Trương Vô Kỵ thấy đó là một thiếu phụ, liền sửng sốt hỏi:
– Bà… bà là ai?
Thiếu phụ lưng bị trúng một chưởng nặng của đệ tử phái Nga Mi, đau nhợt nhạt cả mặt mày, không nói nổi.
Kỷ Hiểu Phù cũng hỏi:
– Bà là ai? Vì cớ gì mấy phen đến hãm hại ta?
Thiếu phụ lặng thinh. Kỷ Hiểu Phù rút trường kiếm, chĩa vào ngực thiếu phụ.
Trương Vô Kỵ nói:
– Để điệt nhi vào xem Hồ tiên sinh có sao không?
Cậu sợ Hồ Thanh Ngưu đã bị thiếu phụ này hạ độc thủ, lại nghĩ thiếu phụ có thể là đồng đảng của Kim Hoa bà bà. Trương Vô Kỵ rảo bước đến trước cửa phòng của Hồ Thanh Ngưu, đẩy mạnh cánh cửa mở ra, gọi to:
– Tiên sinh, tiên sinh! Tiên sinh có sao không?
Không có tiếng trả lời, Trương Vô Kỵ quá lo, vội sờ soạng trên bàn tìm đồ đánh lửa, đốt lên một ngọn nến, thấy chăn đệm trên giường xộc xệch nhưng không thấy Hồ Thanh Ngưu đâu cả.
Trương Vô Kỵ vốn chỉ lo Hồ Thanh Ngưu đã bị thiếu phụ hạ thủ nằm chết dưới đất, nhưng nhìn quanh không có ai thì yên tâm, nghĩ thầm: “Nếu Hồ tiên sinh bị bắt đi, lúc này chắc chưa bị sát hại”. Vô Kỵ định đuổi theo, chợt nghe dưới gầm giường có tiếng thở nặng nề, bèn cúi mình chiếu nến, thấy Hồ Thanh Ngưu chân tay bị trói, nằm dưới đó. Trương Vô Kỵ cả mừng, vội kéo ông ta ra, thấy miệng ông ta bị nhét một trái hồ đào to, không thể nói được.
Trương Vô Kỵ móc trái hồ đào ra, cởi dây trói cho Hồ Thanh Ngưu. Hồ Thanh Ngưu hỏi luôn:
– Thiếu phụ kia đâu?
Trương Vô Kỵ nói:
– Đã bị Kỷ cô cô chế ngự, không chạy được đâu. Tiên sinh không bị đả thương chứ?
Hồ Thanh Ngưu nói:
– Hãy khoan cởi trói cho ta, mau đưa thiếu phụ tới gặp ta, mau lên, chậm một chút e không kịp mất.
Trương Vô Kỵ hỏi:
– Tại sao?
Hồ Thanh Ngưu giục:
– Mau đưa thiếu phụ tới đây, ồ không, ngươi mau lấy ba viên “Ngưu hoàng huyết kiệt đan” cho bà ta uống trước, thuốc trong ngăn kéo thứ ba ấy, mau lên!
Hồ Thanh Ngưu luôn miệng thúc giục, thần sắc rất gấp gáp.
Trương Vô Kỵ biết “Ngưu hoàng huyết kiệt đan” là linh dược giải độc, Hồ Thanh Ngưu phối chế bằng không ít dược liệu trân kỳ, chỉ cần một viên đã đủ hóa giải chất cực độc, vậy mà giờ bảo cho thiếu phụ uống những ba viên, không lẽ bà ta bị trúng độc rất nặng ư?
Chỉ thấy thần sắc Hồ Thanh Ngưu quả thực gấp gáp lạ lùng nên Trương Vô Kỵ không dám hỏi thêm, vội lấy “Ngưu hoàng huyết kiệt đan” chạy sang chòi của Kỷ Hiểu Phù, nói với thiếu phụ:
– Mau nuốt đi này!
Thiếu phụ mắng luôn:
– Cút đi, ai cần hảo tâm của tên tiểu tặc chứ?
Thì ra thiếu phụ ngửi mùi “Ngưu hoàng huyết kiệt đan” thì biết ngay là thuốc giải độc. Trương Vô Kỵ nói:
– Là Hồ tiên sinh cho bà uống đó.
Thiếu phụ nói:
– Xéo đi, xéo mau!
Sau khi trúng chưởng của Kỷ Hiểu Phù, giọng nói của thiếu phụ nghe rất yếu ớt.
Trương Vô Kỵ không hiểu dụng ý của Hồ Thanh Ngưu, đoán rằng mụ nữ tặc này khi trói Hồ Thanh Ngưu đã bị ông ta dùng một loại ám khí cực độc đả thương, nay cần mụ ta sống để tra vấn mọi việc, bèn bóp miệng mụ ta mà nhét ba viên thuốc vào, rồi nói với Kỷ Hiểu Phù:
– Chúng ta đem mụ này giao cho Hồ tiên sinh định đoạt.
Kỷ Hiểu Phù liền điểm huyệt thiếu phụ, cùng Trương Vô Kỵ mỗi người một bên đỡ một cánh tay lôi mụ ta sang phòng ngủ của Hồ Thanh Ngưu.
Hồ Thanh Ngưu vẫn nằm còng queo dưới đất, vừa thấy mụ kia, vội hỏi:
– Uống thuốc chưa?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Uống rồi.
Hồ Thanh Ngưu vui mừng nói:
– Tốt lắm, tốt lắm!
Trương Vô Kỵ cắt dây trói cho Hồ Thanh Ngưu.
Chân tay vừa được tự do, Hồ Thanh Ngưu liền tới vạch mi mắt thiếu phụ lên xem sắc huyết bên trong mắt, lại bắt mạch cho mụ ta, hoảng hốt hỏi:
– Bà… bà sao lại bị nội thương thế này? Là kẻ nào đả thương bà vậy?
Giọng Hồ Thanh Ngưu vừa kinh hoảng vừa lo lắng. Thiếu phụ bĩu môi, hừ một tiếng, nói:
– Thì cứ hỏi tên đồ đệ của ông khắc biết.
Hồ Thanh Ngưu quay người lại, hỏi Trương Vô Kỵ:
– Ngươi đả thương bà ấy phải không?
Trương Vô Kỵ nói:
– Bà ta đang…
Tiếng thứ tư chưa kịp thốt ra thì Trương Vô Kỵ đã bị Hồ Thanh Ngưu giáng ngay cho hai cái tát.
Hai cái tát rất mạnh, lại bất ngờ, Trương Vô Kỵ hoàn toàn không đề phòng, cũng không kịp né tránh, nên bị đau nổ đom đóm mắt đến suýt nữa ngất đi. Kỷ Hiểu Phù rút trường kiếm cái soạt, quát:
– Ngươi làm gì vậy?
Hồ Thanh Ngưu không buồn để ý tới lưỡi kiếm sáng quắc đe dọa trước mắt, hỏi thiếu phụ:
– Bà thấy trong ngực thế nào? Có đau bụng không?
Thần thái của Hồ Thanh Ngưu hết mực ân cần, khác hẳn cái phong thái “thấy chết không cứu” thường ngày của ông ta. Thiếu phụ thì vẫn giữ vẻ lạnh nhạt như cũ. Hồ Thanh Ngưu giải khai huyệt đạo cho mụ ta, xoa bóp chân tay, lại lấy mấy viên thuốc cẩn thận đút vào miệng, rồi bế mụ đặt lên giường, nhẹ nhàng đắp tấm chăn lên. Cử chỉ trìu mến trân trọng đó đâu phải là cách đối phó với kẻ địch? Trương Vô Kỵ xoa xoa chỗ sưng vều trên má, càng nhìn cảnh đó càng không hiểu ra sao.
Hồ Thanh Ngưu vẻ mặt âu yếm đăm đăm nhìn thiếu phụ một hồi, thấp giọng nói:
– Phen này bà đã trúng độc lại còn bị đả thương, nếu ta có thể chữa lành cho bà thì hai ta không tỷ thí nữa nhé?
Thiếu phụ cười, nói:
– Bị thương nhẹ có đáng gì! Còn việc thiếp đã uống thứ thuốc độc gì thì làm sao tướng công biết được? Tướng công mà chữa lành cho thiếp thì hẳn, thiếp sẽ phục tướng công thật sự. Chỉ e tài nghệ của Y Tiên không bằng Độc Tiên thôi.
Nói đoạn nở một nụ cười, thần sắc thật kiều mị.
Trương Vô Kỵ tuy không hiểu chuyện ái tình nam nữ, song cũng nhận ra ái tình thắm thiết giữa hai người này.
Hồ Thanh Ngưu nói:
– Mười năm trước ta đã bảo Y Tiên không thể sánh kịp Độc Tiên, nàng chẳng chịu tin. Ôi, thử đâu không thử, lại lấy chính thân mình ra thử! Phen này thì ta thực sự mong Y Tiên thắng được Độc Tiên, nếu không, nói dại có điều gì, thì ta cũng chả thiết sống một mình đâu.
Thiếu phụ mỉm cười, nói:
– Thế nhưng khi thiếp thử chất độc vào người khác, tướng công cứ nhường thiếp, làm như tài nghệ không bằng thiếp vậy. Hì hì, lần này thiếp hạ độc chính mình, tướng công không thể không trổ hết tài nghệ.
Hồ Thanh Ngưu vuốt tóc thiếu phụ, thở dài, nói:
– Ta thật lo lắng vô cùng, thôi nàng đừng nói nữa, hãy nhắm mắt dưỡng thần. Nếu nàng ngầm vận khí tự hại mình, thì cuộc tỷ thí kiểu đó không công bằng đâu đấy.
Thiếu phụ mỉm cười:
– Thắng bại phải quang minh lỗi lạc, thiếp đâu thèm làm như vậy.
Nói xong thiếu phụ nhắm mắt lại, khóe miệng còn lưu nụ cười hài lòng.
Chuyện hai người ấy nói với nhau, Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ nghe không hiểu gì cả. Hồ Thanh Ngưu quay lại, chắp tay vái Trương Vô Kỵ một cái thật dài, nói:
– Tiểu huynh đệ, vừa nãy ta nhất thời hoảng hốt, đắc tội với ngươi, hãy lượng thứ cho.
Trương Vô Kỵ giận dỗi, nói:
– Vãn bối chả hiểu sao cả, rốt cuộc là thế nào?
Hồ Thanh Ngưu đưa tay lên tự vả vào mặt mình hai cái thật mạnh, nói:
– Tiểu huynh đệ, ngươi có đại ân cứu mạng ta, chỉ vì ta nhất thời lo lắng cho hiền thê nên đã mạo phạm đối với ngươi.
Trương Vô Kỵ kinh ngạc:
– Bà kia… là phu nhân của tiên sinh ư?
Hồ Thanh Ngưu gật đầu, nói:
– Chính là hiền thê của ta, nếu ngươi còn giận thì cứ tát ta hai cái nữa, hoặc ta sẽ rập đầu tạ tội với ngươi. Ngươi cứu mạng ta, chẳng nói làm gì; song ngươi cũng đã cứu mạng cả hiền thê của ta nữa.
Thường ngày Hồ Thanh Ngưu đoan nghiêm trang trọng, Trương Vô Kỵ luôn kính sợ ông ta, lần này ông ta lại tự vả vào mặt mình cũng đủ thấy thành thực tạ lỗi, lại nghe nói thiếu phụ kia là hiền thê của ông ta, thì Trương Vô Kỵ không còn giận chút nào nữa, vội nói:
– Rập đầu tạ tội thì vãn bối chả dám nhận, bị tiên sinh tát vài cái cũng không sao. Có điều là vãn bối vẫn chưa hiểu mọi chuyện.
