Thanh âm này ở xa ngoài mười trượng, mà lọt vào tai Vương phu nhân cùng Mộ Dung Phục rõ ràng như chỉ cách trong gang tấc, hai người cùng tái mặt. Bỗng nghe bên ngoài có tiếng Phong Ba Ác cùng Bao Bất Đồng vừa quát tháo, vừa xông về phía phát ra thanh âm. Mộ Dung Phục đi đến bên cửa. Dưới ánh trăng tỏ, thấy rõ ràng một bóng xanh đang bay vèo tới, rồi một bóng xám và một bóng vàng từ hai bên xông vào. Đó chính là Đặng Bách Xuyên và Công Dã Càn chia bên tả hữu, giáp công Đoàn Diên Khánh.
Đoàn Diên Khánh chống tả trượng xuống đất, quét ngang hữu trượng điểm tới Đặng Bách Xuyên và Công Dã Càn, âm thanh rít lên veo véo, trong chớp mắt đã xuất đến bảy chiêu sát thủ. Đặng Bách Xuyên gắng gượng đối phó được, còn Công Dã Càn không chống nổi, phải lùi lại hai bước. Bao Bất Đồng cùng Phong Ba Ác cũng xông ra giáp công. Đoàn Diên Khánh lấy một chọi bốn mà vẫn thừa sức, đại chiếm thượng phong.
Mộ Dung Phục rút trường kiếm ra, một luồng thanh quang lạnh lẽo vọt tới đâm Đoàn Diên Khánh. Lão bị năm người vây đánh, trong đó Mộ Dung Phục lại là cao thủ hạng nhất, mà trượng ảnh vẫn mịt mờ, chiêu nào cũng lấy công làm thủ cực kỳ lợi hại.
Ngày trước Vương phu nhân cùng Đoàn Chính Thuần đã có một đoạn ân tình nồng nhiệt. Những khi ngắm hoa thưởng nguyệt, ngoài những lời thề non hẹn bể, nhiều khi họ còn bàn đến võ công. Đoàn Chính Thuần đã từng đem những môn tuyệt học như Nhất Dương Chỉ hay Đoàn gia kiếm pháp biểu diễn cho bà xem. Lúc này Vương phu nhân thấy Đoàn Diên Khánh sử những chiêu số chẳng khác Đoàn lang ngày trước, thì làm sao không đau lòng được. Bà nghĩ tới Đoàn lang đã bị người ta bắt, chắc là đang ở đâu đó gần đây. Hiện giờ Đoàn Diên Khánh đang bị bọn Mộ Dung Phục vây đánh, nếu không thừa cơ đi giải cứu Đoàn lang thì còn đợi đến lúc nào? Vương phu nhân vừa toan ra phía sau núi tìm kiếm, bỗng nghe Phong Ba Ác rú lên một tiếng thật to.
Bà nhìn lại, thấy Phong Ba Ác ngã quị dưới đất, hữu trượng của Đoàn Diên Khánh đưa qua đưa lại cách người gã chừng một thước, không hạ sát thủ. Bọn Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên vung khí giới tấn công đều bị lão gạt đi hết. Lúc này, giả tỉ Đoàn Diên Khánh muốn đánh chết Phong Ba Ác thì dễ như trở bàn tay, chỉ vì lão chưa muốn hạ thủ mà thôi.
Mộ Dung Phục đột nhiên nhảy lùi lại, hô lớn: “Dừng tay!” Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn và Bao Bất Đồng đều nhảy ra ngoài vòng chiến. Mộ Dung Phục nói: “Đoàn tiên sinh! Đa tạ tiên sinh hạ thủ lưu tình. Chúng ta vốn không thù oán, từ nay trở đi nhà Cô Tô Mộ Dung đành chịu hạ phong.”
Phong Ba Ác đã la lên: “Họ Phong này học nghệ không tinh, cái mạng nhỏ xíu này có chi đáng kể? Công tử đừng vì Phong mỗ mà chịu thua lão.” Đoàn Diên Khánh cười khành khạch nói: “Gã họ Phong này quả là một tay hảo hán.” Rồi lão rút cương trượng về.
Phong Ba Ác quát lên một tiếng, dùng thân pháp “Lý Ngư Đả Đỉnh” nhảy vọt lên không, đơn đao từ trên chém xuống Đoàn Diên Khánh. Gã la lên: “Lại nếm một đao của ta!” Đoàn Diên Khánh giơ cây cương trượng lên đè lưỡi đao xuống. Phong Ba Ác cảm thấy một luồng đại lực làm rung động cánh tay, đơn đao tuột ra khỏi tay. Đồng thời sau lưng trúng một trượng đau nhói, gã bị hất văng đi mấy trượng. Đoàn Diên Khánh xoay tay một cái, truyền nội lực từ cương trượng vào lưỡi đao. Nghe những tiếng leng keng, lưỡi đao bị chấn động gãy thành mười mấy khúc, va vào nhau rồi bay ra tứ tán. Vương phu nhân cùng Mộ Dung Phục đều phải né tránh để những mảnh đao khỏi trúng vào mình.
Mộ Dung Phục chắp tay nói: “Đoàn tiên sinh thần công tuyệt thế, tại hạ bội phục vô cùng. Chúng ta đổi thù ra bạn được chăng?” Đoàn Diên Khánh đáp: “Vừa rồi ngươi định bố trí Túy Nhân Phong gì gì đó, hiển nhiên là có ý muốn hại ta. Bây giờ địch không nổi mới thay đổi chủ ý, có phải không?”
Mộ Dung Phục nói: “Chúng ta mà hợp sức đồng mưu thì thật là chuyện tốt. Thái tử là dòng dõi chính thống nước Đại Lý, thế mà để người ta cướp mất ngôi hoàng đế, sao không tìm cách đoạt lại?” Đoàn Diên Khánh hé cặp mắt quái dị nhìn Mộ Dung Phục, lạnh lùng hỏi: “Chuyện đó liên quan gì đến ngươi?” Mộ Dung Phục đáp: “Nếu Thái tử muốn làm hoàng đế nước Đại Lý mà không có tại hạ giúp cho, chắc chắn không thể thành công được.” Đoàn Diên Khánh cười nhạt nói: “Ta không tin ngươi chịu giúp ta, chỉ sợ ngươi hận mình không đâm chết được ta.”
Mộ Dung Phục nói: “Tại hạ mà giúp Thái tử đoạt ngôi hoàng đế nước Đại Lý, cũng chính vì mình mà hành động. Một là tại hạ căm hận thằng lỏi Đoàn Dự đến chết đi được. Hôm ở trên núi Thiếu Thất, gã làm cho tại hạ suýt nũa phải tự vẫn, làm cho nhà Mộ Dung tựa như không còn đất đứng trong võ lâm nữa. Tại hạ nhất định giết chết thằng lỏi họ Đoàn, giúp Thái tử đoạt lại ngôi hoàng đế, cũng là để rửa hận cho mình. Còn điều thứ hai, là sau khi Thái tử lên ngôi hoàng đế nước Đại Lý rồi, tại hạ sẽ có việc nhờ Thái tử giúp cho.”
Đoàn Diên Khánh vốn biết Mộ Dung Phục là người tâm cơ mau lẹ lại có nhiều mưu trí, đối với mình chắc chẳng tử tế gì, nhưng nghe gã nói vậy thì cũng tin đến bảy tám phần. Ngày trước, Đoàn Dự ở trên núi Thiếu Thất đã dùng Lục Mạch Thần Kiếm đánh cho Mộ Dung Phục thất điên bát đảo, chính mắt Đoàn Diên Khánh đã trông thấy. Lão nhớ tới việc đó, lập tức trong lòng lại hồi hộp không yên. Đoàn Diên Khánh tuy bắt được Đoàn Chính Thuần, nhung lão tự lượng sức mình không địch nổi Lục Mạch Thần Kiếm của Đoàn Dự, giả tỉ oan gia đường hẹp gặp nhau mà phải động thủ, tất phải bị chết dưới vô hình kiếm khí của chàng. Lão chỉ còn một cách đối phó là dùng tính mạng vợ chồng Đoàn Chính Thuần để uy hiếp, rồi sẽ tìm cách chế phục Đoàn Dự, nhưng cũng không nắm chắc được phần nào. Lão bèn hỏi: “Ngươi không phải là đối thủ của Đoàn Dự, thì làm sao mà đối phó với gã được?”
Mộ Dung Phục hơi đỏ mặt, lên tiếng đáp: “Dùng sức không nổi, thì phải dùng mưu. Nói tóm lại, tại hạ sẽ phụ trách việc bắt Đoàn Dự, rồi sẽ giao cho điện hạ xử trí gã.” Đoàn Diên Khánh cả mừng. Lão lo nghĩ mãi về võ công của Đoàn Dự cực kỳ ghê gớm, lão không địch nổi. Nếu Mộ Dung Phục có thể bắt được chàng, tức là trừ khử được mối hậu họa rất lớn cho mình. Nhưng Đoàn Diên Khánh lại nghĩ rằng không chừng Mộ Dung Phục đang lừa gạt mình, nếu không cẩn thận là mắc bẫy ngay. Lão liền hỏi: “Công tử hứa bắt được Đoàn Dự, lão phu nghĩ đó là một chuyện rất khó tin. Lời nói suông lấy chi làm bằng cớ?”
Mộ Dung Phục tủm tỉm cười đáp: “Vương phu nhân đây là cô mẫu của tại hạ, đã bắt được Đoàn Dự rồi. Cô mẫu đang định đem gã tiểu tử đó đến trao đổi với các hạ để lấy một người. Sở dĩ bọn tại hạ muốn dẫn dụ các hạ đến đây, cũng chỉ vì ý định đó.”
Lúc này Vương phu nhân đang đảo mắt nhìn bốn phía để xem Đoàn Chính Thuần ở đâu. Bà nghe thấy câu nói của Mộ Dung Phục, liền quay lại. Đoàn Diên Khánh khom lưng thì lễ. Lão nói òng ọc trong cổ họng: “Không hiểu Vương phu nhân muốn trao đổi lấy người nào?”
Vượng phu nhân hai má ửng hồng. Trong lòng bà ngày đêm chỉ nhớ đến Đoàn Chính Thuần, nhưng bà là gái góa mà công nhiên thổ lộ tâm tình với người ngoài thì có điều bất tiện, nên ngần ngừ không biết nói sao.
Mộ Dung Phục lên tiếng: “Phụ thân thằng lỏi Đoàn Dự là Đoàn Chính Thuần, ngày trước có đắc tội với cô mẫu tại hạ, gây nên mối thù sâu tựa bể. Cô mẫu tại hạ chỉ cần các hạ ưng thuận một lời, là sau khi các hạ lên ngôi hoàng đế nước Đại Lý sẽ giao trả Đoàn Chính Thuần lại, để mặc cho cô mẫu tại hạ muốn chém mổ, nướng luộc y cách nào tùy ý.”
Đoàn Diên Khánh cười ha hả, nghĩ bụng: “Sau khi hắn nhường ngôi, ta còn phải tìm cách xử tử hắn, nếu được bọn ngươi động thủ thay ta thì còn gì hay hơn nữa?” Lão thấy sự việc dễ dàng như vậy, chỉ sợ bên trong có mưu kế liền hỏi lại: “Mộ Dung công tử! Công tử nói rằng sau khi lão phu lên ngôi, sẽ có việc cầu đến lão phu giúp đỡ, nhưng lão phu chưa hiểu sức mình có làm nổi chăng. Công tử nên cho lão phu biết trước là việc gì, giả tỉ đến lúc đó mới nói mà lão phu không làm nổi, hóa ra lão phu là kẻ tiểu nhân vô tín hay sao?”
Mộ Dung Phục đáp: “Đoàn điện hạ đã nói vậy thì tại hạ tin chắc là chúng ta có thể hoàn thành đại sự một cách dễ dàng. Tâm sự của tại hạ chẳng giấu gì. Họ Mộ Dung ở Cô Tô năm xưa vẫn là dòng dõi hoàng tộc nước Đại Yên, vẫn nhớ tổ tiên di huấn là phải lo phục hưng cơ nghiệp Đại Yên, song lực lượng đơn bạc, khó mà thành tựu. Sau khi điện hạ lên ngôi hoàng đế nước Đại Lý rồi, Mộ Dung Phục xin mượn một vạn tinh binh cùng đầy đủ lương thảo để dùng vào việc phục hưng Đại Yên.”
Lúc Mộ Dung Bác ngăn cản Mộ Dung Phục không cho tự vẫn trên núi Thiếu Thất, Đoàn Diên Khánh đứng nhìn thấy, đã đoán họ Mộ Dung là hoàng tộc nước Đại Yên chắc đến bảy tám phần. Bây giờ lão nghe Mộ Dung Phục thổ lộ bí mật với mình, thì tin rằng gã thành thực. Lão nghĩ thầm: “Gã muốn phục hưng nước Đại Yên, thì biến thành địch thủ của Đại Tống cùng Đại Liêu. Nước Đại Lý mình nhỏ bé, tự vệ còn chưa xong, sao lại đi gây hấn với nước lớn? Huống chi mình mới lên ngôi thì lòng người chưa định, chẳng nên gây họa chiến tranh. Chi bằng bây giờ mình phải giả vờ ưng thuận, khi đó sẽ liệu cách trừ khử gã đi là xong. Lượng tiểu phi quân tử, vô độc bất trượng phu.” Đoàn Diên Khánh nghĩ vậy liền đáp: “Đại Lý nước nhỏ dân nghèo, một vạn tinh binh thì chưa chắc có đủ, nhưng năm ngàn thì được. Lão phu cũng mong đại sự thành tựu, Đại Yên cùng Đại Lý vĩnh viễn là hai nước anh em.”
Mộ Dung Phục xá dài, sa lệ nói: “Mộ Dung Phục này mà khôi phục được giang sơn của tổ tiên thì đời đời quyết làm phên giậu cho Đại Lý, chẳng bao giờ dám quên ân đức của bệ hạ.”
Đoàn Diên Khánh thấy gã đổi giọng xưng hô mình bằng bệ hạ, bất giác cả mừng. Lão nghe gã nói mấy câu sau cực kỳ cảm động mà nghẹn ngào muốn khóc, vội nâng gã dậy rồi nói: “Công tử chẳng nên câu nệ lễ nghi thái quá! Không hiểu thằng lỏi Đoàn Dự hiện ở đâu?” Mộ Dung Phục chưa kịp đáp thì Vương phu nhân đã tiến đến hai bước, hỏi lại: “Đoàn Chính Thuần hiện ở đâu?” Mộ Dung Phục xen vào: “Tâu bệ hạ! Xin bệ hạ cùng đoàn tùy tùng vào nhà cô mẫu tạm nghỉ. Đoàn Dự đã bị trói, sẵn sàng xin dâng lên.” Đoàn Diên Khánh hoan hỉ nói: “Thế thì hay lắm!”
Đột nhiên có tiếng hú lanh lảnh từ trong bụng lão phát ra. Vương phu nhân còn đang kinh ngạc, đã nghe thây tiếng vó ngựa dồn dập và tiếng bánh xe ruổi tới. Chẳng mấy chốc đã thấy bốn người cưỡi ngựa và ba cỗ xe lừa theo đường lớn chạy lại. Vương phu nhân nhịn không được, lạng người lướt qua hai con ngựa, giơ tay vén rèm xe.
Đột nhiên bà nhìn thấy một người miệng rộng, mắt nhỏ, tai to, đầu trọc. Người này lớn tiếng quát hỏi: “Làm gì vậy?” Vương phu nhân kinh hãi, tung mình nhảy vọt sang bên. Bà nhìn kỹ lại thì thấy người này mặt mũi xấu xí, mình mặc áo chẽn màu vàng, trong tay cầm một chiếc roi ngựa, thì ra là gã đánh xe.
Đoàn Diên Khánh nói: “Tam đệ! Vị này là Vương phu nhân. Chúng ta vào nhà phu nhân để nghỉ ngơi, cả những khách trong xe cũng đưa vào hết.” Gã đánh xe này chính là Nam Hải Ngạc Thần.
Cỗ xe lớn vừa vén màn lên, một người run lẩy bẩy bước xuống. Vương phu nhân nhìn thấy người này hình dung tiều tụy, mái đầu đốm bạc, mình mặc áo bào gấm, chính là Đoàn lang mà phu nhân ngày đêm tưởng nhớ. Trong lòng đau xót, nước mắt chực trào ra, bà không nén được nữa liền tiến lại gần, kêu lên: “Đoàn… Đoàn lang đấy ư?”
Đoàn Chính Thuần vừa nghe thanh âm đã giật mình, quay đầu nhìn lại thấy Vương phu nhân thì sắc mặt biến đổi. Chỗ nào ông cũng mắc nợ phong tình, mà trong các vị chủ nợ thì Vương phu nhân lại là người khó chịu hơn hết. Bọn Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc chỉ cần được y kề cận bên mình là mãn nguyện lắm rồi, còn bà này lại bức bách ông phải giết chính thê là Đao Bạch Phượng để lấy bà làm vợ. Việc này Đoàn Chính Thuần nhất định không thể ưng thuận, đành bỏ đi mà không thể nói lời từ biệt, ngờ đâu bây giờ gặp lại trong hoàn cảnh như thế này.
Đoàn Chinh Thuần là người lãng mạn, không chuyên tâm yêu mến một ai, nhưng đối với người tình nào ông cũng cư xử rất thành thực. Ông vừa nhìn thấy Vương phu nhân thì vội la lên: “A La! Chạy mau đi! Lão áo xanh kia là Tên Đại ác, chớ để lọt vào tay hắn.” Ông nói xong, lại tiến ra đứng chắn giữa Đoàn Diên Khánh và Vương phu nhân, hô hoán liền miệng: “Chạy mau đi! Chạy mau đi!” Thực ra Đoàn Chính Thuần đã bị Đoàn Diên Khánh điểm huyệt, cất bước cũng khó khăn, thì còn sức lực đâu mà bảo hộ cho Vương phu nhân?
