21. Bù nhìn tuyết

Anh chàng bù nhìn tuyết nói:
-Hôm nay sao mà rét ra rét! Thích đến là thích. Toàn thân cứ kêu lên răng rắc. Lại còn có cái gió này nữa, cứ quất vun vút mới khoan khoái làm sao chứ! Lại còn cái quả cầu lửa ở phía bên kia nữa kìa, cứ nhìn mình có vẻ sùng bái lắm!
Anh chàng muốn ám chỉ mặt trời lúc bấy giờ đang lặn:
-Ồ! Xoay đã đủ trò, nhưng hắn cũng chẳng làm loé được mắt tớ! Tớ cứ giữ chứ chẳng chịu bỏ đôi hồng ngọc của tớ đâu.
Thực thế, đôi mắt anh chàng làm bằng hai cục than đá lóng lánh, mồm là một cái cào cũ rích, nom lúc nào cũng nhe cả răng ra.

Bù nhìn tuyết sinh ra giữa những tiếng reo mừng của lũ trẻ, giữa tiếng nhạc ngựa kéo xe trượt tuyết và giữa tiếng roi quất của các anh xà ích trẻ tuổi.
Mặt trời đã lặn. Trăng lên, nom to, tròn, trong sáng, đẹp đẽ, nổi bật trên nền trời tối đen.
Bù nhìn tuyết lại nói:
-Ô kìa! Nó lại hiện ra phía bên này rồi!
Anh chàng cứ tưởng mặt trời lại mọc lần nữa.
-Bây giờ mình đã kiềm chế hắn bớt sáng đi rồi. hắn có thể cứ treo thân lơ lửng trên ấy mà lóng lánh, ít ra mình cũng có thể tự trông thấy mình được. Chỉ ước gì mình biết cách làm thế nào nhúc nhích được! Mình mà ngọ nguậy được một tí thì thích biết mấy! Nếu cử động được thì mình sẽ chạy ngay ra dạo chơi trên băng và cũng trượt tuyết như bọn trẻ con ấy. Nhưng mình lại không chạy được, không biết người ta làm thế nào mà chạy được nhỉ?
-Ẳng! Ẳng!-Con chó giữ nhà sủa.

Từ ngày nó không được là chó phòng khách và không được nằm dưới cái bếp lò nữa, giọng nó đâm ra lúc nào cũng khản đặc, nó không sủa đúng giọng chó được nữa.
-Chẳng bao lâu nữa, mặt trời sẽ dạy cậu chạy, tớ đã được nhìn thấy rõ ràng mặt trời dạy anh chàng bù nhìn tuyết tiền thân của cậu hồi rét năm ngoái chạy như thế nào. Ẳng! Ẳng!

Bù nhìn tuyết bảo:
-Tớ không hiểu đằng ấy định nói gì. Cái hòn tròn trên cao kia (anh chàng muốn nói mặt trăng) sẽ dạy tớ chạy đấy ư? Chính tớ đã làm cho nó phải chuồn thì có, vì tớ cứ nhìn nó chòng chọc, đến giờ nó mới dám rụt rè quay lại phía bên kia đấy.

Chó bèn mắng:
-Cậu chẳng biết cái quái gì cả, đúng là người ta mới đắp nên cậu được ít lâu nay thôi. Vật cậu trông thấy kia là mặt trăng, còn vật đã lặn đi rồi là mặt trời. Ngài mai mặt trời sẽ quay lại, và dạu cho cậu chạy xuống rãnh, không nói dối cậu đâu! Sắp sửa thay đổi thời tiết rồi. Tớ đoán được là nhờ cái cẳng sau, bên trên, nó nhức lắm và ngứa ran. Phải, sắp giở giời rồi đấy.

Bù nhìn tuyết tự nhủ:
-Mình chẳng hiểu gì cả, nhưng mình có linh tính rằng con chó đã báo trước cho mình một điều chẳng lành. Lại còn cái vật tròn cứ nhìn mình chòng chọc trước khi biến mất, mà con chó gọi là mặt trời ấy, mình cũng cảm thấy rõ ràng nó không phải là bạn mình.
-Ẳng! Ẳng!-Chó vừa sủa vừa quay ba vòng trước khi chui vào ổ nằm ngủ.

Quả nhiên thời tiết thay đổi. Gần về sáng, sương mù dày đặc, ẩm ướt, kéo đến toả khắp nơi, và trước lúc mặt trời mọc một tí, nổi lên một cơn gió lạnh, do đó băng giá lại càng tăng. Khi mặt trời hiện ra, phong cảnh mới đẹp mắt làm sao!

Hoa sắc trắng lóng lánh phủ kín cành cây. Các nhánh nhỏ nhất thường chỉ nom thấy trong mùa hạ, bây giờ cũng hiện lên rất rõ ràng. Có thể nói mỗi cành phát ra một ánh sáng riêng, gây cho ta một cảm giác rạng rỡ, chói loà, nom tràn đầy sức sống chẳng khác gì giữa mùa hè. Mặt trời chiếu sáng khung cảnh rực rỡ vô song ấy, tưởng như ba bề bốn bên đều có ánh chớp, và trên chiếc áo choàng tuyết vĩ đại đang phủ kín mặt đất đầm đìa vô số hạt kim cương.

Một thiếu nữ, đang dạo chơi với một chàng thanh niên, buột miệng kêu lên:
-Sao mà phong cảnh đẹp tuyệt đến thế này!
Họ dừng chân nhìn anh chàng bù nhìn tuyết và ngắm cây cối đang lấp lánh. Ngay đến mùa hè, cũng không có cảnh đẹp bằng!
Chàng thanh niên vừa chỉ bù nhìn tuyết và ngắm cây cối đang lấp lánh. Ngay đến mùa hè, cũng không có cảnh đẹp bằng!

Chàng thanh niên vừa chỉ bù nhìn tuyết vừa đáp:
-Hơn nữa, khó mà gặp được một cậu cả nào như thế này! Nom anh chàng bảnh đấy chứ!
Cô thiếu nữ mỉm cười gật đầu chào anh chàng bù nhìn một cách thân mật, rồi cả hai người lại khoác tay nhau đi trên tuyết giòn tan.
Bù nhìn tuyết hỏi chó:
-Ai đấy? Đằng ấy ở ngoài sân từ lâu, chắc phải biết họ chứ?
Chó đáp:
-Tất nhiên! Cô ả vẫn vuốt ve mình luôn và cho mình gặm biết bao nhiêu là xương! Không đời nào mình cắn họ đâu nhé!
-Thế họ là thế nào mới được cơ chứ?
-Họ là vợ chồng chưa cưới đấy. Cả hai cùng muốn sống chung một ổ và muốn gặm xương trong một cũi đấy. Ẳng! Ẳng!
-Họ cũng giống như cậu với tớ ấy à?
-Ấy chết! Không phải đâu! Họ thuộc dòng dõi nhà chủ đấy! Quả thật, mới sống có một ngày thì biết ít chuyện thật! Cậu chứng minh rõ điều đó lắm!

Tớ già rồi nên tớ biết vô khối là chuyện. Gì trong cái sân này tớ cũng biết hết. Ừ, chỉ có mỗi một thời gian, hồi gió rít, là tớ không bị xích ngoài sân giá lạnh thôi! Ẳng! Ẳng!

Bù nhìn tuyết nói:
-Tớ thì tớ lại chuộng rét. Tớ lạy đằng ấy kể cho tớ nghe đi. Nhưng đàng ấy có thể giữ cho cái xích của đằng ấy bớt loảng xoảng đi một tí được không? Chối tai tớ lắm.
Chó sủa:
-Ẳng! Ẳng! Trước kia tớ là một con chó con xinh xắn đáng yêu, ai cũng bảo tớ thế. Tớ được nằm trên một cái ghế bành lót nhung trong lâu đài, có khi cả trong phòng các ông chủ bà chủ. Họ hôn vào mõm tớ, phủi bụi cẳng cho tớ bằng một cái khăn mùi soa thêu cẩn thận. Họ gọi tớ là “con cưng”. Nhưng khi tớ nhớn lên họ bèn giao tớ cho chị người ở. Tớ phải ở trong hầm ủ rượu. À! Mà từ chỗ cậu đứng, cậu có thể nhìn thấy bên trong được đấy. Trong cái hầm ấy tớ trở thành chủ nhân, phải tớ là chúa trùm trong buồng chị người ở. Không sang bằng những phòng tầng trên, nhưng dễ chịu hơn. Trẻ con không luôn luôn đến béo tai và quấy rầy tớ như dạo ở tầng trên. Rồi tớ lại còn có một cái đệm đặc biệt, lại được sưởi bên một cái bếp lò rất tốt kiểu tối tân nhất thời đại chúng ta đấy, tớ không nói điêu đâu! Tớ mà luồn xuống gầm thì chẳng ai nhìn thấy tớ nữa. Này, đến bây giờ tớ vẫn còn mơ chuyện cũ đấy.
Chúng im lặng một lúc. Ngay gần chúng một cái cây to xõa cành đen thui, lá đã rụng từ mùa thu. Ẳng! Ẳng!

Ngẫm nghĩ một hồi, bù nhìn tuyết lại hỏi:
-Cái bếp lò đẹp đến thế nào nhỉ?
-Không, không, trái lại nó đen xì xì, có cái cổ dài ngoằng và một vành đồng tròn. Nó xơi lắm gỗ đến nỗi lửa lò cả ra đằng mồm. Đứng lên trên hay chui xuống dưới, hoặc đứng bên cạnh thì không gì thú bằng. Mà này, nhòm qua cửa sổ, cậu sẽ thấy nó đấy.

Bù nhìn tuyết nhìn, và quả nhiên thấy một cái vật đen bóng nhoáng, có một vành đồng tròn phía dưới, lửa đang cháy.
Cảnh tượng ấy gây cho anh chàng một cảm giác là lạ, chưa từng thấy bao giờ, nhưng loài người thì ai cũng biêt lắm.

Bù nhìn tuyết hỏi:
-Sao cậu lại không ở nhà nàng nữa? Bù nhìn nói “nàng” vì, đối với anh chàng một vật đáng yêu như thế phải thuộc phái nữ mới đúng. Sao đằng ấy lại có thể bỏ nơi vui thú ấy mà mà đi được?
Chó đáp:
-Muốn hay không, cũng phải đi. Họ quẳng tớ ra ngoài rồi xích tớ lại, vì có một hôm cậu con trai bé nhất nhà vừa lấy của tớ một cái xương, thế là tớ đợp ngay cho một miếng vào chân. Ông bà chủ nhà cáu lắm, tống tớ ra đây, xích cổ lại. Cậu thấy đấy, ra ngoài này, ngày tháng trôi qua, tớ cũng mát giọng dần. Giờ thì tớ sủa tốt lắm: Ẳng! Ẳng!

Chó im bặt. Nhưng bù nhìn tuyết đã thôi không nghe từ nãy. Anh chàng vẫn tiếp tục nhìn vào buồng chị người ở, nơi đặt cái bếp lò có bốn chân bằng sắt. Thật ra, nom cũng to bằng anh chàng chứ chẳng kém! Anh chàng ước:
-Thèm quá! Đến vỡ tan xác mình ra mất thôi. Giá mình vào được trong ấy nhỉ? Ước mơ cũng ngây thơ thôi, thực hiện được cũng dễ thì mới phải. Vào, vào, đó là mong ước tha thiết nhất của mình. Mình phải được tựa vào cái bếp lò, dầu có phải nhảy qua cửa sổ cũng xin vâng.

Chó bảo:
-Đừng có vào, vào đấy thì cậu cứ là đi đứt! Ẳng! Ẳng!
Bù nhìn tuyết đáp:
-Tớ đã đi đứt rồi, thèm chết đi được ấy!
A

nh chàng nhòm qua cửa sổ suốt ngày. Ngọn lửa dịu dàng lém từ bếp lò ra như mơn trớn. Chỉ có đốt bếp lò mới có thứ ánh sáng ấy chứ mặt trời, hoặc mặt trăng làm gì mà có ánh sáng thế được.
Mỗi lần người ta mở cửa, ngọn lửa lại toả ra từ phía dưới, hắt ánh đỏ lên cái ngực trắng toát của bù nhìn tuyết. Anh chàng kêu lên:
-Mình không thể cầm lòng được nữa rồi. Nhìn cái lưỡi nàng thè ra khỏi mồm sao mà khoái thế!
Đêm dài, nhưng bù nhìn tuyết không thấy dài. Anh chàng mải triền miên với những ý nghĩ vui tươi.

Về sáng, cửa hầm ủ rượu phủ đầy sương đóng thành băng. Đối với một anh chàng bù nhìn tuyết đó là những hình chạm trổ đẹp nhất rồi, chỉ hiềm chúng che lấp mất cái bếp lò. Tuyết dòn hơn lúc nào hết. Trời rét ngọt, thật là khoái trá cho một bù nhìn tuyết!

Một chú gà trống vừa gáy vừa nhìn lên mặt trời lạnh lẽo mùa đông. Xa xa ngoài đồng ruộng, tiếng vó ngựa ra đồng vang lên trên mặt đất đóng băng, trong khi bác nông dân vui vẻ quất roi và hát lên vài điệu nhảy đồng quê, tiếp theo sau là tiếng vọng từ quả đồi bên kia nhại lại giọng bác.

Thế mà bù nhìn tuyết không vui. Nhẽ ra phải vui, nhưng anh chàng lại không vui.
Thế đấy, khi tất cả giúp chúng ta thực hiện ước mơ, chúng ta chỉ đi tìm trong sự bất đắc và bất kỳ bất ý một cái gì đó có thể tới, xáo động sự an ổn của chúng ta. Hình như hạnh phúc không phải là khi chúng ta thoả mãn mà, trái lại, nó nằm trong sự bất ngờ, thường đem lại tai họa.

Chính vì thế mà bù nhìn tuyết không ghìm được lòng khao khát ghê gớm đến xem cái bếp lò, mặc dù anh chàng chỉ chịu được lạnh thôi, chứ nóng thì tai hại vô cùng.
Và đôi mắt to tướng bằng than đá của anh chàng vẫn dán chặt vào cái bếp lò đang cháy. “Nàng” chẳng hề ngờ mình lại được chú ý và âu yếm đến thế.

Chó nghĩ thầm:
-Bệnh ấy thật nguy hiểm cho anh bụ nhìn tuyết. Ẳng! Ẳng! Lại sắp sửa thay đổi thời tiết.
Tiết trời thay đổi thật, lần này băng tuyết tan giá. Băng tuyết càng tan, bù nhìn tuyết càng nhỏ dần. Anh chàng chẳng nói chẳng rằng cũng chẳng kêu than. Đấy lầ điềm gở.
Vốn là cái cán chổi ấy trẻ em đã cắm xuống đất, rồi đắp tuyết xung quanh thành anh bù nhìn tuyết.

Chó lẩm bẩm:
-Bây giờ mình mới hiểu căn nguyên khát vọng của cậu chàng. Chính cái cốt trong người đã làm cu cậu bứt rứt đến thế đấy! Ẳng! Ẳng!
Chẳng bao lâu sau đến lượt mùa đông cũng biến mất. Chú chó sủa: Ẳng! Ẳng! Và một cô gái hát ngoài sân:
Ô này! Đông đã trôi qua

Tháng hai đã tới, xuân đà đến nơi
Mừng xuân chim chóc hót vui
Mặt trời hãy đến tưới đầy nắng xuân
Chẳng còn ai nghĩ đến bù nhìn tuyết nữa.

22. Cô gái xéo lên bánh mì

Hẳn là bạn đã nghe nói về một cô gái đã xéo lên ổ bánh mì để khỏi phải bẩn giầy và về sau cô ta khốn khổ như thế nào. Câu chuyện được viết lại và cũng đã được in.
Cô ta là một đứa trẻ nghèo, mà lại tự cao, tự đại. Cô ta thật xấu tính, xấu nết. Khi còn nhỏ cô ta thích bắt ruồi rồi vặt cánh, để bắt chúng phải bò lê bò càng. Cô ta nhặt một con bọ cam và một con bọ dừa, dính mỗi con lên chiếc đinh ghim, rồi đặt một chiếc lá xanh, hoặc một mảnh giấy nhỏ lên sát chân chúng. Những sinh vật tội nghiệp bám chặt vào đó, xoay xở vặn vẹo, cố thoát ra khỏi chiếc đinh ghim.
Kìa, bọ cánh cam đang đọc – con bé Inger nói – hãy xem nó lật trang thế nào?
Lớn lên, cô lại càng xấu tính hơn, nhưng cô ta lại rất xinh, điều đó thật ta i họa, nếu không, cô đã bị ăn tát nhiều hơn rồi đấy.
-mày thật vô phương cứu chữa rồi – Mẹ cô gái bảo – Khi còn bé, mày thường xéo lên tạp dề của tao, bây giờ mày lớn hơn, tao e rằng một ngày kia mày sẽ xéo lên tim tao.
Và chắc chắn là cô ta làm thế.
Hiện nay, cô ta đi giúp việc cho một gia đình khá giả sống ở nông thôn. Họ đối xử với cô như thể con cái trong nhà và cho cô ăn mặc như con cái họ. Cô trông rất ưa nhìn, và cô càng vênh váo hơn.
Sau khi cô ở với họ được một năm, bà chủ bảo cô:
-Này Inger, đã đến lúc cháu về thăm cha mẹ.

Thế là cô đi, dù đó chỉ là để khoe mẽ và để bố mẹ thấy cô trở nên xinh đẹp như thế nào. Nhưng khi cô tới ngoại ô thành phố, thấy mấy cô gái với mấy chàng trai đang ngồi tán gẫu với nhau bên hồ, và mẹ cô cũng ở đó, đang ngồi nghỉ trên phiến đá với một bó củi đã lượm trong rừng, cô cảm thấy xấu hổ vì ăn mặc đẹp nhường này, mà phải có một người mẹ rách rưới đi kiếm từng que củi. Cô liền quay về nhà chủ không luyến tiếc, mà chỉ bực mình.
Rồi sáu tháng lại trôi qua.
-Cháu nhất định phải về nhà một ngày để thăm cha mẹ già, Inger ạ.- Bà chủ bảo.- Đây là ổ bánh mì trắng to, cháu có thể cầm theo. Cha mẹ cháu rất mừng vì được gặp con đấy.

Thế là Inger mặc bộ váy đẹp nhất, đi đôi giầy mới. Cô nâng váy và nhìn cẩn thận những chỗ đang bước, chỉ để giữ cho giày đẹp và sạch, tất nhiên cô làm thế không có gì đáng trách. Nhưng khi cô tới chỗ con đường dẫn qua đầm lầy, có một vũng nước nhỏ dài, đầy bùn, cô ném ổ bánh mì xuống và dẫm lên ổ bánh để đi qua không bị ướt giày. Trong khi cô đứng một chân lên ổ bánh và nhấc chân kia lên, ổ bánh đã chìm xuống cùng với cô mỗi lúc một sâu hơn, và cô biến mất tăm, người ta chẳng thấy gì ngoài một đầm lầy sủi bọt đen sì.

Câu chuyện là thế.
Điều gì đã xảy ra với cô? Cô tụt xuống chỗ bà chúa đầm lầy ở – người đang ủ rượu bia . Bà chúa đầm lầy là dì của các tiên cô, họ biết nhau rất rõ. Có nhiều khúc ca viết về họ, nhiểu tranh vẽ về họ. Nhưng tất cả những con người đó đều biết bà chúa đầm lầy. Khi những đầm cỏ bốc hơi về mùa hè, đó là khi ch úa đầm lầy đang ủ rượu bia.
Inger tụt xuống đúng hầm ủ rượu của bà chúa đầm lầy và đó chẳng là nơi người ta có thể chịu được lâu. Một hố phân cũng là một căn nhà nguy nga rực rỡ nếu đem so với hầm ủ rượu của chúa đầm. Mỗi ngăn đều hôi thối khiến người ta ngất xỉu, ngoài ra, những ngăn này đều áp chặt với nhau và chỗ nào có m ột tí khe hở cũng có thể ép bật người ta ra ngoài, chả ai có thể làm được như thế, bởi vì những con có gầy gò và những con rắn béo phệ cuốn lấy nhau ở đây. Đấy là nơi Inger chìm xuống. Tất cả đống hổ lốn sống động ghê tởm đó bốc hơi lạnh giá, khiến cho cô rùng mình ớn lạnh đến tận mỗi ngón chân tay – càng lúc càng thấy cứng ngắc và tê dại. Ổ bánh vẫn dính chặt vào chân cô và kéo lê cô đi, như một chiêcd khuy màu hổ phách lôi một sợi rơm vậy .