Hồ Thanh Ngưu mời Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ ngồi xuống, nói:
– Việc hôm nay đã tới nước này, ta không thể giấu nữa. Hiền thê của ta họ Vương, khuê danh Nạn Cô, là sư muội đồng môn của ta. Khi hai chúng ta cùng nhau học nghệ ở sư môn, ngoài võ công, ta chuyên về y đạo, còn nàng ấy học độc thuật. Nàng bảo người ta học võ chẳng qua để giết người, độc thuật cũng là để giết người, võ thuật và độc thuật là hai thứ đi liền với nhau. Chỉ cần tinh thông độc thuật thì võ công sẽ mạnh gấp bội. Còn y thuật dùng để trị bệnh cứu người, nên trái ngược với võ thuật. Ta thán phục lời nói của hiền thê, kiến thức của nàng cao hơn ta gấp mười lần. Có điều ta lại thích chữa bệnh nên không thể miễn cưỡng. Ta ngoan cố, không chịu nghe lời khuyên của nàng, nên mới phụ cái mỹ ý của nàng đối với ta.
“Hai chúng ta sở học tuy bất đồng, nhưng tình cảm vẫn tốt đẹp, sư phụ bèn tác thành cho hai chúng ta thành phu phụ, sau đó dần dà cũng có danh tiếng trên giang hồ. Có người gọi ta là Y Tiên, gọi nàng là Độc Tiên. Thuật sử dụng chất độc của nàng thần diệu vô song, không ai trên đời này bì kịp, thậm chí nàng còn vượt cả sư phụ. Hạ độc mà được tôn là “Tiên” cũng đủ hiểu tài nghệ của nàng quả là siêu phàm, tuyệt tục. Thế nhưng ta suy nghĩ không sâu xa, mấy lần nàng hạ độc đều là loại chậm phát tác; người bị trúng độc đến cầu xin ta chữa trị, ta lại đi chữa cho họ khỏi, đúng là hồ đồ. Chữa khỏi, ta lấy làm đắc chí, đâu biết rằng đó là hành vi bất trung bất nghĩa đối với ái thê, thật là phụ bạc, là “lòng lang dạ thú””.
“Kẻ bị Độc Tiên đầu độc, Y Tiên lại chữa khỏi, chẳng những phạm vào bổn ý của ái thê, mà còn chứng tỏ Y Tiên giỏi hơn Độc Tiên đó sao?”
Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ nghe mà thầm lắc đầu, trong lòng không khỏi bất mãn.
Chỉ nghe Hồ Thanh Ngưu kể tiếp:
– Nàng đối với ta trước nay ôn nhu hòa thuận, nghĩa trọng tình thâm, trong nữ giới khắp thế gian không thể tìm đâu ra người thứ hai như nàng. Song ta lại cứ năm lần bảy lượt chứng tỏ cái tính hiếu thắng đối với ái thê. Nàng có là gỗ đá thì cũng chẳng trơ trơ mãi được. Cuối cùng ta biết mình quá sai mới lập trọng thệ, phàm người nào bị nàng hạ độc, ta nhất quyết không ra tay chữa trị. Dần dần cùng với tháng ngày, cái ngoại hiệu “Kiến tử bất cứu” mới lan rộng ra ngoài.
“Độc Tiên thấy ta biết lỗi sửa lỗi, còn có cơ cứu vãn, nên đã làm lành với ta. Nhưng chỉ được vài năm, ta lại gặp một bệnh án trúng độc vô cùng cổ quái. Ta vừa gặp đã biết ngay là trừ Độc Tiên ra thì không ai có thể hạ độc như thế nên đã quyết ý không chữa. Song bệnh tình người ấy quá lạ lùng, ta nhịn được vài hôm, rồi lại ra tay chữa lành cho hắn.
“Độc Tiên cũng chẳng thèm cãi ta nửa lời, chỉ nói: “Được rồi, Y Tiên Hồ Thanh Ngưu quả nhiên y đạo thần thông, nhưng Độc Tiên Vương Nạn Cô này chưa phục, vậy hai bên tỷ thí một phen nữa, để xem Y Tiên chữa bệnh giỏi, hay Độc Tiên hạ độc lợi hại hơn?” Ta hết lời xin lượng thứ, nhưng nàng nhất quyết không đấu dịu. Thì ra kỳ này nàng hạ độc, không phải do thù oán ai, mà là nàng mới tìm ra một thủ pháp kỳ diệu, không cách gì chữa trị được. Nàng đem thứ đó thử vào một người, đâu ngờ ta nhất thời gặp may lại chữa khỏi cho người ấy. Ta đối với ái thê tàn nhẫn như thế, còn gọi là người sao được chứ?
“Trong mấy năm sau đó, nàng cứ dày công nghiên cứu độc thuật, hạ độc người này người nọ để cho ta chữa. Đôi bên không ngừng tỷ thí tài năng. Phần vì độc thuật của nàng thần diệu, y thuật của ta cũng có lúc bó tay, phần vì ta không muốn để nàng bực tức, nên có mấy trường hợp ta không chữa lành. Nàng lại tức giận cho rằng ta coi thường nàng, cố ý nhường nhịn mà không chịu dốc toàn lực tỷ thí với nàng. Thế là nàng đùng đùng rời bỏ Hồ Điệp cốc, ta khuyên nhủ cách mấy, nàng cũng không chịu trở về.
“Sau đó ta tuy không dám khinh cử vọng động, nhưng chữa bệnh là sở thích bẩm sinh của ta, nỗi đam mê ấy không sao từ bỏ được, hễ gặp kỳ bệnh quái độc là phải ra tay chữa trị ngay. Đâu biết những người ta chữa khỏi kia, có người do chính ái thê hạ độc, có điều thủ pháp của nàng quá xảo diệu nên không để lộ hình tích, khiến cho ta không thể nhận biết, lại cứ hồ đồ chữa cho bằng hết. Như thế là ta làm cho tình phu thê bị đại tổn thương. Ôi, Hồ Thanh Ngưu phải đổi thành Hồ Xuẩn Ngưu mới đúng! Một người như Nạn Cô mà hạ mình lấy ta, không biết ta tu bao nhiêu kiếp mới có diễm phúc ấy, ta lại chẳng lo hầu hạ nàng, thương yêu nàng mà cứ luôn làm nàng tức giận, đến nỗi nàng phải bỏ nhà mà đi, lang bạt góc biển chân trời, chịu nỗi phong sương khổ sở. Huống chi trên giang hồ lòng người hiểm trá, thiếu gì kẻ tàn ác, nàng một mình yếu đuối, ta làm sao yên tâm cho được?”
Hồ Thanh Ngưu nói tới đây, mặt lộ rõ vẻ tự trách và ân hận.
Kỷ Hiểu Phù đưa mắt nhìn Vương Nạn Cô đang nằm trên giường, nghĩ thầm: “Hồ phu nhân kia ngoại hiệu Độc Tiên, còn ai trong thiên hạ dám hạ độc bà ta kia chứ? Bà ta không hại người đã là may phúc cho kẻ đó lắm rồi, mọi người phải cảm tạ trời đất, chứ ai dám hại bà ta? Hồ tiên sinh sợ vợ như sợ hổ, thật nực cười!”
Hồ Thanh Ngưu nói:
– Vì vậy ta lập trọng thệ, hễ không phải là người trong Minh giáo, ta quyết không chữa trị, để khỏi vô tình làm hỏng kiệt tác của Nạn Cô. Nên nhớ phu thê ta là người theo Minh giáo, đối với huynh đệ tỷ muội cùng giáo phái, Nạn Cô không khi nào hạ độc cả.
Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ nhìn nhau, nghĩ thầm: “Thì ra Hồ tiên sinh không chữa cho người ngoài Minh giáo là vì thế”.
Hồ Thanh Ngưu kể tiếp:
– Bảy năm trước có một cặp vợ chồng già trúng độc, đến Hồ Điệp cốc nhờ chữa trị, đó là Ngân Diệp tiên sinh và Kim Hoa bà bà, chủ nhân đảo Linh Xà ngoài biển Đông Hải. Vợ chồng họ tới Hồ Điệp cốc với số lễ vật chu đáo, nhưng Kim Hoa bà bà không rõ vô tình hay cố ý để lộ chút võ công, ta nhìn thấy thì không khỏi run sợ. Ta không dám cự tuyệt thẳng thừng, nhưng các ngươi biết đó, ta đã hối cải rồi, nhất quyết không đi theo con đường sai trái cũ, đâu dám tái phạm nữa chứ? Thành thử sau khi xem mạch cho vợ chồng họ xong, ta nói: “Cứ theo mạch lý của hai vị, lão đảo chủ và lão phu nhân tuy tuổi cao, song mạch vẫn không khác gì thanh niên, hẳn là nhờ nội lực dồi dào khôn tả. Lão niên mà mạch tượng như tráng niên, đây là lần đầu vãn sinh được gặp”. Kim Hoa bà bà nói: “Tiên sinh quả thật cao minh”. Ta nói: “Hai vị bị trúng độc không giống nhau. Lão đảo chủ thì không thuốc gì chữa nổi, song vẫn có thể sống vài năm nữa; còn lão phu nhân trúng độc không sâu, có thể dùng nội lực bản thân tự hóa giải”.
“Ta hỏi kẻ hạ độc là ai thì biết đó là một tên Mông Cổ, thủ hạ của một đầu đà á khẩu ở Tây Vực, không can hệ gì tới Độc Tiên, nhưng ta đã thề chỉ chữa trị cho người trong Minh giáo nên không thể vì cặp vợ chồng này mà phá lệ. Kim Hoa bà bà hứa sẽ báo đáp thật hậu, chỉ xin cứu mạng cho lão đảo chủ. Nhưng ta nghĩ đến tình phu thê của mình, nhất quyết không chữa. Vợ chồng họ cũng không dùng vũ lực ép ta, chỉ lẳng lặng bỏ đi. Kim Hoa bà bà có nói một câu: “Hà hà, Minh giáo, Minh giáo, thì ra chỉ là vì Minh giáo!” Ta biết rằng vì không chịu trị thương, giải độc cho người, mà đã chuốc lấy không ít oán thù, nhưng tình phu thê sâu nặng nên ta không thể vì người ngoài mà làm cho tình nghĩa đó bị tổn thương, các ngươi thấy ta nói vậy có đúng hay không?”
Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ im lặng, nghĩ thầm chủ trương “Kiến tử bất cứu” đâu phải là đúng.
Hồ Thanh Ngưu kể tiếp:
– Gần đây Nạn Cô ở bên ngoài nghe tin Ngân Diệp tiên sinh bị chất độc phát tác đã chết, Kim Hoa bà bà sắp tìm ta để rửa hận. Chuyện này rất nguy hiểm, Nạn Cô nặng tình với ta nên vội quay về cùng ta bàn cách đối phó. Nàng thấy trong nhà có thêm người lạ, nên đêm đó trước hết bỏ thuốc mê cho Vô Kỵ.
Trương Vô Kỵ giờ mới vỡ lẽ: “Hôm ấy mình ngủ đến quá trưa hôm sau mới dậy, hoá ra đã trúng phải thuốc mê của Hồ phu nhân, lại cứ ngỡ mình sinh bệnh. Vị Độc Tiên này hạ thủ không ai đoán biết, quả là lợi hại vô cùng”.
Hồ Thanh Ngưu kể tiếp:
– Ta thấy Nạn Cô đột nhiên trở về thì mừng rỡ vô cùng. Nàng khuyên ta giả vờ bị bệnh đậu mùa, không gặp ai cả, hai người chỉ ở trong buồng bàn tính cách đối phó với Kim Hoa bà bà. Vị tiền bối dị nhân ấy tài nghệ quá cao, muốn bỏ trốn cũng không thể thoát nổi. Mấy hôm sau thì bọn Tiết Công Viễn, Giản Tiệp và Kỷ cô nương cả thảy mười lăm người lục tục kéo đến.
