Mấy năm sau, Hồ Phỉ thân hình đã cao lớn, khí lực cũng mạnh mẽ, kiến thức cùng võ công ngày một tăng tiến. Bốn bể là nhà, chàng ung dung tự tại, đi đâu cũng làm điều nghĩa hiệp, cứu khốn phò nguy, không biết đã làm nên bao nhiêu chiến tích. Chàng tính tình hào sảng, Triệu Bán Sơn tặng cho hai trăm lạng vàng, chàng đã tiêu hết sạch sành sanh.
Đến một ngày kia, Hồ Phỉ nghe nói Quảng Đông là nơi trù phú náo nhiệt lại nhiều hào khách hiệp sĩ. Gặp lúc ung dung nhàn rỗi, chàng cưỡi con ngựa gầy xuyên qua Lĩnh Nam tiến tới.
Một hôm chàng đến trấn Phật Sơn thuộc tỉnh Quảng Đông. Phật Sơn cùng với Chu Tiên, Cảnh Đức, Hán Khẩu là bốn đại trấn trong thiên hạ. Cư dân nơi đây đều giàu có, sản vật lại phong phú nên thị trấn càng tấp nập. Hồ Phỉ tới thị trấn vào lúc giữa trưa, trong bụng đói ngấu, bỗng ngó thấy mé nam có tòa đại tửu lâu rộng ba gian, treo biển đề ba chữ “Anh hùng lâu” nên đỏ chữ vàng. Phía trong cửa sổ, tiếng đũa chén đụng nhau vang lên rổn rảng. Mùi rượu thơm thịt béo tỏa ra sực nức. Hồ Phỉ nghĩ bụng:
“Tấm biển tòa tửu lâu này thật là lạ.”
Chàng thò tay sờ trong mình chỉ còn được hơn trăm đồng tiền, bụng bảo dạ:
“Bữa nay không uống rượu được rồi, hãy ăn tạm một bát mì cho no bụng rồi tính”
Chàng liền buộc ngựa vào cọc trước tửu lâu toan đi thẳng lên lầu. Tiểu nhị thấy chàng quần áo cũ mèm liền lộ vẻ không thích, đưa tay ra chặn lại hỏi:
– Khách quan, trên lâu toàn chỗ khách sang. Khách quan không ngại đắt tiền ư?
Hồ Phỉ nghe nói, khí tức xông lên, bụng bảo dạ:
“Cái chiêu bài của các ngươi bảo đây là “Anh hùng lâu” mà lại đối với bằng hữu nghèo bằng thái độ chó má thế này. Ta không làm cho chúng một phen thất điên bát đảo thì Hồ Phỉ này uổng danh là đấng anh hùng.”
Chàng cười khanh khách đáp:
– Chỉ cần rượu ngon nhắm tốt, còn giá tiền không ngại.
Tửu bảo nửa tin nửa ngờ, đưa mắt nhìn chàng lên lầu. Bàn ghế trên lầu rất sạch sẽ. Thực khách toàn người ăn mặc sang trọng, mười người có đến chín là đại phú thương. Bọn tiểu nhị coi bộ dạng Hồ Phỉ biết chàng chẳng làm gì có tiền thưởng bọn chúng nên để chàng ngồi trơ hồi lâu vẫn không lại chào mời. Hồ Phỉ ngấm ngầm tìm cách gì thú vị để ăn không một bữa.
Đột nhiên ngoài đường phố nổi lên trận náo loạn. Một nữ nhân vừa cười hố hố vừa vỗ tay đi tới. Hồ Phỉ ngồi bên cửa sổ, đưa mắt nhìn ra đường thì thấy một phụ nhân đầu bù tóc rối, mặt mũi áo quần, tay chân dính đầy vết máu. Tay mặt mụ cầm con dao thái rau. Mụ khóc một trận, lại cười một hồi dậm chân trỏ tay. Thì ra đó là một người điên.
Khách qua đường dừng lại coi chỉ đứng xa mà nhìn, trên mặt họ lộ vẻ sợ hãi, nhiều người lại ra chiều thương xót, nhưng không ai dám đến gần người điên kia. Người đàn bà đó trỏ vào tấm chiêu bài “Anh hùng lâu” vỗ tay cười rộ, nói:
– Phụng lão gia! Lão gia sống lâu trăm tuổi, phú quý song toàn. Mụ già này bái lạy, cầu Hoàng thiên có mắt bảo vệ cho lão gia.
Mụ nói rồi quỳ xuống đất đập đâu binh binh, trán đầy máu tươi mà mụ chẳng lộ vẻ đau đớn chút nào. Mụ vừa dập đầu vừa nói tiếp:
– Phụng lão gia! Lão gia ngày được một đấu vàng, đêm được một đấu bạc, được đại phú đại phú, trăm con ngàn cháu.
Trong tửu lâu, có bóng người thấp thoáng bước ra, tay cầm cái dọc tẩu rất dài, ra dáng là một chưởng quỹ. Hắn chỉ vào người đàn bà, thóa mạ:
– Chung Tứ tẩu! Mụ nổi cơn điên rồi! Về nhà đi thôi, đừng ở đây làm quý khách mất cả nhã hứng ăn uống.
Người đàn bà được gọi là Chung Tứ tẩu kia không lý gì đến lão chưởng quỹ vẫn lúc khóc lúc cười hướng về phía tửu lâu mà dập đầu. Lão chưởng quỹ vẫy tay một cái. Hai tên hán tử to lớn trong tửu lâu đi ra. Một tên đoạt lấy con dao thái rau của mụ, còn một tên đẩy mạnh một cái khiến người mụ lăn ra giữa đường phố. Chung Tứ tẩu lồm cồm bò dậy, vẻ mặt ngơ ngác, hồi lâu không nói gì. Đột nhiên mụ đấm ngực khóc rống lên, gào liên hồi:
– Thằng con Tiểu Tam bảo bối kia! Ngươi chết thật là khổ sở. Lão thiên gia có mắt, ngươi đừng có trộm ngỗng nhà người ta mà ăn.
Hán tử đoạt con dao thái rau của mụ, giơ lên nạt:
– Mụ còn nói nhăng nói cuội là ta chém một dao bây giờ.
Chung Tứ tẩu chẳng mảy may sợ hãi, vẫn kêu gào khóc lóc. Chưởng quỹ thấy những người hàng phố đều lộ vẻ đồng tình với mụ, lão liền rít một hơi thuốc sòng sọc, nhả ra một luồng khói trắng rồi vẫy tay ra hiệu cho hai hán tử kia trở vào tửu lâu.
Hồ Phỉ thấy chưởng quỹ khinh khi một người đàn bà đã muốn nổi nóng, nhưng nghĩ đây là người điên, không thể nói phải trái cho nghe được. Bỗng nghe ở bàn phía sau, hai tửu khách đang thì thầm bàn chuyện. Một người nói:
– Vụ này Phụng lão gia nóng nảy quá. Lão gia bức tử một mạng người e rằng sẽ gặp báo ứng.
Hồ Phỉ nghe “bức tử một mạng người” thì trong lòng run lên. Lại nghe người kia nói:
– Cái đó cũng không phải lỗi ở Phụng lão gia. Trong nhà mất cắp người ta có tra hỏi cũng là chuyện thường. Ai bảo mụ điên khùng này mổ bụng moi ruột đứa con thân sinh của mình?
Hồ Phỉ nghe nói mấy câu sau cũng không nhẫn nại được nữa, xoay mình lại ngay. Chàng thấy hai người vừa nói đều vào trạc bốn mươi tuổi. Một người mập ú, một người gầy nhom. Cả hai cùng mặc áo trường bào bằng gấm đoạn. Coi cách ăn mặc đều ra vẻ là chủ tiệm buôn giàu có. Hai người thấy Hồ Phỉ quay lại, đưa mắt nhìn nhau, không nói gì nữa Hồ Phỉ biết loại người này rất nhát gan, sợ phiền lụy, nếu chàng có hỏi thế nào họ cũng chối phắt là không biết chứ chẳng khi nào kể rõ đầu đuôi. Chàng liền đứng dậy chắp tay vẻ mặt niềm nở hỏi:
– Hai vị lão bản! Từ buổi chia tay ở Quảng Châu đến nay, thấm thoát đã mấy năm chưa được gặp mặt. Hai vị mạnh giỏi a?
Hai người này vốn không quen biết chàng, nghe khẩu âm lại là người tỉnh khác nên rất lấy làm lạ. Nhưng người buôn bán lấy chuyện hòa khí sinh tài nên vội chắp tay đáp lễ:
– Ông bạn mạnh giỏi a?
Hồ Phỉ cười nói:
– Chuyến này tiểu đệ đến trấn Phật Sơn đem đi một vạn lạng bạc, tưởng mua một chuyến hàng nhưng đất lạ người đông còn đang ngần ngại. Bữa nay may mắn gặp được hai vị, xin nhờ hai vị giúp cho. Khách hàng của tiểu đệ tuy ra vẻ người có tiền nhưng một vạn lạng bạc chẳng phải tầm thường mà không đưa vào chỗ chắc chắn thì thật là phiền. Mong hai vị giúp cho.
Hai người kia nghe nói đến bốn chữ “một vạn lạng bạc” đã khấp khởi mừng thẩm, đồng thanh đáp:
– Vậy mời lão huynh đệ qua đây uống với nhau một chung rồi thủng thẳng nói chuyện được chăng?
Hồ Phỉ chỉ mong hai người nói ra câu đó, chẳng còn làm vẻ khách sáo, liền bước qua ngay. Vừa ngồi xuống, chàng chộp hỏi ngay:
– Vừa rồi nghe hai vị nói tới vụ bức tử nhân mạng gì đó, tiểu đệ muốn thỉnh giáo.
Hai người biến sắc toan chối từ thì Hồ Phỉ đã luồn tay xuống gầm bàn, đưa từ tả qua hữu chộp lấy cổ tay từng người bóp mạnh một chút. Hai người “ối” một tiếng, sắc mặt lập tức trắng bệch. Tiểu nhị đứng ở đầu cầu thang và các thực khách nghe tiếng la đều quay đầu nhìn lại. Hồ Phỉ khẽ quát:
– Không được lên tiếng!
Hai người làm sao dám chống lại đành gượng cười. Mọi người thấy chẳng có chuyện gì cũng không chú ý đến nữa. Cổ tay hai người bị Hồ Phỉ nắm giữ khác nào vành đai sắt, không nhúc nhích được. Hồ Phỉ khẽ nói:
– Tại hạ vốn là một tên đại đạo giết người không nháy mắt, nhưng hiện nay đã cải tà quy chính, học nghề buôn bán làm ăn, cần một vạn lạng bạc mua hàng mà không có tiền, xin mượn mỗi vị năm ngàn lạng.
Hai người giật mình kinh hãi, đồng thanh ấp úng đáp:
-Tiểu nhân… tiểu nhân… không có…
Hồ Phỉ nói:
– Được rồi! Các vị đem vụ Phụng lão gia bức tử nhân mạng nói cho tại hạ hay. Vị nào nói được rành mạch rõ ràng, tại hạ không cần mượn tiền nữa. Vạn lạng bạc này sẽ lấy ở nơi khác.
Hai người tranh nhau đáp:
– Tiểu nhân xin nói! Tiểu nhân xin nói!
Lúc trước chẳng ai chịu nói, bây giờ sợ một mình phải gánh một vạn lạng bạc, nên giành nhau nói, chỉ sợ mình nói sau. Hồ Phỉ thấy mình chơi kiểu này thu được kết quả, liền tủm tỉm cười. Chàng nghe tiếng nói của gã phương bắc rõ ràng hơn liền trỏ vào hắn bảo:
– Ông bạn mập nói trước đi! Lát nữa sẽ tới lượt ông bạn ốm. Vị nào nói không được rõ ràng tức là trái chủ ý của lão gia.
Dứt lời chàng buông cổ tay hai người, cởi bọc đeo trên lưng xuống, mở ra ly thanh cương đao sáng loáng. Chàng cầm lấy đôi đũa bằng ngà voi ở trên bàn khẽ chạm vào lưỡi đao. Đôi đũa lập tức gãy thành bốn đoạn. Hai người khác kinh hãi nhìn nhau, miệng há hốc ra không ngậm lại được, trống ngực đập thình thịch không ngớt. Hồ Phỉ đưa hai tay lên đầu hai người sờ, tựa hồ để tìm bộ vị xuống đao. Hai người sợ quá, mặt cắt không còn hạt máu. Hồ Phỉ gật đầu, tự nói để mình nghe:
– Hay lắm! Hay lắm!
Rồi chàng cất đao vào bọc. Nhà buôn mập vội nói:
– Thiếu gia! Tiểu nhân xin nói, bảo… bảo đảm nói rành mạch hơn y.
Nhà buôn ốm cũng lên tiếng:
– Cái đó chưa chắc. Hãy để tiểu nhân nói trước cho.
Hồ Phỉ sa sầm nét mặt, dằn giọng:
– Ta đã bảo để y nói trước. Làm gì mà ngươi quýnh quáng lên thế?
Nhà buôn ốm vội nói:
– Dạ phải! Dạ phải!
Hồ Phỉ hỏi:
– Ngươi không nghe lời ta dặn, phải phạt mới được.
Nhà buôn ốm chẳng còn hồn vía nào nữa, nhưng nhà buôn mập lại lộ vẻ tươi lên. Hồ Phỉ nói tiếp:
– Rượu nhắm sơ sài thế này sao phải đạo thết khách? Mau kêu lấy một mâm rượu hạng nhất đem ra đây.
Nhà buôn ốm thấy phạt nhẹ khác nào được lệnh đại xá, liền kêu tiểu nhị lại bảo dọn một mâm rượu thịnh soạn đáng giá năm lạng bạc. Tiểu nhị thấy Hồ Phỉ ngồi chung với bọn này lấy làm kinh ngạc. Gã nghe nói dọn một mâm cơm rượu đến năm lạng bạc liền hớn hở mặt mày, vâng dạ liên thanh.
Hồ Phỉ thò đầu ra ngoài cửa sổ nhìn xuống đường thấy mụ Chung Tứ tẩu đầu tóc rũ rượi ngồi dưới đường phố đối diện. Mụ ngửng đầu trông trời, miệng cứ lảm nhảm mà không hiểu nói gì. Nhà buôn mập nói:
– Thiếu gia! Tiểu nhân thuật lại vụ này, nhưng thiếu gia đừng cho ai hay là tiểu nhân nói.
Hồ Phỉ chau mày đáp:
– Ngươi không nói thì thôi, để cho y nói vậy.
Nói xong, chàng quay qua nhà buôn ốm. Nhà buôn mập vội nói:
– Tiểu nhân xin nói! Bẩm thiếu gia! Phụng lão gia đây tên gọi Phụng Thiên Nam là một tay đại tài chủ ở trấn Phật Sơn. Y mang tước hiệu là…
Nhà buôn ốm đỡ lời:
– Là Nam Bá Thiên.
Hồ Phỉ khẽ quát:
– Ai bảo ngươi nói xen vào?
Nhà buôn ốm cúi đầu xuống không dám nói nữa. Nhà buôn mập kể tiếp:
– Phụng lão gia mở một tiệm cầm đồ lớn ở trấn Phật Sơn gọi là “Anh hùng đường phố” và một tòa tửu lâu, tức là “Anh hùng lâu” này. Phụng lão gia còn mở một sòng bạc gọi là “Anh hùng hội quán”. Phụng lão gia tiền nhiều thế mạnh, giao du rất rộng. Võ nghệ của lão gia vào hạng đệ nhất ở Quảng Đông. Người ở thị trấn còn thầm bàn tán: Cứ mỗi tháng từ ba nơi Việt Đông, Việt Tây, Việt Bắc vẫn có người đưa tiền về kính biếu. Nghe nói Phụng lão gia lại làm chưởng môn phái Ngũ Hổ gì gì đó. Phàm là anh em phái Ngũ Hổ ở các nơi mà phát tài thì cũng trích một phần đưa về cho lão gia. Đó là công việc trên chốn giang hồ, tiểu nhân không được biết rõ.
Hồ Phỉ gật đầu đáp:
– Phải rồi! Hắn là một đại tài chủ mà cũng là một tên đại cường đạo, ngồi một nơi để mà chia của ăn cướp.
