếng: “Võ công của Viên tướng công, tiểu muội cực kỳ bái phục. Hình như tiên sư Kim Xà Lang Quân cũng không biết thủ pháp điểm huyệt đó. Công phu này, nhất định Viên tướng công học ở nơi khác phải không?”
Viên Thừa Chí đáp: “Không sai. Ta là đệ tử phái Hoa Sơn.”
Hà Thiết Thủ nói: “Võ công của Viên tướng công gom hết sở trường nhiều phái, chẳng trách thần kỳ tinh xảo. Tiểu muội đêm nay đến đây là để bái sư.”
Viên Thừa Chí ngạc nhiên nói: “Ta không hiểu.”
Hà Thiết Thủ nói: “Nếu Viên tướng công không hiềm tiểu muội tư chất ngu muội, xin hãy thu làm đồ đệ.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Hà giáo chủ đứng đầu một phái, võ công xuất thần nhập hóa, lại đi đùa giỡn như thế hay sao?”
Hà Thiết Thủ nói: “Nếu tướng công không chịu dạy phương pháp giải huyệt, chẳng lẽ muội phải giương mắt lên nhìn mấy chục người trong giáo phái từ từ mất mạng?”
Viên Thừa Chí nói: “Chỉ cần cô nương đưa bằng hữu của ta về đây, rồi hứa từ nay về sau vĩnh viễn không đến quấy rầy, dĩ nhiên ta sẽ giải cứu cho họ.”
Hà Thiết Thủ nói: “Vậy là Viên tướng công không chịu nhận đứa đệ tử này rồi.”
Viên Thừa Chí nói: “Ta học võ chưa tới đâu, tìm thầy còn chưa kịp, sao dám dạy cho người khác? Vậy là chúng ta thỏa thuận xong, những chuyện đã qua không truy cứu nữa. Cô nương thấy thế nào?”
Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Tướng công chữa trị cho thuộc hạ của muội xong, thế thì hai phái chúng ta hòa hảo, biến thù thành bạn. Hạ cô nương là do cô cô của muội mời đi, hoàn toàn không liên can gì đến muội cả. Nhưng muội muốn nước đục thả câu, có dụng ý khác, thừa cơ uy hiếp. Tướng công phải nhận muội làm đồ đệ, muội mới chịu thả người. Minh sư như tướng công thì ngàn năm khó gặp, tiểu muội phải làm âm hồn bất tán, không bái sư được quyết chẳng chịu thôi. Sư phụ, sư phụ! Đồng ý nhận muội làm đồ đệ đi.”
Đến câu cuối cùng, giọng nói Hà Thiết Thủ vô cùng uyển chuyển, dịu dàng nhõng nhẽo, có thể thu hết hồn vía người ta, đúng là mỹ nhân kế. Uyển Nhi nghe đến đây, bỏ ra khỏi phòng.
Viên Thừa Chí thấy nàng dùng thủ đoạn, không dám coi thường. Chàng ngồi nhăn mặt, im lặng không lên tiếng. Hà Thiết Thủ từ từ đứng dậy, mỉm cười nói: “Ái chà, Viên đại minh chủ nổi giận rồi đây.”
Nàng nhún chân chào theo kiểu vạn phước, lại nói: “Được rồi, được rồi! Tiểu muội xin lỗi tướng công là được rồi chứ gì?”
Viên Thừa Chí cũng chắp tay thi lễ. Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Hạ cô nương ở chỗ bọn muội, muội đảm bảo không ai vô lễ chút nào. Bản thân tiểu muội sẽ cung kính xem cô ấy như sư nương của mình, quyết làm cho tướng công cảm động mà nhận lời làm sư phụ. Khi đó dĩ nhiên đồ nhi sẽ đưa sư nương về cho sư phụ một cách đàng hoàng, từ nay không dám quấy nhiễu bằng hữu của sư phụ nữa. Ngày mai, mời Viên tướng công đại giá quang lâm chữa trị cho bằng hữu của tiểu muội.”
Viên Thừa Chí nói: “Chuyện cứu thuộc hạ của cô thì ta đã hứa rồi, còn những chuyện khác xin đừng nhắc đến.”
Hà Thiết Thủ hơi khom lưng, quay người ra ngoài. Nàng không nhảy lên mái nhà mà đi thẳng ra cổng. Viên Thừa Chí chỉ còn cách đi theo tiễn chân, bọn nô bộc trong nhà thắp đèn ra mở cửa.
Tiêu Uyển Nhi theo sau Viên Thừa Chí, thầm nghĩ: “Hành động của cô gái này rất xảo trá, không chừng trước cổng có sẵn bang đồ mai phục, dụ Viên tướng công ra ngoài đánh lén. Mình ra ngoài xem trước thì hơn.” Nàng bèn đi chậm lại sau, sờ lại cây Nga Mi Thích giấu trong người, vượt tường nhảy ra.
Tiêu Uyển Nhi nấp ở một góc tường nhìn ra ngoài, thấy trước cửa có một chiếc kiệu, bốn tên kiệu phu đứng gần đó, ngoài ra không có ai khác. Uyển Nhi khom người lẻn ra phía sau kiệu, hai tay khẽ giở chiếc kiệu lên. Biết trong kiệu không có ai, nàng mới yên tâm. Đang định quay về thì cánh cổng đã mở, nô bộc cầm lồng đèn đi trước, Viên Thừa Chí tiễn Hà Thiết Thủ ra ngoài.
Uyển Nhi nghĩ bụng: “Viên tướng công có mối tình sâu đậm với Hạ cô nương. Cô ấy bị địch bắt đi, tướng công vô cùng lo lắng. Mình phải điều tra được tung tích của Hạ cô nương để tướng công đi cứu người. Nếu mình mất mạng, coi như báo đáp đại ân của Viên tướng công.”
Nàng quyết chí trả ơn nên không sợ gian nan nguy hiểm nữa, rùn người chui vào đáy kiệu, tay chân bám chặt lấy giá gỗ phía dưới kiệu. Lớp vải xung quanh cỗ kiệu đã che khuất nàng, lại vào ban đêm nên nhất định không ai phát giác được.
Nghe tiếng cười khúc khích, rồi Hà Thiết Thủ bước vào trong kiệu. Bốn tên kiệu phu nhấc kiệu lên, nhanh chân bước đi.
Uyển Nhi thấy bốn tên kiệu phu bước đi như bay, thì ra đều có võ công. Nàng bất giác sợ hãi. Lúc này mùa đông, gió lạnh thấu xương, dưới mặt đường đóng một lớp băng. Hơi Hà Thiết Thủ thở ra lập tức đông thành giọt nước mà rơi xuống. Uyển Nhi đành phải để nước lạnh giọt lên mặt mình, không dám động đậy cũng không dám lau chùi, chỉ sợ nhúc nhích sẽ bị phát giác.
Đi được khoảng nửa giờ, đột nhiên nghe một tiếng hô, chiếc kiệu dừng phắt lại. Một nam nhân quát lên: “Con tiện tì họ Hà đâu? Mau mau ra đây chịu chết.”
Tiêu Uyển Nhi ngạc nhiên nghĩ: “Thanh âm này rất quen thuộc, ai vậy? À, đúng là Mẫn Tử Hoa rồi.”
Bốn phía đều có tiếng chân, rất nhiều người bao vây quanh kiệu. Bọn kiệu phu thả kiệu xuống, rút binh khí ra. Tiêu Uyển Nhi vén một góc màn nhìn ra ngoài, thấy phía Đông có bốn đạo sĩ mặc đạo bào tay cầm trường kiếm. Nàng nghĩ: “Chắc ba phía tây, bắc, nam đều có người cả. Phen này Tiên Đô Phái dốc toàn lực đến trả thù.”
Cỗ kiệu hơi nghiêng một chút, Hà Thiết Thủ đã nhảy ra ngoài, lên tiếng hỏi: “Lão mũi trâu Thủy Vân đã chết chưa? Bọn này gan lớn thật, muốn làm gì đây?”
Một đạo nhân râu dài quát lên: “Hoàng Mộc đạo trưởng sư phụ chúng ta đang ở đâu? Mau nói cho ta biết, đỡ phải đau khổ nhiều.”
Hà Thiết Thủ cười khanh khách, nói rất ngọt ngào: “Chẳng lẽ sư phụ các ngươi là một đứa bé ba tuổi đi lạc đường? Sao lại hỏi ta để đòi người? Các ngươi đã gửi sư phụ cho ta trông chừng hay sao? Được rồi! Để ta giúp các ngươi tìm một chút, đỡ phải xảy ra chuyện đau lòng. Ông ấy lưu lạc bên ngoài không ai lo liệu, không chừng sẽ bị bắt cóc, bán qua Phiên bang mất.”
Uyển Nhi nghĩ: “Thì ra cô gái này nói chuyện với ai cũng giở giọng kiêu kỳ, yểu điệu, khêu gợi như thế. Trước đây mình cứ nghĩ cô ả cố tình nhõng nhẽo với Viên tướng công.”
Đạo sĩ râu dài giận dữ nói: “Ngũ Độc Giáo lâu nay hoành hành hung dữ, hôm nay phải cho ngươi biết ác giả ác báo là thế nào.”
Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Bình thường Tiên Đô Phái không dám tìm ta, bây giờ biết được giáo phái chúng ta có nhiều người bị thương mới đến quấy rầy. Ha ha… hô hô… hi hi… hê hê…”
Tiếng cười đủ giọng còn chưa dứt, đột nhiên nghe một tiếng “á” thê thảm vang lên, nhất định đã có người trúng độc thủ của nàng. Lập tức nghe những tiếng la hét mắng chửi, rồi tiếng binh khí va chạm nhau loảng xoảng. Lần này Tiên Đô Phái dốc toàn lực, đến đây đều là cao thủ. Tuy võ công Hà Thiết Thủ cao cường, nhưng thủy chung vẫn không thoát khỏi vòng vây. Thời gian uống được chung trà, bốn tên kiệu phu đã lần lượt trúng kiếm.
Uyển Nhi nằm dưới kiệu không dám động đậy, thấy kiếm pháp phái Tiên Đô vừa nhanh vừa hiểm, quả nhiên có chỗ độc đáo. Nàng nghĩ: “Ngày trước Lưỡng Nghi kiếm pháp bị Viên tướng công đại phá, đó là gặp phải cao thủ tuyệt thế nên mới bị khắc chế. Còn những kiếm pháp tầm thường quyết không phải là đối thủ của họ.” Nàng sợ trong đêm tối mà lộ diện sẽ bị Tiên Đô Phái tưởng là môn đồ Ngũ Độc Giáo, không khỏi chết oan dưới kiếm của họ, nên chỉ còn cách không động đậy, thở cũng không dám thở mạnh.
Lúc này hai mươi mấy thanh trường kiếm vây chặt Hà Thiết Thủ vào trong. Thanh quang lấp loáng, hàn khí ép người, ai thấy cũng phải kinh tâm động phách. Hà Thiết Thủ trong vòng vây của mấy chục cao thủ vẫn thản nhiên ứng chiến. Một đạo nhân trẻ tuổi tấn công hơi gấp, bị thiết câu của nàng vạch trúng vào vai, đau đớn ngã ra ngất xỉu dưới đất, rồi được đồng bọn kéo ra ngoài.
Được mấy chục chiêu, Hà Thiết Thủ cảm thấy không chống chọi được nữa. Trường kiếm của Mẫn Tử Hoa chém tới cổ, nàng vội nghiêng đầu tránh né, kế bên lại thêm hai thanh kiếm tấn công tới.
“Keng” một tiếng nhỏ, vật gì đó lăn vào đáy kiệu. Tiêu Uyển Nhi nhặt lên xem, thì ra là một nửa chiếc hoa tai của nữ nhân. Nàng nửa mừng vừa lo; mừng vì phen này Hà Thiết Thủ khó mà thoát chết, đỡ được một đối thủ khó chịu của Viên tướng công; còn lo vì nếu cô ả mất mạng thì Thanh Thanh không biết bị giấu chỗ nào. Nếu bọn thủ hạ không chịu giao trả, thì thật là khó tìm. Nếu Hạ Thanh Thanh không trở về nữa, Viên Thừa Chí sẽ ra sao?
Nghĩ tới đây nàng bỗng thấy mặt mình ửng đỏ, tim cũng đập nhanh hơn, cảm thấy chuyện này không nên nghĩ nhiều. Nàng bèn nghiêng đầu tiếp tục quan sát trận ác đấu bên ngoài.
Hà Thiết Thủ đầu tóc bù xù, hình như không còn sức đánh trả nữa. Đạo trưởng râu dài ra lệnh, mấy chục thanh trường kiếm đột nhiên thu về, tạo thành một tấm lưới bạc vây quanh Hà Thiết Thủ. Y quát hỏi: “Sư phụ của ta đang ở đâu? Lão nhân gia còn sống hay không? Nói nhanh lên!”
Hà Thiết Thủ kẹp kim câu vào nách, từ từ đưa tay lên vuốt lại mái tóc. Nàng cười khe khẽ, thiết câu đột nhiên vung ra nhanh như điện chớp, đả thương một đạo nhân.
Mọi người vô cùng giận dữ, lại thi triển trường kiếm, phen này không dung tình gì nữa. Tình thế Hà Thiết Thủ đang nguy cấp, đột nhiên xa xa vọng đến một tiếng sáo rất dài. Hà Thiết Thủ vừa chống trả vừa mỉm cười nói: “Viện thủ của ta đến đây rồi. Các ngươi mau mau biến đi là hơn, không thì lỗ vốn đấy.”
Tiêu Uyển Nhi nghĩ: “Nếu không biết họ đang ác đấu thí mạng, ai nghe thấy giọng nói dịu dàng quan tâm này, nhất định sẽ tưởng cô ả đang tâm sự với người yêu.”
Đạo nhân râu dài la lên: “Xử lý xong ả tiện tì này rồi tính tiếp.”
Mọi người càng gấp rút tấn công, trong chốc lát chân Hà Thiết Thủ đã bị thương hai chỗ, nhưng nàng vẫn giữ nụ cười trên môi. Một đạo nhân còn trẻ bỗng động lòng, không nỡ nhìn thấy một cô nương yểu điệu, cười đẹp như thế bị loạn kiếm phân thây, bèn hét lên: “Ngươi đừng cười nữa được không?”
Hà Thiết Thủ cười hỏi: “Đạo trưởng nói gì vậy?”
Đạo nhân đó hơi ngẩn ra, đang định trả lời thì đột nhiên trước mắt ánh vàng lấp loáng. Mẫn Tử Hoa vội la lên: “Cẩn thận!”
Nhưng không kịp nữa. Nghe “sột” một tiếng, kim câu đã xuyên thủng ra sau lưng y.
Trong lúc ác đấu, tiếng sáo xa xa vọng đến mỗi lúc một gấp. Tiên Đô Phái bèn cử ra tám người đi chặn đường. Nghe tiếng kim khí loảng xoảng, rồi chẳng bao lâu tám người đó thua trận chạy về. Tiên Đô Phái lại chia người ra tăng viện, bên này Hà Thiết Thủ lập tức rảnh tay. Nhưng số địch thủ còn lại đều dồn hết sức tấn công, Hà Thiết Thủ muốn qua tụ họp với những người đến cứu viện mà không sao thoát khỏi vòng vây.
Hai bên thế lực quân bình, hò hét đánh nhau loạn xạ. Thời gian khoảng tuần trà nữa, nghe tiếng Mẫn Tử Hoa kêu lớn: “Hay lắm! Thì ra là Thái Bạch Tam Anh, ba tên bán nước này cũng đến đây rồi.”
Một giọng thô lỗ quát mắng: “Sao? Ngươi biết lão gia lợi hại, còn không mau cúp đuôi bỏ trốn?”
Tiêu Uyển Nhi nghĩ: “Ngày trước Thái Bạch Tam Anh giở trò ly gián muốn hại phụ thân mình, đã bị Viên tướng công bắt được. Sau này, gia gia đã đưa chúng tới nha môn Ứng Thiên Phủ, sao bây giờ ở đây? Chúng vượt ngục hay mua chuộc được bọn tham quan thả ra?”
Lúc này phe Hà Thiết Thủ càng lúc càng tới đông. Tiêu Uyển Nhi nhìn ra ngoài, thấy có bốn ông già đầu bạc là lợi hại nhất. Tiên Đô Phái khó mà chống nổi, đạo nhân râu dài liền phát hiệu lệnh, mọi người thu kiếm rút lui. Môn nhân Tiên Đô Phái đã luyện tập rất quy củ, người đi trước, người đoạn hậu, trận thế đàng hoàng rành mạch.
Hà Thiết Thủ đã bị thương, lại thấy địch thủ bại nhưng không loạn, nên không dám đuổi theo. Nàng mỉm cười, lên tiếng: “Sau này các vị có rảnh thì lại đến mà thử. Tiểu muội không tiễn đâu.”
Tiên Đô Phái đến đã đột ngột, lui cũng rất nhanh. Chỉ chốc lát là không nghe tiếng đao kiếm gì nữa, bốn phía chỉ còn tiếng gió lùa.
Tiêu Uyển Nhi từ dưới màn kiệu lén nhìn ra ngoài, thấy đông tây lố nhố mấy chục người. Một bà già trông như ăn xin cất tiếng: “Tin tức của chúng thật là linh mẫn, vừa biết hôm nay chúng ta bị thương nhiều người, kéo đến đánh lén ngay. Giáo chủ, vết thương không sao chứ?”
Hà Thiết Thủ đáp: “Không sao. May mà viện binh của cô cô đến kịp, không thì khó mà đuổi bọn mũi trâu đi được.”
Một lão già tóc bạc hỏi: “Tiên Đô Phái đã cấu kết với phái Hoa Sơn phải không?”
Một giọng khàn khàn nói: “Kim Long Bang với thằng lỏi họ Viên là một phe. Huynh đệ chúng ta đã dùng kế ly gián mượn đao giết người, chắc tên họ Viên đang làm khó dễ bọn Tiên Đô Phái.”
Lão già kia nói: “Được lắm! Để chúng tự giết lẫn nhau là hay nhất.”
Tiêu Uyển Nhi nằm dưới kiệu nghe thấy bốn chữ “mượn đao giết người”, bên tai lập tức vang lên những tiếng u u, mồ hôi lạnh toát ra đầy mình, nghĩ bụng: “Người nói câu này, không phải Sử Bính Vân thì cũng là Sử Bính Quan trong Thái Bạch Tam Anh. Đúng rồi, người hại chết phụ thân chính là ba tên gian tặc đó.”
Nàng muốn nghe tiếp, nhưng Hà Thiết Thủ bỗng nói: “Chúng ta vào cung đi. Cỗ kiệu này không ngồi được nữa.” Sau đó cả đám kéo nhau bỏ đi.
Tiêu Uyển Nhi đợi họ đi xa mấy chục bước mới len lén chui từ dưới kiệu ra, bất giác giật mình kinh hãi. Thì ra chỗ này là ngay phía trước Cấm Thành, chúng đang kéo vào hoàng cung. Tiên Đô Phái tấn công Hà Thiết Thủ khá lâu, thế mà hoàn toàn không có thị vệ trong cung ra xét hỏi.
Nàng không dám ở lại đó lâu, rảo bước chạy về hẻm Chính Điện Tử, kể tỉ mỉ mọi chuyện cho Viên Thừa Chí nghe. Chàng giơ ngón tay cái lên khen ngợi: “Tiêu cô nương đã can đảm lại có kiến thức hơn người!”
Tiêu Uyển Nhi hơi đỏ mặt, cúi xuống khấu đầu. Viên Thừa Chí tránh qua một bên, nghiêm trang nói: “Mối huyết hải thâm thù của lệnh tôn, bây giờ dĩ nhiên ta phải gánh vác. Tiêu cô nương thi hành đại lễ, tức là không coi ta ra gì.”
Chàng suy nghĩ một chút rồi nói: “Chuyện này không nên chậm trễ. Bây giờ ta vào cung tìm chúng.”
Tiêu Uyển Nhi nói: “Nhất định bọn gian tặc này có nội ứng trong hoàng cung. Nơi đó cảnh giới thâm nghiêm, Viên tướng công mạo hiểm xông vào, e có điều bất tiện.”
Viên Thừa Chí nói: “Không sao đâu. Ta có một vật lẽ ra phải dùng từ lâu, không ngờ khi đến kinh sư lại quá bận rộn, nên chưa rảnh mang vào đó.”
Chàng nói xong, lấy ra thư của Nhuệ thân vương Đa Nhĩ Cổn nhà Mãn Thanh viết cho thái giám Tào Hóa Thuần trong cung, đã giao cho Hồng Thắng Hải đưa vào. Viên Thừa Chí biết lá thư này có chỗ dùng được, nên lúc nào cũng để bên mình.
Tiêu Uyển Nhi mừng rỡ nói: “Tuyệt diệu! Để muội đi cùng Viên tướng công vào trong đó. Tiểu muội sẽ cải trang thành thư đồng của tướng công.”
Viên Thừa Chí biết nàng muốn tự tay giết kẻ thù. Lòng hiếu thảo không nên cản trở, chàng bèn gật đầu đồng ý.
Tiêu Uyển Nhi đã trốn dưới kiệu nửa đêm, cả người dính đầy bụi đất. Nàng vào trong rửa mặt, thay áo, trở thành một tiểu thư đồng tuấn tú. Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Bây giờ không thể gọi cô là Tiêu cô nương nữa.”
Nàng đáp: “Vậy kêu muội là Uyển Nhi đi. Người ta nghe sẽ tưởng là Bôi Nhi, Viên Nhi gì gì đó.”
Trong lòng nàng bỗng nảy ra ý nghĩ: “Nếu mình thật sự biến thành một cái ly, cái chén suốt đời kề cận ca ca, lúc nào ca ca ăn uống cũng có mình, thì còn gì hay hơn nữa?” Nghĩ đến đó, nàng không nén nổi hai má đỏ bừng, ánh mắt nhìn Viên Thừa Chí chứa chan tình ý.
Hai người sắp đi thì Ngô Bình và La Lập Như chạy vào nói: “Nha môn Thuận Thiên Phủ cảnh giới rất nghiêm ngặt. Đợi hơn hai giờ, đến khi bọn bộ khoái thay ca, bọn đệ mới ném được thi hài Đơn Thiết Sinh vào.”
Viên Thừa Chí gật đầu nói: “Tốt.”
Nghe Tiêu Uyển Nhi nói mình theo Viên Thừa Chí vào cung để tìm kẻ gian trả thù cho cha, La Lập Như bỗng lên tiếng: “Viên tướng công, sư muội! Tại hạ đi chung với hai vị có được không?”
Tiêu Uyển Nhi nhìn Viên Thừa Chí, đợi chàng chỉ thị. Viên Thừa Chí nghĩ: “Lần này vào thâm cung trùng trùng nguy hiểm, trong đó không ít cao thủ. Ta bảo vệ một mình Tiêu cô nương đã khó rồi, thêm một người càng vướng chân tay.”
Chàng đang định mở miệng từ chối, bỗng thấy Ngô Bình lén đưa tay kéo áo La Lập Như, vừa đưa mắt ra hiệu vừa nói: “La sư đệ! Sư đệ bị thương ở tay, thân thể chưa phục hồi hẳn. Để Viên tướng công cùng sư muội đi thôi.”
Viên Thừa Chí lập tức hiểu ngay: “Hình như Ngô Bình có ý để mình đi riêng với Tiêu cô nương. Đêm qua mình cùng cô ấy đi gặp Thủy Vân đạo nhân. Một nam một nữ đêm hôm khuya khoắt ra ngoài, chắc đã khiến người ta nảy dạ nghi ngờ. Tuy rằng đại trượng phu quang minh lỗi lạc, nhưng tránh né hiềm khích vẫn hay hơn.” Chàng bèn nói với La Lập Như: “La huynh cùng đi, có thêm một người trợ giúp càng tốt. Nhưng phải ủy khúc La huynh một chút, nên thay đổi y phục theo kiểu thư đồng.”
La Lập Như cả mừng, đi vào trong thay áo. Ngô Bình vào theo, mỉm cười nói: “La sư đệ! Lần này ngươi làm chuyện ngu ngốc rồi.”
La Lập Như ngạc nhiên hỏi: “Chuyện gì thế?”
Ngô Bình đáp: “Viên tướng công đối với Kim Long Bang chúng ta ân nặng như non. Sư muội đối với Viên tướng công, hiển nhiên có tấm lòng…”
La Lập Như run rẩy ngắt lời: “Huynh muốn… để sư muội… với Viên tướng công…”
Ngô Bình nói: “Nếu ân sư trên trời có linh thiêng, nhất định cũng rất vui mừng. Ngươi đi theo để làm chi?”
La Lập Như nói: “Đại sư ca nói đúng lắm! Thế thì đệ không đi nữa.”
Ngô Bình nói: “Bây giờ không đi thì lộ liễu quá. Nhưng sư đệ phải thừa cơ mà hành sự, làm sao tác hợp mối nhân duyên đó.”
La Lập Như gật đầu đồng ý, nhưng trong lòng lại có điều gì đó khó mà diễn tả. Y đã âm thầm tương tư tiểu sư muội mấy năm rồi. Nhưng diện mạo nàng xinh đẹp, phẩm hạnh đoan trang, không hay đùa giỡn, giúp Tiêu Công Lễ xử lý mọi việc trong bang rất oai nghiêm, nên mối thâm tình trong lòng chưa dám thổ lộ chút nào. Sau khi bị chặt đứt cánh tay, y càng tự thấy mình không bằng người khác, nói chuyện với nàng cũng không dám nói nhiều.
Bây giờ nghe Ngô Bình nói vậy, y không khỏi ngần ngừ, nhưng lập tức định được chủ ý: “Viên tướng công anh hùng như thế, cùng sư muội đúng là xứng đôi vừa lứa. Cuộc đời nàng có nơi gửi gắm, mình vui mừng mới phải.” Nghĩ đến đó, trong lòng y lập tức thoải mái, bèn thay đổi quần áo như một thư đồng.
Viên Thừa Chí mở rương sắt chọn ra một mớ châu báu quý giá, gói thành một gói, bảo La Lập Như đeo lên lưng.
Ba người đợi sáng sớm đi đến cửa cung, Viên Thừa Chí nói mấy câu ám ngữ. Bọn thị vệ cấm quân giữ cổng đã nghe Tào thái giám dặn sẵn từ lâu, lập tức cử người dẫn vào trong. Tới trước một tòa điện, thị vệ lùi ra, một tên tiểu thái giám dẫn tiếp vào trong. Dọc đường còn đổi ba lần thái giám dẫn đường nữa.
Viên Thừa Chí ráng nhớ đường vào, thầm nghĩ: “Tào thái giám thật là đa nghi. Hắn sợ mưu đồ bại lộ, ngay cả người dẫn đường cũng thay đổi không ngừng.” Men theo một con đường nhỏ quanh co bên tay phải Ngự Hoa Viên, cuối cùng đến trước một gian nhà nhỏ. Tiểu thái giám mời ba người vào trong, bưng điểm tâm và trà lên.
Đợi hơn một giờ, Tào thái giám vẫn chưa ra. Ba người không nói gì, cứ ngồi yên ở đó mà đợi. Mãi đến trưa mới có một tên thái giám khoảng ba mươi tuổi ra hỏi Viên Thừa Chí mấy câu mật hiệu. Viên Thừa Chí theo lời dặn của Hồng Thắng Hải mà đáp, tên thái giám đó gật đầu lui ra.
Một lúc sau, hắn dẫn một tên thái giám trung niên vừa mập mạp vừa trắng trẻo vào. Viên Thừa Chí thấy tên này mặc y phục toàn gấm đoạn, trông rất sang trọng, bèn nghĩ: “Chắc đây là Tư lễ thái giám Tào Hóa Thuần, người có quyền thế chỉ sau hoàng thượng.”
Quả nhiên tên thái giám kia giới thiệu: “Vị này là Tào công công.”
Viên Thừa Chí và La Lập Như, Tiêu Uyển Nhi, ba người quỳ xuống khấu đầu. Tào Hóa Thuần mỉm cười nói: “Đừng đa lễ, xin mời ngồi. Nhuệ vương gia có khỏe không?”
Viên Thừa Chí đáp: “Nhờ phúc của Tào công công, vương gia vẫn được an khang. Vương gia có hạ lệnh cho tiểu nhân thăm hỏi công công.”
Tào Hóa Thuần cười ha hả: “Không ngờ vương gia quan tâm đến mấy miếng xương sọ già nua này. Hồng lão đệ xa xôi đến đây, không biết vương gia có dặn gì không?”
Viên Thừa Chí nói: “Vương gia hỏi công công, mọi chuyện đã sắp xếp sao rồi.”
Tào Hóa Thuần thở dài nói: “Tính tình của hoàng thượng thật là cố chấp. Ta đã mấy lần nói chuyện, nhưng hoàng thượng cứ nói là chuyện mượn binh diệt khấu có hậu họa vô cùng lớn. Chỉ cần hai nước bãi binh nghị hòa, Đại Minh diệt xong lưu khấu rồi sẽ đa tạ Nhuệ vương gia hậu hĩ.”
Viên Thừa Chí chưa biết giữa Đa Nhĩ Cổn với Tào Hóa Thuần có âm mưu gì. Hồng Thắng Hải ở bên Đa Nhĩ Cổn có địa vị rất thấp, không thể biết chuyện cơ mật, chẳng qua chỉ là sứ giả truyền tin. Hồng Thắng Hải không biết, dĩ nhiên Viên Thừa Chí cũng không biết. Lúc này nghe Tào Hóa Thuần nói, chàng không nén nổi trái tim nhảy loạn lên, trong tai lùng bùng mấy chữ: “mượn binh diệt khấu”. Chàng nghĩ: “Hoàng đế không chịu mượn binh, bọn Mãn Châu lại quyết ý cho mượn, hiển nhiên có ý định không tốt.”
Tuy Viên Thừa Chí rất trấn tĩnh, nhưng đột nhiên biết chuyện này, không tránh khỏi đổi sắc mặt. May mà Tào Hóa Thuần hiểu lầm, cứ tưởng chàng không thoải mái vì đại sự chưa thành, bèn nói: “Lão đệ đừng lo lắng. Kế này không thành, ta sẽ có kế tiếp theo.”
Viên Thừa Chí nói: “Đúng vậy, đúng vậy! Tào công công túc trí đa mưu, vương gia của tại hạ thường khen ngợi không dứt. Vương gia từng nói: Có Tào công công trong cung hành sự, khỏi phải lo lắng việc lớn không thành.”
Tào Hóa Thuần mỉm cười, không nói gì.
Viên Thừa Chí tiếp: “Vương gia có mấy món lễ vật mọn, sai tiểu nhân đem tới. Xin công công thu nhận.” Nói xong, chàng chỉ sang La Lập Như. Tiêu Uyển Nhi đón lấy cái bao đang đeo trên lưng y, đặt lên bàn rồi mở ra cho Tào công công xem.
Bao vừa mở ra, ánh sáng châu quang bảo thúy làm cả gian phòng sáng rực. Tào Hóa Thuần ở trong đại nội lâu ngày, bảo vật trân quý đã thấy không biết bao nhiêu. Những loại châu báu tầm thường, dĩ nhiên hắn không để lọt vào mắt. Nhưng phen này khác hẳn, hắn bất giác kinh hãi đến ngẩn người. Thì ra trong cái bao đó có vô số đồ trân bảo. Chỉ riêng chuỗi trân châu một trăm hạt, hạt nào cũng lớn cũng tròn, đã là hiếm thấy trên đời. Lại còn một đôi sư tử bằng phỉ thúy, chân trước đạp lên một viên hồng bảo thạch tròn trịa đỏ rực như lửa. Khối phỉ thúy màu xanh biếc to lớn thế này Tào công công chưa từng gặp, mà viên hồng bảo thạch sáng ngời lại càng khó thấy.
Tào Hóa Thuần cứ xem một món lại tấm tắc khen một món, rồi quay lại hỏi Viên Thừa Chí: “Sao vương gia lại hậu thưởng ta đến thế?”
Viên Thừa Chí muốn thám thính mưu đồ, bèn nói: “Vương gia cũng biết hoàng thượng tinh minh, việc mượn binh diệt khấu khó mà lo được. Chuyện này phải dựa vào thế lực của công công.”
Tào Hóa Thuần được Viên Thừa Chí khen ngợi, đắc ý mỉm cười. Hắn vẫy tay một cái, bảo La Lập Như và Tiêu Uyển Nhi: “Hai ngươi ra ngoài nghỉ ngơi đi.”
Viên Thừa Chí khẽ gật đầu, hai người liền theo bọn tiểu thái giám ra ngoài. Tào Hóa Thuần đích thân đóng cửa, nắm tay Viên Thừa Chí, hỏi rất khẽ: “Vương gia xuất binh lần này có yêu cầu gì, lão đệ biết không?”
Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Lý Nham đại ca từng nói, gặp chuyện khó khăn phải ứng biến kịp thời, muốn lừa biết được bí mật của người ta thì phải nói chút ít bí mật cho người ta nghe. Mình cũng nên nói bừa một chút.” Chàng bèn đáp: “Công công là người phe mình, dĩ nhiên tiểu nhân phải bẩm báo. Nhưng chuyện này vô cùng cơ mật, ngoài vương gia cùng tiểu nhân chỉ có hai ba người biết.”
Chàng trước nay thẳng thắn, ít khi phải dùng cơ mưu, nên gấp rút suy nghĩ một hồi vẫn chưa nghĩ ra đại sự gì liên quan đến Mãn Thanh, bèn thuận miệng nói bừa mấy việc về chính bản thân mình.
Ánh mắt Tào Hóa Thuần sáng hẳn lên. Viên Thừa Chí lại kề tai hắn mà nói: “Tiểu nhân vẫn nghĩ, tuy mình được vương gia tin tưởng, nhưng dẫu sao họ vẫn là phiên bang ngoại quốc. Nếu Tào công công chịu gia ân, giúp cho tiểu nhân được quang tông diệu tổ…”
Tào Hóa Thuần hiểu ngay chàng muốn tìm một chức quan trong triều đình, bèn cười ha hả: “Thì ra Hồng lão đệ muốn có công danh phú quý. Chuyện này lão phu sẽ lo liệu cho.”
Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Đã đóng kịch, thì phải đóng kịch đến cùng.” Chàng liền quỳ xuống khấu đầu đa tạ.
Tào Hóa Thuần cười nói: “Sau khi sự việc thành công, ta cho lão đệ làm phó tướng có được không? Bảo đảm sẽ phái lão đệ đến nơi thật béo bở.”
Viên Thừa Chí nở mặt nở mày, lại đa tạ tiếp: “Công công đại ân đại đức thế này, tiểu nhân không dám giấu giếm tí gì nữa. Ý của vương gia là…”
Chàng nhìn trái nhìn phải một hồi, mới hạ giọng nói: “Nhưng công công tuyệt đối đừng tiết lộ, không thì tính mạng tiểu nhân khó mà giữ được.”
Tào Hóa Thuần bảo: “Lão đệ yên tâm đi. Sao ta lại nói ra ngoài?”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Ta chẳng ngại ngùng gì mà không nói thách, còn chịu mua hay không là chuyện của hắn.” Chàng bèn nói: “Sau khi quân Đại Thanh tiến vào quan ải, Sấm tặc nhất định bị dẹp yên. Ý của vương gia là muốn triều đình cắt vùng Trực Lệ và Sơn Đông để đa tạ, lấy Hoàng Hà làm biên giới, từ nay về sau là hai nước anh em.”
Viên Thừa Chí thuận miệng nói bừa, nhưng Tào Hóa Thuần không nghi ngờ gì cả. Một là có lá thư chính tay Đa Nhĩ Cổn viết, và đúng ám hiệu đã hẹn ước. Hai là lễ vật hậu hĩ thế này. Ba là người Mãn Thanh gian trá khó lường, dĩ nhiên hắn phải biết.
Tào công công suy nghĩ một chút rồi gật đầu nói: “Lúc này thiên hạ đại loạn. Mấy tháng trước Sấm tặc đã công phá Đồng Quan, lại chiếm Tương Dương, Tây An. Nếu Đại Thanh không xuất binh ngay, chỉ khoảnh khắc là Sấm tặc tiến đến kinh thành. Bắc Kinh bị phá thì cái gì cũng hết, kể gì đến Trực Lệ với Sơn Đông?”
Viên Thừa Chí nghe nói Sấm quân chẳng bao lâu sẽ đến kinh thành, bất giác vô cùng mừng rỡ. Chàng sợ lộ vẻ vui mừng, liền cúi đầu nhìn xuống đất. Tào Hóa Thuần cũng nhìn thấy, nhưng lại tưởng chàng vui mừng vì mình đồng ý những điều khoản đó. Hắn bèn nói: “Đêm nay ta sẽ trình tấu lên hoàng thượng. Nếu hoàng thượng vẫn cố chấp không chịu, chúng ta phải lấy quốc gia xã tắc làm trọng, đành phải…”
Nói đến đây hắn im lặng trầm ngâm, đôi mày chau hẳn lại. Trái tim Viên Thừa Chí đập loạn xạ, chỉ mong Tào công công tiết lộ âm mưu ngay lập tức. Chàng bèn khích một câu: “Đương kim hoàng thượng anh minh cương nghị, mọi chuyện công công phải cẩn thận.”
Tào công công cười gằn nói: “Hừ! Cương thì đúng là cương, nhưng nghị thì không thấy đâu. Hai chữ anh minh lại càng không có. Giang sơn Đại Minh mất vào tay hôn quân thì thôi, nhưng chẳng lẽ chúng ta phải chết chung với hắn hay sao?”
Mấy câu này có thể gọi là đại nghịch bất đạo, tiết lộ ra ngoài là đủ tru di tam tộc. Thế mà Tào công công nói toẹt ra chẳng kiêng nể gì, đủ thấy hắn không nghi ngờ Viên Thừa Chí chút nào. Viên Thừa Chí hỏi: “Không hiểu công công đã có kế hoạch tuyệt diệu gì?”
Tào Hóa Thuần nói: “Dù lấy Hoàng Hà làm biên giới, vẫn còn hơn mất hết giang sơn vào tay bọn lưu khấu. Hoàng thượng không chịu, chẳng lẽ…”
Nói đến đây, đột nhiên hắn cười ha hả rồi tiếp: “Hồng lão đệ! Trong vòng ba ngày, nhất định sẽ có tin tức tốt lành để hồi báo vương gia. Lão đệ cứ đợi ở đây.” Hắn vỗ tay một tiếng. Mấy tên tiểu thái giám chạy vào bưng những đồ châu báu mà Viên Thừa Chí đã tặng, theo Tào Hóa Thuần ra ngoài.
Chẳng bao lâu, bốn tên tiểu thái giám vào dẫn Viên Thừa Chí, Tiêu Uyển Nhi, La Lập Như đến nghỉ tại một gian phòng nhỏ bên trái. Bữa tối thức ăn rất phong phú, dùng cơm xong thì trời đã tối đen như mực. Tiểu thái giám thỉnh an rồi lùi ra khỏi phòng. Đáng lẽ cấm cung không để người ngoài ở lại, nhưng lúc này binh hoang mã loạn, luật lệ lỏng lẻo. Tào Hóa Thuần trong hoàng cung có thế một bàn tay che cả mặt trời, dĩ nhiên không ai dám liều mạng bàn tán.
Viên Thừa Chí khẽ nói: “Tào thái giám đang trù hoạch một âm mưu lớn. Chuyện này quan trọng, ta phải ra ngoài thám thính một chút.”
Uyển Nhi nói: “Để muội đi với Viên tướng công.”
Viên Thừa Chí nói: “Không! Cô nương cùng La huynh cứ ở đây. Không chừng Tào thái giám không yên tâm, sẽ sai người đến hỏi thăm.”
La Lập Như nói: “Một mình tại hạ ở đây là được. Viên tướng công có thêm một tay trợ thủ, sẽ hay hơn.”
Viên Thừa Chí thấy Uyển Nhi ra vẻ quyết tâm, không tiện cản trở bèn gật đầu một cái. Sang phòng kế bên, chàng vung hai tay điểm huyệt hai tên tiểu thái giám. Còn hai tên nữa nhảy vội từ trên giường xuống, trợn mắt lên không biết phải làm gì. Uyển Nhi rút Nga Mi Thích, chỉ vào trước ngực chúng, quát thầm: “Các ngươi mà lên tiếng, ta cho đi gặp Ngụy Trung Hiền lập tức.”
Nói xong, nàng hơi nhấn cương thích tới trước, đâm thủng áo, mũi nhọn dí sát vào da ngực chúng. Viên Thừa Chí thầm cười trong bụng, nghĩ: “Lúc này mà nàng vẫn nói đùa được.” Ngụy Trung Hiền là một tên thái giám gian ác thời Thiên Tông, làm bại hoại thiên hạ, bị xử tử đã lâu.
Chàng lột quần áo hai tên thái giám này, mặc vào người. Uyển Nhi thổi tắt ngọn nến, trong bóng tối cũng đổi lấy sắc phục thái giám.
Viên Thừa Chí điểm huyệt thêm một tên, tay trái nắm lấy mạch môn tên còn lại, kéo ra cửa, khẽ quát: “Dẫn chúng ta đi tìm Tào công công.”
Tên thái giám này nửa người tê liệt, không dám nói nhiều, lập tức dẫn đường. Đi vòng vèo trong cung cả dặm đường, đến một tòa lầu lớn, hắn lắp bắp: “Tào công công… ở chỗ này…”
Thừa Chí không đợi hắn nói hết câu, huých khẽ khuỷu tay vào huyệt đạo trước ngực hắn, rồi hất vào trong một lùm hoa nhỏ.
Hai người khom lưng chạy đến tòa lầu. Viên Thừa Chí đang định kéo Tiêu Uyển Nhi nhảy lên, đột nhiên sau lưng nghe tiếng chân bước tới. Một người từ xa đã hỏi: “Tào công công có trên lầu không?”
Viên Thừa Chí đáp: “Ta cũng mới đến. Chắc có trên lầu chứ.”
Quay lại thì thấy tổng cộng năm người đang đến, người đi đầu xách lồng đèn màu đỏ. Ánh đèn soi rõ, cả năm đều là thái giám. Tên thái giám xách đèn vừa cười vừa mắng: “Thằng khỉ này, nói chuyện rào đón lắm thế?”
Lúc chúng đến gần, Viên Thừa Chí và Uyển Nhi cúi đầu xuống, không để bị nhìn rõ mặt.
Cánh cửa sơn bóng loáng như một tấm gương, phản chiếu ánh đèn nên khi bọn thái giám đi ngang có thể thoáng nhìn thấy tướng mạo. Viên Thừa Chí hơi giật mình, khẽ kéo tay áo Uyển Nhi. Đợi năm tên đó lên lầu, chàng mới nói nhỏ: “Thái Bạch Tam Anh!”
Uyển Nhi kinh hãi, khẽ la lên: “Bọn gian tặc giết gia gia muội! Chúng làm thái giám rồi ư?”
Viên Thừa Chí đáp: “Giống như chúng ta, chỉ cải trang thôi. Lên đi!”
Hai người theo sau Thái Bạch Tam Anh lên lầu. Mấy thái giám gác cửa tưởng đi cùng một bọn nên không xét hỏi. Lên tới lầu, hai tên thái giám đi trước đã dẫn Thái Bạch Tam Anh vào một căn phòng. Viên Thừa Chí và Uyển Nhi không tiện vào theo, nên đứng chờ ngoài cửa.
Loáng thoáng nghe giọng tên thái giám xách đèn từ trong phòng vọng ra: “Xin đợi ở đây… Tào công công lập tức…” Những câu khác thì nghe không rõ. Sau đó hai tên thái giám lui ra, bước xuống lầu.
Viên Thừa Chí kéo tay Uyển Nhi tiến vào phòng. Bốn bức tường đều là giá sách, thì ra đây là một thư phòng. Thái Bạch Tam Anh ngồi trên ghế, thấy hai người thái giám đi vào nhưng không để ý, để Viên Thừa Chí và Uyển Nhi bình thản tới gần. Uyển Nhi cười nhạt, lên tiếng: “Sử thúc thúc, Lê thúc thúc! Gia gia tiểu nữ mời ba vị đi ăn cơm.”
Thái Bạch Tam Anh đột nhiên nhìn thấy Uyển Nhi, dĩ nhiên giật mình kinh hãi. Lê Cương nhảy bật dậy, la lên: “Gia gia ngươi đã chết rồi mà?”
Uyển Nhi đáp: “Không sai. Ông ấy mời ba vị thúc thúc đi ăn cơm cúng.”
Sử Bính Vân chau mày, “soạt” một tiếng trường đao đã ra khỏi vỏ. Viên Thừa Chí vung hai tay ra nhanh như chớp, mỗi tay túm lấy một người, xách cổ Sử thị huynh đệ nhấc bổng lên, đồng thời phóng chân trái ra đá trúng huyệt Phụng Vĩ sau lưng Lê Cương. Sử Bính Quan cố xoay tay đánh lại một quyền, nhưng Viên Thừa Chí để mặc cho hắn đánh vào ngực mình, hai tay ập lại cho đầu anh em họ Sử đập vào nhau. Cả hai ngất xỉu liền tại chỗ.
Uyển Nhi chưa kịp nhìn rõ, Thái Bạch Tam Anh đã bất tỉnh nhân sự. Nàng rút cây Nga Mi Thích ra, định đâm vào ngực Sử Bính Quan. Viên Thừa Chí đưa tay giữ lấy cổ tay nàng, nói nhỏ: “Có người!”
Đã nghe rõ tiếng chân bước lên cầu thang. Viên Thừa Chí xách Sử thị huynh đệ đặt sau giá sách, rồi quay lại nhấc Lê Cương lên, cùng Uyển Nhi trốn luôn vào sau giá sách. Vừa nấp xong, đã có mấy người tiến vào phòng.
Một người lên tiếng: “Xin quý vị đợi ở đây, Tào công công lập tức đến ngay.”
Một giọng thiếu nữ nói rất ẻo lả: “Làm phiền ngươi rồi.”
Viên Thừa Chí và Uyển Nhi nhận ra thanh âm của Hà Thiết Thủ giáo chủ Ngũ Độc Giáo, ngầm siết tay nhau một cái.
Lát sau Ngụy Đào Thanh tổng quản Huệ vương phủ dẫn mấy người vào, đều là hảo thủ võ lâm được Huệ vương gia mời tới Chiêu Hiền Quán. Nghe mọi người chào hỏi, thì ra có cả Ôn Thị Tứ Lão của Kỳ Tiên Phái tại Tịnh Nham Cù Châu, có cả Lữ Thất tiên sinh.
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Thì ra bốn lão già đêm qua Uyển Nhi nhìn thấy chính là Ôn Thị Tứ Lão, chẳng trách Tiên Đô Phái không chống nổi. Chúng đến đây làm gì nhỉ?”
Mọi người chào hỏi chưa xong, Tào Hóa Thuần đã tiến vào trong phòng. Viên Thừa Chí nghĩ: “Ôn Phương Thi giết mẫu thân Thanh đệ, đã bị mình dùng Hỗn Nguyên Công điểm huyệt cho biến thành phế nhân. Ngũ Hành Trận nhà họ Ôn không triển khai được nữa, nhưng còn có cao thủ Ngũ Độc Giáo và những người khác, một mình ta không chống nổi.”
Nghe giọng Tào Hóa Thuần hỏi: “Thái Bạch Tam Anh đâu rồi?”
Một tên thái giám trả lời: “Ba vị đó đến đây rồi, không biết đi đâu.”
Tào Hóa Thuần sai người tìm kiếm. Mấy tên thái giám đi một hồi quay lại, đều nói không thấy tung tích ba người. Số còn lại bàn tán nhỏ nhẹ, hiển nhiên đều ra vẻ phiền hà. Tào Hóa Thuần nói: “Chúng ta không đợi nữa. Họ bỏ mất cơ hội lập công này, sau này không oán trách được ai.”
Nghe tiếng kéo ghế, chắc là chúng sắp xếp chỗ ngồi để nghe họ Tào chỉ thị. Tào Hóa Thuần khẽ nhắc đến quân tình ở phía tây. Lý Tự Thành phá được Đồng Quan, Binh bộ thượng thư Tôn Truyền Đình tử trận. Lý Tự Thành lấy Tây An, tự lập làm vua, xưng quốc hiệu là Đại Thuận, niên hiệu là Vĩnh Xương. Mọi người phát lên những tiếng rì rầm, ra vẻ chấn động.
Tào Hóa Thuần nói: “Nếu chúng ta không nhanh tìm biện pháp, chỉ mấy hôm nữa là bọn giặc cỏ tiến gần đến kinh thành. Hoàng thượng cứ bảo thủ không chịu mượn binh diệt khấu, mấy trăm năm cơ nghiệp Đại Minh nhất định tiêu ma trong tay ông ấy. Chúng ta phải lấy quốc gia triều đình làm trọng, chỉ còn cách lập minh quân khác để bảo vệ xã tắc.”
Hà Thiết Thủ lên tiếng: “Thế thì lập Huệ vương gia.”
Tào Hóa Thuần nói: “Không sai! Hôm nay xin quý vị góp sức phò minh chúa. Mọi việc do ta sắp xếp, đại sự thành công thì mọi người đều có công đầu.”
Hắn thấy không ai dị nghị, bèn lập tức phân chia công việc. Cả bọn đều hăng hái nhận lệnh, ra vẻ rất phấn khởi.
Tào Hóa Thuần sai phái: “Một giờ nữa, bốn vị lão tiên sinh họ Ôn dẫn những huynh đệ đắc lực đến mai phục ở bốn phía phòng ngủ hoàng thượng, cản trở người khác vào cứu giá. Thủ hạ của Hà giáo chủ mai phục bên ngoài thư phòng, để Huệ vương gia vào trong tấu trình.”
Lữ Thất tiên sinh hỏi: “Ngũ thành binh mã sứ Chu đại tướng quân thống lĩnh binh mã kinh thành, vốn trung thành với đương kim hoàng thượng. E rằng bất trắc, chúng ta có cần trừ khử hắn trước hay không?”
Tào Hóa Thuần mỉm cười đáp: “Chu đại tướng quân cùng Phó thượng thư, hai tên này đã bị ta dùng kế mọn trừ khử lâu rồi. Hà giáo chủ kể cho mọi người biết đi.”
Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Tào công công muốn ủng hộ Huệ Vương đăng cơ, dĩ nhiên đã biết Chu đại tướng quân và Phó thượng thư rất trung thành với hoàng thượng. Một người nắm quân, một người giữ tiền, đúng là mối họa. Vì thế công công đã sai tiểu muội liên tiếp phái người đến Hộ Bộ ăn cắp khố ngân. Hoàng đế chỉ biết tính toán tỉ mỉ, chịu không nổi những chuyện nhỏ nhặt này, nên chiều nay đã hạ chỉ cách chức điều tra hai lão Chu Phó rồi.”
Mọi người đều khen ngợi Tào Hóa Thuần thần cơ diệu toán, nhưng cố nén tiếng reo hò cho nhỏ lại.
Bây giờ Viên Thừa Chí mới hiểu, thủ hạ của Hà Thiết Thủ gây án ở Hộ bộ không chỉ vì tiền, mà đó là một âm mưu thông địch hại nước. Sùng Trinh vẫn tự cho mình rất tinh minh, tiếc rằng rơi vào bẫy của người khác mà không hay biết.
Tào Hóa Thuần nói: “Bây giờ các vị về nghỉ ngơi một lúc, khoảng một giờ nữa sẽ có người đến gọi. Nhất định các vị phải thản nhiên bình tĩnh, không để tiết lộ đại sự.”
Mọi người đều khẽ vâng dạ. Lữ Thất tiên sinh cùng Ôn Thị Tứ Lão cáo từ ra ngoài. Hà Thiết Thủ ra sau cùng, gần đến cửa bỗng cất tiếng hỏi: “Tại sao Thái Bạch Tam Anh không đến? Chẳng lẽ họ đi tố cáo với hoàng thượng?”
Tào Hóa Thuần nói: “Hà giáo chủ đúng là tính toán chu đáo. Thôi thì việc này cứ giấu họ luôn cho ổn thỏa. Nhưng Thái Bạch Tam Anh là tâm phúc của Cửu vương gia Mãn Châu, gần đây còn lập đại công, chắc không đến nỗi phản bội Cửu vương gia.”
Hà Thiết Thủ hỏi: “Đại công gì thế?”
Tào Hóa Thuần đáp: “Họ đã đánh cắp trủy thủ của một tên họ Mẫn phái Tiên Đô, đi ám sát bang chủ Kim Long Bang. Sau việc này, nhân vật võ lâm phương Nam chắc chắn sẽ tự giết lẫn nhau, tranh chấp không dứt được. Sau này chúng ta đánh chiếm Kim Lăng sẽ thuận lợi hơn nhiều.”
Uyển Nhi đã biết chắc chín phần là Thái Bạch Tam Anh hại chết cha mình, bây giờ không còn nghi ngờ gì nữa. Viên Thừa Chí sợ nàng tức giận phát ra âm thanh, mà Hà Thiết Thủ tai mắt linh mẫn khác thường, động tĩnh nhỏ nhất cũng không giấu được, bèn đưa tay lên khẽ che miệng Uyển Nhi.
Tiêu Uyển Nhi xinh đẹp dịu dàng, lúc này đang tựa sát vào người Viên Thừa Chí. Cảm thấy ngón tay chạm vào đôi môi mềm mại của nàng, Viên Thừa Chí tuổi đang niên thiếu, huyết khí phương cương, trong lòng bất giác có phần khó chịu.
Nghe thấy Hà Thiết Thủ cười nói: “Công công thân tại cung đình mà tường tận sự việc giang hồ như thế, thật không phải dễ.”
Tào Hóa Thuần bật cười thành tiếng rồi nói: “Những chuyện trong triều đình, ta đã chứng kiến rất nhiều. Chẳng ai là không tham công danh phú quý, ai cũng phản phúc vô thường. Chẳng ai đếm xỉa gì đến nghĩa khí hay chữ tín, ai cũng sẵn sàng vì thăng quan phát tài mà bán đứng bằng hữu. Dù sao những bằng hữu giang hồ vẫn nói một là một, nói hai là hai, đáng tin hơn rất nhiều. Lần này ta mưu đồ đại sự, không dám thương nghị với đại thần trong triều, cũng không dám dùng võ tướng thị vệ, lại mời các vị đến đây rút đao tương trợ, chính vì lý do này.”
Hai người vừa nói vừa rời khỏi thư phòng. Viên Thừa Chí biết chuyện rất khẩn cấp, nhưng phải làm thế nào thì chưa có chủ ý. Lúc này trong đầu chàng, quốc nạn gia thù cứ xen lẫn chồng chéo vào nhau.
Uyển Nhi nhẹ kéo tay chàng rời khỏi miệng mình, hỏi nhỏ: “Ba tên gian tặc này phải xử lý thế nào? Tiểu muội giết chúng được không?”
Viên Thừa Chí đáp: “Được, nhưng đừng có máu để tránh bị phát hiện.” Chàng xốc đầu Sử Bính Quan lên, chỉ vào hai bên thái dương mà hỏi: “Cô nương biết chiêu Chung Cổ Tề Minh không?”
Uyển Nhi gật đầu. Viên Thừa Chí lại nói: “Khớp xương ngón cái hướng ra ngoài, nắm tay như vậy. Đúng rồi, phát chiêu đi.”
Uyển Nhi dạ một tiếng rồi xuất quyền. “Bụp” một tiếng, song quyền đồng thời kích vào hai bên thái dương, Sử Bính Quan không rên được tiếng nào, lập tức tắt thở. Nàng cứ thế mà đánh chết Sử Bính Vân và Lê Cương. Bây giờ đại thù đã báo, nàng nghĩ đến cha mình bỗng không nén nổi, gục đầu vào vai Viên Thừa Chí mà khóc rấm rứt. Viên Thừa Chí đưa tay trái ôm lấy thân hình mềm mại, kề tai nàng nói nhỏ: “Chúng ta ra ngoài nhanh lên, xem Hà Thiết Thủ đi đến chỗ nào.”
Uyển Nhi được chàng ôm vào lòng, không nỡ buông ra ngay. Nhưng sau đó nàng cảm thấy không ổn, bèn nín khóc rồi theo Viên Thừa Chí ra khỏi phòng.
Họ thấy Tào Hóa Thuần và Hà Thiết Thủ chia tay nhau ở một chỗ rẽ, hai tên thái giám xách lồng đèn dẫn Hà Thiết Thủ đi về phía tây. Viên Thừa Chí và Uyển Nhi xa xa theo dõi, qua mấy khu vườn thì thấy cô ả đi vào một tòa nhà.
Hai người vẫn bám theo. Vừa vào trong cửa, đã nghe ở phòng phía đông có người la lớn: “Mụ già xấu xí Hà Hồng Dược kia! Sao còn chưa chịu thả ta ra ngoài?”
Âm thanh lảnh lót, không phải Thanh Thanh thì còn ai nữa?
Viên Thừa Chí vừa hoan hỉ vừa kinh ngạc, xông thẳng vào bất kể có chuyện gì. Thanh Thanh đang nằm trên giường, kế bên có hai tên tiểu thái giám sắc thuốc thắp hương.
Lúc Viên Thừa Chí đưa tay điểm huyệt hai tên này, Thanh Thanh mới nhận ra. Nàng cả mừng, run run gọi: “Đại ca!”
Viên Thừa Chí đi đến bên giường, hỏi: “Vết thương của Thanh đệ thế nào rồi?”
Thanh Thanh đáp: “Đại khái chưa chết.” Nàng thấy Uyển Nhi đứng phía sau, bèn hỏi: “Cô nương cũng đến đây ư?”
Uyển Nhi đáp: “Vâng! Hạ cô nương ở đây thì hay quá. Viên tướng công đỡ phải lo lắng rồi.”
Thanh Thanh hừ một tiếng, không đáp mà nói: “Hà Thiết Thủ sắp đến đây rồi. Đại ca đập ả một trận cho Thanh đệ mát ruột đi.”
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Họ đang có gian mưu, bây giờ mình tạm thời không lộ mặt là hơn.” Chàng vội nói: “Thanh đệ! Huynh tạm thời không thể động thủ với ả. Muội cứ dụ ả nói chuyện, hỏi xem ả bắt muội vào cung để làm gì.”
Thanh Thanh ngạc nhiên hỏi lại: “Cung gì?”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Thì ra Thanh đệ chưa biết đây là hoàng cung.” Chàng nghe có tiếng chân bước đến, không kịp nói rõ, vội xách hai tên thái giám nhét vào tủ áo, kéo tay Uyển Nhi định tìm chỗ nấp.
Trước cửa bóng người thấp thoáng, một cô gái áo trắng đã chạy vào trong, đúng là Hà Thiết Thủ. Thân pháp nàng cực nhanh, mỉm cười nói với Viên Thừa Chí: “Hay quá! Sư phụ! Sư phụ cũng đến đây rồi ư?”
Nàng tiện tay túm lấy cánh tay Uyển Nhi, chỉ một chiêu đã đẩy Uyển Nhi lùi mấy bước, rồi chạy đến trước mặt Viên Thừa Chí. Khoảng cách chưa tới một thước, mũi hai người như sắp chạm vào nhau. Thừa Chí ngửi thấy hương thơm rất nồng, biết nàng toàn thân có độc, đứng gần không ổn chút nào. Chàng vội lùi lại một bước, đến cạnh cái giường.
Hà Thiết Thủ phóng người tới, đặt tay trái lên vai chàng. Thừa Chí xoay tay phải lại, nắm lấy cổ tay trái Hà Thiết Thủ. Chàng đang định hất nàng ra ngoài, Hà Thiết Thủ bỗng la lên: “Hàm sa xạ ảnh!”
Viên Thừa Chí không dám vận kình nữa, bỗng thấy nàng đưa tay phải lên hông, cho vào trong áo, chỉ cần ấn một cái nút bên trong là mấy chục mũi độc châm sẽ bắn vèo ra.
Hà Thiết Thủ chồm tới, phóng lên người Viên Thừa Chí. Chàng thò tay trái vào trong áo nàng, nắm lấy cổ tay, quyết cản trở nàng ấn nút. Hai người đứng sát nhau, hầu như đã tiếp xúc da thịt. Nếu mấy chục mũi độc châm đó phóng ra, dù chàng bản lĩnh bằng trời cũng không sao tránh né được.
Hà Thiết Thủ đưa tay trái ra, quàng lấy lưng Viên Thừa Chí, cả người tựa sát vào lòng chàng, nhõng nhẽo gọi: “Sư phụ! Sư phụ!”
Viên Thừa Chí ấp úng nói: “Cô… cô… Đừng làm thế.”
Thanh Thanh thấy vậy, giận dữ hét lên: “Hai người làm gì thế?”
Viên Thừa Chí biết tình thế nguy cấp, chỉ mong kéo được tay Hà Thiết Thủ ra ngoài. Nhưng Thanh Thanh lại thấy người yêu thò tay vào trong áo Hà Thiết Thủ không ngớt sờ mó gì đó, cảnh tượng thật là ô uế không sao nhìn được. Nàng vừa lo lắng vừa giận dữ, lại đau lòng, bèn lớn tiếng chửi mắng: “Vô sỉ! Hạ lưu!”
Hà Thiết Thủ ỏn ẻn nói: “Sư phụ! Sư phụ không chịu thì muội dùng Hàm sa xạ ảnh, đồng quy ư tận.”
Viên Thừa Chí không làm gì được nữa, chỉ còn cách đồng ý. Chàng đành nói: “Được! Ta đồng ý, nhưng có câu nói trước.”
Hà Thiết Thủ kêu gọi: “Sư phụ ơi!”
Thừa Chí đáp: “Ừ!”
Hà Thiết Thủ hoan hỉ nói: “Đại trượng phu đã nói thì phải giữ lời đấy nhé.” Nàng bèn đứng thẳng dậy, lùi mấy bước.
Thừa Chí ngồi phịch lên giường, nghĩ đến khoảnh khắc nửa sống nửa chết vừa rồi mà không nén nổi toát mồ hôi lạnh. Chàng xoay tay lại nắm lấy tay Thanh Thanh, giữ trong lòng bàn tay mình, nghiêm giọng nói với Hà Thiết Thủ: “Ta có mấy câu nói, nếu cô chịu nghe lời thì ta nhận cô làm đồ đệ.”
Hà Thiết Thủ mừng rỡ, mỉm cười nói: “Xin sư phụ dặn dò.”
Viên Thừa Chí bảo: “Tào công công âm mưu thoán vị, dẫn quân Mãn Châu vào nước để đánh Sấm Vương. Cô mau mau dẫn thủ hạ đi cản trở mưu đồ đó. Đây là đại sự trước mắt.”
Hà Thiết Thủ gật đầu đáp: “Đồ nhi tuân mạng.”
Viên Thừa Chí tiếp: “Việc thứ hai, cô phái người đưa Hạ cô nương trả về hẻm Chính Điện Tử. Nếu cô ấy bị đau một ngón tay, ta vĩnh viễn không dạy cho cô một chiêu nào.”
Hà Thiết Thủ thè lưỡi ra nói: “Đồ nhi quyết không làm cô ấy bị thương. Sư phụ! Sau này Hạ cô nương sẽ là sư nương phải không?”
Thừa Chí đáp: “Không sai lắm. Cô cứ đảm bảo cô ấy trở về bình an là được.”
Hà Thiết Thủ cãi: “Cái gì mà không sai lắm? Đồ nhi thấy trúng cả mười phần rồi. Nhưng cô cô Hà Hồng Dược của đồ nhi có thâm thù đại hận với Hạ cô nương, nên mới bắt về. Cô cô sợ sư phụ cướp lại nên đem vào đây mà nhốt, dĩ nhiên yên ổn hơn nhiều. Không ngờ sư phụ cũng tìm đến được. Người của cô cô bắt về, tuy đồ nhi là giáo chủ nhưng cũng không thể tùy tiện thả ra.”
Viên Thừa Chí nói: “Mối thâm thù đại hận đó là gì, ta vẫn chưa hiểu được. Chuyện này cần điều tra cho rõ. Nhiều môn võ công của ta đã học từ Kim Xà Lang Quân.”
Hà Thiết Thủ nói: “Được! Để đồ nhi giúp sư phụ hỏi cho rõ là xong. Đến lúc này sư phụ đã có ba mệnh lệnh. Thứ nhất, cản trở âm mưu thay đổi hoàng đế, mượn binh diệt khấu. Thứ hai, đưa sư nương về nhà. Thứ ba, hỏi rõ về Kim Xà Lang Quân, nhạc phụ đại nhân của của sư phụ. Đồ nhi sẽ lo liệu đàng hoàng từng điều một.”
Thanh Thanh nghe nàng gọi mình là sư nương, gọi gia gia mình là nhạc phụ đại nhân của Viên Thừa Chí, vô cùng mừng rỡ. Nàng không ghen với Hà Thiết Thủ nữa, bèn siết chặt tay Viên Thừa Chí mấy cái, tạm thời không truy cứu chuyện vừa rồi chàng thò tay vào trong áo cô nương họ Hà.
Lại nghe tiếng bước chân ở ngoài phòng, rồi có tiếng hỏi: “Giáo chủ! Giáo chủ ở đây phải không?”
Đây là giọng Hà Hồng Dược. Một thanh âm già nua, nghe chói tai khác lại cất lên: “Hà giáo chủ! Tào công công cho mời giáo chủ, tới lúc chuẩn bị rồi.” Viên Thừa Chí nhận ra đây là giọng nói của Lữ Thất tiên sinh.
Hà Thiết Thủ lên tiếng: “Được rồi.” Rồi nàng khẽ bảo Viên Thừa Chí: “Sư phụ! Xin hai vị tránh mặt một chút.”
Trong phòng không có chỗ nào nấp được. Viên Thừa Chí sợ Lữ Thất tiên sinh và Hà Hồng Dược thấy mình sẽ la lên, khiến Tào Hóa Thuần thay đổi âm mưu tạo thành biến cố khác, chỉ còn cách nắm tay Uyển Nhi chui xuống gầm giường.
Thanh Thanh vẫn còn ngơ ngẩn, Lữ Thất tiên sinh và Hà Hồng Dược đã tiến vào phòng. Lữ Thất tiên sinh nói: “Hà giáo chủ! Chúng ta ở đây đợi Tào công công đi.”
Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Được.”
Nàng bỗng xoay cây thiết câu lắp bên tay trái, gõ một phát trúng vào giữa lưng Lữ Thất tiên sinh. Thiết câu có chất kịch độc, nhát đâm này lại ghim sâu vào trong thịt, Lữ Thất tiên sinh không sao chống nổi, té nhào xuống nằm ngẩng mặt nhìn trời. Hà Thiết Thủ vội đưa tay phải ra, lấy tay áo dài đè lên miệng lão, đề phòng lão la lối làm kinh động người khác.
Lữ Thất tiên sinh co giật mấy cái, khẽ rên mấy tiếng rồi nằm bất động. Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Tiên sinh đừng vội vã, cứ ở đây mà đợi.” Rồi nàng dùng chân hất xác lão vào phía sau giường.
Hà Hồng Dược vô cùng kinh ngạc, cất tiếng hỏi: “Giáo chủ! Không phải chúng ta cùng lo việc cho Tào công công hay sao?”
Hà Thiết Thủ nói: “Ngũ Tiên Giáo chúng ta xưa nay độc lai độc vãng, đâu thể để bọn thái giám quát tháo chạy tới chạy lui?”
Hà Hồng Dược đáp: “Đúng vậy.”
Mụ thấy giáo chủ gặp đại sự mà đột nhiên thay đổi ý kiến, dĩ nhiên phải thắc mắc, nhưng mụ chỉ muốn gấp rút điều tra thân thế Thanh Thanh. Âm mưu thoán vị tuy là đại sự, nhưng mụ không thèm để ý, coi như việc nhỏ.
Thanh Thanh thấy Viên Thừa Chí và Uyển Nhi nắm tay nhau trốn dưới gầm giường, trông rất thân mật. Nàng không nén nổi cơn giận, chửi bới ra miệng: “Các ngươi lén lút như vậy, tưởng ta không biết gì hay sao?”
Hà Thiết Thủ mỉm cười hỏi: “Lén lút gì vậy?”
Thanh Thanh la toáng lên: “Các người bức hiếp ta, bức hiếp một kẻ khổ sở không cha không mẹ. Các người thật là vô lương tâm, đáng bị chết yểu.”
Viên Thừa Chí ngẩn ra nghĩ bụng: “Không biết Thanh đệ chửi ai?” Còn Uyển Nhi là nữ nhân tinh tế hơn, đã thấy Thanh Thanh nghi ngờ ganh tỵ với mình từ lâu rồi nên nghe là hiểu ngay. Lúc này nàng nghe Thanh Thanh chửi này mắng nọ, không nén nổi tức giận, bất giác thân hình hơi run rẩy.
Viên Thừa Chí cũng hiểu tâm ý nàng, nhưng tình thế không sao giải thích được, chỉ còn cách vỗ nhẹ lên vai để tỏ lòng an ủi.
Hà Hồng Dược bỗng gằn giọng: “Con bé kia! Ngươi đã lọt vào tay ta rồi, đâu thể nguyên vẹn ra về? Gia gia ngươi đâu? Mụ đê tiện sinh ra ngươi đâu?”
Thanh Thanh đang giận, lại nghe mụ sỉ nhục mẹ mình, không sao nhẫn nại được nữa. Nàng vớ lấy chén thuốc đang để ở đầu giường, quẳng vào mặt mụ. Hà Hồng Dược nghiêng người né tránh, cái chén đập vào tường nghe choang một tiếng, nhưng trên mặt vẫn bị không ít nước thuốc nóng bỏng văng trúng. Mụ giận dữ hét lên: “Con tiện tì kia! Chán sống rồi ư?”
Viên Thừa Chí nằm dưới gầm giường tập trung quan sát, thấy hai chân của Hà Hồng Dược rùn xuống, chuẩn bị nhảy xổ tới Thanh Thanh. Chàng bèn thủ thế, đợi mụ nhảy đến gần là lập tức tấn công vào hạ bàn. Đột nhiên có bóng trắng thoáng qua, giữa hai chân Hà Hồng Dược và chiếc giường đã có chân Hà Thiết Thủ cản trở.
Hà Thiết Thủ lên tiếng: “Cô cô! Ta đã hứa với họ Viên, phải đưa cô nương này về. Cô cô đừng để ta thất tín.”
Hà Hồng Dược cười nhạt, hỏi: “Sao phải làm thế?”
Hà Thiết Thủ đáp: “Rất nhiều người chúng ta đã bị điểm huyệt, không thể không nhờ họ Viên giải cứu.”
Hà Hồng Dược suy nghĩ một lúc rồi nói: “Được! Không giết con bé này cũng được, nhưng phải cho nó nếm chút ít cực khổ. Ta phải hủy hoại dung mạo nó, móc một con mắt nó ra. Này! Con bé họ Hạ kia! Ngươi thấy ta có xinh đẹp không?”
Thanh Thanh la lên một tiếng. Nghe tiếng la sợ hãi, cũng biết khuôn mặt xấu xí của Hà Hồng Dược lúc này trông càng đáng sợ, đang kề sát vào mặt nàng.
Hà Thiết Thủ nói: “Cô cô! Cô cô hà tất phải làm cô ấy hoảng sợ.”
Hà Hồng Dược ra vẻ không vui, nói: “Đúng rồi! Giáo chủ bảo vệ nó là muốn lấy lòng gã họ Viên. Thật là sai lầm rất lớn.”
Hà Thiết Thủ giận dữ hỏi: “Cô cô nói gì?”
Hà Hồng Dược cười nhạt, nói: “Giáo chủ nhìn kỹ xem, giáo chủ đẹp hơn hay con bé này đẹp hơn?”
Tuy Thanh Thanh đang vận nam trang, nhưng mắt phượng mày ngài, môi đỏ như trái anh đào, hai má rất trắng, nhan sắc vẫn thu hút người ta. Hà Thiết Thủ nói: “Cô nương này xinh đẹp lắm. Cô cô! Ta không kém bao nhiêu đấy chứ?”
Hà Hồng Dược nói: “Giáo chủ muốn lấy gã họ Viên, thì lấy lòng con bé này chỉ vô dụng. Phá hủy dung mạo nó là hơn.”
Hà Thiết Thủ gắt: “Ăn nói bừa bãi! Ai bảo ta muốn lấy họ Viên?”
Hà Hồng Dược nói: “Tâm sự của những cô nương trẻ, giáo chủ tưởng ta không biết hay sao? Ta cũng từng trẻ như vậy. Giáo chủ xem đi, đây là ta ngày trước.”
Nghe những tiếng sột soạt, hình như mụ đang lôi trong bọc ra vật gì đó. Hà Thiết Thủ cùng Thanh Thanh đều khẽ la lên một tiếng, nửa như kinh ngạc, nửa lại tán dương.
Hà Hồng Dược cười khổ rồi nói: “Các người ngạc nhiên phải không? Hà hà, ta đã từng xinh đẹp như thế.”
Mụ quẳng vật đó xuống. Thì ra đó là một bức tranh vẽ trên lụa.
Viên Thừa Chí từ dưới gầm giường nhìn ra, thấy tấm lụa đó vẽ một thiếu nữ khoảng hai mươi tuổi, hai má ửng hồng, mặc trang phục đầy màu sắc của tộc Bài Di, đầu quấn khăn trắng, dung mạo diễm lệ, nhìn cặp lông mày có mấy phần giống Hà Hồng Dược. Nhưng nếu nói đây là hình ảnh trong quá khứ của mụ già xấu xí này, thì thật khó mà tin được.
Lát sau, nghe Hà Hồng Dược vừa cười nấc lên vừa nói: “Tại sao bây giờ ta lại trông như xú bát quái? Tại sao, tại sao…? Đó là do thằng cha không có lương tâm của ngươi.”
Thanh Thanh cãi: “Này, gia gia ta thì liên quan gì đến bà? Ông ấy là người tốt, nhất định không có lỗi với ai.”
Hà Hồng Dược giận dữ nói: “Con bé này lúc đó chưa chào đời, làm sao biết được? Nếu hắn có lương tâm, thì ta không biến thành bộ dạng thế này, thì không có ngươi sinh ra trên đời.”
Thanh Thanh nói: “Bà càng nói càng ly kỳ cổ quái. Ngũ Độc Giáo các ngươi ở Vân Nam, còn gia gia và má má ta kết tình ở Chiết Giang. Hai nơi cách nhau không tới một vạn cũng tám ngàn dặm, làm sao liên can được?”
Hà Hồng Dược cả giận, vung quyền toan đập vào mặt nàng. Hà Thiết Thủ vội đưa tay ra cản, khuyên can: “Cô cô đừng nổi giận, có gì cứ nói từ từ.”
Hà Hồng Dược hét lên: “Gia gia của giáo chủ bị chính tên Kim Xà Lang Quân này trêu tức mà chết. Bây giờ giáo chủ lại ra sức bảo vệ con bé này, có biết xấu hổ không?”
Hà Thiết Thủ giận dữ nói: “Ai bảo vệ cô ấy? Nhưng nếu cô cô đánh cô ấy bị thương, tức là làm hại bốn mươi mấy mạng người trong giáo. Ta nghĩ cô cô là trưởng bối, đã nể mặt ba phần, nhưng nếu phạm giáo quy thì ta không thể dung tình nữa.”
Hà Hồng Dược thấy nàng dùng thân phận giáo chủ ra oai, bèn ủ rũ ngồi phịch xuống ghế, hai tay ôm đầu. Hồi lâu, mụ mới xuống giọng hỏi Thanh Thanh: “Mẹ ngươi đâu? Mẹ ngươi chắc phải đẹp tuyệt trần, là hồ ly tinh xứ Giang Nam mới mê hoặc được cha ngươi phải không?”
Mụ thở ra một hơi rồi tiếp: “Ta đã vô số lần nằm mơ thấy mẹ của ngươi, nhưng tướng mạo ả lúc nào cũng mơ mơ hồ hồ, không sao nhìn rõ. Ta thật sự muốn gặp ả. Ả có giống ngươi không?”
Thanh Thanh thở dài đáp: “Mẹ ta đã chết rồi.”
Hà Hồng Dược giật mình hỏi: “Chết rồi ư?”
Thanh Thanh hỏi lại: “Chết rồi thì sao? Bà vui lắm phải không?”
Hà Hồng Dược nghiến răng nghe rất thê thảm. Mụ nói rõ từng tiếng một: “Ta từng bức hỏi hắn, mẹ ngươi ở nơi nào, nhưng hắn quyết không chịu nói, thì ra đã chết rồi. Đúng là trời không có mắt, mối thù này ta không thể trả. Lần này phải thả ngươi về, nhưng sẽ có lúc ngươi lọt vào tay ta lần nữa… Mẹ ngươi có giống ngươi không?”
Thanh Thanh tức giận mụ buông lời vô lễ, bèn xoay người quay mặt vào giường, không lý gì đến mụ nữa.
Hà Hồng Dược nói: “Giáo chủ! Phải bắt thằng lỏi họ Viên chữa trị những người chúng ta trước, rồi mới thả con tiện tì này ra.”
Hà Thiết Thủ đáp: “Chuyện này không cần phải nói.”
Hà Hồng Dược đứng dậy đi ra phía cửa. Viên Thừa Chí thấy rõ đôi chân mụ sắp bước qua ngạch cửa, đột nhiên khựng lại, rồi quay người nói: “Gia gia con tiện nhân này đang ở đâu, ta nhất định phải hỏi rõ ràng.”
Hà Thiết Thủ nói: “Dĩ nhiên, nhưng… nhưng chúng ta không thể thất tín.”
Hà Hồng Dược nói: “Sao giáo chủ lại bảo vệ con tiện nhân này? Chắc là giáo chủ muốn lấy cảm tình thằng lỏi họ Viên kia. Để ta dạy cho giáo chủ biết xử sự hơn. Nếu giáo chủ muốn họ Viên thích mình, thì phải để ta giết con tiện nhân này. Ngô công muốn làm vua các loài độc vật thì phải cắn chết thanh xà trước, đã hiểu chưa con bé ngu ngốc kia?”
Mụ nổi giận đùng đùng, quay lại ngồi phịch xuống ghế. Trong phòng lúc này im lặng không có tiếng nói, Viên Thừa Chí và Uyển Nhi càng không dám thở mạnh.
Thanh Thanh đột nhiên vỗ mạnh lên giường, kêu la: “Sao các người chưa chịu ra đây? Đang làm gì đấy?”
Uyển Nhi kinh hãi, muốn bò ra ngoài, nhưng Viên Thừa Chí nắm chặt cổ tay nàng giữ lại.
Thanh Thanh nghe Hà Hồng Dược khuyên Hà Thiết Thủ giết mình để được Viên Thừa Chí yêu, mỗi lúc một tức giận hơn. Hai tay nàng nắm thành nắm đấm, đập loạn trên ván giường, bụi bặm rơi mù xuống gầm giường. Viên Thừa Chí suýt nữa hắt hơi, phải cố điều hòa hơi thở mới nén lại được.
Thanh Thanh nghĩ: “Chỉ có Hà Thiết Thủ và mụ ăn mày, làm gì thắng nổi đại ca? Sao phải tránh mặt chứ? Hai người nằm dưới gầm giường đang làm chuyện gì?”
Thì ra Viên Thừa Chí đang nghĩ tới âm mưu của Tào Hóa Thuần hành thích hoàng đế, lập vua khác để rước quân Thanh vào. Tuy Hà Thiết Thủ đã hứa ngăn cản âm mưu này, nhưng loại độc nữ tà giáo thì lời hứa chưa chắc đáng tin; mà cũng có thể gian mưu sẽ biến đổi gì khác, không lường trước được. Việc này liên quan đến sự tồn vong của quốc gia, muốn tuyệt đối không sơ suất thì phải kiên nhẫn giấu mình, nghe cho rõ ràng rành mạch. Dĩ nhiên Thanh Thanh không hiểu được nguyên do, nên cơn ghen giận mới bốc lên không sao kìm nổi.
Hà Hồng Dược bỗng hỏi Hà Thiết Thủ: “Cô là giáo chủ, đại sự trong giáo do cô chấp chưởng. Kim câu của giáo tổ đã truyền cho cô, thì cô có toàn quyền sinh sát. Nhưng những chuyện thê thảm mà ta gặp phải, không đủ khiến cô kinh tâm động phách mà rút ra bài học hay sao?”
Hà Thiết Thủ nói: “Lúc nào ta cũng lấy đại sự của bản giáo làm trọng, ai thèm để ý họ Viên kia?”
Hà Hồng Dược thở dài rồi nói: “Lúc động thủ với gã họ Viên, giáo chủ cứ liếc mắt đong đưa, giọng nói dịu dàng khêu gợi, không phải liều mạng sinh tử mà giống tình nhân tâm sự. Hai bên nói chuyện tình cảm như thế, ai thấy cũng phải phát tức lên.”
Hà Thiết Thủ hỏi: “Cô cô! Rốt cuộc thì Kim Xà Lang Quân có lỗi gì mà cô cô phải hận đến thế?”
Hà Hồng Dược lại la lên: “Kim Xà Lang Quân ở đâu? Ta muốn gặp hắn. Này, con tiện tì kia, ngươi có nói không? Nói ra, ta lập tức thả ngươi ngay.” Mấy câu này đương nhiên là nói với Thanh Thanh, nhưng Thanh Thanh vẫn quay mặt vào trong tường, mặc kệ mụ.
Hà Thiết Thủ nói: “Cô cô hãy nói Kim Xà Lang Quân từng có lỗi với cô cô như thế nào. Hạ cô nương là người biết phân biệt thị phi, sẽ tự nguyện dẫn cô cô đi gặp cha mình. Dù sao thì mẹ cô ấy cũng chết rồi. Đôi tình nhân tuổi già sum họp, chẳng phải chuyện tốt hay sao?”
Thanh Thanh quay mặt lại cãi: “Chỉ nói bừa! Phụ thân ta đã tuấn tú lại là đại anh hùng hào kiệt, làm sao thích được mụ già xấu xí này?”
Hà Hồng Dược nói một cách dịu dàng: “Trước đây ta không phải mụ già xấu xí đâu nhé. Gia gia cô bây giờ ở đâu? Ta muốn đi gặp hắn, không phải vì muốn hắn yêu thương mụ già xấu xí này, mà muốn hỏi một câu: Hắn tàn hại cuộc đời của ta rồi, trong lòng có thoải mái hay không. Hạ cô nương! Ta muốn kể cho cô nghe, tại sao ta quen biết cha cô, và hắn đã đối xử với ta như thế nào. Chỉ cần một chữ nửa câu giả dối, ta sẽ chịu thêm lần nữa hình phạt ngàn vạn con rắn cắn vào thân thể. Hy vọng cô hiểu được đúng sai, đối với mụ già xấu xí này sẽ có ba phần trắc ẩn. Bây giờ cô đang nằm trong tay ta, lẽ ra ta không cần cầu xin cô làm gì. Nhưng ta muốn cô hiểu rõ, Ngũ Tiên Giáo chúng ta tuy không việc ác nào không làm, giết người không run tay, nhưng về tình yêu nam nữ thì tuyệt đối không vong ân phụ nghĩa. Nếu không, hoàng thiên đã không cho Ngũ Tiên Giáo hưng vượng đến mãi hôm nay.”
Thanh Thanh nói: “Ta không thích nghe.” Nói xong, nàng thò tay kéo tấm chăn trùm kín đầu, ra vẻ không thèm nghe chuyện của Hà Hồng Dược. Nhưng cuối cùng nàng không nén nổi hiếu kỳ, lại kéo hở một góc chăn ra, nghe mụ kể chuyện cha mình năm trước.
Hà Hồng Dược không biết chuyện Hà Thiết Thủ muốn bái Viên Thừa Chí làm sư phụ để học võ công thượng thừa. Mụ lấy bụng ta so bụng người, cứ tưởng Hà Thiết Thủ đã phải lòng Viên Thừa Chí, chuyện này mụ thấy không nên. Hai mươi năm mụ tìm kiếm Hạ lang nhưng không sao gặp được, cuối cùng chỉ nhìn thấy con gái người yêu. Đó là một chút cơ hội mong manh duy nhất, mụ không nén nổi nôn nóng. Dù sao Tào thái giám cũng bắt mọi người đợi thêm một giờ, nên mụ quyết định kể lại thân thế của mình cho cô cháu gái nghe mà học hỏi, cho Thanh Thanh nghe mà động lòng, dẫn mình đi gặp cha cô ấy.
Mụ quay lại nhìn Hà Thiết Thủ, chậm rãi kể: “Chuyện này đã hơn hai mươi năm rồi. Lúc đó ta chưa lớn bằng cô bây giờ. Gia gia của cô vừa nhận chức giáo chủ, phái ta làm trang chủ Vạn Diệu Sơn Trang, trông coi những hầm nuôi rắn. Một hôm rảnh rỗi không có việc gì làm, ta liền ra sau núi để bắt chim chơi.”
Hà Thiết Thủ hỏi xen vào: “Cô cô đã làm trang chủ mà vẫn đi bắt chim về chơi hay sao?”
Hà Hồng Dược hứ một tiếng rồi nói: “Ta đã nói rồi, lúc đó ta còn rất trẻ, có thể nói là một con bé hơi to xác. Ta bắt được hai con thúy điểu, hớn hở quay về. Đi ngang một hầm rắn, đột nhiên nghe thấy trong lùm cây có tiếng sột soạt, biết có rắn chạy trốn ra ngoài, ta liền hướng theo tiếng động mà tìm, quả nhiên thấy một con ngũ hoa xà đang trườn ra ngoài. Ta rất ngạc nhiên. Lũ rắn của chúng ta rất ngoan ngoãn, xưa nay chẳng bao giờ chạy trốn, không biết con ngũ hoa xà này chuồn ra ngoài để làm gì? Vì thế ta không bắt nó lại ngay, cứ theo dõi xem sao. Cuối cùng con ngũ hoa xà đó bò ra sau lùm cây, chạy thẳng về hướng một người. Ta ngẩng mặt lên nhìn, trong lòng bỗng nhói lên một cái. Đó chính là oan nghiệp kiếp trước của ta, chính là tên ma đầu tàn hại đời ta.”
Hà Thiết Thủ hỏi: “Đó là Kim Xà Lang Quân phải không?”
Hà Hồng Dược nói: “Lúc đó ta không biết hắn là ai, chỉ thấy hắn mặt mày thanh tú, là một thiếu niên người Hán đẹp trai, tay cầm một bó nhang quấn bằng lá ngải để dụ rắn. Thì ra ngũ hoa xà ngửi thấy mùi hương, bị hắn dụ ra ngoài. Nhìn thấy ta, hắn mỉm cười một cái.”
Hà Thiết Thủ cười nói: “Lúc đó chắc cô cô đẹp lắm, hắn nhìn là mê tít ngay.”
Hà Hồng Dược hứ một tiếng, nói tiếp: “Ta đang nói chuyện đàng hoàng, cô đừng quấy rối. Lúc đó ta thấy hắn là người lạ, sợ hắn bị rắn cắn, bèn nói: Này, con rắn đó có độc. Huynh đừng động đậy, để ta đến bắt. Hắn lại mỉm cười, lấy trên lưng xuống một chiếc thùng gỗ, đặt dưới đất. Trên một góc thùng có sợi dây rất mảnh, buộc một con cóc sống vẫn đang nhảy nhót. Dĩ nhiên ngũ hoa xà muốn bắt con cóc này, bèn từ từ bò lên cái thùng gỗ đó. Nó đang vươn cổ định mổ, thì thiếu niên đó giật sợi dây, nắp thùng lập tức sập xuống. Ngũ hoa xà khoanh tròn lại, giấu bớt thân thể, nhưng thiếu niên đó lập tức thò tay trái vào trong, dùng hai ngón tay kẹp chặt cổ nó. Thủ pháp của hắn khác với chúng ta, nhưng bộ vị kẹp cổ con rắn hoàn toàn không sai lệch, ngũ hoa xà không sao động đậy nữa. Biết hắn cũng thạo nghề này, lúc đó ta mới yên tâm.”
Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Úi chà! Cô cô mới gặp người ta mà đã quan tâm đến thế rồi ư?”
Thanh Thanh ngắt lời: “Này! Cô đừng cản trở bà ấy được không? Để bà ấy kể tiếp đi.”
Hà Thiết Thủ cười hỏi: “Cô nương nói không thích nghe mà?”
Thanh Thanh hỏi lại: “Bây giờ ta thích nghe, không được hay sao?”
Hà Thiết Thủ vừa cười vừa đáp: “Được, được! Ta không cản trở nữa.”
Hà Hồng Dược liếc nàng một cái, kể tiếp: “Lúc đó ta bỗng nghi ngờ: Người này là ai? Sao cả gan tới bắt rắn của chúng ta? Chẳng lẽ không biết oai danh của Ngũ Tiên Giáo hay sao? Sau đó hắn dùng tay phải lấy ra một thanh sắt ngắn, đưa đến bên miệng con ngũ hoa xà, nó há miệng đớp ngay. Ta chạy đến gần xem kỹ, thì ra thanh sắt này rỗng ở giữa. Nọc độc trong miệng ngũ hoa xà không ngớt chảy ra, bị hứng vào trong ống sắt. Bây giờ ta mới biết, thì ra hắn đến đây để ăn cắp nọc rắn. Chẳng trách mấy hôm nay trong hầm rắn có nhiều con không chịu ăn uống, gầy ốm phờ phạc hẳn đi. Ta kêu lên: Này, mau thả nó xuống!, đồng thời lấy cây sáo dụ rắn ra thổi. Hắn nghe âm thanh kỳ lạ, vừa ngẩng lên nhìn là bị con ngũ hoa xà quay lại mổ trúng đầu ngón tay. Hắn lập tức quẳng con ngũ hoa xà ra xa, định mở rương lấy thuốc giải. Ta liền quát: Ngươi giỏi lắm! rồi nhảy xổ vào. Nào ngờ võ công của hắn cực cao, chỉ khẽ kéo một cái đã hất ta té xuống.”
Thanh Thanh nói xen vào: “Dĩ nhiên bà không phải là đối thủ của ông ấy.”
Hà Hồng Dược lườm một cái, lại nói: “Nhưng độc tính của ngũ hoa xà lợi hại phi thường. Hắn chưa kịp lấy thuốc giải ra, chất độc đã phát tác, ngất xỉu ngay tại chỗ. Ta chạy đến nhìn, đột nhiên trong lòng có phần không nỡ, nghĩ bụng: Người còn trẻ như vậy đã mất mạng, thật là đáng tiếc. Huống chi lại giỏi võ công đến thế.”
Hà Thiết Thủ thêm vào: “Huống chi lại đẹp trai đến thế. Sau đó cô cô đưa hắn về giấu ở trong trang, lấy thuốc giải độc cho. Đến khi vết thương lành hẳn thì cô cô đem lòng yêu hắn, có phải vậy không?”
Hà Hồng Dược than thở: “Hắn chưa lành vết thương, ta đã trao trái tim mình cho hắn rồi. Lúc ấy rất nhiều sư huynh đệ trong giáo có hảo ý với ta, nhưng không biết tại sao ta đều không coi họ ra gì. Còn đối với người này thì ta thần hồn điên đảo, không sao tự chủ được. Ba ngày sau, chất độc trong người hắn đã giảm nhiều, ta đem cho thức ăn thức uống, nuôi nấng mấy ngày. Ta hỏi hắn đến đây để làm gì. Hắn nói, ta đã cứu mạng hắn nên không giấu làm chi. Hắn họ Hạ, là người Hán ở Giang Nam, đang gánh một mối huyết hải thâm thù. Đối thủ công phu rất cao, người đông thế mạnh, không biết làm sao trả được mối thù. Nghe nói Ngũ Tiên Giáo nghiên cứu độc dược giỏi nhất thiên hạ, nên hắn tìm đến Vân Nam để học công phu này…”
Nghe đến đây, Viên Thừa Chí và Thanh Thanh mới hiểu Kim Xà Lang Quân và Ngũ Độc Giáo đã quen biết nhau như thế. Ông lấy trộm nọc rắn, dĩ nhiên là để đối phó với nhà họ Ôn ở Kỳ Tiên Phái.
Hà Hồng Dược kể tiếp: “Hắn nói đã âm thầm dò xét từ lâu, học được mấy cách chế luyện thuốc độc, nên mới lén đến hầm rắn của chúng ta, ăn cắp nọc của độc xà để tẩm lên ám khí, đối phó với kẻ thù. Hai ngày sau thì vết thương của hắn khỏi hẳn, ngỏ lời đa tạ ta rồi xin cáo biệt. Lòng ta đương nhiên không nỡ, tặng hắn hai bình nọc rắn, hắn bèn vẽ cho ta bức chân dung này. Ta hỏi chuyện trả thù có khó lắm không, có cần ta giúp đỡ không. Hắn chỉ mỉm cười, nói rằng công phu của ta còn quá kém, không thể giúp được. Ta bảo hắn, trả thù xong nhớ đến thăm ta, hắn gật đầu đồng ý. Ta hỏi chừng nào đến, hắn đáp là rất khó nói. Muốn trả thù, hắn còn thiếu một món lợi khí. Nghe nói ở phái Nga Mi có một thanh bảo kiếm trấn sơn, hắn muốn tới núi Nga Mi ở Tứ Xuyên để lấy cắp. Nhưng không biết thật sự có thanh kiếm đó không, dù có thì trộm được hay không, bao giờ, không thể tính trước.”
Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Kim Xà Lang Quân đúng là bất kể tất cả, để trả được thù thì chuyện gì cũng dám làm.”
Hà Hồng Dược thở dài, tiếp: “Khi đó ta cứ mơ màng, chỉ mong hắn ở lại với mình thêm mấy ngày. Ta như phát điên phát rồ, việc gì cũng không sợ, biết rõ việc không nên làm mà cũng nhịn không nổi phải làm. Ta cảm thấy càng mạo hiểm vì hắn thì trong lòng càng vui vẻ, dù chết vì hắn cũng là cam tâm tình nguyện. Ôi! Khi đó như bị ma quỷ mê hoặc, ta nói với hắn là biết một thanh bảo kiếm sắc bén vô cùng, binh khí gì cũng chém đứt được. Hắn vui mừng đến nhảy dựng lên, vội hỏi ở đâu. Ta đáp, đó chính là Kim Xà Kiếm, đời đời lưu truyền trong Ngũ Tiên Giáo chúng ta.”
Viên Thừa Chí nghe đến đây bỗng động lòng, bất giác đưa tay sờ lại thanh Kim Xà Kiếm đang giấu bên mình. Hà Thiết Thủ từng nói, Kim Xà Kiếm là của Ngũ Tiên Giáo. Lúc đó đang đánh nhau kịch liệt, chàng tưởng đối thủ buột miệng nói bừa, thì ra thanh kiếm này có liên quan đến Ngũ Tiên Giáo thật.
Hà Hồng Dược lại tiếp: “Ta nói với hắn, thanh kiếm này là một trong tam bảo của Ngũ Tiên Giáo, cất trong Độc Long Động trên núi tuyết Ngọc Long, phủ Lệ Giang, tỉnh Vân Nam. Đó là thánh địa của Ngũ Tiên Giáo, ngoài động canh giữ vô cùng nghiêm mật. Hắn khẩn khoản nhờ ta dẫn đi trộm kiếm, hứa chỉ mượn dùng một tí, trả thù xong nhất định sẽ trả lại. Hắn cầu xin không dứt, cuối cùng ta mềm lòng ưng thuận. Ta bèn ăn cắp lệnh bài của ca ca, dẫn hắn đến Độc Long Động. Quân canh thấy lệnh bài, lại thấy ta dẫn hắn đi, nên để chúng ta vào động.”
Hà Thiết Thủ ngạc nhiên hỏi: “Cô cô! Chẳng lẽ cô cô dám mặc quần áo đi vào Độc Long Động?”
Hà Hồng Dược đáp: “Dĩ nhiên ta không dám…”
Thanh Thanh hỏi xen vào: “Tại sao vào Độc Long Động lại không dám mặc… mặc quần áo?”
Hà Hồng Dược hừ một tiếng, không đáp. Hà Thiết Thủ nói: “Trong Độc Long Động có nuôi hàng ngàn hàng vạn con Hạt Đính Xà. Khi vào động mà trên người có chỗ không thoa xà dược, bị cắn một miếng thì chẳng ai chịu nổi. Hạt Đính Xà là loại dị chủng, độc nhất thế gian, bị đớp là mất mạng trong vòng ba bước. Vì thế những ai vào động đều phải cởi hết y phục, để thoa xà dược toàn thân.”
Thanh Thanh hổ thẹn nói: “Trời ơi! Ngũ Độc Giáo các ngươi thật là… thật là…”
Hà Hồng Dược hỏi: “Thật gì mà thật? Không thế thì không thể đi vào Độc Long Động. Vì thế ta trút hết y phục, thoa xà dược đầy người, bảo hắn cũng làm thế. Hắn không thoa được kín lưng, ta bèn thoa hộ. Ôi! Nam nữ thiếu niên lõa thể, ở trong sơn động thoa thuốc cho nhau, còn giữ gìn gì được nữa? Hơn nữa, ta đã phải lòng hắn trước rồi, bèn trao tấm thân này cho hắn.”
Thanh Thanh nghe mà hai má đỏ bừng, đột nhiên nghĩ đến hai người đang nằm dưới gầm giường. Nàng lập tức quơ tay quơ chân nện ầm ầm xuống ván giường.
Hà Thiết Thủ vội khuyên: “Đó là chuyện ngày xửa ngày xưa rồi, cô nương đừng giận dữ nữa.”
Thanh Thanh quát lên: “Ta ghét nhất là loại người không biết xấu hổ.”
Viên Thừa Chí cảm thấy thân hình mềm mại của Uyển Nhi đang tựa vào lòng mình lúc này từ từ nóng rực lên. Chàng bỗng nghĩ: “Uyển Nhi đối với mình rất dịu dàng chiều chuộng, khác hẳn Thanh đệ chỉ chút xíu là nổi nóng rồi. Trời ơi! Tại sao lúc này mình suy nghĩ như vậy? Thật không biết làm sao.”
Uyển Nhi lại nghĩ: “Gia gia chết rồi, không còn ai chiếu cố, thương xót mình nữa. Chỗ dựa duy nhất trên đời, chính là tấm thân đang kề cận mình đây. Nhưng… nhưng… việc đó chắc không thành được.”
Hà Hồng Dược thở nhẹ một hơi, rồi tiếp: “Cô nương nói ta không biết xấu hổ, cũng không sai lắm. Nữ nhân Bài Di chúng ta không có nhiều quy luật thối tha như người Hán các ngươi. Ôi! Sau đó ta đẩy cánh cửa đá, dẫn hắn vào trong động. Thanh Kim Xà Kiếm và hai món bảo vật khác cùng để trong miệng của Thạch long. Hắn phi thân nhảy lên, rút thanh kiếm đó ra. Nào ngờ lòng dạ hắn không lương thiện, lấy nốt hai món báu vật kia. Đó là hai mươi bốn mũi Kim Xà Truy và một tấm bản đồ.”
Kể đến đây, mụ nhắm mắt như ngẫm nghĩ chuyện xưa, dừng lời chốc lát. Lát sau mụ thở hắt ra rồi kể tiếp: “Ta thấy hắn lấy hết ba món bảo vật, biết chuyện không hay rồi, nhất định bắt hắn đem Kim Xà Truy và tấm bản đồ trả lại vào miệng con rồng đá.”
Thanh Thanh đã biết đó là tấm bản đồ kho báu của Kiến Vân hoàng đế, nhưng giả vờ hỏi: “Bản đồ gì vậy? Phụ thân ta một lòng một dạ muốn trả thù, lấy tấm bản đồ cũ rích của Ngũ Độc Giáo có lợi ích gì?”
Hà Hồng Dược đáp: “Ta cũng không biết là bản đồ gì, nhưng đã lưu truyền rất lâu trong bản giáo. Tên vô lương tâm đó không trả lời, chỉ nhìn ta cười cười, rồi đột nhiên ôm chầm lấy ta… Sau đó ta không trách mắng gì nữa. Hắn nói, trả thù xong nhất định sẽ quay lại trả ba món bảo vật này. Từ ngày hắn đi, ngày nào ta cũng nhớ đến hắn, nhưng hai năm liền không có chút xíu tin tức gì. Sau này giang hồ đồn đại, ở Giang Nam vừa xuất hiện một quái hiệp cầm thanh quái kiếm, rất giỏi dùng Kim Xà Truy đả thương người khác, ngoại hiệu là Kim Xà Lang Quân. Ta biết nhất định là hắn, trong lòng cứ lo lắng, không biết hắn có trả được thù không. Chẳng bao lâu thì giáo chủ nghi ngờ, biết ba món bảo vật bị mất. Ông ấy điều tra, biết ta đã đưa người lạ vào trong động, nên bắt ta tự xử. Vì thế ta mới trở thành thế này.”
Thanh Thanh hỏi: “Sao bà lại xấu xí thế này?”
Hà Hồng Dược ra vẻ giận dữ, không chịu trả lời. Hà Thiết Thủ khẽ nói: “Lúc đó phụ thân ta làm giáo chủ, biết muội tử mình phạm phải tội này mà không có cách nào bảo vệ. Chiếu theo quy luật trong giáo, cô cô uống sẵn thuốc giải rồi nhảy vào trong hầm rắn, để hàng vạn con rắn cắn xé mình. Khuôn mặt cô cô trông như thế này, chính vì bị rắn cắn.”
Thanh Thanh không khỏi rùng mình. Lúc này nàng đã có phần thương cảm mụ ăn mày, bèn ấp úng nói: “Chuyện này… chuyện này… thật có lỗi với bà. Trước nay ta không biết…”
Hà Hồng Dược liếc xéo nàng, lại hừ một tiếng. Hà Thiết Thủ kể tiếp: “Sau khi dưỡng thương xong, cô cô phải ra ngoài ăn xin. Theo quy luật Ngũ Tiên Giáo chúng ta, người phạm trọng tội phải ăn xin mà sống trong vòng hai mươi năm, không được ăn cắp một đồng hay một hột cơm nào, cũng không được nhận những gì đồng đạo võ lâm trợ giúp.”
Thanh Thanh khẽ nói với Hà Hồng Dược: “Nếu gia gia đã hại bà như thế, đúng là ông ấy không tốt.”
Hà Hồng Dược đáp: “Ta bị hàng ngàn hàng vạn con rắn cắn nát người, chịu phạt ăn xin hai chục năm, nhưng đó là cam tâm tình nguyện. Lúc dẫn hắn vào Độc Long Động, kết quả thế nào ta đã biết rồi, nên không thể trách là hắn hại ta. Ta trách là trách hắn ruồng bỏ ta. Lúc ấy ta vẫn một lòng một dạ, ăn xin suốt dọc đường đến Giang Nam để tìm hắn. Vào tới địa giới tỉnh Chiết Giang, nghe tin hắn đang giết người trả thù ở Cù Châu. Ta muốn gặp mặt, nhưng hắn thần xuất quỷ nhập, không sao gặp được. Đến khi gặp thì hắn đã bị người ta bắt giữ. Cô biết ai bắt hắn không?”
Hà Thiết Thủ hỏi: “Là đám kẻ thù ở Cù Châu phải không?”
Hà Hồng Dược đáp: “Đúng vậy! Chính là bốn ông lão họ Ôn mà cô vừa gặp.”
Hà Thiết Thủ và Thanh Thanh cùng kinh ngạc “À” một tiếng. Hà Thiết Thủ thì không ngờ Ôn Thị Tứ Lão liên quan đến việc này, Thanh Thanh thì không ngờ mấy ông ngoại đã đến Bắc Kinh.
Hà Hồng Dược tiếp: “Ta nhiều lần muốn hạ độc giết hết bọn chúng, nhưng chúng đề phòng hắn hạ độc nên nước uống, thức ăn, bất cứ cái gì cũng bắt hắn nếm thử trước, nên ta không có cách nào xuất thủ. Chúng áp giải hắn đi về phía bắc, sau này ta mới biết là muốn bắt hắn giao tấm bản đồ đó ra. Một lần ta tìm được cơ hội nói chuyện mấy câu, hắn bảo: Tất cả gân cốt kinh mạch toàn thân đã bị kẻ thù cắt đứt, ta đã trở thành phế nhân. Võ công đối thủ cao cường, một mình muội chắc chắn không chống đỡ được. Trước mắt chỉ có một con đường sống, là lừa chúng lên núi Hoa Sơn.”
Hà Thiết Thủ hỏi: “Ông ấy lên Hoa Sơn để làm gì?”
Hà Hồng Dược đáp: “Hắn nói, trong thiên hạ chỉ có một người cứu nổi hắn. Người đó là Thần kiếm tiên viên Mục Nhân Thanh tiền bối, chưởng môn phái Hoa Sơn.”
Viên Thừa Chí nằm dưới gầm giường nghe kể câu chuyện kinh tâm động phách, trong lòng nảy ra những tình cảm khó mà diễn tả được. Đối với những hành động của Kim Xà Lang Quân, chàng không biết nên đau lòng, luyến tiếc hay nên thương xót. Bây giờ nghe tên sư phụ, chàng càng chú ý lắng nghe. Thanh Thanh nghe Hà Hồng Dược nhắc đến sư phụ của Viên Thừa Chí, cũng đặc biệt chú ý.
Hà Hồng Dược kể tiếp: “Ta hỏi hắn: Mục Nhân Thanh là nhân vật thế nào? Hắn đáp: Đó là một vị đại hiệp có võ công cực cao. Tuy ta chưa từng gặp, nhưng đã biết người này rất chính trực và nghĩa khí, khi thấy ta bị hành hạ thế này, nhất định sẽ ra tay cứu giúp. Ngũ Hành Trận của Ôn Thị Ngũ Lão rất lợi hại, lại thêm đạo nhân phái Không Động trợ giúp, ngoài họ Mục ra thì không ai thắng nổi. Hắn bảo ta mau mau tìm đến Hoa Sơn, khóc lóc van xin Mục đại hiệp. Ta vâng dạ đi ngay, nhưng lên tới Hoa Sơn thì Mục đại hiệp không có ở nhà, chỉ để lại một người câm điếc. Ta dùng tay nói chuyện với y cả nửa ngày, vẫn không hiểu nổi Mục đại hiệp đi đâu và bao giờ trở về.”
Nghe đến đây, Viên Thừa Chí nghĩ: “Hỏi ông câm về hành tung của sư phụ mình, đúng là chuyện không dễ.”
Lại nghe Hà Hồng Dược kể tiếp: “Ta ở lại đỉnh núi Hoa Sơn mà đợi. Một hôm thấy trên vách núi có một sơn động rất lớn, trông có vẻ cổ quái, ta bèn dùng vỏ cây để thắt một sợi dây dài, buộc vào gốc một cây thông lớn, rồi trèo xuống mà xem. Trong động có một khe núi, giống như đường hẻm vậy. Đi vào trong lại có một sơn động khác, trông như một căn phòng. Đêm đó ta ngủ lại trong động. Ba ngày sau, năm lão già họ Ôn khiêng họ Hạ lên đỉnh núi, có hai tên đạo sĩ phái Không Động đi theo. Cha ngươi lừa gạt chúng, nói tấm bản đồ tàng bảo để trên đỉnh núi Hoa Sơn, nhưng không chịu nói rõ để chỗ nào. Năm người họ Ôn không ngớt dùng cực hình hành hạ, nhưng hắn cứ nói vòng vo. Năm tên kia nổi giận, nhưng bị tiền tài che cả mắt, sợ ra tay quá nặng làm chết hắn, lại sợ hắn dù chết cũng không chịu nói, rốt cuộc là sợ không đoạt được báu vật. Ta thừa lúc chúng cãi vã nhau tâm thần bất định, lén cho mấy thang thuốc bổ. Hai tên đạo sĩ thối tha phái Không Động vừa uống là hư hỏa bốc lên, bổ chết cả hai. Lão Tam và lão Tứ nhà họ Ôn cũng uống thuốc bổ, bổ đến nỗi tay chân tê liệt, không đi lại được…”
Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Tại sao uống thuốc bổ mà chết? Hừ, bà ta đâu có lòng tốt cho địch thủ uống thuốc bổ? Thuốc bổ cái gì, chắc chắn là thuốc độc rồi.”
Hà Hồng Dược hỏi rất nghiêm trang: “Hạ cô nương! Lúc này cô có khỏe không? Để ta hốt cho cô hai thang thập toàn đại bổ, giúp cô hồi phục.”
Thanh Thanh nói: “Muốn hạ độc giết ta à? Mau mau xuất thủ đi, nhưng sau khi ta chết thì đừng hòng gặp phụ thân ta nữa.” Nàng biết Hà Hồng Dược rất mong gặp mặt cha mình, nếu giết mình thì manh mối bị cắt đứt. Dù mạng nàng đang nằm trong tay mụ, nhưng quyết không cho mụ toại nguyện.
Hà Hồng Dược tiếp: “Ta thừa lúc chúng hoảng loạn lo lắng cho nhau, tìm cách cõng tên phụ tình đó ra ngoài, trốn vào nhà Mục Nhân Thanh. Họ Mục chưa về tới Hoa Sơn, nhưng năm lão tặc họ Ôn vẫn không dám vào nhà lục soát. Chúng cứ trách móc lẫn nhau, người này mắng người kia, người kia mắng người nọ, mắng mãi không thôi. Ta cùng hắn ở trong động mấy ngày, trong lòng hoan hỉ, nói sẽ cõng hắn đi Vân Nam, chung sống suốt đời. Nhưng hắn cứ thở dài ủ rũ, nói là gân cốt tay chân đã bị cắt hết, mối thù không trả được, từ nay không muốn làm người nữa. Chúng ta không có lương thực, nên không thể ở lại trên núi lâu ngày. Đoán chắc năm lão tặc họ Ôn đã đi truy đuổi chúng ta, ta bèn cõng tên vô lương tâm kia xuống núi, tới huyện Hoa Âm. Đêm đó ta lẻn vào một nhà phú hộ, trộm đi chút ít tiền bạc, rồi tìm một gian nhà nhỏ để ở lại đó.”
“Khi hắn khỏe hơn một tí, ta bắt đầu đi bắt rắn lấy nọc độc. Hắn cũng học công phu dụng độc để bồi bổ người khác, nói rằng: Phải bồi bổ cho năm tên giặc họ Ôn mất mạng, trả mối thù này. Hắn dụng tâm viết hai quyển sách, nhờ ta ngâm một quyển vào trong thuốc bổ, để sau này năm lão tặc kia bồi bổ cho khỏe khoắn. Hắn lấy tiền đi kết giao với một tay thợ bạc giỏi, mời uống rượu ăn cơm, trở thành bạn tốt. Sau đó hắn nhờ người thợ bạc đó làm hai chiếc hộp bằng sắt, một lớn một nhỏ, bên trong có gắn cơ quan, khi mở nắp sẽ bắn tên ra. Hắn đã nghĩ sẵn phương cách, chỉ vì gân cốt trên tay đã bị cắt đứt nên không có sức để làm. Người thợ bạc theo lời chỉ điểm mà thực hiện, chế ra hai chiếc hộp sắt và những mũi độc tiễn, thủ pháp thật là tinh tế. Ta hỏi họ Hạ: Hai chiếc hộp sắt này dùng để làm gì? Hắn đáp: Một trong hai chiếc dùng để cất bí kíp và bản đồ tàng bảo đã được ngâm tẩm thuốc bổ, để dụ năm tên giặc họ Ôn mở ra. Cho dù độc tiễn bắn chúng không chết, nhất định bí kíp và bản đồ sẽ giết được chúng. Hắn còn nói: Năm tên giặc họ Ôn đã hiếu võ lại tham tiền, nhưng võ công khá cao. Ngoài cách này ra, không còn cách nào trả được mối thù nữa.”
Viên Thừa Chí nghe đến đây mới hiểu: “Kim Xà Lang Quân xếp bí kíp võ công và bản đồ vào trong hộp sắt có gắn cơ quan, là có mưu đồ sâu xa trả thù năm ông lão nhà họ Ôn. Không ngờ hộp sắt rơi vào tay mình, mà mình lại thoát khỏi đại nạn. Sống chết chỉ cách nhau đường tơ kẽ tóc, quả thật vô cùng may mắn.”
Hà Hồng Dược lại kể: “Hắn nói: Hai cái hộp sắt chứa hai loại bí kíp và bản đồ, một thật một giả, một độc một không. Sau khi trừ khử kẻ thù, không cần hại thêm những người vô tội nữa. Không biết hiện giờ hắn còn giữ cái hộp sắt đó không? Năm lão tặc họ Ôn bây giờ chỉ còn lại bốn. Sớm muộn gì ta cũng cho họ chút ít thuốc bổ, cắt lấy thủ cấp và tay chân chúng ra, đưa cho cha ngươi xem để hắn được an ủi chút ít.”
Thanh Thanh nói: “Chuyện này thì phải đa tạ bà.”
Hà Hồng Dược tiếp: “Mấy tháng sau, ta ở thị trấn Hoa Âm nhìn thấy Ôn gia ngũ tặc quay lại, nói là Kim Xà Lang Quân đã mất tích, mấy hôm nữa chúng sẽ trở lên núi Hoa Sơn để tìm manh mối. Ta về kể lại, hắn nói là đừng để mất cơ hội này. Hôm sau chúng ta mang theo hộp sắt và những quyển sách đã ngâm thuốc bổ lên núi Hoa Sơn, định ở đó mà chờ năm tên giặc kia. Chúng ta lại trú trong sơn động đó, lần này mang theo không ít lương khô, đủ sống hơn một tháng. Sắp xếp xong xuôi, trong lòng ta hoan hỉ, bèn khẽ hát mấy bài đồng dao của dân tộc Bài Di. Chắc hắn cảm ơn ta giúp đỡ, bèn giang tay ra ôm lấy. Trước đó ta biết khuôn mặt mình đã bị rắn cắn đến nỗi chẳng ai dám nhìn, nên không dám thân cận hắn. Bấy giờ trong đêm tối, hắn muốn gần gũi ta, dĩ nhiên ta để mặc. Nào ngờ ta đột nhiên ngửi thấy trên ngực hắn có mùi hương của nữ nhân, thò tay vào áo hắn thì lôi ra được một vật mềm mềm. Ta thắp mồi lửa lên, thấy đó là một cái túi nhỏ được tẩm hương thơm, thêu thùa rất tinh tế, đựng một món tóc nữ nhân và một cây kim thoa nhỏ. Ta tức đến run người, hỏi hắn đây là vật của ai. Hắn không chịu nói. Ta dọa, nếu hắn không nói thì ta không đi dụ năm tên giặc họ Ôn. Hắn cứ ngậm miệng, thần sắc rất cao ngạo. Bang chủ nhìn xem, thần sắc con bé này giống hệt cha nó năm xưa.”
Nói đến đây, giọng mụ như đẫm nước mắt. Đưa tay chỉ Thanh Thanh, mụ dừng lại một lúc mới nói tiếp được: “Ta chịu cực hình vì hắn, khổ sở vì hắn như thế, hắn lại nỡ ruồng bỏ ta, đi tìm người tình khác. Lúc đó ta chỉ muốn ép hắn nói ra, nhưng bỗng nghe thấy tiếng động nên phải ra ngoài thám thính. Thì ra Ôn thị ngũ tặc đã lên núi rồi. Chúng bàn bạc với nhau, nói Mục đại hiệp đã trở về núi, phải cẩn thận hơn. Mấy anh em họ Ôn tìm kiếm khắp nơi không thấy, lại đổ lỗi cho nhau. Năm người cãi cọ một hồi, nên bị Mục đại hiệp phát giác. Mục đại hiệp thi triển thần công khiến chúng hoảng sợ chạy xuống núi Hoa Sơn, rồi chính ông ấy cũng theo xuống núi.”
“Cả đêm hôm đó, ta cứ bắt tên vô lương tâm đó nói ra tên tuổi người tình. Nhưng hắn biết, nếu nói ra thì ta sẽ đi giết chết người trong mộng, mà võ công của hắn đã mất, không thể đến đó bảo vệ, nên cứ ngậm miệng không chịu trả lời. Ta giận dữ suốt ba ngày liền. Mỗi ngày ba lần sáng trưa tối, ta lấy roi gai quất hắn một chập.”
Thanh Thanh la lên: “Con mụ ác độc kia, dám hành hạ cha ta như thế!”
Hà Hồng Dược cười nhạt, nói: “Cái đó kêu bằng tự làm tự chịu. Ta càng đánh dữ, hắn càng cười vang. Hắn nói, không phải vì ta bị rắn cắn làm hủy hoại nhan sắc nên hết yêu ta, mà trước nay chưa từng yêu ta thật sự. Lúc ở Độc Long Động, hắn chỉ chơi qua đường mà thôi. Cả đời hắn đã có không biết bao nhiêu nữ nhân, nhưng trong lòng hắn chỉ có một vị hôn thê. Hắn khoe, hôn thê của hắn diễm lệ, dịu dàng, ngây thơ, hơn ta gấp trăm lần. Hắn nói một câu, ta quất một roi. Ta quất một roi, hắn lại tán dương con tiện tì ấy một câu. Đánh mãi đến lúc toàn thân hắn không còn miếng da nào lành lặn, tiếng cười và những câu khen tặng vợ hắn vẫn chưa dừng.”
Hà Thiết Thủ nói: “Cô cô! Có mới nới cũ là việc rất bình thường trên thế gian. Làm người mà suốt đời không thay lòng đổi dạ, chỉ biết một nữ nhân thì hiếm lắm, vạn người chưa chắc có một. Vì thế người Hán bọn họ mới nói: Bảo vật dễ tìm, tình lang khó kiếm.”
Thanh Thanh không nhịn nổi, xen vào: “Chuyện nam nữ qua đường như phụ thân ta quả là thường gặp, nhưng vẫn là việc không nên. Người Hán chúng ta rất coi trọng tình nghĩa, nên mới có câu: Nhất dạ phu thê bách dạ ân. Bất luận nam hay nữ, vong ân phụ nghĩa chính là đê tiện. Không riêng gì người Bài Di các ngươi, người Hán chúng ta cũng coi có mới nới cũ là hành vi vô sỉ.”
Viên Thừa Chí đang dựa sát Uyển Nhi dưới gầm giường, nghe đến đây bỗng rùng mình một cái, lùi ra một tấc, da thịt hai người không tiếp xúc nhau nữa.
Uyển Nhi cũng động tâm nghĩ bụng: “Phen này mình vào cung là để báo đáp ân nghĩa của Viên tướng công, liều mạng giúp chàng tìm Hạ cô nương. Bây giờ cùng chàng trốn dưới gầm giường, chỉ là chuyện bất đắc dĩ. Nếu chàng đột nhiên thân thiết với mình, không những mình là kẻ vong ân phụ nghĩa, còn liên lụy chàng trở thành kẻ vong ân phụ nghĩa. Chàng là đại trượng phu lừng danh thiên hạ, mình nhất định không thể làm hỏng tiếng tăm của chàng.”
Nàng không nén nổi mồ hôi lạnh toát ra đầy trán, bất giác lùi xa thêm mấy tấc. Lúc nãy hai khuôn mặt kề sát vào nhau, hơi thở hòa vào nhau, nhưng bây giờ đã cách xa rồi. Nghe tiếng Viên Thừa Chí thở nhẹ, Uyển Nhi nghĩ bụng: “Viên tướng công, xin lỗi nhé! Muội rất yêu tướng công, nhưng muội biết hai ta có duyên mà không có phận. Mong rằng kiếp sau sẽ được lấy tướng công.”
Nàng không biết, người lúc này Viên Thừa Chí nghĩ tới không phải là Uyển Nhi nằm bên cạnh, cũng không phải là Thanh Thanh nằm trên đầu, mà là A Cửu không biết đang ở đâu.
Hà Hồng Dược lên tiếng: “Ngươi cũng thông tình đạt lý, biết cha mình làm chuyện không tốt.”
Thanh Thanh giận dữ nói: “Vong ơn phụ nghĩa, không có lương tâm, dĩ nhiên là không tốt.”
Hà Hồng Dược gật đầu khen phải rồi kể tiếp: “Đến sáng ngày thứ ba, hai chúng ta đói đến kiệt sức. Ta phải ra ngoài hái trái cây. Khi quay về, hắn đã canh giữ ngoài cửa động, nói rằng ta chỉ cần bước vào một bước là cho ngay một kiếm. Hắn đã mất võ công, nhưng cầm Kim Xà bảo kiếm trên tay nên ta không dám xông vào. Ta nói, chỉ cần hắn cho biết tên tuổi và nơi ở của con tiện nhân kia thì ta sẽ bỏ qua những lỗi lầm của hắn đối với ta. Tuy hắn là phế nhân, ta vẫn có thể đối đãi đàng hoàng với hắn suốt đời. Hắn cười ha hả, nói rằng hắn yêu nữ nhân kia còn hơn yêu tính mạng của chính mình. Hai người cứ thế mà đối chọi, ta có thức ăn còn hắn phải nhịn đói.”
Hà Thiết Thủ buồn bã hỏi: “Cô cô để ông ấy chết đói ư?”
Hà Hồng Dược nói: “Ta không để hắn chết dễ dàng được. Mấy ngày sau, hắn đói đến mức không nhúc nhích được nữa. Ta tiến vào trong động, dùng roi quất cho hắn một trận nên thân.”
Thanh Thanh kinh hãi la lên, định nhảy xổ vào mụ, nhưng bị Hà Thiết Thủ khẽ đưa tay đè lên vai không cho động đậy. Hà Thiết Thủ lên tiếng khuyên ngăn: “Đừng nổi giận, nghe cô cô kể hết đã.”
Hà Hồng Dược lại kể: “Tuyệt đỉnh Hoa Sơn vô cùng nguy hiểm, người bị cắt hết gân cốt tay chân nhất định không thể trèo xuống. Vì thế ta yên tâm xuống núi, thám thính tin tức tình nhân của hắn. Ta muốn bắt con tiện tì đó, phá hủy dung mạo cho xấu hơn cả ta, rồi dẫn về cho hắn xem, coi thử hắn còn tán dương mụ, ca tụng mụ nữa không. Ta tìm mất nửa năm vẫn không có tin tức gì, trong lòng cứ lo Mục đại hiệp quay về núi, gặp hắn là hỏng bét. Ngày trước ta đã thấy họ Mục thi triển thần công xua đuổi bọn Kỳ Tiên Phái, thật sự cao thâm không lường nổi. Nếu tên phụ tình đó nhờ họ Mục trợ giúp, khi quay lại Hoa Sơn ta sẽ chịu nhiều đau khổ.”
“Khi ta trở về Hoa Sơn, thì không biết hắn đã đi đâu. Cửa vào sơn động đó đã bị phong kín, không thông gió nữa, nhất định hắn không còn trong đó. Ta tìm kiếm khắp nơi trên đỉnh Hoa Sơn mà chẳng thấy gì, không biết Mục đại hiệp đã cứu hắn, hay hắn tự bỏ đi đâu. Mười mấy năm nay, trên giang hồ không ai biết gì về hắn nữa. Ta hỏi khắp thiên nam địa bắc, đến nay vẫn không biết con người vô lương tâm đó còn sống hay đã chết.” Mụ còn buông lời độc địa thóa mạ một hồi.
Đến đây Viên Thừa Chí đã hiểu hết. Nhất định Kim Xà Lang Quân tự nhốt mình trong sơn động vì biết bọn ma đầu thù địch sẽ trở lại. Võ công của ông đã mất, hết đường chống đỡ. Ông tự biết mình bất nghĩa phụ tình, không muốn hạ mình cầu xin người khác, đành niêm phong cửa động, vào trong nằm chờ chết. Còn Hà Hồng Dược thì tưởng ông niêm phong cửa động rồi rời khỏi đó.
Bỗng nghe Hà Hồng Dược giận dữ hỏi Thanh Thanh: “Hừ, thì ra hắn đã tạo ra con nghiệt chủng này. Cha ngươi đang ở đâu? Vết thương của hắn có lành được không? Bây giờ hắn có vợ hay không? Ai đang chăm sóc hắn?”
Thanh Thanh đáp: “Ông ấy không có vợ, cũng không có ai chăm sóc, chỉ có một mình. Thật đáng thương!”
Hà Hồng Dược ủ rũ hỏi: “Hắn ở đâu? Ta phải đi tìm hắn.”
Hà Thiết Thủ khuyên ngăn: “Cô cô! Chúng ta còn nhiều đại sự, cô cô đừng vì ân oán riêng mình mà gây chuyện khắp nơi. Chuyện kết oán với Tiên Đô Phái, không phải do cô cô gây ra hay sao?”
Hà Hồng Dược nói: “Ai bảo lão giặc già Hoàng Mộc cứ khoe khoang bừa bãi, nói là quen biết Kim Xà Lang Quân? Ta nghe vậy, đương nhiên phải bắt về tra hỏi tung tích gã bạc tình kia.”
Hà Thiết Thủ nói: “Cô cô đã giam Hoàng Mộc đạo nhân nhiều năm như vậy, sử dụng vô số độc hình, thế mà đến nay ông ấy vẫn không nói, chắc là không biết thật. Chẳng lẽ cô cô định nhốt ông ấy tới chết hay sao?”
Thừa Chí và Uyển Nhi đều khẽ gật đầu, thầm nghĩ: “Thì ra chuyện xích mích giữa Tiên Đô Phái và Ngũ Độc Giáo xuất phát từ đây. Vậy là Hoàng Mộc đạo nhân chưa chết, chỉ bị nhốt thôi.”
Hà Hồng Dược đột nhiên la lớn: “Thằng lỏi họ Viên đang dùng Kim Xà Kiếm, lại dùng Kim Xà Truy phóng chết lũ chó. Thế thì tấm bản đồ chắc chắn cũng lọt vào tay hắn rồi. Nhất định chúng ta phải đoạt lại tam bảo từ con bé họ Hạ và thằng lỏi họ Viên. Thế thì ta dù chết cũng trả được món nợ cho liệt tổ liệt tông Ngũ Độc Giáo. Cô là giáo chủ, càng phải lo lập đại công cho bản giáo, không thì mọi người trong giáo sẽ phản lại cô. Gần đây họ đã đồn đại lung tung, ra vẻ không phục. Đây chính là cơ hội tốt để lấy lại uy tín.”
Hà Thiết Thủ mỉm cười, không đáp. Hà Hồng Dược nói: “Giáo chủ ra đây, ta có chuyện cần nói với giáo chủ.”
Hà Thiết Thủ bảo: “Nói ở đây cũng vậy thôi.”
Hà Hồng Dược nói: “Không, chúng ta ra khỏi phòng đã.”
*
* *
Hai người ra khỏi phòng, tiếng bước chân xa dần. Lúc đó Viên Thừa Chí và Uyển Nhi mới chui từ dưới gầm giường ra.
Thanh Thanh giận dữ nhìn Uyển Nhi, thấy đầu tóc bù xù, mặt dính đầy bụi. Nàng “hừ” một tiếng rồi hỏi: “Hai người nằm dưới đó làm trò gì vậy?”
Uyển Nhi ngơ ngác, hai má đỏ ửng lên, không nói được tiếng nào.
Viên Thừa Chí giục: “Thanh đệ đứng dậy nhanh lên, chúng ta mau mau trốn đi. Ở đây nguy hiểm lắm.”
Thanh Thanh giận dỗi nói: “Nguy hiểm cũng được, ta không đi.”
Viên Thừa Chí lo lắng hỏi: “Có gì thì khi về sẽ từ từ nói, sao lại mù quáng gây chuyện lúc này?”
Thanh Thanh giận dữ nói: “Đứa mù quáng này đang muốn gây chuyện đây.”
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Cô này không hiểu lý lẽ. Tình thế vô cùng nguy cấp, chần chừ thì không những hết cách thoát thân, mà trong hoàng cung còn xảy ra đại biến.”
Thanh Thanh liếc qua một cái, thấy thần sắc Uyển Nhi có phần khó chịu. Nàng nghĩ, vừa rồi cô ấy nằm dưới gầm giường với Viên Thừa Chí lâu như thế, không biết thân mật đến mức nào rồi. Lại nghĩ, khi mình không ở bên Viên Thừa Chí, không biết hai người đã tâm sự những gì. Càng nghĩ càng tức, nàng đưa tay trái túm chặt tay Viên Thừa Chí kéo lại, tay phải cào cấu như điên.
Viên Thừa Chí không đề phòng, lưng bàn tay lập tức bị móng tay của nàng cào rướm bốn đường máu. Chàng giật tay về, ngạc nhiên hỏi: “Muội làm gì thế?”
Thanh Thanh la lên: “Ta làm như vậy đó!”
Nói xong, nàng kéo chăn trùm kín đầu. Viên Thừa Chí vừa bực mình vừa lo lắng, nhưng chỉ còn cách đứng đó giậm chân.
Uyển Nhi bỗng lên tiếng: “Viên tướng công! Tướng công ở đây bảo vệ Hạ cô nương, tiểu muội ra ngoài một chút sẽ quay lại ngay.”
Viên Thừa Chí ngạc nhiên hỏi: “Lúc này cô còn muốn đi đâu?”
Uyển Nhi không trả lời, đẩy cửa sổ nhảy ra ngoài. Viên Thừa Chí ngồi lên giường, khẽ kéo Thanh Thanh một cái. Nàng xoay phắt lưng lại, quay mặt vào trong tường. Viên Thừa Chí không biết làm gì, cũng không dám bỏ đi vì sợ nàng gặp nguy hiểm, đành vỗ nhẹ lên lưng Thanh Thanh an ủi.
Đột nhiên ngoài cửa sổ có tiếng động. Uyển Nhi và La Lập Như trước sau nhảy vào phòng. Thanh Thanh nằm trong chăn thò đầu ra, sắc mặt vẫn hầm hầm.
Uyển Nhi nghiêm trang nói với Viên Thừa Chí: “Viên tướng công! May có tướng công giúp đỡ, muội đã trả được đại thù. Sáng sớm mai, muội sẽ trở về Mã Cốc Sơn. Phụ thân muội lúc sinh tiền rất khâm phục tướng công. Tướng công đã truyền độc tí đao pháp cho La sư ca, coi như sư phụ của huynh ấy. Vì thế hai người bọn muội có việc cầu xin tướng công.”
Viên Thừa Chí nói: “Những chuyện này không gấp, chúng ta ra khỏi cung rồi nói tiếp.”
Uyển Nhi nói: “Không được! Ngay bây giờ bọn muội muốn nhờ tướng công làm chủ hôn, tác hợp cho muội và La sư ca thành phu phụ.”
Câu này vừa nói ra, chẳng những Viên Thừa Chí và Thanh Thanh giật mình, La Lập Như còn kinh ngạc hơn nhiều. Y ấp úng: “Sư… sư muội… sư muội nói gì?”
Uyển Nhi hỏi: “Sư ca không thích muội ư?”
Mặt La Lập Như đỏ hẳn lên, lại ấp úng: “Ta… ta… thích…”
Thanh Thanh vô cùng hoan hỉ, bao nhiêu bực dọc nghi ngờ lúc nãy trôi sạch, mỉm cười nói: “Hay lắm! Chúc mừng hai vị.”
Viên Thừa Chí biết Uyển Nhi đành lòng chịu lấy vị sư ca cụt tay là để tỏ ra hoàn toàn không nghĩ đến mình, phải vội vã như vậy là để lúc này Thanh Thanh khỏi nghi ngờ. Đây cũng là một hành động báo ân, chàng bất giác nảy lòng cảm kích.
Bây giờ Thanh Thanh mới hiểu ra dụng ý. Nàng cảm thấy áy náy, nắm tay Uyển Nhi mà nói: “Muội muội! Ta vô lễ rồi, muội đừng trách nhé.”
Nghĩ đến sự hy sinh mình vừa phải chịu, bất giác nàng nhìn sang Viên Thừa Chí một cái, lệ chảy thành dòng. Nước mắt Thanh Thanh cũng ứa ra.
Đột nhiên ngoài cửa lại có tiếng bước chân vọng tới, lần này phải bảy tám người. Viên Thừa Chí dùng tay ra hiệu, La Lập Như khẽ đẩy cửa sổ ra. Viên Thừa Chí vẫy tay bảo ba người thoát nhanh ra khỏi cung. La Lập Như lập tức nhảy qua cửa sổ, Uyển Nhi và Thanh Thanh nhảy theo sau.
Nghe giọng Hà Thiết Thủ hét lên: “Không ai được phép vào trong đó.”
“Bình” một tiếng, Hà Hồng Dược đã đá bật cửa phòng, nhảy xổ vào trong. Viên Thừa Chí bèn nhún chân một cái, nhảy ra ngoài cửa sổ. Hà Hồng Dược thoáng thấy lưng chàng, kêu lớn: “Nhanh lên, nhanh lên! Con bé kia chạy thoát rồi.”
Hà Thiết Thủ chạy vào trong phòng, thấy cửa sổ mở toang, trên giường trống rỗng, lập tức nhảy theo ra cửa sổ. Nàng nhìn kịp bóng người chạy vào lùm cây phía trước, liền chạy theo vào. Thật ra nàng đuổi theo là để hộ tống Thanh Thanh khỏi cung, sợ Thanh Thanh trúng độc thủ của thuộc hạ mình hay bị thị vệ đả thương thì mình có lỗi với Viên Thừa Chí, chuyện bái sư chắc chắn không được như ý muốn.
Hà Hồng Dược và đám giáo đồ Ngũ Độc Giáo còn lại cũng đuổi theo. Mọi người đuổi rất gắt, nhưng không lên tiếng hò hét vì sợ làm kinh động cấm cung. Lúc này Sấm quân gần tới kinh thành, trong kinh đã đại loạn. Thị vệ và thái giám đã chạy trốn không ít, số thái giám còn ở lại đều không giữ đúng chức phận nữa. Hoàng đế không thể làm chủ tình hình, tuy vẫn đưa ra những hiệu lệnh khoa trương, nhưng cung cấm không còn uy nghiêm như lúc bình thường. Mọi người rượt đuổi nhau trong cung, thế mà không ai phát giác.
Viên Thừa Chí thấy Hà Thiết Thủ dẫn thuộc hạ đuổi theo không chịu thả, nghĩ bụng: “Lúc này ba người Thanh Thanh chạy chưa xa lắm.” Vì thế chàng cứ không nhanh không chậm, dụ mọi người đuổi theo mình mấy vòng trong ngự hoa viên. Lát sau chàng cho rằng ba người Thanh Thanh đã rời khỏi hoàng cung, thấy trước mắt có một tòa cung điện, bèn lập tức chuồn vào bên trong. Vừa vào trong cửa đã cảm thấy hương thơm ập vào mũi. Chàng tiện tay đẩy một cánh cửa ra, nép vào sau cửa.
*
* *
Định thần nhìn lại căn phòng này, bất giác Viên Thừa Chí đỏ mặt lên. Ở đây mùng màn chăn gối đều bằng gấm thêu đẹp đẽ, rèm châu mềm mại, sàn trải thảm màu vàng lông ngỗng có thêu một đóa hồng rất lớn. Trên bàn đặt bên cửa sổ có để rất nhiều thứ trang điểm thiếu nữ thường dùng, cách bài trí chỗ nào cũng tinh xảo. Xem ra đây là phòng ngủ của một vị phi tần.
Chàng biết trốn ở đây không ổn, đang muốn lùi ra đột nhiên nghe thấy ngoài cửa có tiếng bước chân nhè nhẹ, rồi giọng thiếu nữ cười nói. Chàng nghĩ bụng: “Bây giờ mà chạy ra ngoài, nhất định sẽ bị bắt gặp. Nếu họ kêu cứu thì trong cung đại loạn, Tào Hóa Thuần sẽ tạm gác gian mưu lại, không chừng sẽ có mưu đồ gì khác mà mình không thể biết.” Chàng bèn nép mình nấp sau một tấm bình phong có vẽ một bức mỹ nhân đồ.
Cửa mở ra, bốn cung nữ đưa một cô gái vào phòng. Một cung nữ hỏi: “Công chúa nghỉ ngơi, hay đọc sách một lát nữa?”
Viên Thừa Chí nghĩ: “Thì ra đây là tẩm cung của công chúa. Chỉ mong nàng ngủ cho nhanh, đừng đọc sách gì hết.”
Công chúa ừ một tiếng, rồi ngồi lên giường. Thanh âm nàng phát ra thật là dịu dàng. Một cung nữ nói: “Đốt hương lên nhé?”
Công chúa lại ừ một tiếng. Chẳng bao lâu, làn khói mỏng nhẹ bay lên, hương thơm ngào ngạt khắp phòng. Viên Thừa Chí cảm thấy sảng khoái, nhưng lại có phần mệt mỏi.
Công chúa lên tiếng: “Đem bút mực ra đây, rồi các ngươi ra ngoài đi.”
Viên Thừa Chí hơi kinh ngạc, nghĩ thầm: “Giọng nói này quen thuộc, hình như là A Cửu. Ôi! Sao ta mãi tơ tưởng đến nàng chi vậy? Mỗi ngày mười bảy mười tám lần vẫn chưa đủ, thật quá hồ đồ.” Chàng bắt đầu sốt ruột, nghĩ: “Nếu bây giờ công chúa vẽ tranh, thì không biết đến bao giờ mới vẽ xong?”
Bọn cung nữ bày xong bút mực đan thanh, vấn an công chúa rồi thi lễ lùi ra hết. Lúc này trong phòng hoàn toàn im lặng, không có tiếng nói, chỉ có tiếng lách tách của gỗ đàn hương cháy trong lư. Thừa Chí lại càng không dám động đậy.
Bỗng nghe công chúa thở ra một hơi, rồi cất giọng ngâm thơ khe khẽ:
“Thanh thanh tử câm; Du du ngã tâm; Túng ngã bất vãng; Tử ninh bất tự âm.
Thanh thanh tử bội; Du du ngã tư; Túng ngã bất vãng; Tử ninh bất lai.
Thao hề, đạt hề; Tại thành khuyết hề; Nhất nhật bất kiến; Như tam nguyệt hề”
(Xanh xanh màu áo chàng ơi
Lòng em man mác nhớ hoài người thương
Em không đến được cùng chàng
Lẽ nào chẳng gởi tin sang một lời
Xanh xanh là mũ chàng rồi
Lòng em thương nhớ bời bời khó nguôi
Em chẳng đến được chàng ơi
Sao chàng chẳng tự đến nơi tỏ tình
Bước lui bước tới một mình
Chỉ em vò võ trong thành buồn sao
Một ngày chẳng được gặp nhau
Dài như ba tháng âu sầu nhớ nhung)
Thanh âm của công chúa vô cùng uyển chuyển dịu dàng, dĩ nhiên là một thiếu nữ còn rất trẻ. Viên Thừa Chí không hiểu hết, nhưng nghe qua “Túng ngã bất vãng; Tử ninh bất lai… Nhất nhật bất kiến, Như tam nguyệt hề”, cũng biết bài cổ thi này diễn tả mối tương tư ở trong lòng. Càng nghe chàng càng cảm thấy giọng nói này quen thuộc. Ngẫm nghĩ một hồi, chàng bỗng thấy tự buồn cười: “Mình là một tên giang hồ thảo mãng, cả đời chưa vào tới kinh sư, đâu thể quen biết một công chúa kim chi ngọc diệp? Chỉ vì mình thường xuyên nghĩ đến A Cửu, nên gặp ai cũng tưởng là A Cửu.”
Công chúa bước đến chiếc bàn. Lát sau nghe tiếng giấy sột soạt và tiếng mài màu vẽ, tiếng bút lướt trên giấy.
Viên Thừa Chí cảm thấy bực bội. Chàng nhìn kỹ chung quanh, cửa phòng đã đóng, lại đối diện với công chúa. Cửa sổ thì màn châu đã buông xuống, muốn ra ngoài chỉ có một cách là xông bừa ra. Hồi lâu, nghe công chúa ngáp một tiếng dài, sau đó lẩm bẩm tự nói với mình: “Thiếp thì thần hồn điên đảo, ngày nào cũng nghĩ đến tướng công. Còn tướng công có lúc nào nhớ đến thiếp chăng?”
Nghe tiếng nàng đứng dậy, rồi tiếng sột soạt cất bức tranh. Cuối cùng là tiếng ghế xê dịch, rồi thanh âm uyển chuyển lại vang lên: “Tướng công ở đây với thiếp nhé.” Cuối cùng là tiếng cởi bỏ y phục, nàng lên giường.
Viên Thừa Chí hiếu kỳ, muốn xem công chúa vẽ người trong mộng ra sao, bèn thò đầu ra nhìn. Chàng không nén nổi giật mình kinh hãi.
Hình vẽ trong tranh giống hệt chàng. Định thần nhìn kỹ lại, chàng thấy người trong tranh khoác trường bào màu xanh dương, ngang lưng thắt sợi dây xanh, miệng đang mỉm cười, mày đậm, mắt to, cằm hơi nhọn, không phải chàng thì còn ai nữa? Người trong tranh tuấn tú hơn chàng rất nhiều, một tay giang hồ thảo mãng đã hóa thân thành một chàng trai mặt ngọc môi hồng. Nhưng dung mạo chẳng khác gì nhau, nhất là thắt lưng đeo một thanh kiếm lượn cong như con rắn, kiếm quang xán lạn, mũi kiếm chẻ đôi. Trên thiên hạ chỉ có một thanh kiếm như thế, dứt khoát không có thanh thứ hai.
Viên Thừa Chí không sao ngờ được người mà công chúa vẽ chính là mình. Chàng kinh ngạc tới mức không kìm nổi buột miệng một tiếng.
Công chúa nghe sau lưng có tiếng người, liền đưa tay rút cây ngọc trâm trên đầu, không quay người lại mà phóng ngay tới chỗ phát ra âm thanh. Viên Thừa Chí thấy ngọc trâm bắn đến mặt mình, lập tức đưa tay chụp lấy. Lúc này công chúa mới quay mặt lại. Hai người nhìn thấy nhau, đều ngẩn mặt ra.
Thì ra cô công chúa này không phải ai xa lạ, chính là A Cửu, đồ đệ của Trình Thanh Trúc. Thừa Chí từng thấy nàng có tùy tùng là thị vệ, đã biết nàng không phải tầm thường, nhưng không ngờ nổi nàng là công chúa.
A Cửu đột ngột nhìn thấy Viên Thừa Chí, mặt tái mét ngay, đưa tay vịn vào ghế như suýt té ngã. Nhưng chỉ chốc lát là nàng hai má đỏ hồng, định thần lại rồi lên tiếng: “Viên tướng công! Tướng công… tại sao… tại sao tướng công ở đây?”
Viên Thừa Chí thi lễ rồi nói: “Tiểu nhân lạc bước vào tẩm cung của công chúa điện hạ, tội đáng chết.”
Mặt A Cửu đỏ bừng lên. Nàng bảo: “Ngồi xuống rồi hãy nói chuyện.” Đột nhiên nàng nhìn thấy tấm áo mình vừa cởi ra khi nãy, lập tức nhảy lên giường, kéo chăn phủ lên thân dưới.
Bọn cung nữ ở ngoài gõ cửa, hỏi: “Công chúa vừa gọi phải không?”
A Cửu đáp: “Không… không có. Ta đang xem sách. Các ngươi đi nghỉ đi, không cần thị phụng ta nữa.”
Cung nữ nói: “Vâng! Công chúa nghỉ sớm nhé.”
A Cửu dùng tay ra hiệu với Viên Thừa Chí, khẽ mỉm cười. Thấy chàng cứ nhìn chòng chọc vào bức tranh đặt trên ghế, nàng không nén nổi hổ thẹn, liền đưa tay đẩy cái ghế qua một bên. Hồi lâu hai người không ai nói tiếng nào, bốn mắt nhìn nhau. Sau đó A Cửu cúi đầu xuống.
Ruột gan Viên Thừa Chí sôi sục hẳn lên. Từ ngày gặp ở Sơn Đông, về sau chẳng có ngày nào chàng không tơ tưởng đến A Cửu, lúc nào trong lòng cũng hiển hiện hình ảnh diễm lệ chẳng ai sánh được của A Cửu. Lúc này được gặp, chàng mừng rỡ đến điên cuồng, cả người nóng rực, nhất thời không nghĩ được gì để nói.
Lát sau Viên Thừa Chí mới khẽ hỏi: “Công chúa biết Ngũ Độc Giáo chứ?”
A Cửu gật đầu đáp: “Tào công công nói Lý Sấm đã phái rất nhiều thích khách đến kinh sư quấy nhiễu, nên công công mời một số cao thủ vào cung hộ giá, có cả Ngũ Độc Giáo.”
Viên Thừa Chí nói: “Sư phụ của công chúa, Trình lão phu tử đã bị họ đả thương. Công chúa có biết không?”
A Cửu biến sắc, nói: “Họ dám đả thương sư phụ của ta ư? Ông ấy bị thương có nặng không?”
Viên Thừa Chí đáp: “Không nguy hiểm lắm.” Chàng đứng dậy rồi nói: “Đêm hôm khuya khoắt không tiện nhiều lời. Bọn tại hạ đang ở hẻm Chính Điện Tử. Ngày mai công chúa có thể đến thăm sư phụ hay không?”
A Cửu đáp: “Được.” Nàng trầm tư một chút, mặt lại đỏ lên, nói: “Tướng công mạo hiểm vào cung để thăm ta, ta… ta rất cảm kích…”
Thần sắc nàng càng lúc càng bối rối, thanh âm càng lúc càng không rõ: “Bây giờ tướng công đã thấy bức tranh ta vẽ. Thế thì tâm sự… tâm sự của ta… tướng công… tướng công đã hiểu rồi…”
Những tiếng sau cùng nhỏ xíu như tiếng muỗi vo ve, hầu như không thể nghe thấy.
Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Hỏng bét! Công chúa vẽ chân dung mình, chắc đã có tình ý rồi, bây giờ lại hiểu lầm mình vào trong cung là để thăm nàng. Chuyện này phải nói rõ ràng mới được.”
Lại nghe công chúa nói: “Từ ngày gặp gỡ ở Sơn Đông, tướng công ngăn cản Chử Hồng Liễu làm hại ta, ta vẫn thường nhớ đến ân đức của tướng công… Tướng công xem bức tranh này vẽ có giống không?”
Viên Thừa Chí đi đến bên giường, khẽ nói: “Công chúa! Tại hạ vào cung là để…”
A Cửu ngắt lời chàng, dịu dàng nói: “Huynh đừng gọi ta là công chúa điện hạ, mà ta cũng không gọi huynh là Viên tướng công nữa. Ngày đầu quen biết, ta là A Cửu, thế thì vĩnh viễn ta là A Cửu. Ta từng nghe Thanh tỉ gọi huynh là đại ca, trong lòng vẫn nghĩ, giá có một ngày ta cũng có thể gọi như thế thì hay biết mấy.”
Viên Thừa Chí nói: “Nếu cô nương gọi ta là đại ca, không chừng ta sẽ mừng rỡ đến mức vỡ tim mà chết.”
Chàng đột nhiên nghĩ đến lúc cùng Thanh Thanh nghe hai người ca nữ hát bài Quải Chi Nhi trên sông Tần Hoài, có câu: Nếu đã thương nhau chân thật; Gọi thế nào cũng là thương. Mặt chàng cũng đỏ bừng lên.
A Cửu cúi đầu xuống, dịu dàng gọi: “Đại ca!” Nàng đưa tay ra, nắm chặt đôi tay Viên Thừa Chí. Chàng khẽ gọi lại: “A Cửu!”
A Cửu nói: “Muội vừa sinh ra, khâm thiên giám đã đoán số mạng, nói rằng nếu muội được chiều chuộng trong hoàng cung sẽ chết yểu, nên phụ vương mới cho muội ra ngoài.”
Viên Thừa Chí nói: “Chẳng trách muội theo Trình lão phu tử để học võ công, lại theo ông ấy bôn tẩu giang hồ.”
A Cửu nói: “Muội ra ngoài thêm phần kiến thức, biết dân chúng thật là khổ sở. Tuy muội vẫn thường lấy tiền bạc trong cung ra bố thí cho họ, nhưng làm sao nuôi được cả thiên hạ?”
Thấy nàng cũng hiểu dân gian khổ ải, Viên Thừa Chí bèn nói: “Thế thì muội nên khuyên hoàng thượng thi hành nhân chính. Nếu bá tính no cơm ấm áo, thiên hạ đương nhiên sẽ được thái bình.”
A Cửu thở dài rồi nói: “Nếu phụ vương chịu nghe lời trình tấu thì hay quá. Phụ vương bị bọn gian thần xu nịnh, cứ tưởng mình làm chuyện gì cũng đúng. Ông ấy trách móc văn võ bá quan không chịu ra sức diệt bọn lưu khấu. Muội từng nói với phụ hoàng: Lưu khấu cũng là bá tính. Nếu có cơm ăn, cuộc sống chấp nhận được, thì lưu khấu sẽ trở thành bá tính. Không thì bá tính sẽ bị ép thành lưu khấu. Tiểu muội lại nói: Phụ vương không thể giết hết bá tính trong thiên hạ được. Ông ấy lập tức nổi giận, kêu trời rồi quát tháo: Ai cũng phản ta, ngay cả đứa con gái ruột cũng phản ta.”
Viên Thừa Chí khen: “Muội thật là người hiểu biết, kiến thức còn hơn hoàng thượng…” Chàng bỗng nghĩ: “Có nên nói cho nàng biết gian mưu của Tào Hóa Thuần không?”
A Cửu đột nhiên hỏi: “Trình lão phu tử có nhắc đến thân thế của muội không?”
Viên Thừa Chí đáp: “Không. Ông ấy nói là đã lập lời trọng thệ, quyết không tiết lộ thân thế của muội. Lúc đó ta cứ tưởng là việc liên quan đến ân oán hay bí mật gì đó trên giang hồ, không sao ngờ nổi muội là công chúa.”
A Cửu nói: “Trình sư phụ vốn là thị vệ của phụ vương. Hồi nhỏ tiểu muội ham vui, từng học võ với ông ấy. Không biết ông ấy phạm phải tội gì mà phụ vương sai người bắt trói, định giết. Tiểu muội chờ đêm tối, lén thả ông ấy ra. Sau này tiểu muội ra ngoài cung săn bắn, gặp lại thì ông ấy đã là bang chủ Thanh Trúc Bang rồi.”
Viên Thừa Chí gật đầu, thầm nghĩ: “Trình lão phu tử từng kể, hành thích hoàng đế bị bắt rồi được người khác cứu, thì ra là cô ấy.”
A Cửu hỏi: “Không hiểu sao ông ấy gây thù với Ngũ Độc Giáo?”
Viên Thừa Chí định nói: “Ngũ Độc Giáo muốn hại phụ thân muội. Chắc chắn họ thám thính được mối liên quan giữa muội với Trình lão phu tử, sợ họ Trình phá hỏng đại sự, nên ra tay trừ khử trước”. Đột nhiên chàng thấy ngọn nến đã ngắn đi một khúc, bèn nghĩ: “Thời gian cấp bách, mình nói chuyện với nàng lâu quá rồi.”
Chàng lập tức đứng dậy, lên tiếng: “Ngày mai chúng ta nói chuyện tiếp nhé!”
A Cửu ửng đôi gò má e lệ, từ từ gật đầu, hai tay vẫn nắm chặt lấy tay chàng không nỡ buông ra.
Ngay lúc đó, có tiếng gõ cửa gấp rút. Mấy người đồng thời hô hoán: “Công chúa điện hạ mau mau mở cửa”.
Một cung nữ kêu lên: “Điện hạ! Điện hạ không sao đấy chứ?”
A Cửu đáp: “Ta ngủ rồi. Có việc gì không?”
Cung nữ ấy đáp: “Có người thấy thích khách lẻn vào cung điện chúng ta.”
A Cửu giận dữ gắt: “Nói bậy! Thích khách gì ở đây?”
Một giọng nữ khác nói: “Điện hạ! Để bọn nô tì vào xem cho chắc.”
Viên Thừa Chí kề tai A Cửu nói nhỏ: “Hà Thiết Thủ!”
A Cửu lớn tiếng: “Nếu có thích khách thì làm sao ta ngủ yên được? Mau đi đi, đừng ở đây làm rộn nữa.”
Những người ngoài cửa nghe công chúa nổi nóng, không dám nói tiếp.
Viên Thừa Chí nhẹ nhàng bước tới cửa, vén một góc màn lên định nhảy ra ngoài. Đột nhiên chàng thấy sáng lòa cả mắt. Viên Thừa Chí nhìn ra ngoài, thấy mười mấy người cầm đuốc canh gác. Chàng nghĩ: “Nếu mình xông bừa ra thì không ai cản nổi, nhưng như thế thì danh dự công chúa sẽ bị hoen ố. Mình không thể làm được”.
Chàng bèn quay lại, khẽ nói tình hình ngoài cửa. A Cửu chau mày, nói nhỏ: “Không sợ! Đại ca ở lại đây một chút là được.” Thế là Thừa Chí lại ngồi xuống.
Chẳng bao lâu, lại có người gõ cửa. A Cửu giận dữ hỏi: “Ai làm gì đó?”
Lần này, giọng đáp là của Tào Hóa Thuần: “Nô tài là Tào Hóa Thuần đây. Hoàng thượng nghe nói thích khách vào cung, rất không yên tâm, sai nô tài đến đây vấn an điện hạ.”
A Cửu nói: “Không dám phiền đến Tào công công. Tào công công về đi, ở đây không có gì cả.”
Tào Hóa Thuần nói: “Điện hạ thân trọng ngàn vàng, để nô tài vào xem qua một vòng hay hơn.”
A Cửu biết, khi Viên Thừa Chí chạy vào đây đã bị người ta nhìn thấy, nên họ quyết phải tìm cho ra. Điều nàng không hiểu là tại sao Tào Hóa Thuần nhúng tay vào việc này. Đó là vì đêm nay hắn cử sự mưu hại hoàng đế. Tào Hóa Thuần biết công chúa có võ công, lại quen biết nhiều nhân vật giang hồ. Nghe Hà Thiết Thủ báo có người trốn vào trong đó, hắn sợ công chúa hẹn người đến giúp, nên không thể không xem xét rõ ràng.
Tào Hóa Thuần ở trong cung rất có thế lực, ngay cả công chúa cũng không thể đương nhiên cãi lại. Nàng suy nghĩ một chút, vừa hổ thẹn mỉm cười vừa đưa tay ra hiệu với Thừa Chí, bảo chàng chui vào trong chăn.
Thừa Chí không còn cách nào nữa, liền cởi giày ra đặt vào trong bọc, leo lên giường nằm bên A Cửu, kéo chăn trùm kín. Từng đợt hương thơm ngọt ngào xông vào cả mũi lẫn miệng chàng.
Ngoài phòng Tào Hóa Thuần không ngừng hối thúc. A Cửu lên tiếng: “Được rồi! Vào đây điều tra đi.”
Viên Thừa Chí nằm cạnh A Cửu trên giường, y phục dính sát vào nhau, đôi chân trần chạm vào chân nàng cảm thấy làn da dịu dàng trơn mịn, dĩ nhiên trong lòng đầy cảm xúc. Chàng biết Tào Hóa Thuần cùng Hà Thiết Thủ đã tiến vào phòng nên không dám động đậy; nhưng cảm giác thấy thân hình A Cửu hơi run rẩy.
A Cửu giả vờ mới thức giấc, ngáp dài rồi nói: “Tào công công! Đa tạ công công đã lưu tâm.”
Tào Hóa Thuần nhìn quanh phòng không thấy gì lạ. Hà Thiết Thủ vờ đánh rơi khăn tay xuống đất để cúi nhặt, nhân tiện đưa mắt nhìn vào gầm giường. Trước đây Viên Thừa Chí cùng Uyển Nhi đã từng chui xuống gầm giường, nàng sợ sư phụ bổn cũ soạn lại.
A Cửu cười hỏi: “Xem kỹ gầm giường rồi chứ? Ta không giấu thích khách phải không?”
Hà Thiết Thủ nói: “Điện hạ minh giám! Tào công công chỉ sợ điện hạ bị hoảng sợ mà thôi.”
Nàng quay đi chỗ khác, chợt nhìn thấy bức tranh vẽ Viên Thừa Chí. Hà Thiết Thủ ngẩn ra một chút, rồi đưa mắt nhìn như tên bắn vào khuôn mặt đẹp đẽ của A Cửu, ánh mắt đầy vẻ giễu cợt, chẳng tốt lành gì. Mặt A Cửu vốn đã đỏ rồi, bị nhìn như vậy càng không dám ngẩng đầu lên.
Tào Hóa Thuần nói: “Điện hạ ở đây vô sự, thế thì hoàng thượng yên tâm rồi. Chúng ta điều tra nơi khác đi.”
Hắn quay lại dặn bốn ả cung nữ: “Các ngươi ở đây với điện hạ, không được rời khỏi. Dù điện hạ cho phép, cũng không được biếng nhác mà ra ngoài nghỉ. Đã biết chưa?”
Bốn ả đều khom lưng nói: “Xin nghe công công chỉ dạy.” Sau đó Tào Hóa Thuần, Hà Thiết Thủ cùng những cung nữ còn lại thỉnh an cáo từ.
A Cửu bảo: “Buông màn xuống. Ta ngủ đây.”
Hai ả cung nữ bước tới, nhẹ nhàng buông màn xuống, bỏ thêm chút ít gỗ trầm vào lư hương, thắp nến đỏ lên, rồi ra một góc phòng ngồi canh gác.
A Cửu nửa mừng nửa thẹn, bỗng dưng được ngủ cùng giường với ý trung nhân mà mình đêm ngày tương tư, bất giác say sưa khó tả. Đưa mắt nhìn mấy gợn khói đàn hương thoang thoảng bay lên phía trên bức màn, nàng cảm thấy trái tim mình cũng như làn khói đó, phất phơ không sao yên ổn được. Nàng rụt người về phía sau, rúc vào trong lòng Viên Thừa Chí.
Viên Thừa Chí đưa cánh tay ra quàng lấy hông nàng, bỗng nghĩ: “Mình vừa chui xuống gầm giường nằm với Uyển Nhi, hai người cũng sát nhau như vậy. Bây giờ tình thế lại bắt buộc ôm công chúa. Hai cô đều dịu dàng khả ái, nhưng về dung mạo thì A Cửu xinh đẹp gấp mười Uyển Nhi. Từ lúc gặp nhau ở Sơn Đông mình cứ ngày đêm tơ tưởng, không ngờ hôm nay được ôm người ngọc vào lòng.” Chàng vừa hoan hỉ vừa âm thầm lo lắng.
Trong lòng A Cửu lại nghĩ: “Có phải chuyện thật không? Hay mình lại nằm mơ rồi?”
Hồi lâu, bỗng nghe Viên Thừa Chí nói rất nhỏ: “Làm sao bây giờ? Ta phải tìm cách ra ngoài chứ?”
A Cửu khẽ “À” một tiếng. Bỗng dưng nàng ngửi thấy mùi thân thể nam nhân của Viên Thừa Chí, một đợt hoan hỉ ngọt ngào lại trào lên trong lòng, bèn nhẹ nhàng tựa vào sát người chàng thêm chút nữa. Đột nhiên vai trái và đùi trái đụng phải vật gì lạnh ngắt, nàng kinh hãi đưa tay sờ thử. Thì ra đó là một thanh kiếm đã tuốt khỏi vỏ, đặt giữa hai người.
A Cửu nhẹ nhàng hỏi: “Cái gì vậy?”
Viên Thừa Chí đáp: “Ta đã nói rồi, muội đừng trách.”
A Cửu hỏi: “Ai trách ca ca?”
Viên Thừa Chí khẽ nói: “Ta vô ý xông vào phòng của muội, nằm chung thế này là do tình thế ép buộc. Ta không phải loại người vô lễ như thế.”
A Cửu nói: “Ai trách ca ca? Lấy thanh kiếm ra đi, kẻo muội bị thương.”
Viên Thừa Chí nói: “Tuy chúng ta giữ lễ với nhau, nhưng nằm cùng giường với một cô nương diễm lệ thế này, ta sợ không làm chủ được mình…”
A Cửu mỉm cười, dịu dàng ngắt lời: “Nên ca ca mới đặt thanh kiếm vào giữa… Ca ca ngốc nghếch ơi…”
Hai người sợ đám cung nữ ngoài màn nghe thấy, nên đều rúc sâu vào trong chăn, nói rất nhỏ. Thừa Chí không tự chủ được nữa, đưa tay phải quàng qua lưng A Cửu. A Cửu cũng đưa hai tay ra ôm lấy cổ chàng. Chàng dùng hai ngón tay, nhặt Kim Xà Kiếm bỏ ra sau lưng mình. Hai người ôm sát vào nhau, cả hồn lẫn xác đều say mê đắm đuối. A Cửu khẽ gọi: “Ca ca! Muội ao ước được ca ca vĩnh viễn ôm chặt thế này.”
Viên Thừa Chí đưa mặt tới, hôn lên môi nàng. A Cửu hôn trả, thân hình nóng rực hẳn lên, hai tay càng ôm riết Viên Thừa Chí.
Suốt đời Viên Thừa Chí chưa từng thân mật với nữ nhân nào đến thế. Khi gần gũi Thanh Thanh, hai bên chỉ nắm tay nhau là cùng. Bây giờ môi đã chạm môi, hơi thở A Cửu thơm phức mùi hoa lan, mấy sợi tóc mềm ve vuốt mặt mình, trong lòng chàng run rẩy, âm thầm cảnh giác: “Nhất định không được sinh tà niệm! Sinh tà niệm là hỏng bét! Phải nhanh chóng nghĩ ra mấy chuyện đàng hoàng để nói!”
Chàng vội vã dứt môi mình ra khỏi mặt nàng, hỏi nhỏ: “Huệ vương gia là ai?”
A Cửu đáp: “Ông ấy tên là Thường Nhuận, vai vế lớn hơn phụ vương một đời, muội kêu bằng thúc tổ phụ.”
Viên Thừa Chí nói: “Thế là đúng rồi. Họ muốn đưa ông ấy lên ngôi, muội có biết không?”
A Cửu kinh hãi hỏi: “Gì thế? Họ là ai?”
Viên Thừa Chí đáp: “Tào Hóa Thuần đã thông đồng với Nhuệ Thân Vương ở Mãn Châu, muốn mượn quân Thanh để đánh Sấm Vương.”
A Cửu giận dữ hỏi: “Có chuyện này ư? Bọn Mãn Châu có gì tốt đẹp đâu? Không phải chúng đang muốn đoạt lấy giang sơn Đại Minh chúng ta hay sao?”
Viên Thừa Chí đáp: “Đúng vậy! Hoàng thượng không đồng ý, nên bọn Tào Hóa Thuần muốn đưa Huệ vương gia đăng cơ.”
A Cửu nói: “Không sai. Huệ thúc gia rất tham quyền cố vị, nhất định sẽ đồng ý mượn binh diệt khấu.”
Viên Thừa Chí nói: “E rằng ngay đêm nay chúng sẽ cử sự.”
A Cửu run giọng hỏi: “Đêm nay ư? Thế thì nguy cấp quá. Chúng ta mau đi bẩm cáo với phụ vương.”
Viên Thừa Chí nhắm mắt không nói gì, trong lòng trù trừ suy tính: “Sùng Trinh là kẻ thù giết cha mình. Mười mấy năm trời, không ngày nào mình không muốn đi giết y để trả mối huyết hải thâm thù. Bây giờ hoàng cung đột nhiên xảy ra nội biến, mình không cần động tay vẫn có thể nhìn kẻ thù mất mạng. Đúng là một chuyện đáng mừng. Nhưng nếu Tào Hóa Thuần cùng bọn gian thần thành công, quân Thanh nhập quan, nghĩa quân Sấm Vương nhất định có khó khăn. Nếu quân Thanh đánh thẳng vào, Sấm Vương không chống nổi, há chẳng mất trắng giang sơn? Tử tôn hoàng đế biến thành nô lệ của bọn Hồ Lỗ hay sao?”
A Cửu khẽ đẩy lên vai Viên Thừa Chí một cái, hỏi: “Ca ca đang nghĩ gì vậy? Chúng ta phải nhanh chân một chút, lật tẩy âm mưu của bọn gian nhân.”
Viên Thừa Chí vẫn trù trừ chưa quyết, A Cửu bèn nói nhỏ: “Chỉ cần ca ca không quên muội, chúng ta sẽ… sẽ mãi mãi cùng ở một nơi… Sau này… chúng ta… còn nhiều lúc như thế này.”
Nói xong, nàng từ từ kề mặt sát tới Viên Thừa Chí, chủ động hôn lên môi chàng.
Viên Thừa Chí rùng mình, bỗng nghĩ: “Thì ra A Cửu tưởng mình không chịu đứng dậy vì luyến tiếc thú ôn nhu. Được! Bây giờ đi xem tình hình thế nào rồi sẽ tính tiếp. Thật ra mình đứng dậy cũng không phải dễ.”
Chàng khẽ nói: “Muội đã nói thì đừng quên đấy nhé. Bây giờ muội điểm huyệt hết bọn cung nữ này đi, rồi lấy chăn bịt mắt chúng lại. Sau đó chúng ta mới ra ngoài.”
A Cửu hỏi: “Điểm vào chỗ nào? Muội không biết.”
Viên Thừa Chí nắm lấy tay phải của nàng, cảm thấy mềm mại dịu dàng như không có xương cốt. Chàng đưa tay nàng sờ vào đầu cái xương sườn thứ mười một ở trước ngực mình, nói: “Đây là huyệt Chương Môn. Muội dùng đầu ngón tay điểm vào bộ vị này, họ sẽ không động đậy được. Đừng dùng quá sức, coi chừng tổn thương sinh mạng.”
A Cửu lo lắng phụ vương đang nguy cấp, bước ngay xuống giường, vén màn ra. Bốn ả cung nữ lập tức đứng dậy hỏi: “Điện hạ cần gì?”
A Cửu nép vào sau màn, gọi từng ả vào, theo cách Viên Thừa Chí chỉ dạy mà điểm huyệt từng ả một. Đến ả cuối cùng, nàng nhận huyệt không chuẩn xác lắm nên ả la được một tiếng. A Cửu vội đưa tay bịt miệng, sờ chính xác huyệt đạo rồi điểm tiếp cái nữa, ả cung nữ kia mới chịu ngất xỉu.
Nàng chưa bước khỏi tấm màn, Viên Thừa Chí đã xuống giường, mang giày xong rồi. A Cửu mặc quần áo đàng hoàng xong, quay lại mỉm cười với Viên Thừa Chí, mặt đầy vẻ e ấp. Viên Thừa Chí nhịn không nổi, lại đưa hai tay ra ôm lấy nàng, khẽ hôn lên môi một cái. A Cửu dịu dàng gọi: “Đại ca!”
Viên Thừa Chí dịu dàng gọi lại: “A Cửu!”
A Cửu đỏ ửng mặt lên, hỏi nhỏ: “Ca ca sẽ vĩnh viễn không quên muội, có đúng thế không?”
Thừa Chí bỗng nghĩ đến Thanh Thanh, cảm thấy khó xử. Nhưng bây giờ ở đây, chàng chỉ còn cách ghì chặt lấy A Cửu mà nói: “Đương nhiên! Ta vĩnh viễn không quên muội.”
Hai người khẽ đẩy cửa sổ, thấy bên ngoài không có ai, bèn cùng lúc nhảy ra. A Cửu bảo: “Ca ca đi theo muội.” Nàng nắm tay phải Viên Thừa Chí, dẫn thẳng tới cung Càn Thanh.
Sắp đến cửa cung thì thấy trước mặt lố nhố bóng người, phải tới mấy trăm. A Cửu kinh hãi nói: “Nghịch tặc đã bao vây tẩm cung của phụ vương rồi. Nhanh lên!”
Hai người rảo bước chạy tới. Chưa được mười trượng, một tên thái giám tiến ra chặn đường. Nhìn thấy Trường Bình công chúa, hắn giật mình, nhưng thấy nàng chỉ dẫn theo một tùy tùng nên không lưu ý đề phòng lắm, chỉ khom lưng hỏi: “Công chúa điện hạ chưa ngủ ư?”
Viên Thừa Chí và A Cửu thấy trước sau cung Càn Thanh đầy nghẹt thái giám và thị vệ, ai cũng tay cầm binh khí, biết đã đến lúc nguy cấp rồi. A Cửu quát lên: “Tránh ra!” Nàng đưa tay gạt tên thái giám, đi thẳng vào trong.
Mấy tên thị vệ canh gác ngoài cung định chặn đường, nhưng đều bị Viên Thừa Chí đẩy ra. Bọn thái giám và thị vệ không dám động võ, vội báo cho Tào Hóa Thuần biết.
Tào Hóa Thuần bày kế hoạch đưa Huệ Vương lên làm vua, nhưng chính mình lại không dám ra mặt, lén lút chỉ huy bên ngoài. Nghe báo Trường Bình công chúa đã vào cung Càn Thanh, hắn nghĩ: “Chỉ có một thiếu nữ, chắc không làm gì được.” Hắn bèn ra lệnh cho bọn thị vệ phòng thủ nghiêm ngặt hơn.
A Cửu dẫn Viên Thừa Chí tiến thẳng đến thư phòng mà Sùng Trinh thường ngồi phê duyệt tấu chương. Đến gần, thấy ngoài cửa phòng có mười mấy tên thái giám, thị vệ bao vây. Mặt đất đầy máu tươi, bảy tám thi thể nằm ngổn ngang, chắc là đám thị vệ của hoàng đế đã bị phản tặc giết chết.
Mọi người nhìn thấy công chúa đều ngẩn ra. A Cửu kéo tay Viên Thừa Chí chạy vào thư phòng, một tên thị vệ hét lên: “Dừng lại!”
Hắn vung đao chém tới Viên Thừa Chí. Chàng nghiêng người tránh né, tiện tay hất một chưởng vào ngực, hắn lập tức té nhào. Viên Thừa Chí liền mở cửa phòng, đi vào.
Trong phòng đèn đuốc sáng trưng, mười mấy người đang đứng. A Cửu kêu lớn: “Phụ vương!” Nàng chạy về phía một người mặc áo hoàng bào, đầu đội mũ đoạn đen.
Thừa Chí nhìn kỹ, thấy người đó khoảng ba lăm ba sáu tuổi, thần sắc vừa kinh hãi vừa giận dữ. Chàng biết đây chính là kẻ thù giết phụ thân mình, Sùng Trinh hoàng đế. Đã có hai tên cẩm y thị vệ đưa đao ra cản chàng lại.
Sùng Trinh đột nhiên thấy con gái đến đây, vội quát: “Ngươi đến đây làm chi? Mau ra ngoài đi.”
Một người trung niên phục sức sang trọng, vừa cao vừa ốm, sắc mặt trắng xanh cất tiếng: “Giặc đã đến Ninh Võ Quan rồi, chỉ vài ngày nữa là tới kinh sư. Đến lúc này ngươi vẫn chưa chịu mượn binh diệt khấu là có âm mưu gì? Chẳng lẽ muốn hai tay dâng thiên hạ Đại Minh cho Sấm tặc hay sao?”
Viên Thừa Chí đã biết đây là Huệ Vương. Tổng quản Ngụy Đào Thanh của hắn cầm đơn đao đứng bên cạnh. Viên Thừa Chí chưa muốn ra mặt, bèn đứng khuất sau lưng một tên phản tặc, quan sát tình thế trong thư phòng.
A Cửu giận dữ nói: “Huệ thúc gia! Thúc gia cả gan thật, dám vô lễ với hoàng thượng.”
Huệ Vương vừa cười vừa nói: “Vô lễ ư? Hắn muốn phá hủy giang sơn của Thái Tổ hoàng đế để lại. Con cháu họ Chu chúng ta, chẳng ai có thể dung thứ cho hắn.”
“Soạt” một tiếng, thanh kiếm đang đeo trên người đã rút ra khỏi vỏ. Huệ Vương trừng mắt, giận dữ quát: “Bây giờ thì sao? Nói chắc một lời đi.”
Sùng Trinh thở ra một hơi rồi nói: “Trẫm vô đức vô năng, đã làm thiên hạ đại loạn. Nếu để Sấm tặc xâm nhập kinh thành, dĩ nhiên xã tắc sụp đổ; còn mượn quân Hồ Lỗ, nhất định làm hại quốc gia. Trẫm lấy cái chết để tạ lỗi với muôn dân, chẳng có gì đáng tiếc. Chỉ tiếc là giang sơn cơ nghiệp của tổ tông từ nay thuộc về người khác.”
Huệ Vương cầm kiếm tiến gần một bước, hét lên: “Vậy ngươi lập tức hạ chiếu, nhường ngôi cho bậc hiền năng.”
Sùng Trinh rùng mình một cái, quát hỏi: “Ngươi định thí quân soán vị hay sao?”
Huệ Vương đưa mắt ra hiệu. Một tên cẩm y thị vệ vung trường đao lên, hô lớn: “Hôn quân vô đạo, ai cũng được giết.”
Nghe giọng nói quen quen, Viên Thừa Chí chợt động tâm nhìn kỹ. Dưới ánh nến, rõ ràng đây là An Kiến Thanh, chồng của An đại nương.
A Cửu giận dữ thét lên, lập tức xách một cái ghế nhảy ra cản trở trước mặt phụ vương, đỡ liền ba đao của An Kiến Thanh chém tới. Bọn thị vệ của Huệ Vương dẫn đến liền xông lên. Thừa Chí thấy A Cửu không chống nổi, liền chạy vào trong phòng. Tay chàng vừa đưa lên, lập tức hai tên thị vệ văng xa mấy trượng. Chàng trao Kim Xà Kiếm cho A Cửu, chính mình thì đứng bên Sùng Trinh bảo vệ.
Mười mấy tên cẩm y vệ xông tới giết hoàng đế đều bị Viên Thừa Chí vung quyền phóng cước, đánh cho đứt gân gãy xương hết. A Cửu cầm bảo kiếm trên tay, tinh thần phấn chấn hẳn lên, chỉ mấy chiêu đã chém gãy trường đao của An Kiến Thanh.
Huệ Vương thấy rõ việc lớn sắp thành công, không ngờ Trường Bình công chúa đột nhiên xuất hiện, còn dẫn một cao thủ tuyệt thế đến hộ giá. Viên Thừa Chí mặc sắc phục thái giám, trong lúc khẩn trương hắn không nhận ra, bèn lớn tiếng hô: “Bên ngoài mau vào đây!”
Hà Thiết Thủ, Hà Hồng Dược, Ôn Thị Tứ Lão cùng vâng dạ tiến vào. Nhìn thấy Viên Thừa Chí, không ai là không thất sắc. Cặp mắt Ôn Phương Đạt như tóe lửa ra, thét to: “Lo liệu thằng lỏi này trước đã!” Bốn anh em xông đến bao vây Viên Thừa Chí.
A Cửu lùi đến bên cha, dựa vào bảo kiếm lợi hại mà chém gãy hết vũ khí của địch nhân, đám thủ hạ của Huệ Vương nhất thời không thể tới gần. Nhưng nàng thấy địch thủ càng lúc càng đông, Viên Thừa Chí bị năm sáu cao thủ bao vây lại, không thể phân thân trợ giúp cho mình, tình thế vô cùng nguy cấp.
Đang hoảng loạn, đột nhiên nàng thấy một người dễ sợ. Một mụ ăn mày trừng to mắt, vung đôi tay để lộ mười móng vuốt bén nhọn, hét lên: “Trả Kim Xà Kiếm cho ta!”
Lúc này Viên Thừa Chí đã định được chủ ý. Việc có nặng có nhẹ, việc thì gấp rút, việc thì có thể từ từ. Trước mắt bất luận thế nào cũng phải cứu mạng hoàng đế, để quân Thanh không thể vào quan ải. Sau đó đợi Sấm Vương vào kinh rồi mới ra tay giết Sùng Trinh để trả thù cho phụ thân. Việc nước trước việc nhà sau, việc công trước việc tư sau, thế mới là đại nghĩa.
Ôn Thị Tứ Lão võ công cao cường, tuy không lập được Ngũ Hành Trận, nhưng cũng rất khó thắng ngay. Chàng đang bị bao vây tứ phía, nhìn sang thấy thần sắc A Cửu tán loạn, bảo kiếm vung lên loạn xạ, dần dần không sao chống nổi mụ Hà Hồng Dược hung dữ như điên dại. Đột nhiên chàng lạng sang trước mặt Hà Thiết Thủ, khẽ bảo: “Mau giết bọn Tào Hóa Thuần tạo phản soán vị!”
Khi hạ lệnh cho Ngụy Đào Thanh đi mời Ngũ Độc Giáo vào Chiêu Hiền Quán, Huệ Vương đã tặng trước hai mươi vạn lạng bạc, hứa cho Ngũ Độc Giáo ăn cắp khố ngân trong Hộ bộ bao nhiêu cũng được. Hắn còn nói đang mưu đồ đại sự, sau khi thành công thì giao hai tỉnh Vân Nam và Quế Châu cho Ngũ Tiên Giáo tự do hành đạo, truyền giáo, xây dựng giáo quán, làm pháp sự thu tiền của dân gian. Đối với Ngũ Độc Giáo, dĩ nhiên đó là kho báu vô cùng vô tận, một mình chiếm cứ hai tỉnh Vân Nam, Quế Châu, có thể hành động vô pháp vô thiên.
Lúc đó Hà Thiết Thủ nghĩ, mưu đồ không thành thì rút về, chẳng tổn thất gì, bèn đồng ý.
Nàng đã có võ công cao cường, cả đời chưa gặp địch thủ, nhưng khi giao đấu với Viên Thừa Chí thì đột nhiên phát hiện một khung trời mới mẻ trong võ học. Thiếu niên này xuất thủ lợi hại, chiêu số biến hóa, nội lực cường mãnh, thật không thể ngờ được, nằm mơ cũng không thấy nổi.
Nàng mới năm tuổi thì phụ thân tạ thế, nên không được minh sư truyền thụ những loại võ công thượng thừa của giáo phái. Những người dạy võ cho nàng đều là cao thủ trong Ngũ Độc Giáo nhưng địa vị không cao lắm, nhiều chỗ ảo diệu chưa hiểu hết. Nàng biết là không ít cao chiêu của bản giáo được ngộ từ con Tiểu kim xà, vẫn thường sai Tề Vân Ngạo thả Tiểu kim xà ra để nghiên cứu thân pháp của nó. Tuy lãnh hội không ít, nhưng dù sao cũng có giới hạn.
