15. Bên gốc liễu

I.
Đất đai quanh thị trấn Kgiôêgiê trên đảo Xilen rất là trơ trụi. Thị trấn này ở bên bờ biển. Biển cả bao giờ cũng đẹp. Nhưng có thể nói là bãi biển Kgiôêgiê còn đẹp hơn tất cả các nơi khác. Khắp xung quanh thị trấn chỉ là một cánh đồng phẳng lì, toàn là ruộng, không có cây cối, đường cái quan chạy tít đến tận cánh rừng gần nhất.

Tuy nhiên, khi người ta sinh trưởng trong một xứ và gắn bó nhiều với xứ ấy, người ta thường thấy ở nơi đó một cái gì làm cho người ta say mê, rồi sau này dù sống ở những vùng đẹp đẽ và thích thú nhất, người ta vẫn muốn trở về ngắm lại chốn cũ.
Thật vậy, ở đầu thị trấn Kgiôêgiê, dọc theo dòng suối đổ ra biển có thể tưởng tượng như đang ở chốn thiên đàng.

Có hai đứa trẻ láng giềng với nhau cũng tưởng tượng như thế khi chúng chui qua hàng cây phúc bồn tử ngăn cách hai mảnh vườn của cha mẹ chúng để sang chơi với nhau. Vườn bên này có một cây hương mộc, vườn bên kia có một gốc liễu già. Hai đứa trẻ thích chơi ở dưới gốc liễu này nhất. Cha mẹ chúng đã cho phép chúng chơi dưới gốc liễu, mặc dù nó mọc sát ngay dòng suối và chúng có thể ngã xuống nước, nhưng trời vẫn trông nom, che chở chúng, không thế thì cũng lắm phen đáng oán thán lắm rồi đấy.

Vả chăng hai đứa bé cũng rất biết giữ gìn để khỏi rơi xuống suối. Ngay đứa con trai cũng sợ nước đến nỗi về mùa hè, trên bãi biển, không ai có cách gì làm cho em nhúng mình xuống biển được trong khi những đứa trẻ khác rất thích lội nước. Người ta trêu ghẹo, chế giễu, em cũng chịu nhịn, không phàn nàn. Gian, cô bạn nhỏ của em, có lần mơ thấy mình lướt sóng trên một con thuyền và em (tức là Knút) tiến về phía Gian, nước ngập đến cổ lút đầu, rồi cuối cùng em biến mất. Từ khi bé Knút biết câu chuyện nằm mơ ấy em không chịu được lời giễu cợt của những đứa con trai khác. Em đã xuống nước. Gian đã nằm mộng thấy em như thế. Thật ra, em chưa bao giờ dám mạo hiểm làm việc ấy, nhưng em rất tự hào về hành động của mình trong giấc mơ của người bạn nhỏ.

Cha mẹ các em nghèo. Hai em gặp nhau luôn. Knút và Gian thường chơi với nhau trong vườn và trên con đường cái hai bên bờ rào có trồng những hàng liễu. Những cây ấy bị cắt ngọn, nên ngó bộ cũng chẳng thể to lớn, người ta trồng chúng chẳng phải để làm cảnh mà để lấy lợi.
Nom gốc liễu già trong mảnh vườn còn đẹp hơn, cành dài trông tựa như một cái nôi. Hai đứa trẻ thích núp mình trong đó. Trong thị trấn có một khoảng rộng dùng làm nơi họp chợ. Tới ngày phiên, người ta dựng lên ở đó những dãy phố dài toàn lều và rạp trong có bày những dải lụa màu, đồ chơi, giày ủng… muốn mua gì cũng có. Người đông chen chúc nhau. Trong số cửa hiệu ấy có một cửa hàng lớn bán toàn bánh ngọt. Dịp may hiếm có: người chủ hàng bánh cứ đến phiên chợ lại đến trọ lại nhà cha mẹ bé Knút. Thỉnh thoảng em lại vớ được vài mẩu bánh, và tất nhiên là Gian cũng có phần.

Nhưng còn cái thú vị hơn nữa là ông hàng bánh biết đủ mọi chuyện ở trên đời, ngay cả chuyện về bánh ngọt nữa. Một tối nọ, ông kể một câu chuyện về bánh ngọt làm cho hai đứa trẻ xúc động đến nỗi suốt đời không quên. Ông kể rằng:

– Trong số bánh này bày trong tủ hàng của ông có hai hình người làm bằng bánh ngọt, một anh con trai đầu đội mũ và một chị con gái để tóc trần. Họ chỉ có mặt người phía trước, chớ ngắm phía sau họ. Vả chăng con người ta cũng thế thôi, nhìn vào mặt trái thì cũng chẳng có gì là tốt. Phía bên trái anh con trai có điểm một hạt hạnh nhân đắng, đó là trái tim anh ta. Chị con gái được nhào nặn toàn bằng mật ong. Họ được bày làm mẫu trong tủ hàng của bác. Họ ở đấy lâu đến nỗi cuối cùng đâm ra yêu nhau. Nhưng họ chẳng hề tỏ tình với nhau. Nhẽ ra họ phải ngỏ lời với nhau thì tình yêu mới có kết quả.

Cô gái nghĩ thầm: “Anh ấy là con trai thì phải ngỏ lời trước chứ.” Cô chỉ mong muốn được biết là anh có đáp lại tấm chân tình của mình không. Còn chàng trai thì lại nghĩ rộng hơn, nam giới thường vẫn thế. Anh mơ thấy mình là một đứa trẻ con ngoài phố, như biết bao đứa vẫn đi qua trước mặt anh, anh mơ thấy mình có bốn si-linh và sẽ dùng để mua cô nàng mà chén.
Họ vẫn cứ nằm trong tủ hàng của bác ngày này sang tuần khác. Dần dà họ khô đét đi. Tâm tình của cô gái ngày càng trở nên đa cảm, đúng như tâm tình của một người đàn bà thật.
Nàng thở dài nói rằng: “Ta được ở bên chàng lâu đến thế này cũng sung sướng lắm rồi.”
Rồi nàng vỡ làm đôi đánh tách một cái và qua đời.

Anh chàng kia tự nhủ: “Nếu nàng biết mối tình của ta thì nàng phải cố mà sống chứ!”
Ông hàng bánh nói tiếp:
– Câu chuyện chỉ có thế và đây là hai nhân vật. Đây không phải là những chiếc bánh ngọt thường đâu mà là những nhân vật đặc biệt đã chứng minh rằng mối tình câm không bao giờ đưa đến một kết quả nào cả. Đây cầm lấy, bác cho các cháu đấy.
Ông đưa Gian chiếc bánh hình người con trai hãy còn nguyên vẹn. Knút được hai mảnh trước kia là chiếc bánh hình cô con gái.
Nhưng hai đứa trẻ xúc động vì câu chuyện thương tâm đến nỗi không nỡ ăn cặp tình nhân ấy.

Hôm sau, chúng đem họ ra nghĩa địa. Chúng ngồi xuống cỏ. Bên tường nhà thờ phủ đầy những tràng hoa trường xuân. Chúng đặt hai chiếc bánh ngọt vào một cái khám xây trong tường giữa đám hoa lá tràn đầy ánh nắng và kể lại câu chuyện mối tình câm chẳng đi đến đâu cả cho một lũ trẻ con khác nghe.

Đứa nào cũng thấy câu chuyện thật là lý thú. Nhưng khi chúng xem lại cặp uyên ương xấu số thì cô con gái đã biến mất. Một đứa con trai nhớn đã ăn sống nuốt tươi mất rồi. Knút và Gian khóc sướt mướt.

Rồi cuối cùng, chắc là không muốn để anh con giai phải sống một mình trên đời, chúng đem anh ra ăn nốt, nhưng câu chuyện thì chẳng bao giờ quên.

Chúng tiếp tục chơi với nhau bên gốc hương mộc và dưới bóng liễu. Cô gái nhỏ hát những bài ca hay nhất trên đời, bằng một giọng trong vắt như tiếng chuông bạc. Knút không có giọng mà hát nhưng em thuộc lòng lời của những bài ca ấy, thế cũng đã khá lắm rồi. Dân ở Kgiôêgiê, ngay cả vợ ông chủ hiệu đồ chơi đã từng sống ở kinh đô, ai cũng dừng lại nghe Gian hát.
Bà ta nói:
Giọng hát của con bé này thật là tuyệt!

Đó là những ngày sung sướng, nhưng chẳng được bao lâu. Hai gia đình phải xa nhau. Mẹ Gian chết và bố em định lấy vợ ở tận kinh đô vì có một cửa hiệu buôn to hứa mướn ônglà người chạy giấy, đó là một công việc có lợi, kiếm được nhiều tiền hơn. Lúc chia tay, đôi bên láng giềng cùng rơi lệ, còn hai đứa trẻ thì khóc oà lên. Họ hứa viết thư cho nhau mỗi năm ít nhất một lần.

II.
Knút được gửi học nghề tại nhà một bác thợ giày. Chú lớn quá rồi. Không thể để cho chú ăn rồi chạy chơi ngoài đồng. Lúc ấy là lúc chú chịu lễ ban thánh thể. Trong ngày hội ấy chú mong muốn được ra Côpenhagơ gặp cô bé Gian. Than ôi! Chú không ra khỏi thị trấn Kgiôêgiê. Chú chưa bao giờ được trông thấy kinh đô dù chỉ cách thị trấn có năm dặm đường. Những buổi trong giời, Knút nhìn qua bên kia vịnh thấy những ngọn tháp cao của thành phố Côpenhagơ. Hôm chịu lễ ban thánh thể, chú còn trông thấy rõ ràng cây thánh giá của nhà thờ Đức mẹ vàng rực, lấp lánh dưới ánh mặt trời. Tâm hồn chú bay bổng về phía Gian.
Cô có còn nghĩ đến chú không ? Có, vào dịp lễ Nôel cha cô có gửi cho nhà chú một bức thư nói rằng họ sống ở Côpenhagơ rất khá giả và đặc biệt Gian nhờ giọng hát hay có thể có tương lai rực rỡ. Cô đã kiếm được một chân trong những tiết mục ca hát tại viện hý kịch, cô kiếm được chút tiền và chính cô đã gửi cho người láng giềng thân mến Kgiôêgiê một đồng tiền vàng để làm quà tối hôm Nôel. Cô mời họ uống rượu chúc sức khoẻ cho cô, đó là điều cô đã tự tay viết vào phần tái bút trong bức thư và còn thêm: “Rất thân ái gửi lời thăm Knút.”

Cả gia đình đọc xong bức thư đều khóc. Dẫu sao đó cũng là những tin mừng, cho nên họ khóc vì sung sướng. Ngày nào hình ảnh Gian cũng xâm chiếm tâm hồn Knút. Và giờ đây chú thấy rằng cô cũng nghĩ đến chú. Càng gần đến ngày hết hạn học việc chú càng nghĩ là tất nhiên cô sẽ thành vợ chú. Đến đây môi chú mỉm một nụ cười sung sướng, và chú lại khâu nhanh gấp đôi, chú tì mạnh vào đai da đến nỗi đâm vào ngón tay một lỗ rõ sâu, nhưng cái đó cũng chẳng đau đớn gì đối với chú. Chú tự nhủ: “Chắc chắn mình sẽ chẳng đóng vai một anh câm như đôi thanh niên bằng bánh ngọt.” Họ đã giúp chú một bài học hay. Thế là chú đã thành nghề. Khăn gói lên vai, lần đầu tiên chú ra Côpenhagơ nhận việc ở một nhà ông chủ. Gian sẽ ngạc nhiên và vui mừng biết mấy! Năm nay chàng đã mười bảy, còn chàng mười chín. Chàng muốn mua cho nàng một chiếc nhẫn ở Kgiôêgiê, nhưng chàng tính rằng ở Kgiôêgiê có thể có nhiều cái đẹp hơn. Rồi một ngày thu mưa gió chàng từ biệt cha mẹ rồi bước khỏi chốn quê hương. Lá rụng. Chàng tới kinh đô, ướt lướt thướt, tìm tới nhà ông chủ.

Ngay hôm chủ nhật đầu tiên, chàng vội vã đến thăm bố Gian. Chàng thắng bộ quần áo mới và một chiếc mũ mới mua ở Kgiôêgiê rất hợp với khuôn mặt chàng. Từ trước đến giờ Knút vẫn đội mũ cát-két. Chàng tìm thấy nhà và leo mãi đến nỗi choáng váng cả người. Chàng không khỏi kinh sợ khi thấy rằng trong cái thủ đô khủng khiếp này người ta lại ở trên cao chồng chất lên nhau đến thế. Trông gian phòng có vẻ khá giả. Bố Gian tiếp chàng một cách thân mật. Người vợ kế của ông không biết Knút, tuy nhiên bà cũng bắt tay chàng và mời chàng một tách cà phê ngon. Ông bố nói:

– Gian mà được gặp cháu thì hẳn là phải vui thích lắm. Nom bây giờ thật khoẻ mạnh đẹp giai. Cháu sắp gặp nó bây giờ đây. Ô! Em nó làm cho tôi sung sướng lắm và nhờ trời nó còn làm cho chúng tôi sung sướng hơn nữa. Nó có một căn buồng riêng, tự nó trả tiền thuê đấy.
Con người trung hậu ấy gõ cửa một cách kín đáo như là một người khách, rồi họ cùng vào. Trong căn phòng nhỏ, sao mà cái gì cũng đáng yêu thế! Knút thầm nghĩ: “Khéo đến trong cung hoàng hậu cũng chẳng có gì đẹp hơn, nào là thảm, nào là rèm cửa rủ xuống tận đất, một chiếc ghế tựa bọc nhung. Đâu cũng có hoa, tranh ảnh, lại có cả một tấm gương to bằng một cái cửa ra vào, đến nỗi người ta suýt bước vào vì tưởng đấy cũng là một căn phòng. Knút chỉ nhìn thoáng qua những vật tuyệt đẹp ấy thôi, mắt anh còn mải ngắm Gian đang đứng trước mặt anh. Đó là một tiểu thư rất đẹp khác hẳn với người mà Knút hằng tưởng tượng. Khắp Kgiôêgiê không có một thiếu nữ nào đẹp bằng nàng. Nàng có một nhan sắc tuyệt vời gần như mê hồn. Nàng nhìn Knút một lát vẻ ngạc nhiên, rồi đâm bổ về phía chàng dường như sắp ôm lấy chàng, suýt nữa thì nàng ôm chầm lấy chàng, nhưng lại thôi.

Phải, nàng hết sức vui mừng được gặp lại người bạn thời thơ ấu. Nàng đã chẳng mừng chảy cả nước mắt đấy ư? Nàng hỏi Knút không biết bao nhiêu câu. Nàng hỏi thăm mọi người, hỏi thăm cha mẹ Knút, hỏi thăm bố Liễu và mẹ Hương mộc- tên mà đôi bạn thuở nhỏ đã đặt cho những gốc cây thân yêu, dường như chúng là người thật. Gian nói:
– Rồi sau sao chúng lại không thành người nhỉ? Vì tôi còn nhớ lại hồi ấy ngay chiếc bánh ngọt cũng còn sống được trong một câu chuyện cơ mà.

Gian hồi tưởng đến những người bạn hiền lành của ông hàng bánh trong phiên chợ, đến chuỗi ngày dài họ sống bên nhau trên quầy hàng cho đến lúc một người vỡ ra làm hai mảnh. Nhớ lại câu chuyện ấy, nàng cười, còn Knút thì đỏ bừng mặt lên, tim đập nhanh gấp đôi lúc thường. Chàng tự nhủ: “Không, nhờ trời nàng cũng chẳng kiêu ngạo chút nào!”

Chàng nhận thấy rõ chính nàng đã nói với cha mẹ giữ chàng ở lại chơi suốt buổi tối hôm ấy. Lát sau nàng lấy một quyển sách và cất cao giọng đọc một đoạn. Knút tưởng như đoạn văn nàng đọc có dính líu gì đến mối tình của chàng . Sao mà tâm hồn tác giả lại hoà nhịp với tâm hồn chàng đến thế! Rồi nàng hát một bài ca bình thường thôi, nhưng Knút lại tưởng tượng rằng mấy lời ca ấy là một bài thơ trong đó trào lên tâm tình người thiếu nữ. Không còn nghi ngờ gì nữa, hẳn là nàng yêu mình rồi. Nghĩ vậy, chàng không ngăn nổi hai hàng lệ lăn trên gò má, không thốt được lời nào nữa. Chàng cảm thấy mình trở nên lố lăng, thế mà nàng vẫn siết chặt tay chàng mà bảo rằng:
– Knút ạ, anh tốt lắm, trước thế nào sau vẫn cứ thế nhé.
Thật là một buổi tối chưa từng có, không nên tính chuyện ngủ nữa, và quả nhiên suốt đêm ấy Knút không chợp mắt.

Khi chàng ra về, bố Gian bảo:
– Thế nào? Bây giờ thì cháu không thể quên chúng tôi được nữa chứ? Liệu cháu có thể để cả mùa đông trôi qua mà không lại thăm chúng tôi nữa không đấy?
Nghe thấy thế chàng cho rằng đến chủ nhật mình có thể quay lại đây, chàng định tâm- ai mà ngăn được!- là tối tối sau giờ làm đêm, sẽ đi chơi suốt thành phố. Bao giờ chàng cũng đi qua chỗ Gian ở. Chàng nhìn lên cửa sổ phòng nàng, thấy gần như lúc nào cũng có thắp đèn. Một lần chàng trông thấy rõ bóng nàng trên rèm cửa. Đối với chàng, cái buổi tối ấy sao mà đẹp vậy! Tối nào cũng đi như thế, bà chủ chẳng ưa tí nào, bà lắc đầu tỏ vẻ lo ngại. Nhưng ông chủ mỉm cười bảo:
– Con giai thì phải cho nó vùng vẫy tuổi xuân chứ!
Knút nghĩ thầm: “Đến chủ nhật này gặp nhau mình sẽ nói với nàng rằng nàng đã chiếm hết cả tâm hồn ta rồi và nàng sẽ phải trở thành vợ ta. Ta chỉ là một anh phụ thợ giày nghèo nàn, nhưng chẳng bao lâu ta sẽ thành ông chủ. Ta sẽ làm việc, chịu thương chịu khó đến mấy cũng được. Phải, mình cứ nói thẳng. Mối tình câm không đem lại kết quả gì cả. Câu chuyện những chiếc bánh ngọt đã chứng minh cho ta điều đó từ lâu.”

Chủ nhật Knút lại đến, nhưng buồn thay, họ đã được mời đi dự cuộc vui ngoài thành phố. Knút không dứt ra về được. Gian nắm tay chàng hỏi để nhắc khéo:
– Anh đã xem hát chưa? Dẫu sao anh cũng phải đến xem một bữa. Thứ tư này tôi sẽ hát ở đấy, hôm ấy, nếu anh rỗi tôi sẽ biếu anh cái vé. Cha tôi biết nhà ông chủ anh rồi.
Sao mà nàng đối với chàng thân ái đến thế! Đến trưa thứ ba, quả nhiên chàng nhận được một phong bì dán kín, trong chẳng có chữ nào ngoài một cái vé. Buổi tối, lần đầu tiên Knút vào rạp hát. Chàng trông thấy Gian. Sao mà nàng đẹp và đáng yêu đến thế! Đúng là người ta đã gả nàng cho một người khác, nhưng đấy chỉ là một màn kịch giả tạo mà thôi. Knút hiểu như vậy, không thế thì chắc chắn là nàng chẳng nỡ lòng nào lại gửi cho chàng một cái vé để chàng được tận mắt trông thấy cảnh tượng ấy. Mọi người vỗ tay và lớn tiếng khen ngợi còn Knút thì hoan hô rõ to.

Chính đức vua cũng mỉm cười với Gian, tỏ ra ngài thích nghe nàng hát lắm. Knút cảm thấy mình chẳng có ý nghĩa lý gì cả. Chàng tự nhủ: “Ta yêu nàng biết bao! Nàng cũng yêu ta, như thế là đã đủ để san bằng tất cả. Nhưng đàn ông phải ngỏ lời trước, cô gái bằng bánh ngọt đã nghĩ thế. Câu chuyện của nàng đã dạy ta rất nhiều…”

Chủ nhật sau chàng lại đến. Chàng cảm động không kém cái ngày chịu lễ ban thánh thể. Cả nhà đi vắng, có mỗi mình Gian tiếp chàng, thật là dịp may hiếm có. Nàng nói:
– Anh đến thật là vừa khéo, tôi đang định nói với cha tôi đi tìm anh, nhưng tôi có linh tính báo rắng thế nào tối nay anh cũng đến, vì tôi muốn báo để anh biết rằng thứ sáu này tôi sẽ sang Pháp. Phải đi một chuyến như thế thì mới làm nên chuyện được.
Knút cảm thấy hình như căn phòng đảo lộn cả lên. Tim chàng dường như sắp tan ra thành muôn mảnh. Mắt chàng không ứa lệ, nhưng nom cũng biết là chàng rất buồn. Nàng bảo:
– Anh thật là một chàng trai can đảm và trung thành.
Câu ấy đã khơi mào cho Knút nói lên nỗi lòng mình. Chàng nói chàng đã yâu nàng nồng nàn đến thế nào và nhất định nàng sẽ trở thành vợ chàng. Nhưng vừa dứt lời, chàng thấy Gian biến sắc và tái mặt đi. Nàng buông thõng tay xuống và trả lời chàng bằng một giọng nghiêm trang và buồn rầu:
– Knút ạ, anh đừng tự làm khổ mình mà cũng đừng làm khổ tôi. Tôi sẽ mãi mãi là một người em gái tốt đáng tin cậy của anh, nhưng bao giờ cũng chỉ thế thôi.
Rồi nàng đặt bàn tay dịu dàng lên trán nóng bỏng của Knút và nói thêm:
– Trời cho chúng ta sức mạnh để làm được những việc khó ở trên đời, miễn là chúng ta có nghị lực và lòng can đảm.
Lúc ấy bà mẹ kế của nàng đi vào. Gian nói:
– Knút phát khùng lên vì con phải đi xa. Lớn rồi ai lại thế!
Nói vậy nàng đặt tay lên vai Knút giả vờ như giữa hai người chỉ có chuyện đi xa chứ không có chuyện gì khác. Nàng tiếp:
Anh còn trẻ con lắm, bây giờ anh phải tốt và biết điều như xưa kia bên gốc liễu lúc chúng ta còn bé ấy mới được.

Knút tưởng như trời sa đất sụp. Tâm hồn chàng như một sợi tơ bay đó đây theo gió. Chàng sững sờ, chẳng biết là người ta có mời chàng ngồi lại hay không. Nhưng Gian và bà mẹ kế tỏ ra thân mật và ái ngại. Gian mời chàng uống nước chè và hát cho chàng nghe. Giọng nàng vang lên như mọi khi, trông nàng đẹp tuyệt trần! Nghe nàng hát chàng thấy hởi lòng hởi dạ. Rồi họ chia tay nhau. Knút cũng chẳng buồn chìa tay cho Gian. Nàng hiểu ý và nói:
Dẫu sao cũng phải bắt tay cô em gái trước khi xa nhau chứ, hở ông anh thời thơ ấu?
Rồi nàng cười qua hàng nước mắt và nhắc lại hai chữ ông anh. Phải, đấy là một lối an ủi khéo léo. Họ chia tay nhau như thế đấy.

III.
Nàng xuống tàu sang Pháp. Ngày nào Knút cũng lang thang rất lâu trong các phố của kinh thành Côpenhagơ. Những thợ bạn trong xưởng hỏi tại sao lúc nào chàng cũng đi chơi trầm ngâm suy nghĩ như thế. Họ mời chàng cùng đi chơi với họ và bảo:
Còn trẻ thì ta phải vui chơi chứ!

Chàng đi với họ đến tiệm nhảy, ở đấy có rất nhiều cô gái xinh đẹp, nhưng chẳng có ai đẹp bằng Gian. Ở nơi chàng tưởng có thể quên được nàng thì, trái lại, luôn luôn hình ảnh nàng hiện lên trước mắt. Nàng đã chẳng nói: “Trời cho chúng ta sức mạnh miễn là ta có nghị lực và lòng can đảm…” Chàng nhớ lại câu ấy, trong lòng rạo rực niềm tin. Lúc ấy tiếng vĩ cầm vang lên và các cô gái nhảy vòng một bài. Chàng giật mình kinh hãi. Chàng thấy hình như mình đang ở một nơi không thể nào đưa Gian đến được, thế mà nàng vẫn đến đấy, vì lúc nào nàng cũng ở trong tim chàng. Chàng chạy ra ngoài, chạy khắp phố, qua cửa ngôi nhà nàng đã ở bây giờ tối om, trống rỗng, quạnh hiu, trên thế gian này mỗi người có một con đường. Knút cũng thế.

Đông tới, nước đóng băng. Cảnh vật đổi thay, có thể nói đâu cũng như màu tang. Nhưng khi mùa xuân trở lại và chiếc tàu thuỷ đầu tiên lại ra khơi, Knút bỗng cảm thấy muốn du lịch thật xa, xa mãi, xa hơn cả nước Pháp kia. Chàng khoác khăn gói lên đường, đi rõ xa, ca mãi, qua khắp nước Đức, từ tỉnh này qua tỉnh khác, chẳng hề đỗ lại hoặc dừng chân. Chỉ tới lúc đến thành phố Nuyrembe cổ kính và kỳ lạ chàng mới tự chủ lại được và dừng chân rồi quyết định ở lại đấy.

Nuyrembe là một thành phố khác thường, giống như một bức tranh cắt trong một tập ký sự có minh hoạ nào đấy. Phố xá ngoằn nghèo, ngang dọc bất thường, nhà cửa không thích dóng hàng thành đường thẳng. Đầu hồi nhà nào cũng có xây thêm tháp nhỏ. Nhiều pho tượng nhô ra từ những bức tường dày đặc những nét điêu khắc kỳ khôi. Trên những mái nhà xây kiểu đặc biệt, những miệng ống máng hình rồng, hình thỏ rừng, hình chó ngao vươn ra đến tận giữa phố.

Hành lý trên lưng, Knút dừng chân trên bãi chờ. Chàng đứng trên một cái máy nước cổ xung quanh có những pho tượng tạc đá các nhân vật thần tiên và lịch sử bằng đồng đen tuyệt đẹp, giữa các khe có nước phun ra. Vừa lúc ấy một chi sen xinh đẹp đến lấy nước. Đi đã mệt, Knút rất khát, chị ta mời Knút uống và còn tặng chàng một bông hồng rút ra từ bó hoa trên tay. Chàng cho đó là một điềm lành.

Những tiếng đại phong cầm vang ầm từ một nhà thờ gần đấy làm chàng chạnh lòng nhớ đến quê hương. Chàng nghe giống tiếng đại phong cầm ở nhà thờ Kgiôêgiê, chàng bước vào thánh đường rộng lớn. Ánh nắng xuyên qua những tấm kính màu chiếu sáng những hàng cột cao mảnh dẻ. Lòng tin đạo tràn ngập tâm trí Knút và chàng cảm thấy tâm hồn thư thái bình an.
Chàng tìm được ở Nuyrembe một ông chủ tốt. Chàng ở ngay nhà ông ta và học tiếng Đức. Người ta đã ngăn và biến những đường hào cũ bao quanh bức thành cổ thành những vườn rau, nhưng tường thành cao vẫn sừng sững với những ngọn tháp to lớn nặng nề. Con đường kín vẫn còn. Bây giờ người ta se thừng ở đấy. Trong kẽ những bức tường cổ, hương mộc mọc thành từng đám rậm rạp, vươn cành trên nóc những mái nhà thấp bé tựa lưng vào tường thành. Một trong những ngôi nhà bé ấy là nhà ông chủ Knút.

Một cây hương mộc lặng lẽ vươn cành trên gác mái nhà xép, nơi chàng làm việc. Knút lưu lại đấy suốt mùa hè và mùa đông, rồi tiếp đến mùa xuân. Thế là chàng không chịu được nữa. Hương mộc ra hoa thơm ngát làm cho Knút nhớ tới một cây hương mộc khác và chàng cảm thấy hình như được đưa về mảnh vườn nhỏ ở Kgiôêgiê. Thế là chàng từ giã ông chủ ấy đi tìm ông chủ khác trong nội thành để khỏi nhìn thấy cây hương mộc.

Nơi làm việc mới của chàng ở kề ngay bên một nhịn cầu cũ kỹ, phía dưới có một dòng suối chảy siết đẩy một chiếc bánh cối xay quay ầm ầm. Hai bên dòng nước đầu hồi nhà nào cũng đã hư nát, tưởng chừng sắp đổ cả nhà xuống suối. Đây không có hương mộc, nhưng ngay trước cửa xưởng có một gốc liễu già bám rễ vào căn nhà để khỏi bị dòng nước cuốn đi. Một số cành liễu rũ xuống suối, trông giống như cây liễu trong vườn ở Kgiôêgiê.

Đúng là Knút định tránh bà mẹ Hương mộc thì lại gặp phải ông bố Liễu già.
Những tối sáng trăng, cây liễu hình như có một cái gì đó làm cho chàng chạnh lòng cảm động và chán nản. Chàng không chịu được nữa. Muốn ró nguyên cớ vì đâu xin hãy hỏi cây liễu và cây hương mộc đang ra hoa.

Chàng từ giã ông chủ và rời thành phố Nuyrembe. Chàng không hề nói chuyện Gian cho ai biết. Chàng chôn chặt mối sầu tận đáy lòng. Thỉnh thoảng chàng nhớ tới và thấm thía hơn lúc nào hết ý nghĩa của câu chuyện hai chiếc bánh ngọt. Chàng hiểu tại sao anh con trai lại có một hạt hạnh nhân đắng bên trái. Lòng Knút cũng tràn đầy nỗi đắng cay. Trái lại, Gian lúc nào cũng dịu dàng và thân mật như là nàng cũng bằng đường và mật hệt như cô gái trong câu chuyện ngây thơ kia. Ý nghĩa chàng dừng lại ở những kỉ niệm ấy. Chàng thấy hồi hộp, gần như nghẹt thở. Tưởng là vì chiếc quai balô, chàng nới nó ra. Chẳng ăn thua gì. Chàng như sống trong hai thế giới, thế giới bên ngoài, ở xung quanh chàng và thế giới chìn sâu trong tâm hồn, đầy kỷ niệm và tình cảm, chàng sống nhiều trong thế giới này, còn đối với thế giới kia, chàng gần như xa lạ.

Chỉ khi nào nhìn thấy những ngọn núi cao, tâm hồn chàng mới dứt ra khỏi những ý nghĩ buồn thảm được và chú ý đến cảnh vật bên ngoài. Nhìn khung cảnh hùng vĩ ấy mắt chàng đẫm lệ. Chàng thấy dãy núi Anpơ trông như đôi cánh của trái đất đang gấp lại. Chàng tự nhủ: “Nếu trái đất đột nhiên xoè ra và giương đôi cánh bao la với những khu rừng âm u, những dòng nước chảy xiết, những đám tuyết lớn ấy thì sẽ ra sao nhỉ? Chắc hẳn đến ngày tận thế trái đất sẽ bay lên như thế đến cõi vô tận và khác nào như chiếc bong bóng xà phòng ra nắng vỡ tan thành ngàn triệu nguyên tử ánh sáng rực rỡ của thần linh. Chao ôi! Liệu hôm nay có là ngày tận thế được không nhỉ? Knút thở dài mà nói thế.

Chàng đi qua một xứ, nom như một vườn cây ăn quả tuyệt đẹp. Từ trên bao lơn những căn nhà gỗ, các thiếu nữ đang đập gai gật đầu chào chàng, chàng chào lại đứng đắn và chẳng bao giờ thêm một câu nói đùa như các chàng trai trẻ chạc tuổi chàng vẫn thường làm. Lúc nhìn qua đám lá cây rậm rạp, thấy những hồ lớn xanh ngắt, chàng nhớ tới bờ biển nơi chôn rau cắt rốn và vịnh nước sâu ở Kgiôêgiê. Không còn đau khổ nữa, chỉ còn nỗi buồn man mác xâm chiếm tâm hồn chàng.

Chàng trông thấy cả con sông Ranh, đổ từ một ngọn núi đá xuống, tản ra thành nghìn triệu giọt nước nom như một đám mây mù trắng xoá trong đó chiếc cầu vồng lóng lánh nom như một dải băng màu tung bay trước gió. Cảnh tượng oai nghiêm ấy làm chàng liên tưởng đến quãng suối chảy thành thác ào ào, ngầu bọt làm thành bánh xe cối xay ở Kgiôêgiê. Đi đến đâu, kỷ niệm chốn quê hương vẫn theo đuổi chàng.

Nhẽ ra chàng sẵn sàng lưu lại ở một trong những chốn tĩnh mịch bên bờ sông Ranh, nhưng vùng này có nhiều cây hương mộc và cây liễu quá, chàng lại tiếp tục đi, chàng vượt qua nhiều núi cao, đi trên những con đường nhỏ men theo vách núi đá dựng đứng tựa như một chiếc máng nước chảy dọc theo mái nhà. Mây trườn dưới chân chàng, chàng nghe thấy từ thung lũng sâu thăm thẳm vọng lên tiếng suối chảy ầm ầm. Chẳng có gì làm chàng sợ hãi hoặc ngạc nhiên cả. Bước trên những ngọn núi phủ tuyết đầy hoa hồng núi Anpơ, chàng đi về phía những vùng chan hòa ánh nắng. Từ giã những xứ phương Bắc, theo những con đường rợp bóng nho quấn quít lấy những cây hạt dẻ, chàng đi tới những cánh đồng ngô. Núi non hiểm trở như một bức tường thành vĩ đại đã ngăn cách chàng với những nơi đã gây cho chàng những kỷ niệm siết bao sầu thảm. Chàng tự nhủ: “Thế mà lại hoá hay!”

IV.
Trước mặt chàng là một thành phố to lớn và lộng lẫy, dân vùng này gọi là Milanô. Chàng tìm được một ông chủ người Đức thuê chàng làm. Ông chủ là một cụ già trung hậu, người vợ hiền lành và rất ngoan đạo. Hai vợ chồng đều thấy mến anh thợ người nước ngoài, ít nói nhưng hay làm, thật thà và ngoan đạo.