Ông chỉ gọi một tiếng “A La”, đã bộc lộ hết tình cảm thành thực. Vương phu nhân đang tức đầy ruột, mà phút chốc mối hờn giận đã tan thành mây khói. Nhưng có Đoàn Diên Khánh cùng Mộ Dung Phục đứng đó, nên bà không dám thổ lộ tâm tình, chỉ lạnh lùng đáp: “Tượng đất bảo vệ cho mình còn chưa xong. Ngươi bảo người ta là Tên Đại ác, thế thì ngươi là người tốt hay sao?” Rồi bà quay lại nói với Đoàn Diên Khánh: “Nào! Xin mời điện hạ!”
Đoàn Diên Khánh biết rất rõ tính cách của Đoàn Chính Thuần, vừa thấy thần sắc hai người cảm động, là hiểu ngay ông đối với Vương phu nhân thì thương yêu mà không oán hận, còn Vương phu nhân đối với ông lại ra chiều trách móc, song cũng tình nhiều hơn thù. Lão nghĩ thầm: “Giữa hai người này nhất định có quan hệ không phải tầm thường, ta phải cẩn thận không mắc vào cạm bẫy của họ.” Đoàn Diên Khánh vừa võ nghệ cao cường vừa gan dạ đầy mình, lão không sợ hãi gì, ngang nhiên tiến vào trong nhà.
Vương phu nhân vì muốn bắt Đoàn Chính Thuần mà đã xây dựng một trang viện rất lớn. Sau cổng là một cái sân rộng trồng toàn hoa trà, dưới ánh trăng trong, hoa lồng bóng nguyệt trông hết sức tao nhã, ngoạn mục.
Đoàn Chính Thuần thấy cảnh hoa trà được xếp đặt xinh tươi như hồi còn vui thú bên Vương phu nhân tại Cô Tô, thì trong lòng chua xót, khẽ nói: “Thì ra… thì ra… đây là chỗ ở của… muội…” Vương phu nhân cười nhạt hỏi: “Ngươi còn nhận ra được ư?” Đoàn Chính Thuần hạ giọng đáp: “Nhận ra rồi. Lúc nào ta cũng mong muốn được sống bên muội đến già ở Mạn Đà Sơn Trang này!”
Nam Hải Ngạc Thần cùng Vân Trung Hạc đẩy hai cỗ xe lớn nhốt những người bị bắt vào trong nhà. Trong một cỗ xe có bốn vị thiếu phụ là Đao Bạch Phượng, Chung phu nhân Cam Bảo Bảo, Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc. Còn cỗ xe thứ hai giam ba đại thần nước Đại Lý là bọn Phạm Hoa, cùng Thôi Bách Tuyền và Quá Ngạn Chi. Cả chín người đều bị Đoàn Diên Khánh điểm huyệt.
Thì ra sau khi Đoàn Chính Thuần phái Ba Thiên Thạch cùng Chu Đan Thần đi hộ tống Đoàn Dự qua Tây Hạ cầu thân, ông lại nhận được chỉ dụ của Bảo Định Đế sai sứ đưa đến, truyền cho Đoàn Chính Thuần phải lên đường về Đại Lý ngay để lên ngôi hoàng đế, vì Bảo Định Đế đã xuất gia đầu Phật tại chùa Thiên Long rồi. Hoàng gia nước Đại Lý tôn sùng Phật pháp, mấy đời nay vua chúa đều lánh ngôi cao để đầu Phật làm sư. Đoàn Chính Thuần tiếp được chỉ dụ thì trong lòng rất thương cảm, nhưng không lấy gì làm lạ. Ông bèn đưa cả Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc từ từ đi về hướng Nam, dự định sẽ bí mật bố trí chỗ ở trong thành Đại Lý, không cho Vương phi Đao Bạch Phượng biết. Mấy hôm sau ông lại được quần nữ cung Linh Thứu báo cho hay là có đối thủ lợi hại đột nhiều cạm bẫy khắp nơi, dặn Đoàn Chính Thuần phải gia tâm đề phòng. Ông cùng bọn Phạm Hoa thương nghị, đều đoán rằng đối thủ lợi hại này chắc chắn là Đoàn Diên Khánh. Ai cũng biết lão là tay ghê gớm khó lòng địch nổi, nên lánh đi là hơn, bèn lập tức chuyển về hướng Đông. Đoàn Chính Thuần có biết đâu, tin tức đó chính là do A Bích nghe được từ bọn nữ tì của Vương phu nhân rồi báo đi. Nhưng A Bích biết một mà không biết hai, dọc đường quả nhiên có bố trí cạm bẫy thật, nhưng Vương phu nhân không hề có ý gia hại Đoàn Chính Thuần.
Đoàn Chính Thuần thay đổi hướng đi, thành ra những chỗ mai phục do Vương phu nhân xếp đặt đều vướng cả vào người Đoàn Dự, còn Đoàn Chính Thuần thì lại gặp phải Đoàn Diên Khánh. Sau trận đánh ở bến Hồng Sa gần trạm Song Phụng, toàn quân Đoàn Chính Thuần bị thua liểng xiểng, Cổ Đốc Thành bị Nam Hải Ngạc Thần đánh bật xuống sông chết mất xác, còn ngoài ra đều bị Đoàn Diên Khánh bắt được, điểm huyệt đưa về phía Nam.
Mộ Dung Phục sai bốn người bọn Đặng Bách Xuyên coi giữ bên ngoài trang. Chính gã tự nhiên đóng vai chủ nhân, sai bảo đầy tớ khoản đãi tân khách.
Vương phu nhân nhìn bọn Đao Bạch Phượng, Cam Bảo Bảo, Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc không chớp mắt, thấy bốn người này đều có vẻ quyến rũ. Tuy họ không giữ được vẻ đài các nhưng gọi bằng hồ ly tinh hay tiện nhân, thì tự bà cũng cảm thấy không thỏa đáng. Bà thầm nghĩ: “Những người này mình thấy còn thương, huống chi lão già dịch kia!”
***
Đoàn Dự ở phòng bên, nghe thấy phụ thân cùng mẫu thân đều lọt vào tay cường địch rồi bị mang đến đây, thì vừa vui mừng vừa lo sợ. Bỗng nghe Đoàn Diên Khánh lên tiếng: “Vương phu nhân! Sau khi đại sự thành tựu rồi, ta nhất định sẽ giao Đoàn Chính Thuần cho phu nhân xử trí thế nào cũng được. Còn thằng lỏi Đoàn Dự bây giờ ở đâu?”
Vương phu nhân vỗ tay ba cái, hai ả thị tỳ đến trước cửa khom lưng đợi lệnh. Vương phu nhân nói: “Đem gã tiểu tử ra đây!”
Đoàn Diên Khánh ngồi trên ghế, đưa tay trái ra đặt lên vai phải Đoàn Chính Thuần. Đoàn Diên Khánh rất sợ Lục Mạch Thần Kiếm của Đoàn Dự, phải đề phòng Vương phu nhân cùng Mộ Dung Phục không thành thực, cho Đoàn Dự ra đối phó với lão. Vương phu nhân và Mộ Dung Phục ngụy kế đa đoan, còn Đoàn Dự võ công ghê gớm, cọp đã sổ lồng thì khó mà chế phục được. Lão nắm lấy vai Đoàn Chính Thuần là để Đoàn Dự lo cho tính mệnh phụ thân, không dám giở trò nữa.
Rồi tiếng bước chân vang lên, bốn ả thị tỳ khiêng Đoàn Dự ra đặt giữa nhà. Chân tay chàng đều bị trói bằng gân bò, miệng bị nhét đầy hạt vải. Mắt chàng bị che bằng khăn đen, người ngoài nhìn vào không hiểu chàng còn sống hay đã chết.
Trấn Nam Vương phi Đao Bạch Phượng thất thanh la gọi: “Dự nhi!” Rồi bà toan nhảy ra ôm lấy cậu con yêu quý. Vương phu nhân đưa tay đẩy vào vai bà rồi quát lên: “Ngồi yên đó.” Đoàn phu nhân đã bị điểm huyệt, khí lực mất hết. Bà vừa bị đẩy một cái là ngã ngay xuống ghế, rồi không nhúc nhích được nữa.
Vương phu nhân nói: “Thằng lỏi này bị ta đánh thuốc mê rồi. Gã tuy còn sống, nhưng bất tri bất giác. Diên Khánh Thái tử! Lão coi cho rõ, xem đúng là gã không, hay là bắt nhầm người.” Đoàn Diên Khánh gật đầu đáp: “Đúng thế!” Vương phu nhân cứ tưởng là bầy Túy Nhân Phong cực kỳ lợi hại, có biết đâu là trong mình Đoàn Dự có Bắc Minh Thần Công, nên chàng mê đi chẳng bao lâu đã hồi tỉnh lại. Nhưng chàng bị trói chặt, lại đang đau khổ thì so với bất tri bất giác cũng chẳng khác nhau gì mấy.
Đoàn Chính Thuần gượng cười hỏi: “A La! Nàng bắt Dự nhi làm chi vậy? Nó có phạm tội gì với nàng không?” Vương phu nhân hắng giọng, không trả lời ông. Bà không muốn thổ lộ tâm tình lưu luyến Đoàn Chính Thuần trước mặt mọi người, mà cũng không nỡ thốt ra những câu tàn độc.
Mộ Dung Phục sợ lửa tình ngày trước của Vương phu nhân bốc lên làm hư hỏng đại sự của mình, liền nói: “Hắn mà không đắc tội với cô mẫu của ta ư? Hắn… hắn quyến rũ, làm nhơ bẩn tiết hạnh biểu muội của ta là Vương Ngữ Yên. Cô mẫu! Hạng người này chết là phải lắm…” Gã chưa dứt lời, Đoàn Chính Thuần cùng Vương phu nhân đã la hoảng: “Sao? Nó… nó cùng…”
Đoàn Chính Thuần tái mặt, nhìn Vương phu nhân khẽ hỏi: “Có đúng con nhỏ đó tên gọi là Ngữ Yên không?” Bản tính Vương phu nhân vốn nóng như lửa, bà nhẫn nại được lâu như thế này đã là chuyện hiếm thấy. Nhưng đến bây giờ thì bà không nhịn được nữa, vừa khóc òa lên vừa la lối: “Con người bạc hạnh vô lương tâm kia! Ngươi hại ta chẳng kể làm gì, lại còn làm hại cả con gái ruột của ngươi nữa. Ngữ Yên… Ngữ Yên… nó… nó là cốt nhục của ngươi đó.” Rồi bà quay lại, vừa phóng cước đá Đoàn Dự túi bụi vừa mắng: “Mi thật là con quỷ hiếu sắc không bằng cầm thú, mất hết cả thiên lương, đến em gái ruột cũng chẳng chịu buông tha. Ta chỉ hận không đem mi ra chém thành trăm mảnh, bằm nát như tương được!”
Bà vừa đá vừa la mắng khiến mọi người trong nhà ai cũng kinh hãi. Bốn bà Đao Bạch Phượng, Tần Hồng Miên, Cam Bảo Bảo, Nguyễn Tinh Trúc đã hiểu rõ tính nết Đoàn Chính Thuần, biết ngay ông đã cùng Vương phu nhân tư tình với nhau sinh ra con gái là Ngữ Yên gì gì đó, nào ngờ Đoàn Dự lại có tư tình với Ngữ Yên. Tần Hồng Miên lập tức nhớ đến con gái mình là Mộc Uyển Thanh, Cam Bảo Bảo cũng nhớ đến Chung Linh, đều cảm thấy vừa thương tâm vừa hổ thẹn. Còn Đoàn Diên Khánh, Mộ Dung Phục chỉ nghĩ một chút cũng hiểu rõ ngay.
Tần Hồng Miên la lên: “Con tiện tì kia! Ngày trước ngươi cứ phái bọn thủ hạ tôm tép đến quấy nhiễu chúng ta mãi, ta cùng con gái mới đến Cô Tô để giết loài hồ ly tinh, chỉ hận rằng chưa giết được. Ngươi còn dám đánh đá người nữa ư?” Vương phu nhân mặc kệ bà, cứ đá túi bụi vào Đoàn Dự.
Nam Hải Ngạc Thần thấy người nằm dưới đất chính là sư phụ, liền đưa tay đẩy vào vai Vương phu nhân một cái, quát lớn: “Ôi chao! Y là sư phụ ta. Mi đá sư phụ ta thì có khác gì đá ta? Mi mắng sư phụ ta là loài cầm thú thì ra ta cũng là cầm thú ư? Ta phải bẻ cái cổ trắng trẻo mịn màng của con mụ điên này gãy nghe lắc cắc mới được.”
Đoàn Diên Khánh vội nói: “Nhạc lão tam! Không được vô lễ với Vương phu nhân! Thằng lỏi họ Đoàn này là quân vô sỉ tiểu nhân, gã lừa gạt để ngươi kêu bằng sư phụ. Hôm nay ngươi nên trừ khử gã đi, không thì còn mặt mũi nào mà trông thấy anh hùng thiên hạ nữa?”
Nam Hải Ngạc Thần cãi lại: “Y là sư phụ của ta thật, chứ không phải lừa gạt. Sao ta lại giết y được?” Hắn vừa nói vừa đưa tay ra cởi trói cho Đoàn Dự. Đoàn Diên Khánh lại quát lên: “Lão tam! Chớ có hồ đồ làm bậy! Lấy Ngạc Chủy Tiên ra đập vỡ đầu thằng lỏi cho chết đi!” Nam Hải Ngạc Thần lắc đầu quầy quậy đáp: “Không được! Không được! Lão đại! Hôm nay Nhạc lão tam này không thể nghe lời lão đại, mà nhất định phải cứu sư phụ!” Nam Hải Ngạc Thần nói xong, dùng sức giật mạnh, toan bứt dứt sợi gân bò.
Đoàn Diên Khánh giật mình kinh hãi, nghĩ rằng Đoàn Dự mà được cởi trói rồi thi triển phép Lục Mạch Thần Kiếm thì không còn ai chống nổi nữa, không những đại sự hỏng bét mà tính mệnh mình cũng khó bảo toàn. Trong lúc cấp bách, lão vung trượng đâm vào sau lưng Nam Hải Ngạc Thần, cây trượng xuyên suốt ra tới trước ngực.
Nam Hải Ngạc Thần bỗng thấy sau lưng đau nhói, rồi nhìn thấy đầu trượng thò ra trước ngực mà còn kinh ngạc chẳng hiểu ra sao. Lão quay đầu lại nhìn Đoàn Diên Khánh, tựa như để hỏi tại sao lão đại lại hạ độc thủ giết mình. Đoàn Diên Khánh đứng đầu Tứ Đại Ác Nhân, tính tình hung dữ, hễ ra tay là độc địa, mà lại đang sợ Lục Mạch Thần Kiếm, chỉ lo Nam Hải Ngạc Thần cởi trói cho Đoàn Dự. Lão cũng không cố ý giết Nam Hải Ngạc Thần, không ngờ cây trượng đâm vào chỗ yếu hại. Lão thấy Nam Hải Ngạc Thần kinh ngạc trợn mắt nhìn mình thì có ý hối hận, nhưng chỉ thoáng qua một cái là lòng hối hận lại tiêu tan. Lão giật mạnh, rút cây cương trượng ra, rồi lớn tiếng gọi: “Lão tứ! Đem xác y đi mai táng. Vì y không chịu nghe lời lão đại nên phải chết.”
Nam Hải Ngạc Thần kêu to lên một tiếng, rồi ngã lăn ra, sau lưng và trước ngực máu vọt lên như suối. Hai mắt lão vẫn trợn tròn xoe, thực là chết không nhắm mắt! Vân Trung Hạc nắm lấy xác Nam Hải Ngạc Thần kéo đi. Tuy cùng trong bọn tứ ác, nhưng hắn vẫn ghét cay ghét đắng Nam Hải Ngạc Thần vì lão này nhiều phen ngăn trở việc của hắn, mà võ công hắn thua kém không làm gì được nên đành phải nhịn. Bây giờ hắn thấy Nam Hải Ngạc Thần bị Đoàn Diên Khánh giết chết, trong lòng khoan khoái vô cùng.
Mọi người thấy Nam Hải Ngạc Thần vốn là tam đệ của Đoàn Diên Khánh, mà chỉ một câu nói không hợp đã mất mạng liền, thật là bọn tứ ác lòng lang dạ sói, chuyện hung ác đến thế thật ít thấy trên thế gian. Nhìn thấy cảnh khủng khiếp này, ai nấy đều phập phồng lo sợ.
Đoàn Dự cảm thấy máu nóng từ vết thương của Nam Hải Ngạc Thần phun lên mặt lên cổ mình, chợt nghĩ: “Ta làm sư phụ của hắn đã lâu, mà trước nay chưa làm gì ích lợi cho hắn. Thế mà hắn đã nhiều lần cứu mạng ta, hôm nay lại vì ta mà mất mạng.” Trong lòng chàng đau khổ vô cùng.
Đoàn Diên Khánh cười nhạt, nói: “Thuận ta thì sống, nghịch ta thì chết.” Lão vung cương trượng lên, nhằm đâm tới trước ngực Đoàn Dự.
