Hồi 31: Đao kiếm cùng mất, người bỏ mạng

Ân Ly sau khi được đắp thuốc cao của người Ba Tư, cơn sốt vẫn không giảm, luôn miệng lảm nhảm nói mê. Nàng ở trên biển mấy ngày, bệnh rồi lại bị phong hàn, thuốc cao kia chỉ dùng để trị ngoại thương, không chữa được phong tà bên trong. Trương Vô Kỵ bồn chồn lo lắng, đến ngày thứ ba chàng thấy ở xa xa phía đông có một hòn đảo nhỏ liền bảo đà công lái thuyền về phía đó.

Mọi người lên hòn đảo rồi, tinh thần phấn chấn hơn. Hòn đảo này rộng chỉ vài dặm, đầy các bụi cây lúp xúp và hoa cỏ. Trương Vô Kỵ nhờ Chu Chỉ Nhược săn sóc Triệu Mẫn, Ân Ly, rồi chàng đi tìm trong hoa cỏ xem có thảo dược cần thiết hay không. Trên hòn đảo này, cây cỏ hoa lá phần nhiều khác hẳn ở Trung thổ, chàng không am tường mấy. Trương Vô Kỵ cứ đi mãi, đến tối mịt mới tìm được một vị thuốc, đành đem về nhai nát, cho Ân Ly uống.

Sáu người ngồi quanh đống lửa, ăn cơm tối xong, bốn bề hương hoa thoang thoảng, thảo mộc thanh tân, dễ chịu hơn hẳn so với khi ở trên thuyền bó chân bó cẳng. Ân Ly cũng cảm thấy khá hơn đôi chút, nói:

– A Ngưu ca ca, đêm nay mình ngủ tại đây đi, đừng trở lại thuyền nữa.

Lời đó nói ra, ai cũng khen là phải. Thấy hòn đảo nhỏ này cây cỏ tươi xanh, nước trong mát, không có hung cầm mãnh thú gì, nên ai nấy yên tâm nằm ngủ.

Sáng hôm sau thức dậy, Trương Vô Kỵ đứng lên, mới đi được một bước, đã loạng choạng suýt ngã, cảm thấy hai chân bủn rủn không có sức, từ trước đến nay chưa bị như thế bao giờ. Chàng dụi mắt nhìn ra biển, không thấy chiếc thuyền Ba Tư ở chỗ cũ, hoảng hốt chạy ra tận mép nước nhìn tứ phía, chẳng còn thấy tăm hơi nó đâu nữa.

Chàng kinh hãi thật sự, vội gọi to:

– Nghĩa phụ, nghĩa phụ có sao không?

Không nghe Tạ Tốn trả lời, chàng vội chạy tới chỗ Tạ Tốn nằm, thấy ông đang ngủ say, thì thấy nhẹ cả người.

Chu Chỉ Nhược, Triệu Mẫn, Ân Ly ba người thì nằm ngủ ở phía sau một tảng đá lớn cách khá xa, chàng chạy tới đó xem sao, thấy Chu Chỉ Nhược nằm đối diện với Ân Ly, còn Triệu Mẫn thì không còn ở đó. Ngó qua thấy mặt Ân Ly đầy máu, cúi nhìn kỹ, thấy mặt nàng bị vật gì sắc bén rạch đến mươi vết; nàng đã hôn mê từ bao giờ; chàng vội đưa tay thăm mạch, may sao vẫn còn đập thoi thóp. Nhìn lại Chu Chỉ Nhược, thấy mái tóc dài óng ả của nàng bị cắt một mảng lớn, tai trái cũng bị cắt một miếng, máu chưa ngừng chảy, song khuôn mặt lại hơi mỉm cười, tựa hồ đang trong một giấc mộng ngọt ngào, dưới ánh ban mai trông như một đóa hải đường hé nở, xinh đẹp vô cùng.

Chàng thầm kêu khổ luôn miệng, vội gọi:

– Chu cô nương, dậy thôi! Chu cô nương, dậy thôi!

Chu Chỉ Nhược vẫn không tỉnh lại. Trương Vô Kỵ đưa tay lay vai nàng, nàng ngáp dài một cái, lại ngủ tiếp ngon lành. Trương Vô Kỵ biết nàng bị trúng thuốc mê; đêm qua đã xảy ra nhiều chuyện quái dị, chàng tuyệt nhiên không biết tí gì; bây giờ toàn thân uể oải, đúng là mình cũng trúng độc rồi.

Chàng gọi mà Chu Chỉ Nhược không tỉnh, bèn chạy sang chỗ Tạ Tốn, gọi:

– Nghĩa phụ, nghĩa phụ!

Tạ Tốn mơ hồ ngồi dậy, hỏi:

– Cái gì thế?

Trương Vô Kỵ nói:

– Nguy rồi! Chúng ta trúng phải gian kế mất rồi!

Chàng kể qua cho Tạ Tốn biết việc chiếc thuyền

Ba Tư đi mất, Chu Chỉ Nhược và Ân Ly bị thương.

Tạ Tốn kinh hãi hỏi lại:

– Còn Triệu cô nương thì sao?

Trương Vô Kỵ buồn bã đáp:

– Không thấy đâu cả.

Chàng hít một hơi, vận công xem thử, thấy tứ chi vô lực, không dùng sức nổi, bèn buột miệng:

– Nghĩa phụ, chúng ta bị người ta hạ độc “Thập hương nhuyễn cân tán” rồi.

Việc các cao thủ sáu phái bị Triệu Mẫn dùng “Thập hương nhuyễn cân tán” đánh ngã, rồi bắt sống mang cả về chùa Vạn An ở Đại Đô, Tạ Tốn đã nghe Trương Vô Kỵ kể từ trước, lúc này ông đứng dậy, thấy chân tay bửng lửng vô lực, cố định thần, hỏi:

– Thanh đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên cũng bị nàng ta mang đi mất phải không?

Trương Vô Kỵ nhìn quanh, không thấy đao kiếm đâu cả, thất vọng vô cùng, ức muốn khóc lên được, không ngờ Triệu Mẫn cuối cùng lại thừa cơ chàng gặp nguy khốn, lại còn giậu đổ bìm leo, sử dụng gian kế với chàng.

Chàng đứng ngây ra một hồi, sực nhớ đến vết thương của Ân Ly, vội chạy về chỗ Ân, Chu hai nàng, lay lay Chu Chỉ Nhược. Nàng vẫn ngủ mê mệt. Chàng nghĩ thầm: “Ta nội lực thâm hậu nhất, nên tỉnh lại sớm nhất, tiếp đến là nghĩa phụ. Chu cô nương thua xa về nội lực, xem ra chưa tỉnh lại được”. Chàng xé vạt áo, lau máu trên mặt Ân Ly, thấy nàng bị rạch bảy, tám đường ngang dọc, hiển nhiên là bằng mũi kiếm Ỷ Thiên. Ân Ly từ sau khi bị Kim Hoa bà bà Tử Sam Long Vương đả thương, mất rất nhiều máu, chất độc của loài nhện tích trong máu cũng theo máu ra khỏi cơ thể, nên mặt bớt sưng quá nửa, nét đẹp hồi thiếu nữ đang phục hồi dần dần, nay bị rạch ngang dọc, lại trở nên đáng sợ.

Trương Vô Kỵ vừa đau lòng vừa căm tức, nghiến răng nói:

– Triệu Mẫn ơi Triệu Mẫn, nếu có ngày nàng rơi vào tay ta, mà ta còn tha cho nàng, thì ta không kể là người nữa.

Chàng trấn tĩnh, chạy vào rừng tìm mấy thứ thảo dược cầm máu, nhai nát, đắp lên mặt Ân Ly, đắp cả chỗ tai và da đầu bị thương của Chu Chỉ Nhược.

Chu Chỉ Nhược ngáp dài, mở mắt ra, thấy chàng giơ tay sờ đầu mình, thẹn đỏ cả mặt, lấy tay hất tay chàng ra, giận dỗi:

– Huynh… huynh làm cái gì…?

Nói chưa dứt, cảm thấy đau ở tai, đưa tay sờ, giật mình kêu “Ối”, đứng phắt dậy, hỏi:

– Sao thế này?

Đột nhiên hai đầu gối mềm nhũn, ngã phịch vào lòng Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ giơ tay đỡ nàng, nói:

– Chu cô nương đừng sợ!

Chu Chỉ Nhược nhìn dung nhan đáng sợ của Ân Ly, vội đưa tay sờ mặt mình, hỏi:

– Mặt muội có bị thế kia hay không?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Không! Cô nương chỉ bị thương nhẹ thôi.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Có phải bọn ác đồ Ba Tư làm đấy chăng? Muội, sao muội chả biết gì cả?

Trương Vô Kỵ thở dài, buồn bã nói:

– Chỉ e… chỉ e do Triệu cô nương làm đó. Nàng ta đã bỏ thuốc độc vào bữa ăn tối qua.

Chu Chỉ Nhược ngẩn ngơ một hồi, sờ chỗ tai bị cắt, khóc òa lên. Trương Vô Kỵ an ủi:

– Cũng may cô nương bị thương không nặng, chỗ tai bị khuyết có thể buông tóc xuống che, người ngoài sẽ không nhìn thấy đâu.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Lại còn nhắc đến tóc nữa? Tóc muội cũng bị cắt còn đâu…

Trương Vô Kỵ nói:

– Trên đỉnh đầu mất chút da tóc, chải tóc hai bên qua che lại cũng được…

Chu Chỉ Nhược nói dỗi:

– Tại sao muội phải lấy tóc hai bên che lại? Đến bây giờ mà huynh vẫn cố bênh Triệu cô nương của huynh.

Trương Vô Kỵ bị nàng đay nghiến, đành chống chế:

– Huynh đâu có bênh cô ta! Cô ta độc ác, hại Ân cô nương thế kia, huynh… huynh sẽ không tha cho cô ta được.

Nhìn dung nhan của Ân Ly như thế, nước mắt chàng tự nhiên ứa ra.

Lâm vào cảnh này, Trương Vô Kỵ bối rối, ngồi xuống vận công, cảm thấy bị trúng độc không phải nhẹ. “Thập hương nhuyễn cân tán” này chỉ có thuốc giải của Triệu Mẫn mới giải độc được; bây giờ chỉ còn cách dùng nội công chống lại chất độc. Chàng bèn vận nội tức, dồn chất độc từ khắp nơi trong cơ thể về đan điền, rồi mới từ đan điền đẩy ra khỏi cơ thể.

Sau hơn một canh giờ vận công, thấy kiến hiệu, trong bụng cũng phần nào yên tâm, có điều cách này dựa vào “Cửu dương thần công”, không thể truyền thụ cho Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược làm theo, chỉ có cách tự mình trừ độc hết rồi, sẽ giúp hai người kia giải độc.

Công phu đó nói thì dễ, khi thực hành mới thật là hết sức phức tạp, đến ngày thứ bảy, chàng chỉ mới loại trừ được ba phần chất độc trong cơ thể mình. May là chất độc này chỉ làm cho người ta không dùng sức được, chứ không phá hoại cơ thể.

Mấy ngày đầu Chu Chỉ Nhược bực dọc lắm, sau nàng cũng nguôi ngoai dần, nàng giúp Tạ Tốn bắt cá săn chim, nhóm lửa nấu ăn. Nàng ở một mình trong một cái hang ở phía đông hòn đảo, cách xa bọn Trương Vô Kỵ.

Trương Vô Kỵ thầm ngượng ngùng, nghĩ bụng cái họa Triệu Mẫn toàn do chàng mà ra. Triệu Mẫn hiển nhiên là quận chúa Mông Cổ, là kẻ tử thù của Minh giáo, không biết bao nhiêu cao thủ võ lâm từng bị nàng ta sát hại, vậy mà chàng không đề phòng, thực là ngu ngốc không để đâu cho hết. Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược không oán trách chàng, một câu họ cũng chả nhắc tới; nhưng chàng rất khổ tâm. Có lúc chàng thấy ánh mắt của Chu Chỉ Nhược như muốn nói: “Chỉ tại huynh mê mẩn sắc đẹp của Triệu Mẫn, nên mới bị đại họa thế này”.

Thương thế của Ân Ly ngày một nặng. Hòn đảo nhỏ nằm ở Nam Hải, thảo mộc mọc ở đây phần lớn không thấy chép tới trong “Y kinh” của Hồ Thanh Ngưu. Chàng dù tinh thông y lý, biết thương thế của Ân Ly chữa trị được, nhưng không có thuốc cũng đành chịu. Cây trên đảo vừa thấp vừa nhỏ, chỉ có thể dùng làm củi đun, chẳng thể kết thành bè gỗ để mạo hiểm vượt biển. Nếu chàng không biết y thuật, thì đành một nhẽ; đằng này biết mà cứ y như ngày đêm bị hàng vạn mũi dao nhọn đâm nhói vào tim. Một buổi tối nọ chàng nhai vài thứ thảo dược hạ sốt, mớm cho Ân Ly, thấy nàng không nuốt nổi, thì lòng chàng đau xót, nước mắt rơi lã chã xuống mặt nàng.

Ân Ly bỗng nhiên mở mắt ra, mỉm cười, nói:

– A Ngưu ca ca, ca ca đừng buồn nhé. Muội phải xuống âm phủ tìm cái gã Trương Vô Kỵ tiểu quỷ tàn nhẫn chết non mới được. Muội phải nói với y rằng trên cõi trần muội có một người là A Ngưu ca ca đối với muội tử tế hơn y gấp ngàn vạn lần.

Trương Vô Kỵ nghẹn ngào, chưa biết có nên nói cho nàng biết mình chính là Trương Vô Kỵ hay không.

Ân Ly nắm tay chàng, nói:

– A Ngưu ca ca, thủy chung muội không nhận lời lấy ca ca, ca ca có hận muội không? Muội đoán rằng có lẽ ca ca muốn muội vui, nên nói dối muội thế thôi; chứ muội tướng mạo xấu xí, tính nết cổ quái, sao ca ca lại muốn lấy muội?

Trương Vô Kỵ nói:

– Không, huynh không nói dối muội đâu. Muội là một cô nương tình sâu ý nặng, mong được kết duyên với muội là nguyện vọng bình sinh của huynh đấy. Để hôm nào muội khỏi bệnh, mọi việc lo liệu xong xuôi, mình sẽ làm lễ thành hôn, muội nghĩ sao?

Ân Ly giơ tay vuốt nhẹ má Trương Vô Kỵ, lắc đầu nói:

– A Ngưu ca ca, muội không thể lấy ca ca được. Lòng muội sớm đã thuộc về cái gã Trương Vô Kỵ tàn nhẫn nọ mất rồi… A Ngưu ca ca, muội có điều lo lo, xuống dưới âm phủ, liệu có gặp được y không? Y có đối xử với muội hung hăng như trước kia chăng?

Trương Vô Kỵ thấy nàng thần trí tỉnh táo, hai má ửng hồng, thì lòng thầm kinh hãi: “Đây là hiện tượng hồi quang phản chiếu, không lẽ hôm nay là ngày cuối cùng của nàng sao?” Chàng thừ người ra, không nghe nàng nói gì cả. Ân Ly lại nắm lấy tay chàng, hỏi lại lần nữa.

Trương Vô Kỵ dịu dàng đáp:

– Hắn sẽ mãi mãi đối với muội rất tử tế, sẽ coi muội như là báu vật vậy.

Ân Ly hỏi:

– Liệu có được bằng một nửa ca ca đối với muội hay chăng?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Nói có trời chứng giám, Trương Vô Kỵ thành tâm thành ý yêu thương muội, hắn đã sớm ân hận về chuyện ban đầu hắn dữ dằn với muội rồi. Hắn… lòng hắn đối với muội, thật không khác gì huynh đối với muội đâu.

Ân Ly thở hắt ra, khóe miệng mỉm cười, nói:

– Thế thì… thì muội yên tâm rồi…

Bàn tay nàng từ từ lỏng ra, hai mắt nhắm lại, cuối cùng tắt thở.

Trương Vô Kỵ ôm thi thể Ân Ly vào lòng, nghĩ đến khi tắt thở, nàng vẫn chưa biết chàng chính là Trương Vô Kỵ. Những ngày qua nàng cứ nửa mê nửa tỉnh, chàng không thể nói rõ chân tướng ra được, đến lúc lâm chung, nàng tỉnh táo được một lúc thì nói không kịp nữa. Thực ra, đến lúc này, nói hay không nói đâu có khác gì nhau. Chàng đau đớn khóc không thành tiếng, chỉ nghĩ thầm: “Nếu không phải do Triệu Mẫn rạch mặt nàng, bệnh tình của nàng chưa hẳn đã không chữa khỏi. Nếu Triệu Mẫn không bỏ rơi mấy người trên hòn đảo này, chỉ vài hôm về tới Trung nguyên, chàng nhất định có cách cứu sống nàng”. Chàng căm hận nói thành tiếng:

– Triệu Mẫn, tâm địa ngươi chẳng khác gì rắn rết, nếu có ngày ngươi rơi vào tay ta, Trương Vô Kỵ nhất quyết không tha cho ngươi.

Chợt nghe sau lưng có tiếng nói lạnh lùng:

– Đến lúc huynh nhìn thấy khuôn mặt như hoa như ngọc của nàng ta, để xem huynh có dám hạ thủ hay không.

Chàng ngoảnh lại, thấy Chu Chỉ Nhược đứng trong gió, vẻ mặt đầy vẻ coi thường. Chàng vừa đau lòng, vừa hổ thẹn, nói:

– Ta đã thề với thi thể của biểu muội, nếu không tự tay tru diệt yêu nữ, Trương Vô Kỵ này không còn mặt mũi nào sống giữa thế gian.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Thế mới là đấng nam nhi có chí khí.

Nàng bước lại, ngồi xuống bên cạnh thi thể Ân Ly, khóc lóc một hồi.

Tạ Tốn nghe tiếng khóc, dò dẫm đi tới, biết Ân Ly đã chết, cũng không khỏi thương tâm.

Trương Vô Kỵ đến chỗ bóng râm bên vách núi đào một cái huyệt, đất trên đảo không dày, đào được một thước thì gặp đá cứng, trong tay lại không có cuốc xẻng, chàng đành đặt Ân Ly vào chiếc hố nông ấy, sắp lấp đất đá lên, nhìn khuôn mặt sưng vù của nàng lẫn vết máu, chàng chợt nghĩ thầm: “Lấp thẳng đất lên, e làm nát mặt nàng mất”. Chàng bèn lấy lá cây phủ lên người nàng, rồi mới nhè nhẹ xếp đá lên, tựa hồ nàng vẫn còn cảm giác, sợ đá đè nàng đau. Chàng bẻ một thân cây, bóc lớp vỏ đi, dùng con dao găm của Ân Ly khắc lên đó dòng chữ: “Ái thê Thù Nhi Ân Ly chi mộ”, bên dưới khắc thêm năm chữ “Trương Vô Kỵ cẩn lập”. Chôn cất xong xuôi, chàng mới phục xuống mà khóc.

Chu Chỉ Nhược khuyên:

– Ân cô nương hết mực chung tình với huynh, huynh đối với Ân cô nương cũng nhân nghĩa tột cùng. Chỉ cần huynh đừng quên lời thề hôm nay, giết Triệu Mẫn báo thù cho nàng, thì Ân cô nương có thể ngậm cười nơi chín suối.

Trương Vô Kỵ một phen đau lòng, khiến bao nhiêu chất độc tụ lại ở đan điền lại tản ra khắp cơ thể, phí mấy ngày thu tụ về, phải mười mấy hôm sau mới đẩy hết chất độc ra ngoài.