“Ta vừa nghe tình hình bị thương của bọn họ thì biết ngay là Kim Hoa bà bà có ý thử ta, xem ta có thực sự giữ lời là ngoại trừ đệ tử của Minh giáo ra sẽ không chữa trị cho bất cứ ai. Mười lăm người với mười lăm loại kỳ thương quái bệnh, Hồ Thanh Ngưu say mê chữa trị quên cả tính mạng, chỉ cần gặp một trong các chứng bệnh đó, là dễ không nhịn được mà ra tay chữa thử, chứ nói chi đến những mười lăm người một lúc? Nhưng ta đã tỏ tâm ý của Kim Hoa bà bà, hễ ta chữa khỏi cho một ai, Kim Hoa bà bà sẽ dùng hình phạt nặng gấp trăm lần thế trên chính thân xác ta, thành thử dù ta ngứa tay muốn chữa lắm nhưng cũng đành phải làm ngơ. Đến lúc Vô Kỵ hỏi cách chữa trị, ta có chỉ dẫn, song cũng phải nói rõ rằng Vô Kỵ là đệ tử phái Võ Đang nên chẳng có dính dáng gì tới Hồ Thanh Ngưu ta cả.
“Nạn Cô thấy Vô Kỵ theo cách ta chỉ dẫn đã chữa trị rất linh nghiệm thì không hài lòng chút nào, nên ban đêm lén bỏ thuốc độc vào thuốc hoặc thức ăn của từng người, tiếp tục đua tài với ta. Hơn nữa, nàng cũng chỉ muốn bảo vệ ta, vì nếu Vô Kỵ chữa khỏi cho mười lăm người kia, Kim Hoa bà bà chắc chắn sẽ đổ tội xuống đầu Hồ Thanh Ngưu ta. Mười lăm người toàn là võ lâm hảo thủ, nếu nàng đến bên cạnh hạ độc, lẽ nào họ không phát giác? Bởi thế, nàng mới đánh thuốc mê cả bọn trước, sau đó tùy từng người mà dùng thử các loại độc dược khác nhau. Thủ pháp cao minh đó phải nói là vô tiền khoáng hậu”.
Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ nhìn nhau, đã hiểu tại sao Trương Vô Kỵ sang chòi của Kỷ Hiểu Phù, phải lay mãi Hiểu Phù mới tỉnh dậy.
Hồ Thanh Ngưu nói tiếp:
– Trong mấy ngày, bệnh tình của Kỷ cô nương thuyên giảm quá nhanh, xem ra thuốc độc mà Nạn Cô sử dụng không hiệu nghiệm, Nạn Cô bèn để ý tra xét, mới hay là Vô Kỵ phát giác được bí mật, nên nàng định hạ độc luôn cả Vô Kỵ. Ôi, cổ nhân bảo: giang sơn dễ cải, bản tính khó thay! Ta đối với ái thê rốt cuộc cũng chẳng trung thành đến cùng. Đã quyết ý không nhúng tay vào rồi, vậy mà tối qua, khi Vô Kỵ khuyên ta xuất du để tránh đại họa, ta lại mềm lòng cho một bài thuốc gồm năm vị Đương Quy, Sinh Địa, Viễn Chí, Phòng Phong, Độc Hoạt, bởi lúc ấy Nạn Cô đang ở bên cạnh nên ta không thể nói rõ ra.
“Nhưng Nạn Cô thông minh tuyệt đỉnh, thừa hiểu dược tính, nghe bài thuốc ấy không hợp lẽ thường, nghĩ một chút là hiểu ngay mưu tính của ta. Nàng bèn trói ta, lấy mấy viên thuốc cực độc tự uống, nói: “Sư ca, hai ta kết thành phu phụ hai chục năm qua, biển cạn núi mòn, tình không thay đổi. Nhưng sư ca vẫn coi độc thuật của muội không ra gì, bất luận muội sử dụng loại độc dược nào, sư ca cũng cứu được hết. Lần này chính muội uống mấy thứ cực độc, nếu đại ca cứu sống được muội thì muội mới thực sự khâm phục sư ca”. Ta nghe vậy liền sợ hết hồn, vội vã bảo xin thua, xin thua, hết lời năn nỉ, nàng bèn nhét một trái hồ đào vào miệng ta để ta khỏi nhiều lời. Sau đó thế nào thì hai ngươi đã biết rồi”.
Nói xong, Hồ Thanh Ngưu liên tiếp lắc đầu. Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ nhìn nhau, vừa bực mình vừa tức cười, đôi phu phụ này thật là cổ quái hiếm thấy trong thiên hạ. Hồ Thanh Ngưu đối với thê tử yêu quá hóa sợ, đã đành một nhẽ. Vương Nạn Cô thì nhất thiết phải tranh hơn chồng cho bằng được, cuối cùng lại đi hạ độc chính mình mà không biết sợ.
Hồ Thanh Ngưu kể tiếp:
– Các ngươi nghĩ mà xem, ta còn cách gì bây giờ? Phen này nếu ta chữa trị cho nàng khỏi được, thế thì có khác gì chứng minh tài nghệ của ta hơn nàng, nàng sẽ uất ức mất vui? Còn nếu không chữa nổi thì tính mạng nàng còn đâu? Ôi, ước gì Kim Hoa bà bà mau tới đây, đánh chết ta đi cho rồi, Nạn Cô sẽ khỏi phải phiền não! Huống hồ mấy năm qua tài nghệ hạ độc của nàng đại tiến, vừa rồi ta cũng chẳng biết nàng uống những thứ độc dược gì thì làm sao giải cứu kia chứ.
Trương Vô Kỵ nói:
– Tiên sinh y thuật thần thông, chẳng lẽ phu nhân sử dụng loại độc dược nào cũng chẩn đoán không ra ư?
Hồ Thanh Ngưu nói:
– Sư mẫu của ngươi mấy năm nay sử độc xuất thần nhập hóa, phen này ta không có cách gì chữa trị cho nàng được nữa. Ta đoán rằng nàng uống ba loại trùng ba loại cỏ cực độc, nhưng liều lượng phối hợp sáu loại đó ra sao thì ta chịu, không đoán nổi.
Vừa nói, Hồ Thanh Ngưu vừa dùng ngón trỏ tay phải viết một bài thuốc trên bàn, rồi xua tay, nói:
– Thôi hai ngươi ra đi, nếu Nạn Cô có mệnh hệ gì, ta quyết chẳng sống một mình làm gì.
Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ cùng nói:
– Xin tiên sinh bảo trọng và cố khuyên giải sư mẫu.
Hồ Thanh Ngưu nói:
– Khuyên giải gì bây giờ? Tất cả chỉ tại ta đáng chết!
Nói đến đây, giọng ông ta trở nên nghẹn ngào. Kỷ Hiểu Phù và Trương Vô Kỵ vội đi ra khỏi buồng.
Hồ Thanh Ngưu xoay tay lại, điểm các huyệt đạo ở lưng và hông bà vợ, nói:
– Sư muội, chồng nàng không đủ tài, quả không trị nổi chất độc tam trùng tam thảo, chỉ còn cách xuống làm bạn với nàng dưới hoàng tuyền vậy.
Nói đoạn móc trong túi áo của Vương Nạn Cô mấy gói thuốc bột, quả nhiên không ngoài dự đoán, là ba loại độc trùng và ba loại độc thảo phơi khô tán nhỏ chế thành. Vương Nạn Cô không thể cử động, chỉ còn có thể nói năng, vội kêu lên:
– Sư ca, chàng chớ có uống!
Hồ Thanh Ngưu không thèm lý tới, ngửa cổ dốc luôn gói thuốc bột ngũ sắc vào miệng, dùng nước bọt nuốt xuống bụng.
Vương Nạn Cô cả kinh thất sắc, kêu lên:
– Sao chàng lại uống nhiều thế? Ngần ấy bột thuốc độc, đến ba người cũng chết tiêu.
Hồ Thanh Ngưu cười nhạt, ngồi xuống chiếc ghế bên đầu giường Vương Nạn Cô, trong giây lát đã cảm thấy như trong bụng có hàng vạn con dao cắt ruột. Hồ Thanh Ngưu biết rằng chất Đoạn Tràng Thảo phát tác trước tiên, lát nữa độc tính của năm loại độc dược còn lại sẽ phát tác theo.
Vương Nạn Cô gọi cuống lên:
– Sư ca, sáu loại độc dược ấy có cách giải độc đó.
Hồ Thanh Ngưu đau đớn, toàn thân run rẩy, hai hàm răng đánh vào nhau canh cách, lắc đầu nói:
– Ta… ta không tin… ta… ta chỉ muốn chết cho rồi.
Vương Nạn Cô kêu lên:
– Mau mau uống “Ngưu hoàng huyết kiệt đan” và “Ngọc long tô hợp tán” sau đó châm cứu để giải độc.
Hồ Thanh Ngưu nói:
– Làm thế ích gì?
Vương Nạn Cô vội nói:
– Muội uống thuốc độc với liều lượng nhẹ, còn sư ca uống nhiều quá, hãy mau cứu chữa kẻo không kịp.
Hồ Thanh Ngưu nói:
– Ta hết lòng yêu thương nàng, vậy mà nàng lại cứ tranh cường đấu thắng với ta, ta cảm thấy sống trên đời chẳng còn ý vị gì nữa, thà chết cho xong, ối chao… ối chao…
Mấy tiếng kêu rên đó không phải giả bộ, bởi lúc này chất độc của rắn hổ và nhện đã ngấm vào tim phổi, Hồ Thanh Ngưu thần trí từ từ hôn mê, cuối cùng bất tỉnh nhân sự.
Vương Nạn Cô khóc ầm lên:
– Sư ca, sư ca, tại muội không tốt mà ra, sư ca đừng chết, muội sẽ không bao giờ tỷ thí với chàng nữa.
Hai vợ chồng họ hai chục năm nay cứ không ngừng tranh giành hơn thua, thực ra là phu thê tình sâu nghĩa nặng. Vương Nạn Cô tự mình không sợ chết, song khi thấy chồng uống thuốc độc tự tận thì vô cùng hoảng sợ, đau đớn, ngặt nỗi huyệt đạo bị điểm, chẳng có cách gì ra tay cứu chữa.
Trương Vô Kỵ nghe tiếng kêu khóc, vội chạy vào, hỏi:
– Sư mẫu, làm thế nào cứu sư phụ đây?
Vương Nạn Cô thấy Trương Vô Kỵ chạy vào, đúng là gặp được cứu tinh, vội nói:
– Mau cho sư phụ ngươi uống “Ngưu hoàng huyết kiệt đan” và “Ngọc long tô hợp tán”, rồi dùng kim châm các huyệt Dũng Tuyền, Cưu Vĩ…
Đúng lúc ấy, từ ngoài cổng bỗng vọng vào mấy tiếng ho, trong đêm vắng nghe rõ mồn một. Kỷ Hiểu Phù hớt hải chạy vào buồng, mặt tái nhợt, nói lắp bắp:
– Kim Hoa bà bà… Kim Hoa…
Hai chữ “bà bà” chưa thốt thì cánh cửa không gió tự động mở ra, một bà lão lưng còng dắt theo một thiếu nữ mười hai mười ba tuổi đã đứng trong buồng từ lúc nào, chính là Kim Hoa bà bà.
Kim Hoa bà bà thấy Hồ Thanh Ngưu hai tay ôm bụng, mặt đen sạm, hơi thở thoi thóp, sắp chết đến nơi thì không khỏi ngạc nhiên, hỏi:
– Y làm sao thế?