Hai nhà buôn đưa mắt nhìn nhau nghĩ thầm:
“Chính mi cũng là quân ăn cướp như Nam Bá Thiên chứ có khác gì?”
Hồ Phỉ đã hiểu rõ tâm ý hai người, liền cười nói:
– Người ta có câu “Cùng một đạo mà đi cùng đường tức là oan gia”. Giữa ta và Phụng lão gia chẳng phải là bạn bè chi cả. Vậy hắn làm sao thì các ngươi cứ nói đúng làm vậy, bất tất phải giấu giếm.
Nhà buôn mập kể tiếp:
– Nhà Phụng lão gia này gồm năm tòa liền, kể ra đã lớn lắm. Nhưng lão gia mới đây lấy thêm cô vợ thứ bảy nên muốn xây thêm một tòa gọi là “Thất Phụng lâu” gì gì đó để cho cô vợ kia ở. Phụng lão gia đi coi đất thấy khu vườn rau của Chung Tứ tẩu rất vừa ý. Mảnh đất này chỉ rộng hai mẫu mấy sào, do Chung A Tứ trồng rau làm kế sinh nhai. Một nhà năm miệng ăn đều trông vào vườn rau đó. Phụng lão gia liền gọi cho Chung A Tứ tới đòi mua khu đất với giá năm lạng bạc. Dĩ nhiên Chung A Tứ không chịu. Phụng lão gia trả thêm mười lạng. Chung A Tứ vẫn không chịu, nói dù một trăm lạng cũng không bán, vì có một trăm lạng bạc rồi ăn cũng hết. Nhưng còn mảnh vườn thì hàng ngày xới đất tưới nước, chỉ cần bỏ sức ra là một nhà mấy người không bao giờ chết đói. Phụng lão gia tức giận đuổi Chung A Tứ ra, rồi hôm qua xảy chuyện mất ngỗng.
Nguyên trong hậu viện của Phụng lão gia có nuôi mười con ngỗng béo. Hôm qua đột nhiên mất một con. Gia đinh bảo Tiểu Nhị và Tiểu Tam nhà họ Chung bắt trộm. Khi tìm đến vườn rau quả nhiên thấy có nhiều lông ngỗng. Chung Tứ tẩu kêu oan. Mụ nói là hai đứa con mụ trước nay vẫn giữ khuôn phép, quyết chẳng lấy trộm gì của ai. Đám lông ngỗng đó là do người ngoài vứt vào trong vườn. Bọn gia đinh kiếm Tiểu Nhị, Tiểu Tam tra hỏi thì hai đứa cũng bảo không ăn cắp. Phụng lão gia hỏi:
– Sáng sớm hôm nay các ngươi ăn gì?
Tiểu Tam đáp:
– Ăn ỗng!
Phụng lão gia vỗ bàn quát mắng:
– Tiểu Tam đã thú nhận rồi mà còn cãi là không ăn cắp ư?
Lão liền kêu người nhà cầm cáo trạng lên kiện ở nha môn. Bọn sai dịch liền đến bắt Chung A Tứ trói lại đưa đi. Chung Tứ tẩu biết nhà mình tuy nghèo nhưng hai đứa con rất ngoan ngoãn mà ngày thường lại khiếp sợ Phụng gia quyết chẳng khi nào dám bắt trộm ngỗng ăn thịt. Mụ đến Phụng gia phân trần cho ra lẽ liền bị Phụng lão gia đánh đuổi ra ngoài. Chung Tứ tẩu lên nha môn kêu oan cũng bị sai dịch đuổi ra. Tri huyện lão gia đã được lời ủy thác của Phụng lão gia liền sai đánh đập Chung A Tứ nào là hèo nào là côn, khiến y chỉ còn hơi thở thoi thóp. Chung Tứ tẩu vào thăm thấy chồng khắp mình máu thịt bầy nhầy không nói lên nên lời, miệng chỉ ú ớ mấy câu không rõ:
– Đừng bán đất! Đừng bán đất! Không ăn cắp! Không ăn cắp!
Chung Tứ tẩu lòng đau dạ xót, đâm liều. Mụ chạy về nhà một tay dắt Tiểu Tam, một tay cầm dao thái rau, kêu hàng xóm láng giềng đến để cùng ra tổ miếu. Những người hàng xóm tưởng mụ đến phát thệ trước thần linh nên đi theo để chứng kiến. Tiểu nhân ở gần nhà mụ nên cũng theo mụ đi coi trận nhiệt náo này. Chung Tứ Tẩu quỳ lạy trước tượng thần Bắc Đế và dập đầu binh binh mấy cái rồi nói:
– Bắc Đế gia gia. Thằng nhỏ con của tiểu phụ quyết chẳng thể vào nhà người ta ăn cắp ngỗng được. Năm nay nó mới lên bốn tuổi, chưa nói sõi. Nó nói trước mặt tài chủ gia ăn thịt gì đó, mà cả nhà tiểu phụ phải chịu mối oan khiên khó bề biện bạch. Tham quan lại ăn của đút, xử sự bất minh. Chỉ còn trông vào Bắc Đế gia gia thanh oan cho.
Mụ nói rồi cầm đao mổ bụng Tiểu Tam…
Hồ Phỉ từ nãy giờ chỉ chú ý lắng tai nghe, mắt trừng đã muốn rách khóe, khi nghe tới đây thì không nhịn được nữa, chàng quát to một tiếng, rồi đứng phắt lên, vung chân đánh “binh” một cái khiến bát chén cùng thức ăn trên bàn đổ tung tóe. Chàng gầm lên:
– Có chuyện đó ư?
Hai nhà buôn thấy chàng thần oai lẫm liệt đều cất giọng run run đáp:
– Đúng là sự thật không sai chút nào.
Hồ Phỉ đạp chân lên ghế dài, tay rút đơn đao trong bọc cắm xuống mặt bàn, giục:
– Nói mau lên!
Nhà buôn mập liền đáp:
– Vụ… vụ này không liên quan gì đến tiểu nhân.
Tửu khách cùng tiểu nhị trên tửu lâu thấy Hồ Phỉ dữ như hung thần, chẳng ai là không kinh hãi. Những tửu khách nhát gan chưa ăn xong lén chuồn xuống đất. Bọn tiểu nhị đứng đằng xa ngó lại không dám tới gần.
Hồ Phỉ quát hỏi:
– Nói mau! Trong bụng Tiểu Tam có thịt ngỗng không?
Thương gia mập đáp:
– Không có thịt ngỗng! Không có thịt ngỗng! Trong bụng toàn là thịt ốc. Nguyên nhà họ Chung nghèo nàn, chẳng có gì ăn, anh em Tiểu Tam Tiểu Nhị phải xuống ruộng mò ốc về ăn. Thịt ốc lại cứng. Tiểu Tam không nhai được phải nuốt trọn cả con, đến nửa ngày vẫn chưa tiêu hóa. Thì ra nó nói “Ngật ngã! Ngật ngã” chính là “Ngật oa”. Một đứa nhỏ chẳng tội trạng gì mà bị chết thảm như vậy trong tổ miếu. Từ đó Chung Tứ tẩu mắc chứng điên khùng.
Hồ Phỉ rút đơn đao giơ lên, quát lớn:
– Tên họ Phụng kia ở dâu?
Thương gia mập chưa kịp trả lời, bỗng nghe văng vẳng có tiếng chó sủa từ đằng xa vọng lại. Thương gia ốm thở dài nói:
– Tạo thêm nghiệp chướng! Tạo thêm nghiệp chướng!
Hồ Phỉ hỏi:
– Còn chuyện gì nữa không?
Thương gia ốm đáp:
– Đó là bọn gia đinh của Phụng lão gia đem chó dữ đi lùng bắt Chung Tiểu Nhị.
Hồ Phỉ tức giận hỏi:
– Nỗi oan uổng của người ta đã rõ rồi, còn bắt Tiểu Nhị làm gì?
Thương gia ốm đáp:
– Phụng lão gia bảo Tiểu Tam không ăn thịt ngỗng thì nhất định là Tiểu Nhị đã ăn rồi. Vì vậy lão gia muốn bắt nó về truy vấn. Những nhà hàng xóm biết là Phụng lão gia thẹn quá hóa giận, muốn bắt Tiểu Nhị để đổ mối oan lên đầu nó, nên họ ngầm xúi Tiểu Nhị bỏ trốn. Bọn gia đinh nhà Phụng lão gia đi khắp nơi tìm kiếm đã nửa ngày trời rồi.
Bây giờ Hồ Phỉ lại cố nén giận cười nói:
– Hay lắm! Hay lắm! Cả hai vị cùng nói rõ ràng. Vậy một vạn lạng bạc này ta sẽ mượn ở nơi Phụng lão gia.
Dứ lời chàng nâng chung rượu lên uống cạn. Chàng uống hết cả ba hồ không còn một giọt và quát tửu bảo lấy rượu thêm. Tiếng chó sủa mỗi lúc một gần, một lúc đã tới đầu đường. Hồ Phỉ thò đầu ra cửa sổ nhìn thấy thằng nhỏ chừng mười ba, mười bốn tuổi đang chạy thục mạng quanh góc đường. Nó chạy hai chân không, quần áo gã bị chó cắn rách tả tơi. Phía sau nó máu nhỏ gọt in đường. Không hiểu làm cách nào gã cầm cự được với lũ chó dữ mà chạy trốn đến đây. Phía sau thằng nhỏ cách xa chừng bảy, tám trượng, mười mấy con chó dữ như sài lang đang sủa điên cuồng rượt theo. Xem chừng bầy chó chỉ trong chớp mắt là nhảy xổ tới Chung Tiểu Nhị. Lúc này Chung Tiểu Nhị đã kiệt sức. Đột nhiên nó nhìn thấy mẹ, liền gọi:
– Má má!
Hai chân nó nhũn ra té nhào xuống đất không bò dậy được nữa. Chung Tứ tẩu tuy thần trí hồ đồ nhưng cũng nhận ra con mình. Mụ đứng phắt dậy xông tới đứng chắn trước mặt bầy chó dữ bảo vệ cho con.
Bầy chó dữ liền đứng lại, nhe hai hàm răng trắng nhởn ra sủa gâu gâu để thị uy. Bầy chó này con nào cũng hùng mãnh phi thường. Ngày thường chúng chỉ theo Phụng lão gia đi săn, dám đánh nhau với cả mãnh hổ, gấu lớn. Nhưng thấy Chung Tứ tẩu tỏ thái độ liều chết bảo vệ cho con, nên nhất thời chưa dám sấn đến gần. Bọn gia đinh lớn tiếng quát tháo thúc giục bầy chó dữ. Bầy chó gầm gừ mấy tiếng rồi hai con dữ như sài lang chồm lại toan cắn Chung Tiểu Nhị đang nằm lăn dưới đất.
Chung Tứ tẩu nằm phủ lên mình thằng nhỏ. Con chó đưa đầu nhe răng cắn vào vai mụ. Con thứ hai cắn chân bên trái thằng nhỏ. Cả hai con cùng vừa cắn vừa lôi, tựa hồ săn bắt được hươu hay thỏ. Bọn gia đinh reo hò trợ oai. Chung Tứ tẩu chẳng kể gì đến sự đau đớn thân mình, vẫn hết sức bảo vệ cho con, không để bầy chó xông vào cắn nó. Chung Tiểu Nhị lồm cồm bò dậy vừa kêu gào khóc lóc, vừa đánh nhau với con chó dữ để cứu nguy cho mẹ. Chỉ trong chớp mắt mười mấy con ác khuyển từ bốn mặt tám phương bao vây hai mẹ con mụ để tấn công.
Ngoài đầu đường tuy đông người đến coi cảnh nhiệt náo nhưng ai cũng sợ uy thế Phụng lão gia, trong lòng căm hận mà ngoài miệng không dám nói ra.
Có người không nỡ nhìn tấn thảm kịch này, bưng mặt lánh đi. Bọn gia đinh cao hứng reo hò ầm ĩ, tựa hồ săn bắt được con vật rất lớn.
Hồ Phỉ ngồi trên tửu lâu nhìn rõ mọi sự. Chàng chần chừ chưa ra tay cứu người là còn muốn chính mắt mình trông thấy Phụng Thiên Nam có tàn độc đúng như lời hai thương gia kia nói hay không, để tránh khỏi chuyện tin lầm người mà nghi oan cho kẻ vô tội. Ban đầu chàng đã nghe thương gia mập thuật lại câu chuyện thảm khốc, trong lòng đã cực kỳ phẫn nộ. Sau chàng nghe nói Phụng Thiên Nam vô cớ bức tử một mạng người, lại sai chó dữ rượt theo một thằng nhỏ, chàng nghĩ nếu có người tàn ác nhất đời cũng không thể hành động dã man như vậy, nên chàng còn bán tín bán nghi. Lúc này chính mắt chàng nhìn thấy bầy chó dữ xông vào cắn mẹ con Chung thị lôi đi thì không ngờ vực gì nữa. Đầu đường máu thịt tả tơi, nếu chàng còn chần chừ thì cả mẹ lẫn con tất phải chết tại chỗ. Chàng liền chụp lấy ba đôi đũa trên bàn, vận kình lực vào cánh tay phóng xuống.
Bỗng nghe những tiếng “gâu, gâu” rồi những tiếng rú thê thảm “ư ử” vang lên. Sáu con chó dữ bị đũa đánh trúng giữa đầu lăn ra chết liền. Những con khác đứng ngẩn ra, không biết nên tiếp tục cắn nữa hay nên bỏ chạy. Hồ Phỉ lại lượm những chung rượu trên bàn ném xuống đường. Thủ pháp ném rất chuẩn đích, kình lực lại mãnh liệt. Đáy chung rượu nào cũng trúng vào mũi lũ chó. Lại ba con nữa, không kịp kêu lên một tiếng, đều ngã lăn ra chết. Những con còn lại sợ quá cúp đuôi, chỉ trong nháy mắt chúng đã biến mất.
Bọn gia đinh dẫn dắt đàn chó cả thảy có sáu tên. Chúng ỷ vào oai thế của Phụng Thiên Nam làm mưa làm gió ở trấn Phật Sơn này. Bây giờ chúng thấy Hồ Phỉ thi triển tuyệt nghệ giết chó, dù chưa biết sống chết ra sao, bọn chúng đều tức giận lớn tiếng quát hỏi:
– Kẻ nào đến trấn Phật Sơn ngang tàng như vậy? Đã đánh chết chó của Phụng lão gia thì ngươi phải đền mạng.
Bọn này mang theo đơn đao xích sắt bên mình, chúng tới tấp lấy ra rồi kéo ùa lên lầu như bầy ong. Các tửu khách thấy xảy ra chuyện rắc rối liền náo loạn cả lên. “Anh hùng lâu” là sản nghiệp của Phụng Thiên Nam. Từ lão chưởng quỷ đến tiểu nhị cùng những người làm trong bếp lớn, bếp nhỏ nhìn thấy gia đinh của Phụng lão gia ùa lên lầu bắt người, liền cùng nhau cầm nào que cời lửa, nào dao thái rau, nào đũa sắt xúm lại trợ oai. Hồ Phỉ vẫn ngồi nhìn mà cười lạt. Sáu tên gia đinh hùng hổ đến trước mặt chàng, một tên cầm dây xích loảng xoảng lớn tiếng quát:
– Thằng lỏi thối tha này! Hãy đi theo lão gia!
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
“Gia đinh của một tên hương thân mà dám cầm dây xích cột người thì cái nhà của tên họ Phụng này cũng thành nha môn ở trấn Phật Sơn ư?”
Chàng không đứng dậy, lật tay phóng chưởng đánh trúng vào má bên trái gã. Lúc chàng rụt tay về thì đã điểm trúng huyệt “Tử cung” ở cổ và huyệt “Phong phủ” ở sau gáy gã. Đây là hai đại huyệt trong người. Tên gia đinh kia lập tức đứng trơ ra không nhúc nhích được nữa. Những tên gia đinh thứ hai, thứ ba chưa nhìn rõ đều cầm đơn đao xông vào tập kích hai bên. Hồ Phỉ thấy hai tên này cầm song đao đâm chém khá mạnh. Hiển nhiên chúng đã luyện võ mấy năm chứ không phải hạng ác nô tầm thường kiểu cáo mượn oai hùm. Chính nhờ thế, chàng càng biết rõ Phụng Thiên Nam hung tàn ngang ngược đến thế nào. “Bốp bốp” hai tiếng! Hồ Phỉ theo kiểu pháo nổ liên thanh đánh liền hai tên hai cái bạt tai khiến chúng đứng thộn mặt ra.
