Bỉ vỏ – Chương 20

Một buổi chiều gần tàn, nắng vàng nhạt, chân trời lặng lẽ mờ mờ sương.

Tám Bính đứng ở đầu toa chở hành khách hạng tư, trong cảnh vật bên đường thấp thoáng chập chờn trong ánh nắng và khói sương. Giời tối dần. Rồi mưa bụi. Gió rào qua những mặt ruộng mênh mông đen sẫm, tạt qua mặt Bính những hạt mưa lấm tấm. Bính né lùi người vào bên cửa lối ra vào, đưa mắt nhìn suốt một lượt:

– Phải cứ ngủ cho rõ say vào.

Dứt lời, Bính cười, Bính vui sướng thấy dạo này đổi sang đường tàu Hải Phòng Hà Nội vợ chồng Bính “trúng” được luôn, và nhờ những thủ đoạn đưa đón của Bính, công việc êm như ru, “hàng” “trôi” không vấp váp. Thấy thế, Năm Sài Gòn chặc lưỡi bảo Hai Sơn:

– Về đi “dọc” đường này nếu không có Tám Bính tôi đến bó tay mất!

Năm phải phục thầm Tám Bính những khi Bính bình tĩnh suy tính rất chóng trong các cơn nguy hiểm. Năm thật không ngờ từ ngày Tám Bính bị kẹp mất một bàn tay, Bính lại trở nên một “bỉ vỏ” xuất trận gan trường lạ thường.

… Như ngày tháng năm mới rồi, Tám Bính không nhanh mắt, không mau trí khôn thì Năm Sài Gòn vừa bị bắt, vừa bị đòn đau trên một chuyến xe lửa rất đông.

Người ta còn nhớ đến ga Cẩm giàng có một bọn lái lợn hơn mười người say rượu bét nhè, chen nhau lên tàu. Những hầu bao xóc xách tiếng hào cạnh thắt lưng làm Năm đương buồn vì tối qua thua sóc đĩa trần trụi, tỉnh hẳn người, tươi ngay nét mặt.

Một lúc lâu, Năm giở dao sắp sửa cắt túi một người chuyện huyên thuyên bên cạnh hắn thì Bính ngăn lại, bảo khẽ:

– Việc gì phải vội thế, hẵng “tròm” xem “so” nào “tễ bướu” nhất hãy “khai”(1) nào.

Nói đoạn Bính bấm khẽ Năm Sài Gòn.

o O o

1. Hẵng nhìn xem thằng nào nhiều tiền nhất hãy cắt nào.

– “Nhe” đằng “hậu đớm”(1) anh Năm!

Năm đưa mắt nhìn theo một ông cụ già nhất trong tụi ấy, thắt lưng lụa hồ thủy, mặc áo cánh lụa nâu, ý chừng là trùm phường lái lợn này – đương xốc hầu bao đếm tiền.

Năm tờ giấy bạc một đồng, hai tờ giấy năm đồng, non hai chục hào ván.. những giấy bạc mới, những bạc hào sủng soảng như nhảy múa trước mặt Năm, Năm cười:

– Ừ nhỉ, tý nữa!

Tám Bính cười, đáp lại, hai tay vẫn ủ trong một cái đẫy vải, lảng ra khỏi chỗ khác. Nhưng chẳng phải Tám Bính không có “khách hàng” đâu, mắt Bính tuy trông ra ngoài, song Bính cứ lùi dần đến bên anh lái trẻ tuổi ít cười, khư khư giữ một bọc tiền trong lòng. Tuy thế anh cũng lẳng lơ lắm, luôn luôn đưa mắt liếc Bính. Mỗi lần Bính đều trả lại một nụ cười kín đáo.

Lúc đó ông lái già vẫn say bự, vẫn chuyện trò huyên thuyên, còn Năm Sài Gòn đã ngồi sát cạnh ông.

Bỗng Năm rút lưỡi dao, nhẹ đưa cắt túi tiền của ông già. Tức thì người trẻ tuổi đĩ thõa nọ đứng vội lên, vớ đòn ống, giơ thẳng cánh tay nhằm đầu Năm giáng xuống.

Bính xanh mắt, lao nhanh người chắn ngay bước người trẻ tuổi, nhổ toẹt quết trầu và kêu:

– Chết, phang cả vào mặt tôi bây giờ. Làm sao thế này?

Người trẻ tuổi bực tức kêu lên:

– Ô kìa!

Tiếng “kìa” chưa buông xong, đánh cái vút, Năm Sài Gòn đã cầm túi tiền chạy ra cửa toa rồi lao xuống đường.

o O o

1. Nhìn đừng sau lưng.

– Thế là cô để kẻ cắp xẻo túi tiền của ông tôi thoát rồi!

Bính trừng mắt:

– Đâu kẻ cắp đâu? Và nó chạy đâu?

Người trẻ tuổi đỏ mặt:

– Thôi không thèm nói với cô nữa. Khéo mèo!

Bính ra dáng bẽn lẽn, lùi lũi về chỗ ngồi. Một lúc sau, cả tàu bớt nhao nhao bàn về chuyện ông lái già mất hai chục bạc, Tám Bính đã thoắt xuống ga Đình dù với cái đẫy tiền của anh chàng nọ, và để lại trong trí nhớ anh một bài học về sự đứng đắn trên đường trường đáng giá cũng non hai mươi đồng.

… Trời tối âm u, gió càng rít mạnh, mưa thêm mau và nặng hạt. Vùng quê mênh mông dần chìm hẳn trong sương mờ mịt. Một bóng người từ đầu toa đằng kia đi tới, Bính ngẩng đầu khẽ gọi:

– Anh Năm!

Năm thầm nói:

– Một “so sì”.

Dứt lời Năm quay lại lấm lét nhìn:

– So sì nào?

– So sì “trưng tẩy” đằng “hậu đớm” mình “tễ bướu”(1) lắm.

– Sao anh không “loại tươi”(2).

– “So hắc” lắm! Cá nó “diếm” ở “dắm thượng”(3) áo ba-đờ-suy cơ.

– Thì phải “khai”(4) chứ sao.

o O o

1. Thằng người ta diện tây ở sau mình nhiều tiền lắm.

2. Loại tươi: lấy ngay.

3. Ví nó dấu ở túi trên áo ba-đờ-suy cơ.

4. Khai: xẻo, cắt, rạch.

– Không thể được, anh đến gần nó, nó cứ lảng đi, mà một “bỉ đượi”(1) đến bên nó, nó đứng yên mình ạ…

Tám Bính ngắt lời:

– Em hiểu rồi.

Năm đi sang toa khác, Tám Bính rón rén đi vào chỗ ngồi, khi qua mặt một người đàn ông vận âu phục. Bính đưa mắt nhìn. Ánh đèn điện trong toa không sáng lắm, vẻ lẳng lơ của Bính đẹp dịu thêm. Người đàn ông phừng phừng cả mặt. Hắn đứng dậy xốc cổ áo ba-đờ-suy, kéo phu-la lên quá mang tai, theo nhanh Bính.

Đến đầu toa, Tám Bính đứng lại, tỳ tay lên lan can thẩn thơ trông. Hắn liền nhẹ vỗ vai Bính:

– Cô! à em! Mưa rét thế này buồn lắm nhỉ.

Bính mỉm cười, nhích nhích người đi không đáp. “Làm tiền” nhưng ra cái vẻ “bò lạc” đấy. Hắn tự nhủ. Rồi bằng một giọng êm ái nhưng sỗ sàng hắn hói:

– Còn vẽ sự! Đứng hẳn lại đây với tôi rồi nói chuyện có phải vui không?

Vừa nói hắn vừa vuốt lưng Bính tấm tắc khen:

– Chà! Xinh tệ! Đáng yêu tệ!

Bính gạt tay hắn:

– Này, trẻ con vừa chứ!

… Trước còn thưa, dần thêm đậm đà rồi đằm thắm. Và Tám Bính càng chuyện trò, cười cợt khi thấy hắn cởi phanh áo ba-đờ-suy ra định choàng lấy người Bính cùng lúc Năm Sài Gòn nhẹ bước tiến đến. Nhưng, vẫn như không hay biết, hắn chỉ càng mê mệt, nhìn ngắm đôi má ửng hồng của Bính. Tay phải hắn ôm choàng

o O o

1. Bỉ đượi: Con đĩ.

lấy Bính, tay trái bíu lấy cánh cửa tàu để một bên áo khoác trễ hẳn xuống.

Năm Sài Gòn liền đưa lưỡi dao sáng loáng nhẹ rạch cái túi đựng ví tiền.

Nhưng đầu Năm vừa che khuất ánh đèn vệt một bóng tối trên mặt Tám Bính, hắn vùng quay lại túm ngay được đầu Năm.

“Lộ tẩy”.

Bính liền nhảy đại xuống đường. Năm nổi xung thuận tay lộn mũi dao đưa luôn vào nách hắn.

Một tiếng kêu rú lên!

Nhanh như cắt, Năm rút ví tiền rồi lao mình ra ngoài tàu.

Bỉ vỏ – Chương 21

Hơn hai tháng nay trên những chuyến xe lửa chạy Hà Nội Hải Phòng lại mất hút vợ chồng Tám Bính.

Những lời kêu ca nguyền rủa tuy đã bớt đi nhiều song mỗi khi xe chạy tới ga Cẩm Giàng, Đình Dù, Cổ Bi, hành khách vẫn còn ngơm ngớp lo ngại. Họ bảo nhau kẻ nào có tiền, có hành lý thì phải cẩn thận giữ lấy, nếu rời tay ra, là các thứ đó tuy không có cánh nhưng sẽ bay ngay.

Rồi người nọ khoác lác với người kia, bịa đặt ra lắm chuyện lạ lùng mà vai chủ động họ chỉ biết là một con vợ mảnh khảnh xinh tươi và một thằng chồng xấu xí cực kỳ hung tợn. Những chuyện ấy đã đến tai sở mật thám Hải Phòng và Hà Nội. Nhân có nhiều người khai trình tiền và hành lý bị cướp trốc tay, nên trên Hà Nội phái hẳn mấy “ađăng” chuyên dò xét, lùng bắt cho kỳ được hai tên bợm nọ.

Nhưng thấy bóng cớm chùng săn mình ráo riết, Năm Sài Gòn và Tám Bính liền nghỉ làm tiền ở đường bộ, đổi sang đường thủy.

Chẳng những vợ chồng Năm Sài Gòn, cả Tư-lập-lơ, Ba Bay, Chín Hiếc cũng đổi nghề, vì ở Hải Phòng ba gã này cũng bị sở mật thám tầm nã riết.

Thôi thì tàu nào tàu ấy nhộn hẳn lên, chẳng mấy khi vắng tiếng kêu ca của hành khách. Mại bản đã tốn công phu ngăn ngừa tụi Năm Sài Gòn song không có hiệu quả gì hết, vì tụi “quít” tàu thông lưng với cánh đi “dọc” nên chỉ khám lấy lệ thôi.

Nhất là tàu An Xương, hễ động nói đến nó, những người đi chuyến Hải Phòng Nam Định ngày hai mươi ba tháng chạp cùng bọn thuỷ thủ đều nhớ ngay ông cụ già kèm nhèm bị mất cắp, lếch thếch ôm đứa bé vừa đi vừa mếu máo. Chuyến tàu ấy, boong trên boong dưới đông nghịt hành khách và hàng hóa. Tiếng cười nói ồn ào và tiếng máy chạy ầm ầm huyên náo như cái chợ to về ngày hội.

Đêm khuya rồi hành khách vẫn còn chuyện trò ran ran. Họ nói những chuyện không đâu, từ đời Tam hoàng, Ngũ đế, những chuyện bịa đặt, yêu ma, thần quỷ để cho qua một đêm đằng đẵng. Có lắm cụ già nghễnh ngãng, câu được câu chăng, cũng cố lắng tai nghe và nhiều người đàn bà cho con bú mê chuyện quá quên cả con nằm trong lòng đã ngủ mà không kéo yếm xuống. Có lắm cô gái lơ đãng ngả hẳn cặp đùi lên người nằm bên.

Cùng lúc ấy, đằng cuối tàu, hơn mười người quây tròn lấy cái bàn đèn bày gọn trên chiếc chiếu hẹp. Họ gối đầu lên đùi nhau như những cặp tình nhân âu yếm. Khói thuốc làm họ không quản gì quần lành áo rách, hay già trẻ, hay đạo mạo, bốp chốp, mà chỉ biết có ngọn đèn thon thon thỉnh thoảng hơi rung rung trong chiếc chụp bằng vỏ chai cắt ngắn, và điếu thuốc thơm tho phân phát sao cho đáng với số tiền từng người bỏ ra mua.

Một người đàn ông đứng tuổi nằm đối diện ngọn đèn, kéo xong điếu sái nhất thì ì ạch nhỏm dậy, tự rót nước uống vừa cất giọng nhè nhè nói:

– Cụ phó Tống ngủ rồi à? Cho vài câu Bao Công kỳ án hay Võ Tòng sát tẩu đi chứ?

Ông cụ thợ cạo già nằm bên kia lim dim mắt, đáp:

– Mới có mười điếu hơi đâu mà chuyện trò!

Một người khác vội hỏi:

– Vậy thì bao nhiêu bố già mới đủ?

– Ít thôi, mươi mười lăm điếu nữa…

Năm Sài Gòn đưa mắt nhìn cóng thuốc, cười tự nhủ:

– Dễ thường cụ định hút hết phần mọi người chắc. Hơi gì mà quý thế!

Nhưng ông cụ thợ cạo già chỉ kéo thêm hai điếu nữa rồi không đợi ai giục cụ cũng tươi tỉnh kể cái án Quách Hoè mà cụ khoe là một cái án ly kỳ nhất trong thế gian này cho mọi người nghe. Tuy giọng cụ phều phào nhưng ông cụ nhớ dai và nói rất có duyên. Đến đoạn nào quan trọng, cụ nói rất thong thả và chêm vào những câu hỏi hóm hỉnh:

– Tôi đố các ngài Bao Công sẽ xử ra sao? Ai người tài đảm dám nhận lấy việc ấy! Cái cảnh quỷ khóc, thần sầu kia có làm chuyển được Quách Hòe không?

Chẳng những người hút, cả những người chung quanh cũng chăm chú nghe. Mấy ông già ngồi gần đấy gật gù thi nhau tán tụng cái tài của đấng minh quan nọ, và vạch những án mà các quan ngày nay khép oan cho người làng mình, người họ mình.

Ông cụ phó cạo già được họ khen nở nang cả khúc ruột, gật gù:

– Đấy các ngài xem, các quan án bây giờ thuần công minh như thế đấy!

Một cụ già ôm đứa bé con trong lòng, ngồi sau lưng Năm Sài Gòn thấy lời mai mỉa của người nói chuyện hợp với cảnh ngộ mình liền xen nhời:

– Phải! Giờ thì lắm quan công minh lắm. Công minh đến nỗi nhiều kẻ, nhà không có mà ở, bát không có mà ăn, vợ lìa chồng, bố bỏ con, nhưng chẳng dám hé răng kêu nửa nhời, vì kêu vào đâu? Ai nghe cho?

