Hồi 30: Như Sâm Thương vĩnh viễn xa rồi

Ân Ly hát xong bài trên, nàng lại hát tiếp một bài khác; lần này tiếng ca hết sức kỳ bí, khác hẳn điệu hát ở Trung thổ, nhưng nghe kỹ thì thấy ý tứ cũng tương tự bài hát của Tiểu Chiêu:

Đến như nước chảy xuôi khe,

Đi như gió cuốn biết về nơi nao.

Cuộc đời như giấc chiêm bao,

Về đâu, rồi sẽ ra sao bây chừ?

Ân Ly cứ hát đi hát lại mấy câu ấy, giọng nhỏ dần, cho tới lúc chìm lẫn vào tiếng sóng, tiếng gió.

Mọi người nghĩ đến lẽ sinh tử vô thường, cõi nhân sinh thật giống như dòng nước trên sông, không biết từ đâu chảy tới, bất kể anh hùng hào kiệt, cuối cùng chẳng ai thoát khỏi cái chết, rời bỏ thế gian cũng như làn gió kia chẳng biết thổi về chốn nào. Trương Vô Kỵ cảm thấy bàn tay nhỏ nhắn của Triệu Mẫn trong tay chàng bỗng lạnh như băng, hơi run rẩy.

Tạ Tốn bỗng nói:

– Khúc hát Ba Tư này là do Hàn phu nhân dạy cho cô ta đó. Một buổi tối hơn hai mươi năm trước trên đỉnh Quang Minh, ta đã từng nghe bài hát này. Ôi, không ngờ Hàn phu nhân lại tuyệt tình như thế, cuối cùng nỡ hạ độc thủ với Ân Ly tới mức này.

Triệu Mẫn hỏi:

– Lão gia tử, Hàn phu nhân sao lại biết khúc hát Ba Tư này, hay đây là bài ca của Minh giáo?

Tạ Tốn nói:

– Minh giáo khởi nguồn từ Ba Tư, khúc hát Ba Tư này có chút uyên nguyên với Minh giáo, song không phải là bài ca của Minh giáo. Bài ca này vốn của một thi nhân nổi tiếng nhất ở Ba Tư hơn hai trăm năm trước, tên là Nga Mặc, nghe nói dân Ba Tư ai cũng biết hát bài này. Năm xưa khi ta nghe Hàn phu nhân hát bài này, ta xúc động, có hỏi bà ấy về lai lịch, bà ấy đã kể tỉ mỉ cho ta biết.

“Thời ấy đại triết gia của Ba Tư là Dã Mang mở lớp dạy học, môn hạ có ba đệ tử kiệt xuất: Nga Mặc giỏi về văn chương, Ni Nhược Mâu thạo về chính sự, còn Hoắc Sơn thì rất giỏi võ công. Ba người hợp tính nhau, nên cùng thề ước, họa phúc bên nhau, phú quý không quên nhau. Về sau Ni Nhược Mâu thanh vân đắc ý, làm đến chức Thủ tướng của Giáo chủ. Hai người bạn cũ tìm tới, Ni Nhược Mâu xin với Giáo chủ phong quan tước cho Hoắc Sơn. Nga Mặc thì không muốn làm quan, chỉ xin được cấp tiền hàng năm để tịnh cư nghiên cứu thiên văn lịch số, ngâm thơ uống rượu. Ni Nhược Mâu đáp ứng, đối đãi rất hậu hĩ.

Ngờ đâu Hoắc Sơn nuôi hùng tâm, không cam chịu ở dưới người khác, âm mưu nổi loạn. Việc làm thất bại, y liền lên núi kết bè đảng, trở thành thủ lĩnh một phái uy chấn thiên hạ, chuyên giết người, lấy tên là phái Y Tư Mỹ Lương. Thời Thập tự quân, ở Tây Vực hễ nhắc tới cái tên ‘Sơn trung lão nhân’ Hoắc Sơn, ai ai cũng kinh sợ. Thời ấy, quân vương các nước ở Tây Vực bị giết bởi thủ hạ của “Sơn trung lão nhân” không biết bao nhiêu mà kể”.

“Hàn phu nhân nói rằng ở phía cực tây ngoài đại dương có một nước lớn, tên là Anh Cách Lan. Quốc vương nước này tên là Ái Đức Hoa đắc tội với “Sơn trung lão nhân”, bị hắn sai người đến hành thích. Quốc vương bị trúng lưỡi dao có bôi thuốc độc; may được hoàng hậu xả thân cứu chồng, hút chất độc ở vết thương ra, nhờ vậy quốc vương thoát chết. Hoắc Sơn bất chấp ân nghĩa cũ, còn sai người đi giết Thủ tướng Ba Tư Ni Nhược Mâu. Lúc lâm chung, Ni Nhược Mâu có ngâm câu thơ của Nga Mặc, chính là mấy câu:

Đến như nước chảy xuôi khe,

Đi như gió cuốn biết về nơi nao.

Cuộc đời như giấc chiêm bao,

Về đâu, rồi sẽ ra sao bây chừ?

Hàn phu nhân còn kể rằng sau này Minh giáo học được võ công của “Sơn trung lão nhân”. Ba sứ giả Ba Tư võ công quái dị, chắc là học từ “Sơn trung lão nhân” vậy.

Triệu Mẫn nói:

– Tạ lão gia, tính khí của Hàn phu nhân cũng y như “Sơn trung lão nhân”. Lão gia đối xử với bà ta hết tình hết nghĩa, vậy mà bà ta lại mưu hại lão gia.

Tạ Tốn thở dài nói:

– Người đời lấy oán báo đức là chuyện thường, đâu có gì lạ?

Triệu Mẫn ngẫm nghĩ một lát, nói:

– Hàn phu nhân đứng đầu Tứ vương của Minh giáo, sao võ công không có gì cao hơn lão gia. Đêm qua, khi bà ta động thủ với ba sứ giả Ba Tư, sao không thấy bà ta sử dụng độc chiêu “Thiên thù vạn độc thủ”?

Tạ Tốn nói:

– “Thiên thù vạn độc thủ” ư? Hàn phu nhân đâu biết sử dụng? Bà ấy là một mỹ nhân tuyệt sắc, coi trọng dung nhan còn hơn cả tính mạng mình, đời nào chịu luyện môn công phu ấy?

Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược đều ngạc nhiên, nghĩ thầm tướng mạo Kim Hoa bà bà xấu xí thế, cứ nhìn hiện tại mà nói, dẫu có trẻ lại ba, bốn chục tuổi, cũng không thể nào gọi là “mỹ nhân tuyệt sắc”. Bà ta mũi thấp môi dày, mặt vuông chữ điền, tai vểnh đón gió, bộ mặt như thế làm sao mà thay đổi nổi. Triệu Mẫn cười, nói:

– Lão gia tử, tiểu nữ chả thấy Kim Hoa bà bà đẹp ở chỗ nào cả.

Tạ Tốn nói:

– Thế ư? Tử Sam Long Vương đẹp như tiên nữ, hơn hai chục năm trước là đệ nhất mỹ nhân trong võ lâm; bây giờ dù tuổi đã nhiều, dáng hình năm xưa chắc vẫn còn phảng phất chứ, ôi, tiếc thay ta đã không còn nhìn thấy nữa!

Triệu Mẫn nghe giọng nói của ông rất trân trọng, lờ mờ đoán rằng bên trong có điều bí ẩn gì đây. Bà già lưng còng, bệnh hoạn xấu xí kia lẽ nào có thời từng là đệ nhất mỹ nhân trong võ lâm, dẫu sao cũng không tin được, bèn hỏi:

– Lão gia tử danh chấn giang hồ, võ công cao cường, chuyện đó khỏi bàn. Bạch Mi Ưng Vương tự lập giáo phái, đối đầu với sáu đại môn phái, tranh hùng với võ lâm hơn hai chục năm. Thanh Dực Bức Vương thì xuất quỷ nhập thần, hôm trước ở chùa Vạn An ông ấy dọa hủy hoại diện mạo của tiểu nữ, mỗi lúc nhớ lại vẫn còn kinh hãi. Kim Hoa bà bà võ công tuy cao, cơ mưu tuy sâu, nhưng xếp trên ba vị, xem ra không xứng đáng, không biết vì duyên cớ gì? Tạ Tốn nói:

– Đó là Ân nhị ca, Vi tứ đệ và ta, ba người tình nguyện nhường cho bà ấy đấy.

Triệu Mẫn hỏi:

– Vì sao vậy?

Nàng cười khanh khách, nói tiếp:

– Có lẽ vì bà ta là đệ nhất mỹ nhân trong thiên hạ, anh hùng không qua nổi cửa ải mỹ nhân, nên ba vị đại hào kiệt đành cam tâm đứng sau bóng hồng quần?

Nàng là con gái phiên bang, không câu nệ lễ mạo tôn ti, nghĩ sao nói vậy, nói đùa luôn cả với Tạ Tốn.

Tạ Tốn lại không nổi giận, thở dài nói:

– Cam tâm đứng sau bóng quần hồng, há chỉ có ba người? Bấy giờ cả trong lẫn ngoài Minh giáo, số người mong được lọt vào mắt xanh của nàng Đại Ỷ Ty bảo là hàng trăm người thì vẫn còn ít.

Triệu Mẫn hỏi:

– Đại Ỷ Ty cũng là Hàn phu nhân phải không? Tên gì nghe lạ thế?

Tạ Tốn nói:

– Bà ấy từ Ba Tư sang, đó là cái tên Ba Tư.

Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược cùng ngạc nhiên, hỏi:

– Bà ta là người Ba Tư ư?

Tạ Tốn cũng ngạc nhiên, hỏi:

– Chẳng lẽ các ngươi không nhận ra hay sao? Đại Ỷ Ty là người lai Trung Quốc – Ba Tư, tuy mái tóc màu đen, nhưng mắt sâu mũi cao, da trắng như tuyết, khác hẳn phụ nữ Trung nguyên, thoạt nhìn là nhận ra ngay.

Triệu Mẫn nói:

– Không, không phải thế! Bà ta mũi thì tẹt, mắt ti hí, chẳng giống lão gia mô tả chút nào. Trương công tử, có đúng thế không?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Đúng thế! Chả lẽ bà ta cũng cố ý hủy hoại dung mạo, như Khổ đầu đà?

Tạ Tốn hỏi:

– Khổ đầu đà là ai vậy?

Trương Vô Kỵ nói:

– Đó là Quang Minh hữu sứ Phạm Dao của Minh giáo.

Chàng bèn thuật sơ qua cho Tạ Tốn nghe chuyện Phạm Dao tự hủy dung mạo để trà trộn vào phủ Nhữ Dương Vương. Tạ Tốn thở dài, nói:

– Việc làm ấy của Phạm huynh thật khổ tâm và cô đơn, có công lớn với bản giáo, người thường thật không làm nổi. Ôi, chuyện đó phần lớn cũng vì Hàn phu nhân mà ra.

Triệu Mẫn nói:

– Tạ lão gia đừng vòng vo nữa, hãy kể đầu đuôi cho bọn vãn bối nghe đi.

Tạ Tốn ừ, ngẩng mặt lên trời, xuất thần hồi lâu, rồi thong thả nói:

– Hơn hai chục năm trước, bấy giờ Minh giáo dưới quyền thống lĩnh của Dương giáo chủ, giáo vụ hưng vượng. Một hôm đột nhiên có ba sứ giả người Hồ từ Ba Tư đến đỉnh Quang Minh, mang theo một lá thư của giáo chủ Tổng giáo Ba Tư, xin yết kiến Dương giáo chủ. Trong thư viết rằng Tổng giáo Ba Tư có một vị Tịnh Thiện sứ giả, vốn là người Trung Hoa, sống lâu năm bên Ba Tư, gia nhập Minh giáo, lập nhiều công lao, lấy vợ người Ba Tư, sinh được một cô con gái. Vị Tịnh Thiện sứ giả mới qua đời hơn một năm trước, lúc lâm chung nhớ về cố quốc, có di mệnh muốn con gái trở về Trung Hoa. Giáo chủ Tổng giáo tôn trọng di ngôn ấy, phái người đưa con gái ông ta đến đỉnh Quang Minh, mong Minh giáo Trung thổ chăm lo cho. Dương giáo chủ tất nhiên nhận lời, mời cô gái đó vào.

Thiếu nữ ấy vừa bước vào sảnh đường, lập tức sảnh đường bừng sáng, chỉ thấy nàng xinh xắn tuyệt trần. Khi nàng uyển chuyển vái chào Dương giáo chủ, thì các vị Tả hữu Quang Minh sứ giả, ba vị pháp vương, Ngũ tản nhân, Ngũ Hành kỳ sứ có mặt trong đại sảnh đều chấn động. Ba sứ giả Ba Tư hộ tống nàng sang đây, nghỉ lại một đêm trên đỉnh Quang Minh, hôm sau bái biệt ra về; còn nàng thiếu nữ Ba Tư Đại Ỷ Ty xinh đẹp tuyệt trần kia thì ở lại.

Triệu Mẫn cười nói:

– Tạ lão gia, bấy giờ lão gia cũng mê nàng thiếu nữ Ba Tư kia chứ? Cần gì lão gia phải xấu hổ, cứ tình thực mà kể là được rồi.

Tạ Tốn lắc đầu nói:

– Không đâu! Bấy giờ ta mới cưới vợ, vợ chồng ta tình cảm mặn nồng, vợ ta lại đang mang thai, làm sao ta có tình ý khác được?

Triệu Mẫn “à” một tiếng, hối hận mình đã lỡ lời. Nàng biết vợ con Tạ Tốn đều bị Thành Côn sát hại; lúc này vô ý nhắc đến, không khỏi khiến ông đau lòng, vội nói:

– Phải rồi, phải rồi! Thảo nào Hàn phu nhân bảo rằng hồi bà lấy Ngân Diệp tiên sinh, trên đỉnh Quang Minh ai ai cũng phản đối, chỉ có Dương giáo chủ và Tạ lão gia đối xử tốt với bà ta thôi. Chắc là phu nhân của Dương giáo chủ đã xinh đẹp, lại dữ dằn lắm, nên ông chồng mới phải nem nép một bề.

Tạ Tốn nói:

– Dương giáo chủ khảng khái hào hiệp, Đại Ỷ Ty tuổi chỉ đáng con gái ông ta. Huống hồ Tổng giáo Ba Tư đã gửi gắm nhờ ông săn sóc Đại Ỷ Ty, nên Dương giáo chủ phải đối xử tận tình với nàng, quyết không có ý gì khác. Phu nhân Dương giáo chủ là sư muội của Thành Côn sư phụ ta, là sư cô của ta. Dương giáo chủ đối với phu nhân hết sức yêu thương kính trọng.

Thành Côn đã giết cả nhà Tạ Tốn, tuy mối thù khắc ngày càng sâu trong tâm khảm ông, nhưng khi nhắc đến cái tên Thành Côn, Tạ Tốn chỉ thản nhiên nói qua, như chỉ nhắc đến một kẻ bình thường.

Triệu Mẫn nói:

– Khổ đầu đà Phạm Dao nghe nói hồi trẻ là một chàng trai tuấn mỹ, chắc là mê nàng Đại Ỷ Ty lắm nhỉ?

Tạ Tốn gật đầu nói:

– Đúng là vừa gặp đã mê, gặp một lần mà thành mối tình khắc sâu trong tâm khảm. Kỳ thực đâu chỉ một mình Phạm huynh như thế; chàng trai nào nhìn thấy nàng Đại Ỷ Ty xinh đẹp tuyệt trần mà chẳng xiêu lòng? Có điều là giáo quy Minh giáo rất nghiêm, mọi người đều giữ lễ, tất cả những ai muốn cầu thân với nàng Đại Ỷ Ty đều là trai chưa vợ. Nào ngờ nàng Đại Ỷ Ty đối với mọi chàng trai đều lạnh nhạt, lạnh lùng thực sự; bất cứ ai hễ biểu lộ tình ý đều bị nàng mắng cho một trận, đến mức xấu hổ, chẳng còn dám tơ tưởng gì nữa. Sư cô ta là Dương phu nhân có ý tác hợp, cho nàng lấy Phạm Dao. Song Đại Ỷ Ty một mực cự tuyệt, thậm chí còn giơ kiếm thề trước mặt mọi người không lấy chồng; nếu bị ép duyên thì nàng thà chết còn hơn. Từ đó mọi người đều nản lòng, không tính chuyện hôn nhân với nàng nữa.

“Nửa năm sau, ngày nọ có một người từ đảo Linh Xà ngoài khơi xa đến, tự xưng họ Hàn, tên Thiên Diệp, là con trai của kẻ thù Dương giáo chủ khi trước, đến đỉnh Quang Minh để báo thù cho cha. Mọi người thấy chàng trai họ Hàn kia diện mạo không có gì khác thường, vậy mà dám một mình lên đỉnh Quang Minh, thách đấu với Dương giáo chủ, thì ai cũng cười ầm lên. Song Dương giáo chủ lại trịnh trọng tiếp như khách quý, mở tiệc khoản đãi. Cuối bữa tiệc Dương giáo chủ mới kể cho chúng huynh đệ biết nguyên do. Thì ra năm xưa Dương giáo chủ và cha y hai người đã vì một lời nói trái ý nhau mà đi đến động thủ, Dương giáo chủ đã dùng một chưởng ‘Đại cửu thiên thủ’ đánh cha y gục xuống, không đứng dậy nổi. Bấy giờ cha y nói rằng mối thù này phải trả, nhưng biết võ công của mình không thể tiến thêm, sau này sẽ sai hoặc con trai, hoặc con gái đi thay. Dương giáo chủ nói rằng dù là con trai hay con gái, thì ông cũng sẽ nhường ba chiêu. Người kia nói, chiêu số không cần nhường, nhưng tỷ võ theo kiểu nào, phải để cho con ông ta lựa chọn. Dương giáo chủ đã bằng lòng. Chuyện xảy ra đã hơn mười năm, Dương giáo chủ không còn nghĩ đến nữa; không ngờ người kia lại sai con trai tới.