Chúa đầm ở nhà. Hầm ủ rượu bia ngày hôm đó đang bị lão quỷ và bà cố hắn kiểm soát – con mụ già cực kỳ độc ác – chưa bao giờ rảnh rỗi. Mụ ta không bao giờ ra ngoài mà không mang theo đồ kim chỉ và lúc này mụ ta cũng không mang theo. Mụ ta đem theo chiếc đệm nhỏ găm đầy kim để găm đinh ghim và kim khâu vào chân người. Mụ ta thêu dệt những sự dối trá và móc đăng ten từ những lời vu vơ rơi xuống đất. Bất cứ thứ gì có thể gây tổn thương và đồi bại.- Ô vâng, mụ ta biết làm tất cả các việc khâu, thêu, móc, đúng là một bà cố vĩ đại.
Mụ nhìn thấy Inger, giương mục kỉnh lên nhìn cô ta lần nữa.
-Một con bé có khả năng đây – Mụ ta nói – Ta muốn nó là vật kỷ niệm trong các chuyến đi của ta đến đây. Nó sẽ là bức tượng rất hay, gác phòng hành lang cho thằng chắt của ta .
Và mụ già dắt Inger, do thế mà Inger xuống địa ngục. Người ta không phải lúc nào cũng xuống thẳng địa ngục, mà có thể cứ loanh quay rồi mới đến, nếu quả thực có tài.

Đó là một buồng hành lang dài hun hút, khiến người ta chóng mặt khi thì nhìn phía đằng trước và cũng chóng mặt khi ngoái cổ nhìn phía sau. Và rồi một đoàn người khốn khổ tuyệt vọng, đang chờ cánh cửa nhân từ mở ra, có thể họ phải chờ lâu rồi. Những con nhện to béo đang núng nính giăng tơ nghìn năm quanh chân họ. Công việc lao dịch đó đã tẽ chân chúng lại như những chiếc xích bằng đồng, và thêm vào đó một nỗi lo lắng triền miên – bất tận trong mỗi sinh linh, nỗi lo âu tự dằn vặt to lớn. Trong số họ có một kẻ keo kiệt – hắn tưởng đánh mất chìa khóa chiếc hộp đựng tiền và lúc này, chợt nhớ ra là chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa. Nhưng thôi, nếu muốn biến tất cả nỗi đau khổ của bọn họ ở đây thì phải mất quá nhiều thời gian, Inger cảm thấy ghê sợ phải đứng như tượng, dường như cô chỉ vừa mới bị đóng đinh chặt từ bên dưới ổ bánh.
-Chẳng qua chỉ cốt giữ cho giày sạch thôi – Cô ta tự nhủ – Sao họ cứ chăm chăm nhìn mình thế và sự thực thì họ đang chằm chằm nhìn cô – Những đam mê đồi bại chập chờn trong mắt họ, thật kinh khủng khiếp.
-Trông mình chắc là gợi cảm lắm – Inger nghĩ. Ta có gương mặt xinh xẻo, quần áo đẹp đẽ – Rồi cô ta đảo mắt, còn cổ cô ta cứng quá, khó quay. Chúa ơi, cô ta đã lọt vào tận động của bà chúa đầm lầy mới bẩn thỉu làm sao! Cô ta không hề nghĩ đến điều đó. Quần áo cô hình như nhơ nhớp hơn cả một cái ung nhọt khổng lồ đầy mủ. Một con rắn đã bám vào tóc cô đung đưa trên cổ cô. Từ mỗi nếp gấp trên áo cô , có một con cóc ló ra kêu ộp ộp tựa như tiếng sủa của một con chó khản giọng. Thật quá khó chịu, nhưng cô tự an ủi – Những kẻ khác ở đây thực sự cũng không kém khủng khiếp, thật dễ sợ.

Tồi tệ nhất là cô cảm thấy đói cồn, đói cào. Cô cũng không thể cúi xuống để bẻ một miếng ở chiếc bánh cô đang đứng bên trên ư? Không thể, vì lưng cô đã cứng đơ, cánh tay và các ngón tay đã cứng đơ. Toàn thân như một chiếc cột đá. Cô chỉ có thể cử động đôi mắt ở đầu, đảo mắt để có thể nhìn ra phía sau, thật là khiếp hãi, khiếp hãi quá. Lũ ruồi đến và bò lên trên mắt cô, cứ bò đi, bò lại. Cô chớp chớp mắt, nhưng lũ ruồi không bay đi được, chúng không thể bay vì cánh đã bị vặt hết, chúng cứ bò quanh. Thật là cực hình, và vì cô đói, ít nhất cô cảm thấy ruột gan mình đang ăn thịt nhau và bụng cô trở nên trống rỗng, trống rỗng đến kinh hoàng.
-Nếu kéo dài tiếp tục, mình sẽ không thể chịu đựng nổi, cô tự nhủ. Nhưng cô phải chịu đựng và sẽ phải tiêp tục chịu đựng.

Rồi một giọt nước mắt nóng bỏng rơi xuống đầu cô, ri rỉ lăn xuống mặt cô, lăn xuống ngực cô, rồi rơi ngay xuống ổ bánh. Lại một giọt nước mắt nữa rơi và thêm nhiều giọt nữa. Ai đang khóc trên đầu Inger? Ồ, chả phải cô có một người mẹ trên đời này sao? Những giọt nước mắt đau khổ của một người mẹ khóc vì con thì thế nào cũng tới được với con. Những giọt nước mắt ấy không đem tự do, giải phóng cho con được – Chúng bốc cháy, chúng chỉ khiến cho cực hình càng lớn hơn. Rồi đến cơn đói không thể chịu đựng nổi – và cũng không thể nào với đến ổ bánh cô đang dẫm chân lên. Cuối cùng cô ta cảm thấy lục phủ ngũ tạng tự ăn thịt nhau. Cô như một cây sậy khẳng khiu rỗng tuếch, hút mọi tiếng động xung quanh. Cô có thể nghe rất rõ mọi thứ trên mặt đất có liên quan đến cô và những điều cô nghe thấy thật gay gắt và hằn học. Người mẹ của cô, chắc chắn là đã khóc than vì quá đâu khổ, nhưng bà vẫn nói thêm:

-Kiêu ngạo báo trước thất bại – Đó là không may của mày, Inger ạ. Sao mày làm mẹ đau lòng đến vậy ?
Mẹ cô và tất cả những người khác trên đó đã biết tội ác của cô, cô đã xéo lên ổ bánh mì, đã bị chìm xuống và mất tăm. Một người chăn bò đã kể với họ, vì anh ta đã tận mắt nhìn thấy tất cả từ trên dốc cao.
-Con đã làm mẹ đau lòng biết bao, Inger – Người mẹ nói.
Inger nghe thấy ông bà chủ đang nói chuyện – Hai con người tốt bụng – Giống như cha mẹ của cô vậy.
-Con bé thật xấu xa, nó không kính trọng thức ăn của chúa, mà lại dẫm chân lên, cánh cửa nhân từ khó lòng mở cho nó.
-Nhẽ ra họ phải giúp mình sửa chữa lỗi lầm thường xuyên hơn – Inger nghĩ bụng – cứu mình khỏi những con đường tội lỗi.

Cô ta nghe thấy một bài vè về cô đã được lan truyền – Một cô gái trẻ kiêu ngạo xéo lên bánh mì để giữ cho giày đẹp – người ta hát khắp nơi.
-Cứ cho là mình có lỗi nhiều và mình đã phải đau khổ biết bao vì tội lỗi – Inger nghĩ – Thế sao những kẻ khác lại không bị trừng phạt vì những gì họ đã làm? Đúng rồi, còn rất nhiều thứ đáng bị trừng phạt chứ! Ồ, ta chịu cực hình đau đớn quá.
Và trái tim cô ta lại trở nên rắn hơn và vỏ sò, vỏ ốc.
-Ta sẽ chẳng bao giờ tốt lành hơn khi bị ở với cái đám lúc nhúc này. Kìa bọn họ đang trố mắt nhìn ta.
Cô cảm thấy tức giận và khinh miệt tất cả loài người.
-Giờ thì ở trên kia bọn họ tha hồ có chuyện mà kể – Ồ, mình thật là đau khổ.

Rồi, cô nghe thấy bọn họ kể câu chuyện của cô cho bọn trẻ con, và cái nhóc tì ấy gọi cô là “ Inger độc ác “, chúng nói:
-Cô ta thật kinh tởm, thật đáng ghét, cô ta đáng bị trừng phạt.
Chẳng có gì ngoài những lời lẽ gay gắt, xấu xa về cô từ miệng lũ trẻ.
Tuy nhiên, một hôm, khi cơn đói và cơn bực tức đang giày vò ghê gớm trong cái vỏ rỗng tuếch của cô, thì nghe thấy có người nhắc đến tên cô và người ta kể câu chuyện của cô cho một đứa bé ngây thơ – một bé gái, cô để ý thấy con bé này òa khóc về câu chuyện Inger kiêu ngạo, và sự thích làm đỏm của Inger.
-Thế chẳng bao giờ cô ấy trở nên đây nữa ư?

Cô bé hỏi và người ta trả lời cô bé:
-Chẳng bao giờ cô ta trở nên đây nữa.
-Nhưng nếu cô ta xin tha thứ và hứa không bao giờ làm như thế nữa thì sao?
-Cô ta không bao giờ xin tha thứ đâu.
Người ta bảo cô bé.
-Ồ, con chỉ mong cô ta xin tha thứ – Cô gái bé bỏng vừa nói, vừa khóc và không ai dỗ được – Con sẽ trao ngôi nhà búp bê nếu họ để cô ấy lên đây. Thật quá cực hình cho Inger tội nghiệp.

Những lời nói đó rót thẳng xuống trái tim Inger chúng hình như làm cho cô ta dễ chịu. Lần đầu tiên có người gọi “ Inger tội nghiệp “ mà không thêm một tí gì khác về lỗi lầm của cô. Một đứa trẻ ngây thơ trong trắng đã khóc bào chữa cho cô ta, khiến cô cảm thấy là lạ, cứ muốn mình phải khóc nên, nhưng cô ta không thể khóc được, và điều đó cũng thật là cực hình.

Đã nhiều năm trôi qua trên trần thế và không có đổi thay nào ở dưới địa ngục – Inger ít nghe thấy tiếng ở bên trên hơn và cũng ít lời kể về cô hơn. Rồi một hôm, cô nghe thấy tiếng thở dài:
-Inger, Inger, con đã mang bao đau khổ cho mẹ! Mẹ thường nói con…
Mẹ cô đang hấp hối.

Đôi khi cô nghe thấy ông bà chủ cũ của cô nhắc đến tên cô và điều nhận xét dịu dàng nhất là khi bà chủ nói:
-Chẳng biết bao giờ có thể gặp lại Inger? Không hiểu nó ra sao nữa?
Nhưng Inger lại hiểu quá rõ rằng bà chủ thật thà của cô sẽ chẳng bao giờ đến đây được.
Lại một thời gian dằng dặc và cay đắng trôi qua. Rồi Inger lại nghe thấy người ta nhắc đến tên cô và cô nhìn thấy ở bên trên hình như có hai ngôi sao lấp lánh – Đó là hai con mắt dịu dàng đang khép lại trên mặt đất. Đã nhiều năm trôi qua kể từ khi cô bé con phát khóc vì “ Inger tội nghiệp “ – cô bé ấy nay đã thành một bà lão – mà sớm muộn chúa cũng gọi về với người. Và đúng vào lúc mà mọi ý nghĩ về cả cuộc đời bà đang hiện lên trước bà, bà cũng nhớ khi còn bé, bà không thể không chua xót bật khóc, khi nghe kể chuyện Inger.

Thời điểm và ấn tượng đó chói ngời lên trước bà lão trong lúc hấp hối, khiến bà bật khóc.
-Lạy chúa, con cũng vậy – cũng như Inger, thỉnh thoảng vô tâm chà đạp lên những ân sủng của chúa. Chẳng phải tâm hồn con cũng kiêu ngạo? Còn chúa, lạy chúa lòng lành, đừng để con rớt xuống, hãy nâng con lên, đừng bỏ mặc con trong giờ phút cuối cùng này.

Rồi cặp mắt héo hon của bà khép lại, và cặp mắt của linh hồn bà mở ra để thấy những gì bị che giấu. Trong khi hình ảnh Inger hiện rõ rệt trong ý nghĩ cuối cùng của bà, thì bà nhìn thấy Inger bị lôi xuống rất sâu. Trước tình cảnh của cô, linh hồn thánh thiện đó đã òa khóc. Bà ngây ra như một đứa trẻ trong vương quốc của thiên đường và nức nở vì Inger khốn khổ. Nước mắt và những lời cầu nguyện của bà ngân lên như một tiếng vọng vang vào tận chiếc vỏ ốc rỗng đang giam hãm một linh hồn khốn khổ và nó bị chinh phục bằng tình thương yêu không thể tưởng tượng được ở bên trên. Cứ nghĩ rằng có một thiên thần của chúa phải ứa nước mắt vì mình! Tại sao cô lại được hưởng đặc ân này chứ? Cái linh hồn đang chịu cực hình dường như tập trung mọi suy nghĩ về những việc nó đã làm trong suốt cuộc đời trên trần thế, và nó đang khóc nấc lên, Inger chưa bao giờ khóc được như thế. Cô ta khóc vì tủi nhục. Cô cảm thấy không bao giờ được cánh cửa nhân từ sẽ còn mở ra với cô. Trái tim hối hận, cô đã hiểu ra điều này, lúc đó một tia sáng lóe rọi xuống cái địa ngục không đáy này – thậm chí còn sáng hơn tia mặt trời làm tan người tuyết do bọn trẻ con đắp ở ngoài sân, còn nhanh hơn cả những bông tuyết – đang rơi xuống đôi môi nồng ấm của một đứa trẻ – tan chảy thành giọt, thân hình cứng ngắc như đá của Inger đã bốc hơi, một chú chim con bay vút lên như tia chớp lóe sáng trên trần gian, nhưng nó còn bẽn lẽn e dè với mọi thứ kề bên, nó tự cảm thấy xấu hổ trước cảnh tượng tất cả các sinh linh đang sống và vội vã đi tìm nơi ẩn nấp trong một hố tối tăm và tìm thấy hố đó trong một bức tường đổ nát. Nó co ro trên tường và sợ hãi tất cả mọi thứ, không thể thốt lên một tiếng kêu, vì nó không có giọng. Chim ở đó một lúc lâu, trước khi đủ bình tĩnh để nhìn và đánh giá tất cả vẻ đẹp đang diễn ra trước mắt. Đúng vậy, thật đẹp quá. Không khí sao mà trong lành và ấm áp, ánh trăng chiếu sao mà sáng. Cây to, cây to, cây nhỏ tỏa hương ngọt ngào, mà cả vị trí nó đậu sao mà dễ chịu, chiếc áo khoác lông của nó sao mà sạch sẽ tinh xảo. Nó đã phát hiện tình yêu và sự huy hoàng tráng lệ trong tất cả mọi thứ được tạo ra! Tất cả mọi suy nghĩ thức dậy trong trái tim, chú chim đang cố gắng tìm cách thể hiện trong tiếng hót,nhưng chim không biết phải làm như thế nào. Chắc nó thích hót điệu của chim cúc cu, và họa mi thường hót vào mùa xuân. Chúa cũng từng nghe thấy bản tình ca không lời của lũ côn trùng, lúc này lại đang lắng nghe bản tụng ca dâng lên, hài hòa trong ý nghĩ như một bản thánh ca, thường để đánh thức tâm hồn Đavít, trước khi tìm ra lời và nhạc.

Trong nhiều ngày, nhiều tuần lễ, những bài ca thầm lặng cứ lớn dần lên và lớn lên chắc chắn chúng sẽ bật lên với tiếng vỗ cánh đầu tiên trong một việc thiện – một việc như thế phải được làm ngay bây giờ.
Lễ giáng sinh thiêng liêng đến rồi. Người nông dân dựng một cây cột tựa sát vào tường và buộc lên đó một bó luá mì nguyên hạt để chim chóc trên không cũng có thể có giáng sinh vui vẻ mà một bữa tiệc chúc mừng chúa cứu thế.
Bình minh đang lên vào buổi sáng giáng sinh, lấp lánh trên bó lúa mì và chim chóc líu lo bay quanh cây tiệc đó. Rồi đồng thời cũng có tiếng “ tuýt luýt “ vang lên từ bờ tường. Ý nghĩa thăng hoa bật thành tiếng vang, tiếng líu lo yếu ớt trở thành bản tụng ca vui sướng. Ý tưởng làm việc thiện thức dậy và chú chim bay ra khỏi nơi ẩn nấp. Ở trên trời bầy chim hiểu rõ đây là loài chim gì.

Mùa đông bắt đầu thực sự, nước đã đóng băng dầy, chim chóc và thú rừng thường dè sẻn thức ăn. Chú chim nhỏ bay theo dọc đường cái và cố kiếm – trong các rãnh xư trượt tuyết và mọi nơi – một hạt thóc. Ở những quán trọ ven đường ( nó có thể tình cờ kiếm được ít mẩu bánh vụn ) nhưng cũng chỉ ăn ít thôi, còn để lại cho các con chim sẻ khác đang đói meo, mà nó biết rằng chúng có thể kiếm mồi ở đây.
Nó cũng bay tới nhiều thị trấn, để tìm kiếm và bất cứ đâu đâu có một bàn tay từ thiện rắc vụn bánh từ trên cửa sổ cho chim, nó cũng chỉ ăn một chút ít, còn để lại cho các con chim khác.
Trong suốt hành trinh mùa đông, chim đã nhặt nhạnh và phân phát đi rất nhiều vụn bánh – Trọng lượng tất cả số đó ngang bằng cả ổ bánh mì mà Inger xéo lên để khỏi bần giầy. Khi vụn bánh cuối cùng được tìm thấy và cho đi, thì đôi cánh màu xám của chim trở nên trắng toát và sải rộng.
-Này, có một con hải yến đang cất cánh bay qua hồ – bầy trẻ reo lên khi nhìn thấy con chim màu trắng. Thoạt tiên nó chao cánh xuống mặt hồ, rồi vút lên ánh mặt trời rực rỡ, chim trắng đến nỗi lóa cả mắt đến nỗi khôngai nhìn thấy nó biến đổi thế nào. Người ta bảo rằng chim đã bay thẳng vào mặt trời.

23. Vanđơma và các con gái

Các bạn có muốn nghe gió kể chuyện không? Gió biết nhiều chuyện hơn tất cả chúng ta, chuyện phiêu lưu, chuyện cổ tích, và nhiều chuyện khác. Hôm nay chúng ta hãy nghe gió kể chuyện Vanđơma và các cô gái ông ta.
Gió kể:
– Vốn dòng dõi vua chúa, nên ông ta rất kiêu hãnh. Ông ta uống rượu và săn bắn thì ít ai bắng. Bà vợ ông ta lúc nào cũng quần lượt là thêu vàng dát bạc. Sàn nhà bao giờ cũng bóng loáng. Các phòng ở trải thảm rực rỡ, bày những đồ đạc quý giá, chạm trổ tinh vi; nhiều thứ là của hồi môn của bà chủ đem từ nhà bố mẹ về. Hầm nhà đầy ắp rượu quí. Đàn ngựa đen hí trong chuồng.

– Ông bà có ba cô con gái, cô nào cũng xinh đẹp. Tên ba cô là Iđa, Gian và Đôrôtê. Cả ba đều giàu sang phú quý. Vi vu, vi vu.. Tất cả đều trôi đi.
(Trong lúc kể chuyện, gió hay đưa vào điệp khúc ấy)
– Bà chủ nhà ở đây không ngồi quay tơ vào phòng với bọn thị tỳ như ở nhiều nơi khác. Bà chủ ở đây chỉ đàn hát. Lâu đài lúc nào cũng náo nhiệt, khách khứa ra vào tấp nập. Tiếng cốc chén va chạm vào nhau, tiếng ca nhạc, át cả tiếng gió thổi.
– Một sáng tháng năm ta ở phía tây thổi về (vẫn lời của gió), rong ruổi trên bờ bể, qua các khu rừng và đồng bằng, vượt qua sông Ben.
Đến khu rừng dẻ gai, gần lâu đài Bôrôby.