Bỗng có thanh âm nữ nhân lên tiếng ngâm nga: “Ngoài chùa Thiên Long; Dưới gốc bồ đề; Hành khất phương xa; Quan Âm tóc dài.” Đoàn Diên Khánh mới nghe bốn chữ “Ngoài chùa Thiên Long”, cây cương trượng đã ngừng lại trên không. Nghe hết bốn câu, cây cương trượng không ngớt rung động, rồi từ từ rút lại. Lão ngoảnh đầu về phía sau, chạm phải mục quang Đao Bạch Phượng, thấy ánh mắt bà dường như có trăm nghìn lời muốn nói, thì trong lòng chấn động. Lão run run nói: “Quan… Quan Thế Âm Bồ Tát…”
Đao Bạch Phượng gật gật đầu, khẽ hỏi: “Ngươi… ngươi có biết thằng nhỏ này là ai không?”
Ruột gan Đoàn Diên Khánh rối bời, dường như tâm thần lão đang mơ hồ quay về hình ảnh một đêm trăng sáng hai mươi năm trước.
***
Ngày ấy, lão vừa từ Đông Hải về tới Đại Lý, đến bên ngoài Thiên Long Tự.
Đoàn Diên Khánh trên đường đi Hồ Quảng thì gặp cường địch vây đánh. Tuy lão giết hết bọn địch song chính mình cũng bị trọng thương, đôi chân gãy nát, diện mục bị tàn hủy, cổ họng cũng trúng đao của địch, không nói ra tiếng được. Lão quả là không còn ra hình người, toàn thân đầy mùi ô uế, ruồi nhặng bay vù vù bâu vào những vết thương.
Lão vốn là Hoàng Thái tử nước Đại Lý. Phụ thân lão bị gian thần giết chết, lão trốn thoát trong lúc hỗn loạn, về sau học được võ công mới quay về. Đoàn Diên Khánh biết đương kim hoàng đế Đại Lý là Đoàn Chính Minh, cũng là anh họ lão. Nhưng thực ra ngôi hoàng đế không phải của Đoàn Chính Minh mà là của lão mới đúng. Lão còn biết Đoàn Chính Minh là người nhân hậu thương dân, rất được lòng người, ngôi hoàng đế mười mấy năm trời đã vững chắc khó lòng lay chuyển. Văn võ bá quan trong triều đều ủng hộ đương kim hoàng đế, chẳng còn ai nhớ đến Hoàng Thái tử của tiền triều. Nếu lão xuất hiện đột ngột ở Đại Lý thì nguy đến tính mạng, dù võ nghệ cao cường đến đâu cũng không chống nổi với muôn dân. Huống chi lúc này lão bị trọng thương, thì chỉ một tên lính quèn cũng đủ giết lão rồi.
Đoàn Diên Khánh gắng gượng lết tới ngoài chùa Thiên Long, chỉ còn hy vọng duy nhất là nhờ Khô Vinh đại sư chủ trì công đạo.
Khô Vinh đại sư là em ruột phụ thân lão, tức là thúc phụ lão, mà cũng là thúc phụ Bảo Định đế Đoàn Chính Minh. Khô Vinh đại sư là một bậc cao tăng đắc đạo, chùa Thiên Long lại là tấm bình phong che chở cho họ Đoàn nước Đại Lý, đây chính là nơi qui y của các vị hoàng đế muốn lánh bụi trần xuất gia đầu Phật. Đoàn Diên Khánh không dám vào thành Đại Lý, phải đi cầu kiến Khô Vinh đại sư. Nhưng Tri khách tăng cho biết Khô Vinh đại sư đang tọa thiền, mới nhập định ba ngày, không chừng mười ngày nửa tháng mới xong. Tri khách tăng còn bảo Đoàn Diên Khánh có việc gì thì viết thư để lại, hoặc là nói rõ để vào bẩm với phương trượng xem lão nhân gia phát lạc thế nào. Dù lão là một kẻ ăn mày nửa người nửa quỉ, mà Tri khách tăng cũng vẫn đối xử rất lịch sự.
Đoàn Diên Khánh khi nào dám thổ lộ thân phận của mình? Lão chống khuỷu tay xuống đất, bò đến gốc cây bồ đề ở bên chùa, cố chờ Khô Vinh đại sư tọa thiền xong. Nhưng lão cũng tự biết là sau khi tọa thiền xong, Khô Vinh đại sư chưa chắc đã gặp người ngoài, ở Đại Lý có nhiều người nhận được mặt lão, lưu lại lúc nào là nguy hiểm lúc ấy, vậy có nên lập tức chạy trốn không? Lão lại đang lên cơn sốt, các vết thương khắp mình mẩy vừa đau nhức vừa ngứa ngáy, thật khó mà chịu nổi. Trong lòng lào nghĩ: “Sống mà đau khổ tuyệt vọng đến thế này, thật chẳng muốn sống tiếp làm gì. Hay là bây giờ tự sát cho xong?”
Lão toan đứng dậy, đập đầu vào gốc bồ đề cho chết, nhưng toàn thân đã kiệt lực hết rồi. Lão nằm dưới đất chẳng động đậy gì được, đúng là không còn đủ dũng khí để sống, mà cũng không đủ dũng khí để chết.
Lúc trăng lên đến đỉnh đầu, thốt nhiên lão thấy một nữ nhân áo trắng từ trong sương mù đi tới…
Giữa rừng hoang cỏ rậm, sương trắng mịt mù, nữ nhân áo trắng tóc xõa xuống vai, thoăn thoắt đi tới dường như chân không chấm đất. Tuy ánh trăng chiếu sau lưng nàng nên không nhìn rõ mặt, nhưng Đoàn Diên Khánh cũng nhận ra đây là một tuyệt thế mỹ nhân, bèn không khỏi giật mình. Những lọn tóc nàng rủ xuống che khuất, mắt mũi chỉ còn thấy lờ mờ, Đoàn Diên Khánh không nhìn rõ mặt, chỉ biết nữ lang này mỹ lệ như tượng Quan Âm Bồ Tát, liền thầm nghĩ: “Đây nhất định là Bồ Tát hạ phàm để cứu nạn cho Hoàng đế, vì Thánh Thiên tử phải có linh thần hộ vệ. Xin đức Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn, bảo hộ cho trẫm lại lên ngôi báu, trẫm nhất định dựng chùa tạc tượng cúng bái đời đời không dứt.”
Nữ lang từ từ đi đến gần. Lúc nàng xoay lại, Đoàn Diên Khánh chỉ nhìn thấy nửa mặt nàng trắng nhợt, không chút huyết sắc. Bỗng nghe nữ lang lẩm bẩm: “Ta trao cả tấm lòng cho ngươi, mà ngươi chẳng để tâm. Ngươi đã có một nữ nhân, bây giờ lại có người khác, thế là ngươi quên hết những lời thệ nguyện trước Bồ Tát ngày xưa rồi. Ta đã tha thứ cho ngươi hết lần này đến lần khác, bây giờ không thể tiếp tục tha thứ nữa. Ngươi có lỗi với ta, ta cũng sẽ có lỗi với ngươi. Ngươi đi tìm người khác, ta cũng sẽ đi tìm người khác! Bọn nam nhân người Hán các ngươi toàn là đồ phụ bạc, khinh bọn nữ nhân Bài Di chúng ta như chó mèo, như bò lợn. Ta nhất định phải báo thù, coi bọn nam nhân các ngươi không phải là người nữa.” Những câu này nữ lang nói rất khẽ, tựa hồ nói để mình nghe, giọng nói đầy vẻ oán hận.
Đoàn Diên Khánh tự nhủ: “Té ra đây là một nữ lang người Bài Di, bị phu quân người Hán khinh khi, đối xử bội bạc.” Người Bài Di và người Đại Lý vốn cùng một chủng tộc, nữ nhân da trắng tóc dài, nhan sắc xinh đẹp hơn người Hán nhiều, còn nam nhân thì yếu ớt, nhân số lại ít nên thường bị người Hán khinh khi lấn át. Đoàn Diên Khánh thấy nữ lang lại từ từ đi xa dần, thì nghĩ thầm: “Không phải! Nữ nhân Bài Di tuy nổi tiếng là xinh đẹp, nhưng cũng không có vẻ thần tiên đến thế này! Huống chi thân thể nữ lang này khoác áo trắng, mỏng nhẹ như sương như khói. Người Bài Di làm gì có phục sức tinh nhã như thế? Đây nhất định là Bồ Tát hiện thân, mình… mình chớ nên nhầm lẫn.”
Đoàn Diên Khánh bị giày xéo đã nhiều, tựa như không còn đất để dung thân. Lão yên trí đây là Bồ Tát hiện thân để cứu mình ra khỏi hoàn cảnh khốn nạn, thấy Bồ Tát bỏ đi liền cố sức bò theo. Lão muốn lên tiếng gọi: “Bồ Tát hãy cứu ta!”, nhưng trong cổ họng chỉ ú ớ mà nói không thành tiếng.
Nữ lang áo trắng nghe tiếng động, nhìn lại dưới gốc Bồ Đề có một đống lù lù, người chẳng ra người, thú chẳng ra thú đang chuyển động thân mình. Nàng nhìn kỹ lại, mới nhận ra là một gã ăn xin đầy mình máu mủ, dơ dáy vô cùng. Những vết thương trên mặt mũi tay chân vẫn còn ứa máu, ruồi nhặng bám đầy, bốc ra mùi xú uế khủng khiếp.
Nữ lang trông thấy tên ăn mày dơ dáy kinh dị này, ban đầu cảm thấy nổi da gà, muốn xoay người chạy trốn. Nhưng trong lòng nàng đang căm hận trượng phu đến cực điểm, liền có ý tự hiến cho hạng người đê tiện để trả thù, bèn nghĩ lại: “Ta nên tìm một kẻ xấu xí ô uế nhất thiên hạ để hiến thân. Ngươi là Vương gia, là Đại tướng quân, ta lại càng nên đối xử tốt với gã hành khất bẩn thỉu này.”
Nàng không nói gì, từ từ trút bỏ y phục, đến trước mặt Đoàn Diên Khánh, chui vào lòng lão, đưa hai cánh tay như hoa như ngọc quàng lấy cổ lão…
Một đám mây nhẹ nhàng bay qua, che khuất mặt trăng. Tựa như Hằng Nga vẫy tay gọi mây đến che khuất, vì nàng không muốn thấy cảnh tượng kỳ lạ này. Không hiểu vì sao một vị phu nhân cao quý như thế mà lại trao thân hình trắng nõn, kiều diễm như một đóa sơn trà, cho một tên ăn mày mình đầy máu mủ?
Nữ lang áo trắng đứng dậy lâu rồi, Đoàn Diên Khánh vẫn còn tưởng mình nằm mơ, chẳng hiểu là chuyện thật hay chuyện giả. Thần trí lão vẫn hồ đồ, nghĩ rằng đây là Bồ Tát giáng trần. Mũi lão vẫn còn phảng phất ngửi thấy mùi hương nhẹ nhàng của nàng. Lão nghiêng đầu đi, lấy tay viết xuống đất bảy chữ: “Nàng là Quan Thế Âm tóc dài?”
Lão viết bảy chữ này để hỏi nữ lang, thấy nàng gật gật đầu, rồi đột nhiên, mấy hạt châu nhỏ xuống bên dòng chữ. Không hiểu đó là nước mắt của nàng hay nước cam lồ của Quan Âm vẩy ra. Đoàn Diên Khánh đã từng nghe nói Quan Âm Bồ Tát từ bi thường hóa thân làm nữ nhân để phổ độ chúng sinh bị trầm luân trong bể khổ. Lão thầm nghĩ: “Nữ lang áo trắng này nhất định là Quan Thế Âm Bồ Tát hóa thân. Quan Âm đến đây là có ý điểm hóa cho ta, bảo ta đừng thối chí. Ta không phải là phàm phu tục tử mà là chân mệnh Thiên tử. Nếu không phải vậy, thì tại sao lại có chuyện này?”
Đoàn Diên Khánh đang lúc chết cũng không được mà sống cũng không xong, đột nhiên được vị Quan Âm tóc dài áo trắng xả thân dâng hiến. Lão cảm thấy tinh thần phấn khởi, tin rằng lòng trời còn giúp mình, ngày sau tất được lên ngôi báu, những nguy nan trước mắt cũng chẳng đáng gì. Đoàn Diên Khánh đang đầy lòng tự tin, lại thấy vầng trăng trước mắt sáng lên. Lão đợi đến bình minh, vào hỏi thăm thì biết Khô Vinh đại sư vẫn còn đang nhập định. Đoàn Diên Khánh quì xuống gốc cây Bồ Đề, cảm tạ đức Bồ Tát đã khai ân, rồi bẻ hai cành bồ đề cắp vào nách, tập tễnh nhảy đi.
Đoàn Diên Khánh không dám lẩn quẩn ở nước Đại Lý nữa. Lão đi mãi xuống phía Nam, đến tận vùng Man Hoang hẻo lánh, dưỡng lành vết thương rồi cố công tập luyện võ nghệ gia truyền. Đoàn Diên Khánh mất năm năm khổ luyện để lấy trượng thay chân. Lão lại đem môn Nhất Dương Chỉ biến hóa đi để dùng cho cương trượng, mất thêm năm năm nữa. Sau đó Đoàn Diên Khánh đi về vùng Lưỡng Hồ, tiêu diệt kẻ cừu địch không để sót một mống. Thủ đoạn tàn ác thâm độc của lão thực khiến cho người ta vừa nghe đến đã phải kinh hồn, vì thế mà lão nổi tiếng là Thiên Hạ Đệ Nhất Đại Ác Nhân. Rồi lão kết nạp thêm Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc. Đoàn Diên Khánh đã mấy phen trở về Đại Lý, lần nào cũng thấy ngôi vua của Đoàn Chính Minh không thể nào lung lay được, nên lại đành bỏ đi. Lần sau cùng lão vừa đánh cờ vừa đấu nội lực với Hoàng Mi Tăng, đang nắm chắc phần thắng thì không ngờ Đoàn Dự xen vào, khiến cho lão chuyển thắng thành bại.
Lúc này, Vương phu nhân bắt được Đoàn Dự, Đoàn Diên Khánh đang định phóng trượng đâm chết chàng cho tiệt nòi Đoàn Chính Thuần, thì đột nhiên Đoàn phu nhân đọc bốn câu: Ngoài chùa Thiên Long; Dưới gốc Bồ Đề; Hành khất phương xa; Quan Âm tóc dài.”
Bốn câu này chỉ có mười sáu chữ, đọc lên thấy nhẹ như không, nhưng vào tai Đoàn Diên Khánh thì chấn động như sấm nổ. Lão nhìn sắc mặt tái nhợt của Đoàn phu nhân, trong lòng tự hỏi: “Chẳng lẽ… Chẳng lẽ… đây lại là Quan Âm ngày trước?”
Đoàn phu nhân từ từ đưa tay lên tháo búi tóc ra, cho suối tóc mây xõa lên vai, rủ xuống che nửa mặt. Lão nhận ra bà chính là vị Quan Âm Bồ Tát đã đến với lão dưới gốc cây bồ đề ngoài chùa Thiên Long đêm đó. Đoàn Diên Khánh không còn hoài nghi gì nữa, lẩm bẩm một mình: “Mình cứ tưởng là Bồ Tát, té ra lại là Trấn Nam Vương phi!”
Thật ra, năm xưa chỉ mấy ngày sau là lão đã tạm bình phục vết thương, cơn sốt cũng lui. Sau khi thần trí tỉnh táo, lão cũng hiểu rằng nữ lang áo trắng đã hiến thân mà lưu được mạng mình không phải là Bồ Tát, nhưng thật tình không muốn giấc mộng đẹp này tan vỡ, nên cứ không ngớt tự nhủ: “Đó là Quan Âm áo trắng, đó là Quan Âm áo trắng.”
Bây giờ lão hiểu rõ chân tướng, nhiều mối nghi hoặc lại nổi lên. Lão tự hỏi: “Tại sao nàng lại hành động như vậy? Khi ấy ta là một kẻ ăn xin mình đầy máu mủ, sao lại lọt vào mắt xanh của nàng?” Lão cúi đầu trầm tư một chút, đột nhiên lại nhìn thấy mấy giọt châu rơi xuống đất, giống hệt tình cảnh năm xưa, không hiểu là nước mắt hay nước cam lồ từ cành dương liễu vẩy ra.
Đoàn Diên Khánh ngẩng lên nhìn thì thấy Trấn Nam Vương phi nước mắt chảy quanh, không cầm lòng được bèn khàn khàn hỏi: “Ngươi muốn ta tha mạng cho con ngươi ư?” Đoàn phu nhân lắc đầu, hạ giọng đáp: “Trên cổ nó có một tấm kim bài nhỏ, ghi năm tháng ngày giờ sinh của nó.” Đoàn Diên Khánh ngạc nhiên hỏi: “Ngươi không xin ta tha mạng cho nó, mà lại bảo ta coi tấm kim bài đó, là có ý gì?”
Từ lúc Đoàn Diên Khánh biết rõ chân tướng sự việc đã xảy ra dưới gốc cây bồ đề ngoài chùa Thiên Long, lão sinh ra vừa kính nể vừa cảm kích Đoàn phu nhân. Lão đưa đầu trượng ra để giải khai huyệt đạo cho bà, rồi cúi xuống nhìn vào cổ Đoàn Dự thì quả thấy một tấm kim bài nhỏ, bèn giật ra, cầm lên nhìn kỹ thì thấy một mặt khắc bốn chữ “Trường mệnh bách tuế”. Lão lại lật mặt kia lên xem, thì có một hàng chữ nhỏ: “Đại Lý Bảo Định nhị niên Quý Hợi thập nhất nguyệt nhị thập tam nhật sinh.”