“Mọi người đều nghĩ, đã tử tế thì không đến, đã đến ắt không tử tế; người này dám một mình lên đỉnh Quang Minh, ắt phải có tài nghệ kinh nhân. Nhưng Dương giáo chủ võ công cao siêu, có thể nói là vô địch trong thiên hạ, trừ Trương Tam Phong chân nhân phái Võ Đang ra, chẳng ai thắng nổi Dương giáo chủ một chiêu. Gã trai họ Hàn kia được bao nhiêu tuổi, dẫu ba người, năm người như y cùng xông vào, Dương giáo chủ cũng chẳng coi ra gì. Chỉ lo không biết y sẽ đưa ra kiểu đánh nào mà thôi.

“Hôm sau, gã Hàn Thiên Diệp kia trước mặt mọi người nói rõ lời hẹn năm xưa, cốt ngăn trước, không cho Dương giáo chủ nuốt lời; sau đó y mới đưa ra cách đấu. Y muốn cùng Dương giáo chủ nhảy xuống đầm Bích Thủy Hàn trên đỉnh Quang Minh so tài cao thấp.

“Y vừa nói xong, ai nấy ngẩn người kinh hãi. Đầm Bích Thủy Hàn nước lạnh thấu xương, giữa mùa hè cũng không ai dám nhảy xuống đầm, huống chi bây giờ đang giữa mùa đông? Dương giáo chủ võ công tuy cao, nhưng lại không biết bơi lặn, nhảy xuống đầm Bích Thủy Hàn chưa tỷ võ thì đã đông cứng, chết đuối mất rồi. Lúc đó ở trong Thánh hỏa sảnh, quần hùng ai cũng lên tiếng nguyền rủa”.

Trương Vô Kỵ nói:

– Chuyện đó thật là khó xử. Đại trượng phu nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy. Dương giáo chủ năm xưa đã nhận lời để con của người họ Hàn được chọn lối đấu võ. Nay Hàn Thiên Diệp chọn thủy chiến, thì về lý Dương giáo chủ không thể từ chối được.

Triệu Mẫn nắm tay chàng, bóp một cái, mỉm cười, nói:

– Đúng, đại trượng phu một lời đã nói, bốn ngựa khó đuổi kịp. Giáo chủ Minh giáo thân phận cao quý, há có thể nuốt lời đã hẹn, thất tín với thiên hạ? Đã nhận lời với người ta, nhất định phải làm cho xong.

Lời này là nói với Trương Vô Kỵ, nhắc nhở lời hẹn ước giữa hai người; Tạ Tốn làm sao biết chuyện đó, nói:

– Đúng là như thế. Hôm ấy Hàn Thiên Diệp lớn tiếng nói: “Tại hạ một mình lên đỉnh Quang Minh này, vốn không mong sống sót để xuống núi. Các vị anh hùng hào kiệt cứ việc vung đao băm vằm tại hạ; ngoại trừ người của Minh giáo, trên giang hồ sẽ không ai biết đấy là đâu. Tại hạ chỉ là một gã vô danh tiểu tốt, có đem giết đi, cũng đâu đáng nói? Các vị muốn giết, xin cứ việc ra tay!”

“Mọi người nghe y nói thế, thì không ai có thể nói gì được nữa. Dương giáo chủ ngẫm nghĩ một hồi, rồi nói: “Hàn huynh đệ, tại hạ năm xưa quả có hẹn với lệnh tôn. Hảo hán tử quang minh lỗi lạc, vụ tỷ võ này tại hạ nhận thua. Hàn huynh đệ muốn xử trí thế nào, tại hạ cũng tuân theo”. Hàn Thiên Diệp xoay cổ tay một cái, trong tay là một con dao găm sáng loáng, y chĩa mũi dao vào ngay chỗ tim mình, nói: “Con dao này là di vật của tiên phụ, tại hạ chỉ cần Dương giáo chủ cúi lạy con dao này ba lạy”. Quần hùng nghe vậy, ai cũng tức giận, đường đường là giáo chủ Minh giáo, há để người ta làm nhục như vậy? Thế nhưng Dương giáo chủ đã nhận thua, cứ theo quy củ giang hồ, không thể không do đối phương xử trí. Tình thế hiện tại đã hết sức rõ ràng, Hàn Thiên Diệp phen này liều mạng lên đây, sau khi nhận ba lạy của Dương giáo chủ, y sẽ lập tức đâm dao vào tim mình, để khỏi phải chết dưới tay quần hào Minh giáo.

“Lúc ấy trong đại sảnh im phăng phắc, Quang Minh tả hữu sứ “Tiêu Dao nhị tiên”, Bạch Mi Ưng Vương Ân nhị ca, Bành Oánh Ngọc hòa thượng, bình thời vốn túc trí đa mưu, nhưng trước tình thế khó khăn này, cũng đành bó tay. Hành vi của Hàn Thiên Diệp rõ ràng muốn muốn bức tử Dương giáo chủ, để rửa mối nhục năm xưa cha y bị thương phải quỳ gối, sau đó y sẽ tự sát.

“Giữa lúc khẩn bách vạn phần đó, Đại Ỷ Ty đột nhiên bước ra, nói với Dương giáo chủ: “Gia gia, người ta có một đứa con trai hiếu thảo như vậy, chả lẽ cha không có một đứa con gái hiếu thảo? Vị Hàn gia này báo thù cho cha y, thì hãy để con thay cha tiếp y vài chiêu. Chuyện đời nào đời nấy lo, không nên làm loạn vai vế”. Mọi người kinh ngạc, sao nàng ta lại gọi Dương giáo chủ là gia gia? Nhưng rồi họ hiểu ý, nàng mạo xưng con gái của Dương giáo chủ cốt giải thoát cho ông khỏi cảnh nguy khốn; họ đều nghĩ thầm: “Trông dáng hình nàng thướt tha yểu điệu, gió thổi cũng ngã thế kia, liệu có biết võ hay không? Dẫu có biết võ, cũng chẳng thể cao cường, nói gì đến chuyện nhảy xuống đầm Bích Thủy Hàn thủy chiến”.

Dương giáo chủ chưa kịp trả lời, Hàn Thiên Diệp đã cười khẩy, nói: “Cô nương muốn thay cha tiếp chiêu, cũng được thôi. Có điều là nếu cô nương bị thua, tại hạ vẫn yêu cầu Dương giáo chủ phải lạy con dao ba cái”. Y thấy nàng Đại Ỷ Ty xinh đẹp yếu đuối, đâu có coi nàng ra gì? Đại Ỷ Ty hỏi: “Nếu tôn giá thua thì sao?” Hàn Thiên Diệp đáp: “Muốn chém muốn xẻo, cũng xin chịu cả”. Đại Ỷ Ty nói: “Được! Vậy hai ta đến đầm Bích Thủy Hàn!” Nói xong nàng đi trước. Dương giáo chủ vội xua tay, nói: “Không được! Con không nên dính vào vụ này”. Đại Ỷ Ty nói: “Gia gia, cha đừng lo”. Nói rồi nàng quỳ xuống lạy, coi như nàng nhận Dương giáo chủ làm nghĩa phụ.

“Dương giáo chủ thấy nàng có chủ ý, rõ ràng nắm chắc phần thắng, ngoài cách đó ra, ông cũng chưa biết làm sao, đành chiều theo ý nàng. Mọi người cùng kéo xuống đầm Bích Thủy Hàn ở chân núi. Lúc đó gió bấc thổi mạnh, mới đến bên đầm đã thấy lạnh buốt; những người nội lực kém đều khó chịu. Nước đầm kết thành một lớp băng mỏng, nhìn xuống chỉ thấy xanh ngăn ngắt, không thấy đáy.

“Dương giáo chủ nghĩ không nên để Đại Ỷ Ty phải vì ông mà bỏ mạng, nên hiên ngang nói: “Con ngoan của ta, hảo ý của con, ta ghi nhớ trong lòng; hãy để ta tiếp cao chiêu của Hàn huynh cho”. Nói xong ông cởi áo ngoài, cầm một thanh đơn đao, quyết ý nhảy xuống đầm Bích Thủy Hàn, rồi sẽ không bao giờ ngoi lên nữa. Đại Ỷ Ty mỉm cười, nói: “Gia gia, con sinh trưởng ở bên bờ biển, bơi lội nào kém ai”. Nói đoạn nàng tuốt kiếm, phi thân xuống đầm, đứng trên mặt băng, dùng mũi kiếm khoanh trên băng một vòng tròn đường kính chừng hai thước, chân trái đạp mạnh, nghe ục một tiếng, cả băng lẫn người đã chìm xuống lòng đầm”.

Lúc này trên mặt đầm gió bấc rét căm căm thổi phần phật vào quần áo mọi người, Tạ Tốn nói:

– Tình cảnh trên bờ đầm Bích Thủy Hàn bấy giờ, hôm nay nhớ lại, ta tưởng như sự việc vừa xảy ra hôm qua. Đại Ỷ Ty mặc một chiếc áo màu tím nhạt, đứng trên mặt băng hệt như Lăng ba tiên nữ, đột nhiên rơi tõm xuống nước, quần hào đứng trên bờ ai cũng kinh dị. Hàn Thiên Diệp nhìn cách xuống nước của nàng, thì vẻ cuồng ngạo trên mặt y lập tức biến mất, y tay cầm chủy thủ, cũng nhảy xuống đó.

“Đầm Bích Thủy Hàn nước màu xanh lục, đứng trên bờ đầm không thể nhìn thấy tình hình hai người giao đấu ra sao, chỉ thấy mặt nước chao động không ngớt, có lúc lặng dần, rồi lại như sôi lên ùng ục. Quần hào Minh giáo hết sức lo lắng, thấy hai người lặn trong đầm đã lâu, làm sao có thể ở lâu dưới đáy nước như thế? Lại một hồi lâu, đột nhiên thấy có bọt nước nổi lên mang theo tia máu đỏ tươi. Ai nấy càng lo sợ, không biết có phải nàng Đại Ỷ Ty đã bị thương hay chăng. Bỗng Hàn Thiên Diệp từ dưới đầm lao vọt lên qua lỗ băng kia, thở hổn hển. Mọi người thấy y lên trước, cùng cả kinh, hỏi dồn: “Đại Ỷ Ty thế nào? Đại Ỷ Ty thế nào rồi?” Chỉ thấy y hai tay không, con dao găm thì cắm ở ngực bên phải, hai bên má có hai đường rạch dài.

“Mọi người còn đang kinh dị, thì nàng Đại Ỷ Ty vọt lên như một con cá bay lên mặt nước, trường kiếm hộ thân, nhẹ nhàng lượn một vòng trên không trung rồi mới đáp xuống mặt băng. Quần hùng lớn tiếng reo hò. Dương giáo chủ bước đến nắm chặt tay nàng, sung sướng không nói nên lời. Ai có thể ngờ một một cô nương thiên kiều bách mị thế kia mà công phu bơi lặn lại cao siêu đến thế. Đại Ỷ Ty liếc nhìn Hàn Thiên Diệp một cái, nói: “Gia gia, người kia bơi lội cũng khá, nghĩ đến lòng hiếu thảo báo thù cho cha của y, gia gia hãy tha cho y cái tội đã vô lễ với giáo chủ, có được chăng?” Dương giáo chủ tất nhiên bằng lòng, sai thần y Hồ Thanh Ngưu trị thương cho Hàn Thiên Diệp.

“Tối hôm đó trên đỉnh Quang Minh mở đại tiệc ăn mừng, người người đều bảo nàng Đại Ỷ Ty là đại công thần của Minh giáo, nếu không có nàng đứng ra giải vây, thì anh danh một đời của Dương giáo chủ đành trôi theo dòng nước. Bèn sắp đặt chức sắc, Dương phu nhân tặng nàng mỹ hiệu “Tử Sam Long Vương”, ngang hàng với Ưng Vương, Sư Vương, Bức Vương. Ba người hàng Vương bọn ta lại tình nguyện nhường cho nàng đứng đầu Tứ Vương, vì đại công của nàng hôm nay quả thực hơn hẳn tam Vương từ trước tới giờ. Sau đó ba Hộ giáo pháp vương bọn ta kết nghĩa huynh muội với Đại Ỷ Ty, nàng gọi ta là “Tạ tam ca”.

“Ngờ đâu sau trận thủy chiến ở đầm Bích Thủy Hàn, kết cục lại ngoài sức tưởng tượng của mọi người. Hàn Thiên Diệp tuy thất bại, nhưng chẳng hiểu bằng cách nào y lại chiếm được trái tim của nàng Đại Ỷ Ty. Có lẽ vì ngày ngày nàng đến thăm y trên giường bệnh, từ thương hại hóa thành thương yêu, từ thù hận hóa thành ái tình; nên khi Hàn Thiên Diệp khỏi hẳn, thì nàng bẩm với giáo chủ xin được kết hôn với Hàn Thiên Diệp.

“Mọi người nghe tin đó, kẻ thì đau lòng thất vọng, kẻ thì phẫn nộ bừng bừng. Cái gã Hàn Thiên Diệp từng bức bách Dương giáo chủ khiến mọi người trong Minh giáo căm hận y, nàng là hộ giáo pháp vương, làm sao có thể kết hôn với y kia chứ? Có người nóng tính nói thẳng vào mặt y. Đại Ỷ Ty tính nết cứng cỏi, cầm kiếm đứng ngay cửa sảnh, lớn tiếng nói: “Từ nay trở đi, Hàn Thiên Diệp đã là phu quân của ta. Kẻ nào muốn làm nhục Hàn lang, hãy tới thử kiếm với Tử Sam Long Vương trước đã!” Mọi người thấy thế, đành hậm hực bỏ đi.

“Khi Đại Ỷ Ty thành hôn với Hàn Thiên Diệp, phải quá nửa số huynh đệ không đến uống rượu mừng. Chỉ có Dương giáo chủ và ta cảm kích việc nàng đứng ra giải vây, mà hết lòng giúp nàng sắp đặt lễ thành hôn sao cho suôn sẻ, không gặp chuyện rắc rối. Nhưng khi Hàn Thiên Diệp muốn gia nhập Minh giáo, vì số người phản đối quá nhiều, Dương giáo chủ không tiện làm trái ý của số đông. Không lâu sau, vợ chồng Dương giáo chủ đột nhiên mất tích, lòng người trên đỉnh Quang Minh đều hoang mang. Mọi người đổ đi tứ phía tìm kiếm; một đêm nọ Quang Minh hữu sứ Phạm Dao bắt gặp Hàn phu nhân Đại Ỷ Ty từ trong đường hầm bí mật đi ra”.

Trương Vô Kỵ run giọng, hỏi:

– Từ trong đường hầm bí mật đi ra ư?

Tạ Tốn nói:

– Đúng thế. Giáo quy của Minh giáo cực nghiêm, đường hầm ấy chỉ có một mình giáo chủ được phép ra vào mà thôi. Phạm Dao vừa kinh ngạc, vừa giận dữ, liền tiến lên tra vấn. Hàn phu nhân nói: “Muội đã phạm trọng tội của bản giáo, muốn đâm muốn chém thế nào, muội cũng xin cam chịu”. Trong đại hội quần hào tối hôm ấy, Hàn phu nhân cũng chỉ nói mỗi câu ấy mà thôi. Hỏi nàng đi vào đường hầm bí mật làm gì, nàng bảo không muốn nói dối, song cũng không thể nói thật. Hỏi nàng Dương giáo chủ đi đâu, nàng bảo nàng không hề biết; còn việc lẻn vào đường hầm bí mật, thì ai làm nấy chịu, khỏi cần nói nhiều. Xét theo lý, nếu nàng không tự vẫn, thì hôm đó cũng phải tự chặt một chân; nhưng một là Phạm Dao tình cũ chưa quên, hết sức che chở cho nàng; hai là ta ở bên cạnh trần tình, nên quần hào mới định tội phạt giam nàng mười năm để ăn năn sám hối. Nào ngờ Đại Ỷ Ty cãi: “Dương giáo chủ không có ở đây, chẳng ai có quyền quản thúc ta”.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Nghĩa phụ, Hàn phu nhân lẻn vào đường hầm bí mật làm gì thế?

Tạ Tốn nói:

– Chuyện này kể ra thì dài, trong Minh giáo chỉ mình ta biết mà thôi. Hồi ấy mọi người phần đông nghi nàng dính dáng đến việc hai vợ chồng Dương giáo chủ mất tích; song ta hết sức chứng minh hai việc đó không liên quan gì với nhau. Tối hôm đó, tại Thánh hỏa sảnh trên đỉnh Quang Minh, quần hào bàn mãi cũng không đến đâu, cuối cùng Hàn phu nhân phá môn xuất giáo, nói rằng từ đây sẽ không còn quan hệ gì với Minh giáo Trung thổ nữa. Nàng ta là người đầu tiên ra khỏi Minh giáo, ngay đêm đó cùng Hàn Thiên Diệp lặng lẽ xuống núi, đi đâu không biết.

“Sau đó các huynh đệ bản giáo tìm kiếm Dương giáo chủ không thấy, mấy năm liền tranh ngôi vị giáo chủ, tình thế ngày càng bi đát. Bạch Mi Ưng Vương Ân nhị ca lại rời đỉnh Quang Minh, tự sáng lập Thiên Ưng giáo. Ta hết sức khuyên can, ông ấy không nghe, huynh đệ hục hặc với nhau. Hơn hai mươi năm trước, tại Vương Bàn sơn đảo, Thiên Ưng giáo dương đao lập uy, Kim Mao Sư Vương ta tới đó phá đám, trước là cướp lấy thanh đao Đồ Long, sau là cho hả cơn giận năm trước, cốt làm mất mặt Ân nhị ca, làm cho ông ấy hiểu rằng sau khi rời bỏ Minh giáo, chưa chắc đã làm nên trò trống gì. Ôi hôm nay nghĩ lại, ta thấy mình hành xử không khỏi có phần nóng nảy nhỏ nhen!”