Cụ này dằn dọc nói, vẻ mặt buồn rầu vô cùng, nhác nom qua ông cụ phó cạo già ái ngại hỏi:

– Cụ nói thế chắc hẳn nhà cụ có người bị bắt bớ oan uổng chứ gì?

Cụ già ôm thằng nhỏ gật đầu, thở ra một cái đáp:

– Phải cụ ạ! Tôi mất cả cơ nghiệp, tốn kém tới bạc nghìn, rút cục vẫn phải chịu bao nhiêu sự oan ức, đau đớn thế mới chua xót chứ!

Hai tiếng bạc nghìn lọt vào tai Năm Sài Gòn, Năm quay ngay lưng nhìn cụ già. Hắn thoáng nhận ra cái áo nhiễu lót và cái vòng bạc của thằng bé nằm trong lòng cụ. Nó bảo nhỏ với Năm rằng: “Cụ là một kẻ giàu ngầm đấy”. Năm liền mời ông cụ xơi nước, hút thuốc, và ngỏ ý muốn biết người nhà ông cụ bị oan uổng ra sao. Cụ già chối từ không hút thuốc chỉ xin một chén nước uống. Uống xong ông cụ thuật ngành ngọn các nông nỗi của mình cho Năm Sài Gòn cùng mấy người nằm bên bàn đèn nghe.

Nguyên cụ có một người con trai năm nay hai mươi tám tuổi, mới lấy vợ, đứa bé cụ bế đây là con người ấy. Hồi bảy, tám năm trước, vì làm ăn ở nhà quê vất vả mà chẳng đủ nuôi thân, con cụ phải bỏ làng ra ngoài Uông Bí làm phu.

Trong bốn, năm năm, con cụ dành dụm được ít tiền, hắn bèn cưới vợ, thôi làm phu, xoay ra buôn bán. Vợ chồng bảo nhau làm ăn dành dụm, trong hai năm tậu được một gian nhà và mở to thêm cửa hàng. Ngờ đâu, tháng tám vừa rồi, một hiệu tây buôn ở Hải Phòng trình sở mật thám bị mất trộm hơn hai trăm thước lụa và hai hòm bít tất. Người ta bắt ngay được đứa ăn trộm! Khi tra hỏi nó, nó khai gửi ở nhà con giai cụ. Người ta khám xét nhà con cụ rất kỹ nhưng chỉ thấy vài chục bít tất cùng một kiểu với thứ mất đi. Con cụ nhất định chối cãi. Thằng ăn trộm kia nghe đâu chủ nó cũng làm mật thám và không hiểu vì lẽ gì cứ một mực nhận con cụ là đồng đảng và khai rằng xưa nay lấy được đồ vật gì cũng gửi con cụ bán hộ.

Cụ được tin ấy ra ngay Uông Bí thăm con. Tới nơi thì con đã bị giải đi Hải Phòng tống lao. Cụ và con dâu nhặt nhạnh thu xếp được đồng nào đều chạy thầy kiện, lễ lạt quan nọ, quan kia cả. Song công việc một ngày một kéo dài mãi ra, hơn bốn tháng rồi mà con cụ chưa được giấy gọi đăng đường. Rồi phần vì uất ức, lo lắng, phần vì cảnh tù tội khổ sở đầy đoạ, con cụ ho ra máu chết ở trong đề lao. Đương khi bối rối ấy, người con dâu lại đâm ra vẩn vơ, ốm yếu cũng chết nốt, để lại cho cụ đứa bé chưa đầy ba tuổi này.

Nói đến đây nước mắt cụ tràn trề, cụ nghiến răng nguyền rủa cái đứa gian ác gieo tai, gieo vạ cho cụ và oán trách ông trời độc địa nỡ lòng phá tan gia đình cụ, giữa cái tuổi già gần đất xa giời này.

Nghe cụ già kể lể than thân, ai cũng tỏ ý thương hại cho cụ. Một người hỏi: “Thế còn người con dâu chết đi, còn đồng nào để lại cho ông cháu không?”

Cụ chấm nước mắt đáp:

– Có vài chục bạc thôi, mà trước kia cửa hàng đáng giá tiền nghìn đấy.

Một người khác vội an ủi:

– Thôi cụ đừng phiền nữa, vui vẻ chăm lấy đứa bé, lớn lên thế nào nó cũng trả nghĩa cho bố mẹ nó.

Lời nói làm cụ càng ứa nước mắt. Rồi cụ ôm lại cháu và quấn chăn cho nó. Cánh tay cụ nhấc lên để lộ một bọc vải nằm gọn trên đầu gối.

Năm Sài Gòn liếc mắt nhìn, tưởng tượng ngay ra món tiền và những thức quý giá mà vì e ngại ông cụ không muốn nói thật. Hắn mừng rơn, thỉnh thoảng thân rót nước mời cụ già uống. Ông cụ bế cháu ngồi dưới chân Năm vừa uống nước vừa tấm tắc khen Năm:

– Ông tử tế quá! Cho tôi uống chè tàu đến no chắc?

Năm Sài Gòn cười:

– Có gì đâu! Cụ cứ tự nhiên chuyện trò xơi nước. Với chúng tôi chỉ lấy thế làm vui thôi.

Nghe Năm nói, ông cụ càng gật gù, mặc Năm vuốt ve đùa bỡn với đứa cháu bé ngồi trong lòng. Năm trước còn xoa má nó, xoa lưng nó, dần dần khắp người nó, rồi đến cái bọc kia…

Sáng hôm sau khi tàu đỗ bến Nam Định, người ta thấy ông cụ già rũ rượi thở không ra hơi, lếch thếch ôm đứa cháu bé chạy khắp mọi chỗ trong tàu. Người ta đón hỏi cụ thì cụ tái mặt trả lời một câu ngắn ngủi:

– “Nó” mất rồi!

Không ai hiểu “nó” là cái gì. Nhưng nếu người ta là Tám Bính và hỏi Năm Sài Gòn thì ta sẽ biết rõ nó là cài bọc có hai đôi hoa tai, bốn chiếc vòng xuyến và một nghìn hột vàng gói với bốn chục bạc và một lá thư của người mẹ chết để lại dặn dò ông cụ bố chồng cố dẹp nỗi buồn mà chăm nom lấy cháu bé… Ông cụ nên tự nuôi nấng lấy cháu thì hơn và phải tiêu pha dè dặt, kẻo ông thì đã bảy, tám mươi tuổi già, cháu thì trứng nước, họ hàng lại không có, nếu hết tiền khi cháu hãy còn thơ ấu thì ông biết trông cậy vào ai.

Bỉ vỏ – Chương 22

Năm Sài Gòn cầm cốc rượu đặt trước mặt Bính, gắp miếng gà rán bỏ vào bát Bính, rồi cùng bọn Tư-lập-lơ cười phá lên. Tiếng cười của mấy người phút chốc bị tiếng pháo ran ở ngoài phố át đi. Năm nói thật to nhưng Bính và bọn Tư-lập-lơ chỉ loáng thoáng nghe thấy:

– Họ đương ăn mừng tết đấy! Chúng ta… à… mình… à… chú… tư… chú Chín… chú Hai “riễn”(1) cho thật sưa(2) vào… để… à để… mừng năm mới… mau nào.

Khói pháo và hương hoa cúc từ ngoài vườn tràn vào nhà làm Bính càng bừng bừng. Hứng trí, Bính nâng cao cốc rượu mai quế lộ cười nói:

– Thế thì mình và chú Tư cùng uống nào!

Dứt lời, Bính hơi ngả đầu, chun mũi lại, lim dim mắt, tợp một hớp thật to. Men rượu bốc lên thắm cả khuôn mặt trái xoan và long lanh cặp mắt. Đôi hoa tai Năm kéo lại cho Bính, óng ánh ẩn hiện dưới mái tóc đen mượt, càng tăng thêm những nét tươi sáng. Ấy là với món tiền bán số vàng lấy được của ông cụ già, Năm Sài Gòn chỉ sắm cho Bính ít quần áo, còn thì Năm đánh bạc thua hết, chứ nếu Bính đòi may mặc và trang điểm như người khác thì tết năm nay chắc Bính còn trẻ đẹp hơn.

Năm Sài Gòn nồng nàn nhìn vợ, nhẹ nhẹ vuốt má Bính:

– Này chú Tư, chú xem vợ một “so chạy” có kém gì vợ một ông hoàng không!

Tám Bính hắt tay Năm đi, lườm rất yêu:

– Hoàng gì! Hoàng tháng năm ấy à!

Năm vẫn lả lơi, vuốt ve:

– Thôi làm bộ vừa chứ! Thử ngẫm dạo nào làm vợ so “cớm” với ngày nay làm vợ thằng Năm Sài Gòn thì bao giờ hơn!

o O o

1. Riễn: rượu.

2. Sưa: say.

Tư-lập-lơ cười ngất:

– Bao giờ chị Năm chẳng sướng hơn. Vì có bao nhiêu tiêu bấy nhiêu, chừng nào cũng vừa, chừng nào cũng ít, không tính toán bần tiện. Nhất là Năm là dân chạy vỏ một dân không yêu thì thôi, chứ yêu ai thì đến thân mình cũng chẳng quản và chẳng bao giờ chịu giương mắt ếch nhìn người tình mình bỏ mình đi gắn bó với người khác những khi mình ba đào cùng khổ, kém sắc thua tài.

Bính tê mê ngồi nghe. Sự vui sướng đương nhóm lên trong lòng Bính phút chốc tan hẳn. Một ý nghĩ buồn tiếc thương nhớ và bao hình ảnh quê nhà, cha mẹ, chị em, chúng bạn thoáng qua tâm trí Bính như cơn gió lạnh. Bính thẫn thờ đưa mắt trông những ánh nắng thoi thóp còn lấp lánh trên khóm đào lá lăn tăn đằng góc vườn, tưởng tới bao nhiêu sự bấp bênh và cuộc đời cứ một ngày một âm u héo hắt, khó mà còn hy vọng thay đổi được.

Tiếng pháo ròn rã lại tới tấp ran lên khắp một vùng. Dẫy phố trong khói pháo thơm thêm mịt mù, đầm ấm, êm đềm.

Bính mải nghĩ, tay vẫn giữ chén rượu không, người ngây ra. Năm Sài Gòn vỗ vai, cười:

– Kìa! Đưa anh rót rượu rồi uống nữa đi chứ.

Tám Bính giật mình, Hai Sơn nháy Năm.

– Chị ấy vờ say để anh bế vào giường đặt đấy.

Năm gật gù nhăn nhở ghé tai Bính nói thầm nhưng cũng để cho mọi người nghe rõ.

– Ai lại thế? Phải uống hết chai rượu kia rồi muốn gì thì muốn mình nhỉ?

Bính chớp mắt cúi đầu trông xuống chén rượu cạn. Năm tưởng Bính vui sướng nên bẽn lẽn, bèn xoa lưng Bính:

– À anh hẵng xếp cái chuyện ấy đi mình nhé. Vậy chúng ta rót rượu thêm uống đi, vui đi, kẻo ít lâu nữa hết tết, xuân hết, chúng ta có muốn cũng chẳng làm sao có được cái ngày thư thả ấm cúng này mà ăn uống say sưa.

Chín Hiếc gật gật, nói theo:

– Phải đấy! Anh Năm nói phải đấy. Chỉ đến mùng mười hay mười rằm chúng mình lại xuôi ngược, nay Nam Định, mai Hải Phòng, ngày kia Hà Nội, lo cuống vó vì “làm tiền” vì “cớm” vì hỏa lò. Vậy được những lúc rỗi rãi này tội gì ta không nốc rượu cho túy lúy càn khôn.

Chín Hiếc ngừng lại, gọi Tám Bính:

– Kìa chị Tám ngồi thừ người nghĩ gì đó? Không ăn uống, chúng tôi ăn uống xong kéo anh ấy đi chơi lại kêu.

Bính gượng tươi nét mặt:

– Vâng các chú cứ ăn uống đi, cứ chuyện đi, tôi xuống bếp đây để hâm qua nồi cà ry, lấy thêm cái đùi gà, không thức nhắm còn ít quá.

– Phải, phải lắm mau lên mình ạ…

Tám Bính vội vàng xuống bếp. Bính vừa bước khỏi ngưỡng cửa, nước mắt đã ứa ra, chan hoà. Qua những giọt nước mắt đầm đìa, Bính thấy hiện vụt ra một cảnh mịt mù, buồn tẻ trong lớp tre xanh rì ở đằng tít xa… Làng Sòi! Làng Sòi!

…Sáu năm đã qua… lâu biết bao… dài biết bao! Mà biết đến bao giờ Bính mới có được một cuộc đời trong sạch êm đềm như cuộc đời của mọi người trong buổi đầu xuân?

Khó lắm. Nếu Năm Sài Gòn vẫn còn sống và vẫn yêu thương Bính. Nếu đứa con Bính vẫn biệt tăm tin tức. Nếu cha mẹ Bính vẫn cùng làng nước, đinh ninh Bính là một sự xấu xa gớm ghiếc cần phải xa lánh.

Hơn nữa, nếu Bính còn lấy tình thương yêu của Năm để an ủi mình những lúc bối rối chán nản vì những kỷ niệm thảm khốc… sự lừa dối của “tham Chung”… bán con… vợ thằng trẻ tuổi độc ác và thằng khốn nạn nọ, sở cẩm, nhà Lục xì, mụ Tài-sế-cấu… cứ đến vây bọc tối tăm cả tâm trí Bính.

Hơn thế nữa nếu Bính càng yêu thương Năm Sài Gòn, càng thắt chặt lại với Năm và theo Năm mãi mãi.

Ánh chiều vàng đã xanh nhạt rồi dần lẫn với sắc lam nhuộm màn sương.

Cánh đồng bên sông chạy dài theo chân đê biến thành một biển khói hương rung động. Những cụm tre lơ thơ chỉ còn là những bóng lờ mờ, nhìn những đám lông chim phất phới tan tác…

Tám Bính lạnh tê cả tâm trí. Mệt mỏi, Bính dựa lưng vào bức vách, lim dim mắt, thẫn thờ nhìn bóng tối tràn ngập mọi nơi mọi chốn.

Tiếng pháo lại tới tấp vang khắp một vùng. Tám Bính giật mình. Ở nhà trên, loáng thoáng tiếng Năm đương lè nhè hò rượu và gọi lấy thức nhắm thêm. Vội vàng Bính chạy vào bếp, chất thêm củi, đặt chảo mỡ lên, rồi cúi rạp xuống thổi cho ngọn lửa bén tới lượt mạt cưa rắc chung quanh bếp.

