Hồi 24: Yêu nhau lắm, cắn nhau đau

Giả tỷ Tiêu Phong không tận mắt chứng kiến tình cảnh trong nhà, thì dù bất cứ ai kể lại chàng cũng cho là chuyện hoang đường bịa đặt. Tiêu Phong đã gặp Mã phu nhân lần đầu nơi rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, sau đó còn gặp hai lần nữa, lúc nào cũng thấy mặt bà lạnh như băng khó mà mạo phạm, ngay cả nụ cười của bà, chàng cũng chưa thấy bao giờ. Kỳ lạ hơn nữa, chắc chắn bà ta phải có thâm thù đại hận với Đoàn Chính Thuần mới dùng lời hãm hại, thế mà trong nhà xuân ý triền miên, rượu chuốc hương nồng, bốn mắt đưa tình đầy vẻ yêu thương, có gì là thù là oán đâu?

Trên bàn có một bình hoa mai lớn, dưới giường lò than đang đỏ. Áo của Mã phu nhân không cài khuy cổ để lộ làn da trắng ngần, hở cả một nửa chiếc yếm đào. Cạnh giường đốt một đôi bạch lạp, ánh nến bập bùng chiếu lên khuôn mặt ửng hồng. Bên ngoài gió lộng tuyết rơi, nhưng trong nhà thực là tình xuân nồng đượm.

Đoàn Chính Thuần gọi: “Lại đây, lại đây! Uống với ta một chén nữa cho thành đôi thành lứa.” Mã phu nhân nũng nịu “hứ” một tiếng rồi nói: “Thành đôi thành lứa cái gì? Người ta cô đơn lạnh lẽo ở đây, đêm mong ngày nhớ, lúc nào cũng mơ tưởng đến kẻ oan gia, còn chàng… chàng… biến đâu mất dạng, có thăm hỏi người ta được câu nào đâu?” Nói đến đây, mắt nàng rưng rưng tưởng chừng sa lệ.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Bà ta thật chẳng khác gì Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc, chắc là dan díu với Đoàn Chính Thuần từ lâu rồi.”

Đoàn Chính Thuần dịu giọng đáp: “Ta ở Đại Lý, có ngày nào không nhớ nhung Tiểu Khang yêu quí của ta đâu? Ta chỉ hận không có cánh mà bay tới ôm nàng vào lòng, yêu nàng một lúc. Hôm nghe tin nàng thành hôn cùng Mã phó bang chủ, ta bỏ ăn bỏ ngủ mất ba ngày. Khi nàng đã có chỗ có nơi, nếu còn tới lui thăm viếng chẳng hóa ra liên lụy đến nàng hay sao? Mã phó bang chủ là một vị anh hùng thân phận tôn cao trong Cái Bang, nếu ta vẫn chàng màng với nàng thì té ra coi y chẳng ra gì, mình hóa thành kẻ tiểu nhân đê tiện.”

Mã phu nhân nói: “Ai thèm chàng đến để vui vậy? Thiếp chỉ lo lắng chẳng hiểu chàng có bình yên không, trong lòng có sảng khoái không, chuyện lớn chuyện nhỏ có xuôi chèo mát mái không? Chỉ mong chàng vô sự là thiếp yên lòng, cuộc đời còn được đôi chút ý vị. Chàng ở tận Đại Lý xa xăm, thiếp muốn nghe ngóng tin chàng đâu có dễ dàng? Thân thiếp thì tại Tín Dương, nhưng trái tim thiếp có giờ nào khắc nào không bên chàng đâu?”

Nàng ta càng nói càng thấp giọng, thanh âm vẫn ra vẻ tự nhiên không cố ý mê hoặc ai, thế mà vừa nũng nịu vừa hờn mát, vừa nhẹ nhàng lại vừa trách móc, ai nghe lọt vào tai cũng phải bần thần như kẻ mất hồn. Tiêu Phong đã từng gặp biết bao phụ nữ, nhưng không ngờ trên đời này lại có người nói chuyện quyến rũ đến thế, tuy đang kinh ngạc mà mặt cũng phải đỏ lên. Chàng đã gặp mấy cô tình nhân của Đoàn Chính Thuần, mỗi người một vẻ phong lưu, Tần Hồng Miên thẳng thắn bộc trực, Nguyễn Tinh Trúc xinh đẹp yêu kiều, còn Mã phu nhân thì lại rất ư là mềm mỏng nhu mì.

Đoàn Chính Thuần là người trong cuộc hẳn càng mê mẩn, mặt tươi như hoa, đưa tay kéo nàng vào lòng. Mã phu nhân “hứ” một tiếng, giả vờ chống cự đẩy ra.

Tiêu Phong chau mày, không muốn nhìn hai người sàm sỡ nữa, chợt nghe bên cạnh có tiếng chân người đạp lên tuyết kêu lép bép. Chàng than thầm: “Hỏng bét! Hai mụ này mà xông vào đánh ghen thì hỏng hết đại sự của ta”, Tiêu Phong lạng đi như một cơn gió ra sau bọn Tần Hồng Miên, giơ tay điểm huyệt cả bốn người.

Chưa kịp nhận ra thủ đoạn của ai thì bốn người đã không nhúc nhích được nữa. Lần này Tiêu Phong điểm luôn á huyệt cho họ không lên tiếng được. Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc nằm lăn trên tuyết lạnh, nghe tình lang thù thì thủ thỉ cùng con hồ ly tinh trong phòng ấm áp, cơn ghen nổi dậy bừng bừng, nhưng chẳng làm gì được.

Tiêu Phong lại ghé mắt vào khe cửa, thấy Mã phu nhân ngồi bên cạnh Đoàn Chính Thuần, đầu tựa vào vai y, người mềm nhũn như không có xương sống, mở tóc dài đen nhánh xõa ra che nửa mặt tình lang. Bà lim dim mắt nói: “Phu quân thiếp bị người ta giết hại, chắc chàng cũng biết, thế mà không tới hỏi thăm một chút. Trượng phu thiếp không còn, chàng có phải tị hiềm gì nữa đâu?” Thanh âm vừa trách cứ vừa nhõng nhẽo.

Đoàn Chính Thuần cười nói: “Thì ta đã đến đây rồi! Ta được tin là lập tức đi suốt ngày đêm, từ Đại Lý tới đây ngựa không ngừng vó, chỉ sợ chậm mất một bước.” Mã phu nhân hỏi lại: “Đến chậm thì đã làm sao mà phải vội thế?” Đoàn Chính Thuần mỉm cười: “Ta chỉ sợ nàng không chịu nổi cô đơn tịch mịch mà vội lấy người khác, thì Đại Lý Đoàn Nhị này rong ruổi uổng công, mười năm tương tự trôi theo dòng nước.” Mã phu nhân hứ một tiếng nói: “Ái chà! Chàng lại vu cho người ta không chịu nổi cô đơn tịch mịch ư? Chàng có nhớ gì tới thiếp đâu, dám leo lẻo những gì mười năm tương tư không biết ngượng miệng hay sao?”

Đoàn Chính Thuần hai tay ôm nàng ta càng chặt thêm, cười nói: “Giả tỷ ta không nhớ nàng thì lặn lội từ Đại Lý tới đây làm gì?” Mã phu nhân mỉm cười: “Thôi được, cứ cho là chàng có nhớ thiếp đi. Đoàn lang ơi, từ nay chàng định sắp đặt cho thiếp thế nào?” Nói đến đây bà ta vòng hai tay quanh cổ Đoàn Chính Thuần, kề má mình vào mặt ông ta cọ nhè nhẹ, làn sóng tóc dài bập bềnh như sóng nước.

Đoàn Chính Thuần nói: “Hôm nay có rượu hôm nay uống, chuyện tương lai nói tới làm chi cho sớm? Nàng để ta bế thử xem mười năm xa cách có nhẹ đi tí nào không, hay lại nặng hơn?” Nói xong lại càng ôm chặt Mã phu nhân.

Bà ta hỏi: “Thế chàng không đưa thiếp về Đại Lý ư?” Đoàn Chính Thuần hơi nhíu mày, nói: “Ở Đại Lý có gì là hay đâu? Phong cảnh đã không đẹp lại nhiều lam sơn chướng khí, nàng đến đó không hợp thủy thổ, lại sinh bệnh mất thôi.” Mã phu nhân thở dài, nói nhỏ: “Ôi! Thế ra chàng đến đây dỗ dành thiếp chỉ để mua vui chốc lát thôi.” Đoàn Chính Thuần cười bảo: “Sao lại bảo là mua vui chốc lát? Ta lập tức hoan hỉ cùng nàng thực sự.”

Mã phu nhân khẽ cựa ra, đứng xuống đất, rót một chén rượu rồi nói: “Đoàn lang! Hãy uống thêm chén nữa.” Đoàn Chính Thuần nói: “Ta không uống nữa đâu, uống thế là đủ rồi.” Mã phu nhân đưa tay trái ra ve vuốt má tình lang, thỏ thẻ: “Ứ, thiếp chả chịu đâu, thiếp muốn chàng uống đến say mèm kia.” Đoàn Chính Thuần cười hỏi lại: “Say mèm ư? Say mèm thì còn làm gì được nữa?” Nhưng ông vẫn đưa tay đón lấy chén rượu uống một hơi cạn sạch. Tiêu Phong nghe hai người nói toàn chuyện phong nguyệt đã chán cả tai, thấy Đoàn Chính Thuần uống rượu chàng thèm quá, nuốt nước bọt ừng ực.

Bỗng Đoàn Chính Thuần mở miệng ngáp dài, ra chiều mỏi mệt. Mã phu nhân khẽ cười, nói: “Đoàn lang! Chàng có thích nghe thiếp kể chuyện không?” Tiêu Phong phấn chấn tinh thần, nghĩ thầm: “Mụ ta kể chuyện cũ, ắt hẳn có đầu mối gì đây”. Đoàn Chính Thuần nói: “Khoan đã! Nàng lại đây để ta cởi bớt y phục cho, nằm chung gối kề vào tai, kể ta nghe cho rõ.”

Mã phu nhân lườm một cái rồi nói: “Đoàn lang ơi! Chàng có biết không, lúc nhỏ nhà thiếp nghèo lắm, chỉ mong có quần áo mới mà gia gia cùng má má cũng không mua nổi. Thiếp chỉ ước mơ được như tỉ tỉ nhà họ Giang bên cạnh, năm nào cũng có áo hoa, giày mới.” Đoàn Chính Thuần nói: “Hồi nàng còn nhỏ chắc đã xinh lắm rồi. Một cô bé dễ thương như nàng, dẫu mặc quần áo rách đến đâu vẫn mỹ lệ như thường.” Mã phu nhân đáp: “Không đâu, thiếp cứ thích mặc áo hoa cơ.” Đoàn Chính Thuần đáp: “Nàng mặc tang phục trắng toát thế này lại càng thêm kiều mỵ, áo hoa có gì là đẹp đâu?”

Mã phu nhân nhếch mép cười, dịu dàng đáp: “Hồi thiếp còn nhỏ, cứ mơ đến quần áo mới suốt ngày suốt đêm mà thành bệnh.” Đoàn Chính Thuần hỏi: “Mãi đến năm mười bảy tuổi phải không?” Mắt Mã phu nhân sáng lên, khúc khích cười: “Đoàn lang ơi, từ đó thì thiếp lại chuyển sang bệnh tương tư chàng. Ác bệnh đó trị không dứt nọc, đến nay vẫn chưa hết. Chẳng biết kiếp này Đoàn đại phu có chữa bớt cho thiếp được chút nào không?”

Đoàn Chính Thuần ngây ngất tâm hồn, vươn tay định níu lấy nàng, nhưng hình như đã quá say nên chân tay bải hoải, cánh tay đưa lên nửa chừng lại phải hạ xuống, cười nói: “Nàng ép ta uống nhiều quá, bây giờ muốn… muốn… Tiểu Khang ơi! Rồi đến mấy năm sau nàng mới được mặc áo hoa đi giày mới?”

Mã phu nhân đáp: “Chàng được trời cho giàu sang ngay từ tấm bé, đâu có biết cái khổ của con nhà nghèo. Hồi đó, giá mà thiếp được đôi giày mới thì sung sướng biết bao. Năm lên bảy, gia gia thiếp bảo rằng đến tháng chạp sẽ đem ba con cừu, mười bốn con gà ra chợ bán để sắm tết, lúc đó sẽ mua một vuông vải hoa về cho thiếp may áo mới. Thế là suốt từ tháng tám, ngày ngày thiếp ngóng cho thời gian qua mau, chăm chỉ nuôi gà, chăn cừu…”

Hai chữ “chăn cừu” vừa lọt vào tai Tiêu Phong, chàng chạnh lòng không nhịn nổi, mắt đỏ hoe.

Mã phu nhân vẫn kể tiếp: “Mãi mới đến đầu tháng chạp, ngày nào thiếp cũng giục gia gia đi bán cừu, bán gà, gia gia chỉ bảo: Con đừng nóng ruột, đợi đến hết năm hết tháng mới bán được giá cao. Được mấy hôm, trời bỗng đổ tuyết lớn suốt mấy ngày mấy đêm. Đến một buổi chiều, đột nhiên có tiếng lạch cạch, thì ra tuyết đổ sập mất mái chuồng cừu. Cũng may mấy con vật không việc gì, gia gia mởi dắt cừu vào buộc cạnh hiên nhà, nói là sáng mai sẽ đem ra chợ bán. Ngờ đâu, đến tối bỗng nghe tiếng sói tru, cừu be be loạn cả lên. Gia gia thiếp biết là chó sói đến bắt cừu, vội xách giáo xông ra. Thế nhưng ba con cừu đã bị tha đi mất, bầy gà cũng bị ăn thịt mất hơn một nửa. Gia gia kêu ầm lên, vội đuổi theo định đoạt lại.”

“Gia gia thiếp đuổi vào tận trong núi, thiếp cứ lo ngay ngáy, không hiểu có lấy lại mấy con cừu được không. Đợi mãi mới thấy gia gia khập khiễng về, kể rằng tuyết trơn quá nên ông té xuống triền núi, bị thương ở đùi, cây giáo cũng rơi mất, đương nhiên là mấy con cừu không đoạt lại được.”

“Thiếp thất vọng hết sức, ngồi phịch xuống tuyết khóc ầm lên. Mấy tháng rồi thiếp phải đi chăn cừu, chỉ mong được bộ quần áo mới, nào ngờ rốt cuộc chẳng có gì. Thiếp vừa khóc vừa đòi luôn miệng: Gia gia mau đi bắt cừu lại, con muốn có áo mới, con không có áo mới không được.”

Tiêu Phong nghe đến đây, sa sầm nét mặt nghĩ thầm: “Mụ này tính tình bạc bẽo, gia gia ngã xuống núi bị thương, mụ chẳng lý gì đến, chỉ nhớ đến áo mới của mình, huống chi trời tối đuổi theo đàn sói đói, thật là nguy hiểm. Lúc đó mụ còn nhỏ chưa hiểu sự đời, nhưng cũng không thể như thế được.”

Lại nghe Mã phu nhân kể tiếp: “Gia gia liền dỗ: Thôi con à. Ngày mai mình nuôi mấy con cừu khác, sang năm lại bán đi mua áo hoa cho con. Thiếp khóc lại càng to, nhưng có làm gì được đâu? Nửa tháng sau là Tết, Giang tỉ tỉ bên hàng xóm mặc một cái áo đỏ hoa vàng, một chiếc quần xanh hoa vàng. Thiếp nhìn mà ghen tức đến bỏ ăn bỏ uống. Gia gia dỗ dành cách nào, thiếp cũng nhất định không thèm nghe.”

Đoàn Chính Thuần cười nói: “Giả tỷ khi đó ta biết được, nhất định sẽ gửi biếu nàng một chục, hai chục cái áo mới.” Ông ta vươn vai một cái, ánh nến lung linh chiếu lên khuôn mặt ngà ngà say.

Mã phu nhân nói: “Nếu có đến một chục, hai chục cái thì lại chẳng có chi là quý nữa. Tối giao thừa, thiếp trằn trọc trên giường, không sao ngủ được, trở dậy, len lén mò qua nhà Giang bá bá. Người lớn hãy còn thức để đón giao thừa, đèn nến sáng trưng. Thiếp thấy Giang tỉ tỉ nằm ngủ trên giường, bộ quần áo mới xếp gọn để trên bụng, ánh nến chiếu vào lại càng đẹp đẽ. Thiếp đứng ngẩn ra nhìn một hồi rồi lẻn vào trong phòng, cầm bộ quần áo mới lên…”

Đoàn Chính Thuần cười nói: “Ăn trộm áo mới ư? Trời ơi! Ta tưởng Tiểu Khang chỉ biết ăn trộm nam nhân, té ra biết cả ăn trộm y phục.”

Mã phu nhân đưa đẩy sóng tình, mỉm cười nói: “Thiếp có ăn trộm y phục đâu? Thiếp lại bàn lấy chiếc kéo trong giỏ may, cắt vụn chiếc áo mới ra, lại rọc chiếc quần thành từng sợi, không còn cách gì vá lại được. Thiếp cắt nát bộ quần áo rồi, trong lòng thỏa mãn vô cùng, sướng hơn cả chính mình có quần áo mới.”

Đoàn Chính Thuần từ nãy vẫn tươi cười, nghe tới đây biến đổi nét mặt xem chừng kém vui, nói: “Tiểu Khang ơi! Nàng đừng kể chuyện nữa, chúng ta đi ngủ thôi.”

Mã phu nhân đáp: “Không đâu! Chẳng mấy khi thiếp được cùng chàng sum họp mấy ngày, lại e rằng từ nay trở đi không còn gặp nhau nữa. Thiếp chỉ muốn nói chuyện với chàng thật nhiều cho hả dạ. Đoàn lang, chàng có biết tại sao thiếp kể câu chuyện này không? Là để cho chàng hiểu tính khí thiếp, từ bé đã vậy rồi. Hễ thiếp đã thích cái gì là ao ước có cho bằng được, nếu người khác may mắn hơn mà chiếm lấy, thì bằng giá nào thiếp cũng phải phá hủy đi. Còn bé dại thì phương pháp ngây thơ vụng về, lớn lên rồi thì thiếp khôn ngoan hơn, cách thức cũng tinh tế hơn.”

Đoàn Chính Thuần lắc đầu nói: “Nàng đừng nói nữa. Ta nghe những chuyện ghê gớm ấy vào tai, xẹp cả hứng đi thì đừng trách ta nhé.”

Mã phu nhân tủm tỉm cười, từ từ đứng dậy, tháo chiếc dải trắng buộc tóc ra. Suối tóc dài xõa xuống tận hông, vừa mềm mại vừa đen nhánh. Bà cầm chiếc lược gỗ dương màu vàng, chậm rãi chải tóc, đột nhiên quay lại nhìn Đoàn Chính Thuần nở một nụ cười, vẻ mặt thật là quyến rũ. Bà nói: “Đoàn lang ơi! Chàng lại đây ôm lấy thiếp đi.” Thanh âm cực kỳ lơi lả.

Tiêu Phong tuy khinh miệt người phụ nữ này, nhưng nhìn thấy khóe thu ba long lanh trong ánh nến, nghe gọi “chàng lại đây ôm lấy thiếp đi”, cũng bất giác rung động trong lòng.

Đoàn Chính Thuần cười hì hì, chống tay xuống giường toan đứng dậy ôm lấy bà ta, nhưng không sao nhỏm dậy nổi, bèn nói: “Ối chà, mới uống có sáu bảy chén rượu mà đã say đến thế này. Tiểu Khang ơi, hình như nhan sắc của nàng làm ta say mê say mệt, chẳng khác gì uống đủ ba cân rượu mạnh. Ha ha…”

Tiêu Phong nghe vậy giật mình, nghĩ thầm: “Chỉ sáu bảy chén thì làm sao say được? Nội lực Đoàn Chính Thuần đâu phải tầm thường, tửu lượng kém như vậy thì vô lý. Phải chăng có điều gì bí ẩn bên trong?”.

Mã phu nhân lại cười khúc khích, nũng nịu nói: “Đoàn lang! Chàng lại đây! Thiếp hết cả hơi sức rồi. Chàng… chàng… lại đây ôm thiếp đi.”

Tân Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc nằm lăn lóc bên ngoài nghe Mã phu nhân õng ẹo đưa tình, lửa ghen bốc lên tưởng chừng muốn vỡ cả ngực, chỉ hận không đưa tay lên bịt tai được.

Đoàn Chính Thuần chống tay trái vào thành giường, cố gắng đứng dậy, nhưng đầu gối mềm nhũn ra, lại ngồi phịch xuống rồi cười nói: “Ta cũng chẳng có chút hơi sức nào, thật là lạ quá. Ta nhìn thấy nàng chẳng khác gì chuột gặp phải mèo, toàn thân bủn rủn lập tức.”

Mã phu nhân khẽ cười: “Đoàn lang ơi, thiếp không tin đâu, mới uống có một tí rượu mà đã giả vờ say để nhũng nhiễu người ta thì sao mà nghe được. Chàng thử vận khí thúc đẩy nội lực xem có tỉnh không?”

Đoàn Chính Thuần vận công đề khí, nhưng sao đan điền trống rỗng, làm cách nào cũng không được. Ông vận khí liên tiếp ba lần, mấy chục năm công lực chẳng hiểu mất tự bao giờ, không sót lại mảy may. Bấy giờ ông mới hoang mang, biết là có biến, cũng may lịch duyệt đã nhiều nên ngoài mặt vẫn thản nhiên, cười nói: “Ta chỉ vận được nội kình Nhất Dương Chỉ và Lục Mạch Thần Kiếm thôi. Say quá, thật là say tới mức chỉ biết giết người chứ không ôm người được nữa.”

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Gã này tuy hiếu sắc nhưng không hồ đồ chút nào. Y biết đang lâm nguy nên cố hù dọa người ta. Thực ra y chỉ biết Nhất Dương Chỉ, còn Lục Mạch Thần Kiếm y có biết đâu, chẳng qua chỉ là hư trương thanh thế. Nếu y không còn nội lực thì làm sao sử dụng Nhất Dương Chỉ được?”.

Bỗng dưng Mã phu nhân rũ người ra nói: “Chao ôi!Thiếp nhức đầu quá. Đoàn lang, hay là… hay là… chàng có bỏ cái gì vào rượu không đấy?” Đoàn Chính Thuần vốn dĩ nghi ngờ tình nhân bỏ thuốc mê vào rượu, nghe nói thế hết cả ngờ vực, vẫy tay nói: “Tiểu Khang, nàng lại đây. Ta có chuyện muốn nói với nàng.” Mã phu nhân làm ra vẻ muốn bước lại chỗ Đoàn Chính Thuần, nhưng không đứng lên nổi, lại gục xuống bàn thở hổn hển, mặt ửng đỏ lên rồi nũng nịu nói: “Đoàn lang ơi, thiếp bước không nổi nữa rồi. Chàng sợ thiếp không chiều chuộng nên bỏ xuân dược vào rượu chứ gì? Thật chẳng đàng hoàng chi hết.”

Đoàn Chính Thuần lắc đầu, chấm ngón tay vào rượu viết lên bàn: “Địch nhân ám toán, cố gắng trấn tĩnh”, miệng vẫn nói cứng: “May quá, ta lại vận nội lực được rồi. Mấy chén rượu độc kia làm sao hại ta nổi?” Mã phu nhân cũng viết lên bàn: “Thật chăng?”. Đoàn Chính Thuần lại viết: “Chớ tỏ ra khiếp nhược”. Ông lớn tiếng nói: “Tiểu Khang, địch thủ của nàng có mấy đầu mấy tay mà dám đến kiếm chuyện với chúng ta?”

Tiêu Phong đứng ngoài cửa sổ nhìn thấy năm chữ “Chớ tỏ ra khiếp nhược”, biết ngay là không ổn, nghĩ thầm: “Đoàn Chính Thuần là kẻ tinh minh đáo để, thế mà lại chết về tay con mụ này. Rõ ràng là Mã phu nhân hạ độc, mụ ta nghe ngươi hăm dọa vẫn còn biết giết người, bèn giả vờ cũng trúng độc để xem hư thực. Sao y lại dễ mắc mưu đến thế?”.

Lúc đó Mã phu nhân lộ vẻ lo lắng, lại viết trên bàn: “Nội lực mất hết là thực hay giả?” nhưng mồm vẫn nói: “Đoàn lang, nếu có tên gian tặc nào đến kiếm chuyện thì thật là hay lắm. Lúc này không biết làm gì, tóm cổ chúng để giải sầu thì thật là đúng lúc. Chàng cứ ngồi yên đó, xem chúng có dám thò mặt ra không.”

Đoàn Chính Thuần viết: “Chỉ mong thuốc sớm tan, địch đến chậm”. Ông nói: “Phải đó! Có kẻ nào vào cho mình tiêu khiển một lúc lại càng vui. Tiểu Khang, nàng có muốn xem ta cách không điểm huyệt không nào?”

Mã phu nhân cười nói: “Thiếp chưa được xem chàng thi triển tuyệt nghệ bao giờ. Nếu chàng đã khôi phục nội lực thì sử dụng Nhất Dương Chỉ điểm thủng giấy dán cửa sổ xem nào.” Đoàn Chính Thuần nhíu mày đưa mắt ra hiệu, có ý nói: “Ta mất sạch nội lực rồi, làm sao cách không điểm huyệt được? Đấy là dọa địch nhân thôi, sao nàng lại không hiểu ý?”. Thế nhưng Mã phu nhân vẫn luôn mồm thúc giục: “Mau động thủ đi! Chàng chỉ cần điểm cho mảnh giấy kia thủng một lỗ nhỏ là kẻ địch chạy mất ngay. Nếu không thì chúng nhìn thấy điểm yếu của chúng ta mất.”

Đoàn Chính Thuần lại càng chột dạ, nghĩ thầm: “Xưa nay nàng vẫn thông minh lanh lợi, sao bây giờ lại có ý ngớ ngẩn như thế?”. Ông còn đang suy nghĩ, bỗng nghe Mã phu nhân dịu dàng nói: “Đoàn lang ơi! Chàng đã trúng phải Thập Hương Mê Hồn Tán thì dẫu bản lãnh nghiêng trời cũng mất hết nội lực. Nếu chàng điểm cách không mà thủng được một cái lỗ nơi cửa sổ thì quả là kỳ diệu quá.” Đoàn Chính Thuần thất kinh hỏi: “Ta… ta trúng phải Thập Hương Mê Hồn Tán ư? Sao nàng… nàng lại biết?”

Mã phu nhân cười đáp: “Hì hì! Thật là vô ý quá, khi thiếp rót rượu cho chàng đã sẩy tay làm rơi một gói thuốc vào bình rượu. Chao ôi, thiếp vừa gặp lại chàng là thần hồn điên đảo, chân tay quýnh quáng, Đoàn lang ơi, chàng đừng giận thiếp nhé!”

Đoàn Chính Thuần gượng cười nói: “À, ra thế đấy! Thế thì có sao đâu?” Bây giờ ông hiểu rõ là mình đã bị Mã phu nhân chế ngự, có nổi nóng chửi rủa cũng chẳng ích lợi gì. Ông giả vờ không quan tâm, hết sức trấn tĩnh tâm thần để ứng phó với tình hình nguy hiểm. Ông suy đoán: “Nàng có thâm tình với ta, chắc không có ý hại mạng. Cùng lắm là bắt ta ở lại đây vĩnh viễn không trở về nhà nữa, nếu không thì ép ta đưa về Đại Lý, thành vợ thành chồng danh chính ngôn thuận. Thế thì chẳng qua bởi lòng si mê, hạ thủ có hơi quá đáng nhưng không phải do ý xấu.” Ông nghĩ như thế liền bình tâm trở lại.

Quả nhiên Mã phu nhân lại hỏi: “Đoàn lang, chàng có bằng lòng kết nghĩa phu thê với thiếp cho tới răng long đầu bạc không?” Đoàn Chính Thuần cười nói: “Ái chà! Nàng tính toán quả là lợi hại. Thôi, ta chịu thua vậy! Sáng mai chúng ta lên đường trở về Đại Lý, ta đưa nàng vào phủ Trấn Nam Vương làm một vị phi tần.”

Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc nghe thế đều nổi tam bành, cùng nghĩ: “Con tiện nhân này có tốt đẹp gì đâu? Sao chàng không ưng thuận ta, lại nghe lời nó?”.

Mã phu nhân thở dài rồi nói: “Đoàn lang ơi! Lúc nãy thiếp mới hỏi chàng định sắp đặt cho thiếp thế nào, chàng bảo đất Đại Lý nhiều lam chướng, thiếp đến đó chỉ tổ sinh bệnh. Bây giờ chàng bị bức bách nên phải bằng lòng, chứ bản tâm có tình nghĩa gì đâu?”

Đoàn Chính Thuần cũng thở ra, nói: “Tiểu Khang nàng ơi! Ta nói cho, mà nghe, ta là hoàng thái đệ của nước Đại Lý. Vương huynh ta không có con trai, sau khi trăm tuổi rồi ta sẽ kế vị ngôi vua. Ở Trung Nguyên thì ta chỉ là một kẻ võ phu, nhưng về Đại Lý thì không phải muốn làm gì cũng được. Nàng nghĩ có phải không?” Mã phu nhân đáp: “Phải rồi! Thế thì đã sao?” Đoàn Chính Thuần nói: “Bên trong chuyện này còn nhiều chỗ khó giải quyết, nhưng nàng đã thiết tha với ta đến mức ra tay hạ độc, nên ta đành phải hồi tâm chuyển ý. Không lẽ ta không nghĩ đến cái diễm phúc ngày ngày có một mỹ nhân như nàng cận kề bầu bạn? Ta đã đồng ý đưa nàng về Đại Lý thì quyết không hối hận.”

Mã phu nhân “Ồ” một tiếng nhỏ rồi nói: “Chàng nói có lý lắm. Thế sau này chàng lên ngôi đại bảo, có phong thiếp làm hoàng hậu nương nương không?” Đoàn Chính Thuần trù trừ đáp: “Ta đã có nguyên phối, ngôi hoàng hậu thật không thể cho nàng được…” Mã phu nhân đáp: “Đúng thế! Thiếp là một bà quả phụ xui xẻo, làm hoàng hậu nương nương sao được? Nếu vậy thì hàng nghìn hàng vạn dân Đại Lý phải cười đến chết mất.” Nàng lại cầm chiếc lược lên, từ từ chải đầu, cười nói: “Đoàn lang! Câu chuyện lúc nãy thiếp kể cho chàng nghe, chàng đã hiểu ra ý tứ chưa?”

Đoàn Chính Thuần mồ hôi trân toát ra đầm đìa, cố trấn tĩnh tinh thần nhưng khổ nỗi công lực khổ luyện mấy chục năm trời biến đâu mất hết, khác nào người đang chết đuối, hai tay chới với không biết bám víu vào đâu, một cọng cỏ cũng không vớ được.

Mã phu nhân lại hỏi: “Đoàn lang! Chàng nóng bức lắm phải không? Để thiếp lau mồ hôi cho.” Nàng lấy trong túi ra một chiếc khăn tay trắng tinh, đến trước mặt ông ta nhẹ nhàng lau mồ hôi trán, ngọt ngào nói: “Đoàn lang, chàng phải chú ý giữ gìn sức khỏe. Sau khi uống rượu dễ trúng gió lắm. Nếu trong người chàng khó chịu, thiếp cũng không khỏi đau lòng.”

Tiêu ở ngoài cửa sổ, Đoàn ở trong cửa sổ, cả hai người nghe mụ nói câu này đều phát buồn nôn.

Đoàn Chính Thuần gượng cười nói: “Đêm xưa nàng toát mồ hôi đầm đìa thơm phức, ta cũng từng lau khắp người cho. Hơn chục năm nay ta vẫn giữ chiếc khăn đó bên mình làm kỷ niệm.” Mã phu nhân thẹn thùng nói nhỏ: “Chàng thật không biết xấu hổ, chuyện cũ từ đời nào mà vẫn còn nhắc lại. Đâu, lấy ra cho thiếp xem nào?”

Đoàn Chính Thuần nói là hơn chục năm qua vẫn mang theo chiếc khăn cũ trong người, tưởng là câu nói mua lòng nữ nhân, không ngờ có trong túi thật. Ông được vô số phụ nữ say mê cũng có lý do, cô nào đã từng vướng víu với ông cũng nghĩ rằng ông thực lòng yêu mình nhưng chỉ vì số kiếp long đong nên không thể trọn mối lương duyên. Ông toan lấy chiếc khăn trong bọc ra, hy vọng Mã phu nhân động tâm nghĩ lại tình xưa nghĩa cũ, ngờ đâu chỉ hơi nhúc nhích được ngón tay, còn bàn tay hoàn toàn tê dại. Độc tính của Thập Hương Mê Hồn Tán quả là ghê gớm.

Mã phu nhân lại giục: “Chàng lấy cho thiếp coi đi! Không chịu đâu, chàng lại đánh lừa người ta rồi.” Đoàn Chính Thuần nhăn nhó cười nói: “Ha ha! Ta say đến nỗi tay không cất lên được. Nàng lấy ra giúp ta đi.” Mã phu nhân nói: “Thiếp chả mắc lừa chàng đâu. Chàng định dụ thiếp đến gần, rồi dùng Nhất Dương Chỉ giết chết chứ gì.” Đoàn Chính Thuần mỉm cười đáp: “Dẫu ta có là một tên hung đồ tội ác ngập trời thì cũng chẳng nỡ dùng móng tay vạch lên khuôn mặt một vị tuyệt thế giai nhân như nàng.”

Mã phu nhân cười nói: “Có thật thế chăng? Đoàn lang ơi, thiếp vẫn chưa yên tâm. Thôi để thiếp lấy dây cột hai tay chàng lại, sau đó… sau đó, mới dùng dây tơ buộc luôn cả trái tim.” Đoàn Chính Thuần đáp: “Nàng đã buộc trái tim ta rồi đấy, nếu không ta đâu có ngoan ngoãn mò tới tận đây?” Mã phu nhân cười rộ lên nói: “Chàng thật là tử tế, chả trách cái bệnh tương tư của thiếp không sao chữa cho lành được.”

Nói xong, bà mở cái ngăn kéo bên cạnh giường lấy ra một cuộn dây gân bò.

Đoàn Chính Thuần càng thêm kinh hãi: “Té ra mụ ta đã chuẩn bị mọi thứ đầy đủ, còn ta từ đầu chí cuối cứ như ở trong đám mây mù, Đoàn Chính Thuần ơi là Đoàn Chính Thuần, hôm nay người mất mạng nơi đây cũng đừng trách ai nữa.” Mã phu nhân nói: “Đoàn lang ơi, cho thiếp trói chân tay chàng trước. Lòng thiếp yêu thương chàng không sao kể xiết, chàng có giận thiếp không?”

Đoàn Chính Thuần biết tính Mã phu nhân hiểm độc, tuy là nữ nhân nhưng so với nam nhân bình thường còn ghê gớm hơn. Ông có chửi mắng thì mụ cũng không nổi giận, có năn nỉ thì mụ cũng chẳng hồi tâm, chỉ còn cách kéo dài thời gian, may ra có cơ hội thoát hiểm. Ông bèn cười nói: “Mỗi khi ta nhìn thấy đôi mắt long lanh của nàng là bao nhiêu giận hờn tan biến cả. Tiểu Khang ơi! Nàng lại đây, cho ta ngửi đóa hoa nhài trên tóc nàng xem có thơm không.”

Hơn mười năm trước, vì câu nói tình tứ này mà Đoàn Chính Thuần đã cùng Mã phu nhân tạo nên một mối nghiệt duyên. Bây giờ ông nhắc lại chuyện xưa, Mã phu nhân lại ngả đầu vào lòng ông thật là tình tứ, dáng điệu đầy vẻ nhu mì bẽn lẽn. Bà đưa tay ve vuốt khuôn mặt tình lang, thỏ thẻ hỏi: “Đoàn lang, Đoàn lang ơi! Tối hôm đó thiếp trao thân gởi phận cho chàng, có hỏi trước rằng, giả tỷ sau này chàng ăn ở hai lòng thì sẽ ra sao?” Mắt Đoàn Chính Thuần nổ đom đóm, những giọt mồ hôi to bằng hạt đậu lăn dài trên trán. Mã phu nhân tiếp: “Hảo lang quân ơi, thân ái lang quân ơi, bạc tình lang quân ơi, chàng đã thề nguyền rồi lại quên ngay đấy ư?

Đoàn Chính Thuần gượng cười nói: “Khi đó ta hứa sẽ để cho nàng cắn từng miếng thịt trên người.” Cái câu thề thốt kia vốn dĩ là đôi nam nữ say mê đùa bỡn trong cuộc truy hoan, nhưng bây giờ Đoàn Chính Thuần nhắc đến mà không khỏi hãi hùng.

Mã phu nhân nhoẻn cười tình tứ, nói: “Đã bao nhiêu năm chàng vẫn không quên những gì đã nói cùng thiếp, quả là thành ý. Đoàn lang, thiếp định trói tay chàng lại, chẳng biết chàng có chịu hay không? Chàng bằng lòng thì thiếp mới trói, nếu không chịu thì thôi. Thiếp xưa nay không hề trái ý chàng, lúc nào cũng chỉ mong chàng được vui lòng.”

Đoàn Chính Thuần hiểu rằng nếu mình không chịu cho trói cũng không được, mà không chừng mụ lại lấy cớ giở ra những trò cổ quái khác, đành gượng cười nói: “Nàng muốn trói thì cứ trói đi. Dưới khóm mẫu đơn mà bỏ mạng, chết thành quỷ sứ cũng phong lưu. Ta được chết dưới bàn tay của nàng cũng đã là khoái hoạt rồi.”

Tiêu Phong ở bên ngoài cửa sổ nghe thấy câu này, phải bội phục ông ta định lực hơn người, trong lúc nguy ngập như vậy mà vẫn cười nói ung dung. Chỉ thấy Mã phu nhân bẻ quặt hai tay Đoàn Chính Thuần ra sau lưng, dùng dây gân bò trói chặt rồi thắt bảy tám cái nút. Đừng nói Đoàn Chính Thuần lúc này đã mất hết võ công, mà dẫu nội lực còn nguyên, cũng không thể nào cựa thoát được.

Mã phu nhân lại cười tình tứ nói: “Thiếp còn giận cả hai cái chân chàng, mỗi lần bước ra đi là mất hút chẳng thấy bóng hình đâu nữa.” Bà ta nói xong đưa tay véo yêu vào đùi ông một cái. Đoàn Chính Thuần cười nói: “Nhưng năm xưa ta hội ngộ nàng cũng là nhờ đôi chân này mang tới. Vậy thì đôi chân này tuy có tội lớn, nhưng công cũng không nhỏ, có thể bù đắp được.” Mã phu nhân nói: “Được rồi, để thiếp trói chúng lại rồi sẽ xử sau.” Nói xong lại lấy một sợi dây gân bò nữa, trói nốt hai chân Đoàn Chính Thuần.

Bà ta lấy một chiếc kéo, từ từ cắt mấy lớp áo trên vai phải ông ta, để lộ làn da trắng trẻo. Đoàn Chính Thuần tuổi không còn trẻ nhưng cả đời vinh hoa phú quí, ăn uống sung sướng lại thêm nội công thâm hậu, da thịt trên vai vừa săn chắc vừa mịn màng.

Mã phu nhân đưa tay vuốt ve vai ông, ghé môi hôn nhè nhẹ lên má, từ từ lần xuống cổ, xuống vai, vừa hôn vừa rên ư ử cơ hồ không chịu đựng nổi nữa.

Đột nhiên Đoàn Chính Thuần rú lên một tiếng, tiếng rú kinh hồn xé tan màn đêm tĩnh mịch. Mã phu nhân ngửng đầu lên, miệng đầy máu tươi. Mụ đã cắn một miếng thịt trên vai Đoàn Chính Thuần đứt hẳn ra.

Mã phu nhân nhả miếng thịt xuống đất, nũng nịu: “Yêu nhau lắm, cắn nhau đau, thiếp yêu chàng quá nên mới cắn cho thỏa. Đoàn lang, đây là chính miệng chàng nói mà, nếu chàng thay lòng đổi dạ sẽ cho thiếp cắn đứt từng miếng thịt.”

Đoàn Chính Thuần cười ha hả nói: “Đúng rồi! Tiểu Khang ơi, ta đã nói ra dứt khoát phải giữ lời. Cũng nhiều lúc ta nghĩ mãi mà không ra, sau này chết thế nào cho thú vị? Chết trên giường bệnh thì quá tầm thường. Bảo vệ đất nước mà chết tại chiến trường thì anh dũng đáng khen, nhưng chẳng được phong lưu, không hợp với Đoàn mỗ lúc bình thời. Tiểu Khang, hôm nay nàng nghĩ ra được cách này quả là cao minh. Ta được chết trong chiếc miệng anh đào của mỹ nhân đệ nhất thiên hạ, dưới những chiếc răng xinh xắn như trân châu kia, thật là thỏa chí bình sinh. Giả tỷ không phải Đoàn lang yêu quí của nàng mà là một người đàn ông khác, dẫu tặng nàng một kho châu báu cũng chưa chắc được nàng cắn cho một miếng. Tiểu Khang, có phải thế không nào?”

Hồn vía của Tần Hồng Miên và Nguyễn Tinh Trúc bay mất cả, biết Đoàn lang có thể mất mạng trong khoảnh khắc. Hai bà thấy Tiêu Phong vẫn đứng yên bên cửa sổ, không hề ra tay cứu viện, trong bụng mắng thầm chứ chẳng làm gì được.

Tiêu Phong vẫn chưa rõ bản ý của Mã phu nhân ra sao, chẳng hiểu mụ ta muốn giết Đoàn Chính Thuần thật, hay chỉ hăm dọa để từ rày ông ta không thay lòng đổi dạ, mà cũng có thể đây là một trò phong nguyệt mới cho thêm phần hứng thú. Giả tỷ hai người đùa cợt với nhau chốn phòng the, mà mình lại lỗ mãng xông vào là mất đi cơ hội thám thính tin tức. Chàng vẫn trầm tĩnh đứng yên xem tình hình biến chuyển thế nào.

Mã phu nhân cười nói: “Đúng thế! Thiên tử Đại Tống hay hoàng đế Khất Đan muốn giết thiếp thì dễ, chứ muốn thiếp cắn một cái thì đừng hòng. Đoàn lang ơi, thiếp định bụng cắn chàng từ từ cho tới chết, muốn cắn hàng ngàn hàng vạn miếng mới tỏ hết tình yêu, nhưng lại e thuộc hạ chàng hiểu lầm mà đến cứu. Thôi đành thế này, thiếp cắm một con dao nhỏ vào chỗ tim chàng, chỉ đâm sâu nửa tấc để chàng không chết, giả tỷ có ai phá rối, thiếp chỉ nhấn vào cán dao một cái là chàng hoàn thành tâm nguyện, không còn phải đau đớn gì nữa” Mụ vừa nói vừa lấy ra một thanh trủy thủ sáng loáng, rạch áo trước ngực Đoàn Chính Thuần, để mũi dao đúng ngay chỗ tim đập, rồi bàn tay nhỏ nhắn khẽ ấn xuống, cắm con dao vào ngực, quả nhiên chỉ nhấn vào một chút rồi thôi.

Đoàn Chính Thuần không kêu tiếng nào, thấy máu rỉ ra nơi ngực bèn nói: “Tiểu Khang ơi, mười ngón tay nàng so với hồi mười bảy tuổi còn trắng trẻo nhẵn nhụi hơn nhiều.”

Khi Mã phu nhân cầm trủy thủ đâm vào ngực Đoàn Chính Thuần, Tiêu Phong nhìn tay mụ không chớp mắt, nếu thấy ngay đến tính mạng Đoàn Chính Thuần thì lập tức phóng chưởng đánh văng mụ ra. Nhưng chàng thấy mụ chỉ ấn vào nhè nhẹ nên cứ mặc kệ.

Mã phu nhân nói: “Hồi thiếp mười bảy tuổi, ngày ngày phải giặt giũ nấu ăn, dĩ nhiên bàn tay da dẻ sần sùi. Mấy năm nay không phải làm việc nặng, da dẻ cũng mịn màng hơn, Đoàn lang! Miếng thứ hai thiếp phải cắn vào đâu? Chàng bảo cắn chỗ nào thiếp sẽ cắn chỗ đó, phục tùng chàng thật là ngoan ngoãn.”

Đoàn Chính Thuần cười nói: “Tiểu Khang, sau khi nàng cắn chết ta rồi, hồn ta sẽ luôn luôn quấn quít bên nàng.” Mã phu nhân hỏi: “Để làm gì?” Đoàn Chính Thuần nói: “Hễ vợ mà mưu sát chồng thì linh hồn chồng vất vưởng không tan, cứ loanh quanh bên vợ để giữ không cho người đàn ông khác đến vui vầy.”

Đoàn Chính Thuần chỉ định dọa cho mụ nao núng, không chừng không dám ra tay độc ác nữa. Ngờ đâu Mã phu nhân lại biến sắc mặt, quay lại nhìn sau lưng. Đoàn Chính Thuần nhân cơ hội nói: “Ồ, gã nào đứng sau lưng nàng thế kia?” Mã phu nhân hoảng hốt nói: “Làm gì có ai nào? Chàng chỉ nói lăng nhăng.” Đoàn Chính Thuần nói: “Hừ! Rõ ràng có một người đàn ông đang đứng nhìn nàng, gã đang sờ vào cổ họng, dường như đau đớn lắm. Ta chẳng biết gã là ai, chỉ thấy y phục rách rưới, nước mắt chảy không ngớt.”

Mã phu nhân vội quay lại mà có thấy ai đâu, run giọng nói: “Ngươi… nói láo, ngươi nói láo!”

Ban đầu Đoàn Chính Thuần chỉ thuận miệng nói nhăng nói cuội, nhưng thấy mụ kinh hoảng lạ thường, lập tức nghi ngờ, đoán rằng cái chết của Mã Đại Nguyên hẳn là không minh bạch. Ông biết Mã Đại Nguyên chết vì Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ nên cố ý nói người đó đau đớn ở cổ họng, chảy nước mắt, y phục rách rưới, quả nhiên Mã phu nhân càng khiếp đảm hơn. Đoàn Chính Thuần đã đoán được mấy phần, nói tiếp: “Ô hay! Lạ quá! Gã kia chớp mắt đã biến đâu mất rồi, không thấy đứng đó nữa. Hắn là ai vậy?”

Vẻ mặt Mã phu nhân hết sức kinh khủng nhưng chỉ giây lát mụ đã trấn tĩnh được, bèn nói: “Đoàn lang! Hôm nay đã đến nước này, chàng còn dọa thiếp để làm gì? Hay là chàng không rủa xả thiếp vài câu thì chết không yên? Đôi ta đã vui thú xong rồi, bây giờ thiếp sẽ tống tiễn chàng đi một cách mau lẹ khoan khoái.” Mụ vừa nói vừa bước tới một bước, đưa tay toan nắm lấy chuôi dao đâm vào.

Đoàn Chính Thuần muốn kéo dài thời gian thêm chút nữa cũng không được. Ông trợn trừng hai mắt nhìn ra sau lưng Mã phu nhân, kêu toáng lên: “Mã Đại Nguyên! Mã huynh đệ mau bóp chết mụ vợ sát phu đi!”

Mã phu nhân thấy khuôn mặt ông ta kinh hãi lạ thường, lại gọi tên Mã Đại Nguyên, bất giác giật mình, quay đầu nhìn lại. Đoàn Chính Thuần dồn hết sức húc đầu một cái, trúng ngay cằm Mã phu nhân khiến mụ ta lăn xuống đất, ngất đi.

Cái húc của Đoàn Chính Thuần hoàn toàn không có chút nội lực nào. Mã phu nhân chỉ ngất đi một chút rồi tỉnh lại ngay. Mụ đứng lên, xuýt xoa vỗ vỗ quai hàm, cười nói: “Đoàn lang ơi! Chàng nựng nịu thiếp mạnh thế, đụng phải chỗ này đau ơi là đau. Thiếp biết rồi, chàng chỉ đặt điều hăm dọa, không thèm mắc mưu nữa đâu.”

Đoàn Chính Thuần từ nay đến giờ tích tụ được bao nhiêu sức lực đã dồn hết vào cái húc, buông tiếng thở dài, nghĩ thầm: “Mạng ta đến đây là hết, chẳng còn gì để nói nữa.” Ông chợt nghĩ ra một điều, lại hỏi: “Tiểu Khang ơi, nàng định giết ta thật ư? Thế sau này người trong Cái Bang đến truy vấn cái tội mưu sát thân phu thì ta còn đâu mà giúp đỡ nàng?”

Mã phu nhân cười khúc khích nói: “Ai dám bảo là thiếp mưu sát thân phu? Chàng có phải là lang quân thiếp đâu? Nếu chàng quả là chồng thiếp, thiếp yêu thương chiều chuộng chàng còn chưa đủ, lẽ đâu lại gia hại chàng? Thiếp giết chàng rồi sẽ lập tức cao chạy xa bay, chứ nếu ở lại đây, bọn thuộc hạ Đại Lý của chàng đi tìm thì thiếp biết đối phó làm sao?” Mụ thở dài nói tiếp: “Đoàn lang, thiếp yêu chàng chân thật, thương nhớ chàng vô bờ bến, lúc nào cũng mong được ôm chàng, hôn chàng, nựng nịu chàng thôi. Chỉ vì thiếp không có được chàng, không được ăn thì đạp đổ, đó là cái tính trời sinh của thiếp chứ không còn cách nào khác.”

Đoàn Chính Thuần nói: “Ồ, thì ra lý do là thế! Thảo nào hôm trước nàng cố ý đánh lừa cô gái kia, muốn mượn tay Kiều Phong giết ta.” Mã phu nhân nói: “Đúng thế! Thằng cha Kiều Phong thật là vô dụng, có cái việc giết chàng mà gã làm cũng không xong, để chàng chạy mất.”

Tiêu Phong trong bụng không ngớt tự hỏi: “A Châu giả trang làm Bạch Thế Kính thần diệu vô song, ngay cả ta cũng nhìn không ra, Mã phu nhân cùng Bạch Thế Kính có thân thiết gì đâu, sao mụ lại phát hiện được nhỉ?”.

Mã phu nhân lại nói tiếp: “Đoàn lang ơi! Thiếp lại muốn cắn chàng một miếng nữa.” Đoàn Chính Thuần mỉm cười: “Nàng cứ cắn đi, ta sung sướng lắm.” Tiêu Phong thấy không thể chần chờ được nữa, chàng đặt bàn tay lên vách chỗ sau lưng Đoàn Chính Thuần, ngầm vận kinh lực. Bức vách đất chẳng kiên cố gì, bàn tay Tiêu Phong từ từ xuyên thủng qua không một tiếng động, rồi đặt lên lưng Đoàn Chính Thuần.

Ngay lúc đó, Mã phu nhân đã ngoạm một miếng thịt nữa trên vai Đoàn Chính Thuần, ông ta kêu rủ lên, vùng vẫy, đột nhiên thấy hai tay đã tự do. Thì ra Tiêu Phong đã cấu đứt dây trói nơi cổ tay, đồng thời dồn một luồng nội lực cực kỳ hùng hậu vào kinh mạch của ông.

Đoàn Chính Thuần giật mình, biết ngay bên ngoài có cao thủ đến giúp đỡ. Khí tùy theo ý mà chuyển, luồng nội lực ngoại viện từ sau lưng được dẫn vào cánh tay, truyền tới ngón tay, nghe xoẹt một tiếng nhỏ, thần công Nhất Dương Chỉ đã phóng ra. Mã phu nhân bị trúng chỉ vào mạng sườn, rú lên một tiếng rồi gục ngay xuống giường.

Tiêu Phong thấy Mã phu nhân đã bị chế ngự rồi, lập tức rút tay về, Đoàn Chính Thuần đang toan mở miệng tạ ơn, bỗng dưng cửa mở tung ra, một người chạy vào nói: “Tiểu Khang! Nàng không cắt đứt được mối tình xưa thật ư? Sao đến mãi giờ này vẫn chưa thanh toán xong xuôi?”

Tiêu Phong từ bên ngoài nhìn thấy gã kia, lập tức thẫn thờ, đờ người ra. Chàng vừa kinh hoàng lại vừa tức tối, bao nhiêu nghi vấn trong đầu đều được giải quyết trong chớp mắt. Hôm đó tại khu rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, Mã phu nhân lấy ra chiếc quạt của chàng, vu cáo chàng lẻn vào Mã gia ăn trộm thư rồi vội vã bỏ rơi. Cái quạt đó ở đâu ra? Chắc chắn phải có người ăn trộm của chàng, đó phải là người rất thân cận, là ai? Chàng là người Khất Đan, điều này đã được các vị tiền bối giấu kín bao nhiêu năm, sao lại đột nhiên bị tiết lộ? A Châu cải trang thành Bạch Thế Kính, đến chàng cũng không nhìn ra, Mã phu nhân sao lại phát hiện được?

Thì ra, kẻ vừa vào phòng chẳng phải ai xa lạ, chính là Chấp pháp trưởng lão Bạch Thế Kính của Cái Bang.

Mã phu nhân kinh hãi ấp úng: “Y… y chưa mất hết võ công, điểm… điểm huyệt ta rồi.” Bạch Thế Kính nhảy vọt tới chộp hai cổ tay Đoàn Chính Thuần, nghe lách cách mấy tiếng đã vặn trật khớp. Đoàn Chính Thuần chẳng có cách nào kháng cự, nội lực Tiêu Phong truyền vào người chỉ giữ được một tí, Tiêu Phong vừa rụt tay về là ông lại trở thành phế nhân.

Từ lúc Tiêu Phong trông thấy Bạch Thế Kính, nhất thời bao nhiêu ý nghĩ nổi lên như sóng cồn. Chàng chưa tính tới chuyện ra tay giúp Đoàn Chính Thuần, cũng không ngờ Bạch Thế Kính hạ độc thủ ngay, đến lúc nghĩ ra thì hai cổ tay Đoàn Chính Thuần đã gãy mất. Chàng nghĩ bụng: “Gã này phong lưu hiếu sắc, hôm nay cho y nếm mùi đau khổ cũng đáng kiếp. Ta nể mặt A Châu thì cũng chờ đến lúc tối hậu sẽ cứu mạng y.”

Bạch Thế Kính nói: “Họ Đoàn kia! Bản lĩnh ngươi kể cũng khá đấy, đã uống Thập Hương Mê Hồn Tán mà nội lực vẫn còn lại mấy phần.”

Đoàn Chính Thuần chưa hiểu người ở bên ngoài giúp mình là ai, nhưng biết nhân vật này có bản lĩnh ghê gớm. Tuy trước mắt có thêm cường địch, nhưng sau lưng đã có đại viện, trong lòng ông chẳng chút hoang mang. Ông biết rằng Bạch Thế Kính không hiểu có người ám trợ mình, bèn hỏi lại: “Phải chăng tôn giá là trưởng lão trong Cái Bang? Tại hạ cùng tôn giá chưa từng quen biết, sao lại hạ độc thủ đến thế?”

Bạch Thế Kính không đáp, bước tới cạnh Mã phu nhân, đưa tay xoa bóp mấy cái dưới mạng sườn. Nhưng công phu điểm huyệt của họ Đoàn cực kỳ thần diệu, Bạch Thế Kính võ công không tệ nhưng cũng không giải huyệt được. Y chau mày hỏi: “Nàng thấy trong người sao rồi?” Giọng nói cực kỳ lo lắng. Mã phu nhân đáp: “Chân tay thiếp bị tê liệt không nhúc nhích được. Thế Kính, chàng thanh toán hắn mau đi, rồi đôi ta mau thoát khỏi đây. Thiếp không muốn ở trong căn nhà này nữa.”

Đoàn Chính Thuần đột nhiên buông một tràng cười ròn rã: “Ha ha! Ha ha! Tiểu Khang! Nàng… nàng… chẳng tiến bộ chút nào cả! Ha ha! Ha ha!”

Mã phu nhân mỉm cười nói: “Đoàn lang vẫn cao hứng lắm nhỉ, chết đến gáy rồi mà vẫn còn cười sung sướng thế ư?

Bạch Thế Kính nổi sùng la lên: “Ngươi vẫn gọi y là Đoàn lang kia à? Đồ tiện nhân lăng loàn!” Y xoay tay tát Mã phu nhân một cái thật mạnh. Khuôn mặt trắng trẻo của mụ ta lập tức sưng vù, nước mắt ràn rụa.

Đoàn Chính Thuần quát lên: “Ngừng tay! Sao ngươi lại đánh nàng?” Bạch Thế Kính cười nhạt hỏi lại: “Ngươi làm gì được ta? Thị là người của ta, ta muốn đánh là đánh, muốn chửi là chửi.” Đoàn Chính Thuần nói: “Một mỹ nhân như hoa như ngọc, vậy mà ngươi nỡ giở thói vũ phu. Dẫu nàng có thuộc về ngươi, thì ngươi cũng phải đối xử sao cho nàng được vui lòng mới phải chứ?”

Mã phu nhân nhìn Bạch Thế Kính nói: “Người ta đối với thiếp như thế, còn chàng sao lại phũ phàng mà không biết thẹn?” Thanh âm mụ vẫn đầy vẻ lẳng lơ.

Bạch Thế Kính lại chửi: “Đồ dâm phụ này không trị không được. Tên họ Đoàn ngu dốt kia, ta đếch thèm tin ngưoi. Ngươi giỏi tài nịnh gái, sao để gái hại đến nông nỗi này? Thôi, ngày này sang năm là giỗ đầu của ngươi rồi.” Y nói xong hung hăng tiến tới, đưa tay định ấn sâu lưỡi trủy thủ vẫn cắm trên ngực Đoàn Chính Thuần từ trước.

Bàn tay Tiêu Phong đã thò qua lỗ hổng trên tường, chỉ đợi Bạch Thế Kính tiến thêm nửa bước là phóng chưởng ngay. Đột nhiên một cơn gió mạnh đập vào cửa, rồi một luồng kình phong thổi vù một tiếng, hai ngọn nến lập tức tắt phụt, trong phòng tối đen như mực.

Mã phu nhân kinh hãi rú lên. Bạch Thế Kính biết là có kẻ địch mới vào, lúc này không rảnh tay giết Đoàn Chính Thuần mà phải nghênh địch trước. Y bèn quát lên: “Ai đó?”, đưa song chưởng lên bảo vệ trước ngực rồi xoay người lại.

Kình phong thổi tắt hai ngọn nến rõ ràng là do một nhân vật bản lĩnh tuyệt cao phóng ra, nhưng sau khi nến tắt rồi vẫn không nghe động tĩnh gì. Cả bốn người Bạch Thế Kính, Đoàn Chính Thuần, Mã phu nhân, Tiêu Phong đều ngưng thần, lờ mờ thấy có thêm một người nữa trong nhà.

Mã phu nhân không nén nổi, kêu rú lên: “Có người! Có người!” Chỉ thấy người đó chắn ngay cửa, hai tay buông xuôi, mặt mũi không nhìn rõ, chỉ đứng sừng sững không nhúc nhích gì, Bạch Thế Kính quát hỏi: “Ai đó?” Y tiến lên một bước, người kia vẫn lặng thinh không nói cũng không cử động. Bạch Thế Kính lại quát: “Không trả lời thì tại hạ không nể mặt nữa đâu.” Bạch Thế Kính thấy người lạ quạt tắt hai ngọn nến, biết y võ công cực kỳ cao cường, không dám hấp tấp ra tay. Trong bóng đêm tối mò, người kia vẫn bất động tựa như ma quỉ.

Mã phu nhân lại rít lên: “Chàng đốt đèn lên đi! Thiếp sợ lắm!” Bạch Thế Kính quát trả: “Con dâm phụ kia, sao mà ngu thế?” Y nói thế vì nếu quay sang thắp đèn là đưa lưng cho địch, thành thử vẫn thủ thế hai tay giữ ngực chờ kẻ địch xuất thủ trước. Ngờ đâu người kia vẫn đứng yên, mọi người cứ nhìn nhau như thế khoảng thời gian uống một chén trà. Tiêu Phong dĩ nhiên không lên tiếng, cả Đoàn Chính Thuần cũng lặng thinh. Bốn bề tĩnh mịch như tờ, nghe thấy được cả tiếng từng bông tuyết rơi chạm đất.

Sau cùng Bạch Thế Kính không nhịn nổi, kêu lên: “Các hạ đã không trả lời, ta đành phải mạo phạm.”Y ngừng lại một chút, thấy đối phương vẫn không cục cựa, bèn thò tay vào bọc lấy ra một cây phá giáp cương trùy, tung mình nhảy tới.

Trong bóng đêm chỉ thấy ánh sáng lấp loáng, cây dùi thép nhằm đâm vào ngực người kia, y nghiêng người tránh được. Đột nhiên Bạch Thế Kính thấy một luồng gió ép tới, mấy ngón tay đối phương nhằm cổ họng mình chụp xuống. Chiêu đó nhanh quá, Bạch Thế Kính chưa kịp thu cương trùy về thì năm đầu ngón tay đối phương đã đụng vào cổ họng mình. Lão hồn vía lên mây, hốt hoảng nhảy vọt ra sau tránh kịp, run run hỏi: “Ngươi… ngươi…”

Y sợ đến chết người, không phải vì đối phương võ nghệ cao cường, mà vì chiêu số vừa rồi chính là Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ. Đó là tuyệt kỹ gia truyền của Mã Đại Nguyên, ngoại trừ con cháu Mã gia không ai biết, chỉ vì Bạch Thế Kính chơi thân với Mã Đại Nguyên đã lâu nên hiểu rõ võ công gia số của y. Lưng Bạch Thế Kính toát mồ hôi lạnh ngắt, chăm chăm nhìn, chỉ thấy kẻ kia thân hình cao lớn chẳng khác gì Mã Đại Nguyên, nhưng trong bóng tối không trông rõ mặt. Người kia vẫn không hé răng, quanh y tỏa ra không khí lạnh lùng như ma như quỉ, Bạch Thế Kính thấy cổ họng ngâm ngẩm đau, chắc hẳn bị móng tay quệt phải. Y cố định thần, cất tiếng hỏi: “Phải chăng tôn giá ở họ Mã?” Người kia vẫn như câm điếc, không nói không rằng.

Bạch Thế Kính quát: “Con tiện nhân, mau đốt đèn cầy lên.” Mã phu nhân nói: “Thiếp không cử động được, chàng thắp lên đi.” Bạch Thế Kính vẫn e dè sợ sệt, không dám quay lưng cho người ta thừa cơ tấn công. Y lại nghĩ: “Rõ ràng võ công người này cao hơn ta, giả tỷ y muốn cứu Đoàn Chính Thuần thì đâu cần đợi người giúp? Sao y chỉ tấn công một chiêu rồi không truy kích nữa?”

Tất cả lại yên lặng một hồi lâu, Bạch Thế Kính đột nhiên phát giác ra một điều kỳ quái. Trong phòng không ai nói năng cử động, tiếng hô hấp mỗi người có thế nghe rõ. Mã phu nhân cũng thở, Đoàn Chính Thuần cũng thở, chính y cũng thở nhưng người đối diện lại tuyệt nhiên không phát ra hơi thở.

Bạch Thế Kính nín hơi nghe ngóng. Y nội lực cao thâm, công phu tu tập đã dày, có thể nghe được tiếng hô hấp của bất kỳ ai, nhưng người trước mặt thật sự không hô hấp gì cả. Một lúc lâu sau, người kia vẫn không thở, nếu là người sống thì làm sao có thể không hô hấp? Bạch Thế Kính bắt đầu nghe tiếng tim mình đập mỗi lúc một rõ, lồng ngực rung động mạnh, trái tim tưởng như muốn nhảy ra ngoài. Y không nhẫn nại nổi, quát lên một tiếng xông vào, vung trùy đâm tới tấp vào mặt đối phương.

Người kia vung tay trái gạt Bạch Thế Kính ra ngoài, tay phải nhanh như chớp chộp thẳng vào yết hầu y. Bạch Thế Kính đã đề phòng đối phương sử dụng Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ, liền hụp đầu xuống, lòn dưới nách đối phương để tránh. Người kia không đuổi theo, vẫn đứng trơ trơ ở ngạch cửa như một bức tượng. Bạch Thế Kính lại phóng trùy đâm vào đùi đối phương, y vọt thẳng lên để tránh.

Mã phu nhân thấy người kia thân hình cứng đơ, lúc nhảy lên không co đầu gối. Bất giác mụ la hoảng: “Quỉ nhập tràng! Quỉ nhập tràng!”

Gã kia nặng nề rơi xuống, chân chạm đất nghe “bịch” một tiếng. Bạch Thế Kính sợ nổi da gà, tự hỏi: “Giả tỷ người này là cao thủ võ học, lẽ nào nhảy lên rơi xuống lại vụng về như que củi? Không lẽ trên thế gian có quỉ nhập tràng thực ư?”.

Bạch Thế Kính hơi nhợn, nhưng rồi lại xông lên, chiếc trùy đâm vùn vụt luôn ba nhát vào hạ bàn. Người kia quả nhiên đầu gối cứng ngắc không gập lại được, người ngay đơ nhảy lên tránh đòn. Xem chừng y không thể bước được. Bạch Thế Kính đâm bên trái, y nhảy qua bên phải, đâm bên phải, y lại nhảy qua bên trái mà né tránh. Bạch Thế Kính phát giác được nhược điểm của đối phương rồi, trong lòng bớt sợ nhưng càng để ý càng nhận thấy đây không phải là người sống. Lão mấy lần thay đổi thế trùy cho biến ảo tinh diệu, nhưng thân pháp đối phương tuy vụng về mà vẫn không sao đâm trúng được.

Đột nhiên, Bạch Thế Kính cảm thấy sau gáy mát rượi, một bàn tay to tướng lạnh như băng đè lên cổ lão. Lão giật mình, xoay trùy đâm ngược lại. “Vèo” một tiếng, ngọn trùy đâm vào quãng không, bàn tay to lớn của người kia đã chộp được gáy lão rồi. Toàn thân Bạch Thế Kính liền mềm nhũn không còn cử động được nữa, chỉ còn thở lên hồng hộc. Mã phu nhân sợ quá la hoảng: “Thế Kính! Thế Kính! Chàng ra sao rồi?” Bạch Thế Kính chẳng còn hơi sức mà trả lời, chỉ thấy nội lực toàn thân theo bàn tay to lớn đang nắm nơi cổ mà tuôn ra.

Lại một bàn tay to tướng nữa cứng như sắt, lạnh như băng, sờ lên mặt Bạch Thế Kính, đó quả không phải tay người, không có một chút hơi ấm nào. Bạch Thế Kính nhịn không nổi, cố kêu lên: “Quỉ nhập tràng! Quỷ nhập tràng!” Thanh âm lão cực kỳ thê thảm rùng rợn. Bàn tay từ trên trán từ từ vuốt dọc xuống, đến ngang mắt thì dừng lại, hai ngón tay sờ sờ vào mí mắt. Bạch Thế Kính sợ muốn ngất đi, đối phương chỉ nhấn mạnh một chút là đôi tròng mắt bị móc ra. Thế nhưng bàn tay lạnh buốt đó lại từ từ sờ xuống dưới, đến mũi, đến miệng, lại từ từ sờ xuống dưới, sau cùng ngừng lại nơi yết hầu. Hai ngón tay lạnh ngắt kẹp vào yết hầu y, từ từ xiết lại.

Bạch Thế Kính sợ đến nửa mê nửa tỉnh, kêu lên: “Đại Nguyên huynh đệ! Tha mạng cho ta! Tha mạng cho ta!” Mã phu nhân hét lên: “Chàng… chàng nói gì thế?” Bạch Thế Kính tiếp tục năn nỉ: “Đại Nguyên huynh đệ ơi! Mọi sự đều do chủ ý của con dâm phụ này, nó bắt ta phải làm, chứ ta… chứ ta không can dự gì đến.” Mã phu nhân giận dữ nói: “Chủ ý của ta thì đã sao nào? Mã Đại Nguyên! Hồi ngươi sống trên thế gian cũng chỉ là cái bị thịt, chết đi thì làm được cái quái gì? Lão nương không sợ ngươi đâu?”

Bạch Thế Kính thấy khi mình mở miệng kể tội tình nhân thì cổ họng dễ thở một tí, nhưng vừa ngậm miệng thì bàn tay băng giá lại từ từ bóp vào. Lão nghe Mã phu nhân cũng gọi tên Mã Đại Nguyên, lại càng tin đây chính là quỉ nhập tràng, liền kêu lớn:“Đại Nguyên huynh đệ! Tha mạng cho ta! Phu nhân của huynh đệ coi trộm di lệnh của Uông bang chủ, năm lần bảy lượt kêu huynh đệ tiết lộ bí mật thân thế của Kiều Phong, huynh đệ nhất định không chịu nên mụ ta… mụ ta mới nảy ra ý gia hại.”

Tiêu Phong đứng ngoài nghe mà choáng váng. Chàng không tin thế gian này có quỉ thần, đoán rằng người bí mật kia là một cao thủ võ lâm, cố ý giả thần lộng quỉ để cho Mã phu nhân và Bạch Thế Kính khiếp sợ hoang mang, phun ra những điều ám muội. Quả nhiên Bạch Thế Kính vì khủng hoảng mà thú nhận, theo lời y thì Mã Đại Nguyên bị hai người giết hại. Mã phu nhân chủ mưu hạ sát thân phu, chính là vì mụ muốn tiết lộ thân thế chàng nhưng Mã Đại Nguyên không chịu. Rồi chàng tự hỏi: “Sao bà ta lại căm hận mình đến thế? Vì cớ gì mụ quyết lật đổ mình? Giả tỷ mụ muốn lang quân lên làm bang chủ thì sao lại giết đi?”

Mã phu nhân rít lên: “Mã Đại Nguyên! Ngươi lại bóp chết ta đi! Ta chán cái thứ vô dụng như ngươi lắm rồi, đồ tiểu quỉ chẳng làm được chuyện gì?”

Nghe thấy tiếng sào sạo nho nhỏ, chỗ xương sụn nơi cổ họng Bạch Thế Kính đã bị bóp vỡ một miếng. Bạch Thể Kính vùng vẫy hết sức nhưng không sao giãy ra được, tiếp theo lại có tiếng bùng bục, cổ họng lão đã bị bứt đứt. Lão muốn gào lên nhưng không hút khí vào phổi được, hai tay quơ loạn lên một lúc rồi tắt thở.

Người kia giết xong Bạch Thế Kính, xoay mình một cái đã biến mất không thấy hình bóng đâu nữa. Tiêu Phong chợt động tâm nghĩ thầm: “Người này là ai? Ta phải đuổi theo tìm hiểu cho minh bạch”. Chàng lập tức phóng ra cửa, thấy một bóng người lờ mờ đang lướt vun vút về hướng đông bắc dưới ánh trăng chiếu lên nền tuyết trắng xóa, nếu không phải nhãn lực cực tốt thì không sao thấy được.

Tiêu Phong lẩm bẩm: “Thân pháp thật là ghê gớm.” Chàng cúi xuống vỗ vào vai A Tử đang nằm dưới chân để giải huyệt, nghĩ thầm: “Mã phu nhân không biết võ công, tiểu cô nương này thừa sức giải cứu phụ thân.” Chàng không kịp giải huyệt cho ba người kia, vội vàng rảo bước phóng theo người bí mật.

Tiêu Phong ra sức chạy thật nhanh, đến khi khoảng cách còn hơn chục trượng mới nhìn rõ. Đây quả là một võ lâm cao thủ, bây giờ đôi chân không còn cứng đơ như quỷ nhập trang nữa, bộ pháp khinh khoái chăng khác gì lướt trên mặt tuyết. Võ công của Tiêu Phong bắt nguồn từ phái Thiếu Lâm, lại được Uông bang chủ của Cái Bang dạy dỗ, thuần túy dương cương. Khi chàng ra sức chạy nhanh, cứ mỗi bước thì thân hình vọt lên không trung rồi tung mình tới, mỗi lần xa hơn một trượng. Tư thế không tiêu sái tuấn nhã, nhưng chạy đường trường thật là hiệu quả, chàng cố đuổi một lúc khoảng tàn nửa nén nhang, cự ly chỉ còn chừng một trượng.

Tốc độ người đằng trước đột nhiên tăng vọt lên, thay đổi thân pháp chẳng khác gì cánh buồm thuận gió xuôi dòng, chốc lát đã bỏ Tiêu Phong lại một quãng xa. Tiêu Phong kinh hãi nghĩ thầm: “Người này quả là giỏi thật, phải vào hạng nhất nhì trong võ lâm, hèn gì chỉ cất tay là giết được Bạch Thế Kính.”

Tiêu Phong là một kỳ tài võ học thuộc loại trời sinh. Hai vị sư phụ của chàng Huyền Khố đại sư cùng Uông bang chủ võ công cao cường thật, song cũng chưa phải nhân vật đặc biệt. Võ công chàng vượt xa cả hai sư phụ, chẳng khác nào màu xanh xuất từ màu lam mà đẹp hơn màu lam, những chiêu thức bình thường vào tay chàng sử dụng cũng phát sinh uy lực ghê gớm. Những người biết chàng đều bảo đấy là do thiên phú, không thể do truyền thụ hay khổ luyện mà được. Bản thân Tiêu Phong cũng không hiểu tại sao, nhưng chiêu nào chàng đã học là biết, đã biết là tinh tường, đến khi lâm địch lại tự nhiên biến hóa một cách xảo diệu. Có điều ngoài võ học ra, bất cứ đọc sách hay thủ công gì gì, chàng cũng chỉ vào hạng bình thường chẳng có chi đặc biệt hơn người. Bình sinh Tiêu Phong ít gặp địch thủ, nhiều người nội lực tham hậu hơn, chiều số biến hóa hơn chàng, nhưng khi chiến đấu thật sự đến lúc khẩn yếu, đều thất bại dưới tay chàng chỉ một chiêu nửa thức. Tuy họ thua mà vẫn tâm phục khẩu phục, biết mình không phải là địch thủ, nên trước nay chưa có ai đi kiếm chàng để trả thù rửa hận.

Lúc này bỗng dưng Tiêu Phong gặp được một địch thủ khinh công cao cường như thế, bất giác hùng khí bốc lên ngùn ngụt, chàng gia tăng cước bộ vọt lên. Hai người một trước một sau chạy vùn vụt về hướng đông bắc. Tiêu Phong thủy chung vẫn không sao đuổi kịp mà người kia cũng không bứt đi được. Một giờ, rồi hai giờ sau, hai người đã chạy trên một trăm dặm nhưng khoảng cách hai bên vẫn như cũ.

Lại thêm nửa giờ nữa, trời bừng sáng, tuyết cũng đã ngưng đổ, có tiếng gà gáy xao xác. Tiêu Phong nhìn thấy xa xa dưới chân núi có một thị trấn nhà cửa san sát như bát úp. Chàng nổi cơn thèm rượu bèn cất tiếng gọi to: “Vị huynh đài chạy trước ơi! Ta mời các hạ uống hai chục bát rượu, rồi lại chạy nữa, được chăng?” Người kia không đáp, lại càng chạy nhanh hơn, Tiêu Phong cười nói: “Các hạ ra tay hạ thủ tên gian phu Bạch Thế Kính, thực là một bậc anh hùng hảo hán. Tiêu mỗ chịu thua, khinh công không bằng được. Chúng ta đi uống rượu, không tỉ thí nữa, được không?” Tuy vừa chạy vừa nói nhưng bước chân chàng vẫn không chậm lại chút nào.

Người kia đột nhiên dừng bước, nói: “Kiều Phong uy chấn giang hồ, quả nhiên danh bất hư truyền. Miệng nói mà chân khí vẫn vận dụng được như thường, thực là anh hùng, thực là hào kiệt.”

Tiêu Phong nghe thanh âm ông ta mơ hồ không rõ, nhưng dường như hơn tuổi mình nhiều, liền nói: “Tiền bối quá khen! Vãn bối trèo cao, muốn được kết giao bằng hữu, chẳng hiểu tiền bối có vui lòng chăng?” Người kia thở dài: “Ta già rồi, chẳng được việc gì nữa. Ngươi đừng đuổi nữa, chỉ chạy thêm một giờ là ta phải chịu thua.” Lão dứt lời liền chậm rãi đi thẳng.

Tiêu Phong định chạy theo nói chuyện thêm, nhưng chỉ một bước đã dừng lại, nghĩ bụng: “Y đã bảo ta đừng đuổi nữa”. Chàng nghĩ đến quần hào Trung Nguyên coi mình chẳng ra gì, e rằng người này cũng khinh bỉ dân Khất Đan, đành đứng nhìn theo bóng y dần dần mất hút vào rừng cây, trong bụng cảm thán: “Người này khinh công tuyệt diệu, nội lực có thừa. Mình chưa được thấy mặt thực là đáng tiếc.” Chàng lại nghĩ: “Thanh âm của y mơ hồ, hiển nhiên cố ý đổi giọng cho ta khỏi nhận ra. Đến cả tiếng nói y còn không cho mình biết, huống chi là nhìn mặt?”.

Tiêu Phong đứng thẫn thờ một lúc mới đi vào thị trấn, tìm một tửu điếm nhỏ gọi rượu ngồi uống, cứ một hai bát lại vỗ bàn than thở: “Hảo nam nhi? Hảo hán tử! Đáng tiếc! Đáng tiếc!”

Tiêu Phong nói “hảo nam nhi, hảo hán tử” là khen ngợi người kia võ nghệ cao cường, hạ sát tên gian nhân Bạch Thế Kính thật là gọn ghẽ, còn “đáng tiếc” là cảm khái mình không được giao kết cùng y. Xưa nay chàng quý bằng hữu như tính mạng, từ ngày ra khỏi Cái Bang, kết thâm cừu với quần hào Trung Nguyên, bao nhiêu bằng hữu trước đây mất sạch. Chàng trong bụng u uất buồn phiền, hôm nay được gặp một anh hùng võ công không kém gì mình, mà vô duyên không được kết giao, đành uống rượu tiêu sầu. Thế nhưng bao nhiêu nghi vấn tích chứa bấy lâu nay đã giải quyết gần hết, trong lòng cũng có phần nhẹ nhõm.

Tiêu Phong uống hơn hai chục bát rượu thấy cũng đã đủ, liền gọi tính tiền rồi nghĩ thầm: “Đoàn Chính Thuần không biết đã thoát hiểm chưa. Bọn Nguyễn Tinh Trúc, Tân Hồng Miên bị ta điểm huyệt không hiểu có gặp chuyện gì không, mình phải quay lại xem mới được”. Chàng liền rảo bước chạy trở về.

Lần này không dùng hết sức nên chàng chạy chậm hơn nhiều, về đến Mã gia thì đã quá ngọ. Bọn Nguyễn Tinh Trúc không còn trên bãi tuyết ngoài nhà, chắc là A Tử đã đưa họ vào. Chàng đẩy cửa bước vào, thấy thi thể Bạch Thế Kính nằm cong queo bên cạnh cửa, còn Đoàn Chính Thuần không thấy đâu. Một phụ nữ nằm phục bên cạnh giường, người đầy huyết tích, chính là Mã phu nhân.

Mụ ta nghe có tiếng chân người liền quay đầu ra, thều thào nói: “Làm ơn làm phước, mau lại giết ta đi.” Tiêu Phong thấy mặt mụ xám ngắt trông thật xấu xí, chỉ qua một đêm đã già đi đến hai ba chục tuổi. Chàng bèn hỏi: “Đoàn Chính Thuần đâu?” Mã phu nhân đáp: “Con… con ác nhân đó cứu y đi rồi. A…” Đột nhiên mụ ta kêu thét lên, thanh âm lanh lảnh nghe đến chói tai. Tiêu Phong bất ngờ, giật nảy người, lùi lại một bước hỏi: “Bà làm sao thế?” Mã phu nhân thở hổn hển, nói: “Ngươi… ngươi là Kiều… bang chủ?” Tiêu Phong gượng cười đáp: “Ta có còn là bang chủ Cái Bang đâu, chẳng lẽ bà lại không biết?” Mã phu nhân nói: “Phải rồi! Ngươi đúng là Kiều bang chủ. Làm ơn làm phước giết ta mau đi!” Tiêu Phong nhíu mày nói: “Ta không định giết bà. Bà mưu sát thân phu, sẽ có người trong Cái Bang đến xử lý chuyện này.”

Mã phu nhân năn nỉ: “Ta… ta không chịu đựng được nữa rồi. Thủ đoạn của con tiểu tiện nhân đó độc ác quá. Ta… ta thành ma quỉ sẽ không tha cho nó. Ngươi… ngươi nhìn kỹ ta đây này…”

Bà ta nằm phục trong xó tối không trông rõ, Tiêu Phong nghe nói thế bèn ra mở cửa sổ cho ánh nắng chiếu vào nhà. Chàng vừa liếc mắt nhìn Mã phu nhân đã bất giác run lên. Bả vai, cánh tay, ngực, đùi, chỗ nào cũng bị dao khoét, kiến bu đầy vào các vết thương. Tiêu Phong nhìn là biết ngay các đường gân trên tứ chi đều bị cắt đứt cả rồi, không còn cử động gì được. Giả tỷ người bị điểm huyệt, sau khi khai thông huyệt đạo lại cử động được như thường, còn gân cốt đứt hết rồi thì không chữa được, từ nay thành phế nhân. Chàng vẫn chưa hiểu sao trên các vết thương lại có kiến bâu vào.

Mã phu nhân thều thào nói: “Con tiện tì cắt đứt gân cốt tay chân ta, rồi lại lấy dao rạch khắp người, đem… đem nước đường… nước đường đổ lên, bảo là để dụ cho kiến bu vào đốt, bắt ta cực khổ mấy ngày, đế ta sống không được chết không xong, nó mới cam lòng.

Tiêu Phong biết rằng nếu mình nhìn vào vết thương của bà ta một lần nữa là sẽ nôn vọt ra ngay. Chàng không phải là người mềm yếu, nhưng có giết người đốt nhà thì cũng làm cho mau lẹ, không đành lòng hành hạ địch nhân. Chàng thở dài một tiếng, xuống bếp xách lên một thùng nước dội lên người bà ta để kiến bò đi, đỡ được cái nhức nhối bị cắn xé.

Mã phu nhân nói: “Đa tạ! Ngươi thật là tốt bụng, nhưng ta không sống được nữa đâu. Ngươi làm phước chém ta một nhát cho xong.” Tiêu Phong hỏi: “Ai hành hạ bà?” Mã phu nhân nghiến răng đáp: “Là một con tiểu tiện nhân, tuổi mới độ mười lăm mười sáu mà tâm địa cùng thủ đoạn đã độc ác đến thế!” Tiêu Phong thất kinh kêu lên: “Là A Tử ư?” Mã phu nhân đáp:“Đúng rồi! Ta nghe con giặc cái kia bảo nó giết ta đi cho xong. Nhưng cái con A Tử khốn kiếp lại muốn hành hạ ta từ từ, bắt ta chịu muôn vàn khổ sở để báo thù cho phụ thân, để cho mẫu thân tiết hận.”

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Lúc nãy ta chỉ sợ hai mụ Tần Nguyễn nổi cơn ghen giết mất Mã phu nhân, không còn ai để điều tra. Ngờ đâu con tiểu a đầu A Tử lại ra tay độc ác đến thế.” Chàng nhíu mày nói: “Trước kia Đoàn Chính Thuần có tình ý với bà, tuy bà muốn giết y, nhưng không lẽ y thấy con gái tàn ác như thế mà không cản hay sao?”

Mã phu nhân đáp: “Y mê man chẳng biết gì, cũng bởi… cũng bởi Thập Hương Mê Hồn Tán mà ra.”

Tiêu Phong gật đầu đáp: “Thì ra là thế. Y là một tay hảo hán trắng đen minh bạch, lẽ nào dung túng cho con gái hành sự nhẫn tâm như thế? Thế còn mấy người đàn bà kia thì sao rồi?” Mã phu nhân rên rỉ: “Đừng hỏi nữa! Mau giết ta đi!” Tiêu Phong hừ một tiếng rồi nói: “Nếu bà không trả lời tử tế, ta lại lấy mật bôi lên vết thương rồi phủi tay bỏ đi, để bà ra sao thì ra.” Mã phu nhân đáp: “Bọn đàn ông các ngươi là phường độc ác, đứa nào cũng long lang dạ thú…” Tiêu Phong hỏi lại: “Thế bà ám hại Mã đại ca, thủ đoạn không ác độc hay sao?” Mã phu nhân lạ lùng: “Sao… sao người lại biết? Ai nói với người chuyện đó?”

Tiêu Phong lạnh lùng đáp: “Ta hỏi bà, không phải bà hỏi ta. Bà năn nỉ ta, không phải ta năn nỉ bà. Nói nhanh đi!”

Mã phu nhân nói: “Được rồi! Để ta nói cho người nghe. Con tiểu tiện nhân A Tử hành hạ ta, mẹ nó luôn mồm quát mắng bảo thôi nhưng con nhãi khốn kiếp đó chỉ cười hì hì không nghe. Mẹ nó chẳng hiểu bị ai điểm huyệt, không cử động được. Lát sau có năm sáu thuộc hạ của Đoàn Chính Thuần tới nơi, A Tử ôm cha mẹ nó và mẹ con Tân Hồng Miên từng người một ra khỏi nhà, nhưng không cho ai vào để họ khỏi nhìn thấy ta. Bọn thuộc hạ của Đoàn Chính Thuần đỡ bọn chúng lên ngựa rồi đi mất.”

Tiêu Phong gật đầu, nghĩ bụng: “Té ra bọn Đoàn Chính Thuần được thuộc hạ đưa đi rồi. Còn ba người bị ta điểm huyệt, vài giờ nữa sẽ tự động giải khai, ta không cần để ý tới làm gì.” Mã phu nhân nói: “Ta nói hết rồi. Ngươi… ngươi mau mau giết ta đi.” Tiêu Phong nói: “Bà chưa nói hết đâu. Bà muốn sống thì khó lắm, mà muốn chết cũng chẳng dễ chút nào. Nói tiếp đi, vì cớ gì mà bà giết Mã đại ca?”

Cặp mắt Mã phu nhân phóng ra những tia sáng hung dữ. Mụ hỏi lại: “Ngươi không hỏi không được hay sao?” Tiêu Phong đáp: “Đúng thế, không hỏi không được! Ta là một tên nam nhi ương ngạnh, lòng dạ cứng như đá, không có chuyện thương xót bà đâu.”

Mã phu nhân hừ một tiếng rồi nói: “Ngươi tưởng ta chưa biết hay sao? Hôm nay ta đến nông nỗi này cũng do người mà ra. Ngươi ngông cuồng tự đại, là đồ súc sinh coi người bằng nửa con mắt. Bọn mọi rợ Khất Đan không bằng heo chó, sau này chết xuống mười tám tầng địa ngục tất bị ác quỉ hành hạ thảm khốc. Ngươi cứ lấy mật bôi vào vết thương ta đi, có gì mà không dám? Ngươi là đồ chó má, là quân khốn nạn…” Mụ thóa mạ mỗi lúc một độc địa, hiển nhiên trong lòng oán hận đã lâu không có dịp phát tiết, càng chửi càng tuôn ra những câu tục tĩu chướng tai, có vần có điệu, có lớp có lang, không sao tưởng tượng nổi.

Tiêu Phong từ nhỏ đã hòa mình trong Cái Bang, những lời thô tục nghe đã quen tai, mỗi khi chàng uống rượu với bọn ăn mày cũng thường nói bậy chửi càn. Nhưng chàng quả thực không ngờ con người ôn nhu văn nhã như Mã phu nhân lại biết thóa mạ tệ hại đến thế, có những câu trước nay chàng chưa từng nghe thấy bao giờ.

Tiêu Phong nín thinh chẳng nói chẳng rằng, để mặc bà ta chửi cho sướng miệng. Mặt mụ đang tái mét, chửi bới hả hê một hồi má đỏ bừng lên, ánh mắt đầy vẻ thỏa mãn. Mụ chửi thêm một chập nữa, thanh âm nhỏ dần, sau cùng nói: “Thằng chó má Kiều Phong kia! Ngươi hại ta đến nỗi này, để sau này xem quả báo thế nào.” Tiêu Phong bình tĩnh hỏi: “Bà chửi xong chưa?” Mã phu nhân đáp: “Ta nghỉ một chút rồi sẽ chửi tiếp. Ngươi là thứ chó đẻ không cha không mẹ, lão nương còn một hơi thở là còn chửi, không bao giờ xong được.”

Tiêu Phong nói: “Không sao, bà cứ chửi nữa đi. Ta gặp bà lần đầu là ở rừng hạnh ngoài thành Vô Tích, lúc đó Mã đại ca đã bị giết rồi. Trước đó ta không hề biết bà là ai, sao bà lại bảo là ta hại bà đến nỗi này?”

Mã phu nhân hậm hực đáp: “Ái chà! Ngươi bảo lần đầu gặp ta là ở rừng hạnh ngoài thành Vô Tích ư? Con mẹ ngươi, ngươi là đồ tự cao tự đại, tưởng mình là người võ công số một trên đời rồi kiêu ngạo không coi ai ra gì nữa.” Rồi mụ lại thóa mạ một thôi một hồi nữa.

Tiêu Phong cứ để mặc mụ ta chửi mắng cho sướng miệng, đến khi nghe tiếng chửi nhỏ dần mới hỏi lại: “Bà chửi xong chưa?” Mã phu nhân lại hậm hực đáp: “Ta đã bảo là vĩnh viễn không xong. Ngươi… người có mắt như mù, giả tỷ người có là hoàng đế, ta cũng chẳng coi vào đâu.” Tiêu Phong đáp: “Đúng thế! Dẫu ta có là hoàng đế thì bà cũng chẳng cần phải nể nang. Mà thuở nay chẳng bao giờ ta cho rằng mình thiên hạ vô địch, ngay người… người lúc nãy võ công cũng cao hơn ta nhiều.”

Mã phu nhân chẳng cần biết chàng nói tới ai, vẫn luôn mồm thóa mạ một chập nữa rồi nói: “Ngươi bảo lần đầu thấy mặt ta là ở ngoài thành Vô Tích ư? Hứ, thế ở hội Bách Hoa trong thành Lạc Dương ngươi cũng chưa gặp ta hay sao?”

Tiêu Phong ngạc nhiên, cuộc hội Bách Hoa tại Lạc Dương diễn ra đã hai năm rồi. Chàng cùng các huynh đệ Cái Bang có đi dự hội, xai quyền làm lệnh uống rượu một bữa say sưa thoải mái, nhưng dường như đâu có gặp bà ta, liền hỏi: “Hôm ấy Mã đại ca cũng đến, nhưng có giới thiệu bà đâu?”

Mã phu nhân chửi liền: “Ngươi là cái thá gì? Chẳng qua chỉ là đầu đảng của bọn ăn mày chứ đã là gì? Hôm đó trong ngày hội Bách Hoa, ta đứng bên khóm thược dược hoa vàng, bao nhiêu anh hùng hảo hán đến dự hội, có ai không đứng ngơ ngẩn nhìn ta? Có ai nhìn ta mà không điên đảo thần hồn? Chỉ một mình ngươi tự cho là quân tử không ham nữ sắc, chẳng thèm để mắt ngó ngàng đến ta. Nếu thật sự ngươi không thấy ta thì ta cũng chẳng trách. Ngươi rõ ràng có nhìn thấy, vậy mà chỉ đảo mắt qua chẳng thèm ngừng lại chút nào, xem ta chẳng khác gì bọn con gái bình thường. Ngươi là đồ ngụy quân tử, đồ vô liêm sỉ, đồ mặt dày không biết thẹn.”

Tiêu Phong hơi nhớ ra, bèn nói: “Phải rồi! Hình như hôm đó quả có vài phụ nữ ở cạnh khóm thược dược. Lúc đó ta còn lo uống rượu, hơi đâu mà đi xem mẫu đơn thược dược với cả đàn bà con gái? Giả tỷ có bậc nữ lưu anh hiệp tiền bối, đương nhiên ta phải lại bái kiến. Còn bà là bậc chị dâu, ta không nhìn bà cũng có chi là thất lễ? Cớ sao bà lại hận ta về chuyện đó?”

Mã phu nhân hầm hầm nhìn ông nói: “Người quả là đồ có mắt không tròng. Bao nhiêu anh hùng hảo hán tiếng tăm lừng lẫy, ai cũng chăm chú nhìn ta từ đầu đến gót chân. Bao nhiêu người đức cao vọng trọng, không dám nhìn thẳng vào mặt ta thì cũng chờ lúc không ai để ý mà liếc trộm ta vài cái. Chỉ một mình ngươi, hừ, hơn một nghìn đàn ông trong hội Bách Hoa, chỉ một mình ngươi thủy chung không nhìn ta lấy một lần. Ngươi là bang chủ Cái Bang, là anh hùng hảo hán vang danh thiên hạ. Trong hội Bách Hoa thành Lạc Dương, nói về đàn ông dĩ nhiên ngươi đứng đầu, còn trong đàn bà thì ta là số một. Ngươi không thèm nhìn ta cái nào thì ta còn tự hào được là mình đẹp hay không? Còn hả lòng hả dạ được nữa hay không?”

Tiêu Phong thở dài, nói: “Từ nhỏ ta đã không thích tán tỉnh con gái, tuổi càng lớn càng ít dòm ngó nữ nhân, nào có phải chỉ mình bà đâu. Có người đẹp gấp trăm lần bà, lúc ban đầu ta không để ý đến, sau này thì lại chậm mất rồi…”

Mã phu nhân rít lên: “Sao? Có người đẹp gấp trăm lần ta ư? Người đó là ai?” Tiêu Phong đáp: “Nàng là con gái Đoàn Chính Thuần, tỉ tỉ của A Tử.” Mã phu nhân nhổ nước bọt đánh toẹt một cái, khinh khỉnh nói: “Hừ! Thứ đàn bà đê tiện nói đến chỉ bẩn mồm…” Mụ chưa dứt lời đã bị Tiêu Phong túm tóc nhấc lên liệng mạnh xuống đất, nói: “Ngươi còn dám thốt ra nửa câu bất kính với nàng, hừ, ta sẽ cho ngươi biết thế nào là thủ đoạn tàn khốc.”

Mã phu nhân bị ông ném một cái tưởng muốn ngất đi, xương cốt toàn thân kêu răng rắc. Thế mà mụ cất tiếng cười khanh khách, nói: “Thế ra… thế ra Kiều đại anh hùng, Kiều đại bang chủ cũng bị mê hoặc rồi, ha ha, ha ha, tức cười đến chết được. Ngươi mất chức bang chủ Cái Bang liền tính ngay ngôi phò mã trong phủ Trấn Nam Vương. Kiều bang chủ ơi, vậy mà ta cứ tưởng tiên nga giáng thế ngài cũng không thèm nhìn chứ.”

Tiêu Phong hai gối nhũn ra ngồi phịch xuống ghế, từ từ nói: “Ta chỉ mong được nhìn nàng lần nữa, nhưng… nhưng… không thể được.” Mã phu nhân cười khẩy nói: “Sao thế? Một thân võ công như ngươi không lẽ không giành được nó hay sao?”

Tiêu Phong lặng lẽ lắc đầu, hồi lâu chàng mới buồn rầu đáp: “Dù có bản lĩnh nghiêng trời, cũng không giành lại nàng được nữa.” Mã phu nhân khoái trá hỏi gặng: “Sao vậy? Ha ha!” Tiêu Phong khẽ đáp: “Nàng chết rồi!”

Mã phu nhân nín cười, trong lòng cũng hơi bùi ngùi, cảm thấy gã Kiều bang chủ cao ngạo này cũng có ba phần đáng thương. Nhưng lập tức mụ chuyển sang vui mừng, càng lúc càng thích chí.

Tiêu Phong thấy khuôn mặt rạng rỡ của mụ liền hiểu rằng mình càng đau lòng mụ càng khoái trá. Chàng đứng dậy nói: “Ngươi mưu sát thân phu, chết là đáng lắm. Còn muốn nói gì nữa không?” Mã phu nhân tưởng Tiêu Phong định giết mình, đột nhiên thấy sợ chết, van nài: “Ngươi… bang chủ… tha cho, xin đừng giết ta.” Tiêu Phong đáp: “Ta không cần hạ thủ giết ngươi đâu.” Nói rồi xoay người đi ra.

Mã phu nhân thấy chàng không hề quay đầu nhìn, lại tức giận lớn tiếng mắng: “Tên Kiều Phong chó má kia! Ta nói cho ngươi hay. Năm xưa ta hận ngươi không thèm nhìn ta nên mới xúi Mã Đại Nguyên khui gốc tích của ngươi ra. Mã Đại Nguyên nhất định không chịu, ta mới bảo Bạch Thế Kính giết hắn. Hôm nay ngươi… ngươi đối với ta cũng chẳng chút động tâm.”

Tiêu Phong quay mặt lại, lạnh lùng đáp: “Ngươi mưu sát thân phu chỉ vì ta không chịu nhìn ngươi ư? Hừ, chuyện vô lý đến thế ai mà tin nổi?” Mã phu nhân nói: “Ta chết đến nơi rồi, còn gạt ngươi làm gì nữa? Ngươi khinh mạn ta, ta có cách gì tiết hận đâu? Lũ ăn mày xem ngươi như thần như thánh, khắp thiên hạ còn ai dám động đến ngươi? Thế nhưng trời cao có mắt, ta thấy trong cái rương sắt của Mã Đại Nguyên có di thư của Uông bang chủ. Ta xem trộm thư rồi lại bỏ trở vào như cũ, không làm tổn thương đến dấu niêm phong, cũng chẳng khó gì. Ngươi đoán thử xem trong lòng ta có sướng không? Ha ha, thật là cơ hội bằng vàng, ta phải cho ngươi thân bại danh liệt, không còn ra vẻ ta đây anh hùng hảo hán gì nữa. Ta xúi Mã Đại Nguyên tố cáo cho mọi người biết ngươi là giống mọi rợ Khất Đan, khiến ngươi mất ngôi bang chủ Cái Bang, khiến ngươi không còn chỗ đứng ở Trung Nguyên, cái mạng chó của ngươi không chừng cũng mất nốt.”

Mụ ta không còn động đậy được nữa, rõ ràng chẳng còn cách nào hại người, nhưng Tiêu Phong nghe những lời ác độc không khỏi lạnh người. Chàng hừ một tiếng rồi nói: “Phải chăng Mã đại ca không nghe lời ngươi nên ngươi mới giết y?” Mã phu nhân đáp: “Đúng thế! Chẳng những y không nghe lời mà còn chửi ta một trận, bảo là từ nay không cho ra khỏi cửa, tiết lộ một tiếng thì sẽ băm vằm ta ra. Y trước nay coi ta còn hơn cha mẹ, có bao giờ dám nổi đóa như thế đâu? Ta có coi y ra chó gì, y dám hỗn với lão nương như thế thì chỉ tổ thiệt thân. Hơn một tháng sau Bạch Thế Kính đến chơi, hôm đó mười bốn tháng tám, lão ở lại ăn tết Trung Thu. Y liếc mắt nhìn ta một cái, lại một cái nữa, hừ hừ, lão già hiếu sắc. Ta thả cho một chút là lão mê tít ngay. Ta bảo lão giết tên vô tích sự Mã Đại Nguyên, lão không chịu, ta dọa sẽ kêu lên là bị lão cưỡng gian. Lão già dịch đó bề ngoài thì mặt sắt gan lim, thế mà với lão nương thì chuyện xấu xa bẩn thỉu tới đâu cũng làm. Ta bảo lão: Chàng giết Mã Đại Nguyên rồi, thiếp từ nay thuộc về chàng. Nếu chàng không chịu thì đánh chết thiếp đi cho xong. Đời nào lão bỏ được ta, bèn ngoan ngoãn giết Mã Đại Nguyên.”

Tiêu Phong thở dài, nói: “Bạch Thế Kính là một tay hảo hán gang thép như thế, vậy mà cũng bị hại về tay ngươi. Chắc ngươi cũng cho Mã huynh đệ uống Thập Hương Mê Hồn Tán, rồi bảo Bạch Thế Kính bóp nát yết hầu, đổ tội cho Cô Tô Mộ Dung dùng Tỏa Hầu Cầm Nã Thủ giết y phải không?” Mã phu nhân đáp: “Phải đó? Ha ha! Chẳng làm vậy thì làm thế nào? Có điều Cô Tô Mộ Dung gì gì đó là do thằng già ôn dịch nghĩ ra, ta đâu có biết.”

Tiêu Phong gật đầu. Mã phu nhân nói tiếp: “Ta bảo lão già hiếu sắc đứng ra tố cáo thân thế của ngươi. Ái chà, thằng cha già dịch đó còn ráng giữ nghĩa khí, bị ta ép quá, rút dao ra toan tự tận. Ta đành buông tha y, đi kiếm thằng ma cô Toàn Quan Thanh. Lão nương chỉ cho nó ngủ chung ba tiếng là bảo gì nghe nấy, hung hăng vỗ ngực tuyên bố nhất định thành công. Nhưng ta nghĩ chắc một mình thằng chó Toàn Quan Thanh không lật nổi ngươi, nên mới đi mời Từ trưởng lão ra mặt. Còn những việc về sau thì ngươi đã biết rồi, bất tất phải nói nữa.”

Nghi vấn cuối cùng trong lòng Tiêu Phong đã được giải tỏa. Chàng đã hiểu vì sao Toàn Quan Thanh chủ mưu phản mình, còn Bạch Thế Kính lại bị loạn đảng bắt giữ, chỉ hỏi thêm: “Cái quạt của ta là do Bạch Thế Kính lấy cắp phải không?” Mã phu nhân đáp: “Không phải thế. Lão già hiếu sắc nói là giá nào y cũng không làm chuyện không phải với ngươi. Đó là Toàn Quan Thanh dụ được Trần trưởng lão xiêu lòng, đợi ngươi rời khỏi nhà lẻn vào ăn cắp.” Tiêu Phong nói: “Đoàn cô nương cải trang làm Bạch Thế Kính, đến ta cũng không nhìn ra, thế mà ngươi phát hiện được là phải rồi.”

Mã phu nhân ngạc nhiên hỏi lại: “Con bé đó là con gái Đoàn Chính Thuần, là người trong mộng của ngươi đấy ư? Nó có đẹp thật không?” Tiêu Phong không đáp, ngửng đầu nhìn về phía chân trời.

Mã phu nhân nói: “Chà chà! Con ranh ấy đáo để thật, làm ta sợ đến mất vía, còn nói rằm tháng tám gì gì, chính là ngày giỗ Mã Đại Nguyên. Thế nhưng về sau ta khẽ hỏi vài mẩu chuyện phong tình. Ta nói trăng trên trời vừa tròn vừa sáng, hôm đó lão già hiếu sắc đáp lại là: Cặp bánh dầy ở trên người nàng còn tròn hơn, trắng hơn cả trăng trên trời. Ta hỏi con bé đó thích ăn bánh Trung Thu nhân ngọt hay nhân mặn, hôm đó cha già dịch nói là: Cái bánh của nàng vừa thơm tho như bánh ngọt vừa đậm đà như bánh mặn. Con nhãi kia trả lời đầu Ngô mình Sở, lập tức cơ mưu bại lộ ngay.”

Bây giờ Tiêu Phong mới hiểu tại sao hôm đó Mã phu nhân lại nhắc tới chuyện trăng tròn và bánh Trung Thu, thì ra tối hôm mười bốn tháng tám năm ngoái, mụ ta thông gian cùng Bạch Thế Kính, hai bên nói năng tục tĩu. Mã phu nhân cười sằng sặc nói: “Kiều Phong! Ngươi giả trang thật là tệ hại. Ta biết con nhãi đó là đồ giả mạo, bèn để ý tới nhà ngươi. Ha ha, làm gì mà ta chẳng nhận ra ngay là Kiều bang chủ? Ta đang muốn giết Đoàn Chính Thuần, mượn luôn tay ngươi thật là tiện lợi đủ đường.”

Tiêu Phong nghiến răng nói: “Đoàn cô nương vì ngươi mà chết, món nợ đó ta phải tính vào ngươi.” Mã phu nhân đáp: “Đó là tại nó đến gạt ta trước chứ có phải ta đi tìm nó đâu, bất quá chỉ tương kế tựu kế mà thôi. Giả tỷ nó không đến kiếm ta, ta sẽ đợi Bạch Thế Kính lên làm bang chủ Cái Bang, rồi tìm cách cho Cái Bang gây thù kết oán với họ Đoàn Đại Lý, gã Đoàn Chính Thuần chẳng chóng thì chầy cũng không thoát khỏi tay ta.”

Tiêu Phong nói: “Ngươi quả là ác độc! Phu quân của ngươi, ngươi cũng giết. Đàn ông đã từng tư tình với ngươi, ngươi cũng giết. Cả người không muốn nhìn dung mạo ngươi, ngươi cũng muốn giết nốt.” Mã phu nhân đáp: “Không nhìn mỹ nhân trước mắt thì nhìn gì nữa? Chẳng lẽ ta không đẹp hay sao? Trên đời này ta chưa thấy ai ngụy quân tử như ngươi.” Mụ nói đến chỗ đắc ý, hai má ửng hồng ra chiều phấn chấn, nhưng khí lực càng lúc càng suy, nhiều lúc phải nói nhát gừng không mạch lạc được.

Tiêu Phong nói: “Ta hỏi người một câu cuối cùng. Cái gã Thủ lĩnh đại ca viết thư cho Uông bang chủ là người nào thế? Ngươi đã đọc lá thư đó rồi, chắc chắn phải biết ai ký tên ở dưới.” Mã phu nhân cười rộ lên đáp: “Ha ha! Kiều Phong ơi là Kiều Phong, bây giờ thì ngươi năn nỉ ta hay là ta năn nỉ ngươi? Mã Đại Nguyên chết rồi, Từ trưởng lão chết rồi, Triệu Tiền Tôn chết rồi, Thiết diện pháp quan Đơn Chính chết rồi, Đàm công Đàm bà chết rồi, Trí Quang đại sư núi Thiên Thai cũng viên tịch nốt. Bây giờ chỉ còn ta và chính Thủ lĩnh đại ca biết được người đó là ai thôi.”

Tim Tiêu Phong đập càng lúc càng nhanh, chàng hạ giọng nói: “Đúng thế. Bây giờ đến lúc Tiêu mỗ phải cầu khẩn phu nhân. Xin phu nhân nói cho hay họ tên người đó.”

Mã phu nhân hỏi lại: “Ta sắp chết rồi, ngươi đền đáp ta bằng cách gì?” Tiêu Phong đáp: “Bất luận phu nhân sai bảo chuyện gì, sức Tiêu mỗ làm được thì quyết không từ chối.” Mã phu nhân mỉm cười đáp: “Ta còn mong gì nữa? Kiều Phong! Ta hận ngươi không chịu nhìn ta, từ đó gây ra bao nhiêu tai họa. Người muốn biết tên của Thủ lĩnh đại ca cũng chẳng khó gì, chỉ cần ôm ta vào lòng, chiêm ngưỡng ta một lúc là được.”

Tiêu Phong nhíu cặp lông mày, trong lòng hết sức khó chịu. Thế nhưng trên đời chỉ còn mụ ta biết được cái đại bí mật này, mối huyết hải thâm cừu của mình có báo được hay không chỉ trông vào miệng mụ nói ra mấy tiếng. Đừng nói bà ta bắt làm chuyện khó khăn nguy hiểm, mà dẫu là chuyện xấu xa bỉ ổi, chàng cũng phải miễn cưỡng mà làm. Bây giờ mụ chỉ còn thoi thóp, không biết tắt thở lúc nào, lấy uy mà bức bách, lấy lợi mà cám dỗ cũng đều vô dụng. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Nếu ta khăng khăng không chịu, đến lúc mụ thở hắt ra thì kẻ đại cừu giết song thân từ nay không thể biết nữa. Ta ôm mụ lên, nhìn mụ mấy cái phỏng có hại gì?”. Chàng bèn nói: “Thôi được, ta bằng lòng.”, rồi cúi xuống bế Mã phu nhân vào lòng, đôi mắt đăm đăm nhìn vào mặt mụ.

Lúc đó mặt mụ ta đầy vết máu, dính vô số đất cát bụi bặm, lại chịu đau khổ đọa đày suốt một đêm, dung nhan tiều tụy trông rất khó coi. Tiêu Phong ôm mụ đã là miễn cưỡng, lại phải nhìn bộ mặt giống như quỷ sứ, không khỏi chau mày.

Mã phu nhân giận dữ hỏi: “Sao? Phải chăng người chán ghét không muốn nhìn ta?” Tiêu Phong đành đáp cho xuôi: “Không phải thế.” Chàng nói mấy lời này không thực lòng. Bình thời dù gặp việc nguy nan đến đâu, chàng cũng không bao giờ nói dối, nhưng tình trạng hiện tại vạn bất đắc dĩ đành phải bụng nghĩ một đằng miệng nói một nẻo.

Mã phu nhân dịu dàng nói: “Nếu thật chàng không chán ghét, thì cúi xuống hôn thiếp một cái đi.” Tiêu Phong nghiêm mặt đáp: “Không thể được! Bà là phu nhân của Mã đại ca, Tiêu mỗ biết điều nghĩa khí, khi nào dám sàm sỡ với quả phụ của huynh đệ cùng bằng hữu?” Mã phu nhân nũng nịu nói: “Ôi chao! Chàng biết điều nghĩa khí với anh em, sao lại ôm thiếp vào lòng…”

Lúc đó bên ngoài cửa sổ có tiếng cười khúc khích, rồi có thanh âm nói vọng vào: “Tên Kiều Phong quả là mặt dày! Ngươi đã giết tỉ tỉ ta rồi, lại tính chuyện ngoại tình, ôm ấp hôn hít tình nhân của gia gia ta, không biết xấu hay sao?” Người nói câu đó chính là A Tử.

Tiêu Phong tự vấn lương tâm không có điều gì đáng thẹn, chẳng thèm để ý câu nói lăng nhăng của đứa trẻ chưa hiểu việc đời. Chàng giục Mã phu nhân: “Bà nói mau đi, cho ta biết Thủ lĩnh đại ca là ai?”

Mã phu nhân hờn dỗi nói: “Sao thiếp bảo chàng nhìn mặt thiếp, mà chàng lại quay đầu đi?” Thanh âm đầy vẻ ỏn thót cám dỗ.

Lúc đó A Tử đã bước vào phòng, cười hỏi: “Ngươi còn chưa chết ư? Cái mặt ngươi bây giờ giống như ma quỉ, còn tên đàn ông nào dám nhìn nữa?” Mã phu nhân hốt hoảng: “Sao? Sao? Ngươi… ngươi bảo ta giống như ma quỉ ư? Gương đâu? Gương đâu? Đưa ta chiếc gương!” Thanh âm của mụ đầy vẻ kinh hoàng. Tiêu Phong lại giục: “Nói mau lên! Nói mau lên, rồi ta sẽ lấy gương cho bà mượn.”

A Tử tiện tay cầm lấy chiếc gương đồng sáng choang trên bàn, đưa ra trước mặt Mã phu nhân, cười nói: “Gương đây, người tự nhìn xem có đẹp hay không?”

Mã phu nhân nhìn vào trong gương, thấy khuôn mặt mình đầy máu me bụi bặm, lại đủ các vẻ hoảng hốt, dữ tợn, độc ác, oán hờn, Bao nhiêu là xấu xa khả ố hiện cả lên đầu mày khoé mắt, còn đâu là vẻ xinh tươi của một mỹ nhân sắc nước hương trời, ai gặp cũng phải điên đảo thần hồn? Bà trợn ngược mắt, rồi không sao nhắm lại được nữa. Mã phu nhân một đời tự hào về nhan sắc, ngờ đâu lúc sắp lìa trần lại thấy mình xấu xa đến thế.

Tiêu Phong nói: “A Tử! Cất gương đi, đừng chọc tức bà ta nữa.” A Tử cười khanh khách đáp: “Ta muốn mụ xem đã giống ma quỉ hay chưa.” Tiêu Phong nói: “Nếu cô chọc bà ấy tức uất lên mà chết thì thật hỡi ôi.” Chàng thấy Mã phu nhân không cử động nữa, tiếng thở hổn hển cũng im bặt, vội vàng đưa tay lên mũi mụ, hóa ra đã tắt hơi thật rồi. Tiêu Phong kinh hãi la lên: “Trời ơi! Không xong, mụ chết mất rồi!” Giọng chàng hoảng hốt, tựa như trời đang sập xuống.

A Tử bĩu môi nói: “Không lẽ ngươi thích mụ ta thật sao? Cái loại đàn bà như thế chết đi, có gì mà phải la lối om sòm.” Tiêu Phong dậm chân đáp: “Hừ! Cô còn trẻ con biết gì? Ta đang hỏi mụ một chuyện, trên đời này chỉ còn một mình mụ biết. Nếu cô không đến phá rối thì mụ đã nói ra rồi.” A Tử kêu lên: “Úi chà! Hóa ra ta làm hỏng việc của ngươi rồi phải không?”

Tiêu Phong thở dài, nghĩ bụng: “Người chết không sống lại được, ta có nổi nóng cũng chẳng đến đâu. Con nhãi ranh A Tử này mất dạy từ bé, song thân nó còn không quản được, nói chi người ngoài?” Chàng nghĩ đến A Châu bèn bỏ qua chuyện này, đành đặt thi thể Mã phu nhân xuống giường rồi nói: “Thôi vậy. Chúng ta ra ngoài!”

Tiêu Phong xem qua trong nhà thấy không còn ai, bà lão giúp việc không biết đã trốn đâu. Chàng bèn lấy đồ đánh lửa ra, xuống đốt kho chứa củi, chỉ chốc lát ngọn lửa đã bốc lên cao.

Hai người đứng ở bên ngoài nhìn những lưỡi lửa từ trong cửa sổ liếm ra. Tiêu Phong hỏi: “Sao cô không về với gia gia má má đi?” A Tử đáp: “Không được! Ta không về với gia gia má má đâu. Bọn thuộc hạ của ông ấy, tên nào gặp ta cũng trợn mắt, nghiến răng, coi bộ rất khả ố. Ta bảo gia gia giết sạch chúng đi, ông ta nhất định không thèm nghe, thật là tệ hại.”

Tiêu Phong nghĩ bụng: “Ngươi làm chết Chử Vạn Lý, dĩ nhiên bằng hữu của y phải hận ngươi. Đoàn Chính Thuần khi nào lại nghe lời ngươi mà giết đám thuộc hạ trung nghĩa được? Chính ngươi tệ hại, lại nói gia gia ngươi tệ hại, đúng là giọng lưỡi trẻ con mất nết.” Chàng bèn đáp: “Thôi! Ta đi đây!” Nói xong, trở gót đi về hướng bắc.

A Tử gọi: “Này, này! Gượm đã, chờ ta với!” Tiêu Phong dừng bước, quay lại hỏi: “Bây giờ cô đi đâu? Có về chỗ sư phụ không?” A Tử đáp: “Không đâu! Bây giờ ta không dám về chỗ sư phụ.” Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi: “Sao lại không dám? Chắc lại gây ra chuyện gì rồi ư?” A Tử đáp: “Không phải gây chuyện, mà là ta lấy một cuốn sách của sư phụ, bây giờ quay về thể nào cũng bị đòi lại. Ta phải luyện cho xong đã, rồi sư phụ có lấy lại cũng không sao.” Tiêu Phong nói: “Sách luyện võ ư? Sao cô không xin sư phụ cho đọc một chút, thể nào người chẳng bằng lòng? Hơn nữa nếu cô tự luyện nhất định sẽ có nhiều chỗ nghi vấn, có sư phụ bên cạnh chỉ điểm có phải hơn không?” A Tử bĩu môi đáp: “Sư phụ ta đã bảo không là không, có năn nỉ cũng vô ích.”

Tiêu Phong thật sự không ưa cô bé tính nết giảo quyệt này, sư phụ cô ta là Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu cũng là ác ma có tiếng. Chàng không muốn dây dưa với hạng người đó, bèn nói: “Được rồi! Bây giờ cô muốn làm gì thì làm, muốn đi đâu thì đi, ta không can thiệp vào việc của cô nữa.” A Tử hỏi: “Thế bây giờ ngươi đi đâu?”.

Tiêu Phong nhìn căn nhà họ Mã đang cháy đùng đùng, thở dài nói: “Ta chỉ muốn đi báo thù, nhưng lại không biết kẻ thù là ai. Suốt kiếp này, ta đành ôm hận ngàn thu, mối thù đó không trả được nữa.” A Tử kêu lên: “Ái chà! Ta hiểu rồi, chỉ một mình Mã phu nhân biết, mà mụ lại bị ta chọc tức mà chết, nên từ này ngươi không còn biết được kẻ thù là ai. Khoái quá, khoái quá! Kiều bang chủ uy danh lừng lẫy, vậy mà bị ta trói chân trói cẳng không làm gì được.”

Tiêu Phong đưa mắt nhìn A Tử, thấy cô ta gieo rắc tai họa càng nhiều lại càng hớn hở đắc chí. Khuôn mặt cô bé rạng rỡ dưới ánh lửa bập bùng trông thật dễ thương, có ai ngờ đâu dưới khuôn mặt ngây thơ kia lại chỉ toàn là ác ý. Lửa giận bốc lên, chàng định tát cho con nhãi này một phát đích đáng, nhưng chợt nhớ lại A Châu lúc lâm chung chỉ cầu khẩn mình chiếu cố cho cô muội tử duy nhất. Chàng lẩm bẩm: “Cả đời A Châu chỉ xin ta một chuyện, lẽ nào ta lại không làm? Muội tử của nàng dâu là kẻ đại gian đại ác, thì ta cũng phải hết sức đưa về chính đạo, huống gì nó chỉ là một con bé ngang ngược láo lếu chưa hiểu chuyện đời”

A Tử hất mặt lên trời, hỏi lại: “Sao đấy? Ngươi định đánh chết ta ư? Sao không đánh đi? Ngươi đã đánh chết tỉ tỉ ta rồi, giết nốt ta đi cũng có sao đâu?”

Mấy câu này như mũi dao nhọn đâm vào tim Tiêu Phong. Chàng chua xót trong lòng, không còn biết nói sao, cắm đầu rảo bước đi trên con đường tuyết phủ, không ngoảnh cổ lại nữa.

A Tử cười nói: “Này! Khoan đã, ngươi đi đâu thế?” Tiêu Phong đáp: “Ta không thể sống ở Trung Nguyên nữa, mối thù giết cha giết mẹ cũng không còn báo được. Bây giờ ta ra ngoài biên ải, từ nay không quay lại nữa.” A Tử nghiêng đầu hỏi: “Ngươi định đi đường nào?” Tiêu Phong đáp: “Ta ra Nhạn Môn Quan.” A Tử vỗ tay reo lên: “Hay lắm! Ta định đi Tấn Dương, thì ra cùng đường với ngươi.” Tiêu Phong hỏi lại: “Cô đi Tấn Dương để làm gì? Đường xa ngàn dặm, một cô gái bé nhỏ không nên đi một mình.” A Tử cười đáp: “Hừ, đường sá xa xôi có gì mà sợ? Ta từ Tinh Tú Hải về đến đây còn xa hơn nhiều. Mà ta đi cùng ngươi, sao lại bảo là đi một mình?” Tiêu Phong lắc đầu đáp: “Ta không đi với cô đâu.” A Tử hỏi: “Sao thế?” Tiêu Phong đáp: “Ta là nam nhân, còn cô là con gái ít tuổi, ngày đi đêm ngủ có điều bất tiện.” A Tử đáp: “Ngươi nói chuyện tức cười. Ta không khó chịu thì thôi, việc gì ngươi lại thấy bất tiện? Ngươi cùng tỉ tỉ ta, cũng là một nam một nữ ngày đi đêm ngủ, đường xa muôn dặm có sao đâu?”

Tiêu Phong hạ giọng đáp: “Ta cùng tỉ tỉ cô đã ước định hôn nhân, không phải quan hệ tầm thường.” A Tử vỗ tay cười nói: “Trời ơi, thế mà ta nghĩ không ra! Ta cứ tưởng A Châu tỉ tỉ giữ gìn nghiêm ngặt lắm, có ngờ đâu ngươi chẳng khác gì gia gia, tỉ tỉ chẳng khác gì má má, chưa kết nghĩa phu thê đã ăn ở với nhau rồi.” Tiêu Phong giận dữ quát lên: “Cô không được nói bừa. Tỉ tỉ cô cho đến chết vẫn là một cô nương băng thanh ngọc khiết. Ta đối với nàng vừa kính vừa trọng, một mực thủ lễ.” A Tử thở dài, nói: “Ngươi la lối quát mắng phỏng có ích gì? Tỉ tỉ ta có thanh khiết hay không thì cũng bị ngươi đánh chết rồi. Thôi, chúng ta đi.”

Tiêu Phong lại nghe nhắc đến chuyện mình lỡ tay đánh chết A Châu, trong lòng đau như cắt. Chàng ôn tồn dỗ dành A Tử: “Thôi, cô về Tiểu Kính Hồ với má má đi. Nếu không thì kiếm chỗ nào tĩnh mịch mà luyện thành công phu trong sách, rồi về với sư phụ. Đi Tấn Dương chơi có gì thích thú đâu?” A Tử nghiêm mặt đáp: “Chẳng phải ta đi chơi đâu, có chuyện trọng đại phải làm đấy chứ?

Tiêu Phong vẫn lắc đầu nói: “Ta không đi với cô.” Nói xong, chàng rảo bước đi thẳng. A Tử thi triển khinh công đuổi theo, vừa chạy vừa gọi: “Đợi ta với! Đợi ta với!” Tiêu Phong không lý gì đến cô nàng, cứ lầm lì mà chạy.

Một lúc sau, gió bấc bắt đầu thổi mạnh, tuyết lại rơi xuống. Tiêu Phong xông pha gió tuyết mà đi, nhớ đến mối thù sâu tựa biển không còn cách nào trả được, trong lòng uất hận vô cùng nhưng lực bất tòng tâm, đành gác bỏ không nghĩ tới.

Hồi 25: Nén thương đau, đạp tuyết lên đường

Tiêu Phong đi chừng hơn mười dặm, thấy một cái miếu nhỏ bên cạnh đường liền ghé vào, ngồi dựa vào vách ngủ một giấc. Đến hơn hai giờ chàng mới tỉnh dậy, hết cả mệt mỏi, lại tiếp tục đi về hướng bắc, thêm bốn chục dặm nữa thì đến một thành trì quan trọng của miền bắc là Trường Đài quan.

Việc đầu tiên là chàng đi kiếm một tửu điếm, vào gọi mười cân rượu, hai cân thịt bò, một con gà quay, ngồi ăn uống một mình, uống hết mười cân lại gọi thêm năm cân nữa. Đang uống bỗng nghe có tiếng chân người vào quán, chính là A Tử. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Con ranh này đến đây làm mình hết cả hứng uống rượu.” Chàng liền quay mặt đi, giả vờ không nhìn thấy.

A Tử tủm tỉm cười, ngồi ngay vào bàn đối diện với chàng, hô to: “Đem rượu cho ta!” Một tên tửu bảo lật đật chạy đến, cười nói: “Tiểu cô nương! Cô cũng uống rượu ư?” A Tử quát luôn: “Cô nương là cô nương, sao lại phải thêm chữ tiểu vào? Ta mà không uống rượu được ư? Mau dọn cho ta mười cân rượu, hai cân thịt bò, một con gà quay, nhớ chuẩn bị năm cân rượu nữa đề phòng ta gọi thêm. Mau lên!”

Tên tửu bảo rụt đầu lè lưỡi, kêu lên: “Ối mẹ ôi! Cô nương nói thật hay nói chơi đấy? Cô bé bỏng thế này làm gì mà ăn uống được nhiều thế?” Y vừa nói vừa liếc Tiêu Phong, nghĩ thầm: “Chắc cô nương này đang trêu chọc ông ta, gọi đồ ăn uống giống hệt.”

A Tử hỏi lại: “Ngươi không có mắt hay sao mà bảo ta còn bé? Hay là người sợ ta không có tiền trả?” Nói xong, nàng móc ra một đĩnh bạc, vứt lên bàn cạch một tiếng, nói: “Ta ăn uống không hết, còn thừa thì cho chó ăn. Việc gì đến ngươi mà phải lôi thôi?” Gã tửu bảo cười cầu tài, nói: “Vâng! Vâng!” Gã liếc Tiêu Phong một cái, nghĩ thầm: “Cô này đang kiếm chuyện, nói bóng gió để mắng ông đó”.

Lát sau rượu thịt đã dọn lên, gã tửu bảo lấy một cái bát lớn đặt trước mặt cô gái, cười nói: “Cô nương! Để tiểu nhân rót rượu cho nhé!” A Tử gật đầu nói: “Được lắm!” Tên tửu bảo rót đầy một bát rượu, nghĩ thầm: “Cô nàng uống hết bát rượu này mà không lăn kềnh ra sàn nhà thì mới là chuyện lạ.”

A Tử bưng bát rượu lên, kê vào môi nhắp một chút, nhăn mặt nói: “Cay quá! Cay quá! Thứ rượu này uống tệ quá lắm. Giả tỉ trên đời không có mấy tên bợm nhậu ngu ngốc thì rượu các ngươi biết bán cho ai?” Tên tửu bảo lại liếc trộm Tiêu Phong một cái, thấy chàng vẫn mặc kệ không nhìn đến, không khỏi cười thầm.

A Tử lại xé chiếc đùi gà, cắn một miếng rồi la lên: “Trời ơi! Thịt hôi quá!” Tên tửu bảo cãi ngay: “Con gà vừa béo vừa thơm nức mũi thế này, hồi sáng còn kêu cục cục, thịt tươi nguyên nóng sốt, sao lại hôi được?” A Tử nói: “Hừ! Thế thì thân thể ngươi hôi, nếu không thì khách khứa trong quán này hôi thối.” Lúc đó ngoài trời tuyết đang bay trắng xóa, trên đường chẳng có ai, trong tửu điếm chỉ có hai người khách là Tiêu Phong và A Tử. Tên tửu bảo vội cười: “Là tiểu nhân hôi thối, đương nhiên là tiểu nhân hôi thối. Cô nương ăn nói nên cẩn thận, kẻo vô ý đắc tội với người ta.”

A Tử đáp: “Đắc tội thì đã sao? Không lẽ người ta đánh ta một chưởng chết ngay ư?” Nói xong, nàng lại cầm đũa gắp thịt bò cắn một miếng, chưa kịp nhai đã nhổ toẹt xuống sàn, kêu lên: “Trời ơi, thịt này cũng hôi quá, không phải thịt bò mà đúng là thịt người. Đây đúng là hắc điếm!”

Tên tửu bảo luống cuống vội nói: “Chao ôi, cô nương làm ơn đừng có la to như thế. Đây là thịt bò tươi, sao cô lại bảo là thịt người? Thịt người gì mà thớ to như thế? Màu sắc đâu được đỏ tươi như thế này?” A Tử nói: “Thì ra ngươi biết cả màu sắc lẫn thớ thịt ngươi, giỏi lắm! Ta hỏi thật, hắc điếm này đã giết bao nhiêu người khách rồi?” Gã hầu bàn gượng cười đáp: “Vị cô nương này thích nói đùa quá. Trường Đài quan phủ Tín Dương là một thị trấn lớn, bọn tiểu nhân mở quán đã trên sáu chục năm, làm gì có chuyện giết người bán thịt?”

A Tử nói: “Được rồi! Nhưng nếu không phải thịt người thì cũng là thịt con gì hôi không chịu nổi, chỉ có mấy tên điên khùng mới ăn được. Ái chà, đi ngoài trời tuyết, giày mau dơ quá.” Nói rồi cô ta cầm một miếng thịt bò xào đang bốc hơi thơm phức, chà lên chiếc giày bên trái. Mũi giày đầy bùn được cô ta lau một cái liền sạch trơn, bóng lộn mỡ màng.

Gã tửu bảo thấy cô gái đem miếng thịt to tướng đã nấu nướng công phu để lau giày, xót ruột quá, đứng một bên không ngớt thở dài. A Tử hỏi: “Ngươi ấm ức gì thế?” Tên tửu bảo đáp: “Từ trước tới nay, thịt bò xào của tiểu điếm vẫn được coi là món ngon nhất Trường Đài trấn, trong vòng một trăm dặm, ai ai nhắc tới cũng giơ ngón tay cái lên ca ngợi rồi nuốt nước miếng ừng ực. Thế mà cô nương lại đem lau giày, thế là… thế là…” A Tử trừng mắt hỏi: “Thế là sao?” Gã tửu bảo đáp: “Thế là cô nương coi khinh quá.” A Tử nói: “Ngươi bảo ta coi khinh đôi giày ư? Thịt cũng là thịt bò, da đóng giày cũng là da bò, có bên nào khinh bên nào trọng đâu? Quán này còn món gì ngon nữa không, nói nghe thử xem nào.” Tên tứu bảo đáp: “Món ngon thì dĩ nhiên là có, nhưng chỉ đắt tiền thôi.” A Tử lấy trong bọc ra một đĩnh bạc nữa, quăng lên bàn kêu cạch một tiếng, hỏi lại: “Đã đủ chưa?”

Tên tửu bảo thấy đĩnh bạc đó nặng tới năm lượng, dư tiền hai mâm rượu thịt, vội vàng cười nịnh: “Đủ rồi, đủ rồi, dư nữa là khác. Những món nổi tiếng của tiểu điếm có cá chép hấp rượu, thịt cừu nướng xắt lát, thịt heo chưng tương…” A Tử ngắt lời: “Tốt lắm, làm cho ta mỗi thứ ba đĩa.”

Tên tửu bảo nói: “Nếu cô nương muốn nếm qua, thì mỗi thứ gọi một đĩa cũng đủ rồi.” A Tử sầm mặt xuống nói: “Ta bảo lấy ba đĩa, thì ngươi cứ lấy ba đĩa, việc gì phải nói tới nói lui?” Tửu bảo vội đáp: “Vâng! Vâng!” Rồi y ngân nga gọi xuống nhà bếp: “Cá chép hấp rượu ba đĩa… a… Thịt cừu nướng xắt lát ba đĩa… a…”

Tiêu Phong ngồi bên cạnh vẫn thản nhiên. Chàng biết cô nàng này kiếm chuyện với tên tửu bảo chỉ cốt đợi mình can thiệp, nên cứ tỉnh bơ như không nghe không thấy, ngắm tuyết phơi phới bay mà uống rượu.

Một lúc sau, nhà bếp bưng ba đĩa thịt cừu thơm phức lên. A Tử nói: “Ngươi để đây một đĩa, đem một đĩa qua mời vị huynh đài bên kia, còn một đĩa để ở bàn trống bên cạnh. Bàn đó cũng sắp đũa bát, để sẵn rượu ngon cho ta.” Tên tửu bảo hỏi lại: “Cô nương còn có khách sắp đến hay sao?” A Tử trừng mắt nói: “Ngươi thật là lắm chuyện, coi chừng ta cắt lưỡi đó.” Gã tửu bảo thè lưỡi ra cười, đùa lại: “Chỉ e cô nương không đủ bản lĩnh cắt cái lưỡi của tiểu nhân.”

Tiêu Phong không khởi động lòng, liếc y một cái nghĩ thầm: “Ngươi dám trêu vào con tiểu ma đầu này, muốn tìm cái chết hay sao?”

Tửu bảo bưng một đĩa thịt cừu qua đặt lên bàn Tiêu Phong, chàng chẳng nói năng gì, cầm đũa gắp ăn. Lát sau, cá chép hấp rượu cùng thịt heo chưng tương cũng đem lên mỗi thứ ba đĩa, một đĩa cho Tiêu Phong, một đĩa cho A Tử, còn một đĩa để ở bàn trống bên cạnh. Tiêu Phong không từ chối, hễ dọn lên là ăn uống tự nhiên. A Tử chỉ nếm mỗi đĩa một miếng rồi chê: “Hôi quá, thịt hôi thối quá, chỉ đáng cho chó ăn.” Rồi lại gắp thịt cừu, cá chép, thịt heo xát vào đôi giày. Tên tửu bảo nhìn mà xót ruột, nhưng không làm gì được.

Tiêu Phong nhìn ra cửa sổ, nghĩ thầm: “Con tiểu ma đầu này thật là khó chịu, nó cứ bám theo mình thì hậu hoạn không biết đến đâu mà kể. A Châu dặn ta chiếu cố cho nó, nhưng con quỷ sứ này đã thành tinh rồi, tự lo cho mình thừa sức, chẳng cần đến ta phải nhọc lòng. Ta cứ làm như không thấy ả, tránh đi trước là hơn.”

Vừa nghĩ đến đây, bỗng chàng thấy trên con đường đầy tuyết một người đang đi tới. Trời lạnh ngắt mà y chỉ mặc phong phanh một mảnh áo đơn bằng vải gai màu vàng, tưởng chừng không biết lạnh là gì, chỉ chốc lát đã đến gần. Tiêu Phong thấy y trạc bốn mươi tuỗi, đeo hai cái khuyên tai lớn bằng vàng sáng choang, mũi to như mũi sư tử, miệng rộng đến mang tai. Tướng mạo y vừa dữ dằn vừa kỳ quái, rõ ràng không phải người Trung Nguyên,

Hắn đến trước cửa quán, vén màn bước vào, nhìn thấy A Tử thì có vẻ ngạc nhiên rồi lại mừng rỡ. Dường như gã định nói gì lại thôi, ngồi vào một cái bàn trống. A Tử bảo: “Sẵn rượu thịt đấy, sao không ăn đi?” Người kia thấy một chiếc bàn bày đầy thức ăn nhưng không có người, liền nói: “Sư muội để dành cho ta đấy ư? Đa tạ nhé.” Gã nói xong đi đến bàn đó ngồi xuống, lấy trong bọc ra một lưỡi dao nhỏ cán vàng, cắt thịt bò ra rồi lấy tay bốc ăn, cứ ăn vài miếng lại uống một bát rượu lớn, tửu lượng hình như cũng khá.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Thì ra gã này cũng là đồ đệ của Tinh Tú Lão Quái”. Chàng vốn không ưa tướng mạo cùng cử chỉ của tên này, nhưng thấy y uống rượu không tệ nên lại thấy không hoàn toàn chán ghét.

A Tử thấy y uống hết một bình rượu, bèn nói với gã tửu bảo: “Đem bát rượu này qua cho vị huynh đài kia.” Cô nói xong, thò hai tay vào bát rượu trước mặt, rửa hết dầu mỡ dính trên tay, rồi đẩy cái bát ra. Tên tửu bảo nghĩ thầm: “Bát rượu này làm sao uống được nữa?”.

A Tử thấy y ngần ngừ không dám bưng bát rượu đi, liền giục: “Mau bưng đi! Bên kia người ta đang đợi mi đó.” Gã tửu bảo cười: “Cô nương lại nói giỡn rồi. Bát rượu này ai mà dám uống?” A Tử vênh mặt lên nói: “Không uống được ư? Ngươi chê tay ta bẩn ư? Đã thế thì người uống một hớp, ta cho ngươi một đĩnh bạc.” Cô nói xong, cho tay vào bọc lấy ra một đĩnh bạc chừng một lượng, ném xuống bàn. Tên tửu bảo cả mừng, nói: “Uống một hớp rượu được một lượng bạc, thế thì lời quá. Đừng nói bát rượu này cô nương mới rửa tay, mà dẫu có rửa cái gì tiểu nhân cũng dám uống.” Nói xong gã bưng bát rượu lên, hớp một ngụm lớn.

Ngờ đâu rượu vào trong mồm chẳng khác nào một cục sắt nung đỏ gí vào lưỡi, gã tửu bảo đau rát không chịu nổi, rống lên một tiếng rồi há hốc mồm phun rượu ra tung tóe, hai chân nhảy chồm chồm, vừa giãy giụa vừa la: “Trời ơi! Ối cha ơi! Ối mẹ ơi!” Tiêu Phong thấy vậy cũng giật mình, tiếng la của y càng lúc càng khó nghe, tựa hồ đầu lưỡi đã sưng lên rồi.

Mọi người trong quán từ chưởng quĩ đến đầu bếp, hỏa công, cùng những tên tửu bảo khác chạy cả ra, rối rít hỏi: “Cái gì vậy? Cái gì vậy?” Tên tửu bảo không nói được nữa bèn thè lưỡi ra, ai cũng thấy đầu lưỡi sưng to gấp ba lần bình thường, đen sạm lại. Tiêu Phong lại càng kinh ngạc, lẩm bẩm: “Tựa hồ gã bị trúng phải kịch độc. Con tiểu ma đầu chỉ thò tay vào bát rượu một lúc mà rượu đã độc đến thế.”

Mọi người thấy tình hình quái dị như vậy, ai cũng bở vía, nhốn nháo cả lên: “Trúng phải chất độc gì vậy?” “Có phải bị rết cắn không?” “Đừng chần chờ nữa, mau mau đi gọi thầy thuốc!”

Tên tửu bảo đưa tay trỏ vào A Tử, đột nhiên chạy đến trước mặt cô ta, quỳ mọp xuống dập đầu lạy binh binh, A Tử cười nói: “Ta không dám! Ngươi cầu xin ta chuyện gì?” Gã ngẩng lên, trỏ tay vào miệng mình, rồi lại dập đầu lạy tiếp. A Tử cười hỏi: “Có phải ngươi muốn ta chữa trị không?” Tên tửu bảo đau đến toát mồ hôi hột, hai tay cào khắp mình mẩy, rồi chắp tay lại dập đầu lạy tiếp.

A Tử thò tay vào bọc lấy ra một cây dao nhỏ cán vàng, giống hệt như dao của gã mũi sư tử, một tay nắm gáy tên tửu bảo, tay phải vung dao soẹt một tiếng, cắt đứt một khúc lưỡi của y. Mọi người bàng quan đều la hoảng, máu trong miệng tên tứu bảo phun ra như suối. Ban đầu gã vừa đau đớn vừa kinh hãi, nhưng chất độc theo máu chảy ra, đầu lưỡi giảm đau được vài phần, vết sưng cũng xẹp xuống. A Tử lại lấy trong bọc một chiếc bình nhỏ, mở nắp ra, dùng móng tay khều một chút bột vàng búng lên đầu lưỡi tên tửu bảo, vết thương hết chảy máu ngay.

