Hồi 34: Xem đồ hình chợt mất niềm tin

Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi, không hiểu do đâu công lực trong mấy tháng vừa qua lại tiến nhanh đến nỗi kiếm đâm sâu vào vách đá ngập đến tận chuôi. Nội lực trên lưỡi kiếm phải cao thâm đến bậc nào mới có thể sử kiếm đâm vào đá như đâm vào cây mục chứ? Cả sư phụ sư nương cũng chưa chắc sử kiếm được như vậy. Chàng ngây người một lúc rồi rút lưỡi kiếm ra, có cảm giác như vách đá này rất mỏng, chỉ dày khoảng hai ba tấc là đến khoảng không, sau vách đá là một hang động.

Lệnh Hồ Xung nổi tính hiếu kỳ, liền vung kiếm đâm thêm một nhát nữa. Cách một tiếng, lưỡi kiếm gãy làm hai. Thì ra lần này hắn vận nội kình không đủ, ngay cả vách đá khoảng hai ba tấc cũng không cách nào đâm xuyên qua được. Hắn chửi tục một câu, ra ngoài động ôm lấy một tảng đá to vận lực ném vào vách đá. Tảng đá ném thật mạnh, sau vách đá nghe loáng thoáng có tiếng động truyền đến, hiển nhiên ở sau là một khoảng không khá rộng. Hắn vận nội lực ném tiếp, bỗng nghe đùng một tiếng, tảng đá bay xuyên qua vách đá rớt xuống nghe tiếng lạch cạch không dứt, hình như tảng đá không ngừng lăn đi.

Lệnh Hồ Xung phát hiện sau vách đá còn có một cái động khác, trong thoáng chốc nỗi phiền muộn chất chứa đầy lòng đều tan mất. Chàng lại đi bê đá ném vào mấy lần nữa, vách đá bị thủng một lỗ lớn, có thể chui đầu qua. Chàng lại bê đá ném thêm lên vách đá cho cái lỗ rộng ra rồi đốt lửa lên, chui sang. Hóa ra bên trong là một cái hang hẹp. Lúc chàng cúi đầu nhìn, đột nhiên toàn thân toát mồ hôi. Dưới chân có một bộ xương khô nằm đó.

Tình cảnh này vượt quá sức liệu đoán. Chàng định thần lại, nghĩ thầm: Lẽ nào đây là ngôi mộ cổ của tiền nhân? Nhưng sao bộ xương này không nằm ngay mà lại phủ phục xuống như thế này? Nhìn kiểu dáng bộ xương như vậy thì cái hang nhỏ hẹp này quyết không phải là lối vào nhà mồ.

Lệnh Hồ Xung cúi xuống nhìn bộ xương, thấy áo của người chết đã mục nát hết, bên bộ xương còn đặt hai cây búa to phản chiếu ánh sáng khi ánh lửa rọi vào.

Lệnh Hồ Xung nhặt cây búa lên, thấy nặng khoảng hơn bốn mươi cân. Chàng nhấc búa chém vào vách đá bên cạnh; cạch một tiếng, một tảng đá to rơi xuống. Chàng ngẩn người ra, nghĩ: Cây búa này bén như vậy, không phải là vật tầm thường, nhất định là khí giới của một vị tiền bối trong võ lâm.

Lệnh Hồ Xung lại thấy chỗ vết búa chém rất ngọt, ngoài ra, vách đá còn có nhiều vết đao, vết búa khác chém vào. Chàng tập trung suy nghĩ một lát, bất giác ngẩn người ra, rồi cầm đuốc theo con đường đi xuống. Trong hang đầy những vết búa chém, Lệnh Hồ Xung kinh hãi nghĩ: Thì ra hang này là do người dùng búa phá để mở đường ra. Đúng rồi, người này bị giam cầm trong lòng núi, nên dùng búa phá núi để thoát thân, nhưng không đủ sức, chỉ còn cách động vài tấc thì đã kiệt sức mà chết. Ôi, quả là số mệnh người này rất xui xẻo.

Chàng đi thêm mười trượng nữa, vẫn chưa tới đầu hang bên kia, lại nghĩ: Người này phá núi mở đường được thì chắc chắn nghị lực rất sắt đá, võ công rất cao cường, thật xưa nay hiếm có.

Bất giác chàng sinh lòng khâm phục. Chàng đi thêm vài bước nữa, thấy dưới đất có hai bộ xương khô, một bộ ngồi tựa vào vách, bộ kia nằm khoanh tròn lại. Lệnh Hồ Xung thầm nghĩ: Thì ra bị giam trong núi không phải chỉ có một người.

Lệnh Hồ Xung lại nghĩ: Nơi này là đất cấm của phái Hoa Sơn ta, người ngoài không dễ đến được. Chẳng lẽ các bộ xương này đều là các vị tiền bối vi phạm môn quy của phái Hoa Sơn bị giam cho đến chết ở đây?

Lệnh Hồ Xung đi thêm vài trượng rồi thuận đường quay người sang hướng trái. Trước mắt chàng hiện ra một thạch động rất lớn có thể chứa đủ một ngàn người, trong động lại có bảy bộ xương ngồi nằm khác nhau, bên cạnh bộ xương nào cũng có khí giới. Khí giới gồm một cặp thiết bài, một cặp phán quan bút, một cây thiết côn, một cây thục đồng côn, một thứ giống như lưỡi tầm sét, một thứ là thanh đao hai lưỡi có ba răng nhọn hoắt như răng chó sói, một thứ có lưỡi không giống đao cũng chẳng giống kiếm, xưa nay chàng chưa bao giờ gặp qua. Lệnh Hồ Xung nghĩ thầm: Những người sử dụng các thứ khí giới kỳ lạ và người sử dụng hai cây búa quyết không phải là đệ tử của bổn môn.