Tạ Tốn thở dài, một tiếng thở dài bao hàm bao nhiêu chuyện đau lòng trong dĩ vãng, vô số sóng gió chốn giang hồ.

Mọi người trầm mặc hồi lâu. Triệu Mẫn nói:

– Lão gia tử, sau này Kim Hoa Ngân Diệp uy chấn giang hồ, làm sao người của Minh giáo lại không nhận ra bà ta? Ngân Diệp tiên sinh tức là Hàn Thiên Diệp, vì sao bị trúng độc mà chết?

Tạ Tốn nói:

– Những chuyện đó thế nào, ta hoàn toàn không hay biết. Chắc là vợ chồng họ hành tẩu giang hồ, hết sức tránh chạm trán với người của Minh giáo.

Trương Vô Kỵ nói:

– Đúng thế. Kim Hoa bà bà từ đấy không đụng chạm với người của Minh giáo. Khi sáu đại môn phái vây đánh đỉnh Quang Minh, bà ta có lên đó, song không cứu viện.

Triệu Mẫn ngẫm nghĩ, nói:

– Nhưng Tử Sam Long Vương dung mạo xinh đẹp tuyệt trần, sao lại hóa ra xấu xí như thế kia chứ? Xem chừng khuôn mặt lại không có dấu vết hủy hoại.

Tạ Tốn nói:

– Ta đoán bà ấy khéo léo thay đổi diện dung. Hàn phu nhân một đời hành sự kỳ dị, thực ra vì trong lòng có nỗi khổ tâm không nói ra được. Bà ta suốt đời cứ phải trốn tránh sự truy tìm của Tổng giáo Ba Tư, nào ngờ cuối cùng cũng không sao thoát được.

Trương Vô Kỵ và Triệu Mẫn cùng hỏi:

– Tại sao Tổng giáo Ba Tư lại truy tìm bà ta?

Tạ Tốn nói:

– Đó là bí mật lớn nhất của Hàn phu nhân, đáng lẽ không nên nói ra. Nhưng ta mong các ngươi trở lại đảo Linh Xà cứu bà ấy, nên không thể không nói.

Triệu Mẫn kinh ngạc kêu lên:

– Trở lại đảo Linh Xà ư? Chúng ta làm sao địch nổi ba sứ giả Ba Tư?

Tạ Tốn không trả lời câu đó, chỉ kể chuyện:

– Mấy trăm năm nay, giáo chủ Minh giáo Trung thổ đều do nam giới đảm nhiệm; nhưng giáo chủ Tổng giáo Ba Tư thì lại là nữ giới, mà phải là xử nữ, không được lấy chồng. Trong kinh điển của Tổng giáo Ba Tư có quy định một cách trịnh trọng, rằng phải do thánh xử nữ đảm nhiệm chức giáo chủ, thì mới giữ được sự trinh khiết thiêng liêng của Minh giáo. Mỗi vị giáo chủ sau khi tiếp nhiệm, đều phải lựa chọn trong số con cái các nhân sĩ cao cấp của bản giáo ba người con gái, gọi là “thánh nữ”. Khi làm lễ nhận chức, các “thánh nữ” phải thề sẽ du hành bốn phương, lập công tích đức cho Minh giáo. Khi giáo chủ từ trần, các vị trưởng lão trong Tổng giáo sẽ họp xét công đức của ba “thánh nữ”, ai cao nhất sẽ được lên tiếp nhiệm chức giáo chủ. Ba “thánh nữ” kia, kẻ nào bị mất trinh, sẽ bị xử thiêu sống trên giàn lửa, dù nàng ta có trốn tận chân trời góc biển, Tổng giáo cũng sai người truy nã, để duy trì sự trinh thiện của thánh giáo…

Tạ Tốn kể tới đây, Triệu Mẫn kêu lên lạc cả giọng:

– Không lẽ Hàn phu nhân lại là một trong ba “thánh nữ”?

Tạ Tốn gật đầu:

– Chính thế! Trước khi Phạm Dao phát hiện Hàn phu nhân lẻn vào đường hầm bí mật, thì ta đã bắt gặp rồi. Hàn phu nhân coi ta như tri kỷ, nên đem mọi chuyện nói cho ta biết. Nàng đấu với Hàn Thiên Diệp dưới đầm Bích Thủy Hàn, hai người đụng chạm thịt da, nảy sinh tình cảm với đối phương; sau đó nàng lại an ủi y trong những ngày trị thương, cuối cùng thành mối tình oan nghiệt. Nàng biết thể nào cũng có ngày Tổng giáo Ba Tư sai người đi tìm, nên cố lập đại công để chuộc tội với Tổng giáo. Nàng lẻn vào đường hầm bí mật là để tìm võ công tâm pháp “Càn khôn đại na di”. Môn võ công tâm pháp ấy Tổng giáo bị thất lạc đã lâu, nhưng Minh giáo Trung thổ vẫn còn giữ được. Tổng giáo sai nàng đến đỉnh Quang Minh chính là vì lẽ đó.

Trương Vô Kỵ “ồ” lên một tiếng, lờ mờ cảm thấy có điều không ổn, nhưng là chuyện gì, thì chàng chưa nghĩ ngay ra được. Chỉ nghe Tạ Tốn nói tiếp:

– Hàn phu nhân mấy lần lẻn vào đường hầm bí mật, thủy chung vẫn không tìm thấy võ công tâm pháp kia. Khi ta biết chuyện, bèn nghiêm nghị cáo giới, rằng việc đó phạm đại quy của Minh giáo, khó có thể dung tha…

Triệu Mẫn nói xen vào:

– A, tiểu nữ hiểu rồi. Hàn phu nhân phá môn xuất giáo, cốt để tiếp tục lẻn vào đường hầm bí mật; nàng đã không còn là người trong Minh giáo Trung thổ, thì không bị cấm ra vào đường hầm nữa.

Tạ Tốn nói:

– Triệu cô nương thông minh lắm. Nhưng đỉnh Quang Minh là căn cứ địa của bản giáo, há có thể cho người ngoài tùy ý ra vào? Bấy giờ ta cũng đoán được dụng ý của Hàn phu nhân, nên sau khi nàng xuống núi, ta đích thân canh giữ cửa đường hầm; ba lần nàng lẻn lên núi đều gặp ta, mới đành từ bỏ ý định đó.

Tạ Tốn ngẫm nghĩ một chút, rồi hỏi:

– Màu sắc trang phục của ba sứ giả Ba Tư có khác gì với Minh giáo Trung thổ hay chăng?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Bọn họ đều mặc áo bào màu trắng, ở chéo áo có thêu ngọn lửa đỏ… à, áo có viền màu đen, chỉ có một điểm khác biệt nhỏ vậy thôi.

Tạ Tốn vỗ vào mạn thuyền, nói:

– Đúng là giáo chủ Tổng giáo qua đời rồi. Người Tây Vực dùng màu đen là màu tang. Áo bào trắng viền đen là để tang đó. Họ cần tuyển lập vị giáo chủ mới, nên mới không quản đường xa vạn dặm sang Trung thổ truy tìm Hàn phu nhân.

Trương Vô Kỵ nói:

– Hàn phu nhân đã từ Ba Tư sang, tất phải biết thứ võ công quái dị của ba sứ giả Ba Tư, tại sao mới đấu một chiêu, đã bị bọn họ bắt rồi?

Triệu Mẫn cười, nói:

– Công tử ngốc lắm. Hàn phu nhân giả vờ đó. Bà ta cần che giấu lai lịch, tất nhiên không thể để lộ là mình biết võ công Ba Tư. Tiểu nữ đoán rằng, nếu Tạ lão gia lúc ấy nghe từ lời ba sứ giả Ba Tư, hạ sát bà ta, thì Hàn phu nhân thể nào cũng có cách thoát thân.

Tạ Tốn lắc đầu, nói:

– Bà ấy không chịu để lộ lai lịch thì đúng rồi. Nhưng bảo rằng sau khi bị ba sứ giả Ba Tư điểm huyệt mà vẫn có cách thoát thân, thì chưa chắc. Hàn phu nhân thà để ta một đao chém chết, còn hơn phải chịu cái khổ bị thiêu sống.

Triệu Mẫn nói:

– Tiểu nữ ngỡ Minh giáo Trung thổ là tà giáo, ai ngờ Minh giáo Ba Tư lại còn tà hơn. Tại sao cứ phải nữ mới được làm giáo chủ? Tại sao lại đem thánh nữ mất trinh ra thiêu sống?

Tạ Tốn gắt lên:

– Tiểu cô nương nói năng cho cẩn thận. Mỗi giáo phái đều có nghi điển quy củ truyền từ đời này sang đời khác. Hòa thượng ni cô không được lấy vợ lấy chồng, không được ăn mặn, chẳng phải là quy củ đó sao? Cái đó là tà hay không tà?

*

*      *

Đột nhiên nghe tiếng canh cách, là hai hàm răng của Ân Ly va vào nhau, nàng đang run lập cập. Trương Vô Kỵ sờ trán nàng, thấy nóng hầm hập, rõ ràng đang sốt cao, bệnh tình rất nặng, bèn nói:

– Nghĩa phụ, hài nhi cũng nghĩ phải trở lại đảo Linh Xà. Ân cô nương thương thế không nhẹ, phải tìm thuốc cứu chữa mới được. Chúng ta hãy tận lực, nếu không cứu được Hàn phu nhân, thì cũng phải cố cứu Ân cô nương.

Tạ Tốn nói:

– Đúng thế. Ân cô nương đối với con tình ý sâu nặng như thế, lẽ nào không cứu? Chu cô nương, Triệu cô nương, ý hai cô nương thế nào?

Triệu Mẫn nói:

– Thương thế của Ân cô nương là hệ trọng, còn tiểu nữ chỉ bị thương nhẹ. Không trở lại đảo Linh Xà thì lấy gì cứu chữa đây?

Chu Chỉ Nhược thản nhiên nói:

– Lão gia tử bảo quay lại, thì tất cả cùng quay lại.

Trương Vô Kỵ nói:

– Chờ sương mù tan hết, nhìn thấy trăng sao, mới có thể nhận biết phương hướng. Nghĩa phụ, gã Lưu Vân sứ lộn hai vòng trên không, là có thể dùng thánh hỏa lệnh đả thương hài nhi, vậy là thế nào?

Thế là hai người cùng nghiên thảo gia số võ công của ba sứ giả Ba Tư. Sở học của Triệu Mẫn rất uyên bác, thỉnh thoảng nàng cũng góp vài câu, nhưng bàn luận chán, vẫn không tìm ra được yếu chỉ công phu liên thủ của ba sứ giả Ba Tư như thế nào.

Sương mù trên biển mãi khi mặt trời mọc mới tan. Trương Vô Kỵ nói:

– Chúng ta từ phương bắc trôi xuống hướng đông nam; bây giờ phải chèo thuyền về hướng tây bắc mới được.

Chàng cùng Tạ Tốn, Chu Chỉ Nhược, Tiểu Chiêu bốn người luân phiên chèo thuyền. Điều khiển chiếc thuyền nhỏ xông pha các đợt sóng trên biển cả thật chẳng dễ chút nào; may Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn nội lực thâm hậu, còn Chu Chỉ Nhược và Tiểu Chiêu cũng có tu luyện, chèo thuyền cũng chẳng khác gì việc luyện võ công.

Chèo như thế mấy ngày liền, chiếc thuyền cô đơn cứ tiến dần về hướng tây bắc.

Trong mấy ngày đó, Tạ Tốn nhíu mày suy tư về võ công quái dị của ba sứ giả Ba Tư, ngoài việc hỏi Trương Vô Kỵ vài câu, ông không nói một lời. Đến chiều tối ngày thứ sáu, Tạ Tốn đột nhiên hỏi rất kỹ về công phu của phái Nga Mi mà Chu Chỉ Nhược học được. Chu Chỉ Nhược cứ sự thực trả lời. Hai người một hỏi một đáp, trò chuyện đến tận đêm khuya. Tạ Tốn thất vọng, nói:

– Võ công của ba phái Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi đều liên quan đến “Cửu dương chân kinh”, cùng một đường với sở học của Trương Vô Kỵ, thuộc loại dương cương. Nếu có Trương Tam Phong chân nhân ở đây, lấy võ học bác đại bao hàm hết thảy âm nhu dương cương của ông ấy liên thủ với Trương Vô Kỵ, thì mới có thể phối hợp âm dương, đánh bại được ba sứ giả Ba Tư. Thế nhưng nước xa không cứu được lửa gần, Hàn phu nhân mà rơi vào tay ba sứ giả Ba Tư, thì không biết ra sao đây?

Chu Chỉ Nhược bỗng hỏi:

– Lão gia tử, nghe nói một trăm năm trước, trong võ lâm có vị cao nhân tinh thông “Cửu âm chân kinh”, phải vậy không?

Hồi còn ở trên núi Võ Đang, Trương Vô Kỵ từng nghe thái sư phụ nhắc đến “Cửu âm chân kinh”, biết rằng mấy người như phụ thân Quách Tĩnh của tổ sư sáng lập phái Nga Mi Quách Tương, Thần điêu đại hiệp Dương Quá, đều học được võ công trong “Cửu âm chân kinh”, nhưng công phu trong “Cửu âm chân kinh” tập luyện vô cùng gian nan, Quách Tương dù là con ruột của Quách Tĩnh mà cũng không học nổi; giờ nghe Chu Chỉ Nhược hỏi đến, chàng nghĩ thầm: “Không lẽ tổ sư sáng phái Nga Mi có truyền lại một phần công phu trong “Cửu âm chân kinh” chăng?” Tạ Tốn nói:

– Thì các bậc trưởng lão đồn đại như thế, có ai biết thật giả ra sao đâu. Ta nghe các vị tiền bối bảo tuyệt kỹ ấy như phép thần vậy; ngày nay nếu có ai học được môn võ công ấy, liên thủ với Trương Vô Kỵ chống địch, thì chắc chắn diệt trừ được ba sứ giả Ba Tư.

Chu Chỉ Nhược “ồ” lên một tiếng, không hỏi thêm nữa.

Triệu Mẫn hỏi:

– Chu cô nương, phái Nga Mi của cô nương có ai biết môn võ công ấy không?

Chu Chỉ Nhược nói:

– Nếu phái Nga Mi có được thần công ấy, tiên sư đã chẳng bỏ mạng ở chùa Vạn An.

Diệt Tuyệt sư thái sở dĩ lìa trần, căn nguyên là do Triệu Mẫn mà ra, Chu Chỉ Nhược căm hận nàng ta vô cùng; bao nhiêu ngày đêm mưa gió ngồi chung trên một con thuyền, song nàng không trao đổi với Triệu Mẫn nửa lời; giờ nghe Triệu Mẫn hỏi đích danh, nàng liền nói móc cho một câu. Chu Chỉ Nhược tính nết hiền lành, bình sinh chưa từng bốp chát với ai như thế bao giờ. Triệu Mẫn nghe xong không giận, chỉ cười cười.

Trương Vô Kỵ mải miết chèo thuyền, đột nhiên nhìn về phía xa, kêu lên:

– Xem kìa, xem kìa! Đằng kia có ánh lửa.

Mọi người nhìn theo hướng mắt chàng, quả nhiên ở góc tây bắc, nơi đường chân trời, có ánh lửa chập chờn. Tạ Tốn tuy không nhìn thấy gì, nhưng trong lòng cũng nửa mừng nửa lo như mọi người, dồn sức vào mái chèo nhiều hơn.

Ánh lửa nhìn không xa, thực ra trên biển khơi phải cách xa đến mấy chục dặm. Hai người chèo cả nửa ngày mới tới gần. Trương Vô Kỵ thấy nơi ánh lửa có các ngọn núi nhấp nhô, chính là đảo Linh Xà, liền nói:

– Chúng ta đến nơi rồi.

Tạ Tốn đột nhiên kêu “Thôi chết!” rồi hỏi:

– Có phải trên đảo Linh Xà có lửa bốc lên cao hay không? Chẳng lẽ bọn chúng thiêu sống Hàn phu nhân luôn sao?

Chỉ nghe “hịch” một tiếng, Tiểu Chiêu đã ngã lăn ra sàn thuyền. Trương Vô Kỵ kinh hãi, tới đỡ nàng dậy, thấy nàng bất tỉnh, hai mắt nhắm nghiền, vội day huyệt Nhân Trung cho nàng tỉnh lại, hỏi:

– Tiểu Chiêu, cô nương sao thế?

Tiểu Chiêu hai mắt rưng rưng, nói:

– Tiểu nữ nghe nhắc đến việc thiêu sống người nên… lo… sợ… quá.

Trương Vô Kỵ an ủi nàng:

– Đấy là Tạ lão gia đoán thế thôi, chưa chắc có chuyện ấy. Ví dầu Hàn phu nhân có sa vào tay bọn chúng, mình bây giờ đến nơi, cũng còn cứu kịp.

Tiểu Chiêu nắm chặt tay chàng, cầu khẩn:

– Công tử, tiểu nữ cầu xin công tử hãy cố cứu mạng Hàn phu nhân.

Trương Vô Kỵ nói:

– Tất cả mọi người ở đây sẽ cố làm việc đó.

Đoạn chàng trở lại đuôi thuyền, cầm mái giầm lên, chèo nhanh hơn trước. Tiểu Chiêu cũng cầm lấy mái giầm, hai tay run run, song cũng cố sức chèo.