Người ngoài chưa kịp trả lời, Hồ Thanh Ngưu bỗng hai chân giãy đành đạch vài cái, cổ ngoẹo sang, thế là chết luôn. Vương Nạn Cô khóc òa lên:
– Sao sư ca phải tự hành hạ mình như thế, đi uống thuốc độc chết mất rồi.
Chuyến này Kim Hoa bà bà từ đảo Linh Xà đến Trung nguyên, ngoài việc đi tìm kẻ đã hại chết chồng bà ta để báo thù, còn kiếm Hồ Thanh Ngưu để trả oán; ai ngờ bà ta đến nơi đúng vào lúc Hồ Thanh Ngưu đã uống thuốc độc tự tận. Bà ta cũng là một đại hành gia sử độc, vừa nhìn sắc diện của Hồ Thanh Ngưu và Vương Nạn Cô thì biết ngay là họ đã trúng độc quá nặng, chẳng thuốc gì chữa nổi. Kim Hoa bà bà ngỡ Hồ Thanh Ngưu vì sợ bà ta nên tự tận, nỗi oán hận coi như đã xong, bèn thở dài, nói:
– Tác nghiệt, tác nghiệt!
Đoạn dắt thiếu nữ đi ra.
Thoáng một cái, tiếng ho đã từ rất xa vọng lại. Thân pháp nhanh như thế, thật ngoài sức tưởng tượng.
Trương Vô Kỵ giơ tay sờ ngực Hồ Thanh Ngưu thấy tim vẫn còn thoi thóp, vội lấy “Ngưu hoàng huyết kiệt đan” và “Ngọc long tô hợp tán” cho uống, rồi dùng kim châm vào các huyệt Dũng Tuyền, Cưu Vĩ để giải độc, sau đó dùng ngay cách đó chữa trị cho Vương Nạn Cô.
Hơn một canh giờ sau, Hồ Thanh Ngưu từ từ hồi tỉnh. Vương Nạn Cô cả mừng, nước mắt ròng ròng, nói:
– Tiểu huynh đệ, tất cả là nhờ tiểu huynh đệ cứu mạng hai chúng tôi.
Rồi Nạn Cô viết một bài thuốc sai tiểu đồng đem sắc để giải độc cho vợ chồng bà ta.
Cách giải độc của Vương Nạn Cô thực ra không cao minh cho lắm, khó lòng loại trừ hết độc tính. Trương Vô Kỵ theo bài thuốc mà lúc trước Hồ Thanh Ngưu đã dùng ngón tay viết trên bàn, có thay đổi vài vị, Vương Nạn Cô tuyệt nhiên không biết.
Trương Vô Kỵ nói:
– Kim Hoa bà bà nghĩ rằng Hồ tiên sinh uống thuốc độc chết rồi, chúng ta cũng đỡ được mối lo lớn.
Trương Vô Kỵ thấy Kim Hoa bà bà thoắt cái đã tới, thoắt cái đã đi, hình dạng như ma quỷ, lúc này nhớ lại không khỏi lạnh người.
Vương Nạn Cô nói:
– Nghe người ta bảo, Kim Hoa bà bà hành sự hết sức kỹ càng, hôm nay tuy bà ta đi rồi nhưng mai sau thể nào cũng trở lại tra xét. Vợ chồng ta phải trốn đi ngay. Tiểu huynh đệ, nhờ ngươi đắp giùm hai phần mộ, trên bia ghi rõ tính danh vợ chồng ta.
Trương Vô Kỵ vâng lời. Hồ Thanh Ngưu và Vương Nạn Cô uống thuốc giải độc xong liền thu thập chút hành trang. Hai tiểu đồng mỗi đứa được cho mười lạng bạc, bảo tự tìm đường về nhà. Hai vợ chồng Hồ Thanh Ngưu lên một cỗ xe lừa, nhân trời tối đi ngay.
Trương Vô Kỵ tiễn ra cửa thung lũng, một già một trẻ hơn hai năm qua sớm tối bên nhau, nay phải chia tay, quyến luyến chẳng rời. Hồ Thanh Ngưu lấy ra một bộ y thư viết tay, nói:
– Vô Kỵ, sở học cả đời ta đều được ghi lại trong bộ sách này, trước đây ta vẫn giữ kín, không đưa ngươi xem, bây giờ ta tặng cho ngươi. Âm độc của Huyền Minh thần chưởng trong cơ thể ngươi thật là khó trừ, ta áy náy vô cùng, chỉ mong ngươi tham cứu bộ sách này, tìm ra cách khu trừ hàn độc thì sau này chúng ta còn có dịp gặp lại nhau.
Trương Vô Kỵ tạ ơn nhận lấy. Vương Nạn Cô nói:
– Ngươi cứu mạng vợ chồng ta, lại giúp vợ chồng ta tái hợp, ta cũng muốn mang hết công phu cả đời truyền thụ cho ngươi. Nhưng cả đời ta chỉ nghiên cứu cách hạ độc hại người, ngươi có học được cũng vô ích. Chỉ mong ngươi sớm bình phục, sau này ta sẽ có dịp báo đáp.
Trương Vô Kỵ nhìn theo đến khi chiếc xe chạy khuất, mới trở lại nhà tranh. Sáng hôm sau cậu đắp hai ngôi mộ cạnh nhà, lại rời thung lũng tìm thuê thợ đục hai tấm bia đá, một tấm khắc hàng chữ “Điệp cốc Y Tiên Hồ tiên sinh Hồ Thanh Ngưu chi mộ”, một tấm khắc hàng chữ “Hồ phu nhân Vương thị chi mộ”. Bọn Giản Tiệp thấy hai vợ chồng Hồ Thanh Ngưu cùng chết cả mới biết việc ông ta bảo bị bệnh nặng là thật, không phải để lừa dối người khác nên đều cảm thương.
Vương Nạn Cô đi rồi, không còn ai ngấm ngầm hạ độc, Trương Vô Kỵ chữa trị cho mọi người mỗi ngày một đỡ, chỉ trong vòng mươi ngày họ lục tục cảm tạ ra về. Mẹ con Kỷ Hiểu Phù chưa biết đi đâu nên ở lại thêm ít hôm nữa.
Mấy ngày qua, Trương Vô Kỵ chăm chú đọc bộ y thư do Hồ Thanh Ngưu biên soạn, thấy nội dung quả thật bác đại tinh thâm, tinh vi huyền diệu, không hổ đại danh Y Tiên. Trương Vô Kỵ đọc tám chín ngày, y thuật đã đại tiến, nhưng vẫn chưa tìm ra chi tiết nào nói về cách khu trừ âm hàn khỏi cơ thể. Cậu cứ đọc đi đọc lại mấy lần, cuối cùng không còn hi vọng gì, mới nghĩ thầm: “Hồ tiên sinh nếu biết cách chữa trị cho ta, hẳn đã chữa rồi. Còn nếu tiên sinh không biết, dĩ nhiên trong sách làm sao có chép được?” Nghĩ thế, bao nhiêu hi vọng đều tiêu tan.
Trương Vô Kỵ gấp sách lại, bước ra ngoài nhìn hai ngôi mộ giả, nghĩ thầm: “Chưa đầy một năm nữa, mình cũng sẽ ngủ một giấc ngàn thu dưới lòng đất thôi. Tấm bia trên mộ mình sẽ viết gì nhỉ?”
Còn đang mải nghĩ, bỗng nghe sau lưng có tiếng ho, Trương Vô Kỵ giật mình quay lại thấy Kim Hoa bà bà vịn vai một thiếu nữ xinh đẹp, đứng run rẩy cách cậu vài trượng.
Kim Hoa bà bà hỏi:
– Này tiểu tử, ngươi là thế nào với Hồ Thanh Ngưu? Sao lại đứng nơi đây rầu rĩ?
Trương Vô Kỵ nói:
– Vãn bối bị trúng âm độc của Huyền Minh thần chưởng…
Kim Hoa bà bà tới gần, cầm cổ tay cậu xem mạch, vẻ ngạc nhiên, hỏi:
– Huyền Minh thần chưởng ư? Thế gian quả có môn công phu đó hay sao? Là ai đánh ngươi?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Người đó ăn vận như quân Mông Cổ, không hiểu thực ra là ai. Vãn bối đến cầu Hồ tiên sinh chữa trị, Hồ tiên sinh bảo vãn bối không phải là người trong Minh giáo nên không chịu chữa. Bây giờ Hồ tiên sinh uống thuốc độc chết rồi, bệnh của vãn bối không ai chữa cho, nghĩ đến chuyện đó mà tự thấy đau lòng.
Kim Hoa bà bà thấy Trương Vô Kỵ anh tuấn nho nhã, dễ mến, nay bị căn bệnh bất trị, nên thở dài:
– Tội nghiệp, tội nghiệp!
Trương Vô Kỵ chợt nhớ đến ba câu nói: “Sinh tử tu đoản, khởi năng cưỡng cầu? Dư ố hồ tri duyệt sinh chi phi cảm tà? Dư ố hồ tri ố tử chi phi nhược táng nhi bất tri quy giả tà? Dư ố hồ tri phu tử giả bất hối kỳ thủy chi kỳ sinh hồ?”[52]
Ba câu trên lấy từ sách của Trang Tử. Trương Tam Phong sùng tín Đạo giáo, bảy đệ tử của Trương lão tuy không phải là đạo sĩ, nhưng cuốn bảo điển của Đạo gia là Nam Hoa kinh của Trang Tử thì họ đều thuộc lòng. Hồi ở trên Băng Hỏa đảo, lúc Trương Vô Kỵ lên năm, Trương Thúy Sơn dạy con tập đọc tập viết, không có sách vở gì, chỉ vạch chữ dưới đất mà dạy, đã đem những lời trong sách Trang Tử bắt con học thuộc. Ý của Trang Tử muốn nói rằng sống chắc gì đã sướng, mà chết chắc gì đã khổ, sống chết thực ra không khác nhau bao nhiêu. Con người ta khi sống chẳng qua là một giấc mộng lớn, khi chết đi, chính là tỉnh mộng, không chừng sau khi chết lại thấy rằng trước đó mình cứ ham sống thật là ngu xuẩn, sao không chết sớm hơn? Hệt như sau khi chúng ta trải qua một cơn ác mộng đáng sợ, tỉnh lại, cảm thấy giấc mộng vừa qua thật quá dài.
Trương Vô Kỵ còn ít tuổi, vốn chưa hiểu hết đạo lý lớn của hai chữ sinh tử, nhưng bốn năm qua ngày ngày sống giữa ranh giới sống và chết, cho nên cậu hiểu được hàm ý của Trang Tử. Trước kia cậu hoàn toàn không tin lời của Trang Tử, nay những ngày sống trên thế gian chỉ còn đếm được trên đầu ngón tay, thành thử cũng mong khi chết sẽ được lạc vào kỳ cảnh, sẽ hối hận là mình đã tìm đủ mọi cách cầu sinh.
Lúc này nghe Kim Hoa bà bà cứ nói “tội nghiệp, tội nghiệp” thì cậu mỉm cười, thuận miệng thốt ra ba câu của Trang Tử. Kim Hoa bà bà hỏi:
– Ngươi nói vậy là ý làm sao?
Nghe Trương Vô Kỵ giải thích ý nghĩa xong, Kim Hoa bà bà bỗng dưng ngơ ngẩn.
Ba câu của Trang Tử khiến Kim Hoa bà bà nghĩ đến người chồng quá cố. Hai vợ chồng bà ta sống với nhau mấy chục năm, ân ái vô ngần, chợt âm dương đôi ngả, không bao giờ còn gặp mặt nhau. Nếu chết đi tức là giống như người lưu lạc phương xa, được trở về quê nhà, vậy thì khi chồng bà ta bị kẻ thù hạ độc, Hồ Thanh Ngưu không chịu cứu chữa, chưa chắc đã là xấu. Quê nhà, quê nhà ư? Liệu trở về quê nhà có tốt hơn ở tha hương thật chăng?
