Chương 59

Không nghi ngờ gì nữa, ai nấy đều thấy rõ là Bonni càng trở nên ngông cuồng và cần có một bàn tay uốn nắn kiên quỵết, song vì mọi người đểu cưng nó, nên không ai đủ can đảm để áp dụng biện pháp cứng rắn cần thiết. Nó bắt đầu bứt khỏi mọi cương tỏa trong những tháng đi chơi với cha nó. Hồi cùng với Rét ở Niu Orlêan và Charlextơn, nó đã được phép tha hồ thức khuya và thường ngủ trong tay chàng trong rạp hát, tiệm ăn và bên bàn đánh bài. Sau chuyến đó,k muốn bắt nó về giừơng ngủ cùng lúc với cô bé Ilơ dễ bảo thì không có cách nào ngòai vũ lực. Trong thời gian mang nó đi theo, Rét đã để nó mặt bất kỳ chiếc áo nào nó ưng và từ dạo đó, hễ Mammy định mặc áo vải dệt xọc nổi hoặc tạp dề cho nó, thay vì áo vải mỏng màu xanh có cổ đăng ten, là nó đập mình đập mẩy cáu gắt ầm ĩ.

Dường như không có cách nào phục hồi lại khuôn phép đã để buông lỏng trong thời gian con bé vắng nhà, rồi trong thời gian Xcarlét ốm và về ấp Tara. Khi Bonni lớn lên, Xcarlét cố gắng khép nó vào kỷ luật, cố gắng giữ cho nó khỏi quá ương bướng, quá hư vì được nuông chiều; nhưng chẳng ăn thua gì mấy. Rét bao giờ cũng đứng về phe con bé, bất kể những ý muốn của nó rồ dại đến đâu hoặc ứng xử của nó quá quắt như thế nào. Chàng khyến khích nó trò chuyện và đối xử với nó như một người lớn, lắng nghe ý kiến của nó với vẻ nghiêm túc và làm như lấy đó làm kim chỉ nam. Kết quả là Bonni ngắt lời người lớn bất cứ lúc nào nó thích, nói ngược lại và “chỉnh” cả cha nó. Rét chỉ cười và không cho phép Xcarlét cảnh cáo bằng cách phát vào tay nó.

“Nếu nó không xinh xẻo, đáng yêu thế thì quả là không thể chịu nổi “, Xcarlét buồn rầu nghĩ thầm, nhận ra rằng con gái mình bướng bỉnh chẳng kém gì mình. “Nó rất yêu Rét, nếu anh ta muốn, anh ta có thể làm cho nó ngoan ngõan đựơc”.
Nhưng Rét không hề tỏ ra muốn dạy dỗ uốn nắn Bonni. Bất cứ cái gì nó làm đều là phải và giá nó có muốn lấy mặt trăng cũng xong ngay nếu chàng có thể với tay ngắt cho nó. Chàng tự hào không bờ bến về vẻ đẹp của nó. Chàng yêu cái kiểu xấc xược của nó, tính vui vẻ hồn nhiên của nó, cái cách ngộ nghĩnh, dễ thương nó dùng để bộc lộ tình yêu đối với chàng. Mặc dầu có những thói ngang ngạnh do được nuông chiều; nó vẫn là một đứa bé đáng yêu, đến nỗi chàng không nỡ cấm đóan gò bó nó. Chàng là vị thần của nó, là trung tâm cái thế giới bé nhỏ của nó, và điều đó đối với chàng là quý giá vô ngần, chàng không dám phạm đến bằng những lời quở mắng.

Bonni bám theo chàng như cái bóng. Nó đánh thức chàng trước giờ chàng muốn dậy, đến bữa ngồi bên cạnh chàng và hai cha con thay phiên ăn lẫn đĩa của nhau; vắt vẻo trước mặt chàng trên lưng ngựa; không cho phép ai ngòai Rét cởi quần áo cho nó và đặt nó ngủ trong chiếc giường con cạnh giường chàng.
Xcarlét vừa thích thú vừa xúc động thấy con gái mình chỉ huy cha nó với bàn tay sắt. Ai có thể ngờ Rét, hơn ai hết, lại coi trọng vai trò làm cha như thế? Nhưng đôi khi, lòng ghen tỵ như một mũi tên xuyên vào tim Xcarlét vì Bonni mới bốn tuổi đã hiểu Rét hơn nàng và biết điều khiển chàng tới mức nàng chưa bao giờ làm được.

Khi Bonni lên bốn, Mammy bắt đầu làu bàu là con gái ” mà nị, ngồi rạng chân trên lưng ngựa trước mặt cha để váy bay tốc nên thì thật không ra sao”. Rét chăm chú lắng nghe nhận xét đó như đối với mọi ý kiến của Mammy về việc dạy dỗ con gái cho phải phép. Kết quả là có thêm một chú ngữa con nòi Sêtlen màu nâu pha trắng, bờm và đuôi dài mượt, với một chiếc yên ngồi nghiêng nhỏ xíu nạm bạc. Trên danh nghĩa, con ngựa được dành cho cả ba đứa trẻ, và Rét cũng mua một cái yên khác cho Uêđ nữa. nhưng Uêđ thích con chó Xanh-Bécna hơn gấp ngàn lần, còn Ilơ thì sợ mọi thú vật. Cho nên con ngựa con trở thành của riêng Bonni và được đặt tên là ” Cậu Bâtlơ”. Vết gợn duy nhất trong niềm vui sở hữu của Bonni là nó chưa được ngồi dạng chân sang hai bên như cha nó, nhưng sau khi nghe Rét giải thích là ngồi kiểu nữ kỵ sĩ khó hơn nhiều, nó thấy xuôi tai và mau chóng biết cưỡi. Thấy nó ngồi vững vàng và cầm cương chắc chắn, Rét vô cùng hãnh diện.

– Các vị cứ chờ đến lúc nó đủ lớn để đi săn mà coi, chàng huênh hoang. Sẽ chẳng có ai bằng nó đâu. Lúc đó, tôi sẽ đưa nó đi Virginia. Đấy mới là đất săn thật sự. Và đến Kentắcki, nơi người ta biết đánh giá những kỵ sĩ cừ.
Khi tính đến chuyện may y phục cưỡi ngữa cho Bonni, như mọi khi, quyền lựa chọn lại thuộc về nó và như mọi khi, nó lại chọn màu xanh lơ.

– Nhưng cưng ơi, đừng chọn thứ nhung xanh ấy! Thứ nhung
xanh chỉ hợp với áo dạ hội cho mẹ thôi, Xcarlét vừa nói vừa cười. Các cô bé thì mặc hàng len đen cơ.
Thấy đôi lông mày đen nhỏ xíu cau lại, nàng kêu lên :

– Vì lòng kính Chúa, Rét, anh hãy giải thích cho con hiểu là mặc thế không hợp và dễ bẩn như thế nào.

– Ồ, cứ để cho con mặt đồ nhung xanh. Nếu nó bẩn, ta lại may cho nó bộ khác, Rét thỏai mái nói.

Thế là Bonni có bộ đồ nhung xanh với một chiếc váy rủ xuống mạn sườn con ngựa và một chiếc mũ đen cắm một chiếc lông đỏ vì những chuyện cô Mêli kể về chiếc lông cắm trên mũ Jeb Xtuart đã hấp dẫn trí tưởng tượng của nó. Vào những ngày trời trong sáng, người ta thường thấy hai cha con rong ruổi theo phố Cây đào, Rét ghìm cương con ngựa ô to lớn của mình cho vừa khớp với nhịp bước của con ngựa con béo ục ịch. Đôi khi, họ phóng nước đại trên những con đường yên tĩnh ở ngọai vi thành phố, làm gà, chó và trẻ con chạy tóan lọan, Bonni vung roi quất “cậu Bâtlơ”, những lọn tóc xoăn tít bay tung, còn Rét thì kìm riết ngựa thật chắc tay để nó tưởng là “cậu Bâtlơ” thắng cuộc.

Khi đã yên trí là nó có thể ngồi vững vàng trên yên ngựa, nắm chắc dây cương và hòan tòan không hề biết sợ là gì, Rét quyết định đã đến lúc luyện cho nó làm những bước nhảy thấp vừa tầm bốn cái chân ngắn của “cậu Bâtlơ”. Nhằm mục đích đó, chàng dựng một tấm rào ở sân sau và thuê Uos, một đứa cháu nhỏ của báo Pitơ, hai mươi lăm xu mỗi ngày để dạy “cậu Bâtlơ” nhảy. Bắt đầu từ một thanh ngang cách mặt đất năm phân rồi tăng dần lên ba tấc. Cách sắp đặt này vấp phải sự bất đồng tình của ba kẻ hữu quan sát nhất : Uos, “cậu Bâtlơ” và Bonni. Uos vốn sợ ngựa và chỉ có món tiền công hậu hĩnh mới khiến nó bắt con ngựa bướng bỉnh nhảy qua thanh chắn hàng mấy chục lần một ngày; “Cậu Bâtlơ” có thẻ bình tĩnh chịu đựng cô chủ bé nhỏ kéo đuôi và kiểm tra móng suốt ngày, nhưng lại cảm thấy Đấng Tạo Hóa của lòai ngựa con phú cho nó tấm thân béo trông không phải là dễ nhảy qua thanh chắn; Bonni, vốn không thể chịu được bắt kỳ ai khác ngồi trên lưng con ngựa của mình, cứ giậm chân giậm tay sốt ruột trong khi ” cậu Bâtlơ” học bài.

Cuối cùng, khi Rét xác định chắc chắn rằng chú ngữa con đã thuần thục để giao Bonni trên lưng nó, sự phấn khởi của cô bé thật không còn bờ bến nào. Bonni nhảy cú nhảy đầu tiên rất thành công và từ đó, những cuộc cưỡi ngựa đi chơi với cha không còn gì hấp dẫn đối với nó nữa. Xcarlét không thể nhịn cười trước vẻ tự hào và phấn khởi của hai cha con. Tuy nhiên, nàng nghĩ, một khi trò này thành quen, không còn mới mẻ nữa, Bonni sẽ quay sang trò khác và hàng xóm láng giềng sẽ được yên thân một chút. Nhưng tiết mục này không hề nhạt đi. Từ chỗ lùm cây ở đầu đằng kia sân sau đến tấm rào, đã thành một vệt đường đầy dấu vó ngựa, và sáng nào mảnh sân cũng vang lên nhưng tiếng hò la đầy phấn khích. Cụ cố Meriuêzơ, từng tham gia cuộc chinh phạt vào năm 1848, bảo những tiếng la đó nghe giống hệt tiếng la của một tên Apasơ sau khi lột được mảnh da đầu kẻ địch.

Sau tuần đầu, Bonni xin nâng thanh chắn lên cách mặt đất năm mươi phân.

– Khi nào con lên sáu đã, Rét nói. Lúc ấy, con sẽ đủ lớn để nhảy cao hơn và ba sẽ mua cho con một con ngựa to hơn. Chân ” Cậu Bâtlơ” không đủ dài.

– Đủ đấh. Con đã nhảy qua bụi hồng của cô Meli, mà bụi hồng thì cao ơi là cao.

– Không, con phải chờ đã, lần đầu tiên Rét tỏ ra cương quyết, nhưng thái độ cương quyết đó mềm dần trước những cơn giận dỗi và mèo nheo không dứt của con bé.

– Ồ, thôi được, một buổi sáng chàng cười xòa và nâng thanh chắn mỏng mảnh màu trắng lên cao hơn. Nếu con ngã thì đừng có khóc và trách ba đấy.

– Má ! Bonni gọi to, ngẩng đầu về phía phòng ngủ của Xcarlét. Má ơi ! Nhìn con này ! Ba bảo con nhảy được.
Xcarlét đang chải đầu, bèn ra cửa sổ, cúi xuống mỉm cười với cái bóng dáng bé bỏng mừng quýnh, nom thật nhố nhăng trong bộ đồ xanh lem luốc.

” Đúng là phải may cho nó bộ đồ khác “, nàng nghĩ thầm. ” Mặc dù có trời biết mình sẽ phải làm thế nào để dỗ nó bỏ bộ đồ bẩn thỉu này”.

– Má ! Nhìn này !

– Má nhìn đây, cưng ạ. Xcarlét mỉm cười nói.

Lúc Rét bế con bé đặt lên lưng ngựa, Xcarlét thấy trào lên một niềm tự hào khi thấy nó ngồi lưng rất thẳng, đầu rất cao ngạo nghễ và nàng kêu lên :

– Con xinh quá, kho báu của má !

– Má cũng thế, Bonni rộng lượng nói.

Và thúc gót vào sường “Cậu Bâtlơ”, nó phóng qua sân về phía lùm cây.

– Má, nhìn ta băng qua cái này ! Nó vừa nói vừa vung roi.
Nhìn ta băng qua cái này.

Ký ức rung một tiếng chuông xa xăm trong tâm trí Xcarlét, có cái gì gở trong mấy tiếng ấy. Đó là gì nhỉ ? Tại sao nàng không thể nhớ ra? Nàng nhìn theo đứa con gái nhỏ của mình, tư thế thỏai mái nhẹ nhàng trên con ngữa con đang phóng nhau và cau trán lại khi một luồng ớn lạnh vụt xói qua ngực nàng. Bonni tiếp tục lao tới, những lọn tóc đen nhảy nhót, đôi mắt xanh rực cháy.

” Y hệt mắt ba”, Xcarlét nghĩ thầm. ” Những con mắt xanh của người Ailen. Nó giống ba đủ mọi đàng”.

Và, cũng với ý nghĩ về ông Giêrơiđ, điều nàng đang lục lọi tìm trong ký ức vụt trở lại, trở lại như tia chớp mùa hạ sáng lòa đến thót tim, thoắt cái bao trùm cả một vùng nông thôn trong ánh sáng siêu phàm. Nàng tưởng như nghe thấy một giọng Ailen nghêu ngao hát, nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập phóng lên đồi cỏ ở ấp Tara, nghe thấy một giọng táo tợn, y hệt giọng con gái nàng : “Ilơn, nhìn ta băng quá cái này!”.

– Không ! Ngàng thét lên. Không ! Ôi, Bonni, dừng lại !
Đang lúc nàng cúi mình qua thành cửa sổ, tấm rào gỗ xập gãy đánh rầm, nghe rợn người, rồi tiếng kêu lạc cả giọng của Rét vang lên. Trên mặt đất, một mớ hỗn độn nhung xanh với vó ngữa chới với. Rồi ” Cậu Bâtlơ” lồm cồm đứng dậy và lóc cóc chạy đi với chiếc yên không người.

Vào cái đêm thứ ba sau khi Bonni chết, Mammy chậm chạp lạch bạch bước lên những bậc cửa nhà bếp của Melơni. Bà vận tòan đồ đen, từ đôi giày đàn ông rách mũi để thò ngón chân cho đến chiếc khăn trùm đầu. Dôi mắt già nhòa nhọet của bà vằn tia máu, đỏ ngầu ở vành và mỗi đường nét trên cái thân hình người miền núi của bà là một tiếng kêu đau. Mặt bà dúm dó, ngơ ngác buồn như một con khỉ già, nhưng vẻ quyết tâm lộ rõ ở đôi môi mím lại.

Bà nói vài lời dịu dàng với Đilxi và Đilxi thân ái gật đầu, như thể một hòa ước ngầm đã chấm dứt mối thù hận cũ giữa họ. Đilxi đặt những đĩa thức ăn đang cầm trên tay xuống và lặng lẽ đi qua phòng để thực phẩm đến phòng ăn. Một phút sau, Melơni đã ở trong bếp, chiếc khăn ăn cầm ở tay, vẻ mặt lo lắng.

– Cô Xcarnét vãn vững vàng chịu đựng như mọi khi, Mammy mệt mỏi nói. Tuy không định quấy rầy bữa ăn của cô, cô Meni ạ. Tui có thể đợi cô ăn xong để nói mấy cô dững điều đương nàm tui no nghĩ.

– Ăn thì vội gì, lúc nào chả được, Melơni nói. Đilxi, dọn nốt bữa đi. Mammy, u lại đây với em. Mammy lạch bạch đi theo nàng dọc hành lang, qua cửa phòng ăn, nơi Asli đang ngồi ở đầu bàn với Biu bên cạnh và hai đứa con của Xcarlét đối diện khua thìa xúp kêu lanh canh. Giọng Uêđ và Ilơ vui vẻ vang vang trong phòng. Đối với chúng, sang chơi nhà cô Meli lâu thế này cũng tự như cuột pinic vậy. Cô Meli bao giờ cũng ân cần và lúc này lại càng đặc biệt ân cần. Cái chết của đứa em gái chẳng làm chúng tổn thương gì mấy.

Bonni đã ngã ngựa chết tươi, má đã khóc ròng bao nhiêu lâu và cô Meli đã đưa chúng về nhà cô để chơi với Biu ở sân sau và chúng muốn ăn bánh ga tô lúc nào cũng có ngay.

Melơni đi trước, dẫn Mammy vào phòng khách nhỏ với bốn bức tường đầy giá sách, đóng cửa lại và ra hiệu cho Mammy ngồi xuống chiếc xôfa.

– Em sẽ sang bên ấy ngay sau khi ăn tối xong, nàng nói. Bây giờ, bà cụ thân sinh ra thuyền trưởng Bâtlơ đã đến, em chắc đám tang sẽ cử hành vào sáng mai.

– Đám tang ! Chính xế đó, Mammy nói. Cô Meni, cả bọn tui đương cùng đường và tui sang cầu cứu cô đây. Thật nà một gánh nặng mệt mỏi, chả có gì khác, cưng ạ, dành nà xế, một gánh nặng mệt mỏi.

– Phải chăng cô Xcarlét đã quỵ ngã ? Melơni lo lắng hỏi. Em hầu như không gặp cô ấy từ khi Bonni… Cô ấy không rời khỏi phòng mình, còn thuyền trửơng Bâtlơ thì vắng nhà suốt và…
Bộ mặt đen bóng của Mammy bỗng giàn giụa nước mắt. Melơni ngồi xuống cạnh bà, vỗ vỗ vào cánh tay bà. Một lát sau, Mammy kéo vạt váy lên lau nước mắt.

– Cô phải sang rúp bọn tui, cô Meni ạ. Tui đã nàm hết sức mà chả ăn thua gì.

– Cô Xcarlét…

Mammy rướn thẳng người lên.

– Cô Meni, cô biết rõ cô Xcarnét chả kém gì tôi. Thượng đế nhân từ đã phú cho cô bé ấy sức mạnh để chịu đậng. Chuyện này có nàm cô ý tan nát nòng dưng cô ý vẫn đủ sức chịu đậng.Tôi sang đây là vì chuện cậu Rét cơ.

– Em rất muốn gặp cậu ấy, nhưng những lúc em ở bên đó thì cậu ấy hoặc xuống phố, hoặc đóng kín cửa buồng với… Còn Xcarlét thì như cái bóng ma, cậy răng không nói… Nói đi, nhanh lên Mammy. U biết là em sẽ làm hết sức mình khi cần đến.

Mammy lấy mu bàn tay quét mũi.

– Tui nói là cô Xcarnét có thể chịu đậng mọi cái Thượng Đế dáng xuống bởi chừng cô ý đã nếm đủ mùi, cơ mà cậu Rét…cô Meni ạ, cậu ấy chưa bao giờ phải chịu đậng cái gì cậu ấy không muốn chịu đậng. Chính vì chuện cậu Rét mà tui sang đây.

-Nhưng…

– Cô Meni, cô phải sang nhà mấy tui, ngay tối nay, giọng Mammy có một cái gì thật khẩn cấp. Có thể cậu Rét nghe cô cũng nên. Cậu ấy bao giờ cũng rất coi trọng ý kiến cô.

– Ôi, Mammy, có chuyện gì vậy ? U định nói gì ?
Mammy vươn vai.

– Cô Meni ạ, cậu Rét đã…mất trí rồi. Cậu ấy không chịu để bọn tui mang em bé đi.

– Mất trí ư ? Ồ, Mammy, không đâu !

– Tui không nói dối đâu. Thật sự nà dư thế, có Chúa chứng giám. Cậu ý sẽ không để bọn tui chôn cố bé ý. Chính mồm cậu ý bảo tui xế, cách đây chưa đầy một tiếng đồng hồ.

– Nhưng cậy ấy không thể… cậu ấy không…

– Bởi xế tui mới bảo nà cậu ấy mất trí .

– Nhưng tại sao…

– Cô Meni, để tui kể đầu đuôi cho cô nghe. Nhẽ ra tui không được nói mấy ai dưng cô nà người trong gia đình, cô nà người duy nhất tui có thể kể. Tui xin kể ngọn ngành cho cô nghe, cô bết cậu ấy yêu quý cô bé ý dư xế nào đấy. Tui chưa từng thấy người đàn ông nào, bất kể trắng đen, yêu con đến xế. Tưởng dư cậu ý phát điên ngay lập tức khi ông đốc tờ Miđ nói nà cô bé bị gãy cổ. Cậu ý vớ nấy khẩu súng, chạy ngay ra bắn chết tươi con ngựa con tội nghiệp và nạy Chúa, tui ngỡ cậu ý sắp bắn luôn cả mình. Tui cứ cuống nên không bết xoay sở ra sao với cô Xcarnét bất tỉnh nhân sự, và tất cả hàng xóng náng giềng ra vào đầy nhà, và cậu Rét dư điên dư dại, một mực ôm chặt cô bé, thậm chì không để cho tôi rửa bộ mặt xinh xẻo đã bị sỏi nàm sứt sẹo. Và khi cô Xcarnét tỉnh nại, tui nghĩ, đội ơn Chúa, bây giờ hai người có thể an ủi nẫn nhau.

Nước mắt lại tuôn lã chã, nhưng lần này, thậm chí Mammy không buồn lau.

– Dưng mà vừa tỉnh lại, cô ý niền vào phòng cậu Rét đang ngồi ôm Bonni, mà rằng : “Trả con tôi đây, anh đã giết nó”.

– Ôi, không ! Sao chị ấy lại có thể nói thế được ?

– Phải, cô ấy nói thế đó. Cô ấy bảo : ” Anh đã giết nó”. Và tôi thương cậu Rét đến nỗi tôi òa lên khóc vì nom cậu như con chó bị đánh đòn. Và tui bảo ” Đưa em bé cho u già của nó. Tui không có chịu để xảy ra những hành vi như thế tren thi hài em bé của tôi đâu “. Và tôi bế thốc con bé khỏi tay cậy ý mang nó về buồng trẻ và rửa mặt cho nó. Tôi nghe thấy hai người nói chuyện và những điều họ nói làm tôi đông cả máu lại. Cô Xcarlét gọi cậu Rét là tên sát nhân vì đã để Bonni nhẩy cao đến thế, còn cậu ấy thì bảo cô Xcarlét chả bao giờ dòm ngó đến Bonni cũng như các con khác của cô…

– Thôi, Mammy ! Đừng kể gì thêm nữa. U kể với em những điều đó, thật không nên !

Melơni kêu lên , cố xua đuổi khỏi tâm trí cái hình ảnh do những lời của Mammy gợi lên.

– Tui biết tui không có phận sự kể cho cô nghe, nhưng lòng tui quá ư đầy, chẳng còn biết điều gì nên nói ra. Thế rồi, cậu ấy tự mình mang Bonni đến nhà thầu đám ma, rồi lại đem về, đặt vào giường của nó trong phòng cậu. Và khi cô Xcarlét bảo phải đặt vào áo quan trong phòng khách, tôi ngỡ cậu Rét sắp đánh cô ấy. Cậu nói lạnh như băng : ” Chỗ của nó là ở trong buồng tôi “. Và cậu chạy sang tôi bảo : ” Mammy, u phải liệu sao để nó vẫn nằm ở đây cho đến khi tôi về”. Rồi cậu ý lên ngựa ra khỏi nhà đi suốt đến khỏang mặt trời lặn. Khi cậu ấy về nhà, tôi thấy là cậu ấy đã uống đầy rượu, nhưng vẫn tỉnh táo như mọi khi. Cậu ấy sồng sộc vào nhà, không buồn nói mấy cô Xcarlét hay bà Pitti hay bất kỳ ai trong số phụ nữ đến thăm, mà lao thẳng lên gác, mở tung cửa buồng, rồi quát ầm lên gọi tôi. Khi tao ba chân bốn cẳng chạy đến, cậu ấy đang đứng cạnh cái giường và trong buồng tối đến nỗi gần như không trông thấy cậu ấy vì các cửa sổ đều đóng. Và cậy ấy bảo tôi rất chi là dữ dằn. ” Mở cửa sổ ra. Trong này tối om”. Và tôi mở toang ra, rồi cậu ấy nhìn tôi và lạy Chúa, cô Meni, đầu gối tôi muốn rụng xuống vì nom cậu ấy là lạ. Rồi cậu ấy bảo : “Mang đèn nến đến đây. Mang thật nhiều đèn nến đến đây. Và đừng để tắt lúc nào đấy. Đừng có đóng cửa sổ hay hạ rèm gì cả. Cả người không biết cô Bonni sợ tối hay sao?”
Cặp mắt kinh hãi của Melơni bắt gặp cái nhìn của Mammy và Mammy gật đầu não nề.

– Cậu ấy bảo thế đó : ” Cô Bonni sợ bóng tối “.

Bà già rùng mình.

– Khi tui mang đến cho cậu ấy một tá nến, cậu bảo :” Đi ra! Rồi khóa cửa lại, ngồi trong ấy với con bé, thậm chí không mở cả cho cô Xcarlét khi cô ý đập cửa gào nên mấy câu. Và cứ thế suốt hai hôm nay, cậu không muốn nhắc gì đến đám tang, cứ sáng ra là khóa trái cửa, nhẩy lên ngựa, xuống phố; đến lúc lặn mặt trời trở vè say khướt và lại vào buồng khóa trái cửa, chẳng ăn uống ngủ nghê gì cả. Và bây giờ bà cụ Bâtlơ thân sinh ra cậu từ Chaxtơn đến để đưa đám, cả cô Xuenơn, mấy cậu Uyn từ ấp Tara đến, cơ mà cậu Rét chả nói mấy ai sất. Ôi, cô Meni, thật kinh khủng ! Mà sắp tới sẽ còn tệ hơn nữa, thiên hạ sẽ bàn tán dị nghị.

Mammy ngừng lại, lấy tay quệt mũi lần nữa và nói tiếp :

– Thế rồi tối nay, cô Xcarlét đuổi kịp cậu ở hành lang trên gác và cùng vào buồng với cậu và cô bảo : ” Đám tang đã định vào sáng mai .”. Và cậu bảo : ” Cô làm thế thì mai tôi giết cô .”

– Ôi, đúng là cậu ấy mất trí thật rồi.

– Vâng. Thế rồi hai người nói chuyện xầm xì tui không nghe được hết, chỉ thấy cậu lại nói về Bonni sợ bóng tối, mà dưới mồ rất chi là tối. Một lát sau, cô Xcarlét bảo : ” Anh dở chứng như thế mới hay ho chứ, sau khi đã giết nó để thỏa mãn lòng tự hào của mình”. Và cậu bảo : ” Cô không còn chút từ tâm nào sao ? ” Và cô bảo : ” Không. Mà tôi cũng chả còn con cái gì nữa.Và tôi quá ớn cái cách ứng xử của anh từ khi Bonni bị giết. Anh gây tai tiếng khắp thành phố. Anh say rượu liên miên và nếu anh tưởng tôi không biết ngày ngày anh ở đâu thì anh quả là ngu. Tôi biết thừa anh xuống nhà cái mụ ấy, mụ Ben Uớtninh.”

– Ồ, Mammy, không có lẽ !

– Đúng vậy. Cô ấy nói thế đó…Mà nó là sự thật, cô Meni ạ. Có ối chuyện cánh nichgơ biết nhanh hơn dân da trắng và tui biết đấy chính là nơi cậu ấy tìm đến, cơ mà tui không nói gì hết. Và cậu ấy cũng không chối. Cậu bảo : ” Phải , tui đã đến đấy, cô không phải làm ầm lên, vì cô có coi chuyện ấy ra cái quái gì đâu. Nhà thổ là một bến nương náu sau cái nhà địa ngục này. Và Ben là người có trái tim nhân hậu bậc nhất trên đời này. Cô ấy không nói vào mặt tôi là tôi đã giết con gái tôi.”

– Ôi, Melơni kêu lên, nhói đến tận tim.

Cuộc đời nàng quá dễ chịu, quá yên ổn, đầy những điều tử tế, xung quanh tòan những người quý mến ưu ái, thành thử những gì Mammy vừa kể gần như không sao hiểu nổi hoặc không thể tin được đối với nàng. Tuy nhiên, một hồi ức len vào tâm trí ngàng, một hình ảnh mà nàng vội gạt ra khỏi đầu như gạt cái ý nghĩ về sự lõa lồ của một người khác. Cái hôm Rét gục đầu khóc trên đầu gối nàng, chàng đã nhắc đến Bel Uơtlinh. Nhưng chàng yêu Xcarlét. Hôm ấy, nàng không thể lầm. Và dĩ nhiên là Xcarlét yêu chàng. Có chuyện gì xảy ra giữa hai người ? Làm sao vợ chồng lại có thể ch1m nhau tơi tả bằng những lưỡi dao sắc như thế ?

Mammy nặng nề tiếp tục câu chuyện.

– Sau một lát, cô Xcarlét ra khỏi phòng, mặt tái nhợt như người chết rồi, nhưng miệng mím lại. Thấy tui đứng đấy, cô bảo : ” Ngày mai đưa đám, Mammy ạ ! “. Và đi qua tui như một bóng ma. Thế rồi tim tui chao đảo, vì cô Xcarlét đã nói gì là làm vậy. Mà cậu Rét cũng thế, đã nói là làm. Cậu đã bảo nếu cô Xcarlét làm thế cậu sẽ giết cô. Tui thật quẫn trí, cô Meni ạ, vì tui có một điều đè nặng lên lương tâm. Cô Meni ạ, chính tui đã làm bé Bonni sợ bóng tối.

– Ồ, nhưng Mammy, chuyện đó không quan trọng gì… bây giờ thì chả quan trọng gì nữa.

– Có, có đấy. Mọi sự rắc rối là ở đấy. Tui chợt nghĩ mình nên nói cậu với cậu Rét vì nó cắt rứt lương tâm tui, dù cấy ấy có giết tui cũng cam. Thế là tôi lén qua cửa thật nhanh trước khi cậu ấy kịp khóa lại, và tôi bảo : ” Cậu Rét, tui đến thú tội đây”. Cậu quay phắt lại tui như một người điên và nói : ” Đi ra ! “. Lạy Chúa, tui chưa bao giờ sợ đến thế ! Nhưng tui nói : “Xin cậu Rét để tui nói cậu nghe. Không nói ra đựơc thì tui chết mất. Chính tui đã làm em bé sợ bóng tối.” Thế rồi, cô Meni ạ, tui cúi đầu xuống, chờ cậu ấy đánh tui. Nhưng cậu ấy không nói gì. Tui lại nói : ” Thực bụng, tui không ác ý gì. Cơ mà, cậu Rét ạ, em bé rất liều lĩnh, chả sợ gì cả; bao giờ cũng lén ra khỏi giường sau khi mọi người đi ngủ và cứ chân không chạy khắp nhà, tôi lấy thế làm băn khoăn vì tôi sợ em bé vấp ngã hay đâm vào đâu thì khốn. Cho nên tôi bảo em là có mà và ngóao ộp rình trong bóng tối. Thế là…cô Meni, cô biết cậu ấy làm gì không ? Mặt cậu ấy dịu dàng hẳn lại, cậu đến bên tui, đặt cánh tay lên tui. Đấy là lần đầu tiên cậu ấy làm thế. Và cậu bảo : ” Em bé rất dũng cảm, phải không ? ” Trừ bóng tối, em bé chẳng sợ gì “. Và tui òa khóc, cậu bảo : ” Thôi nào, Mammy ” và vỗ vỗ vào vai tui : ” Thôi, Mammy, u đừng khóc ầm lên thế. Tui lấy làm mừng là u đã nói với tui. Tui biết u yêu bé Bonni, và vì u yêu em nên cái đó không đáng kể. Chỉ cái chứa ở trong tim mới là đáng kể”. Vậy đó, tui như được an ủi và đánh bạo hỏi : ” Cậu Rét, thế còn đám tang ? ” Cậu bèn quay sang tôi nhưng một người hóa dại, mắt lòng xòng xọc và cậu bảo : ” Lạy Chúa, tui tưởng u hiểu, mặc dù không ai khác hiểu ! Chả nhẽ u lại nghĩ tui chịu để người ta đem chôn con tui vào bóng tối mà nó rất sợ ? Ngay lúc này, tui vẫn nghe thấy nó kêu thét như thế nào khi nó thức giấc trong bóng tối. Tui không cho phép người ta làm nó sợ đâu.” Cô Meni ạ, bây giờ thì tôi biết là cậu ấy đã mất trí. Cậu ấy say, cậu ấy cần phải ngủ và ăn một chút gì, cơ mà không phải chỉ có thế. Cậu ấy điên hẳn rồi. Cậu đẩy tui ra khỏi cửa và bảo : ” Cút khỏi đây !”. Tui xuống cầu thang và nghĩ mông lung, cậu ấy bảo không đưa đám gì hết, còn cô Xcarlét thì bảo sáng mai đữa và cậu ấy bảo sẽ bắn cô. Và tất cả họ hàng bà con trong nhà, tất cả hàng xóm láng giềng đã bàn tán xôn xao như một đàn gà mái cục ta cục tác. Tui mới nghĩ đến cô, cô Meni ạ. Cô phải sang giúp bọn tui.