Vừa lúc ấy có một chiếc xe dát vàng có sáu ngựa kéo đi tới. Trên xe bà bá tước và ba nàng con gái xinh đẹp, dịu dàng; một người trông như đoá hoa hồng, một người như hoa huệ, người thứ ba như hoa dạ hương. Bà mẹ cũng xinh đẹp rực rỡ. Mấy đứa trẻ thấy xe đến, đứng dậy cúi chào. Ta trông thấy ba nàng con gái xinh đẹp và tự hỏi ai sẽ là chồng của họ? Chắc phải là các hiệp sĩ, hoặc các hoàng tử xứng đáng với họ.
Vi vu, vi vu… Tất cả sẽ trôi đi!
Chiếc xe quay rồi, những đứa trẻ lại tiếp tục nhảy múa. ở làng này nhân dân thường vui chơi như vậy để đón mùa hạ.

Đến đêm, bà chủ lâu đài đã ngủ lịm đi, không bao giờ thức giấc nữa. Bà ta đã qua đời như tất cả mọi người.
Vanđơma sống một thời gian âm thầm và lo âu. Nhưng rồi ông ta tự nhủ: Ngọn cây cứng cáp nhất cũng có lúc phải uốn mình, nhưng nó cũng có thể lại vươn lên. Các nàng con gái trong lâu đài và gia nhân ai cũng khóc và thương xót bà quý phái. Bà đã mất, ta cũng bay đi nơi khác, vì mọi vật đều trôi đi, vi vu, vi vu…

Nhưng rồi ít lâu sau ta lại trở lại. Ta đã từng ngồi trên bờ biển gần bôrôdy và trong khu rừng gần đấy. Trong rừng có nhiều loài chim trú ngụ: cò, diêc, chim cu, quạ khoang, quạ đen. Nhiều con đã đẻ trứng, nhiều trứng đã nở. Bỗng có sự huyên náo khác thường. Chim cò bay vút lên, gào inh ỏi. Có tiếng rìu đốn cây, người sắp phá trịu khu rừng. Vađơma đóng một chiếc ba tầng để bán cho nhà vua. Vì thế ông ngả rừng nơi trú ngụ của chim chóc. Đàn cú vội vàng bay đi trốn. Chúng kêu gào ầm ĩ trên khu rừng. Quạ đen, quạ khoang chế diễu: “Bị tống cổ rồi! Bị tống cổ rồi! Quạ! Quạ!”

Vađơma cùng các con gái và những tiều phu thấy vậy phá lên cười. Riêng cô con gái út Đôrôtê thấy mủi lòng. Một cây trên có tổ quạ đen, quạ con đang thò đầu ra ngoài kêu. Người ta cũng định chặt cả cây ấy. Nhưng Đôrôtê đã van xin, nên riêng cây ấy được để lại.

Họ đẵn cây, cưa gỗ, đóng chiếc thuyền ba tầng. Người trông nom điều khiển công việc không phải con nhà quyền quý nhưng có trí thông mình. Đôi mắt và vầng trán anh biểu lộ tài sáng tạo. Vanđơma và cô con gái cả Ida thích nghe anh kể chuyện.

Trong khi thiết kế cho người cha con tàu, thì anh cũng thiết kể trong óc một toà lâu đài cho mình và cô con gái cả của ông. Nhưng vì chỉ là tưởng tượng nên không thành sự thực. Và làm xong con tàu, người trẻ tuổi ấy lại ra đi. Cô bé cũng đã yêu anh. Đàn ngựa đen đang dậm chân trong chuồng.

Một vị thuỷ sư đô đốc được nhà vua cử đến xem xét con tàu và bàn việc mua bán. Nhưng chẳng biết thế nào việc mua bán không thành, con tàu vẫn nằm trên bến, chẳng bao giờ được hạ thuỷ, vi vu. Mọi việc trôi qua, trôi qua… Đấy là thất bại đầu tiên của Vanđơma.

Mùa đông, tuyêt phủ đầy mặt đất, những tảng băng trôi giạt trên dòng sông Ben. Từng đàn quạ bay kéo đến, đậu trên chiếc tàu bỏ chỏng chơ trên bờ sông. Chúng kêu than về cảnh rừng bị phá, cảnh quạ non quạ già không có chỗ làm tổ và tất cả những tai họa đã xảy ra do việc đóng con tàu gây nên, con tàu kiêu căng chẳng bao giờ được nổi trên mặt nước.

Ta cuộn tuyết lên phủ quanh thân tàu, kín đến tận nóc và cao giọng thổi thành cơn giông tố. Ta làm mọi cách để cho con tàu biết thế nào là cuộc đời trên biển cả. Vi vu, vi vu… mọi việc trôi qua!

Đông qua, Xuân tới. Các mùa tiếp nối nhau như gió thoảng qua. Tuyết tan, hoa nở, lá vàng lại rụng…
Tất cả đều trôi qua. Đời người cũng vậy. Các cô con gái Vanđơma vẫn trẻ măng. Nàng Iđa mơn mởn như đoá hoa hồng. Có lúc ta thổi vào bộ tóc màu hạt dẻ của nàng khi nang ngồi trầm ngâm dưới gốc cây táo trong vườn. Ta rũ tóc nàng ra và phủ lên đầy hoa.

Gian cô em thứ hai tươi tắn như bông huệ, nhưng điệu bộ cứng nhắc, kiêu kỳ, giống như bà mẹ. Nàng hay vào gian phòng nơi treo chân dung những người trong gia đình. Các bà trong tranh ăn mặc lịch sự, trên tóc úp một chiếc mũ nạm ngọc, trông thật duyên dáng. Các ông chồng thì áo giáp thép hoặc áo choàng loại đắt tiền. Các ông không đeo kiếm ở hông mà đeo ở đùi.

Đôrôtê là một cô bé mười bốn tuổi. Tính cô trầm lặng và chín chắn. Cô có cặp mắt to, xanh tựa sóng, lúc nào cũng mơ màng, một nụ cười tươi tắn luôn nở trên môi. Nàng luôn ở ngoài vườn hay trên đồng ruộng để hái hoa bứt cỏ.
Vanđơma là người cứng rắn và kiêu ngạo nhưng rất thông thái. Ngay giữa mùa hè ông vẫn đốt lò, cửa buồng đóng kín. Suốt ngày ông ở trong đó, chẳng bao giờ nói với ai công việc ông làm. Ông muốn tìm ra một vật quí nhất trên đời. ấy là vàng đỏ.

Vì vậy khói luôn bay trên mái toà lâu đài, trong buồng Vanđơma luôn luôn có lửa, lửa từ trong lò loè ra. Mọi vật sẽ biến thành than tro, than tro thành khói. Ngay cả Vanđơma rồi cũng sẽ cháy tan ra thành khói. Vi vu, vi vu… mọi vật trôi qua!

Những con ngựa oai phong trong chuồng biến đâu cả?
Tất cả súc vật, vàng bạc, trang trại và cả lâu đài nữa, biến đâu rồi? Chúng chảy thành nước cả rồi, chảy tan trong nồi nấu vàng, nhưng chẳng nấu ra tí vàng nào.

Chẳng còn chút gì trong các ngăn tủ và trong kho thóc. Người hầu giảm đi mà chuột thì lại tăng lên. Cửa kính cứ vỡ dần nay một tấm, mai một tấm, ta ra vào tự do, tình hình trong nhà thế nào ta đều biết cả (vẫn là lời gió kể).
Bữa ăn của chủ nhà trở nên đam bạc. Các nàng con gái của Vanđơma cũng chỉ đắp lên người một tấm da. Chẳng còn gì ăn, chẳng còn củi để sưởi. Cuộc đời một quí tộc phá sản là như thế đấy. Vi vu, vi vu. Mọi vật trôi qua!
Sống giữa khói than và tro bụi, qua bao lo âu phiền muộn, râu tóc Vanđơma ngả màu xám, nước da tái nhợt, nhưng đôi mắt vẫn ánh lên một niềm hy vọng. Ông nói: “Đông qua rồi xuân sẽ tới. Sau cơn bĩ cực đến tuần thái lai. Rồi ta sẽ có vô số vàng. Gắng chịu đến ngày lễ Phục sinh.

Sáng ngày lễ phục sinh, tiếng chuông nhà thờ vang lên. Nắng làm tươi vui hẳn bầu trời. Trong cơn lo lắng, Vanđơma đã thức suốt đêm, nấu chảy rồi để nguội, pha trộn rồi gạn lọc. Lão thở dài, rồi cầu nguyện, nín thở. Đèn tắt ngấm mà lão cũng chẳng để ý. Ta thổi vào đám củi tàn, ánh lửa soi sáng mặt lão hốc hác trắng bệch. Mắt lo âu, sâu trũng, tròn xoe, to ra mãi như muốn bật khỏi tròng.

“Vàng đây rồi!” lão reo lên – nó tinh khiết và đặc sệt”. Lão nhấc bình thuỷ tinh luyện kim lên, tay run run, miệng lắp bắp: “vàng vàng!” Lão cầm bình thuỷ tinh vào phòng những đứa con gái mình, giơ cao lên hét: “Chế ra vàng rồi!” Tay lão run run. Chiếc bình rơi xuống vỡ tan tành. Niềm hy vọng cuối cùng của lão tan tành. Vi vu, vi vu, mọi việc trôi qua.

Vào một ngày cuối năm ngắn ngủi, ở lâu đài Bôrôby, Ôvơ Ramen, chủ nợ của Vanđơma đang ngồi đấy với bản khế ước cầm cố gia sản của Vanđơma. Iđa và Đôrôtê oà lên khóc, Gian ngồi cắn móng tay.

Ôvơ Ramon đã mời Vanđơma ở lại lâu đài suốt đời, nhưng lão chỉ cảm ơn. Lão chỉ còn quần áo mặc trên người, và một cái bình thuỷ tinh mới mua đựng nước luyện kim vét dưới đất, thứ nước quý báu hứa hẹn nhiều nhưng chẳng đem lại gì. Lão chúa đất trước kia già có, nay ôm chặt cái bình, một tay chống gậy cùng các con ra khỏi lâu đài Bôrôđy. Ta thổi hơi lạnh buốt vào đôi má lão, lay chòm râu xám và bộ tóc bạc của lão. Ta hét: vi vu, vi vu.. Mọi việc trôi qua! Thế là hết hạnh phúc.

Iđa và Đôrôtê đi cạnh lão. Gian trước khi đi theo còn quay lại nhìn ngôi nàh cũ một lần. Các nàng đi theo con đường mà trước đây họ thường đi dạo bằng xe ngựa. Người nào cũng lếch thếch như những kẻ ăn xin. Họ đến một ngôi nhà đất mới thuê mỗi năm mười mác, tường vách trống trơn. Đàn bay qua lượn chung quanh gào: “Họ bị đuổi đi! Họ bị đuổi đi!”

Gió còn biết Vanđơnma và các cô gái sau này ra sao nữa kia.
Gió kể:
– Năm mươi năm sau ta gặp lại Đôrôtê. Lúc ấy nàng đã già, lưng đã còng. Nàng là người cuối cùng trong gia đình còn sống và còn nhớ lại mọi chuyện cũ. Nàng đã kể thế này: “Giữa đồng bằng trong thành phố Viho, mọc lên một toà lâu đài sang trọng của mục sư, xây bằng đá đỏ, khói nghi ngút toả trên mái. Gia đình chủ nhà mới đứng gần cửa sổ nhìn qua khe lá leo trên đầu, về phía đồng cỏ màu nâu nhạt. Họ nhìn một túp lều tiều tuỵ, trên mái là những tổ cò. Cái lều thật thảm hại. Các bạn chỉ đứng xem chớ có động vào.

Cái lều ấy đáng lẽ phải phá đi vì nó làm xấu cả cảnh quan. Xong ông mục sư không nỡ. Vì trong túp lều ấy còn có một bà già. Thế là túp lều còn lại và người đàn bà đáng thương còn được ở trong đó.

Qua lời bà già Đôrôtê, chúng ta còn được biết: Ông Vanđơma đã chết một cách đáng buồn, chẳng có một tiếng chuông, chẳng có một lời cầu nguyện, Iđa lấy một người nông dân, ông bố rất đau khổ chả là con rể chỉ là một người bình dân mà ông thường khinh rẻ. Còn Gian sau này xung vào lính thuỷ. Nàng luôn lầm lỳ và ủ rũ nhưng chẳng than phiền gì. Trong một cơn bão, chiếc tàu trên nàng làm việc đã chìm xuống biển, kéo theo nhiều người trong đó có Gian. Người cuối cùng của gia đình Vanđơma là Đôrôtê đã hát lời cầu nguyện trong túp lều tiều tuỵ vào một ngày lễ Phục Sinh. Nàng đã qua đời.

25. Chuyện con nít

Tại nhà ông lái buôn giàu có nhất trong tỉnh tụ tập một đám rẻ, con cái các gia đình giàu có và quyền quý. Ông lái buôn là người có học, cũng đã thi cử và đỗ đạt. Đó là nguyện vọng của ông cụ thân sinh đáng kính, xuất thân là lái buôn súc vật. Hai bố con đều linh họat, lương thiện, và đã làm ăn phát đạt.
Ông lái buôn là người vừa thông minh, khéo léo và tốt bụng. Nhưng người ta nói nhiều đến của cải của ông hơn là nói đến cái tốt của ông. Lui tới nhà ông có những người sang trọng, những người trí thức. Có người trí thức là con ông cháu cha và cả những người tầm thường không có học thức.

Tối hôm ấy, trẻ con tụ họp tại nhà ông lái buôn. Những đứa nhỏ ấy chuyện trò nhiều, quá nhiều, và nói tuột ra những ý nghĩ của chúng.

Trong số chúng nó, có một đứa con gái cực kỳ xinh đẹp. Nhưng sao mà con bé kiêu ngạo đến thế! Đó là lỗi của những người ở đã phỉnh và chiều nó quá. Trái lại, bố mẹ nó là những người tốt và cũng chỉ tự hào đúng mức với địa vị quý phái của họ. Bố nó là quan nội thần. Hẳn đó là một địa vị cao. Con bé biết thế và bảo các bạn:
– Tao là con cận thần!

Nó cũng có thể là con nhà thường dân, nhưng điều đó đâu phải là tự nó muốn thế nào được vậy?! Nó luôn luôn nhắc cho các bạn biết rằng nó là con ông cháu cha. Nó nói thêm:
– Nếu sinh ra không phải là con ông cháu cha thì thật là vận rủi không thay đổi được. Người ta sẽ không làm nên cái gì cả. Dù cho biết đọc biết viết, học thuộc bài đi nữa, cũng phí công vô ích. Không thể làm nên trò trống gì! Lại còn những đứa mà cuối tên có vần “xen” nữa. Ôi thôi! Bọn ấy thì chẳng bao giờ nên người cả. Khi đứng gần chúng nó thì phải chống tay lên cạnh sườn để rẽ chúng nó ra.

Và nó chống hai nắm tay nhỏ xinh lên cạnh sườn, giơ những khuỷu tay rõ nhọn lên để làm điệu bộ ngăn cách bọn thường dân như thế nào. Tay nó nhỏ xíu và trông nó có vẻ xinh xắn tệ! Con gái ông lái buôn nghe câu ấy không khỏi tức giận. Bố nó tên là Potecxen, nó không muốn người ta coi thường những người có vần “xen” ở cuối cùng tên. Nó cố hết sức lấy giọng kiêu kỳ mà bảo rằng:
– Mày có biết là bố tao lại có thể cho bố mày và bố tất cả những đứa khác lên báo của bố tao cơ! Tất cả mọi người đều sợ bố tao và tờ báo của bố tao. Mẹ tao bảo bố tao là một thế lực đấy.

Thế rồi cái đám lau nhau ấy đưa nhau ưỡn ngực, lấy điệu bộ hách dịch, ngắm nghía nhau khinh bỉ và làm dáng điệu như con vua cháu chúa.

Ngoài phòng khách, một em bé trai nghèo khó nhìn qua cánh cửa hé mở những vật tuyệt đẹp trong phòng dạ hội. Em chẳng đáng là cái gì trên đời cả nên không được phép vào. Em đã giúp chị bếp quay tiêm nướng chả và, để thưởng cho em, người ta cho em lên ngó cuộc hội họp gồm toàn những trẻ con xinh đẹp, ăn mặc rất sang trọng ấy. Như thế cũng đã là một diễm phúc cho em rồi. Em nghĩ thầm: “Ước gì mình là một trong chúng nó nhỉ?” Em đã nghe thấy những đứa con gái nói và em thấy buồn trĩu trong lòng. Bố mẹ em nghèo nàn, chẳng có chức vị, chẳng có tiền của, chẳng có báo chí, chẳng có gì cả. Và buồn hơn nữa, tên bố em và em cũng lại có vần “xen”. Như vậy em không còn hy vọng gì và chẳng bao giờ làm gì nên thân trên đời này cả.

Dù sao em cũng thấy rằng cái việc mình không “sinh ra” là một điều phi lý, vì người ta đã nói cho em biết ngày sinh của em.

Nhiều năm trôi qua. Những đứa trẻ ấy đã khôn lớn. Trong thành phố, người ta dựng lên một căn nhà huy hoàng, hay đúng hơn, một cái lâu đài chứa đầy những mỹ nghệ phẩm kỳ diệu và những vật báu thật quý giá. Tất cả mọi người đều muốn vào thăm nơi ấy và cho đấy là một danh dự. Một đám đông các vị tai to mặt lớn thường đến để chiêm ngưỡng những vật phẩm đẹp đẽ ấy. Lâu đài này là chỗ ở của một trong những đứa bé mà ta vừa mới nói đến. Đứa nào nhỉ?

Chính là đứa con trai nghèo khó năm xưa đã đứng nghe sau cánh cửa. Đứa bé ấy đã trở thành một nhân vật nổi tiếng, mặc dầu tên nó có vần “xen”. Đó là Thooc – Van-đơ-xen , nhà điêu khắc lừng danh.

Và còn ba đứa kia, những đứa con gái mà là dòng dõi gốc, tiền của, quyền thế của bố mẹ đã cho chúng trở nên kiêu căng, hiện nay thế nào? Tôi không biết gì thêm. Có lẽ chúng ở trong đám đông, những người vô danh. Chắc chúng cũng chẳng đến nỗi hư hỏng vì trời đã phú cho chúng nhiều tư chất tốt. Nhưng chúng cũng có thể thấy rõ ràng câu chuyện chúng nó tối hôm xưa chỉ là “những chuyện con nít”.

26. IP và cô bé Crixtin

Con sông Gu-đơ-na xinh đẹp và trong vắt chảy qua miền Bắc bán đảo Jutland, chạy dọc theo một cánh rừng bát ngát, rải sâu vào hậu phương. Đất nhô lên hình lưng lừa nom như một bờ lũy xuyên qua rừng. Ven rừng phía đông có một nhà nông dân, chung quanh có một khoảnh đất màu, nhưng xấu lắm. Nhìn xuyên qua đám lúa đại mạch mọc một cách khó khăn ở đấy, ta thấy đâu cũng là cát cả.
Cách đây ít năm, những người trung hậu sống ở đó vẫn cầy cấy. Họ có ba con cừu, một con lợn và hai con bò. Họ sống đủ ăn, cái đủ ăn theo nghĩa chắt chiu, sống với mức tối thiểu. Người nông dân ấy tên là Jeppo Giăngx. Mùa hạ, bác ta chăm chỉ làm ruộng, mùa đông chỉ đẽo guốc. Bác ta có một chú học việc, cũng như bác, biết đẽo những đôi guốc vừa chắc chắn vừa nhẹ nhàng mà hình dáng lại đẹp đẽ. Họ gọt cả thìa và các dụng cụ khác bằng gỗ, bán chạy, và dần dần Jeppo Giăngx trở nên khá giả.

Đứa con trai độc nhất của bác, thằng xu Ip lên bảy tuổi. Nó thích xem bố nó làm việc, nó bắt chước bố, cũng đục đẽo gỗ và thỉnh thoảng lại bị đứt tay một miếng khá to. Nhưng một hôm, nó đem khoe với bố mẹ, vẻ mặt đắc thắng, một đôi guốc vừa đẹp vừa xinh. Nó nói là sẽ đem tặng cô bé Crixtin.