Cách đó không xa, dưới đất có khoảng mười thanh trường kiếm. Lệnh Hồ Xung nhặt lên một thanh, thấy cây kiếm ngắn hơn kiếm thường nhưng lưỡi lại lớn gấp đôi, cầm nghe rất nặng. Chàng nghĩ: Đây là kiếm của phái Thái Sơn.

Lệnh Hồ Xung xem một thanh khác thấy nhẹ và mềm, chính là khí giới của phái Hằng Sơn; có thanh hình bán nguyệt, là một trong ba loại trường kiếm mà phái Hành Sơn sử dụng; có thanh lưỡi không có sống, mũi kiếm rất nhọn và vô cùng sắc bén, là thứ khí giới mà vài vị tiền bối của phái Tung Sơn thích dùng. Còn ba thanh kiếm kia xem chiều dài, độ nặng chính là kiếm của bổn môn. Chàng càng lúc càng hoang mang: Tại sao ở đây có nhiều khí giới của Ngũ Nhạc kiếm phái?

Lệnh Hồ Xung cầm đuốc soi bốn vách động, chỉ thấy trên vách đá bên phải cách mặt đất mấy trượng có một tảng đá lớn giống như một cái bệ, trên vách có khắc mười sáu chữ lớn:

Ngũ Nhạc kiếm phái

Vô sỉ hạ lưu

Tỉ võ bất thắng

Ám toán hại nhân

Tạm dịch là:

Than ôi, Ngũ Nhạc kiếm phái

Toàn quân vô sỉ, hạ lưu

Đánh nhau đã không thủ thắng

Ngấm ngầm dùng mẹo hại người

Bốn chữ xếp thành một hàng, tất cả có bốn hàng, mỗi chữ dài hơn một thước được khắc sâu vào vách đá. Người xưa đã dùng thứ khí giới cực kỳ bén nhọn để khắc, vết khắc sâu đến mấy tấc. Mười sáu chữ này trông rất oai phong, tựa hồ như bạt kiếm giương cung. Lại thấy bên cạnh mười sáu chữ lớn khắc vô số chữ nhỏ, nào là: “Đê hèn vô lại; thật đáng sỉ nhục; khiếp nhược; hèn hạ…” toàn là những câu nguyền rủa hoặc thóa mạ. Lệnh Hồ Xung xem xong, tức cành hông, nghĩ bụng: Thì ra những người này bị Ngũ Nhạc kiếm phái ta giam cầm ở đây. Họ quá phẫn uất, không thể chửi cho ai nghe được bèn khắc lên vách đá những lời thóa mạ người khác. Hành động này mới đúng là quân đê hèn vô sỉ.

Chàng lại nghĩ tiếp: Không biết họ là người như thế nào? Đã là thù địch với Ngũ Nhạc kiếm phái tất chẳng phải người tốt lành gì.

Lúc Lệnh Hồ Xung cầm đuốc rọi lên vách đá còn thấy khắc một hàng chữ: “Phạm Tùng, Triệu Hạt phá kiếm pháp Hằng Sơn ở đây”. Bên hàng chữ này có vô số đồ hình: cứ hai người là một đồ hình, một người sử kiếm còn người kia sử búa. Chỉ đếm sơ qua, ít nhất cũng có năm sáu trăm đồ hình, hiển nhiên là người sử búa đang phá giải kiếm pháp của người sử kiếm.

Bên cạnh những đồ hình lại xuất hiện một hàng chữ: “Trương Thừa Vân, Trương Thừa Phong tận phá Hoa Sơn kiếm pháp”. Lệnh Hồ Xung đùng đùng nổi giận, chửi thầm: Quả là bọn chuột nhắt vô liêm sỉ, to gan ngông cuồng! Kiếm pháp Hoa Sơn ta tinh vi ảo diệu, trong thiên hạ mấy ai có thể chống đỡ được, một chữ “phá” cũng không dám nói, càng không có ai dám nói hai chữ “tận phá” bao giờ.

Chàng lượm thanh trường kiếm của phái Thái Sơn lên, vận nội lực để chém bạt hàng chữ xấc láo này. Choang một tiếng, tia lửa văng tung tóe, chữ “tận” bị chém mất một góc, nhưng từ nhát kiếm này, chàng nhận ra vách đá vô cùng cứng rắn, muốn xóa những đồ hình và chữ khắc trên vách đá dù có lợi khí cũng không dễ xóa được.

Lệnh Hồ Xung định thần lại, nhìn hàng chữ bên đồ hình. Hình người sử kiếm tuy chỉ được phác họa vài nét rất sơ sài, nhưng cũng có thể nhận ra chính là chiêu Hữu phụng lai nghi thuộc kiếm pháp căn bản của bổn môn; thế kiếm bay lượn phát ra nhẹ nhàng linh động. Chiêu này đang chiết giải với hình người trong tay cầm một thứ khí giới thẳng đuột, không biết nó là côn hay là trường mâu. Thứ khí giới thẳng đuột này chỉ vào mũi kiếm của đối phương với tư thế chậm chạp dị thường. Lệnh Hồ Xung lạnh lùng cười hề hề, thầm nghĩ: Chiêu Hữu phụng lai nghi này của bổn môn còn ẩn giấu năm tuyệt chiêu nữa, chiêu thức vụng về của ngươi làm sao có thể phá giải được?