Đoàn Diên Khánh mới xem đến mấy chữ “Đại Lý Bảo Định nhị niên” thì trong lòng đã run lên, la thầm trong bụng: “Tháng hai năm ấy ta bị kẻ thù vây đánh trọng thương, lê lết đến ngoài chùa Thiên Long. Trời ơi! Tháng mười một sinh ra gã này, thế là vừa đúng mười tháng. Vậy thì… mười tháng mang thai… gã này… gã này… là con ta ư?”
Mặt lão chằng chịt vết sẹo nên không lộ rõ nét kinh hãi, nhưng vẻ mặt nhợt nhạt tựa hồ không còn một chút huyết sắc. Lão cực kỳ xúc động, quay lại nhìn Đoàn phu nhân thì thấy bà đang gật đầu, lẩm nhẩm: “Oan nghiệt! Oan nghiệt!”
Suốt đời Đoàn Diên Khánh chưa biết gì là ái tình nam nữ, chưa được nếm mùi hoan lạc gia đình. Lúc này, đột nhiên lão biết trên đời mình đã có một đứa con trai thì trong lòng vui mừng khôn tả. Lão nghĩ rằng bao nhiêu danh lợi vinh hoa trên đời, cả đến cơ nghiệp đế vương cũng không quý bằng một đứa con, nhớ lại vừa rồi suýt nữa phóng trượng đâm chết con mình, may mà chưa kịp hạ thủ, thì vừa kinh hãi vừa mừng thầm, chỉ muốn reo hò nhảy nhót. Chợt nghe “choang” một tiếng, cây cương trượng bên tay phải lão rớt xuống đất.
Bỗng nhiên lão thấy xây xẩm, tay trái như mất sức, tả trượng cũng rơi xuống đất đánh “choang” một tiếng nữa, nhưng trong lòng vẫn chỉ muốn la lên: “Ta có một đứa con trai!” Lão liếc mắt nhìn Đoàn Chính Thuần thì thấy vẻ mặt ông vẫn mơ hồ, hiển nhiên không hiểu gì mấy câu của phu nhân vừa nói.
Đoàn Diên Khánh nhìn kỹ Đoàn Chính Thuần, rồi nhìn sang Đoàn Dự, thấy một người mặt vuông, một người mặt bầu hoàn toàn không giống, nhưng tướng mạo tuấn tú của Đoàn Dự có đến bảy tám phần là giống mình lúc trẻ. Lão không còn hoài nghi gì nữa, trong lòng kiêu hãnh không nói hết, những muốn la lên: “Dù ngươi được làm hoàng đế nước Đại Lý mà ta không được làm cũng chẳng đáng gì. Ta có con trai mà ngươi không có, thế thì ta hơn ngươi nhiều lắm rồi. Đột nhiên đầu óc lão choáng váng, mắt tối sầm lại. Lão tự nhủ: “Chắc là ta vui mừng quá độ rồi.”
***
Bỗng nghe đánh “huỵch” một tiếng, một người ngã làn ra bên cửa, chính là Vân Trung Hạc. Đoàn Diên Khánh kinh hãi la thầm: “Hỏng bét!” Lão giơ tay trái lên không, muốn vận kình lực hút cây cương trượng cho bật lên tay mình, không ngờ nội lực không phát huy được, cây cương trượng vẫn nằm im dưới đất, chẳng chuyển động chút nào. Đoàn Diên Khánh càng kinh hãi hơn, nhưng không để lộ ra ngoài mặt. Lão lại giơ tay phải ra vận kình để hút lấy cây cương trượng, nhưng nó vẫn nằm yên không nhúc nhích. Lão thử đề tụ chân khí cũng không được, ngơ ngẩn chẳng hiểu đã bị người nào giở trò gì.
Lúc đó Mộ Dung Phục lên tiếng: “Đoàn điện hạ! Trong gian nhà bên kia có một người muốn gặp điện hạ, xin điện hạ sang đó để tương kiến.” Đoàn Diên Khánh nói: “Là ai thế? Mộ Dung công tử cứ đưa y đến đây!” Mộ Dung Phục đáp: “Y không đi được, mời điện hạ qua đó!”
Nghe mấy câu này, Đoàn Diên Khánh hiểu ngay là có kẻ âm thầm phóng thuốc mê, mà chắc không phải ai ngoài Mộ Dung Phục. Gã vốn sợ võ công mình lợi hại, sợ thuốc độc chưa đủ hại mình, nên chưa dám trở mặt ngay. Đoàn Diên Khánh lại nghĩ thầm: “Từ lúc vào nhà đến giờ mình đề phòng cẩn thận, không uống một hớp nước trà, cũng không ngửi thấy mùi gì khác lạ, mà sao vẫn bị trúng độc của gã được? Hay là từ lúc mình nghe lời nói của Đoàn phu nhân đã quá đỗi vui mừng, xao lãng đề phòng đến nỗi mắc bẫy?” Đoàn Diên Khánh tuy tính tình hung ác, nhưng có khí độ kẻ cả, khi đã thất cơ kém thế thì thẳng thắn chịu thua chứ không cáu giận mắng chửi. Lão lạnh lùng nói: “Mộ Dung công tử! Họ Đoàn nước Đại Lý chúng ta không quen dùng chất độc. Công tử nên dùng Nhất Dương Chỉ để đối phó với lão phu mới đúng.”
Mộ Dung Phục mỉm cười đáp: “Đoàn điện hạ là bậc cái thế anh hùng, há phải hạng tầm thường? Món Bi Tô Thanh Phong này là của tại hạ đã lấy ở Tây Hạ ngày trước, chỉ biến chế đi một chút để khỏi làm người ta chảy nước mắt. Đoàn điện hạ cũng đã từng tham gia Nhất Phẩm Đường của Tây Hạ, tại hạ dùng Bi Tô Thanh Phong để đối phó với điện hạ thì vẫn là đúng nề nếp gia phong Gậy ông đập lưng ông của nhà Mộ Dung ở Cô Tô.”
Đoàn Diên Khánh ngấm ngầm kinh hãi. Lão nhớ lại ngày trước, bọn cao thủ tại Nhất Phẩm Đường nước Tây Hạ đã dùng Bi Tô Thanh Phong để đánh ngã vô số bang chúng Cái Bang rồi bắt sống mang đi. Sau này bọn võ sĩ Tây Hạ cùng với tướng quân Hách Liên Thiết Thụ, Nam Hải Ngạc Thần, Vân Trung Hạc, cũng vì trúng chất độc này mà bị bắt. Cũng may chính lão đã đoạt được thuốc giải, cứu hết bọn chúng. Khi đó trên tường có ghi mấy chữ “Dĩ bỉ chi đạo, hoàn thi bỉ thân”, rõ ràng người hạ độc là Cô Tô Mộ Dung, trong tay Mộ Dung Phục đương nhiên có loại thuốc này. Lão chỉ còn biết tự trách mình không cẩn thận, nhắm mắt lại không nói gì nữa, ngấm ngầm vận nội lực để trục khí độc ra ngoài.”
Mộ Dung Phục cười nói: “Muốn hóa giải Bi Tô Thanh Phong mà vận công ngưng khí thì chẳng ích gì…” Gã chưa dứt lời, Vương phu nhân đã quát lên: “Ngươi hạ độc làm ta cũng bị hại lây. Mau mau lấy thuốc giải ra!” Mộ Dung Phục đáp: “Cô mẫu! Điệt nhi thật là đắc tội. Cô mẫu chờ một chút, rồi điệt nhi sẽ giải độc cho cô mẫu!” Vương phu nhân tức giận nói: “Việc gì mà phải chờ một chút chờ hai chút? Lấy thuốc giải mau đi!” Mộ Dung Phục đáp: “Thật là không phải với cô mẫu, điệt nhi không mang theo thuốc giải bên mình.”
Đoàn phu nhân đã được giải khai huyệt đạo, nhưng lại bị Bi Tô Thanh Phong làm cho mê đi. Trong sảnh đường, ngoài Mộ Dung Phục đã uống thuốc giải từ trước và Đoàn Dự có Bắc Minh thần công trong người, còn hết thảy đều trúng độc.
Nhưng Đoàn Dự đang đau đớn đến mức không nói ra lời. Từ lúc chàng nghe Vương phu nhân nói: “Con người bạc hạnh vô lương tâm kia! Ngươi hại ta chẳng kể làm gì, lại còn làm hại cả con gái ruột của ngươi nữa. Ngữ Yên… Ngữ Yên… nó… nó là cốt nhục của ngươi đó.” Thì uất khí xông lên tận cổ, muốn ngất đi lập tức. Trước đó, chàng nghe Vương phu nhân cùng Mộ Dung Phục đề cập đến mối tư tình giữa phụ thân chàng với bà ta, thì trong lòng đã ngấm ngầm kinh hãi, lo rằng Vương Ngữ Yên cũng giống như Mộc Uyển Thanh, chính là em gái mình. Lúc Đoàn Dự nghe chính miệng Vương phu nhân nói như vậy, thì không còn hoài nghi gì nữa, tưởng chừng trời đất quay cuồng. Nếu chân tay không bị trói, miệng không bị nhét hạt vải, thì chàng đã kêu gào và chạy loạn lên như người điên rồi. Trong lòng đau khổ quá chừng, Đoàn Dự cảm thấy tức ngực, không nhúc nhích được, bàn chân bàn tay giá lạnh rồi dần dần cứng đờ. Chàng cả kinh, than thầm: “Trời ơi! Mấy năm trước mình đã nghe bá phụ nói, người bị tẩu hỏa nhập ma thì nội công càng thâm hậu bao nhiêu càng nguy hiểm bấy nhiêu. Mình… mình bị tẩu hỏa nhập ma rồi ư?”
Khí lạnh chỉ trong chốc lát đã lên đến khuỷu tay, đầu gối, nhưng trong lòng Đoàn Dự lại chán nản nghĩ: “Nếu Ngữ Yên là em cùng cha khác mẹ với mình thì mối tương tư ôm ấp bấy lâu bỗng tan vỡ như bọt nước, sống trên thế gian cũng chẳng còn chi là sinh thú. Thà mình bị tẩu hỏa nhập ma trở thành phế nhân không biết gì nữa, lại càng đỡ phải phiền não suốt đời.”
Đoàn Diên Khánh ba lần vận nội tức, chẳng những vô hiệu mà lại càng tức ngực, khó chịu như muốn nôn oẹ. Lão không nói gì mà cũng không cử động, chỉ nhắm mắt ngồi yên.
Mộ Dung Phục nói: “Đoàn điện hạ! Tuy tại hạ đã dùng thuốc mê để kiềm chế điện hạ, nhưng nhất quyết không có ý vô lễ hay gia hại. Tại hạ chỉ kính cẩn khẩn cầu điện hạ một điều, sau đó không những hai tay dâng thuốc giải lên mà còn cúi đầu nhận tội.” Giọng nói của hắn hết sức khiêm cung.
Đoàn Diên Khánh cười khẩy rồi đáp: “Đoàn mỗ đã sống đến tuổi này, từng trải biết bao sóng to gió lớn, há lại để người ta uy hiếp kiềm chế mà bắt ưng thuận chuyện gì?” Mộ Dung Phục đáp: “Tại hạ khi nào lại dám uy hiếp điện hạ? Có mọi người ở đây làm chứng cho, tại hạ kính cẩn tạ tội, chỉ mong điện hạ ưng thuận một điều.” Gã quì cả hai chân xuống, dập đầu sát đất, tỏ ra rất kính cẩn.
Mọi người thấy Mộ Dung Phục đột nhiên thi hành đại lễ thì không khỏi kinh ngạc. Lúc này gã đã làm chủ tình hình, tính mạng mọi người gã đều nắm trong tay. Dù gã có vì nghĩa khí giang hồ mà kính nể Đoàn Diên Khánh là một cao thủ tiền bối, cũng chỉ vái một cái là đủ, hà tất phải khom lưng uốn gối, dập đầu bái lạy?
Đoàn Diên Khánh chẳng hiểu ra sao, nhưng thấy gã kính cẩn như vậy thì lòng căm hận cũng bớt xuống vài phần. Lão nói: “Người ta thường nói, thi lễ là tất có sở cầu. Công tử thi hành đại lễ như vậy, lão phu thật không dám nhận. Chẳng hay công tử có điều chi dạy bảo?” Giọng điệu của Đoàn Diên Khánh cực kỳ khách khí.
Mộ Dung Phục đáp: “Tâm nguyện của tại hạ thì điện hạ đã hiểu rõ rồi, nhưng phục hưng Đại Yên không phải chỉ một ngày mà xong. Bây giờ tại hạ giúp đỡ điện hạ lên ngôi hoàng đế nước Đại Lý trước. Điện hạ không có con cái, xin hãy thu nhận tại hạ làm nghĩa tử. Hai chúng ta đồng tâm hiệp lực làm nên đại sự, chẳng phải là lưỡng toàn kỳ mỹ ư?”
Đoàn Diên Khánh nghe Mộ Dung Phục nói đến câu “Điện hạ không có con cái”, bất giác liếc mắt nhìn Đoàn phu nhân, bốn mắt gặp nhau một thoáng mà khác nào như đã trao đổi ngàn vạn lời. Đoàn Diên Khánh cười khằng khặc không trả lời, thầm nghĩ: “Giả tỉ ngươi nói câu này sớm được nửa giờ thì thật là lưỡng toàn kỳ mỹ. Nhưng hiện giờ ta đã biết là mình có con trai, thì khi nào lại đem ngôi vua mà truyền lại cho ngươi?”
Mộ Dung Phục lại nói: “Giang sơn Đại Tống vốn là của họ Sài đời Hậu Chu. Xưa kia Chu Thái Tổ là Quách Oai không người kế nghiệp, mới nhận Sài Vinh làm nghĩa tử. Sài Thế Tôn là tay hào kiệt đương thời, tài kiêm văn võ làm nổi oai danh cho nhà Hậu Chu. Họ Quách đời đời được hưởng tế tự, truyền mãi về sau, hậu thế đều ca tụng việc này. Gương trước còn đó, xin điện hạ xem xét.” Đoàn Diên Khánh hỏi: “Công tử muốn ta nhận làm nghĩa tử ư?” Mộ Dung Phục đáp: “Đúng thế!”
Đoàn Diên Khánh nghĩ thầm: “Bây giờ ta bị trúng độc, đành phải miễn cưỡng nhận lời. Chờ giải độc rồi, ta sẽ giết quách gã đi là xong.” Lão bèn hững hờ đáp: “Công tử chịu đổi sang họ Đoàn ư? Giả tỉ về sau công tử trở thành hoàng đế nước Đại Lý đi nữa, thì chuyện phục hưng Yên quốc cũng chưa hiểu thành bại thế nào, nhưng họ Mộ Dung từ đây tuyệt tự mà công tử cũng đồng ý ư?” Đoàn Diên Khánh đã hiểu rõ những suy tính của Mộ Dung Phục. Sau khi gã lên làm vua nước Đại Lý, chỉ cần vài năm là cho người thân tín nắm hết quyền lực, giết sạch trung thần của họ Đoàn, rồi gã sẽ khôi phục họ Mộ Dung. Có khi gã còn đổi tên nước Đại Lý thành Đại Yên cũng chưa biết chừng. Lão đặt ra mấy câu hỏi này là một nước cờ rất cao, lấy thoái làm tiến, khiến Mộ Dung Phục không đem lòng nghi kỵ. Nếu lão ưng thuận ngay, thì tỏ ra có ý không thành thực.
Quả nhiên Mộ Dung Phục ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi ngập ngừng nói: “Chuyện này…” Thực ra trong thâm tâm Mộ Dung Phục tính toán đúng như Đoàn Diên Khánh đã nghĩ. Gã cũng cho rằng nếu lão hấp tấp nhận lời, tức là tính chuyện bất lương giả trá. Mộ Dung Phục ngần ngừ một lúc rồi nói tiếp: “Tại hạ tuy không phải là hạng vong bản bất hiếu, nhưng muốn làm nên việc lớn thì không thể câu nệ tiểu tiết. Tại hạ đã bái điện hạ làm nghĩa phụ, thì dĩ nhiên phải lấy họ Đoàn.”
Đoàn Diên Khánh cười ha hả nói: “Tuyệt diệu, tuyệt diệu! Lão phu phiêu bạt giang hồ không vợ không con, không ngờ đến lúc tuổi già lại có được đứa con trai là bậc thiếu niên anh tuấn thì thật thỏa chí bình sinh. Trên đời ta vui sướng nhất, không có việc gì bằng việc này. Kính ngưỡng Quan Thế Âm Bồ Tát trên cao, đệ tử thật là cảm kích đến rơi lệ, cho dù bứt gân bẻ xương cũng chưa đủ báo đền ân đức của Bạch Y Quan Âm Bồ Tát trong muôn một.”
Trong lòng lão hết sức kích động, hai hàng nước mắt bỗng dưng chảy xuống, lão bèn cúi đầu, chắp hai tay, vẫn đang đối diện với Đoàn phu nhân.
Đoàn phu nhân chầm chậm gật đầu, ánh mắt trước sau vẫn nhìn vào đứa con yêu quí đang nằm dưới đất.
Đoàn Diên Khánh nói câu này là bày tỏ nỗi vui mừng đột nhiên có Đoàn Dự là con, nhưng người khác nghe lại tưởng là lão ưng thuận thu Mộ Dung Phục làm nghĩa tử, để sau này truyền ngôi cho gã.
Mộ Dung Phục cả mừng nói: “Điện hạ là bậc anh kiệt vào hàng tiền bối, lời nói nặng bằng cửu đỉnh, nhất định không tiếc hối. Xin nghĩa phụ nhận của hài nhi mấy lạy!”
Gá vừa toan quì xuống, bỗng nghe thanh âm ngoài cửa vọng vào: “Sai bét, sai bét! Làm như thế này là sai bét!” Rèm cửa vén lên, một người bước vào, chính là Bao Bất Đồng.