Crixtin là con gái ông lái đò. Em xinh xắn và thanh lịch như con nhà quan. Nếu em được mặc quần áo đẹp, không ai ngờ rằng em lại sinh ra trong một túp lều, trên mảnh đất hoang cạnh đấy. Đó là nhà cha em. Ông ta góa vợ. Ông sinh sống bằng nghề đốn củi trong rừng rồi dùng chiếc thuyền to của nhà chở đến bán ở địa hạt Xinkobo và đến tận cả thành phố Răng-đe. Ở nhà chẳng có ai giữ Crixtin cả, cho nên hầu như lúc nào ông cũng đem nó theo trên thuyền hoặc vào rừng. Nhưng khi nào ông phải ra tỉnh thì ông dẫn em đến gửi nhà ông Jeppo Giăngx ở bên kia bãi thạch thảo.

Crixtin kém cu Ip một tuổi. Hai em là đôi bạn rất thân, chia nhau từng miếng bánh, từng quả quất rừng và cùng chơi đào lỗ trên cát với nhau. Chúng chạy lon ton khắp vùng, chơi bời, nhảy nhót. Thậm chí có hôm, chúng mạo hiểm đi khá sâu vào trong rừng, được trông thấy chim rẽ, chúng cũng cho là một sự kiện đáng ghi nhớ.

Cu Ip chưa bao giờ được đến nhà Crixtin hay được lên thuyền của ông lái đò. Nhưng một hôm, ông ta đưa em qua bãi hoang về nhà ông để cho em ngắm phong cảnh và sông nước. Sáng hôm sau, hai em được lên thuyền ngồi vắt vẻ trên những bó củi. Cu Ip trố mắt nhìn, quên cả ăn bánh mì và quất rừng.

Ông lái và người bạn cùng đi dùng sào đẩy thuyền. Họ theo luồng nước và lướt nhanh qua những hồ do con sông tạo nên. Các hồ này lắm lúc trông như hoàn toàn bị che kín sau những hàng lau sậy và những cây sên cổ thụ nghiêng mình trên mặt nước.

Nhiều lúc họ nhìn thấy những cây trăn già ngả ra nằm ngang dưới mặt sông, xung quanh có đầy hoa sen và hoa khê tôn, màu ngũ sắc, nom như một hòn đảo con xinh đẹp. Các em ngắm mãi không ngớt. Nhưng khi đến gần lâu đài Xin-kơ-bơ, nơi có cái đập lớn ngăn để bắt chạch, trông thấy nước chảy ầm ầm qua cửa đập, sủi sục và ngầu bọt thì Ip và Crixtin thích lắm, cho rằng nơi ấy đẹp quá chừng.

Thời ấy ở chốn này chưa có thị trấn và nhà máy. Người ta chỉ thấy vào cái trại có chừng mươi mười hai nông dân. Chính là tiếng nước chảy và tiếng vịt giời làm cho Xin-kơ-bơ náo nhiệt.

Khuân củi lên xong, ông lái thuyền mua một giỏ chạch đầy và một con lợn sữa vừa mới cắt tiết xong. Ông cho tất cả vào cái sọt để phía sau thuyền rồi quay về. Họ căng buồm lên và thuyền được gió chạy ngược sông nhanh như có hai ngựa kéo. Họ về đến gần sát nhà người bạn của ông lái thuyền. Hai người phải rẽ vào. Họ cột chặt thuyền vào bờ, dặn kỹ hai em bé phải ngồi yên, rồi ra đi.

Ip và Crixtin ngồi yên được vài phút, rồi các em ra lấy sọt vào xem bên trong có cái gì. Chúng mở nắp sọt và cho rằng muốn đỡ buồn cần phải lôi con lợn sữa ra để sờ mó và lật đi lật lại. Hai em vỗ về con lợn, loay hoay thế nào làm rơi tõm xuống nước và con lợn bị nước cuốn đi mất. Thật là nguy! Trong lúc hốt hoảng, Ip nhảy tót xuống đất và bỏ chạy. Crixtin nhảy ngay sau em và gọi Ip cho đi theo. Thế là hai đứa bé hoảng sợ chạy trốn biến vào trong rừng.
Chẳng bao lâu các em đã vào giữa bụi rậm để khỏi trông thấy con sông đáng ghét đã cướp mất con lợn mà các em hy vọng sẽ được chén một bữa ra trò. Nghĩ thế nên các em cứ đi mãi. Kìa, Crixtin vấp phải một rễ cây, ngã xuống. Em òa lên khóc, Ip bảo:
– Can đảm lên một tí. Nhà mình ở đằng kia kìa.

Nhưng đằng ấy làm gì có nhà nào. Tội nghiệp! Các em bé cứ đi mãi, chân chúng dẫm lạo sạo lên cành cây gẫy và lá khô từ năm ngoái. Bỗng các em nghe thấy tiếng người gọi the thé. Các em dừng lại nghe. Ngay lúc đó có tiếng chim ưng đáng ghét rít lên làm chúng hoảng sợ. Chúng tiếp tục chạy trốn. Nhưng chợt chúng thấy vô số quất rừng rất đẹp, nhiều không đếm xuể. Thế là hết cả sợ. Chúng hái quất ăn, mồm và má xanh đỏ nhoe nhoét cả ra.
Tiếng người gọi lại cất lên từ xa. Crixtin bảo:
– Chúng mình sẽ bị phạt nên thân.
Ip bàn:
– Ta trốn về nhà bố đi, ở đâu đây trong rừng này này.

Chúng lại đi, gặp một con đường nhỏ liền men theo; con đường ấy không dẫn đến nhà ông Jeppo Giăngx.
Đêm đến, trời tối mịt và các em rất sợ. Mọi nơi đều im phăng phắc. Chốc chốc, chúng chỉ nghe thấy tiếng cú và tiếng chim, chả biết chim gì. Chúng mệt lắm rồi, tuy vậy chúng vẫn cứ đi. Cuối cùng chúng lạc vào giữa bụi rậm. Crixtin khóc, cu Ip cũng khóc nốt. Ti tỉ một lúc, chúng lăn kềnh trên lá khô và ngủ thiếp đi.

Mặt trời lên khá cao chúng mới tỉnh dậy, ngơ ngác. Qua các gốc cây, nhìn thấy một ngọn đồi trọc, chúng bèn chạy đến để sưởi nắng. Cu Ip tưởng trèo lên đồi cao thì sẽ nhìn thấy nhà mình, nhưng các em đã lạc khá xa vào một phía rừng khác. Chúng trèo rất cao lên trên đồi và đứng sững lại vì ngạc nhiên: chúng nhìn thấy phía dưới có một cái hồ rất đẹp, nước trong xanh. Rất nhiều cá bơi trên mặt nước để sưởi nắng. Bên cạnh chúng là một cây lạc tây nặng trĩu quả, nhân lạc hãy còn non và mềm.

Bỗng chúng dừng lại, đờ người vì sợ hãi. Đứng gần chúng, như vừa ở đất chui lên, là một bà già cao lớn, mặt nâu sẫm, tóc bóng ánh, lòng trắng con mắt sáng như mắt người da đên. Bà t khóac một cái túi trên lưng, tay cầm một chiếc gậy có nhiều mấu. Đó là một người đàn bà Bô-hê-miêng. Bà ta nói với chúng cái gì ấy, nhưng chúng chưa kịp hoàn hồn nên lúc đầu chẳng hiểu gì cả. Bà ta cầm ba hột lạc tây to, giơ cho chúng xem và nói rằng đấy là những quả lạc thần, bên trong có những thứ đẹp nhất trên đời.

Cuối cùng, cu Ip đánh bạo nhìn thẳng vào mặt bà ta. Bà ta nói với một giọng dịu dàng đến nỗi em trở lại bạo dạn và hỏi xin mấy quả lạc tây ấy. Bà ta cho em và lại hái những quả khác trên cây. Ip và Crixtin trố mắt nhìn ba quả lạc.
Ip hỏi:
– Trong quả này liệu có được một cái xe song mã không hở bà?
Người đàn bà Bô-hê-miêng đáp:
– Trong này có một cái xe thiếp vàng và có hai người kéo bằng vàng.
Crixtin nói:
– Thế thì cho tôi đi.
Cu Ip đưa cho em và người đàn bà buộc quả lạc tây vào một đầu khăn quàng của Crixtin. Ip lại hỏi:
– Còn trong quả này, liệu có cái khăn quàng đẹp như cái Crixtin quấn ở cổ không?
– Có mười cái đẹp hơn thế và vô số quần áo đẹp, giày thêu, một cái mũ có chăng mạng đăng ten.
Crixtin reo lên:
– Thế thì cũng phải đưa cho tôi!
Cu Ip ta rộng rãi cho luôn. Còn lại quả thứ ba trông đen xì, Crixtin bảo:
– Quả này cậu phải giữ lấy, trông cũng đẹp đáo để đấy.
Ip hỏi người đàn bà Bô-hê-miêng:
– Nhưng ở trong có gì thế hở bà?
Bà ta trả lời:
– Có cái hơn tất cả những cái trong cả ba quả.
Cậu bé nắm chặt lấy quả lạc của mình như một vật quý báo. Người đàn bà hứa dẫn các em ra đúng đường về nhà. Các em đi theo, nhưng con đường này lại ngược hẳn với đường về. Tuy nhiên ta cũng không nên nghi là người đàn bà Bô-hê-miêng định dụ dỗ hai đứa bé đi. Có thể là bản thân bà ta cũng nhầm.

Đến nửa đường, hai em gặp ông gác rừng. Ông nhận ra cu Ip và dắt hai đứa về nhà ông Jeppo Giăngx. Ở nhà mọi người đang lo lắng về chúng. Tuy nhiên, cả nhà cũng tha tội cho các em, sau khi giảng giải rằng các em đáng phải phạt nặng, trước hết là đã đánh rơi con lợn sữa xuống sông, nhưng đáng phạt nhất là sau đó lại chạy trốn vào rừng.

Người ta đưa Crixtin trở về nhà, còn cu Ip ở lại căn nhà nhỏ ven rừng. Đến tối, khi có một mình, việc đầu tiên là em rút ở trong túi ra quả lạc tây, bên trong có vật quí hơn cả một cái xe ngựa thiếp vàng. Em đặt nó một cách thận trọng vào khe cửa hé mở, sát ngay bản lề và kéo cánh cửa vào. Vỏ quả lạc vỡ ra, bên trong đã bị sâu ăn hết không còn nữa, chỉ còn lại một thứ bột giống như thuốc lá vụn hay đất đen. Cu Ip nghĩ thầm: “Mình đã biết ngay mà! Quả lạc bé như vậy thì làm gì có chỗ chứa nhiều thứ đẹp thế, những thứ đẹp nhất! Crixtin chắc cũng chả hơn gì minh, chả được quần áo đẹp và xe song mã có hai ngựa vàng kéo đâu.”

Đông qua xuân tới và nhiều năm đã qua! Ip sắp phải đi chịu lễ ban thánh thể và lễ kiên tín lần đầu tiên. Suốt cả mùa đông em được gửi đến nhà ông mục sư trong làng gần đấy nhất để đọc kinh. Cũng thời gian này, ông lái thuyền đến chơi nhà Ip và báo rằng Crixtin đi ở cho người ta. Đó là một dịp may: Crixtin sẽ đến làm cho những người tốt nhất trên đời, chủ hàng cơm ở Hecming, cách rừng này nhiều dặm đường, rất xa về phía đông. Đến đó, em sẽ phải giúp người ta thổi nấu, dọn dẹp, phục vụ bán hàng. Em sẽ làm lễ ban thánh thể đầu tiên ở đó. Nhà chủ định đến lúc ấy, nếu em tỏ ra chăm chỉ, ngoan ngoãn, không có gì đáng ngại nữa, thì sẽ giữ em lại làm con nuôi.
Người ta đi tìm Ip về để em có thể tiễn chân Crixtin, vì người ta vẫn gọi chúng là đôi vợ chồng chưa cưới tý hon. Lúc sắp lên đường, Crixtin giơ cho Ip hai quả lạc tây mà Ip đã cho em trong rừng. Em nói thêm là em cũng đã cất cẩn thận vào trong tráp đôi guốc xinh mà Ip đã làm tặng em khi còn bé. Sau đó, các em chia tay nhau.

Thế là Ip đã được chịu lễ kiên tín. Cha chết, em đã quay về ở với mẹ và đã trở thành một người thợ guốc khéo tay. Mùa hè em làm ruộng, đỡ cho mẹ phải thuê người cày.

Chỉ lâu lâu người ta mới được một người đưa thư hay một người chở hàng thuê cho biết tin tức Crixtin. Em sống ở nhà người chủ hàng cơm rất dễ chịu. Khi em được làm lễ kiên tín đầu tiên, em viết một lá thư rõ dài cho cha em, trong đó em gửi lời hỏi thăm Ip và mẹ Ip. Em kể rằng bà chủ em đã cho em sáu cái áo lót mới và một chiếc áo dài rất đẹp mới dùng có một lần. Đó là những tin rất đáng mừng.

Mùa xuân năm sau, có người gõ cửa nhà mẹ Ip. Chẳng phải ai xa lạ, chính là ông lái thuyền và Crixtin tiện dịp đi nhờ một chuyến xe chơi một hôm. Trông cô xinh đẹp như một tiểu thư ngoài tỉnh. Cô mặc một chiếc áo rất vừa và đẹp, vì là áo may cho cô chứ không phải là áo cũ của bà chủ.

Thế là Crixtin đã về, quần áo rất sang trọng. Còn Ip thì vẫn mặc bộ áo thường ngày. Anh không nói được câu nào cả. Anh cầm tay người thiếu nữ và giữ lại trong tay mình. Anh cảm thấy sung sướng lắm, nhung anh líu lưỡi không nói nên lời. Còn Crixtin thì trái lại, không ngớt miệng líu lo kể chuyện và ôm hôn Ip không chút ngượng ngập. Khi chỉ còn có hai người, cô hỏi Ip:
– Anh không nhận ngay ra em ư? Anh cứ im như thóc ấy!

Thực tình lúc ấy như đờ ra vì kinh ngạc nên nắm mãi tay Crixtin. Cuối cùng anh mới nói được rằng:
– Đó là vì em đã trở thành một tiểu thư sang trọng, còn anh thì lôi thôi lếch thếch như một nông dân nghèo khổ.
Và họ khóac tay nhau dạo chơi trên bãi đất sau nhà. Họ ngắm phong cảnh xung quanh, con sông, cánh rừng và những ngọn đồi mọc đầy thạch thảo. Ip suy nghĩ rằng tất nhiên Crixtin sẽ là vợ mình. Người ta vẫn luôn luôn gọi họ là đôi vợ chồng chưa cưới tý hon. Việc đó đối với anh hình như là chuyện đã rồi. Hai người đã ước hẹn với nhau, tuy rằng chưa ai bày tỏ với ai. Ngay tối hôm ấy, Crixtin phải quay về làng, nơi xe đổ, để hôm sau lên tỉnh từ sáng sớm. Cha cô và Ip đưa cô đi. Đêm hôm ấy trời đẹp, trăng sao vằng vặc. Khi tới nơi và lúc Ip lại nắm tay Crixtin, anh cảm thấy không biết làm thế nào để rời cô ra được. Anh không rời mắt nhìn nét mặt dịu dàng của cô. Anh cố nói những lời thốt ra tự đáy lòng:
– Em Crixtin, nếu em không quen sống sang trọng quá rồi, nếu em có thể về nhà mẹ anh, làm vợ anh, thì một ngày kia chúng ta sẽ lấy nhau. Nhưng chúng ta còn có thể chờ đợi nhau.
Cô nắm tay anh và nói:
– Đúng thế, chúng ta không nên quá vội. Em tin ở anh và cũng rất tin rằng em yêu anh, nhưng em muốn suy nghĩ thêm cho chín chắn.

Anh âu yếu hôn cô, rồi họ chia tay nhau. Trên đường về, anh nói chuyện với ông lái thuyền là anh và Crixtin cả hai nhà đã đính hôn với nhau và lần naỳ là chuyện đứng đắn chứ không phải chuyện đùa. Ông bố trả lời là ông không mong gì hơn. Ông đi cùng Ip về nhà mẹ anh, ở lại rất khuya và tối hôm đó họ chỉ bàn đến chuyện cưới xin sau này.
Một năm qua, Ip và Crixtin viết cho nhau hai lá thư. “Trung thành với nhau cho đến khi chết”, là dòng chữ ghi ở dưới cùng.

Một hôm, ông lái thuyền đến gặp Ip và chuyển lời hỏi thăm của Crixtin. Rồi ông bắt đầu kể rất nhiều chuyện, nhưng lúng túng và không được rành mạch lắm. Cuối cùng Ip mới hiểu như thế này: “Crixtin đã trở nên xinh đẹp hơn trước. Tất cả mọi người đều yêu quý và nâng niu cô. Con trai ông chủ hàng cơm có địa vị khá trong một hãng buôn lớn ở thủ đô Cô-pu-nha-gơ đã về Hec-ming chơi. Anh ta thấy cô đáng yêu và cũng đã làm cho cô ta mến anh. Bố mẹ anh cũng lấy làm vui mừng và mong cho hai người ưng nhau. Nhưng Crixtin đã không quên rằng Ip rất yêu cô, cho nên cô sẵn sàng từ chối.” Nói đến đấy, ông lái thuyền im bặt, bối rối hơn lúc đầu. Ip đã nghe tất cả câu chuyện, chẳng nói chẳng rằng, nhưng nét mặt anh tái mét đi. Cuối cùng, anh lắc đầu và lắp bắp:
– Không, Crixtin không được gạt bỏ hạnh phúc của cô ấy.
Ông lái thuyền bảo:
– Thế thì anh viết cho nó mấy chữ.
Anh ngồi xuống, lấy giấy bút. Sau khi suy nghĩ kỹ, anh viết vài chữ rồi lại xóa ngay đi. Anh lại viết, rồi lại xóa. Anh xé đi viết tờ khác, rồi lại xóa. Mãi đến sáng hôm sau, anh mới viết được trơn tru lá thư sau đây đưa cho ông lái thuyền đưa cho Crixtin:
“Anh đã đọc thư mà em đã viết cho bố em. Qua đó anh được biết là cho đến nay, đối với em mọi việc đã được thu xếp vừa ý và em còn có thể sung sướng hơn thế nữa. Crixtin, em hãy hỏi lại lòng em và suy nghĩ kỹ về số phận đang chờ đợi em, nếu em lấy anh. Anh chẳng có của cải gì. Đừng nghĩ đến anh, mà cũng đừng ngĩ rằng anh sẽ thế nào, hãy nghĩ đến hạnh phúc vĩnh viễn của em. Không một lời hứa hẹn nào ràng buộc em với anh cả và nếu trong thâm tâm em đã có lần hứa thầm với anh, anh giải trừ lời thề đó cho em. Crixtin, anh mong rằng em sẽ có nhiều hạnh phúc. Thương đế sẽ an ủi anh.
Người bạn luôn luôn trung thành của em: Ip.”

Crixtin thấy anh là một người tốt. Đến tháng một, tin kết hôn được công bố và sau đó cô đi Cô-pu-nha-gơ với bà mẹ chồng tương lai. Lễ cưới sẽ được tổ chức tại thủ đô vì chú rể bận công việc không đi xa được. Dọc đường, cha cô theo kịp. Cô hỏi thăm Ip ra sao. Ông lái thuyền không gặp anh, nhưng được bà mẹ anh cho biết là anh rất lầm lì, luôn luôn suy nghĩ một mình. Trong khi nghĩ ngợi, Ip nhớ đến ba quả lạc tây mà người đàn bà Bô-hê-miêng đã cho anh. Hai quả bên trong có xe ngựa vàng, quần áo đẹp, anh đã tặng Crixtin, và quả nhiên là cô sắp sửa được hưởng những thứ tốt đẹp ấy. Với anh lời tiên đoán cũng đã thành sự thực: anh đã được hưởng phần một ít đất đen. Người đàn bà Bô-hê-miêng đã nói: “Đó là cái hơn tất cả.” Ip nghĩ thầm: “Sao mà bà ta đoán đúng thế! Đất đen nhất, nấm mồ tối tăm nhất, phải chăng đó là những vật thích hợp với mình nhất?”

Mấy năm qua, không nhiều lắm nhưng đối với Ip là cả một thế kỷ. Ông chủ hàng cơm, rồi đến bà vợ chết đi. Họ để lại cho người con trai độc nhất hàng ngàn đồng tiền vàng. Lúc đó Crixtin đươc một chiếc xe ngựa đẹp và vô số quần áo lộng lẫy.

Hai năm nữa qua. Ông lái thuyền gần như không có tin tức gì của con gái. Cuối cùng ông nhận được một bức thư dài của cô. Mọi việc đã thay đổi nhiều lắm. Cả cô và chồng cô đều không biết quản lý tài sản to lớn của họ. Người ta cho rằng Thượng đế đã không phù hộ cho họ. Họ bắt đầu lâm vào cảnh túng thiếu.