Bỉ vỏ – Chương 23

Tàu An Xương rời bến Nam Định từ hồi mười giờ sáng…

Tuy nhằm vào ngày 16 tháng giêng, có nhiều nơi mở hội hè đình đám, nhưng hành khách vẫn vắng tanh. Ngoài vài chục người ở boong trên, chỉ còn thấy lẻ tẻ sáu, bảy người đàn bà buôn chuyến trầu vỏ mệt mỏi nằm bên những lô hàng xếp gần buồng máy đằng cuối boong dưới.

Tàu chạy thẳng một mạch tới bến Quý Cao mới đỗ lại mươi phút để ăn hàng rồi lại chạy. Đến bến Ninh Giang thì trời vừa sập tối. Quá Ninh Giang một quãng ngắn thì trời tối mịt mùng.

Sương và gió rét chùm kín cả dòng sông, cả cảnh vật bên sông. Tiếng máy chạy sình sịch cũng chẳng đủ làm gợn được sự hoang lặng. Ngọn đèn đỏ bên mạn trái tàu giữa lượt kính dày càng mờ, thấp thoáng chiếu những tia sáng ủ rũ lên rặng tre xanh thẫm mỗi khi tàu đè con nước, hoặc tránh những bãi, chạy gần bờ. Những lúc ấy, người thủy thủ đâm con sào xuống sông rồi uể oải rút lên để đo mực nước, vừa đọc những câu tiếng tầu bằng một giọng ê a.

Tám Bính ngáp và bấm Năm Sài Gòn:

  • Đi ngủ thôi “so” ấy “hắc” lắm!

Năm Sài Gòn đưa mắt trông về đằng lái, chau mày đáp:

  • Nó “hắc” nhưng nó lắm tiền.
  • Chắc chắn?
  • Sao lại không? Bạc trăm đấy.
  • Thế cơ à?
  • Phải, tôi nom thấy rành rành nó nhận tiền ở bên Ninh Giang lên khi tôi xuống bến ấy mua thuốc phiện. Nhưng Bính vẫn ra vẻ ngần ngại, Năm Sài Gòn cau mặt:
  • Thôi mình đi ngủ trước vậy.

Dứt lời Năm quay lại đằng lái, chỗ một người vận âu phục đương hút thuốc lá.

Xa xa vành trăng nhợt nhạt hé lên. Trước ánh lửa lấp lánh của mẩu thuốc lá, dù người vận âu phục tinh mắt đến đâu cũng không nhận được mặt Năm. Vả lại người ấy không để ý gì đến Năm hết, nhưng vẫn để ý đến cái ví tiền nằm trong túi quần.

Năm Sài Gòn cũng hút thuốc lá, sát cạnh người ấy xin diêm. Năm thử xem bàn tay hắn ta có rời túi không vì Năm biết chắc diêm ở túi ấy. Người nọ không chỉ đưa mẩu thuốc, – đưa bằng tay trái – rồi khi Năm châm lửa xong, hắn liền cầm lấy, kéo thêm một hơi dài, đoạn giơ thẳng cánh vứt xuống sông.

Cái cử chỉ tuy thường nhưng với người vận âu phục lặng lẽ này, Năm thấy ngự một sự giễu cợt hết sức kiêu căng.

Năm bực dọc, gằn tiếng:

  • Hay “so quéo” “sửng mông”?(1).

Năm cười gằn tự trả lời luôn:

  • Đời nào mình lại “trộ” mình đây.

Rồi Năm chắp tay sau lưng, đi đi lại lại, liếc nhìn:

  • Vô ích! Người đó càng trầm ngâm, bàn tay phải cùng ấn sâu trong túi quần như bị buộc chặt lại với cái ví.

o O o

  1. Hay thằng này chột biết.

Chợt Năm nhẹ dừng bước, nghiêng đầu lắng tai nghe người vận âu phục nói một mình:

  • Sắp đến bến Cung đây.

Từng tiếng một lọt vào tai Năm, khiến Năm càng nóng ruột. Năm hậm hực nhìn đằng xa tờ mờ sáng, trong dạ bồn chồn. Năm ước gì tàu xô phải bãi chậm lại vài ngày để món hàng của Năm không thoát được lên bờ.

Non một giờ sau tàu đến bến Cung, rồi quá bến Cung đến Kiến An, rồi quá Kiến An, và chỉ còn đợi mở cầu là áp bến Hải Phòng. Lúc ấy đằng đông sáng rực hẳn lên mà Năm Sài Gòn vẫn mải mốt theo dõi.

Bỗng trống ngực Năm đập rộn lên vì vui sướng: miệng túi quần người ấy há hốc để lộ mép ví tiền bằng da đen, và cánh tay phải hắn đương quay tròn chiếc mũ dạ.

Năm Sài Gòn tiến bước ngay. Nhưng, tự dưng ruột gan Năm đau soắn lại. Năm phải ngồi xệp xuống chiếu, không sao gắng được nữa. Giữa lúc đó Ba Bay hút xong, lễ mễ bê bàn đèn ở đằng cuối tàu đi lại, trông thấy Năm ngồi xuýt xoa, liền vội hỏi:

  • Anh Năm sao thế?

Năm dằn tiếng:

  • Không hiểu tôi ăn phải cái gì độc nên từ tối đến giờ lại ngâm ngẩm đau và giờ thì tôi đau bụng quá, chú mau xuống boong dưới bảo nhà tôi lên cho tôi dặn cái này.

Ba Bay gật đầu, người vận âu phục lần bực thang xuống boong. Năm trỗi ngay dậy, toan nối gót. Cũng như lần trước, Năm lại phải ngồi sụp xuống chiếu – sự đau đớn đột nhiên nọ chói tức một cách khác thường.

Giây phút sau Tám Bính đem dầu lên xoa khắp người Năm, Năm dìu dịu bèn bấm Tám Bính, cả hai lần xuống, vừa lúc tàu sắp sửa áp bến.

Nhưng quái lạ, khi Năm Sài Gòn sờ đến cái túi của người kia thì ví tiền không còn đấy nữa, Năm đảo mắt trông cả túi áo trên, hai túi áo dưới, Năm sờ cả ba túi: túi không chỉ là túi không.

Vậy ví biến đâu mà người vận âu phục điềm tĩnh thản nhiên?

Năm Sài Gòn uất lên tới cực điểm. Năm nghiến răng gầm khẽ trong mồm. Bọt mép Năm xùi ra, hai mắt long sòng sọc như nảy lửa.

Bỉ vỏ – Chương 24

Ba hôm sau, lúc Năm Sài Gòn đương bông lơn với một cô hàng mía, Tám Bính ở đâu chạy lại, nắm cánh tay Năm kéo đến hàng nước gần đấy.

Năm toan hỏi, Bính trỏ một đứa bé đang đọc nhật trình. Năm Sài Gòn hiểu ý, đến bên nghe. Đó là một bài lai cảo như sau:

“Tên tôi là Trần Thiệu Phú ở số 8, phố Khách Hải Phòng. Hôm mười tám tháng giêng ta, tôi đi tàu An Xương từ Ninh Giang ra Hải Phòng, có đánh rơi cái ví trong đựng một thẻ tùy thân, một giấy căn cước và ít giấy má quan hệ. Ngài nào bắt được xin quá bộ đưa lại nhà tôi, hoặc ai biết ai bắt được xin viết thư bảo tôi, tôi sẽ hậu tạ”.

Năm Sài Gòn hầm hầm ngay mặt làm Bính phải đứng ngay cạnh để đề phòng. Sau đó, Tám Bính vội lôi Năm ra chỗ khác, vừa đi vừa nắm chặt cánh tay Năm. Qua phố Hàng Cháo, qua cầu Ca dông, vợ chồng Năm rẽ sang con đường cạnh nhà thương về lối làng An Dương.

Trời sập tối. Gió lạnh cất lên. Rặng xoan reo ào ào bên đường. Hơi men đã bớt rạo rực trong người Năm, Năm nguôi cơn giận, bắt đầu thấy rét, vột kéo cổ áo dạ chùm kín lấy gáy, đánh diêm châm thuốc lá hút, đoạn bảo Tám Bính:

  • Đấy mình xem tôi đoán có sai đâu!

Không đợi giả lời Năm nói luôn:

  • Cái “cá” ấy bị “mồi”(1) mất chứ không phải rơi mất.

Bính ngờ vực:

  • Nhưng ai “mồi”?

Năm Sài Gòn dừng bước, cười khanh khách:

  • Biết được thằng nào còn nói làm gì?!!…

Để chồng im im, Tám Bính mới hỏi:

  • Này mình sao người có ví không khai ví bị “mồi” và nói đến món tiền trong ví?
  • Thế thằng cha ấy mới khôn ngoan…

Tám Bính ngắt nhời:

  • Ngu chứ lị!
  • Có mình ngu thì chớ! Nó khai đánh rơi và không nói đến số tiền cốt để dử kẻ nào hám tiền chuộc, đem cái ví lại và nó, lúc ấy không những nó dò xét được kẻ ấy, mà món tiền mất đi chả bao lâu cũng sẽ tìm thấy. Mình không xem đấy như báo đăng câu: “Ai biết ai bắt

o O o

  1. Cái ví tiền ấy bị móc mất…

được xin viết thư chỉ bảo tôi, tôi sẽ hậu tạ” là nó ranh mãnh lắm.

Nghe Năm Sài Gòn cắt nghĩa Tám Bính nhận rõ ngay. Bính thấy dù sao Năm cũng sành sỏi hơn mình nhiều, và khi cảm thấy thế, Bính căm hờn hơn Năm.

  • Mình ạ! Kẻ hớt tay trên mình gớm thật!

Năm Sài Gòn cười gằn nối nhời Bính:

  • Vậy phải sỉa cho nó vài nhát nếu biết nó là ai!…

Tám Bính vội dịu ngay giọng:

  • Ấy chết, tôi van mình.

Năm không nói nữa, im lặng bên cạnh Tám Bính. Điếu thuốc lá đã cháy hết, hắn đưa ngón tay cái lên miệng cắn. Hắn cố nhớ xem chuyến tàu ấy ngoài Ba Bay còn có dân “chạy” nào không. Hắn hồi tưởng cái lúc đau bụng xong, hắn cố gượng dậy, mon men đến gần người vận âu phục thì thấy cả ba, bốn túi đều nhẹ tênh. Cái ví mất rồi.

Nghĩ đến đấy, Năm tự nhủ:

  • Hay ta “soạng” vội quá, rõ sờ tay vào cái túi có ví mà nhầm là túi không, để thằng nọ lên bờ mất với một “vỏ” nào đấy chăng?

Năm lắc đầu:

  • Không thể thế được! Hơn hai mươi năm trời cái bàn tay này nó thiêng lắm, có thể nào lú lẫn đến như thế được. Mấy lại còn mắt ta, cặp mắt thiên lý nhãn này, cũng không khi nào nhầm lẫn nốt. Vậy chỉ…

Năm Sài Gòn liền ngắt ý nghĩ bằng một câu hỏi đột nhiên:

  • Này mình, hôm ấy chỉ có Ba Bay ở lại hút thôi nhỉ?

Bính ngẫm nghĩ một lát rồi quả quyết đáp:

  • Phải.
  • Đúng chứ?
  • Đúng, tôi nhớ rất đúng mình ạ.

Năm Sài Gòn liền thở một cái đoạn gằn tiếng nói:

  • Gớ… ớ… gớm… thật. Ba… a Ba Bay gớm thật!

Tức thì cái hình ảnh Ba Bay khi phiện phó say sưa xong, ngất nghểu ấn từng tập bạc giấy vào túi ở sòng Lý Thanh ra, hiện lên rất rõ ràng trong trí tưởng Năm, khiến Năm càng tin thật Ba đã đỡ nhẹ cái ví bạc kia, chứ không bỗng dưng Ba làm gì có lắm tiền mà thua nhiều tiếng bạc canh đêm trước to thế? Bảo của Ba được để dành còn lại thì thật vô lý hết sức, đối với hắn, túi có bao nhiêu hắn cũng dốc ra hết để ngốn và phiện phò.

Chợt Năm ngẩng đầu lên, nheo mắt nhìn hút một bóng người thất thểu trên đường về lối bến đò Niệm. Năm nghển lên nghiêng nghé rồi hét lên một tiếng, cắm cổ chạy. Bính nhận ra ngay là Ba Bay bèn vội chạy theo.

Thoáng cái Năm đuổi kịp Ba. Ba chưa kịp quay đầu lại nhìn đã bị Năm bóp chặt cổ vật xuống đường. Ba Bay ú ớ muốn kêu song không sao cất tiếng lên được vì hai bàn tay sắt của Năm khoá khít lấy họng.

Biết đã vỡ chuyện, Ba hết sức giãy dụa khư khư giữ túi tiền. Năm nóng mặt nghiến răng thoi luôn ba bốn chiếc trúng mạng mỡ Ba. Ba phải dùng tận lực đấm trả vào mặt Năm. Năm hoa cả mắt vẫn không chịu buông tay. Dưới đầu gối Năm, Ba Bay thở không ra hơi, xương ngực Ba như sắp gãy hết mất. Nhìn mắt Năm long sòng sọc, Ba Bay rởn cả da thịt, cảm thấy hết mọi sự ghê gớm sắp xảy ra.

Nhưng, Ba nhất định giữ chặt ví tiền. Còn Tám Bính run cầm cập xanh mắt nhìn chồng và bạn chồng vật lộn.

Mấy phen Năm mím môi thích mạnh khuỷu tay xuống cổ Ba, luồn tay xuống lưng Ba, cố lật sấp Ba đi để rút cái ví tiền gài trong túi dưới nách áo, nhưng Năm đều bị Ba co đầu gối thúc vào chỗ hiểm, Năm Sài Gòn đã sôi máu, rút lưỡi dao giắt ở bắp đùi ra giơ thẳng cánh, dằn tiếng nói:

  • Có đưa mau không?

Ba Bay lắc đầu. Năm Sài Gòn nghiến răng nói một lần nữa.

Cánh tay Năm rung rung. Lưỡi dao nhọn lấp lánh dưới trăng mờ…

Tám Bính hốt hoảng chạy xô đến định gỡ hộ cho Ba thì Năm liền hắt bắn vợ đi. Ba Bay thừa cơ toan giật lấy dao, Năm đã đâm thẳng xuống ngực hắn, chẳng để hắn kịp cất một tiếng van lơn xin nhượng bộ.

Máu tươi phọt lên, Năm Sài Gòn nghiêng đầu tránh, rồi bồi thêm một nhát trúng cổ họng Ba.

Ba trợn ngược mắt. Sau hai tiếng ằng ặc, hắn giãy lên một cái đoạn nằm thẳng cẳng, cái ví tiền giờ mới rơi ra ngoài. Năm rút mùi xoa lau máu đẫm bàn tay, đoạn nhặt ví tiền nhét vào túi và khẽ gọi Bính:

  • Ba “củ” rồi mình ơi!

Bính chạy lại, cuống quít lay người Ba. Thấy Ba cứng đờ, máu ở ngực, ở cổ họng cứ tuôn ra. Bính ríu lưỡi nói:

  • Thế này thì chết cả mất!