Mộ Dung Phục biến sắc mặt, quay lại hỏi: “Bao tam ca nói sao?” Bao Bất Đồng đáp: “Công tử đường đường là dòng dõi Mộ Dung nước Đại Yên, sao lại đổi sang họ Đoàn được? Vẫn biết chuyện phục hưng Đại Yên là gian nan đến cùng cực, nhưng bọn ta cứ tận tụy mà làm, không thành công thì thành nhân. Bây giờ công tử lạy một kẻ người chẳng ra người, quỷ chẳng ra quỷ làm dưỡng phụ, dù có làm nên hoàng đế cũng chẳng quang vinh gì. Huống chi công tử ở họ Mộ Dung mà định nhảy lên làm hoàng đế nước Đại Lý thì là chuyện khó, không thể khó hơn được nữa.”
Mộ Dung Phục nghe gã ăn nói vô lễ thì trong lòng căm tức, nhưng Bao Bất Đồng lại là thuộc hạ tâm phúc, mà gã đang lúc cần người, không tiện nổi giận. Gã chỉ lạnh lùng nói: “Bao tam ca! Việc đời nhiều chỗ ngoắt ngoéo, tam ca không hiểu đâu. Sau này tiểu đệ sẽ nói cho nghe.”
Bao Bất Đồng lắc đầu đáp: “Sai bét, sai bét! Công tử gia! Bao Bất Đồng này tuy ngu xuẩn, nhưng cũng đoán ra được mấy phần dụng ý của công tử. Công tử định bắt chước Hàn Tín nhẫn nhục luồn trôn để có ngày bay bổng. Công tử định bây giờ đổi ra họ Đoàn, sau này nắm giữ binh quyền sẽ đổi lại họ Mộ Dung, đổi luôn cả danh hiệu nước Đại Lý thành Đại Yên, rồi khởi binh đánh Đại Tống, Đại Liêu khôi phục lại giang sơn. Dự định của công tử tuy to lớn thật, nhưng công tử biến thành kẻ bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa, không khỏi tự thẹn với lương tâm, lại bị thiên hạ chê cười. Bao mỗ nghĩ rằng cái ngôi hoàng đế đó, công tử chẳng nên ngồi làm gì.”
Mộ Dung Phục cố nén giận, lớn tiếng đáp: “Bao tam ca nặng lời quá rồi. Sao lại bảo tiểu đệ là bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa?” Bao Bất Đồng nói: “Bây giờ công tử làm dân Đại Lý, ngày sau lại đem lòng phản quốc, thế là bất trung! Công tử lạy Đoàn Diên Khánh làm nghĩa phụ, nếu ở với họ Đoàn cho đến già thì bất hiếu với họ Mộ Dung, mà nếu giữ được chữ hiếu với họ Mộ Dung thì lại bất hiếu với họ Đoàn. Sau này công tử tất phải tàn sát quần thần Đại Lý, thế là bất nhân…”
Bao Bất Đồng chưa dứt lời đã nghe một tiếng “binh”, sau lưng gã trúng một phát chưởng rất nặng, rồi nghe thanh âm Mộ Dung Phục lạnh lùng nói: “Ta bán bạn cầu vinh, thế là bất nghĩa!” Phát chưởng của gã vận hết kình lực âm nhu, đánh vào hai đại huyệt Linh Đài và Chí Dương, thật là một đòn sát thủ. Bao Bất Đồng ngàn vạn lần không ngờ nổi, vị công tử gia đã được mình phò tá từ lúc mới sinh đến lúc trưởng thành, lại có thể hạ độc thủ tàn nhẫn đến thế. Gã hộc lên một tiếng, miệng phun máu tươi ra, ngã lăn xuống đất chết liền.
Lúc Bao Bất Đồng lý luận với Mộ Dung Phục, bọn Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Phong Ba Ác đều đứng ngoài cửa lắng nghe. Ba người đều hiểu rằng gã nói tuy có quá đáng, nhưng rất hợp đạo lý. Đến khi Mộ Dung Phục phóng chưởng đánh Bao Bất Đồng, ba người mới giật mình kinh hãi, xông cả vào trong nhà.
Phong Ba Ác ôm lấy Bao Bất Đồng, la gọi: “Tam ca! Tam ca! Tam ca làm sao rồi?” Hai hàng nước mắt Bao Bất Đồng vẫn đang lăn xuống má, nhưng Phong Ba Ác đưa tay sờ mũi thì thấy tắt hơi rồi. Thì ra lúc lâm tử, Bao Bất Đồng vì thương tâm quá dỗi mà ứa nước mắt ra. Phong Ba Ác lớn tiếng kêu: “Tam ca! Tuy tam ca không còn hơi thở nữa, nhưng chắc cũng còn muốn hỏi công tử: “Vì sao công tử lại hạ độc thủ giết ta?” Gã nói xong, quay đầu lại nhìn Mộ Dung Phục trừng trừng, đầy vẻ hận thù.
Đặng Bách Xuyên dõng dạc hỏi: “Công tử gia! Bản tính Bao tam đệ hay tranh luận với người khác, công tử cũng đã biết rồi. Dù y có vô lễ với công tử, không giữ phận trên dưới, công tử cũng chỉ nên trách mắng mà thôi. Sao công tử lại nhẫn tâm hạ sát y?”
Thực ra Mộ Dung Phục không tức giận Bao Bất Đồng vì tội vô lễ, mà vì họ Bao chẳng kiêng nể gì, nói huỵch toẹt mưu đồ trong thâm tâm gã ra. Gã sợ Đoàn Diên Khánh không chịu nhận mình làm nghĩa tử để truyền ngôi, hoặc lão giữ lời hứa mà nhận mình làm con, phong ngôi Thái tử, nhưng cũng bố trí cẩn thận, thì việc mưu đồ Đại Yên khó lòng thành tựu. Trong lúc cấp bách gã đành hạ độc thủ, không thì cái mũ miện đã sắp vào tay lại cuốn theo chiều gió mất. Bây giờ Mộ Dung Phục nghe hai gã Phong, Đặng trách cứ thì nghĩ thầm: “Chuyên hôm nay đã lâm vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan, đành là đắc tội với hai người Phong Đặng, chứ không thể để Diên Khánh Thái tử sinh lòng nghi hoặc được.” Gã bèn đáp: “Bao Bất Đồng nói năng vô lễ thì chẳng quan hệ gì lắm. Nhưng ta thành tâm bái Đoàn điện hạ làm nghĩa phụ, thế mà hắn lại dám ly gián tình phụ tử của chúng ta, thì làm sao tha thứ được?”
Phong Ba Ác quát lớn: “Bao Bất Đồng đã theo công tử vào sinh ra tử mười mấy năm trời, mà trong lòng công tử tam ca lại không bằng được tên Đoàn Diên Khánh ư?” Mộ Dung Phục đáp: “Phong tứ ca bất tất phải nổi nóng. Ta đổi sang họ Đoàn nước Đại Lý là toàn tâm toàn ý, quyết không có nửa phần suy tính gì khác. Thế mà Bao tam ca lấy bụng tiểu nhân mà đo lòng quân tử, nên ta không thể không nặng tay.” Công Dã Càn lạnh lùng hỏi: “Công tử đã quyết định rồi, không thể vãn hồi được nữa ư?” Mộ Dung Phục đáp: “Không sai!”
Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Phong Ba Ác cùng đưa mắt nhìn nhau, rồi cùng gật đầu. Đặng Bách Xuyên dõng đạc nói: “Công tử gia! Bốn anh em tại hạ tuy chưa kết nghĩa đệ huynh, nhưng đã nguyện cùng sống chết, tình thân như cốt nhục. Chắc công tử cũng biết rồi?” Mộ Dung Phục chau mày đáp: “Phải chăng Đặng đại ca muốn báo thù cho Bao tam ca? Vậy ba vị cứ tiến lên đi, Mộ Dung Phục này đâu có sợ gì?” Đặng Bách Xuyên thở dài đáp: “Bọn tại hạ vốn là gia thần họ Mộ Dung, khi nào dám động thủ? Cổ nhân đã nói: “Hợp ý thì ở, chẳng hợp ý thì đi”, bọn tại hạ không thể theo hầu công tử được nữa. Quân tử dù tuyệt giao nhưng không nói xấu, chỉ mong công tử hãy suy nghĩ kỹ.”
Mộ Dung Phục thấy ba người muốn bỏ đi, nghĩ rằng sau này mình đến Đại Lý mà không có người tâm phúc thì khó mà hành động, không lưu họ lại không xong. Gã bèn nói: “Đặng đại ca, Công Dã nhị ca, Phong tứ ca! Giả tỉ các vị không nghi ngờ ta phản bội họ Đoàn, thì ta đối với các vị chẳng có gì xích mích, cớ sao lại chia tay? Ngày trước gia phụ đã đối đãi với các vị không đến nỗi tệ bạc, mà các vị cũng đã nhận lời với gia phụ tận tâm tận lực giúp ta. Bây giờ các vị bỏ đi, há chẳng trái với lời thề trước kia sao?”
Đặng Bách Xuyên giận xanh mặt, lên tiếng đáp: “Công tử không nhắc đến lão tiên sinh thì chẳng nói làm gì. Nhưng công tử đã nhắc tới lão tiên sinh, thì sao lại còn nhận kẻ khác làm cha, đổi họ, phản quốc? Công tử đã đối với lão tiên sinh như thế nào? Đúng là bọn tại hạ đã thề với lão tiên sinh là phò tá công tử để phục hưng nhà Đại Yên, làm rạng danh họ Mộ Dung. Nhưng bọn tại hạ chưa thề là phò tá công tử để làm hưng vượng nước Đại Lý, làm rạng danh họ Đoàn.” Những lời nói này làm sắc mặt Mộ Dung Phục lúc xanh lúc trắng, không biết nói sao nữa.
Ba người Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Phong Ba Ác đồng thời vái dài sát đất, rồi nói: “Bái biệt công tử!” Phong Ba Ác vác thi thể Bao Bất Đồng lên vai. Ba người rảo bước ra khỏi cửa, không ngoảnh mặt lại nữa.
Mộ Dung Phục cười mấy tiếng khô khan, rồi nói với Đoàn Diên Khánh: “Nghĩa phụ minh xét: bốn người đó đều là gia thần đã theo hài nhi lâu năm, nhưng hài nhi vì muốn giữ lòng trung với họ Đoàn nước Đại Lý mà phải giết một gã, đuổi ba gã di. Hài nhi một mình vào Đại Lý đủ chứng tỏ tấm lòng trung, quyết chẳng còn ý khác.”
Đoàn Diên Khánh gật đầu đáp: “Hay lắm! Hay lắm!”
Mộ Dung Phục lại nói: “Hài nhi xin lập tức giải độc cho nghĩa phụ.” Gã thò tay vào bọc lấy ra một cái bình sứ nhỏ, toan đưa cho Đoàn Diên Khánh, nhưng chợt động tâm: “Sau khi giải chất độc Bi Tô Thanh Phong cho lão, mình không thể uy hiếp được lão nữa. Từ đây trở đi mình chỉ còn cách cầu cạnh lão, không thể đối đáp với lão nữa. Lão hận nhất là thằng lỏi Đoàn Dự, mình phải giết hắn đi trước đã.” Gã rút trường kiếm ra khỏi vỏ đánh “soạt” một cái, rồi nói: “Nghĩa phụ! Công lao đầu tiên của hài nhi là hạ sát thằng lỏi Đoàn Dự này để tuyệt đường nối dõi của Đoàn Chính Thuần, buộc hắn phải truyền ngôi cho nghĩa phụ.”
Đoàn Dự nghĩ thầm: “Ngữ Yên đã biến thành muội tử của mình, mình cũng chẳng muốn sống làm chi nữa. Gã đâm mình chết càng hay.” Một là Đoàn Dự muốn chết cho nhanh, hai là chàng tưởng mình bị tẩu hỏa nhập ma, dù muốn kháng cự cũng không còn sức, nên cứ nằm yên chờ chết.
Đoàn Chính Thuần thấy Mộ Dung Phục xách trường kiếm từ từ tiến lại gần Đoàn Dự, thì lòng đau như cắt, la lên một tiếng: “Trời ơi!”
Đoàn Diên Khánh nói: “Hài nhi! Lòng hiếu thảo của hài nhi thật đáng khen, nhưng thằng lỏi này thật là khả ố. Gã đã nhiều lần đắc tội với ta. Bá phụ và phụ thân gã lại cướp ngôi của ta, hại ta đến thân tàn ma dại. Ta muốn chính mình ra tay hạ sát tên tiểu tặc này mới hả giận.”
Mộ Dung Phục “Vâng!” một tiếng, rồi đưa trường kiếm cho Đoàn Diên Khánh, lại nói: “Trời ơi! Hài nhi thật hồ đồ, quên chưa giải độc cho nghĩa phụ.” Gã lại lấy chiếc bình nhỏ ra, nhưng liếc mắt nhìn trộm thấy Đoàn Diên Khánh lộ vẻ đắc ý, mà hình như đang đưa mắt nhìn người khác. Mộ Dung Phục là con người rất tinh tế mau lẹ, nhìn theo mục quang của Đoàn Diên Khánh thì thấy Đoàn phu nhân khẽ gật đầu. Nét mặt bà tỏ ra vừa cảm kích vừa vui mừng.
Mộ Dung Phục thấy thế không khỏi sinh nghi, nhưng chẳng bao giờ gã đoán nổi Đoàn Dự là con của Đoàn Diên Khánh và Đoàn phu nhân. Đoàn Diên Khánh thà chết chứ quyết không để kẻ khác hạ sát đứa con bảo bối của mình, còn ngôi hoàng đế hay gì gì đi nữa cũng chỉ là thân ngoại chi vật. Lúc đầu Mộ Dung Phục nghĩ: “Phải chăng Đoàn Chính Thuần và Đoàn Diên Khánh ngấm ngầm cấu kết với nhau điều gì? Bọn chúng dù sao cũng là anh em nhà họ Đoàn nước Đại Lý. Người ta thường nói: “Một giọt máu đào hơn ao nước lã.” Khi nào lão họ Đoàn lại coi người ngoài hơn người trong nhà bao giờ?” Rồi gã lại nghĩ: “Bây giờ chỉ có một cách duy nhất là cố lập đại công với Đoàn Diên Khánh, để chứng tỏ lời nói của mình là thành thực.” Gã liền quay lại hỏi Đoàn Chính Thuần: “Trấn Nam Vương! Sau khi Vương gia về Đại Lý rồi, khoảng bao lâu thì lên ngôi hoàng đế? Vương gia ở ngôi bao lâu thì truyền lại cho nghĩa phụ tại hạ?”
Đoàn Chính Thuần hững hờ đáp: “Hoàng huynh ta công lực thâm hậu, thân thể tráng kiện, ít ra còn ở ngôi hoàng đế ba chục năm nữa. Sau khi hoàng huynh truyền ngôi cho ta rồi, ta cũng phải ở ngôi khoảng ba chục năm. Khi đó Đoàn Dự con ta đã tám chục tuổi, nó làm vua được chừng hai chục năm nữa. Như vậy là phải sau tám mươi năm…”
Mộ Dung Phục ngắt lời: “Ăn nói hồ đồ! Ai mà chờ lâu thế được? Ta ra lệnh cho ngươi trong vòng một tháng phải lên ngôi hoàng đế, sau một tháng nữa thì phải truyền ngôi cho Diên Khánh Thái tử.”
Đoàn Chính Thuần đã nhận định rõ tình hình, Đoàn Diên Khánh cùng Mộ Dung Phục phải dùng mình làm bậc thang để trèo lên đế vị. Bao giờ mình nhường ngôi cho Đoàn Diên Khánh rồi, bọn chúng mới sát hại. Bây giờ thì chúng chưa dám làm gì, dù có địch nhân đến hại mình thì bọn chúng cũng hết sức bảo hộ. Lúc này chỉ có tính mạng Đoàn Dự là rất nguy hiểm. Ông cười ha hả, nói: “Ngôi hoàng đế của ta chỉ có thể truyền cho con ta là Đoàn Dự. Truyền sớm truyền muộn cũng chẳng sao, nhưng muốn truyền cho người ngoài thì không được đâu!”
Mộ Dung Phục liền lạnh lùng nói: “Được rồi! Bây giờ ta chém thằng lỏi Đoàn Dự một nhát, thử xem ngươi có truyền ngôi cho cái hồn ma của nó được không?” Gã nói xong, lại rút trường kiếm ra.
Đoàn Chính Thuần cười ha hả, nói: “Ngươi coi Đoàn Chính Thuần này là người thế nào? Ngươi giết nó xong, chẳng lẽ ta lại để cho ngươi đắc ý? Nếu ngươi muốn tuyệt diệt thì cứ việc giết ta luôn thể.”
Mộ Dung Phục ngần ngừ không quyết đoán. Lúc này mà gã muốn giết Đoàn Dự thì chỉ giơ tay lên một cái là xong. Nhưng Đoàn Chính Thuần sẽ vì mối thù giết con mà không nghĩ đến tính mạng nữa. Không được ông truyền ngôi cho, thì cái ngôi hoàng đế khó mà lấy nổi. Tay gã cầm thanh trường kiếm, mũi kiếm rung động chiếu ra những tia sáng xanh lè. Gã quay lại nhìn Đoàn Diên Khánh, chờ nghe chỉ thị.
Đoàn Diên Khánh nói: “Thằng cha này nói sao là làm vậy. Nếu hắn uống thuốc độc tự tận hoặc đập đầu mà chết đi, thì đại kế của chúng ta thành bọt nước. Được rồi! Hãy để tạm thằng lỏi Đoàn Dự đó, đừng giết vội. Gã đã ở trong tay cha con mình, còn chạy đi đằng nào được nữa? Ngươi hãy giải độc cho ta rồi sẽ tính.”
