Hồi 107: Mạc Đại tiên sinh cảm người nghĩa hiệp

Sáng sớm hôm sau thuyền đi về hướng Tây. Lệnh Hồ Xung bảo người lái thuyền đi gần bờ để đề phòng Bạch Giao bang tập kích, nhưng thuyền đi đến địa phận tỉnh Hồ Bắc vẫn không có động tĩnh gì. Từ đó đến mấy ngày sau, Lệnh Hồ Xung cũng không trò chuyện nhiều với đệ tử phái Hằng Sơn. Mỗi tối thuyền dừng lại bến, chàng một mình đi lên bờ uống rượu, uống đến say khướt mới về.

Một hôm thuyền đi qua Hạ Khẩu, rồi rẽ sang hướng Bắc, đi ngược dòng sông Hán Thủy, đến tối thuyền ngừng ở bến Kê Minh gần một thị trấn nhỏ. Lệnh Hồ Xung lại lên bờ vào một quán rượu uống mấy bát. Chàng bỗng nghĩ: vết thương của tiểu sư muội không biết lành chưa? Nghi Chân, Nghi Linh hai vị sư tỷ đem linh dược của phái Hằng Sơn đưa đến nghĩ chắc trị khỏi vết thương của tiểu sư muội rồi. Thương thế của Lâm sư đệ không biết ra sao? Nếu Lâm sư đệ lại bị trọng thương không trị được, thì tiểu sư muội phải làm sao?

Lệnh Hồ Xung nghĩ đến đây lòng không khỏi kinh hãi rồi lại tự trách mình: Lệnh Hồ Xung ơi Lệnh Hồ Xung, ngươi thật là một kẻ tiểu nhân đê tiện. Tuy ngươi mong muốn tiểu sư muội mau lành, mà trong thâm tâm ngươi lại muốn Lâm sư đệ trọng thương mà chết đi ư? Chẳng lẽ Lâm sư đệ chết rồi thì tiểu sư muội sẽ được gả cho ngươi sao?

Lệnh Hồ Xung cảm thấy vô vị quá, liên tiếp uống ba bát nữa rồi lại nghĩ: Lao Đức Nặc và bát sư đệ không biết ai đã giết? Tại sao người đó lại đi ám toán Lâm sư đệ? Sư phụ, sư nương không biết gần đây thế nào?

Lệnh Hồ Xung lại bưng bát rượu lên uống một hơi cạn sạch. Trong tửu điếm không có đồ nhắm, chàng đưa tay bốc mấy hạt đậu phộng rang muối, ném vào miệng. Bỗng nghe phía sau có người thở dài nói:

– Ôi, đàn ông trong thiên hạ mười người có hết chín người bạc bẽo!

Lệnh Hồ Xung quay mặt lại nhìn về hướng người vừa nói. Dưới ánh đèn lờ mờ, chàng thấy trong tửu điếm nhỏ này ngoài mình ra còn có một người nằm gục trên một cái bàn ở góc điếm. Trên bàn để một hũ rượu và một cái bát, áo quần người đó cũ mèm, trông có vẻ quê mùa, không giống người văn nhã. Lệnh Hồ Xung không thèm để ý nữa, uống thêm một bát rượu, bỗng nghe sau lưng lại có người nói:

– Người ta vì ngươi mà bị giam cầm trong chỗ âm u không có ánh nắng, vậy mà ngươi suốt ngày la cà vào đám phụ nữ, tiểu cô nương cũng được mà ni cô trọc đầu cũng được, lão bà bà cũng không chê, hạng nào cũng khoái hết. Ôi, đáng tiếc ơi là đáng tiếc!

Lệnh Hồ Xung biết lão đang ám chỉ mình. Chàng không quay đầu lại mà nghĩ bụng: Người này là ai? Lão nói “Người ta vì ngươi mà bị giam cầm trong chỗ âm u không có ánh nắng”. Lão nói đến Doanh Doanh sao? Tại sao Doanh Doanh vì ta mà bị giam cầm?