– Ôi, Mammy, em không thể nhảy vào can thiệp được.

– Nếu cô không thể thì ai có thể ?

– Nhưng em có thể làm gì, Mammy?

– Cô Meni, tui không biết. Nhưng cô có thể làm một cái gì. Cô có thể nói chuyện với cậu Rét và có khi cậu ấy nghe cô cũng nên. Cậu ấy quý cô lắm, cô Meni ạ. Có thể cô không biết, nhưng quả là thế đó. Tui đã nghe thấy cậu nói đi nói lại hòai rằng cô là đại phu nhân duy nhất cậu ấy từng biết.

– Nhưng…\

Melơni đứng dậy, bối rối. Nghĩ đến chuyện mặt đối mặt với Rét, lòng nàng đã nao núng. Nàng lạnh tóat người khi hình dung mình phải đấu lý với một người phát điên vì đau khổ như Mammy miêu tả, thấy tim quặn lại khi nghĩ đến lúc phải bước vào căn phòng sáng rực, nơi đặt thi hài con bé mà nàng vô cùng yêu thương. Nàng có thể làm gì đây ? Nàng biết nói gì với Rét để xoa dịu nỗi đau của chàng và thuyết phục được chàng ? Nàng đứng phân vân một lúcc. Qua cánh cửa đóng, vẳng tiếng cười lanh lảnh của con trai nàng. Ý nghĩ giả định là nó chết xuyên qua tim nàng như một lưỡi dao lạnh. Giả dụ bé Biu của nàng đang nằm trên gác, thân hình lạnh cứng, bất động, tiếng cười hân hoan tắt lịm.

– Ôi! Nàng kinh hãi kêu to lên và, trong tưởng tượng nàng, nàng ghì chặt nó vào ngực. Nàng thông cảm tâm trạng của Rét. Nếu Biu chết, làm sao nàng có thể để người ta mang nó đi, để nó một mình trong bóng tối, trong mưa gió ?

– Ôi, tội nghiệp thuyền trưởng Bâtlơ ! Nàng thôi lên. Em sẽ đến với anh ấy ngay bây giờ.

Nàng rảo bước quay lại phòng ăn, nói vài lời nhỏ nhẹ với Asli và ghì chặt đứa con trai nhỏ, hôn nồng nàn lên những lọn tóc vàng loăn xoăn làm nó ngạc nhiên.
Nàng ra khỏi nhà không đội mũ, chiếc khăn ăn vẫn nắm chặt trong tay, bước nhanh thoăn thoắt khiến đôi chân già của Mammy vất vả lắm mới theo kịp. Vào đến tiền sảnh nhà Xcarlét, nàng khẽ cúi chào đám người tụ tập trong phòng đọc sách, chào bà Pittipat khiếp đảm, bà cụ Bâtlơ trang nghiêm, Uyl và Xuelơn. Nàng nhanh nhẹn lên gác và Mammy hổn hển theo sau. Nàng dừng một lát trước cửa phòng Xcarlét đóng chặt, nhưng Mammy thì thào : “Đừng cô”. Meli bèn đi xuôi hành lang, lúc này chậm bước hơn, và dừng lại trước phòng Rét. Nàng đứng phân vận một lúc như muốn bỏ chạy. Rồi thu hết nghị lực, như một người lính nhỏ bé lao vào trận chiến đấu, nàng gõ cửa và khẽ gọi : ” Thuyền trưởng Bâtlơ, xin cho em vào . Melơni đây. Em muốn nhìn mặt Bonni.”
Cửa mở liền. Lùi vào trong bóng tối của hành lang, Mammy trông thấy Rét to lớn và đen sẫm trên nền sáng rực của ánh nến. Chàng đứng lảo đảo và Mammy ngửi thấy mùi uytxki trong hơi thở của chàng. Chàng nhìn Meli một lát rồi nắm tay nàng kéo vào phòng, đóng cửa lại.

Mammy len lén đến một chiếc ghế bên cạnh cửa và mỏi mệt ngồi phịch xuống, thân hình xồ xề của bà tràn cả ra mép ghế. Bà ngồi im không động đậy, lặng lẽ khóc và cầu nguyện. Thi thỏang bà nhấc vạt áo lên lau nước mắt. Mặt dù cố hết sức dỏng tai lên, bà vẫn không nghe rõ lời nào trong buồng, ngòai một tiếng rì rầm nho nhỏ đứt đọan.
Sau một quãng thời gian tưởng như bất tận, cửa kẹt mở và Meli ló mặt ra, tái mét và căng thẳng.

– Mang cho em một bình cà phê, nhanh lên, và mấy ổ bánh xăngđúych.

Khi tình hình cấp bách, Mammy có thể lanh lẹnh như một cô gái mười sáu tuổi uyển chuyển và nỗi tò mò muốn vào buồng Rét càng thúc bà khẩn trưởng hơn. Nhưng hy vọng của bà chuyển thành thất vọng, khi Meli chỉ hé cửa một tý và đón lấy chiếc khay. Hồi lâu, Mammy căng tai ra nghe ngóng, nhưng bà chỉ thấy tiếng lách cách thìa, dĩa trạm bạc và chén, đĩa sứ và giọng Melơni nhỏ bặt đi.Rồi bà nghe thấy tiếng giường cót két dưới sức nặng của một thân hình nặng nề gieo xuống, rồi liền đó, tiếng ủng rơi xuống sàn. Một lúc sau, Melơni hiện ra ở khung cửa và mặc dù cố gắng hết sức mình, Mammy vẫn không thể nhìn qua nàng vào trong buồng. Melơni có vẻ mệt mỏi, mi mắt long lanh lệ, nhưng mặt nàng lại thanh thản.

– U đến bảo cô Xcarlét là thuyền trưởng Bâtlơ hòan tòan đồng ý cử hành đám tang vào sáng mai, nàng thì thầm.

– Đội ơn Chúa, Mammy thốt lên. Làm thế nào mà…

– Đừng nói to thế. Cậu ấy sắp ngủ. Và Mammy, u bảo cô Xcarlét là em cũng sẽ ở đây suốt đêm và u mang cho em ít cà phê. Mang đến đây nhé !

– Đến phòng này ?

– Phải, em đã hứa với thuyền trưởng Bâtlơ là nếu cậu ấy ngủ, em sẽ ngồi canh Bonni suốt đêm. Thôi bây giờ, u đến bảo cô Xcarlét cho cô ấy khỏi lo nữa.

Mammy nặng nề cất bước đi theo hành lang, làm rung cả sàng gỗ. Trái tim của bà trút được gánh nặng, đang cất lời ca ngợi Chúa : ” Alêluia ! Alêluia !”. Bà tư lự dừng lại ngòai cửa phòng Xcarlét, tâm trí xao động những tình cảm hỗn độn, cả biết ơn lần tò mò.

” Mình thật không thể hiểu cô Meni làm thế nào. Chắc là thiên thần phù hộ cô ấy. Mình sẽ bảo cô Xcarlét về chuyện đám tang ngày mai. Nhưng mình nghĩ nên giấu kín chuyện cô Meni ngồi canh em bé. Cô Xcarlét chả thích thế tí nào “.

Chương 60

Thế giới đang có một cái gì đó không ổn, một sai hỏng khủng khiếp, hắc ám nó thấm vào mọi vật như một màn sương dày mù mịt, lén lút bao quanh Xcarlét. Cảm giác bất ổn đó còn thấm sâu hơn cả cái chết của Bonni vì giờ đây nỗi đau không chịu nổi ban đầu đã chuyển thành sự cam chịu chấp nhận tổn thất. Tuy nhiên cái ý thức kỳ quái về tai họa sắp tới ấy vẫn dai dẳng, như thể một cái gì đen xì, tùm hụp đang đứng kề bên vai nàng, như thể đất dưới chân nàng có thể biến thành cát lầy khi dấn bước trên đó.

Trước đây, nàng chưa hề biết đến lọai cảm giác khiếp sợ này. Cả đời, tỉnh táo đứng chắc chân trên lẽ thường, những điều duy nhất khiến nàng sợ là những điều nàng có thể nhìn thấy – tổn hại, đói, nghèo, mất tình yêu của Asli. Tuy không có đầu óc phân tích, giờ đây nàng vẫn cố phân tích, nhưng cách nào đó, nàng có thể chịu được nỗi bất hạnh này như đã từng chịu đựng những tổn thất ê chề khác. Nàng có sức khỏe, nàng muống bao nhiêu tiền cũng có và nàng vẫn có Asli, mặc dầu dạo này, nàng ngày càng ít gặp chàng. Ngay cả sự gò bó nảy sinh giữa hai người từ buổi tiếp tân tệ hại ở nhà Melơni cũng không làm nàng lo vì nàng biết nó sẽ qua đi. Không, giờ đây điều nàng lo sợ không phải là đau đớn hoặc đói hoặc mất tình yêu. Những nỗi lo sợ lọai ấy không bao giờ đè bẹp nàng như cái cảm giác bất ổn này – cái nỗi sợ thui chột người nó giống một cách kỳ lạ nỗi kinh hòang trong cơn ác mộng cũ của nàng , cơn ác mộng trong đó nàng chạy giữa một màn sương dày đặc chuyển động, tim cơ hồ muốn vỡ tung như một đứa trẻ lạc tìm hòai một nơi nương náu hư ảo.

Nàng nhớ lại Rét bao giờ cũng có thể dùng tiếc cười để xua tan mọi nỗi sợ của nàng. Nàng nhớ đến niềm an ủi nàng tìm thấy khi ngả đầu vào bộ ngực rộng ngăm đen hay buông mình trong vòng tay chắc nịch của chàng. Và thế là nàng quay về phía chàng và lần đầu tiên sau bao tuần, mắt nàng thực sự nhìn thấy chàng. Sự thay đổi nàng bắt gặp ở chàng làm nàng bàng hòang. Con người này ắt sẽ không cười hoặc vỗ về an ủi nàng.

Trong khỏang một thời gian nào đó sau khi Bonni chết, nàng quá giận chàng, quá chìm đắm trong nỗi đau buồn của bản thân nên cùng lắm cũng chỉ có thể nói năng lịch sự với chàng trước mặt gia nhân, không hơn. Nàng quá bận bịu mường tượng lại tiếng chân chạy lon ton của Bonni và tiếng cười như nắc nẻ của nó, nên chẳng bụng dạ đâu mà nghĩ rằng cả chàng cũng có thể đang nhớ đến những kỷ niệm ấy và còn đau đớn hơn cả nàng nữa. Suốt những tuần đó, họ đã gặp nhau giữa những bức tường vô tính cách của một khách sạnh, sống dưới cùng một mái nhà, ăn cùng một bàn, nhưng không bao giờ cùng chung ý nghĩ.

Giờ đây, khiếp sợ và cô đơn, nàng những muốn phá tan cái hàng rào ấy nếu có thể, song nàng thấy ràng chàng đang né xa nàng, như thể không muốn nói với nàng bất cứ điều gì sâu kín trong lòng. Giờ đây, cơ giận qua đi, nàng muốn nói với chàng rằng nàng không coi là chàng phải chịu trách nhiệm về cái chết của Bonni. Nàng muốn ngả vào vòng tay chàng mà khóc mà nói rằng chính nàng cũng rất đỗi tự hào về tài cưỡi ngựa của con bé, cũng rất hay chiều theo những sự vòi vĩnh của nó. Giờ đây, nàng vẫn sằn sàng cúi rạp mình thừa nhận rằng nàng đã ném lời kết tội đó vào mặt chàng chỉ vì quá khổ sở, hy vọng giảm nhẹ nỗi đau của mình bằng cách làm chàng đau. Nhưng dường như không có một lúc nào thuận tiện. Chàng nhìn nàng bằng cặp mắt đen thất thần khiến nàng chẳng có cơ hội nào mà nói. Và những lời xin lỗi, hễ đã hõan đi hõan lại, thì ngày càng khó nói và cuối cùng, không thể bày tỏ.

Nàng tự hỏi tại sao lại thế. Rét là chồng nàng, giữa họ là sợi dây bền chặt gắn bó giữa hai con người đã chung chăn chung gối và đã sinh ra một đứa con yêu để rồi phải thấy đứa con ấy bị mang đi quá sớm bào trong bóng tối vĩnh cửu. Chỉ có trong vòng tay của cha đứa bé ấy, nàng mới tìm được an ủi, trong sự trao đổi những kỷ niệm đau buồn mà thọat đầu có thể xót xa, nhưng sẽ góp phần làm lành vết thương. Nhưng giờ đây, trong tình trạng quan hệ giữa hai người như v65y, nàng có buông mình trong vòng tay một người hòan tòan xa lạ cũng chẳng khác gì.

Chàng chẳng mấy khi ở nhà. Những hôm họ cùng ăn tối với nahu, chàng thường say. Cung cách uống của chàng không giống như trước. Trước kia, khi ngấm rượu, chàng trở nên thanh lịch hơn, đồng thời cũng cay chua hơn, kể những chuyện ngộ nghĩnh, tinh quái khiến nàng dù không muốn cũng phải cười. Bây giờ, chàng say một cách lặng lẽ, ủ ê và càng về khuya, càng mụ mẫm đờ dại. Đôi khi, vào lúc tảng sáng, nàng nghe thấy chàng phi ngựa vào sân sau và gõ cửa dãy nhà gia nhân gọi Pork đỡ chàng lên gác và đặt chàng vào giường nằm . Đặt chàng vào giường nằm ! Rét, người bao giờ cũng đánh đổ các bạn rượu khác lăn ềnh xuống gầm bàn, rồi đặt họ vào giường nằm, mà không hề có dấu hiệu gì là say cả !
Trước kia chàng ăn mặt chải chuốt bao nhiêu thì nay lại lôi thôi lếch thếch bấy nhiêu, và Pork phải cáu lên mới khiến đựơc chàng thay quần áo trước khi đi ăn tối. Mặt chàng bự rượu, quai hàm rắn rỏi giờ xệ ra bệnh họan và những túi hùm hụp dưới cặp mắt vằn tia máu. Thân hình to lớn của chàng với những bắp thịt rắn chắc cuồn cuộn giờ nôm rệu rã và bụng bắt đầu phệ ra.

Nhiều khi chàng không về nhà hoặc thậm chí cũng không nhắn về là mình sẽ vắng nhà cả đêm. Cố nhiên, chàng có thể say nằm ngủ khò trong một buồng nào đó trên gác một tiệm rượu, nhưng Xcarlét bao giờ cũng đinh ninh rằng chàng ở nhà Uơtlinh trong những dịp ấy. Có lần, nàng trong thấy Bel ở một cửa hàng, dĩ nhiên bây giờ đã là một phụ nữ quá thì, mất gần hết vẻ mỹ miều trước kia. Nhưng, mặc dầu trát son phấn và mặc quần áo lòe lọet, nom ả vẫn mỡ màng và gần như ra dáng một người mẹ. Thay vì cụp mắt xuống hoặc trừng mắt thách thức như những ả lẳng lơ khác vẫn thường làm khi giáp mặt với các phụ nữ quý phái, Bel đường hòang nhìn lại nàng, quan sát mặt nàng với một vẻ chăm chú gần như thương hại khiến Xcarlét thấy nóng bừng má.

Nhưng bây giờ, nàng không thể lên án chàng, không thể lồng lộn gầm thét với chàng, đòi hỏi sự trung thành hoặc tìm cách làm nhục chàng, cũng như không đủ quyết tâm để mở miệng xin lỗi về chuyện buộc tội chàng đã gây ra cái chết của Bonni. Nàng bị cầm tù trong một trạng thái hờ hững ngỡ ngàng, một nỗi khổ sở mà nàng không sao hiểu nổi, một nỗi khổ sở sâu sắc hơn bất kỳ điều gì nàng đã nếm trải. Nàng cô đơn và không thể nhớ ra trước đây đã có bao giờ cô đơn đến thế. Có lẽ cho đến nay, nàng chưa bao giờ có thì giờ để thật sự cô đơn. Nàng cô đơn và sợ hãi. Nàng chẳng có ai để tâm sự, chẳng biết dựa vào ai ngòai Melơni. Vì giờ đây, cả Mammy, chỗ dựa chủ yếu của nàng; cũng đã về ấp Tara. Vĩnh viễn ra đi.

Mammy không hề giải thích vì sao bà ra đi. Đôi mắt già mệt mỏi của bà rầu rầu nhìn Xcarlét khi bà hỏi xin tiền tàu về Tara. Khi Xcarlét khóc, năn nỉ bà ở lại, bà chỉ trả lời :

– U thấy tựa như bà Ilơn đang bảo u : ” Về nhà đi, Mammy. U xong việc rồi.”. Thế là u phải về thôi.
Rét nghe hai người nói chuyện, bèn đưa tiền cho Mammy và vỗ về cánh tay bà :

– U có lý, Mammy ạ. Bà Ilơn có lý. Công việc của u ở đây xong rồi. U về đi, nếu u cần gì, xin cứ cho tôi biết.

Và khi Xcarlét phát cáu, lên giọng ra lệnh cho bà ở lại, chàng nói tiếp :

– Thôi, im đi ! Cô vớ vẩn lắm! Để cho u ấy đi ! Ai còn muốn ở lại cái nhày này…bây giờ nữa ?

Trong khi nói, mắt chàng long lên một cách dữ tợn đến nỗi Xcarlét khiếp hãi lùi lại.

– Bác sĩ Miđ, bác có nghĩ là anh ấy có thể…có thể mất trí không ? Sau đó, nàng hỏi, cảm giác đơn côi thúc đẩy nàng tìm đến thỉnh vấn ông bác sĩ.

– Không, ông bác sĩ nói, nhưng ông ấy uống rượu như cái hũ chìm và nếu cứ tiếp tục như thế thì coi như tự sát. Ông ấy yêu con bé quá, tôi đóan ông ấy uống để quên đi. Này, tôi khuyên cô ráng cho ông ấy một đứa bé khác càng sớm càng tốt.

” Hừ !” Xcarlét chua chát nghĩ khi rời phòng khám bệnh. Nói thì dễ hơn làm nhiều. Nàng rất vui lòng có một đứa con khác, mấy đứa, nếu điều đó có thể dập tắt cái ánh ghê sợ ấy trong mắt Rét và lấp đầy những khỏang trống nhức nhối trong tim nàng. Một con trai với vẻ gân guốc đen giòn của Rét và một bé gái nữa. Ôi, một bé gái khác, xinh xắn, vui tươi, bướng bỉnh và hay cười, chứ đừng như con Ilơ ngẩn ngơ. Tại sao, ôi, tại sao Chúa không bắt Ilơ đi nếu như Người cần bắt đi một trong những đứa con của nàng. Mất Bonni rồi, mà Ilơ nào có an ủi gì được nàng. Nhưng Rét hình như không muốn có con nào nữa. Chí ít, chàng cũng không bao giờ đến buồng nàng, mặc dầu bây giờ, cửa chẳng khi nào khóa và thường thường hé mở ra ý mời chào. Chàng có vẻ như không thiết. Giờ đây, chừng như chàng chẳng thíêt cái gì ngòai uytxki và cái ả tóc đỏ nhếch nhác ấy.

Giọng điệu giễu cợt của chàng trước kia chỉ là vui đùa, nay trở nên chua chát, những lời công kích của chàng trước kia được pha lõang bằng chất hài hước, nay trở nên tàn nhẫn. Sau khi Bonni chết, nhiều bà hàng xóm, bị chinh phục bởi cách đối xử tuyệt vời của chàng với con gái, đã sốt sắng muốn bày tỏ thiện cảm với chàng. Họ dừng lại giữa phố để chia buồn hoặc qua hàng rào, nói những lời thông cảm. Nhưng giờ đây, lý do để lịch sự hòa nhã là Bonni đã mất thì nhưng cung cách ấy cũng mất theo luôn. Chàng làm lơ các bà cùng những lời phân ưu chân thành của họ với thái độ thô lỗ, cục cằn.

Nhưng, lạ thay, các bà không hề phật ý. Họ thông cảm, hoặc nghĩ là mình thông cảm. Những lúc chàng phi ngựa về trong hòang hôn, say khướt, gần như không ngồi vững trên yên, cau mặt với người hỏi chuyện mình, các bà thường chép miệng ” tội nghiệp!” và càng ra sức dịu dàng và ân cần với chàng. Họ cảm thấy ái ngại cho chàng vì nỗi về nhà chẳng có gì hơn ngòai Xcarlét để an ủi trái tim tan nát.

Ai nấy đều biết Xcarlét lạnh lùng và vô tình như thế nào. Ai nấy đều thất kinh thấy nàng có vẻ dễ dàng trở lại bình thường sau cái chết của Bonni, họ không hiểu hoặc không cần hiểu nàng phải cố gắng hết sức mới làm ra vẻ trở lại bình thường như thế được. Rét được cả thành phố dành cho mối thông cảm trìu mến nhất, mà chàng không biết cũng chẳng thiết. Xcarlét bị cả thành phố ghét và lần đầu tiên, nàng thấy thèm sự thông cảm của bạn bè cũ.

Bây giờ, bạn cũ của nàng chẳng ai đến chơi, trừ bà cô Pitti, Melơni và Asli. Chỉ có các bạn mới của nàng đến thăm trên những cổ xe bóng lộn, sốt sắng bày tỏ cảm tình, háo hức muốn giải khuây cho nàng bằng những chuyện tầm phào về những người bạn mới khác mà nàng không hề quan tâm tới. Tất cả bọn ” người mới ” ấy đều là những kẻ xa lạ! Họ không hiểu gì nàng và họ sẽ không bao giờ hiểu nàng. Họ không hay biết gì về cuộc đời nàng trước khi nàng đạt tới địa vị cao sang và an tòan trong tòa nhà lớn ở phố Cây đào. Họ càng không muốn nói về chuyện quá khứ của bản thân trước khi họ xênh xang áo gấm, ngựa xe lộng lẫy. Họ không biết gì về những cuộc vật lộn của nàng, những thiếu thốn của nàng, tất cả những gì khiến nàng đang được hưởng tòa nhà lớn này, những bộ quần áo đẹp, những khay vàng đĩa bạc, những buổi chiêu đãi linh đình. Họ không biết gì hết và họ bất cần, những con người không biết từ đâu tới ấy, những con người dường như bao giờ cũng chỉ sống hời hợt trên bề mặt, không chia sẽ với nàng những kỷ niệm chung về chiến tranh, về đói rét và vật lộn, không cùng chung gốc rễ ăn sâu xuống cùng một vùng đất đỏ.

Giờ đây, trong sự cô đơn của mình, nàng những muốn tiêu thì giờ các buổi chiều với Mêibel, hoặc Fanni, hoặc bà Elxinh, hoặc bà Oaitinh, hoặc thậm chí người nữ chiến binh ghê gớm là bà Meriuêzơ. Hoặc bà Bonnel, hoặc … hoặc bất cứ ai trong số bạn bè cũ và hàng xóm của nàng. Vì những người này còn biết. Họ đã biết thế nào là chiến tranh, là khủng khiếp, là lửa khói: Họ đã thấy những người thân của mình bị chết trước khi đến hạn kỳ, họ đã ăn đói, mặc rách, đã sống trong cảnh nơm nớp, với lũ lang sói luôn rình rập ngòai cửa. Và họ đã dựng lại cơ đồ trên hoang tàn đổ nát.

Thật khuây khỏa nếu được ngồi với Mêibel mà nhớ lại rằng Mêibel đã từng chôn một đứa con nhỏ chết trong cuộc chạy trốn như điên trước đạo quân của tướng Sơmơn. Nỗi cô đơn của nàng hẳn sẽ nguôi dịu nếu có Ranni ở đây vì nàng và Fanni cùng mất chồng trong những ngày thiết quân luật đen tối. Sẽ là một thú vui dữ dằn nếu đựơc cùng với bà Elxinh vừa cười vừa nhớ lại bộ mặt của bà vào cái ngày Atlanta thất thủ, khi bà quất ngựa kéo chiếc xe tải phóng qua Ngã Năm, những thứ vơ vét được ở kho lương thực xóc nảy lên vương vãi cả ra ngòai. Thật thú vị nếu được ôn lại chuyện cũ với bà Meriuêzơ, giờ đây đã ổn định chắc chắn với cửa hàng bánh ngày càng phát đạt, và hỏi bà : ” Bà có nhớ sau khi đầu hàng, tình hình tồi tệ như thế nào không ?Bà có nhớ lại đận chúng ta túng thiếu đến nỗi không biết rồi sẽ kiếm đâu ra giầy dép mà đi ? Thế mà bây giờ thử nhìn chúng ta mà coi.”

Phải, giá như vậy thì thật thú vị. Bây giờ nàng hiểu vì sao khi hai cựu chiến sĩ liên bang gặp nhau, họ ôn lại chuyện chiến trận hào hứng đến thế, tự hào đến thế, luyến nhớ đến thế. Đó là những ngày thử thách tấm lòng kiên trung của họ và đã vược qua. Họ là những người kỳ cựu. Nàng cũng kỳ cựu, nhưng nàng không có chiến hữu nào để ôn lại chuyện chiến trận. Ôi, giá lại được ở giữa những người cùng hội cùng thuyền, những người đã trải qua cùng cảnh ngộ và biết những thử thách đó đau đớn như thế nào… và, mặc dầu thế, những nỗi đau ấy tham dự một phần lớn lao như thế nào trong đời ta !

Nhưng, cách nào đó, những người ấy đã lánh xa nàng. Nàng hiểu ra rằng đó là lỗi tại nàng. Trước đây, nàng chưa bao giờ quan tâm điều ấy… Và bây giờ, Bonni đã chết, cô đơn và sợ hãi xâm chiếm nàng và nàng thấy bên kia bàn ăn sang trọng hào nhóang, một con người xa lụ mụ mẫm vì rượu đang tan rã ra dưới mắt nàng.

Chương 61

Xcarlét đang ở Merietta thì nhận được một bức điện khẩn của Rét. Có một chuyến tàu mười phút nữa thì khởi hành đi Atlanta. Nàng đáp chuyến tàu đó, không mang hành lý gì ngòai chiếc túi xách, để Uêđ và Ilơ ở lại khách sạn với Prixi.

Atlanta chỉ cách có hai mươi dặm, nhưng đòan tàu bò như sên suốt buổi chiều ẩm ướt đầu thu, đỗ ở tất cả cá ga xép để lấy hành khách. Hỏang hốt vì bức điện của Rét, sốt ruột như điên muốn đến nơi thật nhanh, Xcarlét gần như muốn gào lên mỗi lần tàu đỗ. Đòan tàu ỳ ạch lết đi, xuyên qua những sườn đồi đỏ vẫn còn vằn vèo những công sự như những vết sẹo, qua những ụ pháo cũ và những hố đạn đã xanh um cỏ, xuôi theo con đường mà trước kia quân lính của Jonxtơn đã rút lui với biết bao cay đắng, mỗi bước là một cuột giao tranh. Mỗi ga, mỗi ngã ba ngã tư mà người phục vụ hành khách xướng lên, là tên một trận đánh,là địa điểm một cuộc đụng độ. Nếu trước kia,những tên ấy ắt đã khuấy lên trong Xcarlét những kỷ niệm kinh hòang, thì giờ đây nàng không còn đầu óc đâu mà nghĩ đến chúng.
Bức điện của Rét viết : ” Melơni ốm. Về ngay.”

Khi tàu vào ga Atlanta, trời đã nhập nhòang và một cơn mữa phùn nhẹ làm tối thành phố.Những ngọn đèn đường mờ tỏ – những đốm vàng vọt trong sương. Rét đang đợi nàng ở ga cùng với cỗ xe. Riêng vẻ mặt chàng đã đủ làm nàng sợ hơn cả khi đọc bức điện. Nàng chưa bao giờ thấy nó đờ đẫn đến thế.

– Cô ấy không… nàng kêu lên.

– Không, cô ấy còn sống, Rét vừa nói vừa đỡ hộ nàng lên xe. Đến nhà bà Uylkz, nhanh cật lực vào, chàng ra lệnh cho xà ích.

– Cô ấy làm sao ? tôi đâu có biết cô ấy ốm. Tuần trước nom cô ấy khá lắm mà. Hay là cô ấy bị tai nạn. Ôi, Rét, có thật nghiêm trọng như anh…

– Cô ấy đang hấp hối, Rét nói và giọng chàng cũng vô biểu cảm như sắc diện chàng. Có ấy muốn gặp cô.

– Không , đừng. Ôi, xin đừng Meli. Điều gì đã xảy đến với cô ấy ?

– Cô ấy bị sẩy.

– Bi…ị…sẩ…, nhưng Rét, cô ấy… Xcarlét lắp bắp. Tiếp theo điều thông báo khủng khiếp, tin này làm nàng sững sờ.

– À thế. Tôi chắc cô không biết. Tôi nghĩ là cô ấy không nói với ai. Cô ấy muốn làm cú bất ngờ. Nhưng tôi biết.

– Anh biết à ? Nhưng chắc chắn không phải cô ấy nói với anh.

– Cô ấy không cần nói với tôi. Nhưng tôi biết. Hai tháng vừa qua, cô ấy rất sung sướng. Tôi biết điều đó không thể có ý nghĩa gì khác.

– Nhưng Rét, bác sĩ bảo nếu cô ấy đẻ nữa thì có thể chết cơ mà !

– Thì cô ấy đang sắp chết đấy, Rét nói.

– Và quay sang giục xà ích.

– Lạy Chúa, anh không thể cho xe chạy hơn nữa sao ?

– Nhưng Rét, – cô ấy không thể sắp chết được ! Tôi…tôi không…và tôi…

– Cô ấy không có sức mạnh như cô. Cô ấy không bao giờ có sức mạnh. Cô ấy không có gì khác ngòai một tấm lòng.

Chiếc xe lắc lư dừng lại trước ngôi nhà nhỏ, thấp và Rét đưa tay đỡ Xcarlét xuống. Run rẩy, khiếp hãi, đột nhiên cảm thấy cơ đơn, nàng níu lấy cánh tay chàng.

– Anh cùng vào chứ, Rét ?

– Không, chàng nói và lại lên xe.

Nàng lao lên bậc thềm, qua hiên và mở toang cửa. Đây, trong ánh đèn vàng vọt, Asli, bà cô Petti và Inđiơ. Xcarlét nghĩ : ” Inđiơ làm gì ở đây ? Melơni đã bảo cô ta đừng bao giờ đặt chân vào nhà này cơ mà”. Trông thấy nàng, cả ba đều đứng dậy, bà cô Pitti cắn đôi môi run rẩy để khỏi bật lên khóc, Inđiơ nhìn nàng đăm đắm, buồn bã và không có vẻ gì là căm ghét. Asli nom ngây ngô như người mộng du và khi đến bên cạnh đặt tay lên cánh tay nàng, chàng nói cũng như người mộng du.

