Qua mùa thu, rồi lại hết mùa đông, ngày tháng trôi dần. Lý Văn Tú học tiếng Cáp Tát Khắc, và biết bao nhiêu chuyện của vùng thảo nguyên.
Ông già biết cất những loại rượu vừa nồng, vừa thơm mà đàn ông Cáp Tát Khắc thì thích uống rượu mạnh. Ông già cũng biết chữa bệnh tật cho bò cừu ngựa, nhiều con người Cáp Tát Khắc không chữa được đem đến ông đều chữa khỏi. Bò cừu ngựa chẳng khác nào tính mệnh của người Cáp Tát Khắc, tuy họ không thích người Hán nhưng không có ông không được, nên đành đem bò cừu đến đổi lấy rượu vừa thơm vừa nồng của ông, hay nhờ ông chữa bệnh cho súc vật.
Những căn lều của người Cáp Tát Khắc di chuyển khắp bốn hướng đông tây nam bắc trên thảo nguyên. Kế lão có khi di chuyển theo họ, có khi thì ở lại túp lều tranh, đợi họ quay lại.
Một buổi tối, Lý Văn Tú lại nghe thấy tiếng chim thiên linh hót, thấy tiếng hót mỗi lúc một xa, lúc có lúc không, mỗi lần gió đưa tới thì nghe được, rồi lại không thấy gì. Lý Văn Tú ngồi dậy khoác áo, ra đằng sau dắt con ngựa trắng, sợ làm ông lão tỉnh dậy, dẫn con ngựa đi ra xa lúc ấy mới lên yên, lần theo tiếng chim hót đi tới.
Trên thảo nguyên ban đêm, bầu trời thật cao thật xanh, các vì sao lấp lánh, mùi cỏ và mùi hoa thơm ngát. Tiếng chim hót thật rộn ràng, thật uyển chuyển, lại thật tình tứ. Lý Văn Tú nghe tiếng chim mừng rỡ, xuống ngựa để cho con vật tự do ăn cỏ. Cô bé nằm ngửa mặt lên trời, đắm mình theo tiếng chim hót.
Con chim thiên linh hót một hồi lại bay xa vài trượng. Lý Văn Tú ở dưới đi lần theo, nghe thấy cả tiếng chim vỗ cánh, nhìn thấy cả thân hình nho nhỏ màu vàng nhạt của nó, thấy nó mổ dưới đất kiếm ăn. Con chim mổ mấy nhát lại bay tới một đoạn, lại cắm cúi mổ thức ăn.
Con chim kiếm mồi thật mải mê, đột nhiên nghe sạch một tiếng, dưới cỏ nhảy lên một vật gì đen xì, chụp luôn con chim thiên linh lại. Lý Văn Tú thất thanh kêu lên, lẫn trong tiếng kêu của nó có tiếng một đứa trẻ khác hò reo, từ trong đám cỏ cao nhảy ra một đứa bé trai Cáp Tát Khắc, đắc ý kêu lên:
– Bắt được rồi, bắt được rồi.
Nó lấy áo ngoài bao con chim thiên linh lại, con chim kinh hoảng kêu chiêm chiếp, nghe tiếng vang ra thật thảm thiết. Lý Văn Tú vừa kinh hãi vừa tức tối, kêu lên:
– Ngươi làm gì thế?
Đứa con trai đáp:
– Ta bắt chim thiên linh, ngươi cũng bắt nó à?
Lý Văn Tú hỏi lại:
– Bắt nó làm gì? Sao không để cho nó vui vẻ hót cho mình nghe?
Đứa con trai đáp:
– Bắt về chơi.
Nó đưa tay vào trong chiếc áo khoác, khi lôi ra trong tay đã có một con chim màu vàng nhạt nằm gọn trong đó. Con chim cố sức vùng vẫy nhưng làm sao thoát ra khỏi tay thằng bé được?
Lý Văn Tú nói:
– Tha nó ra đi, ngươi không thấy nó đáng thương sao?
Thằng bé đáp:
– Tao rắc gạo thành một đường dài dụ cho con chim theo vào. Ai bảo nó tham ăn gạo của tao? Ha ha.
Lý Văn Tú ngơ ngẩn, ở trên đời đây là lần đầu nó hiểu thế nào là “cạm bẫy”. Người ta biết chim thích ăn thóc gạo nên rắc ra để dụ nó đi vào tử lộ. Tuy nó còn nhỏ có biết đâu bao nhiêu nghìn năm qua, con người đã biết rằng “Chim tham ăn sa vào vòng lưới, Cá tham mồi mắc phải lưỡi câu”. Nó chỉ mang máng biết rằng cơ mưu con người thật gớm ghê, hiểu rằng “dẫn dụ” là một cách mà người ta khó mà thoát ra được. Dĩ nhiên nó chỉ hiểu rất mù mờ, không hiểu được bên trong còn những ý nghĩa gì.
Thằng bé nghịch con chim thiên linh khiến con vật bé bỏng kêu lên những tiếng thật thống khổ. Lý Văn Tú nói:
– Ngươi cho ta con chim đi, có được không?
Thằng bé hỏi lại:
– Thế ngươi trả cho ta cái gì?
Lý Văn Tú thò tay vào túi sờ thử, nó chẳng có gì hết, không khỏi bối rối, nghĩ ra một chuyện bèn nói:
– Để ngày mai ta may cho ngươi một cái túi thật đẹp ngươi đeo, được không?
Thằng nhỏ kia cười:
– Ta đâu có ngu thế, ngày mai ngươi trây ra không đưa thì sao?
Lý Văn Tú mặt đỏ lên nói:
– Ta đã nói là cho ngươi thể nào cũng đưa, sao lại trây ra bao giờ.
Đứa con trai lắc đầu:
– Ta không tin.
Dưới ánh trăng, nó thấy cổ tay Lý Văn Tú đeo một cái vòng ngọc sáng lấp lánh, buột miệng hỏi:
– Trừ khi ngươi cho ta cái vòng kia.
Cái vòng đó là mẹ nó cho nó, ngoài cái vòng ra không còn một kỷ niệm nào khác của mẹ cả. Nó không muốn cho nhưng thấy con chim thật đáng thương, nên đành tháo chiếc vòng đưa cho thằng bé nói:
– Cho mày đó.
Thằng nhỏ không ngờ con bé bằng lòng, cầm chiếc vòng, hỏi lại:
– Ngươi không đòi lại đấy chứ?
Lý Văn Tú đáp:
– Không.
Đứa con trai nói:
– Được.