Thiếu nữ đứng bên Kim Hoa bà bà hoàn toàn không hiểu mấy câu Trương Vô Kỵ vừa nói có ý nghĩa gì, không biết vì sao Kim Hoa bà bà vừa nghe xong lại như ngây như dại. Cô bé giương đôi mắt xinh đẹp hết nhìn Kim Hoa bà bà, lại nhìn Trương Vô Kỵ. Sau cùng, Kim Hoa bà bà nói:
– Chuyện dưới cõi u minh, chẳng biết thế nào. Chết tuy không đáng sợ, phàm là người rồi ai cũng phải chết, chẳng ai tránh nổi cái ngày đó, nhưng sống thêm được ngày nào thì vẫn hơn!
Trương Vô Kỵ thấy cả bọn Tiết Công Viễn mười lăm người đều bị Kim Hoa bà bà đả thương tàn khốc, lại thấy vợ chồng Hồ Thanh Ngưu sợ bà ta đến nỗi không dám bỏ trốn nữa thì tưởng Kim Hoa bà bà phải là kẻ hung tàn cùng cực, thế nhưng lúc gặp lại thấy khác hẳn. Hôm trước là ban đêm, dưới ánh đèn nhìn chưa rõ, hôm nay giữa ban ngày gặp đây, thấy chỉ là một bà lão hiền hậu, tuy mặt đầy nếp nhăn như da gà, không lộ vẻ hỉ nộ, nhưng ánh mắt trong sáng có thần, linh hoạt như thiếu nữ, rõ ràng tỏ ý ôn hòa thân thiết.
Kim Hoa bà bà lại hỏi:
– Này hài tử, tôn tính đại danh của phụ thân ngươi là gì?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Phụ thân của vãn sinh là Trương Thúy Sơn, đệ tử phái Võ Đang.
Cậu không nhắc tới việc phụ thân tự vẫn.
Kim Hoa bà bà kinh ngạc, nói:
– Ngươi là con của Trương ngũ hiệp phái Võ Đang, như thế có phải tên ác nhân dùng Huyền Minh thần chưởng đả thương ngươi chỉ vì muốn bức ngươi phải tiết lộ chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn và thanh đao Đồ Long không?
Trương Vô Kỵ nói:
– Đúng thế, hắn dùng đủ thứ độc hình nhưng vãn sinh thà chết không nói.
Kim Hoa bà bà hỏi:
– Thế ngươi có biết thực hay không?
Trương Vô Kỵ đáp:
– Ồ, Kim Mao Sư Vương là nghĩa phụ của vãn sinh, vãn sinh không đời nào tiết lộ.
Kim Hoa bà bà liền dùng tay trái nắm luôn cả hai tay Trương Vô Kỵ, chỉ nghe xương kêu răng rắc, Trương Vô Kỵ đau đến muốn ngất đi, lại thấy một luồng hàn khí thấu xương từ hai tay truyền vào ngực, luồng hàn khí này khác hẳn Huyền Minh thần chưởng, song cũng cũng đau đớn khó chịu y như thế. Kim Hoa bà bà dịu giọng nói:
– Bé ngoan, ngươi mau nói ra chỗ ở của Tạ Tốn, bà bà sẽ chữa khỏi chứng hàn độc cho ngươi, rồi sẽ truyền cho ngươi thứ võ công vô địch trong thiên hạ.
Trương Vô Kỵ đau đến chảy nước mắt nhưng vẫn hiên ngang nói:
– Phụ mẫu vãn sinh thà mất mạng chứ không tiết lộ hành tàng của bằng hữu. Kim Hoa bà bà, lão bà tưởng vãn sinh là kẻ bán rẻ phụ mẫu hay sao?
Kim Hoa bà bà mỉm cười:
– Được lắm, được lắm! Phụ thân ngươi đâu, y có ở đây hay không?
Bà ta ngầm vận nội kình, các ngón tay như cái vòng thép bóp chặt thêm cổ tay của cậu. Trương Vô Kỵ nói lớn:
– Sao bà không đổ thủy ngân vào tai vãn bối? Sao bà không bắt vãn bối nuốt kim hay nuốt đỉa sống vào bụng? Bốn năm trước, vãn bối chỉ là một đứa bé còn chẳng sợ cực hình của tên ác ôn nọ, nữa là nay đã lớn rồi, không lẽ không bằng ngày trước?
Kim Hoa bà bà cười ha hả, nói:
– Ngươi tự cho mình là người lớn, không còn là trẻ con nữa cơ đấy, ha ha, ha ha…
Bà ta cười mấy tiếng, buông tay ra, chỉ thấy từ cổ tay đến các ngón tay của Trương Vô Kỵ đều tím bầm.
Thiếu nữ liếc Trương Vô Kỵ, nói:
– Mau tạ ơn bà bà tha mạng đi.
Trương Vô Kỵ hừ một tiếng, nói:
– Bà ta giết ta đi xem chừng ta còn sướng hơn, có gì tốt mà phải tạ ơn?
Thiếu nữ nhíu mày, nói dỗi:
– Huynh không chịu nghe lời, muội chẳng thèm chơi với huynh nữa.
Nói xong thiếu nữ quay ngoắt đi, nhưng mắt vẫn lén liếc xem Trương Vô Kỵ làm gì.
Kim Hoa bà bà mỉm cười, nói:
– A Ly, ngươi có một mình trên đảo, không có ai chơi đùa, vắng vẻ lắm. Thôi mình bắt thằng nhỏ này đem về để nó hầu hạ ngươi, có thích không? Có điều thằng nhỏ này bướng bỉnh lắm, không chịu vâng lời.
Thiếu nữ nhướn mày, vỗ tay, cười, nói:
– Hay quá, bắt nó đem đi thôi! Nó không chịu vâng lời, chả lẽ bà bà không nghĩ ra cách trị nó sao?
Trương Vô Kỵ nghe hai bà cháu một hỏi một đáp thì trong lòng bồn chồn. Nếu Kim Hoa bà bà giết cậu ngay tại đây cũng coi như xong, nếu lại bắt cậu đem tới hòn đảo quái quỷ gì đó, sống chẳng ra sống, chết không ra chết, chịu sự hành hạ của hai kẻ kia, xem chừng lại còn khốn khổ hơn nhiều.
Kim Hoa bà bà gật đầu, nói:
– Ngươi đi theo ta, ta phải tìm một người, làm một việc, xong đâu đấy sẽ đi Linh Xà đảo.
Trương Vô Kỵ nổi giận:
– Các người không phải tử tế, ta không theo các người đi đâu hết.
Kim Hoa bà bà mỉm cười, nói:
– Trên đảo Linh Xà của ta thứ gì cũng có, được ăn chơi những món ngươi chưa thấy bao giờ. Bé con ngoan nào, đi theo bà bà đi.
Trương Vô Kỵ đột nhiên quay mình, co giò chạy. Nào ngờ mới được một bước, Kim Hoa bà bà đã chắn ngay trước mặt cậu. Cậu xoay người, chạy sang phía trái, cũng chỉ được một bước, Kim Hoa bà bà đã lại chặn ngay phía trước, nhỏ nhẹ nói:
– Hài tử, ngươi chạy không thoát đâu, hãy ngoan ngoãn đi theo bà bà.
Trương Vô Kỵ nghiến răng giáng cho Kim Hoa bà bà một chưởng, Kim Hoa bà bà hơi né mình, thổi vào bàn tay cậu một hơi. Bàn tay cậu vừa bị bà ta nắm đến tím bầm và sưng vù, nay lại thêm luồng hơi thổi đến, chẳng khác gì vết thương bị mũi dao ngoáy vào, đau nhảy dựng lên.
Bỗng có tiếng bé gái gọi:
– Vô Kỵ ca ca, ca ca chơi ở đâu thế? Muội tới đây này!
Chính là Dương Bất Hối chạy tới, rồi Kỷ Hiểu Phù cũng từ sau lùm cây bước ra. Hai mẹ con nàng vừa đi chơi ngoài rừng về, bất ngờ gặp Kim Hoa bà bà, Kỷ Hiểu Phù lập tức mặt tái nhợt, nhưng nàng thu hết can đảm, run run nói:
– Bà bà không nên làm khó trẻ con nhà khác.
Kim Hoa bà bà trừng mắt nhìn Kỷ Hiểu Phù, lạnh lùng nói:
– Ngươi chưa chết sao? Chuyện của lão thái bà, ai cho ngươi chõ miệng vào? Lại đây cho ta coi, tại sao đến hôm nay ngươi vẫn chưa chết?
Kỷ Hiểu Phù xuất thân thế gia võ học, cao đồ của danh môn, vốn rất can đảm, nhưng lúc này vì lo cho con nhỏ nên không dám mạo hiểm, đành vội cầm tay con lùi lại một bước, nói nhỏ:
– Vô Kỵ, hãy lại đây.
Trương Vô Kỵ dợm bước định đi, thiếu nữ tên A Ly đưa tay chộp ngay “Tam dương lạc” trên cánh tay cậu, nói:
– Đứng im đó, ngươi tên Vô Kỵ, họ Trương, vậy là Trương Vô Kỵ, phải không?
“Tam dương lạc” vừa bị nắm, Trương Vô Kỵ lập tức cảm thấy nửa thân trên tê dại, không cử động được, trong bụng vừa sợ vừa tức, kêu to:
– Mau thả ta ra!
Bỗng nghe có tiếng phụ nữ trong trẻo vang lên:
– Hiểu Phù, sao ngươi nhát thế? Bảo đến thì ngươi cứ đến xem đi!
Kỷ Hiểu Phù nửa sợ nửa mừng, quay đầu lại thốt lên:
– Sư phụ!
Nhưng sau lưng nào thấy ai, chăm chú nhìn kỹ mới thấy ở phía xa một ni cô mặc áo bào màu tro thong thả đi tới, chính là Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn phái Nga Mi. Theo sau sư thái có hai đệ tử, một là sư tỷ Đinh Mẫn Quân, hai là sư muội Bối Cẩm Nghi.
Kim Hoa bà bà thấy ni cô còn xa như thế, mặt mũi chưa nhìn rõ mà tiếng nói truyền đến tai nghe rõ như chỉ đứng cách một hai thước, đủ biết nội lực thâm hậu chừng nào.
Diệt Tuyệt sư thái thịnh danh truyền xa, trong võ lâm ai ai cũng biết, có điều sư thái hiếm khi xuống núi, không mấy ai được gặp. Lúc đến gần mới thấy Diệt Tuyệt sư thái chừng bốn mươi, bốn lăm tuổi, dung mạo đúng ra đẹp lắm, tiếc rằng hai đuôi lông mày lại xiên xiên đổ xuống khiến cho khuôn mặt hóa thành kỳ bí, hơi giống kẻ đóng vai ma quỷ trong các vở tuồng.
Kỷ Hiểu Phù bước lên, quỳ xuống rập đầu, nói nhỏ:
– Sư phụ, lão nhân gia mạnh khỏe.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Nếu chẳng vì giận ngươi đến chết thì cũng còn khỏe.
Kỷ Hiểu Phù cứ quỳ đó chưa dám đứng dậy, nghe Đinh Mẫn Quân đứng sau sư phụ cười khẩy một tiếng, nàng biết là vị sư tỷ này đã nói xấu về nàng rất nhiều, lưng không khỏi toát mồ hôi lạnh. Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói:
– Vị bà bà kia bảo ngươi đi tới cho bà ta coi tại sao đến hôm nay ngươi vẫn chưa chết thì ngươi cứ tới xem bà ta làm gì nào.
Kỷ Hiểu Phù nói:
– Dạ.