Phen này mấy lần giao đấu với Viên Thừa Chí, thấy Kim Xà võ công của chàng biến hóa huyền diệu vô cùng, ăn đứt con Tiểu kim xà, nàng đã thán phục vô cùng. Đến khi nhìn thấy võ công phái Hoa Sơn và công phu Thiết Kiếm Môn mà chàng được Mộc Tang đạo nhân truyền thụ, nàng mới cảm thấy mình ở Vân Nam Quế Châu hẻo lánh giống như ếch ngồi đáy giếng không biết trời đất mênh mông. Như một người tham tiền đột nhiên nhìn thấy kho báu ở ngay bên cạnh, thò tay ra là lấy được ngay, nàng lập tức đỏ mắt nóng lòng, quyết học được những môn võ công thượng thừa đó mới thôi.
Nàng từng nói, đêm đầu giao đấu với Viên Thừa Chí về không ngủ được, đó không phải là nói dối. Mấy ngày nay tinh thần nàng càng tán loạn, lúc nào cũng nghĩ đến việc học võ công, quyết tìm cách bái Viên Thừa Chí làm sư phụ. Thiếu nữ lần đầu gặp gỡ tình lang chưa chắc đã khẩn thiết bằng.
Hôm nay quấy rối loạn lên, được Viên Thừa Chí đồng ý nhận làm đồ đệ, nàng hoan hỉ vô cùng, thầm nghĩ: “Bái được một vị minh sư như thế, ngôi vị giáo chủ cùng trăm vạn lạng, ngàn vạn lạng đều chẳng đáng kể chút nào. Từ nay về sau chỉ cần không trái sư lệnh là xong.” Viên Thừa Chí đã sai bảo, đó là mệnh lệnh đầu tiên của sư phụ. Nàng lập tức xoay người, vung cái móc sắt bên tay trái đánh tới Ôn Phương Ngộ.
Ôn Phương Ngộ không sao ngờ được Hà Thiết Thủ đột nhiên quay vũ khí. Hắn giật mình kinh hãi, thu nhuyễn tiên về mong cản trở thiết câu. Nhưng Hà Thiết Thủ xuất chiêu ác độc, lại tấn công trong lúc đối phương không phòng bị, nên thiết câu đã vạch trúng vào cánh tay trái của lão một đường. Thiết câu có kịch độc, chớp nhoáng là sắc mặt Ôn Phương Ngộ tái xanh, tay trái tê liệt hoàn toàn, thân hình lảo đảo muốn ngã, tay phải không ngớt dụi mắt mà la: “Ta không nhìn thấy gì! Ta… ta trúng độc rồi!”
Ba lão họ Ôn nghĩ tình máu mủ, không tấn công nữa mà quay ra dìu đỡ Ôn Phương Ngộ.
Viên Thừa Chí rảnh tay, phóng chưởng đánh trúng lưng tổng quản Ngụy Đào Thanh của Huệ Vương, họ Ngụy lập tức ngất xỉu. Chàng quay lại, thấy A Cửu đang thở hổn hển, cố sức ngăn trở Hà Hồng Dược và An Kiến Thanh giáp công, đã đến lúc không cố được nữa. Chàng lập tức nhảy xổ tới, túm lấy lưng Hà Hồng Dược, quẳng mụ ra ngoài vòng chiến. An Kiến Thanh đang ngơ ngác thì bị A Cửu đưa Kim Xà Kiếm đâm trúng đùi bên trái, té nhào xuống đất.
Lúc này Ôn Phương Ngộ đã phát độc, ngất xỉu ngay tại đó. Ôn thị tam lão kinh hãi ra ám hiệu. Ôn Phương Nghĩa ôm lấy ngũ đệ, còn Ôn Phương Đạt và Ôn Phương Sơn người mở đường người đoạn hậu, chạy ra ngoài thư phòng.
Hà Thiết Thủ đuổi theo, móc trong bọc ra một gói nhỏ, vừa ném vừa la lên: “Thuốc giải đây, cầm lấy!”
Ôn Phương Sơn quay lại chụp, Hà Thiết Thủ vừa cười vừa quay lại.
Thế là tình hình thay đổi hẳn. Viên Thừa Chí và A Cửu đánh tan hai mươi mấy tên cẩm y vệ, đuổi chúng chạy tứ tung.
Cửa điện mở ra, Tào Hóa Thuần dẫn một toán thân binh bảo vệ kinh thành chạy vào trong. Viên Thừa Chí thấy địch người đông thế mạnh, bèn hô lớn: “A Cửu, Hà giáo chủ! Chúng ta bảo vệ hoàng đế chạy ra ngoài.”
A Cửu và Hà Thiết Thủ vâng dạ. Ba người lùi lại đứng quanh Sùng Trinh, đang định xông tới tìm đường thoát, bỗng nghe Tào Hóa Thuần la lên: “Gian tặc cả gan kinh động ngự giá, giết hết cho ta!”
Thế là đám thân binh bắt đầu ác đấu với bọn cẩm y vệ. Huệ Vương kinh hãi, ngơ ngác hỏi: “Tào công công! Ngươi… ngươi với ta…”
Chưa nói xong, hắn đã thấy Tào Hóa Thuần trỏ tay vào mặt mình. Huệ Vương vẫn còn kinh ngạc, nhưng lập tức chạy ra khỏi điện. Hắn chạy tới tận Quảng Châu, mãi sau này mới bị quân Thanh bắt được xử tử.
Chẳng những bọn cẩm y vệ kinh hãi thất sắc, ngay cả Viên Thừa Chí, Hà Thiết Thủ và A Cửu ba người cũng phải ngạc nhiên. Chỉ có Sùng Trinh thầm khen Tào Hóa Thuần trung nghĩa.
Thì ra Tào Hóa Thuần đứng ngoài theo dõi tình hình, biết ưu thế của mình đã mất, âm mưu thí quân không thành công được, bèn gấp rút thay đổi kế hoạch. Hắn đi gọi số thân binh dự bị ở kinh thành, dẫn vào Càn Thanh Cung cứu giá.
Bọn cẩm y vệ thấy Tào Hóa Thuần thay đổi kế hoạch, đều buông binh khí xuống. Tào Hóa Thuần la lên: “Bắt hết, bắt hết!”
Đám thân binh bắt hết bọn cẩm y vệ. Vừa ra khỏi cửa điện, Tào Hóa Thuần lại la lên: “Chặt đầu!”
Thế là trong chốc lát, toàn bộ những người tham dự âm mưu phản nghịch đã bị giết sạch sành sanh, ngay cả Ngụy Đào Thanh cũng không thoát khỏi đại nạn một đao đứt cổ. Kế hoạch giết người bịt miệng của Tào Hóa Thuần thành công tốt đẹp.
Hà Thiết Thủ thấy tình hình đã ổn định, mỉm cười nói: “Sư phụ! Ngày mai muội sẽ gặp sư phụ dưới gốc cây lớn ngoài Tuyên Võ Môn.” Nói xong, nàng dắt tay Hà Hồng Dược quay lưng chạy ra ngoài.
Sùng Trinh gọi theo: “Cô nương, cô nương…” Hắn muốn trả công hộ giá, nhưng Hà Thiết Thủ không thèm để ý, đi thẳng ra khỏi cung.
Sùng Trinh quay lại, thấy con gái mình vấy đầy máu tươi đang mỉm cười nhìn Viên Thừa Chí. Thần hồn hắn đã tương đối ổn định, ngồi lại vào ghế, hỏi: “Người này là ai? Công lao không nhỏ, trẫm… trẫm nhất định trọng thưởng.”
Hắn chờ Viên Thừa Chí quỳ xuống khấu đầu, nào ngờ Viên Thừa Chí cứ đứng trơ ra đó. A Cửu kéo vạt áo chàng, khẽ bảo: “Mau tạ ơn đi.”
Viên Thừa Chí đứng nhìn Sùng Trinh, nghĩ đến cha mình liều thân vì nước, lập nhiều công lớn, lại bị tên hoàng đế này xử lăng trì. Trong lòng chàng vô cùng bi phẫn. Nhìn kỹ lại kẻ thù giết cha, chàng thấy hai má hắn hóp vào, thái dương có không ít tóc bạc, mắt đầy vằn đỏ, thần sắc rất tiều tụy. Lúc này gian mưu đoạt vị đã bị dẹp yên, bọn tạo phản đã bị trừ hết, nhưng mặt Sùng Trinh vẫn lộ vẻ bất an, chẳng hoan hỉ chút nào. Viên Thừa Chí nghĩ: “Hắn làm hoàng đế giống như chịu tội, không thấy sướng đâu.”
Sùng Trinh không hiểu Viên Thừa Chí đang nghĩ ngợi nhiều như thế, lại dịu dàng hỏi: “Ngươi tên gì? Làm việc ở đâu?” Hắn thấy Viên Thừa Chí mặc sắc phục thái giám, tưởng chàng là một tên tiểu thái giám.
Viên Thừa Chí định thần lại, ngang nhiên đáp: “Ta là Viên Thừa Chí, con trai Viên Sùng Hoán, cố Binh bộ thượng thư, Đốc sư Kinh Liêu.”
Sùng Trinh ngơ ngác, hình như không nghe rõ, hỏi lại: “Cái gì?”
Viên Thừa Chí nói: “Tiên phụ Viên Sùng Hoán có đại công với nước, nhưng đã bị ông xử tử oan uổng.”
Sùng Trinh im lặng hồi lâu, thở dài rồi nói: “Bây giờ ta đã hối hận rồi.” Lát sau, hắn lại hỏi: “Ngươi muốn thưởng gì?”
A Cửu cả mừng, khẽ kéo vạt áo Viên Thừa Chí. Rõ ràng nàng muốn chàng nhân cơ hội để xin làm phò mã.
Viên Thừa Chí giận dữ nói: “Ta vì quốc gia mà cứu ông, không cần ban thưởng gì hết. Thôi được! Hoàng thượng đã hối hận thì hãy xuống chiếu, rửa mối oan uổng cho tiên phụ.”
Tính tình Sùng Trinh bảo thủ, muốn hắn công khai nhận lỗi còn khó hơn lên trời. Vì thế hắn nghe xong im lặng, không nói tiếng nào.
Tào Hóa Thuần bỗng chạy vào trong điện, cung thỉnh thánh an rồi tấu: “Bọn phản nghịch đã bị xử trảm hết. Thần đang sai người đi bắt gia thuộc của Huệ Vương và bọn nghịch tặc đầu sỏ.”
Sùng Trinh gật đầu khen: “Hay lắm! Cuối cùng chỉ có ngươi là trung thành.”
Tào Hóa Thuần nhìn thấy Viên Thừa Chí, trong lòng bỗng nghi ngờ: “Tên này là sứ giả của Cửu vương gia Mãn Thanh, sao lại đến đây làm hỏng đại sự của ta?”
Viên Thừa Chí định lật mặt nạ mưu phản của Tào Hóa Thuần, nhưng lại nghĩ: “Chỉ vài ngày nữa là nghĩa quân Sấm Vương sẽ đến kinh sư. Để mặc tên gian tặc tiểu nhân này ở trong cung nắm quyền hành, đối với nghĩa quân có lợi hơn nhiều.”
Chàng không lý gì đến hoàng thượng nữa, bảo A Cửu: “Muội trả kiếm đi, ta phải ra ngoài.”
A Cửu vô cùng lo lắng, mặc kệ phụ vương và Tào Hóa Thuần bên cạnh, buột miệng hỏi: “Bao giờ ca ca mới vào đây thăm muội?”
Viên Thừa Chí chỉ đáp: “Điện hạ bảo trọng!”, rồi đưa tay toan lấy thanh kiếm lại. A Cửu rút tay về nói: “Muội tạm thời giữ kiếm, lần sau gặp mặt mới trả cho ca ca.”
Nói xong, nàng chăm chăm nhìn mặt Viên Thừa Chí, ánh mắt nói rất rõ ràng: “Mong ca ca đến sớm, ngày đêm tiểu muội mong chờ.”
Viên Thừa Chí thấy Sùng Trinh và Tào Hóa Thuần đầy vẻ kinh ngạc, nên không tiện nói nhiều, chỉ gật đầu một cái rồi quay lưng bỏ đi.
A Cửu đuổi theo đến cửa Càn Thanh Cung, nói nhỏ: “Ca ca cứ yên tâm! Muội vĩnh viễn không phụ lòng ca ca.”
Viên Thừa Chí biết đây không phải lúc để giải thích, cũng không phải nơi để nói chuyện, bèn bảo: “Thiên hạ sắp đại biến, muội ở trong thâm cung không tốt bằng ra chốn giang hồ. Hãy nhớ lấy câu này.”
Chàng biết Sấm Vương sắp vào kinh thành, trong lúc binh hoang mã loạn thì hoàng cung đúng là nơi nguy hiểm nhất, nên bảo nàng ra khỏi cung để tránh tai họa.
Nào ngờ A Cửu vì đa tình mà hiểu lầm, cúi mặt xuống nói dịu dàng: “Không sai! Tiểu muội muốn theo ca ca bôn tẩu giang hồ, bốn bể là nhà, còn hơn là hưởng phúc trong hoàng cung. Lần sau ca ca đến đây, chúng ta… chúng ta sẽ nói chuyện tỉ mỉ…”
Viên Thừa Chí thở nhẹ một hơi, chợt nghĩ đến Thanh Thanh. Trong lòng chàng không yên, mất hết chủ ý, chỉ biết vẫy tay từ biệt rồi nhảy qua tường ra ngoài. A Cửu thấy chàng chia tay mà không được nửa câu nói dịu dàng, không khỏi buồn bã.
Viên Thừa Chí ra khỏi cung, thấy chỗ nào cũng đèn đuốc sáng trưng, hiệu lệnh vang trời. Nhất định triều đình đang lùng bắt bọn tùy tùng gia thuộc của phe phản nghịch. Chàng lo lắng cho Thanh Thanh, nhanh chân chạy về hẻm Chính Điện Tử, thấy Thanh Thanh, Tiêu Uyển Nhi, La Lập Như đã trở về bình an, bấy giờ mới yên tâm.
Viên Thừa Chí suốt đêm mệt nhọc, quay về phòng mà ngủ li bì. Lúc này trong lòng chàng có cả A Cửu và Thanh Thanh, một người có tình, một người có nghĩa, không thể phân định hơn thua. Chàng không biết làm sao, chỉ còn cách nhắm mắt đi ngủ, tạm quên hai mỹ nhân.
Tỉnh dậy đã là giờ tỵ, ra đại sảnh thì thấy Thủy Vân đạo trưởng, Mẫn Tử Hoa dẫn theo mười sáu đệ tử phái Tiên Đô đang đợi. Thì ra họ biết phủ của Viên Thừa Chí bị Ngũ Độc Giáo đánh lén, liền chạy đến giúp đỡ. Viên Thừa Chí nói mấy câu khách sáo, rồi cho họ biết có lẽ Hoàng Mộc đạo nhân còn sống trên đời, nhất định có cách cứu được. Mọi người Tiên Đô Phái đều vô cùng hoan hỉ.
*
* *
Viên Thừa Chí nhờ họ trông chừng giúp những người bị thương, một mình ra ngoài Tuyên Võ Môn. Đi chẳng bao lâu, xa xa đã thấy Hà Thiết Thủ đứng chờ dưới gốc cây cổ thụ.
Nàng mỉm cười bước tới đón Viên Thừa Chí, lên tiếng: “Sư phụ! Đêm qua muội đã hoàn thành tốt đẹp mệnh lệnh của sư phụ. Đồ nhi như muội có ngoan không?”
Thừa Chí đáp: “Tình thế đêm qua thật là nguy cấp. Rất may được cô trượng nghĩa, nên không đến nỗi gây ra tai họa.”
Hà Thiết Thủ cười nói: “Sư phụ đào hoa thật, được một vị công chúa bế nguyệt tu hoa đem lòng yêu mến. Sau này sư phụ được phong làm phò mã, đồ đệ như muội sẽ được chức quan gì đây?”
Viên Thừa Chí nghiêm giọng bảo: “Đừng đùa nữa.”
Hà Thiết Thủ cười nói: “Úi chà, còn muốn chối! Công chúa nhìn sư phụ tình tứ như vậy, ai mà không biết? Hơn nữa, tại sao sư phụ lại giao Kim Xà Kiếm cho công chúa, tại sao phải thí mạng đi cứu phụ vương cho công chúa?”
Viên Thừa Chí đáp: “Đó là vì đại nghĩa quốc gia.”
Hà Thiết Thủ dẩu môi rồi bật cười: “Đúng thế! Nằm chung một giường, đắp chung một chăn, yêu thương âu yếm, chắc cũng vì đại nghĩa quốc gia. Hí hí…”
Viên Thừa Chí lập tức đỏ ửng mặt lên, tay chân bối rối không biết để đâu. Chàng ấp úng: “Cái… cái gì? Sao cô…”
Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Rõ ràng trong chăn của công chúa có giấu một người. Đã lăn lộn giang hồ như tiểu muội, chẳng lẽ mắt bị mù hay sao? Hí hí… Muội định lật chăn ra, may mà liếc qua một cái nhìn thấy bức tranh vẽ sư phụ. Tình nghĩa sư đồ, làm sao muội dám ra tay nữa!”
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “May mà bức tranh đó chưa cất kỹ, nên cô này nhìn thấy.” Chàng nghĩ lại mà toát mồ hôi hột. Nếu không nhờ bức tranh đó, Hà Thiết Thủ giật tung chăn ra, nhất định tồi tệ hơn nhiều.
Hà Thiết Thủ thấy mặt Viên Thừa Chí đỏ đến tận mang tai, biết vị sư phụ này còn khờ dại ngây thơ lắm. Nàng bèn thay đổi đề tài, hỏi: “Hạ cô nương bình an trở về rồi chứ?”
Viên Thừa Chí gật đầu, nói: “Bây giờ ta đi giải huyệt cho bằng hữu của cô.”
Hà Thiết Thủ đi trước dẫn đường, tiến về phía tây. Dọc đường nàng cứ luôn mồm khen ngợi A Cửu diễm lệ vô cùng, cả đời chưa gặp. Lại nói: “Không ngờ một công chúa lá ngọc cành vàng, còn trẻ như thế mà võ nghệ đầy mình, nhất định đã được Viên Thừa Chí đích thân chỉ dạy. Dưới tay minh sư ắt có cao đồ, huống chi đối với cao đồ này, minh sư lại đặc biệt ưu ái. Bây giờ công chúa là sư tỉ, sau này sẽ là sư nương. Lại còn Hạ cô nương nữa, không biết ai là lớn, ai là bé? Một người vào sư môn trước, một người thân phận tôn quý, có vẻ khó mà phân định. Nhưng công chúa xinh đẹp hơn nhiều, muội đoán sư phụ sẽ nghiêng về công chúa.”
Viên Thừa Chí buộc phải để mặc cô nàng hết cười hi hí lại nói năng lải nhải, sư phụ này sư phụ kia kêu gọi luôn mồm. Hôm qua chàng đã nói một lời, không thể bất tín, ruồng rẫy người ta được. Huống chi, trong lúc nguy cấp đã nhờ người ta, thành sự rồi lại nuốt lời thì không hợp đạo nghĩa chút nào. Chàng không thể thối thác, đành cười đau khổ.
Đi khoảng năm dặm thì đến một ngôi chùa cổ, có biển đề “Hoa Viên Tự”. Ngoài chùa có giáo chúng Ngũ Độc Giáo canh phòng, ai nhìn Viên Thừa Chí cũng trừng mắt giận dữ, nhưng chàng mặc kệ. Vào chùa, thấy trong đại điện trải đầy chiếu cỏ. Những giáo đồ bị Viên Thừa Chí đả thương đang nằm xếp hàng ở đó.
Viên Thừa Chí giải khai huyệt đạo cho từng người một, rồi dõng dạc nói: “Tại hạ cùng quý vị vốn không có oán thù, vì chút ít hiểu lầm mà đắc tội. Bây giờ xin tạ tội!”
Nói xong, chàng chắp tay thi lễ xung quanh một vòng. Cả đám đều quay đầu mặc kệ, không trả lễ, cũng không nói tiếng nào.
Viên Thừa Chí nghĩ: “Lễ số vậy là đủ, không cần nói nhiều nữa.” Chàng bèn quay đi. Vừa quay đầu lại, đột nhiên chàng thấy một cặp mắt trợn lên, nhìn chằm chằm vào Hà Thiết Thủ đầy vẻ ác độc. Người đó nấp trong một góc đại điện, thân hình không thể nhìn rõ, chỉ thấy cặp mắt màu xanh biếc lấp loáng hung quang.
Viên Thừa Chí giật mình, không biết ánh mắt đầy oán độc này là của ai. Chàng tập trung tinh thần nhìn lại, người đó bèn nép khuất vào trong. Tuy nhiên thân hình vừa động đậy đã bị nhận ra, đó chính là mụ ăn mày Hà Hồng Dược.
Hà Thiết Thủ tiễn chàng ra khỏi chùa. Viên Thừa Chí thấy sắc mặt nàng khác lạ, ngược lại thái độ đùa giỡn vô tư lúc nãy, bỗng nảy dạ nghi ngờ. Hai người thi lễ, cáo biệt trước cổng chùa.
Viên Thừa Chí về được mấy dặm, càng nghĩ ngợi càng thấy hoài nghi: “Chẳng lẽ họ còn gian kế khác? Mình giải khai huyệt đạo rồi, họ không chịu bỏ qua mà tiếp tục quấy nhiễu? Chi bằng bây giờ quay lại tìm hiểu mưu đồ của đối phương, để có kế hoạch phòng bị.” Chàng lập tức chạy ngược lại. Tới chùa Hoa Nghiêm, nhìn tứ phía không có ai, chàng vòng ra sau vượt tường vào trong.
Đột nhiên nghe tiếng huýt sáo vang lên. Viên Thừa Chí biết đây là tín hiệu triệu tập giáo chúng Ngũ Độc Giáo, bèn nép mình sau gốc cây một lát. Lát sau chàng nghĩ giáo chúng đã tập hợp xong, mới lần tới phía sau Đại Hùng bảo điện. Trong điện vẳng ra tiếng tranh luận rất kịch liệt.
Viên Thừa Chí kề tai vào khe cửa lắng nghe. Giọng của Hà Hồng Dược the thé, giọng của Tề Vân Ngạo ồm ồm, mỗi người một câu kể tội Hà Thiết Thủ. Người thì nói: “Giáo chủ bị Viên Thừa Chí mê hoặc, quên hết thâm thù đại hận của Ngũ Tiên Giáo, còn bái đồ đệ của kẻ thù làm sư phụ.” Người khác lại nói: “Giáo chủ liên thủ với Tào công công rồi lại nuốt lời, bắt tay với địch phá hỏng kế hoạch lập tân vương, làm Ngũ Tiên Giáo mất cơ hội phát dương quang đại ở hai tỉnh phía nam.”
Hà Thiết Thủ cười nhạt, nghe một hồi mới hỏi: “Các vị muốn gì?”
Mọi người lập tức im lặng, không ai dám lên tiếng. Hồi lâu, Hà Hồng Dược mới lạnh lùng nói: “Lập giáo chủ khác!”
Hà Thiết Thủ nghiêm giọng hỏi: “Giáo quy chúng ta đã mấy trăm năm, khi nào giáo chủ tạ thế mới lập giáo chủ khác. Các vị muốn ta chết phải không?”
Mọi người lại im lặng. Hà Thiết Thủ hỏi: “Ai muốn làm giáo chủ?”
Nàng hỏi liền ba câu, giáo chúng không ai trả lời. Hà Thiết Thủ liền cười nhạt: “Ai tự cảm thấy thắng được ta, thì ra đây giành ngôi giáo chủ đi.”
Viên Thừa Chí nép sát cánh cửa, đưa mắt nhìn vào, thấy Hà Thiết Thủ ngồi trên ghế. Mấy chục giáo chúng đều đứng khá xa, hiển nhiên vẫn còn kiêng nể nàng. Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Đám Ngũ Độc Giáo này ta biết hết rồi, không ai bằng được một nửa bản lãnh của cô ấy. Nhưng dựa vào võ lực để ép người ta, e rằng ngôi giáo chủ này không thể lâu dài”.
Chàng thấy Ngũ Độc Giáo đang mâu thuẫn nội bộ chứ không phải âm mưu trả thù mình và Thanh Thanh, đã toan mặc kệ. Nhưng nghĩ lại, mình đã nhận Hà Thiết Thủ là đồ đệ rồi, mà nàng cũng khá quyến luyến mình, không thể mặc kệ cho nàng sống chết. Còn đang trù trừ, đột nhiên hàn quang nhoáng lên. Hà Hồng Dược đã rẽ đám đông người nhảy ra, tay cầm một thứ binh khí lạ mắt.
Viên Thừa Chí thấy món võ khí này trông như một thanh đao cong cong cực lớn, mình chưa từng gặp mà cũng chưa từng nghe sư phụ nói qua, không biết sử dụng thế nào. Chàng nổi dạ hiếu kỳ, bèn kề mắt vào xem tiếp.
Hà Hồng Dược lạnh lùng nói: “Ta không muốn làm giáo chủ, cũng tự biết không phải đối thủ của ngươi. Nhưng tam tổ thất tử Ngũ Tiên Giáo chúng ta ngày trước đã mất bốn mươi năm công sức mới sáng lập được giáo môn này, truyền lại mấy trăm năm độc bá trời nam. Cơ nghiệp này không dễ gì có được, nhất định không thể hủy hoại trong tay một đứa tiện tì.”
Hà Thiết Thủ hỏi: “Nhục mạ giáo chủ, phạm phải tội gì?”
Hà Hồng Dược đáp: “Từ lâu ta đã không xem ngươi là giáo chủ nữa. Bước ra!”
Hai tay mụ vung lên, huy động binh khí. Nghe “cách” một tiếng, trên đầu thanh đao cong cong lại chui ra một mũi nhọn nhỏ.
Hà Thiết Thủ cười nhạt, vẫn ngồi trên ghế không động đậy. Hà Hồng Dược nhảy lên chém liền hai phát, nhưng kiêng nể võ công của cháu gái lợi hại nên chém không trúng là lùi lại ngay. Hà Thiết Thủ vẫn ngồi ngay ngắn trên ghế, khi mụ tấn công mới tránh né chút xíu, không hề phản kích.
Viên Thừa Chí ngạc nhiên, nhưng nhìn quanh thấy mấy chục giáo chúng cầm binh khí đang từ từ tiến đến, mới biết Hà Thiết Thủ đang phòng thủ nghiêm mật, chuẩn bị đón đỡ mọi người xông vào giáp công. Vì khe cửa rất hẹp nên chàng chỉ nhìn thấy một khoảng nhỏ trong điện, chứ có lẽ giáo chúng đã từ bốn phương tám hướng vây chặt nàng rồi.
Mọi người ghìm nhau chốc lát, không ai dám tấn công. Hà Hồng Dược la lên: “Đồ vô dụng! Sợ quái gì, xông vào cả đi!”
Mụ vẫy thanh đao cong một cái, cả bọn hò hét tiến lên. Hà Thiết Thủ đột ngột nhảy lên, rồi nghe những tiếng lắc cắc, cái ghế đã bị mấy chục món binh khí đồng thời đánh cho nát vụn. Hai tên giáo chúng la lên thảm khốc, trúng phải móc câu. Trong đại điện đất bụi bay mù, một bóng trắng tung hoành qua lại giữa đám đông người, nổ ra một trường ác đấu.
Viên Thừa Chí quan sát mọi người đánh nhau trong điện. Những hảo thủ trong giáo, ngoài Hà Hồng Dược ra, đều đã bị Viên Thừa Chí điểm trúng huyệt đạo, nằm bất động rất lâu. Bây giờ huyệt đạo đã giải nhưng kinh mạch họ chưa thông suốt, dĩ nhiên cử động có phần trì trệ. Nếu Hà Thiết Thủ muốn bỏ chạy thoát thân thì không khó lắm. Nhưng nàng không chạy ra ngoài, hình như muốn dùng võ lực để khuất phục giáo đồ, trừng trị bọn cầm đầu phản nghịch.
Đánh thêm mấy chục chiêu, trong đám đông bỗng có một người hành động cổ quái. Hắn không xuất thủ mà bước chân chậm rãi, tay nâng một cái ống nhỏ bằng vàng, từ từ tiến đến gần Hà Thiết Thủ. Viên Thừa Chí nhìn kỹ, nhận ra đây là Cẩm y đồng cái Tề Vân Ngạo. Đột nhiên họ Tề hô lên một tiếng, hai tay đưa lên phía trước. Một tia sáng màu vàng bắn tới người Hà Thiết Thủ.
Hà Thiết Thủ nghiêng người né tránh. Nào ngờ ám khí đó cực kỳ quái lạ, có thể xoay chuyển trên không trung để truy đuổi, mà lúc đó cũng có mấy thứ binh khí đồng thời công tới. Hà Thiết Thủ thét lên một tiếng, đã bị ám khí bắn trúng người. Lúc này Viên Thừa Chí đã thấy rõ ràng, món ám khí sống này chính là con Tiểu Kim Xà.
Hà Thiết Thủ rùng mình một cái rồi đưa tay túm lấy cổ Kim Xà quăng xuống đất, điên cuồng xuất liền hai chiêu, dùng thiết câu giết hai tên giáo chúng.
Hà Hồng Dược hô lớn: “Con tiện tì đã bị Kim Xà cắn trúng rồi. Mọi người quấy rối nó đi, độc tính sẽ phát tác ngay.”
Hà Thiết Thủ lảo đảo chạy ra sau hậu điện. Tuy nàng đã trúng độc nhưng oai thế vẫn còn, nhất thời bọn giáo chúng không đủ gan cản trở. Hà Hồng Dược vọt lên, múa thanh đao cong nhanh như gió, chém vào sau gáy nàng. Hà Thiết Thủ cúi đầu tránh né, đánh trả lại một thiết câu.
Phan Tú Đạt cùng Trầm Kỳ Tư tiến ra cản đường, Hà Thiết Thủ dùng khuỷu tay phải tì vào hông mình một cái. Độc châm Hàm sa xạ ảnh bắn ra tới tấp, Phan Tú Đạt mất mạng ngay, không kịp la một tiếng.
Lúc này chất độc trên vai Hà Thiết Thủ đã phát tác. Thần trí nàng hôn ám, thiết câu vung múa loạn xạ, không ra chiêu thức gì nữa. Chỉ trong khoảnh khắc là nàng bỏ mạng giữa đám giáo đồ hiểm độc này.
Viên Thừa Chí nghĩ: “Đêm qua ở trong cung, mình đã đồng ý nhận nàng làm đồ đệ. Tuy rằng việc gấp phải làm bừa, nhưng đại trượng phu nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy, không thể vì nguy cấp mà lừa gạt một cô gái trẻ. Lúc này giáo chúng của nàng làm phản, cũng do nàng bái mình làm sư phụ mà thành chuyện. Sinh mạng nàng nguy trong chốc lát, làm sao mình khoanh tay đứng nhìn?”
Chàng lập tức nhảy vào, hô lớn: “Mọi người dừng tay!”
Giáo chúng thấy chàng đột nhiên xuất hiện, không ai là không kinh hãi, tranh nhau lùi ra. Hà Thiết Thủ hồ đồ lắm rồi, vung câu vạch lên mặt Viên Thừa Chí. Chàng nghiêng người tránh né, đưa tay trái ra túm lấy cổ tay nàng. Nào ngờ võ công nàng thâm hậu, tiến lùi tránh né đã thành phản xạ. Tuy trước mắt lúc này lấp lóe một trời sao, nhưng cổ tay vừa chạm phải ngón tay Viên Thừa Chí là lập tức trầm xuống, thiết câu xoay lại đâm ngược từ dưới lên trên, vừa cực nhanh vừa chính xác.
Viên Thừa Chí vội rụt tay về, la lên: “Ta đến để cứu cô!”
Hà Thiết Thủ không nghe, song câu vẫn tấn công như bão tố. Viên Thừa Chí chỉ còn cách thấy chiêu đỡ chiêu, vung chân phải móc trúng khuỷu chân nàng. Hà Thiết Thủ té bịch xuống, đột nhiên giương to mắt kêu lên: “Sư phụ! Muội đã chết chưa?”
Viên Thừa Chí bảo: “Chúng ta mau ra ngoài đã!” Chàng lập tức nắm cổ tay nàng kéo dậy.
Bọn giáo chúng đang đứng xem hai người đánh nhau, thấy Viên Thừa Chí đỡ nàng chạy ra liền la hét om sòm, ùa nhau vây kín.
Viên Thừa Chí quay lại, quát như sấm nổ: “Ai dám lên đây?”
Giáo chúng đều như chim đã sợ cung. Không biết ai khởi xướng mà đột nhiên cả bọn như một đàn ong vỡ tổ, quay lưng bỏ chạy vào trong điện. “Thình” một tiếng, cửa điện bị đóng chặt lại.
Viên Thừa Chí thấy họ sợ mình đến thế, không khỏi buồn cười. Chàng cúi nhìn Hà Thiết Thủ, thấy cánh tay trái sưng vù, khuôn mặt trắng bệch nhuốm một làn hắc khí, biết nàng trúng độc rất sâu. Nhưng chàng nghĩ, cô gái này ngày đêm sống với độc vật, chắc chắn sức đề kháng rất mạnh, có thể duy trì một thời gian, bèn bế nàng chạy trở về thành.
Mọi người thấy Viên Thừa Chí ẵm Hà Thiết Thủ chạy về, đều lộ vẻ kinh ngạc. Thanh Thanh nũng nịu hỏi: “Ca ca ôm người ta làm chi vậy? Sao không thả xuống đi?”
Viên Thừa Chí la lên: “Mau mau lấy băng thiềm đến cứu người!”
Tiêu Uyển Nhi dìu Hà Thiết Thủ vào bên trong cấp cứu, còn Thủy Vân cùng mọi người rất tức giận, không hiểu gì hết. Viên Thừa Chí kể lại tiền nhân hậu quả, kết luận: “Việc của lệnh sư Hoàng Mộc đạo nhân, đợi cô ấy tỉnh dậy sẽ hỏi rõ ràng.”
Quần đệ tử phái Tiên Đô đều bái tạ.
Thời gian ăn xong bữa cơm, Tiêu Uyển Nhi mới ra ngoài nói: “Độc khí đã hút ra hết rồi, nhưng cô ấy vẫn hôn mê bất tỉnh.”
Viên Thừa Chí bảo: “Phiền cô nương cho cô ấy uống thuốc giải độc, rồi để cô ấy ngủ một lát.”
Tiêu Uyển Nhi vâng dạ, đang định quay vào thì La Lập Như vừa chạy tới vừa reo lên: “Viên tướng công! Tin mừng, tin mừng!”
Thanh Thanh cười hỏi: “Huynh có tin mừng sớm thế?”
La Lập Như nói: “Đại quân Sấm Vương đã hạ Ninh Võ Quan rồi.”
Mọi người nghe vậy, cùng hoan hô vang dội. Viên Thừa Chí hỏi: “Tin tức có xác thực không?”
La Lập Như đáp: “Trương huynh đệ trong bang phụng mạng đi tìm Mẫn nhị gia, dọc đường chứng kiến Sấm quân tiến công vào quan ải. Hai bên đánh nhau kịch liệt, Trương huynh đệ không đi qua được. Sau này y thấy quân Minh đại bại, tổng binh thủ thành là Chu Ngộ Cát đã bị giết.”
Viên Thừa Chí nói: “Thế thì tuyệt diệu! Nghĩa quân chỉ vài ngày nữa là đến kinh sư, chúng ta mau làm nội ứng.”
Thế là mấy ngày hôm sau, Viên Thừa Chí bận rộn từ sáng đến tối. Chàng lấy danh nghĩa là thủ lĩnh Kim Xà Doanh của Sấm quân, gặp gỡ các lộ hào kiệt trong kinh thành, bố trí công việc, chỉ đợi nghĩa binh đến kinh thành là lập tức cử sự hưởng ứng.
Một hôm ra ngoài nghị sự trở về, chàng nghe Tiêu Uyển Nhi nói: “Viên tướng công! Hà giáo chủ vẫn hôn mê bất tỉnh.”
Viên Thừa Chí kinh hãi hỏi: “Đã nhiều ngày rồi, sao vẫn chưa khỏe?”
Chàng theo Tiêu Uyển Nhi vào trong thăm hỏi, thấy Hà Thiết Thủ hình dung tiều tụy, mặt không sắc máu, hơi thở chỉ còn thoi thóp.
Viên Thừa Chí suy nghĩ một lúc, bỗng la lên: “Trời ơi!”
Tiêu Uyển Nhi vội hỏi: “Gì thế?”
Viên Thừa Chí đáp: “Người bình thường sau khi trúng độc, khí độc giảm hết thì sức khỏe từ từ phục hồi. Nhưng cô gái này từ nhỏ đã đùa giỡn với độc vật, nhất định uống nhiều loại thuốc kỳ lạ để độc vật bình thường không làm hại mình được. Vì thế, hễ trúng độc là khó mà trị dứt. Mấy hôm nay ta bận rộn quá, chưa kịp nghĩ đến chuyện này.”
Tiêu Uyển Nhi hỏi: “Vậy phải làm sao?”
Viên Thừa Chí ngần ngừ rồi nói: “Phải cho cô ấy uống con băng thiềm, không chừng còn cứu được. Nhưng chúng ta chỉ biết dựa vào món bảo bối này để giải độc, nếu bọn Ngũ Độc Giáo sinh sự nữa thì chỉ còn cách bó tay chịu chết.”
Tiêu Uyển Nhi cũng cảm thấy khó xử. Bỗng Viên Thừa Chí vỗ đùi một cái, hô lên: “Ta đã hứa nhận người này làm đồ đệ. Mặc dù lúc đó bị ép phải hứa, nhưng cũng là hứa rồi, không thể giương mắt mà nhìn người ta mất mạng. Cho cô ấy uống, mọi chuyện tính sau.”
Tiêu Uyển Nhi thấy chuyện này nguy hiểm, về sau khó mà yên ổn. Nhưng Viên Thừa Chí đã dặn như vậy, dĩ nhiên nàng phải làm theo.
Tiêu Uyển Nhi lấy con băng thiềm nghiền nát ra, hòa rượu đổ cho nàng uống. Chỉ khoảng ăn xong bữa cơm là sắc mặt Hà Thiết Thủ đổi màu từ xanh thành trắng, hơi thở bình thường trở lại. Cuối cùng nàng ngồi dậy được, cất tiếng gọi: “Sư phụ!”
Viên Thừa Chí biết mạng nàng được cứu rồi, bèn lui ra. Hồng Thắng Hải chạy vào bẩm báo: “Thủy Vân đạo trưởng phái Tiên Đô đến thăm.”
Hà Thiết Thủ bảo: “Để ta đi gặp họ.” Tiêu Uyển Nhi bèn dìu nàng tới đại sảnh.
Thủy Vân đạo nhân thi lễ với Viên Thừa Chí xong, chắp tay nhìn Hà Thiết Thủ nói: “Hà giáo chủ! Chuyện của sư phụ bần đạo, xin cô nể mặt Viên tướng công mà cho biết rõ ràng.”
Lời vừa nói ra, những đệ tử phái Tiên Đô đi theo Thủy Vân đạo trưởng đều đứng dậy hết. Hà Thiết Thủ lạnh lùng đáp: “Ta chịu ơn của sư phụ, hoàn toàn không liên quan đến Tiên Đô Phái các vị. Thân thể ta chưa hồi phục, các vị có muốn nhân lúc người khác lâm nguy không? Hà Thiết Thủ này không sợ đâu!”
Nàng ngang ngược vô lễ như thế, mọi người đều phải bất ngờ.
Viên Thừa Chí đưa mắt ra hiệu với mọi người Thủy Vân rồi nói: “Hà giáo chủ chưa được khỏe, chúng ta từ từ nói tiếp.”
Hà Thiết Thủ hừ một tiếng, nhờ Tiêu Uyển Nhi dìu trở vào trong phòng.
Đệ tử phái Tiên Đô xôn xao bàn tán, nghị luận lung tung. Viên Thừa Chí lên tiếng: “Việc này cứ để tại hạ giải quyết. Tại hạ đứng ra chịu trách nhiệm cứu thoát Hoàng Mộc đạo trưởng.”
Lúc này phái Tiên Đô mới tương đối bình tâm lại.
*
* *
Mấy ngày nay, tin thắng trận của Sấm quân báo về dồn dập như nước lũ. Tổng binh Cương Nhượng nhà Minh đầu hàng, Sấm quân chiếm Đại Đồng. Tổng binh Vương Thừa Nhậm, thái giám giám quân Đỗ Huân đầu hàng, Sấm quân chiếm Tuyên Phủ. Tổng binh Đường Thông, thái giám giám binh Đỗ Chi Điệp đầu hàng, Sấm quân chiếm Cư Dung.
Đại Đồng, Tuyên Phủ, Cư Dung đều là những ải quan trọng bảo vệ kinh sư, xưa nay đều có trọng binh canh giữ, mỗi tổng binh thống lĩnh mấy vạn tinh binh. Sùng Trinh không tin vào võ tướng, cứ mỗi đội quân lại phái một tên thái giám thân tín đến làm giám quân, quyền lực trên cả tổng binh. Như thế lại dở đi. Hễ Sấm quân kéo đến là thái giám chủ trương đầu hàng, rồi tổng binh lập tức nghe lời. Thế là ba nơi yếu địa này, Sấm quân không tốn một tên lính mà hạ được.
Chỉ mấy ngày là quân đội triều Minh như đất sụt ngói tan, thành Bắc Kinh loạn lạc cả lên. Hôm nay lại có tin Sấm quân lấy được ải Xương Bình. Bây giờ có thể nói, Sấm quân chỉ đưa tay là sờ tới Bắc Kinh.
Mấy hôm sau, Hồng Thắng Hải vào trong bẩm báo: “Ngoài kia có một tên ăn mày ở trần, cứ quỳ dưới đất không ngớt khấu đầu, xin Hà giáo chủ tha thứ. Dường như là nhân vật Ngũ Độc Giáo.”
Viên Thừa Chí cùng Hà Thiết Thủ ra ngoài. Thanh Thanh cùng mọi người theo sau, thấy giữa trời đông giá lạnh mà người đó vẫn ở trần, thân dưới chỉ khoác một cái khố rách. Viên Thừa Chí nhận ra đây là Cẩm y đồng cái Tề Vân Ngạo, từng thả con Tiểu Kim Xà cắn Hà Thiết Thủ.
Hà Thiết Thủ lạnh nhạt hỏi: “Ngươi nhìn xem, chẳng phải ta còn sống đàng hoàng hay sao?”
Tề Vân Ngạo ra vẻ hân hoan, không ngớt khấu đầu. Hà Thiết Thủ lại hỏi: “Ngươi đến đây làm gì? Nếu ngươi chưa cùng đường, nhất định không đến gặp ta.”
Tề Vân Ngạo nói: “Tiểu nhân đáng chết, dám làm tổn thương quý thể của giáo chủ. May nhờ tam tổ thất tử phù hộ giáo chủ bình yên vô sự, bây giờ tiểu nhân mừng rỡ vô cùng.”
Hà Thiết Thủ hỏi gằn: “Ngươi dùng kim xà hại ta suýt chết, theo quy luật bản giáo thì ngươi phải là giáo chủ rồi chứ?”
Tề Vân Ngạo đáp: “Tiểu nhân không địch nổi mụ ăn mày đó, nghĩ tới cùng thì quay về quy thuận giáo chủ là hơn. Tiểu nhân chấp nhận đại hình ngàn rắn cắn người, chỉ xin giáo chủ khai ân tha mạng.”
Nói xong, hắn dùng cả hai tay nâng một cái ống màu vàng chóe lên đầu, vẫn quỳ gối lết tới mấy bước. Viên Thừa Chí biết cái ống này đang đựng con Tiểu Kim Xà độc nhất thiên hạ. Hắn dâng lợi khí này cho Hà Thiết Thủ là tỏ lòng quy thuận, từ nay quyết không dám hai lòng nữa.
Hà Thiết Thủ mỉm cười rồi nói: “Ngươi đã thành tâm hối cải thì ta cũng tha cho. Nhưng tội chết tha được, tội sống khó dung…” Nàng đưa tay định cầm lấy ống vàng, nhưng vừa trúng kịch độc chết đi sống lại nên đột nhiên hai chân bủn rủn, thân hình lảo đảo.
Tiêu Uyển Nhi đứng cạnh định đỡ nàng, đột nhiên nghe bên vệ đường có tiếng thét dữ dội. Một người nhảy xổ ra, tung người đến sau lưng Tề Vân Ngạo, cúi xuống một cái lại vọt đi ngay. Tề Vân Ngạo gào lên một tiếng, rướn người rồi đổ ập xuống đất, sau lưng lộ ra cái chuôi đao. Thanh đao này dài khoảng một thước, đâm sâu lút cán. Diễn biến này giống như sấm nổ giữa trời quang, bất ngờ đến nỗi không kịp bịt tai.
Mọi người cùng kinh hãi la lên, nhìn lại hung thủ thì chính là mụ ăn mày Hà Hồng Dược. Mụ kêu gào nghe rất cổ quái, hai chân nhảy tưng tưng, tay trái vung loạn lên nhưng không sao rứt được con Tiểu Kim Xà đang cắn trên mu bàn tay. Thì ra khi Tề Vân Ngạo bị đánh lén, con Tiểu Kim Xà đã sổng ra.
Tề Vân Ngạo ngẩng đầu dậy, la lên: “Hay quá, hay quá!” Hắn co giật mấy cái, rồi lăn ra chết.
Mọi người nhìn sang Hà Hồng Dược, thấy mụ đầy vẻ sợ hãi, khuôn mặt vốn đầy sẹo bây giờ càng giống như ma quỷ. Mụ đưa tay phải định giật Kim Xà ra, nhưng chưa đụng tới đã rụt tay về, cứ như sợ đụng phải Kim Xà là mất mạng vậy. Mụ trợn mắt lên, lấy trong bọc ra một thanh đao bén. Ánh đao nhấp nháy, nghe soạt một tiếng, mụ đã tự chặt đứt bàn tay trái, vội vàng xé tay áo buộc lại vết thương, rồi bỏ chạy như điên như cuồng.
Chứng kiến màn kịch kinh tâm động phách này, ai cũng ngơ ngác không nói ra lời. Hà Thiết Thủ cúi xuống nhặt cái ống vàng trên người Tề Vân Ngạo, chụp lên con Kim Xà. Thiết câu bên tay trái vạch một vòng lên bàn tay của Hà Hồng Dược bỏ lại, khoét rời một khối thịt trên lưng bàn tay đang bị con Kim Xà cắn chặt. Nàng hứng cả thịt lẫn rắn vào cái ống vàng, rồi đậy nắp lại.
Mọi người trở vào trong nhà. Sau đó Viên Thừa Chí bảo Hà Thiết Thủ: “Những người trong Ngũ Độc Giáo chống đối cô nương, kẻ chết kẻ bị thương, không còn ai tạo phản nữa. Bây giờ cô nương trở về thu dọn giáo phái đi.”
Hà Thiết Thủ lắc đầu đáp: “Muội không về đó nữa. Từ nay về sau, muội đi theo sư phụ.”
Viên Thừa Chí bối rối hỏi: “Cô theo ta làm chi?”
Hà Thiết Thủ đáp: “Huynh là sư phụ của muội. Dĩ nhiên muội phải theo sư phụ để học công phu.”
Nàng đột nhiên quỳ xuống trước mặt Viên Thừa Chí, khấu đầu lia lịa. Viên Thừa Chí kinh hãi, vừa chắp tay trả lễ vừa la lên: “Đừng làm thế!”
Hà Thiết Thủ nói: “Huynh đã đồng ý nhận muội làm đồ đệ rồi. Bây giờ muội khấu đầu bái sư đây.”
Viên Thừa Chí nói: “Ta đã hứa dạy võ cho cô, chuyện đó ta không phủ nhận, nhưng không cần tới danh phận sư đồ. Muốn nhận cô vào sư môn, ta phải được sư phụ cho phép đã.”
Hà Thiết Thủ vẫn quỳ ở đó không chịu đứng dậy. Viên Thừa Chí đưa tay ra đỡ, Hà Thiết Thủ rụt cổ tay về, mỉm cười nói: “Trên tay muội có độc.”
Một tia sáng đen lóe lên, thiết câu móc vào bàn tay Viên Thừa Chí. Nhưng chàng không rút tay về tránh, lại còn đưa nhanh phía trước, tránh khỏi thiết câu cách chừng sợi tóc, đỡ trúng vào khuỷu tay nàng.
Hà Thiết Thủ không tự chủ được, phải tung người lên không. Nhưng võ công nàng không phải tầm thường, uốn lưng trên không trung mà giật lùi hai thước, khi rơi xuống đất vẫn giữ thế quỳ. Mọi người đứng bên thấy hai người hiển lộ võ công thượng thừa như thế, không nén nổi phải cất tiếng hoan hô.
Viên Thừa Chí nói: “Hà giáo chủ nghỉ ngơi đi. Ta phải vào trong thay áo để tiếp khách.” Nói xong chàng quay lưng đi vào thật.
Hà Thiết Thủ lo lắng kêu lên: “Huynh không nhận muội làm đồ đệ thật ư?”
Viên Thừa Chí đáp: “Ta không dám.”
Hà Thiết Thủ nói: “Được! Hạ cô nương, ta kể chuyện cho cô nghe. Có người nửa đêm đặt một bức tranh ở bên giường…”
Thanh Thanh còn ngạc nhiên chưa hiểu, Viên Thừa Chí đã đỏ ửng mặt lên. Chàng nghĩ: “Cô ả Hà Thiết Thủ vô pháp vô thiên, chuyện gì cũng dám nói. Mình với A Cửu chưa làm gì cả, nhưng thanh niên nam nữ đêm khuya ngủ chung giường, ả mà nói ra thì Thanh Thanh nổi giận, lại còn hại đến danh dự của mình và A Cửu”. Chàng vô cùng lo lắng, cứ xoa tay mãi.
Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Sư phụ! Đồng ý là hơn.”
Viên Thừa Chí không làm gì được, đành ấp úng: “À… à…”
Hà Thiết Thủ cả mừng hô lớn: “Hay lắm! Sư phụ đã ưng thuận rồi.”
Nàng quỳ cả hai chân xuống trước mặt chàng, tiếp tục khấu đầu, thi hành đại lễ bái sư. Viên Thừa Chí bị tình thế ép buộc, chỉ còn cách chắp tay trả lại nửa lễ. Mọi người xung quanh tới tấp kéo tới chúc mừng.
Thanh Thanh nổi dạ nghi ngờ, hỏi Hà Thiết Thủ: “Vừa rồi cô định kể chuyện gì vậy?”
Hà Thiết Thủ mỉm cười đáp: “Giáo phái chúng ta có một pháp môn rất tà đạo. Chỉ cần vẽ hình một người đặt bên giường, khấu đầu thi hành tà pháp là người đó đau đầu đau bụng, ba tháng vẫn chưa khỏi được. Lúc nãy sư phụ không chịu nhận ta làm đồ đệ, nên ta dọa sẽ thi triển tà môn này.”
Thanh Thanh cảm thấy khó tin, nhưng không biết làm sao mà cãi.
Viên Thừa Chí nghe Hà Thiết Thủ bịa chuyện xong mới yên tâm trở lại. Chàng nghĩ: “Khắp thiên hạ chẳng có ai bái sư mà uy hiếp thế này. Nếu cô ả không chịu sửa đổi tâm tính, nhất định ta không dạy võ nghệ cho.” Chàng bèn nghiêm trang nói: “Ta tự thấy chưa đủ bản lãnh để thu đồ đệ, truyền võ nghệ. Nhưng cô đã thành ý thế này, chúng ta hãy tạm thời mang danh phận đó. Đợi ta bẩm cáo sư phụ rõ ràng, khi lão nhân gia chấp thuận thì ta mới truyền cho cô võ công Hoa Sơn bản phái.”
Hà Thiết Thủ mặt mày rạng rỡ, tươi cười vâng dạ liên tiếp.
Thanh Thanh nói: “Hà giáo chủ…”
Hà Thiết Thủ cắt lời: “Cô không thể gọi ta là giáo chủ nữa. Sư phụ! Xin sư phụ đặt cho muội một cái tên.”
Viên Thừa Chí suy nghĩ một chút rồi nói: “Ta học chữ không nhiều, nghĩ không ra cái tên nào tốt đẹp. Tên cô vốn là Thiết Thủ, nữ nhân mang tên này có vẻ hung hãn. Bây giờ gọi là Thích Thủ có được không? Thích nghĩa là đừng làm chuyện xấu, còn Thủ nghĩa là giữ quy củ cho nghiêm ngặt.”
Hà Thiết Thủ mừng rỡ nói: “Được, được! Nhưng hai chữ Thích Thủ nghe đàng hoàng quá. Sư phụ! Sau khi được sư phụ truyền dạy võ công, muội như có thêm một cánh tay, sẽ tự gọi mình là Thiêm Thủ. Hạ sư thúc! Sư thúc gọi ta là Thiêm Thủ đi.”
Thanh Thanh mỉm cười nói: “Thiêm Thủ là thêm một bàn tay, có tới ba cánh tay, tương tự Thánh thủ thần thâu Hồ đại ca của chúng ta. Nhưng tuổi cô lớn hơn ta, bản lãnh cao hơn ta, sao lại gọi ta bằng sư thúc?”
Hà Thiết Thủ kề tai Thanh Thanh nói rất nhỏ: “Bây giờ tạm kêu là sư thúc, để sau này kêu bằng sư nương dễ hơn.”
Thanh Thanh đỏ bừng má, âm thầm mừng rỡ. Nàng đang tìm lời đáp lại, bỗng thấy Thủy Vân đạo trưởng và Mẫn Tử Hoa đi vào đại sảnh. Viên Thừa Chí bảo: “Tung tích của Hoàng Mộc đạo trưởng thế nào, cô nói với hai vị này đi.”
Hà Thiết Thủ hơi mỉm cười, nói: “Ông ấy đang ở Vân Nam…”
Nói chưa dứt lời, đột nhiên nghe một tiếng gầm dữ dội xé trời, cửa sổ tự mở ra. Mọi người cảm thấy mặt đất dưới chân mình rung động, ai cũng kinh ngạc. Những tiếng nổ vang lên không dứt, không phải là sấm sét. Trình Thanh Trúc nói: “Chắc là tiếng đại pháo.”
Hồng Thắng Hải từ ngoài cổng chạy thẳng vào trong, la lớn: “Đại quân Sấm Vương đã đến rồi!”
Tiếng pháo gầm không dứt, nhìn xa xa ra ngoại thành thấy ánh lửa chiếu sáng một mảng trời, nghe cả tiếng hò hét. Đúng là nghĩa quân Sấm Vương tấn công đến ngoài thành Bắc Kinh.
Viên Thừa Chí nói với Thủy Vân đạo trưởng: “Đạo trưởng, cô ấy đã bái tại hạ làm sư phụ. Chuyện của sư phụ đạo trưởng, từ từ hãy nói…”
Hà Thiết Thủ vội ngắt lời chàng: “Hoàng Mộc đạo trưởng bị cô cô của ta nhốt ở Độc Long Động trên Tuyết Sơn Ngọc Long, phủ Lệ Giang, tỉnh Vân Nam. Các vị cầm cái này mà đi cứu ông ấy.”
Nói xong, nàng lấy ra một cái còi sắt đen nhánh có hình con rắn, giao cho Thủy Vân đạo trưởng và Mẫn Tử Hoa. Hai người nghe nói sư phụ mình bình an vô sự, cả mừng nhận lấy cái còi đó.
Hà Thiết Thủ tiếp: “Đây là lệnh phù của ta. Các vị phải lập tức đi ngay. Vân Nam xa xôi, tin tức truyền không nhanh lắm. Giáo đồ ở đó chưa biết ta đã phản bội giáo phái, khi thấy lệnh phù dĩ nhiên sẽ thả người.”
Thủy Vân đạo trưởng và Mẫn Tử Hoa đa tạ đi ngay.
*
* *
Hai người đi chưa được bao lâu, các lộ hào kiệt trong thành Bắc Kinh đã kéo đến xin lệnh của Viên Thừa Chí.
Viên Thừa Chí là minh chủ võ lâm bảy tỉnh, lại là Kim Xà Vương, thủ lĩnh Kim Xà Doanh của Sấm quân. Chàng đã bố trí từ trước, ai phóng hỏa, ai tiếp ứng, mọi chuyện rõ ràng quy củ.
Thám tử khắp nơi tấp nập đến báo cáo Sấm quân tấn công thành Bắc Kinh như thế nào, quân Minh phòng vệ thế nào. Lát sau có người đưa đến một lá thư, là mệnh lệnh của Lý Nham gửi Viên Thừa Chí. Thì ra Lý Nham đã đến ngoài thành rồi. Viên Thừa Chí vô cùng mừng rỡ, lập tức phái người đi khắp nơi cứ thế mà làm.
Đến hoàng hôn, những bài ca của Lý Nham đã được mọi người truyền tụng khắp nơi. Phía thành tây nghe hát: “Sáng cầu yên ổn; Chiều mong ấm no; Sống trong nghèo khó; Chết vẫn âu lo; Mở rộng cửa ải; Nghênh đón Sấm Vương; Cuộc sống thanh bình; Ai cũng hân hoan.” Phía thành đông nghe hát: “Mẹ thương cho ăn; Mẹ thương cho mặc; Mở rộng cửa ải; Nghênh đón Sấm Vương; Sấm Vương mà đến; Khỏi đóng thuế lương.”
Quan binh trong thành đã loạn lạc từ lâu, tên nào cũng tính bài chạy trốn, nghe ca hát cũng mặc kệ. Những bài đồng dao này càng làm phấn chấn lòng người.
Hôm sau là ngày mười tám tháng ba. Viên Thừa Chí cùng Thanh Thanh, Hà Thiết Thủ, Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng hóa trang thành lính nhà Minh, lên đầu thành ngó ra ngoài, thấy bên ngoài đầy nghẹt nghĩa quân nón đen giáp đen. Mười mấy vạn quân giống như mây đen che kín một vùng hoang dã, không có chỗ tận cùng. Đạn pháo và cung tiễn không ngớt bắn lên thành. Binh lính canh gác trên thành đã hỗn loạn từ lâu, rõ ràng không chống đỡ nổi.
Đột nhiên một cơn gió lớn nổi lên, bụi cát mù mịt cả bầu trời khiến thái dương cũng âm u. Một tiếng sấm nổ vang, cơn mưa lớn đổ ào xuống, lẫn cả những viên đá nhỏ. Quân sĩ cả trên thành lẫn dưới thành đều ướt đẫm. Thanh Thanh và mọi người thấy trời đất đột nhiên thay đổi, bất giác trong lòng rung động.
Viên Thừa Chí cùng quần hùng trèo xuống, chỉ huy mọi người phóng hỏa lung tung trong thành phố, chặn giết bớt bọn quan binh và lưu manh du đãng đang thừa cơ cướp bóc khắp nơi. Tiếng la khóc vang dội, chỗ này lặng xuống chỗ khác lại nổi lên.
Quần hùng đang hò reo chiến đấu, đột nhiên thấy một toán quan binh hộ vệ một tên cẩm y thái giám đi tới. Ánh lửa sáng rực, Viên Thừa Chí từ xa đã thấy tên thái giám đó chính là Tào Hóa Thuần. Chàng mừng rỡ la lên: “Theo ta, bắt tên gian tặc đó!”
Thiết La Hán và Hà Thiết Thủ tiên phong mở lối, quần hùng xông thẳng tới, dĩ nhiên quan binh không cản nổi. Tào Hóa Thuần thấy không êm, định quay đầu ngựa chạy trốn. Viên Thừa Chí nhảy vọt lên trước, xách cổ hắn quẳng xuống ngựa, quát hỏi: “Chạy đâu?”
Tào Hóa Thuần lắp bắp: “Hoàng… hoàng thượng sai tiểu nhân… đốc chiến ở Chương Nghĩa Môn.”
Viên Thừa Chí nói: “Được! Chúng ta đến Chương Nghĩa Môn.”
Quần hùng áp tải Tào Hóa Thuần lên thẳng đầu thành. Từ xa đã nhìn thấy ngoài thành có một lá cờ lớn đang bay phấp phới. Dưới lá cờ có một người đội nón nhung, cưỡi ngựa ô chạy qua chạy lại chỉ huy, oai phong lẫm liệt, chính là Sấm vương Lý Tự Thành.
Chàng vận kình bóp nhẹ, Tào Hóa Thuần đau đến suýt ngất đi. Mạng hắn nằm trong tay người khác, không dám phản kháng chút nào. Hơn nữa tình hình trước mắt đã khác, hắn còn mong lập công với chủ mới, tiếp tục mưu cầu lợi lộc. Hắn truyền lệnh: “Mở lớn cổng Chương Nghĩa Môn ra!”
Sấm quân ngoài thành hoan hô như sấm động, xông thẳng vào trong. Hàng ngàn hàng vạn binh tướng mặc giáp đen ùa vào cửa thành. Viên Thừa Chí đứng trên nhìn xuống, thấy Sấm quân trông như một con rồng đen vĩ đại, uyển chuyển tiến vào bên trong, oai phong lẫm liệt không gì chống nổi.
Viên Thừa Chí thống lĩnh quần hùng theo đám bại binh lùi vào nội thành. Quân canh trong nội thành còn khá đông, cộng thêm số bại binh lại càng trùng trùng điệp điệp.
Lúc này trời đã tối, Sấm quân ngoài thành khua chiêng tạm nghỉ. Viên Thừa Chí cùng mọi người rẽ đám loạn quân lùi về chỗ ở. Trong thành tiếng trống chiêng loạn xạ, chẳng còn quy tắc. Bọn tướng quân thống binh người lo chạy trốn, người đứng trên đầu thành đốc chiến, không ai nhìn tới đám quân Minh giả mạo bọn Viên Thừa Chí.
Tin tức đưa tới, các vị Giáp Lý Nhãn, Hoành Thiên Vương, Cải Thế Vương của Sấm quân đã chia nhau thống lãnh binh lính vào thành. Hồ Quế Nam và mọi người đã phất cờ hiệu Kim Xà Doanh thống lĩnh mọi người nổi dậy, thừa cơ để lập công.
Quần hùng chạy về hẻm Chính Điện Tử, thay đổi quần áo dính đầy máu trên người. Họ ăn uống no say một bữa, nhìn ra thấy chỗ nào trong thành cũng có lửa bốc lên.
Viên Thừa Chí hoan hỉ nói: “Nhất định sáng mai nội thành bị phá. Sấm Vương trị quốc chí công vô tư, từ nay bá tính trong thiên hạ được sống cuộc đời no ấm. Đêm nay là lúc ta cầm đao đi giết kẻ thù.”
Mọi người biết chàng muốn vào cung hành thích Sùng Trinh để trả thù cha, đều tự nguyện đi theo. Viên Thừa Chí lo lắng cho A Cửu, muốn gặp riêng nàng nên không để người khác đi theo, bèn nói: “Các vị đã cực khổ một ngày trời, đêm nay hãy nghỉ ngơi cho khỏe, sáng mai còn nhiều việc phải lo. Binh hoang mã loạn thế này, hoàng cung nhất định canh phòng sơ suất. Hành thích hôn quân rất dễ, tại hạ đi một mình cũng được.”
Quần hùng đều biết chàng võ công tuyệt thế, bây giờ thị vệ của hoàng đế chắc đã trốn sạch hết rồi, giết vị “cô gia quả nhân” này đúng là dễ như phủi bụi. Thấy Viên Thừa Chí ra vẻ nhất quyết, ai cũng tuân lời.
Viên Thừa Chí nhờ Thanh Thanh đốt nhang đèn, viết tấm linh bài: “Tiên quân cố Binh bộ Thượng thư Kinh Liêu đốc sư Viên”, xếp sẵn linh vị. Chàng sẽ chặt đầu Sùng Trinh xách về để tế cha, sau đó mang thủ cấp lên tường thành mà hô hoán. Khi đó quân lính trong nội thành càng mất tinh thần chiến đấu.
Viên Thừa Chí đem theo một cái túi da để đựng thủ cấp Sùng Trinh, dắt một thanh đao dài chừng một thước vào lưng, chạy về phía hoàng cung. Dọc đường ánh lửa bốc lên tới trời, tàn quân thừa cơ cướp bóc khắp nơi. Cứ chốc chốc Viên Thừa Chí lại thấy bảy tám tên quan binh lôi kéo mấy nữ nhân khóc lóc.
Chàng nghĩ đến A Cửu trở thành cô độc, không biết nàng sẽ làm gì. Tuy chàng đã đính ước uyên ương với Thanh Thanh từ lâu, kiếp này khó đền đáp tình ý thâm sâu của A Cửu, nhưng dù sao cũng không nỡ ruồng bỏ A Cửu. Đột nhiên chàng lại thấy băn khoăn: “Một người thì mình yêu sâu sắc, một người thì mình không nỡ phụ lòng! Ôi, thế này không được, thế kia cũng không xong!” Chàng nghĩ mãi, trong lòng nửa phần khổ sở nửa phần chua xót.
Viên Thừa Chí chạy thẳng tới cổng chính, bọn thái giám và vệ binh canh gác đã chạy trốn đâu mất hết. Thấy cung điện vắng tanh, chàng bỗng giật mình: “Giả tỉ Sùng Trinh trốn đi đâu mất, thì mình bỏ phí một cơ hội tốt.” Chàng chạy thẳng đến Càn Thanh Cung.
Tới cửa cung, nghe bên trong có tiếng khóc thảm thiết của nữ nhân. Viên Thừa Chí nép vào một bên cửa, nhìn vào trong, lập tức trong lòng mừng rỡ. Thì ra Sùng Trinh đang ngồi trên ghế.
Một nữ nhân mặc trang phục ra vẻ hoàng hậu đang đứng cạnh hắn, vừa khóc vừa nói: “Mười sáu năm nay bệ hạ không chịu nghe thần thiếp nói câu nào. Hôm nay đã đến nước này, thiếp nguyện chết theo bệ hạ và xã tắc, tuyệt đối không hối hận.”
Sùng Trinh cúi mặt, nước mắt rơi lã chã. Hoàng hậu khóc lóc một chập rồi ôm mặt chạy ra ngoài.
Viên Thừa Chí đang định sấn vào ra tay, đột nhiên trong điện có bóng người thấp thoáng lên. Một thiếu nữ cầm kiếm nhảy đến trước mặt Sùng Trinh, kêu lớn: “Phụ vương! Tình thế cấp bách lắm rồi, mau rời cung đã!”
Đây chính là Trường Bình công chúa A Cửu. Nàng quay lại bảo một tên thái giám: “Vương công công! Công công chuẩn bị cho bệ hạ đi.”
Thái giám này tên là Vương Thượng Ân, rơi lệ đáp: “Vâng! Công chúa điện hạ cùng đi chứ?”
A Cửu nói: “Không! Ta phải ở lại đây một lát.”
Vương Thượng Ân nói: “Trong chốc lát là nội thành bị phá, điện hạ ở lại trong cung vô cùng nguy hiểm.”
A Cửu nói: “Ta phải chờ một người.”
Sùng Trinh biến sắc mặt, hỏi: “Ngươi đợi con trai Viên Sùng Hoán phải không?”
A Cửu đỏ mặt lên, khẽ đáp: “Vâng! Nhi thần phải cáo biệt bệ hạ trước.”
Sùng Trinh hỏi: “Ngươi chờ hắn làm chi?”
A Cửu đáp: “Huynh ấy đã hứa, nhất định sẽ đến gặp nhi thần.”
Sùng Trinh bảo: “Đưa kiếm cho ta!”
Hắn cầm lấy Kim Xà bảo kiếm trong tay A Cửu, thở dài một tiếng rồi nói: “Hài nhi! Tại sao hài nhi lại sinh vào nhà ta…”
Đột nhiên hắn vung kiếm chém xuống. Kiếm quang lóe lên, bảo kiếm chém vào đầu A Cửu. Nàng kinh hãi la lên một tiếng, né qua một chút.
Sùng Trinh không biết võ công, nếu A Cửu chú ý thì thừa sức nhẹ nhàng tránh khỏi. Nhưng trong lúc sinh ly tử biệt, nàng vô cùng kích động, hoàn toàn không ngờ phụ vương vốn thương yêu mình lại hạ độc thủ. Vì thế nàng giật mình không kịp tránh né, bị bảo kiếm chém trúng cánh tay trái.
Viên Thừa Chí cũng không ngờ Sùng Trinh hạ độc thủ giết con gái ruột. Chàng đứng cách hai người rất xa, vừa thấy nguy là vọt tới ngay, nhưng mới giữa đường thì A Cửu đã ngã xuống đất.
Sùng Trinh cầm kiếm định chém tiếp, nhưng Viên Thừa Chí đã chạy tới nơi, đưa tay trái vỗ vào cổ tay hắn. Sùng Trinh không sao giữ được, Kim Xà Kiếm bay vọt lên trời. Viên Thừa Chí xoay tay trái lại nắm chặt lấy cổ tay Sùng Trinh, tay phải đón lấy thanh kiếm đang rơi xuống. Chàng quay đầu lại nhìn A Cửu, thấy nàng đã ngất xỉu trong vũng máu, cánh tay trái đứt lìa rớt một bên.
Viên Thừa Chí cả giận thét lên: “Hôn quân độc ác thế này, ai cũng có thể giết. Ngươi đã hại chết phụ thân ta, lại giết chết con gái của chính mình. Hôm nay ta phải lấy mạng ngươi.”
Sùng Trinh nhận ra chàng, thở dài rồi bảo: “Ngươi ra tay đi!”
Nói xong, hắn nhắm mắt chờ chết. Hai tên thái giám nhảy vào cứu giúp, nhưng Viên Thừa Chí mỗi chân hất một tên bay hẳn ra khỏi cung. Chàng đưa kiếm lên, định chém vào cổ Sùng Trinh.
Đột nhiên lúc đó A Cửu mở to cặp mắt, cố hết sức nhảy lên đứng chặn trước mặt Sùng Trinh, kêu lên: “Muội cầu xin huynh, đừng giết phụ vương!” Nàng nhìn Viên Thừa Chí đầy vẻ van xin, nói chưa xong lại ngất xỉu ngay.
Viên Thừa Chí thấy chỗ cánh tay cụt của nàng máu phun ra như suối, trong lòng vô cùng đau đớn. Chàng hất tay trái ra, Sùng Trinh té nhào xuống, ngẩng mặt lên trời.
Viên Thừa Chí bước tới dìu A Cửu dậy, điểm mấy chỗ huyệt đạo trên cánh tay trái và sau lưng cho máu chảy chậm lại, rồi lấy thuốc kim sang rắc lên vết thương, xé áo bó chặt lại. A Cửu từ từ hồi tỉnh, Viên Thừa Chí ôm lấy nàng dịu dàng an ủi.
Vương Thượng Ân cùng mấy tên thái giám đỡ Sùng Trinh dậy, bước xuống điện toan chạy ra ngoài. Viên Thừa Chí hét lên: “Trốn đâu cho thoát?” Chàng thả A Cửu xuống, định đuổi theo.
A Cửu đưa tay phải ôm lấy cổ Viên Thừa Chí, vừa khóc vừa kêu: “Đại ca… đừng hại phụ vương của muội!”
Viên Thừa Chí đổi ý: “Thành sắp bị phá, nhất định Sùng Trinh không toàn mạng. Mình không cần tự tay chém hắn vẫn coi như trả được thù cha, đỡ làm A Cửu đau lòng.” Chàng bèn gật đầu đáp: “Được!”
A Cửu yên tâm một chút, lại ngất đi.
Viên Thừa Chí nhìn thấy khắp nơi loạn lạc, nghĩ bụng: “Nàng bị trọng thương, không ai lo lắng nhất định sẽ mất mạng. Ta buộc phải đưa nàng về.” Thế là chàng ôm lấy A Cửu, bế ra khỏi cung. Đêm đã canh ba nhưng bầu trời sáng rực vì ánh lửa, khắp nơi đầy tiếng khóc la thê thảm.
Về đến hẻm Chính Điện Tử, chàng thấy mọi người đang chờ đợi. Thanh Thanh thấy chàng ôm về một cô gái vốn đã không vui, đến gần nhận ra A Cửu lại càng tức tối. Nàng nhăn nhó hỏi: “Thủ cấp hoàng đế đâu?”
Viên Thừa Chí đáp: “Ta không giết hắn. Tiêu cô nương, nhờ cô chăm sóc người này.”
Tiêu Uyển Nhi gật đầu, ẵm A Cửu vào trong. Ánh mắt Viên Thừa Chí cứ dõi theo, mãi đến khi Tiêu Uyển Nhi đưa A Cửu vào khuất trong phòng. Mặt chàng đầy vẻ lo âu.
Thanh Thanh lại hỏi: “Sao huynh không giết?”
Viên Thừa Chí ngần ngừ một chút, chỉ vào trong rồi nói: “Cô ấy xin ta đừng giết.”
Thanh Thanh giận dữ hỏi: “Cô ấy ư? Cô ấy là ai mà huynh phải nghe lời?”
Viên Thừa Chí chưa kịp trả lời, Hà Thiết Thủ đã nói: “Đáng tiếc, đáng tiếc! Một cô công chúa xinh đẹp như vậy mà bị chặt đứt cánh tay. Sư phụ! Bức tranh cô ấy vẽ đâu rồi, có mang theo không?”
Viên Thừa Chí vội nháy mắt ra hiệu. Hà Thiết Thủ còn hứng nói tiếp, nhưng thấy mặt mày Viên Thừa Chí và Thanh Thanh đều rất nặng nề, nên đành ngậm miệng.
Thanh Thanh hỏi: “Cái gì mà công chúa? Bức tranh gì thế?”
Hà Thiết Thủ mỉm cười đáp: “Vị công chúa này biết vẽ tranh. Ta từng thấy cô ấy tự vẽ mình, rất đẹp.”
Thanh Thanh lườm một cái, gằn giọng hỏi: “Có phải vậy không?” Rồi nàng quay lưng bỏ vào trong.
Hà Thiết Thủ nói với Viên Thừa Chí: “Sư phụ! Muội sẽ giúp sư phụ cứu công chúa sư nương. Sư phụ cứ việc yên tâm.”
Chú thích của Kim Dung:
Thật sự không có chuyện Tào Hóa Thuần định lập Huệ Vương làm vua. Chuyện này là do tác giả tiểu thuyết bịa ra để thêm thắt vào. Còn những chuyện liên quan đến Sùng Trinh và Lý Tự Thành, đại khái có căn cứ vào sử sách. Mối tình giữa Trường Bình công chúa và Viên Thừa Chí dĩ nhiên trong sử không chép, vì Viên Thừa Chí là nhân vật hư cấu.
Huệ vương Châu Thường Nhuận là con thứ sáu của vợ thứ Thuần Tông; là em của Quan vương Thường Lạc, Phước vương Thường Tuân; là chú của Thiên Khải và Sùng Trinh. Huệ Vương được phong ở đất Kinh Châu chưa lâu thì thiên hạ đại loạn, vùng Sơn Đông Trực Lệ không yên ổn, nên quay về Bắc Kinh. Năm cuối đời Sùng Trinh, Huệ Vương chạy đến Quảng Châu, khi Mãn Thanh bình định Quảng Đông thì bắt được đem xử tử.
Nửa đêm Viên Thừa Chí lẻn đến ngoài phòng A Cửu xem thử. Màn đã buông xuống, chàng không nhìn rõ bên trong, chỉ thấy lờ mờ Hà Thiết Thủ và Tiêu Uyển Nhi ngồi cạnh giường. Chàng không dám mở miệng, quay về phòng nghỉ ngơi chốc lát.
Gần sáng, chàng lại tới thăm, vẫn thấy Hà Thiết Thủ và Tiêu Uyển Nhi ngồi canh trước giường. Hà Thiết Thủ khẽ nói: “Sư phụ! Cô ấy có tỉnh một lúc, mãi hỏi sư phụ rồi lại ngủ thiếp đi. Chắc cô ấy đang mơ thấy sư phụ.”
Viên Thừa Chí nhìn A Cửu, thấy mắt nàng nhắm nghiền, hàng mi dài buông rủ, sắc mặt trắng xanh hoàn toàn không có chút huyết sắc. Chàng sợ Thanh Thanh đến đây la lối nên không dám ở lâu, biết Hà Thiết Thủ đủ khả năng lo liệu nên quay về phòng mình.
Lúc bình minh Hồng Thắng Hải từ bên ngoài chạy vội vào phòng, kêu lớn: “Tướng công! Sa trại chủ đã bắt được thái giám Vương Tương Hiệu, sai người mở cửa Tuyên Võ Môn.”
Viên Thừa Chí vọt ra khỏi giường, hỏi: “Nghĩa quân vào thành chưa?”
Hồng Thắng Hải đáp: “Tướng quân Lưu Tông Mẫn đã dẫn quân vào thành.”
Viên Thừa Chí nói: “Thế thì hay quá! Chúng ta mau đi đón tiếp.”
Hai người tới đại sảnh. Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng và Thiết La Hán ra ngoài chưa quay về. Viên Thừa Chí dẫn ông câm, Hồ Quế Nam, Hồng Thắng Hải, cả thảy bốn người đi về phía Đại Ninh Môn.
Mây đen che kín bầu trời, tuyết trắng lả tả rơi xuống. Loạn quân của Minh triều chạy tứ tán đầy đường. Có người đi qua hô hoán: “Kim Xà Vương đang tấn công Chính Dương Môn, Thuận Thiên Vương đã dẫn nghĩa quân vào thành.” Lại có người kêu lên: “Tề Hóa Môn đã mở, nghĩa quân của Tả Kim Vương đã vào thành. Nghĩa quân của Lão Hồi Hồi vừa phá được Đông Trực Môn.”
Viên Thừa Chí cùng mọi người đi một lúc thì thấy bại binh dần dần ít đi, Sấm quân từng toán kéo vào theo những con đường lớn, khí thế oai nghiêm. Dân chúng đều dán giấy vàng trước cửa, viết chữ rất lớn: “Vĩnh Xương nguyên niên Thuận Thiên Vương vạn vạn tuế”. Thậm chí có nhà còn bày hương án, sắp sẵn trà rượu để ủy lạo đại quân.
Viên Thừa Chí nói với Hồ Quế Nam: “Lòng người như thế, Sấm Vương đâu thể không thành đại sự?”
Đi một đoạn nữa, nghe phía trước có tiếng kèn hiệu. Mấy trăm người nhanh chân chạy tới, dẫn đầu là Sa Thiên Quảng và Thiết La Hán. Hai người này đang dẫn hào kiệt thành Bắc Kinh chặn đánh lính triều đình, khi thấy Viên Thừa Chí đều cất tiếng hoan hô: “Kim Xà Vương, Kim Xà Vương! Chúng ta phá được thành rồi.”
Thiết La Hán la lên: “Sấm Vương sắp đến!”
Tiếng hô vừa dứt, đã thấy mấy kỵ sĩ phi nhanh tới, đại hán đi đầu cầm cờ lớn ghi sáu chữ: “Đại Thuận, Chế tướng quân Lý”. Sau đó nhìn thấy Lý Nham mặc y phục màu xanh dương, cỡi ngựa chạy tới.
Viên Thừa Chí cả mừng, reo lên: “Đại ca!” Chàng lập tức nhảy đến trước mặt Lý Nham.
Lý Nham ngẩn ra một chút rồi tung người xuống ngựa, hoan hỉ nói: “Huynh đệ! Kim Xà Doanh của huynh đệ đã phá được thành, công lao không phải nhỏ.”
Viên Thừa Chí nói: “Đại quân Sấm Vương đến đâu, quân Minh chỉ nghe tiếng đã đầu hàng. Tiểu đệ chẳng có công lao gì hết.”
Hai người nắm tay nhau nói mấy câu khách sáo. Điền Kiến Tú, Lưu Phương Lượng từng gặp trên đỉnh Thánh Phong cũng tới đây, lát sau lại thêm mấy tướng lĩnh của Sấm quân là Quách Dưỡng Thành, Hoành Thiên Vương, Giáp Lý Nhãn. Mọi người siết tay nhau mừng rỡ.
Đột nhiên nghe tiếng còi hiệu, quân tướng reo hò: “Đại vương đến rồi! Đại vương đến rồi!”
Viên Thừa Chí cùng mọi người né qua một bên, thấy hơn trăm tinh binh phi ngựa dẫn đường, Lý Tự Thành đội nón nhung, mặc áo giáp, cỡi ngựa đen chạy nhanh tới. Lý Nham đến nói nhỏ mấy câu, Lý Tự Thành mỉm cười gọi: “Tuyệt diệu! Kim xà vương Viên huynh đệ, mau tới đây!”
Lý Nham vẫy tay gọi, Viên Thừa Chí tiến đến trước mặt hai người. Lý Tự Thành cười nói: “Viên huynh đệ đã lập đại công rồi! Huynh đệ không có ngựa ư?”
Nói xong, ông nhảy xuống ngựa, trao dây cương con ngựa của mình cho Viên Thừa Chí. Chàng vội vàng bái tạ.
Lý Tự Thành đi lên đầu thành, phóng mắt nhìn ra, thấy hàng ngàn hàng vạn tướng sĩ của mình đang từ mọi cửa thành tiến vào, không sao giấu nổi vẻ đắc chí mãn nguyện. Sấm quân cũng thấy đại vương đứng trên đầu thành, bốn phía đều hoan hô như sấm.
Lý Tự Thành lấy ra ba mũi tên, giương cung bắn xuống dưới thành, lớn tiếng hô: “Tướng sĩ nghe đây! Sau khi vào thành, nếu ai tự động sát hại, cướp bóc, hãm hiếp dân chúng, phải chém không tha.”
Mấy chục vạn Sấm quân dưới thành đồng thanh hô vang: “Xin tuân lệnh Đại vương. Đại vương vạn tuế, vạn vạn tuế.”
Viên Thừa Chí ngẩng mặt nhìn lên, thấy Lý Tự Thành đầy vẻ oai phong mà trong lòng khâm phục. Chàng bất giác cũng lớn tiếng hô: “Đại vương vạn tuế, vạn vạn tuế!”
Lý Tự Thành bước xuống tường thành, đổi một con ngựa khác, dẫn mọi người tới hoàng cung. Ông quay đầu lại, mỉm cười bảo Viên Thừa Chí: “Từ nay về sau huynh đệ phải thừa chí cha mình, giúp ta kháng cự bọn Thát tử Mãn Châu xâm lược giang sơn. Còn ta là Thừa Thiên.”
Sau đó ông giương cung lắp tên. Vù một tiếng, mũi tên bắn trúng chữ Thiên trong ba chữ Thuận Thiên Phủ. Kình lực của ông rất mạnh, mũi tên cắm ngập vào tường thành, mọi người lại lớn tiếng reo hò.
Tới Đức Thắng Môn, thái giám Vương Đức Quá đã dẫn ba trăm năm mươi mấy tên nội giám nằm rạp sẵn dưới đất để đón tiếp. Lý Tự Thành vứt roi xuống đất, cười rộ lên nói với Viên Thừa Chí: “Năm ngoái gặp ta ở Thiểm Tây, huynh đệ có nghĩ đến ngày hôm nay không?”
Viên Thừa Chí đáp: “Đại nghiệp của đại vương thì dân chúng khắp thiên hạ đều tin tưởng, nhưng không ngờ thành tựu nhanh chóng đến thế.”
Lý Tự Thành lại xoa tay cười lớn.
Phía trước có người chạy nhanh tới, bẩm cáo với Lý Tự Thành: “Đại vương! Bọn thái giám nói là thấy Sùng Trinh chạy về phía Mai Sơn.”
Lý Tự Thành quay lại bảo Viên Thừa Chí: “Kim Xà Vương huynh đệ! Mau dẫn người đi bắt hắn.”
Viên Thừa Chí vâng dạ rồi vẫy tay một cái, dẫn bọn Hồ Quế Nam chạy tới Mai Sơn.
Mai Sơn là một ngọn đồi nhỏ xíu. Mọi người vừa lên đồi đã thấy một gốc cây lớn có treo hai người, lắc lư theo gió. Một người xõa tóc che mặt, trong mặc áo chẽn, quần trắng có viền màu bạc, ngoài khoác áo ngắn bằng gấm đoạn, chân trái để trần, chân phải vẫn mang một chiếc giày mũi vuông màu đỏ. Viên Thừa Chí vén tóc ra xem mặt, đúng là Sùng Trinh hoàng đế.
Trong túi áo hắn có một tờ giấy trắng, viết bằng bút son: “Mười bảy năm trẫm đăng cơ, địch đã vào trong nội địa bốn lần, bây giờ nghịch tặc đến tận kinh sư. Trẫm tài hèn đức mọn nên hoàng thiên nổi giận mà trách phạt, lại còn quần thần gây ra hậu quả. Trẫm chết đi không mặt mũi nào gặp tổ tông dưới cửu tuyền, nên dùng tóc để che mặt. Sấm tặc cứ phanh thây trẫm, nhưng đừng hại một bá tính nào. Sùng Trinh ngự bút.” Trên tờ giấy vấy đầy vết máu.
Viên Thừa Chí cầm xem tờ huyết chiếu, đột nhiên thấy bâng khuâng. Mối thù hai mươi năm nay đã được trả, dĩ nhiên chàng phải vui mừng; nhưng thấy kẻ thù có kết cục thê thảm như vậy, bỗng nảy lòng trắc ẩn. Chàng nghĩ bụng: “Ngươi nói cũng hay lắm, gì mà đừng hại một bá tính nào! Nếu ngươi biết yêu mến bá tính, đừng ép bá tính đến mức đói rách không phương sinh sống, thì đâu phải hứng chịu hậu quả hôm nay?”
Hồng Thắng Hải lên tiếng: “Viên tướng công! Người treo cổ bên cạnh là một tên thái giám.”
Viên Thừa Chí nói: “Tên hoàng đế này chết chỉ có một thái giám kế bên, đúng là mất hết nhân tâm. Chúng ta đưa xác hắn về, đừng để người khác sỉ nhục.”
Hồng Thắng Hải vâng dạ, Viên Thừa Chí phi ngựa về bẩm báo.
Lúc này Lý Tự Thành đã vào hoàng cung. Sấm quân canh giữ hoàng cung nhận ra Viên Thừa Chí, liền dẫn chàng vào. Lý Tự Thành ngồi trên long ỷ, mười mấy tướng quân đứng bên cạnh. Dưới điện có một thằng bé áo quần xốc xếch.
Lý Tự Thành thấy Viên Thừa Chí vào, gọi lớn: “Hay lắm! Hoàng đế đâu, dẫn vào đi!”
Viên Thừa Chí đáp: “Sùng Trinh chết rồi, treo cổ trên một gốc cây ở Mai Sơn.”
Lý Tự Thành ngẩn ra, đón lấy tờ di chiếu của Sùng Trinh để xem. Thiếu niên đứng dưới đột nhiên nằm lăn ra đất khóc gào, cơ hồ ngất xỉu. Lý Tự Thành nói: “Đó là thái tử.”
Viên Thừa Chí dìu nó dậy. Lý Tự Thành hỏi: “Tại sao cha ngươi để mất thiên hạ, ngươi biết không?”
Thái tử vừa khóc vừa đáp: “Vì tin dùng gian thần, bạc đãi trung lương.”
Lý Tự Thành mỉm cười nói: “Thì ra thằng bé này cũng có hiểu biết.” Ông nghiêm giọng nói: “Cho ngươi biết, phụ vương của ngươi đã hồ đồ lại nhẫn tâm, tàn hại bá tính khắp thiên hạ cực kỳ khổ sở. Hôm nay phụ vương của ngươi treo cổ tự tử, đương nhiên là chuyện thê thảm. Nhưng hắn tại vị mười mấy năm trời, đã ép bá tính trong thiên hạ phải treo cổ tự tử không biết mấy ngàn mấy vạn. Chuyện đó còn thê thảm hơn nhiều.”
Thái tử cúi đầu không nói gì, lát sau mới lên tiếng: “Ông mau giết ta đi!”
Thừa Chí thấy nó quật cường, không khỏi lo giùm. Nhưng Lý Tự Thành nói: “Ngươi vẫn còn là một đứa bé, lại chẳng có tội gì. Ta đâu có giết người bừa bãi?”
Thái tử nói: “Vậy thì ta xin ông mấy việc.”
Lý Tự Thành bảo: “Ngươi nói thử xem.”
Thái tử nói: “Xin ông đừng kinh động đến lăng tẩm của tổ tông ta và an táng phụ vương, mẫu hậu ta tử tế.”
Lý Tự Thành đáp: “Đương nhiên. Chuyện đó ngươi khỏi phải xin.”
Thái tử lại nói: “Xin ông đừng giết hại bá tính.”
Lý Tự Thành cười ha hả rồi nói: “Thằng bé này chẳng hiểu gì. Ta chính là bá tính đây. Bá tính chúng ta tấn công, chiếm được kinh thành các ngươi. Ngươi có hiểu không?”
Thái tử hỏi: “Vậy thì ông không giết bá tính chứ?”
Lý Tự Thành đột nhiên phanh ngực áo, để lộ nhiều vết sẹo do roi và hình cụ hành hạ, nhìn mà phát sợ. Lý Tự Thành nói: “Ta vốn là người dân lương thiện, nhưng bị bọn tham quan ô lại đánh một trận thế này, nên mới không nhẫn nại được mà khởi nghĩa tạo phản. Cha con ngươi giả nhân giả nghĩa, nói yêu mến bá tính gì gì! Trong quân đội của ta từ trên xuống dưới, chẳng ai chưa từng nếm mùi khổ nhục của cha ngươi.”
Thái tử im lặng cúi đầu. Lý Tự Thành mặc áo vào, lại nói: “Ngươi lùi xuống đi. Nghĩ ngươi là thái tử của tiên vương, ta phong cho ngươi một tước vương để ngươi biết bá tính chúng ta không nghĩ đến thù xưa. Phong ngươi chức vương gì đây? À, cha ngươi đã đem giang sơn tống vào tay ta, thế thì phong ngươi làm Tống Vương vậy.”
Thái giám Tào Hóa Thuần đứng bên bỗng lên tiếng: “Mau mau khấu đầu tạ ơn bệ hạ đi!”
Thái tử giận dữ nhìn Tào Hóa Thuần, đột nhiên xoay người tát vào mặt hắn một cái. Trên mặt Tào Hóa Thuần lập tức hằn lên dấu năm ngón tay.
Lý Tự Thành cười rộ, nói: “Đánh hay quá! Đồ gian tặc bất trung bất nghĩa! Người đâu, lôi ra chém đi.”
Tào Hóa Thuần hoảng sợ đến nỗi mặt cắt không ra máu, vội vã quỳ xuống khấu đầu binh binh, tóe cả máu trán. Lý Tự Thành phóng cước đá hắn lộn đi mấy vòng, hét lên: “Cút mau! Từ nay về sau, ta mà thấy mặt là giết ngươi ngay.”
Thái tử ngẩng cao đầu, bước ra ngoài. Lý Tự Thành nói với Viên Thừa Chí: “Thằng lỏi này thật là quật cường. Ta thích những đứa có cốt khí như thế.”
Viên Thừa Chí đáp: “Đúng vậy.”
Thừa tướng Ngưu Kim Tinh bỗng lên tiếng: “Đại sự của chúa thượng đã thành, triều Minh mất hết lòng người, nhưng không thể không đề phòng chuyện lửa cháy âm ỉ trong bùn. Thằng bé này quá quật cường, nếu nó không chịu quy thuận thánh triều, e rằng sau này có người lợi dụng danh nghĩa để làm loạn. Chi bằng chúng ta trừ khử để tránh hậu hoạn.”
Lý Tự Thành trù trừ một chút rồi nói: “Việc này giao cho ngươi lo liệu.” Ông quay lại, hỏi quân sư Tống Kiến Sách thấp lùn đứng phía sau: “Nghe nói hoàng đế còn có một công chúa, không biết đang ở đâu.”
Viên Thừa Chí lên tiếng: “Cô ấy đã bị hoàng đế chặt đứt một cánh tay, thuộc hạ đón về nhà trị liệu vết thương. Đợi công chúa bình phục, thuộc hạ sẽ dẫn đến khấu kiến đại vương.”
Lý Tự Thành vừa cười vừa nói: “Được! Công lao của ngươi không nhỏ, ta chưa nghĩ ra phải thưởng cái gì. Thưởng công chúa cho ngươi.”
Viên Thừa Chí cảm thấy khó chịu, vội nói: “Không, không! Thuộc hạ chỉ xin đại vương tha mạng cho thái tử.”
Ngưu Kim Tinh mỉm cười nói: “Viên huynh đệ mắc cỡ làm chi? Trước nay anh hùng vẫn xuất tự thiếu niên. Các vị tướng quân công lao tuy lớn, chỉ được đại vương thưởng cho mấy ả cung nữ mà thôi. Thế mà huynh đệ vẫn chưa hài lòng, còn cầu xin việc khác.”
Viên Thừa Chí nghe trong lời nói có phần bóng gió, cảm thấy không vui. Chàng thầm nghĩ: “Thái tử là một đứa bé vô tội, hà tất phải giết.”
Lý Tự Thành nói: “Viên huynh đệ! Võ quan dưới trướng ta chia làm nhiều cấp. Lưu Tông Mẫn và Điền Kiến Tú đều là Nhất phẩm Quyền tướng quân. Nghĩa huynh Lý Nham của ngươi là Chế tướng quân. Ta phong ngươi làm Tam phẩm Quả Nghị tướng quân.”
Viên Thừa Chí khom lưng đáp: “Đa tạ đại vương. Thuộc hạ dù chết cũng ra sức phò tá đại vương, nhưng bản ý không muốn làm quan.”
Ngưu Kim Tinh cười nói: “Viên huynh đệ vốn là minh chủ võ lâm bảy tỉnh, chắc là chê chức vụ tướng quân tam phẩm quá thấp phải không? Đại vương đã nhất thống thiên hạ, cai trị toàn cõi giang sơn. Những chuyện minh chủ bảy tỉnh, minh chủ tám tỉnh gì gì đó tự đặt cho nhau, về sau nhất định phải cấm chỉ nghiêm ngặt.”
Lý Tự Thành nghe Ngưu Kim Tinh nói quá nặng nề, bèn vỗ vai Viên Thừa Chí, mỉm cười bảo: “Tuổi ngươi còn trẻ, công lao tuy lớn nhưng theo ta chưa lâu. Sau này thăng tiến, sợ không đủ thời gian hay sao?”
Viên Thừa Chí nói: “Thuộc hạ không nghĩ đến chức vị cao thấp, nhưng thật sự chỉ là thất phu thảo mãng, không thể làm quan được.”
Lý Tự Thành cười lớn rồi dõng dạc nói: “Chẳng lẽ ta không phải thất phu thảo mãng? Thế mà làm tới hoàng đế kia.”
Viên Thừa Chí không tiện nói nữa, cúi đầu xin phép cáo từ.
*
* *
Chàng trở về hẻm Chính Điện Tử, chưa tới đã nghe thấy tiếng binh khí va chạm, tiếng hò hét chửi mắng, rồi lại thấy mấy chục Sấm quân cầm binh khí bỏ chạy ra ngoài.
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Sấm quân tới đây làm gì vậy?” Chàng vội vã chạy đến cửa, thấy Hà Thiết Thủ vẫy thiết câu chém giết loạn xạ, vây chặt mười mấy tên Sấm quân trong nhà không cho chạy ra ngoài. Viên Thừa Chí la lên: “Dừng tay, dừng tay! Người mình cả.”
Hà Thiết Thủ hô lớn: “Sư phụ”, rồi tránh qua một bên.
Bọn Sấm quân thấy có đường chạy trốn, ùa ra như ong vỡ tổ. Một tên võ quan chạy đến trước mặt Viên Thừa Chí, ngơ ngác hỏi: “Ngươi… ngươi là Kim Xà Vương? Không phải thuộc hạ của đại vương chúng ta hay sao?”
Viên Thừa Chí đáp: “Đúng rồi! Mọi người hiểu lầm nhau, xin lão huynh đừng trách.”
Võ quan kia giận dữ nói: “Hiểu lầm ư? Hừ, ngươi xem đi. Thủ hạ của ngươi đã giết rất nhiều huynh đệ chúng ta.” Nói xong, hắn chỉ vào bảy tám cái xác nằm ngổn ngang dưới đất.
Thiết La Hán chạy ra ngoài, lớn tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó! Bọn bay vừa vào nhà đã ra tay cướp giật, nói là không giao vàng bạc ra thì phóng hỏa đốt nhà. Thấy Hạ cô nương xinh đẹp, lập tức động tay động chân, nói cô ấy là gian tế, phải bắt đi ngay. Đồ rùa đen khốn nạn! Bọn bay có khác gì quan quân nhà Minh đâu?”
Nói xong, y vung quyền nghe “binh” một tiếng. Tên võ quan kia bay thẳng ra ngoài.
Viên Thừa Chí đi vào trong sảnh. Trình Thanh Trúc, Hồ Quế Nam cùng mọi người đều tức giận kể lại những chuyện vừa thấy ngoài đường. Họ nói: “Sấm quân vừa vào thành đã lục soát nhà dân, cướp bóc, hãm hiếp, chuyện bậy bạ gì cũng không chừa.”
Viên Thừa Chí kinh hãi nói: “Vậy thì mất nhân tâm ngay. Chính mắt ta thấy đại vương đứng trên đầu thành bắn ba mũi tên, nghiêm cấm giết người cướp của. Nhất định đại vương chưa biết tình hình này. Ta lập tức chạy vào bẩm báo, nhờ đại vương hạ lệnh nghiêm cấm.”
Trình Thanh Trúc khuyên ngăn: “Minh chủ! Bộ hạ của Sấm Vương có rất nhiều người xuất thân đạo tặc, đã vào đến kinh thành phồn hoa dĩ nhiên phải buông thả một chút. Đợi vài ngày rồi hãy tấu trình.”
Viên Thừa Chí nói: “Không được! Đợi vài ngày thì dân chúng trong thành khổ sở không chịu nổi. Cứu dân như cứu hỏa, đâu thể chờ đợi?”
Đang nói chuyện, bên ngoài bỗng vọng vào tiếng hò hét. Viên Thừa Chí giật mình chạy ra cửa, thấy vô số nhân mã đang ùa vào hẻm Chính Điện Tử. Tên võ quan vừa bị Thiết La Hán đánh ngã đang cưỡi trên một con ngựa, la lên: “Viên Thừa Chí! Quyền tướng quân gọi ngươi đi nói chuyện.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Có thật Quyền tướng quân gọi không?”
Một võ quan lấy lệnh tiễn ra, nói: “Có lệnh tiễn của Quyền tướng quân đây.”
Viên Thừa Chí nghĩ bụng: “Ta mà không đi thì tổn thương hòa khí anh em. Gặp Quyền tướng quân cũng là cơ hội để khuyên huynh ấy quản thúc thuộc hạ.” Chàng bèn gật đầu nói: “Được! Ta đi ngay.”
Tên võ quan đó hét lên: “Bắt lấy!”
Lập tức có bảy tám binh sĩ ùa lên, lấy dây ra trói Viên Thừa Chí. Chàng mỉm cười, không chống đỡ, chắp tay sau lưng để chúng muốn trói sao thì trói.
Thiết La Hán, Sa Thiên Quảng cùng quần hùng đều la lớn: “Ai dám động thủ?” Họ vừa hô hoán vừa toan xông vào đánh nhau.
Viên Thừa Chí vội kêu lên: “Mọi người không được động võ. Để ta gặp Quyền tướng quân nói chuyện đã.”
Võ quan kia lại chỉ Hà Thiết Thủ, nói: “Con bé cụt tay này chính là công chúa của Sùng Trinh hoàng đế, Quyền tướng quân dặn phải bắt về. Bắt lấy nó!”
Đám lính chạy ùa về phía Hà Thiết Thủ. Nàng vung kim câu một đường, không cho chúng đến gần, cười cười hỏi: “Quyền tướng quân bắt ta để làm gì vậy?”
Tên võ quan đáp: “Phá được Bắc Kinh, công lao của Quyền tướng quân là số một. Công chúa của Sùng Trinh dĩ nhiên phải để Quyền tướng quân hưởng thụ. Ngươi ngoan ngoãn theo về, sau này phú quý cả đời dùng không hết.”
Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Vậy thì hay lắm. Nhưng nếu ta không chịu đi thì sao?”
Tên võ quan hét lên: “Lải nhải nhiều vô ích. Bắt nó đi!”
Hà Thiết Thủ la lên: “Sư phụ! Quyền tướng quân muốn bắt muội về làm vợ bé. Sư phụ thấy muội nên đi hay không?”
Viên Thừa Chí chưa biết nói sao, đã thấy mấy tên lính ùa tới túm lấy Hà Thiết Thủ. Nàng cứ đứng yên cười khanh khách, nhưng bọn chúng đột nhiên té ngửa ra, giật giật mấy cái rồi mất mạng. Thì ra trên y phục của Hà Thiết Thủ chỗ nào cũng có chất kịch độc.
Tên võ quan sợ quá, thét lên: “Phản rồi, phản rồi! Bọn này là tàn quân của triều Minh còn kháng cự, giết đi!”
Lập tức rất nhiều đao thương vung lên, bổ lên đầu Thiết La Hán cùng mọi người. Đã đến mức này, chẳng lẽ quần hùng buông tay chịu chết? Họ đoạt lấy đao thương đánh trả, chém giết một trận. Quan quân hỗn độn thành một khối, kẹt lại trong hẻm, không tiến được mà cũng khó lùi.
Viên Thừa Chí hô lớn: “Các ngươi về nói với Quyền tướng quân, mọi người cùng đến trước mặt đại vương nói chuyện xem ai đúng ai sai.”
Nói xong, chàng vận kình lực lên tay, bao nhiêu dây trói đứt tung như chỉ mục. Chàng nhảy xổ tới, hai tay nắm lấy hai tên võ quan lôi xuống ngựa, lại la lên: “Ta tạm giữ hai võ quan này. Anh em binh sĩ trở về doanh đi.”
Đám lính thấy cấp trên đã bị bắt, không dám đánh nữa. Chúng ùa nhau chạy ra khỏi hẻm.
Viên Thừa Chí thở dài, lắc đầu, bảo Hồ Quế Nam và Hồng Thắng Hải áp giải hai tên võ quan đó đi gặp Lý Tự Thành.
Vào cung, thấy trong đại điện đang bày đại tiệc. Lý Tự Thành cùng các tướng quân dự yến, tiếng nhạc inh ỏi, rượu thịt liên tiếp bưng lên như nước chảy. Lý Tự Thành đã hơi say, thấy Viên Thừa Chí liền vui mừng nói: “Hay quá! Ngươi tới đây uống một ly.”
Viên Thừa Chí khom người vâng dạ, rồi bước tới nhận ly rượu từ tay Lý Tự Thành, uống cạn ngay.
Tướng quân ngồi bên trái Lý Tự Thành đột nhiên đứng dậy, hét lên: “Viên Thừa Chí, gan ngươi to thật đấy! Dựa vào cái gì mà dám giết thuộc hạ của ta?”
Viên Thừa Chí thấy người này râu ria đầy mặt, thần sắc thô hào, đoán là Quyền tướng quân Lưu Tông Mẫn. Chàng hỏi: “Các hạ là Quyền tướng quân phải không?”
Hắn đáp: “Đúng vậy! Đại vương chỉ phong cho ngươi cái chức Quả Nghị tướng quân nho nhỏ, thế mà ngươi dám không xem Quyền tướng quân này ra gì, cả gan giết thuộc hạ của ta.”
Nói xong, hắn đưa tay nắm chuôi đao rút ra một nửa, rồi cắm trả vào vỏ nghe “roạt” một tiếng. Nhất thời cả mấy trăm người trong điện im lặng, không ai lên tiếng.
Viên Thừa Chí nói: “Lúc đại vương vào thành từng ra hiệu lệnh: ai giết hại, cướp bóc, hãm hiếp dân chúng đều phải chém đầu. Tại hạ thấy một số người dưới trướng tướng quân đang ngược đãi tàn hại bá tính nên phải khuyên ngăn, thật không phải cố ý đắc tội. Chuyện này xin Quyền tướng quân tha thứ.”
Lưu Tông Mẫn cười nhạt nói: “Thiên hạ này đã là của đại vương, do đám huynh đệ lâu năm chúng ta xuất sinh nhập tử, từ trong rừng đao thương giành lấy. Chúng ta biết đánh chiếm giang sơn, chẳng lẽ không biết hưởng thụ giang sơn hay sao? Ngươi cố ý lấy lòng bá tính, thu phục nhân tâm… Hừ, mưu đồ gì đây?”
Viên Thừa Chí nói: “Đại vương từng nói, chính bản thân đại vương cũng là bá tính.”
Lưu Tông Mẫn cười rộ lên nói: “Đang đánh chiếm giang sơn thì đại vương là bá tính, bây giờ ngồi trên ngai vàng thì đại vương là chân mạng thiên tử, chẳng lẽ vẫn là bá tính? Thằng lỏi này chỉ nói bừa.”
Viên Thừa Chí im lặng. Lý Tự Thành cười nói: “Được rồi, được rồi! Mọi người đều là huynh đệ, đừng vì chuyện nhỏ mà tổn thương hòa khí. Hai người qua đây, mỗi người cạn một ly đi. Tông Mẫn! Ta biết ngươi chỉ ganh tị vì Viên Thừa Chí được công chúa. Trong hoàng cung này, người đẹp muốn bao nhiêu thì có bấy nhiêu. Lát nữa cho ngươi tự do lựa chọn là xong.”
Lưu Tông Mẫn nói: “Đại vương! Sùng Trinh chỉ có một công chúa thôi.”
Lý Tự Thành mỉm cười quay lại bảo Viên Thừa Chí: “Tông Mẫn nhất định đòi công chúa, thôi thì ngươi nể mặt ta mà nhường cho hắn đi. Hai ngươi là quan cùng triều, giữ hòa khí là cần thiết nhất.”
Viên Thừa Chí không khỏi ngạc nhiên. Chàng nghĩ đến A Cửu mà cảm thấy mất mát gì đó trong lòng, bất giác tay buông lỏng. Ly rượu rơi xuống đất, tan nát thành mảnh vụn.
Lý Tự Thành giận dữ nói: “Giả tỉ ngươi không chịu, cũng không nên nổi giận với ta!”
Viên Thừa Chí khom lưng đáp: “Thuộc hạ không dám!”
Đột nhiên nghe tiếng sáo trúc vang lên, mấy võ quan dẫn một cô gái lên điện. Cô gái này quỳ lạy trước mặt Lý Tự Thành rồi đứng dậy. Ánh đèn vừa chiếu lên mặt nàng, mọi người không hẹn mà cùng khẽ la một tiếng.
Nàng đảo mắt một vòng, nhìn khắp lượt mọi người trong điện. Khi chạm phải ánh mắt nàng, ai cũng có cảm giác như toàn thân ngâm vào một chậu nước ấm, thoải mái khó mà diễn tả.
Nàng thỏ thẻ giọng oanh, lên tiếng: “Tì thiếp Trần Viên Viên bái kiến đại vương. Cầu chúc đại vương vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế.”
Lý Tự Thành cười ha hả, nói: “Cô nương xinh đẹp quá!”
Lưu Tông Mẫn la lên: “Đại vương! Tiểu tướng không cần công chúa của Sùng Trinh nữa. Đại vương ban người đẹp này cho tiểu tướng đi.”
Ngưu Kim Tinh lên tiếng: “Lưu tướng quân! Trần Viên Viên là ái thiếp của tổng binh Ngô Tam Quế, người đang trấn thủ Sơn Hải Quan. Cô ấy có thể gọi là đệ nhất mỹ nhân, đại vương đã đặc biệt triệu đến đây, làm sao cho ngươi được?”
Nghe chính Lý Tự Thành muốn cô này, Lưu Tông Mẫn không dám nói thêm. Nhưng mắt hắn vẫn đảo lia đảo lịa, trân trân nhìn Trần Viên Viên, nuốt nước bọt ừng ực thành tiếng.
Cả đại điện nhất thời im phăng phắc. Đột nhiên nghe tiếng loảng choảng, ly rượu trong tay ai đó rơi xuống đất. Sau đó những tiếng loảng choảng vang lên liên tiếp, nhiều người ngơ ngẩn đến cầm ly không chắc. Lúc nãy Viên Thừa Chí vô ý làm rơi ly rượu, Lý Tự Thành vô cùng giận dữ. Nhưng bây giờ ai cũng lo nhìn khuôn mặt tuyệt thế của Trần Viên Viên, nên không ai để ý đến chuyện vỡ ly nữa.
Đột nhiên một tên tiểu tướng ngồi dưới cười lên ha hả, bò lổm ngổm dưới đất đến chỗ Trần Viên Viên, ôm lấy đùi nàng. Nàng kinh hãi hét lên, tránh qua một bên, tiếng hét nghe cũng trong trẻo êm tai.
Một tướng quân khác la lên: “Nóng quá, nóng quá!” Roạc roạc mấy tiếng, hắn tự xé hết áo mình ra.
Lại có một tướng quân la lên: “Mỹ nhân! Nếu được mời mỹ nhân uống rượu, ta có chết cũng cam lòng.” Hắn cầm ly rượu kề vào miệng Trần Viên Viên.
Đại điện náo loạn cả lên. Những võ tướng đánh quen trăm trận đều bị dung mạo Trần Viên Viên làm mê hoặc. Viên Thừa Chí nhìn thấy cảnh tượng này, âm thầm lắc đầu, định bỏ ra ngoài điện.
Đột nhiên chàng nghe Lý Nham quát lớn: “Trước mặt đại vương, các huynh đệ không được vô lễ!”
Một tướng quân cười ha hả lên nói: “Ta chỉ dùng đầu ngón tay sờ vào khuôn mặt trắng trẻo này một chút, chắc không sao chứ?” Nói xong hắn giơ ngón tay ra trước, từ từ tiến đến gần Trần Viên Viên.
Lý Tự Thành hét lên: “Đưa mỹ nhân vào hậu cung! Tống Kiến Sách, ngươi cho quân canh giữ.” Tống Kiến Sách vâng dạ, dẫn Trần Viên Viên vào trong.
Mấy chục võ quan chen lấn ùa theo, tranh nhau nhìn thêm một chút. Mãi đến khi Trần Viên Viên khuất bóng, chúng mới tiếc rẻ từ từ quay lại chỗ ngồi.
Một tên hỉnh mũi lên hít như chó đánh hơi, nói: “Được ngửi mùi thơm của mỹ nhân này một chút, chắc kiếp trước ta đã tu hành tử tế.”
Một tên nói: “Đây không phải là người, là hồ ly tinh biến thành. Đại vương không nên hưởng dụng.”
Một tên khác cãi: “Dù nàng là yêu tinh giết người đi nữa, ta cũng muốn ôm một cái. Dù bị nàng nuốt chửng, cũng là khoái lạc vô cùng.”
Lý Tự Thành từ từ uống rượu, mặt mày cực kỳ rạng rỡ. Y hết nhìn Viên Thừa Chí lại nhìn Lý Nham, lại chuyển qua nhìn Lưu Tông Mẫn, rồi nói: “Tuy chúng ta đã được thiên hạ, nhưng không nên ngược đãi bá tính. Tông Mẫn! Ngươi truyền lệnh đi: Trong thành Bắc Kinh không được cướp bóc tài vật, chiếm đoạt nữ nhân.”
Lưu Tông Mẫn vâng dạ nhưng lại nói: “Đại vương! Trong thành Bắc Kinh này có rất nhiều tham quan ô lại, phú hào tài chủ, chẳng tên nào là người tốt. Tài sản, nữ nhân của chúng đều do cướp bóc từ bá tính. Huynh đệ chúng ta lấy lại chút ít, đâu phải là vô lý?” Lý Tự Thành im lặng không nói gì.
Lý Nham bước lên mấy bước, nói: “Đại vương! Ngô Tam Quế có rất nhiều binh mã ở Sơn Hải Quan. Chỉ tinh binh đã bốn vạn, lại thêm tám vạn dân chúng đất Liêu kiêu dũng thiện chiến. Đại vương phái người chiêu hàng, y đã chịu quy thuận. Hay là đưa trả tiểu thiếp của y về phủ, để y yên tâm quy phục?”
Lưu Tông Mẫn cười nhạt hỏi: “Bốn vạn binh mã của Ngô Tam Quế làm được cái gì? Trong thành Bắc Kinh, Sùng Trinh có mười mấy vạn quan binh, nhưng gặp phải chúng ta, không phải chỉ một trận là sụp đổ hết hay sao?”
Lý Tự Thành gật đầu nói: “Ngô Tam Quế là việc nhỏ, không cần để tâm. Nếu hắn đầu hàng, coi như hắn biết điều. Nếu không, chúng ta chỉ đưa tay là bắt được. Chẳng lẽ Ngô Tam Quế lợi hại hơn Tôn Truyền Đình, Chu Ngộ Cát hay sao?”
Lý Nham lại nói: “Đại vương tuy đã được Bắc Kinh, nhưng Giang Nam chưa ổn…”
Lý Tự Thành xua tay bảo: “Mọi người uống rượu đi! Đây không phải lúc bàn quốc gia đại sự.”
Lý Nham đành vâng dạ, lùi xuống ngồi bên Viên Thừa Chí, dặn nhỏ: “Mọi chuyện phải cẩn thận, đề phòng Quyền tướng quân gia hại!” Viên Thừa Chí khẽ gật đầu.
Lý Tự Thành uống thêm mấy ly rồi hô lớn: “Mọi người giải tán đi thôi! Ha ha… ha ha…” Y vung chân hất đổ cái bàn, quay lưng đi vào nội cung.
Bọn tướng quân ồn ào một chút rồi giải tán, rất nhiều người ngoác mồm ca tụng Trần Viên Viên hấp dẫn. Trong ngoài cửa cung, nghe toàn những câu nói dơ bẩn thô tục.
*
* *
Viên Thừa Chí theo Lý Nham ra khỏi điện, tới cửa cung thì gặp Hồ Quế Nam và Hồng Thắng Hải. Chàng bảo họ thả hai tên võ quan ra.
Bốn người vừa rẽ qua đường khác đã thấy mấy chục Sấm quân đang cướp bóc một tòa nhà lớn, kéo hai nữ nhân trẻ tuổi ra ngoài. Hai cô gái chỉ biết kêu khóc, giãy giụa. Lý Nham cả giận, bảo thuộc hạ của mình bắt về tra hỏi. Sấm quân nhận ra Chế tướng quân cùng la lên một tiếng, vứt tài vật và nữ nhân lại, quay lưng chạy trốn.
Dọc đường chỗ nào cũng nghe tiếng Sấm quân reo hò, bá tính kêu khóc. Từ đường cái đến hẻm nhỏ, chỗ nào cũng thấy Sấm quân chạy tới chạy lui, tên thì mang vác của cải, tên thì lôi kéo nữ nhân. Lý Nham thấy không thể cấm đoán nổi, không thể bắt hết nổi, chỉ biết thở dài.
Viên Thừa Chí vẫn hy vọng Lý Tự Thành chiếm được thiên hạ để thấy cảnh thanh bình, bá tính an cư lạc nghiệp. Nhưng hôm nay chàng đã thấy hành động của Lý Tự Thành và bọn Lưu Tông Mẫn, Ngưu Kim Tinh; lại thấy Sấm quân cướp bóc lung tung trong kinh thành; so với thời Sùng Trinh trị vì còn tàn bạo ghê gớm hơn nhiều. Tấm lòng nhiệt huyết của chàng tức thì nguội lạnh.
Cứ đi mấy bước lại thấy dưới đất có thi thể ngổn ngang. Viên Thừa Chí thấy xác hai bé gái không mặc quần áo, trong người vẫn còn chảy máu. Chàng không nhẫn nại được nữa, nắm chặt lấy tay Lý Nham mà nói: “Đại ca! Đại ca từng nói Sấm Vương vì dân chúng mà giải oan, vì dân chúng mà trút giận, là như thế này sao?”
Nói xong, chàng ngồi bệt xuống đất, khóc tấm tức. Bản thân Lý Nham cũng bi phẫn đến cùng cực, nói: “Bây giờ ta đi gặp đại vương ngay, xin đại vương hạ lệnh nghiêm cấm cướp bóc.”
Y kéo Viên Thừa Chí dậy, quay lại hoàng cung, bảo bọn vệ sĩ: “Ta có việc gấp, cầu kiến Sấm Vương.”
Vệ sĩ vào trong bẩm báo, lát sau trở ra nói: “Chế tướng quân! Đại vương đã ngủ, không ai dám làm kinh động. Xin tướng quân sáng mai hãy đến.”
Lý Nham nói: “Ta đã theo đại vương rất nhiều năm, khi có việc cầu kiến thì đại vương dù đêm khuya cũng nhất định tiếp kiến. Ngươi vào bẩm báo lại đi.”
Vệ sĩ lại chạy vào. Lát sau hắn ra, mặt đầy vẻ kinh hoàng, run rẩy nói: “Đại vương nổi giận, nói tiểu nhân mà vào lảm nhảm nữa là lập tức chặt đầu.”
Lý Nham nói: “Được! Vậy ta chờ ở đây, đợi đại vương thức giấc rồi gặp.” Y quay lại bảo Viên Thừa Chí: “Huynh đệ! Huynh đệ về nghỉ trước đi.”
Viên Thừa Chí đáp: “Đệ ở đây với đại ca.” Chàng bảo Hồ Quế Nam cùng Hồng Thắng Hải về trước để Thanh Thanh khỏi lo lắng.
Hai người đã ngồi trên bậc cấp phía trước cung, đợi đến sáng rõ mới thấy một vệ sĩ từ nội cung ra nói: “Đại vương triệu kiến.”
Hai người theo vào một gian phòng, rồi vệ sĩ ra ngoài. Đợi thêm hai giờ nữa, sắp đến giờ Ngọ mà Lý Tự Thành vẫn không ra gặp. Hai người nhìn nhau sốt ruột, ai cũng lo lắng vô cùng.
Lại thêm nửa giờ, mới có một vệ sĩ chạy vào gọi Lý Nham và Viên Thừa Chí: “Chế tướng quân, Quả Nghị tướng quân! Hoàng thượng mời hai vị đến điện Kim Loan để thương thảo đại sự.”
Lý Nham và Viên Thừa Chí theo vệ sĩ đó qua hai khoảng sân, lại đi hết một hành lang rất dài, thấy chỗ nào cũng có quân lính cầm vũ khí đứng canh. Chúng nhận ra Lý Nham nên không hỏi gì, có tên còn cung kính thi lễ.
Hai người đến gần một tòa điện nhỏ, nghe từ trong vọng ra thanh âm giận dữ của Lý Tự Thành: “Bắt bọn quan lại triều Minh về đánh đập cho chúng nôn vàng bạc ra, dĩ nhiên là chuyện phải làm. Xưa kia bọn phú hào hiếp đáp người nghèo dã man biết mấy, phải ép chúng trả lại chứ? Chẳng qua là trả chút ít thù xưa, giết người thường mạng, nợ tiền trả tiền, nợ máu trả máu, có gì là không nên không phải?”
Đến cuối câu đã chuyển sang giọng quát tháo, pha thêm những tiếng binh binh không dứt. Hình như Lý Tự Thành đang vung quyền đánh xuống mặt bàn.
Lý Nham và Viên Thừa Chí vào trong, thấy đây là một tòa điện rất lớn nhưng có phần âm u, bốn phía phải thắp những ngọn nến rất lớn. Lý Tự Thành ngồi trên một cái ghế lớn, bọc vải vàng đặt ngay chính giữa, sắc mặt đầy vẻ giận dữ, không ngớt đập bàn.
Một đại hán to lớn khom lưng nói: “Khải bẩm đại vương, đại vương nói rất đúng. Trận đánh Ninh Võ Quan, huynh đệ chúng ta bị thương và chết rất nhiều. Nhưng mọi người dũng cảm xung phong, cuối cùng cũng đánh bại Chu Ngộ Cát. Ninh Võ chỉ là một quan ải nhỏ, không có tiền bạc gì hết. Huynh đệ chúng ta chỉ mong đánh vào Bắc Kinh để hưởng phước nhiều hơn. Huynh đệ chúng ta đều nghiến răng liều chết, từng người ngã xuống, có người bị thương phun máu vẫn không lùi bước. Thuộc hạ thấy rất nhiều huynh đệ mất mạng nên trong lòng đau xót, chỉ biết vung đao xông lên liều mạng.”
“Hoàng thượng đại vương! Chúng ta chiếm được một thành trì, phải nghỉ ngơi bốn năm ngày cho anh em hưởng lạc, tìm bọn cẩu quan tài chủ trả thù. Bọn cẩu quan tài chủ đó chèn ép chúng ta đâu có ít? Giành giật vợ con chúng ta đâu có ít? Đại vương! Chúng ta đến đây là để trả thù. Thế mà trước đây đại vương đã hạ quân lệnh, không cho huynh đệ thoải mái ở Bắc Kinh, cướp bóc gian dâm thì giết gì gì đó.”
“Hoàng thượng đại vương! Thuộc hạ là đồ vô dụng. Nếu thật sự như vậy thì thuộc hạ không có cách gì chỉ huy được nữa, không có huynh đệ nào nghe lệnh thuộc hạ nữa. Nếu thuộc hạ nói là ai cướp bóc gian dâm phải giết, thì các huynh đệ sẽ thóa mạ thuộc hạ ngay, con mẹ thằng Cao Tất Chính, mẹ kiếp tổ tông mười tám đời thằng Cao Tất Chính.”
Lý Tự Thành bỗng cười ha hả rồi nói: “Té ra biểu đệ muốn nói với ta câu này. E rằng ta chưa hạ lệnh, trong lòng ngươi đã chửi con mẹ thằng Lý Tự Thành rồi.”
Cao Tất Chính nói: “Hoàng thượng đại vương là huynh trưởng, thuộc hạ đâu dám vô lễ? Mẹ của đại vương cũng như mẹ của thuộc hạ. Trước sau thuộc hạ vẫn nghe lệnh hoàng thượng đại vương, gặp lửa thì nhảy vào lửa, gặp nước thì nhảy vào nước. Có gì, hoàng thượng đại vương cứ nói thẳng.”
Một người ra vẻ quan văn bước lên một bước, dõng dạc nói: “Cao tướng quân! Hoàng thượng đã ngồi trên long ỷ, chúng ta phải gọi là Hoàng thượng hoặc Bệ hạ, không nên gọi là hoàng thượng đại vương gì gì nữa.”
Lý Tự Thành mỉm cười nói: “Dụ Thượng Du rất biết làm quan, nhớ tới quy luật này. Từ nay về sau, mọi người cứ thế mà gọi.”
Bốn năm chục người trong điện đồng thanh hô lớn: “Hoàng thượng vạn tuế!” Lý Nham và Viên Thừa Chí cũng hô theo.
Lý Tự Thành cười nói: “Viên Thừa Chí! Gã Dụ Thượng Du này từng là ngự sử trong triều Sùng Trinh, là nhất điện chi thần với cha ngươi. Y hiểu chuyện phải trái, đã đầu hàng ta trước. Ta đã phong cho y làm thượng thư, là quan lớn lắm rồi. Triều đình Đại Thuận chúng ta từ nay về sau cần phong tước gì, cần làm việc gì, y sẽ trình tấu đàng hoàng.”
Viên Thừa Chí đáp: “Vâng! Hoàng thượng hợp lẽ trời thuận lòng người, dĩ nhiên dân chúng khắp thiên hạ đều ủng hộ.”
Lý Tự Thành lớn tiếng nói: “Vừa rồi Cao tướng quân nói rất có lý. Chúng ta không sợ các huynh đệ chửi mẹ mình, chỉ sợ họ nản lòng, đánh trận không chịu liều mạng. Bây giờ còn một nửa giang sơn chưa dẹp yên, lại phải đối phó với quân Mãn Châu ngoài quan ải.”
Một người mặc quần áo màu xanh, thân hình vừa cao vừa ốm, bước lên một bước rồi nói: “Đại vương! Các huynh đệ đánh trận không chịu ra sức, chuyện đó chưa phải là quan trọng nhất. Đại vương đâu có muốn huynh đệ liều mạng để đại vương ngồi trên long ỷ? Chỉ vì các huynh đệ khổ sở quá, không sống nổi, nên mới tụ hợp nhau giết quan tạo phản, người nào cũng coi như mình không còn mạng nữa. Cũng không phải chúng ta giết quan tạo phản vì tham tiền bạc hay những cô nương trẻ tuổi. Chúng ta bị bọn tham quan tài chủ ép đến mức không sống nổi, nên mới liều mạng thế này. Các vị huynh đệ, có phải vậy không?”
Mười mấy tướng quân cùng lên tiếng: “Loạn Thế Vương nói hay lắm. Chúng ta không sống nổi, nên không thể không tạo phản.”
Lý Tự Thành cũng nói: “Quách huynh đệ rất biết nói chuyện. Theo huynh đệ thì chúng ta phải làm sao?”
Hán tử cao ốm đó tên là Quách Dưỡng Thành, biệt hiệu là Loạn Thế Vương, là một chủ soái Tả Giáp Ngũ Doanh. Y gia nhập quân đội Lý Tự Thành chưa lâu, không thể gọi là huynh đệ cũ, nhưng có mấy vạn thuộc hạ dũng cảm thiện chiến, nên Lý Tự Thành buộc phải tôn trọng.
Quách Dưỡng Thành nói: “Đại vương! Thuộc hạ chỉ biết nghe hiệu lệnh của đại vương, chỉ huy huynh đệ đánh bọn quan quân, còn đại sự thiên hạ thì không sao hiểu được.”
Lý Tự Thành nói: “Năm vị chủ soái của Tả Giáp Ngũ Doanh đều có trí có dũng, kiến thức bất phàm. Lão Hồi Hồi, Tả Kim Vương, Giáp Lý Nhãn, Tranh Thế Vương và Quách huynh đệ đã biết dẫn binh lại biết an dân. Ngưu Kim Tinh! Cái đó gọi là xuất tướng nhập tướng gì gì đó, đủ tài làm tể tướng cả, có phải vậy không?”
Ngưu Kim Tinh là một người ra dáng thư sinh, khom người đáp: “Đúng là năm vị chủ soái đều có tài xuất tướng nhập tướng. Ngũ Vương quy phục hoàng thượng, đó là phước của hoàng thượng mà cũng là phước của Ngũ Vương. Đây gọi là minh chúa công thần, dựa vào nhau, soi sáng lẫn nhau.”
Dụ Thượng Du lại nói: “Khải tấu hoàng thượng! Cách xưng hô Ngũ Vương là để hiệu triệu thảo mãng anh hùng trong lúc giết quan tạo phản. Từ nay về sau phải thay đổi chút ít. Nếu cần phong vương, xin hoàng thượng phong những vương hiệu có khí thế hơn. Huống chi, hai vị Lão hồi hồi Mã tướng quân, Giáp lý nhãn Hạ tướng quân không có vương hiệu. Hoành thiên vương Vương tướng quân, Cải thế vương Hứa tướng quân, danh hiệu của hai vị này cũng cần thay đổi.”
Ngưu Kim Tinh liền phụ họa: “Đúng vậy! Trước đây chúng ta muốn thay đổi thời thế, nên mới gọi là Cải Thế Vương, Tranh Thế Vương, Hoành Thiên Vương. Bây giờ thiên hạ đã là của hoàng thượng, thời thế của hoàng thượng dài tới vạn năm, nếu vẫn gọi là Cải Thế, Tranh Thế thì có phần không ổn. Hơn nữa, Kim Xà là một con rồng nhỏ, danh hiệu Kim Xà Vương cũng phải đổi đi.”
Lý Tự Thành chau mày nói: “Về sau phải thay đổi danh hiệu rất nhiều. Người có công phải được phong vương, phong hầu, phong đại tướng quân, phó tướng quân, không ai bị bỏ quên.”
Mọi tướng quân đều hoan hô tán thưởng. Chế tướng quân Cao Tất Chính dõng dạc nói: “Khải tấu hoàng thượng! Đêm qua những huynh đệ trong doanh thuộc hạ đã lớn tiếng kêu la: Ông cứ làm hoàng đế, nhưng mọi người phải liều mạng mới giành được ngôi hoàng đế cho ông. Tất cả tiền bạc, cô nương trong thiên hạ, chẳng lẽ một mình ông ôm hết được sao? Phải cho anh em chia chác chút ít chứ? Một người kêu la thì mấy trăm người hùa theo, không sao yên được, lòng quân không ổn.”
Quách Dưỡng Thành giận dữ nói: “Cái gì mà lòng quân không ổn? Đều là loại quân được ông dung túng cả! Lúc họ cướp gái đem về, không phải đã dâng cho ông những cô đẹp nhất hay sao?”
Cao Tất Chính nhảy xổ tới, quát lên: “Họ Quách kia! Ngươi theo đại vương mới được nửa năm, đã dám to tiếng với huynh đệ cũ chúng ta rồi sao? Hay là ngươi muốn trừ khử hết huynh đệ cũ của đại vương, ai giết được thì giết, ai đuổi được thì đuổi, để đại vương trơ trọi một mình, trở thành cô gia quả nhân thật sự? Hừ! Tả Giáp Ngũ Doanh các ngươi là bằng hữu cũ của Thập Tam Gia, chắc đang muốn đoạt lấy thiên hạ, ngồi trên long ỷ.”
Quách Dưỡng Thành giận dữ hét lên: “Đồ chó rắm thối!”
Cao Tất Chính vung tay, đánh trúng mắt bên phải Quách Dưỡng Thành một quyền rất nặng, máu tươi lập tức vọt ra. Hắn còn muốn đánh tiếp, nhưng phía sau có một lão già to lớn râu tóc bạc phơ nhảy đến cản trở. Lão đẩy mạnh vào vai Cao Tất Chính, hất hắn lùi ra mấy thước.
Mười mấy tướng quân đồng thanh la lớn: “Lão Hồi Hồi! Ngươi dám đánh huynh đệ cũ chúng ta, muốn tạo phản hay sao?”
Cả đám ùa vào vây đánh Lão Hồi Hồi và Quách Dưỡng Thành. Lý Tự Thành cứ đứng đó mà kêu: “Là huynh đệ cả, đừng xô xát!”
Nhưng hoàng thượng ra lệnh yếu xìu nên chẳng ai đếm xỉa. Lão Hồi Hồi và Quách Dưỡng Thành yếu thế, chỉ chốc lát đã ở thế hạ phong.
Viên Thừa Chí nghe mọi người tranh chấp, thấy rõ Quách Dưỡng Thành nói có lý hơn, biết lo đến đại cục. Ẩu đả một hồi, Quách Dưỡng Thành và Lão Hồi Hồi cô thế bị hai mươi mấy người vây chặt, đánh cho sưng đầu chảy máu. Lý Tự Thành thì cản trở không dứt khoát. Ba người Tả Kim Vương, Giáp Lý Nhãn, Tranh Thế Vương muốn tới khuyên ngăn, nhưng bị số đông huynh đệ cũ cản trở không thể đến gần.
Viên Thừa Chí bèn nhảy tới, đưa tay nắm lấy cổ áo bốn năm người hung dữ nhất, xách bỏ qua một bên, thuận tay điểm nhẹ vào huyệt đạo để họ không nhảy vào ẩu đả được nữa. Chàng xách ra mấy chuyến, Quách Dưỡng Thành và Lão Hồi Hồi không bị ai đánh nữa. Thần sắc hai người rất thảm hại, máu me đầy mặt, nhưng Lý Tự Thành chỉ nói: “Là huynh đệ cả, đừng xô xát!”
Viên Thừa Chí lớn tiếng hô hoán: “Hoàng thượng có chỉ, không được xô xát. Mọi người nên tuân chỉ.”
Mọi người từ từ đứng yên, nhưng vẫn la hét om sòm. Quyền tướng quân Lưu Tông Mẫn quát hỏi: “Lý Nham, Viên Thừa Chí! Hai ngươi ẩu đả huynh đệ cũ của đại vương, đánh người phe mình, định lôi kéo Tả Giáp Ngũ Doanh và thuộc hạ của Tào Tháo để âm mưu tạo phản phải không?”
Viên Thừa Chí đáp: “Ta tuân chỉ của hoàng thượng, kiềm chế không để các ông động võ, có đánh ai đâu? Mà Tào Tháo, Quan Công, Lưu Bị, Gia Cát Lượng đã chết mấy ngàn năm rồi, còn thuộc hạ gì nữa, làm sao ta lôi kéo? Lưu tướng quân, hình như ông nói chuyện hơi hồ đồ đấy.”
Lưu Tông Mẫn giận dữ nói: “Hồ đồ cái gì? Chẳng lẽ Lão Hồi Hồi Mã Thủ Ưng không phải hảo bằng hữu của Tào Tháo La Nhữ Tài ư? Lão Hồi Hồi, tự ngươi nói đi! Ngươi đánh bằng hữu của đại vương, xem thường huynh đệ cũ chúng ta, có phải muốn trả thù cho La Nhữ Tài, xét lại vụ án đó hay không?”
Trên mặt Lão Hồi Hồi, máu tươi vẫn nhỏ từng giọt xuống áo. Lão chỉ vào mặt mình, nói: “Lưu tướng quân nhìn thử, ta đánh huynh đệ cũ của đại vương, hay huynh đệ cũ của đại vương đánh ta? Chúng ta cùng dưới trướng đại vương giết quan tạo phản, đồng tâm hiệp lực, sao ông lại phân chia huynh đệ cũ, huynh đệ mới gì gì đó, há chẳng làm mất nhân tâm? Vừa rồi nếu không nhờ Viên huynh đệ kéo những người đánh ta ra ngoài, ta đã bị các vị huynh đệ cũ đánh chết rồi.”
Lão quay đầu lại, nói với Lý Tự Thành: “Đại vương! Đại vương nói đi. Ta là bằng hữu của La Nhữ Tài thật, nhưng ta có làm gì mờ ám không? Có lần La Nhữ Tài đầu hàng Hùng Văn Sáng, con mẹ nó, mất hết thể diện, nên ta đã tuyệt giao với hắn. Gặp phải quân của hắn là ta chết sống đánh ngay, có nương tay chút nào đâu? Sau này hắn quay về với Trương Hiến Trung, ta mới tiếp tục đi lại với hắn. Mấy năm trước, hắn trở về quy phục đại vương, không phải nhờ ta lôi kéo hay sao? Đại vương từng phong hắn là Đại Thiên Phủ Dân Oai Đức Đại Tướng Quân, nghe rất hay. Hắn vì đại vương mà góp sức không ít, xây dựng đội ngũ lớn mạnh, công phá được không ít thành trì, nên Lưu tướng quân đem lòng ganh tỵ. Địa vị của La Nhữ Tài cao hơn Lưu tướng quân, nên Lưu tướng quân hết nói xấu hắn lại gieo tin đồn làm hại hắn. Đại vương tin lời thằng thư sinh khốn kiếp họ Trần ở Hàng Châu nên trúng kế phản gián. Họ Trần nói La Nhữ Tài đã đầu hàng triều đình, định giết đại vương. Chuyện đó hoàn toàn bịa đặt, thế mà đại vương hạ thủ giết La Nhữ Tài trước. Sau này đại vương cũng nói là hối hận. Những việc ấy đều do các người phân chia ra huynh đệ cũ, huynh đệ mới, mà gây thành tai họa.”
“Mọi người cùng xách đao liều mạng với bọn quan quân, thì ai cũng là hảo huynh đệ cả, sao lại phân chia cũ mới? Chẳng lẽ có người không thích nhìn huynh đệ mới chúng ta, thì huynh đệ cũ các ông muốn giết huynh đệ mới chúng ta cho sạch sành sanh? Chúng ta ủng hộ đại vương làm hoàng đế, đại vương nói gì thì chúng ta làm đó. Lưu tướng quân! Ông muốn giết tân huynh đệ chúng ta, e rằng không dễ lắm đâu!”
Lão Hồi Hồi vừa nói vừa đưa tay áo lên chùi máu. Cả lông mày lẫn râu của lão đều đỏ lòm, trông rất đáng sợ.
Lý Tự Thành xua tay rồi nói: “Mã huynh đệ! Những chuyện cũ không nên nhắc lại. La Nhữ Tài đã chết rồi, bộ hạ của hắn cũng đi theo Trương Hiến Trung hết rồi, còn gì mà nói nữa.” Gọi đến ba chữ La Nhữ Tài, hình như Lý Tự Thành vừa nản chí vừa hơi áy náy.
Lý Nham và mọi người ở đây đều biết Lý Tự Thành giết chết La Nhữ Tài, biệt hiệu Tào Tháo, là do trúng kế phản gián của Trần thư sinh ở Hàng Châu. Chẳng những Lý Tự Thành mất một viên đại tướng mà còn làm cho hai cánh quân tàn sát lẫn nhau, rốt cuộc quân của La Nhữ Tài đầu hàng Trương Hiến Trung hết, nguyên khí của Sấm quân bị tổn thương rất lớn, tướng sĩ nản lòng. Ai cũng thấy chiến công của La Nhữ Tài rất lớn, thuộc hạ đầy tinh binh mãnh tướng, chỉ vì đại vương nghi ngờ y có lòng thoán vị mà ra tay hãm hại.
Vụ oan án này ảnh hưởng nặng nề đến sự nghiệp của Lý Tự Thành. Năm xưa Lý Nham đã ra sức cản trở, nhưng Lý Tự Thành tin lời Lưu Tông Mẫn, tạo nên lỗi lầm nghiêm trọng. Sau này Lý Tự Thành cũng rất hối hận, nhưng không chịu nhận lỗi. Bây giờ Lão Hồi Hồi không nhịn nổi mà nhắc lại chuyện này, khiến mọi người Lý Nham cùng lo sợ. Tính tình Lý Tự Thành đã khắt bạc lại bảo thủ, sau này chắc Lão Hồi Hồi không khỏi bị chém đầu.
Lý Tự Thành nhìn qua từng viên tướng của mình, thầm nghĩ: “Dù sao thì đám huynh đệ cũ Lưu Tông Mẫn vẫn đáng tin cậy hơn, nhất định không phản lại ta. Còn Lão Hồi Hồi, Loạn Thế Vương, Tranh Thế Vương, Tả Kim Vương, Giáp Lý Nhãn, giữa họ thì nghĩa khí sâu nặng, còn đối với ta thì có nghĩa khí gì? Nếu gặp cơ hội tốt, chắc chắn họ sẽ giết ta, trả thù cho La Nhữ Tài.”
Y lại nhìn sang đứa cháu Lý Song Hỷ, huynh đệ cũ Lưu Tông Mẫn, biểu đệ Cao Tất Chính, nhớ đến chuyện bốn năm trước bị quan quân vây khốn ở Ngưu Cốc Sơn…
*
* *
Lúc đó quan quân vây khắp bốn phương tám hướng, đã mấy lần đột kích mà không thoát khỏi vòng vây. Ta không làm gì được, định thắt cổ tự tử để khỏi lọt vào tay chúng. Song Hỷ hết sức ngăn cản, nói: “Cứ liều mạng đánh một trận, dù bị giết cũng bắt mấy đứa chết theo.”
Rất nhiều thuộc hạ của ta đã ra ngoài đầu hàng. Ta vào một tòa miếu, chỉ có Tông Mẫn đi theo. Ta lạy tượng Quan Đế trong miếu ba lạy, bảo Tông Mẫn: “Chúng ta lọt vào tuyệt địa rồi, không còn đường nào đi nữa.”
Ta rút bảo đao bên mình ra đưa Tông Mẫn, nói: “Bây giờ phải xin Quan lão gia chỉ điểm. Ta sẽ xin keo âm dương. Nếu keo dương đại cát đại lợi, thì chúng ta lại liều mạng nữa. Nếu keo âm, tức là Bồ Tát bảo chúng ta không nên hại thêm nhân mạng. Nếu ba lần đều keo âm, thì ngươi hãy dùng thanh đao này chặt đầu ta, xách ra ngoài mà đầu hàng, bảo các huynh đệ không cần đánh tiếp nữa, lo mà giữ tính mạng của mình và gia quyến, khí vận triều Minh còn tốt, chúng ta không chống nổi. Ý trời thế nào, chúng ta làm vậy.”
Tông Mẫn nhận đao, nhưng ném xuống đất mà nói: “Đại ca! Tiểu đệ không thể cắt đầu đại ca được. Nếu Bồ Tát bảo chúng ta đừng khởi nghĩa nữa, thì tiểu đệ sẽ mặc quần áo của đại ca, mạo nhận là đại ca. Đại ca chém tiểu đệ, xách thủ cấp ra ngoài mà giả bộ đầu hàng. Non xanh còn đó, lo gì thiếu củi đun.”
Ta lắc đầu đáp: “Không được, chúng nhận ra ngay. Ngươi cứ việc chặt đầu ta.”
Ta quỳ xuống, dập đầu lạy Quan Đế Quân rồi khấn: “Quan lão gia! Tiểu nhân Lý Tự Thành bị quan phủ chèn ép, tài chủ đánh đập, không chịu nổi phải vùng lên tạo phản, chỉ mong giúp được mọi người khổ sở trong khắp thiên hạ có miếng cơm ăn để sống. Bọn thầy bói, thầy tướng đều nói tiểu nhân có phước phận thiên tử, chân mạng hoàng đế, không biết là thật hay giả. Hôm nay tiểu nhân rơi vào đường cùng, sinh mạng chỉ còn trong khoảnh khắc. Cầu xin Quan Thánh lão gia chỉ điểm một con đường sáng: Kiếp này tiểu nhân có mạng làm thiên tử hay không? Nếu không, tiểu nhân sẽ chết một mình, không để liên lụy đến hàng ngàn hàng vạn huynh đệ.”
Ta cầm lấy hai mảnh keo âm dương đặt trên bàn thờ, đứng thẳng dậy, hai tay chắp trên đỉnh đầu, cầu khấn: “Xin Quan lão gia chỉ điểm!”, rồi cung kính tung keo âm dương lên phía trên.
Hai tiếng “cách cách”, keo âm dương đã rơi xuống đất. Ta nhắm mắt, không dám nhìn. Nếu là keo xấu, thì cứ để Tông Mẫn vung đao chặt đứt thủ cấp là xong việc, khỏi phải lo lắng khổ sở lâu.
Bỗng nghe Tông Mẫn la lên: “Keo dương, keo dương! Đại ca, đại cát đại lợi!”
Ta mở mắt ra, thấy đôi keo trước mắt đều hướng lưng lên trên, đúng là một quẻ dương đại cát đại lợi. Ta chưa tin, lại khấn Quan Thánh lão gia, xin keo lần nữa: vẫn là keo dương. Ta khấn một lần cuối cùng, tung đôi keo lên rất cao, giương mắt mà nhìn. Khi rơi xuống đất rõ ràng một âm một dương, nhưng đột nhiên keo âm nảy ngược lại, biến thành keo dương.
Thế là ba lần xin keo, ba lần đại cát. Hai người không hoài nghi gì nữa, tinh thần phấn chấn hẳn lên, ra ngoài nói với các huynh đệ: “Lý đại ca đúng là chân mạng thiên tử. Mọi người cố gắng đi, sau này sẽ có những ngày sung sướng. Đại vương ngồi trên ngai vàng thì chúng ta chẳng kém ai đâu.”
Thế là rất nhiều huynh đệ vứt hết hành lý, giết bỏ vợ con để khỏi vướng víu tay chân, chỉ giữ một con ngựa để chạy cho nhanh. Từ Quân Huyện chạy đến Hà Nam thì quan quân không bao vây được nữa. May mà lúc đó tỉnh Hà Nam bị hạn hán, thế là thêm mấy chục vạn dân đói theo ta. Từ Nam Dương đánh Nghi Dương, giết tri huyện Đường Khải Thái; đánh Quế Ninh, giết tri huyện Võ Đại Điệp. Từ đó quan quân không cản ta được nữa. Chúng ta đánh trận nào thắng trận đó, cứ thế mà đánh mãi tới tận Bắc Kinh.
*
* *
Lý Tự Thành ngồi trên long ỷ, nhớ lại ngày trước xin quẻ âm dương trong miếu Quan Thánh Đế Quân, không khỏi rùng mình toát mồ hôi lạnh. Y lại nghĩ: “Nếu hôm đó bên cạnh ta không phải là huynh đệ cũ Lưu Tông Mẫn, mà là bọn Lão Hồi Hồi, Tả Kim Vương, Giáp Lý Nhãn này, thì bất luận ta gieo được quẻ dương đại cát đại lợi hay quẻ âm đại hung đại xú, nhất định chúng sẽ chém lấy thủ cấp ta để ra đầu hàng, vừa đảm bảo tính mạng vừa có công danh phú quý. Dĩ nhiên chúng sẽ làm thế!”
Lưu Tông Mẫn bỗng lên tiếng: “Khải tấu hoàng thượng! Năm trước bị bao vây trong Ngưu Cốc Sơn, hoàng thượng ba lần gieo quẻ, ba lần đại cát. Quan Thánh lão gia dạy rõ hoàng thượng là chân mạng thiên tử, nhất định có ngày ngồi ở ngai vàng. Ngày đó các huynh đệ cũ đã đốt hết hành lý tư trang, giết hết vợ lớn vợ nhỏ, quyết theo đại vương để giết quan binh, chiếm thiên hạ. Hoàng thượng ơi, trong lòng dạ người ta chỉ có thịt, không có xương. Dù họ không chửi cha mắng mẹ Lưu Tông Mẫn này đi nữa, nói có ông trời chứng giám, nếu hôm nay họ muốn lấy lại chút ít tiền bạc tư trang năm xưa đã đốt, kiếm lại vợ lớn vợ bé năm xưa đã giết, Lưu Tông Mẫn này chẳng có lòng dạ nào giết họ.”
Nói đến đây, Lưu Tông Mẫn không nhịn nổi, bật ra tiếng khóc.
Lý Tự Thành cũng đưa tay áo lên gạt nước mắt, thầm nghĩ: “Giang sơn này ta dựa vào các huynh đệ cũ mà có được. Nếu để huynh đệ cũ nản lòng, họ sẽ không chịu ra sức vì ta nữa. Tuy triều đình nhà Minh đã đổ, nhưng còn đại quân Mãn Thanh. Binh lực của Trương Hiến Trung cũng chẳng kém gì mình. Tả Giáp Ngũ Doanh bọn Lão Hồi Hồi xem ra khó mà dựa dẫm được. Ngưu Kim Tinh trước đây từng nói: Trong câu đồng dao Thập bát tử chủ thần khí, ba chữ thập bát tử tức là chữ Lý, nhưng không phải Lý Tự Thành mà là Lý Nham. Bên dưới còn một câu: Sơn hạ thạch tọa long ỷ. Nếu ghép lại là Thập bát tử chủ thần khí, sơn hạ thạch tọa long ỷ, con mẹ nó, đúng là có vần có điệu. Sơn hạ thạch, ghép lại chẳng phải chữ Nham hay sao? Lý Nham còn tên nghĩa đệ Kim xà vương Viên Thừa Chí, binh tướng dưới tay kiêu dũng thiện chiến, không thể coi thường được”.
Y không nén nổi, bất giác liếc nhìn Lý Nham, thấy Lý Nham đang rất bình tĩnh, giơ tay lên năn nỉ mọi người: “Các vị huynh đệ! Mọi người im lặng đi, để nghe hoàng thượng dặn dò. Hoàng thượng nói thế nào, chúng ta cứ việc làm theo. Nói tóm lại thì chúng ta đều là hảo huynh đệ, phải đồng tâm nhất trí đối phó với người ngoài, tuyệt đối đừng để gà nhà bôi mặt đá nhau.”
Lý Tự Thành lập tức nổi giận, thầm nghĩ: “Tuyệt đối đừng để gà nhà bôi mặt đá nhau! Ngươi dám chửi ta giết nhầm La Nhữ Tài ư? Hắn vô lễ với ta, thầm tính kế giết ta, ngươi đâu phải không biết? Giả tỉ lão gia không ra tay trước, mà La Nhữ Tài ra tay trước, thì chắc Lý Nham ngươi lại trả thù cho ta. Không sai! Ngươi đầy quỷ kế, sẽ mượn cớ trả thù cho ta mà thống lĩnh các huynh đệ đi giết La Nhữ Tài, thế là sơn hạ thạch tọa long ỷ. Hừ…”
Nghĩ tới đó, y la lớn: “Viên Thừa Chí, ra ngoài đi! Ngươi là người mới, không được đánh các huynh đệ cũ. Đã nghe chưa?”
Viên Thừa Chí muốn cãi: “Thuộc hạ không đánh huynh đệ cũ.” Nhưng chàng thấy Lý Nham liếc mình một cái, hất cằm hướng ra ngoài, lập tức hiểu ý bèn lớn tiếng vâng dạ: “Tuân chỉ hoàng thượng, thuộc hạ xin cáo lui.”
Chàng quay người ra khỏi điện. Lý Nham cũng khom lưng nói: “Thuộc hạ cũng xin cáo lui.”
Lão Hồi Hồi, Giáp Lý Nhãn, Tả Kim Vương, Loạn Thế Vương, Tranh Thế Vương đều nghĩ: “Nếu tiếp tục tranh chấp nữa, chỉ tổ bị đám huynh đệ cũ làm thịt mà thôi”. Họ đang muốn cáo biệt ra ngoài, bỗng thấy một đại tướng thân hình tầm thước bước lên hai bước, khom người nói: “Xin hoàng thượng hạ chỉ, bây giờ huynh đệ chúng ta phải làm sao mới phải?”
Lý Tự Thành hỏi lại: “Cốc huynh đệ! Theo ngươi thì phải làm sao?”
Tướng quân này tên là Cốc Đại Thành, cung kính đáp: “Thuộc hạ chỉ biết nghe lời huấn thị của hoàng thượng, liều mạng đánh nhau. Hoàng thượng cứ chỉ bảo, thuộc hạ cứ thế mà làm.”
Tranh thế vương Lưu Huy Hiểu nghĩ ngay: “Cốc Đại Thành thật là linh lợi, mình cũng phải nói mấy câu.” Y lên tiếng: “Cốc đại ca nói rất đúng. Mọi người không nên tranh chấp nữa, cứ nghe thánh chỉ của hoàng thượng mà làm.”
Phía sau có người khẽ nói: “Không trả Trần Viên Viên cho Ngô Tam Quế, thì những cô nương chúng ta bắt về cũng không trả được.”
Lưu Tông Mẫn lớn tiếng: “Có gì thì bước ra mà nói. Đồ nhút nhát! Đã chui ra sau làm con rùa rút đầu, còn muốn đánh rắm thối.”
Đương nhiên người kia không dám mở miệng nữa. Nhất thời tòa đại điện im phăng phắc.
Lý Tự Thành nghĩ: “Ta muốn dựa vào huynh đệ cũ, thì không thể ràng buộc họ quá chặt chẽ. Nếu Trương Hiến Trung nói một câu: Mọi người hãy theo ta, ai cướp được kim ngân mỹ nữ thì cho người đó; Lý mỗ nhất định không làm gì được nữa. Không tới nửa ngày là mấy chục vạn thuộc hạ bỏ theo Trương Hiến Trung hết, một mình ta đơn thương độc mã thì làm hoàng đế con khỉ gì. Vẫn biết dung túng cho thuộc hạ cướp bóc gian dâm là không phải, nhưng đã cỡi trên lưng cọp rồi thì phải làm như vậy. Trần Viên Viên như hoa như ngọc đang ở hậu cung, ta nỡ lòng nào đem trả cho Ngô Tam Quế? Mà nếu trả, thì giữa đường cũng bị bọn Lưu Tông Mẫn, Cốc Đại Thành, Lão Hồi Hồi… cướp lấy.”
Y bất giác thở dài, lên tiếng: “Mọi người giải tán đi thôi. Cực khổ bấy lâu rồi, cũng nên có vài ngày thoải mái. Khuyên được các huynh đệ nhẹ tay là tốt nhất, nhưng nếu họ cứ phóng túng không nghe, thì đành chịu vậy. Mọi người đều là huynh đệ tốt từng liều mạng vì nhau, ai cũng là anh em ruột thịt, làm sao ta giết họ được!” Nói xong, y lắc đầu quầy quậy.
Lão Hồi Hồi dõng dạc nói: “Đại Vương nói sao thì mọi người làm vậy, chuyện các huynh đệ cướp bóc tài vật nữ nhân coi như xong. Nhân lúc các vị tướng quân và đại thần đều ở đây, chúng ta nên xét lại vụ oan án của La Nhữ Tài đại ca một chút.”
Lý Tự Thành biến hẳn sắc mặt, trầm giọng hỏi: “Xét lại thế nào? Giết ta đền mạng cho hắn hay sao?”
Tả kim vương Hạ Cẩm nói: “Dĩ nhiên không phải như vậy. Hoàng thượng giết La đại ca, chỉ vì nghe tên thư sinh ma quỷ Trần Hoàng Trung nói bậy. Hắn nói: La đại ca đem hết ngựa chiến ra đóng dấu vào mông một chữ Tả, ý nói đầu hàng Tả Lương Ngọc. Thật ra La đại ca có đem năm ngàn con ngựa trong quân ra đóng dấu, nhưng vì kỵ binh chia thành năm đội là Tiền, Hậu, Tả, Trung, Hữu; nên đóng dấu vào ngựa năm chữ Tiền, Hậu, Tả, Trung, Hữu để khỏi lộn xộn. Trần Hoàng Trung sai người dẫn mấy con ngựa trong đội tả quân đến cho đại vương xem, dĩ nhiên có dấu chữ Tả. Đại vương tin lời hắn nên phái người ám toán, thế là La đại ca chết mà không biết tại sao mình chết. Nếu đại vương không tin, bọn thuộc hạ có thể dẫn bốn ngàn con ngựa đến đây, một ngàn con đóng dấu chữ Tiền, một ngàn con đóng dấu chữ Hậu, một ngàn con đóng dấu chữ Hữu, một ngàn con đóng dấu chữ Trung. La đại ca một dạ trung thành, mất mạng hết sức oan uổng.”
Nói xong, Hạ Cẩm quay đầu ra gọi: “Dẫn vào đây!”
Nghe tiếng vó ngựa lóc cóc, năm tên lính dẫn năm con ngựa vào điện. Trên mông mỗi con đều có đốt thành chữ, nhưng năm con là năm chữ phân biệt, tiền hậu, trung, tả, hữu. Năm chữ to nhỏ bằng nhau, nét bút rất giống nhau, rõ ràng được đóng dấu cùng một thời kỳ. Bọn lính còn cầm theo năm miếng sắt. Những tướng quân trong điện đều chinh chiến lâu năm, nhìn biết ngay đó là những con dấu để đóng vào mông ngựa. Những chữ trên năm con dấu đó, chính là năm chữ tiền, hậu, tả, trung, hữu.
Mặt Lý Tự Thành tím hẳn, nói khàn khàn: “Mau bắt thằng súc sinh Trần Hoàng Trung đến đây, chém ngàn đao vạn đao thành một đống tương.”
Một tướng quân khí khái đằng đằng bước ra, dõng dạc nói: “Khải tấu đại vương! Sau khi Tả Kim Vương điều tra được vụ oan uổng của La đại ca, trong quân đội có rất nhiều người bất bình. Hôm qua tiểu tướng không sao gặp được hoàng thượng để tấu trình, sợ huynh đệ gây sự nên đã tự tay giết tên súc sinh Trần Hoàng Trung đó, đem xác để ngoài Ngọ Môn. Huynh đệ mỗi người một đao, băm hắn nát thành tương rồi. Tiểu tướng tự tiện làm việc này, xin hoàng thượng định tội.”
Người này là Điền Kiến Tú, cũng là Quyền tướng quân, thế lực ngang với Lưu Tông Mẫn.
Lý Tự Thành gật đầu nói: “Giết hay lắm, giết hay lắm! Ngươi có công vô tội. Ngưu Kim Tinh! Ngươi đi lấy một vạn lạng bạc, cùng Tả Kim Vương đưa tặng gia thuộc của La Nhữ Tài.”
Giáp lý nhãn Hạ Nhất Long kêu lên: “Đa tạ đại vương! Nhưng La Nhữ Tài còn gia thuộc gì nữa đâu? Lúc ông ấy bị đại vương xử tử, Lưu tướng quân đã giết sạch vợ con ông ấy rồi.”
Lý Tự Thành hừ một tiếng, quay lưng bỏ vào hậu điện.
Trong điện, đám tướng quân ồn ào giải tán. Có người huýt gió thành tiếng, co giò chạy lẹ, nhất định đang hoan hỉ nghĩ tới cảnh dẫn thuộc hạ đi cướp bóc gian dâm.
*
* *
Sáng hôm sau Viên Thừa Chí đang ngồi trong nhà bàn bạc với quần hùng về những chuyện mình thấy trong điện hôm qua, Hồng Thắng Hải từ ngoài chạy vội vào bẩm báo: “Chế tướng quân đến thăm Viên tướng công!”
Viên Thừa Chí gấp rút ra ngoài đón tiếp. Thấy Lý Nham thần sắc nghiêm trọng, chàng biết có chuyện lớn, liền dẫn vào thư phòng.
Lý Nham nói: “Viên huynh đệ, có chuyện không hay rồi. Đại vương đã sai Lưu tướng quân giết Loạn Thế Vương và Giáp Lý Nhãn. Lão Hồi Hồi thấy tình hình không ổn, đã dẫn bản đội cùng với nhân mã hai doanh Loạn Giáp rời khỏi Thuận Thiên, đi về phía tây nam.”
Viên Thừa Chí kinh hãi hỏi: “Tại sao đại vương lại giết huynh đệ của mình? Loạn Thế Vương và Giáp Lý Nhãn muốn lật đổ đại vương ư?”
Lý Nham lắc đầu nói: “Hai người Loạn Thế Vương và Giáp Lý Nhãn một dạ trung thành, làm gì có chuyện phản bội đại vương? Nhất định hôm qua họ nhắc đến vụ La Nhữ Tài đại ca bị hại oan uổng, đụng chạm đến đại vương. Bên trong lại có bọn Ngưu Kim Tinh, Lưu Tông Mẫn tìm lời ly gián, đại vương nhịn không nổi nên giết hai người.”
Hai người cứ ngồi trong thư phòng mà than thở. Viên Thừa Chí giữ Lý Nham lại dùng cơm trưa, rồi tiếp tục bàn luận về thời cuộc.
Đến khoảng giờ Thân giờ Dậu, trời sắp ngả về chiều, Lý Nham định cáo từ thì đột nhiên Tống Hiến Sách đến thăm. Y nói vừa tới phủ Lý Nham, nghe nói đang ở chỗ Quả Nghị tướng quân nên tìm đến đây.
Tống Hiến Sách nói: “Sáng nay đại vương cho quân rượt theo Lão Hồi Hồi không kịp, nổi giận nên triệu tập chư tướng đến họp.”
Lý Nham nói: “Tả Giáp Ngũ Doanh đã thề cùng sinh tử. Quách, Giáp chết rồi, phải để ý bảo vệ hai người Lưu, Hạ; lại phải đề phòng họ làm loạn.”
Tống Hiến Sách nói: “Đó là việc chính mà mọi người thương lượng. Nhưng thằng Ngưu Kim Tinh đó không ngớt nói xấu Lý huynh, nói xấu cả ta.”
Lý Nham giận dữ hỏi: “Hai người chúng ta hành sự đàng hoàng, chúng nói xấu được chuyện gì ?”
Tống Hiến Sách nói: “Hồi đại vương ở Hà Nam, lòng người chưa quy thuận, ta có bịa ra một câu sấm ngữ là thập bát tử chủ thần khí, cho người truyền bá khắp nơi. Ba chữ thập, bát, tử ghép lại thành một chữ Lý, ý nói đại vương sẽ được thiên hạ. Dân chúng nghe thấy, cho rằng đại vương có mạng trời bèn kéo nhau đến quy phục, thanh thế chúng ta lập tức mạnh lên. Chế tướng quân còn nhớ không?”
Lý Nham nói: “Sao lại không nhớ! Ta làm đồng dao, huynh làm sấm ngữ, khiến cho lòng người của triều Minh lay động, có công đó chứ?”
Tống Hiến Sách lắc đầu nói: “Ngưu Kim Tinh tấu bậy lên đại vương, nói rằng câu thập bát tử chủ thần khí không phải chỉ đại vương, mà chỉ Lý huynh. Hắn còn nối thêm một câu sơn hạ thạch tọa long ỷ gì gì đó, thật là bừa bãi.”
Trong lòng Lý Nham rúng động. Y biết, xưa nay chuyện mà hoàng đế kiêng kỵ nhất, không gì khác là có người dòm ngó ngôi vị của mình. Nhiều vị vua khai quốc xưa nay, tuy là đấng minh quân như Hán Cao Tổ, Minh Thái Tổ mà cũng thẳng tay chém giết công thần, chính vì sợ những đại tướng dưới tay mưu đồ soán vị. Nếu Lý Tự Thành tin vào câu nói này thì hỏng bét.
Lý Nham run giọng nói: “Chuyện này… chuyện này…”
Tống Hiến Sách nói: “Đại vương anh minh, chưa chắc đã tin ngay, Chế tướng quân không cần quá lo lắng. Nhưng trong buổi họp hôm nay, Lưu tướng quân, Lý tướng quân, Cao tướng quân đều nói Chế tướng quân tự cho mình thanh cao, xem thường bọn họ. Họ nói: Thuộc hạ chúng ta chỉ mượn tạm nhà dân để ở, chỉ vay dân chúng mấy lượng bạc, chỉ tán phét mấy câu với các cô nương, thế mà bộ hạ của Chế tướng quân lại quát tháo can thiệp. Ngưu Kim Tinh lại nói: Chế tướng quân làm như vậy, không phải vì tự cho mình thanh cao, mà để thu phục lòng người, trong lòng ắt có đại chí. Lý Song Hỷ tướng quân là cháu ruột của đại vương, Cao Tất Chính là biểu đệ của đại vương, còn chúng ta chỉ là người dưng nước lã, không phải bà con thân thích, khó mà mở miệng cãi lại.”
Lý Nham giận quá không nói được, sắc mặt nửa trắng nửa xanh. Y đằng hắng một tiếng, ngồi phịch xuống ghế.
Tống Hiến Sách nói: “Ta có phân trần mấy câu cho Chế tướng quân. Họ liền thóa mạ: Thằng lùn họ Tống ba phần giống người bảy phần giống quỷ, chỉ giỏi nói bừa. Ta tức giận không cãi được, liền cáo từ bỏ về.”
Lý Nham chắp tay nói: “May được Tống quân sư yêu mến, tại hạ cảm kích vô cùng.”
Tống Hiến Sách thở dài nói: “Chỉ có Điền Kiến Tú tướng quân, Lưu Phương Lượng tướng quân, Cốc Đại Thành tướng quân là nói chuyện công bằng. Tuy chúng ta đã chiếm Bắc Kinh, nhưng Giang Nam chưa định. Ngô Tam Quế nói đầu hàng, nhưng lòng dạ không biết thế nào. Bọn Thát tử Mãn Châu thì giương mắt thèm thuồng dòm ngó, cũng là một mối lo âu. Đại vương chưa hoàn thành đại nghiệp, thế mà đã bắt đầu thanh trừng nội bộ. Quân lính ngược đãi bá tính, khiến cho lòng người không còn quy thuận.”
Ba người nhìn nhau than thở. Tống Hiến Sách đứng dậy cáo từ, Lý Nham và Viên Thừa Chí tiễn chân ra cổng.
Viên Thừa Chí nghe Tống Hiến Sách nói chuyện xong, thấy y cao chưa đến ba thước, tướng mạo xấu xí trông giống như con khỉ, nhưng rất có kiến thức. Chàng khen: “Đại ca! Tống quân sư đúng là một nhân tài.”
Lý Nham nói: “Tống quân sư túc trí đa mưu, chỉ vì đại vương thích nghe Ngưu Kim Tinh nói chuyện nên không trọng dụng. Thật ra phần lớn phương sách tấn công thành trì của đại vương đều do Tống quân sư đưa ra.”
Rồi Lý Nham cũng cáo từ. Viên Thừa Chí nói: “Để tiểu đệ tiễn đại ca mấy bước.”
Chàng sợ bọn thủ hạ của Lý Tự Thành đến ám hại Lý Nham, nên nói là tiễn chân mà ai cũng hiểu là bảo vệ. Hai người nắm tay nhau đi mấy trăm bước, không nói tiếng nào.
Lý Nham bỗng lên tiếng: “Tuy đại vương đã có ý nghi ngờ ta, nhưng là thần thì phải tận trung, là bạn thì phải tận nghĩa. Ta cùng đại vương đã chung hoạn nạn từ lâu, từ khi bắt đầu đến khi thành sự, không thể nhìn đại nghiệp của đại vương bại hoại mà ngậm miệng không nói lời nào. Nhưng huynh đệ thì không cần nuốt giận trong triều.”
Viên Thừa Chí đáp: “Đúng vậy, tiểu đệ không làm quan được đâu. Ngày trước đại ca từng nói, sau khi công thành sẽ cáo lui, hai người chúng ta sẽ cùng ẩn cư vào nơi rừng núi, uống rượu nói chuyện làm vui. Sao bây giờ đại ca không từ quan đi, khỏi trở thành cái gai trong mắt người khác?”
Lý Nham nói: “Trước mắt đại vương còn rất nhiều việc lớn phải lo. Phải thống nhất thiên hạ rồi ta mới quy ẩn được. Năm xưa đại vương đối đãi với ta rất hậu. Bây giờ ông ấy đã đánh được Bắc Kinh, nhưng quân kỷ bại hoại, tướng quân bộ thuộc chia năm xẻ bảy tự giết lẫn nhau, tiền đồ trước mắt nguy hiểm trùng trùng, gian khó muôn phần. Đây chính là lúc ta phải tận tâm tận lực, dùng cái chết để báo đáp. Đại vương dùng lễ quốc sĩ đối đãi với ta, dĩ nhiên ta phải dùng nghĩa quốc sĩ để báo đáp. Những lời đồn đại của bọn tiểu nhân, ta không để vào lòng.”
Hai người dắt tay nhau đi thêm một đoạn, nhìn thấy ở góc tây bắc kinh thành có ngọn lửa bốc lên tận trời, nhất định Sấm quân đang đốt nhà dân. Lý Nham và Viên Thừa Chí mấy ngày nay đã thấy cảnh này rất nhiều, nên chỉ nhìn nhau lắc đầu than thở.
Chiều đã xế, sương xuống mông lung. Đột nhiên nghe trong ngõ hẻm phía trước có tiếng hồ cầm kéo ò e í e, rồi một thanh âm già cỗi hát khàn khàn: “Ai không quan chức, người đó nhẹ người. Trung thành với vua, như chơi với hổ. Trở về quê nhà, vui sống hết đời. Chim bắn hết rồi, cung bẻ quăng thôi…”
Lúc này đã thấy, từ ngõ hẻm đó một lão già mù mắt chậm chạp bước ra, vừa kéo hồ cầm vừa hát. Lão mù hát tiếp: “Tử Tư công cao, Ngô Vương kiêng kỵ. Văn Chủng diệt Ngô, đầu mình rời nhau. Hoài Âm đại tài, còn được cái tên. Đại công lập quốc, Từ tướng quân có ai sánh kịp. Thần cơ diệu toán, Lưu Bá Ôn đoán cũng không ra. Thiên tử Đại Minh vừa lên ngai vàng, Công thần văn võ chen xuống âm phủ. Quay về nhanh thôi, bỏ chỗ chết mà tìm chỗ sống.”
Nghe đến đây Lý Nham cảm xúc vô cùng, nghĩ bụng: “Nhiều công thần khai quốc triều Minh như Lý Thiện Trường, Lưu Cơ, Phó Hữu Đức, Châu Lượng Tổ, Phùng Thắng, Lý Văn Trung, La Ngọc đều bị Thái Tổ xử tử. Chắc lão mù cũng biết đã thay đổi triều đại rồi, nên mới dám hát bài này.”
Lão mù này quần áo rách bươm, đúng là một người hát rong để xin ăn. Nhưng lúc này ai cũng cố giữ mạng mình, chẳng ai rảnh rang để bỏ tiền ra nghe lão hát.
Lại nghe lão hát tiếp: “Quân vương hạ chỉ bắt công thần. Đao kiếm trùng trùng, lính vây nhiều lớp. Vợ con kinh hãi, ta không làm gì được. Dắt nhau nhảy xuống giếng, hối hận không kịp. Sao trước không giả chết để mai danh. Làn khói anh hùng hôm nay, vạn lý trường thành ngày trước…”
Lão vừa hát vừa chậm rãi đi ngang Lý Nham và Viên Thừa Chí, rồi rẽ vào trong một ngõ hẻm khác. Tiếng ca mỗi lúc một xa, để lại cảm giác bàng hoàng thê lương khó tả. “Làn khói anh hùng hôm nay, vạn lý trường thành ngày trước…” Tiếng hát văng vẳng trên không trung, dư âm xoáy mãi bên tai, không biết bao giờ dứt được.
*
* *
Viên Thừa Chí uất ức trong lòng, quay về nhà thì thấy ở đại sảnh có một người ngồi đợi. Người đó vừa thấy Viên Thừa Chí là nhanh chân chạy ra trước cửa, la lên: “Tiểu sư thúc! Sư thúc về rồi!”
Y mặc quần áo đơn giản, sau lưng cắm ngọn trường đao, chính là Thôi Hy Mẫn, cháu của Thôi Thu Sơn. Viên Thừa Chí mừng rỡ hỏi: “Huynh đến có việc gì không?”
Thôi Hy Mẫn lấy trong người ra một lá thư, hai tay trình lên Viên Thừa Chí. Chàng thấy trên bì thư có bút tích của sư phụ, viết mấy chữ: “Từ dụ chư đệ tử”, bèn chắp tay thi lễ rồi cung kính đón lấy, rút thư ra đọc.
Trong thư viết: “Phái Hoa Sơn chúng ta trước nay vẫn có môn quy, không được nhận chức làm quan trong triều. Nay đại nghiệp Sấm Vương đã thành tựu, đệ tử bản phái phải lui về ẩn tích. Đêm trăng tròn tháng tư năm nay, họp mặt trên đỉnh Hoa Sơn.” Bên dưới ký một chữ “Thanh”.
Viên Thừa Chí nói: “Sắp đến ngày họp mặt rồi, chúng ta khởi hành thôi.”
Thôi Hy Mẫn nói: “Đúng vậy, sư thúc phải đi ngay.”
Viên Thừa Chí vào trong thông báo với mọi người, nhưng không thấy Thanh Thanh đâu. Chàng hỏi Tiêu Uyển Nhi: “Hạ cô nương đâu?”
Uyển Nhi đáp: “Đã lâu lâu không thấy cô ấy. Để muội qua xem thử.”
Viên Thừa Chí nói: “Thôi, để ta đi gọi.”
Đến ngoài phòng Thanh Thanh, chàng đưa ngón tay khẽ gõ cửa mấy cái, lên tiếng: “Thanh đệ! Ca ca đây.”
Trong phòng chẳng động tĩnh gì. Chàng đợi một lát, lại nhẹ nhàng gõ cửa, vẫn không có hồi âm.
Viên Thừa Chí đẩy cửa, thì ra cửa phòng không cài chốt. Đưa mắt nhìn vào thấy bên trong trống rỗng chẳng còn gì, vào phòng lại càng không khỏi ngẩn ngơ. Toàn bộ quần áo của nàng, trường kiếm, các vật dụng khác đều không thấy đâu nữa. Ngay cả hũ tro của mẫu thân, nàng cũng mang đi, hình như đây là một chuyến đi xa.
Viên Thừa Chí lo lắng tìm kiếm khắp nơi, thấy dưới gối nàng có một mảnh giấy, viết: “Đã có kim chi ngọc diệp, dĩ nhiên ruồng bỏ bá tính tầm thường.”
Viên Thừa Chí nhìn vào mảnh giấy mà ngơ ngẩn xuất thần, bối rối không biết làm sao. Chàng nghĩ bụng: “Ta đối với nàng thì thành ý chân tình, còn nàng cứ xét nét nhỏ mọn, nghi ngờ ta từng chút. Nam tử hán đại trượng phu hành sự quang minh lỗi lạc, chỉ cần không thẹn với lòng. Ngày nào chúng ta cũng vào sinh ra tử trong rừng đao kiếm, sao mà tránh nổi những chuyện tị hiềm? Thanh đệ, Thanh đệ! Thanh đệ không hiểu lòng ca ca ư?”
Trong lòng chàng không nén nổi chua xót, lại nghĩ: “Lần trước nàng tức giận bỏ đi, suýt nữa gặp nguy về tay bọn lính Tây dương. Bây giờ binh hoang mã loạn, lại càng không biết đi hướng nào.” Chàng nhớ lại cái đêm hôm nào cùng nằm một giường, cùng đắp một chăn với A Cửu, không phải là không động lòng, bây giờ nhớ lại, không khỏi tự hổ thẹn: “Mình thật sự thay đổi rồi sao? Thanh đệ trách mình, không phải là không có nguyên nhân.”
Chàng ngẩn ngơ ngồi trên giường, như vừa mất mát một cái gì đó. Tiêu Uyển Nhi bước vào phòng, thấy chàng như không còn hồn vía, kinh hãi la lên. Mọi người biết tin, kéo hết vào phòng. Mỗi người một câu, có người khuyên bảo, có người an ủi, có người đưa ra ý kiến.
Tiêu Uyển Nhi tuy nhỏ tuổi, nhưng gặp việc lại rất bình tĩnh. Nàng lên tiếng: “Viên tướng công! Tướng công lo lắng chỉ vô ích. Hạ cô nương võ nghệ đầy mình, ai dám bắt nạt cô ấy? Thế này, ngày hội phái đã gần, tướng công cứ đi với thúc thúc câm, Hà tỉ tỉ lên núi Hoa Sơn. Trình bá bá và tiểu muội thì ở lại đây trông nom A Cửu muội muội. Sa thúc thúc, Thiết lão sư, Hồ thúc thúc và bang chúng Kim Long Bang thì ra ngoài tìm Hạ cô nương, lại truyền lệnh bài minh chủ, hạ lệnh cho hào kiệt bảy tỉnh cùng tìm giúp. Sau khi tìm được cô ấy, lập tức mọi người lên núi Hoa Sơn gặp mặt. Ca ca cứ việc yên tâm, chuyện an nguy của A Cửu muội muội cứ giao cho tiểu muội lo. Tướng công đối đãi với muội tốt như thế, muội sẽ hết sức mình chiếu cố đến A Cửu muội muội, nhất định sẽ không phụ lòng tướng công.”
Nàng vừa nói vừa vỗ lên ngực mình, hào khí tràn trề. Viên Thừa Chí gật đầu lia lịa, nói: “Ý kiến của Tiêu cô nương rất hay, chúng ta cứ thế mà làm. Tốt nhất là Trình lão phu tử và Tiêu cô nương đưa công chúa tránh xa kinh thành; ở lại đây sẽ rất không ổn. Quyền tướng quân là người không đoan chính, nhất định sẽ bức hại công chúa. Thiết Thủ! Võ công của cô cao cường, hãy trông chừng giúp. Cô vẫn chưa chính thức gia nhập môn phái, đợi ta bẩm báo sư phụ rõ ràng rồi tính. Lần này cô không cần lên núi Hoa Sơn.”
Hà Thiết Thủ đảo mắt một cái, định năn nỉ thì đột nhiên nghĩ đến Thanh Thanh đã từng nghi ngờ mình, cùng đi với Viên Thừa Chí e rằng không ổn. Nàng mỉm cười không nói gì nữa, nghĩ thầm: “Sư phụ không dẫn mình lên Hoa Sơn, chẳng lẽ mình không biết đường đi?”
Nàng làm giáo chủ tà giáo đã quen, gần đây tuy thay đổi rất nhiều nhưng tính bướng bỉnh chưa hết, nên cứ mặc kệ lời dặn của Viên Thừa Chí, trù tính kế hoạch để lên Hoa Sơn bái kiến tổ sư. Nàng lại nghĩ: “Lòng dạ sư phụ dồn hết cho công chúa. Mình chỉ cần bảo vệ công chúa bình yên là được sư phụ thương yêu.”
Viên Thừa Chí sắp xếp mọi chuyện xong, sáng hôm sau vào từ biệt Sấm Vương và nghĩa huynh Lý Nham. Lý Tự Thành xem bức thư của Mục Nhân Thanh, biết chàng phải tuân sư mệnh nên không thể giữ được, bèn ban thưởng rất nhiều trân bảo trong đại nội. Viên Thừa Chí định chối từ, nhưng Lý Nham nháy mắt liên tục. Chàng chỉ còn cách nhận lấy rồi đa tạ.
Lý Nham tiễn chàng ra cửa cung, thở dài nói: “Huynh đệ công thành thân thoái, thế là tuyệt diệu. Thế mà…” Y đột nhiên ngừng nói, thần sắc ảm đạm.
Viên Thừa Chí nói: “Xin đại ca bảo trọng, mọi chuyện phải cẩn thận. Các vị Điền Kiến Tú, Cốc Đại Thành, Lưu Phương Lượng hiểu biết đại cuộc, trong lúc nguy cấp có thể thương lượng với họ. Đại ca ráng khuyên bảo đại vương quản thúc chúng huynh đệ, đừng hiếp đáp bá tính, đừng nghĩ chuyện đối phó với Lưu Huy Hiểu và Hạ Cẩm huynh đệ. Nếu đại ca gặp nguy, tiểu đệ biết tin thì dù ở xa vạn dặm cũng đi suốt đêm ngày để nhanh gặp mặt.”
Hai người lau nước mắt, từ biệt nhau.
*
* *
Chiều hôm đó Viên Thừa Chí cùng ông câm, Thôi Hy Mẫn, Hồng Thắng Hải đi về hướng tây, nhắm thẳng núi Hoa Sơn. Ngựa của mọi người đều là tuấn mã, cước trình rất nhanh, chẳng bao lâu đã đến Uyển Bình.
Quần hùng vào phạn điếm ăn cơm. Ăn xong, định lên ngựa thì Hồng Thắng Hải bỗng liếc thấy dưới góc tường có một con bò cạp và một con rết, đều được ghim vào chân tường bằng đinh sắt. Y ngạc nhiên, khẽ kéo góc áo Viên Thừa Chí.