Tên tửu bảo không dám oán hận mà cũng không thể tạ ơn, ngẩn ngơ một lúc rồi ú ớ: “Cô nương… cô nương…” Gã bị cắt mất đầu lưỡi, nói năng không rõ ràng được nữa.

A Tử lấy lại đĩnh bạc trên bàn, cười nói: “Ta hứa là ngươi uống một hớp, ta sẽ cho ngươi một đĩnh bạc. Hớp rượu khi nãy ngươi nhổ ra mất rồi, ta lấy tiền lại. Người muốn lấy tiền thì uống một hớp nữa đi.” Gã hầu bàn xua tay lia lịa, ấp úng nói: “Tiểu nhân không uống rượu, không lấy tiền nữa.” A Tử cất tiền vào bọc, cười nói: “Lúc nãy người nói gì? Hình như là: Chỉ e cô nương không đủ bản lĩnh cắt cái lưỡi của tiểu nhân. Rồi sau người lại dập đầu lia lịa xin ta cắt lưỡi. Thế thì cô nương có đủ bản lĩnh không?”

Tên tửu bảo bấy giờ mới tỉnh ngộ, mình chỉ lỡ lời một câu mà phải chịu bao nhiêu đau khổ. Gã tức giận đến cực điểm, toan xông lên đập cho cô ả một trận, nhưng hai bàn bên cạnh, bàn nào cũng có một người cao to hùng tráng, xem ra có quan hệ với cô ta, nên đâm ra khiếp đảm. A Tử lại hỏi: “Ngươi có uống rượu nữa không?” Gã hầu bàn giận dữ đáp: “Lão… lão gia…” Y toan thóa mạ mấy câu, nhưng lại sợ cô ta nổi nóng, quay mặt chạy vào trong nhà, không dám thò đầu ra nữa.

Mọi người đều xôn xao, hầm hầm nhìn A Tử một lúc rồi cũng ai làm việc nấy, một gã tửu bảo khác ra tiếp khách. Tên này rút được kinh nghiệm, nơm nớp đề phòng, không dám nói câu nào.

Tiêu Phong nóng mặt, lẩm bẩm: “Tên tửu bảo kia chỉ nói đùa một câu, vậy mà con tiểu quỷ này trừng trị gã đến tàn phế, suốt đời không nói năng rõ ràng được nữa. Mới tí tuổi đầu mà hành sự đã độc ác đến thế.”

A Tử lại gọi: “Tửu bảo, đem bát rượu này qua mời vị huynh đài kia.” Nói xong, nàng giơ tay chỉ vào gã mũi sư tử. Gã hầu bàn thấy nàng chỉ tay vào bát rượu, giật bắn người lên, nghe nàng bảo đem qua mời người khác uống, lại càng hoảng hốt. A Tử cười nói: “À, đúng rồi. Ngươi không chịu đem rượu cho khách uống, chắc là lên cơn thèm rượu chứ gì? Một bát chẳng đáng gì, ngươi cứ việc uống đi.” Tên tửu bảo sợ đến mặt cắt không ra máu, ấp úng: “Không, không… Tiểu nhân… tiểu nhân không uống.” A Tử nói: “Vậy thì mau bưng đi.” Tên tửu bảo đáp: “Vâng! Vâng!” Gã trịnh trọng bưng bát rượu, run rẩy đi qua bàn gã mũi sư tử ngồi, chỉ sợ sóng sánh rượu rớt ra tay. Gã vừa đi răng vừa đánh bò cạp, bát rượu đặt xuống bàn rung lên kêu lạch cạch.

Gã mũi sư tử bưng bát rượu bằng cả hai tay, quan sát thật kỹ, còn cách miệng chừng một thước thì ngừng lại không đưa lên nữa mà cũng không hạ xuống bàn. A Tử cười hỏi: “Nhị sư huynh, sao vậy? Tiểu muội mời sư huynh uống rượu, mà sư huynh không nể mặt ư?”

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Bát rượu này độc ghê gớm, đương nhiên gã kia không thể nghe nói khích mà mất mạng một cách hồ đồ. Dù ai có nội công ghê gớm đến đâu cũng khó mà chống nổi bát rượu độc này.” Nào ngờ gã mũi sư tử vẫn chăm chú nhìn một lúc nữa rồi đưa bát lên môi, uống ừng ực. Tiêu Phong giật mình tự hỏi: “Chẳng lẽ gã này nội lực thâm hậu tới mức hóa giải được chất kịch độc đó?”. Chàng còn đang ngẫm nghĩ, đã thấy y uống cạn, để bát xuống bàn, tiện tay chùi hai ngón tay cái còn ướt vào vạt áo. Tiêu Phong suy nghĩ một chút, tỉnh ngộ: “Đúng rồi, lúc nãy y bưng chén một hồi chưa uống, chắc là đã thò hai ngón tay cái vào, ngón tay có thuốc giải, hóa tán được chất độc trong rượu.”

A Tử thấy y uống hết bát rượu độc, vẻ mặt hoảng hốt, gượng cười nói: “Bản lĩnh hóa độc của nhị sư huynh tiến bộ rất nhiều, tiểu muội xin chúc mừng !” Gã mũi sư tử không đáp, lại ngồi ăn như rồng cuốn, chỉ một loáng thức ăn trên bàn đã mười phần hết chín, rồi giơ tay xoa bụng, đứng lên nói: “Đi thôi!” A Tử đáp: “Sư huynh cứ tự tiện, chúng ta còn có ngày tái ngộ.” Gã mũi sư tử trừng mắt nói: “Tái ngộ cái gì? Sư muội phải đi theo ta.” A Tử lắc đầu: “Tiểu muội không đi.” Nàng chạy đến bên Tiêu Phong, nói tiếp: “Tiểu muội đã hẹn với đại ca đây, cùng nhau đi Giang Nam một chuyến.”

Gã mũi sư tử lại trừng mắt nhìn Tiêu Phong, hỏi: “Thằng cha này là ai?” A Tử đáp: “Sư huynh phải nói năng cho lễ phép. Đây là tỉ phu của tiểu muội, là phu quân của tỉ tỉ tiểu muội, quan hệ rất thân thiết.” Gã mũi sư tử nói: “Ngươi ra đề mục, ta đã làm xong rồi, ngươi phải tuân lời ta. Ngươi quên mất lề luật của bản môn rồi chăng?”

Tiêu Phong nghĩ bụng: “Thì ra A Tử bảo y uống rượu độc, là đưa ra một đề mục khó khăn, không ngờ gã lại giải quyết được.”

A Tử đáp: “Tiểu muội ra đề mục hồi nào? Phải chăng sư huynh nói tới bát rượu vừa rồi? Ha ha, buồn cười đến chết được, bát rượu đó là tiểu muội trị tội gã tửu bảo. Đường đường một bậc cao đồ phái Tinh Tú lẽ đâu lại đi uống rượu thừa của một tên hầu bàn? Tên tửu bảo hạng bét kia uống cũng không chết, sư huynh uống được thì có gì là lạ? Tiểu muội muốn đánh đố sư huynh thì đâu có đưa ra đề mục dễ dàng đến thế?” Ai cũng biết cô nàng cãi chầy cãi cối nhưng muốn phản bác cũng không phải dễ.

Gã mũi sư tử nén giận, nói: “Sư phụ ra lệnh cho ta tìm sự muội rồi dẫn về. Ngươi muốn chống lại mệnh lệnh của sư phụ chăng?” A Tử cười đáp: “Nhị sư huynh ơi! Sư phụ thương tiểu muội lắm. Nhờ nhị sư huynh về bẩm lại với sư phụ là tiểu muội trên đường gặp tỉ phu, muốn cùng xuống Giang Nam du ngoạn ít bữa, tiện thể tìm ít món châu báu cổ vật mua biếu sư phụ, sau đó sẽ về.” Gã mũi sư tử lắc đầu nói: “Không được! Ngươi lấy trộm của sư phụ…” Nói đến đây y liếc qua Tiêu Phong, dường như sợ tiết lộ bí mật, ngừng lại một chút rồi tiếp: “Sư phụ nổi giận, ra lệnh tìm ngươi về ngay lập tức.” A Tử năn nỉ: “Nhị sư huynh đã biết sư phụ nổi giận, lại còn ép tiểu muội phải trở về, là muốn tiểu muội nếm mùi đau khổ chứ gì? Lần sau sư phụ trách phạt nhị sư huynh, tiểu muội không van xin giúp cho nữa đâu.”

A Tử nói câu này làm gã mũi sư tử phải động tâm, lập tức tỏ ra do dự. Chắc hẳn Tinh Tú Lão Quái cưng chiều cô ta, cô nói gì sư phụ cũng để vào tai. Gã trầm ngâm một lát rồi nói: “Nếu ngươi nhất định không chịu về thì đưa vật đó cho ta. Ta đem về báo cáo rồi nộp cho sư phụ, may ra lão nhân gia bớt giận.”

A Tử nói: “Sư huynh bảo sao? Vật đó là vật gì? Tiểu muội chẳng hiểu gì hết.” Gã mũi sư tử dằn giọng nói: “Này sư muội! Ta chưa động thủ mạo phạm đến ngươi là còn nghĩ đến tình nghĩa đồng môn. Ngươi phải biết phân biệt phải trái mới được.” A Tử cười đáp: “Đương nhiên là tiểu muội biết phân biệt phải trái. Tiểu muội mời sư huynh ăn uống là điều phải, còn sư huynh bức bách tiểu muội quay về là điều trái.” Gã mũi sư tử nói: “Đừng nhiều lời vô ích. Một là ngươi giao lại vật đó, hai là theo ta về.” A Tử đáp: “Tiểu muội không về, cũng chẳng hiểu sư huynh nói tới vật gì. Sư huynh muốn có cái gì để làm tin chăng? Được rồi…” Nàng rút cành kim thoa cài trên tóc, nói: “Chắc là sư huynh muốn có vật gì làm tin để về báo cáo với sư phụ, cầm cái thoa này là được.” Gã mũi sư tử tức giận nói: “Thế là ngươi buộc ta phải động thủ rồi.” Nói xong, y tiến lên một bước.

A Tử thấy y tỉnh bơ uống cạn bát rượu độc, rõ ràng bản lĩnh dụng độc cao hơn nàng nhiều, mà cả nội lực võ công, không môn gì nàng đối địch với y được. Phái Tinh Tú võ công hiểm độc tàn ác, đã ra tay là không có nể nang gì, đối phương trúng một đòn thì không chết cũng tàn phế suốt đời, cái chết cũng thảm khốc phi thường. Sư huynh đệ trong phái này chỉ khi tranh giành thứ hạng cao thấp mới phải đánh nhau, chứ chẳng bao giờ cùng đối chiêu luyện quyền, vì đã đối chiêu là có hơn thua, đã có hơn thua là có kẻ mất mạng. Ngay cả sư phụ dạy cho đệ tử cũng không thi triển công phu. Tinh Tú Lão Quái chỉ truyền thụ yếu quyết luyện công, sau đó đồ đệ tự mình tu luyện, không ai biết ai bản lĩnh cao thấp thế nào, chỉ đến khi đối địch mới biết ai hơn ai kém. Vừa rồi A Tử lấy rượu độc để thử thách sư huynh, cũng là theo môn qui của phái Tinh Tú. Giả tỉ gã mũi sư tử chịu thua thì phải để nàng sai khiến, đằng này gã tuyệt nhiên không do dự bưng bát rượu độc uống một hơi cạn sạch, A Tử phải nhất nhất nghe lời y, nếu không là gặp đại họa ngay. Cô nàng thấy tình thế nguy cấp, vội níu áo Kiều Phong kêu cứu: “Tỉ phu ơi, có người định giết muội, Tỉ phu cứu muội đi!”

Tiêu Phong thấy nàng gọi một điều tỉ phu hai điều tỉ phu thì không khỏi động lòng, nhớ tới di ngôn của A Châu, đã toan ra tay đuổi gã mũi sư tử đi ngay. Nhưng chàng nhìn qua, thấy mặt đất đầy máu tươi, lại nghĩ rằng A Tử đối phó với tên tửu bảo quá sức độc ác, phải để cô nàng chịu đau khổ ít nhiều mà rút kinh nghiệm. Chàng liền nhìn ra cửa sổ, làm như không biết.

Gã mũi sư tử cũng chẳng muốn động thủ với A Tử làm gì, chỉ muốn hăm dọa cho nàng sợ mà ngoan ngoãn theo về. Y bèn vươn tay phải ra chộp vào cổ tay trái Tiêu Phong.

Tiêu Phong liếc thấy đầu vai của y hơi chuyển động, biết ngay y định xuất thủ đánh mình, nhưng chàng chẳng thèm để ý, để cho y chộp lấy cổ tay. Lập tức cổ tay chàng nóng như lửa đốt, biết ngay bàn tay đối phương có tẩm thuốc độc, liền vận chân khí lên cổ tay, cười nói: “Sao thế? Các hạ muốn uống rượu với ta chăng?” Tiêu Phong đưa tay phải rót đầy hai bát rượu lớn, nói: “Xin mời!”

Gã mũi sư tử liên tiếp vận kình nhưng Tiêu Phong vẫn ung dung như không hay biết gì cả. Gã nghĩ thầm: “Ngươi đừng đắc ý vội, lát nữa sẽ biết độc chưởng của ta ghê gớm cỡ nào”. Y bèn nói: “Có rượu thì uống, sao lại không dám?” Y bưng bát rượu lên, hớp ngay một ngụm lớn. Ngờ đâu rượu vào đến cổ họng, một luồng nội khí từ dưới ngực bỗng trào ngược lên. Gã không sao nhịn được, oẹ lên một tiếng, ngụm rượu chưa nuốt đã phun ra ướt cả vạt áo đằng trước, lại còn ho sặc sụa một hồi lâu.

Tình trạng này khiến cho gã mũi sư tử phải hoảng hồn. Gã biết rằng luồng nội khí bốc ngược lên là do nội lực hùng hậu của đối phương truyền vào thân thể mình mà ra, giả tỉ đối phương muốn lấy mạng mình cũng dễ như trở bàn tay. Y kinh hãi vội buông cổ tay Tiêu Phong ra. Ngờ đâu cổ tay chàng lại hút chặt bàn tay y, muốn buông ra cũng không được. Gã sợ quá, cố sức giãy giụa, Tiêu Phong ngồi yên không nhúc nhích. Gã cố xô đẩy nhưng chẳng khác gì thạch sùng lay cột đình, chẳng ăn thua gì.

Tiêu Phong lại rót một bát rượu nữa, nói: “Vừa rồi lão huynh chưa uống rượu. Uống cạn bát này đi rồi chúng ta sẽ chia tay.”

Gã mũi sư tử lại ra sức vùng vẫy mà vẫn không thoát ra được, liền vung tay trái nhắm ngay mặt Tiêu Phong đánh ra một chưởng. Chương lực chưa đến, Tiêu Phong đã nghe thấy mùi vừa tanh vừa thối như cá ươn, liền nhẹ nhàng vung tay phải lên gạt ra. Gã đã dụng toàn lực để phát chưởng, ngờ đâu nửa chừng bị đẩy xéo đi, muốn thu về cũng không được. Y biết ngay đối phương đã dùng phép tá lực đả lực, điều khiển cánh tay trái y đánh ngược về vai phải nghe một tiếng rắc, xương vai đã trật khớp rồi.

A Tử cười nói: “Nhị sư huynh có lỗi gì đâu mà tự đánh mình mạnh như thế, chẳng nhẹ đòn chút nào. Tiểu muội thật không hiểu ý tứ sư huynh ra sao.”

Gã mũi sư tử căm hận đến cực điểm, khổ nỗi bàn tay phải đã dính vào cổ tay Tiêu Phong không gỡ ra được, còn tay trái không dám đánh tiếp chưởng thứ hai. Gã giãy giụa đến lần thứ ba vẫn không thoát, bèn vận nội lực thúc đẩy chất độc trong lòng bàn tay vào cơ thể đối phương. Ngờ đâu luồng nội lực đó vừa đến cổ tay Tiêu Phong lập tức bị hất ngược về, không ngừng tại bàn tay, mà lại tiếp tục chạy lên. Gã hoảng hồn vội vàng vận nội lực để chống đỡ. Thế nhưng luồng nội khí âm độc đó chẳng khác gì sóng biển tràn vào sông, chỉ chốc lát đã lên đến khuỷu tay, rồi đến nách, rồi từ từ tràn vào lồng ngực. Gã mũi sư tử tự biết chất độc của mình lợi hại ghê gớm, truyền vào đến tim là chết ngay. Y sợ đến mồ hôi đổ ra đầm đìa, nhỏ giọt xuống sàn nhà.

A Tử lại cười, nói: “Nội lực của nhị sư huynh thật là cao cường. Mùa đông giá rét thế này, vậy mà sư huynh vẫn tuôn mồ hôi ra được, tiểu muội khâm phục vô cùng.” Gã mũi sư tử chẳng còn lòng dạ đâu mà để ý tới câu nói châm chọc của A Tử. Gã biết mình sắp chết nhưng chẳng lẽ buông xuôi, càng ra sức chống chọi, cố duy trì được lúc nào hay lúc ấy.

Tiêu Phong nghĩ bụng: “Gã này với mình không thù không oán, tuy y vô cớ xuất thủ đánh mình thật là láo xược, nhưng cũng chưa đáng giết.” Chàng bèn thu nội lực về.

Gã mũi sư tử thấy bàn tay mình đột nhiên rút về được, luồng nội lực chứa chất độc đã đến màng ngoài trái tim lập tức phóng ngược ra lòng bàn tay. Gã nửa mừng nửa sợ, lùi lại hai bước thở hồng hộc, không dám tiến đến gần Tiêu Phong nữa.

Gã mũi sư tử đúng là chết đi sống lại, chẳng khác gì đến Quỉ Môn Quan lại quay về. Tên tửu bảo chẳng biết gì hết, lật đật đến rót rượu cho y. Gã mũi sư tử phóng ra một chưởng đánh ngay mặt tên tửu bảo, tên này chỉ kêu được một tiếng rồi ngã ngửa ra ngay. Gã vội vàng nhảy vọt ra cửa, chạy như bay về hướng tây nam. Lát sau có một hồi còi lanh lảnh, thanh âm mơ hồ từ xa truyền đến.

Tiêu Phong nhìn gã tửu bảo, thấy da mặt đen xạm lại, khí đã tuyệt rồi. Chàng không khỏi tức giận, quát lên: “Thằng này quả là khả ố, mới được tha mạng đã lại vô cớ giết người”, bèn xô cái bàn ra, toan đuổi theo. A Tử kêu lên: “Tỉ phu! Tỉ phu ngồi xuống đã, để tiểu muội nói cho nghe.”.

Giả tỉ nàng chỉ gọi Kiều bang chủ hay Tiêu đại ca gì gì thì Tiêu Phong nhất định không lý gì đến, nhưng hai tiếng tỉ phu khiến chàng nhớ đến A Châu, lòng đau như cắt, liền hỏi lại: “Sao thế?” A Tử đáp: “Nhị sư huynh không khả ố đâu. Hắn xuất thủ không đả thương được tỉ phu, chất độc chưa tán phát, không giết một người không được.” Tiêu Phong có nghe nói trong võ công tà phái có một thủ pháp gọi là tán độc, chất độc tụ vào bàn tay rồi, nếu không tống được vào thân thể địch nhân thì cũng phải đánh chết bò, ngựa hay một con vật gì khác, nếu không chất độc lại chạy ngược vào mình. Chàng bèn nói: “Nếu y muốn tán độc, sao không tìm một con vật mà đánh? Sao lại vô cớ xuất thủ giết người?” A Tử nhìn thi thể tên tửu bảo nằm dưới đất, cười nói: “Những người ngu ngốc như thế có khác gì bò ngựa, giết y cũng như giết một con vật thôi.” Cô ta nói câu đó trơn tru, tựa như chuyện xảy ra tất nhiên phải thế, chẳng có gì đáng bận tâm.

Tiêu Phong phát nổi da gà, nghĩ thầm: “Con nhãi này độc ác không có tính người, mình chiếu cố đến nó làm gì nữa?”. Chàng thấy bọn chủ quán lại chạy ra, không muốn lôi thôi, liền nhảy vọt ra khỏi tửu điếm rồi chạy về hướng bắc.

Chàng nghe tiếng chân A Tử đuổi theo, lại càng gia tăng cước bộ, chỉ mấy bước đã bỏ xa. Bỗng nghe thanh âm A Tử vọng tới, thật là mềm mại ôn nhu: “Tỉ phu ơi! Tỉ phu đợi muội với… muội không theo kịp.”

Vừa rồi Tiêu Phong đối diện nói chuyện với cô nàng, thấy vẻ mặt cử chỉ đều đáng ghét, mà bây giờ nghe thanh âm phía sau gọi tới êm ái chẳng khác gì giọng A Châu. Hai chị em cùng cha cùng mẹ, tuy mới sinh đã phân ly mà âm điệu cũng giống hệt nhau.

Tiêu Phong bàng hoàng trong dạ, dừng chân ngoảnh lại, đôi mắt rưng rưng mơ hồ thấy một thiếu nữ đang chạy trên mặt đất đầy tuyết phủ, chẳng khác gì A Châu sống lại. Bất giác chàng giang tay ra, khẽ kêu lên: “A Châu! A Châu!”

Trong chốc lát chàng tưởng mình cùng A Châu đang từ Nhạn Môn Quan quay lại Trung Nguyên, chuyện trò thân mật, má tựa vai kề. Bỗng một thân hình mềm mại sà vào lòng chàng, kêu lên: “Tỉ phu! Sao không đợi muội?”

Tiêu Phong chợt tỉnh giấc mơ, nhè nhẹ đẩy nàng ra, nói: “Cô đi theo ta làm chi?” A Tử nói: “Tỉ phu đuổi nhị sư huynh đi giúp muội, đương nhiên muội phải đến tạ ơn.” Tiêu Phong lạnh lùng nói: “Cô không cần phải cảm ơn ta. Ta cũng chẳng có ý giúp cô, mà vì hắn xuất thủ đánh ta, ta phải tự vệ để khỏi chết vì tay hắn mà thôi.” Chàng nói xong lại quay người bước đi.

A Tử chạy lên định nắm cánh tay chàng. Tiêu Phong hơi nghiêng người tránh, A Tử chộp hụt, loạng choạng ngã xiêu về phía trước. Kể ra thì cô nàng dư sức gượng dậy, nhưng được dịp nhõng nhẽo, té xuống nằm luôn trên tuyết, la to: “Ôi chao! Ngã đau đến chết người!”

Tiêu Phong biết nàng giả vờ, nhưng nghe giọng nói ôn nhu lại nhớ đến A Châu, cảm thấy trong lòng êm ái. Chàng quay lại đưa tay nắm cổ áo nàng kéo dậy. A Tử tủm tỉm cười, nói: “Tỉ phu ơi! A Châu tỉ tỉ nhờ tỉ phu chiếu cố cho muội, sao tỉ phu không nghe lời tỉ tỉ? Muội là một cô gái nhỏ lênh đênh cô khổ, bị bao nhiêu người ức hiếp, tỉ phu không ngó ngàng gì tới muội hay sao?”

Mấy câu đó nghe thật đáng thương. Tiêu Phong biết mười phần có đến chín là giả dối, nhưng vẫn không khỏi mềm lòng. Chàng hỏi lại: “Cô theo ta có ích gì đâu? Trong lòng ta u uất, không muốn nói chuyện với ai. Mỗi khi cô làm chuyện càn rỡ thì ta lại ngăn cản.” A Tử đáp: “Tỉ phu u uất trong lòng, thì muội đi theo giải sầu, biết đâu dần dần sẽ khuây khỏa hơn? Tỉ phu muốn uống rượu thì muội rót rượu, tỉ phu thay quần áo ra thì muội giặt giũ khâu vá. Muội mà làm gì sai quấy thì tỉ phu can thiệp cho. Song thân bỏ rơi muội từ bé, không ai nuôi nấng, không ai dạy dỗ, nên nhiều việc muội chẳng hiểu thế nào là phải thế nào là quấy…” Nói đến đây thanh âm cô nàng nghẹn lại, nước mắt ứa ra.

Tiêu Phong nghĩ bụng: “Tỉ muội cô này có tài đóng kịch, bản lĩnh gạt người lại càng ghê gớm đến mức lô hỏa thuần thanh. May mà ta sớm biết cô ta tính tình thâm độc, nhất định không để mắc mưu. Chẳng hiểu cô ta đòi theo mình là mưu tính chuyện gì? Phải chăng sư phụ cô ả tính ám hại ta?” Nghĩ tới đây, Tiêu Phong không khỏi rùng mình, tự hỏi: “Hay là kẻ đại cừu của ta có liên quan đến Tinh Tú Lão Quái, có khi chính là lão không chừng. Nhưng Tiêu mỗ đường đường nam tử, không lẽ lại sợ một con bé ngấm ngầm hạ độc thủ? Chi bằng tương kế tựu kế, ta cứ cho nó theo để xem còn những trò gì, biết đâu chừng nhờ thế mà mình trả được mối thâm cừu.” Chàng liền nói: “Đã thế thì cô cùng đi với ta. Nhưng ta phải nói trước, nếu cô giết hại người vô tội thì ta không tha đâu.”

A Tử thè lưỡi ra, nói: “Nếu như người ta hại muội trước thì sao? Nếu như muội phải giết người xấu thì sao?” Tiêu Phong nghĩ thầm: “Con nhãi này giảo hoạt lắm, nếu nó hại người, thế nào cũng cãi là người ta hại nó trước; nếu nó giết người tốt, nó sẽ cãi là nhận lầm kẻ xấu.” Chàng bèn nói: “Bất luận là người xấu  hay tốt, cô chẳng cần để ý làm gì. Cô đã đi cùng với ta thì không ai làm gì được cô đâu. Ta nói tóm tắt là cô không được động thủ với ai.” A Tử nói: “Được rồi! Vậy thì tiểu muội quyết không động thủ, chuyện gì cũng giao cho tỉ phu hết là xong.” Rồi cô nàng thở dài sườn sượt, nói tiếp: “Ôi chao! Tỉ phu bất quá là lang quân của tỉ tỉ mà đã quản thúc muội chặt chẽ đến thế. Nếu như A Châu tỉ tỉ chưa chết, không hiểu bị giám sát kỹ lưỡng đến đâu.”

Tiêu Phong nổi giận, đã toan la mắng mấy câu nhưng lại không nỡ. Đột nhiên chàng thấy ánh mắt tinh quái của A Tử lộ vẻ đắc ý, tự hỏi: “Sao con bé này lại hả hê như thế nhỉ?”. Chàng nghĩ một lúc không ra bèn không để bụng nữa, hăng hái bước đi, được chừng một dặm mới tỉnh ngộ, la thầm: “Chết rồi! Chắc là cô ta có đại cừu nhân đang kiếm chuyện, nên lừa gạt để mình bảo vệ cho. Ta đã bảo: Cô đã đi cùng với ta thì không ai làm gì được cô đâu, tức là nhận lời chiếu cố cô ả rồi. Nhưng dẫu cho mình không nói thế, thì cũng không thể để muội tử của A Châu bị người ta ức hiếp được.”

Đi thêm một dặm nữa, A Tử lại hỏi: “Tỉ phu ơi! Để muội hát cho tỉ phu nghe có được chăng?” Tiêu Phong đã quyết định: “Dù cô nàng muốn chuyện gì, ta cũng không nghe. Ta càng gắt gao, càng có lợi cho cô ta”. Chàng gạt đi: “Không được.” A Tử nói: “Thế muội ra câu đố để tỉ phu đoán thử, được chăng?” Tiêu Phong đáp: “Không được.” A Tử nói: “Vậy tỉ phu kể chuyện vui cho muội nghe, được chăng?” Tiêu Phong đáp: “Không được.” A Tử nói: “Thế thì tỉ phu hát cho muội nghe vậy.” Tiêu Phong đáp: “Không được.” Cô ta đề nghị luôn mười bảy, mười tám chuyện, Tiêu Phong không cần nghĩ ngợi, đều cự tuyệt ngay. A Tử lại hỏi: “Vậy muội không thổi sáo cho tỉ phu nghe, được chăng?” Tiêu Phong quen mồm đáp: “Không được.” Chàng biết ngay mình buột miệng nói hớ, cô ta muốn không thổi sáo mà mình không chịu, hóa ra là mình bắt cô ta thổi sáo rồi. Nhưng chàng đã trót nói ra miệng, đành để mặc cô ta muốn thổi sáo thì thổi.

A Tử lại thở dài nói: “Cái gì tỉ phu cũng bảo không được, thật khó chiều quá. Tỉ phu nhất định bắt muội phải thổi sáo thì muội đành phải thổi vậy.” Nàng nói xong, rút trong bọc ra một ống ngọc địch.

Cây sáo này rất ngắn, chỉ độ bảy tấc, trắng tinh, bóng lộn trông rất xinh xắn. A Tử đưa lên môi khẽ thổi, một âm thanh réo rắt vang đi thật xa. Khi nãy gã mũi sư tử bỏ đi, cũng có nổi lên một tiếng còi lanh lảnh như thế. Lẽ ra thì tiếng sáo phải nhẹ nhàng êm ái, nhưng thanh âm của cây ngọc địch này nghe chỉ có vẻ thê lương.

Tiêu Phong hiểu ngay lý do, trong bụng cười thầm: “Phải rồi! Thì ra cô nàng báo hiệu cho đồng đảng mai phục quanh đây, định tập kích ta. Lẽ nào Tiêu mỗ lại sợ cái bọn chuột nhắt này? Có điều đánh nhau với chúng chẳng có gì thú vị.”

Chàng biết bọn đệ tử Tinh Tú Lão Quái từ võ công đến tính nết đều cực kỳ âm độc, lơ là một chút là bị ám toán ngay. Tiếng địch của A Tử chuyển giọng lúc cao lúc thấp, lúc rống lên như heo bị cắt tiết, lúc thê thảm như ma quỉ kêu gào, hết sức khó nghe. Một cô gái hoạt bát dễ thương như A Tử, cầm một ống ngọc địch xinh xắn mà lại thổi ra âm điệu rùng rợn, biểu lộ đầy đủ vẻ tà ác của phái Tinh Tú.

Tiêu Phong để mặc cô ta, vẫn tiếp tục đi, chẳng mấy chốc đến một con đường nhỏ chỉ vừa một người đi trên đỉnh núi. Chàng nghĩ thầm: “Giả tỉ địch nhân phục kích thì phải chọn chỗ này”. Quả nhiên khi lên đến đỉnh núi, vừa qua một vùng đất bằng đã thấy bốn người chặn phía trước. Cả bốn gã đó đều mặc áo vải gai màu vàng, giống hệt gã mũi sư tử vừa gặp trong quán rượu. Bốn gã không đứng hàng ngang, mà kẻ trước người sau một dãy, mỗi tên cầm một cây cương trượng dài ngoằng.

A Tử không thổi sáo nữa, dừng lại gọi to: “Tam sư huynh, tứ sư huynh, thất sư huynh, bát sư huynh, bốn vị khỏe cả chứ? Sao thật khéo quá, chúng ta gặp nhau cả nơi đây.” Tiêu Phong cũng dừng bước, tựa lưng vào vách núi, nghĩ thầm: “Để xem bọn mi giở trò quỉ gì.”.

Trong bốn người, gã đứng đầu là một hán tử trung niên mập mạp, nhìn Tiêu Phong từ đầu xuống chân một hồi mới hỏi: “Tiểu sư muội cũng khỏe chứ? Mà sao ngươi lại đả thương nhị sư huynh?” A Tử giật mình hỏi lại: “Nhị sư huynh bị thương ư? Ai đả thương thế? Bị thương có nặng không?”

Gã đứng sau cùng trong bốn người lớn tiếng đáp: “Ngươi đừng giả ngây giả dại nữa. Nhị sư huynh nói là chính ngươi nhờ kẻ khác đả thương y đó.” Tên này thấp lủn thủn lại đứng sau cùng, bị ba tên đứng trước che khuất hết. Tiêu Phong không nhìn thấy y, nhưng chỉ nghe y nói năng gấp gáp cũng đủ biết tính tình nóng nảy. Cây cương trượng y cầm vừa dài vừa to đủ rõ cánh tay rất khỏe, chỉ vì trời sinh thấp lùn mà muốn tìm cách tỏ ra có chỗ hơn người.

A Tử nói: “Bát sư huynh bảo sao? Nhị sư huynh bảo là bát huynh gọi người đả thương y sao? Chao ôi, sao bát huynh nỡ làm thế? Sư phụ mà biết thì không tha cho bát huynh đâu, không lẽ huynh không sợ hay sao?” Gã lùn kia nổi cơn lôi đình nhảy chồm chồm lên, dộng cây cương trượng xuống đá núi nghe chan chát, lớn tiếng quát: “Ngươi đánh y chứ có phải ta đâu?” A Tử nói: “Sao? Ngươi đánh y chứ có phải ta đâu? Được rồi, bát sư huynh thú nhận rồi. Tam sư huynh, tứ sư huynh, thất sư huynh, ba người chính tại nghe rõ rồi nhé, bát sư huynh nói là y giết chết nhị sư huynh. Đúng rồi, chắc là bát sư huynh dùng Tam Âm Ngô Công Trảo giết chết nhị sư huynh.”

Gã lùn lại gào lên: “Ta bảo nhị sư huynh chết hồi nào? Y chưa chết, thụ thương cũng không phải do Tam Âm Ngô Công Trảo…” A Tử mồm năm miệng mười, cướp lời: “Không phải Tam Âm Ngô Công Trảo ư? Thế thì nhất định do Trừu Tủy Chưởng, nghề ruột của bát sư huynh rồi. Nhị sư huynh chắc là không cẩn thận nên bị ngươi ám toán. Ngươi… ngươi quả là độc ác thật.”

Gã lùn càng giận điên lên, quát to: “Tam sư huynh! Mau động thủ, bắt con nhãi ranh này về cho sư phụ phát lạc. Nó… nó, nói lăng nhăng láo lếu, chẳng đâu ra đâu, chẳng ai hiểu được.” Thanh âm y vốn đã khó nghe, lại đang nóng nảy càng lắp bắp, mới thật là chẳng đâu ra đâu, chẳng ai hiểu được. Gã mập liền nói: “Chưa cần phải động thủ, tiểu sư muội xưa nay vẫn ngoan ngoãn dễ bảo kia mà. Tiểu sư muội, theo bọn ta về thôi.” Gã mập đó nói năng ôn tồn, ra vẻ con người hòa nhã. A Tử cười đáp: “Được rồi! Tam sư huynh nói sao thì tiểu muội làm vậy, có bao giờ muội cãi lời huynh đâu?” Gã mập cười ha hả, nói: “Thế thì hay lắm! Chúng ta đi.” A Tử đáp: “Vâng! Các vị sư huynh cứ tùy tiện.”

Ga lùn phía sau lại gào lên: “Láo toét! Ngươi nói thế là sao? Ngươi phải đi cùng với bọn ta.” A Tử cười nói: “Các vị cứ đi trước đi, tiểu muội sẽ theo sau ngay mà.” Gã lùn nói: “Không được! Ngươi phải đi chung với bọn ta ngay bây giờ.” A Tử nói: “Tiểu muội thì đồng ý, nhưng tỉ phu của tiểu muội lại không chịu.” Nàng vừa nói vừa trỏ vào Tiêu Phong.

Gã lùn nói: “Ai là tỉ phu ngươi? Sao ta không thấy?” A Tử cười nói: “Chỉ tại bát sư huynh cao quá thôi. Cả tỉ phu tiểu muội cũng không ngó thấy bát sư huynh.” Nghe chát một tiếng, cây cương trượng của gã lùn đã giáng xuống đất, rồi cả người lẫn gậy bay vọt qua khỏi đầu ba tên đứng trước, rơi xuống trước mặt A Tử. Gã quát lên: “Theo chúng ta trở về ngay!” Vừa nói y vừa vươn tay chộp vào vai cô gái. Gã này thấp lùn nhưng hông to vai nở, nhìn ngang thì cũng khá vạm vỡ, động tác lại rất nhanh nhẹn. A Tử không né tránh, cứ mặc y chộp tới. Bàn tay to lớn của gã lùn sắp sửa chạm vào vai nàng, bỗng y ngẩn ra rồi dừng tay lại, hỏi: “Ngươi đã đem nó ra dùng rồi ư?” A Tử hỏi: “Dùng cái gì?” Gã lùn đáp: “Là Thần Mộc Vương Đỉnh…”

Bốn chữ “Thần Mộc Vương Đỉnh” vừa buột khỏi miệng, ba gã kia đồng thanh quát lên: “Bát sư đệ! Ngươi nói gì đó?” Thanh âm cực kỳ gay gắt. Gã lùn lập tức lùi lại một bước, mặt lộ vẻ hoảng hốt.

Tiêu Phong tự hỏi: “Thần Mộc Vương Đỉnh là cái gì nhỉ? Bốn gã này vẻ mặt cực kỳ trịnh trọng, chắc đó là một vật quan trọng chứ không phải chuyện đùa. Chúng đã mai phục nơi đây để tập kích mình, sao chưa ra tay mà còn lo cãi nhau, không lẽ sợ đánh không lại mình, phải chờ thêm ngoại viện?”.

Gã lùn đưa tay ra, nói: “Đưa đây!” A Tử hỏi lại: “Đưa cái gì?” Gã lùn đáp: “Cái Thần… Thần… đó đó.” A Tử chỉ vào Tiêu Phong nói: “Tiểu muội đưa cho tỉ phu rồi.” Nàng vừa nói vậy, cả bốn tên liền quay về phía Tiêu Phong, ánh mắt đầy vẻ giận dữ.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Bọn này khả ố thật, mình cũng chẳng dây dưa với chúng làm gì”. Chàng từ từ đứng dậy, bất thần búng hai chân một cái vọt người qua đầu bọn kia. Động tác đó vừa kỳ lạ vừa nhanh nhẹn, cả đám không thấy chàng lấy đà chi hết, chỉ thấy thấp thoáng trước mắt, gió thoảng trên đầu,Tiêu Phong đã ở phía sau rồi. Cả bọn hốt hoảng kêu la, quay lại rượt theo, nhưng chỉ chớp mắt Tiêu Phong đã chạy xa đến mấy trượng.

Bỗng nghe vù một tiếng, một món binh khí nặng nề bay tới sau lưng. Tiêu Phong không cần quay lại cũng biết là có tên ném cương trượng tới, bèn đưa tay trái ra phía sau đón lấy. Cả bốn tên cùng quát tháo, lại thêm hai cây cương trượng nữa ném theo, Tiêu Phong lại xoay tay bắt được. Mỗi cây trượng nặng hơn năm chục cân, chàng cầm cả ba cây trong tay cũng phải đến trăm sáu, trăm bảy cân, mà bước chân vẫn không chậm lại chút nào. Vù một tiếng, lại một cây nữa ném tới. Nghe tiếng gió cũng đủ biết cây trượng này nặng hơn hết, chắc là do gã lùn ném ra. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Mấy thằng ngu dốt này chẳng hiểu phải quấy, ta phải cho chúng biết tay.” Chàng đợi tiếng gió bay tới sau ót còn cách chừng hai thước, liền đưa tay ra sau bắt nốt.

Bốn gã ném trượng ra đã nghĩ rằng đối phương tránh né không phải dễ, trong bốn cây trượng thể nào cũng có một hai cây trúng vào người, nếu không thì chúng đâu có để binh khí rời khỏi tay? Có ai ngờ Tiêu Phong bắt hết thản nhiên như không, cả đám vừa kinh hãi vừa tức tối, la ó đuổi theo. Tiêu Phong chờ cho chúng chạy gần lại một quãng, bất thần đứng khựng lại. Bốn gã kia đang gắng sức đuổi theo, không dừng kịp, lao cả vào người chàng, tên nào cũng thở hồng hộc.

Tiêu Phong nghe chúng phóng trượng, lại nhìn chúng đuổi theo, biết rằng võ công bọn này chỉ bình thường thôi. Chàng mỉm cười hỏi: “Các vị đuổi theo tại hạ có điều chi chỉ giáo?” Gã lùn lắp bắp: “Ngươi… ngươi là ai? Võ công ngươi thật là ghê gớm.” Tiêu Phong cười đáp: “Thường thôi, đừng quá khen.” Chàng vừa nói vừa vận kình lực vào bàn tay, cắm một cây cương trượng xuống mặt đất phủ tuyết. Con đường núi đó đất cũng rất cứng, thế mà chàng cứ nhấn cây trượng xuống dần, còn khoảng hai thước mới buông tay, đưa chân phải đạp xuống một cái, cây trượng liền ngập bằng mặt đất.

Bốn người, gã thì giương hai mắt tròn xoe mà nhìn, gã lại há hốc miệng ra không ngậm lại nữa. Tiêu Phong cứ cắm từng cây rồi đạp lún xuống ngang mặt đất. Đến cây sau cùng, gã lùn nhảy vọt lại, quát lên: “Đừng động đến binh khí của ta.” Tiêu Phong cười nói: “Được lắm! Trả lại ngươi đây.” Chàng cầm cương trượng lên, phóng thẳng vào vách núi nghe keng một tiếng, cây trượng dài tám thước đã lút vào đá phải đến năm thước. Chỗ vách đá này là loại hắc thạch cực kỳ cứng rắn, vậy mà cây trượng vẫn cắm sâu vào đá, làm cho chính Tiêu Phong cũng phải ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Mấy tháng nay ta trải qua biết bao chuyện lo phiền mà công phu không giảm sút, lại còn tiến bộ là khác. Nửa năm trước có lẽ ta ném không được mạnh đến thế.”

Bốn gã kia đồng thời kêu la ầm ĩ, vẻ mặt kinh hoàng. A Tử từ phía sau chạy tới gọi: “Tỉ phu! Võ công phu tỉ phu giỏi quá, dạy cho muội nhé!” Gã lùn giận dữ nói: “Ngươi nói sao? Đã là đệ tử phái Tinh Tú mà lại đi nhờ người ngoài dạy võ công ư?” A Tử nói: “Đó là tỉ phu của ta, đâu phải người ngoài?”

Gã lùn nóng ruột, tung mình nhảy lên, vươn tay toan nắm lấy cây cương trượng của y. Ngờ đâu Tiêu Phong đã ước lượng được khinh công của gã, chàng phóng cây trượng cắm vào vách đá ở chỗ cao hơn mặt đất một trượng bốn năm thước, gã lùn nhảy còn thấp một thước, không với tới được. A Tử vỗ tay reo lên: “Hay lắm! Bát sư huynh ơi, huynh mà nhổ được khí giới ra thì tiểu muội sẽ theo huynh về bái kiến sư phụ ngay, còn nhổ không được thì đừng hòng.” Gã lùn nhảy cái vừa rồi đã dùng hết sức bình sinh, muốn nhảy cao thêm một tấc quả là thiên nan vạn nan. Y nghe A Tử khích bác, trong bụng tức lắm, cố sức nhảy lên lần nữa, đầu ngón tay giữa đã chạm được vào cây trượng. A Tử lại cười, nói:“Chạm đến không kể, phải nhổ ra được mới tính.”

Gã lùn càng giận dữ, công lực tăng tiến đột xuất, hai chân vận hết sức tung tấm thân vừa lùn vừa mập lên, hai tay quờ quờ chộp ngay được cây gậy. Thân hình y treo lơ lửng giữa trời, đu qua đu lại. Y cứ cố lay tới lay lui, nhưng cây trượng dài tám thước đã cắm vào đá sâu đến năm thước, giả tỉ y lắc đến ba ngày ba đêm cũng chẳng ăn thua gì. Cảnh tượng đó trông thật hoạt kê.

Tiêu Phong cười, nói: “Xin lỗi nhé, Tiêu mỗ không chờ được nữa.” Nói xong chàng quay mặt bước đi. Gã lùn kia giá nào cũng không chịu buông tay, tự biết rằng vừa rồi nhảy lên chụp được cây gậy cũng là may mắn lắm rồi, nếu để rơi xuống đất thì lần sau nhảy lại chưa chắc tới được. Gã dùng cây trượng đó đã lâu, phân lượng đã vừa, kích thước quen tay, có rèn cây khác y như vậy cũng khó. Y lại cố lắc thêm mấy lần cũng không thấy chuyển động chút nào, bèn kêu lên: “Ngươi phải để Thần Mộc Vương Đỉnh lại đã, nếu không thì hậu hoạn không biết đến đâu mà lường.”

Tiêu Phong hỏi: “Thần Mộc Vương Đỉnh là cái gì thế?”

Ba tên đệ tử phái Tinh Tú cùng tiến lên một bước nói: “Võ công các hạ xuất thần nhập hóa, chúng ta bội phục. Cái đỉnh nhỏ kia bản môn coi rất trọng nhưng người ngoài chẳng dùng làm gì được, xin các hạ trả lại cho, chúng tôi xin đền đáp.”

Tiêu Phong xem bọn chúng không có vẻ giả trá, thì ra không phải mai phục nơi đây để tấn công mình. Chàng liền nói: “A Tử! Cô lấy cái Thần Mộc Vương Đỉnh đó ra, cho ta xem đó là cái gì.” A Tử nói: “Trời ơi! Tiểu muội đưa cho tỉ phu rồi mà, bây giờ trả lại hay không hoàn toàn là do tỉ phu. Hay là tỉ phu cứ giữ lấy cho được việc.” Tiêu Phong nghe vậy, đoán rằng cô nàng đã ăn cắp bảo vật của sư môn, bây giờ nói là đưa cho mình rồi, cốt ý là bắt mình đứng ra chịu trận. Chàng bèn tương kế tựu kế, cười ha hả nói: “Cô đưa cho ta nhiều thứ quá, ta có biết Thần Mộc Vương Đỉnh là cái nào đâu?”.

Gã lùn đang lơ lửng giữa trời cũng chõ miệng vào: “Đó là một cái đỉnh gỗ nhỏ màu vàng sậm, cao chừng sáu tấc.” Tiêu Phong kêu lên: “Ồ, thì ra là cái đó. Một món đồ chơi trẻ con như thế thì dùng làm gì được?” Gã lùn nói: “Ngươi biết gì mà bảo là đồ chơi trẻ con? Cái đỉnh gỗ…” Y chưa nói hết câu, gã mập đã quát lên: “Sư đệ! Không được nói càn!”, rồi quay sang Tiêu Phong nói :” Đó chỉ là một món đồ chơi không dùng làm gì được, nhưng là của… là của… phụ thân gia sư để lại cho lão nhân gia, vì vậy không thể để mất. Xin các hạ trả lại cho, chúng tôi cảm kích vô cùng.” Tiêu Phong đáp: “Ta vứt bừa bãi, không biết bỏ đâu mất rồi, cũng chẳng biết còn tìm lại được hay không. Nếu quan trọng thật thì ta phải trở về Tín Dương tìm thử, có điều đường sá xa xôi, quay lại thì thật là phiền quá.”

Gã lùn lại xen vào: “Quan trọng thật chứ, sao lại không quan trọng? Chúng ta mau… mau… quay về Tín Dương tìm thôi.” Y buông tay thả người rơi xuống, bỏ luôn món binh khí quí giá của mình.

Tiêu Phong đưa tay vỗ vỗ lên trán, nói: “Hừ! Mấy bữa nay ít uống rượu, đầu óc lú lẫn quá. Cái đỉnh gỗ nhỏ kia, không biết ta vứt ở Tín Dương hay ở Đại Lý… mà không chừng ở Tấn Dương cũng nên…” Gã lùn vội kêu lên: “Trời ơi! Ngươi nói gì đó? Ráng nhớ lại xem ở Đại Lý hay ở Tấn Dương? Thiên nam địa bắc, xa xôi vạn dặm không phải chuyện giỡn chơi đâu nhé.” Gã mập biết Tiêu Phong làm khó dễ, bèn nói: “Các hạ bất tất phải nói giỡn. Giả tỉ cái đỉnh đó quay về nguyên vẹn, chúng tôi thể nào cũng báo đáp, không dám sai lời.”

Tiêu Phong đột nhiên thất kinh la to: “Chết rồi! Không xong, ta nhớ ra rồi…” Cả bốn tên kinh hãi hỏi lại: “Cái gì thế?” Tiêu Phong đáp: “Cái đỉnh gỗ đó ta vứt ở nhà Mã phu nhân. Lúc đó ta quên mất, châm lửa đốt cháy rụi cả nhà. Không biết cái đỉnh đó bị lửa thiêu đốt có hỏng mất không?” Gã lùn kêu thất thanh: “Sao lại không hỏng! Cái này… cái này… tam sư huynh, tứ sư huynh, bây giờ biết làm sao? Ta không biết, sư phụ có trách phạt thì không liên quan đến ta. Tiểu sư muội, ngươi phải đích thân bẩm với sư phụ, ta không dám nói giúp ngươi đâu.”

A Tử cười nói: “Tiểu muội lại nhớ hình như không phải tỉ phu bỏ ở nhà Mã phu nhân. Các vị sư huynh! Tiểu muội xin lỗi nhé, mấy huynh ở đây nói chuyện với tỉ phu.” Nói xong nàng lạng người đi một cái, lách qua mặt Tiêu Phong. Tiêu Phong quay lại giang tay chặn bốn tên kia, nói: “Nếu các ngươi nói cho rõ ràng lai lịch cùng công dụng của Thần Mộc Vương Đỉnh, không chừng ta sẽ giúp các ngươi đi tìm. Còn nếu không thì xin cáo từ.”

Gã lùn xoa tay lia lịa nói: “Tam sư huynh! Đệ thấy không còn cách nào khác, nói cho y nghe là xong!” Gã mập nói: “Được! Để ta nói cho các hạ hay…”

Đột nhiên Tiêu Phong vọt tới cạnh gã lùn, vươn tay chộp vào nách y, nói: “Chúng ta qua kia nói chuyện. Ta chỉ tin lời ngươi, không tin hắn.” Chàng biết rằng gã mập trông thì thực thà nhưng lại giảo hoạt không có câu nào thành thực, còn gã lùn thẳng tính, lại nhanh mồm nhanh miệng không biết nói dối. Chàng xách gã lùn chạy thẳng lên vách núi. Vách núi chỗ này tuy không dựng đứng nhưng cũng khó trèo, lại không có chỗ nào để bấu víu. Thế mà Tiêu Phong đề khí chạy thẳng một mạch đã lên được hơn chục trượng, tới một mỏm đá nhô ra, liền đặt gã lùn ngồi lên đó, còn mình chỉ đứng một chân, một chân đưa ra khoảng không. Chàng nói với gã lùn: “Bây giờ ngươi nói cho ta nghe đi.”

Gã lùn ở lưng chừng trời, nhìn xuống không khỏi choáng váng, vội nói: “Mau… mau buông ta xuống!” Tiêu Phong cười nói: “Ngươi tự nhảy xuống đi.” Gã lùn đáp: “Ngươi chỉ nói nhảm. Ta mà nhảy xuống thì nát ra như cám.” Tiêu Phong thấy y tính tình thẳng thắn cũng có chút thiện cảm, lại hỏi: “Người tên là gì?” Gã lùn đáp: “Ta là Xuất Trần Tử.” Tiêu Phong mỉm cười, nghĩ bụng: “Cái tên thật là phong nhã, nhưng so với thân thể ngươi không xứng chút nào.” Chàng bèn nói tiếp: “Ta không rảnh nữa, xin cáo từ. Hẹn ngày tái ngộ.” Xuất Trần Tử la lên: “Không được! Không được! Trời ơi, ta… ta ngã chết mất.” Hai tay y cố vận kình bấu víu, nhưng vách đá trơn tuột, không có chỗ tựa vào. Võ công y không tệ lắm nhưng ở trên cao, lại chênh vênh ba mặt thế này, không khỏi khiếp đảm.

Tiêu Phong lại giục: “Nói mau! Thần Mộc Vương Đỉnh dùng để làm gì? Nếu ngươi không nói là ta đi xuống.” Xuất Trần Tử vội hỏi lại: “Ta… ta không nói không được hay sao?” Tiêu Phong đáp: “Ngươi không nói cũng được, để lần sau gặp ta rồi sẽ nói cũng không muộn.” Xuất Trần Tử vội níu áo ông lại, nói: “Để ta nói! Thần Mộc Vương Đỉnh là một trong tam bảo của bản phái, dùng để luyện Hóa Công Đại Pháp. Sư phụ ta nói là bọn võ lâm Trung Nguyên nghe đến Hóa Công Đại Pháp đều sợ đến hồn vía lên mây. Nếu chúng mà thấy Thần Mộc Vương Đỉnh là đập nát ngay, cái đó… cái đó là một bảo vật hiếm có trên đời, không phải tầm thường.”

Tiêu Phong đã nghe đến Hóa Công Đại Pháp, biết đó là một môn tà thuật vô cùng bẩn thỉu. Bây giờ nghe nói Thần Mộc Vương Đỉnh có tác dụng như thế, không cần hỏi nữa, lại nắm lấy nách Xuất Trần Tử, chạy vèo vèo xuống.

Chạy từ vách núi dựng đứng xuống còn nguy hiểm hơn lúc chạy lên. Xuất Trần Tử kinh hãi vô cùng, hô hoán rầm lên, tiếng kêu chưa dứt thì chân đã chạm đất. Mặt y tái mét cắt không ra máu, hai đầu gối run lên bần bật. Gã mập hỏi: “Bát sư đệ! Ngươi đã nói ra chưa?” Hai hàm răng của Xuất Trần Tử vẫn còn khua vào nhau nghe lốp cốp, chưa thể nói ra lời.

Tiêu Phong quay sang A Tử, bảo: “Đưa đây!” A Tử hỏi lại: “Đưa cái gì?” Tiêu Phong đáp: “Thần Mộc Vương Đỉnh.” A Tử đáp: “Tỉ phu bảo là để ở nhà Mã phu nhân kia mà, sao còn hỏi muội?” Tiêu Phong nhìn kỹ cô nàng, thấy thân hình mảnh dẻ, lưng thon nhỏ xíu, áo quần lại mỏng mảnh, xem ra không thể giấu chiếc đỉnh cao sáu tấc trong người được. Chàng nghĩ thầm: “Con nhãi này thật là xảo quyệt. Ta đã không muốn nhúng tay vào việc nội bộ môn phái nó, mà bọn tà ma ngoại đạo này cứ như âm hồn bất tán lẩn quẩn bên mình, thật là phiền nhiễu.” Tiêu Phong liền nói: “Vật đó Tiêu mỗ chẳng dùng làm gì được, lấy làm quái gì? Các ngươi tin thì tốt, không tin cũng không sao, Tiêu mỗ cáo từ đây.” Nói xong thi triển thân pháp vọt đi, chỉ nhô lên hụp xuống mấy cái đã bỏ năm người lại khá xa. Bọn kia thấy chàng thần oai lẫm lẫm không dám đuổi theo, còn đang bàn bạc thì Tiêu Phong đã mất hút rồi.

Tiêu Phong chạy một mạch hơn bảy chục dặm đường mới tìm được một tửu điếm ghé vào ăn cơm uống rượu. Đêm đó, chàng nghỉ lại Chu Vương điếm, luyện nội công một hồi rồi đi ngủ. Đến nửa đêm, chàng mơ màng nghe thấy mấy tiếng còi rít lên, lập tức tỉnh dậy. Một lát sau, phía tây nam cũng nghe mấy tiếng còi chói tai, rồi phía đông nam cũng có tiếng sáo ghê rợn đáp lại, chính là ngọc địch của phái Tinh Tú, Tiêu Phong nghĩ thầm: “Bọn chúng lại đến rồi, mặc kệ, ta chẳng để ý làm gì.”

Đột nhiên có hai tiếng sáo nổi lên thật gần, dường như ở ngay trong tửu điếm này. Rồi có tiếng người nói: “Dậy mau đi! Đại sư huynh đến rồi, chắc là đã bắt được tiểu sư muội.” Lại một người khác nói: “Bắt được ư? Ngươi thử nghĩ xem cô ả có sống được chăng?” Tên kia đáp: “Làm sao ta biết được? Đi mau, đi mau.” Rồi có tiếng đẩy cửa sổ, hai người nhảy ra khỏi phòng.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Lại là bọn đệ tử phải Tinh Tú nữa. Té ra trong tửu điếm này lại có sẵn hai tên, chắc là bọn chúng đến trước ta, không nói năng gì nên ta không biết. Chúng hỏi nhau A Tử có sống được không, con nhãi này tuy tàn nhẫn độc ác nhưng ta cũng không thể để nó bị giết chết, nếu không thì thật không phải đối với A Châu”. Chàng nghĩ thế bèn nhảy ra khỏi phòng đuổi theo.

Tiếng địch cứ nổi lên liên tiếp gọi nhau, dần dần chuyển qua phía tây nam, Tiêu Phong theo tiếng địch mà rượt theo, chỉ một lát đã đuổi kịp hai tên từ tửu điếm đi ra. Chàng giữ khoảng cách chừng mươi trượng, lặng lẽ bám đuôi, vượt qua hai ngọn núi thì thấy có một đống lửa dưới sơn cốc. Ngọn lửa cao chừng năm thước, màu sắc xanh biếc trông có vẻ không bình thường. Hai người kia chạy thẳng đến, vừa tới nơi đã quì phục xuống vái lạy đống lửa.

Tiêu Phong rón rén lại gần, nấp sau một tảng đá nhìn vọng ra, thấy đến hơn chục người tụ tập quanh đống lửa. Bọn chúng đều mặc áo vải gai màu vàng, ánh lửa xanh biếc chiếu lên đầy vẻ ma quái. Phía bên trái đống lửa có một người mặc áo tía đang đứng, chính là A Tử. Hai cổ tay nhỏ nhắn bị khóa bằng xích sắt, khuôn mặt trắng trẻo dưới ánh lửa bập bùng trông khác hẳn đi. Cả đám không ai nói một lời, chỉ chăm chú nhìn ngọn lửa, tay trái đặt trên ngực, miệng lẩm bẩm như đang khấn khứa gì đó. Tiêu Phong nghĩ rằng đây là nghi thức quái dị của bọn tà ma ngoại đạo, chẳng thèm để ý. Lúc nãy chàng nghe hai tên đệ tử phái Tinh Tú nói chuyện với nhau có nhắc tới đại sư huynh, nhưng nhìn kỹ hơn mười người này, già có trẻ có, phục sức hoàn toàn giống nhau, không tên nào vẻ mặt cử chỉ đặc sắc ra vẻ cầm đầu.

Bỗng nghe mấy tiếng địch ôn hòa từ phía đông bắc vọng tới, mọi người đều quay lại hướng có tiếng sáo, khom lưng hành lễ. A Tử bĩu môi không thèm quay lại. Tiêu Phong cũng nhìn về phía có tiếng địch, thấy một người áo trắng vun vút đi tới, bộ pháp cực kỳ nhanh nhẹn. Y chớp nhoáng đã đến trước đống lửa, đưa chiếc ngọc địch dài chừng hai thước lên thổi vào đống lửa một cái, lửa lập tức tắt ngóm, rồi lại bùng lên thật to, vọt lên phải hơn một trượng rồi mới từ từ hạ xuống. Bọn chúng cùng hô to: “Đại sư huynh pháp lực thần kỳ, bọn tiểu đệ một phen mở mắt.”

Tiêu Phong nhìn gã đại sư huynh kia, hơi ngạc nhiên. Chàng tưởng tên này đứng đầu cả bọn thì phải già năm sáu chục tuổi, ngờ đâu chỉ là một thanh niên chừng hăm bảy hăm tám, thân hình cao gầy, sắc mặt hơi xanh lại ẩn màu vàng, trông cũng khá anh tuấn. Tiêu Phong thấy y thi triển khinh công cùng công phu thổi tắt đống lửa, biết nội lực y không phải là kém. Nhưng thổi tắt đống lửa rồi giây lát lại bùng lên, chắc chắn không phải do nội công mà là trong ống sáo có giấu dược liệu hay chất dẫn hỏa cổ quái.

Gã đó quay sang nói với A Tử: “Tiểu sư muội! Ngươi quả là kẻ to gan lớn mật, vì ngươi mà biết bao nhiêu huynh đệ phải từ Tinh Tú Hải vào tận Trung Nguyên nghìn dặm xa xôi.” A Tử đáp: “Ngay cả đại sư huynh cũng thân hành xuất mã, tiểu muội quả thực vinh hạnh. Thế nhưng tiểu muội đã có chỗ dựa, xem ra chừng này người chưa đủ.” Tên đại sư huynh hỏi: “Chỗ dựa của sư muội ư? Không biết là ai thế?” A Tử đáp: “Chỗ dựa của tiểu muội là gia gia, bá phụ, má má, tỉ phu chứ còn ai nữa.” Gã hừ một tiếng, gặng lại: “Sư muội được sư phụ nuôi dưỡng từ khi còn nhỏ xíu đến ngày khôn lớn, có thấy cha mẹ gì đâu? Sao tự nhiên xuất hiện lắm họ hàng thân thích đến thế?” A Tử đáp: “Trời ơi! Làm gì có ai không cha không mẹ, chẳng lẽ tiểu muội nứt trong hòn đá ra hay sao? Có điều danh tính của song thân tiểu muội là một điều bí ẩn, không thể cho mọi người cùng biết được.” Gã đại sư huynh hỏi: “Song thân của sư muội là ai thế?” A Tử đáp: “Chỉ sợ mọi người phải kinh hãi thôi. Sư huynh muốn tiểu muội nói ra, thì phải mở khóa cho tiểu muội trước đã.” Hắn đáp: “Sư muội muốn ta mở khóa thì có khó gì, nhưng phải giao Thần Mộc Vương Đỉnh ra trước đã.” A Tử đáp: “Vương Đỉnh ở trong tay tỉ phu tiểu muội. Tam sư huynh, tứ sư huynh, thất sư huynh, bát sư huynh không chịu ra tay đòi lại, tiểu muội đâu biết phải làm sao?”

Gã đại sư huynh đưa mắt nhìn bốn tên Tiêu Phong mới gặp lúc ban ngày, mỉm cười ra vẻ ôn hòa nhưng bốn gã kia mặt biến sắc, hiển nhiên rất sợ hãi. Xuất Trần Tử ấp úng nói: “Đại… đại sư huynh, chuyện này không liên quan gì đến tiểu đệ. Tỉ phu… của sư muội bản lĩnh ghê gớm quá, bọn đệ… đệ đuổi theo không kịp.” Gã đại sư huynh nói: “Tam sư đệ! Nói cho ta nghe.” Gã mập đáp: “Vâng, vâng!” Y liền thuật lại việc gặp Tiêu Phong thế nào, bị đón bắt bốn cây cương trượng ra sao, rồi đối phương bắt Xuất Trần Tử đem lên đỉnh núi ép phải khai ra… Y kể rõ không giấu giếm chút nào. Thường ngày lúc nào y cũng bình tĩnh thản nhiên, thế mà bây giờ giọng nói run run, tựa như họa lớn đang ập đến.

Tên đại sư huynh chờ gã kể xong, gật đầu rồi quay lại hỏi Xuất Trần Tử: “Ngươi nói với y cả rồi hay sao?” Xuất Trần Tử đáp: “Tiểu đệ… tiểu đệ…” Tên kia vẫn ôn tồn hỏi: “Ngươi đã nói những gì, cứ thuật lại cho ta nghe.” Xuất Trần Tử đáp: “Tiểu đệ… tiểu đệ nói… Thần Mộc Vương Đỉnh là một trong tam bảo của bản môn, dùng để… để… luyện đại pháp. Đệ còn nói là sư phụ bảo bọn võ lâm Trung Nguyên nghe đến Hóa Công Đại Pháp là hồn vía lên mây, nếu như thấy cái đỉnh là đập nát lập tức. Đệ nói đó là một bảo vật trên đời hiếm có, không phải tầm thường. Vì thế… vì thế nên xin y trả lại.” Gã đại sư huynh nói: “Hay lắm! Thế rồi y bảo sao?”Xuất Trần Tử đáp: “Y… y không nói chi hết, buông tha tiểu đệ.”

Tên kia nói: “Ngươi giỏi lắm! Ngươi cho y biết Thần Mộc Vương Đỉnh dùng để luyện Hóa Công Đại Pháp, lại còn sợ y không hiểu Hóa Công Đại Pháp là gì, nói thêm bọn võ lâm Trung Nguyên nghe đến là hồn vía lên mây. Thế là tuyệt diệu! Không hiểu y có phải là nhân vật trong võ lâm Trung Nguyên không?” Xuất Trần Tử lắp bắp: “Tiểu đệ… tiểu đệ không biết…”

Gã đại sư huynh hỏi vặn lại: “Ngươi không biết thật, hay giả vờ không biết?” Thanh âm y thủy chung vẫn ôn hòa, nhưng gã Xuất Trần Tử ngay thẳng kia lại sợ đến mất hồn, run rẩy nói: “Tiểu đệ… đệ… không… biết… nữa.” Trong câu nói có xen những tiếng lách cách do hai hàm răng đập vào nhau, gã không tự chủ được.

Gã đại sư huynh lại hỏi: “Vậy y có sợ đến hồn vía lên mây không? Hay là chẳng sợ quái gì?” Xuất Trần Tử đáp: “Dường như… y… không sợ…” Tên kia hỏi thêm: “Theo ngươi thì vì sao y lại không sợ?” Xuất Trần Tử đáp: “Tiểu đệ đoán không ra, xin… xin đại… sư huynh cho biết.” Gã đại sư huynh trả lời: “Bọn võ lâm Trung Nguyên sợ nhất là Hóa Công Đại Pháp của chúng ta, nhưng để luyện Đại Pháp này thì phải dùng Thần Mộc Vương Đỉnh. Nay Vương Đỉnh lọt vào tay y rồi, chúng ta không luyện Hóa Công Đại Pháp được nữa, vì thế mà y không sợ” Xuất Trần Tử vội vuốt đuôi: “Phải rồi, phải rồi! Đại… đại sư huynh nhìn… nhìn xa… muôn dặm… liệu việc như thần. Tiểu… tiểu đệ còn kém xa lắm.”

Lúc ban ngày Tiêu Phong gặp bọn đệ tử phái Tinh Tú, thấy gã Xuất Trần Tử này là thẳng thắn hơn cả nên cũng có đôi chút thiện cảm. Chàng thấy y khiếp sợ đại sư huynh đến thế, đã có ý ra tay cứu. Ngờ đâu càng nghe càng chán ghét, tên lùn này cũng nịnh bợ khả ố hết mức. Tiêu Phong nghĩ thầm “Gã này không phải là hảo hán, chết hay sống ta cũng chẳng quan tâm làm quái gì.”

Gã đại sư huynh lại quay sang hỏi A Tử: “Tiểu sư muội! Tỉ phu của muội là ai?” A Tử đáp: “Tỉ phu tiểu muội ư? Nói ra chỉ sợ đại sư huynh phải giật mình.” Gã đáp: “Muội cứ nói, nếu quả là một nhân vật anh hùng lừng lẫy tiếng tăm thì Trích Tinh Tử này cũng cần biết mà lưu ý.”

Tiêu Phong nghe y tự xưng danh, nghĩ thầm: “Trích Tinh Tử! Đạo hiệu nghe lớn lối quá, toan hái sao trên trời ư? Thân pháp của y cũng khá thật, nhưng đâu có hơn được Ba Thiên Thạch nước Đại Lý hay Vân Trung Hạc trong Tứ Ác?”

A Tử hỏi lại: “Đại sư huynh! Trong võ lâm Trung Nguyên thì ai là người đứng đầu?” Trích Tinh Tử đáp: “Người ta thường nói Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung. Chẳng lẽ cả hai người đều là tỉ phu sư muội?” Tiêu Phong lửa giận bốc lên, nghĩ thầm: “Thằng nhãi này ăn nói càn rỡ, ta sẽ cho ngươi biết tay để bỏ thói hồ đồ.”

A Tử cười khanh khách nói: “Đại sư huynh nói chuyện kỳ quá. Tiểu muội chỉ có một tỉ nương, sao lại có hai vị tỉ phu được?” Trích Tinh Tử tủm tỉm cười đáp: “Ta đâu có biết tiểu muội chỉ có một tỉ tỉ? Ối chao, mà nếu tiểu muội có một tỉ tỉ mà hai tỉ phu, cũng có chi là lạ đâu?” A Tử nói: “Tỉ phu của tiểu muội tính tình nóng nảy, giả sử tiểu muội gặp lại mà đem câu nói của đại sư huynh kể cho tỉ phu nghe, thì sư huynh phải nếm mùi đau khổ. Nói cho mà nghe, tỉ phu của tiểu muội là Cái Bang bang chủ Bắc Kiều Phong uy chấn Trung Nguyên đó.”

Nàng vừa dứt lời, bọn đệ tử Tinh Tú từng gặp Tiêu Phong đều giật mình không nhịn được, cùng “A” lên một tiếng. Gã nhị sư huynh mũi sư tử nói: “Thảo nào! Thảo nào ta thua dưới tay y, thế thì cũng đành lòng.”

Trích Tinh Tử nhíu mày nói: “Thần Mộc Vương Đỉnh rơi vào tay Cái Bang thì khó lòng xoay sở rồi.” Xuất Trần Tử tuy đang sợ hãi lắm, nhưng không chừa được cái tật lắm mồm, cũng xen vào: “Đại sư huynh! Kiều Phong không phải bang chủ Cái Bang nữa. Sư huynh mới ở Tây Vực qua, chắc là chưa nghe thời sự mới toanh của võ lâm Trung Nguyên. Gã Kiều Phong kia bị bọn Cái Bang đuổi ra khỏi bang rồi.” Y tường thuật những việc không can hệ đến mình lại lưu loát hơn nhiều.

Trích Tinh Tử thở phào một cái, khuôn mặt giãn ra, vẻ căng thẳng hầu như biến mất. Gã hỏi lại: “Kiều Phong bị trục xuất khỏi Cái Bang rồi ư? Việc đó có thật không?” Gã mập là tam sư huynh liền đáp: “Khắp giang hồ đều nói thế. Họ còn kể y không phải người Hán mà là người Khất Đan, bọn hảo hán Trung Nguyên đều muốn giết y mới hả dạ. Nghe nói tên này giết cả song thân, sư phụ, bằng hữu, hèn hạ bỉ ổi, không chừa chuyện ác gì không làm.”

Tiêu Phong nấp sau tảng đá, nghe chúng bàn luận những chuyện bất hạnh của mình trong mấy tháng qua, không khỏi đau lòng. Mặc dù chàng võ công cái thế, đảm lược hơn người nhưng trên giang hồ mất hết thanh danh, bị anh hùng thiên hạ khinh thường, cuộc sống trở nên vô vị hết sức.

Bỗng nghe Trích Tinh Tử hỏi A Tử: “Sao tỉ tỉ của tiểu sư muội lại chịu lấy một tên như thế? Không lẽ nam tử trong thiên hạ chết hết rồi sao? Hay là bị hắn tiền dâm hậu thú, cưỡng ép phải làm vợ?” A Tử mỉm cười nói: “Vì sao tỉ tỉ của tiểu muội lại lấy y, thì tiểu muội cũng không biết, nhưng tỉ tỉ cũng bị y đánh một chưởng chết nốt.”

Cả đám nghe thế đều la lên một tiếng kinh ngạc. Bọn này lòng dạ trơ như gỗ đá, hành sự độc ác, thế mà nghe nói Tiêu Phong giết cả song thân, sư phụ, bằng hữu chưa đủ, lại giết cả thê tử, thủ đoạn tàn ác đến như thế quả là trên đời ít có. Chúng tự thấy không thể nào bằng được, đành chịu ở vào thế hạ phong.

Trích Tinh Tử nói: “Cái Bang người nhiều thế mạnh thì khó đối phó, nay Kiều Phong bị đuổi khỏi bang rồi, chúng ta còn sợ gì y nữa? Ha ha!” Y buông mấy tiếng cười rồi nói tiếp: “Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung gì gì đó chẳng qua là bọn võ lâm Trung Nguyên mèo khen mèo dài đuôi. Ta không tin rằng hai tên đó chống đỡ nổi công phu kỳ diệu của phái Tinh Tú chúng ta.” Gã mập lại hùa theo: “Chính thế! Bọn tiểu đệ cũng nghĩ vậy. Đại sư huynh võ công đã đến mức siêu phàm nhập thánh, phen này vào Trung Thổ giết quách hai gã Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung kia để làm nhụt nhuệ khí võ lâm Trung Nguyên, cho chúng biết phái Tinh Tú chúng ta lợi hại đến thế nào.”

Trích Tinh Tử hỏi: “Gã Kiều Phong kia đi về hướng nào?” A Tử đáp: “Y nói là định ra ngoài Nhạn Môn Quan, chúng ta cứ đuổi theo thì sớm muộn cũng bắt gặp.” Trích Tinh Tử nói: “Phải rồi! Nhị, Tam, Tứ, Thất, Bát năm vị sư đệ vừa rồi lâm địch bại trận, các ngươi muốn lãnh tội gì?” Cả năm tên khom lưng đáp: “Xin đại sư huynh trách phạt.” Trích Tinh Tử nói: “Phen này chúng ta đến Trung Nguyên có nhiều việc phải làm, nếu cứ đúng pháp mà trị tội thì thiếu hụt nhân số. Thế thì ta đành phải…” Y chưa nói xong đã vung tay trái lên, năm đốm lửa màu xanh bay vụt từ trong tay áo ra trông như năm con đom đóm, bắn vào bả vai năm tên. Mấy đốm lửa này vừa chạm phải da thịt lập tức phát ra tiếng xèo xèo.

Tiêu Phong ngửi thấy mùi thịt cháy khét lẹt, tự hỏi: “Không lẽ thằng ác ôn này thiêu sống luôn mấy tên sư đệ hay sao?”. May mà lửa chỉ cháy giây lát rồi tắt ngủm, nhưng mặt năm tên trông càng lúc càng đau đớn khủng khiếp. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chắc là y vừa phóng ra hỏa dược có chất lưu hoàng, lân tinh gì đó, xem chừng còn chứa cả chất độc, nên lửa tắt rồi mà độc tính còn thấm vào da thịt khiến cho càng đau đớn hơn lên”.

Bỗng nghe Trích Tinh Tử nói: “Đây là Luyện Tâm Đan, Ta rèn luyện cho các ngươi một phen, sức chịu đựng sẽ tăng thêm. Lần sau có gặp cường địch thì không đến nỗi mới đánh đã thua, làm mất thể diện phái Tinh Tú chúng ta.” Gã mũi sư tử và gã mập đông thanh đáp: “Vâng, vâng! Đa tạ đại sư huynh giáo huấn.” Còn ba tên kia vẫn phải tiếp tục vận nội lực chống lại cơn đau, chưa mở miệng nói năng được. Chừng tàn một nén hương, tiếng rên rỉ của chúng mới nhỏ dần. Trong thời gian đó bọn đệ tử phái Tinh Tú đứng nhìn đồng môn nghiến răng chịu phạt, tên nào cũng sợ hãi run lên.

Trích Tinh Tử từ từ đưa mắt nhìn sang Xuất Trần Tử, hỏi: “Bát sư đệ! Ngươi tiết lộ việc cơ mật trọng đại, khiến cho bảo vật của bản môn có nguy cơ bị phá hủy, phải chịu tội như thế nào?” Xuất Trần Tử biến sắc mặt, đột nhiên khuỵu gối xuống quì dưới đất van xin: “Đại sư huynh! Lúc đó… lúc đó tiểu đệ hoảng hốt khai ra… xin… xin sư huynh tha mạng. Từ nay… từ nay đại sư huynh có bắt tiểu đệ làm trâu làm ngựa cũng không dám nửa lời oán trách…” Nói xong y dập đầu lia lịa.

Trích Tinh Tử thở dài nói: “Bát sư đệ! Ngươi với ta là bạn đồng môn, nếu như ta đủ sức tha thì cũng muốn tha cho ngươi. Có điều… giả tỉ lần này tha cho ngươi thì sau này còn ai chịu tuân theo lệnh của sư phụ nữa? Thôi, ngươi xuất thủ đi! Qui củ của bản môn, ngươi biết rồi, chỉ cần đánh bại được người chấp pháp thì bất luận tội nghiệt gì cũng xóa hết. Đứng dậy động thủ đi.”

Xuất Trần Tử nào dám đối địch với đại sư huynh? Y vẫn tiếp tục dập đầu binh binh không ngớt. Trích Tinh Tử nói: “Ngươi không muốn xuất thủ trước thì hãy tiếp chiêu của ta.” Xuất Trần Tử rống lên một tiếng, cúi xuống nhặt hai hòn đá ném về phía Trích Tinh Tử, miệng hô to: “Đại sư huynh! Tiểu đệ xin đắc tội!” Y lại nhặt hai cục đá khác liệng ra, nhảy vọt về phía đông bắc, ném thêm hai cục đá nữa nghe vù vù. Người gã tròn quay trông chẳng khác quả cầu bằng thịt, đã bắn đi khá xa. Y tự biết võ công mình còn rất kém so với Trích Tinh Tử, chỉ mong liệng sáu cục đá, may ra cản được sư huynh trong chốc lát, tìm kế tẩu thoát rồi mai danh ẩn tích để bọn môn đồ phải Tinh Tú không lần ra được.

Ngờ đâu tay áo bên phải của Trích Tinh Tử phất lên một cái, cục đá liền quay ngược lại bắn thẳng vào sau lưng Xuất Trần Tử. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Công phu tá lực đả lực của gã này cũng khá cao, đây là bản lĩnh chân thực chứ không phải tà pháp chi hết.”

Xuất Trần Tử nghe tiếng gió rít sau lưng, vội nhảy qua một bên tránh né. Trích Tinh Tử lại phất cục đá kế tiếp bắn tới, không để cho y dừng lại chút nào. Xuất Trần Tử vừa đặt chân xuống đất đã nghe kình phong thổi tới sau lưng, viên đá thứ ba lại tới nơi. Mỗi viên đá ép được Xuất Trần Tử nhảy qua trái một bước, gã nhảy xong sáu bước đã quay về cạnh đống lửa. Viên đá thứ sáu rơi ở xa xa nghe cạch một tiếng. Xuất Trần Tử sắc mặt nhợt nhạt, thò tay vào bọc rút lưỡi trủy thủ ra, đâm thẳng vào ngực mình. Trích Tinh Tử lại phất nhẹ tay áo, một đốm lửa xanh bắn vào huyệt đạo ở cổ tay y, nghe tiếng xèo xèo. Bàn tay Xuất Trần Tử lỏng ra, lưỡi trủy thủ rơi xuống đất. Y lớn tiếng la lên: “Xin đại sư huynh mở lòng từ bi! Xin đại sư huynh mở lòng từ bi!”.

Tay áo Trích Tinh Tử lại vung lên lần nữa, một luồng kình phong bắn vào đống lửa xanh lè. Đột nhiên từ đống lửa này có một tia lửa nhỏ xíu bật thẳng vào Xuất Trần Tử, vừa chạm phải liền bốc lên lem lém, quần áo đầu tóc liền cháy phừng lên. Y lăn lộn trên mặt đất, kêu rú thảm thiết mà không chết ngay được, mùi thịt cháy khét lẹt bay ra thật là ghê gớm. Bọn đệ tử phái Tinh Tú sợ đến nỗi không dám thở mạnh.

Trích Tinh Tử nói: “Mấy sư đệ không nói gì ư? Ái chà! Các ngươi cho rằng thủ đoạn của ta độc ác quá, Xuất Trần Tử chết oan uổng quá, có phải thế không?” Bọn chúng lập tức tranh nhau lên tiếng: “Xuất Trần Tử tội đã đáng chết, đại sư huynh giúp y luyện thân hóa cốt cho sạch sẽ mà về nơi cực lạc, quả là nhân chí nghĩa tận đối với đồng môn.” “Đại sư huynh anh minh quyết đoán, xử trí thật là thích đáng, đã không nhu nhược lại không thái quá, chúng sư đệ vô cùng kính phục.” “Tên đó tiết lộ chuyện cơ mật của bản môn khiến cho vật chí bảo của sư phụ dùng để luyện công bị nguy hiểm, đáng tội lăng trì, xẻo thịt từ từ bảy ngày bảy đêm rồi mới cho chết. Đại sư huynh niệm tình đồng môn chỉ xử nhẹ nhàng, gã thành ma quỷ cũng còn cảm kích ân đức đại sư huynh.” “Bọn tiểu đệ ai cũng có tội, xin đại sư huynh khoan dung tha thứ.”

Những lời tán tụng vô liêm sỉ hòa cùng tiếng kêu gào thảm thiết của Xuất Trần Tử vang vọng trong đêm. Tiêu Phong chán ghét cùng cực, quay mình, búng chân phải một cái, vọt ra xa hơn hai trượng không một tiếng động. Đến kẻ bản lĩnh cao cường như Trích Tinh Tử cũng không hay biết gì.

Chàng đang định chạy đi, bỗng nghe Trích Tinh Tử cất giọng ôn tồn hỏi: “Tiểu sư muội! Ngươi ăn trộm bảo đỉnh của sư môn đưa cho người ngoài, thì phải chịu tội gì?” Tiêu Phong run lên nghĩ thầm: “Hình phạt A Tử phải chịu chắc còn thảm khốc gấp mười Xuất Trần Tử, nếu ta buông tay bỏ mặc thì yên tâm thế nào được?”. Nghĩ thế, chàng lại lẻn về chỗ nấp khi nãy.

Bỗng nghe A Tử đáp: “Tiểu muội phạm vào qui củ của sư phụ, chuyện đó dĩ nhiên không cãi được. Nhưng chẳng hay đại sư huynh có muốn lấy lại bảo đỉnh hay chăng?” Trích Tinh Tử đáp: “Đó là một trong tam bảo của bản môn, đương nhiên là phải thu hồi, không thể để lọt vào tay người ngoài được.” A Tử nói: “Tính nết của tỉ phu tiểu muội hết sức quật cường. Bảo đỉnh là do tiểu muội giao cho tỉ phu, nếu muội muốn lấy lại, tỉ phu sẽ giao hoàn không sứt mẻ. Còn nếu người khác đến đòi thì đại sư huynh nghĩ xem tỉ phu tiểu muội có chịu giao trả không?”

Trích Tinh Tử đằng hắng một tiếng rồi đáp: “Việc này khó mà nói trước được. Nhưng nếu bảo đỉnh bị hư hại thì tội nghiệt nhà ngươi càng nặng thêm.” A Tử nói: “Giả tỉ các vị sư huynh đi đòi, nhất định tỉ phu không trả. Đại sư huynh võ công cao đến mức nào cũng giết được tỉ phu là cùng, còn muốn thu hồi bảo đỉnh thì khó hơn lên trời.” Trích Tinh Tử trầm ngâm một lát rồi hỏi: “Theo ý sư muội thì phải làm sao?” A Tử đáp: “Sư huynh thả tiểu muội ra, để muội đi một mình ra Nhạn Môn Quan kêu tỉ phu trả lại chiếc bảo đỉnh. Cái đó gọi là lập công chuộc tội. Có điều đại sự huynh phải hứa là sau này không trách phạt gì tiểu muội về vụ này nữa.”

Trích Tinh Tử đáp: “Tiểu muội nói nghe cũng có lý. Nhưng nếu làm như thế thì ta còn chi thể diện, từ nay còn làm đại sư huynh của phái Tinh Tú nữa được chăng? Ta thả ngươi ra là lập tức ngươi cùng với tỉ phu xa chạy cao bay, ta biết lên trời hay xuống biển mà tìm đây? Còn về việc bảo đỉnh, ta nghĩ có chí thì nên, nếu không lộ chuyện ra thì gã họ Kiều kia chưa chắc đã hủy đi. Tiểu sư muội, ngươi xuất thủ đi thôi. Chỉ cần đánh thắng ta là ngươi biến thành đại sư tỉ của phái Tinh Tú, lúc đó muốn làm gì thì làm, dĩ nhiên ta phải nghe hiệu lệnh.”

Tiêu Phong nghe đến đây mới hiểu rõ: “Thì ra thứ bậc cao thấp của bọn chúng là tùy theo võ công mạnh hay yếu, chứ không tính theo nhập môn trước hay sau. Vì thế mà gã Trích Tinh Tử còn trẻ tuổi mà lại là đại sư huynh, mấy tên lớn tuổi hơn lại là sư đệ. Nhưng như thế thì nội bộ môn phái lúc nào cũng có chuyện tranh đoạt tàn sát, còn gì là tình nghĩa huynh đệ đồng môn nữa?”.

Chàng không biết rằng phái Tinh Tú đưa ra phương pháp này để đời sau phải giỏi hơn đời trước. Quyền lực của đại sư huynh rất lớn, sư đệ nào không phục có thể dùng vũ lực phản kháng, tỉ thí cao thấp một phen. Nếu đại sư huynh thắng, thì gã sư đệ kia bị đánh bị giết thế nào cũng đành chịu, không kêu ca gì được. Còn nếu sư đệ thắng thì lập tức nhảy lên làm đại sư huynh, có quyền xử tử gã đại sư huynh cũ. Sư phụ đứng ngoài chỉ thõng tay nhìn, quyết không can thiệp. Vì có lề luật như thế nên ai cũng phải ra sức rèn luyện để tự bảo vệ tính mạng của mình, nhưng bề ngoài thì không tỏ vẻ gì hết, có khi còn làm bộ kém cỏi để khỏi bị đại sư huynh nghi ngờ. Xuất Trần Tử có tý lực lợi hại, y đúc cây cương trượng vừa to vừa dài, trầm trọng nhất môn phái, tuy đứng tận hàng thứ tám nhưng Trích Tinh Tử cũng đã đem lòng đố kỵ, nhân dịp này trừ khử y. Nhân vật các phái khác thì thông thường chỉ luyện tới một mức nào đó là dừng lại không tiến thêm được nữa, còn đệ tử phái Tinh Tú không dám bê trễ đến nửa ngày, lúc nào cũng cố công luyện tập. Đại sư huynh phải lo sợ sư đệ đến khiêu chiến với mình, mà bọn sư đệ cũng sợ đại sư huynh kiếm chuyện đổ lên đầu để thí nghiệm võ công. Đại sư huynh không chắc ăn thì không bao giờ dám gây hấn.

A Tử hy vọng Trích Tinh Tử sợ mất bảo đỉnh mà không dám làm mạnh, nào ngờ y không mắc bẫy, lại đòi động thủ ngay. Cô nàng mặt mày tái mét, nghe Xuất Trần Tử vẫn còn rên la chưa chết được, thảm trạng đó chỉ chớp mắt sẽ đến với mình. A Tử đành bậm môi run run nói: “Chân tay tiểu muội đang bị khóa chặt, làm sao động thủ được? Nếu đại sư huynh muốn hại muội thì hãy dùng cách quang minh chính đại, đừng dùng thủ đoạn này.”

Trích Tinh Tử đáp: “Được lắm! Để ta mở khóa cho ngươi.” Y phất tay áo một cái, phóng một luồng kình phong vào đống lửa. Từ đống lửa một tia lửa xanh nhỏ bay vọt ra, y như một tia nước phun thẳng vào dây xích đang khóa hai tay A Tử.

Tiêu Phong nhìn rất rõ ràng, thấy tia lửa đó không hề chạm vào người A Tử. Nghe tiếng xì xì một lát, sợi xích nối hai tay A Tử đứt ngay giữa, nhưng vẫn lòng thòng nơi cổ tay. Tia lửa xanh rụt về, rồi lại phóng vào sợi xích dưới chân, chỉ một lát cắt đứt nốt. Lúc đầu Tiêu Phong thấy tia lửa xanh lè nung chảy được dây xích không khỏi ngấm ngầm kinh hãi, tưởng nội lực Trích Tinh Tử cực kỳ ghê gớm. Lúc chàng nhìn tia lửa đốt dây xích dưới chân mới thấy rõ, tia lửa vừa tới xích sắt liền đổi màu, xem ra ngọn lửa này có điều cổ quái chứ không phải thuần túy dựa vào nội lực.

Bọn đồ đệ phái Tinh Tú không ngớt thi nhau tán tụng: “Nội lực đại sư huynh siêu phàm nhập hóa, quả thực kinh người, chúng ta chưa được thấy, cũng chưa từng nghe. Trên thiên hạ ngoài sư phụ ra, đại sư huynh nhất định là vô địch.” “Bọn Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung gì gì đó không đáng xách giày cho đại sư huynh.” “Tiểu sư muội đã thấy lợi hại chưa? Nhưng bây giờ hối hận cũng đã muộn rồi.” Mỗi tên tranh nhau nói một câu. Trích Tinh Tử nghe nịnh hót mà mặt tươi như hoa, hớn hở liếc mắt nhìn A Tử, A Tử tuy tinh quái nhưng cũng chưa nghĩ ra cách thoát hiểm, chỉ mong bọn chúng ca tụng hoài để Trích Tinh Tử trì hoãn ra tay được lúc nào hay lúc nấy. Nhưng bọn chúng tán tới tán lui một hồi hết vốn, không nghĩ ra ý gì mới mẻ, rời rạc dần dần.

Trích Tinh Tử thủng thẳng nói: “Tiểu sư muội! Xuất thủ đi thôi.” A Tử run rẩy đáp: “Ta không xuất thủ đâu.” Trích Tinh Tử hỏi lại: “Sao thế? Ngươi cử động được rồi mà?” A Tử đáp: “Ta biết chắc đánh không lại ngươi, việc gì phải phí hơi sức? Người muốn giết ta thì cứ giết phứt cho rồi.”

Trích Tinh Tử thở dài đáp: “Thực lòng ta cũng chẳng muốn giết ngươi. Một tiểu cô nương xinh đẹp dễ thương như thế này, giết đi quả là đáng tiếc, nhưng thật không còn cách khác. Tiểu sư muội! Ngươi xuất thủ đi, hạ sát được ta thì sẽ trở thành đại sư tỉ. Khi đó trong phái Tinh Tú, ngoài sư phụ ra, ai cũng phải nghe lời ngươi hết.” A Tử đáp: “Ta chỉ là một tiểu cô nương, luyện cả đời cũng không hơn ngươi được. Ngươi e ngại điều gì mà lại muốn giết ta?” Trích Tinh Tử thở dài: “Giả tỉ ngươi không phạm phải đại tội như thế này, nhất quyết ta không làm khó ngươi. Thế nhưng… thế nhưng… ta không giúp gì được nữa. Tiểu sư muội, tiếp chiêu?” Y nói xong phất tay áo một cái, một luồng kình phong ập vào đống lửa, một dây lửa xanh phóng tới cô gái, nhưng dường như y chưa muốn giết A Tử ngay nên tia lửa bay thật chậm.

A Tử sợ quá kêu lên, nhảy qua trái hai bước. Tia lửa đuổi theo, A Tử lại lùi một bước nữa, khéo làm sao lại dựa lưng ngay vào tảng đá Tiêu Phong đang nấp đằng sau. Trích Tinh Tử thúc đẩy nội lực, ngọn lửa lại tiến tới, A Tử không còn đường lui, đang tính nhảy sang bên, nhưng tay áo Trích Tinh Tử lại phất lên, hai luồng kình phong chia ra tấn công tả hữu. Cô nàng không còn đường chạy nữa, tia lửa trước mặt vẫn tiến càng lúc càng gần.

Tiêu Phong thấy dây lửa xanh lè chỉ còn cách mặt A Tử hai thước, rồi gần thêm một tấc, một tấc nữa, bèn nói khẽ: “Cô đừng sợ! Có ta đến giúp đây!” Chàng vừa nói vừa thò tay từ sau tảng đá ra đặt vào lưng cô gái, nói: “Ngươi vận chưởng lực nhắm vào tia lửa mà đánh ra.”

A Tử đang hồn lạc phách xiêu, đột nhiên nghe thấy tiếng Tiêu Phong không khác gì chết đi sống lại. Nàng không suy nghĩ gì nữa vung chưởng đẩy ra. Khi đó Tiêu Phong đã truyền nội lực vào thân thể nàng, chưởng thế thật là hùng hậu, đánh dội ngọn lửa xanh lại hai thước.

Trích Tinh Tử giật mình, gã vốn yên trí A Tử như cá nằm trên thớt, đang định biểu diễn công phu cho tia lửa vờn qua vờn lại trước mặt cô, dọa cho nàng la hét một hồi để dương oai trước đám sư đệ rồi mới ra tay hạ sát. Ngờ đâu cô ta tuổi còn nhỏ mà nội lực đã ghê gớm đến thế, thực là ngoài dự liệu. Bạn đọc nên biết, khi đệ tử phái Tinh Tú được sư phụ truyền thụ rồi, mỗi người tự luyện lấy, cao thấp thế nào thì khi lâm địch hay khi đồng môn tỉ thí giết nhau mới hiểu, ngoài ra chẳng ai biết ai. Do đó khi A Tử đánh ra một chưởng đẩy được tia lửa co về, cả đám la lên kinh ngạc, nhưng không nghi ngờ có người ám trợ, chỉ nghĩ A Tử thiên tư thông tuệ, đã luyện công phu đến mức cao thâm.

Trích Tinh Tử vận nội lực đẩy ra, tia lửa xanh lại nhắm ngay mặt A Tử phóng tới. Lần này y sử kình rất mạnh, tia lửa xẹt nhanh như chớp. A Tử hốt hoảng không biết làm sao ngăn lại, vội né qua bên trái. May mà hai luồng kình lực Tích Tinh Tử chặn hai bên tả hữu đã hết, nàng vừa né qua, ngọn lửa xanh bắn trúng vào tảng đá nghe mấy tiếng xèo xèo. Tiêu Phong khẽ bảo: “Phóng tả chưởng ra cắt đứt tia lửa.” A Tử nghĩ thầm: “Tuyệt diệu!”, vung tay trái lên, phóng chưởng vào giữa cắt đứt sợi dây lửa. Phần ngọn không có kình lực nối tiếp, chỉ cháy trên tảng đá thêm một lúc rồi lụi dần.

Trích Tinh Tử nghĩ thầm: “Nếu ta mà để tắt sợi dây lửa này thì coi như thua một trận trước mặt đồng môn, uy phong mất sạch.” Y bèn vận chưởng lực, đẩy tia lửa bắn tới tảng đá, định nối vào đầu kia để thu về, giữ cho khỏi tắt.

Lúc này A Tử thấy nội lực cuồn cuộn trút vào sau lưng, nếu không phát tiết ra không chừng thân thể không đủ chỗ chứa sẽ nổ tung. Cô nàng lập tức vung tay phải đánh thẳng ra. Nội lực của Tiêu Phong thâm hậu vô cùng, tuy trút sang người A Tử đã giảm sức mạnh đi vài phần, song nếu nàng khéo vận dụng, xuất kỳ bất ý tấn công Trích Tinh Tử thì chỉ một đòn là xong. Nhưng nàng chưa hết hoảng hốt, phát chưởng đánh ra hời hợt, chưởng phong kêu vù vù mà chỉ đánh tắt được ngọn lửa xanh, không làm Trích Tinh Tử tổn hại chút nào.

Tuy thế bọn đồ đệ phái Tinh Tú cũng không khỏi khiếp vía. Chỉ sót lại tên thất sư đệ ngu ngốc chẳng biết chi hết, vẫn kiếm lời tán tụng: “Đại sư huynh công lực thật là ghê gớm, phát chưởng của tiểu sư muội chẳng qua đánh tắt thần hỏa là cùng, chẳng làm quái gì được đại sư huynh.” Bản tâm y thì nịnh bợ sư huynh nhưng Trích Tinh Tử lại tưởng bị xỏ xiên, đột nhiên phất tay áo một cái, một tia lửa xanh lè vọt ra như tên bắn vào mặt gã thất sư đệ. Tia lửa chỉ chạm vào rồi co về ngay, nhưng gã kia đã hai tay ôm lấy mặt, nhào xuống đất rống lên như heo bị chọc tiết.

Trích Tinh Tử xử lý nội bộ xong, đánh xéo tả chưởng ra, tia lửa xanh lại bắn về phía A Tử. Lần này thế lửa mạnh hơn nhiều, rít lên kêu vu vu, chiếu vào khuôn mặt cô gái xanh lè. A Tử đẩy song chưởng ra ngăn chặn, ngọn lửa dừng lại trên không, cứ dài ra được một hai tấc, lại co về một hai tấc. Trong đêm tối, tia lửa trông chẳng khác gì một con rắn dài xanh lét, uốn éo lơ lửng trên không, vừa rực rỡ vừa huyền ảo, khi mờ khi tỏ.

Trích Tinh Tử huy động chưởng lực ba lần đều bị A Tử liên tiếp đẩy lui, không khỏi vừa sốt ruột vừa tức tối. Y thúc thêm hai lần nữa vẫn không đẩy tia lửa tiến lên chút nào, xương sống đột nhiên lạnh toát: “Dư lực… dư lực… của con ranh này còn mãi không hết, dường như nó đang trêu chọc ta. Không lẽ sư phụ sủng ái, âm thầm truyền thụ công phu thượng thừa của bản môn cho nó? Ta… ta chống sao nổi, mắc bẫy rồi.” Y nghĩ thế, trong lòng hoang mang, chưởng lực bất giác yếu đi, con rắn xanh thụt lùi về đống lửa nhanh như chớp.

Trích Tinh Tử quát lên một tiếng, lại gia tăng chưởng lực, ngọn lửa biến thành một khối hỏa cầu to như cái đấu, bay vọt về phía A Tử. Nàng vội phóng hữu chưởng ra nhưng không chặn nổi, lập tức đẩy thêm tả chưởng, song chưởng hợp lực mới chống đỡ được khối cầu lửa.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú chỉ thấy một cục lửa tròn xoay chuyển trên không, vội vàng cất tiếng reo hò: “Đại sư huynh công lực thần kỳ, phen này con tiểu a đầu phải cháy ra tro bụi.” “Tiểu sư muội ơi, đừng hung hăng nữa. Mau ngoan ngoãn chịu thua, không chừng đại sư huynh mở cho một con đường sống.”

A Tử liên tiếp thúc đẩy chưởng lực. Dù nội lực của Tiêu Phong đưa vào cực kỳ hùng hậu, nhưng dẫu sao cũng là ngoại lai, nàng vận dụng không được thuần thục. Trích Tinh Tử cầm cự một hồi liền phát giác được chỗ yếu của sư muội, đột nhiên nhíu đôi mày, ngón tay trỏ bên phải điểm luôn hai chỉ nghe soẹt soẹt. Từ đống lửa phóng ra hai đốm hoa lửa, vọt đi như sao băng tấn công vào hai bên A Tử, A Tử la lên: “Úi chà!” Hai tay nàng đang phải chặn hỏa cầu, làm sao chia ra chống đỡ được nữa? Nàng hết cách, đành né sang một bên, Trích Tinh Tử lập tức huy động hai bông hoa lửa đuổi theo.

Tiêu Phong biết A Tử không chống đỡ được nữa, khẽ đưa tay lên, hai luồng chưởng lực từ từ phóng ra. Chỉ thấy thân hình A Tử hơi lắc lư, hai đầu sợi dây thắt lưng phơ phất quạt ra, hai đốm hoa lửa bắn vụt trở lại Trích Tinh Tử.

Gã sợ đến trợn mắt há hốc mồm, chưa ngậm miệng lại thì hai đốm lửa đã bắn tới nơi, vội vàng nhảy vọt lên, một đóa hoa lửa xẹt qua dưới chân. Hai tên sư đệ liền lên tiếng reo hò: “Hảo công phu! Bản lãnh đại sư huynh thật là tuyệt diệu!” Tiếng reo chưa dứt, đóa hoa lửa thứ hai đã bắn vào bụng dưới. Trích Tinh Tử đang lơ lửng trên không, làm sao vọt lên được nữa? Nghe soẹt một tiếng nhỏ, đốm lửa đã trúng vào bụng y. Trích Tinh Tử rú lên một tiếng, rơi bịch xuống đất, quả cầu lửa cũng quay về đống lửa ngay.

Bon đệ tử phái Tinh Tú nhìn A Tử ra vẻ kinh hãi, nghĩ thầm: “Xem ra công lực tiểu sư muội không phải tệ. Đại sư huynh vị tất đã thắng, mình chưa nên reo hò vội.”

Trích Tinh Tử thần sắc ảm đạm, đưa tay tháo búi tóc cho xõa xuống che mặt, rồi cắn đầu lưỡi, phun một búng máu vào đống lửa. Ngọn lửa đang le lói bỗng bùng lên, sáng lóa cả mắt mọi người. Bọn sư đệ lại nức nở khen: “Công lực đại sư huynh ghê gớm, thật là mở rộng tầm mắt cho chúng sư đệ.” Thân hình Trích Tinh Tử đột nhiên quay tít đến hơn chục vòng như con vụ, giữ tay áo một cái, bốc cả đống lửa dưới đất lên trời, chẳng khác gì một bức tường lửa đổ xuống người A Tử.

Tiêu Phong biết Trích Tinh Tử đang dồn hết công lực bình sinh, sử dụng một tà thuật lợi hại vô cùng. Chàng nghĩ gã này tuy ác độc thật nhưng đối với mình không thù không oán, chẳng việc gì phải quyết tử. Tiêu Phong lập tức biến chưởng thành trảo, chộp vào lưng A Tử kéo nàng chạy đi. Đột nhiên A Tử kêu lên: “A Châu tỉ tỉ! Muội đang bị người ta ức hiếp, sao tỉ tỉ không giúp muội báo thù?” Tiêu Phong ngạc nhiên:“Sao cô này lại hô hoán A Châu, ta… ta… làm sao bỏ đi được?”.

Tiêu Phong mới chần chừ một chút, bức tường lửa xanh lè đã chồm đến nơi, song chưởng chàng vội luồn vào tay áo A Tử phóng ra. Hai cánh tay áo màu tím căng phồng lên, kình lực của Tiêu Phong đẩy phần phật vào bức tường lửa.

Đám lửa ở trên không ngừng lại một chút rồi từ từ lui về phía Trích Tinh Tử. Gã sợ quá, lại nghiến răng cắn đầu lưỡi, phun thêm một ngụm máu vào, lửa lại bừng bừng tiến lên, nhưng chỉ được hai thước thì lại bị nội lực của Tiêu Phong đẩy ngược trở về. Bọn đệ tử phái Tinh Tú thấy đôi tay áo A Tử căng lên như buồm no gió, đều tưởng nội lực cô tiểu sư muội mãnh liệt đến cùng cực, có ai ngờ sau lưng nàng có người ám trợ.

Lúc này mặt Trích Tinh Tử nhợt nhạt, phun từng ngụm từng ngụm máu vào đám lửa. Mỗi lần gã phun máu ra là nội công lại giảm đi một phần, nhưng trót vào thế cưỡi hổ không xuống được, chỉ mong đốt chết được A Tử rồi chuồn đi ngay, tìm nơi tu luyện phục hồi nguyên khí. Nếu không, bọn sư đệ mà nhìn ra chỗ yếu, chắc là thừa cơ hội tiến lên khiêu chiến ngay. Y không ngớt phun máu ra, song bị nội lực hùng hậu vô song của Tiêu Phong đẩy lại thì đám lửa làm sao mà tiến lên được?

Tiêu Phong nhận thấy chân khí của y càng lúc càng suy yếu, sắp tới mức dầu cạn đèn khô, liền khẽ bảo A Tử: “Cô bảo hắn chịu thua đi thôi, đừng đấu nữa.”

A Tử bèn cất tiếng gọi: “Đại sư huynh! Ngươi sắp thua rồi, mau mau quì xuống van xin, ta sẽ tha mạng cho. Ngươi chịu thua chưa?” Trích Tinh Tử hoảng hốt vô kể, biết mạng mình nguy đến nơi rồi, nghe A Tử chiêu hồi liền vội vàng gật đầu. A Tử hỏi lại: “Sao ngươi không trả lời? Ngươi không mở miệng nói, tức là không chịu thua, phải không?” Trích Tinh Tử lại gật đầu lia lịa nhưng không dám mở miệng nói. Y đang dùng toàn lực chống đỡ nội hình của Tiêu Phong, chỉ há miệng thoát hơi ra là ngọn lửa quay ngược về nướng chín y ngay.

Bọn sư đệ thấy thế lập tức đua nhau lên tiếng mắng nhiếc: “Trích Tinh Tử! Ngươi thua rồi sao chưa quì xuống dập đầu?” “Đồ bị thịt như ngươi mà ra ngoài xưng là đệ tử phái Tinh Tú thì bản môn mất hết cả thể diện.” “Tiểu sư muội đã khoan hồng đại lượng tha mạng cho ngươi, sao lại còn ngoan cố? Mau mau mở miệng van xin đi.” “Trích Tinh Tử! Mười năm trước ta đã biết ngươi là kẻ tệ hại nhất trong phái Tinh Tú. Hôm nay tiểu sư muội thanh lý môn hộ, lập được đại công, làm rạng danh bản phái.” “Ngươi đang sắp đặt kế hoạch ám toán sư phụ, gia nhập phái Thiếu Lâm, may mà tiểu sư muội phát hiện gian mưu. Ngươi đúng là đồ heo chó, vô liêm sỉ không nói hết.” “Tiểu sư muội thần công cái thế, trừ sư phụ ra thì sư muội là đệ nhất, ta đã biết từ lâu rồi.” “Trích Tinh Tử, chính ngươi đã lấy trộm Thần Mộc Vương Đỉnh, lại dám vụ cáo tiểu sư muội, chắc là chán sống rồi chăng?”

Tiêu Phong thấy bọn chúng trở mặt nhanh chóng, thấy Thích Tinh Tử vừa kém thế là lập tức giậu đổ bìm leo, vừa mới ca tụng đại sư huynh anh hùng cái thế, bây giờ thì chửi như heo như chó, thực sự tư cách chúng mới không bằng heo chó. Chàng nghĩ thầm: “Tinh Tú Lão Ma thu gom toàn bọn đệ tử không có nhân cách. A Tử từ thuở nhỏ đã cùng bọn với chúng, thảo nào tư cách cũng đê tiện như thế.” Tiêu Phong thấy tình cảnh Trích Tinh Tử thê thảm quá rồi, không nỡ hại thêm liền thu nội kình về, hai cánh tay áo A Tử liền rũ xuống.

Trích Tinh Tử thần sắc thiểu não, thân hình loạng choạng, đột nhiên hai gối nhũn ra ngồi phệch xuống đất. A Tử hỏi: “Đại sư huynh! Sao rồi? Đã phục ta chưa?” Trích Tinh Tử ấp úng nói nhỏ: “Ta chịu thua rồi, ngươi… ngươi đừng gọi ta là đại sư huynh nữa, bây giờ ngươi là đại sư tỉ.”

Bọn đệ tử liền reo hò vang dội: “Tuyệt diệu! Thật là tuyệt diệu! Đại sư tỉ võ công cái thế, phái Tinh Tú có người thừa kế như vậy thể nào cũng dương danh thiên hạ.” “Đại sư tỉ! Mau mau đi giết sạch bọn Bắc Kiều Phong, Nam Mộ Dung gì gì đó để phái Tinh Tú chúng ta độc bá Trung Nguyên.” Một gã khác cãi lại: “Ngươi chỉ nói lăng nhăng, Bắc Kiều Phong là tỉ phu của sư tỉ, sao lại giết đi?” “Sao lại không giết? Trừ phi y lên tiếng chịu thua, gia nhập phái Tinh Tú thì không kể.”

A Tử lên giọng đại sư tỉ mắng: “Các ngươi làm gì mà ồn ào thế? Im lặng hết đi!” Cả bọn liền im bặt.

A Tử quay sang nhìn Trích Tinh Tử, cười hì hì nói: “Theo thể lệ của bản môn, sau khi đổi người thừa kế rồi thì người trước phải như thế nào?” Trích Tinh Tử toát mồ hôi trán ròng ròng, run lên đáp: “Đại sư… sư tỉ! Xin… xin đại sư tỉ…” A Tử cười khanh khách nói: “Ta thật lòng muốn tha cho ngươi, có điều thể lệ của bản môn không thể bị hủy hoại nơi tay ta được. Ngươi xuất chiêu đi, có bản lĩnh gì thì đem ra cho hết.”

Trích Tinh Tử biết vận mạng mình đã định rồi, năn nỉ thêm chẳng được gì. Y liền vận khí vào song chưởng, nhắm ngọn lửa đẩy tới. Ngờ đâu lực đã kiệt mất rồi, song chưởng phóng ra mà đống lửa xanh lè chỉ hơi nhúc nhích rồi đứng yên trở lại.

A Tử cười nói: “Hay quá! Thật là hay quá! Sao pháp thuật của đại sư huynh không linh nghiệm nữa?” Nàng tiến lên hai bước, vung chưởng đánh ra, một tia lửa xanh bắn vào Trích Tinh Tử, A Tử nội lực bình thường, tia lửa đi vừa chậm vừa tung tóe ra chung quanh nhưng Trích Tinh Tử không còn hơi sức chống trả, muốn đứng dậy bỏ chạy cũng không được. Tia lửa bắn vào người y, chỉ trong chớp mắt là đầu tóc cùng y phục gã cháy bùng. Gã rú lên những tiếng cực kỳ thê thảm, toàn thân biến thành một cây đuốc sống.

Bọn đệ tử lại reo hò vang dội, đua nhau tán dương đại sư tỉ võ công xuất thần nhập hóa, trừ được một tên bại hoại trong môn phái, theo đúng ý chỉ của sư phụ, tạo phúc cho đồng môn.

Tiêu Phong đã từng chứng kiến không biết bao nhiêu cảnh hung tàn thảm khốc trên giang hồ, nhưng chưa từng thấy một cô gái xinh đẹp khả ái, bề ngoài trong trắng ngây thơ như A Tử mà hành sự hiểm độc dã man đến thế. Chàng cảm thấy chán nản, thở dài thườn thượt rồi cất bước bỏ đi.

A Tử bỗng cất tiếng gọi: “Tỉ phu! Tỉ phu khoan đi đã, đợi muội một chút.” Bọn đệ tử phái Tinh Tú thấy một người ở sau tảng đá đột nhiên bước ra thì không khỏi kinh ngạc. Mấy tên nhị đệ tử, tam đệ tử nhận ra Tiêu Phong, lại càng mất vía.

A Tử lại kêu: “Tỉ phu! Chờ muội với!” Nàng rào bước chạy đến chỗ Tiêu Phong. Lúc đó Trích Tinh Tử kêu la càng lớn, thêm tiếng vang dội từ trong hang núi lại càng ghê rợn. Tiêu Phong chau mày hỏi: “Cô theo ta làm chi nữa? Cô đã là người thừa kế phải Tinh Tú, làm đại sư tỉ của cả đám môn đồ, vẫn chưa thỏa mãn hay sao?” A Tử cười nói: “Không được!” Nàng hạ giọng xuống nói: “Cái chức đại sư tỉ của tiểu muội là giả mạo, có đáng gì đâu? Tỉ phu ơi, dắt muội theo ra ngoài Nhạn Môn Quan nhé?” Tiêu Phong càng nghe Trích Tinh Tử kêu gào lại càng không muốn chần chờ, rảo bước đi về hướng bắc.

A Tử sánh vai Tiêu Phong cùng đi, chợt nhớ ra điều gì, quay đầu lại nói: “Nhị sư đệ! Ta có việc phải lên phía bắc, bọn ngươi cứ ở quanh quẩn đây đợi ta, không được tự ý bỏ đi. Nghe rõ chưa?” Cả bọn nhất tề tiến lên hai bước, cung kính khom lưng nói: “Đại sư tỉ đã ban pháp chỉ, chúng sư đệ không dám trái lời.” Rồi bọn chúng lại nhao nhao tán tụng: “Cung chúc đại sư tỉ thượng lộ bình an.” “Cung chúc đại sư tỉ vạn sự như ý.” “Cung chúc đại sư tỉ kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công.” “Đại sư tỉ một thân thần công tuyệt thế, việc gì mà chẳng dễ dàng? Bọn sư đệ chúc tụng chỉ bằng thừa.”

A Tử vẫy tay mấy cái ra chiều đắc ý. Dưới ánh tuyết chiếu lên, Tiêu Phong nhìn rõ vẻ mặt cô nàng vừa xinh đẹp vừa khả ái, lại đầy vẻ ngây thơ. Lúc này cô đang khoái chí trông chẳng khác gì đứa bé mới được món đồ chơi hay một viên kẹo. Nếu chàng không tận mắt trông thấy, thì thật không thể tin được nàng vừa hạ độc thủ sát hại đại sư huynh, lên ngôi thừa kế một tà phái đứng đầu thiên hạ. Tiêu Phong thở dài, lại càng thấy cuộc đời thật ngán ngẩm.

A Tử hỏi: “Tỉ phu! Sao tỉ phu lại thở dài? Phải chăng là vì tiểu muội tinh nghịch quá?” Tiêu Phong đáp: “Cô đâu có tinh nghịch, chỉ hung ác tàn nhẫn thôi. Nếu bọn nam nhi lớn tuổi chúng ta mà hung ác thì còn hiểu được. Còn cô chỉ là một bé gái nhỏ tuổi sao hạ thủ lại không dung tình, độc ác đến thế?” A Tử lấy làm lạ hỏi lại: “Tỉ phu không biết thật hay là giả và không biết?” Nói xong, nàng ngoẹo đầu nhìn Tiêu Phong đầy vẻ tò mò. Tiêu Phong hỏi: “Ta không biết cái gì?”

A Tử đáp: “Lạ thật! Tỉ phu không hiểu thật ư? Cái chức đại sư tỉ của tiểu muội là giả mạo, do tỉ phu tranh đoạt giúp cho, nhưng lúc nãy bọn chúng không nhìn ra đấy thôi. Giả tỉ tiểu muội không giết Trích Tinh Tử, thể nào cũng có lúc y khám phá ra. Lúc ấy chưa chắc đã có tỉ phu ở bên cạnh, muội mất mạng là cái chắc. Muội còn muốn sống thì chỉ còn cách là phải giết gã thôi.”

Tiêu Phong nói: “Thôi được. Thế bây giờ cô theo ta ra ngoài Nhạn Môn Quan để làm gì?” A Tử đáp: “Tỉ phu! Bây giờ muội mới nói thật, tỉ phu có chịu nghe không?” Tiêu Phong nghĩ thầm: “Ái chà! Bây giờ người mới nói thật, thế ra xưa nay chỉ toàn nói láo.” Chàng bèn đáp: “Dĩ nhiên là ta muốn nghe, chỉ sợ cô nói không thực thôi.” A Tử cười khúc khích, nắm cánh tay chàng mà hỏi: “Tỉ phu có sợ tiểu muội không?” Tiêu Phong thở dài đáp: “Ta sợ nhiều lắm, sợ cô gây họa, sợ cô vô cớ giết người, sợ cô giở trò quái quỉ…” A Tử nói: “Thế tỉ phu có sợ tiểu muội bị người ta hiếp đáp hay sát hại không?” Tiêu Phong đáp: “Ta đã nhận lời ủy thác của A Châu, dĩ nhiên phải quan tâm chiếu cố đến cô.” A Tử hỏi lại: “Nếu như tỉ tỉ không ủy thác thì sao? Nếu như muội không phải là muội tử của A Châu tỉ tỉ thì sao?” Tiêu Phong hắng giọng rồi đáp: “Nếu thế thì ta chẳng việc gì phải chiếu cố đến cô.”

A Tử hỏi: “A Châu tỉ tỉ có gì mà tốt đẹp thế? Sao tỉ phu lại chẳng coi muội ra gì?” Tiêu Phong đáp: “A Châu so với cô thì tốt đẹp gấp nghìn lần, gấp vạn lần. A Tử, người như cô vĩnh viễn chẳng bao giờ bằng tỉ nương cô được.” Chàng nói tới đây mắt lại đỏ hoe, thanh âm hơi nghèn nghẹn. A Tử bĩu môi nói: “Nếu A Châu tỉ tỉ tốt đẹp như thế, thì tỉ phu cứ gọi tỉ tỉ đi cùng, tiểu muội không thèm đi nữa.” Nàng nói xong quay người bỏ đi.

Tiêu Phong chẳng lý gì đến, cũng cất bước, trong lòng không khỏi đau thương, lẩm bẩm: “Giả tỉ A Châu cùng đi với ta trên mặt tuyết này, giả tỉ nàng hờn giận ta mà bỏ đi như thế, ta sẽ lập tức đuổi theo, tìm lời tử tế dỗ dành. Mà không, chẳng bao giờ ta để nàng phải bực mình, chuyện gì ta cũng chiều ý nàng cả. Ôi chao, A Châu đối với ta một lòng nhu thuận, có bao giờ lại hờn giận ta?”.

Đột nhiên nghe tiếng chân người, A Tử lại chạy tới nói: “Tỉ phu ơi! Tỉ phu quả là lòng gang dạ sắt, nói không là không, chẳng có một chút nhân từ nào.” Tiêu Phong cười khẩy hỏi lại: “Người như cô mà cũng nói chuyện bụng dạ nhân từ ư? Này A Tử, cô nghe ai nhắc đến hai chữ nhân từ thế?” A Tử đáp: “Muội nghe má má nói. Bà ấy còn bảo đối với người khác không nên quá tàn nhẫn bá đạo, phải có chút ít nhân từ.” Tiêu Phong nói: “Mẫu thân cô nói thế là phải lắm. Chỉ tiếc rằng cô từ bé đã không được ở bên mẫu thân, lại phải đi theo sư phụ học được những chuyện tàn ác xấu xa.” A Tử cười nói: “Hay lắm! Thế thì từ nay muội đi theo tỉ phu để học làm người tốt.”

Tiêu Phong giật bắn người, xua tay lia lịa, vội đáp: “Không được, không được đâu! Cô đi theo một gã thô lỗ như ta thì chỉ có hại thêm. Này A Tử, cô đi đi! Có cô ở bên chỉ khiến ta thêm phiền não, muốn tĩnh trí một chút để suy nghĩ chuyện gì cũng không được.” A Tử đáp: “Nếu tỉ phu suy nghĩ chuyện gì, thì cứ nói cho muội hay, muội sẽ lo lắng giúp đỡ. Tỉ phu tốt bụng quá, dễ bị người ta lừa gạt.” Tiêu Phong vừa tức mình vừa tức cười, nói: “Trẻ nít như cô thì biết gì mà nói? Chẳng lẽ có chuyện ta suy tính không ra mà cô lại tính được ư?” A Tử đáp: “Cái đó đã hẳn. Có vô số việc tỉ phu không nghĩ ra được.”

Cô bốc một nắm tuyết dưới đất, vo thành một viên tròn rồi vung tay ném ra xa, hỏi: “Tỉ phu ơi! Tỉ phu ra ngoài Nhạn Môn Quan để làm gì thế?” Tiêu Phong lắc đầu đáp: “Chẳng làm gì cả. Săn bắn chăn nuôi, sống cho qua ngày, chờ đến hết đời, có vậy thôi.” A Tử nói: “Thế ai nấu cho tỉ phu ăn? Ai may áo cho tỉ phu mặc?” Tiêu Phong ngẩn người ra. Trước nay chàng chưa hề nghĩ đến chuyện đó nên thuận miệng đáp: “Nấu cơm may áo thì có khó gì? Người Khất Đan chúng ta ăn thịt bò thịt cừu, mặc áo da bò da cừu, nghỉ đâu cũng là nhà, nằm đâu cũng là giường, chẳng phải lo lắng gì cả.” A Tử nói: “Thế lúc cô đơn tịch mịch thì tỉ phu nói chuyện với ai?” Tiêu Phong đáp: “Ta về đó gặp người cùng chủng tộc, sẽ kết giao bằng hữu.” A Tử vặn hỏi: “Nếu thế thì nói qua nói lại toàn là chuyện đi săn cưỡi ngựa, mổ bò giết cừu, một lát là nhàm chán, còn có chi là thú?” Tiêu Phong buông tiếng thở dài, biết nàng nói đúng, không trả lời được.

A Tử lại nói: “Tỉ phu không về Liêu quốc thì không được ư? Thôi đừng về nữa, ở lại đây uống rượu đánh nhau, chết cũng được sống càng tốt, oanh oanh liệt liệt, thống khoái hơn nhiều.”

Tiêu Phong nghe nàng nói “ở lại đây uống rượu đánh nhau, chết cũng được sống càng tốt” bỗng thấy nhiệt huyết dâng trào, hào khí nổi lên. Chàng ngẩng đầu hú lên một tiếng dài, nói: “Cô nói phải lắm!”

A Tử kéo tay chàng, nói: “Tỉ phu! Tỉ phu đừng đi nữa nhé, Tiểu muội cũng không về Tinh Tú Hải, đi theo tỉ phu uống rượu đánh nhau.” Tiêu Phong cười: “Cô là đại sư tỉ của phái Tinh Tú, cô bỏ đi thì họ mất cả người thừa kế, mất cả đại sư tỉ thì coi sao được?” A Tử nói: “Cái chức đại sư tỉ đó của muội là láo toét, đến khi bại lộ thì mất mạng lập tức, không phải chuyện chơi. Làm đại sư tỉ thì cũng thích, nhưng cứ phải nơm nớp đề phòng. Đi theo tỉ phu uống rượu đánh nhau còn thú vị hơn nhiều.” Tiêu Phong mỉm cười đáp: “Uống rượu thì cô có biết uống đâu, chưa đến một bát thì đã say mèm. Còn đánh nhau thì bản lĩnh cô cũng chưa tới đâu, gặp lúc nguy cấp ta lại phải lo lắng cho ngươi.”

A Tử mặt xịu xuống, lông mày chau lại. Cô nàng đi qua đi lại mấy bước, đột nhiên ngồi phịch xuống khóc òa lên. Tiêu Phong giật nảy mình, vội hỏi: “Cô… Cô làm sao vậy?” A Tử không trả lời trả vốn gì, lại càng khóc rống lên cực kỳ thảm thiết.

Tiêu Phong quen thấy cô bé này ngang tàng ương ngạnh, cả lúc bị phái Tinh Tú bắt trói cũng tỏ ra bướng binh bất khuất. Chàng không ngờ nàng có thể khóc lóc thảm thương đến vậy, đâm ra luống cuống, hỏi dồn: “A Tử! Này này, cô làm sao thế?” A Tử vẫn sụt sùi, vừa khóc vừa nói: “Tỉ phu cứ đi đi, để mặc muội ở đây khóc cho đến chết, có thế tỉ phu mới vừa lòng.” Tiêu Phong mỉm cười: “Cô đang khỏe khoắn thế này, khóc không chết được đâu.” A Tử vẫn nức nở: “Nếu như muội muốn khóc cho đến chết, thì sẽ chết cho tỉ phu coi.” Tiêu Phong cười nói: “Vậy thì cô cứ ngồi đây mà khóc, ta không ở đây với cô nữa.” Chàng nói xong quay đi ngay, chỉ được mấy bước đã nghe cô ta nín bặt. Tiêu Phong lấy làm lạ, ngoảnh mặt lại nhìn, thấy cô nàng đã nằm vùi trong tuyết, không nhúc nhích chút nào. Chàng cười thầm trong bụng: “Con bé này nũng nịu, mình mà quan tâm đến thì nó lại càng làm già.” Nghĩ thế, chàng vẫn tiếp tục đi thẳng.

Đi được mấy dặm Tiêu Phong mới quay đầu lại nhìn. Vùng này mặt đất bằng phẳng, lại không có cây cối gì ngăn trở, chàng thấy dường như A Tử vẫn còn nằm đó, không khỏi băn khoăn, nghĩ thầm: “Con bé này tính tình quái gở, chẳng lẽ nó cứ nằm luôn ở đó không dậy nữa”. Nghĩ như vậy, chàng lại đâm lo: “Ta đã lỡ tay đánh chết A Châu, dẫu cho nàng không căn dặn thì mình cũng phải biết nghĩ. Ta chẳng chiếu cố cho nó thì thôi, cũng không nên nói khích cho nó tức đến chết.” Tiêu Phong nhớ đến A Châu, bầu nhiệt huyết lại nổi lên, lập tức rảo bước quay lại.

Chàng chạy đến gần A Tử, thấy nàng vẫn nằm nguyên như cũ, bộ vị giống hệt lúc đầu không xê xích chút nào. Tiêu Phong đến gần chút nữa bỗng giật mình, thấy tuyết đã đóng trên người nàng đến mấy tấc. Không lẽ nàng chết thật rồi sao? Chàng vội đưa tay sờ vào mặt cô gái, thấy da thịt lạnh như băng, đưa đến mũi thì không thấy hơi thở. Tiêu Phong từng thấy nàng dùng Qui Tức Công của phái Tinh Tú để nín thở giả chết gạt song thân, nhưng cũng không khỏi sợ hãi, liền đưa tay điểm vào mạn sườn, truyền nội lực vào huyệt đạo của nàng.

A Tử hơi ú ớ rồi từ từ hé mắt ra. Bất thần nàng há miệng, phun một mũi kim xanh biếc vào giữa hai lông mày Tiêu Phong. Chàng không thể ngờ được cô ta đột nhiên hạ độc thủ. Khoảng cách chỉ chừng một thước, mũi độc châm lại bay rất nhanh, dù người võ công bằng thần thánh cũng không thể tránh né kịp. Chàng không kịp suy nghĩ, vung tay phải lên, đánh ra một chưởng cực kỳ hùng hậu.

Phát chưởng đó ngưng tụ công lực một đời của Tiêu Phong. Độc giả thử nghĩ xem, mũi độc châm kia chỉ cách một thước bắn tới, muốn dùng chưởng phong cách không đánh bạt ra thì kình lực phải khủng khiếp dường nào. Phát chưởng đẩy độc chấm bay lệch qua trái, đồng thời thân hình Tiêu Phong nghiêng qua phải, cây kim độc bay sượt qua bên má chỉ cách chừng một tấc. Mũi chàng còn thoáng ngửi thấy một mùi hôi tanh, quả thật nguy hiểm vô cùng.

Khi đó thân hình A Tử cũng bị chưởng lực đánh văng đi, nàng không kêu được tiếng nào, chỉ lặng lẽ bay xa hơn mười trượng mới rơi xuống tuyết đánh “bịch” một tiếng, còn trượt thêm một quãng dài nữa mới ngừng lại.

Hồi 26: Tay không bắt cọp

Tiêu Phong thoát hiểm chỉ trong đường tơ kẽ tóc, bất giác kêu thầm: “Thật là hú vía”. Thoạt đầu thì chàng nghĩ: “Con tiểu yêu nữ này tâm địa độc ác, dám hạ độc thủ ám toán ta.” Chàng biết ám khí phái Tinh Tú độc địa vô cùng, lợi hại cực điểm, nếu như trúng phải thì khó mà sống được nên không khỏi tim đập thình thình. Nhưng khi nghĩ đến A Tử bị đánh văng xa hơn chục trượng, lại giật bắn người: “Trời ơi! Làm sao cô ta chịu nổi phát chưởng đó, chắc bị mình đánh chết rồi”. Chàng nhảy vọt tới, thấy nàng hai mắt nhắm nghiền, khóe miệng ứa máu tươi, mặt vàng khè, phen này thì ngưng thở thật rồi chứ không phải giả vờ nữa.

Tiêu Phong thẫn thờ nghĩ bụng: “Ta đã đánh chết A Châu, bây giờ lại đánh chết luôn cả muội tử của nàng. Nàng… nàng lúc lâm tử đã dặn ta chiếu cố cho muội muội, ngờ đâu… ngờ đâu… ta lại đánh chết.” Ý nghĩ đó chỉ thoáng qua, nhưng chàng đang hoảng hốt nên cảm thấy rất nặng nề. Tiêu Phong lắc đầu, vội đè bàn tay vào sau lưng A Tử, hết sức dồn chân khí sang. Một lúc sau, A Tử hơi nhúc nhích, Tiêu Phong cả mừng gọi rối rít: “A Tử! A Tử! Muội đừng chết! Bằng giá nào ta cũng nhất định cứu muội.”

Thế nhưng A Tử chỉ khẽ cựa một cái rồi lại nằm ngay đơ. Tiêu Phong lại càng bồn chồn, liền ngồi xếp bằng xuống tuyết, khẽ đỡ A Tử dậy đặt ngồi trước mặt, áp cả song chưởng vào hậu tâm, từ từ truyền chân lực vào người cô gái. Chàng biết A Tử bị thương rất nặng, hiện giờ chỉ giữ nàng thoi thóp, tạm thời không chết là may, rồi tìm cách cứu chữa sau, thành thử truyền chân khí vào người nàng cũng hết sức chậm rãi. Trong khoảng thời gian chừng ăn xong bữa cơm, trên đầu chàng bốc lên những làn bạch khí, chứng tỏ đã vận dụng toàn lực rồi.

Tiêu Phong liên tục vận công tới nửa giờ, A Tử mới hơi động đậy, phều phào gọi: “Tỉ phu!” Tiêu Phong cả mừng, tiếp tục truyền chân khí nhưng không dám nói chuyện với nàng. Một lúc nữa đã thấy thân thể cô nàng dần dần ấm lại, mũi đã có hơi thở thoang thoảng. Tiêu Phong vẫn sợ nàng bất ngờ tắt thở nên không dám ngừng vận công, đến mãi giữa trưa, hơi thở của A Tử mới đều đặn, nhưng mặt vẫn trắng bệch không một chút huyết sắc.

Tiêu Phong liền bế nàng dậy, rảo bước chạy đi. Chàng càng chạy càng nhanh nhưng vẫn cố giữ cho êm ái, tay trái vẫn đặt sau lưng A Tử, không ngừng truyền khí vào. Hơn một giờ mới đến một tiểu thị trấn, nơi đó lại không có quán xá gì, chàng phải tiếp tục chạy về hướng bắc hơn hai chục dặm nữa mới gặp một khách điếm tồi tàn không có cả tiểu nhị, chính chủ nhân trực tiếp phục vụ khách hàng. Tiêu Phong gọi một bát cháo nóng, dùng thìa đút vào mồm A Tử. Thế nhưng nàng mới nuốt được ba thìa lại nôn hết ra, trong nước cháo có lẫn máu bầm.

Tiêu Phong cực kỳ lo lắng, nghĩ bụng A Tử bị thương nặng thế này khó lòng chữa được. Chẳng biết Diêm vương địch Tiết Thần Y đang ở nơi nào, mà dẫu có ở ngay đây cũng vì tất đã làm được gì. Hôm trước A Châu bị phương trượng chùa Thiếu Lâm đả thương gián tiếp, lại được bôi linh dược của Đàm Công ở Thái Hàng Sơn, tình trạng nhẹ hơn nhiều nên Tiết Thần Y mới chữa khỏi. Tuy chàng biết rõ không thể cứu sống được A Tử, nhưng cũng không chịu xuôi tay, chỉ nghĩ: “Ta phải hết lòng hết sức, dù cho chân khí bản thân kiệt quệ cũng phải còn nước còn tát. Không phải ta quyết cứu con bé này, mà là ta quyết không phụ lời trăn trối của A Châu.”

Kể ra thì A Tử ám toán chàng trước, khiến chàng vào tình trạng không phóng chưởng hất mũi độc châm đi thì mất mạng ngay. Người võ công cao cường như chàng, khi gặp nguy biến không kịp suy nghĩ, thì xuất thủ theo phản xạ là lẽ đương nhiên. Giả tỉ A Châu có mặt nơi đây thì chắc nàng cũng không trách cứ gì, vì chính A Tử tự rước vạ vào mình chứ không phải do Tiêu Phong có chủ ý. Nhưng A Châu không biết, nên chàng mới cảm thấy có lỗi với nàng.

Tiêu Phong thức trắng đêm, không ngừng truyền chân khí để giữ mạng cho A Tử. Hôm trước A Châu bị thương, lúc nào nàng tuyệt khí Tiêu Phong mới phải ra tay, còn lần này bàn tay chàng không lúc nào rời khỏi lưng A Tử, vì chỉ nhấc tay ra một cái là nàng tắt thở ngay lập tức.

Đêm hôm sau cũng y vậy. Tiêu Phong công lực thâm hậu thật, nhưng phải vận công hai ngày hai đêm liên tiếp cũng mệt mỏi vô cùng. Khách điếm nhỏ này chỉ có hai vò rượu đã bị chàng uống sạch không còn một giọt, muốn nhờ mua thêm những túi đã cạn tiền. Chàng không ăn cơm một ngày cũng chẳng thấy đói, nhưng một buổi không có rượu thì thật là khó chịu. Lúc này chàng đang bải hoải lại càng cần rượu cho tỉnh táo. Đang vô vọng thì một ý nghĩ chợt lóe lên: “Trên người A Tử chắc là có tiền”.

Chàng tháo cái bọc của A Tử ra, quả nhiên có ba đĩnh vàng nhỏ và mấy nén bạc lẻ. Chàng lấy ra một đĩnh bạc, buộc cái túi lại, thấy ngoài túi có một sợi dây lụa màu tím, một đầu buộc vào ngang lưng. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Cô bé này cẩn thận quá, không biết buộc cái gì vào người chặt thế này, chắc là sợ rơi mất.” Đầu dây buộc vào lưng có thắt nút thật chặt, chàng hí hoáy hồi lâu mới gỡ ra được. Dây lụa vừa tuột ra, dường như đầu kia còn có vật gì giắt vào trong quần.

Tiêu Phong kéo sợi dây, vật đó rơi xuống sàn nghe cạch một tiếng, thì ra là một cái đỉnh nhỏ bằng gỗ màu vàng sậm. Tiêu Phong thở dài, cúi xuống nhặt để lên bàn. Cái đỉnh đó làm bằng một loại gỗ bóng loáng như ngọc, thớ gỗ thấp thoáng những vân màu đỏ, được điêu khắc hết sức tinh vi. Tiêu Phong biết ngay đây là vật mà phái Tinh Tú dùng để luyện Hóa Công Đại Pháp, cảm thấy ghê tởm nên chỉ liếc qua rồi nghĩ thầm: “Con bé này giảo hoạt thật, một hai cứ bảo là giao Thần Mộc Vương Đỉnh cho ta rồi, không ngờ vẫn giắt trong quần. Chắc là bạn đồng môn của nó tưởng là ta đang giữ thật, lại không tiện tra xét nữ nhân nên không khám phá ra. Hỡi ơi! bây giờ tính mạng nàng còn chẳng giữ được, cái thứ thân ngoại chi vật này còn để làm gì?”.

Chàng gọi chủ quán vào, đưa bạc cho y đi mua rượu thịt, còn mình tiếp tục vận công duy trì tính mạng cho A Tử.

Đến ngày thứ tư thì chàng không chịu nổi nữa, đành phải ngả lưng xuống, hai tay nắm một bàn tay A Tử, đặt nàng dựa vào người mình, truyền nội lực theo lòng bàn tay. Tiêu Phong nằm được một lát, hai mắt nhắm ghiền, thiếp đi. Nhưng chàng vẫn khắc khoải về tính mạng A Tử, nên mới chợp mắt một chút đã giật mình tỉnh giấc. May mà trong lúc chàng ngủ, chân khí vẫn lưu chuyển, miễn sao lòng bàn tay còn áp vào A Tử là hơi thở của nàng chưa tuyệt.

Tình trạng này lại kéo dài hai ngày nữa. A Tử vẫn chưa chết nhưng không khả quan hơn chút nào, nếu chàng nằm trong tiểu điểm này đến hết đời thì e rằng vẫn thế. Thỉnh thoảng A Tử cũng mở mắt ra nhưng thần thái lờ đờ, rõ ràng không hay biết gì cả, mà cũng không nói được tiếng nào. Tiêu Phong nghĩ hoài chẳng ra cách gì, đành quyết định: “Ta đành bế nàng đi, may ra gặp được cơ hội gì. Nếu cứ ở trong khách điếm này thì thật sự vô phương.”

Chàng bàn tay trái ôm A Tử, tay phải cầm cái túi của nàng nhét vào bọc, thấy cái đỉnh trên bàn liền nghĩ thầm: “Cái vật hại người này để làm gì, đập nát đi cho rồi.” Chàng giơ chưởng định đánh xuống, bỗng nghĩ lại: “A Tử khó khăn lắm mới lấy cắp được vật này. Xem ra thương thế nàng không chữa được nữa, không chừng đến lúc lâm chung, hồi quang phản chiếu mà tỉnh táo lại giây lát, hỏi đến cái mộc đỉnh. Ta phải giữ lại để đưa cho nàng xem, yên tâm mà chết.”

Tiêu Phong cầm cái đỉnh gỗ lên, cảm thấy bên trong có cái gì cựa quậy, kinh ngạc nhìn kỹ mới biết chung quanh đỉnh, có năm cái lỗ to bằng đồng tiền, còn ở cổ đỉnh có đường nối, tựa hồ có thể tháo ra. Chàng dùng ngón út và ngón vô danh kẹp chiếc đỉnh, ngón cái và ngón trỏ xoay phần nắp qua bên trái, quả nhiên chuyển động được. Chàng xoay mấy vòng, mở nắp nhìn vào không khỏi vừa ngạc nhiên, vừa kinh tởm. Thì ra bên trong có một con rết và một con bò cạp, đang cắn nhau kịch liệt.

Mấy hôm trước, khi chàng đặt chiếc đỉnh lên bàn, rõ ràng trong đỉnh không có gì, thế thì hai con độc trùng này mới ở đâu bò vào. Tiêu Phong đoán chừng phái Tinh Tú dùng những trùng độc này luyện một môn tà pháp quái đản, nên nghiêng chiếc đỉnh đổ hai con vật xuống đất dẫm chết, rồi đậy nắp lại, cất vào túi vải. Tiêu Phong thanh toán tiền khách điếm rồi ôm A Tử lên, đội tuyết mà đi về hướng bắc.

Nhân vật võ lâm Trung Nguyên đều kết thâm thù với Tiêu Phong, mà đường đi càng lúc càng gần kinh đô Biện Lương nhà Đại Tống, thể nào cũng đụng đầu. Chàng không muốn cải trang, lại không muốn giết người kết thêm thù oán, hơn nữa trên tay ôm A Tử, nếu phải động thủ thực là bất tiện, nên tránh đường lớn, chỉ tìm những đường mòn hẻo lánh mà đi. Suốt mấy trăm dặm vẫn bình an vô sự.