– Melơni hỏi chị, chàng nói. Melơni hỏi chị.

– Tôi có thể gặp cô ấy ngay bây giờ không?

Nàng quay về phía cửa buồng Melơni đóng chặt.

– Không, bác sĩ Miđ đang ở trong ấy. Tôi rất mừng thấy chị đến ,Xcarlét.

– Tôi đã cố hết sức đến thật nhanh, Xcarlét bỏ mũ, áo. Tầu…Cô ấy thật sự không…Nói cho tôi biết đi, cô ấy đỡ rồi chứ, Asli? Nói cho tôi hay nào ! Đừng có nhìn như thế! Cô ấy thực sự không…

– Melơni cứ hỏi chị hòai, Asli nói và nhìn vào mắt nàng. Và trong mắt chàng, Xcarlét thấy câu trả lời cho câu hỏi của nàng. Trong khỏanh khắc, tim nàng chững lại, rồi một nỗi sợ hãi kỳ lạ, mạnh hơn lo âu, mạnh hơn buồn đau, bắt đầu đập rộn trong ngực nàng. Không thế đứng như thế được, nàng cuống cuồng nghĩ thầm, cố đẩy lùi nỗi sợ. Các bác sĩ cũng có thể lầm. Mình không muốn tin đó là sự thật. Nếu mình nghĩ thế, mình sẽ hét lên mất. Mình phải nghĩ đến một cái gì khác đi.

– Tôi không tin như thế ! Nàng kêu lên dữ dội, nhìn vào ba bộ mặt chảy dài như thách họ nói ngược lại. Mà tại sao Melơni không nói cho tôi hay? Nếu tôi biết thì không đời nào tôi đi Marietta.
Mắt Asli chợt bừng tỉnh, đau đớn.

– Melơni chẳng nói cho ai biết, nhất là với chị, Xcarlét ạ, Melơni sợ chị mắng. Melơni định chờ ba…chờ đến khi chắc chắn là không sao, rồi mới cho tất cả đều bị bất ngờ và cười giễu trước các bác sĩ thật lầm to. Và cô ấy sung sướng biết mấy. Chị biết Melơni yêu trẻ như thế nào đấy…cô ấy thèm một đứa con gái biết bao. Mọi sự đều rất đẹp cho đến …thế rồi, đùng một cái.
Cửa buồng Melơni lặng lẽ mở và bác sĩ Miđ bước ra hành làng, đóng cửa lại sau lưng. Ông đứng một lúc, bộ râu bạc xòa trên ngực, và nhìn bốn người đột nhiên sững ra như tượng. Cuối cùng, ông dừng mắt lại ở Xcarlét. Khi ông tiến lại về phía nàng, nàng thấy trong mắt ông có cả đau buồn lẫn khinh ghét và con tim hãi hùng của nàng bỗng ngập tràn một cảm giác phạm tội.

– Vậy là cuối cùng cô đã đến đây, ông nói.

Nàng chưa kịp đáp, Asli đã tiến về phía cánh cửa đóng

– Ông chưa được vào, ông bác sĩ nói. Bà ấy muốn nói chuyện với Xcarlét trước.

– Thưa bác sĩ, Inđiơ nói, đặt tay lên áo ông. Giọng cô tuy tẻ nhạt nhưng hùng hồn hơn mọi lời cầu xin. Xin bác để cháu gặp chị ấy một lát. Cháu ở đây chờ từ sáng nhưng chị ấy… cho cháu gặp chị ấy một lát.

Cháu muốn nói với chị ấy…cần phải nói với chị ấy rằng…rằng cháu đã lầm về …một chuyện gì đó.
Cô không hề nhìn Asli hay Xcarlét trong khi nói, nhưng bác sĩ phóng tia mắt lạnh lùng của mình về phía Xcarlét.

– Để tôi xem, cô Inđơ, ông nói ngắn gọn. Nhưng chỉ với điều kiện là cô hứa với tôi sẽ không làm cô ấy kiệt sức với câu chuyện lầm lỡ của cô. Cô ấy biết là cô đã lầm và nghe cô xin lỗi, cô ấy chỉ thêm phiền mà thôi.

Bà Pitti rụt rè : ” Bác sĩ Miđi xin…”.

– Bà Pitti, bà thừa biết là bà sẽ là lên và ngất xỉu thôi.

Bà gì rướn thẳng thân hình thấp bé tròn trĩnh và nhìn thẳng vào mặt ông bác sĩ, mắt bà ráo hỏanh và từng nét lượn trên người bà đều tóat ra vẻ chững chạc đường hòang.

– Thôi được, bà bạn thân mến, để lát nữa đã, ông bác sĩ nói, hòa nhã hơn. Nào, Xcarlét.

Họ rón rén đi dọc hành lanh đến chỗ cửa đóng và ông bác sĩ đặt tay lên vai Xcarlét, bóp mạnh.

– Bây giờ thế này nhé, ông thì thầm, không được kêu khóc cuồng lọan lên ,không được giở trò thú tội bên giường lâm chung kẻo, thề trước Chúa, tôi sẽ vặn cổ cô đấy ! Đừng có làm bộ ngây thơ nhìn tôi như thế ! Cô thừa biết tôi định nói gì. Cô Meli cần được ra đi nhẹ nhàng, cô đừng có trút nhẹ lương tâm mình bằng cách kể lể với cô ấy điều gì về Asli. Tôi chưa bao giờ hại một người phụ nữ, nhưng nếu cô nói điều gì thì…liệu hồn với tôi đó.

Ông mở cứa trước khi nàng kịp trả lời, đẩy nàng và trong phòng và đóng cửa lại. Căn phòng hẹp bày biện sơ sài đồ đạc bằng gỗ óc chó màu đen, chìm trong khỏang tranh tối tranh sáng, cây đèn được che chở bằng một tờ báo. Đó là một phòng nhỏ quy củ như phòng một nữ sinh với chiếc giường hẹp thành thấp, những tấm rèm lưới mộc mạc cài móc, những tấm thảm nhỏ sạch sẽ phai màu trải trên sàn, khác hẳn với căn phòng ngủ sa hoa của Xcarlét với những đồ đạc trạm trổ bề thế, những rèm bằng ấm hồng và tấm thảm lớn rắc hoa hồng.

Melơni nằmg trên giường. Dưới tấm mền, thân hình nàng quắt lại và phẳng như thân hình một cô bé. Hai bím tóc đen vắt hai bên mặt và đôi mắt nhắm nghiền hõm vào thành hai quần tím bầm. Nhìn thấy nàng, Xcarlét đứng sững, dựa vào khung cửa. Mặc dầu trong phòng mờ tối, nàng vẫn thấy rõ mặt Melơni vàng bệch như sáp, mất hết sinh khí, và mũi thì dúm dó lại. Vừa rồi Xcarlét đã thầm hi vọng là bác sĩ Miđ có thể lầm. Nhưng bây giờ thì nàng đã biết chắc. Thời kỳ chiến tranh, nàng đã thấy quá nhiều bộ mặt mang cái vẻ dúm dó ấy trong các bệnh viện nên thừa biết đó là báo hiệu điều gì tất yếu phải đến.
Melơni đang hấp hối, nhưng trong một lúc, Xcarlét không chịu tin là như thế. Melơni không thể chết. Lẽ nào lại như vậy. Thượng đế nào lại để Melơni chết trong khi nàng, Xcarlét đây, đang cần đến cô ấy xiết bao. Trước đây, nàng chưa bao giờ nghĩ là mình phải cần đến Melơni. Nhưng giờ đây, sự thật ập đến, tràn cả vào những ngóc ngách sâu nhất của tâm hồn nàng. Nàng đã dựa vào Melơni như dựa vào chính bản thân mình mà nàng không biết. Giờ đây Melơni sắp chết và Xcarlét biết mình không thể thiếu nàng. Giờ đây,rón rén đi qua buồng lại gần cái thân hình im lìm kia, tim thắt lại vì kinh hòang, nàng biết rằng Melơni đã là gươm và mộc của nàng, niềm an ủi và sức mạnh của nàng.

“Mình phải giữ Melơni lại ! Mình không thể để cô ấy bỏ đi!”

Nàng thầm nghĩ và gieo mình xuống bên cạnh giường với một tiếng váy áo sột sọat. Hối hả, nàng nắm lấy bàn tay mềm oặt trên tấm mền và một lần nữa lại thất kinh khi thấy nó lạnh đến rợn người.

– Tôi đây, Melơni ạ, nàng nói.

Melôni hé mắt ra chút xíu rồi, như yên trí đó đúng là Xcarlét, lại nhắm mắt lại. Sau một lát, nàng hít một hơi và thều thào :

– Hãy hứa với em !

– Ồ, bất cứ điều gì cũng được !

– Biu…chị hãy trông nom cháu.

Cổ họng tắc nghẹn, Xcarlét chỉ có thể gật đầu và nàng khẽ bóp bàn tay mình đang cầm, tỏ dấu đồng ý.

– Em giao cháu cho chị.(Thấp thóang một nụ cười yếu ớt).Trước đây, đã có lần, em giao nó cho chị…nhớ không?…khi nó chưa ra đời.

Nhớ không ư ? Làm sao nàng có thể quên được những giờ khắc ấy ? Gần rõ ràng như thể cái ngày khủng khiếp ấy vụt trở lại, nàng cảm thấy cái nóng ngột ngạt của buổi trưa tháng chín, nhớ lại mối kinh hòang của mình trước mối đe dọa của quân Yanki, nghe thấy tiếng bước chân của đòan quân rút lui,tiếng của Melơni xin nàng trông nom đứa bé nếu cô ấy chết…đồng thời cũng nhớ rằng hôm ấy, nàng đã căm ghét Melơni và muốn cô ấy chết biết nhường nào.

” Mình đã giết cô ấy “, nàng nghĩ thầm trong nỗi khắc khỏai nhuốm màu mê tín. “Tại mình cứ luôn luôn cầu cho cô ấy chết nên Chúa đã nghe thấy và hiện đang trừng phạt mình”.

– Ôi, Meli, đừng nói như vậy ! Cô thừa biết là cô sẽ qua khỏi…

– Không. Chị hứa đi.

Xcarlét nghẹn ngào.

– Cô biết là tôi sẵn sàng hứa. Tôi sẽ đối với cháu như con đẻ tôi.

– Cao đẳng? Melơni hỏi giọng yếu ớt, lờ đờ.

– Ồ, nhất định ! Đại học và Havơđ, rồi du lịch châu Âu và bất cứ điều gì cháu muốn… và…một con ngựa con…và học nhạc…Ôi, Meli, tôi xin cô, ráng lên! Hãy cố gắng nào !

Lại im lặng và gương mặt Melơni biểu lộ những dấu hiệu của một cuộc vật lộn để thu hết sức tàn và tiếp tục nói :

– Asli,nàng nói, Asli và chị…Giọng nàng lắp bắp rồi lại im lặng.

Nghe nhắc đến tên Asli, tim Xcarlét chững lại, lạnh như cục băng trong ngực. Melơni đã biết từ đầu đến giờ. Xcarlét gục đầu lên tấm mền và một tiếng nấc không thóat ra được bóp chặt cổ họng nàng như một bàn tay tàn bạo.Melơni biết. Giờ đây Xcarlét hết cả xấu hổ,tê liệt mọi cảm giác, trừ một nỗi hối hận là đã gây đau khổ cho con người hiền dịu kia suốt mấy năm trường. Melơni…đã biết …và tuy thế, vẫn là người bạn trung thành của nàng. Ôi, giá nàng có thể sống lại những năm ấy ! Nàng sẽ né tránh, thậm chí không nhìn vào mắt Asli nữa.

” Ôi,lạy Chúa !”. Nàng thầm cầu nguyện thật nhanh, “xin hãy để cho cô ấy sống ! Con sẽ đền bù lại cho cô ấy. Con sẽ hết sức tốt với cô ấy. Con sẽ không bao giờ nói với Asli chừng nào con còn sống, nếu người cho cô ấy qua khỏi !”.

– Asli, Melơni thều thào nói và vươn tay ra sờ vào đầu Xcarlét đang cúi gục xuống. Ngón tay cái và ngón tay trỏ của nàng giật giật tóc Xcarlét không mạnh gì hơn đứa trẻ sơ sinh. Xcarlét biết thế nghĩa là gì, biết

Melơni muốn nàng ngẩng đầu lên. Nhưng nàng không thể nhìn vào mắt Melơni dễ đọc thấy trong đó rành rành là Melơni đã biết hết chuyện.

– Asli, Melơni lại thì thào và Xcarlét cố gắng tự chủ. Đến ngày Phán xử, khi nàng đứng trước Chúa và đọc thấy bản kết án mình trong mắt Người, hẳn cũng không đến nỗi kinh khủng như thế này. Tâm hồn nàng co rúm lại, nhưng nàng ngẩng đầu lên.

Nàng chỉ thấy vẫn đôi mắt đen đầy yêu thương ấy,giờ đây hõm xuống và lờ đờ vì cái chết gần kề,vẫn cái miệng dịu ấy, mệt mỏi, cô dẹp cơn đau để thở. Không một lời trách móc trong đôi mắt đó, trên khóe miệng đó, không một lời kết tội, không một thóang sợ hãi- chỉ một nỗi lo là không đủ sức để nói.

Trong một lúc, Xcarlét quá sững sờ đến nỗi thậm chí không cảm thấy nhẹ người. Rồi, trong khi nắm chặt tay Melơni hơn, một cảm giác biết ơn Thượng Đế như một đợt sóng nồng ấm dâng ngập hồn nàng và lần đầu tiên, kể từ thời thơ ấu, nàng nhẩm đọc một lời cầu nguyện thành kính không gợn một chút vị kỷ: ” Tạ ơn Chúa, con biết con không xứng đáng với điều đó, nhưng tạ ơn Người đã không để cô ấy biết !”.

– Cô định nói gì về Asli, Meli ?

– Chị sẽ…trông nom anh ấy ?

– Ồ, có chứ .

– Anh ấy dễ bị…cảm lạnh lắm…

Lại ngừng.

– Trông nom…công việc làm ăn của anh ấy…chị hiểu không?

– Vâng, tôi hiểu, tôi sẽ để tâm.

Melơni ráng hết sức.

– Asli, không …có đầu óc thực tế.

Chỉ có biết mình sắp chết, Melơni mới buộc phải nói ra điều bội phản ấy.

– Tôi sẽ lo cho chú ấy và cả công việc làm ăn nữa, và sẽ không để chú ấy biết. Tôi sẽ chỉ gợi ý cho chú ấy thôi.
Melơni cố mỉm một nụ cười, thọat đầu yếu ớt rồi chuyển thành đắc thắng khi mắt nàng lại gặp mắt Xcarlét. Cái nhìn họ trao đổi với nhau đã đóng dấu chứng thực lên bản thỏa ước chuyển giao từ người này sang người kia việc che chở Asli Uylkz trước một thế giới khắc nghiệt mà không để chàng biết để khỏi làm tổn thương đến lòng tự ái nam nhi của chàng.
Lúc này, gương mặt mệt mỏi của Melơni không còn biểu hiện sự vật lộn nữa, như thể lời hứa của Xcarlét đã mang lại thanh thản cho nàng.

– Chị thật thông minh…thật dũng cảm…bao giờ cũng rất tốt với em.

Nghe nói vậy, tiếng nấc dâng lên cổ họng Xcarlét và nàng đưa tay lên bịt miệng. Không khéo nàng sắp sửa khóc ầm lên như một đứa con nít và kêu lên : ” Tôi là một con quỷ ! Tôi đã đối xử rất tệ với cô ! Tôi chẳng làm gì cho cô hết ! Tất cả là vì Asli thôi !”.

Nàng đột ngột đứng dậy, cắn vào ngón tay cái để lấy lại tự chủ. Những lời nói của Rét trở lại trong đầu nàng. ” Cô ấy yêu cô. Cầu sao đó là cây thập tự để cô phải gánh vác suốt đời”. Và giờ đây, cây thậy tự ấy càng nặng nề hơn. Trước đây, nàng đã tìm mọi mưu chước để cướp Asli khỏi tay Melơni, chừng ấy đã đủ ê chề. Nhưng bây giờ lại còn tệ hơn. Melơni, vốn đã mù quáng tin nàng suốt đời, nay vẫn giữ nguyên lòng tin yêu đó đối với nàng khi từ biệt cõi đời. Không, nàng không thể mở miệng được. Thậm chí nàng cũng không thể nhắc lại : “Hãy cố gắng sống”. Nàng phải để cho Melơni ra đi nhẹ nhàng, không vật vã, không nước mắt, không đau buồn.

Cửa khẽ mở và bác sĩ Miđ đứng trên ngưỡng cửa, ra hiệu khẩn cấp. Xcarlét cúi xuống giường, nuốt nước mắt và cầm lấy tay Melơni áp vào má mình.

– Ngủ ngon nhé, nàng nói. Nàng không ngờ giọng mình có thể vững vàng đến thế.

– Hãy hứa với em đi…tiếng thì thào lúc này rất nhỏ.

– Xin hứa bất cứ điều gì, Melơni thân yêu.

– Thuyền trưởng Bâtlơ…hãy tốt với anh ấy. Anh ấy…yêu chị biết mấy.

“Rét ư?” Xcarlét nghĩ thầm ,ngỡ ngàng. Câu nói của Melơni chẳng có ý nghĩ gì đối với nàng.

– Phải, thật vậy, nàng đáp như cái máy và sau khi hôn nhẹ lên bàn tay Melơni, đặt nó về chỗ cũ trên giường.

– Bảo bà Pitti và Inđiơ vào ngay đi, ông bác sĩ thì thầm khi nàng đi qua cửa.

Mắt mời đi, nàng nhìn bà Pitti và Inđiơ theo bác sĩ Miđ vào trong buồng, tay kéo váy vào sát người cho khỏi kêu sột sọat. Cửa đóng lại sau lưng họ và ngôi nhà chìm trong im lặng. Không thấy Asli đâu, Xcarlét gục đầu vào tường như một đứa bé hư phải phạt đứng vào góc nhà và xoa xoa cổ họng đau rát.

Đằng sau cánh cửa kia, Melơni sắp ra đi mãi mãi, mang theo cái sức mạnh đã từng là chỗ dựa cho Xcarlét trong bao năm mà nàng chẳng hay. Tại sao, ôi, tại sao nàng lại không nhận ra từ trước là nàng yêu và cần Melơni biết bao ? Nhưng có ai ngờ cô nàng Melơni bé nhỏ xấu xí lại là một khối vững mạnh rường cột ? Melơni, con người nhút nhát đến phát khóc khi phải tiếp xúa với người lạ, không dám lên tiếng phát biểu ý kiến của mình, luôn sợ sự chê trách của các bà già, Melơni, con người không đủ can đảm để đuổi một con ngỗng? ấy thế mà…

Tâm trí Xcarlét đi ngược năm tháng trở lại cái buổi trưa nóng bức yên ả ở ấp Tara khi một sợi khói xám cuộn lên trên một xác người mặc quân phục xanh và Melơni đứng ở đầu cầu thang, tay lăm lăm thanh gươmg của Charlz, Xcarlét nhớ là lúc đó nàng nghĩ : ” Thật ngớ ngẩn ! Melơni thậm chí không nhấc nổi thanh gươm ấy!”nhưng giờ đây nàng hiểu rằng nếu cần ,Melơni sẽ lao xuống cầu thang để giết tên Yanki hoặc …để chính mình bị giết.

Phải, hôm ấy Melơni đã có mặt với một thanh gươm trong bàn tay nhỏ nhắn của mình, sẵn sàng chiến đấu vì nàng. Và giờ đây, khi buồn rầu nhìn lại quá khứ, Xcarlét hiểu ra rằng Melơni bao giờ cũng ở đó bên cạnh nàng với một thanh gươm trong tay, kín đáo như cái bóng của chính nàng, yêu nàng, chiến đấu vì nàng với một dạ trung thành mù quáng chống lại bọn Yanki, lửa, cái đói, cái nghèo, dư luận và thậm chí cả những người máu mủ ruột thịt của cô ấy.

Xcarlét cảm thấy lòng can đảm và tự tin từ bỏ mình khi nàng nhận ra rằng thanh gươm từng vung lên sáng lóang để bảo vệ nàng trước thế gian, giờ đã vĩnh viễn tra vào vỏ.
Meli là người bạn nữ duy nhất mình từng có, nàng nghĩ thầm tuyệt vọng, người phụ nữ duy nhất yêu mình thực sự ngòai Mẹ ra. Cô ấy cũng giống Mẹ. Tất cả những ai biết Melơni đều níu lấy váy cô.
Đột nhiên, nàng tưởng như bà Ilơn đang nằm sau cánh cửa kia, từ giã cõi trần một lần thứ hai. Đột nhiên, Xcarlét lại đang đứng ở ấp Tara, với tiếng cuột đời náo động bên tai, lòng não nề biết rằng, thiếu sức mạnh ghê gớm của những con người yếu ớt, hiền dịu, những con người có trái tim nhạy cảm, từ nay nàng sẽ không thể chống chọi với đời.
Nàng đứng trong hành lang, phân vân, sợ hãi và ánh lửa lò sưởi bập bùng trong phòng khách hắt những cái bóng mờ dài nghêu lên bức tường quanh nàng. Ngôi nhà im lặng như tờ sự tĩnh mịch thấm vào nàng như một cơn mưa lạnh buốt. Asli! Asli đâu nhỉ?

Nàng đi về phòng khách tìm chàng như một con vật bị rét tìm lửa sưởi, nhưng chàng không có ở đó. Nàng cần phải tìm thấy chàng. Nàng đã phát hiện ra sức mạnh của Melơni cùng sự phụ thuộc của bản thân nàng vào nó, chỉ để mất nó đúng vào lúc phát hiện, nhưng hãy còn Asli, mạnh mẽ, không ngoan. Asli, niềm an nủi của nàng. Ở Asli và tình yêu của chàng, nàng sẽ tìm thấy sức mạnh làm chỗ dựa cho sự yếu đuối của nàng, lòng can đảm để dẹp nỗi sợ hãi của nàng, sự nguôi dịu cho nỗi đau buồn của nàng. Chắc chàng đang ở trong phòng riêng, nàng nghĩ, và rón rén đi về cuối hành lang, nàng khẽ gõ cửa. Không thấy ai trả lời, nàng đẩy cửa hé ra. Asli đang đứng bên bàn trang điểm, ngắm một đôi găng tay đã mạng của Melơni. Mới đầu chàng nhấc một chiếc lên nhìn, như thể chưa từng thấy nó bao giờ. Rồi chàng khẽ đặt xuống tựa hồ nó làm bằng thủy tinh và cầm chiếc kia lên.

Nàng cất giọng run rẩy gọi : Asli ! Và chàng từ từ quay lại nhìn nàng. Đôi mắt màu xám của chàng đã mất cái vẻ xa vắng và buồn ngủ. Chúng mở thao láo, không gì che đậy, và trong đó Xcarlét đọc thấy một nỗi sợ tương đương với nỗi sợ của nàng, một nỗi bất lực còn bạc nhược hơn nỗi bất lực của nàng và một nỗi hoang mang sâu sắc chưa từng thấy. Cái cảm giác hãi hùng đã xâm chiếm nàng khi đứng ở hành lang càng tăng lên khi nàng trông thấy mặt chàng. Nàng đi lại bên chàng.

– Tôi sợ, nàng nói. Ôi Asli, hãy ôm tôi đi. Tôi sợ lắm !

Chàng không nhúc nhích, chỉ nhìn nàng chăm chăm, nắm chặt chiếc găng bằng cả hai tay. Nàng sờ vào cánh tay chàng và thì thầm : ” Làm sao thế ? “
Mắt chàng ráo riết lục sóat nàng, săn tìm, cuống cuồng săn tìm một cái gì mà không thấy. Cuối cùng, chàng nói bằng một giọng dường như của ai khác.

– Tôi đang cần Xcarlét, chàng nói. Tôi sắp chạy đi tìm Xcarlét…chạy như một đứa trẻ đang cần được an ủi…và tôi thấy một đứa trẻ, còn hỏang hốt hơn tôi, đang chạy đến với tôi.

– Không thể là anh…anh không thể hỏang sợ ! Nàng kêu lên. Xưa nay chưa có gì làm anh hỏang sợ. Nhưng tôi…Xưa nay anh vẫn mạnh mẽ thế kia mà…

– Nếu tôi mạnh mẽ, đó là vì có Melơni làm chỗ dựa, chàng nói, giọng vỡ ra, và nhìn xuống chiếc găng, vuốt phẳng các ngón. Và…và…tất cả sức mạnh tôi có đang tiêu tan cùng với nàng.

Trong cái giọng nói nhỏ nhẹ của chàng có một nỗi tuyệt vọng cuồng dại đến nỗi nàng buông tay khỏi cánh tay chàng và lùi lại. Và trong cái im lặng nặng nề buông xuống giữa hai người, nàng cảm thấy đây là lần đầu tiên trong đời nàng, nàng thực sự hiểu chàng.

– Sao…nàng chậm rãi nói, sao, Asli, anh yêu cô ấy ư?

Chàng nói phải như cố gắng mới thốt nên lời.

– Melơni là giấc mơ duy nhất sống động, không bị thực tế bóp chết, mà tôi từng có.

” Mơ ? ” nàng nghĩ thầm, lại thấy trỗi dậy nỗi bực dọc từ thuở nào. “Lúc nào cũng mơ với mộng ! Chẳng bao giờ biết lẽ phải chăng ! “.

Lòng nặng trĩu và hơi chua xót, nàng nói.

– Anh thật dại, Asli ạ. Làm sao anh không thấy cô ấy đáng giá hơn tôi gấp triệu lần ?

– Xcarlét, xin đừng nói thế ! Nếu Xcarlét biết tôi đã đau đớn như thế nào từ lúc bác sĩ…

– Anh đã đau đớn như thế nào ! Thế anh tưởng tôi…Ôi, Asli, lẽ ra anh nên biết từ bao năm trước rằng anh đã yêu cô ấy chứ không phải yêu tôi ! Tại sao anh không thấy điều ấy ? Nếu vậy thì có phải mọi sự đã khác đi biết mấy…Ôi,đáng lẽ anh phải ý thức ra và đừng có nhử tôi hòai bằng những lời đẹp đẽ về danh dự và hy sinh !Nếu anh nói với tôi từ những năm trước, hẳn tôi đã… Đó có thể là một vết thương đối với tôi, nhưng, cách nào đó, tôi có thể chịu được. Nhưng đằng này, anh đợi đến tận bây giờ, đến khi Melơni sắp chết, mới phát hiện ra thì đã quá muộn rồi. Ôi, Asli, việc của đàn ông là phải thấy ra những điều đó…chứ đâu phải việc của phụ nữ! Lẽ ra anh phải thấy rõ ràng là từ đầu chí cuối anh vẫn yêu Melơni và chỉ thèm muốn tôi như…Rét thèm cá ả Uơtlinh nọ !…

Nghe nàng nói, chàng nhăn mặt lại, nhưng vẫn nhìn vào mắt nàng, khẩn cầu nàng im lặng, kêu gọi chút an ủi. Từng nét trên mặt chàng đều thừa nhận những lời nàng là đúng. Bản thân đôi vai rũ xuống kia chứng tỏ chàng đang tự trừng phạt nghiêm khắc hơn bất cứ hình phạt nào nàng có thể bắt chàng phải chịu. Chàng đứng lặng trước mặt nàng, nắm chặt chiếc găng như thể đó là một bàn tay thông cảm và trong cái im lặng tiếp theo, cơn thịnh nộ của nàng tan đi nhường chỗ cho thương hại pha lẫn chút khinh bỉ. Nàng cảm thấy lương tâm bị cắn rứt. Nàng đã đánh một người gục ngã, không còn khả năng tự vệ…mà nàng vừa mới hứa với Melơni là sẽ trông nom chàng.

” Và ngay sau khi hứa với cô ấy, mình lập tức nói với chàng những điều độc ác, xúc phạm”, nàng buỗn bã tự nhủ ” Mà mình cần gì nói với chàng những điều ấy cơ chứ. Chẳng cần phải nói thế. Chàng biết rõ sự thật và thế cũng đủ giết chàng. Chàng chưa trưởng thành. Chàng là một đứa trẻ cũng như mình và chàng sợ phát ốm vì mất Melơni. Melơni biết cơ sự sẽ như thế nào…Melơni hiểu chàng hơn mình hiểu. Vì thế nên cùng một lúc cô ấy nói đến chuyện trông nom Asli và Biu. Làm sao Asli có thể chịu được bất cứ cái gì. Mình đã phải chịu đựng biết bao nhiêu thử thách. Nhưng chàng thì không thể…Thiếu Melơni, chàng không thể chịu đựng nổi bất cứ cái gì”.

– Tha lỗi cho tôi, Asli thân yêu, nàng dịu dàng nói và chìa tay ra. Tôi biết Asli đau đớn như thế nào. Nhưng nên nhớ rằng Melơni không biết gì cả…không bao giờ nghi ngờ gì…Chúa thật từ bi với chúng ta.

Chàng bước nhanh đến nàng và quàng tay ôm lấy nàng như một người mù. Nàng kiễng chân lên áp gò má ấm của mình vào má chàng như một cử chỉ an ủi và đưa tay vúôt tóc chàng ra đằng sau.

– Đừng khóc, cưng, Melơni muốn cưng phải can đảm. Lát nữa, Melơni sẽ muốn gặp cưng và cưng phải can đảm lên. Không nên để cô ấy thấy là cưng đã khóc. Điều ấy sẽ làm cô ấy buồn phiền.

Chàng ghì nàng đến mức nàng thấy khó thở. Giọng chàng nghẹn ngào bên tai nàng :

– Tôi biết làm gì đây. Tôi không thể. Tôi không thể sống thiếu Melơni!

” Tôi cũng thế “, nàng nghĩ thầm và rùng mình xua đuổi hình ảnh những năm sắp tới không có Melơni. Nhưng nàng ráng tự chủ lại. Asli đang trông cậy vào nàng. Melơni đang trông cậy vào nàng. Như trước đây có lần ở ấp Tara, dưới ánh trăng, say mềm và mệt lử, nàng đã nghĩ : ” Những gánh nặng là dành cho những đôi vai đủ sức mạnh để mang chúng ” . Vậy đó, nàng có đôi vai mạnh, còn Asli thì không. Nàng bạnh vai để đón gánh nặng, và với một vẻ bình tĩnh hòan tòan trái ngược với tâm trạng thật, nàng hôn gò má ướt của Asli một cái hôn nồng cháy, không say đắm, cũng chẳng chút khát khao, mà chỉ nhẹ nhàng thương mến.

– Chúng ta sẽ…kiếm cách nào đó, nàng nói.
Ngòai hành lang, có tiếng mở cửa ra đột ngột và bác sĩ Miđ gọi, giọng ré lên khẩn cấp:

– Asli ! Nhanh lên !

” Lạy Chúa ! Cô ấy đi rồi ! ” Xcarlét nghĩ thầm. ” Và Asli không đến nói lời từ biệt ! Nhưng có thể…”

– Mau lên ! Nàng kêu to, đẩy chàng một cái vì thấy chàng cứ đứng đực ra giương mắt nhìn. Mau lên kìa!

Nàng mở cửa và làm hiệu cho chàng đi ra. Bật lên do lời thúc của nàng. Asli lao ra hành lang, tay vẫn nắm chặt chiếc găng. Nàng nghe thấy tiếng chân vội vã của chàng, rồi tiếng một cánh cửa đóng sập lại.
Nàng lại kêu lạy Chúa ! Và chậm rãi bước đến bên giường, ngồi xuống, gục đầu vào hai bàn tay. Bỗng nhiên nàng thấy mệt, mệt hơn bao giờ hết trong đời. Cùng với tiếng sập cửa lại, những sợi dây thần kinh căng thẳng đã đem lại sức mạnh cho nàng, bỗng đứt phựt một cái. Nàng cảm thấy kiệt lực về thể xác và khô cạn cảm xúc. Lúc này nàng không cảm thấy đau buồn hoặc hối hận, cũng chẳng sợ hoặc kinh ngạc gì nữa. Nàng mệt và đầu óc nàng lờ đờ vận hành một cách máy móc như cái đồng hồ trên mặt lò sưởi kia.