Nói xong đưa con chim thiên linh cho Lý Văn Tú. Lý Văn Tú hai tay ôm con chim, lòng bàn tay thấy con vật thật mềm mại, cả tiếng trái tim con chim giật giật. Nó lấy ba ngón tay phải vuốt ve nhè nhẹ lên bộ lông, rồi mở tay ra nói:
– Chim ơi, chim bay đi chim. Lần sao thì cẩn thận đừng để cho người ta bắt nữa nhé.
Con thiên linh xòe đôi cánh, bay vụt vào trong đám cỏ. Thằng bé thật lạ lùng, hỏi:
– Sao ngươi lại thả con chim ra? Ngươi đã chẳng đổi cái vòng ngọc đấy ư?
Y nắm chặt chiếc vòng, sợ Lý Văn Tú đòi lại. Lý Văn Tú đáp:
– Thả chim thiên linh bay đi cho nó hót nghe chẳng sướng hơn sao?
Thằng bé nghiêng đầu nhìn con bé một hồi hỏi thêm:
– Ngươi là ai?
Lý Văn Tú đáp:
– Ta tên Lý Văn Tú, còn ngươi?
Thằng bé đáp:
– Ta tên Tô Phổ.
Nói xong y nhảy lên há mồm kêu lên một tiếng thật lớn. Tô Phổ lớn hơn con bé hai tuổi, cao hơn nhiều, đứng nơi thảo nguyên trông cũng hiên ngang lắm. Lý Văn Tú nói:
– Ngươi khỏe lắm, có phải không?
Tô Phổ cực kỳ hứng chí, con bé này nói ra chính là điều y hãnh diện hơn cả. Y rút từ trong lưng ra một thanh đoản đao nói:
– Tháng trước ta dùng con dao này đâm chết một con chó sói, còn một con nữa chỉ tí xíu nữa là giết được nó, nhưng tiếc thay để nó chạy mất.
Lý Văn Tú cực kỳ kinh ngạc, hỏi:
– Ngươi giỏi thế ư?
Tô Phổ càng thêm đắc ý nói:
– Có hai con chó sói nửa đêm vào bắt cừu nhà ta, cha ta đi vắng, ta liền rút dao ra đuổi cho sói. Con sói lớn thấy ánh lửa chạy mất, ta dùng dao chém chết một con.
Lý Văn Tú hỏi lại:
– Ngươi giết chết con nhỏ ư?
Tô Phổ không hiểu ý, gật đầu, lại thêm một câu:
– Con sói lớn mà không chạy kịp, ta cũng sẽ đâm nó chết luôn.
Y tuy nói thế nhưng cũng biết mình không dễ gì làm nổi. Thế nhưng Lý Văn Tú thì tin ngay nói:
– Sói dữ đến cắn cừu, ngươi giết là phải. Kỳ sau ngươi giết được chó sói, đến gọi ta cho ta coi, có được không?
Tô Phổ mừng lắm nói:
– Được chứ! Để khi nào ta giết được chó sói, ta sẽ lột da tặng cho ngươi.
Lý Văn Tú nói:
– Cám ơn ngươi nhiều lắm, ta sẽ làm cho gia gia một chiếc nệm bằng da chó sói. Cái nệm của ông, ông cho ta rồi.
Tô Phổ đáp:
– Không được! Ta cho ngươi thì để ngươi dùng. Ngươi đem trả lại cái nệm ông ngươi cho ngươi.
Lý Văn Tú gật đầu:
– Thế cũng được.
Trong lòng hai đứa trẻ, những việc trong tương lai tuy chưa xảy ra nhưng cũng chẳng khác gì đã có rồi. Hai đứa mới nói tới việc giết chó sói nhưng đã tưởng như đã giết được con ác lang rồi.
Từ đó hai đứa trẻ làm bạn với nhau. Đứa con trai Cáp Tát Khắc tính tình khoáng đạt, cùng với đứa con gái người Hán ôn nhu hiền hậu thật là hòa hài. Mấy hôm sau, Lý Văn Tú may một cái bao nhỏ, để đầy bỏng rang đem cho Tô Phổ. Món quà đó quả thật thằng bé không ngờ đến, y đem con chim đổi được cái vòng đã thấy được lợi biết bao nhiêu. Người Cáp Tát Khắc tính tình chính trực, thấy vậy có điều không công bằng nên sau một đêm không ngủ, y rình ngoài thảo nguyên bắt được hai con chim thiên linh, sáng hôm sau hí hửng đem cho Lý Văn Tú. Hành vi khẳng khái đó thật không phải, Lý Văn Tú phải nói mãi thằng nhỏ mới hiểu được rằng cô bé chỉ muốn chim thiên linh tự do tự tại, chứ không muốn bắt nó để chơi. Sau cùng Tô Phổ hiểu ra nhưng vẫn thấy dường như cái thiện tâm của nàng có điều hơi ngốc nghếch, thật là tức cười.
Ngày lại ngày trôi qua, hình bóng cha mẹ hiện ra trong giấc mơ của Lý Văn Tú, mỗi lúc một thưa dần. Nước mắt cũng không còn đầm đìa trên gối như trước nữa. Trên khuôn mặt đã thêm nét tươi vui, khóe miệng cũng hay véo von ca hát. Mỗi khi cô gái đi chăn cừu cùng Tô Phổ, trên thảo nguyên hai đứa thường nghe thanh niên nam nữ hát những bản tình ca đối đáp với nhau. Lý Văn Tú thấy những bài hát này ý tứ triền miên thật dễ nghe, nghe mãi cũng nhập tâm thuận miệng cũng hát theo. Dĩ nhiên nó chưa hiểu những bài ca đó ra thế nào, tại sao một người con trai lại mê say một người con gái? Làm sao một người con gái lại đắm đuối xiêu lòng vì một người con trai? Làm sao tiếng chân người tình lại khiến cho trái tim đập thình thịch? Làm sao một tấm thân yểu điệu lại khiến người khác không ngủ được? Nàng cứ thấy người khác hát sao thì hát theo như vậy, rồi lại nghe người ta xì xầm: “Con bé đó hát hay quá, có khác gì con chim thiên linh trên vùng thảo nguyên đâu?”.
Đến mùa đông khí trời lạnh lẽo, chim thiên linh bay về phương nam ấm áp nhưng trên đồng cỏ vùng sa mạc, tiếng hát của Lý Văn Tú vẫn tiếp tục vang lên:
Hỡi nàng mục nữ yêu kiều,
Đến nay nàng đã bao nhiêu tuổi rồi?