Nghe lão lại nói tiếp:

– Những hạng không liên can gì thì thích lo chuyện bao đồng, nói muốn liều mạng để cứu người ra. Người này muốn làm thủ lĩnh, người kia cũng muốn làm thủ lĩnh, người còn chưa cứu được mà phe ta lại đánh nhau đến trời sầu đất thảm. Ôi, chuyện trên giang hồ, lão tử thật không muốn thấy nữa.

Lệnh Hồ Xung cầm bát rượu bước sang ngồi đối diện với lão nói:

– Tại hạ có nhiều chuyện không hiểu, xin lão huynh chỉ giáo.

Lão vẫn nằm gục trên bàn, không ngẩng đầu lên, lão nói:

– Ôi, càng phong lưu thì càng thêm tội nghiệt. Bọn ni cô, cô nương phái Hằng Sơn thật chẳng làm được trò gì.

Lệnh Hồ Xung giật mình, đứng dậy xá dài nói:

– Lệnh Hồ Xung bái kiến tiền bối, mong tiền bối rộng lòng chỉ giáo.

Bỗng chàng thấy dưới chân bàn có một cây hồ cầm, thân đàn màu vàng thẫm đã lâu năm rồi.

Lệnh Hồ Xung bỗng nhớ ra người này là ai, liền bái xuống nói:

– Vãn bối Lệnh Hồ Xung may mắn được bái kiến Mạc sư bá phái Hành Sơn. Vừa rồi vãn bối thật thất lễ.

Lão ngẩng đầu lên, hai mắt sáng quắc, lạnh lùng quét mắt nhìn Lệnh Hồ Xung. Lão chính là Tiêu Tương dạ vũ Mạc Đại tiên sinh, chưởng môn phái Hành Sơn. Lão hừ một tiếng rồi nói:

– Gọi sư bá, ta không dám nhận. Lệnh Hồ đại hiệp, mấy ngày nay sống vui vẻ chứ?

Lệnh Hồ Xung cúi người đáp:

– Xin Mạc sư bá minh giám, đệ tử phụng mệnh Định Nhàn sư bá theo các vị sư tỷ sư muội phái Hằng Sơn đến Thiếu Lâm. Tuy đệ tử là người không biết gì nhưng quyết không dám có chút biểu hiện thất lễ với các sư tỷ sư muội phái Hằng Sơn.

Mạc Đại tiên sinh thở dài nói:

– Mời ngồi! Ôi, sao đại hiệp không biết người trên giang hồ bàn tán xôn xao lắm chuyện?

Lệnh Hồ Xung cười gượng đáp:

– Vãn bối hành sự ngông cuồng, không biết kiềm chế, ngay cả bổn môn cũng không thể dung tha thì những lời rỗi hơi bàn tán trên giang hồ vãn bối không màng tới nữa.

Mạc Đại tiên sinh cười nhạt nói:

– Đại hiệp tự cho mình là kẻ lãng tử, chẳng ai thèm để ý tới. Nhưng thanh danh mấy trăm năm của phái Hằng Sơn lại bị bại hoại dưới tay đại hiệp, đại hiệp không động lòng chút nào sao? Trên giang hồ đồn đãi rằng đại hiệp là một nam nhân mà trà trộn vào trong đám ni cô, cô nương phái Hằng Sơn. Đừng nói thanh danh của mấy chục vị hoàng hoa khuê nữ bị đại hiệp làm tổn hại, mà thậm chí ngay cả… ngay cả mấy vị lão sư thái giữ giới nghiêm minh cũng bị người ta đem ra làm trò cười. Chuyện này… chuyện này thật tệ quá mức.

Lệnh Hồ Xung lùi lại hai bước, tay đặt lên chuôi kiếm, nói:

– Không biết kẻ nào đó đã bịa đặt ra, nói những lời hoang đường vô sỉ này. Xin Mạc sư bá nói cho đệ tử biết.

Mạc Đại tiên sinh nói:

– Đại hiệp muốn giết bọn chúng ư? Trên giang hồ nói những lời này không có một vạn thì cũng có tám ngàn, đại hiệp có giết hết được không? Hừ, người ta khen đại hiệp hồng phúc đầy trời, có gì đâu mà không tốt?