Một ý nghĩ ngoi lên khỏi sự trì đọng ấy. Asli không yêu nàng, trước nay chưa bao giờ thực sự yêu nàng và mặc dầu biết thế, nàng vẫn không đau đớn.Lẽ ra nàng phải khổ não, tan nát lòng, phải gào lên óan trách số phận chứ. Nàng đã trông cậy vào tình yêu của chàng suốt bấy nhiêu lâu. Nó đã nâng đỡ nàng qua biết bao gian truân. Tuy nhiên, sự thật bày ra như thế đó : Asli không yêu nàng và nàng bất cần. Nàng bất cần vì nàng không yêu chàng. Nàng không yêu chàng, vì thế chàng muốn làm gì hoặc nói gì cũng chẳng làm cho nàng đau đớn.
Nàng nằm xuống giường và mệt mỏi đặt đầu lên gối. Hòai công mà dẹp cái ý nghĩ đó, hòai công mà tự nhủ : ” Nhưng mình có yêu chàng mà. Mình đã yêu chàng bao nhiêu năm. Tình yêu không thể có một phút chuyển thành hỡ hững được. “

Nhưng nó có thể thay đổi và nó đã thay đổi.

” Trước nay, chàng chưa bao giờ tồn tại cả, ngọai trừ trong tưởng tượng của mình”, nàng mệt mỏi nghĩ thầm. ” Mình đã yêu cái mà mình tưởng tượng nên, một cái gì chết lịm như Melơni bây giờ. Mình đã tự cắt một bộ cánh diện rồi mân mê nó. Và khi Asli cưỡi ngựa đến, đẹp thế và khác vời thế, mình đã khóac bộ quần áo đó lên người chàng và bắt chàng phải mặc, bết kể có vừa hay không. Và mình không muốn thấy con người thực sự của chàng là như thế nào. Mình cứ tiếp tục yêu bộ quần áo đẹp…mà chẳng hề yêu chàng”. Giờ đây, nàng có thể ngóai nhìn lại những năm dài và thấy mình trong chiếc áo hoa bằng vải dệt sọc nổi màu xanh, đang ở ấp Tara chan hòa ánh nắng, lòng rạo rực vì chàng kỵ sĩ trẻ với mái tóc vàng óng lấp lánh như một chiếc mũ bạc. Giờ đây, nàng có thể thấy rõ như ban ngày rằng chàng chỉ là một ham thích nhất thời của con nít, thực ra chẳng quan trọng gì hơn cơn thèm đôi hoa tai bằng ngọc màu xanh biển mà nàng đã vòi ông Giêrơlđ bằng được. Bởi vì khi thuộc về nàng, đôi hoa tai liền mất giá trị, như tất cả mọi thứ, trừ tiền, đều mất giá trị một khi nằm trong tay nàng. Và như thế, cả chàng nữa ắt cũng sẽ trở nên của rẻ, nếu như trong những ngày đầu xa xôi ki, nàng đã có một niềm thỏa mãn là chối từ lời cầu hôn của chàng. Nếu nàng đã có dịp nắm chàng trong tay, thấy chàng mỗi lúc trở nên đắm say, rầy rà, ghen tuông, giận dỗi, khẩn khỏan như những chàng trai khác thì sự mê cuồng ban đầu của nàng hẳn sẽ qua đi, tan như làn sương mỏng trước ánh nắng và gió nhẹ, khi nàng gặp một người đàn ông khác.

” Mình thật ngu dại “, nàng chua chát nghĩ thầm . ” Và giờ đây mình phải trả giá. Điều mình cầu ước bao lần nay đã đến. Mình đã cầu cho Meli chết để mình được Asli. Thì nay cô ấy đã chết, mình đã được anh ta, nhưng mình lại không cần anh ta. Cái danh dự chết tiệt của anh ta sẽ buộc anh ta hỏi mình có muốn ly dị Rét để lấy anh ta không. Lấy anh ta ? Có đặt anh ta lên khay vàng cho không, mình cũng chẳng lấy! Nhưng dù sao mình vẫn nặng nợ với anh ta đến hết đời. Chừng nào mình còn sống, mình còn phải trông nom anh ta, lo cho anh ta khỏi chết đói, cho thiên hạ khỏi xúc phạm tình cảm của anh ta. Anh ta sẽ chỉ như một đứa con nữa bám lằng nhằng lấy váy mình. Mình đã mất người mình yêu và thay vào đấy là một đứa con nữa. Và nếu như mình không hứa với Melơni thì mình…thì dù có phải vĩnh viễn không bao giờ gặp lại anh ta nữa, mình cũng bất cần “.

Chương 62

Nàng nghe thấy tiếng thì thầm bên ngoài và ra cửa, nàng thấy đám đầy tớ da đen sợ sệt đứng ở cuối hành lang. Dilxi bế Biu ngủ ngặng trĩu cánh tay, bác Peter đang khóc và chị bếp lấy tạp dề lau bộ mặt đẫm lệ. Cả ba nhìn nàng như thầm hỏi bây giờ họ phải làm gì. Nàng nhìn dọc hành lang về phía phòng khách, thấy Indio và cô Pitti đứng im lặng nắm tay nhau và lần đầu tiên, Indio mất đi vẻ ương bướng cố hữu. Giống như đám đầy tớ da đen, họ nhìn nàng, vẻ cầu khẩn, chờ đợi nàng bảo ban mọi việc. Nàng bước vào phòng khách và hai người kia sáp lại bên nàng.

– Oái, Xcarlet, làm gì…, bà Pitti mào đầu, cái miệng bầu bĩnh trẻ con run lên.

– Đừng nói với tôi, kẻo tôi la lên bây giờ. Thần kinh quá căng thẳng khiến giọng nàng đâm gắt gỏng, hai tay nàng ghì chặt hai mạng sườn. Nghĩ đến việc phải nói về Meloni, phải thu xếp những việc tất yếu không tránh được sau một cái chết, cổ họng nàng se lại – Tôi không muốn nghe một lời nào từ miệng hai người.

Vẻ quyết đoán trong giọng nàng làm hai người lùi lại, vẻ phật ý, ngơ ngác hiện trên nét mặt. “Mình không được khóc trước mặt họ”, nàng tự nhủ. “Mình không được suy sụp lúc này, kẻo họ sẽ òa khóc theo, rồi đám gia nhân cũng sẽ tru lên và cả nhà thành điên loạn mất. Mình phải trấn tĩnh lại. Gặp người thầu đám ma, thu xếp tổ chức tang lễ, lo liệu sao cho nhà cửa sạch sẽ và có mặt ở đây để tiếp những người sẽ ôm lấy cổ mình mà khóc, Asli không thể làm những việc ấy, Indio và bà cô Pitti cũng vậy. Mình phải cáng đáng thôi. Oâi, cái gánh nặng mới mệt mỏi làm sao! Lúc nào mình cũng có trên vai một gánh nặng mệt mỏi và bao giờ cũng là một gánh nặng của người khác”.

Nàng nhìn vào bộ mặt bàng hoàng đau đớn của Indio và bà cô Pitti, và cảm thấy hối hận. Meloni hẳn không ưng nàng đối xử gay gắt thế với nhưng người yêu quý cô ấy.

– Tôi lấy làm ân hận đã cáu kỉnh, nàng nói một cách khó khăn.

Đó chỉ tại tôi … cháu lấy làm ân hận về thái độ, cô ạ. Cháu ra hiên một phút đây, cháu cần được một mình. Và nàng cần phải khóc cho nhẹ bớt, nếu không tim nàng sẽ vỡ mất.
Nàng bước ra hàng hiên tối và đóng cửa lại sau lưng, cảm thấy không khí ẩm ướt ban đêm mát rượi trên mặt. Mưa đã tạnh. Tịnh không có một âm thanh nào khác ngoài tiếng nướcmưa thỉnh thoảng nhỏ giọt từ trên mái nhà. Cảnh vật chìm trong một màn sương dày lành lạnh phảng phất mùi của năm tàn. Tất cả các nhà bên kia đường đều tối đen, trừ một ngọn đèn ở cửa sổ hắt ra phố một luồng ánh sáng vẫn những bụi vàng yếu ớt chọi lại màn sương. Như thể cả thế giới bị bao bọc trong một làn khói xám chuyển động. Và cả thế giới đều im lìm.

Nàng dựa đầu vào một cột hiên và chuẩn bị khóc, nhưng nước mắt không chịu chảy ra. Tai họa này quá lớn không khóc được. Toàn thân nàng rung lên. Còn dội lên trong tâm trí nàng tiếng ầm ầm của hai thành trì kiên cố vừa sập đổ tan thành bụi. Nàng đứng một lúc, cố vận dụng câu thần chú cũ: “Mình hẵng khoan nghĩ về chuyện này, để đến mai, khi mình đủ sức chịu đựng hơn đã”.
Nhưng câu thần chú đã hết mầu nhiệm, ngay bây giờ, nàng phải nghĩ về hai vấn đề: thứ nhất, Meloni – nàng yêu và cần Meloni đến mức nào; thứ hai – Asli cùng sự khăng khăng mù quáng đã khiến nàng không chịu nhìn thấy con người đích thực của chàng. Và nàng biết rằng những ý nghĩ về hai điều ấy bao giờ cũng dau đớn như nhau, ngày mai cũng như mọi ngày sẽ tới của đời nàng.

“Bây giờ mình chưa thể quay vào trong đó và nói chuyện với họ được”, nàng nghĩ thầm. “Đêm nay, mình chưa thể giáp mặt Asli và an ủi chàng được. Không, đêm nay thì chưa được! Sáng mai, mình sẽ đến sớm và làm những việc cần làm, nói những lòi an ủi cần nói, nhưng đến nay thì chưa. Mình không thể. Bây giờ mình về nhà thôi”.

Nhà cách đây có năm nhà thôi. Nàng sẽ không đợi bác Peter nức nở thắng ngựa vào xe, nàng sẽ không đợi đi nhờ xe bác sĩ Mid. Nàng sẽ không chịu nổi những giọt nước mắt của người lão bộc cũng như sự lên án thầm lặng của ông đốc tờ. Nàng đi nhanh xuống những bậc thềm trước nhà, không áo mũ, lao vàođêm sương mù. Nàng quành góc phố, ngược lên đồi về phía phố Cây Đào, bước đi trong một thế giới ướt át tịch mịch, ngay cả bước chân của nàng cũng lặng lẽ như trong một giấc mộng.

Trong khi đi ngược lên đồi, ngực tức nghẹn những giọt nước mắt không trào ra được, một cảm giác hư ảo chợt chen vào tâm thức nàng: Nàng cảm thấy nàng đã từng ở cái nơi tối tăm lạnh lẽo này, trong cùng một hoàn cảnh tương tự – không phải một mà nhiều lần rồi. Thật vớ vẩn, nàng gượng gạo nghĩ thầm, rảo bước nhanh hơn. Thần kinh đang đánh lừa nàng. Nàng hoang mang đưa mắt nhìn quanh và cái cảm giác đó rõ thêm, kỳ lạ nhưng quen thuộc. Nàng ngẩng phắt đầu lên như một con vật đánh hơi thấy nguy hiểm. Chỉ tại mình quá mệt đấy thôi, nàng cố tự trấn an. Vả lại, đêm nay thật khác thường, sương mù nhiều quá. Mình chưa từng thấy sương mù dày đặc như thế này bao giờ, trừ… trừ… !

Thế rồi nàng hiểu ra và nỗi sợ bóp chặt lấy tim nàng. Bây giờ, nàng hiểu ra rồi. Trong hàng trăm cơn ác mộng, nàng đã chạy giữa màn sương như thế này, qua một xứ sở ma quái không có mốc địa giới gì hết. Một vùng ngập chìm trong sương mù dày đặc lạnh lẽo, đầy những bóng ma quái nắm bắt nàng. Phải chăng nàng lại mơ, hay đây là cơn mơ đã thành sự thật?
Trong một lúc, nàng hoang mang, mất hết ý thức về hiện thực. Cái cảm giác về cơn ác mộng cũ xâm chiếm nàng, mạnh hơn bao giờ hết, và tim nàng bắt đầu lồng lên. Nàng lại đứng giữa chết chóc và tịch mịch, y hệt một lần nàng dã đứng như thế ở ấp Tara. Tất cả những gì đáng kể trên đời đã tan biến, cuộc sống tàn lụi và nỗi kinh hoàng ào ào qua tim nàng, gào hú như một cơn gió lạnh. Cái khủng khiếp ẩn trong màn sương, àm cũng chính là màn sương, vươn tay túm lấy nàng. Và nàng bắt đầu chạy. Như đã chạy hàng trăm lần trong mơ, lúc này, nàng nhắm mắt chạy như bay, không biết chạy đi đâu, thúc đẩy bởi mộtnỗi sợ không tên, sục trong màn sương xám tìm một chốn an toàn đâu đó.

Nàng chạy ngược lên con phố tối, đầu cúi xuống, tim đập rồn, hơi đêm ướt trên môi, hàng cây trên đầu đe dọa. Đâu đó, đâu đó trong cái vùng hoang dại ước át tịch mịch này, có một nơi ẩn náu! Nàng hổn hển lao nhanh lên dốc, vạt váy ướt dán vào mắt cá chân, lạnh giá, phổi như muốn vỡ tung, chiếc coócxê thắt chặt ép mạnh xương sườn nghiến vào tim.

Thế rồi trước mặt nàng, hiện ra một ánh đèn, một dãy ánh đèn, mặc dầu lờ mờ và lập lòe nhưng là thật. Trong cơn ác mộng của nàng, không bao giờ có ánh đèn ấy. Aùnh đèn có nghĩa là an toàn, là có người, có thực tại. Đột nhiên nàng ngừng chạy, nắm chặt tay lại, ráng sức vùng ra khỏi cơn hoảng sợ, thu hết nhãn lực nhìn trân trân vào dãy đèn hơi báo hiệu cho nàng biết đó là phố Cây đào của Atlanta chứ không phải cái thế giới mù xám của hôn mê và ma quỷ.

Nàng gieo mình xuống một cái trụ đậu xe thở dốc, bám riết lấy thần kinh níu lại như thể đó là những sợi dây thừng đang tuột nhanh khỏi tay nàng.

“Mình đã chạy… chạy như một người điên!”. Nàng nghĩ thầm. Người run lên nhưng đã bớt sợ, tim d8ập thình thịch… nôn nao. “Nhưng chạy đi đâu?”.

Lúc này, nàng thở đã dễ hơn, nàng ngồi ép hai tay vào mạng sườn và nhìn dọc theo phố Cây đào. Trên đầu dốc kia, là nhà nàng. Dường như tất cả các cửa sổ của ngôi nhà ấy đều sáng đèn, những ánh đèn thách thức màn sương. Nhà mình! Đó là thực tại! Nàng khao khát nhìn cái khối mờ mờ của ngôi nhà đằng xa, lòng đầy biết ơn và một cái gì an tĩnh trùm lên tâm hồn nàng.
Nhà! Đó là nơi nàng muốn tới. Đó là nơi nàng chạy tới. Về nhà với Rhett!

Nhận thức đó vừa nhen lên, nàng liền cảm thấy như rứt hết mọi xiềng trói đồng thời rũ đi cả nỗi sợ đã ngự trong những cơn mê của nàng từ cái đêm nàng lặn lội về ấp Tara để thấy cảnh tận thế. Ở cuối con đường về Tara, nàng đã chẳng tìm thấy an toàn, mọi thứ: sức mạnh, khôn ngoan, thương yêu trìu mến, thông cảm đều mất sạch. Những thứ ấy hiện thân ở bà Ilon, đã là bức tường thành che chở cho nàngsuốt thời con gái. Và mặc dầu từ sau đêm ấy, nàng đã đạt được an toàn vật chất, trong những giấc mơ, nàng vẫn là đứa bé khiếp đảm đi tìm sự an toàn đã mất trong cái thế giới đã mất ấy.
Giờ đây, nàng đã biết cái bến nương náu nàng tìm trong những cơn mê, cái nơi yên ổn ấm áp luôn luôn bị chìm lấp trong sương mù. Đó không phải là Asli – Ồ, không bao giờ là Asli! Ở anh ta, chẳng có hơi ấm gì hơn ở một vùng cát lầy. Đó là Rhett – Rhett, con người có đôi cánh tay mạnh mẽ để ôm ghì nàng, có bộ ngực rộng để nàng ngả cái đầu mệt mỏi vào, có cái cười giễu cợt để quy những lo âu của nàng về đúng tầm của chúng. Và hoàn toàn thông cảm, vì cũng như nàng, Rhett nhìn sự thật nguyên si không tô vẽ, thoát khỏi những khái niệm không thực tế và danh dự, hy sinh hoặc lòng tin quá đáng ở bản chất con người. Và chàng yêu nàng! Tại sao nàng không nhận ra là chàng yêu nàng, mặc dầu chàng thường buông những nhận xét trêu chọc ngược lại? Meloni đã nhìn thấy những điều đó và, trong hơi thở cuối cùng, đã nói: “Hãy tử tế với anh ấy”.

“Oâi”, nàng nghĩ thầm, “Asli đâu có phải là người duy nhất mù quáng một cách ngu xuẩn. Lẽ ra, mình phải thấy Rhett là người như thế nào”.

Trong bao năm, nàng đã dựa vào bứ’c tường đá kiên cố là tình yêu của Rhett và coi đó, cũng như coi tình cảm của Meloni, là chuyện đương nhiên, tự phỉnh phờ rằng mình đã hoàn toàn tự lực tự cường. Và cũng như một lát trước đây, nàng đã nhận chân ra rằng Meloni luôn ở bên cạnh nàng trong những lúc chiến đấu quyết liệt với cuộc sống. Lúc này nàng hiểu rằng Rhett đã đứng lặng lẽ sau lưng nàng làm hậu thuẫn, yêu nàng, hiểu nàng, sẵn sàng giúp đỡ. Rhett tại cuộc bán hàn gphúc thiện, đọc thấy nỗi thèm muốn nôn nóng trong mắt nàng và đã tìm cách đưa nàng tham gia vào điệu luân vũ. Rhett giúp nàng rứt khỏi xiềng trói của thủ tục để tang chồng. Rhett hộ tống nàng qua những phố bốc cháy, ầm ầm tiếng nổ, cái đêm Atlanta thất thủ, Rhett cho nàng vay tiền để khỡi sự gây dựng cơ nghiệp, Rhett an ủi nàng những đêm nàng thức giấc, khóc cuồng lên vì nỗi kinh hoàng trong mộng – chao, không một người đàn ông nào có thể làm thế mà không yêu ta đến điên dại!

Nước từ trên cây nhỏ giọt xuốn gnàng, nhưng nàng không cảm thấy gì, Sương mù cuồn cuộn quanh nàng, nhưng nàng không buồn để ý. Vì khi nàng nghị đến Rhett với bộ mặt ngăm đen, hàm răng trắng bóng và đôi mắt đen linh hoạt, một luồng run rẩy chạy khắp người nàng.

“Mình yêu chàng”, nàng nghĩ thầm và như bao giờ cũng thế, nàng chấp nhận sự thật đó chẳng mấy ngạc nhiên, khác nào một đứa trẻ nhận một món quà. “Mình không biết mình đã yêu chàng baolâu, nhưng đó là sự thật. Vànếu không có Asli, hẳn mình đã nhận ra điều đó từ lâu rồi. Mình đã không th6ẻ nhìn được thế giới vì bị Asli chặn tầm mắt lại”.

Nàng yêu Rhett, kẻ vô lại đểu cáng, không có liêm sỉ hoặc danh dự – chí ít là danh dự theo cánh nhìn nhận của Asli. “Chết tiệt cái thứ danh dự của Asli!”, nàng nghĩ thầm. “Cái danh dự của Asli bao giờ cũng bỏ rơi mình. Phải, ngay từ ban đầu khi mà anh ta tiếp tục đến gặp mình mặc dầu đã biết gia đình muốn anh ta lấy Meloni. Rhett thì không bao giờ bỏ rơi mình, ngay cả trong cái đêm khủng khiếp có cuộc tiếp tân của Meloni, khi mà đáng ra chàng phải vặn cổ mình. Ngay cả khi chàn gđể lại mình trên đường, cái đêm Atlanta thất thủ, chàng cũng biết rằng mình sẽ thoát hiểm. Chàng biết rằng mình sẽ vượt qua bằng cách nào đó. Ngay cả khi chàng làm như bắt mình phải có đi có lại khi mình đến vay tiền chàn gở trại giam của bọn Yanki. Chàng ắt chẳng chơi trò thân tình với mình. Chàng chỉ thử mình thôi. Suốt bao lâu, chàng đã yêu mình, mà mình thì thật tệ với chàng. Mình đã luôn luôn xúc phạm chàng, nhưng chàng quá tự trọng không bộc lộ ra đây thôi. Và khi Bonny chết… ôi, sao mình lại có thể thế được nhỉ?
Nàng đứng thẳng người dậy và nhìn về phía ngôi nhà trên đầu dốc. Cách đây một tiếng, nàng nghĩ mình đã mất hết tất cả mọi thứ trên đời trừ tiền bạc, tất cả những thứ làm cho cuộc đời đáng sống: Bà Ilon, ông Gierold, Bonny, Mammy, Meloni và Asli. Nàng phải mất tất cả những người ấy để hiểu ra rằng nàng yêu Rhett – yêu vì chàng mạnh mẽ và vô liêm sỉ, đam mê và trần tục, giống như nàng.

“Mình sẽ nói hết với chàng”, nàng nghĩ thầm. “Chàng sẽ hiểu. Chàng bao giờ cũng thông cảm. Mình sẽ nói với chàng rằng mình ngu ngốc biết bao, rằng mình yêu chàng biết bao và mình sẽ bù đắp cho chàng tất cả”.

Đột nhiên, nàng cảm thấy mạnh mẽ và sung sướng. Nàng không sợ bóng tối hoặc sương mù, và tim náo nức hát mùng, nàng biết mình sẽ không bao giờ còn sợ chúng nữa. Rồi đây bất kể lớp lớp sương mù có thể vây quanh nàng dày đặc đến đâu chăng nữa, nàng cũng biết nơi ẩn náu của mình. Nàng thoăn thoắt đi dọc phố về nhà và cảm thấy những khối nhà sao mà dài. Xa, xa lắc. Nàng xắn váy lên tận đầu gối và bắt đầu nhẹ nhàng chạy. Nhưng lần này, không phải chạy vì sợ. Nàng chạy vì đôi cánh tay của Rhett đang ở cuối phố.

Chương 63

Cửa trước hơi hé mở, nàng hổn hển bước nhanh vào tiền sảnh và dừng một lát dưới những lăng kính bảy sắc cầu vòng của chùm đèn treo. Nhà sáng trưng, nhưng rất yên tĩnh, không phải là cái yên tĩnh thanh thản của giấc ngủ, mà là sự im lăng thao thức, mệt mỏi, phảng phất chút đe dọa. Đưa mắt một lượt, nàng biết Ret không ngồi trong phòng khách nhỏ cũng không ngồi trong phòng đọc sách và tim nàng se lại. Giả dụ chàng đã đi khỏi nhà… đến chỗ Bel hoặc bất cứ nơi nào chang thường tiêu thì giờ trong bao buổi tối chàng không về nhà ăn cơm? Nàng đã không tính đến chuyện ấy.
Nàng đã bắt đầu lên cầu thang để tìm chàng thì chợt nhận ra cửa phong ăn đóng chặt. Tim nàng hơi thắt lại vì hổ thẹn khi nhìn thấy cánh cửa đóng ấy, nhớ lại bao đêm trong mùa hè vừa rồi Rét đã ngồi trong đó một mình, uống tới khi say đờ và Pork phải đến giục về giường nằm. Đó là lỗi tại nàng nhưng sắp tới nàng sẽ thay đổi hết. Từ nay trở đi mọi sự sẽ thay đổi khác… nhưng lạy Chúa, xin đừng để chàng quá say, chàng sẽ không tin mình và sẽ cười mình. Mình sẽ đau đớn đến vỡ tim mất.

Nàng khẽ khàng hé cửa phòng ăn chút xíu và ngó vào. Chàng ngồi tại bàn, lút trong chiếc ghế bành, trước mặt là một chai rượu đầy còn đóng nút và cái cốc chưa dùng đến. Đội ơn Chúa, chàng chưa uống! Nàng mở hẳn cửa ra, cố nén mình để khỏi chạy đến chàng. Nhưng khi chàng ngước lên nhìn nàng, một cái gì trong mắt chàng khiến nàng đứng sững lại ở ngưỡng cửa, dập tắt những lời trên môi nàng.
Chàng nhìn nàng trân trân bằng đôi mắt trĩu nặng mệt mỏi trong đó tịnh không có một tia lấp lánh nào. Mặc dầu tóc nàng xõa xượi trên vai, ngực nàng phập phồng thở không ra hơi và váy nàng lấm bùn đến tận gối, mặt chàng vẫn không thay đổi, chẳng ngạc nhiên cũng chẳng thắc mắc, đôi môi cũng chẳng nhếch lên giễu cợt. Chàng thu lu trong chiếc ghế bành, bộ com-lê nhàu nát xộc xệch trên thân hình đang phát phì: mọi nét trên người chàng đều nói lên sự suy sụp của một cơ thể lực sĩ, sự thô hóa của một bộ mặt cường tráng. Rượu chè, ăn chơi phóng đãng đã hoàn thành công việc phá hoại trê khuôn mặt sắc nét như hình khắc trên tiền đồng. Giờ đây nó không còn giống cái đầu một chàng hoàng tử trẻ tuổi trên đồng tiền vàng mới đúc nữa, mà là một cái đầu Xêda suy đồi, mỏi mệt trên loại tiền đồng đã xấu xí đi vì qua bao tay người dùng. Chàng ngước nhìn nàng đứng đó, tay đặt trên ngực, nhìn với một vẻ bình thản, gần như hòa nhã, làm nàng sợ hãi.

– Lại đây ngồi, chàng hỏi. Cô ấy chết rồi à?

Nàng gật đầu và tần ngần tiến về phía chàng, tâm trí bắt đầu hoang mang trước sắc diện mới của chàng. Vẫn ngồi nguyên, chàng lấy chân đẩy cho nàng một chiếc ghế và nàng ngồi phịch xuống. Nàng ước gì chàng đừng nhắc đến Melơni sớm thế. Lúc này nàng không muốn nói chuyện về Melơni, không muốn sống lại nỗi đau đớn của giờ vừa qua. Hãy còn cả cuộc đời để nói về Melơni kia mà, vội gì. Nhưng lúc này, khi một khát khao mãnh liệt đang thôi thúc nàng kêu lên: “Em yêu anh”, nàng cảm thấy chỉ có đêm nay, chỉ có giờ này để nói với Rét những điều đang nung nấu tâm can nàng. Song một cái gì trên mặt chàng chặn nàng lạivà tự nhiên, nàng cảm thấy ngượng không dám nói đến chuyện yêu đương khi xác Melơni hãy còn ấm.

– Vậy cầu Chúa cho cô ấy yên nghỉ đời đời, chàng buồn bã nói. Đó là con người hoàn toàn tử tế phúc hậu tôi từng biết.

– Ôi, Rét! Nàng đau đớn kêu lên vì những lời của Rét gợi lại quá sinh động những điều tử tế Melơni đã làm cho nàng. Tại sao anh không cùng vào với tôi? Thật kinh khủng… và lúc ấy, sao mà tôi cần anh bên cạnh!

– Nếu tôi vào, chắc tôi không chịu nổi, chàng nói đơn giản và lặng đi một lúc.

Rồi cố gắng cất giọng, chàng khẽ nói: một bậc nữ lưu tuyệt vời.

Cái nhìn u ám của chàng lướt qua nàng và trong đôi mắt ấy, lại hiện lên cái vẻ nàng đã nhìn thấy trong ánh lửa cái đêm Atlanta thất thủ, khi chàng nói với nàng là chàng đi theo đoàn quân rút lui: vẻ ngạc nhiên của một người vốn tự biết mình đến chân tơ kẽ tóc, thế mà bỗng phát hiện thấy ở bản thân những tình cảm trung nghĩa không ngờ tới và tự cảm thấy hơi lố bịch về sự phát hiện ấy.
Đôi mắt rầu rĩ của chàng vượt qua bờ vai nàng như thể chàng thấy Melơni đang lặng lẽ đi qua phòng ra cửa. Vẻ mặt chàng là một lời từ biệt không buồn khổ, không đau đớn, mà chỉ bộc lộ sự ngạc nhiên về bản thân mình, chỉ biểu hiện một sự hồi sinh xót xa của những cảm xúc đã chết từ thuở thiếu thời, khi chàng nhắc lại: “Một bậc nữ lưu tuyệt vời”.
Xcarlét rùng mình. Trong tim nàng, bỗng tắt ngấm ngọn lửa ấm diệu kỳ đã hừng lên rực rỡ, chắp cánh cho đôi chân nàng chạy bay về nhà. Nàng đã năm được nửa phần những ý nghĩ của Rét khi chàng chào vĩnh biệt con người duy nhất trên đời mà chàng kính trọng và nàng lại thấy lòng nặng trĩu một cảm giác mất mát ghê ghớm mà lúc này không còn là riên tư nữa. Nàng không hiểu được hoàn toàn hoặc phân tích được những gì chàng đang cảm thấty, nhưng hình như cả nàng nữa cũng có cảm giác là một tà váy sột soạt chạm khẽ vào mìh như một vuốt ve cuối cùng. Qua mắt Rét, nàng thấy cái chung cục không phải của đời một người đàn bà mà của một huyền thoại – những người phụ nữ hiền dịu, khiêm nhường nhưng không gì khuất phục nổi, mà trong chiến tranh, miền Nam đã dựa vào làm nền tảng và, khi thất bại, lại trở về trong vòng tay yêu thương và tự hào của họ.

Chàng quay lại nhìn nàng, hỏi:

– Thế là Melơni chết rồi, giọng chàng đã thay đổi, nhẹ nhàng và lạnh lùng.

– Như vậy là êm đẹp cho cô, phải không?

– Ôi, làm sao anh có thể nói như thế được, àng kêu lên, lòng đau nhói, ứa nước mắt. Anh biết tôi yêu cô ấy như thế nào!

– Không, tôi không thể nói là tôi biết. Điều đó thật hết sức bất ngờ. Và xét vì xưa nay cô chỉ say mê bọn da trắng rác rưởi, ny rốt cuộc cô đã biết giá trị của Melơni, kể cũng đáng khen đấy.

– Làm sao anh có thể nói cái giọng ấy? Tất nhiên là tôi trân trọng Melơni, nhưng anh thì không. Anh không biết cô ấy bằng tôi! Anh không đủ điều kiện để hiểu cô ấy… hiểu cô ấy tốt như thế nào.

– Thật ư? Có lẽ thế.

– Cô ấy nghĩ đến tất cả mọi người, trừ bản thân cô, những lời cuối cùng của cô ấy là nói về anh đấy.

Mắt Rét lóe lên một tình cảm chân thật khi chàng quay về phía nàng.

– Cô ấy nói gì?

– Ồ, Rét, bây giờ chưa nên nói.

– Nói tôi nghe nào.

Giọng chàng lạnh lùng, nhưng chàng nắm cổ tay nàng, bóp đến phát đau. Nàng không muốn nói vì đó không phải là cách nàng định đề cập câu chuyện tình yêu của mình, song tay chàng giục giã quá ráo riết.

– Cô ấy bảo… cô ấy bảo… “Hãy tốt với thuyền trưởng Bâtlơ. Anh ấy yêu chị biết mấy”.