Viên Thừa Chí quay lại nhìn rồi gật đầu một cái, nghĩ bụng: “Vụ này nhất định có liên quan đến Ngũ Độc Giáo. Tiếc là Hà Thiết Thủ không đi cùng, chẳng biết hai ký hiệu này có ý nghĩa gì.”
Hồng Thắng Hải kiếm cớ nói chuyện với tiểu nhị trong phạn điếm mấy câu. Y bình thản nói: “Hai con độc vật dưới chân tường đó trông ghê quá.”
Tiểu nhị mỉm cười đáp: “Tiểu nhân mà chưa lấy tiền của người ta thì dẹp bỏ lâu rồi. Thật là bực bội chết người.”
Hắn đếm ngón tay, mỉm cười nói tiếp: “Mới chưa tới hai ngày mà hỏi đến hai thứ đó, kể cả quan gia là mười mấy vị.”
Hồng Thắng Hải hỏi: “Ai gắn lên vậy?”
Tiểu nhị đáp: “Một mụ ăn mày.”
Hồng Thắng Hải nhìn Viên Thừa Chí một cái, lại hỏi: “Mấy người đó có hỏi tiểu huynh gì không?” Nói xong, y lấy mấy miếng bạc vụn nhét vào trong tay tiểu nhị.
Đầu tiểu nhị thì lắc, nhưng tay thì thò ra nhận bạc, miệng mỉm cười nói: “Thì ra quan gia muốn hỏi chuyện đó.”
Viên Thừa Chí hỏi xen vào: “Lúc mụ ăn mày gắn hai con độc vật vào đó, có ai bên cạnh không?”
Tiểu nhị từ từ kể: “Chuyện ngày hôm đó thật là kỳ lạ. Đầu tiên là một tướng công rất tuấn tú, đến uống rượu một mình…”
Viên Thừa Chí vội hỏi: “Tuổi tác bao nhiêu? Ăn mặc thế nào?”
Tiểu nhị đáp: “Chắc là nhỏ hơn tướng công mấy tuổi, nhưng tuấn tú hơn nhiều. Tiểu nhân cứ tưởng là một người kép hát, nhưng thấy bên hông ông ấy có đeo bảo kiếm, nên không biết là gì nữa. Vẻ mặt ông ấy rầu rĩ như trong nhà có ai mới chết, chỉ uống chút xíu rượu là khóe mắt đã đỏ lên, ai nhìn thấy cũng phải đau lòng theo…”
Quần hùng đều đoán người đó là Thanh Thanh. Thôi Hy Mẫn giận dữ lớn tiếng: “Ngươi bớt trù ẻo người khác được không?”
Tiểu nhị hoảng sợ nhảy chồm lên, rồi quay ra vừa lau bàn vừa hỏi: “Các vị quan gia đang vội lên đường phải không?”
Viên Thừa Chí hỏi: “Rồi sao nữa?”
Tiểu nhị liếc Thôi Hy Mẫn một cái, nói: “Lát sau, đột nhiên một ông lão bước lên cầu thang. Đừng tưởng hễ già thì yếu. Râu tóc của lão trắng như bông, nhưng tinh thần hết sức khỏe khoắn. Tay lão xách một cây quải trượng đầu rồng, dộng xuống sàn nghe “rầm” một tiếng, chén bát trên bàn nhảy lên loảng choảng.”
Hồng Thắng Hải lại nhét thêm mấy miếng bạc vụn, bảo hắn kể cho tường tận. Viên Thừa Chí lo lắng nghĩ: “Gặp phải lão Ôn Phương Sơn, Thanh đệ làm sao thoát khỏi độc thủ?”
Tiểu nhị kể tiếp: “Ông lão đó vừa ngồi xuống kêu rượu thịt, lại có một ông lão khác bước lên. Ai cũng ngạc nhiên, trước sau có tới bốn ông lão, đều râu tóc bạc phơ, sắc mặt hồng hào, giống nhau như đúc một khuôn. Muốn tìm bốn ông lão giống nhau như thế, thật sự không phải chuyện dễ. Lão cầm một đôi đoản kích, lão xách roi da. Bốn lão không ai nhìn ai, mỗi người tự ngồi một bàn, bao vây tướng công trẻ tuổi kia vào giữa.”
Viên Thừa Chí nghe đến đây, thầm nghĩ: “Đêm đó trong cung, Ôn Phương Ngộ bị Hà Thiết Thủ đánh trúng một thiết câu. Chắc là Thiết Thủ cho lão thuốc giải đàng hoàng, nên bây giờ vẫn đủ bốn người.”
Tiểu nhị lại kể: “Tiểu nhân càng nhìn lại càng không hiểu. Lát sau thì mụ ăn mày đến. Chưởng quỹ toan đuổi ra ngoài, bỗng nghe “keng” một tiếng. Trời ơi! Tướng công biết là cái gì không?”
Thôi Hy Mẫn sốt ruột hỏi: “Cái gì?”
Tiểu nhị nói: “Đúng là thần tài mặc áo rách, không thể trông mặt mà bắt hình dong. “Keng” một tiếng, mụ quẳng lên bàn một thỏi bạc to tướng, trỏ bốn ông lão và tướng công kia mà nói: Hóa đơn của các vị này đều tính cho ta. Ôi! Tướng công đã thấy người ăn mày nào hào phóng như thế chưa?”
Viên Thừa Chí càng nghe càng lo lắng, trong lòng nghĩ: “Ôn Thị Tứ Lão đã không địch nổi, gặp thêm Hà Hồng Dược nữa thì biết làm sao?”
Tiểu nhị càng kể càng cao hứng, nói đến sủi bọt mép: “Nào ngờ mấy người kia mặc kệ mụ, cứ ngồi uống rượu. Mụ ăn mày giận dữ gầm lên một tiếng, vừa vẫy tay là một đạo bạch quang bay xẹt tới ông lão cầm cây quải trượng.”
Thôi Hy Mẫn nói: “Thôi, ngươi đừng nói bừa nữa. Chẳng lẽ mụ đó biết phóng phi kiếm hay sao?”
Tiểu nhị đáp ngay: “Tiểu nhân nói dối làm chi? Tuy không phải là phi kiếm, nhưng nhìn chẳng khác gì phi kiếm. Ông lão đó đưa đôi đũa ra gắp lia gắp lịa, nghe những tiếng “tinh tang” vang lên, trên đũa đã có một xâu gì đó sáng chói. Tiểu nhân lén nhìn thử, trời ơi, quan gia biết cái gì không?”
Thôi Hy Mẫn hỏi: “Đó là cái gì?”
Tiểu nhị đáp: “Thì ra là một xâu móng tay bằng bạc, bị ông lão ấy dùng đũa gắp trúng hết. Tiểu nhân chưa kịp hoan hô, đã nghe “phụp” một tiếng. Quan gia đoán thử đó là tiếng gì?”
Thôi Hy Mẫn nói: “Ta làm sao biết được.”
Tiểu nhị kéo y đến một cái bàn, bảo: “Quan gia xem đi.”
Trên mặt bàn có một cái lỗ nhỏ. Tiểu nhị cầm một chiếc đũa, cắm vừa khít vào cái lỗ đó rồi nói: “Ông lão đó cầm chiếc đũa ấn thủng mặt bàn, công phu thật là tuyệt diệu. Quan gia có làm được không?”
Thôi Hy Mẫn đáp: “Ta không làm được.”
Tiểu nhị nói: “Thì ra quan gia không biết, thôi, chuyện đó không quan trọng lắm. Mụ ăn mày biết không thắng nổi, chỉ “hứ” một tiếng rồi quay lưng chạy trốn. Sau đó tướng công trẻ tuổi cũng theo bốn ông lão ra ngoài. Thì ra họ cùng một nhóm, chắc lo bày trận thế để đối phó với mụ ăn mày kia.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Họ đi hướng nào vậy?”
Tiểu nhị đáp: “Hướng tây nam, về phía Lương Hương. Năm người đi được một lúc thì mụ ăn mày quay lại, đính hai vật cổ quái đó vào góc tường. Mụ cho tiểu nhân một lạng bạc, dặn coi chừng hai con độc vật này tử tế, đừng để người khác động vào. Mấy ngày nay bốn bề đại loạn, chưởng quỹ đã định nghỉ làm ăn buôn bán ít lâu. May mà bà chủ không chịu, vẫn mở cửa quán nên tiểu nhân mới kiếm được nhiều ngoại bổng thế này…”
Hắn còn định lải nhải tiếp, nhưng Viên Thừa Chí đã chạy ra cửa, nhảy lên lưng ngựa, hô lớn: “Đuổi theo nhanh lên.”
*
* *
Từ khi thấy Viên Thừa Chí ẵm A Cửu về nhà, Thanh Thanh càng nghĩ càng thấy không yên. “A Cửu hình dung đẹp đẽ, thanh tú, khả ái, mình không sao bì được. Huống chi cô ấy lại là công chúa, còn mình chỉ là một đứa con hoang, lai lịch bất minh, hai bên nội ngoại đều là thành phần bất hảo trên chốn giang hồ. Khác nhau một trời một vực, Viên Thừa Chí nhất định sẽ yêu cô ấy. Nếu không yêu, sao lại ôm mãi cô ấy không chịu thả xuống? Họ thương nhau sâu đậm lắm rồi, nên khi trở về nhà, trước mặt đông người vẫn không nỡ buông tay. Chuyện này đâu phải giả?”
“Sau này lại nghe đồn Lý Tự Thành ban thưởng A Cửu cho Viên Thừa Chí. Quyền tướng quân Lưu Tông Mẫn ganh tỵ, hai người tỉ thí để tranh mỹ nhân ngay tại Kim Loan Điện. Nói đến động võ đánh nhau thì ai thắng nổi chàng? Đương nhiên là chàng thắng. Sùng Trinh là kẻ thù giết cha, chàng lúc nào cũng muốn trả thù. Nhưng A Cửu chỉ nói một câu, xin chàng đừng giết cha cô ấy, thì chàng lập tức ngoan ngoãn nghe lời. Có bao giờ chàng nghe lời mình như vậy đâu, hễ mở miệng là trách mắng mình.”
Suy đi nghĩ lại, rốt cuộc nàng quyết tâm rời khỏi kinh thành, đem hài cốt mẫu thân lên đỉnh Hoa Sơn mai táng chung với hài cốt phụ thân, rồi tự vẫn bên cạnh song thân. Nàng nghĩ đến mình lênh đênh cô độc, lại gặp phải một kẻ không có lương tâm nên có kết cục thế này, không sao nén nổi thương thân trách phận.
Hôm đó nàng ghé ăn cơm ở Uyển Bình, bất ngờ gặp phải Ôn Thị Tứ Lão và Hà Hồng Dược. Ôn Phương Sơn hiển lộ nội công, Hà Hồng Dược biết không địch nổi nên tự rút lui. Thanh Thanh đã chấp nhận cái chết, nên hoàn toàn không sợ hãi. Nàng chỉ sợ Ôn Thị Tứ Lão xử tử mình ngay tại đó, thì ý nguyện của mẫu thân được chôn cùng phụ thân không thực hiện được, nên ngẫm nghĩ rồi nảy ra một kế.
Thanh Thanh đến trước mặt Ôn Phương Đạt thi lễ, mở miệng chào: “Đại gia gia!”, rồi chào cả ba lão còn lại. Ôn Thị Tứ Lão thấy nàng bình thản chẳng sợ gì, kinh ngạc vô cùng.
Thanh Thanh mỉm cười hỏi: “Bốn vị gia gia đi đâu vậy?”
Ôn Phương Đạt hỏi lại: “Ngươi đi đâu?”
Thanh Thanh đáp: “Con hẹn gặp người bạn họ Viên ở đây. Không hiểu sao đến bây giờ vẫn chưa thấy huynh ấy đến.”
Tứ Lão nghe Viên Thừa Chí sắp đến, ai cũng rùng mình, không dám nán lại lâu. Ôn Phương Nghĩa hét lên: “Đi theo bọn ta.”
Thanh Thanh giả vờ nói: “Con phải ở đây đợi.”
Ôn Phương Nghĩa đưa tay ra túm chặt cổ tay Thanh Thanh, kéo ra cửa tiệm, lôi lên ngựa cỡi chung. Bốn lão già cố tìm chỗ hoang vu mà đi, thấy đã xa thị trấn mới nhảy xuống ngựa.
Ôn Phương Nghĩa quẳng Thanh Thanh xuống đất, thóa mạ: “Đồ tiểu tiện nhân vô sỉ! Hôm nay lại lọt vào tay bọn ta rồi.”
Thanh Thanh vừa khóc vừa nói: “Bốn vị gia gia, con có lỗi gì đâu? Gia gia tha con đi, từ nay về sau con nhất định nghe lời gia gia.”
Ôn Phương Nghĩa mắng: “Ngươi còn muốn sống nữa ư?”
“Soạt” một tiếng, lão rút trủy thủ ra. Thanh Thanh khóc lóc hỏi: “Nhị gia gia muốn giết con hay sao?”
Ôn Phương Ngộ nói: “Ngươi đáng chết.”
Thanh Thanh nói: “Tam gia gia! Mẫu thân con là con gái ruột của gia gia, con cầu xin gia gia một việc.”
Ôn Phương Sơn tái mặt, nói: “Muốn sống thì đừng hòng.”
Thanh Thanh nói: “Sau khi con chết, xin gia gia quay lại gặp người bạn họ Viên của con, dặn huynh ấy đi tìm bảo bối một mình, đừng đợi con nữa.”
Bốn lão họ Ôn vừa nghe thấy ba chữ “tìm bảo bối”, trong lòng phấn chấn hẳn lên, đồng thanh hỏi: “Ngươi nói gì?”
Thanh Thanh vừa khóc vừa đáp: “Dù sao con cũng phải chết, bí mật này không thể nói ra. Con chỉ xin các vị gia gia chuyển lá thư này cho huynh ấy.”
Nói xong, nàng xé một mảnh vải trên vạt áo xanh lam của mình, rồi lấy trong bọc ra một cây kim, đâm thủng đầu ngón tay, chấm máu tươi viết chữ trên tấm lụa. Ôn Thị Tứ Lão không ngớt hỏi bảo bối gì, nhưng nàng cứ mặc kệ.
Viết xong, nàng đưa Ôn Phương Sơn rồi nói: “Tam gia gia! Gia gia không cần phải gặp huynh ấy, nhờ người khác đưa đến thành Uyển Bình, chỗ tửu lầu mà chúng ta vừa gặp nhau là được.” Nàng đang đóng kịch, nhưng nghĩ đến Viên Thừa Chí vô lương tâm bỗng chảy nước mắt ra thật.
Tứ lão thấy nàng đau lòng muốn chết, không phải là giả dối. Chúng xúm vào nhìn, thấy trên tấm lụa đó viết: “Kiếp này không thể gặp lại. Trọng bảo của phụ thân đã tặng, ca ca hãy tự mình đào lấy, đừng chờ đợi nữa. Thanh muội viết.”
Ôn Phương Nghĩa hét lên: “Bảo bối gì? Ngươi biết chỗ giấu bảo tàng thật ư?”
Thanh Thanh vừa khóc vừa đáp: “Cái gì con cũng không biết. Con nói ra cũng chết, con không nói ra cũng chết.”
Ôn Phương Ngộ nói: “Hừ! Chắc không có bảo bối gì đâu. Thằng cha chết tiệt của ngươi đã lừa chúng ta một phen rồi, bây giờ ngươi muốn lừa nữa hay sao?”
Thanh Thanh cúi đầu không đáp, thò tay vào bọc lấy ra một đôi uyên ương phỉ thúy, để trên vạt áo. Đây vốn là vật trong rương sắt. Lúc sắp xếp kim ngân bảo bối, nàng thấy đôi uyên ương phỉ thúy này chất ngọc óng ánh, xanh biếc trong veo, điêu khắc tinh tế trông như vật sống, nên lấy ra cất trong người, kỷ niệm ngày cùng Viên Thừa Chí tìm được bảo tàng. Đồ trân bảo trong mười cái rương sắt nhiều không đếm xuể, thiếu một đôi uyên ương nhỏ cũng chẳng sao.
Nàng đứng bật dậy, la lên: “Lá thư này đưa đi hay không, tùy các vị gia gia. Bây giờ giết con đi.”
Nghe hai tiếng “tinh tang” rất êm tai, đôi uyên ương rơi xuống đất. Thanh Thanh cúi xuống toan nhặt, nhưng Ôn Phương Ngộ đã thò tay nhặt trước. Ôn Thị Tứ Lão có thâm niên trộm cướp mấy chục năm trời, lẽ nào không nhìn ra báu vật? Chúng thấy đôi uyên ương phỉ thúy này trân quý đến thế, mắt bỗng sáng rực lên. Bốn quả tim cùng nhảy thình thịch, bốn cái miệng cùng hét: “Cái này ở đâu ra?”
Thanh Thanh rơi lệ, không đáp. Ôn Phương Sơn bảo: “Nếu ngươi nói năng tử tế, không chừng bọn ta vui vẻ mà tha mạng.”
Thanh Thanh đáp: “Chính là trong số trân báu đó. Con cùng Viên đại ca theo tấm bản đồ gia gia để lại, tìm được mười cái rương sắt. Bên trong đầy ắp báu vật, nhiều quá không thể mang đi. Con chỉ chọn lấy đôi uyên ương này để cầm chơi. Bọn con đã hẹn lần này đi đào hết trân báu, nào ngờ các vị gia gia…” Nói đến đây, nàng bật khóc.
Tứ Lão đi qua một bên, thầm thì bàn luận không để Thanh Thanh nghe thấy. Ôn Phương Ngộ nói: “Xem ra bảo tàng này không phải là giả.”
Ôn Phương Nghĩa nói: “Phải ép nó dẫn đi lấy.”
Ba lão kia gật đầu. Ôn Phương Sơn nói: “Gạt nó, nói là tha mạng không giết. Đợi tìm được bảo tàng rồi mới trừng trị con tiện tì này cho hả giận.”
Ôn Phương Ngộ nói: “Đệ có ý kiến. Sau khi chúng ta đào lấy bảo vật, chôn con tiểu tiện nhân thế vào. Sau này thằng súc sinh họ Viên đi đào bảo bối, tình hình thật là tuyệt diệu.”
Ba lão kia cười rộ, đều nói: “Ngũ đệ thông minh nhất.”
Bốn người thương lượng xong, khoái chí quay lại chỗ Thanh Thanh, vừa dụ dỗ vừa uy hiếp. Thanh Thanh lúc đầu giả vờ không chịu, về sau bị ép không sao chối được, đành nói rõ là bảo tàng chôn trên đỉnh Hoa Sơn. Thật ra nàng bắt Ôn Thị Tứ Lão dẫn lên Hoa Sơn là để tìm nơi mai táng cha mình. Trong lúc chúng đào bới loạn xạ trên đỉnh Hoa Sơn thì mình có thể chôn hài cốt song thân vào chung một chỗ, sau đó đưa kiếm tự vẫn.
Không ngờ nàng nói dối như vậy, Tứ Lão càng tin sâu sắc. Năm xưa Ôn Thị Ngũ Lão bắt được Kim Xà Lang Quân, ông cũng dẫn chúng lên núi Hoa Sơn. Bảo tàng không thấy, lại mất hai đồng bọn phái Không Động, rồi Kim Xà Lang Quân đột nhiên mất tích. Trong đầu chúng vẫn in sâu ý nghĩ, bảo vật nhất định ở trên đỉnh Hoa Sơn. Ngày trước Trương Xuân Cửu và Vương Thất Động lên Hoa Sơn tìm kiếm cũng vì lý do này.
Thế là Ôn Thị Tứ Lão áp giải Thanh Thanh đi, ngày đêm ngựa không dừng vó, chỉ sợ Viên Thừa Chí đuổi theo.
Hôm đó đi đến cảnh giới tỉnh Sơn Tây, năm người chạy suốt một ngày khá mệt rồi, bèn ghé vào một khách điếm. Ôn Phương Nghĩa là người to lớn nhất, ăn uống dữ nhất. Lão liên tiếp hô hoán tiểu nhị dọn thức ăn, rót rượu, nấu mì.
Khi tiểu nhị bưng cơm nước lên, lão cứ như thường lệ mà ăn lấy ăn để. Ba lão kia và Thanh Thanh chưa kịp đụng đũa, Ôn Phương Nghĩa đột nhiên từ trong tô mì gắp lên một vật. Lão há mồm định kêu, nhưng lập tức miệng cứng lại không nhúc nhích được nữa. Bốn người kinh hãi nhìn lại, thấy vật lão vừa gắp lên là một con nhện đen sì rất lớn.
Ôn Phương Đạt sờ cổ tay huynh đệ thấy không còn mạch nữa, mặt đã bắt đầu đổi sang sắc đen, mũi không còn hơi thở.
Ôn Phương Ngộ vừa kinh hãi vừa giận dữ, xách tên tiểu nhị quẳng mạnh xuống đất. Nghe rắc rắc hai tiếng, cả hai chân hắn bị gãy xương, ngất xỉu ngay tại chỗ.
Ôn Phương Sơn dùng đũa gắp con nhện, chạy ra ngoài, túm lấy ngực người chưởng quỹ, hét lên: “Ngươi gan thật, dám giết người cướp của. Cái gì đây?”
Chưởng quỹ hoảng sợ đến nỗi hồn phi phách tán, lắp bắp: “Tiệm này… Tiệm này xưa nay có tiếng, nhà bếp sạch sẽ. Làm… Làm sao có… có thứ này.”
Ôn Phương Sơn bóp vào má hắn cho cằm hạ xuống, không ngậm miệng lại được, rồi cầm đũa nhét con nhện vào trong miệng. Chỉ chốc lát là người chưởng quỹ mất mạng ngay.
Lúc này trong tiệm rối loạn vô cùng. Ôn Phương Đạt thì tay phải túm lấy cổ tay Thanh Thanh đề phòng nàng chạy trốn, tay trái lo ôm thi thể huynh đệ. Ôn Phương Sơn, Ôn Phương Ngộ thì bất luận phải trái loạn đả một hồi, giết bảy tám mạng vừa thực khách vừa tiểu nhị, lại còn phóng hỏa đốt trụi tòa khách điếm. Mọi người thấy họ hung hãn như thế, ai cũng ôm đầu bỏ chạy.
Ba lão già còn sống đem chôn thi hài Ôn Phương Nghĩa ở một nơi hoang vắng, vừa đào huyệt vừa giận dữ thóa mạ, không đoán nổi con nhện kịch độc đó từ đâu mà có. Thanh Thanh đã từng nếm mùi đau khổ do Ngũ Độc Giáo, nghĩ ngay: “Thì ra mụ ăn mày đã âm thầm theo dõi mình.”
Ngày hôm sau bốn người vào tiệm ăn cơm, ép bọn tiểu nhị ăn trước mấy miếng. Thấy tiểu nhị vô sự, họ mới dám ăn uống.
Đi được mấy ngày đường nữa, một đêm đột nhiên trong khách sạn có tiếng người huyên náo, hô hoán bị ăn cắp ngựa. Ôn Phương Ngộ thức dậy xem xét. Lão tới gần chuồng ngựa, trong màn đêm đột nhiên nghe tiếng “xuỵt” như một luồng nước xịt đến trước mặt. Lão vội vàng tránh né, nhưng không thể kịp, vừa bị nước xịt trúng mặt đã thấy mùi tanh xộc vào mũi.
Lão biết là hỏng bét, nhưng lúc này cặp mắt không mở ra được nữa, đành nghe tiếng để đoán phương hướng. Trường tiên vừa lia ra đã đánh gãy ngay xương sống của mấy người nấp trong bóng tối để xịt nước. Còn sót một người, hét lên: “Lão kia còn hung dữ nữa ư?”
Hắn đưa búa lên chém. Nhưng trường tiên của Ôn Phương Ngộ đã vòng lại, quấn cả tay lẫn búa rồi dùng sức hất ra. Hắn bị giật bay lên, đập đầu vào tường vỡ óc ra mà chết.
Ôn Phương Đạt, Ôn Phương Sơn tưởng chỉ có mấy tên trộm vặt, huynh đệ mình dư sức lo liệu. Khi nghe Ôn Phương Ngộ kêu gào liên tục, chạy ra xem thì thấy lão không ngớt cào cấu lên mặt, mới biết đã có chuyện không hay. Ôn Phương Đạt ôm lấy em trai, còn Ôn Phương Sơn nhảy vọt ra ngoài để xem xét tình hình bên địch.
Ôn Phương Sơn không thấy gì lạ, lúc về phòng thì thấy huynh trưởng đang ôm ngũ đệ mà khóc lóc. Thì ra Ôn Phương Ngộ đã tắt thở, khuôn mặt bắt đầu thối rữa, râu và lông mày rụng sạch.
Ôn Phương Đạt vừa khóc vừa nói: “Hai mươi năm trước chúng ta bắt được Kim Xà ác tặc, cắt hết gân cốt cho biến thành phế nhân, thuốc độc trong mình hắn đã bị chúng ta lục lấy hết rồi. Thế mà hai đạo huynh phái Không Động lại trúng kịch độc mà chết, rồi hắn trốn thoát. Chẳng lẽ Ngũ Độc Giáo đã cứu hắn?”
Ôn Phương Sơn nói: “Không sai! Thì ra Ngũ Độc Giáo đã âm thầm chống đối chúng ta. Lần này chúng ta được Tào Hóa Thuần mời tới mưu đồ đại sự, sắp thành công thì giáo chủ Hà Thiết Thủ của Ngũ Độc Giáo đột nhiên trở mặt, thế là xôi hỏng bỏng không. Mãi đến bây giờ đệ vẫn chưa biết là lý do gì.”
Ôn Phương Đạt suy nghĩ một chút rồi đột nhiên nhảy chồm lên, la lớn: “Kim Xà ác tặc dụng độc lợi hại đến thế, không chừng hắn xuất thân từ Ngũ Độc Giáo.”
Ôn Phương Sơn giật mình nói: “Nhất định là thế rồi.”
Hai lão hồi tưởng tình hình năm xưa Kim Xà Lang Quân đến Tịnh Nham trả thù, bây giờ nhớ lại nỗi khiếp sợ lúc đó vẫn còn run rẩy. Chúng chôn cất thi thể Ôn Phương Ngộ, bàn bạc mất nửa ngày rồi quyết định lên núi Hoa Sơn trước, đào được kho tàng rồi mới tìm cách trả thù. Chúng sợ Ngũ Độc Giáo ra tay ám hại, chẳng những ăn uống đặc biệt cẩn thận, mà ban đêm cũng không dám trú trong khách sạn nữa.
Một hôm, hai anh em dẫn Thanh Thanh vào ngủ trong một ngôi chùa cũ nát. Ôn Phương Đạt tuổi tác đã cao, nhưng thần lực phi thường. Lão khiêng hai cái cối đá rất lớn, chặn cửa trước một cái, cửa sau một cái, rồi mới yên tâm nằm ngủ. Đến nửa đêm, hình như phía sau vách tường có tiếng chuột kêu. Hai lão tỉnh dậy, tưởng là chuột nên không để ý lắm.
Ôn Phương Sơn mơ hồ định ngủ tiếp, đột nhiên mũi ngửi thấy mùi thơm kỳ lạ, rồi cảm thấy cả người khỏe khoắn khoan khoái dị thường, như đang trôi nổi trong cõi hư không cực lạc. Trong lúc phiêu diêu, bỗng lão hiểu ra có chuyện không hay, thét lớn một tiếng rồi nhảy chồm lên.
Sự việc chỉ trong chớp nhoáng, nhưng Ôn Phương Đạt giang hồ lão luyện đã mấy chục năm, phản ứng cực nhanh. Lão lập tức kéo tay Thanh Thanh, xách nàng nhảy lên bàn thờ.
Dưới ánh sao mờ nhạt, Ôn Phương Sơn múa tít cương trượng phát ra tiếng gió vù vù. Bỗng nghe ầm một tiếng như sấm nổ, tượng Phật đã bị cương trượng đánh bay mất một nửa. Từ sau tượng Phật, hai hán tử áo vàng nhảy ra. Một tên múa đao tấn công Ôn Phương Sơn, còn tên kia cầm một cái ống, định thổi sương độc ra thêm.
Ôn Phương Đạt vẫy tay, hai mũi tụ tiễn bắn vào ngực hai hán tử, giết chúng ngay tại chỗ. Ôn Phương Sơn không chịu dừng tay, cứ tiếp tục vung trượng loạn xạ.
Ôn Phương Đạt la lên: “Tam đệ! Địch chết hết rồi.”
Ôn Phương Sơn không nghe, thần trí đã bị khói độc làm mê hoặc, vung cương trượng càng lúc càng gấp rút. Ôn Phương Đạt biết là hỏng bét, nhảy xuống toan đoạt lấy binh khí của em, nhưng cương trượng múa không thấy bóng, chỉ còn một vòng sáng bạc. Nhất thời Ôn Phương Đạt không sao nhảy vào đoạt trượng được.
Đột nhiên Ôn Phương Sơn quát lên một tiếng, hất ngược trượng lại cho đầu rồng trên trượng đập vào ngực mình. Máu miệng lão phun thành vòi, hai chân giãy giãy mấy cái rồi duỗi thẳng ra, rõ ràng không sống được nữa.
Thế là chỉ mấy ngày mà Ngũ Độc Giáo đã hại chết ba lão già. Ôn Phương Sơn là ông ngoại ruột của Thanh Thanh, trước nay vẫn thân cận hơn bốn lão kia một chút. Nàng bất giác rơi mấy giọt nước mắt.
Ôn Phương Đạt im lặng, khiêng thi hài Ôn Phương Sơn ra ngoài chôn cất. Lão chắp tay khấn vái trước mộ, rồi bảo Thanh Thanh: “Đi thôi!”
Thanh Thanh dập đầu lạy ông ngoại mấy cái, rồi theo đại gia gia đi ngay trong đêm.
Dọc đường Ôn Phương Đạt phòng bị càng cẩn thận hơn. Vào tới địa giới tỉnh Thiểm Tây, một thiếu niên áo đỏ vô cớ đến gần lão, lập tức bị lão vung chưởng đập cho vỡ sọ. Thanh Thanh thấy khuôn mặt xanh xao của lão càng lúc càng mất hết tính người, nói chuyện với lão cũng không dám.
Một hôm, đã tới gần chân núi Hoa Sơn. Hai người đi hơn nửa ngày đều thấy khát nước, nên ghé vào một quán lương đình nghỉ chân uống nước, cũng là để ngựa nghỉ ngơi một chút. Một người nông dân đi vào trong đình, dùng thổ âm Thiểm Tây hỏi: “Vị này là Ôn lão gia phải không?”
Ôn Phương Đạt hét lên: “Ngươi muốn gì?”
Nông phu đáp: “Lúc nãy có người cho tiểu nhân hai quan tiền, sai tiểu nhân đem thư đến cho lão gia.”
Ôn Phương Đạt hỏi: “Người đó đâu?”
Nông phu đáp: “Cưỡi ngựa đi rồi.”
Ôn Phương Đạt sợ có quỷ kế, bèn sai Thanh Thanh mở thư ra, thấy không có gì lạ mới cầm lấy mà đọc. Thư gồm ba trang, trang đầu tiên viết: “Ôn lão đại! Ba thằng em ngươi vì sao mà chết, muốn biết rõ thì xem trang sau.”
Ôn Phương Đạt cất tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó!” Lão giở trang thứ hai ra xem. Mấy trang giấy này dính chặt lại, rất khó gỡ ra, lão phải cho tay vào miệng thấm chút nước bọt mới mở được. Trang thứ hai viết: “Ngươi gần chết rồi. Mở trang thứ ba mà xem tại sao ngươi chết”.
Ôn Phương Đạt càng giận dữ hơn, lại thấm nước bọt mở trang thứ ba. Trên trang này chỉ vẽ một con rết rất lớn và một cái sọ người, không có chữ nào. Lão tức giận quẳng tờ giấy xuống đất, đột nhiên cảm thấy ngón tay trỏ và đầu lưỡi hơi tê dại. Lão định thần suy nghĩ một chút, bất giác mồ hôi lạnh tuôn ào ra.
Thì ra ba tờ giấy này đều tẩm chất kịch độc, dán hơi dính vào nhau, viết những câu chọc tức người ta. Người xem giận dữ mà không đề phòng, dùng đầu ngón tay để thấm nước bọt, tự đưa thuốc độc vào miệng. Đó là một trong ba mươi sáu cách hạ độc của Ngũ Độc Giáo. Năm xưa Kim Xà Lang Quân đã học từ Hà Hồng Dược, tẩm chất độc trên bí kíp giả, nên Trương Xuân Cửu trúng độc mà chết.
Ôn Phương Đạt đang kinh hãi thì ngẩng đầu lên, thấy người nông dân kia đã chạy xa mấy chục bước. Lão giận dữ vô cùng, chạy ra khỏi đình nhưng bỗng cảm thấy chóng mặt hoa mắt, càng muốn tập trung tâm thần càng thấy đầu đau như cắt. Lão biết mình hỏng rồi, bèn gom hết sức tàn phóng cây kích vào sau lưng người đó.
Tên này đúng là giáo đồ Ngũ Độc Giáo, cứ tưởng mình đắc thủ rồi, không đề phòng cây đoản kích bay tới nhanh như gió. Hắn mới gào lên một tiếng đã bị kích xuyên qua ngực, ghim cứng người xuống đất. Ôn Phương Đạt cười thảm khốc, rồi ngã ngửa ra sau.
Thanh Thanh kêu lên: “Đại gia gia! Gia gia sao rồi?” Nàng cúi xuống xem, nào ngờ tay trái Ôn Phương Đạt bỗng đưa thẳng ra, hất cây kích đang nằm sát đất lên đâm vào trước ngực Thanh Thanh.
Thanh Thanh không ngờ ông ngoại sắp chết còn hạ độc thủ. Nàng chỉ thấy một lằn sáng bạc nhoáng lên trước mắt, mũi kích đã gần tới ngực, biết mình không tránh kịp nữa, đành nhắm mắt chờ chết. Đột nhiên nàng nghe một tiếng “keng”, rồi dưới chân đau đớn kịch liệt. Mở mắt ra thì thấy đoản kích đã bị người khác đánh rơi dưới đất, cán kích đụng phải chân mình.
Nàng định quay lại xem thử ai vừa cứu mình, nhưng sau lưng đã bị nắm chắc, không động đậy được. Người đó dùng dây da trói chéo hai cổ tay nàng ra phía sau lưng, rồi mới bước tới đứng trước mặt. Đây chính là mụ ăn mày Hà Hồng Dược ở Ngũ Độc Giáo.
Thanh Thanh cảm thấy một luồng hơi lạnh bốc lên dọc xương sống, nghĩ thầm: “Lọt vào tay mụ ác ôn này, không biết phải chết thê thảm đến thế nào. Ước gì lúc nãy mình bị đoản kích của Đại gia gia đâm chết, vừa mau lẹ vừa ít đau khổ hơn nhiều.”
Hà Hồng Dược cười gằn, nham hiểm nói: “Ngươi muốn ta dùng đao giết ngươi, hay muốn ta dùng một ngàn con rắn độc, cho cắn ngươi bốn mươi chín ngày để mặt ngươi giống như mặt ta?”
Thanh Thanh nhắm mắt không đáp. Hà Hồng Dược lại nói: “Nếu ngươi dẫn ta đi tìm người cha vô lương tâm của ngươi, ta sẽ không bắt ngươi chịu đau khổ vô ích.”
Thanh Thanh nghĩ: “Dù sao mình cũng phải đi tìm nơi chôn cất gia gia, dẫn mụ đi cũng được.” Nàng bèn nói: “Ta cũng định đi tìm gia gia. Bà cứ đi chung với ta.”
Hà Hồng Dược thấy nàng đồng ý mau lẹ, bất giác nảy dạ nghi ngờ. Nhưng mụ nghĩ Kim Xà Lang Quân đã trở thành phế nhân, võ công mất sạch, không nên sợ hãi làm gì, nên cười nhạt rồi nói: “Được! Ngươi dẫn đường đi.”
Thanh Thanh nói: “Thả ta ra đi, để ta mai táng Đại gia gia trước đã.”
Hà Hồng Dược cười gằn: “Thả ngươi ra ư? Hừ!”
Mụ nhặt cây đoản kích của Ôn Phương Đạt, đào bên vệ đường một cái hố lớn, quăng thi hài của Ôn Phương Đạt và tên giáo đồ Ngũ Độc Giáo vào, lấp chung lại. Vừa chôn, mụ vừa lầm bầm: “Thằng cha ngươi là đồ vô lương tâm, nhưng ta quyết không để người khác hành hạ hắn. Bốn lão này đã hại hắn sống không được chết cũng không xong, ta muốn tìm chúng thanh toán từ lâu rồi, mãi đến hôm nay mới trút được mối hận. Sao ngươi gọi chúng là gia gia vậy?”
Thanh Thanh không đáp ngay, nghĩ bụng: “Nếu mình nói ra, mụ lại chửi mắng mẫu thân mình một chập.” Nàng nói: “Họ già rồi. Ta phải gọi họ là gia gia, chứ không lẽ bắt họ gọi ta là bà bà?”
Ngày hôm đó hai người đi được bốn năm chục dặm đường, nghỉ đêm ở lưng chừng núi. Hà Hồng Dược dùng dây da trói chặt hai chân Thanh Thanh, đề phòng nàng chạy trốn. Hôm sau mới mờ sáng Hà Hồng Dược đã cởi dây trói cho Thanh Thanh, hai người tiếp tục lên núi. Đường càng đi càng dốc, về sau phải dùng cả tay và chân bám lấy dây thừng mới trèo lên được. Hà Hồng Dược đã mất bàn tay trái, không thể nắm Thanh Thanh kéo lên, nên cởi dây trói tay cho nàng, bắt nàng leo trước, còn mình giám sát phía sau. Thanh Thanh trước giờ chưa từng lên núi Hoa Sơn, Hà Hồng Dược phải chỉ cho nàng đường đi nước bước.
Đêm đó, hai người nghỉ ngơi dưới một gốc cây lớn. Trong cảnh rừng núi hoang vu, ánh trăng lạnh lẽo, nghe tiếng chim kêu vượn hú, Thanh Thanh hết nghĩ đến mạng mình đang nằm trong tay kẻ thù, lại nghĩ đến song thân và Viên Thừa Chí. Nàng nghĩ mãi không dứt ra được, vừa sợ sệt vừa đau khổ, không sao ngủ được.
Sáng sớm hôm sau lại tiếp tục trèo lên núi, cứ thế mãi đến xế chiều ngày thứ ba mới lên tới tuyệt đỉnh Hoa Sơn. Thanh Thanh từng nghe Viên Thừa Chí kể tỉ mỉ về nơi chôn cất cha mình. Bây giờ nàng ngẩng đầu lên, nhìn thấy một vách núi thẳng đứng, kế bên có một cây thông lẻ loi và những tảng đá hình thù cổ quái, bên dưới có nguồn suối chảy xuống như thác đổ, giống hệt những gì chàng đã kể. Nàng bất giác trong lòng chua xót, nước mắt lã chã.
Hà Hồng Dược nghiến răng hỏi: “Hắn trốn ở đâu?”
Thanh Thanh chỉ vào một cái động trên vách núi dựng đứng, đáp: “Gia gia ở trong đó.”
Hà Hồng Dược nghiêng đầu ngẫm nghĩ, cũng nhớ năm xưa Kim Xà Lang Quân ẩn thân đâu đó gần đây, bèn mím chặt môi nói: “Được! Chúng ta lên đó gặp hắn.”
Thanh Thanh thấy thần sắc của mụ đáng sợ vô cùng, tuy nàng đã quyết ý muốn chết mà cũng rùng mình một cái. Hai người đi ngang đi dọc để tìm đường trèo lên vách núi dựng đứng đó, đột nhiên nghe thấy bên kia khúc quanh có tiếng cười nói.
Hà Hồng Dược vội kéo Thanh Thanh núp vào sau một lùm cỏ, hai ngón tay phải đã đeo sẵn vuốt thép tẩm thuốc độc, đè vào yết hầu Thanh Thanh, khẽ quát: “Không được lên tiếng!”
Hai người nấp sau lùm cỏ nhìn ra, thấy một đạo sĩ già và một hán tử trung niên vừa cười nói vui vẻ vừa bước tới. Thanh Thanh nhận ra Mộc Tang đạo nhân và đại sư ca Đồng bút thiết toán bàn Hoàng Chân của Viên Thừa Chí. Võ công hai người này đều ăn đứt Hà Hồng Dược, nhưng nàng biết mình chỉ động đậy một tí là hai cái vuốt tẩm thuốc độc sẽ ghim vào yết hầu lập tức.
Hoàng Chân mỉm cười nói: “Sư phụ chỉ mấy ngày nữa là lên núi, còn tiểu sư đệ thì hôm nay sẽ tới đây. Đạo trưởng không phải rầu rĩ vì thiếu đối thủ chơi cờ nữa.”
Mộc Tang đạo nhân cười đáp: “Nếu không ghiền chơi cờ, thì ta đường xa lặn lội về đây để làm chi? Phái Hoa Sơn các ngươi hội họp, có liên can gì đến ta đâu?” Hai người vừa cười vừa nói, dần dần đi xa.
Hà Hồng Dược biết phái Hoa Sơn lợi hại, nghe nói họ hội họp ở đây liền nghĩ: “Nơi này nguy hiểm, không nên ở lại lâu.” Mụ khom người từ từ bò lên vách núi, lấy sau lưng ra một sợi dây, một đầu buộc lên một cành cây lớn, đầu kia buộc vào người mình và Thanh Thanh, từ từ tuột xuống. Việc này mụ đã từng làm rất nhiều lần.
Năm xưa, phía trước sơn động này có một chàng trai không có lương tâm, tay cầm cây Kim Xà Kiếm, mặt mày hung dữ đứng canh chừng không cho mụ vào. Hình ảnh đó đột nhiên tái hiện trong tâm trí mụ, như chuyện mới xảy ra. Cảnh vật giống hệt như xưa, không biết người còn trong động hay không.
Thanh Thanh nhìn thấy dấu vết huyệt động trên vách núi, bèn la lên: “Đây rồi!”
Trái tim Hà Hồng Dược thình thịch đập lên loạn xạ. Mấy chục năm nhớ nhung không dứt, cả ngày lẫn đêm, chẳng giây phút nào mụ không nghĩ đến lúc gặp lại con người vô lương tâm đó. Mụ không biết mình sẽ điên cuồng hành hạ ông rồi mới giết; hay mình sẽ mềm lòng mà năn nỉ ông. Tự đáy lòng, mụ rất mong ông hồi tâm chuyển ý, hòa lại với mình, cùng xây giấc mộng đoàn viên. Cho dù ông đánh đập mình để trút giận, thậm chí giết mình đi cũng được. Bây giờ đến lúc gặp nhau, mụ bỗng thấy toàn thân run rẩy, lòng bàn tay đẫm mồ hôi lạnh.
Ngày trước ông câm vào đây lấy Kim Xà Kiếm, khi rời động đã lấy đá bịt cửa động lại, sợ người khác tiến vào. Hà Hồng Dược thấy cửa động chỉ còn một lỗ nhỏ, bèn dùng tay phải đào bới như điên. Đất đá lăn ầm ầm xuống, cửa động dần dần mở rộng ra. Mụ sai Thanh Thanh vào động trước, còn mình thì thủ sẵn những cái vuốt thép có tẩm chất kịch độc, đề phòng Kim Xà Lang Quân đột kích.
Thanh Thanh mới vào cửa động nước mắt đã chảy như mưa, càng vào sâu càng khóc dữ. Đi mới mấy bước, trong động đã tối đen. Hà Hồng Dược thắp lửa lên, đốt đầu sợi dây thừng, bảo nàng cầm vào soi đường. Thanh Thanh ngẩn ra, thầm nghĩ: “Đốt sợi dây này, làm sao có thể trở lên? Ta thì quyết chết ở đây với song thân, nhưng chẳng lẽ mụ không muốn trở ra?”
Hà Hồng Dược càng vào trong càng cảm thấy sơn động này không có người ở, bèn nảy dạ nghi ngờ. Đột nhiên mụ vung tay túm chặt gáy Thanh Thanh, hét lên: “Ngươi mà đùa giỡn với lão nương, thì lão nương sẽ cho ngươi chết không tử tế.”
Đột nhiên gió lạnh ập vào người, ánh đuốc lung linh. Hai người đã tới căn thạch thất trống rỗng. Hà Hồng Dược run rẩy đưa ngọn đuốc lên soi khắp xung quanh, thấy bốn vách đều khắc vô số đồ hình võ công, lại có bốn dòng chữ: “Trọng bảo bí thuật; Tặng người hữu duyên; Làm môn hạ ta; Gặp họa đừng oán.”
Mụ ở chung với Kim Xà Lang Quân chẳng được bao lâu, nhưng ông từng vẽ tặng mụ một bức tranh, có viết chữ đề tặng, nên bút tích của ông đã in đậm vào lòng. Bây giờ chữ viết trên vách còn trơ đó, nhưng người không thấy ở đâu. Mụ đau lòng như cắt, lớn tiếng kêu gọi: “Tuyết Nghi! Ra đây đi! Huynh muốn gặp muội không?”
Âm thanh làm bụi bặm trên trần rơi xuống, phủ đầy cả hai người. Mụ quay đầu lại, giận dữ hỏi Thanh Thanh: “Hắn đâu rồi?”
Thanh Thanh khóc òa lên, chỉ xuống đất mà đáp: “Ở đây.”
Hà Hồng Dược bỗng thấy trước mắt tối đen, suýt nữa ngất đi. Mụ loạng choạng phải đưa tay nắm chặt lấy cổ tay Thanh Thanh, cất giọng khản đặc lên hỏi: “Ngươi nói gì?”
Thanh Thanh nói: “Gia gia an táng ở đây.”
Hà Hồng Dược nói: “À! Thì ra… chàng… chàng đã chết rồi…”
Mụ không đứng vững được nữa, ngồi phịch xuống tảng đá ngày xưa Kim Xà Lang Quân ngồi luyện khí, tay phải ôm đầu, nước mắt rơi xuống như mưa, vô cùng đau khổ. Bao nhiêu oán hận tích tụ mấy chục năm nay bỗng dưng tiêu mất, tình ý lại dịu dàng như xưa. Mụ khẽ bảo: “Đi đi! Ta tha ngươi.”
Thanh Thanh thấy mụ đau khổ như vậy, bất giác nảy mối tương liên. Mụ bị gia gia đối xử không tốt, mình gặp phải Viên Thừa Chí không có lương tâm, hai người thật là hoàn cảnh như nhau. Nàng bèn nhảy tới ôm lấy mụ, khóc rống lên.
Hà Hồng Dược bảo: “Ra ngoài nhanh lên. Sợi dây này cháy thêm một lúc nữa, thì ngươi vĩnh viễn không trở lên được.”
Thanh Thanh hỏi: “Còn bà thì sao?”
Hà Hồng Dược đáp: “Ta ở đây với gia gia ngươi.”
Thanh Thanh nói: “Ta cũng không muốn lên nữa.”
Hà Hồng Dược chìm đắm vào suy nghĩ, không đếm xỉa gì tới Thanh Thanh nữa, đột nhiên đưa tay cào bới điên cuồng dưới đất. Thanh Thanh kinh hãi hỏi: “Bà làm gì đấy?”
Hà Hồng Dược ủ rũ đáp: “Đã hai mươi năm ta nhớ ông ấy mà không được gặp. Bây giờ được thấy mấy khúc xương của ông ấy cũng là an ủi.”
Thấy thần sắc mụ thay đổi hẳn, Thanh Thanh vừa kinh hãi vừa sợ sệt. Đất trong động khá mềm, bàn tay của Hà Hồng Dược cứng như xẻng sắt, bới lên không ngớt. Chỉ chốc lát, trong hố đã lộ ra một đống xương khô, đúng là hài cốt của Kim Xà Lang Quân mà ngày trước Viên Thừa Chí đã an táng.
Thanh Thanh phóng tới đống hài cốt của cha mình, khóc rống lên. Hà Hồng Dược bới thêm một chập, đột nhiên nhặt cái đầu lâu ôm vào trong lòng, vừa hôn vừa khóc gọi: “Hạ lang, Hạ lang! Muội tới thăm huynh đây.”
Lát sau mụ lại khe khẽ hát những bài dân ca của tộc Bài Di. Thanh Thanh nghe không hiểu câu nào.
Hà Hồng Dược hát một lúc, lại kề cái đầu lâu vào môi mà hôn như điên dại. Bỗng mụ đau nhói la lên, cảm thấy má mình bị một vật nhọn đâm vào. Mụ đưa cái đầu lâu ra chỗ ánh nến mà xem tỉ mỉ, thấy hai hàm răng của đầu lâu đang cắn chặt một cây kim thoa nhỏ. Kim thoa lộ ra rất ít, nên lúc đầu không nhìn thấy.
Hà Hồng Dược đưa tay cạy vào trong miệng đầu lâu, răng rơi rụng lả tả, mũi kim thoa cũng rơi xuống đất. Mụ nhặt lên, chùi sạch đất cát. Sắc mặt mụ bỗng thay đổi hẳn, giận dữ hỏi: “Mẹ ngươi tên là Ôn Nghi phải không?”
Thanh Thanh gật đầu. Hà Hồng Dược vừa đau khổ vừa tức tối, nghiến răng nói: “Hay lắm, hay lắm! Cha ngươi sắp chết vẫn nhớ con tiện tì đó, ngậm kim thoa của ả vào miệng.”
Mụ nhìn hai chữ “Ôn Nghi” khắc trên cây thoa mà mắt như phun ra lửa. Đột nhiên mụ ngậm cây thoa vào miệng mà cắn nhai ngấu nghiến, đến nỗi miệng đầy máu tươi.
Thanh Thanh thấy thần trí mụ đã loạn, thầm nghĩ: “Giờ chết của hai ta sắp đến rồi.” Nàng lấy trong người ra hũ tro cốt của mẹ mình, tháo tấm da bịt nắp, rồi lật úp hũ, đổ tro cốt vào trong huyệt. Hà Hồng Dược thấy vậy, ngẩn ra quát hỏi: “Ngươi làm gì vậy?”
Thanh Thanh không trả lời. Nàng đổ hết tro vào, hất đất vụn xung quanh lấp lên, lòng thầm khấn vái: “Gia gia má má trên trời có linh thiêng thì chứng giám, con đã hoàn thành tâm nguyện hợp táng song thân rồi.”
Hà Hồng Dược giật lấy cái hũ, nhìn là biết ngay. Mụ la lên: “Đây là hài cốt mẹ ngươi phải không?”
Thanh Thanh chậm rãi gật đầu. Mụ xoay tay phóng chưởng, Thanh Thanh rụt người lại nhưng không tránh kịp. Nàng bị phát chưởng đánh trúng vai, loạng choạng suýt nữa té nhào.
Hà Hồng Dược la lên như điên dại: “Không cho các ngươi hợp táng! Không cho các ngươi hợp táng!”
Mụ đưa tay cào bới loạn xạ, nhưng tro đã hòa lẫn vào đất, không hốt ra được nữa. Lửa ghen bốc lên, lòng bỏng như bị đốt, mụ lượm từng miếng hài cốt trong huyệt ra, la lên: “Ta phải đốt ngươi thành tro, rồi rải dưới chân núi Hoa Sơn cho ngươi bay tứ tán, vĩnh viễn không được sum họp với con tiện tì đó.”
Thanh Thanh kinh hãi, nhảy xổ vào ngăn cản. Nhưng chỉ mấy chiêu là nàng bị mụ đánh ngã nhào xuống đất. Hà Hồng Dược cởi áo ngoài trải dưới đất, bỏ hài cốt Kim Xà Lang Quân lên, rồi châm lửa đốt. Tay trái mụ kiềm chế Thanh Thanh không cho động đậy, còn tay phải quạt cho lửa hồng lên. Chỉ chốc lát là khói mù mịt trong thạch động.
Thạch động bị bít kín đã lâu, đầy chướng khí độc hại. Khi hai người mở lối vào động, chướng khí bên ngoài đã bị gió núi xua bớt, nên Hà Hồng Dược và Thanh Thanh bước vào mà không phát giác. Bây giờ Hà Hồng Dược đốt áo, hơi nóng bốc lên, hút chướng khí ở sâu trong động ùa ra ngoài. Hai người lập tức chóng mặt, ngạt thở. Thanh Thanh chạy ra ngoài được mấy trượng thì thần trí mơ hồ, té ngã xuống đất.
*
* *
Trong phạn điếm Viên Thừa Chí nhìn thấy ký hiệu của Hà Hồng Dược đính ở góc tường, biết mụ đang triệu tập giáo chúng để truy kích Ôn Thị Tứ Lão. Thanh Thanh lại lọt vào tay Ôn Thị Tứ Lão rồi, bất kể bên nào thắng thì nàng cũng bị liên lụy. Vì thế chàng vô cùng lo lắng, lập tức ruổi ngựa rượt theo.
Dọc đường chàng biết mấy lão họ Ôn trúng độc chết dần, lại càng lo lắng hơn, ngày thì ăn không ngon miệng, đêm thì ngủ không yên giấc. May mà chúng rượt nhau về hướng Hoa Sơn, nên chàng không đến nỗi vì theo đuổi mà lỡ mất ngày hẹn trên núi.
Viên Thừa Chí cùng mọi người đi mấy hôm thì gặp Thôi Thu Sơn, An đại nương và An Tiểu Huệ. Tuy ba người này không phải môn nhân phái Hoa Sơn, nhưng xưa nay thân thiết như người nhà, lên Hoa Sơn họp mặt cũng không sao.
Đến chân núi Hoa Sơn, ghé vào quán lương đình hóng mát, Hồng Thắng Hải nhận thấy một khoảnh đất nhìn hơi lạ. Y dùng binh khí đào lên, phát hiện thi hài của Ôn Phương Đạt và một người nữa.
Viên Thừa Chí nói: “Nhất định Thanh đệ đã lọt vào tay bọn Ngũ Độc Giáo. Chúng ta mau lên núi đi.”
An đại nương an ủi chàng: “Đã đến lúc Hoa Sơn hội họp. Cho dù Mục lão sư phụ chưa đến, thì Hoàng sư huynh, Quy sư huynh chắc đã đến đây, nhất định ra tay cứu giúp.”
Viên Thừa Chí nói: “Ngũ Độc Giáo có gan lên núi Hoa Sơn, chắc đã có chuẩn bị. Chỉ sợ đám sư điệt trúng phải độc thủ của chúng.”
Thôi Hy Mẫn nói: “Sư tổ cũng đến đây, có gì mà sợ nữa? Chúng ta mau lên núi đi.”
Mọi người gởi ngựa ở nhà dân, vội vã trèo lên núi. Lên gần đến đỉnh, đột nhiên họ nghe ba tiếng veo véo của ám khí bắn lên trời, lát sau mới đồng thời rơi xuống. Viên Thừa Chí mừng rỡ nói: “Mộc Tang đạo trưởng đang ở trên núi chào chúng ta đấy.”
Chàng lấy trong túi áo ra ba đồng tiền, búng mạnh lên trời. Ba cái chấm màu vàng mất hút trên mây, hồi lâu mới rơi xuống. Thôi Hy Mẫn lên tiếng khen ngợi: “Tiểu sư thúc! Thủ kình phóng ám khí của sư thúc mạnh quá.”
Viên Thừa Chí định nhảy lên đón bắt mấy đồng tiền, đột nhiên một cái bàn tính đen sì từ dưới bay lên, cản ba đồng tiền lại rồi cùng rơi xuống. Một người từ trong lùm cây nhảy vọt ra đón lấy cái bàn toán, cười hì hì mấy tiếng rồi bước tới. Đó chính là Đồng bút thiết toán bàn Hoàng Chân.
Ông mỉm cười nói: “Sư đệ! Ngươi hoang phí quá. Tiền bạc mà vứt ra tùy tiện như thế, chẳng phải xài tiền như nước hay sao? Dân buôn bán chúng ta thấy vậy, không khỏi đau lòng! Ta là người biết làm ăn, tiền đã vào tay thì không thể trả lại cho ngươi được.”
Thôi Hy Mẫn hô lớn: “Sư phụ! Thì ra lão nhân gia đã đến rồi.” Y chạy tới dập đầu ba cái xuống đất, vang lên những tiếng binh binh. Chú ngốc này không thèm ngó trước ngó sau, đang vui mừng nên dập đầu càng mạnh. Khi đứng dậy, trán y đã bị sỏi đá làm sưng lên một cục. An Tiểu Huệ vừa thương vừa giận, không ngớt nhỏ giọng trách mắng. Thôi Hy Mẫn đứng đó mà ngoác miệng ra cười, trông khờ khạo vô cùng.
Viên Thừa Chí cùng quần hùng bước tới thi lễ. Sau đó Mộc Tang đạo nhân cũng xuống gặp mặt. Mọi người bước tới bái kiến, nói mấy câu khách sáo chào hỏi lẫn nhau.
Viên Thừa Chí lo lắng cho Thanh Thanh, định hỏi xem đại sư ca có thấy tung tích của nàng hay không. Đột nhiên trong lùm cây bên cạnh có hai con vượn lớn nhảy ra, ôm lấy Viên Thừa Chí. Thôi Hy Mẫn giật mình kinh hãi, vung quyền đánh ngay.
Viên Thừa Chí đưa tay khẽ gạt thoi quyền, mỉm cười hỏi: “Đại Oai, Tiểu Oai! Hai ngươi khỏe chứ?”
Hai con vượn lớn kêu chí chóe, buông Viên Thừa Chí ra, nhanh chân chạy lên đỉnh núi. Thôi Hy Mẫn hỏi: “Hai con vượn này do tiểu sư thúc nuôi phải không? Trời ơi, chúng nổi giận rồi.”
Hai con vượn leo lên mỗi lúc một cao. Viên Thừa Chí thầm nghĩ: “Nhất định Đại Oai và Tiểu Oai đã giấu giếm thứ gì đó, bây giờ lấy ra cho mình xem.” Chàng dõi mắt nhìn theo chúng một lúc, đột nhiên thấy trên vách núi có khói mù bay ra. Chỗ đó chính là huyệt động an táng Kim Xà Lang Quân, Viên Thừa Chí bất giác sợ hãi. Hai con vượn lớn cứ múa tay múa chân chỉ trỏ, như ra dấu gọi chàng tới.
An Tiểu Huệ cũng cảm thấy vậy, bèn nói: “Thừa Chí đại ca! Hai con vượn gọi đại ca kìa.”
Viên Thừa Chí đáp: “Không sai!” Chàng đưa tay ra dấu với ông câm. Ông câm gật đầu hiểu ý, liền chạy vào thạch thất lấy đuốc và dây dài. Mọi người vòng ra con đường phía sau, trèo lên vách núi đó.
Viên Thừa Chí nói: “Đường vào động ta quen thuộc nhất. Để một mình ta vào là được.”
Chàng xé vạt áo lấy hai mảnh vải nhỏ, nhét vào mũi, thắp đuốc, men theo sợi dây trèo xuống. Hai con vượn lớn đứng trên vách núi cứ nhảy chồm chồm, kêu la loạn lên, gãi đầu gãi tai ra vẻ lo lắng vô cùng.
Viên Thừa Chí xuống tới cửa động, thấy khói bay ra mù mịt. Chàng nín thở chạy vào trong, đến chỗ đường hẹp thì thấy một người nằm vật ra dưới đất. Đến gần nhìn kỹ, thì ra là Thanh Thanh.
Chàng vừa sợ hãi vừa vui mừng, sờ vào mũi nàng thì thấy hơi thở rất yếu. Nhìn vào thấy trong động vẫn còn ánh lửa, Hà Hồng Dược nằm giữa động. Chàng định vào cứu mụ ra, nhưng đột nhiên cảm thấy ngực mình bị đè chặt, chỉ muốn ngất xỉu, nên vội cúi xuống ôm lấy Thanh Thanh, nhanh chân chạy ra ngoài động.
Chàng nắm chặt sợi dây, ông câm và Hồng Thắng Hải vận sức kéo hai người lên. Viên Thừa Chí thấy xung quanh không còn khói độc nữa, mới dám hít sâu một hơi. Đột nhiên chàng nhịn không nổi, lơ lửng giữa trời mà nôn vọt ra.
Mọi người đứng trên vách núi vô cùng lo lắng, chỉ sợ chàng trúng chướng khí nặng quá, tuột tay buông dây là cả hai rơi xuống vực sâu. Ông câm và Hồng Thắng Hải run run kéo chậm lên. Hai chú cháu Thôi Thu Sơn và Thôi Hy Mẫn đứng bên nín thở theo dõi.
Viên Thừa Chí vì hít khí độc trong động hơi nhiều, chân vừa chạm đất đã chóng mặt đứng không vững nữa, bủn rủn ngồi phịch xuống. Mộc Tang đạo nhân thôi cung quá huyệt cho một lúc, chàng mới tỉnh lại, cố tự điều hòa hơi thở, thần trí vô cùng mệt mỏi. Lát sau Thanh Thanh cũng tỉnh lại, vừa thấy Viên Thừa Chí đã khóc òa.
Quần hùng thấy hai người hồi tỉnh mới yên tâm. Thanh Thanh từ từ khôi phục thần trí, kể lại tình hình trong động, chốc chốc lại ngắt quãng.
Viên Thừa Chí ủ rũ nói: “Di mệnh của mẫu thân Thanh đệ là được hợp táng với phu quân. Bây giờ thi hài hai người đều hóa thành tro, nhưng rốt cuộc đã được an nghỉ bên nhau.”
Thanh Thanh nói: “Mụ già ác ôn kia tuy hung dữ, nhưng tình cảm với phụ thân muội lại rất thâm sâu. Gia gia phụ lòng bà ấy, thật là không nên không phải. Đại ca! Chúng ta có nên cứu mạng bà ấy không?”
Viên Thừa Chí gật đầu đáp: “Nên chứ.”
Thôi Hy Mẫn lập tức xung phong vào động cứu người. Viên Thừa Chí dặn: “Khí trong động rất độc, cứu được người phải lập tức ra ngay.”
Thôi Hy Mẫn vào động chẳng bao lâu đã quay trở ra, nói: “Gió núi rất mạnh, uế khí trong động đã bị thổi tan gần hết, nhưng bà ấy chết rồi. Tại hạ không dám ở lâu trong động, nên lấp bừa bà ấy vào trong hố.”
Thanh Thanh gật đầu nói: “Thế là bà ấy được chôn cùng một huyệt với gia gia muội. Nếu bà ấy linh thiêng, chắc sẽ vui mừng. Chỉ mong ba người họ không tranh cãi nhau nữa.”
Thừa Chí nói: “Thanh đệ yên tâm đi. Gia gia muội nhất định sẽ bênh má má muội.”
Thanh Thanh giận dữ hỏi: “Má má muội đẹp hơn bà ấy, nên gia gia nhất định sẽ bênh má má. Sau này huynh cũng vậy phải không?”
Thừa Chí ngạc nhiên hỏi: “Ta cũng vậy là sao?”
Thanh Thanh vung tay lên tát. Thừa Chí mới gặp còn mừng, thấy nàng đánh mà không tránh né, bị tát vào má nghe “bốp” một tiếng. Thanh Thanh khóc rống lên, nói: “Sau này đại ca chỉ bênh A Cửu, không bênh muội. Để muội chết còn hay hơn.”
An Tiểu Huệ vội chuyển đề tài nói chuyện. Nàng xoa đầu hai con vượn mà nói: “May mà Đại Oai và Tiểu Oai phát hiện sớm. Nếu trễ một chút, e rằng Thanh tỉ và Thừa Chí đại ca trúng độc trong động còn nặng hơn.”
Mọi người đều nói: “Thật là nguy hiểm! May mà loại súc sinh có giác quan linh mẫn, từ xa đã cảm thấy khác thường.”
Quần hùng vừa bàn tán vừa trở lên đỉnh núi. An đại nương và An Tiểu Huệ dìu Thanh Thanh vào trong thạch thất, rửa mặt và thay đổi y phục cho nàng, rồi dìu lên giường nằm nghỉ.
Nội công Thanh Thanh đã không bằng Thừa Chí, lại hít khí độc nhiều hơn, nên đến hôm sau vẫn chưa bình phục hẳn. Nhiều lúc nàng thần trí mơ hồ, vừa khóc vừa la, cứ hôn mê là chửi mắng Viên Thừa Chí vô lương tâm, bất nghĩa, có mới nới cũ. Thấy Viên Thừa Chí bối rối, mọi người vừa buồn cười vừa lo lắng, sợ chàng khó xử nên im lặng lui ra.
Thừa Chí dịu dàng an ủi, hứa chắc không bao giờ phụ lòng Thanh Thanh. Mặt nàng lúc đỏ bừng lúc xám ngoét, không ngớt ói ra nước đen. Viên Thừa Chí không có cách nào chữa trị, chỉ biết ngồi bên giường mà rơi nước mắt.
Sơn động hoặc giếng sâu mà không được thông gió thì uế khí tích lại, vào trong sẽ trúng độc, thậm chí mất mạng. Chuyện này những người đi lại giang hồ vẫn thường gặp phải, nhưng nếu không mất mạng mà được cứu ra thì sẽ hồi phục dần dần. Phen này Thanh Thanh lại khác, cứ ọe nước đen ra mãi. Dường như ngoài uế khí trong động kín ra, nàng còn trúng phải chất độc gì đó trên người Hà Hồng Dược và hài cốt Kim Xà Lang Quân. Lúc này Viên Thừa Chí chỉ mong có Hà Thiết Thủ ở bên. Trên người cô này có đủ loại thuốc giải, không chừng biết cách chữa trị.
Mọi người bên ngoài cứ bàn luận mãi, đều nói tuy tính tình Thanh Thanh có lúc nhỏ nhen, nhưng bụng dạ rất tốt, nếu không chữa được thì Viên Thừa Chí chắc phải đau lòng tới hết đời. Ai cũng thở dài thở ngắn, không vui vẻ nổi.
*
* *
Sắp hoàng hôn, hai con vượn lại kêu la. Bên ngoài tiếng người ồn ào, thì ra vợ chồng Quy Tân Thụ đã dẫn sáu đệ tử, có cả Mai Kiếm Hòa, Tôn Trọng Quân, Lưu Bội Sinh đến nơi. Quy nhị nương ẵm theo cậu con Quy Chung. Thằng bé này cười vẫn còn khờ khạo, nhưng sức khỏe đã tốt hơn nhiều. Quy nhị nương biết Thanh Thanh trúng độc, liền lấy lọ thuốc Phục Linh Thủ Ô Hoàn mà con mình chưa uống hết, cho nàng một viên. Thanh Thanh uống vào, chốc lát đã ngủ li bì.
Sau đó đại đệ tử của Hoàng Chân dẫn tám sư đệ và hai con trai lên núi. Y thi lễ với Mộc Tang đạo nhân trước, rồi khấu kiến sư phụ và vợ chồng nhị sư thúc. Y thấy Viên Thừa Chí còn trẻ hơn cả con trai lớn của mình, nghĩ đến chuyện quỳ xuống khấu đầu trước mặt chàng bỗng thấy khó khăn. Y gọi “sư thúc”, rồi ngần ngừ đứng đó.
Viên Thừa Chí thấy vị sư điệt này đã ngoại tứ tuần, eo gấu, lưng hổ, gân cốt như sắt, đứng cao hơn mình một cái đầu, không khỏi thầm khen. Chàng nghĩ: “Đại sư ca là bậc anh hùng, phải là nhân vật oai phong thế này mới xứng đáng làm đệ tử của huynh ấy. Thôi Hy Mẫn tính tình lỗ mãng, võ công lại kém, so với vị sư điệt này chênh lệch rất xa.” Thấy y ra vẻ định quỳ, chàng vội đưa tay cản trở, rồi vẫy tay với tám đệ tử khác của Hoàng Chân mà nói: “Mọi người đừng đa lễ nữa.”
Thôi Hy Mẫn đứng bên giới thiệu: “Đây là đại sư ca họ Phùng, tên Nan Địch. Người trên giang hồ gọi huynh ấy là Bát Diện Oai Phong.”
Viên Thừa Chí nói: “Nhất định Phùng huynh đã được chân truyền của đại sư ca.”
Hoàng Chân thấy Phùng Nan Địch không chịu quỳ lạy tiểu sư thúc, nhưng nghĩ y đã là một nhân vật thành danh trong giang hồ, nên không miễn cưỡng. Hơn nữa, trước nay ông thích đùa giỡn nên không nghiêm khắc về mặt lễ số. Ông mỉm cười nói: “Ta là sư phụ tính toán kỹ lưỡng, quả nhiên dạy ra đồ đệ không chịu thiệt thòi. Chúng biết khấu đầu trước mặt tiểu sư thúc chưa chắc đã có tiền lì xì kiến diện.”
Nghe sư phụ nói mấy câu này, Phùng Nan Địch cảm thấy khó xử, tính quỳ trước mặt Viên Thừa Chí, nhưng lại bị chàng ngăn cản. Phùng Nan Địch bèn bảo con trai lớn là Phùng Bất Phá, con trai thứ là Phùng Bất Thôi đến bái kiến Mộc Tang đạo nhân và hai vị sư thúc tổ Quy, Viên, các vị sư thúc như Mai Kiếm Hòa. Viên Thừa Chí không có quà kiến diện cho anh em Bất Phá, Bất Thôi cũng có phần áy náy.
Năm nay Phùng Bất Phá hai mươi ba tuổi, Phùng Bất Thôi hai mươi mốt tuổi. Hai anh em dựa vào oai thế phụ thân nên được giới võ lâm Cam Túc, Lương Châu nhường nhịn mấy phần, mà cũng có chút ít công phu chân chính. Phen này chúng thấy Viên Thừa Chí chỉ chừng hai mươi tuổi mà mình phải kêu bằng sư tổ, trong lòng rất không phục. Chúng lại thấy cặp mắt chàng sưng đỏ, nước mắt chưa khô, bèn nghĩ: “Không biết tên này khóc nhè chuyện gì, thật là tồi tệ. Anh hùng hảo hán dù bị đánh rụng răng cửa thì cũng nuốt máu vào trong, sao có thể khóc vì bị người ta ăn hiếp?” Đối với Viên Thừa Chí, chúng càng coi thường hơn.
Hai anh em này quen biết đám đệ tử Quy Tân Thụ đã lâu, biết trong đó Tôn Trọng Quân kiêu ngạo hiếu thắng nhất, võ công cũng khá. Ngay đêm hôm đó, chúng lén lút bàn nhau, tìm cách khích bác cho Tôn sư cô tỷ thí với tiểu sư thúc tổ, để Viên Thừa Chí xấu mặt một phen. Lỡ bị phụ thân hoặc sư tổ biết được, anh em mình cũng không đến nỗi bị trách mắng.
Sáng hôm sau hai anh em dậy rất sớm, chạy ra ngoài đi tìm Tôn Trọng Quân, nhưng mới ra cửa đã gặp Bát sư thúc Thạch Tuấn. Thạch Tuấn tuổi trẻ hiếu sự, võ công cũng ngang ngửa Phùng thị huynh đệ. Y quát hỏi: “Này! Hai anh em ngươi lén lút đi tìm cái gì vậy?”
Phùng Bất Thôi mỉm cười đáp: “Bọn điệt đang tìm Tôn sư cô. Nghe nói ở Sơn Đông cô ấy đã dẹp yên phái Bột Hải, chúng điệt muốn xin cô ấy kể cho nghe.”
Thạch Tuấn hoan hỉ nói: “Hay quá! Vừa rồi ta thấy cô ấy ở bên kia núi, đang luyện võ với Mai sư ca.”
Ba người vui vẻ đi ra sau núi. Anh em họ Phùng thầm thì bàn tính, nói thế nào để lôi kéo Tôn Trọng Quân đi tìm Viên sư thúc tổ mà tỉ võ. Phùng Bất Thôi khẽ nói: “Nếu Tôn sư cô vẫn đang luyện kiếm, thì chúng ta nói là họ Viên chê sư cô sử chiêu này, chiêu kia không đúng.” Phùng Bất Phá vừa cười vừa gật đầu.
Ra đến sau núi, đột nhiên nghe tiếng Tôn Trọng Quân kêu la giận dữ. Cả ba đều bị bất ngờ, nhanh chân chạy tới thì thấy Tôn Trọng Quân đang xách đơn câu đuổi theo một người.
Sách Minh Lý Bắc Lược:
Khí trời nóng nực, mây đen tứ bề kéo tới. Ngoài thành khói đen mù mịt, mưa nhỏ không dứt lại có tuyết rơi. Thành Bắc Kinh bị hạ. Có người nói giặc mai phục sẵn bên trong, thông đồng với em của thái giám Tào Hóa Thuần là Tào Nhị Công mở cửa thành. Có người nói thái giám Vương Tương Hiệu dẫn cả ngàn binh lính trong hoàng cung ra đón tướng giặc Lưu Tông Mẫn dẫn trọn đội quân vào. Lại có người nói Thái giám Tào Hóa Thuần cùng Binh bộ thượng thư Trương Tấn Nham mở cửa Chương Nghĩa đón giặc… Đại để kinh thành thất thủ là do kẻ gian làm nội ứng… Giặc hô to: “Ai mở cửa sẽ không giết”, nên quân sĩ và dân chúng đều cầm nhang đứng hai bên cửa, hễ giặc đi ngang qua là phủ phục xuống đất nghênh đón. Trên cửa nhà dân đều dán những chữ “Thuận Dân”, hoặc “Vĩnh Xương nguyên niên, Thuận Thiên Vương vạn vạn tuế”.
Vào thành hết rồi, binh mã giặc xông bừa vào nhà dân. Tướng giặc hễ thấy phủ đệ to lớn là vào chiếm. Lưu Tông Mẫn chiếm phủ đệ của Đường Hoàng. Lý Mậu chiếm phủ đệ của Chu Toàn.
Bọn cung nữ chưởng quản thư quán của hoàng đế là Đỗ Thị, Trần Thị, Đẩu Thị bị Lý Tự Thành bức hiếp. Trong đó Đẩu Thị được sủng ái nhất, phong làm Đẩu Phi. Lại có Trương Thị cũng được ân sủng. Lý Tự Thành tập họp cung nữ để chia cho bộ hạ, mỗi tướng giặc được khoảng ba mươi cô. Ngưu Kim Tinh, Tống Kiến Sách cũng được mấy cô.
Ngày mùng một tháng tư, Tống Kiến Sách tấu: “Thiên tượng thay đổi, mặt trời mờ tối, phải đình chỉ các loại hình phạt.”
Ngày mùng bảy, Lý Tự Thành tới phủ Lưu Tông Mẫn, thấy trong sân nhốt hơn ba trăm người, một nửa đã không la hét nổi nữa. Lý Tự Thành nói: “Thiên tượng thay đổi, Tống quân sư nói phải giảm hình. Thả chúng ra đi.” Trong đó có mười một thân sĩ giàu có, còn lại đều là võ quan trong triều và bọn giúp việc. Chỉ ngày hôm đó đã thả cả ngàn người, nhưng số đã chết phải tới năm trăm.
Lúc mới vào thành giặc không giết nhiều, vài ngày sau chém giết mạnh tay… Lính giặc đầy đường, tay cầm sẵn dây, hễ thấy ai mập mạp là nghĩ có tiền, bắt trói đòi hối lộ. Có kẻ dọc đường nộp tiền được thả. Có kẻ dẫn về nhà, cho giặc muốn lấy gì thì lấy rồi được thả. Còn ai đã bị trói dẫn đến phủ Lưu Tông Mẫn thì không thể nào sống sót.
Ban đầu giặc còn giả vờ giết những kẻ lạm sát, tuyên bố “Ai cướp bóc, gian dâm dân chúng thì lập tức xử lăng trì”. Chúng bắt bốn tên cướp bóc dân chúng, tuyên án rồi chặt mỗi tên làm năm đoạn. Dân chúng tin tưởng, nên yên tâm mở tiệm sinh hoạt, buôn bán bình thường. Bốn năm ngày sau giặc mới tiến hành cướp, giết. Chúng ghép mười nhà thành một bảo, một người chạy trốn thì cả mười nhà bị chém. Nhà thượng lưu thì bọn tướng giặc kiểm kê, tịch thu. Nhà trung lưu, hạ lưu thì chúng cho quân lính cướp bóc chia nhau. Lại có lệnh, tất cả lừa ngựa và đồ đồng của dân gian đều phải tịch thu, đưa về doanh trại. Vì thế dân chúng trong thành, nhà nào cũng khánh kiệt.
Quân giặc vào nhà dân, đầu tiên là mượn nồi niêu chén bát; sau đó mượn giường chiếu, phòng ở; cuối cùng mượn tới vợ con để tìm lạc thú. Người nào giấu giếm mà bị lục soát ra, lập tức chém chết. Chúng thấy nữ nhân nào vừa mắt là lôi lên yên ngựa bắt đi. Có tên tay ôm một cô, trên ngựa trói theo hai ba cô nữa. Cô nào không chịu là giết ngay, nếu chịu mà chúng không vừa ý cũng bị giết. Trong hẻm An Phước, một đêm chúng giết chết ba trăm bảy mươi mấy nữ nhân, thê thiếp của các quan lại đầu hàng cũng không tránh khỏi số phận. Tướng giặc vào chiếm các nhà lớn, chiếm cả con gái họ làm thú vui.
Quân giặc tràn đầy các ngõ hẻm, lấy danh nghĩa tìm kiếm lừa ngựa và đồ đồng để cướp bóc khắp nơi, ai phản đối thì lập tức bắt trói. Chúng canh gác rất nghiêm, khó mà trốn khỏi kinh thành, ngay cả ban ngày cũng gian dâm bừa bãi.
Giặc còn nhiều biện pháp khác. Đến đâu, chúng cũng cho binh lính giả trang thành người đi buôn để tuyên truyền, nào là: “Giặc không giết người, không cướp tài sản, không gian dâm, mua bán đàng hoàng, không thu thuế lương. Giặc sẽ lấy tiền bạc của nhà quan để cứu tế người nghèo. Giặc rất yêu những người có học, trước tiên là thưởng tiền bạc, sau này cho dự thi, hạng nhất làm quan phủ, hạng hai làm quan huyện…” Vì thế bọn người chưa đậu tú tài thì mơ được làm quan, bọn người thiếu hiểu biết thì mong có tiền, bọn người còn nợ thuế lương thì mong được miễn thuế. Trong dân gian thật sự có câu ca dao: “Hãy mở cổng lớn để đón Sấm Vương, Sấm Vương đến rồi ta khỏi nạp lương…” Vậy là mưu kế của giặc đã thành.
Hơn bốn mươi vạn tên giặc vào thành, tên nào cũng lo cướp bóc. Khi Lý Tự Thành cấm chỉ thì quân sĩ la hét: “Ngôi hoàng đế thì để ông làm. Còn tiền bạc, nữ nhân chẳng lẽ không để bọn ta?”
Ghi chú của tác giả:
Sách Minh Lý Bắc Lược do Kế Lục Kỳ viết những năm đầu nhà Thanh, ghi chép tường tận hành động của Lý Tự Thành ở Bắc Kinh từng ngày một. Tác giả này rất chủ quan, chống đối nghĩa quân cực độ, nên những sự kiện trong sách chưa chắc chính xác hoàn toàn.
Khởi nghĩa nông dân ở các triều đại Trung Quốc đều không có kỷ luật nghiêm ngặt. Lúc khởi sự thì ai cũng lên tiếng trả thù, giết kẻ có tội với dân, dựng lại chính nghĩa. Nhưng khi đã có thanh thế thì những chuyện cướp bóc, bức hiếp, đốt nhà, giết chóc không thể nào tránh khỏi. Thất bại của Hoàng Sào, Lý Tự Thành, Trương Hán Trung, Thái Bình Thiên Quốc… đều có liên quan đến quân kỷ không tốt.
Những anh hùng Lương Sơn Bạc trong Thủy hử truyện cũng thế. Lý Quỳ cướp pháp trường, tấn công thành trì, không cần hỏi ai là quân quan ai là bá tính, cứ giết cho xác đầy mặt đất, máu chảy thành sông (hồi 39). Trấn Tam Sơn náo loạn Thanh Châu Đạo, mấy trăm gian nhà ngoài thành Thanh Châu bị đốt thành bình địa, trên những đống tro tàn ngổn ngang vô số xác chết đàn bà con nít, không sao đếm xuể (hồi 33).
Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử đương đại thích tô hồng những cuộc khởi nghĩa nông dân, cho rằng Lý Tự Thành không ham rượu sắc, quân kỷ rất tốt. Có người nói, chuyện quân sĩ Lý Tự Thành tàn hại bá tính Bắc Kinh không phải là chuyện thật. Có người bình chú Bích Huyết Kiếm, cho rằng tác giả công kích kỷ luật trong quân đội Lý Tự Thành không tốt là ngụy tạo. Những cách nhìn này không có căn cứ sử liệu. Hoặc giả có thể bàn cãi về hành vi cá nhân, nhưng về lịch sử thì những nhà nghiên cứu đã có không ít thành tựu, không thể xóa bỏ.
Khoảng trước sau năm 1949, bài văn Giáp Thân Tam Bách Niên Tế của Quách Mạt Nhược có ảnh hưởng rất lớn. Tác phẩm này không hề phủ định chuyện quân đội Lý Tự Thành có gian dâm, cướp bóc. Trong đó viết: “Lưu khấu đều là dân đói bị ép phải khởi nghĩa. Quân ô hợp chưa qua huấn luyện, ban đầu dĩ nhiên đánh trận không thắng quan binh; nhưng nói về gian dâm, cướp bóc, đốt nhà, tàn sát, thì so với quan binh quyết không thua kém”… “Lưu Tông Mẫn bắt bớ quan lại đầu hàng, vơ vét tài sản, dụng nghiêm hình để giết người… không ngày nào không giết… Cho binh lính cướp bóc tiền bạc của dân… Bắt trói cha của Ngô Tam Quế là Ngô Tương, để ép Ngô Tam Quế giao nộp ái thiếp Trần Viên Viên nhưng không được, nên tra khảo rất dã man.”… “Lý Nham có tấu thư, khuyên Lý Tự Thành phải yêu mến bá tính, phải hạ lệnh cho quân binh không được mượn nhà dân mà ở, sợ mất lòng dân. Lý Tự Thành không vui lắm, phê mấy chữ “Biết rồi”, không thực hiện.”
Những người lãnh đạo Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc vô cùng chú ý đến tác phẩm này. Trước khi quân đội tiến vào những thành phố lớn, họ ba lần năm lượt hạ lệnh không được quấy nhiễu dân chúng. Có tài liệu ghi lại, năm trước Mao Trạch Đông thống lãnh những quan chức cao cấp tiến vào Bắc Kinh, từng mỉm cười nói: “Chúng ta vào thành Bắc Kinh là dự một cuộc khảo thí lớn”, ý nói phải giữ nghiêm quân kỷ, phải thắng được sự quyến rũ của cuộc sống đồi bại xa hoa, phải tránh vết xe đổ của Lý Tự Thành.
Trần Nghị trước khi vào Thượng Hải đã nghiêm khắc hạ lệnh không được ở nhà dân, dù là thương bệnh binh gặp trời mưa lớn cũng không được vào nhà dân hoặc cửa tiệm để trú. Thuộc hạ của ông tuân lệnh rất nghiêm. Nhiều nhân sĩ Trung Quốc và ngoại quốc kể, quân cộng sản nửa đêm kéo vào Thượng Hải, sáng hôm sau họ thức dậy thấy ngoài đường đầy quan binh nằm ngủ.
Đời sơ Thanh có một quyển tiểu thuyết bạch thoại lưu truyền rộng rãi trong dân gian, tựa là Thiết Quán Độ, kể chuyện cung nữ Quế Cung Nga của Sùng Trinh giả vờ ưng thuận tướng quân La Mỗ của Lý Tự Thành, sau đó tìm cơ hội đâm chết. Tôi cho rằng quyển tiểu thuyết đó có phần thổi phồng những chuyện cướp bóc gian dâm của quân Lý Tự Thành, nên không lấy đó làm bằng chứng.
Vấn đề Lý Tự Thành giết hại công thần
Minh Sử, quyển 309, Lý Tự Thành truyện chép:
Lúc đó Tả Giáp Ngũ Doanh quy phục dưới trướng Lý Tự Thành, có Mã Thủ Ưng xưng là Lão Hồi Hồi (Mã Thủ Ưng là người Hồi tộc nên tự xưng là Lão Hồi Hồi, chữ Hồi là người Hồi. Triều đình khinh miệt dân quân tạo phản, nên viết chữ Hồi có bộ Khuyển, coi như súc sinh); Hạ Nhất Long xưng là Giáp Lý Nhãn, Hạ Cẩm xưng là Tả Kim Vương, Lưu Huy Hiểu xưng là Tranh Thế Vương, Quách Dưỡng Thành xưng là Loạn Thế Vương.
Lý Tự Thành còn có bộ hạ là La Nhữ Tài. Tự Thành thiện công, Nhữ Tài thiện chiến, hai người cần nhau như tay trái tay phải. Lý Tự Thành hà khắc, thấy La Nhữ Tài binh cường tướng mạnh bèn đem lòng đố kỵ, triệu La Nhữ Tài và bạn là Hạ Nhất Long đến ăn tiệc, dùng hai mươi kỵ mã bắt trói La Nhữ Tài và tùy tùng, sáng sớm hôm sau chém ngay trong trướng. Lý Tự Thành giết La Nhữ Tài và Hạ Nhất Long rồi, lại giết Quách Dưỡng Thành, đoạt lấy binh lính của Mã Thủ Ưng, giết Viên Thời Trung ở Kỷ Huyện…
Lý Nham từng khuyên Lý Tự Thành đừng giết đồng bọn để thu phục nhân tâm. Ông ở ngôi vị Sĩ đại phu, không phạm lỗi gì để buộc tội, nên Ngưu Kim Tinh và đồng bọn khá kiêng nể. Sau thất bại ở Đình Châu, nhiều châu huyện ở Hà Nam phản lại Lý Tự Thành. Lý Tự Thành hội nghị tướng lãnh, Lý Nham xin dẫn binh tấn công. Ngưu Kim Tinh lén tâu với Lý Tự Thành: “Lý Nham võ dũng lại đa mưu, không phải người chịu ở dưới lâu. Hà Nam là quê hương của Lý Nham, hắn có thể chiêu mộ đại binh, đã rời khỏi đây thì không thể chế ngự nữa. Câu sấm Thập Bát Tử không phải hắn thì còn ai, nhất định Lý Nham muốn tạo phản.” Lý Tự Thành bèn sai Ngưu Kim Tinh mời Lý Nham uống rượu, giết chết ông trong tiệc. Từ đó quân giặc hoàn toàn tan rã.
Người bị Tôn Trọng Quân đuổi là một nam nhân ngoài ba mươi tuổi. Y có vẻ phẫn nộ, vừa vung đao chém bừa vừa thóa mạ luôn mồm, “Đồ giặc cái! Đồ tiện nhân!” Võ công của y không bằng Tôn Trọng Quân nên phải lùi liên tiếp, nhưng không chạy trốn xuống núi mà cứ đợi sơ hở là quay lại phản kích.
Phùng Bất Thôi nói: “Chúng ta chặn tên kia lại, đừng để hắn chạy thoát.”
Thạch Tuấn bảo: “Tôn sư tỉ không thích người khác giúp đâu. Tên này sư tỉ thừa sức đối phó.”
Bỗng nghe người kia điên cuồng mắng chửi: “Ngươi giết vợ và ba đứa con của ta còn có thể hiểu được. Nhưng mẹ ta đã hơn bảy mươi tuổi, vì sao ngươi giết?”
Tôn Trọng Quân quát lại: “Cuồng đồ vô sỉ như ngươi, trong nhà có bao nhiêu người đều phải giết sạch.”
Hai người càng đấu càng quyết liệt. Phùng Bất Phá bỗng lên tiếng: “Tại sao Tôn sư cô không dùng kiếm? Đơn câu dùng không thuận tiện chút nào.”
Thạch Tuấn cũng thấy ả dùng đơn câu không thuận tay, bèn xoay ngược trường kiếm của mình lại, đưa chuôi kiếm ra phía trước, hô lớn: “Tôn sư tỉ, đón kiếm!”
Hắn ném trường kiếm về phía Tôn Trọng Quân. Đột nhiên từ lùm cây bên cạnh một người nhảy ra, đưa tay chặn bắt thanh kiếm. Cả ba đều kinh hãi. Thân pháp người kia vừa nhanh vừa đẹp, khi dừng chân mới thấy rõ là Mạt ảnh tử Mai Kiếm Hòa, môn hạ của Quy Tân Thụ. Thạch Tuấn la lên: “Mai sư ca!”
Mai Kiếm Hòa gật đầu chào, ném trả kiếm cho hắn rồi nói: “Tôn sư muội đã luyện binh khí khác, không dùng kiếm nữa.”
Thạch Tuấn kinh ngạc “À” một tiếng. Hắn không biết Tôn Trọng Quân đã bị Mục sư tổ cấm sử kiếm vì tội vô cớ đả thương người khác.
Thạch Tuấn quay lại xem hai người tỉ đấu, thấy nam nhân kia cố sức liều mạng, nhưng dù sao võ công cũng kém hơn, nên đao pháp dần dần tán loạn, không ra chiêu thức gì nữa. Trong nháy mắt Tôn Trọng Quân tung người lên, đá trúng cổ tay phải của y, đơn đao tuột tay văng tuốt ra ngoài. Mũi câu của Tôn Trọng Quân chĩa vào trước ngực y. Bỗng Mai Kiếm Hòa la lên: “Dừng tay!”
Tôn Trọng Quân ngẩn ra. Người kia vội vã tránh qua một bên, bỏ chạy xuống núi. Mai Kiếm Hòa mỉm cười bảo: “Sư muội tha mạng hắn đi, để sư tổ hài lòng.”
Tôn Trọng Quân cũng gượng cười. Không ngờ người kia chỉ chạy vài chục bước rồi ngoảnh lại, tiếp tục trỏ mặt Tôn Trọng Quân mà thóa mạ: “Đồ đàn bà trộm cướp! Đồ tiện nhân thối tha!”
Bây giờ thì Mai Kiếm Hòa, Thạch Tuấn cũng nổi giận. Tôn Trọng Quân lại càng tức tối, la lên: “Muội phải giết thằng súc sinh này! Bị sư tổ chặt đứt thêm một ngón tay cũng được.”
Ả lại vung câu đuổi theo. Mai Kiếm Hòa sợ ả giết người sẽ bị trách mắng, bèn nghĩ: “Ta phải bắt lấy tên đó để sư muội đánh một trận cho hả dạ.” Y vọt ra, chạy vòng lại chặn đường xuống núi. Khinh công của y hơn hẳn mọi người, nên chỉ trong chốc lát đã đứng trước mặt người kia.
Người kia thấy tình thế không ổn, đột nhiên rẽ qua con đường nhỏ bên trái. Thạch Tuấn và anh em họ Phùng liền phóng ám khí. Một viên phi hoàng thạch của Phùng Bất Phá đánh tới sau lưng, người kia nghe tiếng gió, biết có ám khí liền né sang bên phải. Nhưng “phụp” một tiếng, sau đùi đã trúng một mũi tụ tiễn của Thạch Tuấn, y loạng choạng rồi té nhào.
Mai Kiếm Hòa nhảy tới, định đưa tay ấn đối phương xuống đất. Đột nhiên có tiếng gió rít lên, thân hình người kia bất thình lình bay vọt lên trời. Mai Kiếm Hòa giật mình, lạng người tránh né rồi quay lại nhìn kỹ. Thì ra có người quăng ra mấy chục sợi dây quấn lấy y rồi giật tung lên.
Bọn Tôn Trọng Quân đã chạy đến nơi, thấy người vừa xuất thủ là một nữ nhân xinh đẹp, y phục toàn một màu trắng, tóc dài bỏ xõa ngang vai, đi chân đất, cổ tay cổ chân đều đeo vòng vàng. Cô gái mỉm cười đứng đó, phục sức không ra người Hán mà cũng không phải người Di, cánh tay phải trắng ngần như tuyết đang nắm một chùm mấy chục sợi dây không phải vải cũng chẳng phải da.
Phía sau cô gái còn có một thiếu nữ khoác áo cừu bằng lông cáo trắng, trên đầu đội mũ bằng da bạch hổ, trông dung mạo đẹp như tranh vẽ nhưng thần thái rất mệt mỏi.
Hai người này chính là Hà Thiết Thủ và A Cửu.
Ngày Viên Thừa Chí cùng mọi người rời khỏi kinh thành, phát hiện tung tích Ôn Thị Tứ Lão và Hà Hồng Dược cùng đi với Thanh Thanh trong phạn điếm trên đường đến Uyển Bình, hôm sau Hồ Quế Nam quay về thông báo với mọi người.
Hà Thiết Thủ biết hai con độc vật gắn dưới chân tường là tín hiệu của Ngũ Độc Giáo triệu tập giáo chúng đến cứu viện. Nàng sợ Thanh Thanh trúng phải độc thủ, phải tới đó ngay lập tức. Hơn nữa, Viên Thừa Chí cũng đã dặn nàng dẫn A Cửu rời khỏi kinh thành lánh nạn. Nghe Hà Thiết Thủ tỏ ý, A Cửu nghĩ phen này có thể gặp Viên Thừa Chí, nên gật đầu đồng ý đi với nàng để cứu người.
Đêm hôm đó hai người để lại một lá thư, lặng lẽ rời kinh. A Cửu mang theo Kim Xà Kiếm. Hà Thiết Thủ muốn thuê xe ngựa cho A Cửu ngồi, nhưng trong lúc binh hoang mã loạn thế này, không tên phu xe nào chịu đi. May mà nàng thấy có một chiếc xe vừa ra khỏi kinh thành, bèn đuổi hết khách trên xe xuống, ép mã phu đánh xe đi về hướng tây.
Tuy A Cửu bị thương nặng, nhưng Hà Thiết Thủ đã từng trải giang hồ từ lâu; nhẹ tay thì có tiền bạc, thuốc độc; nặng tay thì có quyền cước, đao kiếm; đi tới đâu cũng chiếm phần lợi thế, nên dọc đường hai người không đến nỗi gió sương cực khổ. Hà Thiết Thủ hiểu biết về y dược, lại xem A Cửu vừa là tiểu muội vừa là sư mẫu tương lai, nên chăm lo rất chu đáo.
Vết thương trên tay A Cửu dọc đường đã dần dần liền miệng. Ngựa khỏe, xe nhẹ, chẳng mấy chốc đã tới chân núi Hoa Sơn. Hà Thiết Thủ cõng A Cửu trên lưng, thi triển khinh công chạy nhanh lên núi chẳng khác gì đi trên đất bằng. Đúng lúc Hồng Thắng Hải trúng ám khí sắp bị bắt, Hà Thiết Thủ liền tung Nhuyễn hồng châu sách ra giật y về.
Bọn Mai Kiếm Hòa, Tôn Trọng Quân không biết Hồng Thắng Hải cùng phe Viên Thừa Chí, lại càng không biết Hà Thiết Thủ là nhân vật thế nào. Họ thấy nàng đi chân đất, dáng vẻ quái lạ, tưởng là bọn yêu ma tà đạo lên núi Hoa Sơn phá rối, đều rất giận dữ. Tôn Trọng Quân quát hỏi: “Ngươi ở môn phái nào? Có phải phái Bột Hải không?”
Hà Thiết Thủ mỉm cười hỏi lại: “Xin hỏi cao tính đại danh tỷ tỷ. Không hiểu vị bằng hữu này đã đắc tội với tỷ tỷ như thế nào, tiểu muội đứng ra giải hòa có được không?”
Tôn Trọng Quân nghe nàng nói giọng yểu điệu nhõng nhẽo, thầm nghĩ: “Đúng là loại người không đoan chính.” Ả chửi luôn: “Ngươi là yêu nhân tà giáo gì? Có biết đây là nơi nào không?”
Hà Thiết Thủ nghe xong, mỉm cười không trả lời. Hồng Thắng Hải lên tiếng: “Hà cô nương! Tên giặc cái này cực kỳ độc ác, gọi là Phi Thiên Ma Nữ. Vợ và ba đứa con của tại hạ cùng lão mẫu ngoài bảy mươi tuổi đều bị tên giặc cái này hạ độc thủ giết chết.”
Y vừa nói vừa nghiến răng trèo trẹo, ánh mắt như bắn lửa ra ngoài.
Mai Kiếm Hòa từ lúc được Viên Thừa Chí giáo huấn, tính tình ngạo mạn đã bớt đi nhiều. Hơn nữa y biết hôm nay sư tổ sẽ về nên không muốn gây thêm phiền phức. Y bèn dõng dạc nói: “Các ngươi mau mau xuống núi đi, đừng đứng đây lải nhải nữa.”
Phùng Bất Thôi la lên: “Sư thúc ta nói gì, các ngươi có nghe không? Cút đi cho lẹ!” Vừa nói, hắn vừa đi về phía A Cửu, giơ tay xua đuổi.
A Cửu cầm Thanh trúc trượng bên tay phải, giận dữ liếc nhìn Phùng Bất Thôi. Nàng xuất thân vương giả, từ nhỏ đã quen sai xử, dĩ nhiên thần sắc đầy vẻ tôn quý. Phùng Bất Thôi bất giác khiếp sợ, nhưng lập tức giận dữ hét lên: “Các ngươi muốn chết phải không?”
Hắn đưa tay xô đẩy A Cửu. A Cửu đã được Trình Thanh Trúc chỉ điểm căn bản võ công, lập tức đưa Thanh trúc trượng sang bên trái, rồi móc ngược lại bên phải. Phùng Bất Thôi hoàn toàn không phòng bị, lại càng không ngờ một tiểu cô nương yếu đuối, gió thổi cũng bay mà xuất thủ nhanh đến thế. Mắt cá chân hắn bị Thanh trúc trượng khều trúng, đứng không vững, té nhào xuống đất.
Võ công Phùng Bất Thôi không kém A Cửu, chỉ vì vô ý mà trúng đòn này. Lưng vừa chạm đất, hắn lập tức bật người nhảy lên. Thiếu niên hiếu thắng, dĩ nhiên không chịu mất thể diện. Hắn vung cây roi sắt lên, hầm hừ chỉ muốn phóng tới nện cho A Cửu một trận.
Hà Thiết Thủ vừa cười vừa nói: “Các vị ở phái Hoa Sơn phải không? Chúng ta là người một nhà mà.”
Phùng Bất Phá quát lên: “Ai một nhà với con yêu quái này?”
Mai Kiếm Hòa bôn ba giang hồ đã lâu, kiến thức rộng hơn. Y thấy lúc nãy Hà Thiết Thủ dùng châu sách cứu Hồng Thắng Hải thủ pháp rất cao, nhất định phải có lai lịch, bèn liếc mắt ra hiệu với anh em họ Phùng rồi hỏi Hà Thiết Thủ: “Xin hỏi lệnh sư là vị nào?”
Hà Thiết Thủ mỉm cười đáp: “Sư phụ của ta họ Viên, là Viên Thừa Chí. Hình như ông ấy cũng là môn hạ phái Hoa Sơn, nhưng không biết là thật hay mạo nhận.”
Mai Kiếm Hòa với Tôn Trọng Quân nhìn nhau một cái, bán tín bán nghi. Thạch Tuấn cười rộ lên nói: “Viên sư thúc chỉ là một chú bé, công phu bản môn không biết đã học được ba thành chưa, làm gì dám nhận đồ đệ?”
Hà Thiết Thủ nói: “Thật vậy ư? Thế thì lạ quá, không chừng tiểu sư phụ của ta đã mạo nhận. Hì hì, đúng rồi! Chắc võ công của tiểu huynh đệ này còn giỏi hơn tiểu sư phụ của ta.”
Tôn Trọng Quân từng thua dưới tay Viên Thừa Chí, sau này bị sư tổ trách phạt, chặt một ngón tay, nguyên nhân cũng từ Viên Thừa Chí mà ra. Mỗi khi nghĩ đến vị tiểu sư thúc này là ả khó chịu, ngứa tai ngứa mắt. Chỉ vì Viên Thừa Chí bản lãnh cao cường, bối phận cao hơn, lại từng cứu mạng đứa con yêu của sư phụ ả. Mỗi khi sư phụ sư mẫu nhắc đến Viên Thừa Chí đều ra vẻ cảm kích, nên ả chỉ biết nuốt hận vào lòng mà thôi. Bây giờ nghe Hà Thiết Thủ tự xưng là đồ đệ của Viên Thừa Chí, bất giác lửa giận bừng bừng, ả la lên: “Nếu ngươi là đệ tử phái Hoa Sơn, sao lại cùng đường với tên cuồng đồ vô sỉ này?”
Hà Thiết Thủ mỉm cười đáp: “Y là tùy tùng của sư phụ ta, không biết đã làm chuyện gì vô sỉ? Thắng Hải! Sao huynh lại vô sỉ với vị cô nương này? Trời ơi, ta không hiểu nổi, con người như huynh sao không biết xấu hổ, không sợ người khác chê cười?”
Nàng vừa nói vừa cười châm chọc. Tôn Trọng Quân nghe càng giận dữ hơn, nhất thời không nói được tiếng nào.
Mọi người cãi vã phía sau núi một hồi, âm thanh đã vọng ra trước núi. Chẳng bao lâu Phùng Nan Địch, Lưu Bội Sinh cùng mấy tên đệ tử khác đã chạy tới. Phùng Bất Thôi cứ đưa cặp mắt giận dữ nhìn A Cửu, nhưng càng nhìn càng cảm thấy cô gái này xinh đẹp tuyệt trần. Bất giác hắn cúi mặt xuống, lửa giận đã nguội lạnh tự bao giờ, chuyển thành lòng hâm mộ.
Phùng Bất Phá nói với cha: “Cô gái này tự xưng là đệ tử của tiểu… tiểu sư thúc tổ.”
Phùng Nan Địch hừ một tiếng, hỏi: “Cãi nhau chuyện gì vậy?”
Phùng Bất Thôi kể lại câu chuyện vừa rồi. Trong các đệ tử đời thứ ba của phái Hoa Sơn thì Phùng Nan Địch lớn tuổi nhất, nhập môn sớm nhất, lại có oai danh trên giang hồ, đương nhiên là lãnh tụ. Nghe con trai kể xong, y quay lại hỏi Tôn Trọng Quân: “Tôn sư muội! Người này đã đắc tội với sư muội chuyện gì?”
Mặt Tôn Trọng Quân hơi đỏ lên. Mai Kiếm Hòa đáp hộ: “Tên cuồng đồ này có một người anh không biết tự soi gương, vác cái mặt dày tới cầu thân Tôn sư muội, bị Tôn sư muội chửi mắng đuổi về…”
Hồng Thắng Hải nói xen vào: “Không chịu thì thôi, sao lại xẻo mất hai tai của nghĩa huynh ta?”
Phùng Nan Địch trừng mắt quát: “Ai hỏi ngươi?”
Mai Kiếm Hòa chỉ Hồng Thắng Hải, nói tiếp: “Nào ngờ tên cuồng đồ này hẹn với số đông đồng bọn, thừa lúc Tôn sư muội có một mình mà bắt cóc đi. May mà sư nương của đệ đến kịp trong đêm, nên cứu được sư muội.”
Phùng Nan Địch đảo cặp mắt sáng quắc nhìn khắp một vòng, quát lên: “To gan thật! Thế mà ngươi chưa chịu thôi ư?”
Hồng Thắng Hải vẫn ngang tàng hỏi lại: “Bà ấy đã giết nghĩa huynh của ta, thế còn chưa đủ hay sao?”
Hà Thiết Thủ nói: “Bắt cóc người ta để ép thành hôn, đúng là không tốt. Nhưng Tôn tỷ tỷ đã giết chết nghĩa huynh của y, thế là hả dạ rồi. Cô chưa bái đường thành thân, đâu có mất mát gì? Hơn nữa, người ta vừa nhìn cô đã tương tư khổ sở như vậy, chỉ vì cô đẹp như tiên. Tại sao người ta không tương tư ai khác? Tôn tỷ tỷ lấy oán báo đức, tìm đến nhà giết hết năm người, không phải quá ác hay sao? Tuy giết người cũng là một cách trả thù, nhưng phải tìm người có võ công mà giết. Mẹ già hơn bảy mươi tuổi của y hình như không biết võ công, cũng chẳng phạm tội gì, chẳng qua là đẻ ra đứa con trai hơi thiếu lễ nghĩa. Vợ và ba đứa con nhỏ của y, lại càng không biết đã phạm phải đại tội gì. Giết những người này không phải là hành động của phái Hoa Sơn. Đại giới của phái Hoa Sơn, điều thứ ba có phải là cấm giết người vô cớ hay không? Ta mới học, nhớ không chắc lắm.”
Mọi người nghe vậy đều biết Tôn Trọng Quân lạm sát, phạm vào đại giới bản phái, đều bất giác chau mày. Phùng Nan Địch giận dữ hỏi Hồng Thắng Hải: “Đầu đuôi cũng là tại ngươi không tốt. Bây giờ người chết đã chết rồi, còn biết làm sao?”
Hà Thiết Thủ nói: “Trước kia ta cũng có lúc giết người tốt, nhưng từ khi bái Viên Thừa Chí làm tiểu sư phụ, ông ấy cứ lải nhải với ta cả đống môn quy phái Hoa Sơn, nào là không được lạm sát vô cớ gì gì đó. Nhưng ta thấy Tôn tỷ tỷ giết người bừa bãi như vậy, có bị gì đâu? Chuyện này khiến ta phải nghi ngờ, lát nữa phải tìm tiểu sư phụ để nhờ chỉ điểm lại.”
Lưu Bội Sinh nói: “Viên sư thúc đang bận, sợ không rảnh nói chuyện với cô nương.”
Mai Kiếm Hòa hỏi: “Sư phụ đâu?”
Lưu Bội Sinh đáp: “Cả bốn vị sư phụ, sư nương, sư bá, sư thúc cùng Mộc Tang đạo trưởng đang lo cứu chữa vị cô nương kia.”
Phùng Nan Địch “À” một tiếng rồi nói: “Bây giờ chúng ta trói bọn này lại trước, lát nữa sẽ xin ý kiến sư phụ, sư thúc.”
Phùng Bất Phá, Phùng Bất Thôi cùng vâng dạ bước lên, định ra tay bắt người.
Hà Thiết Thủ thấy bọn này chẳng coi mình ra gì. Nàng từng ở ngôi giáo chủ, quen làm bá chủ một phương, không thể nhẫn nhịn được nữa, bèn mỉm cười hỏi: “Muốn trói người phải không? Ta có dây đây.”
Nàng đưa mớ dây Nhuyễn hồng châu sách ra trước mặt. Phùng Bất Thôi liếc nàng một cái, hỏi: “Ai cần dây của ngươi?” Vừa nói, hắn vừa bước tới Hồng Thắng Hải.
Anh em họ Phùng vừa định ra tay, đột nhiên nghe tiếng cười khúc khích rồi dưới chân bị cái gì quấn lại, thân hình bị giật lên trời như đằng vân giá vũ vậy. Hai người chưa hiểu gì, đang bay như diều bỗng nghe tiếng cười nói yểu điệu của Hà Thiết Thủ: “Úi chà, xin lỗi nhé! Lý Ngư Phiên Thân, mau lên.”
Phùng Bất Phá nghe lời, ra chiêu Lý Ngư Phiên Thân quả nhiên hai chân chạm đất, đứng yên vô sự. Còn Phùng Bất Thôi tuổi trẻ quật cường hơn không chịu nghe lời, bèn ra chiêu Phi Bộ Lưu Tuyền nhảy tạt ngang ra, toan đáp xuống bằng một tư thế đẹp, nào ngờ rơi xuống nhanh quá, mông hắn đập phẹt xuống đất, ngồi đó vừa hổ thẹn vừa đau đớn, mặt đỏ đến tận cổ.
Phùng Nan Địch thấy con mình bị đánh, giận dữ hét lên: “Ngươi tự xưng là đệ tử bản môn, lúc nãy ta còn tin được ba phần. Bây giờ thấy chiêu công phu hạ tiện này, làm sao là nhân vật bản môn được? Ngươi qua đây!”
Phùng Nan Địch không kịp cởi khuy áo, đưa tay trái giật vạt áo ra. Soạt một tiếng, cả dãy khuy áo bị kéo đứt. Y quẳng trường bào xuống đất, để lộ áo chẽn màu xanh, thần thái rất oai vũ, tráng kiện như một tòa thiết tháp.
Hà Thiết Thủ mỉm cười hỏi: “Vị sư huynh này muốn đối chiêu với muội phải không? Hay lắm, sư huynh muội đồng môn tỷ thí một chút chắc cũng không sao. Để xem mấy chiêu tiểu sư phụ của muội dạy có dùng được không. Chúng ta đánh cược gì đây?”
Phùng Nan Địch đã thấy nàng xuất thủ rất nhanh, nhưng vẫn nghĩ mình được chân truyền tuyệt nghệ, oai trấn một vùng, chẳng sợ hãi gì cô gái này. Nhưng thấy nàng yểu điệu như thế, cơn tức giận của y giảm dần, nảy sinh lòng thương xót, bèn dõng dạc nói: “Bọn ta còn dễ nói chuyện. Lát nữa Quy thẩm thẩm ra đây, bà ấy vốn xem kẻ ác như kẻ thù, thấy bọn yêu quái như ngươi thì không chịu buông tha đâu. Rời khỏi đây là hơn.”
Hà Thiết Thủ mỉm cười hỏi: “Ông không phải là tiểu sư phụ, dựa vào cái gì mà bảo ta rời khỏi đây?”
Phùng Bất Thôi té nhào hai lần, đang hổ thẹn vô cùng. Hắn đưa mắt nhìn anh trai, la lên: “Chúng ta thi triển công phu chân thực đi, đừng để ả này dùng quỷ kế ám hại nữa.”
Hai anh em cầm roi sắt, lại nhảy vào. Hà Thiết Thủ cười nói: “Hay lắm! Thế thì ta đứng yên không động đậy, cũng không đánh trả. Như vậy được chưa?” Nàng bèn cất Nhuyễn hồng châu sách vào lưng, dùng tay áo phủ cả hai tay lại.
Anh em họ Phùng vung roi đánh xuống, thấy nàng không tránh né gì cả. Vì thế khi roi sắt gần đến đỉnh đầu đối thủ, không hẹn mà cùng thu hồi lại. Hai người từ nhỏ đã được giáo huấn, tuy tuổi trẻ có phần lỗ mãng, nhưng trước nay chưa từng vô cớ đả thương người khác. Phùng Bất Thôi la lên: “Lấy binh khí ra đi!”
Hà Thiết Thủ nói: “Hình như so với hai vị thì vai vế ta lớn hơn một cấp, đâu thể dùng binh khí? Hai vị cứ thế mà tiến lên, chỉ cần chân ta động đậy nửa bước, hoặc tay ta thò ra ngoài tay áo, thì coi như ta thua. Được không?”
Phùng Bất Phá nói: “Nếu anh em ta lỡ tay đả thương, ngươi đừng trách nhé.”
Hà Thiết Thủ mỉm cười bảo: “Ra chiêu đi! Thanh niên gì mà cứ lải nhải hoài, chẳng sảng khoái chút nào.”
Phùng Bất Phá đỏ ửng mặt lên, liền ra chiêu Kính Đức Ngự Giáp đánh chéo xuống người Hà Thiết Thủ. Nàng hơi nghiêng mình cho cây roi sắt trượt qua. Phùng Bất Thôi tức giận nàng vừa hất mình té nhào, dùng hết toàn lực đập cây roi sắt lên vai Hà Thiết Thủ, nhưng khi thiết tiên tới nơi thì đối phương hầu như đã biến mất.
Hai chân của Hà Thiết Thủ cắm chặt dưới đất, thân hình thì nghiêng bên này, ngả bên nọ, lắc lư giữa bóng Thiết tiên trùng điệp như một cành hoa trước gió. Anh em họ Phùng múa song tiên càng lúc càng nhanh, Hà Thiết Thủ vẫn mỉm cười bình thản, thủy chung hai cây roi vẫn không chạm tới áo nàng.
Mọi người trong phái Hoa Sơn ngẩn ra nhìn nhau, không biết cô gái này ở môn phái nào mà võ công cao như thế. Nàng tự xưng là đệ tử bản môn, thế mà từ võ công đến thân pháp đều hoàn toàn không có dấu vết gì của phái Hoa Sơn.
Ba người đánh tiếp vài chiêu, anh em họ Phùng bỗng huýt một tiếng sáo, cúi xuống quét hai cây roi là là mặt đất. Chúng nghĩ: “Nếu thật sự chân ngươi không di chuyển, thì làm sao đỡ được chiêu này?”
Hà Thiết Thủ mỉm cười bảo: “Cẩn thận đấy!”
Nàng ngả người tới trước, khuỷu tay trái đẩy vào người Phùng Bất Phá, khuỷu tay phải đánh lên lưng Phùng Bất Thôi. Hai anh em cảm thấy toàn thân tê liệt, buông roi rơi xuống đất, loạng choạng rồi ngã ra ngoài.
Phùng Nan Địch khẽ nói: “Mai sư đệ! Cô ả này thật là cổ quái. Để ta lên trước, thử một chút.”
Mai Kiếm Hòa gật đầu. Phùng Nan Địch nhảy ra, hô lớn: “Để ta lãnh giáo.”
Hà Thiết Thủ thấy bộ pháp vững chãi, biết người này có căn bản võ học thâm sâu. Nàng vẫn mỉm cười để lộ má lúm đồng tiền, nhưng trong lòng đề phòng nghiêm ngặt, lên tiếng: “Nếu muội tiếp chiêu không nổi, sư ca đừng chê cười nhé.”
Phùng Nan Địch la lên: “Hay lắm! Xuất chiêu đi.”
Y hơi khom xuống, hữu quyền tả chưởng chắp lại vái chào, gió lộng ào ào. Đó là chiêu Khởi Thủ Thức của Phá Ngọc Quyền. Hà Thiết Thủ nhún chân chào kiểu vạn phước, nghiêng người đáp lễ, hai tay khẽ đưa ra trước.
Phùng Nan Địch thấy nàng vừa trả lễ vừa tiếp chiêu, không khỏi khen thầm: “Bản lãnh tuyệt diệu!” Y đang định xuất chiêu, đột nhiên từ lưng núi vẳng lên tiếng hò hét, có người đuổi nhau đến gần.
Y ngừng tay, nhìn sang Hà Thiết Thủ. Nàng mỉm cười hỏi: “Sư ca nghi ngờ muội dẫn theo viện thủ ư? Chúng ta xem rõ trước đã, rồi hãy tỷ thí tiếp được không?”
Phùng Nan Địch nghe tiếng hò hét đến gần xen lẫn tiếng nữ nhân mắng chửi, liền gật đầu nói: “Cũng được!”
Mọi người chạy đến bên vách núi, nhìn xuống thì thấy một nữ nhân áo đỏ đang gấp rút chạy lên núi, bốn đại hán cầm binh khí đuổi riết theo sau. Nữ nhân đó thấy trên đỉnh núi có người, tinh thần lập tức phấn chấn hẳn lên, chân chạy càng nhanh. Nàng nhận ra thân hình khôi vĩ của Phùng Nan Địch, liền kêu lớn: “Bát Diện Oai Phong! Mau cứu ta!”
Phùng Nan Địch kinh hãi la lên: “Thì ra Hồng Nương Tử!” Y lập tức chạy tới đón.
Trên mặt Hồng Nương Tử dính đầy máu tươi, bây giờ không gượng được nữa, ngất xỉu tại chỗ. Bốn tên đuổi theo thấy đông người nhưng cứ mặc kệ, hung hãn chạy tới định bắt Hồng Nương Tử.
Phùng Nan Địch đưa tả chưởng ra chặn tên đầu tiên, quát lên: “Bằng hữu biết điều một chút! Đây là nơi nào, biết không?”
Tên kia đưa chưởng ra cản trở. Hai chưởng giao nhau nghe một tiếng “chát”, cả hai đều chấn động phải lùi mấy bước. Té ra võ công tên kia không phải tầm thường.
Hai người nhìn nhau một cái, đều cảm thấy kinh ngạc. Tên kia hét lên: “Ta phụng lệnh Quyền tướng quân Đại Thuận hoàng đế tọa hạ, đi bắt nghịch tặc vợ của Lý Nham. Sao ngươi dám cản trở?”
Hà Thiết Thủ biết Lý Nham là nghĩa huynh của sư phụ, nữ nhân áo đỏ là vợ của Lý Nham dĩ nhiên phải cứu. Nàng lập tức bước ra, mỉm cười lên tiếng: “Lý Nham tướng quân là anh hùng hào kiệt, khắp thiên hạ chẳng ai không biết. Các vị đừng làm khó cô nương này nữa.”
Tên kia kiêu ngạo đã quen, ỷ mình võ công cao cường, dưới tay Lưu Tông Mẫn rất có quyền thế, không đếm xỉa gì đến một cô gái nhỏ nhắn như Hà Thiết Thủ nên không thèm trả lời. Hắn vẫy tay một cái, sai ba tên thuộc hạ bước tới trói người.
Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Được! Thì ra ngươi không muốn sống nữa.”
Tay phải nàng đang chống bên hông, khẽ ấn vào nút, độc châm Hàm sa xạ ảnh bắn ra vèo vèo. Võ công bọn kia không phải tầm thường, nhưng chẳng thể nào tránh nổi loại ám khí bắn ra bất ngờ này. Tên chỉ huy lập tức bị bảy tám mũi độc châm ghim vào da thịt, chưa la được tiếng nào đã mất mạng. Ba tên còn lại biến hẳn sắc mặt, đồng thanh quát hỏi: “Ngươi là ai?”
Hà Thiết Thủ đưa tay trái ra. Lúc đánh nhau với anh em họ Phùng, nàng vẫn giấu cái móc sắt dưới tay áo, bây giờ mới để lộ ra. Một tên khiếp sợ đến nỗi mặt trắng bệch, run rẩy nói: “Ngươi… ngươi… là Ngũ… Hà…”
Hà Thiết Thủ khẽ mỉm cười, vung cây kim câu sáng chói bên tay phải lên. Cả ba tên đều hồn bất phụ thể, lập tức quay lưng chạy trốn. Tên chạy đầu sợ quá cuống chân, vấp phải một tảng đá, lộn thẳng xuống vực sâu.
Phùng Nan Địch cùng mọi người đều rất kinh ngạc, nghĩ bụng: “Tại sao ba gã đại hán lại sợ cô gái này đến mức như thế? Vừa rồi nàng giết người trong nháy mắt, không biết đã dùng pháp môn cổ quái gì. Nhưng nàng là bạn chứ không phải địch, nhất định là vậy.”
Phùng Nan Địch dìu Hồng Nương Tử dậy, định hỏi han. Đột nhiên bên núi có một đạo nhân thân hình cao ốm lớn tiếng quát lên: “Người phái Hoa Sơn ở đây cả rồi chứ?”
Tiếng quát này vừa dõng dạc vừa thanh thoát, nội lực thâm hậu làm chấn động một vùng sơn cốc.
*
* *
Mọi người thấy đạo nhân này mặc áo bào vải thô nhưng viền gấm lụa trông rất sang trọng, thắt lưng khảm một miếng bạch ngọc lấp loáng sáng ngời. Lưng hắn đeo trường kiếm, tay trái phe phẩy phất trần, đầy vẻ tiêu sái. Tướng mạo hắn tuấn nhã, thần thái thanh cao, không biết khoảng bốn mươi hay năm mươi tuổi, trông hệt như một vị cao nhân đắc đạo.
Phùng Nan Địch bước tới chắp tay thi lễ, lên tiếng: “Xin thỉnh giáo pháp hiệu đạo trưởng. Đạo trưởng có phải là bằng hữu của tổ sư tệ phái hay không?”
Đạo nhân kia không đáp lễ, phẩy nhẹ phất trần rồi nhìn quanh mọi người một lượt, lại hỏi: “Các ngươi có phải người phái Hoa Sơn không?”
Phùng Nan Địch đáp: “Đúng vậy. Đạo trưởng có gì chỉ giáo?”
Đạo nhân hỏi: “Mục Nhân Thanh tới đây chưa?”
Phùng Nan Địch nghe hắn thuận miệng gọi thẳng tên tổ sư mình, ra vẻ bằng hữu rất thân. Y không dám chậm trễ chút nào, đáp ngay: “Tổ sư chưa đến.”
Đạo nhân mỉm cười, đưa phất trần chỉ ba cô Tôn Trọng Quân, Hà Thiết Thủ, A Cửu rồi nói: “Con khỉ già họ Mục thu nhận được không ít nữ đồ đệ xinh đẹp, thật là diễm phúc vô cùng! Này, ba mỹ nhân tới đây cho ta nhìn kỹ một chút.” Nói xong, hắn cài phất trần vào thắt lưng.
Mọi người nghe hắn buông lời khiếm nhã, đều tỏ vẻ bất bình. Tôn Trọng Quân giận dữ hỏi: “Ngươi là loại người gì?”
Đạo nhân mỉm cười đáp: “Mỹ nhân theo về đi, từ từ ta sẽ nói cho mà biết.”
Tôn Trọng Quân thấy hắn cười đầy vẻ dâm đãng, lập tức giận dữ bước lên một bước, hét lên: “Dám tới đây giở thói lưu manh!”
Đạo nhân vẫn mỉm cười, đưa tay sờ lên mặt ả, rồi rút tay về đưa lên mũi hít hít, cười nói: “Thơm quá!”
Tay hắn đưa ra thu về không nhanh gì lắm, nhưng Tôn Trọng Quân không thể nào tránh được. Ả càng giận dữ, thuận tay vung câu đâm tới. Đạo nhân nhẹ nhàng đưa tay trái ra cản trở, rồi xoay tay lại nắm chặt lấy cổ tay ả.
Tôn Trọng Quân vừa bị túm lấy cổ tay là lập tức toàn thân bủn rủn, không còn chút sức lực nào. Đạo nhân kéo ả lại ôm vào lòng, đưa miệng hôn lên má rồi cất tiếng tán dương: “Con gà này không tệ!”
Phùng Nan Địch, Mai Kiếm Hòa, Lưu Bội Sinh, mọi người đều vừa giận vừa sợ đến biến sắc mặt, đồng thời xông tới.
Đạo nhân đứng thẳng dậy, tung người nhảy lùi mấy bước. Tay trái hắn vẫn ôm Tôn Trọng Quân không chịu thả, nhưng nhảy lên rơi xuống vẫn rất linh hoạt, tiêu sái hơn cả người tay không. Tôn Trọng Quân bị ôm không động đậy được, mà có giãy giụa cũng không sao thoát khỏi vòng tay của hắn.
Mọi người đều hoảng sợ, biết không địch nổi nhưng cũng không thể khoanh tay đứng nhìn, đều rút binh khí ra xông tới. Đạo nhân đưa tay phải lên vai, đột nhiên ánh sáng xanh lóe lên chói mắt. Trường kiếm trên lưng đã ra khỏi vỏ, nắm trong tay rồi.
Mai Kiếm Hòa quan tâm đến Tôn Trọng Quân nhất, cầm kiếm đâm ngay. Y thấy trường kiếm của đạo nhân phát ra ánh sáng xanh như nước biếc, rõ ràng là lợi khí, nên không dám để kiếm mình chạm vào, chỉ soạt soạt đâm hờ ba kiếm, cố tìm chỗ sơ hở để tấn công. Năm ngoái y tỉ kiếm với Viên Thừa Chí ở Nam Kinh, bị chấn gãy mấy cây kiếm liền một lúc, mới biết võ công phái mình tinh ảo lạ thường, mình chỉ mới học được tí xíu ngoài da. Từ đó y giảm bớt tính khí ngông cuồng, xin sư phụ chỉ giáo thêm kiếm pháp, nửa năm không bước ra khỏi cửa để khổ công luyện tập, quả nhiên tiến bộ rất nhiều. Ba chiêu kiếm vừa rồi đều là những tuyệt chiêu y mới học, vừa nhanh chóng vừa hung hãn, có được mấy phần tinh yếu của Hoa Sơn kiếm pháp.
Đạo nhân khen ngợi: “Không tệ!”
Lời còn chưa dứt đã nghe “keng” một tiếng, hắn chém trường kiếm của Mai Kiếm Hòa đứt thành hai khúc. Đúng ra Mai Kiếm Hòa phải lập tức ném thanh kiếm gãy về phía địch thủ để đề phòng hắn thừa cơ tấn công rồi mới lo tránh né, nhưng y sợ đả thương nhầm sư muội nên không dám ném kiếm, vội lùi lại ngay. Khinh công của y đã khá lắm rồi, nhưng kiếm của đạo nhân vẫn kịp đâm tới, cắt đứt dải vải buộc tóc trên đầu.
Mấy chiêu này chỉ xảy ra trong chớp nhoáng. Mai Kiếm Hòa chưa hết sợ hãi, Phùng Nan Địch, Lưu Bội Sinh, Thạch Tuấn, Phùng Bất Phá, Phùng Bất Thôi và Tứ đệ tử, Ngũ đệ tử đã cùng lúc xông lên. Đao thương kiếm kích đồng thời tấn công, chỉ có Lưu Bội Sinh là tay không.
Đạo nhân vung trường kiếm xuất chiêu đón đỡ. Nghe một loạt những tiếng “keng keng”, nhiều binh khí đã bị chặt đứt, nhiều người đã bị đá văng ra ngoài. Chỉ còn Phùng Nan Địch và Lưu Bội Sinh, hai người võ công cao nhất, là còn miễn cưỡng chống đỡ.
Mai Kiếm Hòa nhặt dưới đất lên một thanh kiếm, lại nhảy xổ vào. Tay trái đạo nhân vẫn ôm Tôn Trọng Quân, tay phải cầm trường kiếm đánh trả ba người, miệng mỉm cười ra vẻ hờ hững. Trong lúc đánh nhau, hễ rảnh tay một chút là hắn lại kề miệng hôn lên má Tôn Trọng Quân, khiến ả tức giận đến suýt ngất đi.
Qua lại mấy chiêu, đạo nhân đột nhiên quẳng trường kiếm bay tít lên trời. Lưu Bội Sinh ngẩn ra, không biết hắn sử dụng quái chiêu gì. Mai Kiếm Hòa la lên: “Cẩn thận!”
Nghe “bình” một tiếng, ngực Lưu Bội Sinh đã trúng một quyền. Y lùi lại vài bước rồi ngồi phịch xuống đất.
Đạo nhân cười nói: “Ngươi cứ tưởng quyền pháp mình giỏi. Nếu ta dùng binh khí đả thương ngươi, sợ ngươi không phục.”
Sau đó hắn đưa tay đón thanh bảo kiếm từ trên không rơi xuống, “xoảng” một tiếng lại chặt đứt kiếm của Mai Kiếm Hòa. Tay phải hắn cong lại, hất khuỷu tay trúng vào sườn trái Phùng Nan Địch. Họ Phùng đau thấu tận xương, chóng mặt hoa mắt, liên tiếp thối lui mấy bước.
Thế là chỉ trong chớp nhoáng mà quần đệ tử phái Hoa Sơn thua tan tác, không ai dám bước lên nữa. Đạo nhân nhìn quanh tứ phía, cười ha hả rồi nói: “Lão Mục cứ tự khoe khoang quyền kiếm thiên hạ vô song, thế mà dạy ra một đám đệ tử hỏng bét thế này. Khi sư tổ các ngươi hỏi, cứ nói là Ngọc Chân Tử ghé thăm, thấy hắn không biết dạy dỗ đồ đệ, nên mang đi ba nữ đồ đệ để dạy giùm. Ba năm sau, dạy chán rồi, đương nhiên ta sẽ đem trả lại.”
Hắn thuận tay hất ra sau một cái. Mọi người chưa kịp chớp mắt, bảo kiếm đã cắm trở vào trong vỏ. Hắn vẫn ôm Tôn Trọng Quân, bước về phía Hà Thiết Thủ, mỉm cười nói: “Cô cũng đi theo ta.”
Hà Thiết Thủ biết mình không địch nổi, quay lại bảo Hồng Thắng Hải: “Mau đi gọi sư phụ!”
Hồng Thắng Hải vừa đi khỏi, đạo nhân đã tới trước mặt. Hà Thiết Thủ cười hỏi: “Đạo trưởng! Công phu của đạo trưởng thật là lợi hại! Đạo hiệu của đạo trưởng là gì vậy?”
Đạo nhân thấy nàng mỉm cười chẳng sợ hãi gì, thật sự bị bất ngờ. Hắn nhìn khuôn mặt mỹ lệ, đôi chân trần trắng như tuyết, khóe miệng cười nói xao động lòng người, bất giác thấy sướng đến tận xương. Hắn lại bước thêm một bước, mỉm cười nói: “Ta là Ngọc Chân Tử. Cô nương tên là gì vậy? Cô khen công phu ta giỏi, thế thì theo ta về đi, ta sẽ từ từ dạy cho cô.”
Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Ông không lừa người ta đấy chứ? Đã nói ra rồi, không được nuốt lời đâu đấy.”
Hà Thiết Thủ cười nói: “Khoan đã! Để ta đợi sư phụ đến, hỏi xem có được hay không.”
Ngọc Chân Tử nói: “Sư phụ của cô ư? Dù học được hết bản lãnh của hắn cũng chẳng ích gì! Ha ha…”
Hà Thiết Thủ mỉm cười nói: “Bản lãnh sư phụ ta giỏi lắm. Nếu sư phụ biết ta đi theo ông thì không được đâu.”
Bọn Phùng Nan Địch thấy Tôn Trọng Quân đang bị đạo nhân ôm chặt trong lòng hết đường động đậy, thế mà con yêu nữ lại cười nói đùa giỡn, liếc mắt đong đưa, người nào cũng tức giận bừng bừng. Mai Kiếm Hòa la lên: “Tặc đạo kia! Ta liều mạng với ngươi.” Y nhặt một thanh kiếm, lại xông lên.
Ngọc Chân Tử không thèm quay đầu lại, nói với Hà Thiết Thủ: “Để ta biểu diễn công phu cho cô xem thử sư phụ cô lợi hại hay ta lợi hại.”
Hắn vừa tránh né những chiêu kiếm của Mai Kiếm Hòa đâm tới vừa nói chậm rãi: “Kiếm pháp như gã này, trong phái Hoa Sơn các ngươi có thể gọi là cao thủ rồi. Nhưng chạm phải tay ta thì… Hừ! Cô cứ đếm từ một đến mười, ta sẽ dùng một bàn tay không mà đoạt lấy thanh kiếm của hắn.”
Mai Kiếm Hòa thấy đạo nhân này coi thường mình như vậy, càng tức giận hơn. Y ra chiêu càng lúc càng nhanh.
Hà Thiết Thủ cười hỏi: “Từ một đến mười phải không? Được! Một, hai, ba, bốn, năm…” Nàng không nghỉ lấy hơi, đếm nhanh như ma đuổi.
Ngọc Chân Tử mỉm cười nói: “Mỹ nhân chơi ăn gian quá! Xem đây.”
Mai Kiếm Hòa đang vung kiếm đâm tới, đột nhiên thấy địch thủ nghiêng người vươn tay, hai ngón tay đã điểm tới cặp mắt mình, khoảng cách chỉ chừng vài tấc. Y không nén nổi sợ hãi, vội thu kiếm về gạt. Nhưng cánh tay của Ngọc Chân Tử đã rút lại, khuỷu tay thừa thế hất trúng cổ tay y. Mai Kiếm Hòa lập tức tê chồn, trường kiếm tuột khỏi tay rồi bị Ngọc Chân Tử dùng hai ngón tay đoạt lấy nhanh như điện chớp. Lúc đó Hà Thiết Thủ mới kịp đếm đến số chín.
Ngọc Chân Tử cười ha hả, tay trái giữ kiếm, hai ngón trỏ và giữa tay phải kẹp chặt lưỡi kiếm. Rắc một tiếng, lưỡi kiếm gãy đoạn. Sau đó nghe thấy những tiếng răng rắc không dừng, thanh trường kiếm đã bị hắn dùng hai ngón tay làm kéo, cắt thành những đoạn sắt vô dụng dài đúng một tấc. Ngọc Chân Tử quẳng chuôi kiếm chỉ còn dính ba tấc lưỡi xuống đất, hú dài một tiếng, lại vươn tay ra nắm lấy cổ tay Hà Thiết Thủ.
Hà Thiết Thủ biết mình không phải là địch thủ của đạo nhân này, nên cố dùng kế hoãn binh để kéo dài thời gian đợi Viên Thừa Chí tới. Nàng nhẹ nhàng đưa tay trái giấu trong tay áo ra cho hắn nắm. Ngọc Chân Tử cứ tưởng mình sẽ nắm lấy một bàn tay mềm mại dịu dàng như ngọc, nhưng đột nhiên chạm phải một vật cứng ngắt lạnh băng, lập tức thả tay ra. Hắn phản xạ quá nhanh nên chưa kịp dính thuốc độc, nhưng trước mắt đã thấy ánh vàng nháy động, kim câu vạch vào chỗ giữa lông mày.
Chiêu này của Hà Thiết Thủ vừa nhanh vừa chuẩn, Ngọc Chân Tử võ công tuyệt diệu mà cũng suýt mất mạng. Trong lúc nguy cấp hắn vội ngửa đầu ra sau cho mũi nhọn của kim câu sượt qua trước mũi. Bỗng hắn ngửi thấy một mùi tanh tưởi, thì ra trên cái móc này có chất kịch độc.
Ngọc Chân Tử nằm mơ cũng không ngờ được một cô nương dịu dàng khêu gợi mà xuất thủ ác độc như thế. Hơn nữa, binh khí của phái Hoa Sơn lại tẩm thuốc độc là chuyện chưa từng có, nên hắn bất giác hoảng sợ, vã mồ hôi lạnh đầy người. Chưa kịp bình tĩnh lại, thiết câu đã đánh tới bốn chiêu như chớp giật.
Ngọc Chân Tử không cầm binh khí, tay trái lại ôm một người nên nhất thời hoảng loạn tay chân. Hắn dùng sức quẳng Tôn Trọng Quân sang một bên, tung người nhảy lùi ba bước, rút được trường kiếm ra rồi cười ha hả nói: “Không ngờ cô nương cũng có mấy chiêu. Được, chúng ta tỉ thí tiếp!”
Vừa rồi Hà Thiết Thủ bất ngờ tấn công trong lúc đối phương không phòng bị nên mới chiếm được thượng phong; tỉ thí thật sự thì đương nhiên nàng không phải là đối thủ, nhưng đã tới nước này không thể không đấu. Nàng mỉm cười nói: “Ông không được đánh thật đấy nhé! Chúng ta chỉ đùa một chút thôi.”
Ngọc Chân Tử đã biết cô gái này dung mạo đẹp đẽ, lời nói nghe động lòng người nhưng ra tay không chút dung tình. Hắn ỷ võ công mình thiên hạ vô địch nên chẳng sợ hãi gì, mỉm cười nói: “Nếu cô nương thua thì phải theo ta về.”
Hà Thiết Thủ cười hỏi: “Còn ông thua thì sao? Ta không muốn dắt ông theo đâu.”
Nàng vung tít song câu tấn công. Ngọc Chân Tử không dám sơ ý, thấy chiêu nào đỡ chiêu đó, hai bên bắt đầu tỉ đấu.
Mai Kiếm Hòa bước tới dìu Tôn Trọng Quân dậy. Mọi người lúc đầu thấy Hà Thiết Thủ đánh ngã anh em họ Phùng, cứ tưởng hai thiếu niên đó học nghệ chưa tới đâu. Bây giờ thấy nàng tử đấu với tên ác đạo, thân pháp nhẹ nhàng linh hoạt, song câu biến thành một làn kim quang, một đường hắc khí, cố sức phong tỏa trường kiếm của Ngọc Chân Tử, ai cũng phải chắc lưỡi khen thầm.
Mọi người đều muốn tiến lên trợ giúp, nhưng thấy hai người tỉ đấu kịch liệt như vậy, binh khí phát ra tiếng gió, tiến thoái nhanh chóng không sao tả được, chiêu nào thức nào cũng cực cao siêu. Họ nhìn cũng không hiểu lắm chứ đừng nói đến chuyện chống đỡ, đều cảm thấy võ công mình không sánh kịp người ta, nên không dám nhúng tay vào.
Hai bên càng đấu càng hăng, chiêu thức càng lúc càng nhanh. Đột nhiên nghe “keng” một tiếng, kim câu đã bị Ngọc Chân Tử dùng bảo kiếm chém đứt một khúc. Hà Thiết Thủ vẫy tay, trong tay áo bay ra một vật gì đó. “Bùm” một tiếng, vật đó nổ ngay trước mặt Ngọc Chân Tử, hóa thành một đám khói hồng. Lúc này mặt trời vừa mọc, nắng mai rọi vào đám mây hồng trông rất đẹp mắt.
Ngọc Chân Tử nhảy sang một bên, giận dữ hỏi: “Ngươi là bọn Ngũ Độc Giáo phải không? Sao ở chỗ này?”
Một cơn gió thoảng qua. Thạch Tuấn và Phùng Bất Thôi đứng dưới gió, lập tức chóng mặt ngất xỉu.
Hà Thiết Thủ mỉm cười đáp: “Bây giờ ta đã cải tà quy chính, đầu nhập phái Hoa Sơn. Ông cũng cải tà quy chính đi, bái ta làm sư phụ được không? Tiểu đạo sĩ kia! Mau khấu đầu đi!”
Ngọc Chân Tử vung tả chưởng đẩy ra một luồng gió, thổi tan đám khói hồng trước mặt rồi lại thi triển chưởng pháp đánh tới như dời non lấp biển. Hà Thiết Thủ thấy kiếm pháp hắn đã tinh diệu, chưởng lực cũng lợi hại không kém. Nàng tức tốc xoay tay lôi cây Yết Vĩ Tiên trong áo ra, đảo người né tránh phát chưởng, vẫy roi cuộn vào cổ tay Ngọc Chân Tử.
Hôm nay Ngọc Chân Tử lên núi, cứ tưởng một mình một kiếm đại phá phái Hoa Sơn. Nào ngờ chưa gặp chủ nhân đã bị cô bé này hóa giải rất nhiều chiêu thức. Hắn quyết không để nàng đón đủ ba chiêu nữa, bèn nhìn chính xác chỗ đầu roi đánh tới rồi đưa tay trái ra. Hai ngón giữa và trỏ đã kẹp cứng lấy Yết Vĩ Tiên. Ngón tay hắn có đeo bọc thép nên không sợ gai độc trên roi.
Hà Thiết Thủ cố giật roi về mà không nổi. Trường kiếm của đối phương đã chém tới nơi, nàng gấp rút buông roi, mỉm cười nói: “Ta thua rồi. Thôi thì bái ông làm sư phụ vậy.”
Ngọc Chân Tử cười ha hả, ném Yết Vĩ Tiên xuống đất. Đột nhiên trước mắt ánh sáng xanh nhấp nháy, hắn biết có chuyện không hay, vội vàng vẫy tay áo bào, nhảy vọt lên không. Một trận mưa cương châm nhỏ xíu ghim hết vào bụi cỏ.
Hà Thiết Thủ giả vờ quỳ xuống, âm thầm phát xạ ám khí Hàm sa xạ ảnh. Diễn biến trong chớp nhoáng, lại hoàn toàn không có dấu hiệu báo trước, lẽ ra phải trúng. Không ngờ Ngọc Chân Tử trong khoảng cách không chêm được sợi tóc mà vẫn tránh được. Vạt đạo bào của hắn bị xuyên mấy lỗ, đúng là thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Hắn vừa kinh hãi vừa giận dữ, người đang lơ lửng trên không trung bỗng như một con chim ưng chụp xuống đầu Hà Thiết Thủ.
A Cửu đứng bên quan sát, lúc nào cũng lo lắng cho Hà Thiết Thủ, chỉ vì vết thương bị chặt tay chưa lành hẳn, võ công lại yếu nên không thể ra tay trợ giúp. Thấy Ngọc Chân Tử nhảy xổ xuống hung hãn, nàng vẫy tay bắn hai mũi Thanh trúc tiêu về phía hắn.
Ngọc Chân Tử chỉ liếc qua đã thấy A Cửu đẹp đẽ thoát tục, chưa từng gặp cô gái nào như thế. Bây giờ thấy mỹ nhân xuất thủ, hắn không nỡ đả thương nên không hất trả trúc tiêu về chủ cũ, chỉ vẫy tay áo gạt trúc tiêu bắn về phía Hà Thiết Thủ.
Hà Thiết Thủ vung câu gạt trúc tiêu, tập trung tinh thần nghênh chiến. Nàng biết địch thủ quá mạnh, mình không thắng nổi, chỉ lo tự vệ cẩn mật để kéo dài thời gian.
Ngọc Chân Tử đánh đã lâu mà không hạ được đối phương nên trong lòng không khỏi lo lắng, bèn rút nốt phất trần ra để tấn công. Binh khí của hắn có cương có nhu, oai thế tăng hẳn lên.
Mọi người thấy nguy, không hẹn mà cùng xông lên tương trợ. Lưu Bội Sinh nghe soạt một tiếng, trên vai đau đến tận xương tủy. Trong phất trần có xen kẽ những sợi kim ti, cộng thêm nội lực hùng hậu, nên người nào võ công hơi kém là lập tức bị phất trần của hắn đánh ngã.
Mai Kiếm Hòa la gọi Tôn Trọng Quân: “Mau mau đi mời sư phụ, sư nương, sư bá, sư thúc!” Y thấy võ công của Ngọc Chân Tử cực cao, trên đời hiếm thấy, e rằng mấy cao thủ hiệp sức lại mới kiềm chế nổi.
Tôn Trọng Quân vâng dạ quay lưng, đột nhiên mừng rỡ kêu lên: “Đạo trưởng! Đến đây, mau mau đến đây!”
Mọi người đang tỉ đấu khẩn trương, không rảnh để quay lại nhìn. Bỗng nghe một âm thanh già nua vọng đến: “Hay lắm! Ngươi đến đây rồi.”
Ngọc Chân Tử xuất liền mấy chiêu đẩy mọi người ra, lạnh nhạt nói: “Sư ca! Sư ca khỏe chứ?”
Bây giờ mọi người mới nhìn thấy, thì ra Mộc Tang đạo trưởng đang cầm bàn cờ và túi quân cờ đứng ở phía sau. Đệ tử Hoa Sơn đều biết Mộc Tang đạo trưởng là hảo bằng hữu của sư tổ, võ công cũng tương đương sư tổ. Có đạo trưởng ở đây, đối thủ lợi hại đến đâu cũng khó chiếm được lợi thế. Nhưng họ nghe Ngọc Chân Tử gọi lão là sư ca, đều không khỏi kinh ngạc.
Mộc Tang đạo nhân xanh hẳn mặt, nghiêm giọng hỏi: “Ngươi đến đây làm gì?”
Ngọc Chân Tử mỉm cười đáp: “Ta đến tìm người. Phải đòi một món nợ của thằng lỏi họ Viên phái Hoa Sơn, nhân tiện thu nhận ba nữ đồ đệ.”
Mộc Tang đạo nhân chau mày nói: “Mười mấy năm rồi, thế mà tính khí của ngươi chẳng thay đổi chút nào. Mau xuống núi đi!”
Ngọc Chân Tử hừ một tiếng rồi nói: “Năm xưa, ngay cả sư phụ cũng không quản thúc được ta. Bây giờ sư ca lại muốn dạy dỗ ta ư?”
Mộc Tang đạo nhân nói: “Ngươi nghĩ thử xem mấy năm nay đã gây ra bao nhiêu chuyện thương thiên hại lý. Ta muốn đi Tây Tạng tìm ngươi từ lâu rồi.”
Ngọc Chân Tử mỉm cười nói: “Thế thì hay lắm. Anh em ta đã lâu không được gặp nhau.”
Mộc Tang đạo nhân nói: “Hôm nay ta khuyên ngươi lần cuối. Nếu ngươi tiếp tục làm ác, không chịu sửa đổi, đừng trách sư huynh vô tình.”
Ngọc Chân Tử cười nhạt, nói: “Ta một mình một kiếm hoành hành thiên hạ, xưa nay không ai dám vô lễ nửa câu.”
Mộc Tang đạo nhân nói: “Phái Hoa Sơn xưa nay với ngươi như nước sông không phạm vào nước giếng. Bây giờ ngươi bức hiếp đám đệ tử của Mục sư huynh, khi Mục sư huynh trở về ta phải cư xử sao đây?”
Ngọc Chân Tử lại cười nhạt, đáp: “Ta với ngươi đã tuyệt tình đoạn nghĩa từ lâu, ai mà không biết. Mục Nhân Thanh chỉ có hư danh. Ngọc Chân Tử này đã có gan đến Hoa Sơn, dĩ nhiên không hề bận tâm đến con khỉ già đó. Ai bảo phái Hoa Sơn không phạm đến ta? Ta không hề đắc tội với con khỉ già họ Mục đó, sao hắn lại phái người đến Thịnh Kinh quấy rối ta?”
Mộc Tang đạo nhân không biết Viên Thừa Chí đã cùng Ngọc Chân Tử giao đấu một phen ở Thẩm Dương, bây giờ cũng không có thời gian mà hỏi. Lão thở ra một hơi rồi xách cái bàn cờ lên, nói: “Cuối cùng thì hai người chúng ta lại phải động thủ. Phen này ngươi đừng mong ta tha ngươi nữa. Lên đi!”
Ngọc Chân Tử mỉm cười nói: “Ngươi muốn động thủ với ta? Hừ, xem cái gì đây.”
Nói xong, hắn thò tay vào bọc lấy ra một thanh thiết kiếm nhỏ xíu, đưa cao lên đầu. Hắn cầm ngang thiết kiếm, để lộ ra chuôi kiếm bằng gỗ trắng. Mộc Tang nhìn thấy hai dòng chữ đen ghi trên chuôi kiếm, chần chừ hồi lâu rồi đổi hẳn sắc mặt, run giọng nói: “Được, được! Ngươi ở Tây Tạng nửa năm thật là không uổng, quả nhiên đã lấy được rồi.”
Ngọc Chân Tử quát lên: “Mộc Tang! Đã thấy thiết kiếm của tổ sư, còn không quỳ xuống?”
Mộc Tang đạo nhân thả cả bàn cờ lẫn túi cờ xuống, cung kính quỳ xuống dập đầu lạy Ngọc Chân Tử.
Đệ tử phái Hoa Sơn đều mong Mộc Tang đạo nhân xuất thủ thu phục tên ác đạo, nào ngờ Mộc Tang đạo nhân lại khấu đầu hành lễ. Ai cũng vừa kinh ngạc vừa thất vọng.
Ngọc Chân Tử cười nhạt rồi nói: “Ngươi đã nhiều lần sỉ nhục ta. Trước đây ta vẫn nể ngươi là sư huynh, lần nào cũng nhường nhịn. Bây giờ thì sao?”
Mộc Tang cúi đầu không đáp. Ngọc Chân Tử nhấc tả chưởng lên, một luồng kình phong đập từ trên xuống. Mộc Tang đạo nhân không đánh trả cũng không tránh né, chỉ vận khí lên lưng chống đỡ. “Bình” một tiếng, đạo bào rách thành trăm mảnh, lão lắc lư mấy cái nhưng vẫn tiếp tục quỳ ở đó.
Ngọc Chân Tử tái mặt, lại đánh lên vai Mộc Tang đạo nhân. Chưởng này hoàn toàn không phát âm thanh, cũng không xé rách áo, nhưng nội kình cực lớn, chẳng dễ chịu gì. Mộc Tang đạo nhân bò xoài ra đất, ọe một búng máu lớn, phun lên tảng đá bên cạnh. Ngọc Chân Tử chẳng chút dung tình, tiếp tục đưa chưởng lên, lần này nhằm đánh vào đỉnh đầu Mộc Tang đạo nhân.
Mọi người đều biết phen này Mộc Tang đạo nhân mất mạng, tới tấp phóng ám khí tấn công Ngọc Chân Tử. Hắn khua tay như một cây quạt sắt, vẫy vẫy mấy cái đánh rơi tất cả ám khí bắn tới, rồi lại nhấc bàn tay lên.
A Cửu đứng gần Mộc Tang đạo nhân nhất. Nàng thấy lão râu tóc bạc phơ lại bị bức hiếp như thế, bỗng khích động tấm lòng nghĩa hiệp. Nàng nhảy xổ tới, dùng thân mình bảo vệ đỉnh đầu Mộc Tang đạo nhân.
Ngọc Chân Tử ngơ ngẩn nghĩ thầm: “Thiên hạ có người xinh đẹp đến thế hay sao? Ta chưa gặp bao giờ, phải thu chưởng mới được.”
Hắn bèn ngừng tay, phát chưởng đó không đánh xuống. Đột nhiên phía sau có tiếng ho khan. Một ông lão ăn mặc theo kiểu nho sinh đang bước tới.
Hà Thiết Thủ thấy người này xuất hiện bên A Cửu mà không ai hay biết, thân pháp trên đời hiếm thấy. Nàng tưởng bên địch có thêm cao thủ đến giúp, sợ A Cửu bị hại bèn lập tức nhảy vào, vừa vung hữu chưởng tấn công vừa quát: “Cút đi!”
Ông lão xoay tay trái lại đỡ. Hà Thiết Thủ cảm thấy một luồng đại lực ào tới, không sao đứng vững phải liên tiếp lùi lại bốn bước rồi mới cố dừng lại được. Nàng kinh hãi định phát ám khí, bỗng thấy đám đệ tử Hoa Sơn quỳ xuống thi lễ, đồng thanh hô lên: “Sư tổ!”
Thì ra Thần kiếm tiên viên Mục Nhân Thanh đã đến. Hà Thiết Thủ vừa hoảng sợ vừa xấu hổ, thầm la lên: “Hỏng bét! Phen này mình vô lễ với sư tổ như vậy, e rằng không được nhập môn phái Hoa Sơn nữa”. Nhất thời nàng không biết mình nên quỳ xuống hay không.
Lúc này Mộc Tang đạo nhân đã đứng dậy, lùi ra, tựa vào vai A Cửu, cố gắng điều hòa hơi thở, chốc chốc lại phun máu tươi ra.
Mục Nhân Thanh quay lại nói với Ngọc Chân Tử: “Nhất định đạo trưởng là Ngọc Chân Tử. Đối với sư huynh mà hạ độc thủ như thế… Hay lắm, hay lắm! Ta phải liều mấy khúc xương già này để đối chiêu với đạo trưởng.”
Ngọc Chân Tử mỉm cười nói: “Thiên hạ thường hỏi ta: Ngọc Chân đạo trưởng! Mục Nhân Thanh tự xưng là quyền kiếm thiên hạ vô song, nhưng so với đạo trưởng thì ai cao ai thấp? Ta vẫn đáp: Chưa biết, bao giờ ta gặp Mục Nhân Thanh tỉ thí rồi sẽ rõ. Từ nay về sau, có thể biết ai là vô địch trong thiên hạ rồi.”
Quần đệ tử thấy sư tổ đích thân ra tay đối phó với ác đạo, ai cũng vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ. Đa số chưa được chứng kiến võ công của sư tổ, đây quả là cơ hội khó gặp trong đời.
Lưu Bội Sinh thì nghĩ sư tổ tuổi tác đã cao, tuy võ công tuyệt đỉnh nhưng sợ tinh thần và khí lực không bằng tên tặc đạo đang tuổi tráng niên, liền chạy về mời sư phụ, sư nương. Vào trong thạch thất, y thấy Viên Thừa Chí ràn rụa nước mắt đứng trước giường; sư bá, sư phụ, sư nương, Hồng Thắng Hải, ông câm đều ủ rũ, sư nương còn khóc thút thít.
Lưu Bội Sinh giật mình kinh hãi, đến gần thì thấy Thanh Thanh cặp mắt sâu lõm vào trong, sắc mặt sạm đen, thở hắt ra nhiều hơn hít vào, rõ ràng không thể sống nữa. Ngoài kia Ngọc Chân Tử quấy phá đất trời đảo lộn mà họ vẫn ở trong nhà, thì ra vì Thanh Thanh sắp nguy nên không ai ra ngoài quan sát.
Thanh Thanh hơi trước không tiếp được hơi sau, vừa khóc vừa nói: “Ca ca đã hứa với mẫu thân muội, suốt đời… suốt đời chăm sóc cho muội. Ca ca lừa gạt muội… lừa gạt cả mẫu thân muội…”
Viên Thừa Chí nắm lấy tay nàng, nói: “Ca ca không lừa gạt muội. Ca ca sẽ chăm sóc đến muội suốt đời.”
Lưu Bội Sinh khẽ nói: “Sư phụ! Tên ác đạo kia lợi hại quá, sư tổ phải đích thân ra trận.”
Quy Tân Thụ thấy thần sắc Lưu Bội Sinh nghiêm trọng, biết đối thủ là đại kình địch. Ông bỗng thấy lo lắng cho sư phụ, lập tức chạy ra ngoài. Hoàng Chân bảo Quy nhị nương và Viên Thừa Chí: “Chúng ta cũng ra đi!”
Viên Thừa Chí cúi xuống ôm lấy Thanh Thanh, cùng mọi người rảo bước chạy ra. Mọi người ra phía sau núi, từ xa đã thấy Mục Nhân Thanh tay cầm trường kiếm, còn Ngọc Chân Tử tay phải cầm bảo kiếm, tay trái nắm phất trần, đứng đối diện nhau chuẩn bị giao đấu.
Viên Thừa Chí nhận ngay ra Ngọc Chân Tử, mùa thu năm ngoái đã hai lần giao đấu với chàng. Lần đầu, chàng bị bọn bố khố đông đúc quấn chặt tay chân, bị hắn điểm trúng ba chỉ. Lần sau, hắn bị Hồ Quế Nam trộm hết áo quần, quấn chăn lúng túng nên bị chàng đánh cho một quyền một chưởng, đá thêm một cước. Hai lần tỉ thí đều ở hoàn cảnh đặc biệt, nên không thể nói là đã phân thắng bại. Chàng lập tức hô lớn: “Sư phụ! Để đệ tử đối phó với hắn.”
Mục Nhân Thanh và Ngọc Chân Tử đều biết đối phương là cao thủ tuyệt thế, trận này chỉ cần sơ suất một chút thì chẳng những thanh danh cả đời trôi theo dòng nước, ngay cả tính mạng cũng khó mà giữ được. Vì thế cả hai đều tập trung tinh thần quan sát đối phương, Viên Thừa Chí hô hoán nhưng chẳng ai nghe thấy.
Viên Thừa Chí giao Thanh Thanh vào tay Hà Thiết Thủ, bảo: “Chăm sóc cho cô ấy.” Mới nói có thế, chàng đã thấy Ngọc Chân Tử vẫy phất trần lên, phất vào vai trái Mục Nhân Thanh. Chàng biết hai đại cao thủ này mà khai diễn cuộc đấu thì khó mà tách ra được nữa. Sư phụ tuổi tác đã cao, chẳng lẽ để lão nhân gia đích thân đối địch? Vì thế chàng vận hết kình lực xuống chân, như một con chim ưng bay vọt tới chỗ Ngọc Chân Tử. Hoàng Chân và Quy Tân Thụ cũng nghĩ như vậy, ba người không hẹn mà cùng lúc tấn công.
Ngọc Chân Tử thu lại phất trần, lùi hai bước. Hắn nghe tiếng gió như có người nhảy qua đầu, bèn lập tức rụt đầu xuống. Đột nhiên hắn cảm thấy đỉnh đầu mát lạnh, đạo quan trên đầu đã bị đánh rơi. Hắn giận dữ vung trường kiếm sử chiêu Long Quyển Bào Thân, chém nhanh như chớp về phía cánh tay trái đối phương. Chiêu này quá độc, Viên Thừa Chí lơ lửng trên trời khó bề tránh né. Chàng vội co cánh tay lại, nghe xoẹt một tiếng, tay áo đã bị lưỡi kiếm cắt đứt một miếng.
Tay áo mềm mại, lại đang lơ lửng không có chỗ chịu lực, thế mà bị nhát kiếm này hớt đứt. Chẳng những thanh kiếm sắc bén phi thường mà nội kình của người sử kiếm cũng kinh người. Viên Thừa Chí chạm đất, đứng vững lại; ba sư huynh đệ cùng đứng chắn trước mặt sư phụ.
Mọi người thấy hai người giao đấu chiêu này cực nhanh, nhoáng cái đã qua. Xong rồi nghĩ lại, ai cũng toát mồ hôi lạnh. Nếu Ngọc Chân Tử tránh né hơi chậm, sọ hắn đã bị chưởng lực Viên Thừa Chí chấn vỡ. Nếu cánh tay Viên Thừa Chí không giật về nhanh như chớp, đã bị bảo kiếm chém lìa.
Ngọc Chân Tử đã học hết tuyệt nghệ của sư môn, ở Tây Tạng lại gặp kỳ duyên nên gần đây võ công tiến bộ rất nhiều. Hắn tự tin trong thiên hạ không còn ai thắng nổi mình, ngay cả sư huynh Mộc Tang cũng không phải là đối thủ. Dĩ nhiên hắn biết oai danh của Mục Nhân Thanh, nhưng nghĩ rằng tuổi tác của ông đã già, khí lực giảm sút, chỉ cần phòng thủ thận trọng, kéo dài thời gian để đối phương mệt mỏi là chắc chắn chiếm được thượng phong. Hơn nữa hắn đang cầm thanh bảo kiếm chém sắt như chém bùn, có lợi thế về mặt vũ khí nên thắng chắc tám phần, nào ngờ có cao thủ đột nhiên tập kích.
Định thần nhìn lại, hắn thấy đối thủ chính là Viên Thừa Chí đã đánh mình trọng thương năm ngoái ở Thịnh Kinh. Hôm đó hắn không một mảnh vải che thân mà lăn ra té ngửa trước mặt Hoàng Thái Cực và mấy trăm tên võ sĩ, nỗi hổ thẹn không gì sánh nổi. Đêm đó Hoàng Thái Cực đột ngột băng hà, Cửu vương gia đổ cho dáng vẻ quái lạ của hắn làm hoàng thượng kinh hãi phát bệnh, sai bắt hắn trị tội. Lúc đó hắn bị trọng thương, không có sức phản kháng.
Bây giờ gặp lại kẻ thù, cơn giận bùng lên không thể kiềm chế được nữa. Hắn quát lớn: “Viên Thừa Chí! Hôm nay ta đến đây là để tìm ngươi. Mau mau tới đây nộp mạng.”
Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Bây giờ ngươi mặc quần áo đàng hoàng rồi, trận này chúng ta quyết đấu công bằng.”
Ngọc Chân Tử thấy tay chàng không cầm binh khí, liền quẳng bảo kiếm xuống đất rồi nói: “Hôm nay ta dùng quyền cước lấy mạng ngươi, để ngươi chết mà không oán trách.”
Từ lúc Viên Thừa Chí xuất hiện, ánh mắt của A Cửu chẳng lúc nào rời chàng. Bây giờ thấy chàng tỉ thí với Ngọc Chân Tử, nàng đã biết võ công Ngọc Chân Tử cực cao, trận này sống chết chỉ trong khoảnh khắc, không chừng sắp phải tử biệt sinh ly. Nàng bèn bước tới mấy bước, lên tiếng: “Đại ca! Tiểu muội ở đây. Muội khỏe rồi, vết thương trên tay đã lành hẳn.”
Nàng biết Viên Thừa Chí đối với mình tình cảm thâm trọng, sợ chàng vì lo lắng cho mình mà không tập trung được khi quyết đấu với cường địch.
Viên Thừa Chí đột nhiên gặp nàng ở đây, bèn quay đầu lại nhìn Thanh Thanh đang nằm trong lòng Hà Thiết Thủ, thở dài nói: “Muội nhất định phải bảo trọng…”
Chàng lại bảo Hà Thiết Thủ: “Thiết Thủ! Nhờ cô lo lắng cho cô ấy.”
Hà Thiết Thủ nháy mắt đầy vẻ giễu cợt, hỏi: “Sư phụ! Sư phụ bảo muội lo lắng cho cô nào?”
Nàng nghĩ bụng, tiểu sư phụ đúng là tam tâm lưỡng ý, đã ra vẻ chung tình với Thanh Thanh nhà họ Hạ, mà đối với A Cửu nhà họ Chu vẫn tình tứ vô cùng. Nếu chàng bảo mình lo lắng cho A Cửu, tức là bản thân chàng sẽ lo lắng cho Thanh Thanh. Nếu chàng bảo mình lo lắng cho Thanh Thanh, thế thì tự chàng sẽ lo lắng cho A Cửu muội muội. Nàng hỏi câu này bằng giọng nhõng nhẽo đùa nghịch, nghe rất khêu gợi.
Ngọc Chân Tử thấy vậy, không chịu nổi phải la lên: “Đồ đệ giỡn mặt sư phụ, chẳng ra thể thống gì nữa!”
Hắn xuất một quyền, đánh thẳng vào mặt Viên Thừa Chí nghe vù một tiếng. Viên Thừa Chí đưa tay trái cản trở, trong lòng bỗng âm thầm kinh hãi, cảm thấy so với năm ngoái ở Thịnh Kinh, tên ác đạo này đã tiến bộ rất nhiều về cả nội kình lẫn quyền pháp. Chàng lập tức tập trung tinh thần, thi triển Phá Ngọc Quyền của sư môn để phản kích.
Lúc này màn sương mù dày đặc đã tan hết, ngọn núi hiện ra một màu đỏ chói dưới ánh dương quang. Mọi người đứng quanh thành một vòng tròn lớn. Mục Nhân Thanh ở ngoài vòng, lo cứu chữa Mộc Tang đạo nhân. Hoàng Chân và Quy Tân Thụ đứng trong vòng, chăm chú quan sát đề phòng.
Ngọc Chân Tử nghiến răng lại nói: “Thằng ăn trộm kia đâu rồi? Gọi hắn ra đây cùng chết với ngươi.”
Viên Thừa Chí mỉm cười đáp: “Huynh ấy bận đi ăn trộm y phục của người khác.”
Qua lại mười mấy chiêu, Viên Thừa Chí đã biết tuy đối phương mạnh hơn, nhưng sau này võ công mình cũng có phần tiến bộ, tuy khó thắng nhưng cũng khó thua. Trong lòng chàng thoải mái, khí thế càng tăng. Hai bên tỉ đấu ngang ngửa một lúc, chàng lại nghĩ: “Giả tỉ mình không thắng nổi tên này, Nhị sư ca sẽ tiến ra, cũng có thể giao đấu ngang tay. Sau đó tới sư phụ mình, Mộc Tang đạo trưởng, Thiết Thủ ba người cùng lên. Nếu vẫn không thắng, mình và Nhị sư ca lại nhảy vào. Mỗi người cứ giao đấu một giờ, sử dụng phép xa luân chiến thì dù tên ác đạo này có bản lãnh thần thông cũng phải mệt mỏi mà chết. Phe ta chỉ thắng chứ không bại được, dù phải đánh tới ba ngày ba đêm cũng chẳng sao.”
Sau này chàng thường gặp gỡ những tướng lĩnh của Sấm Vương, nghiên cứu binh pháp khá nhiều, hiểu được lẽ thắng bại không phải chốc lát là xong. Suy nghĩ rõ ràng rồi, quyền cước chàng liền chậm lại, không mong đánh trúng địch thủ ngay, chỉ mong không bị sơ hở. Chàng tập trung cả thần khí lẫn nội công, giữ gìn môn hộ nghiêm mật vô cùng. Ngọc Chân Tử thì không ngớt thay đổi chiêu thức tấn công mãnh liệt, còn Viên Thừa Chí cứ tà tà chiết giải, thấy chiêu đỡ chiêu trông rất thoải mái.
Quyết định xong đấu pháp, trên mặt chàng bỗng lộ ra một nụ cười. Thanh Thanh thấy chàng cười, bèn hỏi Hà Thiết Thủ: “Chàng… sao chàng lại cười? Có gì đáng cười đâu?”
Hà Thiết Thủ cũng không hiểu, đành nói bừa: “Huynh ấy biết cô nương đang ở bên cạnh, nên trong lòng vui vẻ.”
Võ công của Ngọc Chân Tử cao cường, kiến thức dĩ nhiên cũng hơn người. Hắn thấy Viên Thừa Chí xuất chiêu ổn định, biết chàng cố giữ không thua rồi mới tìm chỗ sơ suất mà thắng, lập tức quyết định cũng dùng đấu pháp “hậu phát chế nhân” để đỡ hao phí sức. Những người đứng xem, ai võ công hơi thấp chỉ thấy hai người nhìn nhau là chính, thân pháp trì trệ, chiêu thức lỏng lẻo. Nào ngờ lúc này thắng bại quyết định chỉ trong chớp nhoáng, sinh mạng của hai đấu thủ cùng treo trên sợi tóc, so với lúc nãy hăng hái đối chiêu, la hét dữ dội, còn nguy hiểm hơn rất nhiều.
Tôn Trọng Quân hận Ngọc Chân Tử vừa sỉ nhục mình, trước bao nhiêu cặp mắt mà cứ hôn lia lịa lên má mình, thế nhưng mình lại hoàn toàn bất lực. Nỗi hận này thật khó tiêu hóa. Bây giờ ả thấy hai người đang tập trung tinh thần tỉ đấu, liền đưa đơn câu lên, muốn nhảy tới đâm lén tên ác đạo một nhát.
Mai Kiếm Hòa thấy ả cầm câu bước lên phía trước, bèn hoảng sợ đưa tay kéo lại, nói nhỏ: “Sư muội muốn mất mạng ư? Làm gì thế?”
Tôn Trọng Quân giận dữ nói: “Mặc kệ muội! Muội phải thí mạng với tên tặc đạo này.”
Mai Kiếm Hòa nói: “Tặc đạo đã biết tiểu sư thúc lợi hại, đang thi triển công phu thượng thừa để bảo vệ toàn thân. Sư muội lên đó chỉ mất mạng thôi.”
Tôn Trọng Quân ra sức giãy khỏi tay sư huynh, la lên: “Mặc kệ muội! Muội phải giúp sư thúc.” Trước đây ả rất hận Viên Thừa Chí, chưa từng nhắc đến hai chữ “sư thúc”. Bây giờ thấy Viên Thừa Chí đối địch với tên ác đạo, bao nhiêu ấm ức trong lòng bỗng tiêu tan hết.
Mai Kiếm Hòa bảo: “Thế thì sư muội dùng ám khí thử xem.”
Tôn Trọng Quân lấy ra một mũi cương tiêu, vận kình phóng vào lưng Ngọc Chân Tử. Ngọc Chân Tử đang tập trung toàn bộ tinh thần quan sát thân pháp Viên Thừa Chí, hình như không phát giác cây cương tiêu bay tới. Tôn Trọng Quân thấy chắc ăn, đang mừng rỡ bỗng nghe “vèo” một tiếng.
Mai Kiếm Hòa lạc giọng la lên: “Hỏng rồi!” Y vội ôm chầm lấy sư muội, xô ngã xuống đất.
Tôn Trọng Quân ngã chưa chạm đất, đã thấy cây cương tiêu bay ngược về sắp bắn vào ngực mình, không biết tên ác đạo kia làm thế nào để xoay chuyển tình thế. Ả không kịp tránh né gì nữa, trợn mắt lên chờ chết. Đột nhiên một vệt trắng loáng qua, một bàn tay xinh xắn đưa tới, dùng hai ngón tay kẹp lấy cương tiêu giữ lại. Mai Kiếm Hòa và Tôn Trọng Quân đều thót tim, khi đứng dậy mới biết người vừa ra tay cứu mạng là Hà Thiết Thủ. Tôn Trọng Quân không nén nổi vừa hổ thẹn vừa cảm kích, gật đầu đa tạ.
Trận chiến giữa Viên Thừa Chí và Ngọc Chân Tử dần dần thay đổi. Hai bên đều dùng quyền pháp nhanh hơn, tấn công quyết liệt hơn. Viên Thừa Chí vẫn thi triển quyền cước chính tông của phái Hoa Sơn, thỉnh thoảng lại xen vào mấy chiêu cổ quái của Kim Xà Lang Quân. Trận này có nhiều chiêu thức kỳ lạ, ngay cả Mục Nhân Thanh cũng thấy mình được mở rộng tầm nhìn, vừa xem vừa gật đầu không ngớt. Mộc Tang đạo nhân cũng hé miệng mỉm cười, thều thào khen: “Nước đi hay, nước đi hay lắm.”
Hoàng Chân, Quy Tân Thụ, Quy nhị nương, Phùng Nan Địch đều vô cùng khâm phục. Bọn đệ tử Hoa Sơn khác lại càng hoa cả mắt, chắc lưỡi khen ngợi không dứt.
Lát sau, hai bên đều sử dụng công phu Thần Hành Bất Biến. Khi ở Thịnh Kinh, Ngọc Chân Tử từng thấy Viên Thừa Chí thi triển khinh công này, đoán chắc chàng là truyền nhân của Mộc Tang, thế thì tên đệ tử phái Hoa Sơn này có thể gọi là môn nhân Thiết Kiếm Môn. Phen này hắn muốn dùng thiết kiếm để đoạt mạng Viên Thừa Chí, rửa mối nhục năm ngoái.
Hai người chạy vòng vòng quanh nhau, tỉ đấu thêm mấy chục hiệp nữa, Ngọc Chân Tử đột nhiên nhảy ra ngoài. Hắn lấy cây thiết kiếm nhỏ xíu ra giơ lên, quát lớn: “Ngươi là đệ tử Thiết Kiếm Môn, thấy thiết kiếm sao không quỳ xuống?”
Viên Thừa Chí đáp: “Ta là đệ tử phái Hoa Sơn.”
Ngọc Chân Tử hét lên: “Nếu ngươi không phải đệ tử của Mộc Tang, sao lại biết công phu Thần Hành Bất Biến? Ngươi là đệ tử của hắn, dĩ nhiên là môn nhân Thiết Kiếm Môn. Thiết kiếm ở đây, mau mau quỳ xuống để ta xử phạt.”
Viên Thừa Chí mỉm cười nói: “Ngươi mau mau quỳ xuống để ta xử phạt.”
Ngọc Chân Tử quay lại hỏi Mộc Tang đạo nhân: “Công phu Thần Hành Bất Biến của hắn, chẳng lẽ không phải do ngươi truyền thụ?”
Mộc Tang đạo nhân lắc đầu đáp: “Không phải do ta truyền thụ.”
Ngọc Chân Tử biết sư huynh xưa nay không nói dối, nên hết sức ngạc nhiên. Hắn ngẫm nghĩ một chút, lại nhảy vào tái đấu với Viên Thừa Chí.
Viên Thừa Chí vừa lo công thủ tiến thoái vừa nghĩ tới mấy câu đối đáp vừa rồi của hai người. Trước kia Mộc Tang đạo nhân dạy khinh công ám khí cho mình, chỉ coi như phần thưởng khi chơi cờ vây, nhất quyết không cho mình gọi là sư phụ. Sau này Thần Hành Bất Biến lại bảo Thanh đệ truyền thụ, thì ra bên trong có ý nghĩa sâu xa chứ không phải chuyện giỡn chơi.
Nghĩ đến Thanh Thanh chàng lại cảm thấy lo lắng, bất giác liếc mắt nhìn xem. Nàng đang ngồi tựa vào một tảng đá lớn, trong miệng ngậm một miếng gì đó màu đỏ chói, còn Hà Thiết Thủ đang cắt tay nàng để trích máu giải độc. Viên Thừa Chí vui mừng vô kể, nghĩ thầm: “Độc khí trong sơn động, chắc là phát xuất từ độc vật của Ngũ Độc Giáo. Hà Thiết Thủ đã biết cách giải, phen này chắc chắn cứu được rồi.”
Thanh Thanh thấy Viên Thừa Chí nhìn mình, cũng ngẩn ngơ nhìn lại. Ngọc Chân Tử phát hiện địch thủ không tập trung, đột nhiên đánh tới một chưởng từ phương vị rất bất ngờ. Viên Thừa Chí giật bắn người, vội phóng chưởng ra cản trở.
Thanh Thanh la lên: “Đại ca cẩn thận!”
Viên Thừa Chí “À” một tiếng, nghiêng mình tránh né một phát chưởng nữa của đối phương. Chàng lại thấy A Cửu bước lên nửa bước như muốn ra tay trợ giúp, vội bảo: “A Cửu! Đừng ra đây, ca ca không thua được đâu.”
Ngọc Chân Tử hô lớn: “Các ngươi nhìn kỹ, xem hắn có thua được không.”
Quyền cước hắn càng hung hãn. Viên Thừa Chí đã thi triển gần hết bộ Phá Ngọc Quyền, cả Hỗn Nguyên Chưởng cũng đã trút ra toàn bộ tuyệt chiêu rồi, thế mà không chiếm được thượng phong chút nào. Chàng bèn thay đổi bộ pháp, bắt đầu sử dụng Kim Xà quyền pháp biến hóa đa đoan.
Ngọc Chân Tử mắng: “Đúng là đồ bàng môn tả đạo! Ta chưa thấy loại quyền cước nào khốn nạn thế này.”
Kim Xà quyền pháp là do Kim Xà Lang Quân sáng chế trên đỉnh Hoa Sơn, lúc ông nhớ nhung Ôn Nghi yêu dấu. Trong đó có nhiều chiêu thức tựa như tâm sự với Ôn Nghi, chẳng ra vẻ gì khắc địch chế thắng cả. Không ít chiêu thức nhằm đánh vào chỗ trống, toàn là hư chiêu, trái hẳn quy luật bình thường, rõ ràng hoàn toàn vô ích. Những tôn sư võ học như Mục Nhân Thanh, Mộc Tang đạo nhân cũng chưa thấy quyền pháp nào như thế, đều phải ngạc nhiên.
Viên Thừa Chí sử dụng tới Kim Xà quyền pháp, mục đích chỉ là tiêu hao khí lực của địch thủ, để sư phụ, sư huynh dễ thắng, chứ không hy vọng sử dụng quyền pháp này đánh thắng Ngọc Chân Tử. May mà chàng còn trẻ tuổi, không phải cao thủ nổi tiếng của phái Hoa Sơn, nên trong lúc nguy cấp phải sử dụng công phu cổ quái cũng không làm tổn hại oai danh phái Hoa Sơn gì lắm.
Quyền pháp này chàng ít khi luyện tập, xuất thủ không thuần thục, mà cũng chưa nắm chắc chỗ tinh yếu bên trong. Sử đến chiêu Ý Giả Tình Chân, người chàng xoay tít mấy vòng, quyền đánh ra toàn là hư chiêu, đột nhiên chuyển hướng trái phải trên dưới loạn xạ, ngay cả chàng cũng không tự biết mình đánh về hướng nào.
Trong chớp nhoáng Viên Thừa Chí vừa nhìn Thanh Thanh vừa nhìn A Cửu, trong lòng đột nhiên nảy ra suy nghĩ: “Hai cô nương này đối với mình đều chân tình chứ không giả ý. Rốt cuộc thì mình yêu mến ai hơn? Mình quen Thanh đệ trước, đã nói là suốt đời thân thiết với nàng, lẽ ra không nên yêu người khác. Nhưng khi gặp A Cửu, trái tim của mình lại xoay chuyển sang cô tiểu mỹ nhân này cả ngày lẫn đêm, nghĩ đến nàng thì nhiều mà nghĩ đến Thanh đệ thì ít. Dường như điều mình mơ ước thật sự là suốt đời suốt kiếp ở bên A Cửu, vĩnh viễn không rời khỏi. Rốt cuộc mình phải làm gì đây?”
Nắng sớm vẫn còn xiên xiên, qua kẽ lá soi vào mặt A Cửu. Viên Thừa Chí ngẩn ngơ ngắm nhìn dung nhan diễm lệ của nàng, nhất thời mê mẩn, bộ pháp dần dần chuyển gần đến nàng. Đột nhiên chàng giật mình, hiểu được thế nào là ý giả tình chân. “Mình yêu hai cô gái này đều thành tâm thành ý. Ôi! Năm xưa chắc Kim Xà Lang Quân đối xử với Hà Hồng Dược cũng thành tâm thành ý, nhưng sau này gặp mẫu thân Thanh đệ thì cả tình lẫn ý đều thay đổi hết. Viên Thừa Chí ơi là Viên Thừa Chí! Ngươi đúng là một kẻ vô tình vô nghĩa.”
Chàng cố chuyển ánh mắt từ khuôn mặt A Cửu sang phía Thanh Thanh, nhưng không thể nào tự chủ được. Khí huyết rào rạt trong lòng, chàng chỉ muốn phóng đến bên A Cửu, ôm chặt lấy nàng, để Ngọc Chân Tử ra chiêu giết chết hai người cùng lúc. Như vậy mới giải quyết được tình trạng khó xử này.
Cao thủ tỉ võ, suy nghĩ về chuyện khác là đại kỵ. Tâm thần Viên Thừa Chí không tập trung, chiêu thức vừa lệch lạc vừa chậm chạp. Ngọc Chân Tử khó khăn lắm mới đợi được đối phương sơ suất, hữu quyền giáng xuống như sấm sét trúng vai Viên Thừa Chí nghe “bình” một tiếng. Viên Thừa Chí không dám đề khí để hứng thẳng vì sợ trọng thương, liền ngửa ra sau một chút để hóa giải bớt thế quyền.
Không ngờ Ngọc Chân Tử phóng quyền trúng đích lại đánh bồi thêm, đẩy tới một chưởng như bài sơn đảo hải. Viên Thừa Chí chân đứng không vững, ngã ngửa ra sau, té ngay trước mặt A Cửu. Ngọc Chân Tử đắc thắng, nhanh như chớp cúi xuống đất nhặt thanh bảo kiếm lúc nãy ném xuống, chém lên vai trái Viên Thừa Chí.