Lệnh Hồ Xung ngồi thừ ra ngẫm nghĩ: Ta làm chuyện gì thường không suy nghĩ trước sau, nhưng miễn sao không thẹn với lương tâm, không ngờ làm liên lụy đến tất cả các vị phái Hằng Sơn. Chuyện… chuyện này phải làm sao đây?

Mạc Đại tiên sinh thở dài ôn tồn nói:

– Năm ngày nay, đêm nào ta cũng đều lên thuyền của đại hiệp quan sát…

Lệnh Hồ Xung ồ lên một tiếng, thầm nghĩ: Mạc sư bá liên tiếp năm lần lên thuyền quan sát mà ta không hề hay biết, ta thật là tệ quá.

Mạc Đại tiên sinh nói tiếp:

– Ta thấy mỗi đêm đại hiệp thường nằm ngủ phía sau khoang lái, mặc nguyên quần áo dài mà ngủ, đừng nói hành vi của đại hiệp không hề có chút vô lễ với bọn đệ tử phái Hằng Sơn mà ngay cả một lần nói giỡn cũng không có. Lệnh Hồ thế huynh, thế huynh không những không phải người vô hạnh lãng tử mà thật đúng là một vị quân tử thủ lễ. Đối với bọn ni cô trẻ tuổi đầy thuyền, thiếu nữ đẹp như hoa mà thế huynh lại tuyệt không động tâm, không phải chỉ một đêm mà mấy chục đêm vẫn giữ được như vậy. Thế huynh là một bậc nam tử hán đại trượng phu, thật xưa nay hiếm có, Mạc Đại ta rất khâm phục.

Lão giơ ngón tay cái lên, tay phải đánh chát một cái lên bàn rồi nói:

– Nào, nào, nào, Mạc Đại ta kính thế huynh một bát.

Lão nhấc hũ rượu lên rót ra bát. Lệnh Hồ Xung nói:

– Lời Mạc sư bá nói khiến tiểu điệt rất lo sợ. Tiểu điệt phẩm hạnh bất đoan, đến nỗi sư môn bất dung, nhưng sư muội đồng đạo phái Hằng Sơn sao có thể đắc tội với họ được?

Mạc Đại tiên sinh cười ha hả, lão nói:

– Quang minh lỗi lạc như vậy mới đúng là bản sắc của bậc nam tử hán. Mạc Đại ta ở vào tuổi hai mươi, mà đêm nào cũng có nhiều cô nương bầu bạn như vậy, nếu bảo ta giữ mình trong sáng như thế huynh thì không được đâu. Khó lắm, khó lắm! Nào, cạn!

Hai người cụng bát uống cạn rồi nhìn nhau cười ha hả.

Lệnh Hồ Xung thấy Mạc Đại tiên sinh vóc dáng tiều tụy, áo quần bạc phếch, chẳng giống vị chưởng môn một phái oai chấn giang hồ. Ánh mắt lão mà quét ngang thì sắc bén như dao, nhưng vẻ oai hùng chỉ lộ ra rồi ẩn đi ngay, lại biến thành một hán tử dày dạn phong trần. Chàng thầm nghĩ: Định Nhàn sư thái chưởng môn phái Hằng Sơn từ bi hiền hòa, Thiên Môn đạo trưởng chưởng môn phái Thái Sơn thì oai nghiêm hậu trọng, Tả Lãnh Thiền chưởng môn phái Tung Sơn âm độc nham hiểm. Còn ân sư của ta là một vị quân tử phong nhã. Riêng vị Mạc sư bá này vẻ ngoài tiều tụy bần hàn giống như một tiểu nhân đầu đường xó chợ. Nhưng năm vị chưởng môn nhân của Ngũ Nhạc kiếm phái, kỳ thực vị nào cũng là người thâm trầm đa trí. Lệnh Hồ Xung ta là một cái bao cỏ, so với các vị còn thua kém xa.