Chàng đăm đăm nhìn nàng và buông cổ tay nàng. Mí mắt chàng cụp xuống, khiến bộ mặt đen sạm của chàng trở nên vô cảm. Đột nhiên, chàng đứg dậy đi ra cửa sổ, kéo rèm lên và nhìn trừng trừng ra trời đêm như thể muốn tìm một cái gì khác ngoài sương mù.

– Cô ấy còn nói gì khác nữa? Chàng hỏi, không quay đầu lại.

– Cô ấy yêu cầu tôi trông nom Biu và tôi hứa sẽ coi nó như con đẻ của tôi.

– Gì nữa?

– Cô ấy bảo… Asli… cô ấy nhờ tôi trông nom cả Asli nữa.

Chàng im lặng một lát rồi khẽ cười:

– Được sự cho phép của người vợ trước, kể cũng tiện việc, phải không?

– Anh định nói cái gì?

Chàng quay lại và ngay cả trong cơn bối rối, nàng vẫn ngạc nhiên thấy mặt chàng không hề có vẻ gì là giễu cợt. Nó dửng dưng như mặt một người đang xem nốt hồi cuối một vở hài kịch nhạt nhẽo vậy.

– Tôi nghĩ là câu nói của tôi khá rõ ý đấy chứ. Cô Meli đã chết. Chắc chắn là cô có đủ các bằng chứng cần thiết để xin ly dị tôi. Thanh danh của cô chẳng còn là bao để xấu thêm vì một cuộc sống ly hôn. Và cô cũng chẳng còn ý thức tôn giáo gì nữa, nên Nhà thờ sẽ không thàh vấn đề. Vậy là… Asli và những ước mơ trở thành sự thật với sự ban phước của cô Meli.

– Ly dị? Nàng kêu lên. Không! Không!

Lúng túng một lúc, nàng chồm dậy và chạy tới nắm lấy cánh tay chàng.

– Ôi, anh lầm hoà toàn rồi! Lầm ghê ghớm. Tôi đâu có muốn ly dị… Tôi…

Nàng ngừng bặt vì tìm không ra lời. Chàng đặt tay dưới cằm nàng, lặng lẽ xoay mặt nàng về phía ánh đèn và đăm đăm nhìn vào mắt nàng một lúc. Nàng ngước nhình chàng, tất cả tình cảm bộc lộ trong ánh mắt. Môi run lên, nàng cố nói nhưng không thốt ra được lời nào, vì nàng đang mải tìm trên mặt chàng những cảm xúc tương ứng, một ánh hy vọng hoặc vui thích nào đó. Chắc chắn, bây giờ chàng phải biết! Nhưng cặp mắt lùng sục điên cuồng của nàng chỉ thấy cái vẻ vô cảm trơn lỳ đã làm nàng chưng hửng bao lần. Chàng buông cằm nàg và quay gót trở lại ghế, mỏi mệt giao mình xuống, cằm gục vào ngực, mắt ngước nhìn nàng dưới cặp lông mày đen với một thái độ suy đoán khách quan.
Xcarlét đi theo chàng về chổ ghế, hai tay vặn vào nhau và đứng trước mặt chàng.

– Mình lầm rồi, nàng nói tiếp, lúc này đã tìm được lời lẽ để diễn đạt. Rét, đêm nay, tôi đã chạy suốt trên dường về nhà để nói với mình. Ôi, mình yêu quý, tôi…

– Cô mệt rồi, chàng nói, mắt vẫn quan sát nàng. Cô nên đi năm thôi.

– Nhưng tôi phải nói với mình.

– Xcarlét, chàng mệt mỏi nói. Tôi không muố nghe… bất cứ cái gì.

– Nhưng mình có biết tôi sắp nói gì đâu nào!

– Cô bé ạ, nó in rành rành trên mặt cô đây này. Một cái gì đó, một người nào đó đã khiến cô nhận ra rằng ông Uylkz bất hạnh là một miếng quá lớn, cả đến cô cũng không nuốt trôi. Và vẫn cái gì đó bỗng nhiên đã đặt trước mắt cô những nét đáng yêu của tôi dưới một ánh sáng mới, hấp dẫn, chàng khẽ thở dài. Cho nên đừng nói chuyện đó nữa, vô ích.

Nàng hít mạnh một hơi, kinh ngạc. Tất nhiên, bao giờ chàng cũng đọc được tâm tư nàng một cách dễ dàng. Trước đây, cái đó thường khiến nàng bực bội, nhưng giờ đây, sau cú sốc đầu tiên do thấy gan ruột của mình phơi cả ra trên mặt, tim nàng bỗng lâng lâng nhẹ nhõm và vui sướng. Chàng biết, chàng hiểu và như vậy, nhiệm vụ của nàng tựa hồ có phép tiên làm cho dễ dàng hẳn đi. Không cần phải nói ra nữa! Tất nhiên, chàng không tin sự quay ngoắt đột ngột của nàng. Nàng phải chinh phục chàng bằng săn sóc ân cần, thuyết phục chàng bằng cả một đại dương yêu đương và công việc đó sẽ thú vị biết bao.

– Mình yêu quý, tôi sẽ nói với mình hết mọi chuyện, nàng đặt tay lê tay ghế chàng và cúi xuống phía chàng. Tôi đã sai lầm quá đáng, tôi đã ngu ngốc, rồ dại…

– Xcarlet, đừng nói thế nữa. Đừng tự sỉ nhục trước mặt tôi. Tôi không chịu nổi cái đó. Hãy dành lại cho chúng ta một chút tự trọng, một chút dè dặt kín đáo để còn có cái mà nhớ đến cuộc hôn nhân của chúng ta. Hãy dành cho chúng ta điều cuối cùng đó.

Nàng vụt đứng thẳng người lại. Hãy dành cho chúng ta điều cuối cùng đó? Chàng nói “điều cuối cùng đó” nghĩa là thế nào? Cuối cùng! Đây mới là đầu tiên, là khởi đầu.

– Nhưng tôi sẽ nói với mình mà, nàng nói thật nhanh như sợ Ret đưa tay lên bịt miệng. Ôi, Rhett, tôi yêu mình biết mấy, mình yêu quý! Hẳn lòng tôi đã yêu mình từ nhiều ăm nay, nhưng tôi ngu dại quá không biết. Rhett, mình phải tin tôi!

Chàng nhìn nàng đứng trước mặt mình, một cái nhìn dài xuyên thấu những ý nghĩ thầm kín của nàng. Nàng đọc mắt chàng, : tin thi có, nhưng chẳng mấy quan tâm. Có lẽ nào chàng lại nhỏ mọn trong cái dịp duy nhất này? Để hành hạ nàng, trả miếng nàng?

– Ồ, tôi tin cô, cối cùng chàng nói. Nhưng còn về Asli Uylkz?

– Asli! Nàng nói với một cử chỉ sốt ruột. Tôi… tôi cho rằng hàng thế kỷ rồi tôi không còn yêu anh ta chút nào nữa. Đó là… phải, một thứ thói quen dai dẳng đeo đuổi tôi từ thời con gái. Rhett, thậm chí nếu tôi biết anh ta thật sự là thế nào thì tôi đã chẳng bao giờ màng tới. Anh ta thật là một kẻ bất lực, nhu nhược, mặc dầu luôn miện nói đế trung thực và danh dự…

– Không, Rhett nói. Nếu cô nhìn con người thực của anh ta thì hãy nhình cho sòng phẳng, công bằng. Anh ta chỉ là một người quý tộc lạc loài vào trong một thế giớ’I không phù hợp với anh ta, cố gắng thích nghi tàm tạm bằng những lệ luệt của cái thế giới đã tiêu vong.

– Ôi, Rhett, ta đừng bàn về anh ta nữa! Bây giờ, anh ta có nghĩa lý gì. Mình có vui khi biết… Tôi muốn nói bây giờ tôi…

Mắt họ gia nhau và nàng lúng túng ngừng bặt, e dè như một cô gái đứng trước
chàng trai đầu tiên tỏ tình với mình. Giá chàng giúp đỡ nàng một chút! Giá cháng chìa tay ra để nàng có thể sung sướng sà vào lòng chàng và ngả đầu vào ngực chàng. Môi nàng gắn vào môi chàng sẽ nói hùng hồn hơn tất cả những lời ấp úng nàng có thể thốt ra. Nhưng khi nhìn chàng, nàg hiểu rằng chàng lánh né không phải chỉ vì nhỏ mọn trả thù. Nom chàng như cạn kiệt sinh khí và dường như mọi điều nàng nói đều chẳng có gì quan trọng đối với chàng.

– Vui ư? Chàng nói. Đã có một thời kỳ, nếu nghe cô nói những điều này, hẳn tôi đã ăn chay để tạ ơn Chúa. Nhưng bây giờ thì cái đó là vô nghĩa.

– Vô nghĩa? Anh nói gì vậy? Cái đó đương nhiên phải có nghĩa chứ! Rhett, mình yêu tôi, phải không nào? Chắc chắn là có. Meli bảo thế mà.

– Ờ, Meli nói đúng trong chừng mực cô ấy biết. Nhưng Xcarlet. Có bao giờ cô nghĩ rằng ngay cả mối tình bất diệt nhất cũng có thể lụi tàn?

Nàng ngây người nhìn chàng, miệng tròn như chữ O, không nói nên lời.

– Tình yêu của tôi lụi tàn rồi, chàng nói tiếp. Asli Uylkz và cái tính ngoan cố rồ dại khiến cô bám như đỉa vào mọi thứ khiến cô tưởng cô cần, đã dập tắt nó… Tình yêu của tôi lụi tàn rồi.

– Nhưng tình yêu làm sao có thể lụi tàn!

– Tình yêu của cô đối với Asli đã lụi tàn đấy thôi.

– Nhưng tôi chưa bao giờ thực sự yêu Asli!

– Vậy thì chắc chắn cô đã mô phỏng tình yêu rất khéo… cho đến tối nay. Xcarlet, tôi không quở mắng, kết tội, trách móc cô đâu. Cái thời ấy đã qua rồi. Cho nên hãy miễ cho tôi những lời biện bạch, phân trần.

Nếu cô có thể nghe tôi mấy phút mà không ngắt lời, tôi sẽ giải thích cho cô rõ tôi muốn nói gì, mặc dầu có Chúa chứng giám, tôi thấy chả cần giải thích gì hết.
Sự thật đã rành rành.

Nàng ngồi xuống. Ánh đèn hơi chói gắt rọi vào bộ mặt tái nhợt của nàng. Nàng nhìn vào đôi mặt rất quen thuộc mà rất xa lạ, lắng nghe cái giọng bình thản của chàng nói những lời thoạt đầu chẳng có ý nghĩa gì hết. Đây là lần đầu tiên chàng nói chuyện với nàng theo cách này, như một con người nói với một con người, như những người bình thường khác nói chuyện với nhau, không suồng sã, giễu cợt, cũng chẳng úp mở.

– Đã có bao giờ cô nghĩ rằng tôi yêu cô đến hết mức một người đàn ông có thể yêu một người đàn bà? Yêu từ bao năm trước khi tôi được cô. Trong thời gian chiến tranh, tôi muốn đi thật xa để cố quên cô, song không được, cà bao giờ tôi cũng phải quay lại. Sau chiến tranh, tôi dấn thân vào vòng tù tội chỉ để trở lại gặp cô. Tôi yêu cô đến mức tưởng có thể giết chết Frank Kennydi nếu anh ta không chết. Tôi yêu cô nhưng không thể để cô biết. Cô thật tàn nhẫn đối với những người yêu cô, Xcarlet. Cô nắm lấy tình yêu của họ vung lên đầu họ như một cây roi.

Trong tất cả những điều ày, nàng chỉ thấy việc chàng yêu nàng là có ý nghĩa. Chút dư âm yếu ớt từ mối tình si còn vang vọng trong giọng nói của chàng, khiến khoái cảm và rạo rực lại trở lại xâm chiếm nàng. Nàng ngồi gần như nín thở, lắng nghe, chờ đợi.

– Tôi biết lúc chúng ta lấy nhau, cô không yêu tôi. Cô thấy đấy, tôi biết chuyện cô với Asli, nhưng ngu dại cái thằng tôi, tôi tưởng có thể làm cho cô yêu tôi. Xin cô cứ cười, nếu cô thích, nhưng tôi đã muốn săn sóc, chiều chuộng cô, cho cô tất cả những gì cô cần. Tôi muốn cưới cô và che chở cho cô và thả lỏng cho cô tự do làm bất cứ cái gì có thể khiến cô sung sướng… hệt như tôi đối với Bonny. Cô đã phải vật lộn gay go biết mấy, Xcarlet. Không ai biết rõ hơ tôi những gì cô đã phải trải qua và tôi đã muốn cô thôi không phải đấu tranh nữa, để tôi đấu tranh thay cho cô. Tôi đã muốn cô được vui chơi như một đứa trẻ – vì cô là một đứa trẻ, một đứa trẻ vừa can đảm, vừa khiếp sợ, vừa bướng bỉnh. Tôi nghĩ, ngay cả bây giờ, cô vẫn còn là một đứa trẻ. Chỉ có một đứa trẻ mới có thể ương ngạnh và vô tình đến thế.

Giọng chàng bình tĩnh và mệt mỏi, nhưng chất giọng chứa một cái gì đánh thức trong Xcarlet một hồi ức mơ hồ như một bóng ma. Nàng đã có lầ nghe một giọng nói như thế này vào một thời kỳ khủng hoảng nào khác trong đời nàng. Ở đâu nhỉ? Giọng của một người đối diện với bản thân mình, với thế giới của mình, không xúc độg, không nao núng cũng chẳng hy vọng.

Chà… ai nhỉ… à… đó là Asli đứng trong vườn cây lộng gió tiết đông hàn ở ấp Tara, nói về cuộc đời và phim đèn chiếu bằng một giọng bình tĩnh mỏi mệt chứa trong âm sắc một nhắm mắt buông tay thúc thủ rõ nét hơn bất kỳ kiểu chua chát tuyệt vọng nào. Giống như lúc đó cái giọg của Asli đã khiến nàng lạnh toát người vì sợ những điều nàng không hiểu nổi, giờ đây cái giọng của Rhett cũng làm cho tim nàng thắt lại lo âu. Giọng chàng, cung cách chàng, hơn là nội dung lời chàng nói, xới đảo rối bời lòng nàng, khiến nàng nhận ra rằng nỗi rạo rực thích thú mấy phút trước đây của nàng quả là không đúng lúc. Có một cái gì trực trặc đây, trục trặc ghê gớm. Cụ thể là gì, nàng không biết, nhưng nàng căng tai ra một cách tuyệt vọng, mắt dán vào bộ mặt ngăm đen của chàng, hy vọng nghe thấy những lời khả dĩ dẹp tan nỗi lo sợ.

– Hiển nhiên là hai chúng ta hợp nhau về bản chất. Hiển nhiên đến mức trong số những người quen cô, chỉ có tôi là người có thể yêu cô sau khi biết con người thật của cô là như thế nào – tàn nhẫn, tham lam và vô lương tâm y như tôi. Tôi yêu cô và tôi đánh liều một phen. Tôi tưởng hình ảnh Asli sẽ phai mờ trong tâm trí cô. Nhưng (nhún vai) tôi đã thử mọi cách đều không ăn thua. Mà tôi thì yêu cô đến tuyệt vọng, Xcarlet ạ. Giá cô để tôi thoải mái, tôi có thể yêu cô một cách dịu dàng và âu yếm như chưa một người đàn ông nào yêu một người đàn bà đến thế. Nhưng tôi không thể để cô biết vì cô sẽ nghĩ là tôi yếu đuối và tìm cách dùng tình yêu của tôi để trị tôi. Và bao giờ… bao giờ cũng có Asli che vào giữa. Điều đó làm tôi phát điên. Tôi không thể tối tối ngồi đối diện với cô ở bàn ăn mà lòng đinh ninh rằng cô đang ước ao Asli ngồi thế vào chỗ tôi. Và ban đêm tôi không thể ôm cô mà biết rằng… mà thôi, bây giờ cái đó chả quan trọng gì nữa. Giờ đây, tôi tự hỏi tại sao mình phải đau đớn về cái chuyện ấy nhỉ. Chính cái đó đã đẩy tôi đến với Bel. Đến với một người đàn bà yêu tôi hế’t mình và kính trọng tôi vì tôi là một người quý phái, dù người đó là một gái điếm thất học, tôi vẫn tìn thất chút an ủi, cho dù là tanh tưởi. Cái đó vuốt ve lòng hợm hĩnh của tôi. Còn cô thì chẳng bao giờ vuốt ve tôi, cô bé thân mến.

– Ôi, Rhett… nàng xen vào, lòng đau nhói khi nghe nhắc đến tên Bel, nhưng

Rhett vẫy tay ra hiệu cho nàng im lặng và nói tiếp:

– Thế rồi cái đêm tôi bế cô lê gác… tôi đã tưởng… tôi đã hy vọng… tôi đã tràn
đầy hy vọng đến nỗi tôi sợ phải giáp mặt cô sáng hôm sau. Phải, tôi sợ mình đã lầm vì thực ra cô chẳng yêu tôi. Tôi sợ cô cười vào mũi tôi, sợ đến nỗi phải bỏ đi và uống cho thật say. Và khi trở về, tôi run từ trong ruột và nếu cô nhân nhượng đi một bước trước, tỏ một dấu hiệu gì đó, thì hẳn tôi đã quỳ xuống hôn chân cô rồi. Nhưng cô không hề làm cái gì như thế.

– Ôi, Rhett, nhưng lúc ấy tôi đang rất cần mình, mà mình thì lại qiái ác làm sao!
Lúc ấy tôi đang thực sự cần mình! Tôi cho rằng… phải, hẳn là do lần đầu tiên tôi biết tôi yêu mình, Asli… từ đó, khi nghĩ đến Asli, tôi không bao giờ thấy sung sướng nữa, nhưng bữa ấy mình quái ác đến nỗi tôi…

– Ồ, thế đấy, chàng nói. Hình như chúng mình đã hiểu lầm nhau phải không?

Nhưng bây giờ cái đó chẳng quan trọng nữa.Tôi kể với cô chỉ cố tđể cô khỏi thắc mắc về chuyện đó. Khi cô ốm – đó là tại tôi gây ra – tôi cứ tưởng đứng ngoài cửa buồng, hy vọng cô gọi tôi, nhưng cô không gọi. Lúc đó, tôi liền hiểu ra rằng mình ngu biết bao, rằng thế là hết.

Chàng dừng lại và nhìn xuyên qua nàng đến tận đâu đâu, như cách Asli thường
hay nhìn dõi mắt vào một cái gì mà nàng không thấy được. Nàng chỉ còn biết lặng thinh ngắm gương mặt ưu tư của chàng.

– Nhưng còn có Bonny và tôi thấy suy cho cùng chưa phải đã hết tất cả. Tôi thích tưởng tượng Bonny là cô lại biến thành một bé gái trước khi chiến tranh và nghèo đói ném cô vào bao thử thách. Nó mới giống cô làm sao, bướng bỉnh, dũng cảm, tươi vui và đầy hưng phấn. Và tôi có thể cưng nó, nuông chiều nó… đúng như tôi muốn cưng cô vậy. Nhưng nó không như cô… nó yêu tôi. Thật là một ân phước khi tôi có thể đem mối tình yêu mà cô không thèm dồn vào cho nó… Khi nó đi, nó đã mang theo tất cả.

Bỗng nhiên, nàng thấy thương chàng, một mối thương cảm tột cùng đến nỗi nó xóa sạch nỗi đau buồn của bản thân lẫn nỗi sợ đối với những hàm ý chứa trong những lời chàng nói. Đấy là lần đầu tiên trong đời nàng thương xót một người mà không đồng thời cảm thấy khinh miệt, vì đây cũng là lần đầu tiên nàng tiến gần đến chỗ hiểu một con người khác. Và nàng có thể hiểu cái khôn ngoan sắc sảo của chàng, sao mà giống nàng đến thế, hiểu lòng kiêu hãh cố chấp đã khiến chàng khăng khăng không thừa nhận tình yêu của mình vì sợ bị cự tuyệt.

– Ôi , mình yêu dấu, nàng vừa nói vừa tiến lại, hy vọng chàng giơ tay ra đón nàng vào lòng. Mình yêu dấu, em rất tiếc cho mình, nhưng em sẽ đền bù lại tất cả cho mình! Chúng ta có thể rất hạnh phúc, khi mà giờ đây chúng ta đã rõ sự thực và… Rhett… hãy nhìn em, Rhett! Ta… ta có thể có con nữa… không phải như Bonny mà…

– Không, cảm ơ, Rhett nói như thể từ chối một miếng bánh mì. Tôi không muốn liều trái tim mình lần thứ ba.

– Rhett, đừng nói như thế! Ôi, em có thể nói thế nào để mình hiểu? Em đã nói với mình là em rất lấy làm tiếc…


– Xcarlet yêu dấu, cô thật trẻ con. Cô tưởng cứ nói: “Tôi lấy làm tiếc” là có thể sửa chữa, xóa khỏi tâm trí tất cả những lỗi lầm, những xúc phạm trong quá khứ, có thể tẩy hết mọi nọc độc khỏi những vết thương cũ… Cầm lấy mùi soa của tôi này, Xcarlet. Chưa bao giờ, trong một cơn khủng hoảng của đời cô, tôi thấy cô cầm một chiếc mùi soa.

Nàng cầm lấy chiếc mùi soa, hỷ mũi và ngồi xuống. Rõ ràng là chàng sẽ không ôm nàng vào lòng. Nàng bắt đầu thấy rõ tất cả những lờ chàng nói về chuyện chàng yêu nàng là vô nghĩa. Đó chỉ là một chuyện kể về thời xa xưa và chàng coi nó như chưa bao giờ xảy đến với chàng. Thật dễ sợ. Chàng nhìn nàng, gần như thân ái với cặp mắt suy tư.

– Xcarlet thân mến, cô bao nhiêu tuổi? Cô chưa bao giờ cho tôi biết.

– Hai mươi tám, nàng trả lời, giọng bặt đi vì chiếc mùi soa trên miệng.

– Đó chưa phải là một tuổi già dặn gì. Cô chinh phục thế giới và đánh mất linh hồn mình vào một tuổi khá trẻ đấy chứ, phải không? Đừng có vẻ sợ hãi thế. Tôi không ám chỉ tội bỏ vạc dầu sẽ dành cho cô vì chuyện dan díu với Asli đâu. Tôi chỉ nói theo cách ẩn dụ thôi. Từ khi tôi biết cô, cô chỉ muốn hai điều: Asli và đủ giàu để có thể nói và mặt thế gian: Quỷ bắt các người đi! Thì đó, cô đã khá giàu và đã ăn n1oi xấc xược vớit hế gian. Và cô sẽ được Asli, nếu cô muốn. Nhưng bây giờ, chừng ấy xem ra chưa đủ.

Nàng kinh sợ không phải vì nghĩ đến lửa vạc dầu. Nàng đang nghĩ: “Nhưng Rhett là linh hồn mình và mình đã mất chàng. Và nếu mình mất chàng thì chẳng còn gì là quan trọng nữa! Bạn bè hay tiền bạc, hay… hay bất cứ cái gì cũng vô nghĩa. Nếu mình có chàng thì dù có lại lâ vào cảnh nghèo mình cũng bất cần nhưng chàng không thể có ý… Ôi, lẽ nào lại thế?
Nàng lau nước mắt và nói một cách tuyệt vọng.

– Rhett, nếu mình đã từng yêu em đến thế, ắt mình vẫn còn chút tình cảm dành cho em!

– Trong tất cả, tôi thấy chỉ còn lại hai điều đó là hai điều cô ghét nhất: Lòng thương hại và một tình cảm nhân từ kỳ cục.

– Thương hại! Nhân Từ! “Ôi lạt Chúa!” nàng tuyệt vọng nghĩ thầm. Gì cũng được, trừ lòng thương hại và nhân từ! Hễ nàng cảm thấy một trong hai tình cảm ấy đối với ai, là bao giờ cũng đi đôi với khinh rẻ. Liệu chàng có khinh rẻ nàng không? Bất cứ cái gì cũng còn hơn thế. Kể cái thái độ lạnh lùng trân tráo của chàng trong thời kỳ chiến tranh, cơn điên dại tưới bằng rượu cái đêm chàng bế nàng lên gác, những ngón tay thô bạo ghì nghiến làm bầm tím người nàng hoặc những lời gai ngạnh mà giờ đây nàng biết là để che đậy một tình yêu dai dẳng. Bất cứ cái gì cũng được, trừ cái kiểu nhân từ của chung chung in rành rành trên mặt chàng.

– Vậy là… vậy là mình muốn nói là em đã làm hỏng, là mình không yêu em nữa?

– Đúng thế.

– Nhưng, nàng bướng bỉnh nói, như một đứa trẻ vẫn thấy tuyên bố một ước muốn là đạt được ước muốn đó, nàng nói em yêu mình mà!

– Đó là nỗi bất hạnh của cô.

Nàng ngước lên thật nhanh để xem câu đó có hàm ẩn một ý châm biếm nào, nhưng tịnh không. Chàng chỉ khẳng định một sự việc, nhưng đó là một việc mà nàng chưa muốn tin – không thể tin. Nàng nhìn chàng bằng cặp mắt xếch cháy rực một ý chí ngoan cường tuyệt vọng, và dưới đôi má mịn màng, quai hàm nàng đột nhiên bạnh ra rắn rỏi, hệt như quai hàm ông Gierold.

– Đừng có ngốc nghếch, Rhett! Em có thể làm cho…

Chàng khua tay, vờ làm bộ kinh hãi và đôi lông mày đen nhướn lên thành hai vòng cung nhạo báng quen thuộc.

– Đừng làm ra vẻ quyết tâm thế, Xcarlet! Cô làm tôi khiếp hãi. Tôi thấy cô đang định chuyển tình yêu bão táp của cô từ Asli sang tôi và tôi đâm lo cho tự do và sự yên tĩnh tinh thần của tôi. Không, Xcarlet, tôi không muốn bị đeo đuổi như chàng Asli bất hạnh. Vả lại tôi sắp đi xa.

Quai hàm nàng run lên trước khi nàng kịp cắn chặt răng lại. Đi xa? Không, gì cũng được, trừ cái đó! Thiếu chàng, làm sao nàng có thể tiếp tục sống? Tất cả đã rời bỏ nàng, tất cả những người thân thiết trừ Rhett. Không thể để chàng đi nốt. Nhưng làm thế nào nàng có thể ngăn chàng lại? Nàng thật bất lực trước đầu óc lạnh lùng và những lời hờ hững của chàng.

– Tôi sắp đi xa. Tôi đã định nói cho cô biết khi cô ở Marietta về.

– Mình muốn chạy trốn em?

– Đừng có đóng vai người vợ bị ruồng bỏ, bi thiết, Xcarlet. Vai ấy không hợp với cô. Vậy theo tôi hiểu, cô không muốn ly hôn, hoặc thậm chí, ly thân? Được, thế thì tôi sẽ về luôn để thiên hạ khỏi bàn ra tán vào.

– Thây kệ thiên hệ bàn tán! Nàng dữ dằn nói. Em chỉ muốn có mình thôi. Hãy mang em đi theo.

– Không, chàng nói , giọng dứt khoát. Trong một lúc nàng sắp sửa òa lên khóc cuồng như một đứa trẻ. Nàng có thể lăn ra sàn , nguyền rủa, la hét Và giậm chân. Nhưng một chút tàn dư của lòng kiêu hãnh và lẽ phải chăng, đã khiến nàng cứng rắn lại. Nàng nghĩ: “Nếu mình làm thế, chàng sẽ chỉ cười hoặc chỉ đứng nhìn. Mình không được gào khóc. Mình không được van xin. Mình không được làm bất cứ cái gì khiến chàng có thể khinh mình. Phải để chàng kinh trọng mình ngay cả… ngay cả nếu như chàng không yêu mình nữa”.
Nàng vênh cằm lên và rág bình tĩnh hỏi:

– Mình định đi đâu?

Mắt chàng thoáng một ánh kính phục khi chàng trả lời.

– Có lẽ sang Anh… hoặc Paris. Cũng có thể về Charlexton để dàn hòa với gia đình.

– Nhưng mình ghét họ lắm kia mà! Em vẫn thấy mình cười mỉa họ luôn và…

Chàng nhún vai.

– Tôi vẫn mỉa họ… nhưng tôi đã hết máu lang thang rồi, Xcarlet ạ. Tôi đã bốn mươi lăm – cái tuổi mà một người đàn ông bắt đầu quý một số điều mà hồi trẻ anh đã nhẹ dạ tung hê đi: tính chất thị tộc của gia đình, danh dự và sự yên ổn, những rễ ăn sâu vào lòng đất. Ô, không, tôi không chối bỏ, không hối tiếc những gì tôi đã làm đâu. Tôi đã rong chơi lu bù đến nỗi phát ngấy và bây giờ tôi muốn một cái gì khác đi. Không, tôi không bao giờ có ý định thay đổi tính cách như con báo muốn thay đốm. Song tôi muốn thấy lại cái vẻ bề ngoài của những điều xưa kia tôi từng biết, muốn biết sự chán ngấy tột cùng của cái tư cách đáng trọng của tôi mà của người khác cơ, cô bé ạ – muốn biết cái đĩnh đạc bình thản của cuộc sống trong giới thượng lưu, cái đẹp đẽ thanh lịch của thời đã qua. Khi tôi sống cái thời kỳ ấy, tôi đã không ý thức được cái duyên ung dung thư nhàn của nó…

Một lần nữa, Xcarlet lại thấy mình đang ở trong vườn cây lộng gió ở ấp Tara và bắt gặp trong ánh mắt Rhett cái vẻ y hệt như trong mắt Asli hôm đó. Những lời của Asli lại vang lên bên tai nàng rõ mồn một như thể chính chàng, chứ không phải Rhett, đang nói. Nàng chợt nhớ mấy đoạn và nhắc lại như con vẹt: “Nó có một vẻ đẹp huyền ảo… một sự hoàn hảo, một tính đối xứng như nghệ thuật Hy Lạp vậy”.

Rhett sẵng giọng nói:

– Tại sao cô lại nói thế? Đó chính là điều tôi muốn nói.

– Đó là điều mà… mà Asli đả có lần nói về thời xưa.

– Lúc nà cũng Asli, chàng lặng thinh một lát, rồi nói tiếp. Xcarlet, khi nào cô bốn mươi lăm tuổi, có lẽ cô sẽ hiểu những điều tôi muốn nói và có lẽ cả cô nữa cũng sẽ chán ngấy cái thói trưởng giả học làm sang, những cung cách rởm và những xúc cảm rả tiền. Nhưng tôi không chắc lắm. Tôi nghĩ bao giờ cô cũng vẫn cứ hám những gì lấp lánh hơn là vàng thật. Dù sao đi ữa, tôi cũng không thể chờ lâu đến thế để xem cho xác thực. Và tôi không muốn chờ. Điều đó không làm cho tôi quan tâm. Tôi sẽ đi tìm kiếm ở những thành phố cổ, những xứ sở cổ, chắc vẫn còn vươn chút hương vị thời xưa. Tôi đã cảm thế đó, Atlanta quá thô, quá mới đối với tôi.

– Đừng nói nữa, nàng đột ngột nói. Nàng hầu như không nghe thấy chàng nói những gì. Chắc chắn là đầu óc nàng đã không tiếp nhận gì hết. Nhưng nàng biết mình không còn đủ kiên cường để chịu đựng giọng chàng thêm nữa, khi nó không còn chứa chút gì tình yêu.
Chàng dừng lại và nhìn nàng, giễu cợt.

– Thế, cô hiểu tôi định nói gì rồi chứ? Chàng vừa hỏi vừa đứng dậy.

Nàng ngửa hai bàn tay chìa về phía chàng, cái cử chỉ cầu khẩn, vốn có từ ngàn
xưa, và tất cả tình cảm của trái tim lại bày ra trên mặt nàng.

– Không, nàng kêu lên. Em chỉ biết là mình không yêu em và mình sắp đi xa! Ôi, mình yêu dấu, em biết làm gì nếu mình đi?