Nửa đêm lẻ bóng xa xôi,
Sao em không để cho tôi đi cùng?
Hỡi nàng nàng ơi!
Tiếng ca tới đây ngừng lại, ai ai nghe xong cũng phải nhủ thầm: “Nghe tiếng hát véo von thế này, có ai không muốn làm bạn cùng nàng đâu?”. Một lát sau tiếng nàng lại vang lên:
Ai kia chớ có bẽ bàng,
Người hay kẻ dở biết chàng là ai?
Bao giờ rẫy cỏ trồng hoa,
Lều tranh một mái đôi ta chung tình.
Hỡi chàng chàng ơi!
Người nào nghe tiếng hát lòng cũng đều nở hoa, dù cho trái tim giá lạnh, hoang lương đến mấy cũng không khỏi dậy lên một nỗi ấm áp: “Nếu quả như một đôi tình nhân yêu nhau ở chung một mái nhà, biến đồng cỏ thành vườn hoa thì còn ai giận ai cho nổi?”. Người già thấy mình trẻ lại đến hai chục tuổi, còn người trẻ trong lòng bừng lên một niềm vui nhưng người hát những bản tình ca kia là Lý Văn Tú thì lại chẳng hiểu gì.
Người nghe nàng hát nhiều hơn cả dĩ nhiên là Tô Phổ. Y cũng không hiểu hết ý tứ trong những bản tình ca đồng nội cho đến một hôm trên đồng tuyết hai đứa gặp một con sói dữ.
Con chó sói đến thật bất ngờ. Lý Văn Tú và Tô Phổ hai đứa đang ngồi cạnh nhau trên một cái đồi nhỏ, chăm chăm canh bầy cừu đang rải rác trên thảo nguyên. Nếu như lúc bình thường, Lý Văn Tú đã kể truyện cổ tích cho y nghe. Những truyện đó có truyện thì mẹ nàng kể cho nghe, có truyện thì Kế lão kể cho nghe, cũng có truyện thì nàng tự đặt ra.. Tô Phổ thích nghe nhất là những truyện vào sinh ra tử của ông già họ Kế, còn chán nhất là nghe những truyện trẻ con do Lý Văn Tú bịa ra, nhưng những truyện hung hiểm kia đã kể đi kể lại mấy lần rồi, chẳng còn thấy gì ly kỳ nữa, nó chỉ đành lẳng lặng ngồi nghe Lý Văn Tú kể những chuyện đại loại như con thỏ trắng đi tìm mẹ được con chó con giúp đỡ ra sao. Ngay lúc đó, Lý Văn Tú “A” lên một tiếng, nhảy vọt về sau, một con chó sói to lớn màu xám đang xông tới nhe răng ngoạm vào cổ nó.
Con chó sói từ phía sau lẳng lặng tới tấn công, hai đứa trẻ không đứa nào phát giác kịp. Lý Văn Tú đã được mẹ dạy cho chút ít võ công nên tự nhiên né đầu qua, tránh được hàm răng con chó sói cắn vào cổ. Tô Phổ thấy con chó sói đó to lớn, sợ đến chân nhũn ra, nhưng lập tức nghĩ ngay: “Thể nào mình cũng phải cứu nó”. Y rút ngay con dao đeo nơi lưng, xông tới đâm một nhát vào lưng con dã thú.
Con sói xám đó thật là cứng cáp, con dao đâm vào lưng nó chỉ làm nó bị thương bên ngoài da. Thế nhưng con chó sói cũng thấy được nguy cơ, bỏ Lý Văn Tú, há chiếc mồm đỏ như máu, bất thần nhảy lên, hai chân chồm vào vai Tô Phổ, rồi ngoạm vào mặt thằng bé.
Tô Phổ kinh hãi, ngã ngửa về phía sau. Con chó sói nhanh như điện, hai chân liền nhào vào đè nó xuống, hàm răng trắng nhởn táp luôn vào mặt. Lý Văn Tú cực kỳ hoảng sợ nhưng cố thu hết dũng khí, nắm đuôi con vật kéo ra. Con sói xám bị nàng giật ngược phải chùn lại một bước nhưng nó đói đã lâu, hai chân sau liền ghì xuống đất, khiến Lý Văn Tú không sao kéo thêm được nữa, rồi nó lại há mồm ngoạm tới.
Tô Phổ kêu lên một tiếng thất thanh, con sói dữ đã cắn trúng vai nó. Lý Văn Tú sợ hãi đến muốn bật khóc, đem hết sức bình sinh kéo mạnh. Con vật bị đau rú lên, những chiếc răng nhọn đang ngoạm vào vai Tô Phổ lập tức nhả ra. Tô Phổ mơ mơ hồ hồ đâm mạnh một dao, may sao trúng ngay chỗ da thịt mềm nơi bụng con sói, sâu lút tận cán. Y đang định rút dao đâm thêm, con sài lang đã nhảy vọt lên, lăn lộn mấy cái trên mặt tuyết, chổng chân lên trời nằm chết.
Con sói dãy giụa khiến cho Lý Văn Tú cũng lộn tùng phèo vì nó vẫn nắm đuôi con vật không chịu bỏ ra. Tô Phổ gượng đứng lên, thấy con dã thú to lớn kia nằm chết trên mặt tuyết, không khỏi lặng người, một lát sau mới mừng rỡ kêu lên:
– Ta giết được con chó sói rồi, ta giết được con chó sói rồi.
Y cực kỳ đắc ý, tuy đầu vai máu vẫn chảy ròng ròng nhưng ngay lúc đó chưa thấy đau. Lý Văn Tú thấy chiếc áo lông cừu của y một bên ướt đẫm máu, vội vàng cởi ra, lấy trong túi ra chiếc khăn tay, rịt vào vết thương đang máu tuôn xối xả, hỏi:
– Có đau lắm không?
Tô Phổ vẫn còn tính trẻ con, đau muốn mở mồm khóc được nhưng lúc này cảm thấy mình anh hùng quá, bặm môi lắc đầu:
– Ta không sợ đau.
Ngay khi đó từ phía sau có tiếng người hỏi:
– A Phổ, ngươi đang làm gì thế?
Hai đứa trẻ quay đầu lại thấy một người đàn ông mặt đầy râu ria đang ngồi trên mình ngựa. Tô Phổ kêu lên:
– Cha, cha xem này, con giết được một con sói lớn.
Người đàn ông mừng lắm, xoay mình nhảy xuống thấy con mình mặt đầy những máu, lại đưa mắt nhìn sang Lý Văn Tú, hỏi Tô Phổ:
– Ngươi bị chó sói cắn ư?