Nhưng chàng xem lại hình người trong bức đồ hình cầm khí giới thẳng đuột giống như cây côn đang thuận thế phóng vào mũi kiếm của người ra chiêu Hữu phụng lai nghi. Chiêu Hữu phụng lai nghi cứ một chiêu thì có năm chiêu kế tiếp nhưng cây côn của người kia dường như tiềm ẩn đến sáu bảy chiêu kế tiếp, rất có khả năng đối phó với những chiêu tiếp theo của Hữu phụng lai nghi.

Lệnh Hồ Xung chăm chú nhìn những nét khắc sơ sài tạc hình người giao đấu, vừa sợ hãi vừa kỳ dị, nghĩ: Chiêu Hữu phụng lai nghi của bổn môn, chiêu số rất tầm thường nhưng uy lực rất lợi hại; địch thủ biết mà đỡ gạt né tránh thì không sao, nếu họ cố gắng chiết giải tất sẽ thất bại. Nhưng chiêu côn kia của đối phương thực sự có thể phá được chiêu Hữu phụng lai nghi của phái ta. Đây… đây… đây…

Lệnh Hồ Xung từ chỗ kinh hãi ngạc nhiên chuyển sang khâm phục, lòng không kìm được nỗi lo sợ. Chàng ngây người nhìn hai đồ hình này không biết bao lâu, bỗng nhiên cảm thấy tay phải đau rát. Thì ra bó đuốc đã cháy đến tận tay. Chàng vội liệng bó đuốc đi, nghĩ bụng: Bó đuốc đã cháy hết rồi, trong động tối đen như mực.

Lệnh Hồ Xung vội chạy đến trước động, lấy mười mấy nhánh tùng khô làm đuốc rồi chạy vào trong động, đốt lửa lên. Chàng vẫn nhìn hai hình người này rồi nghĩ thầm: Nếu công lực của người sử côn kia tương đương với người sử kiếm của bổn môn thì người sử kiếm của bổn môn không khéo sẽ bị thương mất. Nếu công lực của đối phương cao hơn thì lúc hai thứ khí giới giao nhau, người sử kiếm bổn môn lập tức mất mạng ngay. Chiêu Hữu phụng lai nghi của phái ta… đích thực đã bị người ta phá rồi, không còn nghi ngờ gì nữa.

Lệnh Hồ Xung nghiêng đầu nhìn đồ hình thứ hai, thấy người sử kiếm của bổn môn sử chiêu Thương tùng nghênh khách. Tinh thần chàng chấn động. Năm xưa, Lệnh Hồ Xung luyện chiêu này mất một tháng mới xong, trở thành một tuyệt chiêu lúc lâm địch. Chàng có chút hoảng sợ, chỉ e chiêu này lại bị người phá giải được. Chàng nhìn hình người sử côn lại thấy trong tay y có đến năm cây côn phân ra đánh vào năm bộ vị dưới hạ bàn của hình người sử kiếm. Lệnh Hồ Xung ngây người ra hỏi: Sao lại có đến năm cây côn? Nhưng khi xem kỹ tư thế của hình người sử côn, hắn liền hiểu ra: Đây không phải là năm cây côn mà vì trong nháy mắt y liên tục phóng ra năm phát nhắm vào năm chỗ trong hạ bàn của đối phương. Nhưng y nhanh ta cũng nhanh, chưa chắc kịp phóng ra liên tiếp năm côn được đâu. Chiêu Thương tùng nghênh khách chắc y phá giải không nổi.

Chàng đang ra chiều tự đắc, bỗng nhiên lại ngẩn người ra rồi tự hỏi: Nếu y không liên tục xuất ra năm côn mà chỉ đánh một côn vào một phương vị nào đó thì ta làm sao né tránh đây?

Lệnh Hồ Xung nhặt một thanh trường kiếm của bổn môn, sử chiêu Thương tùng nghênh khách, lại xem kỹ đồ hình trên vách đá, tưởng tượng bị côn của đối phương đánh đến. Nếu biết được đối phương đánh vào chỗ nào thì tự mình có cách để đối phó, nhưng cây côn của đối phương có thể đánh vào bất kỳ bộ vị nào cũng được, lúc đó trường kiếm của mình đã đâm ra ngoài thì chắc thu về không kịp. Trừ khi chiêu kiếm này phóng ra đâm chết đối phương trước, nếu không thì hạ bàn của mình tất bị đánh trúng. Nhưng đối phương đã là cao thủ, há có thể hy vọng một kiếm mà đâm chết được sao? Nhìn thấy thế địch nhân hạ thấp vai xuống, chân bước tới thì nhất định trong đường tơ kẽ tóc, sẽ né được chiêu kiếm của mình. Chiêu kiếm này mà bị đối phương né được rồi phản công lại thì không thể tránh vào đâu được. Như vậy tuyệt chiêu Thương tùng nghênh khách của phái Hoa Sơn há không phải đã bị người phá được rồi sao?

Lệnh Hồ Xung hồi tưởng lại ba lần ra chiêu Thương tùng nghênh khách đều thủ thắng. Nếu đối phương thấy đồ hình trên vách đá, biết dùng chiêu này mà phản kích, dù sử côn, sử thương, sử mâu, sử gậy thì mình cũng đã mất mạng rồi, còn đâu thằng Lệnh Hồ Xung tồn tại trên thế gian này nữa?

Lệnh Hồ Xung càng nghĩ càng kinh hãi, trán toát mồ hôi hột, lẩm bẩm: Không phải, không phải. Nếu chiêu Thương tùng nghênh khách thật sự có cách phá giải như thế này thì sao sư phụ không biết? Sao sư phụ không cho ta biết trước?

