Mẹ Hansen hỏi:
– Đi đâu đấy Hansen?
Hansen đáp:
– Con đến Gretel.
– Ờ thế con đi cho được việc, Hansen.
– Thế nào cũng được việc mẹ ạ, con xin phép mẹ con đi nhé.
– Ờ đi đi con Hansen.
Tới nơi Hansen nói:
– Xin chào Gretel.
– Xin chào anh Hansen thân mến.
Gretel tặng Hansen chiếc kim khâu. Hansen nói:
– Xin tạm biệt người đẹp Gretel.
– Xin tạm biệt anh Hansen thân mến.
Hansen cầm chiếc kim găm vào xe chở rơm, rồi đi theo xe chở rơm về nhà.
– Con xin chào mẹ của con.
– Con đã về đấy à, Hansen. Con ở đâu về đó?
– Con ở chỗ Gretel.
– Con mang cho nó cái gì đấy?
– Con chẳng mang cho cái gì cả, con lại còn được tặng quà nữa.
Thế Gretel tặng con cái gì?
– Tặng con chiếc kim khâu.
– Con để chiếc kim ở đâu, Hansen?
– Con găm ở xe chở rơm.
– Sao con ngu vậy, cài kim vào ống tay áo chứ.
– Chẳng sao mẹ ạ, rút kinh nghiệm lần sau làm tốt hơn.
– Thế giờ con lại đi đâu?
– Thưa mẹ, con đến Gretel.
– Ờ thế con đi cho được việc, Hansen.
– Thế nào cũng được việc mẹ ạ, con xin phép mẹ con đi.
– Ờ đi đi con, Hansen.
Tới nơi Hansen nói:
– Xin chào Gretel.
– Xin chào anh Hansen, có gì không anh?
– Chẳng có gì cả, có gì tặng anh không?
Gretel tặng Hansen một con dao.
– Xin tạm biệt người đẹp Gretel.
– Xin tạm biệt anh Hanxơ thân mến.
Hanxơ cầm dao cài vào nếp xắn tay áo và đi về nhà.
– Con xin chào mẹ con đã về.
– Con đã về đấy à, Hansen. Con ở đâu về đó?
– Con ở chỗ Gretel.
– Con mang cho nó cái gì đấy?
– Con chẳng mang cho cái gì cả, con lại còn được tặng quà nữa.
– Thế Gretel tặng con cái gì?
– Tặng con một con dao.
– Con để con dao ở đâu, Hansen?
– Cài ở nếp gấp xắn tay áo.
– Sao con ngu vậy, sao không bỏ dao vào trong túi.
– Chẳng sao mẹ ạ, rút kinh nghiệm lần sau làm tốt hơn.
– Thế giờ con lại đi đâu?
– Thưa mẹ, con đến Gretel.
– Ờ thế con đi cho được việc, Hansen.
– Thế nào cũng được việc mẹ ạ, con xin phép mẹ con đi nhé.
– Ờ đi đi con Hansen.
Tới nơi Hansen nói:
– Xin chào Gretel.
– Xin chào anh Hansen, có gì không anh?
– Chẳng có gì cả, có gì tặng anh không.
Gretel tặng Hansen một con dê con.
– Xin tạm biệt người đẹp Gretel.
– Xin tạm biệt anh Hansen thân mến.
Hansen lấy dây buộc bốn chân dê con, cho nó vào trong túi rồi thít nút lại. Về tới nhà thì dê con đã chết ngạt.
– Xin chào mẹ con đã về.
– Con đã về đấy à, Hansen. Con ở đâu về đó?
– Con ở chỗ Gretel.
– Con mang cho nó cái gì đấy?
– Con chẳng mang cho cái gì cả, con lại còn được tặng quà nữa.
– Thế Gretel tặng con cái gì?
– Tặng con một con dê.
– Thế dê đâu rồi, Hansen?
– Con cho vào trong túi mang về.
– Sao con ngu vậy, lần sau lấy thừng buộc dắt dê về nhé.
– Chẳng sao mẹ ạ, rút kinh nghiệm lần sau làm tốt hơn.
– Thế giờ con lại đi đâu, Hansen?
– Thưa mẹ, con đến Gretel.
– Ờ thế con đi cho được việc, Hansen.
– Thế nào cũng được việc mẹ ạ, con xin phép mẹ con đi.
– Ờ đi đi con Hansen.
Tới nơi Hansen nói:
– Xin chào Gretel.
– Xin chào anh Hansen, có gì không anh?
– Chẳng có gì cả, có gì tặng anh không.
Gréthên tặng Hansen một tảng mỡ lợn.
– Xin tạm biệt người đẹp Gretel.
– Xin tạm biệt anh Hansen thân mến.
Hansen lấy dây buộc tảng mỡ và kéo lê sau người. Lũ chó trong làng trông thấy, chúng chạy theo và cắn tha mất tảng mỡ lợn. Về tới nhà Hansen vẫn tay giữ dây, nhưng chỉ là dây không.
– Xin chào mẹ con đã về.
– Con đã về đấy à, Hansen. Con ở đâu về đó?
– Con ở chỗ Gretel.
– Con mang cho nó cái gì đấy?
– Con chẳng mang cho cái gì cả, con lại còn được tặng quà nữa.
– Thế Gretel tặng con cái gì?
– Tặng con một miếng mỡ lợn.
– Thế miếng mỡ lợn đâu rồi, Hansen?
– Con buộc nó vào dây, rồi kéo lê nó về nhưng chó đớp mất.
– Sao con ngốc thế, Hansen, sao không đội lên đầu.
– Chẳng sao mẹ ạ, rút kinh nghiệm lần sau làm tốt hơn.
– Thế giờ con lại đi đâu, Hansen?
– Thưa mẹ, con đến Gretel.
– Ờ thế con đi cho được việ, Hansen.
– Thế nào cũng được việc mẹ ạ, con xin phép mẹ con đi.
– Ờ đi đi con Hansen.
Tới nơi Hansen nói:
– Xin chào Gretel.
– Xin chào anh Hansen, có gì không anh?
– Chẳng có gì cả, có gì tặng anh không.
Gréthên tặng Hansen một con bê.
– Xin tạm biệt người đẹp Gretel.
– Xin tạm biệt anh Hanxơ thân mến.
Hanxơ nâng bổng con bê để lên đầu đội, bị nhột và chới với bê con đạp lung tung làm cho Hansen xây xát khắp mặt.
– Xin chào mẹ con đã về.
– Con đã về đấy à, Hansen. Con ở đâu về đó?
– Con ở chỗ Gretel.
– Con mang cho nó cái gì đấy?
– Con chẳng mang cho cái gì cả, con lại còn được tặng quà nữa.
Thế Gretel tặng con cái gì?
– Tặng con một con bê.
– Thế con bê đâu rồi, Hansen?
– Con đội đầu mang nó về, nó đạp con xây xát hết cả mặt.
– Sao con ngốc thế, Hansen, sao không dắt nó về nhà rồi buộc vào trong chuồng bò ấy.
– Chẳng sao mạ ạ, rút kinh nghiệm lần sau làm tốt hơn.
– Thế giờ con lại đi đâu, Hansen?
– Thưa mẹ, con đến Gretel.
– Ờ thế con đi cho được việc, Hansen.
– Thế nào cũng được việc mẹ ạ, con xin phép mẹ con đi.
– Ờ đi đi con Hansen.
Tới nơi Hansen nói:
– Xin chào Gretel.
– Xin chào anh Hansen, có gì không anh?
– Chẳng có gì cả, có gì tặng anh không.
Gretel nói với Hansen:
– Em muốn đi với anh về nhà.
Hansen buộc tay Gretel vào dây và dắt về nhà, buộc dây vào cột chuồng bò rồi vào chào mẹ:
– Xin chào mẹ con đã về.
– Con đã về đấy à, Hansen. Con ở đâu về đó?
– Con ở chỗ Gretel.
– Con mang cho nó cái gì đấy?
– Con chẳng mang cho cái gì cả.
– Thế Gretel tặng con cái gì?
– Chẳng cho con cái gì cả, đi theo con về nhà.
– Thế con để Gretel đứng ở đâu?
– Con lấy dây buộc cổ tay, dắt về nhà, buộc trước chuồng bò và vứt cho nắm cỏ khô.
– Sao con ngốc thế, Hansen. Con phải lấy mắt đưa tình chứ.
– Chẳng sao mẹ ạ, con xin làm ngay.
Hansen vào ngay trong chuồng, chọc lấy mắt bê, mắt cừu, rồi đưa những thứ đó sát tận mặt Gretel. Gretel nổi giận, giựt đứt dây và chạy mất.
Người yêu của Hansen là thế đó.
Thẻ: Grim
33. Chàng trai hiểu loài vật nói
Ngày xưa có một bá tước già, ông ta có một người con trai duy nhất nhưng lại đần độn hết chỗ nói. Một ngày kia ông nói với con:
– Cha đã tìm cách dạy con nghề này nghề nọ nhưng chẳng đi đến đâu cả. Giờ cha sẽ gởi con học nghề ở một ông cụ giỏi nổi tiếng trong vùng, để xem ông ấy có dạy được con không.
Người con trai được đưa tới chỗ ông thợ cả, chàng ở đó một năm, thời gian học nghề hết, chàng trở về nhà. Người cha hỏi:
– Nào, con của cha, con học được gì rồi?
Người con đáp:
– Thưa cha, con học được cách sủa như chó.
Người cha than:
– Trời, khổ thân tôi chưa. Một năm trời con học được có thế thôi à? Được, cha sẽ gởi con đi nơi khác học nghề.
Chàng lại ở đó đúng một năm. Hết hạn anh ta về nhà. Người cha lại hỏi:
– Con trai của cha, con học được gì rồi?
Người con đáp:
– Thưa cha, con học được cách hót như chim.
Người cha nổi giận và nói:
– Trời, con đúng là loài vô dụng, con để tuổi thanh xuân trôi qua thế ư? Con không thấy xấu hổ khi gặp cha hay sao? Được cha sẽ gởi con đi học lần thứ ba, nhưng nếu lần này con cũng không học được gì cả thì cha từ, không nhận cha con nữa.
Người con trai cũng ở đó một năm. Hết hạn chàng về nhà. Người cha lại hỏi:
– Con trai của cha, con học được gì rồi?
Người con đáp:
– Cha kính yêu, một năm lại trôi qua, giờ đây con có thể “oạc, oạc” như ếch kêu.
Người cha nổi giận và cho gọi dân làng tới và nói:
– Nó không phải con tôi nữa, tôi từ nó, các người hãy dẫn nó vào rừng sâu và giết chết nó đi.
Dân làng dẫn chàng vào rừng, nhưng nghĩ thương tình nên họ không giết chàng, họ giết một con mang, lấy mắt và lưỡi đem về trình bá tước.
Chàng trai đi lang thang trong rừng và tới một lâu đài kia, chàng xin được ngủ qua đêm. Chủ lâu đài nói:
– Cũng được, nếu chàng muốn, ngủ ở căn buồng dưới chân lâu đài ấy. Nhưng ta nói trước, cũng nguy hiểm lắm đấy, lũ chó trong buồng rất dữ, thấy người lạ là chúng xô tới, cắn, sủa ầm ỉ lên và rồi cả đàn lao vào cắn xé, ăn thịt.
Những người đứng quanh đều mủi lòng, nhưng cũng chẳng biết làm gì để giúp. Chàng trai thản nhiên nói:
– Cứ dẫn tôi xuống đó, nhưng cho tôi ít thức ăn để ném cho lũ chó hung hăng ấy.