Tô Phổ đáp:
– Con đang ngồi đây nghe A Tú kể truyện cổ, bỗng con chó sói này tới cắn nó…
Đột nhiên người đàn ông kia mặt bỗng sầm xuống, nhìn Lý Văn Tú khinh khỉnh hỏi:
– Có phải ngươi là đứa con gái người Hán bị Chúa phạt đó không?
Lúc này Lý Văn Tú cũng đã nhận ra y, chính là gã Tô Lỗ Khắc đá nó một cái khi trước. Con bé nhớ tới lời của Kế lão từng nói: “Vợ y, con trai lớn của y trong một đêm bị cường đạo người Hán giết hại, cho nên y thù ghét người Hán đấy thôi”.
Lý Văn Tú gật đầu, đang định nói: “Cha tôi, mẹ tôi cũng bị bọn giặc kia giết đó”. Nàng chưa kịp nói, nghe một tiếng vút, má Tô Phổ bị cha dùng roi vụt một cái, hiện lên một lằn dàu, sưng tấy lên ngay. Tô Lỗ Khắc quát lớn:
– Ta bảo ngươi truyền đời này kiếp khác, lúc nào cũng phải thù ghét người Hán, ngươi quên lời ta đi chơi với con bé người Hán, lại còn xả mệnh đổ máu vì nó nữa.
Vụt một tiếng nữa, y lại quất thêm một roi lên đầu con. Tô Phổ không tránh né chỉ đứng ngơ ngơ ngẩn ngẩn nhìn Lý Văn Tú, hỏi lại:
– Nó là người Hán bị Chúa phạt đấy ư?
Tô Lỗ Khắc rống lên:
– Không lẽ không phải sao?
Y giơ roi quay lại vụt một cái ngay mặt Lý Văn Tú. Lý Văn Tú lùi lại hai bước, giơ tay ôm mặt. Tô Phổ vốn đã bị chó sói cắn bị thương khá nặng, lại bị đánh thêm hai roi không còn chịu nổi nữa, lảo đảo rồi ngã lăn ra.
Tô Lỗ Khắc thấy nó hai mắt nhắm nghiền, nằm ngất đi, kinh hãi quá vội vàng nhảy xuống ngựa, ôm con lên, rồi nhảy vọt lên rơi xuống đúng ngay lưng ngựa, vung cái thòng lọng ra buộc ngay vào cổ con chó sói chết, hai chân thúc một cái, giục ngựa chạy đi. Con chó sói bị kéo theo sau ngựa thành một vệt dài trên mặt tuyết, giữa hai hàng vết chân, còn thêm một giòng máu đỏ chảy dài. Tô Lỗ Khắc chạy được mươi trượng, quay lại hầm hầm nhìn Lý Văn Tú, đôi mắt đầy oán thù dường như muốn nói: “Kỳ sau mà mày còn gặp ta thì ta sẽ cho mày biết tay”.
Lý Văn Tú không sợ đôi mắt kia nhưng sao trong lòng trống trải, biết rằng từ nay về sau Tô Phổ không còn có thể làm bạn với nó, cũng chẳng còn bao giờ nghe nó hát, nghe nó kể truyện nữa. Con bé thấy gió bấc càng thêm lạnh không chịu nổi, vết roi trên mặt giật giật liên hồi, mỗi lúc một thêm đau rát.
Con bé lặng lẽ lùa cừu quay về. Kế lão thấy quần áo đứa nhỏ đầy những máu, trên mặt lại sưng vù vết roi, không khỏi kinh sợ, hỏi chuyện đầu đuôi. Lý Văn Tú chỉ thản nhiên trả lời:
– Tại cháu vô ý bị ngã.
Kế lão dĩ nhiên không tin, gặng hỏi thêm, nhưng Lý Văn Tú chỉ một mực trả lời như thế. Mãi về sau con bé mới khóc òa lên, nhưng một câu cũng không nói.
Buổi tối hôm đó, Lý Văn Tú lên cơn sốt, khuôn mặt trái xoan đỏ bừng, nói mê sảng lung tung, nào là “con sói xám” rồi kêu lên:” Tô Phổ, Tô Phổ, mau cứu ta”, lúc thì “người Hán bị Chúa phạt”. Kế lão cũng đoán ra được vài phần, trong bụng thật là lo lắng. Cũng may đến sáng thì cơn sốt lui dần, Lý Văn Tú nằm ngủ thiếp đi.
Cơn bệnh đó kéo dài đến hơn một tháng, đến lúc nó dậy được thì mùa đông đã qua, trên dãy Thiên Sơn tuyết đã bắt đầu tan, từng giòng từng giòng nước chảy xuống thành những con suối nhỏ tràn xuống đồng cỏ. Trên cánh đồng đã xuất hiện những mầm cỏ li ti. Sáng hôm đó, Lý Văn Tú dậy sớm, mở cửa bước ra định lùa bầy cừu ra chăn trên đồng cỏ, thấy ngay trước cửa để một bộ da sói thật lớn, đã cắt thành một chiếc mền. Lý Văn Tú giật mình sửng sốt, nhìn lại màu da, chính là da con sói xám cắn nó hôm trước trên bãi tuyết. Cô gái lật bộ da lên xem, quả nhiên dưới da bụng có vết dao đâm. Tim cô gái đập thình thình, biết rằng Tô Phổ không quên nó, cũng không quên lời đã hứa khi xưa, nửa đêm đem bộ da sói để ngay trước ngạch cửa. Con bé đem bộ da sói vào phòng, không nói gì cho Kế lão hay cả, lại lùa bầy cừu ra, đến nơi vẫn thường ngồi với Tô Phổ chờ bạn.
Thế nhưng nó đợi đến chiều tối, vẫn không thấy Tô Phổ ra. Cô bé cũng nhận ra bầy cừu của nhà Tô Phổ, hôm nay do một thanh niên mười bảy, mười tám đi chăn. Lý Văn Tú tự hỏi: “Hay là vết thương của Tô Phổ chưa lành? Thế nhưng sao y lại đem được bộ da sói đến nhà mình?”. Nó định đi tới khu lều da thăm y, nhưng lại sợ chiếc roi của Tô Lỗ Khắc.