Thạch thảo đã lại ra hoa để rồi lại bắt đầu khô héo. Tuyết ập xuống khu rừng, che chở cho nhà Ip khỏi những cơn gió bão. Rồi mùa xuân đem lại ánh nắng. Ip đang cày ruộng, bỗng lưỡi cày vấp phải một vật rất cứng, anh bới đất và lôi ra một cái gì tựa như một cái vòng to và đen, óng ánh dưới nắng. Đó là một cái xuyến bằng vàng khối từ ngôi một một người khổng lồ mà ra. Đào thêm, anh còn tìm thấy nhiều vật khác dùng làm đồ trang sức của một vị anh hùng thời xưa. Anh đưa tất cả cho ông mục sự xem, và ông viết mấy chữ giới thiệu anh với quan chánh án. Quan chánh án bảo anh:
– Những thứ mà anh đào được là những vật rất quý và hiếm có nhất.
Ip chua xót tự nhủ:
– Chắc ông ta tưởng rằng đấy là những vật quý hơn tất cả dành cho mọi người như mình. Thôi được, vì những vật này đã được coi là quý hơn tất cả thì người đàn bà Bô-hê-miêng đã tiên đoán đúng hết.

Theo lời khuyên của quan chánh án, Ip mang những vậy quý đó lên viện Bảo tàng Cô-pu-nha-gơ và nhận được một số tiền lớn là 600 đồng vàng. Sau đó, anh đi dạo chơi trong thành phố, định ngay sáng sau sẽ đáp con tàu đã đưa anh đến đó để về nhà. Buổi tối anh lạc vào trong khu phố quanh queo và tới vùng ngoại ô. Anh vào một ngõ nghèo nàn và chẳng thấy ai cả. Tuy nhiên, cũng có một em gái nhỏ từ một trong những nhà tồi tàn nhất đi ra. Anh hỏi thăm đường em bé. Em sợ hãi nhìn anh và òa lên khóc. Động lòng thương, anh hỏi tại sao em khóc. Em thầm thì mấy lời làm anh chẳng hiểu gì cả. Ip cùng đi với em vài bước đến dưới một ngọn đèn chiếu sáng đúng vào mặt em bé. Anh giật mình sửng sốt. Trước mặt anh là Crixtin, như hồi còn bé. Anh không thể nào quên được vì những đường nét đó đã khắc sâu vào ký ức anh. Anh bảo em bé đưa anh về nhà và đứa bé thấy anh có vẻ tốt như vậy nên nín khóc và đưa anh về căn nhà nghèo nàn. Họ trèo lên một thang gác xép cao tít tận dưới mái nhà. Không khí ở đây uế tạp và nặng nề. Có tiếng người thở khò khè và rên trong một góc nhà. Ip đánh một que diêm và dưới ánh sáng mờ, anh thấy một người đàn bà nằm trên một cái võng tồi tàn. Đó là mẹ em bé. Anh nói:
– Bà cần gì, tôi xin giúp đỡ. Em bé đã dẫn tôi vào đây, nhưng tôi ở nơi khác đến, không thông thuộc thành phố này. Bà có quen ai bên cạnh hoặc quen người nào mà tôi có thể gọi đến đây giúp đỡ bà không?
Cũng lúc ấy đầu của người ốm chệch ra khỏi gối, anh nhấc đầu chị ta lên và đặt lại tử tế. Rồi anh nhìn mặt người đàn bà nghèo khổ: Đó là Crixtin, hoàng hậu xưa kia của rừng thạch thảo! Đã từ lâu Ip không thấy ai nói đến tên nàng. Người ta đã tránh nhắc đến tên nàng trước mặt anh, để khỏi gợi lại cho anh những kỷ niệm đau khổ. Hơn nữa, người ta cũng chỉ nhận được những tin đáng buồn về Crixtin. Chồng cô đã mất trí sau khi được hưởng cái gia tài lớn của bố mẹ để lại. Y tưởng gia tài ấy không bao giờ hết. Y đã xin thôi việc và đi du lịch nước ngoài, ăn tiêu như ông hoàng. Trở về Cô-pu-nha-gơ, y vẫn tiếp tục xài phí. Khi hết tiền, y mắc nợ, càng ngày càng phá sản. Bạn bè của y, những người đã tận tâm giúp y ăn tiêu hết của, nay lảng tránh y, họ còn nói rằng y khổ sở như vậy là đáng kiếp. Một buổi sáng nọ, người ta thấy xác y trong con sông đào.

Từ lâu Crixtin đã chết hẳn cõi lòng. Đứa con nhỏ, ra đời giữa lúc khốn quẫn, đã mất. Nàng chỉ còn lại một đứa con gái mà Ip vừa gặp. Hai mẹ con sống đơn độc, đói rét trong cái xó tồi tàn này. Bệnh tật đã đến hành hạ nàng Crixtin đáng thương. Ip nghe nàng lẩm bẩm: “Thế là tôi sắp chết đi, để lại đứa bé đáng thương này, không tiền không người nuôi nấng. Không biết rồi nó sẽ ra sao?” Kiệt sức, nàng lịm đi. Ip tìm được một mẩu nến, thắp lên và căn buồng sáng hơn một chút. Anh ngắm đứa con gái nhỏ và mỗi lúc lại càng thấy rõ hơn nét mặt của Crixtin vào tuổi đó và bỗng nhiên anh cảm thấy vì yêu người mẹ, anh sẽ âu yếm, chiều chuộng đứa trẻ mới gặp lần đầu tiên.
Người thiếu phụ hấp hối trông thấy anh. Nàng giương to đôi mắt. Không biết nàng có nhận ra anh không? Chẳng bao giờ anh biết được điều đó. Một lát sau, nàng tắt thở, không thốt được lấy một lời.

Bây giờ chúng ta lại quay về cánh rừng gần sông Guy-đơ-na. Hoa thạch thảo đã rụng. Gió thu thổi mạnh, lùa những chiếc lá khô xào xạc qua bãi hoang đến tận túp lều của ông lái đò, nay đã có người khác đến ở. Nhưng, núp cạnh một gò đất, dưới bóng những cây to, nhà ông Jeppo Giăngx thì trái lại, tường quét vôi trắng xóa. Trong nhà có đốt một đống lửa to. Khi em vui cười, mấp máy đôi môi đỏ chót, người ta tưởng chim đang hót. Sức sống và niềm vui cùng em ngự trị trong gian nhà. Lúc này em đang ngủ trong lòng Ip, mà em coi vừa là bố vừa là mẹ. Mẹ em đã yên nghỉ ở nghĩa địa thành phố Cô-pu-nha-gơ. Em bé chỉ còn hơi hơi nhớ đến mẹ thôi. Ip đã trở nên khá giả: công việc làm ăn của anh phát đạt, anh đã làm sinh sôi nảy nở số vàng lôi từ lòng đất lên, và anh lại tìm thấy cô bé Crixtin năm xưa của anh.

27. Cô gái chăn ngỗng

Ngày xưa, có một bà hoàng hậu tuổi đã cao. Đức vua chết đã lâu, bà có một cô con gái rất xinh đẹp. Khi lớn lên, nàng được hứa hôn với một chàng hoàng tử con vua một nước xa xôi. Đã đến lúc tổ chức lễ cưới, nàng công chúa chuẩn bị sẵn sàng đi nước xa lạ. Mẹ nàng chuẩn bị cho nàng những vật quý giá: đồ trang sức, vàng, bạc, cốc, châu ngọc, tóm lại là tất cả những gì xứng đáng làm của hồi môn cho một công chúa vì mẹ nàng rất mực yêu nàng. Mẹ nàng gửi gắm một thị nữ có nhiệm vụ dẫn nàng đi đến chỗ ở của người chồng chưa cưới. Mỗi người cưỡi một con ngựa. Ngựa công chúa cưỡi tên là Pha-la-da, biết nói. Đến lúc chia tay, bà hoàng vào trong phòng ngủ, lấy một con dao con chích ngón tay, để chảy ba giọt máu. Bà cho máu nhỏ xuống một cái khăn trắng nhỏ, đưa cho con gái và dặn :

“Con thân yêu, hãy giữ gìn cẩn thận cái khăn này, nó sẽ có ích cho con trên đường đi”.

Hai mẹ con buồn bã từ biệt nhau. Công chúa để cái khăn áp trước ngực, nhảy lên yên ngựa để đi đến nơi ở của người yêu. Sau khi đã đi được một tiếng, cô cảm thấy khát khô họng, cô bảo thị nữ :

– Em hãy xuống ngựa, lấy cốc của ta múc nước suối kia và mang lại đây cho ta, ta khát nước lắm.

– Nếu cô khát, thị nữ trả lời, thì hãy tự nhảy xuống, rồi vươn người ra trên mặt nước mà uống. Tôi không phải là đầy tớ của cô.

Công chúa khát lắm, bèn xuống ngựa, cúi xuống dòng nước suối để uống nước. Nàng không dám uống nước bằng cốc vàng.

– Trời ơi ! – nàng kêu to. Ba giọt máu trả lời cô :

– Nếu mẹ cô biết sự tình thế này, thì hẳn tim bà sẽ tan nát trong ngực.

Nhưng công chúa là người can đảm. Nàng không nói gì và lại nhảy lên ngựa. Ngựa phi nước đại được vài dặm. Trời thì nóng nực, chẳng mấy chốc nàng lại khát nước. Tới một con sông, nàng bảo thị nữ :

– Em hãy xuống ngựa và cho ta uống nước bằng cái cốc vàng.

Cô đã quên đứt những lời độc ác của thị nữ. Nhưng thị nữ lại trả lời ngạo mạn hơn :

– Nếu cô khát thì hãy đi mà uống nước một mình, tôi không phải là đầy tớ của cô.

Công chúa khát quá, nhảy xuống ngựa, cúi xuống dòng nước chảy xiết, khóc và kêu lên:

– Trời ơi !

Ba giọt máu liền đáp lại :

– Nếu mẹ cô biết sự tình thế này thì hẳn tim bà sẽ tan nát trong ngực.

Trong khi cô cúi xuống để uống thì cái khăn có ba giọt máu, tuột khỏi ngực cô và trôi theo dòng nước mà cô không hay biết gì, vì lúc đó cô rất sợ hãi. Thị nữ thì lại trông thấy hết và nó rất vui mừng là từ giờ trở đi công chúa sẽ bị nó trị. Từ lúc đánh mất ba giọt máu, công chúa trở nên yếu đuối, không đủ sức tự bảo vệ nữa. Khi nàng định trèo lên con ngựa Pha-la-da thì thị nữ bảo :

– Tôi sẽ cưỡi con Pha-la-da, còn cô, cô hãy cưỡi con ngựa tồi của tôi.

Công chúa đành làm vậy. Tiếp đó thị nữ ra lệnh, lời lẽ gay gắt, bắt nàng phải cởi quần áo hoàng cung ra và mặc quần áo của nó vào. Cô lại phải thề có trời là khi đến cung điện sẽ không nói lộ gì ra. Nếu cô không chịu thề thì nó sẽ giết chết cô tại chỗ. Nhưng con Pha-la-da đã quan sát tất cả và ghi nhớ tất cả.

Thị nữ thì cưỡi con Pha-la-da, còn công chúa thì cưỡi con ngựa tồi. Họ lại tiếp tục đi, cuối cùng đến lâu đài nhà vua. Ở đấy, mọi người rất vui mừng khi họ tới, và hoàng tử vội chạy đến tận nơi đón họ, đỡ thị nữ xuống ngựa, vì tưởng rằng đó là vợ chưa cưới của mình. Thị nữ đi lên bậc thang lâu đài, còn nàng công chúa thì phải đứng lại ngoài thềm lâu đài. Vua cha nhìn ra, qua cửa sổ thấy nàng duyên dáng và tuyệt đẹp. Người vào trong cung và hỏi cô gái được coi là vợ chưa cưới của hoàng tử xem cô gái đứng ngoài sân là ai.

– Tâu vua cha, con đã gặp cô gái đó trên đường đi và con đã đưa cô ta đi cùng để đỡ lẻ loi một mình. Xin vua cha cho cô ta làm việc gì đó để cô ta khỏi phải vô công rỗi nghề.

Nhưng vua cha không có việc gì giao cho cô làm cả. Người bảo:

– Ở ngoài kia, ta có một thanh niên chăn ngỗng, hãy để cô ấy giúp việc anh ta vậy.

Chàng thanh niên tên là Cuốc. Vợ chưa cưới của hoàng tử phải giúp anh chăn ngỗng.

Ít lâu sau, vợ chưa cưới giả tâu với hoàng tử:

– Chàng thân yêu ơi, em muốn một điều, chàng hãy làm vui lòng em nhé!

Hoàng tử nói:

– Được thôi!

– Chàng hãy cho gọi người thợ lột da đến đập chết con ngựa em cưỡi đến đây, vì trong khi đi đường nó đã làm em bực tức.

Thật ra thì nó sợ con ngựa kể lại cách nó đối xử với công chúa. Đến lúc con ngựa trung thành Pha-la-da phải chết thì công chúa được tin. Nàng hứa với người thợ lột da là sẽ bí mật biếu anh một đồng tiền bạc nếu anh giúp nàng một việc nhỏ. Trong đô thị có một cái cổng to rất tối, hàng ngày, sớm tối nàng phải dẫn đàn ngỗng đi qua. Nàng xin người thợ lột da hãy đóng đanh treo đầu con Pha-la-da vào cái cổng ấy để nàng có thể luôn luôn trông thấy nó. Người thợ lột da hứa sẽ làm, bác đóng đanh chặt cái đầu con ngựa vào dưới cái cổng tối om.

Sáng sớm, khi cùng Cuốc đi qua cổng, cô bảo cái đầu :

“Ôi, Pha-la-da, mày bị treo ở đây ư?”

Cái đầu trả lời:

“Ôi ! Nàng công chúa của tôi, nàng qua đây ư?
Nếu mẹ nàng biết nông nỗi này
Tim mẹ sẽ vỡ tan tành”.

Lặng lẽ, cô đi khỏi đô thị, dẫn đàn ngỗng ra cánh đồng. Đến đồng cỏ, cô ngồi xuống và rũ tóc ra. Tóc cô óng ánh như vàng nguyên chất và Cuốc rất thích nhìn mớ tóc ấy lóe sáng. Anh muốn nhổ vài cọng tóc. Công chúa bèn nói :

“Ta khóc đây, ta không đây! Hỡi làn gió nhẹ,
Hãy cuốn cái mũ của Cuốc đi!
Cho đến khi nào tóc ta chải và tết xong”.

Tức thì gió thổi mạnh cuốn đi cái mũ của Cuốc. Anh ta chạy theo ngay. Khi anh trở về thì công chúa đã chải đầu xong và anh không nhổ được sợi tóc nào. Anh rất bực và không nói năng gì với cô nữa. Họ lại tiếp tục chăn ngỗng đến chiều, rồi cùng về nhà.

Sáng sớm hôm sau, khi lùa đàn ngỗng qua cổng, cô gái nói :

“Ôi, Pha-la-da, mày bị treo ở đây ư?”

Đầu ngựa trả lời :

“Ôi ! Nàng công chúa của tôi, nàng qua đây ư?
Nếu mẹ nàng biết nông nỗi này
Tim mẹ sẽ vỡ tan tành”.

Đi ra khỏi đô thị, cô lại ngồi trên đồng cỏ và lại rũ tóc ra chải. Cuốc muốn nắm lấy mớ tóc. Cô vội vàng nói :

“Ta khóc đây, ta không đây! Hỡi làn gió nhẹ,
Hãy cuốn cái mũ của Cuốc đi!
Cho đến khi nào tóc ta đã chải và tết xong”.

Gió nổi lên, cuốn cái mũ đi. Cuốc phải chạy theo. Khi anh ta về thì cô đã chải đầu xong từ lâu, và anh không nắm được mớ tóc ấy. Và rồi hai người lại cùng chăn ngỗng đến chiều.

Nhưng chiều hôm ấy, về tới nhà, Cuốc đến gặp vua cha, và tâu :

– Kính thưa hoàng thượng, con không thể chăn ngỗng với cô gái này nữa.

– Tại sao vậy?, vua hỏi.

– Suốt ngày cô ta làm con bực mình!

Vua cha bảo anh kể lại sự việc đã xảy ra. Cuốc nói :

– Buổi sáng, chúng con dẫn đàn ngỗng qua cái cổng tối om, ở đấy, có một cái đầu ngựa treo trên tường, cô ta nói với nó:

“Ôi, Pha-la-da, mày bị treo ở đây ư?”

Cái đầu trả lời:

“Ôi ! Nàng công chúa của tôi, nàng qua đây ư?
Nếu mẹ nàng biết nông nỗi này
Tim mẹ sẽ vỡ tan tành”.

Và Cuốc kể các sự việc đã xảy ra ở cánh đồng chăn ngỗng và tại sao anh ta lại phải chạy theo cái mũ. Vua cha dặn anh ngày hôm sau cứ đi chăn ngỗng như thường lệ. Sáng sớm, ngài thân chinh đến dưới cái cổng tối om và nghe được những câu cô gái nói với cái đầu Pha-la-da. Ngài theo ra cánh đồng và nấp vào một bụi cây. Chính mắt ngài trông thấy anh thanh niên và cô gái kia lùa ngỗng thế nào và sau một lúc cô gái ngồi xuống gỡ mớ tóc vàng xõa xuống lóe sáng. Rồi cô lại nói:

“Ta khóc đây, ta không đây! Hỡi làn gió nhẹ,
Hãy cuốn cái mũ của Cuốc đi!
Cho đến khi nào tóc ta chải sóng mượt và tết xong”.

Một cơn gió thổi mạnh, cuốn cái mũ đội đầu của Cuốc đi. Anh phải chạy theo rất xa. Cô gái chăn ngỗng chải tóc và cuốn thành những búp. Vua cha nhìn thấy tất cả. Không ai nhận ra ngài vì ngài rời khỏi nơi đó.

Chiều đến, cô gái về nhà, ngài cho gọi cô đến và hỏi tại sao cô lại làm như thế.

– Tâu bệ hạ, con không thể nói được, cô trả lời. Con không thể kể nỗi khổ của con với bất cứ ai trên thế gian này, con đã thề như vậy để khỏi bị người ta giết.

Vua cha ép cô nói, nhưng ngài không biết được gì thêm. Ngài bèn nói :

– Nếu con không muốn nói với ta thì con hãy kể nỗi khổ của con với cái bếp lò này.

Rồi ông bỏ đi. Cô đến ngồi gần cái bếp lò, than khóc, thổ lộ tâm gan.

– Ta ngồi đây, bị cả thế gian ruồng bỏ, dù ta là con vua. Một con thị nữ ác độc đã áp bức ta, bắt ta đổi cho nó quần áo hoàng cung. Nó đã thay thế ta để làm vợ chưa cưới của người yêu ta, và ta bắt buộc phải làm công việc bình thường của người chăn ngỗng. Nếu mẹ ta biết nông nỗi này, tim bà sẽ tan nát.

Vua cha đứng ở phía tường bên kia gần ống thông hơi, ngài đã nghe thấy hết. Ngài trở về và gọi cô hãy rời cái lò và đến gặp ngài.

Người ta mang đến cho cô quần áo hoàng cung, cô mặc vào đẹp như có phép lạ. Vua cho gọi con trai đến và bảo cho con biết về cô vợ chưa cưới giả mạo. Cô người yêu thật đứng trước mặt chàng, đấy là cô gái chăn ngỗng.

Hoàng tử thấy cô rất đẹp và phúc hậu nên lòng tràn ngập niềm vui. Một bữa tiệc được sửa soạn để mời tất cả bạn bè thân thuộc. Hoàng tử và công chúa ngồi ở đầu bàn, trước mặt họ là con thị nữ. Nó bị choáng ngợp và không nhận ra cô chủ trang sức lộng lẫy. Khi họ đang ăn uống vui vẻ, vua cha ra một câu đố cho thị nữ. Nó phải trả lời là một người đàn bà lừa dối chủ sẽ bị xử tội thế nào. Ngài kể các sự kiện đã xảy ra và hỏi nó:

– Như thế sẽ xứng đáng với hình phạt gì?

– Nó xứng đáng phải đuổi đi khỏi đất nước.

– Kẻ ấy chính là mày, vua cha nói. Mày đã ra bản án xử tội mày, mày sẽ bị xử tội như mày nói.