Đối với chiêu Thương tùng nghênh khách, chàng rất tinh thục yếu quyết song nhìn thấy hình người sử năm cây côn cực kỳ lợi hại, tuy trên vách chỉ vẽ hình năm cây côn rất ngắn nhưng mỗi cây lại dường như đánh mạnh vào đùi, vào chân.

Chàng lại xem phía dưới, thấy vách đá khắc toàn những tuyệt chiêu của bổn môn mà đối phương cũng sử toàn chiêu cực kỳ xảo diệu hiểm ác để phá. Lệnh Hồ Xung càng xem càng sợ hãi. Lúc xem đến chiêu Vô biên lạc mộc thấy cây côn của đối phương phản chiêu yếu ớt như không có chút sức lực nào, chỉ thủ chứ không công, bất giác chàng thở phào một cái rồi nghĩ: Chiêu này ngươi phá không được rồi.

Lệnh Hồ Xung nhớ lại tháng chạp năm ngoái, sư phụ thấy tuyết rơi phất phơ nhiều nên rất cao hứng, bèn tập hợp bọn đệ tử lại để giảng luận về kiếm pháp. Sau cùng, sư phụ thi triển chiêu Vô biên lạc mộc, chiêu kiếm của sư phụ rất thần tốc, đường kiếm lấp loáng trên không giống như những đóa hoa tuyết tung bay, ngay cả đến sư nương cũng vỗ tay khen ngợi. Bà nói: “Sư ca, tiểu muội chịu phục sư ca chiêu kiếm này rồi; phái Hoa Sơn phải có sư ca làm chưởng môn nhân là đúng rồi”. Sư phụ cười nói: “Người đứng đầu phái Hoa Sơn phải dựa vào đức chứ không dựa vào lực, chưa chắc sử được một chiêu kiếm thuần thục như vậy thì có thể làm được chưởng môn nhân”. Sư nương cười nói: “Xấu hổ quá! Đức hạnh của sư ca cao hơn tiểu muội sao?” Sư phụ cười cười không nói nữa. Sư nương hiếm khi chịu phục ai, thường thích cùng với sư phụ tranh thắng, thế mà bà phải phục chiêu Vô biên lạc mộc thì phải biết nó lợi hại biết chừng nào. Sau đó, sư phụ giảng giải chiêu thức này được đặt tên từ một câu trong Đường thi, gọi là Vô biên lạc mộc gì gì đó, sư phụ có đọc qua nhưng chàng không nhớ rõ. Lá trên trăm ngàn cây cổ thụ rơi xuống bay chầm chậm trong gió, chiêu kiếm pháp này hầu như chiếu cố đến cả bốn phương tám hướng.

Chàng lại nhìn tiếp hình người sử côn nhưng thấy y đứng ở tư thế co rúm trông rất khó coi, chiêu số cũng chẳng ra chương pháp nào cả. Lệnh Hồ Xung cảm thấy nực cười. Bỗng nhiên, nét mặt đang tươi cười của chàng sựng lại; hắn thấy lạnh đến tận xương tủy. Lệnh Hồ Xung nhìn chằm chằm vào cây côn trong tay người đó, càng nhìn càng cảm thấy đầu côn ra chiêu cực kỳ xảo diệu. Chiêu Vô biên lạc mộc phóng ra chín chiêu, mười chiêu, mười một, mười hai chiêu; mỗi thế kiếm đều nhằm đâm vào côn. Ngược lại, cây côn này lúc mới nhìn qua thấy ra chiêu rất vụng về, nhìn kỹ lại rất xảo diệu; hình người trông yếu ớt nhưng thực ra rất mạnh mẽ. Người sử côn dùng cách lấy tĩnh chế động, lấy cái vụng về chế cái tinh xảo.

Trong chốc lát, niềm tin của chàng đối với võ công bổn phái hoàn toàn mất hết. Lệnh Hồ Xung cảm thấy dù mình có luyện được kiếm thuật bổn môn tinh diệu bằng sư phụ mà gặp phải người sử côn này cũng chẳng khác gì bị người khác cột tay trói chân không còn cách gì để kháng cự, vậy thì kiếm thuật của bổn môn có học đến đâu cũng vô dụng thôi. Chẳng lẽ kiếm thuật của phái Hoa Sơn thực không thể chống nổi một đòn của đối phương sao? Trước mắt, những bộ xương ở trong động đã mục rã lâu rồi, ít nhất cũng ba bốn chục năm, vậy mà sao đến nay Ngũ Nhạc kiếm phái vẫn còn xưng hùng trên giang hồ, chưa từng nghe nói đến kiếm pháp của một phái nào bị người khác phá giải? Nhưng nếu nói những đồ hình trên vách đá chẳng qua chỉ là đấu nhau trên giấy thì cũng không phải. Để xem kiếm pháp của phái Tung Sơn có bị người khác phá hay không. Nhưng chàng biết rõ kiếm pháp phái Hoa Sơn nếu bất ngờ gặp phải những chiêu số cực kỳ cao minh của đối phương thì cũng chỉ còn con đường thất bại mà thôi.

Lệnh Hồ Xung như bị ai điểm trúng huyệt đạo. Chàng đứng trơ bất động, từng ý nghĩ xuất hiện rồi lại tan biến ngay. Không biết trải qua bao lâu, bỗng nghe tiếng người gọi:

– Đại sư ca, đại sư ca! Đại sư ca đang ở đâu vậy?