Nửa đêm hôm đó, con bé thu hết dũng khí, đi đến đằng sau căn lều của Tô Phổ. Nó cũng không hiểu tại sao nó lại làm thế, hay là chỉ để nói một câu: “Cám ơn ngươi đã cho ta bộ da sói” chăng? Hay là để xem thằng bạn thương thế đã khỏi chưa? Chính nó cũng không nói lên được. Con bé nép vào sau căn lều. Đàn chó chăn cừu nhà Tô Phổ nhận ra nó, chỉ chạy đến đánh hơi rồi bỏ đi, không sủa tiếng nào. Trong lều vẫn còn ánh đèn mỡ bò, và tiếng ồm ồm quát tháo của Tô Lỗ Khắc vọng ra.
– Bộ da sói ngươi lấy cho đứa nào rồi? Mày giỏi thật, mới tí tuổi đầu đã biết đem cho đứa con gái mình yêu thương món quà săn đầu đời.
Mỗi lần y gầm thét, tim Lý Văn Tú lại nhói lên. Nó đã từng nghe Tô Phổ nói chuyện xưa có nói về tập tục của người Cáp Tát Khắc, thanh niên nào cũng bảo trọng món mình săn được lần đầu tiên, để đem đi tặng cho người con gái nào mình thương yêu biểu thị tình ý. Bây giờ nó nghe Tô Lỗ Khắc tra hỏi con trai, khuôn mặt nhỏ nhắn của nó đỏ bừng lên, trong lòng không khỏi đôi chút tự hào. Hai đứa tuổi còn nhỏ, không hiểu tình ái chân chính như thế nào, thế nhưng đều ngầm hiểu là cả hai đứa đều đã được hưởng niềm vui và nỗi đau của mối tình đầu.
– Có phải mày định đem đi tặng cho cái con tiện chủng người Hán bị Chúa phạt tên là Lý quái gì ấy phải không? Giỏi lắm, mày không nói, để xem mày có cứng đầu bằng cái roi của bố mày không?
Chỉ nghe vút vút vút liên hồi, tiếng roi quất lên da thịt người vọng ra. Tô Lỗ Khắc là hạng người Cáp Tát Khắc trước nay tin rằng “yêu cho roi cho vọt, con trẻ cần chịu đòn cho quen” dạy con không cần biện pháp ôn hòa. Ông nội y dùng roi dạy bố y, bố y dùng roi dạy y và nay y cũng roi vọt con y, yêu thương con nhưng không thể để chúng lờn. Đàn ông con trai với nhau, người thân thì cú đấm, ngọn roi còn kẻ địch thì đoản đao, trường kiếm. Thế nhưng với Lý Văn Tú, cha mẹ y không bao giờ nói nặng một câu, chỉ cần trên mặt thiếu một nụ cười, thiếu một câu vỗ về cũng đã là trách phạt rồi. Bây giờ mỗi roi cũng chẳng khác gì một lần đánh vào người nó: “Cha của Tô Phổ chắc là căm hận mình lắm nên mới hung ác đánh con như thế, không biết có đánh chết y không?”.
– Giỏi, mày không trả lời. Mày có trả lời hay không? Tao đoán mày định đem cho con bé người Hán chứ gì?
Tiếng roi vẫn liên tiếp đánh, Tô Phổ lúc đầu nghiến răng cố chịu đau, sau cùng khóc òa lên nói:
– Cha ơi, đừng đánh con, đừng đánh con nữa, con đau lắm, con đau lắm.
Tô Lỗ Khắc nói:
– À bây giờ mày chịu nói rồi. Có phải mày đem bộ da sói cho con bé người Hán rồi phải không? Mẹ mày chết vì tay bọn cướp người Hán, anh mày bị người Hán giết, mày có biết không? Mọi người gọi ta là Cáp Tát Khắc đệ nhất dũng sĩ, vậy mà vợ ta, con ta đều bị người Hán giết, mày có biết không? Sao hôm đó ta không có ở nhà? Sao ta không tìm được bọn ăn cướp, để ta báo thù cho mẹ mày anh mày?
Ngọn roi của Tô Lỗ Khắc lúc này không còn để dạy con nữa mà là để phát tiết cơn cuồng nộ. Mỗi lằn roi y đánh ra chẳng khác nào đánh vào kẻ địch – Sao bọn ăn cướp chó má kia không đến mặt đối mặt đánh với ta một trận mất còn? Ngươi có nói không? Không lẽ ta là đệ nhất dũng sĩ của Cáp Tát Khắc mà đánh không lại mấy tên giặc cỏ hay sao?…
Con y bị bọn Hoắc Nguyên Long, Trần Đạt Hải giết chết, là đứa con trai lớn y thương yêu nhất, người vợ bị chúng hối nhục mà chết là người bạn đời từ bé đến lớn sống với nhau. Còn y hai mươi năm qua, ai ai cũng bảo y là dũng sĩ số một của người Cáp Tát Khắc, dù đẩy cây, đấu quyền, đấu lực, cưỡi ngựa mọi thứ y chưa hề thua ai.
Lý Văn Tú thấy Tô Phổ bị cha đánh thật là tội nghiệp, mà tiếng thét căm hờn nghẹn ngào của Tô Lỗ Khắc cũng thật là thảm thiết: “Y đánh con hung ác thế, từ nay chắc không còn yêu thương gì Tô Phổ nữa. Y không còn đứa con, mà Tô Phổ cũng chẳng còn người cha. Cũng chỉ tại ta chẳng ra gì, hẳn là ta đúng là con bé người Hán bị Chúa phạt kia chẳng ra gì”. Đến lúc này nó thấy chính mình cũng thật đáng thương làm sao.
Con bé không còn dám nghe thêm tiếng khóc của Tô Phổ, chạy về đến nhà Kế lão, từ dưới tấm nệm lôi bộ da sói ra nhìn thật lâu, thật lâu. Nhà nó và căn lều của Tô Phổ cách nhau đến hơn hai dặm, nhưng sao dường như vẫn nghe văng vẳng tiếng khóc của thằng bạn lẫn tiếng roi của Tô Lỗ Khắc. Tuy nó rất thích bộ da sói nhưng bây giờ nó không còn muốn nữa. “Nếu như ta giữ tấm da sói này, Tô Phổ chắc bị cha đánh đến chết mất. Chỉ có con gái Cáp Tát Khắc hay con gái Y Tư Lan[3] mới được giữ tấm da này thôi. Con gái Cáp Tát Khắc có biết bao nhiêu người, cô nào là cô đẹp nhất? Ta thích tấm da này lắm, là con chó sói Tô Phổ giết được, chỉ vì cứu ta mà y liều mạng giết được sài lang. Tô Phổ tặng cho ta, có điều… có điều cha y đánh y chết mất…”.