Vừa rồi hai người tỉ đấu kịch liệt đã thay đổi vị trí. Viên Thừa Chí không tự chủ được cứ bước đến gần A Cửu. Ngọc Chân Tử truy kích chàng về phía tây. Quy Tân Thụ và Hoàng Chân lại đứng ở phía đông, thấy sư đệ gặp nguy, muốn nhảy tới cứu viện nhưng khoảng cách quá xa, không thể kịp được. Quy Tân Thụ phóng thần quyền ra đánh mạnh vào sau lưng Ngọc Chân Tử. Hắn thấy thoi quyền còn xa nên mặc kệ, dùng tay trái hộ thân, lưỡi kiếm bên tay phải cứ chém xuống để lấy mạng Viên Thừa Chí trước.
A Cửu thấy Viên Thừa Chí té xuống ngay trước mặt mình, liền nhảy ra liều mạng. Nàng phóng lên trên người Viên Thừa Chí, thay chàng hứng lấy nhát kiếm đó, theo bản năng mà đưa tay phải ra đỡ thanh bảo kiếm.
Nào ngờ nghe “keng” một tiếng, bảo kiếm của Ngọc Chân Tử bị hất ngược về. Thì ra A Cửu đã mất cánh tay trái, nên giấu Kim Xà Kiếm trong tay áo bên phải. Chuôi kiếm hướng ra ngoài, nắm trong bàn tay, hễ Viên Thừa Chí cần tới là hất ra, đưa chàng lập tức. Nhát kiếm của Ngọc Chân Tử chém đúng ngay vào Kim Xà Kiếm. Cánh tay áo bằng da điêu của A Cửu bị rách, nhưng Kim Xà Kiếm đã cản được thanh kiếm của Ngọc Chân Tử. Hai thanh kiếm sắc bén như nhau, va chạm đều không sứt mẻ.
A Cửu giật mình kinh hãi, cánh tay phải thõng xuống, thả lỏng mấy ngón tay. Kim Xà Kiếm tuột từ trong tay áo ra. Viên Thừa Chí nhanh tay lẹ mắt, lập tức nắm lấy chuôi kiếm, tì đầu gối xuống đất để bật người đứng dậy. Trong lòng chàng vừa cảm kích vừa thương xót, vươn tay trái ôm lấy A Cửu mà hỏi: “Có bị thương không?”
A Cửu đưa tay phải lên ôm lấy cổ Viên Thừa Chí, khẽ đáp: “Muội sợ gần chết. Ca ca không bị thương chứ?”
Biến diễn vừa rồi như sấm nổ giữa trời quang, tim mọi người đứng xem đều đập loạn xạ. Ngọc Chân Tử thét lên: “Tâm sự huynh huynh muội muội như vậy đã đủ chưa?”
Kim Xà Kiếm của Viên Thừa Chí đột nhiên xoay thành một vòng tròn, rồi từ giữa vòng tròn đó chém ra. Ngọc Chân Tử vội đưa kiếm đón đỡ. Thì ra chiêu Ý Giả Tình Chân của Viên Thừa Chí vẫn chưa sử hết. Trong lúc tâm thần xúc động, chàng tiện tay vẫy kiếm thi triển nốt nửa chiêu sau Ý Giả Tình Chân.
Kim Xà Lang Quân năm xưa sáng chế chiêu này trong lúc nhớ nhung Ôn Nghi khổ sở. Trong chiêu kiếm đó tràn đầy nỗi luyến ái tương tư, tình ý chân chân giả giả của nam nữ biến ảo vô cùng, có đó rồi lại mất ngay, triền miên như sóng nước. Lúc là thật, lúc là ảo; lại có lúc vừa thật vừa ảo; chốc lát đã biến đổi ngay. Tâm ý không nhất định, ngay cả mình cũng không biết mình đánh vào đâu, thì đối thủ làm sao biết được?
Viên Thừa Chí đang sử chiêu này, lại đúng lúc tâm phân ý loạn, lục thần vô chủ, chẳng suy nghĩ gì mà chỉ thuận tay vẫy kiếm. Ngọc Chân Tử chẳng biết chiêu này chân giả, hư thực thế nào, dĩ nhiên không đón đỡ được. Tay phải hắn cảm thấy mát rượi, cánh tay đã bị chém rơi xuống đất, năm ngón tay vẫn còn nắm chặt chuôi bảo kiếm.
Tả quyền của Viên Thừa Chí tiếp đó đánh ra, chứa đựng nội kình khủng khiếp Hỗn Nguyên Công. Chàng xuất chiêu Hỗn Nguyên Khai Công của Phá Ngọc Quyền, đánh trúng vào giữa ngực Ngọc Chân Tử nghe ầm một tiếng.
Ngọc Chân Tử bị đánh bật ra sau, la lên: “Chiêu kiếm gì thế?” Hỏi chưa xong, miệng hắn đã phun máu tươi, tắt thở ngay.
*
* *
Tâm thần A Cửu vẫn còn xao động, vừa hổ thẹn vừa mừng rỡ. Nhân lúc Viên Thừa Chí buông cánh tay trái đang ôm mình để xuất quyền, nàng luồn ra, nép vào sau lưng Hà Thiết Thủ.
Quần đệ tử chứng kiến Viên Thừa Chí đả bại kình địch, không ai là không khâm phục. Phùng Nan Địch chạy đến quỳ xuống, vừa dập đầu vừa hô: “Viên sư thúc! Xin thứ lỗi cho đệ tử hôm qua vô lễ.”
Viên Thừa Chí mệt nhọc đến nỗi mồ hôi đầm đìa. Chàng vội vã dìu y dậy, nhưng mấy giọt mồ hôi đã nhỏ xuống đầu Phùng Nan Địch.
Tôn Trọng Quân lượm mấy viên đá lớn ném mạnh vào thi thể Ngọc Chân Tử, rồi quay lại nói: “Đa tạ Viên sư thúc đã trút hận cho đệ tử.”
Mộc Tang đạo trưởng thở dài sườn sượt, bảo ông câm thu liệm Ngọc Chân Tử rồi đem an táng. Lão cầm thanh thiết kiếm, kể lại câu chuyện cũ.
Thì ra Ngọc Chân Tử cùng Mộc Tang đạo nhân trước đây học võ một thầy. Môn phái đó là Thiết Kiếm Môn, tín vật của chưởng môn là cây thiết kiếm mà khai sơn tổ sư đã dùng, truyền lại từ đời này sang đời khác. Trên chuôi kiếm bằng gỗ trắng có hàng di huấn do chính tay tổ sư viết: “Thấy kiếm như thấy tổ sư”.
Năm xưa sư phụ của Mộc Tang đi Tây Tạng, rồi không trở về nữa. Thiết kiếm mất tích từ đó.
Lúc đầu Ngọc Chân Tử cũng siêng năng học võ, sống rất đàng hoàng. Không ngờ sư phụ vừa chết, không ai quản thúc, hắn kết giao với loại bạn bè bại hoại, hoàn toàn biến chất. Từ nhỏ hắn đã xuất gia, không gần nữ sắc; thế mà bây giờ gian dâm trộm cướp, chẳng việc ác nào không làm. Võ nghệ của hắn lại cao, chẳng ai làm gì được.
Mộc Tang đạo nhân trách mắng nhiều lần, sư huynh sư đệ cầm đao vạch đất, tuyệt tình đoạn nghĩa rồi trở mặt đánh nhau.
Ngọc Chân Tử không thắng nổi sư huynh, bèn đi Tây Tạng, vừa siêng năng rèn luyện võ công vừa tìm cây thiết kiếm. Sau này chẳng những hắn tìm ra thiết kiếm, còn được thêm một thanh bảo kiếm chém sắt như bùn. Quy luật trong Thiết Kiếm Môn là thấy thiết kiếm như thấy tổ sư, ai cầm thiết kiếm chính là chưởng môn, được ra hiệu lệnh cho mọi người trong môn phái, xử phạt tùy ý.
Lần gặp Viên Thừa Chí ở Nam Kinh, Mộc Tang đạo nhân đã biết tin Ngọc Chân Tử đi Tây Tạng tìm thiết kiếm. Lão biết chuyện này tai họa không nhỏ, bèn quyết chí đi Tây Tạng để âm thầm đoạt trước. Nào ngờ đi về phía tây chưa bao lâu, lão đã gặp một tay chơi cờ rất giỏi ở Hoàng Sơn. Mộc Tang đạo nhân thua lia thua lịa, thế mà càng thua càng không phục, bắt chơi liên tiếp cả tháng trời. Tay cao cờ kia không làm gì được, đành giả vờ thua hai ván mới thoát khỏi Mộc Tang đạo nhân quấy nhiễu. Vụ này khiến Mộc Tang đạo nhân bỏ bê đại sự đi Tây Tạng.
Mục Nhân Thanh nghe lão kể xong, bất giác lắc đầu than thở. Ông quay lại hỏi Hồng Nương Tử: “Sao họ truy đuổi cô nương?”
Viên Thừa Chí nghe vậy, liền kinh hãi đỡ nàng dậy, hỏi: “Tẩu tẩu mau đứng dậy. Đại ca thế nào rồi?”
Hồng Nương Tử đáp: “Sấm Vương dẫn binh đại chiến với Ngô Tam Quế ở Nhất Phiến Thạch ngoài Sơn Hải Quan. Chưa phân thắng bại, không ngờ Ngô tặc đã âm thầm cấu kết với bọn Thát tử Mãn Châu, quân thắt bím đột nhiên xông ra chém giết. Quân ta bị bất ngờ, thua trận đó. Sấm Vương từ đó thua hoài, dẫn quân lùi khỏi Bắc Kinh, đến Tây An bèn lên ngôi hoàng đế. Không ngờ Thừa tướng Ngưu Kim Tinh và Quyền tướng quân Lưu Tông Mẫn tìm lời ly gián, vu cáo đại ca của đệ phản bội Sấm Vương. Sấm Vương sai quân bắt đại ca về trị tội. Ta trốn ra ngoài cầu cứu, suốt dọc đường bị thủ hạ của Lưu Tông Mẫn đuổi sát theo sau…”
Mọi người nghe nói quân Thanh đã nhập quan, Bắc Kinh đã mất, ai cũng kinh hãi đứng ngẩn ra. Hồi lâu Viên Thừa Chí mới la lên: “Chúng ta mau mau đi cứu! Để trễ sợ không kịp nữa.”
Chàng bỗng nghĩ lại: “Lần này sư phụ triệu tập môn nhân về Hoa Sơn, nhất định có việc quan trọng cần bàn. Vậy phải làm sao?” Nhìn qua sư phụ, chàng không nén nổi trong lòng bối rối, không biết giải quyết thế nào. Viên Thừa Chí tuổi còn quá trẻ, ít kinh nghiệm, thiếu khả năng ứng biến. Mỗi khi gặp chuyện khó, chàng lại bàng hoàng không quyết định được.
Mục Nhân Thanh nói: “Mọi người đã đến đủ rồi. Chúng ta lo xong một chuyện trước đã.” Nói xong, ông thỉnh di ảnh Phong tổ sư ra, bày hương án, thắp nhang đèn. Chúng đệ tử quỳ xuống hết. Hà Thiết Thủ rút vào một góc, lén đưa mắt nhìn Viên Thừa Chí.
Mục Nhân Thanh mỉm cười, bảo nàng: “Võ công của cô đã đủ ngang dọc giang hồ, thế mà cứ muốn xin vào môn phái của ta. Ta đã nghe kể, may mà có cô quấy rầy Ngọc Chân Tử, không thì bọn đồ tôn của ta phải thiệt thòi không ít. Có thể nói là cô đã lập đại công cho phái Hoa Sơn. Cô quát ta “Cút đi!” Hà hà, ta không chịu cút. Ta đẩy một phát, cô chỉ lùi lại bốn bước rồi đứng vững được. Trong môn phái của ta, ngoài ba tên đệ tử ta đích thân truyền thụ, không có người thứ tư công lực được như thế. Được, được rồi! Cô nương quỳ xuống đi.”
Hà Thiết Thủ hoan hỉ quỳ xuống trước mặt Mục sư tổ, rồi theo Viên Thừa Chí đến khấu đầu trước di ảnh Phong tổ sư. Nàng nghĩ bụng: “Mục sư tổ nói chuyện khôi hài, dĩ nhiên tính nết hiền từ.”
Thi lễ xong xuôi, Mục Nhân Thanh đứng giữa dõng dạc nói: “Tuổi ta đã cao, không thể tiếp tục lo liệu những chuyện thế tục. Từ nay trở đi, môn phái Hoa Sơn giao cho đại đệ tử Hoàng Chân đảm nhiệm.”
Hoàng Chân giật mình nói: “Võ công đệ tử không bằng Nhị sư đệ, Tam sư đệ…”
Mục Nhân Thanh ngắt lời: “Chưởng quản môn hộ không cần tỉ võ với đồng môn, chỉ cần đôn đốc chư đệ tử hành hiệp trượng nghĩa. Ngươi cố mà lo liệu đàng hoàng.”
Hoàng Chân không dám chối từ nữa, tiếp tục bái lạy Phong tổ sư và sư phụ để nhận phù hiệu chưởng môn. Sau đó toàn bộ đệ tử quay lại tham kiến chưởng môn mới.
Viên Thừa Chí thấy mọi chuyện đã xong, lo lắng cho nghĩa huynh nên rất nôn nóng muốn xuống núi ngay. Chàng bảo Thanh Thanh: “Thanh đệ! Muội cứ ở đây nghỉ ngơi. Ta cứu được nghĩa huynh, sẽ lập tức trở về thăm muội.”
Thanh Thanh không trả lời trả vốn gì, cứ trừng mắt nhìn A Cửu, tức giận đến khóe mắt đỏ lên. Đột nhiên nàng hỏi Viên Thừa Chí: “Lúc nãy ca ca té xuống, sao té trước mặt cô ấy mà không té trước mặt muội? Nếu ca ca té trước mặt muội, muội cũng sẽ bất kể tính mạng mà phóng lên người ca ca hứng kiếm.”
Viên Thừa Chí phân trần: “Ta bị tên ác đạo kia đánh ngã, đâu phải tự mình muốn té?”
Thanh Thanh giậm chân nói: “Ca ca lo nhìn người ta tình tứ như vậy, tâm trí không tập trung, hèn gì chẳng bị đánh ngã.” Nàng khóc òa lên, đột ngột quay lưng chạy đến bên vách núi.
Viên Thừa Chí la lên: “Thanh đệ! Muội làm gì vậy?”
Thanh Thanh quát trả: “Không được tới đây!”
Viên Thừa Chí thấy nàng đã chạy đến vách núi rồi, không dám đến gần. Thanh Thanh lại la lên: “Từ nay trong lòng ca ca chỉ có cô ấy. Muội thà chết cho xong.”
Nàng tung người ra, nhảy xuống vách núi. Dưới đáy vực thẳm toàn là đá cứng, nhảy thế này không thể không chết, ai nhìn thấy cũng kinh hãi. Khinh công của Mộc Tang tuyệt đỉnh thiên hạ, thi triển thần công Thiên Biến Vạn Kiếp vọt tới chụp lại, nhưng chỉ túm được một cánh tay áo của Thanh Thanh. “Soạt” một tiếng, nửa cánh tay áo đứt lìa. Lão không thể giữ nàng không cho rơi xuống, nhưng đã kéo nàng gần vào vách núi mấy thước.
Viên Thừa Chí thét lớn, chạy tới nhìn xuống thì thấy Thanh Thanh ngã vào một lùm cây dưới mười mấy trượng, người vắt ngang cành cây không biết sống chết thế nào. Chàng vô cùng lo lắng, liền men theo những tảng đá bên vách núi từ từ trèo xuống, nhảy lên cành cây to đó, đưa tay ôm lấy nàng. Đôi chân của nàng nhũn ra, hình như đã gãy xương, nhưng rất may là còn thở.
Không bao lâu Thôi Hy Mẫn, Hà Thiết Thủ, huynh đệ Phùng Bất Phá, Phùng Bất Thôi, Hồng Thắng Hải cùng mọi người đều trèo xuống. Ai thấy Thanh Thanh chưa chết cũng thở phào nhẹ nhõm. Hoàng Chân chỉ huy ông câm từ trên vách núi thòng dây dài xuống, kéo Viên Thừa Chí ôm Thanh Thanh lên, đưa vào nhà để chữa trị chỗ gãy chân.
A Cửu đứng bên, nghĩ lại lúc nãy mình mặc kệ sống chết, phóng lên người Viên Thừa Chí để cứu mạng chàng, rồi lại không nén nổi tình cảm, trước mặt đông người mà ôm lấy cổ Viên Thừa Chí, được chàng đưa tay ôm lại. Tuy sự việc xảy ra trong chớp nhoáng, nhưng đúng vào lúc sống chết treo đầu sợi tóc, nên cảm thấy dài như thiên trường địa cửu. Lần trước cùng Viên Thừa Chí đắp chung một chăn trên giường ở hoàng cung, da thịt sát vào nhau còn thân mật hơn nữa. Nghĩ đến đó nàng bất giác cảm thấy hổ thẹn, nhưng trong lòng dâng lên cảm giác ngọt ngào.
Khi A Cửu nghe Thanh Thanh trách Viên Thừa Chí tại sao té trước mặt mình, lại trách tại sao chàng nhìn mình tình tứ, nàng cảm thấy đúng là lúc đó Viên Thừa Chí nhìn mình đắm đuối, chẳng nghĩ ngợi gì khác nữa nên mới bị tên ác đạo kia đánh ngã. Chuyện đó là có thật.
Bây giờ A Cửu thấy Thanh Thanh tức giận nhảy xuống núi, Viên Thừa Chí trèo xuống ngay, ôm nàng vào lòng, tập trung toàn bộ tinh thần để cứu nàng. A Cửu nghĩ đến mình nhớ nhung Viên Thừa Chí nhiều như vậy, e rằng sau này kết quả không tốt đẹp. Suy đi nghĩ lại, bất giác lòng quặn thắt. Nàng bỗng nghĩ: “Nếu bây giờ mình cũng nhảy xuống vách núi, không biết chàng có xả thân cứu mình hay không? Tốt nhất là mình được chết trong lòng chàng, cho mọi việc xong xuôi.”
Mộc Tang đạo nhân không thể đọc hết những suy nghĩ đó, nhưng thấy hai thiếu nữ cùng yêu một chàng trai, cũng hiểu được phần nào. Thấy A Cửu thần sắc rũ rượi đáng thương, nghĩ đến vừa rồi nàng đã nhảy đến cứu mạng mình, lão bỗng nghĩ: “Đại ân không chỉ nói mấy câu là trả được. Ta phải phí sức suy nghĩ để giải khai lòng uất hận cho nàng. Hay là ta thu nàng làm đồ đệ để dạy võ công? Nếu dạy được nàng chơi cờ, ngày nào mình cũng có đối thủ thì thật là tuyệt diệu.”
Lão bèn đi tới chỗ A Cửu, nói: “Cô nương! Lão đạo vì sư môn có biến, trong lòng lo lắng nên suốt đời chưa nhận môn nhân nào. Bây giờ môn hộ đã trong sạch, vừa rồi lại được cô nương cứu mạng, lão đạo không có gì để báo đáp. Nếu cô nương không chê, để ta truyền thụ mấy chiêu công phu được không?”
A Cửu đang lúc hoang mang không biết làm gì, không biết đi đâu, lập tức khấu đầu bái sư.
Mục Nhân Thanh, Hoàng Chân, Quy Tân Thụ cùng mọi người đều bước tới chúc mừng hai thầy trò. Mộc Tang đạo nhân bảo: “Bây giờ chúng ta đi Tây Tạng để lòng thanh tĩnh, dễ học công phu. Sau này có thể so sánh với bọn đồ tử đồ tôn của Mục bá bá phái Hoa Sơn hay không, phải dựa vào công phu học tập của con.”
Mục Nhân Thanh nói: “Đương nhiên là thế.”
Viên Thừa Chí ghép lại xương cho Thanh Thanh, bó thuốc rồi đi ra ngoài. Biết A Cửu đã bái Mộc Tang đạo nhân làm sư phụ, chàng cũng hoan hỉ chúc mừng. A Cửu nắm tay áo chàng kéo qua một bên, ủ rũ nói: “Thừa Chí ca ca! Bây giờ muội theo sư phụ đến Tây Tạng để học công phu. Ngàn dặm xa xôi, không dễ gì gặp nhau, muội sẽ chờ đợi. Muội sẽ đợi ca ca ba năm. Ba năm mà ca ca không đến thì không cần đến nữa. Khi đó muội sẽ xuống tóc làm ni cô, trong lòng… vĩnh viễn nhớ đến ca ca… Không… muội sẽ đợi ca ca mười năm…”
Viên Thừa Chí đáp: “Ta nhất định sẽ đến thăm muội. A Cửu muội muội! Chưa tới một năm là ta đến rồi. Không được gặp muội thì ta chết mất.”
A Cửu khe khẽ lắc đầu, nước mắt đầm đìa.
Đến xế chiều, Mộc Tang và A Cửu ăn lót dạ rồi cáo từ xuống núi. Viên Thừa Chí hỏi tường tận nơi ở của Mộc Tang đạo nhân bên Tây Tạng, đợi Thanh Thanh lành vết thương rồi sẽ đến thăm.
Trong lúc mọi người cáo biệt, Hà Thiết Thủ nói nhỏ với Viên Thừa Chí: “Sư phụ! Chúng ta đã hỏi rõ chỗ ở của A Cửu rồi. Đợi vết thương của Hạ cô nương lành hẳn, sư phụ có thể lén đi thăm cô ấy. Đồ đệ sẽ giấu giếm kín đáo cho, đảm bảo Hạ cô nương không biết. Còn nếu sư phụ không dám đi thăm, chỉ cần dạy dỗ đồ đệ đàng hoàng thì đồ đệ sẽ lén thay sư phụ đi tìm A Cửu, nhắn tin, chuyển thư, tuyệt đối không để Hạ cô nương nghi ngờ chút xíu nào. Bản lãnh này của đồ đệ có thể nói là thiên hạ vô song.”
Viên Thừa Chí bĩu môi không đếm xỉa gì đến nàng. Chàng quyết chí một mình đi tìm A Cửu, không cần đồ đệ lo việc giúp mình.
Thanh Thanh gãy cả hai chân, vết thương thật sự không nhẹ, phải điều dưỡng lâu dài mới lành được. Sau khi lành, e rằng một bên chân cũng bị tật, khó mà xinh đẹp như cũ. Viên Thừa Chí ngồi bên giường dịu dàng an ủi, còn Thanh Thanh vừa khóc vừa la, tiếp tục truy cứu tại sao Viên Thừa Chí tỉ đấu với Ngọc Chân Tử mà dám dành hết tâm ý cho A Cửu.
Viên Thừa Chí im lặng ngồi nghe, đợi nàng la lối đến mệt rồi ngủ thiếp đi, mới chạy ra vách núi. Nhìn ra xa chỉ thấy núi đồi xếp thành từng dãy, mây mù che khuất đường xuống núi, bóng dáng Mộc Tang đạo nhân và A Cửu đã mất hút. Chàng thở dài thở ngắn hồi lâu, ruột đau như cắt, không sao đứng vững được nữa phải ngồi phịch xuống.
Đột nhiên bên cạnh có thanh âm dịu dàng cất lên: “Sư phụ! Chỉ cần sư phụ đừng cưới Hạ cô nương, thì Hạ cô nương không thể trở thành sư nương của đồ đệ, kiếp này đừng hòng quản thúc sư phụ nữa. Hạ cô nương có nhảy xuống núi hay nhảy xuống biển cũng chẳng liên quan gì đến sư phụ. A Cửu cô nương vĩnh viễn chờ đợi sư phụ. Khi vết thương của Hạ cô nương lành hẳn, sư phụ cứ việc đi tìm A Cửu. Sư phụ tìm không thấy, đồ đệ sẽ tìm giúp sư phụ. Sư phụ không có lỗi gì với Hạ cô nương, không cần đau lòng khó chịu gì hết.”
Viên Thừa Chí thở dài nói: “Nếu ta đi tìm A Cửu, sẽ tự có lỗi với lương tâm. Năm xưa phụ thân ta không hề phản nghịch hoàng đế, biết rõ nếu mình viết thư gọi Tổ Đại Thọ dẫn binh về kinh thì hoàng đế sẽ không sợ quân Thanh nữa, chắc chắn sẽ giết mình. Thế mà ông ấy vẫn viết lá thư đó. Ôi! Làm người chỉ cần trong lòng không có điều gì hổ thẹn, cho dù phải chém ngàn đao vạn đao cũng chẳng sao. Thanh Thanh từng nói: Bạc tình vô lương tâm, vong ân phụ nghĩa đều đê tiện vô sỉ như nhau.”
Nói tới đó Viên Thừa Chí bỗng rơi lệ. Hà Thiết Thủ đưa chàng một chiếc khăn tay, dịu dàng khuyên bảo: “Sư phụ! Sư phụ cứ khóc hoài thì không ra vẻ sư phụ nữa. Con người sống trên thế gian, đê tiện vô sỉ một chút là điều không thể tránh khỏi. Còn cứ đau khổ dằn vặt hoài, thì sẽ phát bệnh mà chết.”
Viên Thừa Chí cãi: “Nếu không đau khổ dằn vặt, chẳng lẽ người ta sống hoài không chết? Còn đê tiện vô sỉ là chuyện có thể tuyệt đối tránh khỏi.”
*
* *
Sáng sớm hôm sau, Viên Thừa Chí bẩm cáo với sư phụ và chưởng môn đại sư huynh, xin phép đi cứu Lý Nham.
Mục Nhân Thanh suy nghĩ một lúc rồi nói: “Lý tướng quân bị kẻ gian ly gián nên Sấm Vương nảy dạ nghi ngờ. Việc này nếu xử lý không tốt, chẳng những đắc tội với Sấm Vương, tổn thương đến mối giao tình nhiều năm, lại làm cho nội bộ Sấm quân bất hòa, trở ngại cho đại nghiệp. Ngô Tam Quế dẫn quân Thanh vào quan ải, Sấm Vương đang gặp phải nghịch cảnh. Ngươi cùng Lý Nham tuy tình nghĩa như thủ túc, nhưng mọi việc cần lấy đại cuộc làm trọng.”
Hoàng Chân nói: “Sư đệ! Mọi việc đều phải bảo trọng. Người làm ăn chúng ta…” Nói đến đây, đột nhiên ông ngậm miệng, nghĩ bây giờ mình đã là chưởng môn, không nên đùa giỡn nữa. Nhất thời ông cảm thấy ngượng ngùng.
Viên Thừa Chí khom người tuân lệnh, rồi cùng Hồng Nương Tử, ông câm, Hồng Thắng Hải… cáo biệt mọi người. Chú cháu Thôi Thu Sơn, Thôi Hy Mẫn; mẹ con An đại nương, An Tiểu Huệ cũng đi cùng.
Viên Thừa Chí dẫn quần hùng rời Hoa Sơn, nhắm hướng Tây An xuất phát. Thanh Thanh gãy chân chưa lành, lẽ ra phải ở lại trên núi để dưỡng thương. Nhưng nàng sợ Viên Thừa Chí tìm cơ hội lén đi gặp A Cửu nên nhất định đòi đi theo, Viên Thừa Chí chỉ còn cách ưng thuận. Hồng Thắng Hải phải tìm một cỗ xe lừa cho nàng ngồi, nên đi đường rất chậm.
Một hôm đi đến Vị Nam, đột nhiên nghe tiếng la hét ồn ào, khoảng ngàn Sấm quân đang áp tải một đội lớn dân phu đi về phía Tây. Dân phu phải gánh nặng, ai cũng mệt mỏi thở không nổi, nhưng roi da trên tay quân sĩ vẫn không dừng quất xuống, vừa quất vừa la hét như đang chăn một bầy súc vật vậy. Một dân phu cao tuổi bước chân loạng choạng ngã nhào ra đất, đổ cả quang gánh, rất nhiều vàng bạc và những đồ trang sức của nữ nhân tung toé ra ngoài. Một tên lính trẻ giận dữ đá lão một cước, lão dân phu ấy thổ máu tươi ngay.
Quần hùng nhìn thấy vô cùng tức giận, đều nói: “Hà hiếp dân chúng như vậy, còn gọi là nghĩa quân gì nữa?”
Hà Thiết Thủ nói: “Chỗ kim ngân tài bảo này, chẳng lẽ không phải cướp giật từ tay dân chúng?”
Nàng nói hơi lớn tiếng, mấy tên Sấm quân đã nghe thấy, liền hung dữ quay lại chửi mắng. Một tên lính la lên: “Bọn này là gian tế! Bắt đi!” Mười mấy tên lính hò hét chạy tới, lôi kéo bốn nữ nhân là Hà Thiết Thủ, An đại nương, An Tiểu Huệ và Hồng Nương Tử.
Hồng Nương Tử vô cùng tức giận, rút đao ra chém hai tên. Viên Thừa Chí la lên: “Rời khỏi đây thôi!”
Chàng ngồi trên lưng ngựa, túm đầu bọn lính quẳng ra, dẫn mọi người rời khỏi đó. Bọn Sấm quân không muốn bỏ của cải lại để đuổi, nên cứ đứng đó mà ngoác mồm ra thóa mạ.
Hồng Nương Tử giận dữ nói: “Chúng ta vừa tiến vào Bắc Kinh là kỷ luật của quân đội hỏng hết, chỉ lo cướp bóc tài sản, hiếp đáp nữ nhân. So với triều Minh có hơn gì?”
Thôi Thu Sơn nói: “Không hiểu sao Sấm Vương không quản thúc họ, nghĩ thật kỳ lạ.”
Hồng Nương Tử cười khẩy, nói: “Chính hắn cũng cướp giật ái thiếp Trần Viên Viên của Ngô Tam Quế. Thượng bất chính thì hạ tắc loạn, làm sao hắn quản thúc bộ hạ được? Ngô Tam Quế đã chịu đầu hàng, lẽ ra đại cuộc đã định. Nhưng họ Ngô nghe tin ái thiếp bị Sấm Vương đoạt lấy, nên mới tức giận mà dẫn quân Mãn Thanh vào quan ải. Ngô Tam Quế đánh vào, Sấm Vương đem quân ra ngoài giao chiến. Hai bên đại chiến ở Nhất Phiến Thạch, thắng bại chưa phân thì đột nhiên bọn mọi rợ thắt bím ào tới. Tướng sĩ bên ta đều lo lắng đến tài vật cùng nữ nhân đã cướp được, nên không chịu liều mạng. Trận đó mà không thua thì đúng là trời không có mắt.”
Đi chẳng bao lâu, quần hùng thấy bên lề đường có một bà lão ngồi khóc rống. Bên cạnh có bốn thi hài, một nam một nữ và hai đứa bé, vết thương vẫn còn chảy máu, hiển nhiên bị giết chưa lâu. Bà lão vừa khóc vừa kêu la: “Lý công tử! Ngươi chỉ giỏi lừa gạt, nói là mở cửa đón Sấm Vương để già trẻ vui mừng gì gì đó. Gia đình chúng ta đã mở cửa đón Sấm Vương, thế mà Sấm Vương cho bọn thổ phỉ đến nhà ta, hãm hiếp con dâu, giết chết con trai, giết cả hai đứa cháu. Cả nhà ta cả già lẫn trẻ đều ở đây cả. Lý công tử! Ngươi đến mà xem, già trẻ vui mừng là vậy phải không? Ta thờ Bồ Tát hơn sáu chục năm rồi. Quan Âm Bồ Tát phù hộ ai không biết, chứ không lo phù hộ cho người tốt. Bồ Tát, Sấm Vương, thổ phỉ, trộm cướp cũng một giuộc cả.”
Viên Thừa Chí không đủ can đảm nghe tiếp, biết chắc dọc đường còn gặp nhiều cảnh thê thảm như thế. Chàng bèn vòng sang đường nhỏ mà đi.
Đi hết hai con đường nhỏ lại trở ra đường lớn. Bên vệ đường có ba bốn gian nhà còn bốc khói nghi ngút, trước sân có mấy xác người. Xác nam thì đầu mình rời nhau, còn xác nữ thì không mảnh vải che thân, hiển nhiên bị hiếp trước giết sau. Hồng Thắng Hải bước lên phía trước, hỏi một ông lão đang quỳ bên cạnh mấy cái xác: “Lão gia! Ai đã gây ra những chuyện tồi tệ này? Quan binh phải không?”
Ông lão râu tóc bạc phơ, run rẩy chỉ tay vào gian nhà đang cháy, phều phào chửi mắng: “Đúng là quan binh. Quan binh của hoàng đế Sùng Trinh đã thua chạy cả rồi. Bây giờ đến lượt quan binh của hoàng đế Đại Thuận cướp bóc, gian dâm, giết người, phóng hỏa. Bất kể quan binh gì cũng là cường đạo hung ác, chỉ làm khổ bá tính chúng ta thôi. Khách quan nhìn xem, lão ăn mặc rách rưới thế này, hai ngày nay không có cơm để ăn, chưa phải nghèo đến tận cùng hay sao mà còn gặp phải cảnh này? Ông trời lúc nào cũng bất công đối với người nghèo chúng ta. Sao trời không sụp xuống đi?”
Viên Thừa Chí cùng quần hùng không nỡ nghe tiếp, lại lên đường. Lúc mệt mỏi họ nghỉ lại dưới một gốc cây, đột nhiên nghe phía sau có mười mấy nông dân than khóc lớn tiếng. Sau đó, lại có giọng hát: “Ông trời kia! Ông sống bao lâu rồi mà tai điếc, mắt mù. Ông trời không nhìn thấy người, không nghe tiếng nói. Giết người phóng hỏa thì phú quý, ăn chay niệm Phật thì chết đói. Ông trời kia! Không biết làm trời, sụp xuống cho xong. Ông trời kia! Không biết làm trời, sụp xuống cho xong.”
Đến hai câu cuối, mọi nông dân nam nữ đều hòa giọng hát rống lên: “Ông trời kia! Không biết làm trời, sụp xuống cho xong.” Âm thanh khàn khàn, đầy vẻ tuyệt vọng.
Viên Thừa Chí cảm thấy những người này dù chết xuống âm phủ vẫn còn khổ sở, sẽ trở thành ngạ quỷ rên rỉ than khóc suốt ngày. Bỗng nghe Hồng Nương Tử bắt chước hát theo: “Ông trời kia! Không biết làm trời, sụp xuống cho xong.”
Viên Thừa Chí không khỏi bi ai. Suốt đời chàng đã nghe lời những bậc trưởng bối như sư phụ, như Ưng Tùng dạy dỗ, toàn tâm toàn ý vì nước vì dân, xả thân để cứu dân chúng trong cơn hoạn nạn. Chàng tưởng rằng sau khi Sấm Vương lấy được thiên hạ, người nghèo sẽ không bị quan phủ và người giàu áp bức nữa, có miếng cơm ăn, có cuộc sống yên bình. Nào ngờ không phải vậy.
Chàng dõi mắt nhìn xa, thấy đầy trời mây đen bao phủ. Nếu lúc này đang ở cạnh một vách núi cao, có thể chàng sẽ bắt chước Thanh Thanh tung người nhảy xuống để không còn biết gì, không phải nghĩ gì nữa. Nghĩ đến đó, Viên Thừa Chí nhịn không nổi nữa, buông tiếng khóc.
An Tiểu Huệ khuyên can: “Thừa Chí ca ca! Việc trên thiên hạ đều như vậy cả. Thôi, chúng ta đi thôi.” Thôi Hy Mẫn dìu Viên Thừa Chí dậy, lên ngựa đi tiếp.
*
* *
Đi một hồi nữa, cách Vệ Nam không còn xa, bỗng nghe tiếng binh khí chạm nhau phía trước. Mọi người giục ngựa nhanh hơn, thấy hơn hai chục Sấm quân đang bao vây ba người, đâm chém loạn xạ. Trong ba người đó có một người biết võ công chống trả kịch liệt, nhưng tay chân loạn lắm rồi.
Bọn Sấm quân vừa đánh vừa hô: “Giết gian tế đi, giết gian tế đi! Trên người bọn gian tế này rất nhiều tiền bạc, anh em nào lập đầu công sẽ được chia nhiều hơn.”
Thôi Hy Mẫn giận dữ la lên: “Cái gì mà chia nhiều hơn? Chẳng lẽ đây là cường đạo?”
Y lập tức nhảy xổ tới, rút đao chém bọn Sấm quân. Ông câm, Hồng Thắng Hải, Thôi Thu Sơn cũng tiến lên, đuổi chúng chạy hết.
Ba người kia đều đã bị thương. Người biết võ buông đao xuống đất, khom lưng bái tạ. Y bỗng chăm chú nhìn Thôi Thu Sơn một chút, rồi hỏi: “Tôn giá có phải họ Thôi không?”
Thôi Thu Sơn đáp: “Đúng vậy. Xin hỏi cao tính đại danh huynh đài, sao lại biết tại hạ?”
Người kia nói: “Tiểu nhân là Dương Bằng Cử, còn vị này là Trương Triều Đường công tử. Mười mấy năm trước, ba người bọn tại hạ đã lên tế Viên Đốc sư trên đỉnh Thánh Phong tỉnh Quảng Đông, từng thấy Thôi đại hiệp ra tay bắt gian tế. Tuy đã nhiều năm, nhưng quyền pháp cùng chưởng pháp của Thôi đại hiệp phi phàm, tiểu nhân đã thấy là ghi nhớ không thể nào quên.”
Thôi Thu Sơn mừng rỡ nói: “Thì ra là bằng hữu Sơn Tông. Các vị đến gặp Viên công tử đi.”
Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử bước lên bái kiến Viên Thừa Chí, nói mình không phải thuộc hạ cũ của Viên Đốc sư, chỉ theo Tôn Trọng Thọ và Ưng Tùng lên núi Thánh Phong mà thôi. Viên Thừa Chí nói: “À! Hôm đó Trương công tử từng viết một bài văn tế cho tiên phụ: Tống vương hôn ám; Vũ Mục chết oan; Hán triều vận mạt; Gia Cát sao tàn.Mười sáu chữ này, tiên phụ dưới cửu tuyền mà biết cũng thấy vinh dự.”
Trương Triều Đường không ngờ mình vội vã viết bừa mà đến nay Viên Thừa Chí vẫn còn ghi nhớ trong lòng, không khỏi cảm thấy vui mừng.
Viên Thừa Chí hỏi tại sao họ bị Sấm quân vây đánh. Trương Triều Đường nói: “Tiểu nhân ở xứ Bột Nê hải ngoại xa xôi, một tháng trước đã nghe những người đi biển nói Sấm vương Lý Tự Thành khởi nghĩa, quân thế rất mạnh, đến đâu cũng thắng như chẻ tre, chỉ vài ngày nữa là lấy được Bắc Kinh, Trung Hoa sắp được thái bình. Tiểu nhân mừng quá, liền bẩm báo với gia phụ, cùng Dương huynh và một tên tùy tùng khởi hành về cố quốc, muốn xem cảnh tượng thái bình. Ôi! Nào ngờ vừa tới Trực Lệ thì nghe nói Sấm Vương lấy được Bắc Kinh, xưng ngôi hoàng đế rồi lại bị lính Mãn Thanh đánh bật ra ngoài, chạy trốn đến Tây An. Lính Mãn Thanh đuổi theo suốt dọc đường, ba người bọn tiểu nhân chỉ còn cách trốn về phía tây. Hôm nay gặp được Sấm quân, chúng đòi lục soát hành lý để đề phòng gian tế. Bọn tiểu nhân để chúng lục soát. Nhưng đám lính này vừa thấy tiền lộ phí tiểu nhân mang theo là thèm nhỏ dãi, không nói năng gì, vung đao chém ngay. Nếu không nhờ các vị cứu giúp, ba người bọn tiểu nhân đã biến thành ma dưới đao của chúng rồi. Ôi, thời đại thái bình, thời đại thái bình…”
Vừa nói Trương Triều Đường vừa lắc đầu quầy quậy. Viên Thừa Chí phập phồng không yên bụng, nói: “Con đường này e rằng không bình yên được. Ba vị theo chúng ta đến Tây An rồi hãy tính đường đi tiếp, có được hay không?”
Trương Triều Đường và Dương Bằng Cử lập tức lên tiếng cảm ơn. Tên nô bộc Trương Khang, bây giờ đã thành người lớn, vừa vác hành lý lên vai vừa nói: “Mười mấy năm trước chúng ta trở về Trung Quốc, quan binh nói chúng ta là cường đạo, đòi giết chúng ta. Lần này trở về Trung Quốc, nghĩa quân lại nói chúng ta là gian tế, vẫn đòi giết chúng ta. Công tử ơi, lần sau chúng ta đừng đến đây nữa.”
Trương Triều Đường bảo: “Trung Quốc cũng có nhiều người tốt. Chẳng phải bây giờ chúng ta bình yên rồi sao?”
Hôm sau mọi người giục ngựa nhanh hơn, tới Bá Kiều ở phía đông thành Tây An thì thấy những đội Sấm quân đang tìm chỗ cao bày trận. Đại đội nhân mã đối diện cũng giương cờ Sấm quân, nhưng hai bên đã lắp tên vào cung, chỉ chờ lệnh là trận chiến nổ ra. Viên Thừa Chí kinh hãi nghĩ thầm: “Sao quân mình lại đánh lẫn nhau?”
Bỗng nghe một tên võ quan lớn tiếng hô: “Vạn tuế gia hạ chỉ, bắt một mình nghịch tặc Lý Nham. Những người còn lại đều không liên can, mau giải tán đi. Ai dám chống lại thánh chỉ, giết hết không cần luận tội.”
Viên Thừa Chí hân hoan nghĩ: “Thì ra đại ca chưa trúng độc thủ. Chúng ta không đến trễ.” Chàng vẫy tay bảo mọi người quay lại, đi vòng qua hai đội quân, đến ngọn đồi có doanh trại Lý Nham. Quân canh phía trước thấy Lý phu nhân trở về, liền dẫn mọi người vào lều lớn của trung quân, dựng trên đỉnh ngọn đồi này.
Đến ngoài lều đã nghe từ trong vẳng ra tiếng đàn tiếng hát, ai cũng ngạc nhiên. Hồng Nương Tử cùng Viên Thừa Chí đi vào, thấy trong lều đang bày yến tiệc rất lớn. Mấy trăm quan quân ngồi phía dưới, bàn chính giữa chỉ có một mình Lý Nham, đang nâng ly tự uống.
Lý Nham thấy ái thê cùng nghĩa đệ đột nhiên đến, vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ. Chàng rảo bước ra đón, tay trái nắm tay Hồng Nương Tử, tay phải dắt tay Viên Thừa Chí, mỉm cười nói: “Hai người đến đúng lúc quá. Rốt cuộc thì ông trời đối xử với ta không tệ.”
Chàng để hai người ngồi hai bên trái phải, sai thuộc hạ dọn thêm một bàn tiệc nữa, mời Thanh Thanh, Thôi Thu Sơn, An đại nương, ông câm, Thôi Hy Mẫn, An Tiểu Huệ, tất cả ngồi vào.
Viên Thừa Chí thấy Lý Nham ra vẻ nhàn nhã nên rất yên tâm, bao nhiêu lo lắng mấy ngày nay lập tức mất sạch. Chàng nhìn Hồng Nương Tử mỉm cười, thầm nghĩ: “Bà này làm ta hoảng sợ vô ích.”
Lý Nham đứng dậy, dõng dạc nói: “Các vị đều là hảo huynh đệ, hảo bằng hữu của ta. Nhiều năm chúng ta xuất sinh nhập tử, đồng cam cộng khổ, chỉ mong hoàn thành đại nghiệp, thiên hạ thái bình. Nào ngờ vạn tuế gia lại nghe kẻ gian sàm tấu, nói câu thập bát tử chủ thần khí là Lý mỗ muốn làm hoàng đế. Vừa rồi vạn tuế gia hạ chỉ, ban cho Lý mỗ cái chết. Hà hà! Việc này không biết phải nói thế nào.”
Các tướng quân đều đứng dậy, nhốn nháo phát biểu: “Đây là thánh chỉ giả của bọn gian. Vạn tuế gia từ xưa vẫn tín nhiệm Lý tướng quân, tướng quân đừng lo tới việc này. Bây giờ chúng ta cùng tới Tây An, gặp mặt vạn tuế gia là biết rõ thị phi ngay.”
Thần sắc mọi người đều rất giận dữ. Có người nói: “Lý tướng quân lập nhiều đại công, đối với hoàng thượng một dạ trung thành, lẽ nào lại tạo phản!”
Có người nói: “Chỉ vì chúng ta kỷ luật nghiêm minh, yêu dân như con, nên những đội quân khác đố kỵ.”
Có người lại nói: “Nếu vạn tuế gia không nghe chúng ta trình bày giải thích, bất quá chúng ta kéo nhau tự mình giành lấy thiên hạ là xong. Dù sao thì Sấm quân cũng cư xử bừa bãi, mất hết nhân tâm rồi, tiếp tục đi theo vạn tuế gia không có kết quả tốt lành đâu.”
Lý Nham lấy ra một tờ giấy màu vàng, mỉm cười nói: “Đây là bút tích chính tay vạn tuế gia viết: Chế tướng quân Lý Nham tạo phản, muốn tự lập làm hoàng đế, đại nghịch bất đạo, giết ngay không cần hỏi. Phía dưới ký một chữ “thành”, thêm chữ “nhân” phía trên. Đó là chữ ký mới của vạn tuế gia, nhất định không phải thánh chỉ giả mạo. Cho dù gặp vạn tuế gia, chúng ta cũng không giải thích được đâu.”
Các tướng quân đều giận dữ, vung tay hét to: “Nguyện theo tướng quân, quyết một trận tử chiến!”
Một tướng quân lớn tiếng nói: “Vạn tuế gia đã phái Tả doanh, Tiền doanh, Hậu doanh bao vây ba phía chúng ta. Không phải muốn giết một mình Lý tướng quân đâu, mà muốn giết hết quân ngũ chúng ta đấy.”
Các tướng quân cùng hô lớn: “Vạn tuế gia ép chúng ta tạo phản, thì chúng ta tạo phản. Đi thôi!”
Lý Nham la lên: “Mọi người hãy ngồi xuống, ta sẽ có chủ trương. Vạn tuế gia đối đãi với ta không bạc, hai chữ “tạo phản” không được nhắc đến.”
Chàng lập tức truyền tướng lệnh, phân phái thuộc hạ canh giữ khắp nơi, cho quân tinh nhuệ án ngữ các đường tấn công của địch, chỉ thủ không công. Các tướng đều biết Lý Nham túc trí đa mưu, thấy chàng trấn tĩnh như vậy đều nghĩ chàng đã có kế hoạch kỳ lạ để đối phó, nên từng người nhận lệnh đi ra, dẫn quân bản bộ đi phòng thủ.
Lý Nham rót một ly rượu đầy, mỉm cười nói: “Đời người mấy chục năm, quả như một cơn mơ.” Chàng cạn ly, tay trái vỗ bàn làm nhịp, lớn tiếng hát: Mở rộng cửa ải; Nghênh đón Sấm Vương; Cuộc sống thanh bình; Ai cũng hân hoan.”
Đây chính là bài đồng dao mà năm xưa Lý Nham sáng tác rồi truyền khắp thiên hạ, giúp Lý Tự Thành được lòng dân khắp nơi quy thuận.
Viên Thừa Chí cao giọng hát một bài khác: “Ông trời kia! Không biết làm trời, sụp xuống cho xong.”
Lý Nham lập tức dừng lời, bắt chước hát theo Viên Thừa Chí. Viên Thừa Chí đang lúc tâm thần khích động, vận Hỗn Nguyên Công đưa tiếng hát truyền đi rất xa, trên đồi dưới núi toàn quân đều nghe thấy. Tướng sĩ bộ hạ của Lý Nham trong lúc bi phẫn, nghe tiếng ca này đều hát theo vang dội.
Phần lớn Sấm quân nhận lệnh đến bắt Lý Nham đều biết chàng bị oan. Họ phải tàn sát bằng hữu không khỏi áy náy, hoàn toàn không muốn tấn công lên núi. Sấm quân đa số là dân lưu lạc cơ hàn, theo Lý Tự Thành tạo phản chỉ vì muốn sống. Sau này thắng lợi liên tiếp, quân kỷ bại hoại, họ hùa theo thượng cấp mà cướp bóc, hãm hiếp dân chúng, nhưng đó là bản tính trời sinh của con người. Ai cũng muốn tài muốn lợi, no cơm lại muốn ấm cật. Thượng cấp không cấm đoán, lại còn dẫn đầu tác oai tác quái. Thấy chung quanh ai cũng vậy, mà tiền bạc nữ nhân sẵn ngay trước mắt, người phàm tục làm sao nhịn nổi?
Số binh tướng này không phải xấu xa lắm, chỉ vì cuộc đời là vậy, trăm năm ngàn năm vẫn là như vậy. Cũng đôi khi họ làm bậy xong, nghĩ lại tự thấy mình không nên làm, nhưng lần sau lại bất giác tự che giấu lương tâm của mình mà làm bậy tiếp.
“Ông trời kia! Không biết làm trời, sụp xuống cho xong.” Bài ca bi phẫn này ai cũng biết. Khi bị quan binh nhà Minh áp bức, Sấm quân từng hát. Sau này họ trở thành quan binh, đi áp bức người khác thì nghe người khác hát. Bây giờ nghe tiếng hát xa xa truyền đến, họ không tự chủ được cũng hòa giọng hát theo.
Hai đội quân đang dàn trận chuẩn bị đánh nhau mà cùng hát chung một bài. Nhất thời tiếng hát ngân nga như tiếng chảy buồn của dòng Vị Thủy dài vô cùng vô tận.
*
* *
Lý Nham và Viên Thừa Chí nghe hai đội quân dưới núi hát bài này, đều cảm khái vô cùng. Viên Thừa Chí nói: “Đại vương vốn rất anh minh, không ham tửu sắc, một lòng một dạ muốn cứu bá tính khỏi cảnh dầu sôi lửa bỏng. Tại sao ông ấy vào kinh, đăng quang làm hoàng đế rồi thay đổi hết? Đệ không sao hiểu nổi.”
Lý Nham nói: “Ta không trách Sấm Vương nghi ngờ ta. Sấm Vương vốn là người tốt. Ông ấy đã tín nhiệm ta, trọng dụng ta, cho đến hôm nay vẫn đối xử với ta rất tốt.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Thế thì sao ông ấy hạ chỉ giết đại ca?”
Lý Nham nói: “Phải là hoàng đế mới có thể hạ chỉ. Ông ấy đã làm hoàng đế, không thể tự chủ được.”
Viên Thừa Chí lắc đầu nói: “Đệ chỉ nghe nói người trong giang hồ không thể tự chủ lấy mình. Đã là hoàng đế thì muốn gì làm đó, sao lại không thể tự chủ?”
Lý Nham đáp: “Đúng là hoàng đế muốn gì làm đó, không ai phản kháng được. Nhưng thiên hạ chỉ có một ngai vàng. Ông ấy đã ngồi vào, sợ người khác giành giật, phải giết hết những người muốn giành giật ngai vàng của mình. Đường thái tông Lý Thế Dân là một hoàng đế rất tốt, nhưng vì muốn làm hoàng đế mà phải giết cả anh ruột lẫn em ruột của mình.”
Viên Thừa Chí gật đầu nói: “Đúng vậy! Nếu ông ấy không giết anh em ruột, thì anh em ruột sẽ giết ông ấy. Đúng là không tự chủ được.”
Lý Nham gật đầu nói: “Đúng là không tự chủ được.”
Chàng rót hai ly rượu, cạn với Viên Thừa Chí rồi lại nói: “Hán Cao Tổ đã giết đại công thần Hàn Tín, Bành Việt. Ai cũng biết là giết oan, mà chính ông ấy cũng biết rõ Hàn Tín và Bành Việt không tạo phản. Thôi đừng nói chuyện xưa, nói chuyện Minh triều đi. Đại tướng quân Từ Đạt, quân sư Lưu Bá Ôn, đại tướng quân Lý Vân Trung, đều bị Thái Tổ hoàng đế hạ độc hại chết. Công thần khai quốc của triều Minh, nói về công lao thì tể tướng Lý Thượng Trường là số một, không phải đã bị giết hay sao? Những công thần đại tướng khác bị Thái Tổ hoàng đế xử tử như Phùng Thắng, Phó Hữu Đức, Lục Trọng Hưng, Chu Đức Hưng, Địch Bính Vân, Phế Tụ, Triệu Dung, Chu Lượng Tổ, Hồ Mỹ, Vương Đông, Lam Ngọc, người nào cũng từng được phong vương, phong công, phong hầu. Ví dụ gia gia của đệ, công lao không lớn hay sao, nhưng kết quả thế nào?”
Viên Thừa Chí nói: “Hoàng đế trúng kế phản gián của Hoàng Thái Cực, tin rằng gia gia của đệ thông địch bán nước.”
Lý Nham lắc đầu nói: “Không phải! Mới nhìn thì thấy Sùng Trinh trúng kế phản gián, tưởng lệnh tôn thông địch bán nước. Thật ra Sùng Trinh giết lệnh tôn vì lệnh tôn đã giết đại tướng Mao Văn Long. Hoàng đế nghi ngờ ngay, sợ lệnh tôn nắm hết binh quyền, đủ sức đoạt lấy ngai vàng của mình.”
Viên Thừa Chí nghe vậy rùng mình, lập tức cảm thấy lòng người đáng sợ đến mức không thể tưởng tượng. Chàng lại hỏi: “Sấm Vương chỉ huy người nghèo khắp thiên hạ khởi nghĩa, ban đầu vì muốn trừ bỏ cách trị dân tệ hại của triều đình. Nào ngờ khi ông ấy làm hoàng đế, đến phiên mình cũng áp bức bá tính. Đại ca! Chúng ta nhìn sai người rồi sao?”
Lý Nham lắc đầu nói: “Chính bản thân Sấm Vương cũng không tự chủ được, có nỗi khổ khó nói ra. Ông ấy lấy được thiên hạ là dựa vào Quyền tướng quân Lưu Tông Mẫn và các đại tướng như bọn Cao Tất Chính. Lấy thiên hạ rồi, bọn Lưu Tông Mẫn cướp bóc vàng bạc nữ nhân, bản ý Sấm Vương cũng rất muốn cấm đoán. Nhưng chúng lại nói với Sấm Vương: Hoàng đế thì để ông làm, còn vàng bạc nữ nhân phải chia cho chúng ta chút ít chứ. Chỉ cần một tướng buông thả là mọi tướng đều buông thả, không thể trách được Sấm Vương.”
“Thật ra, chuyện đời xưa nay đều như vậy. Danh chính ngôn thuận thì mình vì bá tính, nhưng khi mình có thế lực thì lại trở mặt áp bức bá tính. Sở Bá Vương mắng Tần Thủy Hoàng ngược đãi bá tính, bèn khởi binh để diệt Tần. Nhưng khi Sở Bá Vương phá được Hàm Dương cũng cướp bóc dữ dội, đốt trụi thành phố. Hán Quang Võ, Triệu Khuông Dẫn là những vị hoàng đế tốt. Nhưng dân bị họ giết, thành bị họ đốt đâu phải là ít?”
Viên Thừa Chí thở dài sườn sượt rồi hỏi: “Thế thì biết phải làm gì?”
Lý Nham đáp: “Mạnh Tử từng nói, làm vua mà không giết người nào trong thiên hạ mới là vua tốt. Ta nghĩ chuyện đó chỉ là nói suông, chỉ là mơ ước của Mạnh Tử.”
Viên Thừa Chí buồn bã hỏi: “Đại ca! Nếu đại ca làm hoàng đế, đại ca sẽ phải giết tiểu đệ hay sao?”
Lý Nham đáp: “Chắc chắn là không. Người trên thế gian ai cũng muốn có danh lợi, uy quyền, địa vị, kim ngân, châu báu, mỹ nhân; nhưng Mạnh Tử đã nói: Con người khác cầm thú chẳng bao nhiêu, chỉ khác ở chỗ hiểu biết tình nghĩa. Ta cùng đệ đã có tình có nghĩa. Khi làm hoàng đế có thể hưởng được tiền tài châu báu và mỹ nhân trên khắp thiên hạ, nhưng ta quyết không phế bỏ tình nghĩa anh em để được làm hoàng đế. Dù được một trăm mỹ nhân như Trần Viên Viên, như Trần Phương Phương, ta quyết không phế bỏ tình nghĩa với đại tẩu của đệ.”
Chàng đưa tay ra nắm chặt cổ tay Hồng Nương Tử, rồi đột nhiên gục mặt xuống bàn. Ly chén đổ vỡ, rượu bắn lên ướt người, nhưng Lý Nham vẫn không động đậy.
Hồng Nương Tử và Viên Thừa Chí đều kinh hãi, định dìu Lý Nham dậy, nhưng thấy chàng đã tắt thở rồi. Thì ra trong tay áo của Lý Nham có giấu một thanh trủy thủ. Chàng đã dùng trủy thủ đâm thủng tim mình.
Hồng Nương Tử cười nói: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu!” Nàng rút đao ở thắt lưng ra, tự vẫn theo chồng.
Viên Thừa Chí đứng ngay bên cạnh, nếu muốn cản trở thì thừa sức. Nhưng lúc này chính chàng cũng đau lòng khổ sở, muốn chết cho xong nên không có ý định cứu giúp. Đột nhiên bên tai chàng vẳng lên tiếng hát của lão mù, hôm trước chàng đã cùng Lý Nham nghe thấy ở Bắc Kinh: “Làn khói anh hùng hôm nay, vạn lý trường thành ngày trước…”
Tướng sĩ thấy vợ chồng chủ soái cùng tự sát, đại doanh lập tức náo loạn, chỉ một lúc là mấy vạn quan binh rút đi sạch sẽ. May mà Chế quân trước nay vẫn giữ quân kỷ nghiêm ngặt, võ quan chỉ huy binh lính thối lui, đội ngũ vẫn chỉnh tề. Về phía Sấm quân đến tấn công, họ cũng nghĩ tới nghĩa khí đồng đội nên không truy sát, chỉ khiêng thi hài của vợ chồng Lý Nham về phụng lệnh.
*
* *
Viên Thừa Chí thấy vợ chồng nghĩa huynh chết thảm, khóc lóc một hồi rồi dẫn mọi người lùi vào trong núi, thương nghị kế hoạch sau này. Mọi người đều nói: “Lý Tự Thành nghi kỵ, chèn ép huynh đệ như vậy, chúng ta không cần đi theo hắn nữa. Ở Mã Cốc Sơn vùng Sơn Đông vẫn còn mấy ngàn huynh đệ Kim Xà Doanh, phải lo liệu đàng hoàng, đề phòng bọn Lý Tự Thành, Lưu Tông Mẫn, Cao Tất Chính ra tay tiêu diệt.”
Viên Thừa Chí nghĩ chuyện này không sai, nên nhờ Thôi Thu Sơn cưỡi ngựa suốt đêm về Sơn Đông báo tin, dặn Tôn Trọng Thọ đề phòng Lý Tự Thành phái binh đánh lén, hạ độc thủ như các huynh đệ La Nhữ Tài, Loạn Thế Vương, Giáp Lý Nhãn, Lý Nham đã bị. Viên Thừa Chí lại phái Hồng Thắng Hải quay về Bắc Kinh thông báo cho Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng, Thiết La Hán, Hồ Quế Nam rút hết về Mã Cốc Sơn ở phía nam. Thôi Thu Sơn cùng Hồng Thắng Hải lập tức đi ngay.
Trương Triều Đường khuyên Viên Thừa Chí đến nước Bột Nê để di dưỡng tinh thần. Viên Thừa Chí đáp: “Tại hạ còn việc lớn phải lo, chưa thể đi ngay.” Ba người Trương Triều Đường liền cáo từ về nước.
Ngày hôm sau, Viên Thừa Chí dẫn Thanh Thanh, Hà Thiết Thủ đi Sơn Đông. Vết thương trên đùi Thanh Thanh sắp lành, không cần chống nạng vẫn đi lại được.
Viên Thừa Chí đi về hướng đông, nhưng tim chàng lại nhích dần về hướng tây, chỉ mong đến Tây Tạng để gặp A Cửu. Chàng nghĩ: “Ta chưa kết tình phu phụ với Thanh Thanh, đi đến Tây Tạng không trở về vẫn không thể gọi là phụ bạc.”
Từ khi phân ly A Cửu, trong lòng chàng tha thiết nhớ nhung, chỉ muốn bay ngay tới Tây Tạng để gặp nàng. Trước tiên sẽ phải chơi cờ suốt một tháng với Mộc Tang đạo trưởng, để lão thỏa mãn cơn nghiện. Khi Mộc Tang đạo trưởng đã ghiền, sẽ không quấy rầy mình nữa. Lúc đó mình có thể dẫn A Cửu đi sâu vào Tây Tạng, tìm vùng núi cao hoang dã không dấu chân người, từ đó không về Trung Nguyên. Sau này bằng hữu, huynh đệ… không gặp ai nữa, ngày nào cũng sống bên A Cửu, sống như thần tiên mãi đến già rồi chết. Ở Tây Tạng có thể săn bắn, có thể hái thuốc, quyết không đến nỗi chết đói.
Chàng tương tư A Cửu không chỉ vì nàng diễm lệ. Mỗi lúc được ở bên nàng, dù chỉ trong khoảnh khắc, nhưng lòng chàng bao giờ cũng hạnh phúc vui mừng khó mà diễn tả. Chỉ cần nghe một tiếng cười nhẹ, một lời nói khẽ của A Cửu là chàng hoan hỉ vô cùng, sung sướng cả nửa ngày trời. Nếu có thể bên nhau mười ngày nửa tháng, dĩ nhiên càng hoan hỉ sung sướng hơn nhiều. Còn nếu suốt đời được ở bên nhau, vĩnh viễn không tách rời nhau, thì hạnh phúc này không sao tưởng tượng được nữa.
Suốt dọc đường, tâm trí Viên Thừa Chí cứ phiêu du trong cõi mộng. Một hôm Thanh Thanh đột nhiên hỏi giật giọng: “Này! Đại ca nghĩ gì mà vui vẻ thế? Nghĩ đến A Cửu phải không?”
Viên Thừa Chí kinh hãi, cãi ngay: “Không phải! Ta đang nghĩ đến cái đêm đánh nhau với Ngọc Chân Tử ở Thịnh Kinh. Hồ Quế Nam lén ăn cắp áo quần khiến hắn không còn mảnh vải che thân, tiếp chiêu với ta bối rối không sao tả xiết.”
Thanh Thanh phì cười, không tra vấn nữa. Viên Thừa Chí bỗng hoảng hốt nghĩ: “Ta rất ít khi nói dối, sao phen này phải lừa gạt nàng? Chỉ vì nếu nàng biết mình nghĩ đến A Cửu, nhất định sẽ đau lòng. Nếu mình đi tìm A Cửu, không bao giờ quay về, nàng sẽ đau lòng đến thế nào? Không chừng nàng lại nhảy xuống núi tự tử. Ta phải làm sao? Đại ca Lý Nham đã nói: Con người chỉ khác cầm thú ở chỗ hiểu biết tình nghĩa. Đại ca thà tự tử, không chịu phụ lòng Sấm Vương. Thanh đệ đối với ta có tình có nghĩa, nếu ta đối với nàng vô tình vô nghĩa, ta còn là con người hay không? Sau này ở chung với A Cửu suốt đời suốt kiếp, mỗi khi nghĩ đến Thanh đệ, mình có hạnh phúc vui vẻ thật không? Mình có thể quên Thanh đệ, nghĩ đến một mình A Cửu được không?”
Nghĩ đến đây, chàng bất giác lắc đầu quầy quậy. Thanh Thanh mỉm cười hỏi: “Sao bây giờ đại ca lại lắc đầu?”
Viên Thừa Chí cười khổ, lẩm bẩm: “Không được! Dứt khoát không được.”
Chàng lại nghĩ tới câu nói cuối cùng của Lý Nham: Dù được một trăm mỹ nhân như Trần Viên Viên, như Trần Phương Phương, ta quyết không phế bỏ tình nghĩa với đại tẩu của đệ. Lập tức chàng quyết định: “Cố gắng nén lòng nhẫn nhịn, không nghĩ đến A Cửu nữa.”
Nhưng chàng không nén nổi, lại nghĩ đến A Cửu ngay: “A Cửu từng nói, ba năm mà mình không đến tìm, nàng sẽ xuống tóc làm ni cô. Nàng lại nói sẽ đợi mình mười năm, mười năm mình không đến thì nàng vẫn làm ni cô. Mỗi ngày nàng ngồi gõ mõ niệm Phật, trong lòng mãi nhớ đến mình, há chẳng khổ sở vô cùng? Chẳng phải mình có lỗi với nàng? Chẳng phải mình đối với nàng vô tình vô nghĩa? Chẳng phải mình biến thành cầm thú?”
Hôm đó đi vào địa giới tỉnh Hà Nam. Mọi người ăn cơm xong, Hà Thiết Thủ bỗng hỏi Viên Thừa Chí: “Sư phụ! Chiêu khởi thủ của Hỗn Nguyên Công phải luyện tập thế nào?”
Viên Thừa Chí đáp: “Đó là công phu căn bản của phái Hoa Sơn chúng ta. Ta phải bẩm báo sư tổ của cô trước đã, đợi lão nhân gia cho phép, ta mới có thể truyền thụ cho cô.”
Hà Thiết Thủ lại hỏi: “Hôm trước kịch đấu với Ngọc Chân Tử, sư phụ chạy sang trái lại đột nhiên quay sang phải, vô cùng linh hoạt. Đó là võ công gì?”
Viên Thừa Chí đáp: “Đó là thân pháp của Kim Xà Lang Quân, ta có thể dạy cho cô.”
Chàng để Thanh Thanh, Thôi Hy Mẫn và mọi người đi trước, tìm một khoảng trống trong rừng, bắt đầu truyền thụ thân pháp, chưởng pháp Kim Xà cho đồ đệ. Hà Thiết Thủ học được cao chiêu, hoan hỉ vô cùng, Nàng rạng rỡ mặt mày, cảm ơn liền miệng: “Sư phụ! Đa tạ sư phụ! Đa tạ sư phụ! Đệ tử thật không biết làm sao để báo đáp sư phụ. Sư phụ! Lão nhân gia mấy hôm nay buồn bã chẳng vui vẻ gì, có phải nhớ đến A Cửu không?”
Viên Thừa Chí tránh né đề tài này, bèn nói: “Mấy hôm nay tâm tình ta không tốt, đau lòng vì đại ca Lý Nham vừa tạ thế.”
Hà Thiết Thủ nói: “Thế thì đệ tử vô kế khả thi. Nhưng nếu vì A Cửu thì đệ tử có không ít diệu pháp.”
Viên Thừa Chí vội bảo: “Cô nói thử xem?”
Hà Thiết Thủ nói: “Sư phụ! Ngũ Độc Giáo của đệ tử có một loại thuốc gọi là Xuất Hiếu Đơn. Uống thuốc này thì hôn mê năm ngày năm đêm, toàn thân lạnh cứng, tim không đập, không hơi thở, giống hệt người chết. Sau đó thì nhẹ nhàng hít thở, tim đập trở lại, tỉnh dậy khỏe khoắn bình thường. Dọc đường sư phụ ráng tìm loại trái cây gì lạ, la lên rồi hái ăn thử, nhưng đừng để Hạ sư cô và người khác ăn. Sau đó đệ tử sẽ cho sư phụ uống Xuất Hiếu Đơn, đến giữa đêm thì sư phụ trúng độc mà chết. Đệ tử sẽ đặt sư phụ vào một cái quan tài có lỗ thông hơi, chôn xuống đất. Đợi Hạ sư cô cùng mọi người rời khỏi, đệ tử lập tức đào sư phụ lên, đưa vào khách sạn nghỉ ngơi. Đủ năm ngày là sư phụ đứng dậy, mạnh khỏe như rồng. Lúc đó chúng ta có thể cưỡi ngựa phóng nhanh đến Tây Tạng, tìm gặp tiểu sư nương A Cửu để sư phụ nắm lấy bàn tay trắng trẻo vừa nhỏ vừa xinh.”
“Hạ sư cô thấy sư phụ chết, sẽ nghĩ rằng số mạng sư phụ chết yểu, khóc lóc một trận rồi thôi, nhất định không trách sư phụ bạc tình bạc nghĩa, không hận sư phụ suốt đời. Sư tổ, các vị sư bá, bằng hữu của sư phụ chỉ luyến tiếc một vị đại anh hùng tham ăn trái độc mà chết, chỉ trách trời không có mắt, nhất định không trách sư phụ bất nhân bất nghĩa. Nếu sư phụ không yên tâm, cứ cho Thôi Hy Mẫn ăn trái rồi uống Xuất Hiếu Đơn, cùng chết đi sống lại. Lúc đó Hạ sư cô không thể nghi ngờ gì nữa.”
Viên Thừa Chí nói ngay: “Không được, không được! Cô nghĩ mà xem, Lý Nham đại ca vừa chết, phu nhân của đại ca lập tức tự vẫn theo chồng. Nếu Thanh Thanh thấy ta chết bèn tự sát theo, há chẳng hại mạng cô ấy?”
Hà Thiết Thủ cãi: “Hạ sư cô chưa thành thân với sư phụ, chưa thể gọi là phu nhân. Cô ấy không tự tử đâu.”
Viên Thừa Chí nói: “Nếu bây giờ chúng ta giục ngựa chạy về phía tây, Thanh Thanh chưa chắc đuổi kịp. Ta không đi Tây Tạng chỉ vì trong lòng không yên, không muốn đối xử với nàng vô tình vô nghĩa. Không thì ta bỏ đi bất cứ lúc nào, nhất định cô ấy không thể giữ được.”
Hà Thiết Thủ nói: “Đúng vậy! Sư phụ mà thi triển khinh công Thần Hành Bất Biến thì khắp thiên hạ chẳng ai giữ được, ngay cả sư tổ và Mộc Tang đạo nhân cũng chưa chắc giữ được sư phụ. Tiểu sư nương A Cửu nắm chặt trái tim sư phụ rồi, nên mới giữ được chân sư phụ.”
Viên Thừa Chí nghiêm giọng bảo: “Cô đừng gọi A Cửu bằng tiểu sư nương có được không? Lúc này cô ấy bị cô làm phiền như vậy, chắc phải nháy mắt hắt hơi lia lịa rồi!”
Hà Thiết Thủ cười nói: “Sư phụ ơi là sư phụ! Trên thế gian này, nam nhân tam thê tứ thiếp là chuyện bình thường. Cho dù nạp tới thất thê bát thiếp cũng chết ai đâu? Như Sa Thiên Quảng trại chủ của chúng ta, ai cũng biết, ngoài áp trại phu nhân hung dữ như cọp cái ở Ác Hổ Câu ra, còn tới năm bà vợ bé nữa, chia ra năm phủ trong tỉnh Sơn Đông. Thanh Châu một bà, Lai Châu một bà, Mật Châu một bà, nghe nói ở Kỳ Thủy, Giao Châu cũng có. Vợ cả của Sa trại chủ không làm gì được, biết rõ nhưng không dám hỏi. Sư phụ! Sư phụ là thượng cấp của Sa trại chủ. Sa trại chủ làm được, sao sư phụ không làm được? Sư phụ hãy cưới Hạ sư cô làm Đại sư nương của đệ tử trước, rồi cưới A Cửu làm Nhị sư nương. Đệ tử thấy Tiêu Uyển Nhi cô nương đối với sư phụ cũng thắm thiết vô cùng. Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng, cô ấy chẳng có tình nghĩa gì với La sư ca đâu, đệ tử đứng ngoài thấy rất rõ ràng. Thế thì sư phụ cưới cô ấy làm Tam sư nương của đệ tử…”
Viên Thừa Chí nghiêm mặt, hừ một tiếng, đảo mắt liếc nhìn Hà Thiết Thủ.
Hà Thiết Thủ lại nói: “Sư phụ nghĩ vậy là sai rồi. Sư phụ tưởng đệ tử định khuyên sư phụ cưới đệ tử làm Tứ sư nương của đệ tử hay sao? Không phải đâu. Nếu trên thế gian không có Nhị sư nương A Cửu thì đúng là đệ tử rất muốn lấy sư phụ. Khi đó nếu sư phụ dạy võ công cho đệ tử không hết lòng, đệ tử có thể kéo tai sư phụ, phạt quỳ sư phụ. Nhưng trên thế gian đã có một cô nương xinh đẹp khả ái như A Cửu, thì đệ tử một lòng một dạ chỉ muốn làm đệ tử của sư phụ thôi, để sư phụ cứ toàn tâm toàn ý mà yêu chiều A Cửu. Người như A Cửu mà phải làm vợ bé của sư phụ, đâu phải là may mắn lắm.”
Nói đến đây, thần sắc nàng ra vẻ rất kiên quyết, vừa lắc đầu vừa mím môi lại nói: “Không làm, không làm! Nói gì thì nói, đệ tử cũng không làm.”
Viên Thừa Chí mỉm cười hỏi: “Cô không làm cái gì? Không làm giáo chủ Ngũ Độc Giáo phải không? Cô giúp ta tìm thêm một cô nương nữa làm Ngũ sư nương, thế thì năm người các cô có thể lập lại Ngũ Độc Giáo rồi.”
Hà Thiết Thủ lắc đầu nói: “Lục Độc Giáo hay Thất Độc Giáo gì cũng được, nhưng đệ tử quyết không làm vợ bé của sư phụ.”
Viên Thừa Chí cười nói: “Đa tạ cô! Nhưng sao cô lại nói chắc như chém đinh chặt sắt vậy?”
Hà Thiết Thủ đáp: “Đệ tử không dám nói. Nếu đệ tử nói ra, sư phụ sẽ không tốt với đệ tử nữa.”
Viên Thừa Chí bảo: “Thế thì cô đừng nói nữa.”
Hà Thiết Thủ nói: “Nhưng không nói thì lòng không thoải mái, thôi thì nói cho sư phụ biết. Thứ nhất, tiểu muội muội A Cửu nhỏ nhắn, xinh xắn, đẹp đẽ vô cùng, vừa gặp là thấy thương ngay, đệ tử không nỡ hạ độc giết cô ấy. Thứ hai, dù đệ tử nghiến răng mà hạ độc, nhất định sư phụ sẽ đau khổ vô cùng, suốt ngày khóc lóc rầu rĩ, nhớ nhung cô ấy chẳng lúc nào quên. Cô ấy vốn chỉ khả ái một trăm lần, sư phụ sẽ phóng đại thành một ngàn lần, một vạn lần, như Hằng Nga trên cung trăng, như tiên nữ xuống trần. Làm sao sư phụ để nữ nhân khác vào lòng được nữa? Vì thế mà đệ tử quyết không làm vợ bé của sư phụ. Nếu nam nhân mà không yêu đệ tử đến mức phát điên phát dại, thì lấy người đó chẳng thú vị gì. Bất luận làm vợ lớn hay vợ bé cũng đều như thế.”
Viên Thừa Chí lớn tiếng cười ha hả, nói: “Câu này đúng là nói thật. Sau này cô cứ chuyên tâm luyện công, nhất định ta sẽ tận tâm dạy dỗ.”
Hà Thiết Thủ cung kính trả lời: “Đa tạ sư phụ!”
Viên Thừa Chí nói: “Ta chắc chắn không cưới Nhị sư nương, đừng nói là Tam sư nương, Tứ sư nương gì gì nữa.”
Hà Thiết Thủ khuyên: “Thế thì sư phụ cũng đừng cưới Đại sư nương, kẻo sau này hối hận không kịp.”
Kể từ hôm đó, dọc đường Hà Thiết Thủ liên tiếp trình bày mưu kế, toàn là những mưu kế tà môn ngoại đạo. Nàng hết xúi Viên Thừa Chí đi tìm A Cửu, lại xung phong đi Tây Tạng để truyền tin, nhưng Viên Thừa Chí đều không đồng ý.
*
* *
Cuối cùng Viên Thừa Chí cùng mọi người đã đến Mã Cốc Sơn, gặp gỡ Kim Xà Doanh. Huynh đệ trong doanh thiết yến, mọi người vui vẻ suốt ba ngày.
Tôn Trọng Thọ cùng quần hùng luyện binh ở tỉnh Sơn Đông, từ lúc được tin của Thôi Thu Sơn thì mọi nơi quan trọng đều canh giữ nghiêm ngặt như thành đồng vách sắt. Lý Tự Thành từ Tây An truyền tướng lệnh, bắt hủy bỏ cái tên Kim Xà Doanh và Kim Xà Vương. Tôn Trọng Thọ tuân theo thánh chỉ mà làm, lại sai người trình tấu chương chúc mừng Lý Tự Thành đăng cơ làm hoàng đế. Lý Tự Thành hoan hỉ, hạ chỉ phong Viên Thừa Chí làm Chế tướng quân, phong Tôn Trọng Thọ cùng các tướng làm Quả Nghị tướng quân. Từ đó Tôn Trọng Thọ không ngớt phái sứ giả liên lạc với Lý Tự Thành, luôn tiện thám thính tin tức.
Tình hình sau khi Lý Tự Thành rút lui khỏi phủ Thuận Thiên, Hồng Nương Tử mới nói lại đôi chút, chưa được tường tận. Tôn Trọng Thọ đã phái người đến Bắc Kinh để thám thính tin tức ở kinh thành, bây giờ báo lại cho Viên Thừa Chí biết.
Thì ra Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn thống lãnh đại quân Mãn Thanh, lệnh cho Anh vương La Tề Cát và Dự vương Đa Trạch dẫn hơn vạn kỵ binh tiến vào quan ải, liên hiệp với quân của Ngô Tam Quế. Trận đại chiến Nhất Phiến Thạch ngoài Sơn Hải Quan, nội bộ Sấm quân bất hòa nên tổn hại rất lớn, thua trận lui binh. Cốc Đại Thành được giao đoạn hậu, chặn quân Mãn Thanh đuổi theo. Cốc tướng quân cố sức chống đỡ, rồi tử trận. Lý Tự Thành rời Bắc Kinh, cùng Lưu Tông Mẫn, Ngưu Kim Tinh, Tống Hiến Sách, Lý Quá, Lý Mâu, Điền Kiến Tú lui về Tây An.
Tôn Trọng Thọ cũng lấy ra một số văn bản, bố cáo của quân Mãn Thanh, đưa Viên Thừa Chí xem. Trong đó có lời minh thệ của Đa Nhĩ Cổn và các tướng Mãn Thanh khi vào quan ải, có đoạn: “Từ lúc nhập quan, tuyệt đối không được giết người vô cớ, không được cướp bóc tài sản, không được phóng hỏa đốt nhà. Không làm theo lời thề này, nhất định trị tội.” Còn có nghiêm lệnh của Đa Nhĩ Cổn sau khi vào cung: “Tướng lãnh vào thành không được ở trong nhà dân, để bá tính được yên vui. Tuyệt đối không được lấy của dân một cây kim sợi chỉ.” Lại còn một sắc lệnh của Nhiếp chính vương Đại Thanh: “Chính trị tiền triều tệ hại, không gì tệ hại bằng gia phái. Ngoài tiền thuế lại còn nhiều loại trưng thu, phần trưng thu so với phần thuế chính thức nhiều gấp mấy lần. Hai mươi năm nay thiên hạ nghèo đói vô cùng, dân đủ ăn bữa sáng, không đủ ăn bữa chiều. Đặt thêm danh mục để trưng thu tiền thuế, chẳng khác nào cướp bóc dân chúng. Hôm nay hẹn ước với nhân dân trăm họ, bãi bỏ tất cả các loại gia phái thu ngoài tiền thuế chính thức. Quan lại mà lợi dụng chức vụ, lén thu gia phái, điều tra được sẽ trị tội.”
Tôn Trọng Thọ thở dài rồi nói: “Nỗi khổ không nói hết của bá tính đúng là do gia phái mà ra. Thu thuế xong, châu huyện chỉ nói một tiếng “gia phái” là đẻ ra vô số danh mục, nhiều gấp bội tiền thuế chính thức. Dân chúng cơm ăn không no, làm sao đóng nổi được các loại gia phái đó, bị ép đến nỗi từ già đến trẻ phải treo cổ, nhảy sông.”
Viên Thừa Chí hỏi: “Sau khi Thanh binh vào kinh, chúng có thật sự không vào nhà dân, không lấy cây kim sợi chỉ của dân hay không?”
Tôn Trọng Thọ lại thở dài: “Thanh binh tuy là man di ngoại tộc, nhưng sau khi vào kinh chúng thật sự không vào nhà dân, không cướp tài sản, không bắt nữ nhân.”
Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Trên mái Sùng Chính điện ở Thịnh Kinh, mình đã nghe Hoàng Thái Cực đối đáp với Phạm Văn Trình, Bao Thừa Tiên, Ninh Viên Ngã. Nhất định Đa Nhĩ Cổn đã bắt chước tiên quân, đánh vào lòng người để chiếm đoạt thiên hạ Đại Hán chúng ta.”
Tôn Trọng Thọ lại nói: “Sau khi Sấm Vương thua chạy về phía Tây, Tiêu thân vương Hào Cát của Mãn Thanh phụng mệnh đánh tới Sơn Đông. Chẳng bao lâu hắn đã tấn công vào Tế Nam, phá Thanh Châu, chém tướng Triệu Ưng Nguyên, bình định Mãn Gia Đầu ở Quế Ninh. Kim Xà Doanh chúng ta ở Sơn Đông nên chưa bị quân Thanh đến tấn công.”
“Lúc này các đại thần triều Minh đã đưa Phước Vương lên làm giám quốc, rồi lập làm Hoành Quang hoàng đế. Phước Vương là em họ của Sùng Trinh hoàng đế. Cha của y là Thường Thuần, em trai của tiên đế. Đúng là Phước Vương thuộc hệ phả hoàng đế, nhưng tính tình hoang dâm hôn ám. Tổng đốc Mã Sĩ Anh ở Phụng Dương hết sức ủng hộ y lên ngôi là để dễ dàng khống chế. Nam Triều đặt kinh đô ở Nam Kinh, có Binh bộ thượng thư Sử Khả Pháp cho rằng Lộ Vương hiền minh hơn, muốn lập Lộ Vương làm hoàng đế. Nhưng Mã Sĩ Anh đang nắm binh quyền, lại liên lạc với bốn tổng binh lớn là Cao Kiệt, Lưu Trạch Thanh, Lương Lương Tả, Vương Đức Công đang đóng binh ở Giang Bắc, chủ trương ủng hộ Phước Vương nên Sử Khả Pháp không làm gì được, đành phải đồng ý. Trong Tứ đại tổng binh, Cao Kiệt đóng quân tại Tứ Thủy ở Giang Bắc. Sử Khả Pháp ngầm dặn y liên lạc với Kim Xà Doanh để cùng chống lại quân Thanh xâm phạm.”
“Cao Kiệt vốn là đại tướng dưới trướng Lý Tự Thành, đã tư thông với Doanh Thị, vợ Lý Tự Thành. Cao Kiệt sợ lộ bí mật sẽ bị giết, nên đem Doanh Thị chạy trốn, dẫn theo một số quân. Y đầu hàng triều đình, được phong chức Tổng binh, từng đối địch với Sấm quân. Kim Xà Doanh là một đội quân tinh nhuệ của Sấm quân, lại đồn trú không xa. Y vì hổ thẹn mà không dám liên lạc với Kim Xà Doanh, lại cấu kết với Tổng binh Hứa Đình Quốc ở Hà Nam. Không ngờ Hứa Đình Quốc đã lén đầu hàng quân Thanh rồi, bèn giả vờ thiết yến khoản đãi, thừa cơ giết chết Cao Kiệt.”
Viên Thừa Chí hỏi đến tình hình Nam Triều ở Nam Kinh như thế nào. Tôn Trọng Thọ kể: “Ở thành Nam Kinh, Mã Sĩ Anh nắm hết quyền hành, trọng dụng đồng đảng còn sống sót của Ngụy Trung Hiền như bọn Nguyễn Đại Thành. Chuyện gì cũng phải đút tiền mới làm được, vô cùng thối nát. Chức quan nào cũng có thể đem ra mua bán, nên dân chúng Nam Kinh có câu cửa miệng: Trung Thư ruồi bay đầy ngõ, Tổng Đốc chó chạy cùng đường. Tiền bạc của cả Giang Nam đã bị vét hết, nhét vào túi của bè lũ Mã Sĩ Anh.”
Viên Thừa Chí nói với Thanh Thanh: “Thì ra tên Mã Sĩ Anh đó! Cháu của hắn đã bị Thanh đệ giết ở Nam Kinh.”
Thanh Thanh mỉm cười nói: “Muội cũng sáng suốt, không giết nhầm người tốt.”
Tôn Trọng Thọ nói: “Các tổng binh ở Giang Bắc đều tự mình làm chủ, không tuân mệnh lệnh triều đình. Chỉ có Sử Khả Pháp ở Dương Châu còn một dạ trung thành, sai đâu làm đó, nghĩ thật là hiếm có. Ông ấy cũng từng phái người đưa lễ vật đến đây, bảo chúng ta quy thuận Nam Triều, cùng kháng cự Thanh binh. Thuộc hạ trả lời: Tiểu tướng không dám chủ trương, đợi chủ soái Viên tướng công về doanh sẽ bẩm báo rõ ràng hảo ý của đại nhân, khi đó chủ soái sẽ trả lời chính thức. Nhưng bản doanh vẫn có chí hướng kháng Thanh bảo vệ dân chúng, nhất định sẽ đồng tâm hiệp lực với đại nhân.”
Viên Thừa Chí nói: “Chống đỡ Thanh binh vốn là di chí của tiên phụ. Sử Khả Pháp là một tay hảo hán, liên hiệp với ông ấy cũng được. Nhưng triều đình Nam Kinh thối nát dơ bẩn như vậy, chúng ta không cần quy thuận. Tôn thúc thúc, Chu thúc thúc, La thúc thúc, Nghê thúc thúc! Ý kiến các vị thế nào?”
Tôn Trọng Thọ cùng mọi người đều nói: “Bọn thuộc hạ cũng nghĩ như chủ soái.”
La Đại Thiên lên tiếng: “Gần đây ở Nam Kinh lại có việc giam cầm thái tử, khiến cho người ta phải tức mình đến chết.”
Viên Thừa Chí vội hỏi rõ chi tiết. La Đại Thiên kể: “Một đại thần trốn từ Bắc Kinh về phía Nam, dẫn theo một thiếu niên, nói là thái tử của Sùng Trinh hoàng đế.”
Viên Thừa Chí nghĩ thầm: “Đó là em trai A Cửu, mình đã từng gặp.”
La Đại Thiên tiếp: “Nam triều biết chuyện, phái người tới điều tra. Có những người từng làm quan ở Bắc Kinh, từng dạy thái tử học hành. Thái tử vừa gặp là nhận ra họ ngay, gọi tên họ ra. Nhưng Phước vương Hoành Quang hoàng đế và Mã Sĩ Anh đã dặn, nếu là thái tử thật thì Hoành Quang phải nhường ngôi. Mấy ông quan kia đã được chỉ thị, dĩ nhiên đều báo lại rằng thiếu niên đó là người xa lạ. Triều đình không hỏi gì thêm, nhốt vào trong ngục. Đó có phải thái tử hay không, chẳng ai hỏi được nữa.”
“Nhưng chuyện này đã truyền tụng ra ngoài. Trong những tướng quân đang đóng binh ở vùng Trường Giang, có Tả Lưu Ngọc tại Võ Xương. Ông này không hợp với Mã Sĩ Anh, tuyên bố giam cầm thái tử là cực kỳ bất trung, bèn dẫn quân về phía đông để thanh trừ hoàng đế. Đến Cửu Giang thì đột nhiên Tả Lưu Ngọc phát bệnh mà chết, quân đội do con trai của ông là Tả Mộng Canh nắm giữ. Nam Kinh điều Vương Đức Công ra bờ sông đón đánh. Tả Mộng Canh không hiểu cách hành quân đánh trận, nên thua chạy rồi đầu hàng Mãn Thanh.”
Chu An Quốc nói: “Dĩ nhiên chúng ta phải hồi đáp Sử đại nhân cho đúng lễ.”
Viên Thừa Chí bảo: “Thế thì nhờ Chu thúc thúc cực khổ một phen, đưa vài món lễ vật đến Dương Châu. Chúng ta lấy danh nghĩa là bằng hữu, liên hiệp với Sử Khả Pháp chống đỡ quân Mãn Thanh. Nếu Thanh binh phạm vào vùng sông Hoài sông Tứ, quân ta sẽ nhiễu loạn hậu phương để kiềm chế chúng, phối hợp mà đánh trận. Nhưng chúng ta không chịu lệnh của triều đình.”
Chu An Quốc nhận lệnh đi ngay.
Không bao lâu Hồng Thắng Hải, Trình Thanh Trúc, Sa Thiên Quảng, Hồ Quế Nam, Thiết La Hán và những huynh đệ đang ở Bắc Kinh cũng về đến Sơn Đông, gặp mặt tại Kim Xà Doanh. Viên Thừa Chí cùng Tôn Trọng Thọ, La Đại Thiên, Nghê Hào, Sa Thiên Quảng, Trình Thanh Trúc lo chỉnh đốn thuộc hạ, chuẩn bị đối kháng với quân Thanh, giúp đỡ Sử Khả Pháp. Kim Xà tam doanh được thao luyện thành tinh binh, tiến lùi như ý.
Khoảng tháng tư, tin tức liên tiếp truyền đến. Đô thống nhà Thanh là Chuẩn Tháp đã đánh bại quân Minh ở Thị Huyện, chiếm được Từ Châu, rồi liên tiếp đánh bại Lưu Trạch Thanh ở các nơi Hoài An, Thông Châu, Như Cao. Lưu Trạch Thanh đầu hàng nhà Thanh. Đa Trạch dẫn đại quân, nhân lúc ban đêm vượt sông Hoài, chia cắt Kim Xà Doanh và Sử Khả Pháp.
Kim Xà Doanh ít quân, không thể dàn trận đánh nhau chính diện, nên chỉ phái một ngàn quân đến Dương Châu trợ giúp, đồng thời không ngớt quấy nhiễu sau lưng để kiềm chế quân Thanh. Nhưng chẳng bao lâu thì có tin thành Dương Châu bị phá, Sử Khả Pháp hy sinh.
Sau đó Chu An Quốc trở về, toàn thân vấy đầy máu. Hôm đó Sử Khả Pháp thấy Kim Xà Doanh phái quân trợ chiến, ngỏ lời cảm tạ rồi hướng về Sơn Đông thi lễ với Viên tướng quân. Ông cũng tỏ ý bất bình về việc Viên Đốc sư chết oan năm trước, gửi một lá thư ngắn cho Viên Thừa Chí. Trong đó có đoạn: “Cùng chống rợ Thanh; Đốc sư có con; Chung sức giết giặc; Báo quốc rửa hờn”.
Viên Thừa Chí cảm khái vô cùng, hỏi đến tình hình chiến sự. Chu An Quốc vừa rơi nước mắt vừa kể lại. Ngày mười lăm tháng tư, quân Thanh tấn công Dương Châu. Sử Khả Pháp năm lần từ chối đầu hàng, cố sức ứng chiến. Chu An Quốc ở sát bên ông trợ chiến. Đến ngày hai mươi lăm thì thành Dương Châu bị phá, Sử Khả Pháp bỏ mình vì nước. Một ngàn quân tướng của Kim Xà Doanh phái đến, phần lớn đã hy sinh. Phá thành xong, quân Thanh đốt giết dữ dội, chỉ mười ngày đã giết hơn tám chục vạn người, vụ này gọi là “Dương Châu thập nhật”. Sau khi thành bị phá, Chu An Quốc dẫn một ít binh lính chạy thoát ra ngoài.
*
* *
Viên Thừa Chí, Tôn Trọng Thọ cùng mọi người ngồi bàn bạc kế hoạch sau này. Triều đình Nam Kinh thì vua tôi nát bét, tranh giành lẫn nhau, xem ra Nam Kinh chỉ vài ngày nữa cũng bị quân Thanh xâm chiếm. Sấm quân đã thua chạy đến Thiểm Tây, nhiều tướng lĩnh bỏ trốn, quân đội vô kỷ luật nên dân chúng không ủng hộ, bại trận liên tiếp ở vùng Hồ Bắc. Nghe nói ở núi Cửu Cung, Sấm quân đã bị dân chúng đánh lén, nhưng chuyện này không có chứng cớ nên không biết thật giả thế nào. Lưu Tông Mẫn cùng nhiều đại tướng đã bị quân Thanh bắt giết. Ngưu Kim Tinh đầu hàng nhà Thanh, con trai hắn là Ngưu Toàn được làm một chức quan nhỏ của Thanh triều.
Mọi người đều thấy tình hình trước mắt khó khăn vô kể, nhưng tuân theo di chí của Viên Đốc sư, chỉ còn cách chống cự với Hồ Lỗ đến cùng. Quân Thanh có cả thế lẫn lực, rõ ràng khó mà đánh thắng, nhưng đại trượng phu đã hiến thân vì nước thì phải chết mới thôi.
Thế là Sa Thiên Quảng, Trình Thanh Trúc chia nhau đi các tỉnh Trực Lệ, Sơn Đông, tập hợp toàn bộ thuộc hạ trước kia, lại triệu tập thêm một số huynh đệ khác. Ngô Bình, La Lập Như, Tiêu Uyển Nhi về Ứng Thiên Phủ ở Nam Kinh, tìm kiếm bang chúng Kim Long Bang và những bang hội võ lâm đồng đạo. La Đại Thiên, Nghê Hào đi tới Quan Liêu, tập hợp những thuộc hạ cũ của Viên Sùng Hoán ở vùng Cẩm Ninh và Sơn Hải Quan. Thêm vào đồng đạo võ lâm bảy tỉnh và Cái Mạnh Thường, lực lượng bành trướng được nhiều.
Từ lúc thành lập Kim Xà Doanh, hào kiệt đã quy tụ về không ít, nhưng muốn kháng cự với quân Thanh thì chưa đủ. Vì thế bây giờ quần hùng dựng sơn trại phất cờ khởi nghĩa, triệu tập binh lính đầy nghẹt trước sau Mã Cốc Sơn. Tinh thần mọi người đều phấn chấn.
Cái tên Kim Xà Doanh đã bãi bỏ, còn tên Sơn Tông Doanh thì phần lớn người ngoài không hiểu. Viên Thừa Chí cùng mọi người thương lượng, quyết định đặt tên mới là Đại Minh Sùng Tự Doanh để thu thập số dân chúng ở Sơn Đông còn trung thành với nhà Minh. Hễ có ai hỏi “Sùng Tự” là gì, quần hùng không nói là chữ “Sùng” của Viên Sùng Hoán, mà là chữ “Sùng” của Sùng Trinh, nên được không ít quan lại Minh triều và bại binh quy thuận.
Viên Thừa Chí và Tôn Trọng Thọ chia các huynh đệ thành năm doanh, gọi là Sùng Tự Nhất Doanh, Nhị Doanh… Ngày nào cũng thao luyện binh mã, chuẩn bị quân lương, bành trướng thế lực ra vùng núi Diêm Sơn, Đông Linh, Dương Tín, Hải Phong và các châu huyện lân cận.
Một hôm Viên Thừa Chí cùng La Đại Thiên, Thôi Hy Mẫn đi xem xét tình hình sơn trại. Đến ngoài thị trấn Phú Bình, bỗng thấy hơn trăm quân lính Sùng Tự Tam Doanh đang cướp bóc dân chúng, lại bắt theo mười mấy thiếu nữ. Viên Thừa Chí tức giận chạy tới can thiệp, rút kiếm giết ngay tên bả tổng chỉ huy. Phó bả tổng kêu gào: “Oan uổng quá, oan uổng quá!”
Viên Thừa Chí hỏi lại, thì ra doanh này do Hồng Thắng Hải quản lý, đã hết sạch quân lương, binh sĩ đã nhịn đói mấy ngày. Bả tổng xin phép Hồng Thắng Hải rồi dẫn quân ra ngoài trưng thu lương thực.
Viên Thừa Chí bèn triệu tập Hồng Thắng Hải và các bả tổng còn lại của Sùng Tự Tam Doanh để hỏi nguyên do.
Thì ra Sùng Tự Doanh đã mở rộng đến mười doanh, quân số đến hơn hai vạn, tiền tài quản lý không được chu đáo. Bảo vật trước đây Viên Thừa Chí tìm được và tiền thuế cướp được đã sử dụng gần hết. Các doanh không đủ quân lương, chẳng những nợ lương binh sĩ mà bữa ăn hàng ngày cũng cung cấp không đầy đủ.
Binh tướng các doanh đều là huynh đệ đã lâu. Lúc đầu mọi người nghĩ đến hai chữ nghĩa khí, biết rằng quốc gia đang buổi lâm nguy, khi thiếu lương thực đều nghiến răng chịu đựng. Nhưng thời gian kéo dài, nhiều binh sĩ không chịu được nữa. Ban đầu thì trộm cắp bò dê gà chó của dân chúng xung quanh, sau này thì cầm đao cướp giật. Phần lớn huynh đệ Sùng Tự Doanh đã từng là đạo tặc, gian dâm cướp bóc là chuyện thường ngày.
Thượng cấp thấy anh em cực khổ như thế, đôi khi đành nhắm mắt làm ngơ, không cấm đoán tuyệt đối. Viên Thừa Chí tra xét nghiêm ngặt, biết có mấy tên bả tổng thống lãnh thuộc hạ đi giết dân chúng, chiếm cả vợ con của họ, ở lại nhà của họ chứ không ở trong doanh trại nữa.
Viên Thừa Chí nổi trận lôi đình, chính tay cầm kiếm giết chết mấy tên bả tổng tàn bạo nhất. Chàng thét gọi quan thống binh Hồng Thắng Hải của Sùng Tự Tam Doanh đến, quát mắng rồi vung Kim Xà Kiếm còn dính máu lên, định chém vào cổ y.
Hồng Thắng Hải quỳ dưới đất, la lên: “Viên tướng công! Thuộc hạ biết lỗi rồi. Tướng công giết thuộc hạ xong, hãy tha các huynh đệ còn lại. Chỉ vì thuộc hạ không biết chỉ huy, cho phép họ làm bừa như vậy.”
Viên Thừa Chí thấy ánh mắt của y đầy vẻ van xin, nghĩ đến bình thường y đối với mình hết dạ trung thành. Hồng Thắng Hải xuất thân cường đạo, xưa nay đã quen làm những việc như thế nên không cảm thấy cướp bóc bá tính là việc không nên làm. Chàng ngẫm nghĩ: “Sùng Tự Doanh thành lập chưa bao lâu đã thiếu quân lương, cuộc sống của các huynh đệ thật là khốn đốn. Thường ngày chúng ta chỉ lo thao luyện trận pháp, dạy quân giết địch thủ thắng, ít khi nói tới kỷ luật trong quân, ít khi dạy dỗ huynh đệ phải biết yêu dân như con. Nhát kiếm này chém xuống, tuy không phải là lạm sát vô cớ, nhưng đúng là không dạy mà giết. Hồng Thắng Hải đáng chết, nhưng chẳng lẽ chính mình không có tội? Chẳng lẽ chính mình không đáng chết?”
Bảo kiếm của Viên Thừa Chí dừng lại trên không, băn khoăn không biết nên chém xuống hay không. Đột nhiên có tiếng kèn hiệu vang lên, quân canh báo là địch đến tấn công. Viên Thừa Chí liền cài kiếm vào thắt lưng rồi nói: “Có địch tấn công! Mau đi dàn trận nghênh chiến.”
Hồng Thắng Hải lớn tiếng vâng dạ, rồi nhảy chồm dậy, ra lệnh: “Đội một, canh giữ điểm cao ở Hải Giáp phía đông bắc. Đội hai, phòng thủ ngọn đồi bên trái. Đội ba, theo ta tiến ngay chính giữa. Đội bốn, đội năm mai phục ở đồng cao lương bên trái, không được động đậy, đợi ta dẫn quân địch đến gần mới được bắn tên. Đội sáu, đội bảy, đội tám lên ngựa xung phong.”
Hiệu lệnh vừa ban, bả tổng các đội liền thống lãnh binh sĩ chạy đi. Người thì chạy lên cao, canh gác đỉnh đồi. Người thì chui vào cánh đồng đang trồng cao lương mai phục. Người thì lên ngựa xung phong về phía trước.
Hồng Thắng Hải bảo Viên Thừa Chí: “Xin tướng công ở đây đốc chiến. Thuộc hạ dẫn huynh đệ xung phong.”
Viên Thừa Chí nói: “Hay lắm!” Chàng nhảy lên chiến mã, La Đại Thiên và Thôi Hy Mẫn cũng lên ngựa.
Viên Thừa Chí đứng trên yên ngựa nhìn về phía trước, thấy xa xa hai phía đông tây cờ bay phấp phới, binh lính Sùng Tự Doanh đều triển khai theo trận thế đã tập luyện. Chàng lớn tiếng hô: “Các huynh đệ Sùng Tự Tam Doanh hãy giết giặc lập công! Ta phải đi xem xét nơi khác.”
Quân tướng đều lớn tiếng trả lời: “Chủ soái yên tâm, nhất định bọn thuộc hạ sẽ liều mạng tử chiến. Chủ soái bảo trọng!”
Viên Thừa Chí cùng La Đại Thiên, Thôi Hy Mẫn giục ngựa chạy về hướng tây bắc, lên một ngọn đồi quan sát. Đại đội Thanh binh đã ào tới. Mấy chục kỵ binh phất cờ lớn dẫn đầu, phía sau là hàng ngàn kỵ binh nữa, tay cầm trường đao sáng chói, oai phong vô kể.
La Đại Thiên chau mày nói: “Đây là tinh binh Chính Bạch Kỳ của bọn Thát tử, quân bản bộ của Dự thân vương La Trạch. La Trạch là em ruột Đa Nhĩ Cổn, quân Thát tử của hắn nổi tiếng là tinh nhuệ nhất.”
Viên Thừa Chí từng thấy Đa Nhĩ Cổn ám sát Hoàng Thái Cực, biết bọn này ra tay rất ác độc. Chàng nói: “Được! Chúng ta tử chiến một trận với chúng.”
Trong chốc lát, Sùng Tự Nhất Doanh đã xung phong lên giao chiến. Kỵ binh nhà Thanh giương cung, bắn ra một trận mưa tên, quân Sùng Tự rơi xuống ngựa rất nhiều. Quân Sùng Tự cũng lác đác bắn lại, nhưng tên bay không có sức, Thanh binh chỉ đưa thuẫn gạt nhẹ là rơi tuột hết.
Viên Thừa Chí thấy cục diện không lợi, liền rút Kim Xà Kiếm ra, vừa gầm thét vừa xung phong vào trận địch. Đây là trận chiến giữa thiên quân vạn mã, võ công Viên Thừa Chí tuy cao, xuất thủ tuy nhanh, chẳng qua chỉ chém được mấy chục tên lính Thanh, làm sao cản nổi cả ngàn kỵ binh ào tới như sóng dữ? Quân Sùng Tự tuy dũng cảm chống cự, nhưng không thể nào cản nổi khí thế dời non lấp bể của quân Thanh.
Chưa đến một giờ, hơn hai ngàn binh Sùng Tự Nhất Doanh mất mạng gần hết, hoặc trúng tên rơi xuống ngựa, hoặc bị đao thương đâm chém. Hậu quân của Thanh binh lại có mấy ngàn quân xung phong tới. Đại đội Thanh binh chạy qua bên cạnh Viên Thừa Chí, xung phong vào Sùng Tự Nhị Doanh đang ở sau lưng chàng.
Viên Thừa Chí âm thầm kêu khổ, gấp rút quay ngựa về chỗ anh em Sùng Tự Nhị Doanh để sánh vai đánh địch. Chàng đoạt lấy một cây trường thương, quét ngang đâm thẳng giết một hơi mười mấy Thanh binh. Bọn này trước trán cạo trọc, sau gáy lại nuôi một cái bím rất dài, cánh tay phải to tướng để lộ ra ngoài, khí thế hung dữ khác thường. Có tên đã bị Viên Thừa Chí đâm trúng mà vẫn lớn tiếng thóa mạ, muốn nhảy lên liều mạng, chàng phải quét ngang trường thương để hất văng đi.
Giao chiến chẳng bao lâu, Sùng Tự Nhị Doanh cũng bắt đầu vỡ trận. Viên Thừa Chí giục ngựa chạy lên trước, thấy ba tên lính Thanh đang vây đánh một người. Người này đầy mình nhuộm máu, chính là Chu An Quốc. Viên Thừa Chí xông tới giết được hai tên, còn một tên bỏ Chu An Quốc, chạy đi tìm đối thủ khác.
Chu An Quốc lảo đảo trên lưng ngựa, nói: “Thừa Chí! Đa tạ ngươi đến cứu ta. Chúng ta không thắng được nữa…”
Viên Thừa Chí nhảy tới ôm lấy ông, đặt lên lưng ngựa của mình rồi nói: “Chu thúc thúc! Chúng ta đi cầm máu trị thương đã.”
Chu An Quốc bảo: “Không! Bọn Thát tử thắt bím này lợi hại quá. Chúng ta phải cố mà đánh, không thì mọi huynh đệ sẽ gặp nguy.”
Trời tối dần. Bọn Thanh gõ kẻng thu quân, đại đội kỵ binh lùi lại. Viên Thừa Chí cùng La Đại Thiên, Nghê Hào chỉ huy đám tàn binh Sùng Tự Doanh rút lên núi. Kỵ binh Thanh hung hãn, chỗ đất bằng không thể chống đỡ được, phải dựa vào núi mới có thế phòng thủ.
Tôn Trọng Thọ dẫn người đi kiểm điểm quân số. Trận này Sùng Tự Thập Doanh tổn thất hơn một nửa, doanh nào cũng chết và bị thương không ít. Sa Thiên Quảng, Trình Thanh Trúc, Chu An Quốc bị thương nặng. Thôi Thu Sơn, Hồng Thắng Hải, Tiêu Uyển Nhi, Thanh Thanh, La Lập Như, Thôi Hy Mẫn bị thương nhẹ. Ngô Bình, đại đệ tử Kim Long Bang, không may trúng tên mất mạng.
Viên Thừa Chí cùng Tôn Trọng Thọ sắp xếp đội ngũ, chia quân canh gác ở đỉnh đồi và các chỗ hiểm trở khác trên đường dẫn vào doanh trại Mã Cốc Sơn. Chàng lo cầm máu trị thương cho một số binh sĩ bị thương, rồi mới ủ rũ quay về nuốt vội chén cơm ngay trên trận địa.
Tôn Trọng Thọ nói: “Công phu cưỡi ngựa bắn tên của bọn Thát tử này quá giỏi, chúng ta không bì được. Từ đời Tống đến nay đã là như vậy. Năm xưa Nhạc Phi gia gia phải cho quân sĩ luyện tập trước võ công, nên trận đại chiến Chu Tiên Trấn mới có thể đánh cho bọn Kim cúp đuôi chạy trốn.”
La Đại Thiên nói: “Đúng là như vậy. Trước kia Viên Đốc sư muốn giải hòa với Hoàng Thái Cực, chính là muốn có thời gian để luyện võ công cho quân sĩ. Thế mà hôn quân lại khép tội oan, bảo Viên Đốc sư giải hòa với địch tức là thông địch. Tình hình chúng ta hiện nay, luyện võ cho quân đội không thể kịp được. Tuy không phải là quân ô hợp, nhưng không thể sánh với Thanh binh.”
Tôn Trọng Thọ nói: “Năm xưa Viên Đốc sư đại thắng ở Cẩm Ninh, chủ yếu vẫn dựa vào thành trì kiên cố và đại pháo lợi hại; còn cưỡi ngựa bắn tên nơi bình địa thì không địch nổi bọn quân thắt bím này. Huống chi rất nhiều người Hán đã đầu hàng bọn Mãn Thanh, bây giờ địch đông ta ít. Thừa Chí! Một nhúm người chúng ta đành bỏ xác sa trường, tận trung báo quốc, không thẹn với Viên Đốc sư là đủ.”
Viên Thừa Chí đưa tay vỗ ngực, nói: “Chỉ còn cách đó thôi.”
Chàng thấy Hồng Thắng Hải đứng bên cạnh, trên trán bị chém một đao, vết thương khá nặng. Trong lòng chàng không nỡ, bèn nói: “Thắng Hải! Hôm nay ngươi đánh trận bị thương, lấy công chuộc tội, không bị xử phạt theo quân kỷ nữa. Nhưng nếu giữ ngươi ở đây, các huynh đệ sẽ tưởng ta dung túng người thân, xử sự không công bằng, không tránh khỏi bại hoại lòng quân. Thôi thì ngươi quay về phái Bột Hải đi.”
Hồng Thắng Hải lập tức quỳ xuống, nói: “Viên tướng công, tiểu nhân biết lỗi rồi, đa tạ tướng công khai ân tha mạng. Từ nay về sau, bất luận thế nào tiểu nhân cũng không dám tái phạm. Tiểu nhân không xứng đáng chỉ huy quân sĩ nữa, nhưng xin tướng công ra ân giữ lại bên mình để phục thị, làm tùy tùng như trước đây.”
Viên Thừa Chí xua tay nói: “Ngươi về đi là hơn. Kỷ luật quân đội lỏng lẻo, chính ta cũng có lỗi. Ta không trách ngươi, nhưng bây giờ theo ta thì chỉ tổ chết theo ta.”
Đột nhiên Hồng Thắng Hải nghĩ đến một chuyện. Y dập đầu lạy Viên Thừa Chí hai lạy, nói: “Tiểu nhân tôn trọng tướng lệnh, bây giờ xin cáo biệt. Tướng công và các vị phải hết sức bảo trọng. Thế lực của bọn Thát tử đang mạnh, nếu không đánh nổi thì thôi vậy. Theo ý kiến của tiểu nhân, chi bằng chúng ta chiếm núi làm vua, hành nghề lạc thảo như Sa trại chủ trước đây. Chỉ cần không hàng Thát tử, không hàng triều đình, không theo Sấm Vương, không hại lương dân.”
Viên Thừa Chí cười ha hả rồi nói: “Ngươi nói rất hay, đúng là có tiến bộ. Sau này có chiếm núi làm vua hay không, ta chưa biết. Nhưng mấy câu không hàng Thát tử, không hàng triều đình, không theo Sấm Vương, không hại lương dân, thì bất luận thế nào cũng phải làm cho được. Hay lắm! Thôi, mọi người đánh nhau mệt mỏi lắm rồi. Ngày mai nhất định quân Thát tử lại tấn công, bây giờ nghỉ sớm một chút đi.”
Hồng Thắng Hải vâng dạ rồi đáp: “Ngày mai tiểu nhân lại theo tướng công đánh thêm một trận. Nếu còn giữ được sinh mạng, khi đó cáo biệt tướng công chưa muộn.”
Sáng sớm hôm sau, quả nhiên quân Thanh tiếp tục tấn công. Sùng Tự Doanh phòng thủ những chỗ hiểm yếu trên cao, nên kỵ binh Thanh không có đất dụng võ. Chúng tấn công cả ngày vẫn không được gì, đến xế chiều phải lui binh.
Sau khi Thanh binh rút lui, Viên Thừa Chí và Tôn Trọng Thọ chỉnh đốn thuộc hạ, lại phân chia canh gác những nơi hiểm yếu. Thừa Chí biết quân lương đang thiếu, nên không mở rộng đội ngũ nữa. Lúc này triều đình Nam Kinh và Dương Châu đã bị phá, chỉ còn tổng binh Vương Đức Công thống lãnh khoảng bốn vạn quân, đồn trú quanh vùng Hoài Tứ để kiềm chế quân Thanh. Quân Thanh cho rằng Sùng Tự Doanh ít quân, không cần để ý, nên tạm thời không tấn công nữa.
Ít lâu sau, Dự thân vương Đa Trạch và Anh thân vương A Tề Cát thống lĩnh Bạch Kỳ và Tương Bạch Kỳ đến tấn công. Viên Thừa Chí cố gắng kháng cự nhưng không thể nào địch nổi, thua một trận lớn. Sùng Tự Doanh tổn hao nặng nề, chỉ còn hơn ngàn binh tướng.
Viên Thừa Chí thống lãnh tàn binh rút lên một ngọn đồi. Đến xế chiều, ăn cơm xong, chàng cùng Tôn Trọng Thọ, La Đại Thiên phái quân canh giữ những nơi cần thiết. Đêm hôm đó, mọi người đều ngủ màn trời chiếu đất. Đột nhiên nghe dưới núi có tiếng vó ngựa rầm rập, tiếng binh khí va chạm loảng xoảng, Viên Thừa Chí đang mơ chợt tỉnh, nhảy lên một cành cây đứng quan sát. Phía nam có ba con rồng lửa đang trườn tới, rõ ràng quân địch đốt đuốc chia ba đường tấn công trong đêm. Lúc ban ngày, hai đội quân Bạch kỳ và Tương Bạch kỳ của Thanh binh đều đến từ phía tây, bây giờ phía nam cũng có địch quân, thanh thế còn lớn hơn nhiều.
Viên Thừa Chí kinh hãi nghĩ thầm: “Không thể để quân địch bao vây!” Chàng lập tức ra hiệu lệnh, cất tiếng thét vang: “Chia năm trăm quân phòng thủ đường lên núi phía nam.”
Vừa chia quân canh gác, địch ở phía nam đã tấn công đến nơi. Dưới ánh đuốc thấy rõ trong đội ngũ Thanh binh có mấy lá đại kỳ màu lam đang phất phới, một viên đại tướng đang giục ngựa lên núi. La Đại Thiên nói: “Chủ soái! Đó là bọn Thát tử Lam Kỳ. Đô thống Chuẩn Tháp lại dẫn binh đến tấn công chúng ta.”
Trên vai Viên Thừa Chí đeo hai cây cung, trên lưng có túi đựng đầy vũ tiễn. Chàng giương cung lắp tên nhắm thẳng vào ngực viên tướng Thanh đang lên núi. Cung uốn cong như vành trăng khuyết, tên bay vọt như sao băng, “phụp” một tiếng trúng ngay vào giữa ngực viên tướng đó. May mà hắn mặc thiết giáp bảo vệ trước ngực, tên không đâm thủng. Nhưng Viên Thừa Chí vận kình rất mạnh nên hắn vẫn cảm thấy trước ngực đau nhói, loạng choạng rồi té nhào xuống ngựa. Cả hai đội quân đều la hét rầm trời. Quân Thanh tưởng đại tướng trúng tên mà chết, thế tấn công lập tức chậm lại. Nhưng viên tướng đó đứng dậy ngay, vung trường đao hô lớn: “Ta không sao cả! Các ngươi tấn công lên núi đi.”
Quân Thanh lại ùa nhau xung phong lên núi. Viên Thừa Chí quát lên: “Ngươi không sao thật chứ?”
Chàng băng mình nhảy xuống, chỉ nhấp nhô mấy cái đã tới bên cạnh viên tướng đó, múa Kim Xà Kiếm chém thẳng xuống đầu. Hắn đưa đao lên gạt, nhưng chỉ nghe “cắc” một tiếng, trường đao đã bị chém thành hai khúc. Hắn còn ngơ ngẩn, Viên Thừa Chí đã thừa cơ vung kiếm chém rơi thủ cấp xuống đất.
Mười mấy tên lính Thanh vây lại tấn công. Viên Thừa Chí thét lớn: “Hay quá! Ta đang cao hứng, phải giết một chặp cho hả dạ.” Chàng múa tít Kim Xà Kiếm xông vào trận địch.
Bỗng nghe trên núi có tiếng kèn hiệu, thì ra phía tây cũng bị tấn công. Viên Thừa Chí phải lo đến toàn cục, nên thuận tay giết thêm ba tên lính Thanh rồi gấp rút chạy lên đỉnh núi. Tôn Trọng Thọ cùng La Đại Thiên, La Lập Như, Tiêu Uyển Nhi đang hô hoán chỉ huy thuộc hạ phòng thủ, vũ tiễn từ dưới bắn lên dày đặc như vãi trấu.
Viên Thừa Chí nhặt một tấm thuẫn bài dưới đất, nhảy xổ tới trước, đứng chặn trước mặt Tiêu Uyển Nhi. Nghe “keng” một tiếng, một mũi tên đã ghim vào tấm thuẫn. Nếu chàng không nhanh, Tiêu Uyển Nhi không chết cũng trọng thương. Nàng hoảng sợ đến mặt cắt không ra máu, la lên: “Viên tướng công! Đa tạ tướng công.”
Viên Thừa Chí đưa thuẫn cho nàng, bảo: “Cẩn thận, coi chừng trúng tên.”
Chàng nhìn xuống núi, thấy Bạch kỳ và Tương Bạch kỳ bay phấp phới. Hai đạo Thanh quân này tấn công từ phía tây, còn Lam kỳ tấn công từ phía nam. Thế là Tam kỳ đã phối hợp tấn công.
Viên Thừa Chí đứng trên lưng ngựa để quan sát tình hình bên ta bên địch, chỉ huy phòng thủ ngọn núi này. Lúc này La Đại Thiên, Nghê Hào, Thanh Thanh, Hà Thiết Thủ đều đã xung phong vào trận địch.
Thanh binh nhằm những chỗ trống của Sùng Tự Doanh, từ từ ép lên. Sùng Tự Doanh đã ít quân, thời gian kéo dài lại tổn binh hao tướng, quân số càng ít thêm. Viên Thừa Chí bỗng thấy La Đại Thiên bị mười mấy tên Thanh binh vây chặt, trên vai đã trúng một mũi vũ tiễn, rất nhiều cung tiễn thủ của Mãn Thanh đang nhắm ông mà bắn, rõ ràng sắp mất mạng. Chàng bèn hô lớn: “La thúc thúc! Chúng ta vì nước kháng địch, đồng sinh cộng tử.”
Chàng vừa hô vừa xông vào trận địch, giật trong tay bọn lính Thanh một tấm thuẫn bài, phóng đến sau lưng La Đại Thiên, cản được một mũi tên bắn rất mạnh vào lưng ông. La Đại Thiên đã xung sát đến nỗi thần trí mơ hồ, bỗng tỉnh lại kêu lên: “Thừa Chí! Chúng ta cùng xuống cửu tuyền để gặp phụ thân ngươi. Đốc sư nhất định sẽ khen ngợi ngươi, khen ngợi cả ta.”
Thừa Chí mới “Vâng” một tiếng, sau lưng và đùi phải bỗng đau đớn kịch liệt, trúng hai mũi tên bắn lén. Trước mặt chàng cũng có một trận mưa tên bay tới. Chàng đưa thuẫn bài lên cố che cho cả La Đại Thiên, bỗng “phụp” một tiếng, bị thêm một cây vũ tiễn cắm vào vai trái.
Chàng cố nén đau, múa tít Kim Xà Kiếm chém chết hai tên Thanh binh đang cử thương đâm tới, lại gạt liên tiếp mấy mũi tên bắn vào sau lưng. Một viên tướng Thanh mặc áo giáp, giục ngựa cầm thương chạy tới, nhằm đâm vào La Đại Thiên đang té nằm dưới đất. Thừa Chí dồn hết sức tàn, tung người nhảy tới cứu viện. Viên tướng ấy rất hung hãn, hoành thương quét ngang qua, cản trở Kim Xà Kiếm. Cả kiếm lẫn thương đồng thời chấn động tuột khỏi tay. Viên Thừa Chí vẫn nhảy xổ tới, dùng hai tay bóp cổ hắn. Hai người ráng sức quật nhau, cùng rơi xuống ngựa.
Bọn Thanh binh lớn tiếng reo hò. Vết thương sau lưng và trên vai trái đã đau đớn kịch liệt, Viên Thừa Chí ngất đi tại chỗ, không biết gì nữa.
*
* *
Không biết sau bao lâu, nghe tiếng Thanh Thanh kêu gọi: “Đại ca, đại ca, đại ca tỉnh lại đi! Trời ơi! Đại ca tỉnh rồi, hay quá…”
Đột nhiên nàng bật khóc. Thừa Chí vẫn chưa mở mắt ra được, mơ mơ hồ hồ dỗ dành: “Thanh đệ đừng khóc. Chúng ta chết hết rồi phải không?”
Thanh Thanh thút thít đáp: “Chưa chết. Đại ca đã khỏe chưa? Cảm ơn trời đất!”
Viên Thừa Chí cố gắng nhổm dậy, la lên: “Giết bọn Thát tử! Xung phong!”
Chàng tung người nhảy lên, nhưng toàn thân không có sức nên chỉ bật lên mấy thước rồi lại rơi xuống, vết thương sau lưng đập xuống đất lại càng đau đớn. Chàng không gượng nổi, lại ngất đi.
Thế là tinh binh của ba kỳ trắng, lam, viền trắng do Anh thân vương A Tề Cát đích thân chỉ huy, bất ngờ tập kích ban đêm, tiêu diệt sạch tàn binh Sùng Tự Doanh. Chúng phải tấn công lên núi, nhưng nhờ thuật cỡi ngựa bắn tên tuyệt diệu mà thắng lợi hoàn toàn. Sùng Tự Doanh bị tiêu diệt, chỉ sót lại Thanh Thanh, ông câm, Tiêu Uyển Nhi, Thôi Thu Sơn, An Đại nương, An Tiểu Huệ, Thôi Hy Mẫn và mấy người võ công cao cường. May mà Hà Thiết Thủ tìm được một sơn động rất khuất, mọi người trốn vào trong đó. Uyển Nhi, Thôi Hy Mẫn cùng mọi người đều bị không ít vết thương.
Anh thân vương A Tề Cát bị Viên Thừa Chí nắm cổ vật ngã xuống ngựa. May mà lúc đó Viên Thừa Chí đã trúng mấy mũi tên, mất hết kình lực nên A Tề Cát mới còn tính mạng, nhưng hắn cũng hoảng sợ đến nỗi hồn phi phách tán, ý chí mất sạch. Phó chỉ huy là Đô thống Chuẩn Tháp biết Anh thân vương suýt mất mạng, mình không bị vết thương nào thì thật khó coi. Hắn liền cầm đao tự chém vào đùi và mặt, chứng tỏ mình dũng cảm bị thương rồi mới chạy về gặp A Tề Cát.
Trận chiến này Sùng Tự Doanh bị xóa sổ. Những thủ lĩnh Tôn Trọng Thọ, La Đại Thiên, Chu An Quốc, Nghê Hào đã bỏ xác trận tiền. Nhưng xác của chủ soái Viên Thừa Chí thì không thấy đâu, nên mọi người càng lo lắng. Quân Thanh vừa rút, Thanh Thanh cùng mọi người vội xông vào đống thi hài binh sĩ mà tìm kiếm. Cuối cùng Thanh Thanh và Hà Thiết Thủ cũng tìm thấy Viên Thừa Chí nằm dưới một đống xác quân Thanh. Chàng nằm úp mặt xuống đất, tên cắm chi chít trên lưng.
Thanh Thanh cứ tưởng Viên Thừa Chí đã trận vong, đau khổ khóc rống lên, rút kiếm toan cứa cổ mình. Hà Thiết Thủ vội giật lấy kiếm của nàng, la lên: “Sư nương! Sư phụ chưa chết mà?”
Thanh Thanh nghe vậy, vội vã ôm xốc Viên Thừa Chí lên. Thấy chàng còn hơi ấm, nàng la lên: “Đúng rồi! Đại ca chưa chết.”
Hà Thiết Thủ hỏi: “Thế thì cô nương tự tận làm chi?”
Thanh Thanh lườm một cái, đáp: “Ta chết để cô được lấy sư phụ.”
Hà Thiết Thủ nói: “Sư phụ đã bảo, ngoài cô nương ra không cưới ai khác.”
Thanh Thanh nói: “Cô chỉ toàn nói dối. Đại ca, đại ca! Mau mau tỉnh dậy đi.”
Hà Thiết Thủ nói: “Sư phụ bảo là chỉ cưới một mình cô, không cưới A Cửu, không cưới Uyển Nhi, dĩ nhiên không cưới một cô nương toàn thân đầy chất độc như ta.”
Thanh Thanh hoan hỉ nói: “Được! Thế thì ta không chết nữa. Chúng ta mau mau cứu tỉnh huynh ấy đi.”
Hai người đưa Viên Thừa Chí vào sơn động, nhổ hết tên cắm trên người, bó thuốc kim thương vào mười mấy vết thương. Thanh Thanh không hề chợp mắt, còn Hà Thiết Thủ nằm xa hơn nhưng vẫn lo lắng trong lòng, mấy đêm không yên giấc. Mãi đến bốn ngày sau, Viên Thừa Chí mới hơi có tri giác.
Thanh Thanh cùng Hà Thiết Thủ tận tâm giúp chàng dưỡng thương. Thừa Chí chỉ cần nghiêng người một chút là những vết thương trên lưng làm chàng đau đớn vô cùng. Khi đó Thanh Thanh dịu dàng an ủi; còn Hà Thiết Thủ ngồi một bên không dám lên tiếng, nhưng rõ ràng cũng vô cùng lo lắng quan tâm.
Tiêu Uyển Nhi tìm được một sơn động rất vắng vẻ ở dưới núi, bèn chuyển Viên Thừa Chí tới đó dưỡng thương, đề phòng Thanh binh đến thu dọn chiến trường sẽ phát hiện được. Khoảng một tháng sau, vết thương của Viên Thừa Chí đã đỡ nhiều, có thể gượng đi ra ngoài động. Căn bản nội lực của chàng cực kỳ thâm hậu, nên khi chính mình có thể vận công thì thân thể nhanh chóng phục hồi.
Một hôm Thôi Hy Mẫn và An Tiểu Huệ đi dạo trên bờ biển, bỗng gặp hai đệ tử phái Bột Hải. Hỏi chuyện thì biết Hồng Thắng Hải phái họ đến đây để thám thính tin tức Sùng Tự Doanh. Hai bên hẹn nhau ngày mai gặp lại, rồi An Tiểu Huệ quay về bẩm báo Viên Thừa Chí. Chàng bảo Tiểu Huệ dẫn Hồng Thắng Hải đến đây.
Hôm sau, Hồng Thắng Hải dẫn theo mười mấy thuộc hạ vào sơn động tham kiến. Nhắc đến vô số đồng đội thương vong, quần hùng đều đau lòng như muối xát. Hồng Thắng Hải hỏi han thương tích của Viên Thừa Chí, ra vẻ lo lắng quan tâm.
Viên Thừa Chí nói: “Thắng Hải! Địch đông ta ít, chúng ta đánh trận nào thua trận nấy, lần này mất cả toàn quân. Chỉ còn cách theo lời ngươi mà lên núi làm giặc cỏ. Sau khi tụ tập binh sĩ, chúng ta sẽ liều mạng với bọn Thát tử một phen nữa. Ôi! Liều mạng nữa cũng chỉ mất mạng thôi.”
Hồng Thắng Hải nói: “Tướng công chiếm núi làm vua vốn là thượng sách; nhưng vùng này không có ngọn núi nào hiểm trở, phải tới Sơn Đông mới có. Nước xa không cứu được lửa gần. Tiểu nhân có mang theo mấy chục chiếc tàu lớn, đang đậu trên bờ biển. Chúng ta tạm thời xuống tàu, tránh mặt chúng ít lâu. Quân tử trả thù mười năm chưa muộn.”
Viên Thừa Chí, Hà Thiết Thủ cùng mọi người đang bị ép đến mức không chốn nương thân, không nơi trốn tránh. Hồng Thắng Hải mang theo thuyền lớn của phái Bột Hải, đúng là có thể giải quyết tình hình nguy cấp trước mắt. Quần hùng mừng rỡ vỗ tay khen ngợi, rồi cùng nhau ra bờ biển, lên thuyền.
*
* *
Trên thuyền có cả rượu thịt. No say một bữa, tinh thần mọi người đều phấn chấn lên. Hồng Thắng Hải kể lại tình hình Minh triều ở Nam Kinh. Bốn vị tướng vùng sông Hoài sông Tứ, thì Cao Kiệt đã bị Tổng binh Hà Nam Hứa Đình Quốc giết chết; Lương Lương Tả và Lưu Trạch Thanh đầu hàng Mãn Thanh; Vương Đức Công tự tử giữa trận. La Trạch thống lĩnh quân Thanh đến tấn công. Tổng binh triều Minh là Đình Hùng đưa Phước vương Hoành Quang hoàng đế ra đầu hàng nhà Thanh. Mã Sĩ Anh chạy đến Hàng Châu rồi Phước Kiến, rốt cuộc bị quân Thanh bắt giết.
Viên Thừa Chí nhìn quanh tứ phía, lòng nguội lạnh. Tướng lĩnh khắp nơi dẫn quân đầu hàng, thế là đại đa số bại binh của triều Minh đã sát nhập vào Hán kỳ của quân Thanh, binh lực Mãn Thanh càng mạnh hơn. Bản thân chàng thì quyết không đầu hàng, nhưng binh sĩ và tài lực đều thiếu hụt, không thể đơn độc mà kháng cự, cũng không thể đến vùng Tứ Xuyên, Thiểm Tây để quy thuận Trương Hiến Trung.
Một thân võ công kinh thế hãi tục của chàng không giúp được gì quốc gia đại sự, kết quả cuối cùng không giống gia gia thì cũng giống Sử Khả Pháp. Quốc nạn sâu đến thế này, quả là không còn số phận nào khác nữa. Chàng nhìn Thanh Thanh, Hà Thiết Thủ, Tiêu Uyển Nhi, An Tiểu Huệ đều là hồng nhan diễm lệ, tuổi xuân như hoa nở rộ, chẳng lẽ bắt họ hy sinh vì nước theo mình hết? Kể ra nam nhân vị quốc thì nữ nhân cũng nên vị quốc, chẳng có gì phân biệt.
Trong lòng chàng lại nảy ra một suy nghĩ khác: “May mà A Cửu đã tới vùng Tây Tạng xa xôi. Nàng có lúc nào nghĩ đến mình không?” Thật ra chính chàng cũng biết, A Cửu ngày đêm mong nhớ mình, không chỉ nghĩ đến mà thôi.
Viên Thừa Chí hoang mang, chẳng có kế hoạch gì, tâm ý nguội lạnh như tro tàn. Chàng nhớ lại Trương Triều Đường từng kể xứ Bột Nê an tịnh thái bình, dân cư thuần phác. Y lại nói: “Trung Nguyên đang đại loạn. Nếu công tử tâm trí không được khỏe, sao không đến Bột Nê để vui vẻ một thời gian?”
Viên Thừa Chí cũng muốn lên núi làm giặc cỏ. Nhưng chàng biết mấy chục năm sau vẫn không thể quên A Cửu, ngày tháng còn dài, nghĩ tới nghĩ lui rồi cũng có lúc không tự chủ nổi, bỏ đi Tây Tạng xa xôi để tìm A Cửu. Lúc mình bị thương, Thanh Thanh đối đãi với mình như thế, làm sao phụ lòng nàng được? Nhưng sự việc không thể lưỡng toàn, nếu không phụ Thanh Thanh thì không tránh khỏi phụ lòng A Cửu.
Nếu đi ra hải ngoại, từ nay không về nữa, bỏ hết quốc nạn gia thù thì không khỏi mang tiếng con người bất nghĩa, cả đời lương tâm không thể nào yên. Cả đời thân gửi xứ người, thật chẳng lý thú gì. Quốc gia lâm nguy mà mình trốn ra hải ngoại, cầu sinh một cách yếu hèn, rút đầu rút cổ như rùa, thật sự không phải hành động của bậc nam tử hán đại trượng phu. Thế thì có lỗi với cả ngàn cả vạn chiến hữu đã cùng mình vào sống ra chết.
Nhưng suy đi nghĩ lại, chàng thấy mình chỉ cần không hàng Thát tử, không hàng triều đình, không theo Sấm Vương, không hại lương dân là tạm được. Ngoài việc trốn ra ngoại quốc, thật sự bây giờ không có con đường nào khác. Đột nhiên chàng nhớ đến người võ quan Tây dương từng tặng một tấm bản đồ đi biển, bèn lấy ra hỏi xem đó là nơi nào.
Hồng Thắng Hải đáp: “Đó là một hòn đảo ở bên trái xứ Bột Nê. Hiện nay đảo này đang bị bọn hải tặc xứ Hồng Mao chiếm đóng, quấy nhiễu những người đi biển.”
Viên Thừa Chí nghe vậy, bèn quyết tâm đi ra hải ngoại. Chàng phấn chấn hẳn lên, vỗ bàn hú dài một tiếng rồi nói: “Chúng ta sẽ đi đuổi bọn hải tặc Hồng Mao, tạm thời ở trên hải đảo đó để làm dân xứ biển.”
Chàng bèn hạ lệnh cho tất cả thuyền bè đi về phía Hà Khẩu ở phía nam, đợi ngoài biển gần Thiết Môn Quan. Khi vết thương lành hẳn, chàng về Hoa Sơn cáo biệt sư phụ, bẩm báo chưởng môn đại sư huynh là phải ra hải ngoại an cư, đợi thời thế thay đổi sẽ trở về lập công báo quốc.
Sa Thiên Quảng, Trình Thanh Trúc, Thôi Thu Sơn cùng một số hào kiệt thì không muốn ra ngoại quốc xa xôi, chia nhau tìm núi làm giặc cỏ. Mọi người nhắc lại lời thề: “Không hàng Thát tử, không hàng triều đình, không theo Sấm Vương, không hại lương dân”, rồi cùng Viên Thừa Chí tạm biệt.
Viên Thừa Chí dõi mắt nhìn sang Tây Tạng, trong lòng vẫn lo lắng cho A Cửu nhưng không làm gì được. Chàng chỉ còn cách dẫn Thanh Thanh, Hà Thiết Thủ, ông câm, La Lập Như, Tiêu Uyển Nhi, An Tiểu Huệ, An đại nương, Thôi Hy Mẫn, cha con Mạnh Bá Phi, Hồ Quế Nam, Thiết La Hán và một nhúm huynh đệ Sùng Tự Doanh sống sót lên thuyền, giương buồm ra biển.
Nhờ phái Bột Hải giúp sức, Viên Thừa Chí bỏ xứ mà đi, xây dựng một chân trời mới nơi hải ngoại. Đúng là: “Vạn dặm giang hồ, lạnh lòng thiếu hiệp, mười năm binh lửa, khổ ải chúng sinh.”
Tháng sáu năm Càn Long thứ mười tám đời nhà Thanh, trong nội viện phủ tổng binh huyện Phù Phong tỉnh Thiểm Tây, một cô bé mười bốn tuổi tung tăng vừa đi vừa nhảy về phía thư phòng của thầy giáo. Sáng nay, thầy đã giảng xong đoạn viết về trận Xích Bích trong sách Tư Trị Thông Giám, lại kể thêm mấy truyện về Gia Cát Lượng trêu tức Chu Du. Lẽ ra thì sau giờ ngọ không còn bài vở gì nữa, nhưng cô bé đang hứng thú muốn nghe thầy kể tiếp truyện Tam Quốc Chí.
Lúc này đang là mùa hè nóng nực, tứ bề im phăng phắc, không một chút gió. Cô bé đi đến phía ngoài thư phòng, sợ thầy ngủ trưa chưa dậy nên không dám gõ cửa ngay. Cô nhẹ nhàng vòng ra cửa sổ, lấy cây trâm vòng trên tóc xuống, khoét một lỗ nhỏ trên cửa sổ dán giấy, áp mắt vào đó mà nhìn. Cô bé thấy thầy giáo đang ngồi xếp bằng trên ghế, mặt hơi mỉm cười. Thầy nhẹ vẫy tay phải, một tiếng “tạch” nhẹ nhàng vang lên như có một vật gì đó bắn dính lên vách. Cô bé nhìn về hướng phát ra âm thanh, thấy trên tường đối diện có mấy chục con ruồi xanh đang nằm yên không động đậy. Cô ngạc nhiên, chăm chú nhìn kỹ, lại thấy trên lưng mỗi con ruồi đều ghim một mũi kim châm rất mảnh, mảnh như sợi tóc. Kim cực kỳ nhỏ, khoảng cách lại xa như thế, đáng lẽ khó mà nhìn rõ được, nhưng bây giờ đã là giờ mùi, ánh sáng mặt trời rọi chênh chếch từ cửa sổ vào, nên những mũi kim châm bằng vàng đó phản chiếu ánh sáng lấp lánh. Đám ruồi trong thư phòng vẫn bay qua bay lại, phát ra những tiếng vo ve khó chịu. Tay của thầy giáo lại vẫy một cái, nghe một tiếng “tạch”, một con ruồi nữa ghim lên vách. Cô bé cảm thấy trò chơi này thú vị vô kể, bèn chạy vào cửa lớn, vừa đẩy cửa vào vừa kêu thật to: “Thầy ơi! Thầy dạy con chơi với!” Cô bé này tên là Lý Nguyên Chỉ, là con gái duy nhất của quan tổng binh Lý Khả Tú. Lý tổng binh sinh con trong thời gian làm tham tướng ở biên ải phía tây, nên đặt tên như thế để kỷ niệm nơi có dòng Nguyên Giang, mọc nhiều cây bạch chỉ. Còn thầy giáo Lục Cao Chỉ là một bậc túc nho chừng năm bốn năm lăm tuổi. Thường ngày hai thầy trò bàn luận cổ kim rất hợp ý nhau. Chiều nay Lục Cao Chỉ không chịu nổi đám ruồi xanh quấy rầy, bèn phóng kim châm ghim chết mấy chục con, nào ngờ bị cô bé học trò lấp ngoài cửa sổ nhìn trộm được. Ông đã nhìn thấy gương mặt trái xoan thanh tú hồng hào của Lý Nguyên Chỉ ra vẻ rất hưng phấn, nhưng vẫn giả vờ thản nhiên nói: “Sao con không đi chơi với đám bạn gái đi? Lại muốn nghe tiếp chuyện Gia Cát Lượng ba lần trêu tức Chu Du hay sao?” Lý Nguyên Chỉ nài nỉ: “Thầy ơi! Thầy dạy cho con chơi trò này đi.” “Trò chơi gì?” “Trò chơi dùng kim châm phóng chết ruồi đó.” Cô bé vừa nói xong đã khiêng một cái ghế tới chỗ vách tường, nhảy phắt lên đứng nhìn. Nhìn tỉ mỉ một hồi, cô bèn rút kim châm trên mình lũ ruồi xuống, lấy giấy lau chùi sạch sẽ, trả lại cho thầy giáo rồi nói: “Thưa thầy! Con biết rồi, đây không phải trò chơi gì đâu, mà là một loại võ công rất cao minh. Thầy phải dạy cho con thôi.” Cô cũng thường theo cha ra võ trường luyện phép cưỡi ngựa bắn cung, biết qua chút ít võ nghệ. Lục Cao Chỉ mỉm cười: “Nếu con muốn học võ công, thì trong vòng mấy trăm dặm quanh thành Phù Phong này, còn ai giỏi võ hơn gia gia của con đâu?” Lý Nguyên Chỉ cãi: “Gia gia chỉ biết dùng cung tên để bắn chim ưng, chứ không biết dùng kim châm để bắn ruồi. Nếu thầy không tin, thì đi với con mà hỏi gia gia, thử xem ông ấy có biết hay không.” Lục Cao Chỉ im lặng hồi lâu, biết cô học trò này thông minh lanh lợi, lại quen được nuông chiều nên hành động có thiếu phần suy nghĩ. Tuổi của cô chưa đủ lớn nhưng cũng không còn nhỏ, nên mỗi khi nhõng nhẽo thì khó mà đối phó được. Ông đành gật đầu bảo: “Được rồi! Sáng mai con đến đây, thầy sẽ dạy cho. Còn bây giờ thì con đi chơi đi, tuyệt đối không được nói cho ai biết chuyện bắn ruồi này. Nếu bất luận là ai biết được, thầy sẽ không dạy cho con nữa.” Quả thật Lý Nguyên Chỉ không kể ai nghe chuyện này. Cô bé háo hức suy nghĩ cả đêm, nên mới sáng sớm hôm sau đã chạy ngay vào thư phòng của thầy giáo. Nhưng khi đẩy cửa vào thì cô không thấy bóng dáng thầy đâu, chỉ thấy trên bàn có một tờ giấy được chặn lại đàng hoàng, bèn cầm lên xem. Trên tờ giấy viết:
Đệ tử Nguyên Chỉ! Con thông minh, lanh lợi, hiếu học, ham hỏi. Được một học trò như thế này, kẻ làm thầy không đòi hỏi gì hơn nữa. Nhưng mặc dù con có tấm lòng rộng, ta lại không có kiến thức nhiều. Ba năm tạm trú nơi này mạo nhận làm thầy, ta hổ thẹn không dạy được con gì cả. Duyên của chúng ta có thể đến đây là hết, hẹn ngày sau gặp lại. Con thông minh ứng biến có thừa, nhưng định lực còn chưa đủ, sau này phải tu tâm dưỡng tánh cho nhiều. Việc này con phải nhớ kỹ. Thầy Lục Cao Chỉ viết.