Lệnh Hồ Xung giật mình, từ trong thạch động vội chạy ra con đường hẹp rồi chui qua lỗ hổng, trở lại sơn động của mình. Nghe tiếng Lục Đại Hữu từ ngoài sườn núi vọng lại, Lệnh Hồ Xung từ trong động chạy ra, đi vòng về phía sau sườn núi đến tảng đá lớn, ngồi xếp bằng ngay ngắn rồi nói:

– Ta đang ngồi luyện công ở đây. Lục sư đệ, có chuyện gì vậy?

Lục Đại Hữu nghe tiếng liền chạy đến, vui mừng nói:

– Đại sư ca ở đây ư? Tiểu đệ đem cơm lên cho đại sư ca đây.

Lệnh Hồ Xung quan sát các chiêu số trên vách đá từ lúc bình minh. Chàng để hết tâm trí vào các bức đồ hình, không biết thời gian trôi qua nhanh, bây giờ đã sau giờ Ngọ rồi. Sơn động là nơi chàng đến để tĩnh tâm ăn năn sám hối tội lỗi của mình; Lục Đại Hữu không dám tự tiện đi vào. Sơn động này rất hẹp, vừa nhìn không thấy Lệnh Hồ Xung ở trong, gã liền đến bên sườn núi tìm kiếm.

Lệnh Hồ Xung thấy trên trán của Lục Đại Hữu có dán một miếng thuốc lớn, máu rỉ ra thấm qua miếng thuốc dán, rõ ràng là gã bị thương không nhẹ, vội hỏi:

– Ui chao! Mặt mũi sư đệ bị sao vậy?

Lục Đại Hữu nói:

– Sáng nay tiểu đệ luyện kiếm không cẩn thận, lúc rút kiếm lại lỡ rạch một đường, thật đáng xấu hổ.

Lệnh Hồ Xung thấy vẻ mặt của gã vừa xấu hổ vừa tức giận, đoán rằng có lý do khác, bèn nói:

– Lục sư đệ, sư đệ bị thương ra sao? Chẳng lẽ ngay cả ta, sư đệ cũng muốn nói dối sao?

Lục Đại Hữu đùng đùng nổi giận nói:

– Đại sư ca, tiểu đệ đâu dám nói dối đại sư ca, chỉ vì sợ đại sư ca nổi nóng nên không dám nói thật mà thôi.

Lệnh Hồ Xung lấy làm lạ. Sư huynh sư đệ trong bổn môn xưa nay đối với nhau rất hòa nhã, không bao giờ có chuyện đánh lộn hoặc tỉ đấu đến đổ máu. Lẽ nào có địch nhân bên ngoài lên núi?

Lệnh Hồ Xung nói:

– Ai đã làm cho sư đệ bị thương?

Lục Đại Hữu nói:

– Sáng nay, tiểu đệ và Lâm sư đệ luyện kiếm. Hắn mới vừa học xong chiêu Hữu phụng lai nghi, tiểu đệ sơ ý bị hắn vạch kiếm lên mặt làm bị thương.

Lệnh Hồ Xung nói:

– Bọn sư huynh sư đệ tập dượt kiếm pháp với nhau, gặp lúc lỡ tay làm bị thương là chuyện bình thường, không nên để bụng làm gì. Lâm sư đệ mới học kiếm pháp nên thu phát chiêu chưa theo ý muốn, trách hắn làm sao được, chắc tại Lục sư đệ vô ý mà thôi. Uy lực của chiêu Hữu phụng lai nghi không nhỏ, phải cẩn thận ứng phó mới được.

Lục Đại Hữu nói:

– Đúng vậy, nhưng tiểu đệ làm sao ngờ được… Gã họ Lâm nhập môn mới được vài tháng mà đã luyện được chiêu Hữu phụng lai nghi; còn tiểu đệ bái sư đã trên năm năm rồi, sư phụ mới bảo đại sư ca truyền cho tiểu đệ một chiêu.

Lệnh Hồ Xung hơi sững sờ, lòng nghĩ Lâm sư đệ mới nhập môn mấy tháng mà đã được học xong chiêu Hữu phụng lai nghi thì quả là hắn tiến bộ quá nhanh. Nếu không phải trời phú cho hắn thông minh tài trí hơn người, hắn chưa học xong căn bản đã cầu sự thành đạt nhanh như vậy thì ngày sau sẽ rất tai hại cho việc luyện công. Không biết tại sao sư phụ lại truyền cho hắn nhanh như vậy?

Lục Đại Hữu lại nói:

– Tiểu đệ thấy chiêu này thì giật mình kinh hãi liền bị hắn đả thương. Đã vậy tiểu sư muội còn đứng bên cạnh vỗ tay reo lên: “Lục hầu nhi, ngay cả đồ đệ của tiểu muội mà Lục sư ca cũng đánh không lại, sau này còn dám ra oai trước mặt tiểu muội nữa không?” Gã tiểu tử họ Lâm đó tự biết mình có lỗi nên chạy đến định buộc vết thương cho tiểu đệ liền bị tiểu đệ đá cho lộn nhào. Tiểu sư muội giận nói: “Lục hầu nhi, người ta có lòng tốt muốn băng bó vết thương cho Lục sư ca, sao Lục sư ca lại đánh người ta? Phải chăng Lục sư ca thẹn quá mà hóa giận?” Đại sư ca, thì ra tiểu sư muội lén lút truyền cho hắn chiêu Hữu phụng lai nghi này.