Sáng sớm hôm sau, Tô Lỗ Khắc đôi mắt đỏ ngầu bước ra khỏi lều, bỗng nghe Xa Nhĩ Khố hát một bài sơn ca xí xa xí xố. Y nghiêng đầu nhìn Tô Lỗ Khắc, khuôn mặt gã đầy vẻ lạ kỳ, cười mủm mỉm, ánh mắt toát ra một vẻ thân thiện. Xa Nhĩ Khố là một dũng sĩ nổi danh của dân Cáp Tát Khắc, hàng nghìn dặm chung quanh còn nghe đến tài huấn phục ngựa hoang của y. Y chạy rất nhanh, có người nói rằng nội trong một dặm, dù ngựa tốt cách nào cũng không đuổi kịp được y, nếu hơn một dặm thì tuy ngựa có thắng cũng chỉ hơn y một cái mõm thôi. Mỗi khi những mục tử đốt lửa ngồi tán gẫu với nhau, nhiều người bảo rằng nếu như Xa Nhĩ Khố có cái mũi cao hơn một chút thì y đã thắng rồi.
Tô Lỗ Khắc và Xa Nhĩ Khố xưa nay vốn chẳng mấy ưa nhau. Tên tuổi của Tô Lỗ Khắc quá lớn, đánh đao, đánh quyền hai môn đều không ai địch nổi, Xa Nhĩ Khố trong lòng vẫn ngầm ghen ghét. Y nhỏ hơn Tô Lỗ Khắc sáu tuổi, có lần hai người đánh đao, Xa Nhĩ Khố thua, vai bị cắt một đường dài. Y nói:
– Hôm nay ta thua, nhưng năm năm nữa, mười năm nữa, mình đánh lại xem nào.
Tô Lỗ Khắc đáp:
– Để hai chục năm nữa mình tỉ thí lần nữa, lúc ấy ta không có nhẹ tay như thế này đâu.-
Hôm nay, Xa Nhĩ Khố vẻ mặt tươi cười, không có gì ra chiều thù nghịch cả, Tô Lỗ Khắc vẫn còn chưa hết cơn giận, hầm hầm nhìn y. Xa Nhĩ Khố cười nói:
– Lão Tô, con trai ngươi quả có mắt tinh đời.
Tô Lỗ Khắc hỏi lại:
– Ngươi nói Tô Phổ chăng?
Y giơ tay nắm chuôi dao, mắt lóe lên một vẻ hung bạo, nghĩ thầm: “Ngươi chế riễu con ta đem tấm da sói tặng cho con bé người Hán chứ gì?”. Xa Nhĩ Khố toan trả lời: “Nếu chẳng phải Tô Phổ thì ngươi còn đứa nào khác nữa sao?”. Nhưng câu đó không ra khỏi miệng, y chỉ mỉm cười nói:
– Dĩ nhiên là Tô Phổ. Thằng nhỏ đó mặt mũi dễ coi, lại nhanh nhẹn khéo léo, ta chịu nó lắm.
Làm cha có ai không thích người khác khen con mình, nhưng lúc này Tô Lỗ Khắc chỉ mỉa mai:
– Ngươi sành đời lắm nhỉ? Tiếc thay ngươi lại không có con trai.
Xa Nhĩ Khố không nổi nóng, chỉ cười:
– Con gái ta A Mạn cũng được lắm, nếu không sao con trai ngươi lại thích nó?
Tô Lỗ Khắc “Ồ” lên một tiếng, nói:
– Ngươi đừng có vơ vào, ai bảo con ta thích con A Mạn?
Xa Nhĩ Khố nắm tay Tô Lỗ Khắc, cười:
– Ngươi đi theo ta, ta cho ngươi xem cái này.
Tô Lỗ Khắc trong bụng ngạc nhiên, liền cùng đi. Xa Nhĩ Khố hỏi:
– Con trai ngươi hôm trước giết được một con chó sói xám lớn. Còn nhỏ như thế, quả thực là giỏi, mai này lớn lên, chắc cũng chẳng kém gì cha nó đâu? Cha anh hùng, con hảo hán.
Tô Lỗ Khắc không trả lời, cho rằng y đang định cho mình vào tròng nên thổi mình lên, nghĩ thầm: “Mình phải thật cẩn thận mới được”.
Hai người đi đến ba dặm trên thảo nguyên thì đến được lều của Xa Nhĩ Khố. Tô Lỗ Khắc từ xa đã thấy một tấm da sói treo ở bên ngoài căn lều. Y đi lại gần hơn, ồ, chẳng phải là da con sói xám Tô Phổ giết được thì là gì? Đây là con dã thú đầu đời của thằng con mình, y thoạt nhìn là nhận ra ngay. Y trong bụng hoang mang, nhưng lại vừa sung sướng, vừa bàng hoàng: “Ta trách A Phổ sai rồi, tối hôm qua ta đánh nó một trận thật đau, thì ra nó đem tấm da sói tặng cho A Mạn chứ không phải đem cho con bé người Hán. Thật đáng chết, sao nó lại không nói ra? Trẻ con hay thẹn nên không dám nói đấy mà. Nếu như mẹ nó còn sống, mẹ nó đã can ta ra rồi. Hừ, con có chuyện gì thể nào chả nói với mẹ…”
Xa Nhĩ Khố giơ bàn tay to lớn vỗ lên vai y một cái, nói:
– Uống vài bát rượu nhé.
Trong lều của Xa Nhĩ Khố vun vén thật là sạch sẽ, chung quanh treo đầy những tấm thảm bằng lông cừu dệt cảnh vật, hoa cỏ. Một cô gái thân hình yểu điệu mảnh mai bưng rượu lên. Xa Nhĩ Khố mỉm cười nói:
– A Mạn, đây là cha của Tô Phổ. Ngươi có sợ ông ấy không? Ông râu xồm này dữ tợn lắm đó.
A Mạn thẹn thùng mặt đỏ bừng trông càng xinh xắn, đôi mắt lóe lên một vẻ vui tươi, dường như định nói: “Con không sợ”. Tô Lỗ Khắc cười ha hả nói:
– Lão Xa, ta có nghe người ta nói là ngươi có cô con gái là đóa hoa hội tẩu lộ của thảo nguyên. Đúng thật, một đóa hoa hội tẩu lộ, người ta nói quả là hay.
Hai Hán tử mười năm nay gầm ghè nhau, bỗng dưng trở thành thân thiết, cùng nâng rượu mời nhau.