Nghe Bính nói không nên tiếng, Năm cười rộ lên, rồi lạnh lùng xốc Ba Bay lên vai, chạy lùi lũi về phía bờ ruộng tận đằng xa.

Mảnh trăng vừa nhô ra khỏi đám mây xám, trút xuống cảnh vật một làn ánh sáng xanh trong xanh bóng lẫn với sắc xanh đặc của ruộng rì rào.

Tám Bính chỉ chực khuỵu xuống. Bính hoa mắt trông thấp thoáng trong sương xác Ba Bay rũ trên vai Năm, Bính rợn cả người, sực nhớ tới bức tranh vẽ một người tội lỗi lúc chết bị ma quỷ lôi kéo đi. Bức tranh này treo trên tường ở buồng ông cố đạo già giải tội cho Bính dạo năm xưa.

Phút chốc cái vắng lặng êm đềm của đêm xuân trở nên lạnh lẽo, ghê gớm lạ thường. Bính thấy nó báo trước cho Bính rồi đây, những sự khủng khiếp thế nào cũng đến với Bính không thể nào tránh được.

Bỉ vỏ – Chương 25

Non một năm trời rồi mà án mạng Ba Bay chưa ra manh mối. Rồi vì không thưa và Ba Bay vốn là kẻ côn đồ nên sở mật thám cũng chẳng chịu dò xét.

Nhưng cái chết của Ba vẫn mãi mãi làm cho dân làng Vẻn, xóm Chợ con, vùng An Dương bàn tán những lúc họ lê la chuyện về sự giời có mắt hay không? Xưa nay vốn họ ghét sẵn Ba Bay, ghét ngon, ghét ngọt, thành thử khi thấy Ba Bay chết, họ mừng như mở cờ trong bụng. Chính một tay hắn đã làm hại bao nhiêu người làm ăn đầu tắt mặt tối, gồng thuê gánh mướn phải tan nát cửa nhà khi bị hắn lừa lọc bằng các ngón cờ gian bạc lận.

Bởi thế tuy Ba Bay chết, họ vẫn cứ xoi mói những sự xấu xa của Ba. Nhưng nào chỉ có thế thôi, họ còn nói cạnh nói khoé những kẻ gian ác bè đảng với Ba. Lắm phen nghe thấy, Tám Bính chết cay chết đắng trong lòng mà phải cắn răng không dám hé nửa nhời.

Ngày lại ngày, Bính buồn bã quá. Cái chết khủng khiếp kết liễu đời Ba Bay thường ám ảnh tâm trí Bính. Lắm đêm ròng rã Bính không thể sao chợp mắt ngủ được, trông đâu Bính cũng thấy xác Ba Bay rũ trên vai Năm dưới bóng trăng nhợt nhạt.

Có ngày Bính bỏ cả ăn, Năm hỏi tại sao Bính chỉ nói lảng ra chuyện khác. Trái lại Năm Sài Gòn vẫn cứ như thường, hôm nào không đi xóc đĩa thì lại hút thuốc phiện. Nhìn gương mặt Năm không những không thấy lộ vẻ gì băn khoăn lại còn sắt siu khô khan thêm.

Bên sự thản nhiên ấy, lòng Bính càng tơi bời, Bính đinh ninh thế nào Bính và chồng cũng bị lộ và chịu tội không biết nặng đến thế nào. Hơn nữa, Bính có cảm giác thật như Bính bị tù rồi và chỉ còn chờ ngày đi đày hay lên máy chém nhắm mắt chờ chết. Càng ngày Bính càng rạc người đi. Năm thấy vậy đã phải kêu lên và cố ép Bính uống thuốc và tẩm bổ ăn uống.

Một buổi chiều kia. Một buổi chiều mùa đông, các chòm cây trên rặng đồi tận ven trời xa còn lưu luyến giữ lại những ánh nắng vàng đã úa. Nền trời xanh nhờ thật là bao la, thật là hoang vắng. Không một bóng chim bay ngang, không một âm vang nào ngoài gió buồn tê tái của chiều gần tàn hẳn tỏa ra khắp vùng quê với một sự lạnh lùng hoang vắng mênh mông.

Tám Bính đứng tì tay vào lan can đằng cuối tàu nhìn cánh đồng đang từ từ lùi vào màn sương.

Bỗng dưng trong giây phút, tâm trí Bính như sáng lên, tươi lên, nhẹ nhàng khác thường. Bính thấy như gió lạnh đã trút sạch mọi sự rối loạn tối tăm trong người Bính. Bính thấy như đương sống một cuộc đời êm đềm trong sạch ở đâu đây. Thẫn thờ Bính tự nhủ:

  • Giá lúc nào mình cũng được như lúc này có phải sung sướng không?!

Nhưng khi Bính vừa đưa mảnh gương ra soi thấy mặt mày võ vàng hẳn đi thì Bính lắc đầu:

  • Mà ta sung sướng để làm gì? Con cái chả có, và chẳng còn bao giờ trông mong có được, cha mẹ thì tận tình, vậy chỉ thêm tủi thân thôi. Vả lại biết bao người khổ sở vì ta vậy ta cũng phải khổ sở mới cân chứ?

Rồi Bính rợi người cúi trông bàn tay trái bị xe kẹp dạo xưa, năm ngón tay cụt gần hết, mà ghê sợ cho cái dấu vết mãi mãi xấu xa của đời mình.

Bính lắc đầu toan nhắm mắt lại để tránh những hình ảnh tối tăm hiện ra thì Năm Sài Gòn ở đằng mũi tàu đi tới, khít hai hàm răng bảo Bính:

  • “Cớm” đấy!
  • Thế à?
  • Nó định “tôm”(1) chúng ta!
  • So nào vậy?
  • So mặt ngựa và so Vinh.

Bính giữ vẻ thản nhiên:

  • Vậy đến bến Ninh Giang thì chuỗn.

Năm Sài Gòn đưa mắt gờm gờm nhìn xung quanh, vội đáp:

o O o

  1. Tôm: bắt.
  • “Chuỗn tươi”(1) mình ạ!

Vừa dứt tiếng Năm đã lao mình xuống sông, cùng lúc hai người đàn ông chạy đến bên Bính dậm chân nói:

  • Thế nó trốn thoát rồi!

Hành khách đổ xô lại, lố nhố trông ra dòng nước đen kịt cuốn Năm đi. Trống ngực Bính dồn dập, Bính lo ngại cho tính mệnh chồng, nhưng Bính phải cố trấn tĩnh để trả lời câu hỏi của người có cái khuôn mặt dài, mũi gồ và huếch giống mặt ngựa kia:

  • Cô quen thằng kia phải không?
  • Không! Tôi không quen biết gì hết!

Người ấy trừng mắt nhìn Bính:

  • Rõ tôi vừa thấy cô nói gì với nó mà.

Tám Bính cười nhạt:

  • Tôi là đàn bà con gái không quen thuộc với họ thì làm gì có chuyện mà nói.

Người đàn ông đứng cạnh Mặt ngựa gờm gờm nhìn Bính. Bính cũng lườm trả, đoạn nguây nguẩy đi xuống boong dưới.

Tàu vừa cập bến Ninh Giang, Bính thót ngay lên bờ. Qua khỏi phố bờ sông, Bính ngoảnh cổ nhìn, không thấy bóng hai người mật thám theo mới hơi yên tâm.

  • Hú vía!

Bính nói thầm, chực vào một nhà hàng cơm để trọ thì Năm Sài Gòn ở đâu đến vẫy gọi Bính. Năm đã thay bộ quần áo khác và khoác một cái áo tơi đi mưa.

  • Kìa mình! Có việc gì không?

Năm Sài Gòn lắc đầu:

o O o

  1. Chuỗn tươi: trốn ngay.
  • Không! Và mình còn bao nhiêu tiền?
  • Năm hào thôi!
  • “Kẹo hựu”(1) thôi à?
  • Nói dối mình làm gì!

Năm Sài Gòn nhăn mặt:

  • Thế thì chúng mình phải cuốc bộ về Thái Bình mất! Mà đi ngay bây giờ.
  • Sao thế?

Năm Sài Gòn trông quanh quẩn:

  • Cây(2) ghê, anh lại thấy hai “so cớm” khác.

Năm vừa nói vừa hất hàm về phía một hàng cơm đằng xa. Bính cau mày bảo Năm:

  • Chúng săn riết quá mình nhỉ?

Bính bồn chồn lo ngại, hay sở mật thám đã dò xét biết vợ chồng Bính là thủ phạm vụ án mạng Ba Bay? Bính run run bảo Năm:

  • Thì “chuỗn” ngay thôi!

Dứt lời, hai người rẽ quặt ra con đường nhỏ ven ruộng. Đã hơn tám giờ tối. Nhằm vào ngày cuối tháng không trăng, cảnh vật tối mịt. Thỉnh thoảng một con đom đóm ở bụi tre đen sì bay vụt ra, chập chờn vờn lên nền trời những vệt sáng ngắn, càng làm cho cái lạnh lẽo vắng vẻ của đêm tối khủng khiếp hơn.

Bính thở dồn, trống ngực Bính đập tưởng đứt mất. Hình như Năm nghe thấy, hắn bèn nắm tay vợ khẽ hỏi:

  • Mình sợ lắm phải không?

Bính lắc đầu và hỏi lại:

o O o

  1. Kẹo hựu: năm hào
  2. Cây: sợ
  • Sắp đến nghĩa địa làng Thủy Vân đấy mình nhỉ?

Năm cười, hất hàm về bên tráị Bính trông theo thì chính là nơi Bính hỏị Trong màn sương mịt mùng, những mô đất và những đám dứa dại gai góc, lù mù đương thiêm thiếp giữa những tiếng dế âm ỷ.

Hai người đi được chừng bốn cây số thì mưa bắt đầu lấm tấm rồi dần dần nặng hột, thấm ướt hết cả lần áo ngoàị Bính run run, thở dàị Năm liền cởi áo tơi đưa cho vợ nhưng Bính không khoác, dồn bước.

Tâm trí Bính lại buồn rượị Tuy có Năm đi bên, Bính vẫn tưởng như thui thủi một thân một mình, và con đường vắng vẻ mà Bính đương đi đây không phải về Vĩnh Bảo, về Thái Bình mà đến một nơi toàn những sự nguy hiểm, sầu thảm.

Tám Bính lại bị hình ảnh Ba Bay dọa nạt, Bính lại tưởng ra hắn mình mẩy đẫm máu, tóc rũ rượi lơ lửng trước mặt Bính. Hắn không cười không nói, nhưng quái lạ một tiếng gì giống hệt tiếng hắn cứ thì thầm vào tai Bính rằng đời Năm, đời Bính, đời hết thảy cánh “chạy vỏ” đều sẽ chịu những hình phạt còn khủng khiếp hơn nữạ Bính không thấy trên nét mặt Ba một vẻ gì giận hờn, oán trách vợ chồng Bính hết. Hình như cái chết của hắn đã ghi sẵn trong một quyển sổ đền tội công bằng vậỵ

Tám Bính và Năm Sài Gòn qua Thủy Vân được một quãng xạ Mưa vẫn không ngớt. Gió thổi mỗi lúc một rét buốt hơn. Dưới bầu trời đen kịt, hai người khó phân biệt con đường lầy lội với ruộng bùn ngập nước.

Chợt, đằng xa, một ánh đen le lói nổi bật hẳn lên trong khoảng mờ mịt. Tám Bính bấm tay Năm:

  • Đến đấy thế nào chúng mình cũng phải nghỉ. Chẳng biết mình có nhọc không, em thì mỏi rời cả hai chân và lại ngâm ngẩm đau bụng.

Năm Sài Gòn đương ngẫm nghĩ, không trả lờị Năm thì thầm: “Giá hai thằng mất thám ta gặp lần thứ hai có để ý tới ta cũng không thể nào theo được, vì ta đã làm chúng nó lạc đường ngay từ bến Ninh Giang. Vậy có thể ngủ đêm nay nhưng sáng mai phải dậy sớm để về ngã ba Đọ rồi về Thái Bình cho kịp chuyến xe ô tô mười giờ chạy Nam Định. Thế thì hai thằng chứ hàng chục thằng mật thám cũng chẳng sợ”. Thấy Năm trầm ngâm, Tám Bính hỏi lại:

  • Có được không mình?

Năm Sài Gòn vui vẻ đáp:

  • Được lắm!… Được lắm!…

Độ mươi phút sau Bính nhận ra cái ánh đèn le lói ban nãy ở trong một nhà tranh làm giữa hai gốc nhãn um tùm. Bính vội buông tay Năm, chạy đến đập cửạ Có tiếng người đưa rạ

  • Ai hỏi gì đấỷ
  • Tôi đâỵ
  • Aỉ Ai mua gì đấỷ!

Cánh liếp hé mở, một khuôn mặt đàn bà dưới nếp khăn vuông hiện ra, Bính liền khẩn khoản:

  • Thưa bà! Vợ chồng tôi có người nhà ốm nặng phải về gấp Thái Bình nhưng vì trời đổ mưa và tối quá, vậy bà làm ơn cho chúng tôi trọ nhờ một đêm để sáng mai chúng tôi đi sớm.

Bính chưa hết câu, có tiếng đàn ông ở trong nhà nói ra:

  • Vâng, mời ông bà vào nhà. Bu mày chống liếp mau lên chứ, kẻo bà chờ lâu mưa ướt hết.

Đóng lại gióng liếp cửa xong đâu đấy, người đàn bà nhanh nhẩu mời vợ chồng Năm ngồi xuống giường, còn người đàn ông ẵm con đứng dậy vặn to ngọn đèn cầy trên mặt chiếc hòm chân, vừa giục người đàn bà:

  • Kìa bu mày rót nước để ông bà xơị

Bính đón nhời:

  • Vâng, ông bà cứ để chúng cháu tự nhiên.

Rồi Bính thân rót nước ra chén. Hương chè tàu thơm ngát thoảng lên làm Bính ngạc nhiên, đoán rằng vợ chồng nhà này có công việc gì nên mới pha chè sẵn như thế. Người đàn bà ẵm con ngồi gần đấy hiểu ý Bính bèn thong thả nói:

  • Chả giấu gì ông bà, hôm nay nhà cháu có giỗ, định pha chè mời bà con trong họ uống rồi đọc kinh, nhưng vì mưa mà nhà cháu ở mãi ngoài đường đê này nên không ai ra…

Người vợ tiếp nhời:

  • Vậy gặp ông bà nghỉ đây thật may có duyên với vợ chồng nhà cháu quá!

Khi ấy người chồng đưa mắt nhìn vợ như hỏi có nên đọc kinh ngay hay là để gần khi đi ngủ. Người vợ tần ngần. Thấy vậy Tám Bính vội nói:

  • Thưa ông bà thế thì hay quá, ông bà thắp nến lên cho chúng tôi thông công(1) vớị

Người đàn bà niềm nở:

  • Vậy ông bà cũng đi đạo à?

o O o

  1. Thông công: cùng đọc kinh

Bính bẽn lẽn:

  • Vâng nhà tôi mới theo đạo, còn tôi là bổn đạo gốc.