Họ dẫn chàng xuống và đưa cho một ít thức ăn. Khi chàng bước vào buồng, đàn chó không sủa mà lại vẫy đuôi mừng rỡ, chúng ăn một cách ngon lành những gì mà chàng ném cho. Và chúng không hề chạm tới chân tơ kẽ tóc chàng.
Sáng hôm sau chàng tới gặp mọi người, tất cả đều ngạc nhiên khi thấy chàng lành lặn, khỏe khoắn. Chàng nói với chủ lâu đài:
– Đàn chó kể cho chúng tôi nghe về việc tại sao chúng phải sống ở chân lâu đài và hung dữ như vậy. Chúng bị biến thành chó sống ở đây để canh giữ một kho báu chôn dưới chân lâu đài. Chừng nào kho báu kia chưa được khai quật thì chúng chưa được giải thoát. Chúng còn nói cho tôi biết cách khai quật kho báu ấy.
Tất cả mọi người đều hết sức vui mừng, chủ lâu đài nói sẽ nhận chàng làm con, nếu chàng khai quật được kho báu. Chàng lại xuống căn buồng nhốt chó và khai quật kho báu, mang lên một cái rương toàn vàng là vàng, cũng ngay lúc đó không ai nghe thấy tiếng chó sủa nữa và cũng không biết chúng biến đi đâu mất.
Sống ở lâu đài được một thời gian, chàng trai nảy ra ý nghĩ, mình phải đi Rôm cho biết. Dọc đường, chàng đi qua một đầm lầy và nghe thấy tiếng ếch kêu. Chàng lắng tai nghe và biết rằng ở Rôm đang có tang. Tới nơi, chàng biết giáo hoàng mới qua đời. Giáo hội chưa biết chọn ai lên thay, và quyết định sẽ chọn ai có những dấu hiệu như sứ giả nhà trời thì bầu người ấy lên làm giáo hoàng.
Trong lúc giáo hội vừa mới biểu quyyết như vậy thì chàng trai bước chân tới trước cửa nhà thờ nơi giáo hội đang họp. Bỗng có hai con chim bồ câu trắng sà xuống đậu ngay lên hai vai chàng. Tất cả những người trong giáo hội cho đó là sứ giả nhà trời nên liền hỏi chàng có đồng ý làm giáo hoàng không. Chàng còn đang do dự thì chim bồ câu rỉ tai cứ nhận đi. Chàng được mời đi tắm, thay quần áo để làm lễ nhậm chức. Trong lúc tuyên thệ chàng phải hát một bản thánh ca, nhưng chàng đâu có biết hát bài nào, đôi chim câu nhắc cho chàng hát từ đầu đến cuối bài hát.
34. Else láu cá
Xưa có một người đàn ông, bác có một người con gái tên là Else láu cá. Khi con gái đã đến tuổi trưởng thành, bác nói:
– Cha sẽ gả chồng cho con.
Bà mẹ nói thêm vào:
– Đúng đấy, nếu có ai đến hỏi thì gả cho họ.
Có một chàng trai người vùng xa, chàng tên là Hans, chàng xin ăn hỏi nhưng với một điều kiện là Else phải thật chăm chỉ siêng năng.
Ông bố nói:
– Trời, nó tính toán giỏi lắm.
Và bà mẹ bảo:
– Ái chà, nó còn nhìn thấy gió chạy ngoài đường, nghe được tiếng ruồi ho.
Chàng Hans nói:
– Như vậy cô ta không chăm chỉ siêng năng, nên tôi không muốn lấy nữa.
Khi mọi người ngồi quanh bàn và ăn. Bà mẹ sai:
– Else, con xuống hầm nhà lấy bia lên uống!
Else láu cá lấy vò đựng bia đi xuống tầng hầm, vừa đi cô vừa mở nắp vò ra nghịch cho đỡ buồn. Để khỏi mỏi chân ngồi chờ, cô lấy ghế ra ngồi trước thùng bia, như vậy cô cũng chẳng phải cúi cho mỏi lưng, cứ ngồi thẳng lưng mà vặn vòi cho bia chảy vào vò. Trong lúc bia chảy, Else ngó nghiêng tứ phía trong căn hầm cho vui mắt. Ngó đi, ngó lại, cô thấy trên tường có con dao của thợ nề treo ở trên tường. Thế là cô Else láu cá nước mắt ngắn dài than:
– Nếu tôi lấy anh Hans và có con. Đúng lúc con đang nhớn thì sai nó xuống hầm lấy bia, nó đang ngồi mở vòi bia thì con dao kia bỗng dưng rơi xuống đúng đầu làm nó chết.
Cô ngồi khóc nức nở, than vãn cho sự bất hạnh kia của mình. Mọi người ngồi đợi mãi mà chẳng thấy Else mang bia lên. Bà mẹ sai đứa gái hầu:
– Con xuống tầng hầm xem Else nó ngồi ở chỗ nào.
Đứa gái hầu xuống hầm, thấy Else ngồi trước thùng bia, đang khóc than nức nở. Đứa gái hầu hỏi:
– Else, tại sao chị lại khóc?
Else đáp:
– Không khóc sao được! Nếu tôi lấy anh Hans và có con. Đúng lúc con đang nhớn thì sai nó xuống hầm lấy bia, nó đang ngồi mở vòi bia thì con dao kia bỗng dưng rơi xuống đúng đầu làm nó chết.
Nghe chuyện, đứa gái hầu nói:
– Else láu cá ơi, thật là đau đớn quá.
Rồi nó ngồi xuống cạnh Else, khóc than về sự bất hạnh kia.
Đợi một lúc, không thấy đứa gái hầu lên, bác trai bảo thằng ở:
– Con xuống tầng hầm xem Else và đứa gái hầu ngồi ở chỗ nào.
Thằng ở xuống hầm, thấy Else và đứa gái hầu ngồi cạnh nhau và đang khóc nức nở. Nó hỏi:
– Else, tại sao chị lại khóc?
Else đáp:
– Không khóc sao được! Nếu tôi lấy anh Hans và có con. Đúng lúc con đang nhớn thì sai nó xuống hầm lấy bia, nó đang ngồi mở vòi bia thì con dao kia bỗng dưng rơi xuống đúng đầu làm nó chết.
Nghe chuyện, thằng ở nói:
– Else láu cá ơi, thật là đau đớn quá.
Rồi nó ngồi xuống cạnh Else, gào khóc về sự bất hạnh kia: ở trên nhà, mọi người ngồi đợi thằng ở, nhưng chẳng thấy nó lên. Bác trai bảo bác gái:
– Bà xuống tầng hầm xem Else nó ngồi ở chỗ nào.
Bác gái xuống tầng hầm, thấy cả ba đang ngồi khóc than, bác hỏi nguyên nhân tại sao lại khóc, Else kể mẹ nghe về chuyện đứa con mình chết, khi nó đang ngồi mở vòi bia thì con dao ở trên tường rơi xuống đúng đầu.
Nghe chuyện, bà mẹ nói:
– Trời, Else láu cá ơi, thật là đau đớn quá.
Rồi bà mẹ cũng ngồi xuống bên cạnh và khóc. Bác trai ngồi đợi một lúc cũng không thấy vợ mình lên, mà bác lại đang khát, bác nói:
– Giờ thì phải tôi thân chinh xuống hầm xem Else nó ngồi ở đâu.
Xuống tới tầng hầm, bác trai thấy tất cả đang ngồi khóc, bác hỏi nguyên do thì được biết, con của Else chết, khi nó đang ngồi mở vòi bia thì con dao ở trên tường rơi xuống đúng đầu. Nghe chuyện, người cha nói:
– Else láu cá ơi, thật là đau đớn quá!
Bác trai cũng ngồi xuống và khóc. Chàng rể tương lai ngồi đợi mãi mà chẳng thấy một ai lên. Chàng nghĩ:
– Chắc mọi người đang ở dưới chờ mình xuống. Vậy ta xuống hầm xem mọi người ý ra sao.
Xuống tới nơi, chàng thấy năm người đang ngồi khóc, họ thay nhau gào khóc. Chàng hỏi:
– Có chuyện gì vậy?
Else đáp:
– Anh Hans thân yêu ơi, chúng ta lấy nhau và có một đứa con. Nó đang tuổi nhớn thì chúng ta sai nó xuống hầm lấy bia, nó đang ngồi mở vòi bia thì con dao kia bỗng dưng rơi xuống đúng đầu làm nó chết ngay. Vậy không khóc sao được.
Anh chàng Hans nói:
– Đến thế là cùng, đảm đang như em Else láu cá. Thôi thì chúng ta lấy nhau vậy.
Chàng dắt tay nàng và tổ chức đám cưới.
Một hôm Hans nói với vợ:
– Em ơi, anh phải đi kiếm tiền, em ra đồng gặt lúa về để làm bánh ăn.
– Vâng, anh Hans thân yêu, em sẽ làm.
Hans vừa mới đi khỏi nhà, vợ ở nhà bắc bếp nấu cháo và mang cháo theo ra đồng. Ra tới nơi, nàng tự hỏi:
– Làm gì bây giờ? Gặt lúa hay là ăn trước? Ta ăn trước vậy.
Else ngồi ăn hết nồi cháo, ăn xong bụng no căng, nàng tự hỏi:
– Làm gì bây giờ? Gặt lúa trước hay ngủ trước? Ta ngủ trước cái đã.
Rồi Else nằm trên ruộng lúa và thiêm thiếp ngủ. Hans về nhà từ lâu, mà Else vẫn chưa về. Hans nói:
– Else vợ mình chăm chỉ thật, giờ này mà vẫn chưa về ăn!
Khi bóng đêm phủ xuống, Else vẫn còn ở ngoài đồng. Hans ra đồng xem vợ mình gặt lúa, nhưng Else chẳng gặt lúa mà nằm ngủ say trên cánh đồng lúa.
Hans chạy nhanh về nhà, lấy lưới bẫy chim có gắn chuông. Chàng lấy lưới phủ lên người Else. Nàng vẫn ngủ mà không hề hay biết. Hans đi về nhà, đóng chặt cửa lại và ngồi làm việc.
Khi trời đã khuya, Else láu cá thức giấc. Khi đứng dậy, nàng thấy có gì lùng nhùng, lại kêu leng keng. Nàng đâm hoảng, lòng bán tín bán nghi, không hiểu mình có chính là Else láu cá hay không. Nàng lẩm bẩm:
– Chẳng hiểu mình có phải là mình hay là không phải?
Nàng không biết là thế nào nữa, cứ đứng tần ngần, cuối cùng nàng quyết định:
– Ta phải đi về nhà và hỏi, mình còn là mình hay là không, mọi người đều biết rõ điều đó.
Về tới nhà, thấy cửa đóng chặt, Else gõ cửa sổ và gọi với vào trong:
– Anh Hans, Else có ở trong nhà không?
Hans đáp:
– Có, Else ở trong nhà.
Nghe trả lời vậy, nàng đâm ra hoảng, mồm lẩm bẩm:
– Lạy trời! Chẳng phải là mình rồi.
Nàng tới hết nhà này sang nhà khác, nhưng khi nghe tiếng chuông reo trong đêm vắng nên chẳng ai chịu mở cửa. Chẳng có chỗ nào mở cửa cho nàng vào. Nàng đi khỏi làng. Và cũng chẳng ai trông thấy nàng nữa.
35. Bác thợ may lên trời
Có lần vào ngày đẹp trời, Chúa cùng tất cả các thần thánh cùng đi chơi, chỉ còn mỗi thánh Petrus ở lại canh cổng. Chúa dặn trong lúc chúa vắng mặt không được cho ai vào. Petrus đứng ngay cạnh cổng canh gác.