Một hôm đến một thị trấn lớn, chàng thấy một hiệu thuốc có treo bảng: “Nho y gia truyền Vương Thông Trị chẩn bệnh miễn phí”, nghĩ bụng: “Địa phương nhỏ chắc không có danh y, nhưng ta cứ vào xem thử cũng chẳng hề gì.” Ông liền ôm A Tử vào xin chữa trị.

Nho y Vương Thông Trị cầm tay A Tử, đưa mắt nhìn Tiêu Phong, lại bắt mạch A Tử, lại nhìn Tiêu Phong bằng cặp mắt khác lạ, đột nhiên đưa tay bắt mạch Tiêu Phong. Tiêu Phong tức mình nói: “Tiên sinh! Ta nhờ tiên sinh chữa bệnh cho muội tử chứ có nhờ chữa cho ta đâu?” Vương Thông Trị lắc đầu nói: “Ta xem lão huynh có bệnh, đầu óc điên khùng, tâm thần rối loạn cần phải chữa trị ngay.” Tiêu Phong đáp: “Ta làm gì mà đầu óc điên khùng?” Vương Thông Trị đáp: “Cô nương này mạch đã ngừng đập, chết lâu rồi, có điều người chưa cứng lại mà thôi. Lão huynh còn ôm cô ta đi chữa trị cái gì nữa? Thế chẳng phải tâm thần rối loạn hay sao? Này lão huynh, người chết không thể sống lại, cũng chẳng nên quá thương tâm, nên đem thi thể lệnh muội mà mai táng cho người chết được yên nghỉ.”

Tiêu Phong dở khóc dở mếu nhưng nghĩ lại thì y nói cũng có lý. Đúng là A Tử chết rồi, chỉ nhờ chân khí của mình mà thoi thóp, thầy lang tầm thường làm sao biết được? Nghĩ vậy chàng bèn đứng dậy trở gót đi ra.

Bỗng thấy một người ăn mặc ra lối quản gia chạy vào tiệm thuốc hốt hoảng la lên: “Mau lên! Lấy lão sơn nhân sâm loại tốt nhất. Lão thái gia nhà ta trúng phong sắp tắt thở, cần nhân sâm để giữ cho khỏi chết.” Gã chưởng quý trong tiệm thuốc vội đáp: “Có đây! Có lão sơn nhân sâm thượng hảo hạng đây!”

Tiêu Phong nghe nói “cần nhân sâm để giữ cho khỏi chết” liền nhớ ra từng nghe người sắp tắt thở mà cho uống mấy ngụm sâm thang thì có thể cầm hơi, sống thêm một lúc để trối vài lời. Gã chưởng quĩ lấy ra một cái hộp gỗ quý, trịnh trọng mở nắp ra, bên trong có ba củ sâm to bằng ngón tay. Tiêu Phong cũng nghe nói nhân sâm càng to càng tốt, da càng nhăn càng quí, nếu thành hình người đủ cả đầu mình chân tay là loại cực phẩm. Ba củ sâm này chỉ là loại thường, trông chẳng có gì đặc biệt. Gã quản gia chọn một củ rồi lật đật đi ngay.

Tiêu Phong lấy một đĩnh vàng mua luôn hai củ còn lại. Trong tiệm thuốc có sẵn dụng cụ sắc thuốc, ông liền nhờ nấu sâm thang đút cho A Tử mấy thìa. Lần này nàng không nôn ra. Lại đút được mấy thìa nữa, Tiêu Phong thấy mạch nàng đã hơi chuyển động, hơi thở cũng khá hơn một chút, trong bụng không khỏi mừng thầm.

Gã nho y Vương Thông Trị đứng bên vẫn lắc đầu quầy quậy nói: “Lão huynh ơi! Nhân sâm không phải dễ tìm, dùng phí phạm thì uổng lắm. Đó cũng chẳng phải linh chi tiên thảo gì, giả tỉ nhân sâm cứu người chết sống lại được, thì những người giàu chắc sống đời đời.”

Mấy bữa nay Tiêu Phong không dám rời A Tử một bước, trong lòng bực bội, nghe gã Vương Thông Trị cứ lải nhải bàn ra, bất giác điên tiết lên, vung tay toan đánh cho y một chưởng. Thế nhưng chàng vừa đưa tay lên chợt nghĩ: “Đả thương kẻ không biết võ công thì đâu phải anh hùng hảo hán?”, bèn rụt tay về, bế A Tử ra khỏi hiệu thuốc, nghe văng vẳng tiếng Vương Thông Trị nói theo: “Thằng cha này hồ đồ quá, ôm cái xác chết chạy tới chạy lui. Xem chừng cái mạng của gã cũng chẳng được lâu dài.” Y có biết đâu mình đã đến Quỉ Môn Quan rồi quay trở lại? Giả tỉ Tiêu Phong không nén giận được, phóng chưởng đánh ra thì dẫu có mười Vương Thông Trị cũng thành Vương …Bất Trị.

Tiêu Phong ra khỏi hiệu thuốc rồi nghĩ thầm: “Nghe nói lão sơn nhân sâm chỉ có ở vùng giá rét trong dãy Trường Bạch, chi bằng mình lên đó cầu may. Cứu sống A Tử thì khó lắm, nhưng giữ cho nàng ở lại nhân gian được ít lâu, A Châu ở trên trời có linh thiêng cũng vui vẻ được chút ít.” Chàng nghĩ thế, bèn tìm đường đi về phía đông bắc, dọc đường mỗi khi gặp tiệm thuốc liền vào mua nhân sâm. Đến khi hết cả tiền bạc, chàng chẳng nể nang gì nữa, cứ thò tay ra lấy, mấy tên làm công làm sao ngăn nổi? A Tử uống một lượng lớn nhân sâm rồi, thỉnh thoảng cũng có thể mở mắt ra khẽ gọi: “Tỉ phu!”, đêm đến cũng tự mình thoi thóp ngủ được vài giờ không cần tiếp chân khí.

Càng đi trời càng lạnh, sau cùng hai người cũng đến được núi Trường Bạch. Tuy nói là nơi này có nhiều nhân sâm, nhưng nếu không phải là người lâu năm quen thuộc địa thế, chuyên môn trong nghề, thì tìm một năm sáu tháng chưa chắc được một củ. Tiêu Phong tiếp tục theo hướng đông bắc mà tiến, quang cảnh càng lúc càng hoang vắng. Về sau chung quanh chỉ thấy bốn bề cỏ hoang mờ mịt, núi cao đồi tuyết, đi mấy ngày đường không gặp một người. Trong lòng chàng không khỏi kêu khổ: “Hỏng bét! Thật là hỏng bét! Chỗ nào cũng thấy toàn là tuyết, làm sao mà tìm được nhân sâm? Thôi đành trở về, tìm chỗ nào có phố chợ, còn tiền thì mua, hết tiền thì cướp.” Chàng nghĩ thế lại ôm A Tử quay về.

Khi đó vào đúng tiết đại hàn, khí trời lạnh ngắt, mặt đất đầy băng, tuyết đóng dày mấy thước thật là khó đi. Nếu chàng không phải là người võ công trác tuyệt thì dù không chết rét cũng bị sa lầy vào tuyết không thoát ra được.

Đến ngày thứ ba, trời ảm đạm như sắp có bão tuyết, chàng đưa mắt nhìn tứ phía thấy chỗ nào cũng trắng xóa, mặt đất không một dấu chân người, đến vết dã thú cũng không. Tiêu Phong hoang mang, thấy mình cô độc khác nào con thuyền đang ở giữa biển khơi bao la không bờ không bến, chỉ nghe tiếng gió rít từng hồi bên tai.

Tiêu Phong biết mình đã bị lạc, mấy lần nhảy lên cây cao nhìn ra xung quanh chỉ thấy cây cối rậm rạp, tuyết phủ trắng xóa, chẳng còn phân biệt đâu là đông tây nam bắc nữa. Chàng sợ A Tử bị lạnh, bèn cởi trường bào ra quấn nàng lại. Tuy chàng là người chẳng biết sợ trời sợ đất, nhưng lúc này ở chốn thiên địa mang mang, tưởng như chỉ còn một mình sống trên thế giới, không khỏi chột dạ. Giả tỉ chàng chỉ có một mình thì không sao, giữa biển tuyết bao la cũng không tuyệt vọng, nhưng khổ nỗi trong tay lại ôm cô bé A Tử đang mê man, sống dở chết dở.

Đã ba hôm nay Tiêu Phong không được ăn uống gì, muốn bắt một con gà rừng hay thỏ hoang mà cũng không thấy. Chàng nghĩ thầm: “Mình chạy lung tung cũng chẳng tới đâu, chi bằng nghỉ một đêm trong rừng, đợi tuyết ngừng rơi, nhìn trăng sao mà nhận định phương hướng.” Tiêu Phong bèn tìm một chỗ khuất gió, gom ít củi khô đốt một đống lửa. Lát sau, thân thể đã ấm áp nhưng bụng đói như cào, chàng nhìn dưới gốc cây có nhiều nấm dại màu xám hình như không độc, liền nhổ lên nướng ăn.

Tiêu Phong ăn hơn hai chục tai nấm, tinh thần đã có vẻ phấn chấn, bèn đặt A Tử nằm tựa vào ngực mình ngồi sưởi, đang định chợp mắt ngủ bỗng nghe một tiếng gầm thật lớn, chính là tiếng hổ. Tiêu Phong cả mừng lẩm bẩm: “Dã thú đến đây, mình có thịt ăn rồi”. Chàng lắng tai nghe, rồi thấy hai con hổ đang chạy trên mặt tuyết, kế đó có tiếng lao xao, chừng như có người đang đuổi theo.

Nghe thấy tiếng người quát tháo, lòng chàng vô cùng mừng rỡ. Lại nghe tiếng hai con dã thú hình như đang chạy về hướng. tây, chàng liền đặt A Tử xuống cạnh đống lửa, thi triển khinh công chạy ra đón đường. Lúc này tuyết xuống càng nhiều, gió bấc rít lên từng cơn, trời đất mù mịt.

Tiêu Phong mới chạy chừng mười trượng đã thấy hai con hổ vằn thật lớn đang chạy thục mạng, phía sau là một đại hán khoác áo da thú, tay cầm đinh ba đang rượt theo. Được một quãng, một con gầm lên quay ngoắt lại, nhảy chồm vào người thợ săn. Y liền giơ đinh ba lên, nhắm thẳng cổ họng mãnh hổ mà đâm. Con cọp hết sức nhanh nhẹn, nghiêng đầu qua tránh khỏi mũi đinh ba, cùng lúc đó con hổ kia cũng xông tới.

Người thợ săn lập tức trở cán đinh ba lại, quật ngang bụng con vật nghe bịch một tiếng. Nó bị đau, rống lên một tiếng, cụp đuôi bỏ chạy. Con hổ còn lại cũng chạy trốn theo. Tiêu Phong thấy người thợ săn chân tay mau lẹ, sức mạnh vô cùng, nhưng dường như chẳng biết võ công. Y quen tập tính dã thú nên hổ chưa vồ y đã dựng đinh ba đón trước, chính là cách tốt nhất. Nhưng gã muốn đâm chết hai con cọp thì không phải dễ.

Tiêu Phong lớn tiếng kêu lên: “Lão huynh, có ta đến giúp đây!” Chàng lạng người xông ra đón đầu hai con hổ. Người thợ săn thấy Tiêu Phong đột ngột xông ra, kinh hãi la lối om sòm, nghe ra không phải tiếng Hán. Tiêu Phong chẳng hiểu y nói gì nên không để ý nữa, giờ tay phải nhắm ngay đầu một con cọp phóng chưởng nghe đến “bình” một tiếng, con vật tung lên không, lăn đi mấy vòng, rống lên rồi lại phóng thẳng vào chàng.

Phát chưởng đó Tiêu Phong sử dụng đến bảy thành công lực, nếu là người thì võ công cao cường đến đâu cũng vỡ đầu nát óc, nhưng mãnh hổ sọ cứng xương dày, chưởng lực vỡ đá tan bia cũng chỉ khiến nó ngã lăn đi, lại xông vào được, Tiêu Phong khen thầm: “Ngươi quả là ghê gớm!”, rồi nghiêng người né tránh, tay phải chém xéo xuống trúng ngay sườn con vật nghe “chát” một tiếng. Phát trảm này chàng lại tăng thêm công lực, con mãnh hổ loạng choạng rồi bỏ chạy. Tiêu Phong tiến lên, tay phải vươn ra chộp trúng đuôi con cọp, tay trái cũng nắm vào, quát lên một tiếng, thi triển thần lực kéo ghì lại. Con hổ đang phóng về phía trước bị Tiêu Phong giật ngược, hai luồng lực đạo hợp lại khiến nó bị hất tung lên không.

Người thợ săn cầm đinh ba đang đấu với con hổ kia, thấy Tiêu Phong giật con cọp tung lên thì kinh hãi vô cùng. Mãnh hổ đang lơ lửng trên không, lại nhe nanh múa vuốt vồ từ trên xuống. Tiêu Phong lại quát lên một tiếng, song chưởng cùng tung ra, trúng ngay bụng dưới con vật. Đó là chỗ thịt mềm, chiêu Bài Vân Song Chưởng lại chính là công phu đắc ý của Tiêu Phong, ngũ tạng con cọp tan nát hết, nó lăn lộn một hồi trên mặt tuyết rồi chết thẳng cẳng.

Người thợ săn thấy Tiêu Phong tay không đánh chết hổ trong lòng kính phục vô cùng, nghĩ thầm “Người ta tay không, mình dùng đinh ba giết một con cũng không xong, hóa ra để bị coi thường ư?” Y bèn đem hết sức bình sinh, đâm tả đâm hữu, nhát nào cũng trúng vào mình cọp. Con cọp bị đau nổi hung lên, nhe hàm răng nhọn hoắt, tung mình vồ tới.

Gã thợ săn nghiêng qua né được, vung đinh ba đâm ngang, trúng vào cổ con thú nghe “phụp” một tiếng, hai tay lại nhấn mạnh vào, con vật rống lên thảm thiết té lăn ra đất. Gã vận sức lên cánh tay, đè chặt con cọp xuống mặt tuyết. Nghe tiếng roạt roạt, cái áo da thú trên người y rách toạc một mảng lớn, để lộ cái lưng trần, bắp thịt cuồn cuộn trông thật hùng vĩ. Tiêu Phong nhìn thấy bất giác khen thầm: “Hảo hán tử!”. Con hổ chổng bốn chân lên trời, giãy giụa một lát rồi nằm yên không nhúc nhích nữa.

Người thợ săn nhổ cây đinh ba ra, đắc chí cười ha hả, quay người lại nhìn Tiêu Phong giơ hai ngón tay cái lên nói xì xồ mấy câu. Tiêu Phong không hiểu y nói gì nhưng trông vẻ mặt cũng biết đại khái gã tán dương mình là bậc anh hùng, bèn bắt chước giơ hai ngón tay cái lên nói: “Hảo hán! Hảo hán!”

Gã ra vẻ thích chí, chỉ vào đầu mũi mình nói: “Hoàn Nhan A Cốt Đả!” Tiêu Phong đoán chừng đây là tên y, cũng chỉ vào đầu mũi mình nói: “Tiêu Phong!” Người kia hỏi lại: “Tiêu Phong? Khất Đan?” Tiêu Phong gật đầu hỏi lại:“Khất Đan! Huynh?” Rồi đưa tay chỉ vào y để hỏi. Người kia đáp: “Hoàn Nhan A Cốt Đả! Nữ Chân!”

Tiêu Phong đã từng nghe ở phía đông nước Liêu, phía bắc nước Cao Ly có bộ tộc Nữ Chân dũng mãnh thiện chiến, thì ra gã Hoàn Nhan A Cốt Đả thuộc giống người này. Tuy ngôn ngữ bất đồng nhưng giữa cảnh tuyết trắng mịt mùng mà gặp được đồng loại cũng vui mừng khôn xiết, bèn hoa chân múa tay ra hiệu là còn một người nữa, rồi vác con hổ chết lên, đi lại phía A Tử đang nằm. A Cốt Đả cũng vác con hổ của y đi theo.

Hổ mới chết máu chưa kịp đông, Tiêu Phong lật con thú lại, cắt cổ cho máu chảy vào mồm A Tử. A Tử không mở mắt nhưng vẫn nuốt, hơn mười ngụm mới thôi. Tiêu Phong cả mừng, xé lấy hai đùi cọp nướng vào lửa. A Cốt Đả thấy chàng dùng tay không xé con hổ như người ta xé thịt gà, kình lực như thế y chưa từng thấy cũng chưa từng nghe. Gã ngẩn ngơ nhìn hai cánh tay Tiêu Phong một hồi rồi khẽ sờ thử cổ tay chàng, nét mặt đầy vẻ kính trọng.

Thịt hổ nướng chín rồi, Tiêu Phong và A Cốt Đả ăn một bữa no, A Cốt Đả ra hiệu hỏi chàng đến đây làm gì, Tiêu Phong cũng dùng hai tay ra hiệu đào đất tìm nhân sâm để trị bệnh cho A Tử nhưng bị lạc đường. A Cốt Đả cười ha hả, múa tay lung tung ý nói là nhân sâm rất dễ tìm, đi theo y bao nhiêu cũng có. Tiêu Phong mừng quá, đứng dậy, tay trái bồng A Tử, tay phải xách một con hổ chết. A Cốt Đả lại giơ ngón tay lên ra hiệu khâm phục thần lực của Tiêu Phong.

A Cốt Đả rất quen thuộc địa thế vùng này, trời bão tuyết mịt mùng mà không nhầm lẫn chút nào. Hai người đi đến tối thì ngủ lại trong rừng, sáng hôm sau lại đi. Cứ như thế đi về hướng tây hai ngày, đến trưa ngày thứ ba trên mặt tuyết đã thấy rất nhiều dấu chân, A Cốt Đả ra hiệu là đã đến gần bộ tộc rồi. Quả nhiên đi qua hai thung lũng, thấy bên triền núi phía đông nam lấm chấm mấy trăm mái lều bằng da thú. A Cốt Đả chúm môi huýt một tiếng, lập tức có người chạy ra đón.

Tiêu Phong theo A Cốt Đả lại gần, thấy trước căn lều nào cũng có một đống lửa, vô số phụ nữ ngồi chung quanh, người thì khâu da thú, người thì sấy thịt khô. A Cốt Đả dẫn Tiêu Phong đến căn lều to nhất ở chính giữa, vén màn đi vào, Tiêu Phong cũng đi theo y. Bên trong lều có chừng mươi người đàn ông ngồi thành vòng tròn đang uống rượu, vừa thấy A Cốt Đả đã lớn tiếng reo mừng. A Cốt Đả chỉ vào Tiêu Phong, nói liến thoắng một hồi, nhìn bộ dạng tựa hồ đang kể lại chuyện ông tay không đánh chết hổ. Cả đám liền vây quanh Tiêu Phong, ai nấy giơ ngón tay cái lên, không ngớt trầm trồ khen ngợi.

Đang lúc xôn xao, một người Hán ăn mặc theo kiểu thương gia bước vào, hỏi Tiêu Phong: “Huynh đài có biết tiếng Hán không?” Tiêu Phong mừng rỡ đáp: “Biết chứ! Biết chứ!”

Chàng hỏi ra mới biết căn lều này là của tộc trưởng Nữ Chân, người râu đen ngồi giữa là tộc trưởng, tên gọi Hòa Lý Bố. Ông ta có mười một người con, toàn là anh hùng hảo hán, A Cốt Đả là con trai thứ. Người Hán đó tên là Hứa Trác Thành, mùa đông năm nào cũng tới đây mua nhân sâm, da thú, sang xuân mới quay về. Hứa Trác Thành hiểu tiếng Nữ Chân, bèn làm phiên dịch cho Tiêu Phong. Người Nữ Chân hay đánh nhau với người Khất Đan, nhưng rất kính trọng những bậc anh hùng hảo hán. Hoàn Nhan A Cốt Đả là người thông minh nhanh nhẹn, rất được phụ thân yêu mến, mọi người trong bộ lạc đều kính trọng. Y luôn mồm ca ngợi Tiêu Phong nên mọi người đều coi chàng như khách quí, không còn dị ứng với cái gốc gác Khất Đan của chàng nữa.

A Cốt Đả nhường căn lều của mình cho Tiêu Phong và A Tử ở. Tiêu Phong từ chối mấy lần không được, thấy y thành thực bèn bế A Tử vào trong lều nghỉ ngơi.

Tối hôm đó người Nữ Chân mở đại, tiệc để đón tiếp Tiêu Phong, thịt hai con mãnh hổ được nấu thành món ăn trân quí. Đã nửa tháng nay Tiêu Phong không đụng tới một giọt rượu, bây giờ người Nữ Chân đem ra hết túi da này đến túi da khác, chàng uống một bữa thỏa thuê. Rượu của người Nữ Chân vị không ngon nhưng cực mạnh, người thường chỉ cần uống nửa túi đã say, nhưng Tiêu Phong uống luôn một chục túi mà sắc mặt vẫn như không. Xưa nay dân Nữ Chân vẫn xem ai có tửu lượng giỏi là bậc hảo hán. Chuyện chàng tay không đánh cọp thì họ mới nghe kể chưa thấy tận mắt, nhưng xem chàng uống rượu thì mười hảo hán Nữ Chân cộng lại cũng chưa bằng, tất cả đều phục sát đất.

Hứa Trác Thành thấy người Nữ Chân trọng vọng chàng nên cũng hết sức cung kính. Tiêu Phong lúc này nhàn rỗi không biết làm gì, ban ngày đi săn với A Cốt Đả, tối về lại nhờ Hứa Trác Thành dạy tiếng Nữ Chân. Chàng học được bốn năm phần, nghĩ bụng mình là người Khất Đan, không biết nói tiếng Khất Đan thì có điều bất tiện, nên lại nhờ y dạy. Hứa Trác Thành đi buôn nhiều nơi, bất luận tiếng Nữ Chân, tiếng Tây Hạ, tiếng Khất Đan gã cũng nói lưu loát. Tiêu Phong học ngôn ngữ thì không thông minh lắm, nhưng vì tiếng Nữ Chân và tiếng Khất Đan giản dị hơn tiếng Hán nhiều nên chẳng bao lâu đã có được chút vốn liếng, đủ nói cho người ta hiểu, không cần phải phiên dịch nữa.

Ngày tháng thoi đưa, đông đi xuân tới. A Tử ngày ngày ăn nhân sâm, thương thế giảm dần. Người Nữ Chân ở nơi hoang sơn dã lĩnh, đào được lão sâm hạng nhất, quí hơn cả hoàng kim. Lần nào Tiêu Phong đi săn cũng giết được nhiều dã thú, đem đổi lấy nhân sâm cho A Tử dùng. Giả tỉ là nhà phú hộ mà có một tiểu thư dùng nhân sâm nhiều như thế, e rằng đến tán gia bại sản. Bây giờ mỗi ngày Tiêu Phong chỉ phải vận khí dồn lực vào cho A Tử hai lần là đủ, không như trước đây phải đặt tay lên lưng nàng suốt ngày đêm. A Tử đôi lúc cũng nói được vài câu, nhưng chân tay tê bại không cử động được, mọi chuyện ăn ngủ, đi đứng, nằm ngồi, đều do Tiêu Phong lo liệu cả. Chàng nhớ tới thâm tình của A Châu, dù mệt nhọc cũng vui lòng, nghĩ rằng chăm sóc A Tử một lần là báo đáp A Châu một chút nên cảm thấy an ủi trong lòng.

Một hôm A Cốt Đả dẫn mươi người trong bộ tộc lên miền tây bắc săn gấu, rủ Tiêu Phong đi cùng. Gã nói loài gấu da dày lông rậm, bàn tay gấu là món sơn hào, mật gấu lại trị thương rất linh nghiệm. Tiêu Phong thấy A Tử đã khá nhiều, cũng vui vẻ nhận lời đi theo. Đoàn người ra đi từ lúc trời chưa sáng, tiến thẳng về hướng bắc.

Lúc đó đã vào đầu mùa hạ, băng tuyết tan thành bùn trơn trượt, trong rừng đầy cành lá mục cực kỳ khó đi, nhưng người Nữ Chân đi đứng vẫn nhẹ nhàng nhanh nhẹn như thường. Đến khoảng giờ ngọ, một lão thợ săn già kêu lên: “Gấu kìa! Gấu kìa!” Mọi người nhìn theo hướng tay lão chỉ, thấy ở xa xa trên đất lầy có những dấu chân gấu rất lớn. Mọi người đều phấn khởi, lập tức theo vết chân đuổi theo.

Vết chân gấu dẫm xuống bùn sâu đến mấy tấc, dù là trẻ con cũng lần theo được. Cả đoàn người vừa đuổi vừa reo, theo vết chân đi về hướng tây. Sau khi ra khỏi cánh rừng bùn lầy, đến thảo nguyên mọi người đuổi càng nhanh.

Bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, xa xa phía trước bụi bay mù mịt, một đại đội nhân mã đang phóng tới. Một con gấu đen thật lớn đang chạy ngược về hướng Tiêu Phong, đằng sau là bảy tám kỵ sĩ hò hét đuổi theo, kẻ cầm trường mâu, kẻ cầm cung tên coi bộ rất hung hăng.

A Cốt Đả kêu lớn: “Bọn Khất Đan! Chúng đông người, ta chạy đi thôi.” Tiêu Phong nghe nói là người đồng tộc với mình, trong lòng cảm thấy thân cận, tuy bọn A Cốt Đả đã quay đầu bỏ chạy nhưng chàng chưa chạy theo mà đứng lại xem cho rõ.

Bỗng bọn Khất Đan hô lớn: “Mọi Nữ Chân! Bắn tên! Bắn tên!” Nghe tiếng rít lên liên tiếp, những mũi tên đuôi có tra lông bắn tới như mưa. Tiêu Phong trong bụng bực tức, nghĩ thầm: “Sao chẳng có lý do gì, vừa thấy mặt đã bắn ngay?”. Mấy mũi tên bắn đến đều bị chàng đưa tay gạt ra hết. Bỗng nghe một tiếng rú thê thảm, một lão già Nữ Chân trúng tên vào lưng, gục xuống chết ngay.

A Cốt Đả dẫn cả bọn chạy qua một ngọn đồi, nằm mọp xuống, cũng lắp tên vào cung bắn gục hai gã Khất Đan. Tiêu Phong đứng giữa, không biết giúp bên nào cho phải.

Vũ tiễn của bọn Khất Đan vẫn tiếp tục bắn như mưa bấc, Tiêu Phong thuận tay bắt lấy một mũi vung lên, bao nhiêu tên bắn tới đều bị gạt ra. Chàng lớn tiếng quát hỏi: “Các ngươi làm gì vậy? Sao chưa hỏi han gì đã ra tay giết người?” A Cốt Đả từ sau mô đất lớn tiếng gọi: “Tiêu Phong! Tiêu Phong! Chạy lại đây mau! Bọn chúng không biết huynh là người Khất Đan đâu!”

Lúc đó hai tên Khất Đan cầm trường mâu giục ngựa xông vào Tiêu Phong, chia ra đâm hai bên tả hữu. Tiêu Phong không muốn giết người đồng tộc, hai tay chộp hai cán giáo khẽ giật một cái, hai gã Nhất Đan ngã lăn xuống ngựa, Tiêu Phong lại dùng cán mâu hất hai gã bay trở về, chúng kêu rú lên rồi rơi phịch xuống, một hồi lâu không bò dậy được. A Cốt Đả cùng bọn người Nữ Chân liền lớn tiếng hoan hô.

Trong bọn Khất Đan có một người trung niên mặc hồng bào ra vẻ oai vệ, y lớn tiếng ra lệnh gì đó. Mấy chục tên Khất Đạn liền chia thành hai cánh, bao vây bọn A Cốt Đả lại để chặn đường rút lui, vẫn còn mấy chục tên đứng bảo vệ chung quanh người áo đỏ.

A Cốt Đả xem chừng bất ổn, lớn tiếng kêu gọi tộc nhân và Tiêu Phong bỏ chạy. Bọn Khất Đan bắn tên ra như mưa, lại giết thêm hai người Nữ Chân nữa. Người Nữ Chân cung mạnh tên cứng bắn không trật mũi nào, chốc lát đã bắn hạ khoảng chục kỵ sĩ Khất Đan, có điều ít người hơn nhiều nên phải vừa bắn vừa chạy trốn.

Tiêu Phong thấy bọn Khất Đan ngang ngược không biết phải trái, tuy là người cùng bộ tộc cũng không thể nhường nhịn được nữa. Chàng cướp lấy một cây cung, bắn vùn vụt bốn mũi tên, phát nào cũng trúng vai hay đùi một gã Khất Đan, cả bốn rơi xuống ngựa nhưng không ai chết. Người mặc đồng bào lại quát tháo, lập tức có mấy tên phóng ngựa xông ra cực kỳ dũng mãnh.

Tiêu Phong thấy phe ta chỉ còn A Cốt Đả và năm thanh niên đang vừa bắn trả vừa chạy trốn, còn bao nhiêu đã trúng tên chết cả rồi. Trên thảo nguyên không có chỗ nấp, xem chừng nếu kéo dài thì ngay A Cốt Đả cũng sẽ bị giết. Chàng nghĩ người Nữ Chân đối xử với mình như thượng khách, nếu không ra tay bảo vệ bằng hữu thì sao phải anh hùng hảo hán? Nhưng ra tay đại sát người Khất Đan cùng chủng tộc thì cũng không đành lòng. Chàng thấy chỉ còn cách bắt lấy tên thủ lĩnh áo đỏ kia, buộc y ra lệnh lui quân thì mới đình chiến được.

Nghĩ vậy, Tiêu Phong lớn tiếng quát: “Này! Này! Bọn ngươi mà không lui binh thì ta không nể nang nữa đâu.” Chàng chưa dứt lời, ba cây trường mâu đã phóng tới vù vù. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Bọn bay không biết phải quấy chút nào.” Chàng hạ thấp người, xông thẳng về phía người mặc hồng bào.

A Cốt Đả thấy bằng hữu mạo hiểm liền kêu lên: “Tiêu Phong! Không được đâu, mau quay lại!” Tiêu Phong không đáp, cứ phóng tới thật nhanh. Bọn Khất Đan nhốn nháo cả lên, trường mâu vũ tiễn đều nhắm chàng bay đến tới tấp. Tiêu Phong chụp lấy một thanh trường mâu bẻ gãy đôi, cầm thanh mâu gãy vung lên như trường kiếm để gạt hết tên, vẫn chạy như bay, xông đến trước người áo đỏ.

Người đó râu ria tua tủa trông rất oai phong, thấy Tiêu Phong xông đến vẫn không hoang mang, giựt lấy ba cây lao của bọn hộ vệ chung quanh, phóng vùn vụt vào Tiêu Phong. Tiêu Phong vung tay bắt được ngay mũi lao, mũi thứ hai bay đến cũng bắt nốt. Chàng lại vung tay một cái phóng hai mũi lao bay ra, trúng luôn hai gã hộ vệ lăn xuống ngựa. Người mặc hồng bào quát lớn: “Giỏi lắm!”, ném nốt mũi lao thứ ba. Tiêu Phong giơ tay trái lên dùng thủ pháp tá lực đả lực, đẩy mũi lao bay ngược lại cắm thẳng vào ức con ngựa y đang cưỡi.

Người áo đỏ la lên: “Úi chà!”, vội vàng nhảy khỏi lưng ngựa. Tiêu Phong tung mình xông tới, vươn tay trái ra nắm lấy vai bên phải của y. Bỗng nghe phía sau có tiếng gió thổi tới, lập tức chàng nhún chân nhảy vọt ra trước hơn một trượng, nghe phập phập, hai thanh trường mâu cắm sâu xuống đất. Tiêu Phong ôm người áo đỏ vọt sang bên tả, tới sau lưng một kỵ sĩ Khất Đan, phóng chưởng hất gã này xuống rồi nhảy phốc lên lưng ngựa.

Người áo đỏ vung quyền lên đấm vào mặt Tiêu Phong, chàng kẹp mạnh tay trái lại khiến y không nhúc nhích được nữa. Tiêu Phong quát lên: “Ngươi bảo bọn chúng rút lui ngay, không thì ta kẹp chết ngươi tức khắc.” Người mặc hồng bào bất đắc dĩ phải la lên: “Tất cả lui ngay, không được đánh nữa!”

Bọn Khất Đan tới tấp xông đến trước mặt Tiêu Phong, toan ra tay cứu viện. Tiêu Phong dí mũi giáo gãy vào mặt người áo đỏ, quát lớn: “Các ngươi có muốn ta đâm chết y không?”

Một lão già Khất Đan quát lên: “Ngươi muốn tốt thì thả thủ lĩnh bọn ta ra ngay, nếu không sẽ bị ngũ mã phân thây lập tức.” Tiêu Phong cười ha hả, phóng chưởng cách không đánh vào lão. Chàng muốn thị uy, dọa cho chúng sợ để đỡ phải giết người. Nghe ầm một tiếng, lão già Khất Đan kia từ lưng ngựa văng ra mấy trượng, miệng hộc máu tươi chết ngay lập tức.

Xưa nay bọn Khất Đan chưa thấy ai lợi hại đến thế, cách không đánh chết người chẳng khác gì yêu pháp. Chúng hoảng hốt ghìm cương lùi lại, vẻ mặt kinh hoàng, chỉ sợ chưởng phong quét trúng mình. Tiêu Phong quát lớn: “Các ngươi không mau lui ra, ta phóng chưởng đánh y chết trước.” Chàng vừa nói vừa giơ tay lên dọa đánh xuống đầu người áo đỏ. Y liền la hoảng: “Các ngươi lui đi! Lui mau đi!” Cả bọn Khất Đan lùi ra mấy bước nhưng không chịu bỏ đi.

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Khu này toàn là đồng cỏ mênh mông, nếu mình thả tên này về, chúng cưỡi ngựa đuổi theo thì mình không chạy thoát được”. Chàng liền bảo người áo đỏ: “Bảo chúng đem tám con ngựa lại đây.” Y vâng lời ra lệnh, bọn Khất Đan liền dắt đến tám con tuấn mã giao cho đám người Nữ Chân.

A Cốt Đả căm hận bọn này sát hại đồng bọn mình, phóng quyền ra đánh binh một tiếng, một tên dắt ngựa lăn đi mấy vòng. Bọn Khất Đan tuy đông người nhưng không dám đánh trả.

Tiêu Phong lại tiếp: “Ngươi ra lệnh cho thuộc hạ giết hết ngựa đang cưỡi, không chừa con nào.” Người mặc hồng bào tính tình dứt khoát, không tranh luận gì, lớn tiếng truyền lệnh: “Các ngươi xuống ngựa, giết hết ngựa đi.” Bọn kỵ sĩ không do dự chút nào, lập tức nhảy xuống, người dùng đao, kẻ dùng mâu giết ngay con ngựa đang cưỡi.

Tiêu Phong không ngờ bọn chúng tuân lệnh mau lẹ đến thế, trong lòng cảm phục nghĩ thầm: “Gã mặc áo đỏ này xem ra địa vị tôn cao, chỉ nói một tiếng là bon kỵ sĩ không dám trái lệnh. Quân lệnh của người Khất Đan nghiêm minh như vậy, hèn gì đánh nhau với người Tống thắng nhiều thua ít.” Chàng bèn nói: “Ngươi bảo chúng quay về hết, không được đuổi theo. Một người đuổi theo thì ta chặt ngươi một cánh tay, hai người đuổi theo ta chặt hai cánh tay, bốn người đuổi theo thì chặt hết tứ chi.”

Gã áo đỏ tức giận, râu ria dựng ngược lên, nhưng đang bị kẹp chặt không làm gì được, bất đắc dĩ phải ra lệnh: “Các ngươi quay về, điều động nhân mã kéo đến sào huyệt bọn Nữ Chân.” Bọn võ sĩ hô to: “Tuân lệnh!”, rồi khom lưng hành lễ.

Tiêu Phong dắt ngựa, đợi cho bọn A Cốt Đả sáu người lên yên hết, rồi cùng theo đường cũ trở về. Đi được mấy dặm, chàng thấy bọn Khất Đan không đuổi theo thật, bèn nhảy lên yên một con ngựa, để cho người áo đỏ tự cưỡi một con.

Tám con ngựa chạy thẳng về đại trại không dừng bước, A Cốt Đả bẩm lại cho phụ thân là Hòa Lý Bố việc gặp địch như thế nào, Tiêu Phong bắt được thủ lĩnh Khất Đan ra sao. Hòa Lý Bố cả mừng nói: “Tuyệt diệu! Đem con chó Khất Đan vào đây ta xem!”.

Người áo đỏ bước vào trong trướng, thần thái vẫn uy nghi, đứng hiên ngang không chịu quì, Hòa Lý Bố biết y là người tôn quý bên Khất Đan, liền hỏi: “Ngươi tên gì? Làm chức gì bên Liêu quốc?” Gã kia ngang nhiên đáp: “Có phải người bắt ta đâu mà được phép hỏi ta?” Thì ra người Khất Đan và người Nữ Chân đều có tập quán như nhau, tù binh là nô lệ của người bắt được. Hòa Lý Bố cười ha hả nói: “Ngươi nói đúng lắm!”

Người áo đỏ đi đến trước mặt Tiêu Phong, quì một chân xuống, tay phải đưa lên trán rồi nói: “Chủ nhân quả thực là anh hùng, ta đánh không lại, đông người mà vẫn thua. Ta bị ông bắt cũng không oán hận gì. Nếu ông chịu thả ta về, ta sẽ trả cho năm mươi lượng vàng, năm trăm lượng bạc, ba chục con tuấn .”

Thúc phụ của A Cốt Đả là Phả Lạp Tô nói: “Ngươi là bậc đại quí của Khất Đan, tiền chuộc như thế ít quá. Tiêu huynh đệ! Ngươi bắt y đem đến năm trăm lượng vàng, năm nghìn lượng bạc, ba trăm con tuấn mã.” Phả Lạp Tô là người lanh lợi khôn ngoan, hét giá lên gấp mười, để bên kia trả giá là vừa. Thật ra thì người Nữ Chân sống giản dị đã quen, cái giá năm mươi lượng vàng, năm trăm lượng bạc, ba chục con tuấn mã đã là to lắm rồi. Hai bên Nữ Chân và Khất Đan giao chiến mấy chục năm qua, chưa có món tiền chuộc nào lớn đến thế. Giả tỉ người áo đỏ không chịur cứ theo đúng con số y đưa ra lúc đầu đã là một tài sản ít thấy. Ai dè người áo đỏ không cần suy nghĩ, đáp ngay: “Thế cũng được!”

Những người Nữ Chân trong trường nghe vậy không khỏi giật mình, tưởng chừng tai nghe không rõ. Người Nữ Chân và Khất Đan cũng có khi lập kế đánh lừa nhau, nhưng khi đã giao ước thì một là một, hai là hai không bao giờ nuốt lời. Hơn nữa, hai bên đang thảo luận về tiền chuộc, giả tỉ bên Khất Đan không giao đủ thì người áo đỏ không trở về được, hứa bậy lại càng có hại. Phả Lạp Tô nghi ngờ y bị bắt rồi sợ hãi quá độ, thần trí mê man, liền nhắc lại: “Ngươi nghe rõ chưa? Ta nói là hoàng kim năm trăm lượng, bạch ngân năm nghìn lượng, tuấn mã ba trăm con!”.

Người áo đỏ trả lời đầy vẻ ngạo mạn: “Hoàng kim năm trăm lượng, bạch ngân năm nghìn lượng, tuấn mã ba trăm con có chi đáng kể? Nước Đại Liêu chúng ta giàu có nhất thiên hạ, con số đó chẳng thấm vào đâu.” Y quay sang Tiêu Phong, đổi giọng cung kính nói: “Chủ nhân! Ta chỉ nghe lệnh một mình ông thôi, người khác nói ta không thèm trả lời nữa đâu.” Phả Lạp Tô nói: “Tiêu huynh đệ! Huynh đệ thử hỏi xem y ở nước Liêu làm tới chức gì?” Tiêu Phong chưa kịp hỏi, người kia đã nói: “Giả tỉ chủ nhân gạn hỏi thân thế lai lịch, ta sẽ đặt điều nói láo, ông không thể biết là thật hay giả. Thế nhưng ông là anh hùng hảo hán, ta cũng là anh hùng hảo hán, ta không muốn lừa ông, xin đừng hỏi làm gì.”

Tiêu Phong xoay tay trái rút phát thanh đao đeo nơi hông, tay phải vỗ vào sống đao nghe cách một tiếng, lưỡi đao cong oằn lại. Chàng lớn tiếng quát: “Ngươi dám to gan không nói chăng? Bàn tay ta mà vỗ xuống đầu ngươi thì sẽ ra sao?”

Người áo đỏ vẫn thản nhiên không sợ hãi gì, đưa ngón tay cái lên, khen: “Bản lĩnh tuyệt vời! Công lực ghê gớm! Hôm nay ta được gặp đệ nhất anh hùng trên thế gian, quả là không uổng. Tiêu anh hùng! Nếu ông cậy mạnh uy hiếp, bắt ta khuất phục thì không được đâu. Ông muốn giết thì cứ giết, người Khất Đan tuy đánh không lại nhưng cốt cách cứng cỏi quyết không chịu kém.”

Tiêu Phong cười ha hả nói: “Hay lắm! Hay lắm! Ta không giết ngươi tại đây. Giả tỉ ta chém ngươi một nhát, chắc ngươi không tâm phục. Chi bằng mình ra chỗ xa xa, tỉ thí một trận.”

Hòa Lý Bố và Phả Lạp Tô cùng lên tiếng can ngăn: “Tiêu huynh đệ! Giết tên này đi thì thực là đáng tiếc, để y sống lấy tiền chuộc tốt hơn. Nếu huynh đệ bực mình, chỉ cần xách côn gỗ roi da đánh cho quắn đít là được.”

Tiêu Phong đáp: “Không được! Y muốn làm anh hùng hảo hán, ta cho y toại nguyện.” Chàng quay sang mượn người Nữ Chân hai cây trường mâu, hai bộ cung tên, nắm tay người áo đỏ kéo ra khỏi trướng, nhảy lên ngựa rồi ra lệnh: “Lên ngựa mau!” Người mặc hồng bào biết chắc đấu với Tiêu Phong thì chỉ có chết, ông muốn tỉ thí chẳng qua là chơi trò mèo vờn chuột, đùa giỡn một hồi rồi mới giết mình. Nhưng y vẫn ngang nhiên chẳng sợ hãi gì, lập tức lên ngựa chạy về hướng bắc.

Tiêu Phong cưỡi ngựa theo sau. Hai người chạy được mấy dặm, Tiêu Phong nói: “Bây giờ rẽ sang hướng tây!” Người áo đỏ đáp: “Chỗ này phong cảnh tuyệt đẹp, ta muốn chết tại đây.” Tiêu Phong nói: “Đón lấy!” Chàng ném trường mâu và cung tên qua, người kia đón bắt lấy rồi lớn tiếng nói: “Tiêu anh hùng! Ta không phải là đối thủ của ông, nhưng người Khất Đan thà chết không chịu nhục. Ta động thủ đây!” Tiêu Phong đáp: “Khoan đã!” Chàng ném trường mâu và cung tên xuống, chỉ còn hai tay không, miệng tủm tỉm cười. Người áo đỏ cực kỳ giận dữ, thét lên: “Hừ! Thế ra ngươi định tay không đấu với ta, khinh người đến thế ư?” Tiêu Phong lắc đầu: “Không phải! Tiêu mỗ bình sinh kính trọng anh hùng, yêu thích hảo hán. Võ công ngươi tuy không bằng ta, nhưng cũng là một tay đại anh hùng, đại hảo hán, xứng đáng là bằng hữu. Tiêu mỗ để cho ngươi về nước.”

Người áo đỏ hết sức kinh ngạc, hỏi lại: “Thế là thế nào?” Tiêu Phong mỉm cười lập lại: “Tiêu mỗ coi ngươi là một hảo bằng hữu, để cho người bình an về nước”. Người mặc hồng bào khác nào đến Quỉ Môn Quan lại được quay về, mừng rỡ khôn xiết, hỏi lại: “Ngươi thả ta về thật chăng? Chẳng hay ngươi muốn gì? Ta sẽ đem tiền chuộc gấp mười, gửi sang cho ngươi.” Tiêu Phong hiên ngang đáp: “Ta coi ngươi là bằng hữu, sao ngươi lại không coi ta là bằng hữu? Tiêu Phong này đường đường một đấng anh hào, lẽ đâu còn đi tham tiền bạc là vật ngoại thân hay sao?”

Người áo đỏ đáp: “Đúng lắm!” Y vứt binh khí rồi nhảy xuống ngựa, quì xuống đất nói: “Đa tạ ân công tha mạng!” Tiêu Phong cũng quì xuống đáp lễ, nói: “Nếu là kẻ nô lệ lạy lục Tiêu mỗ, Tiêu mô cũng chẳng tha đâu. Nhưng Tiêu mỗ không giết bằng hữu, sao lại dám nhận lạy của bằng hữu?”. Người áo đỏ lại càng mừng rỡ, đứng lên nói: “Tiêu anh hùng! Ông cứ luôn miệng gọi ta là bằng hữu, vậy chúng ta kết làm huynh đệ có được không?”

Nhớ lại năm xưa Tiêu Phong học nghệ xong liền gia nhập Cái Bang. Địa vị trong bang phân biệt rất nghiêm minh, trên có bang chủ, phó bang chủ, dưới có truyền công, chấp pháp và tứ đại trưởng lão. Sau nữa có đà chúa các đà, rồi đến đệ tử tám túi, bảy túi, cho đến kẻ mới nhập bang chưa có túi nào. Tại Cái Bang thì Tiêu Phong chuyên tâm lập những công trạng vẻ vang, chưa từng kết nghĩa anh em với ai. Sau này ở thành Vô Tích ông đấu tửu với Đoàn Dự, đem lòng cảm mến mới kết nghĩa kim lan lần đầu. Bây giờ nghe người áo đỏ đề cập đến việc này, chàng bỗng nhớ lại những năm ở Trung Nguyên giao thiệp với vô số anh hùng thiên hạ, hôm nay lưu lạc đến đất man di ăn nhờ ở đậu, quả thực nghĩ lại tủi thân. Chàng không khỏi cảm khái, lại thấy người áo đỏ khí độ anh hùng đáng là một trang hảo hán, liền đáp: “Hay lắm! Hay lắm! Tại hạ là Tiêu Phong, năm nay ba mươi mốt tuổi. Chẳng hay huynh đài niên kỷ bao nhiêu?” Người kia cười đáp: “Tại hạ là Gia Luật Cơ, nhiều hơn ân công mười ba tuổi.” Tiêu Phong nói: “Sao huynh trưởng còn kêu tiểu đệ bằng ân công? Huynh trưởng là đại ca, xin nhận một lạy của đệ.” Chàng nói xong phục xuống lạy, Gia Luật Cơ vội vàng hoàn lễ.

Hai người lấy ba mũi tên cắm xuống đất, đốt cháy lông đuôi tên làm nhang, hướng lên trời cùng lạy tám lạy, kết bái anh em.

Gia Luật Cơ cả mừng nói: “Hiền đệ họ Tiêu, chẳng khác gì người Khất Đan chúng ta.” Tiêu Phong đáp: “Chẳng giấu gì đại ca, tiểu đệ chính là người Khất Đan.” Nói xong chàng cởi áo ra, để lộ hình xăm chiếc đầu sói xanh trên ngực.

Gia Luật Cơ lại càng mừng rỡ, nói: “Đúng rồi! Hiền đệ thuộc dòng họ hoàng hậu Khất Đan, Hiền đệ ơi, đất Nữ Chân rét lắm, chi bằng theo ta về Thượng Kinh chung hưởng phú quí.” Tiêu Phong đáp: “Đa tạ hảo ý của ca ca. Có điều tiểu đệ trước nay nghèo hèn, không hợp kiểu sống phú quí. Tiểu đệ ở lại Nữ Chân săn bắn uống rượu làm vui, thấy tiêu dao khoái hoạt hơn. Sau này nhớ tới ca ca, thể nào cũng qua nước Liêu thăm hỏi.” Tiêu Phong rời A Tử đã lâu, sực nhớ đến thương thế nàng bèn nói: “Ca ca nên sớm quay về, để người nhà và bộ thuộc khỏi trông đợi.” Rồi hai người hành lễ cáo biệt.

Tiêu Phong vừa quay đầu ngựa đã thấy A Cốt Đả dẫn hơn chục người nghênh tiếp. Thì ra A Cốt Đả thấy Tiêu Phong đi lâu không về, sợ chàng trúng phải ngụy kế của người áo đỏ, trong lòng hồi hộp liền đến tiếp ứng. Tiêu Phong kể cho gã nghe mình đã thả người áo đỏ về nước Liêu rồi. A Cốt Đả là người hiểu biết, thấy Tiêu Phong khinh tài trọng nghĩa, khoan hồng đại lượng như thế lại càng kính phục.

Một hôm, Tiêu Phong cùng A Cốt Đả nhàn rỗi ngồi nói chuyện chơi, kể lại A Tử thụ thương là do chưởng lực của mình lỡ tay đánh phải, tuy dùng nhân sâm duy trì được tính mạng nhưng thương thế đã lâu vẫn không giảm, trong lòng phiền muộn. A Cốt Đả nói: “Tiêu đại ca! Thì ra lệnh muội bị ngoại thương, người Nữ Chân chúng tôi trị gãy xương sai khớp xưa nay vẫn dùng gân hổ, xương hổ và mật gấu làm thuốc rất hiệu nghiệm. Đại ca thử xem thế nào.” Tiêu Phong cả mừng nói: “Gân hổ, xương hổ thì ở đây không thiếu. Để ta ráng đi kiếm mấy con gấu lấy mật là xong.” Chàng hỏi kỹ cách dùng, rồi lấy gân hổ, xương hổ nấu thành cao cho A Tử uống.

Sáng hôm sau, Tiêu Phong một mình đi vào núi hoang đầm lớn tìm gấu. Chàng đi một mình nên có thể thi triển khinh công, mau lẹ hơn đi cả đoàn nhiều. Ngày đầu không tìm thấy dấu vết gấu, đến ngày thứ hai săn được một con. Chàng mổ lấy mật, chạy về trại đút cho A Tử uống. Gân hổ, xương hổ, mật gấu và nhân sâm lâu năm nơi rừng sâu núi thẳm đều là những dược phẩm trân quí để trị thương, nhất là mật gấu còn tươi lại càng khó kiếm. Tiết Thần Y tuy y đạo như thần, nhưng không có thuốc thì cũng bó tay, nếu phải dùng nhân sâm già cho bệnh nhân ăn thay cơm thì lão cũng không làm nổi. Đằng này Tiêu Phong cứ vài ngày lại đánh chết một con gấu lấy mật tươi cho A Tử uống, mười lão Tiết Thần Y cũng không bì kịp.

Một hôm Tiêu Phong đang ngồi nấu xương gân hổ làm cao, có một người Nữ Chân hấp tấp chạy đến gọi: “Tiêu đại ca! Có hơn chục tên Khất Đan đem lễ vật đến cho đại ca.” Tiêu Phong gật đầu, đoán là nghĩa huynh Gia Luật Cơ sai người tới. Chỉ nghe tiếng vó ngựa dồn dập, một đoàn ngựa từ từ tiến vào, trên lưng ngựa chất đầy phẩm vật.

Tên đội trưởng Khất Đan đi đầu đã nghe Gia Luật Cơ mô tả diện mạo Tiêu Phong, nên từ xa vừa trông thấy đã vội vàng nhảy xuống ngựa, chạy tới trước mặt ông, lạy phục xuống đất nói: “Từ khi chủ nhân từ biệt Tiêu đại gia đến nay, mong nhớ đêm ngày, nay sai tiểu nhân là Thất Lý đem chút lễ mọn sang mời Tiêu đại gia đến Thượng Kinh hàn huyên cho thỏa tình khát vọng.” Y nói xong dập đầu mấy cái, hai tay trình lễ đơn lên, cực kỳ cung kính.

Tiêu Phong đón lấy, cười nói: “Đại ca quả là có lòng. Thôi, ngươi đứng dậy đi.” Chàng mở tờ lễ đơn ra thấy toàn là chữ Khất Đan, liền nói: “Ta không biết chữ, xem chẳng hiểu gì.” Thất Lý nói: “Chút lễ mọn này gồm năm nghìn lượng hoàng kim, năm vạn lượng bạch ngân, một nghìn súc gấm, một nghìn thạch lúa mạch thượng phẩm, một nghìn con bò, năm nghìn con cừu, ba nghìn con tuấn mã, ngoài ra còn một số quần áo đồ dùng.”

Tiêu Phong càng nghe càng kinh ngạc, lễ vật còn nhiều gấp mười khoản tiền chuộc Phả Lạp Tô đòi hôm trước. Lúc đầu chàng thấy hơn chục con ngựa chở phẩm vật đến đã cho là quá nhiều, té ra theo danh sách này thì không biết bao nhiêu ngựa xe mới chất hết.

Thất Lý khom lưng nói: “Chủ nhân còn sợ gia súc đi đường xa mất mát, cho nên cừu bò ngựa đều đem dư một số để bù trừ hao hụt. May nhờ hồng phúc của chủ nhân và Tiêu đại gia, bọn tiểu nhân đi đường không bị gió bão hay dã thú chi hết, tổn thất rất ít.” Tiêu Phong thở dài nói: “Gia Luật ca ca thật là chu đáo. Nếu ta không nhận thì phụ hảo tâm của ca ca, còn nhận thì thật chẳng yên tâm chút nào.” Thất Lý nói: “Chủ nhân dặn đi dặn lại, nếu Tiêu đại gia khách sáo không nhận, tiểu nhân trở về sẽ bị trọng phạt.”

Bỗng nghe tiếng tù và nổi lên inh ỏi, người Nữ Chân trong các lều đều xách đao thương cung tên nhốn nháo chạy ra. Có tiếng hô lớn: “Quân địch đến tấn công, mọi người chuẩn bị nghênh chiến.” Tiêu Phong nhìn về phía có hiệu tù và thì thấy cát bụi mù trời, tựa hồ vô số binh mã đang kéo đến.

Thất Lý lớn tiếng gọi to: “Xin các vị chớ có hoang mang, đó là đoàn gia súc của Tiêu đại gia.” Y dùng tiếng Nữ Chân kêu gọi liên tiếp, nhưng chẳng ai chịu tin. Hòa Lý Bố, Phả Lạp Tô, A Cốt Đả chia nhau ra chỉ huy người trong bộ lạc dàn thành trận thế ở phía tây doanh trại.

Đây là lần đầu Tiêu Phong thấy người Nữ Chân bố trí trận mạc, nghĩ thầm: “Bộ tộc Nữ Chân ít người, nhưng ai cũng nhanh nhẹn dữ dằn. Bọn kỵ sĩ Khất Đan của Gia Luật ca ca xem chừng không hung hãn bằng, còn quan binh nhà Đại Tống thì lại tệ hơn nữa”.

Thất Lý kêu lên: “Để tiểu nhân đi bảo thuộc hạ dừng lại, không tiến lên vội để khỏi hiểu lầm.” Y nhảy vọt lên ngựa, chạy về hướng tây. A Cốt Đả vẫy tay một cái, bốn người Nữ Chân liền đuổi theo sau. Năm kỵ sĩ tiến tới chỗ bụi mù, thấy trên đồng cỏ toàn là bò cừu ngựa, hơn một trăm dân Khất Đan cầm roi dài lùa gia súc, tuyệt không có tên quân nào.

Bốn người Nữ Chân bật cười, quay ngựa về báo với Hòa Lý Bố. Chẳng bao lâu, đoàn gia súc đã đến gần, bò kêu ngựa hí ầm ầm át cả tiếng người, không ai nói chuyện với ai được.

Tối hôm đó Tiêu Phong nhờ dân Nữ Chân giết bò mổ cừu để đãi khách phương xa. Hôm sau, chàng lấy một ít vàng bạc gấm vóc thưởng cho bọn người Khất Đan đưa lễ vật đến. Khi chúng từ biệt ra về rồi, chàng đem toàn bộ gia súc cùng vàng bạc giao lại cho A Cốt Đả, bảo y chia cho người trong bộ tộc. Người Nữ Chân vốn dĩ tụ tập sống chung với nhau, không có của riêng, một người được thì cả bộ tộc hưởng chung, thấy Tiêu Phong hào hiệp như thế cũng coi là chuyện bình thường. Thế nhưng tự nhiên được vô số tài vật trên trời rơi xuống như thế, mọi người đều vui vẻ.

Toàn bộ tộc ăn uống vui chơi mấy ngày liền, ai nấy đều cảm kích lòng tốt của Tiêu Phong.

Hết hạ sang thu, bệnh tình A Tử cũng đỡ được vài phần. Nàng đã hơi tỉnh táo, suốt ngày phải nằm trong lều dưỡng thương sinh ra chán ngán, thường bảo Tiêu Phong đưa ra ngoài cưỡi ngựa rong chơi cho khuây khỏa. Hai người cưỡi chung một con ngựa, A Tử ngồi trước dựa vào ngực Tiêu Phong, không tốn một chút hơi sức nào. Tiêu Phong chiều chuộng nàng hết mực, suốt mấy tháng liền ngày nào cũng lên ngựa rong chơi, chỉ trừ những khi gió to tuyết lớn. Về sau, đi mãi những vùng lân cận cũng chán, hai người mang theo cả lều chăn dựng trại ngủ ở bên ngoài, có khi mấy ngày liền không về. Tiêu Phong cũng nhân đó mà đánh hổ, săn gấu, đào nhân sâm. Chỉ vì A Tử bắn lén một mũi độc châm mà gấu cùng hổ ở dãy Trường Bạch hao hụt khá nhiều, không biết bao nhiêu con đã táng mạng dưới tay Tiêu Phong.

Tiêu Phong vì muốn kết hợp đào sâm nên lần đi chơi nào cũng theo hướng đông hoặc hướng bắc. Một hôm A Tử bảo rằng phong cảnh phía đông phía bắc coi đã nhiều, nay muốn qua phía tây du ngoạn, Tiêu Phong nói: “Phía tây chỉ có một thảo nguyên thật rộng, chẳng có núi non sông ngòi gì đáng xem hết.” A Tử đáp:”Cánh đồng cỏ bát ngát cũng thích chứ, chẳng khác gì biển cả. Tiểu muội chưa thấy biển thật bao giờ. Tinh Tú Hải tuy gọi là biển, nhưng vẫn còn thấy bờ thấy bến.”

Tiêu Phong nghe nàng nhắc đến Tinh Tú Hải cũng thấy chột dạ. Một năm qua sống chung với người Nữ Chân, những chuyện võ lâm đã quên dần, A Tử không cử động được, muốn làm chuyện tàn nhẫn cũng chẳng có cách gì. Còn chàng thì ra sức trị thương cứu mạng, bây giờ mới sợ rằng một khi bệnh tình nàng thuyên giảm thì ác tính lại phát tác, lúc đó biết làm thế nào?

Chàng quay lại nhìn A Tử, thấy khuôn mặt trắng bệch không chút huyết sắc, má hóp lại, đôi mắt to đen sâu hoắm, dung nhan tiều tụy, người gầy tong teo như cái túi da. Tiêu Phong không khỏi chua xót trong lòng, thầm nghĩ: “Nàng vốn dĩ là một cô bé lanh lợi khả ái, bị ta đánh chết đi sống lại đến nỗi thân tàn ma dại thế này. Sao ta lại nỡ nghĩ đến những điều xấu của nàng?” Chàng bèn mỉm cười nói: “Cô đã muốn đi về phía tây thì mình qua đó xem sao. A Tử! Khi nào cô khỏe hẳn, ta sẽ đưa cô đến biên giới nước Cao Ly để xem đại dương thực sự, nước biếc mênh mông, nhìn không thấy bờ, cảnh tượng đó mới thật là hùng vĩ.”

A Tử đột nhiên vỗ tay reo lên: “Hay quá! Hay quá! Chẳng cần phải đợi nữa, bây giờ mình đi cũng được.” Tiêu Phong kêu lên một tiếng, vừa vui mừng vừa kinh ngạc hỏi: “A Tử: Thì ra hai tay của cô cử động được như thường rồi.” A Tử cười đáp: “Hai tay tiểu muội cử động được đã nửa tháng nay, bây giờ linh hoạt lắm rồi.” Tiêu Phong cả mừng nói: “Thế thì tuyệt diệu! Con bé cứng đầu này lại giấu giếm ta nữa.” Đôi mắt A Tử ánh lên một vẻ tinh quái, mỉm cười đáp: “Muội chỉ mong vĩnh viễn không cử động được, thì tỉ phu mới ngày ngày ngồi cạnh muội. Giả tỉ thương thế muội khỏi rồi, tỉ phu lại đuổi đi mất.”

Tiêu Phong nghe thanh âm nàng đầy vẻ chân thành, không khỏi sinh lòng ái ngại, bèn nói: “Ta là người lỗ mãng, hôm đó sơ ý đánh cô tới nông nỗi này. Cô ngày ngày ở bên cạnh ta thì có gì vui thú đâu?” A Tử không trả lời, hồi lâu mới khẽ hỏi: “Tỉ phu ơi! Sao hôm đó tỉ phu phóng chưởng đánh muội mạnh đến thế?” Tiêu Phong không muốn nhắc lại chuyện cũ, lắc đầu đáp: “Chuyện qua rồi, nhắc lại làm gì? A Tử! Ta đánh cô trọng thương, trong lòng rất hối hận. Cô có giận ta không?” A Tử đáp: “Dĩ nhiên là tiểu muội không giận tỉ phu, có gì để giận đâu? Muội chỉ mong được kề cận bên mình tỉ phu, bây giờ thỏa nguyện rồi còn gì? Muội còn hết sức sung sướng là khác.”

Tiêu Phong nghe nàng nói như thế, tuy quan niệm của tiểu cô nương này thật là cổ quái, nhưng thấy nàng tử tế hơn, liền cho rằng vì mình quan tâm lo lắng nên ác tính của nàng đã giảm đi nhiều. Chàng quay về chuẩn bị ngựa xe, lều trại, lương khô các thứ.

Sáng hôm sau, hai người đi về hướng tây. Đi được chục dặm, A Tử bỗng hỏi: “Tỉ phu đã đoán ra chưa?” Tiêu Phong hỏi lại: “Đoán cái gì?” A Tử nói: “Hôm đó muội đột nhiên phóng độc châm ám toán, tỉ phu có biết vì lý do gì không?” Tiêu Phong lắc đầu nói: “Ý nghĩ của cô trời không biết, quỉ không hay, làm sao ta đoán nổi?” A Tử thở dài nói: “Tỉ phu đã không đoán ra, thì đừng nghĩ tới nữa. Ô kìa! Tỉ phu xem đàn chim nhạn kia, chúng bay về hướng nam làm gì nhỉ?”

Tiêu Phong ngửng đầu lên, thấy hai đàn chim nhạn xếp thành hình chữ nhân trên trời, đang bay về phương nam, bèn nói: “Trời sắp sang đông, chim nhạn sợ lạnh nên bay về phương nam trốn tuyết.” A Tử hỏi: “Thế sao đến mùa xuân, chúng lại bay trở về phương bắc? Mỗi năm bay đi bay về chẳng vất vả lắm sao? Nếu chúng sợ lạnh sao không ở luôn phương nam, quay lại làm gì?”

Tiêu Phong trước nay chuyên tâm học võ, chưa bao giờ suy nghĩ đến tập tính các loài cầm thú, nghe nàng hỏi không sao trả lời được, lắc đầu cười nói: “Ta cũng chẳng hiểu. Chúng không ngại gian khổ, có lẽ là do sinh nơi phương bắc, lưu luyến cố hương đấy thôi.”

A Tử gật đầu nói: “Nhất định là thế rồi. Tỉ phu xem kìa, con nhạn sau cùng còn nhỏ xíu mà cũng ráng bay về phương nam. Sau này gia gia, má má, tỉ nương cùng tỉ phu nó bay về phương bắc, dĩ nhiên nó cũng theo về.”

Tiêu Phong nghe nàng nói đến tỉ nương cùng tỉ phu, chợt động lòng đưa mắt nhìn thấy cô bé đang mơ màng nhìn theo đàn chim phía chân trời, hiển nhiên câu đó là nàng không cố ý nói ra. Chàng liền nghĩ thầm: “Nàng ngẫu nhiên mà xếp ta cùng với song thân một chỗ, đủ biết trong lòng đã coi mình là người thân thiết, thế thì từ nay ta không nên bỏ rơi nàng nữa. Đến khi nàng khỏi bệnh rồi, ta sẽ đưa nàng về Đại Lý giao lại cho song thân, lúc đó mới trút được trách nhiệm.”

Hai người vừa đi đường vừa chuyện trò vui vẻ. Lúc nào A Tử mệt mỏi, Tiêu Phong liền bế nàng xuống ngựa, đặt vào thùng xe cho nàng ngủ. Đến tối, chàng lại tìm rừng cây để dựng lều. Đi như thế mấy ngày, đã đến thảo nguyên.

A Tử đưa mắt nhìn quanh thấy đồng cỏ mênh mông không bờ bến, cao hứng nói: “Giả tỉ mình cứ đi tiếp về hướng tây thì chẳng khác gì lạc vào giữa biển, nhìn bốn bề đông tây nam bắc chỗ nào cũng không bờ không bến.” Tiêu Phong biết A Tử muốn đi sâu vào giữa thảo nguyên, liền chiều ý giơ roi lên quất một cái, giục ngựa đi tiếp về hướng tây.

Hai người đi trong đại thảo nguyên mấy ngày liền, quả nhiên nhìn khắp chung quanh đã không còn thấy ranh giới đồng cỏ đâu nữa. Khi đó trời vào thu khí hậu mát mẻ, nghe tiếng cỏ rì rào xào xạc thật là dễ chịu. Trong đồng có rất nhiều thú nhỏ, Tiêu Phong bắt lấy mà ăn, trong lòng lâng lâng chẳng lo nghĩ chi hết.

Lại đi thêm mấy ngày nữa, một buổi trưa chàng nhìn xa xa thấy vô số lều trại, cờ xí rất nhiều, không hiểu là chỗ đóng quân hay là một bộ lạc lớn. Tiêu Phong nói: “Trước mặt có đông người lắm, không biết họ là ai, mình quay về để khỏi bị rắc rối.” A Tử nói: “Đừng quay về vội, muội muốn đến đó xem. Hai chân muội vẫn cứng đơ, đâu có làm gì được mà tỉ phu sợ bị rắc rối?” Tiêu Phong cười nói: “Những chuyện rắc rối đâu phải chỉ do mình cô gây ra, có khi người khác gây sự, chúng ta muốn tránh cũng không được.” A Tử cười nói: “Thế thì mình cứ đến xem, chẳng sao đâu.”

Tiêu Phong biết nàng còn tính trẻ con, thích coi những nơi náo nhiệt, bèn giục ngựa tiến chầm chậm. Trên thảo nguyên địa thế bằng phẳng, những lều trại đó đã nhìn thấy rõ, nhưng không phải là gần. Đi được chừng bảy tám dặm, bỗng nghe tù và thổi u u, sau đó bụi bay mù mịt. Hai đại đội nhân mã xông ra, một đội lên phía bắc, một đội xuống phía nam.

Tiêu Phong hơi e ngại, nói: “Không xong rồi! Đây là kỵ binh Khất Đan.” A Tử nói: “Họ là đồng tộc của tỉ phu, thế thì hay quá, tỉ phu còn ngại cái gì?” Tiêu Phong đáp: “Nhưng ta chưa quen biết họ. Mình quay về thôi.” Chàng ghìm cương ngựa, quay về theo đường cũ. Mới được mấy bước, bỗng nghe tiếng trống thúc liên hồi, lại thêm mấy đội kỵ binh Khất Đan nữa xông ra. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chung quanh chẳng thấy địch nhân đâu cả, chắc là họ đang tập trận.”

Bỗng nghe tiếng reo hò vang dội: “Có hươu kìa! Bắn đi!” Cả ba phía tây nam bắc, chỗ nào cũng nghe tiếng người giục bắn hươu, Tiêu Phong nói: “Té ra họ bao vây để săn thú, thanh thế cuộc đi săn này không phải nhỏ.” Chàng bèn ôm A Tử đặt lên yên ngựa, ghìm cương đứng ở phía đông nhìn xem.

Kỵ binh Khất Đan trong mặc thiết giáp, ngoài khoác cẩm bào. Đội thì cẩm bào màu đỏ, đội màu xanh, đội màu vàng, đội màu tím, cờ hiệu cũng cùng màu với áo. Binh cường mà tráng, lui tới nhịp nhàng trông rất oai hùng, Tiêu Phong cùng A Tử trầm trồ khen ngợi. Quân kỵ Khất Đan tung hoành tiến thoái theo đúng quân lệnh, giơ trường mâu ra để xua hươu, trông thấy Tiêu Phong và A Tử cũng chỉ liếc một cái chứ chẳng hỏi han gì. Bốn đội kỵ binh chia ra bao vây bốn mặt, dồn mấy chục con hươu vào giữa. Thỉnh thoảng có một con lọt qua chỗ trống chạy ra ngoài, thì lại có một toán quân nhỏ ra cản, vây đuổi trở lại vào trong.

Hồi 27: Chốn thiên quân bắt tướng, khất cái hóa đại vương

Tiêu Phong đang đứng xem, bỗng nghe có tiếng gọi: “Có phải Tiêu đại gia đấy chăng?” Tiêu Phong tự hỏi: “Ai nhận ra ta nhỉ?”. Chàng quay lại nhìn, thấy trong đội áo xanh có một người phóng ngựa chạy ra, chính là gã đội trưởng Thất Lý, mấy tháng trước đã được Gia Luật Cơ sai đem lễ vật đến tặng mình.

Y phóng ngựa đến cách Tiêu Phong chục trường đã nhảy xuống chạy bộ, quì gối phải xuống nói: “Chủ nhân của tiểu nhân đang ở phía trước, cách đây không xa. Chủ nhân vẫn nhắc đến Tiêu đại gia luôn, dường như nhớ mong lắm. Hôm nay không biết ngọn gió nào thổi Tiêu đại gia đến đây? Xin mời đại gia đến gặp chủ nhân của tiểu nhân.” Tiêu Phong nghe nói Gia Luật Cơ ở gần đây thì vui mừng khôn xiết nói: “Ta đi chơi không có chủ định, không ngờ đến gần chỗ nghĩa huynh, thật là tuyệt diệu. Được rồi, nhờ ngươi dẫn ta đến gặp ca ca.”

Thất Lý chúm môi huýt một tiếng, hai tên kỵ binh cưỡi ngựa chạy đến. Y dặn dò: “Các ngươi lập tức về bẩm báo là Tiêu đại gia ở núi Trường Bạch đến chơi.” Hai tên kỵ binh nghiêng mình nhận lệnh, rồi phóng ngựa đi ngay. Quân sĩ Khất Đan tiếp tục cuộc săn hươu, còn Thất Lý suất lãnh đội kỵ binh áo xanh, hộ vệ Tiêu Phong và A Tử đi về hướng tây.

Lúc Tiêu Phong được Gia Luật Cơ gửi tặng vàng bạc bò cừu, chàng đã phỏng chừng y có lẽ là một bậc phú quí người Khất Đan, bây giờ lại thấy thanh thế như vậy, đoán chắc vị nghĩa huynh này phải là tướng quân hay đại thần chi đó.

Trên thảo nguyên đầy kỵ binh chạy lui chạy tới như mắc cửi, tên nào cũng y giáp mới tinh. Thất Lý nói: “Hôm nay Tiêu đại gia đến chơi thật là đúng lúc, sáng mai ở đây có lễ hội thật là tưng bừng náo nhiệt.” Tiêu Phong đưa mắt nhìn A Tử, thấy nàng tươi tỉnh hẳn lên, liền hỏi: “Cái gì mà tưng bừng náo nhiệt?” Thất Lý đáp: “Ngày mai có cuộc tỉ võ. Hai đội thị vệ Vĩnh Xương, Thái Hòa đang khiếm khuyết chức thống lĩnh. Người Khất Đan chúng tôi đều ra sức thi triển võ công để xem ai may mắn đoạt được chức vụ này.”

Tiêu Phong nghe nói đến tỉ võ, tự nhiên thấy hào khí bừng bừng, nổi hứng cười nói: “Thế thì tuyệt diệu! Ta lại được xem võ công người Khất Đan như thế nào.” A Tử cũng cười nói: “Đội trưởng ơi, chắc ông cũng ra biểu diễn thân thủ, ta chúc ông giành được một chức thống lĩnh.” Thất Lý lè lưỡi nói: “Tiểu nhân đâu có gan dạ như thế?” A Tử lại cười: “Tỉ võ giành chức thống lĩnh thì đã là gì? Ông chỉ xin tỉ phu ta dạy cho mấy đường quyền là đoạt được ngay.” Thất Lý mừng rỡ nói: “Giả tỉ tiểu nhân được Tiêu đại gia chỉ giáo là tốt phước lắm rồi. Còn chức thống lĩnh thì tiểu nhân chẳng dám mơ tới.”

Đoàn người vừa đi vừa nói chuyện, độ mười dặm đã thấy một đoàn kỵ binh gấp rút chạy tới đón. Thất Lý nói: “Đây là đội Phi Hùng trong Bì thất đại trướng.” Đám kỵ binh này mặc áo da gấu đen, đội mũ da gấu trắng, khí thế thật là uy võ. Chúng chạy đến gần, cùng lên tiếng reo hò, đồng thời xuống ngựa chia ra đứng hai bên hô to: “Cung nghinh Tiêu đại gia.” Tiêu Phong đáp: “Không dám! Không dám!” Chàng giơ tay đáp lễ, giục ngựa chạy lên trước, đội Phi Hùng phóng ngựa theo sau.

Đi được hơn chục dặm, lại có một đội kỵ binh Phi Hổ mặc áo da hổ, đội mũ da hổ chạy đến nghênh tiếp. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Không biết Gia Luật ca ca làm tới chức quan gì mà nghi vệ rầm rộ đến thế này.” Nhưng lần gặp trước Gia Luật Cơ nhất định không nói ra thân thế mình, Thất Lý cũng không nói, nên Tiêu Phong không hỏi nữa.

Đến chiều, tới một doanh trại thật lớn thì đội Phi Báo mặc áo đội mũ da báo chạy ra đón Tiêu Phong và A Tử vào căn lều lớn ở chính giữa. Tiêu Phong tưởng vào trong lều này là gặp Gia Luật Cơ, ngờ đâu trong trướng chỉ có đồ dùng sang trọng, trên bàn đặt sẵn vô số thức ăn, hoa quả, mà chủ nhân vẫn chẳng thấy đâu. Đội trưởng đội Phi Báo nói: “Chủ nhân mời Tiêu đại gia nghỉ lại đây một đêm, sáng mai sẽ tương kiến.” Tiêu Phong không hỏi thêm, ngồi xuống bên bàn bưng rượu lên uống. Bốn tên lính hầu đứng rót rượu, cắt thịt, hầu hạ rất chu đáo.

Sáng hôm sau thức dậy lại tiếp tục đi về hướng tây, đi suốt ngày phải đến hai trăm dặm, đến đêm lại ngủ ở một doanh trại lớn. Đến trưa ngày thứ ba, Thất Lý mới nói: “Đi hết sườn núi này là tới nơi.” Tiêu Phong ngẩng đầu nhìn hình thế trái núi thật là hùng vĩ, một con sông uốn lượn dưới chân núi cuồn cuộn chảy về hướng nam. Cả đoàn người vòng qua sườn núi, đột nhiên trước mắt cờ xí rợp trời, bốn mặt đầy doanh trướng. Phải có đến hàng vạn kỵ binh cùng bộ binh đứng vây quanh một khoảng đất trống. Các đội kỵ mã Phi Hùng, Phi Hổ, Phi Báo hộ vệ Tiêu Phong liền lấy tù và ra thổi lên inh ỏi.

Bỗng nghe tiếng trống đánh tùng tùng, thêm tiếng pháo hiệu nổ ầm ầm, quân lính trên bãi đất trống rẽ ra hai bên. Một con ngựa vàng cao lớn từ trong chạy ra, trên lưng có một đại hán râu ria xồm xoàm, chính là Gia Luật Cơ. Y giục ngựa thẳng đến chỗ Tiêu Phong, hô lớn: “Tiêu huynh đệ! Có nhớ ca ca chăng?” Tiêu Phong cũng phóng ngựa chạy lên, hai người gặp nhau cùng nhảy xuống, tay nắm tay mừng rỡ không sao kể xiết. Tướng sĩ bốn mặt chung quanh đều reo hò vang dội: “Vạn tuế! Vạn vạn tuế!”.

Tiêu Phong giật mình tự hỏi: “Tại sao binh sĩ lại hô vạn tuế?”. Chàng đưa mắt nhìn quanh, thấy hết thảy mọi người đều khom lưng, chống đao xuống đất, chỉ có Gia Luật Cơ đứng chính giữa, nhìn ngang nhìn ngửa ra chiều đắc ý. Tiêu Phong tỉnh ngộ, ấp úng hỏi: “Ca ca? Phải chăng ca ca là… là…” Gia Luật Cơ cười ha hả nói: “Giả tỉ hiền đệ biết ta là đương kim hoàng đế nước Đại Liêu, e rằng không chịu cùng ta kết nghĩa đệ huynh đâu. Tiêu hiền đệ, tên thực của ta là Gia Luật Hồng Cơ. Đại ân cứu mạng của hiền đệ, ta vĩnh viễn không quên được.”

Tiêu Phong vốn là người hiên ngang khí phách, nhưng trong đời chưa được bái kiến hoàng đế bao giờ. Hôm nay chàng thấy nghi vệ long trọng đến thế, không khỏi luống cuống nói: “Tiểu nhân không biết bệ hạ nên mạo phạm đã nhiều, tội đáng muôn thác”, nói xong liền quì xuống. Tiêu Phong là thần dân Khất Đan, gặp hoàng đế nước mình phải quì xuống là chuyện đương nhiên.

Gia Luật Hồng Cơ vội đỡ ông dậy, cười nói: “Không biết thì không có tội. Hiền đệ ơi, ngươi với ta đã kết nghĩa kim lan, hôm nay chỉ nói chuyện nghĩa khí, ngày mai dùng lễ chúa tôi cũng chưa muộn.” Ông vẫy tay trái một cái, lập tức chiêng trống nổi lên để hoan nghênh tân khách. Gia Luật Hồng Cơ dắt tay Tiêu Phong đi vào đại trướng.

Doanh trướng của hoàng đế Khất Đan lợp đến mấy lớp da bò, trang trí đủ loại màu sắc cực kỳ rực rỡ, gọi là Bì thất đại trướng. Gia Luật Hồng Cơ ngồi ngay chính giữa, bảo Tiêu Phong ngồi bên cạnh, chẳng mấy chốc văn võ bá quan lục tục tiến vào tham kiến, nào là Bắc viện đại vương, Bắc viện khu mật sứ, Nam viện khu mật sứ, Bì thất đại tướng quân, Tiểu tướng quân, Mã quan chỉ huy sứ, Bộ quân chỉ huy sứ… Tiêu Phong được nghe giới thiệu, nhưng nhiều quá nhất thời không nhớ hết được.

Đêm hôm đó mở đại tiệc ăn mừng, người Khất Đan tôn trọng nữ giới nên A Tử cũng được mời vào dự yến tại Bì thất đại trướng. Quang cảnh đúng là rượu đổ thành ao, thịt chất thành núi, A Tử cực kỳ hứng thú, mặt tươi như hoa.

Giữa chừng tiệc rượu, hơn mười tên võ sĩ Khất Đan cởi trần ra trổ tài đấu vật trước mặt hoàng thượng để làm trò. Tiêu Phong thấy bọn chúng thân thể rắn chắc, bắp thịt cuồn cuộn, chân tay mau lẹ, mỗi động tác đều chứng tỏ tập luyện công phu. Võ sĩ Khất Đan nói về biến hóa xảo diệu thì không bằng võ sĩ Trung Nguyên, nhưng những đòn thế dứt khoát ngay thẳng xem chừng rất hiệu quả trên chiến trường loạn đấu.

Các quan văn võ nước Liêu đều đến mời Tiêu Phong uống rượu. Chàng không hề từ chối, có rượu đưa đến là cạn, phải đến ngoài ba trăm chén mà sắc mặt vân như thường, mọi người đều kinh hãi.

Xưa nay Gia Luật Hồng Cơ vẫn tự phụ là người dũng lực, mà lần này cả nước ai cũng biết y bị Tiêu Phong bắt. Y đã định hôm sau nơi đại hội tỉ võ sẽ gọi Tiêu Phong trổ tài võ nghệ siêu quần để giảm bớt cái nỗi thẹn bị thất bại. Ngờ đâu Tiêu Phong chưa cần biểu diễn võ công, chỉ cần tửu lượng đã áp đảo quần hùng, ai nấy đều kính phục. Gia Luật Hồng Cơ cả mừng nói: “Tiêu hiền đệ! Ngươi là đệ nhất anh hùng hảo hán của nước Liêu ta.”

A Tử đột nhiên xen vào: “Không phải! Y là đệ nhị anh hùng!” Gia Luật Hồng Cơ tươi cười hỏi lại: “Tiểu cô nương! Y chỉ là đệ nhị thôi sao? Thế thì đệ nhất anh hùng là ai?” A Tử đáp: “Đệ nhất anh hùng hảo hán dĩ nhiên phải là bệ hạ rồi. Tỉ phu của tiểu nữ tuy bản lãnh nghiêng trời nhưng vẫn phải tuân theo bệ hạ không dám trái lệnh. Vậy bệ hạ là đệ nhất anh hùng chứ còn ai nữa?” Nàng là môn đệ phái Tinh Tú, nghệ thuật nịnh bợ đã thuộc hàng siêu đẳng, bây giờ tâng bốc người Khất Đan thô lỗ chẳng cần phải dụng công.

Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả nói: “Cô nương nói hay lắm! Tiêu huynh đệ! Ta muốn phong cho ngươi một chức quan thật lớn, để ta nghĩ xem phong tước gì cho xứng.” Khi đó y đã uống gần say nên gõ gõ ngón tay lên trán ra chiều suy nghĩ. Tiêu Phong vội nói: “Không đâu! Tiểu nhân tính tình thô lỗ, khó lòng hưởng thụ phú quí. Xưa nay tiểu nhân quen lang thang bốn phương, tới lui vô định, thực tâm không thích làm quan.” Gia Luật Hồng Cơ cười nói: “Được rồi! Để ta phong cho hiền đệ một chức quan chỉ cần uống rượu mà không cần làm…” Ông chưa dứt lời, bỗng từ xa vọng lại một hồi tù và inh ỏi, nghe thật khẩn cấp.

Quần thần nước Liêu đang ngồi bệt dưới đất uống rượu ăn thịt, vừa nghe tiếng tù và đều nhỏm dậy, mặt lộ vẻ kinh hoàng. Tiếng tù và truyền đến thật nhanh, lúc mới nghe còn cách hơn chục dặm, hồi thứ hai đã gần thêm vài dặm, hồi thứ ba chỉ còn cách mấy dặm nữa. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Trên đời này không có con ngựa nào chạy nhanh đến thế, dẫu nhân vật khinh công tuyệt đỉnh cũng không lẹ như vậy được. Chắc là có những trạm truyền tin bố trí sẵn từ trước để cấp báo quân tình, trạm nào nghe tiếng tù và lập tức truyền ngay đến trạm kế tiếp.” Trong nháy mắt, tiếng tù và truyền đến ngoài Bì thất đại trướng rồi ngừng lại. Mấy trăm người ngồi trong trướng đang ăn uống reo hò, ồn ào như chợ vỡ, đột nhiên lặng phắt như tờ.

Gia Luật Hồng Cơ thần sắc vẫn trấn tĩnh, từ từ nâng chén vàng lên uống cạn rồi mới nói: “Thượng Kinh có kẻ phản loạn, chúng ta phải về thôi. Nhổ trại!”

Hành quân đại tướng quân lập tức ra khỏi trướng truyền lệnh, hai tiếng “Nhổ trại” truyền ra một thành mười, mười thành trăm, trăm thành nghìn, thanh âm càng lúc càng vang động nhưng vẫn nghiêm chỉnh thứ tự, tuyệt không có vẻ nhốn nháo. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Nước Đại Liêu lập quốc đã hơn hai trăm năm, oai phong lẫy lừng thiên hạ. Lúc này có nội loạn mà không bối rối, đủ biết Liêu chúa thống suất quân đội rất có phương pháp.”

Tiếng vó ngựa vang lên dồn dập, đội quân xích hầu ra trước, tiếp theo là hai đội tả hữu tiên phong, rồi tiền quân, tả quân, hữu quân từng đội lên đường hồi kinh về hướng nam.

Gia Luật Hồng Cơ nắm tay Tiêu Phong nói: “Chúng ta ra xem sao.” Hai người ra khỏi trướng, thấy mỗi lá quân kỳ đều có gắn một chiếc đèn lồng đủ sắc đỏ, vàng, xanh, trắng, lấp lánh trong đêm tối, hơn chục vạn quân xuôi nam mà chỉ nghe tiếng vó ngựa lộp cộp, không một tiếng người. Tiêu Phong thán phục nghĩ thầm: “Trị quân nghiêm minh thế này thì trong thiên hạ còn ai địch nổi? Hôm đó hoàng thượng cậy tài đi săn một mình nên ta mới bắt được. Giả tỉ đại quân kéo đến thì người Nữ Chân tuy kiêu dũng nhưng cũng không chống nổi với số đông.”

Hai người vừa ra khỏi trường, bọn vệ sĩ lập tức nhổ trại, chỉ một chốc là gọn gàng sạch sẽ. Hành lý tùy theo nặng nhẹ mà chất lên xe ngựa, xe lạc đà. Trung quân nguyên soái ban lệnh, mọi người lập tức khởi hành. Bá quan Bắc viện đại vương, Vu việt, Thái sư, Thái phó vây quanh Gia Luật Hồng Cơ, ai nấy thần sắc nghiêm trọng nhưng cũng không nói gì. Tin tức về vụ nổi loạn trong kinh tuy đã đưa tới nhưng tình hình thế nào, diễn tiến ra sao hiện giờ vẫn chưa rõ rệt.

Đại đội nhân mã hành tiến về nam, tối ngày thứ ba vừa hạ trại thì một tên thám tử phóng ngựa đến bẩm với Gia Luật Hồng Cơ: “Nam viện đại vương nổi loạn, chiếm hoàng cung, bắt giữ hết hoàng thái hậu, hoàng hậu, vương tử, công chúa cùng gia quyến của bá quan.” Gia Luật Hồng Cơ nghe thế lập tức biến sắc.

Quân quốc trọng sự nước Liêu đều do hai viện Nam Bắc chia ra phụ trách. Lần này Bắc viện đại vương hộ giá đi săn để Nam viện đại vương ở lại trấn thủ kinh thành. Nam Viện đại vương Gia Luật Niết Lỗ Cổ được phong tước Sở vương, bản thân không đáng gì, nhưng phụ thân y là Hoàng thái thúc Gia Luật Trọng Nguyên, tước phong Thiên hạ binh mã đại nguyên soái, mới thực là đáng ngại.

Tổ phụ của Gia Luật Hồng Cơ là Gia Luật Long Tự, Liêu sử gọi là Thánh Tông. Trưởng nam của Thánh Tông là Tông Chân, thứ nam là Trọng Nguyên. Tông Chân tính tình hiền lành rộng rãi, còn Trọng Nguyên dũng mãnh lại có tài thao lược. Khi Thánh Tông băng hà có di mệnh truyền ngôi cho trưởng nam Tông Chân. Thế nhưng hoàng hậu lại thiên vị thứ nam nên lập mưu đưa Trọng Nguyễn lên ngôi. Từ xưa tới nay ở nước Liêu, quyền thế hoàng thái hậu bao giờ cũng rất lớn, thành thử ngôi vua của Tông Chân xem ra không vững, ngay cả tính mạng cũng khó bảo toàn. Thế nhưng Trọng Nguyên đem dự định của mẫu hậu báo cho huynh trưởng, dĩ nhiên âm mưu không thành, vì chuyện đó mà Tông Chân cực kỳ cảm kích, lập Trọng Nguyên lên làm Hoàng thái đệ, có nghĩa là sau này sẽ truyền ngôi cho ông ta.

Liêu sử gọi Gia Luật Tông Chân là Hưng Tông, khi ông ta qua đời không hiểu sao lại không truyền ngôi vua cho Hoàng thái đệ Trọng Nguyên, mà lại truyền cho con ruột là Hồng Cơ.

Sau khi Gia Luật Hồng Cơ tiếp vị, trong bụng cũng thấy bất an, nên phong cho Trọng Nguyên tước Hoàng thái thúc, để chứng tỏ rằng thúc phụ mình sẽ thừa kế ngôi Liêu chúa, lại phong thêm tước Thiên hạ binh mã đại nguyên soái, lúc lâm triều miễn lạy miễn xưng tên, ban cho kim khoán thệ thư, mũ bốn chỏm, áo bào hai màu. Ông ta là người được tôn kính nhất trong triều, con là Niết Lỗ Cổ được phong Sở vương, tước Nam viện đại vương chấp chưởng mọi việc ở Nam viện.

Năm xưa rõ ràng Gia Luật Trọng Nguyên có thể đoạt ngôi vua nhưng nhường cho huynh trưởng, đủ chứng tỏ ông ta là người trong nghĩa khí, lại biết khiêm cung. Mỗi khi Gia Luật Hồng Cơ ra ngoài đi săn, bao nhiêu đại sự ở kinh thành đều giao cho Hoàng thái thúc, không nghi ngại chút nào. Bây giờ Gia Luật Hồng Cơ nghe kẻ mưu phản là Nam viện đại vương Gia Luật Niết Lỗ Cổ, vừa lo lắng vừa kinh hoàng. Ông vốn biết Niết Lỗ Cổ hung ác bạo ngược, xử sự tàn nhẫn, mà nếu y mưu phản thì phụ thân y chắc không đứng ngoài mà nhìn.

Bắc viện đại vương tâu lên: “Bệ hạ đừng vội lo, Hoàng thái thúc ắt có lập trường minh bạch, không dung tha cho tên nghịch tử phạm thượng tạo phản, không chừng lúc này đã đem quân dẹp loạn rồi.” Gia Luật Hồng Cơ đáp: “Ta cũng chỉ mong được thế.”

Bữa cơm tối vừa xong, tên thám tử thứ hai lại về bẩm báo: “Nam viện đại vương lập Hoàng thái thúc lên làm vua, đã ra chiếu chỉ cáo tri thiên hạ.” Y không dám nói thêm, hai tay cầm chiếu chỉ của tân hoàng đế dâng lên. Hồng Cơ cầm lấy xem qua, đại khái tố cáo đích danh Gia Luật Hồng Cơ là soán đoạt ngôi vua, nói là tiên đế đã lập Gia Luật Trọng Nguyên làm Hoàng thái đệ hai mươi bốn năm trời ai ai cũng biết. Khi tiên đế băng hà, Gia Luật Hồng Cơ sửa di chiếu, cướp ngôi vua, nhân dân đều phẫn nộ. Hiện Hoàng thái đệ đã lên ngôi chính thống, đốc suất binh mã thiên hạ đi dẹp tên soán đoạt…

Gia Luật Hồng Cơ phẫn nộ, vứt luôn chiếu thư vào đống lửa, nhưng trong bụng lo lắng nghĩ thầm: “Đạo ngụy chiếu này lời lẽ đanh thép rõ ràng, e rằng có thể làm lòng dạ quân dân Liêu quốc phải hoang mang. Hoàng thái thúc ở địa vị Thiên hạ binh mã đại nguyên soái, trong tay cầm binh phù có thể điều động tám mươi vạn binh mã, chưa kể số quân dưới tay con của lão là Nam viện đại vương. Ở đây ta có chưa đầy mười vạn quân tùy giá, quả bất địch chúng, biết làm thế nào?” Ông trằn trọc cả đêm, không sao ngủ được.

Khi Tiêu Phong nghe Liêu đế định phong quan cho mình, đã toan nhân lúc đêm khuya dắt A Tử không từ biệt mà bỏ đi. Nhưng lúc này chàng thấy nghĩa huynh gặp bước nguy nan bèn không nỡ bỏ rơi, phải ra sức giúp y một phen cho khỏi phụ tấm lòng anh em kết nghĩa. Đêm hôm đó chàng dạo chơi ngoài doanh trại, nghe binh tướng thì thầm to nhỏ, đều lo lắng cho cha mẹ vợ con đang ở Thượng Kinh bị Hoàng thái thúc bắt hết, e rằng tính mạng khó giữ. Có kẻ nghĩ đến gia đình, đột nhiên khóc rống lên. Tiếng khóc lây lan rất nhanh, quan binh trong doanh đồng cảnh ngộ cũng không ít kẻ sụt sùi. Các tướng thống lãnh hò hét ngăn trở, lại chém đầu mấy tên khóc to nhất để làm gương, nhưng cũng không sao dứt hết được.

Gia Luật Hồng Cơ nghe tiếng khóc vang trời, biết rằng lòng quân tan vỡ, lại càng lo lắng. Sáng hôm sau lại có thám tử đến báo Hoàng thái thúc và Sở vương dẫn năm mươi vạn quân tiến lên phía bắc mưu toan phạm giá. Hồng Cơ nghĩ bụng: “Việc đến nước này chỉ có tiến chứ không còn đường lui, có bại thì cũng phải một phen tử chiến.” Ông lập tức triệu tập bá quan để thương nghị. Quần thần đều trung thành với Gia Luật Hồng Cơ, nguyện chết vì chủ, nhưng chỉ lo lòng quân nghiêng ngả.

Hồng Cơ ban lệnh: “Quan binh phải ra sức bình định phản loạn, khi dẹp yên được rồi, ngoài việc thăng quan còn được trọng thưởng.” Ông mặc giáp vàng, thân hành đốc suất ba quân nghênh chiến với quân của Hoàng thái thúc. Tướng sĩ thấy hoàng thượng tự mình cự địch lập tức dũng khí nổi lên, hô vạn tuế ba lần, quyết lấy cái chết báo đền ơn chúa. Mười vạn binh mã chia thành tiền quân, tả quân, hữu quân, trung quân, binh giáp sáng choang tiến về phía nam, thêm những tiểu đội thám thính đi rảo hai bên.

Tiêu Phong cũng đeo cung cầm mâu đi sau Gia Luật Hồng Cơ để hộ giá. Thất Lý dẫn một đội Phi Hùng bảo hộ cho A Tử ở hậu quân, Tiêu Phong thấy lông mày Gia Luật Hồng Cơ nhăn tít lại, biết ông chưa quyết định được kế hoạch gì trong trận chiến này.

Đến giữa trưa thì phía trước có tiếng tù và nổi lên. Tướng chỉ huy trung quân ra lệnh: “Xuống ngựa!” Kỵ binh đều nhảy xuống, tay cầm cương dẫn ngựa đi, chỉ còn Gia Luật Hồng Cơ và các đại thần là ngồi trên yên.

Tiêu Phong không hiểu sao kỵ binh phải xuống ngựa, còn đang thắc mắc thì Gia Luật Hồng Cơ cười hỏi: “Hiền đệ ở Trung Nguyên đã lâu, chưa hiểu phương pháp hành quân của người Khất Đan phải không?”

Tiêu Phong đáp: “Thần đang mong bệ hạ chỉ điểm” Hồng Cơ cười đáp: “Ha ha! Hai chữ bệ hạ không biết có còn được tới hoàng hôn hôm nay nữa không? Ta với ngươi dùng nghĩa huynh đệ mà xưng hô, việc gì phải gọi là bệ hạ?” Tiêu Phong nghe tiếng cười của ông đượm vẻ chua cay, bèn nói: “Hai bên chưa giao tranh, bệ hạ hà tất phải quá lo lắng.” Hồng Cơ nói: “Giao phong trên bình nguyên, quan trọng nhất là mã lực, sau đó mới đến nhân lực.” Tiêu Phong tỉnh ngộ bèn nói: “À, phải rồi! Kỵ binh phải xuống ngựa là để dưỡng sức cho ngựa đỡ mệt.” Hồng Cơ gật đầu nói: “Dưỡng sức cho ngựa để khi lâm trận không sức nào ngăn trở được. Người Khất Đan đánh đông dẹp bắc bách chiến bách thắng phần lớn là nhờ ở bí quyết này.”

Ông nói tới đây, phía trước đã thấy bụi bay mù mịt, bốc cao đến mười trượng, chẳng khác gì một đám mây cuồn cuộn kéo tới. Hồng Cơ chỉ roi về phía đó nói: “Hoàng thái thúc và Sở vương đều chinh chiến lâu năm, là những tướng tài của nước Liêu ta. Sao họ lại xua binh đến ầm ầm, không dưỡng sức cho ngựa nhỉ? Hừ, thì ra bọn chúng khinh mạn, cho rằng thể nào cũng thắng nên không e dè chi nữa.” Ông đang trù trừ đã nghe tả quân và hữu quân cùng nổi hiệu tù và. Tiêu Phong đưa mắt nhìn phía đông thấy hai cánh quân, phía tây cũng có hai cánh quân, địch chia năm ngả đánh vào.

Gia Luật Hồng Cơ biến sắc mặt, ra lệnh cho tướng chỉ huy trung quân: “Kết trận lập trại mau!” Y đáp lời: “Tuân lệnh!” rồi giục ngựa chạy ra truyền lệnh, lập tức tiền quân, tả quân, hữu quân cùng quay lại trung tâm, đồng thời một toán quân dùng búa đóng cột của Bì thất đại trướng xuống, căng da lên, bốn bề dựng chông, chỉ chốc.lát đã ghép thành một bức tường vĩ đại giữa thảo nguyên. Bốn mặt tiền hậu tả hữu đều có kỵ binh trấn thủ, mấy vạn cung thủ ẩn sau tường thành, dương cung sẵn sàng, chỉ đợi lệnh buông tên.

Tiêu Phong nhíu mày nghĩ thầm: “Trận đại chiến này dù cho ai thắng ai bại thì người cùng dòng giống Khất Đan cũng thây phơi đầy nội. Ca ca đắc thắng là tốt nhất, chẳng may thua trận thì ta cũng cố cứu cho được nghĩa huynh và A Tử đến nơi an toàn, giữ được ngôi hoàng đế hay không cũng chẳng sao.”.

Doanh trại của Liêu đế dựng lên chưa được bao lâu thì đội tiên phong của loạn quân đã tới, nhưng không tiến lên khiêu chiến mà dừng lại ngoài một tầm tên. Nhưng tiếng trống tiếng kèn thì liên miên bất tuyệt, loạn quân tiến đến vây quanh, bốn phương tám hướng chỗ nào cũng kết thành trận thế. Tiêu Phong đưa mắt nhìn ra xa, thấy chỗ nào cũng có quân địch không biết đâu là cùng tận, nghĩ thầm: “Lực lượng nghĩa huynh kém xa, xem chừng chắc chắn thất bại. Bây giờ còn sáng không tiện phá vây đào tẩu, cố giữ cho đến tối, ta sẽ tìm cách cứu y”. Thế nhưng bóng của những cây gỗ đóng trại hãy còn ngắn ngủn, nắng chói chang, trời chỉ mới xế trưa một chút.

Đột nhiên trên trời có tiếng quang quạc, một đàn nhạn bay qua. Gia Luật Hồng Cơ ngửng đầu lên ngơ ngẩn nhìn, gượng cười nói: “Giả tỉ ta chắp cánh biến thành con nhạn cũng chưa chắc bay ra khỏi nơi đây.”

Bắc viện đại vương và Trung quân tướng quân nhìn nhau thất sắc, biết là hoàng đế thấy binh thế loạn quân mà khiếp sợ.

Quân địch nổi trống vang rền, mấy trăm chiếc trống da cùng gõ một lượt. Tướng chỉ huy trung quân hét lớn: “Đánh trống!” Mấy trăm chiếc trống trong ngự doanh cũng khua lên ầm ầm. Bên kia tiếng trống bỗng ngưng bặt, mấy vạn kỵ binh gầm thét vang trời dậy đất, cầm trường mâu xông thẳng qua.

Khi quân tiền phong của địch sắp tới nơi, lệnh kỳ của Trung quân tướng quân phất xuống, tiếng trống của ngự doanh im bặt, mấy vạn mũi tên đồng thời bắn ra, quân tiền phong bên địch tới tấp ngã ngựa. Nhưng kẻ trước ngã, người sau lại xông lên, thi thể quân mã đi trước biến thành mộc chắn cho những đội sau. Quân cung tiễn của địch có thuẫn bài hộ thân đã xông được tới nơi, bắn tên vào ngự doanh.

Lúc đầu Gia Luật Hồng Cơ quả có khiếp sợ, nhưng khi vào trận lập tức dũng khí nổi lên, đứng trên cao tay cầm trường đao, ra hiệu lệnh chỉ huy. Tướng sĩ ngự doanh thấy hoàng thượng đích thân đốc chiến đều hô lớn: “Vạn tuế! Vạn vạn tuế!” Bên địch nghe tiếng hồ vạn tuế, ngẩng đầu lên thấy Gia Luật Hồng Cơ mặc áo vàng giáp vàng đứng trên đài cao trong ngự doanh, nhất thời sự uy phong của ông nên chùn lại không dám tiến. Hồng Cơ thấy có cơ hội liền quát lớn: “Kỵ binh tả quân xông ra!”

Tả quân do Bắc viện khu mật sứ chỉ huy, nghe thấy hoàng thượng ra lệnh, ba vạn kỵ binh liền xông ra bao vây quân địch. Loạn quân còn đang do dự, quân ngự doanh đã tới nơi, trận thế bên địch lập tức đại loạn. Trống của ngự doanh khua liên hồi như sấm, quân địch chỉ tiếp chiến được một lát phải rút về, quân ngự doanh liền xông lên truy sát, khí thế cực kỳ mãnh liệt.

Tiêu Phong cả mừng la lên: “Đại ca! Trận này phe ta đại thắng rồi.” Gia Luật Hồng Cơ xuống đài, nhảy lên ngựa đích thân đem quân tiếp viện. Đột nhiên có tiếng tù và nổi lên, quân chủ lực của phản loạn xông tới, tiền phong quân liền quay lại đánh. Trong chớp mắt vũ tiễn trường mâu phòng vèo vèo, tiếng hò hét vang động cả bầu trời, máu me vương vãi. Tiêu Phong kinh hãi nghĩ thầm: “Cảnh ác đấu như thế này bình sinh ta chưa được thấy. Một người có bản lĩnh thiên hạ vô địch, vào trong chốn thiên quân vạn mã thì cũng chẳng làm gì được, tự bảo vệ mình là may. Cuộc giao chiến của đại quân không thể so sánh với cuộc tỉ đấu trong võ lâm được.”

Bỗng nghe hiệu thanh la từ phía sau phản quân ra lệnh thu binh. Kỵ binh của đối phương rút lui, tên liền bắn ra như mưa để chặn đường. Trung quân tướng quân và Bắc viện khu mật sứ xung phong ba lần nhưng không đột phá được trận thế của địch, lại còn bị bắn chết mấy ngàn binh sĩ. Gia Luật Hồng Cơ ra lệnh: “Sĩ tốt tử thương nhiều quá, hãy tạm lui quân!” Lập tức ngự doanh cũng nổi hiệu thanh la thu binh.

Phản quân thấy thế bèn phái hai đội kỵ binh xông lên tập kích, nhưng ngự quân đã phòng bị trước, giả vờ thua chạy, rồi hai cánh quân đánh ập vào vây được ba nghìn phản quân vào giữa, có mấy trăm tên xuống ngựa đầu hàng. Hồng Cơ vẫy tay một cái, ngự doanh quân liền đâm trường mâu ra, giết sạch mấy trăm hàng quân. Trận ác đấu chưa tới một giờ mà cảnh chém giết đã cực kỳ thảm khốc.

Chủ lực hai bên đều lui lại vài chục trượng, khoảng đất trống ở giữa đầy rẫy xác người, những kẻ bị thương rên rỉ kêu la thật là thê thảm. Mỗi bên lại có một đội quân áo đen khoảng ba trăm người xông ra, quân ngự doanh đầu đội mũ vàng còn bên địch đầu đội mũ trắng. Tiêu Phong tưởng bọn này ra tìm người bị thương để cứu chữa, không ngờ hai đội áo đen rút đao ra giết sạch thương binh của đối phương. Khi những người bị thương chết hết rồi, sáu trăm người đó hú lên một tiếng, quay sang đấu với nhau.

Sáu trăm quân áo đen đều có võ công không tệ. Hai bên ra sức ác đấu, đao quang lấp loáng, chẳng mấy chốc đã có hai trăm người bị chém lăn ra. Bọn áo đen ngự doanh đội mũ vàng có võ công cao hơn, chỉ bị giết chừng vài chục người. Cục diện biến thành hai ba người đánh một, thắng bại đã rõ ràng, thêm một lúc nữa, đã trở thành ba bốn người đánh một. Thế nhưng binh tướng hai bên chỉ hò hét trợ oai, mấy chục vạn quân phản loạn không hề cho thêm người ra tăng viện. Cuối cùng ba trăm phản quân áo đen mũ trắng đều bị giết sạch, ngự doanh quân còn sống khoảng hai trăm kéo về. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Chắc là người Liêu có thể lệ đánh nhau như thế.” Cuộc ác đấu dọn dẹp chiến trường này tuy qui mô không lớn nhưng cực kỳ kinh tâm động phách.

Hồng Cơ giơ cao trường đao, lớn tiếng nói: “Nghịch quân tuy nhiều nhưng tướng sĩ không có lòng chiến đấu. Ta đánh thêm một trận nữa, bọn chúng ắt phải thua chạy thôi.” Ngự quân nhất tề hoan hô: “Vạn tuế! Vạn vạn tuế!”

Bỗng bên phản quân có hiệu tù và, năm người cưỡi ngựa chầm chậm đi ra, người đi giữa hai tay cầm một tấm da cừu, dõng dạc đọc chiếu thư của Hoàng thái thúc: “Gia Luật Hồng Cơ soán vị, chỉ là ngụy quân. Hiện nay Hoàng thái thúc đã lên ngôi chính thống. Quan binh trung thành của nước Liêu thì nội hôm nay phải về qui thuận, mỗi người được thăng ba cấp.” Mười mấy tay cung nỏ bên ngự quân liền bắn tên ra veo véo nhằm vào gã đọc chiếu thư. Bốn gã đứng bên liền giơ thuẫn lên che đỡ, gã kia vẫn tiếp tục đọc. Năm con ngựa cũng bị bắn ngã, nhưng năm gã vẫn nấp sau thuẫn bài đọc cho hết chiếu thư của Hoàng thái thúc, rồi mới quay về bản trận.

Bắc viện đại vương thấy thuộc hạ nghe ngụy chiếu xong có vẻ động tâm, liền quát lớn: “Ra mắng lại đi!” . Ba chục tên lính liền bước ra khoảng chục trượng, hai chục tên cầm thuẫn bài che đỡ cho mười tên mạ thủ mồm to giọng lớn. Tên thứ nhất bắt đầu thóa mạ: “Những tên phản quốc gian tặc kia! Chúng bay chết không có đất mà chôn đến nơi rồi!” Tên thứ hai lại chửi tiếp, càng về sau càng thô tục. Tiêu Phong biết tiếng Khất Đan chẳng bao nhiêu, ngôn từ của mấy tay mạ thủ này có nhiều chỗ ông không hiểu, nhưng thấy Gia Luật Hồng Cơ gật đầu lia lịa ra chiều đắc ý thì chắc rằng chúng đã chửi bới một cách hay ho.

Tiêu Phong nhìn qua trận thế bên địch, thấy xa xa có chỗ lọng vàng cờ tiết rực rỡ, hai người cưỡi ngựa cầm roi chỉ trỏ. Một người thân khoác hoàng bào, đầu đội mũ bình thiên, chòm râu dài đã hoa râm. Người kia mặc giáp vàng lấp lánh, gương mặt gầy nhom nhưng dáng vẻ tinh anh. Tiêu Phong nghĩ thầm: “Xem ra thì đây là cha con Hoàng thái thúc và Sở vương.”

Mười tên mạ thủ bỗng thì thầm thương nghị một hồi, rồi lại ngoạc mồm gân cổ bới móc những chuyện xấu xa của đối phương. Nhưng dường như Hoàng thái thúc là người chính trực không chửi mắng vào đâu được, nên cả mười tên chỉ xỉa xói toàn chuyện Sở vương, nào là gian dâm phi tử của phụ thân, nào là cậy thế cha làm điều càn rỡ. Hiển nhiên là những lời đó là để ly gián cha con. Cả mười tên đồng thanh chửi bới vừa to vừa nhịp nhàng, thanh âm vọng ra xa đến mấy dặm, mấy chục vạn quân địch có đến quá nửa nghe được rõ ràng.

Sở vương vẫy roi ngựa một cái, phản quân cũng là lối om sòm, lập tức át hết giọng mười tên mạ thủ kia. Hai bên chửi nhau loạn xạ một lúc nữa, trận thế địch quân bỗng rẽ ra, mấy chục chiếc xe được đẩy đến phía trước quân ngự doanh. Bọn lính đẩy xe lôi từ trong xe ra mấy chục phụ nữ, từ bà lão tóc bạc phơi đến thiếu nữ đang xuân, ai cũng ăn mặc cực kỳ sang trọng. Bọn phụ nữ vừa ra khỏi xe, tiếng chửi hai bên lập tức im bặt.

Gia Luật Hồng Cơ kêu thét lên: “Mẫu thân ơi! Mẫu thân! Hài nhi phải bắt bọn phản nghịch, phân thây muôn đoạn để mẫu thân vui lòng hả dạ.”

Bà lão tóc bạc kia chính là Tiêu thái hậu, mẫu thân của Gia Luật Hồng Cơ, ngoài ra còn Tiêu hoàng hậu và các phi tần, công chúa. Hoàng thái thúc và Sở vương nhân dịp Hồng Cơ ra ngoài đi săn, nổi loạn vây chặt cung cấm bắt Hoàng thái hậu cùng hết thảy gia quyến nhà vua.

Hoàng thái hậu lớn tiếng nói: “Bệ hạ đừng nghĩ gì đến thân già này cùng thê tử, phải ra sức dẹp loạn giết giặc.” Mấy chục tên lính liền rút trường đao kề vào cổ đám hậu phi, mấy cô còn trẻ kinh hãi khóc òa lên.

Gia Luật Hồng Cơ cả giận quát to: “Bắn chết bọn đang khóc cho ta!” Hơn chục mũi vũ tiễn bắn ra vèo vèo, mấy phi tần đang khóc bị trúng tên lăn ra chết hết.

Hoàng hậu reo lên: “Bệ hạ bắn là phải lắm! Cơ nghiệp tổ tông không thể để rơi vào tay bọn gian thần tặc tử!”.

Sở vương thấy Hoàng thái hậu và Hoàng hậu đều quật cường như thế, chẳng những không uy hiếp được Hồng Cơ mà còn làm dao động quân tâm bên mình, bèn ra lệnh: “Bỏ bọn đàn bà lên xe, đẩy lui lại.” Bọn quân sĩ liền lùa bọn Hoàng thái hậu, Hoàng hậu lên xe đẩy ra sau trận tuyến. Sở vương lại hạ lệnh: “Đem gia quyến quân địch ra”.

Chợt nghe tiếng sáo trúc nổi lên thật thê lương, quân mã lại rẽ sang hai bên, rồi tiếng xích sắt khua loảng xoảng, một đoàn dài già trẻ lớn bé từ phía sau được đưa ra. Chỉ giây lát, hai bên đều nổi lên tiếng khóc vang trời. Thì ra đây là gia quyến của quân ngự doanh. Tướng sĩ trong ngự doanh đều là quân sĩ thân tín của Liêu đế, Gia Luật Hồng Cơ đặc biệt ưu đãi nên cho gia quyến của họ được vào ở Thượng Kinh, một là để họ đem lòng cảm kích, khi có việc sẽ ra sức liều thân, hai là để đề phòng khiến đội quân tinh nhuệ này không dám hài lòng. Ngờ đâu lần đi săn này, mầm họa lại ở ngay sát nách. Gia quyến của quân ngự doanh phải đến hơn hai chục vạn người, số bị giải đến trận tiền bất quá ba vạn, trong đó còn có vô khối người bị bắt nhầm nhưng chưa phân biệt được, thành thử tình hình lại càng rối loạn.

Sở Vương sai một tên tướng giục ngựa chạy ra, lớn tiếng nói: “Quan binh ngự doanh nghe đây! Gia quyến các ngươi đã bị bắt hết rồi, ai đầu hàng thì được sum họp gia đình, thăng quan ba cấp lại còn trọng thưởng. Còn tên nào không đầu hàng thì tân hoàng đế đã có lệnh đem gia quyến ra chém hết.” Người Khất Đan vốn tàn nhẫn hiếu sát, hai chữ “chém hết” không phải là hăm dọa suông. Trong đám quân ngự doanh có người nhận ra thân thuộc mình bèn cất tiếng kêu, thế là “Gia gia! Má má! Hài tử! Phu quân! Hiền thê!” hai bên gọi nhau ơi ới.

Trong trận của nghịch quân trống đánh vang lừng, hai nghìn đao phủ thủ bước ra, tay cầm đại đao sáng loáng. Tiếng trống vừa ngừng lại, hai nghìn thanh đao cùng giơ lên, nhắm ngay đầu gia quyến của ngự quân doanh. Viên tướng vừa rồi lại quát lên: “Ai về đầu hàng tân hoàng đế sẽ có trọng thưởng. Ai không hàng thì gia quyến bị giết sạch.” Y giơ tay lên, tiếng trống lại bắt đầu nổi lên.

Tướng sĩ bên ngự doanh biết rằng một khi y phất tay, hồi trống sẽ dứt, hai nghìn thanh đại đao kia sẽ chém xuống. Đám thân binh này vẫn một lòng trung thành với Gia Luật Hồng Cơ, dẫu Hoàng thái thúc và Sở vương có đem thăng quan cùng trọng thưởng ra dụ dỗ cũng không ăn nhằm gì, nhưng lúc này thấy cha mẹ vợ con vươn cổ chờ chém, sao lại không hoảng sợ?

Tiếng trống vẫn thúc liên hồi, quả tim trong lồng ngực đám quân ngự doanh cũng đập theo nghe thình thình. Đột nhiên trong ngự doanh có một người chạy ra kêu lớn: “Má má ơi! Má má! Đừng giết má má của  ta!” Y quăng trường mâu xuống, hộc tốc chạy về phía một bà lão trong đám địch quân.

Vút một tiếng, một mũi tên từ phía ngự doanh bắn ra, trúng ngay giữa lưng người nọ. Hắn chưa chết ngay, vẫn tiếp tục lao về phía mẫu thân. Thế là tiếng gọi nhau ơi ới bắt đầu ồn ào vang dậy, mấy trăm người trong ngự doanh chạy ùa ra. Những tướng lãnh thân tín của Gia Luật Hồng Cơ rút kiếm chém lia lịa mà cũng không ngăn nổi. Thoạt tiên có mấy trăm người chạy qua, chẳng mấy chốc đã là mấy nghìn người. Sau đó trận thế liền hỗn loạn, trong số mười lăm vạn thân quân của nhà vua đã có đến sáu bảy vạn chạy qua bên địch.

Gia Luật Hồng Cơ thở dài một tiếng, biết rằng đại cuộc đã hỏng. Ông nhân cơ hội bọn thân quân đang tìm kiếm gia quyến, tình hình náo loạn làm đối phương không truy kích được, lập tức ra lệnh: “Nhổ trại, rút lui về dãy núi phía tây bắc.” Các tướng trong quân lập tức truyền lệnh ra cho hơn tám vạn quân chưa đầu hàng. Hậu quân đổi thành tiền quân, cả đoàn rút lui về hướng tây bắc.

Sở vương lập tức sai kỵ binh đuổi theo, nhưng trên chiến trường toàn là đàn bà trẻ con và người già yếu làm nghẽn cả lối đi, ngựa chạy không nhanh được. Đến khi dẹp được đường thì Gia Luật Hồng Cơ cùng quân ngự doanh đã chạy xa rồi.

Tám vạn thân quân chạy đến chân núi thì trời đã hoàng hôn, quân sĩ vừa đói vừa mệt, đóng trại ở ngang sườn núi, làm thế phòng ngự từ trên cao đánh xuống. Doanh trại vừa dựng xong, chưa kịp nấu cơm thì Sở vương đã dẫn quân tinh nhuệ đến dưới chân núi, lập tức xung phong lên. Quân ngự doanh bắn tên lăn đá như mưa, đẩy lùi quân phản loạn. Sở vương thấy từ dưới tấn công lên không có lợi, đành tạm thu binh, dựng trại ở chân núi.

Tối hôm đó, Gia Luật Hồng Cơ đứng trên sườn núi nhìn về phía nam thấy doanh trại nghịch quân đèn đuốc như sao sa, xa xa lại có ba con rồng lửa ngoằn ngoèo, chính là ba đạo nghịch quân kéo đến tiếp viện. Ông buồn bã trong lòng, đang định vào trướng thì Bắc viện khu mật sứ lại đến bẩm: “Một vạn năm nghìn quân mã dưới trướng hạ thần đã chạy xuống núi đầu hàng quân phản nghịch. Hạ thần trị quân không nghiêm, tội đáng muôn thác.” Gia Luật Hồng Cơ xua tay, lắc đầu nói: “Không phải lỗi của ngươi, thôi vào nghỉ đi.”

Ông quay đầu lại, thấy Tiêu Phong đang xuất thần nhìn về phía xa xa, liền bảo: “Đến sáng mai, phản quân sẽ đem toàn lực tấn công, chúng ta sẽ bị bắt hết. Ta là vua một nước, không thể chịu nhục với bọn phản đồ, đành tự vẫn báo đền xã tắc. Hiền đệ nên nhân lúc trời tối trốn đi. Ngươi võ nghệ cao cường, phản quân không ngăn nổi đâu.” Đến đây vẻ mặt nhà vua đầy vẻ thê lương, nói tiếp: “Ta đang định phong cho hiền đệ một chức quan to để chung hưởng phú quí, có ngờ đâu tính mạng người anh này cũng chẳng giữ được, lại làm lụy đến cả ngươi.”

Tiêu Phong đáp: “Đại ca! Đại trượng phu phải lúc co lúc duỗi. Hôm nay tình hình không lợi, để tiểu đệ bảo vệ đại ca trốn khỏi nơi đây, chiêu tập bộ thuộc cũ rồi lại tính sau.” Hồng Cơ lắc đầu: “Ta không giữ nổi tính mạng cho lão mẫu cùng thê tử, sao còn được gọi là đại trượng phu? Đối với người Khất Đan, kẻ thắng là anh hùng, kẻ thua là phản nghịch. Ta thua một trận tan tành, còn mong gì trung hưng cơ nghiệp? Hiền đệ tự trốn đi thôi!”

Tiêu Phong biết ông nói thực tình, liền khẳng khái đáp: “Đã thế thì ngày mai tiểu đệ cùng với ca ca quyết một trận tử chiến với quân phản nghịch. Chúng ta đã kết nghĩa kim lan thì ca ca là hoàng đế cũng vậy, là dân thường cũng vậy, cũng là nghĩa huynh của Tiêu mỗ. Huynh trưởng gặp nạn thì kẻ làm em phải đồng sinh công tử, lẽ nào lại bỏ chạy một mình?”

Gia Luật Hồng Cơ nước mắt rưng rưng, nắm chặt hai tay chàng, nói: “Hảo hiền đệ, ta xin đa tạ.” Tiêu Phong quay vào trong trướng thấy A Tử nằm co ở một góc, đôi mắt to mở tròn, thì ra vẫn chưa ngủ. A Tử hỏi: “Tỉ phu có giận muội không?” Tiêu Phong ngạc nhiên hỏi lại: “Sao ta lại giận cô?” A Tử đáp: “Cũng tại muội chẳng ra gì. Giả tỉ muội không đòi ra đại thảo nguyên du ngoạn thì tỉ phu đâu có bị khốn ở đây. Tỉ phu! Chúng mình đành chịu chết tại chốn này rồi phải không?”

Ánh lửa từ bên ngoài hắt vào lều, chiếu lên khuôn mặt xanh xao trông có vẻ ngây thơ non nớt của nàng một chút ánh hồng. Tiêu Phong trong lòng cực kỳ thương xót, dịu dàng đáp: “Ta giận cô thế nào được? Nếu ta không đả thương cô thì chúng mình đã không đến chốn này.” A Tử mỉm cười nói: “Nhưng nếu muội không phóng độc châm thì việc gì tỉ phu lại đả thương muội?”

Tiêu Phong đưa bàn tay to bè vuốt tóc nàng. Từ lúc A Tử bị trọng thương, tóc rụng mất quá nửa, chỗ còn lại vừa vàng vừa thưa thớt, Tiêu Phong thở dài, nói: “Cô còn bé bỏng thế này mà đã chịu khổ sở vì ta.” A Tử nói: “Tỉ phu ơi! Trước kia muội không hiểu vì sao tỉ tỉ lại thích tỉ phu, bây giờ thì hiểu rồi.”

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Tỉ tỉ của ngươi đối với ta tình nghĩa thâm trọng, ngươi còn con nít đã biết gì. Thực ra, vì sao A Châu lại yêu một kẻ thô lỗ như ta, chính ta cũng chẳng hiểu thì ngươi làm sao mà hiểu được?” Chàng nghĩ tới đây, buồn bã lắc đầu.

A Tử nghiêng đầu nhìn chàng rồi hỏi: “Tỉ phu có đoán được vì sao hôm đó muội lại bắn độc châm chưa? Muội chẳng muốn bắn chết tỉ phu, mà chỉ muốn tỉ phu không cử động được, để muội được kề cận bên mình.” Tiêu Phong thấy kỳ lạ, hỏi lại: “Như thế để làm gì?”

A Tử mỉm cười đáp: “Tỉ phu không cử động được thì vĩnh viễn không thể xa muội. Nếu không thì tỉ phu có coi muội ra gì đâu, lúc nào cũng có thể bỏ đi, không thèm nhìn đến muội nữa.”

Tiêu Phong nghe nàng nói đầy vẻ trẻ con, nhưng hoàn toàn không phải hồ đồ. Chàng chột dạ nghĩ thầm: “Đằng nào sáng mai cũng phải chết, thôi thì an ủi cô ta vài câu cũng chẳng sao”, bèn nói: “Cô đúng là con nít. Nếu cô muốn đi theo ta thì sao không nói thẳng ra, xem ta có bằng lòng không?”

Đôi mắt A Tử đột nhiên sáng ngời, lộ vẻ vui mừng nói: “Tỉ phu ơi! Sau khi khỏi bệnh rồi, muội muốn đi theo tỉ phu, vĩnh viễn không quay lại chỗ sư phụ ở phái Tinh Tú nữa. Tỉ phu đừng bỏ muội nhé!”

Tiêu Phong biết cô nàng đã gây đại họa tại phái Tinh Tú, đúng là chẳng dám quay về. Chàng cười nói: “Cô là đại sư tỉ thừa kế môn phái, nếu không quay về thì họ như rắn mất đầu, làm sao cho tiện?” A Tử cười khanh khách đáp: “Muội cứ mặc kệ, để bọn chúng rối loạn bát nháo lên càng hay.”

Tiêu Phong kéo chăn đắp đến cổ cho nàng, rồi tới một góc lều trải chăn da thú nằm ngủ. Lửa bên ngoài chập chờn mờ tỏ, có tiếng khóc văng vẳng, ắt hẳn là quân ngự doanh nhớ đến người thân. Những người ở lại cũng biết sáng mai tính mạng khó toàn, có điều trung thành với hoàng thượng nên không phản bội.

Sáng sớm hôm sau Tiêu Phong tỉnh dậy, dặn Thất Lý chuẩn bị ngựa tốt, lo cho A Tử. Chàng vận y phục gọn ghẽ, ăn một cân thịt cừu, uống ba cân rượu, rồi đi ra sườn núi. Khi đó trời còn tối mịt, nhưng chẳng bao lâu phương đông đã ửng hồng, ngự doanh nổi tù và ù ù, giáp trụ võ khí chạm nhau loảng xoảng không dứt. Từng đội binh mã kéo trong doanh trại ra, phòng thủ những nơi xung yếu. Tiêu Phong đứng trên cao nhìn xuống thấy ba phía đông, nam và đông nam, chỗ nào cũng đầu người lố nhố, toàn là phản quân. Xa xa còn sương mù bao phủ, thành thử trận thế loạn quân không biết tới đâu mới hết.

Vầng thái dương từ chân trời nhô lên, tỏa ra muôn ngàn tia nắng, màn sương tan dần, thì ra dưới đám mây mù đâu đâu cũng là quân mã phản nghịch. Tiếng trống vang dội khắp nơi. Hai đội quân địch cầm cờ vàng chạy ra, sau đó là Hoàng thái thúc cùng Sở vương cưỡi ngựa đến dưới chân núi, cầm roi ngựa chỉ trỏ lên bàn tán.

Gia Luật Hồng Cơ đang cùng đám thị vệ đứng trên sườn núi, thấy vậy lửa giận bốc lên, cầm lấy cung tên trong tay một tên quân hầu, giường thẳng nhắm vào Sở vương bắn ra một mũi. Từ trên cao nhìn xuống tưởng chừng như khoảng cách không xa, thực ra phải đến mấy tầm tên, mũi tên bay chưa được nửa đường đã rơi xuống đất.

Sở vương cười ha hả lớn tiếng nói: “Hồng Cơ! Ngươi cướp ngôi vua của phụ thân ta, làm ngụy quân đã lâu rồi, bây giờ phải nhường lại thôi. Ngươi mau mau đầu hàng, phụ thân ta sẽ tha cho khỏi chết, lại còn khai ân phong cho ngươi làm Hoàng thái điệt! Ha ha!” Hiển nhiên là y mỉa mai Hồng Cơ phong Trọng Nguyên làm Hoàng thái thúc chỉ là giả nhân giả nghĩa.

Hồng Cơ cả giận mắng lại: “Đồ phản tặc vô liêm sỉ! Ngươi còn mở miệng nói càn nữa ư?”

Bắc viện khu mật sứ kêu lên: “Chúa bị nhục thì bẩy tôi phải chết. Chúa thượng đối với hạ thần ơn nặng như non, hôm nay chính là lúc hạ thần đáp nghĩa.” Y liền dẫn ba nghìn thân binh, gầm thét vang trời từ trên cao xông xuống. Ba nghìn người đó đều là dũng sĩ Khất Đan, phen này đã chấp nhận cái chết, thành thử có thể một đánh mười. Chỉ nghe tiếng thét vang động cả một góc trời, máu chảy thịt rơi, ba nghìn quân mỗi lúc một ít dần, sau cùng chết hết. Bắc viện khu mật sứ cố giết thêm mấy tên, rồi đâm cổ tự vẫn. Hồng Cơ, Tiêu Phong cùng các đại thần từ trên cao nhìn xuống rất rõ nhưng không làm sao cứu được, nghĩ đến lòng trung nghĩa của Bắc viện khu mật sứ, ai nấy đều sa nước mắt.

Sở vương lại giục ngựa đến chân núi cười nói: “Hồng Cơ! Ngươi đã chịu hàng chưa? Ngươi chỉ còn một nhóm quân mã thì làm gì được? Thủ hạ ngươi đều là dũng sĩ Đại Liêu, sao ngươi nỡ bắt họ chết uổng theo? Là nam nhi đại trượng phu thì phải quyết đoán mau lẹ, hàng thì hàng cho chóng, đánh thì đánh ngay. Còn nếu ngươi biết khí số đã hết thì nên tự sát để tạ tội với thiên hạ, khỏi làm uổng mạng sĩ tốt.”

Gia Luật Hồng Cơ thở dài một tiếng, hai mắt đẫm lệ, rút đao ra nói: “Thôi thì ta nhường giang sơn gấm vóc này cho cha con nhà ngươi. Ngươi nói không sai, chúng ta là người một nhà, cốt nhục tương tàn, chẳng lý nào làm chết thêm dũng sĩ Khất Đan.” Nói xong, ông vung đao lên toàn đâm vào cổ mình.

Tiêu Phong vươn tay đoạt ngay thanh đao, nói: “Đại ca! Anh hùng hảo hán có chết cũng chết ở chiến trường, sao lại tự vẫn?” Hồng Cơ thở dài: “Hiền đệ ơi! Tướng sĩ ở đây đều theo ta đã lâu, ta đành chết còn hơn là để họ bỏ mạng vì ta.”

Sở vương lại lớn tiếng giục: “Hồng Cơ! Ngươi chờ đến bao giờ mới tự vẫn?” Tay gã cầm roi chỉ thẳng vào mặt nhà vua, ra chiều phách lối vô cùng. Tiêu Phong thấy y mỗi lúc một đến gần, trong lòng chợt động, khẽ nói: “Đại ca cứ nói chuyện kéo dài thời gian, để tiểu đệ lẻn tới gần bắn y một mũi.”

Hồng Cơ biết ông bản lãnh cao cường, mừng rỡ nói: “Thế thì tuyệt diệu! Nếu bắn chết được y thì ta có chết cũng nhắm mắt.” Ông liền cất cao giọng nói: “Sở vương! Ta đãi cha con nhà ngươi không bạc, giả tỉ phụ thân người muốn làm hoàng đế thì cứ nói ra, việc gì phải làm chết bao nhiêu tướng sĩ cùng bá tính, làm tổn thương nguyên khí nước Đại Liêu?”.

Tiêu Phong lấy một cây cung cứng, giắt mười mũi tên răng chó sói, dẫn một con tuấn mã lẻn qua một bên sườn núi, rùn người nấp dưới bụng ngựa, hai chân quặp ngược lên yên, lấy gót chân thúc một cái, con ngựa liền chạy thẳng xuống. Bọn phản quân dưới núi thấy một con ngựa không có người cưỡi, tưởng là sút dây cương chạy lạc, chuyện đó vẫn thường xảy ra nên chẳng ai để ý làm gì. Nhưng một lúc sau, quân sĩ đã thấy dưới bụng ngựa có người, lập tức hô hoán ầm ĩ.

Tiêu Phong dùng chân thúc ngựa xông thẳng vào Sở vương. Lúc ông thấy chỉ còn cách hai trăm bước, vẫn nép dưới bụng ngựa giương cung lên, bắn y một mũi nghe vù một tiếng. Tên vệ sĩ đứng cạnh Sở vương liền đưa mộc lên đỡ được mũi tên. Tiêu Phong vẫn giục ngựa chạy tới, bắn phát thứ hai giết ngay tên vệ sĩ kia, phát tên thứ ba lại nhắm vào ngực Sở vương.

Sở vương mắt tinh tay lẹ, vung roi ngựa ra gạt trúng mũi tên. Thuật dùng roi gạt tên vốn là tuyệt kỹ của y, nhưng không ngờ người bắn tên sức mạnh phi thường, nội kình dồn vào mũi tên. Cây roi ngựa gạt trúng nhưng chỉ làm cho mũi tên bay lệch đi một chút, cắm vào vai y nghe sột một tiếng. Sở vương kêu lên “Chao ôi!”, đau quá gục xuống yên ngựa.

Mũi vũ tiễn thứ tư của Tiêu Phong lại đến, lần này khoảng cách gần quá, trúng vào hông xuyên thẳng qua ngực. Sở vương chỉ giãy được một cái, lăn từ lưng ngựa xuống đất. Tiêu Phong vừa ra tay đã đắc thủ, nghĩ thầm: “Ta phải thừa cơ bắn chết luôn Hoàng thái thúc.”

Sở Vương trúng tên ngã ngựa, địch quân kêu la ầm ĩ, mấy trăm mũi tên nhắm ngay Tiêu Phong bắn tới. Chỉ nháy mắt con ngựa đã trúng đầy tên, biến thành một con nhím to.

Tiêu Phong lăn dưới đất mấy vòng, nấp dưới bụng một con ngựa địch quân, thi triển chút tiểu xảo công phu, cứ lăn một vòng lại luồn từ bụng con ngựa này sang bụng con ngựa khác. Địch quân không sao bắn tên được, bèn dùng trường mâu mà đâm tới tấp. Tiêu Phong luồn trái lách phải, toàn là ẩn dưới bụng ngựa. Quân địch nhốn nháo cả lên, mấy nghìn quân xô đẩy chen chúc, tưởng chừng giẫm cả lên nhau, nhưng không sao đâm trúng chàng được.

Tiêu Phong đang sử dụng địa đường công phu thật tầm thường của võ lâm Trung Nguyên. Những thứ địa đường quyền, địa đường đao, địa đường kiếm, cũng đều là lăn lộn dưới đất, tấn công vào hạ bàn bên địch. Bây giờ chàng áp dụng trong chiến trận, mắt nhanh tay lẹ, chỉ cố tránh không bị ngựa xéo lên. Chàng lăn về hướng Hoàng thái thúc đang đứng, nhắm thẳng vào y bắn vun vút ba mũi tên.

Bọn vệ sĩ của Hoàng thái thúc đã thấy Sở vương bị trúng tên, dĩ nhiên đề phòng cẩn mật. Hơn ba chục tên cùng giơ mộc che Hoàng thái thúc kín mít. Ba tiếng keng keng, ba mũi tên đều đụng phải thuẫn bài rơi xuống đất. Tiêu Phong mang theo mười mũi tên đã bắn hết bảy, chỉ còn lại ba. Chàng thấy ba chục tên quân dựng thuẫn che đỡ, muốn dùng ba mũi tên bắn chết ba tên vệ sĩ cũng đã khó, thật sự không thể bắn được Hoàng thái thúc. Lúc này Tiêu Phong đã vào sâu trong trận địch, phía sau mấy nghìn quân kỵ cầm mâu đuổi tới, phía trước là thiên quân vạn mã, đúng là bị hãm vào nơi tuyệt địa. Hôm nọ chàng đơn thân chống lại quần hùng Trung Nguyên, đối phương chỉ vài trăm người cũng đã nguy hiểm lắm rồi, nhờ người đến cứu mới thoát chết. Hôm nay bị mấy vạn người vây khốn, làm sao mà thoát được?

Trong lúc cùng đường, chàng hú lên thật to, tung mình nhảy vọt lên, qua hết ba chục tên cầm thuẫn, đáp xuống ngay trước đầu ngựa Hoàng thái thúc. Lão hoảng hốt, vung roi ngựa lên đánh luôn vào mặt chàng.Tiêu Phong lạng người qua tránh, nhảy phốc lên yên ngựa Hoàng thái thúc, vung tay chộp trúng lưng lão. Chàng giơ cao người lão lên, quát hỏi: “Ngươi muốn sống hay muốn chết? Muốn sống thì mau mau bảo mọi người hạ binh khí xuống.” Hoàng thái thúc sợ đến hồn vía lên mây, chàng nói gì hình như lão cũng không nghe thấy.

Lúc đó loạn quân la hét inh ỏi nghe điếc cả tai, hàng ngàn hàng vạn người đều lắp tên giương cung nhắm ngay Tiêu Phong, nhưng Hoàng thái thúc bị chàng nắm giữ trong tay nên chẳng tên nào dám bắn.

Tiêu Phong vận khí vào đan điền kêu lớn: “Hoàng thái thúc có lệnh, ba quân bỏ binh khí xuống để nghe tuyên đọc thánh chỉ. Hoàng đế khoan hồng đại lượng, đại xá tam quân, không truy cứu ai.” Mấy câu đó trung khí đầy dẫy, át hết tiếng người ồn ào, xa đến mấy dặm còn nghe thấy. Mấy chục vạn quân trước núi sau núi, đến quá nửa nghe được rõ ràng.

Tiêu Phong đã rút kinh nghiệm vụ nổi loạn của Cái Bang, hiểu rõ tâm tư loạn quân. Đang phản nghịch mà thất bại, người nào cũng chỉ cầu được miễn tội, nếu được bảo đảm không truy cứu lỗi lầm thì ý chí chiến đấu tự nhiên mất hết. Hiện giờ phản quân thế mạnh, mà Gia Luật Hồng Cơ chỉ còn bảy tám vạn quân, nhân số quá chênh lệch không thể chống nổi. Trong lúc khẩn cấp, ông không kịp xin ý kiến Hồng Cơ, phải tuyên bố mấy câu cho quân phản loạn yên tâm.

Mấy câu nói dõng dạc của Tiêu Phong vừa truyền ra, tiếng huyên náo của quân phản loạn liền lắng xuống, chúng ngơ ngác nhìn nhau, trong lòng hoang mang không có chủ đích gì cả.

Tiêu Phong hiểu rằng tình thế lúc này cực kỳ nguy hiểm, chỉ cần một người trong quân địch hô hào bất phục, mấy chục vạn quân như rắn mất đầu kia sẽ gây đại biến. Chàng không dám chần chừ một giây phút nào nữa, lại lớn tiếng hô: “Hoàng thượng có chỉ dụ, tướng sĩ nghịch quân bất luận lớn nhỏ, tất cả đều vô tội, hoàng đế khai ân quyết không truy cứu. Quan quân đều được giữ nguyên chức tước, tất cả mau bỏ khí giới xuống!”

Không gian đang lặng như tờ, đột nhiên có tiếng loảng xoảng, mấy tên lính liệng bỏ trường mâu. Tiếng loảng xoảng này lây lan rất mau, chỉ trong giây lát có đến một nửa nghịch quân vứt binh khí, nửa còn lại trù trừ chưa quyết định.

Tiêu Phong dùng tay trái giơ Hoàng thái thúc lên cao, giục ngựa chạy lên núi, phản quân không dám ngăn trở, ngựa chàng đi đến đâu là phía trước lại tránh ra nhường lối.