Người chồng vội vàng:

  • Vậy để ông sang giường bên kia nghỉ, còn bà với chúng tôi lại hạt năm chục và ngắm mười bốn đàng Thánh giá(1) vậỵ

Người chồng nói xong, người vợ liền đánh diêm châm nến rồi rót nước mời Bính sắp sửa nguyện kinh.

Đã hơn năm năm, Bính ít nhắc đến các kinh đó, nhưng thuở nhỏ Bính học thuộc lòng và ngày ngày đọc luôn miệng nên nay Bính vẫn đọc trơn tru và giọng vẫn êm ái lắm.

Nhìn tượng Đức mẹ bày giữa hai cành huệ trắng cắm trong đôi lọ bằng đất nhuộm phẩm, và những tia sáng lung lay của bốn ngọn nến, Bính thấy mình lùi dần về quãng đời thơ trẻ.

Bàn thờ nhà Bính cũng bày trên miếng gỗ hình bán nguyệt, đường kính độ hơn một thước, đóng ghép vào cột nhà. Cũng mấy cành huệ trắng, cũng chiếc lọ sành nhuộm phẩm, cũng tượng Đức Thánh Nữ-trọn-đời-đồng-trinh vẻ mặt trang nghiêm mà hiền từ, nhưng nhà Bính còn thêm một khung ảnh hình Trái tim mà hiện giờ Bính còn nhớ từng nét một. Chúa Giê-su mặt rầu rĩ,

o O o

  1. Lần hạt năm chục là đọc 50 kinh vừa lần 50 hạt trong tràng hạt. Ngắm 14 đàng thánh giá là đọc 14 đoạn thuật những cuộc chúa Giê-su chịu các hình phạt, nặng nhất là hình phạt phải đội mũ gai vác cây thập tự nặng đi rong đường để tới chỗ chịu đóng đanh chết. Khi ngắm những đoạn này còn phải đọc nhiều kinh khác nữạ

mắt lờ đờ, một tay chỉ vào ngực. Giữa ngực phanh ra một trái tim rỉ máu, hàng chục lưỡi gươm sáng xuyên quạ

Đã tới ngắm thứ tám, chỗ Đức Chúa Giê-su đứng lại an ủi dân thành Giêđuyđa-lem giữa khi chính mình

không được một ai ngỏ một câu ái ngại mà lại còn bị xỉ vả, lại còn phải vác cây “thập ác” nặng nề, thì Bính không sao cầm được nước mắt.

Bính chấm xong giọt nọ thì giọt kia đã tràn ra ngay, trong chốc lát mắt Bính mờ hẳn đị Cảnh vật xung quanh Bính bỗng tối sầm lại, duy có bốn ngọn nến bên cạnh tượng đồng Đức Mẹ là rực rỡ lạ thường, thành một vòng ánh sáng như của vầng mặt trời mọc lúc rạng đông.

Hai vợ chồng nhà nọ chăm chú nguyện ngầm không để ý đến Bính. Sự hào hợp ấy khiến Bính thêm thổn thức, nước mắt Bính càng tràn ra, cổ họng Bính như sắp tắc, Bính không thể thốt lên một tiếng nữạ Bính đau đớn, Bính tủi hẹn, Bính tê táị

Đọc hết bản kinh, Bính chấm sạch nước mắt rồi mà vẫn còn muốn khóc. Bấy giờ người chồng đã tắt bớt hai ngọn nến đi và người vợ bưng một mâm cháo gà hơi bay ngào ngạt ở dưới bếp lên. Người đàn ông lại giường đánh thức Năm dậỵ Cả hai ân cần mời vợ chồng Năm ăn. Năm đương đói, nhận nhời liền, Bính tuy buồn bã không muốn ăn nhưng nể lời cũng phải cầm thìạ Thằng lớn ngủ ở giường trong thấy tiếng bát đĩa liền ngỏm dậỵ Nó bưng hẳn cái bát to nhất và ngồi ăn bên cạnh Năm. Vợ chồng nhà nọ vừa ăn vừa chuyện trò vui vẻ lắm. Thấy Bính hỏi các cách làm ăn buôn bán thì người vợ nhanh miệng nói luôn:

  • Chúng cháu chả giấu gì ông bà, vợ chồng cháu và hai cháu bé đây chỉ trông vào cái hàng nước thôị Nhưng người khác thì không đủ chi tiêu, nhưng vợ chồng cháu dè xẻn cần kiệm cùng là chăm cầu xin Chúa nên cũng đủ ăn.
  • Thế mỗi ngày bà kiếm được bao nhiêủ
  • Ngày một hào, phiên chợ hay ngày mùa thì vài ba hào là cùng.
  • Có thế thôi mà nhà đủ ăn?

Người đàn bà cười:

  • Bà tính bây giờ khó khăn, kiếm được cho các cháu không phải bữa nào nhịn ấy là có ơn Chúa thương lắm đấỵ Vả lại nhà cháu nuôi thêm vài con lợn, giồng thêm vài sào rau, đỡ cặp thêm với cháu, chứ cả như cháu buôn bán thì cũng bấn đấỵ

Lâu nay Bính tiêu tiền chục đã quen tay, không phải vất vả, nên Bính quên bẵng cái khó khăn eo hẹp của sự làm ăn ở chốn thông quê. Bính quên cả ngày còn con gái Bính đi chợ xa gánh vã mướt mồ hôi mà chỉ được dăm xu, hay có phiên gạo ế thì chỉ được nắm tấm, nắm càm không thôị

Bỗng thằng bé ẵm trong lòng người đàn ông khóc oe oe, người vợ chìa tay đón ngay lấy nó vừa cười vừa nói nựng: “úi nao ơi! Con tôi đói quá. Tội nghiệp! Có cháo gà ngon đấy nhưng chưa có răng thì ăn thịt làm sao; Thằng anh nó lại ăn hết thôi”.

Rồi người mẹ vạch yếm cho con bú! Thằng bé ngậm núm vú bú ụt à ụt ịt như con lợn con. Trước mặt người đàn bà, Bính mủi lòng đưa mắt nhìn Năm Sài Gòn ăn bát cháo xong ngồi dựa lưng vào bức vách mơ màng với khói thuốc lá. Bính chua xót nhớ tới đứa con nhỏ bán đi năm xưa và đứa con đẻ sẩy, và càng xót xa đau đớn hơn khi người đàn bà cúi hôn xuống cặp má phúng phính xinh xắn của đứa bé, và người đàn ông thì nồng nàn nhìn vợ ẵm con.

Bính thấy vợ chồng người nọ thật sung sướng hơn ai, còn mình thì khổ sở không biết chừng nào đến đời nàọ

Một lúc lâu, người đàn bà tươi cười bảo vợ chồng Năm:

  • Đã khuya rồi, xin rước ông đi ngủ với nhà cháu, còn bà thì nằm giường trong buồng nghỉ cho đỡ mệt.

Người đàn ông nói tiếp:

  • Thật may mắn, nhà cháu vừa mua được cặp chiếu đậu, lại vừa mới giặt chiều quạ

Bính cảm ơn, đoạn đến bên cạnh giường kê gần cửa sổ nằm. Bính chợp ngủ đị Chợt tiếng gà gáy trong mấy xóm rải rác đằng xa vẳng lên. Bính đương mơ màng tỉnh ngay giấc. Rồi thì Bính không sao ngủ được nữa, khi tiếng gà gáy im bặt, những nhịp thở đều đều không biết của người vợ hay người chồng, hay đứa con thơ ở giường ngoài buồng đưa lại, như rót vào tai Bính. Giữa khoảng đêm mưa gió ào ào, hơi thở ngon lành kia lại gợi lên trong lòng Bính ngùn ngụt sự thèm thuồng khao khát một cuộc đời trong sạch êm đềm dù nghèo nàn.

Nhưng Bính đau tủi biết bao thấy rằng cái ước mong đó không thể nào có được, Bính chỉ có thể gặp cái đêm như đêm nay, một đêm trong cái đời nguy nan điêu đứng dừng bước trong một gia đình ấm cúng nào đấy, để mà tiếc, mà khát khao và xót xa thôị

Bỉ vỏ – Chương 26

Tám Bính về Nam Định thuê một gian nhà gần bến Tân Đệ được nửa tháng nay.

Sáng nay Bính lại dậy thật sớm ra cửa ngong ngóng Năm. Đã hai chuyến tàu rồi, mỗi chuyến ba ngày, mà Năm vẫn chưa về.

Ngoài đường, đàn sẻ líu ríu càng làm cho Bính bồn chồn nóng ruột. Trước mắt Bính nắng vàng rực rỡ phấp phới trông ủ dột như những tia sáng hấp hối của chiều tàn vậy.

Ăn cơm trưa xong, Bính lại chờ…

Rồi chiều… rồi tối…

Lúc ấy tàu Nam Hải nhân con nước lên lần ra khỏi bãi, kéo một hồi còi dài đoạn mở thêm tốc lực máy chạy.

Hành khách nhao nhao lên vì mừng rỡ. Một phần đông người về Nam Định xem hội “Phủ giầy” thấy tàu xô phải bãi đã tưởng đến nhỡ mất. Năm Sài Gòn cũng mừng lắm, trước hết vì Năm mới thoát khỏi tay một người mật thám tốn công phu dò hỏi, lùng bắt Năm ở ngoài Hải Phòng, sau vì một món hàng, vừa lọt vào mắt Năm.

Ngồi gần đấy, đằng cuối boong một người đàn bà đứng tuổi ăn vận không sang trọng lắm, nhưng đứa bé ngồi trong lòng thì dễ thương quá. Chiếc khánh vàng lủng lẳng dưới chiếc vòng cổ bằng vàng, những vòng chân, vòng tay của nó toàn bằng vàng làm Năm hoa cả mắt. Các thứ ấy sẽ cho Năm bao nhiêu sự tiêu pha sung sướng. Bán bọn đồ vàng sẽ lấy được kia. Năm đến sòng xóc đĩa đánh “gấp thiếc”(1) mà trúng luôn mười “tay” lúc đó trên thế gian này chắc vua chơi cũng kém Năm.

Nhưng người đàn bà ấy cẩn thận lắm. Năm Sài Gòn cố làm ra vẻ tự nhiên hiền từ, song không thể nào gần được đứa bé. Năm đã phải giật mình vì câu nói: “Để hở thế này thì chó nó đớp mất còn gì!”. Khi người đàn bà đó cầm chân thằng bé kéo ra, kéo vào, vừa cười ròn rã.

Chắc đứa bé được nâng niu, tẩm bổ cực kỳ sung sướng nên nước da nó mới trắng hồng, chân tay mới bự bẫm đến như thế. Đem ví với trứng gà hay với bột nặn thì trứng gà và bột nặn còn kém. Thảo nào nó chừng lên năm lên sáu, đang tuổi chạy nhảy, nhưng người đàn bà cứ quấn quít lấy nó, chẳng rời nó một giây.

Tày chạy quá Suôi, Hới đã lâu, thấm thoắt đến gần Tân đệ thì chiếc kim đồng hồ trong buồng máy chỉ đúng mười giờ.

Mười giờ… cảnh vật trên sông càng tối mịt mù.

Bỗng người đàn bà bế con xuống boong dưới, lò dò ra cửa tàu, ngần ngại trông về Nam Định sáng tỏa một vùng trời, lẩm bẩm nói một mình: “Lâu quá trời đất ạ!”.

Năm Sài Gòn nhẹ như cái bóng nối gót luôn. Người đàn bà vừa quay mình lại, chưa kịp nhìn Năm, Năm đã thúc mạnh cùi tay vào mạng mỡ người ấy.

Một tiếng kêu rú lên. Năm Sài Gòn đạp thêm người

o O o

1. Gấp thiếc: Gấp bội lên.

ấy cái nữa, giằng lấy đứa bé xong lao mình xuống sông. Người đàn bà kêu thất thanh. Hành khách xô lại. Họ ngơ ngác trông hút theo khoảng sông rộng mờ mịt hai bóng người nhấp nhô trên đợt sóng mỗi lúc một xa, rồi biến mất.

Người đàn bà kêu khóc thảm thiết, vật vã mình mẩy. Mọi người đều bàn tán ầm ỹ cả tàu. Riêng có một người vận âu phục đứng cạnh mẹ đứa bé độ vài sải tay là không nói nửa nhời. Y tựa lưng cạnh sườn tàu, cau mày lẳng lặng.

Trước còn một hình ảnh mờ mờ hiện trong trí tưởng y sau cả một thân thể béo lùn với khuôn mặt sắt siu rám nắng chằng chịt những vết sẹo dao chém hiện ra rõ trước mặt y.

Y mím môi, nắm chặt bàn tay phải đấm mạnh vào lòng bàn tay trái, dằn tiếng nói một mình:

– Lại… i… i Năm Sài Gòn!…

Bấy giờ Năm Sài Gòn mải miết bơi, nên không thể nào kịp tháo các vòng chân, vòng tay đứa bé. Năm đã phải nghiến răng cố dứt cái vòng cổ để về giấu trước đi một chỗ, nhưng ngón tay chuối mắn của Năm vừa ấn mạnh xuống cổ thằng bé thì nó càng giẫy đạp khiến Năm suýt phải buông nó ra mất.

Mấy phen Năm và nó chìm nghỉm rồi lại nhô lên. Năm thở không ra hơi, cánh tay phải mỏi rã rời, thân thể bắt đầu nặng trĩu. Đã thế gió mạnh ở đâu bỗng nổi lên, thổi bạt Năm ra tận giữa sông. Giá mà món hàng thường thì Năm đến bỏ đi để qua cơn cheo leo vật lộn với sông nước này.

Đứa bé ngạt hơi không giẫy đạp nữa và không biết gì nữa, Năm Sài Gòn gạt những tóc rủ xuống mặt rồi hết sức hơi… Một lúc sau Năm nhoai được vào bờ liền vội xốc đứa bé lên vai, cắm đầu chạy. Nhà Năm còn cách đấy một quãng ngắn thôi. Thoáng chốc, Năm đẩy cửa bước vào, Bính đương nằm, ngồi nhỏm dậy:

– Kìa mình!

Năm Sài Gòn đặt đứa bé xuống giường xong ôm ngực ngồi thở, quần áo ướt như chuột lột. Tám Bính biến sắc mặt hỏi Năm:

– Mình làm sao thế! Đứa bé nào đây?

Năm lập cập nói:

– “Hàng” đấy! Mình.

Tám Bính nhìn đứa bé, tròng mắt như muốn bật ra vì thấy có một cái gì khác lạ quá. Còn Năm kéo khăn lau qua mặt xong Năm chạy lại sờ ngực nó, Bính toan hỏi, Năm đã kêu lên:

– Mà mình ơi! Nó chết rồi này.