Sau khi hình phạt được thi hành, hoàng tử cưới nàng công chúa làm vợ và họ trị vì đất nước trong hòa bình và hạnh phúc.

28. Cây thông

Một cây thông non xinh tươi mọc trong rừng. Thông mọc chỗ có nắng và quang đãng. Khắp chung quanh có nhiều cây thông khác lớn hơn. Thông non ta cũng muốn lớn bằng những cây ấy.

Thông non rất ghét các trẻ con trong làng vừa bi ba bi bô vừa đi qua đi lại để hái quả dâu, rồi lúc trở về, tay xách giỏ dâu, ngồi gần gốc thông mà khen : “Ồ ! Cây thông non xinh quá”.

Nó không thích người ta gọi nó là “thông non”. Năm sau nó lớn thêm một đốt, mọc thêm được một cành, năm sau lại thêm một lớp cành nữa; các bạn hẳn cũng đã biết là như thế chỉ cần đếm các lớp cành là cũng đủ nhận ra tuổi một cây thông.

Cây thông non thở dài:

– Ôi ! Giá ta cũng to lớn bằng những cây khác nhỉ ! Lúc ấy ta sẽ vươn nổi các nhánh rất xa ra xung quanh và từ trên ngọn ta có thể ngắm nhìn khắp đồng quê. Chim chóc sẽ đến làm tổ trên các cành của ta và khi gió thổi ta cũng sẽ nghiêng mình một cách đường bệ như các cây khác.

Bởi vậy thông non của chúng ta không thích bất cứ một thứ gì, từ nắng ấm cho đến chim chóc, thậm chí cái đám mây hồng sáng chiều bay qua trên ngọn thông.

Đông đến, bốn bề toàn là tuyết trắng phau lấp lánh. Một con thỏ rừng chạy ngang qua, nhảy vọt qua ngọn thông non: thông ta lấy làm nhục lắm.

Nhưng qua hai mùa đông nữa thông non của chúng ta lớn đến mức lũ thỏ đành phải chạy vòng quanh.

Nó lớn lên, lớn mãi, trở nên cao và già. Trên đời này, còn gì đẹp cho bằng, thông non vẫn đinh ninh như thế.

Hàng năm cứ đến mùa thu các bác tiều phu lại vào đốn ít cây to nhất.

Cây thông non bây giờ đã khá to; nó suy nghĩ về số phận những cây to và đẹp đang đổ xuống đất rầm rầm. Người ta chặt cành và bóc vỏ đi, cây thành ra dài và thon, không nhận ra được nữa. Sau đó, người ta đặt cây lên xe ngựa, chở ra khỏi rừng.

Cây đi đâu thế nhỉ ? Số phận cây rồi sẽ ra sao đây? Đến mùa xuân, khi cò và chim nhạn bay trở về, thông non trước kia của ta hỏi :

– Các bạn có biết người ta mang những cây to đi đâu không? Các bạn có gặp các cậu ấy không ?

Chim nhạn chẳng hề biết, nhưng một con cò có vẻ đứng đắn, gật gù đáp:

– Có lẽ tôi biết đấy! Tôi đã gặp rất nhiều tàu bè mới tinh từ Ai Cập về. Cột buồm những tàu ấy rất lộng lẫy, và tôi ngửi thấy thơm thơm, hình như gỗ thông thì phải.

– Chao ôi! Ước gì tôi đủ sức lớn để cũng được bồng bềnh trên mặt biển. Biển ấy như thế nào nhỉ?

– Nói ra thì dài dòng lắm. Cò đáp rồi bay đi.

Những tia mặt trời bảo thông :

– Cậu hãy vui sướng với cái tuổi trẻ của cậu. Hãy tận hưởng chất nhựa tươi tắn và tuổi thanh xuân của cậu!

Gió hôn thông và sương trang điểm cho thông những hạt lóng lánh như ngọc, nhưng thông chẳng xúc động mảy may trước sự chăm sóc ấy.

Gần đến lễ Noel, người ta đến chặt nhiều cây con, bé và non hơn cây thông của chúng ta, lúc này chỉ muốn rời bỏ cánh rừng. Các cây non ấy cành lá lưa thưa nên người ta để nguyên lên xe ngựa chở ra khỏi rừng.

Thông ta tự hỏi:

– Chúng đi đâu thế nhỉ ? Chúng chẳng lớn gì hơn ta, có một cây còn bé hơn ta nữa kia. Sao người ta lại giữ cả cành và đem chúng đi đâu thế ?

Đàn chim sẻ chiêm chiếp:

– Chúng tớ biết ! Chúng tớ biết ! Chúng tớ đã nhìn qua cửa kính các nhà trong thành phố. Chúng tớ biết người ta đem cây non đi đâu. Người ta mang chúng đến những nơi hội hè, tưng bừng không thể tưởng tượng được. Nhìn qua cửa kính, chúng tớ thấy người ta trồng chúng vào giữa một gian phòng ấm áp, trang điểm cho chúng bằng những vật đẹp nhất, nào táo, nào bánh ngọt, các thứ đồ chơi và hàng mấy trăm ngọn nến.

– Sao nữa ? – Thông vừa hỏi vừa rung lên, rung cả cành lẫn lá. Sao nữa? Sau rồi thế nào?

– À, chúng tớ chỉ biết có đến thế thôi! Thật là huy hoàng!

Thông lẩm bẩm:

– Số mình không được hưởng cái tương lai sáng lạn ấy hay sao? Còn thích hơn là đi biển nhiều. Ôi ! Giá bây giờ lại là lễ Noel nhỉ? Nay mình đã lớn chẳng kém gì những cây được người ta đem đi năm ngoái. Ôi! Giá mình được lên xe, được trồng trong căn phòng ấm áp, giữa những vật huy hoàng ấy! Nhưng sau đó sẽ ra sao? Hẳn là sẽ có gì nữa, nếu không thì người ta trang điểm cho cây như thế để làm gì? Phải, nhất định sẽ có cái gì tuyệt hơn. Không gì khổ bằng chờ với đợi! Nóng ruột quá đi mất.

Gió hiu hiu và ánh nắng bảo thông: “Hãy vui thú với chúng ta. Hãy bằng lòng với tuổi thanh xuân mơn mởn, với bầu trời khoáng đãng!”

Thông chẳng vui lòng chút nào. Nó lớn lên, lớn lên mãi, mùa hè cho chí mùa đông, cành lá lúc nào cũng đẹp một màu xanh thẫm, ai trông cũng khen: “Cây thông đẹp quá!” và trước lễ Noel mấy ngày người ta chặt nó trước tiên. Lưỡi rìu chặt đứt cây đến tận lõi, cây thốt ra một tiếng thở dài rồi đổ xuống. Nó đau đớn đến nỗi không còn mơ tưởng đến một chút hạnh phúc nào nữa. Nó nhớ tiếc chỗ nó mọc, nơi nó đã lớn lên. Nó biết rằng từ nay trở đi chẳng bao giờ nó còn được gặp lại các bạn cũ thân mến của nó, các bụi cây, bụi hoa mọc xung quanh nó, và biết đâu đấy? Có thể là ngay đến một con chím nó cũng không được gặp lại. Đúng, nó ra đi mà lòng không vui.

Cây thông của chúng ta bừng tỉnh trong sân nhà, nơi nguời ta, lôi nó ra khỏi xe cùng với các bạn khác của nó.

Nó nghe thấy một người lên tiếng: “Cây này đẹp đấy! Tớ đang cần một cây như thế này!”

Rồi có hai người hầu mặc đồng phục đến khiêng nó vào một gian phòng rộng rãi đẹp đẽ. Khắp xung quanh có những bức chân dung trên tường và trên chiếc lò sưởi lớn bằng sứ có hai lọ độc bình Trung Quốc chạm trổ đầy những rồng và hoa thếp vàng.

Lại còn có những cái ghế bành tuyệt đẹp, những ghế trường kỷ bọc lụa, những chiếc bàn lớn chứa đầy sách và đồ chơi quý giá, đáng hàng mấy trăm mấy nghìn đồng tiền vàng.

Cấy thông được đặt vào một cái thùng đầy cát, nhưng người ta không thể nào biết rằng đấy là một cái thùng gỗ vì xung quanh có rèm xanh phủ kín. Thông ta không nén nổi cảm động. Rồi sao nữa đây? Các cô gái và bạn đầy tớ bắt tay vào trang điểm cho thông. Họ treo những cái bao dài nhỏ bằng giấy màu xanh đựng đầy kẹo lên cành thông.

Những quả hạt dẻ và táo vàng trĩu xuống như mọc từ cành thông ra. Rồi sau họ cắm những cây nến trắng xanh đỏ, đặt những con búp bê nom như người thật lên các cành; tất cả những thứ đó thông ta chưa được nhìn thấy bao giờ. Chót vót trên ngọn thông họ cắm một ngôi sao lớn bằng giấy tráng kim tuyệt đẹp. Xung quanh thông mọi người đều reo lên:

– Đến tối tất cả sẽ sáng rực lên phải biết!

Thông ta tự nhủ:

– Ồ! Sao cho chóng đến tối nhỉ? Đèn nến thắp lên thì phải biết! Rồi còn gì nữa nhỉ? Giá các cây trong rừng đến được đây mà ngắm ta! Có lẽ lũ chim cũng sẽ đến ngắm ta qua cửa kính đấy. Liệu đông qua, hạ tới, ta có được trồng ở đây mãi với tất cả trang sức này không?

Thế là nó đã đoán ra được việc sẽ xảy ra sau này, nhưng vì quá sốt ruột, nó cảm thấy các lá đều nhức nhối, đối với một cây thông nhức lá cũng khó chịu như chúng ta nhức đầu.

Sau cùng, người ta thắp nến lên. Sáng quá, huy hoàng quá! Sung sướng, thông ta rùng mình đến tận các cành nhỏ, đến nỗi một ngọn nến bắt lửa vào một cành cháy khét lèn lẹt.

– Trời ! – các cô gái kêu lên và lao vào dập lửa.

Thông ta không dám rùng mình nữa, chỉ sợ hỏng mất đồ trang sức. Nó long lanh sáng rực lên.

Cửa ra vào bỗng mở toang ra và một lũ trẻ con ùa vào dường như muốn xô đổ cây thông. Người lớn điềm tĩnh theo sau. Lũ trẻ con dừng lại, lặng đi ngắm nghía cây thông, nhưng sau một lát chúng lại vui cười ầm ĩ và bắt đầu nhảy vòng tròn xung quanh gốc cây. Những đồ chơi dần dần bị lấy tuốt cả. Thông ta tự hỏi : “Chúng làm gì thế này? Sắp có chuyện gì chả biết được?”

Nến đã tàn và khi cháy gần hết người ta bèn tắt đi. Lúc ấy trẻ con được phép phá cây Noel, chúng ùa vào làm các cành thông gãy răng rắc. Nếu không được chôn chặt ắt là thông ta đã đổ nhào.

Sau đó lũ trẻ con nhảy múa với những đồ chơi xinh đẹp của chúng, chẳng đoái hoài gì đến thông nữa. Chỉ có mỗi bà vú già đến nhìn ngó các cành, nhưng chỉ để tìm xem có cái kẹo hoặc quả táo nào còn sót lại chăng.

– Kể cho chúng cháu nghe một chuyện! Kể cho chúng cháu nghe một chuyện! – Bọn trẻ con vừa reo vừa kéo một người thấp béo đến ngồi dưới gốc thông. Người ấy nói:

– Thế là chúng mình ngồi giữa cành lá xanh tươi và chắc thông cũng thích. Nhưng chỉ kể một chuyện thôi nhé! Các cháu có thích nghe chuyện Ivet Aval hay chuyện Klumpê Đumpê ngã thang gác nhưng vẫn trèo được lên ngôi vua và được lấy công chúa không?

Đứa thì kêu:

– Ivet Avet.

Đứa thì kêu :

– Klumpê Đumpê.

Chúng làm ồn lên. Riêng cây thông vẫn đứng im và tự hỏi:

– Họ không đếm xỉa gì đến mình nữa à? Không cần đến mình nữa chắc?

Ông già kể chuyện Klumpê Đumpê, bọn trẻ con vừa vỗ tay vừa la: “Nữa ! Nữa !” Chúng còn muốn nghe cả chuyện Ivet Avet, nhưng chỉ được nghe có mỗi một chuyện Klumpê Đumpê. Thông ta trầm lặng suy nghĩ, chim chóc trong rừng chưa bao giờ kể cho nó nghe một chuyện nào giống như chuyện Klumpê Đumpê bị ngã thang gác, nhưng vẫn lấy được công chúa, Thông nghĩ thầm:

– Ừ phải! Ở đời này cũng có thế thật. Chuyện ông cụ kể chắc là không ngoa, có vẻ thật lắm. Biết đâu đấy? Có thể mình cũng sẽ rơi xuống cầu thang, để rồi sẽ lấy được một nàng công chúa.

Nó khấp khởi mừng thầm và tưởng tượng đến ngày hôm sau trên người nó sẽ lại mắc đầy nến, đồ chơi, giấy tráng kim và hoa quả.

Nó tự nhủ:

– Đến mai mình sẽ không run nữa. Mình sẽ tràn trề hạnh phúc. Đến mai mình sẽ lại được nghe chuyện Klumpê Đumpê và có lẽ cả chuyện Ivet Avet nữa.

Đêm hôm ấy, nó lặng lẽ mơ màng.

Sáng ra, bọn hầu gái bước vào, thông ta hí hửng:

– A! Lại bắt đầu mở hội đây.

Nhưng không! Người ta khiêng nó ra khỏi phòng để đưa lên một cái kho trên gác, quẳng vào một xó tối như bưng.

Thông nghĩ thầm:

– Thế này là thế nào? Đến chốn này thân mình sẽ ra sao nhỉ? Lần này mình sẽ được nghe kể chuyện gì nhỉ?

Rồi nó dựa vào vách mà mơ màng.

Ngày tháng trôi qua, chẳng có ma nào trèo lên nhà kho và nếu có người lên đến nơi cũng chỉ là để đem vứt vào đấy những chiếc hòm lớn. Thông ta đành phải tin là mình đã bị quên hoàn toàn.

Nó tự nhủ:

– Ngoài kia, đông đã đến nơi rồi. Đất đã cứng ra và phủ đầy tuyết. Giờ thì người ta không đem trồng mình được nữa rồi. Tất nhiên là mình phải ở đây đến tận mùa xuân. Tất cả đều tuyệt mỹ và loài người cũng tốt thôi. Giá cái kho gớm ghiếc này đỡ tối một chút thì hay quá! Chẳng có lấy một chú thỏ nào! Trong rừng khi tuyết rơi và đàn thỏ chạy ngang qua thật là vui… thế mà hồi đó mình lại đâm cáu khi chúng nhảy qua ngọn mình. Chốn này quả là hoang vu đáng sợ.

– Chít ! Chít – Một con chuột nhắt vừa kêu vừa nhảy nhót đến gần thông, rồi một con nữa theo sau, cả hai đều đánh hơi rồi trèo lên cành thông. Chúng xuýt xoa:

– Rét đâu mà khiếp thế. Nếu không rét thì ở đây cũng sướng đấy chứ, phải chăng bác thông già?

Thông đáp:

– Ta đâu đến nỗi già, còn có khối kẻ già hơn ta.

– Thế bác ở đâu đến đây? Bác biết gì nào? Hãy tả những danh lam thắng cảnh trên trái đất cho chúng tôi nghe. Bác đã đi đến những nơi đó chưa? Bác đã được đến cái chạn đựng đầy phó mát trên các ngăn, có đùi lợn sấy lủng lẳng treo trên nóc, nơi có thể khiêu vũ trên những cây nến làm bằng mỡ, nơi mà khi vào thì gầy, khi ra thì béo nung núc không?

– Không, ta không biết nơi ấy. Nhưng ta biết cánh rừng có mặt trời lấp lánh và chim muông ca hát.

Thông kể cho chuột nhắt nghe cuộc đời niên thiếu của mình. Chưa bao giờ chúng từng được nghe một chuyện như vậy, chúng dỏng cả tai lên, miệng nói:

– Bác biết đến là nhiều chuyện. Sao bác sướng thế?

– Ta mà sướng ư? Nói rồi thông ngẫm nghĩ về câu chuyện mình vừa kể. Phải, suy cho cùng, hồi ấy quả có sướng thật.

Rồi thông kể đến chuyện đêm Noel, thân nó đầy những bánh ngọt và nến.

Chuột nhắt trầm trồ:

– Trời, bác thông già, sao bác sướng thế?

Thông nói:

– Ta đã già đâu kia chứ! Người ta mới đem ta ở rừng về từ mùa đông thôi mà. Ta vừa mới lớn lên mà họ đã tống ta vào một cái thùng. Rõ thật là khó chịu.

Chuột nói:

– Bác kể chuyện hay quá đi mất!

Đêm sau, hai con chuột nhắt rủ thêm bốn con nữa đến để nghe thông kể chuyện. Thông nói:

– Phải, hồi ấy quả có sướng thật, nhưng rồi lại cũng sẽ có những ngày như vậy. Klumpê Đumpê ngã thang gác mà còn lấy được một nàng công chúa. Rất có thể ta cũng sẽ vớ được một nàng công chúa.

Nói rồi thông tưởng nhớ đến một cây phong xinh xắn trong rừng mà nó tưởng tượng là một nàng công chúa thật.

Lũ chuột nhắt hỏi:

– Klumpê Đumpê là gì thế?

Thông ta kể lại câu chuyện không sót một chữ. Lũ chuột nhắt thích quá, tưởng như muốn nhảy lên đến ngọn thông.

Đêm sau, chuột nhắt kéo đến đông hơn và đến chủ nhật lại có thêm cả hai gã chuột chù, nhưng hai gã tuyên bố rằng câu chuyện chả có gì lý thú, làm cho lũ chuột nhắt buồn xỉu. Vì thế câu chuyện đối với chúng, từ đó trở đi, cũng kém phần lý thú.

Chuột chù hỏi:

– Bác chỉ biết có mỗi chuyện ấy thôi à?

– Ừ, chỉ có thế thôi – thông trả lời – đó là chính câu chuyện ta được nghe kể trong buổi tối sung sướng nhất của đời ta, nhưng lúc đó, ta không biết là sung sướng đến mức nào.

– Chuyện của bác thật chán ngấy! Thế bác không biết ở đâu có mỡ miếng và nến làm bằng mỡ à? Bác không biết chuyện nào nói về cái chạn đựng thức ăn à?

– Không ! Thông nói.

– Thế thì xin chào bác ! Nói rồi chuột chù kéo nhau về.

Lũ chuột nhắt cũng rút lui nốt.

Thông ta lẩm bẩm:

– Dẫu sao nhìn lũ chuột nhắt ngồi quây tròn quanh mình nghe kể chuyện cũng thấy thú vị. Nhưng cảnh đó cũng chẳng còn. Chỉ khi nào người ta lôi mình ra khỏi nơi này thì hạnh phúc mới trở lại.

Bao giờ đến lúc ấy nhỉ?

Một buổi sáng đẹp trời, người ta đến dọn dẹp kho thóc, khuân hòm đi và kéo cây thông ra khỏi xó nhà. Nó bị quăng xuống đất hơi mạnh, nhưng liền đó có một người vác nó đem qua một cầu thang sáng sủa.

– Đời lại vun vút lên rồi ! Thông nghĩ thầm khi được mang ra sân và cảm thấy có gió mát và ánh nắng đầu xuân.

Thông mải nhìn các vật quanh mình đến nỗi quên cả bản thân mình. Liền với cái sân có mảnh vườn đầy hoa nở. Hoa hồng tươi thơm ngát rủ trên bờ rào, bồ đề đang ra hoa và chim nhạn vừa bay vừa hót : kia – rơ – vi – rơ – vít.

– Giờ đây ta lại sắp được sống! – Thông thì thầm và vươn cành ra. Than ôi ! Cành đã khô vàng. Người ta quẳng thông vào một xó giữa đám cây tầm ma và cây gai. Ngôi sao bằng giấy vẫn còn đính trên ngọn và lấp lánh ánh nắng.

Trong sân có vài đứa trẻ con hôm lễ Noel đã nhảy múa quanh cây thông và thấy thông hôm ấy rất đẹp. Đứa bé nhất chạy lại cầm lấy ngôi sao vàng óng, reo lên:

– Ồ, xem này ! Ngôi sao hãy còn đính trên cây thông Noel già xấu xí này!