Triệu Mẫn bỗng hỏi:

– Trương công tử, có hai việc tiểu nữ nghĩ đã lâu, nhưng vẫn không chưa hiểu rõ, mong công tử chỉ giáo.

Trương Vô Kỵ tự dưng thấy nàng nói năng khách sáo như thế, lấy làm lạ, hỏi:

– Việc gì vậy?

Triệu Mẫn nói:

– Lần trước ở bên ngoài Lục Liễu trang, tiểu nữ sai người tấn công các vị lệnh ngoại công, Dương tả sứ, chính Tiểu Chiêu cô nương này đã điều động binh mã chống trả. Đúng là tướng đã mạnh ắt binh không yếu, một tiểu a hoàn của giáo chủ Minh giáo mà tài ba như thế, quả lạ thật… Tạ Tốn liền hỏi:

– Ai là giáo chủ Minh giáo?

Triệu Mẫn cười, nói:

– Lão gia tử, bây giờ nói cho lão gia biết cũng được rồi, vị công tử con nuôi của lão gia đường đường là giáo chủ Minh giáo đó, lão gia trở thành thuộc hạ của chàng ta rồi.

Tạ Tốn bán tín bán nghi, nhất thời chưa biết nói sao. Triệu Mẫn liền thuật lại sơ qua việc Trương Vô Kỵ đảm nhiệm chức giáo chủ Minh giáo như thế nào, tuy có nhiều chi tiết nàng không biết. Trương Vô Kỵ bị Tạ Tốn hỏi dồn, không thể giấu được nữa, cũng đành kể lại vụ sáu đại môn phái vây đánh đỉnh Quang Minh ra sao, mình ở trong đường hầm bí mật học được tâm pháp “Càn khôn đại na di” như thế nào.

Tạ Tốn cả mừng, đứng dậy, rồi vái lạy ngay trong lòng thuyền, nói:

– Thuộc hạ Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, tham kiến giáo chủ.

Trương Vô Kỵ vội quỳ xuống trả lễ, nói:

– Nghĩa phụ khỏi cần đa lễ. Dương giáo chủ có di mệnh để nghĩa phụ tạm giữ chức vị giáo chủ. Hài nhi đang lo không gánh vác nổi trọng nhiệm, may sao nghĩa phụ yên lành trở về, thật là phúc của bản giáo. Khi nào chúng ta trở về Trung thổ, xin nghĩa phụ tiếp nhiệm chức vị giáo chủ cho.

Tạ Tốn nói:

– Nghĩa phụ con tuy đã trở về, nhưng hai mắt đã lòa, hai chữ “yên lành” không đúng đâu. Thủ lĩnh Minh giáo há có thể để một người mù đảm nhiệm? Triệu cô nương, cô nương có hai việc gì chưa hiểu rõ?

Triệu Mẫn nói:

– Tiểu nữ định hỏi Tiểu Chiêu cô nương, thuật Kỳ môn bát quái, âm dương ngũ hành là do ai dạy cho cô nương vậy? Cô nương còn ít tuổi, làm sao đã học được nhiều môn công phu lạ thế?

Tiểu Chiêu nói:

– Đó là võ công gia truyền của tiểu nhân, chẳng bõ quận chúa nương nương cười cho.

Triệu Mẫn lại hỏi:

– Lệnh tôn là ai? Con gái giỏi thế, cha mẹ hẳn phải là bậc cao thủ lừng danh thiên hạ.

Tiểu Chiêu nói:

– Gia phụ mai danh ẩn tính, không đáng để quận chúa phải bận lòng. Chẳng lẽ quận chúa lại định chặt vài ngón tay của tiểu nhân để ép tiểu nhân phải bộc lộ võ công ra hay sao?

Cô bé tuổi còn nhỏ mà đối gia đối giảm với Triệu Mẫn không chịu kém câu nào, nhắc đến chuyện chặt ngón tay, rõ ràng là muốn khơi dậy lòng căm hận của Chu Chỉ Nhược.

Triệu Mẫn cười, quay sang hỏi Trương Vô Kỵ:

– Trương công tử, tối hôm ở quán rượu nhỏ tại Đại Đô, lần thứ hai mình gặp nhau, Khổ đầu đà Phạm Dao đến chào từ biệt muội, khi y nhìn thấy Tiểu Chiêu, đã nói hai câu gì nhỉ?

Trương Vô Kỵ vốn đã quên chuyện đó, nghe Triệu Mẫn nhắc đến, nghĩ một lát, mới nói:

– Khổ đại sư hình như có nói là tướng mạo Tiểu Chiêu giống một người quen nào đó.

Triệu Mẫn nói:

– Đúng. Công tử thử đoán xem Khổ đại sư bảo Tiểu Chiêu giống ai?

Trương Vô Kỵ nói:

– Ta làm sao đoán được?

*

*      *

Hai người còn đang nói chuyện, chiếc thuyền nhỏ đã tới gần đảo Linh Xà. Chỉ thấy ở phía tây đảo có đậu một số thuyền lớn, trên các cánh buồm trắng đều thêu ngọn lửa đỏ rất lớn, đầu cột buồm thì treo một băng vải màu đen.

Trương Vô Kỵ cau mày nói:

– Tổng giáo Ba Tư lao sư động chúng, đưa sang đây quả không ít người.

Triệu Mẫn nói:

– Mình hãy chèo thuyền ra phía sau đảo, tìm một nơi kín đáo mà đổ bộ, khỏi bị bọn họ phát giác.

Trương Vô Kỵ gật đầu nói:

– Đúng thế.

Nhưng mới bơi thêm được ba, bốn trượng, đột nhiên trên chiếc thuyền lớn nổi lên tiếng tù và u u, tiếp đó đoàng đoàng hai tiếng, hai quả đại bác bắn tới, một viên rơi ở bên trái, một viên rơi ở bên phải con thuyền nhỏ, dựng lên hai cột nước, làm cho con thuyền này chòng chành như muốn lật. Trên thuyền lớn có người hô to:

– Thuyền kia mau chèo lại đây, nếu không tuân lệnh, sẽ bị bắn chìm lập tức.

Trương Vô Kỵ thầm kêu khổ, biết hai phát đạn vừa rồi địch chỉ thị uy, cố ý bắn sang hai bên; bây giờ hai bên gần nhau thế này, kẻ địch ngắm bắn dễ dàng, chỉ cần một quả đạn trúng thuyền thì cả sáu người khó bề sống sót, đành chầm chậm bơi thuyền tới.

Ba khẩu pháo trên thuyền lớn cũng từ từ chuyển dịch miệng súng, nhắm đúng vào con thuyền nhỏ. Khi thuyền nhỏ tới sát, thuyền lớn liền thả thang dây xuống. Trương Vô Kỵ nói:

– Bọn mình lên trên, tùy cơ đoạt thuyền.

Tạ Tốn mò thang dây, leo lên thuyền lớn trước nhất. Chu Chỉ Nhược lẳng lặng cúi xuống ôm Ân Ly, leo lên, kế đến Tiểu Chiêu, Trương Vô Kỵ ôm Triệu Mẫn, leo lên sau cùng. Chỉ thấy trên thuyền lớn rất đông người, ai cũng tóc vàng mắt xanh, thân hình cao lớn, đều là người Hồ xứ Ba Tư, không thấy ba sứ giả Vân, Phong, Nguyệt nọ.

Một người Ba Tư biết nói tiếng Trung Quốc, hỏi:

– Các người là ai? Đến đây làm gì?

Triệu Mẫn đáp:

– Chúng tôi đi biển gặp bão, thuyền lớn bị chìm, nhờ các vị cứu cho.

Người Ba Tư bán tín bán nghi, quay đầu nói với viên thủ lĩnh ngồi trên ghế ngay giữa sàn thuyền, nói mấy câu bằng tiếng Ba Tư. Viên thủ lĩnh nói xí xố mấy câu với đám thủ hạ.

Tiểu Chiêu đột nhiên vọt tới tung chưởng tấn công viên thủ lĩnh. Y kinh hãi vội né sang bên, chộp luôn cái ghế vừa ngồi mà phang vào Tiểu Chiêu. Trương Vô Kỵ không ngờ Tiểu Chiêu chưa chi đã động thủ, lạng người một cái đã tiến lên ba thước, giơ tay điểm huyệt viên thủ lĩnh. Mấy chục người Ba Tư trên thuyền lập tức náo loạn, rút binh khí ra, vây cả bọn lại. Những người này đều biết võ, nhưng so với ba sứ giả Vân, Phong, Nguyệt nọ thì kém xa. Trương Vô Kỵ tay phải đỡ Ân Ly, tay trái lúc thì vỗ chưởng, lúc thì điểm huyệt. Tạ Tốn múa thanh đao Đồ Long, Chu Chỉ Nhược vung trường kiếm, cộng với Tiểu Chiêu thân hình linh hoạt, chỉ trong giây lát đã thanh toán xong mấy chục người Ba Tư trên thuyền. Hơn chục tên bị chém nằm ngổn ngang trên sàn, bảy tám tên bị quăng xuống biển, còn lại bao nhiêu đều bị điểm huyệt.

Lúc đó trên biển vang động tiếng hò hét, tiếng tù và thổi loạn, những chiếc thuyền còn lại của bọn Ba Tư đều xáp lại gần, bọn người trên các thuyền toan nhảy sang đánh bọn Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ liền xách viên thủ lĩnh, nhảy lên cái đà treo buồm, nói lớn:

– Kẻ nào dám nhảy sang đây, ta sẽ đánh chết ngay gã này.

Chỉ nghe người trên các thuyền hô hoán ầm ỹ; tuy họ không hiểu Trương Vô Kỵ nói gì, song không một ai nhảy sang, thiết tưởng viên thủ lĩnh hẳn có địa vị rất cao, đối phương e ngại nên nhất thời chưa dám tấn công.

Trương Vô Kỵ nhảy trở xuống, đang định thả viên thủ lĩnh ra, bỗng nghe sau lưng một tiếng keng, có một binh khí đánh tới, chàng vội tránh sang bên, đá ngược trở lại, thấy một tấm thánh hỏa lệnh đánh tới trước mặt, bên trái cũng có một tấm thánh hỏa lệnh khác quét ngang. Trương Vô Kỵ thầm kêu khổ, không ngờ Phong, Vân tam sứ lại đến nhanh như thế, vội kêu:

– Mọi người hãy lui cả vào trong khoang.

Chàng giơ viên thủ lĩnh lên mà đỡ một tấm thánh hỏa lệnh.

Huy Nguyệt sứ vội thu thánh hỏa lệnh về, nhưng quá vội, nên hạ bàn sơ hở, Trương Vô Kỵ liền quét chân qua, đá trúng đùi nàng ta. Diệu Phong sứ và Lưu Vân sứ ở hai bên vội đánh tới, buộc Trương Vô Kỵ chưa đá hết chân phải thu chân về. Đôi bên trao đổi tám, chín chiêu, thánh hỏa lệnh trong tay trái của Diệu Phong sứ đánh xéo từ dưới lên, chiêu số rất quái dị, nhắm trúng bụng dưới của Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ liền hạ thấp thân hình viên thủ lĩnh xuống, thật khéo léo, nghe bộp một tiếng, tấm thánh hỏa lệnh đã đập vào má trái viên thủ lĩnh Ba Tư. Ba sứ giả kia cùng kinh hãi kêu lên, mặt mày biến sắc, cùng nhảy về phía sau, trao đổi mấy câu bằng tiếng Ba Tư, đột nhiên cúi mình cung kính hành lễ với viên thủ lĩnh đang nằm trong tay Trương Vô Kỵ, rồi quay về thuyền của chúng.

Bỗng tiếng tù và nổi lên từng chập, một chiếc thuyền lớn từ từ lại gần, trên mũi thuyền cắm mười hai lá cờ lớn thêu chỉ vàng. Trên thuyền đặt mười hai chiếc ghế bành lót da hổ, trong đó một chiếc bỏ trống, còn mười một chiếc kia đã có người ngồi. Chiếc thuyền lớn đó tới gần thì dừng lại, Triệu Mẫn thấy chiếc ghế trống đứng hàng thứ sáu, bụng nghĩ ngay ra, liền nói:

– Người mà ta bắt được trang phục giống như mười một kẻ đang ngồi bên thuyền kia, chắc là một trong mười hai viên đại thủ lĩnh của họ, địa vị đứng thứ sáu.

Tạ Tốn nói:

– Mười hai đại thủ lĩnh ư? Ồ, thì ra mười hai “Bảo thụ vương” của Tổng giáo cùng sang Trung thổ, thật không phải chuyện thường.

Triệu Mẫn hỏi:

– Mười hai “Bảo thụ vương” là gì vậy?

Tạ Tốn nói:

– Trong Tổng giáo Ba Tư, dưới giáo chủ có mười hai đại kinh sư, gọi là “Thập nhị Bảo thụ vương”, địa vị tương đương Tứ đại pháp vương của Minh giáo Trung thổ. Mười hai “Bảo thụ vương” này, thứ nhất Đại Thánh, thứ hai Trí Tuệ, thứ ba Thường Thắng, thứ tư Chưởng Hỏa, thứ năm Cần Tu, thứ sáu Bình Đẳng, thứ bảy Tín Tâm, thứ tám Trấn Ác, thứ chín Chính Trực, thứ mười Công Đức, thứ mười một Tề Tâm, thứ mười hai Câu Minh. Mười hai “Bảo thụ vương” lấy việc tinh thông giáo nghĩa, kinh điển làm chính, chứ không nhất thiết phải giỏi võ công. Người này đứng hàng thứ sáu, vậy là “Bình Đẳng Bảo thụ vương”.

Trương Vô Kỵ ngồi xuống chân cột buồm, đặt Bình Đẳng vương nằm ngang trên gối, người này có địa vị rất cao trong Tổng giáo Ba Tư, thì sự sống chết, khả năng thoát hiểm của sáu người bên chàng đều trông vào người này. Chàng cúi nhìn, thấy má trái của y sưng to lên, may mà vết thương không phải là trí mạng. Có lẽ Diệu Phong sứ lúc ra đòn biết là không ổn, đã vội thu lực về, cộng với nội công người này cũng khá, nên có sức chống đỡ.

Chu Chỉ Nhược và Tiểu Chiêu thu dọn đám người Ba Tư trên sàn thuyền, xác chết thì kéo vào khoang sau, những kẻ còn sống thì xếp thành một hàng. Chỉ thấy mười mấy chiếc thuyền Ba Tư vây quanh, các khẩu đại bác đều chĩa sang thuyền của bọn Trương Vô Kỵ. Các thuyền kia rất đông người Ba Tư, đao kiếm lấp loáng dưới ánh đuốc. Trương Vô Kỵ thầm kinh hãi, đừng nói các thuyền kia nã pháo, chỉ cần đám người kia tràn sang, thì chàng có ba đầu sáu tay cũng chẳng thể chống đỡ; dẫu có võ công tuyệt đỉnh để thoát thân, thì cũng không có cách gì bảo vệ cho mấy người đồng hành. Ân Ly và Triệu Mẫn đang bị thương, lại càng nguy hiểm hơn.

Chỉ nghe một người Ba Tư cao giọng nói bằng tiếng Trung Quốc:

– Kim Mao Sư Vương nghe đây, “Thập nhị Bảo thụ vương” của Tổng giáo đều hiện diện tại đây. Ngươi đắc tội với Tổng giáo, các Bảo thụ vương rộng lòng tha cho, nhưng phải mau thả các giáo hữu của Tổng giáo ra, rồi giong thuyền đi ngay.

Tạ Tốn cười đáp:

– Tạ mỗ đâu phải là đứa trẻ lên ba, bọn ta thả tù binh rồi, các người nã pháo sang thuyền bọn ta thì sao?

Người kia giận dữ nói:

– Ngươi không thả ra, chúng ta không dám bắn chắc?

Tạ Tốn ngẫm nghĩ một chút, rồi nói:

– Ta có ba điều kiện, nếu bên quý vị đáp ứng, chúng ta sẽ cung kính trao trả các giáo hữu Tổng giáo lên bờ.

Người kia hỏi:

– Điều kiện gì?

Tạ Tốn nói:

– Thứ nhất, từ nay Tổng giáo và Minh giáo Trung thổ phải tương thân tương kính, không bên nào xâm phạm bên kia.

Người kia hỏi:

– Còn điều kiện thứ hai?

Tạ Tốn nói:

– Các vị giao Đại Ỷ Ty sang đây, tha cho bà ta tội thất trinh, từ rày không truy cứu nữa.

Người kia giận dữ nói:

– Việc ấy hoàn toàn không được. Đại Ỷ Ty đã phạm đại quy của Tổng giáo, phải chịu cực hình hỏa thiêu, đâu có liên quan gì tới Minh giáo Trung thổ các người? Còn điều kiện thứ ba?

Tạ Tốn nói:

– Điều kiện thứ hai đã không đáp ứng, thì còn nói điều kiện thứ ba làm gì?

Người kia nói:

– Giả dụ phía ta đáp ứng điều kiện thứ hai, thì ngươi thử nêu điều kiện thứ ba nghe coi.

Tạ Tốn nói:

– Điều kiện thứ ba hết sức dễ dàng, các vị phái một chiếc thuyền nhỏ đi theo thuyền của chúng ta. Sau khi đi năm chục dặm, nếu chúng ta không thấy thuyền lớn của các vị đuổi theo, thì sẽ thả những người bị bắt sang thuyền nhỏ cho các vị.

Người kia cả giận, quát:

– Nói nhăng nói cười! Nói nhăng nói cười!

Tạ Tốn ngẩn ra chưa hiểu người kia nói gì, Triệu Mẫn cười nói:

– Gã nói tiếng Trung Quốc chưa thạo, định bảo “Nói nhăng nói cuội” thì lại đánh thành “Nói nhăng nói cười”.

Tạ Tốn và Trương Vô Kỵ nghĩ nàng nói không sai, tuy tình thế lúc này căng thẳng, song cũng không nhịn được, cùng cười ồ lên.