Trên đảo khí hậu nóng bức, quả dại rất sẵn, tha hồ hái nên không sợ đói, sống tạm bợ qua ngày không đến nỗi gian nan. Chu Chỉ Nhược biết Trương Vô Kỵ đau lòng vì cái chết của Ân Ly, căm hận sự xảo trá của Triệu Mẫn, lại buồn vì phải xa Tiểu Chiêu, nên nàng hết sức dịu dàng với chàng để bù lại.

Trương Vô Kỵ sau khi vận thần công khu trừ hết chất độc khỏi cơ thể Tạ Tốn, cũng tính giúp Chu Chỉ Nhược, nhưng nghĩ, theo phương pháp trừ độc này, một tay đặt ở sau lưng đối phương, một tay đặt ở bụng dưới người kia, đôi bên nam nữ làm sao có thể đụng chạm da thịt như vậy được? Nhưng không dùng cách đó, thì không thể truyền “Cửu dương chân khí” sang cho nàng, thành thử mấy ngày liền cứ lưỡng lự, vẫn chưa biết làm thế nào.

Một buổi tối, Tạ Tốn bỗng hỏi:

– Vô Kỵ, con thử nghĩ xem, chúng ta sẽ phải ở trên đảo này bao nhiêu lâu?

Trương Vô Kỵ thừ người ra, đáp:

– Cái đó cũng khó nói lắm, chỉ mong có chiếc thuyền nào đi qua, cứu chúng ta đưa về Trung thổ.

Tạ Tốn nói:

– Hơn một tháng nay, con có thấy có bóng dáng chiếc thuyền nào ở xa hay không?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Không ạ.

Tạ Tốn nói:

– Thế đấy. Không chừng ngày mai có thuyền tới đây, cũng có thể một trăm năm nữa cũng chẳng có chiếc thuyền nào ghé qua.

Trương Vô Kỵ thở dài nói:

– Hòn đảo nhỏ này chơ vơ giữa biển cả, không phải nằm trên hải trình của thuyền bè, việc chúng ta có trở về Trung thổ được hay không, quả là mờ mịt!

Tạ Tốn nói:

– Hừ, thuốc giải đã không kiếm được, “Thập hương nhuyễn cân tán” tích lâu trong cơ thể, ngoài việc làm cho tứ chi vô lực, còn gây hại gì khác chăng?

Trương Vô Kỵ nói:

– Thời gian ngắn thì cũng chả hại mấy, nhưng nếu để mãi, chất độc ngấm sâu vào xương cốt, lục phủ ngũ tạng khó tránh khỏi tổn thương.

Tạ Tốn nói:

– Vậy hả? Tại sao con không tìm cách trừ độc sớm cho Chu cô nương? Con bảo con và Chu cô nương biết nhau từ nhỏ, hồi con bị Huyền Minh thần chưởng, Chu cô nương từng có ơn với con. Một thục nữ dịu dàng đức hạnh như thế, tìm đâu cho thấy? Hay là con chê cô ta không xinh đẹp?

Trương Vô Kỵ vội nói:

– Không, không phải vậy, Chu cô nương mà còn chưa xinh đẹp, thì thiên hạ làm gì có mỹ nhân nữa?

Tạ Tốn nói:

– Vậy ta đứng ra làm chủ hôn cho con lấy cô ta làm vợ. Cái hủ lễ nam nữ thụ thụ bất thân kia khỏi phải e ngại nữa.

Chu Chỉ Nhược ở bên cạnh nghe hai người nói thế, thì thẹn đỏ mặt, đứng dậy đi ra chỗ khác.

Tạ Tốn đứng lên, dang hai tay ngăn lại, nói:

– Đừng đi! Đừng đi! Hôm nay nhất định ta phải làm mai cho hai cô cậu mới được.

Chu Chỉ Nhược giận dỗi nói:

– Tạ lão gia đừng có đùa bỡn. Chúng ta chỉ mong sao về được Trung thổ, ai lại đi nói những chuyện vớ vẩn thế?

Tạ Tốn cười ha hả, nói:

– Dựng vợ gả chồng là đại sự một đời, sao lại bảo là chuyện vớ vẩn? Vô Kỵ, cha mẹ con cũng ở trên hoang đảo tự bái trời đất mà làm lễ thành hôn. Hồi ấy nếu hai người không bỏ cái lệ của thế tục, thì trên đời làm gì có tên tiểu tử là ngươi? Huống hồ hôm nay có nghĩa phụ của con đứng ra làm chủ hôn. Hay là con không thích Chu cô nương? Chẳng lẽ con không muốn trừ độc giúp cô ta?

Chu Chỉ Nhược ôm mặt toan chạy đi, Tạ Tốn nắm áo nàng kéo lại, cười nói:

– Cô nương chạy đi đâu? Chẳng lẽ ngày mai chúng ta không gặp nhau nữa hay sao? À, ta biết rồi, cô nương không muốn gọi lão già đui mù này là bố chồng chứ gì?

Chu Chỉ Nhược vội nói:

– Không, không phải thế, Tạ lão gia là hào kiệt thời nay…

Tạ Tốn hỏi:

– Thế là cô nương bằng lòng chứ gì?

Chu Chỉ Nhược nói:

– Không, không!

Tạ Tốn nói:

– Chắc cô nương chê thằng nghĩa tử của ta không ra gì phải không?

Chu Chỉ Nhược ngập ngừng, nói:

– Trương công tử võ công trác tuyệt, lừng lẫy giang hồ. Có người… người… chồng như thế, còn mong gì hơn? Nhưng mà…

Tạ Tốn hỏi:

– Nhưng mà sao?

Chu Chỉ Nhược nháy mắt với Trương Vô Kỵ, nói:

– Chàng ta… lòng chàng ta còn mê Triệu cô nương lắm, điệt nhi biết mà.

Tạ Tốn nghiến răng nói:

– Con tiện nhân Triệu Mẫn hại chúng ta đến nỗi này, không lẽ Vô Kỵ vẫn còn chưa tỉnh ngộ hay sao? Vô Kỵ, ngươi tự mình nói ta nghe coi.

Trương Vô Kỵ lúng túng, nhớ đến nụ cười giọng nói rung động lòng người của Triệu Mẫn, cảm thấy giá lấy nàng làm vợ, chung sống với nàng suốt đời, thì không còn gì sung sướng hơn, thế nhưng chàng chợt nhớ tới khuôn mặt bị rạch nát, máu me bê bết của Ân Ly, thì vội nói:

– Triệu Mẫn là kẻ thù của con, con phải giết cô ta để báo thù cho biểu muội.

Tạ Tốn nói:

– Thấy chưa, Chu cô nương còn nghi ngờ gì nữa không?

Chu Chỉ Nhược nói nhỏ:

– Tiểu nữ chưa an tâm, trừ phi… trừ phi Tạ lão gia bảo chàng ta phải… thề. Nếu không, tiểu nữ thà để cho chất độc phát tác mà chết, còn hơn cho chàng ta giúp khu trừ chất độc.

Tạ Tốn nói:

– Vô Kỵ, mau thề đi!

Trương Vô Kỵ quỳ xuống, nói:

– Tôi, Trương Vô Kỵ, nếu không trả mối huyết cừu của biểu muội, thì trời đất không dung tha.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Muội muốn nghe huynh nói rõ, huynh sẽ đối với Triệu Mẫn như thế nào?

Tạ Tốn nói:

– Vô Kỵ, con nói cho rõ, chứ câu “trời đất không dung tha” nghe mơ hồ lắm.

Trương Vô Kỵ cao giọng nói:

– Yêu nữ Triệu Mẫn đã ra công giúp sức cho hoàng thất Thát tử, làm khổ trăm họ nước ta, hại cả nghĩa sĩ võ lâm, lại lấy trộm bảo đao của nghĩa phụ, hãm hại biểu muội Ân Ly. Trương Vô Kỵ còn sống ngày nào, không dám quên mối thù lớn đó, nếu làm trái, xin trời đất trách phạt.

Chu Chỉ Nhược cười nhạt, nói:

– Chỉ sợ đến lúc đó huynh lại không nỡ ra tay thôi.

Tạ Tốn nói:

– Nghe ta bảo đây, chọn ngày không bằng làm ngay, chúng ta là hào kiệt giang hồ, đâu cần câu nệ chuyện lễ nghi lôi thôi phiền toái, chi bằng hai ngươi hôm nay bái đường thành thân luôn đi. “Thập hương nhuyễn cân tán” trừ được sớm ngày nào hay ngày ấy.

Trương Vô Kỵ nói:

– Chưa được đâu! Nghĩa phụ, Chỉ Nhược, xin hai người hãy nghe cho. Ân cô nương đối với Vô Kỵ tình sâu ý nặng, nàng từ nhỏ đã coi Vô Kỵ là chồng, Vô Kỵ trong lòng cũng muốn lấy nàng làm vợ; tuy chưa cưới xin, nhưng hai người đã có cái nghĩa phu phụ. Nàng chết đi xác còn chưa lạnh, Vô Kỵ sao đành lòng kết hôn với người khác?

Tạ Tốn ngẫm nghĩ rồi nói:

– Con nói thế cũng phải, vậy ý con thế nào?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Theo ý hài nhi, hôm nay hài nhi sẽ đính hôn với Chu cô nương, để giúp nàng trừ độc trị thương cho tiện. Nếu trời cho chúng ta về được Trung thổ, khi nào hài nhi giết được Triệu Mẫn, đoạt lại thanh đao Đồ Long cho nghĩa phụ, bấy giờ sẽ thành hôn với Chu cô nương, vậy là vẹn cả đôi bề.

Tạ Tốn cười, nói:

– Con tính thế quá gọn. Nhưng nếu tám năm, mười năm chúng ta vẫn chưa về được Trung thổ, thì sao?

Trương Vô Kỵ nói:

– Ba năm nữa, dù có rời khỏi hòn đảo này hay không, cũng xin nghĩa phụ chủ trì hôn sự cho hài nhi.

Tạ Tốn gật đầu, quay sang hỏi Chu Chỉ Nhược:

– Chu cô nương, ý cô nương tính sao?

Chu Chỉ Nhược cúi đầu không trả lời, lát sau mới nói:

– Tiểu nữ chỉ là một đứa con gái bơ vơ cô khổ, tự mình làm gì có chủ ý được? Mọi việc xin nhờ Tạ lão gia định đoạt cho.

Tạ Tốn cười ha hả, nói:

– Hay lắm, hay lắm, ba người mình một lời đã định. Hai đứa bây giờ đã thành phu phụ đính hôn, không còn gì e ngại nữa. Vô Kỵ, ngươi hãy lo trừ độc ngay cho con dâu của ta đi.

Nói xong ông đi luôn ra sau núi.

Trương Vô Kỵ nói:

– Chỉ Nhược, nỗi khổ tâm của ta, nàng có lượng thứ cho được chăng?

Chu Chỉ Nhược mỉm cười, nói:

– Chẳng qua thiếp xấu xí, nên chàng cứ duỗi ra như thế, chứ nếu là Triệu cô nương xem, chỉ sợ ngay tối nay chàng đã…

Nói tới đó, nàng quay đầu ra chỗ khác, không nói nữa.

Trương Vô Kỵ chợt nghĩ: “Khi còn ở trên chiếc thuyền lênh đênh ngoài biển, ta từng si tâm vọng tưởng lấy cả bốn nàng. Kỳ thực, người ta thật sự si mê lại là tiểu yêu nữ tàn ác, xảo quyệt. Ta quả không đáng được gọi là bậc anh hùng hào kiệt, vì cái tội si mê nữ sắc, không phân biệt thiện ác”.

Chu Chỉ Nhược ngoảnh lại, thấy chàng ngơ ngẩn xuất thần, bèn đứng dậy đi ra chỗ khác. Trương Vô Kỵ giơ tay kéo nàng lại, không ngờ Chu Chỉ Nhược không có sức, thân hình loạng choạng ngã luôn vào người chàng, vùng vẫy ra không được, giận dỗi nói:

– Rồi cả đời thiếp sẽ bị chàng ăn hiếp thôi.

Trương Vô Kỵ thấy nàng hờn dỗi rất dễ thương, ôm chặt lấy thân hình mảnh dẻ của nàng, thấp giọng nói:

– Chỉ Nhược, hai đứa mình hồi nhỏ gặp nhau trên sông Hán Thủy, đâu ngờ có ngày hôm nay. Trên đỉnh Quang Minh, khi ta một mình đấu với bốn lão của hai phái Côn Luân, Hoa Sơn, nhờ có nàng chỉ điểm, ta mới không bị mất mạng. Bấy giờ ta cũng mới chỉ cảm kích sự quan hoài của nàng, chứ đâu đã dám mơ tưởng gì khác.

Chu Chỉ Nhược ngả vào lòng chàng, nói:

– Hôm đó thiếp đâm chàng một kiếm, chẳng lẽ chàng không giận thiếp?

Trương Vô Kỵ nói:

– Nàng không đâm vào tâm khẩu ta, ta biết là nàng có tình ý ngầm với ta rồi.

Chu Chỉ Nhược “hứ” một tiếng, đỏ mặt nói:

– Biết thế, hôm ấy thiếp đâm ngay giữa tim chàng cho xong, để sau này bao nhiêu năm tháng khỏi bị chàng ăn hiếp.

Trương Vô Kỵ xiết chặt hai vai nàng, nói:

– Từ rày trở đi ta chỉ có yêu chiều nàng hơn mà thôi. Hai vợ chồng mình là một, sao ta lại ăn hiếp nàng kia chứ?

Chu Chỉ Nhược nhìn mặt chàng, nói:

– Nếu thiếp có làm sai điều gì, đắc tội với chàng, chàng có đánh, có chửi, có giết thiếp chăng?

Mặt hai người chỉ cách nhau vài tấc, thấy hơi thở của nàng thơm như hoa lan, chàng không nhịn nổi, hôn nhẹ vào má nàng, nói:

– Một người dịu hiền, đoan trang như nàng, làm sao có chuyện sai trái được?

Chu Chỉ Nhược vuốt ve gáy chàng, nói:

– Dẫu thánh nhân cũng có khi làm việc sai trái. Thiếp từ nhỏ không có cha mẹ dạy dỗ, khó tránh có lúc hồ đồ.

Trương Vô Kỵ nói:

– Giả dụ nàng có điều gì sai trái, thì ta sẽ nhẹ nhàng khuyên bảo.

Chu Chỉ Nhược hỏi:

– Có thật chàng sẽ không bao giờ thay lòng đổi dạ đối với thiếp? Nhất định chàng sẽ không giết thiếp chứ?

Trương Vô Kỵ thơm nhẹ lên trán nàng, dịu dàng nói:

– Nàng chớ nghĩ lung tung, làm sao có chuyện đó được?

Chu Chỉ Nhược run run giọng, nói:

– Thiếp muốn chàng chính miệng hứa với thiếp cơ.

Trương Vô Kỵ cười hì hì, nói:

– Được rồi! Ta đối với nàng quyết không thay lòng đổi dạ, không bao giờ giết nàng cả.

Chu Chỉ Nhược chằm chằm nhìn Trương Vô Kỵ, nói:

– Thiếp không muốn chàng cười hi hi ha ha, thiếp muốn chàng nói thật nghiêm trang cơ.

Trương Vô Kỵ cười, nói:

– Gớm, không biết trong cái đầu bé nhỏ này nàng đang nghĩ những chuyện gì.

Chàng nghĩ thầm: “Tại ta đối với Triệu Mẫn, Tiểu Chiêu, biểu muội, ai ai ta cũng có tình cả, thành thử nàng không yên tâm. Còn từ nay về sau sẽ ra sao đây?” Bèn không cười nữa, nghiêm trang đáp:

– Chỉ Nhược, nàng là ái thê của ta, trước kia ta lòng nọ dạ kia, mong nàng lượng thứ. Từ nay trở đi ta quyết đối với nàng một lòng một dạ, dẫu nàng có sai trái điều gì, ta cũng không nặng lời với nàng.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Vô Kỵ ca ca, chàng là nam tử hán đại trượng phu, mong chàng nhớ kỹ những lời nói với thiếp hôm nay.

Nàng chỉ tay lên vừng trăng non mới mọc, nói:

– Có vầng trăng kia làm chứng cho đôi ta.

Trương Vô Kỵ nói:

– Đúng, nàng nói đúng, có vầng trăng kia làm chứng cho đôi ta.

Trương Vô Kỵ lại ôm nàng vào lòng, nhìn vầng trăng sáng, nói:

– Chỉ Nhược, đời ta đã bị không biết bao nhiêu kẻ lừa dối; hồi nhỏ cả tin, cho nên phải chịu vô vàn cái khổ, đến nay không sao nhớ hết. Chỉ có thời gian ta ở trên Băng Hỏa đảo với cha mẹ và nghĩa phụ là không có sự gian trá, xảo quyệt. Vừa về đến Trung nguyên, gặp ngay một gã ăn mày đùa với con rắn, hắn lừa ta chui đầu vào cái túi vải, bảo cho xem trò vui, ngờ đâu hắn chụp bắt ta mang đi. Ta không ngờ cuối cùng cả bọn chúng ta cùng sinh tử, chung hoạn nạn, đến hòn đảo nhỏ này, vậy mà Triệu Mẫn lại hạ độc vào thức ăn hại chúng ta ngay đêm đầu tiên.

Chu Chỉ Nhược cười khổ, nói:

– Chàng đúng là “Hoàng Hà mong đến cho bằng được, đến rồi chép miệng, hỡi, ôi thôi”.

Trương Vô Kỵ bỗng có cảm giác tràn trề hạnh phúc, nói:

– Chỉ Nhược, nàng mới đúng là người bạn đời vĩnh viễn của ta, thủy chung nàng đối với ta thật hết lòng. Mai này về được Trung nguyên, nàng sẽ giúp ta đề phòng bọn tiểu nhân gian trá. Có người vợ hiền như nàng, chắc ta sẽ ít bị lừa dối.

Chu Chỉ Nhược lắc đầu:

– Thiếp chỉ là đứa con gái vô dụng, yếu đuối, lại ngu xuẩn. Đừng nói gì thiếp thua xa Triệu cô nương thông minh tuyệt đỉnh, mà ngay so với người có tâm cơ sâu sắc như Tiểu Chiêu, thiếp cũng chẳng bằng cái móng tay nàng ta. Chỉ Nhược của chàng chỉ là một con bé khờ khạo thật thà, chẳng lẽ đến giờ chàng cũng chưa biết hay sao?

Trương Vô Kỵ nói:

– Ta chỉ cần một cô nương trung hậu dịu hiền như nàng, không lừa dối ta là được.

Chu Chỉ Nhược quay sang gục đầu vào lòng chàng, nhỏ nhẹ:

– Vô Kỵ ca ca, thiếp được làm vợ chàng, lòng sung sướng bội phần, chỉ mong chàng đừng thấy thiếp ngu đần vô tích sự mà coi thường thiếp, ăn hiếp thiếp, thiếp sẽ hết lòng nâng khăn sửa túi cho chàng.

*

*     *

Hôm sau, Trương Vô Kỵ lập tức vận “Cửu dương thần công” trừ độc cho Chu Chỉ Nhược, lúc đầu không ngờ lại rất dễ dàng, cứ ngỡ nàng trúng độc nhẹ, có lẽ do nàng ăn ít, nên không bị nặng như chàng và Tạ Tốn. Nhưng đến ngày thứ bảy, bỗng cảm thấy trong cơ thể nàng nổi lên một luồng âm hàn chống lại “Cửu dương chân khí” mà chàng truyền sang. Chu Chỉ Nhược cố kiềm chế nó lại, song vẫn không dễ tiếp nhận “Cửu dương chân khí” vào mình.