Chàng do dự một lát cân nhắc xem liệu về lâu dài, một lời nói dối thiện tâm có tốt
hơn là nói thật không. Đoạn chàng nhún vai.

– Xcarlet, tôi không phải loại người kiên nhẫn nhặt những mảnh vỡ, đem gắn lại với nhau rồi lại tự nhủ rằng một vật chắp vá cũng coi như mới. Cái gì đã vỡ là đã vỡ… Và tôi thà nhớ lại khi nó tốt đẹp nhất, còn hơn là chắp vá lấy được để rồi suốt đời cứ phải thấy những chỗ vỡ. Có lẽ nếu tôi còn trẻ hơn… (thở dài). Nhưng tôi đã quá tuổi để tin vào những chuyện lãng mạn như làm lại cuộc đời. Tôi đã quá tuổi để mang trên vai gánh nặng của những lời nói dối thường xuyên đi đôi với cuộc sống trong những ảo tưởng lịch sự. Tôi không thể sống với cô đồng thời cứ nói dối cô và chắc chắn là tôi không thể tự dối mình. Ngay cả bay giờ tôi cũng không thể nói dối cô. Tôi ước sao có thể quan tâm đến những việc cô làm hoặc những nơi cô đến, nhưng không thể được.
Chàng khẽ thở dài và nói bằng một giọng bừa ẩu, nhưng dịu dàng.

– Cô bé thân mến ạ, tôi mặc xác.

Xcarlet lặng lẽ nhìn theo chàng lên cầu thang, cảm thấy có thể chết ngạt vì cái cục đau rát trong cồ họng. Cùng với tiếng chân chàng tắt dần trong hành lang trên gác, cũng tắt luôn nốt điều cuối cùng đáng kể trên đời. Giờ đây, nàng biết rằng không một lời kêu gọi nào của tình cảm hoặc lý trí có thể khiến bộ óc lạnh lùng ấy thay đổi bản án đã quyết. Giờ đây nàng biết tất cả những lời chàng đã nói, mặc dầu có đôi chỗ khinh suất, đều thành thật. Nàng biết vì nàng cảm thấy ở chàng một cái gì mạnh mẽ, không khoan nhượng, không thể lay chuyển – tất cả những đức tính nàng tìm hoài ở Asli mà không bao giờ thấy.

Nàng đã không hiểu hai người nàng yêu, nên đã mất cả hai. Giờ đây, sau bao lâu dò dẫm, nàng thấy ra rằng nàng hiểu rõ Asli, nàng ắt chẳng bao giờ yêu chàng, và nếu nàng hiểu được Rhett, nàng ắt chẳng bao giờ mất chàng. Nàng buồn bã tự hỏi: Có bao giờ mình thật sự hiểu ai trên đời này?
Cũng may đầu óc nàng lúc này đang đờ đẫn, nhưng kinh nghiệm lâu năm cho nàng biết chẳng bao lâu trạng thái này sẽ nhường chỗ cho nỗi đau nhức nhối, giống như những mô bị dao mổ của bác sĩ phẫu thuật rạch vào, có một khoảnh khắc ngắn mất cảm giác trước khi bắt đầu đau đớn cực độ.

“Bây giờ mình chưa nghĩ đến chuyện đó vội”, nàng dự dằn nghĩ thầm; vận dụng câu thần chú quen thuộc. “Bây giờ mà mình nghĩ đến nỗi mất chàng, thì mình phát điên mất. Để đến mai đã”.

“Nhưng”, trái tim đau của nàng phản đối, bác bỏ câu thần chú. “Mình không thể để chàng đi được! Phải có một cách gì chứ!”

– Bâygiờ chưa phải lúc nghĩ đến chuyện đó, nàng nói to, cố đẩy nỗi buồn khổ xuống đáy tâm thức, cố dựng một con đê chắn ngọn sóng đau đang dâng lê. Mình sẽ… ờ, ngày mai mình sẽ về ấp Tara.

Lần trước, nàng đã trở về Tara, thất bại và khiếp đảm, và nàng đã ra khỏi những bức tường của nó, mạnh mẽ và đầy đủ điều kiện để chiến thắng. Điều nàng đã làm được một lần… lạy Chúa, cách nào đó, nàng có thể làm lại! Cách nào thì nàng chưa biết. Bây giờ, nàng chưa nghĩ đến điều đó vội. Nàng chỉ muốn có một không gian thoáng cho nỗi đau bung ra, một nơi yên tĩnh để liếm những vết thương, một bến náu để vạch kế hoạch tiếp tục chiến đấu. Nàng nghĩ đến ấp Tara và cảm thấy như có một bàn tay mát rượi, âu yêm vỗ về trái tim nàng. Nàng hình dung thấy ngôi nhà trắng lấp lánh chào đón nàng qua những vòm lá mà mùa thu đang nhuộm đỏ dần. Nàng đã cảm thấy như một ân phước, cảm thấy sương rơi trên những thửa ruộng bông xanh điểm những đốm trắng xốp, thấy màu đất đỏ tươi và vẻ đẹp buồn bã, sẫm tối của những rặng thông trên dãy đồi nhấp nhô như sóng.

Nàng cảm thấy hình ảnh đó phần nào an ủi và tiếp sức cho nàng. Mật phần nỗi đau và nuối tiếc điên cuồng của nàng được tạm dẹp sang bên. Nàng đứng một lúc, nhớ lại những chi tiết nhỏ: lối đi giữa hai rặng tuyết tùng dẫn đến ấp Tara, những bụi nhài xanh biếc nổi bật trên những bức tường trắng; những tấm rèm trắng lay động. Và Mammy sẽ có mặt ở đó. Bỗng nhiên, nàng thấy cần Mammy ghê ghớm, cần như khi nàng còn bé, cần bộ ngực rộng của bà để ngả đầu vào, cần bàn tay đen sứt sẹo của bà để vuốt tóc nàng. Mammy, sợi dây cuối cùng gắn với thời xưa.
Với tinh thần của dòng dõi nàng vốn không bao giờ chịu thua, kể cà khi đối mặt với thất bại, Xcarlet vênh cằm lên. Nàng có thể chiếm lại được Rhett. Nàng biết mình làm được việc đó. Chưa có người đàn ông nào cưỡng lại được nàng, một kh nàng đã quyết tâm chinh phục.

“Ngày mai về ấp Tara, mình sẽ suy nghĩ về toàn bộ chuyện này. Lúc đó, mình sẽ đủ sức chịu đựng. Mai, mình sẽ nghĩ cách chiếm lại Rhett. Xét cho cùng, mai là một ngày mới”.
.
HẾT

Chương 1: Ông Lockwood gặp Heathcliff

Tôi vừa trở về nhà sau chuyến đi thăm ông Heathcliff, vị chủ nhà và cũng là người láng giềng duy nhất rồi đây sẽ gây phiền phức cho tôi. Trên khắp Anh quốc này tôi khó lòng tìm được một nơi nương thân nào hẻo lánh hơn chốn này. Nơi đây hoàn toàn thích hợp với tôi, vì nguyện vọng duy nhất của tôi là được tránh gặp gỡ mọi người.

Ấn tượng đầu tiên của tôi về ông Heathcliff là: đây quả là người láng giềng lý tưởng trong cảnh sống biệt lập. ông không thể biết được tôi vui mừng ra sao khi thấy thái độ thiếu thân thiện của ông tạ Khi tôi thúc ngựa lại gần, ông ta nhìn tôi chằm chằm, cặp mắt đen ẩn dưới hàng lông mày rậm lộ vẻ ngờ vực:

– ông Heathcliff phải không ạ? – Tôi hỏi.

Để đáp lại ông ta chỉ gật đầu.

– Tôi là Lockwood, khách mới đến thuê nhà của ông. – Tôi nói tiếp – Tôi tự cho mình cái vinh hạnh cố đến thăm ông thật sớm ngay sau khi tới nơi. Tôi hy vọng việc tôi sống ở ấp Thrushcross sẽ không gây phiền phức cho ông.

– Tôi sẽ không cho phép bất kỳ kẻ nào gây phiền phức cho tôi – ông ta ngắt lời – ông vào đi.

Lời mời của ông ta rít qua hai hàm răng nghiến chặt như thể muốn nói: “Quỷ tha ma bắt ông đi!”. Tôi đâm tò mò trước một kẻ xem ra còn ít cởi mở hơn cả tôi, nên tôi nhận lời.

Con ngựa của tôi đang xô ngực vào cánh cổng, và rốt cuộc ông Heathcliff cũng giơ tay mở nó ra. ông vừa lững thững bước đi trên con đường dẫn lên ngôi nhà phía trước mặt tôi, vừa cất tiếng gọi một tên gia nhân:

– Joseph, ra dắt ngựa cho ông Lockwood và mang ít rượu vang dưới hầm lên!

Joseph bước ra dắt ngựa cho tôi. Đó là một lão già và xem ra lão chẳng vui vẻ chút nào khi thấy tôi. “Lạy chúa cứu giúp”, lão lẩm bẩm trong lúc dắt con ngựa của tôi đi.

Ngôi nhà của ông Heathcliff có tên là Đỉnh Gió Hú. Cái tên “Đỉnh gió” là một từ mà dân địa phương đặt cho bất kỳ cái gì phơi mình dưới những cơn gió bão thổi hun hút qua những cánh đồng hoang dã miền Yorkshire như ngôi nhà này.

Gần ngôi nhà có một vài cây con, thân nghiêng ngã trước sức gió thổi mạnh. Một rặng bụi cây gai góc, bao nhiêu cành đều hướng về một phía như thể đang chìa tay xin mặt trời bố thí cho chút nắng, tô điểm trọn vẹn cho bức tranh ảm đạm này. Ngôi nhà được xây dựng rất vững chắc, các góc được gia cố thêm bằng những khối đá lớn và các cửa sổ đều xây lõm sâu vào tường.

Trước khi bước vào nhà, tôi dừng lại xem xét một phiến đá lớn có chạm trổ bên trên cánh cửa. Trên phiến đá có khắc niên đại ngôi nhà này được dựng nên: “1500” và một cái tên “Hareton Earnshaw”. Tôi muốn tìm hiểu kỹ hơn, nhưng vị chủ nhà đang sốt ruột đợi tôi.

Vào trong nhà, chúng tôi đi thẳng tới phòng khách của gia đình. Ở vùng Yorkshire này người ta gọi phòng khách là “chính sảnh”. Bên kia là nhà bếp. Đằng cuối chính sảnh có những kệ dài bày đầy những chiếc đĩa thiếc và bình bạc. Bên trên lò sưởi có treo vài khẩu súng cổ và một cặp súng tay của kỵ binh. Sàn nhà lát đá trắng nhẵn. Mấy chiếc ghế tựa lưng cao sơn xanh xếp thành hình vòng cung quanh lò sưởi. Trong một hốc tường bên dưới mấy chiếc kệ, một con chó săn đang nằm với lứa chó con kêu ẳng ẳng, và còn có nhiều con chó nữa nằm trong những góc còn lại.

Căn phòng và đồ đạc chẳng có gì khác với những thứ ta thường thấy trong một trang trại ở vùng Yorkshirẹ Nhưng ông Heathcliff trông chẳng giống một trại chủ vùng Yorkshirẹ ông có nước da của một gã digan, nhưng qua y phục và tác phong ông có vẻ là một người xuất thân từ một gia đình tử tế.

ông bước lại gần lò sưởi, tôi theo sau rồi ngồi xuống đối diện với ông tạ ông chẳng nói năng gì. Trong lúc đó, con chó săn đã rời bầy con, tiến đến sau chân tôi, đưa mắt nhìn tôi. Hai mép nó cong lên, hở cả hai hàm răng. Khi tôi thử đưa tay vuốt ve nó, nó đáp lại bằng một tiếng gầm gừ kéo dài.

– Tốt hơn là ông nên để con chó yên. – ông Heathcliff gầm gừ – Nó được nuôi không phải để làm vật kiểng được cưng chiều, ông chớ vuốt ve nó làm gì.

Ông ta nói thế đoạn đá con chó sang một bên, rồi cất tiếng gọi: “Joseph!”. Joseph từ dưới hầm rượu đáp vọng lên, nhưng khi không thấy lão ta xuất hiện, ông chủ bèn đi xuống chỗ lão. Tôi bị bỏ lại một mình với lũ chó. Hai con trong đám tiến lại canh chừng tôi. Vì không hề muốn thử hàm răng sắc nhọn của chúng nên tôi ngồi im, chỉ nháy mắt với chúng cho vui. Thình lình một con trong đám giận dữ chồm lên đầu gối tôi. Tôi hất nó trở lại và vội vàng dùng cái bàn tròn làm vật ngăn cách giữa tôi và lũ chó. Việc này kích động cả bầy chó và ngay lập tức sáu con lao tới tấn công chiếc áo choàng và cổ chân tôi.

Tôi đứng bật dậy, chộp lấy thanh cời than và vừa cố ngăn lũ chó tiến lại gần, vừa lớn tiếng gọi người đến cứu viện. Heathcliff và Joseph chậm rãi từ dưới hầm rượu leo lên cầu thang. Rõ ràng là họ rất bực mình khi bị gọi lên. Mặc dù chính sảnh chìm trong cơn bão cuồng loạn của một đàn chó vừa nhay vừa sủa, tôi nghĩ cả hai không hề vội vã đến với tôi chút nào.

May thay một người phụ nữ đang làm việc trong bếp đã đến cứu tôi. Nghe tiếng huyên náo, chị ta vội chạy vào, tay còn cầm cái xoong. Chị ta dùng cái xoong đánh lũ chó. Cơn bão tố lắng xuống và khi vị chủ nhà bước vào thì hai chúng tôi đang đứng run rẩy sau một phen hú vía.

– Có chuyện gì ở đây vậy? – ông ta giận dữ hỏi.

– ông còn hỏi nữa ư? – Tôi làu bàu – Một đàn lợn lòi cũng không thể hung dữ hơn lũ súc vật nhà ông. Vậy mà ông nỡ để một người khách lạ với một bầy hổ.

– Chúng không làm hại những ai không hề động đến bất kỳ vật gì. – ông ta chỉ bình luận có thế trong lúc đặt chai rượu xuống và kê chiếc bàn lại chỗ cũ – Lũ chó này được nuôi để canh chừng. Nào, làm một ly rượu vang nhé

– Thôi, cám ơn ông. – Tôi đáp.

– ông không bị chúng cắn đấy chứ?

– Tôi mà bị chúng cắn thì ông đã phải lôi thôi to về chuyện này. – Tôi giận dữ thốt lên.

Heathcliff mỉm cười:

– Thôi nào, ông bị kích động quá đấy thôi, ông Lockwood ạ. Này, ông dùng chút rượu đi. Ở đây, chúng hiếm có khách đến thăm đến nỗi cả tôi lẫn lũ chó đều không biết cách tiếp đón. Xin chúc sức khỏe ông.

Tôi đón lấy ly rượu ông ta đưa cho và nâng ly chúc lại. Tôi nhận ra rằng, nếu cứ ngồi giận dỗi vì một vài con chó thì thật là ngốc. Giờ đây vị chủ nhà đang trong tâm trạng rất vui vẻ và bắt đầu bàn luận về những điểm thuận lợi và bất lợi khi sống ở một chốn hẻo lánh như thế này. Tôi thấy ông ta rất thông minh, và trước lúc ra về tôi hẹn với ông ta hôm sau sẽ đến thăm.

Hôm sau, tôi giữ lời hứa trở lại thăm Đỉnh Gió Hú mặc dù hôm ấy trời mù sương và giá lạnh. Sau bốn dặm đường đi bộ, tôi đến được trước cổng vườn nhà ông Heathcliff. Một vài bông tuyết đầu tiên trông tựa lông chim bắt đầu rơi. Trên đỉnh đồi hiu hắt này, đất bị sương giá làm đen lại, và luồng khí lạnh làm tôi run hết cả chân taỵ

Vì không tháo được dây xích khóa cổng, tôi bèn nhảy qua và chạy theo con đường lát đá dẫn lên ngôi nhà. Tôi gõ cửa mãi, đến đau cả các khớp ngón tay và lũ chó bên trong bắt đầu sủa nhặng lên. Lúc này tuyết đã bắt đầu rơi dày.

Một chàng trai vác một cây xỉa rơm từ ngoài sân sau bước tới, và ra hiệu cho tôi theo anh ta ra phía sau nhà. Chúng tôi đi quanh nhà bếp và rốt cuộc cũng vào đến chính sảnh, nơi tôi đã được tiếp lần trước. Một đống lửa lớn tỏa ánh sáng tươi vui khắp phòng, và tôi thấy trên bàn có dọn sẵn thức ăn. Tôi lấy làm ngạc nhiên khi thấy một thiếu phụ rất trẻ trong phòng. Tôi đợi cô ta lên tiếng mời tôi ngồi. Cô ta nhìn tôi, nhưng không hề cử động và vẫn lặng thinh.

– Thời tiết thật khắc nghiệt, thưa cô Heathcliff. – Tôi nhận xét.

– Lẽ ra ông không nên ra khỏi nhà. – Cô ta đáp.

Cô đứng dậy với tay lấy một chiếc hộp thiếc đặt trên mặt lò sưởi. ánh lửa chiếu sáng khuôn mặt cô, giúp tôi thấy rõ cô còn trẻ măng. Khuôn mặt cô nhỏ nhắn và là một trong những khuôn mặt kiều diễm nhất mà tôi từng được thấy. Mái tóc quăn vàng óng của cô buông lơi trên cổ. Đôi mắt cô đen láy và ắt hẳn sẽ rất quyến rũ nếu không đượm vẻ khinh mạn và tuyệt vọng.

Mấy chiếc hộp thiếc gần như ngoài tầm tay cô, nên tôi bước đến định giúp cô một chút. Cô quay phắt lại phía tôi:

– Tôi không cần ông giúp – Cô xẵng giọng – Tự tôi có thể lấy được.

– Xin lỗi. – Tôi nói, vội lùi lại.

– ông có được mời đến dùng trà không? – Cô hỏi, tay vẫn đứng cầm chiếc thìa trà để yên trên miệng ấm.

– Tôi rất vui nếu được dùng một ly trà. – Tôi đáp.

– ông có được mời không? – Cô nhắc lại.

– Không – Tôi hơi mỉm cười, nói – Cô chính là người có đủ tư cách mời tôi đấy.

Cô ta ném cả trà lẫn thìa vào lại chiếc hộp thiếc và cau mày ngồi xuống ghế. Tôi có cảm giác như cô chỉ chực khóc òa lên.

Trong khi đó, cái chàng trai ban nãy dẫn tôi vào nhà lại xuất hiện. Anh ta mặc một tấm áo khoác cũ và đứng bên lò sưởi, đưa mắt nhìn xuống phía tôi như thể tôi là một kẻ thù. Tôi không thể đoán chắc được anh ta là một gia nhân hay một thành viên trong gia đình. áo quần anh ta cũ kỹ, lời ăn tiếng nói thì cộc cằn và đôi bàn tay đen sạm như một người lao động bình thường. Tuy nhiên, anh có vẻ kiêu kỳ, chẳng giống một tên gia nhân. Tôi lấy làm mừng khi thấy chính ông Heathcliff bước vào phòng.

– ông thấy đấy, thưa ông, tôi đã đến đây như có hứa, nhưng tôi e rằng tôi phải xin phép được trú lại nhà ông độ nửa tiếng vì tuyết đang rơi.

– Nửa tiếng ư? – ông Heathcliff vừa nói, vừa rũ những bông tuyết trắng bám trên chiếc áo khoác. – Tôi lấy làm lạ thấy ông chọn lúc có bão tuyết thế này để đi ra ngoài dạo chơi. ông không biết rằng ông có thể bị lạc giữa vùng đầm lầy sao? Vào một ngày như hôm nay, ngay cả những người quen thuộc vùng đồng hoang này cũng thường bị lạc đường. Tôi có thể cam đoan với ông là thời tiết này khó có thể thay đổi chóng vánh.

– Vậy, có lẽ tôi phải nhờ một người trong đám gia nhân nhà ông dẫn đường. ông có thể dành cho tôi một người không?

– Không, không được đâu.

– Vậy thì tôi chỉ còn biết trông cậy vào bản thân mình nữa thôi.

Chàng trai mặc chiếc áo khoác cũ thôi không còn chằm chằm nhìn tôi nữa và quay sang phía cô thiếu phụ.

– Cô có định pha trà nữa không đấy? – Anh ta hỏi.

Cô gái nhìn tôi:

– ông này có cần uống trà không? – Cô hỏi Heathcliff.

– Pha trà đi, nghe chưa? – Câu trả lời được thốt ra bằng một giọng hung tợn đến nỗi phô bày hết cái bản tính thật hết sức nghiệt ngã của ông tạ

Khi trà đã pha xong, ông ta quay về phía tôi:

– Nào, ông kéo ghế lại gần bàn đi. – ông ta nói.

Tất cả chúng tôi lặng lẽ ngồi ăn quanh chiếc bàn. Tôi cho rằng mình chính là nguyên nhân khiến mọi người khổ sở, nên tôi bèn lên tiếng bắt chuyện:

– Nhiều người – tôi vừa nói, vừa đưa chiếc tách ra để xin thêm một ít trà nữa – không thích một cuộc sống quá cách biệt với mọi người như ông đang sống, thưa ông Heathcliff. Nhưng tôi tin chắc ông rất hạnh phúc được sống tại nơi đây bên người vợ của ông.

Ông ta cười khẩy ngắt lời tôi:

– Vợ tôi? Vợ tôi ư? Vợ tôi ở đâu hả? Chắc ông muốn nói đến linh hồn của vợ tôi là một thiên thần hộ mệnh trông nom cho Đỉnh Gió Hú khi thể xác cô ấy đã không còn. Đúng không?

Tôi nhận ra mình lầm khi thấy sự chênh lệch tuổi tác quá lớn giữa hai người. ông Heathcliff khoảng bốn mươi trong khi cô gái tuổi chỉ trạc mười bảy. Tôi bỗng nghĩ bụng: “Anh chàng đang ngồi sát bên khuỷu tay tôi và đang ăn với đôi bàn tay bẩn thỉu kia chắc hẳn là con trai ông Heathcliff và là chồng của cô thiếu phụ trẻ kia.

– Cô Heathcliff đây là con dâu tôi. – ông Heathcliff nói, xác nhận điều tôi vừa phỏng đoán.

Khi nói, ông đưa mắt nhìn cô con dâu, vẻ hằn học:

– à, tôi hiểu rồi – tôi vừa nói, vừa quay sang anh chàng thô lỗ ngồi kế bên – Hóa ra cậu là người may mắn có được vị phu nhân trẻ trung và đầy sức quyến rũ kia.

Lời nhận xét này gây hậu quả tệ hại hơn lần trước. Chàng trai nọ đỏ dừ mặt, mắt long lên nắm chặt tay như thể sắp hành hung tôi. Nhưng rồi anh ta trấn tĩnh lại và thốt ra một câu rủa thậm tệ mà tôi vờ như không nghe thấy.

– ông thật không may, đoán sai bét hết cả – vị chủ nhà nói – Cả hai chúng tôi đều không phải là chồng nàng tiên tuyệt diệu của ông. Chồng nàng đã qua đời. Tôi nói đó là con dâu tôi, có nghĩa là cô nàng đã kết hôn với con trai tôi.

– Thế còn chàng trai này? – Tôi hỏi

– Cậu ta không phải là con trai tôi, tôi xin cam đoan như thế! – Heathcliff mỉm cười như thể việc tôi coi ông ta là cha của một gã thô lỗ như vậy là một sự lầm lẫn quá ư lố bịch.

– Tôi là Hareton Earnshaw – chàng trai nọ gầm gừ – và tôi khuyên ông nên kính trọng cái tên ấy

– Tôi không thấy mình đã làm gì tỏ ra thất kính. – Tôi đáp, thầm chế giễu vẻ kiêu kỳ của anh ta khi xưng danh.

Anh ta cứ chằm chăm nhìn tôi trong khi chúng tôi tiếp tục bữa ăn, và tôi bắt đầu cảm thấy lúng túng, chẳng biết cư xử ra sao giữa những con người kỳ lạ này.

Chương 2: Lockwood nghỉ đêm tại Đỉnh Gió Hú

Khi mọi người đã ăn xong, tôi rảo bước đến bên khung cửa sở để xem thời tiết ra sao. Thật là một cảnh tượng buồn thảm. Bóng tối buông xuống quá sớm, và gió thổi những bông tuyết quay cuồng lồng lộn khiến đồi núi và bầu trời không còn trông thấy đâu nữa.

– Tôi không thể về nhà vào lúc này nếu không có người dẫn đường – Tôi nói – Tôi biết làm gì đây?

ông Heathcliff làm như không nghe thấy câu tôi vừa nói. ông điềm nhiên chỉ vẽ cho Hareton cách lùa đàn cừu về nơi an toàn.

– Tôi phải làm gì đây? – Tôi hỏi lại, mỗi lúc một thêm bực mình.

Vẫn không có lời đáp, và khi đưa mắt nhìn quanh, tôi chỉ thấy Joseph bước vào mang theo bữa ăn cho lũ chó; còn cô Heathcliff thì đang cúi mình trên đống lửa. Joseph nhìn quanh phòng rồi lên tiếng, giọng lạc đi:

– Sao lại có thể đứng đực ra đấy trong khi mọi người đang bận rộn? Nhưng đã vô tích sự thế kia thì có nói cũng vô ích thôi, vì người như thế sẽ không bao giờ khá lên được. Trước sau gì thì cũng về với ác quỷ như mẹ thôi.

Nghĩ là lão ta đang nói với mình tôi giận dữ quay lại toan đá lão ra khỏi cửa. Tôi dừng lại khi thấy cô Heathcliff lên tiếng:

– Cái lão già đạo đức giả khủng khiếp – Nàng đốp chát – Lão không sợ ác quỷ bắt đi mỗi khi nhắc đến tên nó ư? Để ta cho lão biết ta đã tiến bộ trong việc nghiên cứu ma thuật đến mức nào.

Cô lấy từ trên giá xuống một quyển sách.

– Để ta xin quỷ một đặc ân là bắt lấy lão. Con bò lông đỏ đâu phải ngẫu nhiên mà chết và chứng thấp khớp của lão cũng không phải ngẫu nhiên mà trời ban cho đâu.

– ôi, thật là độc ác xấu xa! – Lão già hổn hển nói – Xin Chúa cứu lấy chúng con thoát khỏi điều ác.

Cô gái quắc mắt, vờ ra vẻ căm thù, và Joseph run lên vì kinh hãi, vội vã bỏ chạy, miệng lâm râm cầu nguyện. Đến đây, tôi cố làm cho cô thiếu phụ lưu ý đến nỗi khó khăn của tôi.

– Thưa bà Heathcliff, xin bà thứ lỗi cho vì tội quấy rầy bà, nhưng tôi phải làm thế nào để về được nhà mình đây?

– Cứ theo con đường ban nãy ông đã đi để tới đây. – Cô chủ trả lời gọn lỏn trong khi lựa chỗ ngồi cho thoải mái để đọc sách.

– Thế nếu cô hay tin tôi chết vùi trong tuyết, lương tâm cô không nhủ thầm với cô rằng việc đó có phần nào tại cô sao?

– Sao lại thế được? Tôi không thể đi cùng với ông. Họ không bao giờ cho phép tôi đi quá bức tường rào quanh khu vườn.

– Cô ấy ạ, nhưng tôi đâu có xin cô đi cùng – Tôi đáp – Chẳng lẽ không có một tên gia nhân nào có thể đi với tôi sao?

– Chẳng có tên nào hết. – Cô ta đáp gọn.

– Vậy thì tôi phải nghỉ đêm lại đây thôi – Tôi kết luận.

– Tôi hy vọng đây sẽ là một bài học để ông đừng liều lĩnh đi vẩn vơ trên những ngọn đồi này nữa – Giọng nói nghiêm nghị của ông Heathcliff vang lên từ phía cửa bếp – Ở đây tôi không có phòng nào cho khách cả. Nhưng ông có thể ngủ chung với Hareton hay Joseph.

– Tôi có thể ngủ trên một chiếc ghế trong phòng này. – Tôi đáp.

– Không, không! Tôi không cho phép người lạ được tha thẩn đi lại nơi đây, khi tôi không có mặt – ông chủ nhà thô lỗ nói.

Sự sỉ nhục cuối cùng này làm tôi mất hết kiên nhẫn. Tôi đẩy ông Heathcliff sang một bên, rồi lao qua nhà bếp, ra đến sân. Trời tối đến nỗi tôi không thấy được lối ra. Joseph đang ở trong một căn nhà kho gần đó, vắt sữa bò dưới ánh sáng tỏa ra từ một ngọn đèn lồng. Tôi giật lấy ngọn đèn của lão và vừa kêu to là tôi sẽ gửi trả, vừa chạy tới cánh cổng gần nhất.

– ông chủ, ông chủ, hắn ăn cắp ngọn đèn lồng. – Lão già vừa la lên, vừa đuổi theo tôi – ê, chó! ê, Gnasher! ê, Wolf! Giữ lấy hắn, bắt lấy hắn!

Khi tôi mở cổng, hai con chó to lớn lao lên cổ tôi và xô tôi ngã. Tiếng Heathcliff và Hareton cười vang chỉ làm tôi thêm cáu tiết. May thay, hai con vật nọ không hề cắn tôi, mà chỉ đứng canh chừng, ngăn không cho tôi đứng dậy. Tôi phải nằm đấy cho đến khi ông Heathcliff gọi lũ chó đứng ra.

Giận run lên, tôi ra lệnh cho ông Heathcliff để tôi đi ra ngay lập tức. Tôi nói một cách giận dữ đến mức mũi tôi chảy cả máu cam, nhưng ông Heathcliff vẫn cứ cười trong khi tôi la lối. Bấy giờ, Zillah, chị quản gia hôm trước đã cứu tôi, chạy ra xem có chuyện gì mà ầm ĩ thế. Chị nghĩ là bọn họ tấn công tôi, và không dám chỉ trích ông chủ nên chị ta quay sang gã thanh niên:

– Chà, cậu Earnshaw, rồi sẽ còn xảy ra những gì nữa đây? – Chị ta kêu lên – Chẳng lẽ ta lại giết người ngay trên bậc cửa nhà ta sao? Nhìn ông khách tội nghiệp kia kìa, ông ta đang ngạt thở. Lại đây, thưa ông, rồi tôi sẽ chữa cho ông đỡ ngaỵ

Nói rồi, bất thình lình chị ta hắt một ca nước lạnh như đá xuống cổ tôi rồi kéo tôi vào bếp. ông Heathcliff theo sau. Vẻ hoan hỉ cũng tan biến nhanh chóng như lúc nó đã bừng lên. ông ta thấy tôi choáng váng gần như đã lả đi, bèn ra bảo Zillah lấy cho tôi một cốc brandy, rồi biến mất vào trong chính sảnh.

Một lúc sau, khi thấy tôi đã khá hơn, Zillah dẫn tôi lên lầu.

– Đừng có làm ồn đấy – Chị cảnh cáo – ông chủ có những ý nghĩ kỳ quặc về căn phòng ngủ nơi ông sắp nghỉ lại và ông ấy không bao giờ để cho ai ở đấy, nếu có thể tránh được.

Sau khi đã vào đến bên trong, tôi cẩn thận khóa cửa phòng và đưa mắt nhìn quanh. Căn phòng bày biện rất ít đồ đạc, nếu không kể cái giường rộng, hai bên có ván che, kê phía dưới cửa sổ. Tôi kéo mấy tấm ván che hai bên ra, rồi trèo vào giường. Tôi đốt nến cho sáng và khi đóng mấy tấm ván che lại, tôi cảm thấy được an toàn, không phải sợ ông Heathcliff hay bất cứ ai khác.