Tám Bính vội to đèn soi mặt nó: gương mặt nó xám nhợt! Bính nhẹ vuốt mà nó da thịt nó, giá ngắt. Bính gạt mớ tóc hung hung đẫm nước của nó lên thì Bính càng rởn người. Nổi bật dưới ánh đèn một vết chàm dài hình con thạch sùng kéo từ trán đến mang tai bên phải đứa bé, và một cái lẹm nhỏ trên mắt cũng bên phải đập mạnh vào mắt Bính. Bính choáng váng, cố hết sức tỉnh trí thêm nữa. Bính run run, đưa tay đặt nhẹ lên ngực đứa bé, Bính không thấy trống ngực nó đập nữa. Bính hoảng hốt ghé áp tai vào mỏ ác nó, Bính thấy nó chỉ còn là cái xác chết lạnh như đồng…

Bính tái mét mặt lại đầu gối quỵ dần, đưa cặp mắt xám ngắt nhìn Năm, nghẹn ngào:

– Thôi anh giết chết con tôi rồi!…

Cánh cửa bỗng mở toang. Hai người đội xếp ta chạy vào, bước theo hai người mật thám: một người ban nãy bắt hụt Năm trên tàu và một người béo trắng vận quần áo dài, còn thêm một cẩm tây nữa.

Năm Sài Gòn giật mình, chực chạy trốn. Nhưng cả nhà có mỗi một lối ra thì bị viên cẩm đứng chắn với khẩu súng lục lăm lăm bấm cò. Năm choáng đầu lên, định rút dao để đâm, nhưng nhanh hơn, hai người đội xếp đã nhảy xô lại ôm ghì lấy Năm.

Người mật thám béo trắng vận quần áo dài cũng xô đến lôi Tám Bính dậy, đạp mạnh tay vào Bính vào cái vòng sắt và trừng nhìn Bính, nghiến răng nói:

– Gớm thật!… Con này gớm thật.

Bính cúi đầu run rẩy. Người ấy lại dằn tiếng:

– Chuyến này rồi tao được xem đời mày… Và mày được biết tao!

Chính là người mật thám lấy Bính làm lẽ, cách đây ba năm đã đưa ngót trăm đồng để Bính nộp phạt cho bố mẹ, tuy đã ba năm, nhưng Bính vẫn còn nhớ rõ… Bính nhớ rõ và càng nhớ rõ bao nhiêu, trí tưởng Bính càng như rỉ máu ra bấy nhiêu. Rùng mình, Bính quay mặt nhanh về phía đứa con. Mắt Bính lại hoa lên. Bính giật phắt cái xích sắt trong tay người chồng mật thám, rồi chạy đến ôm chầm lấy đứa bé, khóc nức nở.

Năm Sài Gòn bỡ ngỡ không hiểu ra sao. Người mật thám nọ xổ ngay lại, lôi Bính dạy, quấn nốt hai tay Bính thêm mấy vòng xích sắt nữa, đoạn kéo ra cửa.

Tám Bính tê mê như người mất hồn, lờ đờ ngoái cổ nhìn với đứa con béo tốt nằm rũ trên chiếu.

Thoáng phút giây Bính thấy hết cả mọi sự tuyệt vọng tối tăm từ nay trở đi không lúc nào không xâu xé tâm can Bính, và Bính sẽ sống một đời khốn nạn dài vô cùng tận.

Tám Bính đưa mắt ướt đầm đìa trông Năm lắc đầu:

– Thế là hết!

Vợ – Nguyễn Công Hoan

Anh ba Cốc, từ ngày lấy được vợ, thì đâm lo ngày, lo đêm. Sao cho chóng trả được món nợ cướị Không thì rầy rà to chứ chẳng chơi! Đụng vào những chỗ hóc búa, lắm lúc rát cả mặt!

Vợ anh là con bác khán thủ làng trên. Anh là phu tuần. Hai người lấy nhau, cả hai làng, ai cũng khen là vợ chồng kén chọn được chỗ xứng đáng. Nhưng thực ra, vợ anh lấy anh cũng vì đôi bên là chỗ “thanh khí”, nghĩa đen là bén “tiếng” quen “hơi”nhau trước mãị Rồi bất đắc dĩ, bác khán sợ anh như những hạng Sở Khanh, mới ép anh phải lấỵ Số trời có khác!

Trước kia, anh nghĩ đã sinh ra làm con trai, tất nhiên là phải cưới vợ cho hợp lẽ tạo hóạ Nhưng cưới được vợ thì tốn kém quá. Tiền nọ, tiền kia, tiền ăn uống, ít ra mất hàng chục. Nghĩ đến cái hàng chục, anh lại lắc đầu, lè lưỡi, muốn chịu thua, đành vô phép tạo hóa làm trai tơ suốt đời vậỵ Vậy mà giá nói cho anh biết ở Hà Nội bây giờ, người ta cưới vợ phải dẫn những kim cương, những vàng ngọc, dùng những áo thêu, giày vá, đi những ô tô, máy bay, tốn kém đến hàng nghìn, thì quyết anh không tin, cho là chuyện hoang đường ở nước nào, đời nào kia đấy! Lấy vợ mà phải lo đến hàng trăm, không đủ méo mặt ra rồi à? Vả vợ cũng là người, nào phải cái quái mà làm hại nhiều như thế?

Thế nhưng, trời sinh ra thế, anh ba Cốc nghĩ đến cưới thì sợ, nhưng nghĩ đến vợ thì thích. Bởi vậy, anh mới lân la trò chuyện với chị Ba bây giờ. Trước chuyện to ở đám đông, sau chuyện nhỏ ở chỗ vắng. Rồi sau nói thầm ở một nơi kín. Vì anh chị nói thầm khẽ quá, nên bác khán nghe tiếng, bắt anh phải lo cưới cho được chị về.

Bởi vậy, anh Cốc quyết bắt chẹt bố vợ, cố mặc cả. Sau, anh lấy được vợ hạ giá hơn người ta, chỉ có mười lăm đồng bạc.

Mười lăm đồng bạc một cô vợ xinh! Mười lăm đồng bạc một cô vợ yêu! Thích nhỉ! Nếu vào địa vị chúng mình thì phải biết là đáng mừng! Nhưng vào anh ba Cốc, một người cày sâu cuốc bẫm quanh năm, làm ăn vất vả, vắt mũi không đủ đút miệng, thì đến mười lăm hào cũng đủ lo méo mặt, chứ nói gì đến mười lăm đồng bạc! Nhưng mười lăm đồng bạc tiêu vào một việc bổn phận làm người, thôi, anh cũng cố vay mượn của các bà con thân thuộc, nói khó với người ta, nên được gần đủ.

Ngày hẹn cưới sắp đến. Bác khán thúc mãi anh, anh mới lo được chẵn chục bạc. Anh cứ đánh liều đưa sang bên nhà gái cho xong chuyện. Còn năm đồng, anh xin chịu lại ông nhạc, hẹn đến mùa tới thì trả nốt.

ý anh định rồi sau này, khi đã là bố con, anh có thể lấy cảm tình mà xí xoá món nợ. Nhưng không được. Bố vợ anh láu hơn, bắt anh phải viết văn tự cẩn thận. Phải, thời buổi kinh tế khó khăn, như thế là bác khán đã nhân nhượng lắm rồị Chứ như người khác, đố anh có đón dâu nổi ngày hôm ấỵ Anh thử lên Hà Nội, thửa một thức hàng mà xem. Nếu anh đặt được ít tiền trước, rồi không có đủ để trả nốt, thì anh chớ hòng mang đồ về. Mà vợ cũng là đồ chứ saỏ Lấy vợ mà được “biên bông” như anh, là may đấỵ

Nhưng rồi anh ba Cốc lo lắm. Cưới được lâu ngày bao nhiêu, thì hẹn trả chóng đến bấy nhiêụ Vụ gặt xong, mà anh ỳ xác ra, thì quyết anh chẳng yên được.

Anh đã tính chán rồị Đến ngày mùa, hai vợ chồng làm nai lưng cật lực, chưa chắc đã đủ tiền để trang trải các món nợ ông chủ, huống chi là năm đồng bạc nợ ông nhạc! Anh định nếu rồi không cười trừ được, thì anh cũng đành xin khất lạị Chẳng lẽ ông ấy lại chẻ xác anh ra à? Nếu anh bị chẻ xác, thì con gái ông ấy goá chồng, còn thiệt bằng mười!

Nhưng ở đời, tính một đường nó thường đi một nẻọ Vợ anh khuyên anh nên trả cái món năm đồng ấy trước, anh lại chẳng nghẹ Khi hẹn đến ngày, bác khán cứ gọi anh đến mà đòi nằng nặc. Trước còn ngọt ngào dỗ dành sau bác biết anh chỉ còn bộ răng nhe ra đấy thôi, bác liền đâm ra nói nặng. Không chịu nổi những điều đau đớn, anh đành lẩn mặt. Bố vợ cho gọi, anh cứ thoái thác cớ nọ cớ kia, không đến nữạ

Mấy lần bác khán gọi anh ba Cốc không được, thì tức. Bác mới gọi chị Ba đến. Bác chửi, đánh cho một trận thật đau, bắt phải về đòi chồng cho kỳ được món tiền năm đồng ấỵ

Chị Ba sợ bố, về đòi chồng nằng nặc. Nhưng vợ đòi nợ chồng thì một cái hôn là đủ xí xoá. Vợ anh bảo:

– Nếu mình không giả được, thì ông bắt tôi về.

Nghe câu nói dọa vô lý, anh chẳng sợ một tí nàọ Dù bố vợ anh có bắt vợ anh về thực, thì chẳng qua như cái lối chủ nợ bắt đồ, cốt để làm oai, khiến anh phải lo cho kịp. Như thế là dạị Đồ vật thì không biết đi, không biết trốn, chứ đồ người nào phải vật vô tri vô tình. Giữ sao nổỉ Chẳng lẽ bác khán xỏ chạc vào mũi con gái mà buộc suốt ngày vào chân giường, để nuôi cơm báo cô mãỉ Chỉ cho ba hôm, bác xót ruột lại phải thả con ra ngaỵ Lúc ấy anh cứ chịu khó nghe chửi một trận nữa là trôi việc.

Nhưng anh đoán không đúng. Bố vợ anh chưa tịch ký vợ anh, đã áp đảo đến nhà anh mà chửi rủạ Ngày nào tấn kịch ấy cũng diễn ra độ nửa giờ. Mà bao giờ anh cũng đóng một vai tuồng câm.

Song, già néo đứt dâỵ Anh cứ thấy ông bà ông vải ngày nào cũng bị mời lên ăn vật chẳng ngon, thì anh động tâm. Cho nên, đến lúc bác khán bảo nếu anh không trả thì bác bắt con gái về, anh đâm khùng, liền đáp lại:

– Thì nó đấy, ông muốn đem nó đi đâu thì đem!

Chị ba Cốc thấy bố đẻ và chồng xử với nhau cạn tàu ráo máng, thì chỉ thút thít. Chứ bênh bên nào cũng tộị

Hôm sau, đi đâu về, chị ấy nói với anh một chuyện, nghe buồn quá:

– Anh ơi, tôi lấy anh chốc đà một năm tròn. Tôi không ngờ đâu chỉ vì có năm đồng anh thiếu mà sinh chuyện. ông nhất định bắt tôi về. Anh nghĩ thế nàỏ

Anh Ba cau mặt, thở dài:

– ông dọa thế, chứ ông chả nỡ.

– Không phải chuyện dọạ Nội nhật ngày mai, nếu anh không giả được, thì ông không đắn đo nữa đâụ

– Thì nhà cứ tạm về, tôi sẽ thu xếp saụ

– Thu xếp sau thì chậm quá. Nghe như ông đã định liệu công việc cả rồị

– ông đi kiện tôi à? Lý vậy, nhưng còn tình nữa chứ?

Anh ba Cốc tin ở chữ tình, nên bằng chân như vạị

Phải, bác khán nghĩ đến tình bố vợ con rể, nên không nỡ kiện thưạ Nhưng bác bắt con gái về, không cho ở với anh ba Cốc nữạ

Anh ba Cốc chờ vợ năm hôm, lại mười hôm. Rồi nửa tháng, đến một tháng. Anh nóng ruột, nhớ vợ, long tong chạy ngược chạy xuôi để vay tiền chuộc. Nhưng không ai tin mà cho anh mượn nữạ Anh bèn liều đến nhà ông nhạc, lạy van, khóc lóc. Nhưng bác khán một mực lắc đầu, sai con trai đuổi anh ra khỏi cửạ Rồi từ hôm sau, cấm không cho anh vào nhà.

Anh định đâm ì. ì mãi, thì tất cũng có một ngày ông nhạc giữ vợ anh chán, rồi cũng hồi tâm mà nghĩ lại, cho vợ chồng anh ăn ở với nhaụ

Nhưng trong khi đương thi hành cái chương trình ì, thì anh nghe tin rằng người bạn trăm năm của anh, vì bố ép, nên chỉ trăm năm với anh có một năm, còn chín mươi chín năm nữa, thì trăm năm với cụ lý Bá dưới cuối tổng, làm vợ lẽ thứ bảy, để gán món nợ hai chục bạc mà bác khán đã vay cụ năm trước!

PTBNS số 5; 1-4-1937

Hết

Tinh thần thể dục – Nguyễn Công Hoan

Có lính huyện mang trát quan về làng:

Quan tri huyện huyện X.X.

Sức hương lý xã Ngũ Vọng tuân cử.

Nay thừa lệnh Tỉnh đường, ngày 19 Mars này, tức 29 tháng Giêng An Nam, tại sân vận động huyện có cuộc đá bóng thi, nhiều chiến tướng đá rất hay, mọi nhẽ.

Vậy sức các thầy phải thông báo cho dân làng biết và phải thân dẫn đủ một trăm người, đúng 12 giờ trưa đến xem, không được khiếm diện.

Những người đã cắt đi dự cuộc khánh thành sân thể dục tháng trước, thì lần này được miễn.

Ai có mặt tại sân vận động cũng phải ăn mặc tử tế, đi đứng nghiêm chỉnh, và phải vỗ tay luôn luôn, vì hôm ấy có nhiều quan khách.

Làng Ngũ Vọng lại phải có năm lá cờ, sẵn sàng từ 10 giờ sáng.

Việc này tuy là việc thể dục, nhưng các thầy không được coi thường, nếu không tuân lệnh sẽ bị cữụ

Nay sức

Lê Thăng

+

  • +

Anh Mịch nhăn nhó, nói:

– Lạy ông, ông làm phúc tha cho con, mai con phải đi làm trừ nợ cho ông Nghị, kẻo ông ấy đánh chết.

ông lý cau mặt, lắc đầu, giơ roi song to bằng ngón chân cái lên trời, dậm dọa:

– Kệ mày, theo lệnh quan, tao chiếu sổ đinh, thì lần này đến lượt mày rồị

– Cắn cỏ con lạy ông trăm nghìn mớ lạy, ông mà bắt con đi thì ông Nghị ghét con, cả nhà con khổ.

– Thì mày hẹn làm ngày khác với ông ấy, không được à?