Lý Nguyên Chỉ đọc xong lá thư, ngẩn ra không biết nói gì. Khóe mắt cô bé đã ứa lệ, trong lòng giận dỗi chỉ muốn la lên: “Con bị thầy gạt rồi! Con không chịu đâu!” Đúng lúc đó, đột nhiên cửa phòng mở ra, một người lảo đảo tiến vào, bước chân không vững. Đó chính là người đã để thư lại rồi bỏ đi, Lục Cao chỉ tiên sinh. Sắc mặt ông trắng xanh, cả người vấy máu, cố gắng bước tới một cái ghế, lảo đảo mấy cái rồi vịn ghế ngồi phệt xuống đất. Lý Nguyên Chỉ kinh hãi kêu lên: “Thầy!” Lục Cao Chỉ nói nhỏ một câu: “Đóng cửa lại, đừng lên tiếng!” rồi nhắm mắt lại, không nói năng gì nữa. Dù sao thì Lý Nguyên Chỉ cũng là con nhà võ, quen sử đao thương, tuy đang sợ mất hồn nhưng vẫn nghe lời thầy, đóng chặt cửa lại. Lục Cao Chỉ cố hít một hơi rồi nói tiếp: “Lý Nguyên Chỉ! Tình thầy trò giữa chúng ta đã hơn ba năm rồi, đối xử với nhau cũng không tệ. Ta cứ tưởng duyên phận đã hết, nào ngờ phải gặp lại nhau ngay tức khắc. Chuyện này có liên quan đến sinh mạng, con có thể giữ kín miệng, không nói ra một chữ hay không?” Nói dứt câu, ông đưa mắt nhìn chăm chú cô bé. Lý Nguyên Chỉ đáp: “Thầy cứ dặn, con xin nghe.” “Con hãy nói với gia gia là ta mắc bệnh, phải nghỉ ngơi nửa tháng.” Lý Nguyên Chỉ gật đầu. Lục Cao Chỉ nói tiếp: “Con bảo gia gia đừng mời đại phu, tự ta sẽ lo liệu lấy.” Một hồi lâu, ông lại bảo: “Con đi đi.” Đợi cô bé rời khỏi, Lục Cao Chỉ mới lấy ra mấy loại thuốc, đắp lên vết thương trên cánh tay trái của mình, rồi dùng vải buộc chặt lại. Không ngờ mới cố sức một chút, trước mắt ông đã tối sầm lại, miệng thổ ra một vũng máu. * * * Người gia sư này tên thật là Lục Phi Thanh, vốn là một đại hiệp phái Võ Đang. Thời tráng niên ông hành hiệp trượng nghĩa ở vùng Giang Nam, danh trấn giang hồ, cũng là một nhân vật nổi tiếng của Đồ Long Bang. Đồ Long Bang là một hội kín chống đối triều đình nhà Thanh, vào đầu triều Ung Chính có thanh thế rất lớn. Sau này hai triều Ung Chính và Càn Long trấn áp dữ dội, cuối cùng đến năm thứ bảy đời Càn Long thì Đồ Long Bang phải giải tán, khi đó Lục Phi Thanh trốn chạy về vùng biên cương này. Triều đình phái người đi lùng xét các nơi. Vì họ Lục là người cẩn mật lại có võ công cao cường nên mới thoát khỏi đại nạn, nhưng vẫn bị Thanh triều tiếp tục điều tra truy bắt. Ông nghĩ đến câu: Đại ẩn thì ẩn nơi triều đình, trung ẩn thì ẩn nơi thị tứ, còn tiểu ẩn thì ẩn nơi hoang dã; nên giả danh xin vào trong phủ Lý Khả Tú mà dạy học. Quan quân triều đình chỉ lùng sục những nơi lục lâm, chùa miếu, tiêu cục, võ trường, chứ không sao ngờ một ông giáo trông già nua yếu đuối như thế này lại là một khâm phạm võ công trác tuyệt. Đêm qua, Lục Phi Thanh biết mình đã để lộ hành tung, không thể ở lại đây được nữa, bèn quyết định viết thư cáo biệt, chuẩn bị hành trang. Hành lý của ông rất đơn giản, chỉ có mấy bộ y phục và thanh Bạch Long Kiếm. Ông buộc tất cả thành một bao, đợi đến canh hai sẽ đi tìm một nơi thanh tịnh khác. Ông ngồi xếp bằng trên giường, nhắm mắt dưỡng thần. Lúc xa xa đã nghe tiếng trống cầm canh, đột nhiên ngoài cửa sổ có tiếng sột soạt, hình như có người đang từ ngoài tường nhảy vào. Lục Phi Thanh lập tức nhảy xuống giường, tiện tay giắt gọn lại vạt áo bào, còn tay kia nhẹ nhàng rút cây Bạch Long Kiếm ra. Ngoài cửa sổ bỗng có người dõng dạc lên tiếng: “Lục lão đầu! Ngươi cứ tưởng làm con rùa ở đây rúc đầu suốt đời là người ta không tìm được hay sao? Hãy ngoan ngoãn theo bọn ta lên kinh thành mà trả mấy món nợ.” Lục Phi Thanh đã biết người đến đây không phải tay vừa, mà cũng không phải chỉ có một người. Địch đang đứng ngoài hờm sẵn, không ra thì không được, mà theo cửa đi ra thì bị tập kích ngay, nên ông liền thi triển công phu Bích Hổ Du Tường, nhẹ nhàng trườn lên dọc vách, nắm lấy kèo nhà. Ông vận khí vẫy tay đánh lên một chưởng, ngói lập tức vớ nát bay tứ tán, rồi theo ngói vỡ mà nhảy lên mái nhà. Người đang đứng dưới “Úi chà” một tiếng, phóng vội một mũi tụ tiễn rồi quát lớn: “Biết điều thì đừng chạy!” Lục Phi Thanh nghiêng mình né ám khí rồi hạ giọng nói: “Mời mấy ông bạn theo ta.” Ông lập tức thi triển khinh công Đề Tung Thuật chạy về phía ngoại thành, ngoái đầu lại nhìn thấy ba bóng người đuổi theo. Ông chạy một hơi sáu bảy dặm, ba người phía sau vừa đuổi vừa la hét: “Lão họ Lục kia! Ngươi cũng là một nhân vật hữu danh, sao lại cắp đít mà chạy trốn như thế? Chẳng đếm xỉa gì đến mặt mũi nữa hay sao?” Lục Phi Thanh không lý gì đến những lời chửi bới, cứ dẫn ba người chạy đến một ngọn đồi ở phía tây thành Phù Phong. Ông muốn dụ địch thủ đến nơi hoang vắng để tránh kinh động người trong phủ, đồng thời cũng kéo hết chúng ra mặt, tránh tình trạng mình ở ngoài sáng còn địch nấp trong bóng tối, đỡ bị đối phương ám toán. Hơn nữa, chạy như thế cũng có thể biết địch có bao nhiêu người và võ công thế nào. Ông đột ngột tăng tốc, chỉ trong khoảnh khắc đã xa thêm mười trượng. Nghe tiếng bước chân chạy theo thì biết trong ba tên địch có một cao thủ, còn hai tên kia vào hạng tầm thường. Chạy lên tới đỉnh đồi, Lục Phi Thanh bèn cắm thanh Bạch Long Kiếm trở vào trong vỏ. Ba tên đuổi theo cũng đã chạy đến, thấy ông dừng lại cũng không dám đến quá gần, liền đứng thành hình tam giác, một người phía trước, hai người hơi lùi phía sau. Dưới ánh trăng, Lục Phi Thanh chăm chú nhìn tên đứng trước, thấy đó là một người vừa lùn vừa ốm, tuổi khoảng trên dưới năm mươi, da mặt đen nhánh, hàng ria trên môi giống như đuôi én, dài không hơn một tấc. Tên này ra dáng nhanh nhẹn khoẻ mạnh, mà tướng mạo cũng hơi quen thuộc. Còn hai tên phía sau thì một cao nghều, một mập mạp. Tên lùn ốm mở miệng trước: “Lục lão anh hùng! Chớp nhoáng đã mười tám năm rồi, còn nhận ra Tiêu Văn Kỳ này không?” Trong lòng Lục Phi Thanh nhói lên một cái: quả nhiên là hắn. Tiêu Văn Kỳ là đệ tam ma trong Quan Đông Lục Ma. Mười tám năm trước, hắn ở Trực Lệ, vô cớ giết hại nhiều người, rủi ro gặp phải Lục Phi Thanh ra tay cản trở. Lần đó Lục Phi Thanh hạ thủ lưu tình, chỉ đánh hắn một chưởng chứ không lấy mạng. Thế mà Tiêu Văn Kỳ coi đó là mối nhục, đã thề phải báo thù. Lần này Tiêu Văn Kỳ nhận lời mời của một nhà đại quan vùng Giang Nam, đi về phía bắc Thiên Sơn để tìm một người quan trọng. Dọc đường, hắn ngẫu nhiên gặp mặt Lục Phi Thanh, nhận ra ông nhưng lại không báo cho quan phủ và tổng binh Lý Khả Tú ở địa phương biết. Hắn chỉ gọi thêm hai cao thủ của triều đình ở Thiểm Tây, tự đến bắt người để trả thù. Lục Phi Thanh chắp tay đáp: “Thì ra là Tiêu tam gia! Mười mấy năm trời không gặp, ta nhận không ra nữa. Còn hai vị này là ai, Tiêu tam gia có thể giới thiệu cho biết hay không?” Tiêu Văn Kỳ cười khẩy rồi hứ một tiếng, chỉ tên mập nói: “Đây là La Tín huynh đệ kết nghĩa của ta, được thiên hạ xưng tụng là Thiết Bối La Hán.” Rồi hắn chỉ sang tên cao nói tiếp: “Còn đây là Ngọc phán quan Bối Nhân Long, Bối nhị gia, hào kiệt vùng Lưỡng Hồ. Các vị làm quen đi.” La Tín chào được một câu: “Ngưỡng mộ đã lâu.” Còn Bối Nhân Long chỉ ngửa mặt lên trời cười nhạt. Lục Phi Thanh nói: “Nửa đêm mà được ba vị bất ngờ đến thăm, không biết có điều chi chỉ giáo?” Tiểu Văn Kỳ lạnh lùng nói: “Lục lão anh hùng! Mười tám năm trước ta đã được lãnh giáo một chưởng, chỉ trách mình học nghệ chưa thông, nhưng may mà xương cốt cứng cáp nên chưa đến nỗi mất mạng. Mấy năm gần đây ta có luyện được mấy chiêu quyền cước, mong ông đừng chê bai mà chỉ giáo cho lần nữa. Đó là việc tư. Ông lại lừng danh thiên hạ, triều đình cũng muốn mời ông đến để hỏi thăm vài vụ công án, nên ba người chúng ta cũng muốn nghênh đón đại giá về kinh. Đó là việc công.” Lục Phi Thanh biết rõ, chuyện đêm nay không dùng võ lực thì không xong được. Nhưng ông vốn là người rất thâm trầm, mấy năm nay lo âu phiền toái đã nhiều nên xử sự lại càng cẩn trọng, bèn chắp tay đáp: “Tiêu tam gia! Hai ta đều đã ngoại ngũ tuần rồi. Năm xưa ta đắc tội một lần, bây giờ nghiêng mình xin lỗi vậy.” Nói xong ông bèn vái lạy rất thành khẩn. Bối Nhân Long hứ một tiếng, lớn tiếng thóa mạ: “Hèn mạt vô sỉ.” Lục Phi Thanh đảo mắt một cái, lạnh lùng nhìn hắn rồi nghiêm giọng nói: “Lục mỗ đi lại giang hồ đã mấy chục năm, tuy chẳng có tiếng tăm, nhưng suốt đời chưa làm việc gì để bằng hữu võ lâm phải coi thường.” Rồi ông quay lại nói với Tiêu Văn Kỳ: “Tiêu tam gia vừa nói, lần này tìm tại hạ vì cả việc tư lẫn việc công. Nói về việc tư, thì năm xưa chúng ta đều tuổi trẻ hiếu thắng, bây giờ nhắc lại thật không đáng một nụ cười. Tiêu tam gia muốn đòi nợ cũ thì ta đã thành thật tạ lỗi rồi. Còn nói về việc công, thì Lục mỗ không mặt dày đến nỗi đi làm chó săn cho triều đình Mãn Thanh. Các vị muốn lấy mấy khúc xương già này để thăng quan phát tài, thì cứ qua đây mà lấy.” Ông lướt mắt nhìn khắp ba người rồi hỏi: “Chẳng hay ba vị cùng lên, hay là vị nào lên trước?” Tên mập La Tín hét lên: “Không phải nói nhiều!” Nói chưa dứt câu, hắn đã phóng ra một quyền đánh thẳng tới mặt Lục Phi Thanh. Lục Phi Thanh hoàn toàn không tránh né, cũng không chống đỡ. Đợi quyền đến cách mặt mình vài tấc, ông mới phát chiêu, tả chưởng chặt vào mạch môn trên cổ tay phải địch thủ. La Tín không ngờ đối phương phản đòn nhanh đến thế, phải lùi ba bước. Lục Phi Thanh không đuổi theo, nên hắn định thần rồi thi triển Ngũ Hành quyền tiếp tục tấn công. Tiêu Văn Kỳ và Bối Nhân Long đứng bên quan sát, mỗi người đều có tính toán riêng. Tiêu Văn Kỳ thì một lòng muốn trả thù, mấy năm nay đã cố luyện công phu Thiết Tỳ Bà, bản lãnh khác trước rất nhiều. Nhưng năm xưa hắn đã từng lãnh giáo Vô Cực Huyền Công Quyền của Lục Phi Thanh, biết là không phải tầm thường, nên hắn muốn để La Tín và Bối Nhân Long tiêu hao sức lực của đối phương trước, rồi mình mới ra tay để nắm chắc phần thắng. Còn Bối Nhân Long một lòng muốn bắt khâm phạm, để được quan tuần phủ tiến cử cho thăng cấp. Ngũ Hành Quyền của La Tín chỉ công không thủ, chiêu này vừa dứt chiêu kia đã đến ngay, không chậm trễ chút nào, cứ theo lẽ tương sinh tương khắc của kim mộc thủy hỏa thổ mà liên lạc không dứt. Hắn đánh mấy quyền không trúng, đột nhiên phát ra một quyền theo yếu quyết chữ Bích trong Ngũ Hành Quyền. Bích quyền thuộc kim, vừa hết lại nối sang Tỏa quyền thuộc thủy. Trong Trường quyền gọi đây là thế Xung Thiên Pháo, chuyên về tấn công thượng bàn. Chiêu thức của Lục Phi Thanh nhìn thì chậm, nhưng thực tế lại rất nhanh, trong chớp mắt đã qua lại mười mấy chiêu. Võ công của La Tín lẽ ra không thể cầm cự với ông đến mười chiêu, chỉ vì mấy năm nay Lục Phi Thanh đã tu tâm dưỡng tính, hiểu rằng bọn người ham công danh lợi lộc như La Tín trong thiên hạ rất nhiều, thật sự không sao giết xuể, nên trong lúc ra tay đã nhẫn nhịn rất nhiều. Đến lúc La Tín dùng đến Băng quyền, tiếp theo là một chiêu Hoành quyền đánh vào trước ngực, thì đột nhiên không thấy bóng dáng đối phương đâu nữa. Hắn vội vã xoay người lại, thấy Lục Phi Thanh đã vòng ra sau lưng mình, bèn vung tay định chụp lấy cổ tay ông mà đấu sức. Hắn tự cho mình thân hình cao to, sức lực khỏe mạnh, không sợ ngạnh công của đối phương. Nào ngờ Lục Phi Thanh chỉ khẽ phất phơ tay áo, né tả tránh hữu, không những hắn không nắm được cổ tay ông mà cả y phục cũng không đụng được chút nào. La Tín lo lắng, đột nhiên đổi quyền thành cầm nã thủ, hai tay gấp rút chộp bắt Lục Phi Thanh. Họ Lục vẫn không phát chiêu đánh trả, chỉ xoay trở quanh người hắn mà tránh né. Được mấy chiêu, La Tín thấy có cơ hội bèn phóng hữu quyền ra, bắt buộc Lục Phi Thanh phải né về bên trái. Hắn lập tức vung tay chụp lấy vai trái ông, vừa chụp trúng đã mừng rỡ trong lòng, lập tức vận thêm lực đạo để kéo đối phương lại. Nào ngờ vừa vận lực, thân hình to lớn của hắn đã văng ra ngoài hai trượng, rơi xuống nghe “bịch” một tiếng nặng nề. Hắn thấy đủ ba mươi sáu ông sao nhấp nháy trước mắt, chỉ biết chống hai bàn tay xuống đất gượng ngồi dậy, rồi cứ ngẩn ra ở đó một lúc lâu, miệng không ngớt lẩm bẩm: “Con mẹ nó! Không hiểu sao mình bị thế này?” Thì ra Lục Phi Thanh vừa sử dụng một công phu thượng thừa trong quyền thuật nội gia, gọi là Chiêm Y Thập Bát Trật. Nếu công lực đủ thâm hậu, kẻ địch chỉ cần đụng vào áo của mình là phải lập tức văng ngược ra ngoài. Đây là phương pháp tá lực đả lực, mượn thế tấn công của đối phương mà đánh trả. Võ công của Lục Phi Thanh chưa tới mức khiến kẻ địch đụng vào mình đã té nhào, nhưng vừa rồi La Tín dùng hết sức mà nắm vai ông, nên mới bị ông mượn sức mà hất văng đi. Tiêu Văn Kỳ chau mày quát khẽ: “La hiền đệ đứng dậy đi!” Còn Bối Nhân Long thì im lặng không nói tiếng nào, chỉ bất ngờ lao lên phía trước, xuất chiêu Song Long Thương Châu phóng cả song quyền tới Lục Phi Thanh. Nhưng thân hình của Lục Phi Thanh chỉ chớp lên một cái là mất hút, rồi lưng của Bối Nhân Long bị vồ trúng một cái. Hắn còn nghe phía sau vọng lên tiếng nói: “Ngươi phải luyện thêm mười năm nữa!” Bối Nhân Long vội vã xoay người lại, nhưng cũng không kịp nhìn thấy Lục Phi Thanh. Hắn chưa kịp thủ thế trở lại đã nghe hai tiếng bịch bịch, trúng hai tát tai vào mặt. Hai cái tát này khá nặng, hai má của hắn lập tức sưng vù. Lục Phi Thanh gằn giọng nói: “Tên tiểu bối này vô lễ, hôm nay ta phải dạy cho một bài học.” Vì vừa rồi Bối Nhân Long thốt lời vô lễ, nên Lục Phi Thanh vừa xuất thủ đã hiển lộ thân pháp cực nhanh để hắn biết mùi lợi hại. Một cái vỗ lên lưng, hai cái tát vào mặt, chỉ cần vận thêm chút kình lực là xương cốt Bối Nhân Long phải nát vụn. Nhưng họ Lục là bậc tiền bối võ lâm, không thèm chấp bọn tiểu bối này. Tiêu Văn Kỳ vừa thấy Bối Nhân Long thất lợi đã vội phóng đến như một mũi tên, người chưa đến mà chưởng phong đã đến trước. Lục Phi Thanh biết tên Quan Đông Đệ Tam Ma này có võ công hơn hẳn hai tên kia nên không dám đùa giỡn, lập tức thận trọng thi triển Vô Cực Huyền Công Quyền. Công phu Thiết Tỳ Bà của Tiêu Văn Kỳ gần đây tiến bộ rất nhiều. Hắn ra chiêu Thủ Huy Ngũ Huyền công tới, trông thì nhẹ nhàng vô lực, nhưng giữa hư là thực, trong nhu có cương, hễ chạm vào người là ngón tay biến thành thanh sắt. Chiêu này thật sự đã gom đủ sở trường của Thiết Sa Chưởng và Ưng Trảo Công. Lục Phi Thanh thấy công lực của Tiêu Văn Kỳ đã thâm hậu khác xưa, bất giác cất tiếng khen: “Hay lắm!” Ông bèn dùng bộ pháp Hổ Tung Bộ chuyển người tránh né, bước lên một bước đến dưới cánh tay phải của Tiêu Văn Kỳ, dùng hữu chưởng quạt vào dưới nách phải hắn. Tiêu Văn Kỳ gấp rút đảo người tránh đòn, tả chưởng bảo vệ thân mình, tay phải xuất chiêu Đao Thương Tề Minh, ngón trỏ và ngón giữa đồng thời điểm về Lục Phi Thanh. Qua lại chừng bảy tám chiêu, Lục Phi Thanh lạng người một cái, rùn xuống phóng chưởng đánh trúng vào trước ngực đối phương. Nhưng ông nảy lòng từ thiện, không nỡ phế bỏ mấy chục năm công lực của Tiêu Văn Kỳ, nên phát chưởng này chỉ dùng năm phần công lực, muốn địch thủ tự biết thua mà rút lui. Lục Phi Thanh hạ thủ lưu tình, nên chưởng kình rất yếu, thế đi cũng chậm. Dĩ nhiên Tiêu Văn Kỳ biết rõ đối phương tha mình, nhưng hắn lại thừa cơ đánh lén. Trong lúc Lục Phi Thanh cười ha hả, tay chưa rút lại nên trước ngực lộ sơ hở, Tiêu Văn Kỳ đột nhiên dùng tả chưởng phóng chiêu Lưu Tuyền Hạ Sơn, năm ngón tay chụm lại bấu trúng vào ngực trái Lục Phi Thanh. Trong lúc bất ngờ, Lục Phi Thanh không sao tránh được, trúng phải một chiêu Thiết Tỳ Bà. Nhưng dù sao thì ông vẫn là danh gia phái Võ Đang, trúng đòn mà không loạn, bèn gác chéo song chưởng phong tỏa trước ngực để giảm thế tấn công của Tiêu Văn Kỳ, lùi được một bước, đồng thời điều dưỡng thần khí, không dám giận giữ. Ông biết mình đã trọng thương, nếu nổi cơn nóng giận thì đêm nay chắc chắn mất mạng trên chốn hoang sơn này. Tiêu Văn Kỳ đã đắc thủ khi nào chịu bỏ qua, quyết không cho đối phương có thời gian nghỉ ngơi điều tức. Hắn lập tức ra chiêu Ngân Bình Sạ Phá rồi Thiết Kỵ Đột Xuất, những chiêu thức lợi hại nhất của Thiết Tỳ Bà. Lục Phi Thanh hừ một tiếng, rút thanh Bạch Long Kiếm ra, soạt soạt công liền ba chiêu. Tiêu Văn Kỳ cuống quýt nhảy tránh, rốt cuộc cũng né được hết. Hắn hoảng hôt la lên: “Anh em lên hết đi! Lão già này muốn liều mạng rồi.” Bối Nhân Long không nói nửa lời, vung ngay đôi Ngô Câu Kiềm chia trên dưới tấn công, tay trái đâm vào yết hầu còn tay phải nhắm vào vùng tim Lục Phi Thanh. Ngô Câu Kiếm tuy gọi là kiếm mà thực sự là hai cái móc câu, nhưng trên móc có thêm mũi kiếm. Ngoài những thế móc, giật, khóa của câu pháp ra, nó còn thi triển được những chiêu thức về song kiếm. Ngô Câu Kiếm không thuộc mười tám món binh khí chuẩn, cực kỳ âm hiểm và rất khó luyện. Người mới luyện rất dễ sơ xuất, nếu không bị móc câu hoặc miếng che tay tự đả thương mình, thì cũng bị vướng víu cổ tay khó mà xuất chiêu được. Nhưng khi đã luyện thành, thì món binh khí này thật là lợi hại. Lục Phi Thanh vừa nhìn thấy đôi Ngô Câu Kiếm đã phải lưu tâm để ý, thi triển mấy chiêu Hạnh Hoa Xuân Vũ, Tam Hoàn Âm Nguyệt trong Nhu Vân kiếm thuật tấn công liên tiếp. Lúc đó La Tín lôi cây Thất Tiết Cương Tiên ra, xông vào cùng lúc giáp công. Lục Phi Thanh không dám để lưỡi kiếm của mình chạm vào cây Cương Tiên trầm trọng, bèn đảo kiếm rất linh hoạt, hớt trúng cánh tay La Tín. Tên mập này la lên một tiếng, nhảy ra ngoài vòng chiến. Tiêu Văn Kỳ móc Thiết Bài ra, gõ đánh “keng” một tiếng, rồi đập tới gáy của Lục Phi Thanh. Tiêu Văn Kỳ học võ ở Hàn gia vùng Lạc Dương. Từ đời Hàn Ngũ Nương, môn Thiết Tỳ Bà của Hàn gia đã danh chấn giang hồ. Binh khí này là một cây Tỳ Bà được rèn bằng thép tinh luyện, bản rộng mà hai bên mép lại rất sắc bén, lúc công thì dùng như búa, lúc thủ thì dùng như thuẫn để che đỡ. Trong ruột cây Tỳ Bà có chỗ trống, giấu mười hai mũi Tỳ Bà Đinh. Quả là ba trong một, lợi hại khó lường. Tiêu Văn Kỳ chê Tỳ Bà là đồ dùng của nữ nhân nên không sử dụng, sợ bị bằng hữu giang hồ lôi ra trêu ghẹo những câu khó nghe. Vì thế hắn đã sáng chế ra một miếng thiết bài, hình thức tuy có khác, nhưng cách thức sử dụng thì giống hệt cây Tỳ Bà của sư môn truyền lại. Lục Phi Thanh nghe tiếng gió sau gáy, bèn lập tức nghiêng đầu sang trái cho thiết bài đánh vào khoảng không. Ông xoay tay lại, trường kiếm phóng ra, Nhu Vân kiếm thuật thi triển liên miên không dứt. Tiêu Văn Kỳ hoành ngang thiết bài chống đỡ, Bạch Long Kiếm lại thuận theo thế của thiết bài mà đâm tới. Trong võ thuật, bất kể là quyền cước hay binh khí, nếu muốn biến chiêu thì thường phải thu hồi chiêu trước rồi mới phát ra chiêu sau được. Nhưng Nhu Vân kiếm thuật kỳ diệu ở chỗ bất luận đối phương chống đỡ né tránh chiêu trước như thế nào, chiêu sau vẫn có thể thuận thế xuất ra, giống như tơ trời mềm mại không bao giờ đứt, như mây xuân trôi mãi không dừng. Bối Nhân Long và La Tín nhìn thấy Tiêu Văn Kỳ bị ép đến loạn cả tay chân, bèn nhanh chóng tập kích sau lưng Lục Phi Thanh. Thế là ba người, bốn món vũ khí: một bài, một tiên, một cặp ngô câu vây ông vào giữa. Lúc này trước ngực Lục Phi Thanh đã ngấm ngầm đau, nội thương bắt đầu phát tác. Tuy rằng Nhu Vân kiếm thuật lợi hại, nhưng vừa ép được người này thì hai người kia lập tức xông tới, không thể không thu chiêu về chống đỡ. Ông thầm nghĩ: “Không ngờ Lục Phi Thanh ta một đời anh hùng, hôm nay lại mất mạng dưới tay lũ chuột này.” Nghĩ tới chỗ mình vì nhân hậu mà bị ám toán, bất giác ông không nén nổi cơn giận. Nhưng càng tức giận lại càng dễ gặp nguy, ông bèn cố trầm tĩnh lại để suy nghĩ, cho rằng hôm nay dù thua trận nhưng phải cố thoát đại nạn trước đã, dưỡng thương xong rồi sẽ trả thù cũng chưa muộn. Lục Phi Thanh đã định tâm như thế, không mong giết hết kẻ địch ngay lúc này, lập tức tâm bình khí hòa trở lại. Đối với võ công nội gia thì tâm thần càng ổn định, chiêu thức càng vững mạnh. Bạch Long Kiếm phát ra những chiêu tuyệt diệu, che kín thân mình khắp cả bốn phương tám hướng, bất luận đối phương ba người thế nào cũng không sao tấn công vào được. La Tín kêu lên: “Tiêu tam ca! Chúng ta cứ bao vây mãi thế này, thì dù đánh không thắng cũng khiến lão phải mệt mỏi mà chết.” Tiêu Văn Kỳ khen: “Đúng vậy. Lát nữa cho La huynh đệ cắt cái đầu già đó mà đi lập công.” Bối Nhân Long cũng lên tiếng: “Thanh kiếm của lão tốt lắm. Tiêu tam gia! Cho ta thanh kiếm đó có được hay không?” Ba tên này vừa tung vừa hứng, coi Lục Phi Thanh như người đã chết rồi, rõ ràng là muốn khích ông nổi giận. Lục Phi Thanh phóng luôn hai chiêu kiếm về phía La Tín, bắt hắn phải vội vã né tránh, lộ ra một khoảng trống. Ông vung Bạch Long Kiếm sử chiêu Mãn Thiên Hoa Vũ, quay một vòng rộng lớn bảo vệ thân mình, đồng thời vọt đi một cái, nhảy ra ngoài vòng đấu. La Tín giận giữ quát lên: “Không xong! Lão này muốn chuồn rồi.” Lục Phi Thanh triển khai khinh công Đề Tung Thuật chạy như bay xuống núi, thoát khỏi vòng vây, biết chắc ba tên này khinh công không bằng mình, không thể đuổi kịp được. Nhưng Tiêu Văn Kỳ ấn vào nút trên thiết bài, ba mũi Tỳ Bà Đinh bắn ra, bay vù vù tới sau lưng Lục Phi Thanh. Ông vẫy kiếm gạt được hai mũi phía trên, hai chân nhảy lên tránh mũi thứ ba đánh vào hạ bàn. Trên Tỳ Bà Đinh có rất nhiều móc ngược, đã ghim vào thịt thì giống như bắt rễ bên trong. Nếu dùng sức rút ra thì phải mất một miếng thịt lớn, nếu đưa tay ra chụp lại càng có hại. Lục Phi Thanh né được hết ám khí, đang chạy nhanh xuống núi thì chân bỗng loạng choạng một cái, đồng thời trước ngực đau nhói lên, hơi thở khó khăn, trước mắt tối sầm lại. Ba tên họ Tiêu, họ La, họ Bối thấy ông lảo đảo, biết ngay nội thương đã phát tác, bèn cả mừng chạy tới. Lục Phi Thanh phải vung kiếm ngăn đỡ, thế là bốn người lại đấu tiếp mười mấy chiêu. Lục Phi Thanh thấy mỗi khi mình dùng sức bên tay phải thì ngực trái lại đau nhói, bèn chuyển kiếm sang tay trái, đâm tới Tiêu Văn Kỳ. Ông sử dụng kiếm bằng tay trái, chiêu thức ngược hẳn với lề lối thông thường nên Tiêu Văn Kỳ thật sự bất ngờ, phải lui mấy bước. Lục Phi Thanh chớp lấy cơ hội tốt, tay trái liền xuất chiêu Bạch Hồng Quán Nhật đâm vào Bối Nhân Long. Họ Bối nhận biết chiêu này, bèn né sang bên phải. Không ngờ kiếm sử dụng ngược tay nên phương vị ngược theo, cũng hướng về bên phải truy tới. Bối Nhân Long kinh hãi không kịp né tránh, trong lúc gấp rút phải nhào xuống đất, lăn người mấy vòng ra ngoài, thoát được chiêu đó. Lục Phi Thanh đang lúc đuổi theo, bỗng nghe tiếng gió lộng lên sau gáy. Thì ra La Tín đã sử chiêu Thái Sơn Áp Đỉnh vung cương tiên đánh xuống. Hai chân của Lục Phi Thanh không động đậy, chỉ ngả thượng bàn sang trái, tay phải vung ra phía trước nhanh như điện chớp, điểm trúng vào U Môn huyệt của La Tín. Cây cương tiên vẫn đập mạnh xuống, nhưng La Tín đã bị điểm trúng huyệt đạo, lập tức bủn rủn toàn thân, năm ngón tay lỏng ra. Cương tiên cứ theo đà đập xuống tảng đá kế bên, rồi bắn ngược lên, văng lửa tung tóe. Ngay lúc đó ba mũi Tỳ Bà Đinh của Tiêu Văn Kỳ lại bắn tới sau lưng. Lục Phi Thanh nghe tiếng ám khí rít lên rất gấp, biết mình không sao nhảy tránh kịp nữa, bèn tiện tay kéo thân hình mập mạp đang bủn rủn của La Tín qua chống đỡ. Tên mập này trúng hai mũi Tỳ Bà Đinh vào ngực, một mũi vào bụng, chỉ la được một tiếng rồi mất mạng ngay. Tiêu Văn Kỳ nhìn thấy huynh đệ chết vì ám khí của mình, lại điên cuồng tung thiết bài đập tới Lục Phi Thanh. Đôi ngô câu của Bối Nhân Long cũng tham gia công kích. Trường kiếm của Lục Phi Thanh vừa đâm ra, Bối Nhân Long thấy thế kiếm lợi hại bèn né sang bên trái, nhưng thiết bài của Tiêu Văn Kỳ đã đánh tới nơi. Lục Phi Thanh biết mình quay lại chống đỡ thì Bối Nhân Long lại thừa thế đánh tiếp. Cứ thế kéo dài thì không lợi, vì tuy rằng kẻ địch đã ít đi một người, nhưng vết thương của mình mỗi lúc một đau hơn. Ông quyết định không quay lại đỡ, chỉ khom người ra trước để giảm bớt đà tới của thiết bài, nhưng không né được hoàn toàn. Mép bén như dao của thiết bài đã vạch một đường lên vai trái của ông. Tiêu Văn Kỳ còn chưa kịp mừng, một luồng sáng trắng đã chớp lên, Bạch Long Kiếm bay vù vù tới Bối Nhân Long. Tên này kinh hãi đưa Ngô Câu Kiếm ra gạt, tuy gạt trúng nhưng Lục Phi Thanh đã dùng hết mười phần công lực, thủ pháp Khai Bi Thủ sức nặng ngàn cân, lực của Ngô Câu không sao đỡ nổi. Thanh Bạch Long kiếm đã cắm vào trước ngực của Bối Nhân Long rồi trổ ra sau lưng, ghim chặt xác hắn xuống đất. Trong chớp nhoáng đó, Lục Phi Thanh đột nhiên quay người lại. Tiêu Văn Kỳ chưa kịp thu Thiết Bài về đã cảm thấy đau nhói trước mặt, rồi hai mắt bỗng tối sầm. Thì ra lúc Lục Phi Thanh bị thiết bài quét trúng vai, ông vừa ném trường kiếm ra vừa xoay ngược tay lại, phóng một nhúm Phù Dung kim châm vào mặt Tiêu Văn Kỳ. Khoảng cách rất gần, xuất thủ rất nhanh, kim châm rất nhiều, dĩ nhiên Tiêu Văn Kỳ không sao né được, cặp mắt bị mù ngay lập tức. Hai bàn tay của hắn còn đang quơ cào lên mặt, Lục Phi Thanh đã thừa cơ tiến lên một bước, vung cả song quyền đánh vào chỗ nhược, đấm chết hắn ngay lập tức. Thế là Lục Phi Thanh thi triển hết tuyệt kỹ bình sinh, dùng Điểm Huyệt Thủ, Khai Bi Thủ, Phù Dung kim châm… chỉ chốc lát đã giết hết ba tên địch. Trên núi hoang gió lạnh nổi lên rất mạnh, trăng tàn đã ló ra khỏi đám mây, chiếu lên ba thi thể ngổn ngang trên đường đá. Ở cánh rừng xa xa đã vẳng đến tiếng quạ kêu đêm. Gần mười năm nay Lục Phi Thanh chưa giết người nào, thế mà lần này bị ép phải ra tay hạ sát đến ba địch thủ. Ông không nén nổi phải khẽ lắc đầu, rồi xé tay áo của mình băng lại vết thương trên tay trái, đứng điều hòa hơi thở một chút. Sau đó ông rút thanh kiếm trở lên lau chùi sạch sẽ, tra vào trong vỏ, lại nhổ hết kim châm trên mặt Tiêu Văn Kỳ ra, vì sợ để lại manh mối điều tra. Cuối cùng ông gắng sức quăng hết ba thi thể xuống khỏi hoang sơn. * * * Lúc đó Lục Phi Thanh kiệt lực, cả người vấy máu, biết rằng bây giờ mà vào khách sạn sẽ bị nghi ngờ, bèn quyết định quay về nhà họ Lý để thay đổi y phục, tắm rửa sạch sẽ rồi mới bỏ đi. Không ngờ mới sáng sớm Lý Nguyên Chỉ đã đến thư phòng, nên thầy trò mới gặp nhau. Đợi Lý Nguyên Chỉ bước ra ngoài, Lục Phi Thanh mới ngã xuống giường, ngực phát đau dữ dội rồi ngất hẳn đi. Không biết sau bao lâu, ông mới mơ hồ cảm thấy có người lắc mạnh mình, rồi nghe thấy tiếng kêu: “Thầy! Thầy ơi!” Ông từ từ mở mắt ra, nhìn thấy Lý nguyên Chỉ đứng bên giường, khuôn mặt đầy vẻ kinh hãi. Cạnh cô bé còn một vị đại phu. Điều dưỡng hai tháng, nhờ có nội lực thâm hậu, lại thêm Lý Nguyên Chỉ bảo cha mời danh y, mua thuốc tốt, nên nội thương của ông lành hẳn. Trong hai tháng này, Lý Nguyên Chỉ đã chăm sóc cho thầy mình thật là tận tâm tận lực. Một hôm Lục Phi Thanh bảo thư đồng ra khỏi phòng, rồi nói với Lý Nguyên Chỉ: “Nguyên Chỉ! Thầy là người như thế nào, chắc là con chưa rõ lắm, nhưng không phải là hoàn toàn không biết. Lần này thầy gặp đại nạn, may nhờ con chăm sóc tận tâm. Đại trượng phu ân oán phân minh, ta không thể phủi tay rời khỏi đây được nữa, phải truyền công phu phóng kim châm đó cho con vậy.” Lý Nguyên Chỉ cả mừng, lập tức quì xuống cung kính khấu đầu tám cái. Khi nàng bắt đầu học sách thánh hiền với Lục Phi Thanh cũng đã từng bái sư, lần này là lần thứ hai. Lục Phi Thanh mỉm cười nhận lễ rồi nói: “Con bé này thông minh, ngộ tính rất cao, học võ công bản phái chắc chắn sẽ tiếp thu rất nhanh. Chỉ có điều…” Nói đến đây, Lục Phi Thanh bỗng dưng im lặng. Lý Nguyên chỉ vội vã thưa: “Sư phụ! Con nhất định sẽ vâng lời sư phụ.” Lục Phi Thanh bảo: “Nói thật, ta không đồng ý với những việc làm của phụ thân con. Sau này con lớn lên thành người, mong rằng con biết phân biệt thị phi tốt xấu. Con bái ta làm sư phụ thì phải giữ nghiêm những giới điều của sư môn, có làm được hay không?” “Đệ tử không dám cãi sư phụ điều gì.” “Nếu sau này con sử dụng võ công của ta truyền cho để làm điều xằng bậy, thì ta lấy mạng con dễ như trở bàn tay.” Lục Phi Thanh nói câu này bằng giọng nghiêm khắc vô cùng. Lý Nguyên Chỉ hoảng sợ đến mức không dám lên tiếng, hồi lâu mới mỉm cười đáp: “Sư phụ! Con mà ngoan ngoãn thì làm sao sư phụ nỡ giết con.” Bắt đầu từ hôm đó, Lục Phi Thanh dạy cho nàng võ công nhập môn của phái Võ Đang là phương pháp điều thần luyện khí. Bắt đầu từ Thập Đoạn Cẩm, rồi tới Tam Thập Nhị Thế Trường Quyền, vừa rèn luyện sức lực vừa luyện tập quyền cước. Sau một năm, Vô Cực Huyền Công Quyền đã có đôi chút hỏa hầu, ông mới dạy nàng luyện mắt luyện tai, luyện bắn đạn tròn và tụ tiễn, những công phu cơ bản về ám khí. Hai năm trôi qua nhanh chóng, Lý Nguyên Chỉ vừa siêng năng vừa thông minh nên tiến bộ cực nhanh. Lúc này, Lý Khả Tú đã được thuyên chuyển làm tổng binh trấn An Tây tỉnh Cam Túc. An Tây giáp với sa mạc cả phía bắc lẫn phía tây, là một trọng trấn ở vùng quan ngoại. Lại thêm hai năm nữa, Lục Phi Thanh dạy cho nàng Nhu Vân kiếm thuật và Phù Dung kim châm. Thế là trong năm năm này, Lý Nguyên Chỉ đã học đầy đủ về kim châm, kiếm thuật, khinh công, quyền cước, chỉ kém về hỏa hầu và kinh nghiệm lâm địch mà thôi. Nàng rất tôn trọng lời dặn của sư phụ, hoàn toàn không để lộ chút nào về việc luyện tập võ công với Lục Phi Thanh. Ngày nào nàng cũng tự luyện ở hậu viên, nhưng may ở chỗ từ nhỏ nàng đã thích học võ công, nên người khác không nghi ngờ gì. Đám tớ gái thì nhìn không hiểu được đại tiểu thư đang luyện môn gì, còn bọn tớ trai dĩ nhiên không dám nhìn lâu. Lý Khả Tú tinh minh mẫn cán, lại may mắn về chuyện thăng quan tiến chức. Năm Càn Long thứ hai mươi ba, họ Lý lập công trong chiến dịch bình định Y Lê, được ban thánh chỉ thăng làm Đề Đốc Thủy Lục của tỉnh Triết Giang, quản hạt năm thị trấn, năm doanh trại, cùng mấy thủy trại ở vùng Thủ Hiệp, Thái Hồ, Hải Ninh. Lý Nguyên Chỉ từ nhỏ đến lớn chỉ ở vùng biên cương tây bắc, bây giờ được đến những nơi thắng cảnh ở Giang Nam, đương nhiên phấn khởi không sao nói hết. Nàng nài nỉ Lục Phi Thanh đi cùng, Lục Phi Thanh thì rời khỏi Giang Nam đã lâu, cho rằng bây giờ có thể quay về, nên cũng vui vẻ đồng ý. Lý Khả Tú một mình đi nhận chức trước, để lại hai chục tên thân binh và một viên tham tướng hộ tống gia quyến theo sau. Tham tướng này tên là Tăng Đồ Nam, tuổi khoảng bốn mươi, râu ngắn bó hàm, tinh thần phong độ, thân thể khôi vĩ. Y giỏi về Lục Hợp Thương, chỉ dựa vào bản lãnh chân chính mà thăng chức, rất được Lý Khả Tú tín nhiệm. Đoàn người đem theo mười mấy xe hành lý. Lý phu nhân dĩ nhiên ngồi kiệu, còn Lý Nguyên Chỉ nếu phải ngồi kiệu suốt ngày thì bực bội không sao chịu nổi. Nhưng tiểu thư nhà quan mà cưỡi ngựa phơi mặt ra ngoài thì trông chẳng ra gì, nên nàng cải trang mặc y phục nam nhân, trông khá tuấn tú phong lưu, nên ai nói gì thì nói cũng không chịu mặc y phục nữ nhân nữa. Lý phu nhân đành mỉm cười than thở: “Thôi thì để nó ăn mặc như thế vậy.” Một buổi hoàng hôn, mặt trời đã ngả về tây, Lục Phi Thanh cưỡi ngựa đi cuối đoàn người, đưa mắt nhìn quanh tứ phía. Màn đêm dần buông, trên con đường vùng biên ải ngoài đoàn ngựa của họ ra chỉ còn những bãi cát vàng và mấy ngọn cỏ yếu ớt, trên trời lác đác tiếng quạ kêu. Đột nhiên một cơn gió tây thổi đến, Lục Phi Thanh cảm xúc ngâm nga:
Tướng quân đến lúc về chiều, Thân còn danh mất, quạnh hiu kiếp người. Quay đầu nhìn vạn dặm đời, Cổ nhân chôn sạch lắm nơi chiến trường. Gió sông Dịch thổi thê lương, Tuyết Tây Phong Lĩnh chán chường y quan. Tướng quân buông tiếng hát buồn…
Ông nghĩ bụng: “Bài từ này của Tân Gia Hiên thật giống với tâm sự của ta bây giờ. Năm xưa chắc họ Tân cũng đứng nhìn Thần Châu rộng lớn rơi vào tay địch. Thế địch hung mạnh, muốn phục quốc trả thù không biết ngày nào mới được. May mà trải trăm trận chiến vẫn còn sống sót, đến già chỉ còn biết ngâm khúc bi ca.” Lúc này Lục Phi Thanh đã gần sáu mươi rồi, tuy nhờ nội công thâm hậu nên tinh thần vẫn sung mãn, nhưng râu tóc đã bạc phơ. Nhìn xuống chòm râu trắng như tuyết, họ Lục lại càng cảm khái, biết mình khó làm gì được nữa. Ông quất roi, ruổi ngựa đuổi theo đoàn người. Đoàn người ngựa vượt qua một ngọn đồi thì trời đã gần tối. Bọn mã phu nói, đi thêm mười dặm nữa sẽ tới sông Tháp Bảo, ở đó có một thị trấn thuộc loại lớn ở vùng biên ải này. Đêm nay sẽ trú lại đó. Đúng lúc này Lục Phi Thanh đột nhiên nghe thấy tiếng vó ngựa rất nhanh, rồi trước mắt có một đám bụi bay lên, trong đó thấp thoáng hai bóng người. Hai con ngựa lông đỏ rực phi tới như bay, chớp nhoáng đã thấy gió thổi tới mặt. Hai kỵ sĩ cúi rạp người trên lưng ngựa, phóng ngang qua đoàn người. Lúc họ lướt qua, Lục Phi Thanh đã kịp thấy một người cao, một người lùn. Người cao thì mày dài mắt xếch, sắc mặt trắng trẻo, còn người lùn khí vũ rất hiên ngang. Ông bèn vỗ ngựa đuổi theo Lý Nguyên Chỉ, khẽ hỏi: “Con có nhìn rõ hai người ban nãy hay không?” Lý Nguyên Chỉ hớn hở hỏi lại: “Sư phụ! Chúng là bọn lục lâm phải không?” Nàng chỉ mong gặp phải cường đạo, để có dịp biểu diễn bản lãnh đã khổ luyện trong năm năm trời. Lục Phi Thanh đáp: “Bây giờ chưa biết, nhưng trông hai người này không giống bọn lục lâm tầm thường.” Lý Nguyên Chỉ kinh ngạc hỏi: “Hai người đó giỏi võ công lắm sao?” Lục Phi Thanh nói: “Cứ nhìn thuật cưỡi ngựa cũng biết họ không phải tay vừa.” Lúc đoàn người gần đến sông Tháp Bảo, phía trước mặt lại vang lên tiếng vó ngựa. Lại cũng hai con ngựa phi nhanh về hướng tây, lướt qua mặt đoàn người. Lục Phi Thanh càng ngạc nhiên hơn. Lúc này trời đã tối hẳn, mà suốt con đường họ vừa đi qua chỉ có hoang mạc, trước mắt lại là sông Tháp Bảo. Giờ này mà có người từ thị trấn chạy ra ngoài, dĩ nhiên họ phải có việc cần thiết lắm. Không bao lâu, đoàn người ngựa đã tiến vào thị trấn. Tăng tham tướng bèn dẫn cả đoàn kiệu xe lừa ngựa đến một khách sạn lớn. Lý Nguyên Chỉ ở với mẹ trong căn phòng sang trọng nhất, Lục Phi Thanh ở một mình trong phòng nhỏ. Sau bữa cơm, gia nhân thắp đèn chuẩn bị nghỉ ngơi. Trong đêm tĩnh lặng, bỗng nổi lên tiếng chó sủa, rồi phảng phất nghe tiếng vó ngựa từ xa truyền tới. Lục Phi Thanh nghĩ: “Lúc này vẫn còn người cố đi đêm, không biết có việc gì gấp đây.” Dọc đường ông cũng đã gặp bốn người, bây giờ nghĩ lại càng kỳ lạ. Tiếng vó ngựa lóc cóc càng lúc càng gần, chẳng mấy chốc đã đến trước khách sạn này. Ngựa vừa dừng vó đã nghe tiếng gõ cửa, rồi tiếng bọn tiểu nhị mở cửa. Tên tiểu nhị chào hỏi: “Quí khách mệt nhọc rồi, trong này trà nước rượu cơm có đủ, xin mời vào dùng.” Một giọng thô lỗ đáp lại: “Mau mau cho ngựa ăn, chúng ta ăn xong là phải lập tức lên đường.” Tiểu nhị vâng dạ liên hồi. Nghe tiếng bước chân, biết có hai người đi vào khách sạn. Lục Phi Thanh nghĩ bụng: “Cứ hai người một nhóm đi về phía Tây An, nhìn thân pháp cưỡi ngựa thì đều hiểu võ công cả. Ở biên cương xa xôi thế này, việc như thế thật là ít gặp.” Ông nhẹ nhàng bước ra ngoài, băng qua mấy lần sân, vòng ra phía sau khách sạn, lại nghe âm thanh thô lỗ vừa rồi hỏi: “Tam ca! Huynh nghĩ thiếu đà chủ còn trẻ tuổi như thế, huynh đệ ta có ủng hộ y nổi hay không?” Không phải Lục Phi Thanh cố ý nghe lén chuyện của người ta, nhưng vì nhóm người này rất kỳ lạ, mà bản thân ông lại đang mang trọng án, nên không thể không đề phòng cẩn thận. Trong nhà có một người khác nói: “Không ủng hộ nổi cũng phải ủng hộ. Đây là di mệnh của cố tổng đà chủ, bất luận thiếu chủ có thành công hay không thì chúng ta cũng phải son sắt một lòng, trung thành với y.” Giọng người này rất vang, trung khí đầy rẫy. Lục Phi Thanh biết nội công của y thâm hậu, nên không dám chọc thủng giấy dán cửa sổ để nhòm ngó, chỉ cố nén hơi thở mà nghe. Sau đó lại nghe giọng thô lỗ vang lên: “Thế thì không cần phải nói nữa, nhưng không biết thiếu đà chủ có chịu xuống núi hay không.” Người kia đáp: “Việc đó lại càng không cần phải lo. Di mệnh của cố tổng đà chủ, thiếu đà chủ chắc chắn phải tuân thủ.” Lúc y nói tới chữ “thủ”, giọng địa phương nghe rất rõ ràng. Lục Phi Thanh chợt động lòng, thanh âm này có vẻ quen thuộc. Ông suy nghĩ một hồi, cuối cùng cũng nhớ ra: Đó là hảo bằng hữu Triệu Bán Sơn, trước đây cùng ở trong Đồ Long Bang. Họ Triệu trẻ hơn ông đến mười tuổi, là đại đệ tử của Vương chưởng môn Thái Cực Môn ở Ôn Châu. Hai người vẫn thường nghiên cứu võ nghệ, đôi bên đều khâm phục lẫn nhau. Đến nay đã chia tay gần hai chục năm, vậy là y đã gần năm mươi tuổi. Sau khi Đồ Long Bang giải thể, không biết y trôi dạt phương nào, thế mà hôm nay bất ngờ gặp mặt tận ngoài biên ải. Tha phương gặp cố tri, nỗi vui mừng này không nói ra thì ai cũng biết. Nhưng lúc Lục Phi Thanh vừa định lên tiếng để nhận bạn bè, đột nhiên đèn trong phòng tắt phụt, rồi một mũi đoản tiễn bắn ra ngoài. Mũi tên này không phải bắn về phía Lục Phi Thanh. Một bóng người thoáng động, rồi một bàn tay vươn ra đón bắt mũi đoản tiễn. Người này vừa vươn mình một cái, định mở miệng chất vấn, Lục Phi Thanh đã vọt tới khẽ bảo: “Đừng lên tiếng, theo ta!” Thì ra người đó chính là Lý Nguyên Chỉ. Bên trong cửa sổ hoàn toàn không có động tĩnh gì nữa, cũng không có ai đuổi ra ngoài. Lục Phi Thanh kéo tay Lý Nguyên Chỉ, khom người luồn dưới cánh cửa sổ, kéo nàng vào trong phòng mình. Dưới ánh đèn nhìn rõ nàng đã thay y phục dạ hành, nhưng vẫn là đồ nam giới, không biết đã chuẩn bị hồi nào. Trên mặt nàng lộ vẻ nóng ruột muốn thử sức một phen. Lục Phi Thanh vừa tức giận vừa tức cười, bèn nghiêm giọng nói: “Nguyên Chỉ! Con biết những người đó là nhân vật thế nào hay không? Sao lại muốn động thủ với họ?” Câu hỏi này khiến Lý Nguyên Chỉ ngơ ngác không trả lời được, hồi lâu mới nhõng nhẽo hỏi lại: “Thế sao họ lại bắn con một mũi tên?” Nàng cứ ưa bắt lỗi người khác, không chịu nghĩ mình nghe lén người ta là phạm vào đại kỵ của giang hồ. Lục Phi Thanh nói: “Hai người này nếu không phải là đám lục lâm, thì cũng trong bang hội. Ta biết một người trong đó, võ công y không kém gì sư phụ của con. Nhất định họ có việc gấp lên mới phải đi suốt đêm như thế, mà mũi đoản tiễn này cũng không muốn đả thương người, chẳng qua là bảo con đừng dính líu vào. Nếu họ bắn con thật sự, thì chắc chắn con không đón bắt được đâu. Mau đi ngủ đi.” Trong lúc nói chuyện lại nghe tiếng mở cửa lách cách rồi tiếng vó ngựa khua lên, hai người đó đã gấp rút chạy đi. Vì bị Lý Nguyên Chỉ phá đám, nên Lục Phi Thanh cảm thấy chưa tiện gặp bạn cũ, do đó không đuổi theo nói chuyện. Hôm sau đoàn người ngựa tiếp tục hành trình, ra khỏi thị trấn. Đi hơn một giờ, rời khỏi sông Tháp Bảo chừng ba mươi dặm, Lý Nguyên Chỉ bỗng nói: “Sư phụ! Phía trước lại có người đến nữa rồi.” Xa xa có hai con ngựa lông màu mận chín gấp rút chạy tới. Đêm qua đã có chuyện, nên hai thầy trò đều để ý quan sát người đang đến. Hai con ngựa giống hệt nhau, đẹp đẽ phi phàm. Kỳ lạ hơn, hai kỵ sĩ cũng giống nhau như đúc, tuổi trạc tứ tuần, thân hình cao ốm, sắc mặt vàng khè, mắt sâu lõm vào, lông mày như treo ngược lên, trông rất đáng sợ. Rõ ràng đây là một cặp huynh đệ song sinh. Lúc đi ngang đoàn người ngựa, hai người kia giương mắt lên nhìn thẳng vào Lý Nguyên Chỉ. Lý Nguyên Chỉ trừng mắt nhìn trả, ghìm ngựa ra vẻ nếu muốn đánh nhau thì đánh. May mà hai người kia không lý gì đến nàng, cứ giục ngựa chạy thẳng về hướng tây. Lý Nguyên Chỉ nói với theo: “Không hiểu hai con ma đói này ở đâu chui ra.” Lục Phi Thanh nhìn theo sau lưng họ, quả là giống như hai cành tre cắm trên lưng ngựa. Đột nhiên ông nghĩ ra, bèn lạc giọng kêu lên: “Thì ra là họ.” Lý Nguyên Chỉ liền hỏi: “Sư phụ quen họ hay sao?” “Nhất định đó là Tây Xuyên Song Hiệp. Giang hồ thường gọi anh em họ Thường này là Hắc Vô Thường và Bạch Vô Thường.” Lý Nguyên Chỉ cười khúc khích rồi nói: “Biệt hiệu hay lắm, đúng là một cặp quỉ vô thường.” “Làm nữ nhân thì đừng nói bóng gió bừa bãi. Họ tuy xấu xí, nhưng bản lãnh không vừa đâu đấy. Thật ra ta cũng chưa gặp họ, nhưng nghe nói họ là anh em sinh đôi, từ nhỏ đã không bao giờ rời nhau, cứ như bóng với hình. Huynh đệ họ không lấy vợ, hành hiệp trượng nghĩa khắp nơi, oai danh lừng lẫy. Người tôn kính họ thì gọi họ là Tây Xuyên Song Hiệp, người sợ họ thì gọi họ là Hắc Bạch Vô Thường.” Lý Nguyên Chỉ kinh ngạc hỏi: “Rõ ràng hai người này giống nhau y như đúc, làm sao phân biệt trắng hay đen được?” “Nghe nói người anh trên khóe mắt có một nốt ruồi màu đen, tên là Thường Hách Chí, còn người em không có nốt ruồi tên là Thường Bá Chí. Họ là đệ tử của Huệ Lữ đạo nhân phái Thanh Thành. Từ khi Huệ Lữ đạo nhân chết đi, trong giang hồ không còn ai giỏi công phu Hắc Sa Chưởng hơn họ nữa. Thường gia huynh đệ là hiệp đạo trứ danh ở vùng Tứ Xuyên, xưa nay vẫn cướp người giàu giúp người nghèo, nhưng hành sự có phần ác độc tàn nhẫn nên mới có ngoại hiệu khó nghe như thế.” “Thế họ đến vùng biên cương này để làm gì vậy?” “Ta cũng không sao biết được. Xưa nay chưa từng nghe anh em họ gây án ở vùng biên cương.” “Con cũng mong cặp quỉ vô thường này gây sự với chúng ta, để cho chúng nếm thử Bạch Long Kiếm của sư phụ.” Khi nãy anh em nhà họ trừng mắt nhìn Lý Nguyên Chỉ một cái, cô nương này đã quyết không chịu bỏ qua, nhưng không dám nói là cho họ nếm thử bảo kiếm của mình, bèn kéo sư phụ vào trong. Lục Phi Thanh đáp: “Nghe nói huynh đệ họ xưa nay không đánh đơn lẻ, đối phó mười người cũng hai anh em liên thủ, mà đối phó với một người cũng hai anh em liên thủ.” Ông mỉm cười nói tiếp: “Nắm xương già của sư phụ con, chắc là không sao địch nổi bốn tay của họ rồi.” Đang nói chuyện, phía trước lại có tiếng vó ngựa vang lên. Lần này có một kỵ sĩ là đạo nhân đeo trường kiếm, sắc mặt trắng bệch đầy vẻ bệnh hoạn. Đạo nhân chỉ còn cánh tay phải, tay áo bên trái trống rỗng, giắt vào dây lưng. Kỵ sĩ kia là một người gù. Lý Nguyên Chỉ nhìn thấy người gù tướng mạo xấu xí, mà lại phục sức rất sang trọng, không nén nổi bèn cười rộ lên rồi gọi: “Sư phụ! Sư phụ nhìn ông gù này mà xem.” Lục Phi Thanh muốn cản nàng nói nhưng không kịp nữa. Người gù kia trợn mắt lên giận dữ, lúc hai con ngựa chạy ngang qua đoàn người thì đột nhiên vung tay chộp tới Lý Nguyên Chỉ. Đạo nhân kia hình như đã biết trước người gù nổi giận, nên không đợi Lý Nguyên Chỉ tránh né đã đưa roi ngựa lên cản tay y lại, bảo: “Thập đệ không được gây chuyện!” Việc xảy ra trong chớp nhoáng, hai con ngựa đã chạy xa khỏi đoàn người. Lục Phi Thanh và Lý Nguyên Chỉ quay đầu nhìn, thấy người gù bỗng quất roi vào ngựa của mình lẫn ngựa của đạo nhân. Hai con ngựa lồng lên chạy như bay ra xa, còn y thi triển thân pháp lộn mình từ trên lưng ngựa xuống dưới bụng ngựa, rồi nhảy xuống đất, hai chân chỉ chấm đất có hai ba cái đã vọt đến chỗ Lý Nguyên Chỉ. Lý Nguyên Chỉ cầm trường kiếm trên tay, cố gắng làm theo khẩu quyết “địch chưa động, ta chưa động” mà sư phụ đã truyền thụ. Mũi kiếm nàng hơi run, nhưng quả là không vội vã xuất chiêu. Người gù cũng thấy ngạc nhiên, bèn không tấn công nàng mà vươn tay trái ra nắm lấy đuôi con ngựa nàng đang cưỡi. Con ngựa đang chạy bỗng bị kéo khựng hẳn lại, hí vang một tiếng rồi bốc hai vó trước lên trời. Người gù này thần lực kinh người, chỉ bị ngựa kéo lên hai bước. Y đưa tay phải ra quét lên đuôi ngựa một phát, cái đuôi lập tức đứt lìa ra như bị đao cắt vậy. Con ngựa lập tức phi thẳng tới, Lý Nguyên Chỉ hoảng sợ vô cùng, suýt nữa ngã nhào xuống đất. Nàng hoành tay lại, vẫy kiếm chém về phía người gù, nhưng khoảng cách đã rất xa nên chém không trúng được. Người gù quay đầu chạy ngay. Y thân lùn chân ngắn nhưng chạy cực nhanh, trông như một quả cầu thịt lăn tròn trên bãi cát vàng. Chỉ chớp nhoáng y đã đuổi kịp con ngựa của mình đang phi nước đại về hướng tây, tung người nhảy lên ngựa, rồi chốc lát đã không thấy bóng dáng đâu nữa. Lý Nguyên Chỉ bị người gù trêu chọc một phen, tức đến muốn khóc, bèn nức nở kêu lên một tiếng: “Sư phụ!” Dĩ nhiên Lục Phi Thanh đã thấy hết mọi chuyện. Ông không nén nổi phải chau mày một cái, muốn trách mắng mấy câu, nhưng bỗng thấy mắt nàng ươn ướt, nước mắt sắp chảy ra ngoài, bèn không nỡ la rầy nữa. Lúc đó, đột nhiên từ phía sau lưng vọng đến những tiếng hô “Ngã Võ Duy Dương”. Lý Nguyên Chỉ kinh ngạc hỏi: “Sư phụ! Cái gì vậy?” Lục Phi Thanh đáp: “Đó là tiếng hô tiêu ngữ của tiêu cục. Mỗi tiêu cục đều có tiêu ngữ khác nhau, hô lên để thông báo cho đám lục lâm và anh em đồng đạo biết mình đang tới. Làm nghề bảo tiêu, thì hết bảy phần phải dựa vào tình nghĩa, còn bản lãnh chỉ đáng tin cậy ba phần. Nếu tổng tiêu đầu có giao tình rộng rãi, mọi người nể mặt, thì tiêu cục đó mới làm ăn trôi chảy được. Bằng hữu lục lâm nghe thấy tiếng hô tiêu ngữ sẽ biết là hàng của ai, có khi nể mặt mà cho qua. Nếu con đi bảo tiêu thì chưa biết ai là ai đã đắc tội với nhiều người, dù bản lãnh lớn gấp mười cũng khó mà đi nửa bước.” Lý Nguyên Chỉ nghe vậy, hiểu rằng sư phụ nhân chuyện này mà dạy dỗ mình. Vì thế tuy nàng nghĩ: “Làm gì mà con phải đi làm cái nghề bảo tiêu này,” nhưng không dám cãi sư phụ mà chỉ mỉm cười nói: “Sư phụ! Con biết lỗi rồi. Vậy bọn người hò hét to mồm kia thuộc về tiêu cục nào vậy?” Lục Phi Thanh đáp: “Đó là Trấn Viễn tiêu cục ở Bắc Kinh. Vùng phía bắc này, tiêu cục đó là lớn nhất, có phân cục ở cả Phụng Thiên, Tế Nam, Khai Phong, Thái Nguyên. Tổng tiêu đầu là Vương Duy Dương, oai trấn vùng Hà Sóc, bây giờ phải hơn bảy mươi tuổi rồi. Tiêu ngữ họ hô vẫn là Ngã Võ Duy Dương, thế thì lão vẫn chưa rửa tay gác kiếm. Ôi chao, lẽ ra lão nên cáo lão hồi hưu rồi mới phải. Trấn Viễn tiêu cục đã phát tài hơn bốn mươi năm trời, chẳng lẽ không biết thế nào là đủ!” Lý Nguyên Chỉ hỏi: “Sư phụ quen biết tổng tiêu đầu của họ hay sao?” Lục Phi Thanh đáp: “Đã từng gặp mặt. Lão này dựa cào một thanh Bát Quái Đao, một đôi Bát Quái Chưởng, năm xưa khắp vùng giang bắc không gặp địch thủ, nên mới gọi là Oai Trấn Hà Sóc.” Lý Nguyên Chỉ phấn khởi nói: “Tiêu xa của họ đi nhanh lắm. Nếu lát nữa họ đuổi kịp mình, sư phụ cho con gặp họ một tí, để được làm quen với vị lão anh hùng này.” Lục Phi Thanh cười: “Con bé ngốc này, đã là tổng tiêu đầu thì họ tự mình đi bảo tiêu để làm gì?” Lý Nguyên Chỉ bị sư phụ chê hoài, trong lòng cũng thấy khó chịu. Nhưng nàng cũng biết là mình ít hiểu việc giang hồ, nên chỉ trách thầm: “Người ta không hiểu thì nói cho người ta hiểu, làm gì mà cứ la mắng hoài!” Nàng bèn vỗ ngựa đuổi theo đoàn người để nói chuyện với mẫu thân, vừa quay người lại đã thấy cái đuôi cụt của con ngựa mình cưỡi, lại không nén nổi sợ thầm. Nàng nghĩ bụng: “Một chưởng mà chặt gãy cây thương cũng chẳng lạ gì, nhưng cái đuôi ngựa mềm nhũn thì làm sao dùng tay chặt đứt được?” Nàng muốn dừng ngựa để chờ sư phụ lên rồi hỏi, nhưng nghĩ ngợi một chút lại không thèm hỏi nữa, bèn cố đuổi theo Tăng Đồ Nam rồi gọi: “Tăng tham tướng! Đuôi ngựa của ta không biết tại sao bị đứt, thật là khó nhìn.” Vừa nói xong, nàng đã dẩu môi lên. Tăng Đồ Nam biết đại tiểu thư nghĩ gì, bèn nói: “Không biết tại sao con ngựa của ta cưỡi suốt ngày nay không chịu đi đứng đàng hoàng. Tiểu thư cưỡi ngựa rất khá, làm phiền tiểu thư giúp ta trị nó một chút, có được hay không?” Lý Nguyên Chỉ khiêm tốn một câu: “Chỉ sợ ta cũng không trị nổi nó thôi.” Hai người bèn đổi ngựa cho nhau. Thật ra con ngựa của Tăng tham tướng hết sức ngoan ngoãn, không làm khó dễ người cưỡi chút nào, nhưng hắn vẫn mở miệng tán dương: “Tiểu thư thật có bản lãnh, ngay cả con ngựa chứng này cũng phải thuần phục tiểu thư rồi.” Lý phu nhân sợ xe lớn đi nhanh dễ lật, nên cả đoàn người chậm rãi mà đi. Tiếng hô của bọn bảo tiêu càng lúc càng gần, một lúc sau đã đuổi kịp. Lục Phi Thanh sợ gặp người quen, nên hơi quay lưng đi, kéo cái nón cỏ rộng vành xuống che khuất nửa khuôn mặt của mình, không nhìn ai. Bảy tám gã tiêu sư cưỡi ngựa đi ngang qua, bỗng một gã lên tiếng: “Nghe Hàn đại ca nói đã có tung tích Tiêu Văn Kỳ tam ca rồi.” Lục Phi Thanh giật mình một cái, quay lại liếc nhìn. Trong chớp nhoáng ông chỉ kịp thấy gã này mặt dài đen nhánh, phủ đầy râu ria. Lúc hắn đi ngang qua, ông còn thấy trên lưng hắn đeo một cái bọc vải màu đỏ, lại có một đôi binh khí hình thù kỳ lạ, chính là loại Ngũ Hành Luân. Ông bèn nghĩ: “Chẳng lẽ Quan Đông Lục Ma đi làm tiêu sư cả rồi hay sao?” Trong số Quan Đông Lục Ma, ông chỉ biết Tiêu Văn Kỳ, còn năm tên còn lại chưa từng gặp mặt, chỉ biết chúng đều võ nghệ cao cường, Ngũ ma Diêm Thế Khôi, Lục ma Diêm Thế Chương đều sử dụng Ngũ Hành Luân, rất giỏi công phu tà môn ngoại đạo. Trong lòng Lục Phi Thanh tính toán: “Phen này ra ngoài đã gặp không ít võ lâm cao thủ. Xem tình hình thì Trấn Viễn tiêu cục đang đưa tiêu thực sự. Còn những người khác, nếu họ đến đây kiếm chuyện thì chắc chắn mình lành ít dữ nhiều, tránh né sợ còn không kịp. Thế mà con bé nữ đệ tử không biết gì lại không ngừng gây sự với người ta. Nhưng dường như không phải họ đến đây để tìm mình. Triệu Bán Sơn lại là hảo bằng hữu, chắc chắn không thể không niệm tình xưa. Thế thì họ cứ đi từng nhóm về phía tây để làm gì?” Sau khi Lý Nguyên Chỉ đổi ngựa với Tăng tham tướng, nàng nhìn hắn cưỡi ngựa không đuôi sợ nhịn cười không nổi, bèn ghìm ngựa lại đợi sư phụ lên, mỉm cười hỏi: “Sư phụ! Tại sao phía trước không còn ai đến nữa? Từ hôm qua đến nay đã có năm cặp người đi về phía tây rồi. Con thật sự muốn quen biết mấy vị anh hùng hảo hán.” Lời nói của nàng đã nhắc nhở Lục Phi Thanh. Ông vỗ đùi một cái rồi nói: “Ái chà! Ta già quá, hồ đồ mất rồi. Sao lại không nghĩ đến chuyện Thiên Lý Tiếp Long Đầu?” Vì ông bị ám ảnh lên cứ mãi suy đoán theo hướng có liên quan đến mình, sai trật hoàn toàn. Lý Nguyên Chỉ hỏi: “Thiên Lý Tiếp Long Đầu là cái gì thế?” Lục Phi Thanh giải thích: “Đó là lễ nghi quan trọng nhất của các bang hội trên chốn giang hồ để đón tiếp quí nhân. Thông thường thì cử ra sáu người vai vế cao nhất trong bang hội, nối tiếp nhau đi về phía trước mà nghênh tiếp. Long trọng nhất là đi tới mười hai người, chia từng cặp một. Đến bây giờ chúng ta đã thấy năm cặp rồi, thế thì phía trước chắc chắn còn một cặp nữa.” Lý Nguyên Chỉ hỏi: “Họ thuộc bang hội nào?” Lục Phi Thanh lắc đầu: “Chuyện đó thì ta không biết được.” Một lúc sau, ông lại nói: “Con thấy không, Tây Xuyên Song Hiệp và người gù kia đều thuộc về bang hội này, vậy thì thanh thế của họ chắc chắn không nhỏ đâu. Dứt khoát con không được gây sự, đã hiểu chưa?” Lý Nguyên Chỉ vâng dạ, nhưng trong lòng không phục, chỉ muốn xem thử người phía trước sẽ đến là nhân vật thế nào. * * * Đã sắp hết giờ ngọ mà từ phía trước không có ai chạy tới nữa. Lục Phi Thanh âm thầm lo lắng, cảm thấy chuyện này rất lạ, chẳng lẽ mình đoán không đúng hay sao? Trong lòng ông nghĩ: “Ngay cả Triệu Bán Sơn cũng là người trong hội, vậy thì bang hội này thật sự không nhỏ. Bản thân mình đã mười năm mai danh ẩn tánh, hoàn toàn không liên hệ gì tới bằng hữu giang hồ, những đại sự trên giang hồ không biết chút nào. Than ôi, ta đã thật sự già nua vô dụng rồi.” Ông còn đang âm thầm than thở, thì có một nhóm người tiến đến, nhưng không phải từ phía trước mà từ phía sau. Đầu tiên thì nghe thấy tiếng chuông lạc đà, rồi bụi bay mù mịt, đúng là một đoàn thương khách vùng sa mạc. Khi đến gần, nhìn rõ mấy chục con lạc đà đi chung với hai ba chục con ngựa. Đoàn người này đều là dân Hồi tộc, mũi cao mắt sâu, mặt mày râu ria rậm rạp, đầu quấn khăn trắng, hông đeo đao hơi cong. Những thương gia người Hồi vẫn thường từ bộ tộc của mình đến vùng quan ngoại buôn bán, đó là việc thường ngày. Lục Phi Thanh cũng cho rằng không cần lưu ý, nhưng đột nhiên trước mắt ông sáng rực lên. Một cô gái áo vàng cưỡi ngựa trắng, nhẹ nhàng lướt lên phía trước. Cô gái này vô cùng diễm lệ, trong tú khí lại có một chút hào khí chiếu rọi nên thêm phần rực rỡ, đẹp như đóa hoa mai mùa đông đọng tuyết, hé lộ ra một chút như hạt minh châu. Thần sắc nàng như hoa cúc sáng sớm mùa thu còn long lanh những giọt sương, hai má ửng đỏ như ráng chiều ánh lên mây trắng, đôi mắt vừa sáng vừa trong trẻo như ánh trăng. Nhìn thấy thiếu nữ Hồi tộc bất phàm, Lục Phi Thanh cũng không khỏi nhìn thêm cái nữa, còn Lý Nguyên Chỉ nhìn đến nghệch mặt ra. Từ nhỏ nàng đã sống ở vùng biên ải tây bắc, xưa nay chưa nhìn thấy cô gái nào mặt mày sáng sủa, đừng nói là người đẹp như thiên tiên giáng thế này. Thiếu nữ kia tuổi tác tương tự Lý Nguyên Chỉ, cũng khoảng mười tám mười chín tuổi, eo lưng cài một thanh đoản đao, tóc dài chấm vai. Nàng mặc áo màu vàng nhạt, đầu đội mũ viền bằng chỉ vàng, trên mũ có cắm một cái lông vũ màu xanh thúy, chân mang giày da thú, mặc quần ngắn màu xanh, quả là xinh đẹp như vẽ trong tranh. Lúc nàng ruổi ngựa ngang qua mặt, Lý Nguyên Chỉ không nén nổi cũng thúc ngựa đuổi theo, mắt nhìn mãi không rời. Cô gái áo vàng nhìn thấy một thiếu niên Hán tộc tuấn tú đang say sưa ngắm mình, mặt không khỏi đỏ lên, cất tiếng gọi: “Gia gia!” Một người Hồi thân hình cao lớn, râu ria rậm rạp, tung ngựa chạy tới vỗ nhẹ lên vai Lý Nguyên Chỉ, bảo: “Này! Anh bạn trẻ, đi đường của mình đi.” Lý Nguyên Chỉ “À” một tiếng, vẫn không để ý là mình đang cải trang thành nam nhân, ngẩn ra mà nhìn con gái người ta thì thật là vô lễ. Cô gái áo vàng lại nghĩ rằng Lý Nguyên Chỉ coi thường mình, bèn vẫy tay một cái, vung roi ngựa quấn chặt lấy bờm ngựa của Lý Nguyên Chỉ, thuận tay lôi ngược lại, lập tức kéo đứt một mảng lông bờm. Con ngựa đau quá lồng lên, suýt chút nữa đã hất chủ nhân té nhào xuống ngựa. Cô gái áo vàng lại quất roi vào khoảng trống một cái, những tiếng loạt soạt vang lên, lông bờm ngựa bay ra tứ tán. Lý Nguyên Chỉ lập tức nổi nóng, rút một mũi cương tiêu bắn tới sau lưng cô gái áo vàng, nhưng không muốn đả thương nàng lên lật ngược tiêu lại, đầu nhọn quay ra sau rồi mới la lên: “Cô nương kia! Xem tiêu của ta.” Cô gái né sang trái một chút, mũi tiêu bay qua khỏi vai phải, bắn lên phía trước. Đợi mũi tiêu bay xa hơn mình một trượng, nàng mới vung cây roi dài trong tay ra, dùng đầu roi quấn lấy mũi cương tiêu, rồi vừa thuận tay vẫy trả ra sau vừa hô lên: “Thằng lỏi kia! Trả tiêu cho ngươi.” Nàng cũng không dùng kình lực, mũi tiêu từ từ bay về trước ngực Lý Nguyên Chỉ, cô này bèn đưa tay đón lấy. Nhìn thấy cô áo vàng biểu diễn tuyệt kỹ sử dụng roi ngựa, cả đoàn thương nhân vùng sa mạc đều hò reo ầm ĩ, nhưng cha của nàng lại ra vẻ lo âu, khẽ nói với nàng mấy câu gì đó. Cô gái áo vàng vâng dạ, rồi không đếm xỉa gì tới Lý Nguyên Chỉ nữa, quất ngựa chạy nhanh lên trước. Mấy chục con lạc đà lẫn ngựa cũng chạy theo, chẳng mấy chốc đã rời xa đoàn người hộ tống Lý phu nhân. Xa xa chỉ còn vẳng lại tiếng vó ngựa và tiếng chuông lạc đà. Lục Phi Thanh mỉm cười, lên tiếng giáo huấn: “Người ta vẫn nói ra ngõ gặp anh hùng, con đã tin chưa? Cô nương áo vàng đó tuổi tác cũng không chênh lệch con lắm, vừa rồi hiển lộ một chiêu, con có phục không?” Lý Nguyên Chỉ cãi: “Bọn con gái người Hồi thì cả ngày lẫn đêm ngồi trên lưng ngựa, đương nhiên cầm roi ngựa phải rành. Chưa chắc con bé đó đã có công phu thực sự.” Lục Phi Thanh cười hỏi: “Thật ư?” * * * Khoảng hoàng hôn thì đoàn người mới đến Bố Long Cát. Ở thị trấn này chỉ có một khách sạn lớn, tên là Thông Đạt khách sạn, trước cửa đã cắm tiêu kỳ Trấn Viễn tiêu cục. Thì ra đoàn tiêu xa đã vào đây nghỉ ngơi trước rồi. Đoàn người Lý phu nhân cũng nghỉ lại khách sạn này. Khách sạn phải liên tiếp đón hai đoàn khách lớn, bọn người giúp việc bận rộn không sao nói hết. Lục Phi Thanh rửa mặt xong, cầm một bình trà đi dạo ra sau vườn, nhìn thấy trong đại sảnh có hai bàn tiệc rượu. Gã tiêu sư đeo bao vải đỏ cũng có ở đây, binh khí đã cởi xuống nhưng cái bao vải đỏ vẫn còn trên lưng, đang nói huyên thuyên gì đó. Lục Phi Thanh vẫn cầm cái bình trà ngẩng mặt nhìn trời, giả vờ quan sát thiên văn thời tiết, nhưng chú ý nghe ngóng. Một tiêu sư mỉm cười nói: “Diêm ngũ gia! Chúng ta đem món đồ chơi này đến kinh thành yên ổn, nhất định huynh sẽ được Triệu tướng quân thưởng không tới một ngàn thì cũng tám trăm, tha hồ vui vẻ với cô nàng Tiểu Hỉ Bảo rồi.” Lục Phi Thanh nghĩ thầm: “Quả nhiên là Đệ ngũ ma Diêm Thế Khôi trong Quan Đông Lục Ma.” Ông càng chú ý hơn. Diêm Thế Khôi nói: “Tiền thưởng ấy à, chuyện đó thì ai mà thiết…” Hắn chưa nói dứt câu, một thanh âm eo éo bán nam bán nữ đã xen vào: “Chỉ sợ Tiểu Hỉ Bảo đã theo người khác, hoặc đã hoàn lương mất rồi.” Lục Phi Thanh liếc mắt qua, thấy người vừa lên tiếng tướng mạo xấu xí, thân hình ốm nhom, nhưng cũng mặc y phục tiêu sư. Dĩ nhiên Diêm Thế Khôi chẳng vui vẻ gì, hừ một tiếng. Tên tiêu sư vừa nói chuyện lấy lòng hắn cũng lên tiếng: “Cái thằng Đồng Triệu Hòa này, chẳng bao giờ nói được một câu cho tử tế.” Nhưng gã Đồng Triệu Hòa kia vẫn giở giọng hoạn quan nói tiếp: “Chẳng lẽ hoàn lương mà không phải là chuyện tử tế? Được rồi, vậy thì ta nói Tiểu Hỉ Bảo suốt đời làm điếm, đến chết cũng không ngóc đầu lên được.” Diêm Thế Khôi không nhịn nổi, lớn tiếng thóa mạ: “Con mẹ mày mới cả đời làm điếm.” Đồng Triệu Hòa mỉm cười: “Hay lắm, vậy ta phải gọi ông là nghĩa phụ.” Lục Phi Thanh nghe bọn này nói chuyện chẳng ra trò trống gì, đang muốn bỏ đi thì lại nghe Đồng Triệu Hòa nói tiếp: “Diêm ngũ gia đùa thì cứ đùa, còn việc thì phải lo làm. Ông đừng nhớ Tiểu Hỉ Bảo đến mức xây xẩm mặt mày. Cái bao vải màu đỏ đeo trên lưng ông, nếu bị người ta lấy đi, thì thủ cấp của ông dọn đi chỗ khác còn là chuyện nhỏ, làm sao đền nổi oai danh bốn mươi năm của Trấn Viễn tiêu cục chúng ta mới là chuyện lớn.” Diêm Thế Khôi giận dữ nói: “Con quỉ họ Đồng kia cứ yên tâm đi. Nếu bọn rợ Hồi muốn đoạt lại món đồ chơi này trên tay Diêm ngũ gia, hừ, đừng mơ mộng làm gì. Diêm Thế Khôi mỗ được mang danh hiệu Quan Đông Lục Ma là do bản lãnh chân chính, không giống như mấy thằng lỏi chui lủi vào trong tiêu cục, ngoài ăn cơm ra chỉ còn biết phóng trung tiện mà thôi.” Lục Phi Thanh nhìn kỹ cái bao vải đỏ trên lưng hắn. Cái bao không lớn lắm, dường như vật đựng bên trong cũng rất nhẹ. Sau đó nghe tiếng Đồng Triệu Hòa nói: “Danh hiệu Quan Đông Lục Ma tuy rằng không nhỏ, nhưng tiếc là Đệ Tam Ma bị người ta làm thịt, mà kẻ thù là ai cũng không hay biết.” Diêm Thế Khôi vỗ mạnh lên bàn quát: “Ai nói là không biết? Nhất định là Tam ca bị bọn Hồng Hoa Hội hại chết rồi.” Lục Phi Thanh nghĩ bụng: “Thật là cổ quái! Rõ ràng Tiêu Văn Kỳ bị ta giết chết, sao chúng lại đổ món nợ này cho Hồng Hoa Hội? Hồng Hoa Hội là bang hội thế nào nhỉ?” Ông bèn đi chầm chậm trong vườn như ngắm hoa cỏ, đến gần bọn tiêu sư thêm một chút. Đồng Triệu Hòa quyết không dừng miệng: “Tiếc là ta không có cốt khí, chỉ biết ăn cơm và phóng trung tiện. Nếu ta không phải con cháu loài rùa thì đã đi tìm Hồng Hoa Hội để tính sổ nợ rồi.” Diêm Thế Khôi bị hắn trêu chọc đến giận run lên, không nói được tiếng nào. Một gã tiêu sư bèn lên tiếng hòa giải: “Tổng đà chủ Vu Vạn Đình của Hồng Hoa Hội đã chết ở Vô Tích tháng trước rồi, trên giang hồ còn ai không biết. Người ta không còn chủ nữa, biết tìm ai báo thù? Hơn nữa, chuyện Tiêu tam gia bị Hồng Hoa Hội hại chết thì không có ai làm chứng, không có ai nhìn thấy, nếu tìm đến đó mà người ta không chịu nhận món nợ này thì phải làm sao?” Đồng Triệu Hòa không cãi được nữa, bèn đổi sang chuyện khác: “Dĩ nhiên bọn chúng ta không dám dây vào Hồng Hoa Hội, nhưng ăn hiếp bọn con gái Hồi tộc thì chẳng lẽ không dám hay sao? Món đồ chơi này chúng quí như tính mạng, thế mà bị chúng ta cướp lấy. Sau này Triệu tướng quân đòi chúng dâng nộp tiền bạc, trâu dê, dĩ nhiên chúng phải hai tay cung kính dâng lên. Ta khuyên Diêm ngũ gia này, ông đừng nghĩ đến Tiểu Hỉ Bảo làm gì nữa, lần này về kinh xin Triệu tướng quân ban cho một con bé Hồi tộc đem về hú hí, còn khoái lạc hơn nhiều…” Hắn đang nói tới chỗ đắc ý, đột nhiên nghe “phạch” một tiếng, không biết từ đâu một miếng đất bay tới nhét ngay vào miệng, lập tức ú ớ không ra tiếng nữa. Hai gã tiêu sư lập tức xách vũ khí chạy ra ngoài. Diêm Thế Khôi đứng bật dậy, vớ lấy Ngũ Hành Luân đang đặt bên cạnh. Em của hắn là Diêm Thế Chương nghe động cũng chạy tới, hai huynh đệ đứng chung một chỗ, không dám rượt theo kẻ địch, rõ ràng là sợ trúng kế điệu hổ ly sơn. Đồng Triệu Hòa ráng lắm mới nhổ được cục đất trong miệng ra, rồi lôi tổ tông mười tám đời của người ta ra mà thóa mạ ỏm tỏi. Diêm Thế Chương lạnh lùng nói: “Xưa nay chỉ nghe nói ăn cứt chó, bây giờ mới biết là có người ăn cả đất bùn.” Hai gã tiêu sư Tái Vĩnh Minh và Tiền Chính Luân, một gã xách nhuyễn tiên, một gã nắm đơn đao chạy từ ngoài cửa vào rồi nói: “Kẻ quấy rối chạy trốn rồi, không thấy đâu nữa.” Lục Phi Thanh thấy hết mọi chuyện, nhìn vẻ mặt ngờ nghệch của Đồng Triệu Hòa mà tức cười trong bụng. Đột nhiên ông thấy trên bức tường phía đông có bóng người thấp thoáng, bèn giả vờ chuyện không liên can đến mình mà chậm rãi bước đi. Lúc này trời đã tối mịt, ông nấp dưới góc tường phía tây một lúc thì thấy một người trên nóc nhà nhảy xuống, chạm đất không hề phát ra tiếng động, rồi chạy nhanh về hướng đông. Lục Phi Thanh muốn biết người vừa cho Đồng Triệu Hòa ăn đất là nhân vật thế nào, bèn thi triển khinh công âm thầm bám theo, bình trà trên tay không sóng sánh, ngay cả vạt áo dài cũng không phấp phới. Khinh công của ông khổ luyện mấy chục năm trời, quả thật ít ai sánh kịp, tuy chạy rất nhanh nhưng người phía trước hoàn toàn không phát giác. Chốc lát hai người đã chạy tới năm sáu dặm. Người phía trước thân hình thon thả, dáng vẻ yểu điệu, dường như là nữ nhân, nhưng khinh công cũng rất cao. Vượt qua được một ngọn đồi, phía trước là một khu rừng âm u. Người đó chạy thẳng vào trong rừng, Lục Phi Thanh cũng theo vào. Trong khu rừng, cành lá rơi rụng trải đầy mặt đất, bước chân nghe rõ những tiếng xào xạc. Lục Phi Thanh sợ bị phát hiện nên đi chậm lại, chỉ trong chớp nhoáng đã không nhìn thấy bóng dáng người đó nữa. Đột nhiên mây tản ra, trăng xuất hiện, rọi ánh sáng qua những tán lá rậm rạp chiếu xuống đất. Dưới đất hiện ra vô số bóng cây, còn ở đằng xa ánh lên một thoáng áo vàng, người đó sắp rời khỏi khu rừng. Lục Phi Thanh theo đến ven rừng, núp sau một gốc cây lớn nhìn ra. Ngoài bìa rừng là một cánh đồng cỏ rộng lớn, đã có tám chín chiếc lều. Ông cảm thấy hiếu kỳ, muốn thăm dò một chút, bèn chờ đến khi hai người canh gác quay đi chỗ khác, thi triển khinh công Yến Tử Tam Xao Thủy nhảy đến nấp sau một con lạc đà đang đứng ngoài lều, không bị ai phát hiện. Ông khom người tiến đến cái lều lớn nhất ở giữa, nằm sát xuống đất, nghe thấy trong lều có nhiều giọng nói hùng hồn. Họ nói toàn là tiếng Hồi, lại rất nhanh. Tuy Lục Phi Thanh đã ở vùng biên giới nhiều năm, nhưng cũng không sao hiểu nổi. Ông bèn nhẹ nhàng vén một góc lều lên, ghé mắt nhìn vào trong. Trong lều có hai ngọn đèn dầu, dưới đất trải thảm, có rất nhiều người ngồi. Đây chính là đoàn thương gia người Hồi đã gặp ban ngày. Lúc này có một giọng nói thánh thót cất lên, Lục Phi Thanh đưa mắt nhìn sang thì thấy người nói chính là cô gái áo vàng. Nàng nói xong bèn xoay tay rút trên thắt lưng ra một thanh trủy thủ sáng đến chói mắt, đưa mũi trủy thủ khẽ đâm vào ngón trỏ bên trái của mình, nhỏ mấy giọt máu tươi vào cái chén đựng sữa ngựa. Những người còn lại trong lều cũng rút dao ra, mỗi người nhỏ mấy giọt máu vào chén sữa của mình. Rồi phụ thân của cô gái áo vàng, chính là người Hồi to lớn rậm râu kia, nâng chén lên lớn tiếng nói mấy câu. Lục Phi Thanh chỉ hiểu vài chữ, kinh Coran với quê hương gì gì đó. Sau đó cô gái áo vàng lại cất tiếng rõng rạc: “Nếu không đoạt lại được cuốn kinh Coran thần thánh này, thà chết cũng không về quê hương nữa.” Mọi người Hồi trong lều đều tuyên thệ theo như thế. Tuy ánh đèn ảm đạm, nhưng cũng đủ thấy trên mặt người nào cũng đầy vẻ khẳng khái quyết tâm. Mọi người thề xong thì nâng chén lên uống cạn, rồi xuống giọng thầm thì nói chuyện, dường như đang bàn tính chuyện gì đó. Lục Phi Thanh hiểu lờ mờ là nhóm người Hồi này có một bộ kinh sách quí báu vừa bị cướp mất, bây giờ đang muốn đoạt lại. Lục Phi Thanh suy đoán không lầm. Nhóm người Hồi tộc này thuộc một bộ lạc du mục ở phía bắc Thiên Sơn, dòng dõi của người Hồi Hột đời Đường, tính khí vừa cao thượng vừa dũng mãnh cang cường. Xưa nay họ không chịu để triều đình thống trị, tự chia bộ lạc ra mà sống. Vào đời nhà Nguyên, người Mông Cổ tự cao tự đại đã khinh miệt gọi họ là người Duy Ngô Nhĩ. Sau này, những người ăn nói khách sáo hơn thì gọi họ là dân Hồi tộc. Thật ra hình dáng và tập tục của họ khác hẳn với người Hồi ở trung nguyên, cũng không cùng chủng tộc, chẳng qua chỉ cùng theo Hồi giáo. Bộ tộc này khá đông người, tổng số đến gần hai chục vạn dân. Người cao lớn nhất tên là Mộc Trác Luân, thủ lĩnh bộ tộc này, võ công cao cường, nhân nghĩa công chính, rất được dân chúng yêu mến. Cô gái áo vàng này là con gái của y, tên gọi Hoắc Thanh Đồng. Nàng thích mặc áo màu vàng, trên mũ thường cắm một chiếc lông vũ màu xanh thúy, từ đó mà có ngoại hiệu rất đẹp. Trong võ lâm vùng nam bắc Thiên Sơn, rất nhiều người biết tiếng Thúy vũ hoàng sam Hoắc Thanh Đồng. Bộ tộc này sống kiểu du mục, ngao du trên đại mạc mênh mông thật là phiêu diêu khoái lạc. Nhưng rồi thế lực của triều đình nhà Thanh lan tràn đến vùng biên ải, trưng thu thuế má càng lúc càng nhiều. Lúc đầu Mộc Trác Luân còn nhượng bộ cho được việc, cố gắng tìm cách cung ứng. Nào ngờ triều đình lòng tham không đáy, khiến cho bộ tộc sinh sống mỗi ngày một khó. Mộc Trác Luân đã thương lượng với người trong tộc, ai cũng thấy nếu tiếp tục như thế thì không sao sống nổi, nên mấy lần phái người đi gặp người có quyền thế, xin giảm thuế má trưng thu. Không ngờ thuế má không được giảm, mà còn làm cho triều đình nhà Thanh nảy dạ nghi ngờ. Phó đô thống Hoàng Kỳ Mãn Châu Định Biên tướng quân Triệu Tuệ, lúc đó phụng mệnh lo về quân cơ dọc vùng Thiên Sơn, biết bộ tộc này có một quyển kinh Coran chép tay, đời đời truyền lại. Bộ kinh này đem từ thánh địa Mecca của Hồi giáo về, đã được mấy chục đời thủ lĩnh bảo vệ thận trọng, đúng là thánh vật của bộ tộc người Hồi này. Triệu Tuệ bèn nhân lúc Mộc Trác Luân có việc đi xa, phái cao thủ đi cướp lấy quyển kinh. Y muốn dùng vật này để uy hiếp cho người Hồi hết đường phản kháng. Lúc về, Mộc Trác Luân triệu tập đại hội vùng sa mạc, thống lãnh nhiều người đi về hướng đông đoạt lại bộ kinh. Họ đã lập thệ, cho dù xương cốt phơi vùng quan nội cũng phải đem được thánh kinh về lại quê nhà. Lúc này họ đang làm lễ cầu kinh buổi tối, mọi người trân trọng thề thốt. Lục Phi Thanh đã biết mưu đồ của nhóm người Hồi này không có liên quan gì đến mình, nên không muốn nghe tiếp nữa. Ông đang muốn buông góc lều xuống chạy về, đột nhiên thấy mọi người Hồi trong lều đều nằm hết xuống đất để cầu nguyện. Ông biết dễ bị nhìn thấy, bèn vội vàng đứng dậy. Nào ngờ trong chớp nhoáng đó, Hoắc Thanh Đồng đã kịp phát hiện bên ngoài lều có người thám thính. Nàng nói nhỏ với cha nằm bên cạnh, rồi lập tức tung người ra khỏi lều, nhìn thấy một bóng người đang chạy vào trong rừng, thân pháp cực nhanh. Nàng vung tay phải lên, ném theo một cục thiết liên tử. Lục Phi Thanh nghe tiếng gió sau lưng, biết có ám khí bắn tới. Ông hơi nghiêng người né tránh, đưa ngón trỏ bên phải ra nhắm chính xác viên thiết liên tử lúc nó bay qua, gõ nhẹ xuống một cái. Ám khí đang bay đột nhiên rơi xuống. Tay trái ông vẫn đang cầm bình trà, dùng hai ngón tay mở nắp bình ra hứng, thiết liên tử rơi tõm vào trong. Ông không quay đầu lại làm gì, cứ thi triển khinh công chạy nhanh về khách sạn. Về đến khách sạn thì mọi người đã ngủ say. Tên tiểu nhị hỏi: “Lão tiên sinh đi dạo lâu như vậy, chắc để thưởng thức ban đêm yên tĩnh phải không?” Lục Phi Thanh ậm ừ cho qua chuyện rồi vào phòng, lấy hòn thiết liên tử trong bình trà ra xem. Viên ám khí này đúc bằng thép tinh luyện, bên trên có khắc một cái lông vũ. Ông bèn tiện tay bỏ vào túi mình. * * * Sáng sớm hôm sau, đoàn người bảo tiêu khởi hành trước. Tiếng hô tiêu ngữ Ngã Võ Duy Dương vang dội, rồi cả bọn lên đường, ngọn tiêu kỳ bát quái của Trấn Viễn tiêu cục dẫn đầu. Lục Phi Thanh nhìn thấy hành lý trên lưng lừa không nặng lắm, bọn tiêu sư chỉ lo bảo vệ Diêm Thế Khôi. Hiển nhiên cái bao vải đỏ mới thật sự là thứ cần bảo vệ. Tiêu cục cũng có luật lệ của tiêu cục, rất nhiều người chỉ làm một việc là bảo vệ cái bao, nhưng trong bao đựng thứ gì thì họ cũng không thèm để ý. Khi bọn bảo tiêu đi khuất, Tăng tham tướng cũng dẫn binh sĩ hộ tống Lý phu nhân lên đường. Đến trưa, họ ăn cơm ở Hoàng Nhai Tử. Đoạn đường này ngoằn ngèo trên núi, dự tính chiều nay phải vượt qua ba quãng rất dài mới kịp đến Tam Đạo Câu dưới núi để nghỉ đêm. Đường núi rất hiểm trở, càng đi càng dốc. Lý Nguyên Chỉ cùng Tăng tham tướng lúc nào cũng đi sát cỗ xe của phu nhân, chỉ sợ lừa bị sẩy chân là xe rơi xuống vực, dĩ nhiên người trong xe phải tan nát thịt xương. Vào giờ thân thì đoàn người đã đến trấn Ô Kim, thấy bọn tiêu cục đang nghỉ ngơi ở đó. Tăng tham tướng cũng cho đoàn người nghỉ ngơi chốc lát. Hai bên trấn Ô Kim toàn là núi cao, chính giữa có một con đường lên núi rất dốc, dọc đường khó có chỗ dừng chân, phải đi một hơi lên tới đỉnh. Lục Phi Thanh đi ở sau cùng, không muốn giáp mặt đám người trong tiêu cục. Sau khi nghỉ ngơi xong, mọi người bắt đầu tiến vào hẻm núi. Đoàn người tiêu cục cùng với thủ hạ của Tăng tham tướng nối đuôi nhau thành một con rồng dài. Người vật đều thở hổn hển trèo lên, bọn mã phu luôn mồm quát tháo, giục ngựa đi nhanh. Lục Phi Thanh bỗng thấy có bóng người thấp thoáng trên một đỉnh núi bên phải, hình như đang theo dõi. Sau đó ông nghe thấy tiếng chuông lạc đà, một đoàn người Hồi cưỡi lạc đà và ngựa đang từ đỉnh núi trước mặt phi xuống ào ào. Tiếng vó ngựa vang lên gấp rút, khí thế giống như núi lở. Bọn bảo tiêu hô hoán ầm lên, kêu đối phương đi chậm lại. Đồng Triệu Hòa quát tháo: “Ê này! Bọn mù kia, trong nhà chết mấy con mẹ mà đi đưa ma gấp thế?” Trong chốc lát đám người Hồi đã chạy tới gần, bảy tám kỵ sĩ đi đầu đột nhiên cất tiếng hú vang. Tiếng hú rất dài, ngân vang cả một vùng thung lũng. Lúc đó, hai bên đỉnh núi đều có người lố nhố đứng dậy hú theo. Bọn người tiêu cục không nén nổi phải giật mình kinh hãi. Rồi trong đám người Hồi có tiếng sáo nổi lên, hai con ngựa phi nhanh tới, chạy qua mặt Diêm Thế Khôi, nhắm thẳng tới Diêm Thế Chương đang đứng sau lưng hắn. Đồng thời có bốn con lạc đà chạy tới bao vây Diêm Thế Khôi. Diêm gia huynh đệ đã đánh quen trăm trận, nhìn thấy tình thế khác lạ bèn rút binh khí ra ứng chiến. Mấy người Hồi cưỡi lạc đà đột nhiên lấy đại thiết trùy ra, vung lên bằng cả hai tay, đập thẳng xuống đầu Diêm Thế Khôi. Đường núi chật hẹp, không có chỗ quay đầu xoay trở, mà lúc này đông người lại càng chật chội. Bốn người Hồi thân hình to khỏe, cưỡi trên lưng lạc đà từ cao đánh xuống, bốn quả đại thiết trùy mỗi quả nặng tới trăm cân. Dù võ nghệ của Diêm Thế Khôi có giỏi gấp đôi cũng không sao tránh né, lập tức cả người lẫn ngựa bị đập thành một đám máu thịt lẫn lộn. Cô gái áo vàng Hoắc Thanh Đồng từ giữa đoàn người Hồi phóng tới, tung người nhảy xuống ngựa, vung trường kiếm cắt đứt một bên dây buộc cái bao vải màu đỏ trên lưng Diêm Thế Khôi. Dây bên kia chưa kịp cắt, nàng đột nhiên nghe sau lưng có tiếng gió rít lên như binh khí đánh tới. Hoắc Thanh Đồng nghiêng mình tránh né, không cần biết kẻ địch là ai, cứ đưa kiếm cắt đứt nốt đầu kia của sợi dây. Không ngờ kiếm pháp của địch rất nhanh, đảo lại chém ngang lưng nàng, không để nàng đưa tay nhặt cái bao vải đó. Hoắc Thanh Đồng không có cách nào tránh né, phải xoay kiếm lại đỡ. Hai thanh kiếm chạm nhau bắn lửa tung tóe, nàng bỗng giật mình vì địch thủ võ công không tệ. Nhưng lúc này nàng không có thì gìờ suy tính, cứ đưa tay trái ra nhặt cái bao vải. Trường kiếm của địch giống như bóng theo hình, đâm thẳng vào cổ tay trái nàng. Tay trái của Hoắc Thanh Đồng phải rụt lại, tay phải cầm kiếm đâm thẳng ra. Khi ngẩng đầu lên nhìn, nàng mới thấy người ba lần liên tiếp cản trở mình là một thiếu niên tuấn tú, cũng chính là thằng cha vô lễ hôm qua chòng chọc nhìn mình. Nàng giận giữ không nén nổi, veo véo đánh ngay ba chiêu, trận tỉ đấu đã khai diễn. Người đó chính là Lý Nguyên Chỉ đang cải nam trang. Nàng nhìn thấy đoàn thương nhân người Hồi đột kích cướp tiêu, lẽ ra cũng muốn đứng ngoài mà xem náo nhiệt. Nhưng nàng đột nhiên nhìn thấy cô gái áo vàng phóng ra cướp cái bao vải màu đỏ, mà đây chính là cô gái hôm qua vặt lông bờm ngựa của mình, lại còn được sư phụ mình khen giỏi võ công. Trong lòng Lý Nguyên Chỉ không phục, khi thấy bọn bảo tiêu đánh nhau với người Hồi thì không cần biết ai phải ai trái, cứ thi triển khinh công xông tới, so tài với cô gái áo vàng. Hoắc Thanh Đồng liên tiếp phóng ra ba kiếm đều bị Lý Nguyên Chỉ hóa giải, không nén nổi chút lo âu. Họ đã điều tra biết được tướng quân Triệu Tuệ thuê Trấn Viễn tiêu cục hộ tống bộ kinh Coran về Bắc Kinh. Bọn tiêu sư đều lo bảo vệ cái bọc vải màu đỏ này, nhất định trong đó cất cuốn thánh kinh của bộ tộc mình. Địch thủ võ công không tệ lắm, nếu đánh nhau quang minh chính đại thì chưa chắc thành công, nên Hoắc Thanh Đồng mới bàn kế mai phục ở hẻm núi Ô Kim này. Nàng định bất ngờ đột kích, nếu đoạt lại được thánh kinh thì lập tức chạy trở về tây, nào ngờ giữa đường lại có thiếu niên này cản trở. Hoắc Thanh Đồng thấy thời cơ đã mất, cũng không muốn đánh lâu làm gì. Nàng đột nhiên biến đổi kiếm pháp, thi triển tuyệt kỹ Tam Phân kiếm thuật của phái Thiên Sơn, chỉ mấy chiêu đã ép Lý Nguyên Chỉ lùi lại liên tục. Gọi là Tam Phân, vì mỗi chiêu kiếm trong Tam Phân kiếm thuật chỉ sử đến một phần ba. Địch vừa muốn chống đỡ thì ta đã biến chiêu rồi, trong một chiêu ẩn tàng đến ba chiêu khác, thật là vừa phức tạp vừa nhanh chóng. Kiếm thuật này hoàn toàn không có thế thủ, chiêu nào cũng chỉ tấn công. Lý Nguyên Chỉ nhìn thấy cô gái áo vàng sử chiêu Băng Hà Đảo Tả đâm thẳng qua, lập tức hướng mũi kiếm lên trên, ra chiêu Triều Thiên Nhất Trụ để chống đỡ. Nào ngờ kiếm của đối phương chưa đi hết tầm, cách người mới hai thước đã biến thành chiêu Thiên Lý Lưu Sa, từ đâm thẳng thành phạt ngang. Lý Nguyên Chỉ giật mình, vội vàng xoay kiếm lại, rút về bảo vệ trung lộ. Thật kỳ lạ, thế phạt ngang của đối phương xem ra kình lực đầy đủ, nhưng lưỡi kiếm chưa đến nơi lại đột nhiên biến thành chiêu Phong Quyện Trường Thảo chém vèo tới chân trái, buộc Lý Nguyên Chỉ phải lùi ngay một bước, cố gắng lắm mới tránh né được. Hoắc Thanh Đồng lại biến thành chiêu Cử Hỏa Liệu Thiên, từ dưới hướng lên đâm vào cánh tay trái. Khi Lý Nguyên Chỉ đỡ chiêu này, đối phương lại thay đổi chiêu thức thành Tuyết Trung Kỳ Liên. Mỗi chiêu của nàng đều có thế như tên lắp trên cung, ẩn chứa kình lực rất mạnh, bất cứ lúc nào cũng có thể gây nguy hiểm. Hai người đã giao đấu mười mấy chiêu mà hai thanh kiếm chưa chạm nhau một lần nào, đó là vì mỗi chiêu của Hoắc Thanh Đồng chỉ sử có một phần ba, vừa đợi đối phương chống đỡ đã biến thành chiêu thức khác. Hoắc Thanh Đồng cứ đâm chém vùn vụt, lưỡi kiếm không lúc nào rời khỏi đối phương tới một thước. Lý Nguyên Chỉ bị nàng ép đến loạn cả tay chân, không ngừng lùi bước. Nếu không đón đỡ, thì không chừng hư chiêu của đối thủ lại trở thành thực chiêu, mà đón đỡ thì chiêu thức của đối phương chỉ sử tới một phần ba là biến đổi. Mình sử được một chiêu thì đối phương đã kịp biến đến ba chiêu rồi, dù tốc độ mình nhanh hơn cũng không sao đỡ kịp, nên trong lòng nàng kinh hoảng, phải liên tiếp rút lui. Thực ra Nhu Vân kiếm thuật của nàng đã luyện đến sáu bảy thành hỏa hầu, chỉ cần định lại tâm thần, giữ môn hộ thận trọng, thì chưa chắc đã thua. Nhưng dù sao thì nàng cũng mới giao đấu lần đầu, hoàn toàn chưa có kinh nghiệm. Đột nhiên thấy kiếm pháp của đối phương nhanh gấp ba mình, dĩ nhiên phải hoảng sợ, đón đỡ không kịp nên chỉ còn đường rút lui tránh né. Hoắc Thanh Đồng cũng không đuổi theo, lập tức quay người lại. Nàng nhìn thấy một người ốm yếu từ bên mình Diêm Thế Khôi đứng dậy, trong tay đã ôm cái bao vải đỏ. Hoắc Thanh Đồng đưa kiếm đâm tới. Người đó kêu lên: “Úi chà! Đồng đại gia phải rút lui thôi.” Thì ra đây chính là tên Đồng Triệu Hòa mồm mép thối tha. Hắn không dám tiếp chiêu, nhảy một cái đã lùi ra ba bước. Hoắc Thanh Đồng rượt theo, vung kiếm chém từ trên xuống, nhưng tới ngang tầm ngực thì bị Ngũ Hành Luân cản trở. Thì ra Diêm Thế Chương đã tới nơi đón đỡ rồi. Lần này Hoắc Thanh Đồng đã có kế hoạch chu toàn, trước sau đều dùng những con lạc đà to lớn để ngăn cách bọn người trong tiêu cục, không cho chúng tiếp ứng lẫn nhau. Phía sau có phụ thân của nàng là Mộc Trác Luân, tay cầm trường đao cản trở hai tên tiêu sư Tái Vĩnh Minh và Tiền Chính Luân. Ông lấy một chống hai mà vẫn công nhiều thủ ít, nhưng rốt cuộc vẫn bị Diêm Thế Chương lọt qua được. Tên này nhìn thấy huynh chưởng bị bốn ngọn thiết trùy đập nát, quên cả hiểm nguy, từ trên lưng ngựa lộn người bay qua mấy con lạc đà. Ngũ Hành Luân bên tay trái vừa đánh ra đã chặt đứt cánh tay cầm thiết trùy của một người Hồi, gã này lập tức nhào xuống lạc đà. Một người Hồi khác tiến lên cản trở, Diêm Thế Chương đợi thiết trùy tới nơi mới nghiêng người tránh né, Song Luân dồn hết qua tay trái, còn tay phải chụp trúng mạch môn đối thủ. Đại thiết trùy nặng cả trăm cân, thế công cực kỳ mãnh liệt, nhưng người Hồi đó đã bị y thuận thế lôi xuống khỏi lạc đà, thiết trùy tự đánh trúng ngực mình, chỉ hộc lên một tiếng là phun máu tươi ra chết. Trong lúc hỗn loạn, Đồng Triệu Hòa thấy cái bao vải đỏ không ai bảo vệ, bèn bấm gan lẻn tới nhặt lấy. Diêm Thế Chương thấy hắn bị Hoắc Thanh Đồng truy đuổi, biết tên này võ nghệ tầm thường bèn qua đỡ giúp. Hoắc Thanh Đồng đấu với Diêm Thế Chương được mấy chiêu, cảm thấy đối phương chiêu thức đã cao cường, lại khỏe như hùm beo, quả là xứng tay đối thủ. Nàng đang sợ thiếu niên tuấn tú kia tiếp tục xông tới trợ chiến, thì bỗng nghe hai bên núi có tiếng sáo vang lên. Đó là tín hiệu rút lui, cho biết bên tiêu cục có người tiếp ứng. Nàng ngẩng đầu lên thấy Đồng Triệu Hòa đang chạy vội lên núi, bèn thi triển Tam Phân kiếm thuật cố gắng ép Diêm Thế Chương lùi hai bước, rồi vung kiếm đuổi theo. Tiếng sáo càng lúc càng vang dội. Mộc Trác Luân lớn tiếng la lên: “Thanh Đồng! Lùi nhanh!” Hoắc Thanh Đồng dừng lại không đuổi nữa, đốc thúc quân mình đưa người chết và người bị thương lên lưng ngựa và lạc đà, rồi cả đoàn chạy lên đỉnh núi. Phía trước có mấy chục quân Thanh cản đường, Tăng Đồ Nam ruổi ngựa lên trước, hoành thương ngang ngực hét lên: “Rợ Hồi cả gan, muốn tạo phản phải không?” Hai cục thiết liên tử của Hoắc Thanh Đồng lập tức đánh trúng hai bàn tay của Tăng tham tướng. Mấy tiếng leng keng vang lên, ngọn thiết thương đã rơi xuống đất. Mộc Trác Luân vung cao trường đao, đi trước mở đường. Cả đoàn người Hồi cùng đổ xô tới bọn quân Thanh, chúng bắt buộc phải dạt ra nhường lối. Tiền Chính Luân và Tái Vĩnh Minh đã đuổi đến nơi, lại đánh nhau với Hoắc Thanh Đồng. Giữa đoàn người Hồi có một con ngựa bay vọt ra, người trên ngựa la lên: “Nhị muội! Lui trước đi!” Đây chính là Hoắc A Y, huynh trưởng của Hoắc Thanh Đồng, vung một cây thương lớn đón đỡ hai tên tiêu sư. Hoắc Thanh Đồng nhún chân nhảy lên ngựa, rồi hai anh em vừa đánh vừa lùi. Đột nhiên tiếng sáo trên đỉnh núi nổi lên gấp rút, Hoắc A Y cùng Hoắc Thanh Đồng thúc ngựa chạy nhanh. Diêm Thế Chương đuổi theo, nhưng bị Hoắc Thanh Đồng phóng hai viên thiết liên tử nhằm vào ngực nên phải dừng bước, vung Ngũ Hành Luân để gạt thiết liên tử văng đi. Hai bên núi bắt đầu lăn những tảng đá lớn xuống, mười mấy tên Thanh binh lập tức vỡ đầu chảy máu. Trong lúc hỗn loạn, đoàn người Hồi tộc đã rời xa. Diêm Thế Chương thấy huynh trưởng của mình chết một cách thê thảm, chỉ biết ôm lấy thi thể nát bét đó mà khóc lóc. Tiền Chính Luân và Tái Vĩnh Minh đến bên khuyên can mãi, hắn mới lau nước mắt mà lên ngựa. Bọn người trong tiêu cục liền hốt cái xác này lên cỗ xe lớn. Đồng Triệu Hòa dương dương đắc ý: “Nếu không nhờ Đồng đại gia tay chân mau lẹ, thì ông ấy chết thật uổng mạng.” Trong lúc hai bên hỗn chiến, Lục Phi Thanh chỉ đứng bên mà nhìn. Còn Lý Nguyên Chỉ thì tuy bị Hoắc Thanh Đồng đẩy lùi, nhưng dù sao cũng đã tương trợ thành công cho tiêu cục, không để người Hồi đắc thủ, nên trong lòng nàng đang thấy tự đắc. Thế mà Diêm Thế Chương đau lòng khóc anh, còn bọn tiêu sư còn phải lo lắng cứu chữa người bị thương, hoàn toàn chẳng có ai tới nói một tiếng cảm ơn nàng. Dĩ nhiên cô đại tiểu thư này hết sức không vui. Đồng Triệu Hòa thấy Tăng Đồ Nam phục sức kiểu võ quan, bèn chạy tới nói mấy câu khách sáo, vẫn không đếm xỉa gì đến Lý Nguyên Chỉ, khiến nàng càng tức tối. Nào ngờ Lục Phi Thanh lại giận giữ giáo huấn nàng một phen, nào là không nên tự động ra tay phá hư đại sự của người ta, nào là chẳng có lý do gì để kết nhiều oan gia như thế, nào là người trong tiêu cục tốt ít xấu nhiều, nào là không nên phí sức giúp cho điều ác. Tóm tắt là cô nàng bị mắng đến vuốt mặt không kịp. * * * Qua khỏi đoạn đường núi, vào khoảng hoàng hôn đã đến Tam Đạo Câu, đó là một thị trấn không lớn không nhỏ. Bọn mã phu đều nói là ở Tam Đạo Câu này chỉ có một tiệm ăn kiêm khách sạn mà thôi. Khi vào thị trấn, cả bọn người tiêu cục và bọn Tăng Đồ Nam đều phải tới đây ăn nghỉ. Ở vùng biên cương, chỗ nào cũng thô lậu. Khách sạn này vách đất, nền cũng đất, bài trí hết sức đơn giản. Đồng Triệu Hòa không thấy bọn người hầu trong khách sạn ra đón tiếp, lập tức ngoác mồm ra thóa mạ: “Chẳng lẽ bọn tiểu nhị trong tiệm này chết tiệt hết rồi hay sao, con mẹ mười tám đời tổ tông nhà nó.” Lý Nguyên Chỉ chau mày, trước giờ nàng chưa bao giờ nghe thấy người ta mắng nhiếc thô lỗ như vậy trước mặt mình. Lúc cả đoàn người vào cửa, đột nhiên nghe thấy trong nhà vang ra tiếng binh khí khua loảng xoảng. Lý Nguyên Chỉ cả mừng, lại có chuyện náo nhiệt để xem, bèn nhanh chân chạy vào trước. Trong sảnh đường chẳng có bóng người nào, vào tới sân trong thì thấy một thiếu phụ đầu tóc rối tung, đang ác chiến với bốn nam nhân. Thiếu phụ mặt mũi xanh xao, tay trái cầm trường đao, đang liều chết chống cự. Lý Nguyên Chỉ đứng xem mấy hiệp, thấy dường như bốn người kia đang muốn tấn công vào trong, nhưng bị thiếu phụ cố sống cố chết cản trở. Bốn tên đó võ công cũng không tệ, một người sử dụng nhuyễn tiên, một người dùng đôi hoài trượng, một người dùng quỉ đầu đao, một lão già sử kiếm. Lúc này Lục Phi Thanh cũng đã vào tới sân, đang thắc mắc không hiểu tại sao dọc đường lại gặp toàn những người biết võ công. Ông thấy người sử dụng hoài trượng vung cả cặp trượng lên ra sức đánh xuống đầu thiếu phụ. Thiếu phụ không dám công nhiên đánh đỡ nên tránh sang bên trái, thì nhuyễn tiên đã quất tới ngang lưng. Đoản đao bên tay phải của thiếu phụ chuyển nhanh như gió, đâm thẳng vào cổ tay phải của địch. Khi ngọn nhuyễn tiên cuộn đến, trường đao của thiếu phụ đã thu về gạt, nên không bị quấn lấy. Nhưng quỉ đầu đao đã chém tới, cùng lúc với thanh kiếm đâm vào sau lưng. Đoản đao bên tay phải của thiếu phụ gạt được thanh kiếm, nhưng địch tấn công hai phía nên không né hết kịp, liền bị thanh quỉ đầu đao chém trúng bả vai trái. Thiếu phụ trúng một đao, nhưng trận ác chiến vẫn không dừng lại. Mỗi lần nàng huy động song đao là máu tươi lại bắn ra. Hán tử cầm nhuyễn tiên la lên: “Đừng lấy mạng nó, phải bắt sống.” Lục Phi Thanh nhìn thấy bốn nam nhân vây đánh một nữ nhân, không khỏi động lòng nghĩa hiệp. Tuy thân ông đang mang trọng án, nhưng quyết định phải ra tay can thiệp. Lúc này hán tử sử hoài trượng lại vung song trượng đánh ngang, thiếu phụ phải cố lắm mới né khỏi. Trong lúc gấp rút, nàng chỉ gượng vung đoản đao bên tay phải đánh trả một đao, nhưng bên tay trái lại có một chiêu kiếm phóng tới. Thiếu phụ đưa nghiêng trường đao ra chống đỡ, nhưng kình lực đối phương quá mạnh, mà tay trái mình đã bị thương lên khí lực đã giảm mất nhiều. Vì thế khi đao kiếm chạm nhau, trường đao lập tức rớt xuống đất nghe choảng một tiếng. Địch thủ đã thắng thế quyết không chịu thôi, trường kiếm lại thừa thế tấn công. Thiếu phụ đành phải tránh né sang bên phải, bỏ ngỏ cánh cửa đang trông giữ. Nhân cơ hội đó, đại hán cầm quỉ đầu đao chạy vào phòng nhanh như chớp. Thiếu phụ không kể gì đến binh khí tấn công sau lưng, cứ thò tay trái chạy vào bọc rồi vẫy ra một cái, hai lưỡi phi đao đã bắn ngay vào sau lưng hán tử sử đao. Tên này biết chắc thiếu phụ đang bị ba người phe mình vây hãm, nên không để ý gì đến sau lưng. Đến khi nghe tiếng gió sau gáy thì hắn tránh không kịp nữa, chỉ vội vàng hơi cúi đầu xuống. Một lưỡi phi đao cắm vào cánh cửa, còn lưỡi kia đã ghim vào lưng hắn. May mà tay trái của thiếu phụ đã bị thương nên kình lực không đầy đủ, nếu không thì lưỡi phi đao này đã lấy mạng hắn rồi. Nhưng hắn cũng thét lên một tiếng, vội vàng lui ra, rút phi đao ra khỏi lưng mình. Lúc này thiếu phụ lại bị hoài trượng đánh trúng một phát, lảo đảo suýt ngã, nhưng vừa thấy kẻ địch lùi ra là lập tức tiến vào đứng ngay giữa cửa mà ngăn địch. Lục Phi Thanh bảo Lý Nguyên Chỉ: “Con mau đi giải vây cho thiếu phụ kia, nếu không thắng thì sư phụ sẽ giúp.” Lý Nguyên Chỉ đang nóng lòng muốn thử sức, vừa nghe sư phụ nói câu này đã vội vàng nhảy tới, vừa vung kiếm vù vù vừa quát: “Bốn nam nhân mà đánh một nữ nhân, da mặt có dày quá không?” Bốn tên kia thấy có người can thiệp, còn bên mình lại có người bị thương, bèn huýt sáo một tiếng rồi kéo nhau rời khỏi khách sạn đó. Thiếu phụ lúc này mặt không còn chút máu, đứng dựa vào cửa thở hổn hển. Lý Nguyên Chỉ bèn khẽ hỏi: “Tại sao chúng hiếp đáp phu nhân thế?” Thiếu phụ chưa kịp nói câu nào, Tăng Đồ Nam đã chạy tới lên tiếng: “Lý phu nhân cho gọi đại cô nương.” Rồi y hạ giọng bảo Lý Nguyên Chỉ: “Phu nhân vừa nghe nói đại tiểu thư đánh nhau đã hoảng sợ, tiểu thư mau mau tới vấn an đi.” Thiếu phụ nhìn thấy Tăng Đồ Nam mặc y phục võ quan, lập tức thay đổi sắc mặt, không đếm xỉa gì đến Lý Nguyên Chỉ nữa, nhổ lưỡi phi đao cắm trên cửa xuống, rồi chạy vào phòng, đóng cửa nghe “sầm” một tiếng. Lý Nguyên Chỉ cảm thấy không thoải mái, bèn quay đầu lại bảo Tăng Đồ Nam: “Được, đi thì đi.” Lúc đi đến cạnh Lục Phi Thanh, nàng hỏi: “Sư phụ! Sao họ lại đánh nhau quyết liệt như thế?” Lục Phi Thanh đáp: “Nhiều phần là do ân oán giang hồ. Chuyện này chưa xong đâu, chắc chắn bốn người đó còn tìm đến nữa.” Ông đang muốn dặn dò gì đó, đột nhiên nghe thấy bên ngoài có tiếng la lớn: “Con mẹ nó! Ngươi nói không có phòng tốt, sợ lão gia không có tiền phải không?” Thanh âm này chính là của tiêu sư Đồng Triệu Hòa. Tiểu nhị vội đáp: “Đại gia đừng giận giữ, bọn tiểu nhân mở tiệm làm ăn, sao dám đắc tội với các vị đại gia. Thật sự là mấy căn phòng tốt đều có khách ở cả rồi.” Đồng Triệu Hòa lớn tiếng: “Loại người nào mà dám ở phòng tốt, để ta xem thử.” Hắn vừa nói vừa tiến vào trong sân. Đúng lúc này cửa căn phòng kia hé mở, thiếu phụ thò đầu ra ngoài bảo tên tiểu nhị: “Làm phiền cho ít nước nóng.” Tiểu nhị vâng dạ rồi chạy đi ngay. Đồng Triệu Hòa nhìn thấy thiếu phụ kia da dẻ trắng trẻo, mặt mày diễm lệ, cổ tay trái còn đeo một xâu chuỗi ngọc, hạt nào cũng tròn trịa càng làm cho cổ tay xinh đẹp của nàng trông như ngọc chuốt. Hắn không nén nổi rung động trong lòng, nuốt nước miếng ừng ực, mắt đảo lia đảo lịa. Thiếu phụ nói giọng Giang Nam mà bắt chước thổ âm phương bắc, âm sắc không chuẩn nhưng thánh thót hiền hòa, lạ tai lại càng thú vị. Đồng Triệu Hòa càng ngứa ngáy, bèn lớn tiếng la: “Đồng đại gia qua lại con đường này bảo tiêu đã mấy chục lần rồi, xưa nay chưa từng chịu ở phòng thường. Chẳng lẽ căn phòng tốt này không nhường cho đại gia được hay sao?” Hắn vừa la lên, đã thừa cơ cửa phòng của thiếu phụ chưa đóng kín, xông thẳng vào bên trong đó. Bọn tiêu sư vội vàng đưa tay kéo lại, nhưng không kịp. Thiếu phụ thấy Đồng Triệu Hòa xông vào trong phòng, kêu lên một tiếng toan cản trở, nhưng bất ngờ cảm thấy đùi mình nhói đau một cái, phải ngồi phịch xuống ghế. Vừa rồi bên đùi này đã chịu một đòn hoài trượng, vết thương không nhẹ. Đồng Triệu Hòa vào trong phòng, nhìn thấy trên giường có một nam nhân. Trong phòng rất tối nên không nhìn rõ diện mạo, chỉ thấy đầu của ông ta băng đầy vải trắng, tay phải thì treo lên cổ bằng một miếng vải, một bên đùi lộ ra ngoài chăn cũng có băng bó, dường như trên người chỗ nào cũng có thương tích. Người nằm trên giường nhìn thấy Đồng Triệu Hòa vào phòng liền hỏi: “Ai thế?” Đồng Triệu Hòa đáp: “Đồng mỗ là tiêu sư của Trấn Viễn tiêu cục, đi bảo tiêu ngang qua Tam Đạo Câu, không có phòng tốt để ở, phiền huynh nhường cho ta một lần. Mỹ nhân này là ai, là thê tử hay tình nhân của huynh vậy?” Người kia thều thào bảo: “Cút đi!” Hiển nhiên là y bị thương nặng quá, nên không sao quát lớn được. Vừa rồi Đồng Triệu Hòa không nhìn thấy thiếu phụ ác đấu với bốn đại hán, nên bây giờ hắn nghĩ: “Một mụ đàn bà, một thằng cha bị thương không nhúch nhích nổi, ta mà không nhân lúc này ép người chút ít thì chờ đến bao giờ.” Hắn mỉm cười bảo: “Nếu huynh không chịu nhường phòng cũng được. Thế thì ba người chúng ta tạm nằm chung một giường vậy, chịu khó một chút. Huynh cứ yên tâm, ta không nằm cạnh huynh để chạm vào vết thương đâu.” Người nằm trên giường tức đến run lên. Thiếu phụ nhỏ nhẹ khuyên can: “Ca ca đừng chấp thằng khỉ này, tình hình trước mắt chúng ta không nên kết thêm thù oán.” Rồi nàng quay sang bảo Đồng Triệu Hòa: “Đừng ở đây lảm nhảm nữa, ra ngoài nhanh lên.” Đồng Triệu Hòa vừa cười vừa nói: “Ra ngoài làm chi, ở đây với muội không tốt hơn sao?” Người nằm trên giường bỗng cất giọng khàn khàn bảo: “Lại gần đây!” Đồng Triệu Hòa tiến lên một bước, nói: “Để làm gì vậy? Huynh muốn xem ta có tuấn tú hay không ư?” Người kia nói: “Ta nhìn chưa rõ.” Đồng Triệu Hòa cười ha hả, lại bước một bước nữa: “Huynh cứ nhìn cho rõ đi. Thế này mới đúng là chọn bạn cùng giường chứ…” Hắn chưa nói dứt câu, người kia bỗng hơi nhỏm dậy, vươn tay trái điểm vào huyệt Khí Du của Đồng Triệu Hòa nhanh như điện chớp, rồi lại vỗ thêm một chưởng vào lưng. Đồng Triệu Hòa giống như một con khỉ hiểu phép cân đẩu vân, bay qua cửa phòng ra ngoài, rớt ngay giữa sân nghe “bịch” một tiếng. Hắn đã bị điểm huyệt, cứ nằm kêu la oai oái, nhưng thân thể không động đậy được chút nào. Một tên chuyên nghề hô khẩu hiệu là Tôn Lão Tam vội vàng chạy tới dìu hắn dậy, khẽ nói: “Đồng gia! Đừng gây chuyện với họ, hình như là Hồng Hoa Hội đó.” Đồng Triệu Hòa la lớn: “Ái chà! Nhẹ thôi, chân của ta không động đậy được. Chúng là người của Hồng Hoa Hội ư, tại sao ngươi biết?” Hắn sợ quá không nén nổi, bất giác toát mồ hôi lạnh đầy người. Tôn Lão Tam đáp: “Chưởng quĩ của khách sạn nói thế. Vừa rồi có bốn vị công sai trong nha môn đến đây để bắt hai người này, đánh nhau một trận rồi thua chạy.” Mọi người trong khách sạn nghe nói lại có đám đánh nhau, đều chạy tới xem. Diêm Thế Chương đã khâm niệm xong thi thể anh mình, cũng qua hỏi: “Có việc gì thế?” Đồng Triệu Hòa kêu la: “Diêm Lục ca! Ta bị mấy thằng lỏi Hồng Hoa Hội điểm huyệt rồi. Chẳng lẽ chúng ta chịu thua hay sao?” Diêm Thế Chương cau mày, xốc nách Đồng Triệu Hòa đứng dậy rồi bảo: “Về phòng rồi hãy nói. Ngươi phải nghĩ đến danh tiếng của tiêu cục một chút. Đường đường là tiêu sư của Trấn Viễn tiêu cục mà bị đánh nằm dài dưới đất, không bò dậy được thì còn ra thể thống gì nữa?” Nào ngờ hắn vừa buông tay ra, Đồng Triệu Hòa lại bủn rủn ngã lăn xuống đất, tiếp tục kêu gào: “Ta không còn chút sức lực nào nữa. Tôn Lão Tam! Con mẹ nó, ngươi không đỡ ta được hay sao?” Diêm Thế Chương thấy đúng là Đồng Triệu Hòa đã bị điểm huyệt, bèn hỏi: “Ngươi vừa đánh nhau với ai thế?” Đồng Triệu Hòa đưa cặp mắt buồn rấu liếc lên một cái, muốn đưa tay chỉ trỏ cũng không được. Hắn nói: “Là thằng cháu loài rùa trong căn phòng đó.” Hắn muốn khiêu khích Diêm Thế Chương trả thù cho mình, bèn kiếm chuyện khích bác: “Con mẹ nó! Bọn thổ phỉ Hồng Hoa Hội đã giết Tiêu Văn Kỳ tam gia, bọn ta còn chưa rảnh nợ đi đòi nợ máu, thế mà dám đụng vào cả Đồng đại gia ta nữa.” Tôn Lão Tam khẽ khuyên giải: “Đồng đại gia đừng thóa mạ nữa, chúng ta đừng gây chuyện với Hồng Hoa Hội. Lỡ mà đắc tội với họ thì sau này đi bảo tiêu sẽ phiền phức lắm đấy.” Diêm Thế Chương nghe Đồng Triệu Hòa nói khích, cũng muốn đến xem thử thế nào. Nhưng hắn nghĩ bụng: “Thủ pháp điểm huyệt của đối phương rất nặng, dĩ nhiên võ công cao cường, chưa chắc mình làm gì được. Huynh trưởng lại chết rồi, không có ai giúp sức.” Vì thế, hắn mới bước lên một bước đã lùi trở lại hai bước. Lúc này tiêu sư Tiền Chính Luân cũng tới nơi, hỏi Tôn Lão Tam: “Ngươi có chắc là bọn Hồng Hoa Hội không?” Tôn Lão Tam ghé vào tai hắn khẽ nói: “Vừa rồi, lúc bốn công sai rời khỏi đây đã có dặn dò chưởng quĩ của khách sạn: Cặp vợ chồng này là khâm phạm của triều đình, là bọn cường đạo Hồng Hoa Hội mà hoàng thượng đã đặc biệt xuống chỉ truy nã. Họ còn dặn chưởng quĩ phải ở đây chú ý, nếu hai người rời khỏi thì phải lập tức báo tin. Lúc đó tiểu nhân đứng cạnh nghe rất rõ ràng.” Tiền Chính Luân đã ngoại ngũ tuần, ăn chén cơm tiêu cục đã lâu, tuy võ nghệ không cao nhưng kiến thức rộng, tính khí trầm tĩnh. Hắn lập tức liếc mắt ra hiệu với Diêm Thế Chương rồi đỡ Đồng Triệu Hòa dậy. Diêm Thế Chương hạ giọng hỏi: “Lai lịch thế nào?” Tiền Chính Luân đáp: “Đúng là Hồng Hoa Hội. Chúng ta tạm nhường họ một bước, cứu chữa cho lão Đồng rồi tính sau.” Hắn quay lại hỏi Tôn Lão Tam: “Lúc nãy công sai đến bắt người, ngươi có nhìn thấy không?” Tôn Lão Tam huơ tay huơ chân, vừa chỉ trỏ vừa nói: “Đánh thật ghê hồn. Chỉ có một nữ nhân múa tít song đao, tay trái trường đao tay phải đoản đao, thế mà bốn đại hán cũng không làm gì nổi.” Thật ra thì bốn hán tử đó đả thương thiếu phụ rồi, nhưng hắn khoác lác thêm cho sướng miệng. Tiền Chính Luân ngạc nhiên hỏi: “Đúng là người nhà Thần Đao Lạc gia rồi. Chắc là biết phóng phi đao phải không?” Tôn Lão Tam lập tức gật đầu: “Đúng, đúng thế! Phi đao phóng ra là trúng, thủ pháp tuyệt vời.” Tiền Chính Luân liền bảo Diêm Thế Chương: “Văn tứ đương gia của Hồng Hoa Hội đang ở đây.” Cả ba không nói gì nữa, giúp nhau dìu Đồng Triệu Hòa trở về phòng. Nãy giờ Lục Phi Thanh vẫn đứng bên quan sát, lúc bọn tiêu sư nói chuyện nhỏ nhẹ thì ông không nghe được, nhưng hai câu cuối cùng của Tiền Chính Luân thì nghe rất rõ ràng. Lúc này Lý Nguyên Chỉ chạy đến, thừa cơ năn nỉ: “Sư phụ! Lúc nào sư phụ dạy con điểm huyệt đi, người ta điểm huyệt hay quá.” Lục Phi Thanh không lý gì đến nàng, cứ lẩm bẩm: “Đã là hậu nhân của Thần Đao Lạc gia, ta lại càng phải giúp.” Lý Nguyên Chỉ hỏi: “Thần Đao Lạc gia là ai thế?” Lục Phi Thanh đáp: “Thần Đao tên là Lạc Nguyên Thông, vốn là hảo bằng hữu của ta, nghe nói đã qua đời. Thiếu phụ vừa rồi giao đấu, hoàn toàn sử dụng chiêu thức của phái này, nếu không phải là con gái của Lạc Nguyên Thông thì cũng là đệ tử của ông ấy, thế mà ta không nhìn ra.” Ông lại thở dài tự trách, nghĩ thầm: “Ta ẩn cư ở vùng biên ải đã quá lâu, hoàn toàn không đi lại với người võ lâm, mọi chuyện năm xưa đã quên gần hết. Quả là tuổi tác lớn quá rồi, vô dụng quá rồi.” Lúc này, hai tên tiêu sư Tiền Chính Luân và Đái Vĩnh Minh lại dìu Đồng Triệu Hòa đến. Tôn Lão Tam đứng trước cửa phòng, hắng giọng một cái rồi lớn tiếng nói: “Tiền tiêu đầu, Đái tiêu đầu, Đồng tiêu đầu của Trấn Viễn tiêu cục đến đây, xin bái kiến Văn tứ đương gia của Hồng Hoa Hội.” Cửa phòng mở ra nghe kẹt một tiếng, thiếu phụ đứng ngay giữa cửa nhìn trừng trừng bốn người tiêu cục. Tôn Lão Tam đưa lên ba tấm danh thiếp, thiếu phụ không nhận, chỉ hỏi: “Có việc gì?” Tiền Chính Luân lên tiếng: “Huynh đệ của bọn tại hạ có mắt không tròng, không biết Văn tứ gia đang ở đây nên đắc tội cùng hai vị. Bọn tại hạ đến đây để xin lỗi giúp y. Mong rằng hai vị đại nhân đại lượng, bỏ qua đừng chấp nhất.” Nói xong, hắn chắp tay vái lạy. Đái Vĩnh Minh và Tôn Lão Tam cũng vái lạy theo. Tiền Chính Luân lại tiếp: “Văn tứ phu nhân! Mặc dù tại hạ chưa có duyên gặp mặt, nhưng ngưỡng mộ oai danh của Văn tứ gia cùng phu nhân đã lâu. Tổng tiêu đầu Vương lão gia của bọn tại hạ đã từng gặp Vu lão đương gia, mà với lệnh tôn Thần đao Lạc lão gia cũng có giao tình. Huynh đệ của tại hạ không biết giữ mồm, nói năng bậy bạ…” Thiếu phụ cắt ngang lời hắn: “Văn đương gia đang bị thương, vừa chợp mắt. Lát nữa y tỉnh dậy, ta sẽ chuyển lời giùm quí vị. Không phải ta không biết lễ phép, nhưng quả thật y bị thương không nhẹ, mà đã hai ngày không được nghỉ ngơi đầy đủ.” Nói tới đây, sắc mặt nàng lộ rõ vẻ lo âu. Tiền Chính Luân bèn hỏi: “Không hiểu Văn tứ gia bị thương như thế nào, bọn tại hạ cũng có đem thuốc kim sang.” Bản ý hắn muốn nịnh bợ, mong đối phương chữa trị cho Đồng Triệu Hòa. Thiếu phụ cũng hiểu ý, bèn đáp: “Đa tạ các hạ, chúng ta cũng có thuốc rồi. Huyệt vừa bị điểm không phải là trọng huyệt. Lát nữa Văn đương gia tỉnh dậy, ta sẽ bảo tiểu nhị gọi các vị đến đây.” Tiền Chính Luân thấy đối phương nhận lời chữa trị, bèn xin phép cáo lui. Thiếu phụ hỏi tiếp: “À này, làm sao các hạ biết được tên của chúng ta?” Tiền Chính Luân đáp: “Đôi Uyên Ương Đao cùng mấy ngọn phi đao này, trên giang hồ còn ai không biết? Hơn nữa, nếu không phải Văn tứ gia thì còn ai có thủ pháp điểm huyệt tuyệt diệu thế này? Hai vị lại ở cùng một chỗ, thì hiển nhiên chính là Văn tứ gia Bôn lôi thủ Văn Thái Lai và Văn tứ phu nhân Uyên ương đao Lạc Băng rồi.” Thiếu phụ khẽ mỉm cười, vừa lòng vì Tiền Chính Luân tán dương phu quân nghe rất lọt tai. Hai bên đối đáp, Lục Phi Thanh đều nghe hết. Ông thầm nghĩ: “Ta từng nghe Bôn lôi thủ Văn Thái Lai là hảo hán tử, từ lâu đã nổi danh trong võ lâm vùng Giang Nam. Thì ra con bé Tiểu Băng đã lấy y rồi, thật là môn đăng hộ đối. Lại thêm Triệu tam đệ cùng Tây Xuyên Song Hiệp, rõ ràng Hồng Hoa Hội toàn là huynh đệ của ta, chẳng khác Đồ Long Bang gì mấy. Hôm nay gặp phải việc này, nếu Lục Phi Thanh mỗ còn phủi tay vỗ đít bỏ đi, chỉ lo sáng suốt giữ mình, thì con mẹ nó, Miên Lý Châm này còn phải là con người nữa hay không?”.
Lý Nguyên Chỉ nhìn theo Tiền Chính Luận dìu đỡ Đồng Triệu Hòa về phòng, nghĩ bụng: “Công phu điểm huyệt thật là tuyệt diệu. Thằng cha tiêu sư đáng chết kia bị điểm trúng huyệt đạo, rõ ràng không có cách nào giải được. Sư phụ biết môn này mà không chịu dạy mình. Xem ra sư phụ còn giấu giếm không dạy tuyệt kỹ, làm sao năn nỉ ông ấy truyền thụ cho mình đây?” Lúc trở về phòng, nàng cứ hai tay chống cằm ngẩn ngơ đến nửa ngày trời.
Lúc ăn cơm xong ngồi hàn huyên với mẹ, Lý phu nhân cằn nhằn trách móc nàng gây chuyện dọc đường, nói là không cho nàng cải nam trang nữa. Lý Nguyên Chỉ mỉm cười nói: “Mẫu thân cứ suốt ngày than thở không có con trai. Bây giờ con đã biến thành con trai rồi, mẹ còn không vui hay sao?” Lý phu nhân không có cách nào dạy dỗ con gái, bèn lên giường đi ngủ.
Lý Nguyên Chỉ cũng định thay áo đi nằm, đột nhiên nghe thấy trong sân có tiếng động rất khẽ, rồi cửa sổ phòng mình có người dùng ngón tay khẽ gõ. Một giọng thánh thót vang lên: “Thằng lỏi kia! Ra đây, ta có chuyện muốn hỏi ngươi.”
Lý Nguyên Chỉ kinh ngạc, xách kiếm mở cửa ra, tung mình nhảy xuống sân. Bóng người đứng giữa sân nói tiếp: “Thằng lỏi hỗn láo kia, có gan thì theo ta.” Vừa nói xong, người đó lập tức nhảy ra ngoài tường.
Lý Nguyên Chỉ đúng là ngé con không biết sợ cọp, mặc kệ bên ngoài có mai phục hay không, cứ việc nhảy theo. Hai chân nàng vừa tiếp đất, trước mắt đã có bạch quang chớp động, một thanh kiếm đâm vèo tới.
Lý Nguyên Chỉ vừa vung kiếm lên gạt vừa quát: “Ai đó?”
Người kia lùi lại hai bước, nói: “Ta là Hoắc Thanh Đồng người Hồi tộc. Ta hỏi ngươi, chúng ta nước sông không phạm vào nước giếng, tại sao ngươi lại giúp bọn tiêu cục làm hỏng việc của chúng ta?”
Lý Nguyên Chỉ thấy người kia đứng chống kiếm xuống đất, tay trái chỉ mặt mình mà chất vấn, chính là cô gái áo vàng xinh đẹp vừa ác đấu với mình hôm nay. Nàng bị hỏi câu này thật khó trả lời, vì mình không có lý do gì để nhúng tay vào việc đó. Đã vô lý thì chỉ còn cách cưỡng từ đoạt lý, nàng bèn cãi bậy: “Việc của thiên hạ thì ai trong thiên hạ cũng có thể nhúng tay vào. Bản thiếu gia vẫn thích nhúng tay như thế, nếu không phục thì để ta tiếp tục lãnh giáo kiếm thuật của cô…”
Lời chưa nói hết, kiếm đã xuất chiêu. Hoắc Thanh Đồng càng giận dữ hơn, vung kiếm lên tiếp chiến.
Lý Nguyên Chỉ biết rõ là kiếm pháp của mình không thắng nổi cô ta, nhưng trong lòng đã có chủ ý nên cứ vừa đánh vừa lùi. Lúc lùi đến phòng của sư phụ ở, nàng bèn gọi lớn: “Sư phụ! Ra đây nhanh lên, có người muốn giết con!”
Hoắc Thanh Đồng cười khẩy một tiếng rồi nói: “Hừ! Đồ vô dụng! Ta cần gì phải giết ngươi, chỉ đến đây để dạy cho ngươi một bài học mà thôi. Đã không có bản lãnh thì đừng nhúng mũi vào chuyện của người khác nữa.” Nàng nói xong quay lưng bỏ đi, nào ngờ Lý Nguyên Chỉ không để nàng đi, bèn xuất chiêu Xuân Vân Hạ Triển đâm tới lưng nàng.
Hoắc Thanh Đồng xoay người lại chống đỡ, bắt đầu thi triển Tam Phân kiếm thuật. Chỉ chốc lát là Lý Nguyên Chỉ bị ép đến tay chân luống cuống. Nàng nghe thấy sau lưng có tiếng chân, biết sư phụ đã ra mặt. Lúc trường kiếm của Hoắc Thanh Đồng đâm ra ngay giữa ngực, nàng bèn nhảy lùi ra, trốn sau lưng Lục Phi Thanh. Lục Phi Thanh bèn đưa Bạch Long kiếm lên đón tiếp chiêu của Hoắc Thanh Đồng.
Hoắc Thanh Đồng thấy Lý Nguyên Chỉ có người giúp cũng không nói năng gì, cứ xuất chiêu như gió, tấn công mười mấy chiêu liên tiếp. Nàng nhận thấy chiêu thức của đối phương giống hệt như của Lý Nguyên Chỉ, thế mà lần này mình không chiếm được chút thượng phong nào. Kiếm chiêu của nàng càng nhanh thì đối phương đón đỡ càng chậm, nhưng thêm mấy hiệp thi thế công của nàng hoàn toàn bị kềm chế, đành chịu hạ phong.
Lý Nguyên Chỉ dồn hết tinh thần mà xem hai người tỉ đấu. Nàng dụ sư phụ ra đây, cốt ý là muốn học lén mấy chiêu tinh diệu mà sư phụ chưa truyền thụ, nhưng thấy sư phụ chỉ sử dụng pho Nhu Vân kiếm thuật đã dạy cho mình, chỉ có điều mỗi chiêu thức đều hàm chứa nội kình rất lớn.
Yếu chỉ Tam Phân kiếm thuật của Hoắc Thanh Đồng là lấy nhanh đánh chậm, lấy biến hóa vô cùng để làm địch thủ rối loạn. Nhưng Lục Phi Thanh không chịu biến chiêu để ứng đối những chiêu thần tốc của nàng, do đó mà thế chủ khách đã đảo ngược hoàn toàn.
Hoắc Thanh Đồng liên tiếp gặp nguy hiểm, biết đối phương là cao thủ nên trong lòng đã có phần hoảng sợ. Nàng bèn sử hai chiêu liên hoàn Đại Mạc Cô Yên và Bình Sa Lạc Nhạn tấn công kịch liệt, chỉ mong đối phương thu kiếm về cản trở là lập tức quay lưng bỏ chạy. Nào ngờ kiếm chiêu của đối phương liên miên bất tận, đã lọt vào vòng chiến thì đừng hòng rời khỏi. Hoắc Thanh Đồng âm thầm kêu khổ, chỉ còn cách nghiến răng chống đỡ đến cùng.
Lúc này Lý Nguyên Chỉ thấy phe ta thắng thế, bèn tra kiếm vào vỏ, thi triển Vô Cực Huyền Công Quyền nhảy vào vòng chiến. Hoắc Thanh Đồng không sao địch nổi Lục Phi Thanh, bị Lý Nguyên Chỉ quấy rối lại càng luống cuống chân tay. Lý Nguyên Chỉ xảo trá khác thường, khều bên này một quyền, móc bên kia một cước, không thèm công kích chỗ yếu hại của đối phương, chỉ muốn trêu chọc để trả mối thù bị vặt lông bờm ngựa.
Người Hồi tộc vốn phân biệt nam nữ nghiêm ngặt, nam nhân hết sức tôn trọng nữ nhân. Xưa nay Hoắc Thanh Đồng vẫn trang nghiêm đoan chính, bị Lý Nguyên Chỉ chọc ghẹo liền tức giận bừng bừng, nhưng càng giận lại càng sơ hở.
Lúc trường kiếm của Lục Phi Thanh công tới trung cung, điểm vào trước mặt mình, Hoắc Thanh Đồng phải vung kiếm ngăn trở. Lý Nguyên Chỉ thừa cơ chạy ra sau lưng nàng, quát lên một tiếng: “Xem đây!” rồi sử chiêu Mãnh Kê Đoạt Mễ đánh tới vai trái. Hoắc Thanh Đồng vội xoay tay trái lại, toan dùng Cầm Nã Thủ để hóa giải. Lý Nguyên Chỉ nhân lúc tay phải của Hoắc Thanh Đồng đang bận đỡ kiếm, liền vung tả chưởng đánh vào giữa ngực. Trúng phát chưởng này chắc chắn sẽ trọng thương. Hoắc Thanh Đồng kinh hãi, cả hai tay đều không rảnh để chống đỡ, chỉ còn biết ngửa người ra sau để giảm bớt chưởng lực của đối phương.
Nào ngờ Lý Nguyên Chỉ lại không dùng sức. Khi tay trái chạm tới ngực của Hoắc Thanh Đồng, nàng chỉ sờ mạnh một cái, rồi mỉm cười nhảy lùi ra sau. Hoắc Thanh Đồng tức giận không sao nói hết, lập tức quay mình lại vung kiếm đâm thẳng tới. Đối phương né tránh, nàng lại phóng kiếm chém theo. Dường như nàng đã quyết tâm liều mạng, không thèm né tránh những chiêu kiếm của Lục Phi Thanh nữa mà dốc toàn lực tấn công Lý Nguyên Chỉ.
Hôm nay Lục Phi Thanh đã nhìn thấy gia số võ công của Hoắc Thanh Đồng, rất chú ý. Lúc này ông chỉ muốn xem thử chiêu số kiếm pháp của nàng mà thôi, hoàn toàn không muốn đả thương. Do đó, khi thấy nàng không lý gì đến kiếm chiêu của mình, ông đợi đến khi kiếm đến sát người là ngưng lại không đâm tới.
Lúc này Hoắc Thanh Đồng tấn công rất dữ dội. Lý Nguyên Chỉ không có cả cơ hội đưa tay rút kiếm, cứ bị ép lùi liên tục, nhưng miệng vẫn buông lời thêu chọc: “Dù sao thì ta cũng đã sờ trúng rồi, có giết chết ta cũng vô dụng thôi.”
Hoắc Thanh Đồng xuất chiêu Thần Đà Tuấn Túc đâm thẳng tới, mũi kiếm gần đến lại đột nhiên biến sang chiêu Hải Thị Thần Lâu, một chiêu độc đáo trong Thiên Sơn kiếm pháp. Kiếm quang nhấp nháy nửa hư nửa thực, Lý Nguyên Chỉ nhìn mà chóng mặt, tay chân luống cuống, hoàn toàn không biết phải chống đỡ như thế nào, thấy rõ mình sắp mất mạng dưới chiêu này.
Lúc này Lục Phi Thanh không thể không can thiệp, bèn đưa kiếm đón chặn thế công của Hoắc Thanh Đồng. Lý Nguyên Chỉ thoát nạn bèn thở ra một hơi, mỉm cười nói: “Thôi đi, muội đừng giận nữa, lấy ta làm chồng là được rồi!”
Hoắc Thanh Đồng biết mình không sao địch nổi Lục Phi Thanh, nhưng cũng không cam tâm chịu nhục. Nàng thấy rõ thanh kiếm của Lục Phi Thanh đâm tới mà một thèm đỡ, dùng hết sức ném trường kiếm trong tay về phía Lý Nguyên Chỉ. Rõ ràng nàng muốn đồng qui ư tận, chết cùng địch thủ.
Lục Phi Thanh cũng giật mình kinh hãi, cũng vội quăng trường kiếm ra. Hai thanh kiếm chạm nhau giữa không trung nghe một tiếng keng, rồi cùng rơi xuống đất. Tay trái ông lại sử chiêu Bạt Vân Kiến Nhật, nhẹ nhàng ấn vào vai trái của Hoắc Thanh Đồng khiến nàng phải lùi tới năm sáu bước, rồi tung người tới nói: “Xin cô nương đừng vội trách.”
Hoắc Thanh Đồng vừa sợ vừa giận, lúc này không kìm nổi mấy giọt lệ tuôn rơi, vừa khóc vừa quay lưng định chạy đi. Lục Phi Thanh lại đuổi theo nữa, chặn đường bảo: “Cô nương khoan đi đã, ta có một câu muốn nói.”
Hoắc Thanh Đồng giận dữ hỏi: “Ông muốn gì?”
Lục Phi Thanh quay lại gọi Lý Nguyên Chỉ: “Sao con chưa chịu tới xin lỗi vị tỷ tỷ này?”
Lý Nguyên Chỉ mỉm cười bước tới chắp tay vái lạy. Hoắc Thanh Đồng nghiến răng đánh ngay một quyền vào giữa mặt. Lý Nguyên Chỉ vừa khom người tránh né vừa mỉm cười nói: “Úi chà, đánh chưa trúng đâu.” Nàng tiện tay bỏ mũ xuống, để lộ mái tóc dài của mình rồi lại mỉm cười: “Cô xem, có lấy ta làm chồng được hay không?”
Dưới ánh trăng, Hoắc Thanh Đồng đã nhìn thấy chân diện của Lý Nguyên Chỉ, không khỏi ngơ ngác. Xấu hổ đã tiêu tan, nhưng giận dữ thì chưa dứt, lúc đó nàng chỉ im lặng không nói lời nào.
Lục Phi Thanh lên, tiếng: “Đây là nữ đệ tử của ta, trước giờ vẫn hay nghịch ngợm, trêu chọc người khác. Ta giáo huấn nó không xong, nên cũng có lỗi trong những việc đã qua, xin cô đừng trách.” Nói xong, ông lại chắp tay vái.
Hoắc Thanh Đồng xoay người đi, không nhận lễ của ông. Nàng vẫn không nói gì, nhưng đã bớt giận.
Lục Phi Thanh lại hỏi: “Cô xưng hô với Thiên Sơn Song Ưng như thế nào?”
Hoắc Thanh Đồng chau mày một cái, khóe môi hơi động đậy, nhưng nhịn lại không đáp.
Lục Phi Thanh nói: “Ta rất có giao tình với Trần huynh Thốc Cưu(1) và Trần phu nhân Tuyết Điêu trong Thiên Sơn Song Ưng. Hình như chúng ta không phải người ngoài.”
Hoắc Thanh Đồng lên tiếng: “Sư phụ ta họ Quan. Ta phải về mách sư phụ cùng sư công,(2) nói ông ỷ lớn hiếp nhỏ. Không những ông sai đệ tử đánh ta mà chính mình cũng ra tay.” Nàng trừng mắt giận dữ nhìn hai thầy trò, rồi quay người đi ngay.
Lục Phi Thanh đợi nàng đi được mấy bước mới lớn tiếng gọi: “Này! Thế cô về mách sư phụ là bị ai bắt nạt?”
Hoắc Thanh Đồng nghĩ bụng: “Họ tên còn chưa biết, thì sau này làm sao đòi nợ?” Nàng bèn dừng bước hỏi; “Thế thì ông là ai?”
Lục Phi Thanh vuốt râu mỉm cười nói: “Thật là hai đứa trẻ nít, thôi đi, thôi đi. Đây là Lý Nguyên Chỉ, đệ tử của ta. Cô nương về trình lên sư phụ và sư công là Miên Lý Châm…” Ông bỗng dừng lời, nhớ ra Lý Nguyên Chỉ cũng chưa biết tên họ thật của mình, bèn nói tránh đi: “Nói là Miên Lý Châm họ Lục phái Võ Đang chúc mừng hai vị đã nhận được đồ đệ giỏi.”
Hoắc Thanh Đồng vùng vằng nói: “Còn nói là đồ đệ giỏi nữa ư? Ta bị hiếp đáp thế này, thật là làm mất mặt sư phụ cùng sư công.”
Lục Phi Thanh nghiêm nghị bảo: “Cô nương đừng cho rằng thua dưới tay ta là mất mặt. Người có thể đấu với ta mấy chục chiêu giống như cô, trong võ lâm không nhiều lắm đâu. Ta biết Thiên Sơn Song Ưng trước giờ không nhận đệ tử, nhưng hôm nay thấy kiếm pháp của cô hoàn toàn đích truyền của Song Ưng nên mới hồ nghi, tìm cách thử cô một phen. Vừa rồi ta thấy cô nương sử tuyệt chiêu Hải Thị Thần Lâu, mới tin chắc cô nương đã được chân truyền của Song Ưng. Sư công của cô còn hay ghen sư phụ hay không? Hai vị có thường cãi nhau nữa không?” Nói xong, ông cười lên ha hả.
Thì ra Thốc Cưu Trần Chính Đức rất hay ghen. Tuy rằng hai vợ chồng đều đã ngoại lục tuần, nhưng ông vẫn sợ phu nhân Tuyết Điêu Quan Minh Mai đi yêu người khác. Mấy chục năm trời hai vợ chồng thường xuyên cãi vã, không có ngày nào yên ổn.
Hoắc Thanh Đồng thấy Lục Phi Thanh biết cả chuyện riêng tư của sư phụ sư công mình, nên đã tin tưởng ông ta đúng là tiền bối. Nhưng nàng vẫn không phục, lại lên tiếng: “Nếu ông là bạn của sư phụ ta, thì sao lại bảo đệ tử ra tay cản trở, báo hại chúng ta không đoạt lại được quyển thánh kinh? Ta không tin ông là người tốt.” Nói xong nàng lại quay người bỏ đi. Phen này nàng không chịu nhịn, cũng không chịu dùng lễ vãn bối bái kiến tiền bối.
Lục Phi Thanh khuyên: “Về kiếm pháp thì cô nương đã thắng đệ tử của ta từ lâu rồi. Hơn nữa, kiếm pháp hơn thua đâu có quan hệ gì, không lấy lại được thánh kinh mới là mất mặt. Chuyện vinh nhục thắng bại của một người là nhỏ, chuyện cả bộ tộc bị người ta hiếp đáp mới cần liều mạng.”
Hoắc Thanh Đồng giật mình kinh hãi, hiểu ngay câu này là chí lý. Cơn giận dữ bay biến hết, nàng quay lại thi lễ với Lục Phi Thanh rồi nói: “Điệt nữ nhỏ tuổi ít hiểu biết, xin lão tiền bối chỉ dạy cách đoạt lại thánh kinh. Nếu lão tiền bối chịu ra tay giúp đỡ, toàn bộ tộc điệt nữ vĩnh viễn cám ơn đại đức.” Nói xong nàng định quì xuống, nhưng Lục Phi Thanh vội đỡ dậy.
Lý Nguyên Chỉ cũng nói: “Ta thiếu suy nghĩ đã làm hỏng việc lớn của các vị, đã bị sư phụ mắng cho rát mặt đến nửa ngày rồi. Cô đừng lo, để ta giúp cô đi cướp lại. Thứ được gói trong cái bọc vải màu đỏ đó, chắc chắn là quyển thánh kinh của cô có phải không?”
Hoắc Thanh Đồng lập tức gật đầu. Lý Nguyên Chỉ lại nói: “Bây giờ chúng ta đi ngay.”
Lục Phi Thanh bảo: “Khoan, thăm dò một chút đã.”
Ba người hạ giọng thương nghị mấy câu, rồi Lục Phi Thanh canh chừng động tĩnh bên ngoài, còn Hoắc Thanh Đồng và Lý Nguyên Chỉ vượt tường vào trong khách sạn để thám thính, dò xét động tĩnh của bọn tiêu sư.
* * *
Lần trước đi ngang qua chỗ Đồng Triệu Hòa, Lý Nguyên Chỉ nhìn thấy hắn vẫn còn đeo cái bao vải màu đỏ. Nàng bèn vẫy tay gọi Hoắc Thanh Đồng. Hai cô khom người đến chỗ bọn tiêu sư ở, nhìn thấy trong phòng vẫn còn sáng đèn nên không dắm đứng thẳng lên nhìn, chỉ nấp bên trong.
Hai cô nghe tiếng Đồng Triệu Hòa la hét ỏm tỏi, một lát sau thì tiếng la ngừng bặt, rồi một tên tiêu sư nói: “Trương đại gia thật là cao minh, chỉ chốc lát đã chữa khỏi cho Đồng huynh đệ của chúng ta.”
Đồng Triệu Hòa khoác lác: “Ta thà cả đời không nhúc nhích được, chứ quyết không chịu để thằng lỏi Hồng Hoa Hội kia trị bệnh.”
Một tiêu sư khác nói: “Nếu chúng ta sớm biết Trương đại nhân đến đây, thì vừa rồi không cần xin lỗi tên tiểu tử đó. Nghĩ lại thấy thật xui xẻo.”
Một thanh âm trung khí rất dồi dào nói: “Các vị cứ theo dõi kỹ đôi nam nữ này, sáng sớm mai đợi bọn lão Hồ đến là chúng ta ra tay ngay. Bọn đó thật là tệ, bốn người đánh một nữ nhân không thắng nổi. Chỉ có điều đang lo vụ án này, ta không tiện nhúng tay vào để tranh công.”
Đồng Triệu Hòa mở miệng tán dương: “Chắc chắn Trương đại nhân chỉ nhấc tay là bắt được bọn chúng ngay. Lúc đó xin đại nhân cho tại hạ đạp lên đầu thằng lỏi đó mấy cái.”
Lý Nguyên Chỉ từ từ vươn mình lên, tìm một lỗ thủng trên cửa sổ dán giấy để nhìn vào. Nàng thấy trong phòng có năm sáu người, có một người lạ mặt khoảng hơn bốn mươi tuổi, mặc quan phục ngồi ngay chính giữa, đoán rằng y chính là Trương đại nhân mà bọn chúng đang tán tụng. Nàng nhìn kỹ, thấy cặp mắt y sáng như điện chớp, huyệt thái dương nhô lên rất cao, bèn nghĩ: “Nghe sư phụ nói những người như thế thì nội công tinh thuần, bản lãnh không sao lường được. Tại sao trong quan trường cũng có nhân vật như thế này?”
Diêm Thế Chương bỗng lên tiếng: “Lão Đồng đưa cái bao vải đó ra. Bọn rợ Hồi kia chắc không chịu buông đâu, dọc đường còn phiền hà nữa đấy.”
Đồng Triệu Hòa tháo cái bao vải xuống, nhưng chần chừ chưa chịu giao qua. Diêm Thế Chương bảo: “Ngươi cứ yên tâm, không phải ta muốn tranh công với ngươi đâu. Về võ nghệ thì chúng ta mạnh yếu thế nào, chẳng giấu ai được. Chỉ cần đem được cái bao vải này về đến kinh thành một cách bình yên, thì mọi người đều có phần cả.”
Lý Nguyên Chỉ nghĩ thầm: “Diêm Thế Chương võ công cao cường, nếu hắn giữ cái bao này thì muốn đoạt lại không phải dễ.” Nàng bèn nảy ra một ý, ghé tai Hoắc Thanh Đồng nói mấy câu, rồi bỏ mũ xuống, xõa mái tóc dài ra phía trước, lấy khăn che bớt nửa mặt. Sau đó nàng nhặt dưới đất lên hai miếng gạch vụn, ra sức ném lên cửa sổ. Giấy dán cửa thủng ngay, hai miếng gạch văng vào giữa phòng.
Đèn đuốc trong phòng đột nhiên tắt ngấm, cánh cửa mở ra, năm sáu người chạy ra ngoài. Người chạy đầu tiên quát lên: “Cái gì thế? Gan to quá có phải không?” Hoắc Thanh Đồng huýt một tiếng sáo, lộn người nhảy ra ngoài tường, dụ bọn tiêu sư đuổi theo.
Đợi khi đám tiêu sư và Trương đại nhân nhảy hết ra ngoài, Lý Nguyên Chỉ mới tiến vào trong phòng. Đồng Triệu Hòa đã bị điểm huyệt tê liệt mất nửa ngày, vừa được giải huyệt nên tay chân chưa linh hoạt, vẫn nằm yên trên giường. Hắn thấy bên ngoài có một cái bóng tóc tai bù xù, không giống ma cũng chẳng giống người, vừa nhảy chồm chồm vừa chí chóe kêu gọi gì đó, lập tức hoảng sợ bủn rủn nằm yên. Con ma kia nhảy đến trước mặt hắn, giật lấy cái bọc vải màu đỏ trong tay, thuận tay tát cho hắn hai phát, rồi vừa kêu chí chóe vừa nhảy ra khỏi phòng.
Bọn tiêu sư đuổi ra ngoài được mấy bước, Trương đại nhân đột nhiên điểm chân dừng lại, la lên: “Nguy rồi! Đây là kế điệu hổ ly sơn, chúng ta phải về nhanh!” Bọn Diêm Thế Chương cũng tỉnh ngộ chạy về phòng, nhìn thấy Đồng Triệu Hòa vẫn nằm trên giường, hai má sưng đỏ.
Đồng Triệu Hòa kể lại chuyện ma quỉ cướp lấy bọc vải, Trương đại nhân liền giận dữ nói: “Ma quỉ gì, chúng ta trúng kế rồi. Lăn lộn giang hồ mấy chục năm nay, không ngờ vẫn trúng một cái kế đơn giản như thế.”
Lý Nguyên Chỉ cướp được bao vải, cứ nấp ở sau tường, đợi đến khi bọn tiêu sư chạy hết vào trong phòng mới xoay người nhảy ra ngoài. Nàng khẽ huýt sáo làm hiệu, dưới bóng cây đối diện liền có tiếng trả lời, rồi có hai bóng người chạy tới, chính là Lục Phi Thanh và Hoắc Thanh Đồng. Lý Nguyên Chỉ vô cùng đắc ý, mỉm cười nói: “Bao vải đã lấy về đây rồi. Cô nương không trách ta nữa chứ…”
Câu này còn chưa nói xong, Lục Phi Thanh đã kêu lên: “Cẩn thận phía sau!”
Lý Nguyên Chỉ chưa kịp quay đầu lại, trên vai đã bị vỗ một cái. Nàng vội vàng xoay hai tay toan chụp lấy cổ tay kẻ địch mà không nắm được, nên vô cùng kinh hãi, biết đây là cường địch. Địch đến hoàn toàn không phát ra tiếng động, mà mình cũng không cảm giác gì được, bèn gấp rút quay người lại, đột ngột thấy một đại hán thân hình khôi vĩ đứng dưới ánh trăng. Nàng không ngờ kẽ địch đứng gần mình đến như thế, giật mình lùi lại hai bước, vung tay ném cái bao vải về phía Hoắc Thanh Đồng, miệng la lên: “Chụp lấy!” hai tay gác tréo nhau phòng thủ, chuẩn bị đón đánh kẻ địch.
Nào nhờ kẻ địch thân pháp cực nhanh. Cái bao vải ném chưa tới nơi, y đã tung người lên, vung tay chụp lấy giữa đường. Lý Nguyên Chỉ vừa kinh hãi vừa giận dữ, phóng ngay một quyền vào mặt y. Lúc đó Hoắc Thanh Đồng cũng tấn công về phía sau lưng đại hán.
Đại hắn nắm chặt bao vải, hai tay chia ra chống đỡ hai bên. Đó chỉ là thế Cao Tứ Bình của Võ Đang Trường Quyền, nhưng kình lực rất sung mãn, bức cả Lý Nguyên Chỉ, Hoắc Thanh Đồng phải thối lui mấy bước. Lúc này Lý Nguyên Chỉ đã nhìn rõ địch thủ, đó là Trương đại nhân lúc nãy.
Võ Đang Trường Quyền là công phu nhập môn của phái Võ Đang. Khi Lục Phi Thanh dạy võ cho nàng, đầu tiên là Đại Thập Đoạn Cẩm để luyện khí, rồi đến bộ quyền đầu tiên chính là bộ này. Không ngờ một chiêu Cao Tứ Bình rất bình thường mà địch thủ lại sử dụng có oai lực như vậy. Nàng không nén nổi phải thở ra một hơi, khi quay đầu lại thì bỗng không thấy sư phụ đâu nữa.
Hoắc Thanh Đồng nhìn thấy cái bao vải bị cướp đi, tuy biết mình địch không nổi, nhưng cũng không cam lòng rút lui ngay, bèn dùng kiếm tấn công. Lý Nguyên Chỉ thi đạp mạnh chân phải chiếm phương vị Thất Tinh, cũng dùng Võ Đang Trường Quyền để tấn công.
Trương đại nhân thấy quyền chiêu của nàng thì “ủa” một tiếng, đợi nàng xuất chiêu Đảo Kỳ Long thì không tránh né gì cả, chỉ hơi nghiêng mình rồi cũng ra chiêu Đảo Kỳ Long vung quyền đánh tới. Chiêu số giống nhau, nhưng công lực thì phân biệt cao thấp rõ ràng. Hai quyền vừa chạm nhau, Lý Nguyên Chỉ tức thì cảm thấy cánh tay của mình tê dại hẳn đi, đau không chịu nổi, chân bước loạng choạng, xiêu sang bên trái suýt nữa té nhào. Hoắc Thanh Đồng thấy nàng gặp nguy hiểm, bèn ngừng tấn công địch để cứu bạn trước. Nàng nhảy đến cạnh Lý Nguyên Chỉ, đưa tay trái dìu đỡ, còn tay phải chĩa kiếm về phía Trương đại nhân, đề phòng y tấn công tiếp.
Trương đại nhân lớn tiếng hỏi: “Thằng nhỏ kia! Ta hỏi, sư phụ của ngươi họ Mã hay họ Lục?”
Lý Nguyên Chỉ muốn lừa gạt y một phen, bèn nói: “Sư phụ của ta họ Mã, tại sao ông biết?”
Trương đại nhân hỏi: “Gặp sư thúc mà sao không cúi đầu chào?” Nói xong y cười ha hả.
Hoắc Thanh Đồng thấy hai người nhận tình nghĩa sư môn, còn chính mình lại chẳng có quan hệ gì với Lý Nguyên Chỉ. Nhìn thấy thánh kinh trước mắt mà không đoạt nổi chỉ tổ đau lòng, nàng bèn quay lưng bỏ đi.
Lý Nguyên Chỉ vội vả đuổi theo, chạy được mấy chục bước thì bỗng một đám mây kéo qua che khuất ánh trăng, trước mặt tối đen, trên trời lại nổi sấm sét loằng ngoằng, bất giác trong lòng sợ hãi không dám đuổi nữa, quay lại thì Trương đại nhân cũng đã đi rồi. Lúc nàng vượt tường nhảy vào khách sạn thì trên người đã dính mấy hạt mưa, vừa bước vào phòng thì mưa tuôn xối xả.
Mưa to suốt đêm, đến sáng vẫn chưa tạnh. Lý Nguyên Chỉ rửa mặt chải đầu xong, ra ngoài nhìn thì thấy mưa càng lớn. Người hầu của Lý phu nhân chạy vào nói: “Tăng tham tướng nói mưa lớn quá, hôm nay không thể đi tiếp dược.”
Lý Nguyên Chỉ vội vã sang phòng sư phụ, kể lại chuyện đêm qua rồi hỏi xem là thế nào. Lục Phi Thanh chau mày, hình như có rất nhiều tâm sự, nhưng chỉ nói: “Con không xưng là đệ tử của ta, việc đó rất hay.” Nàng thấy sắc mặt sư phụ rất nặng nề, bèn không dám hỏi nhiều, quay về phòng mình.
Mưa gió mùa thu lúc nhặt lúc khoan, từng cơn gió lạnh ùa vào trong phòng qua cánh cửa sổ bị phá vỡ. Lý Nguyên Chỉ ở trong khách sạn giữa nơi hoang vắng như thế này, cảm thấy buồn bã bèn sang phòng Tứ đương gia của Hồng Hoa Hội xem thử, nhưng thấy cửa phòng đóng chặt, hoàn toàn không có tiếng động gì. Đoàn tiêu xa của Trấn Viễn tiêu cục cũng chưa đi, mấy gã tiêu sư ngồi vắt chân ở một góc đại sảnh mà trò chuyện. Còn Trương đại nhân, đêm qua vừa tự xưng là sư thúc của nàng, lại không ở đó.
Một cơn gió lạnh ùa vào, Lý Nguyên Chỉ cảm thấy trong người ớn lạnh. Nàng đang định về phòng thi đột nhiên nghe tiếng nhạc ngựa reo vang ngoài cửa, một con ngựa từ trong mưa chạy tới.
Ngựa dừng bên ngoài khách sạn, một thư sinh trẻ tuổi nhảy xuống, tiến vào trong. Tiểu nhị chạy ra dắt ngựa đi cho ăn, rồi hỏi thư sinh có trú lại hay không. Thư sinh cởi áo mưa rồi bảo: “Ta ăn xong là phải khởi hành ngay.” Tiểu nhị bèn mời chàng ngồi, bưng trà lên.
Thư sinh mặt mũi thanh tú, dáng vẻ đàng hoàng. Nơi biên cương hoang vắng này rất ít khi gặp những nhân vật tiêu sái tuấn tú như thế. Lý Nguyên Chỉ không khỏi nhìn lâu hơn, thư sinh đó cũng nhìn nàng mỉm cười một cái. Lý Nguyên Chỉ đỏ mặt, vội vã quay đầu đi vào trong.
Bên ngoài khách sạn, tiếng vó ngựa lại vang lên, thêm mấy người nữa vào trong. Lý Nguyên Chỉ nhận ra đó chính là bốn tên công sai hôm qua đánh nhau với thiếu phụ, bèn chạy ngay tới phòng Lục Phi Thanh hỏi xem nên làm gì.
Lục Phi Thanh bảo: “Chúng ta hãy xem trước đã.” Rồi hai thầy trò nhìn qua khe cửa sổ ra ngoài.
Lão già sử kiếm gọi tiểu nhị ra hỏi nhỏ mấy câu rồi hô lớn: “Đem cơm rượu ra đây.” Tiểu nhị vâng dạ rồi ra sau bếp. Lão lại nói: “Bọn giặc Hồng Hoa Hội chưa rời khỏi đây? Chúng ta cứ ăn no rồi hành động sau.”
Thần sắc của thư sinh kia bỗng hơi thay đổi. Chàng đảo mắt liếc nhìn bốn người kia một cái.
Lý Nguyên Chỉ khẽ hỏi: “Chúng ta có giúp thiếu phụ nữa hay không?”
Lục Phi Thanh đáp: “Đừng có làm bừa, chờ ta bảo đã.” Ông không nhìn bốn tên công sai nữa, cứ chăm chú nhìn thư sinh kia.
Chàng thư sinh ăn uống xong, bèn nhấc một cái ghế dài ngồi chặn giữa hành lang dẫn ra sân sau, rồi lấy trong cái bọc đeo sau lưng ra một cây sáo, thổi lên những tiếng véo von. Lý Nguyên Chỉ hơi hiểu âm luật, nghe thì biết chàng thổi bài Thiên Tịnh Sa, âm điệu không xuất sắc lắm, nhưng kỳ lạ ở chỗ ống sáo này sáng chói hoàng kim, rõ ràng đúc bằng vàng nguyên chất. Vùng này không yên ổn lắm, một thư sinh yếu đuối mà dám khoe ống sáo bằng vàng, há chẳng gợi lòng tham của kẻ xấu hay sao? Nàng nghĩ bụng, đợi lát sẽ đến nhắc nhở chàng mấy câu.
Bốn tên công sai thấy cử chỉ của thư sinh này cũng có phần kinh ngạc. Ăn uống xong, lão già sử kiếm tung người nhảy lên đứng trên bàn, dõng dạc tuyên bố: “Chúng ta là công sai ở kinh thành và phủ Lan Châu, đến đây để bắt bọn khâm phạm trong Hồng Hoa Hội. Bà con lương dân an phận không cần phải sợ, nhưng lát nữa phải đánh nhau, đao thương không có mắt, mọi người nên tránh xa một chút.” Lão nói xong bèn nhảy xuống bàn, dẫn ba tên kia đi vào trong.
Thư sinh làm như chẳng nghe thấy gì, cứ ngồi chặn giữa đường mà thổi sáo. Lão sử kiếm đến gần bèn lên tiếng: “Này! Tránh ra một chút, đừng cản trở việc công của chúng ta.” Lão thấy người này ăn mặc theo kiểu văn sĩ thư sinh, không chừng cũng là tú tài cử nhân gì đó, nên mới nói năng khách sáo như vậy? Nếu là dân chúng tầm thường, chắc đã bị đuổi đi bằng quyền cước rồi.
Không ngờ thư sinh chậm rãi bỏ sáo xuống rồi hỏi: “Cho hỏi khâm phạm mà quí vị cần bắt đã phạm tội gì? Cổ nhân có một câu rất hay: Dễ dãi với người ta một chút thì bản thân mình cũng thoải mái hơn. Khổng Tử cũng nói: Việc mình không muốn, chớ làm cho người. Ta thấy bỏ qua là hơn, hà tất phải bắt người.”
Tên công sai cầm hoài trượng bước lên một bước, quát tháo: “Đừng ở đây lảm nhảm nữa, tránh ra!”
Thư sinh mỉm cười hỏi: “Các hạ đừng nổi nóng, để tại hạ đứng ra mời mọi người uống mấy ly, kết làm bằng hữu có được không?”
Công sai quen thói hống hách, đâu có quen bị nhờn mặt như thế, nên hắn vừa vung tay xô đẩy vừa thóa mạ: “Con mẹ nó, đáng ghét thật.”
Thư sinh bị xô đẩy, lảo đảo mấy cái rồi kêu lên: “Úi chà, đừng động võ! Quân tử động khẩu bất động thủ!” Rồi đột nhiên chàng mất thăng bằng ngã nhào tới. Lúc ngã thì cây sáo vàng chĩa ra phía trước, như tình cờ mà chạm phải huyệt đạo trên đùi trái của tên công sai kia.
Hai chân hắn bủn rủn, khuỵu ngay xuống đất. Thư sinh la lên: “Trời ơi, đừng quì lạy ta nữa. Không cần đa lễ như vậy.” Rồi chàng chắp tay vái trả. Nhìn diễn biến này, ai biết võ công đều hiểu thư sinh này thân mang tuyệt kỹ, đang cố ý làm khó dễ bọn khâm sai.
Lý Nguyên Chỉ đang lo lắng cho thư sinh, sợ chàng bọ bọn công sai hiếp đáp. Đến khi nàng thấy chàng biết điểm huyệt, lại còn giả vờ làm trò, lập tức yên tâm, vui cười khoái chí.
Tên công sai sử dụng nhuyễn tiên kinh hãi la lên: “Sư thúc! Không chừng gã này cũng là phỉ đồ Hồng Hoa Hội.”
Lão gò sử kiếm và tên cầm quỉ đầu đao tức thì thối lui mấy bước. Gã sử dụng hoài trượng, tên là Hàn Xuân Lâm, thì đã bủn rủn ngã nằm dưới đất, hoàn toàn không động đậy được. Tên cầm nhuyễn tiên bèn kéo hắn qua một bên, còn lão sử kiếm lên tiếng hỏi thư sinh: “Ngươi là người của Hồng Hoa Hội phải không?” Thanh âm của lão lộ vẻ sợ sệt.
Thư sinh cười ha hả rồi đáp: “Tai mắt các hạ thật là linh mẫn, ăn chén cơm công sai thật không uổng phó, quả nhiên đã nhìn ra tại hạ là nhân vật trong Hồng Hoa Hội. Người xưa có nói, mắt nhà quan bén như kéo thép, quả nhiên có lý. Tại hạ đi không sửa họ, ngồi chẳng sửa tên, gọi Dư tên là Ngư Đồng. Ngư là con cá, Đồng trong câu “quân tử hòa nhi bất đồng,” không phải chữ Đồng như đồng nát sắt vụn. Tại hạ là hàng nhỏ xíu trong Hồng Hoa Hội, ngồi tận ghế thứ mười bốn.” Chàng giơ cây sáo lên hỏi tiếp: “Các vị có biết thứ đồ chơi này không?”
Lão già sử kiếm la lên: “Thì ra là Kim Địch Tú Tài.”
Thư sinh đáp: “Không dám, chính là tại hạ. Các hạ tay cầm bảo kiếm thanh quang nhấp nhoáng, chắc chắn là bộ đầu Hồ Quốc Đống lừng danh ở Bắc Kinh rồi. Nghe nói các hạ đã cáo lão hồi hưu, sao còn tiếp tục đi làm những việc thế này?”
Lão già sử kiếm hừ một tiếng rồi nói: “Nhãn lực của ngươi cũng không đến nỗi tồi. Ngươi đã là người trong Hồng Hoa Hội, chắc chắn chúng ta không thể bỏ qua.” Lời nói vừa dứt, tay đã vung lên, kkiếm thế linh hoạt nhẹ nhàng. Chiêu kiếm này của lão trong cương lại có nhu, kình lực đầy đủ mười phần.
Hồ Quốc Đống vốn là danh bộ của Bắc Kinh, từng phá nhiều vụ án lớn, giết cường đạo nhiều không đếm xuể. Lão tự biết mình kết oan gia vô số, nên mấy năm trước đã cáo lão về hưu. Tên sử nhuyễn tiên là sư điệt của lão, tên Phùng Huy, làm thị vệ trong đại nội. Lần này Phùng Huy phụng mệnh đi bắt yếu phạm Hồng Hoa Hội, tự biết bản lãnh không đủ nên mới khẩn cầu sư thúc, nhờ giúp một tay. Tên dùng quỉ đầu đao là Trương Thiên Thọ, còn tên cầm hoài trượng là Hàn Xuân Lâm, đều là bộ khoái ở Lan Châu. Võ công của bộ khoái không cao, nhưng bản lãnh truy lùng phạm nhân thì hơn hẳn ngự tiền thị vệ.
Dư Ngư Đồng múa tít ống sáo vàng, tỉ đấu với ba tên công sai. Kim địch của chàng có lúc sử dụng như thiết tiên, có lúc như phán quan bút, thỉnh thoảng lại xen lẫn mấy chiêu kiếm pháp. Bọn ba người Hồ Quốc Đống lập tức rối loạn cả tay chân.
Lục Phi Thanh và Lý Nguyên Chỉ xem được mấy chiêu thì bất giác nhìn nhau. Lý Nguyên Chỉ khẽ nói: “Nhu Vân kiếm pháp:”
Lục Phi Thanh gật đầu, thầm nghĩ Nhu Vân kiếm pháp là bí quyết độc môn của phái mình. Chàng thư sinh kia là người của Hồng Hoa Hội, vậy phải là đệ tử của đại sư huynh.
Sư huynh đệ Lục Phi Thanh có ba người, Lục Phi Thanh đứng hàng thứ hai, đại sư huynh là Mã Chân, còn sư đệ là Trương Triệu Trọng(3) chính là Trương đại nhân đêm qua đã động thủ với Lý Nguyên Chỉ.
Trương Triệu Trọng thiên bẩm rất cao, lại cực ky siêng năng rèn luyện. Trong ba sư huynh đệ thì y có võ công cao nhất. Vì ham mê công danh lợi lộc mà y vào triều làm quan, việc gì cũng ra sức lập công nên mấy năm nay thăng quan tiến tước như diều, bây giờ đã là Hiệu Kỳ Dinh Khã Lĩnh của ngự lâm quân.
Mười mấy năm trước, Lục Phi Thanh đã tuyệt giao với y. Đêm qua ông thấy võ công của y đã tiến bộ rất nhiều, khác hẳn trước kia, nên suốt đêm hồi tưởng những chuyện xưa khi còn bé, học võ một thầy, cảm khái vô cùng. Không ngờ hôm nay ông lại gặp thêm một thiếu niên hậu tiến, cũng phát xuất cùng một sư môn.
Ông đoán Dư Ngư Đồng là đệ tử của sư huynh Mã Chân, quả nhiên không lầm. Dư Ngư Đồng vốn là con nhà danh gia vọng tộc xứ Giang Nam, từng đậu tú tài. Cha của Dư Ngư Đồng vì tranh chấp một khu mộ tốt với một tên phú hào ở địa phương, nên bị quan phủ kiếm chuyện đến khuynh gia bại sản, rồi lại bị vu oan hãm hại mà chết uất trong ngục. Dư Ngư Đồng đau lòng bỏ nhà mà đi, gặp cơ duyên bái Mã Chân làm sư phụ, bỏ văn học võ. Sau này chàng quay về giết chết tên phú hào đó, rồi bắt đầu lang bạt giang hồ, gia nhập Hồng Hoa Hội.
Chàng là người tinh nhanh linh hoạt, thông thuộc nhiều nơi, nên trong hội thường giữ nhiệm vụ liên lạc bốn phương, thám thính tin tức. Lần này chàng có việc đến Lạc Dương, hoàn toàn biết vợ chồng Văn Thái Lai gặp nạn dọc đường và đang trị thương trong khách sạn này. Chàng chỉ muốn ghé ăn chút điểm tâm rồi tiếp tục đi về phía đông, không ngờ nghe thấy bọn Hồ Quốc Đống la lối bắt người Hồng Hoa Hội, nên mới đứng ra cản trở.
Lạc Băng nấp sau cửa sổ, nghe thấy tiếng sáo liền biết là Thập Tứ đệ đã đến đây. Dư Ngư Đồng lấy một địch ba, đánh mãi chưa phân thắng bại. Bọn người trong tiêu cục nghe tiếng huyên náo bèn kéo nhau đến xem.
Đồng Triệu Hòa lớn tiếng nói: “Nếu là ta, ta sẽ để hai người đánh nhau với thằng lỏi đó, còn một người đứng bên ngoài mà bắn.”
Phùng Huy nghe thấy có lý, bèn lùi ra khỏi vòng chiến, nhảy lên bàn đứng. Hắn lấy cung ra bật nghe veo véo, một trận mưa tên bắn về hướng Dư Ngư Đồng.
Dư Ngư Đồng vừa phải tránh tên vừa phải chống đỡ đao kiếm, lập tức rơi vào thế hạ phong. Thêm mấy hiệp nữa, trường kiếm của Hồ Quốc Đống và quỉ đầu đao của Trương Triệu Trọng đồng thời công đến. Dư Ngư Đồng vẫy kim địch gạt đao, bị mũi kiếm của Hồ Quốc Đống đâm thủng trường bào một lỗ. Chàng đang giật mình thì trên má lại trúng một viên đạn đau nhói, tay chân liền chậm lại. Hồ Quốc Đống và Tưởng Thiên Thọ thừa cơ tấn công ráo riết.
Võ công của Tưởng Thiên Thọ chỉ bình thường, nhưng Hồ Quốc Đống thì kiếm pháp lão luyện, có thể gọi là cao thủ chốn công môn. Ống sáo vàng trong tay chỉ còn cách chống đỡ, không sao xuất chiêu phản kích được nữa.
Đồng Triệu Hòa đứng bên rất đắc ý, lại hô lên: “Cứ nghe lời của Đổng đại gia là bảo đảm không lầm. Ê, thằng nhóc kia! Đừng đánh nữa, mau mau bỏ sáo xuống cúi đầu chiu thua, rồi tuột quần chổng mông ra chịu đòn cho rồi.”
Võ nghệ của Dư Ngư Đồng là chân truyền danh môn chánh phái, lâm nguy không loạn. Chàng đột nhiên đưa hai ngón tay trái ra, diểm thẳng tới huyệt đạo dưới ngực Hồ Quốc Đống. Hồ Quốc Đống vội vã lùi lại hai bước, Dư Ngư Đồng lại biến chỉ thành chưởng giả vờ tát vào mặt Tưởng Thiên Thọ. Lúc đối phương đưa đao lên cản, bàn tay đó không kịp rút về. Tưởng Thiên Thọ nhìn tưởng ngon ăn, bèn hoành ngang quỉ đầu đao biến thế chém thẳng qua. Dư Ngư Đồng để hở bên trái dụ binh khí địch đánh tới, tay phải lập tức đưa Kim Địch đâm qua, trúng ngay hông họ Tưởng. Tưởng Thiên Thọ la lên một tiếng, đau đến nỗi gập lưng xuống. Dư Ngư Đồng muốn thừa thế tấn công, nhưng Hồ Quốc Đống đã vung kiếm qua chống đỡ dùm, rồi một loạt tên của Phùng Huy lại cản chân chàng.
Tưởng Thiên Thọ thở ra một hơi, nghiến răng cố nén cơn đau, lom khom đi vòng ra sau lưng Dư Ngư Đồng. Nhân lúc chàng vừa phải đối phó trường kiếm phía trước, vừa phải lo tránh né những viên đạn bắn tới sườn, hắn bèn vận hết toàn lực xuất chiêu Khai Thiên Tịch Địa, vung quỉ đầu đao chém thẳng từ sau đầu chàng xuống. Chiêu này dùng để tấn công khi đối phương không phòng bị, thật là khó tránh. Nào ngờ lưỡi đao sắp chạm đến đỉnh đầu địch thủ, thì cổ tay hắn bỗng đau nhói, đao cầm không chặt để rơi xuống đất. Hắn đang ngơ ngác thì trước ngực lại trúng một mũi phi đao, đứt hơi chết ngay lập tức.
Dư Ngư Đồng quay lại, nhìn thấy Lạc Băng đứng ở sau lưng, tay trái phải vịn bàn, tay phải cầm một lưỡi phi đao nữa. Khuôn mặt nàng sáng như một đóa hoa tươi, đôi mắt trong veo, đôi môi hàm tiếu mỉm cười, vung tay giết địch dễ như không, thật là diễm lệ khó mà diễn tả. Ngực chàng bỗng nóng ran, tinh thần phấn chấn, múa tít kim địch thành một màn sáng màu vàng, lớn tiếng gọi: “Tứ tẩu! Diệt tên ưng trảo bắn tên trước đã.”
Lạc Băng lại mỉm cười, phi đao rời khỏi tay. Phùng Huy nghe tiếng kêu nên vội vàng quay lại đón đỡ, kịp thấy một lưỡi đao nhỏ như lá liễu, sáng lóng lánh bay đến trước ngực, rít lên veo véo nghe rất gấp rút, bèn đưa cây cung ra gạt. Nghe một tiếng “cắc” cung đã gãy đôi nhưng phi đao vẫn còn dư lực, tiếp tục bay tới rạch trên mặt hắn đứt một đường.
Phùng Huy kinh hãi la lên: “Sư thúc! Rút lui thôi!” rồi nhảy xuống bàn. Hồ Quốc Đống lùi lại hai bước, rồi cõng Hàn Xuân Lâm đang nằm bủn rủn dưới đất lên. Phùng Huy vung roi ngăn chặn phía sau, cả bọn chạy ra cửa khách sạn.
Dư Ngư Đồng thấy bọn công sai chạy trốn mà không đuổi theo, lại đưa cây sáo lên miệng. Lý Nguyên Chỉ nghĩ bụng: “Công tử này thật khéo làm duyên, lúc này mà còn thổi sáo được.” Nào ngờ phen này chàng không cầm ngang, mà ngậm đầu sáo thổi mạnh một cái, một mũi tên nhỏ xíu từ trong ống sáo bắn vèo ra. Phùng Huy vội cúi đầu né được, mũi tên đó ghim ngay vào mông của Hàn Xuân Lâm. Tên này đau quá thét lên be be.
Dư Ngư Đồng quay người lại hỏi: “Tứ ca đâu rồi?”
Lạc Băng đáp: “Cứ đi theo tỷ.” Nàng đang bị thương, nên phải cầm cây gài cửa làm gậy chống, đi trước dẫn đường.
Dư Ngư Đồng nhặt lưỡi phi đao dưới đất lên đưa trả Lạc Bang, hỏi: “Sao Tứ tẩu bị thương vậy? Có nặng lắm không?”
Ngoài kia Hồ Quốc Đống cõng Hàn Xuân Lâm đi trước, vẫn sợ kẻ địch đuổi theo nên cố chạy nhanh về phía khách sạn. Lúc lão ra tới cửa, bên ngoài cũng có một người chạy vào, hai bên cùng vội dĩ nhiên xảy ra tai nạn. Hồ Quốc Đống đã luyện võ công mấy chục năm, bộ pháp vững vàng, nhưng không hiểu sao chỉ bị đụng một cái nhẹ nhàng đã không đứng vững. Hắn phải lùi lại mấy bước, buông Hàn Xuân Lâm rơi xuống dất mới không bị té nhào. Chỉ xui xẻo cho Hàn Xuân Lâm rơi mông xuống trước, nên bị mũi tên ghim sâu thêm vào trong thịt.
Hồ Quốc Đống ngẩng nhìn lên, nhìn thấy người chạy vào là Hiệu kỳ doanh tả lĩnh Trương Triệu Trọng, bèn đổi giận làm vui. Lão nuốt kịp mấy câu thô tục suýt nữa buột miệng nói ra, vội vàng chào hỏi: “Trương đại nhân! Bọn, tiểu nhân vô dụng, một huynh đệ bị chúng giết mất rồi, còn người này bị điểm huyệt!”
Trương Triệu Trọng hừ một tiếng, tay trái xách Hàn Xuân Lâm lên, tay phải bóp vào hông rồi vỗ lên đùi hắn để khai huyệt đạo, đồng thời hỏi: “Chúng chạy trốn hết rồi sao?”
Hồ Quốc Đống đáp: “Vẫn còn trong khách sạn.”
Trương Triệu Trọng hừ một tiếng nữa rồi nói: “Gan mật không nhỏ, đã giết quan quân còn dám ở lại khách sạn.” Y vừa nói vừa đi vào trong sân.
Phùng Huy đưa tay chỉ vào phòng của Văn Thái Lai, rồi nói: “Trương đại nhân! Bọn giặc dó ở đây.” Hắn cầm nhuyễn tiên đi trước dẫn đường.
Chúng đang tiến vào thì đột nhiên ở phòng bên cạnh có một thiếu niên chạy ra, tay cầm một cái bao vải màu đỏ giơ lên, mỉm cười nói với Trương Triệu Trọng: “Ái chà! Lại bị ta đoạt lấy rồi.” Gã vừa nói vừa chạy ra trước cửa.
Trương Triệu Trọng ngẩn người ra nghĩ: “Mấy thằng ngốc trong tiêu cục này thật là tệ hại. Ta đã lấy lại cho, còn để cướp đi lần nữa. Mặc kệ nó, chuyện của mình quan trọng hơn.” Y không duổi theo, cứ đi tiếp vào trong.
Thiếu niên kia thấy y không đuổi theo mình, bèn dừng lại la lên: “Không biết ở đâu nứt ra mấy con mèo quào ba cẳng dám mạo nhận là sư thúc của người ta. Thật là không biết xấu hổ!” Thiếu niên này chính là Lý Nguyên Chỉ đang cải nam trang.
Ngoại hiệu của Trương Triệu Trọng là Hỏa Thủ Phán Quan, danh chấn giang hồ. Giới lục lâm thường nói: Thà gặp Diêm Vương đừng gặp lão Vương, thà chịu ba thương đừng gặp một Trương. Lão Vương chính là Oai Trấn Hà Sóc Vương Duy Dương, tổng tiêu đầu Trấn Viễn tiêu cục. Còn một Trương chính là vị Hỏa Thủ Phán Quan Trương Triệu Trọng này. Mấy năm nay y đã đi làm quan, nhưng nhân vật võ lâm gặp y vẫn có phần kính nể. Rất hiếm khi y bị sĩ nhục thế này, lập tức nổi giận phóng tới như mũi tên, vung tay toan bắt lấy Lý Nguyên Chỉ, dạy cho bài học rồi giao lại cho sư huynh là Mã Chân xử lý. Y vẫn cho rằng thiếu niên này là đệ tử của Mã Chân.
Lý Nguyên Chỉ nhìn thấy y đuổi theo mình, bèn vắt chân lên cổ mà chạy. Trương Triệu Trọng quát: “Thằng lỏi kia! Chạy đi đâu?” Y đuổi được mấy bước, thấy nàng chạy khá nhanh nên định quay về lo chuyện chính.
Nào ngờ Lý Nguyên Chỉ thấy y ngừng đuổi, thì cũng dừng bước mở lời trêu ghẹo, bảo y chỉ có hư danh, làm mất thể diện của phái Võ Đang. Miệng nàng nói thì cứ nói, chân vẫn chuẩn bị sẵn sàng chạy tiếp. Quả nhiên Trương Triệu Trọng nổi giận đùng đùng, lại đuổi theo hai ba dặm nữa. Lúc này mưa lớn vẫn chưa dứt, cả hai người đều ướt như chuột lột.
Trương Triệu Trọng quyết tâm bắt được thằng lỏi phá rối này rồi tính tiếp. Y liền dốc hết sức ra, thi triển khinh công thượng thừa mà đuổi. Trương Triệu Trọng đã quyết tâm thì dĩ nhiên Lý Nguyên Chỉ không sao chạy thoát. Nàng thấy đối phương càng lúc càng gần, lại biết võ công của y cao tuyệt, bất giác hoảng sợ, chạy rẽ lên đường núi.
Trương Triệu Trọng im lặng không nói gì, cứ tiếp tục đuổi sát tới, càng chạy càng nhanh. Chỉ chốc lát y đã đưa tay ra nắm được áo của Lý Nguyên Chỉ. Nàng kinh hãi ra sức giãy giụa. Roạc một tiếng, một mảnh lưng áo đã bị giật rách ra, nàng chợt động tâm vứt vái bao vải xuống suối, rồi vừa chạy vừa nói: “Thôi thì trả cho ông vậy.”
Trương Triệu Trọng biết cuốn kinh trong cái bao này quan hệ không nhỏ, được Triệu Tuệ tướng quân cực kỳ coi trọng. Y không dám sơ sẩy để nó bị suối cuốn trôi đi mất, cho dù tìm được cũng bị thấm nước hư hỏng, bèn không rượt Lý Nguyên Chỉ nữa, mà lập tức nhảy xuống suối để lượm cái bao. Lý Nguyên Chỉ cười lên ha hả, chạy mất hút.
Trương Triệu Trọng nhặt cái bao vải ướt lên, vội vã mở ra xem thử kinh sách đã thấm nước chưa. Y vừa mở bao ra đã không nén nổi, phải buột miệng thóa mạ. Trong cái bao này không có kinh Coran, chỉ có hai quyển sổ thu chi của khách sạn. Lật ra xem thi thấy trong sổ ghi toàn những khoảng tiền phòng của khách mấy hào, tiền trả công cho tiểu nhị mấy xu…
Trương Triệu Trọng bất giác than thầm. Y đã trải qua biết bao nhiêu trận chiến trên chốn giang hồ, thế mà bị thằng nhóc này lừa hai lần liên tiếp, bèn thuận tay vứt trả hai quyển sổ này xuống dòng suối. Nếu cầm về tiệm, có người hỏi đến thì còn mặt mũi nào.
Y giận như điên, chạy gấp về khách sạn, vừa vào tới cửa đã gặp tiêu sư Diêm Thế Chương, thấy cái bọc vải màu đỏ vẫn còn đeo trên lưng hắn rất đàng hoàng. Trương Triệu Trọng âm thầm hổ thẹn, liền hỏi: “Cái bao này có bị ai động đến không?”
Diêm Thế Chương đáp ngay: “Không.” Nhưng hắn là người cẩn thận, biết Trương Triệu Trọng hỏi như vậy là có nguyên nhân, bèn mời y vào phòng rồi mở bao ra xem. Quyển kinh vẫn yên ổn nằm trong đó.
Trương Triệu Trọng hỏi: “Bọn công sai đi đâu hết rồi?”
Diêm Thế Chương kinh ngạc hỏi lại: “Vừa rồi họ còn ở đây mà!”
Trương Triệu Trọng giận dữ nói: “Triều đình nuôi lũ này thật là vô ích, ta mới rời đây mấy bước là chạy trốn sạch rồi. Diêm lão đệ! Ngươi đi theo ta, xem ta đơn thương độc mã bắt hết bọn kia.” Y nói xong bèn đi về phía phòng Văn Thái Lai.
Diêm Thế Chương mừng thầm trong bụng. Hắn cũng khiếp sợ oai danh Hồng Hoa Hội, biết hội này người đông thế lớn, cao thủ như mây. Một mình y thì quyết không dám gây chuyện với họ. Nhưng Trương Triệu Trọng đã nói thế thì hắn không cãi làm gì, quyết tâm giữ vững lập trường đứng cạnh mà nhìn, không can dự vào. May mà võ công của Trương Triệu Trọng trên cả tuyệt vời, hơn nữa đối phương ba người thì đã có hai người bị thương, chắc là bắt được. Y đã nói đơn thương độc mã, thì cứ để y ra trận một mình là tốt nhất.
Trương Triệu Trọng đi đến cửa phòng, quát lớn: “Bọn ma quỉ Hồng Hoa Hội đâu rồi, dẫn xác ra đây cho ta!” Sau một lúc lâu, trong phòng vẫn hoàn toàn im ắng. Y bèn lớn tiếng thóa mạ: “Con mẹ nó, toàn là đồ rùa đen rút đầu!” Rồi vung cước đá vào cửa. Thì ra cửa phòng chỉ khép hờ chứ không có khóa chốt gì.
Cánh cửa mở ra, trong phòng vẫn không thấy ai. Trương Triệu Trọng giật mình la lớn: “Bọn chúng chạy mất rồi!” Y lập tức chạy vào trong. Đúng là trong phòng không có ai, nhưng trên giường thi chăn bị đội lên, hình như bên trong có người nằm. Y rút kiếm hất cái chăn ra, quả nhiên trong đó có hai người nằm quay mặt vào nhau. Y dùng mũi kiếm chọc khẽ vào lưng người nằm ngoài, vẫn không thấy động tĩnh gì. Dùng tay lật lại xem, thì mặt của người này hoàn toàn không chút huyết sắc, hai mắt lồi ra, rõ ràng là bộ khoái Hàn Xuân Lâm của phủ Lan Châu. Còn người nằm bên trong, quay mặt ra ngoài, chính là bộ đầu Phùng Huy ở Bắc Kinh. Đưa tay lên mũi, thấy cả hai đều đã tắt thở. Trên thân thể hai người này hoàn toàn không có vết máu, cũng không có vết dao kiếm gì, nhưng xem tỉ mỉ hơn thì thấy xương gáy của chúng đều vỡ vụn ra, rõ ràng là bị chưởng lực của cao thủ nội gia đánh trúng.
Trương Triệu Trọng không khỏi thầm phục Văn Thái Lai, nghĩ bụng: “Y đã trọng thương mà chưởng lực vẫn lợi hại thế này, ba chữ Bôn Lôi Thủ quả nhiên danh bất hư truyền.” Họ Trương không hiểu Hồ Quốc Đống đi đâu, vợ chồng Văn Thái Lai chạy trốn hướng nào, bèn gọi tiểu nhị đến hỏi tới hỏi lui, nhưng hoàn toàn không biết thêm chút xíu gì.
Phen này Trương Triệu Trọng đoán sai. Hàn Xuân Lâm và Phùng Huy không phải bị Văn Thái Lai đánh chết.
* * *
Thì ra khi nãy Lục Phi Thanh cùng Lý Nguyên Chỉ nấp sau cửa sổ xem trận chiến đó, lúc thấy Dư Ngư Đồng gặp nguy hiểm, Lục Phi Thanh bèn phóng Phù Dung kim châm trúng vào cổ tay của Tưởng Thiên Thọ, quỉ đầu đao rơi xuống đất. Lúc dó Lạc Băng phóng phi đao lấy mạng hắn, rồi Hồ Quốc Đống cõng Hàn Xuân Lâm chạy trốn. Lục Phi Thanh đã yên tâm, tưởng rằng khó khăn đã hết, nào ngờ Trương Triệu Trọng lại tiến vào.
Lý Nguyên Chỉ khẽ nói: “Đêm qua, chính người này đoạt lấy bao vải của con. Sư phụ có biết y không?” Lục Phi Thanh gật đầu. Ông đã tính toán sẵn, bèn nói nhỏ: “Con ra dụ y rời khỏi đây, càng xa càng tốt. Nếu lúc trở về không gặp sư phụ, thì ngày mai con và Lý phu nhân cứ việc lên đường, sư phụ sẽ đến tìm sau.”
Lý Nguyên Chỉ còn muốn hỏi gì đó nhưng Lục Phi Thanh đã tiếp: “Nhanh lên, chậm là không kịp, nhưng phải hết sức cẩn thận.” Ông biết cô bé học trò này quỉ kế đa đoan, tuy sư đệ võ công rất khá nhưng về thông minh cơ biến thì không sánh kịp cô ta, nên tin chắc đệ tử mình không thua thiệt. Hơn nữa, cha của nàng là đề đốc đương triều, nếu không may Trương Triệu Trọng bắt được nàng cũng không dám nặng tay. Ông lại biết Trương Triệu Trọng bản tính kêu ngạo, không thèm bắt nạt đàn bà con nít, đến lúc khẩn trương, chỉ cần Lý Nguyên Chỉ để lộ diện mạo nữ nhân, Trương Triệu Trọng nhất định sẽ cười khẩy buông tay.
Quả nhiên không ngoài dự tính, Trương Triệu Trọng đã bị lừa. Nhưng nếu lúc đó Trương Triệu Trọng phóng ám khí hay buông sát thủ, chắc chắn Lý Nguyên Chỉ sẽ trọng thương. Chỉ vì y tưởng nàng là đệ tử của đại sư huynh Mã Chân, nên mới hạ thủ lưu tình. Chuyện này thì Lục Phi Thanh nghĩ không tới.
Lục Phi Thanh nhìn thấy Trương Triệu Trọng đuổi ra khỏi khách sạn, bèn lấy bút viết nhanh một lá thư ngắn rồi cất vào bọc, đi đến trước cửa phòng của Văn Thái Lai gõ cửa khe khẽ. Lạc Băng ngồi trong phòng hỏi ra: “Ai thế?”
Lục Phi Thanh đáp: “Ta là hảo bằng hữu của Lạc ngũ gia Lạc Nguyên Thông, có việc cần gặp các vị.”
Bên trong không có tiếng trả lời, cũng không có ai mở cửa, đương nhiên là đang bàn bạc xem nên đối phó thế nào. Lúc này ba người bọn Hồ Quốc Đống đã đến nơi, đứng xa xa canh chừng. Chúng thấy Lục Phi Thanh đứng trước cửa phòng, đều không khỏi ngạc nhiên.
Cửa phòng khẽ mở, Dư Ngư Đồng dứng giữa cửa hỏi rất đàng hoàng: “Không hiểu tiền bối là ai?”
Lục Phi Thanh đáp nhỏ: “Ta là Miên Lý Châm Lục Phi Thanh, sư thúc của ngươi.”
Dư Ngư Đồng không khỏi ngần ngừ. Chàng là người nghĩa hiệp, nhưng chưa bao giờ gặp mặt nên không biết người đối diện thật giả ra sao. Lúc này Văn Thái Lai lại bị thương nặng, làm sao chàng dám khinh xuất để người lạ vào phòng?
Lục Phi Thanh nói tiếp: “Đừng lên tiếng, ta sẽ làm cho ngươi tin.” Dư Ngư Đồng càng nghi ngờ hơn, vận công xuống hạ bàn đề phòng ông ta tung cửa chạy vào, mắt thì chú ý quan sát từ trên xuống dưới.
Lục Phi Thanh đột nhiên đưa tay trái ra vỗ lên vai chàng. Dư Ngư Đồng đảo người né tránh. Lục Phi Thanh dùng hữu chưởng đẩy nhẹ vào dưới nách, khẽ hất chàng sang một bên. Lãng Trác Y là chiêu đầu tiên trong Võ Đang trường quyền, tay trái giữ vạt trường bào, chỉ dùng tay phải tấn công địch thủ. Sử chiêu này phải ung dung tiêu sái, ra ý là ta không cần cởi trường bào vẫn đánh được ngươi. Đã là người phái Võ Đang, nhất định phải thuộc bài học nhập môn này. Dư Ngư Đồng cảm thấy một luồng đại lực hất mình ra, không tự chủ được phải lùi mấy bước. Chàng vừa kinh hãi vừa vui mừng, biết đúng là sư thúc đã đến đây.
Thấy Dư Ngư Đồng bị đẩy lùi, Lạc Băng bèn cầm lấy song đao nhảy ra phía trước. Dư Ngư Đồng lập tức đưa tay cản lại, khẽ nói: “Khoan đã!”
Lục Phi Thanh cũng vẫy tay ra hiệu, rồi lùi ra khỏi phòng, gọi bọn Hồ Quốc Đống: “Ái chà! Bọn chúng trốn đâu hết rồi. Các vị mau đến đây!”
Hồ Quốc Đống giật mình chạy nhanh tới, xông vào phòng. Hàn Xuân Lâm và Phùng Huy cũng theo sát sau lưng. Lục Phi Thanh là người cuối cùng tiến vào, đứng chặn đường lui của ba tên này, thuận tay đóng chặt cửa lại.
Hồ Quốc Đống nhìn thấy Dư Ngư Đồng đàng hoàng đứng ngay giữa phòng, không khỏi kinh hãi la lên: “Mau lùi lại!”
Hàn Xuân Lâm và Phùng Huy vừa định quay người, Lục Phi Thanh đã vận nội công vào song chưởng vỗ nhẹ một cái, xương gáy của hai tên này lập tức vỡ nát, chết ngay tại chỗ.
Hồ Quốc Đống cảnh giác hơn, thấy cửa phòng đóng chặt bèn tung người nhảy lên giường, hai tay che đầu, nhắm thẳng cửa sổ bay ra ngoài. Văn Thái Lai đang nằm trên giường, thấy lão bay qua đầu mình bèn đẩy tả chưởng ra. Nghe rắc một tiếng, cánh tay phải của Hồ Quốc Đống lập tức gãy xương rũ xuống, nhưng lão lắc lư mấy cái rồi chân trái dùng sức đạp mạnh, vẫn phá được cửa sổ. Lúc này sau gáy có tiếng gió rít lên, Lạc Băng đã phóng phi đao.
Hồ Quốc Đống có đề phòng ám khí của địch truy kích, nên hai chân vừa chấm xuống đất đã đảo người nhảy sang trái. Dù vậy nhưng lão vẫn bị phi đao cắm vào vai phải. Lúc này lão không có thì giờ chăm sóc vết thương, chỉ biết dốc hết sức mà chạy ra khỏi khách sạn.
Sau diễn biến này, Lạc Băng và Dư Ngư Đồng không hoài nghi gì nữa, cùng quì xuống bái kiến. Văn Thái Lai cũng lên tiếng: “Lão tiền bối! Thứ lỗi cho tại hạ không thể xuống giường thi lễ.”
Lục Phi Thanh đáp: “Đừng khách sáo. Không hiểu vị này xưng hô như thế nào với Lạc ngũ gia?” Ông vừa hỏi vừa nhìn sang Lạc Băng.
Lạc Băng đáp: “Đó là tiên phụ.”
Lục Phi Thanh nói: “Thì ra đây là con bé Tiểu Băng. Ta là Lục bá bá của con đây, còn nhận ra không? Nguyên Thông lão đệ là bằng hữu thâm giao, không ngờ lại tạ thế trước ta.” Thanh âm ông lộ vẻ thê lương. Mắt của Lạc Băng cũng đỏ lên, lại sụp lạy nữa.
Lục Phi Thanh quay sang hỏi Dư Ngư Đồng: “Chắc ngươi là đệ tử của Mã sư huynh. Sư huynh gần đây có khỏe không?”
Dư Ngư Đồng đáp: “Nhờ hồng phúc của sư thúc, sư phụ vẫn còn tráng kiện. Lão nhân gia thường nhắc tới sư thúc, nói rằng đã mười năm không gặp, không biết sư thúc hiện giờ ở đâu, mãi không yên tâm được.”
Lục Phi Thanh buồn bã nói: “Ta cũng rất nhớ sư phụ của ngươi. Còn một sư thúc nữa vừa đến đây, ngươi có biết không?”
Dư Ngư Đồng kinh hãi hỏi: “Có phải là Trương sư thúc Trương Triệu Trọng không?” Lục Phi Thanh gật đầu.
Văn Thái Lai vừa nghe thấy tên Trương Triệu Trọng bỗng rùng mình, rồi khẽ la một tiếng. Lạc Băng vội tới nâng đỡ trượng phu, tình yêu thắm thiết lộ hẳn trên nét mặt. Dư Ngư Đồng nhìn cảnh tượng này đến nỗi xuất thần, nghĩ rằng nếu mình lấy được người vợ thế này, thì cho dù bị trọng thương cũng thấy sướng hơn ở cõi tiên.
Lục Phi Thanh nói: “Sư đệ của ta đã bán thân về với triều đình, thật là một mối nhục của sư môn. Nhưng võ công của y rất tinh thuần, hơn nữa từ Bắc Kinh ngàn dặm xa xôi về đến nơi này, chắc chắn còn có hậu viện. Văn lão đệ lại đang bị trọng thương, theo ý ta thì trước mắt phải tránh mặt một chút, sau này chúng ta hẹn thêm mấy hảo thủ sẽ quyết thư hùng lại một phen. Nếu lão phu không thanh trừ mối bại hoại này của sư môn, thì mấy khúc xương già này cũng không muốn giữ lại làm chi.” Lời của ông tuy nhỏ nhẹ, nhưng không che đậy mối bi phẫn trong lòng.
Lạc Băng đáp: “Bọn tiểu điệt xin nghe Lục lão bá dặn dò.” Nàng nói xong, nhìn qua xem thái độ của chồng mình. Văn Thái Lai khẽ gật đầu.
Lục Phi Thanh lấy trong bọc ra một lá thư, giao cho Lạc Băng. Lạc Băng nhận lấy, thấy trên bì thư có viết: “Kính gởi Chu lão anh hùng Chu Trọng Anh ở Thiết Đảm trang.” Nàng cả mừng hỏi: “Lục lão bá! Lão bá có giao tình với Chu lão anh hùng hay sao?”
Lục Phi Thanh chưa kịp trả lời, Văn Thái Lai đã hỏi: “Vị Chu lão anh hùng nào thế?”
Lạc Băng đáp: “Chu Trọng Anh.”
Văn Thái Lai lại hỏi: “Có phải Chu lão anh hùng ở Thiết Đảm trang hay không?”
Lục Phi Thanh nói: “Đúng là ông ấy ở Thiết Đảm trang, cách đây chỉ chừng hai ba chục dặm. Ta với Chu lão anh hùng chưa từng gặp mặt nhưng từ lâu đã có giao tình, biết ông ấy gan dạ hơn người, đáng mặt nam tử hán đại trượng phu, cứng rắn như sắt thép. Ta muốn phiền Văn lão đệ tạm thời đến trang của ông ấy nghỉ sức dưỡng thương, rồi cho người đi thông báo cho bằng hữu quí hội đến đón về.” Ông thấy sắc mặt Văn Thái Lai ra vẻ chần chừ, liền hỏi: “Ý của Văn lão đệ thế nào?”
Văn Thái Lai đáp: “Tiền bối đã sắp xếp thật không thể hay hơn, nhưng có một điều không dám giấu giếm. Vãn bối mang nặng mối huyết hải thâm thù, ngày nào tên cẩu hoàng đế Càn Long chưa tận mắt nhìn thấy thi thể vãn bối thì y chưa thể ăn ngon ngủ yên. Đại danh Thiết Đảm trang Chu lão anh hùng thì bọn vãn bối ngưỡng mộ đã lâu. Ông ấy đúng là một lãnh tụ võ lâm tây bắc, đã kết giao là đối đãi nhiệt tâm, nhưng bọn vãn bối cùng ông ấy chưa có giao tình mà cũng chưa phải là bằng hữu. Nếu phen này bọn vãn bối chạy đến chỗ ông ấy mà trốn, dĩ nhiên ông ấy sẽ nể mặt tiền bối mà giữ lại, nhưng giữ lại thì hậu hoạn vô cùng. Chu lão anh hùng an cư lập nghiệp ở nơi đây, nếu không may bị quan phủ biết được mà liên lụy, thì trong lòng vãn bối thật sự không sao yên ổn được.”
Lục Phi Thanh bảo: “Văn lão đệ đừng nói như thế. Chúng ta là nhân vật giang hồ, chỉ biết lấy hai chữ nghĩa khí làm đầu. Vì bằng hữu thì bị nhổ mất hai dãy xương sườn vẫn không tiếc, huống gì chút ít gia tài sản nghiệp. Phen này chúng ta gặp phải việc khó giải quyết, nếu không đi tìm Chu lão anh hùng thì lỡ sau này ông ấy biết được, sẽ trách chúng ta coi thường ông ấy là không biết trọng nghĩa khí.”
Văn Thái Lai nói: “Cái mạng này của vãn bối coi như vứt đi. Nếu bọn ưng trảo triều đình tìm đến đây thì chấp nhận lấy một mạng đổi một mạng là xong. Tiền bối chưa biết, chuyện phiền hà mà vãn bối phạm phải thật là quá lớn. Càng là người tốt lại càng không dám để liên lụy đến.”
Lục Phi Thanh nói: “Chắc chắn lão đệ có biết Triệu Bán Sơn ở Thái Cực môn. Lão đệ xưng hô với y thế nào?”
Văn Thái Lai đáp: “Vãn bối gọi là Triệu tam ca. Ông ấy là Tam đương gia trong hội.”
Lục Phi Thanh gật đầu: “Thì ra là thế. Ta chưa biết gì về Hồng Hoa Hội các vị, nhưng đã có giao tình rất hậu với Triệu Bán Sơn hiền đệ. Năm xưa chúng ta cùng ở Đồ Long bang, lắm phen ra sống vào chết, thật là thân hơn cả anh em ruột thịt. Bây giờ ông ấy đã là người trong quí hội, thế thì công việc của các vị nhất định là quang minh chính đại. Còn chuyện phiền hà mà lão đệ phạm phải thì lớn đến đâu? Tối đa cũng chỉ là giết quan tạo phản mà thôi. Ta cũng vừa giết hai tên chó săn của quan phủ rồi.” Nói xong, ông phóng chân đá vào xác của Phùng Huy một cước.