Bên dưới khung cửa sổ có một cái giá. Tôi đặt cây nến lên giá. Trong một góc giá có vài quyển sách, và phần còn lại thì chi chít những chữ được khắc trên lớp sơn. Những dòng chữ ấy là một cái tên khắc bằng đủ các kiểu chữ lớn, nhỏ – Catherine Earnshaw – rồi cứ lặp đi lặp lại – Catherine Earnshaw – đôi chỗ lại thấy viết Catherine Heathcliff hoặc Catherine Linton.

Tôi vừa tựa đầu vào gờ cửa sổ, vừa đánh vần mấy cái tên lặp đi lặp lại, Catherine, Catherine Earnshaw, Heathcliff, Linton, mãi cho tới lúc mắt tôi ríu lại và tôi chìm vào giấc ngủ, óc vẫn còn lởn vởn những dòng chữ trắng lóa và bầu không khí tràn ngập những tên Catherine.

Khi tôi tỉnh lại thì thấy cây nến đã ngả vào bìa một trong những quyển sách và cái buồng nồng nặc mùi da cháy. Tôi bắt đầu xem xét mấy quyển sách. Một quyển là nhật ký được viết bằng một nét chữ non nớt, nguệch ngoạc. Trên một trang có một bức biếm họa giễu ông bạn Joseph của tôi, được vẽ rất khéo. Tôi quyết định đọc quyển nhật ký này và tìm hiểu về nàng Catherine không quen biết kia càng nhiều càng tốt.

“Một ngày chủ nhật thật kinh khủng”, đoạn nhật ký được mở đầu như vậy, “ước gì cha mình còn sống. Hindley thật đáng ghét, và anh ấy đối xử với Heathcliff thật tàn tệ. Heathcliff và tôi sẽ nổi loạn”.

Tiếp theo là những đoạn ghi chép cặn kẽ về cách của Hindley ngược đãi Heathcliff và mấy trang nhật ký của ngày hôm đó kết thúc ở đoạn: “Tôi đang ngồi dây viết nhật ký, nhưng Heathcliff cứ sốt ruột và nói chúng tôi nên ra ngoài vùng đồng hoang chạy nhảy. Một ý kiến tuyệt vời, vì chúng tôi thấy không đâu lạnh lẽo và ẩm ướt hoằn ở trong gian bếp phía sau nhà này”.

Phần tiếp cuốn nhật ký sau đó mấy hôm lại ghi: “Tôi không bao giờ ngờ rằng Hindley lại làm tôi khóc ghê thế”, nàng viết. “Đầu tôi đau nhức, nhưng tôi vẫn không sao nói được. Tội nghiệp Heathcliff. Hindley nói cậu ấy là một tên digan và không cho cậu ấy ăn cùng chúng tôi. Anh ấy dọa sẽ tống cổ cậu ấy ra khỏi nhà, nếu chúng tôi trái lệnh”.

Tôi bắt đầu ngủ gà ngủ gật trong khi đọc, rồi rốt cuộc ngả hẳn xuống giường và bắt đầu chiêm bao. Tôi chợt tỉnh hẳn và nhớ ra rằng mình đang ở trong một căn phòng lạ. Bên ngoài, tôi có thể nghe thấy tiếng gió rít qua các góc nhà, cuốn theo từng mảng tuyết. Một cành linh sam đập lách cách vào tấm kính cửa sổ. Tiếng động làm tôi khó chịu đến nỗi tôi tìm cách mở toang cánh cửa sổ, nhưng nó đã bị khóa. Quyết tâm bẻ gãy cho được cành cây ấy, tôi dùng khớp ngón tay đập vỡ tấm kính. “Mình phải làm cho nó thôi đập vào cửa sổ mới được “. Tôi vừa lẩm bẩm vừa với tay ra.

Thay vì nắm lấy cành cây kia, mấy ngón tay tôi lại nắm phải mấy ngón tay của một bàn tay lạnh như băng. Một nỗi kinh hãi tột độ trỗi dậy trong tôi. Tôi cố rụt cánh tay về, nhưng bàn tay nọ cứ bám chặt lấy, và một giọng thê lương, nức nở thốt lên:

– Cho tôi vào! Cho tôi vào với!

– Ngươi là ai? – Tôi vừa hỏi, vừa cố rụt tay lại.

– Catherine Linton. Tôi là Catherin Linton. – Giọng nói đáp lại – Tôi đã về đến nhà. Tôi đã bị lạc trên vùng đồng hoang.

Trong lúc giọng nói đó vang lên, tôi thấy một khuôn mặt trẻ thơ nhìn qua cửa sổ. Nỗi kinh hoàng khiến tôi trở nên tàn nhẫn. Thấy mình không thể gỡ tay ra khỏi cái sinh linh ấy, tôi kéo cổ tay nó đến bên tấm kính cửa sổ bị vỡ, cứa đi cứa lại cho đến lúc máu chảy thấm đẫm tấm vải trải giường. Tuy vậy, nó vẫn kêu: “Cho tôi vào với!”, và cứ níu chặt mãi, khiến tôi phát điên lên vì sợ.

– Làm sao ta có thể cho ngươi vào? – Rốt cuộc tôi nói – Buông tay ra, nếu ngươi muốn ta để cho ngươi vào.

Mấy ngón tay lạnh như băng nới lỏng ra và tôi giật tay lại, rồi vội vã chồng mấy quyển sách lên, chặn chỗ hở trên cửa sổ. Xong, tôi đưa tay lên bịt tai để khỏi nghe thấy những lời van nài.

Tôi cứ bịt tai như thế hẳn phải đến một khắc đồng hồ, nhưng khi tôi lại lắng tai nghe thì tiếng kêu ảo não ấy vẫn cứ rên rỉ: “Cho tôi vào với!”.

– Đi đi! – Tôi hét lên – Ta sẽ không bao giờ cho ngươi vào dù ngươi có van xin đến hai mươi năm đi chăng nữa!

– Nhưng đã hai mươi năm rồi đấy – giọng nói rên rỉ – Hai mươi năm. Tôi đã phải lang thang suốt hai mươi năm ròng.

Có tiếng cào khẽ ở bên ngoài, và chồng sách xê dịch như thể đang bị đẩy tới. Tôi cố chồm dậy, nhưng cứ lặng người đi vì sợ. Tôi hét to lên trong nỗi kinh hoàng.

Ngay lập tức, tôi nghe thấy có tiếng bước chân đang tiến về phòng tôi và cánh cửa bật mở. Tôi ngồi đó, run rẩy lau mồ hôi trán. Rốt cục, tôi nghe thấy một tiếng thì thầm ngoài ngưỡng cửa:

– Có ai trong ấy không? – ông Heathcliff nói, rõ ràng không chờ đợi một câu trả lời. Tôi sợ rằng ông ta có thể lùng sục thêm, nên tôi quay lại, mở mấy tấm ván che giường ra. Tôi không bao giờ quên được sức tác động của việc đó đối với ông ấy.

ông ta đứng gần lối vào, cây nến nhỏ từng giọt sáp nóng hổi xuống mấy ngón tay, mặt ông ta trắng bệch như bức tường ở sau lưng ông. Tiếng cọt kẹt đầu tiên của mấy miếng ván gỗ làm ông ta hoảng hốt như bị điện giật. Cây nến văng khỏi tay ông, và ông bối rối đến mức khó khăn lắm mới nhặt được nó lên.

– Chỉ là khách trọ của ông thôi, thưa ông – Tôi thốt lên – Chẳng may tôi đã la hét vì phải một cơn ác mộng kinh hoàng. Tôi xin lỗi đã làm phiền ông.

– ông Lockwood! – ông ta vừa nói vừa đặt ngọn nến lên một chiếc ghế – Thế ai đã dẫn ông vào phòng này? – ông hỏi, ấn mạnh ngón tay vào hai lòng bàn taỵ – Ai vậy? Tôi sẽ tống cổ nó ra khỏi nhà này ngaỵ

– Đó là chị gia nhân Zillah của ông – Tôi nói trong lúc đứng dậy ra khỏi giường và nhanh chóng mặc quần áo – Tôi chẳng thèm bận tâm nếu ông đuổi chị ta đi, ông Heathcliff ạ. Chị ta đáng bị như thế. Chỗ này có ma, nó đầy những ác quỷ và ma quái.

– ông nói vậy là thế nào? – Heathcliff hỏi – Và sao ông lại ngồi đây? Bây giờ, một khi ông đã ở đây thì ông cứ nằm xuống, ngủ tiếp cho hết đêm. Nhưng vì Chúa, xin ông đừng tái diễn cái trò huyên náo khủng khiếp ấy nữa. Không gì có thể bào chữa được cho việc này, trừ phi ông bị cắt tiết.

– Ví thử cái con ma nhỏ bé đó chui vào được qua lối cửa sổ thì nó đã bóp cổ tôi rồi – Tôi đáp – Cái cô ả Catherine Linton hay Earnshaw gì đó ắt hẳn phải là một oan hồn đầy tội lỗi. Cô ta nói với tôi rằng cô ta đã lang thang vất vưởng trên trái đất hai mươi năm naỵ Đấy là một hình phạt thích đáng cho những tội lỗi của cô ta, tôi dám chắc thế.

Vừa dứt lời, tôi chợt nhớ lại Catherine đã thường xuyên viết tên Heathcliff trong cuốn nhật ký của nàng. Tôi cố giải thích:

– Thưa ông! Sự thực là tôi đã dành phần đầu đêm nay để đánh vần cái tên được khắc trên cửa sổ này. Đó là một việc đơn điệu, cốt để dễ ngủ, giống như…

– ông nói vậy với tôi là có ý gì? – ông Heathcliff gầm lên dữ tợn – Sao ông dám nói thế ngay dưới mái nhà tôi? Lạy Chúa, ông hóa điên rồi nên mới dám nói năng vậy! – ông ta cuồng dại đập vào trán mình.

Bỗng ông ta ngước nhìn lên và tôi ngỡ trông thấy ông ta rơm rớm nước mắt.

– ông Lockwood, ông có thể đến phòng tôi. Chớ có ra sân vì chó đã được tháo xích, thả rông ngoài ấy, còn con Gnasher thì ở trong chính sảnh. Nhưng ông cứ ra đi, vài phút nữa tôi sẽ tới với ông.

Tôi rời phòng, nhưng không biết rõ lối đi trong nhà, nên đành nán lại gần ngưỡng cửa đợi vị gia chủ của tôi, lúc bấy giờ trông có vẻ như đã mất hết sự tỉnh táo. ông ta nằm trên giường, giật cánh cửa sổ mở tung ra, vừa giật vừa khóc òa lên.

– Vào đi, em vào đi, – ông ta nức nở – Catherine, xin em lại đây! ôi, lại đây một lần nữa đi em! ôi, hỡi người yêu dấu của lòng ta, hãy nghe anh lần này! Catherine, xin em lại đây!

Nhưng cái hồn ma ấy không đáp lại và không tỏ một dấu hiệu nào là đang hiện diện ở đó. Gió và tuyết từ ngoài cửa sổ vào và thổi tắt ngọn nến. ông chủ nhà kêu than thống thiết đến nỗi tôi phải rời xa chỗ ngưỡng cửa và giận mình đã kể với ông ta về cơn ác mộng.

Tôi thận trọng đi xuống nhà dưới và thấy mình đang đứng trong bếp. Ở đây tôi có thể châm lại cây nến nhờ đống tro đỏ rực trong lò sưởi. Một con mèo xám nhổm dậy, chào tôi bằng một tiếng “ngao” ảo não. Tôi nằm xuống một băng ghế gỗ, cố nghỉ một chút.

Vài giờ sau, khi tôi còn đang nằm như vậy thì Joseph vào quấy quả. Lão từ phòng ngủ trên gác xép xuống đây. Lão ta không nói gì, chỉ thong thả rít tẩu thuốc, rồi bỏ đi cũng trịnh trọng như lúc bước vào.

Lúc này tôi nghe thấy một tiếng chân trẻ trung hơn. Tôi toan cất tiếng chào nhưng lại thôi ngaỵ Hareton Earnshaw đang chào đón buổi sáng bằng những lời nguyền rủa. Anh ta cầm lên một cái xẻng đế hốt tuyết chắn ngang lối đi. Tôi ngồi dậy đi theo anh ta, nhưng anh ta chỉ về phía một cái cửa ở phía trong, ra hiệu là tôi nên đi theo lối đó. Tôi thấy mình lại ở trong chính sảnh. Cánh phụ nữ đã tụ tập ở đó. Zillah đang dùng ống bể để thổi lửa trong lò sưởi trong khi cô Heathcliff thì đang đọc sách dưới ánh lửa.

Tôi ngạc nhiên thấy Heathcliff cũng có mặt ở đấy. ông ta đứng bên lò sưởi quay lưng về phía tôi; ông ta vừa quát mắng chị Zillah tội nghiệp một trận tơi bời.

– Còn cô, cô là đồ vô tích sự – Lúc này ông ta lên tiếng, quay sang cô con dâu – Cô lại ngồi không rồi. Tất cả những đứa khác thì làm lụng để kiếm ăn, còn cô thì sống nhờ vào lòng từ thiện của tôi. Cất quyển sách ấy đi, cô nghe không? Cô sẽ phải trả giá về cái tội lúc nào cũng làm cho tôi gai mắt.

– Tôi sẽ cất quyển sách của tôi đi vì ông có thể buộc tôi phải làm thế – Người thiếu phụ trẻ nói, gấp quyển sách lại và ném nó lên một chiếc ghế – Nhưng tôi sẽ không làm bất cứ một việc gì mà tôi không thích.

Heathcliff giơ cánh tay lên toan giáng xuống, nhưng cô gái đã nhanh nhẹn nhảy tránh ra chỗ khác và bĩu môi khinh bỉ. Bấy giờ tôi bước lại lò sưởi nên Heathcliff bèn đút tay vào túi. Cô Heathcliff lại ngồi xuống. Lần này cô ngồi xuống ở một chiếc ghế bên kia. Tôi từ chối không ăn điểm tâm cùng họ, và ngay khi trời đủ sáng tôi liền bước ra ngoài, nơi khí trời quang đãng, yên tĩnh và lạnh giá.

Vị chủ nhà của tôi lớn tiếng gọi tôi dừng lại khi tôi vừa đến cuối vườn và tình nguyện đi cùng tôi qua vùng đồng hoang. Tôi mừng là có ông ta đưa đi, vì tuyết rơi đã làm mặt đất đổi thay không thể nhận ra được và tôi không biết đi theo lối nào. Dọc đường chúng tôi trò chuyện rất ít và chia tay nhau trước lối vào vườn hoa ấp Thrushcross. Mặc dù đến lúc này thì tôi đã biết đường, nhưng phải tới giữa trưa tôi mới về lại được ấp.

Bà Dean, người quản gia của tôi rất lo lắng cho tôi. Bà ta còn lo lắng hơn nữa vì kết quả cuộc phiêu lưu của tôi là tôi bị cảm lạnh và sốt cao, buộc phải nằm lì trong phòng một thời gian.

Khi tôi đã thấy trong người khá hơn, tôi hỏi chuyện bà Dean về mấy người láng giềng của tôi ở bên Đỉnh Gió Hú. Bà ta rất sung sướng được kể chuyện cho tôi vì bà ta đã lớn lên ở đấy, tuy đã mười tám năm nay bà sống ở ấy Thrushcross.

Tôi đã thuê ấp Thrushcross để làm nơi sống ẩn dật, tránh xa mọi người, giờ đây tôi thấy mình rất háo hức muốn nghe mọi chuyện, càng nhiều càng tốt về người đàn ông kỳ quặc sống cách chỗ tôi bốn dặm.

Suốt mấy tuần tiếp theo đó, tôi không thể ra khỏi nhà được, còn bà Dean thì lần lượt kể cho tôi nghe câu chuyện. Tôi sẽ ghi lại câu chuyện ấy trong lúc bà kể.

From Ngạo:

Đây là một câu truyện nổi tiếng mà Ngạo đã xem qua cách đây 2 năm, khởi đầu thì hơi… buồn ngủ 1 tý nhưng càng về sau thì lại càng bị cuốn vào, đến nỗi thuộc cả một số lời thoại của nhân vật chính.

Một tình yêu nóng cháy, đam mê nhưng: “Trời ơi, tôi có thể tha thứ cho em nhưng làm sao tôi có thể tha thứ cho kẻ giết người tôi yêu”… trong tác phẩm là thù, là hận, là thủ đoạn, là ghen tuông nhưng tất cả vì “Tôi quá yêu em”

Một mối tình, một kiếp hận, để rồi tất cả khép lại bằng một nụ hôn – một mối tình mới chớm nở.

Phả phệ các nhân vật chính trong “Đồi Gió Hú”:

Chương 3: Heathcliff được mang về Đồi Gió Hú

Tôi đã sống suốt từ nhỏ đến lớn ở Đồi Gió Hú trước khi đến sống tại ấp Thrushcross. Mẹ tôi là vú nuôi cho ông Hindley Earnshaw, là cha cậu Hareton Earnshaw. Tôi đã lớn lên bên cạnh hai đứa trẻ nhà Earnshaw là Hindley và Catherinẹ

Một buổi sáng mùa hè đẹp trời, dạo ấy là vào đầu mùa thu hoạch cỏ khô, cụ Earnshaw từ trên gác xuống nhà dưới, quần áo gọn gàng cho một chuyến đi xạ Cụ căn dặn Joseph, người phụ việc trong trại, về những việc cần làm ở trang trại trong mấy ngày tới, rồi quay sang Hindley, Catherine và tôi, lúc ấy đang ngồi ăn điểm tâm.

– Này, con trai cưng của cha, cha sẽ đi Liverpool. Con muốn cha mang quà gì về cho con? Con có thể chọn cái gì con thích, nhưng là cái nho nhỏ thôi, vì cha sẽ phải cuốc bộ đến sau mươi dặm.

Hindley chọn một cái vĩ cầm. Catherine dạo ấy mới lên sáu, nhưng đã có thể cưỡi bất cứ con ngựa nào trong chuồng không chút sợ hãi, nên cô ấy xin một cây roi ngựa. Rồi cụ Earnshaw quay sang hỏi tôi, hứa mang về cho tôi một túi đầy táo và đào. Cụ hôn từ biệt các con rồi lên đường.

Vào hôm mọi người dự tính cụ sẽ quay về, bọn trẻ van nài được thức chờ. Mãi đến mười một giờ đêm, cánh cửa mới khẽ mở và cụ chủ bước vào, vừa rên rỉ vừa cười, và nói sẽ không bao giờ cuốc bộ như thế nữa. Cụ mở cái áo choàng được cuộn thành một ôm trong cánh taỵ

– Xem này, bà nó. Bà phải nhận cái này như một món quà của Chúa ban cho, tuy nó đen thủi như thể từ chốn quỷ sứ chui ra.

Tất cả chúng tôi xúm quanh cụ Earnshaw và thấy đó là một đứa bé tóc đen, rách rưới, bẩn thỉu. Nó trông trạc tuổi Catherine, nhưng chỉ lắp bắp được mấy tiếng khó hiểu mà nó cứ nhắc đi nhắc lại mãi. Cụ bà Earnshaw hẳn là sẵn sàng tống cổ thằng bé ra khỏi nhà ngay lập tức.

– Phải nuôi con cái mình đẻ ra chưa đủ khổ hay sao mà lại còn rước cái đồ ấy về? – Bà hỏi. – ông định làm gì với nó kia chứ?

Cụ Earnshaw tuy đang mệt gần chết nhưng cũng cố giải thích. Cụ đã tìm thấy đứa bé này trên đường phố Liverpool, đói lả, bơ vơ không nhà không cửa và gần như câm. Chẳng có người nào biết nó, vì thế, cụ quyết định không bỏ mặc nó ở đấy, mà đem về Đồi Gió Hú để chăm sóc.

– Tắm rửa cho nó đi, Ellen. – Cụ Earnshaw nói, – và đưa quần áo sạch cho nó. Nó có thể ngủ chung với bọn trẻ.

Sau khi đã xem xét thằng bé xong, Hindley và Catherine lục túi áo khoác để tìm quà. Hindley, dạo ấy mười bốn tuổi, khóa òa lên khi thấy chiếc vĩ cầm của cậu bị đè dập trong chuyến đi về. Catherine khi biết cha đã đánh mất chiếc roi ngựa trong lúc mãi chăm sóc đứa bé xa lạ, liền bộc lộ cá tính bằng một tiếng cười gằn và nhổ nước bọt vào thằng bé mới được đem về.

Bọn trẻ không chịu ở chung phòng với thằng bé, nên nó phải nằm trên cùng cầu thang. Tôi hy vọng nó có thể bỏ trốn đi ngay đêm đó, nhưng sáng hôm sau cụ Earnshaw đã tìm thấy nó nằm đấy. Thế là tất cả chúng tôi bị quở trách vì đã đuổi nó ra ngoài. Thằng bé được đặt tên là Heathcliff và từ đấy trở đi, cái tên ấy vừa là tên thánh, vừa là họ của nó. Trong vòng vài ngày, nó và Catherine đã trở thành đôi bạn thân, nhưng Hindley thì rất ghét nó. Heathcliff là một đứa bé lầm lì, nhẫn nại, đã quen bị đối xử tàn tệ, và tuy Hindley đánh đập nó nhiều, nó không hề kêu khóc. Cụ Earnshaw nổi giận khi bắt gặp Hindley đánh đập “đứa bé mồ côi tội nghiệp”, như cụ vẫn thường gọi nó. Cụ tin bất cứ điều gì Heathcliff nói và rất yêu quý nó, nên ngay từ đầu, Heathcliff đã gây ác cảm trong nhà, vì cậu Hindley cảm thấy rằng kẻ mới đến đã tranh mất hết tình yêu thương của cha cậu.

Dần dần, sức khỏe của cụ Earnshaw bắt đầu suy sụp. Cụ hay nổi giận một cách vô cớ, và cứ đinh ninh là mọi người đều chống lại thằng con nuôi của cụ, nhưng thật ra, mọi người ở trong nhà đều để cho thằng bé muốn gì được nấy để không làm phiền lòng ông cụ. Nhưng điều này chẳng đem lại chút gì tốt đẹp cho thằng bé, vì tính kiêu kỳ và dữ dằn của nó ngày một quá quắt hơn. Bấy giờ cậu Hindley đã đi học xa nhà, còn Catherine ở lại nhà với cha và Heathcliff. Cô không thể hiểu được là sức khỏe sa sút khiến ông cụ hay cáu bẳn, và thấy thích thú mỗi khi được trêu tức cụ. Thật ra, cô vui sướng hơn cả là những khi cả nhà mắng mỏ cô, còn cô thì thách thức chúng tôi bằng những lời lẽ thô lỗ và những cái nhìn táo tợn.

Một buổi tối tháng Mười, cụ Earnshaw ngồi trên một chiếc ghế kê bên lò sưởi. Bên ngoài, một luồng gió lạnh gào rú nghe thật hoang dã và cuồng dại, nhưng ở trong chính sảnh thì vẫn ấm áp. Tôi ngồi cắm cúi đan, Joseph đọc Kinh Thánh, Catherine tựa đầu vào gối cha trong khi Heathcliff nằm trên sàn, ngả đầu vào lòng cộ ông cụ vuốt ve mái tóc Catherine.

– Catherine ạ, giá lúc nào con cũng ngoan như bây giờ thì hay biết mấy. – Cụ hỏi. Cô ngẩng mặt lên nhìn cụ và bật cười:

– Cha ạ, giá lúc nào cha cũng ngoan như bây giờ có phải hay hơn không?

Rồi khi thấy mình đã làm cụ tức, cô liền hôn tay cụ và nói rằng cô sẽ hát để ru cụ ngủ. Cô cất tiếng hát khe khẽ cho tới khi tay cụ rời khỏi tay cô và đầu cụ gục xuống ngực. Bây giờ, tôi bảo cô im lặng và đừng cử động để cụ khỏi thức giấc. Tất cả chúng tôi câm như hến độ nửa tiếng đồng hồ, nhưng rồi Joseph nói là lão phải đánh thức cụ chủ dậy đọc kinh và đi ngủ. Lão bước tới, chạm vào vai cụ, nhưng ông cụ không động đậy. Lão gia nhân bèn đem nến lại đển nhìn cụ rõ hơn, và tôi biết là có chuyện gì đó không ổn vì lão đặt nến xuống, vừa nắm lấy cánh tay bọn trẻ vừa nói: “Lên gác và đừng có làm ồn vì lão còn việc phải làm “.

– Nhưng trước tiên tôi phải chúc cha ngủ ngon đã. – Catherine vừa nói vừa vòng tay ôm cổ cụ trước khi chúng tôi kịp ngăn lại. Thế là cô thét lên:

– ôi! Cha chết rồi! Heathcliff! Cha chết rồi!

Cả hai đứa trẻ òa lên khóc đến xé lòng. Tôi cũng khóc cho đến khi Joseph ngăn lại.

– Không nên khóc lóc ầm ĩ thế, – lão nói. – Cô mặc áo choàng vào, rồi lên đường đến làng Gimmerton để gọi bác sĩ và cha xứ.

Tôi đội mưa gió chạy đi, và lúc tôi quay về thì thấy Heathcliff và Catherine đã lên gác và an ủi nhau ở đấy…

Giờ đây cuộc đời chúng tôi đã đổi thay biết chừng nào!

Cậu Hindley về nhà đưa đám và chúng tôi thật kinh ngạc khi thấy cậu đem về một cô vợ, nàng Frances. Ngay sau khi lo tang lễ xong, cậu cho mọi người biết cậu về để ở lại nhà và giờ đây cậu là ông chủ. Joseph và tôi được lệnh phải sống trong gian bếp sau nhà, để chính sảnh giành cho gia đình. Frances nói rất yêu quý Catherine, nhưng chẳng bao lâu đã thấy chán cô bé. Mợ Frances thoáng gặp đã không ghét Heathcliff và điều này làm thức tỉnh ở cậu Hindley tất cả mối căm hận xưa kia với thằng bé. Cậu không cho nó học tiếp, tống nó ra ngoài sống với đám gia nhân, và buộc nó phải làm việc ngoài trại.

Thoạt đầu, Heathcliff không để tâm lắm đến chuyện này, vì Catherine vẫn cùng làm hoặc cùng chơi đùa với nó ở ngoài đồng, và dạy lại cho nó những gì cô đã học được trong giờ học. Hindley không quan tâm chúng làm những gì, miễn là chúng tránh xa không làm phiền cậu.

Một buổi tối chủ nhật mưa gió, cả hai đứa trẻ bị đuổi ra gian bếp sau nhà vì gây ồn ào, nhưng khi tôi đi gọi chúng về ăn tối thì không tìm thấy chúng đâu cả. Chúng tôi lùng sục khắp nhà, từ trên gác xuống dưới.

Đến đây thì cậu Hindley lại nổi cơn thịnh nộ:

– Cài then cửa lại, Joseph, – cậu kêu lớn. – Không được cho chúng vào nhà đêm naỵ

Mọi người đi ngủ. Tôi lên phòng mình và mở cửa sổ. Mặc dù mưa rất nặng hạt, tôi vẫn thò đầu ra ngoài nghe ngóng, vì tôi nhất quyết để chúng nó vào nhà, nếu chúng quay về, dù cho cậu Hindley có nói gi đi chăng nữa. Tôi nghe có tiếng chân bước trên đường, và thấy một ngọn đèn lồng tỏa sáng gần chỗ cánh cổng, nên tôi quàng vội tấm khăn choàng lên đầu, rồi chạy xuống nhà để ngăn chúng đừng làm cậu Earnshaw thức giấc.

Heathcliff đứng đấy nhưng chỉ có một mình.

– Cô Catherine đâu? – Tôi hốt hoảng kêu lên. – Đã xảy ra tai nạn gì ư?

– Cô ấy ở ấp Thrushcross, – nó đáp cộc lốc. Và lẽ ra tôi cũng đã ở lại đấy luôn, nhưng họ bất lịch sự không mời tôi ở lại.

– Cậu sẽ bị lôi thôi to cho mà xem, – tôi nói. – Cái quái gì đã khiến cô cậu lang thang đến ấp Thrushcross vậy?

– Để tôi cởi bộ quần áo ướt này ra đã. – Heathcliff vừa nói vừa ẩy tôi sang bên, đi vào phòng. – Rồi tôi sẽ kể đầu đuôi câu chuyện cho chị nghe.

Chương 4: Catherine gặp rắc rối

Tôi dặn nó không được làm ồn, và nó bắt đầu kể.

– Catherine và tôi ra khỏi gian bếp sau nhà và bắt đầu chạy rông trên những cánh đồng hoang. Chúng tôi thấy ánh đèn ở ấp Thrushcross đằng xa, bèn quyết định đến xem thử bọn trẻ nhà Linton có phải đứng run rẩy trong xó nhà, trong lúc bố mẹ chúng ngồi cười đùa, ca hát, uống rượu trước lò sưởi không. – Heathcliff cởi chiếc áo khoác ước sũng và giăng nó ra trước ánh lửa hồng trong lò sưởi nhà bếp – Chúng tôi chạy một mạch từ đỉnh đồi đến ấp không dừng lại lần nào. Tôi chạy nhanh hơn Catherine vì cô ta chạy chân không, Ellen ạ, Ngày mai, chị phải đi mà tìm đôi giầy cho cô ấy trong đầm lầy. Chúng tôi trườn qua chỗ hàng rào gẫy, lần theo lối đi trong vườn dẫn lên ngôi nhà, và đứng nấp trong một khóm hoa bên dưới cửa sổ phòng khách. ôi, trong nhà mới đẹp làm sao, Ellen ạ! Sàn trải thảm đỏ, bên trên là những chiếc ghế bọc da đỏ và một cái bàn, còn trần nhà thì sơn trắng toát, bốn phía viền vàng. Edgar Linton và cô em đang ở đó một mình. Chúng được ở một nơi tuyệt diệu như thế sướng thật. Nhưng chị thử đoán xem, những đứa trẻ ngốc nghếch ấy đang làm gì nào? Isabella, mười một tuổi, nhỏ hơn Catherine một tuổi, nằm la hét dưới sàn, mãi đầu cuối phòng, còn Edgar thì đứng bên lò sưởi lặng lẽ khóc.

– Ngay giữa phòng là một con chó nhỏ đang run cầm cập. Qua những lời chúng kết tội nhau, chúng tôi có thể đoán là chúng đã giằng co nhau suýt xé đôi con vật ra. Thật là lũ ngốc! Nghĩ mà xem, chúng mua vui như vậy đấy; tranh giành nhau xem đứa nào có được một dúm lông chó. Catherine và tôi phá lên cười hai đứa trẻ hư vì quá được nuông chiều đó. Sao mà chúng tôi khinh bọn nó thế!

Heathcliff ngừng lại một lát rồi lại tiếp tục câu chuyện:

– Hai đứa trẻ nghe tiếng chúng tôi cười, liền lao như tên bắn ra cửa.

– ôi! Cha ơi! Cha ơi! Mẹ ơi! Mẹ ơi! Lại đây nhanh lên! – Chúng hoảng hốt kêu lên.

Catherine và tôi làm những tiếng động kinh khủng để dọa cho chúng sợ thêm. Rồi tôi nghe có tiếng người đang đến gần, nên vội bỏ chạy, vừa chạy vừa cười vang. Bỗng Catherine bị ngã.

– Chạy đi, Heathcliff, chạy đi! – Cô thì thầm – Họ thả con chó ngao ra rồi đấy, nó tóm được mình rồi.

Con vật hung dữ ngoạm lấy cổ chân Catherine, nhưng cô không hề kêu. Nhưng tôi la toáng lên. Tôi xổ ra một tràng những câu chửi bới. Chộp lấy một hòn đá dưới đất, tôi ấn vào giữa hai hàm răng con vật. Tôi dùng hết sức bình sinh đẩy nó chui sâu vào cổ họng con chó.

Một tên gia nhân xách đèn lồng chạy đến:

– Ngoạm chặt lấy, Skulker! Ngoạm chặt lấy! –

Gã la lên. Bỗng gã trông thấy mồm con Skulker. Con vật bị nghẹt thở, đứng thè cái lưỡi đỏ lòm ra ngoài miệng, mép dính đầy máu.