Rồi đứng dậy, tới trước mặt Kim Hoa bà bà, nói lớn:
– Kim Hoa bà bà, sư phụ của vãn bối đã tới, những việc cường hung bá đạo của bà bà đối với vãn bối, sư phụ vãn bối sẽ thanh toán đó.
Kim Hoa bà bà ho hai tiếng, chăm chú nhìn Diệt Tuyệt sư thái, gật đầu, hỏi:
– Ồ, thì ra bà là chưởng môn phái Nga Mi, ta đã đả thương đệ tử của bà đấy, bà làm gì ta nào?
Diệt Tuyệt sư thái lạnh lùng nói:
– Đả thương càng tốt, bà bà thích đả thương thì cứ việc, có đánh chết nó cũng chẳng sao.
Kỷ Hiểu Phù lòng như dao cắt, kêu lên:
– Sư phụ!
Hai dòng lệ nóng chảy dài trên má; nàng biết sư phụ lâu nay luôn bênh vực đệ tử, các đệ tử đắc tội với người ngoài, dù có sai mười mươi, sư phụ vẫn cưỡng từ đoạt lý bênh vực đến cùng, lúc này nói mấy câu thế kia thật chẳng khác gì không còn coi nàng là đệ tử.
Kim Hoa bà bà nói:
– Ta với phái Nga Mi không thù không oán, đả thương một lần cũng đủ rồi. A Ly, bà cháu ta đi thôi!
Nói xong thong thả quay đi.
Đinh Mẫn Quân không biết Kim Hoa bà bà lai lịch ra sao, thấy bà già trông có vẻ bệnh hoạn yếu đuối, dám vô lễ với sư phụ mình thì cả giận, vọt ngay tới trước mặt, quát:
– Bà bà chưa tạ tội với sư phụ ta mà dám bỏ đi ư?
Đoạn tay phải rút kiếm ra khỏi bao nửa chừng, làm vẻ thị uy.
Kim Hoa bà bà đột nhiên dùng hai ngón tay kẹp nhẹ vào bao kiếm của Đinh Mẫn Quân, rồi buông ra, cười nói:
– Đồng gỉ sắt vụn mà cũng đem dọa người ư?
Đinh Mẫn Quân lửa giận bừng bừng, liền rút kiếm, nào ngờ cố sức mấy lần mà thanh kiếm vẫn không thể rút ra khỏi bao. Bé A Ly cười, nói:
– Đồng gỉ sắt vụn hết mất rồi.
Đinh Mẫn Quân lại gắng sức lần nữa vẫn không sao rút kiếm ra nổi. Mới hay Kim Hoa bà bà vừa rồi kẹp ngón tay tưởng như đùa giỡn vào bao kiếm, song đã ngầm vận nội lực làm cho bao kiếm lõm vào, ngậm chặt lấy lưỡi kiếm. Đinh Mẫn Quân rút ra không nổi, song vẫn chẳng chịu thôi, mặt mũi đỏ bừng, điệu bộ đầy vẻ tức tối.
Diệt Tuyệt sư thái thong thả bước tới, dùng ba ngón tay kẹp cán kiếm, lắc nhẹ một cái, bao kiếm tức thời tách thành hai mảnh, lưỡi kiếm tuột ra, nói:
– Thanh kiếm này tuy không phải quý giá lợi hại gì, song cũng chưa đến nỗi là thứ đồng gỉ sắt vụn. Kim Hoa bà bà sao không ở đảo Linh Xà hưởng phúc, lại về Trung nguyên gây sự làm chi?
Kim Hoa bà bà thấy Diệt Tuyệt sư thái dùng ba ngón tay vặn bao kiếm vỡ đôi thì trong bụng thầm sợ, nghĩ: “Mụ tặc ni này thanh danh cực lớn, quả nhiên cũng có công phu đích thực đây”, bèn cười hì hì, nói:
– Chồng ta mất rồi, ở một mình trên đảo buồn quá, thành thử ta đi đây đi đó một chút, xem có hòa thượng hay đạo sĩ nào vừa ý thì bắt một người mang về làm bạn cho vui.
Kim Hoa bà bà cố ý dùng bốn chữ “hòa thượng đạo sĩ” để xỏ xiên đối phương là ni cô mà còn đi nơi này nơi nọ.
Đôi lông mày rủ xuôi của Diệt Tuyệt sư thái lại càng rủ xuống, trường kiếm ngóc lên, trầm giọng quát:
– Lấy binh khí ra!
Bọn Đinh Mẫn Quân, Kỷ Hiểu Phù từ ngày tòng sư đến nay chưa từng thấy sư phụ động thủ với kẻ khác, nhất là Kỷ Hiểu Phù biết Kim Hoa bà bà võ công quái dị khôn lường thì càng lo lắng.
Trương Vô Kỵ tay bị A Ly nắm chặt, nửa thân trên mỗi lúc một tê dại, quát lên:
– Buông ta ra! Ngươi giữ ta làm chi?
A Ly thấy Kỷ Hiểu Phù đứng bên có thể can thiệp, nếu không thả Trương Vô Kỵ, hẳn thế nào Hiểu Phù cũng sẽ ra tay, lúc đó không thả không xong, bèn dùng sức đẩy một cái, buông tay Trương Vô Kỵ ra, lạnh lùng nói:
– Để xem ngươi chạy đâu cho thoát.
Kim Hoa bà bà cười nhạt, nói:
– Năm xưa Quách Tương Quách nữ hiệp của phái Nga Mi kiếm pháp danh động thiên hạ, hẳn là cực kỳ cao minh, không hiểu truyền xuống đồ tử đồ tôn, còn được mấy phần?
Diệt Tuyệt sư thái thản nhiên nói:
– Dù chỉ còn một thành, cũng đủ quét sạch tà ma ngoại đạo.
Kim Hoa bà bà chăm chú theo dõi mũi kiếm của Diệt Tuyệt sư thái không chớp mắt, đột nhiên giơ quải trượng lên điểm nhanh vào thân kiếm. Diệt Tuyệt sư thái trường kiếm rung động, nhắm vai Kim Hoa bà bà đâm tới. Kim Hoa bà bà vừa ho vừa lấy quải trượng gạt ra. Diệt Tuyệt sư thái thân lướt theo kiếm, nhanh như chớp đã luồn ra sau lưng đối phương, chân chưa đứng vững kiếm chiêu đã tới. Kim Hoa bà bà không quay người lại, xoay quải trượng ngoặt ra sau lưng gạt ngang thanh kiếm.
Hai người đánh ba bốn chiêu, trong lòng đều thán phục đối phương, bỗng nghe “cắc” một tiếng, trường kiếm trong tay Diệt Tuyệt sư thái gãy đôi, thì ra kiếm trượng chạm nhau, kiếm đã bị trượng chấn gãy.
Trừ cô bé A Ly, những người đứng xem ai nấy đều kinh hãi. Cây quải trượng trong tay Kim Hoa bà bà trông cũ kỹ xấu xí, chẳng vừa mắt chút nào, không phải bằng vàng bằng sắt, vậy mà đánh gãy được thanh kiếm, chắc là nhờ nội lực dồi dào thâm hậu. Song lúc binh khí của Diệt Tuyệt sư thái và Kim Hoa bà bà đụng nhau, cả hai người đều biết thanh kiếm gãy đôi chính là do quải trượng cứng rắn chứ không phải vì nội lực của người sử dụng. Cây gậy này là một loại đặc sản dưới đáy biển cạnh đảo Linh Xà, gọi là “San hô kim”, là một loại san hô hòa hợp với nhiều kim loại, nằm dưới đáy biển hàng vạn năm kết thành, chém sắt như thái bún, đập đá như đập tỏi, vũ khí sắc bén đến mấy đụng phải nó cũng gãy liền.
Kim Hoa bà bà cũng không tiến lên tấn công, chỉ chống gậy đứng tại chỗ, ôm ngực ho. Ba đệ tử của phái Nga Mi là Đinh Mẫn Quân, Kỷ Hiểu Phù, Bối Cẩm Nghi sợ sư phụ bị thương, vội chạy tới đứng bên sư phụ để tiếp ứng. A Ly lại chộp lấy cổ tay Trương Vô Kỵ, cười nói:
– Ta đã bảo là ngươi không chạy đâu cho thoát mà.
A Ly ra tay bất ngờ, Trương Vô Kỵ không né tránh kịp, mạch môn bị người nắm giữ, nửa thân mình lại tê dại. Cậu hai lần bị cô bé này đùa giỡn, vừa thẹn vừa tức, vừa nóng nảy vừa bực bội, giơ chân phải đá vào hông đối phương. A Ly bóp mạnh thêm cổ tay Vô Kỵ, chân cậu mới nhấc lên được nửa chừng đã cứng nhắc. Cậu tức giận quát:
– Ngươi có buông tay ra không thì bảo?
A Ly cười, đáp:
– Ta không buông, ngươi làm gì được ta?
Trương Vô Kỵ cúi gập xuống, há miệng ngoạm ngay vào mu bàn tay cô bé, cắn mạnh một cái. A Ly thấy tay đau nhói, kêu toáng lên:
– Ái chà!
Tay phải buông ra, tay trái cào vào mặt Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ vội nhảy lùi về phía sau, nhưng không kịp, bị móng tay ngón giữa cào một vệt dài chảy máu trên má. Mu bàn tay phải của A Ly bị cắn cũng chảy máu ròng ròng, đau đến phát khóc.
Hai đứa bé ở bên cạnh đánh nhau, Kim Hoa bà bà mặc kệ, chẳng buồn ngó đến.
Diệt Tuyệt sư thái ném thanh kiếm đã gãy xuống đất, nói:
– Đây là binh khí của đệ tử ta, vốn không đủ sức chịu đòn của cao nhân.
Đoạn gỡ cái bọc trên lưng lấy ra một thanh kiếm cổ dài bốn thước.
Kim Hoa bà bà liếc qua, thấy trên bao kiếm ẩn hiện một làn khí màu xanh, kiếm chưa rút khỏi bao mà đã biết chẳng phải vật tầm thường, trên vỏ kiếm có thêu bằng sợi tơ vàng hai chữ “Ỷ Thiên” thì cả kinh, buột miệng:
– Kiếm Ỷ Thiên!
Diệt Tuyệt sư thái gật đầu, nói:
– Phải, kiếm Ỷ Thiên đó!
Kim Hoa bà bà lập tức nhớ đến sáu câu tương truyền trong võ lâm “Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, mạc cảm bất tòng, Ỷ Thiên bất xuất, thùy dữ tranh phong”, miệng lẩm bẩm: “Thì ra kiếm Ỷ Thiên nằm trong tay phái Nga Mi”.
Diệt Tuyệt sư thái quát to:
– Tiếp chiêu!
Đoạn sư thái cầm cán kiếm, không rút khỏi bao, cứ để nguyên kiếm trong bao mà đâm thẳng vào ngực Kim Hoa bà bà. Kim Hoa bà bà giơ quải trượng lên gạt ra. Diệt Tuyệt sư thái cổ tay hơi rung, bao kiếm đụng vào cây gậy. Chỉ nghe một tiếng “xoẹt” nhỏ như tiếng xé một mảnh bìa, cây thần trượng ngoài đảo, “San hô kim quải trượng” của Kim Hoa bà bà, một loại binh khí cực quý, đã gãy đôi.
Kim Hoa bà bà trong lòng chấn động mạnh, nghĩ thầm: “Kiếm Ỷ Thiên chưa ra khỏi bao đã lợi hại như thế, quả thật danh bất hư truyền”. Bà bà chăm chú nhìn thanh bảo kiếm không chớp mắt, rồi nói:
– Diệt Tuyệt sư thái, hãy cho ta được ngắm lưỡi kiếm một chút xem sao.
Diệt Tuyệt sư thái lắc đầu, lạnh lùng nói:
– Thanh kiếm này một khi đã rút khỏi bao, chưa uống máu người thì không chịu trở vào bao.