Còn ba tên gia đinh nữa thấy tình thế không ổn, một tên trở gót toan đi thì tên khác la gọi:
– Phụng Thất gia! Thất gia lại coi xem gã đã dùng tà môn gì?
Phụng Thất đây là em họ xa của Phụng Thiên Nam và làm chưởng quĩ ở tòa Anh hùng tửu lâu này. Võ công của hắn chẳng ra gì nhưng rất cơ mưu. Lúc này, hắn đứng ở đầu cầu thang đã nhận ra Hồ Phỉ không phải hạng tầm thường, liền tiến lại hai bước chắp tay nói:
– Té ra bữa nay có anh hùng giá đáo, xin tha lỗi cho Phụng mỗ có mắt mà không nhìn thấy núi Thái Sơn…
Hồ Phỉ thấy ba tên gia đinh từ từ đi về phía cầu thang tưởng chúng thừa cơ bỏ trốn. Chàng liên rút xích sắt trong tay tên gia đinh đã bị điểm huyệt không nhúc nhích vung ra một cái quấn lấy cả sáu chân của ba tên. Bỗng nghe mấy tiếng “úi chao”, cả ba tên ngã lăn xuống đất thành một đống. Hồ Phỉ kéo chúng vào gần xiết chặt hai đầu dây xích lại. Chàng không quan tâm gì đến Phụng Thất nữa, mà cứ ngồi tự rót rượu uống một mình.
Bọn gia nhân ở “Anh hùng lâu” thấy Hồ Phỉ tuy ra tay lợi hại nhưng vẫn nghĩ dù là hảo hán cũng không địch nổi số đông, nên chúng cầm mọi dụng cụ trong nhà bày thành trận thế, chỉ còn chờ Phụng Thất hô một tiếng là xông vào. Hồ Phỉ uống cạn chung rượu rồi hỏi:
– Phụng Thiên Nam là gì của ngươi?
Phụng Thất cười đáp:
– Phụng lão gia là tộc huynh của tại hạ. Tôn giá có quen biết lão gia không?
Hồ Phỉ nói:
– Không quen biết. Ngươi hãy kêu y đến gặp ta.
Phụng Thất trong lòng bực tức mắng thầm:
“Một thằng lỏi như mi mà dám mời Phụng lão gia tư? Dù ngươi đến cửa dập đầu, chưa chắc lão gia đã thèm tiếp kiến.”
Ngoài miệng hắn cười hề hề hỏi:
– Xin tôn giá cho biết cao tính đại danh để tại hạ vào thông báo.
Hồ Phỉ đáp:
– Ta họ Bạt. Chữ Bạt có nghĩa là nhổ lông, như giết gà nhổ lông.
Phụng Thất lẩm bẩm:
– Làm gì có cái họ kỳ cục vậy?
Hắn cười vuốt đuôi:
– Té ra đây là Bạt gia. Vật có hiếm mới quý. Họ của Bạt gia ở phương nam rất hiếm.
Hồ Phỉ đáp:
– Đúng thế! Tục ngữ có câu vật có hiếm mới quý, ví dụ như “Phụng mao, lân giác”. Tại hạ tên gọi là Phụng Mao.
Phụng Thất cười hỏi:
– Cao nhã! Thật cao nhã!
Đột nhiên hắn xoay chuyển ý nghĩ tự hỏi:
“Không phải! Cả ba chữ “Bạt Phụng Mao” há chẳng phải là gã có ý đến đây gây hấn?”
Hắn mặt biến sắc lớn tiếng hỏi:
– Thực ra tôn giá là ai? Đến trấn Phật Sơn có việc gì?
Hồ Phỉ đáp:
– Tại hạ nghe nói ở trấn Phật Sơn có con phụng hoàng dữ lắm mà tại hạ lại tên là Bạt Phụng Mao, nên tới đây để nhổ mấy cái lông của nó chơi.
Phụng Thất lùi lại một bước. Những tiếng loảng xoảng vang lên, hắn nút cây nhuyễn tiên ở sau lưng ra, vung tay trái một cái, bảo bọn thủ hạ coi chừng. Hắn rung động tay mặt, cây nhuyễn tiên xé gió nhằm đầu Hồ Phỉ đánh xuống.
Hồ Phỉ thầm nghĩ trong bụng:
“Một tên Phụng Thiên Nam không thể tàn ác đến như vậy. Bọn thủ hạ là một lũ giúp hắn gây thêm tội nghiệt. Tên nào cũng đáng chết cả. Hôm nay ta thẳng tay hạ thủ, không cần phải dung tình.”
Chàng trông thấy nhuyễn tiên vụt xuống liền xoay tay chụp lấy đầu nhuyễn tiên, giật nhẹ một cái. Phụng Thất đứng không vững, liền ngã chúi về phía trước. Hồ Phỉ đập tay trái vào vai hắn. Phụng Thất cảm thấy một luồng kình lực rất lớn đè nặng xuống, hắn không tự đứng được, hai đầu gối nhũn ra quỳ khuỵu ngay xuống. Hồ Phỉ cười nói:
– Không dám!
Chàng thuận tay vung cây nhuyễn tiên mười ba đốt quấn vào người hắn, tựa hồ trói hắn vào chân bàn bát tiên vậy. Bọn tiểu nhị toan xông tới động thủ. Đột nhiên chúng thấy biến cố này nên đâm hoảng phải dừng cả lại. Hồ Phỉ trỏ vào một tên đầu bếp béo mập cất tiếng gọi:
– Này! Cầm con dao thái thịt lại đây!
Tên đâu bếp há hốc miệng ra không dám trái lệnh, cầm dao đưa tới. Hồ Phỉ hỏi:
– Món thịt rán làm bằng gì?
Đầu bếp đáp:
– Dùng thịt thăn ở hai bên xương sống con heo. Tôn giá còn muốn ăn thịt xào ngọt, xào chua gì nữa không?
Hồ Phỉ thò tay kéo roạc một cái. Vạt áo sau lưng Phụng Thất bị rạch một vệt dài, để hở cả sống lưng trắng trẻo ra. Tay chàng nắn vào sống lưng Phụng Thất, miệng hỏi:
– Có phải hạ dao chỗ này không?
Tên đầu bếp béo mập há hốc miệng, sao dám trả lời? Phụng Thất dập đầu binh bính, la oai oái:
– Xin anh hùng tha mạng!
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
“Tha mạng ngươi cũng được, nhưng nếu không cho ngươi nếm mùi đau khổ thì hóa ra làm ác tất lại không bị báo ứng?”
Chàng cầm con dao thái rau vạch xuống xương sống hắn một vạch dài rồi hỏi:
– Nửa cân đã đủ chưa?
Tên đầu bếp ngơ ngác đáp:
– Một người ăn là đủ.
Phụng Thất hồn vía lên mây, lại thấy sau lưng đau buốt thì cho rằng địch nhân đã cắt nửa cân thịt ở sống lưng rồi. Bỗng nghe Hồ Phỉ lại nói:
– Xào gan heo lấy gì làm vật liệu? Chưng óc heo thì lấy gì làm vật liệu?
Phụng Thất lại la thầm:
“Gã lóc thịt sau lưng còn được, lại còn làm món gan heo xào, óc heo chưng thì còn chi là cái mạng già này?”
Hắn dập đầu binh binh trên tấm ván lầu, miệng la:
– Anh hùng có chuyện gì xin cứ truyền dạy, chỉ cầu tha mạng cho tiểu nhân.
Hồ Phỉ thấy hăm dọa như thế là đủ, liền quát hỏi:
– Ngươi còn dám giúp đỡ Phụng Thiên Nam làm điều tàn ác nữa hay thôi?
Phụng Thất vội đáp:
-Tiểu nhân không dám!
Hồ Phỉ nói:
– Hay lắm! Bây giờ mời tân khách trên lầu ra hết. Còn tân khách trong đại sảnh và dưới lầu phải ở lại không một ai bỏ đi.
Phụng Thất hô lớn:
– Điếm tiểu nhị, các ngươi hãy mau thi hành mệnh lệnh của hảo hán gia. Mau! Mau!
Những tửu khách trên lầu nếu không phải tài chủ thì cũng là phú thương, đều nhát gan sợ lụy. Họ thấy xảy cuộc đánh nhau đã muốn chuồn đi, khổ nỗi ở đầu cầu thang có bọn gia đinh cầm binh khí đứng đó, không xuống được.
Bây giờ chẳng cần xua đuổi, tự họ lật đật đi ngay. Thực khách trong đại sảnh nhà dưới đều là hạng người nghèo. Trong mười người có đến bảy, tám đều bị Phụng Thất hà hiếp. Bữa nay họ thấy có người đến gây chuyện, trong lòng khoan khoái vô cùng, đều muốn ở lại để coi náo nhiệt.
Hồ Phỉ hô lớn:
– Bữa nay ta mời khách, vậy tiền cơm rượu của các bằng hữu đều do ta trả hết, ngươi không được thu của ai một đồng nào. Mau đi khiêng mấy hũ rượu ra đây và có những món gì tốt cũng bưng hết lên mời tân khách. Đem chín con chó dữ ở ngoài đường vào mổ làm thịt để mọi người cùng ăn chơi.
Chàng sai một điều, Phụng Thất lại dạ một tiếng. Bọn tiểu nhị hành động chậm chạp một chút, Hồ Phỉ liền giơ con dao thái rau lên hỏi đầu bếp mập ú:
– Muốn làm món “Hồng thiêu đại trường” phải dùng vật liệu gì? Món “Sao yêu hoa” dùng những thứ gì?
Tên đầu bếp kia cứ thực thà bảo là phải dùng một khúc ruột già và hai trái cật. Phụng Thất mặt cắt không còn giọt máu không ngớt thôi thúc gia nhân đi làm cho mau. Sáu tên gia đinh thấy Hồ Phỉ hung dữ ghê quá, chưa hiểu chàng đối phó với mình thế nào, trong lòng cực kỳ hồi hộp, tưởng chừng bị dội mười lăm thùng nước lạnh lên đầu. Chúng lấm lét nhìn trộm Hồ Phỉ rồi lại nhìn nhau tự hỏi:
“Sao Phụng lão gia chưa đến giải cứu? Nếu chậm trong khoảnh khắc thì tên hung thần này chắc xử trí tới bọn mình.
Hồ Phỉ thấy bọn tiểu nhị nhất nhất tuân theo mệnh lệnh của mình liền rảo bước xuống lầu rót một bát rượu lớn rồi nói:
– Bữa nay tiểu đệ mời khách. Xin các vị cứ ăn uống thả cửa. Muốn ăn món gì thì cứ kêu món đó. Nếu bọn gia đinh trong tửu lâu mà rề rà chậm trễ thì tiểu đệ sẽ cho một mớ lửa đốt sạch trong nháy mắt.
Các tửu khách hoan hỷ ăn uống. Có điều ai nấy vẫn sợ oai Phụng Thiên Nam nên không dám tiếp lời Hồ Phỉ. Chàng trở lại lên lầu giải khai huyệt đạo cho ba tên gia đinh, dùng xích sắt khóa cổ chúng lại cùng với ba tên kia rồi kéo hết cả sáu tên xuống lầu. Hồ Phỉ hỏi:
– Phụng Thiên Nam mở tiệm cầm đồ ở đâu? Tại hạ muốn cầm cố sáu con chó dữ này.
Một tửu khách trỏ đường nói:
– Đi về phía đông qua ba đường phố nằm ngang, tới một ngôi nhà tường cao là đến.
Hồ Phỉ cảm ơn rồi dắt sáu người đi. Bọn người ưa coi náo nhiệt đi theo xa xa ở phía sau để xem vụ cầm người ra sao. Hồ Phỉ tay nắm sáu sợi dây xích đi tới trước tòa “Anh hùng điển đương”, lớn tiếng nói:
– Anh hùng đem chó tới cầm đây!
Chàng dắt sáu tên gia đinh đến trước quầy thu tiền nói:
– Triều phụng! Tại hạ cầm sáu con chó dữ, mỗi con một ngàn lạng bạc.
Tên triều phụng bên quầy thu tiền giật mình kinh hãi. Những người ở trấn Phật Sơn đều biết tòa “Anh hùng điển dương” này do Phụng Thiên Nam mở ra, đã mười mấy năm chẳng ai dám đến quấy phá mà sao bữa nay lại có hán tử điên khùng đến cầm người? Triều phụng chú ý nhìn, nhận ra sáu người bị kéo tới đây là gia đinh ở Phụng phủ lại càng kinh hãi hơn:
Hắn ấp úng hỏi:
– Các hạ… các hạ cầm món gì?
Hồ Phỉ quát:
– Ngươi không có tai ư? Ta cầm sáu con chó dữ, mỗi con một ngàn lạng bạc tổng cộng sáu ngàn lạng. Cầm như vậy là rẻ quá rồi.
Tên triều phụng kia biết chàng có ý quấy phá liền ghé tai một tên triều phụng khác nói nhỏ, bảo hắn đi kêu gấp bọn võ sư bảo vệ tiệm đến xử lý tên điên khùng này. Một mặt hắn nhìn Hồ Phỉ lễ phép đáp:
– Theo luật lệ cầm đồ, những vật sống không thể đem cầm được. Xin tôn giá lượng thứ cho.
Hồ Phỉ đáp:
– Được! Các ngươi không cầm chó sống thì ta cầm chó chết vậy.
Sáu tên gia đinh kinh hãi đồng thanh la lên:
– Du sư gia! Sư gia thu nhận lẹ đi để gấp cứu mạng bọn tiểu nhân.
Nhưng bọn triều phụng ở tiệm cầm đồ làm việc rất rạch ròi cẩn thận, sao có thể chịu bỏ ra sáu ngàn lạng bạc một cách tùy tiện? Hắn liền cười cầu tài, đáp:
– Mời lão gia hãy ngồi chơi dùng trà.
Hồ Phỉ nói:
– Để ta biến sáu con chó sống này thành chó chết rồi hãy uống trà.
Chàng đảo mắt nhìn quanh, trong lòng đã nẩy kế hoạch, liền bước tới bên cửa hông, tháo một cánh cửa lớn sơn đen xuống. Du triều phụng thấy sự tình mỗi lúc một thêm nghiêm trọng liền hỏi:
– Này, này! Vị khách nhân này làm gì vậy?
Hồ Phỉ không lý gì đến hắn, vung chân đá sáu tên gia đinh té xuống rồi nhấc ngang tấm cánh cửa đè lên mình chúng. Du triều phụng la lên:
– Trời ơi! Tôn giá đừng gây náo loạn nữa. Đây là địa phương nào, sản nghiệp này của ai, tôn giá có biết không?
Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
“Coi bộ thẳng cha này cũng cay nghiệt lắm. Nhất định rất nhiều người cùng khổ ở trấn Phật Sơn này phải nếm mùi khổ của hắn rồi.”
Chàng bước lại trước quầy, vươn tay nắm lấy búi tóc hắn, nhấc bổng qua quầy hàng rồi đem cánh cửa đè lên. Tiếp theo, chàng bước đến cửa bê một cái trống đá vừa cao vừa lớn quẳng trên mặt cánh cửa đánh rầm một tiếng. Cái trống đá này nặng hơn năm trăm cân lại thêm sức ném xuống, khiến cả bảy người nằm phía dưới đều kêu rú lên. Có người đau đến té đái vãi phân. Những người ở ngoài cửa và bọn triều phụng trong nhà đều bật tiếng la hoảng. Hồ Phỉ lại bê một cái trống đá nữa, miệng nói:
– Bọn chó dữ chưa chết, phải đè thêm cái trống này lên nữa!
Dứt lời chàng tung cái trống đá lên không. Bọn người nằm dưới cánh cửa ngó thấy cái trống đá sắp rớt xuống lại kêu thét lên. Hồ Phỉ vòng hai cánh tay lại đón lấy cái trống đá rồi đặt xuống cánh cửa. Lúc này trên cánh cửa đã bị một sức nặng trên một ngàn cân đè xuống. Bảy người bên dưới chia nhau chịu đựng, tưởng chừng gân cốt gẫy nát đến nơi.