Mộ Dung Phục “Vâng!” một tiếng, nhưng lại nghĩ thầm: “Vừa rồi Đoàn Diên Khánh đưa mắt ra hiệu cho Đoàn phu nhân là có ý gì? Mình chưa giải được mối nghi ngờ này mà đã đưa thuốc giải cho lão thì thật không ổn chút nào. Nhưng nếu mình chần chừ, để lão nổi giận lên thì cũng khốn khổ.”
Giữa lúc ấy Vương phu nhân lại la lên: “Mộ Dung Phục! Ngươi nói là lấy thuốc giải cho cô mẫu trước, mà sao lại cứ mãi nịnh nọt cái con người xấu như quỷ sứ mà ngươi nhận làm gia gia đó? Ngươi đừng trách ta, ta mà nổi nóng lên là thóa mạ ngay. Thằng cha người chẳng ra người…”
Mộ Dung Phục nghe bà nói rất trúng ý mình, liền quay lại nhìn Đoàn Diên Khánh cười nói: “Nghĩa phụ! Cô mẫu hài nhi tính khí cương cường, nếu người có thốt ra câu gì đắc tội, cũng xin lão nhân gia châm chước bỏ qua. Để cô mẫu khỏi nói năng bất nhã, hài nhi xin giải độc cho cô mẫu trước, rồi lập tức giải độc cho nghĩa phụ.” Nói xong, y đưa bình thuốc giải kề vào mũi Vương phu nhân.
Vương phu nhân ngửi thấy mùi hôi thối buồn nôn xông vào mũi rất khó chịu, đã toan cất tiếng mắng, nhưng sau một lúc thì thấy tứ chi khôi phục lại sức lực. Mắt bà không ngớt nhìn vào Đoàn Chính Thuần, Đoàn phu nhân và ba bà Tần, Nguyễn, Cam, đột nhiên thấy máu ghen xông lên không nhịn được, lớn tiếng nói: “Điệt nhi! Ngươi mau giết bốn con nữ tặc này cho ta!”
Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Cô mẫu đã từng nói tính tình Đoàn Chính Thuần rất cương cường, không chịu để người ta khuất phục, nhưng đối với thê tử và tình nhân thì hắn lại coi trọng hơn tính mạng. Sao ta không lấy đó mà uy hiếp?” Hắn liền cầm kiếm chạy đến bên Nguyễn Tinh Trúc, rồi quay lại hỏi Đoàn Chính Thuần: “Trấn Nam Vương! Cô mẫu của tại hạ bảo giết mụ này đi, Vương gia nghĩ thế nào?”
Đoàn Chính Thuần trong dạ bồn chồn, vô kế khả thi, liền quay lại nói với Vương phu nhân: “A La! Từ đây sắp tới, nàng nói sao thì ta nghe vậy. Chẳng lẽ nàng gây nên một mối cừu hận suốt đời giữa đôi ta ư? Nàng mà sai gã giết thị, thì ta không thể tử tế với nàng được nữa.”
Vương phu nhân tuy máu ghen đang bốc lên cuồn cuộn, nhưng nghĩ lại Đoàn Chính Thuần nói không sai. Mười năm qua mụ đã hận người phụ bạc mình thấu xương, hễ thấy người họ Đoàn hay người Đại Lý là đem giết cho hả dạ, nhưng lúc này gặp chính oan gia thì mối tình nồng nhiệt ngày xưa lại quay về, liền nói: “Điệt nhi! Khoan động thủ, để ta nghĩ lại xem đã!”
Mộ Dung Phục lại nói: “Trấn Nam Vương! Chỉ cần Vương gia ưng thuận truyền ngôi lại cho Diên Khánh Thái tử, thì tại hạ sẽ hết sức bảo toàn cho chính thất cùng thứ thiếp của Vương gia, quyết không để ai đụng đến.” Đoàn Chính Thuần cười hà hà không nói gì.
Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Lão này nổi tiếng là người phong lưu lãng mạn, tha thiết với mỹ nhân còn hơn giang sơn tổ quốc. Muốn ép lão truyền ngôi thì cứ ra tay với bọn đàn bà của lão là được.” Gã liền trỏ mũi kiếm vào ngực Nguyễn Tinh Trúc, nói: “Trấn Nam Vương! Chúng ta là nam tử hán, là đại trượng phu, hành động mau lẹ, nói sao làm vậy. Vương gia ưng thuận thì tại hạ lập tức giải thuốc mê cho tất cả mọi người, rồi bày tiệc tạ tội, đổi thù ra bạn, há chẳng tốt ư? Còn nếu Vương gia không ưng thuận, lưỡi kiếm này sẽ đâm tới.”
Đoàn Chính Thuần liếc mắt nhìn Nguyễn Tinh Trúc, thấy trong ánh mắt nàng lộ vẻ khủng khiếp vô cùng, thì trong lòng đau đớn, nhưng lại nghĩ thầm: “Thật tình ta không coi ngôi hoàng đế Đại Lý quan trọng bằng Trúc muội, nhưng nếu ta ưng thuận thì tên gian tặc này sẽ tâng công với Đoàn Diên Khánh mà giết Đoàn Dự ngay lập tức.” Ông không nỡ nhìn, liền quay mặt đi.
Mộ Dung Phục lại la lên: “Tại hạ đếm từ một đến ba, nếu Vương gia không gật đầu thì đừng trách Mộ Dung Phục này hạ thủ vô tình. Đoạn gã cất tiếng đếm: “Một, hai…” Đoàn Chính Thuần quay lại, nhìn thấy vẻ mặt Nguyễn Tinh Trúc thật đáng thương mà không biết làm thế nào. Mộ Dung Phục lại đếm: “Ba!… Trấn Nam Vương! Ngươi nhất định không chịu ư?” Đoàn Chính Thuần đang mải nghĩ lại những kỷ niệm êm đềm lúc mới gặp Nguyễn Tinh Trúc năm xưa, đột nhiên nghe một tiếng rú: “Ôi chao!” Mộ Dung Phục đã đâm trường kiếm vào ngực Nguyễn Tinh Trúc rồi.
Vương phu nhân thấy da mặt Đoàn Chính Thuần co rúm lại, dường như còn đau đớn hơn là chính mình bị lưỡi kiếm đâm vào. Bà cũng không chịu đựng nổi, vội la lên: “Mau! Mau cứu thị sống lại! Ta không thực tình kêu ngươi giết thị, mà chỉ muốn hăm dọa tên vô lương tâm đó.”
Mộ Dung Phục khẽ lắc đầu, nghĩ thầm: “Đã là kết mối thâm cừu, thì giết nhiều thêm một người hay ít đi một người cũng chẳng có gì quan hệ.” Gã lại cầm trường kiếm gí vào ngực Tần Hồng Miên, quát lên: “Trấn Nam Vương! Giang hồ vẫn tưởng ngươi là đa tình đa nghĩa, không ngờ ngươi lại không chịu nói một lời để cứu mạng cho tình nhân!” Gã lại đếm: “Một, hai, ba…” Đếm đến ba, lại nghe “sột” một tiếng, trường kiếm đã đâm chết Tần Hồng Miên.
Lúc này sắc mặt Cam Bảo Bảo đã tái nhợt, nhưng bà cố trấn tĩnh, dõng dạc nói: “Mi muốn giết ai thì cứ giết, nhưng không uy hiếp Trấn Nam Vương được đâu. Ta là thê tử của Chung Vạn Cừu, chẳng có quan hệ gì với Trấn Nam Vương cả. Ngươi không được làm điếm nhục đến thanh danh nhà họ Chung ở Vạn Kiếp cốc.”
Mộ Dung Phục cười nhạt đáp: “Còn ai chẳng biết Đoàn Chính Thuần đa dâm hiếu sắc? Bất luận là khuê nữ, góa phụ hay gái có chồng, y cũng chẳng từ một ai.” Gã vừa nói vừa đâm chết Cam Bảo Bảo.
Vương phu nhân ngấm ngầm kêu khổ. Tuy bình nhật bà giết người không gớm tay, nhưng thấy Mộ Dung Phục giết ba người yêu của Đoàn Chính Thuần trong nháy mắt thì trống ngực cũng đánh thình thình, không dám nhìn Đoàn Chính Thuần nữa, không hiểu vẻ mặt y khủng khiếp đến đâu.
Bỗng nghe Đoàn Chính Thuần dịu dàng nói: “A La! Nàng với ta đã có một mối tình thắm thiết, mà đến bây giờ nàng vẫn chưa hiểu rõ lòng dạ ta. Trong thiên hạ có không biết bao nhiêu là phụ nữ, nhưng ta vẫn yêu nàng nhất. Điệt nhi của nàng hạ sát ba người bạn gái của ta, ta cũng không lấy chi làm quan hệ, chỉ mong sao gã đừng đụng đến nàng là ta yên tâm.” Lời nói của Đoàn Chính Thuần tuy rất ngọt ngào, nhưng Vương phu nhân nghe mà sợ hãi vô cùng. Bà biết Đoàn Chính Thuần đã tức giận mình đến cực điểm, ông nói câu này là có ý kêu Mộ Dung Phục lại giết mình. Bà vội la lên: “Hiền điệt! Ngươi đừng tin lời hắn!”
Mộ Dung Phục bán tín bán nghi, đột nhiên chĩa trường kiếm vào trước ngực Vương phu nhân, máu tươi từ mũi kiếm từng giọt từng giọt nhỏ lên ngực áo bà.
Vương phu nhân biết gã điệt nhi này tâm địa tàn nhẫn, thủ đoạn độc ác. Gã muốn toại nguyện mộng làm vua thì còn kể gì đến cô mẫu hay không cô mẫu? Đoàn Chính Thuần càng cố ý tỏ ra luyến tiếc mình, thì Mộ Dung Phục lại càng muốn dùng tính mạng của mình để uy hiếp ông. Bà run rẩy nói: “Đoàn lang! Đoàn lang! Chẳng lẽ Đoàn lang giận ta đến thấu xương, ta không chết thì không được ư?”
Đoàn Chính Thuần thấy vẻ mặt của Vương phu nhân đang khiếp sợ chẳng khác gì Nguyễn Tinh Trúc lúc lâm tử. Ông nhớ lại mối ân tình tha thiết cùng phu nhân ngày trước thì nhũn cả ruột gan, bèn lớn tiếng mắng: “Con ác phụ kia! Sao ngươi lại giở thói ghen tuông, làm hại tính mạng ba người yêu quí của ta? Ta mà được tự do thì quyết đâm chém ngươi ngàn đao vạn kiếm. Mộ Dung Phục! Ngươi đâm mạnh kiếm vào giúp ta, con mụ thối tha đó còn để sống làm gì nữa?” Đoàn Chính Thuần biết rõ, ông thóa mạ Vương phu nhân càng tàn nhẫn, thì Mộ Dung Phục lại càng không muốn giết cô mẫu.
Vương phu nhân cũng hiểu rõ lúc nãy Đoàn Chính Thuần ra vẻ thương yêu vì muốn Mộ Dung Phục giết mình, để báo thù cho Nguyễn Tinh Trúc, Tần Hồng Miên, Chung phu nhân. Bây giờ y chuyển sang mắng nhiếc, tức là đã tha thứ cho mình. Nhưng hơn mười năm nay bà tưởng nhớ đến Đoàn Chính Thuần, đột ngột gặp lại, tâm thần đang bất định. Bà nhìn thấy ba người chết lăn dưới đất, thanh kiếm nhuộm máu đang trỏ vào ngực mình thì đầu óc bâng khuâng khôn tả. Những câu thóa mạ “con ác phụ”, “con mụ thối tha” của Đoàn Chính Thuần nghe mà cay đắng, so với những câu thề non hẹn biển xưa kia thật là khác nhau một trời một vực. Bà không nhịn được, dòng châu lã chã tuôn rơi, hỏi: “Đoàn lang! Trước kia chàng đối với thiếp thế nào, chẳng lẽ đã quên hết rồi ư, không còn nghĩ gì đến thiếp nữa chăng? Nhưng thiếp vẫn một lòng thương nhớ chàng. Chúng ta ly biệt nhau bấy nhiêu lâu, nay được trùng phùng đâu phải chuyện dễ dàng, thế mà chàng… chàng không nói được câu nào tử tế với thiếp ư? Thiếp đã sinh hạ cho chàng con bé Ngữ Yên, chàng đã nhìn thấy nó chưa? Chàng có muốn gặp nó không?”
Đoàn Chính Thuần thầm kinh hãi: “Thần trí A La không được sáng suốt nữa rồi. Nếu ta thổ lộ những lời ân ái ngày xưa thì nàng còn sống làm sao được?” Ông liền lớn tiếng quát: “Ngươi đã hại chết ba người yêu quí của ta, ta hận ngươi đến thâu xương. Mười mấy năm trước, chúng ta cũng đã vạch một đao cắt đứt tình nghĩa rồi. Bây giờ ta chỉ muốn phóng cước đá ngươi mấy cái cho hả lòng căm phẫn.”
Vương phu nhân vừa khóc vừa kêu: “Đoàn lang, Đoàn lang!…” Đột nhiên bà nhảy xổ về phía trước, mũi kiếm của Mộ Dung Phục đâm sâu vào ngực.
Mộ Dung Phục đang lúc ngần ngừ không quyết, nửa muốn thu kiếm về, nửa muốn đâm tới. Gã chỉ chần chừ một chút thì mũi kiếm đã xuyên qua ngực Vương phu nhân rồi. Mộ Dung Phục rút kiếm ra, máu tươi trước ngực Vương phu nhân vọt lên như suối. Vương phu nhân run rẩy hỏi: “Đoàn lang! Chàng giận thiếp đến thế ư?”
Đoàn Chính Thuần thấy lưỡi kiếm đâm trúng chỗ yếu hại, biết rằng Vương phu nhân không thể sống được nữa. Nước mắt ông chảy xuống ròng ròng, nghẹn ngào nói: “A La! Ta thóa mạ nàng là chỉ muốn cứu tính mạng cho nàng. Hôm nay được trùng phùng, ta vui mừng kể sao cho xiết, có lý nào lại giận nàng? Tâm ý ta vĩnh viễn như đóa Mạn Đà hoa ngày trước.”
Khóe miệng Vương phu nhân nở một nụ cười, khẽ nói: “Thế là hay lắm! Thiếp biết trong lòng Đoàn lang vĩnh viễn có hình ảnh thiếp, không bao giờ phai được…” Tiếng phu nhân nhỏ dần đi rồi tắt hẳn, cổ bà ngoẹo ra một cái, thế là lại thêm một vị phu nhân nhan sắc khuynh thành tuyệt mạng.
Mộ Dung Phục lạnh lùng nói: “Trấn Nam Vương! Những nữ nhân mà ngươi đã đem lòng yêu dấu đều vì ngươi mà mất mạng. Chẳng lẽ cả Vương phi nguyên phối, ngươi cũng nỡ hại chết nữa chăng?” Gã vừa nói vừa trỏ mũi kiếm vào trước ngực Đoàn phu nhân.
Đoàn Dự nằm dưới đất đã nghe rõ Nguyễn Tinh Trúc, Tần Hồng Miên, Cam Bảo Bảo và Vương phu nhân đều mất mạng dưới thanh kiếm tàn độc của Mộ Dung Phục. Bây giờ gã lại dùng mẫu thân để uy hiếp phụ thân, lòng chàng nóng như lửa đốt. Chàng chỉ muốn hét to lên: “Không được hại mẫu thân ta!”, nhưng trong miệng bị nhét đầy hạt vải nên không sao thốt ra lời. Chàng cố sức cựa quậy mà chân khí trong người bị bế tắc, không sao nhúc nhích được.
Lại nghe Mộ Dung Phục nói: “Trấn Nam Vương! Tại hạ đếm từ một đến ba. Nếu Vương gia không chịu nhường ngôi hoàng đế cho Diên Khánh Thái tử thì Vương phi lại mất mạng vì Vương gia!” Đoàn Diên Khánh vội la lên: “Hãy khoan động thủ! Việc này phải suy tính kỹ đã!” Mộ Dung Phục nói: “Nghĩa phụ! Chuyện này quan hệ rất trọng đại, nếu Trấn Nam Vương không chịu nhường ngôi cho nghĩa phụ, thì công cuộc của chúng ta hoàn toàn thất bại. Một…”
Đoàn Chính Thuần ngắt lời: “Ngươi muốn ta chịu, thì phải thuận theo một điều kiện.” Mộ Dung Phục đáp: “Ngươi có chịu thì chịu ngay đi, nếu không chịu thì nói rõ. Đừng dùng kế hoãn binh, ta không mắc lừa đâu. Hai… Thế nào?” Đoàn Chính Thuần thở dài đáp: “Đời ta gây nên tội nghiệt đã nhiều. Nay chúng ta được cùng chết với nhau một nơi, cái chết đó cũng là đúng chỗ.” Mộ Dung Phục hỏi: “Ngươi không chịu hay sao? Ba…”
***
Gã đếm dứt tiếng “Ba”, thấy Đoàn Chính Thuần quay đầu đi không lý gì đến mình nữa, toan rút kiếm ra đâm vào ngực Đoàn phu nhân, bỗng nghe Đoàn Diên Khánh quát lên: “Khoan đã!”
Mộ Dung Phục hơi khựng lại, quay sang nhìn Đoàn Diên Khánh, đột nhiên thấy người Đoàn Dự từ dưới đất bật lên, đâm đầu vào bụng mình. Mộ Dung Phục xoay người né tránh, kinh hãi nghĩ thầm: “Thằng nhãi này đã bị Túy Nhân Phong đốt, rồi lại hít phải Bi Tô Thanh Phong. Sao gã trúng cả hai chất độc này mà còn tung mình nhảy lên được?”