Trương Vô Kỵ kinh ngạc, vội hỏi nghĩa phụ. Tạ Tốn ngẫm nghĩ một hồi, nói:

– Điều này ta cũng không hiểu, có lẽ lâu nay sư phụ bên phái Nga Mi phần lớn là nữ, lối tập nội lực thiên về âm nhu chăng.

Trương Vô Kỵ gật đầu nghĩ phải. Cũng may nội công của Chu Chỉ Nhược thua xa chàng, chàng thúc đẩy thần công thì áp chế được âm kình của nàng ngay, nhưng vận công như thế tốn sức hơn rất nhiều so với khi trừ độc cho Tạ Tốn.

Trương Vô Kỵ lờ mờ cảm thấy hiện giờ âm kình của nàng tuy còn yếu, nhưng ngày sau thành tựu, thì sẽ rất ghê gớm, bèn khen ngợi:

– Chỉ Nhược, tôn sư Diệt Tuyệt sư thái quả là một bậc hào kiệt; nội công bà ta truyền cho nàng, pháp môn cao thâm khôn lường, bây giờ ta mới nhận ra. Nếu nàng dụng công tu luyện, mai sau cũng chả kém gì “Cửu dương thần công” của ta đâu.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Chàng đừng có phỉnh thiếp, võ công phái Nga Mi làm sao sánh kịp “Cửu dương thần công”, “Càn khôn đại na di” pháp của Trương đại giáo chủ?

Trương Vô Kỵ nói:

– Nàng bẩm sinh đôn hậu, tuy chiêu số võ công học chưa nhiều, nhưng căn cơ nội công rất vững. Thái sư phụ của ta có bảo rằng võ công thành tựu nhiều hay ít càng về sau càng liên quan đến tư chất của mỗi người, không hẳn cứ thông minh đĩnh ngộ là đạt tới cảnh giới võ công cao nhất. Nghe nói phụ thân của tổ sư sáng lập quý phái là Quách Tĩnh đại hiệp, tư chất vốn chất phác thô lỗ, song võ công đạt tới cảnh giới xưa nay hiếm. Chính thái sư phụ của ta bảo rằng ông chưa chắc có được công lực bằng Quách đại hiệp năm xưa đâu. Pháp môn của nội công phái Nga Mi tựa hồ còn cao hơn phái Võ Đang, ta nghĩ rằng sau này nàng sẽ có thể thành tựu hơn cả Diệt Tuyệt sư thái.

Chu Chỉ Nhược lườm chàng, nói dỗi:

– Chàng muốn lấy lòng thiếp, cứ gì phải khen thiếp giỏi võ công. Thiếp chỉ mong học được một, hai thành của sư phụ thiếp thì cũng mãn nguyện rồi. Rồi đây nếu chàng dạy cho thiếp công phu “Cửu dương thần công”, “Càn khôn đại na di”, thì thiếp mới chịu ơn chàng.

Trương Vô Kỵ trầm ngâm chưa đáp, Chu Chỉ Nhược nói:

– Hay là chàng cho rằng thiếp không xứng đáng làm đồ đệ của Trương đại giáo chủ?

Trương Vô Kỵ nói:

– Không, ta cảm thấy nội công của nàng và sở học của ta khác hẳn nhau, là do căn cơ trái ngược nhau mà ra. Nàng muốn học công phu của ta, chỉ e đó là điều cực kỳ nguy hiểm.

Chu Chỉ Nhược nói:

– Chàng không chịu dạy cho thì thôi. Học võ không xong thì cùng lắm là chẳng đi đến đâu, có gì mà bảo là nguy hiểm?

Trương Vô Kỵ nghiêm nghị nói:

– Không, không! “Cửu dương thần công” của ta là thuần túy dương cương, còn nội công của phái Nga Mi mà nàng đang tu luyện lại là môn thuần âm nhu. Nếu nàng lại luyện thêm công phu của ta, âm dương đôi bên hòa trộn vào nhau, trừ bậc võ học kỳ tài như thái sư phụ của ta mới có thể dung hòa thủy hỏa, cương nhu làm một; ngoài ra chỉ cần sơ sảy là sẽ bị đại họa tẩu hỏa nhập ma. Khi nào nội công của nàng đại thành rồi, nàng sẽ có thể học môn tâm pháp “Càn khôn đại na di” của ta.

Chu Chỉ Nhược cười nói:

– Thiếp đùa thế thôi, từ giờ lúc nào thiếp cũng ở bên chàng, võ công của chàng hay của thiếp thì có gì phân biệt đâu? Tính thiếp vốn lười biếng đểnh đoảng, “Cửu dương thần công” của chàng chắc là khó luyện lắm, dẫu chàng có ép thiếp phải luyện, thiếp cũng sợ khó, chả dám đâu.

Trương Vô Kỵ nghe nàng nói vậy, cảm thấy trong lòng rất êm dịu ấm áp.

Tình ý hai người cứ thế triền miên, quên cả thời gian. Thấm thoắt đã qua mấy tháng. Chu Chỉ Nhược tự thấy nội công đã hoàn toàn phục hồi, cơ thể không có triệu chứng khác lạ, chắc chất độc đã được loại trừ hoàn toàn.

Một hôm, mấy cây đào ở mé đông hòn đảo nở hoa rất đẹp, Trương Vô Kỵ bẻ vài cành, đem cắm trước mộ Ân Ly. Chàng thấy cây gỗ khắc dòng chữ “Ái thê Thù Nhi Ân Ly chi mộ” nằm ngang dưới đất, không biết bị loài thú nào húc đổ. Chàng dựng lại cho ngay ngắn, nghĩ đến biểu muội một đời khốn khổ, có lẽ chưa được hưởng hạnh phúc một ngày nào.

Chàng còn đang thương tâm, bỗng nghe ngoài biển có tiếng chim hải âu dáo dác, ngẩng đầu lên, thấy từ xa có một chiếc thuyền buồm căng gió lướt tới, chàng cả mừng, vội gọi to:

– Nghĩa phụ, Chỉ Nhược, có thuyền đến kìa, có thuyền đến kìa!

Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược nghe gọi, trước sau chạy lại bên Trương Vô Kỵ. Chu Chỉ Nhược run run hỏi:

– Sao lại có chiếc thuyền nào đến cái hoang đảo này làm gì nhỉ?

Trương Vô Kỵ nói:

– Kể cũng lạ thực, hay là thuyền của bọn hải tặc?

Chừng nửa canh giờ sau, chiếc thuyền buồm đậu ở ngoài khơi, dừng lại buông neo, thả một chiếc thuyền nhỏ xuống bơi vào phía đảo. Bọn Trương Vô Kỵ ra bãi biển đón, thấy mấy thủy thủ trên chiếc thuyền nhỏ đều trang phục theo lối hải quân Mông Cổ, Trương Vô Kỵ chợt nghĩ thầm: “Không lẽ Triệu cô nương bị lương tâm dằn vặt, nên quay lại đảo chăng?” Chàng liếc Chu Chỉ Nhược, thấy đôi mày đẹp của nàng hơi cau lại, ngực phập phồng, rõ ràng cũng đang vô cùng hồi hộp.

Trong giây lát chiếc thuyền nhỏ đã cặp bờ, năm thủy thủ nhảy lên, đi đầu là một viên quan thủy sư, hướng về phía Trương Vô Kỵ, cúi mình hỏi:

– Chẳng hay vị này có phải là Trương công tử Trương Vô Kỵ hay chăng?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Phải, trưởng quan là ai vậy?

Người kia thấy Trương Vô Kỵ nhận đúng, thì cả mừng, nói:

– Tiện nhân tiểu danh là Bạt Tốc Đài, hôm nay tìm thấy công tử, quả thật may mắn vô cùng. Tiểu nhân phụng mệnh thượng cấp tới rước Trương công tử và Tạ đại hiệp trở về Trung thổ.

Hắn chỉ nhắc đến Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn, không nói tới Chu Chỉ Nhược. Trương Vô Kỵ hỏi:

– Trưởng quan vất vả từ xa đến, không biết phụng mệnh của ai?

Bạt Tốc Đài nói:

– Tiểu nhân là thuộc hạ của thủy sư đề đốc Đạt Hoa Xích Lỗ trú phòng ở Phúc Kiến, phụng mệnh tướng quân Bột Nhĩ Đô Tư tới đây nghênh đón. Tướng quân Bột Nhĩ Đô Tư phái đi cả thảy tám chiếc thuyền đi tìm Trương công tử và Tạ đại hiệp suốt dọc biển ngoài khơi ba tỉnh Mân, Triết, Việt, không ngờ tiểu nhân lập được công đầu.

Ý hắn nói rằng thượng cấp của hắn có hứa là ai tìm được Trương Vô Kỵ sẽ có thăng thưởng.

Tên của hai tướng lĩnh Mông Cổ mà hắn vừa nói, Trương Vô Kỵ đều không biết, thiết nghĩ hai viên tướng ấy cũng nhận lệnh từ Triệu Mẫn, bèn hỏi:

– Trưởng quan có biết quý thượng cấp vì sao phái trưởng quan đi tìm ta hay không?

Bạt Tốc Đài nói:

– Tướng quân Bột Nhĩ Đô Tư có dặn Trương công tử là đại quý nhân, là anh hùng hào kiệt thời nay, khi tìm thấy phải hết mực hầu hạ. Còn chuyện vì sao phái đi rước công tử, thì tiểu nhân chức vụ thấp kém, không được tướng quân cho biết.

Chu Chỉ Nhược hỏi xen vào:

– Có phải theo lệnh của Triệu Mẫn quận chúa hay chăng?

Bạt Tốc Đài ngạc nhiên nói:

– Triệu Mẫn quận chúa ư? Tiểu nhân chưa hề có phúc được gặp quận chúa.

Chu Chỉ Nhược lạnh lùng nói:

– Cái gì mà có phúc với chả vô phúc?

Bạt Tốc Đài nói:

– Triệu Mẫn quận chúa là đệ nhất mỹ nhân Mông Cổ chúng tôi, không, phải nói là đệ nhất mỹ nhân trong thiên hạ, văn võ toàn tài, là thiên kim của Nhữ Dương vương gia. Tiểu nhân làm gì có phúc được thấy kim diện của quận chúa?

Chu Chỉ Nhược “hừ” một tiếng, không nói nữa.

Trương Vô Kỵ nói với Tạ Tốn:

– Nghĩa phụ, vậy thì mình lên thuyền đi thôi.

Tạ Tốn nói:

– Chúng ta vào hang núi lấy ít vật phẩm tùy thân mang lên thuyền, xin trưởng quan chờ ở đây một lát.

Bạt Tốc Đài nói:

– Xin để tiểu nhân và các thủy thủ mang hành lý giùm ba vị.

Tạ Tốn cười nói:

– Bọn ta làm gì có hành lý, không dám phiền các vị.

Ông kéo Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược đi ra sau núi, nói:

– Triệu Mẫn bỗng dưng sai người đi đón chúng ta về, ắt có âm mưu gì, các con nghĩ mình nên đối phó như thế nào?

Trương Vô Kỵ nói:

– Nghĩa phụ, nghĩa phụ nghĩ xem, liệu Triệu… Triệu Mẫn có ở trên thuyền lớn hay không?

Tạ Tốn nói:

– Nếu con tiểu yêu nữ đó ở trên thuyền, thì càng dễ xử. Bọn ta chỉ cần cẩn trọng khi ăn uống để khỏi bị nó hãm hại.

Trương Vô Kỵ nói:

– Phải rồi, chúng ta hãy mang theo cá muối, trái cây khô và nước ngọt lên thuyền, không ăn uống món gì trên thuyền cả.

Tạ Tốn nói:

– Ta nghĩ Triệu Mẫn không có trên thuyền đâu. Có lẽ nó theo kế sách của bọn Ba Tư, lừa chúng ta lên thuyền, đợi lúc thuyền ra ngoài khơi, thì chiến thuyền Mông Cổ sẽ xuất hiện, nổ pháo bắn chìm thuyền chúng ta.

Trương Vô Kỵ đau đớn, run run nói:

– Nàng ta… nàng ta dụng tâm tàn ác đến thế ư? Nàng ta cứ bỏ mặc chúng ta sống chết trên hòn đảo này, vĩnh viễn không trở về Trung thổ là được rồi. Ba chúng ta đã làm gì không phải với nàng ta đâu kia chứ?

Tạ Tốn cười khẩy, nói:

– Con đem thả bao nhiêu cao thủ sáu đại môn phái bị nó bắt nhốt trong chùa Vạn An, chẳng lẽ nó không hận con? Hơn nữa giáo chủ Minh giáo mất tích, mọi người trong bản giáo đều đổ đi tìm, rất có thể sẽ tìm thấy hòn đảo này. Chỉ có chôn vùi chúng ta dưới đáy biển, mới gọi là nhổ cỏ nhổ tận gốc mà thôi.

Trương Vô Kỵ nói:

– Bắn chìm thuyền chúng ta? Như thế là đánh chìm luôn cả bọn quan binh Mông Cổ Bạt Tốc Đài kia ư?

Tạ Tốn cười ha hả, rồi thở dài, nói:

– Vô Kỵ hài nhi, những kẻ chấp chưởng quân quốc trọng nhiệm, mấy ai quý trọng tính mệnh người khác? Nếu lòng dạ nhân từ như con, thì người Mông Cổ làm sao có thể hoành hành bốn bể, chiếm đóng hàng trăm quốc gia? Xưa nay, các vị đại anh hùng công danh lừng lẫy chẳng phải tùy thời quyết đoán, cần giết là giết đó sao? Đừng nói quan binh, ngay cả cha mẹ con cái mình cũng chẳng coi vào đâu nữa là.

Trương Vô Kỵ thừ người một hồi, buồn bã nói:

– Nghĩa phụ nói chí phải.

Chàng biết rằng xưa nay người Mông Cổ đối với kẻ địch hết sức tàn ác, nghĩ chắc là đối với thuộc hạ của mình hẳn là họ thương yêu lắm chứ, giờ nghe Tạ Tốn nói, chàng bất giác lạnh người, cảm thấy việc trở về Trung thổ thống suất hào kiệt Trung nguyên đánh đuổi Thát tử, đưa đất nước đến cảnh thái bình, quả thật ngoài khả năng của chàng.

Chu Chỉ Nhược hỏi:

– Nghĩa phụ, vậy chúng ta phải làm sao đây?

Tạ Tốn hỏi lại:

– Thế con dâu của ta có diệu kế gì nào?

Chu Chỉ Nhược nói:

– Vậy thì chúng ta không lên thuyền nữa, cứ nói với bọn quan binh Mông Cổ là ở đây rất dễ chịu, chúng ta không trở về Trung nguyên.

Tạ Tốn cười, nói:

– Đúng là một ý tưởng ngờ nghệch. Chúng ta không lên thuyền, kẻ địch đâu có chịu bỏ qua chúng ta. Chúng ta có giết mấy tên quan binh này, chúng sẽ phái hàng chục chiếc thuyền khác đi tìm. Huống hồ ở Trung nguyên có bao nhiêu đại sự đang chờ Trương Vô Kỵ trở về lo liệu, làm sao có thể để y chết già trên hoang đảo này?

Chu Chỉ Nhược đỏ mặt, nói:

– Vậy nghĩa phụ quyết định đi, nghĩa phụ bảo sao chúng con nghe vậy.

Tạ Tốn ngẫm nghĩ, nói:

– Vậy mình cứ làm thế này… thế này.

Trương Vô Kỵ và Chu Chỉ Nhược nghe xong, đều khen là diệu kế.

Trương Vô Kỵ tới bên mộ của Ân Ly khấn vái, nhỏ lệ từ biệt rồi mới lên thuyền. Trong thời gian nhàn rỗi ở trên đảo, Chu Chỉ Nhược đã đẽo gọt rất nhiều con rối bằng gỗ, người có, ngựa có, nay nàng gói thành một bọc lớn, đeo sau lưng. Lên tới chiếc thuyền lớn, Trương Vô Kỵ lục soát khắp nơi một hồi, quả nhiên không có Triệu Mẫn ở đấy, trên thuyền cũng không có kẻ nào đáng gờm; các thủy thủ, quan binh hầu như không một ai biết võ công.

Khi thuyền nhổ neo giương buồm đi được vài dặm, Trương Vô Kỵ liền chộp lấy cổ tay phải của Bạt Tốc Đài, tay kia rút thanh đao bên hông hắn ra, kề vào cổ hắn, quát:

– Ngươi phải tuân lệnh ta, bảo tài công cho thuyền chạy về hướng đông.

Bạt Tốc Đài cả kinh, run run nói:

– Trương công… công tử, tiểu nhân không dám đắc tội với công tử.

Trương Vô Kỵ nói:

– Ngươi phải tuân lệnh ta mà làm, nếu trái lời, ta sẽ chém đầu ngươi trước.

Bạt Tốc Đài vội đáp:

– Vâng, vâng.

Hắn phát lệnh cho tài công:

– Mau, lái… lái thuyền về hướng đông.

Tài công theo lệnh quay mũi thuyền vòng qua hòn đảo tiến sang phía đông.

Trương Vô Kỵ quát:

– Bọn Mông Cổ các ngươi định sát hại ta, mưu kế của các ngươi, ta đã biết cả rồi, hãy mau khai ra. Nếu nói láo ta sẽ lấy mạng.

Rồi chàng giơ tay vỗ xuống mạn thuyền một cái, gỗ vỡ ra, bay văng đi, mạn thuyền thủng một lỗ to. Bọn quan binh trên thuyền thấy vậy cả kinh. Bạt Tốc Đài nói:

– Xin công tử minh xét cho, tiểu nhân phụng mệnh thượng cấp đi rước công tử trở về, hoàn toàn không có ý gì khác. Tiểu nhân… tiểu nhân chỉ mong lập chút công lao, được thượng cấp ban thưởng, chứ không có mưu đồ gì xấu xa.

Trương Vô Kỵ thấy hắn nói năng thành khẩn, không phải dối trá, bèn buông cổ tay hắn ra, tới mũi thuyền, hai tay nhấc hai cây neo sắt, quát:

– Bọn bay hãy nhìn cho rõ!

Hai tay chàng vung lên, hai cây neo lớn bay vút lên không trung, bọn quan binh cùng kêu lên kinh hoảng. Chờ lúc hai cây neo rơi xuống, Trương Vô Kỵ liền sử dụng tâm pháp “Càn khôn đại na di”, hai tay hất đẩy, hai cây neo lại bay vọt lên. Chàng làm như thế ba lần liền, mới nhẹ nhàng bắt lại, đặt hai cây neo xuống mũi thuyền.

Người Mông Cổ ngồi trên lưng ngựa mà lấy được thiên hạ, họ kính phục những bậc vũ dũng, thấy Trương Vô Kỵ võ công kinh nhân như thế, đều quỳ xuống lạy, chắc không một ai dám có bụng dạ nào khác.

Tài công theo lệnh của Trương Vô Kỵ, cho thuyền chạy về hướng đông liền ba ngày, ra mãi khơi xa, chỉ thấy bốn bề mênh mông sóng nước. Tạ Tốn liệu chừng các pháo thuyền theo lệnh Triệu Mẫn cũng chỉ tuần tiễu ven biển vùng Mân, Việt mà thôi, còn chiếc thuyền này đã xa tít ngoài đại dương, không thể có chuyện chạm trán pháo thuyền được nữa, nên sang ngày thứ năm mới lệnh cho thuyền chạy lên hướng bắc.