Hai người lẳng lặng nhìn nhau, hồi lâu không nói.
Kim Hoa bà bà lúc này biết rằng vị ni cô kia công lực chẳng kém gì mình, chiêu thức lại xảo diệu, bà nhất thời chưa nhận biết được. Sư thái đã là chưởng môn phái Nga Mi, tài nghệ ắt chẳng tầm thường, lại nắm trong tay đệ nhất bảo kiếm trong thiên hạ, chắc bà ta không thể địch nổi, bèn ho nhẹ vài tiếng, quay người nắm tay A Ly thản nhiên bỏ đi.
A Ly ngoái lại, gọi:
– Trương Vô Kỵ, Trương Vô Kỵ!
Tiếng gọi xa dần, rồi bặt hẳn.
Đinh Mẫn Quân, Kỷ Hiểu Phù, Bối Cẩm Nghi thấy sư phụ đắc thắng, địch nhân phải bỏ đi, thì cả mừng. Đinh Mẫn Quân nói:
– Sư phụ, bà già kia đúng là có mắt không thấy Thái Sơn, dám động thủ với lão nhân gia để chuốc lấy cái khổ.
Diệt Tuyệt sư thái nghiêm mặt, nói:
– Từ nay hành tẩu trên giang hồ, mỗi khi nghe thấy tiếng ho của mụ ta, các ngươi hãy tránh cho xa.
Vừa rồi khi sư thái dùng kiếm tấn công, tuy đánh gãy quải trượng của đối phương, nhưng khi ra tay đã sử dụng “Nga Mi cửu dương công” tu luyện trên ba chục năm. Thần công này đụng vào thân hình Kim Hoa bà bà mà như chìm vào đại dương, không còn tăm hơi gì, chỉ lay động tà áo bà bà, chứ không đẩy lùi được một bước, bây giờ nghĩ lại sư thái vẫn còn thầm kinh hãi; biết rằng nội lực của bà bà cao siêu, vững vàng như thuở tráng niên, chẳng có vẻ gì là một bà lão ốm yếu; tu luyện tới mức như thế thật khó mà hiểu nổi.
Diệt Tuyệt sư thái ngẩng nhìn trời, xuất thần hồi lâu, nói:
– Hiểu Phù, theo ta!
Không buồn nhìn Hiểu Phù một lần, sư thái bước vào căn nhà tranh. Bọn Kỷ Hiểu Phù đi theo. Dương Bất Hối kêu lên:
– Mẹ ơi!
Cô bé định chạy theo. Kỷ Hiểu Phù biết rằng sư phụ lần này thân chinh xuống núi, là muốn thanh lý môn hộ, tuy trước đây nàng được sư phụ quý mến, song sư phụ tính nết nghiêm khắc, thực chưa biết sẽ xử trí nàng ra sao, bèn bảo con:
– Con hãy ra ngoài chơi, đừng vào theo mẹ.
Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Ả họ Đinh quá tệ, chắc là đã ton hót với sư phụ, nói xấu Kỷ cô rồi đây! Mọi chuyện đêm hôm đó, mình chính mắt chứng kiến, chỉ thấy mụ Độc Thủ Vô Diệm này chẳng ra gì, nếu ả ta nói năng lung tung, đổi trắng thay đen, mình sẽ tiến ra biện minh cho Kỷ cô cô”; thế là cậu kín đáo luồn ra sau nhà, nép mình dưới song cửa, nín thở lắng nghe.
Trong nhà im phăng phắc, không ai nói gì cả. Rồi Diệt Tuyệt sư thái lên tiếng:
– Hiểu Phù, chuyện của ngươi, ta muốn chính miệng ngươi nói ra coi.
Kỷ Hiểu Phù nghẹn ngào nói:
– Sư phụ, con… con…
Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Mẫn Quân, ngươi lại hỏi nó coi.
Đinh Mẫn Quân đáp:
– Dạ. Kỷ sư muội, trong môn phái chúng ta, điều giới thứ ba là gì?
Kỷ Hiểu Phù nói:
– Cấm dâm tà phóng đãng.
Đinh Mẫn Quân nói:
– Đúng. Điều giới thứ sáu là gì?
Kỷ Hiểu Phù nói:
– Cấm tâm hướng ngoại nhân, phản bội sư môn.
Đinh Mẫn Quân hỏi:
– Kẻ phạm giới, bị xử tội thế nào?
Kỷ Hiểu Phù không trả lời câu hỏi đó, quay sang nói với Diệt Tuyệt sư thái:
– Sư phụ, chuyện này bên trong quả thật có điều đệ tử khó nói, hoàn toàn không như Đinh sư tỷ thuật lại đâu ạ.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Được, ở đây không có người ngoài, ngươi hãy thuật lại ta coi.
Kỷ Hiểu Phù biết rằng hôm nay đứng trước sự thể vô cùng trọng đại, quyết không thể giấu giếm chút gì, liền nói:
– Sư phụ, năm xưa sau khi bên mình nghe tin Thiên Ưng giáo giương đao lập uy tại Vương Bàn sơn đảo, sư phụ sai mười sáu đệ tử chúng con xuống núi, chia nhau đi dò xét chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Đệ tử đi về hướng Đại Thụ Bảo ở Xuyên Tây, trên đường gặp một trung niên nam tử, tuổi chừng bốn mươi, bận đồ trắng. Đệ tử đi đâu, y theo tới đó, đệ tử vào khách điếm, y cũng vào khách điếm, đệ tử dừng chân, y cũng dừng chân. Thoạt đầu đệ tử mặc xác y, sau thấy chướng mắt quá mới trách cứ y. Y nói năng điên điên khùng khùng, đệ tử không chịu nổi bèn rút kiếm đâm y. Y không mang theo binh khí nhưng võ công cao siêu, chỉ vài chiêu đã đoạt mất kiếm của đệ tử.
Đệ tử hoảng sợ bỏ chạy, người đó không đuổi theo. Sáng sớm hôm sau, khi đệ tử tỉnh dậy trong khách điếm, thì thấy thanh kiếm của mình đặt ngay bên gối. Đệ tử giật mình kinh hãi, đi khỏi khách điếm lại thấy người ấy bám theo. Con nghĩ động võ với y không ăn thua, chỉ còn cách ngọt ngào cầu khẩn y, nói đôi bên không họ hàng thân thích, cũng chẳng quen biết, huống hồ nam nữ hữu biệt, ông cứ bám theo ta là có ý gì. Con nói thêm, võ công ta tuy không bằng ông, nhưng động tới phái Nga Mi ta chẳng phải chuyện đùa.
Diệt Tuyệt sư thái “Ừ” một tiếng, tựa hồ ưng ý về câu nói đó.
Kỷ Hiểu Phù kể tiếp:
– Kẻ đó bật cười, nói: “Võ công của một người mà còn phân biệt môn phái thì chỉ là hạ thừa. Cô nương nếu chịu theo ta, ta sẽ giúp nàng sáng mắt ra, thấy trời đất bao la của võ học”.
Diệt Tuyệt sư thái tính tình cô độc, cả đời miệt mài học võ, sống ngăn cách với thế giới bên ngoài, nghe Kỷ Hiểu Phù thuật lại lời người kia bảo “Võ công của một người mà còn phân biệt môn phái thì chỉ là hạ thừa… ta sẽ giúp nàng sáng mắt ra, thấy trời đất bao la của võ học”, liền không khỏi tò mò, hỏi:
– Thế là ngươi đi theo y, xem có thứ võ công cổ quái nào không chứ gì?
Kỷ Hiểu Phù đỏ mặt, nói:
– Sư phụ, y là nam tử không quen biết, lẽ nào con lại đi theo y?
Diệt Tuyệt sư thái vỡ lẽ, nói:
– Ừ phải, vậy ngươi bảo y mau mau xéo đi chỗ khác.
Kỷ Hiểu Phù nói:
– Con tìm trăm muôn nghìn kế tránh né y mà vẫn không nổi, cuối cùng bị y bắt được. Ôi, đệ tử bất hạnh, gặp phải cái oan nghiệt kiếp trước.
Nói tới đây, giọng nói nhỏ dần. Diệt Tuyệt sư thái hỏi:
– Sau đó thế nào?
Kỷ Hiểu Phù nói nhỏ:
– Con chống cự không nổi, bị thất thân với y. Y theo dõi con sát sao, con muốn chết cũng không xong. Cứ như thế suốt mấy tháng ròng. Bỗng có kẻ địch đến tìm y, con thừa cơ trốn thoát, không lâu sau phát hiện mình có mang. Con không dám thưa với sư phụ, chỉ còn nước lén lão nhân gia mà sinh hài nhi.
Diệt Tuyệt sư thái hỏi:
– Tất cả đúng như thế ư?
Kỷ Hiểu Phù đáp:
– Đệ tử nghìn vạn lần không dám nói dối sư phụ.
Diệt Tuyệt sư thái trầm ngâm một hồi, nói:
– Tội nghiệp, con thật đáng thương! Ôi, chuyện ấy đâu phải lỗi tại con.
Đinh Mẫn Quân nghe lời nói của sư phụ có vẻ thương xót Kỷ Hiểu Phù thì hậm hực nhìn sư muội một cái.
Diệt Tuyệt sư thái thở dài, hỏi:
– Thế bây giờ con định ra sao?
Kỷ Hiểu Phù rơi lệ, nói:
– Đệ tử tùy gia nghiêm định đoạt, vốn đã hứa gả cho Ân lục gia phái Võ Đang, nay gặp phải biến cố này, chỉ xin sư phụ ban ân cho con xuất gia, cắt tóc làm ni cô.
Diệt Tuyệt sư thái lắc đầu:
– Không nên thế. Hừ, gã nam tử bại hoại làm hại đời con ấy tên là gì?
Kỷ Hiểu Phù thấp giọng thưa:
– Y… Y họ Dương, đơn danh một chữ Tiêu.
Diệt Tuyệt sư thái đột nhiên nhảy dựng lên, tay áo phất một cái, nghe “rắc” một tiếng, mặt bàn đã bị đập vỡ một nửa. Trương Vô Kỵ nấp bên ngoài nghe lén, sợ hết hồn. Kỷ Hiểu Phù, Đinh Mẫn Quân, Bối Cẩm Nghi mặt đều biến sắc.
Diệt Tuyệt sư thái gằn giọng, hỏi:
– Ngươi bảo tên hắn là Dương Tiêu? Có phải là tên đại ma đầu của Ma giáo, tự xưng “Quang Minh tả sứ giả” Dương Tiêu hay không?
Kỷ Hiểu Phù đáp:
– Y… Y… là người trong Minh giáo, hình như có chút địa vị trong giáo phái đó.
Diệt Tuyệt sư thái mặt đầy vẻ giận dữ, nói:
– Minh giáo cái gì? Đó là thứ Ma giáo thương thiên hại lý, làm đủ mọi việc tàn ác. Y… Y trốn ở đâu? Có phải ở trên đỉnh Quang Minh núi Côn Luân hay không? Để ta đi tìm y.
Kỷ Hiểu Phù nói:
– Y bảo, Minh giáo…
Diệt Tuyệt sư thái quát lên:
– Ma giáo!
Kỷ Hiểu Phù nói:
– Vâng, y bảo tổng đàn của Ma giáo vốn đặt trên đỉnh Quang Minh, nhưng gần đây trong nội bộ Ma giáo bất hòa, nên y không ở trên đỉnh Quang Minh để tránh kẻ khác nói y muốn làm giáo chủ, mà dời qua ẩn cư tại “Tọa Vong phong” cũng thuộc dãy Côn Luân. Có điều là y chỉ nói cho một mình đệ tử biết thôi, người trong giang hồ không ai biết cả. Sư phụ đã hỏi đến, đệ tử đành phải thưa. Sư phụ, người ấy… người ấy là kẻ thù của bổn phái ư?
Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Thù sâu như biển! Đại sư bá ngươi, Cô Hồng Tử, đã bị tên đại ma đầu Dương Tiêu làm cho giận quá mà chết.
Kỷ Hiểu Phù hết sức kinh hãi, nhưng bất giác cảm thấy ngầm kiêu hãnh, đại sư bá Cô Hồng Tử vốn là một cao thủ lừng danh thiên hạ, vậy mà bị “người ấy” chọc tức đến chết. Nàng rất muốn biết đầu đuôi sự việc, nhưng không dám hỏi.
Diệt Tuyệt sư thái ngẩng lên nhìn trời, hậm hực lẩm bẩm:
– Dương Tiêu, Dương Tiêu… bao năm nay ta không biết ngươi ở đâu, hôm nay rốt cuộc thì ngươi sẽ không thoát khỏi tay ta…
Đột nhiên sư thái quay lại, nói:
– Được, chuyện ngươi thất thân với hắn, bênh vực Bành hòa thượng, đắc tội với Đinh sư tỷ, nói dối sư phụ, lén nuôi hài nhi… tất cả những chuyện đó ta không nhắc đến nữa. Giờ ta sai ngươi đi làm một việc, làm xong việc đó, ngươi trở về núi Nga Mi, ta sẽ đem y bát và kiếm Ỷ Thiên truyền cho ngươi, lập ngươi làm người kế thừa chức chưởng môn bổn phái.
Mấy câu đó khiến ai nấy đều kinh ngạc. Đinh Mẫn Quân vừa ghen tức, vừa căm hận, ngầm oán trách sư phụ không phân biệt trắng đen, làm điều nghịch lý.
Kỷ Hiểu Phù nói:
– Sư phụ sai bảo gì, đệ tử cũng phải tận tâm tận lực thi hành. Còn về việc ân sư chân truyền y bát, đệ tử tự biết đức hạnh khiếm khuyết, võ công thấp kém, không dám vọng tưởng.
Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Ngươi theo ta ra đây.
Sư thái nắm cổ tay Kỷ Hiểu Phù ra khỏi nhà tranh, chạy lên một triền núi ở phía trái thung lũng, tới một nơi thật trống trải mới dừng lại.
Trương Vô Kỵ từ xa nhìn tới, chỉ thấy Diệt Tuyệt sư thái đứng trên cao, đưa mắt nhìn tứ phía một vòng, rồi kéo Kỷ Hiểu Phù lại bên cạnh, nói nhỏ vào tai nàng. Thì ra Diệt Tuyệt sư thái muốn nói một việc cực kỳ bí mật, sợ tai vách mạch rừng, nên ngay cả hai đệ tử kia cũng không cho biết.
Trương Vô Kỵ náu mình phía sau nhà tranh, không dám ló mặt ra, chỉ từ xa nhìn cảnh Diệt Tuyệt sư thái nói một hồi, Kỷ Hiểu Phù cúi đầu suy nghĩ, sau đó lắc đầu, vẻ mặt rất kiên quyết, hiển nhiên không chịu vâng mệnh sư phụ. Diệt Tuyệt sư thái giơ tả chưởng lên định đánh xuống, nhưng ngừng lại giữa chừng, tựa hồ để cho Kỷ Hiểu Phù cơ hội cuối cùng hồi tâm chuyển ý.
Trương Vô Kỵ trống ngực đập thình thình, nghĩ thầm chưởng đó mà giáng xuống đầu Kỷ Hiểu Phù thì Kỷ cô cô hết sống. Trương Vô Kỵ không dám chớp mắt, cứ chăm chú nhìn Kỷ Hiểu Phù.
Chỉ thấy Kỷ Hiểu Phù quỳ dưới đất, cả quyết lắc đầu. Tả chưởng của Diệt Tuyệt sư thái đánh xuống ngay giữa đỉnh đầu nàng. Kỷ Hiểu Phù gục ngay xuống, thân hình giãy giãy vài cái, rồi nằm bất động.
Trương Vô Kỵ vừa kinh hãi vừa đau đớn, nằm phục trong đám cỏ cao sau nhà, không dám động đậy.
Vừa lúc ấy, Dương Bất Hối cười khúc khích hai tiếng, ở đâu tự nhiên ôm choàng lấy lưng Trương Vô Kỵ, nói:
– Bắt được ca ca rồi, bắt được ca ca rồi!
Thì ra cô bé chạy chơi bên ngoài, thấy Trương Vô Kỵ nằm giấu mình trong cỏ, lại ngỡ cậu đang chơi trò trốn tìm với nó, bèn chạy tới ôm lấy. Trương Vô Kỵ vòng tay kéo Dương Bất Hối vào lòng, một tay bịt miệng con bé, ghé tai nói nhỏ:
– Đừng nói, đừng để kẻ ác nhìn thấy mình.
Dương Bất Hối thấy mặt Vô Kỵ tái nhợt, đầy vẻ kinh hãi thì cũng sợ theo.
Diệt Tuyệt sư thái từ trên triền núi vội vã đi xuống, nói với Đinh Mẫn Quân:
– Đi tìm nghiệt chủng của nó mà đâm chết đi, khỏi lưu mầm họa.
Đinh Mẫn Quân thấy sư phụ ra tay đánh chết Kỷ Hiểu Phù, tuy mừng thầm trong bụng song không khỏi kinh hãi, nghe sư phụ hạ lệnh, vội mượn kiếm của Bối Cẩm Nghi đi tìm Dương Bất Hối.
Trương Vô Kỵ ôm chặt Dương Bất Hối, co mình trong đám cỏ dày, không dám thở mạnh.
Đinh Mẫn Quân chạy trước chạy sau tìm kiếm một hồi không thấy tung tích Dương Bất Hối đâu cả, đang tính tìm kỹ một lần nữa thì Diệt Tuyệt sư thái mắng:
– Thật là đồ vô dụng, có một đứa bé cũng tìm không được.
Bối Cẩm Nhi bình thời chơi thân với Kỷ Hiểu Phù, mắt thấy sư tỷ bị thảm tử dưới tay sư phụ, giờ sư phụ còn định giết nốt đứa con côi của nàng thì trong lòng bất nhẫn, nói:
– Đệ tử thấy đứa bé ấy hình như chạy ra ngoài thung lũng rồi.
Bối Cẩm Nghi biết sư phụ tính tình nôn nóng, nếu ra ngoài kia tìm không thấy, sẽ chẳng trở vào đây tìm lại. Tuy đứa bé kia một thân một mình trơ trọi trên cõi đời này chưa chắc đã sống nổi, song vẫn còn hơn chính mắt nàng phải chứng kiến cái cảnh Đinh Mẫn Quân đâm nó một nhát chết tươi. Diệt Tuyệt sư thái nói:
– Sao không nói sớm?
Bà ta hầm hầm trừng mắt nhìn đệ tử, rồi chạy trước ra ngoài thung lũng đuổi theo đứa bé. Đinh Mẫn Quân và Bối Cẩm Nhi lật đật chạy theo.
Dương Bất Hối chưa biết mẫu thân gặp đại họa, đôi mắt to đen cứ luôn luôn chuyển động, ngụ ý muốn hỏi có chuyện gì. Trương Vô Kỵ ghé tai sát đất nghe ngóng, thấy tiếng chân ba người kia mỗi lúc một xa, mới nhỏm dậy dắt Dương Bất Hối chạy lên triền núi, Dương Bất Hối cười hỏi:
– Vô Kỵ ca ca, kẻ ác đi rồi à? Mình lên núi chơi phải không?
Trương Vô Kỵ không trả lời, dắt con bé chạy thẳng tới chỗ Kỷ Hiểu Phù. Gần đến nơi, Dương Bất Hối thấy mẫu thân nằm gục dưới đất, nó cả kinh, tới bên ngồi thụp xuống ôm choàng lấy mẫu thân, gọi to:
– Mẹ ơi, mẹ ơi!
Trương Vô Kỵ thăm hơi thở của Kỷ Hiểu Phù chỉ còn thấy thoi thóp, lại thấy xương sọ của Kỷ cô cô đã bị Diệt Tuyệt sư thái đánh một chưởng vỡ toác, dù Y Tiên Hồ Thanh Ngưu có ở đây cũng chẳng tài nào cứu nổi. Kỷ Hiểu Phù hé mắt nhìn, thấy Trương Vô Kỵ và con mình, môi mấp máy muốn nói, nhưng không thốt được nửa lời, lệ giàn giụa trong đôi mắt to. Trương Vô Kỵ lấy kim trong bọc ra, châm vào các huyệt Thần Đình, Ấn Đường, Thừa Khấp để cảm giác đau đớn nhất thời không truyền lên não.
Kỷ Hiểu Phù tinh thần hơi tỉnh, thều thào nói:
– Cô cô… nhờ cháu… đưa nó đến cha nó… Cô cô không chịu… không chịu… hại cha nó…
Nàng đưa tay lên ngực, tựa hồ định lấy vật gì, đột nhiên đầu ngoẹo qua một bên, tắt thở hẳn. Dương Bất Hối ôm chặt thi thể mẹ, khóc to, miệng không ngớt kêu:
– Mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ đau lắm à? Mẹ đau lắm à?
Thân thể Kỷ Hiểu Phù lạnh dần, con bé vẫn cứ hỏi mãi. Nó không hiểu tại sao mẹ nó không cử động, tại sao mẹ nó không trả lời nó.
Trương Vô Kỵ vốn đã đau lòng, nhớ lại lúc phụ mẫu cậu chết, cậu cũng ôm xác hai người mà khóc, thì không cầm được, lúc này nước mắt cũng ròng ròng. Hai đứa khóc một hồi, Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Lúc lâm chung, Kỷ cô cô nhờ mình đưa bé Bất Hối đến chỗ phụ thân nó. Phụ thân nó tên là Dương Tiêu, là Quang Minh tả sứ giả trong Minh giáo, ở trên ngọn núi tên là Tọa Vong gì đó thuộc dãy Côn Luân. Mình phải đưa Bất Hối tới đó mới được”. Nó đâu biết dãy Côn Luân ở tận phía cực tây, cách đây mấy vạn dặm, hai đứa trẻ làm sao đi tới? Nhớ lúc sắp tắt thở Kỷ Hiểu Phù định lấy vật gì ở ngực, Vô Kỵ bèn sờ thử, thấy trên cổ nàng có một sợi dây đeo một chiếc thiết bài màu đen, trên thiết bài thêu bằng tơ vàng hình một ngọn lửa đang cháy.
Trương Vô Kỵ không biết đó là cái gì, nhưng cậu cũng tháo ra đeo vào cổ Dương Bất Hối. Cậu vào nhà tranh, lấy ra một cái xẻng, đào cái hố chôn Kỷ Hiểu Phù. Lúc này Dương Bất Hối khóc đã kiệt sức, nằm lăn ra ngủ. Khi cô bé tỉnh dậy, Trương Vô Kỵ phải nói mãi nó mới chịu tin là mẫu thân nó đã bay lên trời, phải lâu thật là lâu mới lại từ trên trời bay xuống gặp nó.
Sau đó Trương Vô Kỵ vào nhà nấu qua quýt một bữa cơm, cùng Dương Bất Hối ăn xong lại mệt quá lăn ra ngủ. Sáng hôm sau thức dậy, Trương Vô Kỵ thu thập hành lý thành hai gói nhỏ, giắt trong người mấy chục lạng bạc mà Hồ Thanh Ngưu để lại cho cậu rồi dẫn Dương Bất Hối lên chỗ mộ mẫu thân nó lạy mấy lạy, sau đó hai đứa trẻ rời khỏi Hồ Điệp cốc..