Tiêu Phong cưỡi ngựa đến lưng chừng núi, hai toán quân ngự doanh liền chạy xuống nghinh tiếp, trên núi chiêng trống vang lừng.

Tiêu Phong nói: “Hoàng thái thúc! Mau mau ra lệnh cho thuộc hạ bỏ khí giới đầu hàng, sẽ được tha mạng.” Hoàng thái thúc run run hỏi lại: “Ngươi đảm bảo tha mạng cho ta chứ?”

Tiêu Phong nhìn xuống chân núi, thấy còn nhiều phản quân vẫn nắm cung tên trường mâu trong tay, lòng quân chưa định, nguy hiểm chưa qua. Chàng nghĩ thầm: “Bây giờ việc trấn tĩnh quân tâm là quan trọng nhất. Một mạng Hoàng thái thúc sống hay chết chẳng đáng gì, chỉ cần giám thị kỹ càng là y không thể làm bậy được nữa.” Chàng liền nói: “Đây là cơ hội để lập công chuộc tội. Bệ hạ đã biết việc này đều do Sở vương gây ra, nhất định sẽ tha chết cho Hoàng thái thúc.”

Hoàng thái thúc vốn không nghĩ đến việc tranh đoạt ngôi vua, chỉ vì con lão là Sở vương có dã tâm mà gây họa. Lúc này lão đã bị bắt, chỉ mong sao khỏi chết bèn đáp: “Được! Ta theo lời ngươi.”

Tiêu Phong đặt ông ta ngồi trên yên ngựa rồi dõng dạc nói: “Tam quân nghe đây! Hoàng thái thúc có chỉ thị!”

Hoàng thái thúc lớn tiếng hô: “Người gây nên bạo loạn là Sở vương đã chết rồi. Hoàng thượng khoan hồng đại lượng tha tội cho mọi người. Các ngươi mau mau hạ khí giới rồi đến trước Hoàng thượng mà xin tha thứ.”

Hoàng thái thúc đã nói như thế, loạn quân biến thành rắn mất đầu. Tuy cũng có kẻ hung hăng ngoan cố nhưng không dám chống lại, lập tức nghe tiếng loảng xoảng liên hồi, toàn bộ loạn quân đều vứt binh khí xuống đất.

Tiêu Phong áp giải Hoàng thái thúc lên tới khu đất trống trên núi. Gia Luật Hồng Cơ mừng không nói hết, chẳng khác gì đang nằm mơ, tiến đến bên Tiêu Phong nắm hai tay chàng mà nói: “Hiền đệ ơi! Hiền đệ ơi! Giang sơn này của ca ca, từ nay anh em ta chung hưởng.” Ông nói đến đây cảm động quá, bất giác nước mắt ròng ròng.

Hoàng thái thúc quì dưới đất nói: “Kẻ loạn thần này cầu xin bệ hạ thứ tội, xin rủ lòng thương xót.” Gia Luật Hồng Cơ hoan hỉ vô cùng, quay sang hỏi Tiêu Phong: “Hiền đệ nghĩ sao?” Tiêu Phong đáp: “Phản quân người nhiều thế mạnh, bây giờ cần nhất là an định quân tâm. Xin bệ hạ tha tội chết cho Hoàng thái thúc để mọi người được yên lòng.”

Gia Luật Hồng Cơ cười nói: “Hay lắm! Hay lắm! Ngươi nói sao, ta làm vậy.” Ông quay lại bảo Bắc viện đại vương: “Ngươi truyền thành chỉ, phong Tiêu Phong tước Sở vương, giữ chức Nam Viện đại vương, thống lĩnh nghịch quân trở về Thượng Kinh.”

Tiêu Phong nghe nói giật mình. Chàng giết Sở vương, bắt Hoàng thái thúc chỉ vì muốn cứu mạng nghĩa huynh, không hề có lòng ham muốn tước lộc. Bỗng nhiên được Gia Luật Hồng Cơ phong cho chức quan lớn như thế, chân tay luống cuống, sững sờ không biết nói sao. Bắc viện đại vương quay sang Tiêu Phong, chắp tay nói: “Cung hỉ! Cung hỉ! Tước Sở vương xưa nay chưa phong cho người ngoài hoàng tộc, Tiêu đại vương mau mau tạ ơn hoàng thượng đi.” Tiêu Phong nói với Gia Luật Hồng Cơ: “Hôm nay chỉ nhờ hồng phúc của ca ca, lòng quân qui thuận về bệ hạ mà bình định được nội loạn. Tiểu đệ chỉ góp chút sức nhỏ mọn, có chi đáng gọi là công lao? Hơn nữa, tiểu đệ không biết làm quan, cũng chẳng muốn làm quan, xin ca ca thu hồi thánh mệnh.”

Gia Luật Hồng Cơ cười ha hả, đưa tay nắm lấy vai Tiêu Phong mà nói: “Ở nước Liêu ta, tước Sở vương, hàm Nam viện đại vương là cao quý nhất rồi. Giả tỉ hiền đệ còn chê nhỏ không chịu nhận thì ca ca phải nhường cả ngôi vua cho hiền đệ, không còn cách nào khác.”

Tiêu Phong giật mình nghĩ thầm: “Ca ca vui sướng quá, nói năng chẳng giữ gìn nữa. Tình hình lúc này cần quyết đoán mau lẹ, nếu ta chần chờ có khi sinh họa”. Chàng đành quì xuống nói: “Thần là Tiêu Phong tiếp chỉ, đa tạ vạn tuế gia khai ân.” Gia Luật Hồng Cơ tươi cười đưa tay đỡ chàng dậy. Tiêu Phong lại nói: “Hạ thần không dám nghịch chỉ nên phải lãnh quan tước. Có điều thần là kẻ thảo dã thô hào, không hiểu pháp độ triều đình. Nếu sau này có phạm lỗi, mong được bệ hạ khoan hồng.”

Gia Luật Hồng Cơ vỗ vỗ lên vai chàng, cười nói: “Không sao cả đâu.” Ông quay sang nói với Tả quân tướng quân Gia Luật Mạc Ca: “Gia Luật Mạc Ca! Ta phong ngươi làm Nam viện khu mật sứ, phò tá Tiêu đại vương phụ trách quân quốc trọng sự.” Gia Luật Mạc Ca cả mừng, vội vàng quì xuống tạ ơn, sau đó khom lưng tham bái Tiêu Phong, nói: “Thuộc hạ tham kiến đại vương.” Hồng Cơ nói: “Mạc Ca! Ngươi xin lệnh Tiêu đại vương, thống lĩnh nghịch quân quay về Thượng Kinh. Chúng ta đến vấn an Hoàng thái hậu.”

Trên núi chiêng trống nổi tưng bừng, Gia Luật Hồng Cơ cùng bá quan đi xuống. Các loạn tướng đã đưa Hoàng thái hậu, Hoàng hậu các người ra khỏi tù xa, cung kính mời vào doanh trại. Gia Luật Hồng Cơ tiến vào trong trướng, mẹ con vợ chồng gặp nhau quả là cải tử hoàn sinh, tưởng chừng như từ một kiếp khác quay về. Ai nấy tấm tắc tán dương công lao vĩ đại của Tiêu Phong.

Gia Luật Mạc Ca lại dẫn Tiêu Phong đi gặp các bộ thuộc trong Nam viện. Lúc nãy Tiêu Phong xông pha trong chốn thiên quân vạn mã, thần dũng tuyệt luân, ai nấy đã thấy cả rồi. Quan quân Nam viện đều là thuộc hạ cũ của Sở vương nhưng một là Tiêu Phong thần oai lẫm liệt, mọi người đem lòng kính ngưỡng không dám không phục; hai là Sở vương tính tình nóng nảy chẳng được ai ưa; ba là bọn chúng vừa làm loạn phạm thượng, trong bụng nơm nớp lo âu; thành thử Tiêu Phong vừa đến là ai ai cũng nghe lệnh răm rắp.

Tiêu Phong nói: “Hoàng thượng đã miễn tội theo phản thần làm loạn cho các ngươi. Từ nay tất cả phải biết hối cải, đừng ăn ở hai lòng.” Một viên tưởng râu tóc bạc phơ tiến lên bẩm: “Bẩm đại vương! Hoàng thái thúc và Thế tử bắt giữ gia quyến chúng tôi, bức bách chúng tôi phải theo. Nếu như chống lại, Thế tử sẽ chém hết cả nhà, thành thử chúng tôi bất đắc dĩ mà phạm tội lỗi. Xin đại vương tâu cho thánh thượng rõ.”

Tiêu Phong gật đầu: “Nếu đã thế, từ nay những chuyện đã qua không nhắc đến nữa.” Chàng quay lại bảo Gia Luật Mạc Ca: “Cho tam quân nghỉ ngơi ăn uống xong, lập tức nhổ trại hồi kinh.”

Sau đó các quan chức lớn nhỏ trong Nam viện tiến lên tham kiến. Tiêu Phong chưa làm quan bao giờ nhưng đã là bang chủ Cái Bang nhiều năm, lãnh đạo quần hào một cách uy nghiêm. Việc chỉ huy quân Khất Đan với thống lĩnh hào kiệt Cái Bang không khác nhau nhiều, Tiêu Phong chỉ cần để ý một ít lề luật riêng của nước Liêu. Ngoài ra mọi sự đều do Gia Luật Mạc Ca điều động giải quyết cho nên cũng đâu vào đấy.

Tiêu Phong thống lĩnh đại quân xuất phát chưa được bao lâu thì Hoàng thái hậu và Hoàng hậu đã phái sứ giả tới trung quân ban tặng áo mũ vàng bạc. Tiêu Phong tạ ơn xong, Thất Lý cũng đưa A Tử tới nơi. Cô nàng mặc áo gấm, cưỡi tuấn mã, nói là đều do Hoàng thái hậu ban cho, Tiêu Phong thấy thân hình loắt choắt của nàng lọt thỏm trong bộ cẩm bào rộng thùng thình, khuôn mặt thon thon bị cổ áo che khuất đến một nửa thì không khỏi tức cười.

A Tử không được chính mắt trông thấy Tiêu Phong bắn chết Sở vương, bắt sống Hoàng thái thúc, chỉ nghe Thất Lý kể lại mà thôi. Khi người ta thuật lại chuyện gì, thể nào cũng thêm mắm thêm muối, nên công lao của Tiêu Phong lại càng thêm phần ly kỳ rùng rợn. A Tử vừa gặp chàng đã nói dỗi: “Tỉ phu ơi! Tỉ phu lập đại công mà không chịu nói trước, để tiểu muội đứng trên sườn núi xem đại ca xông ra rồi lại trở về có phải khoái không? Tỉ phu cứ làm tiểu muội lo sốt vó.” Tiêu Phong đáp: “Đó chẳng qua là hên vận lập được chút công, ta có tính trước được đâu? Cô nói chuyện thật là con nít.”. A Tử gọi: “Tỉ phu qua đây.” Tiêu Phong tiến đến bên nàng, thấy khuôn mặt xanh xao hơi ửng hồng và chiều phấn khởi, thân hình xúng xính trong bộ áo xiêm thật chẳng khác gì một con rối nhỏ, vừa buồn cười lại vừa khả ái. Chàng không nhịn được phá lên cười ha hả.

A Tử phụng phịu nói: “Muội nói chuyện đứng đắn mà sao tỉ phu lại cười, có gì khôi hài đâu?” Tiêu Phong đáp: “Ta thấy cô mặc bộ y phục này chẳng khác gì hình nộm, thật là thú vị.” A Tử hậm hực đáp: “Lúc nào tỉ phu cũng chỉ coi muội là một đứa trẻ con, cứ trêu chọc mãi.” Tiêu Phong vẫn cười: “Không phải thế đâu. A Tử ơi, lần này cứ tưởng hai huynh muội ta phải mất mạng, ai ngờ chết đi sống lại nên mới vui đùa một chút đấy thôi. Còn những tước vị Nam viện đại vương, Sở vương gì gì đó ta thật không màng, được sống tốt là mừng lắm rồi”.

A Tử hỏi: “Tỉ phu cũng sợ chết sao?” Tiêu Phong ngẩn ngơ giây lát rồi gật đầu đáp: “Có chứ! Gặp lúc nguy hiểm ai mà chẳng sợ chết.” A Tử nói: “Muội lại tưởng tỉ phu là bậc anh hùng hảo hán không biết sợ chết. Nếu tỉ phu sợ chết, sao lại dám xông vào đám phản quân hàng nghìn hàng vạn?” Tiêu Phong đáp: “Cái đó gọi là xông vào chỗ chết để tìm đường sống. Nếu ta không liều lĩnh xông vào thì chết chắc, không phải là dũng cảm hay không dùng cảm, mà là ở bước đường cùng phải thế. Tỉ như mình bao vây một con gấu hay một con cọp, nó không chạy được thì phải liều mạng quay lại cắn thôi.” A Tử mỉm cười nói: “Tỉ phu lại đem ví mình với giống súc sinh rồi.”

Lúc đó hai người đang cưỡi ngựa đi song song, đưa mắt nhìn ra thấy một vùng thảo nguyên cờ xí rợp trời, đội ngũ tề chỉnh dài dằng dặc không biết đến đâu là cùng, tứ phía đều là vệ sĩ cùng thuộc hạ.

A Tử vô cùng khoan khoái, nói: “Hôm trước tỉ phu giúp muội đoạt được chức đại sư tỉ phái Tinh Tú, muội nghĩ bụng trong phái Tinh Tú cả hai ba đời có đến mấy trăm đệ tử, ngoài sư phụ ra thì muội có quyền nhất, đã đắc ý lắm rồi. Nhưng bây giờ so với tỉ phu chỉ huy thiên quân vạn mã thật chẳng thấm vào đâu. Tỉ phu ơi, Cái Bang không cho tỉ phu làm bang chủ, ái chà, một cái bang hội nhỏ xíu đã lấy gì làm quí? Bây giờ tỉ phu đem binh mã tới giết sạch chúng cho được việc.”

Tiêu Phong lắc đầu lia lịa nói: “Cô lại nói chuyện trẻ con rồi. Ta là người Khất Đan, Cái Bang không cho ta làm bang chủ là phải. Trong Cái Bang toàn là thuộc hạ cùng bằng hữu cũ của ta, sao lại giết họ?” A Tử đáp: “Bọn chúng trục xuất tỉ phu ra khỏi bang, đối xử tệ bạc thì giết đi là phải. Không lẽ lúc này tỉ phu còn coi bọn họ là bằng hữu?”

Tiêu Phong không biết nói sao, chỉ lắc đầu, nhớ đến việc mình đoạn nghĩa tuyệt giao với bạn bè ở Tụ Hiền Trang, không khỏi bùi ngùi.

A Tử lại hỏi: “Giả tỉ bọn chúng nghe tin tỉ phu làm Nam viện đại vương nước Liêu lại đâm ra hối hận, mời về làm bang chủ Cái Bang, thì tỉ phu về hay không về?” Tiêu Phong mỉm cười đáp: “Làm gì có chuyện đó? Anh hùng hảo hán ở Đại Tổng đều coi người Khất Đan là quân dã man hung ác, lại là cừu địch. Ta ở nước Liêu làm quan càng lớn thì họ lại càng căm hận.” A Tử nói: “Úi chà, thế thì đã sao? Bọn chúng căm hận mình thì mình cũng căm hận lại bọn chúng.”

Tiêu Phong đưa mắt nhìn về hướng nam, thấy núi non trùng điệp ở chân trời, nghĩ bụng: “Qua dãy núi kia là đến Trung Nguyên”. Chàng là người Khất Đan nhưng ở phương nam từ thuở nhỏ, trong thâm tâm chàng yêu thích Đại Tống hơn Đại Liêu nhiều. Giả tỉ Cái Bang cho chàng làm một tên đệ tử hạng bét chưa được đeo túi, e rằng chàng còn khoái hơn chức Nam viện đại vương.

A Tử nói tiếp: “Tỉ phu ơi! Muội thấy hoàng thượng thật là anh minh nên mới phong tỉ phu làm Nam viện đại vương. Từ nay về sau mỗi khi nước Liêu đánh với nước nào, tỉ phu đem quân xuất chinh thể nào cũng bách chiến bách thắng. Tỉ phu chỉ cần xông vào trận địch, đánh chết nguyên soái bên kia, tất nhiên chúng sẽ vứt đao thương quì xuống xin hàng, thế là mình toàn thắng.”

Tiêu Phong mỉm cười nói: “Bộ hạ của Hoàng thái thúc đều là quan binh nước Liêu, xưa nay vẫn nghe lệnh hoàng thượng. Do đó mà khi Sở vương bỏ mạng, Hoàng thái thúc bị bắt, họ mới đầu hàng. Trường hợp hai nước giao tranh thì lại khác hẳn, giết được nguyên soái thì còn phó soái, giết được đại tướng quân thì còn phó tướng. Họ chiến đấu đến cùng, ta đơn thương độc mã thì làm gì được?”

A Tử gật đầu nói: “Thì ra là thế! Tỉ phu ơi! Tỉ phu bảo là xông vào trận địch, bắn chết Sở vương, bắt Sống Hoàng thái thúc cũng chưa phải là dũng cảm, thế thì trong đời tỉ phu còn có việc gì dũng cảm thực sự? Kể cho muội nghe có được không?”

Xưa nay Tiêu Phong không thích kể cho người ta nghe những sự tích anh hùng của mình. Khi chàng còn ở Cái Bang, mỗi khi ra tay trừ gian diệt ác, dù cho ác đấu kịch liệt đến thế nào, khi về tới bản bang cũng chỉ nói sơ qua là đã giết được người này người nọ. Còn những việc từng trải gian nan, dù cho người khác vặn hỏi thế nào chàng cũng không chịu nói ra. Lúc này nghe A Tử hỏi vậy, chàng nghĩ lại đời mình đánh hàng trăm trận chưa hề chạy trốn, những chuyện dũng cảm quả là không nói làm gì. Chàng bèn đáp: “Ta đi đánh nhau, phần lớn là bị người ta ép không đánh không được, chẳng có gì gọi là dũng cảm.”

A Tử nói: “Muội biết rồi! Trong đời tỉ phu dũng cảm nhất là khi ác đấu tại Tụ Hiền Trang.” Tiểu Phong ngạc nhiên hỏi lại: “Làm sao cô biết?” .

A Tử đáp: “Hôm trước ở Tiểu Kính Hồ, tỉ phu bỏ đi rồi, gia gia má má cùng các thủ hạ của phụ thân nói chuyện, ai cũng bội phục tỉ phu võ công đảm lược ghê gớm, đơn thân phó hội ở Tụ Hiền Trang độc đấu quần hùng, chỉ cốt để trị thương cho một thiếu nữ. Lúc đó song thân chưa biết A Châu tỉ tỉ chính là con ruột, nói tỉ phu đối với nghĩa phụ, nghĩa mẫu cùng ân sư cực kỳ tàn độc, nhưng với phụ nữ lại rất đa tình. Họ kết luận tỉ phu vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc, quả là tệ hại xấu xa, bất cận nhân tình.” Nói tới đây cô bé bật cười khanh khách.

Tiêu Phong lẩm bẩm: “Vong ân phụ nghĩa, tàn nhẫn hiếu sắc! Hỡi ơi! Anh hùng hảo hán Trung Nguyên tặng Tiêu mỗ tám chữ đó sao?” A Tử an ủi: “Tỉ phu đừng tức giận làm chi. Má má muội hết lời ca tụng tỉ phu, nói nam nhân si tình là tốt rồi, ngoài ra không còn gì quan trọng. Má má phê bình gia gia đối với tình nhân thì phụ nghĩa hiểu sắc, đối với con cái thì tàn nhẫn vô tình, không sao bì kịp tỉ phu. Tiểu muội đứng một bên cũng vỗ tay tán thành.” Tiêu Phong gượng cười lắc đầu.

Đại quân đi mấy ngày thì đến Thượng Kinh. Bá quan cùng trăm họ đã được tin, ra tận ngoài xa nghênh tiếp. Soái kỳ của Tiêu Phong đi đến đâu, bách tính cũng thắp hương phục lạy, hoan hô không dứt. Chàng ra tay dẹp loạn, bảo toàn tính mạng được cho vô số quân sĩ nước Liêu. Non nửa dân số Thượng Kinh là gia quyến của quân ngự doanh, đối với chàng lại càng cảm kích. Ngựa Tiêu Phong đến đâu trăm họ reo hò đến đấy: “Đội ơn Nam Viện đại vương cứu mạng!” “Cầu trời phù hộ cho Nam viện đại vương sống lâu trăm tuổi, đại phú đại quí!”

Tiêu Phong tai nghe những lời chúc tụng, mắt thấy dân chúng nước mắt chạy quanh, quả thực thành tâm thành ý. Chàng nghĩ thầm: “Người ở ngôi cao, nhất cử nhất động đều quan hệ đến họa phúc của muôn dân. Khi ta bắn chết Sở vương, chỉ là dũng khí nhất thời, trước cứu nghĩa huynh, sau tự cứu mình, không ngờ lại là thi ân cho bách tính. Than ôi! Lúc ở Trung Nguyên ta hết sức làm điều tốt, vậy mà lại bị chê trách là kẻ đại gian đại ác đệ nhất giang hồ. Qua đến Bắc quốc, vô tình lại thành cứu tinh cho trăm họ. Chuyện thị phi thiện các thực khó mà phân biệt được.”

Chàng lại nghĩ: “Nơi đây là chỗ ở của song thân ta, năm xưa chắc là hai vị thường qua lại con đường này. Ôi, ta chẳng được biết tướng mạo song thân, hai vị cưỡi ngựa rong ruổi bên nhau thế nào lại càng khó hình dung.”

Thượng Kinh là kinh đô của nước Liêu. Thời bấy giờ Đại Liêu là cường quốc đệ nhất trong thiên hạ, cường thịnh hơn Đại Tống nhiều. Thế nhưng người Khất Đan sống du mục là chính, quen nay đây mai đó, quán xá cùng nhà cửa tại Thượng Kinh thật thô sơ hủ lậu, so với Trung Nguyên còn kém xa.

Quan chức thuộc Nam viện liền ra nghênh tiếp Tiêu Phong vào phủ Sở vương. Tòa vương phủ rất rộng lớn, bên trong trần thiết cực kỳ xa xỉ hoa lệ. Tiêu Phong một đời nghèo khổ, chưa từng vào nơi sang trọng như thế. Chàng đi coi một hồi thấy không quen mắt, liền sai thuộc hạ dựng hai cái lều trướng, ông và A Tử mỗi người ở một cái, sống đơn sơ giản dị như xưa.

Đến ngày thứ ba, xa giá Gia Luật Hồng Cơ cùng Hoàng thái hậu, Hoàng hậu, các phi tần, công chúa… mới về đến Thượng Kinh, Tiêu Phong suất lãnh bá quan tiếp giá. Trong triều tấp nập bận rộn luôn mấy ngày. Đầu tiên là tiệc mừng dẹp yên đại loạn, luận công ban thưởng, phủ tuất gia đình Bắc viện khu mật sứ cùng các quan binh tử trận. Hoàng thái thúc tự biết không còn mặt mũi về đến triều đình, nên đã tự tử chết ở dọc đường. Hồng Cơ là người thủ tín, không hề truy cứu quan binh phản nghịch, chỉ xử tử hai mươi tên thuộc hạ đầu sỏ của Sở vương mưu việc phản loạn. Trong hoàng cung mở tiệc khao thưởng công lao binh sĩ, đại yến liên tiếp ba ngày. Dĩ nhiên Tiêu Phong là đệ nhất anh hùng nơi bàn tiệc. Các món ban thưởng của Gia Luật Hồng Cơ, Hoàng thái hậu, hoàng hậu, các phi tần, công chúa cùng với tặng phẩm của văn võ bá quan, đúng là chất cao như núi.

Khao thưởng xong xuôi, Tiêu Phong mới đến Nam viện xem xét công việc. Mấy chục tộc trưởng trong các bộ tộc nước Liêu đều đến tham kiến, nào là Ô Ngỗi, Bá Đức, Bắc Khắc, Nam Khắc, Thất Vi, Mai Cổ Tất, Ngũ Quốc, Ô Cổ Lạp… rồi còn gì nữa chàng không nhớ hết. Sau đó là quan quân trong Bì thất đại trướng của hoàng đế, san quân của hoàng hậu, rồi các cấp thị vệ trong Hoằng Ninh cung, Trường Ninh cung, Vĩnh Hưng cung, Tích Khánh cung, Diên Xương cung lần lượt đến chào. Nước Liêu tổng cộng có năm mươi chín thuộc quốc, nào là Thổ Cốc Hỗn, Đột Quyết, Đảng Hạng, Sa Đà, Ba Tư, Đại Lương, Hồi Cốt, Thổ Phồn, Cao Xương, Cao Ly, Vu Khuých, Đôn Hoàng… Những nước đó đều có sứ thần tại Thượng Kinh, nghe tin Tiêu Phong nắm giữ binh quyền, mang đến tặng những món đồ trân bảo để cầu thân. Tiêu Phong ngày ngày khi thì tiếp khách, khi gặp thuộc hạ, mắt thấy toàn là vàng bạc châu báu, tai nghe toàn những câu xưng tụng tán dương, không khỏi chán ngán.

Cứ thế đến hơn một tháng Gia Luật Hồng Cơ mới gọi ông vào điện, bảo: “Hiền đệ nhận chức Nam viện đại vương trấn thủ Nam Kinh, chờ cơ hội tiến đánh Trung Nguyên. Ca ca không muốn xa cách ngươi, nhưng muốn ngươi lập kỳ công lưu lại nghìn thu. Ngươi sớm chọn ngày thống lĩnh ba quân tiến xuống phía nam.”

Tiêu Phong nghe hoàng thượng sai mình đem quân nam chinh, trong lòng kinh hãi, nói: “Tâu bệ hạ! Nam chinh là đại sự, cực kỳ quan trọng. Hạ thần chỉ là một kẻ dũng phu, quả không sở trường về quân lược.”

Gia Luật Hồng Cơ cười nói: “Nước ta vừa trải qua một cơn biến loạn, phải để sĩ tốt nghỉ ngơi. Ở Đại Tống hiện nay Thái hậu đang nắm quyền, trọng dụng Tư Mã Quang, sửa sang việc triều chính không có chỗ nào sơ hở, lúc này chúng ta chưa tính chuyện nam chinh đâu. Tiêu hiền đệ! Ngươi đến trấn thủ Nam Kinh, phải luôn luôn để tâm đến việc thôn tính Nam triều. Chúng ta phải nắm bắt cơ hội, hễ Nam triều có nội biến là lập tức ra quân. Còn lúc này nội bộ họ đang vững vàng, Liêu quốc ta đem binh đến đánh ắt là dùng sức nhiều mà thành công ít.”

Tiêu Phong đáp: “Vâng! Quả là như thế!” Hồng Cơ nói: “Ngươi có biết sao ta lại hiểu Nam triều nội chính khéo léo, nhân tâm qui phục hay không?” Tiêu Phong đáp: “Thần mong được bệ hạ chỉ điểm.” Hồng Cơ cười ha hả nói: “Đường lối xưa nay vẫn thế, cứ việc đem nhiều tiền bạc mua kẻ gian tế làm gián điệp. Ở phương Nam thiếu gì kẻ tham tiền hèn hạ vô liêm sỉ, ngươi hãy ra lệnh cho Nam viện khu mật sứ đừng tiếc tài vật, vung tiền ra mua được càng nhiều càng tốt.”

Tiêu Phong vâng lệnh lui ra, trong lòng buồn bã. Chàng trước nay chỉ kết giao với anh hùng hào kiệt, tuy chứng kiến đã nhiều chuyện hãm hại, mai phục, hạ độc, nhưng giết người đốt nhà thì có, chứ đem tiền bạc đi mua chuộc người thì chưa bao giờ. Hơn nữa, chàng là người Liêu nhưng được nuôi dưỡng ở Trung Nguyên từ ngày còn thơ ấu cho đến lúc trưởng thành, bây giờ được hoàng đế giao cho việc tính toán tiêu diệt nhà Đại Tống, trong lòng chán nản, nghĩ thầm: “Ca ca có lòng tốt phong ta làm Nam viện đại vương, nếu ta từ quan ngay thì không khỏi phụ tấm thịnh tình, sứt mẻ tình nghĩa huynh đệ. Ta cứ xuống Nam Kinh làm quan sáu tháng một năm rồi xin từ chức cũng chưa muộn. Khi đó giả tỉ nghĩa huynh không chịu, thì ta mới treo ấn bỏ đi, ca ca cũng đành chịu chứ chẳng làm gì được.” Chàng nghĩ thế bèn suất lãnh bộ thuộc, dắt A Tử xuống Nam Kinh.

Nam Kinh của Đại Liêu chính là Bắc Kinh ngày nay, khi đó còn gọi là Yên Kinh hoặc U Đô, là kinh đô của U Châu. Khi xưa Thạch Kính Đường được nước Liêu hết sức giúp đỡ lập nên nhà Hậu Tấn, nên cắt mười sáu châu Yên Vân để đền ơn. Mười sáu châu Yên Vân bao gồm U, Kế, Trác, Thuận, Đàn, Doanh, Mạc, Tân, Quy, Nho, Võ, Úy, Vân, Ứng, Hoàn, Sóc đều là những nơi quan trọng ở Ký Bắc, Tấn Bắc. Sau khi mười sáu châu này được cắt cho nước Liêu rồi, ba triều Hậu Tấn, Hậu Chu, Đại Tống đều đã nhiều phen chinh phạt, mà vẫn không lấy lại được. Mười sáu châu Yên Vân địa thế rất thuận lợi cho nước Liêu đồn trú trọng binh, mỗi lần đem quân xuống đánh phương nam chỉ phải tràn qua một dải bình nguyên, bên Đại Tống không có địa thế gì để phòng thủ. Hơn trăm năm qua Tống Liêu giao binh, Đại Tống thắng ít thua nhiều, hiển nhiên chủ yếu là do lực lượng không bằng, nhưng người Liêu từ cao đánh xuống khống chế được chiến trường cũng có phần tiện nghi rất lớn.

Tiêu Phong vào thành rồi, thấy phố xá ở Nam Kinh rộng rãi, thị tứ phồn hoa hơn Thượng Kinh nhiều. Người đi đường đều là dân chúng Nam triều, bên tai nghe toàn tiếng nói Trung Nguyên, thật chẳng khác gì đã quay về Trung Thổ. Tiêu Phong và A Tử đều rất vui thích, hôm sau liền ăn mặc giản dị, đi du ngoạn khắp nơi.

Thành Yên Kinh vuông vức ba mươi sáu dặm, có tới tám cửa. Phía đông là cửa An Đông, cửa Nghinh Xuân; phía nam là cửa Khai Dương, cửa Đan Phượng; phía tây là cửa Hiển Tây, cửa Thanh Tấn; còn phía bắc là cửa Thông Thiên, cửa Củng Thần. Hai cửa phía bắc gọi là Thông Thiên, Củng Thần có ngụ ý thần phục phương Bắc, tuân theo thánh chỉ của hoàng đế Bắc quốc. Vương phủ của Nam viện đại vương ở về phía tây nam. Tiêu Phong và A Tử đi chơi được nửa ngày, thấy chợ búa, phố xá, chùa chiền san sát khắp nơi, không phải đi xem một lúc mà hết được.

Khi đó Tiêu Phong giữ chức Nam viện đại vương, không chỉ cai quản mười sáu châu Yên Vân, mà cả phủ Đại Đồng thuộc đạo Tây Kinh, phủ Đại Định thuộc đạo Trung Kinh cũng phải tuân theo lệnh chàng. Vì oai quyền quá lớn, chàng không thể ở trong lều trướng lụp xụp được, đành dọn vào vương phủ. Ông trông coi công việc mấy ngày, thấy đầu vàng mắt hoa thật là khổ sở, thấy Nam viện khu mật sự là Gia Luật Mạc Ca tinh minh mẫn cán, quen thuộc chính vụ, liền giao hết cho y.

Tuy nhiên làm quan to cũng có chỗ hay, trong vương phủ không thiếu gì dược phẩm quý giá, A Tử tha hồ dùng làm thức ăn hàng ngày. Nhờ bổ dưỡng như thế, nội thương của nàng mỗi ngày một đỡ, đến đầu mùa đông đã có thể đi lại một mình. Nàng đã dạo chơi khắp trong thành Yên Kinh, về sau lại bảo Thất Lý đưa đi du ngoạn ngoài thành trong phạm vi mười dặm.

Một hôm trời vừa tạnh mưa tuyết, A Tử mặc áo cừu vào điện Tuyên giáo của Tiêu Phong, nói: “Tỉ phu ơi! Tiểu muội ở trong thành mãi chán quá. Tỉ phu dắt muội đi săn nhé!”

Tiêu Phong ở trong cung điện đã lâu cũng thấy ngán ngẩm, nghe nàng nói thế trong bụng cũng khoái, bèn sai thuộc hạ chuẩn bị ngựa để ra ngoài săn bắn. Chàng chỉ đem vài tên tùy tùng để phục thị A Tử, lại ngại làm kinh động đến dân gian nên thay áo lông cừu quân sĩ thường mặc, rồi đeo cung, giắt tên, nhảy lên ngựa cùng A Tử đi ra cửa Thanh Tấn ở phía tây thành.

Đoàn người ra khỏi thành hơn chục dặm, mới bắn được mấy con thỏ. Tiêu Phong nói: “Chúng ta thử qua phía nam xem thế nào.” Chàng quay đầu ngựa sang hướng nam, lại đi hơn hai chục dặm, thấy một con hươu nhỏ từ trong bụi chạy ra. A Tử lắp tên vào cung, ngờ đâu cánh tay còn yếu quá, không giường cánh cung lên được. Tiêu Phong đưa tay trái quàng sau lưng A Tử nắm lấy cây cung, tay phải kéo dây cung rồi buông tay nghe vút một tiếng, mũi vũ tiễn phóng ra, con hươu ngã ngay xuống. Bọn tùy tùng reo ầm cả lên.

Tiêu Phong buông tay ra, nhìn A Tử mỉm cười, bỗng thấy mắt nàng ươn ướt thì lấy làm kỳ, hỏi: “Sao thế? Cô không thích ta giúp bắn dã thú ư?” A Tử nước mắt chảy dài xuống má, thổn thức đáp: “Muội… muội thành phế nhân mất rồi, giương cái cung tầm thường cũng chẳng xong.” Tiểu Phong dỗ dành: “Cô đừng nóng nảy, khí lực sẽ dần dần hồi phục. Nếu sau này vẫn không khỏi, ta sẽ truyền cho cô phép tập luyện nội công, thể nào cũng tăng gia khí lực.” A Tử đang khóc, bật cười nói:“Tỉ phu đã nói thì phải giữ lời, thể nào cũng dạy muội rèn luyện nội công đấy nhé.” Tiêu Phong đáp: “Cô cứ yên tâm! Ta nhất định dạy cho cô.”

Đang lúc nói chuyện, bỗng nghe hướng nam có tiếng vó ngựa dồn dập, một đại đội nhân mã chạy tới trên mặt tuyết. Tiêu Phong đưa mắt nhìn ra, thấy đội này toàn là quan binh người Liêu, nhưng không giương cờ hiệu. Chúng vừa đi vừa nói chuyện xôn xao, ca hát vang lừng, sau ngựa buộc theo khá nhiều tù binh, tưởng chừng như vừa thắng trận trở về. Tiêu Phong tự hỏi: “Mình đâu có giao chiến với ai, bọn này đánh trận ở đâu trở về thế kia?”. Chàng thấy đám quan binh rẽ qua phía đông trở về thành, liền quay sang bảo một tên tùy tùng: “Ngươi lại hỏi bọn kia, xem chúng đi đâu về?” Gã tùy từng liền đáp: “Vâng” rồi nói: “Chắc là các anh em đi thu hoạch về.” Y giục ngựa chạy thẳng đến chỗ bọn kia.

Y tới gần bèn nói mấy câu. Bọn quan binh nghe nói Nam Viện đại vương đang ở tại đây liền lớn tiếng reo hò, lập tức nhảy xuống đất, tay cầm dây cương dắt ngựa tới trước Tiêu Phong, khom lưng thi lễ rồi hô to: “Đại vương thiên tuế!”

Tiêu Phong giơ tay đáp lễ, bảo: “Được rồi!” Chàng thấy đoàn quân này phải hơn tám trăm người, trên lưng ngựa chất đầy quần áo đồ dùng. Số người bị bắt cũng đến bảy tám trăm, phần lớn là phụ nữ còn trẻ nhưng cũng có một số thanh niên, đều mặc y phục người Tống, ai nấy khóc lóc kêu gào.

Gã đội trưởng nói: “Hôm nay đến phiên đội Hắc Lạp Đốc bọn thuộc hạ đi thu hoạch, nhờ hồng phúc đại vương nên kiếm được cũng kha khá.” Y quay lại ra lệnh: “Các ngươi đem những cô gái xinh đẹp nhất, vàng bạc châu báu quí giá nhất dâng lên, xin đại vương thiên tuế thu dụng.” Bọn quan binh cùng hô to: “Tuân lệnh!” Chúng lựa ra hơn hai chục cô gái đẩy đến trước đầu ngựa Tiêu Phong, lại gói rất nhiều đồ kim ngân trang sức đầy một tấm chăn da. Bọn lính Khất Đan chăm chú nhìn Tiêu Phong, ánh mắt đầy vẻ tôn kính, hiển nhiên nếu được Nam Viện đại vương thu dụng đám mỹ nữ và vàng bạc này thì lấy làm vinh dự lắm.

Ngày trước Tiêu Phong ở ngoài Nhạn Môn Quan đã thấy quan binh nhà Đại Tống bắt người Khất Đan, lần này lại thấy quan binh Khất Đan đi bắt người Đại Tống, những người bị bắt đều thê thảm khốn khổ chẳng khác gì nhau. Chàng ở nước Liêu ít lâu, hiểu biết đại khái quân tình Liêu quốc. Triều đình nước Liêu không phát lương thảo cho quân đội mà cũng không trả tiền. Quan binh cần gì đều phải cướp đoạt của bên địch, mỗi ngày đều sai lính qua đánh cướp các nước lân bang Đại Tống, Tây Hạ, Nữ Chân, Cao Ly. Công việc này họ gọi là “thu hoạch”, mà thực ra là hành động của quân cường đạo. Quan binh Tống triều cũng qua thu hoạch của người Liêu để trả thù. Vì thế mà dân chúng ở vùng biên giới cực kỳ khổ sở, ngày nào cũng nơm nớp, sáng lo chiều, chiều lo tối. Tiêu Phong thấy những hành động này cực kì tàn nhẫn vô đạo, có điều chàng không tính chuyện lâu dài, chỉ định bụng giữ chức một thời gian rồi xin cáo quan ở ẩn, thành thử không đưa ra chủ trương gì về các việc quân quốc đại sự. Nhưng bây giờ chính mắt chàng thấy thảm trạng những người bị bắt, không khỏi đem lòng thương hại, bèn hỏi gã đội trưởng: “Ngươi đi thu hoạch ở đâu về thế?”

Gã đội trưởng cung kính đáp: “Bẩm đại vương, bọn tiểu nhân đi thu hoạch bên ngoài địa hạt Trác Châu, bên Đại Tống. Từ khi đại vương tới đây, thuộc hạ không dám đi thu hoạch quanh bản châu nữa.”

Tiêu Phong nghĩ thầm: “Thế thì trước đây bọn chúng vẫn cướp bóc người Tống ngay trong châu quận này.” Chàng dùng tiếng Hán hỏi một thiếu nữ đang đứng trước đầu ngựa: “Cô là người ở đâu?” Thiếu nữ kia quì xuống, khóc lóc đáp: “Tiểu nữ là người ở Trương gia thôn, cầu đại vương khai ân, tha cho tiểu nữ trở về đoàn tụ với song thân.” Tiêu Phong quay đầu nhìn bọn kia, hết thảy mấy trăm người bị bắt đều quì xuống, chỉ có một thanh niên đứng sừng sững không chịu quì.

Tên này trạc mười sáu mười bảy tuổi, mặt dài mà gầy, cằm nhọn, đôi mắt láo liên không có vẻ khiếp sợ. Tiêu Phong liền hỏi: “Chú bé kia! Nhà ngươi ở đâu?” Gã đáp: “Tiểu nhân có một việc cơ mật, muốn bẩm lên đại vương.” Tiêu Phong đáp: “Được, ngươi lại đây!” Gã đưa hai tay đang bị dây thừng trói chặt lên, nói: “Xin đại vương dời ra xa bọn thuộc hạ, việc này không thể để người ngoài nghe thấy được.” Tiêu Phong động tính hiếu kỳ, tự hỏi: “Một thằng nhỏ thế này làm gì mà biết được chuyện cơ mật đại sự? Gã từ biên giới phía nam qua đây, chắc là biết chuyện gì về quân tình Đại Tống chăng?” Chàng đã có bụng khinh khi gã là người Tống mà đem chuyện cơ mật bẩm báo cho người Khất Đan, là loại Hán gian vô liêm sỉ, nhưng nghe nói là có chuyện cơ mật trọng đại, có nghe cũng chẳng hề gì, bèn phóng ngựa ra khoảng chục trượng, vẫy tay bảo: “Lại đây!”

Gã thanh niên kia liền chạy tới, giơ hai tay lên nói: “Xin đại vương cắt dây trói, tiểu nhân có vật để trong bọc muốn trình lên.” Tiêu Phong rút đơn đao cài sau lưng, vung lên chém xuống, thế đao tưởng chừng chẻ y làm đôi nhưng lại rất chuẩn xác, chỉ cắt đứt sợi dây thừng trói hai tay. Gã hoảng hốt, lùi lại hai bước, ngẩn ra nhìn Tiêu Phong. Tiêu Phong mỉm cười, tra đao vào vỏ, hỏi: “Ngươi có cái gì?”

Gã thanh niên thò tay vào bọc, móc ra một vật cầm trong tay, nói: “Đại vương xem thì biết.” Gã nói xong liền đến trước đầu ngựa Tiêu Phong, chàng đưa tay ra toan đón lấy. Đột nhiên, gã ném thẳng vật ở trong tay vào mặt Tiêu Phong, chàng vung roi ngựa lên đánh văng ra ngoài, thì ra là một cái túi nhỏ. Cái túi đó rơi xuống đất, bột trắng tung tóe khắp nơi, chính là một túi vôi sống, nếu ném trúng vào mắt là mù ngay lập tức. Đây là một thủ đoạn thấp hèn mà bọn trộm gà bắt chó, đạo tặc hạng bét thường dùng.

Tiêu Phong hừ một tiếng, nghĩ thầm: “Thằng nhỏ này to gan thật, thì ra không phải Hán gian”. Chàng hỏi: “Ngươi tên là gì? Sao lại cố ý hại ta?” Gã mím chặt môi, không trả lời. Tiêu Phong dịu giọng nói: “Ngươi cứ nói đi, ta sẽ tha mạng cho.” Gã đáp: “Ta đến báo thù cho song thân không được, chẳng còn gì để nói nữa.” Tiêu Phong hỏi: “Song thân ngươi là ai? Không lẽ bị ta giết chết sao?”

Gã thanh niên tiến lên hai bước, mặt đầy vẻ bi phẫn, trỏ tay vào mặt Tiêu Phong lớn tiếng mắng: “Kiều Phong! Ngươi giết chết gia gia, má má, cả bá phụ ta, ta hận… hận không thể ăn tươi nuốt sống, rút gân lột da, xé xác ngươi thành muôn mảnh.”

Tiêu Phong nghe y gọi cái tên cũ của mình, lại mắng mình giết song thân và bá phụ, chắc là một món nợ ngày trước ở Trung Nguyên. Chàng bèn hỏi: “Bá phụ cùng phụ thân ngươi là ai?” Gã đáp: “Ta không muốn sống nữa, cũng cần cho ngươi biết, nam nhi họ Du ở Tụ Hiền Trang không phải là phường tham sinh úy tử.”

Tiêu Phong “À” lên một tiếng rồi nói: “Thì ra ngươi là con cháu của Du Thị Song Hùng, như vậy lệnh tôn là Du Câu nhị gia.” Chàng ngừng lại một chút, nói tiếp: “Hôm đó ta bị quần hùng Trung Nguyên vây đánh ở quí trang, bắt buộc phải ứng chiến, đó là việc bất đắc dĩ. Lệnh tôn và lệnh bá phụ đều tự vẫn mà chết đấy chứ!” Tới đây chàng lắc đầu nói tiếp: “Hỡi ôi! Tự vẫn hay bị giết thì cũng chẳng khác gì nhau. Hôm đó ta đoạt mất binh khí của bá phụ và gia gia ngươi để đến nỗi họ phải tự vẫn. Tên ngươi là gì?”

Gã thanh niên đứng ưỡn ngực ra lớn tiếng đáp: “Ta là Du Thản Chi. Ta không cần ngươi phải giết, quyết noi theo gương sáng của bá phụ và gia gia.” Nói xong, gã thò tay vào ống quần, rút ra một thanh đoản đao, giơ lên đâm vào ngực. Tiêu Phong lại vung roi ngựa ra quấn lấy thanh đao, đoạt mất. Du Thản Chi cả giận mắng: “Ta muốn tự vẫn, ngươi cũng không cho ư? Tên Liêu cẩu đáng chết kia, mi thật là lòng lang dạ thú!”

Lúc này A Tử đã giục ngựa đến bên Tiêu Phong, quát lên: “Thằng tiểu quỉ kia, sao dám mở miệng mắng người? Ngươi muốn chết ư? Ha ha, chẳng phải dễ đâu.” Đột nhiên Du Thản Chi nhìn thấy một cô gái xinh đẹp thanh tú, gã đứng ngây người ra mà nhìn, không nói nên lời. A Tử lại nói: “Tiểu quỉ! Cái cảnh mù lòa thích thú lắm, ta sẽ cho ngươi được nếm mùi.” Nàng quay lại nói với Tiêu Phong: “Tỉ phu! Tên tiểu tử này thật là hiểm độc, dám dùng vôi sống để ám toán. Chúng ta lại dùng vôi đó hất vào mắt y cho biết.”

Tiêu Phong lắc đầu, quay sang bảo tên lãnh binh đội trưởng: “Hôm nay các ngươi đi thu hoạch, bắt được bao nhiêu người Tống đều giao lại cho ta, có được chăng?”. Gã đội trưởng mừng rỡ vô cùng, vội đáp: “Được đại vương để mắt tới thì còn gì bằng, bọn thuộc hạ xin đa tạ ân đức.” Tiêu Phong nói: “Quan binh nào bắt được từ binh, nhớ đến vương phủ lĩnh thưởng.” Hắn vui vẻ đáp: “Bọn tiểu nhân thành tâm dâng lên đại vương, không cần ban thưởng.” Tiêu Phong nói: “Các ngươi để những kẻ bị bắt lại đây, về thành trước đi, nhớ đến lãnh thưởng”. Bọn quan binh khom lưng tạ ơn. Gã đội trưởng nói: “Vùng này không có bao nhiêu dã thú, chắc đại vương muốn đem bọn Tống trư làm bia sống chứ gì? Trước đây Sở vương vẫn thích trò này lắm. Tiếc là hôm nay bọn thuộc hạ bắt được phần nhiều là đàn bà, chạy không nhanh. Lần sau sẽ cố bắt những con heo Tống khỏe mạnh”. Y nói xong thi lễ, kéo quân về.

Câu nói “muốn đem bọn Tống trư làm bia sống” vừa lọt vào tai, Tiêu Phong không khỏi rùng mình, trước mắt hiện ra cái cảnh tàn bạo của Sở vương năm xưa: mấy trăm người Tống chạy thục mạng trên mặt tuyết chẳng khác gì dã thú, trong khi những bậc quí nhân Khất Đan cười ha hả, giương cung lắp tên bắn chết để giả trí. Còn người Tống nào chạy được xa, quân Khất Đan cưỡi ngựa reo hò đuổi theo, chẳng khác gì săn nai đuổi chồn, rốt cuộc cũng bắn chết hết. Bọn Khất Đan nhắc đến chuyện thảm khốc này không hề đổi giọng, hẳn là trước đây đã quen như thế. Chàng đưa mắt nhìn bọn người bị bắt, thấy ai nấy mặt tái mét, run cầm cập trong gió rét buốt. Dân chúng vùng biên giới này phần lớn hiểu tiếng Khất Đan, nghe đến chuyện bắn bia sống, sợ đến mất cả hồn vía.

Tiêu Phong thở dài sườn sượt, nhìn xuống núi non trùng điệp ở phương Nam, nghĩ thầm: “Giả tỉ thân thế mình không bị tiết lộ thì đến bây giờ ta vẫn nghĩ mình là dân Đại Tống. Ta cùng bọn người này cùng nói một thứ tiếng, cùng ăn một thứ cơm, có khác chỗ nào đâu? Vì sao đã là người, lại phải phân chia ra Khất Đan, Đại Tống, Nữ Chân, Cao Ly gì gì để làm chi? Ngươi sang đất ta thu hoạch, ta sang đất ngươi đốt nhà. Ngươi chửi ta là Liêu cẩu, ta mắng ngươi là Tống trư.” Mất đến một lúc, lòng chàng cảm khái, tư tưởng cuồn cuộn như sóng biển.

Tiêu Phong nhìn lại, thấy đám quan binh Khất Đan đã đi khuất rồi, bèn quay sang bảo đám nạn dân: “Bữa nay ta tha các ngươi về, mau chạy ngay đi!” Bọn người bị bắt vẫn tưởng Tiêu Phong thả cho họ chạy, sau đó sẽ bắn bia sống, nên vẫn chần chừ đứng đó. Tiêu Phong lại giục: “Các ngươi về rồi, tốt nhất là rời xa biên giới, để khỏi bị chúng đi thu hoạch mang về nữa. Ta chỉ cứu các ngươi được một lần, không cứu được lần thứ hai đâu.”

Bấy giờ bọn nạn dân mới tin là thật, reo hò mừng rỡ quỳ mộp cả xuống, dập đầu nói: “Đại vương ân đức tày non, tiểu dân về nhà sẽ cầu trời khấn phật cho đại vương sống lâu, ở ngôi cao mãi mãi.” Bọn họ đã biết thân làm dân Tống bị quân Liêu bắt được rồi, trừ người giàu có đem tiền bạc gấm vóc ra chuộc mạng, còn không thì bỏ xác đất người, đến nắm xương cũng không được mang về xứ. Nhưng hai nước Tống Liêu giao tranh đã lâu năm, người giàu có đều di cư vào nội địa cả rồi, ở vùng biên giới chỉ còn lại dân nghèo khổ, làm gì có tiền chuộc mạng? Ai cũng biết thân phận mình không bằng súc vật, được vị đại vương nước Liêu tha cho về, nỗi vui mừng biết lấy chi cân?

Tiêu Phong thấy bọn nạn dân vui mừng dắt díu nhau đi về phía nam, nghĩ thầm: “Người Khất Đan ta bắt họ tới đây, rồi lại thả họ về, khiến bọn họ phải nhọc nhằn khiếp sợ, còn có gì gọi là ân đức?”.

Chàng thấy những người khốn khổ kia đi đã xa, chỉ còn Du Thản Chi sừng sững đứng đó, bèn nói: “Sao ngươi không chạy đi? Ngươi đã có lộ phí trở về Trung Nguyên chưa? Chàng vừa nói vừa thò tay vào bọc, định cho y ít tiền, nhưng trong túi không có đồng nào, chỉ có một cái gói giấy dầu nhỏ. Tiêu Phong bỗng chua xót trong lòng, nhớ ra trong cái gói là bộ Dịch Cân Kinh viết bằng chữ Phạn mà hôm trước A Châu ăn trộm được ở chùa Thiếu Lâm, bắt chàng phải cầm lấy. Nay người mất mà kinh còn, trông thấy di vật làm sao chàng chẳng đau thương? Tiêu Phong thuận tay bỏ cái gói trở lại vào bọc, nói: “Hôm nay ta đi săn không mang theo tiền. Nếu ngươi không có tiền tiêu thì theo ta về thành mà lấy.” Du Thản Chi lớn tiếng nói: “Gã họ Kiều kia! Mi muốn giết thì giết, muốn mổ thì mổ, không được bày trò làm nhục ta. Du mỗ dù có chết đói cũng không thèm nhận một đồng một chữ của mi.”

Tiêu Phong nghĩ rằng gã nói không sai, mình là kẻ thù giết cha gã, mối thù không đội trời chung chẳng thể nào hóa giải, nói nhiều cũng vô ích. Chàng bèn bảo: “Ta không giết ngươi! Ngươi muốn báo thù thì lúc nào cũng có thể đến kiếm ta.”

A Tử vội nói: “Tỉ phu ơi, không thả y được. Tên tiểu tử này nếu báo thù cũng không dùng võ công đàng hoàng chân chính, chỉ dùng thủ đoạn hạ lưu. Chi bằng nhổ cỏ tận gốc để khỏi di họa về sau.”

Tiêu Phong lắc đầu: “Trên giang hồ bước nào cũng có chông gai, nơi nào cũng đầy hung hiểm, ta đi qua cả rồi. Gã thiếu niên này không làm gì nổi ta đâu. Ngày trước ta khiến cho bá phụ cùng phụ thân y phải tự vẫn, quả thực không cố ý, nhưng cũng là món nợ máu ta thiếu đã lâu. Có lý nào ta lại giết cả con cháu Du Thị Song Hùng nữa?” Chàng nói tới đây, thấy trong lòng chán nản bèn bảo: “A Tử! Chúng ta về thôi. Hôm nay chẳng còn gì mà săn bắn nữa.” A Tử bĩu môi nói: “Tiểu muội muốn bắt gã này về nghĩ cách hành hạ một phen cho bõ ghét! Tỉ phu thả y rồi, tiểu muội về thành còn có gì vui đâu?” Nhưng nàng không dám trái ý Tiêu Phong, đành quay đầu ngựa, cùng Tiêu Phong trở về. Đi được mấy trượng, nàng quay mặt lại nói: “Thằng lỏi kia! Ngươi về luyện võ công thêm một trăm năm nữa, rồi hãy đi kiếm tỉ phu ta báo thù.” Nói xong nàng mỉm cười, giơ roi quất ngựa chạy nhanh.

Hồi 28: Chịu thảm hình, trở thành “thiết sửu”

Du Thản Chi thấy Tiêu Phong dẫn người đi về phía tây trước sau vẫn không quay lại, mới tin là mình đã thoát chết. Gã lẩm bẩm một mình: “Sao tên gian tặc này lại không giết ta? Chắc y coi ta chẳng vào đâu, không thèm giết cho bẩn tay. Nay y đã làm tới chức đại vương gì gì đó ở nước Liêu, từ đây về sau việc báo thù của ta lại càng khó khăn gấp bội. Nhưng may mà ta đã biết y ở chỗ nào.”

Du Thản Chi cúi xuống nhặt gói vôi sống, sau đó cố tìm lưỡi trủy thủ đã bị Tiêu Phong vung roi ngựa cướp lấy. Bỗng gã thấy trong bụi cỏ ở bên trái có một cái gói giấy dầu, chính là cái gói khi nãy Tiêu Phong lấy trong bọc ra. Gã liền nhặt lên mở ra xem, thì ra là một cuốn sách, giở thử mấy trang thì toàn là văn tự ngoằn ngoèo kỳ quái, chẳng hiểu được gì. Thì ra Tiêu Phong nhìn thấy vật lại nhớ đến người mà lòng đã thẫn thờ, lúc cất Dịch Cân Kinh, không bỏ vào trong túi lại bỏ ra ngoài. Khi chàng cưỡi ngựa chạy đi, gói giấy dầu liền rớt xuống bụi cỏ mà không hay biết.

Gã nghĩ thầm: “Đây chắc là văn tự Khất Đan, cuốn sách này hẳn là vật hữu dụng của tên gian tặc nên y mới đem theo trong mình. Ta không thèm trả lại, để y cuống cuồng khổ sở cho bõ ghét!” Du Thản Chi nghĩ mình lấy được cuốn sách của Tiêu Phong tất làm khó cho y, liền cảm thấy khoan khoái trong lòng, cho là như vậy cũng báo thù cho phụ thân được chút ít. Gã gói cuốn sách lại vào tờ giấy dầu, cất kỹ trong túi rồi nhắm hướng nam mà đi.

Từ thuở nhỏ, Du Thản Chi đã theo phụ thân học võ, nhưng tư chất kém cỏi, thân thể ốm yếu nên không hợp với võ công cương mãnh ngoại gia của Du Thị Song Hùng. Gã học võ ba năm chẳng ăn thua gì, thật không xứng đáng là danh gia tử đệ. Du Thản Chi học võ đến năm mười hai tuổi, phụ thân gã là Du Câu chán ngán, bàn cùng bá phụ gã là Du Ký: “Không ngờ nhà họ Du ta lại sinh ra con mèo què, để ra ngoài thì thiên hạ phải cười đến sái quai hàm. Hơn nữa khi người ngoài biết gã là con cháu Du Thị Song Hùng, thì họ phải dùng hết sức mà xuất thủ, chỉ một chiêu là gã phải uổng mạng. Chúng ta cho gã học văn để bảo toàn mạng sống còn tốt hơn”. Thế là từ năm mười hai tuổi, Du Thản Chi không học võ nữa, theo thầy đồ đọc sách.

Song gã đọc sách cũng hay chểnh mảng, tâm trí cứ nghĩ đâu đâu. Một hôm thầy đồ dạy cho Du Thản Chi câu nói của Khổng Tử: “Học nhi thời tập chi, bất diệc lạc hồ” (Việc học siêng năng và chuyên cần, ắt thấy hứng thú). Gã nói: “Sư phụ nói thế, đệ tử chưa hiểu là nói về việc gì. Gia gia dạy đệ tử tập quyền, đệ tử rất siêng năng và chuyên cần mà chẳng thấy hứng thú chi hết.” Sư phụ gã tức mình nói: “Đức Khổng Tử chỉ nói đến học thuyết của thánh hiền để dựng đại nghiệp kinh bang tế thế, chứ ngài nói đến cái việc đánh quyền múa gậy để làm gì?” Du Thản Chi liền nói: “Được lắm! Sư phụ bảo bá phụ cùng gia gia đệ tử đánh quyền múa gậy là chẳng ra gì. Đệ tử phải đem chuyện này tố cáo với gia gia.” Đại khái là gã chọc giận để thấy đồ tức mình phải bỏ đi, hết thầy này đến thầy khác. Du Câu đã đánh gã không biết bao nhiêu lần, song càng đánh gã càng quật cường bướng bỉnh. Du Câu thấy con cứng đầu khó dạy cũng chẳng biết làm thế nào, chỉ thở dài rồi bỏ mặc gã muốn làm gì thì làm. Vì thế nên Du Thản Chi đã mười tám tuổi, lại con nhà danh giá mà vẫn văn dốt vũ dát. Từ khi bá phụ cùng phụ thân gã tự vẫn chết, thì mẫu thân cũng đập đầu vào cột tuẫn tiết theo, thì gã lênh đênh cô khổ, lưu lạc khắp nơi. Thâm tâm gã chỉ muốn đi tìm Tiêu Phong để báo thù.

Hôm đại chiến ở Tụ Hiền Trang, Du Thản Chi có nấp ở sau nhà để xem đánh nhau nên đã nhớ rõ mặt Tiêu Phong. Gã nghe nói chàng là người Khất Đan, thế là cứ đi bừa về hướng Bắc. Y thấy trên giang hồ có tên du đãng dùng vôi bột ném mù mắt địch nhân, cảm thấy cách này có thể dùng được. Một hôm gã đến vùng biên giới rồi bị bọn kỵ binh Khất Đan đi thu hoạch bắt, tự nhiên lại gặp Tiêu Phong. Đó quả là một chuyện ông trời sắp đặt, không hẹn mà nên. Gã được Tiêu Phong tha rồi, vừa đi vừa nghĩ bụng: “Bây giờ mình phải chạy càng xa càng tốt để khỏi bị quân Khất Đan bắt lại. Rồi mình sẽ đi bắt rắn độc, tìm cách vứt vào giường Tiêu Phong, y chui vào chăn là bị cắn chết ngay. Còn vị tiểu cô nương kia… Trời ơi! Sao nàng lại xinh đẹp thế?”

Gã nhớ đến dung mạo A Tử, bất giác nhiệt huyết nổi lên bừng bừng. Càng nhớ đến bộ mặt xanh mét nhưng thanh nhả mỹ miều của cô gái kia, trong lòng gã lại càng sung sướng vô cùng!

Du Thản Chi cắm đầu đi mau, chỉ một lát đã qua mặt bọn nạn dân. Có người gọi cùng đi cho có bạn, nhưng gã cũng mặc, chỉ lầm lũi một mình. Du Thản Chi đi được mấy dặm thì bụng đói như cào, nhìn tả nhìn hữu để xem có thứ gì ăn được không, nhưng ở thảo nguyên bát ngát ngoài cỏ khô cùng tuyết trắng, chẳng có thứ gì nữa. Gã lẩm bẩm: “Giả tỉ mình là con bò hay con cừu lại tốt hơn, chỉ gặm cỏ uống tuyết cũng khoan khoái rồi. Hừ! Nhưng nếu mình là con cừu, người ta giết gia gia, má má là hai con cừu già để ăn thịt thì mình có báo thù không? Thù giết song thân không đội trời chung, lẽ nào không báo? Nhưng báo thù bằng cách nào? Mình lấy sừng húc kẻ đã giết gia gia mình ư? Cũng vô lý, người ta nuôi bò nuôi cừu là để ăn thịt, sao lại nói đến chuyện báo thù với chẳng báo thù?”

Du Thản Chi đang nghĩ vẩn vơ, bỗng nghe thấy tiếng vó ngựa dồn dập. Ba tên kỵ binh Khất Đan đang ruổi ngựa trên mặt tuyết đến gần, vừa thấy gã thì reo hò mừng rỡ. Một tên quân Khất Đan tung thòng lọng ra trong vào cổ gã rồi giật mạnh một cái. Gã thấy nghẹt cổ khó thở, vội giơ tay toan gỡ ra, không ngờ tên Khất Đan huýt lên một tiếng còi rồi giật cương cho ngựa chạy nhanh. Du Thản Chi chân đứng không vững, té lăn xuống đất rồi bị tên Khất Đan lôi xệch đi. Gã kêu lên mấy tiếng thật to, nhưng cổ họng liền bị siết chặt lại, không kêu được nữa.

Tên lính Khất Đan sợ Du Thản Chi chết ngạt nên dừng ngựa lại. Gã lóp ngóp bò dậy, vừa nới dây thòng lọng ở cổ ra một chút thì tên Khất Đan lại giật mạnh một cái, gã lảo đảo suýt ngã phịch xuống. Ba tên lính Khất Đan thấy vậy lại cười ồ, rồi một tên lớn tiếng nối xí xố với Du Thản Chi mấy câu, nhưng gã không hiểu tiếng Khất Đan chỉ lắc đầu quầy quậy. Tên Nhất Đan lại quất ngựa chạy, lần này không nhanh như trước. Du Thản Chi sợ nghẹt cổ không thở được, phải hấp tấp chạy theo, cứ bước hai bước chạy ba bước mới kip.

Ba tên kỵ binh Khất Đan cứ phi về hướng bắc, Du Thản Chi không khỏi hoảng hồn mắng thầm: “Thằng cha Kiều Phong này giả nhân giả nghĩa, bảo tha mình rồi lại cho quân rượt theo bắt lại, Phen này bị y bắt được, chắc khó lòng thoát chết!” Từ ngày Du Thản Chi bỏ nhà đi về phương Bắc, lúc nào cũng nghĩ đến việc báo thù mà chẳng biết trời cao đất rộng là gì. Gã đột ngột gặp Tiêu Phong, cảnh tượng song thân bị thảm tử hiện ra trước mắt, nhiệt huyết sôi lên sùng sục. Gã cứ tưởng ném vôi bột ra là Tiêu Phong mù mắt ngay rồi rút dao đâm chết, nhưng ném không trúng, thế là chí khí lại tiêu tan. Gã đã tưởng may mắn thoát chết, ngờ đâu bị quân Khất Đan bắt lại.

Lần trước bọn Khất Đan đi thu hoạch bắt được gã, cho đi theo dám phụ nữ. Dĩ nhiên đám này không đi nhanh được, nên gã đi theo chẳng khó nhọc gì, cũng không bị hành hạ, chỉ trừ một sống đao đánh vào lưng lúc bị bắt mà thôi. Lần này khác hẳn, gã đã bị ngựa lôi xệch đi, cứ chạy được vài chục bước lại trượt chân té nhào xuống một lần, mỗi lần té là dây thòng lọng lại xiết chặt vào gáy đến trầy da chảy máu. Tên kỵ binh Khất Đan vẫn cho ngựa chạy đều đều không dừng lại lúc nào, cũng chẳng thèm để ý xem gã sống hay chết, cứ thế kéo gã vào thành Nam Kinh. Lúc vào thành, mình mẩy Du Thản Chi bê bết máu, trông không ra hình người nữa. Gã chỉ mong được chết mau lẹ cho khỏi đau đớn.

Vào thành rồi, ba tên kỵ binh Khất Đan còn cho ngựa kéo gã chạy mấy dặm nữa mới đến một tòa nhà to. Du Thản Chi thấy đường lót đá xanh, cổng cao cột lớn, chẳng biết đó là nơi nào. Chừng uống cạn tuần trà, tên Khất Đan lại kéo Du Thản Chi đến một khoảng sân rộng rồi đột nhiên huýt lên một tiếng sáo, thúc gót chân vào sườn ngựa phóng nhanh. Du Thản Chi không ngờ hắn phóng ngựa một cách đột ngột, chỉ chạy theo được ba bước rồi té nhào xuống

Tên kỵ binh Khất Đan huýt sáo liên hồi, kéo Du Thản Chi chạy ba vòng sân, thúc ngựa chạy mỗi lúc một nhanh hơn. Mười mấy tên quan binh đứng ngoài xem, đều reo hò trợ oai. Du Thản Chi nghĩ thầm: “Ôi chao, thì ra bọn chúng muốn lôi ta đến chết.” Đầu mình chân tay gã đều va đập vào đá xanh lát dưới đất, khiến gã đau đớn khắp cả mình mẩy.

Giữa tiếng cười rộ của bọn quan binh Khất Đan bỗng nổi lên giọng cười trong trẻo của một thiếu nữ. Du Thản Chi sắp hôn mê, mơ hồ nghe tiếng cô gái vừa cười vừa nói: “Ha ha! Cái diều người này khó mà thả lên được.” Du Thản Chi tự hỏi: “Diều người là cái gì vậy?”

Gã còn đang suy nghĩ, bỗng thấy sau gáy bị siết chặt lại, rồi thân thể tung lên không trung. Thì ra tên kỵ mã Khất Đan quất ngựa phóng thật nhanh, lôi gã tung bay lên như cái diều giấy để làm trò chơi.

Thân thể Du Thản Chi lơ lửng trên không, cổ gã bị siết chặt đau điếng, miệng mũi bị gió thốc vào dường như ngộp thở. Bỗng nghe cô gái vỗ tay reo lên: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Quả nhiên chẳng khác gì thả diều giấy.” Du Thản Chi ngoảnh mặt về phía có tiếng cười nói, thì thấy người đang vỗ tay hoan hô chính là thiếu nữ mặc áo tím nhan sắc mỹ miều. Du Thản Chi nhìn thấy nàng, không biết nên vui mừng hay nên tủi, người gã đang bay trên không trung, không thể suy nghĩ gì nhiều.

Thiếu nữ kiều diễm này chính là A Tử. Nguyên nàng thấy Tiêu Phong buông tha Du Thản Chi, trong lòng không vui, bèn cưỡi ngựa theo chàng đi một lúc rồi cố ý lùi lại sau, dặn bọn tùy tùng đi bắt gã về và không được cho Tiêu đại vương biết. Bọn tùy tùng biết Tiêu Phong nuông chiều cô bé này, dĩ nhiên không dám trái lệnh. Nhân lúc chàng không để ý, chúng dừng lại trên sườn núi chờ đoàn người đã khuất, rồi mới quay lại đuổi theo bắt Du Thản Chi. A Tử về thành, tránh xa Hựu Thánh cũng là chỗ Tiêu Phong ở, ngồi chờ bắt Du Thản Chi về. Nàng hỏi bọn Khất Đan có phương pháp hành hạ tội nhân đặc biệt tân kỳ nào không, thì có gã đưa ra ý kiến: “Thả diều người.” A Tử thích thú vô cùng, hạ lệnh lập tức thi hành. Thế là cái diều Du Thản Chi được thả lên trời.

A Tử xem đến lúc cao hứng, liền bảo: “Ngươi để ta thử một chút!” Rồi nàng tung mình nhảy lên yên ngựa tên Khất Đan đang cười, cầm lấy dây thòng lọng rồi giục tên quân: “Ngươi xuống đi!”

Tên quân Khất Đan nhảy xuống ngựa để cho A Tử thả diều người. Nàng nắm đầu dây rồi phóng ngựa một vòng, hớn hở tươi cười, miệng liên tiếp hô: “Thú quá! Thú quá!” Nhưng thương thế nàng chưa bình phục hoàn toàn, bàn tay mềm nhũn ra tuột mất đầu dây. Du Thản Chi rớt xuống đất đánh hụych một tiếng, trán gả đụng vào cạnh sắc một phiến đá, bị thủng một lỗ, máu chảy ra như suối. A Tử cụt hứng la mắng: “Sao thằng khốn nạn này nặng đến thế?”

Du Thản Chi đã đau đến chết người, lại nghe nàng mắng cái tội thân thế mình quá nặng, những muốn quay lại tranh luận, nhưng đau quá không nói nên lời. Một tên lính Khất Đan chạy lại tháo dây thòng lọng tròng cổ gã ra, một tên khác xé vạt áo buộc vết thương, nhưng máu tươi vẫn tuôn ra không ngớt, chưa cầm được.

A Tử nói: “Các ngươi thả diều nữa cho ta coi, thả lên càng cao càng thích.” Du Thản Chi không hiểu tiếng Khất Đan, thấy nàng vừa nói vừa giơ tay chỉ trỏ lên nóc nhà, cũng đoán là chuyện không tốt lành gì.

Quả nhiên một tên lính Khất Đan nhặt đầu dây lên, luồn qua nách rồi buộc sau lưng để khỏi làm gã nghẹt thở, rồi quát to một tiếng: “Lên!” rồi phóng ngựa chạy nhanh. Thoạt tiên Du Thản Chi bị kéo lê dưới đất mấy vòng, sau đó mới tung lên cao dần dần. Tên quân Khất Đan thả dây mỗi lúc một dài ra.

Thân hình Du Thản Chi lên càng lúc càng cao, tên Khất Đan đột nhiên quát một tiếng rồi thả đầu dây ra. Du Thản Chi tựa hồ như mũi tên bật khỏi dây cung, bắn tung lên trời. A Tử cùng bọn quan binh reo ầm lên. Du Thản Chi không làm gì được, đành để cho người bay tít lên trời, nghĩ bụng: “Phen này chắc chết!”

Khi tung lên hết đà, gã rơi xuống, đầu dưới chân trên, tựa hồ như đầu gã sắp đâm xuống nền đá xanh. Bốn tên quân Khất Đan liền tung dây thòng lọng ra tròng lấy hông gã rồi giật mạnh ra bốn phía. Du Thản Chi ngất xỉu, bốn luồng lực đạo giữ gã lơ lửng trên không, đầu chúc xuống chỉ còn cách mặt đất chừng ba thước. Tình trạng này cực kỳ nguy hiểm, nếu một trong bốn tên quân Khất Đan ra tay chậm một chút, sức mạnh bốn phía không cân bằng được, thì Du Thản Chi phải đập đầu xuống đá, vỡ óc ra mà chết. Thường ngày bọn Khất Đan vẫn đem dân Tống ra làm trò chơi như vậy, mười người chết hết chín. Dù là ở cánh đồng cỏ mặt đất mềm hơn, không vỡ sọ, nhưng từ trên cao rớt xuống thì cũng gãy cổ, kết quả giống nhau.

Giữa tiếng hoan hô vang dội, bốn tên Khất Đan hạ Du Thản Chi xuống. A Tử lấy tiền ra thưởng cho mỗi tên năm lượng. Cả bọn quan binh sung sướng tạ ơn rồi hỏi: “Cô nương còn muốn xem trò gì nữa không?”

A Tử thấy Du Thản Chi ngất xỉu không biết còn sống hay đã chết rồi. Hơn nữa, cô vừa dùng sức quả nhiều để thả diều người, ngực đau ê ẩm, không muốn xem nữa, liền đáp: “Ta xem chán rồi. Giả tỉ thằng lỏi này không chết thì sáng mai đem vào để ta nghĩ cách tiêu khiển khác. Gã đã toan ám sát Tiêu đại vương thì không thể để chết một cách dễ dàng được.” Đám quan binh dạ ran, lôi Du Thản Chi ra.

Lúc Du Thản Chi tỉnh lại thì mũi ngửi thấy mùi ẩm mốc nồng nặc. Gã mở mắt ra nhìn mà chẳng thấy gì, tự hỏi ngay: “Ta còn sống hay chết rồi?” nhưng lập tức thấy toàn thân đau nhức, khát nước cháy cả cổ, gã cất tiếng gọi: “Nước! Nước!” mà chẳng có ai ngó ngàng tới.

Gã gọi luôn mấy tiếng rồi ngất đi, mơ hồ thấy bá phụ cùng phụ thân giao chiến với Tiêu Phong, máu chảy lênh láng, lại thấy mẫu thân từ ái đặt gã ngồi vào lòng dỗ dành và bảo gã đừng sợ. Gã lại thấy A Tử hiện ra trước mắt thật là kiều mỵ, cặp mắt trong veo như nước hồ thu mà sắc sảo dị thường. Đột nhiên khuôn mặt nàng co rúm lại biến thành cái đầu rắn hình tam giác phùng hai má ra, xông lại cắn gã. Du Thản Chi sợ quá muốn chạy trốn, nhưng ngay cả ngón tay cũng không nhúc nhích được. Gã gắng gượng né tránh nhưng người vẫn cứng đờ. Rồi con rắn độc cắn giật ra từng miếng thịt ở trên tay, dưới đùi, sau lưng, trước cổ, khắp mọi chỗ trong người gã, nhất là ở trên trán bị cắn lại càng mạnh hơn. Gã thấy từng miếng thịt trên người rớt lả tả thì hết hồn, muốn la lên mà không kêu thành tiếng.

Du Thản Chi trằn trọc suốt đêm. Lúc tỉnh thì bị hành hạ, lúc nằm mơ cũng khổ sở chẳng kém gì. Hôm sau hai tên lính Khất Đan áp giải gã đến yết kiến A Tử. Người gã hãy còn nóng ran, mới bước một bước đã ngã lăn ra. Hai tên Khất Đan liền lôi gã dậy, rồi vừa chửi mắng vừa dìu đến một tòa nhà rất lớn. Du Thản Chi tự hỏi: “Bọn này lôi ta đi đâu? Có phải đem đi giết chăng?” Đầu óc gã vẫn mê mẩn, không nghĩ cho rõ ràng được, chỉ mơ hồ biết chúng kéo mình qua hai hành lang. Đến một sảnh đường, hai tên Khất Đan dừng lại trước cửa rồi bấm báo mấy câu. Phía trong có thanh âm thiếu nữ đáp lại, cửa sảnh đường mở ra. Hai tên Khất Đan liền đẩy gã vào.

Du Thản Chi ngẩng đầu nhìn thì thấy dưới nền trải một tấm thảm sặc sỡ. Tận phía trong có một thiếu nữ xinh đẹp ngồi trên tấm nệm, chính là A Tử. Nàng đặt đôi bàn chân trần trên tấm thảm, Du Thản Chi thấy đôi bàn chân nhỏ nhắn trắng như tuyết, trong như ngọc, mịn màng như gấm, trái tim gã bỗng đập mạnh, trong lòng rạo rực. Hai mắt gã nhìn chằm chặp vào đôi chân xinh đẹp kia, da bàn chân nàng trong bóng tưởng chừng phát ra ánh sáng, lại có ẩn hiện mấy đường gân xanh, chỉ muốn vươn tay ra vuốt ve cho hả dạ. Hai tên Khất Đan buông tay ra để Du Thản Chi đứng một mình, gã loạng choạng suýt ngã, rồi cố gượng đứng vững được. Đôi mắt Du Thản Chi vẫn không rời bàn chân A Tử, thấy mười ngón chân nàng đều phơn phớt hồng tựa như những cánh hoa nhỏ bé.

A Tử đưa mắt nhìn Du Thản Chi thấy người gã bê bết máu me dơ bẩn, mặt mũi sưng vều, hàm dưới đưa ra, hai mắt đỏ ngầu như tóe ra những tia lửa thèm muốn. A Tử chợt nhớ lại một con sói bị thương, hôm ấy nàng cùng hai tên sư huynh đi săn ở Tinh Tú Hải, bắn một phát trúng con sói, nhưng nó chưa chết ngay. Con sói bị thương nặng cũng dương đôi mắt tóe lửa ra nhìn nàng, trông y hệt cặp mắt Du Thản Chi lúc này. Nàng đoán rằng con sói muốn chồm lại cắn mình, nhưng đang bị thương, miệng hộc máu ra không còn đủ sức. A Tử thích nhìn cặp mắt Du Thản Chi hầm hầm như dã thú, nàng còn muốn gã gầm lên những tiếng thê thảm. Nhưng gã suy nhược quá rồi, không còn chút sức nào để phản kháng, thực là chẳng thú vị gì. Hôm trước gã toan dùng vôi bột ném cho mù mắt Tiêu Phong, ăn nói quật cường không chịu quỳ lạy, lại không thèm lấy tiền của chàng. A Tử rất hứng thú, coi gã như một loài dã thú rất lợi hại, lại muốn hành hạ thêm cho gã bị thương khắp người, mỗi lần bị thương gã lại chồm lên cắn mình một miếng, dĩ nhiên không để gã cắn trúng. Thế mà khi bắt gã đem về chỉ đem thả diều người, cái loài dã thú không phản kháng này dùng làm trò chơi chẳng có gì thích thú. A Tử chau mày tự hỏi: “Không biết có phương pháp gì mới lạ hành hạ gã này cho vui?”.

Đột nhiên Du Thản Chi kêu lên mấy tiếng “Hà hà” rồi không biết khí lực ở đâu nổi lên, gã nhảy đến bên A Tử tựa hồ con báo vồ mồi. Gã ôm chặt lấy đôi chân bé nhỏ của nàng, cúi rạp đầu xuống mà hôn hít hai bàn chân. A Tử cả kinh kêu thét lên. Hai tên lính Khất Đan cùng bốn ả nữ tỳ hầu cận đều la ầm lên, chạy vào cố gỡ nàng ra.

Du Thản Chi bám dai như đỉa đói, dù chết cũng không buông. Tên quân Khất Đan lội mạnh quá, khiến A Tử đang ngồi trên chiếc nệm bỗng tuột xuống tấm thảm trải dưới đất. Hai tên Khất Đan vừa sợ vừa tức không dám lôi kéo nữa. Một tên đá mạnh vào lưng Du Thản Chi, còn một tên tát vào mặt gã. Những vết thương của Du Thản Chi vẫn còn sưng, cơn sốt chưa dứt, thần trí gã vẫn như người điên chưa tỉnh, bất luận tình cảnh gì trước mắt cũng chỉ thấy lờ mờ. Gã vẫn ôm chặt đôi chân A Tử, đặt môi lên hôn bàn chân nàng.

A Tử thấy môi gã vừa khô vừa nóng áp vào chân mình thì trong lòng sợ hãi, nhưng cũng có cảm giác kỳ dị tê tê buồn buồn. Đột nhiên nàng thét lên lanh lảnh: “Ối chao! Thằng lỏi này cắn ta!” Rồi nàng vội bảo: “Các ngươi mau lùi ra xa! Gã này phát điên rồi, đừng để gã cắn đứt ngón chân ta.” Lúc này Du Thản Chi cắn mơn man ngón chân A Tử, không làm nàng đau, nhưng nàng sợ tên quân Khất Đan đánh đập gã làm cho gã nổi cáu lên cắn mạnh, nên phải bảo chúng lui ra.

Hai tên lính Khất Đan không biết làm thế nào, đành buông tay ra. A Tử dỗ ngọt: “Mi đừng cắn ta nữa, buông ra đi, ta sẽ tha chết cho.” Lúc này tâm thần Du Thản Chi đã mê loạn, không hiểu nàng nói gì. Một tên Khất Đan rút đao ra khỏi vỏ toan chém đứt cổ gã cho rớt đầu ra, nhưng lại sợ chém không khéo làm bị thương đến A Tử, nên chần chừ chưa dám hạ thủ.

A Tử lại dỗ dành: “Chao ôi! Ngươi không phải dã thú, cắn người làm gì? Mau nhả ra đi, ta sẽ kêu người đến trị thương cho ngươi, rồi thả ngươi về Trung Nguyên.” Du Thản Chi vẫn mặc kệ. Răng lưỡi gã vẫn nhẹ nhàng mơn man trên bàn chân A Tử chứ không cắn cho nàng đau, hai bàn tay gã âu yếm vuốt ve lưng bàn chân nàng. Tâm hồn gã thấy phiêu diêu khoan khoái, tựa như lúc làm diều người bay bổng lên không.

Một tên lính Khất Đan phúc chí tâm linh, đột nhiên thò tay ra bóp cổ Du Thản Chi. Gã bị nghẹt thở phải há miệng ra, A Tử vội co đùi lên, rút ngón chân trong miệng gã ra. Nàng sợ gã phát điên lại cắn nữa, liền rút hẳn hai chân giấu sau tấm nệm. Hai tên quân Khất Đan túm chặt lấy Du Thản Chi rồi giơ quyền đấm vào miệng gã hơn mười cái. Gã hộc lên mấy tiếng, rồi thổ máu tươi ra làm dơ bẩn cả tấm thảm trải dưới đất.

A Tử quát: “Các ngươi dừng tay!” Qua cơn nguy hiểm vừa rồi, nàng thấy gã còn dùng làm trò chơi được, chưa đến nỗi vô vị, nên không muốn đánh gã chết ngay. Hai tên quân Khất Đan liền ngừng lại không đánh nữa. A Tử ngồi xếp bằng trên nệm, để hai bàn chân trần xuống dưới mông, rồi tính toán: “Bây giờ hành hạ gã kiểu nào đây?”

Nàng ngẩng đầu lên thấy cặp mắt Du Thản Chi vẫn nhìn mình trừng trừng, liền hỏi: “Sao ngươi lại nhìn ta?” Du Thản Chi chẳng kể sống chết, không nghĩ ngợi gì đáp ngay: “Cô nương đẹp quá, nên tiểu nhân cứ muốn nhìn hoài.” A Tử đỏ mặt lên, nghĩ bụng: “Thằng lỏi này thật là lớn mật, dám buông lời xúc phạm ta.”

Nhưng trước nay nàng chưa từng được nghe một chàng trai nào mở miệng khen mình đẹp. Lúc còn học võ ở phái Tinh Tú, bọn sư huynh đều coi nàng là một đứa trẻ tinh ranh. Từ khi nàng theo Tiêu Phong, lúc chàng không sợ nàng gây chuyện thì lại lo nàng chết, chưa từng để ý đến nàng đẹp hay xấu. Bây giờ A Tử thấy Du Thản Chi khen mình thì trong bụng không khỏi khoan khoái, rồi quyết định: “Ta giữ gã bên mình để lúc nào buồn lại lôi ra tiêu khiển, như vậy cũng hay! Có điều tỉ phu ta đã tha gã, nếu biết ta bắt gã về dĩ nhiên nổi giận. Ta có giấu được hôm nay thì ngày mai cũng bị lộ, muốn tỉ phu ta trước sau vẫn không hay biết thì phải dùng cách gì đây? Ta có thể cấm mọi người xung quanh không được tố cáo với tỉ phu, nhưng lỡ tỉ phu bất ngờ đến đây trông thấy gã thì sao?”

Nàng trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi lẩm bẩm: “A Châu tỉ tỉ rất giỏi cải trang, giả làm gia gia mà tỉ phu cũng không nhận ra. Ta đem gã này thay hình đổi dạng chắc tỉ phu không thể biết được. Nhưng lại sợ gã không tự nguyện, cải trang một lúc rồi gã rửa đi, khôi phục lại chân tướng thì chỉ mất công vô ích.”

Đôi mày cong cong của A Tử nhíu lại, đột nhiên nghĩ ra được một kế, vỗ tay cười ha hả reo lên: “Tuyệt diệu! Ta cứ làm thế là được.” Nàng quay sang dùng tiếng Khất Đan chỉ bảo hai tên quân một hồi, chỗ nào chúng chưa hiểu hỏi lại thì nàng lại giải thích rõ ràng, rồi sai nữ tì đưa cho chúng năm chục lạng bạc. Hai tên Khất Đan nhận tiền rồi cúi mình thi lễ, kéo Du Thản Chi ra ngoài phòng. Du Thản Chi la lên: “Ta muốn ở đây nhìn nàng! Ta muốn nhìn cô bé xinh đẹp mà độc ác kia.” Mấy tên quân Khất Đan cùng bọn nữ tì không biết tiếng Hán, chẳng hiểu gã kêu la chuyện gì. A Tử nhìn theo gã cười hì hì, thưởng thức sáng kiến thông minh của mình, càng nghĩ càng đắc ý.

Du Thản Chi bị kéo về phòng giam, quẳng xuống đống cỏ khô. Đến chiều có người mang lại cho gã một đĩa thịt cừu và mấy cái bánh bao. Người gã vẫn còn nóng ran, miệng nói lảm nhảm, người đưa bánh đến sợ quá, vội đặt thức ăn xuống rồi chạy đi ngay. Du Thản Chi suy nhược đến nỗi không biết đói nữa, thức ăn để đó mà vẫn không đụng đến.

Chiều hôm ấy có ba người Khất Đan đến. Du Thản Chi tuy thần trí mê man, nhưng gã cũng lờ mờ hiểu là lại có những chuyện không hay xảy đến cho mình. Gã gượng đứng lên toan chạy trốn, hai tên Khất Đan lập tức nắm lại, ấn gã ngồi xuống, xoay mặt ngửa lên. Du Thản Chi lên tiếng mắng nhiếc: “Mấy con chó Liêu này muốn chết ư? Đại gia sẽ băm bọn mi ra thành muôn đoạn!” Tên Khất Đan thứ ba bưng một vật gì trắng toát giống như bông gòn hay tuyết, áp chặt vào mặt gã. Du Thản Chi thấy mặt mình vừa ướt vừa mát lạnh, đầu óc liền tỉnh táo nhưng hơi thở không thông. Gã nghĩ thầm: “Chắc bọn này bịt hết miệng mũi cho ta chết ngạt đây!” Nhưng gã biết ngay là mình đoán sai, chỗ miệng mũi có người chọc ra mấy lỗ, gã lại hít thở được như thường, chỉ còn cặp mắt là không mở ra được. Gã cảm giác mặt mình ướt đẫm, bị người xoa nắn tựa hồ như trát bột hay trát bùn vào.

Du Thản Chi mơ hồ tự hỏi: “Không biết bọn ác tặc này đang dùng phương pháp cổ quái gì để giết ta đây?” Sau một lúc, gã thấy chất bột trên mặt mình được khẽ tháo ra, bèn mở mắt nhìn thì thấy một chiếc mặt nạ bằng bột mì. Tên quân Khất Đan hai tay bưng cái mặt nạ bằng bột ướt này rất cẩn thận, chỉ sợ làm hỏng. Du Thản Chi lớn tiếng mắng: “Quân Liêu cẩu hèn mạt! Ta sẽ cho bọn mi chết không có đất mà chôn.” Ba tên quân Khất Đan mặc kệ Du Thản Chi chửi bới kêu gào, chúng mang cái mặt nạ đắp bằng bột đi.

Du Thản Chi sực nghĩ ra, lẩm bẩm: “Phải rồi! Chắc là chúng bôi thuốc độc vào mặt mình, chẳng bao lâu sẽ rữa nát da thịt, biến thành quỷ sứ…” Gã càng nghĩ càng sợ hãi rồi quyết định: “Nếu để chúng hành hạ rồi cũng chết, thà rằng tự tử trước đi còn hơn.” Gã có chủ ý rồi, liền đập đầu vào tường binh binh luôn mấy cái. Bọn ngục tốt nghe tiếng liền chạy vào trói chặt tay, chân gã lại. Du Thản Chi đã đập đầu đến choáng óc sắp ngất đi, để mặc bọn ngục tốt muốn làm gì thì làm.

Qua mấy ngày, gã thấy mặt mình chẳng đau đớn gì mà cũng không nát rữa, nhưng hạ quyết tâm chết cho xong. Gã đói bụng, mà ngục tốt đưa cơm vào không ăn nữa.

Đến ngày thứ tư, ba tên quân Khất Đan lại chạy đến chỗ Du Thản Chi lôi gã đi. Trong lúc đau khổ, gã bỗng nghĩ là A Tử gọi đến để hành hạ, thế thì dù đau đớn nhưng còn được thấy dung nhan người đẹp, cũng được an ủi phần nào. Gã ôm môi hy vọng đó, trên gương mặt nhăn nhúm thoáng hiện một nụ cười.

Ba tên quân Khất Đan đưa gã qua mấy đường hẻm nhỏ rồi vào một căn nhà tối om, đến một chỗ than hồng bốc cháy ngùn ngụt chiếu sáng nửa căn phòng vách đá. Một tên thợ rèn vai u thịt bắp mình trần trùng trục đứng bên lò lửa, chăm chú nhìn một vật đen sì đang cầm trên tay. Ba tên quân Khất Đan đẩy Du Thản Chi đến trước mặt gã thợ rèn, hai tên chia nhau giữ chặt hai tay gã, còn một tên nắm lấy sau lưng. Người thợ rèn nghiêng đầu nhìn y, rồi lại ngắm nghía cái vật cầm trong tay, dường như đang so sánh.

Du Thản Chi đưa mắt nhìn vật trong tay người thợ rèn, thì ra một cái mặt nạ bằng sắt, có bốn lỗ thủng ở miệng, mũi và hai mắt. Gã đang tự hỏi: “Không hiểu cái mặt nạ sắt này dùng để làm gì?”, bỗng người thợ rèn úp chiếc mặt nạ vào mặt gã. Du Thản Chi bất giác ngửa đầu ra sau để tránh, nhưng sau ót đã bị giữ chặt, người thợ vẫn lồng vào được. Sắt thép chạm vào da thịt làm mặt gã thấy mát lạnh, mà kỳ lạ nhất là chiếc mặt nạ này lồng vào mặt gã hết sức vừa vặn, mồm miệng mặt mũi chỗ nào cũng ăn khớp, dường như chế tạo để gã đeo.

Du Thản Chi ngẫm nghĩ một lúc rồi hiểu ngay vụ này. Gã ớn lạnh cả xương sống, than thầm: “Trời ơi! Đúng là chúng làm cái mặt này để cho mình đeo rồi. Bữa trước bọn chúng lấy bột ướt đắp vào mặt mình, thì ra là làm khuôn mặt. Không biết chúng làm vậy là có dụng ý gì? Hay là…”. Du Thản Chi sắp đoán ra mục đích độc ác của bọn Khất Đan đúc mặt nạ, nhưng gã không dám nghĩ thêm nữa, chỉ cố cựa quậy lùi lại.

Người thợ rèn tháo chiếc mặt nạ ra, gật đầu lia lịa ra vẻ hài lòng. Y lấy một cái kìm sắt to tướng, cặp lấy mặt nạ đặt vào lò lửa nung cho đỏ lên. Tay phải y cầm một cái búa sắt gõ beng beng vào mặt nạ một hồi, rồi lại đưa tay sờ đầu sờ gáy Du Thản Chi để sửa lại những chỗ không vừa khít. Du Thản Chi quát mắng: “Bọn Liêu cẩu trời đánh! Chúng mày định làm việc thương thiên nghịch lý gì đây? Chúng mày là những con quỷ hung tàn, trời sẽ giáng họa, không cho chết yên lành đâu! Ông trời sẽ ra tay sát hại cả đến gia súc cùng con cái của chúng mày.” Gã lớn tiếng chửi mắng ầm ầm, nhưng bọn Khất Đan chẳng hiểu chi hết. Tên thợ rèn đột nhiên quay đầu lại nhìn gã bằng cặp mắt hung dữ, giơ cái kìm sắt nung đỏ lên chỉ vào mặt gã. Du Thản Chi khiếp quá, mắt trợn lên miệng há hốc ra.

Tên thợ rèn chỉ dọa thế thôi, cười ha hả rút kìm về. Đoạn y lại lấy ra một cái khuôn sắt hình nửa quả dưa, ướm vào sau gáy Du Thản Chi để sửa lại cho vừa khít. Người thợ rèn đặt cả mặt nạ cùng khuôn gáy vào lò lửa, nung cho đỏ lên, đoạn y lớn tiếng nói mấy câu. Ba tên quân Khất Đan đè ngửa Du Thản Chi trên mặt bàn, đầu thò ra ngoài. Lại thêm hai tên Khất Đan nữa đến tiếp tay giữ đầu gã không cho nhúc nhích. Cả thảy năm người giữ lấy chân tay đầu mình Du Thản Chi khiến gã không động cựa gì được nữa.

Tên thợ rèn lấy kìm gắp cái mặt nạ nóng đỏ trong lò ra, dừng lại cho nguội bớt một chút. Đoạn y quát lên một tiếng thật to, áp chiếc mặt nạ vào mặt Du Thản Chi. Khói trắng bốc lên, mùi thịt khét lẹt bay ra, Du Thản Chi rú lên một tiếng ngất đi. Năm tên Khất Đan lật sấp người gã lại để tên thợ rèn lắp nốt miếng kia vào sau gáy gã, hai nửa úp vào nhau thành một cái lồng chụp quanh đầu Du Thản Chi. Cái lồng sắt hãy còn nóng bỏng, chạm vào da cháy xèo xèo, thịt cũng chín nhũn ra. Tên này là thợ rèn khéo nhất thành Yên Kinh, y chế tạo hai cái nửa đầu ráp vào nhau khít rịt, không hở sợi tóc.

Du Thản Chi phải vào hỏa ngục, trải qua lửa nóng. Gã mê man không biết bao lâu mới hồi tỉnh, nhưng trước mặt sau gáy đau đớn không chịu được, lại tiếp tục ngất đi. Du Thản Chi ba lần ngất đi, ba lần hồi tỉnh. Gã lớn tiếng kêu gào nhưng chỉ phát ra những tiếng ú ớ không phải tiếng người.

Gã nằm thẳng đơ không nghĩ ngợi gì, nghiến răng để cố chịu cái đau đớn khủng khiếp từ trước mặt đến sau gáy. Gã giữ nguyên như vậy đến hai giờ rồi gắng gượng giơ tay lên sờ mặt, thấy vừa lạnh vừa cứng ngắt, biết rằng mình đoán không lầm, cái mặt nạ đã chụp vào đầu rồi. Du Thản Chi căm phẫn vô cùng, cố gắng giằng ra, nhưng cái lồng sắt đã gắn chặt rồi, kéo thế nào cũng không nhúc nhích được. Gã tuyệt vọng không nhịn được nữa, khóc òa lên.

Gã đang độ thiếu niên nên dù đau đớn đến đâu vẫn chịu đựng được, không đến nỗi chết. Mấy hôm sau vết thương dần dần bớt đau, gã cảm thấy đói bụng, ngửi mùi bánh mùi thịt thèm quá không nhịn được, liền bốc ăn. Lúc này Du Thản Chi đã đưa tay lên sờ khắp trên đầu trên mặt, biết rằng cái lồng sắt đã úp chụp kín cả đầu mình không còn cách nào tháo ra được. Mấy hôm đó gã tức giận điên cuồng, nhưng ba ngày sau dần dần bình tĩnh trở lại, tự hỏi: “Tên Liêu cẩu Kiều Phong dùng lồng sắt chụp lấy đầu mình là có dụng ý gì?”

Gã vẫn cho rằng đây là mệnh lệnh của Tiêu Phong, còn dụng ý gì thì đoán mãi không ra. Thật ra, A Tử sai chế lồng sắt chụp vào đầu gã là để che mắt Tiêu Phong, việc này đều do gã đội trưởng Thất Lý theo ý A Tử mà thi hành.

Hằng ngày A Tử vẫn hỏi Thất Lý về tình hình Du Thản Chi sau khi chụp lồng sắt vào đầu. Ban đầu nàng vẫn lo rằng Du Thản Chi đau đến chết mất, nhưng về sau nghe nói gã đã dần dần khỏe lại thì rất hứng thú. Một hôm A Tử được tin Tiêu Phong ra Nam Giao duyệt binh, liền bảo Thất Lý đem Du Thản Chi vào. Nàng ngồi trong Đoan Phúc cung, đợi ba tên lính Khất Đàn bộ hạ của Thất Lý dẫn Du Thản Chi vào. Gia Luật Hồng Cơ muốn chiều lòng Tiêu Phong, đã giáng chỉ phong A Tử làm Đoan Phúc quận chúa, cấp riêng cho nàng Đoan Phúc cung này để ở.

A Tử vừa trông thấy Du Thản Chi, trong lòng xiết nỗi vui mừng. Nàng nghĩ bụng: “Thật là tuyệt diệu! Bây giờ thằng lỏi đã đeo bộ mặt này vào, dù đứng đối diện thì tỉ phu ta cũng không thể nhận ra được.” Du Thản Chi tiến lên mấy bước, A Tử vỗ tay khen ngợi rồi bảo Thất Lý: “Ngươi lấy năm chục lạng bạc thưởng thêm cho tên thợ rèn đã làm việc chu đáo!” Thất Lý nói: “Vâng. Đa tạ Quận chúa.”

Du Thản Chi nhìn qua lỗ mắt trên mặt nạ thấy A Tử tươi cười lại càng xinh đẹp, trong lòng không khỏi rung động. A Tử nhận ra gã Du Thản Chi đeo mặt nạ kỳ dị vẫn nhìn mình không chớp mắt, liền hỏi: “Thằng lỏi ngu xuẩn kia! Mi nhìn ta làm chi vậy?” Du Thản Chi ấp úng: “Tiểu nhân… tiểu nhân không biết!” A Tử hỏi lại: “Mi đeo mặt nạ có dễ chịu không?” Du Thản Chi hỏi lại: “Cô nương thử đoán xem có dễ chịu không?” A Tử cười khanh khách đáp: “Ta đoán không ra.” Nàng thấy lỗ miệng Du Thản Chi rất hẹp, chỉ đủ để ăn cơm húp canh, còn muốn ăn thịt cũng phải xé nát ra mới đưa vào được, liền cười nói: “Ta bắt mi phải đeo mặt nạ là để vĩnh viễn mi không cắn ta được.”

Du Thản Chi mừng thầm, hỏi: “Phải chăng cô nương muốn… muốn tiểu nhân ở bên cạnh để hầu hạ?” A Tử đáp: “Ái chà! Mi thật là khốn kiếp, muốn ở bên cạnh để nghĩ cách hại ta phải không?” Du Thản Chi nói: “Tiểu nhân chỉ thù một mình Kiều Phong, quyết không có ý hại cô nương.” A Tử hỏi lại: “Mi muốn hại tỉ phu ta thì có khác gì hại ta?” Du Thản Chi nghe vậy trong lòng chua xót, không biết trả lời thế nào.

A Tử cười nói: “Mi muốn hại tỉ phu ta, thì lên trời cũng không khó bằng. Thằng lỏi ngu ngốc kia! Mi có muốn chết không?” Du Thản Chi đáp “Dĩ nhiên là tiểu nhân không muốn chết. Nhưng hiện giờ trên đầu tiểu nhân chụp một cái lồng sắt, người chả ra người, quỷ chả ra quỷ, thì dù chết hay sống cũng chẳng khác gì.” A Tử nói: “Nếu quả mi muốn chết thì ta cũng cho toại nguyện, nhưng không chết ngay được đâu.” Nàng quay sang bên cạnh bảo: “Thất Lý! Ngươi lôi nó ra chặt cánh tay trái!” Thất Lý dạ một tiếng rồi túm lấy tay Du Thản Chi.

Du Thản Chi cả kinh la lên: “Không! Không! Tiểu nhân không muốn chết! Cô nương đừng… đừng chặt tay tiểu nhân.” A Tử cười lạt nói: “Ta đã nói sao là làm vậy, trừ phi mi dập đầu năn nỉ!”

Du Thản Chi còn đang ngần ngừ, Thất Lý đã lôi gã đi. Gã không dám chần chừ nữa, quỳ mọp ngay xuống dập đầu lạy, cái đầu chụp lồng sắt chạm xuống đá xanh kêu boong boong như chuông. A Tử cười khanh khách, nói: “Từ nhỏ tới lớn ta chưa thấy ai dập đầu mà âm thanh dễ nghe như vậy. Mi cứ lạy thật lâu để ta nghe.”

Du Thản Chi là tiểu trang chúa ở Tụ Hiền Trang, mặc dù mọi người trong trang đều biết gã là một tên đốn mạt văn dốt võ dát, nhưng con Du Ký chết non, Du Câu chỉ có mình gã, quý như hòn ngọc. Tiểu trang chúa mà gọi một tiếng thì gia nhân dạ răm rắp. Từ thuở nhỏ gã đã được nuông chiều, ăn sung mặc sướng, có bao giờ chịu khổ nhục như ngày nay? Lúc Du Thản Chi mới gặp Tiêu Phong, gã còn có khí phách quật cường, thà chết chứ không chịu quỳ lạy. Nhưng mấy bữa nay từ tâm hồn cho đến thể xác đã chịu không biết bao nhiêu đau đớn cực nhục, gã mất hết chí khí, bắt quỳ gã cũng quỳ, bắt lạy gã cũng lạy. A Tử khen gã dập đầu nghe êm tai, gã cũng dập đầu lia lịa vang lên những tiếng boong boong, lại còn hoan hỉ vì được người đẹp như tiên khen.

A Tử mỉm cười nói: “Hay lắm! Từ đây trở đi, ta sai bảo điều gì, mi răm rắp thực hiện thì thôi, còn nếu trái lệnh thì lập tức ta sai chặt tay. Mi đã nhớ chưa?” Du Thản Chi nói: “Vâng, vâng.” A Tử nói: “Ta cứu mạng mi mà mi không biết cám ơn ta. Tiêu đại vương muốn bằm mi nát ra như cám, mi có biết không?” Du Thản Chi đáp: “Y là kẻ thù giết thân phụ tiểu nhân, cố nhiên không chịu buông tha.” A Tử nói: “Đại vương giả vờ tha mi, rồi lại sai bắt ngươi về để băm vằm mi ra. Ta thấy mi không đến nỗi hèn hạ lắm, nghĩ cũng tội nghiệp, nên sai người tìm cách giấu mi. Giả tỉ Tiêu đại vương lại gặp mi thì ắt mi phải chết, lại phiền hà đến ta nữa.”

Du Thản Chi tỉnh ngộ nói: “À! Thế ra cô nương đúc cái lồng sắt này bịt đầu tiểu nhân là để cứu mạng. Tiểu nhân cảm kích vô cùng!”

A Tử lừa được gã đem lòng cảm kích thì đắc ý vô cùng, mỉm cười nói: “Sau này mi có gặp Tiêu đại vương thì đừng nói năng chi hết, để y không nghe được thanh âm. Nếu mi lên tiếng, y nhận ra mi, tức khắc đem chặt cánh tay trái, rồi chờ mi tỉnh dậy lại chặt nốt cánh tay phải. Thất Lý! Ngươi kiếm y phục Khất Đan cho gã mặc, nhớ tắm rửa sạch những chỗ máu mủ trong người gã cho đỡ tanh hôi!” Thất Lý vâng lệnh, lôi Du Thản Chi ra ngoài.

Chẳng mấy chốc tên đội trưởng lại đưa gã vào, đã mặc quần áo Khất Đan, Thất Lý muốn lấy lòng A Tử, cho gã mặc quần áo sặc sỡ giống như một tên tiểu sửu đóng vai hề trong tuồng kịch.

A Tử cười to, nói: “Ta đặt tên cho mi là Thiết Sửu. Từ bây giờ nếu ta kêu Thiết Sửu thì mi phải vâng dạ ngay.” Rồi nàng cất tiếng gọi to: “Thiết Sửu!” Du Thản Chi vội đáp: “Dạ, dạ!”

A Tử thích chí vô cùng. Đột nhiên nàng nhớ ra một điều, liền hỏi: “Thất Lý! Có phải nước Đại Tự bên Tây Vực mới đem biếu một con sư tử không? Ngươi kêu quản sư đem nó vào đây, gọi thêm mấy tên vệ sĩ đến nữa.”

Thất Lý vâng lệnh chạy đi. Mười sáu tên vệ sĩ cầm trường mâu chạy vào trong điện, khom lưng thi lễ rồi đứng thẳng lên, chĩa mười sáu mũi trường mâu ra phía ngoài để bảo vệ cho A Tử. Lát sau ngoài điện có tiếng sư tử gầm thét, tám đại hán khiêng một chiếc cũi sắt vào. Trong cũi có một con sư tử đực lông vàng, bờm dài, nanh vuốt sắc nhọn, đang chạy quanh trông rất hung dữ. Gã quản sư tay cầm roi da đi trước.

A Tử thấy con mãnh sư hung hăng đến phát khiếp, thì hớn hở nói: “Thiết Sửu! Ta bảo người làm một việc, ngươi có chịu nghe lời ta không?” Du Thản Chi đáp: “Vâng!” Gã trông thấy con sư tử thì trong lòng hồi hộp tự hỏi: “Không biết A Tử muốn ta làm gì đây?”, trống ngực đánh hơn trống làng. A Tử nói: “Ta không hiểu cái lồng sắt bịt đầu ngươi có kiên cố không. Ngươi thử thò đầu vào cho con sư tử cắn mấy miếng xem có vỡ được không?”

Du Thản Chi nghe lệnh mà hồn vía lên mây, ấp úng: “Việc này… việc này… không nên thử. Giả tỉ nó cắn vỡ thì đầu tiểu nhân…” A Tử gắt gỏng: “Mi thật là vô dụng, việc nhỏ xíu thế mà cũng sợ. Đại trượng phu thì coi cái chết nhẹ như lông hồng mới phải. Mà ta xem chừng nó cắn không vỡ được đâu.” Du Thản Chi năn nỉ: “Cô nương! Chuyện này không đùa được. Nếu nó cắn không vỡ, thì cái lồng sắt cũng bị móp méo, rồi đầu tiểu nhân…” A Tử cười khanh khách nói: “Đầu ngươi có méo mó một chút cũng chẳng sao. Thằng lỏi này thật là lắm chuyện! Cái đầu mi vốn chẳng đẹp đẽ gì, mà dù méo mó thì cũng ở bên trong cái lồng chẳng ai trông thấy. Hà tất ngươi phải quan tâm nó đẹp hay xấu?” Du Thản Chi vội cãi: “Đâu có phải tiểu nhân nghĩ đến chuyện đẹp hay xấu..” A Tử sa sầm nét mặt gạt phắt đi: “Mi dám không nghe lời ta ư? Được lắm, ta quẳng ngươi vào trong cũi cho sư tử ăn thịt!” Đoạn nàng quay ra dùng tiếng Khất Đan nói mấy câu, Thất Lý dạ một tiếng rồi chạy lại, nắm lấy Du Thản Chi.

Du Thản Chi nghĩ thầm: “Nếu người mình bị quẳng vào cũi cho sư tử cắn thì chắc chết. Thôi ta đành thò cái đầu sắt vào cũi còn đỡ hơn, việc sống hay chết phó mặc cho vận số.” Nghĩ vậy, gã la lên: “Đừng! Đừng! Tiểu nhân xin vâng lời cô nương!”.

A Tử cười nói: “Thế mới phải! Ta bảo ngươi cái gì thì lập tức ngươi phải thi hành! Nếu bướng bỉnh để bản cô nương nổi nóng thì không hay đâu. Thất Lý! Ngươi đè gã ra đánh ba chục roi.” Thất Lý vâng lệnh, rút lấy cây roi da trong tay gã quản sư quất vào lưng Du Thản Chi. Du Thản Chi đau quá không chịu được, rú lên một tiếng: “Úi chao!”

A Tử nói: “Tên Thiết Sửu kia! Ta cho mi hay, ta sai người đánh mi là tử tế với mi lắm rồi. Thế mà mi lại la làng, phải chăng không muốn ta đánh?” Du Thản Chi vội nói: “Không! Không! Tiểu nhân vui lòng lắm. Đa tạ ân đức cô nương.” A Tử bảo: “Thế thì tốt. Đánh đi!” Thất Lý quất veo véo một lúc mười roi. Du Thản Chi nghiến răng chịu đựng không dám hé miệng. May mà gã đã đội lồng sắt, roi da chừa đầu ra chỉ vụt vào lưng, nên gã có thể chịu đựng được.

A Tử thấy gã không rên rỉ gì, hết cả hứng thú bèn hỏi: “Thiết Sửu! Ta hỏi đây, có phải ngươi thích việc ta đã sai người đánh mi không?” Du Thản Chi đáp ngay: “Vâng” A Tử lại hỏi: “Ngươi nói thực hay nói dối? Ta cho rằng ngươi lừa bịp ta.” Du Thản Chi nói: “Thực tình là như vậy, tiểu nhân không dám lừa bịp cô nương.” A Tử nói: “Mi đã thích thế, sao lại không cười mà reo lên?” Du Thản Chi bị nàng hành hạ nát ruột tan hồn, mất cả ý niệm thù hận, miễn cưỡng lên tiếng: “Cô nương thật là tử tế, tiểu nhân được ăn đòn khoan khoái vô cùng!”

A Tử nói: “Thế mới phải chứ! Thử xem.” Nàng nói xong, đập bàn một cái, Thất Lý vung roi lên vụt một phát. Du Thản Chi cười ha hả, reo lên: “Đa tạ cô nương! Roi đòn này thật là sung sướng.” Chỉ chốc lát gã đã bị đánh đến hai chục roi, kể cả đợt trước tổng cộng hơn ba chục. A Tử vẫy tay nói: “Hôm nay thế là đủ rồi. Bây giờ mi thò đầu vào cũi đi.”

Du Thản Chi đau ê ẩm cả người, loạng choạng bước đến bên cũi sắt. Gã nghiến răng thò đầu vào trong cũi. Con sư tử thấy có người thách thức, giật mình lùi lại, hai mắt nhìn chằm chặp vào cái đầu sắt một hồi rồi lùi thêm một bước nữa, miệng gầm gừ ra oai.

A Tử bảo tên quản sư: “Ngươi giục sư tử đi. Sao mãi nó không chịu cắn?” Tên quản sư liền quát lên mấy tiếng, con sư tử nghe lệnh chồm lại há miệng thật to ngoạm lấy đầu Du Thản Chi, nghe tiếng sào sạo, hàm răng sư tử nghiến vào chiếc lồng sắt. Du Thản Chi sợ quá nhắm mắt lại, cảm thấy một luồng hơi nóng xông vào qua những lỗ hổng thì biết rằng cả cái đầu mình đã lọt vào hàm sư tử, rồi thấy trước trán và sau gáy đau đớn kịch liệt. Đó là do lúc người thợ rèn chụp cái lồng sắt nóng bỏng vào đầu gã, đầu và mặt bị cháy cả da thịt. Những vết thương mới liền da, bây giờ sư tử cắn vào lại loét ra.

Sư tử cố sức cắn mấy cái mà không thủng, lại thấy ê răng. Nó nổi hung giơ vuốt lên cào vai Du Thản Chi. Gã đau điếng, hét lên một tiếng “Úi chao!”. Con sư tử thấy tự nhiên có tiếng thét trong miệng mình thì không khỏi giật mình, há miệng ra lùi lại một góc cũi sắt.

Tên quản sư lại lớn tiếng quát tháo giục sư tử vồ Du Thản Chi cắn nữa. Du Thản Chi nổi giận, đột nhiên vươn tay nắm được gáy tên quản sư ra sức kéo mạnh, đút được đầu gã vào cũi sắt, gã quản sư rú lên. A Tử khoái chí vỗ tay cười ha hả: “Tuyệt diệu! Đừng ai can thiệp, để ta coi ai sống ai chết!”

Mấy tên lính Khất Đan toan chạy lại gỡ gã quản sư ra khỏi tay Du Thản Chi, nhưng nghe A Tử nói vậy lại thôi.

Gã quản sư ra sức cựa quậy, nhưng lúc này Du Thản Chi đã nổi hung tính, giữ lấy chằng chằng, nhất quyết không chịu buông tha. Gã quản sư chỉ còn mong con sư tử lại cứu mình, bèn thét lên: “Cắn! Cắn chết đi!” Con sư tử nghe gã giục rối rít, gầm lên một tiếng đinh tai nhức óc, nhảy chồm lại. Nó nghe chủ nhân giục cắn mà không biết cắn ai, bèn nhe hàm răng sắc nhọn trắng nhởn ngoạm rau ráu, cắn đứt nửa đầu gã quản sư, óc và máu tươi vọt ra tung tóe trên mặt đất!

A Tử hớn hở reo ầm lên: “Ha ha! Thiết Sửu đại thắng! Thiết Sửu đại thắng!” Nàng vẫy tay ra lệnh cho bọn lính Khất Đan khiêng cũi sư tử và xác gã quản sư ra ngoài, rồi bảo Du Thản Chi: “Được rồi! Mi làm vừa lòng ta, ta muốn thưởng mi mà chưa biết thưởng gì.” Nàng chống tay lên má, ra chiều suy nghĩ.

Du Thản Chị nói: “Cô nương! Tiểu nhân không dám mong cô nương ban thưởng, chỉ xin cô nương một việc.” A Tử hỏi: “Mi xin điều gì?” Du Thản Chi nói: “Tiểu nhân xin được ở luôn bên mình cô nương để hầu hạ.” A Tử hỏi lại: “Mi muốn hầu hạ ta ư? Để làm chi vậy? À phải rồi, mi muốn ở đây để chờ Tiêu đại vương đến thăm ta, thừa cơ hạ thủ, báo thù cho song thân phải không?” Du Thản Chi vội đáp: “Không! Không phải thế.” A Tử hỏi lại: “Không lẽ ngươi không định báo thù hay sao?” Du Thản Chi nói: “Tiểu nhân đến đây đúng là có ý báo thù, nhưng một là không đủ sức, hai là không muốn dính líu đến cô nương.

A Tử nói: “Sao mi thích làm nô lệ cho ta?” Du Thản Chi đáp: “Cô nương là tiên hạ phàm, là người đẹp nhất trần gian. Tiểu nhân… chỉ mong ngày ngày được trông thấy cô nương.”

Câu nói này thật là hỗn xược, nhưng A Tử nghe lại thấy thích thú. Nàng còn nhỏ tuổi, tuy nhan sắc mỹ miều song chưa trưởng thành hẳn, lại nàng bị trọng thương chưa khỏi, vẫn còn gầy nhom xanh mét. Du Thản Chi thấy nàng đẹp nhất trần gian thì thật là khó hiểu, nhưng nàng thấy ở đời có kẻ say mê nhan sắc của mình thì cũng khoan khoái trong lòng.

A Tử đã toan ưng thuận lời khẩn cầu của Du Thản Chi, bỗng có thị vệ vào báo: “Đại vương đến thăm!” A Tử đưa mắt nhìn Du Thản Chi khẽ hỏi: “Ngươi có sợ không?” Du Thản Chi run run đáp: “Không sợ.” Cửa lớn mở ra, Tiêu Phong mình mặc áo khinh cừu, lưng thắt đai lụa đi vào. Chàng vừa bước qua cửa đã thấy một vũng máu tươi, lại thấy một người đầu chụp lồng sắt, điệu bộ kỳ dị, bèn nhìn A Tử cười hỏi: “Hôm nay cô ra vẻ khoan khoái, chắc lại có trò gì mới lạ phải không? Người này đeo cái gì trên đầu lạ thế?” A Tử cười đáp: “Nước Cao Xương bên Tây Vực mới đem cống gã Thiết Sửu này, sư tử cắn đầu gã cũng không vỡ được. Tỉ phu coi đầu gã còn vết sư tử cắn đây này!” Tiêu Phong nhìn kỹ cái lồng sắt, quả nhiên vết răng sư tử in rõ mồn một. A Tử lại nói tiếp: “Tỉ phu ơi! Tỉ phu có cách nào tháo cái lồng sắt ra không?”

Du Thản Chi nghe A Tử nói vậy, hồn vía lên mây. Gã đã chứng kiến Tiêu Phong đại hiển thần oai đánh nhau với quần hùng Trung Nguyên, từng vung quyền đánh văng mất lá mộc bằng sắt trên tay bá phụ cùng phụ thân gã, bây giờ muốn tháo cái lồng sắt trên đầu gã phỏng có khó gì? Lúc thợ rèn lắp cái lồng sắt vào đầu thì gã muốn ngất đi, thế mà bây giờ gã chỉ mong cái lồng này vĩnh viễn che lấy đầu mình, để Tiêu Phong khỏi nhìn ra bản tướng.

Tiêu Phong đưa ngón tay ra gõ nhẹ vào cái lồng sắt nghe kêu “coong coong”, Chàng bật cười nói: “Cái lồng này rất kiên cố. Người ta chế tạo nó thật là tinh vi, phá hủy đi không đáng tiếc sao?”.

A Tử nói: “Sứ giả nước Cao Xương kể rằng, gã này mặt xanh nanh vàng, ba phần giống người bảy phần giống quỷ, ai trông thấy cũng phải té xỉu. Vì thế mà song thân gã kêu thợ rèn đúc cái lồng sắt này chụp vào đầu để người ngoài trông thấy khỏi phải khiếp sợ! Tỉ phu ơi! Tiểu muội muốn coi chân tướng gã thế nào mà thiên hạ nhìn thấy phải phát khiếp.”

Du Thản Chi lại càng run sợ, hai hàm răng khua lên cầm cập. Tiêu Phong thấy gã kinh hãi quá, liền nói: “Gã này sợ quá rồi, coi mặt gã làm quái gì? Gã đã chụp lồng sắt từ thuở nhỏ, mình mà cố gắng tháo ra, e rằng gã không sống được.”

A Tử vỗ tay cười nói: “Nếu vậy càng hay! Mỗi khi tiểu muội bắt được con rùa đều lột bỏ cái mai đi, thử coi nó có sống được không.” Tiêu Phong bất giác chau mày, cho là tâm địa nàng cực kỳ tàn nhẫn. Chàng nói: “A Tử! Sao muội lại thích chơi những trò độc ác bắt người ta phải sống dở chết dở như vậy?”

A Tử tru tréo lên: “Trời ơi! Thì ra tỉ phu không thương tiểu muội gì hết. Tiểu muội đâu có bằng được A Châu tỉ tỉ? Nếu tỉ phu coi tiểu muội cũng như A Châu tỉ tỉ thì sao mấy ngày không tới thăm tiểu muội lấy một lần? Tiêu Phong nói: “Ta làm cái chức Nam Viện đại vương gì gì đó thật là ngán quá! Ngày nào cũng như ngày nấy, công việc bận tíu tít chẳng có lúc nào mở mắt ra được. Nhưng mỗi ngày ta chẳng đến thăm cô một lần là gì?”. A Tử ngắt lời, dằn dỗi: “Mỗi ngày một lần! Tiểu muội không muốn tỉ phu diễn cái trò mỗi ngày đến thăm một lần lấy lệ như vậy. Nếu là A Châu tỉ tỉ thì nhất định tỉ phu ở luôn bên cạnh không rời nửa bước!”

Tiêu Phong nghe A Tử nói đúng không biết trả lời ra sao, đành cười khà khà nói: “Ta là người lớn, không biết chơi những trò trẻ con. Sao cô không kiếm mấy cô bé cùng lứa tuổi mà trò chuyện cho vui có phải hơn không?” A Tử lại hỏi: “Trẻ con với chẳng trẻ con! Tiểu muội có còn trẻ con nữa đâu? Tỉ phu đã không muốn chơi với tiểu muội thì đến đây làm gì nữa?” Tiêu Phong nói: “Ta đến đây xem cô có mạnh khỏe hơn chút nào không. Bữa nay cô đã uống mật gấu chưa?”

A Tử hùng hổ nhấc chiếc nệm lên liệng xuống đất, lại giơ chân đá một cái rồi nói: “Tiểu muội đã phiền muộn trong lòng thì mỗi ngày có uống đến hàng trăm cái mật gấu cũng chẳng ăn thua gì.”

Tiêu Phong thấy A Tử làm mình làm mẩy, giả tỉ là A Châu thì chàng sẽ nghĩ cách dỗ dành, nhưng với con người điêu ngoa độc ác như A Tử thì chán ghét không chịu nổi, chỉ buông thõng một câu: “Cô nằm nghỉ một lát cho đỡ mệt.”, rồi đứng dậy đi ra.

A Tử ngơ ngẩn nhìn theo Tiêu Phong, muốn khóc òa lên, Nàng chợt thấy Du Thản Chi đứng đó, bao nhiêu lửa giận liền trút lên đầu gã, bèn quát lên: “Thất Lý! Quất cho gã ba mươi roi.” Thất Lý “dạ” một tiếng, lại rút lấy roi da.

Du Thản Chi vội kêu lên: “Cô nương! Tiểu nhân có làm gì lầm lỗi đâu?” A Tử chẳng lý gì đến gã, lại quát Thất Lý: “Đánh đòn mau!” Thất Lý tuân lệnh cầm roi quất veo véo vào lưng Du Thản Chi. Gã không ngớt kêu la van vỉ: “Cô nương! Xin cho biết tiểu nhân đã phạm tội gì để sau này khỏi tái phạm.” Thất Lý lại quất mạnh luôn mấy roi. A Tử nói: “Ta muốn đánh là đánh! Mi không có quyền chất vấn ta, chẳng lẽ mi vô tội mà ta lại đánh oan mi hay sao? Mi muốn biết đã phạm tội gì ư? Ta cho mi hay, vì mi dám chất vấn ta nên phải đánh đòn!”.

Du Thản Chi cãi lại: “Cô nương đánh trước nên tiểu nhân mới hỏi. Lúc tiểu nhân chưa hỏi, cô nương đã sai đánh rồi kia mà?” Ngọn roi lại quất đen đét luôn ba phát. A Tử cười nói: “Ta đoán là mi sẽ hỏi nên sai gã đánh mi, quả nhiên mi chất vấn ta thật! Thế có phải là ta liệu việc như thần không? Nếu mi đúng là kẻ tận trung thì khi bị ta đánh phải cố sức chịu đựng, lại còn vui vẻ chịu đòn mới phải. Mi lên tiếng kêu la là trong lòng không phục rồi. Thôi! Mi đã không muốn thì ta chẳng thèm sai người đánh nữa đâu, không sao.”

Du Thản Chi nghe vậy lại càng sợ hãi, người gã nổi da gà run lên bần bật. Gã biết rằng nếu A Tử không đánh nữa, nhất định sẽ nghĩ ra hình phạt thảm khốc gấp mười, thà chịu mấy chục roi đòn còn hơn. Nghĩ vậy gã vội kêu van: “Tiểu nhân thực là có lỗi! Xin cô nương cứ đánh nữa cho, tiểu nhân cảm tạ ơn đức! Cô nương đánh nhiều chừng nào, bổ ích cho tiểu nhân chừng ấy.”

A Tử mỉm cười hỏi: “Mi thông minh đấy, nhưng ta không mắc mưu đâu. Phải chăng mi giả vờ xin ta đánh, là để ta hả dạ rồi tha cho mi?” Du Thản Chi nói: “Tiểu nhân không dám lừa bịp cô nương.” A Tử lại hỏi: “Mi thật sự muốn ta đánh thật nhiều ư?” Du Thản Chi đáp: “Tâm nguyện của tiểu nhân đúng là như vậy.” A Tử nói: “Tốt lắm! Ta sẽ cho mi toại nguyện. Thất Lý! Gã này muốn ăn nhiều đòn, ngươi đánh gã đủ một trăm roi.”

Du Thản Chi giật mình nghĩ thầm: “Đánh một trăm roi thì còn chi là tính mạng? Nhưng việc đã đến thế này, có kiên quyết không chịu thì cũng cứ bị đòn. Vậy mình có chống cự cũng chẳng ăn thua gì.” Gã nghĩ vậy, bèn không nói gì nữa.

A Tử hỏi: “Sao mi lại lầm lì không nói? Phải chăng trong lòng mi còn ấm ức? Ta kêu người đánh mi, chắc mi cho rằng ta bất công phải không?” Du Thản Chi nói: “Tiểu nhân chân tâm kính phục cô nương, biết rõ cô nương sai đánh tiểu nhân là có hảo tâm muốn thành toàn cho tiểu nhân.” A Tử hỏi: “Thế sao mi chẳng nói năng gì?” Du Thản Chi không biết trả lời ra sao, gã ấp úng: “Cái đó… cái đó… tiểu nhân đang nghĩ đến ơn đức cô nương thâm trọng như non, vô cùng cảm kích, không nghĩ ra lời nào trình bày cho hết được! Tiểu nhân không biết sau này lấy chi đền đáp cô nương cho phải.”

A Tử nói: “Ái chà! Mi không biết đền đáp ta cách nào ư? Ta sai người đánh mi một roi là mi lại ghi vào lòng mà căm thù ta chứ gì?” Du Thản Chi xua tay lia lịa đáp: “Không phải! Không phải! Tiểu nhân nói đền đáp là đền đáp thật tình, Tiểu nhân đã quyết tâm, có phải nhảy vào đống lửa hay phải tan xương nát thịt vì cô nương cũng cam lòng.”

A Tử nói: “Vậy thì hay lắm! Đánh gã đi!” Thất Lý “dạ” một tiếng rồi rút roi da ra bắt đầu quất Du Thản Chi.

Lúc đánh được năm chục roi. Du Thản Chi đã tê dại cả người, hai gối gã nhũn ra từ từ rũ xuống. A Tử thấy vậy cười hì hì, đã định bụng hễ gã lên tiếng van xin thì lại tăng thêm năm mươi roi nữa. Ngờ đâu lúc này Du Thản Chi đã nửa mê nửa tỉnh, thỉnh thoảng chỉ rên ư ử trong miệng chứ không van vỉ chi hết. Chịu hơn bảy mươi roi thì gã ngất lịm đi, Thất Lý vẫn chẳng dung tình, đánh đủ trăm rồi mới thôi.

A Tử thấy Du Thản Chi chỉ còn thoi thóp thở, tình trạng cửu tử nhất sinh. Nàng đâm ra cụt hứng liền nói: “Các ngươi đem gã ra ngoài! Thằng lỏi này chẳng có gì đáng coi nữa. Thất Lý! Ngươi còn trò gì mới mẻ nữa không?”

Du Thản Chi bị trận đòn này phải dưỡng thương đến hơn một tháng mới khỏi. Bọn lính Khất Đan thấy đã lâu A Tử không kêu đem gã lại để hành hạ nữa, dường như quên hẳn rồi. Chúng liền ghi tên gã vào danh sách những người Tống bị bắt, cho đi theo bọn này làm những việc đại khái như hốt phân rửa chuồng, nhặt phân bò, lột da cừu, gặp việc gì làm việc ấy.

Trên đầu Du Thản Chi đã chụp chiếc lồng sắt, mọi người đều chế nhạo, khinh mạn gã. Cả đến người Hán đồng tộc cũng coi gã như quái vật. Du Thản Chi ráng sức chịu đựng, tựa hồ đã biến thành câm điếc. Ai đánh mắng gã, gã cũng không hề chống cự. Chỉ khi có người cưỡi ngựa đi ngang qua là gã mới ngẩng đầu lên nhìn một cái. Du Thản Chi chỉ còn một điều tâm nguyện là mong có ngày được A Tử gọi đến để đánh cho một chập. Hiện giờ, gã coi việc không được gặp A Tử là cực hình còn đau khổ hơn bị đánh đòn.

Thời gian cứ trôi, hai tháng sau tiết trời đã đỡ lạnh. Một hôm Du Thản Chi đang theo mọi người ra ngoài thành Nam Kinh vác đất, khuân gạch để đắp tường thành, bỗng nghe tiếng vó ngựa lộp cộp. Có mấy người cưỡi ngựa từ cửa nam ra, một âm thanh trong trẻo cười nói: “A ha! Gã Thiết Sửu chưa chết ư? Ta cứ tưởng gã bỏ mạng từ lâu rồi. Thiết Sửu! Mi lại dây!” Người vừa nói đó chính là A Tử.

Du Thản Chi ngày đêm mơ tưởng, chỉ mong được nghe thanh âm của nàng. Gã vừa nghe gọi đã cuống cả lên, hai chân tựa hồ dính chặt xuống đất không sao nhấc lên được. Trái tim gã rạo rực như muốn nhảy ra ngoài lồng ngực, lòng bàn tay tuôn mồ hôi ra ướt đẫm.

A Tử gắt lên: “Thiết Sửu! Thằng chết toi kia! Ta gọi mà mi không nghe thấy hay sao?” Du Thản Chi vội đáp: “Dạ! Cô nương!…” Gã quay đầu lại, chạy tới trước ngựa A Tử. A Tử hớn hở, cười hỏi: “Thiết Sửu! Sao mi lại chưa chết?” Du Thản Chi đáp: “Tiểu nhân chưa tìm được cách báo đáp ơn đức cô nương, sao đã chết được?” A Tử lại càng khoan khoái, cười khanh khách nói: “Ta đang tìm một tên nô bộc trung thành để làm một việc trọng đại, e rằng người Khất Đan tay chân cục mịch làm hỏng việc. Mi chưa chết thì hay lắm, theo ta đi!” Du Thản Chi đáp: “Xin vâng.”, rồi đi theo ngựa nàng.

A Tử vẫy tay ra hiệu cho Thất Lý cùng ba tên vệ sĩ Khất Đan quay về. Thất Lý biết A Tử đã nói là làm, không ai khuyên can được. Vả lại thằng lỏi mặt sắt này hèn hạ nhu nhược đến cực điểm, dù có theo nàng cũng không xảy ra chuyện được. Y chỉ dặn một câu: “Xin cô nương sớm về phủ”, rồi cả bốn tên nhảy xuống ngựa đứng đợi ngoài cổng thành.

A Tử buông lỏng cương cho ngựa đi thong thả, chừng bảy tám dặm thì chung quanh bắt đầu hoang vu tịch mịch, rồi đến một khe núi âm u, gió lạnh rít lên theo khe núi thổi vào, khiến da thịt phải tê dại.

Nàng nói: “Hay lắm! Chỗ này được rồi”, bèn buộc ngựa vào gốc cây rồi dặn Du Thản Chi: “Mi phải nhớ vào đầu, những việc trông thấy hôm nay không được tiết lộ với ai, ngay với chính ta cũng không được đề cập đến nữa. Nghe rõ chưa?”

Du Thản Chi đáp: “Vâng, vâng!” Lúc này gã mừng như điên. Được A Tử gọi ra nơi hẻo lánh này, dù là để đánh gã một trận nhừ xương thì gã cũng vui vẻ cam tâm.

A Tử thò tay vào bọc lấy chiếc đỉnh gỗ sắc vàng đặt xuống đất nói: “Lát nữa thấy những loài sâu bọ cổ quái xuất hiện, ta cấm mi không được sợ sệt, nhất là không được lên tiếng”. Du Thản Chi lại đáp: “Vâng.”

A Tử lại lấy trong bọc một cái túi vải nhỏ xíu, mở ra thì bên trong có mấy viên đủ màu sắc vàng, đen, tím, đỏ. Nàng véo lấy mỗi thứ một chút, bỏ vào trong đỉnh châm lửa đốt lên, rồi đậy nắp đỉnh lại nói: “Chúng ta ngồi ở gốc cây này để coi chừng.”

A Tử ngồi xuống gốc cây. Du Thản Chi không dám ngồi cạnh nàng, chạy lại ngồi trên một tảng đá dưới chiều gió. Gió lạnh căm căm vẫn thổi, quyện mùi thơm ngát từ y phục A Tử, Du Thản Chi ngây ngất đê mê, nghĩ rằng có được giây phút như lúc này, thì những đau đớn ê chề bấy lâu đã được trả quá hậu rồi. Gã chỉ mong A Tử vĩnh viễn ngồi dưới gốc cây, để mình được đứng xa xa hầu tiếp là mãn nguyện.

Tâm hồn Du Thản Chi đang bay bổng lên chín tầng mây, bỗng nghe có tiếng sột soạt, trong đám cỏ rậm rạp có con vật gì đỏ chót đang động đậy, nhìn kỹ thì là một con rết rất lớn toàn thân lấp lánh. Đầu nó có một cái bướu lồi ra, thật là đặc biệt. Con rết này ngửi thấy mùi hương từ trong mộc đỉnh bay ra liền chuyển mình bò tới, theo lỗ trên đỉnh chui vào rồi không ra nữa.

A Tử lấy trong bọc một mảnh đoạn, tiến lại gần cái đỉnh, phủ tấm đoạn lên rồi gói chặt mộc đỉnh lại, dường như sợ con rết ở trong bò ra mất. Nàng bỏ vào cái túi da treo ở cổ ngựa, cười nói: “Đi thôi”, rồi lên ngựa quay về.

Du Thản Chi theo sau A Tử, nghĩ thầm: “Cái đỉnh này thật là cổ quái, chỉ đốt hương liệu là dẫn dụ được con rết to tìm đến. Không hiểu chơi với rết có gì là thú mà cô nương phải đến tận nơi hoang sơn dã lĩnh bắt về?”

A Tử về đến Đoan Phúc cung bèn kêu bọn thị vệ bố trí một cái phòng nhỏ cho Du Thản Chi ở. Gã cả mừng, biết rằng từ nay có thể thấy mặt A Tử thường xuyên. Sáng hôm sau A Tử cho gọi Du Thản Chi đến một gian phụ, tự tay đóng cửa lại, trong phòng chỉ có hai người. A Tử chạy lại góc phòng phía Tây, mở một cái hũ sành ra, cười nói: “Người xem có hay không?” Du Thản Chi nhìn vào, thấy con rết bắt được hôm qua đang chạy qua chạy lại rất nhanh trong hũ.

A Tử bắt một con gà trống lớn đã chuẩn bị sẵn rút đoản đao chặt hết mỏ và móng nhọn của nó, rồi vứt vào hũ sành. Con rết lập tức nhảy chồm lên đầu gà, cắn để hút máu, chỉ chốc lát là con gà trống thấm chất độc lăn ra chết. Thân mình con rết dần dần phồng lên, cái đầu đỏ căng cứng tựa hồ sắp bật máu A Tử cả mừng, khẽ nói: “Thành công rồi! Môn tuyệt kỹ này ta có thể luyện thành tựu được.”

Du Thản Chi nghĩ thầm: “Té ra cô này đi bắt rết để luyện một môn tuyệt nghệ gì đây, không hiểu có phải gọi là Ngô Công Pháp hay không.”

Bảy ngày kế tiếp cứ như thế, mỗi ngày con rết được hút máu một con gà trống. Đến ngày thứ tám, A Tử gọi Du Thản Chi vào điện, cười hỏi: “Thiết Sửu! Ta đối với mi thế nào?” Du Thản Chi đáp: “Cô nương đối với tiểu nhân ơn nặng như núi.” A Tử hỏi: “Mi có nói nếu phải vì ta mà tan xương nát thịt hoặc nhảy vào đống lửa cũng cam tâm. Đó là người nói thực hay nói dối?” Du Thản Chi đáp: “Tiểu nhân không dám lừa dối cô nương. Cô nương có việc gì xin cứ sai bảo, tiểu nhận quyết không từ chối.” A Tử nói: “Nếu vậy thì hay lắm! Ta cho mi biết, ta muốn luyện một môn tuyệt kỹ, cần có người trợ giúp. Mi có chịu giúp ta không? Giả tỉ luyện được thành công, nhất định ta sẽ trọng thưởng.” Du Thản Chi nói: “Đương nhiên là tiểu nhân phải nghe lời cô nương sai bảo, cô nương bất tất phải quan tâm đến chuyện ban thưởng.” A Tử nói: “Thế thì lại càng hay! Chúng ta bắt đầu luyện thôi.”

Nói xong nàng ngồi xếp bằng, hai tay áp vào nhau, nhắm mắt vận khí một hồi rồi nói: “Mi thò tay vào hũ đi, thế nào con rết cũng cắn mi, nhưng mi đừng nhúc nhích, để yên cho nó hút máu, càng nhiều càng tốt.”

Trong bảy ngày qua, Du Thản Chi đã thấy con rết này hút máu gà, chỉ chút xíu là con gà trống oai phong đã chết ngay, có thể thấy nó độc đến cực điểm. Nghe A Tử nói vậy, gã do dự không trả lời. A Tử sa sầm nét mặt hỏi: “Sao? Mi không chịu ư?” Du Thản Chi ấp úng: “Không phải là tiểu nhân không chịu. Có điều… có điều…” A Tử nói: “Có điều con rết này độc quá, mi sợ chết chứ gì? Mi là người hay là gà trống?” Du Thản Chi đáp: “Dĩ nhiên tiểu nhân không phải là gà trống.” A Tử nói: “Đúng rồi. Gà trống bị rết hút máu thì chết, ngươi không phải là gà thì sao lại chết được? Ngươi nói là cam tâm vì ta mà tan xương nát thịt, nhảy vào đống lửa gì gì đó, bây giờ cho rết hút một chút máu thì đã thấm vào đâu?” Du Thản Chi cứng họng không biết nói sao, ngẩng đầu lên nhìn A Tử, thấy môi nàng bĩu ra có vẻ khinh miệt vô cùng. Gã tựa như người bị thôi miên, nói: “Hay lắm! Tiểu nhân vâng mệnh cô nương.” Đoạn gã nghiến răng nhắm mắt lại, tay phải thò vào trong hũ.