Nói rồi, nó dận giày lên cành thông gãy răng rắc.

Thông ta nhìn những đóa hoa đẹp và khu vườn xanh tươi mát mẻ rồi lại nhìn cái thân mình. Nó muốn quay trở lại xó tối trong kho thóc. Nó nghĩ đến thời thanh xuân của nó trong rừng, nghĩ đến cái đêm Noel vui sướng và nghĩ đến những con chuột nhắt thích nghe kể chuyện Klumpê Đumpê.

– Thế là hết ! Ai bảo lúc sướng lại chả biết đường mà sướng?

Một anh đầy tớ đến chặt cây ra từng mảnh, được một bó củi to đem đun bếp. Người ta nghe thấy những tiếng thở dài và những tiếng kêu thất thanh. Bọn trẻ con chạy lại đứng trước ngọn lửa mà reo: “Phì ! phì !” nhưng những tiếng phì phì của cây thông là những tiếng thở dài thực sự. Nó nghĩ đến những ngày hè trong rừng, những đêm đông ngoài bầu trời khoáng đãng, những sao lấp lánh trên trời. Nó nghĩ đến đêm Noel và đến Klumpê Đumpê, câu chuyện độc nhất đã học được và kể lại được.

Thế rồi, chẳng còn sót lại một tí gì của cây thông non nữa.

Lũ trẻ con lại chạy ra sân, đứa bé nhất còn đeo trên ngực ngôi sao vàng mà thông đã được đeo trong cái tối sung sướng nhất của đời nó.

Cái tối hôm ấy không còn nữa và câu chuyện của chúng ta cũng hết như tất cả các câu chuyện trên đời này.

29. Những bông hoa của cô bé Ida

Cô bé Ida lẩm bẩm :

– Những bông hoa tội nghiệp của mình héo tiệt cả rồi. Mới tối qua còn đẹp là thế mà hôm nay đã tàn ! Tại sao thế, anh nhỉ ?

Em cất tiếng hỏi một anh sinh viên, một người bạn lớn tuổi của em, đang ngồi trên một chiếc trường kỷ nghe em nói. Anh sinh viên biết nhiều chuyện hay và đang cắt bìa cứng thành những hình ngộ nghĩnh : nào là quả tim, bên trên có các bà tí hon đang nhảy múa, nào là hoa, nào là lâu đài nguy nga có cửa sổ mở ra mở vào được.

– Tại sao hoa của em hôm nay có vẻ buồn rầu ủ rủ ư ? Là vì đêm qua chúng đi khiêu vũ chứ sao !

– Hoa thì nhảy làm sao được hở anh ?

– Có chứ ! Đến lúc tối mịt, khi chúng ta đi ngủ, chúng vui chơi, nối thành vòng tròn, nhảy múa với nhau. Hầu như đêm nào chúng cũng có dạ hội khiêu vũ, em ạ !

– Ở đấy họ có cho trẻ con vào không, anh ?

– Có. Cả hoa cúc và linh lan nữa

– Hoa nhảy ở chỗ nào cơ ?

– Em có đến trước của lâu đài nghỉ mát mùa hè của nhà vua, nơi có một khu vườn ta trồng vô vàn hoa, bao giờ chưa ? Chắc em đã trông thấy những con thiên nga bơi lại gần em khi em vứt bánh mì cho chúng đấy chứ ? Đấy, dạ hội khiêu vũ tổ chức ở chỗ ấy đấy !

– Hôm qua em có đi cùng với mẹ em vào khu vườn ấy, nhưng chả có cái cây nào còn lá, hoa cũng không. Chúng đi đâu hả anh ? Hồi hè, em thấy bao nhiêu là hoa cơ mà !

– Chúng ở trong lâu đài chứ ở đâu ! Em phải biết : hễ vua và triều đình trở về kinh đô thì các hoa liền vui vẻ chạy từ vườn vào lâu đài ngay. Chà ! Giá em được nhìn thấy chúng nhỉ ? Hai bông hồng đẹp nhất ngồi lên ngai và trở thành vua và hoàng hậu. Thược dược đứng sang một bên rồi vái lạy “chúng là thị thần”. Rồi tất cả các hoa đẹp nhất cùng kéo nhau đến và cuộc dạ hội khiêu vũ bắt đầu. Những bông hoa violet tím xanh tượng trưng cho những lính thủy trẻ tuổi. Chúng nhảy với những bông dạ hương lan và kỵ phù lam mà chúng gọi là tiểu thư ! Các bông uất kim hương và bách hợp đỏ to tướng là những bà già đứng coi sóc cho mọi người nhảy đứng đắn và mọi việc đâu vào đấy.

Bé Ida hỏi :

– Nhưng các hoa đến nhảy trong lâu đài của vua mà không ai nói gì hả anh ?

– Chẳng ai hề biết gì. Trong những đêm hè, có người quản lý già vẫn đến lâu đài tuần tra đấy. Ông ta đeo một chùm chìa khoá lớn, nhưng các bông hoa vừa nghe thấy tiếng chìa khóa va nhau loẻng xoẻng, chúng liền im lặng trốn sau bức rèm và chỉ thò đầu ra thôi. “Hình như có mùi hoa thơm đâu đây thì phải ?”, cụ quản lý già nói thế, nhưng không thể trông thấy hoa.

– Vui quá ! Ida vừa nói vừa vỗ tay. Nhưng còn em, em có nhìn thấy hoa được không ?

– Có chứ. Chỉ cần nhìn qua cửa kính là sẽ thấy hoa. Hôm nay anh cũng đã làm như vậy. Anh đã trông thấy một bông hoa thủy tiên vàng đứng vươn vai trên một cái ghế bành. Đó là một cung nữ.

– Thế các hoa có ra ngoài vườn bách thảo được không ? Chúng có đi nổi quãng đường dài như vậy được không anh ?

– Nhất định là được chứ. Hoa muốn bay cũng được nữa là. Em không nhìn thấy các chim mùa hè, lông đỏ, lông vàng và lông trắng ư? Chúng giống như hoa, vì truớc kia chúng là hoa đấy. Chỉ khác ở chỗ chúng là những bông hoa đã bay rời khỏi cọng, cánh hoa vẫy vùng như thể cánh chim. Nếu chúng ngoan ngoãn, chúng sẽ được phép bay cả lúc ban ngày và không phải quay trở lại sống lặng lẽ trên các cọng nữa; cuối cùng, các cánh hoa cứ thế trở thành những cánh chim thật. Chắc em cũng đã nhìn thấy rồi chứ ? Vả lại, rất có thể là những bông hoa trong vườn bách thảo chưa bao giờ vào lâu đài của nhà vua và không biết trong ấy người ta chơi vui đến thế lúc đêm khuya.

Bây giờ anh bảo em cái này: có cách trêu một vố cho ông giáo sư thực vật học, nhà ở gần đấy (em biết ông ấy chứ ?) Khi vào đến vườn, em sẽ mách cho một bông hoa biết là có đại hội khiêu vũ trong lâu đài. Nó sẽ kể lại với các hoa khác và tất cả sẽ đi dự. Lúc ấy, nếu giáo sư vào vườn bách thảo thì sẽ không thấy một bông hoa nào nữa và cũng không thể biết chúng đã đi đâu.

– Nhưng hoa chuyện trò với nhau làm sao được ? Chúng biết nói hả anh ?

Anh sinh viên nói :

– Không, chúng không biết nói hẳn hoi đâu, nhưng chúng ra hiệu cho nhau. Em không bao giờ thấy khi có gió, các hoa vẫn cúi chào và nghiêng nghiêng những đài hoa màu xanh của chúng hay sao ? Đối với chúng, đó là một thứ ngôn ngữ dễ hiểu chẳng kém gì ta nói với nhau.

Bé Ida hỏi :

– Thế chúng ra hiệu cho nhau như thế, ông giáo sư có hiểu được không ?

– Hiểu quá đi chứ. Có một buổi sáng ông ta xuống vườn và thấy một cây tầm ma lớn đang lấy lá ra hiệu bảo một bông hoa cẩm chướng bé, màu đỏ như thế này : “Cô xinh lắm, tôi yêu cô tha thiết”. Giáo sư tức giận bèn đánh vào cây tầm ma, tức là đánh vào ngón tay tầm ma, nhưng đâm ngay phải gai, phồng cả tay và từ dạo ấy trở đi ông ta không bao giờ dám đụng đến một cây tầm ma nào nữa.

– Buồn cười quá nhỉ ! – Cô bé Ida vừa nói vừa cười

– Ai lại đem những chuyện như thế nhồi vào óc trẻ con bao giờ !

Ông hội thẩm, tính hay gắt gỏng, vừa đến chơi, ngồi vào ghế trường kỷ mà nói vậy.

Ông ta không ưa anh sinh viên và mắng anh ta luôn về cái tội cắt những hình thù ngộ nghĩnh: khi thì cắt một người lủng lẳng trên giá treo cổ, tay cầm một quả tim, ý giả là một tên ăn trộm tim; khi thì cắt một mụ phù thủy già đang cưỡi một con ngựa bằng cán chổi và công kênh anh chồng trên mũi.

Ông hội thẩm không chịu được cái trò trẻ con ấy và đã thêm một lần nữa:

– Ai lại đem những câu chuyện như thế nhồi vào óc trẻ con bao giờ !

Nhưng cô bé Ida thấy chuyện anh sinh viên kể về hoa ấy rất thú vị. Lúc nào em cũng nghĩ đến chuyện ấy và tin là các bông hoa của em rũ đầu xuống như thế là dĩ nhiên, vì đã nhảy suốt đêm, do đó đâm ra ốm.

Em cầm hoa lên và đến thăm các đồ chơi khác đặt trên cái bàn xinh xắn. Ngăn kéo đầy những đồ chơi. Trong cái giường búp bê, con Xôphi của em đang ngủ.

Ida bảo:

– Xôphi dậy đi ! Đêm nay chịu khó ngủ trong ngăn kéo nhé ! Những bông hoa tội nghiệp này đang ốm. Có lẽ được nằm giường mày chúng sẽ đỡ chăng ?

Ida nhấc búp bê lên. Nó bĩu môi giận dỗi, chẳng nói, chẳng rằng. Nó cáu vì không được nằm giường, đắp chăn cho chúng rồi dỗ cho chúng nằm im để em còn đi pha nước chè cho chúng. Đến mai chúng sẽ khỏi và có thể dậy được. Rồi em kéo màn che chiếc giường nhỏ để nắng khỏi làm chói mắt chúng. Suốt cả buổi tối, Ida không thể không suy nghĩ đến câu chuyện anh sinh viên đã kể cho em nghe. Em phải ghé mắt qua rèm cửa sổ nhìn những bông hoa xinh đẹp của mẹ em để đấy rồi mới đi ngủ được.

Em bảo chúng :

– Mình biết lắm đêm nay các cậu sẽ đi dự hội khiêu vũ !

Các hoa làm như không hiểu gì và không động đậy một chiếc lá nào cả: nhưng Ida không lạ gì, vì em biết tỏng ra rồi. Lên giường nằm mà em vẫn mơ ước hồi lâu: giá được xem các bông hoa kiều diễm khiêu vũ trong lâu đài của nhà vua thì thích phải biết ! Em tự hỏi. “Các bông hoa của ta đã có đi dự hội thật không nhỉ ? ”

Nhưng rồi em cũng ngủ thiếp đi.

Nửa đêm em bỗng bừng tỉnh giấc. Em vừa mơ thấy anh sinh viên và các bông hoa. Ông hội thẩm đang quở trách anh sinh viên là đã nhồi cho cô bé những ý nghĩ dở hơi. Căn phòng của Ida im lặng như tờ. Ngọn đèn đêm leo lét trên bàn, bố và mẹ đang ngủ.

Em tự hỏi :

– Các bông hoa của ta có còn nằm trên giường của Xophi không nhỉ ? Phải xem xem mới được.

Em nhổm dậy và nhìn qua cửa buồng vẫn đang hé mở. Em lắng tai và hình như nghe tiếng đàn dương cầm vẳng ra từ phòng bên, tiếng đàn rất hay, em chưa thừng nghe thấy tiếng đàn nào hay bằng.

– Chắc hẳn các hoa đang khiêu vũ ! Trời ! Phải đi xem mới được !

Em không dám động đậy, sợ làm mất giấc ngủ của bố mẹ.

– Chỉ ước gì các hoa đến đây !

Nhưng các hoa không muốn đến. Âm nhạc vẫn tiếp tục. Ida không cầm lòng nổi nữa. Em tuồn ra khỏi giường, nhẹ nhàng bước ra đến tận cửa và nhìn vào phòng bên cạnh. Ôi chao ! Em được xem thích quá !

Trong ấy không có đèn ngủ, nhưng ánh trăng chiếu qua cửa sổ sáng vằng vặc như ban ngày.

Dạ hương lan và uất kim hương xếp thành hai hàng trên sàn nhà; trên cửa sổ chỉ còn chậu hoa trống không. Các hoa đang nhảy vòng tròn giữa phòng, bông nọ nắm lắy những lá xanh dài của bông kia. Một bông bách hợp vàng đang chơi dương cầm. Chắc bé Ida đã trông thấy nó trong vụ hè vừa rồi, em còn nhớ rõ ràng câu anh sinh viên nói về nó :

– Kìa, nom cứ như cô Lin ấy !

Lúc ấy mọi người đều cười, nhưng giờ đây Ida cũng cảm thấy bông hoa to màu vàng ấy trông giống cô Lin thật.

Tư thế chơi đàn của hoa chẳng khác gì cô thiếu nữ ấy. Khuôn mặt trái xoan cũng nghiêng bên này nghiêng bên nọ và cái đầu cũng gật gật đánh nhịp.

Không ai trông thấy Ida. Một bông hoa kỵ phù lam dài từ mặt bàn để đồ chơi đi đến chỗ giường búp bê, vén tấm rèm che các bông hoa ốm lên.

Chúng liền đứng dậy ngay lập tức và ra hiệu muốn nhảy với các hoa khác. Chúng thích nhảy quá trông không còn vẻ gì là ốm yếu nữa.

Bỗng nhiên hình như có cái gì rơi từ trên bàn xuống. Đó là những “que lễ Mùa chay” vừa mới nhảy xuống đất. Chúng cũng tự coi là hoa như ai.

Trên mỗi đầu que có buộc một con búp bê nhỏ bằng sáp, đầu đội một chiếc mũ rộng bè ra, giống hệt như mũ ông hội thẩm. Các que nhảy giữa đám hoa bằng ba cái cẳng đỏ của chúng.

Chúng làm ồn cả lên, vì chúng nhảy điệu Maduyêcka. Các hoa khác không biết nhảy điệu ấy vì hoa nhẹ quá, không dậm nhịp chân được.

Con búp bê bằng sáp vươn mình lên, quay trên các bông hoa giấy cài ở thắt lưng. Nó kêu :

– Ai lại đem những cái dại dột như thế dạy trẻ con bao giờ ?

Lúc ấy nom nó giống hệt ông hội thẩm với chiếc mũ bè của ông, cũng đỏ mặt và tức giận như ông ta. Các bông hoa giấy đập vào chân nó. Nó bèn thôi nhảy và lại trở thành con búp bê như cũ.

Dáng điệu con búp bê lúc ấy ngộ nghĩnh đến nỗi bé Ida cứ cười rũ ra. Mỗi khi con búp bê nhảy ông hội thẩm cứ phải nhảy theo, muốn làm ra vẻ người lớn hay trẻ con cũng cứ phải nhảy.

Các hoa phải xin dùm cho ông, nhất là những bông hoa đã nằm trong giường búp bê. Các que cắm búp bê cũng ngả lòng.

Vừa lúc đó từ ngăn kéo đựng con búp bê Xôphi của Ida và các đồ chơi khác phát ra một tiếng động to. Con rối máy lưng gù bụng phệ cúi xuống cạnh bàn, bò sát đất đến mở ngăn kéo.

Xôphi chui đầu ra ngoài, nhìn quanh và nói :

– Ơ kìa ! Có khiêu vũ làm sao lại không ai bảo cho tôi biết trước thế ?

Chú rối máy lưng gù bụng phệ hỏi luôn :

– Cô có muốn nhảy với tôi không ?

– Thế à ! Nom bộ dạng anh thật đúng là vũ nữ đấy – Xôphi vừa trả lời vừa quay ngoắt đi.

Nó ngồi xuống, nghĩ bụng thế nào chả có một đóa hoa đến mời nhảy.

Chẳng hoa nào đến. Nó bèn đằng hắng : “Hừm ! Hừm ! Hừm !” . Công toi !

Chú rối máy lưng gù bụng phệ đã bắt đầu nhảy một mình, cũng không đến nỗi vụng lắm, thật đấy !

Vì thấy hình như chẳng ai để ý đến nó, Xôphi bèn gieo mình từ trên ngăn kéo xuống.

Thế là náo động cả lên !

Tất cả các hoa đều chạy đến hỏi Xôphi có đau không. Hoa nào cũng ân cần. Nhất là những hoa đã nằm nhờ giường nó.

Xôphi không việc gì. Những bông hoa của Ida cám ơn Xôphi, nâng nó dậy và khiêu vũ với nó. Những bông hoa khác nhảy thành một vòng chung quanh những hoa của Ida. Xôphi mê tít; nó bảo với các bạn mới của nó cứ giữ lấy giường nó mà nằm. Nó nằm trên ghế trường kỷ là dễ chịu lắm rồi.

Các hoa đáp :

– Cám ơn bạn lắm ! Nhưng chúng tôi không sống lâu được đâu. Đến mai chúng tôi sẽ chết. Nhưng nhớ nói với bé Ida chôn chúng tôi cùng một chỗ ngoài vườn với con bạch yến của cô ấy nhé. Đến hè sang năm chúng tôi sẽ mọc lại và sẽ còn đẹp hơn bây giờ kia !

– Không, các bạn sẽ không chết đâu, Xôphi vừa nói vừa ôm hôn chúng.

Vừa lúc đó, cửa phòng mở ra và cả một lũ hoa vừa nhảy vừa đi vào.

Ida không hiểu chúng nó từ đâu đến. Chắc hẳn là những bông hoa trong lâu đài của nhà vua. Hai bông hồng lộng lẫy đội mũ miện dẫn đầu. Đó là vua và hoàng hậu,.

Rồi đến những bông cẩm chướng xinh đẹp cúi chào bốn phía.

Nhưng bông hoa thu mẫu đơn to tướng thổi kèn bằng vỏ đậu Hòa Lan đến nỗi đỏ mặt tía tai. Hoa muống và hoa bìm bìm xanh biếc rung lên, kêu như chuông. Thật là một dàn nhạc kỳ diệu.

Sau đó rất nhiều hoa khác vừa nhảy với nhau vừa tiến vào, nào violet tím xanh, nào cúc trắng, nào linh lan màu mỡ gà.

Rồi tất cả các hoa thân ái ôm hôn nhau.

Cuối cùng, chúng chúc nhau ngủ ngon.

Cô bé Ida trở về đi ngủ và mơ thấy tất cả những hình ảnh vừa qua.

Sáng hôm sau, vừa mở mắt, em đã chạy ngay ra bàn xem các hoa có còn đấy hay không. Em vén rèm che chiếc giường nhỏ lên. Các hoa vẫn còn đấy, nhưng héo hơn tối hôm qua nhiều. Xôphi nằm trong ngăn kéo, hôm qua đặt đâu, hôm nay vẫn nằm đấy, nhưng mặt trĩu xuống vì buồn ngủ. Bé Ida hỏi nhỏ :

– Mày có nhớ mày phải nói với tao điều gì không ?

Nhưng Xôphi vẫn giữ vẻ mặt ngây dại và không đáp lại lời nào.

– Như thế là không ngoan rồi. Mày đã chả được nhảy với tất cả các hoa là gì ?

Ida lấy một cái hộp bên ngoài có vẽ nhiều chim đẹp. Em mở hộp, đặt các hoa vào và bảo :

– Mộ của các bạn sẽ đẹp lắm. Khi nào các anh họ của tôi ở Nauy về đến đây, chúng tôi sẽ đem chôn các bạn ngoài vườn để đến mùa hè các bạn lại mọc lên, đẹp hơn cả bây giờ.

Những anh họ ở Nauy về là hai cậu bé khỏe mạnh tên là Giônat và Ađônphơ. Cha các cậu mới cho các cậu hai khẩu súng bắn chim. Các cậu định đem khoe với Ida.

Cô bé kể chuyện những bông hoa bị chết cho các cậu nghe và các cậu nhận lời đi chôn chúng.