– Đối với ông Nghị, con là chỗ đầy tớ, con sợ lắm. Con không dám nói sai lời, vì là chỗ con nhờ vả quanh năm. Nếu không, vợ con con chết đóị

– Chết đói hay chết no, tao đây không biết, nhưng giấy quan đã sức, tao cứ phép tao làm, đứa nào không tuân, để quan gắt, tao trình thì rũ tù.

– Lạy ông, ông thương phận nào con nhờ phận ấỵ

– Mặc kệ chúng bay, tao thương chúng bay, nhưng ai thương taọ Hôm ấy mày mà không đi, tao sai tuần đến gô cổ lại, đừng kêụ

+

  • +

Bác Phó gái, dịu dàng, đặt cành cau lên bàn, ngồi xổm ở xó cửa, gãi tai, nói với ông lý:

– Lạy thầy, nhà con thì chưa cất cơn, mấy lại sợ thầy mắng chửi, nên không dám đến kêụ Lạy thầy, quyền phép trong tay thầy, thầy tha cho nhà con, đừng bắt nhà con đi xem đá bóng vộị

– ồ, việc quan không phải như chuyện đàn bà của các chị!

– Thì lạy thầy, thế này, làng ta thì đông, thầy cắt ai không được. Tại nhà con ốm yếu, nên xin thầy hoãn cho đến lượt saụ

– ốm gần chết cũng phải đị Lệnh quan như thế. Ai cũng lấy cớ ốm yếu mà không đi, thì người ta đá bóng cho chó xem à?

– Thưa thầy, giá nhà con khỏe khoắn, thì nhà con chả dám kêụ Nhưng, thưa thầy, từ đây lên huyện, những chín cây lô mếch, sợ nhà con đi nắng thì cảm, rồi phải lại thì oan giạ

– Đây không biết, mà đây cũng không nghe đâụ Vợ chồng thu xếp với nhau thế nào, đây mặc kệ!

– Thưa, hay con nghỉ buổi chợ để đi thay nhà con có được không ạ?

– Không! Phải là đàn ông kiả Chứ nữ nhân ngoại tộc, ai kể.

Người đàn bà thở dài:

– Thế thì con biết làm thế nào được!

+

  • +

Bà cụ phó Bính, mắt kèm nhèm, vừa nói, vừa cười rất vô duyên:

– Thì lòng thành, ông lý cứ nhận đi cho cháụ Cháu hôm ấy không bận đi ăn cưới thì cháu cũng xin vâng. Cháu đã thuê thằng Sang đi thay cho cháu cũng thế. ông ngơ đi là được.

– Thế ngộ quan biết, có chết tôi không!

– Quan đếm đủ đầu người là xong, chứ ai xem thẻ mà ông sợ.

– Tôi nhận lễ của con bà mà tôi lo lắm. Việc quan nào phải việc chơị

– Thì cũng như ông làm phúc ấy mà lị.

– Nhưng thằng Sang có khăn áo tử tế, hay lại ăn mặc như thằng ăn mày ấỵ

– ông không phải lo việc ấỵ Nó đã dạm mượn được đủ cả rồị Cháu mặc cả và đã khoán đủ với nó như thế.

ông lý nhăn mặt, nhặt ba hào, bỏ túi:

– Làm việc mà cứ gặp phải những người như con bà, thì tôi đến chết mất.

– Thì ông không cho phép cháu ở nhà, cháu phải thuê người khác đi thay cũng thế chứ gì.

– Thế đến gà gáy hôm 29, bà phải bảo thằng Sang chực sẵn ở đình, tôi dẫn đị

– ấy, ông cho nó cơm nước thong thả đã chứ. Đá bóng ít ra ba bốn giờ chiều mới bắt đầu kia mà. Tôi tưởng mười hai giờ ở nhà đi cũng vừạ Buổi sáng, tôi còn mượn nó cuốc mảnh vườn.

– Ba bốn giờ chiều mới bắt đầu, nhưng quan bắt đến huyện từ 12 giờ trưạ Để ngài điểm. Mà quan sức mười hai giờ, thì mình phải đến từ 11 giờ cho sớm sủạ Vả lại, tôi còn phải mang cờ lên lúc 10 giờ, thì chả đi từ năm sáu giờ thì đi vào lúc nàỏ Cho nên, mọi người phải chờ tôi ở đình từ gà gáỵ

– Thế thì sớm quá.

ông Lý gắt:

– Tôi không lôi thôị Bà không bằng lòng thế, thì tôi cứ bắt đích danh con bà. Mặc kệ!

Bà phó sợ hãi:

– Không, lệnh ông thì thế nào tôi chả phải nghẹ Là tôi nói chuyện thế đấy chứ.

– Mấy lị bao nhiêu người đều phải thế, chứ riêng gì bà. Bà bảo thằng Sang nắm cơm từ chiều hôm trước, chứ sáng hôm ấy dậy mới thổi thì không kịp đâụ

– Vâng.

+

  • +

Ngay từ sáng tờ mờ hôm 29, ở sân đình làng Ngũ Vọng, đã có tiếng ông lý quát tháo om sòm:

– Thiếu những mười tám thằng kia à? Tuần đâu, đến tận nhà chúng nó, lôi cổ chúng nó ra đâỵ Chứ đã hẹn đi lại còn định chuồn phỏng!

Sau tiếng dạ ran, những ngọn đuốc linh tinh kéo đi các ngả. ông lý dặn theo, tiếng oang oang:

– Hễ đứa nào láo, cứ đánh sặc tiết chúng nó ra, tội vạ ông chịụ Mẹ bố chúng nó! Việc quan thế này chết cha người ta không! Chúng bay gô cổ cả, giải cho được ra đây cho ông!

Lại một tiếng dạ nữa, giữa những tiếng chó rống dậỵ Ngọn lửa đỏ như nổi lềnh bềnh trong biển sương mù.

Thì đại khái cái cảnh diễn ra như thế này:

Hai người tuần, một người cầm đuốc, một người cầm tay thước, đạp cửa vào nhà thằng Cò. Sau khi tìm sục khắp gian ngoài, buồng trong, không thấy một ai, họ xuống bếp, chọc tay thước vào cót gio và bồ trấụ Rồi họ lùng ra mé sau nhà. Cũng vô hiệụ

Nhưng bỗng có tiếng trẻ khóc thét lên, thì hai anh tuần mới khám phá ra chỗ người trốn: Thằng Cò nằm ẹp với con ở cạnh đống rơm, phủ lên mình đầy rơm.

Nó bị lôi ra ngoàị Nó van lạy:

– Lạy các bác, các bác cho tôi ở nhà làm ăn.

– Sao anh đã hẹn với ông lý, lại không đi, để ông ấy chửi địa lên kia kìạ

– Tôi đi thì tôi mất cả ngày, mà mất buổi làm thì tôi với cháu nhịn đóị

– Tôi không biết!

– Mấy lị tôi không mượn đâu được quần áọ

– Không biết! Anh ra đình mà kêu với ông lý.

Thằng bé con nhắm nghiền mắt, ôm chặt lấy bố. Nó sợ quá, không khóc được nữạ Thằng Cò chưa kịp trả lời, đã bị lôi sềnh sệch đị

+

  • +

Cuộc săn dù ráo riết đến đâu cũng không sao tróc đủ một trăm người phải đi xem đá bóng. Dăm sáu anh khôn ngoan, đã kéo đến ngủ nhờ nhà khác, hoặc làng khác. Họ làm như lánh nạn.

Khi thấy đã chậm giờ, ông lý trưởng nghiến răng nói:

– Chúng nó ngu như lợn. Người ta cho xem đá bóng chứ ai làm gì mà cũng phải bắt. Rồi quan thấy không đủ số, lại chửi ông không tận tâm.

Rồi ông ra lệnh:

– Chín mươi tư thằng ở đây, xếp hàng năm lại, đi cho đều bước. Tuần chúng bay phải kèm chung quanh giúp taọ Đứa nào mà trốn về thì ông bảọ

Đoạn ông lo lắng, đi cuối cùng, mắt nhanh nhẹn để coi cẩn thận như coi tù binh.

– Mẹ bố chúng nó, cho đi xem đá bóng chứ ai giết chết mà phải trốn như trốn giặc!

Tiểu thuyết thứ bảy, số 251; 1939

Hết

Thế là mợ nó đi tây – Nguyễn Công Hoan

a bord du chantilly, le 10 décembre 1927

cậụ trời ơi, thực là tôi để lụy đến cậu! nếu biết trước rằng cảnh ly biệt nó xé tan nát gan ruột tôi như thế này, thà cứ chịu ở nhà dạy học, đỡ cậu mỗi tháng ba bốn chục bạc lương, thì được gần gụi gia đình, sớm tối vui thú với cậu, với con, việc gì đòi xuất dương du học, đến nỗi bây giờ vất vả một mình, thân gái dặm trường, khóc thầm với bóng!

từ lúc con tàu chạy xa, nhìn vào bờ, chỗ cậu đứng bế con, chỉ thấy cái mùi soa bay phấp phới mà thôi, thì tôi bồi hồi tấc dạ, giọt lệ khôn cầm, tâm sự ấy bút nào tả xiết! chỉ tiếc ngày thường không chịu nghiên cứu văn chương an nam, để lúc ấy tôi làm một bài thơ kỷ niệm sự biệt ly!

vào đến buồng, nằm lả trên giường, tôi không buồn dậy nữạ Đã toan lấy bút ghi chép mấy câu vào quyển sổ tay, nhưng thảm quá, nước mắt đã tràn trụa, không nghĩ ra câu nào mà viết! cậu ơi! cậu có làm thế nào cho tôi đỡ nhớ không?

nhưng nay biết làm thế nào bây giờ? con tầu ác nghiệt nó cứ mỗi lúc một làm cho mình xa nơi xứ sở thân thích, rồi nó lại che kín bằng bức màn sương. nghĩ lại lúc mới cạo răng, mặc bộ quần áo đầm, lúc mới bước chân xuống tàu, trong bụng hăm hở thế nào, thì bây giờ nhớ đến cái tình vợ chồng, cái tình mẹ con, tối tối được xum họp cùng nhau dưới ngọn đèn, thì ruột tôi lại cũng đau như cắt thế!

nhưng đã trót đi thì cứ dấn, tôi không nản chí đâu, cậu ạ! ở hà nội, thì chín khoa đã trượt cả, thì sang tây phen này, ba năm ắt giật được mảnh bằng tú tàị cậu sẽ chẳng xấu hổ mất tiền cho vợ du học đến nỗi tay trắng về không. tôi buồn thực. nhưng buồn bao nhiêu, tôi nhớ cậu bấy nhiêụ tôi nhớ cậu bao nhiêu, tôi lại càng không dám phụ công cậu nuôi cho ăn học.

thằng chó con, trông ảnh nó, tôi nhớ nó quá! nó có hỏi tôi luôn không? nó có biết rằng mợ nó đi tây không? mấy hôm nay, nó có hay quấy không? cậu nhớ cho nó chủng đậu đi nhé. mẹ tôi ở nhà có buồn không? nếu cậu thương nhớ tôi, thì nhờ cậu thay tôi, thỉnh thoảng đi lại khuyên giải mẹ tôi cho khuây khỏạ viết đến đây, nghĩ đến mẹ già, tôi lại tủị chẳng may nhà nghèo, đến nỗi bao nhiêu phí tổn đi tây học, tôi để phần cậu chịu cả! tôi thương cậu quá. thực là một người chịu khó nhọc một mình để kiếm lương nuôi vợ đi du học như cậu, ít có lắm.

nhưng cậu cũng nên thương tôi mà đừng chơi bời gì cả. lúc nào cậu cũng nên nghĩ đến tôi, thui thủi quê người, vì thương cậu mà đêm ngày cố công đèn sách. tôi nói thế, chứ chắc chả đời nào cậu lại phụ lòng yêu của tôi nhỉ! quái, sao hôm nay tôi thấy lao đao thế này, hay là say sóng rồi đâỷ

à quên, cái hộp phấn của tôi dùng dở để ở bàn, cậu cho mang lại đằng chị diệp hộ, vì chị ấy xin, mà tôi quên đi mất.

xin chúc cậu và con mạnh khỏe luôn.

tạ

tuyết anh

a bord du chantilly, le 1er janvier 1928

cậu,

những thư trước tôi gửi về, chắc cậu tiếp được cả rồị lá thư thứ nhất và thứ ba, có lẽ cậu xem lấy làm buồn lắm thì phảị sự đó tôi cũng biết lỗi, đáng lẽ người đi phải yên ủi kẻ ở bằng những câu vui vẻ, chứ tôi lại kể nỗi lòng thương nhớ chồng con, cho cậu phải phiền, thật bây giờ tôi lấy làm hối hận quá.

gần tới marseille rồi, cậu ạ. từ khi con tàu qua kênh suez, vào địa phận bể méditerranée tới nay, tôi thấy phấn chấn trong lòng lắm. trời tây bảng lảng bóng vàng, cái không khí êm đềm, nhẹ nhõm, làm cho tôi được thấy như khỏe mạnh hơn. nhất là từ khi tôi được quen mấy bà người pháp cùng đi một chuyến, thì những lúc nhớ nhà, nói chuyện cũng được khuây buồn. cho nên càng khuây buồn bao nhiêu, tôi càng nhớ đến cậu bấy nhiêụ chỉ thương cho cậu lúc này, có lẽ đang nằm thừ trên giường mà nghĩ đến vợ, lênh đênh giữa bể, không biết có bình yên mạnh khỏe không. nhưng cậu nên yên tâm nhé. vợ cậu buồn thì vợ cậu được thở than với bạn được viết thư nói chuyện với cậu, chứ những lúc cậu nhớ vợ cậu thì cậu than thở cùng aỉ cậu chỉ ngậm mối sầu trong bụng mà không viết được ra thư, vì thư của cậu dù có gửi ngay, tôi cũng chưa tiếp được! sự đau lòng mà không tỏ ra được mới thật là nên thương!

quái tôi lại nói chuyện buồn rồi! thế nàỏ hôm lễ noel vừa rồi, cậu có mua cho con thức gì cho nó chơi hay không? hôm nay cậu có đi chào tết hay không? chào những aỉ ở dưới tàu, sáng ngày, hành khách cũng tụ họp để chúc nhau, vui đáo để. mẹ tôi vẫn được mạnh khỏe đấy chứ? cậu đã khỏi thực đau mắt chưả hỏi thế khí lẩm cẩm, ngót một tháng rồi, còn gì mà chưa khỏi nhỉ!

thôi, hôm nào tới marseille, tôi sẽ đánh dây thép báo cậu biết.

vợ yêu cậu

tuyết anh

aix-en-provence, le 7 janvier 1928

cậu,

ban nãy tới marseille, tôi đã đánh dây thép về cho cậu biết rồị chắc cậu đã tiếp được hơn một tháng nay, mà biết đâu, trong khi cái thư này vượt biển về hải phòng, nó không gặp cái thư của cậu gửi cho tôi sang pháp. thế mà chúng nó không bắt tay nhau, tệ nhỉ!

tôi tới aix mới được hơn một giờ đồng hồ! tuy trong người vẫn còn lao đao như khi ở dưới tàu, nhưng không thể nào ngồi yên mà không thảo vài câu để nói chuyện với cậu biết được.