Văn Thái Lai nói: “Chuyện của vãn bối nói ra dài dòng lắm, sau này nếu còn một hơi thở sẽ quyết kể cho lão tiền bối nghe tường tận. Lần này Càn Long phái ba tên đại nội thị vệ đến bắt vợ chồng vãn bối. Trận chiến ở Tửu Tuyền vãn bối bị thương nặng, may mà cháu gái của tiền bối dùng hai lưỡi phi đao giết được hai tên ưng trảo, rồi khó khắn lắm mới chạy được đến đây. Nào ngờ Trương Triệu Trọng của ngự lâm quân cũng đuổi đến rồi. Dù sao thì vãn bối cũng chỉ chết một lần thôi, còn những hành động của tên Càn Long kia thì quyết không thể không đưa ra ánh sáng. Vãn bối phải nói ra rồi chết mới cam lòng.”
Lục Phi Thanh nghe kỹ mấy câu này, lờ mờ đoán rằng Văn Thái Lai đã nắm được bí mật gì rất lớn của hoàng đế Càn Long, nên hắn mới điên tiết phái nhiều cao thủ giết chàng diệt khẩu. Tuy chàng đang gặp đại nạn mà vẫn không muốn liên lụy đến người khác, đúng là bậc anh hùng mình làm mình chịu. Ông nghĩ nếu không dùng kế kích tướng mà chọc tức, nhất định chàng không chịu đến dựa dẫm Thiết Đảm trang, bèn nói: “Văn lão đệ! Lão đệ không muốn liên lụy đến người khác, quả là hành vi của một hán tử quang minh lỗi lạc. Nhưng ta nghĩ lại thì có điều đáng tiếc.”
Văn Thái Lai vội hỏi: “Đáng tiếc ở chỗ nào?
Lục Phi Thanh nói: “Nếu lão đệ không chịu đi, thì ba người chúng ta có rời lão đệ được hay không? Lão đệ bị trọng thương, không tiện động thủ. Không phải ta muốn trợ oai cho địch mà hạ thấp bên mình, nhưng lát nữa bọn ưng trảo đến đây có cả sư đệ của ta, ở đây không ai địch nổi hắn. Thế mà ở đây, một người là thê tử lão đệ, một người là huynh đệ của lão đệ, còn lão già này tuy bất tài nhưng cũng biết coi nghĩa khí quan trọng hơn tính mạng. Lỡ chúng ta bị thua, có ai bỏ lão đệ mà chạy trốn được không? Lục mỗ sống hơn sáu chục năm rồi cái mạng này đã vứt đi lượm lại mấy lần, đem ra liều với chúng cũng không có gì là quan trọng. Chỉ tiếc cho sư điệt của ta đang ở vào tuổi kiến công lập nghiệp, phu nhân của lão đệ thì tuổi trẻ thanh xuân. Chẳng lẽ vì lão đệ muốn làm hảo hán mà lụy đến mọi người mất mạng ở đây hay sao?”
Văn Thái Lai nghe đến đó, bất giác mồ hôi toát ra đầy đầu. Mấy câu này của Lục Phi Thanh tuy có phần khích bác, nhưng hoàn toàn có tình có lý.
Lạc Băng kêu lên một tiếng: “Đại ca!” rồi lấy khăn tay lau mồ hôi trán cho chồng, âu yếm nắm lấy bàn tay chưa bị thương.
Văn Thái Lai có ngoại hiệu là Bôn Lôi Thủ, hồi mười lăm tuổi đã bôn tẩu giang hồ, đã giết chết không biết bao nhiêu bọn gian xảo, hung đồ ác bá. Nhưng bàn tay giết người vô số này lại là bàn tay êm dịu ấp áp của Lạc Băng nắm chặt, đúng là nhi nữ tình trường anh hùng khí đoản. Vì thế chàng không cố chấp bảo thủ ý kiến của mình nữa, nói vói Lục Phi Thanh: “Tiền bối dạy rất đúng. Vừa rồi vãn bối nghĩ sai lầm, bây giờ xin tuân lời tiền bối.”
Lục Phi Thanh rút lá thư viết cho Chu Trọng Anh ra, Văn Thái Lai đọc thấy đầu thư là mấy câu ngưỡng mộ, tiếp theo là nói về mấy vị bằng hữu trong Hồng Hoa Hội gặp nguy nan, nhờ ông ta chiếu cố. Trong thư không ghi rõ tên Văn Thái Lai và Dư Ngư Đồng. Văn Thái Lai xem xong, thở ra một hơi rồi nói: “Phen này chúng ta đến Thiết Đảm trang, Hồng Hoa Hội lại có thêm một vị ân nhân nữa rồi.”
Trước nay Hồng Hoa Hội có ơn là trả, có thù là báo. Bất cứ ai có chút xíu ân huệ với họ, họ cũng tìm thiên phương vạn kế báo đáp mới thôi. Nếu ai kết oán thù, thù lớn thì trả lớn, thù nhỏ thì trả nhỏ, quyết không chịu bỏ qua. Ngay như Trấn Viễn tiêu cục nghe thấy danh tiếng Hồng Hoa Hội cũng phải sợ hãi, như vậy đủ biết Hồng Hoa Hội người đông thế mạnh, ân oán phân minh, thật không nên đắc tội.
Lục Phi Thanh lại hỏi Dư Ngư Đồng phải đến đâu báo tin cầu viện, và lực lượng của Hồng Hoa Hội khi nào mới đến được. Dư Ngư Đồng đáp: “Mười hai vị đương gia của Hồng Hoa Hội, ngoài Văn tứ đương gia và Lạc thập nhất đương gia đang ở đây, còn lại đã tập hợp ở An Tây. Mọi người đang thỉnh cầu thiếu đà chủ lên thống lĩnh Hồng Hoa Hội. Nhưng nếu thiếu đà chủ quyết không chịu, cứ nói là mình tuổi trẻ, kiến thức nông cạn, danh vọng lẫn khả năng đều không xứng với ngôi vị ấy, nhất định đề cử Nhị đương gia là Vô Trần đạo trưởng làm tổng đà chủ. Dĩ nhiên Vô Trần đạo trưởng không chịu, nên tình thế bây giờ không sao giải quyết được. Mọi người đang đợi Tứ đương và và Thập Nhất đương gia đến nơi để khai hương đường, đề cử tổng đà chủ. Nào ngờ hai vị lại gặp khó khăn ở đây, nên mọi người chỉ còn cách giương mắt lên mà đợi.”
Lục Phi Thanh mừng rỡ nói: “An Tây cách đây không xa lắm, nếu các hảo thủ của quí hội đều tập trung ở đó thì Trương Triệu Trọng có giỏi gấp đôi cũng không đáng sợ nữa.”
Dư Ngư Đồng quay sang nói với Văn Thái Lai: “Thiếu đà chủ phái đệ đi Lạc Dương gặp chưởng môn nhân của Hàn gia để phân trần một chuyện hiểu lầm, không phải là việc gấp. Tiểu đệ muốn về An Tây báo tin này trước, Tứ ca xem có được không?” Vị trí của chàng trong hội thấp hơn Văn Thái Lai, khi gặp chuyện khó phân giải thì phải theo qui luật mà thỉnh thị người trên.
Văn Thái Lai suy nghĩ chưa trả lời, Lục Phi Thanh đã nói: “Theo ta thì ba người các vị hãy lập tức khởi hành đi Thiết Đảm trang, yên ổn rồi thì Dư hiền điệt cứ đến Lạc Dương. Còn việc đi An Tây báo tin thì để cho ta.”
Văn Thái Lai không nhiều lời nữa. Chàng hiểu đã là anh hùng đối đãi với nhau, thì những chuyện như thế này không cần phải cám ơn, mà cũng không phải nói một tiếng cám ơn là đủ đền đáp. Chàng lấy trong bọc ra một đóa hoa bằng nhung đỏ, trao cho Lục Phi Thanh rồi nói: “Tiền bối đi đến An Tây hãy cài đóa hoa này lên ngực áo, tệ hội chắc chắn sẽ có người đến nghênh tiếp.”
Lạc Băng dìu Văn Thái Lai xuống đất. Dư Ngư Đồng lại lôi hai thi thể dưới đất lên giường, phủ chăng đắp lại. Lục Phi Thanh mở cửa phòng đi ra ngoài một cách đàng hoàng, rồi lên ngựa phi về hướng tây.
Một lúc sau, Dư Ngư Đồng tay cầm kim địch mở đường, Lạc Băng một tay cầm cây gài cửa làm gậy chống, một tay dìu Văn Thái Lai đi ra khỏi phòng. Chưởng quĩ và bọn tiểu nhị trong khách sạn đã thấy họ ác chiến giết người mấy ngày nay, sợ đến vỡ mật, cứ đứng xa xa không dám tới gần.
Dư Ngư Đồng để ít bạc vụn lên quầy rồi nói: “Đây là tiền phòng và tiền cơm. Trong phòng của ta có hai món đồ rất quí, tạm thời gởi lại. Nếu có ai dám vào phòng, thiếu đi một món là ta phải về tính sổ nợ.”
Chưởng quĩ vâng dạ liên hồi, thở cũng không dám thở mạnh. Tên tiểu nhị dắt ngựa của ba người đến, tay cũng run rẩy không ngớt. Hai chân Văn Thái Lai không đứng vững được, chàng bèn dùng tay trái ấn khẽ lên yên ngựa, mượn sức nhẹ nhàng vọt lên ngồi.
Dư Ngư Đồng khen ngợi: “Công phu của Tứ ca thật là tuyệt diệu.” Lạc Băng mỉm cười, cũng lên ngựa cầm lấy dây cương, ba con ngựa nối đuôi nhau chạy về hướng đông.
Lúc còn ở thị trấn, Dư Ngư Đồng đã hỏi rõ ràng đường đến Thiết Đảm trang. Ba người chạy nhanh về hướng đông nam, chạy một hơi mười lăm mười sáu dặm, rồi hỏi tiếp thì biết không lâu nữa sẽ đến.
Lạc Băng âm thầm mừng rỡ, trong lòng nghĩ: “Đến được Thiết Đảm trang thì chắc chắn phu quân thoát nạn. Chu Trọng Anh ở Thiết Đảm trang oai danh lừng lẫy vùng tây bắc, hai đạo hắc bạch đều không ai không kính nể, việc to bằng trời cũng gánh nổi. Bọn ta chỉ cần nghỉ ngơi dưỡng sức, đợi viện trợ của Hồng Hoa Hội đến nơi. Lúc đó thì bọn ưng trảo có đưa thiên quân vạn mã đến đây cũng có cách đối phó như thường.”
Con đường đá cát này trông thật hoang vu, hai bên cỏ dại mọc kín. Đột nhiên nghe tiếng vó ngựa gấp rút, phía trước có ba con ngựa chạy tới. Người cưỡi ngựa là hai hán tử khỏe mạnh tinh anh, và một lão già thân hình khôi vĩ, tóc trắng như bông, sắc mặt hồng hào, tay trái xoay chuyển hai quả cầu bằng sắt nghe loảng choảng. Lúc đi qua mặt, cả ba người đều nhìn Văn Thái Lai, sắc mặc lộ vẻ kinh ngạc. Sáu con ngựa đều đang chạy rất nhanh nên chỉ trong khoảnh khắc đã xa nhau mười mấy trượng.
Dư Ngư Đồng lên tiếng: “Tứ ca! Tứ tẩu! Không chừng ông ấy chính là Thiết Đảm Chu Trọng Anh.”
Lạc Băng nói: “Ta cũng nghĩ như thế. Thần khí như thế thì chắc chắn là nhân vật không phải tầm thường, hơn nữa trong tay lại cầm hai quả thiết đảm.”
Văn Thái Lai cũng nói: “Nhiều phần chắc là thế, nhưng ông ấy đi nhanh như thế, chắc là đang có việc gấp. Chặn đường người ta để hỏi danh tánh thì không ổn, chúng ta đến Thiết Đảm trang rồi sẽ tính sau.”
Đi vài dặm nữa thì đến trước Thiết Đảm trang. Lúc này trời đã sắp tối, gió nổi mạnh, mây sà xuống thấp hơn. Ánh chiều tà soi sáng một vùng hoang dã mênh mông không bờ bến, nhìn mãi chỉ thấy cát vàng cùng mấy ngọn cỏ lơ thơ, chỉ có một trang viện lẻ loi.
Cảng hoàng hôn vốn đã buồn, tâm trạng phải vào trang nhờ cậy người ta lại càng khó chịu, dường như ba người đều mang nỗi thê lương. Ngựa đi chậm tới, thấy ngoài trang viên có suối nhỏ bao quanh, hai bên bờ trồng toàn dương liễu. Mùa này những cây dương liễu hoàn toàn trơ trụi, không có một chiếc lá nào, những cành liễu nghiêng theo gió đông đang thổi. Ngoài trang có bố trí những trạm gác, có cả cầu treo và lầu canh, khí thế rất lớn.
Trang đinh mời ba người vào trang, ngồi trong đại sảnh dùng trà. Một hán tử trung niên có vẻ quản gia, tự xưng họ Tống, tên là Thiện Bằng, rồi thỉnh giáo danh tánh quí khách. Ba người bọn Văn Thái Lai đều xưng tên thật.
Tống Thiện Bằng nghe nói là nhân vật Hồng Hoa Hội, trong lòng cũng hơi kinh hãi liền nói: “Nghe nói quí hội lập nghiệp ở Giang Nam, trước nay rất ít ra tới vùng biên ải này. Không biết ba vị tìm tệ lão trang chủ có điều gì chỉ giáo, tiếc là trang chủ của bọn tiểu nhân vừa ra ngoài.” Y vừa nói vừa xem xét những người mới đến. Hồng Hoa Hội oai chấn thiên hạ, chính y cũng có phần tôn kính, nhưng y biết Hồng Hoa Hội và lão trang chủ trước nay chưa từng đi lại với nhau. Lần này đối phương đột ngột đến đây vì chuyện tốt xấu ra sao chưa hiểu, nên lúc nói chuyện không khỏi lộ vẻ hoài nghi lạnh nhạt.
Văn Thái Lai nghe nói Chu Trọng Anh không có ở nhà, nên không đưa lá thư của Lục Phi Thanh ra. Chàng thấy Tống Thiện Bằng tuy cung kính lễ phép nhưng có phần nhút nhát, ra vẻ định cự tuyệt người ta, nên trong lòng hơi giận, bèn nói: “Chu lão anh hùng đã không có ở nhà, thế thì chúng ta xin cáo lui vậy. Chúng ta đến bái trang không có việc gì quan trọng, chỉ vì từ lâu đã ngưỡng mộ oai danh Chu lão anh hùng nên gặp dịp bèn đến thăm chiêm ngưỡng, tiếc là phen này không gặp may.” Chàng vừa nói vừa vịn ghế, cố gắng đứng dậy.
Tống Thiện Bằng vội nói: “Xin quí vị đừng vội, dùng bữa cơm rồi hãy đi.” Rồi y quay đầu lại dặn dò một tên trang đinh gì đó, gã này gật đầu vâng dạ rồi rời phòng.
Văn Thái Lai nhất định đòi đi, Tống Thiện Bằng bèn nói: “Vậy thì xin đợi chốc lát, nếu không lão trang chủ trở về sẽ khiển trách tiểu nhân đối đãi với quí khách không đúng lễ.” Đang nói chuyện thi trang đinh bưng một cái khay ra, trên khay có đặt hai đĩnh bạc ba mươi lạng, tổng cộng là sáu chục lạng bạc.
Tống Thiện Bằng đón lấy cái khay đó rồi nói với Văn Thái Lai: “Văn gia! Chút lễ vật này không đủ tỏ lòng thành kính. Ba vị đường xa tới đây, tệ trang không tiếp đãi được đàng hoàng. Xin quí vị nể mặt mà nhận lấy chút tiền tiêu vặt.”
Văn Thái Lai nghe thế đột nhiên nổi giận, nghĩ bụng: “Ta vì nguy cấp phải đến tìm nơi trú ẩn, không ngờ bị ngươi coi là bọn bòn rút mạt hạng giang hồ.” Chàng trước nay rất kiêu ngạo, phen này đến Thiết Đảm trang nhờ cậy đã là ép mình lắm rồi, nào ngờ phải chịu nhục thế này. Lạc Băng thấy chồng đổi sắc mặt, bèn nhẹ nhàng nắm tay tỏ ý khuyên chồng đừng giận dữ.
Văn Thái Lai cố nén giận, đưa tay trái cầm lấy hai đĩnh bạc rồi nói: “Chúng ta đến viếng bảo trang, không có ý xin tiền. Tống bằng hữu coi thường chúng ta quá rồi.”
Tống Thiện Bằng liên tiếp: “Không dám” nhưng trong lòng lại nghĩ: “Nếu ngươi không có ý xin tiền, thì sao lại cầm hai đĩnh bạc này lên?” Y biết danh tiếng Hồng Hoa Hội rất lớn, nên đã tặng lễ vật có phần đặc biệc hơn khách thường.
Văn Thái Lai lạnh nhạt cười khẩy một tiếng, rồi đặt bạc trở lại khay, nói: “Cáo từ.”
Tống Thiện Bằng nhìn thấy lập tức giật mình, hai đĩnh bạc to tướng vừa rồi đã bị ông khách này vận nội lực bóp dẹp như bánh bột. Y vừa xấu hổ vừa lo lắng, nghĩ thầm: “Bản lãnh người này không phải thứ thường, chắc đến đây để trả thù hay quấy rối gì đó.”
Y liền khẽ bảo tên trang đinh đứng phía sau lưng mấy câu, dặn mau vào hậu đường báo cho đại phu nhân biết, còn chính mình thì tiễn ba người khách ra khỏi trang, liên tiếp nói lời tạ lỗi, nhưng Văn Thái Lai cứ mặc kệ. Ba trang đinh dắt ngựa của khách tới, Văn Thái Lai và Dư Ngư Đồng ôm quyền cám ơn Tống Thiện Bằng, nói một câu: “Đã quấy rầy” rồi lập tức lên ngựa.
Lạc Băng lấy trong bọc ra một thỏi vàng nặng khoảng mười lạng, đưa cho tên trang đinh dắt ngựa của mình rồi nói: “Làm phiền các ngươi, tặng chút quà cho ba người uống ly rượu nhạt.” Nàng vừa nói vừa vẫy tay chào hai tên trang đinh kia.
Mười lượng vàng này, so với hai đĩnh bạc Tống Thiện Bằng đưa tặng thì giá trị hơn nhiều. Ba tên dắt ngựa này cực khổ suốt đời cũng chưa chắc đã có nhiều tiền đến thế. Tay chúng cầm thỏi vàng nặng trĩu mà không dám tin là sự thật, mừng rỡ đến quên cả cám ơn. Lạc Băng mỉm cười lên ngựa.
Thì ra Lạc Băng chào đời chưa được bao lâu, mẫu thân đã tạ thế. Phụ thân nàng Thần Đao Lạc Nguyên Thông vốn là độc hành đại hiệp, một người một ngựa chuyên đi cướp bọn nhà giàu độc ác. Ông từng một đêm đánh phá ba gia đình phú hộ ở Kim Lăng, dùng ba món trường đao, đoản đao, phi đao đánh tan hết đám võ sư bảo vệ ba nhà, bắt chúng cúp đuôi mà chạy, từ đó danh chấn giang hồ. Mỗi lần ông hành sự đều có thăm dò kỹ lưỡng, nếu đúng là khổ chủ mang nhiều tiếng xấu, làm điều bất nghĩa mới ra tay. Vì thế mỗi lần ông cướp được nhiều thì trong lòng lại càng vui vẻ, thật là nhân tâm đại khoái.
Lạc Nguyên Thông chiều chuộng đứa con gái một của mình hết mức, hơn nữa tính tình ông cũng hào phóng sẵn rồi. Một mình ông vừa là nghiêm phụ vừa là từ mẫu, lại ít hiểu tính tình của nữ nhị, nên nuôi con khôn lớn không phải là chuyện dễ. May mà ông kiếm tiền hết sức dễ dàng, cứ hết thì lại lấy của người khác, tất cả những gia đình làm giàu bất chính trong thiên hạ đều là kho để ông gửi vàng bạc. Con gái chỉ cần mở miệng hay chìa tay, cần một trăm lạng thì có một trăm, nếu xin một ngàn không chừng sẽ cho hai ngàn, nên dễ hiểu là Lạc Băng từ nhỏ đã có tính khí hào phóng vô cùng. Nói đến tiêu xài, thì ngay cả những thiên kim tiểu thư của hoàng thân quốc thích cũng không thể nào sánh được với cái phóng khoáng của cô gái con nhà đại đạo này.
Lạc Băng từ nhỏ đã rất hay cười, chỉ cần gặp chút chuyện vui là có thể cười khúc khích cả nửa ngày. Bất kể là ai, nhìn thấy một cô bé luôn luôn tươi cười như thế cũng không thể không đem lòng thương mến. Sau khi lấy Văn Thái Lai, tính hay cười của nàng vẫn không thay đổi. Thế nên Văn Thái Lai tuy lớn hơn nàng đến mười mấy tuổi, nhưng ngoài lão đà chủ Vu Vạn Đình và mấy vị nghĩa huynh trong Hồng Hoa Hội ra, thì suốt đời chàng chỉ kính phục có người vợ này thôi.
Văn Thái Lai đang giục ngựa muốn rời khỏi đó, bỗng nghe tiếng nhạc ngựa vang vang. Một con ngựa chạy như bay tới dừng ngay trước mặt, kỵ sĩ lộn mình nhảy xuống ngựa, chắp tay hướng về Văn Thái Lai mà nói: “Quả nhiên là ba vị đến tệ trang! Xin mời vào trong trang uống chén trà.”
Văn Thái Lai đáp: “Chúng ta đã quấy rầy rồi, để hôm khác sẽ quay lại thăm viếng.”
Người kia nói: “Khi nãy gặp ba vị giữa đường, lão trang chủ cũng đoán là ba vị đến tệ trang, lúc đó cũng muốn quay lại, nhưng vì đang có việc cần, nên mới sai tiểu đệ nhanh chóng quay về đón tiếp quí khách. Lão trang chủ rất thích giao kết bằng hữu, vừa thấy ba vị đã biết ngay là anh hùng hào kiệt nên rất vui mừng. Ông ấy dặn bất luận ra sao thì tối nay cũng nhất định về trang, xin ba vị hãy ở lại chờ. Có chỗ nào không được chu tất, khi lão trang chủ trở về sẽ đích thân tạ lỗi.”
Văn Thái Lai thấy người này tầm vóc trung bình, eo thon vai rộng, chính là một người đã gặp dọc đường lúc nãy. Chàng nghe y nói chuyện thành khẩn nên cũng nguôi giận.
Người kia mời ba người Văn Thái Lai vào trong trang rồi tự xưng họ Mạnh tên Kiện Hùng, là đại đệ tử của Thiết Đảm Chu Trọng Anh, lời lẽ mười phần cung kính. Tống Thiện Bằng đứng cạnh, thật là xấu hổ không để đâu cho hết. Phân ngôi chủ khách cùng ngồi, bắt đầu dùng trà thì một trang đinh ra ghé vào tai Mạnh Kiện Hùng nói nhỏ. Mạnh Kiện Hùng đứng dậy nói: “Sư nương của tại hạ mời vị nữ anh hùng này vào nghỉ ở nội đường.”
Lạc Băng đi theo tên trang đinh vào trong, qua hết đại sảnh thi có một đứa tỳ nữ dẫn nàng vào nhà trong. Từ xa đã nghe có tiếng nữ nhân la lên: “Ái chà! Quí khách giáng lâm, thật là đón tiếp chậm trễ mất rồi.” Một nữ nhân hơn bốn mươi tuổi sải bước tiến tới, kéo tay Lạc Băng ra chiều thân mật rồi nói: “Lúc nãy nghe chúng nói có anh hùng Hồng Hoa Hội đến đây, rồi lại nói quí vị chỉ ngồi một lúc rồi đi. Ta đang buồn bã, thì may mà quí vị nể mặt quay lại, lão gia của chúng ta chắc cũng rất vui. Các vị đừng đi nữa, nơi này tuy chật hẹp nhưng cứ ở chơi vài ngày đã…”
Bà quay đầu lại nói với mấy cô tỳ nữ: “Thiếu phu nhân này thật là xinh đẹp, ngay cả tiểu thư nhà chúng ta cũng không sánh kịp.”
Lạc Băng nghĩ bụng: “Vị thái thái này thật là mở miệng không biết lựa lời.” Nàng bèn nói: “Chưa biết phải xưng hô như thế nào, còn đương gia của tiểu muội họ Văn.”
Nữ nhân kia nói: “Ta hồ đồ quá đi mất, vừa thấy một cô muội muội xinh đẹp thế này đã vui mừng quá, quên cả giới thiệu.” Rốt cuộc bà vẫn không nói mình là ai. Một đứa tỳ nữ phải lên tiếng: “Vị này là phu nhân của lão trang chủ.”
Nữ nhân này là vợ kế của Chu Trọng Anh. Người vợ trước của Chu Trọng Anh sinh được hai trai, nhưng đều vì chuyện ân oán giang hồ mà mất mạng hết. Bà kế thất này sinh được một gái tên là Chu Ỷ, năm nay mười tám tuổi, bản tính hiếu sự, thường ra ngoài gây chuyện. Lúc nãy Chu Trọng Anh phải gấp rút ra ngoài cũng vì cô đại tiểu thư này đả thương người khác, phận làm cha phải mau mau đi xin lỗi.
Vợ kế đã sinh được một gái rồi mãi không sinh nữa. Chu Trọng Anh đã nghĩ: “Mình lớn tuổi rồi, xem ra số phận của mình là không người nối dõi.” Nào ngờ năm ông năm mươi tư tuổi lại sinh được một trai. Vợ chồng già mà sinh được con trai vào tuổi xế chiều, đương nhiên mừng rỡ vô cùng. Bạn bè thân hữu đều cung kính ca tụng là làm phước được phước, báo đáp tức thời.
Mời khách ngồi xong, Chu phu nhân bảo: “Mau gọi thiếu gia tới đây cho Văn phu nhân gặp mặt.” Một đứa bé từ buồng trong đi ra, mặt mày thanh tú, tay chân linh hoạt nhẹ nhàng, nhìn đã biết đã học mấy năm võ nghệ. Thằng bé khấu đầu bái kiến Lạc Băng, kêu một tiếng: “Thẩm thẩm.”
Lạc Băng nắm tay cậu, hỏi bao nhiêu tuổi, tên là gì. Đứa bé nói: “Năm nay cháu muời tuổi rồi, tên là Chu Anh Kiệt.”
Lạc Băng cởi xâu chuỗi đeo trên tay trái ra, đưa tặng rồi nói: “Ta từ xa đến đây không kịp mua quà, tặng cháu mấy hạt châu để gắn lên mũ đội chơi.”
Chu phu nhân thấy xâu chuỗi này hạt nào cũng to tròn, thật là quí báu, nghĩ bụng: “Vừa mới gặp lần đầu, sao dám nhận lễ hậu đến thế?” Và vừa kêu la vừa than thở, từ chối mãi mà không được, cuối cùng đành phải bảo con trai khấu đầu cảm tạ.
Đột nhiên một cô tỳ nữ hớt hải chạ vào, kêu lớn: “Văn phu nhân! Văn đại gia ngất xỉu ngoài kia rồi.” Chu phu nhân liền cho người đi gọi đại phu, còn Lạc Băng vội vã chạy ra đại sảnh để chăm sóc trượng phu.
Thì ra Văn Thái Lai đang bị thương rất nặng, vừa rồi lại còn nổi giận vận sức để bóp bẹp hai thỏi bạc. Lúc chàng còn duy trì được kình lực để giữ cho đừng ngã thì không sao, nhưng vừa buông lỏng là không thể chống đỡ được nữa. Lạc Băng thấy sắc mặt chồng mình cắt không ra máu, thần trí hôn mê, nên rất đau lòng lo lắng, liên tiếp gọi đại ca. Qua một hồi lâu Văn Thái Lai mới từ từ tỉnh lại.
* * *
Mạnh Kiện Hùng gấp rút sai trang đinh phóng ngựa lên thị trấn mời đại phu, nhân tiện báo cho lão trang chủ biết là đã giữ khách lại chơi. Y dẫn tên trang đinh ra tới cửa trang, vừa đi vừa dặn dò, rồi nhìn hắn lên ngựa chạy về hướng Triệu gia bảo. Lúc y quay người định đi vào trong, thì bỗng thấy sau một cây liễu ngoài trang có bóng người nhoáng lên một cái. Dường như người đó cũng nhìn thấy y, bèn vội vàng nấp kín…
Mạnh Kiện Hùng không nói tiếng nào, chầm chậm vào trang. Vào khỏi cổng, y chạy lẹ lên vọng lâu, nấp sau tường nhìn ra ngoài, quả nhiên thấy sau cây liễu đó có một cái đầu thò ra đưa mắt láo liên nhìn hết mọi chỗ, rồi lại rụt vào. Một lát nữa thì một hán tử vừa ốm vừa lùn chạy ra, vòng đi vòng lại phía trước trang, cứ vài bước lại nấp sau gốc liễu.
Mạnh Kiện Hùng thấy tên này lén lút, rõ ràng không phải người lương thiện, bèn chau mày đi xuống vọng lâu, gọi Chu Anh Kiệt tới dặn dò gi đó. Thằng bé cả mừng, ra vẻ khoái chí.
Mạnh Kiện Hùng chạy ra ngoài cửa trang, lớn tiếng la lên: “Hảo huynh đệ! Ta sợ ngươi rồi. Được chưa?” Y cứ chạy trước, còn Chu Anh Kiệt đuổi theo la lớn: “Để xem huynh trốn đi đâu. Thua rồi định quịt nợ phải không? Mau quì xuống lạy đệ mấy cái đi.”
Mạnh Kiện Hùng vừa chắp tay vái thằng nhỏ vừa mỉm cười xin tha, nhưng Chu Anh Kiệt quyết không chịu, cứ đưa hai bàn tay nhỏ xíu ra muốn bắt y. Mạnh Kiện Hùng chạy trốn đến chỗ cây liễu mà gã lùn kia đang núp.
Tên lùn hoảng sợ đứng thẳng dậy, giả vờ lạc đường mà hỏi: “Này! Hỏi nhờ một chút, muốn tới Tam Đạo Câu phải đi đường nào vậy?” Mạnh Kiện Hùng giả vờ không nghe, vừa cười đùa vừa chạy thẳng tới, xô vào ngực hắn một cái. Gã lùn té nhào xuống, nằm ngửa mặt nhìn trởi.
Thì ra đây là Đồng Triệu Hòa ở Trấn Viễn tiêu cục. Hắn vẫn mơ tưởng nụ cười tươi như hoa nở của Lạc Băng, tuy đã bị Văn Thái Lai cho một trận đòn mà trong lòng vẫn nghĩ: “Lão gia quyết không đến gần người đẹp, chỉ đứng xa xa nhìn thêm mấy cái, chắc không đến nỗi bị làm thịt đâu.” Vì thế mà hắn cố tìm cơ hội, thỉnh thoảng liếc vào cửa phòng của Lạc Băng để nhìn trộm.
Đến khi thấy nàng cùng Văn Thái Lai, Dư Ngư Đồng ra khỏi khách sạn, hắn biết họ đang chạy trốn liền cưỡi ngựa lén lút theo sau. Hắn không dám tới gần, cứ xa xa theo dõi, thấy họ vào Thiết Đảm trang. Một lúc sau hắn lại thấy ba người đi ra khỏi trang, nhưng không hiểu sao lại vào lần nữa, lần này thì mãi không thấy ra ngoài. Hắn muốn tìm hiểu sự thật để về báo cáo lập công, để người ta khỏi nói mình chỉ biết ăn cơm đánh rắm chứ không được tích sự gì. Đang lúc hắn thò đầu ra thám thính, không ngờ bị Mạnh Kiện Hùng chạy tới hất té nhào.
Đồng Triệu Hòa chẳng có bản lãnh gì, chỉ được cái cảnh giác. Hắn biết hành tung của mình đã lộ, người ta xô vào là muốn thử công phu của mình đây, bèn buông lỏng toàn thân, giả vờ biết võ công mà té nhào một cái, rồi vừa la vừa lồm cồm không dậy nổi. May mà võ công của hắt hết sức tầm thường, nên giả vờ không biết võ công khá dễ dàng.
Mạnh Kiện Hùng liền miệng xin lỗi, vừa mỉm cười vừa nói: “Ta mãi đùa giỡn với tiểu huynh đệ nên vô ý đụng vào tôn giá. Tôn giá ngã có đau lắm không?”
Đồng Triệu Hòa la lên: “Vai ta đay ghê gớm… Úi chao!”
Mạnh Kiện Hùng đưa tay đỡ hắn đứng dậy rồi nói: “Mời tôn giá vào trong này để ta xem thử. Ở chổ chúng ta có thuốc trị thương rất tốt.” Đồng Triệu Hòa không có cách nào từ chối bèn gắn gượng lê bước vào trang.
Mạnh Kiện Hùng dẫn hắn vào một căn phòng ở hướng đông rồi hỏi: “Tôn giá muốn đến Tam Đạo Câu phải không? Thế thì đi ngang đây để làm gì vậy?”
Đồng Triệu Hòa đáp: “Lúc nãy có một thằng chăn dê lừa gạt ta, chỉ ta đi theo con đường này. Con mẹ nó, lát nữa ta phải quay lại tính sổ với thằng khốn kiếp đó.”
Mạnh Kiện Hùng lạnh nhạt nói: “Chưa biết ai sẽ tính sổ với ai. Bây giờ phiền tôn giá cởi áo ra để ta xem thử thương thế nặng nhẹ ra sao.” Đồng Triệu Hòa không thể không vâng lời.
Nói là xem vết thương, nhưng thật ra là khám xét hắn từ trong ra ngoài, may mà hắn giấu trủy thủ trong giày nên không bị phát hiện. Mạnh Kiện Hùng còn cố ý sờ vào mấy chỗ yếu hại trên người hắn. Người biết võ công, khi biết kẻ địch chạm đến nhược điểm của mình thì nhất định phải tránh né hoặc phong tỏi, không thì coi như giao mạng cho người. Nhưnh Đồng Triệu Hòa lại nghĩ: “Đại gia đã là anh hùng thì không sợ chết, đã giả thì giả tới cùng.”
Mạnh Kiện Hùng ấn vào hai bên huyệt Thái Dương trên đầu hắn, rồi vỗ vào hai huyệt Đản Trung trước ngực. Đồng Triệu Hòa vẫn thản nhiên nói: “Ở đó không đau.” Lúc Mạnh Kiện Hùng thọc vào nách, Đồng Triệu Hòa mỉm cười nói: “Úi chà, đừng thọc léc nữa, ta sợ nhột lắm.” Những bộ vị đó đều là nhược điểm chí mạng, thế mà hắn hoàn toàn mặc kệ.”
Mạnh Kiện Hùng phải tin là thằng lùn này không hiểu võ công, nhưng ban nãy thấy hắn hành động mờ ám, nên vẫn đem lòng hoài nghi: “Nghe giọng của hắn không phải là dân bản xứ. Không chừng hắn là một tên cướp gà trộm chó phiêu dạt đến đây, chưa biết danh Thiết Đảm trang nên cả gan đụng đến.” Nhưng Thiết Đảm trang xưa nay rất biết kiêng nể vương pháp, không dám tự ý nhốt người, nên rốt cuộc cũng thả hắn về.
Đồng Triệu Hòa vừa đi vừa đảo mắt nhìn bên này bên nọ, muốn biết xem bọn Lạc Băng hiện ở chỗ nào. Còn Mạnh Kiện Hùng thì nghi ngờ hắn đi thám thính cho bọn cướp nào dó, bèn hỏi: “Ông bạn có biết đây là chỗ nào hay không?”
Đồng Triệu Hòa giả ngu đáp: “Nhà này rộng lớn hơn cả chùa miếu, nhưng lại không có tượng bồ tát.”
Mạnh Kiện Hùng đưa hắn đi qua khỏi cầu treo, rồi lạnh nhạt bảo: “Ông bạn về đi, sau này có rảnh cứ việc đến đây chơi.”
Đồng Triệu Hòa nhịn không nổi nữa, đáp lại: “Chắc là không rảnh. Bây giờ ta phải đến chỗ thằng cháu mới được. Thằng cháu của ta đang học làm đại phu, suốt ngày bắt người về cởi áo quần để tập khám nghiệm vết thương.” Mạnh Kiện Hùng nghe hắn nói chẳng đâu vào đâu, ngẩn ra suy nghĩ một lát mới biết hắn đang kiếm chuyện vòng vo chửi mình.
Mạnh Kiện Hùng bèn đưa tay vỗ mạnh lên vai hắn một cái, cười khẩy rồi quay lưng đi vào trong trang. Đồng Triệu Hòa bị vỗ đau đến thấu xương, đứng đó mắng thầm con cháu loài rùa một hồi, rồi đi tìm con ngựa của mình, chạy về An Thông khách sạn ở Tam Đạo Câu.
Hắn vừa chạy vào khách sạn đã thấy ngay Trương Triệu Trọng, Hồ Quốc Đống và bọn người trong tiêu cục đang xúm nhau thương nghị gì đó, lại còn bảy tám người lạ mặt. Cả đám đang xôn xao bàn luận, đoán xem bọn Văn Thái Lai chạy trốn phương nào, ông lão đánh chết Hàn Xuân Lâm và Phùng Huy là ai. Không ai biết rõ, nên chúng đều chau mày rầu rĩ, vì đã để bọn trọng phạm chạy thoát.
Đồng Triệu Hòa dương dương đắc ý đi vào, kể lại tông tích của Văn Thái Lai, còn chuyện mình bị người ta khám xét thì dĩ nhiên im đi không nói. Trương Triệu Trọng nghe xong vô cùng mừng rỡ, cười nói: “Chúng ta đi ngay. Nhờ Đồng lão đệ dẫn đường.” Trước nay y chỉ gọi là Lão Đồng, lần này mừng quá mà kêu là lão đệ.
Đồng Triệu Hòa vâng dạ liên hồi, cảm thấy mình sang trọng hẳn lên. Hắn không thèm để mắt đến anh em tiêu sư trong tiêu cục mình nữa, cứ thao thao kể lại mình đã thi triển võ công thế nào, mạo hiểm truy lùng ra sao, cuối cùng kết luận: “Đã là nhiệm vụ của hoàng thượng trao cho, lại là việc của của Trương đại nhân, thì họ Đồng này có mất mạng cũng quyết tìm cho ra tông tích của bọn phản tặc kia.”
Bên vai phải của Hồ Quốc Đống đã bị gãy, phải mời đại phu chuyên trật đả sắp lại chỗ khớp xương. Hắn thấy Đồng Triệu Hòa cứ kể lể mãi công lao của mình, bèn giới thiệu mấy người mới đến cho biết. Đồng Triệu Hòa vừa nghe đã kinh hãi, hóa ra đều là cao thủ số một của quan phủ cả. Nào là Thoại Đại Lâm nhị đẳng thị vệ của đại nội, nào là Vạn Khánh Lan tổng giáo đầu võ thuật của Trịnh thân vương phủ, nào là tổng binh Thành Hoàng ở Cửu môn đề đốc phủ, nào là Ngôn Bá Càn chưởng môn phái Ngôn Gia Quyền ở Thần Châu Hồ Nam, lại còn mấy vị bộ đầu của Thiên Tân và Bảo Định.
Chỉ vì việc bắt Văn Thái Lai mà đã có rất nhiều danh gia võ thuật từ nam đến bắc tập trung tới thị trấn Tam Đạo Câu nhỏ xíu này. Cả đám cùng hăm hở xắn áo xoa quyền, tiến thẳng tới Thiết Đảm trang.
* * *
Trong lúc này Lục Phi Thanh đang phi ngựa như gió thẳng về hướng tây. Lúc đi qua hẻm núi Ô Kim Hiệp, ông thấy khu đất hôm qua ác chiến đã được nước mưa rửa trôi sạch sẽ, không còn vết máu nào. Chạy thêm bốn năm chục dặm nữa thì đến một thị trấn nhỏ, bôn ba như thế nhưng tinh thần ông vẫn sung túc. Trời chưa tối lắm, đáng lẽ có thể tiếp tục lên đường, nhưng ngựa đã quá mệt, miệng sủi bọt trắng, thở hổn hển không ngừng. Thế mà việc của Văn Thái Lai gấp như chữa cháy, cứu viện tới sớm chút nào là hy vọng chút ấy.
Lục Phi Thanh đang lúc chưa biết làm sao, bỗng thấy cuối chợ có một người Hồi dắt hai con ngựa, nhìn ngang nhìn dọc như đang đợi ai đó. Ông thấy hai con ngựa này to cao đẹp đẽ, lông mượt sáng, trong lòng liền nảy ra ý nghĩ hỏi mua.
Người Hồi lắc đầu không bán, Lục Phi Thanh lấy trong túi vải ra một thỏi bạc rất lớn, khoảng chừng hai chục lượng, nhưng người Hồi vẫn lắc đầu. Lục Phi Thanh sốt ruột quá, bèn dốc hết túi ra. Trong túi còn sáu bảy thỏi bạc nhỏ, ông dồn chung với thỏi lớn đưa hết cho người kia, nhưng người Hồi đó vẫn xua tay bảo ông đi đi, ngựa này nhất định không bán, đừng nói nhiều phí sức.
Lục Phi Thanh rầu rĩ cất mấy thỏi bạc vào trong túi. Người Hồi kia đột nhiên nhìn thấy giữa mấy thỏi bạc còn có một viên thiết liên tử, bèn đưa tay cầm lấy nhìn tỉ mỉ, thấy trên ám khí có khắc hình một cái lông vũ. Thì ra đêm Lục Phi Thanh thám thính ngoài lều của bộ tộc người Hồi, Hoắc Thanh Đồng đã dùng viên thiết liên tử này bắn ông, ông dùng bình trà hứng được, rồi tiện tay nhét vào túi. Chuyện này chính ông cũng đã suýt quên.
Người Hồi kia hỏi: “Ở đâu ông có hạt thiết liên tử này?”
Lục Phi Thanh suy nghĩ một lúc rồi đáp: “Ra có một người bạn là nữ nhân Hồi tộc, trên đầu cắm một cái lông vũ màu xanh, sử dụng trường kiếm. Vật này là của cô ấy tặng ta.”
Người Hồi gật đầu một cái, xem xét tỉ mỉ rồi trả cho Lục Phi Thanh, lại giao con tuấn mã cho ông. Lục Phi Thanh cả mừng, vội lấy bạc ra trả, nhưng người Hồi lắc đầu rồi dắt con ngựa của Lục Phi Thanh quay đầu đi ngay.
Lục Phi Thanh nghĩ bụng: “Không ngờ một tiêu cô nương xinh đẹp như hoa mà đối với những người Hồi tộc lại oai phong như thế. Viên thiết liên tử này chẳng khác gì lệnh tiễn.”
Thì ra người Hồi này cũng thuộc bộ tộc của Hoắc Thanh Đồng. Lần này họ đi về hướng đông để doạt kinh, đã thiết lập nhiều trạm ở các thị trấn dọc đường để điều động nhân mã và truyền tin tức. Hắn nhìn thấy một ông lão cầm hạt thiết liên tử đi về hướng tây, nghĩ rằng ông đã giúp phe mình, nên không chút do dự mà giao cho một con ngựa tốt, đổi lấy con ngựa đang mệt mỏi của ông.
Lục Phi Thanh ruổi ngựa chạy nhanh, đến thị trấn phía trước lại gặp một người Hồi. Ông lại đưa hạt thiết liên tử ra, lập tức đổi được một con ngựa khỏe. Lần này trao đổi được một con ngựa khỏe. Lần này trao đổi được dễ dàng hơn, vì trên mông con ngựa đã có ám ký của bộ tộc. Ông dùng ngựa của bổn tộc để đổi, nên không ai hoài nghi gì hết.
Lục Phi Thanh cứ đổi ngựa dọc đường, còn chính mình thì ăn lương khô trên mình ngựa, mới một gày một đêm đã đi được hơn sáu trăm dặm, chiều tối hôm sau đã đến An Tây. Võ công của ông thâm hậu, mà phái Võ Đang lại rất chú trọng về tu dưỡng nội lực, nhưng dù sao ông cũng cao tuổi rồi, phi ngựa một ngày một đêm không nghỉ ngơi dĩ nhiên phải mệt mỏi.
Vào trong thành, ông lấy đóa hoa hồng của Văn Thái Lai ra, cài lên ngực áo. Mới đi mấy bước là trước mặt đã có hai hán tử mặc áo chẽn đến chắp tay thi lễ, mời ông vào tửu lâu dùng cơm. Lục Phi Thanh không từ chối. Đến tửu lâu, một hán tử ngồi lại tiếp ông uống rượu, còn hán tử kia nói một câu xin lỗi rồi chạy vội đi. Hán tử ở lại với ông hết sức cung kính lễ phép, không hỏi câu nào, chỉ mở miệng để gọi thức ăn và mời rượu mà thôi.
Uống được ba chén, bên ngoài có một người vội vã tiến vào, đến trước mặt Lục Phi Thanh thi lễ. Lục Phi Thanh cũng đứng dậy đáp lễ, thấy y mặc trường bào màu xanh, tuổi độ tam tuần, mắt rất sáng, oai khí ép người. Người đó thỉnh giáo danh tánh, Lục Phi Thanh đáp ngay.
Y nói: “Thì ra là Lạc lão ca tiền bối ở phái Võ Đang. Thường nghe Triệu tam ca Triệu Bán Sơn nhắc đến đại danh của tiền bối, tại hạ ngưỡng mộ đã lâu, hôm nay được gặp thật là may mắn.”
Lục Phi Thanh nói: “Xin thỉnh giáo tôn tánh đại danh.”
Y đáp: “Vãn bối là Vệ Xuân Hoa.”
Hán tử vừa bồi rượu lão trượng lên tiếng: “Mời lão anh hùng ngồi xuống.” Rồi hắn thi lễ với hai người, xong rời khỏi đó.
Vệ Xuân Hoa nói: “Thiếu đà chủ của tệ hội cùng rất nhiều huynh đệ đang ở đây, nếu biết lão tiền bối đại giá quang lâm chắc chắn phải cử nhiều người ra ngoài thị trấn để đón tiếp. Bây giờ đã lỡ rồi, không biết lão tiền bối có thể đi đến chỗ bọn tại hạ để mọi người được bái kiến hay không?”
Lục Phi Thanh đáp: “Thế thì tốt quá. Ta đến đây cũng vì việc của quí hội.” Vệ Xuân Hoa muốn mời rượu tiếp, nhưng Lục Phi Thanh đã nói: “Việc rất khẩn cấp, sau khi gặp các vị anh hùng của quí hội sẽ uống tiếp cũng không muộn.”
Vệ Xuân Hoa lập tức dẫn đường ra khỏi tửu lâu, không cần gọi chưởng quĩ tính tiền rượu. Lục Phi Thanh nghĩ bụng: “Không chừng tửu lâu này là nơi liên lạc của Hồng Hoa Hội.”
Hai người phi ngựa ra khỏi thành, Vệ Xuân Hoa mới hỏi: “Lão tiền bối đã gặp Văn tứ ca và Văn tứ tẩu của tại hạ phải không?”
Lục Phi Thanh đáp: “Đúng vậy. Sao các hạ biết?”
Vệ Xuân Hoa nói: “Đóa hoa hồng trên ngực lão tiền bối là của Văn tứ ca, có bốn cái lá xanh.”
Lục Phi Thanh nghĩ: “Đây là ám hiệu trong hội mà y thẳng thắn nói ra, không coi ta như người ngoài. Chắc chắn y nghĩ ta cũng là người trong hội.”
Chỉ chốc lát hai người đã đến một đạo quán. Trước sau quán đều có những cây to mọc thẳng đâm lên trời, khí thế hùng vĩ. Phía trước quán có một tấm hoành phi viết bốn chữ lớn: Ngọc Hư Đạo Viện. Hai đạo nhân đứng trước cửa, nhìn thấy Vệ Xuân Hoa bèn tỏ vẻ cung kính. Vệ Xuân Hoa dẫn khách vào trong quán. Một tên đạo đồng bưng trà lên mời, Vệ Xuân Hoa ghé tai nói nhỏ mấy câu, đạo đồng bèn vâng dạ vào trong.
Lục Phi Thanh vừa nâng chén trà lên, đã nghe trong nội đường có tiếng la lớn: “Lục đại ca! Tiểu đệ nhớ đại ca đến chết người…” Lời chưa dứt, người đã chạy tới nơi, chính là Triệu Bán Sơn, bằng hữu tâm giao, năm xưa đã kết nghĩa thề cùng sinh tử với Lục Phi Thanh.
Bạn cũ gặp nhau, vui mừng thật không sao tả xiết. Triệu Bán Sơn hỏi liền miệng: “Mấy năm nay huynh ở đâu. Làm sao huynh tới đây được?”
Lục Phi Thanh chưa trả lời vội, chỉ nói: “Triệu hiền đệ! Chúng ta có việc khẩn cấp, phải bàn trước đã. Văn tứ gia của quí hội đang gặp nạn.” Ông bèn kể lại tình hình của Văn Thái Lai và Lạc Băng, chỉ nghe sơ sơ là hai người họ Triệu và họ Vệ thay đổi hẳn sắc mặt. Vệ Xuân Hoa chưa nghe hết đã chạy vội vào trong để báo tin, còn Triệu Bán Sơn hỏi tỉ mỉ về thương tích của họ Văn và họ Lạc.
Lục Phi Thanh chưa nói xong, đã nghe Vệ Xuân Hoa cãi nhau lớn tiếng ở sân sau. Người kia la lên: “Huynh cản ta làm chi! Ta không thể không lập tức đi cứu Tứ ca.”
Vệ Xuân Hoa nói: “Đừng vội vã mà hư sự. Chúng ta phải bàn bạc trước, quyết định phải làm thế nào, rồi thiếu đà chủ mới hạ lệnh bảo ai đi đón Tứ ca chứ?” Người kia vẫn la lớn, nhất định không chịu.
Triệu Bán Sơn kéo tay Lục Phi Thanh vào trong. Lục Phi Thanh thấy một người gù đang quát tháo om sòm, nhớ ra đây là người đã dùng tay cắt đứt đuôi con ngựa của Lý Nguyên Chỉ hôm trước.
Vệ Xuân Hoa đẩy người gù một cái rồi bảo: “Tới tham kiến Lục lão tiền bối đi.” Người gù đi tới, giương to mắt nhìn một lúc, không nói năng gì.
Lục Phi Thanh tưởng là y nhớ mặt mình nên không vui vì chuyện hôm ấy bị Lý Nguyên Chỉ chọc tức. Ông đang định xin lỗi, người gù đột nhiên lên tiếng: “Ông một ngày một đêm chạy sáu trăm dặm đường, để đến đây báo tin Tứ ca Tứ tẩu. Chương đà tử mỗ cảm ơn ông lắm.” Y chưa nói xong đã đột nhiên quì xuống dập đầu binh binh xuống thềm đá.
Lục Phi Thanh muốn cản mà không kịp, chỉ còn cách quì xuống trả lễ. Người gù kia dập đầu xong lập tức đứng dậy nói: “Triệu tam ca! Vệ cửu ca! Ta đi trước đây.” Triệu Bán Sơn gọi bảo y đợi chút xíu, nhưng người gù không hề quay đầu lại, đi thẳng ra ngoài.
Y đi tới khung cửa hình mặt trăng thì bên ngoài có người đi vào, kéo tay lại hỏi: “Đi đâu thế?”
Người gù đáp: “Tới chỗ Tứ ca Tứ tẩu. Theo đệ đi!” Y không để người kia nói năng gì cả, xoay tay nắm lại đẩy người kia, cứ thế lôi đi.
Triệu Bán Sơn kêu lớn: “Thất đệ! Đi với hắn đi.” Người kia xa xa vâng dạ trả lời.
Người gù này họ Chương tên Tấn, tính tình thẳng thắng nhất đời. Y mới sinh ra đã bị gù lưng, nhưng có thần lực hơn người, lại luyện thành công phu ngoại gia. Y bị khuyết tật nên ghét nhất là bị người ta gọi là gù, nhưng chuyên lại tự xưng là Chương đà tử. Y tự nói mình gù thì sao, nhưng người khác mà trước mặt nhắc đến một chữ Đà, thậm chí nhìn cái lưng gù của y mà cười một cái, coi như gặp họa. Người thường mà nhìn, thì y còn có thể cho qua, nhưng nếu là người biết võ nghệ thì chắc chắn sẽ bị y đánh cho một trận nên thân.
Trong Hồng Hoa Hội thì Chương Tấn nghe lời của Lạc Băng nhất. Cũng vì tính tình y cổ quái nên ai cũng kiêng kỵ phần nào, chỉ có Lạc Băng cảm thông vì y tàn phế nên hay lo lắng cho y những chuyện cơm nước áo quần, coi y như một người em nhỏ vậy. Y vừa nghe thấy vợ chồng Văn Thái Lai gặp nạn là máu nóng sôi lên hừng hực, muốn chạy đi cứu viện ngay.
Chương Tấn trong Hồng Hoa Hội xếp hàng thứ mười. Người bị y lôi đi xếp hàng thứ bảy, tên Từ Thiên Hoằng. Họ Từ thân thể thấp bé nhưng túc trí đa mưu coi như quân sư trong Hồng Hoa Hội, mà võ công cũng không tệ. Giang hồ tặng cho y ngoại hiệu Võ Gia Cát.
Nhiều người trong Hồng Hoa Hội chạy ra bái kiến. Triệu Bán Sơn mở lời giới thiệu, đều là những bậc anh hùng hảo hán đã thành danh trong võ lâm cả, mà đại đa số Lục Phi Thanh đã gặp dọc đường rồi. Mọi người đều đang lo lắng, nên chẳng ai nói mấy câu khách sáo thông thường. Sau khi Lục Phi Thanh kể một hồi nữa về tình hình của Văn Thái Lai, vị Nhị đương gia cụt một cánh tay là Vô Trần đạo trưởng bèn bảo: “Chúng ta cùng đi gặp thiếu đà chủ!”
Mọi người ra sau hậu viện, vào một gian nhà rộng thì thấy trên vách có khắc một bàn cờ vây rất lớn. Phía ngoài ba trượng có hai người ngồi trên phản, tay cần những quân cờ bắn vào bàn cờ dựng đứng kia, quân cờ cũng được bắn rất chính xác vào người điểm trên bàn cờ. Lục Phi Thanh kiến thức rộng, nhưng trước giờ chưa thấy ai chơi cờ như thế.
Đứng cạnh bàn cờ có một tiểu đạo đồng, thấy con cờ nào bị bắt chết thì đưa tay gỡ khỏi bàn cờ. Người cầm cờ trắng là một thiếu niên công tử mặc trường bào màu trắng, mặt đẹp như ngọc, trông như con cái nhà quí tộc. Người cầm cờ đen là một ông lão trông như nông dân.(4)
Mỗi lần ông lão bắn quân cờ ra là kình phong rít lên veo véo, quân cờ cắm sâu vào vách. Trong lòng của Lục Phi Thanh âm thầm kinh hãi. Ông không biết đây là vị anh hùng nào, nhưng thủ kình phát xạ ám khí rất mạnh và chuẩn xác, cả đời ông chưa gặp người thứ hai như thế.
Bên cờ đen đã gặp nguy hiểm sắp thua, chỉ cần bên trắng hạ một quân nữa là phân thắng bại. Nhưng công tử kia lại bắn một quân cờ không chính xác, không trúng vào chỗ giao điểm của đường ngang đường dọc mà gắn vào một chỗ trống. Ông lão cười ha hả nói: “Thế là thế nào? Chịu thua rồi phải không?” Rồi lão đẩy hộp quân cờ ra, đứng dậy.
Công tử mỉm cười nói: “Lát nữa sẽ tái đấu với sư phụ.” Ông lão kia không chào hỏi mọi người, cứ sải bước đi ra khỏi cửa.
Triệu Bán Sơn nói với công tử đó: “Thiếu đà chủ! Vị này là danh túc tiền bối phái Võ Đang, Lục đại ca Lục Phi Thanh.” Y lại nói với Lục Phi Thanh: “Đây là thiếu đà chủ của bọn ta, hai vị làm quen đi.”
Thiếu đà chủ chắp tay thi lễ rồi nói: “Tiểu điệt họ Trần tên Gia Lạc, xin lão bá thường xuyên chỉ giáo. Tiểu điệt cũng nhiều lần nghe Triệu tam ca nhắc đến đại danh của lão bá, nghĩ đến anh phong hào kiệt mà hận mình chưa có duyên bái kiến. Vừa rồi chơi cờ với sư phụ lại không biết lão bá đến đây để đích thân nghênh tiếp, thật là thất lễ, nghĩ lại áy náy vô cùng.” Lục Phi Thanh liên tiếp nói câu không dám, trong lòng cảm thấy kỳ lạ. Thì ra vị thiếu đà chủ này lại ra vẻ con cái thế gia vọng tộc, ăn nói rất đàng hoàng văn nhã, không có chút gì là lỗ mãng.
Triệu Bán Sơn kể Trần Gia Lạc nghe chuyện Văn Thái Lai tị nạn ở Thiết Đảm trang, rồi thỉnh thị đối sách. Trần Gia Lạc nói với Vô Trần đạo trưởng: “Xin đạo trưởng cứ dặn dò.”
Một đại hán đứng sau lưng Vô Trần đạo trưởng bỗng giận dữ lên tiếng: “Tứ ca đang bị trọng thương. Người chưa từng quen biết cũng chạy suốt ngày đêm đến đây báo tin, còn bản thân chúng ta thì mãi đẩy qua đẩy lại. Chẳng lẽ đợi đến khi Tứ ca mất mạng rồi mới thôi nhường nhịn hay sao? Di mạng cũa lão đương gia, chẳng ai dám không tôn trọng. Thiếu đà chủ không chịu vâng theo di chúc của nghĩa phụ chính là bất hiếu, cũng chính là coi thường huynh đệ chúng ta. Thiếu đà chủ không chịu làm thủ lĩnh, thì bảy tám vạn anh em Hồng Hoa Hội phải giải tán hết hay sao?” Lục Phi Thanh thấy người này cao mập, sắc mặt đen sì, thần thái rất oai dũng. Vừa rồi Triệu Bán Sơn đã giới thiệu đó là người đứng hàng thứ tám trong hội, tên là Dương Thành Hiệp.
Quần hùng cũng nhao nhao lên tiếng: “Chúng ta không thể mãi làm con rắn không đầu. Thiếu đà chủ còn muốn nhường ngôi cho người khác, là anh em còn lo lắng. Hiện nay Tứ ca lại trong cơn hoạn nạn, mọi người đều muốn phụng lệnh của thiếu đà chủ để mau mau đi cứu viện.”
Vô Trần đạo trưởng dõng dạc tuyên bố: “Hồng Hoa Hội trên dưới có bảy mươi ngàn người. Người nào không chịu nghe hiệu lệnh của thiếu đà chủ, thì đến so kiếm với Vô Trần mỗ trước đã.” Trần Gia Lạc thấy mọi người đều đồng lòng như thế, khó tìm lời từ chối nên cứ chau mày im lặng.
Thường Hách Chí trong Tây Xuyên Song Hiệp lạnh nhạt bảo em: “Đệ đệ! Thiếu đà chủ coi thường chúng ta rồi. Hai anh em ta đi đón Tứ ca rồi cùng về Tây Xuyên quách.”
Thường Bá Chí gật đầu: “Ca ca nói đúng lắm. Chúng ta cứ thế mà làm.”
Trần Gia Lạc biết nếu mình cứ mãi cãi thì mất cả nghĩa khí anh em, liền chắp tay vái lạy rồi nói: “Không phải ta không biết điều, chỉ vì tự biết mình còn trẻ tuổi, cả tài lẫn đức đều không đủ đảm đương đại nhiệm. Nhưng các vị yêu mến mà đi từ Giang Nam xa xôi đến tận vùng biên cương này để trao di mạng của nghĩa phụ, khiến ta hết sức khó xử. Ta vẫn muốn đợi Văn tứ ca đến đây để mọi người cùng nhau bàn bạc, nhưng bây giờ Văn tứ ca gặp nạn không thể đợi lâu được nữa. Các vị cứ ép ta đồng ý việc này, thôi thì cung kính bất như phụng mạng, ta xin nghe các vị huynh trưởng dặn dò.” Quần hùng Hồng Hoa Hội nghe thiếu đà chủ đã đồng ý nhận chức tổng đà chủ, đều vui mừng hoan hô, quả là trút được gánh nặng trong lòng. Vô Trần đạo trưởng nói: “Vậy thì bây giờ mời tổng đà chủ hành lễ bái tổ sư, đón Hồng Hoa.”
Lục Phi Thanh biết bang hội nào cũng có nghi lễ riêng biệt. Tôn thủ lĩnh, mở hương đường đều là việc lớn, mình là người ngoài không tiện tham dự, nên nói mấy câu chúc mừng Trần Gia Lạc rồi xin cáo lui. Vả lại, ông bôn ba đường dài như thế, cũng đã mệt mỏi thật sự. Triệu Bán Sơn dẫn ông về phòng tắm rửa nghỉ ngơi.
Khi Lục Phi Thanh tỉnh dậy thì đêm đã khuya rồi. Triệu Bán Sơn nói: “Tổng đà chủ dẫn hết mọi huynh đệ đi Thiết Đảm trang rồi. Đại ca biết một ngày một đêm huynh chưa được ngủ, nên để tiểu đệ ở lại đây, anh em ta ngày mai mới lên đường.”
Bạn cũ mười mấy năm không gặp, đã nói chuyện thì khó dứt ra. Những chuyện ân oán giang hồ mấy năm nay, bằng hữu võ lâm sinh tử ra sao, kể đến khi trời đông hé sáng cũng mới chỉ qua loa đại khái. Lục Phi Thanh ẩn cư tránh họa, đối với những phong ba loạn lạc trong giang hồ không biết chút gì, bây giờ nghe Triệu Bán Sơn nói cứ như lạc vào cõi khác. Nghe đến chỗ những bi phẫn thì lòng đau như xé, nghe đến những chỗ tráng liệt thì hào khí lại nổi lên bừng bừng. Ông bèn hỏi: “Tổng đà chủ của các vị tuổi còn quá trẻ, bộ dạng lại giống như công tử nhà giàu, tại sao được mọi người khâm phục?”
Triệu Bán Sơn đáp: “Chuyện này dài lắm. Đại ca cứ nghỉ ngơi một lúc, lát nữa chúng ta vừa đi đường vừa nói chuyện”.
Nhắc lại tiêu đầu Đồng Triệu Hòa của Trấn Viễn tiêu cục đang hớn hở dẫn đầu một đám hảo thủ của quan phủ và Trương Triệu Trọng, lại thêm bảy tám tên bộ khoái, đi vội đến Thiết Đảm Trang. Lần này hắn có người đỡ sau lưng nên gan mật càng to, cảm thấy mình oai phong lẫm liệt. Đến trước cửa trang hắn hò hét bọn trang đinh: “Mau mau kêu chủ các ngươi ra đây để nghênh tiếp khâm sai.”
Trang đinh thấy bọn này hung hãn, không biết lai lịch thế nào, bèn quay lưng định chạy vào bẩm báo. Trương Triệu Trọng thì nghĩ, danh tiếng của Chu Trọng Anh rất lớn, không thể coi thường nhân vật đầu não này của võ lâm tây bắc được, bèn vội gọi: “Hãy khoan! Phiền ông bạn vào nói chúng ta từ kinh thành đến, có chút việc công, cần thỉnh giáo Chu lão anh hùng.” Nói xong, y nháy mắt với Hồ Quốc Đống. Hồ Quốc Đống hiểu ý gật đầu, dẫn ngay mấy tên bộ khoái đi vòng ra sau trang viện, để đề phòng khâm phạm theo cửa sau chạy trốn.
Mạnh Kiện Hùng nghe trang đinh vào bẩm báo, tin chắc bọn này đến đây để kiếm Văn Thái Lai, bèn bảo Tống Thiện Bằng ra ngoài tiếp chuyện, còn mình lập tức vào phòng của Văn Thái Lai gọi: “Văn gia! Ngoài kia có bọn ưng trảo của triều đình, không biết đến đây làm gì. Đành phải làm phiền ba vị, tạm thời tránh né một chút”. Y đỡ Văn Thái Lai dậy, đi vào một cái đình ở vườn hoa phía sau trang. Mấy tên gia đinh hợp lực khiêng một cái bàn đá lên, để lộ ra một tấm sắt lớn có gắn vòng. Chúng lại ra sức kéo vòng sắt để nâng tấm sắt lên, thì ra bên dưới có những bậc thang dẫn xuống hầm ngầm dưới đất.
Văn Thái Lai giận dữ nói: “Văn mỗ không phải là kẻ tham sống sợ chết, chẳng lẽ chui rúc vào một chỗ thế này để giữ mạng mình? Làm như thế chỉ tổ cho anh hùng thiên hạ chê cười.”
Mạnh Kiện Hùng khuyên: “Văn gia đừng nói thế. Đại trượng phu phải biết lúc cứng lúc mềm, Văn gia đang bị trọng thương thì tạm thời lánh đi một chút, chẳng ai dám coi thường.”
Văn Thái Lai nói: “Hảo ý của Mạnh huynh, Văn mỗ hiểu rồi. Thôi thì bọn ta cáo từ để tránh liên lụy đến Thiết Đảm Trang.”
Mạnh Kiện Hùng đang không ngớt tìm lời khuyên bảo, bỗng nghe ở cửa sau có người lớn tiếng kêu mở cửa, mà ở phía trước cũng đang ồn ào. Thì ra bọn nha môn quyết vào trang, Tống Thiện Bằng cố gắng cản trở mà không được. Bọn Trương Triệu Trọng cũng có kiêng nể oai danh của Chu Trọng Anh nên né chữ “tra xét”, chỉ nói: “Quý trang kiến trúc đẹp đẽ thế này, vùng biên cương thật là hiếm thấy. Xin Tống bằng hữu hướng dẫn tham quan, cho chúng ta được thêm phần kiến thức.”
Văn Thái Lai thấy Thiết Đảm Trang đã bị bao vây, trước sau đều có địch, bèn nổi giận bảo Lạc Băng và Dư Ngư Đồng: “Chúng ta cùng xông ra!”
Lạc Băng vâng dạ, đưa tay dìu cánh tay phải của chồng. Văn Thái Lai dùng tay trái rút soạt đơn đao, đang định chạy ra ngoài thì cảm thấy thân thể Lạc Băng run rẩy. Chàng nhìn thê tử thì thấy mắt nàng đầy lệ, sắc mặt đau khổ, nên lòng dạ bỗng mềm nhũn đi, khẽ thở dài rồi dịu dàng nói: “Thôi thì tránh né đi một chút.”
Mạnh Kiện Hùng cả mừng, đợi cả ba người xuống hầm liền kéo tấm sắt đậy lại đàng hoàng, rồi hợp sức với hai trang đinh khiêng cái bàn đá đè lại lên tấm sắt. Chú bé Chu Anh Kiệt cũng đứng bên giúp sức.
Mạnh Kiện Hùng nhìn kỹ thấy không còn chỗ nào sơ suất, mới bảo trang đinh ra mở cửa sau. Bọn Hồ Quốc Đống tuy gọi cửa, nhưng cửa mở rồi vẫn cứ đứng ngoài không chịu vào trong. Còn bọn Trương Triệu Trọng đã đi vào vườn hoa.
Mạnh Kiện Hùng thấy Đồng Triệu Hòa cũng ở đó, bèn tức giận nói: “Thì ra là một vị quan gia. Lúc nãy ta thất kính mất rồi.”
Đồng Triệu Hòa nói: “Ta xưa nay vẫn là tiêu đầu của Trấn Viễn tiêu cục, lão huynh chưa biết hay sao?” Rồi hắn quay đầu lại nói với Trương Triệu Trọng: “Tiểu nhân chính mắt nhìn thấy ba tên khâm phạm trốn vào trang này. Trương đại nhân hạ lệnh lục soát đi.”
Tống Thiện Bằng nghiêm giọng nói: “Chúng tôi đều là lương dân an phận thủ thường. Chu lão trang chủ là người nổi tiếng ở vùng này, gia đình cùng sản nghiệp trong vòng năm trăm dặm không ai không biết. Chúng tôi che giấu phỉ loạn, mưu đồ bất chính để làm gì? Vừa rồi vị quan gia này có ghé thăm, nhưng trong trang lại không biết để tặng chút lộ phí đi đường. Thế cũng có điều không phải, nhưng vì thế mà buông lời hãm hại thì chúng tôi không gánh nổi đâu.” Y biết bọn Văn Thái Lai đã trốn trong hầm nên nói chuyện mạnh dạn hơn.
Mạnh Kiện Hùng thì giả vờ không biết gì, hỏi tại sao Trương Triệu Trọng đến đây, rồi cười ha hả mà nói: “Hồng Hoa Hội là bang hội lớn vùng Giang Nam, tội nợ gì mà đi chín mười ngàn dặm đến vùng biên cương tây bắc này. Chắc vị tiêu đầu này nằm mơ rồi. Các vị đại nhân tin tưởng hắn thật sao?”
Bọn Trương Triệu Trọng đều lão luyện giang hồ, biết rõ Văn Thái Lai nhất định ở trong trang. Nếu chúng khám xét tỉ mỉ trang này, tìm ra thì không sao, nhưng tìm không ra thì Chu Trọng Anh nhất định không chịu bỏ qua. Mặc dù chúng đều là người có công danh, nhưng cũng có đi lại giang hồ. Đắc tội với lão tiền bối như Chu Trọng Anh không phải là chuyện đùa, nên tên nào cũng có phần do dự.
Đồng Triệu Hòa nghĩ bụng: “Hôm nay mà không bắt được ba tên giặc đó, quay về nhất định ta sẽ bị mọi người oán trách. Người ta thường nói, ra đường hỏi già về nhà hỏi trẻ. Ở đây có thằng bé này, may ra thì gạt được nó nói thật.” Hắn bèn làm mặt vui vẻ, kéo tay Chu Anh Kiệt.
Lúc nãy Chu Anh Kiệt đã gặp hắn rồi, biết thằng cha này lén lút nhất quyết không phải người tốt, bèn dùng sức giật tay ra rồi hỏi: “Ông kéo tay ta làm gì?”
Đồng Triệu Hòa mỉm cười nói: “Tiểu huynh đệ! Nếu ngươi nói với ta ba người khách đến nhà ngươi đang trốn ở đâu, thì ta cho ngươi cái này để mua kẹo ăn.” Hắn nói xong, lấy một thỏi bạc ra đưa cho cậu.
Chu Anh Kiệt bĩu môi, nhăn mặt hỏi: “Ông coi ta là ai? Người ở Chu gia Thiết Đảm Trang đâu có thèm mấy đồng bạc thối tha này?”
Đồng Triệu Hòa hổ thẹn, giận dữ quát tháo: “Vậy thì bây giờ chúng ta phải lục nát cái trang này ra. Sau khi tìm được ba tên đó, bắt cả thằng bé này đi theo một thể.”
Chu Anh Kiệt cười khẩy: “Ngươi mà dám động đến một sợi lông của ta, coi như là hảo hán. Phụ thân ta chỉ cho một quyền là cái đầu của ngươi nát bét ra.”
Trương Triệu Trọng chỉ nhìn mặt cũng hiểu thằng bé này biết chỗ Văn Thái Lai trốn. Y thấy Mạnh Kiện Hùng và Tống Thiện Bằng tinh anh lão luyện, chỉ còn cách điều tra từ nó. Nhưng chú bé này tuổi nhỏ gan lớn, không dọa được mà phải lừa gạt. Y bèn nói: “Hôm nay nhà cháu có bốn vị khách chứ không phải ba vị, có đúng thế không?”
Chu Anh Kiệt không bị mắc lừa, bèn đáp: “Ta không biết.”
Trương Triệu Trọng nói: “Lát nữa chúng ta tìm được ba tên đó, không những ba người bọn chúng mà cả ngươi và mẹ ngươi cũng bị chém đầu.”
Chu Anh Kiệt nhổ một bãi xuống đất, trợn mắt lên nói: “Ta còn không sợ ngươi, chẳng lẽ cha mẹ ta lại sợ ngươi hay sao?”
Đột nhiên Đồng Triệu Hòa nhìn thấy trên cổ tay trái của Chu Anh Kiệt có một xâu chuỗi, hạt nào cùng vừa sáng vừa tròn rất đẹp, chính là quà của Lạc Băng. Hắn làm nghề bảo tiêu, cả đời đã thấy không ít châu báu, có thể gọi là biết người biết của. Hai ngày nay hắn giương mắt lên nhìn Lạc Băng, biết nữ trang quý giá trên người nàng không có món nào là giả, nên bây giờ xác định được ngay.
Đồng Triệu Hòa cả mừng nói: “Ta nhận ra xâu chuỗi trên tay ngươi rồi, đúng là vật của người nữ khách kia. Thế mà ngươi còn nói dối là họ không đến đây. Nhất định là tên tiểu tặc này ăn cắp của người ta rồi.”
Chu Anh Kiệt tức giận nói: “Ta mà đi ăn cắp hay sao? Rõ ràng là vị thẩm thẩm kia đã tặng cho ta.”
Đồng Triệu Hòa mỉm cười nói: “Thế thì hay lắm. Vị thẩm thẩm đó đang ở đâu?”
Chu Anh Kiệt nói: “Tại sao ta phải nói cho ngươi biết?”
Trương Triệu Trọng nghĩ bụng: “Thằng nhóc này thật là láo toét. Gia gia của nó thường ngày được thiên hạ tâng bốc quá đáng, nên chính nó cũng tự cao tự đại. Để ta nói khích thử xem sao.” Y bèn nói: “Lão Đồng nói nhiều với thằng nhãi này chỉ tốn hơi, nó không biết gì đâu. Chuyện của người lớn ở Thiết Đảm Trang, dĩ nhiên không cho hạng con nít còn bú mẹ biết. Lúc họ đưa ba người khách trốn vào nơi bí mật, nhất định phải đuổi thằng nhóc này đi chỗ khác chơi.”
Quả nhiên Chu Anh Kiệt bực tức cãi lại: “Sao ta lại không biết?”
Mạnh Kiện Hùng thấy Chu Anh Kiệt bị khích, lo lắng vô cùng bèn nói: “Tiểu sư đệ! Chúng ta vào nhà đi, đừng chơi ở vườn hoa này nữa.”
Trương Triệu Trọng thừa cơ nói tiếp: “Đúng rồi. Chú bé này chẳng biết gì, rời khỏi đây nhanh lên, đừng ở đây vướng tay vướng chân. Ngươi chỉ giỏi khoác lác. Nếu ngươi biết ba người khách đó trốn ở chỗ nào thì ngươi là tiểu anh hùng, nếu không thì ngươi chỉ là đồ tiểu khốn, đồ tiểu cẩu.”
Chu Anh Kiệt giận dữ nói: “Dĩ nhiên là ta biết. Ngươi mới là đồ đại khốn, đồ đại cẩu.”
Trương Triệu Trọng nói: “Ta tin chắc là con tiểu cẩu này không biết.”
Chu Anh Kiệt không nhẫn nại được nữa, hét lớn: “Ta biết. Họ ở ngay trong vườn hoa này, ngay trong cái đình này.”
Mạnh Kiện Hùng kinh hãi hét lên: “Tiểu sư đệ nói bậy rồi. Vào nhà nhanh đi.” Chu Anh Kiệt vừa buông lời đã biết là hỏng bét, sợ quá khóc rống lên, co giò chạy ngay vào nhà.
Trương Triệu Trọng nhìn thấy xung quanh ngôi đình này chỉ toàn là lan can sơn đỏ, trống trơn chẳng có chỗ nào để giấu. Y nhảy lên nóc đình, nhìn tứ phía cũng không thấy bóng người, lúc nhảy xuống thì im lặng không nói gì. Đột nhiên y động tâm, mỉm cười nói với Mạnh Kiện Hùng: “Mạnh gia, võ nghệ của ta thô thiển lắm, chỉ được cái khí lực hơn người. Xin thỉnh giáo Mạnh gia một chút.”
Mạnh Kiện Hùng thấy y không tìm ra nơi giấu thì cũng yên tâm đôi chút, cho rằng y không bắt được người nên nổi giận, trở mặt muốn động thủ với mình. Tuy đối phương người đông thế mạnh, nhưng mình cũng không thể tỏ ra yếu kém, bèn nói: “Không dám! Quyền cước hay binh khí, ông cứ nói một câu. Ta cũng liều cái mạng này thử sức với ông một phen.”
Trương Triệu Trọng cười ha hả nói: “Tứ hải giai huynh đệ, hà tất phải động binh đao quyền cước để tổn thương hòa khí. Chúng ta mượn bàn đá này mà tỉ thí. Ta nâng trước, rồi mời Mạnh gia thử sau. Nếu ta nâng không nổi, xin Mạnh gia đừng có chê cười.”
Mạnh Kiện Hùng ngẩn người kinh hãi, không nghĩ ra cách nào từ chối hay cản trở, chỉ biết ấp úng: “Không… không… cách này không hay lắm…”
Bọn Thoại Đại Lâm, Thành Hoàng thấy Trương Triệu Trọng đột nhiên muốn thử sức với Mạnh Kiện Hùng, trong lòng đều cảm thấy kỳ lạ. Nhưng họ Trương đã vén tay áo lên, tay phải mắm lấy chân cái bàn đá, quát lên một tiếng. Y chỉ dùng một tay mà nâng nổi cái bàn đá nặng hơn ba trăm cân, mọi người đều mở miệng tán dương: “Khí lực Trương đại nhân thật kinh người.”
Tiếng hoan hô chưa dứt, đã đổi sang tiếng la kinh ngạc. Bàn đá vừa được giở lên, phía dưới đã hiện ra tấm sắt.
Văn Thái Lai trốn dưới hầm, biết trên đầu có nhiều người đi qua đi lại mãi không chịu rời khỏi, nhưng không nghe được họ nói gì với nhau. Chàng đang nảy dạ hoài nghi thì đột nhiên nghe mấy tiếng lách cách, rồi ánh sáng chói chang chiếu xuống. Tấm sắt đậy nắp hầm đã được mở ra.
Bọn quan sai nhìn thấy ba người Văn Thái Lai đang trốn trong hầm, nhưng chưa dám xuống ngay. Chúng muốn bắt sống nên cũng không phóng ám khí, chỉ cầm vũ khí đứng trên miệng hầm, lớn tiếng la hét.
Văn Thái Lai khẽ nói với Lạc Băng: “Chúng ta đã bị Thiết Đảm Trang bán đứt rồi. Đã là phu thê, muội phải đồng ý với ta một việc này.”
Lạc Băng đáp: “Đại ca nói đi.”
Văn Thái Lai nói: “Lát nữa ta bảo muội làm gì, muội nhất định phải nghe lời.” Lạc Băng vừa rơi lệ vừa gật đầu.
Văn Thái Lai bèn quát lớn: “Văn Thái Lai ở đây! Các ngươi đứng đó la hét gì thế?” Mọi người nghe chàng quát đều khiếp oai, chẳng ai lên tiếng trả lời. Văn Thái Lai nói tiếp: “Chân của ta bị thương rồi, các ngươi thả dây xuống kéo ta lên.”
Trương Triệu Trọng quay lại định bảo Mạnh Kiện Hùng tìm dây, nhưng không biết họ Mạnh đã biến đâu mất. Y bèn ra lệnh cho bọn trang đinh đi lấy dây.
Thành Hoàng cầm sợi dây, thòng một đầu xuống hầm để kéo Văn Thái Lai lên. Văn Thái Lai chân vừa chấm đất đã vung tay trái giật mạnh một cái, sợi dây tuột khỏi tay Thành Hoàng. Văn Thái Lai hét một tiếng như sấm động lưng trời, cổ tay hất một cái, sợi dây duỗi thẳng ra. Chàng dùng sợi dây làm nhuyễn tiên, lập tức xuất chiêu Phản Thiết Cà Sa, thân hình xoay tít, thân lộng gió xoáy theo, thế công thật khó mà tránh né.
Võ lâm có câu nói: Luyện trường bất luyện đoản, luyện ngạnh bất luyện nhuyễn. Lại có câu: Nhất đao, nhị thương, tam phủ, tứ xoa, ngũ câu, lục tiên, thất trảo, bát kiếm. Theo đó thì muốn luyện được căn bản về đao pháp chỉ cần một năm, nhưng luyện roi phải mất sáu năm. Đó là roi cứng như đơn tiên hay song tiên, còn nhuyễn tiên và phi trảo là loại binh khí mềm dẻo còn khó luyện thành hơn.
Văn Thái Lai đã luyện võ tới mức một thứ thông thì vạn thứ cũng thông, môn nào cũng giỏi. Chàng vận kình lực vào sợi dây, quét ngang tầm đầu mọi người đứng quanh, thế roi rất gấp. Cả bọn đều bất ngờ không kịp chống đỡ, chỉ biết vội vàng cúi đầu tránh né.
Đồng Triệu Hòa từng nếm đòn của Văn Thái Lai, khi thấy chàng lên đã sớm né ra sau lưng người khác, càng lúc càng lẻn ra xa. Nào ngờ vì hắn lùn quá nên trốn càng xa càng bị thiệt thòi. Khi mọi người đứng trước cúi rạp xuống hết, hắn mới nhìn thấy sợi dây quất tới, muốn tránh né cũng không kịp nữa. Hắn vội vàng quay người lại, nhưng đã bị sợi dây cứng như côn sắt đập “bình” một tiếng vào lưng, lập tức té nhào xuống đất.
Thị vệ Thoại Đại Lâm và chưởng môn Ngôn Bá Càn của phái Ngôn Gia Quyền ở Hà Nam, một người cầm đao, một người cầm đôi thiết hoàn, chia hai đường tả hữu tấn công tới.
Lúc này Dư Ngư Đồng đã đề khí, điểm chân vào bậc đá mà vọt người lên, tay vung kim địch đánh tới tổng binh Thành Hoàng. Thành Hoàng sử một cây tề mi côn. Côn dài sáo ngắn, nhưng hắn lại bị Dư Ngư Đồng ép lùi liên tiếp.
Lạc Băng thì phải dùng trường đao làm gậy, chống vào những bậc thang mà lên từng bước một. Sắp lên gần đến nơi thì nàng thấy gần cửa hầm có một hán tử khôi vĩ chống nạnh đứng đó, bèn phóng cho một mũi phi đao. Người kia không thèm tránh né, đợi con phi đao đến cách mũi chừng một tấc mới đưa ba ngón tay ra chụp lại. Lạc Băng thấy người này thảnh thơi đứng đó, tựa như coi phi đao của nàng không phải là vũ khí, bèn hít một hơi múa tít song đao, định mở đường chạy đến chỗ chồng.
Người chặn đường nàng chính là Trương Triệu Trọng. Y hơi chau mày, không muốn rút kiếm ra đấu với nữ nhân, bèn dùng ngọn phi đao dài năm tấc của Lạc Băng làm trủy thủ, tấn công nàng mấy chiêu liên tiếp. Lạc Băng bước đi không vững, may mà song đao đã được gia truyền trọn vẹn, đủ phong tỏa kín thân mình.
Đánh chừng bốn năm hiệp, Trương Triệu Trọng vung tay trái lên tấn công vào bên phải Lạc Băng, quét vẹt song đao của nàng qua một bên, rồi vận sức đẩy ra. Lạc Băng đứng không vững, rơi xuống hầm trở lại.
Văn Thái Lai phải một mình đánh với hai hảo thủ. Vết thương của chàng đang rất đau, thần trí cũng hơi mơ hồ, chỉ biết múa tít sợi dây, quét ra loạn xạ.
Dư Ngư Đồng thi triển kim địch lại chiếm được thượng phong. Trương Triệu Trọng thấy chàng sử kim địch có xen vào mấy chiêu Nhu Vân kiếm pháp, mà thủ pháp dùng sáo điểm huyệt cũng chính là chân truyền của bổn môn. Y thấy kinh ngạc, muốn bước lên hỏi thử. Nào ngờ Dư Ngư Đồng lại ra chiêu Bạch Vân Thương Cẩu, đợi Thành Hoàng đảo người tránh né là nhảy xuống hầm. Thì ra chàng thấy Lạc Băng rơi xuống, không biết nàng có bị thương hay không, bèn nhảy vào cứu ứng.
Dư Ngư Đồng thấy Lạc Băng đã đứng dậy được, bèn hỏi: “Tứ tẩu có bị thương không?”
Lạc Băng đáp: “Không can gì. Đệ mau mau ra giúp tứ ca đi.”
Dư Ngư Đồng nói: “Để đệ dìu tỉ lên.”
Thành Hoàng xách cây côn đồng đứng trên miệng hầm ngăn trở. Thế từ trên đập xuống rất mạnh, nên hắn cản được hai người đi lên. Văn Thái Lai thấy vợ mình khó mà chạy thoát, còn chính mình cũng không còn gượng nổi, nên bước đi loạng choạng rồi ngã thẳng vào sau lưng Thành Hoàng, tiện tay điểm vào hông hắn. Thành Hoàng lập tức bủn rủn tay chân, bị Văn Thái Lai ôm ngang hông. Chàng quát lên một tiếng rồi buông mình rơi xuống, hai người lọt vào trong hầm.
Thành Hoàng đã bị điểm trúng huyệt đạo, không sao nhúc nhích được. Lúc rơi xuống hầm, Văn Thái Lai nằm đè lên người hắn, nhưng chàng cũng không bò dậy nổi. Lạc Băng vội vã đỡ chồng dậy. Mặt chàng không còn chút huyết sắc, mồ hôi tuôn đầy đầu, nhưng vẫn gượng cười với vợ. Bỗng chàng hộc lên một tiếng, phun ra một ngụm máu lên áo Lạc Băng.
Dư Ngư Đồng đã hiểu ý định của Văn Thái Lai, bèn lớn tiếng nói: “Xin nhường đường một chút!”
Trương Triệu Trọng thấy Dư Ngư Đồng là hậu bối phái Võ Đang, cũng thấy Văn Thái Lai đã bị trọng thương. Y tự trọng không muốn tấn công, nên đẩy Lạc Băng rơi xuống hầm rồi không ra tay tiếp. Nào ngờ chỉ trong khoảnh khắc, Thành Hoàng đã lọt vào tay địch. Tình hình lúc này ném chuột sợ bể đồ, y nghe Dư Ngư Đồng nói vậy, đành vẫy tay bảo mọi người đứng né ra hai bên, chừa đường đi ở giữa.
Dĩ nhiên người đầu tiên lên khỏi hầm là Thành Hoàng. Lạc Băng nắm cổ áo hắn, chĩa mũi đoản đao thẳng vào lưng. Người đi thứ ba là Dư Ngư Đồng, tay trái thì đỡ lưng Lạc Băng, tay phải thì ôm lấy Văn Thái Lai. Cả bốn người đều phải cố gắng mới lên được.
Lạc Băng hét lớn: “Ai dám nhúc nhích thì tên này mất mạng!” Bốn người đi giữa hai hàng binh khí, từ từ tiến tới cửa sau vườn. Lạc Băng nhìn thấy ba con ngựa đang buộc cạnh cây dương liễu, trong lòng mừng rỡ, âm thầm cảm ơn trời đất. Ba con ngựa này là của Hồ Quốc Đống cưỡi đến để chặn cửa sau.
Trương Triệu Trọng nhìn thấy khâm phạm sắp trốn thoát, bèn nghĩ bụng: “Tên Thành Hoàng vô dụng có sống hay chết cũng không liên can gì đến ta. Bắt Văn Thái Lai đưa về Bắc Kinh mới là việc chính, mới là đại công.” Y bèn nhặt lấy sợi dây của Văn Thái Lai đang rơi dưới đất, vận nội lực vung ra. Nghe vèo một tiếng, sợi dây đã quấn chặt lấy Văn Thái Lai đi sau cùng.
Trương Triệu Trọng giật mạnh một cái, kéo được Văn Thái Lai rời khỏi tay Dư Ngư Đồng. Lạc Băng nghe chồng la lên lập tức phân tâm, bỏ mặc Thành Hoàng mà quay lại cứu chồng, nhưng chân nàng đang bị thương nên chỉ bước được hai bước đã té nhào xuống đất.
Văn Thái Lai kêu lớn: “Chạy đi mau lên.”
Lạc Băng đáp ngay: “Muội quyết cùng sống chết với huynh.”
Văn Thái Lai giận dữ nói: “Vừa rồi muội đã đồng ý nghe lời ta mà…” Chàng chưa nói dứt câu đã bị bọn Thoại Đại Lâm nhảy lên đè chặt.
Dư Ngư Đồng bay tới ôm lấy Lạc Băng, chạy thẳng qua khu vườn. Một tên bộ khoái cầm thiết xích chạy ra cản đường, Dư Ngư Đồng phóng cước đá cho một phát vào ngực, hất hắn văng ra năm sáu bước.
Lạc Băng thấy chồng bị bắt, hoàn toàn không tự chủ được nữa, cũng không biết mình đang ở đâu. Dư Ngư Đồng vội chạy đến bên cây liễu, đặt nàng lên ngựa rồi kêu lớn: “Phóng phi đao nhanh lên.”
Lúc này Ngôn Bá Càn và hai tên bộ khoái đã rượt tới cửa vườn. Ba mũi phi đao của Lạc Băng phóng ra như nỏ liên châu, một tiếng kêu thê thảm vang lên, một tên bộ khoái đã trúng đao vào vai. Ngôn Bá Càn giật mình dừng bước.
Dư Ngư Đồng tháo xong dây cương của ba con ngựa, bèn nhảy lên lưng một con, quay đầu con ngựa thứ ba lại phía cửa vườn, dùng kim địch quất mạnh lên mông nó một cái. Con ngựa bị đau, lồng lên xông thẳng tới bọn Ngôn Bá Càn, cản trở bọn người truy đuổi ở chỗ cửa vườn hoa.
Trong lúc hỗn loạn, hai con ngựa của Dư Ngư Đồng và Lạc Băng đã chạy xa rồi. Bọn Trương Triệu Trọng bắt được yếu phạm Văn Thái Lai, đang mừng rỡ nên không muốn truy đuổi tiếp.
Lạc Băng nằm mọp trên lưng ngựa, hồn xiêu phách tán. Mấy lần nàng muốn quay đầu ngựa chạy về Thiết Đảm Trang, nhưng đều bị Dư Ngư Đồng quất roi cho ngựa chạy về phía trước. Chạy được sáu bảy dặm, quay lại không thấy ai đuổi theo, Dư Ngư Đồng mới không thúc ngựa chạy gấp nữa.
Đi khoảng ba bốn dặm nữa, thì phía trước có bốn con ngựa tiến đến. Người đi đầu là một lão già tóc đã bạc phơ, chính là Thiết đảm Chu Trọng Anh. Vừa thấy Dư Ngư Đồng và Lạc Băng, ông đã kinh ngạc kêu lên: “Quí khách! Xin dừng bước, ta đã mời đại phu đến đây rồi.”
Lạc Băng đang cơn hận, bắn về phía ông một mũi phi đao. Chu Trọng Anh đột nhiên thấy phi đao bay tới phải giật mình, vì không phòng bị nên không kịp chống đỡ, chỉ vội cúi người mọp xuống lưng ngựa, phi đao bay sạt trên lưng. Đệ tử An Kiện Cương đi phía sau gấp rút vung đao lên gạt, phi đao bay xéo ra, cắp phập vào một cành liễu bên đường. Ánh chiều đỏ ngầu như máu, soi lên lưỡi đao phát ra những tia sáng nhấp nháy.
Chu Trọng Anh đang muốn hỏi, Lạc Băng đã lớn tiếng chửi mắng: “Tên lão tặc này lòng lang dạ sói, mua danh cầu phúc! Các ngươi hại chết chồng của ta, ta quyết thí mạng với ngươi.” Nàng vừa la vừa khóc, hay tay cầm song đao giục ngựa lên phía trước.
Chu Trọng Anh bị mắng mà không hiểu gì cả, đứng ngẩn ra nhìn. An Kiện Nhân thì thấy nữ nhân này nặng lời thóa mạ sư phụ của mình, không nhịn nổi bèn vung đơn đao bước lên đón đánh. Nhưng Chu Trọng Anh đưa tay cản lại rồi bảo: “Có chuyện gì hãy nói trước đã.”
Dư Ngư Đồng cũng khuyên giải: “Cứu người là quan trọng. Chúng ta tìm cách cứu Tứ ca trước đã, rồi mới đốt Thiết Đảm Trang sau.” Lạc Băng nghe nói có lý, nên quay đầu ngựa lại, nhổ một bãi nước bọt xuống đất rồi quất ngựa chạy đi.
Chu Trọng Anh ngang dọc giang hồ, mọi lúc mọi nơi đối đãi với người đều lấy nhân nghĩa làm đầu. Thật sự là ông không bao giờ chuốc oán gây thù, lại thích kết giao bằng hữu, nên cả hai đạo hắc bạch chỉ cần nhắc đến Thiết đảm Chu Trọng Anh là không ai không giơ ngón tay cái lên mà khen ngợi. Nào ngờ hôm nay ông bị phóng phi đao, rồi lại bị mắng chửi mà không hiểu tại sao, thật là chuyện lạ cả đời chưa gặp.
Ông thấy Lạc Băng nộ khí xung thiên, quyết ý liều mạng, biết chắc là có chuyện, liền hỏi tên trang đinh đã lên thị trấn mời y sĩ. Nhưng gã này chỉ nói là phu nhân cùng Mạnh gia ở nhà tiếp khách rất đàng hoàng, hoàn toàn không có tranh chấp gì.
Chu Trọng Anh rầu rĩ trong lòng, gấp rút quất ngựa chạy về. Ông vừa đến cửa Thiết Đảm Trang, trang đinh lập tức kéo ra nghênh đón. Chu Trọng Anh thấy thần sắc mọi người khác lạ, biết rằng đã xảy ra chuyện lớn, bèn bước nhanh vào trong trang, quát tháo gọi Mạnh Kiện Hùng lại hỏi.
Một tên gia đinh trả lời: “Mạnh gia đang bảo vệ phu nhân cùng tiểu thiếu gia trốn ở hậu sơn.” Chu Trọng Anh nghe vậy lại càng kinh ngạc.
Bọn trang đinh cứ người này một câu, người kia một câu kể chuyện đã xảy ra, nói là bọn công sai đã bắt Văn Thái Lai đi, rời khỏi trang chưa được bao lâu. Hẳn là bọn này không đi theo đường cái, nên Chu Trọng Anh không gặp. Bọn trang đinh còn nói: “Sau khi công sai đi hết, bọn tiểu nhân đã cử người đi thông báo cho Mạnh gia, chắc là ông ấy sắp quay trở lại.”
Chu Trọng Anh hỏi: “Ai làm lộ chuyện ba vị khách trốn dưới hầm?” Bọn trang đinh nhìn nhau, không ai dám nói. Chu Trọng Anh giận dữ, vung roi ngựa quất túi bụi lên đầu chúng. An Kiện Cương thấy sư phụ nổi trận lôi đình, cũng không dám mở miệng khuyên can.
Chu Trọng Anh mới đánh được mấy roi đã ngồi phịch xuống ghế mà thở hổn hển, buông hai viên thiết đảm lăn loảng choảng dưới đất. Mọi người không dám thở mạnh, chỉ biết đứng bên chờ đợi.
Chu Trọng Anh hét lên: “Bọn bay đứng đây làm gì? Sao không đi gọi Mạnh Kiện Hùng đến đây cho lẹ?”
Ông chưa nói dứt câu, Mạnh Kiện Hùng đã chạy vào la lớn: “Sư phụ về rồi đấy ư?”
Chu Trọng Anh nhảy chồm lên, quát hỏi: “Ai làm lộ chuyện? Ngươi nói đi! Ngươi nói đi!”
Mạnh Kiện Hùng thấy sư phụ giận đến nỗi nói không ra lời, mất hết khí độ ung dung hào sảng ngày thường, dĩ nhiên không dám khai ra cậu tiểu sư đệ. Y chần chừ một lúc rồi mới đáp: “Bọn ưng trảo tự tìm thấy.”
Chu Trọng Anh đưa tay trái túm lấy cổ áo của y, còn tay phải vung roi định quất vào mặt, nhưng cuối cùng cũng kìm lại được, chỉ giận dữ mắng: “Chỉ nói bậy! Cái hầm của ta bí mật như thế, bọn cẩu tặc kia làm sao tìm thấy được?” Mạnh Kiện Hùng không dám trả lời, cũng không dám nhìn thẳng vào mắt sư phụ. Lúc này Chu phu nhân thấy chồng mình giận dữ, bèn dẫn con đến khuyên can.
Chu Trọng Anh đảo mắt nhìn qua mặt Tống Thiện Bằng, hét lên: “Chắc là ngươi bị bọn công sai quát nạt, sợ hãi mà nói ra. Có phải vậy không?” Ông biết Mạnh Kiện Hùng vốn là người nghĩa hiệp, dù bị chém đầu cũng không bán đứng bằng hữu. Còn Tống Thiện Bằng thì đã không biết võ công lại nhát gan, sợ liên lụy, phần nhiều là hắn sợ bọn công sai uy hiếp nên đã khai ra chân tướng.
Tống Thiện Bằng thấy lão trang chủ oai khí kinh người, cứ như sắp đập mình một chưởng, không nén nổi phải run rẩy toàn thân, gan mật vỡ ra mà lắp bắp: “Không… không phải tiểu nhân, là… là… là… tiểu công tử nói ra.”
Chu Trọng Anh điếng người, run giọng gọi con: “Ngươi qua đây.”
Chu Anh Kiệt sợ sệt đi đến trước mặt phụ thân. Chu Trọng Anh hỏi: “Cái hầm ba người khách trốn trong vườn hoa, có phải là ngươi chỉ cho bọn công sai hay không?”
Chu Anh Kiệt chưa bao giờ dám nói dối trước mặt cha, nhưng việc này thì cậu không dám thẳng thắn thừa nhận. Chu Trọng Anh vung roi lên hét: “Ngươi nói hay không?”
Chu Anh Kiệt hoảng sợ muốn khóc nhưng lại không dám khóc, chỉ đưa mắt nhìn mẹ. Chu phu nhân bèn đi đến cạnh thằng bé, tìm lời khuyên giải: “Lão gia! Đừng giận dữ nữa. Chị của nó mới hay làm ông nổi giận, còn thằng bé này ngoan ngoãn ở nhà, ông không nên bắt nó hoảng sợ như thế.”
Chu Trọng Anh không lý gì đến bà, cứ vẫy roi vun vút trên không, quát lên: “Ngươi không chịu nói thì ta phải đánh chết thằng lộn giống này.”
Chu phu nhân cãi: “Lão gia hồ đồ mất rồi. Con trai của ông sinh ra, sao lại mắng là thằng lộn giống?” Cả đám Mạnh Kiện Hùng nghe nói cũng phải tức cười, nhưng không ai dám cười cả.
Chu Trọng Anh nắm vai vợ mình xô ra rồi nói: “Đừng ở đây lảm nhảm nữa.”
Mạnh Kiện Hùng thấy tình hình không sao giấu giếm được nữa, bèn cố lấy giọng bình tĩnh nói: “Sư phụ! Tên cẩu tặc Trương Triệu Trọng rất gian xảo, dùng lời khích bác, nói là nếu tiểu sư đệ không biết chuyện này thì tiểu đệ chỉ là tiểu… tiểu khốn, tiểu cẩu.”
Biết con không ai bằng cha. Chu Trọng Anh hiểu con trai mình tuổi nhỏ nhưng luôn luôn muốn làm anh hùng hảo hán, bèn hét lên: “Thằng tiểu khốn kia! Ngươi muốn làm anh hùng nên đã nói ra phải không?”
Khuôn mặt nhỏ bé dễ thương của Chu Anh Kiệt bây giờ tái nhợt, cắt không còn giọt máu, khẽ đáp: “Gia gia, con không muốn làm tiểu khốn…”
Cơn giận của Chu Trọng Anh đã không sao kìm được nữa. Ông thét lên: “Làm như thế mà là anh hùng hảo hán hay sao?” Trong cơn giận dữ điên cuồng, ông vung tay phải quăng hai trái thiết đảm lên vách tường đối diện. Nào ngờ ngay lúc đó Chu Anh Kiệt lại chạy tới, sà vào lòng cha năn nỉ xin cha.
Chu Trọng Anh ném hai trái thiết đảm là để trút cơn giận dữ, nên kình lực vô cùng. Nghe hai tiếng keng keng, một trái thiết đảm gắn sâu vào tường, còn trái kia dội ngược lại, văng trúng ngay đầu Chu Anh Kiệt. Máu tươi lập tức bắn tóe ra.
Chu Trọng Anh kinh hãi ôm lấy con trai. Chú bé Chu Anh Kiệt còn cố thều thào năn nỉ: “Gia gia… Con… con không dám nữa… Xin… xin gia gia… đừng đánh…” Nói chưa xong, hơi thở cậu đã tắt rồi. Tất cả mọi người trong đại sảnh đều ngơ ngác.
Chu phu nhân ôm lấy con kêu gọi: “Hài nhi, hài nhi!” Bà thấy nó không thở nữa, ngẩn ra một lúc, rồi điên cuồng phóng tới Chu Trọng Anh, vừa khóc vừa gào lên: “Tại sao… tại sao phải giết chết hài nhi…”
Chu Trọng Anh lắc đầu, lùi lại hai bước, lắp bắp: “Ta… ta không…”
Chu phu nhân đặt xác con xuống đất, rút phắt thanh đơn đao cài bên hông An Kiện Cương, chạy tới vung đao chém xuống đầu chồng.
Lúc này Chu Trọng Anh không còn phản ứng gì. Ông không tránh né cũng không lùi bước, hai mắt nhắm nghiền mà nói: “Thôi thì chúng ta cùng chết với nhau cho xong.” Chu phu nhân thấy chồng như vậy, tay chân run bắn lên, quăng đao xuống đất, rồi vừa khóc rống vừa chạy ra ngoài.
Lạc Băng cùng Dư Ngư Đồng sợ gặp phải bọn người ở công môn, nên chọn những con đường mòn hoang vắng mà đi, chưa được bao xa thì trời đã tối. Ở vùng biên cương hoang dã này thì đừng nói khách sạn, ngay cả một hộ nông gia cũng không sao tìm thấy. Hai người đã vất vả rất lâu nên không kén chọn nữa, tìm một tảng đá lớn để ngả lưng.
Dư Ngư Đồng thả ngựa đi ăn cỏ, lại cầm cây trường đao của Lạc Băng đi cắt một ít cỏ phủ xuống đất rồi nói: “Giường đã có rồi, chỉ thiếu lương khô và nước. Chúng ta đành chịu đói, chờ đến sáng rồi tính sau.”
Trong lòng Lạc Băng đang mãi lo lắng cho chồng, cho dù trước mặt có sơn hào hải vị cũng không thể nuốt trôi, lệ tuôn không ngớt. Dư Ngư Đồng luôn miệng an ủi: “Ngày mai là Lục sư thúc đến An Tây. Quần hùng Hồng Hoa Hội nhất định dốc toàn lực ra viện trợ, không chừng sẽ đuổi kịp bọn ưng trảo để cứu tứ ca.”
Hôm nay Lạc Băng phải ác chiến rồi chạy trốn, mệt mỏi lắm rồi. Nàng nghe Dư Ngư Đồng khuyên can cũng thấy thoải mái đôi chút, khóc một lúc rồi ngủ thiếp đi. Trong cơn mơ, nàng mường tượng như phu quân nhẹ nhàng ôm nàng vào lòng, khẽ hôn lên môi nàng. Lạc Băng sung sướng vô cùng, lỏng người cho chồng ôm lấy, lại thì thầm: “Huynh cực khổ quá. Những vết thương trên người huynh đã lành hết chưa?” Dường như Văn Thái Lai ấp úng mấy câu gì đó, rồi ôm nàng chặt hơn, nụ hôn càng lúc càng nóng bỏng.
Lạc Băng đang mơ màng hạnh phúc thì đột nhiên giật mình tỉnh dậy. Dưới ánh sao trời, nàng thấy người mình đang ôm không phải là phu quân mà là Dư Ngư Đồng, kinh hãi không sao tả xiết, liền cố sức giãy giụa thoát ra. Nhưng Dư Ngư Đồng vẫn không chịu buông, ôm nàng khẽ nói: “Ta nghĩ đến muội nhiều lắm.”
Lạc Băng vừa hổ thẹn vừa giận dữ, xoay tay tát lên mặt chàng một phát thật nặng. Dư Ngư Đồng còn ngơ ngác, Lạc Băng lại đánh thêm một quyền vào giữa ngực, giãy ra khỏi vòng tay của chàng rồi lăn sang một bên, quờ tay muốn rút đao nhưng không thấy đao đâu, thì ra đã bị Dư Ngư Đồng lấy cất rồi. Nàng càng thêm kinh hãi, liền thò tay vào bọc tìm phi đao, may mà còn hai lưỡi. Lạc Băng lấp tức nắm chặt lấy đao, giận dữ hỏi: “Ngươi muốn gì?”
Dư Ngư Đồng run rẩy nói: “Tứ tẩu! Tỉ nghe đệ nói…”
Lạc Băng quát luôn: “Ai là Tứ tẩu của ngươi? Tứ đại giáo điều của Hồng Hoa Hội chúng ta là gì, ngươi nói đi!” Dư Ngư Đồng cúi gằm mặt xuống, không dám lên tiếng.
Tuy rằng bản tính Lạc Băng vui tươi thoải mái, nhưng mọi hành động của nàng đều đàng hoàng ngay thẳng, dĩ nhiên không thể để người ta trêu ghẹo như thế. Nàng lớn tiếng quát hỏi: “Lão tổ Hồng Hoa họ gì?”
Dư Ngư Đồng chỉ còn cách trả lời: “Hồng Hoa lão tổ vốn họ Chu, hạ phàm để cứu chúng sinh.”
Lạc Băng lại hỏi: “Huynh đệ chúng ta phải kính nể những thánh nhân nào?”
Dư Ngư Đồng nói: “Một kính Lưu Quan Trương đào viên kết nghĩa, hai kính liệt vị anh hùng Ngõa Cang Trại, ba kính một trăm lẻ tám hảo hán Thủy Bạc Lương Sơn.”
Hai người một hỏi một đáp một loạt giáo điều của Hồng Hoa Hội. Mỗi khi khai đường nhập hội, hay khi tuyên án xử phạt, người có địa vị cao nhất trong hội đều hỏi những câu này, mọi người phải đồng thanh cung kính trả lời. Trong hội thì địa vị của Lạc Băng cao hơn Dư Ngư Đồng. Nàng hỏi một loạt câu này, cơn đam mê của Dư Ngư Đồng đã chuyển sang sợ sệt, không dám không trả lời.
Lạc Băng dõng dạc hỏi tiếp: “Hồng Hoa Hội phải cứu giúp bốn loại người nào?”
Dư Ngư Đồng đáp: “Một cứu nghĩa sĩ nhân giả, hai cứu hiếu tử hiền tôn, ba cứu tiết phụ trinh nghĩa, bốn cứu lê dân khổ nạn.”
Lạc Băng hỏi: “Hồng Hoa Hội phải giết bốn loại người nào?”
Dư Ngư Đồng đáp: “Một giết tẩu cẩu Mãn Thanh, hai giết tham quan ô lại, ba giết thổ hào ác bá, bốn giết hung đồ ác đảng.”
Lông mày của Lạc Băng chau lại, hỏi tiếp: “Tứ đại giáo điều của Hồng Hoa Hội là gì?”
Dư Ngư Đồng run giọng trả lời: “Đầu hàng Thanh triều phải giết, phạm thượng bản hội phải giết, bán đứt bằng hữu phải giết, dâm ô vợ người phải giết.”
Lạc Băng kết luận: “Muốn tốt thì mau tự đâm mình ba đao sáu lỗ, ta sẽ dẫn ngươi đi năn nỉ Thiếu đà chủ. Nếu không thì ngươi cứ việc chạy trốn đi, xem thử Thập nhị lang Quỉ Kiến Sầu có tìm được ngươi hay không.”
Theo hội qui của Hồng Hoa Hội, huynh đệ trong hội nếu hồ đồ nhất thời mà phạm vào đại tội, thành tâm hối cải thì trước khi mở hương đường chấp pháp có thể dùng dao nhọn tự đâm ba nhát vào đùi. Ba đao này phải xuyên thủng đùi từ trước ra sau, nên mới gọi là ba đao sáu lỗ. Sau đó tội nhân cầu xin tổng đà chủ và hương chủ chấp pháp tha cho, thì hy vọng được xử nhẹ hơn. Còn nếu không ăn năn hối cải thì chạy trời cũng không thoát.
Ngồi ghế thứ mười hai trong hội là Quỉ kiến sầu Thạch Song Anh. Người này mặt sắt vô tư, chấp chưởng hình đường. Ai phạm phải hội qui, cho dù trốn tận chân trời góc bể cũng chắc chắn sẽ bị y sai người đi bắt về xử tội. Hết thảy mấy chục ngàn huynh đệ Hồng Hoa Hội, nhắc đến ba chữ Quỉ Kiến Sầu là không ai không hoảng sợ dựng tóc gáy lên.
Dư Ngư Đồng bèn nói: “Muội giết chết ta giùm đi. Được chết dưới tay muội, ta cũng cam lòng.” Lạc Băng nghe chàng vẫn giở giọng si mê, lại càng giận dữ. Nàng đưa phi đao lên trước ngực, vận kình lực vào cổ tay muốn phóng ra.
Dư Ngư Đồng run giọng nói: “Muội không biết hay sao? Năm sáu năm nay ta đã khổ tâm lắm rồi. Lần đầu tiên gặp muội ở Tổng hương đường Thái Hồ, lòng dạ ta đã… đã không phải là của bản thân mình nữa.”
Lạc Băng giận dữ nói: “Lúc đó ta đã là người của Tứ ca rồi, chẳng lẽ ngươi không biết?”
Dư Ngư Đồng nói: “Ta… ta biết. Nhưng ta không kiềm chế được mình nên cũng không dám gặp muội thường xuyên. Hễ trong hội có việc phải đi xa, ta đều xin tổng đà chủ phái ta đi. Người khác chỉ nghĩ rằng ta không sợ mệt mỏi gian nan, coi ta là hảo huynh đệ. Chẳng ai biết ta dùng cách đó để trốn tránh muội. Nhưng ta bôn ba khắp chốn, cũng chẳng có giờ nào ngày nào không nghĩ đến muội.” Nói đến đó, chàng xắn tay áo lên, để lộ cánh tay trái rồi bước lên hai bước mà tiếp: “Ta rất hận bản thân mình, thường tự mắng mình là đồ lòng dạ cầm thú. Mỗi khi hận mình đến cực điểm, ta lại dùng trủy thủ đâm vào đây một nhát. Muội xem đây.”
Dưới ánh sao lờ mờ, quả nhiên Lạc Băng nhìn thấy trên cánh tay chàng đầy sẹo, không nén nổi phải mềm lòng lại.
Dư Ngư Đồng lại nói: “Ta cũng thường hận ông trời không chịu thương mình, cho ta được gặp muội khi muội chưa thành gia thất. Tuổi tác muội với ta tương đối phù hợp, còn Tứ ca lại chênh lệch với muội rất nhiều.”
Lạc Băng thấy chàng si mê quá, đã hơi thương xót. Nhưng nghe đến hai câu cuối cùng, nàng lại nổi giận lên nói: “Tuổi tác chênh lệch thì đã sao? Tứ ca là bậc anh hùng hảo hán, đại nhân đại nghĩa, đâu có giống như ngươi…”
Nàng nhịn lại được không chửi mắng nữa, chỉ hừ một tiếng rồi khập khiễng đi đến chỗ con ngựa, cố trèo lên yên. Dư Ngư Đồng chạy tới định đỡ, nhưng Lạc Băng quát đuổi đi, rồi tự mình lên ngựa.
Dư Ngư Đồng hỏi: “Bây giờ Tứ tẩu đi đâu?”
Lạc Băng nói: “Ngươi cứ mặc kệ ta. Tứ ca đã bị bọn ưng trảo bắt đi rồi, ta cũng không muốn sống nữa. Mau trả đao cho ta.” Dư Ngư Đồng cúi đầu, đưa cặp Uyên Ương đao cho nàng.
Lạc Băng nhìn lại thấy chàng đứng đó không biết làm gì, trong lòng đột nhiên thấy bất nhẫn bèn nói: “Chỉ cần sau này ngươi ra sức làm việc cho hội, không vô lễ với ta nữa, thì việc đêm nay ta sẽ không nói cho ai biết cả. Sau này ta sẽ để ý tìm cho ngươi một hảo cô nương tài mạo song toàn.” Nói xong, nàng bỗng cười khúc khích rồi quất ngựa chạy đi.
Cái tính thích cười của nàng thật là bất trị, tiếp tục làm hại Dư Ngư Đồng. Chàng nhìn nụ cười dịu dàng khả ái đó mà tiêu hồn lạc phách, người lảo đảo mấy cái rồi ngã lăn xuống đất. Nhìn theo bóng nàng mất hút trong đêm mà tim chàng đập loạn lên như nồi nước sôi bùng. Lúc thì chàng tự thương thân trách phận, hận lão tặc thiên thích đùa giỡn trêu người. Lúc thì chàng cho rằng số kiếp của mình xúi quẩy đến cực điểm. Lúc thì chàng lại tự hối hận, trách mình đường đường là hán tử mình cao sáu thước mà vô hạnh vô sỉ, không bằng cả con heo con chó. Đột nhiên chàng đập đầu binh binh vào một gốc cây, rồi ôm lấy cái cây đó mà la hét điên cuồng.
* * *
Lạc Băng cưỡi ngựa chạy hơn một dặm, bèn nhìn sao Bắc Đẩu phía chân trời để phân biệt phương hướng. Bây giờ đi hướng tây thì sẽ gặp huynh đệ ở Hồng Hoa Hội để hiệp lực cứu người, còn đi hướng đông thì có thể âm thầm theo dấu chồng mình đang bị bắt để thừa cơ giải cứu. Nàng biết rõ ràng mình đã bị thương, thế cô sức mỏng, cứu người chắc chắn không thể được. Nhưng nghĩ đến chồng đang lê lết từng bước đi về hướng đông, thì nàng làm sao có thể đi ngược về hướng tây, bèn cứ mặc kệ con ngựa muốn đi đâu thì đi. Khoảng bảy tám dặm, Lạc Băng tin rằng mình đã cách Dư Ngư Đồng khá xa, mà y chắc không dám đến quấy rầy nữa, bèn xuống ngựa, buộc cương ngồi nghỉ trong một khu rừng.
Lúc nhỏ nàng ở với cha, lấy chồng thì ở với chồng. Cả thân phụ lẫn trượng phu đều võ công cao cường, đối với nàng cưng chiều hết mực. Nàng đi lại giang hồ, trước nay đều ở thế thượng phong, chưa bao giờ lép vế trước ai. Về sau gia nhập Hồng Hoa Hội, thì Hồng Hoa Hội người đông thế mạnh, nàng lại được huynh đệ quí mến. Hai mươi hai năm nay, Lạc Băng có thể gọi là giang hồ kiêu nữ, không gì là không đạt được, không gì là không thuận lợi.
Phen này là khổ sở nhất trong đời nàng. Chồng bị bắt, mình bị thương, lại bị Dư Ngư Đồng quấy rầy, nên cứ tức tối than thở, khóc một lúc rồi ngủ thiếp đi. Trong đêm sâu hoang vắng, nàng bỗng thấy người mình nóng như lửa đốt, mơ hồ kêu gọi: “Nước… Ta muốn uống nước…” Ở đó làm gì có ai lo lắng cho nàng?
Ngày hôm sau bệnh càng nặng hơn. Nàng muốn gắng gượng đứng dậy, nhưng mới ngồi lên đã thấy đầu đau như cắt, chỉ còn cách nằm lại xuống đất. Nhìn thấy mặt trời lên tới đỉnh đầu rồi lặn xuống hướng tây, đói khát mà không sao lên ngựa, Lạc Băng nghĩ bụng: “Thôi thì ta chết ở đây cũng không sao.” Nhưng nghĩ chuyện không được gặp chồng lần nữa, nàng đau lòng ngất xỉu ngay lập tức.
Không biết đã hôn mê bao lâu, Lạc Băng bỗng nghe tiếng nói: “Hay lắm! Đã tỉnh lại rồi!” Nàng từ từ mở mắt ra, nhìn thấy một thiếu nữ đứng trước mặt mình. Da mặt cô này hơi đen, mắt to miệng nhỏ, mặt mũi cũng thanh tú, khoảng mười tám mười chín tuổi. Thiếu nữ thấy Lạc Băng tỉnh dậy liền tỏ vẻ vui mừng, quay lại bảo a hoàn đứng cạnh: “Mau đem cháo tới đây cho vị phu nhân này ăn trước đã.”
Lạc Băng định thần một lúc, biết mình đang nằm trên giường, chăn đệm ấm áp, đồ đạc bài trí trong phòng rất đẹp đẽ, rõ ràng là nhà của người giàu có. Nàng nghĩ đến tình cảnh mình hôn mê mà được cứu, cảm kích bèn hỏi: “Xin hỏi quí tính đại danh của cô nương là chi?”
Thiếu nữ kia đáp: “Ta họ Chu! Phu nhân cứ nghỉ ngơi một lúc, lát nữa sẽ nói chuyện sau.” Rồi cô nhẹ nhàng lui ra. Lạc Băng ăn hết một chén cháo loãng, lại nhắm mắt ngủ thiếp đi.
Lúc nàng tỉnh dậy lần nữa thì trong phòng đã thắp đèn, ngoài cửa phòng có tiếng nữ nhân nói: “Bọn đó đã ức hiếp người ta như thế, còn dám đến quấy rầy Thiết Đảm Trang, vậy mà lão gia nhịn được. Nhưng ta quyết dạy cho chúng một bài học.” Lạc Băng nghe thấy ba chữ Thiết Đảm Trang, trong lòng hơi kinh hãi, chẳng lẽ mình đang ở trong Thiết Đảm Trang hay sao.
Rồi có hai người vào phòng, chính là thiếu nữ ban nãy và một đứa a hoàn. Thiếu nữ đi đến bên giường vén màn ra nhìn, Lạc Băng nhắm mắt vờ ngủ say. Thiếu nữ quay người, với lấy thanh đao treo trên tường.
Lạc Băng đã thấy cặp Uyên Ương Đao của mình đặt trên bàn, bèn ngầm chuẩn bị. Nếu thiếu nữ kia quay lại chém, nàng sẽ tung chăn phủ lên đầu cô ta, rồi đoạt lấy cặp Uyên Ương Đao mở đường máu chạy đi.
Con a đầu kia bỗng mở lời khuyên: “Cô nương đừng gây họa nữa. Trong lòng lão gia đã khó chịu lắm rồi, cô đừng trêu cho lão gia nổi giận.” Lạc Băng nghe thấy, đoán chắc cô nương này là con gái của Chu Trọng Anh.
Thiếu nữ này chính là đại tiểu thư Chu Ỷ của Thiết Đảm Trang. Nàng tính tình hào phóng, khí phách y hệt cha mình, cũng thích nhúng tay vào chuyện của thiên hạ, thấy việc bất bình quyết không chịu làm ngơ. Vì dung mạo nàng khá đẹp, nên được giới võ lâm tây bắc tặng cho ngoại hiệu là Tiêu Lý Lục. Hôm trước nàng lỡ đả thương người khác, sợ cha trách mắng nên không dám về nhà, chịu cực ngủ một đêm ngoài trang, định chờ cha bớt giận rồi mới trở về. Không ngờ dọc đường gặp Lạc Băng nằm hôn mê dưới đất, nàng bèn cứu về đây. Khi về trang, nghe nói em trai bị cha đánh chết, còn mẹ bỏ đi, dĩ nhiên nàng đau khổ vô cùng.
Chu Ỷ lấy đơn đao xuống rồi lớn tiếng nói: “Hừ! Ta cứ mặc kệ!” Nàng xách đao nhảy ra ngoài, đứa a hoàn cũng theo ra.
Lạc Băng ngủ được hai ngày, tinh thần hồi phục, cơn sốt đã đứt. Nàng chỉnh đốn y phục, mang giày, cầm lấy song đao rồi nhẹ nhàng bước ra khỏi phòng, nghĩ bụng: “Chúng đã bán đứt đại ca cho quan phủ, không hiểu còn cứu ta làm gì. Chắc là có âm mưu gì khác.”
Lúc này Lạc Băng còn ở trong hiểm địa, vết thương ở đùi cũng chưa lành hẳn, dĩ nhiên không dám sơ ý chút nào. Nàng đã đến đây một lần, vẫn còn nhớ đường đi lối lại, định lén ra vườn hoa rồi vượt cửa hậu ra ngoài. Đi được một quãng xa, nàng nghe phía trước có tiếng hai người đang nói chuyện. Đợi một lúc, hình như hai người này không định rời khỏi đó, nên nàng quay trở lại, lén lút đi qua hai căn phòng. Trong đêm tối, may mà nàng không gặp phải ai.
Lạc Băng đi vòng qua hành lang, thấy trong đại sảnh đèn đuốc vẫn sáng trưng, có người lớn tiếng nói chuyện. Nghe thanh âm hơi quen, nàng bèn ghé mắt vào khe cửa, thấy Chu Trọng Anh đang nói chuyện với hai người. Một người hình như nàng đã gặp nhưng nhất thời không nghĩ ra là ai, còn người kia chính là kẻ đã từng trêu ghẹo nàng, rồi dẫn công sai quan phủ đến bắt phu quân nàng, chính là Đồng Triệu Hòa.
Nhìn thấy kẻ thù, lại nghĩ đến chồng mình đang phải chịu đựng những gì, Lạc Băng không sao lo lắng đến chuyện sống chết của bản thân mình được nữa. Nàng đưa tay trái đẩy cửa đại sảnh ra, phóng thẳng tới Đồng Triệu Hòa một mũi phi đao.
* * *
Nhắc lại sau khi Chu Trọng Anh lỡ tay đánh chết đứa con trai duy nhất, vợ ông đau lòng bỏ chạy khỏi Thiết Đảm Trang. Chu phu nhân vốn là con gái của một quyền sư võ công bình thường, gia đình bên ngoại cũng chẳng còn ai, không biết bà dựa dẫm nơi nào. Vợ đi, con chết, Chu Trọng Anh thương tâm cực điểm, u uất trong nhà suốt hai ngày.
Hoàng hôn hôm nay, trang đinh vào báo có hai người cầu kiến, Chu Trọng Anh bèn lệnh cho Mạnh Kiện Hùng đón tiếp. Thì ra đó là tên đầu tội Đồng Triệu Hòa, đi cùng Vạn Khánh Lan, tổng giáo đầu dạy võ ở Trịnh vương phủ. Hôm trước tên này cũng tham gia vụ đến Thiết Đảm Trang bắt người.
Mạnh Kiện Hùng vừa sợ vừa nghi, rõ ràng đây không phải là chuyện tốt. Hai tên này nhất định đòi gặp Chu Trọng Anh. Mạnh Kiện Hùng nói: “Lão trang chủ không được khỏe, hai vị có việc gì cứ nói, tại hạ sẽ chuyển lời thì cũng vậy thôi.”
Đồng Triệu Hòa cười ha hả rồi nói: “Lần này bọn ta bỏ công đến đây là do hảo ý, Chu trang chủ muốn gặp hay không thì tùy. Thiết Đảm Trang sắp gặp họa diệt môn, còn ngồi đó làm bộ ta đây gì nữa.”
Sau khi Văn Thái Lai bị bắt, Mạnh Kiện Hùng vẫn lo lắng trong lòng, sợ Thiết Đảm Trang bị liên lụy. Nghe nói vậy, y chỉ còn cách vào trong bẩm báo. Chu Trọng Anh tung tung hai quả thiết đảm loảng xoảng trên tay, nộ khí đằng đằng, bước ra ngoài lớn tiếng: “Ai nói Thiết Đảm Trang sắp bị họa diệt môn thế? Lão phu phải thỉnh giáo một phen!”
Vạn Khánh Lan lấy trong bọc ra một tờ giấy, đặt lên bàn rồi nói: “Chu lão anh hùng cứ xem thử!” Hai tay hắn vẫn chặn lên tờ giấy đó, dường như sợ Chu Trọng Anh đoạt lấy. Chu Trọng Anh đưa mắt nhìn xuống, thì ra đó là một lá thư của Miên lý châm Lục Phi Thanh phái Võ Đang viết cho ông, nhờ ông chiếu cố cho mấy bằng hữu Hồng Hoa Hội đang cơn nguy cấp. Lá thư này Văn Thái Lai chưa có dịp đưa cho Chu Trọng Anh. Sau khi bắt chàng, chúng lục soát lấy được.
Lục Phi Thanh phạm thượng gây loạn, tội danh rất lớn, cũng là một yếu phạm bị truy nã lâu nay chưa bắt được. Thì ra họ Lục lại còn cả gan cấu kết với cả Thiết Đảm Trang. Bọn Thoại Đại Lâm thương lượng được một lúc, cảm thấy nếu báo lên quan trên thì cũng chưa chắc bắt được Lục Phi Thanh, còn bọn mình lại phải vác thêm một gánh nặng. Không bằng bây giờ cầm lá thư này đi gõ cửa Chu Trọng Anh kiếm ít tiền, chia chác nhau thì thực tế hơn. Thiết Đảm Trang đã dám giấu khâm phạm, bây giờ lại có bằng chứng là quan hệ với tội phạm, dĩ nhiên phải ngoan ngoãn lòi bạc ra cho được yên thân.
Trương Triệu Trọng cùng Lục Phi Thanh là sư huynh đệ, tuy đã tuyệt giao từ lâu, nhưng vẫn có nghĩa đồng môn. Y cũng biết họ Lục lợi hại nên không dám làm càn. Khi nghe bọn Thoại Đại Lâm bàn chuyện moi tiền Chu Trọng Anh, y cũng thấy là chuyện tổn hại nhân phẩm, không ra vẻ anh hùng hảo hán. Nhưng trong chốn quan trường không tiện cản trở người khác phát tài, nên y bèn mặc kệ chúng muốn làm gì thì làm, còn bản thân mình quyết không chia một đồng xu để khỏi hủy hoại danh tiếng Hỏa Thủ Phán Quan.
Thành Hoàng và Thoại Đại Lâm đều là người có công danh, không tiện công nhiên ra mặt, nên cả bọn đề cử Vạn Khánh Lan và Đồng Triệu Hòa đến đây đòi tiền.
Chu Trọng Anh đọc thư xong, trong lòng cũng hơi kinh hãi, bèn hỏi: “Hai vị có gì chỉ giáo?”
Vạn Khánh Lan nói: “Chúng ta ngưỡng mộ Chu lão anh hùng đã lâu, ai cũng thán phục ông trượng nghĩa sơ tài lại thích kết giao bằng hữu. Nghe nói ông vì bằng hữu mà phải tốn chín mười vạn lạng cũng quyết chẳng chau mày. Ông cũng biết rồi, nếu lá thư này đến tay quan phủ thì sẽ hậu hoạn vô cùng, Huynh đệ ta đọc xong thư, ai cũng muốn liều mình kết giao với một bằng hữu như Chu lão anh hùng. Mọi người quyết định hủy lá thư này, không nhắc nửa chữ đến việc Thiết Đảm Trang che giấu khâm phạm Văn Thái Lai và kết giao với phản tặc Lục Phi Thanh, chịu lấy cái tội không bẩm báo với quan trên.”
Chu Trọng Anh đáp: “Vậy thì ta phải đa tạ rồi.”
Vạn Khánh Lan nói thêm mấy câu hoa mỹ chẳng liên quan gì, cuối cùng thì buồn bã kết luận: “Chỉ vì huynh đệ ta lần này rời kinh công cán, dọc đường chi tiêu tốn kém nên ai cũng nợ đầy mình. Giả tỉ Chu lão anh hùng lấy tình nghĩa võ lâm mà ra tay giúp đỡ một chút, chúng ta sẽ vô cùng cảm kích.”
Chu Trọng Anh chau mày, hứ một tiếng.
Vạn Khánh Lan tiếp: “Món nợ này cũng không lớn lắm, mấy chục người cộng lại chỉ đến sáu bảy chục ngàn lạng bạc là cùng. Chu lão anh hùng gia tài trăm vạn, vàng bạc đầy nhà, ruộng tốt ngàn mẫu, lừa ngựa cả bầy, là bậc hào phú vùng Hà Tây. Con số nhỏ nhoi như thế, chắc ông không thèm đắn đo. Người xưa nói rất hay: Của đi thay người. Lại có câu: Tiểu tài không bỏ ra thì đại tài sẽ không đến.”
Chu Trọng Anh thấy bọn công sai đến Thiết Đảm Trang bắt người, hoàn toàn không nể mặt mình, vốn đã giận dữ rồi. Ông lại nghĩ đến chỗ anh em đồng đạo giang hồ gặp nạn đến đây nhờ vả, mình không bảo vệ được, trong lòng rất áy náy vì có lỗi với bằng hữu. Đứa con yêu quí của ông mất mạng, suy cho cùng thì cũng do bọn công sai này gây nên. Hai ngày nay ông cũng muốn tìm cách cứu được Văn Thái Lai để trị bọn công sai cho hả dạ, chỉ vì vợ đi con mất, thần tình rối loạn, nên nhất thời không quyết định được gì.
Bây giờ hai tên này dám đến quấy nhiễu, lại còn cả gan mở miệng tống tiền, thật là đổ dầu vào lửa. Chu Trọng Anh bèn lạnh nhạt nói: “Lão phu cũng có chút ít gia sản, nhưng cả đời chỉ dùng để giúp đỡ những bậc anh hùng hảo hán, có cốt cách nghĩa khí mà thôi.” Không những ông mở miệng là cự tuyệt ngay, lại còn chửi bọn này không đáng xu nào.
Đồng Triệu Hòa bật cười: “Chúng ta là tiểu nhân, chuyện đó không sai. Nhưng chắc Chu lão anh hùng hiểu rõ, tiểu nhân làm thì dở mà phá thì giỏi. Xây dựng một đại trang viện như thế này, thì đúng là chúng ta không đủ bản lãnh. Nhưng muốn hủy hoại nó thì…”
Hắn nói chưa dứt câu đã có một người xông vào giận dữ quát: “Ngươi hủy hoại Thiết Đảm Trang như thế nào, bản cô nương phải coi thử.” Đó chính là Chu Ỷ.
Chu Trọng Anh bèn nháy mắt với con gái một cái, đi ra ngoài đại sảnh. Chu Ỷ cũng theo ra. Chu Trọng Anh khẽ bảo: “Con đi dặn Kiện Hùng, Kiện Cương, tuyệt đối không để hai tên ưng trảo này ra khỏi trang.”
Chu Ỷ cả mừng đáp: “Hay quá! Con đứng ngoài, càng nghe càng tức!”
Chu Trọng Anh quay vào đại sảnh, Vạn Khánh Lan bèn nói: “Chu lão anh hùng đã không nể mặt, chúng ta xin cáo từ vậy.” Nói xong hắn xé vụn lá thư của Lục Phi Thanh. Chu Trọng Anh ngẩn ra, chuyện này thật là ngoài dự liệu của ông.
Vạn Khánh Lan tiếp: “Đây chỉ là bản sao, phải xé đi lỡ người khác nhìn thấy không tiện. Còn bản chính đang ở trong tay Hỏa thủ phán quan Trương đại nhân.” Câu nói này tỏ ý cho Chu Trọng Anh biết, dù có giết hai người thì cũng không hủy được chứng cớ chắc như ngọn núi.
Chu Trọng Anh trừng mắt giận dữ nhìn hắn, nghĩ bụng: “Ngươi muốn Chu mỗ bỏ tiền mua mạng, quá xem thường ta rồi.”
Đúng lúc này, Lạc Băng xô cửa phóng phi đao về phía Đồng Triệu Hòa.
Chu Trọng Anh không biết ai ra tay. Tuy ông rất hận Đồng Triệu Hòa, nhưng cũng không muốn hắn mất mạng như thế. Không kịp nghĩ nhiều, cứu người là gấp, ông lập tức ném một quả thiết đảm về hướng phi đao. Nghe keng một tiếng, cả phi đao lẫn thiết đảm cùng rơi xuống đất.
Lạc Băng thấy Chu Trọng Anh ra tay cứu kẻ thù, bèn lớn tiếng thóa mạ: “Hay lắm! Quả nhiên là cùng một bọn. Tên lão tặc này đã hại chồng của ta, thì giết luôn ta đi cho xong.” Nàng khập khiễng tiến vào đại sảnh, vung Uyên Ương song đao lên chém vào đầu Chu Trọng Anh.
Trong tay Chu Trọng Anh không có binh khí, ông vội xách một cái ghế lên, vừa chống đỡ vừa hô: “Nói chuyện rõ ràng trước đã, khoan hãy động thủ!” Lạc Băng đã quyết liều mạng, không thèm nghe gì nữa, cả song đao đều ra những chiêu thức tấn công.
Chu Trọng Anh cũng biết Hồng Hoa Hội ngộ nhận rằng mình bán đứt Văn Thái Lai. Ông chỉ muốn tìm cách giải thích, dứt khoát không đả thương người để gây nợ, nên cứ lùi mãi mà không đánh trả. Còn Lạc Băng thì một trường đao một đoản đao vun vút chém tới, đao nào cũng nhằm chỗ yếu hại mà tấn công.
Lạc Băng nhìn thấy địch thủ đã lùi đến chân tường, không thể lùi được nữa, thì đột nhiên nghe sau lưng có tiếng gió rít lên. Nàng biết có người đánh lén, vội cúi người tránh né. Nghe vù một tiếng, một thanh đơn đao bay sạt qua đầu. Trường đao bên tay trái của Lạc Băng bèn phong tỏa trung lộ của địch, bắt đối phương lùi một bước rồi nàng mới quay người lại, nhìn thấy Chu Ỷ hoành đao đứng đó.
Chu Ỷ đưa tay chỉ mặt Lạc Băng, giận dữ nói: “Quả là không biết tốt xấu! Ta đã có lòng tốt cứu ngươi, sao ngươi lại chém gia gia ta?”
Lạc Băng nói: “Thiết Đảm Trang giả nhân giả nghĩa hại chết chồng ta. Ngươi tránh ra, ta không làm khó dễ ngươi.” Rồi nàng quay lại chém Chu Trọng Anh thêm một đao. Chu Trọng Anh đưa ghế lên chống đỡ, Lạc Băng rụt trường đao về không chém vào ghế, rồi lại ra ba chiêu liên hoàn thần tốc công tới.
Chu Trọng Anh né trái né phải, miệng luôn hô hoán: “Dừng tay! Dừng tay!”
Chu Ỷ giận dữ xông ra cản trước mặt Chu Trọng Anh, vung đao đấu với Lạc Băng.
Về kinh nghiệm hay võ nghệ thì Lạc Băng đều hơn hẳn Chu Ỷ, nhưng vết thương trên vai và trên đùi nàng chưa lành hẳn. Hơn nữa, nàng đang vừa tức giận vừa lo lắng, đó chính là chuyện đại kỵ của người học võ. Vì thế mà mới bảy tám chiêu, Lạc Băng đã ở thế hạ phong.
Chu Trọng Anh vẫn la gọi dừng tay, nhưng làm sao mà can ngăn được. Vạn Khánh Lan cùng Đồng Triệu Hòa đứng bên cứ chỉ chỉ trỏ trỏ, nhàn hạ đứng nhìn.
Chu Trọng Anh thấy con gái không nghe lời mình lại càng lo lắng, định xách ghế liều mạng nhảy ra ngăn cản trận đấu giữa hai người. Đột nhiên ông nghe phía sau có tiếng gầm, rồi một bóng đen lao tới.
Người này thân hình lùn tịt, tay cầm lang nha bổng. Cây bổng ngắn này trên đầu lấp loáng rất nhiều răng nhọn, đập từ trên xuống đầu Chu Ỷ, thế dữ như cọp điên, khó mà đỡ nổi. Chu Ỷ hoảng sợ né qua rồi xoay đơn đao lại ra chiêu Thần Long Đẩu Giáp chặt lên vai người đó.
Y vung bổng công nhiên đón lấy, nghe keng một tiếng rồi lửa bắn tung tóe. Tay của Chu Ỷ tê chồn, đơn đao suýt tuột khỏi tay. Nàng phải lùi lại hai bước, nhìn kỹ lại thấy người này lưng gù, xấu xí vô cùng. Người gù này không truy kích, lại chạy đến chỗ Lạc Băng.
Lạc Băng nhìn thấy người quen, vừa vui mừng vừa thương tâm. Nàng chỉ gọi được một tiếng: “Thập ca!” rồi nhịn không nổi, hai dòng lệ đã lăn xuống má.
Chương Tấn hỏi: “Tứ ca đâu?”
Lạc Băng chỉ mặt Chu Trọng Anh, Vạn Khánh Lan và Đồng Triệu Hòa, la lên: “Tứ ca đã bị chúng hại rồi. Thập ca mau trả thù cho muội.”
Chương Tấn vừa nghe thấy Văn Thái Lai bị người ta hại, chưa biết hại như thế nào đã vội kêu lên: “Tứ ca! Tứ ca! Đệ trả thù cho ca ca đây!” Tay y liền vung lang nha bổng đập tới hạ bàn của Chu Trọng Anh.
Chu Trọng Anh tung người nhảy lên bàn, hét lên: “Khoan hãy động thủ!” Chương Tấn đang lúc bi phẫn, không nói năng gì cứ múa bổng đánh vào chân ông. Hai vai của Chu Trọng Anh nhún một cái, ông nhảy lên cao mấy thước, rồi đảo người đứng xuống đất. Cây bổng của Chương Tấn đánh vào cái bàn bằng gỗ cẩm, mấy cái răng nhọn ghim lút xuống bàn, nhất thời không nhổ lên kịp để đánh tiếp.
Lúc này, Mạnh Kiện Hùng và An Kiện Cương đã biết chuyện, chạy vội vào đại sảnh. An Kiện Cương đem cây kim bối đại đao của Chu Trọng Anh tới, đưa cho sư phụ.
Chu Ỷ thấy Lạc Băng cùng gã gù kia đến trang quấy rối một cách vô lý, lại ra những chiêu hung ác tấn công gia gia mình, dĩ nhiên không thể đứng yên. Nàng la lớn: “Mạnh đại ca, An đại ca! Chúng ta cùng tiến lên đi! Không biết ở đâu chui ra những quân tàn bạo thế này, cả gan đến Thiết Đảm Trang quấy rối.”
Hai người Mạnh, An không biết lai lịch của Chương Tấn, cũng không biết lý do Chương Tấn đến đây, nhưng vừa vào đại sảnh đã thấy y vung bổng tấn công sư phụ, liền cho y là kẻ địch, không nghi ngờ gì nữa. Thế là ba người ba đao cùng tấn công Chương Tấn.
Chương Tấn múa bổng chống đỡ, lớn tiếng hô: “Thất ca! Ca ca mau mau bảo vệ Tứ tẩu. Ca ca mà không vào đây cho lẹ thì đệ lôi tổ tông ca ca ra mà chửi đấy!”
Thì ra Chương Tấn cùng Võ gia cát Từ Thiên Hoằng vừa biết vợ chồng Văn Thái Lai lâm nạn đã nhanh chóng đến đây cứu giúp. Hai người đi suốt ngày đêm, tới Thiết Đảm Trang thì trời đã tối. Từ Thiên Hoằng định chuẩn bị danh thiếp, dùng lễ vãn bối bái kiến Chu Trọng Anh trước, nhưng Chương Tấn chưa nói gì đã tung người nhảy vào trang. Từ Thiên Hoằng sợ y gây họa, chỉ còn cách chạy vội theo. Chàng đến trễ một bước, Chương Tấn đã giao thủ với cả bốn người Chu Trọng Anh, Chu Ỷ, Mạnh Kiện Hùng và An Kiện Cương.
Từ Thiên Hoằng nghe tiếng hô của Chương Tấn liền vội vàng chạy vào trong sảnh, đến cạnh Lạc Băng. Lúc này Lạc Băng cũng đã bình tĩnh trở lại, đôi song đao trong tay lại chém tới Chu Trọng Anh. Nàng thấy Từ Thiên Hoằng đột nhiên xuất hiện liền mừng thầm trong lòng, biết vị quân sư túc trí đa mưu này đến đây thì chắc chắn phe ta không bị thiệt thòi nữa.
Lạc Băng chỉ mặt Đồng Triệu Hòa và Vạn Khánh Lan, la lớn: “Chúng đã hại Tứ ca của ta rồi!” Từ Thiên Hoằng vốn cẩn thận trì trọng, nhưng nghe thấy Tứ ca thân ái bị hại cũng phải mất bình tĩnh, tay hữu cương đao tay tả thiết quải, tung người nhảy tới trước mặt Đồng Triệu Hòa.
Họ Đồng và họ Vạn đang khoái chí đứng xem Hồng Hoa Hội và Thiết Đảm Trang cấu xé lẫn nhau. Hồng Hoa Hội ít người chắc chắn sẽ thua, khi đó chúng thừa cơ bắt thêm mấy người về nộp, thật là công lao to lớn. Cặp mắt háo sắc của Đồng Triệu Hòa đang thèm thuồng nhìn Lạc Băng, đột nhiên thấy Từ Thiên Hoằng tung người nhảy đến, hắn vội vàng đưa đao ra cản lại.
Vạn Khánh Lan nghĩ bụng: “Danh tiếng Trấn Viễn tiêu cục không phải nhỏ, để ta xem thử bọn tiêu đầu các người bản lãnh ra sao.”
Từ Thiên Hoằng thân hình nhỏ bé, trông rất xứng cặp với Đồng Triệu Hòa. Nhưng võ nghệ chàng cao hơn nhiều, chỉ mấy chiêu là đã ép đối phương lùi liên tục. Tay tả vung thiết quải móc ra ngoài, tay hữu ra chiêu Bàn Thốn Thích Trác công tới. Đồng Triệu Hòa vội tránh sang bên trái, lưu ý được phía trên thì phía dưới lại sơ hở. Hắn liền bị một chiêu Tảo Đường Thoái của Từ Thiên Hoằng quét trúng gót chân, ngã lăn quay ra đất.
Từ Thiên Hoằng bèn vung thiết quải từ trên đập xuống, nhưng chưa đánh tới nơi đã phát giác sau lưng mình có một luồng kình phong ào tới. Chàng không kịp quay lại, chân trái chấm lên ngực Đồng Triệu Hòa, ngã người ra né tránh cặp thiết xuyên của Vạn Khánh Lan. Đồng Triệu Hòa kêu ôi ối, nhất thời không sao đứng dậy được.
Vạn Khánh Lan đã khổ công tập luyện đôi thiết xuyên hơn hai mươi năm trời, dựa vào bản lãnh chân thật của mình mà liên tiếp đánh bại rất nhiều cao thủ ở Bắc Kinh, giành được chức Tổng giáo đầu trong Trịnh vương phủ. Trịnh Thân Vương muốn nâng đỡ hắn, bèn cho hắn đi theo Trương Triệu Trọng kiếm chút ít công lao, rồi đề cử làm quan. Lúc này hắn ác đấu với Từ Thiên Hoằng, một người sức lực mạnh mẽ, một người chiêu thức tinh vi, mười mấy chiêu vẫn chưa phân thắng bại.
Vạn Khánh Lan lo lắng, thầm nghĩ: “Tên này nhỏ con như vậy mà ta không thắng nổi, chắc Đồng Triệu Hòa sẽ chê cười.” Y bèn vung cao thiết xuyên đánh mạnh về phía Từ Thiên Hoằng. Từ Thiên Hoằng dùng thiết quải cản trở, còn cương đao bên tay phải chém thẳng tới mặt địch thủ. Vạn Khánh Lan vội thu thiết xuyên lại, ra chiêu Khổng Tước Khai Bình hoành ngang trước mặt chống đỡ, còn thiết xuyên bên tay phải dùng chiêu Bá Vương Ngự Giáp chém từ trên xuống. Từ Thiên Hoằng lập tức nghiêng mình né tránh, cây thiết xuyên vụt sạt qua bên trái, cách chưa đầy một tấc, thật là nguy hiểm.
Từ Thiên Hoằng thấy đối phương bản lãnh cao cường, bèn cẩn thận hơn. Chàng thân hình bé nhỏ nên tập trung tấn công vào hạ bàn, đơn đao thiết quải nhập lại đánh vào chân địch thủ. Vạn Khánh Lan không biết đây chỉ là hư chiêu, bèn đưa đôi xuyên một chặn giữa đùi, một vung ra ngoài phản kích. Không ngờ cương đao của Từ Thiên Hoằng thì chém tiếp, nhưng thiết quải lại biến chiêu giữa chừng, từ dưới đánh ngược lên, điểm vào giữa mặt.
Vạn Khánh Lan không sao đỡ kịp, lập tức nhào ngửa ra sau. Hắn thi triển thân pháp Thiết Bản Kiều né được quải này, nhưng đã sợ đến toát mồ hôi lạnh đầy người. Đánh thêm mấy chiêu nữa, hắn cảm thấy mình không sao địch nổi, bất giác kinh hãi trong lòng.
Bên kia thì Chương Tấn lấy một địch ba, càng đánh càng hung mãnh. Mạnh Kiện Hùng hô lớn: “Kiện Cương! Mau mau ra giữ cổng trang, đừng để người khác vào thêm nữa.”
Cây lang nha bổng của Chương Tấn rất cương mãnh, múa lên gió lộng vù vù, An Kiện Cương không sao thoát khỏi vòng chiến được. Chu Ỷ bèn la lớn: “An nhị ca ra nhanh lên, tên gù này để muội đối phó.”
Chương Tấn nghe thấy Chu Ỷ nói tới chữ “gù”, phạm vào đại kỵ, nên lửa giận càng hừng hực, vừa gào thét điên cuồng vừa tấn công mãnh liệt. Chu Ỷ và Mạnh Kiện Hùng hợp sức vất vả chống đỡ, An Kiện Cương tranh thủ nhanh chân chạy ra ngoài sảnh.
Chu Trọng Anh hô to: “Mọi người mau dừng tay, nghe lão phu nói một câu đã.”
Mạnh Kiện Hùng cùng Chu Ỷ lập tức lui lại mấy bước. Từ Thiên Hoằng cũng lùi lại một bước, kêu lên: “Thập đệ dừng tay, nghe ông ta nói trước đã.” Chương Tấn cứ mặc kệ, nhào lên đánh tiếp. Từ Thiên Hoằng định tiến tới cản trở, không ngờ Vạn Khánh Lan đột nhiên đánh lén sau lưng.
Từ Thiên Hoằng không kịp phòng bị, vội co người lại nhưng cũng trúng đòn vào vai. Chàng vừa đau vừa giận, loạng choạng kêu lên: “Hay lắm! Thiết Đảm Trang thật là quỉ kế đa đoan.” Chàng không biết Vạn Khánh Lan không phải là người của Thiết Đảm Trang.
Họ Từ vốn là người trầm tĩnh, nhưng bất ngờ bị ám toán nên không khỏi giận dữ. Vai trái bị thương, thiết quải không dùng được, chàng chỉ cầm cương đao tái đấu với Vạn Khánh Lan, thi triển đao pháp Ngũ Hổ Đoạn Môn Đao tấn công liên tục. Nhưng thiếu đi cây thiết quải nên đơn đao không sao phát huy hết sức, không chiếm thế thượng phong được nữa.
Đồng Triệu Hòa đứng xa xa chỉ trỏ Lạc Băng, miệng không ngừng phát ngôn bừa bãi, dùng lời bậy bạ mà trêu chọc mỹ nhân. Lạc Băng chỉ còn một mũi phi đao nên không thể khinh suất phóng ra, chỉ xách đao đuổi theo. Đồng Triệu Hòa ỷ vào đôi chân nhanh nhạy, chạy vòng vèo trong đại sảnh giữa mớ bàn ghế đổ lung tung mà tránh né. Hắn lại nói: “Đừng hung dữ như thế! Chồng của muội đã chết từ lâu rồi, bây giờ ngoan ngoãn tái giá với Đồng đại gia cho xong.”
Lạc Băng vốn đã hoảng loạn, nghe thấy câu này lại tưởng Văn Thái Lai đã chết thật, trước mắt bỗng tối sầm rồi ngã xuống ngất đi. Đồng Triệu Hòa thấy nàng té nhào liền chạy tới. Chu Trọng Anh thấy thế, cơn giận nổi lên, cũng vung thanh Kim bối đại đao nhảy về phía Lạc Băng. Ông muốn cản trở Đồng Triệu Hòa vô lễ với nàng, nào ngờ lại gây chuyện hiểu lầm lần nữa.
Trước cửa có tiếng quát lớn: “Lão tặc dám thừa cơ ám toán Tứ tẩu của ta! Ta phải thí mạng với ngươi!” Một người nắm đôi song câu phân ra trên dưới, một chĩa vào yết hầu, một chĩa vào giữa ngực, xông thẳng vào Chu Trọng Anh, thế gấp như gió bão.
Chu Trọng Anh thấy người này diện mạo tuấn tú, thân thủ nhanh nhạy, trong lòng bỗng phát sinh hảo cảm, bèn cử đao lên cản nhẹ, lùi lại một bước rồi hỏi: “Tôn giá là ai? Xin cho biết danh tánh.”
Người kia không đáp, cúi nhìn Lạc Băng, thấy mặt nàng trắng như tờ giấy, hơi thở yếu ớt. Y liền dìu nàng dậy để ngồi dựa trên ghế, tiện tay nhặt đôi Uyên Ương Đao dưới đất lên, đặt bên cạnh nàng.
Chu Trọng Anh thấy đối phương càng lúc càng đông, đánh nhau càng lúc càng ác liệt, không sao biện minh được nên cứ bồn chồn trong dạ. Đột nhiên ông nghe bên ngoài có tiếng quát như sấm nổ, rồi lại nghe thấy tiếng vũ khí chạm nhau loảng xoảng. Chỉ chốc lát là An Kiện Cương thua trận chạy vào trong, một người đuổi theo sát gót. Người này vừa cao vừa mập, tay cầm cây cương tiên rất nặng, ít ra cũng hơn ba mươi cân. An Kiện Cương không dám dùng đơn đao để công nhiên đón đỡ cây cương tiên này.
Chương Tấn la lên: “Bát ca! Cửu ca! Hôm nay chúng ta chưa giết sạch người của Thiết Đảm Trang thì quyết không chịu dừng tay.”
Người mập mạp kia là Dương Thành Hiệp, ngồi ghế thứ tám trong Hồng Hoa Hội, ngoại hiệu Thiết Tháp. Người mặt mũi tuấn tú cầm song câu ngồi ghế thứ chín, chính là Cửu mạng cẩm báo tử Vệ Xuân Hoa. Lần nào ác chiến trong giang hồ hoặc với binh lính triều đình, Vệ Xuân Hoa cũng liều mạng bất kể sống chết. Số lần y gặp nguy hiểm thì không sao đếm xuể, nhưng chưa trọng thương lần nào, nên mới được người ta ví là con báo có chín mạng sống.
Hai người này là nhóm viện trợ thứ hai của Hồng Hoa Hội. Họ đến Thiết Đảm Trang đã gần nửa đêm, thấy cửa trang chong đuốc sáng trưng, trang đinh cầm sẵn vũ khí như sắp gặp đại địch. Vệ Xuân Hoa tiến lên hô lớn: “Họ Dương và họ Vệ của Hồng Hoa Hội đến đây xin bái kiến Chu lão anh hùng của Thiết Đảm Trang, phiền huynh đệ vào trong thông báo.”
Bên trong đang đánh nhau náo nhiệt, An Kiện Cương nghe thấy ba chữ Hồng Hoa Hội dĩ nhiên không dám để họ vào trang. Y bèn hét lớn: “Bắn tên!” Hai mươi mấy trang đinh đồng loạt giương cung, tên bay veo véo. Vệ Xuân Hoa và Dương Thành Hiệp giận dữ huy động binh khí gạt tên.
Cho dù trước mắt là núi đao hay mưa tên cũng thế, Vệ Xuân Hoa xông thẳng vào như một cơn gió. Bọn trang đinh thấy người này hung hãn vô song, tay chân đều bủn rủn hết. Chúng chưa kịp đóng chặt cửa trang, họ Vệ đã xông được vào trong.
Dương Thành Hiệp đi theo sau, bị An Kiện Cương múa đao cản trở. Họ Dương thân hình khôi vĩ, khí thế oai phong lẫm liệt, cương tiên vừa đánh ra đã nghe tiếng gió vù vù. An Kiện Cương không dám gạt đỡ, phải vừa lo tránh né vừa tìm khoảng trống vung đao phản kích. Dương Thành Hiệp sử chiêu Hoành Tảo Thiên Quân, dùng sức quạt cương tiên ra. Nghe keng một tiếng, đao và tiên chạm nhau, cổ tay của An Kiện Cương chấn động, đơn đao tuột khỏi tay văng đi mất.
Dương Thành Hiệp không muốn hại mạng người, đợi y lùi lại mới vung roi đập vỡ cánh cửa thứ hai rồi xông vào. Y không thuộc đường lối trong trang, trong đêm tối phải đứng yên nghe ngóng để tìm đường. An Kiện Cương đã tìm được một con đao khác, lại nhảy tới cản trở, lần này còn cẩn thận hơn. Nhưng được mấy chiêu, đơn đao của y lại bị cương tiên của Dương Thành Hiệp đập trúng, cong vòng lại.
An Kiện Cương múa thanh loan đao này hộ thân lùi vào trong đại sảnh. Dương Thành Hiệp vung roi đập xuống đầu, An Kiện Cương vội vàng giật lùi lại, tiện tay đẩy một cái bàn ra cản. Nghe ầm một tiếng, một góc bàn bị đánh sập xuống đất, gỗ vụn bay tứ tán.
Chu Trọng Anh vừa kinh hãi vừa thán phục, chẳng trách Hồng Hoa Hội thanh thế rất lớn. Nhân vật trong hội này, quả nhiên người nào cũng võ nghệ kinh người. Ông thấy An Kiện Cương mồ hôi đầy đầu, chỉ vài chiêu nữa là không khỏi mất mạng dưới ngọn roi, bèn đề khí hô to: “Các vị anh hùng Hồng Hoa Hội, hãy nghe lão phu nói một câu.”
Lúc này Vệ Xuân Hoa đã thay thế cho Từ Thiên Hoằng, ác chiến với Vạn Khánh Lan. Chàng và Dương Thành Hiệp nghe Chu Trọng Anh kêu gọi, tay liền chậm lại. Từ Thiên Hoằng kêu lớn: “Cẩn thận, đừng để bị lừa!”
Tiếng kêu chưa dứt, quả nhiên Vạn Khánh Lan đã vung thiết xuyên đánh tới Vệ Xuân Hoa. Hắn sợ nhất là Thiết Đảm Trang và Hồng Hoa Hội liên kết với nhau, nên quyết không để họ có cơ hội nói chuyện. Vệ Xuân Hoa nghe tiếng kêu của Từ Thiên Hoằng đã có phần phòng bị. Chàng thấy địch thủ bỉ ổi đánh lén, bèn nổi giận vung song câu đánh như gió táp mưa sa. Vạn Khánh Lan thấy địch thủ này hung hãn liều mạng, bèn hoảng sợ nhảy lùi lại, thu cặp thiết xuyên về chống đỡ.
Từ Thiên Hoằng lạnh lùng cất tiếng: “Giang hồ đồn đại Chu Thiết Đảm là hảo bằng hữu, đại danh đại nghĩa, thì ra chỉ có hư danh. Con người âm hiểm độc ác, chuyên dùng quỉ kế để ám toán, sao gọi là anh hùng hảo hán được?”
Chu Trọng Anh biết đối phương hiểu lầm, nhưng cũng không sao nén được cơn giận, bèn quát lớn: “Hồng Hoa Hội các ngươi bức hiếp người ta quá đáng!” Ông bèn vung thanh kim bối đại đao lên, hô gọi: “Kiện Cương lùi lại, để ta tỉ đấu với mấy vị anh hùng hào kiệt nổi danh này.”
An Kiện Cương lùi ra vài bước. Chu Trọng Anh bước tới nói: “Xin hỏi tôn tính đại danh các vị.”
Dương Thành Hiệp thấy râu tóc của ông bạc phơ bay phất phới, không dám khinh mạn, bèn chắp tay nói: “Tại hạ là Thiết tháp Dương Thành Hiệp.”
Lúc này, Lạc Băng đã tỉnh lại, bèn kêu lớn: “Bát ca! Ca ca khách khí làm gì nữa, lão thất phu này đã hại Tứ ca rồi.”
Câu này vừa nói ra, bốn người họ Từ họ Dương họ Vệ họ Chương lập tức vừa kinh hãi vừa bi phẫn. Vệ Xuân Hoa không lý gì tới Vạn Khánh Lan nữa, nhảy xổ tới trước mặt Chu Trọng Anh, vung song câu như gió đánh thẳng vào ông. Chu Trọng Anh hoành đại đao xuống tấn, vận nội lực gạt bật song câu ra ngoài. Ngực Vệ Xuân Hoa nhói lên một cái, biết ngay võ công đối phương lợi hại. Nhưng y là người nổi tiếng không biết sợ chết, nên không lùi bước mà cứ tiếp tục tấn công.
Bên kia Chương Tấn một mình đấu với Mạnh Kiện Hùng và Chu Ỷ, đã đánh đến mức không nói chuyện gì được nữa. An Kiện Cương thở hồng hộc, đưa tay áo lên lau mồ hôi trên trán, rồi lại vung đao nhảy vào trợ chiến. Dương Thành Hiệp thì múa cương tiên tấn công Vạn Khánh Lan.
Từ Thiên Hoằng xem tình hình ác chiến trong đại sảnh, thấy Chương Tấn tuy phải lấy một địch ba nhưng không chịu ở thế hạ phong, còn Vệ Xuân Hoa mới là khó chống đỡ. Chu Trọng Anh đã mấy lần hạ thủ lưu tình, nhưng đối phương vẫn quyết không chịu lùi bước, quả là đang tuổi tráng niên không biết tốt xấu là gì. Thêm mấy chiêu nữa, móc câu bên tay trái của Vệ Xuân Hoa bị gạt văng ra ngoài.
Từ Thiên Hoằng thấy Chu Trọng Anh đao pháp kỳ lạ, công lực thâm hậu, rõ ràng Vệ Xuân Hoa không phải là địch thủ, liền cầm đơn đao xông vào trợ chiến. Họ Từ, họ Vệ lấy hai địch một nhưng vẫn không sao thắng nổi. Chu Trọng Anh tuổi đã già, mà vẫn huy động cây kim bối đại đao phát ra ánh sáng trắng vàng đan xen chói mắt. Chiêu số càng lúc càng tinh vi, kình lực càng lúc càng mạnh mẽ, quả là dũng mãnh phi thường.
Từ Thiên Hoằng thấy không thắng nổi, bèn lớn tiếng hô: “Ngũ ca, Lục ca! Các huynh đến đây, chúng ta phóng hỏa đốt Thiết Đảm Trang này quách.” Chàng chỉ hư trương thanh thế mà thôi. Thật ra đương gia thứ năm và thứ sáu trong Hồng Hoa Hội là anh em Thường Hách Chí và Thường Bá Chí không đến đây, họ đang phụng mệnh Tổng đà chủ đi Tam Đạo Câu để theo dõi hành tung của bọn công sai.
Nghe họ Từ kêu gọi như thế, quả nhiên mọi người trong Thiết Đảm Trang đều giật mình kinh hãi. Chu Trọng Anh bị phân tâm, suýt trúng phải một câu của Vệ Xuân Hoa. Ông chau mày lại, vung đại đao ra ba chiêu liên hoàn Tam Dương Khai Thái, ép Từ và Vệ lùi luôn mấy bước, rồi tung người phóng đến cửa đại sảnh, định ra ngoài cản trở kẻ địch phóng hỏa.
Nào ngờ Vệ Xuân Hoa đuổi sát như bóng theo hình, người chưa đến mà câu đã đến trước, móc thẳng vào lưng ông. Chu Trọng Anh hoành đao ngược lại, hất song câu ra nghe keng một tiếng. Chân phải của ông lại quét sát dưới đất, đồng thời tay trái phóng ra một chưởng. Vệ Xuân Hoa vội vã tung người nhảy lên né tránh. Chu Trọng Anh bèn chụm năm ngón tay lại như móng chim điêu, vẫy ngược lại đánh trúng vào vai đối thủ.
Chu Trọng Anh liên tiếp đá quét, phóng chưởng, vẫy tay như thế, chính là tuyệt kỹ Nhị Lang Đảm Sơn trong Thiếu Lâm quyền. Vệ Xuân Hoa đang chuyên tâm đối phó với đại đao của ông, nào ngờ ông đột nhiên thi triển Thiếu Lâm quyền nên nhảy loạn cả lên. Chàng tránh được hai thức, tới thức cuối cùng thì không sao tránh nổi, vai phải trúng ngay một đòn. Rất may Chu Trọng Anh hạ thủ lưu tình chỉ sử dụng bốn phần công lực, nếu không thì y phải trọng thương.
Vệ Xuân Hoa đánh thua lại càng hung hãn. Y bị Chu Trọng Anh đánh lùi ba bước, đứng chưa vững chân đã phóng tới bốn bước, vung song câu sử chiêu Thái Phượng Thuyền Sào, cuộn tới vô cùng dũng mãnh.
Chu Trọng Anh giận dữ kêu lên: “Anh bạn trẻ kia! Ta với ngươi không có thù giết cha giết mẹ, cũng không có hận cướp vợ đoạt con, làm gì phải liều mạng đến thế? Ta đã hạ thủ lưu tình, ngươi cũng nên biết tốt xấu một chút.”
Vệ Xuân Hoa đáp: “Ngươi giết Văn tứ ca của ta, thù sâu như biển. Ta đánh không thắng ngươi, nhưng ta lại là Cửu Mạng Cẩm Báo Tử đánh không chết được, ngươi có biết không?” Miệng y đối đáp, song câu trong tay y vẫn không chậm lại chút nào.
Chu Trọng Anh thấy y hung hãn dũng mãnh như thế, trong lòng tức giận nhưng không khỏi có phần kính nể, bèn nói: “Lão phu đã sống sáu mươi mấy tuổi rồi, chưa gặp tên nào liều mạng như ngươi.”
Vệ Xuân Hoa đáp luôn: “Thế thì hôm nay ông đã gặp rồi.” Soạt một tiếng, câu lại đâm tới, Từ Thiên Hoằng cũng vung đơn đao chém tạt ngang. Chu Trọng Anh nhảy vọt lên tránh né, đại đao lại nhanh chóng chém ra. Vệ Xuân Hoa đang luống cuống đỡ đao thì Chu Trọng Anh bỗng khom lưng xuống, thúc khuỷu tay ra trúng ngay vào sườn của y. Đây đúng là chiêu Lạc Hà Khốn trong Thiếu Lâm quyền, nếu dùng hết sức thì ít ra Vệ Xuân Hoa cũng phải gãy mấy cái xương sườn. Vệ Xuân Hoa bị thúc trúng, biết đối phương chưa dùng hết sức, nhưng cũng đau đến tận xương tủy, hự một tiếng rồi gập lưng xuống.
Từ Thiên Hoằng vội bảo: “Cửu đệ, mau lùi ra.” Vệ Xuân Hoa không đáp, lảo đảo mấy cái, giương mắt nhìn chòng chọc vào Chu Trọng Anh, rồi lại cầm song câu tiến lên.
Chu Trọng Anh cất tiếng mắng: “Tên này thật là hết thuốc chữa rồi!”
Từ Thiên Hoằng lại hô hoán: “Thập nhị đệ mau mau phóng hỏa, nhớ giữ chắc cửa sau, đừng để tên nào chạy thoát khỏi trang.”
Chu Ỷ bị tiếng hô đó làm loạn cả tâm trí, biết lúc này không sao thắng nổi Chương Tấn, bèn nghĩ bụng: “Ta phải giết bớt một tên rồi tính tiếp.” Nàng bèn vung đao lên, chạy về phía Lạc Băng.
Từ lúc Lạc Băng nghe Đồng Triệu Hòa nói chồng mình đã chết, nàng cứ mơ mơ hồ hồ ngồi yên trên ghế. Mọi người trong đại sảnh đánh nhau loạn xạ, nàng chỉ thấy mờ mờ một khối người chạy qua chạy lại, đầu óc hoàn toàn trống rỗng, mọi việc trước mắt không hiểu tí gì. Chu Ỷ tung người, nhảy đến trước mặt, vung đao chém xuống, Lạc Băng cứ ngơ ngẩn mỉm cười, dáng vẻ muốn khóc nhưng không khóc nổi.
Chu Ỷ thấy vẻ mặt nàng dịu dàng đau khổ thật đáng thương, lưỡi đao không sao chém xuống được. Cô định thần lại, nhặt lấy Uyên Ương song đao trên ghế, nhét vào tay Lạc Băng rồi bảo: “Đánh đi!”
Lạc Băng tiện tay nhận lấy đao. Chu Ỷ khẽ chém từ trên xuống, xem thử nàng có đỡ hay không. Lạc Băng vẫn mỉm cười, tiện tay đưa đoản đao bên tay phải chống đỡ, trường đao bên tay trái phản kích. Chu Ỷ thở ra một hơi, dịu dàng nói: “Vậy mới đúng chứ! Đứng lên mà đánh.”
Lạc Băng cũng nghe lời đứng dậy, nhưng vết thương trên đùi còn rất đau, nên nàng lảo đảo một cái lại ngồi xuống ghế. Thế là một người ngồi một người đứng, một bên song đao một bên đơn đao nhẹ nhàng chiết giải mấy chiêu.
Chu Ỷ bỗng lên tiếng: “Ta không giỡn với cô nữa.” Cô thấy đối thủ cứ ngẩn ngơ không tỉnh, giết chết thì không nỡ, mà tỉ đấu thì vô vị. Bây giờ cô nghe Từ Thiên Hoằng hô hào phóng hỏa, trong lòng hoang mang liền bỏ mặc Lạc Băng ở đó mà chạy ra ngoài đại sảnh.
Vừa đến cửa sảnh, nàng đột nhiên nghe một giọng âm u cất lên: “Muốn chạy trốn ư?” Chu Ỷ kinh hãi tung người nhảy ngược ra sau, rồi lùi thêm hai bước. Dưới ánh nến, nàng nhìn rõ hai người đứng chặn trước cửa. Người vừa lên tiếng khuôn mặt lạnh như băng, nhưng ánh mắt rất sáng, có thể thu nhiếp cả hồn phách người ta.
Chu Ỷ muốn nhìn sang người đứng cạnh y, nhưng thật là kỳ lạ, dường như nàng đã bị ánh mắt sáng lạnh của y thôi miên, không nhìn đi đâu được nữa, khẽ rên lên: “Ta gặp ma rồi!”
Người kia lạnh lùng cất tiếng: “Không sai! Ta là Quỉ Kiến Sầu đây!” Thanh âm của y hoàn toàn không có chút nào hơi ấm của con người.
Chu Ỷ trước giờ không biết sợ trời sợ đất là gì, nhưng nghe giọng nói rợn người đó cũng không khỏi rùng mình, bèn hét lên để tự trấn an: “Chẳng lẽ bản cô nương lại sợ ma?” Tuy trong lòng sợ hãi lắm rồi, nhưng nàng vẫn vung đao lên chém xuống đầu y.
Người đó cũng cầm đơn đao, bèn ra chiêu Tả Quái Kim Linh nhẹ nhàng gạt ra, hai mắt vẫn nhìn thẳng vào nàng. Chu Ỷ cảm thấy chiêu thức của y nhẹ nhàng linh hoạt, kình lực chưa phát ra đã thấy sung túc, rõ ràng công phu nội gia cực kì thâm hậu. Nàng kinh hãi vô cùng, nhưng lại nghĩ: “Dù sao thì mẹ ta đã bỏ đi, em trai ta đã bỏ mạng, ta cùng gia gia có bị giết cũng không sao nữa.” Chu Ỷ bèn đề cao dũng khí, vung đao loạn xạ, bất kể phương hướng cứ việc chém tới.
Người này chính là nhân vật chấp chưởng Hình đường của Hồng Hoa Hội, Thập nhị lang Quỉ kiến sầu Thạch Song Anh. Y vốn là đệ tử của Vô Cực quyền môn, nhưng sau khi gia nhập Hồng Hoa Hội thì thường xuyên được thỉnh giáo võ công của Tam đương gia Triệu Bán Sơn. Triệu Bán Sơn đã đem Huyền Huyền đao pháp của Thái Cực Môn dạy cho y, nên hai người này danh nghĩa là huynh đệ mà thực chất là sư đồ.
Thạch Song Anh dùng tịnh chế động, dùng nhu thắng cương, chỉ mấy chiêu đã phong tỏa được đao pháp của Chu Ỷ. Bên kia thì hai người Mạnh Kiện Hùng, An Kiện Cương đã sắp thua dưới tay Chương Tấn. Cây thiết xuyên bên trái của Vạn Khánh Lan đã bị Dương Thành Hiệp dùng cương tiên đánh gãy, hắn không dám đánh nữa, chỉ chạy vòng vòng quanh bàn ghế để né tránh, may mà họ Dương to con mập mạp nên đuổi hắn không kịp. Đồng Triệu Hòa thì không biết đã chui vào đâu mà trốn.
Chỉ có Chu Trọng Anh đánh với Từ Thiên Hoằng và Vệ Xuân Hoa là ở thế thượng phong. Ông biết hỗn chiến kéo dài như thế này không phải là thượng sách, muốn đánh ngã hai người này trước rồi sẽ nói chuyện rõ ràng, bèn vung đao đánh gấp, ép hai đối thủ lùi lại liên tục. Đã sắp đắc thủ, đột nhiên ông thấy một người nhảy đến la lớn: “Để ta đấu với lão già này thử xem!”, rồi một cây thiết trượng đập thẳng xuống đầu.
Binh khí là thiết trượng, nhưng chiêu thức lại của thiền trượng, chính là Phong Ma trượng pháp của Lỗ Trí Thâm. Người này ỷ mạnh nên dùng thiết trượng sử dụng như thiền trượng, ra chiêu Tần Vương Tiên Thạch vung thiết trượng từ sau lưng vòng qua vai phải, đánh thẳng tới Chu Trọng Anh nghe vù một tiếng. Y chính là người cùng đến với Thạch Song Anh, xếp thứ mười ba trong Hồng Hoa Hội, Đồng đầu ngạc ngư Tưởng Tứ Cân.
Chu Trọng Anh thấy thế công của địch thủ rất mãnh liệt, bèn né sang bên trái, tiện tay chém trả một đao. Tưởng Tứ Cân đảo người tránh né, hai tay nắm chắc đuôi thiết trượng, quét lẹ đầu trượng tấn công qua trái. Đây chính là chiêu Kim Giao Tiễu Nguyệt trong Phong Ma trượng pháp. Chu Trọng Anh là đồ đệ chính tông của phái Thiếu Lâm, dĩ nhiên biết chiêu này nên chuyển mình tránh được. Trong đầu ông nảy ra một ý nghĩ, bèn thay đổi bộ pháp, vừa đánh vừa lùi dần lại. Thấy Vạn Khánh Lan đang chạy trốn Dương Thành Hiệp sắp tới gần mình, Chu Trọng Anh bèn vung đại đao ra chém vào lưng họ Vạn.
Thì ra Chu Trọng Anh biết Hồng Hoa Hội hiểu lầm rất nặng, không phải chỉ mấy câu là giải thích xong. Ông đã mấy lần hô hoán dừng tay, đều bị tên Vạn Khánh Lan này đứng giữa phá cho hỏng việc. Lúc hắn đến Thiết Đảm Trang giở trò đòi tiền, Chu Trọng Anh đã giận lắm rồi, nhưng ông nghĩ nếu mình chống đối với quan phủ tức là tạo phản, uổng công mấy chục năm trời an cư lập nghiệp ở đây. Người xưa đã nói: “Diệt môn lẹ nhất là huyện quan”, nếu đắc tội với quan phủ thì tai họa vô cùng.
Chu Trọng Anh đúng là hào kiệt một phương, nhưng hai chục năm nay đã gầy dựng địa sản gia tài, ngày càng giàu có, không muốn vứt đi tất cả để xử lý Vạn Khánh Lan. Hơn nữa con trai của ông vừa chết vì Hồng Hoa Hội, thế mà họ chẳng thèm hỏi câu nào, vừa vào trang đã chém giết ác liệt, còn dọa đốt cả trang trại. Trong lòng ông không khỏi tức giận, vì dù sao thì tuổi mình cũng lớn, đối phương không kính hiền thì cũng nên kính lão. Vì thế ông muốn thi thố võ công để áp đảo quần hùng, rồi sau đó mới nói rõ nguyên do.
Không ngờ người của Hồng Hoa Hội đến càng lúc càng nhiều, càng đánh càng hung hãn. Nếu kéo dài thì không khỏi có người trọng thương hay bỏ mạng, lúc đó thì hiểu lầm biến thành oán thật, không sao vãn hồi được nữa. Cân nhắc nặng nhẹ, Chu Trọng Anh bèn quyết tâm bỏ Thiết Đảm Trang không tiếc, thẳng tay với Vạn Khánh Lan để giải thoát cục diện căng thẳng này.
Vạn Khánh Lan thấy kim đao của Chu Trọng Anh chém tới mình, không khỏi sợ hãi vội vàng tránh né. Phía sau Dương Thành Hiệp lại truy tới, họ Vạn phải tức tốc nhảy lên bàn. Hắn đã biết dụng ý của Chu Trọng Anh, bèn kêu to lên: “Hai ta phải hợp sức mới bắt được Văn Thái Lai. Tuy rằng Văn Thái Lai là do ông giết được, nhưng món thưởng hai vạn lạng bạc của triều đình phải chia ra mới phải. Ông muốn giết ta để độc chiếm hay sao?” Tên này xảo quyệt vô cùng, muốn mồi cho Thiết Đảm Trang và Hồng Hoa Hội đánh nhau đến chỗ lưỡng bại câu thương.
Khi thấy Chu Trọng Anh vung đao chém Vạn Khánh Lan, quần hùng Hồng Hoa Hội đều chưng hửng dừng tay lại hết. Nhưng khi họ nghe Vạn Khánh Lan la lên vu cáo, thì mối thương tâm cho huynh đệ lại nổi lên, nhất thời không sao phân biệt được phải trái. Thế là trận chiến lại kịch liệt. Chương Tấn gầm lên một tiếng, múa lang nha bổng đánh tới lưng của Chu Trọng Anh. Họ Chu trong lúc gấp rút, có miệng cũng khó mà biện bạch, chỉ còn cách vung đao cản trở.
Chỉ có Từ Thiên Hoằng là tinh ý nhất, vừa rồi đấu với Chu Trọng Anh thấy ông nhiều lần hạ thủ lưu tình, tin chắc bên trong còn ẩn giấu nội tình. Chàng bèn hô lớn: “Thập đệ! Chớ có làm bừa.” Chương Tấn đang lúc đánh nhau say máu, hoàn toàn không nghe thấy.
Thiết trượng của Tưởng Tứ Cân cũng đồng thời đập ngang lưng Chu Trọng Anh. Họ Chu nghiêng mình né tránh, không ngờ sau lưng lại có cương tiên của Dương Thành Hiệp đánh với vai. Chu Trọng Anh nghe bên tai có tiếng gió rít lên, vội vàng hoành đao ngăn đón, cánh tay hai người đều tê dại hẳn đi.
Dương Thành Hiệp, Chương Tấn và Tưởng Tứ Cân là ba đại lực sĩ của Hồng Hoa Hội, đều có sức mạnh kinh người. Chu Trọng Anh lấy một đánh ba, dần dần tới lúc không chống đỡ được nữa. Ông quát to một tiếng, phải dùng đại đao gạt lang nha bổng của Chương Tấn làm tóe lửa ra, cánh tay gần như tê liệt. Lúc đó Tưởng Tứ Cân lại vung thiết trượng ra chiêu Phiên Thân Thượng Quyển, thiết trượng từ dưới hất lên, trúng ngay vào lưỡi đại đao. Chu Trọng Anh không giữ nổi, đại đao rời khỏi tay, bay lên cắm vào xà nhà đại sảnh.
Mạnh Kiện Hùng, An Kiện Cương thấy binh khí của sư phụ bị tuột khỏi tay đều kinh hãi vô cùng. Hai người xông lên bảo vệ, nhưng mới chạy được hai bước đã bị Vệ Xuân Hoa huy động song câu chặn đường.
Chu Trọng Anh để đao rời khỏi tay, lại nhảy chồm tới, hướng thẳng tới Dương Thành Hiệp. Ông ra chiêu Cung Tiễn Xung Quyền, tay trái chụp lấy đầu roi, tay phải đánh vào ngực y. Dương Thành Hiệp không ngờ bản lãnh của đối phương lại cao đến thế, lâm nguy vẫn có thể thi triển Không Thủ Đoạt Bạch Nhận để đoạt lấy cương tiên của mình. Khoảng cách quá gần, không sao phản ứng kịp, y bèn “hừ” một tiếng, ưỡn ngực ra hứng một quyền, cố giữ cương tiên không bị đoạt mất.
Dương Thành Hiệp có luyện công phu Hoành Luyện Thiết Bố Sam, tuy không thể nói là đao thương chém không vào, nhưng những roi gậy tầm thường không thể đả thương được y. Ngoại hiệu của y là Thiết Tháp, đủ biết thân hình to lớn vững chắc, giống như một tòa tháp được đúc bằng sắt vậy.
Thoi quyền của Chu Trọng Anh cực mạnh, kình lực vỡ đá giết trâu. Ông thấy đối phương thản nhiên hứng lấy như không, không khỏi âm thầm kinh hãi. Thật ra Dương Thành Hiệp cũng khổ sở một phen. Quyền này đánh y đau thấu tim gan, máu trào lên suýt vọt ra khỏi miệng. Y phải cố hít một hơi rất sâu để dằn lại, rồi ra sức giật mạnh cương tiên về.