Hai cậu vác súng đi truớc. Sau đến cô bé Ida bưng chiếc hộp đựng hoa. Họ đào một cái huyệt trong vườn. Ida chôn các bông hoa, rồi đặt chúng cùng với cái hộp xuống mộ.

Súng hỏa mai và súng thần công chẳng có. Giônat và Ađônphơ bắn súng hơi tống táng.

30. Chuyện kể về người mẹ

Một bà mẹ đang ngồi bên đứa con thơ. Bà rất buồn vì đang lo đứa con bà chết mất. Đứa bé xanh rớt đã nhắm nghiền đôi mắt và đang thoi thóp. Đôi lúc đứa bé rền rĩ rất thiễu não, thế là người mẹ lại cúi sát xuống gần con, lòng se lại.

Có tiếng gõ cửa, một ông già nghèo khổ trùm kím trong tấm chăn thường khoác cho ngựa bước vào. Trời rét như cắt, kể ra không có áo nào ấm bằng thứ chăn ấy. Bên ngoài toàn là một màu băng tuyết. Gió vun vút như quất vào mặt.

Ông già rét run lập cập. Nhân lúc đứa bé ngủ thiếp đi, bà mẹ nhóm lò hâm một cốc bia. Ông già ngồi xuống ru đứa bé. Bà mẹ ngồi vào chiếc ghế gần ông già, nhìn đứa bé ôm yếu vẫn đang thoi thóp thở, và giơ một bàn tay lên. Bà hỏi :

– Liệu có việc gì không ? Thượng đế hẳn không bắt nó đi chứ ?

Ông già, chẳng phải ai, chính là Thần Chết, lắc đầu một cách khó hiểu. Bà mẹ gục đầu xuống ngực, nước mắt ròng ròng trên gò má. Đã ba ngày ba đêm nay, không hề được chợp mắt, bà thấy đầu nặng trĩu.

Bà ngủ thiếp đi, chỉ loáng một lát thôi, rồi chợt rùng mình vì rét, bà lại choàng dậy.

– Gì thế này ? – Bà kêu lên, mắt nhìn tứ phía. Ông già và cả con bà nữa đã biến mất. Lão đã đem con bà đi rồi. Chiếc đồng hồ quả lắc vẫn cót két trong xó nhà.

Cộc ! Một quả lắc bằng chì rơi xuống đất. Thế là chiếc đồng hồ ngưng bặt.

Bà mẹ tội nghiệp vùng chạy ra ngoài, miệng gọi con.

Bên ngoài, có một bà cụ mặc áo dài đen, đang ngồi giữa đám tuyết, bảo bà mẹ :

– Tôi thấy Thần Chết đã vào nhà chị. Lão ta mang con chị chạy đi rồi. Lão ta chạy nhanh hơn gió và chẳng bao giờ mang trả lại những con người lão đã cướp đi.

Bà mẹ khẩn cầu:

– Xin cụ chỉ bảo cho tôi con đường lão đi. Cứ chỉ đường cho tôi, tôi sẽ đuổi kịp.

Bà cụ đáp:

– Biết rồi! Nhưng trước khi ta chỉ đường, chị phải hát cho ta nghe tất cả các bài mà chị đã hát ru con chị. Từ trước đến nay, ta đã được nghe nhiều và ta rất thích nghe chị hát. Ta là thần Đêm Tối; ta đã từng trông thấy nước mắt chị tràn ra khi chị hát.

Bà mẹ van vỉ:

– Tôi xin hát hết, hát tất cả, sau đó xin cho tôi đuổi kịp thần Chết, đòi lại đứa con tôi.

Nhưng thần Đêm Tối cứ nín bặt. Thế là bà mẹ đành phải vặn vẹo đôi tay, nước mắt đầm đìa, cất tiếng hát. Tiếng nức nở át cả lời trong các bài hát.

Nghe hát xong thần Đêm Tối bảo:

– Rẽ sang phải rồi đi vào rừng tùng tối om kia. Ta đã thấy thần Chết mang con chị biến vào đấy.

Tới giữa rừng, gặp chỗ ngã ba đường, bà mẹ phân vân không biết rẽ đường nào. Nơi đó có một bụi gai không hoa không lá; đang giữa mùa đông nên băng bám và rủ xuống khắp các cành.

– Có thấy thần Chết mang con tôi qua đây không?

Bụi gai trả lời:

– Có. Nhưng nếu muốn tôi chỉ đường thì bà phải ủ tôi vào lòng để sưởi ấm cho tôi. Tôi buốt cóng và sắp biến thành băng rồi đây.

Bà mẹ ôm ghì bụi gai vào ngực để sưởi ấm cho nó. Gai đâm vào da thịt bà, máu nhỏ từng giọt đậm, nhưng bụi gai thì đâm chồi nẩy lộc, xanh tươi và trổ hoa ngay giữa đêm đông giá rét vì được bà mẹ truyền cho sức nóng của bà. Sau đó, bụi gai chỉ đường cho bà mẹ.

Bà đến một cái hồ lớn, không có lấy một bóng thuyền bè. Mặt băng trên hồ quá mỏng, không thể giẫm lên được, mà nước hồ lại quá sâu không thể lội qua. Nhưng thế nào thì thế, bà cũng phải vượt qua hồ tìm con. Bà bèn sụp xuống để uống cạn nước hồ. Tuy biết rằng đó là một việc mà con người ta không thể làm được, nhưng bà mẹ đau khổ mong mỏi Thượng đế sẽ ban phép lạ.

Hồ bảo bà:

– Không, không làm thế được đâu ! Ta thương lượng với nhau thì hơn. Tôi rất thích ngọc trai, mà đôi mắt bà là những hạt ngọc trai trong suốt, tôi chưa từng thấy bao giờ. Hãy khóc cho đến khi đôi mắt của bà rơi xuống; lúc ấy tôi sẽ đưa bà tới tận cái nhà kính ươm cây, nơi thần Chết ở và vun trồng các cây hoa. Mỗi cây là một kiếp người.

Bà mẹ nức nở:

– Trời ! Tôi còn tiếc gì để tìm thấy con tôi !

Bà khóc, nước mắt tuôn tầm tã đến nỗi đôi mắt bà theo dòng lệ rơi xuống đáy hồ và hóa thành hai hòn ngọc. Thế là bà được hồ nâng bổng lên như ngồi trên đu, và thoắt một cái, bà đã sang đến một ngôi nhà kỳ diệu dài chừng một dặm.

Không hiểu đấy là một quả núi có rừng thẳm và hang sâu hay là một công trình thiết kế nào của con người. Mắt bà mẹ đã rơi theo dòng lệ nên bà chẳng nom thấy gì. Bà hỏi:

– Tìm đâu cho thấy thần Chết đã cướp con tôi đi?

Một bà già canh giữ vườn kính ươm cây của thần Chết bảo bà:

– Thần Chết chưa về. Bà làm thế nào mà đến được tận chốn này? Ai đã giúp bà?

– Thượng đế chứ ai! – Bà mẹ đáp – Người đã thương xót tôi, vậy bà cũng rủ lòng thương bảo cho tôi biết con tôi đi đâu.

Bà già nói:

– Tôi không biết mặt nó, còn bà thì không trông thấy gì. Biết bao nhiêu cây, bao nhiêu hoa đã héo tàn trong đêm qua. Thần Chết lát nữa sẽ đến trồng lại. Chắc bà biết rằng mỗi người có một gốc cây hay một bông hoa tượng trưng cho sinh mệnh của mình. Ở đây, những cây hoa ấy chẳng có gì khác thường nhưng chúng có một trái tim và trái tim ấy đập hẳn hoi. Tim trẻ con cũng đập. Đấy, bà cứ tìm đi ! Có lẽ bà sẽ nhận ra nhịp tim của con bà đấy. Nhưng nếu bà muốn tôi hướng dẫn thêm cho bà thì bà tạ ơn tôi bằng cái gì nào?

Bà mẹ tội nghiệp than thở:

– Tôi chẳng còn cái gì để cho nữa, nhưng nếu cần, tôi có thể theo người đến tận cùng thế giới.

– Tôi đến đấy làm gì kia chứ? Bà còn có thể cho tôi mớ tóc dài đen nháy của bà. Bà thừa biết bộ tóc ấy đẹp lắm. Tôi rất thích bộ tóc ấy và sẽ cho bà bộ tóc bạc của tôi. Thế là đổi hòa đấy.

Bà mẹ nói:

– Nếu bà chỉ đòi hỏi có thế thôi thì tôi rất vui lòng.

Rồi bà trao mớ tóc đen cho bà cụ và nhận lấy mớ tóc bạc.

Hai người bước vào vườn kính rộng lớn của Thần Chết. Nơi đó có rất nhiều cây cỏ mọc lung tung. Có những cây dạ lan hương mảnh dẻ mọc trong lồng hình chuông bằng thủy tinh. Có những bông thược dược to và mập mạp. Có những cây mọc dưới nước, cây thì xanh tươi, cây thì khô cằn, hàng bầy rắn nước quấn mình quanh gốc. Đây là những cây cọ, cây tiêu huyền mộc; kia là đám mùi và xạ hương. Mỗi cây, mỗi hoa đều mang một tên người, mỗi cây, mỗi hoa tượng trưng cho một kiếp người hiện đang sống bên Việt Nam, ở Gơrôenlăng hoặc khắp nơi trên Trái Đất.

Lại có những cây lớn trồng trong chậu nhỏ đang đe dọa phá vỡ chậu. Ngược lại, có những cây con cằn cỗi lại được trồng trong khoảng đấy xới xắn mịn màng, phủ rêu xanh mượt. Người mẹ đau khổ cúi rạp xuống từng gốc cây, tìm đến tận từng gốc nhỏ nhất, lắng nghe nhịp đập từng trái tim của chúng. Và giữa muôn ngàn trái tim ấy bà đã nhận ra tiếng đập của trái tim đứa con mình.

– Con tôi đây rồi ! Bà reo lên, tay chìa trên một gốc kỵ phù nhỏ bé màu lam, dáng ốm yếu, thân nghẹo sang một bên.

Bà già ngăn lại:

– Chớ đụng vào hoa. Cứ đứng ở đây. Chắc chắn lát nữa Thần Chết sẽ về. Đừng cho Thần nhổ cây hoa này. Cứ dọa là bà sẽ nhổ hết cây cỏ ở quanh đây, Thần Chết sẽ sợ, vì Thần chịu trách nhiệm trước Thượng Đế về các cây cỏ ở đây; không có lệnh của Người thì không ai được nhổ một cây nào cả.

Ngay lúc đó, nổi lên một cơn gió lạnh buốt. Bà mẹ cảm thấy rằng thần Chết đã đến.

Thần hỏi:

– Sao ngươi lại có thể tìm được đuờng đến tận đây, mà lại đến trước cả ta ?

– Ta là mẹ!

Thần Chết vươn bàn tay dài ngoằng về phía cây hoa mảnh dẻ, nhưng bà mẹ vòng đôi bàn tay giữ lấy cây, hết sức che chở cho cây không bị nhàu nát một lá nào. Thần Chết hà hơi vào tay bà mẹ; bà cảm thấy lạnh buốt hơn gió bấc làm rụng rời cả đôi tay.

– Ngươi không chống lại được ta đâu – Thần Chết dọa.

Bà mẹ trả lời:

– Nhưng còn có Thượng Đế.

Thần Chết nói:

– Ta cũng chỉ tuân theo lệnh của Thượng Đế mà thôi. Ta trông nom khu vườn của Người. Ta mang cây cỏ hoa lá ở đây đi cũng chỉ để đem trồng lại vào khu vườn trên Thiên Đàng, còn mọi việc xảy ra trên ấy, hoa cỏ mọc thế nào, ta không được nói với ngươi.

Bà mẹ nức nở van xin:

– Giả con cho tôi.

Đồng thời mỗi tay bà túm lấy một bông hoa gần đấy rồi thét lên :

– Nếu tuyệt vọng tôi sẽ nhổ hết hoa ở đây.

Thần Chết bảo:

– Chớ có đụng vào. Ngươi nói rằng ngươi đau khổ mà ngươi lại muốn làm cho một người mẹ khác đau khổ hay sao?

Người mẹ khác? Bà mẹ đau thương buông hai bông hoa ra.

Thần Chết nói thêm:

– Đây là đôi mắt của ngươi. Thấy chúng lóng lánh sáng ngời dưới đáy hồ ta đã vớt lên. Ta biết đó là đôi mắt của ngươi. Hãy lấy lại đi. Đôi mắt ấy trong sáng hơn trước rất nhiều. Hãy nhìn vào lòng giếng gần đây, ta sẽ cho ngươi biết tên hai bông hoa ngươi vừa định ngắt. Ngươi sẽ thấy rõ cả cuộc đời quá khứ và tương lai của chúng, thấy rất rõ tất cả những gì mà ngươi sắp hủy hoại.

Bà mẹ nhìn xuống lòng giếng. Bà thấy từ một trong hai bông hoa ánh lên một niềm vui đầy hạnh phúc, còn cuộc đời của bông hoa kia chỉ toàn những cảnh trầm luân, khổ ải, nghèo khó, khốn cùng.

Thần Chết nói:

– Kiếp hoa này cũng như kiếp hoa kia, đều do ý của Thượng Đế cả.

Người mẹ nói:

– Thế hoa nào là hoa bất hạnh, hoa nào là hoa diễm phúc?

Thần Chết đáp:

– Ta không thể tiết lộ được thiên cơ. Nhưng ngươi cần biết rằng một trong hai bông hoa đó chính là bông hoa của con ngươi, là hình ảnh tương lai của nó.

Bà mẹ thét lên:

– Hoa nào trong hai bông là hoa của con tôi ? Hãy bảo cho tôi biết. Nếu đời nó sau này sẽ đau khổ thì xin hãy mang nó đi, mang ngay nó về chốn Thiên Đàng ! Xin hãy quên những dòng nước mắt của tôi, quên những lời tôi đã cầu nguyện, quên cả những lời tôi đã nói và những việc tôi đã làm!

Rồi bà vặn vẹo đôi bàn tay, quỳ xuống và cầu khẩn:

– Cúi xin Thượng Đế đừng nghe lời tôi nếu tôi có cầu khẩn những lời trái với ý Người. Xin người đừng nghe tôi.

Rồi bà gục đầu xuống ngực.

Thế là Thần Chết mang đứa bé tới cái xứ sở xa lạ mà bà mẹ đã nói đến ban nãy.

31. Con lợn ống tiền

Căn phòng của trẻ con đầy những đồ chơi là đồ chơi.

Trên mặt cái tủ nhiều ngăn kéo có một cái ống tiền bằng sành, hình con lợn. Dĩ nhiên là lợn ta có một cái khe sau lưng, và người ta đã lấy dao rạch rộng ra để có thể bỏ lọt cả đồng bạc vào được. Trong ống có hai đồng bạc, chưa kể đến vô khối tiền siling. Lợn ta chật ních những tiền đến nỗi lắc không kêu. Không thể nào bắt nó chứa thêm được nữa.

Bây giờ lợn ta được đặt trên nóc tủ. Nó đưa mắt nhìn khắp phòng để tỏ ra rằng với số tiền chứa trong bụng mình, nó có thể mua được tất cả các thứ đồ chơi trong buồng. Giàu đến như thế, làm gì chẳng kiêu ? Đây cũng đúng là dư luận của cả buồng, tuy rằng chẳng có ai nói ra, vì còn đang mải nói nhiều chuyện khác. Các ngăn kéo tủ để ngỏ. Trong đó có một con búp bê lớn hơi cũ, có một cái móc sắt sau gáy. Cô nàng nhìn quanh rồi lên tiếng : “Chúng ta chơi trò chơi người lớn nào ! Vui đáo để !”

Thế là ầm ĩ cả lên. Ngay cả các bức chân dung cũng quay mặt vào tường để tỏ ra mình cũng có hai mặt, nhưng không có ý phản đối đề nghị của búp bê.

Nửa đêm. Chị Hằng lấp lánh qua cửa kính và chiếu sáng không lấy tiền. Đã đến giờ khai mạc, tất cả đều được mời đến, kể cả chiếc xe nôi, tuy rằng nó thuộc loại đồ chơi hơi thô.

Xe nôi trần tình : “Người nào có cái hay của người ấy chứ! Có phải tất cả thiên hạ đều là con nhà quý phái cả đâu. Người ta chả thường nói người nào phận nấy, là gì?”

Chỉ có mỗi lợn ta nhận được một thiệp mời, vì người ta cho rằng nó vắt vẻo trên cao thế thì dù có kêu to lên mà mời nó cũng chẳng nghe thấy nào. Mặc dù thế, lợn cũng không trả lời có đến hay không, và, quả nhiên nó không đến. Nếu nó muốn, nó sẽ dự cuộc vui tại chỗ; thu xếp thế nào thì thu xếp ! Và mọi người đành phải chiều nó !

Lập tức người ta sửa soạn một cái sân khấu múa rối nhỏ vừa tầm để lợn có thể xem được. Đầu tiên là diễn kịch, sau đó là tiệc trà, rồi đến mấy trò chơi trong nhà. Cuộc vui bắt đầu.

Ngựa gỗ đọc một bài diễn thuyết ngắn về những vật bằng gỗ và tính chất quý phái của con nhà dòng dõi. Xê nôi nói về đường sắt và sức mạnh của hơi nước. Đấy là những vấn đề “tủ” của chúng nên chúng nói rất thạo. Đồng hồ quả lắc thuyết trình một vấn đề chính trị và lớn tiếng kết luận :

– Tích tắc ! Thời cơ đã đến !

Công chúng xì xào :

– Có lẽ chị ta không được khỏe lắm thì phải !

Một chiếc gậy bằng song Tây Ban Nha khoe khoang một cách kiêu hãnh cái đầu bịt sắt và cái tay cầm bằng bạc của nó. Hai chiếc đệm thêu đặt trên ghế trường kỷ chẳng nói gì, chúng có vẻ dễ thương nhưng đần độn.

Đến mục hài kịch.

Mọi người ngồi xuống xem. Có ý kiến phát biểu là nên vỗ tay và dậm chân để tán thưởng.

Cái roi da lên tiếng :

– Tôi thì chẳng bao giờ vỗ tay hoan nghênh những người già mà chỉ hoan nghênh những người chưa “hứa hôn”.

Một tay hay đùa nói :

– Tôi thì cứ vỗ tay tuốt tuột.

Ống nhổ chen vào :

– Thôi, giờ nào việc nấy !

Mọi người đều tán thành; ai cũng muốn xem hài kịch. Kịch bản không hay lắm, nhưng diễn xuất khá. Diễn viên nào cũng cố ý phô phía nào có nước sơn đẹp nhất ra, ai cũng diễn tài cả. Những dây buộc quanh con rối hơi thô một tí, nhưng như thế người ta càng thấy rõ hơn. Con búp bê cảm động đến nỗi rơi béng cả cái móc sắt cắm sau đầu, còn lợn ta thì cũng hài lòng đến nỗi định tặng cho diễn viên một cái gì đấy. Theo thói quen của nó, “nó sẽ ghi tên diễn viên ấy trên tờ di chúc và người ấy sẽ nằm trong mồ với nó lúc nó chết”.

Thật gần như không thể nào hiểu nổi. Thoạt đầu chẳng ai suy nghĩ để hiểu thấu cả.

Tiệc trà xong, chuyển sang các trò chơi có vẻ trí thức, tức là chơi trò chơi giả làm người. Chỉ là trò chơi mà thôi, không có ác ý gì cả.

Sau đó, mỗi người lặng yên suy nghĩ một mình về những câu hỏi của lợn, suy nghĩ một cách nặng nhọc, vì có liên quan đến một tờ di chúc và một đám tang.

Bao giờ thì chuyện ấy sẽ xảy ra ?

Nó xảy ra sớm hơn chúng ta tưởng.

Cạnh ! Con lợn rơi từ trên mặt tủ xuống, vỡ tan từng mảnh trên sàn và các đồng siling nhảy múa vung lên: đồng bé quay, đồng lớn lăn, nhất là đồng bạc trước nay vẫn muốn thoát khỏi nơi giam hãm. Lợn chết, cả tiền lẫn bạc đều được giải phóng. Nhưng lại có một con lợn khác thay thế ngay trên mặt tủ, con này cũng bằng sành, lúc này đây chưa có một siling trong bụng và người ta không cần phải lắc nó làm gì.

Tất nhiên là ban đầu đối với lợn ống tiền bao giờ cũng thế. Với chúng ta, thế là hết chuyện.