Người vừa nhầm “Nói nhăng nói cười” kia đứng cuối cùng trong “Thập nhị Bảo thụ vương”, là Câu Minh vương, thấy bọn Tạ Tốn cười thì càng tức giận, bèn huýt một tiếng sáo, cùng người thứ mười một là Tề Tâm vương phi thân bay sang thuyền bên này.

Trương Vô Kỵ xông tới, tả chưởng đánh vào ngực Tề Tâm vương. Tề Tâm vương không né tránh thì chớ, còn giơ tay trái chụp xuống đầu chàng. Trương Vô Kỵ thấy chưởng của mình sẽ đánh tới ngực hắn trước, nào ngờ Câu Minh vương ở bên cạnh tung song chưởng tiếp chưởng của chàng, trong lúc năm ngón tay của Tề Tâm vương vẫn chộp xuống đầu chàng. Trương Vô Kỵ vội dấn lên một bước mới tránh được; biết rằng hai người kia liên thủ với nhau, chẳng khác gì một người có bốn tay bốn chân. Trong giây lát, ba người đã trao đổi bảy, tám chiêu.

Trương Vô Kỵ thầm kinh hãi, hai gã này tuy không bằng Phong, Vân, Nguyệt tam sứ, nhưng võ công thập phần quái dị, rất giống tâm pháp “Càn khôn đại na di”, song khi vận dụng đã biến đổi khác hẳn, không thể lần ra đầu mối, tuy rằng chiêu số không khôn khéo và lợi hại bằng tâm pháp “Càn khôn đại na di”. Hai gã đánh cứ như kẻ điên, ngẫu nhiên học được tâm pháp “Càn khôn đại na di”, nhưng học chưa đến nơi đến chốn, thần trí lại rối loạn, đấm đá lung tung, thành thử người khác chẳng biết đường nào mà chống đỡ.

Hai gã liên thủ rất chặt chẽ, y như Phong, Vân, Nguyệt tam sứ, tưởng chừng cả bọn cùng một lò ra vậy. Trương Vô Kỵ miễn cưỡng giao đấu, hi vọng sau vài ba chục chiêu sẽ chiếm thượng phong.

Ngay lúc ấy, Phong, Vân, Nguyệt tam sứ cùng hét lớn, lại nhảy sang thuyền bên này, xông cả lại hòng cướp lại Bình Đẳng vương để chuộc cái tội đã lỡ tay đánh trúng mặt y.

Tạ Tốn liền giơ Bình Đẳng vương lên quay ngang, thành một vòng tròn thật rộng. Phong, Vân, Nguyệt tam sứ lần này làm sao dám tấn công một cách khinh suất, chỉ né qua lạng lại, tìm sơ hở để xông vào.

Bỗng Câu Minh vương hự lên một tiếng, ngã xuống vì trúng một ngọn cước. Trương Vô Kỵ cúi xuống định bắt sống hắn, thì Huy Nguyệt sứ và Lưu Vân sứ cầm thánh hỏa lệnh xông tới, để Diệu Phong sứ ôm Câu Minh vương nhảy trở về thuyền. Lúc này Tề Tâm vương liên thủ với Vân, Nguyệt nhị sứ, nhưng sự phối hợp xem ra không ăn ý bằng Phong, Vân, Nguyệt tam sứ, nên sau vài hiệp thấy khó thủ thắng, bèn huýt sáo, nhảy trở về thuyền.

Trương Vô Kỵ định thần, nói:

– Bọn này tựa hồ đã học tâm pháp “Càn khôn đại na di”, nhưng lại học không đúng cách, đâm ra khó đối phó.

Tạ Tốn nói:

– Tâm pháp “Càn khôn đại na di” của bản giáo vốn bắt nguồn từ Ba Tư. Sau khi truyền sang Trung thổ mấy trăm năm trước, ở ngay bản quốc Ba Tư lại bị thất truyền, chỉ còn giữ được vài phần, theo lời Đại Ỷ Ty, là không đâu vào đâu cả, nên họ mới sai nàng tới đỉnh Quang Minh để lấy trộm tâm pháp mang về.

Trương Vô Kỵ nói:

– Căn cơ võ công của bọn họ rất nông cạn, đúng là có vài phần không đâu vào đâu, song họ lại vận dụng vô cùng khéo léo. Hiển nhiên là bên trong còn có một điều cốt lõi hệ trọng nào đó mà hài nhi chưa tìm ra. Ôi, trong tâm pháp “Càn khôn đại na di” cấp thứ bảy, có một vài chỗ hài nhi chưa luyện thành, chẳng lẽ lại là những chỗ ấy hay sao?

Nói xong chàng ngồi xuống sàn thuyền, ôm đầu suy nghĩ. Năm người kia không ai nói gì, sợ làm cho chàng mất tập trung tinh thần.

Đột nhiên Tiểu Chiêu hốt hoảng kêu ối” một tiếng, Trương Vô Kỵ ngẩng lên, thấy Phong, Vân, Nguyệt tam sứ áp giải một người ra trước mặt mười một vị Bảo thụ vương. Người bị áp giải lưng còng, tay chống gậy, chính là Kim Hoa bà bà. Người ngồi chiếc ghế thứ hai là Trí Tuệ Bảo thụ vương lên tiếng hỏi bà ta mấy câu, Kim Hoa bà bà nghiêng đầu, kêu to:

– Ngươi nói gì? Ta không hiểu.

Trí Tuệ Bảo thụ vương cười khẩy, đứng dậy, giơ tay trái giật tóc Kim Hoa bà bà một cái, lột ngay bộ tóc bạc giả, để lộ mái tóc đen nhánh. Kim Hoa bà bà vội nghiêng sang bên trái né tránh, thì Trí Tuệ Bảo thụ vương dùng tay phải lột một lớp da trên mặt bà ta. Bọn Trương Vô Kỵ ai nấy nhìn rõ, cái mà Trí Tuệ vương lột ra chỉ là mặt nạ, trong nháy mắt, Kim Hoa bà bà hóa thành một mỹ nhân da trắng ngần, má đỏ hây, xinh đẹp tuyệt trần.

Đại Ỷ Ty bị lột mặt nạ, đành vứt cây gậy đi, cười nhạt. Trí Tuệ vương nói mấy câu, bà ta trả lời bằng tiếng Ba Tư. Hai người một hỏi một đáp, nhìn thần sắc mười một Bảo thụ vương càng lúc càng thêm chăm chú.

Triệu Mẫn bỗng hỏi:

– Tiểu Chiêu cô nương, họ nói gì thế?

Tiểu Chiêu ứa nước mắt, đáp:

– Quận chúa thông minh thật, chuyện gì cũng biết, sao không ngăn đừng để Tạ lão gia nhắc đến?

Triệu Mẫn lấy làm lạ, hỏi:

– Ngăn Tạ lão gia đừng nhắc cái gì?

Tiểu Chiêu nói:

– Bọn kia vốn chưa biết Kim Hoa bà bà là ai, về sau biết bà là Tử Sam Long Vương, song không thể nào ngờ Đại Ỷ Ty lại chính là thánh nữ Đại Ỷ Ty. Bà bà khổ công chỉ cốt đánh lừa bọn họ. Tạ lão gia lại nêu điều kiện thứ hai là đòi họ thả Đại Ỷ Ty; tuy là lòng tốt, song không lừa được Trí Tuệ Bảo thụ vương. Tạ lão gia không nhìn thấy, nên không biết Kim Hoa bà bà hóa trang quá tài, giấu được tất cả mọi người. Triệu cô nương, cô nương thì nhìn thấy rõ, chẳng lẽ không nghĩ ra sao?

Kỳ thực Triệu Mẫn sau khi nghe Tạ Tốn kể chuyện, nàng đã đoán biết Kim Hoa bà bà chính là thánh nữ Đại Ỷ Ty của Tổng giáo Ba Tư, song lại không nghĩ ra rằng người Ba Tư chưa phát giác ra điều đó. Triệu Mẫn định cãi lại, nhưng nghe giọng nói của Tiểu Chiêu quá đau buồn, đoán là giữa nàng ta với Kim Hoa bà bà tất có mối quan hệ rất mật thiết, nên chỉ nói:

– Tiểu Chiêu muội tử, ta quả không nghĩ ra, nếu ta có ý gia hại Kim Hoa bà bà, thì trời không cho ta được chết yên lành.

Tạ Tốn lại càng ân hận, không nói gì được, nhưng trong bụng đã định thầm, dù mình mất mạng cũng phải cố cứu sống Đại Ỷ Ty.

Tiểu Chiêu khóc nói:

– Bọn họ chỉ trích Kim Hoa bà bà dám lấy chồng, là phản giáo, họ muốn đem đi… thiêu sống.

Trương Vô Kỵ nói:

– Tiểu Chiêu, đừng lo quá, nếu có cơ hội, ta sẽ nhảy sang cứu bà bà ngay.

Chàng gọi là “bà bà”, thực ra lúc này đã thấy chân tướng của Tử Sam Long Vương, tuy đã ở tuổi trung niên, song phong tư thật chẳng khác gì Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược, trông cứ như tỷ tỷ của Tiểu Chiêu vậy. Tiểu Chiêu nói:

– Không được đâu! Mười một Bảo thụ vương, lại thêm Phong, Vân, Nguyệt tam sứ, công tử đấu không lại họ, có nhảy sang chỉ uổng mạng. Bên ấy họ đang bàn cách cướp lại Bình Đẳng vương đấy.

Triệu Mẫn nói:

– Hừ, gã Bình Đẳng vương có sống sót trở về, trên mặt bị in mấy hàng chữ thế kia thì cũng xấu hổ mà chết.

Trương Vô Kỵ hỏi:

– Trên mặt có hàng chữ gì?

Triệu Mẫn nói:

– Gã râu vàng đã dùng thánh hỏa lệnh đánh trúng má Bình Đẳng vương… Ồ, Tiểu Chiêu!

Đột nhiên Triệu Mẫn nghĩ ra chuyện gì đó, hỏi:

– Tiểu Chiêu muội tử, có biết chữ Ba Tư không?

Tiểu Chiêu đáp:

– Có.

Triệu Mẫn nói:

– Muội xem đây, trên má Bình Đẳng vương in mấy chữ gì nào?

Tiểu Chiêu nâng mặt Bình Đẳng vương lên nhìn, thấy má trái của y sưng vù, trên có in sâu trong thịt ba hàng chữ Ba Tư. Thì ra trên các tấm thánh hỏa lệnh đều có khắc chữ, Diệu Phong sứ dùng thánh hỏa lệnh đánh nhầm vào mặt Bình Đẳng vương, khiến chữ in vào đó. Có điều là chỗ thánh hỏa lệnh chạm vào da thịt chỉ rộng hai tấc, dài ba tấc, nên ba hàng chữ in không đầy đủ.

Khi Tiểu Chiêu cùng Trương Vô Kỵ lọt vào đường hầm bí mật trên đỉnh Quang Minh, nàng từng đọc thuộc mấy lần tâm pháp “Càn khôn đại na di”, tuy chưa được Trương Vô Kỵ chỉ bảo, tự mình cũng chưa tập luyện, nhưng môn võ công tâm pháp ấy nàng nhớ rất kỹ. Khi Trương Vô Kỵ trong đường hầm luyện tâm pháp tới cấp thứ bảy, gặp chỗ nghi nan bỏ qua không luyện, Tiểu Chiêu từng ghi nhớ hết. Giờ đây nhìn hàng chữ trên má Bình Đẳng vương, nàng bất giác buột miệng kêu lên:

– Cũng là tâm pháp “Càn khôn đại na di”!

Trương Vô Kỵ lấy làm lạ, hỏi:

– Cô nương bảo cũng là tâm pháp “Càn khôn đại na di” ư?

Tiểu Chiêu nói:

– Không, không phải, tiểu nữ thoạt nhìn tưởng thế, nhưng hóa ra không phải. Dịch sang tiếng Trung Quốc, đại ý như sau: “Muốn trái thì trước, muốn phải thì sau, ba hư bảy thực, trong cái không sinh cái có, rồi thì cái gì “trời vuông đất tròn”…, bên dưới đọc không rõ nữa.

Hơn hai chục chữ đó, Trương Vô Kỵ nghe rồi giống như đầy trời mây đen, chợt có vài tia chớp lóe sáng, lóe sáng rồi lại tắt ngấm, tối như mực; nhưng vài lằn chớp ấy cũng cho chàng thấy rõ phương hướng mà đi, miệng chàng lẩm bẩm “Muốn trái thì trước, muốn phải thì sau…” Chàng cố gắn mấy khẩu quyết đó với tâm pháp “Càn khôn đại na di”, có lúc lờ mờ tựa hồ sắp nghĩ ra, nhưng rồi lại không phải.

Bỗng nghe Tiểu Chiêu kêu lên:

– Công tử, hãy chú ý! Bọn họ đã ra lệnh: Phong, Vân, Nguyệt tam sứ tấn công công tử; còn ba vương Cần Tu, Trấn Ác và Công Đức thì cướp lại Bình Đẳng vương.

Tạ Tốn bèn giơ ngang Bình Đẳng vương lên trước ngực, trao thanh đao Đồ Long cho Trương Vô Kỵ, nói:

– Con cứ dùng đao chém thật mạnh vào.

Triệu Mẫn cũng trao kiếm Ỷ Thiên cho Chu Chỉ Nhược, lúc này hai nàng cùng hội cùng thuyền, kề vai nghênh địch là trên hết.

Trương Vô Kỵ nhận thanh đao Đồ Long, đầu óc để tận đâu đâu, lại giắt đao sau lưng, miệng thì lẩm bẩm “Ba hư bảy thực, vô trung sinh hữu…”

Triệu Mẫn sốt ruột kêu lên:

– Chàng ngốc ơi, bây giờ không phải lúc nghiền ngẫm võ công, mau chuẩn bị nghênh địch là vừa!

Lời chưa dứt, Cần Tu vương, Trấn Ác vương và Công Đức vương đã phi thân sang, tung chưởng tấn công Tạ Tốn. Ba người ấy sợ đả thương Bình Đẳng vương nên không dùng binh khí, chỉ sử dụng quyền chưởng, chỉ cần một người nắm được thân hình Bình Đẳng vương là sẽ lập tức cướp về. Chu Chỉ Nhược đứng thủ bên cạnh Tạ Tốn, mỗi khi thấy tình thế nguy cấp lại giơ kiếm đâm Bình Đẳng vương, như thế bọn Cần Tu vương, Trấn Ác vương và Công Đức vương buộc phải ra tay tấn công nàng, để nàng không còn rảnh tay mà đâm Bình Đẳng vương.

Ở mé bên kia, Trương Vô Kỵ đấu với Phong, Vân, Nguyệt tam sứ. Bốn người đã mấy lần giáp trận, ai cũng từng nếm đòn của đối phương, nên không ai dám khinh suất. Sau vài hiệp, Huy Nguyệt sứ vung thánh hỏa lệnh tấn công Trương Vô Kỵ. Xét theo lý của võ học, chiêu này ắt phải đánh vào vai trái của chàng, nào ngờ thánh hỏa lệnh đang ở giữa chừng lại quay vòng một cách quái đản, giáng đánh bốp một cái vào sau gáy chàng.

Trương Vô Kỵ bị đau nhói một hồi, nhưng trong óc chợt lóe sáng, chàng kêu to:

– Tưởng trái thì sau, tưởng trái thì sau! Đúng rồi! Đúng rồi!

Trong khoảnh khắc chàng đã vỡ lẽ, những gì Phong, Vân, Nguyệt tam sứ sử dụng, chẳng qua chỉ là công phu nhập môn của tâm pháp “Càn khôn đại na di” cấp thứ nhất; nhưng trên thánh hỏa lệnh có khắc cách vận dụng biến hóa lạ lùng, kỳ ảo. Chàng lập tức hiểu rõ ý nghĩa mấy câu khẩu quyết mà Tiểu Chiêu vừa đọc. Còn câu “trời vuông đất tròn” thì vẫn chưa hiểu, nghĩ bụng cần phải đọc hết các chữ khắc trên thánh hỏa lệnh, mới có thể hiểu tinh yếu của võ công Ba Tư.

Chàng đột nhiên hú lên một tiếng, hai tay thi triển thủ pháp cầm nã, “ba hư bảy thực”, đoạt luôn hai tấm thánh hỏa lệnh trên tay Huy Nguyệt sứ; tiếp đến “vô trung sinh hữu”, lại đoạt hai tấm thánh hỏa lệnh của Lưu Vân sứ. Hai người kia còn đang ngơ ngẩn, thì chàng đã nhét bốn tấm thánh hỏa lệnh vào trong túi, hai tay thộp cổ hai người mà quẳng ra ngoài.

Đám người Ba Tư xì xà xì xồ ầm ỹ. Diệu Phong sứ vội nhảy trở về thuyền của mình. Lúc này Trương Vô Kỵ đã nắm rõ yếu quyết võ công của họ; tuy chàng mới lý giải được một phần, song võ công của Phong, Vân, Nguyệt tam sứ đối với chàng đã không còn gì là kỳ bí nữa. Chàng giơ tay phải ra chộp được chân trái của Diệu Phong sứ, kéo hắn đang lơ lửng trên không trung trở lại bên chàng, cướp luôn hai tấm thánh hỏa lệnh rồi nâng thân xác của hắn mà đập xuống đầu Trấn Ác vương. Tam vương cả kinh, vội nhảy cả về bên thuyền mình. Trương Vô Kỵ điểm huyệt Diệu Phong sứ, ném xuống dưới chân.