Tô lỗ Khắc uống đến say mèm, nằm gục lên yên ngựa về nhà
Một tấm thảm thêu một đại hán, tay cầm trường đao, chém một con báo, ở xa xa một con khác cúp đuôi bỏ chạy. Còn một tấm thêu hình một cậu trai, đâm chết một con chó sói xám lớn. Hai người một lớn một nhỏ, cả hai đều uy phong lẫm lẫm, trông thật hào hùng. Tô Lỗ Khắc vừa xem đã thật vui, tấm tắc luôn mồm:
– Dệt khéo quá, dệt khéo quá!
Thì ra đất Hồi Cương rất hiếm khi có báo, một năm nọ không biết từ đâu lạc đến một đôi tàn hại gia súc. Tô Lỗ Khắc đuổi theo chúng vào tận trong núi, chém chết một con báo lớn, còn một con bị thương chạy mất. Bây giờ y trông thấy A Mạn thêu trên tấm thảm sự kiện anh hùng nhất đời y, y làm gì mà không cao hứng.
Kỳ đó hai người lại uống một bữa thỏa thuê, người nằm mọp trên lưng ngựa quay về lần này là Xa Nhĩ Khố. Tô Lỗ Khắc sai con trai đưa y về tận nhà. Trong lều của Xa Nhĩ Khố, Tô Phổ thấy tấm da sói của mình. Y chưa hiểu vì sao tấm da đó lại ở đây thì A Mạn đã thẹn thùng đến cám ơn y. Tô Phổ ậm ừ vài câu, không biết nói sao cho phải, cũng không tiện truy vấn tại sao tấm da sói lại vào tay A Mạn. Ngày hôm sau, sáng sớm y đã lên cái gò nơi giết được con chó sói, mong gặp được Lý Văn Tú để hỏi cho ra. Thế nhưng hôm đó Lý Văn Tú không tới. Y đợi hai ngày liền đều chẳng được gì. Đến ngày thứ ba, y thu hết can đảm đến nhà Kế lão. Lý Văn Tú ra mở cửa, vừa gặp y đã nói:
– Từ rày trở đi, ta không muốn gặp ngươi nữa.
Rầm một tiếng, nàng đã đóng sập cửa, cài chặt then lại. Tô Phổ đứng ngơ ngẩn một hồi, lủi thủi quay về, trong lòng cảm thấy hết sức hoang mang: “Ôi, con gái người Hán thật lạ lùng, chẳng hiểu sao cả?”. Lẽ dĩ nhiên làm sao y biết được là Lý Văn Tú gục đầu sau cánh cửa khóc nức nở. Con bé khóc một hồi thật lâu. Cô gái vẫn muốn được cùng Tô Phổ chơi đùa, kể truyện cổ cho nhau nghe nhưng cũng biết rằng nếu như cha Tô Phổ biết được, y sẽ lại bị một trận đòn thật đau, có khi cha y đánh y chết không chừng.
Ngày lại ngày qua đi, gió của thảo nguyên, nước băng tuyết Thiên Sơn thổi ba đứa trẻ cao vọt lên biến chúng thành người lớn. Bông hoa hội tẩu lộ càng thêm lộng lẫy, còn đứa trẻ giết chó sói hôm nào nay đã thành một thanh niên anh tuấn. Còn con chim thiên linh của đồng cỏ ư, tiếng hát của nàng càng thêm dìu dặt ngọt ngào. Có điều bây giờ nàng ít hát hơn trước, chỉ những đêm khuya không có ai, ngồi một mình trên chiếc gò nhỏ nơi Tô Phổ giết con chó sói năm nào nàng mới cất tiếng lên. Nàng chẳng bao giờ quên được người bạn năm xưa, vẫn thường thấy chàng cùng A Mạn hai người cùng cưỡi ngựa đi chơi, có khi còn nghe hai người đối đáp, hát chung với nhau những khúc tình ca ý tứ triền miên.
Ý nghĩ của những bài hát đó bây giờ Lý Văn Tú đã hiểu cả rồi, bây giờ lại hiềm hiểu quá nhiều là khác. Nếu nàng cứ chưa hiểu như xưa có lẽ cũng bớt đau lòng, cũng bớt đi những đêm dài trằn trọc. Thế nhưng những gì trước kia chưa biết, một khi biết rồi, không bao giờ còn thể quay trở lại những ngày thơ ngây cũ.
Một buổi chiều mùa xuân, Lý Văn Tú cưỡi con ngựa trắng, một mình lên ngọn núi nhỏ nơi con sói bị giết. Màu vàng nhuộm trên con ngựa nay thôi hết, nay đã trở lại một màu trắng xóa chẳng khác gì tuyết trên đỉnh Thiên Sơn.
Nàng đứng trên gò cao, đăm đăm nhìn về hướng những túp lều của người Cáp Tát Khắc, nơi họ đang đốt một đống lửa lớn, tiếng âm nhạc và tiếng huyên náo lúc cao, lúc trầm vọng đến. Thì ra hôm nay là một ngày lễ của người Cáp Tát Khắc, thanh niên nam nữ vây quanh đống lửa, múa hát xướng ca, thật là vui vẻ.
Lý Văn Tú nghĩ thầm: “Chàng và cô ta hôm nay hẳn là vui lắm, thật là náo nhiệt, thật là hoan hỉ”. Trong lòng nàng chữ “chàng” không có người thứ hai, dĩ nhiên là Tô Phổ rồi, còn “cô ta” dĩ nhiên phải là bông hoa hội tẩu lộ kia, nàng A Mạn.
Thế nhưng hôm nay Lý Văn Tú đã đoán sai, Tô Phổ và A Mạn lúc này không hẳn đã hoan lạc mà lại cực kỳ căng thẳng. Bên cạnh đống lửa, Tô Phổ đang cùng một gã cao gầy đánh vật. Đây là một tiết mục cực kỳ quan trọng trong ngày lễ, người nào thắng giải sẽ được ba giải thưởng: một con ngựa tốt, một con cừu to và một tấm thảm thật đẹp.
Tô Phổ đã liên tiếp thắng bốn người, còn gã thanh niên cao gầy kia tên là Tang Tư Nhi. Y cũng là bạn của Tô Phổ nhưng vẫn muốn hai bên kẻ được người thua, huống chi, trong lòng y cũng ngầm yêu đóa hoa hội tẩu lộ. Khuôn mặt xinh đẹp kia, thân hình yểu điệu kia, bàn tay khéo léo kia, ai mà chẳng muốn? Tang Tư Nhi biết rằng Tô Phổ và A Mạn đã thân nhau từ nhỏ nhưng y vốn là một thanh niên bất khuất, ương ngạnh. Ở thảo nguyên ngựa ai chạy nhanh, dao ai dài người đó sẽ chiếm thượng phong. Y trong lòng cũng đã nghĩ đến: “Nếu như ta công khai đánh bại được Tô Phổ, A Mạn thể nào cũng thích ta”. Y đã cố công luyện tập ba năm đánh vật và đánh dao. Sư phụ của y chẳng ai xa lạ mà chính là cha của A Mạn Xa Nhĩ Khố.