Một lúc sau có người gõ cổng. Petrus hỏi ai gõ cửa, và muốn gì. Một giọng nói nhỏ nhẹ đáp:
– Tôi là bác thợ may thật thà nhưng nghèo xin được vào.
Petrus nói:
– Vâng thật thà lắm, thợ may ăn bớt vải có khác gì kẻ cắp đâu. Ngươi không được lên thiên đường. Chúa dặn ta lúc Chúa đi vắng không cho ai vào.
Bác thợ may nài:
– Xin thương tôi với. Vải cắt thừa rơi xuống đất tôi nhặt chứ có phải ăn cắp đâu mà nói. Cứ nhìn thì thấy tôi phồng dộp hết cả chân không thể nào quay trở về được. Xin cho tôi vào, tôi xin làm mọi việc nặng nhọc như trông trẻ con, giặt tã, dọn nhà, lau bàn ghế, vá quần áo rách.
Thương hại, Petrus hé cửa để cho bác thợ may lách vào. Bác phải núp vào góc cửa để khi Chúa quay về không nhìn thấy. Bác thợ mau nghe lời ẩn sau cánh cửa. Nhưng khi Petrus bước ra ngoài thì bác ta tò mò liền lẻn đi khắp mọi nơi ở thiên đường.
Cuối cùng bác tới sân rồng, bác thấy nhiều ghế đẹp, sang trọng được xếp ngay ngắn theo hàng, ở giữa sân có chiếc ghế cao hơn những cái khác, ghế nạm vàng và ngọc lóng lánh, có bậc gỗ để bước lên ghế ngồi. Đấy là chỗ ngồi của Chúa khi người ở nhà. Ngồi trên ghế người có thể quan sát được mọi sự ở dưới trần gian.
Bác thợ may đứng yên lặng ngắm nhìn chiếc ghế. Bác thích cái ghế ấy hơn những cái kia. Rồi vốn tinh nghịch, bác ngồi thử. Bác nhìn thấy được mọi sự dưới trần gian, bác thấy có một bà già xấu xí đang tắm bên suối, quần áo bà để ở trên bờ.
Bác bực mình, lấy ngay cái bậc gỗ ném xuống chỗ bà già.
Bậc gỗ không còn nữa, bác đành leo xuống và lại ra ẩn ở đằng sau cửa, làm như chưa hề bước chân ra khỏi nơi này.
Về nhà, Chúa cũng không biết bác thợ may ẩn ở sau cửa. Nhưng tới khi ngồi lên ngai vàng thì thấy không có bậc để bước lên, Chúa gọi thánh Petrus tới hỏi chiếc bậc gỗ nạm vàng ở đâu, thánh cũng chẳng biết nó ở đâu. Chúa lại hỏi thánh có cho ai vào không. Petrus đáp:
– Thần chẳng cho ai vào ngoài người thợ may gầy gò hiện đang ngồi sau cửa.
Chúa cho gọi bác thợ may tới và hỏi bác có ném cái bậc gỗ đi đâu không, hay để nó ở đâu. Bác thợ may mừng thưa:
– Thưa, trong lúc tức giận con đã ném nó vào một mụ già ở dưới trần gian, khi thấy mụ đang ăn cắp.
Chúa nói:
– Đúng là giống chồn láu cá. Nếu ta phán xử theo cách ngươi đã làm thì tính mạng ngươi chẳng còn. Làm như ngươi thì mấy chốc chẳng còn chiếc ghế nào nữa, chúng dùng để ném vào những người có tội. Phải tống cổ ngươi ra khỏi nơi đây ngay, cho ngươi trở về quê quán cũ. Ở đây chỉ có ta là ngươi có quyền trừng phạt, chỉ có mình ta thôi.
Thánh Petrus dẫn bác thợ may đi ra khỏi cổng thiên đường. Bác phải chống gậy mà đi vì giày đã rách nát mà chân lại bị phồng dộp.
36. Bàn ơi, trải khăn ra, sắp thức ăn đi!
Đã lâu lắm rồi, hồi đó có một bác thợ may, bác có ba người con trai, mà chỉ có một con dê cái duy nhất. Nhưng vì cả nhà ăn sữa dê nên ngày ngày phải dắt dê ra đồng kiếm cỏ tốt cho nó ăn. Ba người con trai cắt lượt nhau đi chăn dê. Một hôm, người con cả dắt dê đến bãi tha ma ở cạnh nhà thờ – nơi đấy có cỏ non – để dê ăn cỏ và chạy ở đó. Chiều tối, đã đến lúc phải về, anh hỏi dê:
– Dê ơi, dê ăn no chưa?
Dê đáp:
– Tôi ăn no căng
Chẳng buồn ăn nữa, Be Be…
Chàng trai nói:
– Thế thì về chuồng!
Rồi anh nắm sợi dây buộc cổ dắt dê về, buộc vào chuồng.
Bác thợ may già hỏi:
– Thế nào, đã cho dê ăn no chưa?
Người con trai đáp:
– Trời! Dê ăn no căng,
Chẳng buồn ăn nữa.
Người cha muốn xem con nói có thực không nên xuống chuồng vuốt ve con vật yêu quý và hỏi:
– Dê ơi, dê ăn no chưa?
Dê đáp:
– Ăn gì mà no
Nhảy qua mả nọ, mả kia.
Cỏ thì không có, lá cành cũng không.
Be be…
Bác thợ may la lên:
– Đến thế thì thôi.
Bác chạy lên nhà, mắng người con cả:
– Chà, mày là quân nói dối! Mày để dê đói mà dám nói nó đã no căng.
Điên tiết lên, bác lấy thước treo ở tường xuống đuổi đánh người con cả.
Hôm sau, đến lượt người con thứ hai đi chăn dê. Anh tìm ở dọc hàng rào vườn nhà chỗ có cỏ non nhất, để dê ăn ở đó, dê ăn hết không còn lấy một ngọn. Chiều đến trước khi về, anh hỏi:
– Dê ơi, dê ăn no chưa?
Dê đáp:
– Tôi ăn no căng
Chẳng buồn ăn nữa, Be Be…
Chàng trai nói:
– Thế thì đi về!
Rồi anh nắm sợi dây buộc cổ dắt dê về, buộc vào chuồng rất cẩn thận, bác thợ may hỏi:
– Thế nào, có cho dê ăn no đủ không đấy?
Người con trai đáp:
– Trời! Dê ăn đã no căng,
Nên chẳng buồn ăn nữa.
Bác thợ may không tin chuyện đó nên xuống ngay chuồng dê hỏi:
– Dê ơi, dê ăn no chưa?
Dê đáp:
– Ăn gì mà no
Nhảy qua mả nọ, mả kia.
Cỏ thì không có, lá cành cũng không.
Be be…
Bác thợ may la mắng:
– Đồ khốn nạn! Con vật hiền lành như thế mà nó để đói!
Bác lại chạy lên nhà lấy thước đánh đuổi đứa con ra khỏi cửa.
Giờ thì đến lượt người con thứ ba. Muốn hoàn thành việc mình cho thật chu đáo, anh đi tìm nơi nào có bụi rậm, những khóm cây có nhiều lá và cỏ non rồi để cho dê ăn ở đó. Chiều tối, lúc sắp về, anh hỏi dê:
– Dê ơi, dê ăn no chưa?
Dê đáp:
– Tôi ăn no căng
Chẳng buồn ăn nữa, Be Be…
Chàng trai nói:
– Thế thì đi về!
Rồi anh dắt dê về, buộc dê vào chuồng rất cẩn thận.
Bác thợ may già hỏi con:
– Thế nào, đã cho dê ăn no đủ không đấy?
Người con trai đáp:
– Vâng dê ăn đã no căng,
Nên chẳng buồn ăn nữa.
Bác thợ may không tin, xuống ngay chuồng hỏi dê.
Con vật độc ác kia đáp:
– Ăn gì mà no
Nhảy qua mả nọ, mả kia.
Cỏ thì không có, lá cành cũng không.
Be be…
Bác thợ may tức, la mắng con:
– Chà, quân này láo lếu thật! Thằng anh cũng như thằng em, đứa nào cũng mải chơi cả! Tao không thể để chúng bay lừa dối tao mãi được!
Bác đùng đùng nổi giận, chạy ngay lên nhà, lấy thước đánh cho con trai tội nghiệp một trận chí tử làm cho nó cũng phải bỏ nhà ra đi.
Từ đó, ở nhà chỉ còn bác thợ may với con dê. Sáng hôm sau, bác xuống chuồng, vuốt ve dê và nói:
– Lại đây, cưng của ta. Ta sẽ đích thân dẫn mày ra ngoài đồng ăn cỏ.
Bác cầm dây dắt dê dọc theo những hàng rào tươi tốt và đến những chỗ thường thích đến ăn. Bác bảo dê:
– Chuyến này thì mày được no nê thỏa thích nhé!
Rồi bác để dê ăn ở đó tới tận chiều tối. Lúc đó bác hỏi:
– Dê ơi, dê ăn no chưa?
Dê đáp:
– Tôi ăn no căng
Chẳng buồn ăn nữa, Be Be…
Bác thợ may bảo:
– Thế thì đi về!
Bác dắt dê về chuồng, buộc thật kỹ. Trước khi rời chuồng, bác còn quay lại hỏi:
– Lần này thì no căng thật sự chứ?
Nhưng dê cũng chẳng kiêng nể gì bác và nói:
– Ăn gì mà no
Nhảy qua mả nọ, mả kia.
Cỏ thì không có, lá cành cũng không.
Be be…
Nghe thấy thế, bác thợ may rất đỗi ngạc nhiên. Lúc đó bác mới biết mình đã đuổi ba con trai của mình đi một cách vô cớ. Bác la mắng:
– Này, quân bội bạc! Có đánh đuổi mày khỏi nơi đây cũng còn quá nhẹ. Ta phải đánh dấu bôi vôi để mày không còn dám vác mặt đến chỗ những người thợ may lương thiện nữa.
Bác liền chạy đi lấy dao cạo, xát xà phòng lên đầu dê, cạo nhẵn thín như trán hói. Bác nghĩ, đánh bằng thước chả bõ bẩn thước ra, bác lấy roi ngựa vụt cho dê một trận nên thân, đau quá dê nhảy lên chồm chồm rồi chạy biến mất.
Ở nhà thui thủi một mình, bác thợ mới thấy thật là buồn tẻ. Bác rất muốn gọi các con trai về nhưng không biết chúng đi đâu.
Anh con cả học nghề ở nhà một bác thợ mộc. Anh làm việc cần mẫn và vui vẻ. Khi đã thành nghề, anh muốn đi chu du thiện hạ để hành nghề thì thầy tặng anh một cái bàn nhỏ bằng gỗ thường, trông cũng chẳng có gì đặc biệt cả, nhưng nó có phép lạ. Chỉ cần đặt bàn trước mặt, rồi nói: “Bàn ơi, trải khăn ra, sắp thức ăn đi!” thì tức khắc trên bàn phủ khăn trắng tinh, dĩa, dao, nĩa được bày ra cùng với những món xào, món nấu, lại có cả cốc vại đầy rượu vang đỏ long lanh nom thật là hấp dẫn. Chú thợ mộc nghĩ bụng:
– Có chiếc bàn này, mình được sung túc suốt đời!
Chú vui vẻ lên đường, đi đây đi đó, chẳng còn phải lo chuyện quán trọ có tử tế hay không, ở quán trọ có gì ăn hay không. Chú cũng chẳng cần phải vào đâu cả, bất cứ ở ngoài đồng hay trong rừng, hoặc trên bãi cỏ, thích đâu là chủ chỉ việc hạ bàn ở lưng xuống, đặt nó trước mặt và nói: “Bàn ơi, trải ra, sắp thức ăn đi!” là lập tức sẽ có đầy đủ những thứ chú muốn.