Chàng chiến thắng khá bất ngờ, trong giây lát đã từ thế yếu chuyển sang thế thượng phong. Bọn Triệu Mẫn ai nấy vui mừng, cùng hỏi nguyên do. Trương Vô Kỵ cười, nói:

– Nếu không nhờ trời xui đất khiến, để Bình Đẳng vương bị trúng đòn vào má, thì mình khốn khổ rồi. Tiểu Chiêu, cô nương hãy dịch cho ta nghe các hàng chữ trên mấy tấm thánh hỏa lệnh này đi. Mau lên nào!

Mọi người nhìn sáu tấm thánh hỏa lệnh, thấy chúng không phải bằng kim loại hoặc ngọc đá, vô cùng cứng rắn, cái ngắn cái dài, trông có vẻ trong suốt mà không phải vậy, ở giữa lờ mờ hình ngọn lửa bốc lên, màu sắc biến ảo lạ lùng. Mỗi tấm thánh hỏa lệnh đều khắc nhiều chữ Ba Tư, đừng nói nghiền ngẫm để hiểu thâm ý, chỉ dịch qua một lần cũng tốn không ít thời gian.

Nhưng Trương Vô Kỵ biết rằng muốn thoát khỏi tình cảnh nguy khốn trước mắt, không thể không hiểu rõ nguyên ủy võ công của phái Ba Tư, bèn nói:

– Chu cô nương, nhờ cô nương kề kiếm vào cổ Bình Đẳng vương. Nghĩa phụ, hãy nhứ đao vào cổ Diệu Phong sứ để kéo dài thời gian.

Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược gật đầu đáp ứng.

Tiểu Chiêu cầm sáu tấm thánh hỏa lệnh lên, thấy tấm ngắn nhất khắc ít chữ nhất, màu thì đen sì sì, trông chả đẹp mắt chút nào, nàng dịch từng câu cho Trương Vô Kỵ nghe. Trương Vô Kỵ nghe xong, không hiểu câu nào cả, cố nghĩ cũng không ra, thì càng nóng ruột.

Triệu Mẫn nói:

– Tiểu Chiêu muội tử, hãy dịch tấm thánh hỏa lệnh đánh vào má Bình Đẳng vương trước xem nào.

Lời nhắc này khiến Tiểu Chiêu bừng tỉnh, vội đọc các chữ khắc trên tấm thánh hỏa lệnh dài thứ hai, dịch nghĩa ra, Trương Vô Kỵ hiểu được bảy, tám phần. Đến khi dịch nghĩa trên tấm thánh hỏa lệnh dài nhất, thì Trương Vô Kỵ mới nghe vài câu, đã mừng rỡ nói:

– Tiểu Chiêu, văn tự trên sáu tấm thánh hỏa lệnh này, tấm càng dài càng dễ hiểu. Tất cả đều là công phu nhập môn.

Thì ra sáu tấm thánh hỏa lệnh này là do “Sơn trung lão nhân” Hoắc Sơn đúc nên, trên đó khắc tinh yếu võ công một đời của y. Cả sáu tấm thánh hỏa lệnh cùng với Minh giáo được truyền sang Trung thổ cùng lúc, vốn được dùng làm lệnh phù của giáo chủ Minh giáo Trung thổ. Về sau, trong Minh giáo Trung thổ không có ai biết văn tự Ba Tư. Mấy chục năm trước, sáu tấm thánh hỏa lệnh bị người của Cái Bang cướp mất, thương nhân Ba Tư mua lại được, nên trở về với Minh giáo Ba Tư. Tổng giáo Ba Tư nghiên cứu văn tự khắc trên đó, mấy chục năm qua, những người có võ công khá cao trong Tổng giáo ngày một tăng tiến. Nhưng vì võ công khắc trên đó bác đại tinh thâm, nên ngay cả người giỏi nhất là Đại Thánh Bảo thụ vương cũng chỉ học được ba, bốn thành mà thôi.

Còn tâm pháp “Càn khôn đại na di” thì vốn là thần công hộ giáo của Minh giáo Ba Tư, nhưng người thường không thể tu luyện được môn võ công kỳ diệu đó. Chức giáo chủ Minh giáo Ba Tư, theo quy định, lại chỉ do xử nữ đảm nhiệm, hàng trăm năm nay chỉ là các nữ giáo chủ võ công tầm thường, nên tâm pháp truyền lại rất hữu hạn; trong khi Minh giáo Trung Quốc vẫn còn giữ được toàn phần. Minh giáo Ba Tư lấy võ công “Càn khôn đại na di” cựu truyền chưa đến một thành, kết hợp với võ công trên sáu tấm thánh hỏa lệnh luyện được hai ba thành, để tạo ra một môn công phu kỳ dị cổ quái.

Trương Vô Kỵ ngồi xếp bằng ở mũi thuyền, Tiểu Chiêu đem từng câu từng chữ khắc trên sáu tấm thánh hỏa lệnh dịch cho chàng nghe. Thứ võ công hàm chứa trong các tấm thánh hỏa lệnh vốn vô cùng kỳ diệu, nhưng một phép thông, vạn phép thông; mọi học vấn cao thâm đến chỗ cùng cực thì đều quy về một mối. Trương Vô Kỵ đã thông hiểu “Cửu dương thần công”, tâm pháp “Càn khôn đại na di”, quyền lý của “Thái cực quyền” phái Võ Đang rồi, nay thứ võ công trên các tấm thánh hỏa lệnh tuy kỳ lạ thật, nhưng chẳng qua cũng là đỉnh cao của sở học bàng môn tả đạo mà thôi, chứ nói về tinh thâm rộng lớn, thì còn kém xa ba môn võ học kể trên. Trương Vô Kỵ nghe Tiểu Chiêu dịch xong cả sáu tấm thánh hỏa lệnh, thì nhất thời chỉ nhớ được bảy tám phần, trong đó hiểu rõ chỉ năm sáu phần; song chỉ ngần ấy thôi, thì võ công của các Bảo thụ vương và Phong, Vân, Nguyệt tam sứ dưới mắt chàng đã rõ như trên lòng bàn tay rồi, không còn gì đáng ngại.

*

*      *

Thời gian trôi đi từng khắc, Trương Vô Kỵ toàn tâm toàn ý dồn cho việc tìm hiểu võ học, không quan tâm gì đến mọi chuyện xung quanh; nhưng Triệu Mẫn và Chu Chỉ Nhược thì nóng lòng sốt ruột vô cùng, thấy cảnh Đại Ỷ Ty chân tay đã bị xiềng xích; mười một Bảo thụ vương chụm đầu bàn bạc, các Bảo thụ vương cởi áo bào ra, thay vào bằng áo giáp; người ta đưa ra đủ loại binh khí kỳ hình quái trạng cho các Bảo thụ vương, đám người Hồ Ba Tư dàn ra lố nhố khắp các thuyền trước sau phải trái, một số người Hồ giương sẵn cung tên nhắm thẳng sang sáu người bên này, mười gã Ba Tư tay cầm búa và dùi, nhảy xuống biển, chỉ đợi thủ lĩnh hạ lệnh là lặn xuống đục thủng thuyền bên này.

Chỉ nghe Đại Thánh Bảo thụ vương ngồi chính giữa quát to một tiếng, trên các thuyền vây quanh tiếng trống, tiếng tù và cùng nổi lên ầm ỹ.

Trương Vô Kỵ giật mình, ngẩng đầu lên, thấy mười một vị Bảo thụ vương đều mặc áo giáp vàng lóng lánh, tay cầm binh khí, nhảy sang thuyền bên này. Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược cầm đao, kiếm đang kề cổ Bình Đẳng vương và Diệu Phong sứ. Mười một Bảo thụ vương tuy đã nhảy sang thuyền, nhưng thấy tình cảnh ấy cũng chưa dám xông lại gần, mà đứng thành hình bán nguyệt, mắt nhìn chằm chằm chờ cơ hội. Bọn Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược thấy mười một Bảo thụ vương thân hình cao to, dáng điệu hùng hổ, thì họ thầm kinh hãi.

Trí Tuệ vương nói bằng tiếng Trung Quốc:

– Bọn bay mau mau thả giáo hữu của bên tao ra, thì sẽ được tha chết. Mấy giáo hữu kia đối với bên tao chỉ như lũ heo lũ chó mà thôi, bọn bay kề dao vào cổ chúng thì dọa được ai? Bọn bay có giỏi thì giết luôn họ đi xem nào. Trong thánh giáo Ba Tư, những người như họ đông hàng nghìn hàng vạn, mất một hai đứa đâu có sao?

Triệu Mẫn nói:

– Bọn bay đừng có già mồm, không lừa nổi bên tao đâu. Bên tao biết thừa, hai người này một là Bình Đẳng Bảo thụ vương, một là Diệu Phong sứ, có địa vị rất cao trong Minh giáo bọn bay. Mi bảo họ như heo như chó là lầm to rồi!

Trí Tuệ vương học tiếng Trung Quốc theo sách vở, mấy chữ “bọn bay”, “bên tao” toàn là ngôn ngữ thô tục. Triệu Mẫn bắt chước giọng điệu và từ ngữ của y, khiến mấy người Tạ Tốn nghe mà không khỏi tức cười, dẫu đang ở trong hiểm cảnh.

Trí Tuệ vương cau mày, nói:

– Trong thánh giáo có cả thảy ba trăm sáu chục vị Bảo thụ vương. Bình Đẳng vương đứng thứ ba trăm năm mươi chín. Bọn tao có những một ngàn hai trăm sứ giả, gã Diệu Phong sứ kia võ công tầm thường, hoàn toàn vô dụng, bọn bay hãy mau giết gã đi không sao.

Triệu Mẫn nói:

– Hay lắm, hay lắm! Hai vị bằng hữu cầm đao kiếm, hãy mau giết hai kẻ vô dụng kia xem thử nào!

Tạ Tốn đáp:

– Tuân lệnh!

Ông giơ thanh đao Đồ Long lên, phạt ngang qua đỉnh đầu Bình Đẳng vương một cái.

Mọi người ồ lên kinh hãi, thanh đao Đồ Long chém hớt bên trên, cách đỉnh đầu Bình Đẳng vương chưa đến nửa tấc, làm đứt một túm tóc, gió biển thổi bay tán loạn trên không. Tạ Tốn lại vung đao chém bên trái một nhát, bên phải một nhát, xuống hai bên vai Bình Đẳng vương. Hai nhát đao này ai cũng tưởng sẽ chặt phăng hai cánh tay Bình Đẳng vương, nhưng khi lưỡi đao sắp chạm vào người y, thì cổ tay ông hơi xoay chút xíu, hớt mỗi bên tay áo một mảnh. Ba nhát đao chém mạnh mà bộ vị chuẩn xác, đừng nói người mù, ngay người sáng mắt cũng khó bề làm nổi.

Bình Đẳng vương chết đi sống lại, sợ tưởng muốn ngất xỉu. Mười một Bảo thụ vương, Phong, Vân, Nguyệt tam sứ đều trơ mắt, há hốc mồm, lè lưỡi.

Triệu Mẫn nói:

– Bọn bay đã thấy võ công của Minh giáo Trung thổ rồi đấy. Vị Kim Mao Sư Vương này trong Minh giáo Trung thổ đứng thứ ba ngàn năm trăm lẻ chín. Bọn bay mà cậy đông thủ thắng, sau này Minh giáo Trung thổ ắt sang Ba Tư báo thù, quét sạch tổng đàn của bọn bay, bọn bay tất không chống đỡ nổi, chi bằng sớm hòa giải với bên tao đi thì hơn.

Trí Tuệ vương biết Triệu Mẫn không nói thực, nhưng nhất thời cũng vô kế khả thi. Đại Thánh Bảo thụ vương bỗng nói vài câu. Tiểu Chiêu kêu lên:

– Trương công tử, bọn họ sắp đục thuyền.

Trương Vô Kỵ cả sợ, nếu thuyền chìm, mấy người không biết bơi sẽ bị bắt cả; vội nhún mình một cái, đã vọt tới trước mặt thuyền Đại Thánh vương.

Trí Tuệ vương quát:

– Ngươi làm gì vậy?

Công Đức vương và Chưởng Hỏa vương ở hai bên, một cầm roi, một cầm chùy, cùng xông vào. Trương Vô Kỵ lúc này đã thừa biết võ công Ba Tư, chàng không né tránh, hai tay cùng vươn ra thộp ngay yết hầu hai vương. Chỉ nghe keng một tiếng, cây thiết tiên[122] của Công Đức vương và cây chùy bát giác của Chưởng Hỏa vương đã đập vào nhau tóe lửa; cả hai vương bị Trương Vô Kỵ nắm trúng yếu huyệt mà lôi xềnh xệch về. Trong lúc nhốn nháo, Trương Vô Kỵ lại liên tiếp tung ra bốn cú đá, hai cú đá văng đại đao trong tay Tề Tâm vương và Trấn Ác vương, hai cú sau thì đá văng Cần Tu vương và Câu Minh vương xuống biển.

Một Bảo thụ vương thân hình cao gầy xông tới, hai tay cầm hai đoản kiếm, đâm vào ngực Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ lại tung chân đá vào cổ tay hắn. Hắn đột nhiên đặt hai tay chéo nhau, đâm vào bụng dưới của chàng. Chiêu này biến hóa hết sức linh hoạt. Trương Vô Kỵ phải nhảy vội ra sau mới tránh được. Nguyên hắn là Thường Thắng Bảo thụ vương, kẻ có võ công cao nhất trong mười hai Bảo thụ vương của Tổng giáo Ba Tư. Trương Vô Kỵ liền khóa huyệt đạo của Công Đức vương và Chưởng Hỏa vương mà quẳng vào trong khoang thuyền, rồi xông tới đấu với Thường Thắng vương. Người này tuy cùng xếp hàng “vương”, nhưng võ công cao cường hơn hẳn các vương khác. Trương Vô Kỵ công ba chiêu, thủ ba chiêu, ba lần tiến, ba lần thoái, trong bụng thầm khen: “Gã người Hồ Ba Tư này giỏi thật!”

Chàng đã hiểu rõ tâm pháp võ công trên thánh hỏa lệnh, nhưng chưa từng luyện tập, lại gặp ngay cường địch, phải vừa giao đấu với Thường Thắng vương, vừa nhớ lại những gì mới biết. Trong hơn mười chiêu đầu, chàng dựa vào nội lực thâm hậu, chiêu số xảo diệu, duy trì cục diện bất phân thắng bại; sau hơn hai chục chiêu, thì bí quyết trên thánh hỏa lệnh được phối hợp với tâm pháp “Càn khôn đại na di” càng lúc càng thuần thục như ý. Thường Thắng vương được xưng là “Thường Thắng”, bình sinh chưa có đối thủ, bây giờ bị đối phương khắc chế khiến cho phải bó chân bó tay, là chuyện y chưa gặp bao giờ, thì y vừa kinh dị, vừa lo sợ. Đấu được hơn ba chục chiêu, Trương Vô Kỵ tiến lên một bước, đột nhiên ngồi bệt xuống sàn thuyền mà ôm chặt lấy hai cẳng chân Thường Thắng vương. Chiêu số quái dị này vốn được ghi trên thánh hỏa lệnh, nhưng đã là công phu cực kỳ cao thâm, Thường Thắng vương tuy có biết, song chưa dám sử dụng. Trương Vô Kỵ vừa ôm xong liền dùng mười ngón tay bấm mạnh hai huyệt Trung Đô, Trúc Tân, là phép điểm huyệt của võ công Trung thổ. Thường Thắng vương chỉ cảm thấy nửa thân bên dưới bị tê dại, khó bề cử động, đành thở dài cho người ta bắt.

Trương Vô Kỵ yêu mến tài năng của y, bèn nói:

– Ngươi võ công khá lắm. Ta muốn giữ thanh danh cho ngươi. Ngươi mau trở về thuyền đi.

Nói xong chàng buông tay ra. Thường Thắng vương vừa cảm kích vừa xấu hổ, nhảy về thuyền mình.

Đại Thánh vương thấy Thường Thắng vương hết sức khổ chiến mà vẫn thua, Công Đức vương và Chưởng Hỏa vương thì nằm trong tay địch; nếu đục chìm thuyền địch, thì chẳng khác gì ném chuột làm vỡ đồ quý, bọn Bình Đẳng vương bốn người sẽ mất mạng theo, bèn ra lệnh gọi tất cả trở về thuyền của mình.

Triệu Mẫn lớn tiếng nói:

– Bọn bay hãy mau trao Đại Ỷ Ty sang đây, chấp thuận ba điều kiện của Kim Mao Sư Vương.

Chín vị Bảo thụ vương chụm đầu bàn tính với nhau một hồi. Rồi Trí Tuệ vương nói:

– Ba điều kiện của bọn bay, cũng có thể chấp thuận. Vị công tử trẻ tuổi kia võ công rõ ràng cùng phái với võ công Ba Tư bọn tao. Y học ở đâu ra vậy? Bọn tao có điểm chưa rõ.

Triệu Mẫn cố nhịn cười, giả bộ nghiêm trang nói:

– Bọn bay không hiểu rõ, không biết gì, hiểu không ra đầu ra đũa. Vị công tử trẻ tuổi này là đệ tử thứ tám của Quang Minh sứ giả bản giáo. Bảy vị sư huynh sư đệ của chàng ta không lâu nữa sẽ tới, lúc ấy thì bọn bay cứ gọi là tan tác náo loạn, ô hô ai tai.

Trí Tuệ vương vốn cực kỳ thông minh, nhưng vốn liếng Hoa ngữ của hắn chưa sâu, chỉ hiểu được sáu bảy phần những gì Triệu Mẫn nói, cũng đoán là nàng khoác lác, nhưng ngẫm nghĩ một chút, nói:

– Được, cho Đại Ỷ Ty qua thuyền bên đó.

Hai giáo đồ Ba Tư áp giải Đại Ỷ Ty sang thuyền Trương Vô Kỵ. Chu Chỉ Nhược vung trường kiếm, “keng keng” hai tiếng, chặt đứt ngay xiềng xích khóa chân tay bà ta. Hai giáo đồ Ba Tư thấy kiếm sắc đến thế thì sợ xanh mặt, vội nhảy về thuyền chúng.