Knút tưởng chừng như Thượng Đế đã giải thoát cho chàng khỏi nỗi sầu nặng trĩu trong lòng. Chàng thích leo lên tận cùng của giáo đường Đômơ làm bằng cẩm thạch trắng như tuyết, nơi quê hương chàng. Chàng thường đi dưới những ngọn tháp nhọn, những lầu chuông nhọn hoắt và những cửa tò vò. Từng góc, từng vòm có những pho tượng mỉm cười với chàng. Phía trên là trời xanh biếc, phía dưới là thành phố, rồi đến đồng bằng bát ngát xứ Lômbácđi xanh tươi và tít đằng xa là những ngọn núi cao. Chàng nhớ tới nhà thờ Kgiôêgiê, nhớ tới những bức tường đỏ phủ đầy hoa trường xuân. Thật khác xa với nhà thờ lớn ở thành Milăng! Chàng không mong nhìn lại chốn ấy, chàng không muốn trở lại nơi xưa. Chàng mong được gửi lại nắm xương bên những núi non này. Chàng sống ở thành phố này đã được một năm, và thế là xa tổ quốc đã được ba năm. Một hôm ông cụ chủ nhà muốn cho chàng được khuây khoả, dẫn chàng không phải đến trường đua xem tài các kỵ mã mà là đến kịch viện của thành phố. Chỉ riêng toà nhà cũng thật đáng xem rồi. Bảy tầng chỗ ngồi sang trọng chia thành từng ngăn, rèm cuốn bằng thứ lụa mịn. Những bà sang trọng ăn mặc như đi dự hội khiêu vũ, tay cầm hoa, ngồi từ hàng ghế thứ nhất cho đến tít trên thượng tầng. Các quý ông cũng mặc lễ phục, áo quần nhiều vị đầy những vàng bạc, sáng như ban ngày. Âm nhạc vang lên tuyệt diệu, đây đẹp hơn nhà hát Côpen hagơ nhiều lắm, nhưng ở thủ đô lại có Gian.

Nàng cũng có mặt tại đây. Phải, dường như có phép lạ. Mà sân khấu cuốn lên rồi kìa! Gian đã hiện ra, mình đầy lụa là châu báu, đầu đội chiếc mũ miện bằng vàng. Nàng cất giọng hát, chỉ có tiên trên trời mới hát được như nàng. Nàng tiến hẳn ra phía trước sân khấu, mỉm cười, và chỉ có nàng mới có nụ cười đẹp như vậy. Nàng nhìn đúng vào Knút. Chàng thanh niên nắm lấy tay ông cụ chủ nhà hét to: “Gian!” Nhưng âm nhạc át mất tiếng chàng và chỉ có mình ông cụ nghe thấy thôi. Ông cụ gật đầu bảo: “Phải đấy, đúng cô ta tên là Gian đấy!” Đồng thời cụ rút ra một tờ giấy in và chỉ vào tên …tên Gian in rõ ràng và chạy suốt cả trang giấy. Đâu có phải là trong mộng? Tất cả cử toạ hoan nghênh nhiệt liệt, tung hoa từng bó, từng vòng lên sân khấu. Mỗi lần Gian rời sân khấu người ta lại gọi nàng lại, nàng quay ra, lùi vào, rồi lại quay ra.

Sau buổi biểu diễn, người ta chen chúc nhau quanh xe nàng. Người ta tháo ngựa ra để tự tay kéo xe nàng, trong đó Knút đi hàng đầu. Chàng sung sướng và vui như điên, hơn cả những người khác. Khi chiếc xe dừng trước toà nhà rực rỡ ánh đèn, nơi Gian ở, chàng len vào đứng gần cửa xe. Gian bước xuống, ánh đèn chiếu thẳng vào khuôn mặt xinh tươi của nàng. Nàng hết sức cảm động, mỉm cười cảm tạ mọi người, với một cách dịu dàng đáng yêu. Knút nhìn thẳng vào mắt nàng, nàng cũng nhìn chàng, nhưng không nhận ra chàng là ai cả. Một người đàn ông trẻ, ngực lấp lánh một ngôi sao bằng kim cương giơ tay ra cho nàng khoác. Người ta xì xào:

– Họ đã đính hôn với nhau rồi đấy!
Knút về nhà thu xếp hành lý. Chàng muốn và thấy cần phải quyết định trở về quê hương, về bên gốc hương mộc, về dưới bóng liễu. Phải, dưới bóng liễu, chỉ trong một tiếng đồng hồ, con người ta có thể ôn lại cả cuộc đời mình trong tâm trí.
Vợ chồng ông cụ chủ nhà cố hết sức giữ chàng lại với họ. Nhưng nói thế nào chàng cũng không nghe. Họ nhắc chàng sắp đến mùa đông rồi và tuyết đã bắt đầu rơi trên núi. Chàng đáp: “Thế nào xe cộ chẳng phải mở đường mà đi, cháu sẽ đi theo vết bánh xe mà tìm đường về.”

V.
Chàng đeo hành lý chống gậy ra đi, leo lên rồi lại xuống núi. Đã mệt rồi mà chàng chưa trông thấy làng mạc nhà cửa gì cả. Chàng hướng về phương Bắc. Sao lấp lánh quanh mình chàng. Bước chân lảo đảo, đầu choáng, mắt hoa, chàng nhìn thấy sao lấp lánh cả dưới đáy thung lũng tưởng chừng như dưới chân cũng có một trời như trên đầu chàng vậy.

Chàng cảm thấy ốm yếu. Các vì sao dưới chân cứ nhiều mãi lên, mỗi lúc mỗi sáng hơn và chuyển động từ chỗ này qua chỗ khác. Đó là ánh sáng đèn của một thành phố nhỏ. Khi nhận ra điều ấy, chàng thu hết tàn lực lần đến một quán trọ nghèo nàn.
Chàng lưu lại đó đêm ấy và suốt cả ngày hôm sau. Chàng cần được nghỉ ngơi và chăm sóc. Băng tuyết tan. Thung lũng bắt đầu có mưa. Sáng sớm hôm sau có một cặp nghệ nhân già đi tới dạo một bản nhạc giống hệt như một khúc điệu êm đềm nước Đan Mạch.

Knút không thể nào lưu lại lâu hơn nữa, chàng lại lên đường đi về phương Bắc, ròng rã bao ngày, chàng vội vã như sợ rằng tất cả mọi người sẽ chết trước khi chàng kịp về tới nơi. Chàng chẳng hề nói rõ duyên cớ với một ai cả. Không ai có thể biết căn nguyên nỗi buồn của chàng, nỗi buồn sâu sắc nhất của một con người. Thiên hạ và ngay cả những bản thân của chúng ta nào ai quan tâm đến một nỗi đau khổ như vậy, nhất là Knút lại không có bạn. Như một người khách lạ, chàng đi qua những xứ xa lạ, đi mãi về phương Bắc. Trời sập tối. Chàng đi theo đường cái quan. Trời lại bắt đầu giá rét. Cảnh vật nơi đây lại bằng phẳng, người ta lại nhìn thấy đồng cỏ, ruộng nương. Bên đường có một cây liễu to. Tất cả đều gợi cho Knút cảnh vật chốn quê hương. Chàng mệt quá, ngồi xuống gốc cây liễu và gục đầu nhắm mắt, ngủ thiếp đi.
Tuy thế chàng vẫn nhận thấy cây liễu vươn cành xà thấp xuống mình chàng, dường như một ông lão cường tráng. Phải, đấy chính là bố Liễu già giơ tay đón chàng, đưa đứa con trai mệt mỏi và kiệt sức về quê hương xứ sở, bên bờ biển phẳng lặng vùng Kgiôêgiê. Phải, đấy là bố Liễu hiện thành người đi khắp nơi tìm đứa con trai, đã tìm thấy Knút và đưa chàng về khu vườn cũ bên bờ suối. Gian đã đứng đó, đầu đội chiếc mũ miện vàng như lần cuối cùng chàng thấy nàng. Từ xa, nàng đã reo lên: “Hoan hô anh Knút.”

Hai khuôn mặt đắc biệt cùng hiện ra trước mắt chàng. Chàng biết họ từ lúc còn bé, nhưng giờ đây họ giống người thật hơn hồi xưa. Họ đã đổi khác, khá hơn trước nhiều lắm. Đây là anh con trai và chị con gái bằng bánh ngọt năm xưa, họ quay mặt về phía chàng, và nom diện mạo họ quả là khoẻ mạnh và tươi tắn. Họ bảo chàng:

– Chúng tôi cảm ơn anh đã giúp chúng tôi một việc lớn. Anh đã mở miệng cho chúng tôi, đã dạy chúng tôi chớ nên lặng yên, không thổ lộ lòng mình, không thế thì chẳng đi đến kết quả gì cả. Do đó chúng tôi đã đạt mục đích và đã đính hôn với nhau.

Nói rồi họ cầm tay nhau đi trong phố xá Kgiôêgiê. Nom họ có vẻ dễ coi, và ngay cả khi nhìn vào mặt trái, họ cũng chẳng có gì đáng phàn nàn cả. Họ đi về nhà thờ, Knút và Gian cũng nắm tay nhau đi theo họ. Ngôi nhà thờ vẫn còn đó như xưa, với những bức tường lúc nào cũng phủ đầy dây trường xuân xanh tươi. Cửa lớn mở rộng cánh. Tiếng đại phong cầm vang lên. Họ bước vào gian giữa giáo đường lớn. Cặp vợ chồng bánh ngọt bảo: “Mời thầy giáo và cô giáo lên trước!” rồi họ nhường cho Knút và Gian quỳ trước bàn thờ chúa. Gian gục đầu vào mặt Knút. Từ mắt nàng lăn ra những giọt lệ lạnh buốt. Tình yêu nồng nàn của Knút đã làm tan khối băng giá xung quanh trái tim nàng. Lúc ấy chàng chợt tỉnh dậy và thấy mình đang ngồi dưới một gốc liễu già, tại một xứ xa lạ, trong một đêm đông giá rét. Mưa đá quất vào mặt chàng. Chàng tự nhủ: “Giờ phút này là giờ phút đpẹ nhất đời ta, thế mà lại là một giấc mơ! Xin Thượng Đế hãy cho tôi lại được mơ nữa như thế!” Chàng lại nhắm mắt ngủ thiếp đi và lại mơ.

Về sáng tuyết bắt đầu rơi và theo gió phủ lên mình chàng. Chàng vẫn ngủ. Dân các xóm lân cận đi lễ qua đấy. Họ trông thấy một người nằm bên đường. Đó là một anh thợ. Anh đã chết rét bên gốc cây liễu.

16. Bông cúc trắng

Các bạn hãy lắng nghe câu chuyện nhỏ này.
Ở một nơi thôn dã kia, gần ngay đường cái có một ngôi nhà bé nhỏ xinh xắn, nếu các bạn có đi qua, chắc chắn cũng phải để ý đến ngay.
Phía trước có một vườn hoa nhỏ và một hàng rào xanh tươi. Gần đấy, bên bờ rào, có một cây cúc trắng đang nở hoa giữa đám cỏ rậm. Cũng như muôn hoa to đẹp trong vườn được những tia nắng của vầng dương sưởi ấm, giờ này hoa cúc trắng cũng nở. Một sớm đẹp trời kia, cúc ta nở tung, xoè rộng bộ cánh nhỏ nhắn, trắng tinh và bóng bảy nom như một vầng thái dương thu nhỏ đang toả ánh hào quang rực rỡ quanh mình. Dù cho người ta có trông thấy nó giữa đám cỏ và xem nó như một bông hoa tồi tàn vô nghĩa lý, nó cũng chẳng quan tâm đến điều ấy.
Nó lấy làm tự mãn, khoái trá tắm mình trong ánh nắng và nghe chim sơn ca hót vang trên trời cao.
Tuy là ngày thứ hai thế mà bông cúc trắng bé nhỏ ấy cũng vui sướng như ngày chủ nhật. Trong khi trẻ con ngồi học bài trên ghế nhà trường thì nó ngồi trên cái cuống xanh xanh của nó. Qua vẻ đẹp của thiên nhiên nó học được rằng Thượng đế rất nhân đức và hình như tất cả những điều nó lặng lẽ cảm thấy chim sơn ca bé nhỏ kia đã diễn đạt đầy đủ bằng giọng hót vui tươi, cũng vì vậy mà nó nhìn chim sơn ca sung sướng đang ca hát bay lượn với một vẻ như kính trọng, nhưng không một mảy may tỏ ra mong muốm làm được như chim. Nó nghĩ thầm:
– Ta được nhìn, được nghe, nắng sưởi ấm ta, gió ôm ấp ta, thế là đủ. Ôi chao! Nếu còn than phiền thì thật là sai lầm.
Phía trong hàng rào có vô số lá hoa mọc thẳng đuỗn và kiêu kỳ. Chúng không có hương nhưng lại càng vươn cành vênh váo. Thược dược ráng sức phồng lên để tỏ ra to hơn hoa hồng. Nhưng hoa hồng rạng rỡ, màu sắc đẹp đẽ, vênh vang một cách kiêu kỳ. Chúng chẳng thèm đoái nhìn bông cúc trắng bé tí, trong khi bông hoa nhỏ tội nghiệp ngắm nghía chúng mà nói rằng: “Các chị ấy sang trọng, đẹp đẽ biết bao! Chắc hẳn chàng chim kỳ diệu kia thế nào cũng đến thăm. Ơn trời, thế nào ta cũng được xem cái cảnh tượng ngoạn mục ấy.” Và ngay lúc đó, chim sơn ca không bay về phía thược dược và uất kim hương mà lại sà xuống bãi cỏ, đến gần bông cúc trắng tội nghiệp, lúc này vui mừng đến kinh hoàng, chẳng còn biết nghĩ ra làm sao nữa.
Con chim non bèn nhảy nhót quanh bông cúc và hót rằng:
– Sao cỏ lại êm thế nhỉ? Ồ! Bông hoa xinh xắn có trái tim vàng, khoác áo dài bạc đáng yêu quá!
Nỗi vui sướng của bông hoa bé nhỏ không bút nào tả xiết. Chim hôn hoa rồi lại hót cho hoa nghe, rồi mới bay về bầu trời xanh thẳm. Gần nửa giờ sau hoa còn chưa hết cảm động. Phần thì thẹn thò, phần thì vui mừng ngây ngất tận đáy lòng, nó nhìn tất cả các hoa khác trong vườn. Được mục kích vinh dự của cúc trắng chúng phải cảm thông niềm vui sướng của nó mới phải. Nhưng lũ uất kim hương lại càng thẳng đuỗn ra hơn trước, vẻ mặt đỏ ửng và nhọn hoắt của chúng tỏ vẻ hờn giận. Bọn thược dược thì sưng sỉa mặt mày. Cũng may cho bông cúc trắng đáng thương, chứ như chúng mà biết nó thì thế nào chúng chẳng thở ra biết bao lời chướng tai. Bông hoa bé nhỏ biết vậy nên cũng đâm buồn vì thái độ hằn học của chúng.
Lát sau, một cô gái, tay cầm dao to, sắc và sáng loáng, vào vườn đến gần khóm uất kim hương, rồi cắt lấy từng bông một.
Bông cúc bé nhỏ thở dài:
– Tội nghiệp! Rõ thật là khủng khiếp! Thôi thế là xong đời các chị uất kim hương.
Rồi, trong khi cô gái mang bó uất kim hương đi, cúc trắng lấy làm vui mừng vì chỉ là một bông hoa bé nhỏ, tồi tàn mọc giữa đám cỏ nội. Thấu hiểu lòng nhân từ của thượng đế, tràn ngập lòng biết ơn người, đến chiều tà, nó khép cánh, ngủ thiếp đi, suốt đêm mơ thấy vầng thái dương và chim sơn ca.
Sáng hôm sau, khi hoa cúc trắng lại xoè cánh đón không khí và ánh sáng, nó nhận ra ngay tiếng chim sơn ca đang hót, nhưng bằng một giọng rất buồn thảm. Sơn ca buồn là phải lắm vì người ta bắt được nó và nhốt nó vào một chiếc lồng treo trên cánh cửa sổ.
Chim cất tiếng hót ca ngợi cuộc sống tự do đầy hạnh phúc, vẻ đẹp của những cánh đồng xanh tươi và những cuộc du ngoạn của nó hồi trước, trên những khoảng trời cao.
Bông cúc trắng muốn đến cứu chim lắm, nhưng biết làm sao được? Đó là một chuyện khó. Lòng trắc ẩn của nó đối với con chim đáng thương bị cầm tù làm cho nó quên hẳn cảnh đẹp xung quanh, quên ánh nắng ấm áp và ngay cả những cánh hoa màu trắng chói lọi của chính mình.
Chẳng bao lâu có hai cậu bé đi vào vườn, cậu lớn tuổi hơn cầm một con dao dài và sắc giống như con dao của cô con gái đã cắt uất kim hương. Cúc trắng thấy họ đi về phía mình, không hiểu họ định làm gì mình.
– Ta có thể cắt đám cỏ tốt chỗ này đem về cho chim sơn ca.
Một cậu nói vậy, rồi bắt đầu rạch một khoanh vuông quanh gốc cây cúc trắng.
Cậu kia bàn:
– Nhổ cái hoa đi.
Nghe thấy vậy cúc trắng run lên sợ hãi. Bị nhổ đi là xong đời còn gì? Và chưa lúc nào bằng lúc này nó cầu mong được sống và cùng đám cỏ được đặt vào lồng với chim sơn ca đang bị cầm tù.
Cậu bé lớn hơn trả lời:
– Thôi cứ để nó đấy hay hơn.
Thế là cúc trắng thoát nạn và được vào lồng với chim sơn ca.
Con chim đáng thương đập cánh vào nan lồng sắt, than vãn một cách sầu thảm cho số phận tù đầy của mình. Cúc trắng muốn lắm, nhưng cũng chẳng nói được với chim một lời an ủi.
Cả buổi sớm qua đi như thế.
Con chim bị cầm tù kêu lên:
– Ở đây hết cả nước rồi, người ta đi vắng cả, chẳng để cho tôi lấy một giọt. Họng tôi khô bỏng, người tôi sốt dữ dội, ngạt thở quá! Than ôi! Thế là tôi phải chết, phải xa vầng thái dương sáng chói, xa cây cỏ xanh tươi và xa tất cả cảnh đẹp kỳ diệu của tạo hoá.
Rồi chim rúc mỏ vào đám cỏ ẩm ướt cho dịu mát đôi chút. Chim chợt nhìn thấy bông cúc trắng bèn gật đầu chào thân mật rồi hôn hoa mà bảo rằng:
– Cả em nữa, bông hoa nhỏ nhắn tội nghiệp của anh, em cũng sẽ chết ở đây. Người ta sẽ đem em và mấy ngọn cỏ vào với anh để đổi lấy cả cuộc đời phóng khoáng của anh. Giờ đây đối với anh mỗi ngọn cỏ là một gốc cây, mỗi cánh trắng muốt của em là một bông hoa thơm ngát. Ôi! Em đã gợi lại cho anh tất cả những gì anh đã mất.
Không nhúc nhích được, cúc trắng nghĩ thầm:
– Giá mà mình an ủi được anh ấy nhỉ?
Thế nhưng hương thơm của nó toả ra ngào ngạt khác hẳn mọi khi. Chim sơn ca biết vậy nên, mặc dầu héo hon vì cơn khát dữ dội, phải vặt hết ngọn này đến ngọn khác, nhưng nó vẫn giữ gìn không chạm đến bông hoa.
Tối rồi mà cũng chẳng ai về đem cho con chim sơn ca khốn khổ lấy một giọt nước. Thế là nó xả đôi cánh đẹp, vẫy vẫy, giật giật và hót lên một bài buồn thảm. Cái đầu nhỏ nhắn của chim ngả về phía hoa, con tim tan nát vì khát và đau đớn của chim ngừn đập. Trước cảnh tượng đau thương ấy, bông hoa cúc trắng nhỏ bé, cũng như đêm hôm trước, chẳng thể nào khép cánh ngủ nổi. Ốm đau, thương xót, cúc lả xuống đất.
Sáng hôm sau, các cậu bé lại đến. Thấy chim sơn ca đã chết, các cậu bé nhỏ lệ xót thương và đào hố chôn chim. Xác chim được đặt vào một chiếc hộp đẹp màu đỏ được chôn cất hết sức long trọng. Rồi các cậu lại đem rắc cánh hoa hồng lên trên nấm mộ.
Tội nghiệp cho chim! Khi chim còn sống và ca hát, người ta quên, để mặc cho nó chết khát trong lồng, chết rồi người ta mới khóc thương, ban cho những nghi lễ đầy vinh dự.
Mảnh cỏ cùng bông hoa cúc trắng bị người ta quẳng lẫn vào đám bụi ngoài đường cái. Chẳng ai nghĩ đến kẻ đã tha thiết yêu thương con chim non.

17. Bác làm vườn và nhà chủ

Cách thủ đô chừng một dặm đường có một toà lâu đài tường dày, các chòi đều có lỗ châu mai và mái nhọn. Đó là một lâu đài cổ hùng vĩ.
Một gia đình quý phái và giàu có chỉ ở đấy vào mùa hè. Trong tất cả các tài sản của họ, lâu đài này được coi như ngọc trai, châu báu. Người ta vừa mới tu bổ phía ngoài lâu đài, trang hoàng và bài trí làm nó rực sáng lên một màu tươi tắn mới tinh. Phía trong lâu đài có đầy đủ tiện nghi, chẳng thiếu một thứ gì. Bên trên cửa lớn có trạm trổ huy hiệu của gia đình. Những tràng hoa hồng mỹ lệ đục vào đá cuốn lấy những con vật quái dị trên tấm gia huy.
Đằng trước lâu đài là một bãi cỏ rộng. Người ta thấy ở đấy mọc lên giữa thảm cỏ xanh những chùm hoa Sơn Trà màu đỏ, hoa Sơn Trà Tử màu trắng. Những luống hoa hiếm có không kể đến những thứ hoa đẹp tuyệt vời mocj trong nhà kính và chăm sóc rất chu đáo.
Gia đình quý phái ấy có một người làm vườn tuyệt khéo, cho nên đi dạo chơi vườn hoa, vườn rau và vườn cây ăn quả là một điều khá thú vị. Đằng đầu vườn cây hãy còn một mảnh vườn của thời xưa. Đó là những bụi cây hoang đường và cây thuỷ tùng xén thành hình kim tự tháp và hình vành khăn. Phía sau là hai cây cổ thụ lớn . Chúng già đến nỗi hầu như không còn lá nữa. Người ta có thể tưởng tượng là một cơn giông hay cơn gió lốc đã bốc từng đám bùn và phân chuồng rắc lên trên cây, nhưng đó chỉ là các tổ chim chiếm cứ gần hết các cành.
Không biết từ thuở nào, cả một đàn quạ khoang và quạ đen làm tổ ở đấy, tụ họp lại như một đô thị. Những con chim ấy đã sinh cơ lập nghiệp trước tất cả mọi người, nên chúng có thể tự cho là chúa tể nơi đó. Và thật thế, chúng tỏ vẻ rất khinh thường cái bọn người đã đến chiếm đất đai của chúng. Tuy nhiên, khi những vật hạ đẳng không biết bay ấy bắn vài phát súng ở vùng lân cận thì quạ khoang và quạ đen thấy ớn xương sống, chuồn thẳng cánh và la lên: “Rạc, rạc.”
Bác làm vườn luôn nói với chủ về những cây cổ thụ, bàn nên đẵn đi vì chúng làm khu vườn mất cân đối, hơn nữa còn có cái lợi là thoát được cái đám chim kêu như đấm vào tai ấy, buộc chúng phải đi làm tổ nơi khác. Ông bà chủ không chịu nghe lời bác, không muốn mất cây cũng chẳng muốn mất lũ quạ. Họ bảo: “Đó là di tích của thời xưa đáng kính, không nên huỷ hoại đi.” Họ nói thêm: “Lacxen thân mến, anh có thấy rằng những gốc cây này là gia tài của lũ chim không? Lấy đi là sai đấy!”
Chắc chắn bạn đọc đã nắm vững Lacxen là tên bác làm vườn.
Nhà chủ nói tiếp:
– Dễ thường anh không có đủ chỗ để thi thố tài năng hay sao? Anh đã có cả một vườn hoa lớn, một nhà kính rộng và một vườn rau bát ngát. Anh cần thêm đất để làm gì?
Thực ra, không phải là bác thiếu đất. Bác đã cuốc xới đất rất khéo. Nhà chủ sẵn sàng công nhận điều đó. Tuy nhiên, họ cũng thường nói thẳng ra rằng thỉnh thoảng họ được trông thấy và được nếm ở các nhà khác những thứ hoa quả hơn hẳn hoa quả vườn nhà. Con người trung hậu ấy thấy buồn vì nhãng nhận xét ấy, vì bác rất thạo nghề và đã làm tận lực, luôn luôn nghĩ đến việc làm vừa lòng nhà chủ.
Một hôm, người ta cho gọi bác lên phòng khách và dùng giọng hết sức dịu dàng và nhân từ bảo bác rằng người ta đã được ăn những quả lê táo thơm ngon tuyệt vời đến nỗi tất cả quan khách đều khen ngợi. Nhà chủ tiếp tục nói thêm:
– Những quả ấy chắc hẳn không phải là giống quả của nước ta, mà là của nước ngoài đem về đây trồng. Người ta bảo là mua ở hàng bán hoa quả lớn nhất trong thành phố. Anh hãy lấy ngựa và đến nhà hắn ta xem hắn kiếm được những quả ấy ở đâu. Ta sẽ hco xin cành của loại cây ấy về ghép, còn thì tuỳ ở sự khéo léo của anh tiếp tục nốt công việc.
Bác làm vườn vui vẻ trả lời:
– Bẩm quan, chính những hạt giống dưa ấy là của tôi cho bác ta.
Quan lớn bèn nói:
– Nếu vậy thì anh ta biết cách trồng đặc biệt vì ta chưa từng được ăn dưa ngon như thế bao giờ. Mỗi lần nghĩ đến là ta lại chảy nước miếng.
Bác làm vườn nói:
– Như thế lại càng làm cho tôi vinh hạnh thêm nữa. Xin trình bày để quan lớn biết rằng năm nay bác làm vườn của Hoàng thượng trồng dưa không được may mắn lắm. Mấy hôm gần đây bác ấy có đến chơi với tôi. Bác ấy trông thấy dưa của tôi đẹp, và sau khi nếm thử, bác ấy đã xin tôi gửi cho ba quả để mang về dâng Đức vua.
– Không phải, không phải, anh Lacxen trung hậu của ta ơi! Chớ có tưởng tượng rằng những quả dưa kỳ diệu mà chúng ta ăn tối qua là dưa vườn anh.
Lacxen trả lời:
– Tôi tin chắc chắn như vậy và tôi sẽ có bằng chứng mang về để trình quan lớn.
Bác đi tìm bác làm vườn của nhà vua và bảo bác ta cấp giấy chứng nhận những quả dưa ăn trong bữa tiệc tại triều đình hôm ấy đúng là những quả mọc trong vườn kính của chủ bác.
Chủ bác ngạc nhiên không tả được. Họ chẳng giấu diếm gì chuyện ấy. Hơn nữa, ai muốn xem, họ đều phô tờ giấy chứng nhận cho xem.
Do đó người ta đến xin họ hạt giống dưa và cành giống các loại cây ăn quả rất đông. Các cây đem về đâu trồng cũng tốt, qủ mọc ra đều được khắp nơi goị bằng tên của chủ nhân lâu đài, đến nỗi cái tên đó lừng danh sang tận Anh, tận Đức, tận Pháp.
Có ai ngờ được đến như vậy?
Ông bà chủ của bác Lacxen bảo nhau:
– Cần nhất là lão làm vườn của chúng ta đừng tự đánh giá quá cao.
Nỗi lo ngại của họ không có căn cứ. Không những không kiêu hãnh vì đã được nổi tiếng mà không hề nghỉ ngơi, bác Lacxen lại hoạt động chăm chỉ hơn. Mỗi một năm bác lại cố gắng sáng tạo ra vài tác phẩm mới. Hầu như bác luôn luôn thành công. Nhưng bác vẫn còn phải nghe người ta nhắc đến luôn rằng chỉ có lê táo cái năm được mùa dạo nọ là những quả tốt nhất từ xưa đến nay. Dưa vẫn tiếp tục ra quả, những chẳng thơm bằng những quả dưa ra trong cung vua. Dâu ăn ngon thật, nhưng cũng không ngon bằng dâu của bá tước Z. Và đến năm củ cải hỏng thì người ta chỉ nói đến mấy củ cải đáng ghét ấy thôi. Còn những loại rau khác tốt hoàn toàn thì không được lấy một câu khen ngợi. Hình như nhà chủ cảm thấy thực sự hả lòng khi được kêu lên: “Sao củ cải tồi quá thế! Ừ, đúng đấy, năm nay xấu trời, chả trồng được cái gì tốt cả.”
Mỗi tuần, hai hoặc ba lần, bác làm vườn đem hoa lên trang hoàng phòng khách. Bác có nghệ thuật cắm hoa rất đặc biệt, bác khéo léo sắp xếp làm cho màu sắc hoa này tôn vẻ đẹp của hoa kia lên, làm cho hoa đẹp đến mê hồn.
Nhà chủ bảo:
– Ngươi có con mắt thẩm mỹ khá đấy, Lacxen thân mến ạ! Thật đấy! Nhưng chớ quên đó là do Đức chúa trời ban cho người từ khi mới lọt lòng, chứ bản thân mình thì chẳng có gì đáng kể đâu.
Một hôm, bác làm vườn lên phòng khách, mang theo một bình hoa to, có cắm những lá cây khô tôn, ở giữa xoè ra một đoá hoa lớn màu xanh lam rực rỡ.
Ông lớn thích thú reo lên:
– Thật là đẹp quá chừng! Trông cứ như một bông sen Ấn Độ ấy.
Ban ngày chủ bác để nó dưới nắng nom chói lọi hẳn lên. Đến tối họ dùng một ngọn đen pha để chiếu sáng cho nó. Người ta phô nó với tất cả mọi người, ai cũng ngắm nghía nó. Người ta tuyên bố rằng nó là một loại hoa hiếm có nhất, chưa từng thấy bao giờ. Ý kiến ấy lại là của một tiểu thư quý phái nhất trong nước. Nàng là công chúa con vua, đến thăm lâu đài. Ngoài ra nàng là người có tại trí và giàu tình cảm. Nhưng đối với địa vị của nàng thì đó chỉ là một chi tiết thừa. Ông lớn và bà lớn lấy làm vinh hạnh được biếu công chúa bông hoa kỳ diệu, bèn cho mang ngay bông hoa vào cung. Rồi họ ra vườn để kiếm bông khác cắm vào phòng khách. Họ đi khắp vườn, chui vào tận các xó xỉnh, nhưng vô hiệu. Ngay cả trong vườn kính cũng vậy, họ không tìm được một bông hoa nào như thế. Họ gọi bác làm vườn và hỏi bác lấy bông hoa màu lam đó ở đâu.
Bác Lacxen trả lời:
– Ông bà lớn không thấy nó là vì ông bà không tìm trong vườn rau. Không phải là một bông hoa đặc biệt gì đâu, nhưng tuy vậy nó cũng vẫn đẹp, đó chỉ là hoa rau Actisô thôi.
Ông bà lớn kêu lên:
– Trời đất ơi! Hoa rau Actisô ư? Nhưng đồ khốn, lẽ ra ngươi phải bảo ta ngay từ đầu. Công chúa sẽ nghĩ như thế nào? Chúng ta thật là mạn thượng đối với nàng. Thế là chúng ta mắc tội với triều đình rồi. Công chúa đã trông thấy cái hoa trong phòng khách nhà ta, nàng đã tưởng lầm rằng là một giống hoa hiếm có từ xa đưa về. Tuy nàng có giỏi về thực vật học, nhưng khoa học đâu có dạy về rau cỏ. Lacxen, ngươi nghĩ thế nào mà lại tống vào nhà ta một cái hoa quá tầm thường! Ngươi làm chúng ta trở thành láo xược lố lăng mất rồi!
Người ta kiềng không đặt lại vào phòng khách những bông hoa rau ấy nữa. Ông lớn và bà lớn chạy vội vào gặp công chúa để xin lỗi và trút tội lên đầu anh Lacxen đã có cái kiểu chơi lạ lùng và do đó đã bị một trận khiển trách nên thân.
Công chúa trả lời:
– Như thế là sai lầm, bất công. Đúng thế! Hắn dã làm ta lưu ý đến một bông hoa tuyêtj đẹp, mà ta không biết đánh giá cho đúng. Hắn đã làm cho ta tìm ra sức đẹp ở nơi mà ta không nghĩ đến. Thế mà các ngươi lại mắng hắn về việc ấy! Actisô ra hoa thì mỗi ngày ta yêu cầu hắn mang cho ta một bông vào cung!
Thế là xong. Về phía ngài của bác Lacxen, các vị vội vã bày lại bông hoa màu lam vào phòng khách và ở nơi trông thấy rõ ràng như lần trước.
Họ nói:
– Ừ, hoa này đẹp thật, chẳng ai dám chối cãi điều đó.Thật kỳ lạ, một cái hoa rau Actisô!
Bác làm vườn được khen! Nhà chủ bảo nhau:
– Ồ! Cái mà hắn thích nhất là những lời khen ngợi, ca tụng, hắn cứ như đứa bé được nuông chiều ấy.
Một ngày thu, một trận mưa bão dẽ dội nổi lên; càng về đêm gió càng tăng cho đến sáng. Trên rìa rừng cả một hàng cây lớn đã bị nhổ bật rễ. Hai gốc cây đầy tổ chim cũng bị lật nhào. Người ta nghe đến tận sáng tiếng kêu thất thanh, tiếng rít chói ta của những con quạ hoảng sợ đến đập cả cánh vào cửa sổ.
Nhà chủ nói:
– Lacxen! Thế là ngươi mãn nguyện nhé! Mấy cây cổ thụ đáng thương đã ngã ra kia rồi. Bây giờ chẳng còn vết tích gì của thời cổ nữa, tất cả đã bị phá huỷ hết, thật là vừa ý ngươi. Nhưng việc đó lại làm cho chúng ta buồn, thật thế đấy!
Bác làm vườn không trả lời, bác đã nghĩ ngay đến việc phải làm gì trên khoảnh đất mới đầy ánh nắng. Khi đổ xuống, hai cây to đã đè bẹp những bụi hoàng dương hình kim tự tháp, phải nhổ đi. Lacxen thay thế chúng bằng những loại cây con kiếm được trong rừng và ngoài đồng ruộng vùng ấy. Chưa có người làm vườn nào có sáng kiến ấy cả. Bác tập trung ở đấy cây đỗ tùng mọc ở đồi thạch thảo sứ Giuytlăng, giống hệt như cây trắc bá Ý-đại-lợi, cây ô rô quanh năm xanh tốt, những cây đuôi chồn giống như những cây dừa, những cây đuôi hổ trắng mà người ta dễ nhầm với những ngọn bạch lạp ở nhà thờ. Mặt vườn đầy những giống hoa đẹp của núi rừng và thảo nguyên nom thật đẹp mắt. Ở chỗ các cây cổ thụ mọc trước kia có dựng một cột cờ trên đó phất phới lá cờ của xứ Đanơbơrô, xung quanh cắm những con sào để cho các cây bốt bố leo lên vào mùa hè. Mùa đông đến ngày Nôen, theo phong tục cũ, bó lúa mạch được treo lên một ngọn sào để cho chim chóc cũng được phần ăn lễ.
Chủ bác làm vườn nói:
– Cái lão Lacxen này về già lại trở nên đa sầu đa cảm, nhưng lão ta vẫn là người đầy tớ trung thành và tận tuỵ.
Gần tết nguyên đán, một từ hoạ báo của kinh đô đăng một bức hoạ toà lâu đài cổ. Người ta trông thấy trong bức hoạ cột cờ Đanơbơrô và bó lúa mạch treo trên ngọn một con sào. Và trong bài báo người ta nêu bật lên cái đáng xúc động nhất là phong tục cổ đã tụ họp được chim chóc của Thượng Đế về dự cuộc vui chung trong ngày lễ Nôen. Người ta đã khen ngợi những người đã làm sống lại cái phong tục ấy.
Nhà chủ lại nói:
– Thực ra, cái gì mà lão Lacxen làm lập tức là người ta khen ngợi rùm beng ngay, hắn quả là có vận may. Chúng ta phải lấy làm hãnh diện nếu hắn vẫn bằng lòng làm cho chúng ta.
Đó cũng chỉ là một cách nói. Họ không hãnh diện chút nào và họ cũng không quên rằng họ là chủ. Nếu họ muốn, họ có thể đuổi bác làm vườn, làm bác có thể chết đi vì bác rất yêu quý cái vườn, vì thế họ không làm như vậy. Đó là những người chủ tốt đấy chứ? Nhưng nhân đức cái kiểu ấy thì cũng không đến nỗi hiếm lắm và thật may cho những người như bác Lacxen.