Du triều phụng la lên:
– Xin hảo hán tha mạng. Mau lấy bạc ra đi!
Hồ Phỉ hỏi:
– Cái gì? Ngươi còn đòi ta đưa tiền ra nữa ư?
Du triều phụng thân thể gầy yếu, bị đè nặng xuống không thở được lắp bắp:
– Không… không phải. Tiểu nhân kêu người trong tiệm lấy bạc ra…
Bọn cầm đồ trong tiệm thấy tình thế nguy hiểm, đành lấy từng gói bạc đưa ra. Mỗi gói là một trăm lạng. Cả thẩy sáu mươi gói. Hồ Phỉ lại xếp những gói bạc lên cánh cửa rồi hỏi:
– Sáu con chó dữ sáu ngàn lạng, còn tên triều phụng thì sao? Chẳng lẽ đường đường là một vị đại triều phụng ở “Anh hùng điển đương” lại không bằng một con chó? Ít ra phải cầm lấy ba ngàn lạng.
Sáu ngàn lạng bạc nặng tới hơn ba trăm bảy chục cân lại đè lên khiến bảy người phía dưới chịu không nổi nữa.
Giữa lúc náo loạn, đột ngoài cửa có tiếng người quát hỏi:
– Tên tiểu tạp chủng nào ăn gan hùm hay sao mà dám đến cửa tiệm Phụng lão gia gây sự?
Đám người đứng xem liền rẽ ra hai bên. Hai hán tử sấn vào. Hai người này đều thân hình khôi vĩ, mặc quần áo đen, nai nịt đai lưng trắng, ăn vận theo kiểu võ sư.
Hồ Phỉ lạng mình đi một cái chuồn tới phía sau hai người, mỗi tay túm lấy gáy một người. Hai người này chính là võ sư bảo vệ ở “Anh hùng điển đương”, đang lúc rảnh việc, ngồi chơi ở sòng bạc, nghe tiệm có người quấy phá mới vội vã chạy về. Ngờ đâu chúng chưa nhìn rõ mặt mũi đối thủ thì đã bị nắm cổ xách lên. Hồ Phỉ rung hai cánh tay một cái, một người rớt ra tám chín quân bài cẩu, còn người kia làm rơi hai hai quân xúc xắc xuống. Hồ Phỉ cười nói:
– Hay quá! Té ra là hai con quỷ cờ bạc.
Chàng cụng đầu hai người vào nhau côm cốp rồi đặt chúng ngồi lên trên cánh cửa. Hai tên võ sư bảo vệ viện tuy võ công tầm thường nhưng thân thể khá nặng. Thế là hơn bốn trăm cân nữa đè lên cánh cửa. Bảy người nằm dưới muốn rên lên một tiếng cũng không còn sức.
Đại chưởng quỹ trong tiệm cầm đồ sợ xảy ra án mạng, vội sai người nhà lấy ra ba ngàn lạng bạc nữa và không ngớt khom lưng lạy lục. Ngoài miệng hắn niềm nở tươi cười mà trong bụng lại cứ thắc mắc:
“Sao mãi không thấy Phụng lão gia thân hành đến đây giải quyết việc này?”
Hồ Phỉ ở tửu lâu sai người mổ chó, lại đến tiệm cầm đồ cầm người là cố ý khiêu khích cho Phụng Thiên Nam chường mặt. Từ ngày còn nhỏ tuổi, sau khi ngộ hiểm ở Thương gia bảo, Hồ Phỉ hành động rất thận trọng. Chàng nghĩ thầm:
“Phụng Thiên Nam đã mang ngoại hiệu là “Nam bá thiên” thì e rằng cách bố trí trong nhà hắn còn ghê gớm hơn cả thiết sảnh ở Thương gia bảo nữa.
Chàng nghĩ tới câu “Cường long bất đấu địa đầu xà”, nếu gây sự ở nhà hắn sẽ trúng phải độc kế nên trước tiên chàng đại náo tửu lâu, tiếp theo đại náo tiệm cầm đồ mà thủy chung hắn vẫn không lộ diện là một điều ngoài sự tiên liệu của chàng.
Hồ Phỉ thấy người nhà lại đem ra ba ngàn lạng bạc liền gật đầu bảo:
– Đặt cả lên tấm cánh cửa này.
Bọn người nhà biết rằng đặt gần một trăm chín chục cân lên nữa là nặng quá nhưng không dám trái lệnh, đành khuân từng gói một đặt nhè nhẹ lên
Hồ Phỉ lại nạt:
– Tiệm cầm đồ của các ngươi đây do Hoàng đế mở ra phải không? Sao lại làm việc ngang ngược thế?
Gã chưởng quỹ cười cầu tài, đáp:
– Không dám! Không dám! Hảo hán gia còn có điều chi dạy bảo?
Hồ Phỉ hỏi:
– Cầm đồ sao lại không làm biên lai?
Gã đại chưởng quỹ nghĩ bụng:
“Sáu tên gia đinh khỏe mạnh có để một lúc cũng chưa việc gì, nhưng Du triều phụng không khéo lại ô hô mất mạng.”
Hắn liền gọi rối rít:
– Mau viết biên lai đi!
Tên triều phụng ở tại quầy không biết phải hạ bút viết thế nào, mà gã đại chưởng quỹ thôi thúc, liền cấm bút viết:
“Nay cầm sáu tên gia đinh và một tên Du triều phụng ở Phụng phủ da rách thịt nát, chân tay tàn khuyết, lấy số bạc chín ngàn lạng. Tiền lãi hàng năm là hai phân. Khi đến chuộc phải căn cứ theo biên lai. Nếu bị sâu kiến chuột bọ đục khoét hay gặp nạn binh hỏa mà đồ vật bị tổn thất thì đó là mệnh trời”
Nguyên theo lệ cầm đồ khắp thiên hạ thì dù đồ vật còn hoàn toàn nguyên vẹn và mới tính cũng viết là đã “sứt mẻ, hư hỏng” để lúc chuộc khỏi có sự tranh chấp. Nhưng tiệm cầm đồ xưa nay chưa có chuyện cầm người, nên tên triều phụng phải thêm tám chữ “da rách thịt nát, chân tay tàn khuyết”.
Đại chưởng quỹ cầm hóa đơn cung kính đưa lại. Hồ Phỉ mỉm cười thu lấy rồi nhấc bổng hai tên võ sư lên bảo chúng:
– Khuân những trống đá kia xuống,
Hai tên võ sư mắt đã nảy đom đóm, tự biết một người không bê nổi cái trống đá, đành hai người hợp lực khiêng từng cái một xuống.
Hồ Phỉ lại nói:
– Được rồi! Chúng ta cứ thong thả đi tới sòng bạc. Hai tên đại hán nhà người khiêng tiền đi cho ta.
Hai tên võ sư nem nép vâng lời, một tên đi trước, một tên đi sau khiêng cánh cửa chứa chín ngàn lạng bạc đi theo sau Hồ Phỉ. Những người tới coi cảnh náo nhiệt thấy chàng tay không mà dám đến uy hiếp tiệm cầm đồ lớn nhất ở trấn Phật Sơn đều khoan khoái vô cùng, nhưng họ vẫn sợ Phụng Thiên Nam thù hằn nên không dám đến gần chàng trò chuyện. Mọi người nghe chàng nói đến đại náo sòng bạc càng phấn khởi tinh thần, kéo đi coi mỗi lúc một đông.
Sòng bạc đặt trong một tòa miếu cũ đổ nát ở tận đầu trấn Phật Sơn. Trên cổng lớn viết bốn chữ đại tự “Anh hùng hội quán”. Hồ Phỉ rảo bước qua cửa tiến vào thì thấy trên đại điện, một đám đông lố nhố vây quanh một bàn tài xỉu. Chủ sòng bạc là một gã mày rậm mắt to, trên người mặc áo lụa nổi tiếng của trấn Phật Sơn. Hắn để hở bộ ngực đây lông lá. Chủ sòng thấy Hồ Phỉ tiến vào, đằng sau lại có hai tên võ sư khiêng tấm cửa lớn trên đặt gần trăm gói bạc thì trong lòng không khỏi sửng sốt la lên:
– Xà bì Trương! Ông bạn làm trò gì vậy?
Gã võ sư họ Trương bĩu môi ra dáng bực bội, đáp:
– Hảo hán đây muốn đến chơi một canh bạc.
Chủ sòng nghe Xà bì Trương nói bằng một giọng cung kính, lại biết Phụng lão gia giao du rất rộng. Hắn đoán anh chàng này tuy trẻ tuổi nhưng chắc là bạn của lão nhân gia, bèn nghĩ thầm:
“Hay lắm! Ngươi khiêng bạc đến để biếu đổ trường chúng ta thì còn gì bằng? Mở tiệm cơm còn chẳng sợ kẻ bụng lớn thì mở sòng bạc khi nào lại sợ bọn tài chủ lắm tiền? Dù các ngươi có khiêng mấy cánh cửa bạc nữa đến đây cũng chẳng chê nhiều.”
Hắn toét miệng cười nói:
– Quý tính bằng hữu đây là gì? Mời ngồi chơi.
Hồ Phỉ bệ vệ ngồi xuống nói:
– Ta họ Bạt, tên gọi Phụng Mao.
Tên chủ sòng ngẩn người, bụng bảo dạ:
“À, mi cố ý đến đây khiêu khích bọn ta!”
Hắn cầm hộp xúc xắc lắc mấy cái rồi đặt xuống bàn. Mấy chục con bạc xung quanh lục tục đặt tiền. Có người đặt bên “Tài”, người thì đặt bên “Xỉu”.
Hồ Phỉ muốn kéo dài thời gian để chờ Phụng Thiên Nam thân hành tới nơi mới ra tay chiến đấu với hắn. Chàng ngồi cười hì hì chứ không đặt cuộc.
Bỗng thấy chủ sòng mở hộp ra. Ba con xúc xắc cộng được mười một điểm. Những con bạc bên “Tài” nổi tiếng hoan hô còn bên “Xỉu” mặt buồn rười rượi.
Chủ sòng mở bát ba lần, bên “Tài” đều thắng cả.
Hồ Phỉ nghĩ bụng:
“Mười sòng bạc thì đã có đến chín sòng gian lận. Phụng Thiên Nam đã là tay hoành hành ngang ngược mà mở sòng bạc tất nhiên ít nhiều cũng phải giở trò quỷ. Đợi ta điều tra cho ra đầu mối rồi đại náo một phen mới được”.
Chàng liền chú ý nhìn bát xúc xắc, lại lắng tai nghe thanh âm xem con xúc xắc có đổ chì hay không. Chàng nghe một lúc không thấy gì khác lạ. Chàng đã luyện qua thuật nghe tiếng gió, thính lực cực tinh. Dù là trong tối có ám khí tập kích, chỉ cần nghe thanh âm thì lập tức biết ngay phương vị cùng ám khí loại gì, thủ kình ra sao. Tỷ như Triệu Bán Sơn là một đại hành gia, hôm ấy ở Thương gia bảo nghe ám khí tứ phía bắn tới liên đoàn được đối phương là đệ tử của Bất Nghi đại sư ở chùa Thiếu Lâm. Thuật nghe ám khí đạt đến mức tinh vi như thế đó.
Thính lực của Hồ Phỉ tuy còn kém Triệu Bán Sơn, nhưng nghe một lúc lâu cũng nhận ra được ba con xúc xắc hướng lên trời có điểm số cộng là bao nhiêu. Nên biết con xúc xắc có sáu mặt, điểm số mỗi mặt đều khác nhau. Lúc mặt “Nhất” hoặc mặt “Lục” rơi xuống có thanh âm khác nhau chút đỉnh, dù sự khác biệt vô cùng nhỏ nhặt, nhưng người nội lực tinh thâm đã luyện công phu nghe ám khí cực tốt đều có thể phân biệt được một cách rõ ràng.
Hồ Phỉ để chủ sòng mở bát thêm mấy lần, chàng nghe không lầm nữa, liền cười hỏi:
– Nhà cái có hạn định đặt cửa bao nhiêu không?
Chủ sòng lớn tiếng đáp:
– Khắp tỉnh Quảng Đông đều biết sòng bạc của Nam bá thiên đặt cửa bao nhiêu cũng được. Nếu không sao còn gọi là “Anh hùng hội quán” nữa?
Hồ Phỉ mỉm cười chìa ngón tay cái lên nói:
– Phải rồi! Nếu còn hạn định chẳng hóa ra là “Cẩu hùng hội quán” ư?
Chàng lắng nghe tiếng xúc xắc hạ xuống thành mười hai điểm, liền quay lại hỏi:
– Xà bì Trương! Đặt một ngàn lạng xuống bên “Tài”,
Chủ sòng tuy lặn lội ở sòng bác mấy chục năm cũng phải mở bát mới biết “Tài” hay “Xỉu”. Hắn thấy chàng đặt cuộc một ngàn lạng thì không khỏi sửng sốt. Hắn mở bát đĩa ra thấy cả ba con xúc xắc thì hai con hướng mặt “Lục”, còn một con hướng mặt “Tứ” lên, bất giác sắc mặt tái mét, đành phải giao đủ một ngàn lạng.
Tiếp theo hắn lắc hộp xúc xắc thanh âm lẫn lộn. Hồ Phỉ nghe không rõ, ngồi yên không đặt cuộc. Lúc mở bát thành tám điểm. Tiếng bạc sau Hồ Phỉ đặt hai ngàn lượng bên “Xỉu”. Mở bát ra quả nhiên sáu điểm là bên “Xỉu”. Hồ Phỉ tiếp tục đánh năm, sáu ván và đã ăn được một vạn một ngàn lạng. Nhà cái hai tay ướt đẫm mồ hôi, cầm hộp xúc xắc lắc thật mạnh. Hồ Phỉ nghe rõ tiếng bạc này mười bốn điểm liền hô:
– Xà bì Trương! Đặt hai vạn lạng xuống bên “Tài”.
Hai tên võ sư khuân những gói bạc trên cánh cửa đặt xuống bàn.
Nhà cái hé một góc bát lên coi thấy ba con xúc xắc cộng mười bốn điểm. Chân tay hắn rất linh lợi. Hắn thò ngón tay út vào bên hộp khẽ đẩy một cái thì mặt “Lục” lật ngược lại thành mặt “Nhất”. Thế là mười bốn điểm biến thành chín điểm. Bạc đang “Tài” mà hóa “Xỉu”. Thủ pháp này nếu không luyện mấy chục năm thì không thể thành tựu được. So với học võ công cũng chẳng kém gì một tuyệt chiêu cực kỳ lợi hại.
Nhà cái thấy Hồ Phỉ không hay biết, đã chắc mẩm ăn bàn này rồi. Hắn nhơn nhơn đắc ý hô:
– Đại gia đặt tiền xong chưa?
Hồ Phỉ đẩy đống bạc giữa bàn đáp:
– Hai vạn lạng đây. Nếu “Xỉu” thì nhà cái ăn hết đi.
Nhà cái hô:
– Tốt! Tốt! Ăn này!
Hắn mở bát ra, bất giác miệng há hốc không ngậm lại được vì ba con xúc xắc cộng thành mười hai điểm. Các con bạc đã dừng tay không đánh từ lâu rồi. Ai nấy nhìn thấy mấy chục gói bạc trên bàn đều cũng kinh tâm động phách. Họ thấy mở bạc thành “Tài” đều bật tiếng la hoảng:
– Úi chà!
Tiếng la vừa đầy vẻ kinh dị lại có ý khen ngợi. Nên biết bọn chúng suốt đời chưa từng gặp qua canh bạc lớn thế này. Hồ Phỉ cười hà hà, đứng một chân trên ghế hô:
– Hai vạn lạng bạc! Mau chung vào đi!