Một hôm, chú nghĩ mình phải về nhà ở với cha. Chắc giờ đây cha đã nguôi giận, cha sẽ vui lòng nhận chú với cái bàn thần này.
Dọc đường, một buổi tối, chú vào một quán trọ, quán cũng khá đông khách. Khách ăn vui vẻ chào và mời chú ngồi vào cùng ăn với họ, nếu không thì chú khó lòng có gì mà ăn. Chú thợ mộc đáp:
– Thôi, chỉ có vài miếng, tôi ăn tranh của các ông làm gì! Tốt hơn hết là xin mời các ông sang bàn tôi ăn!
Tưởng chú nói đùa, họ cười. Chú đặt chiếc bàn gỗ của mình ở giữa phòng, rồi nói:
– Bàn ơi, trải khăn ra, sắp thức ăn đi!
Trong nháy mắt, trên bàn đã đầy những món ăn ngon, mà chính chủ quán cũng không làm nổi, mùi thơm tỏa ra khắp gian nhà, khách chưa ăn đã thấy ngon miệng. Chú thợ mộc mời:
– Nào, xin mời các bạn thân mến, ta gắp đi chứ!
Thấy chú tốt bụng, không phải để chú phải mời lần thứ hai, họ kéo nhau sang bàn chú ngồi đánh chén một cách thoải mái. Có điều họ lấy làm lạ nhất là cứ đĩa nào vơi thì lập tức lại có ngay dĩa khác đầy ắp thế vào. Chủ quán ngẩn người ra, đứng ở góc nhà ngắm nhìn. Hắn nghĩ bụng:
– Quán của mình được một đầu bếp cứ như vậy thì hay quá!
Chú thợ mộc và toán khách ngồi ăn uống chuyện trò tới tận khuya mới đi ngủ. Chú thợ mộc cũng lên giường nằm, đặt bàn thần sát tường.
Chủ quán trằn trọc mãi không sao ngủ được. Hắn chợt nhớ rằng trong kho chứa đồ cũ của hắn có một cái bàn cũ giống y hệt cái bàn của chú thợ mộc. Hắn liền rón rén đi lấy cái bàn đó rồi đánh tráo lấy chiếc bàn thần kia.
Sớm hôm sau, chú thợ mộc trả tiền trọ mà chẳng hề nghĩ tới là chiếc bàn sau lưng của mình đã bị tráo, chú địu chiếc bàn sau lưng rồi lên đường. Tới giữa trưa thì chú về tới nhà. Cha chú tiếp đón chú rất vui vẻ. Ông hỏi con:
– Thế nào, con cưng của cha, con học được nghề gì rồi?
– Thưa cha, nghề thợ mộc ạ!
Cha nói:
– Nghề ấy tốt đấy, đi chu du hành nghề con có mang được gì về không?
– Thưa cha, của quý nhất mà con mang được về là chiếc bàn này.
Bác thợ may ngắm đi ngắm lại chiếc bàn rồi nói:
– Thế thì con chưa thành tài rồi. Đây chỉ là một chiếc bàn tồi, cũ kỹ.
Người con đáp:
– Nhưng đó là một chiếc bàn thần, nếu con để nó trước mặt, bảo nó sắp thức ăn ra thì lập tức nó dọn ra toàn cao lương, mỹ vị, cả rượu vang nữa, trông mâm cơm thật ngon miệng. Cha cứ mời bạn bè, bà con thân thuộc đến, bàn sẽ cho họ ăn uống no say.
Khách có mặt đông đủ cả rồi, chú thợ mộc đặt cái bàn ở giữa căn nhà, rồi nói:
– Bàn ơi, trải khăn ra, sắp thức ăn đi!
Nhưng cái bàn vẫn không nhúc nhích, nó vẫn chỉ là cái bàn như những chiếc bàn bình thường khác không hiểu được tiếng người. Lúc ấy, chú thợ mộc đáng thương mới biết là chiếc bàn đã bị đánh tráo, chú lấy làm thẹn vì mang tiếng là nói dối. Bạn bè, bà con thân thuộc chê cười, nhịn đói ra về. Bác thợ lại quay về với nghề làm kim chỉ, còn con trai đến phụ việc cho một bác thợ cả.
Người con thứ hai học nghề xay bột ở một gia đình kia. Khi anh thành tài, bác thợ xay bảo:
– Con luôn chăm chỉ ngoan ngoãn nên ta thưởng cho con một con lừa loại đặc biệt, nó không chịu kéo xe và tải đồ.
Chú thợ giúp việc hỏi:
– Thế thì nó làm được việc gì?
Bác thợ xay đáp:
– Nó tuôn ra vàng. Con lấy khăn trải ra nền đất, cho lừa đứng lên trên, rồi nói: “Bricklebrit!” thì con vật tốt bụng kia sẽ tuôn vàng ra đằng trước và cả đằng sau nữa.
Anh học trò nói:
– Thật là của quý!
Rồi anh cám ơn thầy, lên đường đi chu du hành nghề. Mỗi khi cần đến vàng, anh thợ chỉ việc bảo lừa: “Bơ-rích-lếp-bơ-rít!” là vàng tuôn ra như mưa. Anh chẳng phải mệt nhọc gì ngoài việc cúi xuống nhặt tiền. Túi anh lúc nào cũng rủng rỉnh tiền, nên đi đến đâu cũng được ăn của ngon vật lạ toàn những loại đắt tiền nhất.
Đi chu du khắp đó đây được một thời gian một hôm anh nghĩ:
– Mình phải tìm đường về với cha thôi. Mình về mang theo con lừa này chắc cha sẽ nguôi cơn giận, tiếp đón mình tử tế.
Tình cờ anh lại vào đúng cái quán trọ nơi người anh ruột của anh đã bị đánh tráo cái bàn thần. Anh dắt lừa đến. Tên chủ quán định dắt lừa đem đi buộc thì anh bảo:
– Không dám phiền ông, cứ để tôi đem buộc nó vào chuồng, vì tôi muốn biết chỗ buộc nó.
Điều đó làm cho chủ quán rất ngạc nhiên và nghĩ rằng khách trọ đòi chăm sóc lấy con vật của mình thì ắt là một tay sẻn lắm. Nhưng khi người lạ mặt kia móc túi lấy ra hai đồng tiền vàng bảo hắn phải cho ăn ngon, thì chủ quán trố mắt ra, vội chạy đi tìm thức ăn ngon nhất. Ăn xong, khách bảo tính tiền, chủ quán thấy khách sộp nên nói khách còn thiếu mấy đồng tiền vàng nữa. Anh thò tay vào túi, thấy hết tiền. Anh nói:
– Này ông chủ quán chờ một lát nhé, để tôi đi lấy vàng cái đã.
Rồi anh mang khăn trải bàn theo.
Chủ quán chẳng hiểu ra sao, tò mò lẻn theo, nhưng vì anh cài then cửa chuồng nên hắn đành đứng ngoài nhìn vào qua lỗ cửa. Người lạ mặt kia trải khăn xuống dưới chân lừa, rồi nói: “Bricklebrit!.” Trong nháy mắt, lừa tuôn vàng xuống đất như mưa, vàng tuôn cả đằng trước lẫn đằng sau.
Chủ quán nghĩ bụng:
– Ái chà! Đúc tiền bằng kiểu này nhạy thật! Được túi tiền như thế thì tuyệt!
Anh trả tiền ăn cho quán rồi lên giường nghỉ. Ngay đêm ấy, chủ quán lẻn xuống chuồng lấy trộm lừa – máy đúc tiền – và buộc con khác thay vào.
Sớm tinh mơ ngày hôm sau, anh đã xuống chuồng tháo lừa, rồi lên đường, trong bụng đinh ninh mình đang dắt lừa đúc tiền vàng. Đến trưa thì anh về tới nhà. Thấy con về, người cha rất mừng, tiếp đãi con niềm nở. Cha hỏi:
– Con cưng của cha, con có làm nên công trạng gì không?
Anh đáp:
– Cha kính yêu, con giờ là thợ xay bột.
– Đi chu du hành nghề, con có mang được gì về không?
– Thưa cha, chẳng có gì ngoài con lừa.
Cha nói:
– Ở đây thiếu gì lừa! Cha thấy giá được con dê cái có khi còn hay hơn.
Người con trai đáp:
– Thưa cha, nhưng nó không phải là loại lừa thường, mà là loại lừa tuôn ra vàng. Mỗi khi con nói: “Brícklebrit!” là lập tức nó tuôn vàng ra đầy khăn. Cha cho mời bà con thân thuộc tới đây, nó sẽ làm cho họ trở nên giàu có.
Bác thợ may nói:
– Được thế thì cha rất mừng! Cha chẳng phải khổ công khâu vá nữa.
Rồi bác vội vã đi mời bà con thân thuộc tới.
Khi mọi người đã đến đông đủ, anh xay bột mời họ ngồi, trải chiếc khăn của mình ra giữa nhà, dắt lừa đứng lên trên khăn, anh nói:
– Mọi người hãy chú ý!
Rồi anh hô dõng dạc:
– Brícklebrit!
Nhưng rồi chẳng thấy đồng tiền vàng nào rơi ra. Có phải con lừa nào cũng có phép lạ đâu? Đây chỉ là một con lừa bình thường!
Lúc bấy giờ chàng xay bột đáng thương mới biết mình đã bị lừa, mặt méo xệch đi, đứng ra xin lỗi bà con thân thuộc đành để họ ra về với cảnh nghèo vẫn hoàn nghèo. Chẳng có cách nào khác hơn là cha già lại phải kim chỉ vá may, anh con trai đành đi phụ việc cho một ông thợ xay bột.
Người em trai thứ ba đi học nghề thợ tiện. Vì đây là một nghề đòi hỏi dày công luyện tập nên anh phải học lâu hơn hai anh. Anh có nhận được thư của hai người anh trai, trong thư họ báo cho em biết chuyện rủi ro của mình: trong đêm ngủ trọ ở đó đã bị chủ quán đánh tráo bàn thần và lừa thần. Khi đã thành tài, anh thợ tiện tính đi chu du hành nghề thì thầy dạy nghề thưởng cho anh một cái bao vì thấy anh lâu nay chăm chỉ ngoan ngoãn. Thầy dặn:
– Trong bao có một cái gậy.
Trò nói:
– Con thấy chiếc bao còn có ích, con có thể khoác nó lên vai, nhưng còn cái gậy thì có ích gì? Mang nó chỉ tổ nặng thêm ra.
Thầy đáp:
– Để ta dạy con cách dùng gậy đó. Nếu kẻ nào hại con, con chỉ cần nói: “Gậy ơi, hãy ra khỏi bao!” thì lập tức gập nhảy ngay ra, nó nhảy múa rên lưng kẻ đã hại con, khiến hắn nằm liệt giường tám ngày liền, không nhúc nhích, cựa quậy được. Gậy chỉ thôi đánh khi nào con nói: “Gậy ơi, vào bao đi!.”
Anh cám ơn thầy, khoác bao lên vai đi. Mỗi khi có kẻ đến gần tính gây sự, anh lại nói:
– Gậy ơi, hãy ra khỏi bao!
Tức thì gậy nhảy ra khỏi bao, quật túi bụi vào áo, vào lưng, khiến kẻ đó không kịp cởi áo ra. Gậy quật nhanh đến nỗi kẻ bị đánh không còn biết đường nào mà tránh.
