Phu nhân vốn người nước Chiêm Thành, không có họ, tên là Mỵ Ê, vợ Vua Chiêm Thành là Sạ Đẩu.
Thời vua Lý Thái Tông, Sạ Đẩu thất lễ phiên thần vua thân hành nam chinh, Sạ Đẩu đem binh dàn ở sông Bố Chính mà chờ; sau rồi bị Vương giết, phu nhân Mỵ Ê bị bắt; đến sông Hoàng giang, phu nhân nghe Trung sứ phụng mệnh đòi đến hầu thuyền ngự; phu nhân phẫn uất vô cùng, lấy tấm chiên trắng tự quấn mình rồi nhảy xuống sông mà chết; mỗi khi sương sớm đêm trăng thường có những tiếng khóc ai oán, người trong nước nghe thấy mới lập đền miếu mà phụng tự.
Sau khi vua đi chơi sông Lý Nhân, ngồi trong thuyền rồng, thấy đền miếu ở bên sông, lấy làm lạ mới hỏi tả hữu, Tả hữu thưa rằng:
– Đó là đền Mỵ Ê phu nhân.
Vua cảm động bảo rằng:
– Quả có trinh liệt, thế nào cùng báo trẫm.
Đêm ấy đến canh ba, vua mộng thấy một người bận y phục Chiêm Thành, lạy hai lạy mà khóc rằng:
– Thiếp có nghe đạo người đàn bà là một mực theo chồng sống cùng giường, thác cùng huyệt, thủ tiết không ô nhục, huống chi Sạ Đẩu tuy không thể tranh tiên cùng Bệ hạ nhưng khí khái nam nhi cũng đã đắc ý một phương, thiếp vẫn đội sủng huệ; Sạ Đẩu vì lỗi đạo, Thượng đế giáng trách, mượn tay Bệ hạ để đến bây giờ quốc phá thân vong, lòng thiếp ngày đêm không quên việc đồ báo; một buổi sáng, may nhờ Bệ hạ sai Trung sứ đưa thiếp xuống tuyền đài, thiếp rất cảm ơn chứ nào có thuật gì mà xưng là linh, nói thêm nhàm tai Bệ hạ.
Nói đoạn bỗng bay lên không mà đi.
Vua kinh hãi tỉnh dậy, sai Thị thần đem rượu, giết sinh vật đến tế, phong làm Thân Chính Phu Nhân.
Qua đến niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, nhà Trần gia phong là Tá Lý Phu Nhân, đến năm Trùng Hưng thứ tư, gia phong hai chữ Trinh liệt, đến năm Hưng Long thứ hai mươi mốt, gia phong hai chữ Trực Mãnh để biểu dương cái tiết đoan trinh của phu nhân.