Nguyên lúc nhà cái giở trò, ngón nghề tuy mau lẹ nhưng che mắt Hồ Phỉ thế nào được. Chàng không hiểu nhà cái giở trò gì, song cũng đoán chắc ba con xúc xắc bị hắn lật đi rồi, để chuyển từ “Tài” sang “Xỉu”. Khi Hồ Phỉ dùng tay trái đẩy các gói bạc thì tay phải luồn dưới gầm bàn khẽ búng một cái. Nguyên ba con xúc xắc này, một con mặt “Nhất”, một con mặt “Ngũ” và một con mặt “Tam”. Cộng là thành chín điểm. Lực đạo của ngón tay búng Hồ Phỉ lại được việc. Ba con xúc xắc bị lật lại, biến thành mặt “Tứ”, mặt Lục và mặt “Nhị”, cộng lại thành mười hai điểm, rốt cuộc vẫn là “Tài”. Nhà cái mặt xám như tro tàn, đập tay xuống đánh bình một cái, miệng quát:
– Xà bì Trương! Gã này lai lịch thế nào mà đến quấy rối sòng bạc của lão gia?
Xà bì Trương giơ mặt đưa đám ra đáp:
– Tại… tại… hạ cũng chẳng biết.
Hồ Phỉ giục:
– Chung tiền lẹ đi! Chung tiền lẹ đi! Chung đủ hai vạn lạng bạc. Lão gia được bấy nhiêu là đủ rồi, thôi không đánh nữa.
Tên chủ sòng lại vỗ bàn đánh bình một tiếng, quát mắng:
– Gã kia! Ngươi giở trò ma mãnh tưởng lão tử không biết ư?
Hồ Phỉ tuy không hiểu gã chửi gì, nhưng cũng đoán được không phải là những lời hay ho, nên cười đáp:
– Hay lắm! Ngươi thích vỗ bàn thì chúng ta cùng vỗ bàn chơi.
Chàng vung tay phải lên đập xuống góc bàn. Lập tức góc bàn gãy rời. Chàng lại giơ tay trái đập vào góc khác, góc này cũng gãy rớt ngay xuống đất.
Tên chủ sòng đã thấy võ công kinh người của chàng thị làm sao hắn còn dám ngang ngược? Đột nhiên hắn phóng cước toan đá đổ bàn để nhân lúc nhốn nháo mà chạy đi. Các con bạc reo lên như sấm:
– Cướp bạc anh em ơi!
Hồ Phỉ vươn tay mặt ra chụp lấy chân tên chủ sòng xách ngược lên, đạp đầu hắn xuống mặt bàn. Luồng lực đạo quá mạnh khiến mặt bàn thủng một lỗ, đầu hắn chui xuống dưới. Từ vai đến chân chìa lên mặt bàn. Chân tay hắn khua loạn xạ lên trông rất nực cười.
Các con bạc bật tiếng la hoảng, tới tấp lùi lại . Đột nhiên thanh niên khoảng hai chục tuổi từ cửa lớn tiến vào. Thanh niên này mình mặc áo trường bào màu lam, tay phải phe phẩy cây quạt giấy, miệng gã hô:
– Có vị hảo bằng hữu quang lâm mà tiểu đệ chưa kịp nghênh tiếp. Xin miễn trách cho!
Hồ Phỉ thấy người này chân bước nhẹ nhàng, vẻ mặt anh khí bồng bột, tỏ ra võ công không phải tầm thường, bất giác chàng hơi sửng sốt. Thiếu niên chắp quạt lại nhìn Hồ Phỉ, chắp tay xá dài hỏi:
– Xin hỏi quý tính đại danh tôn huynh là gì?
Hồ Phỉ thấy gã cử chỉ lễ độ, cũng vái chào đáp:
– Tai hạ chưa kịp thỉnh giáo tôn tính các hạ.
Thiếu niên nói:
– Tiểu đệ họ Phụng.
Hồ Phỉ dựng cặp lông mày lên cười ha hả nói:
– Nếu vậy thì họ tên của tại hạ không khỏi có điều thất kính. Tại hạ họ Bạt tên gọi Phụng Mao. Lão huynh cùng Phụng Thiên Nam xưng hô thế nào?
Thiếu niên đáp:
– Đó là gia phụ. Gia phụ nghe nói tôn giá quang lâm đáng lẽ thân hành đến đây đón tiếp, không ngờ có việc cần kíp nên sai tiểu đệ đến mời tôn giá tới tệ xá uống chung rượu nhạt.
Gã quay lại ngó hai tên võ sư bảo vệ ở “Anh hùng điển đương” quát hỏi:
– Nhất định là các ngươi vô lễ với lão nhân gia khiến lão nhân gia bực mình. Sao còn chưa tạ tội?
Hai tên võ sư hộ vệ vâng dạ luôn miệng rồi khom lưng thỉnh an nói:
– Bọn tiểu nhân có mắt mà không nhìn thấy núi Thái Sơn.
Hồ Phỉ cười lạt nghĩ bụng:
“Ta thử coi bọn bay còn giở trò quỷ gì!”
Gã chủ sòng đầu vẫn bị cắm vào mặt bàn, hai chân khua loạn xạ, miệng la oai oái. Gã thiếu niên nắm lấy lưng hắn nhẹ nhàng nhấc ngược lên rồi đặt xuống. Cổ hắn vẫn dính với mặt bàn, thành ra cái bàn chổng ngược chân lên trời, coi chẳng khác gì cổ bị đeo gông. Chủ sòng hai tay nâng đỡ mặt bàn coi rất hoạt kê và thảm hại. Hắn nhìn thiếu niên nói:
– Đại gia! Đại gia đến vừa may. Hắn… hắn…
Hắn đưa mắt nhìn Hồ Phỉ rồi không dám nói nữa.
Hồ Phỉ hỏi:
– Ngươi không đám đánh nữa chứ gì? Thế cũng được. Vậy tiền chung cho ta đâu? Chẳng lẽ “Anh hùng hội quán” định quịt nợ?
Thiếu niên mắng chủ sòng:
– Bạt gia được bao nhiêu tiền mau lấy ra trả đi, còn ấp a ấp úng gì nữa?
Gã nói rồi cầm hai góc bàn kéo mạnh ra. Rắc một tiếng! Mặt bàn bị tách làm hai mảnh. Công phu này rất ngoạn mục và mau lẹ khiến mọi người trong sòng bạc đều cất tiếng hoan hô. Chủ sòng bây giờ được thiếu chủ đỡ đòn, mật lớn lên một ít, ngó Hồ Phỉ bằng cặp mắt hằn học nói:
– Gã này là “Xuất lão thiên”.
Thiếu niên lớn tiếng quát:
– Nói bậy! Ngươi ta là đấng anh hùng hảo hán, sao lại bảo là “xuất lão thiên”? Nếu ở đây không đủ tiền thì mau sai người lại tiệm cầm đồ mà lấy.
Hồ Phỉ không hiểu ba chữ “xuất lão thiên” nghĩa là gì, nhưng cũng đoán ý hắn bảo mình là phường bịp bợm. Chàng lẩm bẩm:
– Gã thiếu niên này võ công không tồi, mà hành động cũng dứt khoát, ta chẳng thể lơ là được.
Lại nghe thiếu niên nói:
– Tiền bạc của Bạt gia quyết chẳng dám thiếu nửa đồng. Bọn tiểu nhân quê mùa này mắt nhỏ như hai hạt đậu, trước nay chưa nhìn thấy những bậc hảo hán, anh hùng chân chính bao giờ. Bạt gia bất tất chấp nhặt với chúng làm chi. Bây giờ xin mời Bạt gia dời gót ngọc qua tệ xá chơi được chăng?
Gã biết rõ ba chữ “Bạt Phụng Mao” quyết chẳng phải tên thật và chàng tìm tới Phụng gia là có ý gây chuyện thị phi, nhưng gã vẫn một điều Bạt gia, hai điều Bạt gia, tuyệt không lộ vẻ gì khó chịu.
Hồ Phỉ nói:
– Ở đây các vị rất nhiều phụng hoàng, tại hạ chưa hiểu tôn hiệu của đại gia là gì?
Thiếu niên nghe giọng hỏi của Hồ Phỉ có ý châm chọc liền đáp:
– Không dám! Không dám! Tiểu đệ tên gọi Nhất Minh.
Hồ Phỉ nói:
– Tại hạ đang có hứng đánh bạc muốn lại đây chơi một lúc nữa. Chi bằng mời lệnh tôn đến đây hội diện.
Chủ sòng nghe chàng nói muốn đánh bạc nữa, mặt xanh như chàm, lên tiếng.
– Không… không…
Phụng Nhất Minh sa sầm nét mặt quát:
– Chúng ta đang nói chuyện, sao ngươi được chõ miệng vào?
Gã quay lại nhìn Hồ Phỉ cười cầu tài, nói:
– Gia phụ đối với bạn bè trước nay chưa dám thất lễ với ai, được tin Bạt gia quang lâm Phật Sơn trong lòng mừng rỡ khôn xiết, hận mình chẳng được lập tức cùng nhau tương kiến. Vì bữa nay có hai vị Ngự tiền thị vệ ở trong kinh ra, gia phụ phải ở nhà bồi tiếp chẳng thể phân thân ra mà nghinh đón Bạt gia, mong Bạt gia miễn thứ cho.
Hồ Phỉ cười lạt đáp:
– Ngự tiền thị vệ là các quan lớn. Nhất Minh huynh! Tiểu đệ ở ngoài giang hồ có cái ngoại hiệu, chắc huynh đài đã biết rồi.
Phụng Nhất Minh nghe chàng nói tới ngoại hiệu liền tự hỏi:
“Không hiểu tên thật thằng cha này là gì? Nếu tìm hiểu đôi phần thì việc đối phó cũng chẳng khó khăn gì.”
Gã vội nói:
– Tiểu đệ là kẻ cô lậu ít hiểu biết, xin Bạt gia cho biết.
Hồ Phỉ đằng hắng một tiếng rồi đáp:
– Lạ ở chỗ Nhất Minh huynh cũng là người võ lâm mà sao cái tên “Sát quan ẩu lại Bạt Phụng Mao” lừng lẫy trên chốn giang hồ cũng không biết?
Phụng Nhất Minh sửng sốt nói:
– Bạt gia nói giỡn rồi.
Hồ Phỉ đột nhiên vươn tay trái chụp lấy vạt áo gã, quát hỏi:
– Hừ! Tên này lớn mật thật. Sao ngươi dám lấy vụng miếng thịt phụng hoàng của ta nuốt vào bụng?
Phụng Nhất Minh không thể nhẫn nại được nữa, tay phải gã đánh hờ một chưởng, tay trái ra chiêu cầm nã định chụp lấy cổ tay Hồ Phỉ. Hồ Phỉ xoay tay một cái nhanh như điện chớp khiến đối phương không kịp đề phòng. Bốp một tiếng. Phụng Nhất Minh bị đánh một bạt tai vào má trái. Hồ Phỉ thuận tay chụp luôn tay mặt gã, miệng quát:
– Trả lại miếng thịt phụng hoàng cho ta.
Phụng Nhất Minh cũng là tay gia học nhà nòi, võ công không đến nỗi kém mà cảm thấy cổ tay phải mình tựa hồ bị kìm sắt riết chặt, gân cốt cơ hồ gãy nát cả. Gã vội phóng cước nhằm đá vào bụng dưới đối thủ. Hồ Phỉ giơ chân lên, từ trên không đạp trúng mu bàn chân của Phụng Nhất Minh. Bàn chân Phụng Nhất Minh khác nào trúng một đòn thiết chùy, gã không nhịn được rú lên một tiếng. Hồ Phỉ xoay tay trái đánh một chưởng trúng vào má bên phải Phụng Nhất Minh. Thế là cả hai má gã vừa đỏ vừa sưng giống như gan heo.
Hồ Phỉ lớn tiếng hô:
– Các vị hảo bằng hữu hãy nghe đây. Tại hạ đường xa ngàn dặm từ phương Bắc đến trấn Phật Sơn mua cho Chung A Tứ lão huynh một miếng thịt phụng hoàng mà bị gã này ăn vụng mất. Các vị bảo có nên đánh hay không?
Mọi người trong sòng bạc ngơ ngác nhìn nhau, không ai dám lên tiếng nhưng trong lòng đều biết chàng đến trả thù cho cái chết của Chung Tiểu Tam. Phụng Nhất Minh bị Hồ Phỉ dẫm lên chân, chịt cổ tay, toàn thân vô phương cử động.
Bỗng thấy một lão già từ trong đám đông đi ra, tay cầm một cái tẩu thuốc lào ngắn. Chính là đại chưởng quỹ ở tiệm cầm đồ “Anh hùng điển đương”. Lão bị Hồ Phỉ uy hiếp lấy chín ngàn lạng khi nào chịu bỏ qua? Một mặt lão sai người đến cấp báo với Phụng Thiên Nam, mặt khác ngầm tới “Anh hùng hội quán” để dò la động tĩnh. Bây giờ lão thấy thiếu chủ nhân bị bắt liền tiến ra, cười vuốt râu, miệng nói:
– Hảo hán gia, đây là người con duy nhất của Phụng lão gia. Phụng lão gia coi y quý như tính mạng mình. Hảo hán gia cần dùng tiền bạc thế nào xin cứ cho hay và xin tha thiếu chủ nhân của bọn tại hạ ra.
Hồ Phỉ bảo:
– Ai bảo gã ăn vụng thịt phụng hoàng của ta? Hễ là con cưng của Phụng lão gia thì muốn ăn vụng cái gì của người khác cũng được hay sao?
Đại chưởng quỹ cười nói:
– Hảo hán gia khéo nói giỡn. Trong thiên hạ làm gì có thịt phụng hoàng? Dù có đi chăng nữa thì thiếu chủ nhân của bọn tại hạ cũng không ăn vụng.
Hồ Phỉ lại quát:
– Thịt phụng hoàng bổ lắm. Thực là món ăn quý vô giá. Hễ nuốt vào bụng là nét mặt hồng hào béo mập lên ngay. Các vị hãy coi đó, có phải mặt gã vừa đỏ vừa mập hơn không? Vậy mà còn cãi là không ăn vụng thịt phụng hoàng của ta ư?
Đám người ở sòng bạc thì một nửa là thủ hạ của Phụng Thiên Nam, một nửa nếu chẳng phải bọn lưu manh thì cũng là hạng phá gia chỉ tử. Ai nấy đều sợ uy thế Phụng Thiên Nam, nên nghe Hồ Phỉ hỏi vậy đều mồm năm miệng mười đáp:
– Bọn tại hạ có thấy thịt phụng hoàng của hảo hán gia đâu?
– Phụng thiếu gia quyết không ăn cắp bất cứ cái gì của hảo hán cả.
– Ở phủ Phụng lão gia còn thiếu thứ gì mà phải ăn vụng ăn cắp?
– Thật buồn cười! Thật buồn cười!
– Hảo hán tha ngay y ra để khỏi xẩy chuyện lớn.
Hồ Phỉ đáp:
– Được rồi! Các vị bảo gã không ăn vụng chẳng lẽ ta cãi được ư? Bây giờ chúng ta đưa nhau đến miếu Bắc Đế để ngài phán xét.
Mọi người sửng sốt, lập tức nghĩ ngay đến vụ Chung Tứ tẩu mổ bụng con ở miều Bắc Đế. Đại chưởng quỹ ngấm ngầm kinh hãi nghĩ bụng: một khi đã đến Bắc Đế miếu thì câu chuyện khó mà vãn hồi được. Hắn không ngớt khom lưng xá dài nói:
– Hảo hán dạy thế là chí phải. Bọn tại hạ đều lầm rồi. Thiếu chủ nhân đúng là đã ăn vụng thịt phụng hoàng của hảo hán. Hảo hán đòi bồi thường thế nào xin hoàn lại đúng như vậy là xong.
Hồ Phỉ cười lạt:
– Ông bạn nói nghe dễ dàng quá. Bao nhiêu người ở đây đều bất phục mà không tới Bắc Đế miếu làm cho minh bạch thì ta còn mặt mũi nào trông thấy ai nữa?
Dứt lời chàng cắp nách Phụng Nhất Minh rảo bước ra khỏi đổ trường, bỏ cả tiền bạc lại không lấy nữa. Chàng hỏi thăm khách bộ hành rồi đi thẳng về phía miếu Bắc Đế.