Xẩm tối thì chàng thợ tiện trẻ tuổi tới quán trọ, nơi hai người anh đã từng bị lừa gạt. Anh đặt bao lên bàn ngay trước mặt, rồi ngồi kể cho mọi người nghe những chuyện lạ trên đời mà anh đã từng biết. Anh nói:
– Ừ, người ta kể cho tôi biết là có một cái bàn thần cứ gọi là tự nhiên món ăn bày ra, có con lừa thần tuôn ra toàn tiền vàng, còn có nhiều chuyện lạ kỳ tương tự như vậy. Toàn là những chuyện không thể bỏ qua được. Nhưng tất cả những cái đó không thấm tháp vào đâu so với của quý tôi có trong bao này.
Chủ quán vểnh tai lên mà nghe, hắn nghĩ bụng:
– Trên đời này thật là lắm điều kỳ lạ! Chắc bao này chứa toàn ngọc quý. Mình phải cuỗm nốt chiếc bao này mới được. Của quý thường đi theo bộ ba mà!
Đến giờ ngủ, khách co cẳng lên ghế dài, gối đầu lên bao rồi ngủ. Chủ quán tưởng anh ngủ say, rón rén lại gần, khẽ rút cái bao, định tráo chiếc bao khác thay thế. Anh thợ tiện rình đợi đã lâu, chờ lúc chủ quán đang từ từ kéo bao, anh hô:
– Gậy ơi, hãy ra khỏi bao!
Tức thì gậy nhảy ra khỏi bao, đánh cho chủ quán một trận nhừ tử. Trên lưng hắn một vệt dài lằn lên, hắn van lạy xin tha, nhưng hắn vàng rên gậy càng giáng cho đau đớn, tới tấp hơn, cho tới khi hắn kiệt sức, ngã lăn ra đất mới ngưng.
Bấy giờ, anh thợ tiện mới bảo hắn:
– Nếu mày không trả lại ngay chiếc bàn thần và con lừa thần thì gậy sẽ múa cho mày biết tay.
Chủ quản thều thào nói:
– Vâng, tôi sẵn sàng trả lại tất cả, nhưng cậu hãy bảo con quỷ có phép thuật kia chui vào bao đi.
Anh thợ tiện nói:
– Ta sẵn lòng tha thứ cho mày. Cứ liệu thần hồn nhé!
Rồi anh ra lệnh: “Gậy ơi, vào bao đi!” và mặc cho chủ quán nằm đó.
Hôm sau, anh thợ tiện lên đường về nhà, mang theo cả chiếc bàn thần và con lừa vàng. Bác thợ may rất vui mừng khi gặp lại con trai út. Bác hỏi con học được nghề gì ở nơi đất khách quê người. Anh đáp:
– Cha kính yêu, con học được nghề thợ tiện ạ.
– Nghề ấy phải dày công học tập lắm đấy. Thế đi chu du hành nghề, con có mang được gì về không?
Người con trai đáp:
– Thưa cha, có một thứ rất quý: một cái gậy để ở trong bao.
Người cha thốt lên:
– Cái gì, hả? Một cái gậy à? Thật không bõ công. Chặt ở cây nào mà chẳng được một cái gậy?
– Thưa cha, nhưng làm sao được như cái gậy này? Con chỉ nói: “Gậy ơi, hãy ra khỏi bao!” thì nó nhảy ra ngay, nện cho kẻ muốn chơi xấu con một trận nhừ tử. Gậy chỉ ngưng khi nào kẻ kia lăn lộn trên đất kêu van, xin tha tội cho. Cha ạ, nhờ có cái gậy này mà con lấy lại được chiếc bàn thần và con lừa vàng, những thứ mà thằng chủ quán đã đánh tráo của hai anh con. Bây giờ cha cho hai anh con đi mời tất cả bà con thân thuộc lại nhà ta, con sẽ chiêu đãi tất cả một bữa thịnh soạn và biếu mỗi người một túi đầy tiền vàng.
Bác thợ may già không tin lắm nhưng vẫn cho mời bà con thân thuộc lại nhà.
Anh thợ tiện trải khăn ra giữa nhà, dắt lừa vàng vào, rồi bảo anh thứ hai:
– Bây giờ anh bảo nó đi!
Anh xay bột nói: “Bricklebrit!,” tức thì tiền vàng rơi xuống khăn nhiều như mưa đá, cơn mưa vàng ấy chỉ ngưng khi mọi người ai nấy đã đầy túi, không thể nào mang hơn được nữa (Chắc hẳn các bạn cũng muốn có mặt ở đấy?).
Rồi anh thợ tiện đi lấy chiếc bàn thần và nói với người anh cả:
– Bây giờ anh bảo nó đi!
Anh thợ mộc vừa mới mở mồm ra nói: “Bàn ơi, trải khăn ra, sắp thức ăn đi!” tức thì bàn trải khăn ra, trên bàn bày toàn sơn hào hải vị. Bác thợ may chưa từng được ăn một bữa tiệc nào thịnh soạn như vậy. Họ hàng, bà con thân thuộc ở lại chuyện trò, ăn uống vui vẻ cho mãi tới khuya.
Bác thợ may thu xếp kim chỉ, thước, bàn ủi cất vào trong tủ, cùng ba con trai sống yên vui.
À, thế còn số phận con dê điêu ngoa quái ác – vì nó mà bác thợ đuổi ba con trai đi – thì ra sao?
Tôi xin kể cho các bạn nghe nhé: Dê xấu hổ vì đầu trọc lóc, lẩn trốn vào hang cáo. Khi cáo về tính chui vào hang thì thấy trong bóng tối có hai con mắt to phát sáng chiếu thẳng ra. Cáo sợ quá, chạy trốn luôn. Gấu trông thấy cáo ngơ ngác thì hỏi:
– Anh bạn cáo, làm sao mà mặt xị ra thế?
Cáo đáp:
– Ui chà! Có một con vật hung dữ đến chiếm hang của tôi, nó nhìn tôi chằm chằm bằng hai con mắt nảy lửa.
Gấu nói:
– Để ta tống cổ nó ra cho!
Gấu đi theo cáo tới hang, mới trông thấy hai con mắt đỏ rực như lửa, gấu đã đâm hoảng, không muốn lôi thôi với con vật hung dữ ấy nữa, vội vã chạy đi nơi khác.
Dọc đường, gấu gặp ong, ong thấy gấu rùng mình luôn thì hỏi:
– Bác gấu ơi, bác vốn vui tính lắm cơ mà, sao hôm nay trông bác ỉu xìu thế?
Gấu đáp:
– Ấy, nói thì vẫn dễ! Trong hang bác cáo có một con vật hung dữ có đôi mắt sáng đỏ như lửa. Con quái ấy ngồi lì trong hang, chúng tôi không làm sao đuổi được nó ra.
Ong đáp:
– Nghe bác nói mà tôi thấy thương, bác gấu ạ. Thực ra tôi chỉ là một con vật bé nhỏ mà các bác không thèm để ý đến, nhưng tôi tin rằng tôi có thể giúp hai bác được.
Ong bay ngay vào hang cáo, đậu trên chiếc đầu trọc lóc của dê, chích cho dê một mũi nên thân làm dê giật nảy người lên, nhảy vọt ra khỏi hang và kêu: “Be… be!.” Dê chạy thục mạng. Từ đó chẳng ai biết số phận của nó ra sao nữa.
37. Chú bé tí hon
Xưa có một bác nông dân nghèo, tối tối bác thường ngồi bên lò sưởi, gẩy than cho lửa cháy, và bác gái ngồi xe chỉ. Một hôm bác nói với vợ:
– Vợ chồng mình hiếm hoi, không có con nên thật là buồn. Nhà mình lạnh ngắt, còn các nhà láng giềng thì thật là vui vẻ, nhộn nhịp.
Bác gái thở dài đáp:
– Ờ, giá chỉ có một đứa duy nhất, dù nó có thật bé nhỏ như ngón tay cái đi chăng nữa tôi cũng thỏa lòng. Chắc vợ chồng mình sẽ yêu quí nó lắm nhỉ.
Được ít lâu, người vợ ốm nghén, và bảy tháng sau sinh một đứa con trai đầy đủ mặt mũi, chân tay nhưng chỉ bằng ngón tay cái. Hai vợ chồng bảo nhau:
– Thật đúng như lời ước nguyện! Nó chắc chắn sẽ là đứa con cưng của vợ chồng mình.
Vì nó bé chỉ bằng ngón tay nên họ đặt tên nó là Tí Hon. Tuy hai bác cho nó ăn đầy đủ, nhưng đứa bé vẫn chẳng lớn lên được tí nào, cứ nhỏ xíu như lúc mới sinh. Được cái mắt nó sáng, đầy vẻ thông minh. Chẳng bao lâu nó trở thành một đứa trẻ khôn ngoan, khéo léo, gì cũng bắt chước làm được.
Một hôm, bác nông dân chuẩn bị vào rừng đốn củi, bác lẩm bẩm một mình:
– Giá lát nữa có người đánh xe hộ ta thì thích quá!
Tí Hon bèn thưa rằng:
– Cha ơi, con có thể đánh xe vào rừng, cha cứ tin ở con, đúng giờ hẹn là xe đã có ở trong rừng.
Cha cười và nói:
– Làm sao mà làm được! Con bé tí xíu, làm sao mà cầm nổi cương ngựa?
– Không sao, cha ạ. Mẹ sẽ thắng ngựa vào xe cho con. Con sẽ ngồi trong tai ngựa; nghe tiếng con thúc, ngựa sẽ chạy.
Cha nói:
– Được, ta cứ thử một lần xem sao!
Đến giờ mẹ thắng ngựa vào xe và đặt Tí Hon vào tai ngựa. Tí Hon thét: “Tắc tắc! Hây hây!” cho ngựa chạy. Thế là ngựa chạy băng băng như có người đánh xe cầm cương. Xe cứ đúng hướng chạy vào rừng. Khi xe rẽ ở một chỗ ngoặt và Tí Hon đang thét: “Hây, hây” thì cũng vừa lúc đó có hai người đi tới.
Một người nói:
– Lạ chưa kìa! Chỉ nghe thấy tiếng, không thấy người đánh xe mà xe cứ đi. Thật là quái lạ.
Người kia nói:
– Ừ, mà cũng lạ đời thật, ta thử đi xem xe đỗ ở chỗ nào.
Xe chạy thẳng một mạch vào rừng, rồi dừng lại đúng chỗ có củi đã để sẵn.
Thoáng nhìn thấy cha, Tí Hon đã gọi:
– Cha ơi, cha thấy chưa, con đã đưa xe đến đây, giờ cha bế con xuống đi.
Cha chạy đến, tay trái nắm cương ngựa, tay phải nhấc con trai Tí Hon ra khỏi tai ngựa. Tí Hon vui vẻ ngồi lên một cọng rơm.
Trông thấy Tí Hon, hai người lạ mặt sửng sốt không nói được nên lời. Một người níu tay bạn ra một chỗ rồi nói:
– Này anh bạn, nếu ta đem thằng nhóc con tí xíu kia đi làm trò ở tỉnh lớn chắc sẽ phát tài lắm. Hay ta mua nó đi!
Hai người liền đến chỗ bác nông dân và nói:
– Ông bán cho chúng tôi thằng bé tí xíu này, chúng tôi sẽ chăm sóc nó cẩn thận.
Người cha đáp:
– Tôi không bán nó. Nó là đứa con cưng của tôi. Bạc vàng trên cả thế gian này đối với tôi cũng không bằng nó.
Nghe thấy hai người hỏi mua, Tí Hon níu quần cha, leo lên vai, nói thầm vào tai:
– Cha ơi, cha cứ bán con đi, thế nào rồi con cũng về nhà được.
Nghe lời con, người cha bán con cho hai người kia lấy một món tiền lớn.