Đi lên hướng bắc hơn hai chục ngày, dẫu Triệu Mẫn thông minh cách mấy, cũng chẳng thể đoán biết thuyền đang ở đâu, lúc đó mới sai lái thuyền sang hướng tây, trở về Trung thổ. Hơn một tháng đó, bọn Trương Vô Kỵ chỉ dùng thức ăn nước uống mang theo, hoặc bắt cá biển mà ăn, tuyệt nhiên không động tới thức ăn trên thuyền.

Một buổi trưa nọ, mọi người thấy đất liền hiện ở phía tây xa xa. Bọn quan binh Mông Cổ phải ở lâu dưới thuyền, giờ được trở về, ai nấy vui mừng. Gần tối thì thuyền lớn đã thả neo gần bờ. Nguyên vùng này là núi đá, biển rất sâu, thuyền lớn có thể vào rất gần bờ. Tạ Tốn nói:

– Vô Kỵ, con hãy lên bờ trước, xem đây là vùng nào.

Trương Vô Kỵ vâng lời, phi thân bay lên bờ.

Chàng đi một hồi, chỉ thấy rừng cây rậm rạp, tuyết mới bắt đầu tan, đất dưới chân lầy lội. Đi thêm một đoạn nữa, cây cối càng nhiều hơn, phần lớn là cổ tùng cao chọc trời, gốc to mấy người ôm mới xuể. Chàng nhảy lên một cây cao, thấy bốn phía toàn là rừng cây, không một bóng người, nghĩ có đi thêm cũng thế mà thôi, bèn quay về thuyền.

Gần đến nơi, bỗng nghe tiếng rú thảm thiết từ chiếc thuyền vọng ra. Trương Vô Kỵ kinh hãi, vội chạy tới, nhảy xuống mũi thuyền; chỉ thấy trên chiếc thuyền xác người la liệt, đều là bọn quan binh Mông Cổ, từ Bạt Tốc Đài trở xuống đều chết cả; còn Tạ Tốn và Chu Chỉ Nhược đứng đó, mà không thấy kẻ địch đâu.

Trương Vô Kỵ ngạc nhiên hỏi:

– Nghĩa phụ, Chỉ Nhược, hai người không sao chứ? Địch nhân chạy đâu rồi?

Tạ Tốn hỏi lại:

– Địch nhân nào? Con thấy có tung tích kẻ địch ư?

Trương Vô Kỵ đáp:

– Không, thế bọn quan binh này…

Tạ Tốn nói:

– Do ta và Chỉ Nhược giết đó.

Trương Vô Kỵ càng kinh ngạc, nói:

– Thật không ngờ bọn Thát tử này vừa về tới Trung thổ, đã cả gan có ý hại người.

Tạ Tốn nói:

– Bọn chúng không dám có ý hại ta, đấy là ta giết chúng để diệt khẩu thôi. Bọn này chết hết rồi, Triệu Mẫn sẽ không thể biết chúng ta đã về đến Trung thổ. Từ rày Triệu Mẫn ở ngoài sáng, ta ở trong tối, tìm cô ta trả thù không khó nữa.

Trương Vô Kỵ cảm thấy lòng tái tê, lặng người hồi lâu. Tạ Tốn thản nhiên nói:

– Sao vậy? Con trách ta ra tay tàn nhẫn quá chăng? Quan binh Mông Cổ là kẻ thù của chúng ta, không thể đối đãi với chúng bằng tấm lòng của Bồ Tát được đâu!

Trương Vô Kỵ không nói, nghĩ bọn kia ân cần hầu hạ mình suốt thời gian qua, tuy chúng là kẻ thù thật, nhưng giết sạch họ như thế, kể cũng tội nghiệp. Tạ Tốn nói:

– Người đời có câu “Lượng tiểu phi quân tử, vô độc bất trượng phu”[123], ta không hại người, người sẽ hại ta. Triệu Mẫn đối với chúng ta như thế, chúng ta phải dùng “gậy ông đập lưng ông” mới được.

Trương Vô Kỵ nói:

– Nghĩa phụ nói rất phải.

Miệng nói vậy, nhưng nhìn bọn Bạt Tốc Đài chết nằm la liệt, chàng không khỏi ngậm ngùi rơi lệ.

Tạ Tốn nói:

– Cho một mồi lửa đốt chiếc thuyền này đi. Chỉ Nhược, hãy lấy tiền bạc ở các xác chết cùng ba món binh khí để phòng thân.

Hai người phóng hỏa rồi nhảy lên bờ. Chiếc thuyền to, cháy đến nửa đêm mới tắt, chìm xuống biển, đem theo các xác chết đã cháy thành than. Trương Vô Kỵ thấy mọi việc xong xuôi, không còn chút dấu vết gì, nghĩ bụng nghĩa phụ hành sự tuy độc ác, nhưng lão luyện giang hồ, chàng không sao sánh kịp.

Ba người ngủ trên bờ, sáng hôm sau băng rừng đi về hướng nam. Đi đến ngày thứ hai mới gặp bảy, tám người đi tìm sâm, hỏi thăm thì biết đây là vùng Liêu Đông ở quan ngoại, cách núi Trường Bạch không xa bao nhiêu.

Sau khi chia tay với nhóm người tìm sâm, Chu Chỉ Nhược hỏi Tạ Tốn:

– Nghĩa phụ, có cần giết bọn này để diệt khẩu hay chăng?

Trương Vô Kỵ quát lên:

– Chỉ Nhược, nàng nói gì vậy? Mấy người đi đào sâm kia đâu có biết chúng ta là ai. Không lẽ từ rày đi đường hễ gặp ai cũng giết tuốt cả sao?

Chu Chỉ Nhược bối rối, mặt đỏ bừng, xưa nay Trương Vô Kỵ chưa bao giờ xẵng giọng với nàng như thế lần nào.

Tạ Tốn nói:

– Cứ như ý ta, thì cũng phải giết cả bọn tìm sâm kia. Trương giáo chủ đã không muốn sát hại thêm, thì chúng ta phải mau thay đổi y phục, khỏi lộ tung tích.

Thế là ba người vội vã đi ngay, hai hôm sau mới ra khỏi khu rừng. Lại đi một ngày nữa, mới gặp một nhà nông phu, Trương Vô Kỵ đem hai lạng bạc, xin mua quần áo. Song nhà này quá nghèo khổ, không có dư quần áo bán lại; phải đi hỏi bảy tám nhà, mới mua được ba bộ quần áo hết sức dơ dáy. Chu Chỉ Nhược vốn ưa sạch sẽ, ngửi thấy mùi hôi tích tụ lâu năm trong thứ quần áo đó, cơ hồ buồn nôn. Tạ Tốn thì cả mừng, bảo hai người lấy đất xoa lên mặt. Trương Vô Kỵ soi bóng xuống nước, thấy mình đã trở thành một gã ăn mày đất Liêu Đông, Triệu Mẫn dù có gặp cũng vị tất nhận ra chàng.

*

*      *

Cả bọn tiếp tục đi về phía nam, vượt qua Trường Thành, hôm ấy đến một thị trấn lớn.

Ba người vào một đại tửu lâu, Trương Vô Kỵ lấy ra một đĩnh bạc ba lạng, đặt lên quầy, nói:

– Đợi bọn ta ăn uống xong xuôi, sẽ thanh toán sau.

Chàng ngại mình quần áo lam lũ, tửu quán không chịu đem thức ăn lên chăng. Nào ngờ gã chưởng quỹ hết sức cung kính đứng ngay dậy, hai tay nâng đĩnh bạc trả lại, nói:

– Quý khách quang lâm tiểu điếm, vài chén rượu nhạt, cơm thô, đâu có đáng gì? Tiểu điếm chúng tôi xin thết đãi.

Trương Vô Kỵ lấy làm lạ, sau khi ngồi vào bàn, bèn hỏi nhỏ Chu Chỉ Nhược:

– Trên người bọn mình có sơ hở gì chăng? Tại sao gã chưởng quỹ lại không chịu nhận bạc?

Chu Chỉ Nhược quan sát kỹ diện mạo, y phục của ba người, trông giống hệt ba kẻ hành khất, không hề lộ hình tích gì cả. Tạ Tốn nói:

– Ta nghe giọng nói của gã chưởng quỹ có vẻ sợ hãi, mình cứ cẩn thận là hơn.

Có tiếng chân dồn dập lên cầu thang, bảy người xuất hiện, thật khéo làm sao, cũng đều ăn mặc như kẻ hành khất. Bảy người đó đến bên cửa sổ, khệnh khạng ngồi xuống. Điếm tiểu nhị chạy tới, cung kính chào hỏi, miệng hết ngài nọ ngài kia, làm như đám khách toàn là quan lớn quan bé không bằng. Trương Vô Kỵ thấy bọn hành khất này kẻ thì đeo năm cái túi, kẻ đeo sáu cái túi, đều là các đệ tử có chức vụ cao trong Cái Bang.

Điếm tiểu nhị chạy đi, chưa kịp bưng lên mấy món rượu thịt tốp này gọi, thì lại có thêm sáu bảy đệ tử Cái Bang khác lên lầu. Trong giây lát, trên tửu lâu có tới hơn ba chục đệ tử Cái Bang, trong đó có ba người lưng đeo bảy cái túi vải.

Trương Vô Kỵ bây giờ vỡ lẽ, thì ra bữa nay Cái Bang tụ họp ở đây, gã chưởng quỹ tưởng ba người cũng là thuộc Cái Bang, chàng bèn nói nhỏ với Tạ Tốn:

– Nghĩa phụ, mình nên tránh xa nơi này cho khỏi rắc rối; người của Cái Bang tới đây không ít.

Ngay lúc ấy điếm tiểu nhị bưng tới một đĩa thịt bò to, một con gà quay, một vò năm cân rượu trắng. Tạ Tốn đang đói bụng, suốt mấy tháng nay chưa được ăn bữa nào cho ra hồn, ngửi thấy mùi gà quay thơm phức, bụng cồn cào, nói:

– Chúng ta cứ lặng lẽ ăn uống, để xem bọn họ thế nào.

Nói xong bưng bát rượu lên, uống ừng ực hết nửa bát, nghĩ thầm: “Quả là trời còn thương, Tạ Tốn ta lưu lạc hải ngoại hơn hai chục năm, mãi đến hôm nay mới lại được thưởng thức món rượu”. Thứ rượu này cay, không ngon, nhưng vào miệng Tạ Tốn tưởng như quỳnh tương, cam lộ vậy.

Tạ Tốn “khà” một tiếng, cảm thấy thật là sung sướng, uống cạn bát rượu đó, rồi nói nhỏ:

– Cẩn thận, có hai nhân vật đầy bản lĩnh đang đi lên đấy.

Trương Vô Kỵ nghe kỹ tiếng bước chân ngoài cầu thang, quả nhiên hai kẻ đó võ công cao cường.

Khi hai người kia lên đến bậc cuối, chỉ nghe lục cục lạch cạch một hồi, toàn bộ đệ tử Cái Bang trên lầu đều đứng dậy. Tạ Tốn đưa tay làm hiệu, ba người cũng đứng dậy nghênh đón. Ba người ngồi ở một góc khuất, khi tất cả cùng ngồi thì không có gì lạ; nhưng nếu tất cả đứng dậy mà ba người vẫn ngồi thì sẽ có chuyện tức thời.

Trương Vô Kỵ thấy người thứ nhất thân hình tầm thước, diện mạo thanh tú, để râu ba chòm, trừ việc ăn mặc theo lối hành khất, thì dáng dấp y như một nhà nho chưa đỗ đạt. Người đi sau mặt gân guốc, râu xồm vểnh ra, tướng mạo cực kỳ hung dữ, nếu nước da đen hơn một chút nữa, thì sẽ giống hệt Chu Thương, là kẻ cầm đại đao đứng bên cạnh Quan Công. Cả hai trạc ngũ tuần, râu tóc đã chớm bạc, lưng đeo đến chín cái túi vải. Những cái túi ấy chỉ chứng tỏ thân phận của họ, chứ khó đựng được gì, vì rất nhỏ.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Cái Bang được coi là bang lớn nhất trên giang hồ. Dạo trước thái sư phụ kể rằng hồi xưa bang chủ Cái Bang Hồng Thất Công nhân hiệp trượng nghĩa, võ công cao siêu, bất kể bạch đạo hay hắc đạo, thảy đều kính phục. Về sau Hoàng bang chủ, Gia Luật bang chủ cũng là các nhân vật siêu quần, nhưng mấy chục năm nay không có ai chủ trì, thành thử danh tiếng kém hẳn trước kia. Bang chủ hiện nay là Sử Hỏa Long rất hiếm khi xuất hiện trên giang hồ, không biết người đó ra sao. Hai người kia lưng đeo những chín cái túi, trừ bang chủ ra, là nhân vật có địa vị cao nhất trong Cái Bang. Dạo nọ trên đảo Linh Xà, mấy đệ tử Cái Bang toan cướp thanh đao Đồ Long của nghĩa phụ, không biết có dính dáng gì tới hai người này không?”

Hiện tại thanh đao Đồ Long và kiếm Ỷ Thiên đã bị Triệu Mẫn đánh cắp, nhưng sáu cây thánh hỏa lệnh đang nằm trong bọc của Trương Vô Kỵ, không bị mất, có lẽ vì Triệu Mẫn e sợ võ công của chàng quá mạnh, sợ sau khi chàng trúng “Thập hương nhuyễn cân tán” vẫn không bị ngộ độc, nên nàng ta không dám lục lọi trong bọc. Trương Vô Kỵ thấy thế lực Cái Bang đông đảo, không dám coi thường, đưa tay sờ sáu cây thánh hỏa lệnh trong túi.

Hai nhân vật đeo chín túi vải kia đi tới chỗ chiếc bàn lớn ở chính giữa, ngồi xuống. Bang chúng Cái Bang lục tục ngồi xuống, bắt đầu ăn uống. Họ dùng tay bốc thức ăn, bưng tô lên húp canh, ăn uống nhồm nhoàm thô lỗ. Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn lắng nghe xem hai trưởng lão chín túi có nói gì chăng, ngờ đâu họ chỉ chăm chú ăn uống, ngoài mấy câu thù tạc kiểu “mời bác một chén”, “món thịt bò mềm lắm”, không đả động gì tới chính sự cả.

Khi hai trưởng lão chín túi ăn xong, rời khỏi tửu lâu, bang chúng Cái Bang cũng đều cơm no rượu say, kéo nhau đi cả.

Chờ bọn họ đi hết, Tạ Tốn hỏi nhỏ:

– Vô Kỵ, con thấy sao?

Trương Vô Kỵ nói:

– Người của Cái Bang tụ tập rất đông ở đây, chắc không phải chỉ để ăn uống một bữa rồi thôi. Con đoán rằng tối nay thể nào họ cũng tụ tập ở một nơi vắng vẻ bàn việc chính.

Tạ Tốn gật đầu:

– Chắc chắn như thế. Cái Bang lâu nay vẫn đối địch với bản giáo, lên vây đánh đỉnh Quang Minh có bọn này dự phần; lại từng phái người đến cướp thanh đao Đồ Long của ta. Mình phải thám thính cho rõ, xem bọn chúng có gian kế gì khác làm hại bản giáo hay không?

Ba người xuống lầu, trả tiền cho chưởng quỹ. Chưởng quỹ kinh ngạc, nói sao cũng không dám nhận. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Cái Bang làm loạn khiến hàng quán tửu lâu sợ hãi như thế, ăn uống không chịu trả tiền. Chỉ riêng việc đó cũng đủ biết ngày thường bọn họ hoành hành ngang ngược thế nào”.

Ba người tìm một tiểu khách điếm nghỉ trọ. Tuy trong thị trấn tụ tập rất đông hành khất, nhưng xưa nay ăn mày có ở khách điếm bao giờ, nên ba người không chạm trán một nhân vật Cái Bang nào cả. Tạ Tốn nói:

– Vô Kỵ, ta mắt không nhìn được, chẳng tiện đi do thám tình hình. Chỉ Nhược võ công chưa cao, có đi theo con cũng không giúp gì được; thôi con chịu khó đi một mình vậy. Trương Vô Kỵ đáp:

– Đúng là như thế.

Chàng nghỉ một lát trong khách điếm, rồi đi ra. Trong thị trấn, chàng đi suốt đường phố từ nam đến bắc mà không thấy bóng một đệ tử Cái Bang nào hết.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Chưa đầy nửa canh giờ mà các đệ tử Cái Bang không còn bóng một ai, chắc họ đi chưa xa”. Chàng bèn ghé vào một tiệm bán đồ tạp hóa, trừng mắt, đấm tay xuống quầy, quát to:

– Chưởng quỹ, các huynh đệ của ta đi về hướng nào vậy?

Người trong tiệm thấy chàng hung hăng dữ tợn như thế, ngỡ chàng là một tên ăn mày hung ác trong Cái Bang, ai nấy sợ mất vía; một người bạo gan nhất giơ tay chỉ về hướng bắc, cười lấy lòng, nói:

– Các vị bằng hữu của quý bang đều đi về phía ấy cả. Đại gia dùng trà nhé!

Trương Vô Kỵ quát:

– Không, ai thèm uống thứ trà hôi của các người!

Chàng quay mình rảo bước đi về phía bắc, trong bụng cười thầm.

*

*      *

Ra khỏi thị trấn không xa, Trương Vô Kỵ thấy trong đám cỏ cao bên trái con đường có bóng người thấp thoáng, một đệ tử Cái Bang nhô đầu ra, bộ dạng như toan quát hỏi. Trương Vô Kỵ liền phóng vút qua. Tên kia dụi dụi mắt, tưởng mình hoa mắt, sao vừa nhìn hình như có bóng người, mà trong chớp mắt đã biến đâu mất.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm, dọc đường chắc hẳn Cái Bang bố trí các vọng gác, phòng bị nghiêm ngặt. Chàng bèn thi triển khinh công, chạy về phía bắc. Các đệ tử Cái Bang được bố trí tại các gốc cây, bụi cỏ, khe núi, hốc đá, hóa thành các dấu chỉ đường cho chàng chạy đến mục tiêu. Chạy chừng bốn, năm dặm, thì cứ dăm bước lại có một vọng gác, mỗi lúc một dày đặc. Bọn này võ công tuy không cao, nhưng giữa thanh thiên bạch nhật, muốn tránh được hết, không để họ nhìn thấy, quả không phải dễ. Sau cùng chàng đành bỏ đường cái, chạy lòng vòng mà đi tới.

Trước mắt thấy một con đường mòn dẫn đến một tòa miếu lớn ở lưng chừng núi. Chàng đoán Cái Bang chắc là tụ tập ở đấy, bèn chạy về phía đông bắc, rồi quành sang hướng tây, tránh một vọng gác mà lẻn tới bên hông tòa miếu. Thấy trước cửa miếu có tấm biển trên đề bốn chữ lớn “Di Lặc Phật miếu”, đền miếu trang nghiêm, trông thật hùng vĩ.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Kỳ này các nhân vật trọng yếu của Cái Bang tới đây không ít. Ta trà trộn vào chỉ e sẽ bị phát giác”. Chàng nhìn bốn phía, thấy ở đằng trước đại điện, bên trái có một cây cổ tùng, bên phải có một cây lão bách, hai cây này cao sừng sững trên hẳn mái điện, cành lá sum sê, có thể ẩn mình trong đó. Chàng vòng ra sau miếu, phi thân lên mái, bò dần tới bên hiên, nhẹ nhàng nhảy lên như một làn khói, tới ngọn cây tùng, nấp sau một cành lớn nhìn xuống, reo thầm “Hay quá!”, thấy ở đây có thể nhìn bao quát toàn bộ bên trong đại điện.

Bang chúng Cái Bang ngồi chật kín cả đại điện, tối thiểu cũng phải ba trăm người. Tất cả đều ngồi quay mặt vào trong, thành thử khi chàng nhảy lên cây, không ai hay biết.