Gã ta bế Catherine vào nhà. Cô nôn mửa không phải vì sợ mà vì đau.

– Anh bắt được cái gì thế? – ông già Linton từ phía ngưỡng cửa hỏi vọng ra.

– Con Skulker tóm được một cô bé, thưa ngài – tên gia nhân đáp – và còn có một thằng bé nữa, trông rất tinh quái.

– Mang chúng vào đây – ông Linton nói – Chúng ta sẽ xử chúng. Sao chúng lại dám làm vậy nhỉ?

ông ta kéo tôi vào và quan sát tôi:

– Thằng bé này quả là một tên côn đồ! Trông mặt là rõ ngaỵ

Isabella tiếng lại gần và kêu lên:

– Trông nó thật là gớm ghiết. Tống nó vào hầm rượu đi, ba ơi! Tống nó vào hầm rượu đi!

Catherine đã tỉnh lại sau cơn choáng váng trong lúc bọn họ đang mải xem xét tôi, nghe thấy những lời họ nói, cô cười phá lên. Bấy giờ Edgar tách khỏi đám người đang tụ tập quanh tôi để nhìn chằm chằm vào Catherinẹ

– Mẹ ơi, mẹ ơi! – Nó nói – Đấy là cô Earnshaw. Con nhớ đã gặp cô ấy ở nhà thờ. ôi, mẹ nhìn xem con Skulker đã cắn cô ta khiếp chưa kìa, bàn chân cô ta chảy máu ghê quá!

– Cô Earnshaw ư? Nói bậy! – Bà Linton đáp – Cô Earnshaw mà lại đi rông với một thằng digan ư? Nhưng mà… nhưng mà… – Bà Linton nhìn lại – Phải, con nói đúng đấy. Chính là cô Earnshaw thật. Trời ơi! Không khéo cô ấy bị què suốt đời mất!

Bà ta đi lại chiếc đi văng:

– Anh cô ta thật bất cẩn, ai lại để cô ta đi ra ngoài lúc đêm hôm khuya khoắt thế này. Còn thằng này là thằng nào vậy? ôi, tôi biết rồi. Đây ắt hẳn là thằng bé kỳ lạ mà ông bạn láng giềng quá cố của chúng ta đã đem từ Liverpool về.

Robert, gã gia nhân, được lệnh tống cổ tôi đi ngay tức khắc.

– Không có Catherine thì tôi không đi đâu hết – Tôi cương quyết nói. Nhưn g Robert đã kéo tôi ra vườn, đưa cho tôi một ngọn đèn lồng, rồi khóa cửa lại sau lưng tôi. Tôi quay trở lại cửa sổ phòng khách và dòm vào trong.

Nếu Catherine muốn đi khỏi đấy tôi định bụng sẽ đập vỡ cửa kính ra làm triệu mảnh để đưa cô ấy ra. Bà Linton trò chuyện với cô trong lúc một người đầy tớ gái rửa chân cho cộ ông Linton đưa cho cô một cốc rượu vang và Isabella trút cả một đĩa bánh ga-tô đầy vào lòng cộ Họ hong khô và chải mái tóc rất đẹp của cô, rồi đẩy chiếc ghế sofa đến bên lò sưởi. Khi tôi ra khỏi nhà thì cô đang hết sức vui vẻ cho con chó nhỏ và con Skulker ăn. Gia đình Linton đứng vây quanh. Chẳng phải là cô ấy hơn tất cả bọn họ một trời một vực sao, chị Ellen?

– Tôi e là ngày mai cậu sẽ bị quở mắng nhiều hơn đấy. – Tôi bảo nó – Giờ thì đi ngủ đi.

Lời tôi tiên đoán quả rất đúng.

Hôm sau, cụ Linton đến Đỉnh Gió Hú và lên lớp cho Hindley một hồi về việc chăm sóc và dạy dỗ Catherinẹ Hindley không đánh đòn Heathcliff, thay vào đó, Hindley bảo là hễ nó mở miệng nói với Catherine một câu mà không xin phép thì sẽ bị đuổi đi ngay lập tức.

Catherine ở lại ấp Thrushcross năm tuần, cho đến lễ Giáng Sinh. Lúc này, cổ chân cô đã khỏi hẳn và cách đi đứng nói năng của cô cũng khá lên nhiều. Mợ Frances Earnshaw cũng thường xuyên đến thăm cô và mang cho cô mấy bộ quần áo đẹp. Rốt cuộc, thay vì một cô bé hoang dã như ngày cô rời khỏi nhà, lúc trở về, cô đã là một tiểu thư trẻ trung, với những lọn tóc nâu buông mềm mại quanh cổ chiếc áo choàng mới. Hindley đỡ cô từ trên lưng chú ngựa nhỏ xuống, vẻ mặt sung sướng.

– Chà, Catherine, em là một giai nhân thực thụ, trông em bây giờ như một tiểu thự Ellen, lại giúp cô Catherine đi.

Tôi cởi chiếc áo choàng cho cô và thấy bên trong là một chiếc váy lụa tuyệt đẹp. Mắt cô ánh lên vui vẻ khi lũ chó nhảy tới mừng, nhưng cô không dám sờ vào chúng, sợ chúng làm hỏng mất bộ y phục lộng lẫy.

Sau khi chào Hindley và Frances, cô đưa mắt nhìn quanh.

– Heathcliff không có đây sao? – Cô hỏi.

Heathcliff đang trốn sau nhà ấy. Trước đây, nó vốn đã lôi thôi lếch thếch, nhưng từ lúc Catherine vắng nhà, nó còn tệ hơn gấp mười. Không một đứa trẻ nào ở tuổi nó lại thích tắm rửa, và ngoài tôi ra, không có ai bảo nó phải đi tắm lấy một lần. Quần áo nó ba tháng không thay, còn đầu tóc thì rối bù không bao giờ chải. Biết Catherine trở về, nó đã vào chính sảnh, nhưng rồi lại bỏ đi khi cô tiểu thư duyên dáng lộng lẫy này bước vào, vì nó yên trí cô vẫn ăn mặc lôi thôi lếch thếch như ngày đi khỏi nhà.

– Heathcliff, mày có thể ra được đấy – Cậu Hindley nói, vui thích trước vẻ lúng túng của Heathcliff – Mày có thể đến chào mừng cô Catherine như các gia nhân khác.

Catherine thấy bạn mình đang cố lẩn tránh, liền lao tới chỗ nó, hôn lên má nó bảy tám cái liền. Rồi cô lùi lại chăm chú nhìn nó.

– Sao trông cậu đen đúa và cau có thế? – Cô vừa hỏi vừa cười vang. – Trông kỳ cục và lầm lì làm sao. Chắc hẳn chỉ vì dạo này mình đã quen nhìn Edgar và Isabella Linton thôi. Này, Heathcliff, cậu quên mình rồi ư?

Tôi cho là cô đúng khi hỏi thế, vì nỗi xấu hổ và lòng tự ái khiến nó đứng ngây người vẻ mặt quàu quạu.

– Bắt tay đi, Heathcliff – cậu Hindley nói – Lần này tao cho phép mày được làm thế, bắt tay cô chủ đi.

– Tôi không bắt – thằng bé đáp, cuối cùng nó đã mở được miệng – Tôi sẽ không đứng đây cho người ta cười nhạo đâu. Tôi không chịu được.

Nói đoạn, nó lao ra khỏi phòng trước sự vui thích tột độ của vợ chồng cậu Hindley, trong khi Catherine bối rối thật sự.

Heathcliff ở ngoài chuồng ngựa, chải lông cho mấy con ngựa và không thèm để ý đến lời tôi mời nó vào nhà để cùng ngồi cạnh lò sưởi.

Ngày Giáng Sinh, nó dậy sớm và ở bên ngoài mãi cho tới khi cả gia đình đã đi nhà thờ. Lúc quay về hình như nó đã trút bỏ hết tâm trạng bực bội ở ngoài chốn đồng hoang. Nó quanh quẩn ở chỗ tôi một lát.

– Chị Ellen, chị hãy sửa sang cho tôi được tươm tất – nó nói – Tôi muốn trở thành một đứa bé ngoan.

– Đã đến lúc rồi đấy. – Tôi đáp – Cậu đã làm cho Catherine buồn và tôi dám chắc là cô ấy lấy làm tiếc là đã trở về nhà.

– Cô ấy nói là cô ấy buồn ư? – Nó hỏi, vẻ rất nghiêm trang.

– Cô ấy đã khóc khi tôi nói là sáng nay cậu đã bỏ đi.

– Ồ, đêm qua tôi đã khóc, – nó nói – và tôi có lý do để khóc hơn là cô ấy.

– Phải, cậu có lý do là cậu đã đi ngủ với một trái tim kiêu hãnh và một cái bụng rỗng. – Tôi nói – Những người kiêu kỳ thường chuốc lấy đau buồn cho chính mình. Vậy thì được rồi, tôi sẽ tạm ngừng nấu nướng một lát để sửa sang cho cậu, làm sao để cho Edgar Linton so với cậu chỉ còn là một hình nộm. Cậu nhỏ tuổi hơn, nhưng cao hơn và rộng vai gấp đôi nó.

Tôi cứ thế tiếp tục tán chuyện. Dần dần nó thôi không cau mày nữa và bắt đầu vui lên. Vừa sửa sang cho gọn gàng xong thì chúng tôi nghe có tiếng ngựa phi và tiếng xe ngựa lọc cọc. Nó chạy ra cửa sổ thì vừa kịp trông thấy gia đình Earnshaw xuống ngựa và hai anh em nhà Linton bước ra khỏi xe.

Tôi giục Heathcliff mau ra chào họ, và nó vui vẻ làm theo. Rủi thay, khi nó mở cánh cửa ngăn giữa nhà bếp và chánh sảnh thì cậu Hindley từ phía bên kia bước vào. Cậu chủ bực mình khi thấy nó sạch sẽ vui tươi như vậy.

– Tống nó lên phòng! – Hindley quát – Sao nó lại ở đây? Nó đã cố chải chuốt cho gọn ghẽ hơn phải không? Đợi đến lúc tao tóm được mớ tóc dài kia, tao sẽ kéo cho nó dài thêm tí nữa!

– Thế cũng đủ dài rồi, – Edgar Linton, từ ngoài ngưỡng cửa ghé mắt nhìn vào nói. – Chà, trông như một cái bờm ngựa phủ lên mắt nó ấy.

Heathcliff đưa mắt nhìn thằng bé mà chưa chi nó đã căm ghét như một tình địch. Vớ lấy một đĩa nước xốt táo nóng trên chiếc bàn làm bếp, nó hắt toẹt vào cổ và mặt Heathcliff. Edgar la toáng lên. Isabella và Catherine vội chạy đến xem có chuyện gì, trong khi Hindley lôi nó về phòng, đánh cho nó một trận.

– Lẽ ra anh không nên nói với cậu ấy làm gì. – Catherine trách Edgar – Anh đã làm hỏng cuộc đến thăm, còn cậu ấy sẽ bị đánh, giờ thì sẽ chẳng còn bụng dạ nào mà thưởng thức bữa tối.

Hindley quay lại, và tất cả bọn họ ngồi xuống dự bữa tiệc Giáng Sinh. Trên đĩa Catherine là một miếng thịt ngỗng lớn. “Thật là một con bé ích kỷ”. Tôi nhủ thầm trong bụng, “thật là thiếu tình cảm, không hề xót thương cho thằng bạn nó”. Nhưng rồi tôi để ý thấy mắt cô ngấn lệ và cô không ăn được miếng nào.

Sau đó, một ban nhạc từ Gimmerton tới biểu diễn, mọi người vui vẻ ca hát và khiêu vũ.

– Tiếng nhạc thật vui tươi, – Catherine nói – nhưng tôi sẽ lên lầu nghe. Trên ấy nghe nó du dương và ngọt ngào hơn.

Cô đi ra, leo lên cầu thang đến chỗ gác xép, nơi Heathcliff bị nhốt. Một lát sau, khi tiếng ca hát đã dứt, tôi đến để báo với cô rằng mọi người sẽ thấy thiếu cô, nhưng tôi không thấy cô đâu cả.

Không chịu trò chuyện với Heathcliff qua cánh cửa, cô đi ra ngoài, trèo vào phòng nó qua cái cửa sổ cho Heathcliff ăn uống chút ít bên chiếc lò sưởi trong bếp, cô mới chịu leo trở ra để đi xuống quần tụ với gia đình.

Thằng bé quá đau buồn nên chẳng ăn uống được là bao. Nó ngồi trên một chiếc ghế cạnh lò sưởi, tỳ hai khuỷu tay đầu gối, hai bàn tay chống cằm.

– Nào Heathcliff, cậu đang nghĩ gì vậy? – Tôi hỏi.

– Tôi đang cố xác định xem sẽ trả thù Hindley như thế nào. Tôi không bận tâm mình phải chờ đợi bao lâu. Tôi chỉ hy vọng hắn sẽ không chết trước khi tôi kịp trả thù.

– Thật xấu hổ cho cậu, Heathcliff. – Tôi nói – Trừng phạt kẻ ác là việc của Chúa, còn chúng ta phải biết tha thứ.

– Không, Chúa sẽ không có được niềm mãn nguyện là thấy tôi tha thứ đâu. – Nó đáp – Tôi chỉ mong sao mình tìm được cách trả thù tốt nhất thôi. Cứ mặc kệ tôi, Ellen, rồi tôi sẽ nghĩ ra kế. Tôi không cảm thấy đau đớn khi nghĩ đến điều đó, và một ngày kia, tôi sẽ trả thù!

Chương 5: Heathcliff biến mất

Tháng sáu mùa hè năm sau, tức là cách đây hai mươi ba năm, mợ Frances Earnshaw sinh hạ được một bé trai. Tôi phảo lĩnh lấy trách nhiệm chăm sóc đứa bé mới chào đời tên là Hareton, vì mẹ nó đã qua đời hai tuần sau đấy. Hindley Earnshaw đau buồn vô hạn. Cậu chẳng hề tỏ ra quan tâm đến đứa bé chút nào. Miễn là nó trông khỏe mạnh và để cậu nghe thấy tiếng khóc là cậu bằng lòng. Về phần cậu, nỗi đau buồn đã làm thay đổi hẳn cuộc đời cậu, cậu không khóc cũng chẳng cầu nguyện; thay vào đó, cậu chửi rủa và quát tháo, suốt ngày mải mê cờ bạc và rượu chè. Joseph và tôi là hai gia nhân duy nhất còn ở lại. Những người khác đều bỏ đi vì họ không chịu đựng nổi cách cư xử của cậu.

Những thói xấu và đám bạn hữu hư hỏng của Hindley là tấm gương xấu cho Catherine và Heathcliff. Cái cách cậu đối xử với Heathcliff cũng đủ sức biến một vị thánh thành ác quỷ, và dường như là lúc này đã có một cái gì đó của quỷ dữ hiện hữu trong con người Heathcliff. Nó thích thú thấy cậu Hindley mất hết tự chủ, đồng thời bản thân nó cũng ngày một hung dữ và lầm lì hơn.

Ngôi nhà thật kinh khủng.

Bấy giờ không còn một vị khách nào đến chỗ chúng tôi, ngoại trừ cậu Edgar Linton đến thăm cô Catherinẹ Catherine giờ đây đã mười lăm, và là nữ hoàng của vùng thôn quệ Cô kiêu kỳ và ngạo mạn, tôi phải nói là lúc này tôi không còn ưa cô, và luôn cố tìm cách chọc tức cộ Nhưng cô vẫn quý tôi và lòng thương yêu đối với Heathcliff chẳng bao giờ thay đổi. Hai người gặp gỡ nhau vào những lúc không bị cậu Hindley để ý. Edgar Linton tuy ăn mặc chải chuốt và cư xử lịch thiệp hơn, cũng không thể chiếm được tình yêu thương của cô nhiều đến thế.

Một buổi chiều, Edgar cưỡi ngựa đến thăm vì Catherine đã nhắn với cậu là Hindley sẽ vắng nhà.

– Tôi có đến sớm quá không đấy? – Cậu lên tiếng hỏi lúc bước vào, vì thấy tôi bận phủi bụi mấy cái đĩa trong tủ.

– Dĩ nhiên là không đâu, – Catherine đáp. Cô quay về phía tôi. – Ellen, chị làm gì ở trong này vậy?

– Làm công việc của tôi. – Tôi đáp gọn.

Catherine bước đến bên tôi, nói khẽ:

– Ra ngoài đi. Gia nhân không được lau dọn lúc nhà đang có khách.

– Lúc cậu chủ đi vắng là dịp tốt để lau dọn chứ. – Tôi cất tiếng nói. – Vì cậu Earnshaw không thích tôi làm việc lúc cậu ấy ở nhà. Tôi chắc cậu Edgar sẽ bỏ quá cho tôi.

Trước khi Edgar kịp đáp, Catherine đã thô lỗ nói:

– Tôi không thích chị lau dọn trước mặt tôi…

– Tôi rất tiếc phải nghe cô nói thế. – Tôi đáp trong khi vẫn tiếp tục công việc của mình.

Nghĩ rằng cậu Edgar không thể trông thấy, cô giật phắt chiếc khăn lau khỏi tay tôi và véo vào cánh tay tôi. Cô làm tôi đau điếng, đến nỗi tôi phải kêu lên:

– ôi, cô ác quá! Cô không có quyền cấu tôi.

– Tôi không hề đụng đến chị. – Catherine nói tọ – Chị nói dối! Cô dậm chân và do thói tai ác trong cô thôi thúc, cô tát một cái vào má tôi.

Edgar bước đến, choáng váng chứng kiến toàn bộ cảnh này. Bé Hareton, vốn theo tôi khắp nơi, đang ngồi dưới sàn, gần chỗ tôi. Nhìn thấy những giọt nước mắt của tôi, nó cũng khóc òa lên và nói:

– Cô Catherine hư quá.

Catherine quay sang nó, nắm lấy người nó lắc mạnh. Edgar thấy tội nghiệp cho thằng bé, nên cố gỡ tay cô ra khỏi vai nó. Ngay lập tức, cô đưa bàn tay còn rảnh vả vào tay cậu một cách không thể cho là đùa giỡn được. Cậu lùi lại, kinh ngạc.

Cậu bước đến cầm lấy mũ.

– Anh đi đâu? – Catherine hỏi. – Anh không được về.

– Tôi phải đi và tôi sẽ đi khỏi đây. – Cậu đáp với một giọng nhỏ nhẹ.

– Không, không, Edgar Linton. Anh không thể bỏ mặc tôi mà đi trong lúc này. Tôi sẽ phải khổ sở suốt đêm, mà tôi lại không muốn khổ sở vì anh. Thôi được rồi, đi đi, nếu anh muốn thế. Anh cứ việc đi khỏi đây, còn bây giờ tôi sẽ khóc, tôi sẽ khóc khổ sở một mình.

Cô khuỵu gối xuống bên một chiếc ghế và lớn tiếng nức nở. Edgar bước ra sân rồi đứng lại đấy, phân vân chưa biết làm gì. Nhưng quyết tâm ra đi của cậu chẳng hơn gì con mèo quyết bỏ lại một con chuột đã bị cắn gần chết hay một con chim đã ăn hết phân nửa. Cậu đột nhiên quay phắt lại, đi vào nhà và đóng cửa lại.

Một lúc sau, tôi thấy cậu Hindley đang quay về nhà, say không còn biết trời đất gì nữa. Khi tôi đến báo tin cho họ thì thấy không những cuộc cãi vã đã chấm dứt mà còn làm cho họ gần gũi nhau thêm. Edgar vội vã ra về qua cổng trước, còn Catherine thì bỏ lên phòng cô khi anh cô bước vào.

Buổi tối, tôi ngồi trong bếp ru Hareton ngủ. Tôi tưởng Heathcliff đã ra chuồng ngựa, nhưng về sau tôi mới biết là nó không ra đó, mà chỉ đến chỗ cái ghế ở cuối gian bếp. Nó lặng lẽ ngồi đấy, khuất trong bóng tối, nơi nó không bị ai trông thấy.

Catherine bước vào.

– Chị có một mình thôi ư, Ellen? – Cô thì thào.

– Phải. – Tôi đáp.

Cô ngồi xuống bên tôi, vẻ mặt bối rối, lo âu, nhưng vì cô không lên tiếng nên tôi vẫn tiếp tục hát rụ

– Heathcliff đâu? – Lát sau cô cất tiếng hỏi.

– Đang làm công việc của nó ở chuồng ngựa. – Tôi đáp thế vì đinh ninh nó đang ở đấy. Nó không lên tiếng cải chính, có lẽ đã ngủ thiếp đi rồi. Lại im lặng một hồi lâu.

– Trời ơi! – Rốt cục Catherine thốt lên. – Sao tôi khổ sở thế này?

– Thế thì thật tội nghiệp. – Tôi nói. – Khó mà làm cho cô vừa lòng được. Cô có nhiều bạn bè, ít phải lo toan, ấy vậy mà cô vẫn chưa bằng lòng.

– Ellen, liệu chị có giữ kín được một điều bí mật không? – Cô hỏi, cặp mắt đen láy ngước lên nhìn tôi, khiến cơn giận dữ của tôi tan biến hết.

– Tôi cần phải tâm sự với một người nào! – Cô nói tiếp. – Hôm nay, Edgar Linton vừa cầu hôn tôi và tôi đã trả lời cậu ấy. Bây giờ, trước khi tôi cho chị biết tôi nhận lời hay từ chối, chị hãy nói xem, lẽ ra tôi phải trả lời thế nào?

– Thật tình, làm sao mà tôi biết được? – Tôi đáp. – Cứ nghĩ cách cô xử sự chiều nay, thì tôi nghĩ là cô nên từ chối cậu ấy. Còn cậu ta lại cầu hôn cô sau chuyện đó, thì tôi lại nghĩ cậu ta hẳn là thằng ngụ

– Nếu chị nói với tôi như vậy thì tôi sẽ chẳng kể thêm gì cho chị nữa. – Cô nói. – Ellen ạ, tôi đã nhận lời cậu ấy. Nhanh lên, chị nói xem, liệu tôi có sai lầm không?

– Trước hết, cô có yêu cậu Edgar không đã?

– Tất nhiên là có. Tôi yêu mọi cái ở cậu ấy.

– Để tôi nói cô nghe thử, cô Catherine ạ. Cô yêu cậu Edgar Linton, vì cậu ấy trẻ trung, đẹp trai, vui vẻ và giàu có. Liệu cô có yêu cậu ấy nếu cậu ấy kkhông có bốn thứ ấy không?

– Nếu thế thì tôi chỉ thương hại, hay căm ghét cậu ấy thôi. – Cô đáp.

– Nhưng vì cậu ta có những thứ ấy và cậu ta yêu cô, vậy cô cứ lấy cậu tạ

– Việc đó tôi không cần chị cho phép, Ellen. Tôi sẽ lấy cậu ấy, nhưng chị chưa cho tôi biết liệu tôi có đúng không?

– Hoàn toàn đúng, cậu Hindley, anh cô, sẽ hài lòng. ông bà Linton sẽ vui mừng. Cô sẽ rời khỏi một gia đình lộn xộn, khó chịu để đến sống trong một gia đình giàu có, đáng kính. Cô nói cô yêu Edgar, và Edgar yêu cô, vậy thì sao cô lại thấy mình bất hạnh?

– Ở đây và ở đây này. – Catherine nói, một tay vỗ ngực, tay kia vỗ trán. – Ở đây hay ở bất kỳ chỗ nào mà linh hồn đang trú ngụ. Từ tận đáy lòng và tâm hồn tôi, tôi biết là mình đã lầm, nhưng tôi không sao lý giải rõ ràng được.

Cô ngồi bên tôi, vẻ mặt buồn rầu.

– Ellen, có lần tôi mơ thấy mình đang ở trên thiên đàng, nhưng xem ra thiên đàng không phải là mái nhà yên ấm cho tôi, và tôi khóc đến nát lòng đòi về lại trái đất. Các thiên thần giận tôi đến nỗi họ ném tôi xuống giữa vùng đồng hoang, trên đỉnh Đồi Gió Hú. Tôi tỉnh dậy, khóc nức nở vì vui mừng.

– ôi, Ellen, tôi mà lấy Linton thì chẳng thích hợp gì hơn tôi ở trên thiên đàng. Nếu ông anh đáng ghét của tôi không dìm Heathcliff xuống cảnh bần cùng như thế, thì ắt hẳn chẳng bao giờ tôi lại nghĩ đến chuyện đó. Bây giờ mà lấy Heathcliff thì mất hết danh giá.

Đến đây, nghe thấy có tiếng động đằng sau lưng chúng tôi, tôi ngoái đầu lại nhìn.

Heathcliff rời ghế đứng dậy và lẻn ra ngoài không một tiếng động. Catherine không hay biết gì, và Heathcliff đã biến mất trước lúc cô lại lên tiếng nói tiếp.

– Tôi sẽ không bao giờ để Heathcliff biết được tôi yêu cậu ấy đến thế nào. Tôi yêu cậu ấy không phải vì đẹp trai mà vì cậu ấy đúng là bản thân tôi, còn giống tôi hơn cả tôi nữa. Dù làm bằng chất gì đi nữa thì tâm hồn Heathcliff và tâm hồn tôi vẫn là một. Còn tâm hồn Edgar thì khác hẳn tâm hồn tôi như ánh trăng khác tia chớp, hay như băng khác lửa.

Bấy giờ tôi bảo Catherine im lặng.

– Joseph đã về đấy, và Heathcliff sẽ vào đây cùng lão tạ – Tôi bảo cộ

– Giao Hareton cho tôi, tôi sẽ trông nó trong lúc chị chuẩn bị bữa tối. Tôi không muốn Heathcliff biết tí gì về chuyện này. – Catherine nói. – Cậu ấy chả biết thế nào là đang yêu, phải không nào?

– Tôi chẳng thấy có lý do gì mà cậu ta không biết được bằng cộ – Tôi đáp. – Và nếu cô là người mà cậu ta chọn thì cậu ta là sinh vật bất hạnh nhất từng sinh ra ở trên đời này. Vì ngay khi cô trở thành bà Linton, là cậu ta mất cả bạn, cả tình yêu, mất tất cả! Cô đã tính đến chuyện cô sẽ chịu đựng sự chia lìa ấy như thế nào và cậu ta sẽ chịu đựng cảnh bị bỏ lại một mình trên cõi đời này như thế nào chưa?

– Bỏ cậu ấy một mình? – Catherine kêu lên. – Không, Heathcliff và tôi sẽ không bao giờ bị chia lìa. Nếu Heathcliff và tôi lấy nhau, thì chúng tôi chỉ có nước đi ăn mày, nhưng nếu tôi lấy Edgar Linton, thì tôi có thể giúp Heathcliff vươn lên và thoát khỏi uy quyền của Hindleỵ

– Cô nói sao, bằng tiền của chồng ư? Cô nghĩ là Heathcliff sẽ chấp thuận điều ấy sao? Thật là một lý do sai trái để lấy cậu Linton! – Tôi thốt lên.

– Ellen, tôi không thể giải thích với chị được. Những nỗi khổ tâm lớn lao trong đời tôi chính là những nỗi khổ tâm của Heathcliff. Tình yêu của tôi đối với Linton cũng giống như cây cối trong rừng. Thời gian sè làm nó thay đổi như mùa đông sẽ làm cây cối đổi thaỵ Nhưng tình yêu của tôi đối với Heathcliff thì giống như những tảng đá vĩnh hằng ẩn sâu trong lòng đất, tuy không dễ gì nhìn thấy được nhưng nó vẫn tồn tại ở đấy. Ellen ạ, tôi chính là Heathcliff. Cậu ấy luôn ở trong tâm trí tôi, vì vậy xin đừng nhắc đến chuyện chúng tôi phải chia lìa nhau nửa nhé, tôi không thể chịu đựng nỗi điều ấy đâu.

Đến đây thì Joseph bước vào, nên cuộc chuyện của chúng tôi chấm dứt. Khi lão lên tiếng hỏi Heathcliff đâu thì chúng tôi đã sắp ăn xong bữa tối.

– Tôi sẽ đi gọi nó. – Tôi đáp. – Tôi chắc nó đang ở chuồng ngựa.

Nhưng chẳng có dấu hiệu nào là nó đang ở đấy. Tôi quay về. khẽ rỉ tai với Catherine rằng tôi e nó đã nghe được một phần câu chuyện cô nói đêm nay, vì tôi trông thấy nó bước ra ngoài lúc cô đang mải mê nói.

Catherine hoảng hốt bật dậy và lao ra ngoài tìm nó nhưng không thấy nó đâu. Cô quay về và ra lệnh cho Joseph đi tìm nó ở làng Gimmerton, còn tôi thì tìm kiếm trong mấy tòa nhà quanh trang trại. Cả hai chúng tôi đều không tìm thấy nó. Catherine không sao yên tâm được, cô cứ vật vờ đi đi lại lại từ cánh cửa nhà đến cổng trại. Mây giông kéo đến và đến nửa đêm thì cơn giông nổi lên, gào rú điên cuồng trên đồi. Một cơn gió xiết quật ngã mất một cái cây ở góc nhà, và một cành cây đồ sộ rơi xuống, nằm vắt ngang trên mái nhà, hất đổ một phần dãy ống khói đằng đông, làm đá và bồ hóng rơi ào ào xuống lò sưởi trong bếp. Cơn giông qua đi sau hai mươi phút hoành hành, tất cả chúng tôi không bị hề hấn gì, ngoại trừ Catherine, vì cô một mực không chịu vào trú. Cô chạy khắp cánh đồng hoang, vừa chạy vừa gọi tên Heathcliff, hết nghe ngóng rồi lại gọi. Cô bước vào nhà bếp, ướt sũng từ đầu đến chân, và ngồi xuống bên lò sưởi.

– ôi, cô ơi, – tôi nói, tay chạm khẽ vào vai cô, – về giường ngủ đi. Có đợi cái thằng ấy nữa cũng uổng công thôi. Chắc hẳn nó đã đi Gimmerton và sẽ ngủ đêm lại đó.

– Không, không, – Joseph nói, – nó không có ở Gimmerton đâu. Tôi nghĩ nó đã lạc trong vùng đầm lầy. Cơn giông này là một sự trừng phạt của Chúa đấy. Cô ơi, cô cứ liệu chừng lần sau sẽ tới lượt cô bị trừng phạt đấy.

Tôi phớt lờ những lời Joseph dọa và lại cố thuyết phục Catherine đi lên gác lấy quần áo khô mà thaỵ Rốt cuộc, tôi đi ngủ một mình, mặc cho Joseph mải mê thuyết giảng, còn Catherine thì run cầm cập.

Suốt đêm cô ngồi trong bếp, và hôm sau chúng tôi phải bế cô vào giường, người sốt cao. Cô mệt nặng nhiều ngày liền, nhưng rồi cũng dần dần bình phục. Ngay sau khi cô đủ khỏe lại để có thể đưa đi được, và Linton đưa cô về ấp Thrushcross để chăm sóc. Joseph và tôi rất mừng khi cô đi khỏi, vì từ lúc cô đã khá hơn, cô là một bệnh nhân hay đòi hỏi quá quắt.

Tuy nhiên, gia đình Linton chắc phải ân hận về lòng tốt của họ, vì cả hai ông bà Linton đều bị lây sốt và chết cách nhau ít ngày.

Về phần Heathcliff, chúng tôi chẳng nghe tin tức gì về cậu ta từ sau hôm xảy ra cơn giông.

Catherine trở về với chúng tôi, kiêu kỳ hơn bao giờ hết. Edgar Linton vẫn yêu cô và ba năm sau, khi cậu ta cưới Catherine, cậu nghĩ mình là người đàn ông hạnh phúc nhất thế gian

Hắn đã quay về, hắn quay về rồi chị Ellen ơi nhưng giờ đây hắn là một con quỷ. Hắn về đây để phá nát gia đình tôi.

Chị Ellen, tôi phải làm gì đây khi hắn trở về vì hắn quá yêu tôi.

Hắn là một con quỷ với lòng hận thù và tôi yêu con quỷ đó