Hai người kia hỏi Tí Hon:
– Mày muốn ngồi ở đâu?
– Có gì đâu, cứ đặt cháu lên vành mũ của các bác. Ở trên ấy cháu có thể đi dạo chơi, ngắm phong cảnh, cháu không ngã đâu mà sợ.
Đúng như nguyện vọng của Tí Hon, một người đặt nó lên vành mũ. Sau khi Tí Hon đã chào tạm biệt cha, hai người mang nó đi theo. Họ đi mãi, đến khi trời xâm xẩm tối thì Tí Hon nói:
– Nhấc cháu xuống đất một lát với, cháu có việc cần lắm.
Người mang nó trên mũ nói:
– Cứ việc ở trên ấy, bác sẽ chẳng nói gì về chuyện ấy đâu. Thỉnh thoảng chim vẫn “bĩnh” ở trên ấy đấy mà.
Tí Hon nói:
– Không mà, cháu cũng biết cư xử thế nào cho phải, bác cho cháu xuống mau mau đi!
Người ấy nhấc mũ, đặt Tí Hon xuống ruộng gần vệ đường. Xuống tới đất, Tí Hon chạy lẩn ngay vào giữa những tảng đất. Bỗng nhiên nó nhìn thấy một cái hang chuột, nó chui luôn vào đó. Rồi còn vẫy gọi, cười chế nhạo hai người kia:
– Thôi, xin chào hai ông, hai ông về với nhau nhé!
Hai người lấy gậy chọc vào hang chuột để bắt nó, nhưng đúng là mất công vô ích vì Tí Hon cứ bò sâu mãi trong lòng đất. Trời cứ mỗi lúc một tối hơn, hai người bực mình, đành phải bỏ về tay không.
Khi hai người đã đi xa, lúc đó Tí Hon mới chui ở hang từ trong lòng đất ra. Nó nghĩ bụng:
– Đi trong đêm tối ở giữa cánh đồng thì thật là nguy hiểm, vỡ đầu, gãy cẳng như chơi.
May sao Tí Hon lại vấp phải một cái vỏ sên rỗng. Tí Hon nói:
– Lạy chúa! Đêm nay con có chỗ ngủ yên rồi.
Vừa mới chợp mắt được một lúc thì nó nghe thấy có tiếng hai người đi qua. Một người nói:
– Chúng mình phải làm thế nào để cậy được cửa mà ăn trộm vàng bạc của lão cha xứ giàu sụ ấy nhỉ?
Tí Hon chen vào:
– Để tôi bày mưu cho!
Một tên trộm hốt hoảng nói:
– Cái gì thế nhỉ? Tao vừa nghe thấy có tiếng người nói.
Chúng dừng lại, lắng tai nghe. Tí Hon lại nói:
– Các bác đem tôi đi theo thì tôi sẽ giúp cho.
– Nhưng mày ở chỗ nào?
Tí Hon đáp:
– Các bác cứ tìm ở dưới đất và lưu ý chỗ nào có tiếng nói vọng ra.
Bọn kẻ trộm tìm mãi mới thấy chỗ Tí Hon. Chúng nhấc nó lên hỏi:
– Này, thằng nhãi con, mày giúp chúng ta được việc gì?
Tí Hon đáp:
– Rồi các bác coi, cháu sẽ luồn qua chấn song cửa sổ để vào buồng cha xứ. Các bác muốn lấy thứ gì, cháu chuyển cho thứ đó.
– Được, chúng tao muốn coi xem tài mày ra sao.
Khi kẻ trộm tới nhà cha xứ, Tí Hon luồn chui ngay vào buồng, rồi ráng hết sức hỏi thật to:
– Các bác muốn gì nào? Các bác có muốn khoắng sạch buồng này không?
Hai tên trộm sợ hãi bảo nó:
– Này, nói khe khẽ thôi, không thì chủ nhà thức dậy bây giờ!
Nhưng Tí Hon tảng lờ làm như chẳng hiểu gì cả, lại lớn tiếng hỏi:
– Các bác muốn gì nào? Các bác có muốn khoắng sạch buồng này không?
Cô đầu bếp ngủ ở buồng bên cạnh nghe thấy liền ngồi nhổm dậy, lắng tai nghe. Bọn kẻ trộm hốt hoảng nên vội lảng ra xa, nhưng rồi chúng trấn tĩnh lại, cho là Tí Hon giỡn bọn chúng. Chúng lại quay vào, khẽ gọi Tí Hon:
– Này, đừng có giỡn nữa! Chuyển ra cho bọn tao chút ít đi!
Tí Hon lấy hết sức hét:
– Cháu chuyển cho các bác tất cả nhé! Giơ cả hai tay ra mà đón.
Cô hầu nghe thấy rõ mồn một là có tiếng người la, cô bước ra khỏi giường, lò mò đi ra cửa. Bọn ăn trộm bỏ chạy, chúng chạy bán sống bán chết như có ma đuổi sát ở đằng sau. Cô hầu nghe ngóng lại không thấy gì cả, đi vào nhà thắp nến. Khi cô cầm nến vào buồng thì Tí Hon đã lẻn trốn được ra ngoài đồng cỏ. Cô lục soát khắp các xó xỉnh nhưng cũng chẳng thấy gì, cô tưởng mình mê ngủ nên lại vào giường ngủ tiếp.
Tí Hon leo quanh đống cỏ khô, cuối cùng tìm được một chỗ ấm cúng để ngủ, nó tính ngủ đến sáng mai thì về nhà với cha mẹ. Tí Hon định thế này nhưng chuyện xảy ra lại không như thế. Chà, chuyện đời thật lắm nỗi gian truân!
Trời mới tang tảng sáng, cô hầu đã ra khỏi giường, đi lấy cỏ khô cho súc vật ăn. Cô lấy một ôm cỏ, lại lấy ngay đúng chỗ Tí Hon ngủ. Tí Hon ngủ say quá nên không hề hay biết, mãi đến khi bò đã ngoạm vào mồm, Tí Hon mới thức giấc. Nó kêu lên:
– Trời ơi, sao tôi lại ở trong cái cối nghiền nắm thế này!
Nhưng ngay sau đó, Tí Hon biết được mình đang ở đâu. Nó cố tránh cho khỏi bị răng bò nghiền thì lại bị nuốt trôi vào dạ dày. Nó nghĩ bụng:
– Gian nhà này người ta quên không làm cửa sổ, ánh nắng mặt trời không rọi chiếu vào được, đã thế lại chẳng có đèn đóm gì cả.
Ở đây Tí Hon thấy khó chịu, bực nhất là cỏ cứ tuôn vào mãi, chỗ ở ngày càng chật hẹp. Trong lúc hoảng sợ, nó thét lớn:
– Đừng tuôn cỏ tươi vào chỗ tôi nữa! Đừng tuôn cỏ tươi vào chỗ tôi nữa!
Cô hầu đang vắt sữa bò, cô không trông thấy một ai mà lại nghe thấy tiếng nói y hệt như tiếng đêm qua. Cô đang ngồi trên ghế, vì sợ quá mà ngã lăn ra làm đổ hết cả sữa.
Cô hầu vội vã chạy lên tìm cha xứ và mách:
– Trời ơi, con bò nó biết nói cha ạ.
Cha xứ nói:
– Cô có điên không đấy?
Rồi cha xuống chuồng bò xem thực hư như thế nào. Cha vừa mới bước xuống chuồng Tí Hon lại la:
– Đừng tuồn cỏ tươi vào chỗ tôi nữa! Đừng tuồn cỏ tươi vào chỗ tôi nữa!
Lúc đó, cha xứ cũng đâm hoảng. Cha cho là bò bị quỷ ám và sai giết bò. Mổ bò xong, người ta quẳng chiếc dạ dày ra đống phân, mà Tí Hon lại ở trong dạ dày. Loay hoay mãi, Tí Hon mới thò được đầu ra thì lại gặp ngay chuyện chẳng lành: một con chó sói đang đói bụng chạy ngay lại, nuốt chửng luôn cả chiếc dạ dày trong đó có Tí Hon. Nhưng Tí Hon vẫn không nản chí, nó nghĩ chắc mình có thể nói với sói được. Rồi từ trong bụng sói, Tí Hon nói vọng ra:
– Anh bạn Sói thân mến, tôi muốn mách cho bạn chỗ có mồi ngon tuyệt vời.
Sói hỏi:
– Ở đâu có thứ ấy hở?
Tí Hon tả thật cặn kẽ nơi cha mẹ mình đang ở.
– Cậu cứ chui qua cổng nhà thì vào được trong bếp, ở đó cậu sẽ tha hồ chén bánh ngọt, mỡ, xúc xích.
Chẳng đợi Tí Hon nói tới lần thứ hai, đêm đến, Sói chui qua cổng để vào bếp và đánh chén một bữa thỏa thuê. Khi đã no căng bụng rồi, Sói tính bài chuồn, nhưng giờ đây bụng Sói đã căng phồng lên, chui ra bằng đường cũ không lọt nữa. Tí Hon đã tính trước đến nước đó. Ở trong bụng Sói, Tí Hon vung tay vung chân la lối om sòm lên. Sói bảo:
– Mày có im đi không nào! Mày làm ầm, mọi người thức dậy bây giờ.
Tí Hon đáp:
– Ui chà, cậu đã ăn uống no nên rồi, giờ phải để cho tớ vui đùa một chút chứ!
Rồi Tí Hon lại lấy hết sức ra mà la hét. Cuối cùng, cha mẹ Tí Hon nghe tiếng la lối om sòm nên thức giấc, chạy xuống bếp, nhìn qua kẽ hở thì thấy Sói đang ở trong đó. Ông chạy đi lấy rìu, bà chạy đi lấy hái.
Lúc vào, chồng nói:
– Bà đứng sau tôi, nếu tôi choảng một cái mà nó chưa chết ngay thì bà bổ hái vào bụng nó mà rạch ra.
Tí Hon nghe thấy giọng nói của cha, nó reo lên:
– Cha kính yêu, con đang ở trong này, con ở trong bụng Sói.
Mừng quýnh lên, người cha nói:
– Lạy Chúa! Đứa con cưng nhất của chúng tôi lại về.
Rồi bác bảo vợ vứt hái đi để Tí Hon khỏi bị thương. Đoạn bác lấy đà, giơ rìu lên giáng cho Sói một nhát trúng đầu, Sói lăn ra chết tươi. Hai vợ chồng bác lấy dao kéo mổ bụng Sói, lôi Tí Hon ra.
Bác trai nói:
– Trời, cha mẹ ở nhà lo cho con quá!
– Thưa cha, con đã đi nhiều nơi trên thế giới, lạy Chúa, giờ con lại được thở không khí trong lành!
– Thế con đã đi những đâu?
– Chà, cha ơi, con đã từng ở trong hang chuột, trong dạ dày bò, trong ruột sói, giờ con đang ở bên cha mẹ.
Cha mẹ ân cần ôm hôn đứa con cưng của mình, rồi nói:
– Từ nay, dù có được tất cả của cải trên thế gian này, cha mẹ cũng chẳng bán con nữa đâu.
Rồi cha mẹ cho Tí Hon ăn uống, đo quần áo mới, vì trong chuyến ngao du kia, quần áo của Tí Hon đã sờn rách hết cả.
38. Đám cưới chị cáo
ĐÁM CƯỚI CHỊ CÁ
Ngày xửa ngày xưa, có con cáo già có chín đuôi, nó nghĩ, mình phải thử xem vợ mình có chung thủy không? Nó nằm sóng xoài dưới gầm ghế dài, nom như đã chết từ đời thuở nào ấy. Vợ cáo buồn rầu đóng cửa buồng mình lại, ở buồng ngoài chỉ còn chị mèo người ở đang đứng bên bếp nấu ăn.