18. Cái bóng

Ở các xứ nóng, ánh nắng gay gắt hơn ở nước chúng ta nhiều lắm. Dân cư da dẻ đỏ sẫm như màu gỗ gụ. Ở xứ nóng hơn nữa, họ còn bị hun cháy đến nỗi đen xì cả người ra.
Nhà bác học kể trong chuyện này vừa từ những xứ lạnh tới sống ở những xứ phương Nam. Ông ta tưởng có thể dạo chơi như khi còn ở quê hương, nhưng lập tức phải bỏ ngay ý định ấy. Như những người biết nghĩ khác, ông ta phải ở tịt trong buồng. Các cửa đóng kín mít, nom cứ như cả nhà đang ngủ hoặc như một cái nhà hoang.
Khốn hơn nữa, nhà ông bác học này ở lại bị nắng rọi vào suốt ngày, từ sáng cho đến tối, thật không thể chịu được.
Nhà khoa học của chúng ta là một chàng trai trẻ rất lực lưỡng, nhưng vì nóng nực, ông ta đã lâm vào một tình trạng đáng sợ. Ông ta gầy đi rất nhiều, và ngay cái bóng của ông ta cũng tọp đi. Chưa bao giờ nó lại bé đến thế, cũng chỉ tại cái nóng thiêu người.
Chỉ có đến tối, khi mặt trời lặn, ông ta và cái bóng mới lại sức được đôi chút. Giờ phút ấy thật là sung sướng. Đèn trong phòng vừa thắp lên, cái bóng hình như cũng vươn ra để lấy lại sức. Nhà bác học ra bao lơn làm vài động tác thể dục và đến lúc các vì sao lấp lánh trên trời thì ông tưởng mình sống lại.
Lúc ấy, trên các bao lơn trong phố- ở các xứ nóng, nhà nào cũng có bao lơn, mọi người đều ra đấy hóng mát, ngay cả những người có nước da đen cũng vậy.
Thợ giày, thợ may, ai cũng ra phố đi chơi.
Người ta kê bàn ghế ra trước cửa, đâu đâu cũng có ánh đèn. Người chuyện trò, kẻ ca hát, kẻ đi xe, người đi bộ. Có những con la phi nước kiệu, nhạc đeo ở cổ kêu leng keng.
Cảnh nhộn nhịp trong các phố diễn ra thiên hình vạn trạng. Chỗ này trẻ con đang đồng ca. Xa hơn, một người đội mũ bù dài, mặc áo thụng, đang đưa đám ma và, gần như tiếp ngay vào đó, là một đội kèn đồng đang vui vẻ đi đến chỗ hoà nhạc.
Chỉ có mỗi ngôi nhà ở ngay trước cửa nhà ông bác học là vẫn im lặng.
Chắc là nhà vẫn có người ở, nếu không các cây trồng ngoài ắt là không thể sống và ra hoa được. Phải có người tưới chứ!
Chiều đến, cửa hé mở rất nhẹ nhàng, nhưng ngay cả những căn phòng trông ra ngoài phố cũng vẫn tối om. Từ phía nhà trong vọng ra tiếng âm nhạc.
Nhà bác học của chúng ta cho rằng thứ âm nhạc ấy thật là tuyệt diệu, nhưng đấy có lẽ cũng chỉ là một ý kiến thôi, vì ông ta thấy cái gì ở xứ này cũng tuyệt diệu cả, trừ cái nóng nực. Ông hỏi người chủ nhà xem nhà ai ở căn nhà trước cửa, nhưng ông này không hề biết, cũng chẳng nhìn thấy ai bên ấy bao giờ, còn tiếng nhạc thì ông ta cho là buồn tẻ một cách kinh khủng.
– Chắc đấy là một người nào đó muốn chơi một bản nhạc quá khó đối với trình độ mình, chơi không đạt nhưng vẫn cứ cố gắng.
Một đêm, nhà bác học bỗng giật mình tỉnh dậy. Khi ngủ bao giờ ông ta cũng để ngỏ cửa sổ, và gió vẫn nâng nhẹ một góc rèm. Lúc ấy, ông ta trông thấy một ánh sáng kỳ lạ, lấp lánh trên bao lơn nhà trước cửa. Các đoá hoa nom giống như những ngọn lửa, màu sắc chói lọi, rực chiếu lên mặt một cô gái tuyệt đẹp đang đứng ở giữa phố.
Nhà bác học lóa cả mắt, nhưng phải nói rằng tỉnh giấc ông đã giương đôi mắt hơi quá nên việc ấy cũng không có gì là lạ.
Ông nhảy ra khỏi giường, nấp sau cái rèm, nhìn sang nhà trước cửa. Người thiếu nữ và cả luồng ánh sáng kỳ diệu đã biến mất. Chỉ có hoa là vẫn còn đẹp như trước. Cửa bao lơn hé mở, bên trong vọng ra một điệu nhạc mê hồn.
Ai ở bên ấy nhỉ? Vào nhà bằng lối nào? Cửa đóng im ỉm, có cái nào mở ra phố đâu?
Một tối kia, nhà bác học đang đứng trên bao lơn. Trong phòng, đằng sau ông có thắp đèn, do đó, ông trông thấy cái bóng mình chiếu trên tường nhà trước mặt. Đúng, ông ta trông thấy cái bóng mình ở giữa những cây hoa trồng ngoài bao lơn và mỗi lần ông cúi xuống nó cũng cúi xuống, ngoan ngoãn, đúng như các cái bóng khác.
– Có lẽ cái bóng của mình là kẻ độc nhất sống trong căn nhà ấy. Nó ngồi giữa những cây hoa. Nhưng cửa bao lơn để ngỏ, sao nó không vào xem trong nhà có những gì rồi về kể lạu với mình?
Ông pha trò. Được, được, cứ vào đi!
Nói rồi ông ta gật gật cái đầu và cái bóng cũng gật theo.
Thế nào, vào đi chứ, sao lại cứ đứng ì ra mãi thế?
Ông ta đứng dậy và quay vào, buông rèm cửa xuống. Nhưng nếu có ai ở đây cũng sẽ trông thấy cái bóng cũng quay vào cửa bên kia và biến vào trong nhà.
Ngày hôm sau, nhà bác học ra phố uống cà phê và đọc báo. Ra giữa quãng nắng, ông ta bỗng kêu lên:
– Thế này là thế nào nhỉ? Mình không còn bóng nữa. Tối qua nó đã bỏ mình thật và không quay lại nữa rồi. Mình sẽ ra sao nhỉ?
Việc mất bóng làm ông ta thất đảm. Nếu chỉ mất cái bóng không thôi thì ông ta cũng không đến nỗi lo, nhưng ông ta lại biết câu chuyện người mất bóng mà trẻ con xứ lạnh đứa nào cũng thích. Khi ông ta trở về, nếu kể lại chuyện này, chắc mọi người sẽ cho là ông rập khuôn theo một câu chuyện mà ai cũng biết cả và như thế thì thật là khó chịu vô cùng. Bởi vậy, ông quyết định không đả động gì đến chuyện ấy. Đó là thượng sách.
Đến tối, ông lại ra bao lơn, sau lưng vẫn thắp đèn. Hết thu mình lại vươn mình ra, nhưng công toi. Cái bóng không hiện ra nữa. Nhà bác học hậm hực: “Hừ! Hừ! Vô hiệu!”
Thật là khó chịu, nhưng chả là ở xứ nóng cái gì mọc cũng rất nhanh, nên sau tám ngày, nhà bác học rất vui mừng nhận thấy khi ra nắng, lại có một cái bóng mới dưới chân mình, chắc là rễ cái bóng cũ còn sót lại. Sau ba tuần, ông đã có một cái bóng tương đối vừa vặn, khi về đến các xứ phương Bắc chắc nó còn lớn hơn nữa.
Trở về quê nhà, nhà bác học viết sách nói về Chân, Thiện, Mỹ trên đời này.
Ngày qua tháng lại và nhiều năm đã qua. Một buổi tối, ông đang làm việc trong phòng, bỗng có người gõ cửa.
– Xin cứ vào.
Nhưng chẳng có ai vào. Ông bèn ra mở cửa. Trước mặt ông là một người gầy gò, làm cho ông động lòng trắc ẩn. Cũng cần nói thêm là người đó ăn mặc rất sang trọng, chắc hẳn phải thuộc hàng thượng lưu trong xã hội.
Nhà bác học hỏi:
– Xin ngài cho tôi biết quý danh…
Người kia đáp:
– Tôi biết ngay là ông không thể nhận ra tôi được. Tôi đã phổng phao lên được một tí, bây giờ đã có xương có thịt. Hừ! Chắc ông không thể tưởng tượng được sẽ gặp tôi đẫy đà như ngày nay. Ông không nhận được cái bóng của ông nữa ưu? Dĩ nhiên ông không thể ngờ rằng tôi sẽ quay trở về.
Chỉ có từ khi tách ra khỏi ông tôi mới có hạnh phúc và không có điều gì phải phàn nàn cả. Nếu cần phải chuộc lại tự do thì bây giờ đã có điều kiện.
Nói rồi hắn lắc những tư trang lủng lẳng ở sợi dây đeo chiếc đồng hồ quả quýt và đặt tay lên sợi dây chuyền vàng to tướng đeo ở cổ. Ngón tay nào của hắn cũng lấp lánh nhẫn kim cương thật. Cái bóng nói:
– Chuyện tôi đâu có phải chuyện thường. Còn ông nữa, ông cũng chẳng phải là người như kẻ khác. Khi ông đã cho phép tôi từ bỏ ông, tôi đã không ngần ngại, và ông xem đây, tôi đã làm nên. Tuy nhiên, sung sướng đến thế này rồi, tôi vẫn muốn gặp lại ông và quê hương trước khi chết. Tôi biết ông đã có một cái bóng mới. Liệu tôi có phải trả cho nó một khoản trợ cấp vì nó đã thay tôi hay không? Và nếu tôi muốn chuộc thân thì liệu phải trả ông bao nhiêu?
– Có thật là mi không nhỉ? Ngay cả khi ngủ mê ta cũng không bao giờ tưởng tượng thấy cái bóng của một con người lại có thể trở về hình thức của một con người thật.
– Hãy cho tôi biết tôi phải trả bao nhiêu, vì tôi muốn dứt nợ với ông.
-Mi nói gì thế? Nợ với nần gì? Mi có quyền tự do như tất cả mọi người. Ngồi xuống đây, bạn cũ! Kể cho ta nghe một chút về chuyện phiêu lưu của mi, những cái vui đã thấy ở những xứ nóng nhất là trong căn nhà trước cửa nhà ta ở ngày nọ.
Cái bóng vừa ngồi xuống vừa nói:
– Được lắm, nhưng ông phải hứa với tôi là không kể cho ai trong thành phố biết tôi là cái bóng của ông. Tôi đang định lấy vợ vì bây giờ tôi thừa sức để nuôi cả một gia đình.
-Được, chớ có sợ. Nhất định ta sẽ không nói cho ai biết mi là cái gì. Nói đi, ta hứa sẽ giữ đúng. Quân tử nhất ngôn.
-Bóng này cũng chả kém.
Cũng nên xem cái bóng đã trở thành con người thực sự như thế nào. Nó mặc áo quần đen bằng thứ vải hảo hạng và đi ủng bóng nhoáng. Nó đội một cái mũ cao có lò xo, có thể ấn bẹp xuống như một chiếc bánh. Đó là một thứ mũ kiểu mới nhất. Nó bắt đầu nói:
– Tôi kể cho ông nghe. Vừa nói nó vừa dẫm đôi ủng bóng nhoáng lên trên cái bóng mới của nhà bác học, lúc này đang nằm dưới chân ông như một con chó xù. Bóng này sợ bóng kia thèm muốn đôi ủng của mình, nhưng cái bóng nằm dưới đất vẫn cứ im lìm mà nghe chuyện. Nó muốn nghe xem làm thế nào để được tự do và tự mình làm chủ được mình.
“Ông có biết ai sống trong căn phòng trước cửa ấy không? Thưa, chính là Nàng Thơ, con người thi vị nhất đời. Tôi chỉ sống trong nhà nàng có ba tuần thôi, nhưng còn hơn ba trăm năm đọc thơ và sách vở uyên bác. Tôi đã nhìn thấy và hiểu tất cả mọi việc trên đời.”
Nhà bác học reo lên:
– Nàng Thơ!
– Phải, đúng như thế! Nàng vẫn thường sống ẩn dật trong những thành phố lớn.
-Nàng Thơ! Ta chỉ được thấy nàng có một lần mà đến giờ vẫn còn lưu luyến. Nàng đứng trênn bao lơn và rực sáng lên như một vầng bắc cực quang!…Kể tiếp đi! Hôm ấy mi đang đứng ở bao lơn, mi quay vào, rồi sao nữa?
-Thế là vào đến một căn buồng đợi hơi tối tôi trông thấy một dãy phòng thông luôn với nhau đen đuốc sáng loá cả mắt. Tôi không dám mạo hiểm vì sợ vào đó thì không còn là cái thân bóng này nữa. Tôi đã học được tính cẩn thận của ông. Tôi nép vào một xó và xem xét.
-Thế rồi mi thấy những gì?
-Tôi cho là đã trông thấy tất và sắp kể cho ông nghe đây. Nhưng tôi yêu cầu ông một điều. Và ít ra ông cũng chớ cho là tôi kiêu ngạo. Ông có thể thôi không mày tao chí tớ với tôi được chứ?
-Xin lỗi, đó chỉ là thói quen từ lâu thôi, anh cũng biết chứ! Kể tiếp đi!
-Xin vâng, tôi đã trông thấy và biết tất.
-Thế nào? Những căn phòng bên trong ra làm sao? Nom giống như một cánh rừng hay một toà thánh thất? Hay là giống như bầu trời đây sao?
-Giống như thế và còn giống nhiều thứ khác nữa. Tôi không vào mà đứng ngoài phòng đợi, nhưng đấy là một chỗ rất tốt, vì tôi nhìn thấy tất. Cứ đứng đấy thôi cũng như là đứng trong cung điện của Nàng Thơ.
-Nhưng anh đã trông thấy cái gì kia chứ? Anh có thấy các vị thần, các anh hùng hiệp sĩ đang tranh hùng và các trẻ em đang kể các giấc mơ của chúng không?
-Tôi đã nói với ông là tôi đứng đấy mà lại. Tất nhiên tôi nhìn thấy tất cả chứ lị. Giá lúc ấy ông ở vào địa vị tôi thì ông sẽ trở thành siêu nhân. Nhưng một cái bóng như tôi thì chỉ có thể tiến lên thành một con người được thôi. Thế nhưng đặc tính của con người là ích kỷ, nên tất nhiên là tôi không kể tất cả những điều mà tôi biết cho ông nghe đâu.
“Chính trong cái phòng đợi ấy, lần đầu tiên tôi đã nhận ra được bản chất thực sự của tôi. Cũng giống như Nàng Thơ, tôi chỉ là một ánh phản xạ. Ông nên nhớ là lắm khi tôi còn to hơn cả ông và dưới ánh trăng người ta nhìn thấy tôi rõ ràng hơn.
Thành người rồi, tôi bỏ nhà của Nàng Thơ và rời thành phố ra đi. Một buổi sáng đẹp giời kia, tôi ra phố, ăn mặc như một ông hoàng. Thoạt đầu, tôi lấy làm sửng sốt về con người tôi lúc ấy và đứng nép vào một xó trong một ngõ hẻm. Đến tối, tôi đi dạo các phố dưới ánh trăng. Tôi trèo lên các bờ tường, các mái nhà để nhìn vào bên trong qua các cửa sổ phòng khách và các gác xép. Do đó, tôi đã nhìn thấy những thứ mà trên đời này không ai nhìn thấy. Chao ôi! Thật ra bảo rằng thiên hạ tồi lắm cũng có lý, và tôi thấy làm người cũng chẳng vinh dự gì cho lắm. Tôi đã thấy đàn bà cũng như đàn ông, cha mẹ cũng như con cái, làm nhiều việc xấu không thể tưởng tượng được.
Cái bóng tiếp:
– Phải, tôi đã trông thấy tất cả những thứ mà bất cứ người nào cũng không nên biết, nhưng ai cũng mong muốn, là làm hại người đồng loại. Chao ôi! Tôi mà viết được tất cả những việc đó lên một tờ báo cho mọi người đọc thì phải biết!
Thế là tôi luôn luôn lui tới mọi nơi.
Người ta sợ tôi nên đối đãi tử tế với tôi. Các vị giáo sư gọi tôi là đồng nghiệp. Các bác thợ may biếu tôi quần áo mới, các nhà buôn tặng tôi những sản vật đẹp nhất của họ, phụ nữ cho tôi là tuyệt mỹ. Cứ như thế, tôi đã trở thành như ngày nay. Thôi, tôi phải đi đây. Danh thiếp của tôi đây. Tôi ở phía có mặt trời, khi trời mưa, bao giờ tôi cũng ở nhà.” Ngày tháng trôi qua đã mấy năm.
Bỗng nhiên cái bóng trở lại. Nó hỏi:
– Dạo này ông thế nào rồi?
Nhà bác học đáp:
– Ồ! Tôi viết nhiều sách về Chân, Thiện, Mỹ nhưng ngày nay chẳng có ai để tâm đến điều ấy cả. Tôi khổ tâm lắm.
-Tôi chẳng phải bận tâm, vì thế tôi béo ra. Vả chăng những người khôn đều làm như tôi cả. Ông chẳng ưu thời mẫn thế chút nào. Cứ thế mãi thì đến ốm mất thôi. Đi du lịch đi. Vừa hay tôi cũng sắp đi đây. Ông có muốn cùng đi với tôi không? Tôi cũng thích có một người bạn đồng hành. Ông có muốn là cái bóng của tôi không? Tôi rất thích như thế và sẽ chịu lộ phí cho ông.
-Như thế phiền quá!
-Ôi dào! Nghĩ ra sao thì nó ra làm vậy thôi. Đi du lịch một chuyến sẽ khỏe người ra đấy.
-Nhưng ta là cái bóng của anh thì thật là hỗn xược!
-Đời là như thế và sẽ mãi mãi là như thế đấy.
Cái bóng bỏ đi.
Kỳ thực, nhà bác học không được khỏe. Ông đang phải nghĩ ngợi và buồn phiền vì thái độ của công chúng đối với những điều ông viết về Chan, Thiện, Mỹ chẳng hơn gì con bò cái đối với quả nhục đậu khấu.
Cuối cùng, đâm ra ông ốm thật.
Bạn bè bảo ông:
– Trông anh gần giống một cái bóng rồi đấy.
Nghe vậy, nhà bác học giật nảy mình.
Cái bóng quay trở lại và bảo ông:
– Ông phải ra biển mới được. Không còn phương thuốc nào khác nữa. Lấy tình bạn cũ, tôi sẽ đưa ông đi. Tôi chịu tiền phí tổn đi đường, còn ông, ông sẽ viết một thiên du ký về cuộc du lịch này. Cả tôi nữa, tôi cũng cần ra biển vì râu tôi không chịu mọc nữa rồi, đấy cũng là một bệnh. Người ta cần phải có râu mới được. Biết điều một tí, nhận lời đi. Chúng ta sẽ cùng nhau du lịch như bạn bè thôi mà!
Thế là họ lên đường. Bây giờ cái bóng là ông chủ, và ông chủ lại là cái bóng. Họ đi kề bên nhau, người nọ trên người kia, đằng trước hoặc đằng sau người kia, tuỳ theo vị trí của mặt trời.
Cái bóng luôn luôn tìm cách chơi trịch thượng.
Nhưng nhà bác học không để ý đến. Ông cảm thấy trong người sảng khoái và một hôm, ông bảo bóng:
-Vì mi là bạn đồng hành của ta và đã ở với ta từ lâu, chúng ta hãy uống một bữa chúc mừng tình bạn thân thiết như anh em của chúng ta.
-Ông nói gì thế?- Cái bóng cự lại, vì đã tự coi mình là ông chủ. Là một nhà bác học chắc hẳn ông phải biết con người ta thật là kỳ lạ. Có kẻ thấy người khác vò một tờ giấy cũng không chịu nổi, lại có kẻ rùng cả mình mỗi khi nghe thấy tiếng móng tay cạo trên cửa kính. Thưa rằng: Nếu ông lại mày tao chí tớ, tôi cũng rợn mình chẳng kém. Nhưng nếu ông muốn chúng ta mày tao chí tớ với nhau thì được, dễ thôi. Tôi sẽ mày tao chí tớ với ông.
Và từ lúc đó trở đi, cái bóng bắt đầu mày tao với chủ cũ.
Nhà bác học nghĩ thầm: “Từ nay trở đi, trong khi mình gọi nó bằng anh, nó lại mày tao với mình thì quá lắm.”
Nhưng dù muốn hay không, ông ta cũng đành phải bỏ qua chuyện ấy.
Họ tới một thành phố bên bờ biển. Ở đấy có rất nhiều người ngoại quốc, đặc biệt là một nàng công chúa nhan sắc tuyệt vời. Nàng tới đó để chữa bệnh. Nàng mặc bệnh mắt nhìn quá sắc, thành thử nhìn cái gì cũng rõ quá, nên không bao giờ trông lầm cả. Nàng nhận ngay ra rằng người khách mới tới không giống những kẻ khác. Nàng nói:
– Người ta bảo anh ta đến đây để chữa bệnh về râu, nhưng ta biết anh ta bị bệnh gì rồi, anh ta không có bóng.
Điều đó khêu gợi trí tò mò của nàng, và trong một buổi dạo chơi, nàng làm quen với người khách lạ. Nàng hỏi ngay:
-Ông mắc bệnh không có bóng, đúng không?
-À, kính thưa công nương, bệnh công nương sắp qua khỏi rồi đấy. Tôi biết công nương mắc bệnh nhìn quá rõ, nhưng bệnh đã thuyên giảm thì phải, vì công nương không thấy tôi có một cái bóng rất đặc biệt. Công nương có trông thấy cái người vẫn đi theo tôi không? Người khác thường có bóng giống hệt mình. Còn tôi, tôi không ưa những gì tầm thường. Cũng tựa như người ta cho đầy tớ một bộ dạng đẹp hơn bộ mình đang mặc, tôi đã dùng ngay một người có bóng làm bóng của tôi. Chơi thế kể cũng ngông, nhưng tôi không ưa những gì thông thường.
Công chúa tự hỏi:
– Mình đã khỏi rồi chăng? Tắm biển ở đây thật là tuyệt. Nước biển thời nay quả có công dụng phi thường. Nhưng mình cũng chưa muốn rời khỏi nơi này vội. Miễn là râu anh ta đừng mọc vội, kẻo anh ta lại đi mất.
Đến tối, công chúa và cái bóng đã đi một bài van-xơ với nhau trong phòng khiêu vũ rồi. Nàng nhảy rất nhẹ nhàng, nhẹ đến nỗi cái bóng chưa hề thấy vũ nữ nào nhảy tài đến như vậy. Họ trò chuyện với nhau. Nàng cho hắn biết quê hương mình. Cái bóng biết xứ ấy, vì ngày trước nó đã từng đi du lịch qua, nhưng hồi đó công chúa đi vắng. Như vẫn thường làm ở mọi nơi, cái bóng đã từng leo qua cửa sổ cung điện, dòm qua cửa sổ và kẽ rèm, nên nó đã biết cặn kẽ cả những điều nhỏ nhặt nhất sâu kín trong cung, làm công chúa rất đỗi ngạc nhiên khi nghe nó kể lại. Nàng tự nhủ:
-Thật là một con người tài trí nhất trần gian này.
Nhảy đến lần thứ hai với cái bóng, nàng cảm thấy gần như yêu nó mất rồi, nhưng nàng còn đủ khôn ngoan nghĩ đến Tổ quốc, ngôi báu và trăm họ mà nàng sẽ cai trị sau này. Nàng nghĩ thầm:
– Thật là một người có tài, anh ta khiêu vũ giỏi tuyệt. Nhưng mặt khác cũng phải xem anh ta tài cao học rộng ra sao. Phải điều tra mới được.
Thế là nàng bắt đầu hỏi cái bóng về những vấn đề rất khó mà chính nàng cũng không giải đáp được.
Thái độ bóng rất kỳ lạ.
Công chúa hỏi:
– Ông không giải đáp được hay sao?
Cái bóng đáp:
-Có chứ, tôi hiểu rõ vấn đề ấy đến nỗi ngay cả cái bóng của tôi đang đứng ở gần cửa kia cũng có thể giải đáp cho nàng được.
-Cái bóng của ông đấy ư? Thế thì kỳ lạ nhỉ?
-Tôi không dám nói chắc với nàng rằng nó có thể trả lời được hay không, nhưng tôi tin là được. Nó theo lời tôi đã bao nhiêu năm nay rồi kia mà. Nhưng tôi xin báo trước để công nương biết rằng cái bóng của tôi rất kiêu ngạo, phải coi nó như một người thật và làm sao để nó vừa lòng thì nó mới trả lời tử tế.
-Tôi lại ưa cái lối kiêu ngạo ấy kia đấy!
Công chúa đến bên cửa gặp nhà bác học. Nàng trao đổi với ông ta về mặt trời, mặt trăng, về thể chất và tâm hồn con người, và được nhà bác học giải đáp cho được nhiều vấn đề quan trọng và bổ ích.
Nàng nghĩ thầm:
-Cái bóng của anh ta còn như thế, chắc anh ta phải giỏi lắm. Mình mà lấy anh ấy thì thật vạn hạnh cho nước ta và trăm họ.
Nàng ngỏ ý với cái bóng, nhưng hai bên giao ước với nhau và giữ bí mật chuyện này cho đến khi công chúa trở về nước nhà.
-Không, không nói với bất cứ một ai, ngay cả với cái bóng của tôi nữa. Cái bóng nói thế, vì xét cho cùng, nó thấy phải làm như thế mới ổn.
Thế là cái bóng và nhà bác học đi sang xứ sở của công chúa. Hắn bảo nhà bác học:
-Này ông bạn quý, hãy nghe đây. Ta đã trở nên sung sướng và quyền thế. Ta muốn cho mi giàu có. Ta sẽ cho mi ở trong lâu đài của ta, ngồi xe loan của ta và đi chơi và hàng năm cấp cho mi mười vạn đồng tiền vàng, với điều kiện mi nhận làm cái bóng của ta và không được tiết lộ chuyện trước kia mi đã là người. Mỗi năm một lần, khi trời nắng, mi sẽ phải đến nắm dưới chân ta như một cái bóng, vì ta cần phải bảo cho mi biết: Ta lấy công chúa và tối nay sẽ làm lễ cưới.
Nhà bác học kêu lên:
– Không, không được, như thế thì quá lắm! Ta sẽ không làm chuyện ấy và cả mi cũng vậy. Như thế là lừa dối công chúa và trăm họ. Ta sẽ nói cho mọi người biết rằng ta mới chính thực là người, còn mi chỉ là một cái bóng, ăn mặc quần áo để đội lốt người.
-Chẳng ai thèm tin mi đâu! Hãy biết điều một chút! Kẻo ta gọi lính gô cổ mi lại đấy.
-Ta sẽ đi tìm công chúa đây.
-Ta sẽ đến gặp nàng trước mi, ta sẽ tống cổ mi vào ngục.
Việc đó được thực hiện ngay lập tức, vì lính thị vệ biết cái bóng sắp lấy công chúa nên tuân lệnh nó.
Thấy cái bóng đi tới, công chúa vội hỏi:
-Sao chàng run đến thế? Có việc gì vậy?
-Tôi vừa chứng kiến một việc đáng sợ nhất đời. Nàng thử tưởng tượng xem: cái bóng của tôi phát điên! Nó tự xưng là người, và tệ hơn nữa, nó bảo tôi là cái bóng của nó.
-Khiếp quá nhỉ? Giam nó lại rồi chứ?
-Vâng, nhưng tôi e rằng chẳng bao giờ nó khỏi bệnh điên ấy.
-Tội nghiệp cho cái bóng! Thương thay cho nó. Nếu ncó tiêu ma nó khỏi cõi đời này cũng là phúc cho nó! Theo luân thường đạo lý thời nay, nếu ta làm điều bất công thì sẽ bị người đời bình phẩm. Vậy có lẽ nên bí mật thủ tiêu nó thì hơn.
Cái bóng thở dài:
-Thật khó mà đang tâm đối với một tên hầu trung thành như nó.
Công chúa reo lên:
-Chàng thật là cao thượng lắm thay!
Đến tối, thành phố sáng trưng, súng thần công nổ ầm ầm vang dội. Lễ cưới tưng bừng. Quân lính bồng súng chào. Công chúa và cái bóng bước ra bao lơn để ra mắt thần dân tung hô chúc tụng thêm nữa.
Nhà bác học đáng thương chẳng hề được nghe những lời hô ấy. Người ta đã giết ông ta mất rồi.