Vừa thò vào, đầu ngón tay giữa đau nhói như bị kim đâm, gã bất giác rụt tay lại. A Tử quát: “Không được động đậy!”. Du Thản Chi cố nhịn đau, mở mắt ra, nhìn thấy con rết đang cắn ngón tay giữa mình hút máu. Gã sởn gai ốc khắp người, chỉ muốn vẫy tay cho con rết rơi ra rồi đạp mạnh cho chết, nhưng không quay đầu lại cũng cảm thấy đôi mắt sắc như dao của A Tử đang nhìn chằm chằm vào lưng mình như hai lưỡi kiếm, nên lại không dám nhúc nhích nữa.

Thực ra thì lúc con rết hút máu, gã cũng không thấy đau lắm. Con rết từ từ phồng lên, ngón tay gã có một quầng thâm, thoạt tiên màu tím nhạt sau đó dần dần thẫm lại. Sau một lúc vết thâm từ ngón tay loang ra bàn tay, rồi từ bàn tay lên cánh tay. Đến lúc này thì Du Thản Chi không nghĩ gì đến tính mạng mình nữa, gã trở lại bình tĩnh, miệng lộ vẻ tươi cười, nhưng vì mặt gã ẩn trong lồng sắt nên A Tử không nhìn rõ.

Hai mắt nàng chú ý nhìn con rết, để hết cả tâm thần vào đó. Đột nhiên, con rết buông ngón tay Du Thản Chi, nằm rũ ra trong cái hũ sành. A Tử nói: “Ngươi nhẹ tay bắt con rết để vào mộc đỉnh, cẩn thận chớ để nó bị thương.” Du Thản Chi vâng lời nhặt lấy con rết, bỏ vào cái đỉnh đang để trước cẩm đôn. A Tử đậy nắp lại, một lát sau, trong các lỗ đỉnh có màu đen rươm rướm chảy ra.

A Tử lộ vẻ vui mừng đưa tay đón lấy, nàng ngồi xếp bằng vận nội công cho huyết dịch thấm vào trong lòng bàn tay. Du Thản Chi nghĩ thầm: “Thế là huyết dịch ta thấm vào trong người nàng. Xem chừng cô nương đang luyện môn Ngô Công Độc Chưởng.”

Một lúc sau không còn thấy máu đen từ mộc đỉnh chảy ra nữa. A Tử mở nắp đỉnh nhìn xem thì thấy con rết đã chết cứng. Nàng xoa hai tay mạnh vào nhau, rồi nhìn vào lòng bàn tay thì thấy da vẫn trong như ngọc, không có vết tích gì, cũng không có dấu máu dơ bẩn chi hết. Nàng thấy những gì mình nghe trộm sư phụ về phép luyện công thật là chính xác, bất giác cả mừng cầm mộc đỉnh lên, đổ xác con rết xuống đất rồi chạy thẳng ra ngoài điện không thèm để mắt đến Du Thản Chi nữa, tựa hồ gã cũng như các con rết vậy, đã thành vật vô dụng.

Du Thản Chi nhìn theo A Tử đến khi nàng đi khỏi. Gã cởi áo ra, thấy quầng đen đã lan tới nách, đồng thời cánh tay ngứa ngáy khó chịu. Cơn ngứa lan ra mau chóng, chỉ chốc lát là gã thấy như có hàng ngàn hàng vạn con kiến đang cắn rứt mình.

Du Thản Chi nhảy lên chồm chồm, đưa tay lên gãi. Không gãi thì còn khá, càng gãi bao nhiêu thì càng ngứa thêm bấy nhiêu, dường như trong xương tủy ruột gan đều có sâu bọ bò lúc nhúc. Người bị đau còn chịu được chứ bị ngứa ngáy thì không sao chịu được, Du Thản Chi nhảy lên nhảy xuống, la hét om sòm rồi đập cái đầu sắt vào tường kêu boong boong. Gã chỉ mong sao mình ngất đi không biết gì nữa, để khỏi phải chịu đựng những cơn ngứa ngáy khủng khiếp.

Du Thản Chi đập đầu một lúc bỗng nghe cạch một tiếng, một vật trong bọc rơi xuống. Đó là gói giấy dầu, tuột ra để lộ một cuốn sách giấy vàng, chính là cuốn kinh chữ Phạn mà gã lượm được hôm nọ. Du Thản Chi đang ngứa ngáy kịch liệt, chẳng thèm nhặt lên nữa, cứ để mặc cuốn sách mở tung ra dưới đất. Gã toàn thân khó chịu, giãy giụa chẳng khác gì con cá mắc lưới. Một lúc sau gã kiệt lực nằm thở hồng hộc, nước mắt, nước mũi, nước dãi hòa lẫn nhau, chảy qua các lỗ trên mặt nạ sắt xuống ướt cả quyển kinh chữ Phạn.

Không hiểu tại sao trên những hàng chữ ngoằn ngoèo bỗng hiện ra hình một nhà sư gầy như que củi, tư thế thật là cổ quái, đầu luồn xuống giữa hai chân quặp lại, hai bàn tay nắm lấy hai cổ chân. Y chẳng lòng dạ nào để ý đến hình vẽ kỳ dị này, ngứa ngáy chồm lên nhảy xuống một hồi nữa thì bắt đầu khó thở, lăn lộn xuống đất xé quần áo rách tươm, cho da thịt sát xuống mặt đất, gãi một hồi kịch liệt đến trầy da chảy máu.

Trong lúc Du Thản Chi vừa lăn lộn vừa gãi, tự nhiên đầu gã luồn vào giữa hai đùi. Vì đầu gã có chụp lồng sắt thành ra lớn quá, không kéo ra ngay được. Gã đưa hai tay toan đẩy đầu ra, song lúc này kiệt sức quá rồi, không nhúc nhích được nữa, dùng tay thở hồng hộc. Ngẫu nhiên y nhìn tới cuốn sách, thấy hình vẽ nhà sư gầy, tư thế hơi giống như kiểu gã đang ngồi. Trong lòng gã vừa buồn cười lại vừa kinh ngạc ở chỗ tuy vẫn bị ngứa như cũ, nhưng thở được nhẹ nhàng hơn. Vì vậy nên gã không rút đầu ra khỏi chân nữa, cứ để nguyên vậy gục xuống đất, tay trái cũng đưa ra nắm lấy cổ chân phải, cằm chống xuống đất y như tư thế trong đồ hình. Lúc này gã thở đã dễ dàng hơn nhiều.

Gã gục đầu như vậy thì hai mắt càng gần sách hơn. Gã nhìn lại hình nhà sư, thấy bên cạnh có hai chữ màu vàng rất lớn, trong nét bút có vô số những mũi tên đỏ nhỏ xíu hướng ra. Gã giật mình vội buông tay đứng lên, nhưng lập tức lại vừa ngứa ngáy vừa ngạt thở, bèn vội vàng cúi xuống chui đầu qua háng, hai tay bắt chéo nắm hai cổ chân, cằm tựa dưới đất. Y vừa theo lại tư thế cổ quái này thì dễ chịu hơn nhiều, không dám động đậy nữa. Một lúc sau không biết làm gì bèn đưa mắt nhìn hình nhà sư cùng hai chữ lớn. Y nhìn những mũi tên nhỏ xíu, đưa mắt theo hướng mũi tên quan sát nét bút, tự nhiên cảm thấy cảm giác ngứa ở cánh tay phải biến thành một luồng hơi ấm áp đi lên đến cổ họng, xuống ngực bụng, chạy quanh hai vai vài vòng rồi lên đến đỉnh đầu, dần dần biến mất.

Gã nhìn theo những mũi tên trong nét bút mấy lần, lần nào cũng thấy một luồng nhiệt khí thông lên óc, rồi cánh tay đang ngứa cũng bớt dần đi. Du Thản Chi cảm thấy kỳ lạ, nhưng gã chẳng hơi sức nào suy xét nguyên do, cứ cho ý nghĩ chuyển vận như vậy đến ba mươi mấy lượt. Cánh tay chỉ còn hơi ngứa, gã làm thêm mười lần nữa thì từ cánh tay đến bàn tay không còn ngứa ngáy gì nữa. Bấy giờ ga mới rút đầu ra khỏi đôi chân, giơ bàn tay lên xem thì những quầng đen trên tay cũng đã biến mất.

Du Thản Chi mừng rỡ vô cùng, bỗng nhiên la lên: “Chao ôi, hỏng bét! Nọc rết kịch độc đã chuyển hết lên óc ta rồi.” Nhưng dù sao gã cũng đã dứt được cơn ngứa kỳ dị, còn những mối lo gì hãy bỏ đó. Gã lẩm bẩm: “Cuốn sách này rõ ràng là không có hình vẽ, chẳng hiểu sao lại xuất hiện một hòa thượng cổ quái, mà mình lại ngẫu nhiên ngồi theo kiểu giống như hình vẽ. Phải chăng hòa thượng này là bồ tát đến cứu mạng ta?” Y bèn quì xuống cung kính khấu đầu trước nhà sư trong sách, cái lồng sắt gõ xuống nền đá nghe boong boong.

Thực ra đồ hình trong sách vẽ bằng mực đặc biệt, chỉ khi ướt mới hiện ra, nên A Châu và Tiêu Phong chưa nhìn thấy. Những mũi tên để luyện công đều có chú thích bằng chữ Phạn, những cao tăng Thiếu Lâm thời trước tuy không biết bí mật của quyển kinh nhưng cũng đọc chữ mà luyện thành Dịch Cân Kinh. Nhờ vào nước mắt cùng mũi dãi của Du Thản Chi mà hình vẽ lộ ra, gã vô tình học được một bí thuật luyện công để trấn áp ngoại ma xâm nhập của phái Du Già ở Thiên Trúc.

Du Thản Chi đang ngứa ngáy khổ sở đến cực độ thì nhảy chồm chồm, lăn lộn rồi gục đầu xuống đất cũng chỉ là chuyện tự nhiên chẳng có gì lạ. Có điều mũi dãi rớt xuống lại mở ra đúng vào quyển sách thì quả là ý trời. Du Thản Chi ngẩn ngơ một lúc rồi mệt quá lăn ra ngủ.

Sáng sớm hôm sau, gã còn chưa dậy đã thấy A Tử lật đật đi vào. Nàng thấy Du Thản Chi quần áo rách nát, da thịt hở hang thì kinh ngạc la lên rồi hỏi: “Mi vẫn chưa chết ư?” Du Thản Chi giật mình vội kéo chăn lên che mình rồi ấp úng đáp: “Tiểu nhân chưa chết.” Rồi gã lẩm bẩm: “Té ra nàng tưởng mình chết rồi!”

A Tử nói: “Mi chưa chết thì hay lắm! Mau kiếm quần áo mặc vào rồi theo ta đi bắt trùng độc.” Du Thản Chi dạ một tiếng, A Tử ra ngoài rồi, gã kiếm mấy tên lính Khất Đan hỏi xin quần áo. Bọn này thấy quận chúa có vẻ tử tế với y, liền kiếm một bộ y phục lành lặn sạch sẽ cho gã mặc.

Du Thản Chi lại theo A Tử ra khỏi cung như mấy hôm trước. Nàng lại đem mộc đỉnh ra đốt hương dẫn dụ trùng độc về, dùng máu gà để nuôi, sau cùng cho hút máu Du Thản Chi rồi đem ra luyện công. Lần thứ hai là một con nhện xanh hút máu gã, lần thứ ba tới phiên một con bò cạp lớn. Du Thản Chi lại chiếu theo đồ hình trong sách để hóa giải chất độc. Khi trước A Tử xem trộm sư phụ luyện công, thấy lần nào cũng có người chết, đều là dân chúng quanh vùng bị đệ tử Tinh Tú đi bắt về. Lần nào A Tử cũng chắc là Du Thản Chi phải chết, thế mà gã vẫn không sao, nàng không khỏi kinh ngạc.

A Tử tiếp tục bắt trùng độc trong ba tháng nữa, ngoài thành Nam Kinh trong phạm vi mười dặm rắn rết độc mỗi ngày một ít đi, rồi chỉ còn những con tầm thường, không hợp ý A Tử. Càng về sau hai người càng phải đi xa thêm.

Một hôm hai người đi về phía tây hơn ba mươi dặm. A Tử đốt hương lên, chờ hơn một giờ mới nghe trong đám cỏ rậm có tiếng sột soạt. A Tử kêu: “Cúi thấp xuống!” Du Thản Chi vội phục xuống, thoáng nghe mấy tiếng phì phì, lại có mùi tanh hôi khiến người phải buồn nôn.

Du Thản Chi nín thở, không nhúc nhích, bỗng thấy đám cỏ dại rẽ ra hai bên, một con trăn lớn, mình trắng chấm đen từ phía tây bò tới. Đầu con trăn này bạnh ra thành hình tam giác, trên đầu có một cái mào xù xì. Ở phương bắc vốn ít rắn rết, Du Thản Chi chưa thấy con trăn nào kỳ lạ như thế. Con trăn bò đến cạnh mộc đỉnh ngọc, rồi bò vòng quanh. Nhưng thân nó to bằng cánh tay, lại dài đến hai trượng, làm thế nào chui vào trong đỉnh được? Nó ngửi thấy mùi quyến rũ, cứ đập đầu vào đỉnh kêu cốp cốp.

A Tử không ngờ lại dẫn dụ được một con vật lớn đến thế. Nàng kinh hoàng, không biết làm sao, bò đến bên Du Thản Chi hỏi nhỏ vào tai gã: “Làm sao bây giờ? Nếu để con trăn đập vỡ mộc đỉnh thì hỏng bét!”

Du Thản Chi được nghe thanh âm thỏ thẻ, hơi thở ấm áp kề bên tai, thật là nằm mơ cũng không thấy. Gã vinh hạnh vô cùng, liền đáp: “Không sao, để tiểu nhân ra đuổi nó đi!” Nói xong gã đứng dậy hùng dũng rảo bước đến gần con trăn. Con trăn nghe thấy tiếng động lập tức cuộn lại, ngẩng đầu lên, thè cái lưỡi đỏ hỏn ra phun phì phì, tựa hồ sắp chồm tới mổ. Du Thản Chi sợ hãi chưa dám tiến lên.

Bỗng có một luồng khí lạnh tạt vào mặt, ở phía tây bắc có một dây lửa cháy thẳng tới, chỉ trong khoảnh khắc đã đến trước mặt. Lúc đến gần, gã mới nhìn rõ không phải là dây lửa mà là con vật gì bò trong bụi cỏ. Đám cỏ xanh gặp phải vật đó lập tức héo úa, khô vàng đi, nhìn xa giống như lửa cháy. Hàn khí ở dưới chân mỗi lúc một giá buốt thêm, gã lùi lại mấy bước thì thấy vết cỏ héo vàng tiến dần dần về phía mộc đỉnh. Con vật đó là một con tằm.

Con tằm này trắng trong như ngọc có ẩn hiện sắc xanh, lớn gấp đôi con tằm thường, dài bằng con giun. Con trăn hung hãn thế mà vừa thấy con tằm này thì khiếp đảm vô cùng, bèn rút đầu lại giấu dưới mình. Con tằm trong suốt bò qua mình con trăn chẳng khác nào một đường lửa nóng, bò đến đâu xương sống con trăn biến thành tro đến đó, bò lên đến đầu thì con trăn đã bị rạch đôi. Con tằm chui vào túi nọc độc ở mang tai con trăn, hút một lát là hết cả nọc. Mình con tằm căng phồng lên, nhìn xa xa tựa hồ một bình thủy tinh chứa nước màu xanh.

A Tử vừa mừng vừa sợ, khẽ nói: “Con tằm này thật là ghê gớm, quả là vạn độc chi vương.” Du Thản Chi hồi hộp nghĩ thầm: “Giả tỉ nàng cho con tằm này hút máu mình thì mất mạng là cái chắc.”

Con tằm đi tới đâu thành vết tới đấy, nhưng nó chỉ bò tới bò lui quanh cái đỉnh, tựa hồ như có linh tính, biết rằng chui vào trong đỉnh là phải chết nên chỉ bò quanh vòng ngoài mà thôi, một lúc thì bỏ đi về hướng tây bắc.

A Tử vừa hoan hỉ vừa nóng ruột la lên: “Mau đuổi theo nó!”. Nàng lấy tấm khăn đoạn ra bọc cái đỉnh lại rồi lên ngựa đuổi theo con tằm, Du Thản Chi lếch thếch chạy theo. Con tằm tuy bé nhỏ mà bò nhanh như gió, cũng may là nó để lại vết đen nên mới không bị mất dấu.

Hai người đuổi một mạch chừng ba bốn dặm bỗng nghe phía trước có tiếng nước chảy róc rách, thì ra một con suối. Vệt đen đến bờ suối thì không thấy dấu vết đâu nữa, nhìn sang bờ suối bên kia cũng không thấy vết con tằm bò lên, dĩ nhiên là nó trôi dọc theo suối rồi, A Tử bực mình, giậm chân mắng Du Thản Chi: “Tại mi chạy chậm đuổi không kịp nó, bây giờ biết tìm đâu cho thấy? Ta mặc kệ mi làm gì thì làm, bắt nó đem về cho ta.” Du Thản Chi lo lắng ngó quanh, nhưng chẳng thấy gì.

Hai người tìm kiếm đến khi trời sắp tối, A Tử không nhẫn nại được nữa, tức giận nói: “Mi phải tìm bắt nó về cho được, không thì đừng vác mặt tới gặp ta nữa.” Nói xong, nàng xoay mình nhảy lên ngựa, phóng về thành.

Du Thản Chi rất đỗi hoang mang, đành tìm theo dọc bờ suối về phía hạ lưu. Gã đi bảy tám dặm đường, đến lúc hoàng hôn bỗng thấy trong đám cỏ rậm bờ bên kia có một vệt đen thì mừng rỡ vô cùng, gọi ầm lên: “Cô nương! Tiểu nhân kiếm thấy nó rồi!” Nhưng A Tử đi xa từ lâu rồi.

Du Thản Chi lội qua suối, cứ theo vệt đen mà đi theo sườn núi, đến một thung lũng phía trước. Y phấn khởi trong lòng nên chạy rất nhanh. Gã ngẩng mặt nhìn lên đỉnh núi có một ngôi chùa, kiến trúc cực kì hùng vĩ, trước cổng chùa có tấm biển đề năm chữ lớn “Sắc Kiến Mẫn Trung Tự”. Gã chẳng còn lòng dạ nào mà ngắm phong cảnh chùa chiền, chỉ lần theo vệt đen bên hông chùa mà đi quanh co ra phía sau. Trong chùa đang có khóa lễ, có tiếng chuông khánh vang lên lẫn với tiếng tụng kinh của khá đông người. Du Thản Chi từ khi bị chụp lồng sắt đã tự thẹn về hình thù kì dị của mình, không muốn xuất hiện trước mặt chư tăng, cứ men theo chân tường lầm lũi mà đi. Gã thấy vệt đen đi qua một khu bùn lầy rồi ra đến vườn rau.

Du Thản Chi mừng thầm, hy vọng trong vườn không có người, chỉ cần con tằm đang ăn rau ở đó thì bắt được ngay. Gã rảo bước đi về phía vườn rau, đến hàng rào lập tức dừng bước, vì nghe trong vườn có tiếng người đang mắng nhiếc, nghe khá rõ: “Mi bất tuân kỷ luật, bỏ đi chơi một mình khiến lão sợ hãi nửa ngày trời, chỉ lo mi đi mất không về nữa. Lão đem mi từ đỉnh núi Côn Luân tới đây, đường xa muôn dặm, mà mi chẳng biết phải quấy chi hết. Mi ngang bướng như vậy là tự làm hại mình, chẳng ra trò trống gì, ai mà thương mi nữa.” Thanh âm người này ra chiều giận dữ, nhưng vẫn đầy vẻ thương yêu kỳ vọng, tựa như cha mẹ dạy con.

Du Thản Chi nghĩ thầm: “Lão nói đem ai đó từ đỉnh núi Côn Luân tới đây, xem chừng là sư phụ hay tiền bối gì đó, chứ không phải là phụ thân.” Gã nép vào bên hàng giậu để nhìn trộm, thấy lão đó là một vị hòa thượng thấp lủn thủn mà béo trùng trục, người tròn như quả bóng. Lão đang trỏ tay xuống đất, vẻ mặt căm tức, mắng nhiếc không ngớt miệng. Du Thản Chi nhìn theo tay nhà sư chỉ, bỗng vừa kinh dị vừa mừng thầm, té ra nhà sư kia đang thống mạ con tằm kỳ dị.

Tướng nhà sư vừa lùn vừa mập đã cổ quái, lão cất tiếng mắng nhiếc con tằm thì lại càng không tưởng tượng nổi. Con tằm đang chạy tới chạy lui dưới đất như muốn tìm đường trốn, nhưng tựa hồ như nó bị nhốt trong một bức tường vô hình, mỗi khi đụng đầu vào lập tức rụt lại chuyển hướng. Du Thản Chi chú ý nhìn thấy dưới đất có vẽ một vòng tròn màu vàng, con tằm tả xung hữu đột mà không sao vượt ra được. Gã tỉnh ngộ, nghĩ thầm: “Phải rồi! Nhà sư vẽ vòng tròn kia bằng một thứ thuốc kị với con tằm đó.”

Nhà sư lùn mắng nhiếc một hồi nữa, rồi lấy một vật trong bọc ra cắn nhai ngấu nghiến, nhìn kĩ thì ra một cái đầu dê đã luộc chín. Lão ăn ngon lành, lại lấy trên cột nhà một cái bầu cũ kĩ mở nút ra, ngửa cổ dốc vào miệng nuốt ừng ực một hồi.

Du Thản Chi ngửi thấy mùi thơm, biết cái bầu này đựng rượu ngon. Gã lẩm bẩm: “Té ra là một nhà sư rượu thịt. Xem chừng con tằm này của lão nuôi, quý trọng vô cùng! Ta biết làm sao lấy cắp được đây?”

Gã còn đang ngẫm nghĩ, chợt góc vườn bên kia có tiếng người gọi: “Tuệ Tịnh! Tuệ Tịnh!” Nhà sư mập giật mình, vội giấu cái đầu dê cùng bầu rượu vào đống rơm. Tiếng người bên ngoài lại gọi dồn: “Tuệ Tịnh! Tuệ Tịnh! Ngươi trốn đâu mà kỹ thế, sao không lên đọc kinh chiều?” Nhà sư lùn vớ lấy cái cuốc, lật đật chạy ra luống rau vừa cuốc vừa đáp: “Đệ tử đang cuốc rau mà!” Người đi đến là một nhà sư đứng tuổi, lạnh lùng nói: “Mỗi ngày có hai khóa kinh sáng chiều, ai cũng phải đến đủ. Ngươi lên đọc kinh chiều xong hãy xuống xới rau. Ở chùa Mẫn Trung thì phải chấp hành qui củ cho nghiêm ngặt, không lẽ chùa Thiếu Lâm các ngươi không có lề luật gì sao?” Nhà sư thấp lùn pháp danh là Tuệ Tịnh nói: “Vâng”, rồi bỏ cuốc đi theo nhà sư đứng tuổi ngay. Lão không dám ngoái lại nhìn con tằm, tựa hồ sợ bị phát giác.

Du Thản Chi chờ hai người kia đi ra, lắng tai nghe bốn bề vắng lặng như tờ. Gã liền chui từ chân giậu ra, thấy con tằm vẫn chạy lăng xăng không ngớt, tự hỏi: “Làm sao bắt được nó bây giờ?” Gã ngẫm nghĩ một lúc, chạy lại đống rơm móc cái bầu ra, giơ lên lắc lắc thấy còn đến nửa bầu rượu. Gã uống luôn mấy ngụm, chỗ còn thừa đổ xuống vườn rau, rồi để xuống, miệng bầu quay vào trong vòng tròn vẽ dưới đất. Con tằm bò đến miệng bầu, quả nhiên chui tọt vào trong. Du Thản Chi cả mừng, đậy nút hồ lô lại, bưng lên hai tay rồi chui qua giậu, ba chân bốn cẳng chạy về đường cũ.

Du Thản Chi mới ra khỏi chùa Mẫn Trung vài chục trượng thì cái bầu tiết ra khí lạnh ghê người, hơn cả một tảng băng. Gã hết đổi bầu từ tay phải sang tay trái, lại từ tay trái sang tay phải, nhưng lạnh thấu xương không thể cầm được. Du Thản Chi thử để lên đầu đội thì càng không ổn, khí lạnh truyền qua cái lồng sắt thấu vào óc buốt không chịu nổi, các mạch máu tựa hồ đông cứng lại không lưu thông được. Du Thản Chi gặp tình trạng cấp bách liền nghĩ ra một kế, cởi dây lưng ra buộc vào chỗ thắt trên bầu rượu rồi xách đi. Dây lưng không dẫn hơi lạnh, gã có thể xách lâu được, nhưng hơi lạnh trong bầu vẫn tiết ra, chỉ chốc lát phía ngoài bầu hơi nước đã đóng thành một lớp băng mỏng.

Hồi 29: Hàn độc trùng luyện hàn độc chưởng…

Du Thản Chi chạy nhanh về tới ngoài thành Nam Kinh thì trời đã khuya, cổng thành đã đóng, gã phải ngủ ở ngoài một đêm. Sáng sớm hôm sau gã mới vào cung Đoan Phúc, trình A Tử là đã bắt được con tằm mang về.

A Tử cả mừng, bỏ con tằm vào hũ sành để nuôi. Lúc đó là tháng năm, vào đầu mùa hạ khí trời ấm áp, trong điện chỉ nuôi một con tằm mà khí lạnh mỗi lúc một thêm, chẳng mấy chốc mà bình nước trà cũng đóng thành băng. Đêm ấy Du Thản Chi rét run bần bật, suốt đêm không sao ngủ được. Gã nghĩ vẩn vơ: “Con tằm này thật là cổ quái nhất thiên hạ. Giả tỉ cô nương cho nó hút máu thì cho dù mình không bị trúng độc chết, cũng rét cóng mà bỏ mạng.”

A Tử vẫn tiếp tục đi bắt những rắn độc, trùng độc đem về cho đấu với con tằm. Con tằm chỉ bò quanh một vòng là đủ làm đối thủ lạnh cóng, rồi hút lấy huyết dịch trong mình con vật bị chết, Luôn mười mấy ngày như vậy, không có giống trùng nào chống cự nổi với con tằm. Một hôm A Tử bảo Du Thản Chi: “Thiết Sửu! Hôm nay ta giết con tằm trong suốt kia. Mi thò tay vào trong hũ cho nó hút máu!”

Mấy bữa nay Du Thản Chi ngày thì lo sốt vó, đêm thì mơ thấy toàn ác mộng. Bây giờ gã thấy nàng chẳng chút dung tình, thí mạng mình cho con tằm cắn, lòng gã xiết nỗi thê lương, mắt đăm đăm nhìn A Tử. Nhưng gã không nói gì, cũng không nhúc nhích.

A Tử ngồi xếp bằng tĩnh tâm vận công, trong lòng hoan hỉ nghĩ thầm: “Ta ngẫu nhiên tìm vật dị bảo này, không chừng luyện thành công phu lợi hại hơn cả sư phụ.” Nàng giục Du Thản Chi: “Mi thò tay vào trong lọ đi!” Du Thản Chi nước mắt tuôn rơi, quỳ xuống lạy A Tử rồi nói: “Cô nương ơi! Khi cô nương luyện xong thần công độc chưởng rồi, đừng quên kẻ này đã chết vì cô nương, Tiểu nhân họ Du tên Thản Chi, không phải là Thiết Sửu gì gì đó!” A Tử tủm tỉm cười nói: “Được rồi, ngươi tên Du Thản Chi, ta nhớ kĩ lắm! Mi đối với ta hết dạ trung thành, ta coi ngươi là một tên nô bộc trung nghĩa.”

Du Thản Chi nghe A Tử tán dương, cảm thấy được an ủi rất nhiều. Gã dập đầu lạy hai lạy rồi nói: “Đa tạ cô nương!” Nhưng ai mà chẳng muốn sống, Du Thản Chi nghĩ đến hôm trước bị rết cắn, nhờ phép vận công của nhà sư trong đồ hình mà thoát chết. Hôm nay gã không muốn bó tay chịu chết, lại đem cách đó ra thử. Gã cúi xuống, chui đầu vào giữa hai chân rồi thò tay phải vào trong lọ, tập trung ý nghĩ theo những mũi tên trong đồ hình. Ngón trỏ gã bắt đầu thấy ngứa ngáy, một luồng khí lạnh tiến vào thân thể. Gã đã chuẩn bị, cứ tâm tâm niệm niệm, quả nhiên thấy luồng khí lạnh đi đúng như ý nghĩ, từ ngón tay chuyển lên cánh tay, sau cùng lên tới đỉnh đầu… Tia hàn khí này nhỏ xíu mà lạnh vô cùng, Du Thản Chi phải cố lắm mới chịu nổi.

A Tử thấy tư thế của Du Thản Chi thì vừa kinh ngạc vừa buồn cười. Nàng nổi tính hiếu kỳ lại gần coi, thấy con tằm kia đang cắn chặt đầu ngón tay trỏ Du Thản Chi. Mình con tằm trong suốt như thủy tinh, nàng nhìn rõ một dây máu từ miệng tằm hút vào, vòng từ trái sang phải, trở ra miệng rồi quay lại người Du Thản Chi. Từ cái đầu sắt cho đến y phục cùng chân tay gã đều bao phủ một lớp băng trắng toát.

A Tử lẩm bẩm: “Gã này chết rồi! Người sống phải có hơi nóng, khi nào hơi nước lại đóng thành băng được.” Tia máu trong mình con tằm vẫn chuyển động, rõ ràng nó chưa hút hết sức. Nàng định chờ cho nó no hẳn rồi mới đập chết, lấy huyết dịch luyện công, bèn để hết tâm trí theo dõi diễn biến. Đột nhiên trên mình con tằm có một luồng nhiệt khí toát ra.

A Tử đang ngạc nhiên, bỗng nghe “tách” một tiếng, con tằm từ ngón tay Du Thản Chi rớt xuống. Nàng đã cầm sẵn một cây côn gỗ, liền đập xuống. Con tằm này rất linh mẫn, lẽ ra khó lòng đánh trúng, không ngờ nó rơi xuống đáy hũ rồi ngửa bụng lên, cựa quậy một lúc vẫn không sao lật lại được, cây côn của A Tử vừa đánh xuống, con vật đã nát nhừ.

A Tử cả mừng, vội thò tay vào lọ lấy huyết dịch trong mình con tằm xoa vào hai bàn tay, rồi nhắm mắt vận công cho thấm vào người. Nàng biết rằng con tằm này là vật chí bảo khó tìm, bèn lấy nước đó chà xát hết lần này đến lần khác để luyện công, đến lúc khô kiệt hẳn mới thôi.

A Tử luyện công vất vả hết nửa ngày mới duỗi chân đứng dậy, vẫn thấy Du Thản Chi đứng như cũ, khắp người phủ một lớp băng trắng xóa. Nàng lấy làm kinh dị, đưa tay sờ vào người gã thì thấy giá buốt vô cùng, phải rụt lại ngay. Ngay cả y phục gã cũng đóng băng cứng ngắt. A Tử chẳng hiểu ra sao, ngơ ngác đứng nhìn một hồi mới bỏ đi. Hôm sau A Tử lại đến xem, thấy Du Thản Chi vẫn đứng nguyên như cũ, băng giá trên người gã lại dày thêm một lớp nữa. Nàng vừa kinh hãi vừa buồn cười, gọi Thất Lý đến, sai y đem xác Du Thản Chi đi chôn.

Thất Lý dẫn mấy tên lính Khất Đan khiêng xác Du Thản Chi bỏ lên xe ngựa chở đi, nhưng gã chẳng buồn đào huyệt, ném xác Du Thản Chi xuống khe nước rồi trở về thành.

Không ngờ cái tính lười biếng của Thất Lý lại cứu được mạng sống cho Du Thản Chi. Ngón tay gã bị con tằm cắn, đáng lẽ phải dùng phép vận công trong Dịch Cân Kinh để giải độc. Nếu gã đã luyện hết yếu quyết trong Dịch Cân Kinh thì có thể đẩy chất độc ra ngoài, nhưng gã chỉ bắt chước tranh vẽ mà hành công, con tằm hút máu, máu lại quay về ngón tay vào huyết quản, đem những tinh hoa của con băng tằm độc nhất thiên hạ kia đưa vào thân thể gã. Chất kịch độc này thuộc loại âm hàn, chồng chất lên những chất độc của rết, nhện, rắn… đã chứa sẵn trong người, làm gã đóng băng chết cứng.

Giả tỉ Thất Lý đem xác gã chôn cất đàng hoàng thì không chừng mấy trăm năm nữa vẫn còn cứng đơ, chưa chắc đã phân hủy được. Nhưng xác gã bị vứt xuống suối, từ từ chảy xuôi dòng chừng hai mươi dặm thì đến chỗ quanh co chật hẹp, vướng vào đám lau sậy. Lát sau nước quanh chỗ gã đóng lại thành băng, tựa hồ như một cái quan tài bằng thủy tinh. Suối vẫn tiếp tục chảy qua không ngừng, khí lạnh trong người Du Thản Chi giảm xuống dần dần, sau cùng khối băng quanh người gã rã ra.

Đầu gã chụp lồng sắt, kim loại mau nóng mà cũng mau lạnh nên băng giá bọc ngoài cái đầu sắt tan trước. Du Thản Chi bị nước tràn vào miệng mũi, họ sặc sụa, đầu óc tỉnh táo lại. Gã bò dưới suối lên, những mảnh băng còn lại trên người vỡ ra nghe lách cách, mơ màng như vừa tỉnh giấc mơ.

Du Thản Chi ngồi trên bờ suối nhớ lại, mình đối với A Tử hết dạ trung thành, nguyện đem thân nuôi trùng độc cho nàng luyện công, thế mà khi mình chết, A Tử không thở dài lấy một tiếng. Lúc người bắt đầu lạnh cứng, gã chưa mất tri giác, nhưng không nhúc nhích được, lớp băng đóng quanh người gã trong suốt, trông ra rất rõ. Gã thấy A Tử ngoẹo cổ nhìn cái xác mình rồi hớn hở tươi cười lấy huyết dịch con tằm ra xát vào tay luyện công, dường như cái chết của mình chỉ khiến nàng thú vị, tuyệt không thương tiếc.

Gã tự nhủ: “Con tằm kia độc vô cùng, đánh thắng vô số loại trùng độc khác. Cô nương lấy huyết dịch nó thấm vào bàn tay, chắc là luyện xong độc chưởng rồi. Giả tỉ mình về gặp nàng…” Đột nhiên người gã run bắn lên, lẩm bẩm: “Cô nương mà thấy mặt mình, chắc đem ra thử độc chưởng. Nếu luyện thành rồi thì chỉ một chưởng là mình toi mạng. Nếu chưa thành thì nàng lại bắt mình đi tìm trùng độc cho đến khi luyện xong độc chưởng mới thôi, bấy giờ lại thử chưởng thì mình cũng hết sống. Đằng nào cũng chết, mình trở về làm gì nữa?”

Gã đứng dậy, nhảy lên mấy cái cho những miếng băng còn đọng trên người, rơi xuống hết, rồi tự hỏi: “Ta biết đi đâu bây giờ?” Tìm Tiêu Phong để báo phụ thù ư, chuyện đó không thể nghĩ tới được nữa. Gã nhất thời không xác định được chủ ý, chỉ lang thang nơi hoang sơn dã lĩnh, lượm quả dại, bắt các loài thú điểu nhỏ để ăn. Đến xế chiều hôm sau, gã không biết làm gì bèn lôi cuốn Dịch Cân Kinh tiếng Phạn ra, theo những đồ hình vị sư lõa thể mà hành công.

Lúc gã nằm dưới suối, quyển sách bị ướt vẫn chưa khô. Du Thản Chi lật sách rất cẩn thận chỉ sợ rách, thấy trang nào cũng hiện lên đồ hình một vị quái tăng, tư thế đều khác nhau. Gã nghĩ ngợi rất lâu mới tỉnh ngộ, hình vẽ trong sách gặp ẩm ướt thì hiện lên, chứ chẳng có bồ tát nào đến cứu mạng mình. Gã liên bắt chước theo tư thế đồ hình ở trang đầu, rồi tâm niệm theo những mũi tên màu đỏ trên văn tự kỳ lạ. Dường như có một luồng khí lạnh di chuyển khắp nơi trong thân thể và tứ chi gã, tựa hồ như con băng tằm sống dậy bò trong nội thể. Gã kinh hãi đứng dậy, cảm giác băng tằm bò trong cơ thể cũng biến mất.

Trong khoảng hai canh giờ, gã bị ám ảnh bởi con băng tằm vô ảnh vô tung trong cơ thể, không sờ được cũng không bắt được, chẳng hiểu đang ẩn nấp nơi nào. Cuối cùng gã không nhẫn nại được, tiếp tục tập theo những tư thế kỳ quái đó, tâm niệm theo những mũi tên trên văn tự ngoằn ngoèo, chẳng mấy chốc lại thấy băng tằm bò trong nội thể mình. Du Thản Chi hốt hoảng la thầm: “Ta tiếp tục quán tưởng thì băng tằm tiếp tục bò, không quán tưởng thì không hiểu nó trốn chỗ nào trong người, thật là hỏng bét.”

Tuy nhiên bằng tăm bò được một lúc thì cơ thể gã thấy sảng khoái vô cùng. Trong sách có rất nhiều đồ hình hòa thượng lõa thể, các mũi tên cũng quanh co biến hóa phức tạp vô cùng. Gã cứ y theo đó mà tập luyện, tựa hồ tâm ý tương thông với băng tằm trong người, trong thân thể lúc nóng lúc lạnh, mỗi lúc đều có cảm giác thư thái khác nhau.

Cứ thế vài tháng, gã thấy việc đuổi bắt cầm thú đã dễ dàng hơn nhiều, nhảy được xa, chạy được nhanh, trước kia không hề có khả năng đó.

Một đêm có một con sói đói đi kiếm ăn, nhảy đến vồ gã. Du Thản Chi kinh sợ, toan cất bước chạy trốn thì móng vuốt sắc bén đã đến vai, mấy cái răng nhọn hoắt kề sát vào yết hầu. Gã kinh hoàng, phóng ra một chưởng đánh vào đầu con sói, nó lăn ra ngoài, giãy giụa rồi gục xuống bất động. Du Thản Chi còn chưa hết sợ, chạy ra xa mấy trượng nhưng thấy con sói vẫn nằm yên, nhặt một hòn đá ném thử, trúng vào con sói mà nó vẫn bất động. Gã cả mừng, bước lại gần nhìn kỹ, thì ra con sói đã chết rồi, thật không thể tưởng tượng được, chỉ thuận tay đánh ra một chưởng đã lợi hại như thế. Rồi gã chăm chú nhìn bàn tay của mình không thấy có gì kỳ lạ cả, không nén nổi sung sướng, la lên: “Quỷ hồn của băng tằm thật là linh ứng!”

Gã chỉ cho rằng đó là năng lực của quỷ hồn con băng tằm nấp trong thân thể, không hiểu đó là công hiệu của Dịch Cân Kinh, thêm vào chất kịch độc của con băng tằm thế gian hãn hữu. Chất kịch độc âm hàn này đã bị gã hút vào nội thể, rồi được phép luyện công thượng thừa của Dịch Cân Kinh dung hợp thành âm kình cực kỳ lợi hại.

Pho Dịch Cân Kinh đúng là một bảo điển tối cao vô thượng trong võ học, nhưng tu tập không dễ dàng chút nào, phải phế bỏ được ý niệm về nhân tướng, ngã tướng mới mong thành tựu được. Những vị tăng lữ tu học môn võ công thượng thừa này đều phải dũng mãnh tinh tiến về Phật học mới có kết quả. Nhưng có ai học võ mà không muốn nhanh chóng thành tựu, muốn tâm vô sở trụ thật là thiên nan vạn nan. Bởi vậy mấy trăm năm nay trong chùa Thiếu Lâm không thiếu gì cao tăng muốn luyện môn này mà dụng công nhiều năm cũng chẳng được gì. Tăng chúng đều tưởng kinh này không hiệu nghiệm, nên khi bị A Châu lấy trộm, các cao tăng trong chùa tuy phẫn nộ nhưng cũng không coi là việc lớn. Một trăm năm trước đây, có một vị hòa thượng tính khí điên khùng xuất gia từ nhỏ, sư phụ của y khổ luyện Dịch Cân Kinh không thành tựu, tức giận mà viên tịch. Nhà sư điên nhặt được cuốn kinh ở bên di thể của sư phụ, cười ha hả rồi bắt đầu luyện, quả nhiên trở thành cao thủ phi thường. Nhưng cũng chỉ được một đời, nhà sư điên đến lúc viên tịch cũng không nói ra được vì sao võ công mình cao cường đến thế, mọi người đều không hiểu đó là công hiệu của Dịch Cân Kinh. Đến bây giờ, Du Thản Chi luyện môn võ công này một cách vô tâm, chỉ vì muốn gọi quỷ hồn của băng tằm ra để chơi đùa, không nghĩ gì đến việc tiến triển công lực, chính là đi đúng con đường của nhà sư điên năm xưa,

Từ đó về sau, gã liên tiếp đánh chết nhiều loại dã thú, biết rằng chưởng lực của mình rất mạnh. Bởi vậy mà dũng khí cũng từ từ nổi dậy, dần dần đi về hướng nam. Nhưng gã sợ có ngày quỷ hồn của băng tằm bỏ mình mà đi, không gọi lên được, bởi thế ngày nào cũng chiêu hồn, không dám bỏ ngày nào. May mà quỷ hồn này thật là linh ứng, hễ gã gọi là đến ngay.

Du Thản Chi cứ nhắm hướng nam mà tiến, một hôm đã đến địa giới Hà Nam ở Trung Châu. Gã tự biết cái đầu sắt làm người ta kinh sợ, nên ban ngày chỉ ở nơi hoang dã nghỉ chân, đêm mới dám ra ngoài trộm cắp vật thực mà ăn. Lúc này thân thủ của hắn đã linh mẫn lắm rồi, không ai phát giác được.

Một hôm gã đang ngủ trong một cái miếu hoang bên vệ đường, bỗng nghe tiếng bước chân, có ba người đi vào miếu.

Gã nhanh chân núp vào phía sau bệ thờ, không dám chạm mặt những người mới đến. Ba người đó vào miếu, ngồi xuống ăn uống nhồm nhoàm, nói đủ thứ chuyện, rồi kể đến những cố sự trên giang hồ. Bỗng một người hỏi: “Theo ngươi thì gã Kiều Phong trốn đâu mà kín thế, cả năm nay không có tí tin tức gì của hắn.”

Hai tiếng Kiều Phong vừa lọt vào tai Du Thản Chi, gã trong lòng chợt động, bèn để ý nghe xem họ nói gì. Một người khác nói: “Gã tác ác quá nhiều, bây giờ làm con rùa rút đầu rút cổ, e rằng chúng ta không thể tìm được nữa.” Người nói trước lại nói: “Cũng chưa chắc, không chừng gã đang chờ cơ hội, ai mà xui xẻo gặp phải là gã lại tái xuất giang hồ. Ngươi tính mà xem, sau trận chiến ở Tụ Hiền Trang, gã đã giết thêm bao nhiêu người. Nào là Từ trưởng lão, phu phụ Đàm Công Đàm Bà, Triệu Tiền Tôn, cả nhà Thiết diện phán quan Đơn lão anh hùng ở Thái Sơn, Trí Quang hòa thượng trên Thiên Đài Sơn, Mã phu nhân của Cái Bang, trưởng lão Bạch Thế Kính, đúng là không đếm xuể được.”

Du Thản Chi nghe thấy năm chữ “đại chiến Tụ Hiền Trang”, bất giác tim nhói lên một cái, những lời nói tiếp theo không lọt vào tai nữa. Một hồi lâu, có một âm thanh già nua nói: “Kiều bang chủ trước nay nhân nghĩa với người, sao lại… sao lại… ta nghĩ không ra, chẳng lẽ đó là kiếp số? Thôi, chúng ta đi.” Rồi lão đứng dậy toan bước đi.

Một người khác nói: “Lão Uông! Theo lão thì chúng ta phải cử ai làm bang chủ?” Thanh âm già nua đáp lại: “Ta cũng không biết, tuyển tới tuyển lui cả năm nay cũng chưa có ai được tất cả anh hùng hảo hán trên dưới đều kính phục. Ái chà, cứ chờ đấy mà xem.” Một người khác nói: “Ta biết tâm ý của lão rồi, chỉ mong gã Kiều Phong quay lại làm bang chủ chúng ta. Tốt nhất là lão đừng nằm mơ giữa ban ngày nữa, chuyện này mà lọt vào tai Toàn đà chủ, e rằng mạng lão khó toàn.” Lão Uông lo lắng nói: “Tiểu Tất! Chuyện này là mi nói, chứ ta chẳng bao giờ mong Kiều bang chủ quay lại làm bang chủ bản bang đâu.” Gã Tiểu Tất cười khẩy, nói: “Lão mở miệng ra là Kiều bang chủ nọ, Kiều bang chủ kia, không phải nhất tâm mong muốn Kiều Phong làm bang chủ Cái Bang sao?” Lão Uông cả giận nói: “Ngươi mà mở miệng nói bậy bạ nữa, là ta đập chết cái mạng chó ngay.” Người thứ ba khuyên can: “Thôi, chúng ta là huynh đệ, đừng vì việc này mà thành chuyện. Chúng ta đi thôi, đừng chậm trễ nữa. Còn Kiều Phong sao lại làm bang chủ được, hắn là giống chó Khất Đan, bọn ta mà gặp hắn là muốn liều mạng ngay. Mà nói cho cùng thì giả tỉ chúng ta muốn hắn làm bang chủ, liệu hắn có chịu không?” Lão Uông thở dài nói: “Ngươi nói phải lắm.” Nói xong, ba người rời khỏi miếu.

Du Thản Chi nghĩ thầm: “Té ra Cái Bang đang truy tìm Kiều Phong, mà tìm cùng hết cũng không thấy. Làm sao họ đoán nổi gã đang làm Nam viện đại vương ở nước Liêu? Giả tỉ ta đem chuyện này nói cho họ biết, thì Cái Bang người đồng thế mạnh, lại liên hệ với anh hùng hảo hán Trung Nguyên, không chừng đến giết được tên ác tặc này. Ta cũng theo họ mà đi giết Kiều Phong.” Gã nghĩ đến chỗ khi quay lại Nam Kinh có thể gặp A Tử, trong đầu lại nóng bừng lên.

Khi đó gã bèn nhẹ nhàng đi từ trong miếu ra, thấy ba tên đệ tử Cái Bang đi theo đường núi về hướng tây, bèn đi theo sau xa xa. Vùng núi này rất hoang vắng, không một bóng người. Gã đi vài dặm nữa đến một hẻm núi, xa xa đã nhìn thấy trong đó có một đống lửa. Du Thản Chi nghĩ thầm: “Cái đầu sắt của ta trông rất kỳ dị, e rằng người ta nhìn thấy phải kinh ngạc. Ta kiếm chỗ nấp để nghe ngóng rồi hãy tính.” Gã bèn chui vào bụi cỏ, từ từ bò đến phía đống lửa, cứ vài trượng lại ngừng. Đến gần hơn một chút đã nghe thanh âm ồn ào, số người quanh đống lửa không phải là ít. Thời gian vừa qua Du Thản Chi chịu khổ đã nhiều, nên không dám sơ ý, càng gần đống lửa gã bò càng chậm, sau cùng nấp vào sau một tảng đá chỉ cách vài trượng rồi ngừng lại không dám đến gần hơn, cúi mình lắng tai nghe.

Bên đống lửa có người đang đứng phát biểu, Du Thản Chi nghe một hồi, thì hiểu đây là cuộc họp của Đại Trí phân đà, thương nghị về việc ở đại hội Cái Bang hôm sau sẽ đề cử người nào làm bang chủ. Có người chủ trương đề cử Tống trưởng lão, có người muốn ủng hộ Hề trưởng lão, lại có người nói: “Nếu nói đến trí dũng song toàn, thì phải đề cử Toàn đà chủ của bản đà. Chỉ tiếc rằng ngày trước Toàn đà chủ đã bị Kiều Phóng dùng việc công trả tư thù mà trục xuất, đến nay cũng chưa chính thức trở lại bản bang.” Lại có một người nói: “Toàn đà chủ của chúng ta là người đầu tiên đưa âm mưu của Kiều Phong ra ánh sáng, thật là đã lập đại công, việc trở về bản bang là rất dễ dàng. Trong cuộc đại hội, chúng ta hãy đưa việc khôi phục bang tịch cho Toàn đà chủ trước, rồi nhắc đến đại công của ông ta, sau cùng mới đề cử làm bang chủ.”

Một giọng khác nói: “Việc ta quay lại bản bang thì hết sức hợp lý, không nói làm gì, nhưng nếu các vị huynh đệ muốn đề cử ta làm bang chủ thì không được đâu. Mọi người sẽ nghĩ huynh đệ chúng ta vạch trần âm mưu của Kiều Phong là vì lợi riêng.” Một người lớn tiếng nói: “Toàn đà chủ, người xưa có nói: Đương nhân bất nhượng (không thể nhường nhau làm việc nhân). Thuộc hạ thấy mấy vị trưởng lão của bản bang tuy võ công rất giỏi, nhưng mưu trí thì không ai hơn huynh được. Đối với gã Kiều Phong, chúng ta phải đấu trí chứ không đấu lực, Toàn đà chủ…” Gã Toàn đà chủ bèn cắt lời: “Thi huynh đệ! Khi ta chưa chính thức trở về bản bang thì ba chữ Toàn đà chủ không thể gọi bừa bãi được.”

Quanh đống lửa có hơn hai trăm bang chúng Cái Bang, đều nói: “Tống trưởng lão đã chỉ thị huynh vẫn tạm thời giữ chức đà chủ bản đà, ba chữ Toàn đà chủ có gì mà không gọi được?” “Sau này huynh làm đến bang chủ, khi đó mới không gọi là đà chủ nữa.” “Toàn đà chủ có thể tạm thời chưa làm bang chủ, nhưng giá chót cũng phải đưa lên làm trưởng lão, chỉ mong đến lúc đó có thể kiêm nhiệm đà chủ bản đà.” Một người khác lại nói: “Đúng thế! Khi Toàn đà chủ đã làm tới bang chủ rồi, cũng mong người kiêm nhiệm chức vị đà chủ của Đại Trí phân đà của chúng ta.”

Mọi người đang bàn luận náo nhiệt, bỗng có một tên Cái Bang bước vào hẻm núi dõng dạc nói: “Khải bẩm đà chủ, có Đoàn vương tử nước Đại Lý đến thăm.” Toàn đà chủ, chính là Toàn Quan Thanh, đứng dậy nói: “Đoàn vương tử ư? Nước Đại Lý cùng bản bang trước nay có liên hệ gì đâu?” Rồi y lớn tiếng nói với mọi người: “Các vị huynh đệ! Nhà họ Đoàn ở Đại Lý là võ lâm thế gia, lần này Đoàn vương tử đích thân đến thăm, tất cả chúng ta đều phải tiếp đãi chu đáo.” Y liền dẫn mọi người ra ngoài hẻm núi để nghênh tiếp.

Bên ngoài có một vị công tử đang đứng cười hì hì, xung quanh có đến bảy tám tùy tùng, chính là Đoàn Dự. Hai bên gặp nhau liền chắp tay thi lễ, kể ra đã có quen biết, từng gặp nhau ở khu rừng hạnh thành Vô Tích, nhưng khi đó Toàn Quan Thanh không hiểu thân phận và lai lịch của Đoàn Dự. Y nghĩ lại ngày đó mình bị Kiều Phong đuổi đi một cách nhục nhã đã bị Đoàn Dự nhìn thấy, không khỏi ngượng ngùng, nhưng bình tâm lại ngay, ôm quyền nói: “Không biết Đoàn vương tử ghé thăm để ra xa nghênh tiếp, thật là thất lễ.”

Đoàn Dự cười nói: “Không dám không dám! Vãn sinh phụng mệnh gia phụ, có việc cần phải báo với quý bang, nên phải đến quấy nhiễu.”

Hai người nói mấy câu khách sáo, Đoàn Dự giới thiệu mấy người cùng đi là bọn Cổ Đốc Thành, Phó Tư Qui, Chu Đan Thần với bên Cái Bang. Toàn Quan Thanh mời Đoàn Dự ngồi lên một tảng đá ở phía trước đống lửa, rồi bọn Cái Bang đưa rượu lên mời.

Đoàn Dự nâng ly rượu lên uống rồi nói: “Mấy tháng trước, gia phụ ở Trung Châu có ghé qua nhà Mã phó bang chủ của quí bang ở Tín Dương thành, đã chính mắt nhìn thấy Bạch Thế Kính trưởng lão qua đời, bên trong có điều kỳ quái. Việc này có liên quan rất nhiều với quí bang cùng mấy vị anh hùng trong võ lâm. Gia phụ đã muốn nói với nhân vật đầu não của quí bang từ trước, nhưng vì mang thương tích phải điều dưỡng đến nay mới khỏi, hơn nữa các vị trưởng lão của quí bang hành tung vô định, khó mà hội diện. Gia phụ có viết một bức thư mà đến nay vẫn chưa trao được, mấy ngày trước đây biết quí đà sắp tụ hội ở đây, bèn sai vãn sinh đến trao lên.” Chàng nói xong liền đứng dậy, lấy trong túi một bức thư trao qua.

Toàn Quan Thanh đứng dậy, đón phong thư bằng cả hai tay rồi nói: “Đoàn vương gia thật là tình nghĩa thâm trọng, phiền đến Đoàn vương tử đích thân trao thư, tệ bang trên dưới cảm kích vô cùng.” Phong thư có niêm phong cẩn thận, trên bì thư viết: “Cái Bang chư vị trưởng lão thân khải”, tức là trưởng lão Cái Bang mới được đọc. Toàn Quan Thanh thấy tám chữ này, nghĩ mình không tiện mở ra coi, bèn nói: “Tệ bang sắp có kỳ đại hội, các trưởng lão đều đến. Tại hạ sẽ đích thân đem phong thư của Đoàn vương gia trình lên.” Đoàn Dự nói: “Nếu vậy thì tốt quá, vãn sinh xin cáo từ.”

Toàn Quan Thanh cảm tạ, tiễn khách ra về rồi nói: “Bạch trưởng lão cùng Mã phu nhân của tệ bang không may chết dưới độc thủ của Kiều Phong, ngày đó Đoàn vương gia đã chứng kiến thảm kịch đó ư?”

Đoàn Dự lắc đầu nói: “Bạch trưởng lão cùng Mã phu nhân không phải bị Kiều đại ca giết chết. Hung thủ sát hại Mã phó bang chủ là một người khác, gia phụ đã viết minh bạch trong thư. Sau này Toàn đà chủ xem thư tự nhiên sẽ hiểu.” Trong lòng chàng nghĩ: “Việc này nói cũng dông dài, mi lại không phải là người tốt, không cần phải nói nhiều. Chắc mi cũng không dám giấu giếm phong thư của gia gia ta đâu.” Toàn Quan Thanh chắp tay nói: “Sau này còn gặp lại, xin không tiễn xa nữa.”

Đoàn Dự quay người đi ra ngoài khe núi, thấy hai đệ tử Cái Bang cùng hai hán tử khác đang đến. Hai hán tử nhìn nhau, tiến lên vài bước, hướng về Đoàn Dự thi lễ rồi trình lên một tấm thiệp đỏ. Đoàn Dự nhận lấy, nhìn qua thấy mấy hàng chữ: “Tô Tinh Hà kính mời kỳ thủ trong thiên hạ, đến mùng tám tháng hai tụ hội tại tỉnh Hà Nam, núi Lôi Cổ, đất Thiên Lung.”

Trước nay Đoàn Dự vẫn thích chơi cờ, thấy mấy chữ này liền phấn chấn tinh thần, cười nói: “Thật là tuyệt diệu. Nếu vãn sinh không bận chuyện gì khác, nhất định sẽ đến. Không hiểu sao hai vị lại biết vãn sinh thích đánh cờ?”. Hai hán tử có vẻ vui mừng, trong miệng ú ớ chỉ xua tay loạn lên ra hiệu, thì ra đều là người câm. Đoàn Dự thấy thế đành cười, hỏi Chu Đan Thần: “Núi Lôi Cổ cách đây có xa không?”, rồi đưa tấm thiệp cho y xem.

Chu Đan Thần xem qua, ôm quyền quay sang nói với hai hán tử: “Thế tử của Trấn Nam Vương nước Đại Lý là Đoàn công tử xin đa tạ Thông Biện tiên sinh trước. Đến lúc đó nhất định sẽ đích thân đến viếng.” Sau đó liền chỉ Đoàn Dự, ra hiệu rằng sẽ đến dự hội.

Hai hán tử nghiêng mình thi lễ với Đoàn Dự, rồi lấy ra một tấm thiếp trình lên Toàn Quan Thanh. Y xem qua rồi cung kính trao trả, chắp tay nói: “Toàn Quan Thanh là người tạm nắm quyền đà chủ Đại Trí phân đà ở Cái Bang, xin cung kính trình bày với Thông Biện tiên sinh ở núi Lôi Cổ rằng Toàn mỗ kỳ nghệ kém cỏi, chỉ tổ thiên hạ chê cười, không dám đến dự. Xin tiên sinh thứ lỗi.” Hai hán tử thi lễ, rồi lại thi lễ lần nữa với Đoàn Dự, quay người đi.

Lúc này Chu Đan Thần mới nói với Đoàn Dự: “Núi Lôi Cổ ở phía nam Cảo Huyện, phía đông bắc Cang Khuất Nguyên, cách đây không xa lắm.”

Đoàn Dự cùng Toàn Quan Thanh từ biệt, ra khỏi hẻm núi rồi mới hỏi Chu Đan Thần: “Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà là người như thế nào? Là một kỳ thủ nổi tiếng ở Trung Nguyên chăng?” Chu Đan Thần nói “Thông Biện tiên sinh chính là Lung Á tiên sinh.”

Đoàn Dự “A” lên một tiếng, cái tên Lung Á tiên sinh khi ở Đại Lý chàng đã nghe bá phụ cùng phụ thân nhắc đến, biết đó là một cao thủ tiền bối của võ lâm Trung Nguyên, vừa câm vừa điếc nhưng võ công rất cao. Bá phụ chàng khi nhắc đến ông ta đều có vẻ rất kính trọng. Chu Đan Thần lại nói: “Lung Á tiên sinh có cố tật, nhưng lại tự xưng là Thông Biện tiên sinh, không chừng ông ta nghe bằng tâm, nói bằng bút còn hơn người thường nghe bằng tai, nói bằng lưỡi.” Đoàn Dự gật đầu nói: “Cũng có lý.” Chàng đi vài bước, đột nhiên thở dài sườn sượt.

Thì ra chàng nghe Chu Đan Thần nói về Tâm Thông Bút Biện của Lung Á tiên sinh thắng được Nhĩ Thông Thiệt Biện của người thường, không khỏi nghĩ đến võ công bằng miệng lưỡi của Vương Ngữ Yên, phàm nhân dùng binh đao quyền cước không sao hơn được.

Sau khi chàng cùng A Châu cứu bọn Cái Bang ở Vô Tích, không bao lâu hai gã Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác cũng đến gặp Vương Ngữ Yên, rồi cả năm người đi về hướng bắc tìm Mộ Dung công tử. Đoàn Dự tự nhiên cũng đi theo. Phong Ba Ác thì nghĩ đến cái ơn chàng hút máu độc trị vết thương bò cạp cắn, nên rất hoan nghênh. Còn Bao Bất Đồng nói chuyện không lịch sự chút nào, trách mắng Đoàn Dự không biết trời cao đất dày, dám đóng giả làm Mộ Dung công tử, Về sau gã lại còn nói: “Mi không cút đi cho lẹ thì ta đánh cho bây giờ.” Vương Ngữ Yên thì chỉ huyên thuyên với Phong Ba Ác về việc nên đi đâu để tìm biểu huynh, tình cảnh quẫn bách của Đoàn Dự nàng coi như không thấy.

Đoàn Dự không biết làm sao, đành phải chia tay với Vương Ngữ Yên đi về hướng bắc, nhưng rồi lại nghĩ: “Các ngươi đi Hà Nam tìm Mộ Dung Phục, ta cũng muốn đi Hà Nam, Hà Nam ở Trung Châu không phải là nhà của bọn Mộ Dung các ngươi. Mộ Dung Phục và Bao Bất Đồng đi được, chẳng lẽ Đoàn mỗ không đi được? Nếu trên đường có tình cờ gặp mặt với các ngươi thì chẳng qua là ý trời, Bao Tam tiên sinh ngươi không thể trách ta được.”

Nhưng ông trời hiển nhiên không có ý định cho chàng gặp Vương Ngữ Yên. Mấy tháng qua, Đoàn Dự du ngoạn Hà Nam, danh nghĩa là du sơn ngoạn thủy, nhưng thực chất là nhìn đông ngó tây chỉ mong thấy được một sợi tóc hay một chéo áo của Vương Ngữ Yên, chứ non xanh nước biếc không lọt vào đến nửa con mắt.

Một hôm, Đoàn Dự vào Bạch Mã Tự ở Lạc Dương, đang đàm luận về kinh A Hàm với phương trượng, thảo luận về Thất Bảo của Chuyển Luân Thánh Vương trong Phật học. Đoàn Dự đặc biệt hứng thú về Ngọc Nữ Bảo “không dài không ngắn, không trắng không đen, đông ấm hè mát”. Nhưng phương trượng lắc đầu quầy quậy, nói rằng: “Đoàn cư sĩ, đây chỉ là ví dụ, huống hồ Phật tổ đã nói rõ rằng thất bảo chỉ là vô thường…” Nói đến đây thì có ba người tiến vào trong chùa, chính là Phó Tư Qui, Cổ Đốc Thành và Chu Đan Thần.

Sau khi Đoàn Chính Thuần rời khỏi Mã gia ở Tín Dương, gặp lại Nguyễn Tinh Trúc, rồi tìm một nơi để dưỡng thương. Ông nghĩ đến Tiêu Phong đã bị Cái Bang vu cho cái tội hạ sát Mã Đại Nguyên, nhất định phải vì ông ta mà biện bạch, nên đã viết một lá thư, sai bọn ba người Phó Tư Qui đi trao cho Cái Bang.

Bọn Phó Tư Qui đi đến Lạc Dương, mà trong tổng đà của Cái Bang không có nhân vật đầu não nào. Họ lại nghe nói Đại Trí phân đà đang tụ hội ở gần đó, bèn tìm đến để đưa thư. Trên đường, ghé vào một tửu lâu nghe người ta kể chuyện tiếu lâm về một vị công tử si ngốc, hình mạo cử chỉ rất giống Đoàn Dự, họ bèn hỏi rõ phương hướng rồi tìm đến được Bạch Mã Tự.

Bốn người gặp nhau hết sức vui mừng. Đoàn Dự nói: “Ta cùng đi đưa thư với các ngươi, rồi các ngươi dẫn ta đến bái kiến phụ vương.” Chàng đã biết phụ thân đang ở Hà Nam, cũng rất muốn gặp. Bấy lâu chàng không nghe thấy chút tin tức nào của Vương Ngữ Yên, ngày đêm lo lắng. Đoàn Dự chỉ mong tại Đại Trí phân đà của Cái Bang là chỗ nhân vật giang hồ tụ hội, may ra có ai từng trông thấy dung nhan tuyệt thế của nàng chăng, nhưng cuối cùng cũng không được gì.

Chu Đan Thần thấy chàng thở ngắn thở dài, cứ tưởng đang nhớ đến Mộc Uyển Thanh, việc này làm sao khuyên giải được? Gã nghĩ rằng tốt nhất là dẫn dụ cho chàng nghĩ sang chuyện khác, bèn nói:“Thông Biện tiên sinh phát thiếp mời thiên hạ tới đánh cờ, chắc hẳn kỳ lực của ông ta cao lắm. Sau khi công tử gặp Trấn Nam Vương cũng nên đến chỗ Thông Biện tiên sinh mà chơi mấy ván.”

Đoàn Dự gật đầu nói: “Không sai, có thể mượn những quân đen trắng giải phá thành sầu. Tuy nàng thấu hiểu võ công khắp thiên hạ, thuộc lòng vô số kinh điển võ học, nhưng vị tất đã biết chơi cờ. Cuộc kỳ hội này của Thông Biện tiên sinh, chắc nàng không tới đâu.”

Chu Đan Thần không hiểu Đoàn Dự nói đến ai, dọc đường chỉ thấy chàng tựa hồ đầu óc không để trong người. Gã nghe chàng nói chuyện câu trước chẳng ăn nhập gì đến câu sau, nhưng đã quen nên cũng coi là chuyện thường, không hỏi thêm nữa.

Đoàn người cứ đi về hướng tây bắc. Đoàn Dự ngồi trên lưng ngựa, lúc chau mày, lúc phì cười, rồi nói: “Trong kinh có nói: nên nghĩ rằng trong thân mỹ nữ chỉ toàn máu mủ, trăm năm sau biến thành xương trắng (đương tự mỹ nữ, thân tàn nồng huyết, bách niên chi hậu, hóa bi bạch cốt). Nói thì nói vậy, nhưng ta e rằng mỹ nhân sau một trăm năm hóa thành xương trắng thì đống bạch cốt đó cũng cực kỳ mỹ lệ.” Chàng đang tưởng tượng xương cốt Vương Ngữ Yên sau này trông thế nào, chợt nghe tiếng vó ngựa từ xa chạy tới. Có một người nằm phục trên lưng ngựa, trong đêm tối không thể nhận định là người như thế nào.

Con ngựa đó không có ai điều khiển, xông thẳng vào bọn bốn người Đoàn Dự. Phó Tư Qui và Cổ Đốc Thành đưa tay nắm dây cương kéo lại, thấy người trên lưng không động đậy gì. Phó Tư Qui đưa mắt nhìn kỹ, thì ra là một sứ giả của Lung Á tiên sinh, trên mặt nhoẻn nụ cười mà lại tựa như không phải cười, đã chết lâu rồi. Lúc nãy y vừa đưa thiệp cho Đoàn Dự, không hiểu sao bây giờ lại chết rồi. Một con ngựa khác cũng chạy tới, trên lưng là xác tên sứ giả kia, trên mặt lộ vẻ cười quái dị. Phó Tư Qui biết ngay hai tên này trúng kịch độc mà chết, liền giật ngựa lui lại hai bước, không dám chạm vào hai cái thi thể đó.

Đoàn Dự cả giận nói: “Tên đà chủ họ Toàn của Cái Bang thật là ác độc, sao lại hạ độc thủ giết những người này? Ta phải đến lý luận với hắn.” Chàng nói xong liền quay đầu ngựa lại, muốn đến chất vấn Toàn Quan Thanh.

Trong bóng tối phía trước bỗng có người nói: “Thằng lỏi này không biết trời cao đất rộng chi hết. Ngoài môn hạ của Tinh Tú Lão Tiên, trong thiên hạ còn ai có pháp thuật giết người vô hình vô ảnh như thế? Lão già Lung Á đó cứ làm con rùa rút đầu rút cổ thì chẳng nói làm gì, nhưng hiện nay lão mon men xuất hiện trên giang hồ, Tinh Tú Lão Tiên làm sao tha cho lão được? Ê, tên tiểu tử kia! Chuyện này không liên quan đến ngươi, mau mau cút đi cho ta nhờ.”

Chu Đan Thần hạ giọng nói: “Công tử, đây là nhân vật phái Tinh Tú, không liên quan gì đến chúng ta. Mình đi thôi!”

Đoàn Dự tìm không thấy Vương Ngữ Yên cũng đã thấy chán nản. Giả tỉ hai tên sứ giả của Lung Á Lão Nhân mà chưa uổng mạng thì chàng cũng đến cứu, nhưng chúng đã chết rồi thì thật chẳng muốn sinh sự nữa làm gì. Chàng thở dài rồi nói: “Câm điếc vẫn chưa đủ, bao giờ mắt không nhìn thấy gì, mũi không ngửi thấy gì, trong lòng không có ý niệm gì nữa thì mới là giải thoát hết phiền não.”

Chàng nói thì nói vậy, nhưng đã lỡ gặp Vương Ngữ Yên, dáng dấp giọng cười của nàng đã in sâu vào tâm khảm, giả tỉ bây giờ hỏng cả tai mắt mũi miệng thì cũng đã muộn, phiền não e rằng không thể giải thoát được. Bỗng nhiên phía trước có người buông tiếng cười rộ rồi vỗ tay nói lớn: “Đúng, đúng lắm! Ngươi nói rất có lý. Móc mắt, cắt mũi vẫn chưa đủ, phải lôi ra đánh đập đến một ý niệm cũng không còn thì mới gọi là xong.”

Đoàn Dự than rằng: “Thân thể bên ngoài tàn phế chưa chắc đã hiệu quả. Phải tự mình tu tâm, không nghĩ đến sắc tướng trên thế gian, thì mới tới mức tâm vô sở trụ. Nếu thế thì trở thành đại bồ tát rồi, ta chỉ là phàm phu tục tử, làm sao tu tập tới trình độ đó được? Than ôi! Oán tăng hội, ái biệt ly, cầu bất đắc (gặp người mình ghét, xa người mình thương, muốn mà không được) đều là cái khổ của nhân sinh.”

***

Du Thản Chi nấp sau tảng đá trong bụi cỏ, thấy bọn Đoàn Dự đến rồi đi, sau đó lại nghe thấy tiếng hô hoán ở phía trước. Lúc đó hai tên đệ tử Cái Bang chạy lẹ đến nói nhỏ với Toàn Quan Thanh: “Toàn đà chủ, hai gã ban nãy không hiểu sao đã bị người ta đánh chết rồi. Hung thủ tự xưng là người của phái Tinh Tú, môn hạ của Tinh Tú Lão Tiên”.

Toàn Quan Thanh giật mình, biến sắc mặt. Y đã nghe nói đến Tinh Tú Lão Quái ở phái Tinh Tú, đã giỏi dụng độc mà võ công cũng rất kỳ ảo, nghĩ rằng môn nhân của lão ta giết sứ giả của Lung á Lão Nhân thì không liên quan đến mình, đừng giây vào là hơn. Y liền nói: “Biết rồi! Chẳng qua là ma quỉ giết nhau, mặc kệ chúng đi.”

Bỗng phía trước có tiếng người nói: “Thằng cha này ăn nói láo toét, đã biết bọn ta là môn hạ của Tinh Tú Lão Tiên mà còn dám mắng ta là quỉ, chắc chán sống rồi chăng?” Toàn Quan Thanh cả kinh, bất giác lùi lại một bước, dưới ánh lửa thấy ngay trước mặt có một tên bang chúng thủ hạ của mình. Y định thần nhìn kỹ, thấy mặt tên này tựa như cười mà không phải cười, trông rất kỳ lạ, phía sau hình như lại còn một người nữa, bèn hỏi: “Các hạ là thần hay là quỉ, sao lại đến đây?”

Người đứng phía sau tên đệ tử Cái Bang đáp lại, giọng nói âm hiểm lạ thường: “Ngươi to gan thật, lại nói một chữ quỷ nữa. Lão gia đây là môn hạ của Tinh Tú Lão Tiên. Lão Tiên đã giá đáo Trung Nguyên, trước mắt cần dùng hai chục con rắn độc, một trăm con trùng độc. Cái Bang chúng bay xưa nay vẫn có nhiều độc vật, mau mau đem dâng lên. Tinh Tú Lão Tiên thấy chúng bay ngoan ngoãn, không chừng sẽ tha mạng cho bọn ăn mày mạt hạng này. Nếu không chịu, hà hà, cứ nhìn tên này mà làm gương.”

Nghe “binh” một tiếng, tên đệ tử Cái Bang đứng trước bỗng vọt lên không, rồi rớt xuống bên đống lửa không cục cựa, thì ra đã chết rồi. Xác gã vừa bay lên, liền lộ ra một hán tử thân thể lùn mập, mặc áo ngắn, không hiểu đã lẻn đến giết gã từ bao giờ.

Toàn Quan Thanh vừa kinh sợ vừa giận dữ, trong lòng suy nghĩ rất lung:“Tinh Tú Lão Quái muốn cưỡi lên đầu Cái Bang ta, nếu không khuất phục thì phải đối đầu. Việc này tuy hung hiểm, nhưng nếu ta mới nghe dọa một tiếng đã ngoan ngoãn đem rắn độc trùng độc dâng lên, thì huynh đệ trong bang hẳn là nhìn ta bằng nửa con mắt, chuyện ta làm bang chủ coi như vô vọng, mà muốn đứng vững trong bang cũng khó. May mà Tinh Tú Lão Quái chưa thân hành đến đây, gã này chỉ có một mình, không đến nỗi đáng sợ.” Y nghĩ đến đó, bèn cười khẩy hỏi lại: “Té ra huynh đài là môn hạ phái Tinh Tú. Xin cho biết tôn tính đại danh?”

Tên lùn kia đáp: “Đạo hiệu ta là Thiên Lang Tử. Ngươi mau mau chuẩn bị sẵn rắn độc trùng độc đi.” Toàn Quan Thanh cười nói: “Rắn độc trùng độc chỉ là chuyện nhỏ, không cần lưu tâm lắm.” Y thuận tay nhặt dưới đất lên một cái túi vải, nói: “Trong này có mấy con rắn độc, huynh đài xem thử coi Tinh Tú Lão Tiên có dùng được hay không?”

Tên lùn Thiên Lang Tử nghe Toàn Quan Thanh gọi “Tinh Tú Lão Tiên”, trong lòng hoan hỉ, lại thấy thái độ y cung kính bèn nghĩ: “Cái Bang gì gì đó là một đại bang ở Trung Nguyên, mà vừa nghe danh hiệu của sự phụ ta đã sợ đến té đái vãi phân. Ta lấy mấy con rắn độc này về ắt là sư phụ hoan hỉ, khen ta làm việc đắc lực. Nói đi nói lại, thì cũng dựa vào uy danh của sư phụ lão nhân gia thôi.” Y bèn cúi đầu nhìn vào trong cái túi đó.

Đột nhiên trước mắt y tối sầm lại, cái túi vải đã chụp lên đầu. Thiên Lang Tử kinh hãi, đánh ra một chưởng nhưng chẳng trúng ai. Lúc đó trên đầu, trên mặt, sau gáy đồng thời đau nhói lên, chắc đã bị độc vật trong túi cắn trúng. Gã không kịp giật cái bao xuống, phóng ra hai chưởng rồi vọt người đi. Đầu gã bị cái túi vải chụp kín, mắt không thấy gì, song chưởng vung lên loạn xạ, lại cảm thấy bị rắn rết cắn khắp chỗ trên đầu trên mặt, trong lúc hoảng hốt chỉ biết chạy mà thôi. Bỗng dưng hắn bước vào chỗ không, thân thể rơi từ trên cao xuống. Gã chỉ kêu được một tiếng đã rơi tòm xuống con sông chảy quanh chân núi, rồi bị cuốn trôi theo dòng nước.

Bản ý của Toàn Quan Thanh là giết người diệt khẩu, nào ngờ để người chạy mất. Tuy tên lùn kia bị độc vật cắn vào mặt, lại rớt xuống sông, dĩ nhiên phần chết nhiều hơn phần sống, nhưng Toàn Quan Thanh nghĩ đến phái Tinh Tú dụng độc như thần, không chừng có thuốc giải độc hiệu nghiệm, lại ở Tinh Tú Hải lâu năm chắc không tới nỗi chết đuối. Giả tỉ tên này không chết, phái Tinh Tú biết tin nhất định sẽ cho nhiều người đến phục thù. Gã trầm ngâm một lúc rồi nói: “Chúng ta hãy bày trận mãng xà, đánh nhau với Tinh Tú Lão Quái một phen. Chẳng lẽ vì Kiều Phong bỏ đi mà Cái Bang chúng ta không đứng vững hay sao? Chẳng lẽ từ đây phải chịu người ngoài áp bức hay sao? Phái Tinh Tú chuyên nghề dùng độc, chúng ta không thể đánh nhau bằng binh đao quyền cước, nhưng có thể dĩ độc công độc.”

Bọn Cái Bang reo lên khen phải, lập tức tản ra bốn hướng, lập thành thế trận ở cách đống lửa vài trượng rồi xếp bằng ngồi xuống.

Du Thản Chi thấy Toàn Quan Thanh dùng mưu chụp túi vải vào đầu tên Thiên Lang Tử kia, nghĩ thầm: “Té ra trong túi vải đó có độc vật. Họ có nhiều túi vải thế kia, chẳng lẽ túi nào cũng có trùng độc rắn độc hay sao? Bọn Cái Bang này bắt trùng bắt rắn rất giỏi, nếu vậy thì cũng không phải là lạ lắm. Nếu ta trộm được hết đống bao vải này về tặng cho A Tử, nhất định cô nương sẽ rất mừng.”

Chỉ thấy bọn Cái Bang ngồi bất động không nói năng gì, cạnh mỗi người đều có một cái túi vải. Có những cái túi rất lớn, bên trong tựa hồ như có vật gì lớn lắm đang nhúc nhích, Du Thản Chi nhìn mà kinh sợ đến nổi gai ốc. Bốn phía đều không một tiếng động, nếu gã bò đến chắc chắn sẽ bị bọn Cái Bang phát giác, Du Thản Chi nghĩ thầm: “Giả tỉ họ dùng cái túi này chụp lên đầu ta, thì ta có cái đầu sắt che đỡ cũng không đáng sợ lắm. Nhưng nếu nhét cả người ta vào một cái túi to cùng với các loại rắn rết sâu bọ thì chắc là khốn khổ không chịu nổi.”

Trong mấy giờ, không hề có động tĩnh gì. Một lúc nữa, chân trời hơi rạng, rồi mặt trời ló ra chiếu sáng cả một vùng hoang sơn rộng lớn, chim chóc cũng bắt đầu hót vang. Đột nhiên Toàn Quan Thanh nói nhỏ: “Đến rồi! Mọi người phải cẩn thận.” Y ngồi xếp bằng cạnh một tảng đá, bên người không có túi vải, nhưng trong tay cầm một ống sáo bằng sắt.

Ở hướng tây bắc vang lên một tiếng sáo trúc nhẹ nhàng, thấy một đoàn người từ từ tiến đến, trong tiếng sáo trúc lại hòa lẫn tiếng trống, tiếng chiêng nghe cũng réo rắt du dương. Du Thản Chi nghĩ: “Chẳng lẽ là đám rước dâu hay sao?”

Tiếng nhạc từ từ đến gần, còn cách khoảng mười trượng thì dừng lại. Có vài người đồng thanh hô lên:“Pháp giá Tinh Tú Lão Tiên giá lâm Trung Nguyên, đệ tử Cái Bang mau mau ra quì xuống nghênh tiếp.” Tiếng hô vừa dứt, bốn tiếng trống tung tung nổi lên, sau ba hồi trống lại có một tiếng thanh la. Sau khi chiêng trống ngừng lại, có đến mấy chục người đồng thanh hô vang: “Cung thỉnh Tinh Tú Lão Tiên thi triển đại pháp, hàng phục bọn yêu ma tiểu quỷ Cái Bang.”

Du Thản Chi nghĩ thầm: “Kiểu này giống như bọn đạo sĩ lập đàn trừ tà vậy.” Rồi gã từ sau tảng đá, cẩn thận thò nửa cái đầu ra nhìn thấy ở phía tây bắc có hơn hai mươi người xếp hàng chữ nhất, có người thì cầm trống chiêng các loại nhạc khí, có người thì cầm cờ phướn, màu xanh đỏ đập vào mắt. Từ xa cũng nhìn thấy trên cờ phướn có những chữ rất to: “Tinh Tú Lão Tiên thần thông quảng đại, pháp lực vô biên, uy trấn thiên hạ”. Trong tiếng sáo trúc, trống chiêng, một ông lão từ từ bước ra, sau lão mấy trượng lại có mấy chục người xếp thành hai hàng đi theo.

Ông lão đang cầm một cái quạt bằng lông ngỗng, sắc mặt hồng hào dưới ánh mặt trời, đầu tóc bạc phơ, dưới cằm có chòm râu dài ba thước, quả là đồng nhan hạc phát, giống như thần tiên trong tranh vậy. Lão đi về phía bọn Cái Bang, cách chừng ba trượng thì dừng lại không tiến nữa, đột nhiên chúm môi phát ra một tiếng sáo lanh lảnh, cái quạt trong tay phẩy lên tựa hồ đưa tiếng huýt gió tới bọn Cái Bang. Lập tức có bốn người đang ngồi dưới đất phải ngã ngửa ra.

Du Thản Chi kinh ngạc la thầm: “Tinh Tú Lão Tiên pháp lực quả nhiên lợi hại.” Lão già lộ vẻ tươi cười, cứ huýt một tiếng lại quạt mấy cái, là thêm một tên ăn xin lăn ra. Tiếng huýt gió của lão tựa như một thứ ám khí lợi hại hữu chất vô hình, trong nháy mắt đã đánh ngã sáu bảy đệ tử Cái Bang.

Bọn người đi theo sau lão đều thi nhau tán tụng: “Công lực của sư phụ cổ kim hiếm có. Bọn Cái Bang này muốn chống đối phái ta thì chẳng khác gì đom đóm so với ánh sáng mặt trời mặt trăng thôi.” “Châu chấu không biết tự lượng sức lại đòi đá xe, thật là buồn cười đến nẻ ruột.” Có tên lại nói “Sư phụ lão nhân gia chỉ cười nói như không, đã làm bọn tiểu yêu này chết tươi tại chỗ, thế thì chẳng phí nửa giọt mồ hôi là hoàn toàn thắng lợi. Từ xưa tới nay đồ đệ chưa được thấy cũng chưa được nghe những việc như thế bao giờ”. Cũng có tên nói: “Đây là kỳ tích vô tiền khoáng hậu, nếu sư phụ không hiển lộ cho xem thì bọn võ lâm Trung Nguyên quyết không tưởng tượng nổi trên thế gian lại có công phu đến như thế.” Phụ họa vào tiếng hoan hô ca tụng công đức của lão tiên, lại có tiếng sáo trúc, trồng chiêng ầm ĩ thật là náo nhiệt.

Đột nhiên Toàn Quan Thanh thổi thiết địch trên tay nghe suỵt một tiếng, Du Thản Chi kinh ngạc tự hỏi: “Không hiểu y thổi làm chi, không lẽ xoay sang tán tụng Tinh Tú Lão Tiên ư?” Ở dưới đất bỗng có tiếng động, trong những bao vải lớn có mấy con rắn to màu sắc sặc sỡ bò ra, trườn dưới đất hướng đến ông lão. Bọn đệ tử kinh hãi la lên: “Có rắn, có rắn độc!” “Ôi chao, không xong rồi! Ở đây nhiều rắn độc quá.” “Sư phụ ơi, dường như lũ rắn độc này đang xông đến chúng ta.” Trong túi vải của bọn Cái Bang bò ra mỗi lúc một nhiều rắn độc, lớn có nhỏ có, nhiều con cất đầu lên phun phè phè, cùng xông vào chỗ lão già kia đang đứng với bọn đệ tử. Bọn chúng la rầm lên, thật là hoảng loạn.

Mấy tên đệ tử phái Tinh Tú cầm cương trượng nhắm vào rắn dưới đất mà đập túi bụi, nhưng ông lão sắc mặt vẫn thản nhiên, tiếp tục chúm môi huýt sáo cùng phất quạt để tấn công địch. Bên kia thì tiếng thiết tiêu của Toàn Quan Thanh cất lên không ngớt, bọn Cái Bang cũng hò hét trợ oai.

Rắn bò ra mỗi lúc một nhiều, chỉ chốc lát quanh gánh hát của Tinh Tú Lão Tiên đã tụ lại cả trăm con: Trong đó có năm sáu con trăn lớn, khi bò đến gần liền ngoắt đuôi lại quấn người. Trong đám đệ tử của phái Tinh Tú đã có bốn tên bị trăn quấn, số còn lại đều hoảng hồn muốn co giò chạy trốn cho xa đám rắn này, nhưng lại không dám. Trong lúc sư phụ đang nghênh địch thì đệ tử làm sao dám bỏ chạy được, chúng chỉ đứng đó mà khua binh khí đập loạn xạ. Chúng đánh chết ít nhất cũng đã tám chín chục con rắn, nhưng bảy tám người đã bị rắn độc cắn trúng. Những con trăn lớn da dày xương cứng lại càng lợi hại, cương trượng đập vào chúng chỉ như phủi bụi, mà chúng đã quấn được thân thể tên nào thì không thả ra nữa, càng lúc càng siết chặt. Tiếng thiết tiêu vẫn nổi lên tựa như kèn thúc quân, trăn rắn bò ra lại càng nhiều, dưới đất đã có tới hai mươi bảy, hai mươi tám con trăn lớn.

Ông lão thấy tình hình không êm, muốn rời chỗ để công kích Toàn Quan Thanh, nhưng đột nhiên có hai con rắn nhỏ vọt đến nhắm vào mặt lão mà mổ. Lão cả giận quát: “To gan thật!” rồi phẩy quạt, một trận kình phong cuốn hai con rắn đó rơi xuống. Đột nhiên lão thấy một vật mềm mại cuốn vào chân, biết là nguy rồi, vội vã phi thân lên. Thiết tiêu lại suýt một tiếng nữa, bốn con trăn đồng thời quơ cái đuôi dài lên, hướng vào lão ta mà quấn. Lão đang lơ lửng trên không, kích ra hai chưởng, đánh vào hai con trăn phía trước và bên trái binh binh hai tiếng, chúng lảo đảo rồi bắn ra ngoài hai trượng. Lúc đó đuôi của hai con trăn còn lại đã vươn tới. Trong lúc nguy cấp lão lại vận kình phóng ra một chưởng cực kỳ mãnh liệt, chưởng phong vừa đến thì đầu của một con trăn to nát bét ngay.

Đàn rắn ào ào kéo tới như sóng biển. Tuy lão già đã đánh chết được ba con trăn lớn, nhưng trên lưng và chân phải lại bị hai con khác quấn chặt. Lão quát lên một tiếng, vận hết công lực bình sinh dùng trảo bấu vào bụng con trăn trên lưng, lập tức máu tươi nó tuôn ra đỏ lòm khắp người lão. Nhưng giống trăn thật là dai sức, nó bị thủng bụng mà chưa chết ngay, vẫn cố siết mạnh vào, xương sống lão tựa hồ sắp gãy. Lão đang ra sức kháng cự thì lại có hai con trăn nữa vươn tới, dùng đuôi quấn quanh lưng lão mấy vòng, siết cứng cả hai tay lão vào người. Thế là lão già không còn cách nào chống cự nữa. Du Thản Chi trong bụi có thấy tình hình kinh tâm động phách này, sợ đến không dám thở mạnh.

Toàn Quan Thanh cả mừng, thấy mọi người bên địch đã bị trăn lớn quấn chặt hết, chỉ còn biết rên rỉ, thóa mạ chứ không còn phản kháng gì được nữa. Y bèn ngưng thổi thiết tiêu, tiến lại mấy bước cười nói: “Tinh Tú Lão Quái! Phái Tinh Tú của ngươi cùng Cái Bang chúng ta trước nay vẫn không can thiệp đến công việc của nhau, nước sông không phạm vào nước giếng, sao bỗng dưng đến đây kiếm chuyện? Bây giờ ngươi nói sao đây?”

***

Vị tiên ông đồng nhan hạc phát này chính là Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu mà nhân sĩ võ lâm đều ghét cay ghét đắng. Và một trong Tinh Tú tam bảo là Thần Mộc Vương Đỉnh bị nữ đệ tử là A Tử lấy trộm đem đi mất, lão bèn phái nhiều nhóm đệ tử đi truy lùng, thậm chí đại đồ đệ là Trích Tinh Tử cũng phải đi. Chim bồ câu đưa thư về toàn là tin bất lợi, cuối cùng lão được tin A Tử ỷ vào Kiều Phong là bang chủ Cái Bang, đánh Trích Tinh Tử trọng thương tới cửu tử nhất sinh. Đinh Xuân Thu vừa kinh hãi vừa căm hận, nghĩ rằng Cái Bang là một đại bang của võ lâm Trung Nguyên, không dễ gì đối phó. Vả lại Lung Á Lão Nhân mấy năm nay lại lộ diện trên giang hồ, đó cũng là một mối lo trong lòng, lão mà chưa trừ được thì không thể yên tâm. Lão định bụng sau khi lấy lại vương đỉnh sẽ nhân dịp làm cho xong việc đã ấp ủ nhiều năm, bèn thống lĩnh đệ tử bản phái đông chinh một chuyến.

Việc luyện Hóa Công Đại Pháp là thường xuyên phải bôi chất độc của rắn rết vào lòng bàn tay, cho thấm vào nội thể. Trong vòng bảy ngày mà không bôi chất độc mới vào, thì chẳng những công lực bị giảm sút mà độc chất tích trữ mấy chục năm trời, không được chất độc mới thấm vào nuôi dưỡng, sẽ bắt đầu phát tác, dần dần gây ra tai họa ghê gớm không biết đâu mà lường. Thần Mộc Vương Đỉnh có tiết ra một chất khí đặc biệt, mỗi khi đốt hương liệu lên thì trong khoảnh khắc dẫn dụ được rắn rết độc bò tới. Không có loại trùng độc nào trong phạm vi mười dặm đã ngửi thấy mùi hương mà chống lại nổi, không tìm đến. Đinh Xuân Thu có chiếc bảo đỉnh này trong tay nên việc bắt trùng độc không tốn một chút hơi sức nào mà phép Hóa Công Đại Pháp càng luyện càng thâm hậu. Trước kia lão có một tên đệ tử đắc ý, gã này luyện Hóa Công Đại Pháp cũng có chút thành tựu. Nào ngờ sau này gã ỷ tài, không chịu nịnh bợ sư phụ nữa, Đinh Xuân Thu bèn bắt lấy, rồi không cần trừng phạt bằng roi đòn hay đao kiếm chi hết, chỉ đem giam vào một căn nhà đá, khiến gã không có cách nào bắt được độc vật. Gã này bị độc chất trong mình phát tác cực kỳ khổ sở, tự cào xé da thịt toàn thân nát bét, rên rỉ kêu gào hơn bốn mươi ngày mới chết. Tinh Tú Lão Quái tuy đắc ý, nhưng cũng không khỏi sợ sệt trong lòng, bèn không dám truyền thụ Hóa Công Đại Pháp cho ai nữa, do đó bọn Trích Tinh Tử cũng không biết. A Tử muốn học môn thần công này, bèn lén nhìn phương pháp lão tập luyện.

A Tử mưu mô xảo quyệt, chờ sư phụ vừa bắt trùng độc xong liền ăn cắp cái Thần Mộc Vương Đỉnh, rồi xin phép đàng hoàng đi về hướng đông. Đến lúc Tinh Tú Lão Quái phát giác ra mộc đỉnh đã biến mất, thì đã qua bảy ngày, A Tử đã trốn xa rồi, nàng cứ chọn những con đường vắng vẻ mà đi. Bọn sư huynh đi truy nã tuy võ công cao hơn nàng, nhưng mưu kế lại kém xa. Nàng dùng cách dương đông kích tây, liên tiếp bày ra vô số ngụy kế để trốn tránh.

Nơi ở của Tinh Tú Lão Quái là một khe núi ẩm thấp có rất nhiều rắn độc trùng độc. Tuy lão mất mộc đỉnh ngọc, nhưng việc bắt độc vật cũng không phải là chuyện khó. Tuy nhiên những con rắn độc trùng độc dễ bắt thì lại tầm thường, những loại ghê gớm hiếm có không thể bắt được nữa. Lão còn lo lắng một điều là lỡ mà bọn cao thủ Trung Nguyên khám phá ra lai lịch chiếc đỉnh, thì bất luận là ai cũng đập tan tức khắc. Vì thế ngày nào chưa tìm được là lão chưa yên tâm ngày ấy.

Đinh Xuân Thu đi đến Thiểm Tây thì gặp bọn đồ đệ. Đại đệ tử là Trích Tinh Tử may mà không chết, nhưng mất hết võ công, bị bọn sư đệ nhục mạ rồi đánh đập nhừ tử đến không ra hình người nữa. Nhị đệ tử là gã mũi sư tử đạo hiệu là Sư Hống Tử tạm giữ chức vị đại sư huynh. Bọn đệ tử phái Tinh Tú thấy sư phụ thân hành xuất mã thì vừa kinh ngạc vừa sợ hãi, nghĩ tới chuyện mình không hoàn thành được mệnh lệnh được giao, e rằng sẽ bị trách phạt cực kỳ thảm khốc. May mà Tinh Tú Lão Quái đang lúc cần người, tạm gác chuyện trách phạt lại, cho chúng lập công chuộc tội.

Dọc đường cả bọn đều ra sức thám thính tin tức của Cái Bang, nhưng chúng tướng mạo đã kỳ dị, hành động ngôn ngữ lại làm người ta chán ghét, nên chẳng ai muốn giúp đỡ chỉ bảo cho. Hơn nữa Tiêu Phong đã đến nước Liêu làm tới chức Nam viện đại vương, trong võ lâm không mấy ai biết, nên chúng không dò la được chút xíu tin tức nào, ngay cả tổng đà Cái Bang đang ở đâu cũng không hiểu.

Một hôm Thiên Lang Tử vô tình nghe tin Đại Trí phân đà hội họp, muốn lập công bèn một mình xông vào, không tính toán gì. Gã trúng kế của Toàn Quan Thanh, may mà trong nội thể có nhiều độc chất nên bò cạp cắn lên mặt cũng không chết, thoát nạn chạy về bẩm báo với sư phụ. Đinh Xuân Thu lập tức tìm đến, không ngờ cuối cùng bị mãng xà siết chặt đến nỗi bất động, một thân võ công thâm hậu lại đầy dẫy chất kịch độc cũng tựa hồ vô kế khả thi.

***

Đinh Xuân Thu không trả lời câu hỏi của Toàn Quan Thanh, lạnh lùng hỏi lại: “Trong Cái Bang có ai tên là Kiều Phong không? Hắn đang ở đâu, mau kêu ra đây gặp ta.” Toàn Quan Thanh bất giác rùng mình một cái, hỏi: “Ngươi có chuyện gì mà muốn kiếm Kiều Phong?” Đinh Xuân Thu ngạo mạn nói: “Tinh Tú Lão Tiên hỏi mi sao mi dám không trả lời, lại còn hỏi tới hỏi lui? Kiều Phong đâu?”

Toàn Quan Thanh thấy lão đang bị trăn quấn chặt, mất cả khả năng phản kháng mà nói chuyện vẫn ngạo mạn như thường, đủ hiểu con người này ác độc cỡ nào, thật là hiếm có trên đời. Y liền kiếm lời châm chọc: “Tinh Tú Lão Tiên lừng danh thiên hạ, thế mà mấy con rắn cỏn con này cũng đối phó không xong, rõ ràng chỉ có hư danh. Xin lỗi nhé, hôm nay chúng ta phải vì thiên hạ mà trừ đại họa.”

Đinh Xuân Thu cười nói: “Lão phu bất cẩn để thua loại súc sinh máu lạnh này, hôm nay về Tây phương cực lạc cũng chẳng qua là số mệnh mà thôi.”

Lão vừa dứt lời, đột nhiên một tên đệ tử phái Tinh Tú đang bị trăn quấn kêu lên: “Cái Bang đại anh hùng ơi! Xin tha mạng cho tiểu nhân, sẽ có rất nhiều lợi ích. Sư phụ của tiểu nhân rất nhiều ngụy kế, ai đề phòng đến đâu cũng không tránh hết được. Đại anh hùng chỉ sơ ý một chút là mắc bẫy ngay lập tức.” Toàn Quan Thanh lạnh lùng hỏi: “Tha cho ngươi thì được lợi gì?” Gã kia đáp: “Phái Tinh Tú có ba món bảo vật gọi là Tinh Tú tam bảo, chỉ có Tinh Tú Lão Quái và tiểu nhân là biết nơi cất giấu. Đại anh hùng cứ tha tiểu nhân ra đi, khi giết xong lão quái, tiểu nhân sẽ đi lấy dâng lên. Nếu đem tiểu nhân giết đi, thì vĩnh viễn không lấy được Tinh Tú tam bảo.”

Lại một tên đệ tử khác la lên: “Đại anh hùng! Đại anh hùng chớ có bị đánh lừa! Trong tam bảo thì một vật đã bị người lấy cắp đi mất rồi. Đại anh hùng tha tiểu nhân ra hay hơn, chỉ có tiểu nhân là hết lòng trung thành, quyết không lừa dối.”

Trong chốc lát bọn đệ tử phải Tinh Tú nhốn nháo cả lên. Nào là: “Cái Bang đại anh hùng! Tha mạng cho tiểu nhân là hay nhất, bọn kia không hết lòng trung thành với đại anh hùng đâu. Chỉ một mình tiểu nhân là đến chết cũng không đổi dạ, quyết ra sức phục vụ cho ngài.” “Tiểu nhân biết rất nhiều tuyệt kỹ bí truyền của phái Tinh Tú, nhất định sẽ nói cho đại anh hùng biết hết, không giấu giếm chút nào.” “Bản phái đến Trung Nguyên là có mưu đồ đại sự, chủ yếu là để đối phó với Cái Bang các ngài. Các vị đại anh hùng có muốn biết cụ thể không?” “Trên bờ Tinh Tú Hải có vô số kim ngân châu báu, tiểu nhân biết hết mọi chỗ, xin dẫn các vị đi khai quật, từ nay anh hùng hảo hán Cái Bang không cần phải đi xin ăn nữa.” Bọn này ăn nói bát nháo, tên thì hứa hẹn trung thành, tên thì hiến kế, tên thì đem lợi ra nhử, tên thì khêu gợi tính hiếu kỳ, lại có tên lại bịa đặt ra những chuyện hoang đường. Thôi thì kiểu gì cũng có. Có mấy tên bị rắn cắn hoặc trăn quấn chặt đã sắp đứt hơi, chỉ sợ mình chết mà không kịp van xin tha mạng, lại càng nghẹn ngào năn nỉ.

Bang chúng Cái Bang không ngờ đệ tử phái Tinh Tú lại vô sỉ đến thế, liền đem lòng khinh bỉ. Có tên nổi tính hiếu kỳ, lại gần để nghe cho đã tai. Toàn Quan Thanh lạnh lùng nói: “Bọn mi đối với sư phụ còn chẳng trung thành, nói chi đến chuyện trung thành với người chưa quen biết? Thật là đáng buồn cười.”

Bọn đệ tử phái Tinh Tú lại tranh nhau nói: “Không phải! Không phải! Tinh Tú Lão Quái bản lĩnh kém cỏi, tiểu nhân theo lão chẳng ăn thua gì, trung thành với lão cũng vô ích. Còn đại anh hùng Cái Bang uy danh lừng lẫy khắp thiên hạ, lại có bí quyết sai khiến rắn độc cực kỳ lợi hại. Tinh Tú Lão Quái bì với đại anh hùng thế nào được?” “Phải rồi! Cái Bang mà thu dụng đệ tử phái Tinh Tú là khiến cho quần hùng Tây Vực cũng như ở Trung Nguyên đều chấn động. Họ sẽ khâm phục các vị anh hùng Cái Bang không biết đến đâu mà nói.” “Chỉ gọi là anh hùng thôi ư? Hai chữ “Anh Hùng” không đủ để ca tụng các vị, mà phải kêu bằng “Đại Hiệp”, “Thánh Nhân” mới đúng! Tiểu nhân là người biết ăn nói, từ đây sẽ chu du bốn phương trời để ra sức quảng cáo. Oai đức của các vị đại hiệp Cái Bang chẳng mấy chốc khắp thiên hạ không còn ai không biết.” “Hứ! Tiếng tăm các vị đại hiệp Cái Bang trước nay đã lẫy lừng như sấm động, hà tất phải đợi ngươi đi khua chuông gõ trống?” “Thánh nhân! Tiểu nhân là kẻ sáng suốt tuyên bố quay về chính nghĩa trước tiên, bọn kia chỉ biết bắt chước chứ có công lao gì?

Một tên đệ tử năm túi của Cái Bang chau mày nói: “Bọn mì toàn là đồ tiểu nhân để tiện, ton hót chỉ tổ người ta bẩn cả tai. Tinh Tú Lão Quái! Sao ngươi lại đào tạo ra bọn đê hèn vô liêm sỉ đến thế? Thôi, ta hóa kiếp cho ngươi trước rồi từ từ cho bọn chúng đi theo hết. Bữa nay lão gia phải đại khai sát giới.” Nói xong, y phóng chưởng đánh Đinh Xuân Thu nghe “vù” một tiếng. Phát chưởng này kình lực cực kỳ lợi hại, đánh trúng ngay giữa ngực, nào ngờ lão vô sự mà tên Cái Bang lại nhũn hai chân ra, khuỵu xuống đất cuộn người thành một khối, giãy giụa hai cái rồi bất động. Bọn Cái Bang cả kinh la lên: “Sao thế?”, rồi hai tên đứng cạnh đưa tay toan đỡ dậy, nhưng vừa chạm vào gã thì lắc lư muốn ngã. Kế bên có ba tên theo phản xạ ra tay đỡ lấy, nhưng vừa động đến cũng ngã ra. Toàn thể quần cái đều chưng hửng đứng nhìn, không dám chạm vào đồng bọn nữa.

Toàn Quan Thanh la lên: “Lão này toàn thân đầy chất độc, không được động đến. Phóng ám khí!”

Tám chín tên đệ tử Cái Bang vào hàng bốn năm túi đồng thời phát xạ ám khí, nào là cương tiêu, phi đao, tụ tiễn, phi hoàng thạch, đều nhắm hướng Đinh Xuân Thu bay đến vèo vèo. Lão quát lên một tiếng, hất đầu xổ mái tóc bạc ra như một cây nhuyễn tiên, gạt hết mười mấy thứ ám khí bay ngược lại. Những tiếng “Ái chà!” “Ôi chao!” liên tiếp vang lên, sáu bảy tên bang chúng Cái Bang bị trúng ám khí. Tên thì trúng vào chỗ hiểm yếu, có tên chỉ bị sướt qua trầy da, nhưng tất cả đều nhũn ra chết cùng một lúc.

Toàn Quan Thanh quát lớn: “Lui ra! Lui ra!”. Bỗng nhiên từ mái tóc bạc phơ của Đinh Xuân Thu có một cây cương tiêu bay vèo đến, nhắm vào gã. Toàn Quan Thanh cả kinh, vung thiết tiêu gạt bắn mũi cương tiêu bay ra xa. Gã nghĩ rằng Tinh Tú Lão Quái quái dị khôn lường, dùng trăn quấn chết là an toàn nhất, liền đưa ống thiết tiêu lên miệng toan thổi. Bỗng dưng môi miệng gã tê dại đi, đầu óc choáng váng. Gã biết mình vừa ngu vừa ẩu, vứt ngay thiết tiêu xuống thì đã không kịp nữa, chỉ kêu được một tiếng rồi lăn ra nằm ngửa mặt nhìn trời.

Bang chúng Cái Bang đều cả kinh, có hai tên chạy đến tranh nhau đỡ lấy gã. Toàn Quan Thanh trong lúc nửa mê nửa tỉnh cũng cố nói: “Ta… ta… trúng độc rồi! Mau… mau… rút đi”. Bọn ăn xin sợ đến hồn vía bay hết lên mây, ôm lấy gã dông thẳng một mạch. Chẳng tên nào buồn thu dọn những tử thi đồng bọn và đủ các thứ linh tinh đang nằm vương vãi đầy mặt đất.

***

Du Thản Chi nấp trong bụi rậm, cũng hoảng sợ không dám động đậy. Tứ bề đều vắng lặng, mười mấy người Cái Bang nằm dưới đất đều co rút lại như con nhím, hiển nhiên mất mạng cả rồi. Những con trăn lớn không nghe thấy tiếng tiêu của Toàn Quan Thanh đều không cử động gì nữa, chỉ quấn chặt sư đồ của Đinh Xuân Thu như cũ. Mọi người phái Tinh Tú đều không dám cử động, chỉ sợ chúng nổi hung lên mà há miệng đớp cho.

Yên lặng một lúc, một tên cất tiếng nói trước: “Sư phụ! Thần công sư phụ đã đến mức thiên hạ vô địch, đang cười cười nói nói chỉ hất đầu một cái mà bọn độc ác man rợ đều bị giết sạch…” Tên này chưa dứt lời, tên khác đã nói ngay: “Sư phụ! Sư phụ đừng nghe giọng lưỡi thối tha của hắn. Chính hắn vừa ca tụng bọn ăn xin nào là đại hiệp, nào là thánh nhân.” Lại một tên khác nói: “Bọn đệ tử theo hầu sư phụ đã bấy nhiêu năm, còn lạ gì bản lĩnh nghiêng trời lệch đất của sư phụ? Vừa rồi bọn Cái Bang nói nhăng nói cuội, toàn những lời bịp bợm.”

Bỗng có tiếng khóc rống lên: “Sư phụ! Sư phụ ơi, đệ tử thật là ngu xuẩn, tham sống sợ chết mà đầu hàng kẻ địch, bây giờ hối hận không kịp. Đệ tử thà để rắn độc cắn chết, không còn mặt mũi nào xin sư phụ tha mạng!” Gã nói mấy câu, bọn kia lập tức tỉnh ngộ. Kẻ nào léo mép che lấp tội lỗi lại càng bị Tinh Tú Lão Quái ghét bỏ, còn tự trách mình lầm lỡ đáng chết, nhận hết tội lỗi thì không chừng còn được khoan hồng. Nghĩ vậy, chúng lại tranh nhau tự kể tội mình, những là phân thây muôn đoạn cũng chưa đáng tội. Du Thản Chi nằm trong đám cỏ cũng phải nhức cả đầu, chối cả tai.

Đinh Xuân Thu ngầm vận kình lực, định bứt đứt ba con trăn quấn vào mình. Nhưng thân thể chúng vừa dai vừa cứng, có thể co giãn được, lão đã dồn hết nội lực mà chúng chỉ hơi duỗi mình đi một chút, không thể bứt đứt nổi. Thân thể Đinh Xuân Thu tích chứa chất độc nhiều vô kể, ngay cả trên y phục cùng đầu tóc cũng chẳng thiếu gì, vừa rồi bọn Cái Bang phóng chưởng hoặc phóng ám khí tấn công lão đều nhiễm độc mà uổng mạng. Còn da trăn đã dày lại trơn tuột, chất độc không thể thấm vào cơ thể chúng được, lão đành chịu thua. Lão nghe bọn đệ tử lải nhải bên tai, bực mình nói móc: “Chúng ta bị khốn đốn vì rắn độc, đứa nào nghĩ ra cách giải quyết, ta sẽ tha mạng cho. Các ngươi biết tính ta rồi, ai được việc cho ta, ta mới không giết. Nếu cứ bẻm mép tìm lời xảo trá chẳng ích gì đâu!”

Lão vừa dứt lời, bọn đệ tử lập tức câm mồm. Hồi lâu mới có một tên lên tiếng: “Chỉ còn cách dùng lửa đốt những con trăn lớn này, lập tức chúng phải bỏ chạy.” Đinh Xuân Thu mắng: “Thúi lắm! Chỗ này hoang dã tịch mịch không có thôn trang nhà ở, làm gì có ai đi lại? Dù có người đi qua thì thấy nhiều rắn độc tất nhiên hốt hoảng chạy trốn, lấy đâu ra lửa để đốt rắn?” Sau đó bọn kia lại thi đua phát huy sáng kiến, song đều không thể thực hiện được. Chúng nhao nhao lên, chẳng qua để lấy lòng sư phụ, ra vẻ nhiều mưu kế, được việc cho thầy.

Sau một giờ nữa, một tên đệ tử bị xiết chặt quá nghẹt thở. Gã thần trí hồ đồ, mở miệng cắn con trăn một miếng. Con vật bị đau, quay lại cắn vào cổ gã, gã chỉ kêu được một tiếng rồi chết ngay tức khắc.

Đinh Xuân Thu nóng nảy vô cùng. Giả tỉ đang bị địch nhân vây khốn thì chỉ một lát là lão nghĩ ra mưu kế xảo quyệt để lừa đối phương mà thoát thân, nhưng đối với đàn rắn vô tri này thì mưu kế tuyệt diệu đến đâu cũng chẳng ăn thua. Lão chỉ sợ đến lúc đám trăn bị đói sẽ đớp người mà nuốt.

Điều lão lo âu đã thành hiện thực. Một con trăn lớn đã lâu không nghe thấy hiệu lệnh, đang lúc đói bụng liền há cái miệng to tướng đớp vào người tên đệ tử đang bị quấn chặt. Gã này la hoảng: “Sư phụ cứu mạng! Sư phụ cứu mạng!”, la chưa dứt tiếng thì cặp giò đã chui vào miệng con trăn, rồi thân hình gã không gượng được nữa, từng khúc một bị nuốt vào, dần dần đến bụng, đến ngực, miệng vẫn gào thét đến phút cuối cùng. Lúc lâm tử, tiếng rú lại càng thảm thiết, vang động cả một vùng rộng lớn. Bạn đọc nên biết loài rắn hay trăn đều có răng hình móc câu, bất luận con vật nào bị đớp đều dần dần bị đẩy vào bụng, không thể thoát ra được.

Mọi người đều hiểu chỉ trong khoảnh khắc là chung số phận với tên này, sợ đến mất mật, hồn vía lên mây. Một tên đệ tử thấy Tinh Tú Lão Quái cũng chịu bó tay, bất giác lửa giận bốc lên ngùn ngụt, liền mở miệng thóa mạ sư phụ, đổ cho lão làm liên lụy mình. Trước kia hắn chăn cừu ở bờ biển Tinh Tú kiếm sống, bị lão dùng lời đường mật, dụ vào làm môn hạ. Hôm nay hắn sắp chết thảm trong miệng rắn, bèn quyết định chết xuống âm ty sẽ làm cáo trạng kiện với Diêm Vương.

Một tên đã bắt đầu, bọn kia không chịu kém, lập tức nhao nhao chửi bới sư phụ. Bọn này ngày thường bị Tinh Tú Lão Quái ngược đãi cực kỳ tàn nhẫn, đều căm hận trong lòng mà không dám nói ra. Bữa nay thầy trò đều chết đến nơi, chúng đều thóa mạ cho sướng miệng để hả lòng căm tức bấy lâu. Hai tên đệ tử chửi bới đến lúc cao hứng, cử động mạnh khiến cho con trăn đang quấn chúng nổi hung đớp cho một miếng vào vai. Hắn lớn tiếng kêu la: “Úi chao! Cứu tôi với! Cứu tôi với!”.

Du Thản Chi nghe tiếng hô hoán không nhẫn nại được nữa, đang nằm trong bụi cỏ bèn đứng phắt dậy nói: “Ta phóng hỏa đốt rắn để cứu các ngươi!”, rồi ôm cỏ khô chất thành một đống. Bọn phái Tinh Tú bất thình lình thấy xuất hiện một gã bịt mặt hình dung cổ quái, đều kinh hãi giật mình, nhưng nghe hắn nói đốt rắn cứu mình, thì khác nào đã xuống đến Quỷ Môn Quan còn được quay lại, liền nhao nhao lên ngỏ lời cảm tạ.

Bọn này có bản lĩnh thóa mạ rất cao siêu, công phu nịnh hót cũng phi thường. Suốt đời Du Thản Chi chưa được ai ca tụng đến thế, nào là “Đại anh hùng đại hào kiệt”, nào là “Nhân nghĩa đại hiệp”, nào là “Hảo hán nhất đời”, chẳng còn danh từ hoa mỹ nào không được tận dụng. Đã là con người được nghe tán tụng đều nức lòng hả dạ, Du Thản Chi thấy bọn này ca mình lên tới mây xanh thì trong lòng cũng thấy khoan khoái, liền không nề nguy hiểm mà quyết cứu mạng cho chúng.

Gã lấy đồ đánh lửa bên mình ra, toan đốt đống cỏ khô. Nhưng lúc nhìn thấy vô số rắn trăn dữ tợn, gã lại đâm ra sợ hãi, nhớ tới câu “Chọc ong thì ong đốt”, trêu vào đám rắn này chắc sẽ liên lụy ngay tức khắc.

Gã suy nghĩ một lát rồi lượm cành cây khô đốt một đống lửa thật to để phòng thủ trước, rồi mới nhặt một cành cây đang cháy liệng vào con trăn gần nhất, chạy về phía đống lửa ẩn nấp để chờ xem, định bụng thấy nó bò lại phía mình là xa chạy cao bay, chẳng thèm làm đại anh hùng, đại hiệp sĩ gì gì nữa.

Nhưng con trăn này quả nhiên rất sợ lửa, vừa nóng đến bên mình là nó buông ngay tên đệ tử phái Tinh Tú ra rồi chui vào đống cỏ rậm. Du Thản Chi thấy phép hỏa công của mình hiệu nghiệm. Giữa những tiếng hoan hô nhiệt liệt của bọn đệ tử phái Tinh Tú, gã liệng từng cành cây đang cháy vào đám rắn. Đàn rắn tới tấp bỏ chạy, ngay cả những con trăn dài mấy trượng cũng không chịu nổi lửa nóng, bò đi rào rào. Chỉ trong khoảnh khắc, mấy trăm con trăn lớn cùng rắn độc biến mất.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú lại đổi sang giọng nịnh thầy. Tên thì nói: “Sư phụ mắt nhìn muôn dặm, thần cơ diệu toán, quả nhiên phép hỏa công của sư phụ vô cùng linh nghiệm.” Có kẻ nói: “Sư phụ hồng phúc tày trời, gặp dữ hóa lành, hoàn toàn trông cậy vào sư phụ chỉ huy, sai người phóng hỏa cứu mạng kiến ruồi cho bọn đệ tử.” Những lời tán tụng đều hướng về Tinh Tú Lão Quái, còn công lao đốt lửa đuổi rắn của Du Thản Chi thì chẳng tên nào nhắc đến nữa.

Du Thản Chi nghe mà kinh ngạc, mắng thầm: “Bọn mi vừa thóa mạ sư phụ đã hết lời tán tụng là sao?” Gã không hiểu bọn này thoát được nạn rắn, thì tính mạng lại ở trong tay Tinh Tú Lão Quái, nếu không nịnh hót thì lão chỉ giơ tay lên một cái là toi mạng. Còn công cứu mạng Du Thản Chi đến đây là sổ toẹt, chúng coi gã như người đi đường mà thôi.

Đinh Xuân Thu vẫy tay gọi Du Thản Chi, bảo: “Thiết đầu tiểu tử, ngươi lại đây! Tên ngươi là gì?” Du Thản Chi bị khinh rẻ đã quen, dù thấy đối phương vô lễ cũng không giận. Gã đáp: “Tại hạ là Du Thản Chi.”, rồi tiến lại mấy bước. Đinh Xuân Thu hỏi: “Đám Cái Bang này chết cả chưa? Ngươi lại sờ mũi chúng xem còn thở không?” Du Thản Chi dạ một tiếng rồi cúi xuống sờ vào mũi một tên khất cái thì chỉ thấy lạnh ngắt, đã chết tự bao giờ, lại xem một tên khác cũng thấy tắt hơi rồi. Gã nói: “Họ chết hết rồi, không còn ai thở nữa.”, vừa nói vừa đứng thẳng lên, bỗng thấy vẻ mặt mọi người ra chiều giễu cợt mình. Gã chẳng hiểu gì, nhắc lại: “Họ chết cả rồi, không còn ai thở nữa.” Bộ mặt vừa khinh khỉnh vừa giễu cợt của bọn đồ đệ phái Tinh Tú dần dần biến thành kinh dị.

Đinh Xuân Thu nói: “Ngươi coi bọn ăn mày lần nữa, xem còn có thể cứu vãn không?” Du Thản Chi đáp: “Vâng.”, rồi đi xem xét cẩn thận mười mấy tên Cái Bang một lần nữa. Đoạn gã lắc đầu nói: “Bọn họ chết hết rồi, không cứu vãn được nữa. Công lực của lão tiên sinh thật là ghê gớm!” Đinh Xuân Thu cười nhạt, nói: “Công phu kháng độc của ngươi mới là lợi hại.” Du Thản Chi kinh ngạc hỏi: “Tại hạ… tại hạ có công phu kháng độc gì đâu?”

Thật sự Du Thản Chi không hiểu lão nói vậy là có ý gì, không biết rằng mỗi lần gã sờ vào mũi những xác chết kia là một lần gõ cửa Quỷ Môn Quan, xem hết mười mấy tên Cái Bang là trải qua mười mấy lần suýt mất mạng. Nguyên Tinh Tú Lão Quái ở địa vị tôn sư một phái, bị trăn quấn vô kế khả thi, lại phải nhờ một đứa trẻ nít nhỏ tuổi cứu mạng. Chuyện này mà đồn đại ra giang hồ thì thật là mất thể diện, vì thế mà sau khi đàn trăn bỏ đi rồi, lão nghĩ ngay đến việc giết Du Thản Chi để bịt miệng. Thi thể bọn Cái Bang đều có chất kịch độc, lão sai Du Thản Chi sờ mũi họ là có dụng ý cho gã nhiễm độc mà chết. Dè đâu Du Thản Chi bản chất âm dương sai lệch, đã nhờ mấy tháng luyện Dịch Cân Kinh thành ra nội công ghê gớm, lại hút cả huyết dịch con băng tằm là một loại trùng độc nhất thiên hạ. Chất độc con băng tằm rất dung hợp với thể chất Du Thản Chi, trong mình gã đã chứa chất độc này thì vạn độc bất xâm. Dĩ nhiên là chất độc trong mình Đinh Xuân Thu phát ra chẳng thấm vào đâu.

Đinh Xuân Thu lẩm bẩm: “Không hiểu bản lãnh chân chính của thằng lỏi này ra sao. Chắc là trong mình hắn có vật kỵ độc như Hùng Hoàng Châu, Tịch Tà Bích chi đó, hay đã uống thuốc giải độc từ trước nên mới chịu nổi chất kỳ độc của ta nhiễm vào mình.” Nghĩ vậy lão bảo: “Du huynh đệ, ngươi lại đây! Ta có chuyện muốn nói.”

Du Thản Chi tuy thấy lão nói có vẻ chân thành, nhưng chính mắt gã vừa thấy lão giết một lúc mười mấy tên Cái Bang một cách tàn nhẫn, lại thấy bọn đồ đệ lúc thì thóa mạ lúc thì xiểm nịnh, biết rằng hạng người này khó mà đối phó, kính nhi viễn chi là hơn. Nghĩ vậy gã đáp: “Tiểu nhân có việc gấp không chần chờ được. Xin cáo từ lão tiên, tiểu nhân phải đi ngay.” Gã nói xong, chắp tay vái chào rồi chuyển thân đi ngay.

Gã mới đi được mấy bước, đột nhiên thấy bên mình có luồng gió mát lướt qua, gã chưa kịp phản kháng gì, hai cổ tay đã bị nắm chặt. Du Thản Chi quay đầu nhìn lại thì thấy một tên đệ tử phái Tinh Tú cao lớn mập mạp. Gã không hiểu hắn có dụng ý gì, nhưng nhìn gương mặt đang cười một cách hung dữ, rõ ràng không phải chuyện tử tế. Gã không khỏi giật mình la lên: “Buông ta ra!” rồi cựa mạnh một cái.

Bỗng nghe trên đầu có tiếng gió vù vù, một bóng người to lớn từ sau lưng bay vút qua đầu gã rồi đập vào vách núi trước mặt đánh huỵch một tiếng, mạnh đến nỗi xương thịt tan nát, đầu nhão ra như đất bùn.

Du Thản Chi thấy đại hán này va vào vách núi mãnh liệt quá chừng, cứ tưởng mình lóa mắt. Gã định thần nhìn lại thì ra chính là tên đệ tử phái Tinh Tú vừa nắm chặt tay mình, lại càng kinh ngạc hơn nữa, tự hỏi: “Rõ ràng thằng cha này vừa nắm tay mình, sao lại bất thình lình đâm đầu vào núi mà tự tử?” Thực ra đại hán này không phải tự tử, mà vì Du Thản Chi giãy mạnh một cái, kình lực tung hắn bay qua đầu rồi hất mạnh vào núi đến nỗi toi mạng.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú thấy Du Thản Chi chỉ nhấc tay một cái đã giết chết đồng môn, đều cả kinh thất sắc la lên một tiếng: “Ôi chao!” Tinh Tú Lão Quái giàu kinh nghiệm giang hồ, nhìn thủ pháp của gã hất chết đệ tử mình không phải là võ công thượng thặng mà chỉ có sức mạnh phi thường ở cánh tay, bèn cho đó là người có thần lực tự nhiên còn võ công thì vào hạng tầm thường. Lão băng mình đi một cái, chộp lấy cái đầu sắt của Du Thản Chi. Du Thản Chi bị chụp một cách đột ngột không kịp đề phòng, kình lực của lão nặng đến ngàn cân, đè gã ngã quỵ xuống đất. Gã toan đứng dậy, nhưng trên đỉnh đầu dường như có cả một trái núi nhỏ. Gã hết đường cựa quậy, liền mở miệng van lơn: “Xin lão tiên sinh tha mạng!”

Đinh Xuân Thu thấy gã năn nỉ tha mạng mới yên lòng hỏi lại: “Sư phụ mi là ai? Mi to gan thật! Sao dám đánh chết đồ đệ ta?” Du Thản Chi ấp úng: “Tiểu nhân không có sư phụ, Tiểu nhân cũng… chẳng giết đồ đệ của lão tiên sinh.”

Đinh Xuân Thu nghĩ bụng: “Mình đã kiềm chế được gã, đánh chết để bịt miệng là xong.” Nghĩ vậy, lão buông tay ra cho Du Thản Chi đứng dậy, rồi phóng chưởng từ từ đánh vào ngực gã. Du Thản Chi thấy vậy cả kinh, bất giác đưa tay lên gạt, hai bàn tay chạm nhau. Chính Đinh Xuân Thu cố ý ra tay rất chậm, lão dùng nội lực hùng mạnh đầy chất độc đã chứa sẵn trong bàn tay ra, đó chính là Hóa Công Đại Pháp nổi danh mấy chục năm trời, đã tàn hại không biết bao nhiêu là cao thủ võ lâm. Thật ra đối với một đứa hậu sinh nhỏ tuổi như Du Thản Chi, lão không muốn thi triển Hóa Công Đại Pháp vì mỗi lần dùng đến nó là tổn hao nguyên khí và giảm bớt chất kịch độc trong mình, nhưng lão thấy Du Thản Chi đã sờ vào mười mấy tên Cái Bang mà vẫn không trúng độc nên bất đắc dĩ phải dùng đến tuyệt kĩ này.

Hai chưởng gặp nhau, Du Thản Chi lảo đảo lùi lại mấy bước. Gã toan đứng dậy nhưng lại trượt đi ngồi phệt xuống, bèn chống hai tay ra sau để ngồi cho vững nhưng dư lực đòn chưởng vẫn còn mãnh liệt, mông của Du Thản Chi chạm tới đất rồi mà còn lộn ba vòng mới dừng lại được.

Về phần Đinh Xuân Thu, sau khi đối chưởng bỗng thấy trước ngực mát lạnh, rồi nội lực tiết từ lòng bàn tay ra ngoài một cách mau lẹ dị thường. Lão cố kìm lại nhưng không tự chủ được, nội lực vẫn thoát ra ngoài, vội đảo ngược đầu xuống giơ chân lên trời, xoay người mấy vòng. Nhờ phép Cố Cơ Vận Kình của phái Tinh Tú, lão mới ngăn nội lực lại được, nhảy lộn người đứng dậy, râu tóc dựng ngược lên, sắc mặt nhợt nhạt, trông rất đáng sợ. Lão lại xòe hai bàn tay to tướng như cái quạt toan đánh xuống Du Thản Chi lần nữa. Du Thản Chi đập đầu lia lịa kêu van: “Xin lão tiên sinh tha mạng, xin lão tiên sinh tha mạng!”

Đinh Xuân Thu đối một chưởng, phát giác ra nội lực gã này thâm hậu, âm hàn đến cực điểm, lại chứa chất kịch độc. Tuy gã bị mình hất đi lăn lộn mấy vòng, mà so ra nội lực và độc kình cũng chưa kém thế chút nào, sao lại van xin tha mạng? Lão nghi ngờ tên này cố ý chế giễu, bèn tiến tới mấy bước, hỏi: “Ngươi muốn ta tha mạng là chân tâm hay giả trá?” Du Thản Chi chỉ biết dập đầu năn nỉ: “Tiểu nhân một dạ chân thành, chỉ mong lão tiên sinh từ bi tha cho cái mạng kiến ruồi.”

Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: “Không hiểu tên này dùng phương pháp gì, hay gặp cơ duyên nào mà độc chất trong người lại còn nhiều hơn ta, quả là một bảo bối hãn hữu. Tốt nhất là ta thu nhận gã để điều tra cho ra pháp môn luyện công, rồi hấp thu độc chất của hắn, sau cùng mới đem ra xử tử. Bây giờ giết gã thì dễ thôi, nhưng thật là đáng tiếc.” Lão bèn đưa tay ấn vào cái đầu sắt, vận nội lực rồi nói: “Ngươi mà bái ta làm sư phụ thì ta mới tha mạng ngươi được.”

Du Thản Chi thấy cái đầu sắt nóng như có lửa đốt, tựa hồ bỏng cả mặt mũi, trong lòng sợ sệt vô kể. Từ khi gã bị A Tử hành hạ dã man thì đã chấp nhận người ta muốn sao mình chịu vậy, cũng không phân biệt thị phi thiện ác gì gì nữa, những gì là hào khí trượng phu nam tử hán cũng đã quên sạch cả rồi. Lúc này gã chỉ mong toàn mạng, bèn vội vã nói: “Sư phụ! Đệ tử là Du Thản Chi xin bái kiến sư phụ làm lễ nhập môn, xin lão nhân gia thu nạp.”

Đinh Xuân Thu cả mừng, nghiêm nghị nói: “Ngươi đã nguyện ý bái ta làm sư phụ thì được rồi. Nhưng qui củ của bản môn rất nghiêm, ngươi có giữ đúng được không? Sư phụ đã sai bảo việc gì, ngươi phải hết lòng hết sức tuân theo, không được phản kháng, đã nghe rõ chưa?” Du Thản Chi nói: “Đệ tử xin tuân theo qui củ, phục tùng sư mệnh.” Đinh Xuân Thu hỏi: “Nếu sư phụ bảo ngươi chết, ngươi có cam tâm chịu chết không?” Du Thản Chi ấp úng: “Cái đó… Cái đó…” Đinh Xuân Thu nói: “Ngươi suy nghĩ rồi trả lời cho rõ ràng. Cam tâm thì bảo là cam tâm, mà không cam tâm thì bảo là không cam tâm.”

Du Thản Chi lẩm bẩm: “Giả tỉ lão muốn giết mình, dĩ nhiên mình không cam tâm. Nhưng nếu thật vậy, lúc đó mình trốn được thì trốn, mà không trốn được thì chịu chết, cam tâm hay không cũng chẳng làm gì.” Gã nghĩ vậy liền đáp: “Sư phụ đối với đệ tử ơn sâu nghĩa trọng, bắt phải chết thì đệ tử cũng cam tâm.” Đinh Xuân Thu cười ha hả đáp: “Hay lắm! Ngươi thề độc đi, nếu sau này không tuân lời ta thì chịu thế nào?” Du Thản Chi suy nghĩ rồi đáp: “Đệ tử là Du Thản Chi, nếu sau này không tuân lời, xin để sư phụ phân thây muôn đoạn, chẳng được chết toàn thây.” Đinh Xuân Thu ngẩn người ra, rồi cười nói: “Tên đầu sắt này xảo quyệt gớm! Ngươi không tuân theo mệnh lệnh sư phụ, dĩ nhiên là ta sẽ xử tử, vậy lời thề độc của ngươi chỉ bằng thừa. Nhưng thôi được, ngươi đã thề rồi thì cố mà nhớ lấy.” Rồi lão gọi: “Ngươi lại đây, thuật kỹ lai lịch cho ta nghe!”

Du Thản Chi không làm gì được, đành đem bao nhiêu hoạn nạn cơ cực thuật sơ qua một lượt. Nhưng gã không muốn làm nhơ nhuốc thanh danh họ Du ở Tụ Hiền Trang, chỉ nói mình là con một nông dân, bị quân Liêu đi thu hoạch bắt về, gặp A Tử rồi cùng nàng đi bắt trùng độc. Lúc Du Thản Chi kể đến chuyện bắt con băng tằm, Đinh Xuân Thu lại càng chăm chú nghe, rồi hỏi kỹ hình thù con băng tằm, nhưng vẫn giữ vẻ thản nhiên, tuyệt không lộ vẻ gì khác lạ. Du Thản Chi đột nhiên nghĩ thầm: “Vị sư phụ này không phải người tốt, nếu mình kể về cuốn kinh chữ Phạn tất lão đoạt mất.” Gã liền không nhắc gì tới phép luyện công cổ quái này.

Đinh Xuân Thu không biết về Dịch Cân Kinh, tưởng đó chỉ là công hiệu của con tằm kỳ diệu. Lão rủa thầm trong bụng: “Thần vật quí báu như vậy mà lọt vào tay thằng quỉ con mắt sắt này, để gã hút lấy chất độc vào trong người thật là đáng tiếc!” Lão nghĩ một lúc rồi hỏi: “Lúc nãy ngươi nói tên sư mập bắt được băng tằm tên là Tuệ Tịnh, đệ tử Thiếu Lâm ư? Hiện nay y đang ở chùa Mẫn Trung ở Nam Kinh phải không?” Du Thản Chi đáp: “Đúng thế.”

Đinh Xuân Thu nói: “Hòa thượng Tuệ Tịnh này đã kể là bắt được băng tằm trên núi Côn Luân thì tốt. Trên đó đã có một con, thì chắc phải còn hai ba con nữa. Có điều núi Côn Luân bao la ngàn dặm, nếu không có ai biết chỗ dẫn đường thì đi bắt băng tầm chẳng phải dễ gì.” Lão đã đích thân nếm mùi công hiệu của băng tằm, thấy nó còn quí hơn Thần Mộc Vương Đỉnh nhiều, bèn quyết định việc đầu tiên là phải tìm cho ra Tuệ Tịnh, bắt hắn dẫn lên núi Côn Luân kiếm băng tằm. Kể ra tên này vốn là hòa thượng Thiếu Lâm thì khó mà bắt được, cũng may gã đang ở Nam Kinh nên công việc dễ dàng hơn nhiều. Lão bèn lập tức bảo Du Thản Chi làm lễ bái sư nhập môn.

Bọn môn hạ phái Tinh Tú thấy sư phụ đối đãi với hắn đặc biệt, những lời nịnh bợ tán dương tức thời phun ra như suối. Đinh Xuân Thu đang lúc cần dùng người, bèn vờ như không nghe thấy chúng thóa mạ sư phụ, đầu hàng kẻ địch vừa rồi. Trong phái Tinh Tú thì những chuyện thế này tất phải xảy ra thường xuyên, lão cũng chẳng nổi giận làm chi.

Đoàn người đi về hướng đông bắc. Du Thản Chi theo sau Đinh Xuân Thu, thấy lão tay áo bào phấp phới, chân bước ung dung nhẹ nhàng chẳng khác thần tiên, bất giác trong lòng sinh ra kính ngưỡng, nghĩ thầm: “Ta có phúc bái được một vị sư phụ thế này, chắc là đã tu mấy kiếp.”

Phái Tinh Tú đi đã ba ngày, đến một buổi trưa nóng bức bèn ghé vào.quán lương đình bên đường lớn để nghỉ chân uống nước. Bỗng nghe có tiếng vó ngựa lộp cộp, bốn kỵ sĩ từ phía trước chạy đến.

Bốn con ngựa tới gần, người đi đầu gọi lớn: “Đại ca! Nhị ca! Ta vào lương đình này uống mấy chén nước, nghỉ ngơi một tí nên chăng?” Nói xong y bèn nhảy xuống ngựa chạy vào, ba người đi sau cũng lục tục xuống ngựa. Bốn người này thấy bọn Đinh Xuân Thu liền khẽ gật đầu thi lễ, rồi đến bên lu nước lấy chén múc ra uống.

Hán tử đầu tiên mặc áo đen, thân hình bé nhỏ gầy nhom, có hai chòm râu chuột, thần sắc điêu ngoa. Người thứ hai mặc áo bào màu vàng, cũng gây ốm lộ xương nhưng thân thể cao hơn, lông mày chênh chếch rủ xuống, sắc mặt giống như đang bệnh. Người thứ ba mặc áo bào màu đỏ táo, thân hình khôi vĩ, mặt vuông tai lớn, dưới cằm để một chòm râu trắng, trông giống như một vị thương gia giàu có. Người cuối cùng lại là một nho sinh mặc áo xanh trạc ngũ tuần, đôi mắt lờ đờ tựa như đọc sách quá nhiều nên thị lực kém đi. Gã này không uống nước mà lấy cái hồ lô ra, uống rượu một mình.

Lúc đó lại có một nhà sư đi đến, chắp tay cung kính nói: “Các vị thí chủ! Tiểu tăng đi đường khát nước, xin được vào nghỉ ngơi uống nước một chút.” Gã áo đen cười nói: “Sư phụ đa lễ rồi. Ai cũng là người đi đường, mà lương đình này cũng không phải do chúng ta xây. Vào đây uống nước đi.” Nhà sư nói: “A Di Đà Phật, tiểu tăng xin đa tạ!”, rồi đi vào trong lương đình.

Nhà sư này khoảng hai mươi lăm, hai mươi sáu tuổi, mày rậm mắt to, cái mũi lớn vừa tẹt vừa hếch lên trời, dung mạo xấu xí, mặc tăng bào có nhiều chỗ vá nhưng rất sạch sẽ. Gã đợi ba người uống xong rồi mới đến cái lu nước trong, dùng gáo sành múc lên một chén nước, bưng cả hai tay, hai mắt nhìn xuống, cung kính đọc kệ: “Phật quán nhất bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng, Nhược bất trì tỷ chú, Như thực chúng sinh nhục” (Phật nhìn vào một bát nước thấy tám vạn bốn nghìn con trùng, nếu không đọc chú này thì khác nào ăn thịt sống). Gã đọc kệ xong lại còn niệm một câu chú nữa rồi mới bưng chén nước lên uống.

Hán tử áo đen lấy làm lạ, bèn hỏi: “Tiểu sư phụ lẩm bẩm niệm chú gì vậy?” Nhà sư trả lời: “Tiểu tăng niệm Ẩm Thủy Chú. Phật dạy là trong một bát nước có tám vạn bốn nghìn con trùng, người xuất gia phải niệm chú này rồi mới được uống.” Người áo đen cười ha hả nói: “Nước này trong vắt thế kia, một con sâu cũng không có. Tiểu sư phụ nói giỡn rồi.” Nhà sư nói: “Thí chủ không biết đâu. Mắt phàm của chúng ta nhìn thì trong nước không có sâu bọ gì, nhưng thiên nhãn của Phật nhìn vào thì lại thấy trong nước có cả ngàn cả vạn con trùng.” Người áo đen cười, lại hỏi: “Sau khi niệm chú xong thì lại nuốt hết tám vạn bốn ngàn con trùng vào trong bụng, không hiểu chúng có chết không?” Nhà sư do dự rồi đáp: “Cái này… cái này sư phụ chưa dạy bảo tiểu tăng, chắc là phần lớn bọn tiểu trùng đó không chết đâu.”

Người áo vàng xen vào nói: “Sai bét, sai bét! Bọn tiểu trùng đó nhất định là phải chết. Có điều sau khi tiểu sư phụ niệm chú, tám vạn bốn ngàn con trùng đều được về thế giới tây phương cực lạc. Tiểu sư phụ chỉ uống một bát nước mà siêu độ xong tám vạn bốn ngàn chúng sinh, quả là công đức vô lượng.”

Nhà sư không biết gã nói thật hay nói chơi, ngẩn người ra, hai tay vẫn bưng bát nước mà lẩm bẩm nói: “Chỉ chốc lát mà siêu độ được tám vạn bốn ngàn sinh linh ư? Trước nay tiểu tăng chưa dám nghĩ đến pháp lực như thế.”

Người áo vàng tiến lại, đỡ lấy cái bát sành trong tay nhà sư, nhìn vào rồi đếm: “Một, hai, ba, bốn, năm, sáu,… một ngàn, hai ngàn, một vạn, hai vạn… Sai bét, sai bét! Trong cái chén này tổng cộng có tám vạn ba ngàn chín trăm chín mươi chín con tiểu trùng thôi. Tiểu sư phụ đếm thừa mất một con.”

Nhà sư nói: “Nam mô a di đà phật. Thí chủ nói giỡn rồi. Thí chủ cũng là người phàm, làm sao có thiên nhãn được?” Người áo vàng nói: “Không lẽ tiểu sư phụ không có thần thông thiên nhãn hay sao?” Nhà sư nói: “Dĩ nhiên là tiểu tăng không có.” Người áo vàng nói: “Sai bét, sai bét! Ta nghĩ là tiểu sư phụ có thiên nhãn thông, nếu không thì sao chỉ vừa gặp đã biết ngay ta là phàm phu tục tử, không phải là bồ tát hạ phàm?” Nhà sư nhìn qua nhìn lại, sắc mặt đầy vẻ hoài nghi.

Đại hán mặc áo đỏ sậm đi tới cầm bát nước trao lại vào tay nhà sư, rồi cười nói: “Tiểu sư phụ uống nước đi! Vị huynh đệ của tại hạ tính hay nói giỡn, xin đừng tin là thật.” Nhà sư đón lấy bát nước, cung kính nói: “Đa tạ! Đa tạ!”, trong lòng hãy còn kinh nghi, chưa uống ngay. Đại hán lại nói: “Tại hạ thấy tiểu sư phụ bộ pháp vững chãi, hẳn là người có võ công. Xin thỉnh giáo tiểu sư phụ pháp danh là gì, và xuất gia ở tự viện nào.”

Nhà sư để lại chén nước lên nắp lu, rồi hơi nghiêng người nói: “Tiểu tăng là Hư Trúc, xuất gia tại chùa Thiếu Lâm.”