Chuyện cáo già chín đuôi chết đã lan tin khắp nơi.
Một hôm, nghe tiếng gõ cửa, mèo ra mở cửa, thấy mèo, chàng cáo liền nói:
À, chào chị mèo.
Bà chủ ở nhà,
Bà ngủ hay thức?
Mèo đáp:
Bà có ngủ đâu,
Tôi đang mải nấu,
Ông từ đâu tới,
Tới có việc chi?
Chàng cáo nói:
Cám ơn chị mèo.
Xin chị cho biết,
Bà cáo làm chi?
Mèo đáp:
Ông cáo về trời,
Để nơi trần gian,
Một mình bà chủ
Ủ rũ trong phòng.
– Này chị mèo ơi,
Xin chị giúp với,
tôi tới nơi đây,
kết bầy, kết bạn.
– Thế cũng được thôi,
để tôi vào hỏi.
Mèo chạy tung tăng, lăng xăng gõ hỏi:
Bà cáo, bà ơi,
Có người tới chơi.
– Trời ơi, gì đó?
Có khách tới nhà?
– Có người tới đây,
Kết bầy, kết bạn.
– Này mèo thân mến,
Người đến nom sao?
Có hao hao giống,
ông cáo chín đuôi?
Mèo đáp:
Ông khách nhà mình.
Hình như mỗi “một.”
– Thế thì thôi nhé,
để ông đi, nghe.
Khách này vừa mới đi khỏi, lại có khách khác tới gõ cửa. Chàng cáo này có hai đuôi, nhưng hai đuôi thì ít quá, rồi lại có chàng ba đuôi, bốn đuôi… tám đuôi tới, nhưng tất cả đều thất vọng ra đi. Chàng cáo cuối cùng cũng có chín đuôi như cáo già. Quả phụ nghe thế, reo vui bảo mèo:
Mở ngay cửa nhà,
tống cáo già ra!
Đúng lúc đám cưới bắt đầu cử hành thì cáo già vùng dậy, vung gậy đập tứ tung, đuổi đánh, tống khứ tất cả ra ngoài đường.
CHỊ CÁO KÉN CHỒNG
Khi cáo già đực qua đời thì sói tới dạm hỏi. Nó gõ cửa, chị mèo người ở ra mở cửa. Cáo chào mèo và hỏi:
Xin chào chị mèo Vui Tính,
Sao chị ngồi đây chỉ có một mình,
Chị tính làm việc chi vậy?
Mèo đáp:
Cho bánh vào sữa để ăn,
Xin Ông cho biết ý Ông thế nào?
Sói hỏi:
– Cám ơn chị mèo, chị cáo có nhà không?
Mèo nói:
Cáo ngồi ở buồng bên kia,
ngồi khóc nỉ non,
khóc vì khốn khó,
bởi ông cáo già,
đã qua đời rồi.
Sói nói:
Muốn đi bước nữa,
Xin xuống đây đi.
Mèo chạy đi, gõ cửa gọi:
Này chị cáo ơi,
Khách tới chơi hỏi.
muốn đi bước nữa,
thì xuống tiếp đi.
Cáo hỏi:
Ông khách quần đỏ,
Có mõm nhọn không?
Mèo đáp:
– Không, ông ấy không phải.
Sói đi khỏi thì lần lượt chó, hươu, thỏ, gấu, sư tử và các loài thú khác tới. Nhưng chẳng có con nào có được những đức tính như ông cáo, vì vậy mèo cứ phải đón và tiễn khách hoài. Cuối cùng có chú cáo non tới. Chị cáo hỏi:
Ông khách quần đỏ,
mõm nhọn phải không?
Mèo đáp:
– Vâng, đúng thế ạ.
Cáo nói:
– Mời khách lên đi.
Rồi cáo sai mèo chuẩn bị đám cưới.
Quét sạch cửa nhà,
Ném lão cáo già,
qua cửa sổ kia
Mang chuột ra đãi,
Chủ khách cùng ăn.
Hôn lễ được cử hành, ăn uống, vui nhảy. Nến hôn lễ chưa tan, mọi người còn đang vui nhảy đấy.
39. Những người tí hon
HAI CHÚ TÍ HON
Xưa có bác thợ giày, chẳng tội tình gì mà làm ăn cứ ngày một sa sút, gia sản cuối cùng còn lại là miếng da chỉ vừa đủ đóng một đôi giày. Tối bác ngồi đo cắt, định sáng hôm sau sẽ khâu thành giày. Vốn tính phúc hậu, cắt xong, bác yên trí lên giường, mới đặt mình xuống bác đã ngáy o o.
Sáng hôm sau, bác tính ngồi vào chỗ làm thì thấy đôi giày đã đóng xong để ở trên mặt bàn. Bác lấy làm lạ, chẳng hiểu tại sao nó lại làm như vậy.
Cầm giày lên ngắm bác thấy giày đóng thật đẹp, đường kim mũi chỉ cẩn thận, sạch sẽ, không lỗi chỗ nào, sạch đẹp như một công trình của thợ cả.
Ít lâu sau có người đến hỏi mua. Khách hàng thấy đôi giày đẹp quá nên trả đắt hơn giá bình thường. Bác thợ giày lấy tiền ấy mua được miếng da đủ đóng hai đôi giày. Tối bác ngồi đo cắt, định để sáng hôm sau tỉnh táo sẽ khâu. Nhưng cũng giống lần trước, bác không phải mất công khâu, lúc bác dậy thì cả hai đôi giày đã xong.
Giày đẹp nên chẳng thiếu gì người muốn mua, họ trả bác nhiều tiền đến nỗi bác đủ tiền mua da đóng bốn đôi giày khác. Tối cắt da xong lên giường ngủ, sáng hôm sau bác lại thấy cả bốn đôi đã xong.
Câu chuyện cứ như thế tiếp diễn, tối bác đo cắt thì sáng sau thành giày. Chẳng mấy chốc bác trở nên khấm khá, cuối cùng trở thành một người giàu có.
Một buổi tối, sắp đến ngày Chúa giáng sinh, bác lại ngồi cắt giày. Trước lúc đi ngủ bác nói với vợ:
– Mình nghĩ thế nào, hôm nay ta thức đêm rình xem ai đã giúp mình nhiệt tình như vậy.
Bác gái cũng đồng tình. Hai người che đèn rồi lẩn vào góc nhà, nấp sau đống quần áo treo ở đó để rình.
Đúng nửa đêm có hai người tí hon, nom rất dễ thương, mình trần như nhộng đến ngồi bên bàn thợ giày. Họ kéo đống da đã cắt lại, rồi hối hả gò, khâu, mấy ngón tay nhỏ xíu đưa kim tuốt chỉ nhanh thoăn thoắt làm cho bác thợ giày phải ngạc nhiên, trố mắt ra mà nhìn. Hai người tí hon cặm cụi mải miết làm việc cho tới khi khâu xong mới ngừng tay, để giày lên bàn rồi nhảy đi mất hút.
Sáng hôm sau bác gái bảo chồng:
– Té ra mấy chú tí hon đã làm giúp nhà mình. Chúng ta phải tạ ơn mấy chú ấy cho phải lẽ. Các chú ấy thật là tội nghiệp, đi đi về về như thế mà manh áo che thân chẳng có, đành chịu rét mướt… Ông có biết không, hay để tôi khâu cho mỗi chú một cái áo sơ mi, một cái áo khoác, một cái áo vét và một cái quần nhé. Tôi đan cho mỗi chú một đôi bít tất nữa. Còn mình hãy đóng cho mỗi chú một đôi giày nhỏ.
Bác trai nói:
– Thế thì tôi ưng quá đi chứ!
Đến tối thì quà tặng làm xong. Hai người để quà tặng lên bàn, chỗ mọi ngày vẫn xếp da giày đã cắt, rồi lại nấp rình xem liệu hai chú tí hon sẽ làm gì với đống quà ấy. Đúng nửa đêm lại chú tí hon nhảy vào, định bắt tay ngay vào việc. Nhưng các chú chẳng thấy da cắt sẵn mà chỉ thấy chồng áo quần nhỏ nhắn xinh xắn. Thoạt đầu hai chú hết sức ngạc nhiên, nhưng rồi hai chú lộ vẻ hết sức vui mừng. Chỉ trong nháy mắt các chú đã mặc xong quần áo, xỏ giày. Thích quá, các chú lấy tay vuốt vuốt quần áo và hát:
Diện vào lịch sự hẳn lên,
Hỏi còn ai bảo là anh thợ giày.
Hai chú bước thấp bước cao, nhảy múa vui mừng, các chú nhảy cả lên bàn, lên ghế. Sau đó vừa đi vừa nhảy múa kéo nhau ra cửa biến mất. Từ hôm ấy không thấy các chú lại nữa. Còn bác thợ giày sống sung túc, có đồng ra đồng vào, suốt đời bác mọi việc đều trôi chảy tốt đẹp.
CÔ NGƯỜI Ở ĐI ĐỠ ĐẺ
Ngày xửa ngày xưa có một cô người ở nghèo, cô rất siêng năng và sạch sẽ. Ngày nào cũng như ngày nào, quét xong nhà cô hốt rác đổ ra đống rác to trước nhà.
Có lần, vào buổi sáng lúc cô đag chuẩn bị làm việc thì thấy một bức thư. Vì không biết đọc, cô dựng chổi vào góc nhà, rồi đưa thư nhờ chủ nhà đọc cho nghe.
Đó là bức thư của những người Tí Hon, họ mời cô gái xuống đỡ đẻ. Cô gái phân vân không biết nên như thế nào. Nghe mọi người dỗ dành và khuyên, không nên từ chối những chuyện như vậy, cô gái đồng ý.
Có ba người Tí Hon đến đưa cô gái tới một hang núi, nơi người Tí Hon sống. Mọi đồ vật ở đây đều nhỏ xinh, đẹp tuyệt vời chẳng còn chê vào đâu được. Giường của người mẹ làm bằng gỗ mun đen bóng có khảm ngọc trai, chăn đắp có thêu chỉ bằng vàng, chiếc nôi làm bằng ngà voi, bồn tắm bằng vàng ròng.
Những người Tí Hon mời cô gái ở lại với họ ba ngày. Cô sống sung sướng và vui vẻ. Những người Tí Hon rất nuông chiều cô.
Thời gian trôi qua, lúc chia tay những người Tí Hon tặng cô rất nhiều vàng và dẫn cô ra khỏi núi.
Trở về tới nhà, cô gái muốn bắt tay ngay vào việc. Cô cầm chổi quét nhà. Giữa lúc đó có người từ trong buồng ra, hỏi cô là ai mà lại quét nhà. Ba ngày cô ở nơi những người Tí Hon trong hang núi chính là bảy năm. Chủ cũ của cô đã mất trong thời gian cô đi vắng.
ĐỨA TRẺ DỊ DẠNG
Có một bà mẹ bị những người Tí Hon bế đi mất đứa con yêu quý khỏi nôi và thay vào đó là một đứa bé đầu to, hai mắt mở trừng trừng khờ dại, nó chẳng biết gì ngoài ăn và uống.
Bà mẹ không biết làm sao, nên chạy sang hàng xóm hỏi. Người hàng xóm khuyên nên nấu nước bằng hai cái vỏ trứng, khi đặt vỏ trứng lên bếp thì đứa trẻ dị dạng sẽ cười. Nếu nó cười có nghĩa là xong chuyện.
Bà mẹ làm đúng mọi chuyện như lời hàng xóm nói. Khi vỏ trứng được đặt lên bếp để đun nước thì đứa trẻ dị dạng kia nói:
– Ta già như cánh rừng kia mà chưa bao giờ thấy cảnh người đun nước bằng vỏ trứng.