Bắc Đế miếu có kiến trúc rất hùng vĩ với bệ thờ thật lớn. Qua cổng tới một cái ao lớn. Trong ao toàn là rùa đá, rắn đá. Hồ Phỉ kéo Phụng Nhất Minh vào đại điện, thấy vết máu vẫn còn đỏ trên phiến đá trước tượng thần, nghĩ đến thảm cảnh của Chung Tứ tẩu bị ép buộc phải mổ bụng con, bầu máu nóng trong ngực sôi lên, chàng đẩy Phụng Nhất Minh té xuống rồi ngửng đầu nhìn tượng thần Bắc Đế dõng dạc hô:
– Bắc Đế gia, Bắc Đế gia! Ngài uy linh, hiển hách, xin giúp cho tiểu dân được thân oan trả mối oán hờn. Tên giặc này ăn vụng thịt phụng hoàng của tiểu dân mà mọi người bảo gã không ăn…
Chàng chưa dứt lời đột nhiên thấy sau lưng rít lên tiếng gió, biết là gần đó có người tập kích hai bên. Chàng cúi đầu xuống co mình lại. Hai người kia đánh vào quãng không. Hồ Phỉ hai tay giang ra đẩy sau lưng hai người đánh “binh” một tiếng. Hai người đụng đầu vào nhau lập tức ngất đi. Lại nghe một người tức giận gầm lên nhẩy xổ vào. Hồ Phỉ thấy tiếng bước chân trầm trọng, thế đánh rất uy mãnh, bụng bảo dạ:
– Người này công phu không phải tầm thường.
Chàng nghiêng mình né tránh. Bỗng thấy đao quang lấp loáng. Một đại hán lớn như con trâu mộng đã lướt qua bên mình. Thanh đao chém xuống đầu Phụng Nhất Minh. Nhưng người này võ công cao cường, trong lúc cấp bách gã liền đưa cánh tay trệch đi một chút. Nhát đao chém xuống viên gạch xanh, mảnh gạch bay tứ tung. Hồ Phỉ la lên:
– Tuyệt diệu!
Chàng đưa chân trái đè lên khuỷu tay đối phương. Đại hán rú lên một tiếng buông tay bỏ đao ra. Hồ Phỉ khoèo chân phải một cái, thanh đơn đao bay lên. Tiện tay chàng đón lấy rồi cười nói:
– Tại hạ đang bực vì chuyện không có đao mổ bụng gã này mà các hạ lại đem đến cho. Xin cảm ơn các hạ.
Đại hán tức giận đến cực điểm, hết sức giãy giụa. Hồ Phỉ nhấc chân trái lên một chút hắn liền xoay mình nhảy vọt lên được ngay đủ biết cường lực của hắn hơn người. Hắn đẩy chân phải một cái mười đầu ngón tay như móc câu từ trên không chụp xuống Hồ Phỉ. Hồ Phỉ xoay mình một cái đã vòng ra phía sau đối phương. Tay trái chàng đẩy mạnh vào đôi vai phì nộn của hắn, miệng quát:
– Lên trời đi!
Phát đẩy này mười phần có đến tám là mượn đà nhảy lên của đại hán. Đại hán không tự chủ được bay vút lên không. Những người đứng xem bật tiếng la hoảng, chỉ e người hắn sẽ xuyên thủng nóc miếu bay ra ngoài. Đại hán vội đưa hai tay ôm lấy cây rường ở giữa đại điện. Dù hắn không bị đụng bể đầu nhưng cứ phải đeo tòng teng trên không, nhìn xuống thấy cách mắt đất mấy trượng.
Hắn không luyện môn khinh công, thân thể lại nặng nề, tuy công phu ngạnh công ngoại gia vào hạng khá mà không dám nhảy xuống. Đại hán này là nhân vật thứ ba trong Ngũ Hổ môn, một tay trợ thủ rất đắc lực của Phụng Thiên Nam. Những người ở trấn Phật Sơn đều sợ hắn một phép. Bây giờ hắn như người bị treo trên rường nhà, lên không được xuống cũng không xong coi rất thảm hại. Hồ Phỉ kéo vạt áo Phụng Nhất Minh đánh roạc một miếng để hở bụng ra. Chàng cầm ngang thanh đao, nhìn mọi người ở trong điện hô lớn:
– Gã có ăn thịt phụng hoàng hay không, các vị cứ mở mắt ra mà coi cho rõ, đừng bảo ta đổ oan cho người ngay.
Bốn năm người ăn mặc như kiểu hương thân đứng bên đều bước tới khuyên giải, nói:
– Xin hảo hán gia hãy nương tay, nếu mổ bụng ra thì người chết không thể sống lại được, điều đó thật không nên.
Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
– Bọn người này úp úp mở mở, chắc cũng cùng một giuộc với Phụng Thiên Nam.
Chàng tức giận quay đầu lại, quát hỏi:
– Chung Tứ tẩu mổ bụng thằng nhỏ sao các vị không khuyên can? Chỉ con em nhà giàu mới đáng tiền, còn con kẻ nghèo không phải là mạng người hay sao? Các vị mau về nhà đi. Mỗi vị bắt một đứa con đưa đến đây. Nếu ai không chịu đưa đến, ta sẽ thân hành tới nơi để tìm. Thịt phụng hoàng của ta nếu không phải gã ăn vụng thì là con các vị ăn rồi. Ta sẽ mổ bụng từng đứa một để điều tra cho ra vụ này.
Hồ Phỉ nói mấy câu này khiến bọn hương thân hồn vía lên mây, không nói gì nữa. Giữa lúc nhốn nháo, ngoài cửa miếu có tiếng ồn ào huyên náo. Một lũ người chạy vào. Người đi trước thân thể cao lớn, mình mặc áo đoạn màu đồng cổ. Hắn đưa hai bàn tay gạt một cái. Bảy, tám người trên điện liền bị té xuống lăn ra xa mấy thước. Hồ Phỉ thấy người này khí thế uy mãnh lại thái độ ngang tàng, liền lẩm bẩm:
– Ha ha! Rốt cuộc hắn phải đến rồi!
Chàng đưa mục quang nhìn đại hán từ đầu xuống chân, lại từ gót chân lên đến đầu. Đại hán là một lão già để ria mép đốm bạc, tuổi ngoài năm chục, cổ tay mặt đeo một đôi vòng ngọc, tay trái cầm cây tẩu màu phỉ thúy, nghiễm nhiên là một tay đại hương thân, không giống một tên ác bá trong võ lâm ngồi nhà để chia tang vật. Có điều chân lão cước bộ trầm ổn, cặp mắt rất oai nghiêm, quá nửa là tay võ nghệ cao cường. Đại hán này chính là Nam bá thiên Phụng Thiên Nam, chưởng môn phái Ngũ Hổ.
Phụng Thiên Nam đang dự tiệc bồi tiếp hai thị vệ từ kinh đô đến, nghe gia nhân liên tiếp về báo cáo là có người đại náo tửu lâu, tiệm cầm đồ và sòng bạc. Lão không muốn để mất uy danh trước mắt bọn Ngự tiền thị vệ, toan bỏ mặc không lý gì đến. Lão cho là chuyện nhỏ nhặt này bọn thủ hạ cũng đủ sức đối phó rồi. Sau lão nghe nói con bị bắt đưa đến miếu Bắc Đế để mổ bụng mới hối hả chạy tới. Lão tưởng một tay đối đầu ghê gớm nào đến tầm cừu, ngờ đâu lão vừa ngó thấy Hồ Phỉ thì chỉ là một gã thiếu niên quê mùa chưa từng quen biết. Lão chưa nói gì đã cúi xuống toan ôm con dậy
Hồ Phỉ nghĩ thầm:
“Lão này có vẻ cuồng ngạo lắm. Hắn coi ta không ra gì”.
Chàng chờ Phụng Thiên Nam cúi xuống rồi phóng chưởng đánh vào lưng lão. Phụng Thiên Nam không quay đầu lại chỉ xoay tay sau bên trái gạt bàn tay đối phương. Chát một tiếng. Hai chưởng đụng nhau. Người Phụng Thiên Nam lảo đảo, suýt nữa té xuống đè lên mình Phụng Nhất Minh. Bây giờ lão mới biết chàng thiếu niên quê mùa này quả là tay kình địch. Lão đành bỏ tay đó giơ tay phải lên, vung quyền đánh vào eo Hồ Phỉ. Hồ Phỉ thấy lão biến chiêu rất thần tốc, quyền đánh như gió. Quả là thân thủ của một danh gia. Chàng vung đao chém xuống nắm tay lão. Nhát đao này tuy mãnh liệt, Phụng Thiên Nam chỉ cần rút tay một cái là tránh được ngay, nhưng Nhất Minh nằm ngang dưới đất, nếu lão rụt tay về thì đứa con sẽ hứng lấy nhát đao. Trước tình trạng nguy cấp này Phụng Thiên Nam ứng biến cực kỳ mau lẹ. Lão kéo tấm phủ bàn trước bệ thờ hất lên đón đỡ chiêu đao. Hồ Phỉ là:
– Giỏi lắm!
Chàng vươn tay trái lên chụp lấy một đầu tấm phủ bàn. Cả hai người cùng kéo mạnh. Bỗng nghe đánh “soạt” một tiếng. Tấm phủ bàn đứt ngay khúc giữa thành hai đoạn. Bây giờ Phụng Thiên Nam đâu dám coi thường nữa? Lão vội nhảy lùi lại nửa trượng. Một tên đệ tử đưa cây Hoàng kim côn vào tay lão. Cây côn dài đến bảy thước, đường kính một tấc rưỡi. Toàn thân đúc bằng vàng pha với đồng. Có thể nói là một thứ binh khí nặng nhất và sang trọng nhất của một nhà hào phú trong võ lâm.
Phụng Thiên Nam vung cây kim côn lên trỏ vào Hồ Phỉ nói:
– Các hạ là môn phái của ai? Phụng mỗ có chỗ nào đắc tội với các hạ, xin được thỉnh giáo.
Hồ Phỉ đáp:
– Tại hạ có miếng thịt phụng hoàng bị lệnh lang ăn vụng mất. Không mổ bụng gã ra để coi cho rõ thì không xong.
Phụng Thiên Nam nhờ cây Thục đồng côn mà khắp tỉnh Lĩnh Nam không ai địch nổi. Lão mới sáng lập ra phái Ngũ Hổ và định cư ở trấn Phật Sơn. Sau lão đại phát tài mới cho đúc cây Hoàng kim côn để thay cho cây thục đồng côn. Những cây côn mà con nhà võ sử dụng thưởng chỉ cao ngang bằng lông mày để xoay xở cho vừa với chiều cao thân thể gọi là “Tề mi côn”. Cây ngắn không tới năm thước, cây dài cũng chỉ hơn sáu thước là cùng. Cây côn của Phụng Thiên Nam dài đến bẩy thước mà vàng ròng lại mềm quá, nên pha thêm đồng, với cây côn bằng thép thì nặng hơn nhiều.
Nhờ Phụng Thiên Nam có tý lực hơn người, côn vung ra trong phạm vi hai trượng là ánh vàng rực rỡ. Quả là vô cùng lợi hại. Lão nghe lời Hồ Phỉ nói thì biết rằng cục diện bữa nay khó lòng mà dàn xếp cho ổn thỏa. Lão vung vây kim côn lên, vung cổ tay hai cái, đầu côn đã quạt gió làm cho hai ngọn đèn trước bệ thờ tắt ngóm.
Phụng Thiên Nam quát lớn:
– Tại hạ xưa nay rất thích kết giao với bằng hữu, cùng với tôn giá chưa hề quen biết, cớ gì phải vì một thằng nhỏ nhà nghèo mà làm tổn thương đến nghĩa khí giang hồ? Là bạn hay là thù đều do một lời của tôn giá mà quyết định.
Kim côn là binh khí rất nặng, lão chỉ vung một đường mà đã làm tắt hai ngọn đèn, tuyệt diệu ở chỗ đầu côn không làm suy suyển gì tới ngọn đèn. Thủ pháp chuẩn xác như thế quả là công phu hiếm thấy. Lời lão nói tuy mềm mỏng mà bên trong lại cứng rắn, chỉ mong Hồ Phỉ thấy khó khăn mà lui bước, bất tất phải can thiệp vào chuyện không đâu.
Hồ Phỉ cười nói:
– Phải rồi! Lời Phụng gia nói không sai. Chỉ cần Phụng gia cắt một miếng thịt phụng hoàng đền cho tại hạ, thì tại hạ lập tức phủi áo đi ngay. Phụng gia thấy vậy được không?
Phụng Thiên Nam sa sầm nét mặt, quát lớn:
– Đã vậy thì chúng ta chỉ còn cách dùng binh khí để phân cao thấp mà thôi.
Lão nói xong liền chống cây côn nhảy vào trong miếu. Hồ Phỉ ném Phụng Nhất Minh xuống đất, cầm đơn đao cắm bên mình gã, miệng quát lớn:
– Nếu mi bỏ trốn thì cha mi phải đền mạng!
Chàng đưa tay không ra, dõng dạc nói:
– Lão gia đây đi không đổi họ, về chẳng đổi tên tiếng tăm lừng lẫy, đó là “Sát quan ẩu lại Bạt Phụng Mao”. Lông phụng không nhổ được thì lông phao câu của gà thối, vịt thối cứ nhổ tạm cũng tốt. Xin mọi người hãy xem cho rõ.
Chàng vừa dứt lời, tay trái đột nhiên vung ra chộp lấy đầu côn của đối phương. Phụng Thiên Nam biết chàng võ công lợi hại, bụng nghĩ thầm:
“Mi đã phách lối tự đại, không dùng binh khí thì chớ trách ta.”
Lúc thấy chàng đưa tay ra chộp lấy cây côn, tỏ ra quá xem thường đối thủ, liền vung đuôi côn một cái, ra chiêu “Khu vân tảo nguyệt”, quét ngang cổ Hồ Phỉ. Tuy chiêu này chủ yếu là quét ngang nhưng lại có điểm, có đánh, có quấn, có nảy. Cái đó gọi là “Đơn đầu, song đầu, triển đầu, đầu đầu thị đạo, chính diện, trắc diện, bối diện, diện diện giai linh”, đúng là côn pháp thượng thừa trong võ học. Hồ Phỉ thân hình di chuyển theo đường côn, phát chưởng đối công.
Mọi người ngưng thần nín thở, chăm chú xem hai người kịch đấu. Bọn thuộc hạ của Phụng Thiên Nam tuy đông người, nhưng chưa được lệnh của lão nên không dám xông vào trợ chiến. Vả lại hai người tung nhảy như gió bọn ở ngoài võ công kém xa, có muốn trợ chiến cũng chăng biết ra tay thế nào.
Cuộc ác đấu đang lúc khủng khiếp thì ba người từ cửa miếu tiến vào. Người đi đầu là một phụ nhân tóc tai rũ rượi, mình đầy máu me. Chính là Chung Tứ tẩu. Mụ vừa dập đầu vừa bò vào. Hai người theo sau là Chung A Tứ, chồng mụ và Chung Tiểu Nhị, con mụ. Chúng Tứ tẩu vẫn quỳ dưới đất nhìn Phụng Thiên Nam dập đầu không ngớt. Mụ cười ha hả rồi la lên:
– Phụng lão gia! Lão gia là người đại nhân đại nghĩa. Bắc Đế phù hộ cho lão gia đa phước đa lộc, phù hộ cho lão gia kim ngọc mãn đường quanh năm phát tài. Gã Tiểu Tam, con của tiểu phụ đã làm cáo trạng kiện tới Diêm Vương nhưng Diêm Vương gia bảo lão gia đại phúc đại quý, hậu vận hưởng phúc vô cùng.
Mụ điên điên khùng khùng, vừa quỳ vừa lạy, chợt khóc chợt cười. Chung A Tứ nét mặt tái xanh không nói một lời. Phụng Thiên Nam mới cùng Hồ Phỉ chiết hơn mười chiêu thì đã rơi vào thế hạ phong. Cây kim côn vung lên thành vòng tròn mỗi lúc một nhỏ. Lão lại thấy Chung Tứ tẩu dở khôn dở dại quỳ trước mặt mình thành ra tâm thần bối rối. Lão biết còn chiến đấu nữa tất bị thất bại khó bề cứu vãn, liền vận kình lực vào hai bàn tay sử chiêu “Dương mi thổ khí” đánh vào hàm ếch của Hồ Phỉ. Nhát côn này kình phong rít lên, kim quang lóa mắt. Hồ Phỉ không né tránh cũng không lùi lại, vươn tay đoạt lấy kim côn. Phụng Thiên Nam vừa sợ vừa mừng, nghĩ bụng:
“Cánh tay ngươi dù có đúc bằng sắt đi nữa cũng phải gãy tan.”