19. Chiếc bật lửa

Một anh lính đang đi trên đường cái. Một, hai! Một, hai! Bọc đồ trên lưng và gươm cạnh sườn, anh vừa tham chiến về, đang trên đường trở lại quê hương.
Dọc đường, anh bỗng gặp một mụ phù thuỷ già. Nom mụ thật gớm ghiếc. Môi dưới trễ xuống đến tận ngực. Mụ đon đả:
– Chào thầy quyền! Thầy có cái gươm đẹp quá, lại có cái kích to đến thế! Thầy có cần tiền không? Muốn bao nhiêu già này cũng cho.
Anh lính đáp:
– Thế thì cảm ơn bà mẹ lắm!
– Anh có nom thấy cái cây to này không? Nó rỗng giữa đấy. Leo lên ngọn cây, anh sẽ thấy một cái lỗ, chui vào là tụt được xuống đến đáy. Ta sẽ buộc chiếc thừng này vào người anh, hế anh gọi là ta kéo lên.
Anh lính hỏi:
– Xuống đến đó rồi làm gì nữa, hở bà mẹ?
– Anh sẽ thấy một con đường rộng, sáng trưng vì có thắp những hơn một trăm ngọn đèn. Anh cũng sẽ trông thấy và phải mở ba cái cửa. Chìa đã cắm sẵn ở ổ khoá rồi đấy. Vào đến căn phòng thứ nhất, có một con chó ngồi trên mặt hòm. Mắt nó to bằng cái chén tống uống nước, nhưng chớ có sợ. Này! Cầm lấy cái tạp dề kẻ ô xanh này của ta. Anh sẽ trải xuống đất, xong đi thẳng tới chỗ con chó, giữ lấy nó rồi mở hòm ra, muốn lấy bao nhiêu silinh thì lấy, lấy bằng thích thì thôi. Đấy là tiền bằng đồng, còn nếu anh thích bạc hơn thì sang buồng bên cạnh. Bên ấy có một con chó mắt to bằng cái bánh xe cối xay, nhưng chớ có lo ngại gì. Lấy cái tạp dề mà túm lấy nó rồi cứ thế mà lấy bạc. Nếu muốn lấy vàng thì bao nhiêu cũng có, chỉ sợ anh không có sức mang thôi, nhưng phải sang căn phòng thứ ba. Có điều là con chó ngồi trên hòm tiền vàng lại có đôi mắt to như những cái tháp tròn cơ đấy. Gớm! Chó đấy thì có một không hai! Đừng sợ. Lại lấy cái tạp dề mà túm lấy nó. Nó sẽ chẳng làm gì được, và anh sẽ tha hồ lấy vàng trong hòm.
Anh lính bảo:
– Bà mẹ nói nghe được đấy. Nhưng tôi phải trả lại cho bà mẹ cái gì cơ? Chắc bà mẹ cũng sắp đòi tôi điều gì chứ chẳng để không đâu.
Mụ đáp:
– Không, tôi chẳng đòi gì anh đâu. Tôi chỉ muốn nhờ anh lấy lên cho tôi chiếc bật lửa của bà tôi lần trước xuống đấy để quên thôi.
Anh lính bằng lòng.
– Được, buộc dây thừng vào người tôi đi.
Mụ già mừng rỡ:
– Có ngay, còn đây, cái tạp dề kẻ ô xanh đây.
Anh lính trèo lên cây, chui vào bên trong thân cây và tới một con đường lớn có thắp hàng trăm ngọn đèn.
Anh mở cái cửa thứ nhất. Eo ôi! Trong ấy có con chó mắt to bằng cái chén tống uống nước. Nó đang nhìn anh chằm chằm.
– Này đây, quỷ sứ nhà giời!- Anh lính vừa nói vừa lấy cái tạp dề của mụ phù thuỷ trùm lấy con chó, rồi lấy tiền silinh bằng đồng bỏ vào bọc đầy ứ, không nhét được nữa mới thôi. Sau đó anh đóng hòm lại cẩn thận, đặt con chó vào chỗ cũ rồi qua căn phòng thứ hai. Bên trong lại có một con chó khác, mắt to tựa đôi bánh xe cối xay. Anh lính bảo:
– Sao mày cứ nhìn tao trừng trừng thế? Khéo không có đau mắt đấy!
Anh quăng cái tạp dề của mụ phù thuỷ trùm lên con chó, rồi thấy hòm đựng đầy tiền bạc, anh vội vứt hết đám silinh bằng đồng ban nãy đi và ních tiền bằng bạc đầy bọc và túi quần áo.
Thế rồi anh vào căn phòng thứ ba. Khiếp quá! Đúng là có con chó mắt to bằng những tháp tròn đang chồm chỗm ở đấy thật! Mắt nó cứ đảo tít như bánh xe đang lăn thế này này!
Anh lính đưa tay lên mũ và cất tiếng:
– Chào mày!
Anh chưa bao giờ trông thấy con chó nào như thế. Anh nhìn nó một lúc rồi nói: “Thôi xin đủ!” và lấy cái tạp dề để trùm lên nó. Sau đó anh mở hòm. Ối giời ơi! Toàn những vàng là vàng! Nhiều đến nỗi đủ để mua tất cả kinh thành Côpenhagơ, tất cả của ngọt của các bà già bán kẹo, tất cả của ngọt của các bà già bán bánh kẹo, tất cả các chú lính chì, tất cả những con quay trên thế gian này!
Số tiền bằng bạc lấy đầy bao và túi quần áo ở buồng bên anh lính vất đi lấy vàng nhét thay vào. Anh còn tống thêm vào mũ và quần nịt đến nỗi gần như không bước đi được nữa.
Anh lại đặt con chó lên mặt hòm, đóng cửa buồng và cất tiếng to gọi mụ phù thuỷ:
– Kéo tôi lên đi thôi!
Mụ hỏi:
– Anh đã cầm chiếc bật lửa chưa?
Anh lính đáp:
– Ồ, chết chửa, tôi quên khuấy đi mất!
Anh quay lại lấy cái bật lửa. Rồi mụ phù thuỷ kéo anh ta lên và…anh lại đang đứng giữa đường cái. Anh hỏi:
– Bà mẹ lấy cái bật lửa này làm gì thế?
Mụ đáp:
– Không việc gì đến anh. Lấy được tiền rồi thì giả ta cái bật lửa đây.
Anh lính cương quyết:
– Không! Nói ngay cho ta biết mụ định lấy chiếc bật lửa làm gì, không thì ta rút gươm chém cổ mụ bây giờ.
Mụ phù thuỷ vẫn khăng khăng:
– Không được!
Thế là anh lính liền chặt phăng ngay đầu mụ. Sau đó anh lấy cái tạp dề của mụ gói tất cả tiền lại, vác lên vai, giấu chiếc bật lửa vào túi áo rồi ra thành phố.
Đó là một thành phố đẹp. Anh vào một khách sạn sang trọng nhất, thuê một căn phòng lịch sự nhất và gọi một bữa cơm đắt tiền nhất. Anh có thể tự cho phép mình làm như thế, vì bây giờ anh đã giàu có.
Câu bé đánh giày nói rằng đôi ủng của anh cũ quá, không xứng đáng với một vị phú ông như anh. Tại anh chưa có thì giờ đi mua giày mới chứ! Nhưng đến ngày hôm sau, anh đã có đôi ủng mới tinh và quần áo cực đẹp. Anh lính của chúng ta đã trở thành một nhân vật quan trọng. Người ta nói cho anh biết tất cả những cái gì đáng xem, đáng để ý đến trong thành phố, và có nói cả đến nhà vua và nàng công chúa đẹp tuyệt vời.
Anh hỏi:
– Có thể gặp nàng được không?
Người ta trả lời anh:
– Không thể được. Công chúa ở trong một toà lâu đài tứ phía có tường thành và tháp canh bao bọc. Trừ vua ra không một ai đến gặp nàng được, vì có người nói là số nàng phải lấy một anh lính tầm thường, và nếu thật thế thì đức vua sẽ vô cùng đau khổ.
Anh lính nghĩ thầm:
– Giá mà mình được gặp nàng! Nhưng làm thế nào được bây giờ?
Anh sống một cuộc đời ăn chơi, vào khắp các rạp hát, đi vào vườn thượng uyển bằng xe ngựa bốn bánh. Anh hay bố thí cho kẻ nghèo vì anh thường nhớ đến những năm cơ hàn, bản thân anh không có lấy một xu dính túi. Ngày nay, anh đã giàu có, ăn mặc sang trọng, có nhiều bạn bè, nói tóm lại là một phong lưu công tử toàn thiện toàn mỹ. Anh lấy thế làm vẻ vang lắm.
Nhưng vì cứ có tiêu mãi mà không kiếm ra được đồng nào nên đến một hôm anh chỉ còn có hai silinh thôi. Anh đành phải rời bỏ những căn phòng sang trọng đến ở một căn gác xép nhỏ xíu sát mái nhà, phải tự mình đánh bóng lấy đôi ủng và tự tay đính lại các khuy áo. Không có ông bạn nào đến thăm anh cả, cũng một phần vì phải leo thang gác nhiều quá.
Một buổi trời tối đen như mực (anh không còn tiền mua nến nữa) anh ta bỗng nhớ ra là mình còn cái bật lửa con nhặt ở dưới đáy cái cây dạo nọ. Anh lấy nó ra và bật lên. Khi những tia lửa vừa phát ra từ viên đá thì cửa bỗng mở, con chó có đôi mắt to như đôi chén tống uống nước bước ra và bảo anh:
– Ông muốn sai gì tôi?
Anh lính sửng sốt:
– Gì thế này? Cái bật lửa thần diệu quá! Ta muốn gì cũng được à? Thế thì lấy tiền về đây cho ta!
Con chó đi trong nháy mắt rồi trở lại, mõm ngậm một cái túi to tướng đựng đầy silinh.
Giờ thì anh lính đã biết phép màu của chiếc bật lửa. Nếu anh bật một cái tức khắc hiện ra con chó ngồi trên hòm đựng tiền silinh đồng, bật hai cái là gọi con chó giữ tiền bằng bạc, bật ba cái là gọi con chó giữ tiền vàng.
Anh lính của chúng ta lại trở về những căn buồng lịch sự và lại diện quần áo sang trọng. Tất cả các bạn anh lại đến thăm anh và quả quyết rằng họ rất yêu mến anh.
Một hôm, anh tự nhủ:
– Thật lạ quá, sao người ta lại không được gặp nàng công chúa phi thường ấy nhỉ? Ai cũng nói rằng nàng đẹp lắm, nhưng nếu cứ cấm cung trong toà lâu đài thì đẹp mà làm gì? Liệu ta có thể gặp được nàng không? Bật lửa của ta đâu nhỉ?
Anh bật một cái. Xoẹt! Con chó mắt to bằng cái chén tống uống nước hiện ra trước mặt anh. Anh lính bảo:
– Kể cũng hơi muộn, nhưng ta muốn gặp nàng công chúa, một lát thôi cũng được.
Anh vừa dứt lời, con chó đã vọt ra cửa và trở về ngay, trên lưng cõng nàng công chúa đang thiêm thiếp giấc nồng. Nàng đẹp đến nỗi thoạt trông thấy ai cũng biết ngay nàng là một vị công chúa. Anh lính không thể đừng, ôm lấy nàng mà hôn, theo kiểu các thầy quyền chính cống. Con chó lại đem trả nàng về ngay lập tức. Nhưng sáng hôm sau, lúc uống trà, công chúa tâu với vua cha và hoàng hậu là nàng đã mơ một giấc mơ kỳ lạ về một con chó và một anh lính. Nàng đã cưỡi trên lưng con chó và anh lính đã hôn nàng.
Hoàng hậu bảo:
– Chuyện kỳ quái thật!
Một người cung nữ già được lệnh ngồi cạnh bên giường công chúa suốt đêm hôm sau để xem có đúng là một giấc mơ thật hay không.
Anh lính thèm được gặp công chúa đến chết đi được. Thế là đêm đến con chó lại bắt nàng đi. Người cung nữ già xỏ giày băng túp vào và theo hút con chó. Thấy nó vào một cái nhà lớn, bà tự nhủ: “Giờ thì ta đã biết chỗ rồi.” Bà lấy phấn vạch một chữ thập lên cánh cửa rồi về nhà đi ngủ. Con chó lại đưa công chúa về. Nhưng khi nó thấy nhà anh lính bị đánh dấu nó bèn lấy phấn vạch chữ thập vào tất cả các nhà trong thành phố. Giờ thì đố người cung nữ già làm thế nào mà nhận ra nhà anh lính được.
Sáng sớm tinh mơ, đức vua, hoàng hậu, người cung nữ già và tất cả triều đình đều muôố xem công chúa đã bị bắt đến chỗ nào.
Vừa trông thấy cái cửa đầu tiên có đánh dấu chữ thập, đức vua nói: “Đây rồi.”
– Không phải đâu ông bạn thân mến ạ, đây cơ!- Thì ra hoàng hậu trông thấy một cái cửa khác cũng đánh dấu chữ thập.
Bọn quân thần cũng nói:
– Đây cũng có một cái nữa này!
Chẳng nên tìm làm gì nữa, tìm cũng vô ích thôi.
Hoàng hậu là một người sáng ý, bèn lấy một tấm lụa to ra, dùng một cái kéo lớn bằng vàng cắt một miếng, rồi đem khâu thành một cái túi con. Người nhét bột mịn vào đầy túi, rồi buộc vào lưng công chúa. Sau đó, hoàng hậu chọc thủng một lỗ con để công chúa đi đến đâu thì bột rơi đến đó suốt dọc đường.
Đêm hôm sau, con chó lại đến cõng công chúa lên lưng, đem nàng chạy về gặp anh lính đang buồn phiền vì chẳng phải là hoàng tử để có thể lấy được người mình yêu dấu.
Con chó không biết là bột rơi suốt dọc đường từ toà lâu đài cho đến tận cái cửa sổ nó vừa cõng công chúa trên lưng nhảy qua để vào phòng anh lính.
Sáng hôm sau, vua và hoàng hậu tìm ra nơi công chúa vẫn bị đưa đến. Thế là anh lính bị bắt giam vào ngục.
Anh ngồi trong tù. Sao mà ẩm ướt và tối tăm đến thế!
Người ta báo cho anh biết: “Ngày mai mày sẽ bị treo cổ.” Anh lại để quên chiếc bật lửa ở nhà mới chán chứ!
Qua hàng chấn song sắt phòng giam anh trông thấy nhân dân thành phố kéo nhau đến xem người ta treo cổ anh. Anh nghe thấy tiếng trống và thấy binh lính diễu qua. Thiên hạ chạy ồn ào. Một cậu học việc thợ giày, ngực đeo tạp dề, chân đi băng túp, đánh văng mất một chiếc, bèn chạy vào gần bờ tường để nhặt. Đằng sau bức tường ấy, anh lính đang ngồi nhòm ra ngoài chấn song sắt.
Anh lính gọi cậu bé:
– Này anh bạn, đi đâu mà vội thế? Tôi chưa ra thì họ chưa bắt đầu đâu. Anh hãy chạy về tâu với tôi, lấy giúp tôi cái bật lửa, có được không? Tôi sẽ cho anh bốn silinh, nhưng ba chân bốn cẳng lên mới được.
Cậu học việc thấy nói được bốn silinh không mong gì hơn, mừng quá, bèn chạy đi lấy cái bật lửa đem đến cho anh lính và thế là…
Bây giờ các bạn hãy chăm chú nghe tôi kể tiếp:
Ngay cổng thành phố đi vào người ta đã dựng lên một cây giá treo cổ cao ngất, có một hàng rào lính canh, xung quanh có đến hàng chục vạn người xem. Đức vua và hoàng hậu ngự trên một cái ngai vàng lộng lẫy. Anh lính đã ở trên ngọn thang rồi. NHưng đến lúc người ta sắp sửa tròng dây vào cổ, anh xin phép hút một tẩu thuốc lá, hút tẩu cuối cùng trên thế gian này. Đó là một đặc ân thường được ban cho phạm nhân.
Đức vua không từ chối. Anh lính rút bật lửa ra đánh. Một, hai, rồi ba lần! Lập tức con chó mắt to như đôi chén tống uống nước, cả con chó mắt to như cái bánh xe cối xay lẫn con có mắt to bằng những tháp tròn lớn, cả ba con chạy ngay đến. Anh lính kêu to:
– Hãy bảo vệ ta khỏi bị treo cổ!
Vừa nghe dứt lời, lũ chó nhảy chồm ngay tới tên đao phủ và những tên xử án, vồ lấy chân tên này, vồ lấy tay tên khác, rồi tung chúng lên trên không làm chúng rơi xuống tan xác.
Nhà vua hét lên: “Thôi, dừng lại!” Nhưng con chó lớn nhất đã vồ lấy cả vua và hoàng hậu, xô hai người ngã nhào lên nhau. Quân lính khiếp kinh, còn nhân dân thì hô to:
– Anh lính bé nhỏ, chính anh sẽ là vua của chúng tôi, và sẽ cưới nàng công chúa xinh đẹp!
Người ta rước anh lính vào xe của nhà vua, và ba con chó vui mừng, vừa chạy xung quanh, vừa sủa nhắng lên. Trẻ con chạy theo sau. Quân lính bồng súng chào.
Công chúa ra khỏi toà lâu đài và được phong hoàng hậu.
Tiệc cưới kéo dài trong tám ngày. Tất nhiên là ba con chó cũng có chỗ trên bàn tiệc. Còn phải nói, chúng mở mắt đến là to.

20. Bà cô nhức răng

Các bạn sẽ hỏi tôi:
-Ông lấy truyện này ở đâu ra thế?
-Tôi tìm thấy trong giỏ đựng giấy loại.
Vô khối sách hiếm và hay đã được bác hàng thịt hay là bác bán thực phẩm dùng không phải để đọc mà vào việc cần thiết hơn, theo các bác. Qua tay các bác, sách biến thành những cái bao đựng bột lọc và cà phê, giấy gói cá mắm, bơ và pho mát, do đó, sách in ra cũng được dùng vào việc ấy nữa.
Tôi quen một anh chàng bán thịt, con một bác bán thực phẩm, xuất thân từ một nhà nghèo, sinh ra ở dưới hầm, do làm ăm phấn chấn nên anh đã có một cửa hàng. Anh đã từng đọc và thông hiểu các loại sách đã bị dùng để gói thịt, kể cả bản in lẫn bản thảo. anh ta có một bộ sưu tập rất lý thú, trong đó có nhiều công văn quan trọng, do một vị quan lớn bận rộn nào đó đã quẳng vào sọt giấy, những bức mật thư và cả những thư nặc danh đê hèn chẳng nên nói ra đây làm gì. Nhà anh ta là nơi phiêu dạt những tàn di của văn học, do đó, anh ta đã cứu vớt được vô khối là sách đáng đọc đi đọc lại vài lần.
Anh đã phó cho tôi xem bộ sưu tập sách in và bản thảo của anh. Tôi đã tìm thấy ở đấy nhiều tờ của một quyển vở rộng khổ, chữ viết rõ nét làm tôi phải lưu ý tới.
Anh bảo tôi:
-Chính anh sinh viên đã viết truyện này, anh biết chứ? Cái anh chàng sinh viên ở trên gác đã chết cách đây một tháng ấy mà. Anh ta đã bị nhức răng rất khổ sở. Nhưng truyện của anh đọc rất lý thú. Tôi chỉ còn một phần bản thảo thôi, chính ra có trọn cả một quyển vở. Bố mẹ tôi đã đổi nửa cân xà phòng đen cho bà chủ nhà của anh ta để lấy quyển vở ấy.
Tôi mang quyển vở ấy về. Đọc xong tôi thấy nên đưa ra phổ biến.
I
Khi tôi còn nhỏ, cô tôi thường cho tôi ăn của ngọt. Khi ấy răng tôi còn chịu đựng được của ngọt và chưa bị hỏng. Tôi lớn lên, trở thành sinh viên. Cô tôi vẫn thường cho tôi kẹo ngọt. Bà nói rằng tôi là một thi sĩ.
Đúng là tôi cũng mang chút ít chất thi sĩ trong người, nhưng chẳng được bao lăm.
Khi dạo qua các phố, tôi luôn luôn có cảm tưởng như đang đi giữa một thư viện vĩ đại. Tôi cảm thấy nhà cửa là những ô sách, các tầng gác là những ngăn đựng sách. Chỗ này là một câu chuyên gia đình, chỗ kia là một hý kịch cổ, trên tất cả các ngăn sách đều có những tác phẩm khoa học và tác phẩm văn học, hay hoặc dở. Tôi có thể triết lý và tưởng tượng lung tung về cái thư viện ấy. Đúng là tôi cũng mang chút ít chất thi sĩ trong người, nhưng chẳng được bao lăm.
Khối người khác cũng mang trong người chất thi sĩ chẳng kém gì tôi, nhưng họ chẳng đeo chiếc thẻ hoặc chiếc dây chuyền có khắc chữ: “Thi sĩ”. Đối với họ cũng như đối với tôi, thượng đế đã phú cho một khiếu năng vừa đủ với bản thân, nhưng không đủ để giúp ích cho đời. Hồn thơ thâm nhập vào chúng tôi như một tia nắng, tràn ngập tâm hồn và tư tưởng chúng ta, nó như hương thơm thấm vào lòng chúng ta, như khúc nhạc lôi cuốn chúng ta, nhưng chúng ta không thể biết nguyên nhân từ đâu.
Tối qua, ngồi trong buồng, tôi muốn đọc nhưng chẳng có lấy một cuốn sách hay một tờ báo trong tay.
Lúc đó, từ cây bồ đề, một chiếc lá xanh rơi xuống. Làn gió nhẹ đưa nó qua cửa sổ vào đến tận bên tôi. Tôi ngắm nghía mảnh lá với những đường gân xanh của nó. Một con sâu đang bò bên trên, chừng như đang chăm chú nghiên cứu chiếc lá. Thấy thế, tôi liên tưởng đến sự hiểu biết của loài người. Chúng ta cũng vậy, chúng ta cũng bò trên một chiếc lá cây. Chúng ta chỉ biết chiếc lá thôi, nhưng không vì thế mà chúng ta không diễn thuyết được rất hay về cây cối, về rễ cây, thân cây, cành lá và tất cả những gốc cây lớn, cây nhỏ, cũng như nói về Thượng đế, thế gian, sự bất tử, mà chúng ta chẳng biết gì hơn là biết cây qua một chiếc lá nhỏ bé.
Tôi đang suy nghĩ đến đó, bỗng bà Milơ của tôi đến chơi.
Tôi phô với bà chiếc lá, con sâu và thuật lại những điều tôi vừa suy nghĩ. Đôi mắt bà sáng ngời lên.
-Cháu là thi sĩ đấy!-Bà reo lên- Mà có lẽ là nhà thi sĩ vĩ đại nhất của chúng ta cơ đấy! Cháu hãy cố gắng làm hco lừng danh, sau này bà có chết cũng không ân hận. Từ ngày ông chủ lò nấu rượu bia Ramutxen khuất núi, bà rất ngạc nhiên về óc tưởng tượng kỳ diệu của cháu.
Nói rồi bà Milơ ôm hôn tôi.
Nhưng bà Milơ và ông chủ nấu rượu bia Ramutxen là ai mới được chứ?
II
Mẹ chúng tôi có một người cô, mà chúng tôi gọi là “Bà cô nhức răng”.
Bà thường cho chúng tôi ăn mứt kẹo, tuy rằng những của ấy quả là không tốt cho răng lợi của chúng tôi.
Nhưng bà rất yêu trẻ con ngoan và cho rằng không cho chúng những thứ chúng thích là một tội ác. Dĩ nhiên là chúng tôi rất mực quý bà.
Bà không lấy chồng. Trong ký ức của tôi, bao giờ tôi cũng thấy bà già khọm. Hình như lúc nào bà cũng chỉ có một cỡ tuổi: tuổi già.
Khi còn trẻ, bà rất khổ vì đau răng và bà luôn luôn nhắc đến chuyện ấy. Vì thế một trong những bạn thân của bà, ông chủ lò rưọu bia Ramutxen, một con người khá thông minh, đặt cho bà cái tên là: “Bà cô nhức răng.”
Về cuối đời ông, Ramutxen không nấu rượu bia nữa. Ông sống về lợi tức. Ông thường đến chơi với bà cô tôi, ít tuổi hơn ông ta một chút. Mồm ông ta móm cả, chỉ còn lại vài chân răng đen sì.
Ông thường kể cho các cháu ông nghe rằng hồi còn trẻ, ông ăn quá nhiều chất ngọt, răng bị hỏng hết cả.
Lúc trẻ bà cô tôi chẳng hề ăn chất ngọt nên răng bà cô tôi trắng bóng.
Phải nói rằng bà giữ gìn bộ răng rất cẩn thận. Ramutxen thường nói đùa là bà chẳng bao giờ đi ngủ mà không cất răng đi.
Khi còn bé, nghe thấy thếm chúng tôi rất bực, nhưng bà cô tôi bảo rằng ông ta nói thế thôi, chẳng có ác ý gì.
Một buổi sáng, vào lúc ăn điểm tâm, bà thuật lại giấc mơ khủng khiếp đêm hôm trước, bà rụng một chiếc răng! Bà bảo:
-Thế có nghĩa là tôi đã mất đi một người bạn trai hoặc bạn gái.
Ông chủ lò rượu bia mỉm cười nói:
-Nếu cái răng ấy là răng giả thì có lẽ bà mất một người bạn giả rồi đấy.
-Hỗn nào!-Bà tôi quát to lên.
Từ trước đến nay và cho đến sau này, chưa bao giờ bà giận dữ đến như thế.
Ít lâu sau bà ta lại nói rằng đây chỉ là một câu nói đùa của ông bạn già và nói thêm rằng ông ta là người tốt nhất trần gian, khi chết ông ta sẽ hoá thành tiên trên trời.
Tôi suy nghĩ đến cái chuyện thành tiên ấy và muốn biết lúc ấy ông ta sẽ ra sao.
Khi hai người còn trẻ, Ramutxen đã hỏi bà cô tôi. Bà suy nghĩ rất lâu, rồi chờ đợi, đợi mãi. Cuối cùng bà ở vậy, nhưng vẫn là người bạn gái trung thành của ông ta.
Thế rồi ông chủ lò rượu bia Ramutxen qua đời. Một cỗ xe tang sang trọng đưa ông ta ra nghĩa địa. Theo sau là một đoàn dài những người mặc lễ phục, ngực đầy huân chương. Hẳn là ông ta đã kịp biến thành một ông tiên có cánh của Thượng đế và tôi tin rằng ông ta sẽ ra mắt mọi người. Tôi hỏi:
-Bà ơi! Liệu ông ấy có đến không?
-Ai đến kia, hở cháu?
-Ông tiên Ramutxen ấy mà.
Bà cô tôi sửng sốt reo lên:
-Thằng bé này sẽ thành một thi sĩ vĩ đại.
Thế rồi ý nghĩ ấy không bao giờ rời khỏi bà cô tôi trong suốt thời gian tôi học tiểu học, đến khi làm lễ thêm sức, và cả đến khi tôi đã học đại học.
Bà là người bạn thân thiết nhất của tôi trong những lúc tôi cuồng thơ cũng như những lúc nhức răng, vì tôi mắc cả hai chứng ấy. Có lần bà nói với tôi:
-Ý nghĩ đến với cháu như thế nào, cháu cứ việc ghi chép rồi nhét vào ngăn kéo. Đại thi hào Giăng Pôn trước kia cũng làm thế đấy. Tuy nhiên, bà cũng không thích ông ta lắm, vì thơ ông ta chưa được bay bướm. Bay bướm, thơ phải bay bướm mới được. Có đúng như thế không, hở cháu? Thơ của cháu nhất định sẽ bay bướm có phải thế không?
Tôi đâm ra tự lo âu, tràn ngập lòng ham muốn trở thành đại thi hào mà bà cô tôi đã linh cảm thấy ở tôi, rồi tôi mắc bệnh cuồng thơ. Nhưng còn một bệnh ác liệt hơn nữa, bệnh đau răng cuống cuồng, đang hành hạ tôi. Tôi bò lê như con rắn, ngồi chổm hổm như con cóc, hoặc uốn cong mình như con sâu rợm.
Thỉnh thoảng bà cô tôi bảo:
-Bà cũng đã từng trải qua những cơn đau như thế.
Và trên môi bà thoáng một nụ cười buồn rầu đau đớn.
Hàm răng trắng muốt của bà lấp lánh.
Nhưng tôi phải bắt đầu một chương mới trong câu chuyện của bà cháu tôi.
III
Tôi đã kiếm được chỗ ở mới và đến ở từ một tháng nay. Tôi thuật lại với bà cô tôi.
-Cháu sống trong một ngôi nhà như nhiều ngôi nhà khác. Ngay cả lúc cháu bấm chuông có tới ba lần người ta cũng không bận tâm gì tới cháu cả. Ngoài ra, ngôi nhà rất ồn ào. Mưa, gió, người tất cả cứ ào ào như giông bão ấy. Cháu ở ngay trên cửa ra vào. Một chiếc xe ra hoặc vào cũng để lại một vệt quệt trên tường. Cánh cửa rung chuyển như có cơn động đất. Nếu lúc ấy cháu đang nằm thì tứ chi rung lên, nhưng có lẽ thế lại làm cho cháu cứng gân cứng cốt lên cơ đấy. Khi gió thổi, (ở đây gió không khi nào ngớt), cánh cửa sổ bật tung, đập vào tường. Lại thêm cái chuông ở sân nhà bên cạnh, mỗi lần gió thổi lại rung lên.
Những người thuê nhà đi về không giờ giấc nào cả, thường là về rất khuya, hoặc có khi đến tận sáng bạch mới về. Cái nhà ông ở gác trên, bạn ngày dạy học thổi kèn tờ rông bon , tối về rất muộn, sau khi đi dạo chơi gần suốt đêm với đôi giày đóng cá sắt khua lộp cộp.
Ở đây cửa sổ chỉ có hai cánh, mỗi cánh chỉ là một cái khung gỗ mà bà chủ nhà đã dán giấy lên, giấy lại là giấy băng nên gió lùa vào, kêu cứ vo ve như tiếng ruồi nhặng bay. Thứ âm nhạc ấy ru ngủ một cách dễ dàng. Hễ vừa chợp mắt là gà gáy, đánh thức ngay dậy. Lũ gà rất lưu tâm đến việc báo cho cháu biết sắp sang ngày mai rồi. Lũ ngựa con không có tàu để nhốt vào, người ta buộc chúng vào cửa, chúng đùa giỡn với cánh cửa cho giãn gân cốt.
Sáng sớm người gác cổng, ở với vợ con trên vựa thóc, đi xuống thang gác, chân nện rầm rầm. Tiếng guốc kêu lẹp kẹp, cửa đập thình thình làm nhà rung chuyển cả lên. Một lát sau, đến lượt ông láng giềng gác trên bắt đầu tập thể dục, nâng những quả tạ nặng quá sức mình, chưa kịp nâng lên, quả tạ đã rơi xuống, và cứ như thế mãi.
Còn cái đám lau nhau trong nhà, tuy đã đến giờ đi họcách mạng nhưng còn lượn ra lượn vào, chen chúc nhau và la hét om sòm.
Cháu đi ra cửa sổ, mở ra để thở hút lấy chút không khí tươi mát và nếu lúc ấy chị giúp việc ở nhà dưới không giặt quần áo thì quả là may mắn chó cháu. Giặt quần áo là môn tiêu khiển hàng ngày của chị ta.
Câu chuyện về ngôi nhà tôi ở là như thế đấy. Những lời của tôi đã làm cho bà cô tôi rất cảm động. Bà reo lên:
-Cháu là thi sĩ, cháu chỉ cần viết lại những điều cháu vừa nói ra là cháu sẽ trở thành vĩ đại như Đickens! Hơn thế, bà còn thích văn của cháu hơn là văn của ông ta nữa kìa! Văn cháu nghe rất rung động! Cháu vừa nói vừa hoạ. Khi cháu tả cảnh nhà cháu, người ta tưởng như trông thấy nhà ấy trước mắt. Cháu làm tiếp bài văn của cháu đi! Giờ bà muốn nghe một cái gì sinh động và “rất người”.
Thế là tôi tiếp tục tả một cách rất chân thực ngôi nhà của tôi, những tiếng động trong nhà và cả về tôi nữa, nhân vật bất động…
IV
Một đêm khuya về mùa đông, sau giờ tạn hát. Thời tiết khủng khiếp, một trận bão tuyết nổi lên làm cho ít người dám ra ngoài. Bà cô tôi đi xem hát, còn tôi thì dẫn bà cô tôi đi và dân bà về. Nói là “dẫn” cũng hơi quá, vì đi một mình cũng đã khó nhọc lắm rồi, còn có thể dẫn ai được kia chứ! Các xe ngựa đều đã có khách. Nhà bà tôi ở đầu thành phố, còn nhà tôi thì ở gần rạp hát.
Chúng tôi cất bước rất khó nhọc, chân giẫm trong tuyết, giữa cơn bão. Tôi đỡ bà cô tôi, khi thì nhấc bà lên, khi thì đẩy bà đi. Chúng tôi chỉ ngã có hai, ba lần. Chúng tôi đi đến cửa nhà tôi và dừng lại để rũ tuyết. Chúng tôi đã rũ cả trên thang gác rồi, tuy thế, cũng còn khá là tuyết để rắc đầy phòng đợi.
Chúng tôi cởi áo khoác ngoài ra. Bà chủ nhà của tôi cho cô tôi mượn đôi tất khô và một chiếc áo choàng. Bà ta bảo cần phải mặc cho ấm và nói thêm rằng thời tiết như thế thì bà cô tôi không nên về nhà. Bà mời bà cô tôi ngủ trong phòng của bà, còn bà sẽ ngủ trên chiếc ghế đệm dài, gần cái cửa sổ thông sang buồng bên cạnh vẫn thường khoá chặt.
Lửa bắt đầu cháy trong bếp lò. Bà chủ nhà đặt một ấm trà lên bàn, gian buồng nhỏ bé của tôi trở nên ấm cúng. Nhưng dù sao cũng không bằng nhà bà cô tôi, mùa đông có rèm dày che cửa, có hai lần thảm trải trên sàn. Ở nơi ấy như ở trong một cái chai có hơi ấm và nút kín. Tuy nhiên, như tôi đã nói, ngồi ở trong buồng tôi, cũng không đến nỗi khó chịu lắm. Ngoài trời, gió thổi điên cuồng.
Bà cô tôi bắt đầu kể chuyện. Bà kể, kể mãi, tôi thấy sống lại thời thanh xuân của bà, ông chủ lò rượu bia và tất cả những kỷ niệm lâu năm của bà cô tôi.
Bà nhắc đến ngày tôi mọc chiếc răng đầu tiên và niềm vui của gia đình tôi lúc ấy.
Chiếc răng đầu tiên! Chiếc răng ngây thơ lóng lánh như một giọt sữa, chiếc răng sữa.
Rồi một chiếc nữa mọc, nhiều chiếc nữa, cả hàm răng trên và hàm dưới, những chiếc răng trẻ con xinh xắn. Tuy nhiên chúng cũng chỉ là những chiếc răng tiên phong, tạm thời, vì chúng chưa hẳn là những chiếc răng thật, những chiếc răng tồn tại suốt cuộc đời con người ta.
Sau đó mọc lên những chiếc răng khôn, như những cánh quân hai bên tả hữu hàm răng. Chúng ra đời giữa những cơn đau ghê gớm.
Rồi cái nọ theo cái kia mà rụng dần. Sống chưa chót đời, chúng đã vội rụng hết, rụng hết, rụng đến cái cuối cùng. Do đó, mặc dù tâm hồn vẫn còn trẻ trung, con người đã trở nên già cả.
Những ý nghĩ đó chẳng thích thú gì, nhưng đó là chủ đề câu chuyện của chúng tôi. Chúng tôi sống lại những năm còn trẻ trung, đến nửa đêm chúng tôi còn trò chuyện.
Rồi bà cô tôi sang buồng bên để nằm nghỉ.
-Chúc cháu ngủ ngon, bà cô bảo tôi, giờ thì bà sẽ ngủ như ở nhà vậy.
Nhưng trong nhà cũng như ở ngoài trời, chẳng được yên tĩnh. Giông tố vẫn gầm lên ngoài cửa kính, đập vào những móc sắt dài trên cửa làm reo lên cái chuông nhà láng giềng dưới sân. Người thuê nhà trên gác đã về. Ông ta làm một cuộc dạo chơi trên nhà, hết leo lên lại leo xuống trên thang gác. Khi đã khuya, nện đôi ủng chán chê rồi, ông ta đi ngủ, nhưng ông ta ngáy khoẻ quám đến nỗi cách trần nhà, người ta vẫn nghe thấy tiếng.
Riêng tôi, tôi không thể ngủ được. Giông tố mạnh quá chừng, không ngừng chút nào cả. Gió vừa thổi vừa gào lên. Hàm răng của tôi cũng gào lên theo cái kiểu của chúng. Chúng cất tiếng ca bản “nhức răng không chịu nổi”.
Một làn gió ùa từ cửa sổ vào. Trăng khi mờ khi tỏ. Những đám mây bị bão cuốn đi làm mặt trăng lúc ẩn lúc hiện, tạo thành một cảnh tranh tối tranh sáng, cuối cùng, bóng tối ngày càng in rõ nét trên sàn nhà, có một vật gì đang ngọ nguậy trong bóng tối làm tôi rùng mình, lạnh toát người. Trên mặt đất hiện ra một hình thù lờ mờ và dài, có thể là hình người, nom như những nét bút chì nguệch ngoạc do một em bé vẽ trên tảng đá. Một vạch làm thân, một vạch làm hai tay và một vạch làm chân. Còn cái đầu là một hình đa giác.
Mỗi lúc bóng càng rõ hơn, trông như một người đàn bà mặc váy.
Tôi nghe có tiếng thầm thì. Không biết có phải bóng nói hay tiếng ruồi trâu vo ve ngoài cửa kính?
Nhưng không! Chính là bà Nhức răng, ngài Xa tăng khủng khiếp của âm phủ! Lạy chúa phù hộ đừng để cho bà ta đến thăm chúng tôi!
-Chốn này thật là tuyệt, bà Nhức răng thì thào, đất tốt đáo để, lại lầy lội, tha hồ mà cấy sâu. Đàn muỗi với cái vòi có thuốc độc đã kéo nhau đến. Giờ thì đến lượt ta mài mũi dùi vào răng. Bộ răng của cái lão nằm trên giường kia sao mà trắng thế! Bộ răng ấy đã coi thường tất cả của chua, của ngọt, chất nóng, chất lạnh, vỏ hạt dẻ và hột mận. Nhưng ta có thể kìm kẹp chúng và thổi hơi lạnh vào lỗ chân răng làm cho chúng bị cảm hàn.
“Người là thi sĩ-mụ nói tiếp. Ta có thể đọc cho ngươi nghe tất cả những câu thơ mà người sáng tác về sự đau đớn. Ta muốn cho ngươi hưởng cái cảm xúc khi sắt và thép xuyên qua người. Ta muốn làm rung lên tất cả những sợi thần kinh li ti của ngươi.”
Lúc đó, hình như có người đâm một cái kim bỏng rẫy vào xương hàm tôi.
-Chà, cơn nhức răng tuyệt quá!-Mụ nói-Cứ như là một bản đại phong cầm! Thế là tuyệt vời! Lại có cả kèn, cả trống, cả tiếng địch rền vang của lũ răng khôn. Một bản nhạc như thế thật xứng đáng với một nhà thơ lớn!
Và mụ tiếp tục biểu diễn.
Mụ có bộ mặt trông rất kinh tởm. Chỉ trông thấy tay mụ thôi, đôi bàn tay xám xịt, lạnh ngắt, ngón dài ngoằng, có ngón nhọn hoắt như mũi kim nhìn cũng đủ rợn người. Mỗi ngón là một hình cụ. Ngón cái và ngón trỏ là kim và khoan hình khù khoằm , đầu ngón giữa là một cái kìm, ngón đeo nhẫn là cái khoăn xoắn, ngón út là một bình phun nọc muỗi độc.
-Ta sẽ dạy nhà ngươi tìm đề tài về thi ca-Mụ nói-Một nhà thơ lớn phải trải qua một cơn đau răng khủng khiếp, một nhà thơ nhỏ chỉ trải qua một cơn đau răng thường thôi cũng đủ nên thơ rồi.
Tôi van nài:
-Trời! Nếu vậy thì xin liệt tôi vào hạng nhỏ thôi. Tốt hơn cả là đừng liệt tôi vào hạng nào cả. Tôi chỉ có những lúc hứng lên mới làm thơ như người ta có những cơn đau răng mà thôi. Tôi không phải là người của mụ. Cút đi! Cút đi!
-Thế là ngươi đã công nhận ta mạnh hơn cả thi ca, triết học, toán học và âm nhạc chứ gì? Uy thế của ta lớn hơn cả lũ người được vẽ bằng sơn và tạc thành tượng. Ta nhiều tuổi hơn tất cả bọn chúng, ta sinh ra gần vườn thiên đường, ở phía ngoài, nơi gió thổi lồng lộng và cóc nhái lúc nhúc. Ta đã giúp bà Eva và ông Adam che thân thể, chống rét. Ngươi có thể tin rằng cơn đau răng đầu tiên cũng không phải là vừa.
-Vâng, tôi tin, tin hết.-Tôi đáp-Nhưng cút đi! Cút đi thôi!
-Được, ta sẽ đi nếu ngươi thôi đừng làm thơ nữa, đừng viết những vần thơ trên giấy, trong sổ tay và trên mặt bàn nữa. Nhưng nếu ngươi còn làm thơ là ta sẽ trở lại.
Tôi nói:
-Xin cam đoan như vậy, và tôi mong không gặp lại bà nữa.
-Ngươi sẽ gặp lại ta nhưng dưới hình dáng béo hơn một chút, đáng yêu hơn bây giờ. Người sẽ thấy ta hệt như bà cô Milơ và ta sẽ bảo ngươi: “Hãy làm thơ đi cháu thân yêu của bà! Cháu là một nhà thơ vĩ đại, có thể là nhà thơ lớn nhất của chúng ta. Cháu hãy nghe lời bà và bắt đầu viết đi, bà sẽ phổ thơ cháu thành nhạc và đem dạo trên hàm răng của cháu.”
Nói rồi mụ biến đi.
Mụ từ biệt bằng một nhát kim đâm vào xương hàm. Nhưng cơn đau dịu đi rất nhanh, tôi tưởng như đang bơi trên một con sông êm đềm, hai bên bờ là những tàu lá rộng xanh mướt ngả ra, chìm xuống nước vầ cụp vào mở ra. Tôi chìm nghỉm theo chúng, ngụp trong cảnh bình yên và an nhàn.
Có tiếng hát vang:
-Chết đi! Tan ra như tuyết! Bốc thành hơi bay lên không gian như những đám mây!
Qua làn nước tôi đọc thấy những tên người sáng chói, những hàng chữ thêu trên cờ chiến thắng, một chứng thư cho sự bất tử khắc trên cánh một cơn vờ.
Tôi ngủ say, nhưng không mơ. Tôi chẳng còn nghe thấy tiếng gió rít, tiếng cửa đập, tiếng chuông nhà bên cạnh rung lên và tiếng giẫm chân nặng nề của người thuê nhà trên gác đang tập thể dục. Hạnh phúc thay!
Một luồng gió đẩy cánh cửa phòng bà cô Nhức răng. Bà thức dậy, đi giày tất, mặc quần áo và bước sang buồng tôi. Về sau bà kể lại rằng lúc ấy tôi đang ngủ say như một tiên đồng nên bà không dám đánh thức tôi.
Tôi chợt tỉnh và mở choàng mắt ra. Tôi đã hoàn toàn quên rằng và đã ở lại đây, nhưng liền đó tôi sực nhớ ra ngay. Mơ và thật lẫn lộn với nhau.
-Từ lúc chia tay tối qua đến giờ cháu chưa viết được gì cả, bà trách tôi. Sao cháu lại không viết? Cháu là thi sĩ của bà, và sẽ mãi mãi là thi sĩ của bà!
Tôi cảm thấy cái mỉm cười của bà thật xảo quyệt. Tôi không rõ ràng rằng người ấy có phải là cô Milơ yêu quý của tôi hay là cái nhà bà kinh tởm tôi đã gặp khi đêm và đã xin chừa không làm thơ nữa.
-Cháu yêu quý, cháu đã làm bài thơ nào chưa?
-Chưa!-Tôi hét lên-Bà chính là bà cô Milơ đấy chứ?
-Chẳng phải bà thì ai? Bà trả lời.
Đúng là bà cô Milơ rồi. Bà ôm hôn tôi, rồi lên xe trở về nhà.
Tôi bèn viết câu chuyện mà bạn hiện đang đọc đây, không viết bằng thơ và chắc là không bao giờ được đem in.
Bản thảo đến đây là hết.
Người bạn trẻ của tôi, anh hàng thịt đáng kính không tìm đâu ra đoạn còn thiếu. Người ta đã dùng những tờ viết đoạn ấy để gói cá mắm, bơ và xà phòng đen.
Ngày nay, ông chủ lò nấu rượu bia, bà cô và anh sinh viên bất hạnh có những tư tưởng tuyệt vời bị quẳng vào sọt rác, đều đã khuất.
Người ta thường hay vất tất cả các thứ vào sọt rác mà!
Thế là hết truyện, truyện bà cô nhức răng.