Mạc Đại tiên sinh nói:

– Ta ở Hồ Nam, nghe thế huynh ở cùng với phái Hằng Sơn, rất kinh ngạc, lòng nghĩ Định Nhàn sư thái là một nhân vật cao đạo sao lại để môn hộ làm những chuyện như vậy? Sau đó nghe người của Bạch Giao bang nói hành tung của phái Hằng Sơn và thế huynh nên ta liền đuổi theo. Lệnh Hồ lão đệ, lão đệ làm náo động ở Quần Ngọc viện thành Hành Sơn, lúc đó Mạc Đại ta cho rằng lão đệ là một thanh niên hư hỏng. Sau đó lão đệ lại giúp sư đệ Lưu Chính Phong của ta, lòng ta rất thiện cảm với lão đệ, chỉ muốn mau đuổi đến kịp để nói lời khuyên can. Không ngờ lại thấy lão đệ là một trang hào kiệt, ta lại có được một thanh niên anh hùng tuyệt vời như lão đệ. Hay lắm, hay lắm! Nào nào nào, chúng ta cùng cạn ba bát.

Lão gọi điếm tiểu nhị rót rượu đối ẩm với Lệnh Hồ Xung.

Uống mấy bát rượu vào bụng, con người phiêu bạt hào phóng như Mạc Đại tiên sinh đột nhiên cao hứng, hào khí bốc lên. Lão liên tiếp kêu rượu, nhưng tửu lượng của lão kém xa Lệnh Hồ Xung. Lão uống được mấy bát thì mặt mày đã đỏ lên. Lão nói:

– Lệnh Hồ lão đệ, ta biết lão đệ rất thích uống rượu. Mạc Đại không có gì để kính, đành bồi tiếp lão đệ thêm vài bát. Hì hì, trong võ lâm, người được Mạc Đại bồi rượu chẳng mấy ai. Hôm đại hội ở phái Tung Sơn, ngồi trên có Đại tung dương thủ Phí Bân. Người này ngổ ngáo coi trời bằng vung, khoác lác có một không hai. Mạc Đại càng nhìn càng ngứa mắt, lúc đó một giọt ta cũng không uống. Người này lại còn ăn nói xấc xược, cái đồ thúi tha như hắn, lão đệ bảo có đáng để cùng ta đối ẩm không?

Lệnh Hồ Xung cười nói:

– Đúng vậy, loại người này không tự lượng sức, hoành hành bá đạo, cuối cùng cũng bị quả báo.

Mạc Đại tiên sinh nói:

– Sau đó nghe đâu hắn đột nhiên mất tích, không biết biến đi đâu, thật là kỳ lạ.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Ngày hôm đó ở ngoại thành Hành Dương, Mạc Đại tiên sinh đã thi triển kiếm pháp thần diệu giết chết Phí Bân. Lúc đó, rõ ràng lão thấy ta đứng bên cạnh, bây giờ lão lại nói như vậy, chắc là lão không muốn bị lộ hành tung chuyện đó. Chàng bèn nói:

– Môn hạ phái Tung Sơn hành sự khiến cho người ta không lường nổi. Lão Phí Bân không chừng đang ẩn cư trong một cái hang động nào đó ở Tung Sơn, chuyên luyện kiếm pháp cũng chưa biết chừng.

Trong ánh mắt Mạc Đại tiên sinh lóe ra những tia xảo quyệt, lão mỉm cười vỗ bàn la lên:

– Thì ra là như vậy. Nếu lão đệ không tỉnh táo đề cập tới chuyện đó thì ta có nghĩ đến vỡ đầu ra cũng không thấu hiểu nguyên nhân trong đó.

Lão uống một ngụm rượu rồi hỏi:

– Lệnh Hồ lão đệ, tại sao lão đệ lại ở cùng với phái Hằng Sơn? Nhậm đại tiểu thư của Ma giáo rất nặng tình với lão đệ, lão đệ vạn lần không nên phụ bạc cô ta.

Mặt Lệnh Hồ Xung đỏ lên, hắn nói:

– Mạc sư bá minh giám, tiểu điệt đang bị thất tình nên đối với chuyện nam nữ tiểu điệt đã chán nản từ lâu rồi.