Lão liền vận kình dồn hết sức ra cổ tay. Bàn tay Hồ Phỉ vừa bám đầu côn liền co nhẹ lại về phía sau, nương theo sức đập cây côn, các ngón tay uốn quanh nắm lấy đầu côn. Tính ra Phụng Thiên Nam sử chiêu đó đã phát huy công lực khổ luyện trên ba chục năm, lão vội sử chiêu “Thương hoạt hạ kiếp”, rồi tiếp theo là chiêu “Phiên triệt địa” dùng công phu ngạnh công cực kỳ cương mãnh để giật lại.
Hồ Phỉ là lên:
– Nhổ lông con gà thối tha đây!
Hai tay chàng từ ngoài đưa vào trong bóp lấy yết hầu. Không hiểu chàng di động thân hình thế nào mà vừa giật, vừa chụp lại thuận đà tiến đánh luôn. Cây kim côn của Phụng Thiên Nam vung ra ngoài dĩ nhiên không đánh được chàng. Phụng Thiên Nam sợ quá vội cúi đầu xuống đồng thời đưa tay ra giữ lấy cổ.
Hồ Phỉ dùng tay trái khẽ đập vào thiên linh cái đối phương rồi lột mũ lão ra, tay phải chụp lấy búi tóc lão la lên:
– Phát chưởng này tạm thời chưa kết liễu các hạ!
Tay trái chàng nắm búi tóc của lão rồi hai tay giựt mạnh ra hai bên một cái. Nghe “Phựt” một tiếng, búi tóc của lão bị đứt thành hai đoạn. Phụng Thiên Nam sợ tái mặt, vội nhảy lùi lại. Hồ Phỉ giơ tay mặt lên. Cái mũ của Phụng Thiên Nam bay ra chụp trúng vào đầu con rắn đá. Chàng lại tiến lên hai bước phóng chưởng đánh vào đầu con rùa đá nghển cổ lên. “Binh” một tiếng. Tia nước bắn tung tóe. Đầu con rùa đá bị gãy cổ rớt xuống ao nước. Hồ Phỉ nổi lên tràng cười ha hả. Chàng cầm mớ tóc dài của Phụng Thiên Nam quấn vào cổ con rùa đó. Hai tay chang phủi bụi trên mình cười hỏi:
– Còn đánh nữa hay thôi?
Bọn người đứng xem thấy Hồ Phỉ phô trương thân thủ như vậy đều cả kinh thất sắc. Phụng Thiên Nam biết phát cưởng vừa rồi quả chàng đã lưu tình, không thì chưởng lực đánh gãy đầu con rùa đá mà đánh vào đầu lão thì còn chi là tính mạng? Nhưng lão nghĩ tới chuyện Hồ Phỉ lấy búi tóc mình quấn lên cổ rùa, lấy mũ mình đội lên đầu rắn thì quả là một điều đại sỉ nhục, còn nhịn làm sao được? Lão liền múa kim côn ra chiêu “Thanh long quyển vĩ” quét mạnh một cái. Lúc này lão đánh liều mạng chứ không giữ thân phận chưởng môn tỷ võ cùng người.
Hồ Phỉ thầm nghĩ:
“Thằng cha này lâu nay hoành hành bá đạo, bữa nay mà ta không làm cho hắn mất hết thể diện thì không giải được oan khí cho người ở trấn Phật Sơn này.”
Chàng thấy uy lực cây kim côn có gia tăng, nhưng côn pháp đã không còn linh động như lúc nãy. Chàng dùng tay không đỡ gạt mấy chiêu rồi thấy lão sử chiêu “Thiết ngưu canh địa” đánh tới, bèn chờ đầu côn quét xuống đất liền dẫm chân phải lên. Phụng Thiên Nam vội vận kình giựt lại. Hồ Phỉ vung chân rất mau lẹ, vừa thấy chân phải rung động liền đạp mạnh chân trái lên thân côn một cái. Phụng Thiên Nam không nắm chắc được nới hai tay ra, cán côn rớt xuống đập trúng mu bàn chân phải lão, hai cái xương nhỏ gãy lập tức. Lão đau quá, mặt vàng như nghệ, nhưng chỉ nghiến răng chịu đựng chứ chẳng rên la một tiếng. Lão đưa hai tay chắp sau lưng dõng dạc lên tiếng:
– Phụng mỗ học nghệ chưa tinh thông không còn gì để nói nữa, các hạ muốn giết muốn mổ thế nào xin cứ tùy ý.
Chung Tứ tẩu hướng về lão vẫn dập đầu không ngừng. Mụ vừa khóc vừa la:
– Đa tạ Phụng lão gia đã thành toàn cho thằng Tiểu Tam của nhà tiểu phụ. Nó quả có ăn vụng thịt ngỗng của lão gia không?
Hồ Phỉ thấy Phụng Thiên Nam bị thảm như vậy, không muốn làm nhục lão nữa, nhưng lại thấy thảm trạng điên khùng của Chung Tứ tẩu, cùng những vết máu trên bệ đá trước ban thờ, chàng nghĩ Phụng Thiên Nam ngoài vụ này nhất định còn gây không ít điều tàn ác, đã rơi vào tay mình thì há có thể buông tha một cách khinh xuất? Chàng liền sấn bước tới chụp lấy lưng Phụng Nhất Minh giơ lên, nhổ thanh đao cắm dưới đất rồi quay lại Phụng Thiên Nam:
– Phụng lão gia! Giữa tại hạ và lão gia vốn vô oán vô cừu, nhưng lệnh lang ăn vụng miếng thịt phụng hoàng của tại hạ thật là vô lý. Những người ở trấn Phật Sơn đều bênh vực gã. Nỗi oan khuất của tại hạ khó mà biện minh được, đành phải mổ bụng lệnh lang để liệt vị coi cho rõ.
Dứt lời chàng đưa mũi đao vào bụng Phụng Nhất Minh, rạch nhẹ một đường. Trên làm da trắng như tuyết lập tức ứa máu. Phụng Thiên Nam dĩ nhiên làm lắm điều tàn ác nhưng cũng có khí phách của một hán tử giang hồ. Lão bị bại dưới tay Hồ Phỉ rồi mà vẫn mười phần cứng cỏi, không để mất thân phận một vị chưởng môn. Nhưng bây giờ thằng con yêu độc nhất sắp bị thảm họa mổ bụng, bất giác bao nhiêu oai phong ngạo khí đều tiêu tán. Lão la lên:
– Hãy khoan!
Rồi lão đoạt lấy một thanh đơn đao của một tên hạ thủ đứng bên. Hồ Phỉ cười hỏi:
– Lão gia còn chưa chịu phục, muốn đánh một trận nữa chăng?
Phụng Thiên Nam vẻ mặt sầu thảm đáp:
– Mình làm mình chịu, Phụng mỗ đã hành động không xứng đáng, để tôn giá phải ôm mối bất bình. Cái đó không liên quan gì đến tiểu nhi. Phụng mỗ không dám sống nữa, chỉ cầu tôn giá tha mạng cho thằng con.
Lão nói rồi vung đơn đao toan đâm cổ tự vẫn. Bỗng nghe người trên rường nhà hô lớn:
– Phụng đại ca! Làm thế không được.
Nguyên là gã đại hán to lớn hai bàn tay bám lấy rường nhà người đeo tòng teng trên không. Phụng Thiên Nam cười khổ một tiếng rồi vung đao cứa cổ liền. Mọi người giật mình kinh hãi nhưng chẳng ai dám ngăn cản. Thanh đơn đao nếu lướt qua cổ thì lập tức máu chảy đương trường, thây nằm lăn trong tổ miếu.
Đột nhiên mấy tiếng veo véo rít lên. Một mảnh ám khí từ ngoài cửa điện ở trên cao chênh chếch bắn vào. “Keng” một tiếng. Ám khí đụng vào đơn đao. Phụng Thiên Nam bị rung tay làm cho thanh đơn đao trệch đi nhưng cũng vạch một vết thương trên vai bên trái của lão khiến máu chảy đầm đìa.
Hồ Phỉ định thần nhìn lại ám khí thì chính là một cành thoa cài trên đầu phụ nữ. Tý lực của Phụng Thiên Nam rất mạnh mà cành thoa nhỏ bé phóng trệch được đơn đao của lão thì người phát ám khí võ công không kém gì chàng. Hồ Phỉ trong lòng thấy kinh ngạc vội chạy ra sân, nhảy vọt lên nóc nhà. Chàng thấy góc tây nam có bóng người thấp thoáng chỉ trong chớp mắt đã mất hút. Hồ Phỉ điểm chân phải xuống nhảy vọt đi. Trong ánh hoàng hôn lờ mờ, chàng đảo mắt nhìn quanh không thấy bóng người, miệng lẩm bẩm:
– Coi bóng sau lưng người này thân hình mảnh dẻ tựa hồ một thiếu nữ. Chẳng lẽ trong đám nữ nhân trên đời này lại có một tay cao thủ đến thế?
Chàng sợ cha con Phụng Thiên Nam trốn mất không dám đứng lâu trên nóc nhà, liền xoay mình nhảy xuống trở vào đại điện thì thấy cha con Phụng Thiên Nam đang ôm nhau. Mặt lão nước mắt đầm đìa không hiểu là vì yêu thương nuối tiếc hay hối hận khổ đau? Hồ Phỉ lòng dạ nhân từ, thấy tình cảnh đó có ý muốn tha thứ cho cha con lão.
Phụng Thiên Nam buông con ra, quỳ xuống trước mặt Hồ Phỉ nói:
– Cái mạng già của lão phu xin trao vào tay các hạ, chỉ hy vọng các hạ nương tay tha mạng cho nhi tử.
Phụng Nhất Minh xông lại cướp lời:
– Không được! Không được! Các hạ giết tiểu nhân đi để báo thù cho họ Chung. Xin cứ mổ bụng tiểu nhân đi.
Trong lúc nhất thời, Hồ Phỉ không biết phát lạc bằng cách nào. Nếu giết cả hai người thì chàng không nỡ, nhưng nếu thấy cha con lão quỳ gối khóc lóc mà buông tha tất thì phước cho họ quá.
Đang lúc ngần ngừ đột nhiên Chung A Tứ tiến lại nhìn Hồ Phỉ nói:
– Hảo hán gia đã cứu mạng cho vợ con tiểu nhân, lại giúp cho cả nhà tiểu nhân rửa sạch được nỗi oan khuất. Đại ân đại đức tiểu nhân tan xương nát thịt cũng khôn bề báo đáp.
Y vừa nói vừa dập đầu lạy binh binh. Hồ Phỉ vội đỡ y dậy. Chung A Tứ quay lại, nét mặt xám xanh nhìn Phụng Thiên Nam nói:
– Phụng lão gia! Bữa nay ở trước thần tượng Bắc Đế, lão gia có chịu nói theo lương tâm một câu là thằng con Tiểu Tam của nhà tiểu nhân không ăn vụng thịt ngỗng chăng?
Phụng Thiên Nam bị uy thế Hồ Phỉ trấn áp, cúi đầu đáp:
– Không có! Đó… đó là lầm lỗi của Phụng mỗ.
Chung A Tứ lại nói:
– Phụng lão gia! Lão gia theo lương tâm mà nói thực lần nữa đi. Có phải lão gia xui quan phủ hành hạ tiểu nhân, bức tử nhi tử chỉ vì muốn chiếm mảnh vườn rau của tiểu nhân không?
Phụng Thiên Nam đưa mắt nhìn thì thấy bộ mặt thường ngày vốn chất phác thật thà của con người quê mùa hiện giờ đang nghiến răng nghiến lợi, mắt dường tóe lửa, rất đáng sợ, bất giác lão cúi đầu xuống không dám trả lời. Chung A Tứ lại giục:
– Lão gia mau nói đi. Có đúng thế không?
Phụng Thiên Nam ngửng đầu lên đáp:
– Đúng vậy! Giết người thì phải thường mạng. Ngươi giết ta đi.
Bỗng nghe ngoài cửa miếu có tiếng người hô:
– Tên tiểu tặc tự xưng là Bạt Phụng Mao kia! Ngươi có dám ra đây đấu với ta ba trăm hiệp không? Ngươi chỉ rụt đầu rụt cổ trong miếu Bắc Đế không dám ra ngoài sao?
Mấy câu này thanh âm rất vang dội. Bao nhiêu người trong đại điện đều nhau kinh ngạc, họ nghe rõ thanh âm nặng trịch và thô lỗ, đầy vẻ vô lại lưu manh. Hồ Phỉ sửng sốt chạy ra cửa miếu thấy ba người cưỡi ngựa đang chạy vội về phía Tây. Một tên cưỡi ngựa quay đầu lại nói lớn:
– Con rùa rụt đầu kia! Chắc ngươi không dám động thủ cùng lão tử.
Hồ Phỉ tức giận vô cùng. Chàng thấy dưới gốc cây lớn bên cổng miếu có cột hai con ngựa, liền nhảy lên lưng một con, bứt dứt dây cột, hai chân kẹp lại thúc vào bụng ngựa, rượt theo ba kẻ kia. Ba con ngựa chạy trước men theo bờ sông lao về phía tây. Hồ Phỉ thấy ba người cưỡi ngựa tư thế rất vụng về, thuật cưỡi ngựa cũng kém cỏi. Chàng không hiểu tư thế của ba kẻ kia là thật hay giả, nhưng mấy con ngựa họ đang cưỡi đúng là giống lương câu. Hồ Phỉ đuổi chừng hơn một dặm, thủy chung vẫn không tài nào đuổi kịp. Thỉnh thoảng lại nghe ba người lớn tiếng thóa mạ chẳng úy kỵ gì hết. Chàng thấy chúng chẳng mảy may sợ hãi, tựa hồ như có một kẻ cực kỳ lợi hại nâng đỡ.
Trong lòng nóng nảy, chàng cúi xuống lượm mấy viên đá rồi tung cổ tay một cái. Năm sáu viên đá bay ra. Bỗng nghe những tiếng “Ối chao!”, “Ối, mẹ ơi!” vang lên không ngớt. Cả ba hán tử đều bị đánh trúng ngã ngựa. Hai tên bò lồm cồm dưới đất, kêu la ầm ĩ. Người thứ ba chân móc vào bàn đạp bị ngựa lôi đi, trong chớp mắt đã khuất vào rặng liễu âm u. Hồ Phỉ nhảy xuống ngựa thấy hai tên kia vẫn nắm lưng, miệng rên hừ hừ kêu đau. Chàng đá một tên, quát:
– Ngươi bảo muốn đấu cùng ta ba trăm hiệp sao còn chưa đứng lên?
Người kia lồm cồm đứng dậy đáp:
– Thua bạc chưa trả mà còn ngang ngược vậy ư? Một ngày kia Phụng lão gia sẽ thân hành thu thập ngươi.
Hồ Phỉ sửng sốt hỏi:
– Ai thiếu tiền cờ bạc không trả?
Một người khác nhảy xổ lại vung quyền đánh vào mặt Hồ Phỉ. Thoi quyền này tuy sức mạnh mấy cân nhưng chẳng theo chưởng pháp nào hết. Hiển nhiên hắn chưa học võ công. Hồ Phỉ tủm tỉm cười, đưa tay khẽ gạt cho thoi quyền của hắn trệch đi. “Binh” một tiếng. Thoi quyền đánh trúng sống mũi của tên đồng bọn khiến máu tươi chảy ròng ròng. Người phóng quyền sợ giật nảy mình không hiểu tại sao thoi quyền của mình đánh ra lại không chuẩn đích. Hắn chỉ biết ôm quyền đứng thộn mặt ra.
Người bị đòn tức giận nói:
– Quân chó đẻ! Sao lại đánh lão tử?
Hắn vung chân đá vào eo gã đồng bọn. Người kia xoay tay lại đánh. “Binh binh bốp bốp!” Thế là hai người đánh nhau kịch liệt không lý gì đến Hồ Phỉ. Hồ Phỉ thấy hai gã này thực tình không hiểu võ công mà dám kêu mình ra thách đấu thì bên trong ắt có điều gì ngoắt ngoéo. Hai tay chàng nắm lấy cổ tay hai gã lôi về phía sau để tách hai gã ra. Nhưng hai người đỏ mặt tía tai, miệng không ngớt tuôn ra những lời thô tục để nhục mạ nhau. Một tên chửi đối phương chuyên môn ăn cắp rau cỏ nhà người ta, một tên chửi đối phương chuyên trộm gà vịt ở trấn Phật Sơn.