21. Bù nhìn tuyết

Anh chàng bù nhìn tuyết nói:
-Hôm nay sao mà rét ra rét! Thích đến là thích. Toàn thân cứ kêu lên răng rắc. Lại còn có cái gió này nữa, cứ quất vun vút mới khoan khoái làm sao chứ! Lại còn cái quả cầu lửa ở phía bên kia nữa kìa, cứ nhìn mình có vẻ sùng bái lắm!
Anh chàng muốn ám chỉ mặt trời lúc bấy giờ đang lặn:
-Ồ! Xoay đã đủ trò, nhưng hắn cũng chẳng làm loé được mắt tớ! Tớ cứ giữ chứ chẳng chịu bỏ đôi hồng ngọc của tớ đâu.
Thực thế, đôi mắt anh chàng làm bằng hai cục than đá lóng lánh, mồm là một cái cào cũ rích, nom lúc nào cũng nhe cả răng ra.

Bù nhìn tuyết sinh ra giữa những tiếng reo mừng của lũ trẻ, giữa tiếng nhạc ngựa kéo xe trượt tuyết và giữa tiếng roi quất của các anh xà ích trẻ tuổi.
Mặt trời đã lặn. Trăng lên, nom to, tròn, trong sáng, đẹp đẽ, nổi bật trên nền trời tối đen.
Bù nhìn tuyết lại nói:
-Ô kìa! Nó lại hiện ra phía bên này rồi!
Anh chàng cứ tưởng mặt trời lại mọc lần nữa.
-Bây giờ mình đã kiềm chế hắn bớt sáng đi rồi. hắn có thể cứ treo thân lơ lửng trên ấy mà lóng lánh, ít ra mình cũng có thể tự trông thấy mình được. Chỉ ước gì mình biết cách làm thế nào nhúc nhích được! Mình mà ngọ nguậy được một tí thì thích biết mấy! Nếu cử động được thì mình sẽ chạy ngay ra dạo chơi trên băng và cũng trượt tuyết như bọn trẻ con ấy. Nhưng mình lại không chạy được, không biết người ta làm thế nào mà chạy được nhỉ?
-Ẳng! Ẳng!-Con chó giữ nhà sủa.

Từ ngày nó không được là chó phòng khách và không được nằm dưới cái bếp lò nữa, giọng nó đâm ra lúc nào cũng khản đặc, nó không sủa đúng giọng chó được nữa.
-Chẳng bao lâu nữa, mặt trời sẽ dạy cậu chạy, tớ đã được nhìn thấy rõ ràng mặt trời dạy anh chàng bù nhìn tuyết tiền thân của cậu hồi rét năm ngoái chạy như thế nào. Ẳng! Ẳng!

Bù nhìn tuyết bảo:
-Tớ không hiểu đằng ấy định nói gì. Cái hòn tròn trên cao kia (anh chàng muốn nói mặt trăng) sẽ dạy tớ chạy đấy ư? Chính tớ đã làm cho nó phải chuồn thì có, vì tớ cứ nhìn nó chòng chọc, đến giờ nó mới dám rụt rè quay lại phía bên kia đấy.

Chó bèn mắng:
-Cậu chẳng biết cái quái gì cả, đúng là người ta mới đắp nên cậu được ít lâu nay thôi. Vật cậu trông thấy kia là mặt trăng, còn vật đã lặn đi rồi là mặt trời. Ngài mai mặt trời sẽ quay lại, và dạu cho cậu chạy xuống rãnh, không nói dối cậu đâu! Sắp sửa thay đổi thời tiết rồi. Tớ đoán được là nhờ cái cẳng sau, bên trên, nó nhức lắm và ngứa ran. Phải, sắp giở giời rồi đấy.

Bù nhìn tuyết tự nhủ:
-Mình chẳng hiểu gì cả, nhưng mình có linh tính rằng con chó đã báo trước cho mình một điều chẳng lành. Lại còn cái vật tròn cứ nhìn mình chòng chọc trước khi biến mất, mà con chó gọi là mặt trời ấy, mình cũng cảm thấy rõ ràng nó không phải là bạn mình.
-Ẳng! Ẳng!-Chó vừa sủa vừa quay ba vòng trước khi chui vào ổ nằm ngủ.

Quả nhiên thời tiết thay đổi. Gần về sáng, sương mù dày đặc, ẩm ướt, kéo đến toả khắp nơi, và trước lúc mặt trời mọc một tí, nổi lên một cơn gió lạnh, do đó băng giá lại càng tăng. Khi mặt trời hiện ra, phong cảnh mới đẹp mắt làm sao!

Hoa sắc trắng lóng lánh phủ kín cành cây. Các nhánh nhỏ nhất thường chỉ nom thấy trong mùa hạ, bây giờ cũng hiện lên rất rõ ràng. Có thể nói mỗi cành phát ra một ánh sáng riêng, gây cho ta một cảm giác rạng rỡ, chói loà, nom tràn đầy sức sống chẳng khác gì giữa mùa hè. Mặt trời chiếu sáng khung cảnh rực rỡ vô song ấy, tưởng như ba bề bốn bên đều có ánh chớp, và trên chiếc áo choàng tuyết vĩ đại đang phủ kín mặt đất đầm đìa vô số hạt kim cương.

Một thiếu nữ, đang dạo chơi với một chàng thanh niên, buột miệng kêu lên:
-Sao mà phong cảnh đẹp tuyệt đến thế này!
Họ dừng chân nhìn anh chàng bù nhìn tuyết và ngắm cây cối đang lấp lánh. Ngay đến mùa hè, cũng không có cảnh đẹp bằng!
Chàng thanh niên vừa chỉ bù nhìn tuyết và ngắm cây cối đang lấp lánh. Ngay đến mùa hè, cũng không có cảnh đẹp bằng!

Chàng thanh niên vừa chỉ bù nhìn tuyết vừa đáp:
-Hơn nữa, khó mà gặp được một cậu cả nào như thế này! Nom anh chàng bảnh đấy chứ!
Cô thiếu nữ mỉm cười gật đầu chào anh chàng bù nhìn một cách thân mật, rồi cả hai người lại khoác tay nhau đi trên tuyết giòn tan.
Bù nhìn tuyết hỏi chó:
-Ai đấy? Đằng ấy ở ngoài sân từ lâu, chắc phải biết họ chứ?
Chó đáp:
-Tất nhiên! Cô ả vẫn vuốt ve mình luôn và cho mình gặm biết bao nhiêu là xương! Không đời nào mình cắn họ đâu nhé!
-Thế họ là thế nào mới được cơ chứ?
-Họ là vợ chồng chưa cưới đấy. Cả hai cùng muốn sống chung một ổ và muốn gặm xương trong một cũi đấy. Ẳng! Ẳng!
-Họ cũng giống như cậu với tớ ấy à?
-Ấy chết! Không phải đâu! Họ thuộc dòng dõi nhà chủ đấy! Quả thật, mới sống có một ngày thì biết ít chuyện thật! Cậu chứng minh rõ điều đó lắm!

Tớ già rồi nên tớ biết vô khối là chuyện. Gì trong cái sân này tớ cũng biết hết. Ừ, chỉ có mỗi một thời gian, hồi gió rít, là tớ không bị xích ngoài sân giá lạnh thôi! Ẳng! Ẳng!

Bù nhìn tuyết nói:
-Tớ thì tớ lại chuộng rét. Tớ lạy đằng ấy kể cho tớ nghe đi. Nhưng đàng ấy có thể giữ cho cái xích của đằng ấy bớt loảng xoảng đi một tí được không? Chối tai tớ lắm.
Chó sủa:
-Ẳng! Ẳng! Trước kia tớ là một con chó con xinh xắn đáng yêu, ai cũng bảo tớ thế. Tớ được nằm trên một cái ghế bành lót nhung trong lâu đài, có khi cả trong phòng các ông chủ bà chủ. Họ hôn vào mõm tớ, phủi bụi cẳng cho tớ bằng một cái khăn mùi soa thêu cẩn thận. Họ gọi tớ là “con cưng”. Nhưng khi tớ nhớn lên họ bèn giao tớ cho chị người ở. Tớ phải ở trong hầm ủ rượu. À! Mà từ chỗ cậu đứng, cậu có thể nhìn thấy bên trong được đấy. Trong cái hầm ấy tớ trở thành chủ nhân, phải tớ là chúa trùm trong buồng chị người ở. Không sang bằng những phòng tầng trên, nhưng dễ chịu hơn. Trẻ con không luôn luôn đến béo tai và quấy rầy tớ như dạo ở tầng trên. Rồi tớ lại còn có một cái đệm đặc biệt, lại được sưởi bên một cái bếp lò rất tốt kiểu tối tân nhất thời đại chúng ta đấy, tớ không nói điêu đâu! Tớ mà luồn xuống gầm thì chẳng ai nhìn thấy tớ nữa. Này, đến bây giờ tớ vẫn còn mơ chuyện cũ đấy.
Chúng im lặng một lúc. Ngay gần chúng một cái cây to xõa cành đen thui, lá đã rụng từ mùa thu. Ẳng! Ẳng!

Ngẫm nghĩ một hồi, bù nhìn tuyết lại hỏi:
-Cái bếp lò đẹp đến thế nào nhỉ?
-Không, không, trái lại nó đen xì xì, có cái cổ dài ngoằng và một vành đồng tròn. Nó xơi lắm gỗ đến nỗi lửa lò cả ra đằng mồm. Đứng lên trên hay chui xuống dưới, hoặc đứng bên cạnh thì không gì thú bằng. Mà này, nhòm qua cửa sổ, cậu sẽ thấy nó đấy.

Bù nhìn tuyết nhìn, và quả nhiên thấy một cái vật đen bóng nhoáng, có một vành đồng tròn phía dưới, lửa đang cháy.
Cảnh tượng ấy gây cho anh chàng một cảm giác là lạ, chưa từng thấy bao giờ, nhưng loài người thì ai cũng biêt lắm.

Bù nhìn tuyết hỏi:
-Sao cậu lại không ở nhà nàng nữa? Bù nhìn nói “nàng” vì, đối với anh chàng một vật đáng yêu như thế phải thuộc phái nữ mới đúng. Sao đằng ấy lại có thể bỏ nơi vui thú ấy mà mà đi được?
Chó đáp:
-Muốn hay không, cũng phải đi. Họ quẳng tớ ra ngoài rồi xích tớ lại, vì có một hôm cậu con trai bé nhất nhà vừa lấy của tớ một cái xương, thế là tớ đợp ngay cho một miếng vào chân. Ông bà chủ nhà cáu lắm, tống tớ ra đây, xích cổ lại. Cậu thấy đấy, ra ngoài này, ngày tháng trôi qua, tớ cũng mát giọng dần. Giờ thì tớ sủa tốt lắm: Ẳng! Ẳng!

Chó im bặt. Nhưng bù nhìn tuyết đã thôi không nghe từ nãy. Anh chàng vẫn tiếp tục nhìn vào buồng chị người ở, nơi đặt cái bếp lò có bốn chân bằng sắt. Thật ra, nom cũng to bằng anh chàng chứ chẳng kém! Anh chàng ước:
-Thèm quá! Đến vỡ tan xác mình ra mất thôi. Giá mình vào được trong ấy nhỉ? Ước mơ cũng ngây thơ thôi, thực hiện được cũng dễ thì mới phải. Vào, vào, đó là mong ước tha thiết nhất của mình. Mình phải được tựa vào cái bếp lò, dầu có phải nhảy qua cửa sổ cũng xin vâng.

Chó bảo:
-Đừng có vào, vào đấy thì cậu cứ là đi đứt! Ẳng! Ẳng!
Bù nhìn tuyết đáp:
-Tớ đã đi đứt rồi, thèm chết đi được ấy!
A

nh chàng nhòm qua cửa sổ suốt ngày. Ngọn lửa dịu dàng lém từ bếp lò ra như mơn trớn. Chỉ có đốt bếp lò mới có thứ ánh sáng ấy chứ mặt trời, hoặc mặt trăng làm gì mà có ánh sáng thế được.
Mỗi lần người ta mở cửa, ngọn lửa lại toả ra từ phía dưới, hắt ánh đỏ lên cái ngực trắng toát của bù nhìn tuyết. Anh chàng kêu lên:
-Mình không thể cầm lòng được nữa rồi. Nhìn cái lưỡi nàng thè ra khỏi mồm sao mà khoái thế!
Đêm dài, nhưng bù nhìn tuyết không thấy dài. Anh chàng mải triền miên với những ý nghĩ vui tươi.

Về sáng, cửa hầm ủ rượu phủ đầy sương đóng thành băng. Đối với một anh chàng bù nhìn tuyết đó là những hình chạm trổ đẹp nhất rồi, chỉ hiềm chúng che lấp mất cái bếp lò. Tuyết dòn hơn lúc nào hết. Trời rét ngọt, thật là khoái trá cho một bù nhìn tuyết!

Một chú gà trống vừa gáy vừa nhìn lên mặt trời lạnh lẽo mùa đông. Xa xa ngoài đồng ruộng, tiếng vó ngựa ra đồng vang lên trên mặt đất đóng băng, trong khi bác nông dân vui vẻ quất roi và hát lên vài điệu nhảy đồng quê, tiếp theo sau là tiếng vọng từ quả đồi bên kia nhại lại giọng bác.

Thế mà bù nhìn tuyết không vui. Nhẽ ra phải vui, nhưng anh chàng lại không vui.
Thế đấy, khi tất cả giúp chúng ta thực hiện ước mơ, chúng ta chỉ đi tìm trong sự bất đắc và bất kỳ bất ý một cái gì đó có thể tới, xáo động sự an ổn của chúng ta. Hình như hạnh phúc không phải là khi chúng ta thoả mãn mà, trái lại, nó nằm trong sự bất ngờ, thường đem lại tai họa.

Chính vì thế mà bù nhìn tuyết không ghìm được lòng khao khát ghê gớm đến xem cái bếp lò, mặc dù anh chàng chỉ chịu được lạnh thôi, chứ nóng thì tai hại vô cùng.
Và đôi mắt to tướng bằng than đá của anh chàng vẫn dán chặt vào cái bếp lò đang cháy. “Nàng” chẳng hề ngờ mình lại được chú ý và âu yếm đến thế.

Chó nghĩ thầm:
-Bệnh ấy thật nguy hiểm cho anh bụ nhìn tuyết. Ẳng! Ẳng! Lại sắp sửa thay đổi thời tiết.
Tiết trời thay đổi thật, lần này băng tuyết tan giá. Băng tuyết càng tan, bù nhìn tuyết càng nhỏ dần. Anh chàng chẳng nói chẳng rằng cũng chẳng kêu than. Đấy lầ điềm gở.
Vốn là cái cán chổi ấy trẻ em đã cắm xuống đất, rồi đắp tuyết xung quanh thành anh bù nhìn tuyết.

Chó lẩm bẩm:
-Bây giờ mình mới hiểu căn nguyên khát vọng của cậu chàng. Chính cái cốt trong người đã làm cu cậu bứt rứt đến thế đấy! Ẳng! Ẳng!
Chẳng bao lâu sau đến lượt mùa đông cũng biến mất. Chú chó sủa: Ẳng! Ẳng! Và một cô gái hát ngoài sân:
Ô này! Đông đã trôi qua

Tháng hai đã tới, xuân đà đến nơi
Mừng xuân chim chóc hót vui
Mặt trời hãy đến tưới đầy nắng xuân
Chẳng còn ai nghĩ đến bù nhìn tuyết nữa.

22. Cô gái xéo lên bánh mì

Hẳn là bạn đã nghe nói về một cô gái đã xéo lên ổ bánh mì để khỏi phải bẩn giầy và về sau cô ta khốn khổ như thế nào. Câu chuyện được viết lại và cũng đã được in.
Cô ta là một đứa trẻ nghèo, mà lại tự cao, tự đại. Cô ta thật xấu tính, xấu nết. Khi còn nhỏ cô ta thích bắt ruồi rồi vặt cánh, để bắt chúng phải bò lê bò càng. Cô ta nhặt một con bọ cam và một con bọ dừa, dính mỗi con lên chiếc đinh ghim, rồi đặt một chiếc lá xanh, hoặc một mảnh giấy nhỏ lên sát chân chúng. Những sinh vật tội nghiệp bám chặt vào đó, xoay xở vặn vẹo, cố thoát ra khỏi chiếc đinh ghim.
Kìa, bọ cánh cam đang đọc – con bé Inger nói – hãy xem nó lật trang thế nào?
Lớn lên, cô lại càng xấu tính hơn, nhưng cô ta lại rất xinh, điều đó thật ta i họa, nếu không, cô đã bị ăn tát nhiều hơn rồi đấy.
-mày thật vô phương cứu chữa rồi – Mẹ cô gái bảo – Khi còn bé, mày thường xéo lên tạp dề của tao, bây giờ mày lớn hơn, tao e rằng một ngày kia mày sẽ xéo lên tim tao.
Và chắc chắn là cô ta làm thế.
Hiện nay, cô ta đi giúp việc cho một gia đình khá giả sống ở nông thôn. Họ đối xử với cô như thể con cái trong nhà và cho cô ăn mặc như con cái họ. Cô trông rất ưa nhìn, và cô càng vênh váo hơn.
Sau khi cô ở với họ được một năm, bà chủ bảo cô:
-Này Inger, đã đến lúc cháu về thăm cha mẹ.

Thế là cô đi, dù đó chỉ là để khoe mẽ và để bố mẹ thấy cô trở nên xinh đẹp như thế nào. Nhưng khi cô tới ngoại ô thành phố, thấy mấy cô gái với mấy chàng trai đang ngồi tán gẫu với nhau bên hồ, và mẹ cô cũng ở đó, đang ngồi nghỉ trên phiến đá với một bó củi đã lượm trong rừng, cô cảm thấy xấu hổ vì ăn mặc đẹp nhường này, mà phải có một người mẹ rách rưới đi kiếm từng que củi. Cô liền quay về nhà chủ không luyến tiếc, mà chỉ bực mình.
Rồi sáu tháng lại trôi qua.
-Cháu nhất định phải về nhà một ngày để thăm cha mẹ già, Inger ạ.- Bà chủ bảo.- Đây là ổ bánh mì trắng to, cháu có thể cầm theo. Cha mẹ cháu rất mừng vì được gặp con đấy.

Thế là Inger mặc bộ váy đẹp nhất, đi đôi giầy mới. Cô nâng váy và nhìn cẩn thận những chỗ đang bước, chỉ để giữ cho giày đẹp và sạch, tất nhiên cô làm thế không có gì đáng trách. Nhưng khi cô tới chỗ con đường dẫn qua đầm lầy, có một vũng nước nhỏ dài, đầy bùn, cô ném ổ bánh mì xuống và dẫm lên ổ bánh để đi qua không bị ướt giày. Trong khi cô đứng một chân lên ổ bánh và nhấc chân kia lên, ổ bánh đã chìm xuống cùng với cô mỗi lúc một sâu hơn, và cô biến mất tăm, người ta chẳng thấy gì ngoài một đầm lầy sủi bọt đen sì.

Câu chuyện là thế.
Điều gì đã xảy ra với cô? Cô tụt xuống chỗ bà chúa đầm lầy ở – người đang ủ rượu bia . Bà chúa đầm lầy là dì của các tiên cô, họ biết nhau rất rõ. Có nhiều khúc ca viết về họ, nhiểu tranh vẽ về họ. Nhưng tất cả những con người đó đều biết bà chúa đầm lầy. Khi những đầm cỏ bốc hơi về mùa hè, đó là khi ch úa đầm lầy đang ủ rượu bia.
Inger tụt xuống đúng hầm ủ rượu của bà chúa đầm lầy và đó chẳng là nơi người ta có thể chịu được lâu. Một hố phân cũng là một căn nhà nguy nga rực rỡ nếu đem so với hầm ủ rượu của chúa đầm. Mỗi ngăn đều hôi thối khiến người ta ngất xỉu, ngoài ra, những ngăn này đều áp chặt với nhau và chỗ nào có m ột tí khe hở cũng có thể ép bật người ta ra ngoài, chả ai có thể làm được như thế, bởi vì những con có gầy gò và những con rắn béo phệ cuốn lấy nhau ở đây. Đấy là nơi Inger chìm xuống. Tất cả đống hổ lốn sống động ghê tởm đó bốc hơi lạnh giá, khiến cho cô rùng mình ớn lạnh đến tận mỗi ngón chân tay – càng lúc càng thấy cứng ngắc và tê dại. Ổ bánh vẫn dính chặt vào chân cô và kéo lê cô đi, như một chiêcd khuy màu hổ phách lôi một sợi rơm vậy .

Chúa đầm ở nhà. Hầm ủ rượu bia ngày hôm đó đang bị lão quỷ và bà cố hắn kiểm soát – con mụ già cực kỳ độc ác – chưa bao giờ rảnh rỗi. Mụ ta không bao giờ ra ngoài mà không mang theo đồ kim chỉ và lúc này mụ ta cũng không mang theo. Mụ ta đem theo chiếc đệm nhỏ găm đầy kim để găm đinh ghim và kim khâu vào chân người. Mụ ta thêu dệt những sự dối trá và móc đăng ten từ những lời vu vơ rơi xuống đất. Bất cứ thứ gì có thể gây tổn thương và đồi bại.- Ô vâng, mụ ta biết làm tất cả các việc khâu, thêu, móc, đúng là một bà cố vĩ đại.
Mụ nhìn thấy Inger, giương mục kỉnh lên nhìn cô ta lần nữa.
-Một con bé có khả năng đây – Mụ ta nói – Ta muốn nó là vật kỷ niệm trong các chuyến đi của ta đến đây. Nó sẽ là bức tượng rất hay, gác phòng hành lang cho thằng chắt của ta .
Và mụ già dắt Inger, do thế mà Inger xuống địa ngục. Người ta không phải lúc nào cũng xuống thẳng địa ngục, mà có thể cứ loanh quay rồi mới đến, nếu quả thực có tài.

Đó là một buồng hành lang dài hun hút, khiến người ta chóng mặt khi thì nhìn phía đằng trước và cũng chóng mặt khi ngoái cổ nhìn phía sau. Và rồi một đoàn người khốn khổ tuyệt vọng, đang chờ cánh cửa nhân từ mở ra, có thể họ phải chờ lâu rồi. Những con nhện to béo đang núng nính giăng tơ nghìn năm quanh chân họ. Công việc lao dịch đó đã tẽ chân chúng lại như những chiếc xích bằng đồng, và thêm vào đó một nỗi lo lắng triền miên – bất tận trong mỗi sinh linh, nỗi lo âu tự dằn vặt to lớn. Trong số họ có một kẻ keo kiệt – hắn tưởng đánh mất chìa khóa chiếc hộp đựng tiền và lúc này, chợt nhớ ra là chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa. Nhưng thôi, nếu muốn biến tất cả nỗi đau khổ của bọn họ ở đây thì phải mất quá nhiều thời gian, Inger cảm thấy ghê sợ phải đứng như tượng, dường như cô chỉ vừa mới bị đóng đinh chặt từ bên dưới ổ bánh.
-Chẳng qua chỉ cốt giữ cho giày sạch thôi – Cô ta tự nhủ – Sao họ cứ chăm chăm nhìn mình thế và sự thực thì họ đang chằm chằm nhìn cô – Những đam mê đồi bại chập chờn trong mắt họ, thật kinh khủng khiếp.
-Trông mình chắc là gợi cảm lắm – Inger nghĩ. Ta có gương mặt xinh xẻo, quần áo đẹp đẽ – Rồi cô ta đảo mắt, còn cổ cô ta cứng quá, khó quay. Chúa ơi, cô ta đã lọt vào tận động của bà chúa đầm lầy mới bẩn thỉu làm sao! Cô ta không hề nghĩ đến điều đó. Quần áo cô hình như nhơ nhớp hơn cả một cái ung nhọt khổng lồ đầy mủ. Một con rắn đã bám vào tóc cô đung đưa trên cổ cô. Từ mỗi nếp gấp trên áo cô , có một con cóc ló ra kêu ộp ộp tựa như tiếng sủa của một con chó khản giọng. Thật quá khó chịu, nhưng cô tự an ủi – Những kẻ khác ở đây thực sự cũng không kém khủng khiếp, thật dễ sợ.

Tồi tệ nhất là cô cảm thấy đói cồn, đói cào. Cô cũng không thể cúi xuống để bẻ một miếng ở chiếc bánh cô đang đứng bên trên ư? Không thể, vì lưng cô đã cứng đơ, cánh tay và các ngón tay đã cứng đơ. Toàn thân như một chiếc cột đá. Cô chỉ có thể cử động đôi mắt ở đầu, đảo mắt để có thể nhìn ra phía sau, thật là khiếp hãi, khiếp hãi quá. Lũ ruồi đến và bò lên trên mắt cô, cứ bò đi, bò lại. Cô chớp chớp mắt, nhưng lũ ruồi không bay đi được, chúng không thể bay vì cánh đã bị vặt hết, chúng cứ bò quanh. Thật là cực hình, và vì cô đói, ít nhất cô cảm thấy ruột gan mình đang ăn thịt nhau và bụng cô trở nên trống rỗng, trống rỗng đến kinh hoàng.
-Nếu kéo dài tiếp tục, mình sẽ không thể chịu đựng nổi, cô tự nhủ. Nhưng cô phải chịu đựng và sẽ phải tiêp tục chịu đựng.