Lệnh Hồ Xung nghe đến đây, lòng đau như cắt. Chiêu Hữu phụng lai nghi này rất khó luyện vì nó biến hóa rất phức tạp, lại tiềm tàng nhiều bí quyết. Tiểu sư muội đã dạy Lâm sư đệ chiêu kiếm pháp này nhất định cô rất hao tâm tổn sức, mất nhiều công phu. Hóa ra những ngày cô ta không lên núi là những ngày ở gần Lâm sư đệ.

Bản tính Nhạc Linh San hiếu động, không bao giờ chịu nhẫn nại làm những chuyện tỉ mỉ. Cô ta lại cương cường hiếu thắng, tự luyện kiếm cho mình thì được còn muốn dạy cho ai thì người đó khó mà mong được cô ta hết lòng chỉ điểm. Vậy mà bây giờ, cô lại đem chiêu Hữu phụng lai nghi biến hóa phức tạp truyền cho Lâm Bình Chi đủ biết cô ta yêu mến gã sư đệ này biết chừng nào. Trải qua một lúc lâu, Lệnh Hồ Xung mới bình tĩnh lại, thản nhiên hỏi:

– Sư đệ sao lại đi luyện kiếm với Lâm sư đệ?

Lục Đại Hữu đáp:

– Ngày hôm qua, tiểu đệ và đại sư ca nói với nhau mấy câu đó, tiểu sư muội có vẻ không vui, dọc đường xuống núi cô ta cứ cằn nhằn tiểu đệ, sáng sớm hôm nay lại kéo tiểu đệ đi cùng với Lâm sư đệ chiết chiêu. Tiểu đệ không chút cảnh giác, cứ nghĩ chiết chiêu là chuyện bình thường. Nào ngờ tiểu sư muội ngấm ngầm dạy cho tên tiểu tử họ Lâm mấy tuyệt chiêu; tiểu đệ ra tay sơ ý bị trúng đòn hại ngầm của hắn.

Lệnh Hồ Xung càng nghe càng hiểu rõ mọi chuyện. Nhất định là trong những ngày này, Nhạc Linh San và Lâm Bình Chi rất thân thiết với nhau mà Lục Đại Hữu lại rất yêu mến mình nên gã thấy chướng mắt; không kìm được giận đã thốt ra những lời châm chọc, thậm chí còn sinh sự nhục mạ Lâm Bình Chi. Chàng bèn hỏi:

– Sư đệ thóa mạ Lâm sư đệ mấy lần rồi phải không?

Lục Đại Hữu hằn học đáp:

– Tiểu đệ không chửi cái thứ mặt trắng đê tiện vô liêm sỉ đó thì còn chửi ai? Hắn thấy tiểu đệ thì sợ lắm; tiểu đệ chửi hắn, hắn không bao giờ dám mở miệng cãi lại, vừa thấy tiểu đệ liền lủi đi chỗ khác. Không ngờ tên tiểu tử này lại thâm hiểm như vậy. Hừ, hắn thì có được mấy hơi, nếu không có tiểu sư muội đứng sau lưng làm hậu thuẫn thì tên tiểu tử này làm sao đả thương tiểu đệ nổi?

Lệnh Hồ Xung lúc này đau khổ, tức giận đến cùng cực. Chàng nhớ lại chiêu côn chuyên đả phá tuyệt chiêu Hữu phụng lai nghi khắc trên vách đá trong hậu động, liền lượm một cành cây dưới đất, tiện tay đưa ra một tư thế ra hiệu, định truyền lại chiêu này cho Lục Đại Hữu. Nhưng chàng lại chuyển ý, nghĩ bụng: Lục sư đệ đang căm hận tên tiểu tử họ Lâm. Nếu lục sư đệ ra chiêu nhất định sẽ làm gã họ Lâm bị trọng thương; sư phụ và sư nương sẽ truy xét ra thì cả mình và Lục sư đệ nhất định sẽ bị trừng phạt nặng. Chuyện này vạn lần không thể làm được.

Lệnh Hồ Xung liền nói:

– Một lần thất bại, một lần khôn ra, về sau đừng mắc bẫy hắn nữa là yên thân. Mình là sư huynh sư đệ với nhau, lúc cùng nhau chiết chiêu, những chuyện thắng bại nho nhỏ đừng để bụng làm gì.

Lục Đại Hữu nói:

– Đúng. Nhưng đại sư ca ơi, tiểu đệ có thể không để bụng, còn đại sư ca… đại sư ca lại có thể làm ngơ được sao?

Lệnh Hồ Xung biết gã nói đến chuyện Nhạc Linh San, lại cảm thấy trong lòng quặn đau dữ dội, da mặt co rúm lại.

Lục Đại Hữu vừa nói ra liền biết câu nói của mình đã khiến cho đại sư ca đau lòng. Gã cuống quýt:

– Tiểu đệ… tiểu đệ đã nói sai rồi.

Lệnh Hồ Xung cầm tay gã ôn tồn nói:

– Lục sư đệ đâu có nói sai. Sao ta có thể làm ngơ được? Nhưng… nhưng…

Chàng ngừng một lát rồi nói tiếp:

– Lục sư đệ! Từ nay về sau, chúng ta đừng đề cập đến chuyện này nữa.

Lục Đại Hữu nói:

– Dạ! Đại sư ca, đại sư ca đã từng dạy cho tiểu đệ chiêu Hữu phụng lai nghi này rồi, nhưng lúc đó tiểu đệ không chú ý lắm nên mới bị mắc bẫy của tiểu tử họ Lâm. Tiểu đệ nhất định dụng hết tâm sức luyện cho thật giỏi, thật tinh thông để tiểu tử này biết đại sư ca dạy giỏi hay tiểu sư muội dạy giỏi.