Hán tử áo đen reo lên: “Tuyệt diệu! Thì ra tiểu sư phụ là cao thủ phái Thiếu Lâm. Lại đây, lại đây! Chúng ta tỉ thí một phen.” Hư Trúc xua tay lia lịa đáp: “Tiểu tăng võ công thấp kém, không dám động thủ với thí chủ đâu.” Gã áo đen cười nói: “Đã mấy ngày nay ta không được động thủ động cước nên ngứa ngáy chân tay. Chúng ta thử vài chiêu, không phải đánh nhau thật đâu, đừng sợ!” Hư Trúc lùi lại hai bước nói: “Tiểu tăng tuy đã luyện mấy năm công phu, nhưng chỉ là để thân thể khỏe mạnh, chứ không phải để đánh nhau.” Gã áo đen nói: “Hòa thượng Thiếu Lâm người nào võ công cũng cao cường. Nhà sư nào mới học võ công đều không được rời khỏi sơn môn một bước. Tiểu sư phụ đã được hạ sơn, dĩ nhiên phải là hảo thủ. Đến đây, đến đây! Chúng ta đấu chơi trăm chiêu, ai thắng ai thua cũng chẳng có chi là quan hệ.”

Hư Trúc lại lùi hai bước nữa, nói: “Thí chủ không biết đâu. Lần này tiểu tăng tuy bản lĩnh tệ hại mà cũng được xuống núi cho đủ số. Bản tự sai hết đệ tử đi phát thiếp mà vẫn không đủ, mới phải gọi tới tiểu tăng. Tiểu tăng mang đi mười tấm anh hùng thiếp, sư phụ dặn đưa hết thì về chùa, tuyệt đối không được động thủ với ai, Tiểu tăng đưa được bốn tấm rồi, còn lại sáu tấm. Thí chủ võ công cao cường, xin hãy nhận lấy tấm thiệp này.” Nhà sư nói xong bèn lôi trong bọc một gói vải dầu, lấy ra một tấm thiệp đỏ chói, cung kính nói: “Xin thỉnh giáo tôn tính đại danh của thí chủ, để tiểu tăng về chùa bẩm lại với sư phụ.”

Hán tử áo đen không đón tấm thiếp, chỉ nói: “Tiểu sư phụ chưa động thủ với ta, làm sao biết ta là anh hùng hay cẩu hùng? Chi bằng hãy thử vài chiêu, nếu ta thắng thì mới đủ tư cách để nhận anh hùng thiếp.” Gã nói xong tiến lên hai bước, tay trái đang từ từ nắm lại thì hữu quyền đã phóng tới Hư Trúc. Nhưng quyền vừa tới mặt đối phương liền rụt ngay về, la lên: “Tiếp chiêu đi chứ!”

Đại hán khôi vĩ khi nghe Hư Trúc nói đến ba chữ anh hùng thiếp đã để ý, bèn can thiệp: “Tứ đệ, khoan hãy động thủ, để ta xem anh hùng thiếp viết những gì đã.” Y đón lấy tấm thiệp trên tay Hư Trúc, nhìn thấy mấy hàng chữ:

“Trụ trì chùa Thiếu Lâm là Huyền Từ, cung kính bái thỉnh anh hùng thiên hạ vào tiết Trùng Dương mùng chín tháng chín giá lâm chùa Thiếu Lâm ở Cảo Sơn để đàm luận về tuyệt kỹ Gậy Ông Đập Lưng Ông, mong được hội kiến Mộ Dung thế gia ở Cô Tô.”

Đại hán “A” lên một tiếng, đưa tấm thiệp cho người nho sinh đứng bên, rồi nói với Hư Trúc: “Thì ra phen này phái Thiếu Lâm triệu tập đại hội anh hùng là để đối phó với nhà Cô Tô Mộ Dung.” Hán tử áo đen bèn nói: “Hay lắm! Ta là Nhất trận phong Phong Ba Ác, chính là thủ hạ của Cô Tô Mộ Dung đây. Phái Thiếu Lâm muốn làm khó dễ Cô Tô Mộ Dung cũng chẳng cần phải mở đại hội anh hùng làm gì. Bây giờ ta phải lãnh giáo thân thủ của cao đồ phái Thiếu Lâm trước đã.”

Hư Trúc lại lùi hai bước nữa, chân trái đã bước ra khỏi lương đình, vội đáp: “Thì ra là Phong thí chủ. Sư phụ của tiểu tăng có nói, không phải bản tự cả gan mời nhà Cô Tô Mộ Dung đến để đắc tội, chỉ vì mấy năm gần đây trên giang hồ đồn đại rằng không ít anh hùng hảo hán mất mạng dưới tuyệt kỹ Gậy Ông Đập Lưng Ông. Sư bá của tiểu tăng là Huyền Bi đại sư cũng viên tịch ở chùa Thân Giới nước Đại Lý, không biết có liên hệ gì tới Cô Tô Mộ Dung hay không. Từ phương trượng đại sư trở xuống, trong bản phái ai cũng nửa tin nửa ngờ, cho nên mới…”

Hán tử áo đen cướp lời: “Ái chà, việc này không dính dáng gì đến nhà Mộ Dung chúng ta đâu. Nhưng ta nói thì nói, làm sao người ta tin ngay được, rốt cuộc cũng phải tỉ võ mà thôi. Bữa nay hai chúng ta thử trước một trận, coi như khua chiêng gióng trống mở màn cho đại chiến sau này. Trận này điểm tới là ngưng, đừng đánh tới mức trọng thương táng mạng mà mất cả vui đi. Đợi đến mùng chín tháng chín, Phong mỗ sẽ đến Thiếu Lâm Tự từ dưới đánh lên, tỉ thí với từng người một mới thật là sảng khoái. Chỉ e rằng Phong mỗ bất quá đánh xong mười bảy mười tám người thì đã thương tích đầy mình, chắc chắn không có cơ hội giao thủ với lão phương trượng Huyền Từ. Thật là đáng tiếc.” Gã nói xong, liền vung tay bước lên toan động thủ.

Đại hán khôi vĩ la lên: “Tứ đệ dừng tay! Đợi nói chuyện cho rõ ràng rồi hãy đánh cũng chưa muộn.” Người mặc áo vàng xen vào: “Sai bét, sai bét. Sau khi nói cho rõ ràng thì lại không cần đánh nhau nữa. Tứ đệ đừng bỏ qua cơ hội, không nói rõ ràng thì mới đánh nhau được.”

Đại hán cao to không lý gì đến y, quay sang Hà Trúc nói: “Tại hạ là Đặng Bách Xuyên, vị này là nhị đệ Công Dã Càn.” Y giới thiệu người nho sinh xong, lại quay sang chỉ gã mặc áo vàng nói: “Còn đây là tam đệ Bao Bất Đồng, bọn tại hạ đều là thủ hạ dưới trướng Mộ Dung công tử ở Cô Tô.”

Hư Trúc thi lễ với cả bốn người xong, bèn nói: “Đặng thí chủ, Công thí chủ…” Bao Bất Đồng đột ngột cắt lời: “Sai bét, sai bét! Nhị ca của ta mang họ kép là Công Dã, ngươi gọi là Công thí chủ là sai bét, chỉ tổ người ta cười cho.” Hư Trúc đỏ mặt lên nói: “Thật là đắc tội! Tiểu tăng học vấn thô thiển, xin Công Dã thí chủ đừng trách. Bao thí chủ…” Bao Bất Đồng lại xen vào: “Ngươi lại nói sai bét. Ta đúng là ở họ Bao, nhưng trước nay không hề bố thí cho bọn hòa thượng ni cô, không thể gọi là Bao thí chủ được.” Hư Trúc đáp: “Vâng! Vâng! Bao tam gia, Phong tứ gia…” Bao Bất Đồng lại bắt lỗi: “Ngươi nói sai bét nữa rồi. Lát nữa Phong tứ đệ đánh nhau với ngươi, mặc dù chưa biết ai thắng ai thua nhưng ngươi cũng có thêm chút ít kinh nghiệm giang hồ. Ngươi không thể nói tứ đệ ta không bố thí gì cho ngươi được.” Hư Trúc vội đáp: “Vâng! Vâng! Phong thí chủ, tiểu tăng không đánh nhau đâu. Người xuất gia lấy tu hành làm gốc, võ công làm ngọn, bản lĩnh cao hay thấp cũng chẳng can hệ gì.”

Phong Ba Ác than thở: “Ngươi khinh thường chuyện học võ quá, thì chắc võ công cũng bình thường thôi, ta không thích đánh nhau với ngươi nữa.” Gã cụt hứng lắc đầu quầy quậy. Hư Trúc tựa hồ trút bỏ được gánh nặng, hoan hỉ đáp liền: “Vâng! Vâng!”

Đặng Bách Xuyên nói: “Hư Trúc sư phụ, cái thiệp anh hùng này chúng tôi sẽ thay mặt Mộ Dung công tử mà nhận lấy. Nhưng mấy tháng trước công tử gia đã khởi hành đến bái phỏng Thiếu Lâm Tự, chẳng lẽ chưa đến nơi ư?”

Hư Trúc đáp: “Chưa đến đâu. Phương trượng đại sư chỉ mong Mộ Dung công tử đến nhưng chờ hoài không thấy, đã hai lần phái người đến quí phủ để vấn an, chỉ nghe nói Mộ Dung lão thí chủ đã qui tiên, tiểu thí chủ lại vắng nhà. Lần này phương trượng đại sư chỉ định thủ tòa Đạt Ma Viện thân hành đến Mộ Dung gia để đưa tin, chỉ sợ vẫn không gặp được. Vì vậy mới phát thiệp anh hùng rộng rãi trên giang hồ, nếu có gì thất lễ xin bốn vị thay mặt tệ tự mà nói rõ với Mộ Dung Công tử. Sau này Mộ Dung thí chủ giá lâm bản tự, phương trượng đại sư nhất định sẽ thân hành tạ tội.”

Đặng Bách Xuyên nói: “Tiểu sư phụ bất tất phải khách khí. Từ nay đến kỳ hội còn hơn nửa năm, chắc chắn công tử gia sẽ đến Thiếu Lâm Tự bái kiến phương trượng đại sư” Hư Trúc chắp tay cung kính đáp lại: “Mộ Dung công tử cùng các vị giá lâm tệ tự, chắc chắn phương trượng sẽ hoan hỉ vô cùng. Hai chữ Bái Kiến thật tình không dám nhận.”

Phong Ba Ác nghe nhà sư này nói năng bảo thủ, tuy là hòa thượng Thiếu Lâm mà không có chút nào khí độ khoái hoạt của nhân vật giang hồ. Gã thấy khó chịu, bèn mặc kệ không lý gì đến nữa, quay lại nhìn đám người bên Đinh Xuân Thu. Gã thấy bọn đệ tử phái Tinh Tú đều cầm binh khí, hiển nhiên là nhân vật võ lâm, liền muốn tìm đối thủ để đánh mấy trận cho đỡ ngứa ngáy tay chân.

Từ lúc Du Thản Chi thấy bốn người bọn Phong Ba Ác vào quán lương đình, gã cứ rúc vào sau lưng sư phụ. Đinh Xuân Thu thân thể cao lớn che khuất cả y nên bọn Đặng Bách Xuyên chưa thấy cái đầu sắt kỳ lạ của gã. Phong Ba Ác chỉ chú ý đến một ông lão đồng nhan hạc phát, tiên phong đạo cốt ra vẻ thế ngoại cao nhân, trong lòng sinh ra kính ngưỡng. Y không tiện vô duyên vô cớ khiêu chiến ngay, bèn hỏi: “Xin thỉnh vấn tôn tính đại danh của lão tiền bối.” Đinh Xuân Thu khẽ cười, đáp: “Ta ở họ Đinh.”

Ngay lúc đó bỗng nhiên Hư Trúc “A” một tiếng rồi hô lên: “Sư thúc tổ! Lão nhân gia cũng đến đây ư?” Phong Ba Ác quay mặt lại nhìn, thấy ngoài đường có bảy tám hòa thượng đang đến, dẫn đầu là hai vị lão tăng, phía sau lại có hai nhà sư đang khiêng một cái cáng, trên đó có người nằm. Hư Trúc nhanh chân chạy ra khấu kiến hai vị lão tăng, rồi bẩm báo lai lịch của bọn Đặng Bách Xuyên.

Vị lão tăng bên phải gật gật đầu, đi vào lương đình thi lễ với bốn người Đặng Bách Xuyên rồi nói: “Lão nạp là Huyền Nạn”, sau đó chỉ sang vị lão tăng kia giới thiệu: “Còn đây là sư đệ Huyền Thống. Hôm nay thật là hân hạnh được gặp bốn vị đại hiền ở nhà Mộ Dung Cô Tô.”.

Bọn Đặng Bách Xuyên đã nghe tên Huyền Nạn từ lâu, thấy vị sư già này mặt đầy nếp nhăn, hai mắt lộ thần quang, liền đáp lễ. Phong Ba Ác nói: “Tại hạ kính ngưỡng thần công của đại sư phụ thủ tòa Đạt Ma Viện chùa Thiếu Lâm đã lâu. Hôm nay thể nào cũng xin được lãnh giáo một phen.”

Huyền Nạn khẽ cười, đáp: “Lão nạp cùng Huyền Thống sư đệ đang vâng lệnh phương trượng đến Yến Tử Ổ ở Giang Nam để trình tấm thiệp này. Đây là lần thứ ba bản tự phái người đến quí phủ, lần này may mắn gặp được bốn vị ở đây, cơ duyên không phải tầm thường.” Lão tăng nói xong bèn lấy trong bọc ra một tấm thiệp đỏ.

Đặng Bách Xuyên đưa hai tay tiếp lấy, thấy trên phong bì có ghi “Kính gửi Mộ Dung thí chủ ở Yến Tử Ổ”. Y nghĩ rằng nội dung bên trong chắc cũng đại khái như tấm thiệp của Hư Trúc, bèn nói: “Hai vị đại sư là cao tăng Thiếu Lâm, bằng hữu võ lâm đều kính trọng, lại phải thân hành đến bản trang, quả là thể diện nhà Mộ Dung được rạng rỡ thêm nhiều. Vừa rồi tiểu sư phụ Hư Trúc đã gửi anh hùng thiếp, bọn tại hạ sẽ nhanh chân bẩm báo lên trên. Vào tiết Trùng Dương mùng chín tháng chín, Mộ Dung công.tử nhất định sẽ đến quí tự bái Phật, đích thân đa tạ chư vị cao tăng, đồng thời trước mặt anh hùng thiên hạ sẽ đối chất cho rõ những chỗ hiểu lầm.”

Huyền Nạn nghĩ thầm: “Ngươi nói là hiểu lầm, chẳng lẽ Huyền Bi sư huynh không phải bị bọn Mộ Dung các ngươi gia hại ư?”, Đột nhiên phía sau có tiếng la lên: “Chao ôi! Sư phụ ơi, chính hắn đây rồi.” Huyền Nạn quay đầu nhìn lại, thấy một quái nhân đầu sắt đang chỉ vào trong cáng, nói nhỏ gì đó với ông lão tóc bạc.

Du Thản Chi thầm thì vào tai Đinh Xuân Thu: “Nhà sư mập trong cái cáng đó chính là người bắt con băng tằm, không hiểu sao phái Thiếu Lâm lại khiêng y đến.”

Đinh Xuân Thu nghe nói nhà sư mập này là chủ nhân con băng tằm, không khỏi mừng thầm, hạ giọng hỏi lại: “Không nhầm đấy chứ?” Du Thản Chi đáp: “Đệ tử không nhầm đâu, chính là Tuệ Tịnh. Sư phụ nhìn xem, cái bụng y tròn vo lù lù một đống thế kia.” Đinh Xuân Thu nhìn kỹ người nằm trên cáng, thấy cái bụng y quả thật còn to hơn bụng đàn bà chửa mười tháng, bèn nghĩ: “Bất luận là ai đã nhìn thấy tên trọc bụng to này một lần đều không thể nhầm lẫn được nữa.” Lão bèn hỏi Huyền Nạn: “Đại sư! Hòa thượng Tuệ Tịnh này là bạn của tại hạ, không hiểu đã mắc bệnh gì, có nguy hiểm không?”

Huyền Nạn chắp tay đáp: “Không hiểu thí chủ tôn tính đại danh là gì, sao lại quen biết với sư điệt của lão nạp?” Đinh Xuân Thu nghĩ thầm: “Tên Tuệ Tịnh này lại đi cùng với bọn hòa thượng Thiếu Lâm, thêm phiền phức nữa rồi. May mà ta gặp ở đây, chặn đường bắt đi cũng còn dễ hơn xông lên chùa Thiếu Lâm cướp người.” Lão nghĩ đến thần hiệu vô song của con băng tằm, hùng khí lại nổi lên, bèn tự xưng: “Tại hạ là Đinh Xuân Thu.”

Ba tiếng “Đinh Xuân Thu” vừa thốt ra, cả sáu người Huyền Nạn, Huyền Thống, Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác không hẹn mà cùng la lên một tiếng, mặt biến sắc. Ác danh Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu đã đồn khắp thiên hạ, không ai tin nổi lão lại có phong thái ung dung tự tại như thế, lại càng không hiểu sao lại gặp nhau ở đây. Cả sáu người đều thấy kinh nghi.

Huyền Nạn trấn tĩnh trước tiên, nói: “Thì ra là Đinh lão tiên sinh ở Tinh Tú Hải, lão nạp từ lâu đã ngưỡng mộ đại danh, thật như sấm động bên tai.”

Nhà sư già không nói đến những câu khách sáo thông thường như “hân hạnh gặp mặt, may mắn tương phùng” gì gì, trong lòng nghĩ: “Ai mà phải gặp ngươi là coi như kiếp trước tu không khéo rồi.”

Đinh Xuân Thu đáp: “Không dám! Môn Tụ Lý Càn Khôn của thủ tòa Đạt Ma Viện chùa Thiếu Lâm mới thật là vang danh thiên hạ, lão phu ngưỡng mộ từ lâu. Tại hạ đi khắp nơi tìm vị Tuệ Tịnh này, tình cờ gặp ở đây thật là hay quá.”

Huyền Nạn hơi chau mày, đáp: “Nói ra xấu hổ. Bản tự giáo dục không đến nơi nên tên sư điệt Tuệ Tịnh đây phạm nhiều giới luật, năm trước tự ý trốn khỏi chùa làm nhiều chuyện ác. Phương trượng sư huynh đã cho người đi tìm kiếm khắp nơi, khó khăn lắm mới bắt được để đưa về bản tự. Đinh lão tiên sinh đã gặp hắn ư?” Đinh Xuân Thu nói: “Thì ra y không bị bệnh mà bị người ta đánh ư? Thương tích có trầm trọng không?” Huyền Nạn trầm ngâm một lát mới nói: “Hắn không tuân pháp dự của phương trượng mà quay về, lại dám xuất thủ đả thương người khác.” Trong lòng nhà sư nghĩ: “Hắn giao kết với bọn tà ma ngoại đạo như ngươi, lại phạm thêm một giới luật nữa.”

Đinh Xuân Thu nói: “Tại hạ lên núi Côn Luân, tốn rất nhiều công sức mới bắt được một con băng tằm. Đó là một món rất hữu dụng, nhưng lại bị tên Tuệ Tịnh sư điệt của đại sư cướp mất. Lần này tại hạ ngàn dặm xa xôi từ Tinh Tú Hải vào Trung Nguyên chỉ vì muốn lấy lại con băng tằm…”

Lão chưa dứt lời, đột nhiên Tuệ Tịnh la lên: “Băng tằm của ta đâu? Này này, ngươi có thấy con băng tằm của ta ở đâu không? Con băng tầm này là ta đã vất vả tìm được trên núi Côn Luân. Chính ngươi… ngươi ăn cắp của ta phải không?”

Từ lúc Du Thản Chi lộ mặt ra hô hoán, cặp mắt láo liên của Phong Ba Ác cứ ngó chầm chập vào cái đầu sắt của gã không ngớt. Y càng nhìn càng thấy hay hay, lại đi vòng quanh Du Thản Chi ngắm nghía cái đầu kỳ lạ, thấy cái đầu này đúc rất tinh xảo, hàn gắn rất kỹ càng, cứ muốn đưa tay gõ thử mấy cái. Phong Ba Ác nhìn một hồi rồi gọi chuyện: “Huynh đài mạnh giỏi chứ?” Du Thản Chi đáp: “Tại hạ… tại hạ vẫn thường. Còn huynh đài thế nào?” Gã thấy Phong Ba Ác hình như đang ngứa chân ngứa tay, bèn ngấm ngầm sợ hãi. Phong Ba Ác hỏi: “Cái lồng sắt của huynh đài ai làm mà khéo thế? Phong mỗ đi khắp thiên hạ mà chưa thấy ai có cái mặt nạ giống như vậy.” Du Thản Chi ngượng ngùng cúi đầu, khẽ nói: “Tại hạ… tại hạ không tự chủ lấy thân được, không có cách nào…”

Phong Ba Ác nghe vậy, hỏi lại: “Kẻ nào mà ác độc đến thế? Phong mỗ muốn gặp thử coi.” Gã vừa nói vừa nheo mắt nhìn Đinh Xuân Thu, cứ tưởng lão này đã ức hiếp mà chụp lồng sắt vào đầu Du Thản Chi. Du Thản Chi vội nói: “Không… không phải sư phụ tại hạ đâu.” Phong Ba Ác nói: “Vậy thì ai? Chụp lồng sắt vào đầu huynh đài để làm gì? Tại hạ phải tháo bỏ nó đi.” Y nói xong, thò tay vào bọc móc lưỡi trủy thủ sáng loáng ra, chỉ nhìn cũng biết là cực kỳ sắc bén.

Phong Ba Ác định dùng lưỡi dao này để tháo cái lồng sắt cho Du Thản Chi.

Du Thản Chi biết cái lồng sắt này đã dính liền vào mặt mũi cùng đầu óc mình, nếu tháo nó ra thì đứt cả da thịt, có thể nguy đến tính mạng. Gã vội ngăn lại: “Không… không tháo ra được đâu!” Phong Ba Ác nói: “Huynh đài đừng sợ chi hết, cứ để ta tháo ra cho, quyết không tổn thương gì đến da thịt đâu.” Du Thản Chi vẫn nằng nặc không chịu, nói: “Không được, không được mà!” Phong Ba Ác hỏi: “Phải chăng huynh đài sợ hãi tên ác nhân đã chụp đầu sắt vào, nên không dám tháo ra? Giả tỉ lần sau hắn có hành hạ huynh đài về tội mất cái mặt sắt, cứ bảo hắn rằng Nhất Trận Phong đè ra mà tháo, không tự chủ được, bảo hắn đến tìm ta mà trả đũa.” Phong Ba Ác nói xong, nắm chặt cổ tay trái Du Thản Chi.

Du Thản Chi nhìn thấy lưỡi trủy thủ sáng loáng thì kinh hãi vô cùng, vội la lên: “Sư phụ! Sư phụ!”, vừa gọi vừa quay lại Đinh Xuân Thu cầu cứu, nhưng lão đang đứng bên cái cáng thương, chắp tay sau lưng hứng thú nhìn nhà sư Tuệ Tịnh, cũng không hiểu có nghe Du Thản Chi kêu réo hay không. Phong Ba Ác đưa truy thủ lên toan đâm vào cái lồng sắt. Du Thản Chi trong lúc hoang mang, vươn tay phải đập vào vai Phong Ba Ác nghe bộp một tiếng, chỉ toan đẩy gã ra.

Phong Ba Ác đang để hết tinh thần vào việc tháo lồng sắt cho Du Thản Chi, sợ chỉ trệch mũi dao một chút là sứt mặt thủng đầu. Gã không hề đề phòng Du Thản Chi tập kích bất thình lình, mà phát chưởng này kình lực không phải tầm thường, lại trúng vào chỗ hiểm yếu. Phong Ba Ác chỉ kịp rú lên một tiếng rồi ngã chúi ra trước. May mà gã nhanh chân lẹ tay, tay trái vừa chống xuống đất, liền nhảy vọt một cái đứng thẳng người lên. Bỗng nghe “ụa” một cái, miệng Phong Ba Ác hộc máu tươi ra.

Ba người Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng thấy Du Thản Chi bất thình lình hạ độc thủ, khiến huynh đệ bị một đòn nặng thì đều giật mình kinh hãi, lại thấy Phong Ba Ác mặt mày nhợt nhạt thì lo lắng vô cùng. Công Dã Càn bắt mạch Phong Ba Ác, thấy mạch cấp bách hỗn loạn dường như bị trúng độc, bèn trỏ vào mặt Du Thản Chi quát mắng: “Thằng lôi con kia! Té ra mi là môn hạ Tinh Tú Lão Quái, hễ ra tay là dùng thủ đoạn thâm độc hại người”. Gã móc trong bọc ra một cái bình nhỏ, mở nắp lấy một viên thuốc giải độc nhét vào mồm Phong Ba Ác.

Đặng Bách Xuyên và Bao Bất Đồng lạng người đứng chặn trước mặt Đinh Xuân Thu cùng Du Thản Chi. Bao Bất Đồng vận kình lực vào tay trái, vươn năm ngón tay ra như móng vuốt, toan chụp xuống ngực Du Thản Chi. Đặng Bách Xuyên la lên: “Tam đệ dừng tay!” Bao Bất Đồng bèn thủ thế lùi lại, đưa mắt nhìn đại ca. Đặng Bách Xuyên mở lời chất vấn: “Nhà Mộ Dung chúng ta cùng phái Tinh Tú vốn không thù không oán, tứ đệ lại có lòng tốt muốn tháo bỏ mặt nạ giúp cho, sao môn hạ phái Tinh Tú lại xuất thủ đánh người? Mong lão tiên sinh giải thích chuyện này.”

Đinh Xuân Thu thấy gã môn đệ mới nhận chỉ hời hợt đẩy ra đã đánh bại một tên hảo thủ của nhà Cô Tô Mộ Dung, oai phong của phái Tinh Tú hiển nhiên rạng rỡ thêm nhiều. Lão ngấm ngầm đắc ý, nghĩ đến thần hiệu của băng tằm lại càng thèm nhỏ dãi, bèn khẽ cười nói: “Vị Phong tứ gia này tính tình nóng nảy hiếu chiến, hành động lại càng lỗ mãng. Môn nhân phái Tinh Tú thích đội nón đồng hay nón sắt thì không hiểu có phiền hà gì đến nhà họ Mộ Dung không?”

Lúc đó Công Dã Càn đã đỡ Phong Ba Ác ngồi dậy, thấy gã toàn thân run bần bật, hai hàm răng khua lên lách cách, tựa hồ như ngã vào biển băng. Lát sau, sắc mặt Phong Ba Ác dần dần xám xanh lại. Viên thuốc giải độc của Công Dã Càn vốn rất linh nghiệm, nhưng lần này chẳng ăn thua gì.

Công Dã Càn sợ quá, đặt tay lên mũi để nghe hơi thở thì cảm thấy một luồng gió lạnh buốt thấu xương thổi vào lòng bàn tay. Y vội rụt tay lại, la lên: “Nguy rồi! Sao hơi thở lại lạnh đến thế?”, nghĩ rằng Phong Ba Ác thở hơi ra lạnh đến thế thì chắc đã trúng phải hàn độc cực kỳ ghê gớm. Tình hình cấp bách, Công Dã Càn không kịp suy nghĩ nhiều, bèn quay lại hỏi Định Xuân Thu; “Phải chăng các hạ là sư phụ gã đầu sắt kia? Huynh đệ của tại hạ trúng phải độc thủ của gã, xin các hạ giải độc giúp cho.”

Phong Ba Ác trúng phải chất hàn độc ghê gớm của băng tằm, do thần công Dịch Cân Kinh của Du Thản Chi tống vào. Đinh Xuân Thu không có thuốc giải, mà dù có thì lão cũng chẳng chịu cho. Lão ngửng đầu lên trời cười to, hô một tràng chú ngữ chẳng ai hiểu được, phất tay áo cuộn lên một trận gió. Bọn đệ tử phái Tinh Tú đều co giò chạy lẹ ra khỏi quán lương đình.

Huynh đệ Đặng Bách Xuyên cùng quần tăng Thiếu Lâm đều cảm thấy luồng gió dữ dội này như rắc ớt vào mắt, làm nhức nhối khó chịu, nước mắt trào ra, mắt không mở được. Ai nấy đều la thầm: “Nguy rồi!”, biết rằng lão phất tay áo là để phát tán độc phấn giấu bên trong. Ba người Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng không hẹn mà cùng xông ra trước Phong Ba Ác, chỉ sợ đối phương hạ độc thủ hại gã. Đặng Bách Xuyên nhắm mắt phóng ra một chưởng, một tiếng “Ầm” vang lên, ngói và cát bụi trên mái rơi xuống lả tả. Phát chưởng của Đặng Bách Xuyên đánh trúng cột quán lương đình, cái cột to đến bảy tấc bị gãy đôi, nửa quán đổ sập xuống. Khi mọi người mở được mắt ra nhìn thì Đinh Xuân Thu cùng Du Thản Chi đã chạy mất rồi, không thấy tông tích đâu nữa.

Một hòa thượng Thiếu Lâm la lên: “Tuệ Tịnh đâu rồi?” Té ra trong lúc hỗn loạn thì Đinh Xuân Thu đã cướp Tuệ Tịnh đi mất, cái cáng thương đang chụp lên đầu một nhà sư khác. Huyền Thống nổi giận la lên: “Đuổi!”, rồi phi thân ra khỏi lương đình. Đặng Bách Xuyên cùng Bao Bất Đồng cũng nhảy ra đuổi theo. Huyền Nạn phất tay trái một cái, cũng dẫn bọn sư điệt rượt theo tiếp ứng.

Công Dã Càn ở lại trong lương đình để lo liệu cho Phong Ba Ác. Gã thấy trong mắt cay xè, nước mắt chảy không ngừng, lại thấy mồ hôi trán Phong Ba Ác dần dần đóng thành bằng, trong lòng cực kỳ hoang mang. Bỗng nghe tiếng bước chân, Công Dã Càn ngẩng lên nhìn thấy Đặng Bách Xuyên đang ôm Bao Bất Đồng chạy trở lại, bèn cả kinh la lên: “Đại ca! Tam đệ lại bị thương ư?” Đặng Bách Xuyên đáp: “Lại là độc thủ của gã đầu sắt.” Rồi Huyền Nạn cùng quần tăng Thiếu Lâm cũng trở lại lương đình, Huyền Thống đang nằm trên lưng Hư Trúc, rét đến răng khua lách cách. Huyền Nạn cùng Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn nhìn nhau ngơ ngác.

Đặng Bách Xuyên nói: “Gã đầu sắt chỉ đối một chưởng với tam đệ, rồi lại cùng Huyền Thống đại sư đối một chưởng nữa. Không ngờ hàn độc chưởng của phái Tinh Tú lợi hại đến thế.”

Huyền Nạn lấy trong bọc ra một cái hộp gỗ nhỏ, nói rằng: “Tệ phái có Lục Dương Chính Khí Đan có công hiệu chữa trị hàn độc.” Nhà sư mở nắp hộp, lấy ra ba viên đan dược màu đỏ như máu, trao Đặng Bách Xuyên hai viên, còn một viên cho Huyền Thống uống.

Thời gian chừng ăn xong bữa cơm, hàn độc trong thân thể bọn Huyền Thống ba người đã dịu lại, Bao Bất Đồng mở miệng la lên: “Gã đầu sắt này, con… con mẹ nó, không hiểu là chưởng lực gì vậy?” Đặng Bách Xuyên nói: “Tam đệ, từ từ rồi hãy mắng cũng chưa muộn, hành công trước đã.” Bao Bất Đồng nói: “Sai bét, sai bét! Bây giờ mà không mắng, lát nữa mạng của tiểu đệ ô hô ai tai rồi, lúc đó muốn mắng thì đã muộn.” Đặng Bách Xuyên cười nói:“Đừng lo quá, không chết được đâu.” Y nói xong liền đưa bàn tay áp vào huyệt Chí Dương ở hậu tâm, dùng nội lực yểm trợ gã khu trừ hàn độc. Công Dã Càn lại giúp Phong Ba Ác, còn Huyền Nạn cũng dùng nội lực yểm trợ cho Huyền Thống trục độc.

Trong số họ thì dĩ nhiên hai vị Huyền Nạn, Huyền Thống nội lực thâm hậu nhất. Một lát sau Huyền Thống thở phào rồi nói: “Tốt rồi! Thật là lợi hại.” Huyền Nạn có ý đi giúp Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác trục hàn độc, nhưng ngặt ở chỗ đối phương chưa mở lời mà mình tự ý sang giúp thì không khỏi có ý coi thường nội lực của họ, đó là một điều cấm kỵ của võ lâm.

Đột nhiên Huyền Thống lắc lư hai cái, hai hàm răng lại khua lên lách cách, kêu cứu: “Sư… sư huynh! Hàn… hàn độc này thật là cổ quái…” Huyền Nạn phải tiếp tục vận công tương trợ. Hàn độc trong mình ba người cứ dịu đi chốc lát rồi lại lên cơn, cứ như thế đến chiều tối thì mỗi người đã uống đến ba viên Lục Dương Chính Khí Đan mà hàn khí vẫn không giảm chút nào. Huyền Nạn mang theo mười viên đan dược, lúc này chỉ còn một viên, liền bỏ ra chia cho ba người uống. Bao Bất Đồng không chịu uống nữa, phều phào nói: “E rằng uống thêm một trăm viên nữa cũng… cũng… chưa chắc…”

Huyền Nạn đành bó tay, nói: “Bao thí chủ nói không sai. Lục Dương Chính Khí Đan quả là thuốc không đúng bệnh, mà nội công của chúng ta cũng không thể khu trừ hàn độc này được. Lão nạp nghĩ rằng, chỉ còn cách đến xin Tiết Thần Y chữa trị thôi. Bốn vị thí chủ nghĩ sao?” Đặng Bách Xuyên cả mừng nói: “Tại hạ cũng có nghe Tiết Thần Y ngoại hiệu là Diêm Vương Địch diệu thủ hồi xuân, chứng bệnh nào cũng có thể chữa khỏi. Đại sư có biết thần y ở chỗ nào không?” Huyền Nạn đáp: “Gia đình Tiết Thần Y ở trấn Liễu Tông phía tây Lạc Dương, cách đây cũng không xa lắm. Thần Y cùng lão nạp đã có duyên gặp gỡ mấy lần, nếu qua đó xin chữa trị thì chắc ông ta không từ chối đâu.” Nhà sư ngừng một chút lại nói: “Tiết Thần Y trước đây đã từng ngưỡng mộ Cô Tô Mộ Dung lừng danh thiên hạ. Nếu y có dịp kết giao bằng hữu với bốn vị anh hùng, chắc cũng rất vui mừng.”

Bao Bất Đồng xen vào nói: “Sai bét, sai bét! Tiết Thần Y mà thấy chúng ta đến trước cửa chưa chắc đã vui mừng. Có điều hết thảy nhân vật võ lâm đều chán ghét môn Gậy Ông Đập Lưng Ông của công tử nhà ta, chỉ có Tiết Thần Y là không sợ mà còn tán dương là khác. Sau này giả tỉ y gặp phải chuyện… chuyện lôi thôi, chỉ cần đến nhờ công tử gia thi triển môn Gậy Ông Đập Lưng Ông là cái mạng già của y được cứu ngay.”

Mọi người phá lên cười, cùng nhau rời khỏi quán lương đình, đến thị trấn phía trước thuê ba cỗ xe lớn để ba người bị thương nằm dưỡng sức. Đặng Bách Xuyên lại xuất ngân lượng mua thêm mấy con ngựa cho quần tăng Thiếu Lâm cưỡi.

Đoàn người cứ đi hai ba giờ lại phải dừng để giúp bọn ba người Huyền Thống hành công trấn áp hàn độc. Về sau Huyền Nạn không tị hiềm nữa, cũng dùng nội công phái Thiếu Lâm để tương trợ cho Bao Bất Đồng cùng Phong Ba Ác. Từ nơi này đến trấn Liễu Tông chỉ cách vài trăm dặm, tuy đường núi gập ghềnh mà đến trưa ngày thứ ba đã đến nơi. Nhà Diêm vương địch Tiết Thần Y ở chốn thâm sơn, cách trấn Liễu Tông hơn ba mươi dặm về phía Bắc. May mà khi ở Tụ Hiền Trang lão đã nói rõ đường lối với Huyền Nạn đại sư, nên đoàn người không phải hỏi gì, đi một mạch đến cửa Tiết gia.

Huyền Nạn cưỡi ngựa đi trước, thấy bên suối có mấy gian nhà tường trắng ngói đen, trước nhà có vườn thuốc. Nhà sư biết là chỗ ở của Tiết Thần Y, liền giục ngựa đến nơi, thấy trước cửa có treo hai chiếc đèn lồng to phất giấy trắng. Huyền Nạn giật mình tự hỏi: “Chẳng lẽ trong nhà Tiết Thần Y có người bệnh chữa không khỏi?” Nhà sư đến gần mấy trượng nữa, thấy rõ trước cửa có treo mấy tấm xô gai, bên cạnh cắm một lá cờ chiêu hồn, quả là có đám tang không còn nghi ngờ gì nữa. Trên đèn lồng có viết hai hàng chữ: “Tiết Công Mộ Hoa chi tang; Hưởng niên ngũ thập ngũ tế” (Đám tang ông Tiết Mộ Hoa, hưởng thọ năm mươi lăm tuổi). Huyền Nạn lẩm bẩm: “Không hiểu Tiết Mộ Hoa có phải là Tiết Thần Y không, theo độ tuổi thì đúng rồi. Nếu Tiết Thần Y không tự chữa được cho mình mà chết đi, thì thật là tuyệt lộ.”

Nhà sư đang dừng ngựa trầm ngâm, Đặng Bách Xuyên và Công Dã Càn cũng thúc ngựa đến nơi. Ba người ngơ ngác nhìn nhau đều lộ vẻ hoài nghi không nhất quyết.

Trong nhà bỗng có tiếng khóc vang lên, thanh âm của phụ nữ: “Lão gia ơi! Lão gia y thuật như thần, ngờ đâu lại bị cấp chứng bỏ bọn tiểu nhân mà đi. Lão gia ngoại hiệu là Diêm Vương Địch, rốt cuộc cũng bị lôi xuống Diêm cung, chắc bị Diêm Vương hành hạ khổ sở!”

Ba cỗ xe lớn và sáu nhà sư chùa Thiếu Lâm cũng vừa đến nơi. Đặng Bách Xuyên, nhảy xuống ngựa, cất tiếng nói to: “Huyền Nạn đại sư chùa Thiếu Lâm dẫn mấy bằng hữu đến, có việc khẩn cầu Tiết Thần Y.” Thanh âm y bình thường đã oang oang như tiếng chuông đồng, lúc này vận khí lại càng lớn, vọng đi rất xa. Tiếng khóc trong nhà bỗng im bặt.

Lát sau, một người nô bộc già cùng một nam một nữ từ trong nhà chạy ra, nước mắt nước mũi giàn giụa trông rất thương tâm. Lão bộc đấm ngực nghẹn ngào nói: “Lão gia của bọn tiểu nhân mất từ chiều hôm qua. Các vị… các vị không gặp được nữa rồi.”

Huyền Nạn chắp tay để trước ngực, hỏi: “Tiên sinh mắc bệnh gì mà tạ thế?” Lão bộc đáp: “Đột nhiên lão gia nấc lên mấy cái rồi nghẹt thở, không hiểu là bệnh gì. Lão gia của bọn tiểu nhân vốn thân thể tráng kiện, tuổi cũng chưa cao, thật là không ngờ! Thật là không ngờ!” Huyền Nạn lại hỏi: “Trong nhà Tiết Thần Y còn ai không?” Lão bộc đáp: “Không có ai, không có một người nào hết.” Công Dã Càn cùng Đặng Bách Xuyên đưa mắt nhìn nhau, nhận ra lão bộc nói mấy câu này không tự nhiên, có vẻ thiếu thành thật. Huyền Nạn thở dài nói: “Quả là sinh tử hữu mạng chẳng sai. Xin để bọn lão nạp vào lạy một lạy trước linh vị bằng hữu.” Lão bộc ấp úng: “Cái đó… Cái đó… Vâng, vâng”, rồi dẫn mọi người tiến qua cổng lớn vào nhà.

Công Dã Càn lùi lại một bước, khẽ bảo Đặng Bách Xuyên: “Đại ca! Tiểu đệ thấy dường như có gì uẩn khúc. Lão này có vẻ lúng túng, nói chuyện mập mờ.” Đặng Bách Xuyên gật đầu, theo lão bộc vào.

Linh đường bài trí rất đơn giản thô sơ, thiếu thốn đủ thứ, rõ ràng sắp đặt một cách vội vàng. Trên bài vị có dòng chữ: “Tiết Công Mộ Hoa chi linh vị”, nét bút sắc sảo gân guốc đúng là của một người đọc sách nhiều, lão bộc kia không thể viết được thế này. Công Dã Càn để ý thấy, nhưng không nói gì, theo mọi người tuần tự vào trước linh vị làm lễ điếu tang. Y nhìn ra sân thấy hai cây sào tre, có phơi đến mười mấy bộ quần áo đủ cả nam phụ lão ấu, nghĩ thầm: “Rõ ràng trong nhà Tiết Thần Y có đông đủ gia quyến, thế mà lão bộc nói không có ai.”

Huyền Nạn nói: “Bọn lão nạp từ chùa Thiếu Lâm trên núi Tung Sơn tới đây cầu Tiết tiên sinh trị bệnh, không ngờ đến nơi thì Tiết tiên sinh lại quy tiên rồi. Bây giờ đã xế chiều, xin được ngủ lại quý phủ một đêm.” Lão bộc ấp úng đáp: “Cái đó… Cái đó… được… được. Xin chư vị đợi trong khách sành một chút, tiểu nhân đi làm cơm.” Huyền Nạn nói: “Quản gia bất tất phải bận lòng, cơm hẩm dưa muối cũng được rồi.” Lão bộc nói: “Dạ dạ! Xin các vị ngồi chơi một chút.” Nói xong, lão dẫn mọi người ra lại sảnh đường rồi xoay mình đi vào trong nhà.

Qua một lúc lâu, chẳng thấy ai mang trà nước ra mời khách chi hết. Huyền Nạn lẩm bẩm: “Lão bộc này gặp lúc chủ nhân qua đời đột ngột, không khỏi thần hồn điên đảo. Hỡi ơi! Huyền Thống sư đệ bị trúng hàn độc, biết làm thế nào bây giờ?” Mọi người chờ đến nửa giờ nữa, vẫn chẳng thấy lão bộc ra. Bao Bất Đồng nóng ruột nói: “Để tại hạ đi tìm nước uống, khát quá rồi!” Hư Trúc nói: “Bao tiên sinh cứ ngồi nghỉ, để tiểu tăng đi giúp ông lão đó nấu nước.” Nhà sư nói xong liền đứng dậy đi vào nhà trong. Công Dã Càn muốn xem động tĩnh Tiết gia ra sao, bèn nói: “Để tại hạ đi cùng tiểu sư phụ.”

Hai người đi thẳng ra sau, xuống tận nhà bếp. Tiết gia rất nhiều phòng ốc, trước sau có đến năm dãy, mà tuyệt không thấy bóng người, cả đôi nam nữ vừa rồi cũng chẳng thấy đâu nữa.

Công Dã Càn biết là có chuyện khác thường, hấp tấp trở ra sảnh đường, nói: “Tình hình trong nhà này rất khác thường, Tiết Thần Y giả chết cũng nên.” Huyền Nạn kinh ngạc đứng bật dậy hỏi: “Sao thế?” Công Dã Càn đáp: “Tại hạ vào xem quan tài thử.” Y vào trước linh vị, đưa tay ra toan nhấc nắp quan tài, đột nhiên nghĩ sao lại rút tay về, chạy ra sân lấy một cái áo phơi trên sào quấn vào tay.

Phong Ba Ác hỏi: “Phải chăng nhị ca sợ trên quan tài có chất độc?” Công Dã Càn đáp: “Lòng người nham hiểm khôn lường, không thể không đề phòng.” Y vận kình lực nhấc quan tài thử, thì thấy rất nặng, chắc là bên trong không có xác chết, liền nói: “Quả nhiên Tiết Thần Y trá tử!”

Phong Ba Ác rút đơn đao ra đánh soạt một tiếng, nói: “Chúng ta mở nắp quan tài ra xem sẽ rõ.” Công Dã Càn nói:”Lão này xưng là Thần Y, tất nhiên dụng độc cao cường, tứ đệ phải cẩn thận!” Phong Ba Ác nói: “Tiểu đệ biết rồi.”, đưa mũi đao vào kẽ hở nạy lên, nghe lách cách mấy tiếng, nắp quan tài hé mở. Gã sợ phấn độc trong quan tài bay ra, bèn phong bế hết đường hô hấp.

Bao Bất Đồng lạng người một cái nhảy ra sân, vươn tay ra chụp lấy hai con gà mái đang tìm sâu bọ bên cây quế, ném lướt qua mặt quan tài. Hai con gà kêu quang quác mấy tiếng, rớt xuống rồi chạy vội chạy vàng, nhưng chỉ được mấy bước là ngã lăn ra giẫy đành đạch mấy cái rồi nằm chết cứng. Lúc này dưới hành lang có một cơn gió lạnh thổi qua, lông gà bay tứ tung theo chiều gió. Gà mới chết mà đã rụng hết lông, đủ biết chất độc mãnh liệt chừng nào. Mọi người thấy tình trạng này không khỏi khiếp sợ, không ai dám đến bên quan tài.

Huyền Nạn hỏi Đặng Bách Xuyên: “Đặng thí chủ! Vụ này là thế nào? Chẳng lẽ Tiết Thần Y trá tử thật sao?” Đại sư vừa nói vừa tung mình nhảy lên, tay trái bám lấy xà nhà, nhìn vào quan tài thì thấy bên trong đựng đầy đá tảng, ở giữa có một cái bát lớn chứa đầy nước trong, dĩ nhiên là thuốc độc, Huyền Nạn nhảy xuống, lắc đầu nói: “Giả tỉ Tiết thí chủ chẳng chịu chữa trị cho chúng ta thì thôi, việc gì phải bố trí cơ quan điểm độc hại người? Chùa Thiếu Lâm với y không thù không oán, việc này thật là vô lý. Hay là… hay là…” Nhà sư dừng lại không nói nữa, nhưng ai cũng biết lão định nói: “Hay là có thâm thù với nhà Cô Tô Mộ Dung?”

Bao Bất Đồng nói: “Đại sư bất tất phải đoán lung tung. Mộ Dung Công Tử cùng Tiết Thần Y chưa hề quen biết, lại không thù oán. Nếu có thì dù bọn tại hạ có đau khổ đến đâu cũng ráng chịu, chẳng thèm quị lụy kẻ thù để xin chữa trị. Đại sư đừng tưởng Bao Bất Đồng này là hàng giá áo túi cơm.” Huyền Nạn nói: “Bao thí chủ nói phải lắm, lão tăng đoán sai rồi.” Huyền Nạn là một vị cao tăng đắc đạo, cũng đã nghĩ như vậy nên mới dừng lại, không nói nhiều, chỉ nhận lỗi về mình.

Đặng Bách Xuyên nói: “Nơi đây độc khí rất mạnh không nên ở lâu, chúng ta quay ra ngoài thôi.” Mọi người trở lại sảnh đường, chẳng ai đoán được vì sao Tiết Thần Y đã trá tử lại còn bố trí cơ quan hại người. Bao Bất Đồng nói: “Lão Tiết Quỉ Y này thật là khả ố, chúng ta nổi lửa đốt quách cái tổ quỉ này đi!” Đặng Bách Xuyên nói: “Không được! Dù sao thì Tiết tiên sinh cũng là hảo hữu của chùa Thiếu Lâm, chúng ta phải nể mặt Huyền Nạn đại sư, không nên hành động lỗ mãng.”

Lúc này trời đã tối mịt, trong nhà chẳng có đèn lửa chi hết, mọi người đều bụng đói miệng khát mà không ai dám uống nước ở đây. Huyền Nạn nói: “Chúng ta ra ngoài tìm nhà hàng xóm để kiếm cơm nước, nên chăng?” Đặng Bách Xuyên nói: “Chúng ta đi mười dặm đường rồi hãy tìm thức ăn thức uống. Tiết tiên sinh hẳn là người rất tâm cơ, không phải chỉ bố trí một cái quan tài mà thôi đâu. Nếu xảy ra chuyện gì liên lụy đến các vị đại sư, thì bọn tại hà áy náy vô cùng!” Y cùng Công Dã Càn chưa hiểu nguyên nhân, nhưng cũng đoán rằng đường lối “Gậy ông đập lưng ông” của nhà Mộ Dung đã đồn đại khắp nơi, bị khách giang hồ kết oán vu vơ đã nhiều. Y cho rằng Tiết Thần Y có thân hữu gì bị hại, đem đổ lên đầu Cô Tô Mộ Dung mà đòi nợ máu.

Mọi người đứng dậy đi ra cửa chính, bỗng thấy trên trời sáng rực lên ở phía tây nam, tiếp theo là một vùng những tia lửa bắn lên không trung, từ sắc đỏ chuyển thành xanh biếc, chẳng khác nào một đám mưa hoa, màu sắc biến ảo huy hoàng trông rất đẹp mắt. Phong Ba Ác nói: “Đẹp quá! Không hiểu ai đốt pháo hoa mà đẹp thế?” Lúc này mới đầu mùa thu, chẳng phải là tiết Nguyên Tiêu hay tiết Trung Thu, sao lại có người đốt pháo hoa? Chẳng bao lâu lại có một đóa hoa vàng chói bay vút lên không gian rồi nở ra, y như trăm ngàn sao băng va chạm vào nhau.

Công Dã Càn nói: “Đây không phải là pháo hoa, mà là tín hiệu của bọn đại địch kéo đến bao vây.” Phong Ba Ác la lớn: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Mình lại được một phen đánh đấm sướng tay!”, rồi quay vào đại sảnh. Đặng Bách Xuyên hạ lệnh: “Tam đệ cùng tứ đệ vào trong đại sảnh để ngăn chặn phía trước, nhị đệ chống đỡ phía sau.” Đoạn y quay lại nói với Huyền Nạn đại sư: “Vụ này không liên quan đến chùa Thiếu Lâm, xin các vị cứ bàng quan đừng bênh vực bên nào, nhà Mộ Dung xin đa tạ đại đức!

Huyền Nạn nói: “Sao Đặng thí chủ lại nói thế? Giả tỉ địch nhân có tư thù với chư vị mà kéo đến vây đánh, bên trong có điều gì khuất khúc, bọn bần tăng cũng phải xét đoán theo lẽ công bằng, không thể để họ nhân lúc người ta nguy cấp, cậy đông mà thủ thắng được. Giả tỉ họ là đồng đảng của Tiết Thần Y, bố trí cơ quan độc địa hại người một cách vô lý, thì bọn bần tăng cũng coi họ là kẻ thù chung, lẽ nào lại thõng tay đứng nhìn?” Đoạn Huyền Nạn quay lại hô: “Chuẩn bị đối địch!” Bọn Tuệ Phương, Hư Trúc đồng thanh vâng lời. Huyền Thống nói: “Đặng thí chủ! Bần tăng cùng hai vị huynh đệ của thí chủ đã đồng bệnh tương liên, dĩ nhiên phải liên thủ chống địch.”

Đang lúc nói chuyện lại có hai bông hoa vọt lên trời, lần này lại gần hơn. Rồi cách một lúc lại có hai bông hoa xuất hiện, trước sau có đến sáu lần. Hình dáng cùng màu sắc các bông hoa đều khác nhau, có bông tựa như một nhát búa quét ngang bầu trời, có bông lại giống như hoa mẫu đơn. Sau khi sáu bông hoa phóng lên rồi, bầu trời đen kịt không còn tín hiệu gì nữa.

Huyền Nạn hạ lệnh cho bọn đệ tử Thiếu Lâm canh giữ chung quanh đại sảnh, chờ địch nhân đến đánh, nhưng hồi lâu vẫn chẳng thấy động tĩnh gì. Bỗng nghe phía Đông có một giọng nữ ngâm thơ: “Mày liễu bìa ai biếng điểm trang, Khăn hồng ố lệ những mơ màng, Phòng the khắc khoải hồn cô tịch, Châu ngọc khôn khuây nỗi đoạn trường.” Giọng hát đầy vẻ thê lương não nuột.

Huyền Nạn cùng Đặng Bách Xuyên đưa mắt nhìn nhau, trong lòng nghi hoặc. Thanh âm xướng xong giọng đào liền đổi sang vai kép: “Cha chả! Lâu ngày không thấy mặt, lòng trẫm những thương tình. Hộp trân châu ban tặng cho khanh, chẳng biết có vui lòng bạn ngọc?” Lại chuyển sang vai đào: “Chao ôi! Bệ hạ có Dương Phi kề cận, mãi say mê trong cuộc truy hoan. Đem Mai Phi phế bỏ cho xong, đâu có lý thương người mệnh bạc.” Nói xong, lại lên tiếng khóc thút thít.

Các hòa thượng Thiếu Lâm hàng chữ Tuệ cùng Hư Trúc ít hiểu biết việc ngoài đời, nghe người kia nói lúc giọng nam lúc giọng nữ, chẳng biết là trò quỉ quái gì, nhưng trong lòng cũng cảm thấy thê lương. Còn bọn Đặng Bách Xuyên biết người này đang diễn một lớp tuồng cổ, đóng cả vai Mai Phi lẫn vai Đường Minh Hoàng, giọng hát vừa đúng điệu vừa diễn cảm. Nhưng mọi người đang lúc khẩn trương chỉ thấy trong lòng nao núng, không hiểu người hát có dụng ý gì.

Người đó lại lên tiếng:“Thôi, khanh đừng khóc nữa làm gì. Mau bày tiệc yến, rồi thổi sáo cho trẫm hát một khúc mà giải muộn ái phi.” Lại chuyển giọng đào nói: “Tiện thiếp lấy lệ mà rửa mặt, những mong được thấy quân vương. Hôm nay đã giáp mặt long nhan, tiện thiếp cam lòng nhắm mắt.” Nói xong lại khóc ấm ức.

Bao Bất Đồng bỗng cao giọng xướng lên:“Cô gia An Lộc Sơn chính thị. Bớ Đường dương Lý thị hồ đồ, Dương Ngọc Hoàn trao lại cho cô, Thời tránh khỏi sinh linh đồ thán.”

Đặng Bách Xuyên muốn ngăn trở cũng không kịp nữa. Tiếng người vợ khóc bên ngoài im bặt, tựa như giật mình hoảng sợ.

Chỉ trong khoảnh khắc, bốn bề im lặng như tờ.

Hồi 30: Cuộc hội ngộ kinh hoàng ở Tiết gia trang

Một lúc sau bỗng có mùi hương thơm ngát thoảng đưa. Huyền Nạn la lên: “Địch nhân phóng hơi độc! Mau mau bế khí, ngửi thuốc giải.” Nhưng rồi chẳng việc gì xảy ra, mọi người thậm chí còn thấy đầu óc sáng suốt, dường như mùi hương không có chất độc. Phía ngoài lại có người nói: “Thất tỉ! Thất tỉ đã đến đấy ư? Trong nhà ngũ ca có một quái nhân tự xưng là An Lộc Sơn!” Bỗng nghe thanh âm một phụ nữ: “Chỉ có một mình đại ca chưa đến. Nhị ca, tam ca, tứ ca, lục ca, bát đệ ra mặt đi thôi.”

Câu nói vừa dứt, bọn Đặng Bách Xuyên đột nhiên thấy phía trước sáng rực lên loa cả mắt, rồi ở cổng lớn xuất hiện sáu người, năm nam một nữ. Một lão già râu đen mặc áo ngắn lớn tiếng gọi: “Lão ngũ! Sao ngươi chưa ra đây?”, tay lão cầm tấm ván vuông tựa như chiếc bàn cờ. Nữ nhân là một thiếu phụ đứng tuổi rất xinh đẹp. Bốn người kia thì hai người ra dáng học trò, một người hình như là thợ mộc trong tay cầm một cây búa, còn người sau cùng mặt xanh răng vẩu, tóc đỏ râu xanh trông rất khủng khiếp, chẳng khác gì một con yêu quái.

Đặng Bách Xuyên chú ý nhìn kỹ thì mặt gã này bôi đầy phấn son như diễn viên trên sân khấu chứ không phải chân tướng kỳ dị, chắc vừa rồi chính y đóng vai Đường Minh Hoàng và Mai Phi. Đặng Bách Xuyên hỏi bọn người mới đến: “Tôn tính đại danh các vị là gì? Tại hạ tên gọi Đặng Bách Xuyên.”

Đối phương chưa kịp trả lời thì trong đại sảnh có một bóng đen vọt ra, đao quang lấp loáng, nhằm gã kép hát chém luôn bảy tám đao. Người này chính là Nhất trận phong Phong Ba Ác. Thế tấn công rất mãnh liệt, gã kép hát không kịp đề phòng phải tránh tả né hữu cực kỳ nguy cấp, thế mà vẫn lên giọng hát“Lực bạt sơn hề khí cái thế, thời bất lợi hề truy bất thệ, truy bất thệ hề...” (Lực nhổ núi mà khí cái thế, thời bất lợi mà ngựa không chạy, ngựa không chạy…). Gã đang hát dở dang câu thứ ba thì bị Phong Ba Ác đánh rát quá không hát tiếp được.

Lão râu đen đứng bên cạnh liền quát mắng: “Ngươi thật là vô lý, chưa hỏi cho rõ ràng đã đánh ngay. Nếm một chiêu Đại Thiết Cương của ta đây!” Lão vung tấm bảng hình vuông lên, nhắm đầu Phong Ba Ác đập xuống. Phong Ba Ác nghĩ thầm: “Ta một đời bôn tẩu giang hồ, đánh nhau mấy trăm trận lớn nhỏ mà chưa thấy ai dùng tấm ván gỗ làm binh khí thế này.” Y giơ đơn đao lên chém thẳng vào tấm ván, ai ngờ không sứt mẻ chút nào. Thì ra tấm bảng này đúc bằng gang thép, chỉ có mặt ngoài phủ nước sơn trông như ván gỗ mà thôi. Phong Ba Ác lập tức thu đao về để đánh nữa, không ngờ thanh đao dính chặt không giật ra được, dường như tấm ván này có nam châm. Y cả kinh vận hết kình lực giật thật mạnh mới rút được đao ra khỏi tấm ván, bèn quát lên: “Mi là quân tà đạo, dùng nam châm để hút khí giới người ta phải không?”

Người kia cười nói: “Không dám! Đó là cái mâm cơm của lão phu.” Phong Ba Ác để ý nhìn, thì ra trên tấm ván có vạch những đường ngang dọc, chính là một bàn vi kỳ. Gã gặp đối thủ càng kỳ lạ càng thích, liền nói: “Thật là khí giới cổ quái, ta đấu chơi với ngươi một lúc nữa.” Dứt lời, y múa đao như gió cuốn, càng đánh càng lẹ, nhưng thủy chung không dám để lưỡi đao chạm vào bàn cờ của đối phương.

Gã kép hát thở hồng hộc rồi hát tiếp: “Truy bất thệ hề khả nại hà? Ngu hề, Ngu hề nại nhược hà?” (Ngựa không chạy thì biết làm sao? Ngu Cơ ơi, làm sao đây?). Gã lại đổi sang giọng đào: “Xin đại vương bất tất phải phiền hà, Trận Cai Hạ bữa nay tuy bất lợi, thiếp theo đại vương đột phá trùng vây.”

Bao Bất Đồng quát lên: “Con mẹ nó! Sở Bá Vương lẫn Ngu Cơ mau mau tự vẫn cho rồi, mỗ danh xưng Hàn Tín.” Y sấn lại, vung hai tay dùng thế Cầm Long Thủ chụp xuống vai gã kép hát, Gã này hạ vai xuống tránh khỏi, rồi hát thật to: “Đại Phong khởi hề vân phi dương… Ta đây Hán Cao Tổ bắt Hàn Tín đem về xử tử”, rồi đưa tay trái ra sau lưng rút nhuyễn tiên đánh soạt một tiếng, nhằm Bao Bất Đồng vụt tới. Huyền Nạn thấy đối phương như làm trò hề mà võ công lợi hại, mình lại không biết họ là ai, bèn nhíu mày lên tiếng: “Các vị hãy dừng tay, nói chuyện cho minh bạch rồi hãy đánh nhau cũng chưa muộn.”

Nhà sư muốn Phong Ba Ác dừng tay nhưng đâu có được. Phong Ba Ác biết mình đã nhiễm hàn độc, khí lực sút giảm nhiều, vả lại chất độc thất thường không biết bộc phát lúc nào, lại càng nguy hiểm. Vì thế gã múa đơn đao như gió táp mưa sa, chỉ mong nhanh chóng hạ được đối phương.

Bốn người đánh đang hăng thì trong đại sảnh lại thêm một người nhảy ra, cầm hai lưỡi giới đao đập vào nhau loảng xoảng. Người này oai phong lẫm liệt, chính là Huyền Thống đại sư. Nhà sư lớn tiếng nói: “Bọn người chuyên dùng thuốc độc hại người, bữa nay lão nạp phải khai sát giới.” Nhà sư đã bị chất độc hành hạ mấy ngày, không có chỗ nào để tiết hận, bèn không hỏi han gì nữa, xông vào hai gã đứng tuổi ra vẻ học trò chém tới. Một gã nho sinh thò tay vào bọc móc ra một cây phán quan bút đấu với Huyền Thống. Còn gã kia lắc đầu lia lịa nói: “Lạ thật! Người tu hành mà lại nổi nóng, không hiểu lão tu theo kinh điển nào?” Gã đưa tay vào bọc vừa sờ vừa nói: “Ôi chao, đâu mất rồi?”, rồi hết nắn túi bên này lại vỗ túi bên kia, cứ lẩm bẩm: “Ô hay! Sao tìm hoài không được?”

Hư Trúc nổi tính hiếu kỳ liền hỏi: “Tiên sinh tìm gì vậy?” Gã nho sinh đáp: “Vị hòa thượng kia võ công cao cường, huynh đệ của tại hạ địch không lại. Tại hạ muốn tìm binh khí để xông vào thành thế hai người đánh một, chẳng chột cũng què. Nhưng lạ quá, binh khí của tại hạ lại biến đâu mất.” Gã vò đầu vỗ trán ra chiều suy nghĩ. Hư Trúc không nhịn được phải phì cười, nghĩ bụng: “Ra trận mà không biết khí giới để đâu! Gã này thật là buồn cười chưa từng thấy. Hình như gã gàn dở thật chứ không phải giả vờ.” Rồi y hỏi: “Tiên sinh dùng loại khí giới gì?” Gã nho sinh đáp: “Đã là quân tử thì phải tiên lễ hậu binh. Khí giới đầu tiên của tại hạ là một pho sách.”

Hư Trúc cố nhịn cười hỏi: “Tiên sinh dùng loại sách gì làm binh khí? Là bí quyết võ công hay binh thư đồ trận?” Gã nho sinh đáp: “Không phải! Không phải! Đó là pho Luận Ngữ. Tại hạ muốn đem lời lẽ thánh hiền để cảm hóa đối phương.” Bao Bất Đồng cười mũi hỏi: “Tiên sinh đã làu thông kinh sử mà Luận Ngữ còn chưa thuộc, thế thì tiên sinh đọc những sách gì?” Gã nho sinh đáp: “Huynh đài chỉ biết một mà chưa biết hai. Bất luận là Luận Ngữ, Mạnh Tử, Xuân Thu hay Thi, Thư gì gì đi nữa, tại hạ đều thuộc lòng, nhưng vị tất đối phương đã đọc qua nên phải lấy sách đưa cho họ coi mới hết đường chối cãi. Không có sách họ cho là mình bịa đặt, làm sao thuyết phục được? Bởi thế người ta mời nói rằng: Nói có sách mách có chứng.” Gã vừa nói vừa lục tìm, sờ soạn khắp người loạn cả lên…

Bao Bất Đồng hô to: “Tiểu sư phụ, mau đánh hắn!” Hư Trúc đáp: “Đợi cho vị thí chủ này tìm thấy binh khí rồi mới động thủ cũng chưa muộn.” Nho sinh nói:Kinh Xuân Thu có chép: Lúc Tống Sở đánh nhau, quân Sở qua sông nửa chừng chưa bày thành trận thế, Tống Mẫn Công nói rằng: Thừa cơ mà đánh thì không phải là quân tử. Cốt cách của vị tiểu sư phụ này cũng quân tử chẳng kém gì Tống Mẫn Công.”

Người thợ mộc thấy Huyền Thống sử cặp giới đao như gió táp mưa sa, chiêu thức cực kỳ lợi hại, thêm mấy chiêu nữa thì gã thư sinh sử phán quan bút e rằng khó toàn tánh mạng, liên vung búa xông vào vòng chiến, Công Dã Càn liền phong chưởng ra chặn lại. Y trông ốm o chẳng khác thầy đồ, vậy mà chưởng lực rất thâm hậu, đã từng đối ẩm rồi đối chưởng với Tiêu Phong ở một tửu lâu tại Giang Nam. Tuy y thua nhưng Tiêu Phong vẫn đem lòng kính trọng vì nội lực y không phải tầm thường. Gã thợ mộc né người tránh khỏi chưởng lực của Công Dã Càn rồi vung búa chém tạt ngang.

Tên đồ gàn vẫn chưa tìm ra pho Luận Ngữ, thấy ông bạn sử phán quan bút luống cuống, không địch nổi cặp giới đao của Huyền Thống đại sư. Gã liền nhìn Huyền Thống châm chọc: “Đại hòa thượng! Khổng Tử dạy rằng: Người quân tử không làm điều bất nhân. Đại sư động thủ toan giết tứ đệ tại hạ. Thế là nhân hay bất nhân?”

Hư Trúc khẽ hỏi Tuệ Phương: “Không hiểu vị này gàn dở thật hay là giả vờ?” Tuệ Phương đáp: “Trên chốn giang hồ lòng người giả tra rất nhiều, thi hành đủ thứ ngụy kế, ta nên cẩn thận là hơn.”

Bỗng nghe tên đồ gàn nói với Huyền Thống: “Đại hòa thượng! Tử viết: Nhân giả tất dũng, dũng giả tất nhân (Người nhân tất có dũng, người dũng tất có nhân). Đại sư dũng thì có thừa, nhân lại chưa đủ, như vậy chưa phải là bậc quân tử chân chínhĐức thánh lại dạy rằng: Kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân (Điều mình không muốn thì đừng làm cho ai). Chắc hẳn đại hòa thượng chẳng muốn ai giết mình, thì tại sao lại muốn giết người?”

Tên đồ gàn này toàn nói chuyện vớ vẩn khuyên can Huyền Thống mà võ công cũng không kém cỏi. Huyền Thống đâm trước chém sau tới tấp, gã né tả tránh hữu thủy chung vẫn cách xa ba thước. Huyền Thống không khỏi e dè, nghĩ thầm: “Thằng cha này nói nhăng nói cuội cốt để mình phân tâm, võ công còn giỏi hơn gã sử phán quan bút nhiều. Mình phải đề phòng mới được.” Nhà sư nghĩ vậy nên đề phòng gã đổ gàn đến sáu phần, chỉ dùng bốn phần công phu để đánh với gã thư sinh cầm phán quan bút, sức tấn công nhẹ hơn nên tình hình cuộc chiến cũng biến chuyển.

Hai bên trao đổi mươi chiêu nữa, Huyền Thống nổi giận quát lên: “Ngươi không tránh ra thì lão tăng không nể mặt đâu!”, rồi chuyển thành giới đao sang chém trước ngực tên đồ gàn. Gã né mình tránh khỏi nói: “Khổng Tử có dạy: Những kẻ ngang ngược chết đừng hối hận. Tại hạ thấy đại sư võ công cao cường, cùng tứ đệ hợp lực chưa chắc đã địch nổi, nên kiếm lời lẽ khuyên can để hai bên bãi chiến là hơn.”

Huyền Thống cả giận, vừa hoành đao chém ngang vừa mắng: “Ngươi im đi! Bọn ngươi miệng nói đạo đức nhân nghĩa mà lại giấu thuốc độc trong quan tài để hại người. Nếu chúng ta không cẩn thận một chút thì đã mất mạng rồi. Ngươi bảo Kỷ sở bát dụcvật thi ư nhân, vậy ngươi có muốn trúng độc mà chết không?”

Gã đồ gàn lùi lại hai bước nói: “Lạ nhỉ! Quan tài là vật để chứa xác chết, ai lại bỏ thuốc độc vào bao giờ? Nếu để thuốc độc trong quan tài thì ra muốn đầu độc cái thây ma hay sao? Thây ma tất nhiên là đã chết rồi, đầu độc làm gì nữa?”

Bao Bất Đồng xen vào: “Sai bét, sai bét! Trong quan tài của bọn ngươi không có tử thi mà chỉ có thuốc độc. Bọn ta đều là người còn sống nhăn, dĩ nhiên có thể đầu độc được.” Gã đồ gàn lắc đầu nói: “Các hạ đem bụng tiểu nhân để đo lòng quân tử rồi. Ở đây đã không có quan tài, lại càng không có thuốc độc.” Bao Bất Đồng nói: “Khổng Tử có dạy rằng: Phụ nữ và tiểu nhân thì khó dạy. Ngươi là tiểu nhân, còn thiếu phụ xinh đẹp kia là phụ nữ, bọn ngươi quả nhiên khó dạy. Lời nói của Khổng Tử đâu có thể sai được?” Gã đồ gàn chưng hửng một chút rồi đáp: “Có câu rằng: Vương Cố tả hữu nhi ngôn dã. Câu nói của các hạ thuộc loại không cần lưu ý, cũng không cần đáp lại.”

Tên đồ gàn đang bận đối đáp với Bao Bất Đồng, nên Huyền Thống không cần để ý đến gã, múa tít song đao tấn công rất gấp, gã thư sinh sử cây phán quan bút lập tức lâm vào tình thế nguy cấp. Tên đồ gàn liền xoay ra phía sau Huyền Thống cất tiếng hỏi: “Con người mà bất nhân thì không đủ lễ nghĩa. Đại hòa thượng vung đao muốn giết người tức là bất nhân, đã bất nhân thì dù có dũng mãnh cũng chẳng ra gì.”

Huyền Thống tức giận nói: “Ta là đệ tử nhà Phật, bọn nho gia gàn dở có nói quanh nói quẹo gì gì đi nữa thì ta cũng chẳng bận tâm.” Tên đồ gàn đưa tay gõ gõ lên trán, nói: “Phải rồi! Phải rồi! Tại hạ đọc sách nhiều thành ra lơ đãng, không trách bị tặng cho hai chữ gàn dở. Đại hòa thượng rõ ràng là đệ tử nhà Phật, tại hạ đem thuyết nhân nghĩa của Khổng Mạnh mà lý luận thì chỉ như nước đổ đầu vịt mà thôi!”

Phong Ba Ác đánh với lão sử dụng chiếc bàn cờ thép đã lâu mà không sao thủ thắng được. Y đánh thêm một lúc nữa thì bụng dưới ngấm ngầm đau, dường như chất hàn độc lại bắt đầu phát tác. Còn Bao Bất Đồng tỉ thí với gã kép hát, nhận thấy võ công đối phương không cao cường lắm, nhưng chiêu thức biến hóa luôn luôn. Lúc y đóng vai Tây Thi thì miệng thỏ thẻ thốt ra những lời ỏn thót, nghe mà nao nao lòng dạ, bước chân di chuyển thướt tha, điệu bộ chẳng khác gì giai nhân tuyệt mỹ. Lúc gã giả làm thi tiên Lý Thái Bạch thì ra vẻ say sưa túy lúy, chân này vấp phải chân kia. Tuyệt diệu ở chỗ gã đem áp dụng những điệu bộ này vào võ học, cây nhuyễn tiên trên tay khi thì mềm mại như tay áo mỹ nhân, khi lại văn nhã như quản bút của văn sĩ, khiến cho Bao Bất Đồng vừa buồn cười vừa bực tức, không biết làm thế nào.

Tên đồ gàn tự trách mình một lúc, rồi đột nhiên cất tiếng ngâm vang: “Có phế bỏ thất tình, Mới mong tròn quả phúcTâm thần tàn tụ hoài, Chưa thoát vòng trần tục.” Huyền Nạn cùng Huyền Thống đều giật mình lẩm bẩm: “Thằng cha này kiến thức uyên thâm, thuộc cả mấy câu kệ của một vị cao tăng đời Đông Tấn là Cưu Ma La.” Gã lại ngâm tiếp: “Thế sự thành không tưởng, Còn vui thú nỗi gì?”, rồi hỏi: “Đại hòa thượng: Sau cùng còn hai câu gì nữa, tại hạ quên mất rồi.” Huyền Thống đọc tiếp: “Hỏi gì người đắc pháp, Nhân giả phải tinh vi”.

Tên đồ gàn cười ha hả nói: “Đúng rồi! Đúng rồi! Đại sư là đệ tử nhà Phật mà cũng vừa nói đến nhân giả là gì? Vậy thì đạo lý trên thiên hạ đều giống nhau hết. Tại hạ khuyên đại sư nên ra khỏi bến mê, quay đầu trở lại, buông đao đồ tể.”

Huyền Thống tựa hồ có sét đánh trong lòng, hốt nhiên đại ngộ, thấu triệt lẽ huyền vi, bèn nói: “Phật pháp vô biên! Cho tròn thiện quả!” Nhà sư niệm hai câu rồi buông cặp giới đao xuống đất, trên mặt thấp thoáng một nụ cười rồi nhắm mắt không nói gì nữa.

Gã thư sinh kia đang lúc đánh nhau kịch liệt bỗng thấy biến chuyển đột ngột không khỏi giật mình, cây phán quan bút trong tay cũng dừng phắt lại.

Hư Trúc la gọi: “Sư thúc tổ! Hàn độc lại phát tác rồi sao?” Y giơ tay ra định đỡ thì Huyền Nạn quát lên: “Đứng yên!”, rồi để tay lên mũi Huyền Thống xem thử, quả nhiên hơi thở đã tuyệt rồi. Đại sư bèn chắp hai tay trước ngực niệm chú vãng sinh. Mấy nhà sư hàng chữ Tuệ thấy sư thúc viên tịch thì khóc rống lên, rồi rút giới đao cùng thiền trượng ra toan liều mạng với hai gã nho sinh, Huyền Nạn nói: “Không được động thủ! Sư thúc các ngươi giác ngộ chân lý, tu thành chính quả, về nơi cực lạc, nên mừng mới phải.”

Mọi người đang đánh nhau, thấy diễn biến ly kỳ đều ngừng tay nhảy ra ngoài vòng chiến. Tên đồ gàn cất tiếng hô hoán: “Lão ngũ! Tiết ngũ đệ! Mau ra đây mà coi! Có người bị ta nói khích một câu bất tỉnh, mau ra cứu mạng! Ôi chao, mãi không thấy lão Tiết Thần Y ra đây cứu người, đáng giận thật!” Đặng Bách Xuyên nói: “Tiết Thần Y không có trong nhà, tiên sinh…” Tên đồ gàn trong lúc cấp bách không nghe thấy lại gân cổ lên mà gào: “Tiết Mộ Hoa! Tiết ngũ lão! Diêm Vương Địch Tiết Thần Y! Mau mau ra cứu người! Tam ca nói khích để người ta chết rồi, người ta không để yên đâu.”

Bao Bất Đồng tức giận mắng: “Mi đã giết người lại còn giả vờ nữa ư?”. Nói xong y vung chưởng ra, tay trái luồn qua tay phải xuất chiêu Lão Long Thám Châu toan nắm lấy chòm râu đối phương. Phong Ba Ác cùng Công Dã Càn đang chiến đấu tới lúc cao hứng, đều chạy đi tìm đối thủ để đánh tiếp.

Đặng Bách Xuyên quát lên: “Ngã ra đi!”, rồi vươn tay trái chụp trúng lưng gã kép hát, thuận tay ném xuống đất. Đặng Bách Xuyên ở Tham Hợp Trang trong Yến Tử Ổ tại Cô Tô, là thuộc hạ số một của nhà Mộ Dung. Y võ công tinh thuần, nội lực thâm hậu, tuy không nổi tiếng trên giang hồ nhưng ai đã biết y đều đem lòng kính trọng. Gã kép hát thân pháp rất mau lẹ, vai trái vừa chấm đất, thân người liền xoay đi nửa vòng, quét ngang chân phải nhằm đá vào đùi Đặng Bách Xuyên. Phát đá mau lẹ phi thường, Đặng Bách Xuyên lại to béo, không được linh hoạt lắm. Y thấy khó mà né khỏi, bèn vận khí vào chân để đón lấy đòn cước. Bỗng nghe đánh rắc một tiếng, rõ ràng trong hai cái chân chạm nhau đã có một cái gãy rồi.

Gã kép hát lăn mấy vòng ra ngoài mấy trượng rồi quát mắng: “Mi là tên gian tặc Mao Diên Thọ mưu hại trung lượng. Chao ôi! Chân ta sao thế này?” Thì ra lúc hai chân chạm vào nhau, gã kép hát không chống lại được sức mạnh của Đặng Bách Xuyên nên bị gãy xương.

Thiếu phụ đứng tuổi xinh đẹp, mặc áo màu hồng nhạt, nãy giờ vẫn nghiêm trang đứng một bên chưa nói câu nào. Bây giờ thì thấy gã kép hát gãy chân, còn đồng bạn đều gặp nguy hiểm, bèn cất tiếng nói: “Thế này là nghĩa lý gì? Các ngươi đã chiếm nhà ngũ ca ta, rồi chẳng hỏi cho minh bạch đã ra tay đả thương người, thật là kỳ quái!” Mụ chất vấn đối phương, mà thanh âm vẫn ra vẻ dịu dàng.

Gã kép hát đang nằm dưới đất, ngẩng mặt lên nhìn cặp đèn lồng treo trên cửa chính, giật mình la lên: “Trời ơi! Sao trên lồng đèn lại viết: Tiết Mộ Hoa chi tang? Tiết ngũ ca xuống suối vàng rồi ư?”.

Gã sử bàn cờ, hai gã thư sinh và cả tên thợ mộc cầm búa cùng thiếu phụ đứng tuổi đều nhìn theo tay gã kép hát, nhưng không thấy rõ vì đèn bên trong đều tắt hết. Bọn này vừa đến đã đánh nhau ngay nên không ai để ý, mãi đến lúc gã kép hát lăn ra đất ngửa mặt lên mới thấy đèn lồng.

Gã kép hát rống lên rồi hát: “Ối ca ca là ca ca? Anh em ta đào liên kết nghĩa, bên Cổ Thành hò hẹn cùng nhau, qua năm ải sáu tướng bay đầu, xiết bao nỗi oai phong lẫm liệt!” Đây là mấy câu khóc Quan Vũ, gã đang xúc động mạnh, hát không đúng điệu lắm. Năm người kia nhao nhao cả lên “Ai đã giết ngũ đệ?” “Ai giết ngũ ca?” “Ngũ ca ơi! Kẻ nào là hung thủ?”. Một người lớn tiếng quát: “Hôm nay thế nào cũng phải liều mạng với các ngươi!”

Huyền Nạn cùng Đặng Bách Xuyên nhìn cảnh nhốn nháo này, đều nghĩ thầm: “Trong đám này trừ thiếu phụ thì tên nào cũng có vẻ điên khùng, dường như là huynh đệ kết nghĩa với Tiết Thần Y.” Đặng Bách Xuyên lên tiếng trình bày: “Bọn ta có người bị thương, đến đây cầu Tiết Thần Y cứu chữa, nào ngờ…”. Thiếu phụ ngắt lời: “Nào ngờ Tiết Thần Y không chịu chữa, các ngươi liền giết y đi, có phải thế không?” Đặng Bách Xuyên nói: “Không phải…”, chưa dứt lời thì thiếu phụ đã phất tay áo một cái. Đột nhiên y ngửi thấy một mùi thơm ngát xông vào mũi rồi đầu váng mắt hoa, chân đứng không vững. Thiếu phụ hô lên: “Ngã này!”

Đặng Bách Xuyên cả giận quát mắng: “Đồ yêu phụ!”, vừa nói vừa phóng chưởng ra đánh. Thứ hương Bách Ma Hoa Tiên của thiếu phụ dược lực rất mạnh, trước nay đối phương hít phải là ngã ra ngay. Thị thấy Đặng Bách Xuyên đã lảo đảo, không ngờ y công lực thâm hậu còn đủ sức đánh ra một chưởng, toan né tránh thì đã không kịp nữa. Một luồng kinh lực nghiêng non dốc biển xô đến khiến cho thị nghẹt thở, nghe tiếng răng rắc dường như đã gãy mấy cái xương sườn. Thị lập tức bất tỉnh, không tự chủ được, ngã lăn ra. Đặng Bách Xuyên cũng thấy choáng váng rồi ngã xuống.

Mỗi bên đều mất một người, số còn lại vẫn động thủ đánh nhau. Huyền Nạn nghĩ thầm: “Trong vụ này còn có điều rắc rối. Chỉ còn cách bắt hết đối phương thì hai bên mới khỏi có người mất mạng.” Nhà sư nghĩ vậy liền gọi đồ đệ phái Thiếu Lâm: “Lấy thiền trượng cho ta!”

Tuệ Kính vội lại bên cửa, cầm cây thiền trượng trao qua. Gã thư sinh sử phán quan bút nhảy xổ đến phóng bút đâm vào ngực Huyền Nạn, nhà sư bàn phóng tả chưởng đánh ra. Tay chưa đến mà chưởng lực đã tới trước, gã thư sinh té ngay xuống đất. Huyền Nạn cười lớn, bước sang bên hai bước, vung trượng đánh vào gã sử bàn cờ.

Gã này thấy thiền trượng chưa đến mà kình phong mãnh liệt đã chụp đến người mình, liền vận hết nội công, cả hai tay đưa bàn cờ lên đỡ. Một tiếng choảng vang lên, lửa tóe ra bốn mặt, gã thấy cánh tay tê nhức, hổ khẩu toạc ra. Huyền Nạn đại sư nhấc mạnh thiền trượng lên, lôi theo cả cái bàn cờ. Nguyên cái bàn cờ này có chất nam châm rất mạnh, trước nay vẫn được sử dụng để hút khí giới địch thủ, ai ngờ hôm nay gặp phải tay kình địch mạnh hơn nhiều, liền bị đoạt mất. Huyền Nạn vung cả thiền trượng lẫn bàn cờ lên, nhắm đầu gã kia chụp xuống. Gã vội kêu: “Tại hạ không đỡ nổi đâu.”, vừa nói vừa chuồn nhanh về phía trước.

Huyền Nạn quát lên: “Tên đồ gàn kia, nằm xuống đi thôi!” Nhà sư nói xong, vung thiền trượng quét ngang cực kỳ mãnh liệt! Gã đồ gàn nói: “Đức Phu Tử thành thánh nhân là vì hiểu được thời cơ, gió thổi cỏ phải lướt theo chiều. Nằm xuống thì nằm, có sao đâu?” Câu nói chưa dứt, người gã đã phục xuống đất rồi. Sáu nhà sư Thiếu Lâm hàng chữ Tuệ liền nhảy xổ lên đè xuống bắt lại.

Thủ tòa Đạt Ma Viện chùa Thiếu Lâm quả nhiên võ công phi thường, vừa xuất thủ đã hạ luôn ba cao thủ đối phương, thế là toàn thắng. Gã sử búa đấu với Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác, phải chống tả đỡ hữu cũng sắp bại trận đến nơi. Gã sử bàn cờ nói: “Hỏng rồi! Lục đệ ơi, chúng ta dừng tay chịu thua thôi!” Rồi gã quay sang hỏi Huyền Nạn: “Đại hòa thượng! Tại hạ xin hỏi ngũ đệ đã phạm lỗi gì mà bị các vị giết chết? Sao các vị lại lấy lửa hiệu để lừa bọn tại hạ đến đây?” Huyền Nạn đáp: “Đâu có…”

Chưa nói xong, bỗng nghe tiếng đàn tình tang từ đằng xa vọng lại. Hai tiếng đàn này nổi lên, mọi người đều thấy trái tim bị kích động nhảy theo hai cái. Huyền Nạn còn đang kinh ngạc thì hai tiếng đàn nữa lại vang lên, lần này đã gần hơn, trái tim mọi người đập loạn lên. Phong Ba Ác cảm thấy nhức đầu khó chịu, tay phải lỏng ra rồi thanh đơn đao rơi xuống đất đánh keng một tiếng. Nếu Bao Bất Đồng không vội vàng cho đỡ cho thì gã đã bị đối phương đập trúng bả vai rồi, Gã đồ gàn hô to: “Đại ca! Đến mau lên! Không được rồi, sao cứ tà tà như thế, lại còn lo đàn địch. Khổng Tử đã dạy rằng: Lệnh vua đã gọi thì không được chậm trễ.”

Tiếng đàn liên tiếp vang lên, một ông già tay áo rộng thùng thình từ từ bước trong rừng ra. Lão này trán cao hầu lộ, nét mặt tươi cười ra vẻ hòa nhã, cốt cách thanh kỳ, tay ôm cây đàn tranh.

Tên đồ gàn cùng cả bọn đồng thanh hô: “Đại ca!”. Lão quay về phía Huyền Nạn chắp tay thi lễ, hỏi: “Đại hòa thượng đây chắc là một vị cao tăng chùa Thiếu Lâm, tiểu lão thật là thất lễ!” Huyền Nạn chắp tay trước ngực đáp: “Bần tăng là Huyền Nạn.” Lão reo lên: “Trời ơi! Đây là Huyền Nạn đại sư ư? Huyền Khổ đại sư là sư huynh hay sư đệ của đại sư? Tiểu lão cùng người đã có duyên hội ngộ mấy lần, thật là ý hợp tâm đầu. Lâu nay người vẫn mạnh khỏe chứ?” Huyền Nạn buồn rầu nói: “Huyền Khổ là sư huynh bần tăng, chẳng may gặp phải nghịch đồ ám toán nên đã viên tịch rồi.”

Lão kia nghe tin, thộn mặt ra một lúc rồi đột nhiên nhảy vọt lên cao hơn một trường, lúc còn lơ lửng trên không đã cất tiếng khóc rống lên nghe rất bi ai. Huyền Nạn cùng bọn Công Dã Càn đều giật mình, không ngờ lão đã già mà lại khóc lóc thảm thiết hệt như trẻ nít. Người lão vừa chấm đất liền ngồi chệch xuống, nắm lấy râu mà giật mạnh, giậm chân xuống đất thình thịch như đánh trống. Lão khóc kể om sòm: “Huyền Khổ lão huynh ơi! Sao lão huynh chẳng dặn dò tiểu đệ một câu nào đã bỏ đi ngay? Khúc Phạn Âm Phổ Tấu của tiểu đệ đã có biết bao nhiêu người nghe mà chẳng ai hiểu gì ráo, chỉ mình lão huynh biết trong khúc đó bao hàm ý tưởng nhà Phật, có thể khiến cho công lực tinh tiến thêm lên, lão huynh nghe đi nghe lại mà không biết chán. Cái ông Huyền Nạn đây chưa chắc đã có ngộ tính được như huynh, tiểu đệ e rằng tấu khúc này cho ông ta nghe thì chẳng khác gì đàn gảy tai trâu! Hỡi ơi! Trâu thì nghe đàn sao được, gảy làm gì cho uổng công? Vận số tiểu đệ sao mà xui xẻo đến nước này?”

Ban đầu Huyền Nạn nghe khóc lóc cũng tưởng lão là người chí tình với Huyền Khổ, vì xót thương mà bật tiếng kêu gào, nhưng nghe một hồi mới rõ là không phải thế. Lão khóc đây là sợ trên đời không có tri âm, sau cùng lại bảo đánh đàn cho mình nghe chẳng khác gì đàn gảy tai trâu. Huyền Nạn là một bậc cao tăng đắc đạo, tuy nghe lão già khóc kể có ý coi thường mình, nhưng không tức giận, mà chỉ mỉm cười nghĩ thầm: “Bọn này ai cũng dở điên dở dại, chẳng nên lý luận với họ làm gì. Nội lực lão này thâm hậu hơn người, song tính khí có lẽ còn gàn dở hơn mấy tên huynh đệ. Chẳng trách người ta thường nói ngưu tầm ngưu mã tầm mã.”

Lão kia lại vừa khóc vừa nói: “Huyền Khổ lão huynh ơi! Tiểu đệ đã khổ tâm sáng tác ra khúc nhạc Nhất Vi Ngâm tặng lão huynh để đáp ơn tri ngộ. Khúc nhạc này tuyên dương công đức Đạt Ma Lão Tổ đã thả bè lau qua sông lập nên chùa Thiếu Lâm, Sao sư huynh chẳng sống mà nghe?” Đột nhiên lão quay lại nhìn Huyền Nạn hỏi: “Huyền Khổ lão huynh an táng ở đâu? Đại sư dẫn tại hạ đến đó lẹ lên, càng lẹ càng tốt! Tại hạ sẽ gảy khúc đàn này cho y nghe, không chừng nghe xong có thể khích động tâm thần mà sống lại!”

Huyền Nạn đáp: “Thí chủ sao lại hồ đồ đến thế? Di thể của sư huynh bần tăng đã đem hỏa táng thành nắm tro tàn, làm gì có mộ phần?”

Lão kia đứng thộn mặt ra một lúc rồi đột nhiên vừa nhảy vừa reo mừng, la lên: “Tuyệt diệu! Tuyệt diệu! Đại sư đưa tại hạ đi lấy một nắm tro của Huyền Khổ lão huynh, tại hạ sẽ dùng keo dán vào đáy cây đàn. Từ đây trở đi, mỗi khi tại hạ tấu nhạc là y lại được nghe. Đại sư xem thế có tuyệt diệu không? Ha ha! Sáng kiến của tại hạ thật là tuyệt vời!” Lão càng nói càng cao hứng, rồi vỗ tay cười rộ như người điên, đột nhiên trông thấy thiếu phụ xinh đẹp đang nằm dưới đất thì thất kinh hỏi: “Ôi chao! Thất muội làm sao thế? Ai đã đả thương thất muội?”

Huyền Nạn nói: “Vụ này bên trong có chỗ hiểu lầm, may mà có lão thí chủ đến đây!” Lão kia hỏi: “Hiểu lầm cái gì? Ai hiểu lầm mà đánh thất muội bị thương vẫn là kẻ chẳng ra gì. Chao ôi! Bát đệ cũng bị thương ư? Kẻ đánh bát đệ bị thương tất không phải là người tốt. Ai là thủ phạm hãy báo danh đi, ta lấy lẽ công bằng phân xử thì không kêu ca vào đâu được nữa!”

Tên kép hát lại gọi: “Đại ca! Bọn chúng đã đánh chết ngũ ca rồi, đại ca mau mau ra tay báo thù.” Lão cầm đàn biến sắc mặt, la lên: “Chuyện này không hợp lý chút nào. Lão ngũ là Diêm Vương Địch, Diêm Vương còn chưa làm gì được, ai hại y nổi?” Huyền Nạn đáp: “Tiết Thần Y chỉ trá tử thôi. Trong quan tài chỉ có thuốc độc, không có thi thể.” Lão cầm đàn và cả bọn cả mừng nhao nhao hỏi lại: “Sao lão ngũ lại giả chết?” “Thi thể hiện để ở đâu?” “Lão ngũ không chết thì sao lại có thi thể?”

Đột nhiên từ xa có tiếng gọi nho nhỏ vọng đến: “Tiết Mộ Hoa! Tiết Mộ Hoa! Sư thúc ngươi đã đến rồi, mau ra đây nghênh tiếp.” Thanh âm này như có như không, khoảng cách rất xa mà lại nghe rất rõ, dĩ nhiên phải do người có nội công cực kỳ thâm hậu phát ra.

Tên kép hát, gã đồ gàn, người thợ mộc đồng thanh la lên một tiếng đầy vẻ kinh hãi. Lão cầm đàn cũng hô lớn: “Đại họa! Đại họa!” Lão hốt hoảng nhìn tả nhìn hữu, vẻ mặt cực kỳ sợ hãi, giục luôn miệng: “Phải trốn mau kẻo không kịp! Toàn thể quý vị vào nhà đi! Lẹ lên! Lẹ lên!”

Bao Bất Đồng vốn ưa tranh luận, thấy lão già sợ run cả giọng, liền lớn tiếng hỏi: “Cái gì mà đại họa? Trời sập hay sao?” Lão già vẫn hối hả giục: “Lẹ lên! Lẹ lên! Vào nhà đi!” Bao Bất Đồng nói: “Lão tiên sinh cứ tùy tiện. Bao Bất Đồng này không vào đâu.”

Đột nhiên lão già vươn tay ra nắm trúng huyệt đạo trước ngực Bao Bất Đồng. Lão xuất thủ mau lẹ vô cùng, Bao Bất Đồng lại không đề phòng nên bị kiềm chế ngay. Lão nhấc Bao Bất Đồng bổng cả hai chân lên khỏi mặt đất, cứ thế chạy qua cổng lớn vào nhà.

Huyền Nạn cùng Công Dã Càn đều kinh ngạc toan lên tiếng hỏi, thì gã đứng tuổi cầm bàn cờ khẽ nói: “Đại sư phụ cùng mọi người vào nhà lẹ lên, trong chớp mắt lão đại ma đầu cực kỳ lợi hại sẽ đến đây.” Huyền Nạn tiếng tăm lừng lẫy giang hồ, trong võ lâm ít có đối thủ, chẳng sợ gì đại ma đầu với tiểu ma đầu, liền hỏi lại: “Đại ma đầu nào vậy? Kiều Phong phải không?” Gã này lắc đầu đáp: “Không phải! Không phải! Lão này còn lợi hại gấp mấy Kiều Phong, chính là Tinh Tú Lão Quái!” Huyền Nạn đáp: “Tưởng ai chứ Tinh Tú Lão Quái thì tốt quá, lão tăng đang muốn tìm y đây!” Gã nói: “Võ công của đại sư cao cường dĩ nhiên chẳng sợ gì y, nhưng mấy người ở đây chắc sẽ bị y ám toán chết hết, chỉ một mình đại sư là sống được. Như vậy mới thật từ bi!”

Gã nói mấy câu châm chọc này quả nhiên có công hiệu, Huyền Nạn nghe liền nghĩ bụng: “Nói có lý lắm!”, liền gật đầu: “Được rồi! Vậy thì chúng ta vào nhà thôi.”

Lúc này lão cầm đàn đã xách Bao Bất Đồng bỏ vào trong nhà, lại chạy ra giục luôn miệng: “Lẹ lên! Lẹ lên! Còn đợi gì nữa?” Lão đưa mắt nhìn thấy Phong Ba Ác có vẻ bướng bỉnh nhất, liền xoay tay trái quét ngang cổ gã.

Lúc này khi hàn độc trong người Phong Ba Ác lại bắt đầu phát tác, càng khó chống trả. Gã trông thấy tay lão quét tới, vội vàng cúi đầu xuống né tránh, không ngờ bàn tay đột nhiên vòng về bên hữu rồi chụp xuống nắm được gáy mình. Lão xách Phong Ba Ác như xách con gà chạy như bay vào nhà, miệng không ngớt giục: “Lẹ lên! Vào nhà đi!”. Công Dã Càn thấy lão này tuy không có ác ý mà chỉ một chiêu đã kiềm chế được hai người huynh đệ của mình, liền kinh hãi la lên toan động thủ, nhưng thân pháp lão già như mây như khói, nháy mắt đã bay tuốt vào nhà. Lúc đó tên thư sinh thì ôm gã kép hát, người thợ mộc thì ôm thiếu phụ xinh đẹp, tất cả chạy hết vào trong.

Huyền Nạn cũng cho rằng mọi việc đều rất kỳ dị, chưa thấy chút manh mối nào. Đại sư không dám manh động làm rối thêm, liền bảo Công Dã Càn: “Công Dã thí chủ! Chúng ta hãy vào nhà rồi sẽ bàn định kế hoạch.”

Hư Trúc cùng Tuệ Phương khiêng thi thể Huyền Thống, Công Dã Càn thì ẵm Đặng Bách Xuyên chạy lẹ vào nhà.

Lão cầm đàn lại chạy ra lần nữa để thúc giục, thấy mọi người đã chạy vào hết rồi liền đóng sập cửa lại, toan đóng cổng cài then. Gã sử bàn cờ nói: “Đại ca! Ta cứ để ngỏ cổng hay hơn. Bên địch chưa rõ thực hư, có khi không dám ngang nhiên sấn vào.” Lão kia đáp: “Cũng được, ta nghe lời ngươi”, giọng nói không có vẻ tự tin chút nào.

Huyền Nạn cùng Công Dã Càn nhìn nhau, đều tự hỏi: “Lão này võ công cao cường mà sao lâm sự lại hoang mang như vậy, chẳng bình tĩnh để xét đoán. Cái cửa mỏng manh này không ngăn được cả bọn đạo tặc tầm thường, đối với lão ma đầu như Tinh Tú Lão Quái, thì đóng cửa có ăn thua gì? Chắc là lão giống như kinh cung chi tiểu, được tin Tinh Tú Lão Quái đến gần là hồn vía bay mất hết.”

Bỗng nghe lão gảy đàn giục luôn miệng: “Lục đệ! Lục đệ tính sao đây?”

Huyền Nạn tuy là một vị cao tăng đắc đạo cực kỳ trầm tĩnh, nhưng thấy lão kinh hãi quá cũng không khỏi bực mình, bèn lên tiếng: “Lão thí chủ! Người ta thường nói, nước chảy thì đất lấp, quân đến thì tướng ngăn. Tinh Tú Lão Quái có lợi hại đến đâu, tất cả chúng ta hợp sức lại vị tất đã thua hắn. Sao lão thí chủ lại hoang mang mà… lo xa đến thế?”.

Lúc này trên khách sảnh đã thắp đèn. Huyền Nạn đưa mắt nhìn thì chẳng những lão gảy đàn sợ sệt mà cả đến gã sử bàn cờ, gã đồ gàn, gã cầm phán quan bút cũng run lên bần bật. Huyền Nạn đã mục kích bọn này động thủ, biết bản lĩnh họ không phải tầm thường, mà lại dở điên dở dại, bất luận việc gì cũng có thể cho là trò tiêu khiển. Thế mà lúc này cả bọn hoang mang lo lắng, chẳng khác những người vô dụng tầm thường.

Bỗng nhiên gã thợ mộc gật gật đầu, lấy trong bọc ra một cái thước. Mọi người để ý xem gã làm gì, thì thấy gã đo bốn góc đại sảnh. Gã tung người nhảy lên đo cả xà nhà, rồi lại lắc đầu nhảy xuống. Gã chạy vào nhà trong đến trước cỗ quan tài giả của Tiết Thần Y, đưa mắt nhìn mấy lần rồi nói: “Đáng tiếc! Thực là đáng tiếc!” Lão gảy đàn hỏi: “Không… không dùng được ư?” Gã sử búa đáp: “Không được rồi, nhất định sư thúc sẽ nhận ra.” Lão gảy đàn tức mình nói: “Ngươi… ngươi còn gọi y là sư thúc ư?” Gã sử búa lắc đầu rồi không nói gì nữa, lại đi ra phía sau nhà.

Công Dã Càn lẩm bẩm: “Thằng cha này lắc đầu mãi, hình như không biết làm gì nữa.”

Gã sử búa lại đo góc tường phía sau, rồi vừa đi vừa đếm bước chân, tựa hồ đang tính toán để xây nhà cửa phòng ốc. Gã cầm cây nến ra sân sau, ngưng thần suy nghĩ rồi đi vào dãy hành lang có đặt năm cái cối đá, trầm ngâm một lúc đặt cây nến xuống đất, đến cái cối thứ hai bên trái. Gã lấy một ít trấu và mấy nắm đất bỏ vào trong cối đá, cầm cái chày đá lớn ở bên cạnh mà giã nghe thình thịch. Cái chày đá này rất nặng, mỗi lần giáng xuống sức mạnh vô cùng.

Công Dã Càn khẽ thở dài một tiếng, nghĩ thầm: “Chuyến này mình thật xúi quẩy, gặp phải bọn điên rồ. Lúc này chúng còn đi giã gạo được mới kỳ. Nếu quả trong cối có gạo thì chẳng nói làm chi nhưng mình thấy rõ ràng họ bỏ trấu cùng đất vào cối giã chơi! Hỡi ơi!” Bao Bất Đồng cùng Phong Ba Ác đang lúc hàn độc trong người dịu xuống, cũng chạy ra vườn sau.

Những tiếng chày giã bình bịch vang lên không ngớt. Bao Bất Đồng nói: “Lão huynh đang giã gạo để nấu cơm ăn phải không? Lúc này đâu có gạo để giã? Ta xem chừng trước tiên chúng ta phải đi cày bừa rồi xuống giống, đợi nảy mầm ra mạ rồi mới nhổ đi cấy…” Gã đang hứng chí thao thao bất tuyệt thì đột nhiên cách chừng bảy tám trượng về hướng đông nam bỗng có tiếng lách cách khe khẽ nhưng nghe rất rõ. Bọn Huyền Nạn và Công Dã Càn đưa mắt nhìn, chỉ thấy chỗ đó có trồng bốn cây quế.

Bình bình, gã sử búa giã thêm hai chày nữa. Thật là kỳ lạ, cây quế thứ nhì ở mé đông bỗng lung lay cành lá, hình như bắt đầu nhích ra ngoài. Một lúc nữa mọi người đều nhìn rõ, thì ra cứ mỗi chày nên xuống cối thì cây quế lại xê dịch một tấc hay nửa tấc. Lão cầm đàn cất tiếng hoan hô rồi chạy về phía cây quế, khẽ nói: “Đúng rồi! Đúng rồi!”. Mọi người cũng đi theo, thì thấy chỗ cây quế dời đi, lộ ra một phiến đá lớn. Trên phiến đá này có một cái vòng sắt để cầm.

Công Dã Càn vừa kinh ngạc vừa thán phục, tự thấy xấu hổ. Y nói: “Cơ quan ở dưới đất này được an bài tuyệt diệu khó mà lường được. Thế mà vị huynh đài này chỉ trong khoảnh khắc đã phát giác ra, quả là thông minh tài trí chẳng kém gì người đã bố trí ra cơ quan này.” Bao Bất Đồng cãi: “Sai bét, sai bét! Sao nhị ca biết không phải là y đã bố trí cơ quan?” Công Dã Càn cười đáp: “Ta nói tài trí của y không kém người bố trí, nếu chính là y bố trí thì tài trí của y không kém chính y, có gì là sai đâu?” Bao Bất Đồng đáp: “Sai bét, sai bét! Không kém tức là có hơn, tài trí của y sao lại hơn cả chính y được?”

Gã sử búa giã thêm mười mấy chày nữa thì cả phiến đá hoàn toàn lộ ra. Lão gảy đàn nắm lấy vòng sắt kéo mạnh lên, nhưng không nhúc nhích được tí nào. Lão toan vận hết nội lực để kéo nữa, bỗng gã sử búa la lên: “Đại ca! Dừng tay!” Gã tung người nhảy đến cạnh một chiếc cối đá khác, vạch quần ra tiểu tiện vào trong, miệng hô lớn: “Các vị mau lại đi tiểu vào đây!” Lão gảy đàn kinh ngạc, vội bỏ ngay vòng sắt ra chạy đến. Trong chớp mắt, gã sử bàn cờ, gã đồ gàn, gã sử phán quan bút cũng theo gương lão gảy đàn cùng gã sử búa tiểu tiện vào trong cối đá.

Nếu ở vào hoàn cảnh khác mà bọn Công Dã Càn thấy năm người này hành động như lũ điên rồ, thì tất nhiên không thể nhịn cười được, nhưng trong khoảnh khắc, mọi người đều ngửi thấy mùi thuốc súng xông lên. Gã sử búa mừng rỡ nói: “Hay lắm! Không có gì nguy hiểm nữa!” Lão gảy đàn tiểu tiện dai hơn cả, mãi vẫn chưa hết nước, miệng vẫn nói lảm nhảm: “Suýt chết! Thế là phá xong một cơ quan. Lục đệ! Nếu lục đệ tính chậm một chút thì hết thảy chúng ta đều bị nổ nát ra như cám.”

Bọn Công Dã Càn cũng sợ đến run người. Vừa ngửi thấy mùi thuốc súng khét lẹt, ai cũng hiểu rằng vừa thoát khỏi đại nạn. Hiển nhiên dưới vòng sắt đã bố trí các thứ hỏa đao, hỏa thạch, ngòi nổ cùng thuốc nổ. Ban nãy ngòi đã cháy lên, chỉ chốc lát là thuốc súng sẽ nổ tung. May mà gã sử búa nhanh trí huy động mọi người đi tiểu làm ướt ngòi nổ nên mới thoát khỏi tai kiếp.

Lại thấy gã sử búa đi tới cái cối đá đầu tiên ở bên phải, vận nội lực xoay cái cối sang phải ba vòng. Gã ngẩng mặt nhìn trời, miệng lẩm bẩm tính toán một lúc, rồi xoay chầm chậm cái cối sang trái nửa vòng, bỗng nghe thấy những tiếng lách cách, một tảng đá lớn trụt xuống để lộ ra một cửa động. Lần này lão gảy đàn không dám hấp tấp, nhìn gã sử búa vẫy tay ra hiệu dẫn đường. Gã sử búa quì xuống đất, để ý quan sát cái cối đá ở bên trái.

Đột nhiên trong lòng đất vọng lên tiếng người thóa mạ: “Con mẹ đồ cẩu tặc Tinh Tú Lão Quái! Mi thật là lợi hại mới tìm thấy ta. Mi độc ác đã quen, tất nhiên sẽ có ngày chịu quả báo. Vào đây! Vào đây giết ta đi!”

Huyền Nạn nghe rõ thanh âm Tiết Thần Y thì mừng thầm trong bụng. Bỗng nghe lão gảy đàn gọi: “Ngũ đệ! Chúng ta đến cả rồi!” Thanh âm trong lòng đất ngưng một lát, rồi hỏi lại: “Có thật đại ca đó chăng?” Lão gảy đàn đáp: “Nếu không có lục đệ thì không tài nào mở được cơ quan này.”

Bỗng nghe vèo một tiếng, một người nhảy vọt từ trong thạch động ra, chính là Diêm Vương Địch Tiết Thần Y.

Tiết Thần Y không ngờ ngoài lão gảy đàn cùng mấy huynh đệ kết nghĩa lại còn vô số người ngoài, không khỏi giật mình. Lão nhìn Huyền Nạn hỏi: “Đại sư! Đại sư đã đến đấy ư? Mấy vị này là bằng hữu cả đấy chứ?”

Huyền Nạn ngần ngừ một lát rồi đáp: “Phải rồi, là bằng hữu cả.” Thật ra chùa Thiếu Lâm vốn nhận định rằng Huyền Bi đại sư chết về tay họ Mộ Dung ở Cô Tô, vậy thì nhà Mộ Dung đều là cừu địch. Nhưng lần này nhà sư đi với bọn Đặng Bách Xuyên đến đây để xin chữa thuốc, dọc đường Đặng Bách Xuyên và Công Dã Càn đã hết sức trần tình rằng Huyền Bi đại sư quyết không phải bị Mộ Dung công tử hạ sát, Huyền Nạn đại sư đã tin đến sáu bảy phần. Hơn nữa, chuyến này bọn họ cùng gặp tai nạn với mình, là bạn cùng hội cùng thuyền, nên nhà sư nhìn nhận bọn Đặng Bách Xuyên cũng là bằng hữu. Công Dã Càn nghe Huyền Nạn nói vậy thì không nói gì, chỉ nhìn nhà sư gật đầu tỏ ý đồng tình.

Tiết Thần Y nói: “Các vị đều là bằng hữu thì tốt rồi, xuống đây cả đi. Mời Huyền Nạn đại sư đi trước!” Tuy nói vậy nhưng y tiến vào trong hầm trước tiên. Nên biết rằng đường hầm tối mò này có vẻ nguy hiểm, người trên chốn giang hồ lại xảo trá khôn lường, chẳng ai tin được ai, chủ nhân tự vào trước mới đúng phép lịch sự.

Tiết Thần Y vào rồi, Huyền Nạn không ngần ngại gì xuống theo, rồi mọi người cũng lục tục theo sau, cả thi hài Huyền Thống đại sư cũng được khiêng xuống hầm. Tiết Thần Y bấm nút cơ quan, phiến đá đóng lại. Y còn chuyển động cơ quan cho mấy cây quế đã dời ra chỗ khác lại chuyển về chỗ cũ ngay trên phiến đá.

Bên trong là một đường hầm mới đào, mọi người phải cúi lom khom mới khỏi đụng đầu. Một lát sau, đường hầm cao lên dần dần rồi tới địa đạo thiên nhiên, chừng hai mươi trượng nữa thì đến một thạch động rộng rãi. Trong góc thạch động đã có hơn hai mươi người ngồi bên ánh lửa, đủ cả nam phụ lão ấu. Những người này nghe tiếng bước chân đều ngoảnh mặt nhìn ra.

Tiết Thần Y giới thiệu: “Đây là gia quyến tại hạ, trong lúc nguy hiểm không ai dám ra ngoài bái kiến. Đại ca! Nhị ca! Các vị đến có việc chi?” Y vẫn giữ bản sắc đại phu, không chờ lão gảy đàn đáp lời, đã lại xem thương thế mọi người. Đầu tiên Tiết Thần Y coi Huyền Thống đại sư rồi nói: “Vị đại sư này giác ngộ mà viên tịch, thật là một việc đáng cung hỉ!” Y xem tới Đặng Bách Xuyên bèn mỉm cười: “Y hít phải phấn hương của Thất muội tại hạ nên say té lăn ra, nhưng chỉ chốc lát là tỉnh lại chứ không có chất độc gì cả.” Thiếu phụ xinh đẹp cùng gã kép hát đều bị ngoại thương trầm trọng, nhưng Tiết Thần Y xem xong cũng cho là tầm thường. Y tới bắt mạch Bao Bất Đồng cùng Phong Ba Ác, nhắm mắt lại trầm ngâm suy nghĩ.

Một lúc sau Tiết Thần Y lắc đầu mà nói: “Kỳ lạ thật! Ai đã đả thương hai vị huynh đệ này?” Công Dã Càn đáp: “Đó là một thiếu niên hình dung rất cổ quái.” Tiết Thần Y lại lắc đầu nói: “Thiếu niên ư? Võ Công người này kiêm cả sở trường của hai phái chính tà, nội lực lại càng thâm hậu, rèn luyện ba mươi năm chưa chắc đã được thế. Sao lại là thiếu niên được?” Huyền Nạn nói: “Đúng là một thiếu niên, nhưng gã này cực kỳ lợi hại. Huyền Thống sư đệ của lão nạp chỉ đối một chưởng với gã là bại ngay, lại bị hàn độc hành hạ cực kỳ khổ sở. Gã chính là đồ đệ của Tinh Tú Lão Quái.”

Tiết Thần Y kinh ngạc nói: “Đồ đệ của Tinh Tú Lão Quái lợi hại đến thế sao?”. Lão lắc đầu nói tiếp: “Thật là xấu hổ. Tại hạ thật không biết làm sao chữa trị hàn độc cho hai vị huynh đài này. Hai chữ Thần Y từ nay về sau không dám nhận nữa.”

Bỗng một giọng nói vang lên, dội như tiếng chuông: “Tiết tiên sinh! Nếu vậy thì chúng tôi xin cáo từ thôi!” Người nói chính là Đặng Bách Xuyên. Y bị trúng phấn hoa, chỉ mê man một lúc, bây giờ đã tỉnh lại, vừa kịp nghe câu nói sau của Tiết Thần Y. Bao Bất Đồng tiếp lời: “Phải rồi! Chui rúc ở dưới hầm làm quái gì nữa? Đại trượng phu phải coi sinh tử là hữu mạng, sao lại bắt chước loài rùa loài chuột mà nấp trong hang trong hốc?”

Tiết Thần Y cười nhạt nói: “Thí chủ nói chuyện lớn lối quá. Có biết ai đang ở trên kia không?” Phong Ba Ác đáp thay: “Các vị sợ Tinh Tú Lão Quái, chứ tại hạ không sợ lão đâu. Bản lĩnh cao cường như các vị thật là uổng, mới nghe cái tên Tinh Tú Lão Quái đã bay mất cả hồn vía!” Lão cầm đàn nói: “Ngươi đánh còn chưa thắng nổi ta. Tinh Tú Lão Quái là sư thúc ta đó, ngươi nói thử xem lão có lợi hại hay không?”

Huyền Nạn không muốn hai bên cãi nhau làm mất hòa khí, bèn chuyển đề tài, hỏi: “Hôm nay lão nạp được mắt thấy tai nghe nhiều điều chưa hiểu, rất muốn thỉnh giáo.”

Tiết Thần Y nói: “Bọn huynh đệ chúng tôi có tám người, gọi đùa là Hàm Cốc Bát Hữu.” Y trỏ lão gẩy đàn nói tiếp: “Vị này là đại sư huynh, tại hạ đứng hàng thứ năm nên gọi là lão Ngũ. Còn những điều khác thì câu chuyện quá dài, lại không tiện nói với người ngoài. Mong các vị…”

Y đang nói dở câu, bỗng nhiên có thanh âm rất nhỏ vẳng vào: “Tiết Mộ Hoa! Sao ngươi không ra yết kiến ta?”

Tiếng nói rất nhỏ, thấp thoáng như có như không, nhưng người trong động đều nghe rõ mồn một. Thanh âm này tưởng chừng như một sợi chỉ nhỏ li ti xỏ qua lớp đất dày mười trượng, hoặc luồn theo đường hầm quanh co mà chui vào tai mọi người.

Lão gảy đàn la lên một tiếng: “Ôi chao!” rồi nhảy chồm chồm lên nói: “Đúng là Tinh Tú Lão Quái rồi.” Phong Ba Ác cũng đứng phắt dậy lớn tiếng nói: “Đại ca! Nhị ca! Tam ca! Chúng ta quyết một trận tử chiến với hắn đi!” Lão gảy đàn vội can: “Không được! Không được! Ngươi mà xông ra thì toi mạng một tên thất phu cũng chẳng có chi đáng kể, nhưng làm tiết lộ bí mật thạch thất này thì mấy chục người ở đây cũng bị chết lây hay sao?” Bao Bất Đồng cãi lại: “Ngươi đúng là con rùa rút đầu rút cổ. Thanh âm của hắn đã lọt vào được, lẽ nào hắn không biết chỗ này hay sao? Thế nào hắn cũng tìm tới nơi, muốn trốn cũng không được đâu!” Lão gảy đàn nói: “Y có tìm ra thì sau ba khắc hay một giờ chưa chắc đã vào được, Mình lợi dụng thời gian để bày kế hoạch thì hơn.”

Gã sử búa im lặng nãy giờ, bây giờ mới lên tiếng: “Tuy sư thúc bản lĩnh cao cường, nhưng muốn khám phá cơ quan dưới hầm này ít ra cũng mất hai giờ, lại phải tìm phương pháp tối ưu mất thêm hai giờ nữa.” Lão gảy đàn hỏi: “Theo hiền tệ thì chúng ta còn được bốn giờ nữa phải không?” Gã sử búa đáp: “Còn được bốn giờ rưỡi.” Lão gảy đàn lại hỏi: “Nửa giờ ở đâu ra?” Gã sử búa đáp: “Trong vòng bốn giờ, chúng ta bố trí được thêm ba cơ quan, ngăn trở đối phương được nửa giờ nữa.”

Lão gảy đàn nói: “Tốt lắm! Huyền Nạn đại sư! Khi lão đại ma đầu tới đây, bọn huynh đệ tại hạ khó lòng thoát khỏi độc thủ, còn các vị là người ngoài thì không lo lắm, vì lão chỉ chuyên tâm đối phó với bọn tại hạ thôi. Các vị có rất nhiều hy vọng trốn được, nên nhớ là đừng có bày đặt anh hùng hảo hán đánh nhau với lão. Ai đã gặp phải Tinh Tú Lão Quái mà toàn mạng trốn thoát, là anh hùng hảo hán lắm rồi!”

Bao Bất Đồng tự nhiên la lên: “Thối quá! Thối quá!” Mọi người đều hít mạnh mà chẳng thấy hôi thối gì, đều lộ vẻ nghi ngờ, nhìn Bao Bất Đồng chòng chọc. Bao Bất Đồng trỏ lão gảy đàn nói: “Lão này rắm thối quá, không ngửi được.” Y nghe lão gảy đàn nói, trong lòng rất tức tối. Bản tính y quật cường không biết sợ trời sợ đất là gì, nhưng cũng biết bản lĩnh lão này giỏi hơn nhiều, đánh không lại. Bây giờ y vớ được cơ hội liền chửi đổng.

Gã sử bàn cờ liếc xéo Bao Bất Đồng nói: “Ngươi không thoát khỏi bàn tay đại sư huynh ta, còn nói gì đến chuyện đối phó với sư thúc ta? Bản lĩnh lão còn gấp mười đại sư huynh ta. Vậy thì ai rắm thối?” Bao Bất Đồng đáp ngay: “Sai bét, sai bét: Võ công cao thấp không có liên hệ gì đến rằm thối hay không. Người có võ công cao cường chẳng lẽ lại không đánh rắm? Người không đánh rắm thì đã chắc đâu có võ công cao cường? Khổng Phu Tử không biết võ công, chẳng lẽ lão nhân gia cả đời không đánh rắm hay sao?…”

Đặng Bách Xuyên nghĩ thầm: “Người này nói rất có lý, mà Bao tam đệ cứ cãi bướng hoài làm mất thời giờ quý báu.” Y liền xen vào: “Bọn tại hạ chưa được nghe qua lai lịch các vị nên vừa rồi có sự hiểu lầm, làm bị thương nương tử đây, tại hạ rất áy náy. Bây giờ chúng ta như người một nhà, lát nữa cường địch vào đây thì bọn thủ hạ Cô Tô Mộ Dung chúng tôi quyết không chịu trốn tránh. Nếu cường địch ghê gớm quá thì mình cùng chết với nhau là xong.”

Huyền Nạn gọi: “Tuệ Kính, Hư Trúc! Nếu có cơ hội thì các ngươi phải ráng mà trốn thoát chạy về chùa Thiếu Lâm báo cho phương trượng sư bá, đừng để cho loài yêu quái giết sạch, không có người đưa tin về chùa.” Sáu nhà sư chắp tay bẩm: “Bọn tiểu điệt xin tuân pháp chỉ của sư bá.” Tiết Mộ Hoa cùng bọn Đặng Bách Xuyên nghe Huyền Nạn nói đều biết nhà sư đã quyết liều chết chống lại Tinh Tú lão ma, còn có chống nổi hay không thì trong lòng không tin tưởng chút nào.

Lão gảy đàn ngẩn ngơ một hồi đột nhiên vỗ tay cười nói: “Mọi người đều muốn chết thì ta còn thương tâm gì nữa? Hỡi ôi! Người ta thường bảo Khang Quảng Lăng là gàn dở. Trước nay ta vẫn bực tức, nhưng bây giờ mới thấy mình gàn dở thật.” Bao Bất Đồng nói: “Ngươi đúng là đồ gàn dở, đồ điên khùng, đồ ngu xuẩn!” Lão gảy đàn tức Khang Quảng Lăng cả giận nói: “Ta gàn cũng chưa bằng ngươi.” Bao Bất Đồng cãi: “Ngươi gàn gấp mười ta.” Khang Quảng Lăng quắc mắt lên nói: “Ngươi gàn gấp vạn ta.” Bao Bất Đồng không chịu thua, cũng lớn tiếng: “Ngươi gàn gấp mười vạn lần, trăm vạn lần, ngàn vạn lần, vạn vạn lần ta!”

Tiết Mộ Hoa nói: “Hai vị đừng cãi nhau một cách vô vị nữa. Các vị sư huynh về chùa Thiếu Lâm, giả tỉ phương trượng đại sư có hỏi đến tiền nhân hậu quả thì e rằng không biết trả lời. Việc này là một chuyện xấu xa trong môn phái bọn tại hạ, lẽ ra không nên nói với người ngoài. Nhưng việc trừ diệt đại họa cho võ lâm mà không được các cao tăng chùa Thiếu Lâm chủ trương đại cuộc thì khó bề thành công được. Tại hạ xin nói rõ là rất mong hai vị bẩm vụ này riêng với một mình phương trượng quý tự, đừng tiết lộ cho người khác biết.”

Tuệ Kính, Hư Trúc đồng thanh nói: “Những lời Tiết Thần Y đã dặn, bọn tiểu tăng nhất định vâng theo, khi về chùa chỉ bẩm cáo với phương trượng, quyết không nói lộ nửa câu với người khác.”

Tiết Mộ Hoa quay sang Khang Quảng Lăng hỏi: “Đại sư huynh! Tiểu đệ xin được phép nói rõ nguyên ủy bên trong mọi chuyện.”

Trong đám sư huynh đệ này thì Khang Quảng Lăng là đại sư huynh, võ công cũng vượt xa bọn sư đệ. Nhưng lão là người đầu óc thô sơ, Tiết Mộ Hoa hỏi lão một câu chẳng qua không muốn lão bẽ mặt trước người ngoài mà thôi. Khang Quảng Lăng đáp: “Kỳ lạ chưa! Miệng ngươi dính vào đầu ngươi, ngươi muốn nói gì thì nói chứ hỏi ta làm gì?”.

Tiết Mộ Hoa nói: “Huyền Nạn đại sư, Đặng lão huynh! Vị ân sư dạy dỗ bọn tại hạ được bằng hữu giang hồ gọi là Thông Biện tiên sinh!…”

Huyền Nạn cùng Đặng Bách Xuyên sửng sốt, đồng thanh hỏi: “Sao?” Nguyên Thông Biện tiên sinh tức là Lung Ác lão nhân (ông già câm điếc), đồ đệ trong môn phái đều bị lão chọc thủng màng nhĩ cho điếc, cắt đầu lưỡi cho câm. Trên chốn giang hồ ai cũng biết rõ, đệ tử lão không có một người nào là không câm điếc. Thế mà bọn Khang Quảng Lăng đều mắt tinh tai thính, nói năng hoạt bát hơn cả người thường, nên mọi người rất lấy làm kỳ!

Tiết Mộ Hoa nói: “Các đệ tử câm điếc dưới trướng gia sư chỉ mới nhập môn trong ba mươi năm nay thôi, còn trước kia gia sư không điếc mà cũng không câm. Chỉ vì gia sư bị sư đệ người là Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu khiêu khích mà biến thành câm điếc.” Bọn Huyền Nạn cùng “A” lên một tiếng. Tiết Mộ Hoa kể tiếp: “Tổ sư tại hạ vốn thu nạp hai đồ đệ: Đại đệ tử họ Tô tên gọi Tinh Hà, chính là gia sư. Nhị đệ tử là Đinh Xuân Thu. Ban đầu võ công cả hai suýt soát nhau, nhưng về sau thì có kẻ hơn người kém.”

Bao Bất Đồng xen vào: “Ha hà! Nhất định lão sư thúc Đinh Xuân Thu của tiên sinh có bản lĩnh giỏi hơn sư phụ tiên sinh rồi, khỏi nói cũng biết.” Tiết Mộ Hoa đáp: “Nói đúng ra thì không phải vậy. Chỉ vì sở học của tổ sư tại hạ thật là bao la bát ngát, bao trùm cả trời đất đến nhân gian…” Bao Bất Đồng lại cắt lời: “Không thấy thì làm sao mà tin được?” Tiết Mộ Hoa biết tính Bao Bất Đồng vốn hay bắt bẻ nên lão không dại gì cãi lý với y, cứ việc kể tiếp: “Ban đầu sư phụ tại hạ cùng Đinh Xuân Thu đều học chuyên về võ công. Nhưng về sau sư phụ tại hạ phân tâm học thêm ngón đàn của tổ sư nữa.”

Bao Bất Đồng nhìn Khang Quảng Lăng nói: “Ha ha! Té ra tiếng đàn của Khang tiên sinh học được ở quỷ môn tà đạo.”

Tiết Mộ Hoa nói: “Giả tỉ sư phụ tại hạ chỉ học thêm âm nhạc thì cũng không đáng ngại lắm. Nhưng tổ sư tại hạ tinh thông đủ thứ cầm kỳ thi họa, y bốc tướng số cùng mọi nghề tạp nhạp, chẳng môn gì không biết, chẳng nghề nào không tinh. Sư phụ tại hạ học đánh đàn chẳng bao lâu lại học thêm đánh cờ, rồi chuyển qua học thư pháp cùng hội họa. Các vị thử nghĩ xem, môn nào mà chẳng hao phí tâm lực cùng thời gian? Đinh Xuân Thu cũng giả vờ học các ngoại môn, nhưng chỉ mười ngày nửa tháng rồi thoái thác là ngu độn không học nổi, chỉ chuyên tâm về võ học mà thôi. Cứ thế tám năm, mười năm, rốt cuộc thời gian càng lâu thì võ công hai vị sư huynh sư đệ càng sai biệt.”

Huyền Nạn đại sư gật đầu nói: “Chỉ môn đánh đàn cùng chơi cờ cũng đã hao tổn đến nửa phần tinh lực của con người, thế mà Thông Biện tiên sinh kiêm thông được bấy nhiêu thứ thì quả là hiếm có. Còn Đinh Xuân Thu nhất tâm chuyên học võ thì bản lĩnh giỏi hơn sư huynh cũng chẳng có chi là lạ.”

Khang Quảng Lăng nói: “Lão ngũ! Còn có một chuyện quan trọng, sao không kể nốt đi?” Tiết Mộ Hoa kể tiếp: “Đinh Xuân Thu chỉ chuyên học võ thì cũng là chuyện tốt, nhưng… Hỡi ôi! Chuyện này thật là vạch áo cho người xem lưng, chẳng tốt đẹp gì cho sư môn. Đại khái là Đinh Xuân Thu còn lén học những thủ đoạn đê hèn của mấy môn phái tà đạo bỉ ổi, rồi đột nhiên quay về đánh tổ sư tại hạ đến trọng thương. Lão cố ý sát hại, song tổ sư tại hạ là một bậc kỳ nhân, dù không kịp để phòng nên ở thế hạ phong nhưng Đinh Xuân Thu muốn hạ sát cũng không phải dễ. Tổ sư bị trọng thương, phải vất vả lắm mới chống đỡ được, may mà sư phụ tại hạ đến kịp thời, nhưng bản lĩnh cũng không bằng lão. Ác chiến hồi lâu sư phụ tại hạ cũng bị thương, còn tổ sư lăn xuống vực thẳm không hiểu sống chết thế nào.” Tiết Mộ Hoa ngừng một lát nén xúc động, lại nói: “Sư phụ tại hạ chểnh mảng võ công vì ham học nhiều môn, nhưng kể ra học rộng cũng không hoàn toàn vô dụng. Gặp lúc nguy nan, lão nhân gia trổ thuật ngũ hành bát quái cùng kỳ môn độn giáp, bày cát đá làm loạn tai mắt Đinh Xuân Thu rồi trốn thoát được.”

Tiết Mộ Hoa ngẫm nghĩ một lát rồi tiếp: “Về sau Đinh Xuân Thu bảo sư phụ tại hạ, nếu không mở miệng nói với ai thì lão sẽ không tìm đến nữa. Hồi đó dưới trướng gia sư có tám người bọn tại hạ là đệ tử chưa thành tài, lão nhân gia bèn viết giấy đuổi chúng tôi ra khỏi môn phái, từ đó giả vờ câm điếc không nghe không nói gì nữa. Về sau hễ gia sư thu nạp đệ tử đều chọc tai cắt lưỡi hết, lập ra một môn phái riêng là Lung Á Môn. Chắc lão nhân gia hối hận đã phân tâm đi học những môn tạp nhạp, đến nỗi võ công không bằng Đinh Xuân Thu. Sau khi câm điếc, dĩ nhiên những môn tạp học đều bỏ hết.”

Tiết Mộ Hoa thở dài rồi kể tiếp: “Bọn sư huynh đệ tại hạ tám người, khi còn thụ nghiệp ân sư thì ngoài việc luyện võ đều học thêm một môn khác. Trước khi Đinh Xuân Thu phản thầy, gia sư chưa thấy cái hại phân tâm học nhiều môn. Người đã không ngăn cấm lại còn khuyến khích, chỉ điểm cho đại sư huynh Khang Quảng Lăng học đánh đàn.”

Tiết Mộ Hoa lại trỏ gã cầm bàn cờ nói: “Nhị sư huynh là Phạm Bách Linh thì học đánh vi kỳ, và đã trở thành kỳ thủ giỏi nhất thiên hạ.” Bao Bất Đồng đảo mắt nhìn Phạm Bách Linh rồi nói: “Chẳng trách tiên sinh dùng bàn cờ làm binh khí, có điều bàn cờ lại đúc bằng thứ thép có chất nam châm chuyên môn hút binh khí của người ta. Như vậy cũng chỉ là khôn vặt, không phải hành vi của bậc chính nhân quân tử.” Phạm Bách Linh cãi: “Nghệ thuật đánh cờ có thế trận đường hoàng, binh tướng hẳn hoi, tuyệt diệu ở chỗ kỳ bí, không cấm kỵ mưu kế.”

Tiết Mộ Hoa cũng nói giúp: “Phạm nhị ca đúc bàn cờ bằng thép có nam châm, nguyên là để chơi cờ. Bất luận là đang đi đường hay nằm ngồi, đột nhiên y nghĩ đến thế cờ nào là có thể bày quân cờ sắt hút chặt vào bàn cờ có nam châm, dù lắc lư mạnh cũng không xê dịch. Về sau y mới thấy dùng bàn cờ làm binh khí, dùng quân cờ làm ám khí lại càng thuận tiện. Thực ra không phải y cố ý đúc bàn cờ nam châm để đè đầu cưỡi cổ người ta.”

Bao Bất Đồng tính tình cổ quái, trong lòng cũng đồng tình nhưng ngoài miệng vẫn bài bác. Y nói: “Thật là biện bác miễn cưỡng, lý lẽ chưa xuôi. Phạm lão nhị bản lĩnh cao cường, nếu dùng bàn cờ gỗ mà ấn quân cờ sắt xuống như khảm sâu vào, thì cũng đâu có rớt ra được?” Tiết Mộ Hoa nói: “Như vậy không tiện bằng bàn nam châm, quân sắt.” Rồi lão lại kể tiếp: “Tam sư huynh tại hạ là Cẩu Độc, tính thích đọc sách, bách gia chư tử đều thuộc lòng. Y thật là một vị túc nho học vấn uyên thâm, tưởng các vị cũng đã biết rồi.”

Bao Bất Đồng nhớ đến cố sự Gia Cát khẩu chiến quần nho ở Đông Ngô, liền châm chọc: “Cái nho của kẻ tiểu nhân có chi là đáng kể?” Cẩu Độc tức giận hỏi: “Sao? Ngươi bảo ta là nho tiểu nhân, chẳng lẽ tự nhận là nho quân tử ư?” Bao Bất Đồng nói: “Tại hạ không dám, không dám đâu.”

Tiết Mộ Hoa sợ hai người này mà cãi lý thì ba ngày ba đêm cũng không xong, liền cắt ngang câu chuyện. Lão trỏ gã sử phán quan bút nói: “Vị này là tứ sư huynh của tại hạ, một tay nho nhã chuyên về hội họa, thích du sơn ngoạn thủy. Y họ Ngô, trước khi nhập môn đã làm đến chức tướng quân tại triều đình Đại Tống, vì vậy mọi người gọi y là Ngô Lãnh Quân.”

Bao Bất Đồng nói: “Chỉ sợ Lãnh Quân đánh đâu thua đấy, còn môn hội họa thì vẽ người chẳng ra người, quỷ chẳng ra quỷ!” Ngô Lãnh Quân đáp: “Vẽ hình quỷ là dễ nhất, chẳng có ai biết dung mạo quỷ sứ ra sao mà chê người vẽ không giống.” Bao Bất Đồng cười ha hả nói: “Lúc nào lão huynh có hứng, thì cứ lấy cái mặt Bao lão tam ta làm mẫu để vẽ. Chỉ cần thêm thắt một tí thì ra hình quỷ ngay, thật là tuyệt diệu!”

Tiết Mộ Hoa nói: “Bao tiên sinh dung mạo anh tuấn, hà tất phải khiêm nhường như vậy? Tại hạ đứng hàng thứ năm, học về nghề thuốc, kể ra cũng có chút hư danh trên chốn giang hồ nên không bao giờ quên ơn sư phụ đã truyền dạy cho mình.”

Bao Bất Đồng lại xen vào: “Cảm mạo phong hàn sơ sơ thì tiên sinh còn chưa được, tại hạ trúng phải hàn độc tiên sinh đành chịu bó tay. Ha ha! Ngoại hiệu Thần Y quả nhiên danh bất hư truyền.”

Khang Quảng Lăng vuốt râu, ngước mắt lên nói: “Lão huynh đây tính tình cổ quái, đặc biệt khác người.” Bao Bất Đồng cười ha hả nói: “Tại hạ họ Bao tên gọi Bất Đồng, dĩ nhiên không giống người khác.” Khang Quảng Lăng cũng cười to hỏi lại: “Tiên sinh có thực tên là Bất Đồng không?” Bao Bất Đồng đáp: “Còn giả được nữa ư? Ái chà! Còn vị lão huynh này chuyên nghề chế tạo cơ quan, chắc hẳn thờ Lỗ Ban làm tiên sư?

Tiết Mộ Hoa nói: “Chính thị! Lục sư đệ tại hạ là Phùng A Tam, xuất thân là thợ mộc, trước khi nhập môn học võ đã là thợ khéo, sau khi theo học gia sư, nghề thợ lại càng khéo thêm. Còn Thất sư muội tại hạ ở họ Thạch, rất tinh vi về hoa cỏ. Bao nhiêu kỳ hoa dị thảo trong thiên hạ nàng đều có thể trồng được tươi tốt.”

Đặng Bách Xuyên nói: “Thạch cô nương dùng được vật làm cho tại hạ té xỉu mà không có chất độc, chắc là lấy ở phấn hoa chứ gì?” Thiếu phụ họ Thạch tên gọi Thanh Lộ rất xinh đẹp, tủm tỉm cười nói: “Mới rồi tiểu nữ đắc tội, mong được Đặng lão gia tha thứ cho.” Đặng Bách Xuyên nói: “Tại hạ là người lỗ mãng, cũng xin cô nương lượng cả bao dung.”

Tiết Mộ Hoa lại trỏ đến tên kép hát mà nói: “Bát đệ tại hạ là Lý Quỷ Lỗi, suốt đời chỉ thích vẽ mặt diễn trò, tính tình dở điên dở dại. Về võ học y không khỏi chểnh mảng. Ôi chao, chỉ trừ bát đệ ra còn bọn sư huynh đệ tại hạ đều được sư phụ dạy cho những môn võ công cả đời luyện cũng không xong, hà tất phải tham lam học rộng những tuyệt chiêu của người khác làm gì. Đến cuối cùng… hừ…”

Lý Quỷ Lỗi đang nằm dưới đất đột nhiên lên tiếng: “Kiêu dũng quần hùng khiếp vía, Tôn Úc chính thị cô vương. Chẳng thích giang sơn chỉ thích điên cuồng, cho phỉ chí con người tuấn kiệt…”

Bao Bất Đồng bắt chước hát theo: “Mỗ đây Tần Thủy Hoàng chính thị, phần thư khanh nho nổi tiếng muôn đời. Các loại nho tiểu nhân để sống làm gì, vào tay trẫm là đem chôn hết.” Gã hát xong, nhìn thư sinh Cẩu Độc cười đắc chí.

Tiết Mộ Hoa nói: “Bọn sư huynh đệ tại hạ tám người tuy bị đuổi khỏi sư môn nhưng không dám quên công ơn sư phụ rèn luyện bấy lâu. Bọn tại hạ tự mệnh danh là Hàm Cốc Bát Hữu để nhớ ngày trước sư phụ truyền nghề tại ải Hàm Cốc. Thiên hạ không biết bọn tại hạ là sư huynh đệ, chỉ cho rằng thanh khí tương cầu, cùng mộ tiếng thơm mà tới.”

Bỗng dưng Bao Bất Đồng hít hít mấy cái rồi la lên: “Thối quá, thối quá!” Cẩu Độc bèn trả đũa gã: “Thiên Hệ Từ trong Kinh Dịch có viết: Lời nói của bạn đồng tâm, dù thối cũng giống như hoa lan (Đồng tâm chi ngôn, kỳ xú như lan). Mùi thối cũng có thể là thơm, Bao lão huynh chẳng có học vấn chi hết.” Bao Bất Đồng đáp: “Lời nói của Cẩu lão huynh, dù thơm cũng giống như rắm thối.”

Tiết Mộ Hoa mỉm cười rồi nói tiếp: “Bọn tại hạ phải đề phòng Tinh Tú Lão Quái trở lại Trung Nguyên giăng lưới quét sạch, nên cứ năm năm mới tụ hội một lần, còn bình thời mỗi người ở mỗi nơi.”

Bọn Huyền Nạn, Đặng Bách Xuyên nghe Tiết Mộ Hoa thuật xong lai lịch tám anh em, thì lòng ngờ vực đã giảm đi một nửa.

Công Dã Càn hỏi: “Tiết tiên sinh trá tử, rồi bố trí thuốc độc trong quan tài phải chăng là đối phó với Tinh Tú Lão Quái? Sao Tiết tiên sinh biết lão sắp đến đây?”