Rồi một giọt nước mắt nóng bỏng rơi xuống đầu cô, ri rỉ lăn xuống mặt cô, lăn xuống ngực cô, rồi rơi ngay xuống ổ bánh. Lại một giọt nước mắt nữa rơi và thêm nhiều giọt nữa. Ai đang khóc trên đầu Inger? Ồ, chả phải cô có một người mẹ trên đời này sao? Những giọt nước mắt đau khổ của một người mẹ khóc vì con thì thế nào cũng tới được với con. Những giọt nước mắt ấy không đem tự do, giải phóng cho con được – Chúng bốc cháy, chúng chỉ khiến cho cực hình càng lớn hơn. Rồi đến cơn đói không thể chịu đựng nổi – và cũng không thể nào với đến ổ bánh cô đang dẫm chân lên. Cuối cùng cô ta cảm thấy lục phủ ngũ tạng tự ăn thịt nhau. Cô như một cây sậy khẳng khiu rỗng tuếch, hút mọi tiếng động xung quanh. Cô có thể nghe rất rõ mọi thứ trên mặt đất có liên quan đến cô và những điều cô nghe thấy thật gay gắt và hằn học. Người mẹ của cô, chắc chắn là đã khóc than vì quá đâu khổ, nhưng bà vẫn nói thêm:

-Kiêu ngạo báo trước thất bại – Đó là không may của mày, Inger ạ. Sao mày làm mẹ đau lòng đến vậy ?
Mẹ cô và tất cả những người khác trên đó đã biết tội ác của cô, cô đã xéo lên ổ bánh mì, đã bị chìm xuống và mất tăm. Một người chăn bò đã kể với họ, vì anh ta đã tận mắt nhìn thấy tất cả từ trên dốc cao.
-Con đã làm mẹ đau lòng biết bao, Inger – Người mẹ nói.
Inger nghe thấy ông bà chủ đang nói chuyện – Hai con người tốt bụng – Giống như cha mẹ của cô vậy.
-Con bé thật xấu xa, nó không kính trọng thức ăn của chúa, mà lại dẫm chân lên, cánh cửa nhân từ khó lòng mở cho nó.
-Nhẽ ra họ phải giúp mình sửa chữa lỗi lầm thường xuyên hơn – Inger nghĩ bụng – cứu mình khỏi những con đường tội lỗi.

Cô ta nghe thấy một bài vè về cô đã được lan truyền – Một cô gái trẻ kiêu ngạo xéo lên bánh mì để giữ cho giày đẹp – người ta hát khắp nơi.
-Cứ cho là mình có lỗi nhiều và mình đã phải đau khổ biết bao vì tội lỗi – Inger nghĩ – Thế sao những kẻ khác lại không bị trừng phạt vì những gì họ đã làm? Đúng rồi, còn rất nhiều thứ đáng bị trừng phạt chứ! Ồ, ta chịu cực hình đau đớn quá.
Và trái tim cô ta lại trở nên rắn hơn và vỏ sò, vỏ ốc.
-Ta sẽ chẳng bao giờ tốt lành hơn khi bị ở với cái đám lúc nhúc này. Kìa bọn họ đang trố mắt nhìn ta.
Cô cảm thấy tức giận và khinh miệt tất cả loài người.
-Giờ thì ở trên kia bọn họ tha hồ có chuyện mà kể – Ồ, mình thật là đau khổ.

Rồi, cô nghe thấy bọn họ kể câu chuyện của cô cho bọn trẻ con, và cái nhóc tì ấy gọi cô là “ Inger độc ác “, chúng nói:
-Cô ta thật kinh tởm, thật đáng ghét, cô ta đáng bị trừng phạt.
Chẳng có gì ngoài những lời lẽ gay gắt, xấu xa về cô từ miệng lũ trẻ.
Tuy nhiên, một hôm, khi cơn đói và cơn bực tức đang giày vò ghê gớm trong cái vỏ rỗng tuếch của cô, thì nghe thấy có người nhắc đến tên cô và người ta kể câu chuyện của cô cho một đứa bé ngây thơ – một bé gái, cô để ý thấy con bé này òa khóc về câu chuyện Inger kiêu ngạo, và sự thích làm đỏm của Inger.
-Thế chẳng bao giờ cô ấy trở nên đây nữa ư?

Cô bé hỏi và người ta trả lời cô bé:
-Chẳng bao giờ cô ta trở nên đây nữa.
-Nhưng nếu cô ta xin tha thứ và hứa không bao giờ làm như thế nữa thì sao?
-Cô ta không bao giờ xin tha thứ đâu.
Người ta bảo cô bé.
-Ồ, con chỉ mong cô ta xin tha thứ – Cô gái bé bỏng vừa nói, vừa khóc và không ai dỗ được – Con sẽ trao ngôi nhà búp bê nếu họ để cô ấy lên đây. Thật quá cực hình cho Inger tội nghiệp.

Những lời nói đó rót thẳng xuống trái tim Inger chúng hình như làm cho cô ta dễ chịu. Lần đầu tiên có người gọi “ Inger tội nghiệp “ mà không thêm một tí gì khác về lỗi lầm của cô. Một đứa trẻ ngây thơ trong trắng đã khóc bào chữa cho cô ta, khiến cô cảm thấy là lạ, cứ muốn mình phải khóc nên, nhưng cô ta không thể khóc được, và điều đó cũng thật là cực hình.

Đã nhiều năm trôi qua trên trần thế và không có đổi thay nào ở dưới địa ngục – Inger ít nghe thấy tiếng ở bên trên hơn và cũng ít lời kể về cô hơn. Rồi một hôm, cô nghe thấy tiếng thở dài:
-Inger, Inger, con đã mang bao đau khổ cho mẹ! Mẹ thường nói con…
Mẹ cô đang hấp hối.

Đôi khi cô nghe thấy ông bà chủ cũ của cô nhắc đến tên cô và điều nhận xét dịu dàng nhất là khi bà chủ nói:
-Chẳng biết bao giờ có thể gặp lại Inger? Không hiểu nó ra sao nữa?
Nhưng Inger lại hiểu quá rõ rằng bà chủ thật thà của cô sẽ chẳng bao giờ đến đây được.
Lại một thời gian dằng dặc và cay đắng trôi qua. Rồi Inger lại nghe thấy người ta nhắc đến tên cô và cô nhìn thấy ở bên trên hình như có hai ngôi sao lấp lánh – Đó là hai con mắt dịu dàng đang khép lại trên mặt đất. Đã nhiều năm trôi qua kể từ khi cô bé con phát khóc vì “ Inger tội nghiệp “ – cô bé ấy nay đã thành một bà lão – mà sớm muộn chúa cũng gọi về với người. Và đúng vào lúc mà mọi ý nghĩ về cả cuộc đời bà đang hiện lên trước bà, bà cũng nhớ khi còn bé, bà không thể không chua xót bật khóc, khi nghe kể chuyện Inger.

Thời điểm và ấn tượng đó chói ngời lên trước bà lão trong lúc hấp hối, khiến bà bật khóc.
-Lạy chúa, con cũng vậy – cũng như Inger, thỉnh thoảng vô tâm chà đạp lên những ân sủng của chúa. Chẳng phải tâm hồn con cũng kiêu ngạo? Còn chúa, lạy chúa lòng lành, đừng để con rớt xuống, hãy nâng con lên, đừng bỏ mặc con trong giờ phút cuối cùng này.

Rồi cặp mắt héo hon của bà khép lại, và cặp mắt của linh hồn bà mở ra để thấy những gì bị che giấu. Trong khi hình ảnh Inger hiện rõ rệt trong ý nghĩ cuối cùng của bà, thì bà nhìn thấy Inger bị lôi xuống rất sâu. Trước tình cảnh của cô, linh hồn thánh thiện đó đã òa khóc. Bà ngây ra như một đứa trẻ trong vương quốc của thiên đường và nức nở vì Inger khốn khổ. Nước mắt và những lời cầu nguyện của bà ngân lên như một tiếng vọng vang vào tận chiếc vỏ ốc rỗng đang giam hãm một linh hồn khốn khổ và nó bị chinh phục bằng tình thương yêu không thể tưởng tượng được ở bên trên. Cứ nghĩ rằng có một thiên thần của chúa phải ứa nước mắt vì mình! Tại sao cô lại được hưởng đặc ân này chứ? Cái linh hồn đang chịu cực hình dường như tập trung mọi suy nghĩ về những việc nó đã làm trong suốt cuộc đời trên trần thế, và nó đang khóc nấc lên, Inger chưa bao giờ khóc được như thế. Cô ta khóc vì tủi nhục. Cô cảm thấy không bao giờ được cánh cửa nhân từ sẽ còn mở ra với cô. Trái tim hối hận, cô đã hiểu ra điều này, lúc đó một tia sáng lóe rọi xuống cái địa ngục không đáy này – thậm chí còn sáng hơn tia mặt trời làm tan người tuyết do bọn trẻ con đắp ở ngoài sân, còn nhanh hơn cả những bông tuyết – đang rơi xuống đôi môi nồng ấm của một đứa trẻ – tan chảy thành giọt, thân hình cứng ngắc như đá của Inger đã bốc hơi, một chú chim con bay vút lên như tia chớp lóe sáng trên trần gian, nhưng nó còn bẽn lẽn e dè với mọi thứ kề bên, nó tự cảm thấy xấu hổ trước cảnh tượng tất cả các sinh linh đang sống và vội vã đi tìm nơi ẩn nấp trong một hố tối tăm và tìm thấy hố đó trong một bức tường đổ nát. Nó co ro trên tường và sợ hãi tất cả mọi thứ, không thể thốt lên một tiếng kêu, vì nó không có giọng. Chim ở đó một lúc lâu, trước khi đủ bình tĩnh để nhìn và đánh giá tất cả vẻ đẹp đang diễn ra trước mắt. Đúng vậy, thật đẹp quá. Không khí sao mà trong lành và ấm áp, ánh trăng chiếu sao mà sáng. Cây to, cây to, cây nhỏ tỏa hương ngọt ngào, mà cả vị trí nó đậu sao mà dễ chịu, chiếc áo khoác lông của nó sao mà sạch sẽ tinh xảo. Nó đã phát hiện tình yêu và sự huy hoàng tráng lệ trong tất cả mọi thứ được tạo ra! Tất cả mọi suy nghĩ thức dậy trong trái tim, chú chim đang cố gắng tìm cách thể hiện trong tiếng hót,nhưng chim không biết phải làm như thế nào. Chắc nó thích hót điệu của chim cúc cu, và họa mi thường hót vào mùa xuân. Chúa cũng từng nghe thấy bản tình ca không lời của lũ côn trùng, lúc này lại đang lắng nghe bản tụng ca dâng lên, hài hòa trong ý nghĩ như một bản thánh ca, thường để đánh thức tâm hồn Đavít, trước khi tìm ra lời và nhạc.

Trong nhiều ngày, nhiều tuần lễ, những bài ca thầm lặng cứ lớn dần lên và lớn lên chắc chắn chúng sẽ bật lên với tiếng vỗ cánh đầu tiên trong một việc thiện – một việc như thế phải được làm ngay bây giờ.
Lễ giáng sinh thiêng liêng đến rồi. Người nông dân dựng một cây cột tựa sát vào tường và buộc lên đó một bó luá mì nguyên hạt để chim chóc trên không cũng có thể có giáng sinh vui vẻ mà một bữa tiệc chúc mừng chúa cứu thế.
Bình minh đang lên vào buổi sáng giáng sinh, lấp lánh trên bó lúa mì và chim chóc líu lo bay quanh cây tiệc đó. Rồi đồng thời cũng có tiếng “ tuýt luýt “ vang lên từ bờ tường. Ý nghĩa thăng hoa bật thành tiếng vang, tiếng líu lo yếu ớt trở thành bản tụng ca vui sướng. Ý tưởng làm việc thiện thức dậy và chú chim bay ra khỏi nơi ẩn nấp. Ở trên trời bầy chim hiểu rõ đây là loài chim gì.

Mùa đông bắt đầu thực sự, nước đã đóng băng dầy, chim chóc và thú rừng thường dè sẻn thức ăn. Chú chim nhỏ bay theo dọc đường cái và cố kiếm – trong các rãnh xư trượt tuyết và mọi nơi – một hạt thóc. Ở những quán trọ ven đường ( nó có thể tình cờ kiếm được ít mẩu bánh vụn ) nhưng cũng chỉ ăn ít thôi, còn để lại cho các con chim sẻ khác đang đói meo, mà nó biết rằng chúng có thể kiếm mồi ở đây.
Nó cũng bay tới nhiều thị trấn, để tìm kiếm và bất cứ đâu đâu có một bàn tay từ thiện rắc vụn bánh từ trên cửa sổ cho chim, nó cũng chỉ ăn một chút ít, còn để lại cho các con chim khác.
Trong suốt hành trinh mùa đông, chim đã nhặt nhạnh và phân phát đi rất nhiều vụn bánh – Trọng lượng tất cả số đó ngang bằng cả ổ bánh mì mà Inger xéo lên để khỏi bần giầy. Khi vụn bánh cuối cùng được tìm thấy và cho đi, thì đôi cánh màu xám của chim trở nên trắng toát và sải rộng.
-Này, có một con hải yến đang cất cánh bay qua hồ – bầy trẻ reo lên khi nhìn thấy con chim màu trắng. Thoạt tiên nó chao cánh xuống mặt hồ, rồi vút lên ánh mặt trời rực rỡ, chim trắng đến nỗi lóa cả mắt đến nỗi khôngai nhìn thấy nó biến đổi thế nào. Người ta bảo rằng chim đã bay thẳng vào mặt trời.

23. Vanđơma và các con gái

Các bạn có muốn nghe gió kể chuyện không? Gió biết nhiều chuyện hơn tất cả chúng ta, chuyện phiêu lưu, chuyện cổ tích, và nhiều chuyện khác. Hôm nay chúng ta hãy nghe gió kể chuyện Vanđơma và các cô gái ông ta.
Gió kể:
– Vốn dòng dõi vua chúa, nên ông ta rất kiêu hãnh. Ông ta uống rượu và săn bắn thì ít ai bắng. Bà vợ ông ta lúc nào cũng quần lượt là thêu vàng dát bạc. Sàn nhà bao giờ cũng bóng loáng. Các phòng ở trải thảm rực rỡ, bày những đồ đạc quý giá, chạm trổ tinh vi; nhiều thứ là của hồi môn của bà chủ đem từ nhà bố mẹ về. Hầm nhà đầy ắp rượu quí. Đàn ngựa đen hí trong chuồng.

– Ông bà có ba cô con gái, cô nào cũng xinh đẹp. Tên ba cô là Iđa, Gian và Đôrôtê. Cả ba đều giàu sang phú quý. Vi vu, vi vu.. Tất cả đều trôi đi.
(Trong lúc kể chuyện, gió hay đưa vào điệp khúc ấy)
– Bà chủ nhà ở đây không ngồi quay tơ vào phòng với bọn thị tỳ như ở nhiều nơi khác. Bà chủ ở đây chỉ đàn hát. Lâu đài lúc nào cũng náo nhiệt, khách khứa ra vào tấp nập. Tiếng cốc chén va chạm vào nhau, tiếng ca nhạc, át cả tiếng gió thổi.
– Một sáng tháng năm ta ở phía tây thổi về (vẫn lời của gió), rong ruổi trên bờ bể, qua các khu rừng và đồng bằng, vượt qua sông Ben.
Đến khu rừng dẻ gai, gần lâu đài Bôrôby.

Vừa lúc ấy có một chiếc xe dát vàng có sáu ngựa kéo đi tới. Trên xe bà bá tước và ba nàng con gái xinh đẹp, dịu dàng; một người trông như đoá hoa hồng, một người như hoa huệ, người thứ ba như hoa dạ hương. Bà mẹ cũng xinh đẹp rực rỡ. Mấy đứa trẻ thấy xe đến, đứng dậy cúi chào. Ta trông thấy ba nàng con gái xinh đẹp và tự hỏi ai sẽ là chồng của họ? Chắc phải là các hiệp sĩ, hoặc các hoàng tử xứng đáng với họ.
Vi vu, vi vu… Tất cả sẽ trôi đi!
Chiếc xe quay rồi, những đứa trẻ lại tiếp tục nhảy múa. ở làng này nhân dân thường vui chơi như vậy để đón mùa hạ.

Đến đêm, bà chủ lâu đài đã ngủ lịm đi, không bao giờ thức giấc nữa. Bà ta đã qua đời như tất cả mọi người.
Vanđơma sống một thời gian âm thầm và lo âu. Nhưng rồi ông ta tự nhủ: Ngọn cây cứng cáp nhất cũng có lúc phải uốn mình, nhưng nó cũng có thể lại vươn lên. Các nàng con gái trong lâu đài và gia nhân ai cũng khóc và thương xót bà quý phái. Bà đã mất, ta cũng bay đi nơi khác, vì mọi vật đều trôi đi, vi vu, vi vu…

Nhưng rồi ít lâu sau ta lại trở lại. Ta đã từng ngồi trên bờ biển gần bôrôdy và trong khu rừng gần đấy. Trong rừng có nhiều loài chim trú ngụ: cò, diêc, chim cu, quạ khoang, quạ đen. Nhiều con đã đẻ trứng, nhiều trứng đã nở. Bỗng có sự huyên náo khác thường. Chim cò bay vút lên, gào inh ỏi. Có tiếng rìu đốn cây, người sắp phá trịu khu rừng. Vađơma đóng một chiếc ba tầng để bán cho nhà vua. Vì thế ông ngả rừng nơi trú ngụ của chim chóc. Đàn cú vội vàng bay đi trốn. Chúng kêu gào ầm ĩ trên khu rừng. Quạ đen, quạ khoang chế diễu: “Bị tống cổ rồi! Bị tống cổ rồi! Quạ! Quạ!”

Vađơma cùng các con gái và những tiều phu thấy vậy phá lên cười. Riêng cô con gái út Đôrôtê thấy mủi lòng. Một cây trên có tổ quạ đen, quạ con đang thò đầu ra ngoài kêu. Người ta cũng định chặt cả cây ấy. Nhưng Đôrôtê đã van xin, nên riêng cây ấy được để lại.

Họ đẵn cây, cưa gỗ, đóng chiếc thuyền ba tầng. Người trông nom điều khiển công việc không phải con nhà quyền quý nhưng có trí thông mình. Đôi mắt và vầng trán anh biểu lộ tài sáng tạo. Vanđơma và cô con gái cả Ida thích nghe anh kể chuyện.

Trong khi thiết kế cho người cha con tàu, thì anh cũng thiết kể trong óc một toà lâu đài cho mình và cô con gái cả của ông. Nhưng vì chỉ là tưởng tượng nên không thành sự thực. Và làm xong con tàu, người trẻ tuổi ấy lại ra đi. Cô bé cũng đã yêu anh. Đàn ngựa đen đang dậm chân trong chuồng.

Một vị thuỷ sư đô đốc được nhà vua cử đến xem xét con tàu và bàn việc mua bán. Nhưng chẳng biết thế nào việc mua bán không thành, con tàu vẫn nằm trên bến, chẳng bao giờ được hạ thuỷ, vi vu. Mọi việc trôi qua, trôi qua… Đấy là thất bại đầu tiên của Vanđơma.

Mùa đông, tuyêt phủ đầy mặt đất, những tảng băng trôi giạt trên dòng sông Ben. Từng đàn quạ bay kéo đến, đậu trên chiếc tàu bỏ chỏng chơ trên bờ sông. Chúng kêu than về cảnh rừng bị phá, cảnh quạ non quạ già không có chỗ làm tổ và tất cả những tai họa đã xảy ra do việc đóng con tàu gây nên, con tàu kiêu căng chẳng bao giờ được nổi trên mặt nước.

Ta cuộn tuyết lên phủ quanh thân tàu, kín đến tận nóc và cao giọng thổi thành cơn giông tố. Ta làm mọi cách để cho con tàu biết thế nào là cuộc đời trên biển cả. Vi vu, vi vu… mọi việc trôi qua!

Đông qua, Xuân tới. Các mùa tiếp nối nhau như gió thoảng qua. Tuyết tan, hoa nở, lá vàng lại rụng…
Tất cả đều trôi qua. Đời người cũng vậy. Các cô con gái Vanđơma vẫn trẻ măng. Nàng Iđa mơn mởn như đoá hoa hồng. Có lúc ta thổi vào bộ tóc màu hạt dẻ của nàng khi nang ngồi trầm ngâm dưới gốc cây táo trong vườn. Ta rũ tóc nàng ra và phủ lên đầy hoa.

Gian cô em thứ hai tươi tắn như bông huệ, nhưng điệu bộ cứng nhắc, kiêu kỳ, giống như bà mẹ. Nàng hay vào gian phòng nơi treo chân dung những người trong gia đình. Các bà trong tranh ăn mặc lịch sự, trên tóc úp một chiếc mũ nạm ngọc, trông thật duyên dáng. Các ông chồng thì áo giáp thép hoặc áo choàng loại đắt tiền. Các ông không đeo kiếm ở hông mà đeo ở đùi.

Đôrôtê là một cô bé mười bốn tuổi. Tính cô trầm lặng và chín chắn. Cô có cặp mắt to, xanh tựa sóng, lúc nào cũng mơ màng, một nụ cười tươi tắn luôn nở trên môi. Nàng luôn ở ngoài vườn hay trên đồng ruộng để hái hoa bứt cỏ.
Vanđơma là người cứng rắn và kiêu ngạo nhưng rất thông thái. Ngay giữa mùa hè ông vẫn đốt lò, cửa buồng đóng kín. Suốt ngày ông ở trong đó, chẳng bao giờ nói với ai công việc ông làm. Ông muốn tìm ra một vật quí nhất trên đời. ấy là vàng đỏ.

Vì vậy khói luôn bay trên mái toà lâu đài, trong buồng Vanđơma luôn luôn có lửa, lửa từ trong lò loè ra. Mọi vật sẽ biến thành than tro, than tro thành khói. Ngay cả Vanđơma rồi cũng sẽ cháy tan ra thành khói. Vi vu, vi vu… mọi vật trôi qua!

Những con ngựa oai phong trong chuồng biến đâu cả?
Tất cả súc vật, vàng bạc, trang trại và cả lâu đài nữa, biến đâu rồi? Chúng chảy thành nước cả rồi, chảy tan trong nồi nấu vàng, nhưng chẳng nấu ra tí vàng nào.

Chẳng còn chút gì trong các ngăn tủ và trong kho thóc. Người hầu giảm đi mà chuột thì lại tăng lên. Cửa kính cứ vỡ dần nay một tấm, mai một tấm, ta ra vào tự do, tình hình trong nhà thế nào ta đều biết cả (vẫn là lời gió kể).
Bữa ăn của chủ nhà trở nên đam bạc. Các nàng con gái của Vanđơma cũng chỉ đắp lên người một tấm da. Chẳng còn gì ăn, chẳng còn củi để sưởi. Cuộc đời một quí tộc phá sản là như thế đấy. Vi vu, vi vu. Mọi vật trôi qua!
Sống giữa khói than và tro bụi, qua bao lo âu phiền muộn, râu tóc Vanđơma ngả màu xám, nước da tái nhợt, nhưng đôi mắt vẫn ánh lên một niềm hy vọng. Ông nói: “Đông qua rồi xuân sẽ tới. Sau cơn bĩ cực đến tuần thái lai. Rồi ta sẽ có vô số vàng. Gắng chịu đến ngày lễ Phục sinh.

Sáng ngày lễ phục sinh, tiếng chuông nhà thờ vang lên. Nắng làm tươi vui hẳn bầu trời. Trong cơn lo lắng, Vanđơma đã thức suốt đêm, nấu chảy rồi để nguội, pha trộn rồi gạn lọc. Lão thở dài, rồi cầu nguyện, nín thở. Đèn tắt ngấm mà lão cũng chẳng để ý. Ta thổi vào đám củi tàn, ánh lửa soi sáng mặt lão hốc hác trắng bệch. Mắt lo âu, sâu trũng, tròn xoe, to ra mãi như muốn bật khỏi tròng.

“Vàng đây rồi!” lão reo lên – nó tinh khiết và đặc sệt”. Lão nhấc bình thuỷ tinh luyện kim lên, tay run run, miệng lắp bắp: “vàng vàng!” Lão cầm bình thuỷ tinh vào phòng những đứa con gái mình, giơ cao lên hét: “Chế ra vàng rồi!” Tay lão run run. Chiếc bình rơi xuống vỡ tan tành. Niềm hy vọng cuối cùng của lão tan tành. Vi vu, vi vu, mọi việc trôi qua.

Vào một ngày cuối năm ngắn ngủi, ở lâu đài Bôrôby, Ôvơ Ramen, chủ nợ của Vanđơma đang ngồi đấy với bản khế ước cầm cố gia sản của Vanđơma. Iđa và Đôrôtê oà lên khóc, Gian ngồi cắn móng tay.

Ôvơ Ramon đã mời Vanđơma ở lại lâu đài suốt đời, nhưng lão chỉ cảm ơn. Lão chỉ còn quần áo mặc trên người, và một cái bình thuỷ tinh mới mua đựng nước luyện kim vét dưới đất, thứ nước quý báu hứa hẹn nhiều nhưng chẳng đem lại gì. Lão chúa đất trước kia già có, nay ôm chặt cái bình, một tay chống gậy cùng các con ra khỏi lâu đài Bôrôđy. Ta thổi hơi lạnh buốt vào đôi má lão, lay chòm râu xám và bộ tóc bạc của lão. Ta hét: vi vu, vi vu.. Mọi việc trôi qua! Thế là hết hạnh phúc.

Iđa và Đôrôtê đi cạnh lão. Gian trước khi đi theo còn quay lại nhìn ngôi nàh cũ một lần. Các nàng đi theo con đường mà trước đây họ thường đi dạo bằng xe ngựa. Người nào cũng lếch thếch như những kẻ ăn xin. Họ đến một ngôi nhà đất mới thuê mỗi năm mười mác, tường vách trống trơn. Đàn bay qua lượn chung quanh gào: “Họ bị đuổi đi! Họ bị đuổi đi!”

Gió còn biết Vanđơnma và các cô gái sau này ra sao nữa kia.
Gió kể:
– Năm mươi năm sau ta gặp lại Đôrôtê. Lúc ấy nàng đã già, lưng đã còng. Nàng là người cuối cùng trong gia đình còn sống và còn nhớ lại mọi chuyện cũ. Nàng đã kể thế này: “Giữa đồng bằng trong thành phố Viho, mọc lên một toà lâu đài sang trọng của mục sư, xây bằng đá đỏ, khói nghi ngút toả trên mái. Gia đình chủ nhà mới đứng gần cửa sổ nhìn qua khe lá leo trên đầu, về phía đồng cỏ màu nâu nhạt. Họ nhìn một túp lều tiều tuỵ, trên mái là những tổ cò. Cái lều thật thảm hại. Các bạn chỉ đứng xem chớ có động vào.

Cái lều ấy đáng lẽ phải phá đi vì nó làm xấu cả cảnh quan. Xong ông mục sư không nỡ. Vì trong túp lều ấy còn có một bà già. Thế là túp lều còn lại và người đàn bà đáng thương còn được ở trong đó.

Qua lời bà già Đôrôtê, chúng ta còn được biết: Ông Vanđơma đã chết một cách đáng buồn, chẳng có một tiếng chuông, chẳng có một lời cầu nguyện, Iđa lấy một người nông dân, ông bố rất đau khổ chả là con rể chỉ là một người bình dân mà ông thường khinh rẻ. Còn Gian sau này xung vào lính thuỷ. Nàng luôn lầm lỳ và ủ rũ nhưng chẳng than phiền gì. Trong một cơn bão, chiếc tàu trên nàng làm việc đã chìm xuống biển, kéo theo nhiều người trong đó có Gian. Người cuối cùng của gia đình Vanđơma là Đôrôtê đã hát lời cầu nguyện trong túp lều tiều tuỵ vào một ngày lễ Phục Sinh. Nàng đã qua đời.

24. Bà chúa tuyết

I. Tấm gương và những mảnh gương vỡ.

Tôi sẽ kể cho các bạn nghe câu chuyện về một con quỷ.
Một hôm quỷ ta rất sung sướng vì đã làm ra một tấm gương rất kỳ lạ. Những vật tốt đẹp soi vào đấy đều nom chẳng ra gì cả, trái lại các vật xấu xí lại càng rõ nét và nổi bật hẳn lên, trông lại càng xấu xí hơn. Những phong cảnh đẹp vào gương thì trông như mớ rau muống luộc; những người tốt nhìn vào lại trở thành đáng ghét, đi đầu lộn xuống đất, có khi mất cả bụng, mặt thì méo mó không nhận ra ai nữa. Nếu trên mặt có một vết tàn nhang thì nhìn vào gương, vết tàn nhang ấy lại thấy loang ra khắp mặt, mũi mồm đều là tàn nhang.

Quỷ lấy làm thích thú lắm. Khi một người có ý nghĩ tốt thì ý nghĩ đó phản ánh trong gương thành những vết nhăn nhó, quỷ cười khoái trá về sự phát minh xảo quyệt của mình.
Đồ đệ của quỷ kể lại rằng tấm gương ấy là một kỳ quan. Chúng bảo:
– Bây giờ người ta có thể biết bộ mặt thật của thế giới và loài người.
Và chúng mang gương đi khắp nơi, chẳng một vật nào, chẳng có người nào không bị chúng làm méo mó đi. Chúng còn muốn bay lên trời để nhạo báng các tiên đồng và cả Chúa Trời nữa. Chúng càng bay cao, gương càng nhăn nhó. Khó nhọc lắm chúng mới giữ nổi gương. Chúng bay lên, bay lên mãi và cuối cùng lên đến gần Thượng đế và các tiên đồng. Tấm gương nhăn nhó rúm ró lại, cong queo và tuột khỏi tay lũ quỷ, vỡ tan thành triệu triệu mảnh.
Sự việc bây giờ trở nên vô cùng tồi tệ, tồi tệ hơn trước nhiều, mỗi mảnh gương vỡ nếu bay vào mắt ai thì găm chặt vào đấy, làm cho người ấy nhìn mọi vật sai lệch, chỉ thấy những cái xấu xa, mỗi mảnh gương có phép ma như tấm gương lớn, có bao nhiêu mảnh gương là bằng ấy tấm gương. Vô cùng tai hại! Một số người bị mảnh gương găm vào tim, tim họ trở nên băng giá. Có mấy mảnh to, người ta cắt ra làm kính cửa, nhưng chớ có nhìn bạn bè qua những vuông kính ấy!