Lệnh Hồ Xung nhớ tới tiểu sư muội Nhạc Linh San. Lòng đau xót, khóe mắt đỏ lên, đột nhiên chàng cười ha hả rồi lớn tiếng nói:

– Tiểu điệt muốn bỏ chốn hồng trần, xuất gia làm hòa thượng, chỉ sợ người xuất gia giới luật quá nghiêm, không cho phép uống rượu, nên tiểu điệt không làm được hòa thượng. Ha ha, ha ha!

Tuy Lệnh Hồ Xung cười rất to nhưng trong tiếng cười ẩn chứa nhiều đau đớn. Một lúc sau Lệnh Hồ Xung thuật lại chuyện đã gặp Định Tĩnh, Định Nhàn, Định Dật ba vị sư thái thế nào, mình đã ra tay cứu viện ra sao, mỗi sự kiện chàng chỉ kể sơ sài thôi.

Mạc Đại tiên sinh lặng yên nghe kể xong, nhìn trừng trừng vào hũ rượu xuất thần. Một lúc sau lão mới nói:

– Tả Lãnh Thiền có ý muốn thôn tính bốn phái, để hợp thành một phái lớn, cùng với hai đại môn phái Võ Đang và Thiếu Lâm chia làm ba chân và đứng ngang hàng với họ. Mưu đồ bí mật của hắn đã có từ lâu; tuy lão giấu kín, nhưng ta đã nhìn ra được phần nào. Tổ mẹ nó, hắn không cho Lưu sư đệ của ta rửa tay gác kiếm, ngấm ngầm giúp phe Kiếm tông phái Hoa Sơn đi tranh đoạt ngôi vị chưởng môn của Nhạc tiên sinh, chung quy hành vi của hắn là như vậy. Nhưng ta không ngờ hắn lại to gan làm càn, dám ra mặt hạ thủ phái Hằng Sơn.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Lão cũng không dám ra mặt, cứ mạo danh Ma giáo, muốn bức bách phái Hằng Sơn vào bước đường cùng, không thể không đồng ý lời đề nghị hợp phái của lão.

Mạc Đại tiên sinh gật đầu nói:

– Đúng vậy. Nước cờ thứ hai của hắn là đối phó với Thiên Môn đạo trưởng phái Thái Sơn. Hừ, Ma giáo tuy độc ác nhưng cũng chưa chắc độc ác bằng Tả Lãnh Thiền. Lệnh Hồ huynh đệ, bây giờ huynh đệ đã không còn là môn hạ phái Hoa Sơn, làm thân hạc nội mây ngàn, không còn bị ràng buộc, cũng không cần phải cái gì chính giáo với Ma giáo. Ta khuyên huynh đệ cũng không cần phải làm hòa thượng, cũng không cần đau lòng như vậy, cứ đi cứu Nhậm đại tiểu thư đó ra rồi lấy cô ta làm vợ. Người khác không đến uống rượu của huynh đệ thì Mạc Đại ta sẽ đến uống ba bát rượu mừng huynh đệ. Tổ mẹ nó, sợ cái chó gì?

Có lúc lão nói toàn những lời rất văn nhã, có lúc lại kèm theo mấy lời thô tục, nói là chưởng môn của một phái cũng thật không giống chút nào.

Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Lão cho rằng ta thất tình là vì Doanh Doanh, những chuyện với tiểu sư muội ta cũng không cần đề cập với lão.

Lệnh Hồ Xung bèn hỏi:

– Mạc sư bá, rốt cuộc tại sao phái Thiếu Lâm bắt Nhậm đại tiểu thư?

Mạc Đại tiên sinh há hốc mồm, hai mắt trợn ngược, vẻ mặt hết sức kinh ngạc. Lão nói:

– Tại sao phái Thiếu Lâm lại bắt giữ Nhậm đại tiểu thư ư? Huynh đệ không biết thật hay biết rồi mà còn cố ý hỏi? Mọi người trên giang hồ đều biết, huynh đệ… huynh đệ… còn hỏi cái gì?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Trong mấy tháng qua, tiểu điệt bị người cầm tù nên chuyện giang hồ tiểu điệt không biết chút gì. Nhậm tiểu thư đó đã từng giết bốn tên đệ tử phái Thiếu Lâm, cũng là do tiểu điệt mà ra, nhưng không biết sau đó tại sao cô ta thất thủ bị phái Thiếu Lâm giam cầm?