Lúc này Chu Trọng Anh dồn kình lực vào tay trái, sức Dương Thành Hiệp tuy mạnh nhưng không bằng được công lực thâm hậu của Chu Trọng Anh. Thế là cương tiên trong tay y đã bị họ Chu cướp lấy.
Lúc Chu Trọng Anh chưa đoạt được cương tiên, binh khí của Chương Tấn và Tưởng Tứ Cân đã đánh tới nơi. Ông phải thả cây cương tiên xuống, tiện tay xô một cái bàn, đẩy hai người Chương Tưởng lùi ra.
Mạnh Kiện Hùng nhảy sang một bên, giương cung lắp đạn, bắn veo véo vào người Chương Tấn và Tưởng Tứ Cân, chống đỡ cho sư phụ được một lúc. Y thấy tình thế phe mình vô cùng nguy cấp, lại thấy sư phụ đẩy ngã chiếc bàn, ngọn nến trên bàn rơi xuống tắt ngấm, bèn này ra một ý.
Mạnh Kiện Hùng bèn bắn một loạt liên châu đạn, tắt hết tất cả đèn nến trong đại sảnh. Đại sảnh lập tức tối om, xòe tay ra cũng không thấy ngón tay. Mọi người đều bị bất ngờ, không hẹn cùng nhau lùi lại mấy bước, trận ác đấu lập tức ngưng lại. Ai cũng hít thở nhẹ nhàng, không phát ra tiếng, cũng không dám di chuyển bước nào. Trong bóng tối mà phát ra một chút âm thanh, bị địch thủ phát hiện là lập tức binh khí ám khí sẽ phóng tới, không biết đường nào mà né. Huống chi đây lại là một trận quần đấu, đánh nhau loạn xạ, trong tối mà ra tay bừa bãi, không chừng lại làm tổn thương đến người của phe mình.
Trong đại sảnh đột nhiên vắng lặng, nhưng sát khí vẫn trùng trùng, hình như còn kinh tâm động phách hơn những tiếng la hét chém giết vừa rồi.
Trong im lặng, đột nhiên có tiếng bước chân bên ngoài vang lên. Cửa sảnh vừa mở ra, mọi người cũng nhìn thấy ánh sáng. Một người cầm đuốc đi vào, ăn mặc như thư sinh, tay kia cầm một ống sáo bằng vàng. Y vừa bước vào trong cửa đã dừng lại, giơ ngọn đuốc lên cao.
Dưới ánh đuốc, lại có ba người đi vào trong. Một người là đạo nhân cụt một tay, lưng đeo trường kiếm. Một người khoác áo bào nhẹ nhàng, mày dài mặt ngọc, ăn mặc sang trọng như một công tử nhà giàu. Sau lưng chàng còn có một thiếu niên mười mấy tuổi, tay xách một cái bao. Mấy người này chính là Kim địch tú tài Dư Ngư Đồng, Truy hồn đoạt mệnh kiếm Vô Trần đạo nhân, và tổng đà chủ Hồng Hoa Hội mới nhận chức là Trần Gia Lạc. Thiếu niên đó là thư đồng Tâm Nghiễn(5) của Trần Gia Lạc.
Quần hào Hồng Hoa Hội thấy tổng đà chủ và Nhị đương gia đến nơi đều mừng rỡ, ai cũng bước lên chào hỏi.
Từ Thiên Hoằng khẽ bảo Dương Thành Hiệp và Vệ Xuân Hoa: “Để ý, coi chừng bọn Thiết Đảm Trang, đừng để trốn đi.” Hai người gật đầu, đi vòng ra sau Chu Trọng Anh.
An Kiện Cương hiểu ý, tức tối vô cùng. Y bước lên một bước, đang muốn mở miệng chất vấn thì bị Chu Trọng Anh nắm tay kéo lại, nói nhỏ: “Bình tĩnh, xem chúng nói gì trước đã.”
Dư Ngư Đồng cầm hai tấm danh thiếp đi đến trước mặt Chu Trọng Anh, chắp tay cúi mình, lớn tiếng nói: “Tổng đà chủ Trần Gia Lạc, Nhị đương gia Vô Trần đạo nhân của Hồng Hoa Hội bái kiến Chu lão anh hùng ở Thiết Đảm Trang.”
Mạnh Kiện Hùng bước lên nhận lấy rồi đưa cho sư phụ. Chu Trọng Anh xem thấy lời lẽ viết trên danh thiếp rất khách sáo, Trần Gia Lạc và Vô Trần đạo nhân đều tự xưng là vãn bối, bèn bước lên chắp tay nói: “Quí khách đến mà tệ trang không ra xa đón tiếp thật là thất lễ. Mời ngồi, mời ngồi!”
Lúc này bàn ghế trong đại sảnh đã nghiêng ngả lung tung. Chu Trọng Anh gọi lớn: “Người đâu!”
Tống Thiện Bằng vội dẫn mấy tên trang đinh vào sắp xếp lại bàn ghế, thắp nến lên, rồi phân ngôi chủ khách ngồi xuống đàng hoàng. Khách ngồi phía đông, đầu tiên là Trần Gia Lạc, rồi theo thứ tự là Vô Trần đạo nhân, Từ Thiên Hoằng, Dương Thành Hiệp, Vệ Xuân Hoa, Chương Tấn, Lạc Băng, Thạch Song Anh, Tưởng Tứ Cân, Dư Ngư Đồng. Tâm Nghiễn đứng sau lưng Trần Gia Lạc. Còn chủ vị ở phía đông, Chu Trọng Anh ngồi ghế đầu tiên, rồi sau đó là Mạnh Kiện Hùng, An Kiện Cương và Chu Ỷ.
Dư Ngư Đồng lén nhìn về phía Lạc Băng, thấy mặt nàng nhợt nhạt. Chàng không sao nén nổi, vừa thương xót, vừa đau lòng, vừa hổ thẹn, không biết nàng có kể lại chuyện mình làm bậy cho Thạch Song Anh biết hay không. Chàng nhìn sang Quỉ kiến sầu Thập Nhị Lang, thấy sắc mặt y vẫn lạnh như băng, hoàn toàn không lộ vẻ gì.
Từ lúc Lạc Băng bỏ đi, Dư Ngư Đồng cứ tự oán trách mình mà không biết phải làm gì. Suốt hai ngày sau đó, chàng cứ đi tới đi lui trong vòng mười mấy dặm, lúc nào cũng nghĩ đến vết thương ở chân của Lạc Băng, nếu nàng gặp phải bọn công sai thì làm sao mà chống đỡ. Chàng muốn lén lút theo sau để âm thầm bảo vệ, nhưng rốt cuộc vẫn không phát hiện ra tung tích của nàng, không ngờ nàng đã quay lại Thiết Đảm Trang. Đến hôm sau thì Dư Ngư Đồng gặp được Trần Gia Lạc và Vô Trần đạo nhân.
Hai người này nghe chuyện Văn Thái Lai bị Thiết Đảm Trang bán đứt, vừa kinh hãi vừa giận dữ vô cùng. Vô Trần muốn lập tức đi cứu Văn Thái Lai, Trần Gia Lạc bèn cản: “Các vị huynh đệ đã đến Thiết Đảm Trang hết. Mọi người không biết Chu Trọng Anh không đếm xỉa nghĩa khí giang hồ, không chừng sẽ bị lão này ám toán. Chi bằng chúng ta đến Thiết Đảm Trang trước, tập hợp huynh đệ rồi mới đi cứu Tứ ca.” Vô Trần gật đầu khen phải, bèn bảo Dư Ngư Đồng chỉ đường, tức tốc đến Thiết Đảm Trang. Họ đến đúng vào lúc Mạnh Kiện Hùng bắn đạn tắt nến, đại sảnh tối đen.
Vạn Khánh Lan thấy hai bên thi lễ đúng kiểu giang hồ, biết việc đã hỏng bét rồi, bèn lén lút đi chậm tới cửa, toan chạy trốn. Từ Thiên Hoằng tung người nhảy ra đứng chặn giữa cửa, quát lên: “Xin dừng bước! Chúng ta phải nói chuyện cho rõ ràng đã.”
Vạn Khánh Lan thấy đối phương người nhiều thế mạnh không dám động thủ, chỉ còn cách quay lại ngồi phía sau Chu Ỷ. Chu Ỷ trợn mắt hét lên: “Cút đi! Ngươi ngồi cạnh bản cô nương làm chi?” Vạn Khánh Lan bẽn lẽn kéo ghế ra xa mà ngồi.
Chu Trọng Anh và Trần Gia Lạc giới thiệu phe mình, mọi người đều thông danh tính. Chu Trọng Anh thấy đối phương đều là anh hùng hảo hán lừng danh cả, chẳng trách bản lãnh họ cao như thế. Ông lại thấy tổng đà chủ Trần Gia Lạc ra vẻ con quan, lúc nào cũng nhàn hạ thảnh thơi. Người như thế mà lại thống lĩnh nhiều giang hồ hào kiệt, hơn nữa ai đối với chàng cũng thập phần cung kính! Chu Trọng Anh thật sự cảm thấy kỳ lạ, âm thầm hoài nghi chuyện này có chỗ bí ẩn bên trong.
Trần Gia Lạc thấy ánh mắt của Chu Trọng Anh không ngớt nhìn mình lộ vẻ khác thường, đã hơi tức giận, nhưng cố nén lại, bình thản nói: “Tứ đương gia của tệ hội là Bôn lôi thủ Văn Thái Lai đã bị bọn ưng trảo tấn công, mang trọng thương phải trốn tránh ở quí trang. May mà được Chu lão tiền bối nghĩ đến chỗ đồng đạo võ lâm mà trượng nghĩa ra tay cứu giúp, hết thảy anh em tệ hội đều cảm kích muôn phần. Bây giờ gặp mặt xin gửi lễ đa tạ.” Chàng nói xong, đứng dậy chắp tay vái rất sâu.
Chu Trọng Anh vội đứng dậy trả lễ, trong lòng lại càng khó chịu. Ông thầm nghĩ: “Tên công tử nhà giàu này quả nhiên lợi hại, nói thì ra vẻ lịch sự mà người nghe không sao nuốt trôi được.”
Mấy câu này của Trần Gia Lạc, cả đám Vô Trần, Từ Thiên Hoằng, Vệ Xuân Hoa, Dư Ngư Đồng đều phải âm thầm thán phục. Chương Tấn lại không hiểu dụng ý, bèn kêu lớn lên: “Tổng đà chủ không biết đâu, lão thất phu này đã hại Tứ ca của chúng ta rồi.” Vệ Xuân Hoa ngồi cạnh y, phải nắm áo kéo lại, ra hiệu đừng la hét nữa.
Trần Gia Lạc làm như không nghe thấy Chương Tấn nói gì, vẫn tiếp tục mở lời khách sáo: “Anh em vãn bối đêm khuya thế này mà đến quấy nhiễu quí trang thật là kém phần lễ phép, xin Chu lão tiền bối tha lỗi. Chỉ vì nghe thấy Văn tứ ca lâm nạn, nên lòng dạ mọi người nóng như lửa đốt, không khỏi có phần lỗ mãng. Không hiểu Văn tứ ca bị thương thế nào, Chu lão tiền bối đã mời đại phu chữa trị chưa, bây giờ xin dẫn đường cho anh em vãn bối gặp mặt.” Chàng nói xong đứng dậy, quần hùng Hồng Hoa Hội cũng đứng hết dậy.
Chu Trọng Anh không nói được câu nào, mà nhất thời cũng không biết phải trả lời ra sao. Còn Lạc Băng thì nghẹn ngào lên tiếng: “Tứ ca đã bị chúng hại chết rồi. Tổng đà chủ! Chúng ta mau bắt lão thất phu này đền mạng cho Tứ ca.”
Quần hùng và Trần Gia Lạc vừa nghe thấy đều kinh hãi, không ai không biến sắc mặt. Cả đám Chương Tấn, Từ Thiên Hoằng, Vệ Xuân Hoa đều cầm lấy binh khí, dợm bước lên phía trước.
Mạnh Kiện Hùng đứng lên lớn tiếng nói: “Văn gia có đến tệ trang, quả là như thế…”
Từ Thiên Hoằng ngắt lời: “Thế thì xin Mạnh gia dẫn bọn ta đi gặp mặt.”
Mạnh Kiện Hùng nói: “Văn gia, Văn phu nhân và Dư gia đến tệ trang lúc lão trang chủ không có ở nhà. Anh em tại hạ đã phái người đi Triệu Gia Bảo mời đại phu, Văn phu nhân và Dư gia đã đích thân nhìn thấy. Sau đó người của công môn đến đây, bọn tại hạ hổ thẹn không bảo vệ nổi quí khách, để Văn gia bị chúng bắt đi. Trần đương gia! Nếu ông trách chúng ta đón tiếp không chu đáo, chưa hết lòng bảo vệ bằng hữu thì chúng ta thừa nhận. Ông muốn giết muốn xẻo thì cứ việc, Mạnh mỗ quyết chẳng chau mày. Nhưng nếu ông trách cứ lão trang chủ bán đứt bạn bè, thì không được đâu.”
Lạc Băng bước lên một bước, trỏ tay mắng luôn: “Họ Mạnh kia! Ngươi còn làm bộ hảo hán. Ta hỏi ngươi, ngươi dẫn chúng ta vào trốn vào trong hầm bí ẩn như thế, nếu các ngươi không hám lợi mà tiết lộ thì làm sao bọn chó săn biết được? Ngươi nói đi!” Quả nhiên Mạnh Kiện Hùng không nói được gì. Bạn đọc đã biết, khi đó Chu Anh Kiệt bị khích bác mà nói ra bí mật. Tuy cậu bé là con nít chưa biết gì, nhưng dù sao đó cũng là lỗi của Thiết Đảm Trang.
Vô Trần nói với Chu Trọng Anh: “Lúc xảy ra sự việc, chắc là lão trang chủ thật sự không có ở nhà. Nhưng rồng có đầu người có chủ, việc của Thiết Đảm Trang thì chúng ta chỉ biết hỏi lão trang chủ mà thôi. Ông nói một câu đi.”
Vạn Khánh Lan đang nấp né một bên, lúc này thấy có cơ hội liền la lên: “Chính là con trai của lão nói ra. Thế mà lão không thừa nhận ư?”
Trần Gia Lạc bước lên một bước, hỏi: “Chu lão tiền bối! Việc này có thật không?”
Chu Trọng Anh hết đường biện bạch, đành chậm rãi gật đầu. Quần hào Hồng Hoa Hội ồ cả lên, vây chặt lại. Người thì trừng mắt giận dữ nhìn Chu Trọng Anh, người lại chăm chăm nhìn Trần Gia Lạc đợi chàng hạ lệnh. Còn Trần Gia Lạc lại liếc nhìn Vạn Khánh Lan, lạnh nhạt hỏi: “Vị này là ai, chúng ta chưa được thỉnh giáo tên tuổi.”
Lạc Băng đáp hộ: “Hắn cũng là một tên trong đám ưng trảo đến đây bắt Tứ ca.”
Trần Gia Lạc không nói tiếng nào, chậm rãi đến trước mặt Vạn Khánh Lan. Đột nhiên chàng vung tay ra đoạt lấy đôi cương xuyên trong tay hắn quăng xuống đất, rồi chụp hai tay hắn bắt chéo sau lưng, dùng tay trái nắm chặt lại. Vạn Khánh Lan chỉ kịp úi chà một tiếng, không sao giãy thoát khỏi tay Trần Gia Lạc được nữa.
Phen này Trần Gia Lạc xuất thủ cực kỳ nhanh chóng, chẳng ai nhìn rõ chàng hành động ra sao. Võ công của Vạn Khánh Lan không tệ lắm, ai cũng thấy rồi, thế mà chỉ nháy mắt đã bị khống chế hết đường động đậy. Chẳng những mọi người trong Thiết Đảm Trang mà cả quần hùng Hồng Hoa Hội cũng phải thay đổi sắc mặt, âm thầm khen ngợi. Họ vốn chỉ coi Trần Gia Lạc là tổng đà chủ mà tôn trọng hiệu lệnh, còn võ công của chàng ra sao thì chưa ai biết được.
Trần Gia Lạc quát hỏi: “Bọn ngươi đã bắt Văn tứ gia đi đâu rồi?”
Vạn Khánh Lan ngậm miệng không đáp, sắc mặt vẫn ngạo nghễ. Trần Gia Lạc đưa ngón tay điểm vào huyệt Trung Phủ của hắn một cái, lại quát: “Ngươi nói hay không?”
Vạn Khánh Lan gào lên: “Hành hạ người khác không phải là hảo hán. Ngươi có giỏi thì giết ta đi…” Hắn nói chưa dứt câu, những giọt mồ hôi lớn như hạt đậu đã lăn từ trên đầu xuống.
Trần Gia Lạc lại điểm huyệt Cân Túc của hắn. Phen này Vạn Khánh Lan chịu không nổi nữa, nhỏ giọng lắp bắp: “Ta nói… ta nói…”
Trần Gia Lạc nắn vào huyệt Khí Du mấy cái. Vạn Khánh Lan thở hắt ra một hơi rồi khẽ nói: “Giải y đến kinh thành rồi.”
Lạc Băng vội hỏi: “Y… y chưa chết hay sao?”
Vạn Khánh Lan đáp: “Đương nhiên là chưa chết. Y là yếu phạm, ai mà dám giết.”
Quần hùng của Hồng Hoa Hội đều mừng rỡ, thở nhẹ một hơi. Văn Thái Lai chưa chết, mối hận của họ với Thiết Đảm Trang đã giảm đi một nửa. Lạc Băng run rẩy hỏi: “Ngươi… ngươi… nói có thật không?”
Vạn Khánh Lan đáp: “Ta lừa gạt cô để làm gì.”
Lạc Băng mừng quá, bỗng dưng ngất xỉu, ngã ngửa ra sau. Dư Ngư Đồng đưa tay ra định đỡ, nhưng bất giác sợ hãi trong lòng, cánh tay vừa đưa ra đã rụt về, để Lạc Băng ngã đập đầu xuống đất.
Chương Tấn vội đỡ nàng dậy, kêu lên: “Tỉ tỉ sao rồi?” Y liếc mắt nhìn Dư Ngư Đồng một cái, cảm thấy chàng không đỡ Lạc Băng là vô lý hết sức.
Trần Gia Lạc buông lỏng tay ra, bảo thư đồng Tâm Nghiễn: “Trói lại.” Tâm Nghiễn bèn lấy trong bao ra một sợi dây, cột chặt hai tay Vạn Khánh Lan. Huyệt đạo của Vạn Khánh Lan đã được giải, nhưng lúc đó chân tay y còn tê dại, không sao phản kháng.
Trần Gia Lạc lớn tiếng hô: “Các vị huynh đệ! Chúng ta phải đi cứu Tứ ca trước, món nợ ở đây sau này sẽ tính.” Quần hùng của Hồng Hoa Hội đồng thanh vâng lệnh. Lúc này Lạc Băng đã tỉnh lại, ngồi trên ghế vui mừng mà rơi lệ. Nghe Trần Gia Lạc nói, nàng gượng đứng dậy, Chương Tấn vội tới dìu.
Mọi người cùng đến cửa đại sảnh, Mạnh Kiện Hùng đưa họ ra ngoài. Trần Gia Lạc bước ra khỏi cửa, quay người lại nói với Chu Trọng Anh: “Quấy rầy đã nhiều, đại ơn đại đức này suốt đời không quên được. Chúng ta còn có lúc gặp nhau.”
Chu Trọng Anh nghe giọng điệu của chàng, biết rằng Hồng Hoa Hội nhất định sẽ quay lại trả thù. Ông nghĩ bụng: “Chu mỗ chỉ cần không thẹn với lòng là đủ. Các ngươi không chịu tha lỗi cho ta, chẳng lẽ ta lại sợ các ngươi hay sao?” Ông bèn hừ một tiếng, không thèm đáp.
Chương Tấn la lớn: “Cứu Tứ ca xong, Chương đà tử này sẽ là người đầu tiên đến đây đánh nhau với anh hùng hảo hán của Thiết Đảm Trang.”
Dương Thành Hiệp xen vào: “Cẩu hùng cũng chưa xứng, sao gọi là anh hùng?”
Chu Ỷ vừa nghe vậy đã tức tối hét lên: “Ngươi chửi ai vậy?”
Dương Thành Hiệp giận dữ nói: “Ta chửi lão thất phu không hiểu nghĩa khí, không biết dạy con.” Y đã trúng một quyền nặng của Chu Trọng Anh, may mà có công phu Thiết Bố Sam nên chưa trọng thương, nhưng lúc này vẫn còn rất đau. Nghe nói Văn Thái Lai bị con của Chu Trọng Anh bán đứt, y càng tức giận hơn, chỉ muốn tìm lời thóa mạ.
Chu Ỷ bước lên một bước, lại quát: “Ngươi là cái thứ gì mà dám mắng gia gia của ta?”
Dương Thành Hiệp mắng: “Thứ nha đầu biết gì mà nói!” Y không muốn tranh chấp với con gái, bèn quay đầu bỏ đi.
Khổ nỗi cô nương Tiêu Lý Lục này tính nóng như lửa, vẫn thường hận người ta coi thường mình là nữ nhân. Nàng vẫn thường nói, nam nhân hay nữ nhân thì cũng là người, chẳng lẽ những việc nam nhân làm được mà nữ nhân lại không làm được? Bây giờ nghe Dương Thành Hiệp mắng mình là nha đầu, sắc mặt lại đầy vẻ coi thường, nàng không sao nhịn được, bèn bước lên một bước, quát tháo: “Nha đầu thì đã sao nào?”
Dương Thành Hiệp giận dữ bảo: “Ngươi đi gọi ca ca ra đây, nói là Dương mỗ cần gặp.”
Chu Ỷ kinh ngạc, lắp bắp: “Ca ca của ta…”
Vệ Xuân Hoa ngắt lời: “Có gan bán đứt bằng hữu thì phải có gan ra gặp người ta. Ca ca của ngươi bán đứt Tứ ca của chúng ta, bây giờ lại trốn đi đâu mất rồi?”
Chu Ỷ lại càng ngơ ngác, không hiểu mình có một ông anh ở đâu ra. Mạnh Kiện Hùng nghe vậy, biết ngay Hồng Hoa Hội đã bị câu nói của Vạn Khánh Lan làm hiểu lầm rồi. Nhưng tình hình đã căng thẳng thế này, nếu bây giờ đem chuyện sư phụ đánh chết con ruột ra kể thì không tránh khỏi tỏ ra yếu đuối, giống như năn nỉ xin tha. Vì thế y chỉ bước lên đỡ lời cho sư muội, lập tức lớn tiếng: “Quí vị còn điều gì muốn dặn dò thì bây giờ cứ nói luôn đi, lần sau đỡ phải phiền đại giá đến đây.”
Chương Tấn nói: “Chúng ta muốn gặp vị ca ca của cô nương này.”
Chu Ỷ mắng: “Tên gù này ăn nói bừa bãi. Ta làm gì có ca ca nào?” Chương Tấn bị mắng là gù, bèn hừ một tiếng, vung tay tát vào mặt nàng. Chu Ỷ đưa tay cản trở, Chương Tấn bèn thi triển Cầm Nã Thủ dùng tay không đấu với nàng.
Song câu của Vệ Xuân Hoa lại giương ra. Y gọi: “Mạnh gia! Hai chúng ta thử sức một chút.”
Mạnh Kiện Hùng gật đầu nói: “Xin Vệ gia chỉ giáo.” Bên kia Tưởng Tứ Cân cùng An Kiện Cương cũng thách đố nhau, mọi người đều cầm binh khí chuẩn bị ra tay.
Dương Thành Hiệp lớn tiếng hô: “Thằng nhãi nào bán đứt bằng hữu đâu? Nếu không mau mau thò mặt ra đây, thì gia gia phải phóng hỏa đốt nhà.” Binh khí của hai bên tới tấp rút ra, tình thế rõ ràng lại sắp đánh nhau loạn xạ.
Chu Trọng Anh tức đến nỗi râu tóc lông mày đều dựng đứng cả lên, nói với Trần Gia Lạc: “Hay lắm! Thì ra Hồng Hoa Hội chỉ giỏi buông lời nặng nhẹ người ta, lấy nhiều mà đắc thắng.”
Trần Gia Lạc nghe vậy giật mình, vỗ tay một tiếng. Quần hào lập tức thu hết binh khí, lùi ra đứng sau lưng chàng, không ai lên tiếng nữa.
Chu Trọng Anh thầm nghĩ: “Người này lãnh đạo quần hùng rất có uy, ra lệnh mọi người đều tôn trọng. Vừa rồi ta quát tháo dừng tay, mà ngay cả con gái của mình cũng không chịu nghe lời.”
Trần Gia Lạc lên tiếng: “Chu lão anh hùng trách bọn tại hạ lấy nhiều để thủ thắng. Bây giờ tại hạ đơn thân, xin Chu lão anh hùng chỉ giáo mấy chiêu.”
Chu Trọng Anh nói: “Vậy thì hay lắm. Lúc nãy Trần đương gia đã hiển lộ một chiêu, mọi người đều phải thán phục. Đúng là anh hùng xuất tự thiếu niên, lão phu cũng muốn lãnh giáo thử xem. Không hiểu Trần đương gia muốn tỉ thí về binh khí hay về quyền cước?”
Thạch Song Anh lạnh lùng buông tiếng: “Đại đao đã cắm trên xà nhà rồi, làm sao tỉ thí binh khí được.” Vừa nghe câu này, mọi người đều nhìn lên thanh kim bối đại đao còn dính trên xà nhà. Mặt Chu Trọng Anh đỏ bừng lên.
Đột nhiên có một người nhẹ nhàng tung người nhảy lên, tay phải móc lấy xà nhà, tay trái rút thanh đại đao ra rồi hạ chân xuống đất, hầu như không phát ra tiếng động. Sau đó y tiến đến trước mặt Chu Trọng Anh, khuỵu chân trái xuống, nâng đại đao lên khỏi đầu mà nói: “Chu lão thái gia! Đao của ông đây.” Người này chính là thư đồng Tâm Nghiễn của Trần Gia Lạc. Không ngờ tuổi y còn rất trẻ mà khinh công đã phi phàm như thế.
Tâm Nghiễn hiển lộ thân thủ, sắc mặt của Chu Trọng Anh càng khó chịu hơn. Ông hừ một tiếng, mặc kệ Tâm Nghiễn, nói với Trần Gia Lạc: “Trần đương gia cứ lấy binh khí ra. Lão phu thử dùng tay không tiếp đón mấy chiêu.”
Mạnh Kiện Hùng nhận lấy thanh kim bối đại đao từ tay Tâm Nghiễn, khẽ nói: “Sư phụ đừng nổi giận, dùng đao mà đấu với hắn.” Y sợ sư phụ trúng kế khích tướng của đối phương, nếu thật sự dùng tay không đấu với binh khí thì chẳng khác gì chịu thiệt trước ba phần. Tâm Nghiễn xoay người trở về, mở bao lấy binh khí độc môn bí mật của Trần Gia Lạc ra, hai tay đưa lên trước mặt chủ nhân.
Từ Thiên Hoằng nói nhỏ: “Tổng đà chủ! Lão đã muốn tỉ quyền thì đấu quyền với lão.” Thì ra từ lúc biết Văn Thái Lai chưa chết, tâm trí Từ Thiên Hoằng ổn định trở lại. Chàng thấy rõ Chu Trọng Anh đối xử với Hồng Hoa Hội lúc nào cũng nhẫn nhịn, rất ít ý thù địch. Nếu hai bên dùng binh khí thì khó tránh khỏi có người chết hoặc bị thương, chi bằng tỉ thí quyền cước để dễ lùi bước nương tay.
Hơn nữa chàng đã lãnh giáo công phu đại đao của Chu Trọng Anh, thật là thâm hậu ít ai sánh được. Chính chàng cùng Vệ Xuân Hoa lấy hai đánh một, đối phương chưa dốc hết toàn lực mà mình đã chống đỡ không nổi rồi. Bản lãnh về binh khí của Trần Gia Lạc thì sâu cạn thế nào chưa biết, nhưng vừa rồi họ Trần khống chế rồi hỏi cung Vạn Khánh Lan, thủ pháp vừa kỳ lạ vừa nhanh chóng không phải tầm thường. Chàng muốn Trần Gia Lạc đấu quyền, là để tránh chỗ mạnh của địch mà phát huy được sở trường của mình.
Trần Gia Lạc đáp: “Được lắm.” Rồi chàng chắp tay nói với Chu Trọng Anh: “Tại hạ xin thỉnh giáo Chu lão anh hùng mấy lộ quyền pháp. Xin lão tiền bối hạ thủ lưu tình.”
Chu Trọng Anh nói: “Hay lắm! Trần đương gia đừng quá khách sáo.”
Chu Ỷ bước tới giúp cha cởi trường bào, nói nhỏ: “Thằng lỏi kia biết điểm huyệt, gia gia nhớ để ý.” Nói xong, khóe mắt nàng hơi đỏ lên. Những lúc tính nóng của nàng phát tác lên thì đúng như một viên pháo, không biết sợ trời sợ đất là gì. Nhưng bây giờ đối phương đông người, mà ai cũng võ công cao cường, tình thế nguy hiểm khác thường dĩ nhiên nàng phải biết.
Chu Trọng Anh khẽ nói: “Nếu gia gia gặp chuyện không lành thì con đi Tây An tìm Ngô thúc thúc, từ nay về sau đừng gây sự nữa.” Chu Ỷ vừa đau lòng vừa chua xót, rơi lệ gật đầu.
Tống Thiện Bằng đốc thúc trang đinh khiêng bàn ghế trong đại sảnh dọn qua một bên, chừa ra một khoảng trống, bốn bề thắp nến lớn, sáng rực như ban ngày. Chu Trọng Anh bước ra giữa, ôm quyền nói: “Xin mời.”
Trần Gia Lạc không cởi trường bào, vạt áo vẫn bay phấp phới. Chàng từ từ bước đến gần, nói: “Sau khi tại hạ thua, nhất định sẽ mời hết đồng đạo võ lâm tây bắc đến chứng kiến mình tạ tội với lão tiền bối. Từ đó về sau, anh em Hồng Hoa Hội quyết không mang binh khí bước vào tỉnh Cam Túc một bước nào.”
Chu Trọng Anh nói: “Trần đương gia nặng lời rồi.”
Trần Gia Lạc nhướng mày lên hỏi: “Còn nếu lão tiền bối nhường cho tại hạ nửa chiêu một thức thì sẽ ra sao?”
Chu Trọng Anh ngang nhiên ngẩng đầu lên cười ha hả, vuốt bộ râu dài mà đáp: “Lúc đó mấy chục sinh mạng của Thiết Đảm Trang đều giao hết cho Hồng Hoa Hội.”
Trần Gia Lạc nói: “Hồng Hoa Hội tuy là một bang hội nhỏ, nhưng cũng ân oán phân minh, không dám hại người vô cớ. Nếu tại hạ may mắn thắng được một quyền một cước, thì xin được dẫn người đã tiết lộ hành tung của Văn tứ ca đi. Nếu Văn tứ ca bình an thoát hiểm, tại hạ sẽ phái người hộ tống lệnh lang trở về quí trang, bảo đảm không làm rụng một sợi tóc. Nhưng nếu Văn tứ ca gặp chuyện bất tường, thì buộc lòng bọn tại hạ phải lấy mạng lệnh lang.”
Chu Trọng Anh bị mấy câu này làm đau nhói tận đáy lòng. Mắt ông rớm lệ, tay phải vẫy nhẹ rồi nói: “Không cần nhiều lời nữa, xuất chiêu đi.”
Trần Gia Lạc đứng ở mé dưới, chắp tay nói: “Xin tiền bối ra chiêu.” Mọi người đều thấy chàng giữ phong độ nhàn nhã, ung dung tự tại, nhường nhịn lễ phép, chẳng giống quyết đấu sinh tử chút nào. Người thì thán phục, người thì lo lắng.
Chu Trọng Anh giữ đúng lễ số phái Thiếu Lâm, tay trái chắp quyền, tay phải đưa ra mời theo thế Thỉnh Thủ. Nhưng ông biết đối phương tuổi trẻ, lại là vãn bối chắc chắn không chịu phát chiêu trước, nên không khách sáo nữa. Ông ra chiêu Tả Xuyên Hoa Thủ, hữu quyền thủ trước bụng, tả chưởng đánh vào mặt Trần Gia Lạc nghe vù một tiếng. Phát chưởng này kình lực ghê người, chưởng chưa đến mà chưởng phong đã đến trước rồi.
Trần Gia Lạc bước thành Hàn Nha Bộ, tay phải đưa lên gạt phát chưởng, còn tay trái vẽ một vòng rộng tấn công vào hông của đối phương. Đó chính là chiêu Đan Phụng Triều Dương của Thiếu Lâm quyền. Vừa thấy chiêu này, cả người của Hồng Hoa Hội và Thiết Đảm Trang đều phải giật mình. Chu Trọng Anh là cao thủ Thiếu Lâm quyền thì ai ai cũng biết, nhưng thật không ngờ Trần Gia Lạc cũng thuộc phái Thiếu Lâm.
Chu Trọng Anh “úi chao” một tiếng kinh ngạc, nhưng không dám chậm tay, liên tiếp công tới mấy chiêu Hoàng Anh Lạc Giá rồi Hoài Trung Bão Nguyệt, chiêu sau gấp hơn chiêu trước. Trần Gia Lạc tới lui tránh né, cũng thi triển Thiếu Lâm quyền rất thuần thục.
Quyền thức hai bên giống hệt nhau. Tình hình lúc này không giống như tỉ đấu, mà giống như là đồng môn đang luyện võ. Tuổi tác hai bên chênh lệch rất nhiều, công lực sâu cạn lại càng phân biệt, thắng bại thế nào thì không nói cũng biết. Quần hùng Hồng Hoa Hội đều âm thầm lo lắng, còn người trong Thiết Đảm Trang thì thở phào nhẹ nhõm.
Chỉ chốc lát, hai bên đã qua lại mười mấy chiêu. Chu Trọng Anh đã luyện Thiếu Lâm quyền mấy chục năm trời, công lực đã đến cảnh giới lư hỏa thuần thanh. Mỗi quyền mỗi cước của ông đều sung mãn kình lực, lộng gió vù vù. Yếu chỉ của Thiếu Lâm quyền là tâm nhanh, mắt nhanh, tay nhanh, thân nhanh, bước nhanh; nên ông càng đánh càng nhanh, công thủ liền lạc tự nhiên, xoay chuyển tùy theo ý muốn.
Ba mươi bảy thế của lộ quyền Thiếu Lâm đầu tiên chưa sử hết một nửa, rõ ràng Trần Gia Lạc đã ở thế hạ phong. Chu Trọng Anh đột ngột quát lên, quay người sang trái, xuất chiêu Phản Thân Bích Kích nhanh như sao xẹt. Trần Gia Lạc vội vã ngửa người ra sau, chưởng chỉ cách người chừng một tấc, suýt nữa không tránh kịp. Quần hùng Hồng Hoa Hội đều giật mình kinh hãi.
Trần Gia Lạc lùi mấy bước, đứng vững rồi tái đấu. Lần này chàng thay đổi quyền pháp, sử dụng Ngũ Hành Liên Hoàn Quyền của phái Thiếu Lâm, luân phiên thi triển đủ năm món Băng Chuyên Bích Pháo Hoành. Chu Trọng Anh vẫn dùng Thiếu Lâm quyền đánh trả.
Mới được mấy chiêu, Trần Gia Lạc đột nhiên chuyển sang Bát Quái Du Thân Chưởng, chuyển thân không ngừng quanh đại sảnh. Dưới ánh nến, trông như có đến mấy chục người chạy qua chạy lại, Chu Trọng Anh dùng tịnh chế động, cứ trầm tĩnh ứng chiến. Thân pháp của Trần Gia Lạc tuy nhanh, nhưng chàng vẫn không chiếm được chút lợi thế nào.
Thêm vài chiêu nữa, Chu Trọng Anh vừa phóng tả quyền ra, đột nhiên phát hiện quyền phong của mình đã bị Trần Gia Lạc dùng nội lực phong tỏa chặt. Đây chính là chiêu Như Phong Tự Bế trong Thái Cực Quyền. Quyền thế của chàng chậm rãi, thần khí ẩn tàng ở bên trong, đúng theo bí quyết lấy nhu chế cương, gặp chiêu phá chiêu, gặp thức phá thức của Thái Cực Quyền.
Mọi người càng xem càng thấy kỳ lạ. Môn hộ phái Thiếu Lâm và Thái Cực rất khác nhau, quyền ý trái ngược nhau, rất ít có người kiêm học cả hai. Chàng công tử này còn trẻ như thế mà nội ngoại đã song tu, thật là quái sự của võ lâm. Chu Trọng Anh cũng phải tập trung chú ý, ứng phó cẩn thận. Lúc này hai bên công thủ rất chậm, nhưng người am hiểu thì thấy còn hung hiểm hơn rất nhiều so với lúc đấm đá vùn vụt vừa rồi.
Hai người tỉ đấu hai mươi mấy chiêu như thế, hầu như đánh chưa đến nơi đã thu về. Trần Gia Lạc đột nhiên xuất chiêu Đảo Bối Hầu, quyền pháp lại thay đổi. Rồi chỉ trong khoảnh khắc, chàng liên tiếp sử dụng lộn xộn những chiêu thức của Võ Đang Trường Quyền, Tam Thập Lục Lộ Đại Cầm Nã Thủ, Phân Cân Tá Cốt Thủ, Nhạc Gia Tán Thủ, bốn loại quyền pháp.
Mọi người thấy quyền pháp của chàng thay đổi liên tiếp thật là hiếm có, không hiểu chàng còn biết sử dụng những loại quyền thuật nào nữa. Chu Trọng Anh vẫn dùng bất biến ứng vạn biến, sáu đường Thiếu Lâm quyền nhuần nhuyễn ứng phó nhẹ nhàng, thủ thì bảo vệ môn hộ nghiêm mật, công cũng lợi hại vô cùng. Ông đã tung hoành giang hồ đến mấy chục năm, trải qua mấy trăm trận chiến lớn nhỏ. Tuy ông chưa gặp ai kiêm dùng nhiều loại quyền thuật như Trần Gia Lạc, nhưng đã có nhiều kinh nghiệm về sử dụng Thiếu Lâm quyền để đánh thắng các loại quyền pháp khác.
Chu Trọng Anh vẫn cho rằng trong quyền thuật thì quí là ở chỗ tinh thông, nhuần nhuyễn một môn còn hơn tạp nhạp không thuần. Nhưng ông thấy Trần Gia Lạc thi triển mỗi lộ quyền pháp vài chiêu, nhưng hoàn toàn không phải là sơ lược, cũng bất giác khen thầm.
Được một lúc, Chu Trọng Anh đột nhiên bước chân trái lên, đạp trúng vạt áo bào của Trần Gia Lạc, tả chưởng xuất chiêu Thảng Đảng Thiết Chưởng đánh tới hạ bàn. Trần Gia Lạc vội vã lùi lại, nhưng không lùi được, bèn cấp tốc sử dụng thân pháp Lý Ngư Đả Đỉnh nhảy vọt lên. Nghe soạt một tiếng, vạt trước trường bào đã bị xé rách. Chu Trọng Anh lên tiếng: “Đa tạ đã nhường.” Trần Gia Lạc đỏ mặt lên, phóng chỉ điểm tới hông địch thủ, hai người lại tiếp tục tỉ đấu.
Bây giờ thì mọi người đứng xem đều phải nhìn nhau lắc đầu. Họ thấy Trần Gia Lạc sử Cầm Nã Thủ lại xen lẫn Ưng Trảo Công, tay trái phóng Trường Quyền tay phải dùng Miên Chưởng, khi phát chiêu rõ ràng là Bát Quái Chưởng, khi thu chiêu đã là Thái Cực Quyền, quả là trăm hoa đua nở, loạn xà ngầu nhìn hoa cả mắt. Bây giờ quyền thế của chàng khó mà phân biệt, không sao hiểu nổi đó là chiêu số của môn phái nào.
Không ai biết đây chính là Bách Hoa Tá Quyền, quyền thuật độc môn do Thiên trì quái hiệp Viên Sĩ Tiêu sáng lập ra. Hồi trẻ Viên Sĩ Tiêu ham mê nghiên cứu võ học, kiến thức uyên bác vô song. Về sau ông gặp chuyện tình cảm không như ý, bèn phát nguyện làm những việc trước đây chưa ai làm, đánh loại quyền trước đây chưa ai đánh. Ông đi bái phỏng rất nhiều danh gia võ học, học lén hoặc khiêu khích đánh nhau để xem những chiêu thức của họ. Ông còn kiếm được rất nhiều quyền phổ của người khác, hoặc là công nhiên cướp đoạt, hoặc là âm thầm đánh cắp.
Khi đã biết rất nhiều quyền thuật các nhà các phái, đến tuổi trung niên thì Viên Sĩ Tiêu ẩn cư ở Thiên Trì rồi sáng tạo ra lộ Bách Hoa Tá Quyền. Quyền pháp này bao gồm cả trăm nhà, mà chỗ kỳ diệu nhất là ở chữ Tá, có nghĩa là sai lệch. Mỗi chiêu mỗi thức đều trông giống như thủ pháp của các phái võ chính tông, nhưng thực tế lại không phải. Vừa xuất chiêu thì đối phương tưởng là chiêu đó, khi đón đỡ thì mới biết phương vị tấn công lại không phải thế. Chỗ tinh diệu chính là giống mà không phải, tạo được bất ngờ.
Ai thấy quyền thế sai lệch như vậy cũng cho là học chưa đến chỗ, nhưng vì sai lệch nên đối phương mới không phòng chống được. Đã là cao thủ võ lâm thì kiến văn phải uyên bác, võ học phải tinh thông, nên đối với võ thuật của các phái đều đã có định kiến trong lòng. Vì thế mà không tránh khỏi Bách Hoa dễ địch, Giả Tá khó phòng.
Viên Sĩ Tiêu sáng tạo ra quyền thuật này là muốn đánh cho tình địch té nhào, thất bại thê thảm. Nhưng về sau ông lại sợ trong lúc điên cuồng, lỡ tay đánh chết tình địch thì không hợp lý lắm, nên lại tự kiềm chế mình, không đi kiếm đối phương động thủ nữa, vì thế mà pho quyền này cả đời ông chưa dùng tới. Đệ tử của ông chỉ có một mình Trần Gia Lạc. Thiên Trì Quái Hiệp đã dạy Trần Gia Lạc đủ loại quyền thuật binh đao của các đại môn phái trước, rồi đến căn bản về những môn cầm nã ám khí điểm huyệt khinh công, cuối cùng mới dạy tới Bách Hoa Tá Quyền.
Hôm nay Trần Gia Lạc kịch đấu với Chu Trọng Anh tới hơn trăm chiêu, suýt thảm bại rồi mới hối hận vì mình lỗ mãng. Trước đây chàng chưa bại bao giờ, không khỏi có ý xem thường anh hùng thiên hạ. Sau lần kinh hãi vừa rồi, chàng đành phải đem lộ quái quyền này ra thử lần đầu, quả nhiên lợi hại vô cùng.
Chu Trọng Anh trong lúc hoảng hốt chỉ biết múa song quyền bảo vệ phía trước, chân lùi liên tiếp. Ông thấy quyền pháp của đối phương cực kỳ cổ quái, trong quyền trong chỉ lại xen lẫn những chiêu số của đao kiếm, thật là chưa gặp mà cũng chưa nghe bao giờ.
Chu Ỷ thấy cha mình lùi mãi như vậy, bèn lớn tiếng la lên: “Ngươi dùng quyền pháp gì vậy, loạn xạ như thế thật chẳng ra thể thống gì. Đúng là quyền pháp hồ đồ… Sai bét… sai bét… Ngươi… chiêu này lại đánh sai nữa rồi…”
Tiếng la chưa dứt, bên ngoài sảnh lại có hai người chạy vào, kêu lớn: “Dừng tay lại!” Đây chính là Lục Phi Thanh và Triệu Bán Sơn đã đến.
Ngay lúc đó, lại nghe có tiếng hô hoán bên ngoài đại sảnh: “Đem nước tới! Chữa cháy! Mau lấy nước!” Trong tiếng ồn ào đó, ánh lửa đã chiếu vào trong đại sảnh.
Chu Trọng Anh đang bị tấn công áp đảo, quyền pháp vốn đã rối loạn rồi. Đột nhiên ông nghe tiếng kêu chữa cháy, nghĩ tới tài sản cùng gia đình cũng không khỏi lo lắng trong lòng. Vừa phân tâm một chút, đột nhiên chân trái ông tê chồn, huyệt Dương Quan trên đầu gối trái đã bị điểm trúng.
Thấy cha loạng choạng sắp ngã xuống đất, Chu Ỷ vội chạy đến đỡ, kêu lên: “Gia gia!” Rồi nàng rút soạt đơn đao, giương ra bảo vệ phụ thân, đề phòng địch thủ ra chiêu đoạt mạng.
Nhưng Trần Gia Lạc không đuổi theo mà lại lùi ba bước, lên tiếng: “Xin Chu lão anh hùng nói một câu.”
Chu Trọng Anh giận dữ nói: “Hay lắm! Ta thua rồi, phải giao con cho các vị. Đi theo ta.” Rồi ông tựa vào Chu Ỷ, đi khập khiễng từng bước vào bên trong sảnh.
Trần Gia Lạc, Lục Phi Thanh cùng với quần hùng Hồng Hoa Hội theo Chu Trọng Anh băng qua hai khu vườn. Lúc này thế lửa rất lớn, hơi nóng ép người, trong màn đêm nhìn rõ những ngọn lửa đỏ bốc thẳng lên trời, khói mù dày đặc. Mạnh Kiện Hùng, An Kiện Cương và Tống Thiện Bằng đã chạy ra ngoài chỉ đạo bọn trang đinh chữa lửa từ lâu.
Từ Thiên Hoằng hô lớn: “Hay là chúng ta hợp sức dập tắt lửa trước đã rồi hãy nói chuyện sau.”
Chu Ỷ mắng: “Ngươi đã sai người phóng hỏa, lại còn giả vờ làm người tốt nữa ư?” Lúc này nàng nghe Từ Thiên Hoằng mấy lần hô hào phóng hỏa, tin chắc là chàng chủ mưu thiêu cháy Thiết Đảm trang nên lòng đầy căm phẫn.
Chu Ỷ không thèm đếm xỉa đến đối phương người đông thế mạnh nữa, cứ vung đao lên chém Từ Thiên Hoằng. Họ Từ vội vã tránh né, Chu Ỷ định đuổi theo nhưng đã bị Triệu Bán Sơn cản lại. Thanh đơn đao của Chu Ỷ đang chém tới mãnh liệt, thế mà Triệu Bán Sơn chỉ khẽ đưa tay chặn lên sống đao là lập tức lưỡi đao nặng trịch như bị núi đè. Chu Ỷ cầm đao còn không chắc, nói gì đến chuyện truy kích chém người.
Mọi chuyện xảy ta, Chu Trọng Anh hầu như không nghe thấy, không nhìn thấy, cứ sải bước ra sau hậu sảnh. Mọi người vào theo, thấy trong đó có đặt linh đường, trước linh vị đang thắp hai ngọn nến trắng, bài trí rất đơn giản, nhuốm màu lặng lẽ thê lương. Chu Trọng Anh vén tấm màn trắng, để lộ ra một cỗ quan tài nhỏ màu đen, hãy còn chưa đậy nắp. Thì ra sau khi sơ ý đánh chết Chu Anh Kiệt, vì Chu Ỷ chưa về trang nên ông chưa cho liệm và đóng nắp quan tài con trai, để con gái quay về được nhìn mặt em lần cuối.
Chu Trọng Anh gầm lên: “Con trai của ta tiết lộ hành tung của Văn gia, đúng thế! Các ngươi muốn bắt con ta, được lắm! Đến đây mà dẫn nó đi đi!” Tâm thần của ông đang cực kỳ kích động, thanh âm lạc hẳn đi.
Dưới ánh nến âm u, mọi người thấy trong quan tài có thi hài của một đứa bé, đều không hiểu gì cả. Chu Ỷ la lên: “Em trai của ta mới có mười tuổi. Nó chưa hiểu biết gì, lỡ nói ra nơi Văn gia của các ngươi đang nấp. Gia gia của ta về tới nhà nổi cơn thịnh nộ, lỡ tay đánh chết thằng bé. Mẹ của ta phát điên bỏ chạy khỏi trang. Chừng đó đã đủ vừa lòng các ngươi chưa? Nếu các ngươi chưa thấy đủ thì giết nốt hai cha con ta đi cho hả dạ.”
Mọi người trong Hồng Hoa Hội nghe vậy đều không nén nổi hối hận vô cùng, ai cũng cảm thấy vừa rồi mình trách Chu Trọng Anh là vạn lần không đúng. Chương Tấn là người thẳng thắn nhất, bước lên hai bước rồi lập tức quì xuống lạy Chu Trọng Anh, kêu lớn: “Lão gia! Ta đã đắc tội với ông rồi! Chương đà tử này xin đền tội cho ông.” Nói xong, y đứng dậy, lại chắp tay Chu Ỷ mà nói: “Cô nương! Cô nương cứ gọi ta là tên gù đi, ta không dám giận nữa đâu.” Chu Ỷ nghe cũng thấy buồn cười nhưng không sao cười nổi.
Lúc này, Trần Gia Lạc cùng với những người đã từng trách mắng Chu Trọng Anh như Lạc Băng, Từ Thiên Hoằng, Dương Thành Hiệp, Vệ Xuân Hoa đều đến tạ tội. Trần Gia Lạc thừa lúc cúi mình thi lễ, đưa tay chạm khẽ một cái, giải khai huyệt đạo dưới đầu gối của Chu Trọng Anh, mọi người đứng bên đều không thấy gì. Chu Trọng Anh trả lễ liên tục, trong lòng cực kỳ khó chịu, không nói được tiếng nào.
Trần Gia Lạc hô to: “Chu lão anh hùng đối xử tốt với Hồng Hoa Hội chúng ta, ơn này đến chết cũng không thể nào quên. Các vị huynh đệ! Bây giờ quan trọng nhất là chữa lửa, mọi người mau mau ra tay đi.” Ai cũng đồng thanh vâng dạ, tất cả đều chạy ra ngoài.
Ngọn lửa sáng rừng rực, ngói trên mái nhà rơi rào rào, xà nhà cột nhà gãy răng rắc, trang đinh la hét ầm ĩ, tình hình cực kỳ rối rắm. An Tây vốn là vùng nhiều gió nhất Trung Quốc, một năm ba trăm sáu mươi ngày thì không ngày nào không có gió. Lúc này gió rất lớn, càng trợ sức cho ngọn lửa. Rõ ràng đám cháy này không còn cách nào dập tắt, chỉ chốc lát là tòa Thiết Đảm trang to lớn này sẽ trở thành hoang địa.
Trong nhà đã nóng rát mặt, vải sô trắng và giấy tiền vàng bạc đã tự bốc cháy, thế mà Chu Trọng Anh vẫn đứng ngơ ngẩn bên quan tài, hồn phách đi đâu mất hết. Không bao lâu nữa, lửa sẽ cháy tới đại sảnh này, Vệ Xuân Hoa,Thạch Song Anh, Tưởng Tứ Cân đều đã chạy ra ngoài chữa cháy.
Chu Ỷ liên tiếp la gọi: “Gia gia, chúng ta ra ngoài thôi.” Chu Trọng Anh không lý gì đến nàng, chỉ giương to cặp mắt nhìn đứa con trai đang nằm trong quan tài. Mọi người đều biết ông không nỡ để quan tài của con trai bị thiêu trong ngọn lửa, cũng không nỡ rời khỏi đây.
Chương Tấn khom thêm lưng xuống, lên tiếng: “Các vị ca ca, đặt quan tài lên lưng của đệ đi.” Dương Thành Hiệp bèn vận sức nâng quan tài lên, đặt lên cái lưng gù của Chương Tấn. Chương Tấn không vươn thẳng dậy, cứ cong lưng như vậy mà chạy ra ngoài. Chu Ỷ nâng đỡ phụ thân, mọi người đều chạy ùa ra sân trống của trang trại. Chạy ra ngoài chưa được bao lâu, mái nhà của hậu sảnh đã đổ sập xuống. Mọi người đều thầm nghĩ: “Nguy hiểm quá!”
Tâm Nghiễn bỗng la lên: “Úi chà! Tên ưng trảo bị trói kia vẫn còn trong đó.”
Thạch Song Anh nói: “Hạng người tác ác đa đoan như hắn, bị thiêu sống cũng không oan.”
Lạc Băng cũng nói: “Vậy là chúng ta để cho thằng khốn kia trốn mất rồi.” Trần Gia Lạc hỏi ai, Lạc Băng bèn đem chuyện Đồng Triệu Hòa ra kể. Mạnh Kiện Hùng cũng kể vụ tên lùn ba lần tới Thiết Đảm trang, đầu tiên là thám thính trang trại, rồi dẫn người đến bắt Văn Thái Lai, cuối cùng còn dám đến tống tiền.
Từ Thiên Hoằng kêu lên: “Đúng rồi! Nhất định là hắn phóng hỏa.” Mọi người đều nghĩ, nhất định là hắn, không còn ai khác. Từ Thiên Hoằng liếc nhìn Chu Ỷ, thấy nàng cũng đang liếc nhìn mình. Ánh mắt hai người chạm nhau, cùng vội quay đi.
Chu Ỷ lớn tiếng cằn nhằn: “Nhất lé nhìn lùn, âm mưu phóng hỏa quái ác này nhất định chỉ có bọn lùn mới nghĩ ra được. Người không cao thì trong bụng có dao, chuyện này xưa nay ai cũng biết.”
Trần Gia Lạc lên tiếng: “Chúng ta phải bắt được thằng khốn đó về đây. Thất ca, Bát ca, Cửu ca, Thập ca, bốn vị chia ra bốn hướng đông tây nam bắc mà lùng xét, tìm được hay không thì trong vòng một giờ cũng trở về báo tin.” Bốn người tuân lệnh chạy đi.
Lúc này Lục Phi Thanh và Chu Trọng Anh làm lễ tương kiến, cùng tỏ ý ngưỡng mộ nhau. Trần Gia Lạc lại xin lỗi Chu Trọng Anh lần nữa: “Chu lão tiền bối đã vì Hồng Hoa Hội mà tán gia bại sản đến như thế này, đại ân đại nghĩa thật là suốt đời không báo hết. Bọn tại hạ nhất định sẽ đi tìm Chu lão thái thái về đoàn tụ cùng lão tiền bối. Thiết Đảm trang đã bị hủy, đương nhiên Hồng Hoa Hội phải xây dựng lại. Tổn thất của các anh em trang đinh ở đây, Hồng Hoa Hội xin bồi thường toàn bội, lại còn đền bù cho họ một phen cực khổ.”
Chu Trọng Anh mắt thấy Thiết Đảm trang cháy thành tro bụi, tài sản tâm huyết nhiều năm đã bị hủy trong chốc lát, đương nhiên không khỏi xót xa. Nhưng nghe Trần Gia Lạc nói vậy, ông lập tức trả lời: “Trần đương gia nói gì lạ vậy? Tiền tài là vật ngoại thân, các hạ nói những lời này tức là không coi ta là bằng hữu.” Từ xưa tính ông đã thích kết giao, bây giờ mọi hiểu lầm đã được giải quyết, ông thấy mọi người trong Hồng Hoa Hội lo cứu lửa cứu người, không nghĩ gì đến bản thân, nên đối với Hồng Hoa Hội lại thêm phần kính trọng và cảm kích. Trong chốc lát mà được kết giao với nhiều nhân vật anh hùng như thế này thật là thống khoái. Chuyện Thiết Đảm trang bị đốt cháy, tạm thời ông không nghĩ tới nữa, nhưng vừa nhìn qua cỗ quan tài nhỏ xíu, trong lòng Chu Trọng Anh lại dậy lên một trận đau thương.
Lúc này Vệ Xuân Hoa và Chương Tấn đã trở về bẩm báo với Trần Gia Lạc là trong vòng sáu bảy dặm không thấy tung tích của Đồng Triệu Hòa. Một lúc sau, Từ Thiên Hoằng và Dương Thành Hiệp cũng trở về, nói rằng mấy dặm phía đông nam cũng không có bóng người. Có thể trong lúc hỗn loạn lửa cháy, tên khốn này đã thừa cơ trốn xa rồi.
Trần Gia Lạc nói: “May mà đã biết thằng khốn đó là người của Trấn Viễn tiêu cục. Hắn có trốn tới chân trời góc bể cũng không lo, sau này chắc chắn sẽ có ngày bắt được.” Chày quay lại hỏi Chu Trọng Anh: “Chu lão tiền bối! Những trang đinh cùng nam phụ lão ấu của quí trang, tạm thời yên trí ở đâu?”
Chu Trọng Anh đáp: “Ta định sáng mai cho mọi người đến Thích Kim Vệ trước.”
Từ Thiên Hoằng lên tiếng: “Tiểu điệt có một ý kiến, xin lão tiền bối nghe xem có được hay không.”
Trần Gia Lạc nói: “Ai cũng biết Thất ca ngoại hiệu là Võ Gia Cát, túc trí đa mưu nhất hội chúng ta. Thất ca nói đi.”
Chu Ỷ liếc xéo Từ Thiên Hoằng một cái, nhăn mũi, rồi nói với Mạnh Kiện Hùng: “Mạnh đại ca! Huynh nghe không, người ta còn lợi hại hơn Gia Cát Lượng nữa kìa. Chắc là y giỏi hơn Gia Cát Lượng.”
Mạnh Kiện Hùng chỉ mỉm cười, còn Chu Trọng Anh vội nói: “Xin Từ gia cho nghe cao kiến.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Thằng khốn họ Đồng trốn về tới nơi chắc chắn sẽ thêm mắm thêm muối, ăn nói bừa bãi. Tên họ Vạn có đi không có về, bọn chó săn nhất định sẽ báo quan, đổ rất nhiều tội trạng lên tiền bối. Tiểu điệt cho rằng người của Thiết Đảm trang tốt nhất là đi về hướng tây, tạm thời tránh né một chút, đợi biết rõ tình hình rồi mới tính kế lâu dài. Nếu bây giờ đi về hướng đông đến Thích Kim Vệ, e rằng có điều không ổn.”
Chu Trọng Anh rất nhiều kinh nghiệm, nghe Từ Thiên Hoằng góp ý bèn liền miệng khen phải: “Đúng lắm, đúng lắm! Lão đệ thật không thẹn là Võ Gia Cát. Ngày mai dĩ nhiên phải đưa đến thành An Tây trước. Ở đó ta có nhiều bằng hữu, ở lại mười ngày hay nửa tháng thì chẳng khó gì.”
Chu Ỷ thấy phụ thân khen ngợi Từ Thiên Hoằng thì bất mãn trong lòng. Tuy nàng đã hết nghi người đốt Thiết Đảm trang là Từ Thiên Hoằng nhưng trước đây đã lỡ ghét rồi, nên càng nhìn càng thấy không vừa mắt.
Chu Trọng Anh bảo Tống Thiện Bằng: “Ngươi dẫn mọi người đến An Tây châu, có thể ở lại nhà của Ngô đại quan nhân. Mọi phí tổn thì đến cửa hiệu của chúng ta mà lấy chi dùng, đợi ta lo xong việc sẽ gọi ngươi sau.”
Chu Ỷ hỏi: “Gia gia, chúng ta không đi An Tây châu sao?”
Chu Trọng Anh đáp: “Đương nhiên là không. Văn gia đã bị bắt trong trang trại của mình, chúng ta đâu thể khoanh tay đứng nhìn bằng hữu của người?” Chu Ỷ, Mạnh Kiện Hùng, An Kiện Cương nghe ông nói đến việc ra tay cứu Văn Thái Lai, mọi người đều mừng rỡ.
Trần Gia Lạc nói: “Hảo ý của Chu lão tiền bối, bọn tại hạ muôn phần cảm kích. Nhưng việc cứu Văn tứ ca chính là giết quan tạo phản, mà quí vị đều là lương dân an phận thủ thường, khắc hẳn những kẻ bôn tẩu giang hồ như bọn tại hạ. Nếu tiền bối đích thân ra tay, e rằng có phần không tiện. Chỉ xin Chu lão tiền bối cho ý kiến để chỉ giáo về chiến lược, còn việc ra tay giết chó cứu người thì để bọn tại hạ đích thân lo liệu.”
Chu Trọng Anh vuốt chòm râu dài rồi nói: “Trần đương gia! Các hạ đừng sợ liên lụy đến bọn ta. Các hạ không chịu để ta giúp đỡ bằng hữu, tức là không coi Chu mỗ là bạn tốt.”
Lục Phi Thanh nói xen vào: “Chu lão anh hùng nghĩa nặng như núi Thái Sơn, giang hồ không ai không phục. Nếu không thế thì ta cùng lão huynh chưa từng quen biết, trên người Văn tứ gia lại mang trọng án, làm sao ta dám ngang nhiên giới thiệu đến Thiết Đảm trang?”
Trần Gia Lạc suy nghĩ một lúc rồi nói: “Chu lão anh hùng trọng nghĩa như thế, tất cả anh em trên dưới của Hồng Hoa Hội đều cảm ơn đại đức.”
Lạc Băng bước lên, cúi lạy rồi nói: “Lão tiền bối rút đao tương trợ, vãn bối xin thay mặt phu quân cảm tạ trước.”
Chu Trọng Anh vội đỡ nàng dậy nói: “Văn tứ phu nhân cứ việc yên tâm. Không cứu được Văn Thái Lai trở về, ta thề không làm người nữa.” Rồi ông quay trở lại bảo Trần Gia Lạc: “Chuyện này không nên chậm trễ, Trần đương gia mau ra hiệu lệnh đi.”
Trần Gia Lạc nói: “Chuyện này tại hạ nhất định không dám. Xin hai vị Chu tiền bối và Lục tiền bối thương lượng xem sao.”
Lục Phi Thanh nói: “Trần đương gia đừng quá khách sáo. Hồng Hoa Hội là chủ, chúng ta là khách, tuyệt đối không được lấy khách đoạt chủ.”
Trần Gia Lạc khiêm nhường mấy lần nữa không được, bèn nói: “Vậy thì tại hạ phải lạm quyền rồi.” Chàng quay người lại, phát hiệu lệnh điều động nhân mã.
Lúc này ngọn lửa vẫn chưa tắt hẳn, mùi gỗ cháy vẫn khét nồng trong không khí. Mọi người im phăng phắc đợi lệnh, nghe cả tiếng nổ lách tách khi gió thổi vào những đám lửa tàn.
Nhóm thứ nhất là Kim Địch Tú Tài Dư Ngư Đồng cùng anh em Tây Xuyên song hiệp Thường Hách Chí, Thường Bá Chí. Ba người này phải nhanh chóng thám thính hành tung của Văn Thái Lai. giữ liên lạc với nhau, thường xuyên bẩm báo, coi như nhóm mở đường.
Nhóm thứ hai là Thiên Tí(6) Như Lai Triệu Bán Sơn lãnh đạo Thập đương gia Chương Tấn, Quỉ Kiến Sầu Thạch Song Anh.
Nhóm thứ ba là Truy Hồn Đoạt Mệnh Vô Trần đạo nhân lãnh đạo Thiết Tháp Dương Thành Hiệp, Đồng Đầu Ngạc Như Tưởng Tứ Cân.
Nhóm thứ tư là tổng đà chủ Trần Gia Lạc lãnh đạo Cửu Mạng Cẩm Bào Vệ Xuân Hoa, Thư Đồng Tâm Nghiễn.
Nhóm thứ năm là Miên Lý Châm Lục Phi Thanh lãnh đạo Thần Tử Mạnh Kiện Hùng, Độc Giác Hổ An Kiện Cương.
Nhóm thứ sáu là Thiết Đảm Chu Trọng Anh lãnh đạo Tiêu Lý Lục Chu Ỷ, Võ Gia Cát Từ Thiên Hoằng và Uyên Ương Đao Lạc Băng.
Trần Gia Lạc chia nhóm xong xuôi, bèn nói: “Bây giờ Thập tứ đệ lập tức khởi hành. Còn mọi người nghỉ tại đây, sáng sớm mai khởi hành, chia nhóm đi tới ải Gia Cốc rồi tập hợp lạo. Tên chó săn Tôn Quỳnh giữ ải này nhất định sẽ tra xét nghiêm mật, các vị nhớ đừng sơ ý.”
Mọi người đều đồng thanh tuân lệnh.
Dư Ngư Đồng chắp tay nhìn mọi người từ biệt, rồi nhảy lên ngựa khởi hành. Đi được mấy bước, chàng quay đầu lại liếc nhìn Lạc Băng. Thấy nàng vẫn cúi đầu thẫn thờ nghĩ ngợi, chẳng để ý gì đến chuyện chàng ra đi, anh tú tài si tình này thở dài sườn sượt rồi quất ngựa chạy đi một cách điên cuồng.
Mọi người tìm chỗ sạch sẽ để ngủ. Trần Gia Lạc khẽ bảo Từ Thiên Hoằng: “Thất ca! Phen này Chu lão anh hùng bị chúng ta liên lụy đến nỗi tán gia bại sản, lại còn con chết vợ bỏ, thế mà vẫn trượng nghĩa đi cứu Tứ ca. Dọc đường huynh phải chú ý đừng để bọn quan phủ nhận ra ông ấy. Còn Tứ tẩu đang bị thương mà lại buồn chuyện Tứ ca, khi gặp chuyện chắc sẽ liều mình. Thất ca hãy lưu ý đừng để cô ấy thí mạng. Đi đường không cần quá gấp rút, nếu giữ được không động thủ là tốt nhất.” Từ Thiên Hoằng gật đầu đồng ý.
Mọi người ngủ chừng hai giờ thì trời sáng. Thiên Tí Như Lai Triệu Bán Sơn dẫn Chương Tấn và Thạch Song Anh đi trước tiên. Lạc Băng suốt đêm không chợp mắt, gọi Chương Tấn tới bảo: “Thất đệ, dọc đường chớ nên gây sự.”
Chương Tấn đáp: “Tứ tẩu yên tâm. Cứu Tứ ca là đại sự, đệ có hồ đồ đến mấy cũng phải biết lo liệu.”
Bọn Mạnh Kiện Hùng, Tống Thiện Bằng lo việc khâm liệm thi hài của Chu Anh Kiệt, rồi an táng cạnh trang. Chu Ỷ phục dưới đất kêu khóc thảm thiết, bộ mặt già nua của Chu Trọng Anh cũng lệ chảy ngang dọc. Mọi người trong Hồng Hoa Hội đều thi lễ trước mộ.
Sau đó, ba nhóm của Vô Trần, Trần Gia Lạc, Lục Phi Thanh cũng lần lượt khởi hành. Nhóm cuối cùng ra đi là Chu Trọng Anh và Từ Thiên Hoằng dẫn rất đông người trong trang cũng đã lên đường. Đến Triệu Gia Bảo, dân chúng địa phương biết tin Thiết Đảm trang bị cháy đều kéo đến hỏi thăm. Chu Trọng Anh cảm ơn họ rồi đưa nhau đến một tiệm ăn. Ăn uống xong xuôi thì đưa cho Tống Thiện Bằng một ngàn lạng bạc, dặn dò y rồi chia tay phi ngựa về hướng đông.
* * *
Dọc đường lúc nào Chu Ỷ cũng kình chống Từ Thiên Hoằng. Dường như nàng thấy họ Từ làm gì nói gì cũng có chỗ không đúng. Chu Trọng Anh nghiêm mặt trách mắng cũng vậy. Lạc Băng mỉm cười khuyên giải cũng thế. Từ Thiên Hoằng đã cố nhẫn nại nói năng nhỏ nhẹ nhưng Chu Ỷ quyết không chịu buông tha, cứ mở miệng ra là bóng gió, chẳng nể mặt chút nào.
Từ Thiên Hoằng cũng phải bực tức trong lòng, nghĩ: “Chẳng qua là ta nể mặt phụ thân cô mà nể cô ba phần. Chẳng lẽ ta sợ cô thật hay sao? Võ Gia Cát này ngang dọc giang hồ, anh hùng hào kiệt không ai là không kính trọng, chẳng lẽ hôm nay để con nhãi này trêu cho tức được?” Chàng cứ cưỡi ngựa đi sau cùng, không nói câu nào, cứ đêm dừng lại ăn xong là ngủ ngay, sáng sớm lại lên đường. Suốt con đường ngựa không dừng vó, đến ngày thứ ba đã ra khỏi ải Gia Cốc.
Chu Trọng Anh thấy con gái không biết nghe lời, đã nhiều lần gọi riêng ra mà trách cứ. Chu Ỷ vâng vâng dạ dạ, nhưng mỗi khi nhìn thấy Từ Thiên Hoằng lại nhịn không nổi, kê tủ đứng vào miệng chàng. Chu Trọng Anh nghĩ bụng: “Nếu có vợ mình ở đây, có thể sẽ dạy dỗ được con gái. Bây giờ bà ấy đã tức giận bỏ đi, không biết lưu lạc nơi nào.” Nghĩ đến đó ông bất giác buồn rầu, nhìn qua thấy Từ Thiên Hoằng không vui lại thêm phần áy náy.
Một đêm đi đến Túc Châu, bốn người trọ lại một khách sạn gần Đông Môn. Từ Thiên Hoằng ra ngoài, một hồi trở lại nói: “Thập tứ đệ chưa đuổi kịp Tứ ca, cũng chưa gặp Tây Xuyên song hiệp.”
Chu Ỷ không nhịn được, chõ miệng vào: “Làm sao huynh biết được, chỉ tổ nói bừa.” Từ Thiên Hoằng liếc nàng một cái, không nói gì.
Chu Trọng Anh sợ con gái tiếp tục buông lời vô lễ, bèn lên tiếng: “Rượu ở vùng này nổi tiếng là ngon. Thất gia, hai chúng ta đi qua đại lộ phía đông, đến Hạnh Hoa Lâu uống mấy chén.”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Thế thì tuyệt diệu.”
Chu Ỷ lên tiếng: “Gia gia con cũng đi.”
Từ Thiên Hoằng cười khì một tiếng. Chu Ỷ giận dữ nói: “Huynh cười cái gì? Chẳng lẽ ta không đi được hay sao?”
Từ Thiên Hoằng quay mặt đi, coi như không nghe thấy. Lạc Băng mỉm cười giảng hòa: “Ỷ muội, chúng ta cùng đi. Tại sao nữ nhân lại không được đến tửu lâu uống rượu?” Chu Trọng Anh là người phóng khoáng nên cũng không ngăn trở.
Bốn người đến Hạnh Hoa Lâu gọi rượu và thức ăn. Nước suối vùng Túc Châu trong xanh đặc biệt đem cất rượu thơm tho vô cùng, có thể gọi là số một vùng tây bắc. Tiểu nhị lại đưa lên một khay bánh nướng hảo hạng ở Túc Châu, mềm như giấc mộng mùa xuân, trắng như trăng giữa đêm thi, vừa dẻo vừa dòn. Chu Ỷ vừa thưởng thức vừa khen liền miệng. Tửu lâu này đông khách nên bốn người không tiện thương lượng về việc cứu Văn Thái Lai, chỉ nói chuyện phiếm về phong cảnh dọc đường.
Chu Trọng Anh bỗng hỏi Từ Thiên Hoằng: “Trần đương gia của quí hội tuổi còn rất trẻ, dáng vẻ như công tử nhà giàu, thế mà tinh thông quyền thuật nhiều nhà nhiều phái, thật sự xưa nay chưa từng thấy. Lúc đấu quyền với ta, bộ quyền pháp cuối cùng mà y sử dụng thật là kỳ dị, không hiểu gọi là gì? Thất gia có biết hay không?” Chu Ỷ cũng đang thắc mắc chuyện này, nghe phụ thân hỏi bèn im lặng mà nghe.
Từ Thiên Hoằng đáp: “Trần đương gia là tam công tử của Trần Các Lão ở Hải Ninh. Phen này cũng là lần đầu tiên tại hạ gặp Trần đương gia. Năm mười lăm tuổi, y đã được Vu lão đương gia của bọn tại hạ dẫn lên Thiên Sơn gặp Thiên Trì Quái Hiệp bái sư, mãi không trở về Giang Nam. Trong tệ hội chỉ có Vô Trần đạo trưởng, Triệu tam ca và mấy vị hương chủ lớn tuổi là đã từng gặp y hồi nhỏ. Bộ quyền pháp đó, theo tại hạ thì chắc là do Thiên Trì Quái Hiệp sáng chế ra rồi truyền thụ cho Trần đương gia.”
Chu Trọng Anh nói: “Hồng Hoa Hội lừng danh khắp Giang Nam mà tổng đà chủ lại giống như một công tử phú quí. Lúc ta vừa gặp đã thấy kinh ngạc, thấy có phần không tương xứng. Sau này đối đáp rồi giao thủ với y, mới biết y chẳng những võ công rất giỏi mà kiến thức cũng bất phàm, thật sự là một nhân vật ít ai bì được. Thế mới gọi là chân nhân không thể coi tướng mà lường.”
Từ Thiên Hoằng và Lạc Băng nghe ông nhiệt liệt tán dương thủ lãnh của mình, dĩ nhiên rất vui mừng. Nhưng chỉ chốc lát, Lạc Băng lại nghĩ đến chuyện an nguy của chồng mình, lo chàng đang bị bọn công sai ngược đãi, nên sầu não lại ngay.
Chu Trọng Anh lại nói: “Mấy năm gần đây, trong võ lâm xuất hiện không ít nhân vật kiệt xuất. Thật là Trường Giang sóng sau dồi sóng trước, chỉ mười năm mà nhân sự đã mấy lần thay đổi. Cũng như lão đệ thôi, trí dũng song toàn ít thấy trong giang hồ. Lão đệ đừng để uổng phí thân thủ thế này, phải cố mà làm nên sự nghiệp.”
Từ Thiên Hoằng liên tiếp vâng dạ, còn Chu Ỷ lại hừ một tiếng, nghĩ bụng: “Gia gia của ta tán dương ngươi quá đáng. Thế mà ngươi còn khen phải, không biết mắc cỡ hay sao?”
Chu Trọng Anh uống một hớp rượu rồi nói: “Từng nghe nói Vu lão đương gia của quí hội là đệ tử Thiếu Lâm, rất gần với môn hộ của ta. Từ lâu ta đã muốn gặp ông ấy để thỉnh giáo một lần, nhưng người Giang Nam kẻ Tây Bắc, tâm nguyện đó chưa đạt được mà ông ấy đã về cõi tây thiên rồi. Ta vẫn thường hỏi về lai lịch sư thừa của ông ấy, nhưng người nói thế này người nói thế kia, cuối cùng không biết tin nào là chính xác.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Trước nay Vu lão đương gia vẫn không nhắc đến sư thừa, mãi đến lúc lâm chung mới nói ra. Trước kia ông ấy học võ nghệ ở Phúc Kiến Thiếu Lâm tự.”
Chu Trọng Anh nói: “Ta lại học ở Thiếu Thất, tỉnh Hà Nam. Thiếu Lâm bắc phái hay nam phái cũng vốn một nhà, thế thì ta cùng Vu lão đương gia tuy không học cùng tu viện nhưng có thể gọi là đồng môn.” Ông ngừng một chút rồi nói tiếp: “Trước kia nghe nói võ công của tổng đà chủ Hồng Hoa Hội rất gần với Thiếu Lâm, ta vì ngưỡng mộ nên đã hỏi thử bối phận của ông ấy ở phái Thiếu Lâm mà không ai biết, nên cảm thấy kinh ngạc trong lòng. Nhân vật lừng lẫy như ông ấy, nếu xuất thân từ phái Thiếu Lâm mà không ai biết thì thật là kỳ lạ. Ta cũng từng viết thư, ông ấy hồi đáp rất khiêm cung, nhưng chỉ toàn là câu khách sáo, hoàn toàn không nhắc đến môn phái Thiếu Lâm.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Vu lão đương gia không đề cập đến môn phái võ công của mình, chắc chắn có chỗ khuất khúc gì khó nói. Xưa nay ông ấy rất thích kết giao bằng hữu. Người nhiệt tình trọng nghĩa như lão tiền bối, nếu gặp Vu lão đương gia thì nhất định hai người mới gặp đã tình như cố cựu.”
Chu Ỷ lạnh lùng lên tiếng: “Nhân vật Hồng Hoa Hội rất thích coi thường người khác. Băng tỷ, không phải muội nói tỷ tỷ đâu.” Từ Thiên Hoằng mặc kệ không lý gì đến nàng.
Chu Trọng Anh lại hỏi: “Không hiểu Vu lão đương gia mắc bệnh gì mà tạ thế? Tuổi tác của ông ấy hình như cũng không lớn hơn ta là mấy.”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Vu lão đương gia hưởng thọ được sáu mươi lăm tuổi. Nguyên do bệnh trạng của ông ấy nói ra rất dài dòng, chỗ này lại đông người tạp nhạp. Đêm nay chúng ta cố đi thêm mấy chục dặm, tìm nơi hoang dã để tại hạ có thể bẩm báo với tiền bối tỉ mỉ hơn.”
Chu Trọng Anh khen phải, bèn gọi tính tiền. Từ Thiên Hoằng nói: “Xin đợi chốc lát, tại hạ phải xuống dưới một chút đã.”
Chu Trọng Anh vội bảo: “Lão đệ! Đây là ta mời, lão đệ không được giành thanh toán.” Từ Thiên Hoằng vâng dạ rồi nhanh chân bước xuống lầu.
Chu Trọng Anh trách mắng: “Con gái gì mà ăn nói bừa bãi, chẳng có qui củ gì cả.”
Lạc Băng mỉm cười lên tiếng: “Ỷ muội! Thất ca của ta có lắm sở trường. Muội mà trêu chọc y, nhớ cẩn thận coi chừng bị y bắt chẹt.”
Chu Ỷ hứ một tiếng rồi nói: “Nam tử hán gì mà đứng chưa cao bằng muội! Chẳng lẽ muội sợ hắn hay sao?” Chu Trọng Anh muốn trách cứ gì đó, nhưng bỗng nghe tiếng bước chân lên lầu bèn im lặng không nói nữa.
Từ Thiên Hoằng lên tới nơi rồi nói: “Thôi, chúng ta đi.” Chu Trọng Anh bèn thanh toán tiền, quay về khách sạn lấy đồ đạc quần áo, rồi lên ngựa ra ngoài thành. May mà trời chưa tối nên cửa thành còn mở.
Bốn con ngựa chạy một hơi ngoài ba chục. Tới chỗ bên trái có một dãy mười mấy gốc cây lớn, phía sau hàng cây này lại có nhiều tảng đá dựng lên như bình phong, đúng là một nơi ẩn náu rất tốt. Chu Trọng Anh bảo: “Chúng ta ở đây nhé.”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Hay lắm!” Bốn người bèn buộc ngựa rồi ngồi tựa vào gốc cây. Lúc này trăng sáng sao thưa, đêm thanh mát mẻ, gió lay ngọn cỏ nghe xào xạc.
Từ Thiên Hoằng đang định kể chuyện thì bỗng nghe thấy xa xa có tiếng vó ngựa, bèn nằm áp tai xuống đất lắng nghe một lúc, rồi đứng dậy nói: “Có ba con ngựa chạy tới đây.” Chu Trọng Anh đưa tay ra hiệu, bốn người tháo dây cương, dẫn ngựa nấp sau tảng đá.
Không bao lâu, tiếng vó ngựa lại gần, ba con ngựa cứ theo đường cái mà chạy về hướng đông. Dưới ánh trăng thấy rõ cả ba kỵ sĩ đều cột vải trắng trên đầu, người khoác áo dài có sọc, đúng là cách ăn mặc của người Hồi. Trên yên ngựa đều có treo loan đao.
Đợi ba con ngựa chạy xa, bốn người mới quay về chỗ ngồi cũ. Suốt ngày đi đường không rảnh rỗi để nói chuyện, lúc này Chu Trọng Anh mới hỏi đến nguyên do tại sao triều đình quyết bắt Văn Thái Lai.
Lạc Băng nói: “Quan phủ vẫn coi Hồng Hoa Hội là cái gai trước mắt, chuyện đó không cần phải nói. Nhưng lần này chúng phái đi rất nhiều võ lâm cao thủ, không bắt được Tứ ca chưa chịu buông tay, đó là có nguyên nhân khác. Tháng trước Vu lão đương gia từ tổng đà ở Thái Hồ đi đến Bắc Kinh, có gọi vợ chồng vãn bối đi cùng. Khi đến Bắc Kinh, Vu lão đương gia nói nhỏ: đêm nay phải vào Hoàng cung để gặp hoàng đế Càn Long. Chuyện này khiến bọn vãn bối phải một phen hoảng sợ, hỏi lão đương gia gặp tên hoàng đế kia để làm gì nhưng ông ấy không chịu nói. Tứ ca bèn khuyên: tên hoàng đế này âm hiểm độc ác, tốt nhất là gọi thêm Vô Trần đạo trưởng, Triệu tam ca, Tây Xuyên song hiệp đến kinh thành rồi nhờ Thất ca tính một cách an toàn nhất.”
Chu Ỷ liếc Từ Thiên Hoằng một cái, thầm nghĩ: “Chẳng lẽ tên lùn này lại có bản lĩnh đến thế? Mọi người phải đến thỉnh giáo ngươi ư, ta quyết không tin.”
Chu Trọng Anh khen: “Tứ gia nói đúng lắm.”
Lạc Băng kể tiếp: “Vu lão đương gia nói ông ấy đi gặp hoàng đế là có việc trọng đại, không thể đi nhiều người vào cung, rất dễ phát sinh biến cố. Tứ ca nghe lão đương gia nói thể, đương nhiên phải tuân hiệu lệnh. Đêm hôm đó hai người đi vào trong cung, vãn bối cứ đứng ngoài tường hoàng cung mà trông đợi, thấp thỏm sợ hãi. Mãi hơn một giờ sau họ mới nhảy ra khỏi tường, rồi sáng sớm hôm sau cả ba rời khỏi kinh thành, lập tức trở về Giang Nam. Vãn bối lén hỏi Tứ ca xem có gặp tên hoàng đế hay không, rốt cuộc là việc gì. Tứ ca đáp, hoàng đế thì đã gặp rồi, còn việc này liên quan đến chuyện lật đổ Thanh triều, khôi phục đại nghiệp cho người Hán. Dĩ nhiên không phải là Tứ ca không tin vãn bối nhưng thêm một người biết thì thêm một phần rủi ro tiết lộ bí mật nên không nói rõ ra. Vãn bối cũng không hỏi thêm nhiều.”
Chu Trọng Anh lại khen ngợi: “Hoài bão của Vu lão đương gia thật là không nhỏ, dám lẻn vào cung tìm gặp hoàng đế. Trong khắp thiên hạ, chẳng có mấy người can đảm đến thế.”
Lạc Băng kể tiếp: “Về tới Giang Nam, Vu lão đương gia chia tay với bọn vãn bối. Bọn vãn bối quay về tổng đà ở Thái Hồ, còn ông ấy đi đến Hải Ninh ở Hàng Châu. Từ lúc đi Hải Ninh về, thần sắc ông ấy thay đổi hẳn, giống như đột ngột già thêm mười mấy tuổi, suốt ngày không thấy nụ cười, rồi vài ngày sau thì khởi bệnh. Tứ ca có nói nhỏ cho vãn bối biết, vì người yêu nhất trong đời của lão đương gia đã tạ thế nên ông ấy quá thương tâm mà chết…” Nói đến đây, Lạc Băng và Từ Thiên Hoằng đều rơi nước mắt. Chu Trọng Anh cũng không nén nổi, quay đi hỉ mũi.
Lạc Băng lau nước mắt rồi nói tiếp: “Trước lúc lâm chung, lão đương gia cho triệu tập mười hai người chánh phó hương chủ của nội tam đường và ngoại tam đường, hạ lệnh đi đón thiếu đà chủ về, tiếp nhiệm ngôi vị tổng đà chủ. Ông còn nói: đây không phải vì ích kỷ hay tư tâm gì, nhưng chuyện này có liên quan đến việc quang phục thiên hạ nhà Hán, đó là việc quan trọng nhất. Nguyên nhân bên trong thì bây giờ chưa thể nói rõ, sau này mọi người sẽ biết. Mà cho dù ông ấy không để lại di ngôn nhất định huynh đệ cũng vì cảm ân đức mà nhất trí ủng hộ thiếu đà chủ tiếp quản đại nhiệm này.”
Chu Trọng Anh hỏi: “Không hiểu thiếu đà chủ xưng hô như thế nào với lão đương gia?”
Lạc Băng đáp: “Vốn là nghĩa tử! Thiếu đà chủ vốn là tam công tử của Trần Các Lão ở Hải Ninh, năm mười lăm tuổi đã đỗ cử nhân. Đỗ đạt chưa được bao lâu thì lão đương gia đã dẫn y đến Thiên Sơn Bắc, tìm Thiên Trì Quái Hiệp Viên lão anh hùng để xin học võ. Còn tại sao công tử của Tướng Quốc phủ lại có thể bái một hào kiệt võ lâm làm nghĩa phụ thì chuyện này bọn vãn bối không sao biết được.”
Chu Trọng Anh nói: “Nguyên nhân chuyện đó chắc chắn Văn tứ gia đã biết.”
Lạc Băng nói: “Hình như Tứ ca cũng không rõ lắm. Lúc lão đương gia sắp chết, còn một tâm nguyện chưa hoàn thành nên rất cần gặp thiếu đà chủ một lần. Ông ấy vừa từ Bắc Kinh trở về đã gấp rút người đến Hồi Cương, dặn thiếu đà chủ về gấp Ngọc Hư đạo quán ở An Tây đợi lệnh. Viên lão tiền bối Thiên Trì Lão Quái không yên tâm nên cùng đi với thiếu đà chủ về phía đông. Không ngờ lão đương gia lại tạ thế nhanh chóng như thế. Từ An Tây đi đến tổng đà ở Thái Hồ đường xa vạn dặm, tuy thiếu đà chủ được tin là trở về ngay, nhưng lão đương gia biết không đợi nổi bèn sai lục đường chánh phó hương chủ đi về Tây Bắc đón thiếu đà chủ để bàn luận đại sự. Chuyện cơ mật đó, khi gặp chính thiếu đà chủ Tứ ca sẽ tường trình lại. Nào ngờ Tứ ca gặp phải kiếp nạn này…” Nói đến đây, giọng nàng nghẹn hẳn đi: “Lỡ Tứ ca có mệnh hệ gì, di chí của lão đương gia sẽ không ai biết nữa.”
Chu Ỷ dỗ dành: “Băng tỷ đừng quá buồn lòng. Nhất định chúng ta có thể cứu Văn gia ra.” Lạc Băng nắm tay nàng, khẽ gật đầu, nhoẻn nụ cười buồn.
Chu Trọng Anh lại hỏi: “Văn tứ gia bị thương như thế nào?”
Lạc Băng kể: “Các huynh đệ đều chia nhóm đi nghênh tiếp thiếu đà chủ, vợ chồng vãn bối là nhóm cuối cùng. Vừa đến Túc Châu, đột nhiên có tám tên đại nội thị vệ đến khách sạn tìm gặp, nói là phụng mệnh mời bọn vãn bối về Bắc Kinh gấp. Tứ ca nói gặp thiếu đà chủ xong mới có thể phụng mạng được. Tám tên thị vệ kia ăn nói rất khách sáo nhưng vẫn buộc Tứ ca lập tức hồi kinh. Tứ ca khước từ, hai bên càng nói càng căng thẳng, cuối cùng xảy ra chuyện động thủ. Tám thị vệ đó đều là cao thủ được tuyển chọn đặc biệt, bọn vãn bối lấy hai địch tám, dần dần ở thế hạ phong. Tứ ca nổi nóng lên, nói là Bôn Lôi Thủ này dù mất mạng cũng không để chúng bắt đi. Trong trận ác chiến, huynh ấy dùng đơn đao chém chết hai tên, phóng chưởng đánh chết ba tên, lại còn hai tên trúng phi đao của vãn bối. Tên cuối cùng thấy không êm nên bỏ chạy, nhưng Tứ ca cũng bị thương tới sáu bảy chỗ. Trong lúc đánh nhau, huynh ấy trước sau vẫn lo bảo vệ cho vãn bối nên vãn bối không bị thương chút nào cả.”
Khi Lạc Băng kể đến chỗ phu quân múa đao phóng chưởng đánh tan tác tám tên đại nội thị vệ, Chu Ỷ nghe đến ngẩn mặt ra. Nàng tưởng tượng đến phong độ anh hùng của Bôn Lôi Thủ, không nén nổi đem lòng ngưỡng vọng. Hồi lâu Chu Ỷ mới thở ra một hơi, giương mắt lên nhìn Từ Thiên Hoằng, mặt đầy sắc thái chê cười.
Dĩ nhiên Từ Thiên Hoằng hiểu được ý nàng. Chàng nghĩ bụng: “Tứ ca là anh hùng hào kiệt, trên đời ít ai bì được. Từ Thiên Hoằng mỗ không sánh kịp Tứ ca, chuyện đó ai cũng biết, không cần cô nương phải nói.”
Lạc Băng kể tiếp: “Bọn vãn bối biết chắc không thể nghỉ lại Túc Châu được nữa, bèn cố vượt qua ải Gia Cốc. Nhưng Tứ ca đã bị thương nặng, thật sự không đi nổi nữa, bèn tìm một khách sạn để dưỡng thương, chỉ mong thiếu đà chủ và các huynh đệ mau mau quay lại. Nào ngờ bọn chó săn ở Bắc Kinh và Lan Châu lại tìm đến. Những việc sau này, mọi người đều biết hết rồi.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Tên hoàng đế kia càng sợ Tứ ca lại càng hận Tứ ca. Trước mắt Tứ ca hoàn toàn không phải lo âu về tính mạng. Quan phủ và bọn ưng trảo đã biết huynh ấy là khâm phạm, chắc chắn không dám tùy tiện đối xử tồi tệ.”
Chu Trọng Anh khen: “Lão đệ đoán không sai.”
Chu Ỷ bỗng nói với Từ Thiên Hoằng: “Nếu các vị đi đón Văn tứ gia sớm một chút thì hay quá rồi. Bọn chó săn đó sẽ bị giết cho sạch sẽ. Văn tứ gia không gặp rủi ro mà các vị cũng không cần phải đến Thiết Đảm trang kiếm chuyện…”
Chu Trọng Anh vội vàng quát lên ngắt lời: “Con nha đầu này, ngươi nói gì lạ vậy?”
Từ Thiên Hoằng nói: “Chỉ vì thiếu đà chủ khiêm cung khách sáo quá, nói sao cũng không chịu tiếp nhận chức tổng đà chủ. Một bên ép một bên từ chối, chậm trễ bao nhiêu ngày tháng. Hơn nữa Tứ ca và Tứ tẩu đều bản lãnh đầy người, ai ngờ lại có kẻ cả gan đụng đến.”
Chu Ỷ nói: “Huynh đã là Gia Cát Lượng, sao lại không ngờ được?”
Từ Thiên Hoằng bị hỏi một câu vô lý tới như vậy, cho dù đầu óc linh hoạt gấp đôi thì cũng không biết trả lời sao, chỉ còn cách im lặng.
Chu Trọng Anh bèn nói: “Nếu Thất gia ngờ được việc này, thì chúng ta không được quen biết các hảo bằng hữu trong Hồng Hoa Hội. Nhân vật cao thâm lại tuấn nhã như Trần đương gia, ở vùng biên cương tây bắc chúng ta khó mà gặp được.” Ông quay lại hỏi Lạc Băng: “Phu nhân của y là ai, là danh môn khuê nữ hay hiệp nữ giang hồ?”
Lạc Băng đáp: “Trần đương gia vẫn chưa thành thân.”
Chu Trọng Anh không hỏi gì nữa. Lạc Băng bỗng bật cười khúc khích, hỏi: “Còn Chu Ỷ muội muội thì sao, bao giờ mới cho chúng ta uống chén rượu mừng?”
Chu Trọng Anh cười đáp: “Con nha đầu đó dở điên dở dại chẳng ai thèm lấy, chắc phải sống cả đời với lão già này thôi.”
Lạc Băng cười rộ lên: “Đợi khi cứu được Tứ ca, vợ chồng vãn bối sẽ làm mai cho Ỷ muội, đảm bảo kiếm cho lão tiền bối một chàng rể vừa ý.”
Chu Ỷ vội vàng nói: “Các vị còn trêu chọc ta nữa thì ta phải đi trước một mình đấy.” Ba người nhìn nhau mỉm cười, không nói gì nữa.
Qua một hồi lâu, Từ Thiên Hoằng bỗng bật cười thành tiếng. Chu Ỷ giận dữ nói: “Huynh lại cười cái gì rồi?”
Từ Thiên Hoằng đáp: “Ta cười chuyện của ta, có liên quan gì đến cô đâu?”
Chu Ỷ không biết giấu giếm là gì, hừ một tiếng rồi nói: “Huynh cười chuyện gì chẳng lẽ ta không biết hay sao? Các vị muốn gả ta cho Trần Gia Lạc, nhưng người ta là công tử nhà tể tướng, làm sao ta với tới được. Mà mặc kệ các vị coi y là bảo bối, ta cứ không thèm. Lúc y tỉ đấu với gia gia của ta, ngoài mặt thì nói năng lịch sự, nhưng trong lòng lại xảo trá vô cùng. Ta thà cả đời ở vậy còn hơn lấy một tên miệng nam mô bụng bồ dao găm như thế.”
Chu Trọng Anh vừa tức giận vừa tức cười, hét lên bảo nàng im, nhưng Chu Ỷ cứ mặc kệ, nói một hơi cho hết, đúng như pháo nổ nguyên dây.
Lạc Băng mỉm cười nói: “Được rồi, được rồi! Sau này ta sẽ giới thiệu cho Ỷ muội một bậc đại anh hùng hào kiệt lòng thật miệng nhanh là được rồi. Như vậy đã vừa ý chưa?”
Chu Trọng Anh cũng cười nói: “Con nha đầu này miệng lưỡi không có hàng rào, đúng là không biết sợ Thất gia và Văn phu nhân chê cười. Thôi được rồi, mọi người ngủ đi một chút để sáng mai đi đường thoải mái hơn.” Bốn người bèn tới chỗ buộc ngựa, lấy chăn ra đắp lên người, nằm ngủ dưới gốc cây.
Chu Ỷ bỗng hỏi nhỏ: “Gia gia! Gia gia có mang theo cái gì ăn hay không, con đói lắm rồi.”
Chu Trọng Anh đáp: “Ta không mang theo. Sáng mai chúng ta khởi hành sớm một chút, đi đến Song Tỉnh rồi ăn sáng.”
Một lúc sau, ông đã ngáy khò khò, hình như ngủ say rồi. Còn Chu Ỷ thì bụng đói cồn cào, trở qua lăn lại không sao ngủ được. Nàng nhìn qua Lạc Băng nằm ngủ bên cạnh, rồi bỗng nhìn thấy Từ Thiên Hoằng ngồi dậy, từ từ đi đến nơi buộc ngựa.
Chu Ỷ nổi dạ hiếu kỳ, liếc mắt nhìn trộm. Trong đêm tối, nàng thấy chàng lấy trong bọc ra cái gì đó, rồi về chỗ nằm ngồi xuống, đắp chăn lên người rồi bắt đầu nhai. Chu Ỷ bèn xoay người lại, không thèm nhìn nữa.
Nhưng tên quân sư kia chơi ác, không những nhai nuốt thành tiếng nhồm nhoàm rau ráu, lại còn hít hà khen ngợi. Chu Ỷ nhịn không nổi, phải mở mắt liếc nhìn. Không nhìn thì thôi, vừa nhìn là nước bọt nàng tuôn ra, cơn đói càng khó chịu. Thì ra trong tay Từ Thiên Hoằng cầm mấy miếng bánh trắng tinh, ngoạm từng miếng lớn. Bên cạnh còn một chồng rất cao, rõ ràng là bánh nướng đặc sản của Túc Châu. Thì ra lúc ở Hạnh Hoa lâu, chàng xuống dưới lầu trước là để mua mấy cái bánh này.
Suốt dọc đường Chu Ỷ cứ nói năng chẹn họng chàng, lúc này làm sao dám mở miệng hỏi xin? Nàng bèn nghĩ bụng: “Thôi, ta cố mà ngủ cho nhanh, đừng nghĩ gì đến chuyện ăn nữa.” Nào ngờ càng muốn ngủ lại càng không ngủ được, rồi đột nhiên có mùi rượu bay tới. Tên lùn kia thật là vô pháp vô thiên, ngửa đầu lên cắm một cái bầu nhỏ mà tu ừng ực.
Chu Ỷ nhịn không nổi nữa, la lên: “Nửa đêm còn uống rượu gì nữa? Muốn uống thì đi chỗ khác mà uống, đừng uống ở đây.”
Từ Thiên Hoằng đáp gọn: “Được lắm.” Rồi chàng đặt bầu rượu xuống, ngủ thiếp đi. Chàng không thèm đậy nút hồ lô, cứ để đó cho mùi rượu theo gió mà bay tới mũi Chu Ỷ. Thì ra khi ở Hạnh Hoa lâu, chàng thấy Chu Ỷ hễ rót ra là cạn chén, biết nàng là một cô nương mê rượu, bèn làm như thế để trêu nàng.
Phen này thì Chu Ỷ tức đến nỗi lông mày dựng ngược, cặp mắt giương to, muốn nổi giận thì không có lý do, nhưng không nổi giận thì lại không nhịn nổi. Nàng bèn xoay người đi, lấy chăn phủ kín cả mắt mũi miệng, nhưng được một lúc thì thấy ngột thở khó chịu, phải mở chăn ra. Dưới ánh trăng sáng, Chu Ỷ đột nhiên nhìn thấy hai viên thiết đảm lấp lánh sáng ở cạnh gối cha mình. Suy nghĩ một lúc, nàng nhẹ nhàng đưa tay ra cầm một trái thiết đảm, ném tới chỗ bầu rượu. Nghe một tiếng bụp nhỏ, hồ lô vỡ nát ra, rượu chảy đầy chăn Từ Thiên Hoằng.
Dường như lúc này chàng đã ngủ say, không động đậy gì. Chu Ỷ nhìn thấy cha mình cùng Lạc Băng cũng ngủ rất say, bèn rón rén bò dậy, tới lấy lại trái thiết đảm. Nào ngờ nàng vừa đưa tay ra, Từ Thiên Hoằng đột nhiên xoay người lại nằm úp lên thiết đảm, miệng vẫn ngáy khò khò.
Chu Ỷ hoảng sợ, giật phắt tay về. Tuy tính tình nàng thoải mái hào sảng, nhưng dù sao cũng là một cô nương trẻ tuổi, dĩ nhiên không dám luồn tay xuống dưới bụng một nam nhân mà sờ soạng. Nhưng nếu không lấy thì ngày mai tên lùn này có thiết đảm trong tay làm bằng chứng, đem ra kể lại đảm bảo nàng sẽ bị phụ thân mắng cho một trận nên thân.
Không làm gì được, nàng chỉ còn cách quay về mà ngủ. Đúng lúc đó, đột nhiên Lạc Băng cười lên khúc khích. Chu Ỷ xấu hổ quá, mặt đỏ đến tận mang tai. Vừa rồi nàng bò đến chỗ Từ Thiên Hoằng, chắc chắn đã bị người ta nhìn thấy. Thế là tim cô nàng đập loạn cả lên, suốt đêm không sao ngủ cho ngon được.
Sáng hôm sau, nàng thức dậy từ rất sớm nhưng không cục cựa, cứ nằm trong chăn mà mong trời đừng bao giờ sáng nữa. Chẳng bao lâu Chu Trọng Anh và Lạc Băng thức dậy, rồi một lúc sau Từ Thiên Hoằng cũng tỉnh giấc. Chàng bỗng la lên: “Trời ơi, cái gì mà cứng ngắc vậy?”
Chu Ỷ rúc sâu thêm vào trong chăn, lại nghe chàng nói: “Ái chà! Lão tiền bối, thiết đảm của tiền bối lăn vào trong chăn của tại hạ. Ôi chao, không xong rồi! Ngay cả bầu rượu cũng bị đập vỡ. Đúng rồi, nhất định là có con khỉ trong núi ngửi thấy mùi rượu, thèm quá nên bò đến trộm. Nó lại nhìn thấy quả thiết đảm của lão gia, cầm lên mà nghịch, không cẩn thận nên đập vỡ mất hồ lô. Con khỉ này hư đốn quá.”
Chu Trọng Anh cười ha hả nói: “Lão đệ thích đùa quá. Ở chỗ như thế này làm sao có khỉ?”
Lạc Băng cũng bật cười: “Nếu không phải là khỉ thì nhất định là tiên nữ trên trời thèm rượu hạ phàm rồi.”
Mọi người cười đùa một chập. Chu Ỷ không nghe ai nhắc đến chuyện đêm qua nữa, cũng hơi yên lòng một chút. Nhưng khi hiểu được Từ Thiên Hoằng nói vòng vo mắng mình là khỉ, trong lòng nàng lại càng rầu rĩ hơn. Lúc Từ Thiên Hoằng đem bánh nướng ra mời mọi người, Chu Ỷ tức giận không thèm ăn.
Đến Song Tỉnh, bốn người vào quán ăn mỳ. Sau khi rời khỏi thị trấn, Từ Thiên Hoằng cùng Lạc Băng đột nhiên cúi xuống, xem kỹ dưới chân tường một ngôi nhà. Chu Ỷ cũng lại gần xem, thấy dưới chân tường có ai dùng than mà vẽ loạn xà ngầu, trông giống như bọn trẻ nghịch ngợm vậy. Nàng đã nghĩ là chẳng có gì đáng xem, nhưng bỗng nghe Lạc Băng mừng rỡ reo lên: “Tây Xuyên song hiệp đã phát hiện hành tung của Tứ ca rồi, đang tiếp tục theo dõi.”
Chu Ỷ hỏi: “Làm sao tỷ biết? Những cái này vẽ gì vậy?”
Lạc Băng đáp: “Đây là ký hiệu để liên lạc tin tức trong Hồng Hoa Hội, do Tây Xuyên song hiệp vẽ.” Nàng vừa nói vừa lấy gót giày xóa hết nét vẽ đi, rồi nói: “Chúng ta rời khỏi đây ngay.”
Bốn người được biết đã có tung tích của Văn Thái Lai, lập tức tinh thần phấn chấn hẳn lên. Nụ cười tươi tắn của Lạc Băng càng thêm phần khả ái. Họ chạy một hơi bốn năm chục dặm, ăn uống nghỉ ngơi chốc lát lại tiếp tục lên đường. Trưa ngày hôm đó, đến Thất Đạo Câu lại thấy ký hiệu của Dư Ngư Đồng để lại, nói là đã gặp Tây Xuyên song hiệp.
Lúc này vết thương trên đùi Lạc Băng đã đỡ nhiều, tuy đi đứng còn hơi gượng gạo nhưng không cần chống gậy nữa. Nàng nghĩ đến chẳng bao lâu đã có thể gặp được phu quân, không nhẫn nại được nữa, bèn quất ngựa chạy trước về hướng đông. Mọi người phải cố đuổi theo nàng.
Hoàng hôn thì đến Liễu Tuyền Tử, Lạc Băng còn muốn đi tiếp, nhưng Từ Thiên Hoằng nhớ tới lời dặn của Trần Gia Lạc bèn khuyên: “Chúng ta không sợ mệt, nhưng phải cho ngựa nghỉ ngơi một chút.”
Lạc Băng không làm gì được, đành phải ghé vào khách sạn nghỉ đêm. Nàng trăn trở trên giường không sao ngủ được. Giữa đêm, ngoài trời lại có mưa, nàng bỗng nhớ lại chuyện cũ, hai người vừa cưới nhau đã phụng mệnh lão đương gia đi đến Gia Khánh Phủ, cứu một quả phụ bị thổ hào hãm hại. Xong việc, hai người cùng uống rượu thưởng thức đêm mưa trên Yên Vũ Lâu ở Nam Hồ. Văn Thái Lai ngồi bên người vợ mới cưới, vừa cầm đao gõ vào thủ cấp của tên thổ hào đánh nhịp, vừa cất tiếng hát ca. Kỷ niệm đó theo tiếng mưa đêm lúc này mà dậy sóng trong lòng Lạc Băng.
Lạc Băng nghĩ bụng: “Các vị ca ca nghĩ đến cha con họ Chu là khách, không tiện giục nhanh chóng lên đường. Thế thì tại sao ta không đi trước?” Nghĩ đến đó, nàng không nén nổi, lập tức âm thầm thức dậy, mang theo song đao và hành trang của mình, dùng than vẽ lại ký hiệu trên bàn, bảo Từ Thiên Hoằng thay mình xin lỗi cha con họ Chu. Thấy Chu Ỷ đang ngon giấc trên giường, nàng sợ mở cửa làm cô bé tỉnh giấc, bèn nhẹ nhàng mở cửa sổ nhảy ra, vào chuồng dẫn con ngựa của mình ra ngoài, khoác áo tơi rồi tung người lên lưng ngựa, phi về hướng đông. Những giọt mưa rơi trên đôi má đỏ bừng của nàng thật là mát mẻ dễ chịu.
Vào lúc bình minh, Lạc Băng ghé vào một thị trấn để điểm tâm. Nàng thấy con ngựa không đi nổi nữa, đành phải nghỉ lại nửa giờ. Nghỉ xong lại chạy tiếp, được chừng bốn chục dặm thì đột nhiên con ngựa vấp chân một cái. Lạc Băng giật mình vội kéo dây cương, may mà ngựa chưa quị hẳn. Nàng biết nếu tiếp tục chạy gấp như thế thì ngựa không thể chịu nổi, chỉ còn cách chậm rãi mà đi.
Chưa được bao lâu, đột nhiên phía sau có tiếng vó ngựa gấp rút chạy tới. Vừa nghe thấy tiếng vó ngựa, ngựa đã phi tới sát mình. Lạc Băng kéo ngựa tránh qua bên trái, thấy trước mắt như gió cuốn một khối tuyết vụt qua, thì ra là một con ngựa trắng đang phóng vù vù. Con ngựa này chạy nhanh khủng khiếp, dáng dấp người cưỡi thế nào cũng không nhìn rõ được.
Lạc Băng kinh hãi la lên: “Sao lại có con ngựa hay đến thế?” Con ngựa đó dường như chạy chân không dính đất, một hình mười bóng, thật sự có thể gọi là truy phong trục điện. Chỉ trong chốc lát, cả ngựa lẫn người đã thu nhỏ thành một khối xam xám, rồi nháy mắt là không thấy tung tích đâu nữa.
Lạc Băng khen ngợi một hồi, cứ chậm rãi mà chạy đến một thôn nhỏ. Nàng thấy dưới mái hiên một ngôi nhà có cột một con ngựa lông trắng như tuyết, bờm phấp phới trong gió, thân cao chân dài, đẹp đẽ phi phàm. Đột nhiên nó hí vang một tiếng thanh thoát thấu mây, khiến con ngựa Lạc Băng đang cưỡi phải hoảng sợ nhảy lùi mấy bước. Lạc Băng đưa mắt nhìn kỹ, đúng là con ngựa trắng vừa rồi, bên cạnh có một hán tử đang chải chuốt vỗ về cho nó.
Lạc Băng nảy ra một ý, thầm nghĩ: “Nếu ta được cưỡi con tuấn mã này thì chẳng sợ gì không đuổi kịp đại ca. Ngựa tốt thế này, chắc là chủ không chịu bán, không chừng phải dùng biện pháp cứng rắn mà mượn đỡ. Nhưng chủ con ngựa này dĩ nhiên không phải hạng tầm thường, có thể là cao thủ. Ta phải cẩn thận một chút.”
Từ nhỏ nàng đã theo phụ thân là Thần Đao Lạc Nguyên Thông bôn tẩu giang hồ, biết hết mọi phương pháp trộm cướp xảo diệu, không món nào mà không tới chỗ tinh vi, bèn lập tức có chủ ý. Lạc Băng lấy mồi lửa trong bọc ra, dùng hỏa đao hỏa thạch đánh lửa thắp lên. Một tay nàng giật cương ngựa chạy nhanh về hướng con bạch mã, tay kia cầm sẵn phi đao.
Nghe vèo một tiếng, phi đao đã ghim vào cột nhà, cắt đứt dây cương của con ngựa trắng. Lúc này khoảng cách đã gần, tay trái Lạc Băng bèn nhét mồi lửa đang cháy vào yên con ngựa mình đang cưỡi, tiện tay xách hành lý của mình lên, tay phải ấn vào yên ngựa sử chiêu Tiềm Long Thăng Thiên, tung người bay qua lưng bạch mã. Con ngựa trắng giật mình hí vang một tiếng, rồi như tên bay khỏi cung, bắn thẳng về phía trước.
Phóng đao, đổi ngựa, cướp đồ, cản địch chỉ trong chốc lát đã xong xuôi hết. Chuyện nhanh quá, không ai kịp ra tay cản trở. Người chủ ngựa la toáng lên nhưng con ngựa vốn của Lạc Băng đang bị lửa đốt đau đến phát điên, đạp phá loạn xạ cả trở đường đi một lúc. Chủ ngựa quả nhiên thân thủ không vừa, tung người nhảy qua khỏi con ngựa điên rồi chạy ra ngoài, nhưng bấy giờ Lạc Băng đã chạy xa rồi.
Nàng thấy có người đuổi theo, bèn dừng ngựa quay đầu lại, lấy ra trong bọc một thỏi vàng, vừa ném ra vừa mỉm cười nói: “Ta mạn phép đổi ngựa. Con ngựa của huynh rất tốt, ta bù thêm một thỏi vàng đây.” Người kia không thèm đón lấy thỏi vàng, vừa kêu la ẫm ĩ vừa vắt giò lên cổ mà đuổi.
Lạc Băng mỉm cười, khẽ ép chân vào hông ngựa một cái. Con ngựa chồm lên tới mười mấy trượng, rồi nàng chỉ còn thấy gió lộng qua tai, hai hàng cây cối bên đường lùi vùn vụt ra sau, cái thôn nhỏ sau lưng trong chớp nhoáng đã biến đâu mất. Hơn nửa giờ nữa, con ngựa đó vẫn phóng như tên, không ra vẻ mệt mỏi chút nào.
Một lúc sau, hai bên đường đã xuất hiện những thửa ruộng tươi tốt, lề đường trồng đầy bạch dương, sắp đến một thị trấn lớn. Lạc Băng xuống ngựa, ghé vào thị trấn ăn cơm. Nàng hỏi thì biết nơi này là Sa Tỉnh, cách nơi mình đoạt ngựa đã hơn bốn chục dặm.
Con ngựa này nàng càng nhìn càng mến, bèn đích thên đút cho nó ăn, lại còn đưa tay vỗ về một lúc. Lạc Băng thấy bên yên ngựa còn treo một bao vải, vừa rồi vội vã chạy trốn nên không phát hiện ra, bây giờ đưa tay tháo xuống thì thấy khá nặng. Nàng mở ra xem thì ra trong bọc có một cây thiết tỳ bà.
Lạc Băng thầm nghĩ: “Thì ra con ngựa này là của Thiết Tỳ Bà Hàn gia ở Lạc Dương. Chuyện này về sau e còn phiền phức.” Nàng lại thò tay vào trong bọc, lôi ra hai ba chục lạng bạc vụn và một lá thư. Trên bì thư ghi là gửi cho Hàn Văn Xung. Phong bì đã bóc sẵn rồi, nàng bèn lấy ra đọc.
Đầu tiên, Lạc Băng nhìn xuống cuối thư thấy ký tên Duy Dương, cũng hơi kinh hãi. Suy nghĩ một lúc nàng lại thấy khoái chí, nghĩ bụng: “Thì ra chủ con ngựa này có liên quan gì đó với lão Vương Duy Dương. Bọn ta cũng đang muốn tìm đến Trấn Viễn tiêu cục mà đòi nợ, phen này đoạt trước một con ngựa cũng hả dạ chút ít rồi. Biết thế thì ta chẳng thèm ném cho hắn thỏi vàng làm gì.”
Rồi nàng đọc hết lá thư. Thì ra Vương Duy Dương gọi Hàn Văn Xung gấp rút trở về, nói là vừa được tặng một con ngựa tốt, tạm thời cho mượn mà cưỡi, bảo hắn mau mau đi tìm anh em họ Diêm để cùng bảo vệ đồ vật vào kinh, lại còn một món hàng khác cần hắn hộ tống đi Giang Nam. Còn chuyện Tiêu Viễn Kỳ bị Hồng Hoa Hội hại chết thì tạm thời gác lại, sau này sẽ điều tra.
Lạc Băng thầm nghĩ: “Tiêu Văn Kỳ là đệ tử của Hàn gia Thiết Tỳ Bà ở Lạc Dương. Giang hồ đồn đại là hắn bị Hồng Hoa Hội giết chết, thật ra không phải. Tổng đà chủ còn định phái Thập tứ đệ đến Lạc Dương nói rõ, để tránh bị oán thay người khác. Không hiểu Trấn Viễn tiêu cục phải hộ tống thứ gì quan trọng tới Giang Nam đây? Đợi cứu được đại ca, vợ chồng ta sẽ ra tay đoạt lấy món tiêu này. Có thù không báo không phải là quân tử. Tên tiểu đầu quỉ sứ kia dẫn người đến bắt đại ca, làm sao mà bỏ qua được? May mà Hàn Văn Xung cũng mới làm quen với con ngựa này, không thì tuấn mã bao giờ chủ quyến luyến chủ cũ, chẳng dễ gì đoạt được.”
Nàng càng nghĩ càng thấy hả dạ, ăn mỳ xong bèn lên ngựa tiếp tục hành trình. Trời mưa suốt dọc đường, lúc to lúc nhỏ mãi không chịu tạnh. Ngựa phi như gió, qua mặt rất nhiều cả xe lẫn ngựa, không sao đếm hết. Lạc Băng nghĩ bụng: “Nếu mấy nhóm huynh đệ đi trước mà nghỉ lại ăn cơm, thì ta đi nhanh như thế không chừng sẽ qua mặt mất.” Nàng đang định đi chậm lại, đột nhiên bên lề có người chạy ra giữa đường đưa tay ngăn cản.
Thế mà con ngựa vẫn không chồm lên. Nó đang chạy nhanh như thế mà đột ngột dừng lại được, bước lui mấy bước. Lạc Băng chưa kịp lên tiếng, thì người kia đã thi lễ rồi nói: “Văn tứ phu nhân! Thiếu gia đang ở đây.” Thì ra đó là Thư Đồng Tâm Nghiễn của Trần Gia Lạc. Lạc Băng mừng rỡ liền xuống ngựa.
Tâm Nghiễn bước tới đón lấy dây cương, khen: “Văn tứ phu nhân mua ở đâu được con ngựa tốt đến thế này. Tiểu nhân từ xa đã nhìn thấy Tứ tẩu, nào ngờ mới nháy mắt một cái là con ngựa đã chạy tới trước mặt, suýt nữa không chặn kịp.”
Lạc Băng mỉm cười không đáp, hỏi lại: “Có tin tức gì của Văn tứ ca hay không?”
Tâm Nghiễn đáp: “Thường ngũ gia và Thường lục gia nói đã gặp Tứ gia rồi. Mọi người đang ở trong này.” Y vừa nói vừa dẫn Lạc Băng tới một tòa miếu cũ.
Lạc Băng dành đi trước Tâm Nghiễn. Nàng quay đầu lại nhờ y cho con ngựa ăn uống, rồi chạy vội vào trong miếu, lập tức nhìn thấy mọi người. Trần Gia Lạc, Vô Trần đạo trưởng, Triệu Bán Sơn, Thường nhị huynh đệ… tụ tập trong đại điện. Mọi người thấy nàng đều đứng dậy nghênh đón.
Lạc Băng thi lễ với Trần Gia Lạc, nói rõ là mình nóng ruột không đợi nổi nên chạy trước đến đây, xin tổng đà chủ tha tội. Trần Gia Lạc nói: “Chuyện này về tình thì do Tứ tẩu nhớ Tứ ca có thể bỏ qua. Nhưng về lý thì phạm tội không tuân hiệu lệnh, đợi khi cứu Tứ ca rồi sẽ luận tội xét xử. Thạch nhị ca, xin huynh nhớ lấy.” Thạch Song Anh vâng dạ.
Lạc Băng cười tươi như hoa, thầm nghĩ: “Nếu cứu đại ca ra rồi, thì các huynh muốn xử phạt ta kiểu gì cũng được.” Nàng quay lại hỏi Thường thị song hiệp: “Ngũ ca, Lục ca! Nghe nói các huynh đã gặp Tứ ca. Huynh ấy thế nào, có phải chịu khổ hay không?”
Thường Hách Chi đáp: “Đêm qua, anh em ta đuổi kịp bọn ưng trảo đang áp giải Tứ ca ở Song Tỉnh. Bọn con rùa đó rất đông, con mẹ nó, bọn ta chỉ sợ đả thảo kinh xà nên không ra tay. Ban đêm, ta nhìn qua cửa sổ thấy Tứ ca nằm trên giường nhắm mắt dưỡng thần nhưng y không thấy ta. Lũ con rùa đó canh giữ trong nhà rất chặt, nên ta phải lùi ra ngoài.”
Thường Bá Chí cũng nói: “Bọn con rùa của Trấn Viễn tiêu cục và bọn ưng trảo ở hỗn lộn một nơi. Con mẹ nó, ta đếm một lúc, thấy bọn rùa có võ công kha khá cũng phải đến mười con.” Anh em họ Thường là người Tứ Xuyên quen miệng mắng người ta là con rùa.
Đang nói chuyện thì Dư Ngư Đồng từ ngoài miếu chạy vào. Nhìn thấy Lạc Băng, chàng không khỏi giật mình, hô một tiếng “Tứ tẩu”, rồi bẩm báo với Trần Gia Lạc: “Đám người Hồi đã dựng lều ở con suối phía trước, cắt người cầm đao thương phòng thủ, canh giữ rất nghiêm mật. Đệ không tiện đến gần, đợi trời tối sẽ đi thám thính.”
Đột nhiên ngoài đường có tiếng bánh xe lộc cộc, rồi tiếng lừa hí vang. Tâm Nghiễn vào bẩm báo: “Một đại đội nhân mã mới đi qua, có mấy tên võ quan chỉ huy hai mươi tên lính đi áp tải mấy cỗ xe lớn.” Nói xong, y lại ra ngoài miếu để canh gác.
Trần Gia Lạc bàn với mọi người: “Từ đây đi về hướng đông, dân chúng ít hơn, tiện cho chúng ta hành sự. Nhưng còn đội quan quân này và nhóm người Hồi kia, không biết đường lối của họ thế nào. Trong lúc chúng ta cứu Tứ ca, không chừng họ sẽ ta tay cản trở. Chuyện này không thể không dự phòng trước.” Mọi người đồng thanh khen phải.
Vô Trần đạo nhân lên tiếng: “Lục Phi Thanh lão tiền bối đã nói, sư đệ của ông là Trương Triệu Trọng võ công rất giỏi. Chúng ta đi lại giang hồ cũng từng nghe đại danh của Hỏa Thủ Phán Quan rồi. Lần này đám người bắt Tứ đệ là do hắn dẫn đầu, đúng là dịp tốt để bần đạo tỉ đấu với hắn một phen.”
Trần Gia Lạc nói: “Bảy mươi hai đường Truy Hồn Đoạt Mạng Kiếm của đạo trưởng là thiên hạ vô song, hôm nay nhất định đừng để mối họa này sống sót.”
Triệu Bán Sơn nói: “Tuy Lục đại ca đã tuyệt giao với sư đệ rồi, nhưng ông ấy vốn là người nặng tình nặng nghĩa. May mà ông ấy chưa đến kịp, không thì chúng ta phải giết họ Trương trước mặt ông ấy, cũng có phần trở ngại.”
Thường Hách Chí nói: “Vậy thì sáng sớm mai chúng ta khởi hành, vào khoảng giờ Mạo sẽ đuổi kịp Tứ ca.”
Trần Gia Lạc nói: “Hay lắm, Ngũ ca, Lục ca! Tình hình bọn ưng trảo và bọn tiêu đầu kia như thế nào, xin hai vị nói cho mọi người nghe tỉ mỉ, phòng bị trước thì ngày mai động thủ dễ hơn.”
Thường nhị huynh đệ theo dõi dọc đường, hầu như đã nắm được toàn bộ hành tung của bọn quan sai và tiêu sư, lập tức kể lại: “Ban đêm thì Tứ ca ngủ chung phòng với bọn ưng trảo. Ban ngày thì ngồi trên xe lớn, tay chân đều bị xiềng xích. Cỗ xe này có màn vải che chắn rất kín, hai bên xe có hai tên con cháu loài rùa cưỡi ngựa đi kèm, không rời một bước.”
Vô Trần đạo nhân hỏi: “Trương Triệu Trọng trông như thế nào?”
Thường Bá Chí nói: “Con rùa đó khoảng hơn bốn mươi tuổi, thân hình to lớn, trên mặt để một chỏm râu ngắn. Người hắn cứng đờ, trông như một tấm bài vị biết đi vậy.”
Thường Hách Chí lên tiếng: “Đạo trưởng! Chúng ta nói trước, nếu hai anh em chúng ta gặp con rùa đó trước thì sẽ động thủ trước. Đạo trưởng đừng trách chúng ta là không khách sáo.”
Vô Trần mỉm cười hỏi: “Hai vị đã lâu không gặp đối thủ, chắc là ngứa tay rồi. Còn Tam đệ, có muốn thi triển Thái Cực Quyền trước hay không?”
Triệu Bán Sơn cười đáp: “Tên Trương Triệu Trọng đó nhường cho các vị, ta không tranh giành nữa là xong.”
Mọi người đều ngứa ngáy tay chân, chỉ đợi chém giết một phen, nên chỉ ăn chút ít lương khô cho đỡ đói rồi xin tổng đà chủ phát lệnh. Trần Gia Lạc đã tính toán kỹ, bèn nói: “Đoàn người Hồi kia chưa chắc đã cấu kết với bọn công sai. Chúng ta cố gắng vượt qua họ, cứu xong Tứ ca thì không cần phải lo đến họ nữa. Thập tứ đệ cũng không cần phải đi dò xét làm gì. Ngày mai, đệ cùng Thập tam đệ lo việc ngăn chận toán quan quân, chỉ cần không để chúng tới can thiệp là được, không cần làm tổn thương nhiều nhân mạng.” Tưởng Tứ Cân và Dư Ngư Đồng vâng dạ.
Trần Gia Lạc lại nói: “Cửu ca, Thập nhị ca! Hai vị lập tức xuất phát, cố qua mặt bọn ưng trảo, sáng mai phải giữ cửa thung lũng, không để bọn chúng vượt ra khỏi đó.” Vệ Xuân Hoa và Thạch Song Anh tuân lệnh, lập tức rời khỏi miếu.
Trần Gia Lạc nói tiếp: “Đạo trưởng, Ngũ ca, Lục ca! Ba vị lo đối phó với quan sai. Tam ca, Bát ca hai vị đối phó với bọn nhãi tiêu cục. Tứ tẩu cùng Tâm Nghiễn cướp xe cứu Tứ ca. Ta đứng giữa quan sát, tiếp ứng chỗ nào bất lợi. Thập ca canh giữ ở đây, nếu có quan binh công sai từ tây sang đông thì tìm cách cản trở.” Mọi người đều vâng mệnh.
Sau khi giao nhiệm vụ, mọi người đều rời miếu lên ngựa, chia tay với Chương Tấn. Nhìn thấy con ngựa của Lạc Băng, không ai là không mở miệng tán dương. Lạc Băng nghĩ bụng: “Lẽ ra nên tặng con ngựa này cho tổng đà chủ mới phải. Nhưng phen này đại ca cực khổ nhiều như thế, ta đợi cứu ra rồi tặng, chắc đại ca thích lắm.”
Trần Gia Lạc bảo Dư Ngư Đồng: “Đám người Hồi kia dựng lều ở đâu, chúng ta vòng qua xem thử.” Dư Ngư Đồng dẫn đường đi tới con suối, từ xa đã thấy trống trơn, không còn bóng người hay cọc lều nào, dưới đất chỉ còn rải rác phân lạc đà và phân ngựa. Ai cũng thấy đoàn lạc đà lừa ngựa này hành tung rất bí mật nhưng không biết họ có ý định gì.
Trần Gia Lạc bèn nói: “Chúng ta đi thôi.” Mọi người tung ngựa chạy nhanh, trong đêm chỉ nghe thấy tiếng tinh tang của vó ngựa. Ngựa của Lạc Băng chạy nhanh nhất, nàng cứ đi một lúc lại phải đợi mọi người một lúc.
Trời rạng sáng, đến bên một con suối. Trần Gia Lạc nói: “Các vị huynh đệ! Chúng ta dừng lại đây để ngựa uống nước và dưỡng sức một tí. Chắc một giờ nữa là đuổi kịp Tứ ca rồi.”
Máu Lạc Băng như sôi lên, tim đập rộn, hai má đỏ bừng. Dư Ngư Đồng liếc mắt trộm nhìn, cảm giác trong lòng khó mà diễn tả. Chàng từ từ đi đến cạnh nàng, khẽ gọi: “Tứ tẩu!” Lạc Băng quay lại, Dư Ngư Đồng bèn nói: “Cho dù đệ phải mất mạng cũng quyết cứu Tứ ca ra trả lại cho Tứ tẩu!”
Lạc Băng mỉm cười, thì thầm: “Như vậy mới là huynh đệ tốt.” Lòng dạ Dư Ngư Đồng đầy chua xót, hình như nước mắt sắp chảy ra. Chàng vội vã quay mặt đi nơi khác.
Trần Gia Lạc lên tiếng: “Tứ tẩu! Tỷ cho Tâm Nghiễn mượn ngựa một chút, để y chạy nhanh lên phía trước, thám thính hành tung của bọn ưng trảo rồi quay lại báo tin.”
Tâm Nghiễn nghe thấy được cưỡi ngựa của Lạc Băng, khoái chí vô cùng bèn hỏi: “Văn tứ phu nhân có chịu không?”
Lạc Băng cười đáp: “Sao ta lại không chịu?” Tâm Nghiễn bèn cưỡi “bạch mã tẩu như phi.”
Mọi người đợi ngựa uống nước xong, rồi lên ngựa ra roi chạy lẹ. Một lúc sau trời đã sáng rõ, Tâm Nghiễn chạy ngược về hô lớn: “Bọn ưng trảo đang ở trước mặt, các vị đuổi theo nhanh lên.”
Quần hùng nghe vậy, tinh thần phấn chấn hẳn lên, gắng sức đuổi theo. Lạc Băng đổi ngựa Tâm Nghiễn lại rồi hỏi: “Ngươi có nhìn thấy cỗ xe lớn chở Tứ ca không?”
Tâm Nghiễn gật đầu lia lịa đáp: “Tiểu nhân thấy rất rõ. Lúc ngựa chạy qua kế bên xe, tên khốn canh giữ cỗ xe còn vung đao lên dọa, mắng tiểu nhân là tiểu tạp chủng, tiểu khốn.”
Lạc Băng cười nói: “Lát nữa sẽ bắt chúng kêu ngươi là tiểu tổ tông, tiểu thái gia.”
Cả đàn ngựa tung vó phi nhanh, cát bụi nổi lên mù mịt. Đuổi chừng năm sáu dặm đã thấy một đội nhân mã ở phía trước, lại gần hơn thì nhìn rõ đó là một đội quan quân đang áp tải mấy cỗ xe. Tâm Nghiễn nói với Trần Gia Lạc: “Đi thêm sáu bảy dặm nữa mới đến đoàn xe chở Văn tứ gia.” Mọi người thúc ngựa vượt qua toán quan quân này, rồi Trần Gia Lạc liếc mắt một cái. Tưởng Tứ Cân và Dư Ngư Đồng quay ngựa lại đứng chặn giữa đường, còn bao nhiêu tiếp tục phi nhanh về phía trước.
* * *
Dư Ngư Đồng đợi bọn quan binh đến trước mặt, chắp tay chào hỏi, ăn nói rất văn nhã: “Chắc quí vị mệt nhọc rồi. Phong cảnh ở đây thật là đẹp đẽ mà thời tiết hôm nay lại càng tuyệt diệu. Một ngày không nóng không lạnh thế này khó mà gặp được, tốt nhất là chúng ta cùng ngồi đây hàn huyên một chút.”
Một tên lính Thanh hét lên: “Tránh ra! Đây là gia quyến của Lý tướng quân.”
Dư Ngư Đồng nói: “Đã là gia quyến, lại càng nên nghỉ ngơi một tí. Phía trước có một cặp quỷ Hắc Vô Thường, Bạch Vô Thường, đừng để các vị cô nương cùng thái thái hoảng sợ.”
Một tên quân vung roi ngựa lên, vừa quất vào mặt Dư Ngư Đồng vừa quát: “Tên nghèo đói điên khùng này, đứng đây làm gì?”
Dư Ngư Đồng cười khanh khách, tránh né rồi đáp: “Quân tử động khẩu không động thủ. Các hạ thích dùng roi ngựa như vậy, không phải là quân tử rồi.”
Tướng quân chỉ huy bọn này đã phi ngựa tới nơi. Dư Ngư Đồng chắp tay mỉm cười chào hỏi: “Không hiểu tôn tính đại danh của tướng quân là gì, quí quán ở đâu?”
Tướng quân kia thấy hai người họ Dư họ Tưởng rất đáng nghi ngờ, nên ngần ngừ không đáp. Dư Ngư Đồng bèn lấy cây kim địch ra nói: “Tại hạ có biết chút ít âm luật, thường than thở khó gặp tri âm. Đại quan tướng mạo đường đường, chắc chắn không phải người phàm tục. Xin mời xuống ngựa để tại hạ thổi tặng một bài, giải bớt nỗi mệt nhọc đi đường, có được hay chăng?”
Tướng quân kia chính là người hộ tống gia quyến Lý Khả Tú, tên là Tăng Đồ Nam, vừa thấy kim địch đã giật mình. Hôm trước Dư Ngư Đồng đánh nhau với bọn công sai trong khách sạn, tuy họ Tăng không chính mắt nhìn thấy, nhưng về sau nghe bọn lính và tiểu nhị kể lại, biết người giết công sai cứu khâm phạm là một vị tú tài tay cầm kim địch. Bây giờ gặp chàng ở đây, hắn không biết là có chuyện gì, nhưng thấy đối phương chỉ có hai người nên cũng không sợ lắm, bèn hét lớn: “Chúng ta nước sông không phạm nước giếng, ai đi đường nấy. Xin tránh ra nhường bước.”
Dư Ngư Đồng nói: “Tại hạ có mười bài sáo ruột, một là Long Ngâm, hai là Phụng Minh, ba là Tử Vân, bốn là Hồng Hà, năm là Diêu Ba, sáu là Liệt Thạch, bảy là Kim Cốc, tám là Ngọc Quang, chín là Kình Nhật, mười là Lương Tiêu. Bài thì khẳng khái kịch liệt, bài thì uyển chuyển triền miên, bài nào cũng có chỗ hay riêng biệt. Chỉ vì hiếm khi gặp được tri âm nên đã lâu chưa được tấu lên. Hôm nay gặp được cao hiền, ống sáo này đã xôn xao muốn động, tại hạ phải chiều ý nó mà trổi lên từ đầu đến cuối một lần. Đại quan muốn tại hạ nhường đường cũng chẳng khó gì, đợi tại hạ thổi hết mười bài rồi sẽ nghiêng mình cung kính tiễn chân.” Nói xong, Dư Ngư Đồng bèn đưa kim địch lên môi, ngón tay máy động. Tiếng sáo thanh thoát lập tức nổi lên, thấu suốt tầng mây, phủ khắp bốn phương.
Tăng Đồ Nam thấy rõ ràng chuyện này không sao lo liệu được cho ổn thỏa, bèn cử thương lên múa một vòng, bắn ra mấy đóa thương hoa, rồi xuất chiêu Ô Long Xuất Động đâm thẳng vào tim Dư Ngư Đồng. Rõ ràng họ Dư đang dốc hết tinh thần vào tiếng sáo, thế mà khi mũi thương gần đâm trúng thì chàng đột nhiên đưa tay trái chụp lấy, kim địch bên tay phải gõ lên cán thương một cái.
Tăng Đồ Nam nắm không chặt, để thương rơi xuống đất. Hắn kinh hãi giật ngựa lùi lại mấy bước, đoạt trong tay quân lính một cây đao khác, lại chém tới. Đánh nhau chừng bảy tám hiệp, Dư Ngư Đồng tìm được chỗ sơ hở, chọc kim địch vào vai phải của hắn. Thế là đơn đao của Tăng Đồ Nam cũng tuột khỏi tay.
Dư Ngư Đồng lên tiếng: “Mười bài ca của tại hạ hôm nay đại quan bắt buộc phải nghe. Suốt đời tại hạ hận nhất là bị phá rối cho cụt hứng. Không chịu nghe thổi sáo tức là xem thường tại hạ. Người xưa có nói: “Bẻ cành liễu làm roi quất ngựa. Cầm sáo thổi buồn chết người nghe.” Nhưng thổi sáo là chuyện của tại hạ, còn nghe có buồn đến chết hay không lại là chuyện của đại quan, chắc người xưa chỉ nói phóng đại thế thôi.” Nói xong, họ Dư lại đưa kim địch lên môi, tiếp tục thổi.
Tăng Đồ Nam vẫy tay hô lớn: “Tất cả xông lên bắt thằng lỏi này!” Hết thảy binh lính cùng quát tháo ào tới.
Tưởng Tứ Cân tung người nhảy xuống ngựa, cầm thiết trượng ra chiêu Loạn Thảo Tầm Xà, nhẹ nhàng khều vào chân tên lính Thanh chạy đầu. Hắn kêu lên một tiếng, ngã xuống ngửa mặt nhìn trời. Thiết trượng của Tưởng Tứ Cân lại xuất chiêu Phiên Thân Thượng Quyển Trực hất lên, hắn biến thành một con diều bị đứt dây bay tới lưng chưng trời, rồi “Mẹ ơi!” một tiếng, té nhào vào đám đông phía sau.
Tưởng Tứ Cân bước lên hai bước, lại tiếp tục làm như thế. Thiết trượng như một cái xẻng hốt từng tên lính Thanh hất ngược ra sau. Bọn quân lính đều sợ đến vỡ mật, quay lưng bỏ chạy. Tăng Đồ Nam vung roi ngựa vừa mắng vừa quất loạn xạ, nhưng không sao quản thúc được chúng nữa.
Tưởng Tứ Cân đang cao hứng thì đột nhiên một cỗ xe lớn vén màn lên, một lằn sáng vọt ra. Khi đến gần, y nhìn rõ đó là mũi nhọn của một thanh kiếm đang đâm thẳng đến trước ngực mình. Tưởng Tứ Cân bèn múa thiết trượng sử chiêu Đao Bạt Thùy Dương hất kiếm ra. Đối phương không đợi trượng bay tới, thanh kiếm đã biến sang chiêu khác, đánh xuống hạ bàn. Tưởng Tứ Cân vội quét ngang thiết trượng. Người kia thấy cây trượng này rất nặng, không dám ngang nhiên đón đỡ, phải lùi mấy bước.
Tưởng Tứ Cân định thần lại nhìn, thì ra đối phương là một cô gái mặc áo đỏ. Họ Tưởng là người vùng bắc Quảng Đông, nói giọng địa phương rất nặng, ở biên cương tây bắc này ít ai nghe hiểu nên hiếm khi nói chuyện. Bởi thế y không nói năng gì, cứ múa thiết trượng đấu với cô gái này. Được mấy chiêu thấy kiếm pháp nàng tinh diệu, họ Tưởng không nén nổi phải âm thầm khen ngợi.
Tưởng Tứ Cân đã thấy kỳ lạ trong lòng, Dư Ngư Đồng đứng cạnh lại càng ngơ ngẩn xuất thần. Lúc này chàng quên mất chuyện thổi sáo của mình, chỉ chú ý nhìn kiếm pháp của thiếu nữ. Nàng thi triển trường kiếm mềm mại như những dải tơ lụa phất phơ, uyển chuyển như mặt nước sông gờn gợn, kiếm ý nhẹ nhàng liên tục, đúng là Nhu Vân kiếm thuật chính truyền của bổn môn.
Cô gái áo đỏ tỉ đấu với Tưởng Tứ Cân, một người lợi về chiêu thức, một người lợi về sức mạnh, nhất thời chưa phân thắng bại. Dư Ngư Đồng vội tung người tới, đưa kim địch ngăn cả cả kiếm lẫn trượng, hô lớn: “Dừng tay!” Thiếu nữ và Tưởng Tứ Cân đều lùi một bước. Lúc này Tăng Đồ Nam đã lấy một cây thương khác cưỡi ngựa xông lên trợ chiến, còn bọn lính Thanh thì đứng xa xa hò hét trợ oai.
Thiếu nữ áo đỏ vẫy tay bảo Tăng Đồ Nam lùi lại. Dư Ngư Đồng bèn hỏi: “Xin hỏi cao danh quí tánh của cô nương. Không hiểu tôn sư là vị tiền bối nào?”
Thiếu nữ kia mỉm cười đáp: “Huynh hỏi ta ư? Ta không nói đâu. Nhưng ta lại biết huynh đi không sửa họ ngồi chẳng sửa tên, họ Dư tên là Ngư Đồng. Ngư là con cá, Đồng trong câu “quân tử hòa nhi bất đồng”, không phải chữ Đồng như đồng nát sắt vụn. Huynh là hàng nhỏ xíu trong Hồng Hoa Hội, ngồi tận ghế thứ mười bốn.” Dư Ngư Đồng và Tưởng Tứ Cân cùng kinh hãi nhìn nhau, sắc mặt thay đổi. Tăng Đồ Nam nhìn thấy tiểu thư đột nhiên mỉm cười với hai tên gian dương đại đạo kia, lại càng kinh ngạc dị thường. Ba nam nhân cứ ngẩn ra nhìn một cô thiếu nữ đang cười khúc khích, không biết phải nói gì mới hợp lý.
Lúc đó đột nhiên có tiếng vó ngựa gấp rút nổi lên, bọn lính nhà Thanh vội vã né ra nhường lối. Sáu con ngựa tốt từ hướng tây chạy tới, người đi đầu thần sắc thanh tao, râu tóc bạc phơ, chính là bậc danh túc phái Võ Đang, Lục Phi Thanh. Dư Ngư Đồng cùng thiếu nữ kia không hẹn mà cùng tiến lên phía trước, một người gọi sư thúc, một người kêu sư phụ, đều xuống ngựa thi lễ.
Thì ra thiếu nữ áo đỏ đó chính là nữ đệ tử của Lục Phi Thanh. Năm người phía sau Lục Phi Thanh là Chu Trọng Anh, Chu Ỷ, Từ Thiên Hoằng, Mạnh Kiện Hùng và An Kiện Cương.
Hôm trước Lạc Băng nửa đêm ra đi, sáng mai Chu Ỷ thức dậy trách móc Từ Thiên Hoằng: “Hồng Hoa Hội các vị đúng là quen xem thường người khác. Sao huynh không đi chung với Tứ tẩu của huynh luôn đi?”
Từ Thiên Hoằng cố gắng tìm lời giải thích. Chu Trọng Anh bèn nói: “Vợ chồng họ còn trẻ, tình cảm nồng nàn chỉ muốn gặp mặt sớm hơn, nóng ruột đi trước một bước cũng là hợp tình hợp lý.” Ông còn quay lại mắng Chu Ỷ có thế mà cũng nặng lời.
Từ Thiên Hoằng nói: “Một mình Tứ tẩu lên đường cô thân độc mã, mà bọn ưng trảo cũng từng giáp mặt cô ấy rồi, chỉ biết hy vọng dọc đường đừng xảy ra chuyện gì nữa.”
Chu Trọng Anh nói: “Đúng lắm! Tốt nhất là chúng ta ráng đuổi kịp cô ấy. Trần đương gia đã sắp xếp ta lãnh đạo nhóm này, nếu cô ấy gặp chuyện rủi gì thì mặt mũi ta biết giấu vào đâu?” Thế là ba người thúc ngựa chạy nhanh, đến giờ ngọ hôm sau đã đuổi kịp Lục Phi Thanh và hai người họ Mạnh họ An.
Sáu người đều lo lắng cho Lạc Băng nên hết sức mà đi, dọc đường không trễ nãi chút nào. Lúc họ gặp Chương Tấn ở lại chặn đường ở ngôi miếu cổ, thì cả nhóm Trần Gia Lạc vừa rời khỏi đó không lâu. Nghe nói Văn Thái Lai đang ở phía trước, họ càng giục ngựa chạy nhanh hơn mà đuổi.
Lục Phi Thanh hỏi: “Nguyên Chỉ! Sao con lại ở đây với Dư huynh và Tưởng huynh?”
Lý Nguyên Chỉ mỉm cười đáp: “Vị Dư huynh này bắt con gái nhà người ta phải nghe thổi mười bài sáo, nào là Long Ngâm, nào là Phụng Minh gì gì đó. Con không thích nghe, mà huynh ấy cứ chận đường không cho con đi. Sư phụ xem thử chuyện này có hợp đạo lý hay không?”
Dư Ngư Đồng nghe Lý Nguyên Chỉ mách với Lục Phi Thanh, không nén nổi phải đỏ mặt lên, nghĩ bụng: “Đúng là ta có chặn đường bắt người khác nghe sáo, nhưng đâu phải ta chặn một mình cô nương?”
Chu Ỷ nghe Lý Nguyên Chỉ nói xong, tức giận liếc qua Từ Thiên Hoằng một cái thầm nghĩ: “Thì ra Hồng Hoa Hội các ngươi chẳng có bao nhiêu người tốt.”
Lục Phi Thanh bảo Lý Nguyên Chỉ: “Chuyện xảy ra phía trước rất nguy hiểm, con ở lại đây đừng đi, đừng để phu nhân phải kinh hãi. Giải quyết chuyện đó xong, sư phụ sẽ quay lại đây tìm con.” Lý Nguyên Chỉ nghe nói phía trước có náo nhiệt mà sư phụ lại không cho đi, bèn dẫu môi ra vẻ bất mãn. Lục Phi Thanh mặc kệ nàng, cứ gọi mọi người lên ngựa chạy về hướng đông.
* * *
Trần Gia Lạc lãnh đạo quần hùng đuổi gấp bọn quan sai, chừng bốn năm dặm đã thấy một dãy người ngựa đi thành đường thẳng ở vùng bình nguyên hoang dã phía trước. Vô Trần đang đi đầu, bèn rút kiếm hô lớn: “Đuổi theo!”
Chạy hơn một dặm nữa, bóng người phía trước càng ngày càng lớn. Con ngựa trắng của Lạc Băng đang cưỡi sải vó như bay, chỉ chớp mắt đã đuổi kịp quân địch. Nàng tuốt song đao ra cầm sẵn, định vượt lên trước rồi sẽ quay lại chặn đường.
Đột nhiên phía trước vang lên những tiếng ầm ầm, mấy chục con lạc đà và ngựa từ phía đông xung phong về phía tây. Chuyện này thật sự bất ngờ, Lạc Băng bèn kéo dây cương dừng ngựa lại, xem thử đoàn lạc đà và ngựa này là của ai. Lúc này bọn quan sai cũng dừng hẳn lại, có người lớn tiếng quát hỏi, nhưng đội lạc đà phía trước mặt càng chạy càng nhanh, trường đao lấp loáng xông thẳng vào giữa đội ngũ quan sai, hai bên bắt đầu hỗn chiến.
Lạc Băng kinh ngạc, không hiểu ở đâu xuất hiện đội viện quân này. Chẳng bao lâu nhóm người Trần Gia Lạc từ phía sau cũng chạy tới, cùng đứng theo dõi trận chiến.
Rồi lại có một con ngựa tốt từ phía trước xuất hiện, vòng qua tránh trận hỗn chiến, phi thẳng đến chỗ quần hùng Hồng Hoa Hội. Gần tới nơi thì nhận ra chính là Vệ Xuân Hoa.
Chàng chạy tới trước mặt Trần Gia Lạc, lớn tiếng nói: “Tổng đà chủ! Đệ và Thập Nhị Lang giữ ở cửa thung lũng, bị nhóm người Hồi này xung phong qua mặt, không sao ngăn cản nổi. Đệ vội vã chạy về bẩm báo, nào ngờ họ lại đánh nhau với bọn ưng trảo kia.”
Trần Gia Lạc lên tiếng: “Đạo trưởng nhị ca, Triệu tam ca, Thường ngũ ca! Bốn vị tiến lên đoạt lấy cỗ xe chở Tứ ca. Còn tất cả khoan hãy ra tay, xem rõ rồi tính tiếp.” Bốn người Vô Trần đồng thanh vâng dạ, ruổi ngựa xông lên phía trước.
Hai tên bộ khoái lớn tiếng hỏi: “Bằng hữu phe nào vậy?” Triệu Bán Sơn không đáp, phóng ngay hai mũi cương tiêu. Một trúng yết hầu, một trúng bụng dưới, hai tên bộ khoái lập tức nhào xuống ngựa.
Triệu Bán Sơn mang ngoại hiệu là Như Lai có ngàn tay, vì miệng ông lúc nào cũng cười, khuôn mặt hiền từ, tấm lòng nhân hậu, chiều chuộng người khác vô cùng, nhưng trên người ông lại toàn là ám khí đủ loại, phóng ra vừa nhanh vừa chính xác. Hai bàn tay ông chỉ trong khoảnh khắc là có thể phát xạ rất nhiều loại ám khí, người đứng kế bên cũng đừng hòng nhìn thấy rõ ràng. Phen này Hồng Hoa Hội đem toàn lực cứu người, không ngờ người lập công đầu lại là Thiên Tí Như Lai xưa nay khiêm tốn bình hòa.
Bốn người phi ngựa đến gần cỗ xe lớn, thí phía trước có một người Hồi đầu quấn vải trắng đưa thương đâm tới. Vô Trần nghiêng người tránh né, không đánh trả mà chạy thẳng tới cỗ xe. Một tiêu sư múa đao chém đến, Vô Trần vung kiếm ra gạt. Lưỡi kiếm nhanh như điện chớp, thuận theo thế đao mà lướt tới đối phương, cắt đứt bốn ngón tay. Rồi ông lại ra chiêu Thuận Thủy Thôi Chu, kiếm đâm trúng vào tim tên tiêu sư đó.
Vô Trần nghe thấy sau gáy có tiếng gió rít lên, biết có địch nhưng không thèm quay đầu lại. Tay phải ông đảo kiếm chém ra sau, từ dưới hớt lên. Thanh kiếm chém trúng tên địch từ dưới nách phải qua tới vai trái, thế là tên bộ khoái muốn ám toán sau lưng đã bị chém thành hai khúc, máu tươi bắn ra tung tóe.
Triệu Bán Sơn và Thường Thị song hiệp đứng sau nhìn thấy rõ ràng bèn hoan hô vang dội. Bọn người tiêu cục nhìn thấy kiếm pháp của Vô Trần đều kinh hãi, hai người phe mình sử chưa hết một chiêu đã bị giết rồi. Chúng sợ tới té đái vãi phân, run giọng la lên: “Hỏng bét, chuồn thôi!”
Thường thị song hiệp chạy gần tới cỗ xe lớn, thì bên cạnh lại có bảy tám người Hồi chạy ra, múa trường đao cản trở. Song Hiệp bèn thi triển phi trảo giao đấu với họ.
Một tên tiêu sư lùn tịt vội kéo con lừa đang kéo cỗ xe lớn đó quay đầu lại, vung roi quất mạnh. Cỗ xe chạy nhanh, còn hắn thì phi ngựa chạy theo sau. Tên này chính là Đồng Triệu Hòa.
Triệu Bán Sơn và Vô Trần rượt đuổi theo. Triệu Bán Sơn lấy ra một cục phi hoàng thạch, ném trúng gáy Đồng Triệu Hòa nghe bốp một tiếng. Máu tươi chảy ra, hắn la quang quác rồi rút trủy thủ trong ống giày ra, đâm vào mông con lừa kéo xe một nhát. Nó bị đau càng chạy nhanh hơn.
Triệu Bán Sơn tung người nhảy lên lưng ngựa của Đồng Triệu Hòa, chưa hạ xuống thì tay phải đã nắm chặt cổ tay của hắn, thuận tay vung lên vẽ thành một vòng trong không trung, ném ra phía trước. Đồng Triệu Hòa té ngay lên cổ con lừa đang kéo cỗ xe lớn. Hắn thét lên be be rồi ôm chặt lấy đầu lừa. Con lừa giật mình hoảng sợ, mắt lại bị che kín, bèn hí ầm ĩ nhảy loạn xạ, cuối cùng quay đầu trở lại.
Vô Trần và Triệu Bán Sơn đã tới nơi, nắm dây giữ con lừa lại. Triệu Bán Sơn túm lấy lưng Đồng Triệu Hòa ném xuống vệ đường. Vô Trần hô lớn: “Tam đệ! Tuyệt kỹ dùng người để làm ám khí chỉ có đệ mới sử dụng được.” Hai người này không biết Đồng Triệu Hòa, chỉ lo cứu Văn Thái Lai nên không để ý đến hắn nữa.
Đồng Triệu Hòa lăn mấy vòng dưới đất rồi lọt vào một bụi cỏ. Hắn hoảng sợ quá, lén bò vào bãi cỏ mà nấp.
Triệu Bán Sơn vạch màn xe ra nhìn vào. Trong xe tối đen không nhìn rõ mặt, ông chỉ thấy một người đang ngồi trong xe, người có phủ chăn, bèn mừng rỡ nói: “Tứ đệ! Là đệ phải không? Chúng ta đến cứu đệ đây.” Người kia rên lên mấy tiếng.
Vô Trần bảo: “Tam đệ đưa Tứ đệ về trước, để ta đi tìm họ Trương tính nợ đã.” Ông chưa nói xong đã tung ngựa chạy ra giữa đường chặn đám đông. Bọn tiêu sư và công sai đang chạy về hướng đông, đột nhiên thấy Vô Trần quay ngựa lại, bèn la hét om sòm rồi chạy trốn về hướng tây.
Vô Trần quát lớn: “Trương Triệu Trọng! Ngươi vác mặt ra đây cho ta.” La mấy tiếng không có ai trả lời, ông bèn xông vào giữa đám đông đối phương. Bọn công sai và tiêu sư thấy ông chạy tới, hồn vía bay hết lên trời, xô nhay chạy tán loạn.
Quần hùng Hồng Hoa Hội thấy Triệu Bán Sơn dẫn cỗ xe lớn trở về đều rất vui mừng, nhanh chân chạy lên đón tiếp. Dĩ nhiên Lạc Băng thúc ngựa chạy tới đầu tiên, dừng lại trước cỗ xe, phi thân xuống ngựa, vén màn xe ra, run rẩy kêu lên: “Đại ca!” Nhưng trong xe không có tiếng trả lời, Lạc Băng kinh hãi nhảy vào trong xe mở tấm chăn ra. Lúc này quần hùng Hồng Hoa Hội đã chạy đến nơi, vẫn ngồi trên ngựa mà đứng xung quanh nhìn vào.
Thường Thị Song Hiệp thấy cứu người đã xong, bèn không ham chiến với đám người Hồi lai lịch bất minh nữa. Hai huynh đệ huýt một tiếng sáo, thi triển phi trảo đánh dạt địch thủ ra ngoài, rồi quay đầu ngựa chạy về. Nhóm người Hồi đó hình như chỉ lo việc cản trở người khác đến gần, nhìn thấy hai người rút lui bèn không đuổi theo, chạy trở lại nhóm người đang hỗn chiến.
Vô Trần đạo trưởng vẫn đang tung hoành giữa đám đông. Một tên chạy hiệu chậm chân một chút, bị ông chém trúng vai té nhào dưới đất. Vô Trần không muốn hại mạng, bèn giật ngựa nhảy qua người hắn, lại lớn tiếng hô: “Hoả Thủ Phán Quan đâu rồi? Mau ra đây gặp ta.”
Đột nhiên có một con ngựa xông lên trước, trên ngựa có một người Hồi thân hình cao lớn, mặt mày râu ria rậm rạp. Y quát hỏi: “Đạo nhân này từ đâu đến đây mà la hét loạn xa vậy?” Vô Trần xuất chiêu đâm ngay vào mặt, người Hồi bèn đưa mã đao lên cản trở. Vô Trần lại ra hai kiếm liên hoàn, đâm bên trái bên phải nhanh như chớp giật. Cánh tay của người Hồi kia chưa kịp hạ xuống kịp, thanh mã đao vẫn còn trên đỉnh đầu, mà kiếm khí đã ràn rạt rát da, bao trùm cả thân thể. Y bối rối hết đường chống đỡ, vội nghiêng người ngã xuống một bên lưng ngựa, chân phải móc lấy cái để chân, cả thân thể luồn xuống dưới bụng ngựa mới né được hai chiêu kiếm đó.
Y hoảng sợ đến nỗi toát mồ hôi lạnh đầy người, may mà cưỡi ngựa rất giỏi nên có thể núp dưới bụng ngựa mà giục ngựa chạy trốn. Vô Trần mỉm cười nói: “Thoát được ba chiêu kiếm của ta, coi như hảo hán rồi. Tha mạng cho ngươi!” Rồi ông lại xông vào giữa đám đông.
Lúc Thường Thị Song Hiệp từ hướng đông trở về, phía tây cũng có tám con ngựa chạy tới, đó là nhóm người Chu Trọng Anh và Lục Phi Thanh. Hai nhóm từ hai phía còn chưa đến gần cỗ xe lớn, Lạc Băng đã lôi trong xe ra một người quăng xuống đất, quát hỏi: “Văn đại gia ở đâu?” Nàng chưa hỏi dứt câu, đôi dòng lệ đã tuôn rơi.
Mọi người đều thấy người này ốm yếu già nua, ăn mặc theo kiểu công sai, tay phải bó lại treo dưới cổ. Lạc Băng nhận ra hắn chính là Hồ Quốc Đống, bộ đầu của Bắc Kinh. Lúc ở trong khách sạn đã bị Văn Thái Lai đánh gãy cánh tay phải. Nàng đá hắn một cước, định hỏi nữa nhưng không nói được ra lời.
Vệ Xuân Hoa vung câu chỉ vào mắt phải của hắn, gằn giọng: “Văn gia ở đâu? Ngươi mà không nói thì ta lập tức lấy cái bóng đèn này trước.”
Hồ Quốc Đống ra vẻ giận dữ đáp: “Thẳng lỏi Trương Triệu Trọng kia đã áp tải Văn… Văn gia đi xa rồi. Tên khốn đó bảo ta ngồi trong xe, ta còn tưởng rằng hắn có lòng tốt cho mình nghỉ dưỡng thương, nào ngờ đó là kế Kim Thiền Thoát Xác. Hắn thí cái mạng già này, còn chính mình thì đi trước đến Bắc Kinh lãnh thưởng. Con mẹ nó, cái đồ lòng lang dạ sói như vậy chắc chắn không được chết toàn thây.” Hắn thóa mạ Trương Triệu Trọng nặng lời, có lẽ vì mong thoát chết.
Trần Gia Lạc bảo Thường Thị Song Hiệp: “Ngũ ca, Lục ca! Lúc này vấn đề quan trọng nhất là không biết tên gian tặc Trương Triệu Trọng đã đưa Tứ ca đến đâu. Dù sao thì từ Lương Châu về đến Trung Nguyên, nhất định phải qua Ô Sào Lãnh. Hai vị hãy đi suốt đêm, cố gắng đuổi kịp, đến đó trước để chặn đường. Nếu không chặn nổi thì ít ra cũng điều tra được chúng đi hướng nào, để đại quân theo sau biết đường mà truy đuổi.” Thường Thị Song Hiệp gật đầu nhận lệnh rời khỏi đó ngay.
Bây giờ mọi người đã dồn vào một chỗ, Trần Gia Lạc hạ lệnh: “Tất cả chia hai ngả bao vây, bắt hết bọn chó săn ưng trảo và bọn nhãi tiêu cục, không để thoát một tên nào.”
Thế là Trần Gia Lạc cùng Triệu Bán Sơn, Dương Thành Hiệp, Vệ Xuân Hoa, Tiền Vọng Thôi, Tâm Nghiễn từ phía nam tiến lên, còn Chu Trọng Anh, Lục Phi Thanh, Từ Thiên Hoằng, Lạc Băng, Dư Ngư Đồng, Chu Ỷ, Mạnh Kiện Hùng, An Kiện Cương từ phía bắc dồn xuống, giống như hai gọng kìm sắt bao vây toàn bộ quan quân, bọn tiêu cục và những người Hồi ở giữa.
Nhóm người Hồi vẫn đang đánh nhau kịch liệt với bọn công sai và tiêu sư. Triệu Bán Sơn vung tay một cái, phóng ra ba loại ám khí. Lập tức có hai tên bộ khoái và một gã tiêu sư té nhào xuống ngựa.
Nhóm người Hồi đã phân biệt được địch ta, bèn hò reo vang dội. Người Hồi râu rậm khi nãy bèn vụt ngựa chạy ra trước, lớn tiếng hô hoán: “Không biết hảo hán lộ nào ra tay trợ giúp, tại hạ xin cảm ơn trước một câu.” Y nói tiếng Hán không rõ ràng lắm, nói dứt câu liền vung đao lên chào.
Trần Gia Lạc cũng chắp tay thi lễ, rồi ngoảnh lại hô: “Các vị huynh đệ, cùng tiến lên đi.” Quần hùng đồng thanh dạ một tiếng, xông vào vung đao múa kiếm.
Chỉ một lúc là số hảo thủ trong đám công sai và tiêu sư không chết cũng bị thương gần hết, chỉ còn lại mấy tên tầm thường hết đường chống đối. Chúng quì hết xuống đất, lớn tiếng xin tha, xưng hô loạn xạ, nào là gia gia, nào là tổ tông. Tâm Nghiễn vui vẻ nói với Lạc Băng: “Văn tứ phu nhân dự đoán như thần, quả nhiên bây giờ chúng chịu gọi tiểu nhân là gia gia rồi.” Trong lòng Lạc Băng đang rất buồn rầu nên lời nói của Tâm Nghiễn không lọt vào tai.
Đột nhiên Vô Trần đạo trưởng chạy ra khỏi đám đông la lên: “Úi chà! Các vị đến đây mà xem, kiếm pháp của con bé này thật không phải thứ thường.” Ai cũng biết Truy Hồn Đoạt Mạng Kiếm của Vô Trần đạo trưởng hạng nhất giang hồ, người trong võ lâm đỡ được ba chiêu của ông không phải là nhiều. Thế mà ông lại tán dương kiếm pháp của người khác, mà lại là một cô gái nên mọi người đều nổi dạ hiếu kỳ tới gần coi thử.
Người Hồi râu rậm lớn tiếng nói mấy câu tiếng Hồi, bảo những người Hồi né ra nhường đường, cùng quần hùng đứng thành một vòng bao vây. Vô Trần đạo trưởng nói với Trần Gia Lạc: “Tổng đà chủ! Thằng lỏi kia sử dụng Ngũ Hành Luân cũng không phải tệ.”
Trần Gia Lạc nhìn vào giữa vòng người, thấy kiếm khí tung hoành, ánh kim của Ngũ Hành Luân chớp nháy. Một cô gái áo vàng đang tỉ đấu kịch liệt với một hán tử rất nhanh nhẹn. Lục Phi Thanh đi đến cạnh Trần Gia Lạc, khẽ nói: “Cô gái áo vàng này tên là Hoắc Thanh Đồng, là đệ tử của Thiên Sơn Song Ưng. Còn người sử dụng Ngũ Hành Luân là Diêm Thế Chương trong Quan Đông Lục Ma.”
Trần Gia Lạc nghe vậy bỗng động tâm. Chàng biết Thiên Sơn Song Ưng gồm Thốc Cưu Trần Chính Đức và Tuyết Điêu Quan Minh Mai, là võ lâm tiền bối vùng Hồi Cương. Hai nhân vật này cùng với sư phụ chàng là Thiên Trì Quái Hiệp xưa nay vốn có hiềm khích, tuy không phải là kẻ thù nhưng cố gắng tránh mặt nhau. Từ lâu chàng cũng đã nghe nói Tam Phân kiếm thuật của Thiên Sơn phái tự lập thành một nhà riêng biệt, bèn lưu tâm quan sát.
Trần Gia Lạc định thần xem kỹ, thấy cô gái áo vàng sử kiếm tấn công rất lợi hại, nhưng Diêm Thế Chương thi triển song luân cũng gắng gượng chống đỡ được. Nhóm người Hồi hò hét trợ oai, có mấy người dần dần nhích tới gần, lăm le muốn nhảy vào vòng đấu.
Diêm Thế Chương múa tít cặp vòng, xuất chiêu Chỉ Thiên Hoạch Địa ép Hoắc Thanh Đồng thu trường kiếm về biến chiêu, rồi lùi lại hai bước hét lớn: “Khoan đã! Ta có một câu muốn nói!”
Nhóm người Hồi đã ép lên phía trước, hoa binh khí lên chói mắt. Tình hình lúc này rõ ràng là Diêm Thế Chương sắp bị loạn đao phân thây. Họ Diêm lập tức chuyển hết song luân qua tay trái, tay phải quờ ra sau lưng lấy cái bao vải màu đỏ ra, cầm giơ cao trước mặt, hô lớn: “Nếu các ngươi muốn ỷ số đông thủ thắng, thì ta phải băm nát món đồ trong cái bao này trước.” Mép của Ngũ Hành Luân chiếu ra những tia bạch quang lấp lánh, sắc bén vô cùng. Nếu hắn dùng song luân chém xuống thì dĩ nhiên cái bao vải nát bươm ra lập tức. Mọi người Hồi đều giật mình thối lui mấy bước.
Diêm Thế Chương thấy mình vây chặt xung quanh, chỉ dựa vào võ nghệ thì khó mà thoát được.Hắn bèn kêu lên: “Các ngươi người nhiều thế mạnh, muốn lấy mạng ta thì dễ như trở bàn tay, nhưng như vậy thì Diêm mỗ chết cũng không phục. Nếu có ai đơn đả độc đấu thắng được song luân, ta sẽ kính trọng là anh hùng hảo hán mà giao cái bọc này ra. Không thì ta quyết cùng sống chết với món vật trong bao, các ngươi đừng hòng lấy được.”
Người đầu tiên nóng mặt là Chu Ỷ. Nàng nhảy vào vòng chiến, vung thanh nhạn linh đao hét lớn: “Được lắm! Chúng ta cứ thử một phen.”
Chu Trọng Anh vội vã đưa tay kéo con gái lại bảo: “Trước mắt có rất nhiều bá bá thúc thúc, toàn là anh hùng hảo hán, cần gì con nha đầu này bêu cái xấu của mình ra?”
Hoắc Thanh Đồng vẫy tay về phía Chu Ỷ, lên tiếng: “Thịnh tình của vị tỷ tỷ này, muội xin đa tạ trước.”
Chu Ỷ vội đáp: “Không có gì.”
Hoắc Thanh Đồng nói: “Muội đánh trận đầu trước, nếu không thắng nổi sẽ xin tỷ tỷ trợ giúp một tay.”
Chu Ỷ đáp: “Cô nương cứ yên tâm. Ta thấy cô là người rất tốt, nhất định sẽ giúp cô.”
Chu Trọng Anh khẽ bảo: “Nha đầu ngốc ơi, võ công của người ta giỏi hơn con nhiều, con không thấy hay sao?”
Lục Phi Thanh nói xen vào: “Trong cái bọc vải đỏ đó là một thứ bảo bối của người Hồi tộc, cô ấy nhất định phải đích thân đoạt lấy.”
Chu Ỷ gật đầu nói: “Thế là phải rồi.”
Chu Trọng Anh xua tay lắc đầu, vừa buồn cười vừa cảm động. Ông là nhân vật hàng đầu võ lâm, dĩ nhiên võ nghệ tinh diệu hơn người. Chỉ vì tính tình ông hào sảng phóng khoáng, không thích gò ép dạy dỗ nên công phu của đám đồ đệ cùng con gái đều kém ông một khoảng rất xa. Nhưng cô nương bảo bối này của ông lại có tấm lòng nhiệt huyết, gặp chuyện gì cũng muốn xông xáo tiến lên phía trước, bất kể có liên quan đến mình hay không.
Diêm Thế Chương cột lại bao vải ra sau lưng, cất tiếng hỏi: “Người nào lên trước, đã thương lượng xong chưa?”
Hoắc Thanh Đồng nói: “Vẫn là ta muốn tiếp mấy cao chiêu Ngũ Hành Luân của ngươi.”
Diêm Thế Chương hỏi: “Sau khi phân thắng bại thì sao?”
Hoắc Thanh Đồng đáp: “Bất luận thắng bại ra sao, ngươi cũng phải để kinh thư ở lại. Nhưng nếu ngươi thắng thì được đi, nếu thua thì nằm lại ở đây.”
Nàng nói dứt câu, liền nghiêng kiếm đâm thẳng vào vai trái hắn. Diêm Thế Chương thi triển song luân tiếp đón. Song luân của hắn chiếu theo ngũ hành bát quái, tám lần tám sáu mươi bốn chiêu, chuyên môn đoạt lấy binh khí của địch, phòng thủ rất nghiêm mật. Chớp nhoáng hai người đã đánh được bảy tám chiêu.
Trần Gia Lạc vẫy tay gọi Dư Ngư Đồng bước tới. Trần Gia Lạc khẽ bảo: “Thập tứ đệ! Đệ hãy đi trước điều tra tung tích của Tứ ca, số đông sẽ đi sau.” Dư Ngư Đồng dạ một tiếng, lùi ra khỏi vòng người. Chàng quay đầu nhìn về phía Lạc Băng, thấy nàng cúi đầu thờ thẫn, bất giác muốn tới an ủi mấy câu. Nhưng chàng suy nghĩ một lúc, rồi quay đầu vỗ ngựa đi ngay.
Hoắc Thanh Đồng múa tít trường kiếm, chiêu sau nhanh hơn chiêu trước, kiếm chưa tới nơi đã biến đổi chiêu thức. Diêm Thế Chương muốn dùng song luôn phong tỏa trường kiếm của nàng nhưng không sao khóa được.
Vô Trần đạo trưởng, Lục Phi Thanh, Triệu Bán Sơn đều là hảo thủ quen sử kiếm, đứng bên chỉ trỏ bàn luận. Vô Trần đạo trưởng nói: “Chiêu này đâm vào nách phải nhanh thì có nhanh nhưng chưa đủ dứt khoát.”
Triệu Bán Sơn mỉm cười nói: “Cô bé này làm sao so được với mấy chục năm công lực của huynh? Lúc huynh bằng tuổi với cô ấy bây giờ, thủ pháp có đẹp bằng người ta hay không?”
Vô Trần đạo trưởng cũng cười: “Con bé này thật là khả ái, ai thấy cũng muốn giúp đỡ.”
Trần Gia Lạc thấy kiếm pháp của Hoắc Thanh Đồng tinh xảo tuyệt diệu, trong lòng cũng âm thầm khen ngợi.
Đấu thêm hai mươi mấy chiêu nữa, hai má Hoắc Thanh Đồng hơi đỏ lên, trán lấm tấm mồ hôi, nhưng thần sắc vẫn ổn định, khí lực vẫn đầy đủ, thân pháp cùng bộ pháp hoàn toàn không loạn. Rồi kiếm pháp đột nhiên thay đổi, nàng đã dùng tới tuyệt kỹ Hải Thị Thần Lâu của phái Thiên Sơn. Kiếm phong từ mũi kiếm vọt ra, kiếm chiêu nửa hư nửa thật, tưởng là thật mà lại là hư, tưởng là hư nhưng lại là thật. Quần hùng đều nín thở ngưng thần nhìn không chớp mắt.
Trong quầng kim quang của Ngũ Hành Luân bỗng chớp lên những tia bạch quang của trường kiếm. Diêm Thế Chương bị trúng kiếm vào cổ tay phải, lạc giọng la lên một tiếng, hữu luân tuột tay bay lên trời. Mọi người không hẹn mà cùng hoan hô vang dội.
Diêm Thế Chương tung người nhảy ra ngoaì một trượng nói: “Ta chịu thua rồi. Kinh thư giao cho ngươi.” Rồi hắn xoay tay tháo bao vải màu đỏ xuống. Hoắc Thanh Đồng mặt mày rạng rỡ bước lên mấy bước, tra kiếm vào vỏ, hai tay đón lấy quyển kinh Coran mà bộ tộc mình coi là thánh vật.
Sắc mặt của Diêm Thế Chương đột nhiên lạnh lại, rồi hắn hét lên: “Đỡ lấy!” Từ bàn tay phải vừa đưa kinh, đột nhiên vọt ra ba mũi phi tiêu bắn đến ngực Hoắc Thanh Đồng. Diễn biến xảy ra đột ngột, Hoắc Thanh Đồng chỉ còn cách nhào ngửa ra sau, dùng thân pháp Thiết Bản Kiều, ba mũi phi tiêu bay sát sạt trên mặt.
Diêm Thế Chương đã ra tay không dừng được nữa. Lại thêm ba mũi phi tiêu nữa bắn ra như nỏ liên châu. Lúc này Hoắc Thanh Đồng đang nằm ngửa, hai mắt nhìn trời, không sao thấy được đại nạn sắp đến. Mọi người xung quanh vừa kinh hãi vừa giận dữ, tới tấp rút binh khí ra.
Hoắc Thanh Đồng vừa bật người ngồi dậy đã nghe thấy ba tiếng leng keng, ba mũi phi tiêu đã bị ám kình bắn rơi ngay kế bên mình. Nàng biết nếu không có người ra tay giải cứu thì mình đã bị ba mũi phi tiêu này ghim vào yếu huyệt, bất giác đầy mình toát mồ hôi lạnh, lại tuốt kiếm ra.
Triệu Bán Sơn mỉm cười. Ông đã lấy ra ba hạt thiết bồ đề, chuẩn bị cứu viện, nhưng thấy có người ra tay trước, bèn cất trở lại vào túi đựng ám khí.
Diêm Thế Chương phóng người tới, hung hãn như một con cọp điên, Ngũ Hành Luân chém từ trên đầu xuống. Hoắc Thanh Đồng không kịp biến chiêu, chỉ còn cách đưa kiếm lên chống đỡ. Song luân ép xuống, trường kiếm chống lên, hai bên duy trì như thế một lúc. Khí lực của Diêm Thế Chương vốn đã mạnh hơn, lại có thế đè từ trên xuống nên song luân cứ như dần dần ép sát vào đầu Hoắc Thanh Đồng. Những răng nhọn trên mép song luân đã chạm tới cọng lông vũ màu xanh trên mũ của mỹ nhân.
Quần hùng đang muốn xông vào, đột nhiên một tia sáng xanh nháy động, tay trái của Hoắc Thanh Đồng rút bên hông ra một thanh đoản kiếm, cắm ngay vào giữa bụng Diêm Thế Chương nghe phụp một tiếng. Họ Diêm gào lên một tiếng, ngã ngửa ra sau. Mọi người lại hoan hô vang dội.
Hoắc Thanh Đồng tháo bao vải đỏ trên lưng Diêm Thế Chương ra. Người Hồi râu rậm tiến lên khen ngợi: “Con gái ta giỏi lắm.”
Hoắc Thanh Đồng dùng cả hai tay đưa bao vải lên, mỉm cười gọi: “Gia gia!” Người Hồi này chính là cha của nàng tên gọi Mộc Trác Luân, cũng dùng cả hai tay nhận lấy. Mọi người Hồi đều bước lên một bước, tiếng reo hò như sấm dậy.
Lúc Hoắc Thanh Đồng cúi xuống rút trủy thủ ra thì Diêm Thế Chương đã tắt thở từ lâu rồi. Đột nhiên nàng thấy một thiếu niên chừng mười lăm mười sáu tuổi nhảy xuống ngựa, nhặt ba hạt tròn màu trắng trên mặt đất, rồi cung kính trao cho một thanh niên. Chàng đón lấy cất vào trong bọc.
Hoắc Thanh Đồng nghĩ bụng: “Thì ra chàng chính là người vừa đánh rớt ám khí của gian tặc, cứu được mạng ta.” Nàng không khỏi nhìn lâu hơn một chút, thấy chàng thanh niên này phong thái như ngọc, ánh mắt như sao, trường bào phơ phất nhẹ nhàng, trong tay cầm quạt xếp, thần khí phiêu du nhàn nhã. Ánh mắt hai người chạm nhau, người đó mỉm cười với nàng một cái.
Hoắc Thanh Đồng đỏ mặt cúi đầu, đi đến chỗ phụ thân, ghé tai nói mấy câu gì đó. Mộc Trác Luân gật đầu, bước tới trước ngựa của chàng thanh niên kia, khom người thi lễ. Thanh niên đó cũng vội xuống ngựa đáp lễ. Mộc Trác Luân nói: “May mà được công tử ra tay cứu mạng cho tiểu nữ, ta cảm tạ vô cùng. Xin hỏi tôn tánh đại danh.”
Thanh niên đó chính là Trần Gia Lạc. Chàng lịch sự đáp: “Vãn bối họ Trần, tên là Gia Lạc. Bọn tại hạ có một huynh đệ kết nghĩa đã bị bọn ưng trảo triều đình và đám người tiêu cục này bắt đi nên mọi người phải đến đây giải cứu, nhưng lại không thấy huynh đệ của mình ở đâu. Thánh vật của quí tộc đã đoạt lại được rồi, thật là chuyện đáng mừng.”
Mộc Trác Luân bèn gọi Hoắc Thanh Đồng và con trai là Hoắc A Y đến bái tạ. Trần Gia Lạc thấy Hoắc A Y mặt vuông tai lớn, cũng râu ria đầy mặt, còn Hoắc Thanh Đồng thì thân hình cân đối, tươi tắn như đóa hoa xuân, diễm lệ như ánh chiều tà. Lúc nãy chàng chỉ chú ý nhìn kiếm pháp của nàng, bây giờ đối diện nhìn nhau thì không ngờ trên đời có người đẹp thế này, lập tức tim đập rộn lên.
Hoắc Thanh Đồng khẽ lên tiếng: “Nếu không nhờ công tử trượng nghĩa cứu giúp, tiểu nữ đã bị ám toán rồi. Đại ơn đại đức này, vĩnh viễn không dám quên.”
Trần Gia Lạc đáp: “Từ lâu đã nghe danh hai vị tiền bối Thiên Sơn Song Ưng có tuyệt kỹ Tam Phân kiếm thuật. Hôm nay được thấy thần kỹ của cô nương, thật là danh bất hư truyền. Vừa rồi tại hạ có phần vô lễ, được cô nương không trách đã là muôn phần may mắn rồi, không cần nói lời cảm tạ.”
Chu Ỷ nghe hai người nói chuyện toàn lời khách sáo, cảm thấy chán tai bèn xen vào nói với Hoắc Thanh Đồng: “Kiếm pháp của cô thì giỏi hơn ta, nhưng có một việc ta phải dạy cho cô.”
Hoắc Thanh Đồng vội đáp: “Xin tỷ tỷ chỉ giáo.”
Chu Ỷ nói: “Tên địch thủ ban nãy của cô thật là gian xảo, cô quá tin hắn nên suýt nữa trúng phải độc thủ. Phần nhiều nam nhân đều quỷ kế đa đoan, từ nay về sau cô phải cẩn thận hơn.”
Hoắc Thanh Đồng nói: “Tỷ tỷ nói đúng lắm. Nếu không nhờ Trần công tử trượng nghĩa cứu giúp thì thật không dám nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra.”
Chu Ỷ nói: “Trần công tử nào? À, thì ra cô nói tới tổng đà chủ của Hồng Hoa Hội. À này, Trần… Trần đại ca! Vừa rồi huynh dùng thứ ám khí gì để đánh rớt phi tiêu vậy, cho ta xem thử có được hay không?”
Trần Gia Lạc lấy trong bọc ra ba quân cờ rồi nói: “Chỉ là mấy quân cờ vây thôi. Ta phóng không giỏi lắm, Chu cô nương đừng có chê cười.”
Chu Ỷ nói: “Ai dám cười huynh? Bản lãnh của huynh không tệ, dọc đường gia gia cứ mãi khen huynh thì ra cũng có phần đúng.”
Hoắc Thanh Đồng nghe Chu Ỷ nói chàng thanh niên công tử này là tổng đà chủ của bang hội gì đó, cũng hơi ngạc nhiên, bèn nhỏ nhẹ bàn bạc với phụ thân. Mộc Trác Luân gật đầu lia lịa khen phải, rồi quay người lại bước lên mấy bước, nói với Trần Gia Lạc: “Được các vị anh hùng ra tay trợ giúp, việc lớn của chúng ta đã xong rồi. Nhưng nghe công tử nói có một vị anh hùng chưa cứu ra được, ta muốn gửi tiểu nhi và tiểu nữ cùng vài người bạn để công tử sao khiến góp sức cứu người. Võ nghệ của chúng không được khá lắm, chắc chắn không thể giao cho việc lớn, nhưng cũng có thể góp công chạy đi chạy lại đưa đón tin tức cho quí vị. Không hiểu công tử có chịu nhận hay không?”
Trần Gia Lạc mừng rỡ đáp: “Như thế thì bọn tại hạ phải thập phần cảm kích.” Chàng bèn giới thiệu cho quần hùng biết nhau.
Mộc Trác Luân nói với Vô Trần đạo trưởng: “Kiếm pháp của đạo trưởng nhanh vô kể, bình sinh ta chưa từng gặp. May mà đạo trưởng kiếm hạ lưu tình, nếu không thì… ha ha…”
Vô Trần đạo trưởng mỉm cười đáp: “Không biết nên đắc tội, xin đừng trách!”
Người Hồi xưa nay rất tôn kính anh hùng, vừa rồi thấy Vô Trần đạo trưởng, Triệu Bán Sơn, Trần Gia Lạc, Thường Thị Song Hiệp hiển lộ thân thủ đều rất khâm phục, bây giờ tới tấp kéo đến thi lễ và tỏ lòng kính mến.