II. Hai em bé

Giờ đến một chuyện thứ hai.
Giữa một thành phố lớn, dân cư đông đúc, nhà cửa chen sít, chẳng hở tí đất, muốn có ít cây xanh, phải trồng vào chậu. Đây là vườn cây của họ.
Hai em bé nhà nghèo đã có một mảnh vườn như thế. Chúng không phải là anh em ruột, nhưng chúng yêu nhau như con một nhà. Cha mẹ chúng ở cạnh nhau, trên hai buồng gác sát mái nhà. ở giữa hai căn buồng có một máng nước, mỗi buồng có một cửa sổ nhỏ. Chỉ cần bước qua máng nước là nhà nọ sang nhà kia được.
Cha mẹ chúng treo dưới mái nhà một cái thùng gỗ lớn, trồng rau trong thùng để ăn và cả một cây hoa hồng nữa. Như vậy là mỗi thùng có một gốc hông, những gốc hồng này mọc rất khoẻ.
Cha mẹ chúng đặt hai thùng trên máng nước làm thành cái cầu bắc giữa hai cửa sổ ; có thể gọi đó là một cái vườn nhỏ, các thứ cây trong vườn mọc tốt. Những quả đậu lủng lẳng trên thùng gỗ, hồng uốn thành một cái vòm quanh cửa sổ, trông như một khải hoàn môn xanh tươi kết bằng lá.
Hai đứa trẻ chơi với nhau trên mặt thùng. Chúng ngồi trên những chiếc ghế con, dưới cụm hoa hông và chơi đùa ngoan ngoãn.
Mùa đông đến, cửa kính phủ đầy băng giá. Hai trẻ, em trai tên là là Kay, em gái là Giecđa, lấy tiền si-linh đồng hơ vào bếp lò, rồi ép vào tấm kính lạnh ngắt; như thế là trên mỗi cửa kính lạnh ngắt; như thế là trên mỗi cửa kính thành hình một lỗ kính trong, tròn và nhỏ, có thể nhìn qua được.
Mùa hè chỉ nhảy một bước là chúng đã sang tới nhà nhau rồi; nhưng mùa đông thì phải leo lên, leo xuống rất nhiều cầu thang mới gặp nhau được, ngoài trời tuyết bay tới tấp.
Bà của Kay nói:
– Đàn ong trắng vo ve đấy.
– Chúng có chúa không hở bà? Kay hỏi bà, vì nó biết rằng ông phải có chúa.
Bà đáp:
– Nhất định là có chứ! Ong chúa bay ở nơi tuyết rơi dày đặc nhất. Ong chúa to nhất đàn và chẳng bao giờ đậu trên tất cả. Nó bay luôn luôn vào trong mây. Nhiều đêm đông nó bay qua các phố trong thành và nhìn qua cửa kính. Lúc đó cửa kính phủ đầy băng giá, thành hình những bông hoa trắng đẹp tuyệt vời.
– Ồ! Vâng, cháu đã thấy rồi, hai đứa trẻ đồng thanh nói:
– Bà chúa Tuyết có được vào không hả bà?
Giecđa hỏi:
– Có chứ, bà đáp.
– Cứ vào đây mà xem! Kay nói. Mình sẽ cho bà ấy lên bếp lò nóng để cho bà ấy cháy tan ra.
Bà Kay vuốt tóc cháu và kể sang những chuyện khác.
Buổi tối, Kay mặc áo lót, trèo lên chiếc ghế tựa dựa gần cửa sổ và nhìn qua một lỗ ra ngoài trời. Mấy bông tuyết rơi xuống, một bông lớn lên, lớn mãi, rồi biến thành một người đàn bà mặc áo trắng dài rực rỡ, trông như dệt bằng ức triệu sợi bông nhỏ tí có điểm sao. Trông bà ta lịch sự và đáng yêu, nhưng người bà toàn băng giá, trong loá cả mắt. Tuy vậy bà ta vẫn có vẻ như một người thật.
Mắt bà như hai ngôi sao sáng, nhìn mãi không chớp. Bà ta nhìn về phía cửa sổ, gât đầu và vẫy tay. Kay hoảng sợ nhảy tọt xuống dưới ghế. Hình như cu cậu trông thậy một con chim lợn bay qua cửa sổ con sát mái nhà.
Ngày hôm sau trời rét khan. Rồi tuyết tan, mùa xuân lại tới. Mặt trời rọi sáng, cây cỏ xanh tươi, chim nhạn làm tổ, cửa sổ mở và hai đứa trẻ lại ngồi chơi trong các vườn nhỏ cao tít, trên chốc các tầng gác, gần máng nước sát mái nhà.
Mùa hè tới, hồng trổ hoa rực rỡ, bé Giecđa đã học thuộc một bài thánh ca nói về hoa hồng, bé hát cho Kay nghe:

“Hoa hồng mọc trong thung lũng.
Nơi mà đức Chúa Giê su đang phán bảo ta…”

Đôi trẻ cầm tay, hôn vào những bông hồng, ngắm nhìn mặt trời trong sáng của Thượng đế và nói với lên như là nói với chúa Giê su vậy. Những ngày hè sao mà đẹp thế! Sung sướng thay cái cảnh được ra chơi với nhau bên những gốc hồng tươi tốt không ngừng nở hoa!
Kay và Giecđa đang ngồi xem tranh vẽ súc vật trong một quyển sách. Đồng hồ ở gác chuông nhà thờ điểm năm giờ bỗng dưng Kay kêu lên:
– Ái! Mình đau nhói ở tim và có vật gì bắn vào mắt mình ấy!
Giecđa níu lấy cổ bạn và Kay gương to mắt lên. Giecđa chẳng trông thấy gì cả.
– Có lẽ nó bắn ra rồi! Kay nói.
Nhưng không phải. Một trong những mảnh gương quái ác, chắc các bạn còn nhớ tấm gương quỷ quái làm cho tất cả những gì cao quý và đẹp đẽ khi soi vào nó sẽ trở thành bần tiện xấu xa. Kay đáng thương vừa bị một mảnh gương ấy bắn vào tim, từ đấy tim của nó lạnh như băng giá. Kay không thấy đau đớn nữa, nhưng tai hoạ đã đến với em.
Kay hỏi Giecđa:
– Sao lại khóc thế? Giecđa hét lên.
Thấy bạn sợ hãi, Kay vặt thêm một bông hồng nữa và chạy ra cửa sổ xa chỗ Giecđa đứng.
Giecđa mang tập tranh đến. Kay chế giễu những bức tranh đẹp và quyển sách tốt ấy. Khi bà Kay kể chuyện cổ tích. Kay vẫn đến nghe nhưng làm sao cắt nghĩa được sự thay đổi của chú bé? Chú ngồi ra đằng sau bà cụ, đeo kính vào rồi nhai lại những điều bà cụ kể? Chú bắt chước khéo lắm làm mọi người buồn cười. ít lâu sau chú bắt chước và đi theo tất cả mọi người trong đường phố. Ai có tật gì kỳ quái hoặc xấu xí, Kay bắt chước được ngay và mọi người đều khen:
– Thằng bé này thật thông minh!
Chính mảnh gương vỡ đã găm vào mắt em, đã chui vào tim em, vì thế mà em đã chế nhạo mọi người chế nhạo cả Giecđa là người mà trước đây em rất yêu quý. Những trò chơi giữa hai đứa trước vui là thế mà nay trở thành chán ngắt.
Một ngày mùa đông, tuyết rơi không ngớt, Kay mang ra ngoài trời một kính hiển vi rồi giơ vạt áo hứng những bông tuyết. Kay bảo:
– Giecđa nhìn qua kính mà xem này!
Mỗi bông tuyết hình như lớn hẳn lên, trông giống như một đoá hoa rực rỡ hay như một ngôi sao mười cánh. Thật là đẹp!
– Sao mà đẹp thế! Kay nói. Giecđa thấy không?
Đẹp bằng mấy hoa thật ấy chứ! Hoa tuyết chẳng có tí vết nào cả, thật là hoàn toàn cho đến lúc nó tan thành nước.
Lát sau, Kay ta đi găng, vác chiếc xe trượt tuyết tới. Em nói với Giecđa:
– Tớ được phép đi trượt tuyết ở quảng trường với mọi người đây.
Nói rồi nó ra chỗ bãi trượt tuyết. Những trẻ can đảm nhất thường hay buộc xe trượt tuyết sau xe các bác nông dân để được đi chơi xa. Trò chơi thật thú vị. Bọn trẻ đang nô đùa với nhau bỗng có một chiếc xe trượt tuyết lớn đi tới, xe sơn màu trắng tuyết, trong xe có một người đàn bà ngồi, trên mình khoác chiếc áo choàng lông trắng, đầu đội mũ màu trắng. Chiếc xe chạy quanh bãi hai vòng. Kay buộc xe của nó vào xe kia và trượt theo.
Họ đi vào phố cạnh đấy. Chiếc xe trượt đi mỗi lúc một nhanh hơn. Người đàn bà ngồi trên xe quay lại cười với Kay. Hình như bà quen biết nó thì phải. Mỗi lần Kay định tháo xe của mình ra thì người bà lạ mặt lại lắc đầu ra hiệu, làm cho Kay không dám cử động nữa. Cứ như thế họ ra tới cửa ô. Lúc ấy tuyết rơi dày đặc đến nỗi Kay không nhìn thấy hai bàn tay của nó nữa.
Kay vội vàng tháo dây thừng nối xe của nó vào xe trượt tuyết lớn, nhưng vô hiệu. Chiếc xe nhỏ của nó như bị gắn liền vào xe lớn và bị bôi nhanh như gió.
Kay kêu to, nhưng không ai nghe thấy tiếng nó. Tuyết rơi quay cuồng và xe vẫn cứ chạy. Thỉnh thoảng xe lại xóc lên như chạy qua những cánh đồng và thảo nguyên vậy. Kay lo sợ. Nó muốn đọc một bản kinh, nhưng nó chỉ nhớ có bản cửu chương thôi.
Những bông tuyết lớn, lớn mãi, lớn bằng những con gà. Ngựa kéo xe bỗng nhảy tránh sang một bên. Chiếc xe dừng lại và người ngồi trên xe đứng dậy. áo choàng và mũ của bà ta đầy những tuyết. Đó là một bà có vẻ quý phái, cao lớn, cứng cỏi, trắng toát: bà chúa Tuyết.
– Thế là chúng ta đã đến nơi bình yên vô sự! Bà nói. Nêu em rét thì chui vào tấm da gấu của ta. Bà đặt Kay vào trong xe cạnh bà và kéo chiếc áo choàng lông thú lên người nó. Nó ngồ đấy như bị vùi trong đống tuyết
– Em còn rét không? Bà hỏi và ôm hôn lên trán nó. Cái hôn lạnh buốt và thấm vào tận tim Kay, trái tim bị lạnh như băng giá. Nó cảm thấy như sắp chết.
Nhưng cảm xúc ấy chỉ thoáng qua một lát thôi.
Xung quanh nó mọi vật đều mờ nhạt, trông không rõ. Nó kêu lên:
– Cái xe trượt tuyết của tôi! Chớ quên cái xe trượt tuyết của tôi!
Đó là vật đầu tiên nó nghĩ sau khi tỉnh lại.
Bà ta buộc xe của nó lên lưng một con gà trắng, con gà bay sau lưng họ, mang theo chiếc xe trên lưng. Bà lại hôn Kay một lần nữa, làm nó quên hẳn bé Giecđa, bà và bố mẹ nó.
– Ta chỉ hôn em lần này nữa thôi, bà chúa Tuyết nói, vì em sẽ chết nếu ta hôn em thêm một lần nữa.
Kay nhìn bà ta. Bà rất đẹp. Không có một khuôn mặt nào kiễm lệ hơn. Bà không có vẻ lạnh lùng như băng giá như hôm bà vẫy tay ra hiệu cho nó ngoài cửa sổ nhà nó. Nó thấy bà thật toàn mỹ. Nó không cảm thấy sợ hãi nữa và kể với bà rằng nó biết làm tính nhẩm, biết làm tính quy tắc tam xuất, biết diện tích và dân số của một vài nước. Bà chúa Tuyết mỉm cười. Kay cảm thấy sự hiểu biết của mình chưa vào đâu, và đưa mắt nhìn ra khoảng không bao la. Gió bão rít lên điên cuồng nghe như có tiếng vọng những bài hát cổ.
Họ vượt qua nhiều rừng rậm, hồ ao, biển cả và đất đai. Một luồng gió lạnh như băng thổi dưới chân họ, chó sói hú vang, tuyết lóng lánh, quạ đen vừa bay vừa kêu ran. Ban đêm trăng lấp lánh, chiếu khắp bầu trời. Ban ngày Kay ngủ dưới chân bà Chúa Tuyết.

III. Vườn nhà bà biết làm phép lạ

Khi Kay đi rồi thì Giecđa nghĩ gì? Kay đi đâu? Chẳng ai biết. Đi về hướng nào, cũng chẳng ai hay. Chỉ nghe bọn trẻ con kể lại rằng chúng đã trông thấy Kay buộc chiếc xe của nó vào một chiếc xe trượt tuyết lớn và đi về phía cửa ô. Bé Giecđa đã khóc, khóc nhiều lắm. Cuối cùng người ta đoán là Kay đã rơi xuống sông gần đấy và chết đuối rồi.
Mùa xuân đã đến. Mặt trời xuất hiện chói lọi.
– Chắc là Kay đã chết ở một nơi xa. Giéc đa nói.
– Ta không tin là như thế! Mặt trời bảo.
– Chắc là Kay đã chết ở nơi rất xa, bé nói với đàn chim nhạn.
– Chúng tôi không tin điều đó, đàn chim trả lời.
Cuối cùng Giecđa cũng không tin là Kay đã chết. Một buổi sáng em nói:
– Mình đi đôi giầy đỏ mới tinh này và ra sông hỏi xem Kay đang ở đâu.
Trời mới tang tảng sáng. Nó hôn bà nó lúc này còn đang ngủ, xách đôi giầy đó ra đi một mình, theo lối cửa ra sông.
– Sông ơi! Có thực là sông đã bắt đứa bạn thường vẫn chơi với tôi không? Tôi sẽ biếu sông đôi giầy đỏ nếu sông trả lại bạn cho tôi!
Hình như các ngọn sóng đang niềm nở chào đón nó. Nó ném đôi giầy mà nó quý nhất trên đời xuống dòng nước đang chảy xiết. Nhưng giầy rơi gần quá, sông lại đánh giạt vào bờ, như có ý từ chối cái của quý nhất của Giecđa vì sông có bắt Kay đâu. Nó tưởng vì ném chưa xa, nên nó trèo lên chiếc xuồng đang nổi giữa bụi cói, đi ra tận mũi xuồng để ném đôi giầy lần nữa. Chiếc xuồng không buộc nên trôi ra xa. Thấy thế, nó vội đi về phía đuôi xuồng, nhưng xuồng đã trôi cánh bờ hơn một mét rồi và ngày càng lướt đi nhanh hơn.
Giecđa sợ quá oà khóc, nhưng chẳng ai nghe tháy, ngoài đàn chim sẻ. Chim chẳng thể mang em vào bờ được. Chúng vừa bay dọc hai bên bờ vừa hót như để an ủi nó.
– Có chúng tôi đây! Có chúng tôi đây!
Xuồng trôi theo dòng nước tách xa hẳn bờ sông. Giecđa ngồi trên xuồng, chân nó vẫn đi tất. Đôi giầy nổi ở phía sau, không trôi kịp xuồng.
Hai bên bờ trăm hoa đua nở, cây cổ thụ um tùm, hàng đàn bò và cừu gậm cỏ trên cánh đồng, nhưng không có một bóng người.
– Có lẽ dòng sông sẽ đưa ta đến với Kay bé nhỏ của ta chăng? Giecđa thầm nghĩ.
ý nghĩ đó làm nó vui hẳn lên. Nó đứng dậy và ngắm nghía hai bên bờ xanh tươi hàng giờ. Xuồng trôi qua một khu vườn lớn trồng toàn anh đào. Trong vườn có một ngôi nhà nhỏ, có những cửa sổ sơn xanh đỏ trông rất kỳ quặc. Nhà lợp ra, trước nhà có hai chú lính gỗ bồng súng như chào người qua lại.
Giecđa tưởng đấy là người thật kêu cứu. Không thấy họ trả lời. Dòng nước đẩy xuồng vào sát ngôi nhà. Giecđa kêu to hơn. Một bà cụ trong nhà đi ra. Bà chống nạng và đội chiếc mũ cói lớn. Bà suýt xoa.
– Khốn khổ con bé! Sao lại bị dòng nước chảy xiết cuốn trôi thế này?
Bà nói và lấy nạng khều, kéo chiếc xuồng vào bờ rồi đỡ Giecđa lên bờ.
Giecđa sung sướng được lên trên mặt đất, nhưng trong lòng có ý sợ bà lão lạ này.
– Cháu lại đây! Cháu là con nhà ai? Sao cháu lại ngồi thuyền trôi mãi đến đây?
Giecđa kể lại cho bà lão nghe sự việc đã xảy ra. Bà lão lắc đầu. Hừ! Hừ!
Khi Giecđa hỏi bà có trông thấy Kay đâu không, bà trả lời không thấy, nhưng chắc rồi Kay sẽ đến.
Như thế thì chẳng nên buồn, mà hãy nếm những quả anh đào thơm ngọt và ngắm những hoa đẹp, đẹp hơn các bông hoa trong các tập tranh nhiều. Mỗi bông hoa đẹp còn biết kể một chuyện rất dài.
Bà lão cầm tay Giecđa dắt vào nhà rồi đóng cửa lại. Một ánh sáng kỳ diệu qua các cửa sổ rất cao và các ô kính màu đỏ, xanh, vàng dọi vào nhà. Trên bàn bày đầy những quả anh đào trông rất ngon. Giecđa muốn ăn bao nhiêu cũng được. Bà lão lấy chiếc lược bằng vàng chải tóc cho nó, uốn thành những búp vàng óng anh xung quanh khuôn mặt xinh xắn đáng yêu của Giecđa.
Đã từ lâu bà mơ ước có một cháu gái, bà nói:
– Bà sẽ tìm mọi cách làm cho cháu khỏi buồn.
Được bà lão chải tóc cho Giecđa dần dần quên cả Kay, người bạn thân nhất của nó, vì bà lão có phép lạ. Nhưng bà không phải là một phù thuỷ ác nghiệt. Bà chỉ làm điều lành; bà muốn giữ Giecđa lại. Bà ra vườn lấy nạng chĩa vào các khóm hồng làm cho hoa đang nở đẹp bỗng chui ngay xuống đất đen, không còn trông thấy dấu vết gì nữa. Bà lão sợ rằng khi trông thấy hoa hồng Giecđa lại nhớ đến Kay và bỏ đi mất.
Bà dẫn Giecđa ra vườn hoa. Cảnh ở đây tuyệt đẹp, hương thơm ngào ngạt. ở đây có đủ các loại hoa, nhiều không tưởng tượng được, hoa của cả bốn mùa, muôn màu muôn vẻ. Không có tập tranh nào có đầy đủ màu sắc và đẹp như thế. Giecđa vui vẻ nhảy nhót khắp nơi. Nó vui đùa đến lúc mặt trời lặn sau đám cây anh đào. Bà lão sửa soạn cho nó một chiếc giường lộng lẫy có gối đỏ viền tím để nó ngủ mơ thấy những giấc mộng đẹp như những giấc mộng của một bà hoàng.
Sáng hôm sau ngủ dậy nó lại chơi với hoa dưới nắng ấm. Nhiều ngay qua đi như vậy. Giecđa thuộc từng bông hoa. Hoa hồng nhiều thế nhưng nó thấy thiếu một bông. Bông gì nó không biết, chỉ thấy là thiếu.
Một hôm Giecđa đang ngồi, chợt nhìn vào chiếc mũ cói có vẽ hoa của bà lão. Bông hoa đẹp nhất là một bông hồng. Bà lão đã làm phép cho các bông hồng chui xuống đất, nhưng lại quên mất bông hồng trên mũ. ở đời ai mà lại có thể nghĩ đến tất cả mọi thứ trong một lúc!
– Sao? Giecđa hỏi, ở đây không có hoa hồng à bà?
Nó chạy vào các luống hoa, tìm mãi, tìm mãi, cũng chẳng thấy có hoa hồng.
Nó ngồi xuống oà lên khóc.
Nước mắt nó nhỏ đúng vào chỗ cây hoa hồng đã biến đi làm ướt đất; tức thì hoa hông lại mọc lên, tươi tắn như trước lúc chui xuống đất. Giecđa ôm lấy cây hồng, hôn lên hoa, nghĩ đến hoa hồng ở nhà rồi nghĩ luôn đến Kay.
Nó nói:
– Chết, mình bỏ phí bao nhiêu thời gian rồi! Mình phải đi tìm Kay chứ? Hoa có biết Kay ở đâu không? Hoa có tin rằng Kay đã chết ở một nơi rất xa không?
Hoa hồng đáp:
– Kay chưa chết đâu! Chúng tôi vừa ở dưới đất chỗ ở của những người chết lên, nhưng không gặp cậu ta.
Giecđa cảm ơn hoa rồi đi tới các hoa khác. Đến hoa nào cũng ngó vào đài mà hỏi có biết bây giờ Kay ở đâu không.
Hoa huệ đỏ nói:
– Em có nghe thấy tiếng trống đánh không? Hai tiếng Tùng, Tùng mà? Em hãy nghe tiếng hát của người đàn bà goá chồng! Hãy nghe các tăng lữ cầu kinh! Một phụ nữ người ấn mặc áo dài đỏ trèo lên giàn hoả thiêu; ngọn lửa quấn quanh lấy bà và xác chồng bà; nhưng bà lại nghĩ đến người có đôi mắt sáng rực hơn cả giàn hoả, người mà cái nhìn nồng cháy thâm nhập vào bà mạnh hơn cả ngọn lửa sắp thiêu cháy thân thể bà thành tro bụi. Ngọn lửa của trái tim có thể chết trong ngọn lửa giàn củi không nhỉ?
Giecđa nói:
-Mình chịu không thể hiểu được.
– Đó là một chuyện đã xảy ra trong đời tôi, huệ đỏ nói.
– Còn hoa bìm bìm định kể chuyện gì nào?
Bìm bìm nói:
– Trên núi kia có một toà lâu đài. Cây cối xanh tươi quanh năm, mọc trên những bức tường màu đỏ đến tận bao lơn. Trên bao lơn có một cô gái đẹp đứng đấy. Nàng thường cúi nhìn qua khe núi xuống đường. Trong đám hoa hông lủng lẳng trên cành chẳng có đoá nào tươi đẹp bằng nàng. Hoa mận bị gió cuốn đi cũng không nhẹ nhõm hơn nàng. Bộ áo lụa nàng mặc phập phồng trước gió. Còn chàng, sao chàng chưa tới nhỉ?
Giecđa hỏi:
– Hoa nghĩ đến Kay phải không?
Bìm bìm trả lời:
– Mình chỉ kể lại đời mình ,thuật lại giấc mơ của mình thôi.
Hoa mao lương kể chuyện gì đấy?
Mao lương nói:
– Giữa hàng cây người ta treo dây và ván gỗ làm đu, hai em bé xinh đẹp đang đánh đu, trên mũ mỗi em có đính một bông hoa hồng trắng như tuyết và một dải lụa xám phất phơ theo chiều gió. Hai em ngồi bỏ thõng chân, còn anh của các em thì đứng trên đu. Em trai quấn cánh tay vào dây để giữ đu cho chắc hơn, vì một tay em còn phải cầm cái bút, tay kia cầm cái ống thổi bọt xà phòng bằng đất. Em vừa đánh đu vừa thổi hàng dây bong bóng bằng nước xà phòng, chúng bay lên và trông như nhuộm bằng nhiều màu sắc. Cái bong bóng cuối cùng dính vào ống thổi và bị gió thổi ngả về một bên. Một con chó mực con đứng vươn hai cẳng sau để với theo đu. Đu bay, chú chó ngã xuống và sủa om lên. Bong bóng xà phòng vỡ dần. Một mảnh ván bay, một bong bóng vỡ, đó là câu ca của tôi.
– Chuyện hoa kể hay đấy, nhưng giọng hoa buồn lắm và sao không thấy nhắc đến tên Kay. Dạ hương lan nói gì nào?
– Có ba chị em, trong trắng và đáng yêu. Một cô áo đỏ, một cô áo xanh, một cô áo trắng. Tay cầm tay, các cô nhảy múa trên mặt hồ phẳng lặng dưới ánh trăng. Không khí ngát hương thơm. Họ biến vào trong rừng, hương lại càng thơm ngát.
Một lát sau, cỗ quan tài, có ba cô gái nằm trong đó, từ trong rừng tối om tuột xuống mặt hồ. Đom đóm đậu trên cành cây lập loè, hồng như những ngọn đèn con. Các cô gái đang ngủ hay tắt thở rồi? Hương thơm của muôn hoa làm cho ta cảm thấy rằng các cô gái đã chết! Chuông nhà thờ rung lên bản cầu hồn…
– Hoa kể làm mình sợ quá! Giuđa nói! hương hoa nồng quá làm cho mình cảm tưởng như các cô đã chết và cả Kay nữa, nhưng nó có thật là Kay chết rồi không? Những bông hoa hồng đã bị chôn xuống đất bảo rằng Kay chưa chết, có thật thế không?
– Kính công! Hoa dạ lan hương hình chuông rung lên. Chúng tôi không rung chuông cầu nguyện cho Kay đâu và chúng tôi không biết Kay là ai cả. Chúng tôi chỉ hát lên bài ca của chúng tôi, bài hát độc nhất mà chúng tôi biết.
Giecđa đi đến bông hoa tuyết đang lấp lánh trong chùm lá xanh biếc. Nó nói:
– Hoa đẹp như mặt trời con trong sáng. Hãy chỉ cho mình nơi mình có thể tìm thấy Kay, người bạn chí thân của mình.
Hoa tuyết âu yếm nhìn Giecđa, hoa hát bài gì bây giờ nhỉ. Bài hát của hoa cũng chẳng liên quan gì đến Kay cả:
Ngày đầu xuân, mặt trời nóng bỏng soi xuống cái sân nhỏ. Tia nắng lướt tới tận bức tường trắng nhà bên cạnh, nơi đó mọc lên những bông hoa màu vàng đầu tiên lóng lánh như vàng thật. Đó là chuyện của hoa tuyết kể.
– Trời! Ta mất bao nhiêu thời gian! Giecđa kêu lên. Đã sang thu rồi ư? Thế thì mình chẳng nên nghỉ ngơi nữa!
Nó nói rồi đứng dậy lên đường.
Chân nó mỏi rồi. Xung quanh nó mọi vật đã chìm vào trong giá lạnh. Lá liễu đã vàng úa và rỏ sương xuống mặt nước. Lá bắt đầu rụng. Riêng có một cây dương mai đang nặng trĩu những quả chát lè, ăn vào ghê răng. Cảnh vật xám xịt và nặng nề.

IV. Hoàng tử và công chúa

Giecđa đành phải ngồi nghỉ. Gần chỗ nó ngồi có một con quạ lớn, quạ đậu ở đấy từ lâu, nhìn em, lắc đầu rồi cất tiếng kêu: “quạ! quạ! quạ! quạ!” quạ không thể nói rõ hơn được nữa, nhưng tỏ ra lưu ý đến cô bé và hỏi nó đi đâu một mình như vậy.
Giecđa nghe rõ hai tiếng “một mình”, nó thuật lại cuộc đời và nỗi lo lắng của nó của nó cho quạ nghe, rồi hỏi quạ có trông thấy Kay đâu không.
Quạ lắc đầu, suy nghĩ một lúc rồi nói:
– Có thể! Có thể!
– Thật ư? Giecđa reo lên và ôm ghì lấy quạ mà hôn, suýt nữa làm quạ chết ngạt.
– Làm gì mà rối lên thế? quạ bảo. Tôi nghĩ rằng cậu bé mà tôi đã thấy có lẽ đúng là Kay. Nhưng giờ thì chắc là cậu ta thích công chúa hơn và đã yêu cô rồi.
– Kay ở nhà một nàng công chúa ư? Giecđa hỏi.
– Phải, cô hãy nghe đây, quạ đáp, nhưng nói cái tiếng của cô khó quá đi mất. Giá cô biết nói tiếng chim thì hay biết mấy!
– Không, tôi chưa học tiếng chim bao giờ. Bà tôi thì biết. Tiếc quá nhỉ! Nếu tôi chịu khó học bà tôi thì hay quá!
– Không sao! quạ nói. Tôi sẽ cố gắng nói thế nào để cô có thể hiểu được.
Và quạ kể lại tất cả những gì mà quạ biết.
– Trong giang sơn chúng tôi đang đứng đây có một nàng công chúa rất mực thông thái, đã học qua tất cả sách vở trái đất này, nhưng được cái quên ngay. Giờ nàng đã lên ngôi báu rồi. Thiên hạ đồn rằng nàng thường hát bài” Ta muốn lấy chồng” với một giọng nghe như oán như sầu. Thật là bài hát đầy ý nghĩa! Nàng muốn lấy chồng nhưng lại kén một người biết nói năng chứ không phải người chỉ có bề ngoài chững chạc. Cái vỏ ngoài, nàng cho là không quan trọng mà còn làm cho nàng khó chịu nữa là khác. Bỗng nhiên có một ngày nàng bắt các mệnh phụ trong triều học đánh trống và họ cũng thích thú được học cái môn ấy. Họ đồng thanh nói:
– Hay quá là hay! Chính chúng tôi cũng đã nghĩ đến điều ấy.
Quạ kể tiếp:
– Cô có thể tin những điều tôi kể. Tôi có một cô bạn gái đã được người ta mang về nuôi, được bay nhảy tự do trong cung và kể lại tất cả cho tôi nghe.
Cô bạn ấy là một ả quạ cái, vì quạ đực thì chỉ đánh bạn với quạ cái chứ sao.
Một hôm trên báo đăng chân dung công chúa có đóng khung hình quả tim và in tên công chúa, có gạch dưới hẳn hoi. Báo còn đăng rõ ràng tấtcả các chàng trai mặt mũi sáng sủa đều có thể vào lâu đài nói chuyện với công chúa.
Chàng nào nói năng lưu loát, hoạt bát thì được lấy công chúa.
ái chà! Thật là náo nhiệt! Các chàng trai vào chen chúc nhau. Nhưng suốt hai ngày chẳng một ai thành công. ở bên ngoài thì anh nào cũng nói năng liến thoắng, nhưng một khi đã bước vào lâu đài, trông thấy lính gác bận áo giát bạc, thấy quân hầu đeo tua rua vàng đứng trên cầu thang, khi bước vào các căn phòng sáng trưng, các anh chàng đâm hoảng và khi đến trước ngai vàng, nơi công chúa ngồi, thì chẳng nói được gì hơn là lặp lại tiếng cuối cùng trong lời phán bảo của công chúa. Cách đối đáp ấy chẳng làm nàng thích thú chút nào. Có thể nói các chàng ấy đã hút quá nhiều thuốc lào nên ngây ngất như người say thuốc. Chỉ đến khi ra tới ngoài phố họ mới lại ba hoa chích choè. Họ đông lắm, xếp thành hàng dài.
Tôi đậu gần đấy để xem họ. Họ chờ lâu đến nỗi phải nhịn đói, nhịn khát, thế mà ở lâu đài người ta chẳng cho họ đến một cốc nước lã. Có anh mang theo bơ và bánh mỳ nhưng chẳng chia sẻ cho ai cả. Nhưng anh ấy nghĩ rằng cứ để cho họ đói lả đi, trông họ thảm hại, công chúa sẽ gạt họ ra”.
– Nhưng còn Kay? Giecđa hỏi. Kay có ở đấy không?
– Khoan tí đã! Giờ đến lượt Kay rồi đây. Sang ngày thứ ba, bỗng người ta thấy một cậu bé chẳng có xe ngựa gì cả, vui vẻ đi bộ tới lâu đài. Mắt cậu ta lóng lánh như mắt cô vậy. Tóc cậu ta dài và rất đẹp, nhưng quần áo thì xấu xí.
– Kay đấy! Giecđa vỗ tay reo lên. Đúng là Kay rồi!
– Trên lưng cậu ta đèo một cái túi vải to.
– Không phải túi vải đâu, đấy là xe trượt cậu ấy mang theo khi ra đi.
– Cũng có thể, quạ đáp, vì tôi không nhìn cậu ta kỹ càng lắm, nhưng cô bạn kể rằng khi vào lâu đài trông thấy lính gác mặc áo giát bạc và lên thang gác gặp quân hầu đeo tua rua vàng, cậu ta không hề ngạc nhiên. Cậu ta chào họ và bảo: Đứng ở cầu thang như các anh thì chán chết “Tôi thì tôi thích vào trong nhà hơn”.
Các căn phòng đều sáng choang, một đoàn các quan lớn, quan bé, đi chân không, tay bưng những cái khay bằng vàng. Giầy của Kay khua lộp cộp đôi giầy ấy trong nhà bà nội.
– Đúng, đúng đôi giầy khua lộp cộp! quạ nói. Anh chàng đi thẳng đến chỗ công chúa. Nàng ngự trên một viên ngọc to bằng chiếc guồng quay sợi. Các mệnh phụ trong triều cùng đám thị tỳ lớn bé, các quan lớn cùng đám thị vệ và lính hầu đủ các cỡ đứng im lặng xung quanh công chúa. Có điều lạ là càng đứng gần cửa ra vào, xa công chúa họ lại càng vênh váo. Một tên thị vệ hạng bét đi giầy băng túp, vác mặt lên với vẻ kiêu căng, rất khó coi.
– Trông đáng ghét quả nhỉ! Giecđa nói. Nhưng còn Kay thì sao? Bạn tôi có làm vừa lòng công chúa không?
– Nếu tôi không là quạ thì dù đã đính hôn với kẻ khác, tôi cũng chiếm được công chúa. Chắc chắn là Kay cũg nói năng hoạt bát chẳng kém gì tôi, tuy rằng tôi nói tiếng nhà quạ. Cậu ta rất bình tĩnh và rất đáng yêu. Cậu ta không đến để cầu hôn mà chỉ đến để xem công chúa thông thái đến mức nào. Cậu ta nhận thấy công chúa thông thái thật và nàng cũng nhận thấy cậu ta thông minh có thừa.
– Đúng là Kay quá đi rồi! Cậu ta học giỏi quá, có thể làm được tính nhẩm và làm những bài toán đố có ba phép tính, quạ hãy vui lòng dẫn tôi đến lâu đài.
– Chẳng dễ đâu! Quạ đáp. Làm thế nào mà vào đấy được cơ chứ? Tôi sẽ hỏi cô bạn tôi xem. Chắc hẳn cô ta sẽ hiến cho ta một kế hay. Tôi cũng phải nói để cô biết rằng một em bé như cô chẳng khi nào được phép vào lâu đài đâu.
– Thật thế ư? Kay mà biết tôi ở đây thì chắc là cậu ta sẽ đón tôi vào ngay.
– Đợi tôi ở cột cây số này nhé! Quạ nói rồi bay đi.
Mãi đến chiều tối quạ mới bay về và nói:
– Quạ! Quạ! Tôi mang đến cho cô lời chào của cô bạn tôi và đây là một chiếc bánh nhỏ bạn tôi đã lấy trong bếp để biếu cô. Chắc là cô đói lắm rồi. Cô không có giầy dép gì cả nên không thể đến lâu đài được đâu. Lính gác và quân hầu sẽ không cho cô vào. Nhưng chớ có khóc! Rồi cô cũng sẽ vào được thôi. Cô bạn tốt của tôi có biết một thang gác con, bí mật, dẫn vào phòng ngủ và cô ta lại có thể mượn được chìa khóa buồng nữa…
Họ đi vào vườn, theo con đường lớn, lá rụng lả tả. Khi đèn trong lâu đài tắt hết, quạ dẫn Giecđa đến một chiếc cửa sau bỏ ngỏ. Giecđa lo sợ và nóng ruột, tim đập thình thịch. Em cảm thấy như sắp làm một điều gì xấu, nhưng thực ra em chỉ muốn gặp Kay. Phải, đúng cậu ta rồi! Giecđa nhớ lại đôi mắt thông mình của cậu Kay, lại bộ tóc dài nữa. Nó cảm thấy Kay mỉm cười như là hai đứa đang ngồi chơi với nhau ở nhà, bên gốc cây hoa hồng. Chắc Kay sẽ sung sướng được gặp lại nó, được biết rằng nó phải đi không biết bao nhiêu đường đất để gặp Kya, được biết rằng ở nhà mọi người buồn bã như thế nào khi không thấy Kay về.
Giecđa thấy trong lòng vừa lo sợ vừa vui sướng.
Họ đã tới thang gác. ở đấy có một ngọn đèn đặt trên một cái tủ đựng bát đĩa. Cô ả quạ đang đậu dưới đất, quạ quay đầu nhìn quanh nhìn quẩn trong lúc Giecđa lễ phép cúi đầu chào theo kiểu cách mà bà em đã dạy cho em.
– Anh chồng chưa cưới của tôi đã nói tốt về cô với tôi rất nhiều, quạ cái nói: Cuộc đời cô thật là cảm động. Cô hãy cầm lấy đèn, tôi sẽ đi trước. Chúng ta theo con đường thẳng mà đi, như thế sẽ không gặp ai.
– Hình như có ai đang đi ở đằng kia! Giecđa nói.
Đúng vậy, có tiếng rít gầm bên em.
Giecđa thấy có một đoàn ông lớn bà lớn cưỡi những con ngựa chân thon bờm phất phơ, đi săn thú.
– Đó là các thần mộng thôi, quạ nói:
Giecđa và quạ tiến vào trong phòng thứ nhất, can toàn lụa đỏ và đính hoa giả trên tường. Có tiếng thần mộng vừa bay qua vừa rít lên, nhưng chúng bay nhanh quá Giecđa không nhìn thấy. Rồi họ vào các buồng, buồng nào cũng lộng lẫy.
Thoạt tiên họ vào buồng ngủ. Trần nhà như một cây cọ lớn, lá bằng thuỷ tinh. Giữa buồng đặt hai cái giường, trông giống như hai bông huệ, mỗi cái đặt trên một cái bệ bằng vàng. Trên chiếc giường căng rèm trắng, công chúa đang ngủ. Có lẽ Kay đang ngủ trên chiếc giường căng rèm đỏ bên cạnh. Giecđa vạch rèm, trông thấy một người nằm nghiêng, quay lưng ra ngoài, da ở gáy màu hung hung.
– A! Đúng Kay rồi, cô kêu lên và dè dặt đến cạnh giường.
Có tiếng rít của các thần mộng cưỡi ngựa phi quanh phòng. Người nằm ngủ chợt tỉnh, quay ra… Không phải Kay!
Hoàng tử chỉ giống Kay ở cái gáy mà thôi. Trông chàng trẻ và đáng yêu. Công chúa từ giường bên cạnh có rèm trắng ngó sang và hỏi chuyện gì xảy ra. Giecđa oà khóc, thuật lại chuyện đời mình và không quên kể đến sự giúp đỡ của đôi quạ.
– Cô bé đáng thương thay! Hoàng tử và công chúa đồng thanh nói và phán bảo đôi quạ rằng họ không giận quạ đâu, nhưng lần sau không được làm như thế. Họ cũng hứa sẽ thưởng cho chúng.
Công chúa hỏi:
– Các người muốn tự do hay muốn nhận chức quạ của hoàng gia và được hưởng các thức ăn thừa trong bếp.
Đôi quạ nghiêng mình cảm tạ và xin nhận chức trong triều. Chúng nghĩ đến tương lai và tâu rằng về già, đời sống được bả đảm là quý nhất.
Hoàng tử ngồi dậy, nhường giường cho Giecđa. Cô bé chắp tay lạy và suy nghĩ: “Dẫu sao người và vật đều tốt bụng cả”.
Nói rồi nó nhắm mắt ngủ thiếp đi. Thần mộng lại quay lại. Lần này họ biến thành những tiên đồng kéo một chiếc xe trượt tuyết trong có Kay ngồi. Trông thấy Giecđa chú bé giơ tay vẫy chào. Nhưng đó chỉ là mộng thôi. Khi Giecđa tỉnh giấc thì chẳng thấy Kay, cũng chẳng thấy xe và tiên đồng đâu. Tất cả biến mất.