ông bà madron ra tận marseille đón, cậu ạ. ông bà ấy vẫn vui vẻ như xưa, duy ông ấy thì trông khác trước vì bây giờ cạo trụi cả râu đi rồị ông bà ấy nhận ra tôi chứ giá để kệ, có lẽ tôi không biết ông ấy nữạ bà ấy có hơi già hơn trước, và nói rằng từ ngày về pháp, thì sự làm ăn có vất vả hơn ở hà nội tạ thằng robert nó còn nhớ tôi! bây giờ nó lớn lắm, bằng con người ta lên mười ấy! ông bà madron được mấy chai nước mắm của tôi biếu thì mừng rơn, nói rằng từ ngày về tây, chỉ nhớ nhất là thứ đồ ăn đặc biệt ấỵ ông bà ấy quý lắm, đem cất kỹ vào trong tủ.

à quên, từ marseille đến aix, chỉ có 29 km thôi, chứ có phải 39 km đâu mà trước cậu cứ cãi mãị tôi đi xe điện chứ không đi xe lửa, chỉ độ ngót một giờ thì tớị hai bên đường phong cảnh đẹp lắm, nhưng vì tôi mệt, nên chưa quan sát kỹ, để một thư sau, tôi sẽ tả rõ.

mai tôi nhờ ông madron giới thiệu hộ với giáo sư bourguignon độ đến tháng octobre này thì có thể thi vào lớp 1ère ở lycée mignet được.

kính chúc cậu và thằng chó mạnh khỏe,

jet embrasse

tuyếtanh

aix, le 12 janvier 1928

cậu,

từ nay, cậu viết thư cho tôi, thì cứ đề về no 2 phố eméric david là nhà tôi thuệ

tôi sở dĩ phải thuê nhà, là vì ở đằng ông bà madron chật quá, không có chỗ tĩnh để học, mà chính bà madron giữ ý, không muốn để tôi ở đằng ấỵ nhưng thế là tiện lắm. nhà thuê mất 200 f một tháng. rẻ đấy, vì chủ nhà là người bà con với ông madron. chỗ ở xinh lắm, lại được gần nhà hội quán của tụi học sinh an nam, số nhà 25. từ nhà tôi đến nhà ông bourguignon cũng gần. ông bourguignon ở đầu phố, giáp ngay cours mirabeaụ mỗi khi tới đây, thấy xe điện chạy về phía marseille, thì tôi lại nhớ nhà lắm. nhất là ở trước cửa nhà trọ, có một cái cây sao mà giống cái cây trước cửa nhà ta thế! cũng có cái cành cụt, trước cậu vẫn bảo như cái nắm tay giơ ra để ục nhau ấy mà!

à, gớm chiều hôm nay, ở café leaydet, gần phố tôi ở, có một chuyện xảy ra ghê cả ngườị có hai người học sinh ta họ cãi nhau về nghĩa lý văn bài thế nào, thành ra to tiếng. may có anh em vào can mới yên. học sinh an nam ta, cứ chiều tối là hay ngồi đó. học sinh người mình ở aix có độ ngót trăm. nhiều người học hành xuất sắc lắm, nhưng lắm bố con nhà giàu thì chỉ chơi bời mà thôi! có ít người cũng ở phố david, vì gần hội quán, lại gần lycée mignet, đi độ 5, 6 phút thì tớị

tối mai, bà madron rủ tôi đi xem cinéma, cách chỗ tôi ở một quãng, tôi đã nhận lờị

tôi xin thề rằng sẽ hết sức học hành để khỏi phụ lòng cậu trông cậy, xin cậu yên tâm. ông bourguignon giỏi khoa văn chương lắm, nghe ông giảng như nước chảy, mê cả tâm thần!

chắc vài hôm nữa, tôi sẽ tiếp thư cậụ ở nhà có việc gì lạ, xin cậu đừng giấu tôị

tạ tuyếtanh

aix, le 4 février 1928

cậu,

Đọc thư cậu, nước mắt tôi tràn trụa đầy cả ra giấỵ trời ơi! biết thế này, thì tôi chẳng đi tây cho nó đành!

thôi cậu ạ, cậu có thương tôi, thì cậu nên nghe tôi, cậu đừng đi làm thêm giờ nữạ vẫn biết mỗi tối làm thêm vài giờ chẳng là bao, cuối tháng cũng được ba bốn chục bạc phụ cấp, nhưng cậu cứ cặm cụi quá sức thế thì đến kiệt lực mà ho lao mất! cậu có khỏe gì bằng ai, tôi tưởng chả nên tham việc quá thế. thì ra chỉ tại tôi mà đến nỗi một mình cậu vất vả, cậu làm cho tôi thương cậu đến nỗi ốm mất.

cậu ơi! cậu nên tĩnh dưỡng, nên coi sức khỏe làm trọng mới được. lương cậu hiện đã được 140 đồng mỗi tháng, chỉ phải gửi cho tôi có 80 đồng, còn ăn tiêu ở nhà cũng tiệm đủ rồi, thì thôi, tôi xin cậu, đừng nên quá tham, lỡ có mang bệnh, lại để tôi ân hận suốt đời vì con vi trùng ho lao có nể người tốt bụng đâủ

nếu cậu không nghe tôi, thà rằng cậu cho tôi xuất tàu để tôi về còn hơn.

nhân tiện xin nói để cậu biết, cậu nghĩ vậy mà khuyên tôi như thế cũng là phảị nhưng tuy tôi là thân gái một mình ở nước tự do, song, xin cậu biết rằng ở đây tự do thật, nhưng là cái tự do có giáo dục, chứ không như ở bên ta đâụ vả lại bao giờ đi ra ngoại quốc cũng phải giữ sĩ diện cho nòi giống chứ. tôi nói quá như thế để cậu yên tâm, chứ nào cậu có ngờ gì tôi đâụ xin cậu biết cho rằng không phút nào là tôi không nhớ cậu, nhớ con, là hai người thân nhất của đời tôị trừ những khi mắt để vào quyển sách, thì lúc nào tôi cũng nhìn lên ảnh cậu và ảnh con để ngay trước bàn mà ngắm cho khỏi nhớ.

ở đây, tháng février này rét lắm. sáng hôm nay có mưa tuyết. chiều đến, ở cours mirabeau, trẻ con nắm tuyết ném nhau trông thật vui mắt.

mưa tuyết xong, tiếp luôn mấy trận gió mistral thổi rét thấu xương. Đường phố lội nhơm nhớp, bẩn quá. à, tôi đã nói chuyện cho cậu nghe cái lối đỗ ôtô ở phố chưa nhỉ? mới trông lạ mắt, buồn cười lắm. nó không đỗ theo dọc đường, sát hè phố như bên ta đâụ xe nào cũng đứng ngang đường, quay mũi ra ngoàị bây giờ trông quen, không thấy lạ nữa, mấy hôm đầu, đi sát vào mũi, tưởng hình như nó sắp xéo bẹp mình! cậu đã nhận được áo đan chưa, sao không thấy nói trong thử cậu viết cho tôi đi, dài vào nhé! nhớ cậu quá!

tuyết anh

aix, le 2 mai 1928

cậu,

khốn nạn thân tôi, sao cái tin đau đớn của tôi, cậu không báo cho tôi biết bằng dây thép. Đành rằng mẹ tôi chết, dù có biết sớm cũng không làm gì được, nhưng sao cậu ác nghiệt quá thế, trời ơi!

cậu ơi! tôi bất hiếu quá, mà ông trời kia sao khéo lừa dối tôi làm vậy, bắt tôi đi xa rồi đem mẹ tôi đi đâủ

ông bà madron thấy tôi có tin buồn, sang khuyên giải và tiêm cho tôi liều thuốc bổ. bây giờ tôi không mê man như lúc mới tiếp tin nữạ khốn nạn, dù tôi có than khóc hết hơi cũng không sao thấu được đến cửu tuyền, để yên ủi linh hồn mẹ. sao tôi chẳng được chết đi cho rồi!

nhưng đến trường hợp này, tôi mới rõ bụng cậụ thực là ít thấy có. mà nhà tôi cũng là đại phúc, nên trời kia xui khiến tôi được hầu hạ cậụ mẹ tôi chẳng may chết đi, có tôi là lớn lại đi vắng, nhưng được cậu ở nhà, lấy tình rể cũng như con, mà cáng đáng lo lắng cho các việc ma chay, cái ơn trời bể ấy, tôi biết lấy gì đền lạị tôi chỉ khấn cho cậu sẽ được trông thấy tôi công thành danh toại, một mai về nước, đem tiếng thơm về đền ơn trả nghĩa cậu mà thôị nếu kiếp luân hồi mà có thực, thì tôi xin cả kiếp sau cũng tìm được cậu để được trả nghĩa cho trọn cái ơn nàỵ

cậu ơi, tôi nói không sao xiết ý được. mà nhất là trong lúc tôi gặp cảnh đau đớn này, thì tôi chỉ biết than thở, khóc lóc mà thôị còn thằng em bé tôi đấy, tôi cũng xin cậu trông nom cho nó được nên người, để tôi yên tâm học tập. xin cậu vì thương tôi mà thương đến nó, chứ bây giờ tứ cố vô thân, nếu cậu không đoái hoài đến nó thì thật không còn bấu víu vào đâu được nữạ khốn nạn cho tôi, ở vào cái cảnh nghèo! tôi nghẹn lời, không sao viết được thêm nữạ

à, thư trước viết bằng tiếng tây là ý để cậu biết sức học của tôi bây giờ thế nào, chứ có dám nghĩ như thế đâu, cậu miễn trách chọ cậu đừng chơi bời gì nhé, nên thương đến tôị

vợ khốn nạn của cậu

tuyết anh trăm lạy

aix, le 29 juillet 1929

cậu,

thế nàỏ sao cậu không mời docteur cho con, uống thuốc ta, tôi tưởng chả ăn thua gì đâụ nhưng nó cũng mệt xoàng thôi đấy chứ? Đầu tháng này, có kết quả kỳ thi tú tài, tôi trông thấy người đỗ, mà lại lo, chẳng biết sang năm, số phận mình ra saọ

nhưng mà xem ra tôi học tấn tới lắm, cậu ạ. cậu cứ yên tâm mà làm ăn. cái bát họ của chị tham, cậu nhận như thế cũng phảị thà mua sớm mà trả nợ, còn hơn là để nó dây dưa, rồi đến hẹn, phải lo một món tọ cậu cứ chịu khó ăn sẻn để dành, nay mai phúc nhà còn vượng, tôi đỗ về, thì lúc bấy giờ ta làm giầu!

nghĩ đến tương lai thì phấn chấn trong lòng, mà nghĩ lại riêng mình cậu khó nhọc, thì tôi lại đau từng khúc ruột. vì tôi mà cậu mang công mắc nợ, một mình lo lắng năm canh! nào cho tôi đi học, nào lo lắng ma chay cho mẹ vợ, nào nuôi cho em vợ đã đỗ được nên ngườị

Độ này cậu phải đi làm thêm như thế có mệt lắm không? cậu nên mua thuốc bổ mà uống. nếu không thì lại đằng ông lang hai mà mua lấy mấy lạng cao ban long để ăn. cậu chớ nên coi thường sức khỏe làm vậỵ

năm nay ở bên này nắng lắm, cái nắng khô khan ở miền nam này, lắm lúc tôi cũng thấy khó chịu, nhưng vẫn được mạnh khỏẹ

tôi gửi theo đây gói đồ chơi cho con, nó mừng rỡ thế nào, cậu cho tôi biết. cái ảnh cậu mới gửi sang, sao tôi trông gầy thế? mà mũi con có vết gì đau, hay cái vết sờn trong ảnh, cậu cho tôi biết.

tôi khỏi ốm ngay tối hôm tôi viết thư về cậụ nếu biết rằng cậu lo, thì tôi chẳng nói cho xong.

mille baisers

tuyết anh

aix, le 15 aout 1930

cậu,

thật là từ ngày tôi sang bên này tới nay, tôi tiếp thư nào ở nhà cũng lấy làm buồn bực, ân hận.

ai ngờ vừa tháng trước đánh dây thép báo tin đỗ cho cậu biết, thì nay đã tiếp được tin cậu như sét đánh ngang taị

thế nào, cậu ho ra làm sao mà có máu thế? tôi nói có sai bao giờ đâụ cậu chả nghe tôi, cậu chả bổ dưỡng sức khỏe, để đến nỗi mang bệnh vào mình. nếu cậu ho lao, thì cái vô phúc, trăm phần tôi xin chịu cả. thà rằng tôi chết cho cậu được sung sướng, còn hơn tôi để cậu phải cáng đáng một mình hết nỗi nọ đến nỗi kiạ

cái ảnh phổi cậu chụp xong, cũng cho tôi xem vớị nếu thầy thuốc chiếu điện mà đã nói thế, thì tôi tưởng chỉ nên nghỉ việc đi là hơn.

nhưng làm thế nàỏ cậu trồng cây sắp tới ngày ăn quả. Đến sang năm, tôi thi nốt phần thứ hai kỳ tú tài rồi, vậy cậu nghĩ tôi thế nào, tôi cũng xin vâng theọ

ở bên này, ông madron mấy hôm nay cũng ốm, đến nay bệnh vẫn chưa thấy luị

thì ra xung quanh mình, tôi chỉ thấy những sự buồn mà không đủ sức để can ngăn nó được. tôi khổ lắm!

bệnh tình cậu hiện nay thế nào, từ nay xin cứ mỗi kỳ tàu, cậu nhớ cho tôi biết. con thế nàỏ vẫn chơi ngoan đấy chứ? chuyện gì bí mật mà tôi hỏi trong ba bức thư luôn, cậu chưa trả lời thế? Đừng chơi bời gì nhé!

nay kính thư

tuyết anh

aix, le septembre 1931

thưa cậu,

tôi bất đắc dĩ cầm bút viết bức thư này để tạ tội cùng cậu, xin cậu tha thứ cho người vợ bạc bẽo, phản bội nàỵ

tôi chịu ơn cậu rất nhiều, cũng mong đến ngày công thành danh toại, về để hầu hạ cậu, giúp đỡ cậu trong lúc ốm đau. nhưng mà… tóc tơ ngắn ngủi có ngần ấy thôi, cậu cũng cầm lòng như tôi hư mà cậu bỏ tôi từ trước, hoặc duyên đôi ta giữa đường đứt quãng, thì từ nay xin cậu coi tôi như không có nữa mà thôi.

sự vợ chồng ông trời đã định sẵn, có lẽ duyên nợ của cậu với tôi, đã hết từ ba năm trước, lúc đưa nhau ở bến tàu sáu kho.

cậu cũng đừng nghĩ, đừng tìm tôi nữa, tôi sẽ ở nam kỳ với một người bạn học tôi mới đậu y khoa bác sĩ.

An Nam tạp chí số 43; 1932

Hết