Mạc Đại tiên sinh nói:

– Nếu nói như vậy, thì huynh đệ không biết rõ căn nguyên trong đó thật. Trong người huynh đệ bị nội thương kỳ lạ không thuốc nào có thể trị được. Nghe nói trong bàng môn tả đạo cùng nhau kéo đến ở Ngũ Bá Cương vì muốn lấy lòng vị Nhậm đại tiểu thư này mà trị thương cho huynh đệ, kết quả ai ai cũng bó tay bất lực, có đúng vậy không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Đúng vậy.

Mạc Đại tiên sinh nói:

– Chuyện này đồn đãi khắp giang hồ, đều nói tiểu tử Lệnh Hồ Xung không biết có phúc đức mấy đời mà lọt vào mắt xanh của Thánh cô Nhậm đại tiểu thư của Hắc Mộc Nhai, dù thương thế không trị khỏi được cũng không uổng một đời.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Mạc sư bá lại đùa tiểu điệt rồi.

Chàng thầm nghĩ: Lão Đầu Tử, Tổ Thiên Thu tuy bọn họ có tấm lòng tốt nhưng hành sự quá lỗ mãng, chuyện này đồn đãi ra như vậy chẳng trách Doanh Doanh tức giận.

Mạc Đại tiên sinh hỏi:

– Sau đó tại sao huynh đệ khỏi bệnh? Do tu luyện thần công Dịch cân kinh của phái Thiếu Lâm phải không?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Không phải. Phương trượng Phương Chứng đại sư chùa Thiếu Lâm từ bi bác ái, không nghĩ đến chuyện hiểu lầm trước đó, đã đồng ý truyền thụ võ công vô thượng của phái Thiếu Lâm cho tiểu điệt. Nhưng tiểu điệt không muốn cải đầu vào phái Thiếu Lâm, mà môn Thiếu Lâm thần công này lại không thể truyền thụ cho người khác phái. Tiểu điệt đành phải phụ lòng tốt của phương trượng đại sư.

Mạc Đại tiên sinh nói:

– Phái Thiếu Lâm là Thái Sơn, Bắc Đẩu trong võ lâm. Lúc đó huynh đệ đã bị trục xuất khỏi môn tường phái Hoa Sơn, là dịp tốt để cải đầu phái Thiếu Lâm. Đó là cơ duyên ngàn năm một thuở, tại sao ngay cả tính mạng của mình huynh đệ cũng không màng đến?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Tiểu điệt từ nhỏ được ân sư, sư nương thu nhận, ân đức dưỡng dục dù tan xương nát thịt cũng khó mà báo đáp. Chỉ mong sau này ân sư có thể cho phép tiểu điệt sửa chữa lỗi lầm, trở lại môn tường, quyết không tham sống sợ chết mà đầu vào phái khác.

Mạc Đại tiên sinh gật đầu nói:

– Nói cũng có lý. Nếu nói như vậy thì nội thương của huynh đệ được khỏi là do một cơ duyên khác.

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Đúng vậy. Kỳ thực nội thương của tiểu điệt cũng chưa hoàn toàn khỏi hẳn.

Mạc Đại tiên sinh nhìn chằm chằm vào hắn, lão nói:

– Phái Thiếu Lâm và huynh đệ xưa nay không hề có quan hệ thâm sâu, người trong Phật môn tuy nói là từ bi bác ái, cũng không thể tùy tiện lấy thần công vô thượng của bổn môn mà truyền cho người. Phương Chứng đại sư đồng ý lấy Dịch cân kinh truyền thụ, huynh đệ thật không biết vì nguyên nhân gì ư?

Lệnh Hồ Xung đáp:

– Quả thật tiểu điệt không biết, mong Mạc sư bá chỉ giáo.