V. Con gái quân cướp đường

Hôm sau người ta mặc cho nó toàn nhung gấm lụa là, từ đầu đến chân. Người ta lưu nó ở lại lâu đài để hưởng vin hoa phú quý, nhưng nó chỉ xin một chiếc xe nhỏ, một con ngựa và một đôi giầy băng túp nhỏ. Nó muốn băng qua thế giới bao la để tìm Kay.
Người ta cho nó một đôi giầy và một chiếc bao tay rất vừa. Khi ra đi nó thấy một cỗ xe song mã thiếp vàng mới tinh. Gia huy của hoàng tử và công chúa lấp lánh ở trên xe. Người đánh xe, người hầu và lính hộ vệ đều đội mũ bằng vàng. Hoàng tử và công chúa đặt Giecđa vào trong xe và chúc nó đi đường bình an vô sự.
Quạ cái giờ đã thành hôn, tiễn chân nó ba dặm đường và đậu ngay cạnh nó, vì qua không muốn bay theo xe. Quạ được đậu trên cổng lâu đài, vẫy cánh chào từ biệt. Chú ta không ra tiễn được vì từ ngày nhậm chức, chú ăn nhiều quá nên bị bệnh đau đầu trầm trọng. Bên trong xe xếp đầy bánh ngọt, trên ghế để hoa quả và bánh mì.
– Đi nhé! Cầu chúa phù hộ cho em. Hoàng tử và công chúa hô lên.
Giecđa khóc oà lên, quạ cái cũng khóc theo.
Đi được mấy dặm đường, quạ cũng từ biệt nốt. Cả hai đều buồn rười rượi. Quạ bay lên cành cây và tiếp tục vỗ cánh cho đến lúc xe chở Giecđa đi khuất.
Xe đến một khu rừng tối om. Bọn cướp trong đó thấy xe lấp lánh, hoa cả mắt reo lên:
– Vàng đấy! Vàng đấy!
Chúng bảo nhau lao ra túm lấy xe, giết chết ngựa, giết chết lính hầu, người hộ vệ, cả xà ích rồi kéo Giecđa ra khỏi xe.
Mụ hầu già của bọn cướp có bộ râu dài, rậm và đôi lông mày rủ xuống tận mắt reo lên:
– Con bé này béo khoẻ. Tuyệt lắm. Ngậy như nhân hạt dẻ ấy. Trông nó như một con cừu béo. Thịt nó chắc là ngon!
Mụ già nói rồi rút con dao sáng quắc trông gớm ghiếc ra.
– Ái! Ái! Mụ thét lên vì bị đứa con gái bíu lấy cổ và cắn vào tai. Trông nó có vẻ dữ tợn và thích thú.
– Hỗn nào! Mụ mắng con và sắp sửa chọc tiết Giecđa.
– Để cho nó chơi với con! Đứa con gái nói. Nó sẽ cho con cái bao tay và áo đẹp của nó. Nó sẽ ngủ chung với con.
Nói rồi nó lại ngoạm vào tay mẹ nó làm mụ giãy nảy lên.
Bọn cướp cười ầm và nói:
– Trông mẹ con nhà nó khiêu vũ kìa!
Đứa con bọn cướp nói:
– Con muốn đi xe ngựa.
Bọn cướp nó trèo lên xe ngựa với Giecđa vì nó là một đứa trẻ bướng bỉnh thường được nuông chiều. Xe lao vào rừng, băng qua gốc cây cụt và hồ ao. Con gái lũ cướp cũng lớn bằng Giecđa nhưng khoẻ mạnh hơn, vai rộng, mắt nâu. Cặp mắt đen của nó hơi buồn. Nó ôm ngang lưng Giecđa và bảo:
– Nếu tớ không giận đằng ấy thì chúng chẳng dám giết đằng ấy đâu. Hẳn đằng ấy là một công chúa?
– Không, Giecđa đáp rồi kể lại đời mình. Nó nói thêm rằng nó yêu quý một cậu bé tên là Kay.
Con bé nghiêm nghị nhìn Giecđa và lắc đầu nói:
– Chúng nó không giết đằng ấy đâu. Chỉ khi nào tớ cáu với đằng ấy thì chính tớ sẽ giết đằng ấy.
Nói xong nó lau nước mắt cho Giecđa và thọc hai tay vào các bao mềm mại và ấm áp.
Xe dừng lại. Cả bọn về tới lâu đài như hoang tàn của bọn cướp. Quạ khoang và quạ đen từ các nơi ào đến. Lũ chó ngao to tường nhảy cẫng lên. Mỗi con đủ sức nuốt chửng một người. Trong một góc nha, bảy tám con ngựa đã thắng yên cương sẵn sàng lên đường, buộc quanh cột nhà. Trên tường binh khí rỉ nát, áo choàng rách bươm treo lộn xộn.
Giecđa bước vào, con gái bọn cướp dắt tay nó. Lúc mới đến, nó chưa phân biệt được gì cả, lo lắng bước không vững.
Trong phòng lớn đấy bồ hóng một đống lửa bốc cháy trên sàn nhà. Khói bốc nghi ngút lên trần nhà rồi loanh quanh tìm lối thoát ra ngoài. Bọn cướp nấu xúp trong một cái nồi đặt trên đống lửa và đang quay trên đó nào là thỏ rừng, nào là thỏ nhà để nguyên cả con.
Con gái bọn cướp nói với Giecđa:
– Đêm nay đằng ấy ngủ ở đây với cả bầy súc vật xinh xinh của tớ.
Ăn xong, chúng nằm lăn trong một góc nhà có lót rơm. Bên trên chỗ nằm có hàng trăm chim bồ câu đậu trên giá quen bắc ngang. Hình như chúng đang ngủ, nhưng khi hai đứa đến thì đám chim ngẩng đầu lên nhìn.
– Tất cả bầy chim này là của tớ, con bé nói.
Nó bắt một con gần đấy, tóm lấy chân lắc làm con chim đập cánh phành phạch.
– Hôn nó đi! Con bé reo lên và quẳng con chim vào mặt Giecđa.
– Đây là đôi bồ câu rừng mất dạy, con bé nói tiếp và chỉ vào những thanh sắt chắn ngang miệng các hốc trên tường. Không nhốt lại là chúng chuồn mất ngay. Và đây là em bé yêu của tớ.
Nó vừa nói vừa nắm lấy sừng một chú nai có chiếc vòng đồng đeo cổ đang buộc gần đấy.
Đó là một con nai già có đôi mắt hiền từ đang nhìn đứa con gái lũ kẻ cướp như có vẻ muốn van xin nó tha tội. Lông nai đã bạc gần hết và đôi chỗ đã rụng, trông thấy cả da. Trông nó người ta có thể đoán rằng nó đã lang bạt nhiều nơi và đã từng trải nhiều hơn đau khổ. Con gái bọn cướp lại nói:
– Con vật này cũng phải buộc cẩn thận, không thì nó sẽ đi mất. Tối nào áơ cũng dứ nó bằng một mũi dao làm cho nó hoảng lên đến là hay.
Nó rồi con bé rút ở khe tường ra một con dao găm và dứ vào cổ nai. Con vật khốn khổ lồng lộn lên làm con bé cười sằng sặc. Rồi chúng lên giường ngủ.
Mới đầu, Giecđa nằm co ro trong một góc. Con bé hỏi giọng hơi sẵng:
– Sao đằng ấy lại tránh tớ thế? Đằng ấy sợ à?
Lại gần đây nào!
Giecđa hơi sợ, hỏi:
– Cậu giắt cả dao găm đi ngủ à?
– Tất nhiên con gái cướp đáp. Ai biết trước được điều gì xảy ra trong đêm hôm. Nhưng thôi, hãy kể chuyện Kay cho tớ nghe và cho tớ biết tại sao cậu ta lại đi chu du khắp thiên hạ như thế.
Giecđa mải mê thuật lại chuyện của nó không quên một chi tiết, để khỏi phải nghĩ đến cái nơi khủng khiếp mà tai hoạ đã dẫn nó đến. Trong khi kể những nỗi lo buồn đã qua, nó tạm quên mối lo hiện tại. Giecđa kể rất dài, dài lắm. Đàn bồ câu vẫn gù trong chuồng, còn các chim khác đã ngủ cả. Con cái lũ kẻ cướp một tay quàng cổ Giecđa, tay kia cầm dao găm cũng ngủ tuốt. Nhưng Giecđa không sao chợp mắt được. Em băn khoăn không biết rằng chúng có để em sống không hay là chúng sẽ giết em. Bọn kẻ cướp ngồi quanh đống lửa uống rượu và ca hát. Mụ hầu cũng say khướt, ngã sấp ngửa. Giecđa sợ run lên.
Đàn bồ câu nói với nó:
– Gù! Gù Chúng tôi đã trông thấy Kay. Một con gà trắng mang xe trượt tuyết cho cậu ấy, còn cậu ấy thì ngồi trong xe của bà chúa Tuyết. Xe chạy qua rừng, nơi chúng tôi làm tổ. Bà chúa đã hà hơi làm chúng tôi chết rét cả bọn chỉ còn hai đứa sống sót thôi. Gu! Gù!
Giecđa reo lên:
– Này các bạn trên kia nói gì thế? Bà chúa Tuyết đi đâu rồi? Các bạn có biết tin tức gì không?
– Chắc là bà ta đi đến xứ Lapôni rồi, vì nơi ấy có băng tuyết quanh năm. Cứ hỏi bác đang buộc ở dưới đấy thì biết.
Nai nói:
Quanh năm chỉ toàn băng và tuyết thôi, thật là thích. ở đấy được vùng vẫy tự do trong cái thung lũng rộng rãi và thoán đãng. Chính đấy là nơi bà chúa Tuyết dựng lều vải vào mùa hè, những lâu đài của bà ta ở tít trên bắc cực, trên một hòn đảo là Spitbe.
Giecđa lẩm bẩm:
– Kay! Kay!
– Nằm im, con gái bọn cướp doạ, nếu không tớ sẽ cho một nhát dao và bụng bây giờ.
Sáng dậy Giecđa kể lại cho cô bạn nghe những lời bồ câu nói tối qua. Con gái bọn cướp trở nên nghiêm nghị, vừa lắc đầu vừa nói:
– Biết thế có ích gì?
Giecđa hỏi nai:
– Nai có biết xứ Lapôni ở đâu không?
– Còn ai biết xứ ấy hơn tôi nữa? Nai đáp. Tôi sinh ra ở nơi ấy và đã sống khá lâu trên cái đất phủ đầy tuyết ấy.
Thế bà chúa Tuyết có ở gần Lapôni không?
– Tôi chưa trông thấy bà chúa Tuyết bao giờ, mặc dù quê tôi đầy tuyết phủ quanh năm và là một xứ sở đẹp nhất thế giới.
– Thôi đi, lão già lẩm cẩm, con gái lũ kẻ cướp gạt đi, tớ có hỏi cảm tưởng của nai về xứ Lapôni đâu. Im đi, không ta sẽ cứa cổ đấy.
Thấy nai rùng mình, con bé hỏi tiếp:
– Thôi được, nai biết rõ xứ Lapôni như thế, liệu nai có thể dẫn đường cho một người đi đến đó không?
– Dù có mù hai mắt, tôi cũng dẫn đến nơi đến chốn được, vì nơi ấy là quê hương tôi, chỉ cần hít không khí nơi ấy tôi cũng tìm được hướng đi.
– Này đằng ấy! Con bé nói với Giecđa, người của ta đi cả rồi. Còn lại mẹ tớ nhưng gần sáng thì mẹ tớ uống một chai rượu bổ rồi đi ngủ. Tớ muốn giúp cậu một điều.
Nó nhảy ra khỏi giường ôm lấy cổ mẹ nó, giật bộ ria mép của mụ rồi nói:
– Chào con dê già của tôi!
Con gái lại nói với mẹ như vậy thật là vô lễ. Nhưng mụ già không hề tỏ ra phật ý. Mụ chỉ cười gằn, làu bàu một tí thôi, rồi mụ búng vào mũi con bé làm cho mũi nó tím bầm lại. Nhưng đấy không phải mụ phạt nó mà là mụ ta búng yêu nó đấy.
Sau đó mụ với tay lấy chai rượu tọp một hớp, rồi hai hớp, cuối cùng mụ ngơ ngác nhìn chung quanh, rồi nằm soài ra đánh một giấc. Mụ còn mở mắt ra vài lượt nữa, rồi mụ ngáy inh nhà, đúng như con bé đã nói lúc nãy.
Con gái lũ cướp cầm tay Giecđa, nhét dao vào túi, mở hé cửa nhìn ra ngoài xem có ai không.
– Cẩn thận bao giờ cũng hơn.
Nó nói thế rồi quay lại bảo Giecđa:
– Lại đây với tớ, đằng ấy sẽ rất ngạc nhiên.
Đến gần con nai nó bảo:
– Tớ cũng muốn giữ con nai ở đây để vuốt ve nó bằng mũi dao của tớ, vì nai trông hay tệ. Nhưng thôi, tớ sẽ thả nai ra để cho nó về xứ Lapôni: Nhưng nai phải chạy thật nhanh và cõng cô bé này đến lâu đài bà chúa Tuyết nơi cậu Kay hiện đang ở. Nai đã nghe rõ chuyện cô ấy rồi. Cô ấy nói to thế thì ai chẳng nghe thấy? Nai lại thính tai hơn ai hết.
Nai sung sướng nhảy cẫng lên. Con gái bọn cướp nhấc Giecđa lên lưng nai và buộc lại cẩn thận. Nó còn cho Giecđa một cái gối để ngồi lên trên.
– Đằng ấy đi giầy băng túp lót lông, như vậy là tốt lắm vì trời sẽ trở rét, nhưng cái bao tay thì tớ lấy. Đằng ấy không sợ cóng tay đâu. Đây là đôi găng lót lông của mẹ tớ, đằng ấy cầm lấy xỏ vào thì đến tận khuỷu tay đấy. Nào, xỏ tay vào! Giờ trông đằng ấy giống bà mẹ xấu xí của tớ rồi đấy, ít nhất cũng giống ở đôi tay.
Giecđa khóc lên sung sướng.
– Tớ chẳng thích đằng ấy khóc đâu! con bé nói. Phải tươi tỉnh lên chứ. Nào, đây là bánh mì và giăm bông, cầm đi ăn cho đỡ đói.
Nói rồi con bé buộc miếng bánh và chiếc giăm bông vào lưng nai, mở cửa nhốt lũ chó lại, lấy dao cắt thừng buộc nai và nói:
– Chạy đi! Nhớ trông nom cô bé cẩn thận.
Giecđa chìa tay đeo găng cho con gái lũ kẻ cướp và nói vài lời từ biệt. Rồi nai lao vào rừng, nhảy qua bụi rậm, vượt qua đồng ruộng và đầm lầy. Chó sói và cáo hú lên nghe như tiếng hát hỏi dồn dập trong không trung.
Nai nói:
– Trông kìa! Bắc cực quang quen thuộc của tôi đang loé sáng khắp bầu trời. Nai chạy cả ngày lẫn đêm. Giecđa ăn hết cả bánh mì và giăm bông. Cuối cùng nai đã đưa nó đến Lapôni.

VI. Bà lão xứ Lapôni và bà lão người Phần Lan

Môt túp lều nhỏ tiều tuỵ và yên tĩnh, mãi úp xuống tận mặt đất, cửa thấp, ra vào phải úp người xuống trườn như rắn. Trong nhà chỉ có một bà lão người xứ Lapôni đang ngồi nướng cá trên chiếc đèn bằng mỡ hải cẩu.
Nai kể cho bà nghe chuyện của Giecđa. Giecđa bị rét cứng cả người không nói được. Nhưng trước khi kể chuyện Giecđa, nai đã kể chuyện của mình vì nó cho rằng chuyện của nó quan trọng hơn.
– Các bạn còn phải đi xa hơn nữa, bà cụ Lapôni nói. Các bạn còn phải đi ít ra là một trăm dặm mới đến đất Phần Lan, nơi bà chúa Tuyết ở, nơi bà ta chiều chiều đốt lên một bó đuốc đỏ rực. Tôi sẽ viết cho các bạn vài chữ lên một con cá khô, vì tôi không có giấy. Các bạn sẽ đưa thư ấy cho bà cụ người Phần Lan ở trên ấy và bà cụ sẽ đưa chỉ dẫn cho các bạn rõ hơn.
Khi Giecđa đã sưởi ấm và ăn uống xong, bà cụ viết mấy chữ vào con cá khô, dặn dò Giecđa giữ cẩn thận, buộc nó lên lưng nai và nai lại tiếp tục chạy. Hú! hú! Vẫn có tiếng hú trong không trung.Bắc cực quang toả ánh sáng xanh nhạt suốt đêm ngày khắp vòm trời. Nai và Giecđa tới đất Phần Lan và gõ vào ống khói một cái nhà không có cửa.
Trong nhà nóng rực quá! Bà cụ ở trong đó chỉ mặc một bộ quần áo mỏng. Người bà bé nhỏ, da mặt nhăn nheo. Bà cởi quần áo cho Giecđa, tháo găng tay và giầy băng tuýp của nó ra, rồi đặt một mẩu nước đá lên đầu chú nai. Bà đọc những chữ viết trên con cá khô, đọc đi đọc lại cho thuộc lòng, rồi vứt cả vào nồi, vì cá ấy ăn vẫn ngon, bà ta không muốn bỏ phí.
Nai kể chuyện mình trước rồi đến chuyện Giecđa. Bà cụ Phần Lan chớp chớp đôi mắt thông minh nhưng chẳng nói gì. Nai nói:
– Cụ biết nhiều điều. Người ta đồn rằng cụ có thể buộc gió bốn phương bằng một sợi chỉ. Nếu cụ chỉ trao sợi chỉ ấy cho một hoa tiêu, thì anh ta chỉ cởi một nút à anh ta thuận buồm xuôi gió, cởi nút thứ hai gió thổi mạnh thêm, cởi nút thứ ba thứ tư trời sẽ làm giông bão, lật đổ nhào các khu rừng. Cụ hãy cho cô bé này uống một thứ thuốc gì để cô ta có sức mạnh bằng mười hai người, đủ sức vật ngã bà chúa Tuyết.
Bà cụ hỏi lại:
– Khoẻ bằng mười hai người ư? ừ, đúng là phải khoẻ đến thế!
Nói rồi, bà đi về phía cái giá có nhiều ngăn, lấy một tấm da khô cuộn tròn và mở ra xem. Mồ hôi long lanh trên trán, bà cụ đọc những chữ kỳ dị viết trên tấm da.
Nai nằn nì cầu xin bà cụ ban phép cho Giecđa. Giecđa khóc sướt mướt, nhìn bà cụ bằng đôi mắt cầu khẩn. Thấy vậy, bà cụ chớp mắt, lôi nai vào một góc nhà, vừa thì thầm vừa đặt miếng nước đá lên đầu nai:
– Cậu bé Kay đang ở nhà bà chúa Tuyết thật và cậu ta lấy làm mãn nguyện được ở đấy. Như vậy là vì cậu ta bị một mảnh gương quỷ bắn vào tim và một mảnh bắn vào mắt. Trước hết cần phải lấy mảnh gương ấy ra, nếu không cậu ra chẳng bao giờ trở lại bình thường và vẫn bị bà chúa Tuyết mê hoặc.
Nai nói thêm với bà cụ Phần Lan:
– Cụ thử nghĩ xem cụ có thể cho cô bé một phép lạ gì để cô bé có thể chiến thắng được con quỷ ấy không?
– Ta không thể cho cô ấy một quyền lực nào lớn hơn quyền lực mà cô ấy sẵn có. Nai không thấy cô ấy đã làm được những gì ư? Nai không thấy rằng nhiều người và súc vật đã phải làm theo ý cô ta đấy sao? Nai không thấy cô ta đã đi rất nhiều nơi mà chỉ đi bộ thôi ư? Chúng ta chẳng cần phải giúp cô ta nữa. Cô ta sẵn có một sức mạnh trong trái tim, trong tấm lòng trung hậu và trong trắng của cô ta. Nếu cô ta không tự mình đi đến nơi ở của bà chúa Tuyết để gỡ những mảnh gương đang găm trong tim và trong mắt của Kay ra thì chẳng có ai làm được việc ấy. Vườn của bà chúa Tuyết cách đây hai dặm đường. Nai có thể đưa cô ta đến đấy được. Nai sẽ dừng lại ở một bụi cây lớn, có quả đỏ, xung quanh toàn tuyết phủ, nai chỉ đưa Giecđa đế đấy thôi, rồi đứng chờ Giecđa.
Bà cụ phúc hậu đặt Giecđa lên mình nai, nai phóng đi rất nhanh. Đang đi bỗng Giecđa kêu lên:
– Ôi thôi! Tôi quên mất giầy và bao tay rồi!
Cái rét cứng người làm cho cô bé nhớ đến bao tay và giầy, nhưng nai không dừng lại. Nó chạy một mạch đến bụi cây lớn có quả đỏ, hôn vào môi Giecđa, nước mắt nó ứa ra chảy trên má em bé. Giecđa tiếp tục đi một mình, chân không giầy tay không găng, giữa đất Phần Lan phủ đầy băng tuyết.
Nó ra sức chạy. Nó gặp một đám bông tuyết lớn. Tuyết không rơi từ trên trời xuống, lúc này bắc cực quang còn đang chiếu sáng; bông tuyết bao là là mặt đất, càng tới gần càng lớn lên, Giecđa chợt nhớ lại ngày nào nhìn qua kính hiển vi ở nhà bông tuyết hiện ra rất to, nhưng so với bông tuyết này thì chẳng thấm vào đâu, những bông tuyết này to lớn đáng sợ và y như những loài động vật vậy. Chúng có những hình thù rất kỳ quặc. Một số trông giống như những con lợn lòi hoặc những con nhím; một số giống như những rắn rết đang ngóc đầu lên; còn các bông khác lại giống bầy gấu, con lớn, con nhỏ, lông dựng ngược. Tất cả đều trắng toát. Tất cả đều là những bông tuyết sống.
Giecđa đọc bài kinh cầu nguyện. Rét đến nỗi nó trông thấy hơi thở ra. Hơi thở bốc lên như đám khói, càng ngày càng dày đặc, và biến thành những tiên đồng, trước nhỏ tí, sau đó lớn mãi lên rồi đặt chân xuống đất. Cả bọn đều đội mũ sắt, một tay cầm giáo, một tay mang mộc. Càng ngày đội ngũ tiên đồng càng đông thêm. Đến khi Giecđa đọc xong bài kinh thì có tới một đạo quân đứng quanh nó. Họ cầm giáo đập vào bông tuyết làm chúng tan ra thành muôn mảnh.
Nhờ thế Giecđa có thể ung dung tiến lên phía trước. Các tiên đồng vỗ vào chân vào tay nó cho đỡ rét. Và thế là nó đi tới lâu đài bà chúa Tuyết. Nhưng Kay bây giờ ra sao rồi? Nó không hề nghĩ gì đến Giecđa và nó không ngờ rằng Giecđa đến bên ngoài lâu đài.

VII. Việc xảy ra trong lâu đài bà chúa Tuyết.

Tuyết rơi quanh lâu đài thành một bức tường dày. Cửa ra vào và cửa sổ là nhưng lỗ hổng qua đấy gió bấc rít lên. Lâu đài có tới hàng trăm phòng, phòng nào cũng có tuyết rơi lả tả. Phòng lớn nhất rộng tới một trăm dạm. Bắc cực quang chiếu sáng khắp nơi. Tất cả các phòng đều trống rỗng lạnh buốt và lóng lánh. ở đây chẳng bao giờ có hội hè, chẳng bao giờ có khiêu vũ, hoà nhạc hay tiệc trà. Trong một gian phòng trống rỗng và lớn nhất có một cái hồ trống rỗng và lớn nhất có một cái hồ đóng băng. Mặt hồ vỡ thành nhiều mảnh, mảnh nào cũng giống nhau, trông như một tác phẩm nghệ thuật. Gian phòng này là nơi bà chúa Tuyết ngự khi bà ta ở nhà. Bà thường nói rằng bà ngồi trên tấm gương của trí thông mình và đó là hạnh phúc lớn nhất trên đời này.
ở nơi ấy, Kay tím sậm đi vì rét, nhưng nó không nhận thấy điều ấy, vì tim nó đang đóng thành băng và nó ghép những mảnh bằng nhỏ thành các hình thù đủ loại và còn ghép thành chữ nữa, nó gọi trò chơi ấy là “trò chơi thông minh” có tầm quan trọng đặc biệt, vì nó vẫn bị một mảnh gương quỷ nằm trong mắt mê hoặc. Nhưng loay hoay mãi nó không sao ghép được hai chữ “Vĩnh Cửu”. Bà chúa Tuyết nói:
– Nếu em xếp được hai chữ ấy, em sẽ làm chủ được mình. Ta sẽ cho em cả thế giới và một đôi giầy trượt tuyết mớ tinh. Chúc em thành công. Giờ ta phải bay xuống xứ nóng, đến núi lửa Etna và Vêduyvơ. Ta muốn nhuộm tráng chúng nó một chút. Như thế hợp với chúng hơn, hợp với những vườn chanh và vườn nho mọc trên sườn núi.
Bà chúa Tuyết nói xong bỏ đi. Kay còn lại một mình trong gian phò băng giá.
Nó ngắm nhìn những mảnh băng. Nó thấy như thân thể đang gãy răng rắc. Cứ ngồi im lặng và cứng nhắc như thế có khi cuối cùng rồi nó cũng biến thành băng chứ chả chơi!
Đúng lúc ấy Giecđa bước qua cửa lớn vào lâu đài. Gió thổi như quất vào mặt nó. Nó đọc bài kinh cầu nguyện ban tối. Gió dịu đi.
Nó bước vào gian phòng lớn lạnh lẽo, trống rỗng và nhìn thấy Kay. Nó nhận ra cu cậu, bá cổ ôm chặt lấy cậu ta và reo lên:
– Kay! Kay yêu của mình. Thế là cuối cùng mình đã tìm thấy cậu!
Nhưng Kay vẫn trơ trơ và lạnh lẽo. Giecđa oà lên khóc. Những giọt nước mắt nóng hổi rơi trên ngực và thấm vào tận tim Kay. Nước mắt làm tan nước đá và đánh tan cả mảnh gương quỷ. Kay nhìn Giecđa. Nó hát bài kinh cầu nguyện.
“Hồng mọc đầy thung lũng
Nơi cậu bé Giếu phán bảo ta”.
Bỗng nhiên Kay ứa nước mắt. Nó khóc đến nỗi mảnh gương quỷ trôi ra ngoài. Nó nhận ra cô bạn gái, say sưa nhìn Giecđa và vui mừng reo lên:
– Giecđa! Giecđa dịu hiền của mình. Cậu đi đâu từ bấy lâu nay thế? Còn mình, không biết tại sao mình lại ở đây thế này?
Câu bíu chặt lấy Giecđa đang lúc cười lúc khóc vì sung sướng. Giây phút ấy cảm động đến nỗi cả những mảnh băng vỡ cũng nhảy nhót vui mừng, cho đến lúc mệt nhoài chúng mới chịu nằm im. Nhưng kỳ diêu thay, chúng nằm im thì mặt đất hiện ra hai chữ “Vĩnh Cửu” do bà chúa Tuyết đề ra. Thế là Kay đã tự chủ được mình và bà chúa Tuyết sẽ phải tặng cậu cả thế giới và đôi giầy trượt tuyết mới tinh.
Giecđa ôm hôn Kay làm hai má Kay ửng đỏ lên như hoa, nó hôn lên mắt Kay, mắt Kay ánh lên như mắt của nó, nó lại hôn lên chân tay của Kay, chân tay của Kay lại trở nên mạnh mẽ như cũ. Hai đứa không phải đợi bà chúa Tuyết trở về vì hai chữ “Vĩnh Cửu” kia đã chuộc lại quyền tự do cho Kay.
Hai đứa dắt tay nhau và thoát khỏi toà lâu đài rộng lớn. Chúng nói chuyện về bà của chúng, về hai cây hồng trồng sát mái nhà nhau. Chúng đi đến đâu thì ở đấy gió tắt và mặt trời hiện ra lấp lanh. Khi chúng đi tới bụi cây quả đỏ, nai vẫn đang đợi chúng. Đứng bên nai có một con nai cái, vú căng sữa, đang cho đàn con bú và đang hôn lên mõm chúng. Trước hết Kay và Giecđa đến nhà bà cụ Phần Lan – Chúng hỏi thăm bà cụ đường về. Sau đó chúng đến nhà bà cụ Lapôni; bà may quần áo mới và chữa lại xe trượt tuyết cho chúng.
Vợ chồng nhà nai chạy theo xe đến tận biên giới. Khi nhìn thấy ngọn cỏ đầu tiên nhô lên mặt đất, chúng từ biệt đôi nai và bà cụ Lapôni. Tiếng hót của những con chim đầu tiên chúng trông thấy vang lên. Trong rừng mầm non đã nhú mọc. Một con ngựa đang chạy tới, chính là một trong hai con đã kéo cỗ xe thếp vàng. Cưỡi trên mình ngựa là một em bé đội mũ màu đỏ rực, mỗi tay chĩa ra đằng trước một khẩu súng ngắn. Đó là con gái lũ cướp, chán cảnh nhà định đi về phương Bắc, rồi khi nào không thích ở đấy nữa lại đi nơi khác. Hai em bé nhận ra nhau vui mừng khôn xiết.
Đứa con gái lũ cướp nói:
– Đằng ấy thật liều lĩnh. Đằng ấy bắt người ta đi theo đằng ấy khắp thiên hạ phỏng có ích gì!
Giecđa tát yêu vào má cô bạn và hỏi tin tưc về công chúa và hoàng tử?
– Họ đã đi du lịch ra nước ngoài sau khi tiễn chân Giecđa đi Lapôni được vài ngày. Từ dạo ấy chẳng ai biết tin tức gì về họ cả, và cũng chẳng biết khi nào họ về.
– Con quạ đen thì sao? Giecđa hỏi.
Quạ đã chết rồi, vợ hắn để tang bằng buộc một sợ len màu đen vào chân. Sau khi chồng chết, quạ tỏ vẻ thương xót, nhưng chẳng qua là để che mắt thế gian mà thôi!
– Quạ đen tội nghiệp của tôi! Giecđa nói. Quạ đối với tôi rất tốt. Quạ đã chết sớm vì tự do ngoài trời, không quen sống gò bó trong bốn bức tường.
– Dào ôi! Đứa con gái lũ cướp nó. Quạ chết vì bội thực đấy thôi, để chuyện ấy đấy. Hãy kể cho tớ nghe cậu làm thế nào mà tìm được Kay.
Giecđa và Kay tranh nhau kể. Nghe xong đứa con gái lũ cướp nắm lấy tay hai đứa và nói:
– Được rồi! Tốt lắm.
Nó khen và hẹn hai đứa rằng nếu một ngày kia có dịp đi qua thành phố, nơi hai đứa ở, nó sẽ ghé lại thăm. Nói rồi nó thúc ngựa lên đường.
Kay và Giecđa nắm tay nhau bước đi. Lúc này đã sang xuân, khắp nơi cây cối xanh tươi, trăm hoa đua nở. Chuông nhà thờ ngân vang. Chúng đã nhận ra những tháp cao của thành phố, nơi hai đứa đã sống trước đây. Chúng đi vào thành phố về đến trước cửa nhà, leo lên tầng gác cao nhất và bước vào phòng, tất cả mọi vật đều y nguyên như cũ.Chiếc đồng hồ quả lắc đung đưa tích tắc. Hai chiếc kim vẫn quay đều.
Nhưng lúc vào nhà, chúng nhận thấy mọi người đã già đi. Hồng vẫn nở hoa gần nơi cửa sổ, ở đó vẫn còn những chiếc ghế nhỏ. Mỗi đứa ngồi vào ghế của mình và nắm lấy tay nhau. Như vừa qua cơn ác mộng, chúng đã quên những vật kỳ lạ ở lâu đài băng giá và đìu hiu của bà chúa Tuyết. Bà các em ngồi dưới ánh nắng, cất cao giọng đọc trong thánh kinh.
“Nếu ngươi không trở thành những đứa trẻ ngươi sẽ không được đi vào giang sơn của chúa”.
Kay và Giecđa nhìn nhau. Đến lúc ấy chúng mới hiểu thấu ý nghĩa của câu thánh thi:
“Hồng mọc đầy trong thung lũng
Nơi cậu bé Giêsu đang phán bảo ta”
Giờ đây cả hai đứa đã lớn, nhưng tâm hồn các em vẫn là tâm hồn trẻ con, và mùa hạ sáng rực lên, mùa hạ nóng bức và nhân hậu.