Trong lúc nói chuyện, tiếng vó ngựa ở phía tây lại gấp rút vang lên. Một người phóng tới gần rồi phi thân xuống ngựa. Thì ra đó là một thiếu niên tuấn tú, hướng về Lục Phi Thanh mà chào: “Sư phụ!” Đây chính là Lý Nguyên Chỉ, bây giờ đã mặc trang phục nam nhân.
Nàng nhìn tứ phía mà không thấy Dư Ngư Đồng đâu, chợt thấy Hoắc Thanh Đồng bèn chạy tới nắm tay thân mật mà nói: “Đêm đó cô bỏ đi đâu, khiến ta nhớ cô đến chết được. Kinh thư đã lấy lại được chưa?”
Hoắc Thanh Đồng vui vẻ đáp: “Vừa đoạt lại được, xem này.” Rồi nàng chỉ vào cái bao vải đỏ đang đeo trên lưng Hoắc A Y.
Lý Nguyên Chỉ suy nghĩ một chút rồi hỏi: “Đã mở ra thử chưa, kinh thư có trong đó hay không?”
Hoắc Thanh Đồng đáp: “Bọn muội phải bái lạy thánh A-la trước để cảm tạ thiên ân, rồi mới được mở thánh kinh ra.”
Lý Nguyên Chỉ bảo: “Tốt nhất là nên mở ra xem thử.”
Mộc Trác Luân nghe thế bỗng nổi dạ nghi ngờ, liền mở cái bao ra. Thì ra trong bao chỉ có một xấp giấy vụn, đâu phải thánh kinh của họ? Mọi người Hồi nhìn thấy, không ai không tức giận đến phát điên lên. Hoắc A Y xách một tên chạy hiệu của tiêu cục đang nằm dưới đất lên, thuật tay tát cho một phát rồi quát hỏi: “Kinh thư ở đâu?”
Tên chạy hiệu này bật khóc, vừa đưa tay xoa lên bên má bị đánh sưng vù vừa nói: “Đây là việc… do tiêu đầu làm… tiểu nhân không biết…” Hắn chỉ về phía Tiền Chính Luân đang ôm đầu ngồi một góc.
Trong lúc hỗn chiến họ Tiền đã bị thương nhẹ mấy chỗ, vừa thấy Tái Vĩnh Minh bỏ mạng là hắn lập tức đầu hàng. Hoắc A Y kéo hắn tới, hỏi: “Ông bạn muốn chết hay muốn sống?” Tiền Chính Luân nhắm nghiền mắt, không đáp. Hoắc A Y lửa giận bốc tới đầu vung tay định đánh. Nhưng Hoắc Thanh Đồng đưa tay khẽ kéo chéo áo của y một cái, bàn tay vừa đưa lên bỗng từ từ hạ xuống.
Hoắc A Y tuy tính tình nóng nảy, nhưng đối với muội muội vừa nể phục vừa yêu thương. Em gái lớn là Thanh Đồng, không những giỏi võ công hơn huynh trưởng mà còn túc trí đa mưu, từng đoán trúng nhiều việc. Lần này đi về hướng đông đoạt kinh, mọi việc đều do nàng bày kế hoạch. Còn đứa em út là Kha Tư Lệ thì tuổi còn nhỏ lại không biết võ công nên lần này không đi theo.
Hoắc Thanh Đồng hỏi Lý Nguyên Chỉ: “Sao tỷ biết trong bao này không có kinh thư?”
Lý Nguyên Chỉ mỉm cười đáp: “Lần trước ta đã lừa chúng một lần, nên đoán là chúng đã học mót được chiêu đó rồi.”
Mộc Trác Luân quát tháo một hồi, nhưng Tiền Chính Luân trước sau chỉ nói là kinh sách đã bị một tiêu sư khác mang đi trước. Mộc Trác Luân bán tín bán nghi, hạ lệnh cho tay chân lùng xét tất cả các bao trên lưng lừa ngựa, nhưng hoàn toàn chẳng thấy đâu. Ông lo rằng thánh vật của bộ tộc mình bị hủy hoại mất rồi, bất giác chau mày phiền não.
Bây giờ mọi người mới hiểu tại sao Diêm Thế Chương đã thua mà quyết liều mạng, không chịu giao cái bao đó ra. Thì ra hắn cũng biết trong bao không có kinh sách, khi mọi người phát hiện thì mạng mình không sao giữ được.
Bên này thì Lý Nguyên Chỉ đang hỏi chuyện sư phụ Lục Phi Thanh. Họ Lục bảo: “Những chuyện này sau này hãy nói, bây giờ con quay trở lại đi, kẻo mẫu thân lo lắng. Những việc ở đây, con tuyệt đối không được kể với người khác.”
Lý Nguyên Chỉ đáp: “Đương nhiên là con không nói. Sư phụ tưởng con là một đứa bé không biết gì hay sao? Nhưng những người này là ai vậy, sư phụ giới thiệu cho con biết có được không?”
Lục Phi Thanh suy nghĩ một lúc rồi nói: “Ta nghĩ là chưa cần thiết. Con rời khỏi đây đi.” Ông nghĩ Lý Nguyên Chỉ là con gái quan đề đốc, đường lối khác hẳn quần hào, không nên để họ quen nhau làm gì.
Lý Nguyên Chỉ dẩu môi ra nói: “Con biết sư phụ không thương đồ đệ bằng sư điệt Kim Địch Tú Tài gì gì đó. Thôi con đi đây.” Nàng cúi chào rồi nhảy lên ngựa, chạy đến chỗ Hoắc Thanh Đồng bèn cúi xuống vỗ vai nàng, lại còn kề miệng vào sát tai người đẹp thì thầm gì đó. Hoắc Thanh Đồng cười khúc khích, rồi Lý Nguyên Chỉ ra roi giật cương phi về phía tây.
Tất cả những chuyện xảy ra, Trần Gia Lạc đều thấy cả. Chàng nhìn Hoắc Thanh Đồng thân mật với thiếu niên tuấn tú kia, bỗng dưng cảm thấy như bị đánh một quyền rất nặng vào giữa ngực. Trong lòng chàng có gì đó cứ trào ngược lên, mặt nóng miệng khô, cứ đứng đó mà ngơ ngẩn xuất thần.
Từ Thiên Hoằng đi đến cạnh chàng, cất tiếng gọi: “Tổng đà chủ! Chúng ta phải thương lượng một chút, bàn việc đi cứu Tứ ca.”
Trần Gia Lạc giật mình định thần lại nói: “Đúng vậy! Tâm Nghiễn, đệ cưỡi con ngựa của Văn phu nhân đi mời Chương thập gia tới đây.” Tâm Nghiễn nhận lệnh đi ngay.
Trần Gia Lạc lại bảo: “Cửu ca! Huynh đến cửa thung lũng này gặp Thập Nhị Lang, rồi đi dò xét hành tung bọn ưng trảo xem Tứ ca đi về hướng nào, đêm nay phải về báo tin.” Vệ Xuân Hoa cũng tuân lệnh rời khỏi đó.
Trần Gia Lạc nói với mọi người: “Đêm nay chúng ta ngủ lại đây để chờ tin tức của Tứ ca, sáng sớm mai tiếp tục lên đường.”
Hôm nay mọi người phải phi ngựa gấp nửa ngày nên ai cũng vừa đói vừa mệt. Mộc Trác Luân chỉ huy nhóm người Hồi dựng lều ở bên đường, chia cho quần hùng Hồng Hoa Hội mấy chiếc lều, lại nấu thịt bò thịt dê đem qua mời.
Mọi người ăn xong, Trần Gia Lạc bèn bắt Hồ Quốc Đống ra tra xét tỉ mỉ. Hồ Quốc Đồng cứ luôn mồm thóa mạ Trương Triệu Trọng, kể rằng Văn Thái Lai từ trước vẫn ngồi trên cỗ xe lớn. Về sau Trương Triệu Trọng phát hiện tung tích địch nhân, đoán sẽ có người đến cướp xe, nên bảo Hồ Quốc Đống ngồi vào trong cỗ xe này để thí mạng.
Trần Gia Lạc hỏi thêm mấy tên nữa, có cả Tiền Chính Luân nhưng hoàn toàn không có kết quả gì. Từ Thiên Hoằng dẫn bọn bị bắt ra khỏi lều, rồi quay vào khẽ nói với Trần Gia Lạc: “Tổng đà chủ! Tên họ Tiền này mục quang rất sáng, thần sắc lại gian xảo. Chúng ta hãy thử một phen.” Trần Gia Lạc gật đầu khen phải, rồi hai người hạ giọng bàn bạc với nhau.
Trời đã tối hẳn mà Vệ Xuân Hoa cùng Thạch Song Anh vẫn chưa trở về báo tin, mọi người đều lo lắng. Từ Thiên Hoằng nói: “Không chừng hai huynh ấy đã phát hiện ra tung tích của Tứ ca, đang theo dõi. Nếu thế thì tốt quá.” Quần hùng nghe vậy đỡ lo, bàn tán một lúc rồi vào ngủ trong lều. Bọn quan sai và tiêu đầu đều bị trói chặt chân tay để ở ngoài lều, canh đầu thì Tưởng Tứ Cân canh giữ còn canh sau thì Từ Thiên Hoằng canh giữ.
Trăng đã lên lưng chừng trời, Từ Thiên Hoằng ra gọi Tưởng Tứ Cân vào lều ngủ. Chàng đi rảo quanh một vòng, rồi nằm xuống, lấy chăn phủ kín đầu. Chàng cố ý nằm cạnh Tiền Chính Luân, lúc nằm xuống còn đưa chân đạp mạnh hắn một cái mạnh. Họ Tiền đau điếng tỉnh giấc ngay. Hắn đang muốn ngủ tiếp thì bỗng nghe Từ Thiên Hoằng phát ra tiếng ngáy, hình như ngủ say lắm rồi.
Tiền Chính Luân mừng thầm trong bụng, thử nhúc nhích hai tay. Sợi dây trói hai cổ tay hắn buộc không chặt lắm, chỉ giãy vài cái đã rút tay ra được. Tiền Chính Luân cố thở nhẹ, đợi một lúc thì nghe thấy tiếng ngáy của Từ Thiên Hoằng càng lúc càng lớn hơn. Hắn bèn nhẹ nhàng tháo sợi dây trói chân ra, xoa xoa cho bớt tê chân rồi từ từ đứng dậy, rón rén ra ngoài. Hắn vòng ra sau lều, tháo dây cương một con ngựa đang buộc ở gốc cây, dặt đi một bước lại dừng một bước.
Đi đến đường lớn, hắn định thần lắng nghe, nhưng xung quanh hoàn toàn không có chút âm thanh nào, lại càng mừng rỡ. Đi càng xa mấy gian lều, hắn càng sải bước nhanh hơn, tiến đến cỗ xe lớn Hồ Quốc Đống nằm khi nãy. Lúc này con lừa kéo xe đã được thả ra, cỗ xe đổ nghiêng ngả dưới đất.
Trong gian lều phía tây đột nhiên có một người chạy ra đó chính là Chu Ỷ. Nàng cùng Hoắc Thanh Đồng và Lạc Băng ngủ chung trong một chiếc lều. Hai người kia đều tâm sự năn5g nề, trằn trọc mãi không sao ngủ được, còn Chu Ỷ vừa nằm xuống đã ngủ ngon lành. Trong cơn mơ nàng thấy mình rơi xuống một cái hố sâu, giãy giụa thế nào cũng không lên được, rồi lại thấy Từ Thiên Hoằng đứng trên miệng hố nhìn xuống mỉm cười trêu ghẹo nàng. Chu Ỷ nổi giận đang muốn la mắng, đột nhiên Từ Thiên Hoằng nhảy vào trong hố ôm chặt lấy nàng, há miệng cắn vào má nàng, đau không sao chịu nổi.
Chu Ỷ giật mình tỉnh giấc, cả người ướt đẫm mồ hôi, rồi đột nhiên nghe thấy bên ngoài có tiếng động. Nàng định thần một chút rồi vén lều lên xem, thấy xa xa có một người lén lút đi về phía đường cái, bèn cầm đơn đao ra ngoài lều đuổi theo. Đuổi được mấy bước, nàng toan la lên báo động thì đột nhiên sau lưng có một người âm thầm phóng tới, bịt miệng nàng lại.
Chu Ỷ giật mình xoay tay đâm lại một đao. Người kia nhanh tay chụp lấy cổ tay nàng, đẩy đao ra rồi khẽ nói: “Đừng la! Chu cô nương là ta đây.” Chu Ỷ nhận ra thanh âm Từ Thiên Hoằng nên không dùng đao nữa mà chuyển sang đấm đá. Nàng vung tả quyền, dùng hết sức đánh ngay vào ngực phải của chàng. Từ Thiên Hoằng phần thì đau thật, phần thì giả vờ hự một tiếng rồi té ngửa ra sau.
Chu Ỷ kinh hãi, vội cúi xuống hỏi nhỏ: “Huynh… không, không, ai bảo huynh bịt miệng ta? Có người đang chạy trốn, huynh có thấy không?”
Từ Thiên Hoằng hạ giọng đáp: “Đừng lên tiếng! Chúng ta theo dõi hắn.” Hai người nằm sát dưới đất từ từ bò tới, thấy rõ Tiền Chính Luân đang lôi một cái ghế ngồi trên xe ra. Rồi lại có tiếng lách cách, hình như hắn nạy một tấm ván sàn xe lên, lấy một cái hộp gỗ ra nhét vào trong người, rồi chuẩn bị lên ngựa.
Từ Thiên Hoằng vội vã đẩy sau lưng Chu Ỷ một cái, hô lớn: “Cản hắn lại!” Chu Ỷ phi thân nhảy vọt tới. Tiền Chính Luân chỉ mới đặt chân trái lên vòng để chân, nghe có tiếng người nên hốt hoảng không kịp trèo lên, chân phải đá một cái vào mông ngựa. Con ngựa bị đau, chồm tới một cái xa mấy trượng. Chu Ỷ đề khí đuổi theo gấp rút.
Tiền Chính Luân lật người ngồi lên lưng ngựa vung tay phải ra hét lớn: “Xem tiêu!” Chu Ỷ vội dừng bước, nghiên người né tránh phi tiêu. Nào ngờ đó chỉ là hù dọa, ám khí trong người hắn đã bị lục soát tước hết cả rồi.
Chu Ỷ vừa chậm chân một chút, con ngựa đã chạy thêm một quãng xa, ai cũng thấy nàng không thể đuổi kịp. Tiền Chính Luân khoái chí cười ha hả, nhưng tiếng cười chưa dứt đã lảo đảo người rồi lăn từ trên ngựa xuống.
Chu Ỷ vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ, chạy vội tới đạp chân lên lưng hắn, lại chĩa mũi đao vào gáy. Từ Thiên Hoằng cũng đã tới nơi, lên tiếng: “Cô xem thử cái hộp trong người của hắn là thứ gì?”
Chu Ỷ mở hộp gỗ ra, thấy bên trong là một xấp da dê rất dày được đóng lại như quyển sách, bèn giở thử xem. Dưới ánh trăng, nàng thấy văn tự rất kỳ lạ, không hiểu chữ nào, bèn nói: “Đây là những thứ cổ quái của Hồng Hoa Hội các vị, làm sao ta biết được.” Rồi nàng tiện tay ném cho Từ Thiên Hoằng.
Từ Thiên Hoằng đón lấy, vừa liếc qua đã mừng rỡ la lên: “Chu cô nương! Công lao của cô nương không phải nhỏ, đây có lẽ là kinh sách của người Hồi tộc. Chúng ta mau đi tìm tổng đà chủ đi.”
Chu Ỷ hỏi: “Thật không?” Nàng vừa nói xong, Trần Gia Lạc đã bước tới.
Chu Ỷ kinh ngạc hỏi: “Ủa, Trần đại ca! Sao huynh cũng đến đây? Huynh xem đây là thứ gì vậy?”
Từ Thiên Hoằng đưa hộp gỗ qua, Trần Gia Lạc đón lấy xem thử rồi nói: “Đây chắc chắn là bộ kinh sách ấy rồi. May mà cô cản trở được tên này. Mấy chục nam nhân bọn ta cũng chưa sánh kịp với cô.”
Chu Ỷ được hai người khen ngợi, vui sướng trong lòng. Nàng muốn nói mấy câu khiêm tốn nhưng không biết phải nói thế nào, hồi lâu mới hỏi Từ Thiên Hoằng: “Vừa rồi ta đánh huynh có đau không?”
Từ Thiên Hoằng cười thành tiếng rồi đáp: “Công lực của Chu cô nương không phải tầm thường.”
Chu Ỷ nói: “Đó là do huynh không đàng hoàng.” Nàng nói xong, quay lại bảo Tiền Chính Luân: “Đứng dậy, vào trong lều.”
Chu Ỷ lỏng chân, lấy đao ra khỏi gáy hắn, nhưng Tiền Chính Luân vẫn không đứng dậy. Nàng giận dữ la lên: “Ta đâu có đả thương ngươi? Giả vờ chết làm chi?” Rồi nàng co chân tặng hắn một cước, thế mà họ Tiền vẫn không nhúch nhích.
Trần Gia Lạc đưa tay vỗ dưới nách hắn một cái, rồi quát: “Đứng dậy!” Lúc này Tiền Chính Luân mới rên hừ hừ lồm cồm bò dậy.
Chu Ỷ ngẩn ra một chút, dường như nghĩ đến điều gì đó. Nàng nhìn tứ phía rồi nhặt dưới đất lên một quân cờ màu trắng, đưa cho Trần Gia Lạc rồi nói: “Đây đúng là quân cờ của huynh. Thì ra các vị hùa nhau đến đây để phỉnh phờ ta. Hừ hừ… Từ lâu ta đã biết các vị không phải là người tốt.”
Trần Gia Lạc mỉm cười lên tiếng: “Ai rảnh mà hùa nhau để dụ dỗ cô? Chính cô nghe thấy tiếng động của tên này mới đuổi ra tới đây. Hơn nữa, nếu không bị cô cản trở thì hắn đâu có hoảng sợ? Trong lòng hắn không hoảng sợ thì đương nhiên có thể né khỏi quân cờ của ta. Hắn lại đang cưỡi ngựa, làm sao chúng ta đuổi kịp được?”
Chu Ỷ nghe chàng nói rất có lý, lại vui vẻ nói: “Thế thì ba người chúng ta đều có công cả.”
Từ Thiên Hoằng nói: “Công của cô là lớn nhất.”
Chu Ỷ khẽ bảo: “Chuyện ta đánh huynh một quyền đừng nói cho phụ thân ta biết.”
Từ Thiên Hoằng bật cười rồi đáp: “Nói thì có sao đâu?”
Chu Ỷ giận dữ đáp: “Nếu huynh nói thì ta sẽ vĩnh viễn không nhìn đến huynh nữa.” Từ Thiên Hoằng mỉm cười không đáp.
Chàng cùng Trần Gia Lạc sắp đặt mưu kế này, đã thông báo cho quần hùng là nếu ban đêm nghe thấy tiếng động thì không cần phải chạy ra. Nếu không thì với bản lãnh như Vô Trần đạo trưởng, Triệu Bán Sơn, chẳng lẽ nghe thấy tiếng vó ngựa mà không cảnh giác?
Ba người áp giải Tiền Chính Luân, cầm theo kinh sách đi đến lều của Mộc Trác Luân. Người Hồi canh gác chạy vào thông báo, Mộc Trác Luân vội vàng mặc áo ra ngoài lều đón họ vào.
Trần Gia Lạc kể lại sự việc, rồi giao kinh sách cho Mộc Trác Luân. Họ Mộc cả mừng hai tay đỡ lấy, thấy đúng là quyển kinh Coran chép tay mà bộ tộc ông coi là thánh vật. Tin mừng lan đi nhanh chóng, chỉ một lúc sau, Hoắc A Y, Hoắc Thanh Đồng và tất cả người Hồi đều vào hết trong lều, ai cũng chắp tay cúi đầu cảm tạ ba người.
Mộc Trác Luân mở kinh sách ra, lớn tiếng đọc: “Thánh A-la nhân từ tối cao là chủ của mọi lời tán tụng, là chủ tối nhân tối thiện của toàn thế giới, là chủ của ngày phán xét. Chúng con tôn sùng ngài, cầu xin ngài phù trợ, cầu xin ngài hướng dẫn chúng con đi đúng con đường được ngài phù hộ, không lạc vào đường bị khiển trách, không lạc vào đường si mê ngu tối.” Hết thảy người Hồi đều nằm rạp dưới đất cầu nguyện chân thành cảm tạ thánh A-la.
Cầu nguyện xong, Mộc Trác Luân nói với Trần Gia Lạc: “Trần đương gia! Huynh đã đoạt lại thánh vật của bộ tộc chúng ta từ tay bọn gian tặc này. Đại ân không dám nói lời cảm tạ, nhưng từ nay về sau nếu Trần đương gia có gì cần sai khiến thì hãy nhắn tin. Dù cách xa thiên sơn vạn thủy chúng ta cũng đến, dù phải vào nước sôi lửa bỏng chúng ta cũng quyết không bao giờ từ chối.”
Trần Gia Lạc chắp tay cảm tạ. Mộc Trác Luân lại nói: “Ngày mai chúng ta sẽ đưa thánh kinh này trở về bộ tộc. Tiểu nhi và tiểu nữ ở lại đây, nhờ Trần đương gia hướng dẫn chỉ huy. Sau khi cứu được Văn tứ gia, hai đứa mới trở về. Nếu khi đó Trần đương gia cùng các vị anh hùng rảnh rỗi xin đến chỗ chúng ta ở lại mấy ngày, để người trong bộ tộc được chiêm ngưỡng phong thái của hào kiệt thời nay.”
Trần Gia Lạc suy nghĩ một lúc rồi đáp: “Bây giờ thánh vật đã trở về chủ cũ, đó là nhờ quí tộc đã được chân thần A-la phù hộ, cùng hồng phước của lão anh hùng. Anh em tại hạ và Chu cô nương chỉ may mà được việc, thật không dám nói là công đức. Xin lệnh lang và lệnh ái cứ đi cùng lão anh hùng về bộ tộc. Phen này bọn tại hạ cảm kích hảo ý của lão anh hùng còn chưa hết nói gì đến việc kinh động đại giá của lệnh lang cùng lệnh ái.”
Trần Gia Lạc vừa nói dứt câu, ba cha con Mộc Trác Luân đều kinh ngạc nghĩ thầm: “Chiều mới khen là phải, sao đêm đã đột nhiên đổi ý?” Mộc Trác Luân nói thêm mấy lần, Trần Gia Lạc cũng chỉ từ tạ. Hoắc Thanh Đồng khẽ gọi gia gia, nhè nhẹ lắc đầu tỏ ý không cần nói nữa.
Lúc này quần hùng Hồng Hoa Hội đều đã vào chúc mừng Mộc Trác Luân. Người quá đông, lều không chứa hết nên đa số người Hồi phải lui ra ngoài.
Từ Thiên Hoằng thấy Chu Trọng Anh đi vào, bèn lên tiếng: “Phen này đoạt lại thánh kinh, công lao của Chu cô nương lớn nhất.” Chu Trọng Anh đắc ý trong lòng, nhìn con gái của mình tỏ ý khen ngợi.
Từ Thiên Hoằng đột nhiên đưa tay đè lên ngực phải, rên mấy tiếng. Mọi người đều chăm chú nhìn chàng. Chu Ỷ kinh hãi trong lòng, thầm nghĩ: “Ta vừa đánh hắn một quyền. Nếu hắn kể ra trước mặt mọi người thì ta biết làm sao?”
Chu Trọng Anh vội hỏi: “Sao thế?”
Từ Thiên Hoằng im lặng không đáp, một lúc lâu mới mỉm cười nói: “Không sao cả.”
Chu Ỷ toát mồ hôi trán, nghĩ bụng: “Hay lắm! Thì ra tên tiểu tử này tìm cách trêu ghẹo người ta.”
Mọi người cáo từ ra ngoài, về ngủ tiếp. Sáng sớm hôm sau, Mộc Trác Luân dẫn toàn bộ người Hồi đến từ biệt quần hào. Tuy rằng hai bên mới chỉ gặp mặt nửa ngày, nhưng qua trận chiến với kẻ thù chung, mọi người đã hiểu nhau, tình cảm nồng nàn.
Chu Ỷ nắm tay Hoắc Thanh Đồng, hỏi Trần Gia Lạc: “Cô nương này rất tốt, võ công lại cao cường. Người ta muốn giúp mình đi cứu Văn tứ gia, sao huynh không đồng ý?”
Trần Gia Lạc nhất thời không biết nói sao. Hoắc Thanh Đồng bèn lên tiếng: “Trần công tử có hảo ý, không muốn bọn muội phải mạo hiểm. Muội rời gia đình đã lâu, nhớ mẫu thân và muội tử lắm rồi, cũng muốn về sớm một chút. Chu tỷ tỷ, chúng ta hẹn gặp lại sau.” Nói xong, nàng giật tay về, cho ngựa quay đầu chạy thẳng.
Chu Ỷ nói với Trần Gia Lạc: “Thật không hiểu tại sao huynh không muốn cô ấy đi cùng. Huynh xem, nước mắt người ta sắp chảy ra rồi. Huynh xem thường người ta, đắc tội với người ta… thôi thì mặc kệ huynh.” Trần Gia Lạc cứ nhìn theo Hoắc Thanh Đồng không nói tiếng nào.
Hoắc Thanh Đồng chạy một quãng xa, đột nhiên giật ngựa quay người lại. Nàng thấy Trần Gia Lạc đang ngơ ngẩn nhìn mình, bèn cắn chặt môi rồi vẫy chàng tới.
Trần Gia Lạc thấy mỹ nhân gọi mình, không tự chủ được, mơ hồ bước tới. Hoắc Thanh Đồng nhảy xuống ngựa. Hai người đối diện cứ thẫn thờ im lặng mãi không ai nói gì.
Hoắc Thanh Đồng định thần lại, lên tiếng: “Tính mạng của muội đã nhờ công tử cứu giúp. Thánh vật của bộ tộc cũng nhờ công tử đoạt về. Bất luận công tử đối xử thế nào, muội cũng không oán trách gì công tử.” Nàng tháo thanh đoản kiếm đeo bên hông ra, nói tiếp: “Thanh đoản kiếm này là của phụ thân tặng cho muội. Nghe nói bên trong có ẩn chứa một bí mật cực lớn, mấy trăm năm nay truyền đời đồn đại, nhưng mãi đến nay vẫn chưa có ai tìm ra được. Hôm nay tạm biệt, không biết bao giờ mới gặp lại nhau, xin công tử giữ lấy thanh đoản kiếm này. Công tử thông minh tuyệt thế, không chừng sẽ phát hiện ra chỗ ảo diệu bên trong.”
Nàng nói xong, hai tay đua thanh đoản kiếm này lên. Trần Gia Lạc cũng đón lấy bằng cả hai tay, nói: “Kiếm là vật quý, vốn không dám nhận. Nhưng cô nương đã tặng, nếu từ chối thì sợ không cung kính chỉ còn cách hổ thẹn mà nhận lấy.”
Hoắc Thanh Đồng thấy chàng thần sắc rối bời cũng thấy khó chịu trong lòng. Nàng ngần ngừ một chút rồi nói: “Huynh không muốn muội đi cùng cứu Văn tứ gia vì lý do gì, muội đã hiểu rồi. Hôm qua huynh thấy chàng thiếu niên kia thân mật với muội nên coi thường muội. Thật ra y là đệ tử của Lục lão tiền bối Lục Phi Thanh. Y là người như thế nào huynh có thể đi hỏi Lục lão tiền bối. Lúc đó huynh sẽ biết muội có phải là một cô gái tự trọng hay không.” Nàng nói xong, lập tức phi thân lên ngựa, ra roi chạy thẳng.
Trần Gia Lạc được nghe mấy câu tình ý nồng nàn, không nén nổi cả tâm lẫn ý cùng rung động. Nhưng chàng lập tức nghĩ đến dáng vẻ của thiếu niên kia dung mạo tuấn tú, môi đỏ răng trắng, rõ ràng đẹp đẽ hơn mình rất nhiều. Trước nay Trần Gia Lạc vẫn tự phụ mình văn võ toàn tài, gia thế dung mạo đều xuất chúng, hiếm người sánh được. Bây giờ chàng phải tự so sánh với chàng thiếu niên kia, bất giác hơi thẹn trong lòng.
Phen này đại quân đi cứu Văn Thái Lai, mắt thấy thành công mà lại chẳng được tích sự gì. Trần Gia Lạc vừa nhận chức thống soái đã xuất quân bất lợi, dĩ nhiên trong lòng ấu trĩ. Cũng có lúc chàng muốn chạy theo, nói chuyện thêm với người đẹp mấy câu, nhưng chỉ bước được hai bước đã dừng chân lại.
Trần Gia Lạc tay cầm đoản kiếm, ngơ ngác xuất thần nhìn Hoắc Thanh Đồng mỗi lúc một xa, rồi bộ tộc người Hồi khuất dần trong hoang mạc nơi trời đất gặp nhau. Chàng bỗng mềm lòng, định chạy đi hỏi Lục Phi Thanh về đệ tử của ông, nhưng nhiều suy nghĩ trỗi dậy trong đầu: “Về việc kết hôn với người Hán, luật lệ của người Hồi xưa nay rất nghiêm ngặt. Giả tỉ như cô nương Hoắc Thanh Đồng có hảo ý với ta đi nữa, thì cũng bắt ta qui theo Hồi giáo làm người Hồi tộc, không thì hai bên chỉ vướng vít tơ tình, cuối cùng chẳng có kết quả gì. Như thế là tự mình chuốc lấy phiền não về mình. Ta đối với chân thần của Hồi giáo vốn không thật lòng tin kính, nếu vì Hoắc cô nương mà vờ vịt tôn sùng thì rõ ràng là thiếu thành ý. Đó không phải là hành động của người chính nhân quân tử, không khỏi bị thiên hạ khinh rẻ chê cười.”
Chàng đang nghĩ ngợi thì bỗng nhìn thấy phía trước có một con ngựa chạy tới nhanh như khói tỏa, càng đến gần càng có vẻ nhanh hơn, rồi nhận ra Tâm Nghiễn đã trở về.
Tâm Nghiễn nhìn thấy Trần Gia Lạc liền vội xuống ngựa từ xa, dắt ngựa tới vui mừng nói: “Thiếu gia! Chương thập gia đang đi sau. Chúng ta vừa bắt được một người.”
Trần Gia Lạc hỏi: “Bắt được ai thế?”
Tâm Nghiễn kể: “Tiểu nhân cưỡi con bạch mã chạy đến tòa cổ miếu, thấy Chương thập gia đang tranh cãi với một người. Tiểu nhân lên tiếng gọi, Thập gia bèn bảo người kia đợi một chút. Không ngờ hắn vừa nhìn thấy bạch mã đã mắng tiểu nhân là quân trộm ngựa, rồi vung dao lên chém. Tiểu nhân và Thập gia phải đánh trả. Công phu của hắn rất khá, nhưng không có binh khí nên phải cầm một con dao bổ củi, dĩ nhiên không thuận tay. Được hơn hai mươi hiệp thì Thập gia dùng lang nha bổng đánh văng mất con dao chẻ củi, hắn phải dùng tay không đấu với hai người. Sau đó, tiểu nhân cứ nhặt đá dưới đất ném tới. Hắn lo tránh né, nên sơ ý trúng một bổng của Thập gia, rồi bị bắt.”
Trần Gia Lạc cười hỏi: “Người đó tên là gì?”
Tâm Nghiễn đáp: “Tiểu nhân có hỏi nhưng hắn không chịu nói ra. Thập gia thấy hắn sử toàn chiêu thức của Thiết Tỳ Bà, đoán hắn là người nhà họ Hàn ở Lạc Dương.”
Không bao lâu Chương Tấn cũng đến nơi, xuống ngựa thi lễ với Trần Gia Lạc, tiện tay xách một người trên lưng ngựa bỏ xuống. Hắn đã bị cột tay chân phải nằm yên một chỗ, nhưng thần thái rất ngạo mạn.
Trần Gia Lạc hỏi: “Chắc các hạ là người Hàn gia ở Lạc Dương. Xin cho biết tôn tánh đại danh.” Hắn ngửa mặt nhìn trời không đáp.
Trần Gia Lạc bảo: “Tâm Nghiễn, ngươi cởi trói cho đại gia đi.” Tâm Nghiễn bèn rút dao cắt đứt sợi dây trói, rồi cầm dao đứng sau lưng hắn để phòng biến cố.
Trần Gia Lạc nói: “Hai người đã đắc tội với các hạ, xin đừng trách. Mời vào trong lều nói chuyện.”
Bốn người cùng vào trong lều. Trần Gia Lạc và người kia ngồi xuống đất. Quần hùng lục tục kéo vào, đều đứng sau lưng Trần Gia Lạc.
Lúc thấy Lạc Băng đi vào, đột nhiên hắn nổi giận nhảy chồm lên, chỉ mặt nàng thóa mạ: “Con mẹ ăn cắp ngựa kia! Còn chưa chịu trả ngựa cho ta ư? Không trả thì lão gia quyết không chịu bỏ qua.”
Lạc Băng cười nói: “Ông là Hàn Văn Xung đại gia có phải không? Ta đổi ngựa cho ông, lại còn bù thêm một thỏi vàng. Thế là ông phát tài rồi, làm gì phải nổi nóng nữa.”
Trần Gia Lạc hỏi nguyên do, Lạc Băng bèn kể lại vụ đoạt ngựa này. Mọi người nghe thấy đều cười rộ lên. Mặc dù hội qui của Hồng Hoa Hội không cấm chuyện trộm cướp, nhưng Lạc Băng biết tổng đà chủ xuất thân từ tể tướng phủ, chắc là con cháu nhà quan không ưa những chuyện cướp bóc trấn lột, nên nàng chưa nói đến lai lịch của con bạch mã.
Trần Gia Lạc bảo: “Nếu thế thì Tứ tẩu trả ngựa lại cho Hàn gia đi. Thỏi vàng kia cũng không cần lấy lại, coi như tiền thuê ngựa, cũng để tỏ lòng kính trọng. Còn vết thương trên chân của Hàn gia chắc không nặng lắm, Tâm Nghiễn mau lấy thuốc kim sang ra băng bó.”
Hàn Văn Xung thấy Trần Gia Lạc xử lý như thế, cơn giận hơi nguôi. Hắn đang muốn nói mấy câu để kết thúc việc này, thì Lạc Băng bỗng lên tiếng: “Tổng đà chủ, chuyện đó không được. Tổng đà chủ biết hắn là ai không? Hắn là người của Trấn Viễn tiêu cục đấy.”
Trần Gia Lạc hỏi lại: “Thật không?”
Lạc Băng lấy lá thư của Vuơng Duy Dương ra, nói với Trần Gia Lạc: “Xin tổng đà chủ xem thử.”
Trần Gia Lạc cầm thư, mới đọc dòng xưng hô đầu tiên đã gấp lại, trả cho Hàn Văn Xung rồi nói: “Đây là thư của Hàn gia, ta không tiện xem.”
Hàn Văn Xung nghĩ thầm: “Dù sao thì đồng bọn của ngươi cũng đã xem rồi, ta chẳng giấu giếm làm chi nữa.” Hắn liền nói: “Đúng thế, ta là người của Trấn Viễn tiêu cục, nhưng không hiểu ta đã mạo phạm quí vị chuyện gì. Việc này phải thỉnh giáo, Hàn mỗ quang minh lỗi lạc, chưa bao giờ làm những chuyện không minh bạch. Các hạ cứ xem đi.” Nói xong, hắn trải lá thư ra, đặt trước mật Trần Gia Lạc.
Trần Gia Lạc xem lướt qua, chớp nhoáng đã hiểu ý trong thư, bèn nói: “Vương lão tiêu đầu Vương Duy Dương oai trấn vùng Hà Sóc, tại hạ đã nghe danh từ lâu, chỉ vi vô duyên nên chưa được làm quen, thật là ân hận. Các hạ là người của Hàn gia Lạc Dương, không biết xưng hô với Hàn Ngũ Nương như thế nào?”
Hàn Văn Xung đáp: “Đó là tiên thẩm nương của tại hạ. Xin thỉnh giáo tôn tánh đại danh, không hiểu các hạ có quen biết tiên thẩm nương hay không?”
Trần Gia Lạc mỉm cười nói: “Cũng chỉ mới được nghe danh mà thôi. Ta họ Trần tên Gia Lạc.”
Hàn Văn Xung nghe xong lập tức đứng dậy, kinh hãi nói: “Ông… ông… là công tử của Trần Các Lão…”
Thường Hách Chí lên tiếng: “Đây là tổng đà chủ Hồng Hoa Hội chúng ta. Ngươi nói chuyện cả nửa ngày mà có mắt không tròng, không thấy Thái Sơn trước mặt.” Hàn Văn Xung từ từ ngồi xuống, ngắm nghía chàng thanh niên tổng đà chủ này không nháy mắt.
Trần Gia Lạc nói: “Trên giang hồ, không biết ai đã đồn đại rằng cái chết của bạn đồng môn các hạ có liên quan đến tệ hội. Thật ra việc này chúng ta hoàn toàn không biết chút gì. Ta đã phái một huynh đệ đến Lạc Dương, định nói rõ ràng việc này với quí vị, nhưng dọc đường gặp chuyện khẩn cấp nên y không thể phân thân mà tới. May mà hôm nay Hàn gia lại đến đây. Không hiểu lời đồn đại này phát xuất từ đâu, Hàn gia có thể cho biết hay không?”
Hàn Văn Xung vẫn lắp bắp hỏi: “Ông… ông… thật sự là công tử của Trần Các Lão ở Hải Ninh ư?”
Trần Gia Lạc đáp: “Hàn gia đã biết rồi, đương nhiên ta cũng chẳng cần giấu diếm thân thế làm gì.”
Hàn Văn Xung nói: “Từ khi công tử rời nhà, tướng phủ đã cho người tìm kiếm, hứa sẽ trọng thưởng. Suốt mấy năm chẳng có âm tín gì, về sau có người cho biết công tử gia nhập Hồng Hoa Hội, đang ở Hồi Cương. Sư huynh của ta là Tiêu Văn Kỳ được tướng phủ nhờ đến Hồi Cương tìm công tử, nào ngờ y đột nhiên mất tích một cách không minh bạch. Việc đó cách đây đã năm năm rồi. Mãi đến gần đây, có người phát hiện thiết bài cùng tỳ bà đinh của Tiêu sư huynh ở một sơn cốc vùng Thiểm Tây, bọn ta mới biết y bị hại rồi. Tuy rằng y chết không có chứng cớ, cũng không ai chính mắt nhìn thấy y chết, nhưng công tử nghĩ xem, nếu không phải Hồng Hoa Hội thì còn ai đủ bản lãnh giết chết Tiêu sư huynh…”
Hắn chưa nói hết, Chương Tấn đã hét lên: “Sư huynh của ngươi tham tiền bán mạng, chết đi là phải. Nếu Hồng Hoa Hội bọn ta giết hắn, chẳng lẽ lại không dám nhận? Lão gia nói thật cho ngươi biết, bọn ta không giết tên đó. Nhưng nếu các ngươi không tìm được kẻ thù, thì coi như là lão gia giết hắn cũng được. Bình sinh lão gia giết người không phải ít, thêm một mạng Tiêu Văn Kỳ con mẹ nó thì phỏng có chi đáng kể.”
Hàn Văn Xung liếc y một cái, trong lòng bán tín bán nghi. Vô Trần cũng lạnh nhạt lên tiếng: “Thập đương gia Hồng Hoa Hội chúng ta xưa nay nói một là một, nói hai là hai. Ngươi không tin lời nói của y, tức là coi ta không ra gì. Ngươi dám coi ta không ra gì, thì gan ngươi quả không phải nhỏ.”
Giữa những tiếng la ó hỗn loạn, Lục Phi Thanh kêu lớn lên: “Tiêu Văn Kỳ là do ta giết. Ta không ở Hồng Hoa Hội, việc này hoàn toàn không có liên quan gì đến Hồng Hoa Hội cả.” Ông bèn đứng dậy, kể lại chuyện năm năm trước Tiêu Văn Kỳ nửa đêm tầm thù ra sao, lấy ba người đánh một ra sao, mình hạ thủ lưu tình rồi bị hắn dùng độc thủ ám toán ra sao, cuối cùng hắn chuốc lấy cái chết ở hoang sơn ra sao.
Lục Phi Thanh kể rành mạch từ đầu đến cuối, mọi người nghe xong đều lớn tiếng thóa mạ Tiêu Văn Kỳ lưu manh vô sỉ, giết đi là phải. Sắc mặt của Hàn Văn Xung thay đổi hẳn, không nói được lời nào.
Lục Phi Thanh kết luận: “Nếu Hàn gia muốn trả thù cho sư huynh, cứ động thủ ngay bây giờ cũng được. Việc này chẳng liên quan gì đến Hồng Hoa Hội, ai mà giúp ta một quyền một cước thì tức là coi thường lão già này.” Rồi ông quay lại bảo Lạc Băng: “Văn tứ phu nhân! Trả lại binh khí cho Hàn gia đi.”
Lạc Băng lấy thiết tỳ bà ra giao cho Lục Phi Thanh. Họ Lục đón lấy rồi nói: “Năm xưa Hàn Ngũ Nương sáng lập ra Thiết Tỳ Bà Môn danh chấn giang hồ, có thể gọi là nữ trung hào kiệt. Than ôi…” Ông ra vẻ rất cảm khái, vừa nói vừa lặng lẽ vận nội lực. Thiết tỳ bà vốn rỗng ruột, bị ông ấn bẹp thành một miếng sắt phẳng.
Ông ta lại nói tiếp: “Tiêu Văn Kỳ chịu lời của Trần phủ đi tìm Trần công tử thì không sao, nhưng hắn thò tay nhận tiền, lại đến tìm lão già này toan bắt nộp lĩnh thưởng. Chúng ta đều là nhân vật võ lâm, cho dù không thể xả thân báo quốc thì cũng nên trừ bớt bọn cướp Mãn Thanh kia, coi như hành hiệp trượng nghĩa trừ hại cho dân.” Nội công của phái Võ Đang rất khác thường, miệng ông cứ nói chuyện mà tay đã cuộn miếng sắt phẳng đó thành một cái ống, rồi bóp vài cái biến thành một cây thiết côn.
Lục Phi Thanh tiếp: “Giả sử võ công không khá cũng nên giữ nhân phẩm một chút. Làm người cũng phải biết giữ chữ tín, phải trung thành với chuyện mình đang gánh vác. Suốt đời Lục mỗ hận nhất là bọn ưng khuyển triều đình, bọn chó má bảo tiêu hộ viện, ỷ vào chút xíu bản lãnh mà nối giáo cho giặc, đàn áp lương dân. Nếu gặp phải bọn này, Lục mỗ quyết chẳng buông tha.” Nói đến đây, thanh âm và sắc mặt ông đều rất nghiêm khắc. Cây thiết côn trong tay đã biến thành một cái vòng sắt.
Mấy câu này làm tim Hàn Văn Xung đập nghe thình thịch. Hắn tưởng võ công mình cao thâm, trước nay vẫn tự cao tự đại, nào ngờ phen này thất bại liên tiếp. Bại dưới tay Lạc Băng, Chương Tấn, Tâm Nghiễn, hắn vẫn còn đổ cho đối phương dùng quỉ kế. Nhưng bây giờ hắn thấy Lục Phi Thanh vừa nói chuyện vừa vo nặn món binh khí thành danh của mình như nặn đất sét, như vo bột mì, thì không tránh khỏi vừa kinh hãi vừa sợ sệt. Hắn cũng biết võ công của Tiêu Văn Kỳ chỉ ngang với mình, đấu với ông lão này thì dĩ nhiên phải chết.
Tưởng Tứ Cân hứng thú nhìn Lục Phi Thanh chơi đùa cục sắt đó, tính nghịch ngợm bỗng nổi lên. Y đón lấy thiết hoàn, giang tay kéo thẳng ra thành một cây thiết côn trở lại, rồi chính mình cầm một đầu, đưa đầu kia cho Dương Thành Hiệp.
Dương Thành Hiệp đưa tay nắm lấy, mỉm cười nói: “Đấu sức phải không?” Tưởng Tứ Cân gật đầu, rồi hai người vận sức mà kéo. Cây thiết côn mỗi lúc một dài ra, mọi người đều cười ha hả.
Trần Gia Lạc sợ hai người quyết phân thắng bại làm tổn thương hòa khí, bèn mỉm cười nói: “Hai vị ca ca thần lực bằng nhau. Đưa thiết tỳ bà cho ta đi.” Mọi người nghe chàng vẫn gọi cái que sắt này là thiết tỳ bà, tiếng cười càng vang dội.
Trần Gia Lạc nhận lấy que sắt, lại nói: “Đạo trưởng, Chu lão tiền bối, Dương bát ca, ba vị ở một bên. Triệu tam ca, Tưởng huynh đệ, ba người chúng ta ở một bên. Chúng ta luyện khí thử xem.” Bọn Chu Trọng Anh đều mỉm cười đi đến, ba người một bên, xếp chưởng với nhau mà chống đỡ một đầu cái que sắt dài ngoằng.
Trần Gia Lạc cười bảo: “Cây côn này dài quá, chúng ta sửa lại đi. Một, hai, ba!” Sáu người cùng vận sức. Kình lực của sáu người này cộng lại, quả là trên đời này hiếm thấy. Cây thiết côn từ từ co rút lại, dày lên và ngắn đi. Mọi người đứng xem đều hoan hô vang dội.
Sắc mặt Hàn Văn Xung thay đổi hẳn, thầm nghĩ: “Thôi rồi! Thế này mới gọi là ngoài trời còn có trời, trên người còn có người. Nếu hôm nay Hàn mỗ giữ được mạng sống, thì ngày mai phải về quê cuốc đất thôi.”
Trần Gia Lạc hô lớn: “Được rồi!” Năm người Chu Trọng Anh cười rộ lên rồi dừng tay lại.
Trần Gia Lạc quay lại nói: “Lỡ tay làm hỏng mất binh khí của Hàn gia, thật là áy náy. Xin đừng trách.” Hàn Văn Xung mồ hôi đầy đầu, không sao trả lời được nữa.
Trần Gia Lạc nói: “Ta muốn khuyên Hàn huynh một câu, không biết Hàn huynh có đồng ý hay không.”
Hàn Văn Xung gật đầu: “Xin cứ nói.”
Trần Gia Lạc nói: “Có câu oán thù nên giải không nên kết. Lệnh sư huynh mất mạng ở hoang sơn là tự mình chuốc họa, không thể trách Lục lão tiền bối. Mong Hàn huynh nể mặt ta mà xóa bỏ mâu thuẫn này với Lục lão tiền bối, mọi người kết làm bằng hữu có tốt hơn không?”
Hàn Văn Xung đã sợ quá rồi, làm sao dám động thủ với Lục Phi Thanh nữa. Nhưng nếu bị đối phương hù dọa mà cúi đầu đồng ý ngay, thì không khỏi tỏ ra quá vô dụng. Vì thế nhất thời hắn không nói nên lời, nhưng sắc mặt thì thay đổi lúc xanh lúc trắng.
Trần Gia Lạc lại nói: “Chuyện rủi của Tiêu tam gia, thật ra phát xuất từ ta. Bây giờ để ta viết một lá thư gửi cho huynh trưởng, nói là Tiêu tam gia đã tìm được ta, nhưng ta không chịu về nhà, rồi Tiêu tam gia dọc đường về bất ngờ tạ thế. Nhờ huynh trưởng gửi tiền tử tuất thật là ưu đãi, để gia quyến của Tiêu tam gia được dễ chịu hơn.” Hàn Văn Xung trù trừ chưa đáp.
Trần Gia Lạc dựng cặp lông mày lên nói: “Còn nếu Hàn gia nhất quyết trả thù, thì để ta tiếp mấy chiêu thiết tỳ bà thủ của Hàn gia trước.” Chàng lập tức vận kình, phóng cây thiết côn cắm thẳng xuống đất. Nó mất hút vào lòng đất trong nháy mắt, không thấy bóng dáng đâu nữa.
Ruột gan của Hàn Văn Xung vừa lạnh vừa run, không dám nhiều lời nữa, đáp gọn: “Mọi việc tùy ý công tử.”
Trần Gia Lạc khen: “Thế mới gọi là hảo hán biết đường tiến thối.” Sau đó chàng bảo Tâm Nghiễn lấy văn phòng tứ bảo ra, múa bút như rồng bay phượng múa, thảo lẹ một lá thư.
Hàn Văn Xung nhận thư rồi nói: “Vương tổng tiêu đầu có dặn dò tại hạ giúp đưa một chuyến tiêu đến Bắc Kinh, khi đến kinh thành thì hộ tống một số châu báu của hoàng thượng ban cho quí phủ về lại Giang Nam. Hôm nay nhìn thấy thần kỹ của quí vị, quả là chút xíu bản lãnh của tại hạ chỉ đáng gọi là múa rìu qua mắt thợ mà thôi. Đồ châu bảo của quí phủ, quyết chẳng có ai dám đụng vào. Đã thế tại hạ xin cáo từ.”
Trần Gia Lạc hỏi: “Thì ra món vật mà Hàn huynh chuẩn bị hộ tống là của gia đình ta đó ư?”
Hàn Văn Xung đáp: “Tên chạy hiệu đưa thư cho tại hạ có nói: Hoàng thượng ban bổ thiên ân cho quí phủ hết sức rộng rãi, chỉ vài tháng lại thưởng một món kim ngân châu báu. Bây giờ tích tụ nhiều rồi, cần đưa về quí phủ ở Giang Nam, nên người trong phủ đã nhờ tiêu cục của bọn tại hạ hộ tống. Hôm nay tại hạ thảm bại ở đây, chẳng còn mặt mũi đi kiếm cơm trong chốn giang hồ nữa. Sau khi sắp xếp xong gia quyến của Tiêu sư huynh, tại hạ sẽ về quê cày ruộng săn bắn, nhất quyết không thò mặt ra võ lâm.”
Trần Gia Lạc nói: “Hàn huynh đã chịu nghe những lời vàng ngọc của Lục lão tiền bối, thật không còn gì tốt hơn nữa. Ta nhất định phải kết giao với một người bạn như huynh. Tâm Nghiễn! Ngươi mời các vị ở Trấn Viễn tiêu cục ra đây.”
Tâm Nghiễn vâng dạ ra ngoài, rồi đưa bọn Tiền Chính Luân vào. Chúng giáp mặt Hàn Văn Xung, hai bên cứ đưa mắt nhìn nhau, đều không nói được lời nào.
Trần Gia Lạc lên tiếng: “Ta nể mặt Hàn huynh, để Hàn huynh dẫn mấy ông bạn này về. Nhưng từ đây về sau, ta không muốn nhìn thấy họ làm việc xấu nữa. Nếu tiếp tục làm điều không tốt, đừng trách chúng ta hạ thủ vô tình.”
Phen này Hàn Văn Xung bị Trần Gia Lạc sử dụng cả cứng lẫn mềm, cả ân lẫn oai, vừa hiển lộ công phu vừa kết giao tình cảm. Sắc mặt hắn xanh mét như thây ma, câm miệng không nói được tiếng nào. Hắn nhớ Trần Gia Lạc chưa nhắc đến hai chữ “trả ngựa”, nhưng dĩ nhiên không dám mở miệng xin xỏ.
Trần Gia Lạc lại nói: “Chúng ta đi trước một bước, còn quí vị cứ ở đây nghỉ ngơi một ngày, mai hãy khởi hành.”
Quần hùng Hồng Hoa Hội lập tức lên ngựa ra đi, còn một bầy tiêu sư và quan sai ngơ ngác đứng đó, không hề lên tiếng.
Được một đoạn đường, Lục Phi Thanh nói với Trần Gia Lạc: “Trần đương gia! Bọn nhãi tiêu cục ở lại phía sau, thế thì chẳng bao lâu đồ đệ của ta sẽ gặp phải chúng. Chúng bị bẽ mặt, không biết làm sao cho hả dạ, không chừng sẽ kiếm chuyện với đồ đệ của ta. Ta muốn đi chậm một bước, lo lắng cho nó một chút rồi sẽ theo sau.”
Trần Gia Lạc đáp: “Lục lão tiền bối cứ tự nhiên, tốt nhất là kéo lệnh hiền đồ theo. Thế thì chúng ta lại có thêm một tay giúp sức.”
Lục Phi Thanh mỉm cười nói: “Nó chỉ biết đùa giỡn gây họa, chẳng giúp được gì đâu.” Rồi ông chắp tay chào, lập tức quay ngựa chạy ngược lại. Trần Gia Lạc không kịp hỏi kỹ về đồ đệ của ông, trong lòng không khỏi hơi buồn.
* * *
Dư Ngư Đồng vâng lệnh đi điều tra tung tích Văn Thái Lai, dọc đường hỏi thăm mãi vẫn cũng chưa tìm ra chút manh mối nào, dần dần đi đến Lương Châu. Thị trấn Lương Châu đã có từ lâu, là một địa điểm quan trọng của Hà Tây, dân chúng giàu có, sản vật lại phong phú. Họ Dư nghỉ lại một khách sạn trên con đường phía nam.
Chàng lên Tích Thúy Lâu uống rượu một mình, hết nghĩ ngợi lại nhớ nhung tiếng nói giọng cười của Lạc Băng, lòng dạ nổi sóng trùng trùng không sao yên được. Mối tương tư này rõ ràng là vô vọng, cũng là không nên không phải, nhưng kiếm chặt không đứt, sáo thổi không tan. Chàng nhìn thấy trên vách đầy những câu: “Mỗ đã đến đây một lần”, “Mỗ đã du ngoạn qua đây”, bèn nổi hứng thi ca, kêu tiểu nhị đem bút mực đến, viết một bài thơ lên vách:
Một sáo trải giang hồ trăm trận
Hiệp nghĩa tâm sống chết coi khinh
Thế mà chẳng quản được mình
Con tằm đến thác, tơ tình còn vương.
Bên dưới ký: “Người hữu tình vô nghĩa, cuồng si đệ nhất cổ kim.” Vị tú tài này cầm sáo vượt qua trăm trận trong chốn giang hồ, vì hiệp nghĩa coi thường sống chết; nhưng mỗi khi nghĩ đến mối tình với Lạc Băng lại hận mình vô nghĩa với Văn Thái Lai.
Nhấc chén để tiêu sầu, nhưng sầu lại càng sầu. Dư Ngư Đồng ngâm nga một chập, định gọi thanh toán tiền, thì đột nhiên nghe tiếng bước chân, có hai người đi lên. Cặp mắt sắc bén của chàng đảo qua, thấy người đi trước quen quen.
Dư Ngư Đồng quay lại bàn, nhớ ra đó là một tên quan sai đã từng giao đấu với mình ở Thiết Đảm Trang. May mà hắn đang say sưa nói chuyện với đồng bọn nên không nhìn thấy chàng.
Hai tên đó chọn một cái bàn gần cửa sổ, ngay cạnh bàn của chàng. Dư Ngư Đồng nằm gục trên bàn, vờ như đã say mèm.
Chúng nói mấy chuyện lăng nhăng không quan trọng, rồi bỗng một tên nói: “Thoại đại ca! Phen này bắt được yếu phạm, thật là đã lập kỳ công. Không biết hoàng thượng thưởng gì cho huynh đây.”
Tên họ Thoại nói: “Thưởng gì ta cũng không muốn, bây giờ chỉ mong đưa phạm nhân đến Hàng Châu được bình yên. Bọn ta tám người thị vệ cùng lúc rời kinh, bây giờ chỉ còn một mình ta trở về. Không phải ta đề cao địch để giảm oai phong mình, nhưng ngồi đây nghĩ đến trận chiến ở Túc Châu vẫn còn dựng tóc gáy lên.”
Tên kia nói: “Bây giờ các vị cùng đi với Trương đại nhân, chắc đã hết rủi ro rồi.”
Tên họ Thoại đáp: “Nói vậy cũng không sai, nhưng phen này tất cả công lao đều thuộc về ngự lâm quân, còn bọn ngự tiền thị vệ chúng ta mất hết thể diện. Lão Chu này, ta cũng không hiểu tại sao không giải can phạm này về Bắc Kinh, mà lại đưa đến Hàng Châu để làm gì.”
Tên họ Chu khẽ nói: “Anh rể của ta làm việc trong phủ Đại học sĩ, chắc huynh cũng biết. Y đã lén nói với ta là hoàng thượng sắp đến Giang Nam. Đưa can phạm tới Hàng Châu, có thể là hoàng thượng muốn đích thân thẩm vấn.”
Tên họ Thoại à một tiếng, hớp một ngụm rượu rồi hỏi: “Sáu người các vị tuân thánh chỉ đi gấp từ kinh thành đến đây, cũng vì việc này hay sao?”
Tên họ Chu đáp: “Nhất định phải nhờ các vị giúp đỡ. Thế lực của Hồng Hoa Hội ở Giang Nam rất lớn, chúng ta phải cẩn thận đề phòng.”
Dư Ngư Đồng nghe đến đây giật mình, nghĩ mình may mắn lắm mới tình cờ nghe thấy chuyện này. Chúng đem Tứ ca xuống Giang Nam, mà hết thảy anh em lại chạy lên Bắc Kinh ứng cứu, đúng là đau nam chữa bắc.
Tên thị vệ họ Chu lại nói: “Thoại đại ca! Khâm phạm này rút cuộc đã phạm phải tội gì, tại sao hoàng thượng phải đích thân xét hỏi?”
Tên họ Thoại đáp: “Việc này thì ta làm sao mà biết được? Chỉ biết thượng dụ nói là nếu không bắt được hắn, cả bọn trở về đều bị cách chức điều tra, thủ cấp có ở nguyên chỗ cũ hay không còn phải xem lại. Huynh tưởng là chén cơm ngự tiền thị vệ dễ nuốt lắm hay sao?”
Tên họ Chu mỉm cười rồi nói: “Dù sao thì Thoại đại ca đã lập được công lớn rồi. Ta phải kính huynh ba chén.”
Rồi hai tên tiếp tục uống rượu, chuyển qua “bình loạn” về nữ nhân, nào là đàn bà phương bắc chân nhỏ dễ thương, nào là đàn bà Giang Nam da dẻ trắng trẻo. Cơm no rượu say rồi, tên họ Thoại thanh toán xuống lầu. Nhìn thấy Dư Ngư Đồng vẫn gục trên bàn, hắn vừa cười vừa chửi: “Bọn có học hành đúng là chẳng được tích sự gì. Mới uống có ba chén mà con sâu này đã không bò được nữa.”
Dư Ngư Đồng đợi chúng xuống lầu, ném ít bạc vụn lên bàn rồi bám đuôi theo gót. Chàng lẫn vào đám đông, thấy hai tên đó đi vào Lương Châu phủ, hơn nửa ngày vẫn không thấy trở ra, chắc là chúng nghỉ lại trong nha môn này, bèn quay về khách sạn nhắm mắt dưỡng thần.
Trời vừa tối, họ Dư liền thay y phục ngắn màu đen, cài kim địch lên lưng, lén nhảy qua cửa sổ ra ngoài, đi thẳng về hướng nha phủ. Chàng vượt tường vào hậu viện, thấy tứ bề tối mịt, chỉ còn một căn phòng lớn phía đông là có ánh sáng hắt ra cửa sổ. Lẻn lại gần, nghe thấy bên trong có người nói chuyện, chàng thấm chút nước bọt lên đầu ngón tay, nhẹ nhàng khoét một lỗ nhỏ trên giấy dán cửa sổ, vừa nhìn vào bên trong đã không nén nổi phải kinh hãi một phen.
Thì ra trong sảnh rất đông người. Trương Triệu Trọng ngồi chính giữa, hai bên toàn là thị vệ và công sai. Có một người đứng quay lưng lại chàng đang la mắng dữ dội, nghe kỹ thì đúng là thanh âm của Văn Thái Lai. Dư Ngư Đồng biết trong sảnh đều là cao thủ, không dám nhìn tiếp, bèn khom sát xuống, im lặng lắng nghe.
Văn Thái Lai quát lên: “Bọn bay làm chó săn cho triều đình, chỉ là thân phận đầy tớ. Văn đại gia này lọt vào tay các ngươi, sẽ có người đến trả thù. Ta phải xem thử bọn lòng lang dạ sói chúng bay sẽ có kết cuộc ra sao.”
Một tên trầm giọng nói: “Hay lắm! Ngươi cứ việc chửi mắng cho sướng miệng. Ngươi là Bôn Lôi Thủ, chưởng pháp của ta không lợi hại bằng ngươi, nhưng hôm nay ngươi cũng nên nếm thử cho biết.”
Dư Ngư Đồng nghe thấy không ổn, nghĩ bụng: “Tứ ca sắp phải chịu nhục rồi. Huynh ấy là anh hùng hào kiệt đương thời, làm sao mà chịu nổi bọn nhãi này sỉ nhục.” Chàng lại ghé mắt vào lỗ nhỏ nhìn vào, thấy một hán tử trung niên mặc áo bào xanh, thân hình vừa cao vừa ốm, đang vung chưởng tát vào mặt Văn Thái Lai. Sắc mặt hắn rất dữ tợn, miệng cười lạnh lẽo. Văn Thái Lai bị trói chặt hai tay không nhúc nhích được, chỉ giận dữ nghiến răng ken két.
Tên kia lại đưa chưởng lên toan đánh nữa. Dư Ngư Đồng bèn cắm kim địch vào lỗ cửa, hít hơi phun ra. Một mũi đoản tiễn từ trong kim địch bắn ra, ghim trúng ngay mắt trái của hắn.
Tên này không phải ai xa lạ, chính là Ngôn Bá Càn, chưởng môn phái Ngôn gia quyền. Công phu của hắn khá cao, nhưng đoản tiễn bay đến quá sức bất ngờ nên không tránh kịp. Hắn trúng tên vào mắt, gào lên một tiếng rồi lăn xuống đất, trong sảnh hỗn loạn cả lên.
Dư Ngư Đồng bắn thêm một mũi, trúng má phải một tên thị vệ, rồi phóng cước đá bật cửa sảnh, chạy thẳng vào trong hét lên: “Hồng Hoa Hội đến cứu người đây.” Chàng vung kim địch điểm trúng huyệt đạo hai tên quan sai đang đứng kế cạnh Văn Thái Lai, rồi lấy dưới chân ra một con trủy thủ, cắt đứt dây trói.
Trương Triệu Trọng tưởng là có đông người đến cứu Văn Thái Lai, nên mặc kệ Văn Dư, rút kiếm xông ra đứng chặn cửa sảnh. Y quyết định như vậy là để bên trong cản trở phạm nhân chạy trốn, bên ngoài chặn đánh cứu binh.
Văn Thái Lai được cởi trói, tinh thần phấn chấn hẳn lên. Thấy một tên ngự tiền thị vệ phóng tới, chàng nghiêng người tránh né, xoay tay trái phóng ra một chưởng trúng ngay sườn bên phải của hắn. Những tiếng răng rắc vang lên, rõ ràng mấy dẻ xương sườn đã gãy rồi. Bọn kia bị oai khí của chàng nhiếp phục, nhất thời không dám đến gần.
Dư Ngư Đồng la lớn: “Tứ ca! Chúng ta xông ra ngoài!”
Văn Thái Lai hỏi: “Mọi người đến cả rồi phải không?”
Dư Ngư Đồng khẽ đáp: “Chưa đến, chỉ có một mình tiểu đệ.”
Văn Thái Lai gật đầu. Vết thương ở tay phải và trên đùi chưa lành, chàng phải tựa vào Dư Ngư Đồng, hai người đi ra cửa. Bốn năm tên thị vệ chạy tới cản trở, Dư Ngư Đồng múa kim địch đánh dạt ra.
Hai người vừa đến cửa sảnh, Trương Triệu Trọng bước tới một bước quát lên: “Ở lại cho ta!” rồi phóng trường kiếm ra đâm vào bụng dưới Văn Thái Lai. Chân Văn Thái Lai còn đau nên xoay trở không tiện, phải lấy công làm thủ, dùng ngón trỏ và ngón giữa tay trái đâm thẳng vào cặp mắt địch thủ.
Trương Triệu Trọng phải thu kiếm về gạt, bất giác hô lên: “Hay lắm!” Chỉ trong chớp nhoáng, hai người đã qua lại bảy tám chiêu. Văn Thái Lai chỉ dùng được tay trái, đôi chân lại tránh né không linh hoạt, cố được mấy chiêu nữa rồi bị Trương Triệu Trọng đánh một chưởng nặng trúng vai, chân đứng không vững phải ngồi phịch xuống đất.
Dư Ngư Đồng vừa đánh vừa nghĩ: “Hôm trước mình làm bừa làm ẩu có lỗi với Tứ ca, sống thừa trên thế gian chỉ tổ làm bẩn danh tiếng anh hùng của Hồng Hoa Hội. Hôm nay ta phải liều cái mạng này cho bọn ưng trảo giết đi, quyết cứu Tứ ca, để Tứ tẩu biết Dư Ngư Đồng này không phải loại tiểu nhân vô nghĩa. Ta lấy mạng để báo ân, chết không uổng phí.” Chàng nghĩ tới đó thì thấy Văn Thái Lai té nhào xuống đất, bèn xoay người lại, múa tít kim địch liều mạng tấn công Trương Triệu Trọng.
Văn Thái Lai định thần lại, trở mình gượng đứng lên, quát lớn một tiếng. Bọn thị vệ và quan sai đều giật mình, bất giác lui mấy bước.
Dư Ngư Đồng hô lớn: “Tứ ca! Huynh đi trước đi, đệ sẽ theo sau.” Rồi chàng vung kim địch tấn công những chỗ yếu hại của đối phương, hoàn toàn không phòng thủ gì nữa. Võ công của chàng và Trương Triệu Trọng chênh lệch rất xa, nhưng một người liều mạng trăm người khó địch. Kim địch xuất toàn những chiêu thức tấn công, chiêu nào cũng thí mạng, quyết chết cùng địch thủ, ít ra cũng bắt địch thủ bị thương. Trương Triệu Trọng tuy kiếm pháp cao cường, nhưng nhất thời cũng bị ý chí quyết tử của chàng đẩy lùi mấy bước.
Văn Thái Lai thấy chỗ sơ hở bèn lảo đảo chạy ra khỏi sảnh. Bọn thị vệ đều kinh hãi la hét om sòm. Dư Ngư Đồng đứng chặn ở cửa sảnh, trên mình đã trúng hai kiếm, nhưng vẫn không chịu phòng thủ, cứ nhắm mắt tiếp tục tấn công.
Trương Triệu Trọng quát lên: “Ngươi không thiết cái mạng của mình nữa hay sao? Ai dạy ngươi đánh kiểu này?” Y thấy võ công của chàng đúng là đích truyền của phái Võ Đang, biết có liên quan gì đó nên chưa muốn hạ sát thủ.
Dư Ngư Đồng cười thê thảm rồi nói: “Tốt nhất là ngươi giết ta đi.” Thêm mấy chiêu, vai phải chàng lại trúng một kiếm. Chàng đưa sáo sang tay trái, vẫn tiếp tục tấn công, một bước không lùi.
Phần lớn bọn thị vệ đã chạy ra ngoài. Dư Ngư Đồng điên cuồng múa tít kim địch, gió thổi qua lỗ sáo rít lên những tiếng u u. Một tên thị vệ vung đao chém tới, họ Dư coi như không thấy, cứ đưa kim địch điểm trúng dưới nách của hắn. Tên đó lập tức ngất xỉu, nhưng cánh tay trái của Dư Ngư Đồng đã trúng đao, máu bắn ra vấy đầy người. Chàng vẫn cầm sáo tung hoành dưới bóng kiếm trùng trùng. Lại nghe một tiếng “cắc”, một tên thị vệ đã bị chàng đánh vỡ xương hàm.
Lúc này đám thị vệ dồn lại bao vây, đao kiếm roi côn tấn công cùng lúc. Trong trận hỗn chiến đó, chân của Dư Ngư Đồng trúng một côn. Chàng té nhào xuống đất, còn cố múa máy kim địch một lúc rồi mới ngất xỉu.
Ngoài cửa sảnh bỗng có tiếng quát: “Dừng tay!” Mọi người quay đầu lại, thấy Văn Thái Lai chậm rãi bước vào. Chàng không thèm nhìn ngó tới ai, cứ đi thẳng đến chỗ Dư Ngư Đồng, thấy thân thể huynh đệ đầy máu me, bất giác không nén nổi mà rơi lệ. Chàng cúi xuống đưa tay sờ thử lên mũi, thấy hơi thở vẫn còn nên cũng hơi yên tâm, bèn đưa tay trái đỡ họ Dư lên rồi hét lớn: “Cầm máu, cứu thương, nhanh lên!” Bọn thị vệ đều khiếp oai Văn Thái Lai, quả nhiên đã có tên đem thuốc kim sang đến.
Văn Thái Lai thấy Dư Ngư Đồng đã được băng bó vết thương, khiêng vào nội đường, rồi mới chắp hai tay ra sau lưng, bảo: “Trói đi.” Trương Triệu Trọng đưa mắt nhìn một tên thị vệ, tên này từ từ bước tới.
Văn Thái Lai lại quát: “Ngươi sợ cái gì? Nếu ta muốn đả thương ngươi thì đã ra tay từ lâu rồi.” Tên kia thấy hai tay của chàng thật sự không nhúc nhích, bèn đến trói chàng lại đưa vào trong ngục của nha môn, khóa kỹ. Bọn thị vệ đích thân chia phiên nhau giữ ngục.
Sáng hôm sau Trương Triệu Trọng đi thăm Dư Ngư Đồng, thấy chàng nằm thiêm thiếp, hỏi người trong nha môn thì biết chúng đã mời đại phu khám rồi cho chàng uống thuốc. Buổi chiều y lại đi thăm, Dư Ngư Đồng đã hơi tỉnh táo.
Trương Triệu Trọng hỏi chàng: “Sư phụ của ngươi họ Lục hay họ Mã?”
Dư Ngư Đồng đáp: “Ân sư của ta là Thiên Lý Độc Hành Hiệp, họ Mã tên Chân.”
Trương Triệu Trọng nói: “Vậy thì đúng rồi. Ta là Trương Triệu Trọng, sư thúc của ngươi.”
Dư Ngư Đồng khẽ gật đầu. Trương Triệu Trọng hỏi: “Ngươi là người của Hồng Hoa Hội phải không?”
Dư Ngư Đồng lại gật đầu. Trương Triệu Trọng thở dài rồi than: “Thanh niên ưu tú như thế này mà lại chui vào một chỗ hạ lưu. Văn Thái Lai là gì của ngươi, mà ngươi phải liều mạng cứu hắn?”
Dư Ngư Đồng nhắm mắt không đáp, hồi lâu mới nói: “Rốt cuộc thì ta đã cứu được Tứ ca ra ngoài, chết cũng có thể nhắm mắt.”
Trương Triệu Trọng cười gằn: “Hừ! Ngươi tưởng đủ sức cứu người trước mặt ta hay sao?”
Dư Ngư Đồng kinh hãi hỏi: “Huynh ấy không chạy được hay sao?”
Trương Triệu Trọng đáp: “Làm sao mà trốn được? Ngươi đừng có nằm mơ nữa.” Rồi y tiếp tục xét hỏi, nhưng Dư Ngư Đồng nhắm nghiền cặp mắt không thèm trả lời, chỉ một lúc sau lại ngủ thiếp đi.
Trương Triệu Trọng mỉm cười, khen: “Đúng là người trẻ tuổi quật cường.” Rồi y quay người đi ra, gọi Thoại Đại Lâm, Ngôn Bá Càn, Thành Hoàng và sáu tên ngự tiền thị vệ vửa từ kinh thành đến, trong đó có cả Chu Tổ Ấm. Chúng thương nghị gì đó rất bí mật, rồi trở về phòng nghỉ ngơi. Sau giờ cơm tối, chúng lại giải Văn Thái Lai từ trong ngục ra ngoài đại sảnh, giả vờ xét hỏi.
Hôm qua Trương Triệu Trọng đang hỏi cung thật sự, không ngờ bị Dư Ngư Đồng xông vào phá đám. Đêm nay y bèn bố trí mai phục bên ngoài, sắp xếp đầy cung nỏ xung quanh, định bắt cứu binh của Hồng Hoa Hội. Nào ngờ chúng chờ suốt một đêm, mà chuột cũng không thấy con nào.
* * *
Sáng hôm sau có báo cáo là nước sông Hoàng Hà đang dâng lên, phía bắc Hoàng Hà thế nước rất mạnh. Trương Triệu Trọng hạ lệnh khởi hành ngay. Y cáo biệt tri phủ Lương Châu và đám quan địa phương, cho nhốt Văn Thái Lai và Dư Ngư Đồng vào hai cỗ xe lớn.
Lúc bước ra khỏi cửa, đột nhiên Hồ Quốc Đống, Tiền Chính Luân, Hàn Văn Xung chạy vào nha môn. Trương Triệu Trọng thấy thần sắc ba tên này đầy vẻ bối rối, liền gạn hỏi nguyên do. Hồ Quốc Đống bèn đem mọi chuyện ra kể lại.
Trương Triệu Trọng nghe xong chỉ nói: “Võ công của Diêm lục gia rất vững, làm sao có thể chết dưới tay của một cô nương? Thật là kỳ lạ.” Rồi y vẫy tay chào: “Hẹn gặp lại trên kinh.”
Hồ Quốc Đống tức tối nhưng không dám cãi, chỉ cố nuốt cơn giận vào bụng.
Dù sao thì Trương Triệu Trọng nghe Hồ Quốc Đống kể quần hùng Hồng Hoa Hội bản lãnh ghê gớm, lại có số đông người Hồi tương trợ, cũng phải thầm lo. Tuy bản thân y võ nghệ cao cường mà gan dạ cũng không nhỏ, nhưng dù sao cũng không địch nổi số đông, nên y bèn thương lượng với tổng binh ở Lương Châu, yêu cầu phái thêm bốn trăm tinh binh để giúp sức giải khâm phạm về kinh. Tổng binh thấy chuyện này trọng đại không dám chối từ, lập tức điều động binh mã, lại phái phó tướng Tào Năng và tham tướng Bình Vượng theo áp giải đến tỉnh thành Cao Lang, rồi trên tỉnh lại điều nhân mã khác thay thế. Cả một đạo quân đi về hướng đông, dọc đường thuận tay cướp bóc, bắt gà bắt chó, khiến bá tánh khổ sở kêu trời. Những chuyện đó không cần kể lại làm gì.
Đoàn quân đi được hai ngày, ghé ăn trưa tại Song Tỉnh Tử rồi đi tiếp hai ba chục dặm, bỗng thấy dọc đường cái có hai hán tử cởi trần ngồi dưới bóng cây, gốc cây có cột hai con tuấn mã. Hai tên lính Thanh nháy mắt với nhau, chạy tới trước la lên: “Úi chà! Hai con ngựa này hình như là của quan quân, bị ai trộm đến đây.”
Một hán tử mặt mày thanh tú mỉm cười đáp: “Bọn tiểu nhân là lương dân an phận thủ thường, đâu dám trộm cắp ngựa.”
Một tên Thanh binh nói: “Lão gia đi mệt quá rồi, cho mượn ngựa cưỡi một chút.”
Hán tử đáp: “Được thôi! Nếu đại gia nể mặt muốn cưỡi, thì coi như hôm nay tiểu nhân được quen biết quí nhân.”
Tên Thanh binh kia mỉm cười nói: “Thì ra ngươi biết điều lắm.”
Hai hán tử cùng đứng dậy, tháo dây cương ngựa ra rồi nói: “Hai vị đại gia cẩn thận, đừng để té.”
Tên kia thóa mạ luôn: “Con mẹ nói, chỉ nói bậy! Lão gia cưỡi ngựa mà té thì còn ra thể thống gì.” Hắn tà tà bước tới một cách oai vệ, đang thò tay ra đón lấy dây cương thì đột nhiên bị đá một cước vào mông. Còn tên kia thì bị tát cho một chưởng, rồi cả hai bị xách lên quăng ra giữa đường cái. Cả đại đội binh lính lập tức nhốn nháo cả lên.
Hai hán tử tung mình lên ngựa, chạy đến chỗ cỗ xe lớn. Một hán tử trên mặt có vết sẹo lớn đưa tay trái vén màn xe lên, tay phải lia đao, roạc một tiếng đã cắt đứt tấm màn rồi hỏi: “Tứ ca có ở trong đó không?”
Văn Thái Lai ngồi trong xe kinh ngạc la lên: “Thập Nhị Lang!”
Hán tử mặt sẹo nói: “Tứ ca, chúng ta đi đây. Huynh cứ yên tâm, mọi người sắp đến rồi.”
Thành Hoàng và Tào Năng chạy tới tấn công để giữ cỗ xe, hán tử mặt mày trắng trẻo bèn vung song câu cản trở. Lúc số đông Thanh binh ùa tới, hai người huýt một tiếng sáo rồi vọt người chạy đi. Bọn thị vệ đuổi theo một lúc, thấy địch nhân đã chạy xa nên không đuổi tiếp nữa.
Đêm hôm đó, đại đội Thanh binh trú lại Thanh Thủy Phố. Sáng hôm sau đột nhiên có tiếng binh lính la hét ồn ào. Tào Năng và Bình Vượng ra ngoài xem thử, thấy mười mấy tên lính Thanh chết ngay tại chỗ ngủ, không biết vì sao mà chết. Binh lính nhốn nháo hẳn lên, nghi là ma quỉ hiện hình.
Đêm tiếp theo, cả bọn nghỉ lại trấn Hoàng Thạch. Quân lính nhét đầy ba tòa khách sạn, còn phải chiếm dụng thêm nhà cửa của dân. Giữa khuya đột nhiên khách sạn bốc cháy, bốn bề có tiếng la hét om sòm. Trương Triệu Trọng ra lệnh cho bọn thị vệ chỉ lo giữ Văn Thái Lai, còn tất cả những việc khác phải hoàn toàn mặc kệ, đề phòng trúng kế điệu hổ ly sơn của địch.
Ngọn lửa càng lúc càng bốc cao, rồi Tào Năng chạy vào bẩm báo: “Có thổ phỉ đến, đang đánh nhau với binh lính.”
Trương Triệu Trọng nói: “Nhờ Tào tướng quân chỉ huy đốc chiến. Ta phải ở đây, không thể rời khỏi được.” Tào Năng vâng dạ rồi chạy ra ngoài.
Bên ngoài khách sạn vang lên những tiếng kêu la thê thảm, tiếng chân chạy rầm rập, tiếng lửa cháy và tiếng mái nhà sập xuống, lộn xộn cả nửa đêm. Trương Triệu Trọng hạ lệnh cho Thoại Đại Lâm cùng Chu Tổ Ấm canh giữ trên mái nhà, nếu kẻ địch không tấn công vào trong khách sạn này thì không cần phải ra tay.
May mà đám cháy không lớn lắm nên chẳng bao lâu đã dập tắt được, rồi dứt tiếng ồn ào, yên ổn trở lại. Chỉ còn nghe thấy tiếng vó ngựa rào rào, một nhóm người chạy về hướng đông.
Tào Năng mặt đầy muội than và máu me chạy vào báo: “Bọn cướp đó đã bị đuổi đi hết rồi.”
Trương Triệu Trọng hỏi: “Chúng ta thương vong mất bao nhiêu anh em?”
Tào Năng đáp: “Chưa đếm, nhưng ít ra cũng mấy chục người.”
Trương Triệu Trọng lại hỏi: “Còn cướp thì bắt được bao nhiêu, giết được bao nhiêu?”
Tào Năng ú ớ không nói được gì. Trương Triệu Trọng hừ một tiếng, không hỏi nữa.
Hồi lâu Tào Năng mới ấp úng: “Bọn cướp này đều bịt kín mặt, tên nào võ công cũng lợi hại. Thật là kỳ lạ, chúng không cướp bóc tiền bạc gì cả, chỉ lo chém giết anh em mình. Trước khi đi chúng còn quăng lại hai trăm lạng bạc cho ông chủ khách sạn này, nói rằng đã đốt nhà của y nên phải đền bù.”
Trương Triệu Trọng hỏi: “Tào tướng quân tưởng chúng là cướp thật ư? Thôi, huynh đi bảo mọi người nghỉ ngơi một chút, sáng sớm mai lên đường ngay.”
Tào Năng lui ra, lập tức đi tìm ông chủ khách sạn, trách cứ y cấu kết với thổ phỉ giết hại quan quân. Ông chủ khách sạn sợ quá, quì xuống dập đầu lia lịa, rốt cuộc hiểu ra bèn hai tay dâng lên hai trăm lạng bạc, lại còn hứa sẽ lo việc chôn người chết, chữa trị thương binh. Lúc đó Tào Năng mới chịu thôi.
Sáng hôm sau, đại đội Thanh binh nhốn nháo loạn xạ, đến khoảng giờ Ngọ mới khởi hành được. Dọc đường phong cảnh thật đẹp, núi non xanh rì cây cỏ. Đi được khoảng hai giờ, con đường bắt đầu lên dốc, hai bên đều là núi cao.
Không bao lâu, phía trước bỗng có một con ngựa từ trên núi chạy xuống, đến cách đại đội hơn mười bước thì dừng lại. Người ngồi trên ngựa hô lớn: “Này! Bọn rùa kia nghe đây! Các ngươi đã gặp phải ác quỉ rồi, mau mau quay về thì còn đường sống, nếu đi tiếp về hướng đông thì chết uổng mạng từng con rùa một.”
Người kia mặc y phục may bằng vải bố, ngang lưng thắt một sợi dây kết bằng cỏ, da mặt vàng khè, lông mày dựng ngược, hoàn toàn giống hệt quỉ truy mạng vô thường thờ trong miếu, nên ai cũng rùng mình dựng tóc gáy. Y nói xong bèn phi ngựa xuống núi, chạy nhanh qua mặt đại đội nhân mã.
Đột nhiên tên Thanh binh đi cuối cùng hét lên một tiếng, ngã lăn xuống đất, lập tức chết ngay. Cả đám kinh hãi chạy đến xem, thấy trên người hắn không có thương tích lại càng kinh ngạc, bàn tán xôn xao.
Tào Năng phái hai tên lính ở lại mai táng, còn đại đội tiếp tục lên núi. Chẳng bao lâu, phía trước lại có một con ngựa chạy nhanh tới, cũng chính là người vừa gặp. Y cũng lớn tiếng hô: “Này! Bọn rùa kia nghe đây! Các ngươi đã gặp phải ác quỉ rồi, mau mau quay về thì còn đường sống, nếu đi tiếp về hướng đông thì chết uổng mạng từng con rùa một.”
Ai cũng phải hoảng sợ. Rõ ràng y vừa xuống núi, bây giờ lại xuất hiện ở đây. Không có con đường nào đi vòng trở lại lên núi, mà nếu có thì cũng không thể nhanh như thế được. Chẳng lẽ y bay lên trời hay chui xuống đất?
Người kia nói xong, lại phi ngựa chạy xuống núi. Toàn bộ binh lính đều như gặp ác quỉ, dạt hết ra xa.
Chu Tổ Ấm xông đến, đưa đơn đao ra cản trở, hô lên: “Ông bạn, khoan đã!”
Người kia làm như không nghe thấy gì, đưa tay phải vỗ nhẹ lên vai Chu Tổ Ấm, thanh đơn đao loảng xoảng rơi ngay xuống đất. Y không quay đầu lại, cứ cho ngựa chạy nhanh xuống dưới núi. Lúc y vừa qua khỏi đại đội, tên lính đi cuối cùng của đoàn Thanh binh này lại kêu lên một tiếng thê thảm, rồi ngã lăn xuống đất mà chết. Bọn lính đều kinh hoảng, đứng ngẩn ra mà nhìn.
Trương Triệu Trọng hạ lệnh cho thị vệ canh giữ cỗ xe lớn, rồi đích thân tới nơi xem xét. Chu Tổ Ấm hỏi: “Trương đại nhân! Rút cuộc thì tên đó là người hay là quỉ?” Hắn xoa xoa bên vai bị thương, sắc mặt tái hẳn đi.
Trương Triệu Trọng bảo hắn cởi áo ra, thấy vai phải đen cả một vùng, hơi sưng lên. Họ Trương chau mày, lấy trong bọc ra một lọ thuốc, cho hắn nuốt một viên, rồi hạ lệnh cho binh lính cởi quần áo tên Thanh binh đã chết ra xem. Vết tử thương giống hệt như của họ Chu, sau lưng có một vùng da bị bầm xanh, rõ hình bàn tay năm ngón.
Binh lính nhốn nháo hẳn lên, kêu la: “Quỉ sờ vào rồi! Ma sờ vào rồi!” Bình Vượng sai hai tên lính ở lại mai táng người chết, nhưng hai tên này thà chết chứ không chịu ở lại một mình. Trương Triệu Trọng cũng không làm gì được, đành phải cho cả đại đội dừng lại, đợi chôn xác xong mới tiếp tục lên đường.
Thoại Đại Lâm hỏi: “Trương đại nhân! Tên này thật là kỳ lạ, sao vừa rời khỏi đã quay ra phía trước được?”
Trương Triệu Trọng cũng hoang mang không hiểu, suy nghĩ hồi lâu mới nói: “Chu huynh đệ! Đệ và hai tên lính kia rõ ràng bị thương vì Hắc Sa Chưởng. Trên giang hồ đâu có bao nhiêu hảo thủ về môn Hắc Sa Chưởng, sao ta lại không nhận ra được?”
Thoại Đại Lâm nói: “Nói về Hắc Sa Chưởng, đương nhiên Huệ Lữ đạo nhân của phái Thanh Thành là số một giang hồ. Nhưng Huệ Lữ đã chết lâu rồi, chẳng lẽ hồn ma của ông ấy xuất hiện hay sao?”
Trương Triệu Trọng vỗ đùi kêu lên: “Đúng rồi, đúng rồi! Đây là đồ đệ của Huệ Lữ đạo nhân, người ta gọi là Thường thị huynh đệ, Hắc Vô Thường Bạch Vô Thường. Ta cứ nghĩ là một người, bây giờ mới nhớ ra. Thì ra đôi huynh đệ song sinh này giả làm ma quỉ dọa người. Được, chúng ta sẽ đấu với cặp quỉ này một trận.”
Bọn chúng đều không biết Thường thị huynh đệ là nhân vật trong Hồng Hoa Hội. Thoại Đại Lâm, Thành Hoàng đã nghe danh tiếng Tây Xuyên Song Hiệp từ lâu, bây giờ đột nhiên gặp ở vùng tây bắc này. Chúng không biết mình đắc tội với họ từ lúc nào, mà vừa gặp nhau đã hạ sát thủ, nên trong lòng đều âm thầm nghi hoặc kinh hãi. Không tên nào muốn tỏ ra yếu kém, nên đều im lặng không lên tiếng.
Đêm đó nghỉ lại Hắc Tùng Tảo, Tào Năng phái binh lính tuần tra xung quanh, phòng thủ nghiêm mật. Sáng sớm hôm sau, hắn không thấy tên lính tuần nào trở về báo cáo, bèn cho người đi tìm. Thì ra toàn bộ binh lính tuần tra đã chết ngay tại chỗ, cổ mỗi tên quăng một xâu tiền. Thanh binh đều sợ đến vỡ gan vỡ mật, mười mấy tên đã lén bỏ trốn khỏi đại đội.
Hôm đó phải đi qua Ô Sào Lãnh. Đó là nơi hiểm trở nhất trên con đường từ Cam Túc về Lương Châu. Tào Năng cho binh lính nghỉ ngơi ăn uống no nê, để lấy sức trèo lên đỉnh núi. Đi được nửa ngày thì càng lúc càng lạnh, đường càng lúc càng hiểm trở. Lúc này mới đầu mùa thu, thế mà trên núi đã có tuyết rơi.
Một bên là vách núi cao, bên kia là thung lũng sâu thẳm không nhìn thấy đáy, đường trơn trợt vì tuyết. Bọn lính sắp hàng mà đi, nắm chặt tay nhau, sơ ý một chút là rơi ngay xuống thung lũng, xương cốt cũng không còn. Bọn thị vệ cũng xuống ngựa, bảo vệ cỗ xe lớn có Văn Thái Lai rất cẩn thận.
Mọi người đang thận trọng mà đi, dồn hết tinh thần vào đoạn đường vượt núi, đột nhiên nghe thấy sau ngọn núi phía trước phát ra những tiếng u ú như tiếng ma khóc quỉ gào. Một lúc sau, tiếng hú đó lại vang lên thảm thiết, vọng qua vọng lại trong thung lũng, ai nghe cũng dựng tóc gáy lên. Binh sĩ dừng chân lại hết.
Bây giờ tiếng hú nghe rất rõ ràng: “Đi tới phải gặp diêm vương… quay về có con đường sống…” Cứ thế lặp đi lặp lại liên hồi. Không tên lính nào dám tiến về phía trước.
Bình Vượng dẫn mười mấy binh sĩ xuống ngựa, xung phong tiến lên. Vừa qua khỏi eo núi, bỗng trước mặt có cung tên bắn tới. Một tên lính lập tức trúng tên vào ngực, kêu lên một tiếng rồi rơi xuống vực. Bình Vượng dẫn binh sĩ xông lên, nhưng đối phương bắn phát nào cũng trúng, lại thêm mấy người trúng tên mất xác.
Bọn lính Thanh phải nằm rạp xuống đất để tránh tên. Sau đó từ eo núi có một người bước ra, hú lên bằng giọng âm u lạnh lẽo: “Đi tới phải gặp diêm vương… quay về có con đường sống…” Bọn lính đều thấy đây chính là con quỉ vô thường ngày hôm qua, chỉ nhấc tay là giết được người. Mấy tên nhát gan nhất bỗng la lên một tiếng, quay người chạy trốn.
Tào Năng hô hoán om sòm, nhưng không thể nào quản thúc chúng được. Bình Vượng vung đao lên chém chết ngay một tên, bọn còn lại mới không dám chạy nữa. Sáu bảy tên chạy trước, chỉ chốc lát đã mất hút chẳng thấy đâu.
Trương Triệu Trọng bảo Thoại Đại Lâm: “Các ngươi canh giữ cỗ xe, để ta đi gặp anh em họ Thường.” Rồi y tách ra khỏi đám đông, tiến lên phía trước, nói dõng dạc: “Phía trước có phải là Thường thị song hiệp đấy không? Tại hạ Trương Triệu Trọng xin thi lễ. Hai bên xưa nay chưa từng quen biết, không oán không thù, tại sao các vị mấy lần trêu ghẹo chúng ta?”
Người kia cười nhạt, lên tiếng: “Ha ha! Hôm nay đúng là song quỉ gặp phán quan rồi.” Y cất bước đến gần, vù một tiếng, tay phải phóng ra một chưởng.
Nơi này địa thế rất hẹp, Trương Triệu Trọng không có chỗ tránh né, liền vận nội lực vào tay trái đón tiếp phát chưởng, còn tay phải thủ thế. Hai chưởng gặp nhau nghe bùng một tiếng, thì ra nội lực hai bên không phân biệt là bao. Trương Triệu Trọng dùng chân trái ra chiêu Hoành Vân Đoạn Phong quét lên phía trước. Người ấy né không kịp, bèn nhảy xổ tới, hai chưởng vỗ mạnh vào huyệt Thái Dương hai bên của Trương Triệu Trọng.
Họ Trương nghiêng mình, chân trái lập tức co lại, bước lên hai bước. Người đó cũng nghiêng người bước lên phía trước, thế là hai bên bước chéo qua mặt nhau trên con đường chật hẹp này. Hai bên đều dùng song chưởng công kích đối phương, bốn bàn tay chạm nhau trên không, mỗi người phải lùi mấy bước. Bây giờ vị trí đã thay đổi, Trương Triệu Trọng ở phía đông, người kia ở phía tây.
Hai người định thần một lúc, lại tiếp tục đấu chưởng. Bình Vượng đã chuẩn bị cung tên, nhắm người kia bắn ra một mũi. Người kia dùng tả chưởng chống đỡ một chưởng của Trương Triệu Trọng, tay phải chụp được mũi tên, ném ngược ra sau về phía Bình Vương. Bình Vượng cúi đầu tránh né, một tên lính Thanh thét lên một tiếng, bị tên ghim trúng vào vai.
Trương Triệu Trọng lên tiếng tán dương: “Thường thị song hiệp danh bất hư truyền!” Miệng khen, nhưng tay hắn vẫn không chậm lại chút nào. Đột nhiên hắn nghe sau lưng mình có tiếng vù vù, một chưởng đã đánh tới.
Trương Triệu Trọng đảo người tránh né, nhìn lại thì thấy một gã ốm yếu mặt vàng khè, diện mạo giống hệt người trước mặt. Hai con quỉ múa tít song chưởng, đánh nhanh như gió, ép phán quan vào giữa.
Thành Hoàng, Chu Tổ Ấm cũng chạy lên, thấy ba người ác chiến trên con dường chỉ rộng vài thước, bên bờ vực sâu thăm thẳm. Họ đứng sát người nhau mà đánh, hoàn toàn không còn chỗ để xoay chuyển. Lúc này hai trăm mấy chục người bọn Thành Hoàng có cũng như không, chẳng có cách nào bước lên trợ giúp một quyền một cước, chỉ còn biết hò hét trợ oai.
Ba người càng đánh càng khẩn trương, Trương Triệu Trọng thấy bốn bàn tay của địch thủ phát ra tiếng gió vù vù thanh thế kinh người, phải hết sức định thần chống đỡ từng chiêu một. Bỗng dưng một phát chưởng đánh lệch hướng, đập trúng vào vách núi làm đất đá rung chuyển rơi xuống. Một tảng đá lọt xuống vực sâu thăm thẳm, rất lâu tiếng vọng mới truyền lên.
Ác chiến hồi lâu, một người bên địch nghiêng vai huých vào Trương Triệu Trọng, hắn phải đảo người tránh né. Địch thủ kia tìm được một khoảng trống, bèn đứng tựa lưng vào vách đá hét lên một tiếng, phóng hữu chưởng ra.Đồng thời người kia cũng phóng chân trái lên, hai người sử dụng cả quyền lẫn cước muốn ép họ Trương rơi xuống vực sâu.
Trương Triệu Trọng thấy địch phóng cước đá tới, vội lùi lại nửa bước, chỉ còn nửa bàn chân đặt trên mép đường, còn nửa bàn chân đã lơ lửng ngoài bờ vực. Bọn Thanh binh đều kinh hãi kêu lên.
Lúc này phát chưởng kia đã ép sát tới mặt. Trương Triệu Trọng không còn chỗ để lùi, cũng không dám đón đỡ, nghĩ bụng: “Chưởng lực hai bên tương tự nhau, nếu đối chưởng thì đối phương chỉ tựa lưng vào vách đá là xong, còn mình chắc chắn sẽ rơi xuống vực sâu.” Trong lúc gấp rút hắn nảy ra một ý, liền thi triển cầm nã thủ pháp, xoay lẹ tay trái lại, bắt được cổ tay của đối phương, rồi hét một tiếng nhấc địch thủ lên. Người kia cũng lật tay lại chụp lấy cổ tay của Trương Triệu Trọng, nhưng vì hai chân đã bị nhấc lên khỏi đất nên không thể vận kình. Trương Triệu Trọng dùng hết sức giật mạnh, thế là một người rơi xuống vực sâu. Đó là thường Hách Chí trong Thường thị song hiệp. Quan binh nhà Thanh hoan hô rầm rĩ.
Thường Hách Chí thân thể lơ lửng giữa trời nhưng tâm trí vẫn không loạn, giữa không trung vội co hai chân lại, lộn đi một vòng cho thế rơi xuống chậm lại bớt. Mới lộn được nửa vòng, Thường Hách Chí đã lấy được phi trảo sau lưng ra, vẫy tay một cái hất phi trảo vọt thẳng lên. Lúc này phi trảo của Thường Bá Chí cũng đã vung ra, hai phi trảo quấn chặt lại như hai bàn tay nắm lấy nhau.
Thường Bá Chí không đợi anh trai rơi hết đà, vội giật mạnh một cái. Thường Hách Chí bay thẳng lên, rơi lại trên đường núi, cách đó mười mấy trượng. Đây là một kỹ xảo mà anh em họ đã rèn luyện từ hôi nhỏ.
Thường Bá Chí quay người lại, chắp tay nói: “Hỏa Thủ Phán Quan võ nghệ cao cường, thật là đáng phục!” Không ai thấy y khom lưng vận sức gì, thế mà thân thể bỗng bắn vọt lên không, nhảy lùi mấy trượng nắm lấy tay Thường Hách Chí, rồi hai anh em chạy đi mất hút. Sau đó Thường thị song nghiệp vẫn bám theo Trương Triệu Trọng, đến đâu cũng để lại ký hiệu, báo cáo tin tức của Văn Thái Lai cho các huynh đệ cùng biết.
Cả đội quan quân xúm lại, người thì khen ngợi Trương Triệu Trọng võ công tuyệt diệu, người thì luyến tiếc không ném chết được Thường Hách Chí. Trương Triệu Trọng không nói tiếng nào, tựa vào vách đá từ từ ngồi xuống.
Thoại Đại Lâm bước tới khen: “Võ công của Trương đại nhân tuyệt vời quá.” Rồi hắn hỏi nhỏ: “Trương đại nhân có bị thương hay không?”
Trương Triệu Trọng không trả lời ngay, cố gắng điều khí hồi lâu mới nói: “Không việc gì.” Hắn nhìn lại cổ tay mình có năm dấu ngón tay tím bầm khảm vào da thịt, giống như bị dây buộc chặt hay bị phỏng, bất giác run sợ trong lòng.
Thế là cả đoàn người kéo nhau qua khỏi Ô Sào Lãnh. Đêm đó lại thêm ba bốn chục tên lính bỏ trốn.
Trương Triệu Trọng thương nghị với Thoại Đại Lâm: “Trước mặt đã là thành Lan Châu, nhưng nhất định bọn kia không chịu cam lòng, còn gây nhiều phiền phức. Tốt nhất là bây giờ chúng ta đi đường nhỏ đến Hồng Thành, rồi qua sông ở Xích Sáo Độ để chúng không biết đường nào mà theo nữa.”
Tào Năng chỉ mong đi đến tỉnh thành để trút được gánh nặng này. Nghe Trương Triệu Trọng nói vậy, hắn rất muốn phản đối, nhưng không dám.
Trương Triệu Trọng nói thêm: “Dọc đường đã tổn thất nhiều binh lính. Khi trở về Tào đại nhân có thể báo cáo là anh em vì trung dũng mà tuẫn nạn, ta sẽ viết giấy chứng nhận cho.”
Tào Năng nghe vậy cả mừng. Theo lệ trong Binh Bộ, chiến sĩ trận vong đều được nhận tiền tử tuất. Số bạc này không có người nhận, đương nhiên sẽ lọt vào túi của quan thống binh.
Cả bọn đi về hướng sông Hoàng Hà, từ xa đã nghe tiếng nước chảy ầm ầm, mất nửa ngày nữa mới đến Xích Sáo Độ. Ở khúc sông Hoàng Hà này, hai bên bờ toàn là núi đá đỏ ngầu như máu, nên mới có địa danh đó. Lúc này trời đã tối, trong âm u vẫn thấy được nước sông Hoàng Hà cuồn cuộn đổ về đông, sóng vỗ ầm ầm vào bờ, nước sông đục ngầu, sùng sục như nồi canh nấu sôi.
Trương Triệu Trọng nói: “Đêm nay chúng ta phải qua sông. Tình thế rất hung hiểm, để chậm trễ chỉ sợ có chuyện không hay.”
Thượng nguồn sông Hoàng Hà nước chảy rất mạnh, không thể đi bằng thuyền gỗ được. Muốn vượt qua bến sông này, chỉ có thể dùng loại thuyền bằng da cừu. Quân lính đã để ý tìm cả nửa ngày mà không thấy chiếc thuyền da nào, bây giờ trời tối sẫm lại càng khó kiếm. Trương Triệu Trọng đang lo lắng, đột nhiên thấy trên thượng du có hai chiếc thuyền da cừu băng xuống nhanh như tên bắn. Bọn binh lính lớn tiếng hò hét, hai chiếc thuyền từ từ đi chậm lại rồi ghé sát bờ.
Bình Vượng hô lớn: “Này, thuyền phu! Ngươi đưa chúng ta qua sông, sẽ có trọng thưởng.”
Trên thuyền có một đại hán đứng lên, vẫy tay một cái.
Bình Vượng hỏi: “Ngươi bị câm hả?”
Người kia mắng: “Con mẹ nó. Bọn bay muốn lên thì lên cho nhanh, không lên thì thôi, ta mặc kệ.” Y nói thổ âm Quảng Đông nên không ai hiểu gì cả.
Bình Vượng cũng mặc kệ, mời Trương Triệu Trọng cùng bọn thị vệ áp tải Văn Thái Lai lên thuyền trước.
Trương Triệu Trọng nhìn người chèo thuyền, thấy đầu y trơn tru chẳng có bao nhiêu sợi tóc, nón sụp xuống che khuất nửa mặt, không nhìn rõ diện mạo. Thân hình y chắc nịch, thế đứng rất vững vàng, chứng tỏ sức lực không yếu. Mái chèo trong tay y lại đen thui, trông như thiết trượng chứ không giống gỗ.
Họ Trượng bất giác nghĩ bụng: “Mình không biết bơi, tốt nhất là cẩn thận một chút.” Hắn bèn nói: “Bình tham tướng! Huynh dẫn mấy tên lính qua đó trước đi.”
Bình Vượng dạ một tiếng rồi lên thuyền. Chiếc thuyền kia cũng có bảy tám tên lính leo lên. Thế nước chảy rất gấp, nên hai chiếc thuyền phải chèo ngược lên phía thượng du, được mấy trượng rồi mới xoay hướng ra giữa dòng sông. Hai gã chèo thuyền này rất quen sông nước, đưa bọn quan quân yên lành đến bờ bên kia rồi quay lại đón người khác. Lần này đến lượt Tào Năng, dẫn theo nhiều binh lính hơn.
Thuyền vừa rời khỏi bờ, đột nhiên phía sau vang lên một tiếng huýt sáo dài. Trương Triệu Trọng lập tức hạ lệnh cho binh sĩ tản ra, vây chặt quanh cỗ xe lớn, hết sức cảnh giác. Bây giờ mặt trăng mới nhô lên khỏi chân trời, cả một vùng lờ mờ dưới ánh trăng. Từ ba phía đông tây bắc, thưa thớt có mấy chục con ngựa chạy tới.
Đối phương xếp thành hình chữ nhất, từ từ tiến đến gần. Một thanh niên rẽ đám đông bước lên, tay không cầm binh khí, chỉ phe phẩy một chiếc quạt màu trắng, dõng dạc hỏi: “Có phải Hỏa thủ phán quan Trương Triệu Trọng đấy không?”
Trương Triệu Trọng đáp: “Chính là tại hạ. Các hạ là ai?”
Người kia mỉm cười nói: “Tứ ca của chúng ta đã được các hạ hộ tống đến đây. Bây giờ không dám làm phiền nữa, xin được đón về.”
Trương Triệu Trọng hỏi: “Các ngươi là người của Hồng Hoa Hội phải không?”
Người kia lại mỉm cười: “Người trong giang hồ chỉ tán tụng Hỏa Thủ Phán Quan võ công cái thế, nào ngờ còn liệu sự như thần. Đúng thế, chúng ta là nhân vật Hồng Hoa Hội.”
Nói đến đây, đột nhiên chàng huýt một tiếng sáo. Trương Triệu Trọng giật mình, rồi nghe hai gã đang chèo thuyền da cừu huýt sáo đáp trả.
Tào Năng ngồi trên thuyền lơ lửng giữa dòng, thấy địch nhân xuất hiện trên bờ đã hoảng hốt không biết làm gì, bây giờ nghe tiếng huýt sáo của người chèo thuyền thì sợ hãi đến mức mặt cắt không ra máu.
Người chèo thuyền đó quạt thiết trượng xuống sông, dừng thuyền lại rồi quát lên: “Con mẹ nó. Ta phải cho bọn chó má này xuống sông hết.”
Tào Năng nghe không hiểu tiếng Quảng Đông, chỉ biết giương mắt lên nhìn.
Thuyền bên kia cũng có thanh âm nữ nhân dõng dạc cất lên: “Thập tam đệ, ra tay đi!”
Người chèo thuyền bên này đáp gọn: “Được!”
Tào Năng liền múa thương đâm tới. Người chèo thuyền vung thiết trượng gạt ra, rồi trở trượng lại đập cho Tào Năng một phát, lọt xuống sông Hoàng Hà chìm nghỉm.
Hai người chèo thuyền cùng huy động binh khí, đánh rớt hết quan quân xuống sông, rồi quay thuyền vào bờ. Bọn Thanh binh tới tấp bắn tên, nhưng khoảng cách còn xa, trong đêm tối không sao bắn trúng được.
* * *
Trương Triệu Trọng âm thầm sợ hãi, tự khen mình cẩn thận, nếu không thì bây giờ đã biến thành con ma chết trôi sông Hoàng Hà rồi. Hắn cố gắng định thần rồi hét lên: “Bọn ngươi dọc đường sát hại nhiều binh lính, phạm tội ác không thể dung tha, bây giờ tự đến đây nộp mạng là hay lắm. Các ngươi là gì trong Hồng Hoa Hội?”
Người đối diện hắn chính là Trần Gia Lạc, tổng đà chủ của Hồng Hoa Hội. Chàng mỉm cười đáp: “Các hạ không cần hỏi tên của ta làm gì. Chỉ cần nhận ra món binh khí này sẽ biết ta là ai.” Rồi chàng quay lại gọi: “Tâm Nghiễn! Lấy ra đây.” Tâm Nghiễn bèn mở bao, lấy hai món binh khí trao vào tay Trần Gia Lạc.
Mỗi khi quần hùng Hồng Hoa Hội gặp phải quan quân, theo thường lệ thì Chương Tấn và Vệ Xuân Hoa đi tiên phong đánh trận đầu. Nhưng phen này cứu người là gấp, phải đánh cho nhanh. Hơn nữa võ công Trương Triệu Trọng rất cao, anh em ai cũng muốn thử, nên Trần Gia Lạc phải đích thân ứng chiến. Chủ soái đã cho ngựa lên trước, bọn Vô Trần phía sau không tiện tranh giành nhau nữa.
Trương Triệu Trọng phi thân xuống ngựa, rút kiếm ra tay tiến lên mấy bước. Đột nhiên sau lưng y có một người bước lên nói: “Trương đại nhân! Để thuộc hạ đấu với hắn trước.”
Trương Triệu Trọng nhìn lại thấy ngự tiền thị vệ Chu Tổ Ấm, nghĩ bụng: “Cũng nên để hắn đánh thử một trận, xem thực hư của địch thế nào.” Y bèn lùi lại hai bước, bảo: “Chu huynh đệ phải cần thận.”
Chu Tổ Ấm xông lên quát lớn: “Cuồng phỉ cả gan, dám mạo phạm khâm sai.” Rồi hắn vung đao chém vào chân Trần Gia Lạc.
Trần Gia Lạc nhẹ nhàng nhảy xuống ngựa, tay trái cầm thuẫn bài cản trở. Dưới ánh trăng, Chu Tổ Ấm thấy kẻ địch sử dụng binh khí rất kỳ lạ. Trên cái thuẫn bài đó có khảm chín cái móc ngược sáng loáng, nhọn hoắt. Nếu để đơn đao chạm vào thuẫn bài, chắc chắn sẽ bị những cái móc đó khóa chặt, nên họ Chu trong lòng âm thầm kinh sợ, vội vã thu đao về. Thuẫn bài của Trần Gia Lạc nửa công nửa thủ, thuận thế đẩy tới. Chu Tổ Ấm xoay đao chém vào cánh tay trái địch thủ. Thuẫn bài của Trần Gia Lạc lật nghiêng lại, đưa những cái móc nghiêng cắt tới, Chu Tổ Ấm phải lùi lại hai bước.
Tay phải của Trần Gia Lạc vung lên, năm sợi dây đánh thẳng vào mặt địch thủ, ở đầu mỗi sợi dây có treo một quả cầu bằng thép. Chu Tổ Ấm cả kinh, biết lợi hại nên tung người định chạy, nào ngờ đã bị quất trúng sau lưng. Hắn thấy huyệt Chí Đường ở hậu tâm nhói lên một cái, thầm la: “Không xong!” rồi ngã xuống, đôi chân đã bị mấy sợi dây trói lại.
Trần Gia Lạc giật một cái nhấc bổng hắn lên, rồi thuận thế vung tay ra. Chu Tổ Ấm bay vèo ra phía trước, rõ ràng sắp đập đầu vào một tảng đá bên đường.
Trương Triệu Trọng vừa thấy thân pháp của địch nhảy xuống ngựa đã biết Chu Tổ Ấm không phải là đối thủ, nhưng không ngờ tên này mới hai chiêu ba thức đã bị quăng ra. Y vội nhảy tới chặn trước tảng đá, vung tay trái ra chộp được tóc của Chu Tổ Ấm, xách cổ hắn lên, vỗ vỗ lên đan điền và ngựa, giải huyệt đạo rồi nói: “Chu huynh đệ lùi lại, nghỉ ngơi một chút.” Chu Tổ Ấm đang sợ đến vỡ gan vỡ mật, ngẩn ngơ không nói được tiếng nào.
Trương Triệu Trọng rút cây Ngưng Bích Kiếm ra, tung người nhảy đến trước mặt Trần Gia Lạc rồi nói: “Không ngờ ngươi còn trẻ mà công phu đã đến thế này. Sư phụ của ngươi là ai?”
Tâm Nghiễn đứng cạnh la lên: “Không ngờ ngươi đã già mà công phu còn được thế này. Sư phụ của ngươi là ai?”
Trương Triệu Trọng giận dữ quát: “Con nít không biết gì, đừng ăn nói bừa bãi.”
Tâm Nghiễn nói: “Thì ra ngươi không biết binh khí của công tử nhà ta. Ngươi cúi đầu lạy ta ba cái, ta sẽ dạy cho ngươi biết.”
Trương Triệu Trọng không lý gì đến cậu bé nữa, vung kiếm đâm véo một tiếng vào bên phải Trần Gia Lạc. Mấy sợi dây trong tay Trần Gia Lạc vung ngược lên quấn lấy lưỡi kiếm, thuẫn bài bên tay trái đưa ra đẩy vào mặt hắn. Trương Triệu Trọng dùng Ngưng Bích Kiếm thi triển Nhu Vân kiếm thuật. Kiếm chiêu của hắn rất mềm mại, lấy ngắn chống dài, có công có thủ, kịch đấu với hai món binh khí kỳ lạ của đối phương.
Lúc này hai người chèo thuyền đã lên bờ, tiến sát tới bọn lính nhà Thanh. Bọn lính Thanh bắn tới rất nhiều, nhưng đều bị hai người gạt ra hết. Người đi trước chính là Đồng đầu ngạc ngư Tưởng Tứ Cân. Người đi sau đã cởi nón bỏ áo tơi, để lộ bộ y phục trắng, tay cầm Uyên Ương song đao, chính là Lạc Băng.
Tưởng Tứ Cân múa cây thiết trượng xung phong vào giữa đám quan binh, Lạc Băng tiến sát theo sau, chạy thẳng đến cỗ xe lớn. Hai tên đứng đầu đã bị thiết trượng đánh văng óc ra ngoài, bọn còn lại đều dạt ra nhường lối. Thành Hoàng vội xách cây tề mi côn chạy tới ngăn trở, đánh nhau với Tưởng Tứ Cân.
Lạc Băng chạy tới bên chiếc xe lớn, vén màn xe kêu lên: “Đại ca, huynh ở đây phải không?”
Nào ngờ trong chiếc xe này là Dư Ngư Đồng đang bị trọng thương. Chàng mơ hồ nghe thấy âm thanh của Lạc Băng như từ xa vẳng tới, cho rằng mình đã chết rồi nên mới được gặp nàng ở âm phủ, bèn mừng rỡ hỏi: “Tỉ cũng đến đây rồi ư?”
Lạc Băng nghe thanh âm không phải của chồng, nhưng cũng hơi quen thuộc. Nhưng nàng đang vội nên không kịp suy nghĩ kỹ, lại chạy tới cỗ xe lớn tiếp theo. Nàng đang đưa tay định vén màn xe lên, bỗng một lưỡi đao răng cưa từ bên tay phải bất ngờ chém tới. Lạc Băng vội dùng đoản đao bên tay phải cản lại, còn trường đao bên tay trái liên tiếp xuất hai chiêu chém vào vai phải và chân phải của đối phương.
Đao pháp của nàng tương truyền được truyền lại từ Hàn Thế Trung đời nhà Tống. Mỗi khi Hàn tướng quân ra trận đại chiến với Kim binh, tay phải cầm trường đao, tay trái cầm đoản đao, quân Kim chết dưới tay ông nhiều không sao đếm xuể. Nhưng tay trái của Lạc Băng linh hoạt hơn tay phải, nên phụ thân nàng là Thần đao Lạc Nguyên Thông hoán đổi hai thanh đao để dạy cho nàng.
Trường đao bên phải của nàng vừa nặng nề vừa ác hiểm, sử những chiêu thức của đơn đao bình thường. Còn đao bên tay trái lại biến hóa vô cùng khiến người ta khó mà lường biết được, đáng gọi là tuyệt kỹ của võ lâm Giang Nam.
Dưới ánh trăng Lạc Băng đã nhìn rõ diện mạo của kẻ địch, chính là một trong tám tên thị vệ đã vây bắt chồng mình ở Túc Châu. Trong lòng nàng giận dữ vô cùng, thế đao càng gấp rút. Thoại Đại Lâm cũng đã từng mục kích tuyệt kỹ phi đao của nàng, vội vã múa tít cây đao răng cưa chiêu sau nhanh hơn chiêu trước, quyết không để nàng rảnh tay phóng phi đao. Giao đấu một lúc thì có hai tên thị vệ đến trợ chiến, rồi quan binh tứ phía đều ùa tới bao vây Tưởng Tứ Cân và Lạc Băng vào giữa.
Một tiếng huýt sáo vang lên, bốn con ngựa từ phía đông bắc phi thẳng tới. Người chạy đầu chính là Cửu mạng cẩm báo tử Vệ Xuân Hoa, theo sau là Chương Tấn, Dương Thành Hiệp và Chu Ỷ.
Vệ Xuân Hoa múa song câu bảo vệ trước mặt, ruổi ngựa chạy đến rất gấp. Dưới ánh trăng mờ, con huyền mã như một luồng khói đen phi thẳng vào giữa trận quân Thanh, bất chấp cơn mưa tên bắn tới. Nó trúng tên vào cổ, đau quá điên cuồng phóng tới, chân trước đã xéo lên ngựa một tên lính. Vệ Xuân Hoa bèn tung người xuống ngựa, song câu tới đâu thì ở đó có tiếng kêu la thảm thiết vang lên, trước ngực hai tên thị vệ đã thấm ướt máu tươi.
Song câu của Vệ Xuân Hoa đâm đến sau lưng Thoại Đại Lâm, hắn đành bỏ Lạc Băng để quay lại đón đỡ. Tiếp theo Chương Tấn cũng chạy tới nơi. Bọn quan binh không sao chống đỡ nổi, bị ba người đánh chạy tứ tán.
Trong lúc hỗn chiến bỗng thấy một cây tân thiết côn bay lên trời. Thì ra Tưởng Tứ Cân đánh nhau với Thành Hoàng một hồi bất phân thắng bại, trong lòng đã bực bội. Y thấy Thành Hoàng đánh một côn xuống đầu mình, bèn dùng toàn lực vung thiết trượng quạt ngược lên. Côn trượng chạm nhau, cổ tay của Thành Hoàng rung động muốn gãy. Côn thì rời khỏi tay, người thì quay lưng chạy trốn.
Tên thị vệ đang giao đấu với Lạc Băng đã bị đoản đao đâm trúng hai nhát, nhưng chưa chịu chạy mà còn ác chiến. Đột nhiên hắn nghe thấy sau gáy có tiếng gió vội quay đầu lại, thấy một cây cương tiên đánh từ trên đầu xuống, liền đưa đao cản trở. Không ngờ lực đạo của đối phương quá trầm trọng làm đao dội lại, cả đao và tiên đánh xuống mặt mình. Hắn vội lộn ra ngoài thoát được, nhưng sau lưng đã bị đá cho một cước rất nặng.
Lạc Băng rảnh tay thoát ra khỏi vòng chiến, vội chạy đến chiếc xe lớn thứ hai, mở màn xe lên. Nàng đã thất vọng mấy lần, lần này không dám lên tiếng nữa. Nhưng người ngồi trong xe lại kêu lên: “Ai vậy?”, thanh âm ấm áp ngọt ngào không thể nào diễn tả được. Câu này vừa lọt vào tai Lạc Băng, nàng đã lập tức chui vào trong chiếc xe, ôm lấy cổ của Văn Thái Lai khóc nức nở, không nói nên lời.
Văn Thái Lai đột nhiên thấy mặt vợ yêu, vô cùng mừng rỡ, chỉ hiềm hai tay bị trói nên không cách nào ôm lấy nàng vỗ về an ủi. Hai người ở trong xe quên mất thời gian, chỉ mong đất trời cứ thế không bao giờ thay đổi. Tiếng hò hét chém giết, tiếng va chạm binh khí bên ngoài hoàn toàn không khiến họ bận tâm.
Qua một hồi cỗ xe bỗng nhúc nhích, Chương Tấn thò đầu vào trong gọi: “Tứ ca! Bọn đệ đón huynh về.”
Văn Thái Lai kêu lên: “Mau đi cứu Thập tứ đệ.” Chương Tấn như không để ý, cứ leo lên ghế đánh xe, nhanh chóng cho xe chạy về hướng bắc. Mấy tên thị vệ liều chết xông tới nhưng bị bốn người Dương Thành Hiệp, Vệ Xuân Hoa, Tưởng Tứ Cân, Chu Ỷ ngăn cản đành phải lùi về, hô hào phóng tiễn. Mấy chục tên lính Thanh dương cung tên, trong đêm tối Dương Thành Hiệp bỗng kêu lên một tiếng, vai trái đã trúng tên.
Vệ Xuân Hoa giật mình hỏi: “Bát ca làm sao rồi?”
Dương Thành Hiệp dùng răng cắn chặt đuôi tên, tay trái hất mạnh một cái đã nhổ được tên ra, giận dữ thét: “Giết hết bọn nô tài này đi.” Y mặc kệ vết thương đang chảy máu, vung cương tiên lên cao xông thẳng vào trận lính Thanh.
Vệ Xuân Hoa cũng hô lên: “Hay lắm! Giết nữa đi!” Hai người sát cánh tiến lên, chỉ chốc lát đã có bảy tám tên lính Thanh bị cương tiên và song câu đả thương, số còn lại chạy tứ tán. Hai người giết từ đông qua tây, Mạnh Kiện Hùng và An Kiện Cương cũng đến nơi tiếp ứng. Một loạt đạn Mạnh Kiện Hùng bắn ra là mười mấy tên lính Thanh sưng mắt sưng mũi, kêu khổ vang trời.
Tưởng Tứ Cân cùng Chu Ỷ lo bảo vệ cỗ xe lớn. Chương Tấn dong xe đến bên một quả đồi nhỏ thì dừng lại, chăm chú xem Trần Gia Lạc đấu với Trương Triệu Trọng.
Văn Thái Lai hỏi: “Bên ngoài đánh nhau thế nào rồi?”
Lạc Băng đáp: “Tổng đà chủ đang tỉ đấu với Trương Triệu Trọng.”
Văn Thái Lai hết sức kinh ngạc hỏi: “Tổng đà chủ nào?”
Lạc Băng đáp: “Thiếu đà chủ của chúng ta đã nhận chức tổng đà chủ rồi.”
Văn Thái Lai mừng rỡ nói: “Vậy thì hay lắm. Gã Trương Triệu Trọng này võ công rất cao cường, đừng để tổng đà chủ thiệt thòi.” Lạc Băng thò đầu ra ngoài xe, dưới ánh trăng chỉ thấy hai người xoay qua chuyển lại, ác chiến chưa phân cao thấp.
Văn Thái Lai hỏi liên tục: “Tổng đà chủ có đối phó được không?”
Lạc Băng nói: “Binh khí của tổng đà chủ rất lợi hại. Tay trái cầm thuẫn bài, trên thuẫn có những móc nhọn hướng ngược. Còn tay phải cầm năm sợi dây, đầu dây còn có năm quả cầu thép. Huynh nghe đi, có tiếng dây rít vù vù đó.”
Văn Thái Lai hỏi: “Trên đầu dây có cương cầu, thế thì tổng đà chủ có thể dùng dây đả huyệt hay sao?”
Lạc Băng đáp: “Đúng thế. Trương Triệu Trọng đang bị năm sợi dây bao vây bốn phía.”
Văn Thái Lai lại hỏi: “Tổng đà chủ còn sung sức hay không? Nghe âm thanh thì hình như mấy sợi dây đó chậm lại rồi.”
Lạc Băng không đáp ngay, đột nhiên nhảy chồm lên kêu lớn: “Hay lắm! Trường kiếm của Trương Triệu Trọng đã bị thuẫn bài khóa chặt rồi. Úi chà! Hắn không sao thoát khỏi sợi dây này được nữa rồi. Trời ơi! Hỏng bét! Hỏng bét!”
Văn Thái Lai vội hỏi: “Cái gì hỏng bét?”
Lạc Băng nói: “Thì ra hắn dùng một thanh bảo kiếm, chém đứt hai cái móc trên thuẫn bài rồi. Không xong! Sợi dây cũng bị bảo kiếm cắt đứt rồi! Tổng đà chủ tay không đánh với Trương Triệu Trọng thì không được, hắn quả thật hung hãn. Hay lắm! Vô Trần đạo trưởng tiến lên rồi, tổng đà chủ đã lùi ra.”
Văn Thái Lai đã biết kiếm pháp của Vô Trần đạo trưởng lợi hại vô cùng, độc nhất vô nhị, bây giờ mới yên tâm hơn nhưng lòng bàn tay đã đẫm mồ hôi lạnh. Nghe thấy mọi người hô vang lên, Văn Thái Lai lại hỏi: “Sao rồi?”
Lạc Băng nói: “Đạo trưởng thi triển Truy Hồn Đoạt Mạng Kiếm cực kỳ mau lẹ, Trương Triệu Trọng phải liên tiếp lùi bước.”
Văn Thái Lai hỏi: “Muội xem có phải chân hắn đang chạy theo phương vị bát quái hay không?”
Lạc Băng đáp: “Hắn từ cung Ly đạp vào cung Càn, bây giờ lại đi vào cung Khảm, đạp qua cung Chấn. Không sai! Ca ca, làm sao mà ca ca biết được?”
Văn Thái Lai nói: “Người này võ công hết sức cao cường, ta đoán hắn không phải bị bức phải rút lui đâu. Nghe nói trong Nhu Vân Kiếm Pháp của phái Võ Đang có một đường kiếm chuyên về thế thủ, làm tiêu giảm sức tấn công lợi hại của địch trước rồi mới phản kích sau. Khi thi triển lộ kiếm pháp này thì chân phải đi đúng hình bát quái. Đáng tiếc, đáng tiếc!”
Lạc Băng hỏi: “Đáng tiếc chuyện gì?”
Văn Thái Lai đáp: “Tiếc là ta không được thấy. Người rất giỏi võ công mới hiểu lộ kiếm pháp này, mà họ phải gặp cường địch thật sự mới đem ra sử dụng. Vì thế mà đường kiếm đó ít ai được thấy hai lần.”
Lạc Băng tìm lời an ủi: “Lần sau muội sẽ xin Lục lão tiền bối tỉ kiếm với đạo trưởng một trận, để huynh xem một cách rõ ràng.”
Văn Thái Lai cười ha hả: “Họ đâu có trẻ con như muội.”
Lạc Băng đưa hai tay quàng qua cổ Văn Thái Lai, đột nhiên kêu lên: “Đạo trưởng đã sử dụng chân rồi. Liên Hoàn Mê Tung Thối của đạo trưởng cực kỳ xảo diệu.”
Văn Thái Lai nói: “Đạo trưởng đã mất cánh tay trái, nên công phu ở chân phải luyện đến mức xuất thần nhập hóa để bổ sung cho khiếm khuyết trên tay. Năm xưa ông ấy chỉ sử dụng đôi chân cũng đủ thu phục Thanh Tỳ Bang.”
Thời trẻ Vô Trần đạo trưởng lăn lộn trong chốn lục lâm, cướp giàu giúp nghèo gây ra vô số vụ án lớn. Võ công của ông cao cường, huynh đệ dưới tay lại rất đông, quan phủ không làm gì được. Có lần ông gặp một tiểu thư con nhà quan, rồi đem lòng luyến ái. Tiểu thư không thực lòng với Vô Trần, lại bị cha xúi giục, nên một đêm Vô Trần lén lút tới gặp, cô ả đã nói: “Huynh đối với muội chỉ là đùa cợt mà thôi, chẳng thành tâm chút xíu nào.” Vô Trần lập tức nặng lời thề thốt. Cô ả nói: “Nam nhân các người ai cũng nói miệng là giỏi. Lâu lắm huynh mới đến thăm muội một lần, muội thấy huynh không đủ thành ý. Nếu huynh thật sự yêu muội thì hãy chặt đứt một cánh tay cho muội xem. Có cánh tay của huynh lúc nào cũng kề cận bên mình, thì muội sẽ không cảm thấy cô đơn nữa.” Vô Trần không nói tiếng nào, rút kiếm chặt đứt cánh tay trái của mình. Không ngờ trên lầu của tiểu thư đã có rất nhiều quan binh mai phục, lập tức ùa tới. Vô Trần đau quá ngất xỉu dưới đất, không sao chống đỡ được nữa.
May mà anh em dưới tay của Vô Trần phá vỡ được thành trì cứu ông ra, rồi lại bắt hết gia đình tiểu thư này để ông xử lý. Mọi người cứ tưởng Vô Trần sẽ giết sạch bọn chúng, chỉ để lại tiểu thư làm vợ. Nào ngờ khi nhìn thấy người đẹp ông lại mềm lòng, bảo mọi người thả cả cô ả lẫn người nhà, còn chính mình thì bỏ đi ngay trong đêm đó, xuất gia làm đạo sĩ.
Tuy đã xuất gia mà bản tính ông vẫn không thay đổi, phóng khoáng hành hiệp giang hồ, rồi được lão đương gia Vu Vạn Đình của Hồng Hoa Hội mời về làm phó thủ. Có lần Hồng Hoa Hội cùng Thanh Tỳ Bang tranh chấp một việc, về lý thì hai bên không ai nhường ai, chỉ còn cách dựa vào vũ lực mà quyết định. Có người trong Thanh Tỳ Bang chê cười Vô Trần chỉ có một cánh tay, ông bèn giận dữ nói: “Cho dù ta không có tay đi nữa, thì chín mười người như ngươi ta cũng không coi vào đâu.”
Vô Trần liền lấy dây tự trói cánh tay phải còn lại ra sau lưng, thi triển Liên Hoàn Mê Tung Thối đá té nhào mấy đương gia của Thanh Tỳ Bang. Mọi người trong Thanh Tỳ Bang đều tâm phục khẩu phục, tham gia vào Hồng Hoa Hội. Thiết tháp Dương Thành Hiệp vốn là bang chủ Thanh Tỳ Bang, vào Hồng Hoa Hội được ngồi ghế thứ tám.
Lạc Băng nói: “Thế thì hay quá! Huynh xem kìa, bộ pháp của Trương Triệu Trọng bị đạo trưởng đá cho loạn xạ rồi, không đạp chuẩn phương vị bát quái nữa.”
Văn Thái Lai mừng rỡ nói: “Từ khi đạo trưởng thành danh tới nay chưa từng gặp địch thủ. Lần này phải để Trương Triệu Trọng biết mùi lợi hại của Hồng Hoa Hội.”
Chàng chưa nói dứt câu, đột nhiên Lạc Băng khẽ kêu một tiếng, Văn Thái Lai vội hỏi: “Lại có chuyện gì thế?”
Lạc Băng đáp: “Đạo trưởng đang vội né tránh. Không biết Trương Triệu Trọng đã phóng ra ám khí gì, hình như rất nhỏ, trong bóng tối nhìn không rõ.”
Văn Thái Lai định thần lắng tai, chỉ nghe những tiếng vi vu nhỏ xíu bèn trả lời: “Đây là Phù Dung Kim Châm, ám khí lợi hại nhất của phái Võ Đang.” Lúc này cỗ xe lớn đã lùi thêm mấy bước.
Lạc Băng nói: “Đạo trưởng múa kiếm đến mức gió mưa cũng khó lọt vào, bảo vệ toàn thân nên kim châm bị đánh bay tứ tán, mọi người đều phải lùi ra sau tránh né. Hình như kim châm đã hết phóng rồi, hai người lại đánh với nhau. Đạo trượng vẫn ở thế thượng phong, nhưng Trương Triệu Trọng phòng thủ nghiêm mật nên đánh mãi không thắng.”
Văn Thái Lai bảo: “Mau cởi trói cho ta.”
Lạc Băng mỉm cười nói: “Đại ca xem đó, muội mừng quá thành hồ đồ mất rồi.” Nàng liền lấy dao cắt đứt dây trói, rồi nhẹ nhàng xoa xoa cổ tay của chàng cho máu lưu thông.
Đột nhiên ở phía ngoài vang lên những tiếng tinh tang, tiếp theo là những tiếng hét dữ dội. Lạc Băng thò đầu ra ngoài, cũng kêu lên: “Hỏng rồi! Thanh kiếm của đạo trưởng đã bị đối phương chặt đứt. Kiếm của tên họ Trương tốt quá. Đại ca, muội đã cướp được một con ngựa rất tốt, sau này sẽ tặng cho huynh cưỡi.” Tình hình rối ren thế này mà nàng cũng đột nhiên nghĩ đến con ngựa trắng đó.
Văn Thái Lai cười: “A đầu ngốc này, gấp gì chuyện đó. Mau mau xem đạo trưởng thế nào rồi.”
Lạc Băng đáp: “Bây giờ thì yên rồi. Đạo trưởng đá trúng hắn một cước rồi lùi ra. Triệu tam ca xông vào.”
Văn Thái Lai nghe Vô Trần đạo trưởng thóa mạ ầm ĩ, dùng toàn những lời thô tục thì cười nói: “Đạo trưởng là người xuất gia, không ngờ đến lúc tức giận vẫn lớn tiếng như thế. Muội thử dìu ta ra ngoài, để ta xem Tam ca thi triển ám khí.”
Lạc Băng đưa tay đỡ chồng dậy, nào ngờ vết thương trên đùi và trên vai của chàng rất nặng, vừa động đậy một chút đã đau dữ dội, không nhịn nổi phải rên lên một tiếng. Lạc Băng bảo: “Ca ca cứ nằm yên ở đây, để muội nói cho ca ca nghe.”
Nghe những tiếng rú rít liên hồi, Văn Thái Lai bèn nói: “Đây là tụ tiễn, phi hoàng thạch… Ám khí gì cũng sử dụng hết rồi. Cái gì? Trương Triệu Trọng cũng dùng tụ tiễn và phi hoàng thạch ư? Vậy thì lạ quá!”
Lạc Băng nói: “Hắn dùng tay đón bắt ám khí của Triệu đại ca, rồi phóng trả lại. Úi chà, hay quá! Giống như trời mưa vậy, không hổ danh Thiên Tí Như Lai. Cương tiêu, thiết liên tử, kim tiền tiêu… muội nhìn không rõ nữa, nhiều quá. Gã họ Trương kia đón bắt không kịp, nhưng tiếc là hắn vẫn tránh được.”
Đột nhiên nghe vèo một tiếng, một mũi xà dương tiễn sáng loáng khác thường bắn về phía Trương Triệu Trọng, ánh sáng chiếu cả vào thùng cỗ xe lớn. Văn Thái Lai thoáng thấy khuôn mặt ửng hồng của vợ, sung sướng không sao tả xiết. Chàng động lòng khẽ gọi: “Muội muội!” Lạc Băng quay đầu lại mỉm cười, nụ cười chưa dứt ánh sáng đã vụt tắt.
Triệu Bán Sơn thừa lúc ánh sáng soi rõ Trương Triệu Trọng mà phóng liền hai loại độc môn ám khí, Hồi Long Bích và Phi Yến Ngân Thoa.
Triệu Bán Sơn là người Ôn Châu tỉnh Triết Giang. Thời thiếu niên, ông đã từng theo cha chú đi buôn bán vùng Nam Dương, thấy dân ở đó sử dụng một loại khí giới cực kỳ xảo diệu để săn bắn, sau khi ném ra có thể bay ngược trở về. Sau này ông vào học nghệ ở Thái Cực Môn nhà họ Vương ở Ôn Châu, đặc biệt xuất sắc về môn ám khí. Một hôm ông nhớ lại hồi nhỏ được thấy món vũ khí phóng ra có thể bay về, tự nghĩ có thể biến nó thành một loại ám khí kỳ diệu. Qua rất nhiều lần thí nghiệm và luyện tập, ông chế được một loại phi tiêu bằng thép tinh luyện, cong cong như thước thợ, đặt tên là Hồi Long Bích.
Phi Yến Ngân Thoa cũng là một loại độc môn ám khí do họ Triệu sáng chế. Cao thủ nào cũng phải nghiên cứu tỉ mỉ về phương pháp phóng ám khí và tránh ám khí, những loại ám khí bình thường khó mà đả thương họ được. Nhưng Phi Yến Ngân Thoa lại có chỗ xảo diệu bên trong.
Trương Triệu Trọng đưa kiếm sang tay trái để gạt các loại ám khí nhỏ như thiết liên tử, bồ đề tử, kim tiền tiêu, còn tay phải lia lịa đón bắt những loại ám khí lớn hơn như cương tiêu, tụ tiễn, phi hoàng thạch để ném trả lại. Dĩ nhiên hắn còn cúi xuống nhảy lên, né trái tránh phải, thứ nào bay đến không tránh kịp mới đón lấy. Trong lòng hắn cũng âm thầm kinh hãi: “Không biết người này có bao nhiêu loại ám khí, phóng mãi không hết. Thật là lợi hại!”
Trong lúc tay chân họ Trương luống cuống, đột nhiên có một mũi tiêu trắng xóa cong cong bay tới, tiếng rít gió rất lạ tay. Hắn sợ trên mũi ám khí này có độc nên không dám chụp ngay, đưa tay nhằm bắt lấy đuôi của nó. Không ngờ Hồi Long Bích giống như một con vật sống, lượn ra khỏi tay hắn rồi bay ngược trở về. Triệu Bán Sơn đón lấy, lại phóng qua tiếp. Trương Triệu Trọng đang hoảng hồn không dám đón bắt nữa, dùng Ngưng Bích Kiếm gạt đi.
Đột nhiên hắn lại nghe thấy tiếng gió, hai mũi ngân thoa chia hai bên tả hữu đánh tới. Trương Triệu Trọng nhìn chuẩn đường đến, tung người nhảy lên một trượng cho hai chiếc ngân thoa bay qua dưới chân. Không ngờ lại nghe hai tiếng keng keng, phần đuôi ngân thoa rơi xuống đất, lò xo bên trong bật ra làm mũi thoa khởi động lại. Ngân thoa đột nhiên chuyển hướng giữa không trung, bắn thẳng lên.
Trương Triệu Trọng thầm kêu: “Không xong!” rồi vội đưa tay chắn dưới bụng, đón được một chiếc ngân thoa. Hắn vận nội lực cho lòng bàn tay hơi co lai, thế ngân thoa đã yếu nên không làm tổn thương da thịt. Còn mũi ngân thoa kia thì không tài nào tránh được, cuối cùng cũng đâm thủng chân hắn. Trương Triệu Trọng khẽ la lên một tiếng.
Triệu Bán Sơn thấy đối thủ đã bị thương, lập tức vung kiếm tấn công. Trương Triệu Trọng đưa kiếm cản trở. Triệu Bán Sơn biết cây Ngưng Bích Kiếm của y là lợi khí, không để hai lưỡi kiếm chạm nhau mà xoay nghiêng kiếm của mình đi, ép vào thân của Ngưng Bích Kiếm, vận dụng quyết chữ Miên trong Thái Cực Kiếm kéo thanh Ngưng Bích Kiếm lệch đi mấy tấc.
Trương Triệu Trọng lại giật mình: “Người này ám khí đã lợi hại mà kiếm pháp cũng điêu luyện không kém.” Trong lòng hắn đã có phần sợ sệt.
Hắn định trông vào võ nghệ cao cường của mình để đánh bại hết đối thủ, nào ngờ liên tiếp gặp phải kình địch. Nếu không nhờ báu kiếm trong tay, thì chỉ riêng đạo nhân cụt tay hắn cũng không sao địch nổi. Lúc này chân hắn đã bị thương không dám ham chiến, đảo mắt nhìn quanh chỉ thấy đám thị vệ và quan binh chạy tứ tán, cỗ xe lớn nhốt Văn Thái Lai cũng bị đoạt mất rồi.
Hắn vội vã xuất luôn ba chiêu liên hoàn ép Triệu Bán Sơn lùi mấy bước, rồi nhổ ngân thoa cắm dưới chân phóng trả ông. Triệu Bán Sơn cúi đầu né tránh, họ Trương tranh thủ vọt thẳng đến chỗ chiếc xe lớn.
Lạc Băng thấy Trương Triệu Trọng bị ám khí của Triệu Bán Sơn đánh cho luống cuống tay chân, mừng rỡ đến mức nhảy múa trong xe. Văn Thái Lai hỏi: “Thập tứ đệ đâu? Y bị thương có nặng lắm không? Mọi người mau mau đi cứu Thập tứ đệ!”
Lạc Băng hỏi lại: “Thập tứ đệ bị thương rồi ư?” Nàng hỏi chưa xong, Trương Triệu Trọng đã chạy đến nơi. Lạc Băng quát một tiếng, đưa song đao ra cản trở trước xe. Quần hùng thấy Trương Triệu Trọng đến gần, liền kéo đến vây chặt.
Chu Trọng Anh chạy ra cản giữa đường, vung cây kim bối đại đao hét lên: “Tên tặc tử này dám đến Thiết Đảm Trang bắt người, chẳng nể mặt lão phu chút nào. Món nợ này hôm nay phải tính toán cho xong.”
Trương Triệu Trọng thấy ông đầu tóc bạc phơ, khí độ hào sảng, qua khẩu khí biết đó là Thiết đảm Chu Trọng Anh, nhân vật lãnh tụ của võ lâm tây bắc. Hắn không dám chậm trễ, phóng kiếm đâm tới ngay. Chu Trọng Anh xoay ngược đại đao đỡ lấy nhát kiếm. Trương Triệu Trọng chỉ nhẹ nhàng chém xuống, thế mà sống đao đã mẻ một đường sâu đến hơn một tấc.
Lúc này Chu Ỷ, Chương Tấn, Từ Thiên Hoằng và Thường thị song hiệp đều cầm vũ khí bao vây bốn mặt. Trương Triệu Trọng thấy đối phương đông người, bèn vung Ngưng Bích Kiếm ra chiêu Vân Hoành Tần Lĩnh, vạch một đường tròn trên không trung. Mọi người kiêng nể thanh báu kiếm của y, đều rút binh khí lại.
Trương Triệu Trọng quyết định tấn công vào chỗ yếu, bèn nhắm thẳng Chu Ỷ xông tới. Chu Ỷ vung đao chém từ trên đầu xuống, tay trái của Trương Triệu Trọng vừa đưa ra đã nắm được cổ tay nàng, xoay một cái đoạt được thanh nhạn linh đao của Chu Ỷ.
Chu Trọng Anh kinh hãi, bắn ngay hai viên thiết đảm tới sau lưng Trương Triệu Trọng. Ngay lúc này ba con cờ vây của Trần Gia Lạc cũng bay vèo tới, đánh vào ba huyệt Thần Phong, Quan Nguyên, Khúc Trì của Trương Triệu Trọng.
Trương Triệu Trọng nghĩ thầm: “Không ngờ trời tối như mực mà đối phương vẫn nhận huyệt chính xác như thế.” Hắn vẫy kiếm gạt bay cả ba quân cờ, rồi lại nghe tiếng gió gấp rút, thiết đảm đã đến gần.
Trương Triệu Trọng nghe tiếng biết được phương hướng, xoay người toan chụp lấy viên thiết đảm tới trước. Nào ngờ bụp một tiếng, ngực hắn đã bị viên thiết đảm kia bắn trúng. Tuy hắn biết Chu Trọng Anh thành danh nhờ thiết đảm, nhưng chưa rõ lắm về độc môn công phu này. Hai viên thiết đảm bắn ra, viên trước thế đi chậm rãi còn viên sau lại bay tới gấp rút. Nhìn thì thấy một viên trước một viên sau, không ngờ viên bắn sau lại đến trước. Địch đang lo tránh né viên thiết đảm đi trước, thì viên đi sau đột ngột tăng tốc bay tới, không sao trở tay kịp.
Trương Triệu Trọng bất ngờ thấy trước ngực đau nhói, thân hình lắc lư một cái, không dám thở mạnh. Hắn buông cổ tay Chu Ỷ, vung hai tay hai bên gạt Chương Tấn và Từ Thiên Hoằng phía trước tránh ra, rồi nhảy xổ tới cỗ xe lớn.
Lạc Băng thấy hắn chạy tới, liền cầm trường đao chém vào chân. Kiếm chiêu của Trương Triệu Trọng mau lẹ khác thường, keng một tiếng đã chặt đứt trường đao. Hắn thừa thế nhảy lên xe, nắm lấy vai phải của Lạc Băng.
Lạc Băng bị nắm chặt vai phải nên không sử dụng được đoản đao, cố dùng tả quyền đánh vào mặt hắn. Quần hùng kinh hãi, tới tấp chạy tới cứu viện. Trương Triệu Trọng túm lấy lưng Lạc Băng, ném về phía Thường thị song hiệp và Chu Trọng Anh. Thường thị song hiệp sợ nàng bị thương, vội vàng đỡ lấy.
Đột nhiên Trương Triệu Trọng hự lên một tiếng, thì ra sau lưng đã bị trúng chưởng của Văn Thái Lai. Văn Thái Lai đang bị trọng thương nên công lực giảm đi rất nhiều, dù vậy Trương Triệu Trọng vẫn tối sầm trước mắt, đau thấu tâm can. Hắn không kịp quay người, xoay tay trái giật cái chăn đang đắp trên người Văn Thái Lai để cản trở chưởng thứ hai, còn tay phải túm lấy huyệt Thần Tàng của Văn Thái Lai, kéo chàng đến cửa xe hét lên: “Văn Thái Lai ở đây! Ai dám lên đây thì ta phải giết hắn trước.” Thanh Ngưng Bích Kiếm tỏa kiếm khí lạnh ngắt ép người, nhấp nháy ngay trên cổ Văn Thái Lai.
Trương Triệu Trọng còn muốn nói mấy câu, nhưng bỗng cảm thấy trong cổ họng có cái gì đó ngòn ngọt, rồi ọe một cái đã nhổ ra một búng máu tươi.
Lục Phi Thanh bước tới một bước, lên tiếng: “Trương Triệu Trọng! Ngươi xem thử ta là ai.”
Trương Triệu Trọng đã lâu không gặp ông, dưới trăng mờ nhìn không rõ. Lục Phi Thanh bèn lấy Bạch Long Kiếm ra, dùng tay uốn cong mũi kiếm về với chuôi kiếm thành một vòng tròn, rồi buông tay ra. Nghe keng một tiếng, lưỡi kiếm bắn ra lại thẳng tắp, chỉ hơi rung một chút.
Trương Triệu Trọng hừ một tiếng rồi nói: “À, thì ra là Lục sư huynh. Chúng ta đã ân đoạn nghĩa tuyệt từ lâu, bây giờ còn đến đây làm gì?”
Lục Phi Thanh nói: “Ngươi bị thương rồi. Anh hùng Hồng Hoa Hội ở cả đây, lại thêm Chu lão anh hùng ở Thiết Đảm Trang ra tay trợ giúp. Hôm nay ngươi muốn sống sót thật sự không dễ. Tuy ngươi vô tình, nhưng ta không thể vô nghĩa. Niệm tình xưa kia cùng học một thầy, ta muốn chỉ cho ngươi một con đường sống.”
Trương Triệu Trọng lại hừ một tiếng, không nói năng gì.
* * *
Đột nhiên từ phía đông truyền đến tiếng quân reo ngựa hí ồn ào, dường như thiên quân vạn mã đang xông tới. Quần hùng Hồng Hoa Hội kinh nghi chưa biết thế nào. Trương Triệu Trọng càng kinh hãi hơn, nghĩ bụng: “Hồng Hoa Hội thật không phải tầm thường. Ở vùng tây bắc này mà chúng cũng tập hợp được lực lượng hùng hậu như thế.”
Lục Phi Thanh lại nói: “Ngươi cứ thả Văn Thái Lai ra tử tế, ta sẽ yêu cầu các vị anh hùng ở đây nể mặt mà cho ngươi một con đường sống quay về. Nhưng ngươi phải thề một chuyện.”
Trương Triệu Trọng thấy cường địch vây kín xung quanh, cũng tự biết hôm nay mình phải chết, khó mà sống sót trở về. Nghe Lục Phi Thanh nói vậy, hắn cũng không nén nổi phải động tâm hỏi lại: “Chuyện gì thế?”
Lục Phi Thanh nói: “Ngươi phải thề rằng từ nay về sau rời khỏi quan trường, không được làm ưng khuyển cho bọn cẩu quan kia nữa.”
Trương Triệu Trọng là con người tham công danh lợi lộc, mấy năm nay gặp nhiều chuyện đắc ý, thăng quan như diều gặp gió. Nếu bắt hắn từ quan thì thà lấy mạng hắn còn hơn. Hắn nghĩ bụng: “Ta cũng có thể lập thệ lung tung để giữ được mạng sống, nhưng để mất khâm phạm thì Hoàng thượng và Phúc thống lãnh chắc chắn sẽ bắt tội. Như vậy thì cuộc đời ta chẳng còn gì nữa. May mà bọn chúng cũng có phần kiêng kỵ, vậy ta phải liều mạng một trận thì hơn.”
Tính toán xong, họ Trương hét lên: “Các ngươi lấy nhiều thắng ít, Trương mỗ dù bại cũng không mất thể diện. Hôm nay ta quyết cùng Văn Thái Lai đồng qui ư tận, để lại danh tiếng đời sau. Sau này anh hùng thiên hạ biết được chuyện này, xem thử Hồng Hoa Hội các ngươi phải giấu mặt mũi vào đâu.”
Dương Thành Hiệp lớn tiếng kêu: “Hạng người cam tâm làm chó săn cho giặc, làm gì có thể diện mà dám nói những lời như thế?”
Trương Triệu Trọng ngọng miệng không biết đáp sao, bèn thả Văn Thái Lai xuống sản xe, lấy chân đạp lên, rồi nắm lấy dây cương ngựa, thúc xe chạy về phía trước.
Quần hùng cũng muốn xông lên cướp người, nhưng sợ hắn ở vào cảnh chó chạy cùng đường sẽ động thủ sát hại Văn Thái Lai thật sự, nhất thời không biết phải làm sao.
Lạc Băng thấy chồng mình bị uy hiếp, nhìn cỗ xe lớn chạy xa dần, đau lòng khôn xiết. Nàng buột miệng kêu lên: “Ngươi cứ thả Văn tứ gia, chúng ta để ngươi đi, cũng không bắt ngươi thề bồi gì nữa.” Trương Triệu Trọng không lý gì tới nàng, tiếp tục ruổi xe chạy về đại đội quân Thanh.
Bọn thị vệ và lính Thanh chạy một lúc, thấy địch không truy đuổi nữa bèn từ từ tập hợp lại. Lúc này Thoại Đại Lâm thấy Trương Triệu Trọng đưa cỗ xe lớn trở về, bèn hạ lệnh cho quân lính chuẩn bị cung tên, chờ lệnh mà bắn.
Tiếng người ngựa xa xa chạy tới càng lúc càng gần. Cả Hồng Hoa Hội và quân Thanh binh đều kinh hãi nghi ngờ, sợ đó là viện binh của đối phương.
Trần Gia Lạc lớn tiếng hô: “Cửu ca, Thập tam đệ, Mạnh đại ca, An đại ca! Bốn vị xông vào làm tán loạn bọn ưng trảo kia.”
Vệ Xuân Hoa lập tức cầm binh khí, chạy thẳng về phía quân Thanh. Đột nhiên một thiếu niên đứng sau Lục Phi Thanh chạy ra nói: “Ta cũng đi”, rồi đuổi theo họ Vệ. Trần Gia Lạc thấy đó chính là đồ đệ Lý Nguyên Chỉ của Lục Phi Thanh, bất giác chau mày.
Hôm trước Lục Phi Thanh đi lùi lại sau để đợi, đến chiều thì gặp Lý Nguyên Chỉ. Cô nương này được xem đánh nhau ác liệt mấy ngày liên tiếp, ngứa tay không nhịn nổi nữa, nhất quyết đòi sư phụ dẫn đi tham gia cứu Văn Thái Lai. Lục Phi Thanh không sao từ chối được, đành bắt nàng thề không được làm bừa. Lý Nguyên Chỉ thấy sư phụ nhượng bộ, lập tức vui vẻ nở mày nở mặt, thề thốt một loạt: “Nếu con không nghe lời sư phụ, thì phải bị đậu mùa để biến thành người mặt rỗ, hoặc phải rụng hết tóc đi trở thành một tên trọc xấu xí.”
Lục Phi Thanh nghĩ thầm: “Con gái ai chẳng thích đẹp, con bé này thề như thế thì so với chết dưới đao kiếm còn nặng hơn nhiều”, bèn mỉm cười đồng ý. Lý Nguyên Chỉ lập tức viết thư cho mẹ, nói rằng đi chậm thế này thật là buồn chán, nên nàng lên đường trước để sớm đến Hàng Châu gặp cha. Nàng biết nhất định thế nào cũng bị cằn nhằn mấy tháng, nhưng khổ nỗi những trận chiến thú vị phía trước là cơ duyên khó gặp, bèn mặc kệ sau này tới đâu thì tới.
Hai thầy trò nhanh chóng đuổi kịp quần hùng Hồng Hoa Hội, rồi biết Trương Triệu Trọng phải qua sông ở Xích Sáo Độ. Trận chiến đêm nay Lục Phi Thanh quyết không để Lý Nguyên Chỉ tham dự. Nàng xem quần hùng ác đấu với Trương Triệu Trọng, võ công người nào cũng hơn mình không biết mấy lần, chỉ biết lè lưỡi mà nhìn. Bây giờ thấy Vệ Xuân Hoa đi giết quân Thanh binh, cô nàng bèn mặc kệ cha mình làm chức quan gì, chỉ nổi hứng là chạy theo xung phong. Trong lòng nàng nghĩ: “Lần này mình không xin phép nên sư phụ không kịp cản trở. Sư phụ không nói gì, thì không phải mình cãi lời thầy.”
Trần Gia Lạc lên tiếng dặn dò, quần hùng gật đầu phụng mạng. Triệu Bán Sơn là người đầu tiên xông lên, tay ông vừa giơ lên là hai cây tụ tiễn đã ghim vào cặp mắt của con lừa đang kéo cỗ xe lớn. Con lừa hí dài một tiếng, cất cao hai vó trước lên.
Chương Tấn chạy theo sau xe, vận thần lực cố kéo lại. Cỗ xe lập tức dừng lại như bị đóng đinh xuống đất, hoàn toàn không chuyển động nữa. Anh em Thường Hách Chí, Thường Bá Chí chạy đến hai bên trái phải cỗ xe, quăng hai cái phi trảo đến đánh Trương Triệu Trọng.
Trương Triệu Trọng vừa vung kiếm ra chống đỡ, Dương Thành Hiệp đã hét lớn một tiếng, nhảy lên xe toan cướp lấy Văn Thái Lai. Trương Triệu Trọng đánh thẳng một quyền vào mặt, họ Dương nghiêng người tránh, đưa vai trái hứng quyền, hai tay cứ ôm lấy Văn Thái Lai.
Vô Trần và Từ Thiên Hoằng nhảy lên sau xe, chui vào phục kích sau lưng Trương Triệu Trọng.
Trần Gia Lạc bảo Tâm Nghiễn: “Lên đi.” Hai người cùng sử dụng khinh công Yến Tử Xuyên Vân phi thân lên nóc xe, khom lưng đánh xuống.
Trương Triệu Trọng đánh trúng vai Dương Thành Hiệp một quyền, thấy y trúng đòn mà không tổn thương gì, trong lòng cũng thấy kinh ngạc, nhưng trong lúc hỗn loạn không có thời gian suy nghĩ. Hắn thấy Văn Thái Lai bị cướp, vội vung tay trái nắm lấy lưng họ Dương. Lúc này phi trảo của Thường thị huynh đệ từ hai bên chụp xuống, Trương Triệu Trọng đưa kiếm cản trở, rồi xuất chiêu Đảo Đệ Kim Chung ném thân hình to lớn của Dương Thành Hiệp xuống khỏi xe.
Hỏa Thủ Phán Quan mắt nhìn bốn phương tai nghe tám hướng, phía trước lo cản trở kẻ địch tấn công mà sau lưng cũng nghe thấy có địch nhân tập kích. Hắn cúi về phía trước, tay trái lấy ra một nắm Phù Dung kim châm, người hơi nghiêng một cái đã phóng kim châm lên nóc xe và phía sau.
Trần Gia Lạc thấy họ Trương vẫy tay, biết hắn phóng ám khí bèn đưa ngay thuẫn bài cản phía trước. Nghe keng keng, mấy mũi kim châm rơi xuống đất. Chàng đưa tay phải đẩy mạnh vào vai Tâm Nghiễn một cái, hất cậu xuống khỏi nóc xe. Tuy thủ pháp của chàng đã cực kỳ mau lẹ, nhưng Tâm Nghiễn cũng la lên một tiếng. Trần Gia Lạc biết Tâm Nghiễn trúng ám khí rồi, liền vội nhảy xuống ứng cứu.
Vô Trần và Từ Thiên Hoằng tấn công từ phía sau cũng bị kim châm phóng tới. Vô Trần công lực thâm hậu, ngửa người nhảy ngược ra phía sau. Thân hình ông như một mũi tên bắn vù đi, kim châm cũng không đuổi kịp. Từ Thiên Hoằng không có công phu như thế, vội vã giật bừa cái chăn trên xe để che người, chỉ hở cánh tay trái. Ngay lúc đó chàng bị một mũi kim châm phóng trúng, vai tê rần rồi lọt xuống dưới xe.
Chương Tấn chạy tới, dìu Từ Thiên Hoằng dậy hỏi: “Thất ca sao rồi?” Y hỏi chưa dứt câu đã thấy lưng đau nhói, trúng một mũi tên.
Loáng thoáng nghe tiếng Trần Gia Lạc hô hoán: “Các vị ca ca! Mọi người tập hợp qua đây!” Bây giờ tên từ phía sau đã rào rào bắn tới như ong. Tay trái của Chương Tấn vịn lên vai Vô Trần, còn tay phải huy động lang nha bổng không ngớt gạt tên.
Vô Trần bảo: “Thập đệ đừng nhúc nhích, trấn tĩnh lại đi.” Rồi ông đè chặt mạch máu của họ Chương, nhẹ nhàng nhổ mũi tên ra, rồi xé một góc trường bào cột vết thương lại.
Đại đội Thanh binh từ phía đông đang ào tới đen đặc một vùng, thiên binh vạn mã khí thế hơn người. Quần hùng cũng dần dần tụ tập, Vệ Xuân Hoa đã quay trở lại. Trần Gia Lạc lên tiếng: “Hai vị ca ca nào xông lên phía trước, cản trở chúng một lúc.” Vô Trần và Vệ Xuân Hoa lập tức tình nguyện bước ra.
Trần Gia Lạc lại bảo: “Mọi người mau mau phân tán ra, lùi đến chân đồi phía sau.” Mọi người vâng dạ. Trần Gia Lạc tiếp: “Tam ca, Ngũ ca, Lục ca! Chúng ta tiếp tục.” Rồi bốn người lại chia ra tấn công vào cỗ xe lớn.
Vệ Xuân Hoa cầm song câu đi dưới mưa tên, giết tới trước trận quân Thanh. Vô Trần tay không, chụp lấy một mũi tên trên không, dùng tên gạt tên đi theo Vệ Xuân Hoa, chớp mắt hai người đã xông vào trong trận. Vô Trần đoạt lấy một thanh đao, dùng đao làm kiếm đâm chém tứ phương. Thế của quân Thanh rất lớn, hai người không sao cản trở nổi. Chỉ chốc lát là đám quân tiên phong đã gần tới chỗ quần hùng.
Trương Triệu Trọng thấy viện binh đã đến, mừng rỡ vô cùng. Hơi thở của hắn đã nặng hơn, tự biết vết thương của mình không nhẹ. Hắn thấy bốn người Trần Gia Lạc tấn công lên xe, không dám đón đánh, bèn túm lấy Văn Thái Lai đưa lên đỡ gạt. Chỉ chốc lát, mấy chục kỵ binh đã phi tới nơi, vung mã đao lên tấn công Trần Gia Lạc.
Trần Gia Lạc nhận xét tình hình, biết rằng muốn đoạt lại Văn Thái Lai chỉ tổ làm tổn thương đến sinh mạng Tứ ca. Chàng bèn huýt một tiếng sáo, cùng Triệu Bán Sơn và Thường thị song hiệp chạy lên đồi.
Bốn người chạy tới, thấy mọi người đã tập hơp, bèn kiểm điểm nhân sự. Vô Trần và Vệ Xuân Hoa xông vào trận địch chưa thấy trở về, ngoài ra còn thất lạc Từ Thiên Hoằng, Chu Ỷ, Lý Nguyên Chỉ, Chu Trọng Anh, Mạnh Kiện Hùng năm người.
Trần Gia Lạc hỏi: “Có ai thấy Thất ca và Chu lão anh hùng không?”
Chương Tấn đang nằm dưới đất, ngóc đầu lên nói: “Thất ca đã bị thương còn thất lạc ư? Để ta đi tìm.” Y bèn đứng dậy xách lang nha bổng định chạy ra ngoài, nhưng trên lưng trúng tên rất nặng, người lảo đảo đứng còn không vững.
Thạch Song Anh nói: “Thập ca đừng đi. Để đệ đi.”
Tưởng Tứ Cân cũng nói: “Ta cũng đi.”
Trần Gia Lạc hạ lệnh: “Thập tam ca! Huynh cùng Tứ tẩu mau chạy đến bờ sông, chuẩn bị thuyền bè tử tế.” Tưởng Tứ Cân vâng lệnh chạy đi. Lạc Băng đang thương tâm quá độ, trong lòng trống rỗng, mơ hồ đi theo Tưởng Tứ Cân.
Thạch Song Anh cầm đơn đao phi người lên ngựa, đi vòng qua một ngọn đồi nhỏ. Lúc này đại đội Thanh binh đã tràn ngập vùng hoang dã này. Họ Thạch giục ngựa lên cao, đưa mắt nhìn quanh quất cũng không thấy Từ Thiên Hoằng đâu, chỉ còn cách xung phong vào trận địch mà tìm kiếm.
Chẳng bao lâu Chu Trọng Anh cùng Mạnh Kiện Hùng hai người đã chạy tới. Trần Gia Lạc vội hỏi: “Có thấy Chu cô nương không?” Chu Trọng Anh ruột nóng như sôi, lắc đầu lia lịa.
Lục Phi Thanh nói: “Tiểu đồ đệ của lão cũng không biết ở đâu. Lão phu phải đi tìm.”
An Kiện Cương nói: “Để tại hạ cùng đi với tiền bối.”
Trần Gia Lạc nói: “Ở đây loạn tiễn rất nhiều, mọi người hãy nhặt lấy. Ta đi đoạt mấy cây cung.” Chàng nói xong, lên ngựa phóng thẳng vào đội cung tên nhà Thanh. Sợi dây vừa vẫy ra ngoài đã đánh ngã hai tên cung thủ, cuộn ngược trở lại đã lấy được hai cây cung rơi dưới đất. Quân Thanh hô hoán om sòm, bốn năm cây thương đâm tới. Trần Gia Lạc vung tít sợi dây, đao thương của đám lính lập tức tuột khỏi tay.
Trong chốc lát Trần Gia Lạc đã lấy được tám cây cung, bèn cho ngựa quay đầu. Chàng định rút lui thì đột nhiên nhìn thấy quân Thanh bị rẽ ra hai bên, ở giữa có mấy kỵ sĩ chạy ra ngoài. Người đầu tiên chính là Vô Trần đạo nhân, phía sau là An Kiện Cương nắm lấy hai tay Vệ Xuân Hoa.
Trần Gia Lạc thấy Vệ Xuân Hoa máu me đầy mình, kinh hãi lập tức xông lên phía trước để ngăn cản quân lính đuổi theo. Quân Thanh thấy mấy người này hung hãn khác thưởng cũng không dám cản trở, cứ để họ rút lui.
Trần Gia Lạc giao mấy cây cung đoạt được cho Triệu Bán Sơn rồi chạy đến xem xét vết thương của Vệ Xuân Hoa. Vô Trần nói: “Cửu đệ mệt quá nên tâm trí hơi mơ hồ, cũng không đáng ngại lắm.”
Vệ Xuân Hoa vẫn tiếp tục reo hò: “Giết hết bọn quan binh chó má này đi.”
Trần Gia Lạc hỏi: “Có thấy Thất ca và Thập nhị ca không?”
Vô Trần đáp: “Để ta đi kiếm.”
Trần Gia Lạc tiếp: “Còn Chu cô nương và đồ đệ của Lục lão tiền bối nữa.”
Vô Trần gật đầu, lập tức lên ngựa cầm đao xung phong vào trận Thanh binh. Một tên thiên tổng cầm thương bay ngựa tới, Vô Trần nghiêng người tránh mũi thương rồi vung đao đâm vào lưng hắn. Tên thiên tổng đó lập tức ngã ngựa nhào xuống đất, binh lính dưới quyền hắn cùng la lên một tiếng rồi chạy tứ tán.
Vô Trần chỉ nhằm vào những chỗ đông người, đao đến đâu là quân Thanh ngã gục đến đó. Ông xung phong một đoạn đường, đột nhiên nhìn thấy một đám lính vây tròn hò hét, giữa đám người còn phát ra tiếng binh khí loảng xoảng. Ông liền giục ngựa chạy thẳng tới đó, thấy Thạch Song Anh đang cầm đơn đao một mình đấu với ba viên võ tướng, bốn phía còn bị lính Thanh cầm đao thương tấn công.
Họ Thạch dường như chống cự không nổi nữa, nhưng thấy Vô Trần chạy đến vẫn mừng rỡ kêu lên: “Đã tìm được Thất ca chưa?”
Vô Trần hô lớn: “Mau chạy về phía trước. Đừng lo phía sau!” Thạch Song Anh nghe lời, vung đao giục ngựa tấn công tới trước. Y nghe thấy sau lưng liên tiếp vang lên những tiếng kêu gào thê thảm, rồi tiếng bọn Thanh binh kinh hãi la lên, dạt hết ra xa.
Thạch Song Anh quay đầu lại nhìn, thấy ba tên võ tướng đã bị giết hết. Y vừa ác chiến với ba tên đó hơn nửa ngày trời, biết võ công chúng không phải tầm thường, nào ngờ vừa quay lưng là Vô Trần đã lo liệu xong xuôi. Quỉ Kiến Sầu không nén nổi, vô cùng khâm phục vị Nhị ca này.
Hai người chạy trở lên đồi, vẫn chưa thấy tung tích Từ Thiên Hoằng đâu cả. Một tên võ tướng thống lĩnh mấy chục binh sĩ xung phong tới đây. Triệu Bán Sơn, Thường thị song hiệp, Mạnh Kiện Hùng đều giương cung lắp tên chờ đợi, mỗi phát hạ một người. Mấy tên Thanh binh đi đầu ngã xuống, rồi chỉ chốc lát là mười mấy tên bỏ mạng. Số còn lại phải lùi ra sau hò hét, không dám lại gần nữa.
Trần Gia Lạc giục ngựa lên đồi, bảo An Kiện Cương: “An đại ca! Nhờ huynh lo liệu giùm một lát, phòng hờ cung tên bắn lén.” An Kiện Cương gật đầu, đứng cạnh con ngựa. Trần Gia Lạc tung người nhảy lên lưng ngựa, đứng trên yên nhìn ra xa, thấy đại đội quânThanh đi về hướng tây.
Đột nhiên có tiếng tù và vang dội, một con rồng lửa uyển chuyển chạy tới, thì ra là một đội Thanh binh cầm đuốc. Ánh đuốc soi rõ một lá cờ lớn tung bay trước gió. Trần Gia Lạc định thần nhìn kỹ, thấy trên cờ thêu mấy chữ: “Định biên tướng quân Triệu.” Đội Thanh binh này cưỡi ngựa to cao, tay cầm mâu dài kích lớn, di chuyển phát ra những tiếng chói tai. Dường như đây là quân thiết giáp.
Vô Trần lo lắng nói: “Để ta đi tìm Thất đệ và mấy huynh đệ kia.”
Thường Hách Chí lên tiếng: “Đạo trưởng cứ nghỉ ngơi một chút, để anh em đệ đi.” Y chưa nói xong, Vô Trần đã xông ra. Hai chân ông kẹp cứng xương hông con ngựa, nửa thân trên nghiêng ra phía trước, vung đao mở đường máu. Mặc cho quân Thanh la hét om sòm, Vô Trần ngựa không ngừng vó cứ chạy vòng vòng giữa đại đội nhân mã. Ông giết mười mấy tên, trở đi trở lại tìm kiếm khắp nơi mà vẫn không thấy tung tích Từ Thiên Hoằng đâu cả.
Quần hùng đều lo lắng, e rằng Từ Thiên Hoằng và các huynh đệ đã bỏ mạng trong đám loạn quân. Mọi người đều nghi hoặc, nhưng chưa ai dám mở miệng. Đột nhiên xa xa trong đám bụi mù có một con ngựa phi nhanh tới, gần sát mọi người mới nhìn rõ là Tưởng Tứ Cân. Y kêu lớn: “Lùi nhanh lên, bọn quân thiết giáp xung phong đến đây rồi.”
Trần Gia Lạc ra lệnh: “Mọi người lên ngựa chạy đến bờ sông.” Quần hùng đều đồng thanh vâng dạ. Chu Trọng Anh nóng lòng lo lắng cho con gái, nhưng trong đám thiên quân vạn mã biết đâu mà tìm?
Mạnh Kiện Hùng, An Kiện Cương, Thạch Song Anh chia nhau dìu những người bị thương Vệ Xuân Hoa, Chương Tấn… cứ một ngựa hai người. Mọi người vừa lên ngựa thì đội quân thiết giáp đã chạy tới trong ánh lửa.
Thường thị song hiệp thấy khí thế của đội kỵ binh này rất hung hãn, bèn dẫn mọi người vòng qua bên phải. Thường Hách Chí nói: “Bọn rùa bọc sắt này sử dụng thần kiên cung, sức bắn rất mạnh. Bây giờ chúng ta chui vào đám rùa mềm kia mà tránh né là hay nhất.”
Thường Bá Chí khen: “Phải lắm.” Hai người lập tức xông vào giữa đại đội quân Thanh, quần hùng nối tiếp chạy theo sau. Thường thị song hiệp biết dùng phi trảo tấn công thì không tiện lắm nên cất vào trong người. Một người đoạt lấy đại đao, một người giật được trường mâu, đao chém, mâu đâm mà mở một con đường máu tiến thẳng đến bờ sông Hoàng Hà.
Quân thiết giáp thấy quần hùng chạy vào giữa trận Thanh binh, trong đêm không dám bắn tên vì sợ làm quân ta bắn quân mình, chỉ truy đuổi phía sau. Lúc này người ngựa hai phe lẫn lộn thành một đám bên bờ sông Hoàng Hà.
Quần hùng không để rời nhau, trong lúc hỗn loạn vẫn chạy đến bờ sông một lượt. Tưởng Tứ Cân cắm thiết trượng xuống bãi cát, rồi nhảy xuống sông kéo thuyền vào. Lạc Băng dùng chèo đưa thuyền da cừu vào bờ, đưa anh em bị thương cùng Chương Tấn xuống ghe.
Trần Gia Lạc giục: “Mọi người nhanh chóng lên ghe. Đạo trưởng, Tam ca, Chu lão anh hùng, bốn người chúng ta sẽ lên sau.” Nói chưa dứt lời, thần kiên cung đã bắn tới rào rào.
Vô Trần la to: “Tiến lên.” Thế là cả bốn quay mặt lại, tiến lên ngăn cản truy binh. Thanh đao của Vô Trần đưa trúng ngay yết hầu của một tên thiết giáp, nào ngờ chém không vào được. Thì ra thanh đao này giết nhiều người quá, lưỡi đã cùn mẻ hết. Một cây trường thương đâm tới, Vô Trần ném đao đi, đưa cánh tay gạt ngang qua, cây trường thương kia bay tuốt lên trời.
Chu Trọng Anh múa kim đao chém mấy tên lính Thanh rơi xuống ngựa. Triệu Bán Sơn lấy một mũi cương tiêu bắn ngay vào huyệt Đản Trung của một tên. Chỉ nghe keng một tiếng, tên Thanh binh đó chẳng sứt mẻ gì, cứ phi ngựa thẳng tới trước mặt ông. Thì ra đám quân này toàn thân có giáp sắt bảo vệ, không bị ám khí đả thương. May mà Vô Trần đã cướp được một cây thiết thương, đâm thẳng vào giữa mặt hắn.
Triệu Bán Sơn phóng phi tiêu liên tục, nhằm bắn vào tròng mắt quân địch. Tuy rằng trong đêm khó mà phân biệt rõ ràng, nhưng ông vẫn đánh mù được năm sáu tên, khiến chúng đau đớn đưa tay cào loạn lên mặt mình. Lúc này ngoài bốn người Trần Gia Lạc ra, còn lại đều đã xuống thuyền.
Đội quân thiết giáp này được huấn luyện rất tốt, tuy thấy đối phương hung hãn vẫn không nao núng, cứ xung phong tới. Trần Gia Lạc thấy một tên tướng đang cưỡi ngựa vung mã đao chỉ huy, chàng bèn dùng thân pháp Yến Tử Tam Sao Thủy lộn người đến trước mặt hắn. Tên tướng kia liền vung đao chém xuống, nhưng mới được nửa đường đột nhiên cảm thấy cổ tay đau dữ dội, mã đao đã lọt vào tay của địch thủ. Tiếp theo cánh tay hắn tê chồn, thân hình bị kéo lọt xuống ngựa, rồi kẹp lại chạy đến bờ sông. Quân Thanh thấy chủ tướng bị bắt, nhao nhao chạy tới toan đoạt lại, nhưng không dám bắn tên nữa.
Giữa tiếng quân Thanh la ó, Trần Gia Lạc nắm lấy bím tóc tướng quân kia chạy đến bên mép nước, cùng Vô Trần, Triệu Bán Sơn, Chu Trọng Anh tung người lên thuyền. Tưởng Tứ Cân nhổ thiết trượng lên, cùng Lạc Băng phóng ra hai chưởng, đưa thuyền ra giữa dòng.
Thế nước sông Hoàng Hà rất lớn, cuồn cuộn chảy ào ào, đẩy hai chiếc thuyền da cừu này trôi xuống hạ lưu nhanh như tên bắn. Đội quân thiết giáp càng lúc càng nhỏ lại, qua một hồi nhìn lại phía sau chỉ còn thấy những đốm lửa nhấp nháy. Tiếng người ngựa ồn ào cũng lấp giữa tiếng nước chảy, không còn nghe thấy nữa.
Quần hùng bình tĩnh lại, lo lắng cho anh em bị thương. Thần trí của Vệ Xuân Hoa dần dần tỉnh táo lại, xem kỹ thì trên người y không có vết thương nào. Triệu Bán Sơn rất giỏi về trị các vết thương do tên đạn, lo băng bó vết thương cho Dương Thành Hiệp và Chương Tấn. Vết thương của Chương Tấn tương đối nặng hơn, nhưng cũng không nguy hiểm lắm.
Tâm Nghiễn trúng mấy mũi kim châm, đau đớn kêu la không ngớt. Thủ pháp của Trương Triệu Trọng rất nặng, kim châm ghim tới tận xương. Triệu Bán Sơn lấy trong túi thuốc ra một miếng nam châm, hút từng mũi kim ra rồi bó thuốc lên vết thương cho Tâm Nghiễn.
Lạc Băng nắm chặt mái chèo, không nói tiếng nào. Trận đấu này chưa cứu được Văn Thái Lai, ngược lại Từ Thiên Hoằng, Chu Ỷ và thầy trò Lục Phi Thanh bốn người không biết đi đâu, ngay cả Dư Ngư Đồng cũng không biết đang ở nơi nào.
Trần Gia Lạc than thở: “Khi nãy Trương Triệu Trọng đã là cá nhốt trong chậu, khó bề chạy trốn. Nào ngờ đại đội Thanh binh lại đi ngang đúng lúc. Biết thế thì từ đầu chúng ta đã hợp sức tấn công để băm vằm tên gian tặc họ Trương ra, cứu Văn tứ ca cho sớm thì kết quả đã tốt hơn.” Chàng càng nói càng thấy ân hận. Mọi người cũng đang ủ rũ, ai cũng im lặng.
Trần Gia Lạc giải huyệt đạo cho tên tướng Thanh rồi hỏi: “Tại sao các ngươi phải hành quân suốt đêm như thế, có việc gì?” Tên tướng kia hôn mê mới tỉnh, nhất thời chưa kịp nói gì. Dương Thành Hiệp vung chưởng lên tát ngay vào mặt, quát hỏi: “Ngươi có nói không?”
Hắn ôm lấy má, lắp bắp: “Tiểu nhân nói… tiểu nhân nói… Nói cái gì?”
Trần Gia Lạc hỏi lại: “Tại sao đại quân của các ngươi phải đi đêm như thế?”
Hắn đáp: “Định Biên tướng quân Triệu Tuệ đã phụng thánh chỉ, phải đánh chiếm bộ tộc người Hồi càng sớm càng tốt. Ông ấy sợ chậm trễ thời hạn, lại sợ người Hồi biết được tin tức mà phòng bị, nên phải hành quân cả ngày lẫn đêm.”
Trần Gia Lạc hỏi: “Người Hồi đàng hoàng tử tế như thế, sao phải đi đánh họ?”
Hắn ấp úng trả lời: “Cái này… cái này thì tiểu nhân không biết.”
Trần Gia Lạc lại hỏi: “Các ngươi muốn đi Hồi Cương, sao lại nhúng tay vào việc của chúng ta?”
Hắn nói: “Triệu đại tướng quân nghe tin cấp báo có một nhóm thổ phỉ đang quấy nhiễu, liền sai tiểu tướng đến đây giúp đỡ, còn đại quân thì không dừng lại.”
Chưa dứt câu, Dương Thành Hiệp lại đánh thêm một quyền, hét lên: “Con mẹ mày mới là thổ phỉ!”
Hắn hoảng sợ đáp: “Vâng, vâng! Tiểu nhân nói lộn, các vị đều là anh hùng hảo hán.”
Trần Gia Lạc suy nghĩ một lúc, rồi hỏi tường tận về quân số của Triệu Tuệ tướng quân, đường hành quân và lương thực. Có mấy vấn đề gã kia không biết rõ, còn biết gì thì khai hết, không dám giấu giếm.
Trần Gia Lạc bèn hạ lệnh: “Cho thuyền cập vào bờ.” Lạc Băng và Tưởng Tứ Cân cho thuyền ghé vào, mọi người lên bờ. Lúc này thế nước càng lớn hơn, tiếng sóng vỗ ào ào inh tai nhức óc.
Trần Gia Lạc bảo Dương Thành Hiệp cởi trói cho tên tướng, rồi nói với Thường thị song hiệp: “Ngũ ca, Lục ca! Hai vị ca ca thử quay lại xem Tứ ca, Thất ca, Thập tứ đệ, Chu cô nương và Chu lão anh hùng ra sao rồi. Chỉ mong họ không gặp phải chuyện gì. Nếu họ lọt vào tay của quan quân, thì nhất định sẽ bị đưa về Bắc Kinh. Chúng ta sẽ tiếp ứng ở phía trước, tìm cách cứu lại.” Thường thị song hiệp nhận lệnh đi về phía tây.
Trần Gia Lạc bảo Thạch Song Anh: “Thập nhị ca! Đệ muốn nhờ huynh giúp một việc.”
Thạch Song Anh nói: “Xin tổng đà chủ dặn dò.”
Trần Gia Lạc lấy trong cái bao trên lưng Tâm Nghiễn ra văn phòng tứ bảo, dưới ánh trăng viết một lá thư rồi nói: “Nhờ huynh đưa lá thư này đến lão anh hùng Mộc Trác Luân ở Hồi tộc để thông báo tin tức. Tuy rằng họ với chúng ta chỉ gặp nhau một lần, nhưng đã phơi bày hết gan ruột, có thể nói là mới gặp nhau đã có nghĩa tri âm. Bạn bè gặp nạn, chúng ta không thể phủi tay đứng nhìn. Tứ tẩu, phiền Tứ tẩu cho Thập nhị ca mượn tạm con bạch mã đi một chuyến.”
Thì ra trong lúc hỗn loạn mọi người đều bỏ ngựa lại trên bờ, chỉ có Lạc Băng vì yêu con ngựa trắng của mình, lại muốn để tặng phu quân, nên dắt nó xuống thuyền. Thạch Song Anh cưỡi bạch mã đi gấp về phía Hồi Cương, dự tính chỉ một ngày là đuổi kịp Mộc Trác Luân, thông báo cho người Hồi kịp thời phòng bị.
Sắp đặt xong xuôi, Trần Gia Lạc bảo Tưởng Tứ Cân trói tên tướng kia lại, bỏ lên thuyền rồi thả trôi theo dòng nước. Hắn sống hay chết hoàn toàn trông vào vận số.