Bên trong điện đặt năm chiếc bồ đoàn còn để trống, rõ ràng chờ ai đó. Tuy trong điện mấy trăm người ngồi, mà không một tiếng động, khác hẳn lúc ồn ào ăn uống ở tửu lâu. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Cái Bang danh tiếng mấy trăm năm qua, gần đây tuy có suy yếu, song quy củ đời trước vẫn còn giữ được ít nhiều. Cảnh hỗn độn ở tửu lâu chỉ là thói quen thường ngày. Xem ra các trưởng lão chấp pháp còn nghiêm cẩn lắm”.

Chính giữa đại điện là pho tượng Phật Di Lặc, phanh áo để lộ cái bụng phệ, há to miệng cười trông rất hiền lành. Trương Vô Kỵ đang tính toán, bỗng nghe trong điện có tiếng hô:

– Chưởng Bát long đầu tới!

Bang chúng nhất tề đứng dậy. Vị trưởng lão chín túi trông như nho sĩ kia cầm chiếc bát mẻ thong thả bước ra, đứng hàng đầu bên phải. Lại có tiếng hô tiếp:

– Chưởng Bổng long đầu tới!

Vị trưởng lão chín túi giống Chu Thương kia hai tay giơ cao cây thiết bổng, hùng dũng bước ra, đứng hàng đầu bên trái. Người kia lại hô tiếp:

– Chấp pháp trưởng lão tới!

Một người hành khất già thân hình bé nhỏ, bước ra, tay cầm một mảnh tre vỡ, bước chân nhẹ nhàng, không có chút bụi nào quẩn lên theo bước đi.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Người này khinh công quá cao cường, chỉ kém Vi Bức Vương một chút thôi”. Lại có tiếng hô:

– Truyền công trưởng lão tới!

Lần này là một người hành khất già râu tóc bạc phơ đi ra, hai tay không, nhìn thân hình bộ pháp không thể đoán biết tài nghệ võ công của lão ta thế nào.

Bốn trưởng lão kéo bốn chiếc bồ đoàn lùi lại sau một chút, chỉ còn một chiếc bồ đoàn ở chính giữa, rồi cùng khom lưng, đồng thanh nói:

– Mời bang chủ đại giá!

Trương Vô Kỵ hơi run, nghĩ thầm: “Nghe nói bang chủ Cái Bang là Kim Ngân Chưởng Sử Hỏa Long, rất ít người trong võ lâm biết mặt mũi ông ta như thế nào, không biết thuộc hạng người nào?”

Tất cả bang chúng trong đại điện đều cúi mình xuống, một lát sau phía sau bức bình phong có tiếng chân, rồi một đại hán hùng dũng bước ra. Thân hình y phải cao tới hơn sáu thước, trông vạm vỡ vô cùng, mặt mày hồng hào, ra dáng một đại quan thân hào. Y bước ra giữa đại điện, đứng chắp tay sau lưng. Bang chúng cùng hô to:

– Tọa hạ đệ tử, tham kiến bang chủ đại giá.

Bang chủ Cái Bang Sử Hỏa Long liền phẩy tay một cái, nói:

– Miễn lễ! Ai nấy khỏe cả chứ?

Bang chúng cùng đáp:

– Bang chủ an hảo.

Đợi Sử Hỏa Long ngồi xuống chiếc bồ đoàn chính giữa rồi, cả bọn mới lần lượt ngồi xuống. Sử Hỏa Long quay sang nói với Chưởng Bát long đầu:

– Ông huynh đệ, hãy kể cho mọi người cùng nghe về Kim Mao Sư Vương và thanh đao Đồ Long.

Trương Vô Kỵ nghe nhắc đến mấy tiếng “Kim Mao Sư Vương và thanh đao Đồ Long” thì giật mình, vội dỏng tai lắng nghe.

Chưởng Bát long đầu đứng dậy, cúi chào bang chủ, rồi thẳng người lại, nói:

– Chúng gia huynh đệ, Ma giáo với bổn bang tranh đấu với nhau đã sáu chục năm, tích oán rất nhiều. Gần đây Ma giáo lập một vị giáo chủ mới tên là Trương Vô Kỵ. Bổn bang có vị tham gia vây đánh đỉnh Quang Minh, đã thấy đó chỉ là một gã thiếu niên ngờ nghệch. Hạng con nít miệng còn hôi sữa, chưa rụng lông măng như thế phỏng làm nổi việc gì? Làm sao địch nổi bậc hùng tài vĩ lược như Sử bang chủ bổn bang?

Bang chúng cùng vỗ tay reo hò vang dội, Sử Hỏa Long thì vẻ mặt ra chiều đắc ý lắm.

Chưởng Bát long đầu lại nói:

– Có điều là sau khi Ma giáo lập giáo chủ mới, cục diện chia năm xẻ bảy, tàn sát lẫn nhau của Ma giáo liền thay đổi hẳn, trở thành mối họa lớn đối với bổn bang. Ngót một năm nay, bọn ma đầu Ma giáo nổi lên khắp nơi, một dải Hoài Tứ có Hàn Sơn Đồng, Chu Nguyên Chương; một dải Lưỡng Hồ có bọn Từ Thọ Huy, chúng liên tiếp đánh bại quân Nguyên, chiếm được không ít đất đai, phải nói là có khí thế lắm. Nếu để bọn chúng thành được đại sự, đuổi bọn Thát tử, lấy được thiên hạ, thì khi đó mấy chục vạn huynh đệ bổn bang sẽ chết không có đất mà chôn.

Bang chúng cả giận gào to:

– Quyết không để cho chúng thành đại sự!

– Cái Bang thề sống mái cùng với Ma giáo!

– Ma giáo chiếm được thiên hạ, thì huynh đệ bổn bang còn sống được sao?

– Bọn Thát tử phải đánh đuổi, nhưng nhất quyết không để cho giáo chủ Ma giáo lên ngôi hoàng đế.

Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Không ngờ mình ở hải ngoại có vài tháng, huynh đệ ở nhà đã làm được nhiều việc như thế. Cái Bang lo sợ không phải không có nguyên do. Cái Bang bang chúng đông đảo, hào kiệt trong bang không ít, nếu có thể liên thủ với họ chống Nguyên, đại sự sẽ dễ thành công. Phải làm thế nào cùng họ xóa bỏ hiềm khích, biến thù thành bạn?”

Chưởng Bát long đầu đợi tiếng la ó của bang chúng lắng xuống, mới nói tiếp:

– Sử bang chủ lâu nay vốn tĩnh dưỡng ở Liên Hoa sơn trang, đã lâu không bước chân vào giang hồ, nhưng nay gặp đại sự, không thể không đích thân đứng ra chủ trì. Cũng may ông trời phù hộ bổn bang, trưởng lão tám túi Trần Hữu Lượng mới làm quen được với một đệ tử phái Võ Đang, biết được một tin vô cùng trọng yếu.

Y cao giọng gọi:

– Trần trưởng lão!

Phía sau tường có tiếng đáp:

– Có đây!

Có hai người dắt tay nhau bước ra. Một người trạc ba mươi tuổi, vẻ mặt láu lỉnh, chính là Trần Hữu Lượng, kẻ đã được Tạ Tốn tha mạng trên đảo Linh Xà. Người thứ hai tuổi chừng hai mươi bảy, hai mươi tám, diện mạo tuấn tú, chính là Tống Thanh Thư, con trai của Tống Viễn Kiều.

Khi Trương Vô Kỵ nghe câu “Trần Hữu Lượng mới làm quen được với một đệ tử phái Võ Đang”, chàng tưởng chỉ là một tên đệ tử tầm thường nào đó của sư bá sư thúc, nào ngờ lại chính là nhân vật số một của đời thứ ba phái Võ Đang, thì chàng nghĩ thầm: “Tống sư ca vì sao lại đi theo bọn Cái Bang kia chứ?” Nhưng chàng lại nghĩ: “Phái Võ Đang và Cái Bang vốn cùng là hiệp nghĩa đạo, đôi bên giao hảo cũng không có gì lạ”.

Trần Hữu Lượng và Tống Thanh Thư trước tiên hành lễ với Sử Hỏa Long, sau đó quay sang vái chào Truyền công, Chấp pháp hai trưởng lão, Chưởng Bát, Chưởng Bổng hai long đầu, cuối cùng ôm quyền chào toàn thể bang chúng Cái Bang ngồi bên dưới. Chưởng Bát long đầu nói:

– Trần trưởng lão, hãy đem đầu đuôi mọi việc kể cho huynh đệ cùng nghe.

Trần Hữu Lượng nắm tay Tống Thanh Thư, nói:

– Chúng gia huynh đệ, vị Tống Thanh Thư Tống thiếu hiệp đây là công tử của Tống Viễn Kiều Tống đại hiệp, là người nay mai sẽ kế thừa chức chưởng môn phái Võ Đang. Tên giáo chủ Ma giáo Trương Vô Kỵ có thể nói là sư đệ của Tống thiếu hiệp, cho nên mọi sự mọi việc trong Ma giáo, Tống thiếu hiệp đây đều thấy rõ như trong lòng bàn tay. Mấy tháng trước, Tống thiếu hiệp có báo cho Trần mỗ biết, tên đại ma đầu của Ma giáo là Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn đã về tới đảo Linh Xà ngoài biển Đông.

Chấp pháp trưởng lão xen vào:

– Người trong võ lâm ra công tìm kiếm Kim Mao Sư Vương, mấy chục năm nay không ai biết hắn ở đâu, tại sao Tống thiếu hiệp bỗng nhiên lại biết? Lão phu mong được thỉnh giáo.

Trương Vô Kỵ trong lòng vẫn mang một mối nghi vấn: “Tử Sam Long Vương qua cha con Võ Liệt biết được nơi ở của nghĩa phụ ta, đã lên đón ông về đảo Linh Xà, việc ấy lẽ ra cần giữ thật kín, tại sao cuối cùng lại để cho Cái Bang hay biết mà sai người tới đảo Linh Xà đoạt đao?” Việc đó chàng đã cùng bàn thảo với Tạ Tốn mấy lần, vẫn không sao hiểu nổi nguyên do, giờ nghe Chấp pháp trưởng lão hỏi đến, chàng liền chăm chú lắng nghe.

Trần Hữu Lượng nói:

– May nhờ hồng phúc bang chủ mà có được cái cơ duyên ấy. Ngoài biển Đông có một người là Kim Hoa bà bà, không rõ vì sao biết được tung tích của Tạ Tốn, bà ta sinh trưởng trên biển, thành thạo việc thuyền bè, nhờ vậy đã tìm đến một hoang đảo ở miền cực bắc là nơi Tạ Tốn đang ở, đón hắn đưa về đảo Linh Xà. Trên đảo Linh Xà có cầm tù hai cha con Võ Liệt, Võ Thanh Anh, là truyền nhân của phái võ Nam Đế nước Đại Lý. Hai cha con Võ Liệt thừa cơ Kim Hoa bà bà đi Trung nguyên, đã giết kẻ coi ngục, chạy trốn, đến Sơn Đông gặp nguy nan, được Tống thiếu hiệp cứu thoát, mới kể ra mọi chuyện, nhờ vậy Tống thiếu hiệp biết được nơi đang ở của Kim Mao Sư Vương.

Chấp pháp trưởng lão gật đầu:

– Ồ, thì ra vậy.

Trương Vô Kỵ cũng tự nhủ: “Ồ thì ra là vậy. Cha con Võ Liệt thực chẳng phải là người đàng hoàng tử tế. Năm xưa Chu Trường Linh và cha con họ Võ khổ tâm bày kế, lừa ta nói ra chỗ ở của nghĩa phụ. Cũng may nhờ đó Tử Sam Long Vương mới biết được chỗ ở của nghĩa phụ ta. Thời nay, nói về tài bơi lội và thuật hàng hải, chỉ e ít ai sánh nổi Tử Sam Long Vương. Nếu không phải do bà ta cất công lặn lội, trên đại dương mênh mông ai có đủ bản lãnh tìm tới được Băng Hỏa đảo? Dẫu cha mẹ ta sống lại, cũng vị tất đã làm được việc đó. Đủ biết trong cõi mờ mịt cũng có ý trời sắp đặt”.

Trần Hữu Lượng kể tiếp:

– Huynh đệ và Tống thiếu hiệp giao tình sống chết có nhau, sau khi biết tin đó, lập tức cùng Quý, Trịnh hai trưởng lão tám túi, dẫn thêm năm đệ tử bảy túi đến đảo Linh Xà, định bắt sống Tạ Tốn, đoạt lấy thanh đao Đồ Long về dâng bang chủ. Không ngờ bọn Ma giáo đã kéo rất đông tới đảo Linh Xà. Tuy chúng tôi kiệt lực tử chiến, nhưng quả bất địch chúng, Quý trưởng lão và bốn đệ tử bảy túi đã tuẫn nạn. Tình hình chiến đấu trên đảo Linh Xà thế nào, mời Trịnh trưởng lão bẩm cáo với bang chủ.

Trịnh trưởng lão từ trong đám đông đứng dậy, thân hình què quặt, kể lại cuộc giao chiến trên đảo Linh Xà giữa Minh giáo với Cái Bang. Lão ta không nói người của Cái Bang vây đánh Tạ Tốn; mà lại kể rằng người của Minh giáo quá đông, mấy người bọn lão anh dũng chống trả ra sao, cuối cùng Trần Hữu Lượng xả thân trượng nghĩa cứu sống lão thế nào. Giọng lão nghe khảng khái hiên ngang, nói văng cả nước bọt, rằng Tạ Tốn bị khuất phục bởi chính khí của Trần Hữu Lượng, rốt cục không dám động thủ.

Bang chúng Cái Bang trong đại điện nghe thế hết sức kích động, nhất tề reo hò.

Truyền công trưởng lão nói:

– Trần huynh đệ trí dũng song toàn, lại có nghĩa khí như thế, thật là hiếm có.

Trần Hữu Lượng cúi mình đáp:

– Huynh đệ được bang chủ và các vị trưởng lão giáo huấn, vì đại nghĩa của bổn bang thì dù nhảy vào nước sôi lửa bỏng cũng không dám từ nan. Việc nhỏ nhặt đó lại được Trịnh trưởng lão khen ngợi, khiến huynh đệ cảm thấy áy náy.

Bang chúng thấy y khiêm tốn, không nhận công của mình, lại càng hoan hô không ngớt.

Trương Vô Kỵ ngồi trên cây, càng nghe càng giận, nghĩ bụng kẻ này thật hèn hạ đáng khinh, hiển nhiên là hắn bán bạn cầu sống, thế mà lại thành trượng nghĩa cứu người. Có điều là hắn khôn khéo che đậy, khiến Trịnh trưởng lão không thấy chút sơ hở nào, quả thật Trần Hữu Lượng là một tên đại gian hùng. Nghĩ vậy, chàng chợt cảm thấy chua xót: “Ngụy kế của tên gian tặc này, khi đó chính nghĩa phụ cũng bị hắn đánh lừa, mình cũng bị hắn đánh lừa, hắn chỉ không lừa nổi Tử Sam Long Vương và Triệu Mẫn thôi. Ôi, Triệu Mẫn thông minh đa tài, tiếc rằng nhân phẩm lại…”

Chấp pháp trưởng lão đứng lên, lạnh lùng nói:

– Bao nhiêu huynh đệ bổn bang bị Ma giáo giết hại, mối huyết hải thâm cừu này làm sao chúng ta có thể bỏ qua?

Bang chúng lớn tiếng kêu gào:

– Chúng ta nhất định phải báo thù cho Quý trưởng lão!

– San phẳng đỉnh Quang Minh, quét sạch quần ma!

– Phanh thây Trương Vô Kỵ, phanh thây Tạ Tốn!

– Bổn bang và Ma giáo không đội trời chung, gặp tên nào giết tên đó!

– Xin bang chủ mau hạ lệnh, toàn bộ đệ tử Cái Bang nhất tề xông lên giết bọn Ma giáo!

Chấp pháp trưởng lão quay sang nói với Sử Hỏa Long:

– Bang chủ, việc báo thù rửa hận, phải làm thế nào, xin bang chủ chỉ thị.

Sử Hỏa Long cau mày, nói:

– Việc ấy ư, đấy là đại sự của bổn bang, hừ, cần phải bàn tính kỹ lưỡng. Hãy lệnh cho các đệ tử từ bảy túi trở xuống tạm thời lui ra, chờ chúng ta bàn thảo kỹ càng.

Chấp pháp trưởng lão đáp:

– Vâng!

Rồi quay ra nói to:

– Phụng lệnh bang chủ: các đệ tử từ bảy túi trở xuống, hãy ra khỏi đại điện, chờ ở bên ngoài.

Bang chúng Cái Bang dạ ran, cúi mình hành lễ với Sử Hỏa Long, rồi cùng ra ngoài cửa điện. Trong đại điện lúc này chỉ còn các thủ lĩnh từ tám túi trở lên.

Trần Hữu Lượng tiến lên một bước, cúi mình nói:

– Khải bẩm bang chủ, vị Tống Thanh Thư Tống huynh đệ này có công lớn với bổn bang, nếu bang chủ ân chuẩn, cho phép y gia nhập Cái Bang, với địa vị của y, sau này tất sẽ lập đại công cho bổn bang.

Tống Thanh Thư nói:

– Việc đó… hình như… không…

Vừa nói đến chữ “không”, thì cặp mắt sắc như dao của Trần Hữu Lượng trừng trừng nhìn vào mặt gã, Tống Thanh Thư thấy vậy cúi xuống, không nói thêm nữa.

Sử Hỏa Long nói:

– Thế thì hay lắm! Tống Thanh Thư gia nhập Cái Bang, tạm thời ở chức vị đệ tử sáu túi, thuộc quyền thống suất của trưởng lão tám túi Trần Hữu Lượng. Vậy phải tuân thủ bang quy của bổn bang, có công được thưởng, có tội bị phạt.

Mắt Tống Thanh Thư lóe lên ánh oán trách, nhưng gã vội kìm chế, bước lên quỳ xuống trước mặt Sử Hỏa Long, nói:

– Đệ tử Tống Thanh Thư khấu đầu tham kiến bang chủ. Đa tạ bang chủ khai ân, ban cho chức vị đệ tử sáu túi.

Sau đó gã tham kiến các vị trưởng lão. Chấp pháp trưởng lão nói:

– Tống huynh đệ, ngươi đã gia nhập bổn bang, thì từ nay phải tuân thủ sự ước thúc của bang quy. Mai sau dù ngươi có lên làm chưởng môn phái Võ Đang, ngươi vẫn phải tuân theo hiệu lệnh của bổn bang. Điều đó ngươi biết rồi chứ?

Giọng của lão hết sức nghiêm trang. Tống Thanh Thư nói:

– Vâng.

Chấp pháp trưởng lão nói tiếp:

– Bổn bang và phái Võ Đang tuy cùng là hiệp nghĩa đạo, nhưng đường lối dẫu sao cũng khác nhau. Chức chưởng môn phái Võ Đang mai đây chắc chắn rơi vào tay ngươi, vì cớ gì ngươi lại cam lòng gia nhập Cái Bang? Việc này phải nói cho minh bạch.

Tống Thanh Thư liếc Trần Hữu Lượng một cái, nói:

– Trần trưởng lão có ân nghĩa rất lớn với đệ tử, đệ tử ngưỡng mộ Trần trưởng lão, nên cam lòng theo hầu dưới trướng.