Trí Tuệ vương nói:

– Bọn bay mau mau giong thuyền trở về Trung thổ. Bọn tao sẽ chỉ cho một chiếc thuyền nhỏ theo sau bọn bay.

Trương Vô Kỵ ôm quyền nói:

– Minh giáo Trung thổ vốn bắt nguồn từ Ba Tư, đôi bên chúng ta tình như huynh đệ, chuyện hiểu lầm hôm nay, mong các vị đừng để bụng. Khi nào có dịp, mời các vị tới đỉnh Quang Minh, chúng ta cùng uống rượu vui chung. Những điều sai sót, xin tạ lỗi cùng các vị.

Trí Tuệ vương cười ha hả, nói:

– Ngươi giỏi võ lắm, bọn tao rất thán phục. Học mà được luyện tập, chẳng sướng lắm sao? Có bằng hữu phương xa đến chơi, chẳng sướng lắm sao? Tan tác náo loạn, ô hô ai tai!

Bọn Trương Vô Kỵ nghe hắn dẫn chứng hai câu trong sách của Khổng Tử, kể cũng hiếm có; không ngờ hắn lại nhắc nguyên xi hai câu của Triệu Mẫn, thì cười ồ lên. Triệu Mẫn nói:

– Ngươi nói tiếng Trung Quốc thạo lắm. Là dân Ba Tư man di mà thế là hiếm có! Chúc ngươi đa phúc đa thọ, sống lắm nhục nhiều, bôi nhọ tổ tiên, không bệnh cũng toi!

Trí Tuệ vương chỉ hiểu bốn chữ “đa phúc đa thọ”, hắn nghĩ những chữ sau chắc cũng là lời chúc tụng cả, bèn cười hì hì, luôn mồm “đa tạ, đa tạ”.

Trương Vô Kỵ nghĩ bụng, không chừng Triệu Mẫn còn cao hứng nói lắm chuyện kỳ quái khác, mình đang ở giữa hang hùm ổ rắn, dễ sinh chuyện chi bằng thoát đi cho sớm thì hơn; liền nhổ neo, xoay bánh lái, giương buồm cho thuyền từ từ chạy đi. Những người Ba Tư trên các thuyền xung quanh thấy chàng kéo neo giương buồm, một mình làm bằng cả chục thủy thủ, thần lực kinh người, thì không khỏi tấm tắc khen ngợi.

Người ta ném sợi dây buộc chiếc thuyền nhỏ sang cho Trương Vô Kỵ, chàng bắt lấy, buộc vào đuôi thuyền để kéo theo. Trên chiếc thuyền nhỏ kia chỉ có hai người, một nam một nữ, là Huy Nguyệt sứ và Lưu Vân sứ.

*

*   *

Trương Vô Kỵ cầm lái, cho thuyền chạy về hướng tây, thấy các thuyền lớn của Ba Tư không hề đuổi theo; đi được mấy dặm, nhìn lại phía đảo Linh Xà, thấy đám thuyền kia chỉ còn nhỏ tí và vẫn ở yên một chỗ, chàng mới yên tâm.

Chàng nhờ Tiểu Chiêu cầm lái hộ, bước vào trong khoang xem thương thế của Ân Ly, thấy nàng nửa tỉnh nửa mê nằm thiêm thiếp, tuy không đỡ song cũng không nặng thêm, nghĩ bụng trên chiếc thuyền lớn này của Ba Tư có khi có thuốc men cũng nên.

Đại Ỷ Ty đứng ở mũi thuyền, nhìn ra xa, nghe tiếng bước chân của Trương Vô Kỵ, không quay đầu lại. Trương Vô Kỵ nhìn từ phía sau, thấy bà ta có thân hình thon thả, mái tóc dài bay phất phơ, cái gáy trắng như ngọc, Tạ Tốn bảo ngày trước Đại Ỷ Ty là đệ nhất mỹ nhân trong võ lâm, quả không sai. Thiết tưởng ngày nào trên đỉnh Quang Minh, trên mặt đầm Bích Thủy Hàn, tà áo tím đẹp như hoa, trường kiếm sáng như tuyết, nữ nhân này đã làm ngây ngất không biết bao nhiêu anh hùng hào kiệt.

Thuyền đi đến chiều tối, tính ra phải cách đảo Linh Xà ngót trăm dặm, nhìn về phía đông, trên mặt biển không thấy bóng một cánh buồm nào, quả thật là Tổng giáo Ba Tư bị ép không dám đuổi theo. Trương Vô Kỵ nói:

– Nghĩa phụ, mình đã thả bọn họ ra được chưa?

Tạ Tốn đáp:

– Được rồi, chúng có muốn đuổi theo, cũng chẳng kịp nữa.

Trương Vô Kỵ bèn giải huyệt cho Bình Đẳng vương, Công Đức vương, Chưởng Hỏa vương và Diệu Phong sứ, luôn miệng xin lỗi, thả họ xuống chiếc thuyền nhỏ kéo theo sau đuôi.

Diệu Phong sứ nói:

– Các tấm thánh hỏa lệnh do bọn ta nắm giữ, đánh mất phải chịu tội nặng, xin giao lại cho.

Tạ Tốn nói:

– Thánh hỏa lệnh là lệnh phù của giáo chủ Minh giáo Trung thổ, nay vật trở về với chủ cũ, làm sao có thể giao cho các ngươi.

Diệu Phong sứ cứ nằng nặc đòi lại. Trương Vô Kỵ nghĩ bụng hôm nay phải làm cho hắn tâm phục, để sau này khỏi dây dưa rắc rối, bèn nói:

– Nếu bọn ta giao lại cho ngươi, ngươi bản lĩnh quá thấp kém, làm sao giữ nổi? So với để bị người ngoài cướp mất, thì để trong tay Minh giáo có phải hơn không?

Diệu Phong sứ nói:

– Người ngoài làm sao có thể cướp được?

Trương Vô Kỵ nói:

– Ngươi chưa tin, cứ thử thì biết.

Liền đem sáu tấm thánh hỏa lệnh giao cho hắn. Diệu Phong sứ cả mừng, mới nói xong hai tiếng “Đa tạ”, thì Trương Vô Kỵ tay trái móc nhẹ, tay phải kéo về, đã lấy lại cả sáu tấm thánh hỏa lệnh.

Diệu Phong sứ cả kinh, giận dữ nói:

– Ta cầm chưa chặt, như thế không tính.

Trương Vô Kỵ cười:

– Thì thử lần nữa coi.

Lại giao hết thánh hỏa lệnh cho hắn.

Diệu Phong sứ cất bốn tấm thánh hỏa lệnh vào bọc, rồi hai tay cầm hai tấm, thấy Trương Vô Kỵ giơ tay cướp, liền dùng thánh hỏa lệnh bên trái đánh vào cổ tay chàng. Trương Vô Kỵ xoay cổ tay một cái, tóm luôn cánh tay phải của hắn hất lên, hai tấm thánh hỏa lệnh đập vào nhau, nghe keng một tiếng chấn động cả người. Nội lực hùng hậu của Trương Vô Kỵ theo cánh tay hắn truyền sang, Diệu Phong sứ hai tay tê dại, toàn thân bủn rủn, như bị tê liệt, buông rơi hai tấm thánh hỏa lệnh.

Trương Vô Kỵ thò tay vào bọc lôi bốn tấm thánh hỏa lệnh ra, lại nhặt hai tấm thánh hỏa lệnh dưới sàn thuyền lên, hỏi:

– Thế nào? Ngươi còn muốn thử một lần nữa không?

Diệu Phong sứ mặt tái xám, lẩm bẩm:

– Ngươi không phải là người, ngươi là ma quỉ, là ma quỉ!

Hắn nhún chân định nhảy xuống chiếc thuyền nhỏ, nhưng gối còn bủn rủn, ngã ngay ra. Lưu Vân sứ vội bước tới đỡ, cắp hắn sang thuyền nhỏ.

Chiếc thuyền nhỏ giong buồm. Công Đức vương hai tay kéo căng sợi dây buộc, giựt mạnh một cái, dây đứt phựt, thuyền nhỏ tách ra khỏi thuyền lớn. Trương Vô Kỵ ôm quyền nói:

– Đã đắc tội nhiều, mong các vị lượng thứ.

Bọn Công Đức vương mặt hầm hầm, quay đi không nói một lời.

Chiếc thuyền lớn thuận gió lướt về phía tay, hai chiếc thuyền xa nhau dần. Bỗng nghe Đại Ỷ Ty kêu lên:

– Bọn giặc kia gớm thật!

Bà ta nhảy luôn xuống biển. Trương Vô Kỵ giật mình, vội xoay bánh lái, chỉ thấy có đốm máu đỏ từ dưới biển sủi lên, rồi cách đó một quãng, lại có đốm máu thứ hai sủi lên; trong giây lát có tới sáu đốm máu như thế. Bỗng thấy Đại Ỷ Ty từ dưới nước nhô lên, miệng ngậm đoản đao, tay phải túm tóc một gã Ba Tư. Trương Vô Kỵ vội quay thuyền lại đón; vì thuyền quá lớn, lại không kịp hạ buồm, nên phải lượn một vòng rộng mới lại gần Đại Ỷ Ty. Tử Sam Long Vương bơi lội dưới biển không khác gì cá, chẳng mấy chốc đã bơi tới thuyền, tay trái túm dây neo, nhún mình bay lên trên thuyền, kéo theo gã Ba Tư kia.

Mọi người lạnh sống lưng, biết bọn Ba Tư đã ngấm ngầm ám hại, bố trí mấy kẻ có tài bơi lội nấp sau chiếc thuyền nhỏ; đợi khi đám Bình Đẳng vương đã sang thuyền nhỏ rồi, bèn cho bọn bơi lội giỏi kia lặn sang đục thuyền lớn. May mà Đại Ỷ Ty phát hiện bọt hơi của chúng, nhảy xuống biển giết được sáu tên, bắt sống một tên.

Đại Ỷ Ty đang định tra hỏi tên kia, bỗng ở đuôi thuyền vang lên một tiếng nổ lớn, khói đen bốc ngùn ngụt. Con thuyền chòng chành như trúng đại bác, gỗ ở đuôi thuyền bay tứ tung. Bọn Trương Vô Kỵ thấy một luồn hơi nóng phả vào người, vội nằm mọp cả xuống.

Đại Ỷ Ty kêu lên:

– Bọn này gian ác quá!

Bà ta chạy lại khoang sau, thấy đuôi thuyền bị thủng một lỗ lớn, cái bánh lái đã bay đâu mất, nước biển đang tràn vào qua lỗ thủng. Đại Ỷ Ty hỏi gã Ba Tư mấy câu, rồi giơ chưởng đập xuống đầu hắn một cái, đá luôn xác hắn xuống biển, nói:

– Ta tưởng bọn chúng chỉ đục thuyền, không ngờ chúng còn buộc thuốc súng vào bánh lái.

Bây giờ chiếc thuyền nhỏ của bọn Bình Đẳng vương đã đi xa, Đại Ỷ Ty dẫu bơi giỏi đến mấy, cũng chẳng thể nào đuổi kịp.

Cả bọn rầu rĩ nhìn nhau, đành bó tay. Triệu Mẫn buồn bã nhìn Trương Vô Kỵ, nghĩ thầm: “Thuyền địch không lâu nữa sẽ kéo tới, mình thật là chết không có đất mà chôn”.

Chiếc thuyền này thân rất lớn, có chìm cũng còn lâu. Đột nhiên Đại Ỷ Ty dùng tiếng Ba Tư nói gì đó với Tiểu Chiêu. Tiểu Chiêu cũng dùng tiếng Ba Tư trả lời, hai người một hỏi một đáp, sắc mặt thay đổi luôn luôn. Chỉ thấy Tiểu Chiêu đưa mắt nhìn Trương Vô Kỵ, hai má ửng hồng đầy vẻ thẹn thùng. Đại Ỷ Ty xẵng giọng hỏi dồn. Hai người nói chuyện rất lâu, dường như tranh biện chuyện gì, sau đó Đại Ỷ Ty tựa hồ khuyên nhủ Tiểu Chiêu bằng lòng việc gì đó, Tiểu Chiêu một mực lắc đầu, rồi đột nhiên nàng nhìn Trương Vô Kỵ, thở dài, nói mấy câu. Đại Ỷ Ty dang tay ôm Tiểu Chiêu vào lòng, cử chỉ vô cùng âu yếm thân mật. Hai người nước mắt giàn giụa. Tiểu Chiêu thút thít khóc mãi, Đại Ỷ Ty thì dịu dàng vỗ về an ủi.

Trương Vô Kỵ, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu chuyện gì. Triệu Mẫn ghé tai Trương Vô Kỵ, nói nhỏ:

– Công tử xem, hai người ấy giống nhau như đúc!

Trương Vô Kỵ chột dạ, nhìn kỹ, thấy Đại Ỷ Ty và Tiểu Chiêu cùng đều có khuôn mặt trái xoan cực kỳ thanh tú, mũi cao da trắng, ánh mắt long lanh, mặt mũi quả giống nhau thật. Có điều trong dung mạo của Tiểu Chiêu, hơi hướng của người Hồ Ba Tư chỉ còn loáng thoáng, trong khi nhìn Đại Ỷ Ty thì biết ngay không phải là dân Trung thổ. Chàng nhớ lúc ở quán rượu Đại Đô, Phạm Dao nhìn thấy Tiểu Chiêu đã thốt lên hai tiếng “Giống quá! Giống quá!” tức là bảo Tiểu Chiêu có tướng mạo giống hệt Tử Sam Long Vương. Thế thì Tiểu Chiêu là muội muội, hay là con gái của Đại Ỷ Ty?

Trương Vô Kỵ lại nhớ đến cha con Dương Tiêu, Dương Bất Hối luôn luôn đề phòng cô bé Tiểu Chiêu, mỗi khi chàng hỏi Dương Tiêu, tại sao cứ e ngại cô bé Tiểu Chiêu như đối với đại địch, thì Dương Tiêu chỉ trả lời ậm ừ. Bây giờ chàng mới biết, thì ra Dương Tiêu cũng thấy Tiểu Chiêu có diện mạo giống Tử Sam Long Vương, nhưng không có bằng chứng, lại thấy Trương Vô Kỵ có ý bênh vực cô bé, nên không tiện nói rõ ra. Còn việc Tiểu Chiêu cố tình méo miệng, nhăn mũi, he hé mắt, chẳng qua chỉ để che giấu mà thôi.

Đột nhiên chàng nghĩ đến chuyện: “Tiểu Chiêu trà trộn lên đỉnh Quang Minh để làm gì? Tại sao nàng lại biết lối vào đường hầm bí mật? Vậy hẳn nàng do Tử Sam Long Vương sai đến, cốt đánh cắp tâm pháp “Càn khôn đại na di”. Nàng chịu làm tì nữ hầu hạ ta, ở bên ta hai năm qua, mà ta không hề đề phòng nàng, pho tâm pháp võ công kia chính nàng đã đọc, sau đó muốn sao lại một bản thật dễ như trở bàn tay. Chao ôi! Ta cứ tưởng nàng là một cô bé hồn nhiên ngây thơ, ai ngờ nàng cũng đầy mưu mô tâm kế. Hai năm qua ta như kẻ ở trong mộng, ở trong bẫy của nàng mà có biết gì đâu. Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, mi suốt đời cả tin, ở đâu cũng bị người ta lừa dối, ngay một con hầu cũng có thể đùa giỡn với mi”. Nghĩ đến đây, chàng không khỏi bực mình.

Lúc đó Tiểu Chiêu lại đưa mắt nhìn chàng. Trương Vô Kỵ thấy ánh mắt nàng vô cùng dịu dàng, âu yếm, không một chút giả dối, thì trong lòng xúc động dạt dào, nhớ đến lúc chiến đấu với sáu đại môn phái trên đỉnh Quang Minh, nàng đã xả thân bảo vệ cho chàng, hai năm qua chăm chút hầu hạ chàng, bây giờ chuyện gì chàng cũng nghi ngờ nàng như thế, chẳng oan cho nàng lắm sao? Chàng đang ngần ngừ, chiếc thuyền lắc mạnh một cái, chìm xuống thêm một nấc lớn.

Đại Ỷ Ty nói:

– Trương giáo chủ, các vị đừng lo sợ. Đợi thuyền của người Ba Tư tới đây, ta và Tiểu Chiêu sẽ có cách ứng phó. Tử Sam Long Vương tuy là phận nữ nhi, nhưng biết ai làm nấy chịu, quyết không để các vị bị vạ lây. Trương giáo chủ và Tạ tam ca đãi ta nghĩa nặng tày non, Đại Ỷ Ty lúc này xin cảm tạ.

Nói xong bà ta phục xuống lạy. Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn vội trả lễ, nghĩ thầm: “Bọn Ba Tư hành sự tàn bạo, chúng sẽ đem bà ra thiêu sống, cũng chẳng đời nào tha cho bọn ta đâu”.

Chiếc thuyền vẫn chìm dần, nước tràn vào khoang. Trương Vô Kỵ ôm Ân Ly, Chu Chỉ Nhược ôm Triệu Mẫn, mọi người cùng leo lên đà cột buồm.

Tiểu Chiêu bỗng chỉ tay về hướng đông, khóc òa lên. Mọi người nhìn theo hướng tay nàng, thấy xa xa có những cánh buồm lấm chấm. Không lâu sau, bóng cánh buồm lớn dần, chính là mười mấy chiếc thuyền lớn của bọn Ba Tư đang thuận gió đuổi tới.