Mạc Đại tiên sinh nói:

– Được! Trên giang hồ đều nói, ngày hôm đó Nhậm đại tiểu thư Hắc Mộc Nhai đích thân cõng huynh đệ đến chùa Thiếu Lâm gặp phương trượng, nói là chỉ cần phương trượng cứu tính mạng của huynh đệ thì cô ta chịu mặc cho chùa Thiếu Lâm xử trí, muốn giết muốn mổ cô ta cũng tuyệt đối không chau mày.

Lệnh Hồ Xung a lên một tiếng, nhảy xổm lên, làm bát rượu ở trên bàn đổ cả ra. Toàn thân chàng ướt đẫm mồ hôi, chân tay run bần bật, nói:

– Chuyện này… chuyện này… chuyện này…

Trong đầu chàng hỗn loạn cả lên. Lệnh Hồ Xung nhớ lại lúc cơ thể mình càng ngày càng yếu đi, trong một đêm nằm mơ, nghe Doanh Doanh khóc nức nở rồi nói: “Ngươi càng ngày càng ốm, ta… ta…”. Giọng nói rất chân thành, lòng chàng cảm động, thổ huyết ra rồi ngất đi không biết gì nữa. Lúc tỉnh dậy, chàng thấy mình nằm trong gian đấu thất chùa Thiếu Lâm, Phương Sinh đại sư đã phí nhiều tâm sức để cứu mình. Lệnh Hồ Xung vẫn không biết tại sao mình lại ở trong chùa Thiếu Lâm và cũng không biết Doanh Doanh ở đâu. Thì ra cô ta xả thân cứu mình, bất giác nước mắt chàng ứa ra, chảy dài xuống má.

Mạc Đại tiên sinh than:

– Vị Nhậm đại tiểu thư này tuy xuất thân Ma giáo nhưng đối xử với huynh đệ hết lòng hết dạ, khiến người ta phải cảm phục. Trong Thiếu Lâm, bốn tên đại đệ tử Tân Quốc Lương, Dịch Quốc Tử, Hoàng Quốc Bách, Giác Nguyệt thiền sư đều bị giết dưới tay cô ta. Cô ta lại đến Thiếu Lâm là chẳng mong sống nữa, nhưng vì cứu huynh đệ, cô ta… cô ta hoàn toàn không thiết đến mạng sống của mình. Phương Chứng đại sư không muốn giết cô ta là vì lẽ đó, nhưng cũng không thể thả cô ta, cho nên đem cô ta giam cầm trong sơn động sau chùa Thiếu Lâm. Thuộc hạ của Nhậm đại tiểu thư biết bao nhiêu là người đủ hạng Tam sơn, Ngũ nhạc dĩ nhiên ai cũng muốn đi cứu cô ta ra. Nghe nói mấy tháng nay chùa Thiếu Lâm không một ngày yên ổn, người bắt được ít nhất cũng khoảng một trăm.

Lệnh Hồ Xung quá cảm kích, không bình tĩnh được. Một lúc lâu sau mới hỏi:

– Mạc sư bá, sư bá nói mọi người tranh nhau làm thủ lĩnh, nên tự đánh nhau tới long trời lở đất. Chuyện đó ra sao?

Mạc Đại tiên sinh thở dài, đáp:

– Những nhân vật bàng môn tả đạo, bình thường ngoài nghe hiệu lệnh của Nhậm đại tiểu thư ra thì ai ai cũng cuồng vọng tự đại, hiếu chiến ngông nghênh, không ai chịu phục ai. Lần này lên chùa Thiếu Lâm cứu người, mọi người đều biết Thiếu Lâm là cội nguồn của võ học trong thiên hạ, tình thế rất là gay cấn, huống chi nếu đơn độc xông vào chùa thì không ai quay trở về được cho nên mọi người nói phải có người đứng ra tập hợp số đông để kết minh cùng đi. Đã kết minh thì phải có một minh chủ. Nghe nói mấy ngày nay vì tranh đoạt địa vị minh chủ, có nhiều người đã động thủ, chết có bị thương cũng có, thật đã tổn thất không ít người, Lệnh Hồ lão đệ, ta thấy chỉ có lão đệ mau đi ngay mới có thể chế ngự được bọn chúng. Lão đệ nói cái gì thì không ai dám trái lời. Ha ha, ha ha!