Trần Hữu Lượng cười, nói:

– Ở đây không có ai là người ngoài, có nói ra cũng không sao. Chưởng môn phái Nga Mi Diệt Tuyệt sư thái sau khi chết đi, người kế nhiệm là một cô nương xinh đẹp tên gọi Chu Chỉ Nhược. Chu cô nương có tình thanh mai trúc mã với Tống huynh đệ, vốn đã có ước định hôn nhân; không ngờ lại bị tên đại ma đầu Ma giáo là Trương Vô Kỵ ép nàng theo hắn ra hải ngoại. Tống huynh đệ phẫn uất, cầu cứu tại hạ. Tại hạ liền vỗ ngực bảo đảm sẽ giúp y đoạt lại Chu cô nương.

Trương Vô Kỵ càng nghe càng tức lộn ruột, nghĩ thầm: “Tên kia ăn nói đặt điều, làm gì có chuyện đó?” Chàng đã toan nhảy vào đại điện, nhưng rồi cố dằn cơn giận, tiếp tục lắng nghe.

Sử Hỏa Long cười ha hả, nói:

– Xưa nay anh hùng khó qua nổi cửa ải mỹ nhân, chuyện đó không có gì lạ. Một người là chưởng môn phái Võ Đang, một người là chưởng môn phái Nga Mi, chẳng những môn đăng hộ đối, mà còn là trai tài gái sắc, thật xứng đôi vừa lứa.

Chấp pháp trưởng lão hỏi thêm:

– Tống huynh đệ gặp cảnh oan ức đó, sao không nhờ Trương Tam Phong Trương chân nhân và Tống đại hiệp xử lý?

Trần Hữu Lượng nói:

– Tống huynh đệ bảo rằng tên tiểu tặc Trương Vô Kỵ là con trai của Trương Thúy Sơn phái Võ Đang, Trương Tam Phong bình sinh hết lòng thương yêu Trương Thúy Sơn, nên gần đây phái Võ Đang dường như có ý liên thủ với Ma giáo; Trương Tam Phong và Tống đại hiệp đều không muốn đắc tội với Ma giáo. Xem ra hiện thời trong võ lâm Trung nguyên chỉ có bản bang là thề không đội trời chung và có đủ lực lượng đối địch với Ma giáo mà thôi.

Chấp pháp trưởng lão gật đầu:

– Thì ra vậy, chỉ cần tiêu diệt Ma giáo, giết chết tên tiểu tử Trương Vô Kỵ, tâm nguyện của Tống huynh đệ làm gì chẳng xong.

Trương Vô Kỵ ẩn mình trong lùm cây, nhớ lại ngày trước ở sa mạc Tây Vực, trên đỉnh Quang Minh, điệu bộ của Tống Thanh Thư đối với Chu Chỉ Nhược đã rất khác lạ, bây giờ thì thấy rõ quả gã có tình ý với Chu Chỉ Nhược, song trong lòng chàng rất ngạc nhiên: “Đệ tử phái Võ Đang muốn gia nhập Cái Bang không phải là không được, nhưng trước hết phải bẩm cáo với thái sư phụ và Tống sư bá biết đã. Gã kia vì một thiếu nữ mà phản bội sư môn, phản bội phụ thân, nhân phẩm há chẳng thấp kém quá sao? Huống hồ Chu Chỉ Nhược đối với ta một tấm chân tình, Tống Thanh Thư dẫu có sự trợ giúp của Cái Bang, cũng đâu có thể ép nàng thuận theo? Tống Thanh Thư tên tuổi sớm nổi trên giang hồ, được coi là anh tài đời sau của phái Võ Đang, cớ sao hồ đồ như vậy?”

Chỉ nghe Trần Hữu Lượng nói:

– Khải bẩm bang chủ, đệ tử ở vùng phụ cận Đại Đô có bắt được một nhân vật trọng yếu của Ma giáo, tên đó có can hệ đến đại nghiệp của bổn bang, xin bang chủ phát lạc.

Sử Hỏa Long vui mừng nói:

– Mau dẫn vào đây.

Trần Hữu Lượng vỗ tay ba cái, nói:

– Dẫn tên ma đầu vào.

Từ sau điện bước ra bốn bang chúng Cái Bang, tay cầm binh khí, áp giải một người bị trói quặt tay ra sau lưng.

Trương Vô Kỵ thấy đó là một thanh niên chừng hai mươi tuổi, diện mạo rất quen thuộc, chàng nhớ đã gặp tại đại hội Minh giáo ở Hồ Điệp cốc, song không nhớ được họ tên. Người kia vẻ mặt cực kỳ căm phẫn, lúc đi ngang qua chỗ Trần Hữu Lượng, chàng ta đột nhiên há miệng, nhổ toẹt một bãi nước miếng vào mặt hắn ta. Trần Hữu Lượng nghiêng người né tránh, vung tay tát một cái lên má bên trái anh chàng kia, khiến mặt chàng sưng lên liền. Mấy đệ tử Cái Bang áp giải thúc vào lưng chàng, quát:

– Gặp bang chủ, mau quỳ xuống khấu đầu!

Người kia lại khạc một tiếng, nhổ một bãi nước miếng vào mặt Sử Hỏa Long.

Lúc này người đó ở gần Sử Hỏa Long, bãi nước miếng có kình lực rất mạnh, Sử Hỏa Long vội cúi đầu xuống nhưng không tránh kịp, nghe bộp một tiếng, trúng ngay giữa trán. Trần Hữu Lượng bèn đá quét qua, đánh ngã người đó, rồi sấn tới che cho Sử Hỏa Long, chỉ mặt người đó, quát:

– Cuồng đồ to gan, ngươi không thiết sống nữa sao?

Người đó chửi lại:

– Ông đây đã rơi vào tay bọn bay, vốn không mong sống mà trở về nữa rồi.

Thừa lúc Trần Hữu Lượng che cho, Sử Hỏa Long vội lau bãi nước bọt trên trán. Trần Hữu Lượng lùi lại hai bước, nói:

– Khải bẩm bang chủ, tên tiểu tử này là cao thủ hạng nhất trong Ma giáo, võ công xem chừng còn cao hơn cả bốn đại hộ giáo pháp vương, mình không thể coi thường hắn.

Trương Vô Kỵ nghe câu đó, hơi ngạc nhiên, song chàng hiểu ra liền, Trần Hữu Lượng cố ý thổi phồng võ công của người kia chỉ cốt chữa thẹn cho bang chủ. Sử Hỏa Long là bang chủ Cái Bang, vậy mà không tránh nổi bãi nước bọt, thật chẳng ra thể thống gì, đã thế, sau khi bị nhục nhã như vậy, bang chủ chẳng hề lộ vẻ tức giận, mà chỉ luống cuống kinh hãi thôi.

Chấp pháp trưởng lão hỏi:

– Trần huynh đệ, người này là ai?

Trần Hữu Lượng đáp:

– Hắn tên là Hàn Lâm Nhi, con trai của Hàn Sơn Đồng.

Trương Vô Kỵ thầm gật đầu: “Đúng rồi, ở đại hội Hồ Điệp cốc, chàng ta luôn đứng sau lưng phụ thân, không nói chuyện với mình, thành thử mình không nhớ ra tên”. Chấp pháp trưởng lão vui mừng nói:

– Ồ, thì ra là con của Hàn Sơn Đồng. Trần huynh đệ, công của huynh đệ to lắm đó. Khải bẩm bang chủ, Hàn Sơn Đồng mấy năm qua liên tiếp đánh bại quân Nguyên, bọn đại tướng thuộc hạ của hắn như Chu Nguyên Chương, Từ Đạt, Thường Ngộ Xuân đều là các nhân vật lợi hại trong Ma giáo. Chúng ta bắt được tên tiểu tử này làm con tin, lo gì Hàn Sơn Đồng không nghe lệnh của bổn bang.

Hàn Lâm Nhi lớn tiếng chửi:

– Mẹ kiếp, bọn bay đừng có nằm mơ! Cha ta là bậc anh hùng hào kiệt, há để cho bọn vô sỉ các ngươi đe dọa? Cha ta chỉ nghe lệnh một mình Trương giáo chủ mà thôi. Cái Bang các ngươi mơ tưởng tranh hùng với với Minh giáo, thực là không biết tự lượng sức. Còn tên bang chủ thối tha của bọn bay xách dép cho Trương giáo chủ của bọn ta cũng không đáng.

Trần Hữu Lượng cười hì hì, nói:

– Hàn huynh đệ, chú em ca tụng Trương giáo chủ của quý giáo anh hùng như thế, bọn ta cũng vô cùng ngưỡng mộ, rất mong được gặp lão nhân gia một lần. Vậy chú em dẫn bọn ta tới gặp được chăng?

Hàn Lâm Nhi nói:

– Trương giáo chủ còn bận đảm đương đại sự, ngay huynh đệ bản giáo còn chưa dễ gì được gặp, đâu có rỗi hơi mà gặp bọn bay?

Trần Hữu Lượng cười nói:

– Trên giang hồ ai ai cũng bảo Trương Vô Kỵ đã bị quân Nguyên bắt ở Đại Đô, chém đầu làm gương, rồi đem thủ cấp đi bêu ở các nơi, vậy mà ngươi ở đây cứ huênh hoang khoác lác.

Hàn Lâm Nhi cả giận, quát to:

– Ngươi nói thối bỏ mẹ, Thát tử bắt được Trương giáo chủ hồi nào? Dù có thiên binh vạn mã vây quanh, Trương giáo chủ cũng ra vào như chơi. Trương giáo chủ có tới Đại Đô thật, nhưng là để cứu các nhân vật võ lâm của sáu đại môn phái thoát ra, làm đếch gì có chuyện bêu đầu làm gương? Ngươi chớ có ăn bậy nói láo!

Trần Hữu Lượng không nổi giận, vẫn cười hì hì, nói:

– Thì trên giang hồ người ta đồn ầm lên thế, bọn ta lẽ nào không tin? Suốt nửa năm nay chỉ nghe nói tới những người trong Minh giáo, như Hàn Sơn Đồng, Từ Thọ Huy, rồi Chu Nguyên Chương, hòa thượng Bành Oánh Ngọc chứ có ai nhắc gì đến Trương Vô Kỵ đâu? Đủ biết chắc chắn Trương Vô Kỵ toi mạng rồi.

Hàn Lâm Nhi mặt đỏ gay, nổi cả gân xanh trên trán, lớn tiếng nói:

– Cha ta và Từ Thọ Huy đều nghe lệnh Trương giáo chủ mà hành sự, làm sao có thể sánh vai với Trương giáo chủ được?

Trần Hữu Lượng chép miệng, nói:

– Gã Trương Vô Kỵ võ công kể cũng khá, nhưng lại có tướng đoản mệnh, có người xem số cho y, đoán là y sống không qua được đầu năm nay…

Lúc ấy, trên cây bách cổ thụ có một cành trước miếu hơi rung động, trong điện mọi người không ai hay biết, nhưng Trương Vô Kỵ đã nghe có tiếng thở nhẹ từ cành lá vọng ra, nhưng người kia lập tức nén thở lại liền. Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Thì ra có người nấp trên cây bách, người đó tới trước ta, vậy mà hồi lâu ta không phát giác, võ công người ấy chẳng phải thường”. Chàng căng mắt nhìn vào lùm cây, thấy có một dải áo xanh. Người kia ẩn mình thật khéo, áo quần cùng màu với lá cây, mắt phải tinh như Trương Vô Kỵ mới nhận ra được.

Chỉ nghe Hàn Lâm Nhi giận dữ nói:

– Trương giáo chủ nhân hậu, ông trời ắt phù hộ cho. Trương giáo chủ tuổi còn trẻ, có sống cả trăm năm nữa cũng không có gì lạ.

Trần Hữu Lượng thở dài:

– Thế nhưng lòng người đời khôn lường. Nghe đâu Trương Vô Kỵ đã bị kẻ gian hãm hại, bị triều đình bắt giết đi rồi. Kể ra cũng chẳng lạ, phàm những ai đã gặp Trương Vô Kỵ cũng đều nói y không thể sống quá ba tám hai mươi tư tuổi.

Bỗng từ trên cây bách cổ thụ một cái bóng xanh nhảy xuống đất, kèm theo tiếng quát:

– Trương Vô Kỵ ta đây, kẻ nào dám rủa ta đoản mệnh thì bảo!

Lời chưa dứt, đã vọt vào trong đại điện. Chưởng Bổng long đầu đứng ở cửa điện giơ tay chộp vào gáy người đó, người đó nhẹ nhàng khéo léo tránh được.

Chỉ thấy y mặc áo xanh, đội mũ vuông, thần thái tươi tỉnh, mặt trắng như ngọc, mắt trong như nước, chính là Triệu Mẫn giả trai.

Trương Vô Kỵ thấy Triệu Mẫn bất ngờ xuất hiện, trong lòng chấn động, vừa kinh ngạc vừa tức giận, vừa yêu vừa mừng, bất giác kêu “ôi” một tiếng rất nhỏ. Bọn Cái Bang trong đại điện đang chăm chú đề phòng Triệu Mẫn, nên không ai nghe thấy tiếng thốt của chàng.

Bang chúng Cái Bang chưa biết mặt Trương Vô Kỵ, chỉ biết giáo chủ Minh giáo là một thanh niên tuổi đôi mươi, võ công hết sức cao cường, thấy Triệu Mẫn vừa tránh được một trảo của Chưởng Bổng long đầu bằng thân pháp khinh linh, quả có vẻ là một đệ nhất cao thủ, ai cũng tưởng đấy là giáo chủ Minh giáo, nên đều rúng động.

Song Trần Hữu Lượng thấy diện mạo người này quá xinh đẹp, tuổi quá trẻ, giọng nói đầy vẻ kiều mị, xem chừng không giống như giang hồ đồn đại về Trương Vô Kỵ, nên gã quát to:

– Trương Vô Kỵ chết từ lâu rồi, sao lại có kẻ giả mạo ló mặt ra đây vậy?

Triệu Mẫn giận dữ nói:

– Trương Vô Kỵ còn sống sờ sờ, sao ngươi cứ mở miệng nguyền rủa là thế nào? Trương Vô Kỵ hồng phúc tề thiên, trường mệnh bách tuế, dẫu các ngươi chết sạch cả rồi, Trương giáo chủ vẫn còn sống thêm tám chục năm nữa.

Trương Vô Kỵ nghe nàng nói mấy câu đó bằng một giọng buồn buồn, chắc là nàng nghĩ đến việc bỏ rơi chàng trên hoang đảo, lương tâm không khỏi cắn rứt, nhưng chàng lại nghĩ thầm: “Hạng người tàn nhẫn vô tình kia, làm gì có lương tâm mà bảo cắn rứt? Trương Vô Kỵ ơi là Trương Vô Kỵ, sao mi cứ day dứt thương yêu nàng ta là thế nào?” Trần Hữu Lượng nói:

– Ngươi thực ra là ai?

Triệu Mẫn đáp:

– Ta là giáo chủ Minh giáo Trương Vô Kỵ. Sao ngươi dám bắt huynh đệ thủ hạ của ta; hãy mau thả người kia ra, có chuyện gì thì cứ thanh toán với ta đây!

Bỗng nghe một người ở bên cạnh cười khẩy, nói:

– Triệu cô nương, người khác không biết cô nương, chứ Tống Thanh Thư ta lẽ nào không biết? Khải bẩm bang chủ, cô nương này là con gái của Nhữ Dương Vương. Thuộc hạ của cô ta có rất nhiều cao thủ, cần phải đề phòng.

Chấp pháp trưởng lão chúm môi huýt một tiếng sáo, rồi nói to:

– Chưởng Bổng long đầu, mau dẫn huynh đệ ra ngoài miếu nghênh địch, đề phòng kẻ địch đánh vào.

Chưởng Bổng long đầu vâng lệnh chạy ra, trong giây lát, bốn phía đông tây nam bắc chỗ nào cũng có tiếng í ới gọi nhau của bọn Cái Bang.

Triệu Mẫn thấy vậy, mặt hơi biến sắc, vỗ tay một cái, từ trên tường nhảy xuống hai người, chính là Huyền Minh nhị lão Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông.

Chấp pháp trưởng lão quát:

– Bắt lấy chúng!

Lập tức có bốn đệ tử bảy túi xông tới vây đánh Lộc, Hạc nhị lão. Huyền Minh nhị lão võ công rất cao, chỉ trong ba chiêu, bốn đệ tử bảy túi đều đã bị thương. Truyền công trưởng lão râu tóc bạc phơ liền đứng dậy, vù một chưởng đánh thẳng vào Hạc Bút Ông, tiếng gió phần phật, nghe thật uy mãnh.

Hạc Bút Ông trả lại một chiêu Huyền Minh thần chưởng, nghe bình một tiếng, hai chưởng đụng nhau. Sau chưởng thứ ba, Truyền công trưởng lão xem chừng núng thế. Phía bên kia Lộc Trượng Khách múa cây trượng sừng hươu, đấu với Chấp pháp trưởng lão và Chưởng Bát long đầu hai người, nhất thời chưa phân cao thấp. Chưởng Bổng long đầu thấy Truyền công trưởng lão mặt đỏ gay, cứ lùi dần từng bước, thì không khỏi kinh hãi, nghĩ thầm Truyền công trưởng lão công lực thâm hậu, là cao thủ số một của bổn bang, sao lại không địch nổi lão già kia? Khi thấy đôi bên trao đổi đến chưởng thứ năm, Truyền công trưởng lão đã thở hồng hộc, chòm râu trắng phất phơ, tuy biết xưa nay ông ta đối địch không thích người khác tiếp tay, nhưng đến bước này, không thể để ông ta chết dưới tay kẻ địch, bèn giơ thiết bổng lên, quét ngang dưới chân Hạc Bút Ông.

Khi Huyền Minh nhị lão xuất hiện, Triệu Mẫn toan rút đi, nhưng bị Trần Hữu Lượng rút trường kiếm ra chặn lại. Hồi ở chùa Vạn An, Triệu Mẫn học được nhiều cái tinh túy trong võ công của sáu đại môn phái, liền đánh luôn ra ba kiếm, một chiêu “Hoa Sơn kiếm pháp”, một chiêu “Côn Luân kiếm pháp”, còn chiêu thứ ba là kiếm pháp tuyệt học của phái Không Động. Chiêu thứ tư nàng sử dụng “Kim đỉnh cửu thức” của phái Nga Mi. Trần Hữu Lượng kinh hãi, không chống đỡ kịp, nàng liền vòng mũi kiếm lại, chọc thẳng vào ngực y. Bỗng nghe “keng” một tiếng, từ bên trái có một thanh kiếm vung ra, gạt kiếm của nàng ra ngoài, kẻ xuất chiêu vừa rồi là Tống Thanh Thư.

Mọi người trong đại điện giao đấu với nhau, Trương Vô Kỵ ngồi trên cây nhìn rõ từng chiêu một. Tống Thanh Thư thi triển Võ Đang kiếm pháp, vừa kín vừa hiểm, quả được Tống Viễn Kiều chân truyền. Trần Hữu Lượng từ bên cạnh giáp công. Triệu Mẫn tuy tập được nhiều tuyệt chiêu, nhưng hỗn tạp chưa tinh, huống hồ là một địch hai, sớm rơi vào thế thủ nhiều hơn công.

Trương Vô Kỵ vừa cảm thấy sốt ruột, vừa lạ lùng: “Tại sao nàng chỉ sử dụng thanh kiếm tầm thường là sao? Nếu sử dụng kiếm Ỷ Thiên thì vũ khí của đối phương ắt gãy ngay, sẽ thoát vây dễ dàng”. Song nhìn nàng quần áo mỏng manh, thân hình mảnh dẻ, bên lưng không thể giấu kiếm Ỷ Thiên. Lo cho nàng một hồi rồi, Trương Vô Kỵ lại tự trách mình: “Tiểu yêu nữ kia là hung thủ đã hại chết biểu muội của mi đó, Trương Vô Kỵ, tại sao mi lại đi lo cho nàng ta? Như thế chẳng những không phải với biểu muội, mà còn không phải với cả nghĩa phụ và Chỉ Nhược”.