*

*   *

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Nếu ta là Đại Ỷ Ty, thì thà nhảy xuống biển mà chết, còn hơn là bị bắt đem đi thiêu sống”. Chàng thấy vẻ mặt bà ta vẫn thản nhiên, không có gì là kinh sợ, thì không khỏi thán phục: “Bà ta đứng đầu Tứ đại pháp vương, quả không tầm thường. Thiết nghĩ năm xưa Ưng Vương, Sư Vương, Bức Vương là ba vị hào kiệt đứng tuổi, đã thành danh, còn Đại Ỷ Ty mới là một thiếu nữ, mà đã đứng trên cả ba Vương, đâu phải chỉ vì công lao một ngày mà được, tất phải có chỗ hơn người”. Nhìn đoàn thuyền Ba Tư tới gần, chàng nghĩ thầm: “Ta đắc tội với đám Bảo thụ vương không nhỏ, nếu sa vào tay chúng, thì khó mong sống sót. Phải nghĩ cách làm sao để nghĩa phụ, Triệu cô nương, Chu cô nương và biểu muội an toàn. Tiểu Chiêu, ôi Tiểu Chiêu, thà để nàng bất nghĩa với ta, chứ ta không thể bất nhân với nàng”.

Đoàn thuyền Ba Tư tới gần, các khẩu đại bác đều chĩa vào cột buồm chiếc thuyền đang chìm, lúc đến cách hai chục trượng đều hạ buồm, thả neo.

Chỉ nghe Trí Tuệ vương cười ha hả hết sức đắc chí, gọi to:

– Bọn bay đã chịu hàng hay chưa?

Trương Vô Kỵ nói to:

– Nghĩa sĩ Trung thổ thà chết không khuất phục, sao lại đầu hàng? Nếu là hảo hán, hãy dùng võ công để phân thắng bại.

Trí Tuệ vương cười, nói:

– Đại trượng phu đấu trí, không đấu lực, hãy mau mau chịu trói!

Đại Ỷ Ty bỗng nói lớn mấy câu bằng tiếng Ba Tư, giọng rất nghiêm trang. Trí Tuệ vương ngạc nhiên, cũng trả lời bằng tiếng Ba Tư. Hai người hỏi đáp hơn một chục câu, Đại Thánh vương cũng xen vào hỏi thêm. Nói mấy câu nữa, từ thuyền lớn thả xuống một chiếc thuyền nhỏ, trên có tám thủy thủ bơi thuyền sang.

Đại Ỷ Ty nói:

– Trương giáo chủ, ta và Tiểu Chiêu sang bên kia trước, xin các vị cứ chờ một lát.

Tạ Tốn gằn giọng:

– Hàn phu nhân, Minh giáo Trung thổ không hề bạc đãi phu nhân. Sự hưng suy, an nguy của bản giáo đều quy tụ ở một mình Trương Vô Kỵ. Nếu phu nhân bán rẻ bọn ta, cái mạng của Tạ mỗ không đáng gì, nhưng nếu hại đến một sợi tóc của Trương Vô Kỵ, thì Tạ mỗ dù thành ma cũng không tha cho phu nhân đâu.

Đại Ỷ Ty cười khẩy, nói:

– Con nuôi của Tạ tam ca là vàng là ngọc, còn con gái muội là đất là bùn chắc?

Nói rồi cầm tay Tiểu Chiêu khẽ nhún một cái, nhảy xuống chiếc thuyền nhỏ. Tám thủy thủ chèo mạnh, thuyền lướt như bay về phía đoàn thuyền Ba Tư.

Mọi người nghe Đại Ỷ Ty nói câu vừa rồi, đều ngẩn ra. Triệu Mẫn nói:

– Tiểu Chiêu quả nhiên là con bà ta.

Nhìn xa xa, thấy Đại Ỷ Ty và Tiểu Chiêu leo lên chiếc thuyền lớn, đứng ở đầu thuyền nói chuyện với các Bảo thụ vương; trong khi chiếc thuyền của mình thì vẫn chìm dần, cái cột buồm đang ngập dần từng tấc từng tấc.

Tạ Tốn thở dài:

– Không phải người cùng chủng tộc với mình, lòng dạ ắt khác xa. Vô Kỵ hài nhi, ta quen lầm Hàn phu nhân, con thì quen lầm Tiểu Chiêu. Vô Kỵ, đại trượng phu phải biết hành xử cho linh hoạt quyền biến, chúng ta hãy cố nhịn nỗi nhục nhất thời, tìm cơ hội đào thoát sau. Vai con phải đảm đương gánh nặng, dân chúng Trung nguyên đều mong Minh giáo ta phất cờ khởi nghĩa, đánh đuổi Thát tử; một khi thời cơ xuất hiện, con cứ việc một mình thoát thân, đừng lo gì mấy người khác. Con làm chủ một giáo phái, thế nào là nặng nhẹ lớn nhỏ, phải biết phân biện rõ ràng.

Trương Vô Kỵ trầm ngâm chưa đáp, Triệu Mẫn nói:

– Hừ, mạng sống của mình lo còn chưa xong, còn nói gì đến việc đánh đuổi Thát tử. Lão gia tử bảo người Mông Cổ hay người Ba Tư tử tế nào?

Chu Chỉ Nhược đã lâu không nói gì, đột nhiên xen vào:

– Tiểu Chiêu đối với Trương công tử tình ý sâu nặng, chắc chắn không phản bội chàng.

Triệu Mẫn nói:

– Cô nương không thấy Tử Sam Long Vương một mực bức bách Tiểu Chiêu hay sao? Tiểu Chiêu thoạt đầu không chịu, sau bị ép quá, rốt cuộc cũng chịu vậy, còn giả bộ khóc lóc một hồi.

Lúc này cái đà cột buồm chỉ còn cách mặt biển hơn một trượng, mỗi cơn sóng dềnh lại tạt nước tới mặt họ. Triệu Mẫn bỗng nhiên cười, nói:

– Trương công tử, cả bọn chết chung một chỗ với công tử cũng hay. Tiểu Chiêu gian trá xảo quyệt, thành thử không được chết chung với chúng mình.

Câu này tuy là nói đùa, song tình ý bao hàm thật là triền miên.

Trương Vô Kỵ nghe xong cảm động, nghĩ thầm: “Ta không thể lấy tất cả các nàng làm vợ, nhưng chết chung một chỗ cùng lúc với ba nàng, cũng chẳng uổng chút nào”. Chàng nhìn Triệu Mẫn, nhìn Chu Chỉ Nhược, nhìn Ân Ly đang ôm trong tay. Ân Ly vẫn hôn mê chưa tỉnh, còn Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược hai nàng thì hai má hồng tươi, mặt lấm tấm các hạt nước y như các giọt sương trên đóa hoa ban mai, nàng họ Triệu thì tươi tắn như bông hồng, nàng họ Chu tú lệ như bông lan, trong giây lát chàng cảm thấy bình an sung sướng.

Bỗng nghe trên mười mấy chiếc thuyền Ba Tư nổi lên tiếng hoan hô vang dậy. Bọn Trương Vô Kỵ kinh ngạc, chăm chú nhìn sang, thấy mọi người Ba Tư trên các thuyền đều quỳ xuống sàn, hướng về phía chiếc thuyền lớn mà hành lễ. Trên chiếc thuyền lớn kia, các Bảo thụ vương cũng quỳ ở đầu thuyền, trên chiếc ghế chính giữa có một người ngồi, hình như là Tiểu Chiêu thì phải, nhưng vì ở xa, nên nhìn không rõ. Bọn Trương Vô Kỵ chưa hiểu thế nào, không biết bọn Ba Tư giở trò gì. Đám người Hồ hoan hô một chập, rồi đứng dậy, tiếp tục xí xố với nhau ra chiều hoan hỉ, dường như họ gặp đại hỉ sự vậy.

Một lát sau, chiếc thuyền nhỏ lại bơi sang, có Tiểu Chiêu ngồi nghiễm nhiên trên đó. Nàng vẫy tay, gọi:

– Trương công tử, mời tất cả các vị cùng sang bên thuyền lớn. Minh giáo Ba Tư quyết không dám gia hại các vị.

Triệu Mẫn hỏi:

– Vì sao vậy?

Tiểu Chiêu đáp:

– Các vị cứ sang sẽ biết. Nếu có ý gia hại, Tiểu Chiêu biết ăn nói làm sao với Trương công tử?

Tạ Tốn hỏi:

– Tiểu Chiêu, cô nương lên làm giáo chủ của Minh giáo Ba Tư phải không?

Tiểu Chiêu cúi đầu không trả lời. Chỉ thấy từ đôi mắt to ứa ra hai hàng lệ trong như ngọc.

Ngay lúc ấy Trương Vô Kỵ thấy tai ù đi, mọi việc ra sao chàng cũng đoán được bảy, tám phần; trong lòng vô cùng xúc động, nói:

– Tiểu Chiêu, cô nương gánh chịu tất cả đều là vì ta!

Tiểu Chiêu nghiêng mặt qua, không dám nhìn vào mắt chàng.

Tạ Tốn thở dài, nói:

– Đại Ỷ Ty có người con như thế, không hổ anh danh một đời của Tử Sam Long Vương. Vô Kỵ, mình qua thôi.

Nói xong ông nhảy xuống thuyền nhỏ trước. Tiếp đó Chu Chỉ Nhược ôm Ân Ly nhảy xuống theo. Trương Vô Kỵ ôm Triệu Mẫn nhảy xuống sau cùng.

Tám thủy thủ chèo thuyền sang phía chiếc thuyền, còn cách thuyền lớn mươi trượng, các Bảo thụ vương đã cùng cúi mình nghênh tiếp giáo chủ.

Mọi người lên chiếc thuyền lớn rồi, Tiểu Chiêu dặn dò mấy câu, lập tức có người cung kính dâng lên khăn lau mặt, đồ ăn, rồi dẫn từng người vào các phòng thay quần áo ướt.

Trương Vô Kỵ thấy căn phòng chàng được dẫn vào rất rộng, bày biện không ít đồ đạc bằng ngọc ngà châu báu, chàng đang lau mình, thì “kẹt” một tiếng, cửa phòng hé mở, một người bước vào, chính là Tiểu Chiêu. Nàng cầm trên tay một bộ đồ lót, một trường bào, nói:

– Công tử, để tiểu nữ hầu công tử thay đồ.

Trương Vô Kỵ trong lòng chua xót, bồi hồi nói:

– Tiểu Chiêu, cô nương giờ đã là giáo chủ Tổng giáo, nói đúng ra ta còn là thuộc hạ của cô nương nữa, cần gì cô nương phải làm những việc này?

Tiểu Chiêu năn nỉ:

– Công tử, đây là lần cuối cùng. Từ nay hai đứa mình đông tây xa cách vạn dặm, không còn ngày gặp lại; tiểu nữ có muốn hầu hạ công tử một lần nữa, cũng không được nữa rồi.

Trương Vô Kỵ đau lòng, đành để nàng làm như vẫn thường làm, thay áo, cài khuy, thắt dây lưng, lại lấy lược chải đầu cho chàng.

Trương Vô Kỵ thấy nàng nước mắt lưng tròng, bỗng nhiên trong lòng xúc động, bèn dang tay ôm tấm thân thon thả của nàng vào lòng. Tiểu Chiêu thốt lên ôi” một tiếng, toàn thân run rẩy. Trương Vô Kỵ đặt lên má nàng một cái hôn thật nồng nàn, nói:

– Tiểu Chiêu, lúc đầu ta còn tưởng nàng lừa dối ta, không ngờ nàng đối với ta sâu đậm đến thế.

Tiểu Chiêu ngả đầu vào bộ ngực nở nang của chàng, nói nhỏ:

– Công tử, thoạt tiên tiểu nữ có lừa dối chàng thật. Mẹ của tiểu nữ vốn là một trong ba thánh nữ của Tổng giáo, được phái sang Trung thổ, tích lập công đức, để rồi trở về Ba Tư, tiếp nhiệm chức vụ giáo chủ. Không ngờ sau khi gặp cha của tiểu nữ, tình ý không dứt được, đành phản giáo mà thành hôn với cha của tiểu nữ. Mẹ biết mình tội nặng, bèn đem chiếc nhẫn đá quý bảy màu của thánh xử nữ trao lại cho tiểu nữ, sai tiểu nữ trà trộn lên đỉnh Quang Minh, lấy trộm tâm pháp “Càn khôn đại na di”. Công tử, chuyện đó tiểu nữ đã giấu công tử, nhưng trong lòng tiểu nữ, tiểu nữ không bao giờ sai trái với công tử. Bởi vì tiểu nữ không hề muốn trở thành giáo chủ Minh giáo Ba Tư, tiểu nữ chỉ mong được làm con tiểu a hoàn suốt đời hầu hạ công tử, vĩnh viễn không xa rời công tử. Tiểu nữ từng nói như thế với công tử, có đúng không? Công tử cũng đã bằng lòng như thế, có đúng không?

Trương Vô Kỵ gật đầu, đặt tấm thân nhỏ nhắn của nàng lên hai gối mình, lại hôn nàng, hôn tha thiết. Đôi môi nàng lẫn nước mắt, vừa ngòn ngọt, vừa mằn mặn.

Tiểu Chiêu lại nói:

– Tiểu nữ đã nhớ nằm lòng tâm pháp “Càn khôn đại na di”, song hoàn toàn không phải vì có ý phản bội công tử. Nếu không phải hôm nay ở vào bước đường cùng, tiểu nữ sẽ không bao giờ nói lộ chuyện này ra cả…

Trương Vô Kỵ dịu dàng nói:

– Bây giờ thì ta hiểu cả rồi.

Tiểu Chiêu ngậm ngùi nói:

– Hồi nhỏ, tiểu nữ thấy mẹ ngày đêm bất an, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ tìm cách che giấu dung nhan của mình, hóa trang thành một bà lão xấu xí. Mẹ lại không cho tiểu nữ được ở với bà, đem gửi nhà người khác nuôi, hai ba năm mới đến gặp một lần. Bây giờ tiểu nữ mới hiểu, mẹ đã hết sức mạo hiểm để được thành hôn với cha. Công tử, nếu hôm nay không sa vào tình thế này, thì đừng nói chức giáo chủ, ngay có làm nữ hoàng cai trị toàn thế giới, tiểu nữ cũng chẳng màng.

Nói tới đây, hai má nàng đỏ bừng lên.

Trương Vô Kỵ thấy thân thể nàng trong vòng tay mình chợt nóng bừng lên, lòng xúc động, bỗng nghe tiếng nói của Đại Ỷ Ty từ bên ngoài vọng vào:

– Tiểu Chiêu, nếu con không khắc chế được tình dục, tức là làm cho Trương công tử bị mất mạng đó. Tiểu Chiêu rùng mình, đứng ngay dậy, nói:

– Công tử, từ nay công tử đừng nhớ đến tiểu nữ nữa. Ân cô nương theo mẹ tiểu nữ nhiều năm, tình ý với công tử thật sâu nặng, rất xứng đáng với công tử.

Trương Vô Kỵ nói nhỏ:

– Chúng ta hãy xông ra, bắt giữ vài vị Bảo thụ vương, ép họ phải thả mình về đảo Linh Xà.

Tiểu Chiêu buồn bã lắc đầu:

– Lần này bọn họ khôn ra rồi. Tạ đại hiệp, Ân cô nương, lúc này mỗi người đều bị người Ba Tư kề gươm vào cổ, mình chỉ có hành động khác lạ, bọn họ sẽ giết ngay.

Nói xong nàng mở cửa khoang bước ra, thấy Đại Ỷ Ty đứng bên cửa, có hai gã Ba Tư gí trường kiếm ngay sau lưng. Hai gã đó cúi mình hành lễ với với Tiểu Chiêu, song mũi kiếm vẫn chĩa vào lưng Đại Ỷ Ty.

Tiểu Chiêu bước ra, Trương Vô Kỵ theo sau, quả nhiên thấy bọn Tạ Tốn đều có các võ sĩ Ba Tư cầm kiếm đứng sau khống chế. Tiểu Chiêu nói:

– Công tử, ở đây có linh dược trị thương của Ba Tư, công tử hãy lấy mà trị thương cho Ân cô nương.

Nói rồi nàng dùng tiếng Ba Tư ra lệnh mấy câu. Công Đức vương lấy một bình thuốc cao, đưa cho Trương Vô Kỵ.

Tiểu Chiêu nói:

– Tiểu nữ ra lệnh cho người tiễn các vị về Trung thổ, thôi chúng ta từ biệt nhau ở đây. Tiểu Chiêu thân ở Ba Tư, ngày ngày cầu cho công tử phúc thể khang ninh, mọi sự như ý.

Giọng nàng nghẹn ngào. Trương Vô Kỵ nói:

– Cô nương ở chốn hang hùm miệng sói, mọi việc hãy thận trọng.

Tiểu Chiêu gật đầu, ra lệnh cho thuộc hạ chuẩn bị thuyền.

Tạ Tốn, Ân Ly, Triệu Mẫn, Chu Chỉ Nhược từng người một sang thuyền. Tiểu Chiêu đem thanh đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên trao lại cho Trương Vô Kỵ, nở nụ cười tê tái, giơ tay vẫy chào.

Trương Vô Kỵ không biết nói sao, đứng ngây một lát, rồi nhảy xuống thuyền. Chiếc thuyền lớn của Tiểu Chiêu bỗng nổi tiếng tù và vang động. Hai thuyền cùng giương buồm lên, khoảng cách xa dần. Tiểu Chiêu vẫn đứng ở đầu thuyền, đăm đăm nhìn về phía Trương Vô Kỵ.

Khoảng biển giữa hai người càng lúc càng xa, cuối cùng chiếc thuyền lớn của Tiểu Chiêu chỉ còn là một cái chấm nhỏ, rồi mặt biển tối sẫm, tiếng gió thổi vào buồm như mang theo cả tiếng ai nức nở nghẹn ngào.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.