Tiết Thần Y đáp: “Kể ra thì cũng lạ! Hai hôm trước, tại hạ đang rảnh rỗi đóng cửa ở trong nhà thì có bốn người cưỡi ngựa đến xin trị bệnh. Chữa bệnh cứu người vốn là phận sự của y gia, chỉ lạ ở chỗ một bệnh nhân là hòa thượng béo tròn, bị chưởng lực của phái Thiếu Lâm đánh gãy tám cái xương sườn. Xương gãy đều được nối lại rồi, sau này sẽ tự khỏi không nguy hiểm gì, nhưng trong lục phủ ngũ tạng gã lại có chất hàn độc, không có liên hệ gì đến ngoại thương. Nếu không chữa trị thì chẳng bao lâu hàn độc sẽ phát tác mà chết.”

Huyền Nạn nói: “Hổ thẹn! Hổ thẹn! Đó chính là Tuệ Tịnh hòa thượng chùa Thiếu Lâm. Y không giữ giới luật tu hành, trốn khỏi chùa làm nhiều chuyện bậy bạ. Bản tự cho người đi bắt về để xử lý, nhưng y đã không chịu về mà còn xuất thủ đả thương nhiều người, rốt cuộc bị sư điệt của lão nạp đánh cho bị thương. Thì ra gã còn trúng phải hàn độc, chuyện này không liên quan gì đến tệ phái. Không hiểu là ai đã đưa y đến xin chữa trị?”

Tiết Thần Y đáp: “Y cùng đi với một bệnh nhân còn kỳ dị hơn. Đầu gã đội một cái lồng sắt…”

Bao Bất Đồng cùng Phong Ba Ác cùng nhảy lên lớn tiếng chửi mắng: “Con mẹ nó! Đúng là thằng lỏi đó rồi! Không hiểu trời xui đất khiến cho gã mắc bệnh gì?” Tiết Thần Y đáp: “Gã muốn tháo cái đầu sắt ra, nhưng tại hạ xem kỹ thì cái lồng này dính chặt vào đầu, không thể lấy ra được.” Bao Bất Đồng vỗ tay nói: “Kỳ tuyệt! Kỳ tuyệt! Chẳng lẽ cái đầu sắt đã có từ lúc gã mới sinh ra?” Tiết Thần Y lắc đầu đáp: “Không phải thế! Lúc người ta chụp cái lồng sắt vào đầu gã đã nung nóng lên, làm da thịt gã nhũn ra. Đến khi máu ngưng chảy, vết thương đã đóng thành sẹo, thì cái lồng dính liền vào đầu óc cùng mặt mũi gã, nếu ráng giật mạnh thì lột luôn cả da mặt, mặt mũi sẽ không ra hình thù gì nữa.” Bao Bất Đồng lạnh lùng hỏi: “Gã muốn tiên sinh tháo lồng sắt, sao tiên sinh không tháo cho gã? Dù ngũ quan cùng mặt mũi gã có bị lột đi hết, gã cũng không trách được tiên sinh kia mà?”

Tiết Thần Y nói: “Tại hạ còn đang ngẫm nghĩ thì hai tên đưa gã đến lại lớn tiếng quát tháo, giục ra tay lập tức. Tiết mỗ bình sinh có tật xấu, ai muốn đến trị bệnh thì phải khẩn cầu tử tế, ai mà cậy thế áp bức thì tại hạ thà chịu chết dưới đao kiếm cũng quyết không chịu chữa. Tại hạ nhớ lại cuộc anh hùng đại hội ở Tụ Hiền Trang, gã Kiều Phong liều mình vạn tử nhất sinh đưa một vị tiểu cô nương đến cầu tại hạ chữa thuốc. Gã thật là dã man, hung hăng đến cực điểm, nhưng cũng khẩn cầu tại hạ rất mực lễ độ, tuyệt không hỗn xược chút nào.” Lão kể tới đây, nhớ lại về sau mắc lừa A Châu để nàng điểm trúng huyệt đạo, cạo sạch râu ria, thật là một cái nhục lớn nhất trong đời, bèn im lặng.

Bao Bất Đồng nói: “Sao tiên sinh phách lối thế? Bao mỗ lại có cái tính kỳ khôi là ai muốn chữa bệnh cho Bao mỗ thì phải khẩn cầu tử tế, Bao mỗ mới để cho chữa. Còn nếu cậy thế áp bức bắt phải chữa trị, thì Bao mỗ thà mang bệnh chết đi cũng quyết không chịu.”

Khang Quảng Lăng cười ha hả nói: “Bao tiên sinh cứ làm như mình quý giá lắm, ai mà mất công trị bệnh cho tiên sinh lại phải năn nỉ, trừ khi…”. Bao Bất Đồng nói tiếp: “Trừ khi người đó là con ta!” Khang Quảng Lăng tức đến sững người, nhưng lại nghĩ rằng: “Gã nói thế cũng phải. Giả tỉ phụ thân mình mắc bệnh mà gàn dở không chịu uống thuốc, thì mình cũng phải năn nỉ thôi.” Lão chưa chịu thua, liền kiếm lời đáp: “Phải rồi! Nhưng ta không phải con ngươi.” Bao Bất Đồng nói: “Ngươi có phải là con ta hay không, chỉ có má má ngươi mới biết chắc, chứ ngươi biết thế nào được?” Khang Quảng Lăng lại tức run lên, nhưng rồi gật đầu nói: “Quả đúng thế thật!” Bao Bất Đồng vỗ tay cười ha hả, nghĩ thầm: “Lão này thật là ngốc quá!”

Công Dã Càn hỏi Tiết Thần Y: “Tiết tiên sinh!  Hai người đó ăn nói vô lễ rồi bị tiên sinh cự tuyệt không chữa phải không?” Tiết Thần Y gật đầu nói: “Đúng thế! Tiết mỗ trả lời họ rằng: Tại hạ y thuật kém cỏi không chữa nổi, các vị phải đi kiếm người nào cao minh hơn. Gã đầu sắt thì rất mực khiêm cung, nói rằng: Tiết tiên sinh Y đạo của tiên sinh đến mức tuyệt vời, được bằng hữu giang hồ tặng cho ngoại hiệu Diêm Vương Địch, ai mà chẳng kính phục? Gia phụ lại cùng tiên sinh có quan hệ sâu xa. Tiểu điệt khẩn cầu tiên sinh từ bi cứu vớt cho đứa con của người bạn cũ.”

Mọi người đều muốn hiểu lai lịch gã đầu sắt Du Thản Chi, nên đồng thanh hỏi: “Phụ thân gã là ai?”.

Lý Quỷ Lỗi thốt nhiên xen vào: “Gã là con ai, chỉ có má má gã mới biết chắc, chứ gã biết thế nào được?”  Tên kép hát học lỏm Bao Bất Đồng, đáp lại vừa buồn cười vừa đúng lúc, Bao Bất Đồng cười nói: “Giỏi lắm! Ngươi học theo ta giỏi lắm, e rằng không phải người ngoài mà mà chính ngươi là kẻ thừa kế chân truyền của ta.”

Tiết Thần Y tủm tỉm cười nói: “Bát đệ! Bao tiên sinh tính ưa nói giỡn, chẳng nên để bụng.” Lý Quỷ Lỗi lại cất giọng hát: “Trẫm hiệu xưng Hoàng Đế, Quyền Hoa Hạ trong tay. Muôn dân đội đức cao dày, Trăm họ là con là cháu.” Gã ưa đóng vai cổ nhân, trong bụng nghĩ đến nhân vật nào là hát đúng điệu ngay lập tức.

Tiết Thần Y kể tiếp: “Tại hạ nghe gã đầu sắt tự giới thiệu là con của cố nhân, liền hỏi phụ thân gã là ai thì gã đáp: Tiểu nhân gặp chuyện không may làm nhục đến tiền nhân, không dám nêu tên tuổi phụ thân ra. Nhưng tiên phụ ngày trước quả là có thâm giao với tiên sinh, tiểu nhân không dám đem tiên phụ ra mà lừa gạt. Tại hạ thấy gã rất thành khẩn, quyết không phải chuyện bịa. Có điều tại hạ giao du rất rộng, bạn bè vô số, chỉ biết thân phụ gã đã qua đời, không đoán nổi là ai.”

“Lúc tại hạ còn đang trầm ngâm thì người cùng đi với gã quát tháo: Sư phụ ta đã có pháp chỉ, việc khẩn yếu là phải chữa thương cho Tuệ Tịnh hòa thượng. Còn gã này có tháo lồng sắt hay không cũng chẳng can hệ gì. Tại hạ tức lộn ruột, liền hỏi lại: Sư phụ ngươi là ai? Pháp chỉ của hắn ràng buộc ta thế nào được? Gã liền làm mặt hung dữ mà nói: Ta mà nói tên sư phụ ra thì e rằng ngươi sợ đến vỡ mật. Người dặn ta bảo ngươi chữa trị cho vị hòa thượng này lập tức, nếu ngươi chần chừ làm lỡ việc thì phải cho ngươi xuống gặp Diêm Vương.”

Ngừng một lát, lão tiếp: “Ban đầu tại hạ nghe y ăn nói hỗn xược thì căm giận vô cùng, nhưng sau nghe kỹ thấy thanh âm gã tựa hồ như của người Hồ ở Tây Vực, lại tóc quăn, mắt sâu hoắm không giống người Trung Nguyên. Tại hạ chợt nhớ ra một người, liền hỏi: Phải chăng người ở Tinh Tú Hải đến đây? Gã biến sắc mặt nói: Hừ! Nhãn quang ngươi sắc bén lắm. Đúng ta ở Tinh Tú Hải đến đây, ngươi đã đoán ra thì phải tận tâm chữa mau đi! Tại hạ thấy gã là môn đồ Tinh Tú Lão Quái liền nghĩ thầm: Thâm thù lẽ nào không báo, liền giả bộ khiếp sợ hỏi lại gã: Lâu nay tại hạ vẫn kính ngưỡng thần thông của Đinh Lão Tiên ở Tinh Tú Hải vô cùng. Tại hạ chỉ giận mình vô duyên chưa được bái kiến, chẳng hiểu lão tiên có đến Trung Nguyên không?”

Bao Bất Đồng ngắt lời: “Thật là xấu hổ! Tiên sinh phải kêu lão bằng Tinh Tú Lão Quái hay Tinh Tú Lão Ma mới phải, sao lại hạ mình kêu bằng Lão Tiên? Nhục nhã! Nhục nhã!” Đặng Bách Xuyên vội giảng hòa: “Tam đệ! Đây là Tiết tiên sinh cố ý do thám, tất nhiên phải xưng hô cho chúng vừa lòng mà tìm hiểu tin tức.” Bao Bất Đồng cãi: “Đương nhiên tiểu đệ hiểu rồi! Nhưng giả tỉ tiểu đệ dò la thì phải kêu bằng Lão Yêu hay Lão Tặc để chọc cho gã nổi hung la hét, tất cũng lộ ra.”.

Tiết Thần Y nói: “Bao tiên sinh nói rất có lý. Tại hạ không quên lừa bịp, miệng kêu Lão Tiên mà không giấu được vẻ bất bình. Gã yêu nhân giảo quyệt lắm, sinh nghi liền nắm lấy cổ tay của tại hạ rồi quát hỏi: Ngươi dò la hành tung sư phụ ta để làm gì? Tại hạ thấy bại lộ, liền phóng chỉ điểm vào tử huyệt cho gã chết ngay. Gã yêu nhân thứ hai móc trủy thủ ra đâm tại hạ. Trong tay tại hạ không có khí giới mà võ công gã cũng không vừa, lúc nguy cấp thì gã đầu sắt đột nhiên đoạt lấy lưỡi trủy thủ rồi nói: Sư phụ sai chúng ta đến xin chữa trị chứ có sai đi giết người đâu? Gã yêu nhân tức mình nói: Ngươi không thấy thập nhị sư đệ bị y giết chết rồi sao? Ngươi… ngươi… là con của bằng hữu y, bây giờ theo phe người ngoài. Gã đầu sắt lại nói: Ngươi muốn giết Thần Y thì kệ ngươi, nhưng nhà sư mập này không được chữa mà chết thì lấy ai dẫn đường đi tìm băng tằm?”

“Tại hạ thừa lúc hai gã cãi nhau, liền lấy khí giới cầm tay. Gã yêu nhân kia thấy giết tại hạ cũng chẳng dễ gì, lại nghĩ gã đầu sắt nói cũng có lý. Gã liền bảo: Thế thì ngươi bắt tên lang băm này về yết kiến sư phụ. Gã đầu sắt nói: Được lắm!, rồi xoay tay phóng chưởng ra trúng ngực gã kia chết ngay lập tức!”

Mọi người nghe Tiết Thần Y kể đến đây đều sửng sốt la lên một tiếng. Bao Bất Đồng nói: “Có gì  lạ đâu? Gã đầu sắt có việc cần đến tiên sinh, nên giết đồng môn để tâng công.” Tiết Mộ Hoa thở dài nói: “Nhất thời tại hạ cũng không hiểu gã muốn tâng công, hay nghĩ đến tình nghĩa của tại hạ với tiên phụ gã. Tại hạ đang định hỏi rõ, thì xa xa có tiếng hú vọng lại. Gã nhớn nhác nói: Sư phụ tiểu nhân giục tiểu nhân về gấp. Tiết bá phụ nên trị cho nhà sư mập này đi. Sư phụ tiểu nhân mà vui lòng, không chừng bỏ qua việc giết hai tên đồ đệ. Tại hạ đáp: Ta cùng Tinh Tú Lão Quái có mối thù sâu tựa bể, nhất định không chữa trị cho người có liên quan đến y. Nếu ngươi có bản lĩnh thì cứ giết ta đi. Gã đầu sắt bèn nói: Tiết bá phụ! Tiểu điệt quyết không dám đắc tội đâu. Dường như gã còn muốn nói gì nữa, nhưng đột nhiên có tiếng sáo hiệu của Tinh Tú lão yêu vọng tới. Gã lật đật đem nhà sư béo chùn béo chụt đi ngay.”

“Tinh Tú lão tặc đã đến Trung Nguyên, lại mất hai tên đệ tử trong nhà tại hạ thì sớm muộn cũng tìm đến đây. Tại hạ phải trá tử và giấu thuốc độc trong quan tài, hy vọng lừa lão vào bẫy. Cả già trẻ  lớn bé trong nhà tại hạ nấp trong huyệt động này được hai ngày thì ngẫu nhiên gặp kỳ năm năm họp mặt một lần của tám sư huynh đệ đồng môn. Mọi người còn ở quanh ải Hàm Cốc thì liệt vị đến tệ xá. Tên lão bộc của tại hạ tuy trung thành, nhưng rất ngu ngốc, lại tưởng lầm các vị là bọn đối đầu ghê gớm kia.”

Bao Bất Đồng cười phá lên ngắt lời: “Ha ha! Chắc lão bộc tưởng Huyền Nạn đại sư là Tinh Tú Lão Quái, còn bọn tại hạ là đồ tử đồ tôn lão. Bằng hữu của Bao mỗ tướng mạo cùng tính nết đều kỳ dị, bảo là bọn tiểu yêu phái Tinh Tú còn có lý phần nào, còn Huyền Nạn đại sư thanh nhã hiền hòa mà nhận lầm là Tinh Tú Lão Quái thì hỗn xược quá.” Mọi người nghe nói đều cười ồ.

Tiết Thần Y cũng cười, nói: “Đúng thế, lầm như thế thật đáng đánh đòn. Lão bộc lúc nào cũng lo sợ toàn gia tại hạ mắc phải độc thủ Tinh Tú Lão Quái, hốt hoảng quá bèn đốt ngay lưu tinh hỏa pháo để báo tin cho các bạn đồng môn. Thứ lưu tinh hỏa pháo này do lục sư đệ tại hạ chế tạo rất tinh xảo, đốt lên thì cách mấy dặm cũng nhìn thấy. Bọn huynh đệ tại hạ tám người, dùng hỏa pháo khác nhau đôi chút để dễ phân biệt, cứ trông thấy pháo hiệu là biết ngay ai đến, kể ra thì có lợi mà cũng có hại. Lợi ở chỗ Hàm Cốc Bát Hữu khi gặp nguy biến có thể gọi nhau đến cùng kháng địch. Nhưng trong trường hợp này khiến cho Tinh Tú Lão Quái biết mà quét sạch, thì lại rất tai hại.”

Bao Bất Đồng nói: “Bản lĩnh Tinh Tú Lão Quái dù lợi hại đến đâu cũng chưa chắc hơn được Huyền Nạn đại sư. Lại còn đám quân tôm tép bọn ta đứng ngoài reo hò trợ giúp, sống mái một trận vị tất đã biết ai thắng ai bại. Sao phải… phải…” Gã chưa nói hết câu thì run lên cầm cập, hai hàm răng khua lách cách, hàn độc trong người phát tác không nói được nữa.

Lý Quỷ Lỗi lại cất giọng hát tuồng: “Mỗ Kinh Kha chính thị, sang thích khách Tần Hoàng. Gió heo may thổi buốt can trường, kẻ tráng sĩ khôn đường mở miệng.” Bất thình lình một người từ dưới đất bật lên hất đầu vào ngực Lý Quỷ Lỗi, gã rú lên một tiếng “Ôi chao!” rồi ngã ngửa ra, người kia liền túm lấy đánh đấm túi bụi. Mọi người nhìn lại thì chính là Nhất trận phong Phong Ba Ác vừa tỉnh dậy. Đặng Bách Xuyên vội chạy lại can: “Tứ đệ không được lỗ mãng!”, rồi vươn tay kéo gã ra.

Giữa lúc ấy thanh âm nhỏ li ti lại truyền vào trong sơn động: “Bọn đồ tử đồ tôn Tô Tinh Hà! Mau mau ra đầu hàng mới có thể bảo toàn tính mạng! Nếu còn chần chừ thì đừng trách lão gia không nể tình nghĩa đồng môn.” Khang Quảng Lăng nói: “Ái chà! Lão còn mặt dày nói đến tình nghĩa đồng môn ư?”

Phùng A Tam quay sang hỏi Tiết Mộ Hoa: “Ngũ ca! Tòa động này dường như kiến trúc đã lâu, không biết tay thợ nào mà khéo thế?” Tiết Mộ Hoa đáp: “Sơn động này để làm nơi lánh nạn, là cơ nghiệp tổ tiên truyền lại. Ta cũng không hiểu ai đã xây nên.”

Khang Quảng Lăng nói: “Hay lắm! Lão ngũ đã có cái tổ rùa này mà vẫn giữ được bí mật, không ai thông tỏ đường lối!” Tiết Mộ Hoa ra chiều hổ thẹn nói: “Đại ca lượng thứ cho! Cái hầm này chẳng vẻ vang gì, đừng bàn đến nữa…!”

Lão chưa dứt lời bỗng nghe đánh sầm một tiếng, mọi người đều cảm thấy mặt đất dưới chân rung chuyển không ngừng. Phùng A Tam thất sắc nói: “Nguy rồi! Đinh lão quái dùng thuốc nổ phá hầm thì chỉ chốc lát là vào đến đây.”

Khang Quảng Lăng cả giận nói: “Thực là hèn hạ vô sỉ đến cùng cực! Tổ sư cùng sư phụ tại hạ giỏi nghề thổ mộc, những cơ quan biến hóa này là bản lĩnh của bản môn, thế mà Tinh Tú Lão Quái mặt dày đem chất nổ phá vỡ cơ quan. Vậy thì còn gọi là sư thúc bản môn thế nào được?” Bao Bất Đồng nói: “Lão đã sát hại sư tổ, đả thương sư phụ, tiên sinh còn nhìn nhận lão làm sư thúc nữa ư?” Khang Quảng Lăng đáp: “Cái này…”

Lại nghe một tiếng nổ vang trời, cát bụi bay mịt mù khiến mọi người không mở mắt ra được. Sơn động này kín cửa không có lối thông hơi, không khí bị chấn động quá mạnh làm mọi người cảm thấy màng nhĩ đau nhói.

Huyền Nạn nói: “Lão đã dùng chất nổ phá hầm thì chúng ta ra trước đi còn hơn.” Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác bốn người đều khen phải.

Phạm Bách Linh biết Huyền Nạn là một vị cao tăng Thiếu Lâm mà phải chui rúc dưới hầm để trốn tránh là một việc rất tổn thương đến oai danh môn phái. Đến nước này thì ẩn nấp trong hầm cũng không yên được, lão liền nói: “Phải đó! Chúng ta cùng ra để liều sống chết với lão quái một phen.” Tiết Mộ Hoa nói: “Huyền Nạn đại sư cùng lão quái kia vốn không thù oán, nhưng đã bị lôi cuốn vào vòng hỗn độn chắc cũng không chịu thõng tay đứng nhìn.”

Huyền Nạn nói: “Mọi việc liên quan đến võ lâm Trung Nguyên, phái Thiếu Lâm đều nhúng tay vào, xin các vị miễn trách. Huống hồ Huyền Thống sư đệ của lão nạp cũng do trúng độc thủ của đồ đệ Lão Quái mà viên tịch, phái Thiếu Lâm cùng phái Tinh Tú không thể nói là không có oán thù.”

Phùng A Tam nói: “Đại sư đã có lòng nghĩa hiệp, huynh đệ tại hạ cảm kích vô cùng! Chúng ta cứ theo đường cũ tiến ra, đánh cho lão quái khiếp vía một phen” Mọi người gật đầu khen phải.

Phùng A Tam lại nói: “Gia quyến Tiết ngũ ca cùng hai vị Bao, Phong nên ở lại đây, chắc lão quái không tìm thấy đâu.” Bao Bất Đồng hầm hầm nhìn lão lục nói: “Ngươi ở lại thì tốt hơn.”

Phùng A Tam vội nói: “Tại hạ không dám coi thường, nhưng nhị vị đang bị thương mà phải động thủ e rằng bất tiện.” Bao Bất Đồng nói: “Ta bị thương càng nặng thì đánh nhau càng hăng.” Bọn Phạm Bách Linh đều chau mày, biết Bao Bất Đồng tính tình bướng binh, không thể nói chuyện lý lẽ với gã được.

Phùng A Tam thân thủ cực kỳ mau lẹ, phát động cơ quan, nghe lách cách vài tiếng cửa động đã mở ra một lỗ nhỏ. Gã ném ba quả pháo nổ đùng đùng, khói trắng mù mịt, để đề phòng bọn Tinh Tú Lão Quái đứng rình ngoài cửa động bắt người. Phiến đá từ từ chuyển động, mở ra một đường đủ người đi lọt. Phùng A Tam lại ném ba quả pháo nữa, rồi nhảy ra.

Chân gã chưa chấm đất, trong làn khói trắng mờ mịt đã thấy một người từ sau lưng vọt ra ngoài, la lên: “Tinh Tú Lão Quái là tên nào, cho Phong mỗ gặp mặt.” Người đó chính là Phong Ba Ác.

Gã thấy một hán tử mặc áo vải đứng sừng sững trước mặt liền quát to: “Ngươi không phải Tinh Tú Lão Quái, nhưng cũng nếm một quyền của ta đây.”, rồi xuất thủ nhanh như chớp đấm vào ngực hắn một quyền đánh bịch một tiếng. Hán tử này là đệ tử thứ chín của Tinh Tú Lão Quái, bị đánh bất ngờ nên trúng một quyền khá nặng, nhưng chỉ lạng người đi một cái rồi vung quyền đánh trả, cũng trúng Phong Ba Ác nghe chát một tiếng. Thế rồi quyền qua chưởng lại nghe binh binh, dường như đều trúng vào người đối phương, nhưng không trầm trọng lắm nên chưa đến nỗi chí mạng. Bỗng nghe những tiếng vù vù liên tiếp, Huyền Nạn, Đặng Bách Xuyên, Khang Quảng Lăng, mọi người trong động nhảy ra.

Làn khói trắng vẫn còn mờ mịt, nhưng đã nhìn rõ một lão già cao lớn đứng trong đám cây rậm ở phía tây nam. Bọn đệ tử xếp hàng quanh lão, kẻ cao người thấp không đều, Khang Quảng Lăng la lên: “Đinh lão tặc! Ngươi chưa chết ư? Còn nhận ra ta không?”

Lão già này chính là Tinh Tú lão Quái Đinh Xuân Thu. Lão liếc qua một lượt đã nhìn rõ đối phương, không trả lời Khang Quảng Lăng mà hỏi Tiết Thần Y: “Tiết Mộ Hoa hiền điệt! Mau mau đầu hàng đi, ta tha chết cho. Nhưng ngươi phải gia nhập phái Tinh Tú, rồi trị thương cho nhà sư Thiếu Lâm béo chùn béo chụt kia.” Tinh Tú Lão Quái chỉ mong Tiết Mộ Hoa chữa lành nhà sư Tuệ Tịnh để dẫn lão lên núi Côn Luân kiếm băng tằm.

Tiết Mộ Hoa nghe giọng lưỡi lão này không đếm xỉa gì đến những người khác, tựa hồ như lão muốn họ sống hay chết là được ngay. Y đã biết vị sư thúc này ghê gớm, trong lòng sợ hãi nhưng ngoài miệng vẫn nói cứng: “Đinh lão tặc! Trên đời này ta chỉ nghe lệnh một người mà thôi, người đó bảo ta chữa cho ai là ta chữa ngay. Ngươi giết ta thì dễ như trở bàn tay, nhưng muốn ta trị bệnh cứu người thì phải đến xin người đó bảo ta mới được.” Đinh Xuân Thu nói: “Chắc người chỉ nghe lệnh Tô Tinh Hà, có phải thế không?”

Tiết Mộ Hoa đáp: “Chỉ có loại ác ôn không bằng cầm thú mới phản sư diệt tổ.” Y vừa dứt lời thì từ  Khang Quảng Lăng, Phạm Bách Linh đến Lý Quỷ Lỗi đều lớn tiếng hoan hô.

Đinh Xuân Thu nói: “Hay lắm! Hay lắm! Bọn mi đều là đồ đệ Tô Tinh Hà, nhưng lão Tô đã phái người đến báo cho ta hay là trục xuất bọn mi ra khỏi môn phái rồi, không kể là đệ tử nữa. Chẳng lẽ lời nói của lão Tô lại không đáng đếm xỉa, lão còn ngấm ngầm lưu bọn mi làm đồ đệ hay sao?”

Phạm Bách Linh đáp: “Một ngày làm thầy, suốt đời làm cha. Sư phụ bọn ta quả đã đuổi chúng ta ra khỏi môn phái, bao nhiêu năm nay dù bọn ta dốc sức tìm kiếm cũng không được gặp người, nhưng tấm lòng kính ái sư phụ quyết không giảm chút nào. Đinh lão tặc kia! Ta nói cho ngươi biết, sở dĩ bọn ta biến thành cô hồn dã quỷ không có sư môn nương tựa, hoàn toàn là do ngươi cả.”

Đinh Xuân Thu mỉm cười đáp: “Mi nói đúng lắm. Tô Tinh Hà sợ ta thi triển độc thủ giết bọn mi từng tên một, lão đuổi bọn mi ra khỏi môn phái là có ý bảo tồn mấy cái mạng nhỏ xíu, lão lại không nỡ chọc tai cắt lưỡi bọn bay là cũng tình nghĩa lắm rồi. Hà hà! Tình cảm ướt át kiểu đàn bà như vậy thì sao mà làm chuyện đại sự được? Hay lắm! Các ngươi tự nói rõ đi, hiện nay Tô Tinh Hà còn là sư phụ của bọn ngươi nữa không?”

Bọn Khang Quảng Lăng nghe vậy, hiểu rằng nếu mình thừa nhận Tô Tinh Hà là sư phụ, lập tức lão sẽ ra tay giết chết. Nhưng một là không thể vì lâm nguy mà bỏ nghĩa thầy trò, hai là hôm nay mình đã đối đầu với lão quái tàn ác này thì chẳng còn mong sống nữa. Bọn tám người Hàm Cốc Bát Hữu trừ thiếu phụ bị trọng thương nằm lại trong động, còn bảy người đồng thanh hô lên: “Bọn ta bị sư phụ trục xuất, song tình nghĩa thầy trò không hề sứt mẻ.”

Đột nhiên Lý Quỷ Lỗi lớn tiếng nói: “Ta là mẹ của Tinh Tú Lão Quái, năm xưa thông dâm với con chó Hạo Thiên Khuyển của Nhị lang thần Dương Tiễn mà mang thai, đẻ ra tên tiểu súc sinh này. Bây giờ ta phải đập gãy cái đùi chó của ngươi.” Gã bắt chước tiếng nói của một bà già, nói xong lại giả tiếng chó sủa gâu gâu ba tiếng. Bọn Khang Quảng Lăng, Bao Bất Đồng cùng phá lên cười.

Đinh Xuân Thu vốn phong thái ung dung, cũng không khỏi biến sắc mặt, hai mắt chiếu ra những tia sáng kỳ dị. Lão phất tay áo bên trái một cái, đột nhiên một tia lửa xanh lè vọt ra như sao băng, bắn vào Lý Quỷ Lỗi. Gã né tránh không kịp, quần áo bốc cháy ngay, vội nằm lăn xuống đất nhưng càng lăn lộn thì lửa càng bốc to. Phạm Bách Linh dùng cả hai tay bới đất cát hất lên mình gã.

Lúc ấy Đinh Xuân Thu lại phất tay áo năm cái, năm tia lửa bắn về phía năm người bọn Khang Quảng Lăng, chỉ chừa Tiết Mộ Hoa ra. Khang Quảng Lăng phóng song chưởng ra đẩy ngọn lửa trở lại, nhưng chỉ làm ngọn lửa lung lay một chút, Huyền Nạn đại sư cũng phất tay áo hất hai ngọn lửa tạt ra chỗ khác. Còn Phùng A Tam và Phạm Bách Linh thì đã bị lửa bắn vào mình. Chỉ trong khoảnh khắc, bọn Lý Quỷ Lỗi ba gã kêu gào thảm khốc!

Bọn đệ tử Đinh Xuân Thu thấy vậy thi nhau tang bốc sư phụ: “Sư phụ mới hiển lộ một chút công phu đã biến bọn chúng thành heo quay, không hiểu sao chúng chưa chịu quì xuống đầu hàng?” “Sư phụ tài năng nghiêng trời lệch đất, tiền vô cổ nhân hậu vô lai giả, xuất quỷ nhập thần, vô tiền khoáng hậu. Hôm nay bọn chó lợn Trung Nguyên nếm mùi thủ đoạn phái Tinh Tú.” “Sư phụ đã thần thông quảng đại như thế thì đánh đâu mà chẳng được? Anh hùng hảo hán bốn phương Đông Tây Nam Bắc đều phải quy thuận như gió theo chiều.”

Bao Bất Đồng hét lên: “Thúi lắm! Thúi lắm! Chao ôi! Da thịt ta tê rồi. Đinh lão tặc, da mặt ngươi thật là dày!” Bao Bất Đồng chưa dứt lời bỗng thấy hai tia lửa bắn tới rất lẹ, Đặng Bách Xuyên cùng Công Dã Càn đã vận kình lực sẵn, đều phóng chưởng ra. Cả hai phát chưởng đều đánh vào một chỗ, bật hai tia lửa đi, nhưng hai người ruột đau như dao cắt, rú lên thất thanh rồi lùi lại ba bước. Nguyên Đinh Xuân Thu dùng nội lực rất thâm hậu để phóng lân hỏa, chỉ có nội lực của Huyền Nạn đại sư là đánh bật được ra ngoài mà không bị tổn thương gì. Còn Đặng Bách Xuyên và Công Dã Càn thì nội lực còn kém xa Tinh Tú Lão Quái, nên hai người cảm thấy đau đớn không chịu nổi.

Huyền Nạn đại sư tiến đến trước Lý Quỷ Lỗi phóng ra một chưởng. Chưởng phong đi là là lướt qua mình Lý Quỷ Lỗi, quạt tắt ngấm vùng lửa xanh lè đồng thời xé rách áo gã ra.

Một tên đệ tử Tinh Tú Lão Quái nói: “Chưởng lực lão trọc kia khá đấy, có thể bằng một phần mười sư phụ ta.” Một tên khác nói: “Ối chà! Chỉ bằng một phần trăm chưởng lực sư phụ ta là cùng.”

Huyền Nạn lại phóng ra hai chưởng dập tắt lân hỏa trên mình Phạm Bách Linh và Phùng A Tam. Lúc đó Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Khang Quảng Lăng đều xông ra chiến đấu với bọn đệ tử phái Tinh Tú.

Đinh Xuân Thu vuốt chòm râu dài nói: “Cao tăng Thiếu Lâm quả nhiên công lực phi thường, hôm nay lão phu xin được lãnh giáo.” Nói xong lão từ từ bước tới rồi đột ngột phóng chưởng ra đánh Huyền Nạn.

Huyền Nạn đại sư chưa từng giao đấu với phái Tinh Tú, nhưng cũng biết Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân Thu lợi hại vô cùng. Nhà sư còn nghe đồn Tinh Tú Lão Quái có thể dùng tà thuật làm đối phương tiêu tan công lực một cách vô hình, nên lại càng thận trọng. Huyền Nạn đề tụ chân khí phóng song chưởng ra đánh tới tấp vào Đinh Xuân Thu một lúc mười tám chiêu liên hoàn, tay trái chưa thu về, tay phải đã phóng ra mau lẹ dị thường. Đinh Xuân Thu thấy chưởng lực đối phương liên tiếp đánh tới, không được rảnh tay dùng tà pháp để phá công lực đối phương. Khoái chưởng của phái Thiếu Lâm cực kỳ lợi hại, Huyền Nạn phóng ra mười tám chưởng liên hoàn, Đinh Xuân Thu phải lùi lại mười tám bước để tránh. Huyền Nạn đánh xong mười tám chưởng liền phóng Uyên Ương cước nhanh như gió đá một lúc ba mươi sáu cước. Cước ảnh mịt mờ, đứng ngoài không phân biệt được chân phải hay chân trái đá ra. Đinh Xuân Thu thi triển thân pháp cực kỳ mau lẹ, nhưng vừa tránh xong ba mươi sáu cước bỗng nghe hai tiếng chát chát, bả vai lão đã bị Huyền Nạn đánh trúng hai quyền. Thì ra trong liên hoàn tam thập lục cước, hai cước sau cùng có kèm cả quyền đánh ra, Đinh Xuân Thu chỉ tránh được cước mà không tránh được quyền. Lão bèn la lên: “Thật là lợi hại!”, lảo đảo người hai cái.

Nhưng Huyền Nạn cảm thấy đầu óc hơi choáng váng, dường như bị mất thứ gì, liền biết là không ổn rồi. Thì ra trên áo của Đinh Xuân Thu có chất kịch độc, vừa rồi lão tăng đánh trúng lão hai quyền đã mắc phải ám toán. Huyền Nạn liền thở ra một hơi dài để chân khí luân chuyển, tay trái phóng quyền ra đánh.

Đinh Xuân Thu liền đưa hữu chưởng ra đỡ phát quyền, còn tả chưởng vận kình phản công. Huyền Nạn sau khi trúng độc đã kém phần linh hoạt, khó mà tránh né, đành đưa tay phải ra đỡ, hai tay cao thủ đã thành thế tỉ thí nội lực, Huyền Nạn cả kinh lẩm bẩm: “Ta không nên tỉ thí chân lực với gã!”, tuy nghĩ như thế nhưng không vận động chân lực mà đỡ thì chân lực đối phương đánh tới phủ tạng mình tan nát mất. Thế là đại sư đành phải vận kình, cảm thấy chân khí cuồn cuộn tuôn ra ngoài không ngớt, muốn ngưng tụ lại cũng không được nữa.

Thời gian chừng uống cạn tuần tra, Đinh Xuân Thu cười ha hả, nhún vai một cái, Huyền Nạn lập tức ngã ra, chân khí trong người đã thoát đi hết. Nhà sư cố gượng ngồi dậy cũng không được nữa.

Đinh Xuân Thu đánh ngã Huyền Nạn rồi đảo mắt nhìn chung quanh, thấy Công Dã Càn nằm dưới đất run lên bần bật vì trúng phải hàn độc chưởng của Du Thản Chi, chỉ còn Đặng Bách Xuyên, Tiết Mộ Hoa đang đánh nhau ác liệt với bọn đồ đệ mình. Bên phái Tinh Tú cũng có người bị thương nằm đó.

Đinh Xuân Thu nổi lên một tràng cười, phất tay áo một cái nhảy xổ tới sau lưng Đặng Bách Xuyên phóng chưởng đánh ra, rồi thuận chân đá Bao Bất Đồng một cước. Đặng Bách Xuyên cũng phóng chưởng ra đỡ, nhưng tựa hồ đã mắc trọng bệnh, toan ngưng thần điều dưỡng thì Đinh Xuân Thu lại phóng ra một chưởng nữa. Đặng Bách Xuyên bất đắc dĩ phải phóng chưởng ra cản, bàn tay y lập tức thấy mát lạnh rồi khí lực trong người tiêu tán, trước mắt chỉ thấy một màn sương trắng. Một tên đệ tử phái Tinh Tú chạy tới giơ tay ra gạt, Đặng Bách Xuyên liền ngã lăn ra.

Thế là bọn thủ hạ nhà Mộ Dung, quần tăng Thiếu Lâm do Huyền Nạn thống lĩnh, cùng Hàm Cốc Bát Hữu do Khang Quảng Lăng cầm đầu đều bị Đinh Xuân Thu cùng Du Thản Chi chia nhau đánh ngã. Du Thản Chi nội lực thâm hậu nhưng võ nghệ tầm thường. Mấy bữa nay gã được Đinh Xuân Thu dạy cho cách vận chưởng phóng quyền đã tiến bộ rất nhiều, nhưng vẫn chưa được thuần thục. Bọn Công Dã Càn đánh nhau với gã, chưởng pháp thì tinh diệu hơn nhiều, song chỉ một lúc là bị gã phát huy chất hàn độc của băng tằm đánh ngã lăn ra.

Bên này chỉ còn một mình Tiết Mộ Hoa lành mạnh. Tiên sinh cũng tả xung hữu đột, nhưng bọn đệ tử Tinh Tú đều mỉm cười né tránh chứ không trả đòn. Đinh Xuân Thu cười nói: “Tiết hiền điệt! Thì ra võ công của ngươi cao hơn bọn sư huynh đệ nhiều. Ngươi có muốn tỉ thí với sư thúc không?”

Tiết Mộ Hoa thấy huynh đệ đồng môn đều nằm lăn dưới đất, chỉ có mỗi mình là chưa việc gì, hiểu rằng thủ hạ Đinh Xuân Thu cố ý để mình chữa thuốc cho nhà sư béo kia. Tiên sinh thở dài đáp: “Đinh lão tặc! Ngươi muốn bức bách ta trị bệnh cứu người, nhưng không ăn thua gì đâu.”

Đinh Xuân Thu vẫy tay nói: “Tiết hiền điệt! Lại đây!” Tiết Mộ Hoa đáp: “Muốn giết thì cứ giết, ngươi nói bất luận điều gì ta cũng không nghe đâu.” Lý Quỷ Lỗi reo lên: “Tiết ngũ có nghĩa khí ngất trời xanh, Như Tô Vũ chăn dê thuở nọ, Ở nước Hồ mười chín năm đằng đẵng, vẫn bảo toàn danh tiết Trung Nguyên.”

Đinh Xuân Thu cười khẩy, bước đến cạnh Tiết Mộ Hoa. Lão nhè nhẹ đặt tay lên vai y, tủm tỉm cười hỏi: “Tiết hiền điệt! Hiền điệt luyện võ đã bao lâu?” Tiết Mộ Hoa đáp thõng: “Bốn mươi lăm năm.” Đinh Xuân Thu thở dài nói: “Công trình vất vả bốn mươi lăm năm trời không phải là ít! Ta nghe nói hiền điệt dùng y thuật chữa bệnh cho người để đổi lấy võ công, nên hiền điệt biết rất nhiều tuyệt nghệ của các môn phái, có đúng thế không?” Tiết Mộ Hoa đáp: “Chẳng có chi đáng kể, nhất là đối với ngươi lại càng không ăn thua gì.”

Đinh Xuân Thu lắc đầu nói: “Không phải thế! Nhưng người luyện võ phải lấy nội lực làm căn bản, chiêu thức làm ngọn ngành. Thành thực mà nói, nội lực Tiết hiền điệt hơi kém, nên chiêu thức dù tinh diệu đến đâu cũng không phát huy được. Hiền điệt đã hiểu nhiều tuyệt nghệ, giá tỉ qui đầu làm môn hạ phái Tinh Tú thì ta sẽ dạy cho bí pháp luyện thần công, khi nội lực đã thâm hậu thì chẳng khác gì hổ thêm cánh, tung hoành Trung Nguyên dễ như trở bàn tay.”

Tiết Mộ Hoa phẫn nộ quát lên: “Ta đã có sư phụ, thà đập đầu vào tường cho chết còn hơn làm môn hạ của mi.” Đinh Xuân Thu vẫn mỉm cười, nói tiếp: “Nếu muốn đập đầu cho chết thì cũng phải có sức lực mới đập được. Giả tỉ nội lực Tiết hiện điệt bị tiêu hủy hết sạch thì biến thành phế nhân, bước một bước cũng đã khó, còn nói gì đến chuyện đập đầu?”

Tiết Mộ Hoa toát mồ hôi trán, thấy bàn tay lão đặt trên vai mình từ từ phát ra nhiệt khí, giả tỉ lão vận dụng Hóa Công Đại Pháp thì công trình rèn luyện vất vả bốn mươi lăm năm trời của mình tan thành mây khói. Y nghiến răng đáp: “Ngươi là đồ mặt người dạ thú dám hạ sát cả sư huynh, thì bây giờ sát hại tám sư huynh đệ ta có chi là đáng kể? Công trình bốn mươi lăm năm vất vả bị tiêu tan dĩ nhiên đáng tiếc, nhưng tính mạng còn chẳng giữ được thì còn kể gì đến công phu?”

Bao Bất Đồng đang nằm dưới đất cũng reo lên: “Tiết tiên sinh nói mấy câu này thật là có khí phách. Phái Tinh Tú làm sao có được nhân vật anh hùng như thế?”

Đinh Xuân Thu nói: “Tiết hiền điệt! Ta không giết hiền điệt, chỉ hỏi tám câu: Hiền điệt có chữa cho nhà sư béo kia không.” Ngừng một lát lão nói tiếp: “Câu thứ nhất hiền điệt trả lời không chữa thì ta lập tức hạ sát đại sư huynh của hiền điệt là Khang Quảng Lăng. Câu thứ hai hiền điệt trả lời không chữa thì ta giết nhị sư huynh hiền điệt là Phạm Bách Linh. Cứ thế, đến câu thứ bảy thì ta giết bát sư đệ hiền điệt là Lý Quỷ Lỗi.” Lão tủm tỉm cười hỏi tiếp: “Đến câu thứ tám hiền liệt vẫn không chịu chữa thì có biết ta sẽ làm gì không?”

Tiết Mộ Hoa nghe đến thủ đoạn thảm khốc như vậy, sắc mặt xám ngắt đáp: “Bấy giờ ngươi sẽ giết ta, có gì quan trọng đâu?” Đinh Xuân Thu cười hề hề nói: “Ta không vội giết hiền điệt như vậy. Tới câu thứ tám mà hiền điệt vẫn trả lời không chữa, ta sẽ đi hạ sát một người tự xưng là Thông Biện tiên sinh, tên gọi Tô Tinh Hà!”

Tiết Mộ Hoa gầm lên: “Đinh lão tặc! Ngươi dám động đến sư phụ ta ư?” Đinh Xuân Thu lạnh lùng đáp: “Có gì mà không dám? Trước nay Tinh Tú Lão Tiên làm việc gì đều tự ý mình, không biết sợ ai. Lời ta nói bữa nay, sáng mai ta lại quên cũng không sao. Ta đã hứa với Tô Tinh Hà là nếu y câm miệng lại không nói gì nữa thì ta tha chết, nhưng hiền điệt mà chọc giận ta thì mũi không phải lái chịu đòn. Ta muốn giết y là ta giết, thiên hạ có ai làm gì nổi ta?”

Tiết Mộ Hoa ruột rối như tơ vò, biết rõ lão sư thúc này việc tàn ác đến đâu cũng làm được, nếu mình không chữa cho Tuệ Tịnh thì sư phụ mình là Thông Biện tiên sinh tất chết về tay lão. Nhưng tiên sinh lại e rằng dụng ý của lão còn hiểm độc gấp mười, mình chữa cho nhà sư kia là giúp cho kẻ ác làm điều tàn bạo. Tiết Mộ Hoa trầm ngâm một lúc rồi nói: “Nếu ta chữa cho vị hòa thượng đó rồi, ngươi không được làm khó dễ các bằng hữu ở đây cũng như sư phụ và sư huynh đệ ta.”

Đinh Xuân Thu cả mừng đáp: “Được lắm! Ta tha mấy cái mạng kiến ruồi của chúng.” Đặng Bách Xuyên nói: “Ai cần ngươi tha mạng? Đại trượng phu chẳng may trúng phải gian kế thì đành chết có sao? Nhưng ta tin chắc ngươi sẽ gặp báo ứng tàn khốc hơn nhiều.”

Thanh âm Đặng Bách Xuyên vốn oang oang như chuông đồng, song lúc này chân khí bị tiêu tan nên tuy luận điệu khẳng khái mà giọng nói phều phào.

Bao Bất Đồng nói: “Mẹ kiếp! Tiết tiên sinh chớ có mắc bẫy. Không thể tin tưởng thằng chó chết này được đâu.” Tiết Mộ Hoa nói: “Phải lắm!”

Đinh Xuân Thu nói: “Tiết hiền điệt! Ta hỏi câu thứ nhất: Hiền điệt có chịu chữa cho nhà sư béo không?” Lão vừa nói vừa đưa chân phải nhằm vào huyệt thái dương Khang Quảng Lăng, tựa hồ Tiết Mộ Hoa chỉ nói nửa tiếng không, là lão phóng chân đá chết Khang Quảng Lăng lập tức. Trống ngực ai nấy đang đánh thình thình thì nghe tiếng la lớn: “Không chữa!” Người la lên không phải Tiết Mộ Hoa mà là Khang Quảng Lăng.

Đinh Xuân Thu cười nhạt nói: “Ngươi tưởng chỉ nói vậy là ta đá chết ngay ư? Không dễ thế đâu.” Lão quay lại nhìn Tiết Mộ Hoa hỏi tiếp: “Phải chăng hiền diệt muốn mượn chân ta để giết chết đại sư huynh?” Tiết Mộ Hoa thở dài nói: “Thôi, ta đành ưng thuận chữa cho nhà sư kia là xong!” Khang Quảng Lăng liền mắng Tiết Thần Y: “Tiết lão ngũ! Ngươi thật chẳng ra gì. Đinh lão tặc là đại thù của sư môn ta, mà ngươi tham sinh úy tử chịu khuất phục lão ư?”

Tiết Mộ Hoa đáp: “Lão giết bọn sư huynh đệ chúng ta thì chẳng có chi quan hệ. Nhưng đại ca không nghe lão dọa xúc phạm tới sư phụ hay sao?”. Bọn Khang Quảng Lăng nghĩ đến sư phụ liền không dám nói gì nữa.

Bao Bất Đồng lên tiếng: “Bọn ngươi toàn là…” Gã định mắng: “… toàn là đồ hèn nhát.”, nhưng nói dở câu thì bị Đặng Bách Xuyên đưa tay bịt miệng lại. Bao Bất Đồng vẫn đem lòng kính nể đại huynh, đành nuốt giận không mắng nữa.

Tiết Mộ Hoa nói: “Lão họ Đinh kia! Ta đã theo lời ngươi, hứa chữa cho nhà sư béo. Vậy ngươi phải đối đãi với bằng hữu ta cho lịch sự.” Đinh Xuân Thu nói: “Cứ theo lời ngươi.”

Lão tặc bèn sai đệ tử khiêng Tuệ Tịnh vào. Tiết Mộ Hoa hỏi nhà sư mập: “Ngươi bị hàn độc xâm nhập vào lục phủ ngũ tạng, thế thì trước đây đã tiếp xúc với loại độc vật gì?” Tuệ Tịnh đáp: “Đó là băng tằm trên núi Côn Luân.” Tiết Mộ Hoa lắc đầu không hỏi thêm nữa, dùng kim châm cứu rồi lấy hai viên thuốc màu đỏ cho y uống. Sau đó Thần Y bắt đầu cứu chữa các bệnh nhân khác, nào là nối xương, nào là trị độc, bận rộn cho đến trời sáng mới xong. Những người bị thương đều có chỗ riêng biệt, kẻ thì nằm giường, kẻ nằm trên cánh cửa nghỉ ngơi điều dưỡng. Gia nhân nhà họ Tiết làm thức ăn cho mọi người điểm tâm.

Đinh Xuân Thu ăn hai bát miến rồi quay lại nhìn Tiết Thần Y cười hì hì: “Hiền điệt quả là thức thời, không bỏ thuốc độc vào thức ăn.” Tiết Mộ Hoa nói: “Dụng độc thì khắp thiên hạ chẳng ai bằng ngươi. Ta có muốn thế cũng chỉ múa rìu qua mắt thợ.”

Đinh Xuân Thu cười ha hả nói: “Hiền điệt kêu gia nhân đi kiếm cho ta mười cỗ xe lừa.” Tiết Mộ Hoa nói: “Ngươi dùng làm gì?” Đinh Xuân Thu trợn mắt lên nói: “Sao hiền điệt lại hỏi việc của ta? Hiền điệt quen biết nhiều người, thuê mười cỗ xe lừa có khó khăn gì?” Tiết Mộ Hoa không nói gì được, đành kêu người nhà đi thuê xe.

Vào giờ ngọ, mười cỗ xe lừa lục tục kéo đến. Đinh Xuân Thu nói: “Giết hết phu xe đi!” Tiết Mộ Hoa cả kinh hỏi: “Sao?”, bỗng thấy bọn đệ tử phái Tinh Tú phóng chưởng ra một loạt, cả mười tên phu xe lăn ra chết ngổn ngang dưới đất. Tiết Mộ Hoa cả giận nói: “Đinh lão tặc! Bọn phu xe có tội lỗi gì mà ngươi giết họ? Ngươi… ngươi… thật là độc ác!”

Đinh Xuân Thu nói: “Phái Tinh Tú giết mấy mạng người chẳng cần tính chuyện phải quấy, bàn đến lý lẽ chi hết. Bọn ngươi lên xe cả đi, không lưu lại một người nào!” Lão lại giục Tiết Thần Y: “Tiết hiền điệt! Hiền điệt dọn hết sách vở thuốc men cùng những đồ tùy thân đem đi! Ta sắp đốt nhà đây!”

Tiết Thần Y lại càng kinh hoàng, nhưng tiên sinh biết lão này tàn ác vô kể, nói nhiều cũng vô ích. Bao nhiêu sách thuốc tiên sinh đã thuộc lòng hết, không cần đem đi nữa, nhưng những thứ cao đơn hoàn tán quí giá đã tốn công điều chế đều phải gói ghém lại. Tiên sinh tức quá mà không làm gì được, vừa rủa thầm tên độc ác, vừa thu nhặt dược liệu. Sau đó bọn đệ tử phái Tinh Tú bèn phóng hỏa đốt nhà.

Bọn Tuệ Kính, Hư Trúc sáu hòa thượng Thiếu Lâm vốn đã nhận lệnh của Huyền Nạn cố trốn về chùa báo tin, nào ngờ Đinh Xuân Thu đã bố trí chặt chẽ, chạy không xa đã bị bắt lại hết. Thế là bảy vị tăng Thiếu Lâm đứng đầu là Huyền Nạn, bốn thủ hạ của nhà Mộ Dung Cô Tô, cùng với tám sư huynh đệ Hàm Cốc Bát Hữu, tổng số mười chín người, chỉ sót một mình Tiết Mộ Hoa không sứt mẻ gì, còn lại mười tám người đều không động đậy được. Người thì bị hóa tán nội công, người bị chưởng lực của Đinh Xuân Thu đả thương, người trúng hàn độc băng tằm của Du Thản Chi, người lại trúng kịch độc của bọn đệ tử phái Tinh Tú. Thêm vào đó còn gia quyến của Tiết Mộ Hoa, tổng số mấy chục nhân mạng bị chia ra nhét vào mười cỗ xe.

Mấy tên đệ tử phái Tinh Tú thân hành ngồi đánh xe, số còn lại đều cưỡi ngựa đi theo áp tải. Bọn chúng buông rèm kín mít lại dùng dây buộc chặt, nên trong xe tối thui, mà cũng không thấy được cảnh vật bên ngoài.

Trong lòng bọn Huyền Nạn nghi ngờ khôn xiết, đều tự hỏi: “Tên lão tặc này dẫn bọn ta đi đâu?” Nhưng ai cũng hiểu mình có hỏi thì cũng chẳng ai trả lời, chỉ tổ bị mắng nhiếc nhục nhã, đành nghĩ thầm: “Đành phải nhẫn nại, đến nơi sẽ biết”.

Hồi 31: Nát óc tính cờ đành tự tử, vô tâm đi ẩu được thần công

Đoàn xe lừa lọc cọc suốt ngày đêm, buông rèm kín mít. Bọn Huyền Nạn, Đặng Bách Xuyên, Khang Quảng Lăng đều là những hào kiệt đương thời, nhưng hiện giờ võ công đã mất hết, biến thành tù nhân để mặc người xử trí. Mọi người chỉ phỏng đoán được là mình đang đi về phía Đông Nam.

Đi như vậy tám ngày, đến ngày thứ chín, đoàn xe bắt đầu tiến vào vùng núi, đường sá gập ghềnh. Đến giờ ngọ đường lên núi mỗi lúc một dốc thêm, sau cùng đến một nơi xe không leo lên nổi, đám đồ đệ phái Tinh Tú đành bảo bọn Huyền Nạn xuống xe. Nơi này là rừng trúc âm u, phong cảnh rất tịch mịch. Bên đường người ta đã dựng lên một cái quán lương đình bằng những cây trúc lớn, kiến trúc rất tinh xảo. Phùng A Tam nhìn mà thán phục vô cùng. Gã xem xét kỹ hồi lâu, trong lòng liền nảy mối nghi ngờ.

Mọi người vào quán ngồi nhìn ra, thấy bốn người trên đỉnh núi chạy xuống, hai tên đi đầu là đệ tử của Đinh Xuân Thu. Hẳn là trước khi đoàn xe dừng lại, chúng đã chạy lên núi để dò đường hoặc để báo tin. Hai người đi sau là hán tử ăn mặc theo kiểu nông thôn, chạy đến trước mặt Đinh Xuân Thu thi lễ rồi trình thư lên. Đinh Xuân Thu mở thư ra đọc rồi cười khẩy nói: “Hay lắm! Ngươi chưa chịu thua, còn muốn quyết một trận sinh tử thì đương nhiên ta phải bồi tiếp.”

Hán tử hơi biến sắc, lấy trong bọc ra một cái pháo lệnh, châm lửa đốt. Pháp lệnh vọt lên không trung nổ liên tiếp ba tiếng đoàng đoàng, tiếng sau lớn hơn tiếng trước. Pháp lệnh thông thường chỉ nổ một tiếng, Phùng A Tam không nghi ngờ gì nữa, nhìn Khang Quảng Lăng khẽ nói: “Đại ca! Thứ pháp lệnh này chính là của bản môn chế tạo.”

Chẳng mấy chốc có hơn ba mươi người đều ăn mặc theo kiểu nông thôn từ trên đỉnh núi đi xuống, tay cầm binh khí dài. Khi bọn họ xuống gần, mọi người mới nhìn rõ thì thấy trên tay họ không phải binh khí mà là những đòn khiêng bằng trúc. Giữa hai cái đòn trúc có buộc võng, người có thể ngồi được.

Đinh Xuân Thu mỉm cười nói: “Chủ nhân đã mời, quý vị chẳng nên khách khí, ngồi vào võng đi!” Bọn Huyền Nạn đều lên võng ngồi, cứ hai hán tử khiêng một người, nhanh nhẹn leo dốc lên núi. Đinh Xuân Thu đi trước, tay áo rộng thùng thình phất phơ trong gió. Lão không có vẻ gì hấp tấp nhưng chân cứ lướt đi tựa hồ không chấm đất, chỉ trong khoảnh khắc đã mất hút vào khu rừng trúc phía trước.

Đặng Bách Xuyên bị trúng Hóa Công Đại Pháp, vẫn cho rằng mình mắc phải tà pháp, chứ không phải kém sức. Bây giờ thấy khinh công của lão tuyệt diệu như vậy, mới biết rằng bản lĩnh lão cũng rất khủng khiếp, bất giác khâm phục nghĩ thầm: “Giả tỉ lão không dùng yêu thuật thì mình cũng không địch nổi.” Phong Ba Ác thẳng thắn khen luôn: “Khinh công lão yêu này thật là tuyệt diệu, Phong mỗ bội phục!”

Gã vừa mở miệng khen thì bọn đệ tử phái Tinh Tú đi áp giải cũng tranh nhau lên tiếng tán tụng sư phụ. Chúng cho rằng võ công Đinh Xuân Thu hiện nay vô địch thiên hạ, cả những bậc võ học đại sư tiền bối như Đạt Ma lão tổ gì gì đi nữa cũng không bằng được, thật là một kiểu nịnh bợ ai nghe cũng ngứa lỗ tai.

Bao Bất Đồng nói: “Các vị lão huynh! Phái Tinh Tú quả là có những tuyệt nghệ độc đáo, không tiền khoáng hậu, chưa có môn phái nào bì kịp.” Bọn đệ tử khoái chí hỏi lại: “Theo hảo hán thì môn nào lợi hại nhất trong võ công của bản phái?” Bao Bất Đồng đáp: “Không chỉ một môn mà ít ra là ba môn.” Bọn đệ tử lại càng cao hứng, hỏi: “Ba môn là những môn gì?”

Bao Bất Đồng nói: “Môn thứ nhất là Mã Thí Công (công phu rắm ngựa). Không khí trong quý phái hôi thối quá, nếu không luyện tinh thục môn này thì không thở nổi. Môn thứ hai là Pháp Loa Công (công phu thổi phồng), nếu không ra sức tán tụng thì chẳng những bị sư phụ ghét, mà giữa bạn đồng môn cũng tiêu diệt nhau không còn đất đứng. Còn môn thứ ba là Hậu Nhan Công (công phu mặt dày). Nếu không luyện môn này tới mức không biết liêm sỉ là gì, thì không thể luyện nổi hai kỳ công là Mã Thí Công và Pháp Loa Công.”

Bao Bất Đồng chưa nói ra đã yên trí là sẽ bị bọn đệ tử phái Tinh Tú nổi trận lôi đình nện cho tơi tả, nhưng khổ nỗi mấy câu này tựa như cục xương mắc trong cổ họng, không nói ra không được. Ai ngờ bọn chúng đều lẳng lặng gật đầu. Có tên nói: “Lão huynh thật là thông minh, hiểu thấu được kỳ công của bản phái. Ba loại thần công Mã Thí, Pháp Loa và Hậu Nhan rất khó luyện, người có kiến thức mới biết được cái hay của nó, còn số đông đều cho là tệ hại. Khi luyện Hậu Nhan Công tới mức coi thường được mọi điều thiện ác thị phi thì mới đủ hỏa hầu, gặp những lúc khó khăn mới khỏi thất bại.”

Bao Bất Đồng mở miệng châm chọc, gã không tưởng tượng nổi bọn này lại không hề cảm thấy bị xúc phạm, nên rất lấy làm kinh dị. Gã cười nói tiếp: “Thần công của quý phái vi diệu khôn lường. Tại hạ ngưỡng mộ vô cùng, muốn xin đại tiên mở lối chỉ dẫn thêm cho.”

Tên kia nghe Bao Bất Đồng gọi mình là đại tiên thì trong lòng phơi phới, nói: “Lão huynh không phải là người bản phái thì những chỗ ảo diệu trong thần công không thể đem truyền thụ cho lão huynh được, nhưng những đạo lý thô sơ thì nói cho lão huynh nghe cũng không sao. Quan hệ nhất là phải coi sư phụ như một vị thần minh, nếu lão gia phóng ra một phát rắm…”

Bao Bất Đồng cướp lời: “Đương nhiên phải coi là thơm. Lại còn phải ráng mà hít cho thấm sâu vào phế phủ, rồi tán dương cho thật mùi,” Người kia gật đầu nói: “Đúng lắm! Tư chất lão huynh rất tốt, xứng đáng đứng vào hàng ngũ bản phái, đáng tiếc là đã lầm đường theo đuổi bọn bàng môn tả đạo. Tuyệt nghệ của bản môn biến hóa thiên hình vạn trạng, nhưng bí quyết căn bản không phức tạp lắm, chỉ cần nhớ bốn chữ Mạt Sát Lương Tâm là đủ.”

Bao Bất Đồng gật đầu lia lịa nói: “Nghe đại tiên nói một lúc còn hơn đọc sách mười năm. Chả trách người xưa có câu: Sáng được nghe lời đạo đức, tối chết cũng không đáng tiếc. Tại hạ hâm mộ quí phái vô cùng, chỉ giận mình chưa được nhập môn. Chẳng hay đại tiên có tiến dẫn được chăng?” Người kia đáp: “Gia nhập bản phái không phải là chuyện dễ. Ta xem chừng lão huynh không chịu nổi những thử thách cực kỳ gian khổ.” Một tên đệ tử khác nói: “Nơi này có nhiều tai mắt, không nên nói chuyện nhiều. Gã họ Bao kia! Nếu người thực tâm muốn quy đầu bản phái, phải chờ tới lúc sư phụ vui vẻ, ta sẽ vì ngươi mà bẩm với sư phụ. Bản phái thu đồ đệ rất đông, ta xem ngươi gân cốt cũng không đến nỗi tệ, nếu được sư phụ ta phát lòng từ bi thu nhận thì về sau ắt có thành tựu.” Bao Bất Đồng trả lời một cách nghiêm trang: “Đa tạ, đa tạ! Bao mỗ tới lúc già rụng hết răng cũng chưa quên được ân đức của đại tiên.”

Bọn Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn nghe Bao Bất Đồng chọc ghẹo bọn đệ tử phái Tinh Tú thì không khỏi vừa tức mình vừa buồn cười, nghĩ thầm trong bụng: “Hạng người nịnh bợ vô liêm sỉ đến thế này e rằng trên đời hiếm có.”

Trong khi nói chuyện, đoàn người đã tiến vào một khe núi mọc toàn cây thông, gió thổi thông reo rào rạt tựa như tiếng sóng vỗ bờ. Đoàn người tiến sâu vào rừng thông một đoạn nữa thì đến trước ba gian nhà gỗ. Trước cửa, dưới một gốc cây lớn có hai người ngồi đối điện, phía sau người ngồi mé tả có ba người đang đứng.

Khi tiến vào gần đến nơi, Bao Bất Đồng thốt nhiên nghe thấy Lý Quỷ Lỗi ngồi ở chiếc võng sau mình hắng giọng lấy hơi dường như sắp lên tiếng, nhưng rồi lại thôi. Bao Bất Đồng quay lại nhìn thì thấy sắc mặt gã nhợt nhạt, vẻ cực kỳ sợ hãi, bèn hỏi: “Ngươi lại đóng vai gì vậy? Phải chăng là vở tuồng có ma quỉ nhát người?” Lý Quỷ Lỗi không nói không rằng, tựa như không nghe gã nói gì.

Đến nơi thì thấy giữa hai người đang ngồi có một phiến đá lớn, trên đó có vẽ bàn cờ. Bên phải là một ông lão vừa gầy vừa thấp, bên trái là một thanh niên ra dáng công tử. Bao Bất Đồng vừa nhìn đã nhận ra ngay Đoàn Dự, trong lòng cũng không thoải mái lắm, nghĩ thầm: “Gã tiểu tử này trước nay vốn đã vô lễ, hôm nay nhìn thấy lão gia đang xúi quẩy thế này, chắc hẳn sẽ buông lời chế giễu.”

Bàn cờ đục trên một phiến đá xanh lớn, những quân cờ trắng đen đều sáng bóng, lấp loáng dưới ánh mặt trời, hai bên đã đi hơn trăm nước cờ. Đinh Xuân Thu tiến lại nhìn, thấy ông lão gầy gò vừa hạ một quân cờ đen, nhíu mày như đang tính toán nước cờ biến hóa. Đoàn Dự đang cầm một quân cờ trắng do dự chưa đặt xuống. Bao Bất Đồng kêu to: “Này này, Đoàn tiểu tử! Ngươi thua rồi, lại đây chịu chung hoạn nạn với huynh đệ Bao mỗ đi.” Ba người đứng phía sau Đoàn Dự cùng quay đầu lại nhìn ra vẻ khó chịu, đó chính là bọn đại hộ vệ Chu Đan Thần.

Lúc đó đột nhiên nhóm Hàm Cốc bát hữu Khang Quảng Lăng, Phạm Bách Linh đều hấp tấp nhảy xuống võng, đến quì bên ông lão đang chơi cờ.

Bao Bất Đồng kinh ngạc hỏi: “Các ngươi làm trò quỉ gì thế?” Nhưng gã vừa hỏi xong đã tỉnh ngộ ngay, biết lão già gầy khẳng kheo kia là Lung Á lão nhân Thông Biện tiên sinh, tức là sư phụ của Hàm Cốc bát hữu. Nhưng gã lấy làm kỳ ở chỗ lão đang chạm trán đại địch là Tinh Tú Lão Quái Đinh Xuân Thu mà sao còn nhàn hạ đánh cờ được, hơn nữa đối thủ lại không phải là người quan trọng gì, chỉ là một tên đồ gàn không hiểu võ công.

Khang Quảng Lăng lên tiếng: “Lão nhân gia tráng kiện tỉnh táo, tám huynh đệ tiểu bối thật vui mừng khôn xiết.” Vì Hàm Cốc bát hữu đã bị Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà trục xuất khỏi môn phái, nên họ không dám dùng danh phận sư đồ để xưng hô. Phạm Bách Linh nói: “Huyền Nạn đại sư chùa Thiếu Lâm cũng đến thăm lão nhân gia đây.”

Tô Tinh Hà đứng dậy nhìn mọi người xá dài rồi nói: “Huyền Nạn đại sư giá lâm mà lão phu không ra xa nghênh tiếp, thật là đắc tội!” Lão chỉ nhìn qua một cái, lại vội quay vào bàn cờ.

Mọi người thấy Lung Á lão nhân chẳng những thính tai mà miệng vẫn nói như thường, chẳng câm chẳng điếc chi hết, ai nấy đều kinh ngạc.

Huyền Nạn đáp lễ nói: “Không dám, không dám!” Nhà sư thấy Tô Tinh Hà để hết tinh thần vào ván cờ thì nghĩ bụng: “Lão này ôm đồm đủ thứ, cầm, kỳ, thị, họa chẳng món nào là không giỏi. Chả trách võ công lão thua kém sư đệ.”

Giữa lúc im lặng, thốt nhiên Đoàn Dự lên tiếng: “Được lắm, cứ đi thế này!” rồi đặt một quân cờ trắng xuống bàn. Tô Tinh Hà có vẻ hoan hỉ, gật gật đầu rồi hạ một quân cờ đen ngay. Hai bên đi thêm mười mấy nước nữa, Đoàn Dự bỗng thở dài, lắc đầu nói: “Thế cờ Trân Lung biến ảo tinh diệu vô cùng, vãn bối không phá nổi.”

Vậy là Tô Tinh Hà thắng cuộc, thế mà lão lại tỏ vẻ buồn rầu nói: “Nước cờ của công tử vừa sâu sắc vừa nghiêm mật, mười mấy nước trước đã đến cảnh giới đăng phong tạo cực. Chỉ vì công tử không chịu nghĩ kỹ hơn một chút… Đáng tiếc, đáng tiếc! Hỡi ơi! Thật là đáng tiếc!” Lão than tiếc mấy lần liền, tỏ vẻ rất chân thành. Đoàn Dự lượm mười mấy quân cờ trắng lên bỏ vào hộp gỗ, Tô Tinh Hà cũng lượm mười mấy quân cờ đen dưới bàn cờ lên. Trên bàn cờ còn lại trận thế ban đầu.

Đoàn Dự lùi lại một bước, nhìn chằm chằm vào bàn cờ, nghĩ thầm: “Trận Trân Lung này chính là cuộc cờ ta đã thấy trong thạch động núi Vô Lượng. Không lẽ Thông Biện tiên sinh này có liên quan gì đến Thần Tiên tỉ tỉ ư? Lát nữa ta sẽ hỏi lại cho rõ ràng, nhưng không thể cho người khác nghe được, nếu không thì mọi người đều đến ngắm Thần Tiên tỉ tỉ, thật là xúc phạm đến nàng.”

Nhị đệ tử trong Hàm Cốc bát hữu là Phạm Bách Linh cũng là tay mê cờ. Gã quỳ ở đằng xa, thấy cuộc cờ này không phải là ván đấu chơi giữa sư phụ và vị công tử kia, mà là một thế Trân Lung do sư phụ mình bày ra để công tử kia phá giải, nhưng chàng không phá nổi. Hắn đang quỳ xuống đất nên nhìn không rõ, cứ phải nghển cổ lên. Tô Tinh Hà gọi: “Các ngươi lại cả đây! Bách Linh! Thế Trân Lung này quan hệ phi thường! Ngươi lại đây để coi cho rõ, nếu ngươi phá được thì thật là tốt.” Phạm Bách Linh mừng quá dạ một tiếng, rồi đứng dậy tiến lại bên bàn cờ chú ý nhìn.

Đặng Bách Xuyên khẽ hỏi: “Nhị đệ! Trân Lung là cái gì thế?” Công Dã Càn đáp: “Trong môn cờ vây thì Trân Lung là một loại thế cờ rất khó tính toán, cố ý sắp đặt ra để thách người khác phá giải.” Thông thường thế Trân Lung ít thì mười mấy con mà nhiều thì tới bốn năm chục con, nhưng ở đây có đến hơn hai trăm con, sinh hay kiếp đều khó mà lường được. Bàn cờ đã sắp đến tàn cục rồi, Công Dã Cần hiểu biết có hạn, gã nhìn bàn cờ một lúc mà không tính toán được gì bèn thôi không cố gắng nữa.

Phạm Bách Linh đã nghiên cứu vi kỳ đến mấy chục năm và đã thành một tay kỳ thủ nổi tiếng bậc nhất. Gã vừa trông vào bàn cờ đã thấy trong sinh có kiếp, lại có những nước cờ trường sinh, phản phục, phức tạp vô cùng. Gã cố trấn tĩnh, mới tính toán một nơi sống chết của đám cờ trắng góc phải, đã thấy khí huyết sôi lên. Gã định thần lại, phát giác ra ban nãy mình tính đám cờ trắng góc này thuộc về tử, mà thực ra nếu giết được một số cờ đen quanh đó thì vẫn còn đường vào chỗ sinh, nhưng liên quan rất nhiều. Gã suy nghĩ một lúc nữa thì thấy trước mắt tối sầm lại, hộc lên một tiếng rồi thổ máu tươi ra.

Tô Tinh Hà lạnh lùng nhìn Phạm Bách Linh, nói: “Thế cờ Trân Lung cực kỳ khó phá. Ta biết rằng tư chất ngươi có hạn, tuy rằng kỳ lực không yếu nhưng cũng khó mà giải được. Lúc này lại có lão tặc Đinh Xuân Thu bên cạnh, không chừng lão thi triển tà thuật làm mê hoặc tâm trí thì lại càng nguy hiểm. Vậy ngươi có thử phá giải không, hay là thôi?” Phạm Bách Linh đáp: “Sinh tử hữu mạng, đệ… đệ… vãn bối quyết tận tâm tận lực.” Tô Tinh Hà gật gật đầu nói: “Ngươi cứ từ từ mà suy nghĩ.” Phạm Bách Linh nhìn thế cờ hồi lâu rồi người lảo đảo, lại hộc máu tươi ra.

Đinh Xuân Thu cười nhạt nói: “Gã này chết mất, làm chi mà khổ thế? Lão tặc kia bày ra cạm bẫy này chỉ cốt để hành hạ rồi giết chết người ta thôi. Ngươi tự chui vào lưới rồi.”

Tô Tinh Hà đưa mắt lườm Đinh Xuân Thu hỏi: “Ngươi kêu sư phụ bằng gì?” Đinh Xuân Thu đáp: “Y là một tên lão tặc, ta kêu y bằng lão tặc chứ sao?” Tô Tinh Hà nói: “Lung Á lão nhân bữa nay không câm không tiếc nữa, chắc ngươi phải biết lý do tại sao chứ?” Đinh Xuân Thu nói: “Hay lắm! Người nói lời rồi lại nuốt lời. Đó là tự ngươi tìm lấy cái chết, đừng có trách ta tàn ác.”

Tô Tinh Hà thuận tay nhấc một phiến đá lớn bên mình đặt cạnh Huyền Nạn, cất tiếng: “Xin mời đại sư ngồi xuống đây.”

Huyền Nạn thấy Tô Tinh Hà vừa già vừa gầy khẳng gầy kheo, thân hình chưa chắc đã tới tám chục cân, thế mà lão nhấc phiến đá nặng ít ra cũng hai trăm cân dễ như chơi, tuyệt không cố gắng chút nào. Nhà sư nghĩ thầm: “Cứ nhìn cũng đủ biết công lực lão thâm hậu vô cùng. Chính mình lúc chưa bị mất võ công muốn nhấc tảng đá này lên cũng phải chật vật, đâu có được ung dung như lão.” Nhà sư chắp tay nói: “Đa tạ lão tiên sinh!”

Tô Tinh Hà lại nói: “Thế Trân Lung này do tiên sư của lão phu bày ra. Lão nhân gia đã mất ba năm tâm huyết mới sáng tác ra được thế cờ này, rất mong trên đời có người tri kỷ phá giải được. Tại hạ khổ công nghiên cứu trong ba mươi năm trời cũng chưa thành công.” Nói tới đây lão đảo mắt nhìn bọn Huyền Nạn, Đoàn Dự, Phạm Bách Linh một lượt rồi nói tiếp: “Huyền Nạn đại sư tinh thông thiền lý, chắc đã nghiệm ra, có người tốn công khổ luyện võ công bao nhiêu năm trời mà chưa chắc đã thấu triệt bằng người chỉ mất rất ít thời gian. Về kỳ lý cũng vậy, có khi đứa nhỏ chừng tám chín tuổi lại thắng được tay cao thủ. Tại hạ tuy rằng bất lực, nhưng những bậc anh tài trong thiên hạ rất nhiều, biết đâu lại có người phá được thế cờ này. Tiên sư qua đời, chỉ còn chút tâm nguyện này. Giả tỉ có người phá được thế cờ, hoàn thành tâm nguyện cho tiên sư thì lão nhân gia ở dưới suối vàng cũng mỉm cười khoan khoái.”

Huyền Nạn nghĩ thầm: “Thầy trò Thông Biện tiên sinh dạy nhau các môn cầm kỳ thi họa cùng tạp học, môn nào cũng đến chỗ tinh diệu. Họ dồn hết thông minh tài trí vào những nghề chơi, đến nỗi Đinh Xuân Thu hoành hành không còn úy kỵ gì nữa, vì không còn ai cấm đoán nổi. Như vậy thật là đáng buồn!”.

Bỗng lại nghe Tô Tinh Hà nói: “Vị sư đệ tại hạ đây…” Lão trỏ Đinh Xuân Thu nói tiếp: “Ngày trước y phản bội sư môn, hạ sát tiên sư và đánh tại hạ không sao trả đòn được. Lẽ ra tại hạ phải chết theo thầy cho trọn nghĩa, nhưng chưa hoàn thành được tâm nguyện của sư phụ, tìm được người giải phá thế Trân Lung thì có xuống suối vàng cũng chẳng dám nhìn mặt lão nhân gia. Vì lẽ đó mà tại hạ phải nhẫn nhục sống trên đời cho đến ngày nay. Mấy năm gần đây, tại hạ phải lập thệ với Đinh sư đệ là không nói không nghe gì nữa. Chẳng những một mình tại hạ biến thành Lung Á lão nhân, mà các đồ đệ mới thu nạp sau này cũng bị cưỡng bức cắt lưỡi chọc tai cho thành câm điếc. Hỡi ôi! Ròng rã ba mươi năm trời vẫn chưa được gì, thế Trân Lung của tiên sư để lại vẫn chưa có ai phá nổi. Vị công tử này phong tư tiêu sái…”

Bao Bất Đồng xen vào: “Gã này chưa chắc đã là anh tuấn, huống chi con người đẹp hay xấu thì đâu có liên quan gì đến chuyện đánh cờ? Sai bét, sai bét!” Tô Tinh Hà đáp: “Bên trong có mối quan hệ lớn lao.” Bao Bất Đồng nói: “Lão tiên sinh cũng đâu có phong lưu anh tuấn gì cho cam?” Tô Tinh Hà nhìn gã không nói gì, chỉ mỉm cười. Bao Bất Đồng nói: “Chắc lão tiên sinh cho rằng Bao mỗ còn xấu xa hơn nhiều phải chăng?”

Tô Tinh Hà không lý gì đến gã nữa, nói tiếp: “Đoàn công tử hạ được mười mấy quân đầu, đều là những nước cực kỳ tinh diệu. Tại hạ đang hy vọng tràn trề, ngờ đâu đi sai một nước đến nỗi bị thua.”

Đoàn Dự có vẻ thẹn thùng nói: “Tại hạ tư chất ngu độn đã phụ lòng kỳ vọng của lão trượng, thật xấu hổ vô cùng…”

Chưa đứt lời, bỗng nghe Phạm Bách Linh kêu to, miệng phun máu tươi ra như suối rồi ngã ngửa ra. Tô Tinh Hà khẽ nghiêng người, búng ba con cờ ra vèo vèo đánh trúng vào huyệt đạo trước ngực Bách Linh, gã thôi thổ huyết ngay.

Mọi người còn đang kinh ngạc, bỗng nghe đánh “cách” một tiếng, từ trên không bay xuống một vật trắng trúng vào bàn cờ.

Tô Tinh Hà nhìn lại, thì ra là một miếng gỗ cây tùng, rớt đúng vào điểm bát cửu ở vị khứ (tức là góc bên phải bàn cờ), rõ ràng đây là một nước đi. Lão ngẩng đầu lên nhìn xem thì thấy trên cây tùng ở cách năm trượng về bên trái có một mảnh trường bào lộ ra, rõ ràng có người nấp trên đó.

Tô Tinh Hà vừa kinh hãi vừa mừng thầm, nói: “Lại có một vị cao nhân gia lâm, lão phu vui sướng vô cùng” Lão đang cầm một quân cờ đen toan hạ xuống thì bỗng có tiếng vo vo nhè nhẹ, một vật màu đen bay từ sau lưng tới, rơi xuống điểm bát bát ở vị khứ, chính là chỗ Tô Tinh Hà muốn đặt cờ xuống.

Mọi người đều la lên một tiếng kinh ngạc, quay đầu nhìn ra thì không thấy ai hết. Cây tùng ở mé hữu không cao mấy, nếu có ai nấp ở đó thì trông thấy ngay, không hiểu người này nấp chỗ nào. Tô Tinh Hà nhìn lại thì thấy hạt đen này là một mẫu vỏ cây tùng vừa mới cạy ra, vị trí rất chuẩn, trong lòng thầm kinh hãi. Vật đen vừa rơi xuống thì từ cây tùng mé tả lại bắn xuống một hạt trắng, rớt vào điểm ngũ lục ở vị khứ.

Bỗng nghe tiếng vù vù vang lên, một hạt tròn màu đen bay trên không gian, rồi vừa xoáy vừa rớt xuống bàn cờ, trúng vào điểm tứ ngũ ở vị khứ. Vật này bay xoáy thành hình trôn ốc, khó mà biết phát ra từ đâu. Xem nó bay vòng vèo từ trên không mà rơi xuống rất chính xác thì đủ biết người đi nước cờ này có công phu phóng ám khí thật là khủng khiếp. Mọi người chung quanh đều khâm phục vô cùng, hoan hô rầm rộ.

Tiếng hoan hô chưa dứt, từ trên cây tùng vọng ra một âm thanh sang sảng: “Tuyệt kỹ phóng ám khí của Mộ Dung công tử quả nhiên thiên hạ vô song, thật đáng bội phục.” Đột nhiên có tiếng gió nhẹ rồi bên bàn cờ xuất hiện thêm một nhà sư đứng tuổi mặc tăng bào sắc xám, mắt sáng như sao, tướng mạo nghiêm trang, hé cười nửa miệng. Không ai nhìn rõ nhà sư này ở trên cây thông nhảy xuống lúc nào.

Đoàn Dự vừa nhìn thấy nhà sư thì giật mình kinh hãi, nghĩ thầm: “Lão ma đầu Cưu Ma Trí lại đến rồi!” Chàng lại nghĩ: “Chẳng lẽ người đi quân cờ trắng vừa rồi là Mộ Dung công tử sao? Thế là cuối cùng ta cũng gặp y.”

Cưu Ma Trí chắp tay trước ngực thi lễ với Tô Tinh Hà, Đinh Xuân Thu, Huyền Nạn đại sư, rồi nói: “Dọc đường tiểu tăng có nhận được thiệp mời đến kỳ hội của Thông Biện tiên sinh, không tự lượng sức mà đến đây để gặp cao thủ thiên hạ.” Lão lại hô lên: “Mộ Dung công tử! Hiện thân ra đi chứ!”

Sau một cây thông bỗng có tiếng cười nói vang lên, rồi hai người bước ra. Đoàn Dự mới nhìn thấy một người, trước mắt đã như tối sầm lại, bên tai vang lên những tiếng ù ù, miệng đắng nghét, toàn thân nóng bừng. Người này yểu điệu nhu mì, khoan thai bước tới, là con người chàng ngày đêm tưởng nhớ không lúc nào quên, chính thị Vương Ngữ Yên.

Ánh mắt nàng đầy vẻ ngưỡng mộ si mê, đang nhìn chăm chăm chàng thanh niên công tử kế bên. Đoàn Dự nhìn theo, thấy người đó trạc hai mươi bảy hai mươi tám tuổi, mặc áo sắc vàng nhạt, lưng đeo trường kiếm, phong tư tuấn nhã.

Đoàn Dự mới được thấy dung mạo Mộ Dung Phục lần đầu lòng chàng bỗng nhiên nguội lạnh, lẩm bẩm: “Người ta thường nói Mộ Dung công tử là rồng phượng trong loài người, quả nhiên danh bất hư truyền. Vương cô nương mến phục chàng là phải. Ôi thôi! Thế là ta đành đau khổ suốt đời.” Chàng tự trách, tự than, rồi lại tự thương mình, thẫn thờ không muốn nhìn Vương Ngữ Yên nữa, nhưng rồi không nhịn được lại liếc trộm nàng một cái, thấy dung nhan khuynh quốc khuynh thành đang hớn hở tươi cười, tựa hồ khoan khoái hoan hỉ vô cùng. Từ khi biết nàng, chưa bao giờ chàng thấy nàng vui vẻ như hôm nay. Bất giác chàng tự nhủ: “Trong mắt nàng chẳng hề có ta, chỉ đem lòng say mê biểu huynh. Bây giờ nàng thấy gã, trách nào chẳng cao hứng.”

Bốn người Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác đều đứng lên nghênh tiếp. Công Dã Càn nói nhỏ với Mộ Dung Phục về lai lịch ba người Tô Tinh Hà, Đinh Xuân Thu, Huyền Nạn. Bao Bất Đồng lại nói: “Gã đồ gàn họ Đoàn kia không biết võ công, khi nãy mới đánh cờ nhưng đã thua rồi.”

Mộ Dung Phục thi lễ với từng người một, ăn nói rất khiêm nhường. Mọi người đều không nghĩ Mộ Dung Cô Tô vang danh thiên hạ lại là một chàng thanh niên tuấn tú đến thế, đều rất ngưỡng mộ, ngay cả Đinh Xuân Thu cũng nói mấy câu khách sáo.

Sau cùng Mộ Dung Phục mới quay sang Đoàn Dự, gật đầu nói: “Đoàn huynh, khỏe chứ?” Vẻ mặt Đoàn Dự đang rất thảm hại, chàng lắc đầu đáp: “Chỉ có huynh mới khỏe, còn tại hạ… tại hạ chẳng khỏe chút nào.” Vương Ngữ Yên “A” lên một tiếng, gọi: “Đoàn công tử! Huynh cũng ở đây ư?” Đoàn Dự đáp: “Vâng. Tại hạ… tại hạ…”.

Mộ Dung Phục trừng mắt nhìn chàng rồi không để ý nữa, đến bên bàn cờ cầm một quân cờ trắng đặt xuống bàn đá. Cưu Ma Trí khẽ cười, nói: “Mộ Dung công tử! Võ công của công tử cao cường thật, nhưng kỳ thuật chắc chỉ tầm thường thôi.” Lão nói xong, đặt một quân cờ đen xuống. Mộ Dung Phục đáp: “Chưa chắc tại hạ đã chịu thua đại sư.” Chàng nói xong, cũng cầm một quân cờ trắng đặt xuống bàn. Cưu Ma Trí lập tức hạ xuống một quân.

Nãy giờ Mộ Dung Phục tính toán thế Trân Lung này, tự tin có thể phá giải. Nào ngờ đối phương chỉ đi một quân ngoài dự liệu là bao nhiêu nước y tính toán sẵn đều hóa ra công cốc. Qua một lúc lâu y mới đi được một quân. Cưu Ma Trí lại lập tức đi một quân. Hai người một nhanh một chậm, đi hơn hai mươi nước nữa, bỗng Cưu Ma Trí cười ha hả rồi nói: “Mộ Dung công tử ơi, không ăn thua rồi!” Mộ Dung Phục tức mình nói: “Đại sư chớ vội mừng, chính mình cũng có phá được đâu?” Cưu Ma Trí vẫn cười, đáp: “Thế Trân Lung này không thể phá giải được, người ta bày ra chỉ cốt để trêu ghẹo nhau thôi. Tiểu tăng tự biết mình, không muốn hao phí tâm lực vào chuyện vô ích. Mộ Dung công tử! Công tử cùng tiểu tăng mới loay hoay ở một góc biên cương còn chưa thoát ra được, nghĩ làm chi đến chuyện đuổi hươu ở Trung Nguyên?”

Mộ Dung Phục nghe mấy câu này bao hàm nhiều ẩn ý sâu xa, không khỏi giật mình, trong tâm trí chàng nảy ra bao nhiêu suy nghĩ. Bên tai cứ vang đi vang lại mấy câu: “Công tử cùng tiểu tăng mới loay hoay ở một góc biên cương còn chưa thoát ra được, nghĩ làm chi đến chuyện đuổi hươu ở Trung Nguyên?”

Cảnh vật trước mắt chàng dần dần mờ đi; những quân cờ đen, trắng trên bàn tựa hồ biến thành quân lính thật. Phía Đông một đoàn người ngựa, phía Tây một khu doanh trại, địch vây khốn ta, ta cũng vây lại địch thành một thế trận, chém giết lung tung không phân thắng bại. Mộ Dung Phục tưởng như binh mã Đại Yên đang bị địch bao vây, mình tả xung hữu đột đến kiệt lực cũng không có cách nào dẫn binh mã thoát ra khỏi gọng kìm của địch. Chàng càng nghĩ càng nóng ruột, rồi đột nhiên la hoảng: “Vận mệnh nhà Mộ Dung đã hết rồi, khó lòng phục quốc được! Bao nhiêu tâm cơ hao tổn đã mấy đời, rốt cuộc biến thành một trường ảo mộng. Ôi chao! Đó là số mệnh, còn biết làm gì nữa?” Bất ngờ chàng thét lên một tiếng, rút kiếm đâm vào cổ toan tự vận.

Mọi người ai nấy đều bất ngờ. Bọn Đặng Bách Xuyên nhất tề nhảy lại, song công lực đã mất hết, nên chậm mất một bước.

Đoàn Dự vừa hốt hoảng kêu lên: “Đừng làm thế!” vừa chĩa ngón tay trỏ ra điểm. Chỉ nghe “véo” một tiếng, thanh trường kiếm trong tay Mộ Dung Phục đã rớt xuống đất. Cưu Ma Trí cười nói: “Đoàn công tử! Lục Mạch Thần Kiếm quả là tuyệt diệu!”

Mộ Dung Phục thấy thanh trường kiếm văng khỏi tay thì giật nảy mình như người đang mơ chợt tỉnh. Vương Ngữ Yên nắm lấy tay gã, vừa khóc vừa nói: “Biểu huynh! Phá giải được hay không thế Trân Lung này đâu có gì quan hệ? Sao biểu huynh phải khổ sở đến thế?”

Mộ Dung Phục mơ hồ hỏi: “Ta làm sao vậy?” Vương Ngữ Yên nói: “May mà Đoàn công tử đánh rớt được thanh trường kiếm trong tay biểu huynh, nếu không thì… không thì…” Công Dã Càn nói: “Thế Trân Lung này mê hoặc lòng người, dường như có tà thuật bên trong. Công tử đừng nghĩ tới làm gì nữa!” Mộ Dung Phục quay lại nhìn Đoàn Dự hỏi: “Phải chăng chiêu vừa rồi đúng là một kiếm chiêu trong Lục Mạch Thần Kiếm? Đáng tiếc là tại hạ chưa trông rõ, các hạ có thể thi triển lại cho tại hạ được mở rộng tầm mắt chăng?”

Đoàn Dự chăm chăm nhìn Cưu Ma Trí, cứ sợ lão thấy mình xuất chiêu Lục Mạch Thần Kiếm lại nảy ra ý định bắt đi. Lộ kiếm pháp này lúc sinh nghiệm lúc không, nếu lão xuất thủ thì chàng không chống nổi. Chàng kinh hãi trong lòng, bèn bước sang trái ba bước cho xa Cưu Ma Trí, ở giữa lại có bọn ba người Chu Đan Thần, rồi mới đáp: “Tại hạ hốt hoảng trong lòng nên may mắn mà vận kình xuất chiêu được, muốn thử lại thì khó lắm. Vừa rồi công tử không trông thấy ư?”

Mộ Dung Phục bẽn lẽn đáp: “Lúc nãy tại hạ mê man, dường như có ma quỷ gì ám ảnh nên không biết gì hết.”

Bao Bất Đồng la lên một tiếng rồi nói: “Phải rồi! Đúng là Tinh Tú Lão Quái đứng bên thi triển tà pháp! Công tử phải cẩn thận mới được!”

Mộ Dung Phục liếc xéo Đinh Xuân Thu một cái, rồi quay sang Đoàn Dự tạ ơn: “Tại hạ trúng phải tà thuật, may mà được huynh đài cứu, cảm kích không sao nói hết. Đoàn huynh thân mang tuyệt kỹ Lục Mạch Thần Kiếm, có phải là nhân vật họ Đoàn ở Đại Lý hay không?” Bỗng nghe âm thanh lảnh lót từ xa vọng đến: “Đoàn gia Đại Lý có ai đến đấy, có phải Đoàn Chính Thuần không?”. Đó chính là giọng của Ác quán mãn doanh Đoàn Diên Khánh.

Chu Đan Thần lập tức mặt biến sắc. Chỉ nghe những tiếng kim khí va vào nhau loảng xoảng, rồi có giọng la lên: “Lão đại của chúng ta mới chính hiệu là Đại Lý Đoàn thị, còn bao nhiêu là hàng giả hết.” Đoàn Dự mỉm cười nói: “Té ra đồ đệ của ta cũng đã đến rồi.”

Tiếng kêu của Nam Hải Ngạc Thần chưa hết vang vọng, từ trên núi bỗng có một người phi thân xuống nhanh như chớp, chính là Vân Trung Hạc. Lão hô to: “Tứ Đại Ác Nhân bái phỏng Thông Biện tiên sinh, đồng thời xin tham dự kỳ hội này.” Tô Tinh Hà đáp: “Hoan nghênh chư vị đến đây.” Lão nói vừa xong, Vân Trung Hạc đã xẹt đến trước mặt mọi người.

Một lúc sau, ba người Đoàn Diên Khánh, Diệp Nhị Nương, Nam Hải Ngạc Thần cùng đến nơi, Nam Hải Ngạc Thần quát lớn: “Lão đại chúng ta nhận được thiệp mời liền rất hoan hỉ, tạm gác mọi chuyện để đến đây đánh cờ. Võ công của lão là thiên hạ vô địch, so với Nhạc lão nhị ta còn lợi hại hơn nhiều. Ai không phục có thể lên đây cũng lão đối ba chiêu. Các ngươi muốn đơn đả độc đấu hay xông lên đánh loạn ẩu, sao không rút binh khí ra đi?” Diệp Nhị Nương nói: “Lão tam, ngươi nói bậy rồi. Đây là đấu cờ chứ không phải đấu võ, rút binh khí làm gì?” Nam Hải Ngạc Thần vặn lại: “Ngươi mới là nói bậy. Nếu không phải là động thủ đánh nhau thì lão đại đến đây để làm gì?” Đoàn Diên Khánh mắt vẫn nhìn bàn cờ không chớp. Lão ngưng thần suy nghĩ rất lâu rồi mới thò cây thiết trượng bên tay trái vào hộp cờ. Đầu gậy của lão tựa hồ như có sức hút, nhặt một quân cờ trắng đặt lên bàn. Huyền Nạn khen: “Võ công họ Đoàn nước Đại Lý quả là độc đáo cõi Thiên Nam, tiếng đồn không sai.”

Khi xưa Đoàn Dự đã được xem thái tử Diên Khánh đấu cờ với Huỳnh Mi Tăng, biết lão nội công đã thâm hậu mà lại rất cao cờ, không chừng có thể phá được thế Trân Lung này cũng nên. Chu Đan Thần kề tai chàng nói nhỏ: “Công tử! Chúng ta lẻn đi thôi.” Nhưng Đoàn Dự vừa muốn xem Đoàn Diên Khánh đánh cờ, lại vừa muốn ngắm nghía Vương Ngữ Yên cho thỏa niềm thương nhớ bấy lâu, chỉ “ừ, ừ” mấy tiếng, lại bước đến gần bàn cờ hơn.

Tô Tinh Hà đã nghiên cứu thế Trân Lung thiên biến vạn hóa này đến mức thuộc lòng mọi nước đi, nên vừa thấy thái tử Diên Khánh hạ cờ xuống, lập tức lão lấy một quân cờ đen đi luôn. Đoàn Diên Khánh lại nghĩ một lúc lâu mới đi thêm một nước. Tô Tinh Hà cất tiếng khen: “Nước cờ này của các hạ thật là cao minh. Để xem những nước sau có phá được quan ải, tìm ra lối thoát chăng?” Nói xong, lão đặt một con cờ đen xuống để cản phá, Đoàn Diên Khánh lại hạ một quân trắng xuống.

Nhà sư trẻ tuổi chùa Thiếu Lâm là Hư Trúc bỗng kêu lên: “Không đi nước này được đâu!” Vừa rồi gã thấy Mộ Dung Phục đi đúng như nước này rồi sau cùng rút kiểm tự sát, nên sợ Đoàn Diên Khánh cũng theo vết xe đổ. Gã không yên lòng, bèn lên tiếng nhắc nhở.

Nam Hải Ngạc Thần cả giận quát: “Tên hòa thượng nhóc con này dám nói đại ca của lão gia đi nước đó không được ư?” Lão nắm lấy lưng nhà sư nhấc lên. Đoàn Dự nói ngay: “Đồ đệ ơi, đừng hại vị tiểu sư phụ đó!” Từ lúc mới đến, Nam Hải Ngạc Thần đã nhìn thấy Đoàn Dự, trong lòng hổ thẹn, đã định bụng không nói gì với chàng là tốt nhất. Lão nghe chàng gọi, tức mình nhưng không biết làm sao, đành hậm hực đáp: “Không hại thì thôi, có gì quan trọng đâu?”

Mọi người thấy Nam Hải Ngạc Thần không những tuân lời Đoàn Dự, mà nghe chàng gọi y là đồ đệ cũng không cãi lại, thì đều rất ngạc nhiên. Chỉ có bọn Chu Đan Thần là hiểu chuyện, không khỏi cười thầm.

Hư Trúc ngồi dưới đất, trong lòng suy nghĩ lung tung: “Sư phụ ta đã dạy, Phật tổ truyền lại ba phương pháp tu tập là Giới, Định, Tuệ. Trong kinh Lăng Nghiêm có nói: Nhiếp tâm là giới, từ giới sinh ra định, từ định chuyển thành tuệ. Bọn ta là người trần tục ngu độn, vì thế Đạt Ma tổ sư đã dạy cho những phương pháp học võ để nhiếp tâm, thế thì cũng có thể học đánh cờ để nhiếp tâm. Đấu võ tất có thắng bại, đấu cờ cũng có thắng bại, đều là chuyện trái ngược với thiên lý, nên bất luận học võ hay chơi cờ đều phải có tâm không phân biệt thắng bại. Những chuyện như tụng kinh, ăn uống, đi dạo, không có tâm thắng bại thì dễ, nhưng thí võ đấu cờ mà bỏ được tâm thắng bại thì khó vô cùng. Nếu trong lúc thí võ đấu cờ mà không có tâm thắng bại thì đã gần đạt đạo lắm rồi. Trong kinh Pháp Cú có nói: Thắng thì sinh thù oán, bại thì sinh tự ti, nếu không có tâm thắng bại thì tự nhiên thanh tịnh an ổn. May mà võ công của ta không giỏi, kỳ thuật lại thấp kém, khi cùng sư huynh đệ thí võ đấu cờ lúc nào cũng thắng ít bại nhiều, thường được sư phụ khen là vô sân vô oán, biết coi nhẹ chuyện hơn thua. Sao hôm nay ta mới thấy một nước cờ của Đoàn thí chủ đã sợ lão bị thua mà mở miệng chỉ điểm? Huống chi ta chẳng phải đệ nhất kỳ thủ, làm sao chỉ điểm người khác được? Nước cờ này của lão thì giống Mộ Dung công tử, nhưng biết đâu sau này lại biến hóa khác biệt, ta làm sao biết chắc mà khuyên ngăn? Thế là ta phạm vào điều tự cao tự mãn rồi.”

Đoàn Diên Khánh đi mỗi nước cờ lại phải suy nghĩ một lúc, càng về sau càng lâu, khi lão đi được hơn hai mươi nước thì mặt trời đã ngả về tây. Đột nhiên Huyền Nạn cất tiếng nói: “Đoàn thí chủ! Mười nước đầu thí chủ đi theo đường chính, nhưng từ nước thứ mười một trở đi lại rẽ sang đường tà, càng về sau càng sai lệch, không còn cách nào cứu vãn được nữa!” Vẻ mặt của Đoàn Diên Khánh cứ trơ trơ như xác chết, không để lộ tí cảm xúc nào, nhưng trong cổ họng phát ra thanh âm: “Phái Thiếu Lâm của đại sư là chính phái, vậy theo tôn ý thì có thể phá giải được thế Trân Lung này bằng đường chính đạo không?” Huyền Nạn thở dài nói: “Thế cờ này chính không phải chính, tà chẳng phải tà, dùng chính đạo phá không xong, mà theo tà đạo cũng không phá được!”

Đầu thiết trượng của Đoàn Diên Khánh dừng lại trên không, người lão run lên, nghĩ mãi không đi được. Hồi lâu lão lên tiếng: “Trước không có đường đi, sau đó quân truy sát. Đi đường chính không được, theo nẻo tà chẳng xong, thật là đau khổ!” Lão vốn thuộc chính tông họ Đoàn nước Đại Lý, nhưng về sau đi vào tà đạo, câu nói của Huyền Nạn vô tình khiến lão xúc động mãnh liệt. Hoàn cảnh lão cũng tương tự như Mộ Dung công tử, dần dần nhập vào ma chướng.

Thế cờ Trân Lung biến ảo trăm chiều, tùy theo bản ngã của con người mà thay đổi. Kẻ tham tài thì vì lòng tham mà sai lầm, người hay phẫn nộ thì lại vì nóng giận mà lỡ nước. Đoàn Dự thua cuộc là vì lòng nhân từ quá nặng biến thành nhu nhược, không nỡ thí quân. Mộ Dung Phục thất thủ là vì tham quyền vị bất chấp mọi thứ, nhất quyết không chịu lép vế, thí quân liều lĩnh. Còn nỗi hận suốt đời của Đoàn Diên Khánh là sau khi thành người tàn phế, không thể không bỏ võ học gia truyền chính tông, đành phải học pháp thuật bàng môn tả đạo. Mỗi khi lão phải để hết tâm trí vào việc gì thì ngoại ma xâm nhập khiến cho đầu óc hoang mang hỗn loạn.

Đinh Xuân Thu cười khẩy nói: “Đúng thế! Người ta lạc bước từ chính sang tà thì dễ, chứ cải tà qui chính thì khó vô cùng. Than ôi! Cuộc đời của ngươi hỏng rồi, hỏng rồi, thật là đáng tiếc! Lỡ bước thành thiên cổ hận, quay đầu trở lại không xong!” Lão nói mấy câu này đầy vẻ thương xót, nhưng Huyền Nạn cùng những tay cao thủ đều biết rõ Tinh Tú lão quái chẳng tử tế gì, nhân lúc cháy nhà mà cướp của, chỉ muốn Đoàn Diên Khánh tẩu hỏa nhập ma để trừ khử một đối thủ lợi hại.

Quả nhiên Đoàn Diên Khánh ngồi thừ mặt ra, nói bằng một giọng thê thảm: “Lão phu đang ở ngôi thái tử Đại Lý, thế mà nay lạc lõng giang hồ đến nỗi thân tàn ma dại, thật là xấu hổ với tiền nhân.”

Đinh Xuân Thu lại đổ thêm dầu vào lửa: “Các hạ chết xuống cứu tuyền cũng chẳng mặt mũi nào trông thấy tiền nhân họ Đoàn, nếu biết liêm sỉ thì tự tử cho rồi, cũng còn chút xíu anh hùng hào kiệt. Ôi! Các hạ tự tử đi thôi, tự tử đi thôi!” Lão nói bằng một âm điệu uyển chuyển khiến người nghe phải mềm lòng, người nào công lực tầm thường thì ắt phải mê man.

Đoàn Diên Khánh lẩm bẩm: “Ôi! Tự tử đi thôi!”. vừa nói vừa từ từ giơ thiết trượng lên điểm vào ngực mình. Nhưng công lực lão rất thâm hậu, còn ngấm ngầm kháng cự, tựa hổ trong thâm tâm lão có tiếng cãi lại: “Không được! Không được! Điểm mạnh vào thì hỏng bét!” Nhưng cây tả trượng cứ dần dần tiến vào từng tấc một.

Lúc này chung quanh Đoàn Diên Khánh có rất nhiều cao thủ, Huyền Nạn lấy đạo từ bị làm gốc, muốn cảnh tỉnh lão, nhưng công lực đã bị mất hết không làm gì được, mở miệng nhắc nhở đã vô ích mà còn tai hại thêm. Tô Tinh Hà vì lề luật của sư phụ mà không dám cứu viện, Mộ Dung Phục biết Đoàn Diên Khánh không phải là người tốt, nếu lão chết đi thì thiên hạ bớt được mối hại lớn, lại càng hay. Cưu Ma Trí là con người ưa gieo tai rắc họa, lão chỉ cười khẩy ngồi nhìn. Đoàn Dự cùng Du Thản Chi tuy công lực thâm hậu nhưng lại không hiểu gì chuyện trước mắt. Vương Ngữ Yên tuy biết nhiều những môn võ công các phái, song chẳng hiểu gì về bàng môn tả đạo. Diệp Nhị Nương nghĩ rằng Đoàn Diên Khánh đã đè đầu mình mấy chục năm, nhiều khi vô cớ cũng nóng giận quát tháo, bây giờ thấy lão sắp tự sát cũng không thèm ra tay tương trợ. Bọn Đặng Bách Xuyên, Khang Quảng Lăng đã mất hết công lực, mà cũng chẳng muốn dây vào chuyện giữa Tinh Tú Lão Quái với Đệ Nhất Ác Nhân làm gì.

Chỉ còn Nam Hải Ngạc Thần là sốt sắng. Lão thấy đầu trượng Đoàn Diên Khánh chỉ còn cách ngực vài tấc, nếu chần chừ giây lát để đầu gậy điểm vào tử huyệt là hết đời. Lão bèn la lên: “Lão đại! Hãy đón lấy nhà sư này!”, rồi xách Hư Trúc liệng tới trước mặt Đoàn Diên Khánh.

Đinh Xuân Thu la lên: “Cút đi! Đừng xen vào phá quấy!” rồi phóng chưởng ra. Nam Hải Ngạc Thần đã dùng hết sức để liệng Hư Trúc, nhưng vẫn bị phát chưởng ôn nhu của Đinh Xuân Thu hất ngược trở lại. Lão đưa hai tay đón lấy Hư Trúc, toan liệng tới Đoàn Diên Khánh lần nữa. Lão không ngờ chưởng lực của Đinh Xuân Thu hùng hậu vô cùng, chứa đựng đến ba luồng kình lực. Tay lão vừa nắm lấy Hư Trúc thì hai mắt lão trợn lên, loạng choạng lùi lại ba bước, vừa sắp đứng vững thì luồng kình lực thứ hai ùa đến khiến hai đầu gối lão nhũn ra, ngồi phệt xuống đất. Nam Hải Ngạc Thần đã tưởng đến đây là hết, không ngờ lại còn luồng kinh lực thứ ba ập tới khiến lão ngồi không vững, lại bị hất lộn ngược ra sau một vòng. Hư Trúc đang bị hai tay lão nắm lấy, lúc này lại bị lão đè lên người cơ hồ ngạt thở. Nam Hải Ngạc Thần vừa ngồi vững lại được, sợ Đinh lão quái còn luồng hậu kình thứ tư, liền nắm lấy Hư Trúc giơ lên đón đỡ. Nhưng mãi không thấy luồng kình lực thứ tư, Nam Hải Ngạc Thần bèn quắc mắt lên thóa mạ: “Con mẹ nó!”, rồi để Hư Trúc xuống đất.

Lúc Đinh Xuân Thu phân tâm phóng chưởng, áp lực thôi miên giảm xuống, cây trượng của Đoàn Diên Khánh tạm thời ngừng lại, chỉ còn cách ngực hai tấc. Đinh Xuân Thu lại nói: “Không kịp rồi! Không kịp rồi! Đoàn Diên Khánh, ngươi tự tử đi thôi, tự tử đi thôi, đừng chần chờ nữa!” Đoàn Diên Khánh nói: “Phải rồi! ta sống trên đời cũng chẳng ích gì, tự tử đi thôi!” Lão nói câu này thì đầu trượng lại từ từ đâm vào.

Hư Trúc nổi dạ từ bi, chỉ mong cứu mạng người. Y biết muốn giải trừ ma chướng ám ảnh Đoàn Diên Khánh thì phải bắt đầu từ cuộc cờ này, nhưng kỳ nghệ của mình thô thiển, thật không dám nghĩ tới chuyện giải phá thế Trân Lung cực kỳ phức tạp. Y thấy hai mắt Đoàn Diên Khánh trơ ra nhìn vào cuộc cờ, nguy cơ trong khoảnh khắc, đột nhiên trong lòng chợt động, nghĩ thầm: “Ta không phá được thế cờ thì cũng phải đi loạn lên một lúc để cho lão phân tâm, tỉnh lại là sống được.” Hư Trúc liền nói: “Vãn bối lại phá thế cờ đây!” Y lại bên Tô Tinh Hà, thò tay vào hộp lấy một quân cờ trắng, nhắm mắt đặt xuống bàn rồi cười ha hả.

Hư Trúc chưa mở mắt ra đã nghe Tô Tinh Hà giận dữ quát lên: “Bậy bạ! Ngươi chỉ vào đây phá quấy! Làm gì có lối chơi cờ tự sát kiểu này?” Y mở mắt ra, không khỏi tự thẹn, mặt đỏ bừng lên,.

Thì ra y nhắm mắt hạ cờ lại đúng vào chỗ quân đen đang bao vây, bên cờ trắng chỉ còn duy nhất một điểm đó để làm chỗ thở. Phép đánh cờ vây là phải tranh giành đất sống, thế mà Hư Trúc lại tự đặt quân trắng xuống để chẹn họng không khác gì tự sát. Bên cờ đen lại sắp được đi một quân nữa, thắng bại đã rõ ràng.

Bọn Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Dự đều nổi lên cười ha hả. Huyền Nạn thì lắc đầu quầy quậy. Phạm Bách Linh tuy đang suy nhược cũng không nhịn được, reo lên: “Nước đi thế này thì không cười sao được?”

Tô Tinh Hà nói: “Tiên sư của lão phu đã có di mệnh: Thế Trân Lung này bất luận là ai cũng có thể tham gia phá giải. Nước đi của tiểu sự phụ tuy khác với lề lối thông thường, nhưng vẫn là một nước cờ không phạm luật.” Lão vừa nói vừa nhặt những quân cờ trắng mà Hư Trúc đã tự giết đem bỏ ra ngoài, rồi lại đi một quân đen xuống.

Đoàn Diên Khánh la lên một tiếng thật to, rồi như người đang mơ mộng choàng tỉnh giấc. Lão đưa mắt nhìn Đinh Xuân Thu nói: “Tinh Tú Lão Quái! Người thừa lúc ta gặp nguy mà ngầm thi độc kế. Việc này không thể bỏ qua được.”

Đinh Xuân Thu quay lại nhìn Hư Trúc bằng con mắt đầy căm tức, mắng thầm: “Thằng trọc con chết đâm này!”.

Đoàn Diên Khánh nhìn thế cờ thấy đã có biến hóa, lão tự biết mình sống sót là nhờ Hư Trúc cứu viện, trong lòng đâm ra có thiện cảm. Lão nghĩ thế nào Đinh Xuân Thu cũng hằn học báo thù Hư Trúc, bèn lăng lẽ ngồi bên để chiếu cố cho nhà sư. Lão nghĩ thầm: “Cao tặng Huyền Nạn có mặt tại đây, chắc Tinh Tú Lão Quái cũng không làm gì nổi môn hạ phái Thiếu Lâm. Nhưng giả tỉ Huyền Nạn cũng bị hôn mê không che chở được thì ta phải ra tay cứu viện, không thể để y uổng mạng vì ta.”

Bỗng nghe Tô Tinh Hà quay lại hỏi Hư Trúc “Tiểu sư phụ! Tiếu sư phụ đã tự giết một đám quân cờ của mình, bây giờ bên đen lại áp bức thêm một bước nữa, đối phó thế nào đây?” Hư Trúc mỉm cười đáp: “Tiểu tăng chơi cờ rất kém, chỉ đi bừa một nước cốt để cứu người. Bây giờ tiểu tăng không biết đi thế nào nữa, xin lão tiền bối lượng thứ cho.”

Tô Tinh Hà sa sầm nét mặt nói: “Tiên sư ta bày ra thế Trân Lung này để mời cao thủ khắp thiên hạ đến phá giải, phá giải không được cũng không sao, ai lỡ mang họa vào thân là lỗi tự mình. Ngươi đến đây phá quấy là khinh mạn tiên sư. Bất kể phái Thiếu Lâm nhà ngươi người nhiều thế mạnh đến đâu, lão phu tuy vừa cầm vừa điếc cũng liều chết để bảo vệ danh dự tiên sư.” Lão đang cãi nhau mà tự xưng là vừa cầm vừa điếc nghe thật buồn cười, nhưng râu lão đang vểnh lên, thanh âm sát phạt như lệnh vỡ, vẻ mặt cực kỳ hung dữ, nên chẳng ai dám cười ra tiếng. Hư Trúc chắp tay trước ngực thi lễ nói: “Lão tiền bối…”

Tô Tinh Hà quát lớn: “Hạ quân xuống đi, nói nhiều vô ích! Tâm huyết của tiên sư không thể để người khác đến giỡn chơi được.” Lão vung tay phải phóng ra một chưởng đánh “sầm” một tiếng, cát bụi bay mù, trước mặt Hư Trúc xuất hiện một cái hố sâu đến mấy thước. Chương lực mãnh liệt phi thường, nếu lão đánh nhích lên một thước thì xương cốt Hư Trúc sẽ nát ra như cám.

Hư Trúc sợ quá, trống ngực đập thình thình, giương mắt nhìn Huyền Nạn, chỉ còn biết mong sư bá tổ cứu nguy. Huyền Nạn chơi cờ chẳng giỏi gì, võ công lại mất hết, tuyệt chẳng có cách nào cứu được y. Lão tăng đã toan muối mặt năn nỉ Tô Tinh Hà, bỗng thấy Hư Trúc thò tay vào hộp lấy ra một con cờ trắng đặt xuống bàn, vào khoảng trống phía sau những con cờ trắng đã bị bắt.

Con cờ này đi rất đúng phép tắc. Suốt ba mươi năm trời Tô Tinh Hà đã nghiên cứu thế Trân Lung này rất kỹ, từng đặt ra hàng ngàn hàng vạn thế biến, nên bất cứ diễn biến ra sao, hậu quả đến đâu, lão thuộc lòng hết. Nhưng lão chưa bao giờ nghĩ tới nước cờ tự sát kỳ cục như của Hư Trúc vừa rồi. Dù là người mới học đánh cờ cũng không đi ngớ ngẩn đến thế, chẳng khác gì người học võ cầm kiếm đâm vào cổ mình. Thế mà không ngờ bên trắng tự sát cả một đám quân rồi cục diện biến thành sáng sủa hơn. Bên đen dĩ nhiên vẫn có ưu thế, nhưng bên trắng cũng rộng đường xoay xở không giống như trước, giữ được chỗ nọ bỏ mất chỗ kia. Cục diện quái lạ này thì Tô Tinh Hà có nằm mơ cũng không thấy. Nét mặt đầy vẻ kinh ngạc, lão suy tính hồi lâu mới hạ một quân cờ đen xuống.

Thì ra lúc Hư Trúc thấy Tô Tinh Hà phong chưởng dọa mà sư bá tổ chẳng nói chẳng rằng, y đang luống cuống, bỗng một thanh âm nhỏ xíu lọt vào tai: “Đặt cờ xuống điểm tam cửu ở vị bình (góc dưới trái).” Hư Trúc chẳng hiểu ai mách nước, cũng chẳng biết là đúng hay sai, cứ cầm quân cờ trắng đặt xuống điểm tam cửu ở vị bình. Tô Tinh Hà hạ cờ đen rồi, thanh âm nhỏ nhẹ lại lọt vào tai Hư Trúc: “Điểm nhị bát ở vị bình.” Hư Trúc lại đặt cờ theo đúng lời mách bảo.

Quân cờ này vừa đặt xuống, bọn Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Dự đều reo lên một tiếng kinh ngạc: “Úi chà!” Hư Trúc ngẩng đầu lên thì thấy người nào cũng ra chiều khâm phục mình, biết ngay đó là một nước cờ tuyệt diệu. Chính Tô Tinh Hà cũng tỏ vẻ vừa hoan hỉ vừa lo lắng. Cặp lông mày của lão nhíu lại.

Hư Trúc sinh nghi tự hỏi: “Sao lão lại có vẻ thích thú? Hay là ta đi nước này sai mất rồi?” Nhưng rồi y lại nghĩ: “Bất luận ta đi trúng hay trật, thì cũng ráng đánh thêm mười nước nữa, để tỏ ra không phải ta cố ý phá quấy làm nhục tiên sư lão, thì lão không trách mình vào đâu được nữa.” Tô Tinh Hà ngẫm nghĩ hồi lâu mới đặt con cờ đen xuống, Hư Trúc lại nghe thanh âm mách bảo, liền tuân theo mà hạ quân cờ trắng, vừa đi cờ vừa để ý quan sát sư bá tổ xem có phải người đã ngấm ngầm giúp mình không. Nhưng y thấy Huyền Nạn thủy chung vẫn không mở miệng, sắc mặt vẫn bồn chồn.

Thanh âm lọt vào tai Hư Trúc rõ ràng là phép Truyền Âm Nhập Mật của người có võ công thượng thừa, muốn nói với ai thì chỉ mình người đó nghe thấy, còn người khác tuy ngồi ngay bên cạnh cũng không nghe được. Nhưng bất luận là nói to hay nói nhỏ thì cũng phải có mở miệng nói, nhưng Hư Trúc chủ ý mãi vẫn chẳng thấy ai máy môi. Y vẫn nghe tiếng mách nước: “Điểm ngũ lục ở vị khứ”, liền tuân theo rồi tự nhủ: “Chắc là sư bá tổ rồi. Ngoài sư bá tổ ra, chẳng ai quen biết ta từ trước, thì họ giúp ta để làm gì? Mà chỉ có mình sư bá tổ là chưa nhập cuộc, còn ai nấy đều đã thất bại hết. Sư bá tổ mình thần công thật là phi thường, thi triển phép Truyền Âm Nhập Mật mà không cần mở miệng máy môi. Không biết đến bao giờ mình mới luyện được đến mức này.”

Hư Trúc không biết rằng người mách cho mình chính là Thiên hạ đệ nhất ác nhân Ác quán mãn doanh Đoàn Diên Khánh. Vừa rồi lão vì mải mê nghĩ thế cờ nên bị Đinh Xuân Thu giở trò làm rối loạn tâm thần suýt nữa tự sát, may nhờ Hư Trúc đi ẩu một nước mới cứu được mạng lão. Đoàn Diên Khánh thấy Tô Tinh Hà trách mắng Hư Trúc, bèn ngấm ngầm nhắc cho để kéo dài thêm mấy nước, đặng y có đường rút lui. Lão vốn giỏi thuật nói tiếng bụng, nói năng không cần máy miệng, lại dùng nội công thâm hậu để thi triển phép Truyền Âm Nhập Mật khiến hết thảy cao thủ bên cạnh đều không phát giác được.

Thế Trân Lung đã biến đổi rất nhiều, thì ra chỗ bí mật là bên trắng phải tự giết đi một số lớn quân mới có chỗ mà đi tiếp những nước kỳ diệu. Có điều dù là những kỳ thủ siêu việt cũng chưa ai dám nghĩ tới việc phải tự sát như vậy. Số quân trắng bị vây hãm quá nghiêm trọng, ngàn người như một đều phải cố gắng tìm cách thoát vây để xông ra, chẳng ai nghĩ đến việc đi vào tử lộ. Giả tỉ Hư Trúc không nhắm mắt hạ bừa một quân cờ thì e rằng đến ngàn năm sau cũng không một ai phá nổi thế Trân Lung đó.

Đoàn Diên Khánh vốn là một kỳ thủ đệ nhất thiên hạ, năm trước Huỳnh Mi Tăng ở nước Đại Lý thi đấu với lão bị thua xiểng liểng. Nhưng cuộc cờ ngày đó là hai bên đặt quân cờ xuống dần dần, không giống như thế cờ lần này, quân trắng chỗ nào cũng bị vây hãm.

Bọn Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Dự không biết Đoàn Diên Khánh ngấm ngầm mách nước, chỉ thấy Hư Trúc đi những nước tuyệt diệu ăn luôn hai đám quân đen thì không nhịn được, reo lên khen ngợi.

Huyền Nạn lẩm bẩm: “Cuộc cờ này vốn dĩ ở trong tình trạng được mất thắng bại không rõ ràng, cho nên không có cách phá giải. Nước cờ của Hư Trúc đã hạ đúng chỗ sinh tử, lại không quan trọng chuyện thắng thua, nên mới phá giải được thế Trân Lung sinh tử này.” Lão tăng nhân đó tựa hồ như giác ngộ, nhớ lại suốt cuộc đời mình đắm chìm trong võ học, đối với công phu thiền định có bề khiếm khuyết. Huyền Nạn đột nhiên nghĩ thầm: “Ta vẫn chê cười Lung Á tiên sinh và Hàm Cốc bát hữu đi vào đường lệch, ôm đồm tạp học nên võ công không bằng Đinh Xuân Thu. Nhưng suốt đời ta chuyên luyện võ công, không chịu khó tham thiền, không gấp rút chứng nghiệm sinh tử, chẳng lẽ không phải đi vào đường lệch hay sao?” Nghĩ đến đây, cả người lão tăng toát mồ hôi đầm đìa.

Ban đầu Đoàn Dự còn chú ý đến cuộc cờ, về sau chỉ nhìn Vương Ngữ Yên chằm chặp, càng nhìn càng đau lòng vì Vương Ngữ Yên thủy chung chỉ để ý đến Mộ Dung Phục. Đoàn Dự than thầm: “Về đi thôi! Nếu còn ngồi nữa chỉ rước đau khổ vào mình, không chừng hộc máu ra mất.” Nhưng chàng than thì than vậy, vẫn không dứt khỏi Vương Ngữ Yên mà đi được. Chàng lẩm bẩm: “Ta phải đợi đến khi Vương cô nương quay lại để nói một câu: “Vương cô nương! Cô nương đã tìm thấy biểu huynh rồi, tại hạ cáo từ.” Nếu nàng nói: “Vâng, công tử cứ tùy tiện” thì ta sẽ ra đi. Nếu nàng nói: “Khoan đã, ta còn có chuyện muốn nói với công tử” thì ta phải đợi xem nàng dặn dò gì.

Thực ra Đoàn Dự cũng biết Vương Ngữ Yên chẳng thèm quay lại nhìn chàng một cái, thì làm gì còn có chuyện muốn nói với chàng? Đột nhiên, mớ tóc mềm mại sau gáy Vương Ngữ Yên hơi động đậy, trống ngực Đoàn Dự đập thình thình, Chàng lẩm bẩm: “Nàng sắp quay lại rồi!” Nhưng chỉ nghe thấy Vương Ngữ Yên thở dài, khẽ gọi: “Biểu huynh!”

Mộ Dung Phục chú ý nhìn bàn cờ, thấy bên trắng đã có vẻ thắng thế, dần dần dồn bên đen vào thế bí. Y lẩm bẩm: “Mấy nước sau này, ta cũng có thể nghĩ ra. Nhưng vạn sự khởi đầu nan, nước cờ đầu tiên thật là cổ quái, ta nghĩ đến suốt đời cũng không ra được.” Vương Ngữ Yên khẽ gọi, y không hề nghe thấy.

Vương Ngữ Yên lại thở dài, từ từ ngoảnh đầu lại. Đoàn Dự thấy vậy, tim đập loạn lên, kêu thầm: “Nàng quay đầu lại! Nàng quay đầu lại!” Quả nhiên khuôn mặt mỹ lệ của Vương Ngữ Yên quay lại. Đoàn Dự thấy mặt nàng thoáng gợn nỗi sầu, khóe mắt tựa hồ có vẻ oán hờn. Lúc nàng đến cùng Mộ Dung Phục thì hoan hỉ vô cùng, sao đột nhiên lại mất cả hứng thú? Đoàn Dự còn đang ngẫm nghĩ, bỗng thấy Vương Ngữ Yên đảo mắt nhìn sang, chạm vào ánh mắt của chàng. Đoàn Dự tiến lên một bước toan hỏi: “Vương cô nương! Cô nương muốn bảo tại hạ điều gì?” Nhưng Vương Ngữ Yên lại từ từ đưa mắt qua phía khác, lơ đãng nhìn xa xa một hồi, lại quay nhìn Mộ Dung Phục.

Trái tim Đoàn Dự chùng hẳn xuống, đau buồn không nói hết! Chàng tự nhủ: “Nàng không phải là không ngó tới ta, nhưng thà nàng không ngó còn hơn. Nàng nhìn ta mà dường như không thấy. Thủy chung tâm trí nàng vẫn để ý vào biểu huynh, có nghĩ gì đến Đoàn Dự đâu? Hỡi ôi! về đi thôi, về đi thôi!”

Bên này Hư Trúc vẫn nghe Đoàn Diên Khánh chỉ điểm để đi cờ. Cuộc cờ đã gần đến lúc kết thúc, bất luận bên đen đối phó cách nào cũng không bảo toàn được quân số, còn nếu muốn trốn thì bên trắng lại xông ra khỏi vòng vây, thật khó mà gắng gượng nữa.

Tô Tinh Hà ngẫm nghĩ hồi lâu rồi cười hì hì, đi một nước nữa. Đoàn Diên Khánh lại truyền âm nói: “Điểm thất bát ở góc trên bên trái.” Hư Trúc hạ cờ xuống đúng vào điểm đó. Tuy y chơi cờ rất kém, nhưng cũng hiểu rằng như vậy là phá xong, liền vỗ tay cười nói: “Như vậy đã xong chưa?”.

Tô Tinh Hà hoan hỉ chắp tay nói: “Tiểu thần tăng tài năng thiên phú, thật là đáng mừng!” Hư Trúc vội đáp lễ nói: “Không dám! Không dám! Không phải tiểu tăng…” Nhà sư toan nói mình được sư bá tổ chỉ điểm thì tiếng Truyền Âm Nhập Mật lại vào tai: “Bí mật này phải giữ thật kín, nhất định không được tiết lộ. Nguy hiểm chưa hết đâu, ngươi phải cẩn thận lắm mới được.” Hư Trúc tưởng là Huyền Nạn chỉ đạo cho mình, liền cúi đầu đáp: “Vâng, vâng!”

Tô Tinh Hà đứng lên nói: “Tiên sư bày ra thế cờ này đã mấy chục năm không ai phá được, tiểu thần tăng nay đã phá xong, lão phu cảm phục vô cùng!” Hư Trúc không hiểu nguyên do thế nào, chỉ khiêm tốn nói: “Tiểu tăng đi bừa may mà gặp nước, hoàn toàn nhờ các vị tiền bối thương yêu. Lão tiền bối quá khen, khiến tiểu tăng hổ thẹn vô cùng.”

Tô Tinh Hà đi tới trước ba gian nhà gỗ, giơ tay mời khách: “Xin mời tiểu thần tăng tiến vào.” Hư Trúc thấy ba gian nhà gỗ này thiết kế thật là cổ quái, không có cửa nẻo gì hết, y không biết vào lối nào và vào để làm gì? Hư Trúc đứng ngây người ra, bỗng nghe tiếng truyền âm lại lọt vào tai: “Thế cờ không có lối thoát, phải phá một đường trí mạng để thoát. Căn nhà gỗ này không có cửa, ngươi phải dùng võ công Thiếu Lâm phá ra mà vào.” Hư Trúc liền nói: “Tiểu tăng vô lễ!”, rồi đứng thành cung tiễn bộ chân trước chân sau, giơ tay phải lên đánh một chưởng vào ván gỗ.

Chưởng lực của y rất tầm thường, tới mức Tô Tinh Hà phải tưởng nội công của y đã bị Đinh Xuân Thu hóa giải mất. May mà ván gỗ không chắc chắn gì, Hư Trúc cũng đánh nứt ra được một khe. Y phải đánh thêm hai chưởng nữa mới phá được tấm ván ra, bàn tay đã thấy ngâm ngẩm đau.

Nam Hải Ngạc Thần cười ha hả nói: “Võ công tuyệt học phái Thiếu Lâm sao lại tầm thường đến thế?” Hư Trúc quay mặt lại đáp: “Tiểu tăng là đồ đệ hạng bét trong phái Thiếu Lâm, nên bản lĩnh chẳng ra gì, đó không phải là tuyệt học bản môn.” Y bỗng nghe tiếng truyền âm nói: “Ngươi vào ngay đi, nhớ đừng quay đầu lại, cũng đừng tranh luận với ai.” Hư Trúc nói: “Vâng!” rồi cất bước tiến vào.

Bỗng nhiên Đinh Xuân Thu lên tiếng gọi: “Đó là cửa nẻo của phái ta, sao tiểu hòa thượng kia dám tự tiện đi vào?”, tiếp theo vang lên hai tiếng ầm ầm. Hư Trúc cảm thấy một luồng kình phong kéo mình trở ra, rồi lại thấy hai đạo kình lực khác đẩy tới sau lưng. Nhà sư không tự chủ được, lăn vào trong nhà.

Vừa rồi Đinh Xuân Thu ngấm ngầm tập kích định đánh chết Hư Trúc, còn Cưu Ma Trí thi triển Khống Hạc Công muốn kéo y ra. Nhưng Đoàn Diên Khánh vận ám kình vào đầu gậy, tiêu trừ chưởng lực của Đinh Xuân Thu, Tô Tinh Hà ở gần Cưu Ma Trí liền phóng luôn hai chưởng để giải khai Khống Hạc Công, đẩy Hư Trúc vào.

Hai phát chướng này mạnh quá, Hư Trúc đứng không vững bị hất ra sau, trán y đập đánh binh một tiếng vào một tấm ván khác, tối tăm mặt mũi suýt ngất đi, một lát mới đứng vững được. Nhà sư sờ lên trán đã thấy một cục u, định thần nhìn lại thì thấy mình đang đứng trong một căn nhà trống rỗng không có đồ đạc gì, cũng chẳng có cửa nẻo chi hết, chỉ có một lỗ thủng trên ván do mình vừa phá vỡ ra để vào. Y đứng thộn mặt ra, nhìn quanh quẩn một hồi, lại muốn chui qua lỗ trống ra ngoài.

Hư Trúc vừa xoay mình thì nghe bên kia tấm ván phía sau có thanh âm già nua cất tiếng hỏi: “Ngươi đã vào đây, sao lại muốn ra?” Hư Trúc vội quay lại nói: “Xin tiền bối chỉ bảo cho đường lối.” Thanh âm đó lại nói: “Đường lối là do tự ngươi tìm ra, không ai chỉ bảo được. Thế cờ ta bày ra đã ba mươi năm không ai phá nổi, thế mà hôm nay ngươi đã tìm ra đường lối rồi. Sao còn không lại đây?”

Hư Trúc nghe đến bốn chữ “thế cờ ta bày” bất giác sởn gai ốc, kinh hãi nói: “Tiền bối… Tiền bối…” Lúc nãy Tô Tinh Hà nhắc đi nhắc lại thế cờ đó do tiên sư lão bày ra, thế thì thanh âm này là của người hay của ma? Bỗng nghe tiếng người già đáp lại: “Thời cơ đã đến, không nắm bắt lấy thì sẽ trôi qua! Ta chờ đây đã ba mươi năm, không thể chờ lâu hơn được nữa. Chú nhỏ kia, lại đây mau!”

Hư Trúc nghe thanh âm có vẻ ôn hòa từ ái, liền không nghĩ gì nữa, kê vai vào tấm vách đẩy mạnh. Vách gỗ đã mục nát, liền bể ra một chỗ. Hư Trúc thò đầu nhìn vào trong, cũng chỉ thấy một căn phòng trống rỗng. Y nhìn lại bất giác giật mình, thấy một người lơ lửng trên không. Nhà sư ngỡ là ma quỷ, sợ quá toan xoay mình chạy trốn, thì lại nghe người đó nói: “Ôi! Thì ra là một tiểu hòa thượng. Ôi! Lại là một tiểu hòa thượng mặt mũi xấu xa nữa. Trời ơi! Khó quá, khó quá, khó quá…”

Hư Trúc nghe lão thở dài ba tiếng, kêu “khó quá” sáu lần. Y định thần nhìn kỹ mới thấy lão bị treo lên xà nhà bằng một sợi dây đen. Vì vách ván phía sau lão cũng màu đen, tiệp màu với sợi dây nên nhìn thoáng qua thì không thấy sợi dây, cứ tưởng là lão tự lơ lửng trên không.

Tướng mạo Hư Trúc quả thật rất xấu xa: mày rậm, mắt to, mũi hếch lên trời, hai tai vểnh ra đón gió, môi dài như môi lợn. Vừa rồi trán y đập vào vách ván sưng lên một cục, lại càng khó coi. Hư Trúc bị bỏ rơi từ thuở nhỏ, được một nhà sư chùa Thiếu Lâm lòng dạ từ bi nhặt về chùa nuôi. Các nhà sư chùa Thiếu Lâm lúc không chuyên tâm tu hành thì lại lo luyện võ công, chẳng ai để ý tướng mạo Hư Trúc đẹp hay xấu làm gì. Nhà Phật đã dạy: Thể xác con người chỉ là một cái túi da dơ dáy, đẹp hay xấu cũng chẳng có gì đáng bận lòng, ai để ý đến cái túi da này nhiều tức là bị tà ma cám dỗ.

Hư Trúc ngẩng đầu lên nhìn kỹ lão già thì thấy râu lão dài tới ba thước mà sợi nào cũng đen nhánh, tuyệt không lẫn một sợi bạc. Mặt lão đẹp như ngọc, da dẻ mịn màng không có một nếp nhăn. Tuy lão đã già mà vẻ mặt vẫn tươi tắn, phong độ nhàn nhã. Hư Trúc ngắm nghía xong, trong bụng thấy hổ thẹn nghĩ thầm: “Về tướng mạo thì mình so với lão quả là một trời một vực.” Bây giờ nhà sư đã hết sợ hãi, cúi mình thi lễ nói: “Tiểu tăng là Hư Trúc xin bái kiến lão tiền bối!”

Lão kia gật đầu hỏi: “Tên họ ngươi là gì?” Hư Trúc sững sờ đáp: “Tiếu tăng đã xuất gia, không cần biết đến tên họ nữa.” Lão kia hỏi lại: “Trước khi xuất gia, tên họ ngươi là gì?”. Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng xuất gia từ nhỏ, thật sự không rõ tên họ.”

Lão kia nhìn Hư Trúc rồi thở dài nói: “Ngươi đã phá được thế cờ của ta thì tài trí không phải tầm thường. Nhưng tướng mạo ngươi xấu thế thì không được rồi! Khó quá, trời ơi, thật là khó quá! Thế này thì uổng công của ta rồi, mà lại uổng cả tính mạng của ngươi nữa. Nhà sư nhỏ tuổi kia! Ta cho một chút lễ vật để nhà sư mang về thôi!”

Hư Trúc nghe lão nói đi nói lại câu “khó quá” thì hào khí nổi lên, liền nói: “Tiểu tăng chơi cờ còn kém lắm, thế cờ của lão tiền bối cũng không phải tiểu tăng tự mình phá được. Nhưng lão tiền bối có việc gì khó khăn cần phải giải quyết, thì dù tiểu tăng bản lĩnh hèn kém cũng cố gắng mà làm. Còn lão tiền bối ban cho lễ vật thì tiểu tăng không dám nhận.”

Lão già nói: “Ngươi có lòng dạ hào hiệp như vậy thì tốt lắm, dù kỳ thuật nông cạn hay võ nghệ hèn kém cũng chẳng can gì. Ngươi đã vào tới đây tức là có tiền duyên với ta. Có điều tướng mạo ngươi… khó coi quá.”

Hư Trúc mỉm cười nói: “Tướng mạo xấu hay đẹp là tại trời sinh, chẳng những mình không tự chủ, mà cả song thân cũng không thể can thiệp vào được. Tiểu tăng xấu xí làm phiền lòng tiền bối, thì xin cáo từ vậy.” Nói xong y lùi lại hai bước.

Hư Trúc toan quay lưng đi thì lão già nói: “Khoan đã!”, rồi phất nhẹ tay áo một cái vào vai phải y. Tay áo là vật mềm mại, thế mà đè lên vai Hư Trúc khiến người y phải dần dần hạ thấp xuống. Lão già cười nói: “Ngươi còn trẻ mà đã cao ngạo như vậy là hay lắm!” Hư Trúc nói: “Tiểu tăng thực không dám kiêu ngạo, chỉ vì sợ tiền bối phiền lòng nên xin rút lui là hơn.”

Lão già gật đầu, hỏi: “Hôm nay còn có ai đến phá thế cờ nữa không?” Hư Trúc kể hết mọi người, lão già trầm ngâm một lúc rồi nói: “Thế thì cao thủ thiên hạ mười phần có đến sáu bảy tụ tập ở đây rồi. Không hiểu Khô Vinh đại sư chùa Thiên Long nước Đại Lý có đến không?” Hư Trúc đáp: “Trừ sư sãi tệ tự, không thấy một vị tăng lữ nào khác.”

Lão già thở dài lẩm bẩm một mình: “Ta đã chờ mấy mươi năm, dù có chờ thêm nữa cũng chưa chắc gặp được người tốt đẹp cả bề trong lẫn bề ngoài. Việc đời nhiều phần không được như ý thì cũng đành chịu chứ biết làm sao?” Dường như lão già đã quyết định, chỉ hỏi thêm: “Ngươi nói thế cờ này không phải tự ngươi phá giải được ư? Thế thì sao Tô Tinh Hà lại đưa ngươi vào đây?”

Hư Trúc đáp: “Con cờ đầu tiên là tiểu tăng nhắm mắt đặt liều xuống. Còn những nước về sau thì tiểu tăng được sư bá tổ là Huyền Nạn đại sư dùng thuật Truyền Âm Nhập Mật ngấm ngầm chỉ điểm cho.” Rồi nhà sư đem tình hình phá giải thế nào kể hết một lượt. Lão già nói: “Quả là ý trời! Quả là ý trời!”

Đột nhiên nét mặt của lão tươi tỉnh lên, rồi cười nói: “Đó là ý trời muốn vậy, nên người mới nhắm mắt đặt liều mà đúng vào chỗ phá được thế cờ của ta. Thế thì phúc duyên ngươi rất thâm hậu, có thể làm được việc lớn cho ta cũng chưa biết chừng. Hay lắm! Hay lắm! Hài tử, ngươi quỳ xuống lạy ta đi.”

Ở chùa Thiếu Lâm, Hư Trúc gọi những người lớn tuổi đều là sư phụ, sư bá, sư thúc, thậm chí là sư bá tổ, sư thúc tổ. Còn người ngang hàng, thì hoặc là hơn tuổi hoặc là bản lĩnh cao hơn, y đều phải gọi bằng sư huynh, vì thế mà tính khí đã quen phục tùng từ thuở nhỏ. Bây giờ y chưa hiểu chuyện gì, nhưng nghĩ rằng lão này là một bậc tiền bối trong võ lâm, thì có dập đầu lạy mấy lạy cũng là lẽ thường. Hư Trúc nghĩ vậy nên chẳng đắn đo gì nữa, quỳ hai chân xuống rồi dập đầu binh binh lạy luôn bốn lạy. Nhà sư toan đứng lên thì lão già cười nói: “Ngươi phải lạy thêm năm lạy nữa mới đủ, đó là lề luật của bản phái.” Hư Trúc chỉ “vâng” một tiếng rồi lại thêm năm lạy nữa.

Lão già khen: “Hảo hài tử Ngươi lại đây!” Hư Trúc đứng dậy, tiến đến trước mặt lão già.