Và nó phá lên cười. Cùng lúc đó, rất đông người tí hon xuất hiện, và bồng nhấc đứa trẻ dị dạng đi mất.
40. Chàng rể tương lai
Ngày xưa có một người thợ xay bột, ông có một người con gái xinh đẹp và mong gả cô cho một người khá giả để đỡ khổ. Ông nghĩ:
– Nếu có người đàng hoàng tới hỏi xin cưới thì mình sẽ gả cho.
Sau đó một thời gian thì có người tới nhà xin làm rể, nom chàng hình như là người giàu có nên ông bố cũng chẳng hỏi han nhiều và bằng lòng gả con gái cho chàng.
Người con gái thì không thương yêu chàng mặn mà như thường thấy ở những người đang yêu nhau. Nàng không thấy thương nhớ chàng và thường có cảm giác ghê sợ ở nơi chàng. Có lần chàng trai nói:
– Em là vợ chưa cưới của anh, sao chẳng thấy em tới thăm anh lần nào?
Cô gái đáp:
– Em không biết nhà anh ở đâu?
Chàng trai liền nói:
– Nhà anh ở trong rừng sâu ấy.
Cô gái viện cớ đường tới đó khó mà tìm ra. Chàng trai nói:
– Chủ nhật tới em đến anh nhé, anh đã hẹn mời khách đến chơi. Để em thấy được đường tới nhà, anh trải tro bếp suốt dọc đường nhà anh.
Đến chủ nhật khi sắp lên đường tới nhà chàng trai, nàng cảm thấy trong lòng không yên nên mang theo hai túi đầy các loại đỗ. Đi tới cửa rừng thì cô gái thấy có tro bếp cô cứ thế đi theo, nhưng cô rắc đỗ hai bên đường. Đi gần hết ngày cô mới tới nơi, ngôi nhà ở ngay giữa rừng sâu, nó ẩn trong khu rừng rậm rạp nhất, cô gái thấy ngôi nhà sao mà tối tăm và đầy bí ẩn.
Cô bước vào nhà, nhưng chẳng thấy một ai, chỉ thấy căn nhà bao trùm bởi bầu không khí yên lặng, bỗng có giọng nói:
Hãy quay lại, hãy quay lại, cô dâu trẻ,
Cô đang ở trong căn nhà của kẻ giết người.
Cô gái ngước nhìn quanh thì thấy giọng nói là của con chim ở trong lồng chim treo trên tường. Chim lại nói:
Hãy quay lại, hãy quay lại, cô dâu trẻ,
Cô đang ở trong căn nhà của kẻ giết người.
Cô dâu xinh đẹp đi hết buồng này sang buồng khác trong căn nhà nhưng chẳng thấy bóng dáng một ai. Cuối cùng cô tới tầng hầm, có một bà già lụ khụ ngồi ở đó, đầu lắc lư.
Cô gái nói:
– Thưa bà, chồng chưa cưới của cháu có ở đây không ạ?
Bà già đáp:
– Trời, con thật đáng thương, con có biết con đang ở đâu không? Con đang ở trong hang ổ của kẻ giết người! Con nghĩ mình là cô dâu, và sắp làm lễ cưới. Con sẽ làm lễ cưới với cái chết. Con có nhìn thấy không, ta đang đun một nồi nước to tướng. Nếu chúng tóm bắt được con, chúng sẽ chặt con ra từng miếng mà chẳng hề động lòng thương, chúng quăng tất cả cho vào nồi nấu và ngốn nghiến ăn thịt con. Chúng là quân ăn thịt người. Nếu già không thương hại con và cứu con thì con không sao thoát khỏi bàn tay chúng.
Bà dẫn cô tới sau một cái thùng lớn và nói:
– Con hãy ngồi im như chuột, không được động đậy nhúc nhích, bằng không chuyện đó sẽ xảy ra với con. Đợi lúc bọn cướp ngủ say, ta cùng con chạy trốn khỏi nơi đây. Ta đợi giờ phúc này từ lâu.
Bà vừa nói xong thì bọn cướp về nhà. Chúng mang một cô gái trẻ khác về nhà. Chúng đã uống rượu say nên chẳng để ý gì đến tiếng la hét, cầu xin của cô gái. Chúng đưa cho cô ba ly rượu: một ly rượu trắng, một ly rượu đỏ, một ly rượu vàng. Uống xong ba ly rượu, trái tim cô gái sẽ vỡ ra. Ngay sau đó, chúng lột quần áo cô, chặt người cô ra từng khúc và rắc muối lên. Cô gái đáng thương nhìn thấy cảnh tượng ấy mà rùng mình, run sợ. Có một tên cướp phát hiện thấy ngón tay của cô gái đeo một cái nhẫn vàng, để cho nhanh, nó liền lấy rìu chặt ngón tay, ngón tay bị chặt bắn lên rơi vào chỗ thùng rượu, nơi cô gái đang ẩn núp. Ngón tay rơi ngay vào lòng cô gái. Tên cướp lấy đèn soi tìm, nhưng không thấy. Một tên khác bảo:
– Mày đã tìm ở đằng sau thùng rượu chưa?
Bà già nói:
– Nào, đi ăn. Sáng mai tìm cũng được. Ngón tay có biết chạy đâu mà sợ.
Cả bọn đồng thanh nói:
– Bà già nói đúng đấy!
Rồi cả bọn xúm vào ăn. Bà già nhỏ thuốc ngủ vào rượu nên chỉ lúc sau là cả bọn lăn ra ngủ khắp nhà và ngáy.
Biết chúng ngủ đã say, cô gái ra khỏi thùng rượu, rón rén bước qua chỗ bọn cướp đang ngủ, cô chỉ sợ nhỡ chân đánh thức chúng dậy. Nhờ trời, cô cũng bước được ra khỏi nơi chúng ngủ. Bà già cùng với cô bước ra khỏi cửa, hai người chạy thật nhanh khỏi ổ giết người.
Tro rắc dọc đường đã bị gió thổi bay hết. Những hạt đỗ rắc nay đã thành cây. Dưới ánh trăng, nhờ những cây đỗ mà hai người biết được đường ra. Họ đi suốt đêm, tang tảng sáng, hai người về tới chỗ cối xay gió. Cô gái kể cho cha nghe những chuyện mắt thấy tai nghe.
Đến ngày cưới, chú rễ tương lai đến. Ông bố cô gái mời tất cả bà con họ hàng tới dự.
Khi mọi người ngồi đông đủ thì có người nhắc hãy kể cho mọi người nghe sự tình hai người. Cô dâu ngồi im, không nói năng gì. Chú rể đứng dậy bảo:
– Em thân yêu của anh, em hãy kể đi!
Cô gái đáp:
– Thế em kể chuyện những gì em thấy trong giấc mộng nhé. Em đi một mình trong rừng, cuối cùng tới một căn nhà không có một bóng người. Trong lồng treo trên tường nhà có một con chim, nó bảo:
“Hãy quay lại, hãy quay lại, cô dâu trẻ,
Cô đang ở trong căn nhà của kẻ giết người!.”
Và nó lặp lại câu nói ấy lần nữa. Anh yêu quí, em thấy trong mơ như vậy. Rồi em đi hết buồng này sang buồng khác, buồng nào cũng không người, không khó nơi đây có vẻ đầy bí ẩn. Cuối cùng em tới tầng hầm. Có một bà già lụ khụ ngồi ở đó, đầu lắc lư. Em hỏi bà già:
– Thưa bà, chồng chưa cưới của cháu có ở đây không?
Bà già đáp:
– Trời, con thật đáng thươngm con có biết con đang ở đâu không? Con đang ở trong hang ổ của kẻ giết người. Chúng sẽ chặt con ra từng khúc, rồi đem nấu ăn.
Anh yêu quí, em thấy trong mơ như vậy. Bà già giấu em ở đằng sau một cái thùng lớn. Vừa mới núp xong thì bọn chúng về. Chúng mang một cô gái trẻ khác về nhà. Chúng đưa cho cô ba loại rượu, trắng, đỏ, vàng. Rượu làm tim cô vỡ ra. Anh yêu quí, em thấy trong mơ như vậy. Ngay sau đó chúng lột quần áo cô, chặt người cô ra từng khúc và rắc muối lên. Anh yêu quí, em thấy trong mơ như vậy. Có một tên cướp phát hiện thấy ngón tay của cô gái đeo một chiếc nhẫn vàng, để cho nhanh, nó liền lấy rìu chặt ngón tay, ngón tay bị chặt bắn lên rơi vào chỗ thùng rượu và rơi ngay vào lòng em. Và đây là ngón tay có chiếc nhẫn.
Cô giơ ngón tay ra cho mọi người ở đó xem.
Tên cướp sợ hãi tới mức mặt nó trắng bệch, nó đứng bật dậy, định chạy trốn. Nhưng mọi người túm hắn lại và đem nộp tòa án. Hắn và đồng bọn đều bị xử tử.
41. Ông korb’s
Ngày xửa ngày xưa có một con gà trống và một con gà mái rủ nhau đi chu du thiên hạ. Gà trống đóng một chiếc xe thật đẹp, bốn bánh xe sơn màu đỏ và do bốn con chuột kéo. Gà mái ngồi cạnh gà trống và cả hai lên đường. Đi được một lát thì gặp mèo, mèo hỏi:
– Các bạn đi đâu đó?
Gà trống đáp:
Chúng tôi chẳng đi đâu xa.
Chúng tôi định đến thăm nhà ông anh.
Mèo nói:
– Thế thì cho tôi đi với.
Gà trống đáp:
– Cứ tự nhiên, mời anh bạn lên ngồi phía sau kẻo ngồi đằng trước té nhào thì sao.
Này anh lưu ý cho tôi,
Bánh xe đã đỏ đừng bôi thêm vào.
Xe chạy bon bon.
Bốn chuột lon ton.
Chúng tôi chẳng đi đâu xa,
Chúng tôi định đến thăm nhà ông anh.
Sau đó là hòn đá cối xay, rồi quả trứng, rồi đến vịt, kim gài đầu, cuối cùng là kim khâu, tất cả lên xe đi cùng. Đến được tới nơi thì ông Korb’s lại không có nhà. Chuột liền kéo xe đi thẳng vào nhà kho. Gà trống cùng với gà mái bay lên đậu sà nhà, mèo nằm cạnh lò sưởi, vịt ra đậu sà ngang bắc trên miệng giếng nước, trứng cuộn tròn trong khăn lau tay, kim gài đầu ẩn trong đệm ghế, kim khâu nhảy lên giường ẩn trong chiếc gối. Một lát sau thì ông Korb’s về nhà, ông lại bên lò để đốt lò sưởi, lập tức ông bị mèo ném tro đầy mặt, ông chạy như bay xuống bếp để lau mặt thì bị vịt phun nước đầy mặt. Ông giơ tay với khăn để lau mặt, trứng lăn xuống va vào trán vỡ làm đôi, lòng trứng dính đầy mặt làm cho hai mắt không làm sao mở ra được. Ông muốn ngồi nghỉ, vừa đặt đít lên ghế liền bị kim gài đầu đâm cho điếng người. Nổi cáu, ông lăn ra giường để nghỉ, vừa mới đặt lưng xuống gối đã bị kim khâu đâm cho, đau quá ông la toáng lên, chạy như điên ra phía cửa. Vừa mới chạy tới cửa thì cối đá lăn xuống rơi đúng người, ông Korb’s lăn ra chết thẳng cẳng.
Chắc chắn ông Korb’s phải là một người độc ác lắm nên mới bị như vậy.