Hồ Phỉ xem chừng hai người này đều là hạng vô lại quê mùa, càng sinh lòng ngờ vực, liền lớn tiếng quát hỏi:
– Ai sai bọn ngươi đến chửi mắng ta?
Dứt lời hai tay chàng thúc lại. Nghe “cốp” một tiếng trán hai gã đụng vào nhau. Lập tức cả hai trán đều sưng vù lên như mọc sừng, mắt long lên song sọc nhìn nhau. Hán tử trộm gà rất nhát gan. Gã vừa bị một cú ở đầu đã lạy lục rối rít:
– Gia gia! Công công! Tiểu chỉ là đứa con cháu khốn nạn của lão nhân gia.
Hồ Phỉ lại quát:
– Hừ, ta mà có hạng con cháu đê tiện như ngươi ư? Nói mau!
Tên ăn cắp gà nói:
– Chủ sòng ở “Anh hùng hội quán” nói là lão gia thiếu nợ cờ bạc không trả, bảo bọn tiểu nhân ba tên dẫn dụ lão gia ra ngoài để đánh cho một trận. Lão cho bọn tiểu nhân mỗi tên năm lạng bạc. Những con ngựa này cũng của lão cho mượn. Lão gia thiếu nợ có trả hay không cũng chẳng liên quan gì đến bọn tiểu nhân…
Hồ Phỉ nghe tới đây “ủa” lên một tiếng, chàng lẩm bẩm:
– Hỏng rồi! Hỏng rồi! Sao ta lại hồ đồ đến nổi nỗi trúng phải kế “Điệu hổ ly sơn” của địch nhân.
Chàng đẩy hai tay một cái khiến hai tên vô lại ngã chúi xuống như chó ăn phân, rồi tung mình lên ngựa hấp tấp quay về đường cũ. Chàng thầm nghĩ:
“Bây giờ chắc cha con Phụng Thiên Nam lẩn trốn cả rồi. Tòa Phật Sơn trấn rộng lớn thế này biết đi đâu kiếm họ? May mà hắn chiếm sản nghiệp của người ta rất nhiều. Ta lại đến mọi nơi của hắn đại náo một trận long trời đất lở, thử xem hắn lẩn tránh đến bao giờ?”
Không bao lâu, Hồ Phỉ trở về đến miếu Bắc Đế. Lúc trước bên ngoài cửa miếu, người ta bu coi đông nghịt nhưng bây giờ lại vắng tanh, đến một thằng nhỏ cũng không còn: Hồ Phỉ bụng bảo dạ:
“Quả nhiên Phụng Thiên Nam đi mất rồi.”
Chàng tung mình xuống ngựa chạy thẳng vào trong miếu. Chàng vừa khoa chân bước lên đại điện, bất giác như hít phải một hơi khí lạnh, hơi thở tựa hồ ngưng trệ. Người chàng lảo đảo muốn ngồi phệt xuống đất. Trước đại điện miếu Bắc Đế máu tươi lênh láng khắp mặt đất, trong vũng máu có ba thây người chính là Chung A Tứ, Chung Tứ tẩu và Chung Tiểu Nhị. Người nào cũng bị loạn đao chém nát, máu thịt bầy nhầy, cảnh tượng cực kỳ thê thảm khiến người ta không nỡ nhìn. Hồ Phỉ đứng thộn mặt ra hồi lâu. Bầu nhiệt huyết sôi sùng sục. Chàng không nhịn được nữa, quỳ phục xuống đất khóc òa lên. Chàng vừa khóc vừa la:
– Chung Tứ ca! Chung Tứ tẩu! Chung gia huynh đệ! Bởi Hồ Phỉ này bất tài mà làm lụy đến tính mạng của các vị.
Chàng thấy ba người chết rồi, mà mắt vẫn mở trừng trừng, nét mặt đầy vẻ phẫn nộ. Chàng đứng lên trỏ vào thần tượng Bắc Đế gia mà phát thệ:
– Bắc Đế gia gia! Bữa nay xin Bắc Đế gia gia làm chứng cho. Nếu Hồ Phỉ này chẳng giết được cha con Phụng Thiên Nam để báo thù cho cả nhà họ Chung thì sẽ trở về tự tử trước mặt gia gia.
Chàng đập tay đánh “binh”một cái khiên một góc bàn thờ vỡ vụn. Bao nhiêu đồ thờ, lò hương cùng cây đèn trên án đều rớt ngổn ngang xuống đất. Chàng định thần lại ra ngoài cửa miếu dắt ngựa vào đặt ba xác người lên lưng ngựa, trong lòng hối hận không thôi:
“Ta nhỏ tuổi ngu ngốc không hiểu những trò ma quỷ trên chốn giang hồ mà lại đưa đầu vào đòi can thiệp chuyện bất bình, làm hại ba mạng người phải chết oan. Trong nhà họ Phụng kia dù đầy xuống núi đao vạc dầu, bữa nay ta cũng phải sấn vào giết bọn chúng một trận tả tơi mới hả dạ”.
Chàng liền dắt ngựa ra đường lớn mà đi. Chàng thấy nhà nào nhà nấy đều cửa đóng then cài, đường sá vắng ngắt không một bóng người. Chỉ nghe tiếng chân ngựa của mình lộp cộp bước trên đường lát đá.
Hồ Phỉ đến “Anh hùng đương phố” và “Anh hùng tửu lâu”, đạp tung cửa lớn, cũng thấy vắng ngắt như tờ, tưởng chừng mới trong khoảnh khắc mà mấy vạn người ở trấn Phật Sơn đột nhiên biến sạch. Chàng chỉ thấy ở tiệm cầm đồ và tửu lâu chỗ nào cũng chất đầy củi khô và rơm không hiểu để làm gì?
Hồ Phỉ lại tới sòng bạc cũng chẳng thấy bóng người. Hàng vạn lạng bạc đặt trên cánh cửa còn y nguyên không ai đả động đến. Hồ Phỉ tiện tay cầm lấy mấy trăm lạng bỏ vào bọc, trong lòng ngấm ngầm kinh ngạc tự nghĩ:
“Chắc Phụng Thiên Nam bày ra quỷ kế gì đó để đối phó với ta. Bọn chúng đông mà ta chỉ có một mình, khó lòng đương nổi.”
Hồ Phỉ vừa đi vừa chú ý nhìn quanh. Sau khi chuyển qua mấy góc phố, chàng ngó thấy một tòa phủ đệ to lớn tường trắng ngói đen. Trên cổng treo tấm biển đề bốn chữ đại tự “Nam Hải Phụng đệ”’. Tòa phủ đệ này gồm năm gian liền nhau, khí thế rất hùng vĩ. Cổng ngoài cổng trong đều mở toang. Trong nhà trống trải, tựa hồ không một bóng người. Hồ Phỉ lẩm bẩm:
– Dù hắn có bố trí ngàn vạn cơ quan đi nữa, ta cũng cho một mớ lửa đốt động rùa của hắn, thử xem hắn có chường mặt ra không?
Chàng toan đi tìm củi đuốc và cỏ khô để phóng hỏa thì đột nhiên dẫy nhà phía sau và ở hai bên đều có khói lửa bốc lên. Chàng ngẩn người một chút rồi hiểu ngay:
“Phụng Thiên Nam đã là tay đầy thủ đoạn lợi hại, có lý nào chịu vứt bỏ sản nghiệp mà không tiếc rẻ. Nay hắn tự mình châm lửa đốt sạch gia sản là đã nhất định xa chạy cao bay. Ta không rượt theo ngay thì e rằng hắn trốn biệt không còn thấy tông tích đâu nữa.”
Chàng liền dắt ngựa đến vườn rau của nhà họ Chung bên cạnh tòa nhà họ Phụng, tìm thuổng cuốc đào huyệt mai tang ba người. Chàng nhìn thấy vườn rau rất xanh tốt. Bên luống rau còn bỏ lại một cái mũ trẻ con và một món đồ chơi. Hồ Phỉ càng nhìn càng thấy thương tâm và phẫn nộ, chàng phục xuống đất lạy mấy lạy, miệng lầm rầm khấn vái:
– Chung gia huynh tẩu! Huynh tẩu có khôn thiêng thì giúp cho tiểu đệ bắt được hung thủ, đừng để chúng chạy thoát.
Bỗng nghe tiếng bước chân vang lên. Mấy chục người hô hoán ồn ào:
– Phải bất cho được hung thủ đã giết người phóng hỏa.
– Đừng để tên giang dương đại đạo vô pháp vô thiên tẩu thoát.
– Tên tiểu cường đạo đó hiện còn lẩn quất gần đây.
Hồ Phỉ đi quanh đến sau một gốc cây lớn, nhìn ra ngoài thấy bốn năm chuc tên nha dịch binh đinh tay cầm cung nỏ đao thương, thiết xích, lòi tói ở ngoài tòa nhà họ Phụng la ó ầm ĩ để hư trương thanh thế. Chàng ngưng thần chăm chú nhìn trong đám người này không thấy cha con Phụng Thiên Nam liền nghĩ thầm:
“Phụng Thiên Nam làm kinh động đến quan phủ, nhưng lão cũng biết rõ không bắt nổi ta mà chỉ muốn ngăn trở ta một lúc mà thôi.”
Chàng liền nhảy lên ngựa nhằm về phía vùng đất hẻo lánh mà chạy. Ra khỏi thị trấn, Hồ Phỉ quay đầu nhìn lại thấy khói lửa ở tòa nhà họ Phụng đã bốc lên cao. Đồng thời mấy nơi khác như tiệm cầm đồ, tửu lâu, sòng bạc cũng có lửa cháy. Xem ra Phụng Thiên Nam quyết ý phá hủy sạch cơ nghiệp ở trấn Phật Sơn, vĩnh viễn không quay trở lại. Chàng trong lòng vừa buồn vừa hận, nhưng không thể không phục một người tâm địa độc ác và quyết đoán, dùng một mồi lửa để thiêu sạch gia sản hơn mười mấy năm kinh doanh mà không hề hối tiếc. Chàng thầm nghĩ:
“Con người tâm sâu kế xa như vậy thì nhất định đã có diệu kế lánh họa. Ta làm thế nào để tìm cho thấy hắn đây?”
Trong lúc nhất thời chàng ngựa lại ở ngoài trấn Phật Sơn trong dạ bồi hồi không biết quyết định ra. Chàng vẫn nghe thấy những tiếng nhốn nháo từ phía xa xa vẳng lại cùng tiếng xe chữa lửa chạy ầm ầm trên đường lát đá. Chàng tự hỏi:
“Ta vừa đi rượt ba tên vô lại, cả đi lẫn về không đầy nửa giờ. Cơ nghiệp của Phụng Thiên Nam đồ sộ như vậy thì làm sao thu xếp đâu vào đấy trong khoảnh khắc được? Đêm nay nếu hắn không tự mình trở về giải quyết mọi việc tất cũng phải có kẻ tâm phúc đến chỗ hắn ẩn náu để xin vài chỉ thị. Ta chỉ giữ ở đầu đường là được”.
Chàng chắc ban ngày họ không lộ diện liền trèo lên một cây cao ở nơi vắng vẻ, nhắm mắt dưỡng thần. Hồ Phỉ nghĩ tới thảm trạng bốn người Chung gia bị sát hại, trong lòng bi phẫn, cứ thề đi thề lại trong lòng:
– Nếu không giết được toàn gia Phụng tặc thì Hồ Phỉ ta sống trong trời đất cũng uổng mà thôi.
Hồ Phỉ chờ đến lúc chập choạng tối mới tiến ra ven đường lớn ẩn mình trong bụi có rậm để chờ. Chàng dương mắt nhìn quanh bốn phía. Mấy giờ trôi qua chẳng thấy động tĩnh gì. Mãi đến khi trời sáng rõ ngoài mấy người hương nông gánh phân, gánh rau đi bán, chẳng một ai tiến vào trấn Phật Sơn. Hồ Phỉ đang buồn rầu chán nản bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập. Hai kẻ cưỡi khoái mã từ trong thị trấn chạy ra ngoài. Những người cưỡi ngựa đều vận sắc phục võ quan theo kiểu thị vệ trong kinh. Hồ Phỉ chợt động tâm sực nhớ tới Phụng Nhất Minh đã nói phụ thân gã bận tiếp mấy vị thị vệ đại nhân không thể phân thân đến gặp chàng. Chàng chắc hai tên thị vệ này có liên quan đến Phụng Thiên Nam.
Vừa nghĩ tới đây thì hai con ngựa lướt qua chỗ chàng ẩn nấp. Chàng liền lượm một viên đá nhỏ búng ra đánh “vút” một cái, trúng vào khớp chân sau của một con ngựa. Con ngựa đang chạy lẹ đột nhiên chân sau khuỵu xuống, ngã ngửa về phía sau. Chân nó đã bị gãy rồi. Trình dộ cưỡi ngựa của tên thị vệ rất tinh thâm. Biến cố xảy ra đột ngột mà hắn cũng kịp tung mình nhảy vọt đi nhẹ nhàng đứng xuống bên đường. Hắn thấy con ngựa bị gãy chân, miệng không ngớt hí thật thê thảm, không khỏi chau mày lẩm bẩm:
– Hỏng bét! Hỏng bét!
Chỗ Hồ Phỉ ngồi cách đó chừng tám trượng. Chàng nghe tên thị vệ kia dừng cương quay đầu lại hỏi:
– Chuyện gì vậy?
Tên thị vệ này đáp:
– Con súc sinh này đột nhiên trượt chân gẫy giò, chỉ e thành vô dụng mất rồi.
Hồ Phỉ nghe thanh âm hắn quen thuộc chợt nhớ ra hắn là tên thị vệ họ Hà mà chàng đã gặp mấy năm trước ở Thương gia bảo. Tên thị vệ kia nói:
– Chúng ta đành trở lại Phật Sơn kiếm con khác vậy.
Tên thị vệ họ Hà chính là Hà Tư Hào ngày trước đã từng đánh nhau với Từ Tranh. Hắn đáp:
– Không biết Phụng Thiên Nam đi đâu rồi? Tình hình trong trấn Phật Sơn hiện đang rối tung chẳng ai lý gì đến mình đâu. Ta qua huyện Nam Hải tìm ngựa quách.
Hắn nói rồi rút đao chủy thủ đâm vào đầu ngựa cho chết đi, để nó khỏi phải chịu đau đớn.
Tên thị vệ kia hỏi:
– Chúng ta cưỡi chung một con đến huyện Nam Hải. Này Hà đại ca nói xem Phụng Thiên Nam có trở về Phật Sơn nữa hay không?
Hà Tư Hào đáp:
– Y đã hủy nhà lánh nạn thì còn về thế nào được nữa?
Tên thị vệ kia nói:
– Chuyến đi này bọn mình xuôi nam chẳng những uổng một phen tân khổ, mà còn làm hại chết ngựa tốt của đại ca nữa.
Hà Tư Hào trèo lên lưng ngựa rồi đáp:
– Chưa chắc đã uổng công. Đại hội các chưởng môn trong thiên hạ mở tại phủ của Phúc đại soái là một thịnh sự hiếm có. Phụng Thiên Nam làm chưởng môn phái Ngũ Hổ ắt cũng phải đến.
Hắn nói rồi vỗ vào mông ngựa một cái. Con ngựa bị hai người cưỡi trên lưng không chạy nhanh được phải cất bước chậm chạp. Hồ Phỉ nghe nói trong phủ Phúc đại soái có mở cuộc đại hội các chưởng môn trong thiên hạ, trong bụng mừng thầm tự nghĩ:
“Các chưởng môn khắp thiên hạ cùng tụ hội về dĩ nhiên là náo nhiệt. Phụng Thiên Nam dù không đi nhưng hắn lánh mình ở đâu, từ trong hội này ta cũng có thể dò la tin tức. Nhưng không hiểu Phúc đại soái mở đại hội các chưởng môn để làm gì?”.