Lệnh Hồ Xung cười đau đớn, nói:

– Ha ha, chiêu Hữu phụng lai nghi đó thực ra chẳng là cái cóc gì cả.

Lục Đại Hữu thấy tinh thần của Lệnh Hồ Xung suy sụp thì cho rằng tại tiểu sư muội lãnh đạm nên đại sư ca đâm ra buồn chán. Gã không dám nói thêm gì nữa, bày cơm rượu chờ Lệnh Hồ Xung ăn xong rồi thu dọn cáo từ xuống núi.

Lệnh Hồ Xung nhắm mắt dưỡng thần một lúc, rồi đốt một cành thông, đến hậu động xem tiếp những chiêu kiếm trên vách đá. Lúc đầu, chàng chỉ nghĩ đến chuyện Nhạc Linh San truyền thụ kiếm thuật cho Lâm Bình Chi nên không thể chú tâm đến các đồ hình trên vách đá được, những nét khắc sơ sài vạch thành hình người trên vách tựa hồ từng hình đều hóa thành Nhạc Linh San và Lâm Bình Chi. Một người đang dạy, một người đang học, vẻ mặt họ rất tình tứ. Trước mắt Lệnh Hồ Xung cứ thấp thoáng tướng mạo tuấn tú của Lâm Bình Chi, bất giác chàng thở dài, nghĩ bụng: Tướng mạo Lâm sư đệ vốn tuấn tú hơn ta gấp mười lần, tuổi lại nhỏ hơn ta khá nhiều và chỉ lớn hơn tiểu sư muội một hai tuổi, hèn gì hai người dễ thân nhau đến như vậy.

Đột nhiên, Lệnh Hồ Xung bỗng chăm chú nhìn người sử kiếm trong đồ hình trên vách xuất ra một chiêu kiếm. Người sử kiếm từ tư thế vận kình lực, đường chiêu kiếm đi, lại giống hệt chiêu Vô song vô đối Ninh thị nhất kiếm của Nhạc phu nhân. Lệnh Hồ Xung giật mình kinh hãi, nghĩ bụng: Chiêu kiếm này là do sư nương ta sáng chế, sao trên vách đá lại sớm có người khắc ra? Chuyện này quả thật cổ quái.

Lệnh Hồ Xung quan sát tỉ mỉ đồ hình, mới phát hiện những chiêu trên vách đá có chỗ khác biệt những chiêu kiếm của Nhạc phu nhân sáng chế ra. Chiêu kiếm trên vách đá nội lực hùng hậu mà giản dị, không khoe khoang, hiển nhiên là do đàn ông xuất chiêu, đúng là những chiêu kiếm không giống như chiêu thức của Nhạc phu nhân vì còn ngấm ngầm ẩn tàng vô số những biến hóa về sau. Bởi vì nó đơn giản nên càng lợi hại. Lệnh Hồ Xung gật đầu lẩm bẩm: Chiêu kiếm do sư nương ta sáng chế cũng trùng với kiếm ý của tiền nhân. Điều này cũng không có gì lạ vì cả hai cũng lấy kiếm pháp Hoa Sơn làm căn bản mà biến hóa ra, công lực và trí tuệ của hai người này chẳng kém nhau bao nhiêu, tất nhiên trong cách sáng chế chiêu thức phải khác nhau chút ít.

Chàng lại nghĩ tiếp: Nếu nói như vậy thì những chiêu kiếm trên vách đá có rất nhiều điểm mà ngay cả sư phụ và sư nương đều không biết. Chẳng lẽ sư phụ lại chưa học hết những kiếm pháp cao thâm của bổn môn?

Chàng thấy cây côn trong tay đối thủ điểm thẳng tới, đầu côn điểm chuẩn xác vào mũi kiếm, cả kiếm và côn hợp thành một đường thẳng.

Lệnh Hồ Xung vừa thấy đường thẳng này không kìm chế được, phải la hoảng lên:

– Không xong rồi!

Cây đuốc trong tay rơi xuống đất, trong động tối thui. Chàng hoảng sợ vô cùng, tự hỏi: Phải làm sao đây? Phải làm sao đây?

Lệnh Hồ Xung nhìn rất rõ từng côn từng kiếm chạm nhau; côn cứng mà kiếm thì mềm, đôi bên lại vận toàn lực thì trường kiếm chắc sẽ gãy đôi. Kình lực của đôi bên đều liên miên bất tuyệt; cây côn thừa thế đâm thẳng tới, còn hậu kình trên kiếm sẽ đánh phản lại chính mình mà không có cách nào phá giải được.

Trong đầu Lệnh Hồ Xung lại lóe lên một ý nghĩ: Có thật là không có cách nào phá giải được sao? Cũng chưa chắc đâu. Lưỡi kiếm bị gãy, còn cây côn của đối phương phóng nhanh đến thì chỉ còn cách liệng cây kiếm gãy đi mà quỳ phục xuống, nếu không thì nằm xoài về phía trước mới có thể tránh được thế đánh của côn. Nhưng sư phụ và sư nương đều là những kiếm thuật danh gia, có địa vị lẫy lừng liệu có thể chịu làm tư thế đó không? Tất nhiên họ thà chết chứ không chịu nhục, ôi, thất bại thê thảm! Thất bại thê thảm rồi!