Thì ra lúc đầu Đoàn Dự nghĩ đến Vương Ngữ Yên lại là muội tử của mình, trong lòng đau khổ, nội tức chạy lộn xộn làm rối loạn kinh mạch. Khi chàng nghe Mộ Dung Phục toan giết mẫu thân, tình thế cực kỳ cấp bách, bèn quên bẵng chuyện Vương Ngữ Yên, cũng không nghĩ tới chuyện mình đã tẩu hỏa nhập ma chưa, nội lực bỗng dưng lưu thông đúng đường. Nên biết những người luyện nội công, trong lòng phải quán tưởng cho nội lực đi theo kinh mạch. Sau khi tẩu hỏa nhập ma cố gắng muốn đưa trở về, thì càng cố gắng càng làm rối loạn kinh mạch, lo lắng càng nhiều thì nội tức càng lệch lạc xa. Lúc này trong lòng Đoàn Dự chỉ nghĩ đến sự an nguy của mẫu thân, nội tức không bị ý niệm chi phối, lập tức lưu chuyển bình thường theo đường chính. Chàng vừa nghe Mộ Dung Phục đếm đến số ba, thì quên cả mình đang bị trói, tung mình nhảy về phía Mộ Dung Phục, quả nhiên thấy thân thể lại cử động được. Đoàn Dự xông vào không trúng, vai đụng vào cạnh bàn. Hai tay chàng vừa vận sức để chống đỡ, sợi gân bò đang cột trên tay lập tức đứt rời.
Hai tay chàng vừa tự do, bỗng nghe Mộ Dung Phục lớn tiếng quát: “Thằng lỏi này gớm thật!” Đoàn Dự vung tay ra, bất giác xuất một chiêu Thương Dương Kiếm trong Lục Mạch Thần Kiếm đâm vèo về phía Mộ Dung Phục. Mộ Dung Phục né người tránh khỏi, vung kiếm đâm lại. Mắt Đoàn Dự đã bị bịt chặt bằng tấm khăn đen, miệng lại bị nhét đầy hạt vải, không quát hỏi gì được, mà cũng không nhìn thấy Mộ Dung Phục ở hướng nào. Trong lúc cấp bách, chàng quên mất chuyện giơ tay giật tấm khăn bịt mắt ra, hai tay vẫn múa loạn lên, chỉ sợ Mộ Dung Phục đến gần mà gia hại mẫu thân.
Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Tình thế nguy cấp, phải nhân lúc y không thấy gì mà giết y cho lẹ.” Gã liền ra chiêu Đại Giang Đông Khứ, đâm lưỡi kiếm vào trước ngực Đoàn Dự.
Đoàn Dự đang vung hai tay đánh loạn xạ, bỗng nghe kiếm phong rít lên veo véo. Chàng vội vàng né tránh, nhưng đã bị mũi kiếm nhọn đâm trúng vào vai, bèn cố nhịn đaụ nhảy vọt lên không. Nghe “binh” một tiếng, đầu chàng đụng vào trần nhà. Từ lúc Đoàn Dự hút sạch nội lực của Cưu Ma Trí ở dưới giếng khô, nội kình chàng tăng tiến không biết bao nhiêu mà kể. Chàng vừa tung mình đã lên cao mấy trượng, còn đang lơ lửng trên không đã nghĩ thầm: “Mắt mình chẳng trông thấy gì, gã giết mình thì được, mà mình không biết đường giết gã, làm sao bây giờ? Gã giết mình cũng chẳng kể làm chi, nhưng mình không cứu được mẫu thân cùng phụ thân mới là chuyện đau khổ!” Hai chân chàng gắng sức cựa mạnh một cái, sợi gân bò trói chân lại bị đứt tung.
Đoàn Dự cả mừng nghĩ thầm: “Thật là tuyệt diệu! Ngày trước ở trong nhà giã gạo ngoài thành Vô Tích, hắn đã giả làm Lý tướng quân nước Tây Hạ, mình chỉ dùng Lăng Ba Vi Bộ mà hắn không giết được mình.” Nghĩ tới đó, chàng bước chân trái chéo đi nửa bước, nghiêng mình chênh chếch, tránh khỏi nhát kiếm của Mộ Dung Phục đâm tới, chỉ cách chừng mấy tấc. Ba người Đoàn Diên Khánh, Đoàn Chính Thuần, Đoàn Vương phi đều thấy kiếm quang xanh lè lấp loáng đang nhắm bụng Đoàn Dự phóng tới hung hiểm vô cùng, xem chừng không thể thoát được. Rồi họ lại thấy chàng tránh né bằng một thân pháp xảo diệu không thể hình dung nổi. Dù lúc này mắt chàng nhìn rõ, mà không thi triển Lăng Ba Vi Bộ cũng nhất định không tránh thoát mũi kiếm tàn độc này.
Mộ Dung Phục vung kiếm đánh rất rát mà trước sau vẫn không đụng được vào mình Đoàn Dự, thì vừa nóng nảy vừa hổ thẹn. Gã lại thấy Đoàn Dự vẫn không giật bỏ tấm khăn che mắt, không hiểu được vì tình thế cấp bách mà tâm ý chàng rối loạn quên mất, lại tưởng chàng có ý khinh khi trêu cợt, chẳng coi gã vào đâu. Gã nghĩ thầm: “Địch thủ đã bịt mắt làm kẻ đui mù, mà mình không hạ được thì còn mặt mũi nào sống ở trên đời nữa?” Mắt gã đỏ ngầu cơ hồ tóe lửa, kiếm quang xanh lè thấp thoáng, thanh trường kiếm múa tít lên tựa như một trái cầu xanh, bao trùm gần hết đại sảnh. Đoàn Dự bị vây bọc giữa màn kiếm quang, mỗi chiêu đều là sát chiêu đoạt mạng.
Mọi người Đoàn Diên Khánh, Đoàn Chính Thuần, Đoàn phu nhân, Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Thôi Bách Tuyền… cũng bị kiếm quang áp bức. Từng trận hàn khí quạt tới rét run, tóc trên đầu bị thổi dựng lên rồi đứt ra rơi lả tả, vạt áo phần phật rách bươm, tung bay phất phới như đàn bướm.
Đoàn Dự ở trong vòng kiếm quang, chợt tả chợt hữu, xiêu đông vẹo tây, chẳng khác người say tản bộ trong đình viện. Thật là kỳ quái, trường kiếm của Mộ Dung Phục lợi hại là thế mà không sao cắt đứt được một mảnh áo nào của chàng. Thật ra bộ pháp của Đoàn Dự ra vẻ ung dung, mà trong lòng chàng lại lo lắng vô cùng. Đoàn Dự chân cứ bước Lăng Ba Vi Bộ, nghĩ thầm: “Mình chỉ thủ mà không công, mắt lại chẳng nhìn thấy gì. Giả tỉ gã phóng kiếm đâm vào mẫu thân hay phụ thân thì biết làm thế nào?”
Mộ Dung Phục lại nghĩ rằng Đoàn Dự mới là mối lo tâm phúc của mình, còn giết được Đoàn phu nhân hay không cũng chẳng quan hệ gì. Gã đã xuất đến hơn trăm chiêu kiếm mà thủy chung vẫn không đả thương được đối phương, thì nghĩ thầm: “Chắc thằng lỏi này biết nghe tiếng gió để tránh đòn. Bây giờ ta phải dùng Liễu Tự Kiếm Pháp ra chiêu nhẹ nhàng không rít thành tiếng, chắc gã không biết đường mà tránh.” Gã bèn đột nhiên thay đổi kiếm pháp, từ từ phóng chiêu. Nhưng bộ pháp Lăng Ba Vi Bộ này cứ theo quy củ mà bước, không cần nhìn đến đối phương. Đối phương phóng kiếm mau hay chậm, nhẹ hay nặng thì cũng thế, mà kiếm phong có rít thành tiếng hay không cũng chẳng quan hệ gì.
Đoàn Diên Khánh nhãn lực cao minh, đã nhìn ra dụng ý của Mộ Dung Phục. Lão thấy Mộ Dung Phục ra chiêu thong thả để không phát kiếm phong thì trong lòng kinh hãi vô cùng, vội la lên: “Hài nhi! Ngươi phải mau mau hạ sát thằng lỏi này đi! Nếu để gã kịp kéo tấm khăn che mặt ra, e rằng cả ngươi lẫn ta đều chết về tay gã!”
Mộ Dung Phục giật mình nghĩ thầm: “Thật là hồ đồ! Nói thế thì có khác gì nhắc nhở đối phương?” Quả nhiên câu nói này làm Đoàn Dự tỉnh ngộ. Chàng như người đang mơ sực tỉnh, thò tay lên kéo tấm khăn bịt mặt xuống. Trước mắt chàng đột nhiên chói lòa không thấy chi hết, vì cả ngày mắt không mở ra. Chàng chớp mắt một cái, thấy thanh trường kiếm đã tới ngay trước mặt. Đoàn Dự đã không hiểu võ công lại kém tài ứng biến, vì kinh hãi mà bộ pháp rối loạn. Bỗng nghe “sột” một tiếng, chàng đã bị trúng kiếm vào chân trái, ngã lăn xuống đất.
Mộ Dung Phục cả mừng, lại phóng kiếm đâm tới. Đoàn Dự nằm dưới đất phóng Thiếu Dương Kiếm ra phản kích. Tuy chân chàng máu chảy đầm đìa, nhưng kiếm khí Lục Mạch Thần Kiếm vẫn tung hoành, đánh cho Mộ Dung Phục tránh tả né hữu, hoảng hốt vô cùng.
Ngày trước ở trên núi Thiếu Thất, gã còn chưa địch nổi Đoàn Dự, bây giờ nhờ nội lực thâm hậu của Cưu Ma Trí dồn vào, nên Lục Mạch Thần Kiếm lại càng mãnh liệt phi thường. Mới vài chiêu đã nghe “keng” một tiếng, trường kiếm của Mộ Dung Phục tuột khỏi tay bay lên cắm vào xà nhà. Lại nghe “sột” một tiếng nữa, Mộ Dung Phục bị kiếm khí đâm trúng bả vai. Gã biết rằng còn chần chừ nữa là phải chết về tay Đoàn Dự, liền thét lên một tiếng thật to, rồi nhảy qua cửa sổ ra ngoài, chạy như bay như biến.
***
Đoàn Dự từ từ vịn vào ghế đứng lên, cất tiếng gọi: “Má má! Gia gia! Có bị thương không?” Đoàn phu nhân nói: “Mau mau xé vạt áo buộc vết thương lại đã!” Đoàn Dự đáp: “Hài nhi chẳng hề gì!” Chàng lại bên thi thể Vương phu nhân, gỡ lấy bình thuốc trong tay bà đưa cho mẫu thân. Đoàn phu nhân hít mấy hơi giải được thuốc mê, rồi cầm bình thuốc đưa cho Trấn Nam Vương, quay lại băng bó vết thương cho Đoàn Dự.
Đoàn Chính Thuần tung mình nhảy lên, đưa tay rút lấy thanh trường kiếm cắm trên xà nhà. Lưỡi kiếm này đã thấm máu tươi của Nguyễn Tinh Trúc, Tần Hồng Miên, Cam Bảo Bảo và Vương phu nhân là bốn vị nữ nhân đã từng ước hẹn trăm năm với ông. Đoàn Chính Thuần tuy là người phong lưu lãng mạn, chẳng chuyên tâm yêu mến một ai, nhưng ông đã quyến luyến nữ nhân nào thì vẫn cư xử một lòng thành thực, chỉ hận mình chẳng thể móc tim, cắt thịt để trao tặng người yêu.
Ông thấy thi thể bốn nữ nhân nằm ngổn ngang dưới đất, đầu Vương phu nhân gối lên chân Tần Hồng Miên, lưng Cam Bảo Bảo đè ngang bụng Nguyễn Tinh Trúc. Bốn nữ nhân này khi còn sống đã lắm phen vì ông mà tương tư sầu khổ, hoan lạc thì ít mà đau khổ thì nhiều, cuối cùng lại vì ông mà chết bất đắc kỳ tử. Lúc Nguyễn Tinh Trúc bị Mộ Dung Phục đâm chết, Đoàn Chính Thuần đã quyết chết theo để báo đáp hồng nhan tri kỷ, bây giờ lại càng không nghĩ ngợi gì nữa. Con trai ông là Đoàn Dự đã trưởng thành lại tài kiêm văn võ, nước Đại Lý chẳng lo thiếu vị minh quân, ông chẳng còn phải lo lắng gì. Ông quay lại nói với Đoàn phu nhân: “Phu nhân! Ta thật là có lỗi với nàng. Ta xem những nữ nhân này cũng như nàng mà đem lòng thương yêu tất cả, ta yêu họ cũng thành thật như đã yêu nàng.”
Đoàn phu nhân la lên: “Thuần ca!… Chàng… chàng đừng…” Rồi bà nhảy xổ tới chỗ Đoàn Chính Thuần.
Vừa rồi Đoàn Dự nóng lòng cứu mẫu thân, đem hết tâm trí vào việc tranh đấu với Mộ Dung Phục. Từ lúc gã nhảy qua cửa sổ chuồn đi, chàng mới hơi định thần, đột nhiên lại nghĩ: “Mình vừa bị tẩu hỏa nhập ma, không hiểu đã khỏi chưa?” Vừa nghĩ tới đây, toàn thân chàng lại mềm nhũn ra, nhất thời không nhúc nhích được nữa.
Bỗng nhiên Đoàn phu nhân rú lên, thì ra Đoàn Chính Thuần đã cầm kiếm đâm vào ngực để tự tử. Đoàn phu nhân vội rút trường kiếm ra, đưa tay trái bịt lấy vết thương, vừa khóc vừa nói: “Thuần ca! Thuần ca! Dù chàng có hàng ngàn hàng vạn tình nhân, thiếp vẫn yêu chàng như vậy. Có lúc thiếp nghĩ không ra mà căm hận chàng, nhưng… nhưng đó là việc đã qua… thiếp chỉ yêu chàng…” Nhưng Đoàn Chính Thuần đã tự đâm trường kiếm trúng vào trái tim chết ngay lập tức, không nghe thấy lời Đoàn phu nhân nữa.
Đoàn phu nhân xoay trường kiếm lại toan đâm vào ngực mình, bỗng nghe Đoàn Dự la lên: “Má má! Má má!” Một là vì thanh kiếm dài quá, hai là bị phân tâm, bà đâm trệch mũi kiếm xuống dưới bụng.
Đoàn Dự thấy phụ thân, mẫu thân cùng vung kiếm tự tử thì hồn vía lên mây, nhưng hai chân tê dại không bước đi được. Chàng chống tay xuống đất, vừa bò tới vừa gọi: “Má má! Gia gia!” Đoàn phu nhân nói: “Hài nhi! Má má cùng gia gia ra đi đây. Hài nhi tự lo liệu lấy…” Đoàn Dự vừa khóc vừa nói: “Má má! Má má không thể chết, không thể chết được! Còn gia gia? Người… người làm sao rồi?” Đoàn Dự đưa tay ra đỡ lấy đầu mẫu thân, toan rút thanh trường kiếm ra, nhưng lại sợ rút kiếm càng làm cho mẫu thân chóng chết nên ngừng tay lại. Đoàn phu nhân nói: “Ngươi ráng mà học theo bá phụ, sau này làm một vị hảo Hoàng đế…”
Bỗng nhiên Đoàn Diên Khánh lên tiếng: “Mau lấy thuốc giải cho ta, để ta cứu mẫu thân ngươi.” Đoàn Dự cả giận quát lên: “Lão gian tặc! Ngươi bắt gia gia ta, hại ông chết thảm thế này! Ta với ngươi có mối thù chẳng đội trời chung.” Dứt lời, chàng đứng phắt dậy, lượm một cây cương trượng ở dưới đất toan đập xuống đầu Đoàn Diên Khánh. Đoàn phu nhân hoảng hốt thét lên: “Không được!”
Đoàn Dự sửng sốt quay lại hỏi: “Má má! Lão này là kẻ đại thù của chúng ta, hài nhi phải giết lão để báo thù.” Đoàn phu nhân vẫn thét lên: “Không được! Không được! Ngươi không được phạm vào một tội đại ác…” Đoàn Dự chẳng hiểu gì, ngập ngừng hỏi: “Hài nhi… làm gì mà phạm tội đại ác?” Rồi chàng lại nghiến răng gầm lên: “Không giết lão gian tặc này không được!” Chàng lại giơ cây cương trượng lèn. Đoàn phu nhân vội nói: “Ngươi cúi gần xuống đây, để ta nói cho nghe.”
Đoàn Dự cúi xuống, ghé tai lại gần miệng Đoàn phu nhân. Bà thều thào nói: “Hài nhi! Lão Đoàn Diên Khánh đó mới thực là cha ruột của ngươi. Trượng phu ta không biết, tưởng ngươi là con mình, nhưng lão này mới chính là phụ thân con. Ngươi chớ sát hại lão… mà mang đại tội giết cha. Trước nay ta vẫn không ưa lão, nhưng cũng không để ngươi phạm trọng tội được. Nếu ngươi giết cha thì sau khi chết sẽ không được về thế giới tây phương cực lạc. Ta… ta vốn không muốn nói cho ngươi hay, để khỏi tổn thương đến thanh danh của trượng phu ta, chỉ vì hiện giờ lâm vào tình trạng không nói không được…”
Trong thời gian chẳng bao lâu, mà bao nhiêu diễn biến bất ngờ xảy đến! Đoàn Dự nghe mẫu thân nói mấy câu này, tưởng chừng như sét đánh ngang tai. Chàng kinh hãi, mắt trợn ngược lên, miệng há hốc ra, tựa hồ như không tin ở tai mình, ôm lấy người mẫu thân la gọi: “Má má! Không phải thế! Không phải thế đâu!”