Mạc Đại tiên sinh cười như vậy khiến mặt Lệnh Hồ Xung đỏ cả lên. Chàng biết lão nói không sai, nhưng quần hào có phục mình thì cũng chẳng qua là nể mặt Doanh Doanh, nếu sau này Doanh Doanh biết được cô ta sẽ rất giận. Đột nhiên chàng động tâm nghĩ: Doanh Doanh đối với ta tình thâm nghĩa trọng, nhưng ngoài mặt cô ta vẫn lạnh lùng vì sợ người khác chọc ghẹo, nói cô ta đối với ta là “hoa rơi hữu ý” mà ta lại là “nước chảy vô tình”. Ta phải báo đáp tấm lòng tốt của cô ta, cần phải làm cho bọn hán tử trên giang hồ đồn rằng Lệnh Hồ Xung ta có tình thâm với Nhậm đại tiểu thư, vì cô ta mà không màng tính mạng. Ta phải một mình xông vào chùa Thiếu Lâm, có thể cứu được cô ta ra thì tốt, nếu cứu không được thì cũng phải làm náo động để mọi người biết đến.

Lệnh Hồ Xung bèn nói:

– Hai vị sư bá Định Nhàn, Định Dật phái Hằng Sơn đã lên chùa Thiếu Lâm để thỉnh cầu phương trượng Thiếu Lâm, xin phương trượng thả vị Nhậm tiểu thư này ra để tránh khỏi nạn kiếp đại động máu chảy can qua.

Mạc Đại tiên sinh gật đầu nói:

– Thảo nào, thảo nào! Ta vẫn thấy làm lạ, Định Nhàn sư thái là người tài trọng lão thành như vậy sao lại để các ni cô, cô nương bầu bạn với người, mà chính bà lại đi con đường khác. Thì ra, bà vì lão đệ mà đi làm thuyết khách.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Mạc sư bá, tiểu điệt đã biết chuyện này, trong lòng lo lắng vô cùng, hận không mọc cánh để bay lên chùa Thiếu Lâm xem kết quả thỉnh cầu của hai vị sư thái thế nào. Nhưng những sư muội sư tỷ phái Hằng Sơn đều là hạng nữ lưu, nếu giữa đường gặp chuyện gì bất trắc thì thật là khó.

Mạc Đại tiên sinh nói:

– Lão đệ cứ đi đi!

Lệnh Hồ Xung vui mừng nói:

– Tiểu điệt đi trước được chứ?

Mạc Đại tiên sinh không đáp, lão cầm cây đàn hồ cầm để dựa bên chân bàn gảy lên tình tang.

Lệnh Hồ Xung biết lão nói như vậy nghĩa là lão đã đồng ý chăm sóc bọn đệ tử phái Hằng Sơn. Vị Mạc sư bá này võ công, kiến thức đều phi phàm, bất luận lão ra mặt hay âm thầm bảo vệ thì phái Hằng Sơn không có gì đáng lo nữa. Chàng liền cúi đầu hành lễ, nói:

– Cảm tạ đại đức của Mạc sư bá.

Mạc Đại tiên sinh cười nói:

– Ngũ Nhạc kiếm phái đồng khí liên chi. Ta giúp phái Hằng Sơn trong lúc ngặt nghèo mà lão đệ đa tạ cái gì? Vị Nhậm đại tiểu thư đó mà biết được chỉ e ăn phải ớt cay.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Tiểu điệt xin cáo từ. Các vị sư tỷ sư muội phái Hằng Sơn làm phiền Mạc sư bá trông nom giúp.

Lệnh Hồ Xung ra khỏi điếm.

Chàng dừng bước nhìn ra sông thấy ánh đèn xuyên qua từ trong cửa sổ một chiếc thuyền phản chiếu lên mặt sông Hán Thủy thành một vệt sáng vàng rung rinh lấp lánh. Phía sau, trong tửu điếm, tiếng đàn của Mạc Đại tiên sinh trầm xuống dần, trong đêm tĩnh mịch nghe rất buồn thảm.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.