Một lúc lâu sau, Lệnh Hồ Xung lấy đao và đá đánh lửa đốt đuốc lên, lại tiếp tục quan sát vách đá, chỉ thấy kiếm càng xuất càng kỳ diệu, càng lúc càng tinh thâm, mấy chục chiêu sau biến ảo khôn cùng, kỳ bí vô phương. Nhưng bất luận chiêu kiếm lợi hại ra sao, cây côn của đối phương vẫn có cách chế ngự. Đồ hình kiếm pháp của phái Hoa Sơn ở khắp nơi đều khắc hình người sử kiếm liệng trường kiếm đi mà quỳ gối phủ phục trước mặt người sử côn. Bao nhiêu căm phẫn trong lòng Lệnh Hồ Xung đều tan biến, chỉ còn lại một nỗi buồn man mác. Tuy hắn cảm thấy đồ hình người sử côn đầy sự kiêu ngạo khinh bạc, nhưng kiếm pháp của phái Hoa Sơn bị tận phá sạch sành sanh không còn cách gì để tranh hùng nữa là sự thực một trăm phần trăm không còn nghi ngờ nữa.

Tối hôm đó, Lệnh Hồ Xung đi quanh quẩn tới lui không biết bao nhiêu lần. Trong đời mình, chưa bao giờ chàng bị hụt hẫng trầm trọng như vậy. Chàng nghĩ thầm: Phái Hoa Sơn ta được liệt vào Ngũ Nhạc kiếm phái, là một danh môn chánh phái tiếng tăm lẫy lừng từ lâu trong võ lâm mà sao võ công lại tệ hại như vậy? Trên vách đá, ít nhất có đến hơn một trăm chiêu kiếm ngay cả sư phụ và sư nương cũng chưa biết đến, nhưng giả sử có luyện kiếm pháp của bổn môn cao thâm đến đâu thì bản thân sư phụ cũng thua kém xa, như vậy thì còn dùng làm được gì nữa? Chỉ cần đối phương biết cách phá giải thì ngay cả đệ nhất cao thủ của bổn môn cũng phải liệng kiếm đầu hàng; nếu không chịu thua thì chỉ còn tự sát mà thôi.

Lệnh Hồ Xung đi lại loanh quanh càng thấy lo lắng khổ não. Cây đuốc đã tắt rụi. Không biết trải qua bao lâu, chàng lại đốt cây đuốc khác, nhìn hình người quỳ gối đầu hàng, càng nghĩ càng tức giận, vung trường kiếm lên đâm thẳng vào vách đá, nhưng khi mũi kiếm vừa đụng đến vách đá, chàng bỗng nghĩ: Bậc đại trượng phu phải quang minh lỗi lạc, thua thì chịu thua, thắng thì bảo thắng. Phái Hoa Sơn ta đã không bằng người thì còn gì để nói nữa? Chàng bèn liệng trường kiếm, thở dài.

Chàng lại đi xem những đồ hình khác trên vách đá, thấy kiếm pháp của bốn phái Tung Sơn, Hành Sơn, Thái Sơn, Hằng Sơn cũng hoàn toàn bị đối thủ phá sạch, không thể cứu vãn nổi, sau cùng cũng quỳ xuống đầu hàng.

Lệnh Hồ Xung ở sư môn đã lâu ngày nên hiểu biết rất rộng, chiêu kiếm của các phái tuy chàng không hiểu rõ chỗ tinh thâm nhưng những điều cốt yếu đều đã được nghe qua. Vách tường bên phải khắc những chiêu kiếm của bổn phái không có chiêu nào là không cao minh lợi hại nhưng mỗi chiêu rốt cuộc cũng bị đối phương phá sạch.

Ngoài sự kinh hãi, lòng Lệnh Hồ Xung còn tràn ngập mối nghi ngờ: Lai lịch của Phạm Tùng, Triệu Hạt, Trương Thừa Phong, Trương Thừa Vân thế nào? Sao họ lại nghĩ ra được mà khắc lên vách đá những cách phá giải các loại kiếm pháp của Ngũ Nhạc kiếm phái, mà mình lại chưa từng nghe người trong võ lâm nói tới họ? Sao Ngũ Nhạc kiếm phái ta lại giữ được oai danh cho đến ngày nay?

Lệnh Hồ Xung nhận thấy Ngũ Nhạc kiếm phái ngày nay vẫn còn oai danh lừng lẫy, thực không có chút gì là giả dối để lừa thiên hạ. Trong Ngũ Nhạc kiếm phái mấy nghìn người từ sư trưởng đến đệ tử sở dĩ có thể đứng vững được trong võ lâm hoàn toàn là nhờ các đồ hình trên vách đá chưa bị bại lộ ra ngoài. Chàng lại nghĩ: Sao ta không giơ búa lên chém vào các đồ hình trên vách đá để xóa hết đi, không để lại một vết tích gì trên thế gian này? Như vậy sẽ làm cho oai danh của Ngũ Nhạc kiếm phái được bảo toàn, cứ coi như trước nay ta chưa phát hiện ra hậu động này là được.

Lệnh Hồ Xung quay người nhặt cây búa to lên, xoay lại đứng trước vách đá. Nhưng khi xem đến những chiêu số kỳ diệu trên vách thì lại không nỡ phá đi. Chàng trầm ngâm một hồi rồi lớn tiếng nói:

– Lệnh Hồ Xung đâu phải là kẻ có thể làm những hành vi đê tiện vô liêm sỉ này.

Bỗng nhiên chàng lại nghĩ đến vị tiên sinh mặc áo bào xanh bịt mặt: Kiếm thuật của người đó cao thâm như vậy, chắc có liên quan đến các đồ hình trong động này. Người này là ai? Người này là ai?

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.