Đoàn Diên Khánh lại nói: “Mau lấy thuốc giải cho ta, để ta còn kịp cứu mẫu thân ngươi.” Đoàn Dự thấy thần sắc mẫu thân mỗi lúc một suy nhược, bèn lượm chiếc bình nhỏ ở dưới đất lên, đưa cho Đoàn Diên Khánh giải độc.
Đoàn Diên Khánh vừa khôi phục nội lực đã nhặt cây cương trượng lên tay, điểm cách không véo véo mấy tiếng vào quanh vết thương của Đoàn phu nhân. Bà cố lắc lắc đầu nói: “Ngươi không được đụng vào người ta nữa!” Rồi bà lại bảo Đoàn Dự: “Hài tử! Ta còn muốn nói với ngươi vài lời nữa!” Đoàn Dự lại cúi xuống.
Đoàn phu nhân thều thào nói: “Lão này và gia gia ngươi tuy cùng họ mà lại ngang hàng, nhưng cũng chẳng phải là huynh đệ ruột thịt gì với nhau. Vậy thì những đứa con gái của gia gia ngươi, nào là Mộc cô nương, Chung cô nương, hay Vương cô nương gì gì đó, ngươi thích cô nào thì cứ việc lấy cô ấy. Bọn người Đại Tống nói là cùng họ thì không lấy nhau được, nhưng người Đại Lý chúng ta thì không câu nệ chuyện đó, miễn sao không phải anh em ruột thịt là được rồi. Mấy cô nương đó, ngươi cưới hết về cũng được. Ngươi… ngươi có thích không?”
Nước mắt Đoàn Dự lã chã tuôn rơi, chàng chẳng còn lòng dạ nào mà nghĩ đến thích hay không thích nữa.
Đoàn phu nhân thở dài nói tiếp: “Hài tử! Ta tiếc rằng không được tận mắt thấy con mặc áo long bào, ngồi lên bảo tọa… làm một vị Hoàng đế trẻ… Nhưng ta biết rằng con sẽ là một Hoàng đế tốt…” Đột nhiên bà giơ tay lên nắm lấy chuôi kiếm đâm mạnh vào, mũi kiếm xuyên suốt qua tới sau lưng.
Đoàn Dự thét lên: “Má má!” Chàng ôm chặt lấy mình Đoàn phu nhân, nhưng bà đã từ từ nhắm mắt lại, trên môi còn thấp thoáng một nụ cười.
Đoàn Dự lại la gọi: “Má má…” Đột nhiên chàng thấy sau lưng mình tê tái, rồi mấy chỗ huyệt đạo trên đùi, bả vai lại bị điểm trúng. Một thanh âm rất nhỏ lọt vào tai chàng: “Đoàn Diên Khánh ta đây mới đúng là phụ thân ngươi. Vì muốn giữ thể thống cho Trấn Nam Vương, nên ta phải dùng phép Truyền Âm Nhập Mật để nói cho ngươi hay. Mẫu thân ngươi vừa nói gì, ngươi đã nghe rõ rồi chứ?” Lúc Đoàn phu nhân nói chuyện với Đoàn Dự, tuy thanh âm thều thào rất nhỏ, nhưng Đoàn Diên Khánh từ lúc được giải thuốc mê đều nghe rõ hết. Lão biết Đoàn phu nhân đã tiết lộ bí mật về thân thế của Đoàn Dự.
Đoàn Dự kêu lên: “Ta không nghe thấy, ta không nghe thấy! Ta chỉ biết có gia gia và má má ta.” Chàng nói chỉ biết có gia gia và má má mình, thực ra là thừa nhận đã nghe thấy những lời mẫu thân nói.
Đoàn Diên Khánh tức giận nói: “Chẳng lẽ ngươi không chịu nhìn nhận ta?” Đoàn Dự đáp: “Không nhận! Không nhận! Ta không tin!” Đoàn Diên Khánh hạ giọng nói: “Tính mạng ngươi đang ở trong tay ta, nếu ta muốn giết ngươi thì chỉ giơ tay lên một cái là xong. Huống chi ngươi đích thực là con ta, kẻ làm con mà không nhìn nhận phụ thân thì không phải là đại bất hiếu hay sao?”
Đoàn Dự không còn nói gì được nữa, chàng biết những lời mẫu thân mình nói đều là sự thực. Nhưng chàng đã kêu Đoàn Chính Thuần là phụ thân suốt hơn hai chục năm trời, mà ông đối với chàng vẫn một lòng từ ái, khi nào đột nhiên chàng đi nhìn nhận người chưa liên quan chút nào làm cha được? Hơn nữa, có thể nói là phụ thân và mẫu thân chàng đã bị hại về tay Đoàn Diên Khánh, nếu nhìn nhận Đoàn Diên Khánh tức là nhận kẻ thù làm cha, lại càng vạn vạn lần không được. Chàng nghiến răng nói: “Ngươi muốn giết thì giết, ta vĩnh viễn không nhìn nhận ngươi.”
Đoàn Diên Khánh vừa tức giận, vừa thất vọng, thầm nghĩ: “Mình tuy có con, mà con không chịu thừa nhận, thì cũng chẳng khác gì không có con.” Tính hung dữ lại nổi lên, lão cầm cây cương trượng toan đâm xuống lưng Đoàn Dự. Nhưng đầu trượng mới chạm vào áo chàng, bất giác lòng lão lại mềm nhũn ra, buông một tiếng thở dài rồi nghĩ: “Đời mình cay đắng đã nhiều, trên đời chẳng có một ai là thân nhân. Đâu phải dễ dàng mà có một đứa con, nỡ lòng nào lại đang tay hạ sát? Nó nhìn nhận thì tốt mà không nhìn nhận cũng không sao, dù gì nó cũng là cốt nhục của mình.” Rồi lão lại nghĩ: “Đoàn Chính Thuần chết rồi, ngôi hoàng đế nước Đại Lý đương nhiên là do con ta thừa kế. Thế là ngôi vua lại quay về trực hệ của phụ thân ta. Tuy ta chẳng được làm hoàng đế, nhưng cái mộng ta ôm ấp suốt đời cũng được kể là thành tựu.”
Đoàn Dự lại la lên: “Lão muốn giết ta, thì sao không hạ thủ mau đi?” Đoàn Diên Khánh vỗ vào mấy huyệt đạo để giải khai cho chàng, rồi vẫn dùng thuật Truyền Âm Nhập Mật mà nói: “Ta không thể giết con của chính mình được. Ngươi đã chẳng chịu nhìn nhận ta thì cứ dùng Lục Mạch Thần Kiếm mà giết ta đi, để báo thù cho vợ chồng Đoàn Chính Thuần.” Lão nói xong ưỡn ngực ra để chờ Đoàn Dự hạ thủ. Trong lòng Đoàn Diên Khánh đã chất chứa vô số nỗi bi phẫn, từ lúc lão bị trọng thương đến thành tàn phế. Vì thế mà suốt đời lão đã làm rất nhiều chuyện tàn ác để phát tiết nỗi bi phẫn trong lòng. Lúc này những nỗi bi phẫn lại nổi lên, lão nghĩ lại suốt đời mình chẳng làm được chuyện gì, thà chết dưới tay con trai, thì trăm sự cũng đều kết thúc.
Đoàn Dự đưa tay trái lên lau nước mắt, trong lòng rất đỗi băn khoăn. Chàng cũng muốn dùng Lục Mạch Thần Kiếm để giết Tên Đại ác, báo thù cho song thân. Nhưng lời mẫu thân chàng còn vang vọng bên tai, lão chính là cha ruột, thì chàng làm sao dám hạ thủ?
Đoàn Diên Khánh chờ một lúc, thấy Đoàn Dự đưa tay lên rồi lại hạ xuống, hạ xuống rồi lại đưa lên, mãi không quyết định được chủ ý. Lão liền khàn khàn nói: “Nam tử hán đại trượng phu, muốn xuất thủ thì xuất thủ ngay, sao lại rụt rè?”
Đoàn Dự nghiến răng, rụt tay về nói? “Má má ta không nói dối ta. Ta không giết ngươi.” Đoàn Diên Khánh cả mừng, nổi lên một tràng cười ha hả. Lão biết Đoàn Dự đã nhìn nhận mình là phụ thân, trong lòng hết sức phấn khởi. Lão chống đôi trượng xuống đất, rồi vọt mình đi luôn, chẳng thèm nhìn đến gã Vân Trung Hạc đang nằm ngất xỉu nữa.
***
Đoàn Dự trong lòng đau đớn, lại xem kỹ phụ thân và mẫu thân thì hai người đều đã tắt thở rồi, không còn cách nào vãn hồi được nữa. Chàng không nén nổi, phục xuống đất khóc òa lên.
Chàng khóc một lúc lâu, bỗng nghe phía sau có thanh âm thiếu nữ lên tiếng: “Xin Đoàn công tử bớt nỗi bi ai! Bọn nô tỳ không đến ứng cứu kịp, thật là tội đáng muôn thác.” Đoàn Dự ngoảnh đầu nhìn lại, thấy ngoài cửa sổ có bảy tám thiếu nữ đang đứng, hai cô đi đầu tướng mạo giống hệt nhau. Chàng nhận ra đó là bọn tì nữ của Hư Trúc tại cung Linh Thứu. Đoàn Dự nước mắt đầm đìa, vừa khóc vừa nghẹn ngào nói: “Gia gia cùng má má ta bị người hại chết rồi!”
Hai cô này chính là Trúc Kiếm và Cúc Kiếm ở cung Linh Thứu. Trúc Kiếm nói: “Đoàn công tử! Chủ nhân tiểu tỳ được biết tôn đại nhân dọc đường gặp nguy, lập tức sai bọn tiểu nữ dẫn mọi người đuổi theo tiếp viện, không ngờ tới đây đã chậm mất rồi.” Cúc Kiếm cũng nói: “Vương Ngữ Yên cô nương cùng mọi người bị nhốt trong địa lao, đã được cứu ra bình yên vô sự. Xin công tử an tâm.”
Đằng xa có tiếng còi vọng lại, Trúc Kiếm nói: “Mai tỉ và Lan tỉ cũng đã tới rồi.” Lại nghe tiếng vó ngựa vang lên, hơn mười kỵ sĩ đã đến trước cửa, hai người đi đầu là Lan Kiếm và Mai Kiếm. Hai cô bước lẹ vào nhà, thấy thi thể ngổn ngang dưới đất thì tức mình giậm chân, miệng không ngớt kêu: “Trời ơi! Trời ơi!”
Mai Kiếm thi lễ với Đoàn Dự rồi nói: “Chủ nhân tiểu tỳ gửi lời vấn an Đoàn công tử. Người rất hối hận về việc lỗi ước với công tử, nhưng đó là vì tình trạng bất đắc dĩ, xin công tử lượng thứ cho.”
Đoàn Dự không hiểu nàng nói về chuyện gì, nghẹn ngào đáp: “Huynh đệ ta đã kết nghĩa chi lan, đâu còn chuyện riêng tư? Gia gia cùng má má ta đã chết rồi, ta làm sao nghĩ đến chuyện gì khác được?”
Lúc này năm người Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Phó Tư Qui, Thôi Bách Tuyền, Quá Ngạn Chi đã ngửi thuốc giải độc và được giải khai huyệt đạo rồi. Hoa Hách Cấn thấy Vân Trung Hạc vẫn nằm dưới đất thì nổi giận đùng đùng, xách đao chém một nhát, tên Cùng Hung Cực Ác Vân Trung Hạc đầu mình mỗi thứ một nơi. Bọn Phạm Hoa năm người đều quỳ cạnh thi thể của phu phụ Đoàn Chính Thuần, khóc lóc rất bi thảm.
Sáng sớm hôm sau, bọn Phạm Hoa chia nhau đi tìm mua quan tài. Đến trưa thì quần nữ bộ Chu Thiên cung Linh Thứu đưa Vương Ngữ Yên, Ba Thiên Thạch, Chu Đan Thần, Mộc Uyển Thanh, Chung Linh tới nơi. Bọn này đã bị Túy Nhân Phong đốt, đến giờ vẫn mê man chưa tỉnh lại.
Sau đó Đoàn Dự cùng bọn Phạm Hoa lo việc khâm liệm, nhập quan các thi thể. Nơi đây đã thuộc về quốc thổ Đại Lý, Phạm Hoa liền truyền tin đến các châu huyện lân cận. Các quan địa phương được tin phu phụ Trấn Nam Vương bị bạo bệnh mà chết ở địa hạt mình thì sợ hãi điếng người, e rằng không thoát tội lười biếng công việc, phục thị bề trên không được chu đáo. May mà Phạm Tư mã không trách cứ, chỉ hạ lệnh tìm dân phu để đưa linh cữu phu phụ Trấn Nam Vương về kinh thành Đại Lý. Dọc đường, Vương Ngữ Yên cùng bọn Ba Thiên Thạch mới lần lượt tỉnh dậy.
Tin tức Trấn Nam Vương tạ thế dọc đường, được Thế tử đưa linh cữu về, truyền khắp kinh thành Đại Lý rất nhanh. Trấn Nam Vương đã nhiều công trạng với quốc gia lại rất được lòng dân chúng, bá quan cùng trăm họ ra xa ngoài mười dặm nghênh tiếp, tiếng khóc bi ai vang động một góc trời. Đoàn Dự, Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch vào thẳng nội cung để bẩm báo với hoàng thượng về nguyên nhân cái chết của Trấn Nam Vương. Còn Vương Ngữ Yên cùng bọn Mai Kiếm thì được Chu Đan Thần tiếp đãi ở nhà quán dịch.
Đoàn Dự vừa vào nội cung đã thấy Đoàn Chính Minh vì khóc nhiều mà hai mắt sưng húp. Chàng vừa lạy phục xuống, Đoàn Chính Minh đã gọi: “Hài tử! Sao… sao lại thế?” Rồi ông ôm chầm lấy chàng. Bác cháu cùng lặng đi một lúc.
Đoàn Dự không dám giấu giếm, kể hết việc xảy ra dọc đường bẩm lại một lượt, cả những lời Đoàn phu nhân nói riêng, chàng cũng không bỏ sót. Chàng kể xong, lại phục lạy xuống đất rồi nói: “Gia gia không phải là cha ruột của hài nhi, hài nhi chỉ là một đứa con oan nghiệt, không dám… không dám ở lại trong cung nữa.”
Đoàn Chính Minh cũng kinh tâm động phách, cứ lẩm bẩm: “Oan nghiệt! Oan nghiệt!” Rồi ông đưa tay ra nâng Đoàn Dự dậy, nói: “Hài tử! Trên đời chỉ có ngươi và Đoàn Diên Khánh biết bí mật đó mà thôi. Lẽ ra ngươi có thể không bẩm với ta, thế mà ngươi cứ nói thẳng không giấu giếm gì, đủ chứng tỏ ngươi rất trung thành. Ta không có có con cái, gia gia ngươi không có con trai, đừng nói ngươi cũng ở họ Đoàn, dù ngươi có khác họ thì ta cũng quyết ý lập ngươi thừa kế. Hơn nữa, ngôi Hoàng đế này vốn là của Diên Khánh Thái tử, mấy chục năm trời ta ở trộm ngôi, trong lòng thường lấy làm hổ thẹn. Nay ông trời đã an bài như vậy thì thật là tốt đẹp.” Đoàn Chính Minh nói xong, bỏ mũ xuống, để lộ cái đầu trọc lóc ra, trên đỉnh đầu đã điểm mười hai vết tàn hương.
Đoàn Dự giật mình kinh hãi la lên: “Bá phụ! Người…” Đoàn Chính Minh nói: “Ngày trước lên chùa Thiên Long chống lại Cưu Ma Trí, sư phụ đã thí phát và truyền giới cho ta, chuyện đó ngươi cũng đã thấy.” Đoàn Dự “Vâng!” một tiếng. Đoàn Chính Minh lại nói tiếp: “Ta đã vào cửa Phật, đáng lẽ phải truyền ngôi cho phụ thân ngươi ngay, nhưng vì khi đó y phải vào Trung Nguyên nên ta tạm thời giữ đế vị. Phụ thân ngươi bất hạnh đã tạ thế dọc đường, hôm nay ta truyền ngôi vị cho ngươi.”
Đoàn Dự kinh hãi vô cùng, đáp: “Hài nhi nhỏ tuổi kiến thức nông cạn, làm sao ở ngôi cao được? Hơn nữa, thân thế hài nhi lại không rõ ràng. Hài nhi… hài nhi xin được tìm nơi rừng núi mà ẩn tích…” Đoàn Chính Minh tức giận nói: “Chuyện thân thế ngươi thì từ nay không được nhắc đến nữa. Song thân ngươi đối với ngươi thế nào?”
Đoàn Dự nghẹn ngào đáp: “Ân sâu tựa biển, đức nặng tày non.” Đoàn Chính Minh nói: “Thế thì được rồi. Ngươi muốn báo đáp ân đức song thân thì phải bảo toàn thanh danh cho hai vị. Lên làm Hoàng đế, ngươi chỉ cần ghi nhớ hai điều: một là thương dân, hai là biết nghe can gián. Bản tính ngươi nhân hậu, đối với trăm họ tất nhiên không bạo ngược. Nhưng khi ngươi lớn tuổi hơn, ngàn vạn lần không nên ỷ mình thông minh, đối với quốc sự không nên hành động quá đáng, đối với lân quốc không nên vọng động binh đao”.