Đôi bên đấu một lát, phía Cái Bang có mấy cao thủ nữa xông vào, còn Triệu Mẫn thì không có thủ hạ nào tới giúp. Lộc Trượng Khách thấy tình thế bất lợi, bèn nói:

– Quận chúa nương nương, sư đệ, chúng ta lui ra ngoài sân, thừa cơ rút đi.

Triệu Mẫn nói:

– Được. Tên họ Trần này phỉ báng Trương công tử, bảo chàng đoản mệnh chết chém, ta không thể tha cho hắn, hai vị hãy trị cho hắn một phen đích đáng.

Huyền Minh nhị lão nói:

– Tuân lệnh. Xin quận chúa lui ra trước, tên tiểu tử ấy cứ để chúng tôi lo liệu.

Triệu Mẫn lại nói:

– Hàn Lâm Nhi đối với Trương công tử một mực trung thành, hai vị tìm cách cứu y ra.

Lộc Trượng Khách nói:

– Xin quận chúa cứ lui trước, việc cứu người, huynh đệ chúng tôi tùy cơ hành sự.

Ba người đang bị cường địch vây đánh, cứ nói chuyện thoái lui và cứu người, thực coi đối phương chẳng ra gì.

Cuộc đấu trong điện càng lúc càng hăng, bang chủ Cái Bang Sử Hỏa Long đứng trong góc, trước sau không nói một lời. Truyền công, Chấp pháp nhị lão nghe Triệu Mẫn và Huyền Minh nhị lão đối đáp, vội hạ lệnh cho thuộc hạ chặn các nẻo đường.

Đột nhiên Lộc Trượng Khách và Hạc Bút Ông đánh giạt các đối thủ sang một bên, xông tới chỗ Sử Hỏa Long, thân pháp cực lẹ làng, xem ra Sử Hỏa Long khó bề chống đỡ. Nào ngờ lúc Triệu Mẫn và Huyền Minh nhị lão đối đáp, Trần Hữu Lượng biết đối phương sẽ lấy tấn công để thoái lui, bèn đi trước một bước, đã vòng tới đứng bên cạnh Sử Hỏa Long. Chưởng lực của Huyền Minh nhị lão chưa tới, Trần Hữu Lượng đã đẩy vào vai Sử Hỏa Long, xô Sử Hỏa Long ra phía sau tượng Phật Di Lặc. Chưởng lực của Huyền Minh nhị lão đánh tới, nghe bộp một tiếng, pho tượng đất bị vỡ lớp ngoài, bụi bay tung tóe, ngả nghiêng muốn đổ. Hạc Bút Ông bước tới, giáng thêm hai chưởng, nửa trên của pho tượng lớn kia đổ xuống.

Bọn Cái Bang kêu la, nhảy tránh ra. Triệu Mẫn thừa cơ hỗn loạn, nhảy luôn ra sân. Tống Thanh Thư và Chưởng Bổng long đầu một kiếm một gậy, cùng đánh sau lưng nàng. Ra đến cửa điện, lại thêm ba cây gậy đều nhắm ngang chân Triệu Mẫn mà đánh quét. Triệu Mẫn vừa phải tránh một kiếm một gậy của Tống Thanh Thư và Chưởng Bổng long đầu, lại vừa phải tránh ba cây gậy đánh tới bên dưới; nàng chỉ tránh được hai cây, chỉ thấy ống chân trái đau nhói, đã bị cây gậy thứ ba đánh trúng, đứng không vững, ngã bổ nhào về phía trước. Tống Thanh Thư liền quay ngược cán kiếm, đánh vào ót Triệu Mẫn, định đánh nàng bất tỉnh để bắt sống.

Cán kiếm còn cách gáy nàng chừng nửa thước, bỗng cây gậy sắt của Chưởng Bổng long đầu liền đưa ra, gạt ngay thanh kiếm sang một bên, rồi một bóng người bay vút lên, nhảy vọt qua tường ra bên ngoài. Tống Thanh Thư quay đầu lại, hỏi Chưởng Bổng long đầu:

– Sao lại thả cho cô ta chạy mất?

Chưởng Bổng long đầu tức giận nói:

– Ngươi chặn cây gậy của ta là nghĩa làm sao?

Tống Thanh Thư nói:

– Chính đại ca dùng gậy hất kiếm của đệ tử, còn bảo.

Chưởng Bổng long đầu quát:

– Tranh cãi vô ích, mau đuổi theo!

Cả hai cùng nhảy qua tường, thấy ở góc tường nằm gục một đệ tử bảy túi, xương đùi bị gãy, không bò dậy được. Chưởng Bổng long đầu hỏi:

– Con yêu nữ ấy chạy về hướng nào?

Bảy gã đệ tử Cái Bang đứng canh bên ngoài cùng đáp:

– Đâu có ai, không thấy người nào cả.

Chưởng Bổng long đầu tức giận nói:

– Rõ ràng có người vừa từ bên trong nhảy ra, các ngươi mù hết cả hay sao?

Một tên đệ tử sáu túi đưa tay đỡ gã đệ tử bảy túi gãy chân, nói:

– Mới rồi chỉ có vị đại ca này nhảy qua tường ra đây, ngoài ra không có ai khác.

Chưởng Bổng long đầu gãi gãi gáy, hỏi gã đệ tử bảy túi:

– Ngươi vì lẽ gì nhảy qua tường ra đây?

Gã kia nhăn nhó nói:

– Đệ tử… đệ tử bị chộp cổ ném ra đấy chứ. Con yêu nữ ấy thủ pháp thật quái dị.

Chưởng Bổng long đầu quay sang, hầm hầm nhìn Tống Thanh Thư, quát:

– Lúc nãy ngươi lấy cán kiếm gạt cây gậy của ta là có ý gì? Ngươi vừa gia nhập bổn bang, đã định “ăn cây táo rào cây sung” là sao?

Tống Thanh Thư vừa sợ vừa tức, nói:

– Đệ tử đang định đánh con yêu nữ ấy bằng cán kiếm, thì đại ca lấy gậy gạt phăng cán kiếm của đệ tử, thế nên yêu nữ mới chạy mất.

Chưởng Bổng long đầu cả giận, nói:

– Làm gì có chuyện đó! Ta gạt kiếm của ngươi ra để làm gì? Ta ở trong bang mấy chục năm nay, ở chức vị cao là Chưởng Bổng long đầu, không lẽ lại ra tay giúp người ngoài? Ta hỏi ngươi lần nữa, vì cớ gì ngươi không dùng mũi kiếm đâm luôn cho tiện, mà lại xoay cán kiếm, giả bộ gõ xuống? Hừ, mắt ta chưa hoa đâu, ngươi đừng hòng đánh lừa ta.

Tống Thanh Thư ở trong phái Võ Đang tuy là đệ tử trẻ tuổi đời thứ ba, nhưng môn hạ Võ Đang ai cũng biết gã là chưởng môn trong tương lai, thành thử ngay cả các vị sư thúc như Du Liên Châu, Trương Tòng Khê đối với gã cũng hết sức nể nang, chưa nói nặng với gã nửa câu bao giờ. Gã cao ngạo thành thói, tuy biết Chưởng Bổng long đầu trong Cái Bang có chức vị cao hơn nhiều so với một đệ tử mới gia nhập bổn bang, song việc này hiển nhiên phía bên kia trái lè, làm sao mình nhịn được, bèn nói:

– Sáu chữ “Ăn cây táo rào cây sung” không phải bạ ai cũng nói được. Long đầu đại ca muốn trách mắng như thế, phải có nhân chứng. Đệ tử rõ ràng vừa gõ cán kiếm xuống đầu yêu nữ, thì đại ca lấy gậy gạt phăng cán kiếm ra, giữa chỗ đông người, không lẽ không ai trông thấy.

Chưởng Bổng long đầu nghe gã nói thế, tựa hồ có ý bảo lão “Ăn cây táo rào cây sung”, thả cho Triệu Mẫn chạy thoát, lão vốn tính nóng như lửa, bèn quát to:

– Thằng nhãi này không kính trọng bề trên, chắc ngươi ỷ vào thanh thế phái Võ Đang chăng?

Nói xong nhắm đầu Tống Thanh Thư đập luôn một gậy, trong cơn nóng giận, gậy này có kình lực cực kỳ cương mãnh.

Tống Thanh Thư tức không chịu nổi, dùng trường kiếm gạt đi. Gậy kiếm đụng nhau, nghe choang một tiếng, tóe ra mấy tia lửa. Tống Thanh Thư thấy hổ khẩu ngâm ngẩm đau. Chưởng Bổng long đầu quát:

– Họ Tống kia, ngươi cả gan phạm thượng tác loạn, có phải do địch nhân phái ngươi chui vào bản bang để phá ngầm chăng?

Vừa nói vừa giáng luôn một gậy nữa.

Từ cửa miếu đột nhiên có một người xông tới, giơ kiếm đẩy gậy chệch đi, nói:

– Long đầu đại ca, xin chớ nổi nóng.

Người đó chính là trưởng lão tám túi Trần Hữu Lượng. Sau khi gạt gậy, Trần Hữu Lượng hỏi:

– Con yêu nữ Triệu Mẫn đâu rồi?

Chưởng Bổng long đầu hầm hầm chỉ mặt Tống Thanh Thư, nói:

– Nó thả con ấy đi rồi.

Tống Thanh Thư vội nói:

– Chính Long đầu đại ca thả Triệu Mẫn nó đi mất.

Hai người cứ tranh cãi không thôi, Huyền Minh nhị lão từ trong miếu đã nhảy ra, nhìn tứ phía không thấy Triệu Mẫn đâu cả, biết nàng đã chạy thoát rồi, hai lão cùng cười phá lên một tràng dài, bốn chưởng cùng tung ra, đánh gục luôn bốn đệ tử Cái Bang. Đến lúc Truyền công trưởng lão, Chấp pháp trưởng lão đuổi ra theo, thì Huyền Minh nhị lão đã chạy xa hàng chục trượng rồi, không đuổi kịp nữa.

*

*      *

Thì ra ban nãy Trương Vô Kỵ thấy Tống Thanh Thư xoay cán kiếm đánh xuống gáy Triệu Mẫn, cú đánh ấy chưa biết nặng nhẹ thế nào, nhẹ thì mê man bất tỉnh, nặng thì đánh nàng chết ngay tại chỗ, chàng không kịp suy nghĩ gì nữa, vội từ trên cây cổ tùng nhảy xuống, sử dụng thần công “Càn khôn đại na di”, từ sau lưng Chưởng Bổng long đầu đẩy vào cây thiết bổng của lão ta, làm cho nó tạt qua gạt phăng cán kiếm của Tống Thanh Thư sang một bên. Tâm pháp “Càn khôn đại na di” của chàng vốn đã luyện tới mức thần diệu vô cùng, mấy tháng qua trên hoang đảo nhàn rỗi, chàng lại nghiên cứu “Bí quyết thánh hỏa lệnh” mà Tiểu Chiêu đã dịch, kết hợp hai thứ với nhau, còn cao minh gấp mười võ công kỳ bí của ba sứ giả Ba Tư.

Lúc này đột nhiên chàng đem ra sử dụng, hai cao thủ như Chưởng Bổng long đầu và Tống Thanh Thư mà cũng không phát hiện ra được. Chưởng Bổng long đầu cứ ngỡ Tống Thanh Thư đưa kiếm gạt gậy của lão, còn Tống Thanh Thư thì thấy rõ ràng Chưởng Bổng long đầu dùng gậy gạt kiếm của gã. Thừa lúc hai kẻ đó còn đang kinh ngạc, Trương Vô Kỵ giơ tay trái chộp ngay một tên đệ tử bảy túi, mà ném qua tường ra bên ngoài. Chưởng Bổng long đầu và Tống Thanh Thư thấy có bóng người bay qua tường, nghĩ rằng đó là Triệu Mẫn đã bỏ chạy, liền cùng đuổi theo, Trương Vô Kỵ bèn ôm Triệu Mẫn nhảy lên mái nhà.

Giữa thanh thiên bạch nhật vốn khó che giấu hình tích, nhưng bọn Cái Bang như một bầy ong ào ào chạy theo Chưởng Bổng long đầu và Tống Thanh Thư ra ngoài cửa miếu, tuy có rất nhiều kẻ hoa mắt, thấy hình như có vật gì nhảy vọt qua trên đầu, song sau khi pho tượng Phật Di Lặc trong đại điện đổ xuống, bụi bay mù mịt thành một lớp dày, cả bọn chạy nháo nhào cả lên; kẻ võ công cao thì mải vây đánh Huyền Minh nhị lão, kẻ võ công kém thì lo giữ thân, thành ra không một ai trông thấy cả.

Triệu Mẫn đúng lúc nguy cấp được người cứu thoát, thân hình nằm gọn trong hai cánh tay rắn chắc, tựa hồ đằng vân giá vụ bay lên nóc miếu. Nàng ngoảnh đầu lại, dưới ánh nắng nhìn mặt người kia mày rậm mắt sáng, chính là Trương Vô Kỵ, thì dường như không tin nổi mắt mình, thốt lên:

– Chàng đấy ư?

Trương Vô Kỵ vội giơ tay bịt miệng nàng, nhìn tứ phía, thấy trước sau phải trái miếu Di Lặc chỗ nào cũng đầy đệ tử Cái Bang, muốn cứu thoát Triệu Mẫn cũng không khó, song chàng đã biết Cái Bang đang bàn mưu đối phó với Minh giáo, Tống sư ca của phái Võ Đang lại gia nhập Cái Bang, nếu không dò xét cho rõ, chỉ lo thoát thân bỏ đi, thì thật đáng tiếc. Chàng thấy Chưởng Bổng long đầu và Tống Thanh Thư đang tranh cãi với nhau, Chưởng Bổng long đầu mắt đã lộ hung quang, trong Cái Bang có nhiều kẻ gian hiểm, không chừng Tống Thanh Thư có thể bị hạ độc thủ, huống hồ Hàn Lâm Nhi hết mực trung thành, không thể không cứu chàng ta. Trương Vô Kỵ thấy trong đại điện bụi bay mù mịt, bèn tính cách mạo hiểm vào bên trong miếu tìm chỗ ẩn nấp. Trương Vô Kỵ bèn nhảy về phía trước, lần xuống sát mái hiên, dùng hai chân quặp chặt mái hiên, thả người xuống từ từ, rồi co đùi một cái, đã chui vào phía sau một bức tượng Phật. Trong điện lúc này chỉ có mấy tên đệ tử Cái Bang bị pho tượng Di Lặc đổ trúng, đang nằm rên rỉ dưới đất, còn Hàn Lâm Nhi không rõ đã bị dẫn đi đâu. Trương Vô Kỵ đưa mắt bốn phía, chưa tìm ra chỗ nào có thể ẩn nấp thật tốt. Triệu Mẫn giơ tay chỉ một cái trống da lớn, treo trên một cái giá gỗ to, cách mặt đất hơn một trượng, đối diện với chiếc chuông lớn ở bên phải. Trương Vô Kỵ chợt hiểu, bèn men theo tường, đến sau cái trống, nhún chân nhảy lên, giơ ngón trỏ tay phải rạch ngang mặt trống một cái, mặt trống bằng da bị thủng một vệt dài. Chàng móc chân trái vào cái giá gỗ, ngón tay lại rạch một đường dọc, hai vết cắt thành hình chữ thập trên mặt trống; rồi chàng ôm Triệu Mẫn chui tọt qua chữ thập đó.

Cái trống tuy lớn, nhưng hai người cùng ẩn bên trong, cũng rất khó cử động. Triệu Mẫn tựa vào người Trương Vô Kỵ, thở hổn hển. Cái trống này chế tạo đã lâu, bụng trống đầy bụi, Trương Vô Kỵ ngửi thấy lẫn trong mùi ẩm mốc là mùi thơm thoang thoảng của thân hình Triệu Mẫn, chàng vừa yêu vừa giận, có bao nhiêu điều muốn trách cứ nàng, khổ nỗi ở đây không thể mở miệng, chỉ thấy thân thể nàng ngả vào lòng chàng rất mềm mại, tóc nàng cọ vào má chàng. Chàng giật mình nghĩ thầm: “Ta ra tay cứu nàng đã là không nên, sao lại còn cùng nàng thân mật quá thế này?” Chàng đưa tay đẩy đầu Triệu Mẫn ra, không cho tựa vào vai mình. Triệu Mẫn bực bội thúc cùi chỏ vào ngực chàng, Trương Vô Kỵ mượn sức thúc vào của nàng mà đẩy ngược trở lại, Triệu Mẫn bị đau, nhịn không nổi, phải kêu lên. Trương Vô Kỵ đã liệu trước, liền bịt miệng nàng lại.

Chỉ nghe tiếng Chấp pháp trưởng lão ở bên dưới vọng lên:

– Khải bẩm bang chủ, kẻ địch đã trốn mất tăm, thuộc hạ bất tài, xin bang chủ phạt tội.

Sử Hỏa Long nói:

– Thôi miễn! Địch nhân võ công quá cao cường, mọi người đều thấy cả. Mẹ kiếp, tất cả chúng ta cùng xui xẻo, chẳng riêng gì trưởng lão thôi đâu.

Chấp pháp trưởng lão nói:

– Đa tạ bang chủ!

Tiếp đó Chưởng Bổng long đầu tố cáo Tống Thanh Thư thả cho kẻ địch chạy mất. Tống Thanh Thư ra sức cãi lý, hai người ai cũng đòi phần phải về mình, trong điện thành ra to tiếng. Sử Hỏa Long hỏi:

– Trần huynh đệ, lúc ấy huynh đệ thấy thế nào?

Trần Hữu Lượng đáp:

– Khải bẩm bang chủ, Chưởng Bổng long đầu là nguyên lão của bổn bang, lời nói tất không thể nào sai. Tống huynh đệ vừa thành tâm gia nhập bổn bang, con yêu nữ Triệu Mẫn lại là kẻ thù của y, Tống huynh đệ không thể có ý thả cho nó chạy mất. Theo ngu kiến của đệ, thì Triệu Mẫn võ công hết sức quái dị, chắc nó mượn lực đánh lực, mượn thiết bổng của Long đầu đại ca gạt thanh kiếm của Tống huynh đệ ra. Trong cơn hỗn chiến, hai bên cùng không nhận biết, thành thử hiểu lầm nhau.

Trương Vô Kỵ thầm khen: “Trần Hữu Lượng quả nhiên lợi hại, gã không nhìn thấy sự việc, vậy mà đoán trúng đến tám, chín phần”.

Chỉ nghe Sử Hỏa Long nói:

– Lời đó xem ra rất có lý. Hai vị huynh đệ, mọi người đều vì bổn bang mà gắng sức, đừng để chuyện nhỏ này làm tổn thương hòa khí hai bên.

Chưởng Bổng long đầu mặt vẫn hầm hầm, nói:

– Dẫu cho hắn…

Trần Hữu Lượng không để lão nói hết câu, liền ngắt lời:

– Tống huynh đệ, Long đầu đại ca đức cao vọng trọng, dù có trách lầm ngươi, ngươi cũng nên thành tâm thụ giáo. Ngươi hãy mau xin lỗi Long đầu đại ca!

Tống Thanh Thư không còn cách nào khác, đành phải bước lên thi lễ, nói:

– Long đầu đại ca, ban nãy tiểu đệ đắc tội, xin đại ca lượng thứ cho.