Còn võ công của Tô Phổ dĩ nhiên là cha y đích thân truyền cho.
Hai người thanh niên quấn quít lại một khối. Đột nhiên đầu vai Tang Tư Nhi trúng một cú đấm mạnh, chân y trượt đi ngã ngữa về sau. Thế nhưng trong khi ngã, y cũng kịp khoèo chân Tô Phổ khiến y cũng ngã theo. Hai người cùng nhỏm dậy, hai cặp mắt gườm gườm nhìn nhau, đảo qua đảo lại để tìm sơ hở của đối phương nhưng không ai dám ra tay trước.
Tô Lỗ Khắc ngồi ở một bên xem, lòng bàn tay đẫm mồ hôi, kêu luôn mồm:
– Uổng quá, uổng quá.
Còn Xa Nhĩ Khố thì bụng dạ ra sao khó mà đoán biết. Y biết tâm ý con gái mình, nếu như Tang Tư Nhi thua, thì A Mạn đã yêu Tô Phổ sẽ lại càng yêu hơn. Thế nhưng Tang Tư Nhi là đồ đệ của y, trận đấu này cũng chẳng khác gì chính y đấu với Cáp Tát Khắc đệ nhất dũng sĩ Tô Lỗ Khắc. Nếu đồ đệ của Xa Nhĩ Khố đánh bại con trai Tô Lỗ Khắc thì thật là vẻ vang hơn, chiến thắng này sẽ truyền ra đến mấy nghìn dặm chung quanh thảo nguyên. Dĩ nhiên A Mạn sẽ đau khổ lắm, nhưng đành kệ nó. Y vẫn mong Tang Tư Nhi thắng trận. Nhưng Tô Phổ là đứa ngoan, y vẫn thương nó như thường.
Những người ngồi quanh đống lửa hò hét cổ võ cho hai chàng thanh niên. Đây là một trận đấu hai bên ngang ngửa, Tô Phổ thân thể tráng kiện có sức, còn Tang Tư Nhi thì lại nhanh nhẹn hơn, ai sẽ thắng thật khó mà biết trước được.
Chỉ thấy Tang Tư Nhi né bên đông, tránh bên tây, Tô Phổ mấy lần đưa tay chộp y nhưng y đều tránh được. Tiếng người bên ngoài hò hét trợ uy mỗi lúc một to: “Tô Phổ, nhanh lên, nhanh lên” “Tang Tư Nhi, phản công đi, đừng tránh né qua lại nữa” “Ối chao, Tô Phổ vật được rồi” “Không sao đâu, dùng sức lật y lại”.
Thanh âm truyền ra thật xa, Lý Văn Tú nghe loáng thoáng có người hò reo: “Tô Phổ, Tô Phổ”. Nàng lấy làm lạ: “Sao mọi người lại kêu lên Tô Phổ, Tô Phổ là sao?”. Nàng bèn giục ngựa, chạy về phía có tiếng hò reo. Đứng sau một cây to, nàng thấy Tô Phổ đang vật nhau với Tang Tư Nhi, những người chung quanh đang hào hứng kêu la. Đột nhiên, nàng thấy bên ánh lửa khuôn mặt của A Mạn, đầy vẻ quan thiết và phấn khởi, nước mắt rưng rưng, lúc lo, lúc mừng. Lý Văn Tú từ trước tới nay chưa hề nhìn kỹ A Mạn bao giờ, nghĩ thầm: “Thì ra nàng ta yêu Tô Phổ đến thế”.
Mọi người bỗng lớn tiếng hò reo, cả Tô Phổ lẫn Tang Tư Nhi đều cùng ngã lăn ra đất. Đứng cách vòng người, Lý Văn Tú không nhìn được hai người dưới đất tình hình ra sao. Thế nhưng nghe tiếng người kêu la, nàng biết rằng Tô Phổ đang đè Tang Tư Nhi xuống. Lòng bàn tay Lý Văn Tú cũng ướt mồ hôi, chính vì không nhìn rõ hai người nên nàng lại càng hồi hộp. Đột nhiên tiếng reo hò mọi người ngưng bặt, Lý Văn Tú nghe được cả tiếng thở hổn hển của hai dũng sĩ. Chỉ thấy một người lảo đảo đứng lên, mọi người lớn tiếng hoan hô: “Tô Phổ, Tô Phổ”.
A Mạn chen qua vòng người chạy vào trong nắm tay Tô Phổ.
Lý Văn Tú thấy trong lòng cũng thật cao hứng, nhưng cũng thật thê lương.
Nàng quay đầu ngựa, chầm chậm bước đi. Mọi người bận vây quanh Tô Phổ, chẳng ai để ý đến nàng.
Nàng không điều cương, để mặc cho con bạch mã muốn đi đâu thì đi trong sa mạc. Không biết bao lâu nàng mới thấy rằng con ngựa trắng đã đi tới tận bên bờ thảo nguyên, xa hơn nữa sẽ tiến vào sa mạc Qua Bích[4]. Nàng nhỏ nhẹ mắng nó:
– Mi đưa ta tới đây làm gì?
Ngay khi đó, trên sa mạc xuất hiện hai con ngựa, sau đó lại thêm hai con nữa. Dưới ánh trăng thấp thoáng, những người trên lưng ngựa đều mặc y phục Hán nhân, tay người nào cũng cầm trường đao.
Lý Văn Tú kinh hoảng: “Chẳng lẽ đây là bọn cướp người Hán?”. Còn đang ngập ngừng, một người đã kêu lên:
– Bạch mã, bạch mã.
Y giục ngựa xông tới, miệng quát tháo:
– Đứng lại, đứng lại.
Lý Văn Tú kêu lên:
– Chạy mau.
Nàng giục ngựa chạy ngược trở về, chỉ thấy tiếng chân ngựa thật gấp, đằng trước cũng có hai con ngựa chạy ra chặn lại. Lúc đó ba mặt đông nam bắc đều có địch nhân, nàng không còn kịp suy nghĩ chỉ giục ngựa theo hướng tây chạy gấp. Thế nhưng hướng tây chính là hướng đại sa mạc vô tận.