Chưởng Bổng long đầu tuy trong bụng còn tức lắm, nhưng cũng phải nén lại, hừ một tiếng, đáp:

– Thôi được.

Lời lẽ của Trần Hữu Lượng tuy có vẻ trách Tống Thanh Thư, song câu “Triệu Mẫn mượn thiết bổng của Long đầu đại ca gạt thanh kiếm của Tống huynh đệ ra”, rồi “Long đầu đại ca đức cao vọng trọng, dù có trách lầm ngươi, ngươi cũng nên thành tâm thụ giáo” thì lại ngầm bảo Chưởng Bổng long đầu không đúng, các vị trưởng lão trong Cái Bang đều nghe ra cả. Nhưng gần đây Trần Hữu Lượng là người được bang chủ hết sức vì nể, nói gì cũng được Sử Hỏa Long nghe theo, nên không ai dám nói gì thêm.

Sử Hỏa Long nói:

– Trần huynh đệ, yêu nữ ban nãy tới quấy phá là con gái của Nhữ Dương Vương. Ma giáo vốn đối đầu với triều đình, vậy tại sao khi chúng ta nhắc tới tên tiểu ma đầu Trương Vô Kỵ, con yêu nữ kia lại nhảy ra bênh nó?

Trần Hữu Lượng còn đang ngẫm nghĩ, Chưởng Bát long đầu nói:

– Ta thấy ả quận chúa Thát tử ấy mắt rưng rưng lệ, vẻ mặt cực kỳ tức tối. Trần huynh đệ nguyền rủa tên giáo chủ Ma giáo, ả ta làm như nghe nguyền rủa cha anh ả không bằng, thật không thể nào hiểu nổi.

Tống Thanh Thư nói:

– Khải bẩm bang chủ, tình tiết bên trong thế nào, thuộc hạ biết rất rõ.

Sử Hỏa Long nói:

– Vậy Tống huynh đệ nói nghe coi.

Tống Thanh Thư nói:

– Ma giáo tuy đối nghịch với triều đình, nhưng tiểu yêu nữ quận chúa lại say mê Trương Vô Kỵ, chỉ mơ lấy hắn làm chồng, nên mới ra sức bênh vực hắn.

Quần hào Cái Bang nghe vậy cùng ồ lên kinh ngạc.

Trương Vô Kỵ ở trong cái trống, nghe rõ mồn một, trống ngực cũng đập mạnh, tự hỏi mình: “Có thực vậy không? Có thực vậy không?” Triệu Mẫn quay đầu lại, đôi mắt long lanh nhìn chàng. Tuy ở trong lòng trống tối om, nhưng nhãn quang của Trương Vô Kỵ rất tinh tường, chỉ một chút ánh sáng đã giúp chàng nhìn thấy đôi mắt ấy vô cùng đắm đuối; chàng không khỏi bồi hồi, ôm chặt hai vai nàng, định hôn lên cặp môi anh đào của nàng, nhưng đột nhiên nhớ tới cái chết thảm khốc của Ân Ly, thế là ái tình hóa thành thù hận, bàn tay phải đang nắm vai Triệu Mẫn bèn bóp lại.

Cái bóp này chưa sử dụng toàn lực, song Triệu Mẫn đã chịu không nổi, chỉ thấy mắt tối sầm, đau đến muốn ngất đi, toan bắt chước Ân Ly rủa chàng “Đồ tiểu quỷ lang tâm đoản mệnh”, nhưng nàng cố nén lại, không nói thành tiếng, để cho nước mắt nhỏ ròng ròng từng giọt xuống mu bàn tay Trương Vô Kỵ, lăn xuống vạt áo chàng. Trương Vô Kỵ vẫn lầm lỳ phớt lờ.

Lại nghe Trần Hữu Lượng hỏi:

– Làm sao Tống huynh đệ biết? Có chuyện quái lạ thế thật ư?

Tống Thanh Thư hậm hực nói:

– Tên tiểu tử Trương Vô Kỵ tướng mạo cũng bình thường, chẳng có vẻ gì là anh tuấn, nhưng chắc là học được tà thuật của Ma giáo, biết cách mê hoặc nữ giới, biết bao nhiêu thiếu nữ ngây thơ đã sa vào cạm bẫy của hắn.

Chấp pháp trưởng lão gật đầu, nói:

– Đúng vậy, bọn dâm tà trong Ma giáo quả có phép thuật hái hoa, đàn ông đàn bà gì cũng rành cả. Nữ đệ tử Kỷ Hiểu Phù của phái Nga Mi cũng vì trúng phải tà thuật của Dương Tiêu mà thân bại danh liệt. Phụ thân Trương Vô Kỵ là Trương Thúy Sơn cũng khốn đốn vì yêu pháp của con gái Bạch Mi Ưng Vương. Ả quận chúa Thát tử chắc trúng phải tà pháp hái hoa của tên tiểu ma đầu, bị thất thân với hắn, ván đã đóng thuyền, gạo thổi thành cơm, sa vào bùn nhơ không rút ra được nữa.

Quần hào Cái Bang cùng gật đầu cho là phải. Truyền công trưởng lão bừng bừng nghĩa khí, nói:

– Những kẻ bại hoại như thế trên giang hồ, phải tru diệt cho bằng hết, nếu không thì sự trinh bạch của biết bao nhiêu con gái nhà lành sẽ bị tên dâm tặc đó làm cho ô uế.

Sử Hỏa Long liếm môi, chép miệng, cười nói:

– Mẹ kiếp, cái tên dâm tặc Trương Vô Kỵ ấy hóa ra lại có diễm phúc không nhỏ!

Trương Vô Kỵ tức đến run lẩy bẩy toàn thân, cho đến nay chàng vẫn còn là trai tơ, song từ khi Diệt Tuyệt sư thái phái Nga Mi cứ mồm năm miệng mười nhiếc chàng là tên dâm tặc, rồi kẻ khác nói theo, thì chàng không sao tẩy rửa được nỗi oan. Giờ không hiểu từ đâu người ta lại bảo Triệu Mẫn bị thất thân với chàng, nào là ván đã đóng thuyền, gạo thổi thành cơm, thật là kinh hãi, thầm nghĩ: “Triệu cô nương cùng ta ôm nhau ở trong cái trống này, nhất thiết không thể để cho bọn họ phát giác, nếu không người ta lại càng có cớ để vu hại ta”.

Lại nghe Truyền công trưởng lão nói:

– Nếu Chu Chỉ Nhược cô nương của phái Nga Mi rơi vào tay tên dâm tặc ấy, chỉ e khó toàn trinh tiết. Tống huynh đệ cứ yên tâm, bọn ta sẽ hỗ trợ Tống huynh đệ giành lại ái thê, không tái diễn chuyện như Kỷ Hiểu Phù ngày trước.

Chấp pháp trưởng lão nói:

– Đại ca nói chí phải. Phái Võ Đang năm xưa không bảo vệ nổi Ân Lê Đình, nay lại không lo nổi cho Tống Thanh Thư. Tống huynh đệ gia nhập bổn bang, nếu bọn ta không làm cho y hả giận, không giúp y hoàn thành tâm nguyện, thì hà tất Tống huynh đệ chẳng màng cái danh chưởng môn tương lai của phái Võ Đang, để làm đệ tử sáu túi của Cái Bang ta làm chi?

Quần hào Cái Bang reo hò, thề phanh thây tên dâm tặc Trương Vô Kỵ, đoạt lại vợ cho Tống Thanh Thư.

Triệu Mẫn ghé tai Trương Vô Kỵ thì thầm:

– Chàng là tên tiểu dâm tặc đáng chết!

Câu nói này nửa như giận hờn, nửa như khích lệ, nói ra một cách êm dịu, Trương Vô Kỵ nghe mà bổi hổi bồi hồi, nghĩ thầm: “Giá như nàng đừng hiểm độc hại chết biểu muội ta, ta suốt đời được ở bên nàng, thật không còn cầu mong gì hơn nữa”.

Chỉ nghe Tống Thanh Thư tỏ lời cám ơn quần hào Cái Bang. Chấp pháp trưởng lão lại hỏi:

– Tên dâm tặc ấy làm sao dan díu được với quận chúa Thát tử, Tống huynh đệ có biết không?

Tống Thanh Thư đáp:

– Các tình tiết bên trong, người ngoài làm sao biết được. Hôm tiểu yêu nữ dẫn các võ sĩ triều đình lên núi Võ Đang bắt thái sư phụ của đệ, ả vừa gặp mặt tên dâm tặc đó đã rút lui ngay, đại họa của phái Võ Đang lập tức được giải trừ. Tam sư thúc của đệ là Du Đại Nham hơn hai chục năm trước bị người ta đánh gãy chân tay, cũng được tiểu yêu nữ tặng thuốc để tên dâm tặc chữa lành các vết thương.

Chấp pháp trưởng lão nói:

– Thì ra vậy, lâu nay phái Võ Đang là cái gai trong mắt triều đình, quận chúa Thát tử hẳn phải si mê tên dâm tặc kia lắm, thì mới quên cả cội nguồn, đem thuốc tặng địch nhân. Suy cho cùng, tên dâm tặc ấy tuy thiếu đứng đắn, nhưng đối với thái sư phụ và các sư bá sư thúc vẫn nặng tình hương hỏa.

Tống Thanh Thư nói:

– Ồ, tiểu đệ nghĩ hắn cũng chưa đến nỗi hoàn toàn vong bản.

Trần Hữu Lượng nói:

– Khải bẩm bang chủ, ta nghe những điều Tống huynh đệ nói, bỗng nảy ra một kế có thể chế phục tên dâm tặc đó, khiến cho Ma giáo từ trên xuống dưới phải răm rắp theo lệnh bổn bang.

Sử Hỏa Long vui mừng nói:

– Trần huynh đệ có diệu kế gì, mau nói ra xem thử.

Trần Hữu Lượng nói:

– Ở đây tai vách mạch rừng, tuy là huynh đệ một nhà, nhưng chỉ e tiết lộ cơ mật.

Tiếng nói trong đại điện lắng xuống, nhiều tiếng chân, có tới hơn mười người rời khỏi đại điện, chắc chỉ còn lại vài nhân vật thủ lĩnh có chức vụ cao nhất trong Cái Bang. Trần Hữu Lượng nói:

– Việc này không thể nào tiết lộ phong thanh. Tống huynh đệ, hai vị Long đầu đại ca, mình cần tra xét trước sau một lượt, xem có kẻ nghe lén không đã.

Chỉ nghe hai tiếng vù vù, Chưởng Bổng long đầu và Chưởng Bát long đầu đã nhảy lên mái điện, Trần Hữu Lượng và Tống Thanh Thư thì tra xét đằng trước đằng sau điện thật kỹ, ngó cả vào phía sau các bức tượng, các màn che, từng ngóc ngách.

Trương Vô Kỵ thầm phục Triệu Mẫn ban nãy nhanh trí, trong đại điện trừ cái trống này ra, quả không còn chỗ nào ẩn nấp tốt hơn.

Bốn người tra xét xong, trở vào trong điện, Trần Hữu Lượng thấp giọng nói:

– Việc này hoàn toàn trông cậy ở Tống huynh đệ mà thôi.

Tống Thanh Thư ngạc nhiên:

– Ở tiểu đệ ư?

Trần Hữu Lượng đáp:

– Đúng vậy, Chưởng Bát long đầu, nhờ đại ca chế cho mấy thang “Ngũ độc thất tâm tán”, giao Tống huynh đệ đem về núi Võ Đang, lén bỏ vào đồ ăn thức uống của Trương chân nhân và Võ Đang chư hiệp. Chúng ta sẽ ở dưới chân núi tiếp ứng. Sau khi thành công, bắt giữ Trương chân nhân và Võ Đang chư hiệp rồi, ta sẽ dùng họ để uy hiếp, lo gì tên tiểu tặc Trương Vô Kỵ không vâng lệnh bổn bang?

Sử Hỏa Long là người đầu tiên vỗ tay khen:

– Diệu kế, diệu kế!

Chấp pháp trưởng lão cũng nói:

– Kế này rất hay. “Ngũ độc thất tâm tán” của bổn bang rất lợi hại. Muốn hạ độc Trương Vô Kỵ, bọn Ma giáo đề phòng nghiêm mật, không dễ gì được. Tống huynh đệ là đệ tử phái Võ Đang, muốn bắt giữ người cùng phái, khó gì chẳng xong, cái đó gọi là “gia tặc nan phòng, quỷ thần đều không hay biết” vậy.

Tống Thanh Thư do dự, nói:

– Cái việc… cái việc… bảo tiểu đệ hạ độc gia phụ, thật không thể làm được.

Trần Hữu Lượng nói:

– “Ngũ độc thất tâm tán” là linh dược của bổn bang, chẳng qua chỉ làm cho người ta thần trí mơ hồ, chứ không nguy hiểm đến tính mạng. Lệnh tôn Tống đại hiệp nhân hiệp trượng nghĩa, bọn ta vô cùng kính trọng, quyết không dám động tới một sợi tóc của lão nhân gia.

Tống Thanh Thư vẫn không chịu, nói:

– Tiểu đệ gia nhập bổn bang, việc chưa được thái sư phụ và gia phụ chấp thuận, sau này hai vị đó biết, hẳn sẽ trách phạt rất nặng, tiểu đệ còn chưa biết biện bạch thế nào đây. Có điều là bổn bang vốn theo con đường hiệp nghĩa, so với tôn chỉ của phái Võ Đang không có gì khác, cho nên cũng không phải là tội lớn. Nhưng nếu đi làm chuyện bất hiếu phạm thượng như thế, thì tiểu đệ quyết không thể nghe theo được.

Trần Hữu Lượng nói:

– Tống huynh đệ nghĩ như thế là chưa thông. Xưa nay muốn thành đại sự, không nên câu nệ tiểu tiết. Cổ nhân vì đại nghĩa mà bỏ người thân, xưa nay không thiếu gương, huống hồ tôn chỉ của chúng ta là đối phó với Ma giáo; việc bắt giữ Võ Đang chư hiệp chỉ là một kế sách để kiềm chế tên dâm tặc Trương Vô Kỵ mà thôi. Hồi sáu đại môn phái vây đánh đỉnh Quang Minh, phái Võ Đang chẳng đã góp hết sức đó sao?

Tống Thanh Thư nói:

– Tiểu đệ nếu làm việc này, một là lương tâm cắn rứt, hai là sẽ bị người người trên giang hồ sỉ mắng, còn mặt mũi nào sống giữa trời đất nữa?

Trần Hữu Lượng nói:

– Vừa rồi ta đã chẳng bảo các trưởng lão tám túi lui ra đó sao? Vì lẽ gì phải tra xét trước sau, trên dưới thật kỹ càng? Chỉ là sợ chuyện này lộ ra đấy thôi. Tống huynh đệ, sau khi ngươi bỏ thuốc rồi, chính ngươi cũng sẽ giả vờ hôn mê, bọn ta cũng sẽ trói ngươi lại, cùng với thái sư phụ ngươi, tôn đại nhân cùng các sư thúc ở chung một chỗ, thì còn ai có thể nghi cho ngươi được? Trừ bảy người bọn ta ra, trên đời không còn ai hay biết cả. Bọn ta chỉ biết thán phục Tống huynh đệ là bậc anh hùng hảo hán, đảm đương nổi đại sự, ai dám chê cười nào?

Tống Thanh Thư ngẫm nghĩ một lát, rụt rè nói:

– Bang chủ và Trần đại ca đã ra lệnh, tiểu đệ không dám chối từ, hơn nữa tiểu đệ mới gia nhập bổn bang, đang mong có dịp lập công, dẫu có phải nhảy vào nước sôi lửa bỏng cũng nguyện tận tâm tận lực. Có điều người ta sống trên đời, hiếu nghĩa là gốc, bảo tiểu đệ đi hại gia phụ, thì nói sao cũng không dám phụng mệnh.

Trong Cái Bang xưa nay vốn hết sức tôn sùng chữ hiếu, mọi người nghe gã nói thế, đều cảm thấy không tiện cưỡng ép thêm.

Trần Hữu Lượng đột nhiên cười khẩy, nói:

– Kẻ dưới phạm thượng là điều đại kỵ đối với người trong võ lâm, Tống huynh đệ không cần nói ra, ta cũng thừa hiểu. Nhưng không biết Mạc Võ Đang thất hiệp với Tống huynh đệ quan hệ thế nào?

Ông ta hay Tống huynh đệ có vai vế cao hơn?

Tống Thanh Thư không trả lời, một lúc sau, bỗng nói:

– Được, bang chủ và các vị đã ra lệnh, tiểu đệ tuân theo vậy. Nhưng các vị phải nhận lời trước là sẽ không mảy may làm tổn thương hoặc vũ nhục gia phụ. Nếu không, tiểu đệ thà thân bại danh liệt, chứ quyết không đời nào làm chuyện bất hiếu.

Bọn Sử Hỏa Long, Trần Hữu Lượng đều cả mừng. Trần Hữu Lượng nói:

– Chuyện đó là tất nhiên rồi. Tống huynh đệ với bọn ta gọi nhau là huynh đệ, Tống đại hiệp là bề trên của cả bọn, dẫu Tống huynh đệ không nhắc đến, thì bọn ta cũng phải đối đãi với lão nhân gia như với bậc phụ huynh.

Trương Vô Kỵ trong lòng sinh nghi: “Tống Thanh Thư khăng khăng không nhận lời, vì sao Trần Hữu Lượng vừa nhắc đến Mạc sư thúc thì Tống Thanh Thư không từ chối nữa, hẳn bên trong có uẩn khúc gì đây. Chắc phải hỏi thẳng Mạc sư thúc mới biết được”.

Chỉ nghe Chấp pháp trưởng lão và Trần Hữu Lượng thì thào bàn nhau, sau khi hạ độc Trương Tam Phong, huynh đệ Tống Viễn Kiều, bang chúng Cái Bang sẽ xông lên núi tiếp ứng ra sao. Mỗi khi Trần Hữu Lượng nói tới đâu, Sử Hỏa Long lại khen: “Diệu kế, hay lắm!”

Chưởng Bát long đầu nói:

– Hiện nay đang mùa rét, ngũ độc nằm phục ở dưới lòng đất, tiểu đệ phải đến chân núi Trường Bạch đào ngay, chậm thì một tháng, nhanh cũng hai mươi ngày, sẽ điều chế thành “Ngũ độc thất tâm tán”. Độc trùng đào từ dưới đất lên, độc tính không lộ rõ, uống vào không dễ gì phát giác; dùng để đối phó với đệ nhất cao thủ thật không gì tốt bằng.

Chấp pháp trưởng lão nói:

– Trần huynh đệ, Tống huynh đệ, hai vị đi cùng Chưởng Bát long đầu tới núi Trường Bạch chế thuốc, bọn chúng ta xuôi nam trước, hẹn một tháng sau chúng ta tề tựu ở Lão Hà Khẩu. Hôm nay mồng tám tháng Chạp, đúng ngày mồng tám tháng Giêng sẽ gặp lại nhau.

Rồi lão nói tiếp:

– Còn tên Hàn Lâm Nhi rơi vào tay chúng ta, thật là hữu dụng. Mong Chưởng Bổng long đầu chú ý canh chừng, đề phòng bọn Ma giáo cướp lại. Chúng ta hãy chia nhau mà đi, để tránh tai mắt kẻ địch.

Rồi cả bọn lần lượt cáo từ bang chủ, Chưởng Bát long đầu cùng Tống Thanh Thư, Trần Hữu Lượng ba người đi trước về phía bắc. Lát sau, bọn Cái Bang đều rời khỏi miếu Di Lặc, không còn một ai.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.