Lão già nắm lấy cổ tay y, ngắm nghía thân hình một lát. Đột nhiên Hư Trúc cảm thấy mạch môn nóng ran, một luồng nội lực xông vào tâm mạch y, nội công của phái Thiếu Lâm liền theo phản xạ nổi lên chống lại, nội lực lão già vừa đụng phải liền rút về ngay. Hư Trúc không thấy khó chịu gì hết, biết lão chỉ muốn xem nội lực mình nhiều ít ra sao. Bất giác y then đỏ mặt, gượng cười nói: “Ngày thường tiểu tăng chỉ chuyên đọc kinh Phật, lúc còn nhỏ tính ưa đùa giỡn nên không để ý đến việc rèn luyện nội công, đến nỗi tiền bối phải chê cười.”

Không ngờ lão già lại hoan hỉ cười nói: “Hay lắm! Ngươi luyện nội công Thiếu Lâm càng ít, ta lại càng đỡ tốn công.” Lúc lão nói như vậy, Hư Trúc cảm thấy toàn thân mềm nhũn, tưởng chừng như đang ngồi trong một bồn nước nóng. Từ những lỗ chân lông dường như tiết ra một luồng nhiệt khí, y cảm thấy dễ chịu vô cùng.

Sau một lúc, lão già buông cổ tay Hư Trúc ra cười nói: “Xong rồi! Ta đã dùng Hóa Công Đại Pháp của bản môn trừ bỏ hết nội lực của phái Thiếu Lâm trong mình ngươi.”

Hư Trúc cả kinh la lên: “Tiền bối… nói sao? …”Y nhảy lên một cái, lúc hai chân vừa chấm đất, đầu gối liền nhũn ra ngồi phệt xuống đất. Y cảm thấy toàn thân không còn chút khí lực nào, đầu óc hôn mê, tưởng chừng như trời đất quay cuồng. Y biết rằng lão nói vậy là chuyện thực, bất giác nước mắt tuôn rơi, vừa khóc vừa nói: “Tiểu tăng… cùng tiền bối… đã không thù oán lại không đắc tội gì. Sao tiền bối lại hại tiểu tăng đến thế này?”

Lão kia cười nói: “Sao ngươi ăn nói kỳ quặc thế? Ngươi không kêu ta bằng sư phụ, tự xưng là đệ tử, mà lại kêu ta bằng tiền bối rồi tự xưng là tiểu tăng, thì còn ra thể thống gì nữa?” Hư Trúc cả kinh nói: “Sao? Tiền bối có phải là sư phụ tiểu tăng đâu?” Lão kia đáp: “Ngươi vừa dập đầu lạy ta chín lạy, đó chính là nghi lễ bái sư.” Hư Trúc vội đáp: “Không! không! Tiểu tăng là đệ tử phái Thiếu Lâm, không thể thờ người khác làm thầy. Tiền bối lại có tà thuật hại người, tiểu tăng nhất quyết không học.”

Lão kia cười hỏi: “Có thực ngươi không học chăng?” Nói xong lão phất hai tay áo để lên vai Hư Trúc, Hư Trúc tưởng chừng như vai mình có một hòn núi nhỏ đè lên, y không đứng vững được nữa, hai chân nhũn ra, ngồi phệt xuống đất. Nhưng miệng y vẫn không ngớt la: “Tiền bối có đánh chết thì tiểu tăng cũng không học.”

Lão kia cười ha hả, đột nhiên tung người lên lộn nửa vòng, đè đúng lên người Hư Trúc, chiếc khăn đội trên đầu lão rơi vào góc nhà. Chân trái lão móc vào xà nhà, lộn ngược đầu xuống đặt trên đỉnh đầu nhà sư.

Hư Trúc cả kinh hỏi: “Tiền bối… làm cái gì thế?”, rồi cố đảo người để gỡ đầu mình ra. Nhưng đầu lão kia đã dính chặt vào đầu y, tựa như có dán keo. Đầu Hư Trúc đảo sang trái thì người lão cũng xiêu qua trái, Hư Trúc đảo qua phải thì người lão lại xiêu qua phải. Người lão cứ thế mà đu đưa tựa như cây liễu trước gió.

Hư Trúc kinh ngạc vô cùng, đưa hai tay lên cố lôi kéo người lão xuống. Nhưng nhà sư cảm thấy tay mình mềm xèo không còn chút khí lực nào, thì bồn chồn nghĩ thầm: “Mình trúng phải tà thuật Hóa Công Đại Pháp, võ công đã mất hết mà cũng không còn đủ sức để mặc áo nhai cơm nữa. Từ đây mình sẽ thành người tàn tật, biết làm thế nào đây? Đột nhiên Hư Trúc thấy huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu bị những tia nhiệt khí xông vào trong óc. Nhà sư kêu thầm: “Nguy rồi! Đời ta đến đây là hết!”, cảm thấy đầu óc mỗi lúc mỗi nóng thêm, rồi chỉ trong chốc lát là mắt hoa đầu váng, tưởng chừng như đầu mình sắp vỡ tung. Luông nhiệt khí này lại từ trên đầu chạy xuống thân thể, chỉ trong khoảnh khắc, y không chịu nổi nữa, ngất đi.

Tuy Hư Trúc ngất đi, nhưng trong đầu vẫn hiện ra vô số ảo ảnh, lúc tưởng như bay trên trời, lúc tưởng như lặn dưới biển, có lúc lại tưởng mình đang tụng kinh ở chùa Thiếu Lâm, có lúc tưởng như đang ra sức luyện một môn võ công gì đó mà không thành tựu nổi. Lúc Hư Trúc tỉnh lại, y không biết mình ngất đi đã bao lâu, chỉ thấy hình như trời đang mưa.

Hư Trúc mở mắt ra, thì thấy vô số giọt nước đang lăn trên mặt mình, nhưng không phải là nước mưa mà chính là mồ hôi lão già kia. Hư Trúc nhìn lão già thì thấy đầy mồ hôi đang nhỏ xuống tong tỏng, khắp mặt mũi, đầu tóc, tay chân lão, chỗ nào cũng tuôn mồ hôi ra. Lúc này y mới nhận ra mình đang nằm dưới đất, còn lão già ngồi bên cạnh, hai cái đầu đã rời nhau từ lúc nào không biết.

Hư Trúc ngồi nhỏm dậy, ngơ ngác hỏi: “Tiền bối!…” Y bất giác giật mình không nói tiếp được, vì phát giác ra lão già tựa như đã biến thành một người khác. Bộ mặt đẹp như ngọc bây giờ đầy nét nhăn nheo, mái tóc vừa rậm vừa đen nhánh thì đã rụng hết, còn cái đầu trọc lóc. Bộ râu dài đen nhánh của lão cũng đã bạc phơ. Hư Trúc kinh ngạc vô cùng, tự hỏi: “Mình ngất đi bao lâu rồi? Ba chục năm hay năm chục năm rồi ư? Sao lão này bây giờ lại già đến thế, không tới trăm hai chục tuổi thì cũng phải trăm tuổi chứ không ít.” .

Cặp mắt lão già lờ đờ như mất hết sinh khí, trên bộ mặt nhăn nheo thoáng hiện một nụ cười. Lão nói: “Hoàn thành công việc rồi! Hài nhi, phúc trạch của ngươi còn thâm hậu hơn cả ta kỳ vọng. Ngươi thử phóng chưởng vào vách ván mà coi!”.

Hư Trúc chẳng hiểu tí gì, nhưng cũng vâng lời phóng chưởng ra chỗ không. Bỗng nghe mấy tiếng lắc cắc, nửa bức vách ván lập tức gãy ra. Giả tỉ nhà sư dùng toàn lực phóng chưởng thì còn ghê gớm hơn nhiều, Hư Trúc ngẩn người ra hỏi: “Thế này là sao?”

Lão già tỏ vẻ cực kỳ hoan hỉ, cười nói: “Ngươi hỏi chuyện gì?” Hư Trúc hỏi: “Tại sao… đột nhiên công lực tiểu tăng lại mạnh đến thế?” Lão già mỉm cười đáp: “Nếu người tự tập lấy thì suốt đời cũng chưa được một phần. Nội lực của sư phụ ngươi khổ luyện bảy chục năm trời há phải chuyện tầm thường?”

Hư Trúc biết là hỏng bét rồi, kêu lên: “Tiền bối… nói cái gì bảy mươi năm khổ luyện?” Lão già mỉm cười nói: “Ngươi còn chưa hiểu ư? Có thật ngươi chưa hiểu không?”

Hư Trúc đã hiểu ý lão già, có điều diễn biến quá đột ngột khiến y bàng hoàng, ấp úng hỏi lại: “Lão tiền bối đã truyền cho tiểu tăng một môn thần công gì đó phải không?”

Lão già cười hỏi: “Ngươi vẫn không kêu ta bằng sư phụ ư?” Hư Trúc cúi đầu đáp: “Tiểu tăng là đệ tử phái Thiếu Lâm, không dám phản bội sư môn qui đầu phái khác.” Lão già nói: “Trong thân thể ngươi không còn chút công lực Thiếu Lâm nào thì sao gọi là đệ tử phái Thiếu Lâm được? Nội thể ngươi đã súc tích bảy mươi năm thần công của phái Tiêu Dao thì sao lại không phải là đệ tử bản phái?” Hư Trúc chưa từng nghe nói đến phái Tiêu Dao, buột miệng hỏi lại: “Phái Tiêu Dao…” Lão già mỉm cười ngắt lời đáp: “Theo chính đạo của trời đất, phân rõ lục khí của vũ trụ, ngao du đến chỗ vô cùng, đó chính là Tiêu Dao. Ngươi nhảy lên một cái thử xem.”

Hư Trúc nổi tính hiếu kỳ, nhún chân đạp mạnh xuống đất, nhẹ nhàng nhảy lên. Đột nhiên nghe binh một tiếng, đầu nhà sư xuyên thủng mái nhà, rồi trước mắt sáng lòa. Y không hiểu mình sẽ bay lên cao tới đâu, bèn đưa tay ra giữ chặt lấy mái nhà cho khỏi lên cao nữa, rồi mới từ từ hạ mình xuống đất. Y tưởng như mình biết bay, nhất thời chưa thấy vui sướng gì mà chỉ thấy kinh hãi.

Lão già hỏi: “Ngươi thấy thế nào? Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng… đã đi vào con đường ma quỷ gì đây?” Lão già nói: “Ngươi ngồi xuống đây, ta nói rõ cho mà nghe. Không còn nhiều thời giờ để nói rườm rà, phải đi ngay vào chuyện chính. Ngươi muốn giữ nguyên môn phái, không chịu bái ta làm sư phụ thì ta cũng không ép.” Nói tới đây lão đổi giọng năn nỉ: “Tiểu sư phụ ơi! Ta thỉnh cầu tiểu sư phụ giúp ta một việc khẩn cấp, tiểu sư phụ có nhận lời chăng?”.

Bản tính Hư Trúc đã thích giúp đỡ người, y lại thấm nhuần giới luật của nhà Phật coi trọng việc bố thí, thấy người gặp nạn thì phải xả thân giúp đỡ. Y bèn nói: “Tiền bối đã gặp nguy, thì tiểu tăng phải cố gắng cứu trợ.” Y vừa nói ra khỏi miệng, lại nghĩ công phu của lão này có mấy phần bàng môn tả đạo, bèn giao hẹn: “Nếu tiền bối sai bảo tiểu tăng làm việc mờ ám thì không thể tuân mệnh được.”

Lão già nhăn nhó cười hỏi: “Việc như thế nào là mờ ám?” Hư Trúc chưng hửng đáp: “Tiểu tăng là đệ tử nhà Phật. Việc gì có hại cho người khác thì tiểu tăng nhất định không làm.” Lão già nói: “Có kẻ tàn ác, vô duyên vô cớ giết nhiều người vô tội. Giả tỉ ta nhờ ngươi trừ diệt hắn đi thì ngươi có thuận chăng?” Hư Trúc khẳng khái đáp: “Trước tiên là tiểu tăng cố tìm lời khuyên giải hắn sửa đổi lỗi lầm, quay về nẻo thiện.” Lão kia hỏi lại: “Nếu hắn ngoan cố không chịu tỉnh ngộ thì sao?” Hư Trúc đứng thẳng người lên nói: “Hàng phục ma quái để trừ hại cho đời là việc phải làm. Chỉ sợ tiểu tăng bản lĩnh tầm thường không làm nổi mà thôi.”

Lão già hỏi: “Vậy ngươi ưng chịu lời ta rồi chứ?” Hư Trúc gật đầu đáp: “Tiểu tăng ưng chịu rồi!” Lão già tỏ vẻ vui mừng nói: “Hay lắm! Ta nhờ ngươi đi giết một tên đại ác, chính là đệ tử ta tên gọi Đinh Xuân Thu. Hiện nay võ lâm gọi hắn là Tinh Tú Lão Quái.”

Hư Trúc thở phào một cái như trút được gánh nặng trong lòng. Y đã biết Tinh Tú Lão Quái nổi tiếng độc ác, nhiều lần các bậc trưởng bối ở chùa Thiếu Lâm cũng đã đề cập đến lão quái này. Y liền nói: “Việc trừ diệt Tinh Tú Lão Quái thì bất cứ ai trong võ lâm cũng nên làm. Chỉ sợ tiểu tăng bản lĩnh tầm thường, không làm nổi.” Nói tới đây ngẩng lên nhìn lão già, bỗng thấy trên mặt lão có vẻ trào lộng. Nhà sư hiểu ngay bốn chữ “bản lĩnh tầm thường” bây giờ nghe không ổn nữa.

Lão già nói: “Bản lĩnh người bây giờ chẳng kém gì Tinh Tú Lão Quái, nhưng muốn trừ diệt hắn thì quả là chưa đủ. Nhưng ngươi khỏi lo, ta đã có kế hoạch xếp đặt mọi sự.”

Hư Trúc nói: “Tiểu tăng đã từng nghe Tiết Mộ Hoa thí chủ kể đến chuyện ác của Đinh… Đinh thí chủ ở Tinh Tú Hải. Tiểu tăng vẫn tưởng lão thí chủ đã chết rồi, không ngờ còn ở nhân gian, vậy thì tốt quá.”

Lão già thở dài nói: “Mấy năm trước bỗng dưng nghịch đồ Đinh Xuân Thu sinh sự đánh ta rớt xuống vực thẳm, lão phu suýt chết dưới tay hắn. Cũng may đại đồ đệ Tô Tinh Hà giả câm giả điếc, giấu giếm được tai mắt của nghịch đồ nên lão phu mới sống thêm được ba mươi năm nay. Tư chất của Tô Tinh Hà cũng không tệ, chỉ tiếc rằng ta dẫn dắt nhầm đường, hắn chỉ say mê học những môn tạp học cầm kỳ thi họa, nhất quyết không chịu học võ công thượng thừa. Ba mươi năm nay ta chỉ mong mỏi tìm được một đồ đệ hợp ý để truyền thụ võ công một đời, rồi bảo hắn đi diệt Đinh Xuân Thu. Nhưng cơ duyên không phải là dễ gặp. Chỉ thông minh mà không lương thiện cũng chưa chắc là tốt, không chừng đi đến chỗ nuôi hổ trong nhà. Còn phần lớn những người bản tính lương thiện thì lại không đủ ngộ tính. Gần đây ta tự biết mạng mình sắp tận rồi, không thể đợi được nữa, nên mới công bố thế cờ Trân Lung ra thiên hạ để tìm một thiếu niên vừa thông minh vừa tuấn tú về truyền thụ võ công.”

Hư Trúc nghe lão nói đến người thông minh tuấn tú thì nghĩ thầm: “Mình cũng không ngu dốt gì lắm, nhưng hai chữ tuấn tú thì thật không đương nổi.” Y bèn cúi đầu xuống nói: “Trên thế gian chẳng thiếu gì người tuấn nhã. Ngay ngoài kia cũng có hai người là Mộ Dung công tử và Đoàn công tử. Tiểu tăng đưa họ vào để tiền bối xem thử, có được chăng?”.

Lão già cười ha hả nói: “Nay lão phu đã đem Bắc Minh Thần Công tu luyện bảy mươi năm trời truyền vào thân thể ngươi, làm sao truyền cho người thứ hai được nữa?” Hư Trúc kinh hãi đáp: “Tiền bối… tiền bối đã đem công phu rèn luyện suốt đời truyền hết cho tiểu tăng ư? Tiểu tăng… tiểu tăng làm sao báo đáp nổi ơn đức đó?”

Lão già nói: “Việc này đối với ngươi là họa hay là phúc, bây giờ khó mà nói được. Võ công cao cường chưa hẳn đã phúc. Ngươi nghĩ mà xem, vô số người trên thế gian chẳng biết chút võ công nào, thì lại không phải bận tâm lo nghĩ gì, tránh hết cạnh tranh cùng phiền não. Giả tỉ hồi trước ta chỉ học cầm, học kỳ, học thi, học họa, không theo đuổi võ học, thì chắc là đời ta sung sướng hơn nhiều.” Lão nói đến đây, thở dài một tiếng rồi ngẩng đầu lên nhìn mông lung qua cái lỗ trên nóc mà đầu Hư Trúc vừa đâm thủng, tựa như đang nhớ lại không ít chuyện quá khứ. Hồi lâu lão mới nói tiếp: “Hài tử! Đinh Xuân Thu tin rằng ta chết dưới tay hắn lâu rồi, nên hắn hành sự càn rỡ không kiêng nể ai nữa. Đây là một bức tranh, vẽ lại nơi ta đã hưởng phúc thanh nhàn nhiều năm trước, ở trong Vô Lượng Sơn nước Đại Lý. Ngươi đến đó mà tìm những kinh thư võ học ta cất giấu, theo đó mà tu tập võ công, chắc chắn sẽ giỏi bằng Đinh Xuân Thu. Nhưng tư chất của ngươi không phù hợp với võ công bản môn lắm, e rằng tập luyện nhiều trở ngại, không chừng còn bị nguy hiểm nữa. Bởi vậy ngươi phải vào trong thạch động của Vô Lượng Sơn, tìm vị nữ tiền bối trong đó mà nhờ chỉ điểm. Nàng thấy người tướng mạo xấu xa, chắc là không chịu dạy đâu, ngươi phải cầu xin nàng nể mặt ta mới được.” Lão nói đến đây, nổi lên ho liên tục, rồi ngồi thở hổn hển. Một lát sau, lão lấy trong bọc ra một cuộn tranh nhét vào tay Hư Trúc.

Hư Trúc thấy khó nghĩ, bèn nói: “Tiểu tăng học võ chưa tới đâu, lần này chỉ là vâng lệnh sư phụ xuống núi, đưa tin xong lập tức phải về chùa. Việc gì mà phương trượng bản tự cùng sư phụ không cho phép, thì tiểu tăng không tuân theo lời dặn của tiền bối được.”

Lão già nhăn nhó cười nói: “Nếu ý trời muốn để ác nhân làm càn thì ta cũng đành chịu, chẳng biết làm sao nữa. Ngươi… Ngươi…” Lão đang nói dở câu, đột nhiên toàn thân run bắn lên, từ từ quị xuống, phải chống tay xuống đất, rõ ràng đã sức cùng lực kiệt!

Hư Trúc cả kinh, vội đưa tay ra đỡ lão dậy, nói: “Lão… lão tiền bối! Tiền bối làm sao vậy?” Lão già đáp: “Ta đã chịu đau khổ ba mươi năm trời, nội công bảy mươi năm khổ luyện cũng truyền hết cho ngươi rồi, hôm nay mệnh trời đã hết. Hài tử! Ngươi không chịu kêu ta một tiếng sư phụ hay sao?” Mấy câu này lão nói nhát gừng, hơi thở không liên tục được nữa.

Hư Trúc nhìn thấy đôi mắt lão già tỏ vẻ khẩn cầu trông rất tội nghiệp, bất giác y mềm lòng, buột miệng gọi lên hai tiếng: “Sư phụ!”.

Lão già cả mừng, ráng sức rút chiếc nhẫn bằng bảo thạch màu đen bên tay trái ra, toan đeo vào tay Hư Trúc, nhưng ngươi chẳng còn một chút sức lực, tay run run nắm không chặt, Hư Trúc lại gọi: “Sư phụ!”, rồi cầm lấy cái nhẫn tự đeo vào tay mình.

Lão già nói: “Hay! Hay lắm!… Hài tử… ngươi là đệ tử thứ ba của ta… Ngươi… ngươi kêu Tô Tinh Hà bằng đại sư ca!… Ngươi họ gì?” Hư Trúc đáp: “Thật sự đệ tử không biết.” Lão già nói: “Tướng mạo ngươi có chỗ khó coi, tất còn bị nhiều phen hoạn nạn. Thôi thì đành phó mặc cho trời! Đáng tiếc… thật là đáng tiếc!” Thanh âm lão mỗi lúc một yếu đi, đến cuối câu thì nghe không rõ nữa. Đột nhiên người lão gục ra trước, trán dập xuống đất đánh binh một tiếng, rồi không nhúc nhích gì nữa.

Hư Trúc gấp rút đặt tay lên mũi lão, thì thấy hơi thở đã tuyệt rồi. Y bèn chắp tay tụng niệm: “Nam Mô A Di Đà Phật! Nam Mô A Di Đà Phật! Cầu A Di Đà Phật, Quan Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, tiếp dẫn hương hồn lão tiên sinh về cõi tây phương cực lạc.”

Hư Trúc chỉ mới ở bên lão chưa tới một giờ, kể ra cũng chưa có tình nghĩa gì sâu sắc cho lắm. Nhưng y nghĩ tới lão đối với mình như ruột thịt, mình lại đã thừa hưởng bảy mươi năm thần công của lão, tựa hồ một bộ phận của lão đã hòa nhập vào nội thể của mình. Lúc này lão chết đi, nhà sư không khỏi xúc động trong lòng, liền khóc rống lên.

Hư Trúc khóc một hồi rồi quì xuống đất, hướng về di thể lão già lạy mấy lạy, lâm râm khấn vái: “Lão tiền bối! Lúc nãy tiểu tăng gọi lão tiền bối bằng sư phụ, là chuyện giả chứ không phải thật. Lão tiền bối có linh thiêng xin đừng trách tiểu tăng!” Khấn xong y quay người đi ra, chui qua lỗ thủng trên hai lần vách ván ra ngoài, thân thể nhẹ nhàng khác hẳn lúc vào, tựa như đã qua một lần đầu thai chuyển kiếp.

Hồi 32: Người câm trổ tài hùng biện, nhà sư lãnh phái Tiêu Dao

Hư Trúc ra khỏi căn nhà gỗ bỗng giật mình, thấy giữa bãi đất trống có một đám lửa lớn, dưới đất có bảy tám thân cây tùng bị đánh gãy nằm ngổn ngang. Y không ngờ mình mới vào căn nhà gỗ chưa bao lâu mà bên ngoài đã xảy ra những biến cố trời long đất lở. Chắc những cây tùng này đã đổ xuống lúc Hư Trúc ngất đi nên y chẳng hay biết gì.

Mọi người bên ngoài đã chia thành hai phe. Lung Á lão nhân Tô Tinh Hà ngồi ở đầu bên phải, bọn Huyền Nạn, Khang Quảng Lăng, Tiết Mộ Hoa… đứng đằng sau lão. Tinh Tú lão quái Đinh Xuân Thu ngồi đầu bên trái, sau lưng lão có tên đầu sắt Du Thản Chi cùng bọn đệ tử phái Tinh Tú. Còn bọn Mộ Dung Phục, Vương Ngữ Yên, Đoàn Dự, Cưu Ma Trí, Đoàn Diên Khánh, Nam Hải Ngạc Thần thì đứng ở xa xa mà xem.

Giữa Tô Tinh Hà và Đinh Xuân Thu đang có một cây cột lửa cháy rực trời, hai lão đều vận chưởng lực để đẩy sang đối phương. Lúc này cây cột lửa đang từ từ lấn sang phải, rõ ràng Đinh Xuân Thu đang chiếm thượng phong.

Không ai để ý đến Hư Trúc từ trong nhà đi ra, vì mọi người đều chăm chú nhìn cây cột lửa. Đương nhiên Vương Ngữ Yên chỉ quan tâm đến biểu huynh là Mộ Dung Phục, còn Đoàn Dự thì để hết tâm trí vào Vương Ngữ Yên. Hai người này chẳng thèm đưa mắt nhìn Hư Trúc lần nào, mà hình như cả cây cột lửa đang cháy rực trời họ cũng không nhìn thấy.

Hư Trúc đi vòng sau lưng mọi người qua bên phải, đứng bên sư bá tổ Huyền Nạn. Y thấy cây cột lửa cứ nhích dần sang phải. Tô Tinh Hà đang vận động chân khí, áo lão phồng lên trông như cánh buồm căng gió, hai tay không ngớt phóng chưởng đẩy ra.

Bên kia Đinh Xuân Thu vẫn cười nói tự nhiên, tay áo phất phơ nhẹ nhàng như đang ngồi hóng mát. Bọn đệ tử phái Tinh Tú đang thi nhau tâng bốc sư phụ. Nào là: “Tinh Tú Lão Tiên nhắc vật nặng cũng nhẹ như không, thần thông trên đời có một. Bữa nay các ngươi sẽ được mở rộng tầm mắt.” “Sư phụ ta còn muốn giáo huấn nên chỉ từ từ thúc đẩy thần công, khi nào lão nhân gia quyết định tru diệt lão họ Tô thì chỉ đẩy mạnh một cái là xong.” “Kẻ nào chưa chịu khuất phục thì cứ lấy một chọi một nếm thử thần công của phái Tinh Tú.” “Thiên thư đã ghi rõ phái Tinh Tú là thiên hạ vô địch. Kẻ nào lớn mật giở trò châu chấu đá xe thì cũng như tự sát mà thôi.”

Giả tỉ bọn Cưu Ma Trí, Mộ Dung Phục, Đoàn Diên Khánh nghe chúng khoác lác mà ngứa tai xuất thủ tấn công Đinh Xuân Thu thì Tinh Tú Lão Quái bản lĩnh tới đâu cũng không chống nổi. Song bọn Cưu Ma Trí cũng chẳng có thiện cảm gì với Lung Á lão nhân Tô Tinh Hà, nên chẳng giải nguy cho lão làm gì, vả lại ai cũng sợ người khác nhân lúc mình sơ hở mà hạ thủ. Vì vậy mà mặc kệ bọn đệ tử phái Tinh Tú bốc thơm sư phụ chúng lên tới mây xanh, bọn Cưu Ma Trí chỉ tủm tỉm cười chứ không nói gì.

Đột nhiên cây cột lửa lướt tới, lửa liếm vào người Tô Tinh Hà, mấy chòm râu dài của lão bị cháy bay mùi khét lẹt. Tô Tinh Hà phải cố gắng lắm mới đẩy được cây cột lửa ra cách người lão không đầy hai thước. Hư Trúc kinh hãi nghĩ thầm: “Ta không nhìn nhận lão họ Tô kia là sư huynh, nhưng ít nhiều cũng có liên hệ. Bây giờ lão sắp bị đốt chết, ta biết làm thế nào cho phải?”.

Bỗng nghe tiếng “tùng tùng beng beng” nổi lên ầm ĩ, thì ra bọn đệ tử phái Tinh Tú lôi ra nào trống, nào thanh la não bạt, khua lên để tán dương oai phong của sư phụ. Lại còn mấy gã phất cờ xanh vàng đỏ tím đủ màu, lớn tiếng reo hò. Trước nay cao thủ đấu nội lực, chưa có ai đem trống chiêng cờ xí để trợ oai bao giờ, việc này thật là hi hữu trong võ lâm. Cưu Ma Trí cười ha hả nói: “Tinh Tú Lão Quái thật là mặt dày cổ kim hiếm thấy!”

Giữa những tiếng chiêng trống om sòm, một tên đệ tử phái Tinh Tú lấy ra một tờ giấy, lớn tiếng xướng lên một đoạn văn biền ngẫu để ca ngợi Tinh Tú Lão Tiên dương oai ở Trung Nguyên. Không hiểu tên đồ gàn nào đã soạn ra bài này để tán tụng công đức của Tinh Tú Lão Quái, thật là vừa huênh hoang vừa ngu xuẩn, nếu Hứa Do cùng Sào Phủ nghe xong mà tại chưa điếc thì phải dẫn nhau ra biển rửa mới sạch nổi.

Chẳng hiểu Tinh Tú Lão Quái có cần đến những lời tán dương vô sỉ đó không, nhưng nội lực của lão quả là dạt dào như sóng cồn. Giữa tiếng chiêng trống pha lẫn những lời nịnh hót vang lừng, cây cột lửa lại tiến lên nửa thước.

Đột nhiên có tiếng bước chân, rồi hơn hai chục đại hán từ sau nhà chạy ra đứng chắn trước mặt Tô Tinh Hà, Đây là những gã câm điếc đệ tử của lão, mới đây đã khiêng bọn Huyền Nạn lên núi. Đinh Xuân Thu vận thêm kình lực, đẩy cây cột lửa tới đốt bọn đại hán đó, lập tức da thịt cháy xèo xèo mà hơn hai mươi người vẫn đứng yên không nhúc nhích, mặc cho lửa cháy. Họ lại bị câm, không lên tiếng kêu réo gì, thành ra tấn kịch lại càng bi tráng. Ai nhìn thảm cảnh này cũng không khởi động lòng. Chỉ trong khoảnh khắc, cây cột lửa đã đốt một số gã câm điếc cháy thành than.

Đoàn Dự la lên: “Không được tàn nhẫn như thế!” Chàng vung tay phải ra toan dùng Lục Mạch Thần  Kiếm để đánh Đinh Xuân Thu, nhưng nội lực đầy rẫy mà chỉ chuyển qua chuyển lại chứ không theo đầu ngón tay phóng ra ngoài được. Đoàn Dự trán toát mồ hôi, cất tiếng gọi lớn: “Mộ Dung huynh! Huynh mau xuất thủ cứu bọn kia đi!” Mộ Dung Phục đáp: “Có Đoàn huynh ở đây, tiểu đệ không dám múa rìu qua mắt thợ. Đoàn huynh thi triển Lục Mạch Thần Kiếm đi!”

Đoàn Diên Khánh đến sau, không nhìn thấy Đoàn Dự phóng Lục Mạch Thần Kiếm. Lão vừa nghe Mộ Dung Phục nói bất giác run lên, liếc mắt nhìn Đoàn Dự để xem chàng có hiểu môn thần công đó của họ Đoàn Đại Lý thật không, nhưng chỉ thấy chàng đưa ngón trỏ bên phải ra điểm điểm vạch vạch rất có phương pháp, mà nội lực không phát huy được chút nào. Lão không hiểu Đoàn Dự không có căn bản võ công nên không sử dụng theo ý muốn được, bèn lẩm bẩm: “Có Lục Mạch Thần Kiếm quái gì đâu mà mình phải sợ? Chắc thắng lỏi này chỉ hư trương thanh thế dọa người. Họ Đoàn ta tuy có môn Lục Mạch Thần Kiếm thật, nhưng đã có ai luyện được đâu?”

Mộ Dung Phục thấy Đoàn Dự không chịu xuất thủ, lại nghĩ rằng chàng có ý giấu giếm. Y là người tâm cơ sâu sắc, không chịu hành động khinh suất, bèn đứng yên để xem diễn biến.

Sau một lúc nữa, hơn hai chục tên đại hán câm điếc đã bị cây cột lửa đốt cháy thành than đến một nửa, một nửa còn lại đều bị trọng thương. Bỗng nghe chiêng trống khua vang lên, Đinh Xuân Thu phất tay áo bào hai cái, cây cột lửa vượt qua đám đại hán câm điếc, tiến đến sát Tô Tinh Hà.

Tiết Mộ Hoa hô to: “Chớ hại sư phụ ta!”, rồi tung mình nhảy đến trước cây cột lửa. Tô Tinh Hà tay phóng một chưởng đẩy gã ra, miệng bảo: “Đừng chết vô ích”, rồi vận hết toàn lực vào tay trái đánh tới cây cột lửa. Nhưng lúc này nội lực của lão đã hao tổn rất nhiều, phát chưởng này chỉ ngăn cản được một chút, toàn thân liền nóng bỏng, trước mắt ngọn lửa cháy đỏ rực. Khi xưa lão phát thệ giả câm giả điếc để được sống thêm ba mươi năm, công lực của lão đã tiến triển rất nhiều, song Đinh Xuân Thu càng tiến bộ mau lẹ hơn, so với ba mươi năm trước thì võ công sư huynh sư đệ lại càng chênh lệch. Lúc này Tô Tinh Hà chẳng khác nào ngọn đèn hết dầu, chắc chắn không thoát khỏi độc thủ của Đinh lão quái. Tô Tinh Hà lại nghĩ đến Đinh Xuân Thu giết xong mình rồi sẽ sấn vào nhà giết nốt sư phụ. Dường như trong lòng lão lại còn nóng bỏng hơn cả da thịt bên ngoài đang bị cây cột lửa táp tới gần.

Hư Trúc thấy tình hình cực kỳ nguy cấp mà Tô Tinh Hà vẫn đứng nguyên tại chỗ không lùi nửa bước. Y không nhịn được nữa, tiến lại nắm lấy lưng Tô Tinh Hà gọi: “Chết cũng vô ích, tránh đi cho mau!” Thật là đúng lúc, Tô Tinh Hà đang phóng chưởng ra nhưng chưởng lực rất suy yếu chẳng còn công hiệu gì, bỗng dưng lão cảm thấy sau lưng có luồng nội lực hùng hậu vô cùng truyền vào, mà lại đúng hệt như nội lực trong người lão. Thế là kình lực của phát chưởng tăng gia không biết mấy lần, những tiếng vù vù vang lên, cây cột lửa chạy ngược trở lại Đinh Xuân Thu, bọn đệ tử phái Tinh Tú đứng bên cũng bị lửa táp vào người.

Lúc này tiếng chiêng trống loạn xạ cả lên, mất cả nhịp nhàng. Những câu chúc tụng “Phái Tinh Tú uy chấn Trung Nguyên” “Tinh Tú Lão Tiên thiên hạ vô địch” bỗng bị trộn lẫn với những tiếng chửi bới tục tằn, tiếng gọi nhau kêu cứu.

Đinh Xuân Thu giật bắn người. Thực ra thì nội lực Hư Trúc hợp với chưởng phong của Tô Tinh Hà cũng chưa chắc đã thắng nổi, nhưng Tinh Tú Lão Quái đang nắm vững phần thắng thì bị phản kích bất ngờ nên mới sợ hãi bủn rủn chân tay. Đồng thời lão quái phát giác ra chưởng phong của đối phương bao hàm nội lực mãnh liệt hơn của sư huynh Tô Tinh Hà nhiều, mà hiển nhiên là công phu bản phái. Lão tự hỏi: “Sư phụ hiển linh nhập vào sư huynh để đòi nợ mình chăng?” Thế là thần hồn nát thần tính, lão run lẩy bẩy, không ngưng tụ nội lực được nữa, cây cột lửa đã tới sát bên mình mà không còn sức đẩy ra.

Hòa trong tiếng hoan hô cùng tiếng kêu cứu của bọn đệ tử Tinh Tú, lại thêm tiếng Đinh Xuân Thu la lên: “Thiết diện đồ nhi! Xuất thủ mau lên!”

Du Thản Chi không suy nghĩ gì nữa, vội tung mình nhảy ra, phóng cả song chưởng đẩy vào cây cột lửa. Những tiếng xèo xèo vang lên, luồng khí âm hàn cực độ dập cây cột lửa tắt ngấm lập tức, cả luồng khói xanh cũng tiêu tan rất mau. Dưới đất chỉ còn lại những khúc gỗ thông to lớn đã cháy thành than.

Râu cùng lông mày Đinh Xuân Thu bị cháy mất một nửa, y phục cũng thủng lỗ chỗ, vẻ mặt cực kỳ hoảng hốt. Trong lòng lão vẫn đang sợ âm hồn sư phụ hiển linh báo phục, bèn cất tiếng gọi: “Đi thôi!”. Lão lạng người một cái đã ra xa đến bảy tám trượng.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú cũng cúp đuôi chạy theo thầy, không kịp lượm nào trống, nào chiêng, thanh la, não bạt ngổn ngang dưới đất. Bài văn phú lục ca tụng phái Tinh Tú oai chấn Trung Nguyên chưa đọc xong đã bị cháy một miếng lớn, mảnh còn lại bay qua bay lại trên mặt đất, tựa hồ như chế nhạo công cuộc dương oai của Tinh Tú Lão Quái là chuyện đầu voi đuôi chuột.

Bỗng nghe xa xa có một tiếng rú lên thảm khốc, một tên đệ tử phái Tinh Tú bay vọt lên không rồi rớt xuống bất động. Mọi người nhìn nhau, cùng đoán Tinh Tú Lão Quái đại bại nên giận cá chém thớt, tên đồ đệ này chắc là vỗ mông ngựa không khéo nên bị ngựa đá, nịnh bợ khó nghe nên bị lão đánh chết rồi.

Bọn Huyền Nạn, Đoàn Diên Khánh, Cưu Ma Trí đều nghĩ rằng Lung Á lão nhân Tô Tinh Hà dùng khổ nhục kế, nhử cho Đinh Xuân Thu hao tổn công lực để đốt cháy bọn đồ đệ câm điếc của mình, rồi bất thình lình đánh ra một đòn như sấm sét khiến đối phương không kịp đề phòng, cúp đuôi chạy mất. Lung Á lão nhân là tay bản lĩnh phi thường, lắm mưu nhiều trí, nổi danh lừng lẫy trên chốn giang hồ. Vừa rồi lão khai diễn cuộc ác đấu cùng Tinh Tú Lão Quái đã đánh bật gốc một cây tùng rất lớn đường kính đến hơn một thước, mọi người đều kinh hồn động phách. Vì thế mà quần hùng yên trí rằng lão thi triển thần công đuổi Tinh Tú Lão Quái chạy dài, cũng không lấy chi làm lạ.

Huyền Nạn nói: “Tô tiên sinh công lực thâm hậu, đuổi được lão quái chạy dài. Chắc là từ đây lão phải táng đởm kinh hồn không dám vào Trung Nguyên một bước. Chuyến này tiên sinh tạo phúc cho võ lâm không phải là ít!”

Tô Tinh Hà liếc mắt thấy chiếc nhẫn đá đen của sư phụ đang đeo ở ngón tay Hư Trúc, hiểu rõ mọi việc ngay, vừa đau khổ lại vừa hoan hỉ. Lão nhìn lại thấy đệ tử của mình chết cháy đến tám chín phần, còn lại đều bị trọng thương, trong lòng đau đớn vô kể. Tô Tinh Hà nghĩ ngay đến sự an nguy của sư phụ, quay lại nói với bọn Huyền Nạn, Mộ Dung Phục mấy câu khách sáo, rồi nắm tay Hư Trúc nói: “Tiểu sư phụ! Xin mời đi theo lão phu vào trong này!”

Hư Trúc đưa mắt nhìn Huyền Nạn hỏi ý kiến. Huyền Nạn nói: “Tô tiền bối là cao nhân trong võ lâm, người dạy bảo điều gì ngươi đều phải nhất nhất tuân theo!” Hư Trúc “Vâng” một tiếng, rồi theo Tô Tinh Hà chui qua lỗ trên vách ván đi vào. Tô Tinh Hà thuận tay kéo tấm ván gãy chắn ngang lỗ vách.

Bên ngoài đều là những người lịch duyệt giang hồ, thấy thế biết ngay Tô Tinh Hà không muốn người ngoài thám thính, nên đều giữ ý không tò mò đến việc của lão. Người ít kiến văn nhất trong đám này là Đoàn Dự, thì lại dồn hết tâm trí vào Vương Ngữ Yên, không hề biết Tô Tinh Hà cùng Hư Trúc vào trong nhà lúc nào nữa.

Tô Tinh Hà dắt Hư Trúc vào trong, chui qua hai lần lỗ vách. Vào tới nơi thì thấy lão già nằm dưới đất, Tô Tinh Hà đưa tay đặt lên mũi sư phụ thì thấy lão chết rồi. Họ Tô đã đoán trước tám chín phần mười, mà cũng không dằn nổi mối bi ai tận đáy lòng, bèn phục xuống dập đầu trước thi hài sư phụ, vừa khóc vừa nói: “Sư phụ, sư phụ! Thế là đệ tử không còn được nghe sư phụ giáo huấn nữa rồi.”

Hư Trúc nghĩ thầm: “Quả nhiên lão già này đúng là sư phụ Tô tiền bối.” Tô Tinh Hà gạt nước mắt đứng dậy, đặt thi thể sư phụ ngồi ngay ngắn, tựa vào vách ván, rồi lại dắt Hư Trúc đến ngồi bên cạnh.

Hư Trúc cả kinh nghĩ thầm: “Tô tiền bối đặt mình ngồi ngang thi thể sư phụ y để làm gì? Chẳng lẽ… lão bắt ta phải chết theo?” Y thấy nổi da gà, muốn đứng dậy nhưng không dám. Một là y vẫn kính nể Tô Tinh Hà, hai là sư bá tổ Huyền Nạn đã dặn y nhất nhất tuân theo mệnh lệnh của họ Tô.

Tô Tinh Hà kéo ngay ngắn lại cái vạt áo đã bị đốt cháy mất một nửa, rồi đột nhiên quỳ xuống trước mặt Hư Trúc, dập đầu lạy, nói: “Đệ tử bất tiếu phái Tiêu Dao là Tô Tinh Hà xin làm lễ bái kiến chưởng môn bản phái!” Hư Trúc sợ đến luống cuống chân tay, lẩm bấm một mình: “Lão này điên mất rồi! Lão này điên mất rồi!” Y vội vã quỳ xuống dập đầu lạy trả Tô Tinh Hà, vừa lạy vừa nói: “Lão tiền bối thi hành đại lễ thế này, tiểu tăng tổn thọ mất!”.

Tô Tinh Hà nghiêm mặt nói: “Sư đệ! Sư đệ đã được sư phụ ta thu nạp làm đệ tử kế nghiệp, tức là chưởng môn của bản phái. Ta tuy là sư huynh, nhưng dĩ nhiên cũng phải dập đầu trước chưởng môn sư đệ!” Hư Trúc ấp úng: “Việc này… việc này…” Bây giờ y biết không phải Tô Tinh Hà phát điên, nhưng như vậy lại càng khó xử hơn.

Tô Tinh Hà nói: “Sư đệ! Vừa rồi sư đệ cứu được mạng ta, chắc chắn sư phụ đã thành toàn cho sư đệ rồi, vậy sư đệ nhận mấy lạy của ta là đáng lắm. Phải chăng sư phụ đã bảo sư đệ khấu đầu chín cái làm lễ bái sư? Sư đệ đã dập đầu chưa?” Hư Trúc đáp: “Tiểu tăng dập đầu rồi, nhưng lúc ấy chưa biết là lễ bái sư. Tiểu tăng đã là đệ tử Thiếu Lâm, không thể gia nhập phái khác được.” Tô Tinh Hà nói: “Dĩ nhiên sư phụ hiểu sư đệ là môn đệ Thiếu Lâm, nhất định người hóa giải võ công của sư đệ trước, rồi mới truyền võ công bản phái sau. Phải chăng sư phụ đã trút hết một thân công lực của người vào nội thể sư đệ?” Hư Trúc gật đầu nói: “Đúng thế!” Tô Tinh Hà lại nói: “Cái nhẫn đá đen kia là biểu tượng của chưởng môn bản phái. Phải chăng sư phụ đã đeo vào ngón tay cho sư đệ?” Hư Trúc đáp: “Chính thế! Có.điều… tiểu tăng không hiểu đó là biểu tượng gì gì hết…!”

Tô Tinh Hà ngồi xuống đất nói: “Sư đệ! Phúc trạch sư đệ cực kỳ thâm hậu! Ta cùng Đinh Xuân Thu mong mỏi cái nhẫn đá đen đó mấy chục năm trời, thủy chung vẫn không được! Vậy mà sư đệ mới gần gũi sư phụ một giờ đã được trao nhẫn cho”. Hư Trúc vội nói: “Thế thì tiền bối cứ lấy đi, cái nhẫn này tiểu tăng không dùng làm gì được!” Tô Tinh Hà nghiêm mặt nói: “Sư đệ! Chắc hẳn sư đệ đã nhận lời ủy thác của sư phụ lúc lâm tử, cố lý đâu lại chạy trốn trách nhiệm? Phải chăng sư phụ đã dặn sự đệ phải trừ diệt Đinh Xuân Thu?” Hư Trúc nói: “Chính thế! Nhưng tiểu tăng đạo hạnh thô thiển, làm sao đương nổi trọng trách đó?”

Tô Tinh Hà thở dài, nhìn cái nhẫn trên ngón tay Hư Trúc mà nói: “Sư đệ! Trong vụ này còn nhiều điểm sư đệ chưa biết, để ta nói cho nghe. Phái Tiêu Dao trước đây đã có lệ: Khi chưởng môn qui tiên thì không nhất định là đại đệ tử kế vị, mà đệ tử có võ công cao cường nhất trong bản phái sẽ nhận chức chưởng môn.”

Hư Trúc mừng quá nói ngay: “Vâng, vâng! Tiểu tăng võ công thấp kém…” Tô Tinh Hà không lý gì đến y, cứ nói tiếp: “Trước kia sư phụ chỉ nhận hai đồ đệ là ta và Đinh Xuân Thu. Nhưng sở học của sư phụ rất phức tạp nên có qui định ai muốn làm chưởng môn thì phải giỏi hết mọi môn, không những tỉ võ mà phải đi thí cả cầm kỳ thi họa nữa. Đinh Xuân Thu ngoài võ công ra thì chẳng biết gì hết, y tự biết không có hy vọng giành được chức chưởng môn, bèn hạ thủ trước, đánh sư phụ rơi xuống vực thẳm, lại đánh ta bị trọng thương!”

Hư Trúc từ lúc ở dưới địa động trong nhà Tiết Mộ Hoa đã nghe chuyện này. Y vẫn chưa hiểu một chuyện, bèn hỏi: “Sao Đinh Xuân Thu lại không giết tiền bối đi?” Tô Tinh Hà đáp: “Sư đệ đừng tưởng y để ta sống vì lòng nhân nghĩa. Một là nhất thời hắn không phá được trận thế kỳ môn độn giáp do ta dùng ngũ hành bát quái sắp đặt. Hai là ta có nói với hắn: “Đinh Xuân Thu! Ngươi ám toán sư phụ, đánh thắng sư huynh, nhưng còn nhiều môn võ công uyên thâm của phái Tiêu Dao ngươi chưa biết tí gì. Kinh sách Bắc Minh Thần Công ngươi có muốn xem không? Khinh công Lăng Ba Vi Bộ ngươi có muốn học không? Còn Thiên Sơn Lục Dương Chưởng, Thiên Sơn Chiết Mai Thủ thì sao? Tiểu Vô Tướng Công thì sao?”

“Đó là những môn võ công thượng thừa của bản phái, ngay cả sư phụ của ta vì phân tâm theo đuổi nhiều môn tạp học, nên cũng chưa luyện tới nơi. Đinh Xuân Thu nghe vậy thì thèm đến run người, liền bảo ta: “Ngươi giao sách ra đây, ta sẽ tha mạng cho ngươi.” Ta đáp: “Ta đâu có giữ mấy pho sách này mà đưa ra, cũng chưa chắc biết nơi sư phụ cất giấu. Ngươi muốn giết ta thì cứ việc hạ thủ!”. Đinh Xuân Thu lại nói: “Dĩ nhiên bí kíp cất giấu ở Tinh Tú Hải, sao ta lại không biết?” Ta nói: “Đúng thế. Bí kíp ở Tinh Tú Hải, ngươi có giỏi thì tự đi mà tìm lấy!”. Hắn tính toán một lúc, biết rằng chu vi Tinh Tú Hải rộng đến mấy trăm dặm, tìm mấy pho sách nhỏ xíu không phải chuyện dễ dàng, liền bảo: “Được rồi! Hôm nay ta không giết ngươi, nhưng từ đây trở đi ngươi phải giả câm giả điếc, không tiết lộ bí mật bản phái ra ngoài.”

“Hắn mà không muốn giết ta ư? Hắn lưu mạng ta lại để bắt phải cung khai, biết rằng sau khi ta chết thì khắp thiên hạ không ai tìm được bí kíp cho hắn nữa. Thực ra những bí kíp này không ở Tinh Tú Hải, mà ba vị sư bá, sư phụ, sư thúc chia nhau ra giữ. Mấy chục năm nay Đinh Xuân Thu ở Tinh Tú Hải, chắc là y đã lột hết từng cục đá lên mà cũng không thấy tờ kinh sách nào. Mấy lần y đến đây, đều bị ta bày cơ quan thổ mộc và dàn trận kỳ môn độn giáp thoát khỏi. Lần này chắc là hắn tuyệt vọng rồi, muốn giết ta cho hả dạ.”

Hư Trúc nói: “May mà tiền bối…” Tô Tinh Hà ngắt lời: “Sư đệ là chưởng môn của bản phái, sao lại gọi ta là tiền bối, gọi là sư ca mới phải chứ!” Hư Trúc nghĩ thầm: “Chuyện này thật là rắc rối, ta chưa thể nói huỵch toẹt ra được.” Y nghĩ vậy liền đáp: “Tiền bối có phải sư huynh tiểu tăng hay không, chưa bàn đến vội. Giả tỉ tiền bối là sư huynh thì cũng có thể gọi là tiền bối chứ sao?” Tô Tinh Hà gật đầu nói: “Sư đệ nói cũng có lý. Vừa rồi sư đệ định nói may mà cái gì?” Hư Trúc nói: “May mà tiền bối giấu được công lực tinh nhuệ của mình, chờ đến lúc tối hậu mới đột nhiên xuất kỳ chiêu trả đòn, khiến Tinh Tú Lão Quái thua liểng xiểng phải bỏ chạy.”

Tô Tinh Hà xua tay lia lịa nói: “Sư đệ! Đó là kỳ công của sư đệ mà! Rõ ràng sư đệ truyền thần công của sư phụ vào giúp sức, cứu được tính mạng cho ta, sao còn khiêm tốn không chịu nhận? Ta tuy là sư huynh, song ngôi chưởng môn đã định rồi, ta phải tôn kính chưởng môn nhân. Huống chi sư phụ đã mượn bàn tay sư đệ cứu mạng ta, từ đây sư đệ đừng coi ta như người ngoài nữa.”

Hư Trúc lấy làm lạ hỏi: “Tiểu tăng đã giúp tiền bối gì đâu? Việc cứu mạng gì gì đó không nên nói đến nữa.” Tô Tinh Hà ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Cũng có thể là sư đệ vô tâm, nhưng nhờ sư đệ đặt tay lên lưng ta nên thần công của bản môn mới truyền vào được, ta mới chuyển bại thành thắng.” HưTrúc nói: “Thế ư? Nếu vậy thì tiền bối được lệnh sư cứu mạng, chứ không phải tiểu tăng đâu.” Tô Tinh Hà nói: “Thì ta cũng nói sư phụ đã mượn bàn tay sư đệ cứu mạng ta mà, sư đệ chịu rồi chứ?” Hư Trúc không cãi được, gật đầu nói: “Tiền bối nói vậy là hợp lý, tiểu tăng không chịu cũng không được.”

Tô Tinh Hà lại nói: “Vừa rồi thần công của sư đệ đánh cho Đinh Xuân Thu kinh sợ chạy đi, chỉ là nhờ xuất kỳ bất ý thôi. Thật ra hai sư huynh đệ chúng ta hợp lực chưa chắc đã địch nổi hắn, nếu không thì sư phụ đã giúp ta thu thập tên phản đồ này từ lâu rồi, hà tất phải khổ sở đến thế. Ba mươi năm nay ta đã thử nhiều phương pháp, rốt cuộc vẫn không tìm thấy ai đủ tư cách kế thừa võ công của sư phụ. Sư phụ thì ngày càng già yếu, người thừa kế lại ngày càng khó tìm, không những phải có ngộ tính cực cao, còn phải là thiếu niên anh tuấn…”

Hư Trúc lại nghe Tô Tinh Hà nói mấy chữ “thiếu niên anh tuấn”, không khỏi chau mày tự hỏi: “Luyện võ công thì cần gì đến bộ mặt đẹp hay xấu? Hai thầy trò lão này cứ ráng tìm người anh tuấn để truyền võ công là tại vì sao?” Bỗng y thấy Tô Tinh Hà liếc mắt nhìn mình thở dài, bèn nói: “Tiểu tăng mặt mũi xấu xí, không đủ tư cách làm truyền nhân của tôn sư. Vậy lão tiền bối đi tìm một vị thiếu niên phong lưu anh tuấn về đây, tiểu tăng sẽ chuyển giao lại thần công cho chàng, thế là yên chuyện.”

Tô Tinh Hà sửng sốt nói: “Thần công bản phái có liên quan đến khí huyết cùng tim mạch. Thần Công còn thì người còn, thần công mất thì người chết. Sư phụ truyền thần công cho sư đệ rồi quy tiên ngay, chẳng lẽ sư đệ không thấy sao?”

Hư Trúc dậm chân liên tiếp, rồi nói: “Trời ơi! Biết làm thế nào đây? Tiểu tăng làm lỡ đại sự của lệnh sư cùng tiền bối mất rồi!”

Tô Tinh Hà nói: “Sư đệ! Trách nhiệm đã trút lên vai sư đệ rồi. Sư phụ đặt ra thế cờ Trân Lung là cốt để kiểm tra ngộ tính của những người đến phá giải. Thế cờ đó khó vô cùng, ta khổ sở mấy chục năm trời mà không sao phá giải được, chỉ có mình sư đệ giải khai được mà thôi. Vậy thì ngộ tính của sư đệ cực cao, là hợp thức rồi.”

Hư Trúc nhăn nhó cười nói: “Thực ra thì không hợp thức đâu, thế cờ đó không phải tiểu tăng phá được.” Rồi y thuật lại mọi việc sư bá tổ Huyền Nạn dùng phép Truyền Âm Nhập Mật ngấm ngầm chỉ điểm.

Tô Tinh Hà nửa tin nửa ngờ nói: “Huyền Nạn đại sư mắc phải độc thủ của Đinh Xuân Thu, mất hết công lực toàn thân thì làm sao thi triển được phép Truyền Âm Nhập Mật nữa?” Lão ngừng một lát rồi nói tiếp: “Nhưng phái Thiếu Lâm là một phái võ chính tông đứng đầu thiên hạ, không chừng Huyền Nạn đại sư chỉ giả vờ mất công lực, ta chỉ là ếch ngồi đáy giếng không hiểu được. Sư đệ ơi, ta đã khổ công mời mọc bao nhiêu nhân vật đến đây phá thế cờ. Mộ Dung công tử ở Cô Tô mặt đẹp như ngọc, lại hiểu hết tuyệt kỹ võ công trên thiên hạ. Y chính là nhân vật đủ tư cách nhất trong chuyện này, nhưng khốn nỗi lại không phá được thế Trân Lung.”

Hư Trúc nói: “Đúng rồi! Mộ Dung công tử quả là đẹp trai gấp trăm lần tiểu tăng. Lại còn vị Đoàn công tử nước Đại Lý cũng là tay phong lưu tuyệt thế.”

Tô Tinh Hà nói: “Ôi chao, gã này không nên đề cập đến. Ta từng nghe Trấn Nam Vương nước Đại Lý là Đoàn Chính Thuần rất tinh thâm về thần kĩ Nhất Dương Chỉ, lại là người phong lưu trên đời hiếm có. Bất luận là khuê nữ hay thiếu phụ trong võ lâm mà gặp phải y là thần hồn điên đảo, không sao tự chủ được nữa. Ta cũng đã sai đệ tử đi mời y đến đây, nói cho y biết Cô Tô Mộ Dung muốn phá phép Nhất Dương Chỉ của Đoàn gia, ngờ đâu y chẳng đến mà chỉ có cậu con trai ngớ ngẩn đến thôi.”

Hư Trúc mỉm cười nói: “Dường như cặp mắt của Đoàn công tử lúc nào cũng đăm đăm chiêm ngưỡng Vương cô nương!”

Tô Tinh Hà lắc đầu nói: “Tội nghiệp, tội nghiệp! Phụ thân gã là Đoàn Chính Thuần thì nổi danh là tay phong lưu đệ nhất võ lâm, lại có cậu con chẳng giống cha chút nào, làm mất cả mặt. Gã cố sống cố chết theo đuổi Vương cô nương, mà Vương cô nương lại không thèm để ý gì đến gã, thật là tức cười chết đi được!” Hư Trúc nói: “Đoàn công tử là kẻ thâm tình, thì tư cách chàng còn hơn bọn phong lưu. Sao tiền bối lại chê trách chàng?” Tô Tinh Hà đáp: “Gã là một tên ngờ nghệch không biết tán gái, chúng ta không thể dùng gã được.” Hư Trúc đáp: “Vâng.” Nhà sư mừng thầm nghĩ bụng: “Té ra bọn này muốn kiếm một chàng thiếu niên anh tuấn là để đối phó với nữ nhân. Nếu vậy thì tuyệt diệu, nhất định họ không dùng đến kẻ trọc đầu xấu xí như ta!”

Tô Tinh Hà lại hỏi: “Sư đệ! Sư phụ có dặn sư đệ đi kiếm người nào không?” Hư Trúc sửng sốt, biết rằng chuyện này rắc rối, đã toan nói dối. Những nhà sư đã được các vị cao tăng chùa Thiếu Lâm dạy dỗ từ nhỏ, kẻ xuất gia không được nói dối, nên ngượng nghịu không dối được. Y ấp úng đáp: “Cái đó… cái đó…”

Tô Tinh Hà đáp: “Sư đệ là chưởng môn bản phái, hỏi gì thì ta phải trả lời, nếu không thì sư đệ có thể dùng quyền chưởng môn mà xử tử ta. Còn ta hỏi sư đệ điều gì, sư đệ muốn trả lời thì tốt, còn không muốn trả lời thì có thể cấm ta không được hỏi nhiều.”

Tô Tinh Hà nói vậy, song Hư Trúc không dám hỗn láo, liền khoát tay nói: “Tiểu tăng không dám ngông cuồng tự đại. Tiền bối, lệnh sư đã giao cái này cho tiểu tăng.” Nói xong, y lấy cuốn trục trong bọc ra, chỉ thấy vẻ mặt Tô Tinh Hà cực kỳ cung kính, lão không dám đưa tay đụng tới cuốn trục. Nhà sư liền tự tay chầm chậm mở ra. Cuốn trục vừa mở, cả hai cùng ngẩn người, la lên một tiếng kinh ngạc. Thì ra cuốn trục này không vẽ bản đồ mà cũng không vẽ phong cảnh chi hết, chỉ vẽ một thiếu nữ ăn mặc kiểu cung phi, nhan sắc tuyệt vời. Hư Trúc nói: “Đây chính là Vương cô nương ở ngoài kia.”

Cuốn trục này bằng lụa đã vàng ố, nét vẽ cũng đã phai màu, ít ra cũng đến ba bốn chục năm, rõ ràng là một bức vẽ nhân vật đời trước. Chẳng lẽ họa sĩ mấy chục hay mấy trăm năm trước đã tưởng tượng mà vẽ ra dung mạo Vương cô nương hiện nay, thật là không thể tin được. Nét vẽ trong đồ hình linh hoạt phi thường, người trong bức vẽ sinh động như thật, tựa như Vương Ngữ Yên co nhỏ người lại rồi chui vào bức tranh.

Hư Trúc kinh hãi, nhìn qua Tô Tinh Hà thì thấy lão đang thò ngón tay ra vẽ vẽ vạch vạch, dường như cố bắt chước nét vẽ trong bức họa. Lão vừa vẽ vừa tấm tắc khen ngợi hồi lâu, rồi đột nhiên như người đang mơ chợt tỉnh, cất tiếng nói: “Sư đệ đừng ngạc nhiên mà cũng đừng trách tiểu ca. Chẳng qua tiểu ca nhìn nét đan thanh tuyệt diệu của sư phụ, bất giác lại ngứa nghề, xuất thần muốn học vẽ một phen. Ôi! Bá nghệ bá tri vị chi bá láp, cái gì ta cũng muốn học nên không học được gì đến nơi đến chốn, mới bị Đinh Xuân Thu đánh cho thảm hại.” Lão vừa nói vừa vội vã cuộn cuốn trục lại, chỉ sợ coi nữa sẽ lại bị nét bút quyến rũ làm cho mê mẩn. Tô Tinh Hà nhắm mắt dưỡng thần, lại lắc lắc đầu tựa như để xua đuổi những nét vẽ trong đồ hình ra khỏi tâm trí. Hồi lâu lão mới mở mắt ra hỏi: “Lúc sư phụ trao cuốn trục này cho sư đệ, người đã dặn gì?”

Hư Trúc đáp: “Lệnh sư nói là hiện giờ công phu của tiểu tăng chưa đủ trừ diệt Đinh Xuân Thu, phải  theo cuốn trục này đi đến núi Vô Lượng ở Đại Lý, tìm kiếm kinh thư võ học để luyện thêm. Lệnh sư còn nói đồ hình này vẽ nơi người đã hưởng phúc thanh nhàn khi trước. Tiểu tăng cứ tưởng trong đồ hình phải vẽ một nơi non thanh thủy tú, hoặc một phong cảnh thanh tịch u nhã, ngờ đâu lại là hình ảnh Vương cô nương. Hay là lệnh sư đưa nhầm cuốn trục?”

Tô Tinh Hà nói: “Hành động của sư phụ khó mà lường được. Ngộ tính của sư đệ rất cao, chắc là lúc gặp việc tự nhiên sẽ hiểu. Sư đệ phải cố mà tuân lệnh sư phụ, kiếm sách học thêm để trừ diệt Đinh Xuân Thu.” Hư Trúc ấp úng: “Việc này… việc này… Tiểu tăng là đệ tử Thiếu Lâm, bây giờ phải trở về phục mệnh ngay. Khi đã về chùa rồi thì không biết còn ra lại nữa không.”

Tô Tinh Hà giật mình la lên một tiếng, rồi buông tiếng khóc ròng. Lão sụp xuống trước mặt Hư Trúc, vừa lạy như tế sao vừa khẩn cầu: “Chưởng môn! Trời ơi! Chưởng môn không tuân theo đi huấn, thế ra sư phụ tự sát chết oan chứ còn gì nữa?”

Hư Trúc cũng quì xuống vừa lạy trả vừa nói: “Tiểu tăng đã vào cửa Không, một lòng giới sân giới sát. Trước đây tiểu tăng đã chịu lời tôn sư đi trừ diệt Đinh Xuân Thu, lúc này nghĩ lại hối hận vô cùng. Qui củ bản phái nghiêm minh, dù sao thì tiểu tăng cũng không dám qui đầu phái khác, làm điều càn rỡ.” Bất luận Tô Tinh Hà khóc lóc van vỉ, dỗ ngon dỗ ngọt, hay uy hiếp cưỡng bách, Hư Trúc vẫn một mực không chịu. Lão không biết làm thế nào được, vừa thương tâm vừa tuyệt vọng, nhìn thi thể sư phụ vừa khóc vừa nói “Sư phụ ơi! Chưởng môn sư đệ không chịu tuân theo di mệnh, tiểu đồ kém cỏi không làm gì được, đành đi theo sư phụ thôi!” Lão nói xong nhảy vọt lên, hai chân đưa lên trời, trở đầu toan đập xuống thềm đá.

Hư Trúc hốt hoảng la lên: “Không được!”, rồi nhảy tới ôm chặt lấy Tô Tinh Hà. Hiện giờ nội lực y thâm hậu, chân tay mau lẹ hơn trước nhiều. Tô Tinh Hà bị Hư Trúc ôm chặt không nhúc nhích được. Lão hỏi: “Sao sư đệ không cho tiểu huynh tự tận?” Hư Trúc đáp: “Người xuất gia lấy từ bi làm gốc, dĩ nhiên tiểu tăng không nỡ thấy tiền bối hủy mình.” Tô Tinh Hà nói: “Sư đệ buông ta ra. Tiểu huynh nhất quyết không muốn sống nữa!” Hư Trúc nói: “Tiểu tăng nhất định không buông.” Tô Tinh Hà nói: “Sư đệ ôm ta thế này mãi được chăng?” Hư Trúc thấy lão nói đúng, liền đảo người lão lại cho đầu lên trên chân xuống dưới rồi buông ra nói: “Được rồi! Tiểu tăng buông tiền bối, nhưng nhất quyết không chịu để tiền bối tự tận” .

Tô Tinh Hà trong lòng chợt động, nói ngay: “Sư đệ không cho tiểu huynh tự tận ư? Dĩ nhiên tiểu huynh phải tuân lệnh của chưởng môn. Hay lắm! Chưởng môn ơi, thế là chưởng môn đã chịu làm chưởng môn bản phái rồi!” Hư Trúc lắc đầu quầy quậy: “Không đâu! Tiểu tăng chịu làm chưởng môn hồi nào?” Tô Tinh Hà cười ha hả nói: “Chưởng môn! Bây giờ chưởng môn lại muốn cãi thì không kịp nữa rồi! Chưởng môn đã ra lệnh, tại hạ đã tuân theo, từ giờ không dám tự tận nữa. Thông Biện tiên sinh Tô Tinh Hà này là hạng người nào? Trừ chưởng môn bản phái, ngoài ra chẳng ai dám ra lệnh cho ta nữa. Chưởng môn không tin thì cứ hỏi Huyền Nạn đại sư phái Thiếu Lâm xem có đúng thế không? Ngay cả phương trượng chùa Thiếu Lâm cũng không dám ra lệnh cho ta.”

Hư Trúc cũng biết Lung Á lão nhân oai danh lừng lẫy giang hồ, lão nói không ai dám ra lệnh cho lão là đúng sự thực. Nhà sư nói: “Tiểu tăng không dám ra lệnh cho tiền bối. Tiểu tăng nói vậy là để khuyên tiền bối giữ gìn tính mệnh không nên hủy hoại, đó chỉ là hảo ý mà thôi.”

Tô Tinh Hà đáp: “Ta không đủ tư cách xem xét ý kiến của chưởng môn là hảo ý hay ác ý. Chưởng môn bảo ta chết thì ta phải chết, chưởng môn bảo ta không được chết thì ta không dám chết nữa. Chuyện sống hay chết là chuyện lớn nhất ở đời, giả tỉ sư đệ không phải là chưởng môn thì không có quyền bắt tiểu huynh phải sống.”

Hư Trúc đuối lý bèn xuống giọng năn nỉ: “Thì ra tiểu tăng đã lỡ lời, xin rút lại câu nói đó vậy.” Tô Tinh Hà nói: “Được lắm! Chưởng môn đã rút lệnh không cho ta tự tận, tức là ngầm bảo ta phải tự tận đi. Tiểu huynh xin tuân lệnh, lập tức tự tận ngay.”  Cách tự sát của lão thật là cổ quái, lại nhảy giơ chân lên trời, đầu chúc xuống toan đập vào thềm đá.

Hư Trúc lại giơ tay ra ôm lấy, nói: “Không được, không được! Tiểu tăng có bảo tiền bối tự tận đâu!” Tô Tinh Hà lại nói: “Vâng! Chưởng môn đã không cho tự tận, tại hạ kính cẩn tuân lệnh chưởng môn!” Hư Trúc hạ người Tô Tinh Hà xuống, không biết nói sao, cứ vò đầu bứt tai mãi, giả tỉ cái đầu của y còn sợi tóc nào thì e rằng cũng rụng hết.

Tô Tinh Hà có ngoại hiệu là Thông Biện tiên sinh vì lão biện bác rất giỏi. Suốt ba mươi năm trời lão phải giả câm giả điếc, hôm nay mới được múa lưỡi lý luận như thông reo nước chảy. Hư Trúc đã nhỏ tuổi lại kém mồm miệng, thì tranh luận với lão thế nào được? Thực ra Hư Trúc không cho lão tự tận thì không thể qui ra là bắt lão tự tận, nhưng Tô Tinh Hà biện luận hùng hồn nói đâu ra đấy, y không biết nói sao đành đứng ngẩn ra. Hồi lâu Hư Trúc mới thở dài nói: “Tiền bối! Tiểu tăng không cãi nổi, nhưng dù sao cũng không thể tuân mệnh tiền bối mà gia nhập quý phái.”

Tô Tinh Hà lại vặn hỏi: “Lúc chúng ta vào đây, Huyền Nạn đại sư đã dặn sư đệ điều gì? Lời nói của Huyền Nạn đại sư thì sư đệ có tuân mệnh hay không?” Hư Trúc ấp úng đáp: “Sư bá tổ đã dặn tiểu tăng… phải… nghe lời… lão tiền bối.”

Tô Tinh Hà đắc ý cười ha hả nói: “Phải rồi! Huyền Nạn đại sư bảo sư đệ phải nghe lời tiểu huynh, mà tiểu huynh đã khuyên sư đệ tuân theo di mệnh của sư phụ mà làm chưởng môn bản phái. Thế thì nếu sư đệ tuân lời của Huyền Nạn đại sư thì phải làm chưởng môn phái Tiêu Dao. Giả tỉ sư đệ không tuân lời Huyền Nạn đại sư cũng vẫn hợp lý, vì chưởng môn phái Tiêu Dao bất tất phải nghe lệnh của Huyền Nạn đại sư.” Tô Tinh Hà đưa ra lý luận nào Hư Trúc nghe cũng có lý, nhà sư lúng túng không biết nói gì nữa.

Tô Tinh Hà lại tiếp: “Sư đệ! Huyền Nạn đại sư cùng mấy vị cao tăng của chùa Thiếu Lâm đã trúng phải độc thủ của Đinh Xuân Thu, nếu không tìm cách cứu chữa thì tính mạng nguy trong chốc lát, mà hiện nay trên thế gian chỉ có một mình sư đệ là cứu được. Ta nói vậy thôi, còn cứu hay không là tùy ý sư đệ.” Hư Trúc cả kinh hỏi: “Sư bá tổ của tiểu tăng trúng phải độc thủ của Đinh Xuân Thu, tiền bối bảo tiểu tăng có thể… có thể cứu được ư? Vậy phải làm thế nào mới cứu được họ?”

Tô Tinh Hà mỉm cười nói: “Sư đệ! Bản phái không chỉ sở trường về võ học mà bất luận môn gì, y bốc tướng số hay cầm kỳ thi họa đều bao quát hết. Sư đệ có một tên sư điệt là Tiết Mộ Hoa, gã học y thuật, chưa đến đâu mà người trên chốn giang hồ đều gọi gã là Tiết Thần Y, lại còn được thiên hạ tặng cho cái ngoại hiệu là Diêm Vương Địch, thật là buồn cười đến nẻ ruột. Huyền Nạn đại sư trúng phải Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân Thu, vị sư phụ mặt vuông thì bị gã đầu sắt dùng Băng Tằm Chưởng đánh bị thương, còn vị sư phụ cao cao gầy gầy thì bị Đinh Xuân Thu đá vào cạnh sườn bên tả cách ba tấc, làm tổn thương kinh mạch.”

Tô Tinh Hà cứ thao thao bất tuyệt kể rõ nguyên do và thương thế từng người. Hư Trúc vừa kinh ngạc vừa bội phục, nói: “Tiền bối! Tiểu tăng tưởng tiền bối chỉ chuyên tâm về kỳ thuật, không ngờ cũng hiểu rõ chuyện chẩn mạch chữa thương đến như vậy.”

Tô Tinh Hà đáp: “Nhân vật võ lâm bị thương do đánh nhau thì chỉ trông qua là biết, nếu đã biết thì chữa trị chẳng có gì là khó. Những bệnh thiên nhiên như suy nhược, phong tà hay thương hàn, còn khó đoán hơn nhiều. Trong mình sư đệ đã có bảy mươi năm thần công phái Tiêu Dao của sư phụ truyền cho, nếu đem ra trị bệnh thì rất hiệu quả. Muốn khôi phục lại công lực cho Huyền Nạn đại sư thì không phải là chuyện dễ, nhưng muốn chữa thương bảo toàn sinh mạng cho đại sư thì chỉ giơ tay một cái là xong.” Tô Tinh Hà nói xong bèn dạy cho Hư Trúc cách vận khí thúc vào huyệt đạo, cùng phép tiêu trừ hàn độc. Mỗi người bị thương khác nhau đều phải dùng thủ pháp khác nhau để chữa trị, rất là phức tạp.

Hư Trúc ráng học đến thuộc lòng những thủ pháp mà Tô Tinh Hà dạy cho, nhưng chỉ biết cách chữa mà không hiểu gì đạo lý bên trong. Tô Tinh Hà thấy Hư Trúc diễn lại vài lần đã thuần thục, liền khen rằng: “Quả nhiên chưởng môn sư đệ ngộ tính hơn người, vừa học đã nhớ ngay.” Lão vừa nói vừa cười cười đầy vẻ bí hiểm.

Hư Trúc thấy Tô Tinh Hà cười có vẻ cổ quái, dường như có ẩn ý không hay, bất giác sinh nghi hỏi: “Sao tiền bối lại cười?” Tô Tinh Hà không cười nữa, giữ vẻ mặt nghiêm trang nói: “Tiểu huynh vô lễ, xin chưởng môn tha tội!” Hư Trúc nóng lòng trị thương cho mọi người, không để ý đến nữa, liền bảo: “Chúng ta ra ngoài đi.” Tô Tinh Hà “Vâng” một tiếng rồi cùng Hư Trúc ra khỏi căn nhà bí mật.  Mọi người bị thương đều ngồi xếp bằng dưới đất, nhắm mắt dưỡng thần. Mộ Dung Phục vận dụng nội lực để tiếp sức cho Bao Bất Đồng và Phong Ba Ác đỡ đau khổ, Vương Ngữ Yên thì săn sóc cho Công Dã Càn. Tiết Mộ Hoa mồ hôi đầy mặt, chạy tới chạy lui, thấy ai nguy khốn nhất thì chạy đến cấp cứu, nhưng người này hơi khỏe thì người khác lại la gọi rồi. Y thấy Tô Tinh Hà trở ra thì trong lòng cảm thấy vững tin, liền chạy tới gọi: “Sư phụ! Lão nhân gia mau mau tìm cách chữa trị cho bọn họ.”

Hư Trúc đến bên Huyền Nạn, thấy đại sư đang nhắm mắt vận công, liên thõng tay đứng chờ, không dám mở miệng. Huyền Nạn từ từ mở mắt ra, khẽ thở dài một tiếng rồi nói: “Sư bá tổ ngươi bất tài, trúng độc thủ của Đinh Xuân Thu làm tổn thương uy danh bản phái, thật là xấu hổ. Ngươi về bẩm với phương trượng rằng ta… ta cùng sư thúc tổ ngươi là Huyền Thống… không còn mặt mũi nào trở về chùa nữa!”

Hư Trúc trước nay thấy sư bá tổ lúc nào cũng trang nghiêm, không giận mà uy, chưa dám nhìn thẳng mặt bao giờ, thế mà bây giờ lão tăng mặt mày thảm đạm, đầy vẻ thê lương như anh hùng đến bước đường cùng, giọng nói lại đầy vẻ chán nản tựa hồ có ý tự sát. Y bèn nói: “Sư bá tổ! Lão nhân gia đừng quá lo buồn. Những người học võ như chúng ta, không nên để tâm vào việc giận dữ, hơn thua, thắng bại hay được mất…” Mấy câu này là trước đây sư phụ dạy cho, y đã thuộc nằm lòng, bây giờ thuận miệng xổ ra trước mặt sư bá tổ, đến khi thấy mình nói không đúng chỗ, gấp rút ngưng lại thì đã lỡ tuôn ra một tràng rồi.

Huyền Nạn mỉm cười, đáp lại: “Ngươi nói không sai, nhưng nội lực của sư bá tổ đã mất, sức để thiền định cũng không còn nữa.” Hư Trúc nói: “Vâng, vâng. Đồ tôn không biết nặng nhẹ, ăn nói thật là bừa bãi.” Y đang muốn ra tay trị thương, bỗng nhớ đến cái cười đầy vẻ xảo trá trên mặt Tô Tinh Hà, trong lòng không khỏi kinh nghi tự hỏi: “Lão dạy ta phóng chưởng đánh vào yếu huyệt trên đỉnh đầu sư bá tổ, là có ý hại người hay chăng? Sư bá tổ đã mất hết công lực, giả tỉ ta đánh chết người thì biết làm thế nào?”

Huyền Nạn nói: “Ngươi về bẩm với phương trượng là bản tự sắp có đại nạn, cần phải gia tăng cảnh giới. Đi đường phải chú ý đề phòng. Ngươi thiên tính thuần phác, hai mặt Trì Giới và Thiền Định thì không phải lo gì, nhưng sau này phải dụng tâm nghiên cứu bốn quyển Kinh Lăng Già để thêm phần chữ Tuệ. Ái chà! Tiếc rằng sư bá tổ không thể ở bên mà chỉ điểm cho ngươi được.”

Hư Trúc “Dạ, dạ” rồi chợt nghĩ ra điều gì, lại nói: “Sư bá tổ! Bản tự sắp gặp đại nạn, thì lão nhân gia lại càng phải bảo trọng lấy thân, về chùa hiệp lực với phương trượng để ngăn đại địch!” Huyền Nạn nhăn nhó, cười nói: “Ta… ta trúng phải Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân Thu đã thành phế nhân rồi, nói gì đến chuyện hiệp lực với phương trượng để chống địch nữa?” Hư Trúc bèn đáp: “Sư bá tổ! Thông Biện tiên sinh có dạy cho đệ tử mấy phép chữa thương, đệ tử không tự lượng sức mình, muốn thử chữa cho Tuệ Phương sư bá. Sư bá tổ xem có nên chăng?”

Huyền Nạn cũng không ngạc nhiên lắm, lão tăng vốn biết Lung Á lão nhân Tô Tinh Hà là sư phụ của Diêm Vương Địch Tiết Thần Y, tất nhiên y thuật phải cao minh, chỉ không hiểu sao lão không tự ra tay, hay bảo Tiết Mộ Hoa động thủ. Đại sư liền bảo Hư Trúc: “Những phương pháp Thông Biện tiên sinh truyền thụ cho ngươi tất nhiên phải rất cao minh.” Huyền Nạn lại liếc nhìn Tô Tinh Hà một cái, bảo Hư Trúc: “Ngươi cứ theo đó mà chữa thử.” Hư Trúc chạy tới bên Tuệ Phương khom lưng nói: “Sư bá! Đệ tử vâng lệnh của sư bá tổ đến chữa thương cho sư bá đây.” Tuệ Phương mỉm cười gật đầu một cái. Hư Trúc bước xéo sang trái một bước, xoay tay phóng ngược lại một chưởng, trúng vào sườn bên tả Tuệ Phương.

Tuệ Phương kêu “Ối” lên một tiếng, lảo đảo người, thấy cạnh sườn mình bị đục thủng một lỗ, máu tươi cuồn cuộn chảy ra, tuy thấy trong người suy nhược, nhưng cái đau khổ do Hàn Băng Độc Chưởng của Du Thản Chi bỗng tiêu tan trong khoảnh khắc. Thì ra phép trị thương của Hư Trúc không phải dùng nội lực bản thân để khu trừ hàn độc trong người bị thương,mà lại dùng thần công bảy mươi năm của phái Tiêu  Dao đánh thủng người để mở đường tiết khí hàn độc ra ngoài. Phương pháp này cũng giống như khoét chỗ bị thương của người bị rắn cắn để nặn chất độc ra. Có điều so với dùng dao cắt thì phóng chưởng đục thủng thân thể khó hơn nhiều, bộ vị phải chính xác tuyệt đối thì chất độc mới tiết ra được. Hơn nữa, giả tỉ người chữa không đủ nội lực để đánh thấu vào kinh mạch, thì khí độc không tiết ra mà lại dồn ngược vào phủ tạng, bệnh nhân sẽ chết ngay lập tức.

Hư Trúc tuy quyết tâm phóng chưởng ra, nhưng trong lòng vẫn kinh sợ không yên tâm chút nào. Y chăm chú nhìn thấy Tuệ Phương chỉ lảo đảo một cái rồi ngồi thẳng lại, chỉ chau mày đau khổ một chút rồi vẻ mặt lại biến thành khoan khoái dễ chịu. Biến chuyển này chỉ trong khoảnh khắc, mà Hư Trúc tưởng như lâu đến mấy giờ. Sau một lúc nữa, Tuệ Phương thở phào một cái, tủm tỉm cười nói: “Hảo sư điệt, phát chưởng vừa rồi của ngươi thật là công hiệu phi thường.”

Hư Trúc cả mừng nói: “Đệ tử không dám!”, rồi quay sang hỏi Huyền Nạn: “Sư bá tổ! Đệ tử lại xin phép trị liệu cho mấy vị sư bá sư thúc nữa, được chăng?” Huyền Nạn nhìn sang mấy tên thủ hạ của nhà Mộ Dung, lắc đầu đáp: “Không được! Ngươi phải chữa trị cho người ngoài trước, trị cho người nhà sau.”

Hư Trúc rùng mình đáp: “Vâng!”, nghĩ thầm: “Lo cho người trước, lo cho mình sau mới đúng là bản sắc đại từ đại bi của nhà Phật.” Y thấy Bao Bất Đồng đang run rẩy toàn thân, răng khua lập cập, liền đến gọi: “Bao tam tiên sinh! Thông Biện tiên sinh dạy cho tiểu tăng phương pháp trị chứng hàn độc, tiểu tăng mới học, chưa được thông suốt mà cả gan dám thử, nếu có gì sai trái thì xin Bao tam tiên sinh lượng thứ cho.” Y nói xong liền áp tay vào ngực Bao Bất Đồng.

Bao Bất Đồng cười hỏi: “Ngươi làm cái trò gì thế?”  Hư Trúc đưa hữu chưởng lên, đánh “binh” một phát vào trước ngực gã, Bao Bất Đồng tức quá liền mở miệng thóa mạ: “Hòa thượng…” Còn chữ “thúi” chưa kịp nói ra miệng, đột nhiên y thấy hàn độc lưu cữu trong mình đã lâu ngày bỗng theo vết thương trên ngực tuôn ra ào ào. Thế là y ngậm miệng lại không mắng tiếp, đúng là nuốt “thúi” vào bụng.

Hư Trúc đánh cho mọi người tiết hàn độc ra hết, rồi lại cứu trị cho những người bị độc thủ của Đinh Xuân Thu. Bọn này bị thương không giống nhau, người bị Hóa Công Đại Pháp làm tiêu tan nội lực thì Hư Trúc phóng chưởng vào huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu hoặc vào huyệt Linh Đài ở trước ngực để giữ vững nguyên khí. Người nào bị thương về độc công phái Tinh Tú thì Hư Trúc dùng ngón tay đâm vào để hóa giải chất độc. Hư Trúc quả là nhớ dai, Tô Tinh Hà vừa chỉ điểm thương thế mỗi người ra sao, trị bằng cách nào, y nhớ rành mạch hết. Trong khoảng thời gian chừng ăn xong bữa cơm, mọi người đang đau đớn khổ sở đều được Hư Trúc giải trừ. Lung Á lão nhân là sư phụ của Tiết Thần Y, quả nhiên y thuật không phải tầm thường.

Sau cùng Hư Trúc đến trước mặt Huyền Nạn nghiêng người nói: “Sư bá tổ! Đệ tử lớn mật, xin phóng chưởng đánh vào huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu sư bá tổ.” Huyền Nạn đại sư mỉm cười nói: “Ngươi lọt vào mắt xanh Thông Biện tiên sinh, được người dạy cho phương pháp trị thương tuyệt diệu thế này, phúc trạch thật là thâm hậu. Ngươi cứ phóng chưởng vào huyệt Bách Hội trên đầu ta đi.”

Hư Trúc khom lưng nói: “Thế này thì đệ tử càn rỡ quá!” Lúc y ở chùa Thiếu Lâm, mỗi lần muốn thấy Huyền Nạn đều phải đứng xa xa nhìn vào. Những lúc Huyền Nạn hội họp tăng chúng để giảng giải tâm pháp võ công, Hư Trúc cũng phải đứng sau các vị khác, chứ chưa được đứng gần lão tăng bao giờ. Lần này nhà sư trẻ phóng chưởng đánh vào đầu sư bá tổ, tuy là để chữa thương, nhưng không khỏi hồi hộp trong lòng. Y trấn tĩnh lại rồi nói thêm: “Đệ tử mạo phạm, xin sư bá tổ tha tội”, rồi mới tiến lên một bước, nhắm huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu Huyền Nạn từ từ phóng chưởng ra, không nhanh không chậm mà cũng không nhẹ không nặng, thật là vừa cẩn thận vừa chính xác vô cùng.

Phát chưởng của Hư Trúc vừa chạm vào đầu Huyền Nạn, đột nhiên trên mặt đại sư hiện ra một nụ cười cổ quái, la lên một tiếng “Ôi chao!”, rồi gục xuống đất, cựa quậy mấy cái rồi nằm yên không nhúc nhích nữa.

Mọi người đều kinh hoảng la lên, Hư Trúc sợ hãi quá, tim đập ầm ầm, cứ nghĩ mình quá tay đánh chết sư bá tổ. Tuệ Phương cũng chạy vội đến, thấy miệng Huyền Nạn vẫn hiện một nụ cười quái dị, tuyệt khí chết rồi. Hư Trúc hốt hoảng la gọi: “Sư bá tổ!… Sư bá tổ làm sao vậy?”

Bỗng nghe tiếng Tô Tinh Hà la lên: “Chuyện gì thế? Ra sao rồi?”. Lão từ hướng Đông Nam nhảy vọt tới, nét mặt lộ vẻ sợ hãi nói: “Có người ở phía sau ám toán. Thân pháp y mau lẹ phi thường, không nhìn rõ là ai.” Tô Tinh Hà cầm tay Huyền Nạn xem mạch, rồi chau mày nói: “Huyền Nạn đại sư bị ám toán, lại đã mất hết công lực không còn sức để chống đỡ, nên viên tịch rồi!”

Hư Trúc đau lòng muốn ngất đi, khóc rống lên: “Sư bá tổ! Sư bá tổ… làm sao vậy?” Y bỗng nhớ lại lúc còn ở trong căn nhà gỗ, Tô Tinh Hà đã cười rất quái dị, bèn tức giận hỏi: “Thông Biện tiên sinh? Tại sao sư bá tổ lại chết? Phải chăng là tiên sinh cố ý hãm hại, mau nói thực đi!”

Tô Tinh Hà quì hai gối xuống đất nói: “Thưa chưởng môn, Tô Tinh Hà này không dám để chưởng môn làm chuyện bất nghĩa đâu. Huyền Nạn đại sư bị người ám toán nên mới viên tịch một cách đột ngột.” Hư Trúc hỏi: “Thế thì lúc ở trong nhà gỗ, tại sao tiên sinh lại cười một cách kỳ cục?” Tô Tinh Hà cả kinh hỏi lại: “Tiểu ca đã cười ư? Chưởng môn phải cẩn  thận, có người…” Lão chưa nói dứt câu đột nhiên ngừng lại, khóe miệng lại lộ ra một nụ cười khó hiểu.

Tiết Mộ Hoa la lớn: “Sư phụ!”, rồi vội móc trong bọc ra một bình thuốc giải độc, mở nắp lấy ba viên nhét vào miệng Tô Tinh Hà. Nhưng Lung Á tiên sinh đã vĩnh viễn câm điếc thật rồi, mấy viên thuốc nghẹn trong miệng không nuốt xuống được nữa. Tiết Mộ Hoa khóc rống lên nói: “Sư phụ bị Đinh Xuân Thu hạ độc chết rồi. Lão tặc Đinh Xuân Thu…!” Lão khóc nấc lên, nghẹn ngào không nói tiếp được.

Khang Quảng Lăng nhảy chồm lại toan ôm lấy Tô Tinh Hà. Tiết Mộ Hoa vội nắm lấy sau lưng đại sư huynh kéo lại, vừa khóc vừa nói: “Đừng có… đụng vào người sư phụ!” Phạm Bách Linh, Cẩu Độc, Ngô Lãnh Quân, Phùng A Tam, Thạch Thanh Lộ, Lý Quỷ Lỗi đều nhất tề quì xuống trước di thể sư phụ, nét mặt vừa đau thương vừa giận dữ.

Khang Quảng Lăng theo Tô Tinh Hà đã lâu ngày nên biết rõ lề luật bản môn hơn. Lúc lão thấy sư phụ mình quì xuống trước mặt Hư Trúc gọi bằng chưởng môn, thì mười phần đã đoán ra đến tám chín, bây giờ lại chú ý nhìn vào tay Hư Trúc, quả nhiên thấy cái nhẫn bảo thạch màu đen liền nói: “Các vị sư đệ, mau theo ta lại tham kiến chưởng môn sư thúc của bản phái.” Nói xong y quì xuống trước mặt Hư Trúc, dập đầu lạy. Bọn Phạm Bách Linh đều hiểu ra, liền quì xuống lạy theo.

Hư Trúc ruột rối như tơ vò, cất tiếng nói: “Đinh… Đinh Xuân Thu thật là độc ác, đã gia hại sư bá tổ ta, lại làm chết cả sư phụ các vị!” Khang Quảng Lăng nói: “Việc trừ diệt kẻ gian ác để báo cừu tiết hận, hoàn toàn trông vào chưởng môn sư thúc chủ trương đại cuộc.”

Hư Trúc chỉ là một nhà sư trẻ chưa hiểu việc đời, tuy về kiến thức, võ công cùng danh vọng trên giang hồ thì bọn này ai cũng hơn y xa, nhưng lúc này y chẳng để ý gì nữa. Trong đầu y chỉ còn một ý niệm duy nhất: “Không báo thù cho sư bá tổ không được. Không báo thù cho Thông Biện tiên sinh không được. Không báo thù cho lão tiền bối trong căn nhà gỗ cũng không được.” Hư Trúc bất giác lớn tiếng la lên: “Không giết chết Đinh Xuân Thu… ác nhân Đinh Xuân Thu…  ác tặc Đinh Xuân Thu không được.”

Khang Quảng Lăng lại dập đầu nói: “Chưởng môn sư thúc đã nhận lời báo thù cho sư phụ, bọn sư điệt cảm tạ đại ân đại đức vô cùng.” Bọn Phạm Bác Linh, Tiết Mộ Hoa đều dập đầu lạy theo. Hư Trúc vội quỳ xuống đáp lễ nói: “Không dám, không dám! Xin các vị đứng dậy.” Khang Quảng Lăng nói: “Thưa sư thúc! Tiểu điệt có việc muốn bẩm, nhưng ở đây đông người không tiện, mời sư thúc vào trong kia để tiểu điệt trình bày.” Hư Trúc nói: “Được!” rồi đứng dậy, mọi người cũng đứng dậy theo.

Hư Trúc cùng Khang Quảng Lăng vừa định đi vào trong căn nhà gỗ, Phạm Bách Linh vội nói: “Khoan đã! Sư phụ vừa bị độc thủ của Đinh lão tặc trong nhà, chưởng môn sư thúc cùng đại sư huynh chớ nên vào đó. Tên lão tặc này rất nhiều quỷ kế, nhất định phải đề phòng.” Khang Quảng Lăng gật đầu nói: “Ngươi nói đúng lắm! Chưởng môn sư thúc là bậc yếu nhân, không thể để bị nguy hiểm được.” Tiết Mộ Hoa nói: “Hai vị nói phải lắm. Để bọn tiểu đệ đi xem xét bốn mặt, đề phòng Đinh lão tặc lại giở ngụy kế gì nữa chăng?” Nói xong y chạy đi luôn, bọn Phùng A Tam, Lý Quỷ Lỗi cũng ra xa đến ngoài mười trượng. Nghĩ mà tội nghiệp, bọn huynh đệ này chỉ còn sót Tiết Mộ Hoa là vô sự, còn lại thì không mất hết công lực cũng bị trọng thương. Mang tiếng là đi cảnh giới, nhưng giả tỉ Đinh Xuân Thu quay lại tập kích thật, họ chỉ còn cách hô hoán chứ không còn sức kháng cự nữa.

Bọn Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên, thấy bọn họ lùi ra xa cũng đều lảng đi chỗ khác. Bọn Cưu Ma Trí, Đoàn Diên Khánh tuy thấy sự tình cổ quái nhưng không phải chuyện của mình, cũng rời đi mỗi người một hướng.

Khang Quảng Lăng lại nói: “Sư thúc!…” Hư Trúc ngắt lời: “Ta không phải là sư thúc của các vị, mà cũng chẳng phải chưởng môn gì gì hết. Ta chỉ là một hòa thượng Thiếu Lâm, không có liên can gì đến phái Tiêu Dao của các vị.” Khang Quảng Lăng lại hỏi: “Sư thúc! Sao sư thúc lại không chịu nhận? Theo lề luật bản môn thì ba chữ Phái Tiêu Dao, người ngoài môn phái quyết không được nghe. Giả tỉ có ai vô tình hay hữu ý nghe thấy thì phải hạ sát ngay, dù phải đuổi theo đến góc biển chân trời cũng giết cho kỳ được để bịt miệng.” Hư Trúc sợ run lên, nghĩ thầm: “Qui củ như vậy thì không phải là chính phái. Nếu ta không chịu gia nhập phái này thì họ phải giết ta ư?”

Khang Quảng Lăng lại nói: “Thủ pháp mà sư thúc vừa trị thương cho mọi người chính là nội công chính thống của bản phái. Nếu sư thúc không gia nhập bản phái thì khi nào sư tổ lại truyền thụ môn đó? Mà tiểu điệt không dám hỏi nhiều, không chừng gia sư đã thay mặt sư tổ để thu đồ đệ, truyền chức chưởng môn cũng nên. Dù sao, chiếc nhẫn Tiêu Dao Thần Tiên Hoàn đã đeo ở trên ngón tay của sư thúc, gia sư lúc lâm tử lại gọi sư thúc bằng chưởng môn, thì sư thúc đừng chối làm gì nữa.”

Hư Trúc nhìn sang trái thấy bọn Tuệ Phương đã khiêng thi thể Huyền Nạn đặt qua một bên, lại thấy xác Tô Tinh Hà vẫn quỳ dưới đất, khóe miệng vẫn còn một nụ cười bí mật, thì chua xót trong lòng, nói: “Chuyện này nhất thời không thể nói rõ được. Hiện giờ, cấp bách nhất là phải làm sao biết Đinh Xuân Thu để báo thù cho sư phụ các vị và sư bá tổ ta, đồng thời trừ hại cho võ lâm, Lão tiền bối…”

Khang Quảng Lăng lập tức quì xuống nói: “Sư thúc xưng hô như vậy thì giết tiểu điệt đi còn hơn.” Hư Trúc chau mày nói: “Thôi được! Đứng dậy đi!” Khang Quảng Lăng vâng lời đứng dậy. Hư Trúc nghĩ sao lại buột miệng nói: “Lão tiền bối!…” Ba chữ này vừa ra khỏi miệng, Khang Quảng Lăng lại quỳ mọp xuống đất. Hư Trúc nói: “Ta quên mất, không được xưng hô thế nữa. Đứng dậy đi!” Hư Trúc lấy cuốn trục của Tiêu Dao lão nhân, mở ra nói: “Sư phụ ngươi bảo ta theo cuốn trục này để tìm cách học võ công, mới trừ diệt được Đinh Xuân Thu.”

Khang Quảng Lăng thấy cuốn trục vẽ hình một mỹ nữ cung trang thì lắc đầu nói: “Tiểu điệt không hiểu được bức vẽ này, sư thúc hãy cất đi đừng để cho người ngoài trông thấy. Lúc gia sư còn sống đã nói gì, xin sư thúc cứ theo lời người mà hành động. Tiểu điệt xin nói rõ, chất độc gia sư trúng phải gọi là Tam Tiếu Tiêu Dao Tán, vô hình vô sắc. Người trúng độc không hay biết gì hết, chỉ có nét mặt tựa như mỉm cười một cách cổ quái, cười đến lần thứ ba là tắt thở chết.”

Hư Trúc cúi đầu nói: “Thật là xấu hổ. Lúc lệnh sư trúng độc, quả là có cười một cách khó hiểu. Ta lại đem bụng dạ tiểu nhân mà đoán càn, nghi lệnh sư có ý nghĩ không tốt. Nếu lúc ấy mà hỏi ngay, thì chắc còn cứu kịp, không đến nỗi thảm tử.”

Khang Quảng Lăng lắc đầu nói: “Ai đã trúng phải Tam Tiếu Tiêu Dao Tán thì khó mà cứu được, Đinh lão tặc hoành hành trong võ lâm, nhờ vào Tam Tiếu Tiêu Dao Tán mà chẳng sợ ai. Hóa Công Đại Pháp thì nổi tiếng hơn, vì người trúng Hóa Công Đại Pháp mất hết công lực nhưng không chết. Còn ai trúng phải Tam Tiếu Tiêu Dao Tán thì đừng hòng sống sót, dĩ nhiên không kể cho người khác nghe được.”

Hư Trúc gật đầu nói: “Quả là kịch độc! Lúc đó ta đứng cạnh tôn sư mà không phát giác được Đinh lão tặc đã hạ độc cách nào. Mà sao Đinh lão tặc không hạ độc thủ giết nốt ta, còn dung tha cái mạng nhỏ bé này làm gì?” Khang Quảng Lăng đáp: “Chắc lão thấy võ công sư thúc tầm thường, không cần hạ độc. Chưởng môn sư thúc, theo tiểu điệt thì sư thúc còn nhỏ tuổi, bản lĩnh chưa có gì cao thâm. Sư thúc được sư phụ truyền thụ cho phép trị thương kỳ diệu, nhưng bản lĩnh so với Đinh Xuân Thu thì chưa thấm gì. Có lẽ vì thế mà Đinh lão quái không để ý gia hại sư thúc.” Đột nhiên y nghĩ ra mình ăn nói vô lễ, vội vàng nhận lỗi: “Chưởng môn sư thúc! Tiểu điệt quen nói thật tình, sư thúc trách phạt thì tiểu điệt cũng xin chịu. Sự thực võ công sư thúc chưa được cao cường lắm.”

Hư Trúc nói: “Ngươi nói không sai chút nào, võ công ta quả là thấp kém. Đinh lão tặc… Ôi chao, tội lỗi, tội lỗi! Tiểu tăng xưng hô khinh bạc, phạm vào ác khẩu giới, thật không đáng làm đệ tử nhà Phật. Đinh Xuân Thu thí chủ quả là không muốn giết tiểu tăng.”

Hư Trúc thì bụng dạ chất phác, Khang Quảng Lăng thì không hiểu nội tình, đều không nghĩ ra được lúc Đinh Xuân Thu đột nhập vào nhà gỗ, nghe thấy Tô Tinh Hà đang truyền pháp môn trị hàn độc cho Hư Trúc, không phải không muốn ám toán Hư Trúc, cũng không phải cho rằng y võ công thấp kém mà không đáng giết. Lý do chỉ vì Tam Tiếu Tiêu Dao Tán là loại thuốc độc phải dùng nội lực đẩy vào thân thể của đối phương. Đinh Xuân Thu trong nhà gỗ đã phát xạ Tam Tiếu Tiêu Dao Tán vào Tô Tinh Hà và Hư Trúc, ra ngoài lại ám toán Huyền Nạn. Tô Tinh Hà thì sau trận ác chiến đã kiệt lực, Huyền Nạn thì đã mất hết nội lực, nên trước sau đều trúng độc. Còn Hư Trúc vừa nhận được bảy mươi năm thần công, nội lực kèm chất độc của Đinh Xuân Thu nhắm vào y đều bị hất ra ngoài, vô tình lại chuyển sang thân của Tô Tinh Hà, còn Hư Trúc không trúng mảy may. Bởi thế mà trước nay Đinh Xuân Thu cùng người chiến đấu, không dám sử dụng Tam Tiếu Tiêu Dao Tán trước mặt vì sợ đối phương nội lực cao cường hất trở lại mình.

Khang Quảng Lăng nói: “Sư thúc nói không đúng rồi. Phái Tiêu Dao không phải Phật mà cũng chẳng phải Đạo, muốn đi đâu thì đi, muốn đến đâu thì đến, có phải tiêu dao tự tại biết chừng nào không? Sư thúc là chưởng môn bản phái, chẳng phải nghe lời ai cả, nên sớm bỏ áo cà sa, để tóc dài, lấy cô vợ mười bảy mười tám, mặc kệ Phật môn hay chẳng Phật môn, ác khẩu giới thiện khẩu giới chi chi hết.”

Y cứ nói một câu là Hư Trúc niệm một tiếng “A Di Đà Phật!”. Y dứt lời, Hư Trúc bèn nói: “Trước mặt ta, ngươi đừng nói những câu phỉ báng Phật môn nữa. Người còn điều chi muốn nói nữa không?” Khang Quảng Lăng la lên: “Hỏng bét! Tiểu điệt thật là đáng chết, nói lăng nhăng hàng nửa ngày vẫn chưa đi vào chính đề. Thưa chưởng môn sư thúc, tiểu điệt thỉnh cầu sư thúc một việc lớn, xin sư thúc gia ơn phê chuẩn cho.”

Hư Trúc đáp: “Sao lại kêu ta phê chuẩn, ta không dám đâu!” Khang Quảng Lăng nói: “Ôi! Đại sự trong bản môn mà không cầu chưởng môn phê chuẩn thì còn biết cầu ai nữa? Bọn sư huynh sư đệ tiểu điệt cả thảy tám người, trước kia đã bị sư phụ đuổi ra khỏi môn phái. Không phải là bọn tiểu điệt phạm lỗi gì, chỉ vì sư phụ sợ Đinh lão tặc gia hại đến bọn tiểu điệt, lại không nỡ chọc màng tai, cắt đầu lưỡi cho bọn tiểu điệt thành câm điếc, nên phải dùng đến hạ sách này. Bây giờ sư phụ đã thu hồi mệnh lệnh, cho bọn tiểu điệt gia nhập trở lại sư môn, nhưng chưa bẩm lên chưởng môn để thi hành đại lễ, như thế vẫn chưa được kể là đệ tử chính thức. Vậy bọn tiểu điệt thỉnh cầu chưởng môn chuẩn y thu nhận. Nếu không, tám người bọn sư điệt vẫn là vô môn vô phái, chẳng khác gì bọn cô hồn dã quỷ vật vờ trên chốn giang hồ, thật là đau khổ.”

Hư Trúc nghĩ thầm: “Nếu mình quyết không nhận làm chưởng môn phái Tiêu Dao, thì lão già này còn quấy rầy mãi không chịu thôi. Thôi thì ta cứ vờ vịt cho xong chuyện rồi tính sau.” Y liền nói: “Lệnh sư đã bằng lòng thì các ngươi tự nhiên lại là đệ tử trong môn phái, còn thắc mắc gì nữa?”

Khang Quảng Lăng cả mừng quay lại hô to: “Các vị sư đệ, sư muội! Chưởng môn sư thúc đã ưng thuận cho bọn ta quay lại bản môn rồi!” Bảy người còn lại trong Hàm Cốc Bát Hữu đều hoan hô ầm ĩ! Lão nhị mê cờ là Phạm Bách Linh, lão tam đồ gàn là Cẩu Độc, lão tứ vẽ giỏi là Ngô Lãnh Quân, lão ngũ là Diêm Vương Địch Tiết Mộ Hoa, lão lục thợ khéo là Phùng A Tam, lão thất là thiếu phụ Thạch Thanh Lộ, lão bát kép hát là Lý Quỷ Lỗi, cả bọn đều đến khấu đầu lạy tạ chưởng môn sư thúc đã gia ơn cho trở về bản phái.

Hư Trúc lại càng băn khoăn, thấy mỗi việc xảy ra lại kéo mình vào danh vị chưởng môn sư thúc sâu thêm một nấc. Mình là đệ tử danh môn chính phái, là hòa thượng Thiếu Lâm mà lại đi chấp chưởng một tà môn ngoại đạo thì còn ra gì nữa? Nhưng y thấy bọn Phạm Bách Linh đang mừng rỡ đến chảy nước mắt, nếu mình lại từ chối danh vị chưởng môn thì thật là quá tàn nhẫn. Y không biết làm thế nào cho phải, đành lắc đầu nở một nụ cười đau khổ. Hư Trúc ngoảnh đầu lại, nhưng mọi người Mộ Dung Phục, Đoàn Diên Khánh, Đoàn Dự, Vương Ngữ Yên, sáu nhà sư chữ Tuệ, đến cả thi thể Huyền Nạn đều không thấy đâu nữa, trong rừng tùng chỉ còn lại chín người phái Tiêu Dao mà thôi.

Hư Trúc ngạc nhiên hỏi: “Ôi chao! Mọi người đi đâu hết rồi?” Ngô Lãnh Quân đáp: “Mộ Dung công tử cùng các vị cao tăng phái Thiếu Lâm thấy chúng ta bàn luận lâu quá, đều đi cả rồi.” Hư Trúc la lên: “Trời ơi!”, rồi nhún chân nhảy vọt đi, định bụng đuổi theo bọn Tuệ Phương để cùng về chùa Thiếu Lâm, hỏi ý sư phụ xem có nên đi nữa không. Trong lòng y nóng nảy, không nghe cả những tiếng hô hoán của bọn sư điệt phía sau.

Hư Trúc chạy như bay chừng nửa giờ, càng về sau càng nhanh hơn mà vẫn không thấy sáu vị sư bá sư thúc hàng chữ Tuệ đâu. Y không ngờ nhờ vào thần công bảy mươi năm của Tiêu Dao lão nhân truyền cho, nên khinh công mau lẹ phi thường, vượt xa sáu nhà sư hàng chữ Tuệ. Y hốt hoảng rượt theo, ngờ đâu trong lúc băng qua một thung lũng, y chỉ nhô lên hụp xuống mấy cái đã bỏ sáu nhà sư lại phía sau mà không hay biết.

Hư Trúc chạy một mạch đến chiều tối vẫn chẳng thấy sáu nhà sư đâu, trong lòng rất kinh ngạc, tưởng là mình chạy lạc đường. Y liền quay đầu chạy ngược lại chừng hai mươi dặm, vừa chạy vừa hỏi thăm những người qua đường, nhưng chẳng ai biết. Đến lúc trời tối y chạy tới một thị trấn, bụng đã đói meo liền tìm vào phạn điếm, bảo nhà hàng nấu hai bát miến chay.

Hư Trúc ngồi đợi nấu miến mà lòng dạ bồn chồn, không ngớt đưa mắt nhìn ra ngoài, hết ngó đông lại ngò tây. Đột nhiên y nghe một thanh âm vừa trong trẻo vừa dõng dạc hỏi: “Phải chăng hòa thượng đang muốn kiếm ai?” Hư Trúc ngoảnh lại nhìn thì thấy ở hướng tây có một chàng thiếu niên mặc áo xanh ngồi bên cửa sổ, mày thanh mắt sáng, nước da trắng mịn, tướng mạo tuấn nhã đang cười hì hì nhìn mình. Gã này mới chừng mười bảy mười tám tuổi. Hư Trúc nói: “Đúng thế! Tiểu tướng công có thấy sáu hòa thượng qua đây không?” Thiếu niên đáp: “Sáu hòa thượng thì không thấy, chỉ thấy một thôi!” Hư Trúc hỏi: “Thế ư? Tướng công thấy vị hòa thượng đó ở đâu?” Thiếu niên đáp: “Ở trong phạn điếm này.”

Hư Trúc nghĩ thầm: “Một hòa thượng thì chắc là không phải, bọn Tuệ Phương sư bá cùng đi chứ đâu phải một người? Nhưng ta cứ thử hỏi xem, may ra có được tin tức gì chăng?” Y liền hỏi: “Không hiểu vị hòa thượng đó trông thế nào, độ bao nhiêu tuổi và đi hướng nào, tiểu tướng công có để ý không?” Chàng thiếu niên mỉm cười đáp: “Hòa thượng đó trán dô tai vểnh, miệng rộng môi dày, lỗ mũi huếch lên trời, độ chừng hai mươi ba hai mươi bốn tuổi. Nhà sư đó đang trong phạn điếm để chờ ăn hai bát miến, chưa biết sẽ đi hướng nào!”

Hư Trúc phì cười đáp: “Té ra tiểu tướng công đang nói đến bần tăng.” Chàng thiếu niên nói: “Tướng công là tướng công, sao lại còn tiểu vào đấy? Ta vẫn gọi là hòa thượng, có gọi tiểu hòa thượng đâu?” Giọng nói của gã vừa trong trẻo vừa uyển chuyển, nghe rất êm tai. Hư Trúc cười nói: “Phải rồi! Gọi bằng tướng công thì đúng hơn!”

Hai người đang nói chuyện thì tiểu nhị bưng miến lên. Hư Trúc cười nói: “Tướng công! Bần tăng ăn miến đây.” Thiếu niên nói: “Ăn chay không có chút dầu mỡ nào thì sao nuốt nổi? Hòa thượng lại đây dùng thịt béo gà quay với ta.” Hư Trúc nói: “Tội lỗi! Tội lỗi! Suốt đời bần tăng không đụng đến thịt cá, xin tướng công cứ tùy tiện.” Nói xong, nhà sư cúi xuống ăn miến, thấy chàng thiếu niên ăn thịt nên không muốn nhìn lâu.

Nhà sư đang đói meo, nuốt hết nửa bát miến trong nháy mắt. Bỗng nghe thiếu niên la lên: “Ôi chao! Cái gì thế này?” Hư Trúc ngoảnh lại xem thì thấy gã cầm thìa canh chưa đưa vào miệng, vẻ mặt kinh ngạc như đột nhiên trông thấy một vật kỳ dị. Gã thò tay trái ra nhặt lấy vật gì đó trên bàn rồi đứng dậy, một tay vẫn cầm thìa canh, một tay cầm vật kia đến bên Hư Trúc hỏi: “Hòa thượng! Hòa thượng coi con sâu này có kỳ lạ không?”

Hư Trúc nhìn kỹ vật trên tay gã, thì ra chỉ là một con bọ nhỏ màu đen rất thông thường, ở đâu cũng có. Y bèn hỏi: “Không hiểu nó kỳ dị ở chỗ nào?” Chàng thiếu niên đáp: “Hòa thượng nhìn kỹ mà xem, vỏ nó đen sì mà sáng bóng, tựa như có bôi dầu.” Hư Trúc nói: “Ôi chà, đó chỉ là con bọ thôi, con nào cũng vậy.” Thiếu niên nói: “Thế ư?”, rồi vứt con bọ xuống đất, lấy chân dẫm chết, xong trở lại bàn mình. Hư Trúc thở dài nói: “Tội nghiệp! Tội nghiệp!”, rồi lại cúi xuống ăn miến.

Cả ngày nay nhà sư chưa có gì vào bụng nên ăn có vẻ rất ngon lành, húp cạn cả nước, chỉ còn lại bát không. Hư Trúc lại bưng bát miến thứ hai lên cầm đũa toan gắp ăn, đột nhiên gã thiếu niên cười ha hả nói: “Hòa thượng! Ta thấy người bề ngoài nghiêm cẩn, cứ tưởng là hòa thượng tốt, ngờ đâu cũng là hạng khẩu thị tâm phi, giả bộ tu hành!” Hư Trúc hỏi lại: “Bần tăng khẩu thị tâm phi ở chỗ nào?” Thiếu niên đáp: “Hòa thượng nói suốt đời không đụng tới thịt cá, thế mà húp sạch bát thang gà một cách ngon lành!” Hư Trúc nói: “Tướng công nói giỡn rồi. Rõ ràng là một bát miến chay chỉ có rau, sao lại bảo là thang gà? Bần tăng đã dặn chủ quán đừng cho giọt dầu mỡ nào.”

Thiếu niên mỉm cười nói: “Hòa thượng nói là không biết ăn thịt cá, thế mà húp nguyên bát thang gà cũng chẳng thấy gì. Để ta lại múc một thìa mỡ gà đổ vào bát miến cho hòa thượng ăn nữa nhé!” Gã nói xong, múc một thìa mỡ trong đĩa gà quay rồi đứng lên.

Hư Trúc cả kinh nói: “Tướng công! Vừa rồi… vừa rồi…” Thiếu niên cười đáp: “Phải rồi! Lúc nãy ta múc một thìa mỡ gà cho vào bát miến, chẳng lẽ hòa thượng không thấy hay sao? Ái chà chà! Chắc chắn là hòa thượng nhắm mắt vờ như không biết ta cho mỡ gà vào, như thế vừa được ăn ngon vừa không phải tự mình ra tay. Không hiểu Phật tổ có trách phạt hòa thượng không?”

Hư Trúc vừa kinh hãi vừa tức giận, bấy giờ y mới hiểu ban nãy gã thiếu niên gạt mình nhìn vào con sâu là để thừa cơ đổ thìa mỡ gà vào bát miến của mình. Nhà sư nghĩ lại lúc ăn bát canh miến quả thấy thơm ngon hơn, chỉ vì suốt đời chưa từng nếm qua nên không nhận được mùi vị, Hư Trúc không hiểu đã lỡ nuốt mỡ gà vào bụng rồi thì phải làm thế nào, có nên nôn ra không. Y ngẩn ra hồi lâu, chưa biết tính sao.

Gã thiếu niên lại hỏi: “Phải chăng hòa thượng đang tìm sáu nhà sư? Có phải mấy vị đang đi ngoài kia không?”

Hư Trúc cả mừng bước ra cửa, ngó qua ngó lại cũng chẳng thấy bóng người nào. Y biết là lại bị lừa gạt thì bực bội trong lòng, nhưng là người xuất gia thì không nên oán giận, bèn cố nhịn không nói năng gì, lại quay vào ăn miến.

Hư Trúc nghĩ thầm: “Tiểu tướng công này còn nhỏ tuổi mà tính tình tinh nghịch, thích chọc ghẹo người khác.” Y lại cầm đũa ăn như rồng cuốn đến hơn nửa bát. Đột nhiên lưỡi nhà sư chạm phải vật gì trơn trơn, nhưng vì ăn lẹ quá nên không hãm kịp, nuốt luôn vào bụng. Hư Trúc giật mình nhìn vào bát miến, thấy một miếng thịt lớn, biết ngay vừa rồi mình đã nuốt một miếng thịt rồi. Y vứt đũa xuống bàn, than thở: “Khổ rồi! Khổ rồi!”

Gã thiếu niên cười nói: “Hòa thượng! Ăn miếng thịt ngon lành thế kia mà lại còn kêu khổ ư?” Hư Trúc tức giận nói: “Thì ra ngươi lừa ta chạy ra cửa để bỏ thịt vào bát miến của ta. Ta… ta đã hai mươi ba tuổi, chưa ăn một chút đồ tanh nào… Ta bị hại vì tay ngươi rồi!”

Chàng thiếu niên mỉm cười hỏi lại: “Miếng thịt béo đó mà không ngon gấp mười rau xanh đậu hũ ư? Trước nay hòa thượng không chịu ăn cá thịt thì thật là ngu ngốc.” Hư Trúc cau mày đầy vẻ đau khổ, đưa tay lên gãi đầu, nhất thời chưa biết làm thế nào cho phải, bỗng nghe ngoài cửa có tiếng nhốn nháo, một đám đông người đang tiến vào phạn điếm.

Y nhìn ra, thì chính là bọn đệ tử phái Tinh Tú, kinh hãi than thầm: “Ôi chao, nguy rồi! Bọn chúng mà bắt được ta thì còn chi là sinh mạng?” Hư Trúc vội vàng chạy ra sau để tìm chỗ trốn, ngờ đâu vừa đẩy cửa tiến vào, thì đây là một buồng ngủ. Phạn điếm này nhỏ quá, phòng ngủ của nhà chủ liền với phòng khách ngồi. Hư Trúc toan trở ra, bỗng nghe có tiếng gọi: “Chủ quản! Mau mau đem rượu thịt ra đây!” Bọn đệ tử phái Tinh Tú đã vào đến phòng khách.

Hư Trúc không dám ra ngoài nữa, đứng trong phòng khép cửa lại. Bỗng nghe một người nói: “Kiếm chỗ cho nhà sư mập nằm!” Thanh âm đó rất quen thuộc, chính là của Đinh Xuân Thu. Một tên đệ tử phái Tinh Tú đáp: “Vâng!”, rồi có tiếng chân bước nặng chịch đi lại phía phòng ngủ. Hư Trúc cả kinh, bèn cúi xuống chui vào gầm giường. Đột nhiên y đụng phải vật gì đó rồi có tiếng kêu khẽ, thì ra đã có một người nằm ẩn dưới gầm giường. Hư Trúc giật mình, đang muốn chui ra thì một tên đệ tử phái Tinh Tú đã bồng nhà sư Tuệ Tịnh tiến vào buồng ngủ, đặt lên giường rồi trở ra ngoài.

Hư Trúc lại nghe người nằm bên cạnh mình hỏi nhỏ: “Hòa thượng! Lúc nãy ăn thịt có ngon không? Hòa thượng sợ quái gì?” Hư Trúc nghĩ thầm: “Gã này chân tay mau lẹ, chui vào nấp dưới gầm giường trước cả mình.”, bèn nói: “Ngoài kia có một bọn ác nhân, tướng công chớ có lên tiếng.” Thiếu niên hỏi: “Sao hòa thượng biết bọn chúng là ác nhân?” Hư Trúc đáp: “Bần tăng có gặp qua bọn này, chúng vô cớ giết người không hề chớp mắt.”

Chàng thiếu niên đang định bảo Hư Trúc nói nhỏ lại, thì đột nhiên Tuệ Tịnh nằm trên giường la lên: “Gầm giường có người! Gầm giường có người!” Hư Trúc cùng gã thiếu niên cả kinh, đồng thời chui ra. Đinh Xuân Thu đang đứng sừng sững trước cửa phòng cười nhạt, vẻ mặt lão vừa đắc ý vừa ác độc.

Gã thiếu niên mặt mày tái mét cắt không ra máu, quì ngay xuống đất, hô lớn: “Sư phụ!” Đinh Xuân Thu cười nói: “Hay lắm, hay lắm! Đưa đây!” Thiếu niên đáp: “Đệ tử không để bên mình.” Đinh Xuân Thu hỏi: “Để ở đâu?” Thiếu niên đáp: “Đệ tử cất ở Nam Kinh, nước Liêu.” Đinh Xuân Thu mắt lộ hung quang, gằn giọng nói: “Mi còn dám lừa gạt ta ư? Ta sẽ để mi muốn sống không sống được, mà muốn chết cũng không chết được!” Thiếu niên đáp: “Đệ tử không dám lừa gạt sư phụ!” Đinh Xuân Thu đảo mắt nhìn Hư Trúc, rồi hỏi thiếu niên: “Sao mi lại ở với hắn một nơi?” Thiếu niên đáp: “Đệ tử mới gặp y trong phạn điếm này.” Đinh Xuân Thu hừ một tiếng, quát: “Mi nói láo!” Hai mắt lão hầm hầm nhìn hai người, rồi quay trở ra. Bốn tên đệ tử phái Tinh Tú bèn tiến lại gần vây lấy hai người.

Hư Trúc vừa kinh hãi vừa hối hận, nói: “Té ra ngươi cũng là đệ tử phái Tinh Tú!”

Gã thiếu niên hằn học đáp: “Chỉ tại ngươi mà lộ chuyện, còn trách ta nữa ư?” Một tên đệ tử phái Tinh Tú hỏi: “Đại sư tỉ! Lâu nay vẫn bình yên chứ?” Giọng nói của gã ra chiều mai mỉa, bộ mặt đầy vẻ khoái chí khi thấy người khác gặp tai họa.

Hư Trúc kinh ngạc hỏi: “Cái gì? Ngươi… ngươi…” Gã thiếu niên mắng luôn: “Tên trọc ngu ngốc này, tên trọc thối tha này! Dĩ nhiên ta là nữ nhân, chẳng lẽ ngươi không nhận ra hay sao?”

Thiếu niên này chính là A Tử cải trang. Nàng ở trong thành Nam Kinh nước Liêu, tuy vinh hoa phú quý hưởng không hết được, nhưng bản tính hiếu động, lâu ngày đâm chán. Tiêu Phong thì công việc bận rộn, không thể ngày nào cũng đưa nàng đi săn bắn du ngoạn được. Một hôm nàng thấy trong lòng buồn bã, liền một mình ra ngoài chơi, lúc đầu nghĩ là đến tối sẽ trở về, không ngờ gặp chuyện hứng chí, đuổi theo một người càng lúc càng xa, đến lúc giết được người đó thì đã xa Nam Kinh quá rồi. Nhân đó nàng bèn xuống Trung Nguyên du ngoạn khắp nơi, hôm nay ma dẫn lối quỷ đưa đường thế nào lại gặp cả Hư Trúc cùng Đinh Xuân Thu. A Tử gạt Hư Trúc ăn mặn phá giới, chỉ là để đùa chơi. Hễ thấy người ta bối rối phiền não là nàng khoái chí, thật ra không có ý tứ sâu xa gì.

A Tử tưởng sư phụ nàng cứ ở Tinh Tú Hải đến hết tuổi già, không bước chân tới Trung Nguyên nữa, nào ngờ trong phạn điếm nhỏ xíu nơi thị trấn này lại oan gia gặp mặt trong ngõ hẻm. Ngoài mặt A Tử tỏ ra thản nhiên vô sự, nhưng nàng đã sợ đến xiêu hồn bạt vía, to tiếng mạt sát Hư Trúc chỉ là để tự trấn an mình. Giọng nói của nàng cũng bắt đầu run rẩy, cố gượng trấn tĩnh nhưng không được nữa. A Tử bèn ngồi xuống mép giường, tính kế thoát thân. Nàng nghĩ thầm: “Chỉ có tỉ phu may ra mới có thể cứu được mình, còn bất luận ai khác cũng không địch nổi sư phụ. Bây giờ chỉ còn đường sống duy nhất là gạt sư phụ đến Nam Kinh, mượn tay tỉ phu giết phắt lão đi. Cũng may mà mình để Thần Mộc Vương Đỉnh lại Nam Kinh, chắc sư phụ không bỏ bảo vật đó được.”

Nàng đã thấy hơi hơi yên lòng, nhưng lại nghĩ tiếp: “Giả tỉ sư phụ tra khảo hành hạ mình, phế hết võ công rồi mới giải đến Nam Kinh, thì còn đau khổ gấp mười lần bị giết chết ngay.” Nghĩ vậy nàng sợ quá, mặt không còn chút huyết sắc.

Lúc ấy, một tên đệ tử phái Tinh Tú đi tới cửa phòng cười hì hì gọi: “Đại sư tỉ ơi, sư phụ mời ra nói chuyện.”A Tử chẳng khác gì chuột nghe mèo gọi, xương cốt mềm nhũn ra, hồn phi phách tán, chỉ còn biết theo chân tên này ra phòng khách.

Chỉ một mình Đinh Xuân Thu ngồi, trên bàn đã bày sẵn rượu thịt. Bọn đệ tử đều thõng tay đứng xa xa, thái độ cực kỳ cung kính, không ai dám thở mạnh. A Tử bước đến gọi: “Sư phụ!”, rồi quỳ mọp xuống. Đinh Xuân Thu hỏi: “Thực sự mi để ở đâu?” A Tử đáp: “Đệ tử không dám lừa gạt sư phụ. Vật đó đang ở trong thành Nam Kinh nước Liêu.” Đinh Xuân Thu lại hỏi: “Chỗ nào trong thành Nam Kinh?” A Tử đáp: “Trong vương phủ của Nam Viện Đại Vương nước Liêu.” Đinh Xuân Thu chau mày hỏi: “Tại sao lại để lọt vào tay bọn chó má Khất Đan đó?” A Tử đáp: “Không lọt vào tay chúng đâu. Đệ tử lên miền bắc, vừa sợ làm thất lạc bảo bối của sư phụ, vừa sợ lỡ tay đánh rơi làm xây xát, liền vào vườn hoa phía sau vương phủ Tiêu đại vương đào lỗ chôn giấu. Nơi đó rất là hẻo lánh, hoa viên của Tiêu đại vương lại rộng đến sáu ngàn mẫu, trừ đệ tử ra thì không còn ai tìm thấy vương đỉnh được nữa. Xin sư phụ cứ yên tâm.”

Đinh Xuân Thu lạnh lẽo cười nói: “Hừ! Chỉ có mi mới tìm được phải không? Ái chà, con này đáo để thật. Mi tưởng ta sợ tìm không ra vương đỉnh mà không dám giết mi ư?” A Tử toàn thân run rẩy, ấp úng nói: “Giả tỉ sư phụ không chịu dung tha cho đứa đệ tử ngu xuẩn này, mà đem phế bỏ công lực, cắt gân bứt mạch, hoặc chặt chân tay, thì đệ tử thà chết còn hơn, nhất quyết không nói ra vương đỉnh… vương đỉnh hiện đang giấu ở đâu.” Nàng sợ đến đứt hơi, mấy chữ cuối nói không ra tiếng.

Đinh Xuân Thu mỉm cười nói: “Con lỏi này lớn mật dám mặc cả với ta! Trong phái Tinh Tú thì mi là lợi hại nhất, chỉ vì ta không để ý phòng bị mà mi qua mặt được Tinh Tủ lão tiên!”

Một tên đệ tử đột nhiên lớn tiếng nói: “Tinh Tú lão tiên nhìn xa vạn dặm, người biết rõ số kiếp của Thần Mộc Vương Đỉnh phải trải qua mấy cuộc nguy nan, nên mới mượn tay A Tử để giũa mài thêm cho bảo bối.” Một tên đệ tử khác nói: “Thần toán của lão tiên bao trùm thiên hạ, lời nói lại khiêm nhường, bọn đệ tử thật không thể nào theo kịp.” Một tên khác lại nói: “Bữa nay Tinh Tú lão tiên mới thi triển một chút công phu đã hạ sát được tên Huyền Nạn là cao thủ Thiếu Lâm, đồng thời tru diệt luôn mười mấy tên đệ tử của Lung Á lão nhân, quả là đệ nhất thiên hạ từ cổ chí kim, Đại La Kim Tiên cũng chưa bằng được!” “Con lỏi A Tử kia! Mi xảo quyệt thế nào cũng không ra khỏi vòng trù tính của lão tiên được đâu! Dù mi van xin hay kháng cự, cũng vô ích như nhau.” Tiếng gã này dõng dạc, Đinh Xuân Thu ngồi gật đầu mỉm cười, vuốt vuốt chòm râu ra vẻ thích thú.

Hư Trúc đứng trong phòng ngủ nghe rõ hết, nghĩ thầm: “Quả nhiên sư bá tổ cùng Thông Biện tiên sinh đều bị lão sát hại. Hỡi ôi! Nói chi đến chuyện báo cừu tiết hận? Ngay cả cái mạng nhỏ nhoi của ta cũng khó mà giữ nổi.”

Bọn đệ tử phái Tinh Tú thi nhau khuyến cáo A Tử mau mau thành thật cung xưng, giọng điệu vừa sợ hãi, vừa tán dương oai đức của Tinh Tú lão tiên. Cả những câu tưởng chỉ nói cho A Tử nghe cũng đều ngụ ý xu nịnh Đinh Xuân Thu.

Bình sinh Đinh Xuân Thu có tật thích nghe nịnh bợ, ai càng nịnh khéo thì lão lại càng thích. Bọn đồ đệ này đã tán dương lão mấy chục năm trời, lão nghe quen tai, yên trí rằng chúng nói thật lòng, tên nào không biết ca tụng thì lại bị lão nghi ngờ là không trung thành. Đối với kẻ ác độc như Đinh Xuân Thu, tên nào lỡ làm mất lòng sư phụ thì không thể bảo toàn tính mạng được. Bọn đệ tử đều biết thế,  nên cứ gặp cơ hội là chúng chụp ngay lấy để tán dương. Nói thật tình thì không phải hết thảy đệ tử phái Tinh Tú đều mặt dày vô sỉ, nhưng một là vì tình thế bắt buộc phải nịnh bợ sư phụ để tồn tại, hai là chúng đi theo sư phụ lâu ngày, những câu nịnh bợ nghe đã quen tai, rồi cứ thuận miệng xì ra, chẳng thấy gì là đáng xấu hổ nữa.

Đinh Xuân Thu ngồi nghe bọn đệ tử ca tụng, mỉm cười vuốt râu, hai mắt híp lại, khoái chí vô cùng. Bộ râu dài của lão lúc tỉ thí nội công cùng sư huynh là Lung Á lão nhân Tô Tinh Hà đã bị cháy mất một mảng lớn, nhưng chỗ còn lại cũng đủ để vuốt chơi. Về sau lão đã ngấm ngầm tung Tam Tiếu Tiêu Dao Tán ra lấy mạng Tô Tinh Hà, thế là thắng trận chung kết, thua mất một ít râu ở vòng trước cũng chẳng đáng nhớ tới nữa.

Lão tính toán trong bụng: “Con nha đầu A Tử hôm nay có mọc cánh cũng không thoát khỏi tay của lão tiên, còn tên tiểu hòa thượng ở phòng trong thì phải cẩn thận hơn. Rõ ràng Tam Tiếu Tiêu Dao Tán không giết được hắn, nhưng một lát nữa ta sẽ tìm cơ hội để thi triển Hủ Thi Độc hay Hóa Công Đại Pháp là ăn chắc, Tiêu Dao Thần Tiên Hoàn của chưởng môn bản phái nhất định vào tay ta rồi. Thật là đáng mừng!”

Sau thời gian chừng ăn xong bữa cơm, bọn đệ tử phái Tinh Tú im lặng dần. Còn mấy gã đang thao thao tràng giang đại hải thì chuyện cũng đã nhạt thếch, Đinh Xuân Thu bèn giơ tay ra hiệu bảo im đi. Bọn đệ tử lại đồng thành hô: “Công đức sư phụ rộng lớn như trời biển. Bọn đệ tử ngu dốt, vạn phần không nói lên được một”, rồi mới im lặng hết. Đinh Xuân Thu lại gật đầu mỉm cười, quay sang A Tử hỏi: “A Tử! Mi còn điều gì muốn nói nữa không?” A Tử động tâm nghĩ thầm: “Trước kia sư phụ thương mình nhất cũng chỉ vì mình khéo ca tụng lão, đưa ra những lời tán dương mới lạ, còn bọn kia kém thông minh, chỉ nhai đi nhai lại những câu cũ mèm.” Nàng bèn lên tiếng: “Sư phụ! Đệ tử lấy cắp Thần Mộc Vương Đỉnh cũng là có lý do riêng.”

Cặp mắt Đinh Xuân Thu long lên sòng sọc, hỏi: “Lý do gì?” A Tử thưa: “Thời kỳ sư phụ còn ít tuổi, công lực chưa đến tột đỉnh mới cần Thần Mộc Vương Đỉnh để giúp luyện công. Nhưng hai năm nay, ai chưa mù mắt đều thấy thần thông sư phụ lệch đất nghiêng trời, thần sầu quỷ khốc. Thần Mộc Vương Đỉnh chỉ có khả năng kêu gọi trùng độc, so với thủ pháp của sư phụ thì nó chẳng đáng vào đâu. Trời đất còn biến chuyển thì pháp thuật của sư phụ còn tiến triển vô bờ bến, chuyện năm xửa năm xưa nhắc đến làm gì. Sư phụ có luyến tiếc cũng chỉ vì coi cái đỉnh đó như vật kỷ niệm mà thôi. Thế mà các vị sư huynh không biết gì lại đi hoảng hốt, tưởng chừng sư phụ không có cái đỉnh đó không xong, mất cái đỉnh là việc vô cùng trọng đại. Thế thì các vị thật là ngu xuẩn hết chỗ nói, lại còn có ý coi rẻ thần thông của sư phụ.”

Đinh Xuân Thu gật đầu lia lịa khen: “Ừ! Ừ! Nói có lý! Nói có lý!”.

A Tử lại nói tiếp: “Đệ tử còn nghĩ rằng võ công phái Tinh Tú chúng ta cao cường nhất thiên hạ, mà sư phụ là bậc đại nhân đại lượng không thèm tranh hơi với bọn võ lâm Trung Nguyên, vì bản lĩnh thấp kém của chúng chẳng đáng để sư phụ bận tâm. Cũng vì thế mà bọn người ngu xuẩn cứ ngồi ở đáy giếng, tưởng trời to bằng nắp vung, rồi đâm ra tự tôn tự đại. Họ biết sư phụ không thèm lý gì đến, lại càng làm già, gọi nhau nào là võ học danh gia, nào là đương thế cao nhân, thật là mặt dày vô sỉ hết chỗ nói. Bọn chúng chỉ giỏi diễu võ dương oai ở Trung Nguyên, chẳng tên nào dám bén mảng đến phái Tinh Tú mà lĩnh giáo mấy chiêu. Kể ra thì chúng cũng thừa biết võ công sư phụ cao thâm, nhưng chẳng biết cao đến mức độ nào. Thế rồi nhà Mộ Dung ở Cô Tô lên mặt, phái Thiếu Lâm ở Hà Nam cũng tự xưng là Thái Sơn Bắc Đẩu, rồi nào là Lung Á tiên sinh, nào họ Đoàn nước Đại Lý đều tự coi mình là những nhân vật phi thường. Sư phụ nghĩ xem có đáng buồn cười không?”

Thanh âm nàng đã trong trẻo, uyển chuyển dễ nghe, mà ý tứ lại thông minh, gãi đúng chỗ ngứa của Đinh Xuân Thu, so với kiểu đồng thanh hộ khẩu hiệu của bọn đệ tử kia thì siêu hơn nhiều. Bộ mặt Đinh Xuân Thu càng lúc càng tươi tỉnh, lão khoan khoái đến lờ đờ như người say thuốc.

A Tử lại tiếp: “Đệ tử vẫn còn trẻ con, bèn nảy ra ý nghĩ muốn mời sư phụ xuống Trung Nguyên để thi triển tuyệt kỹ thần thông cho bọn chúng mở rộng tầm mắt, cho bọn chúng biết rằng phía trên mặt đất còn có bầu trời, phía trên bọn võ lâm cao thủ bình thường còn có những vị lão tiên mà chúng không mơ thấy nổi. Nhưng nếu mời sư phụ một cách bình thường thì không phải lẽ, địa vị của sư phụ là vô tiền khoáng hậu khác với người thường thì dĩ nhiên cách cung thỉnh sư phụ cũng phải đặc biệt. Vì thế mà đệ tử lấy chiếc Thần Mộc Vương Đỉnh là cố ý rước đại gia sư phụ đến Trung Nguyên”.

Đinh Xuân Thu cười ha há rồi nói: “Như thế thì ngươi lấy vương đỉnh cũng chỉ vì tấm lòng hiếu thuận ư?” A Tử đáp: “Chuyện đó thì không phải nói nữa, nhưng ngoài tấm lòng hiếu thuận cũng có một chút tư tâm” Đinh Xuân Thu chau mày hỏi: “Lại còn tư tâm gì nữa?”

A Tử mỉm cười đáp: “Xin sư phụ tha thứ. Con là đệ tử phái Tinh Tú, rất mong muốn cái danh bản phái vang lừng thiên hạ, để con đi đâu cũng được mọi người kính nể. Tư tâm nhỏ mọn của đệ tử là ở chỗ đó.” Đinh Xuân Thu cười ha hả khen: “Nói hay lắm, nói hay lắm! Trong môn phái ta rất nhiều đệ tử, mà chẳng ai có tâm cơ linh mẫn như ngươi. Té ra ngươi lấy cắp Thần Mộc Vương Đỉnh là để làm nổi danh cho ta. Ha ha! Ngươi thật là thông minh sáng tạo, giết đi kể cũng đáng tiếc, bên mình ta sẽ thiếu mất một đứa nói chuyện có duyên để giải buồn. Nhưng giả tỉ ta bỏ qua việc này không xét tới nữa…” A Tử vội ngắt lời: “Nếu thế thì sư phụ thật là khoan hồng với đệ tử, bản môn từ trên xuống dưới ai nấy đều cảm kích tấm lòng đại lượng của sư phụ, càng tận tâm tận lực phụng sự sư môn, tan xương nát thịt cũng cam lòng.”

Đinh Xuân Thu nói: “Ngươi có thể đánh lừa người khác, nhưng đối với ta thì vô ích. Ta đâu có hồ đồ đến thế? Hừ! Ngươi đã nói giả tỉ ta phế bỏ công lực ngươi, cắt gân bứt mạch ngươi…”

Chưa biết lão muốn nói gì, bỗng nghe một thanh âm dõng dạc vang lên: “Điếm gia! Dọn chỗ ngồi cho ta!” Đinh Xuân Thu đảo mắt nhìn qua thì thấy một chàng thanh niên công tử mình mặc hoàng bào, lưng đeo trường kiếm, ngồi ngay bàn bên cạnh, không biết vào đây từ lúc nào, chính là Mộ Dung Phục mà lão đã gặp nơi kỳ hội, võ thuật gia truyền lừng danh võ lâm. Đinh Xuân Thu đang mải nghe A Tử tán dương, để chàng đột nhiên vào ngồi cạnh mà không để ý, quả là sơ hở rất lớn. Giả tỉ Mộ Dung Phục ra tay ám toán thì chắc lão phải khốn đốn rồi. Đinh Xuân Thu giật mình một cái, hơi biến sắc mặt, nhưng lại trấn tĩnh được ngay.

Hồi 33: Đẩu Chuyển Tinh Di, trấn áp hồ quần cẩu đảng

Mộ Dung Phục đưa tay vẫy Đinh Xuân Thu, lên tiếng: “Tiền bối! Thì ra cõi nhân sinh chẳng rộng lớn gì. Chúng ta vừa mới chia tay, bây giờ lại gặp nhau rồi.” Đinh Xuân Thu cười đáp: “Lão phu thật là có duyên với công tử.” Lão lại nghĩ: “Ta đã đả thương mấy tên đại tướng dưới tay hắn, hôm nay trong kỳ hội lại suýt lấy được cái mạng nhỏ xíu của hắn, làm sao hắn bỏ qua ta được? Nghe đồn võ công nhà Mộ Dung ở Cô Tô uyên bác siêu quần, võ lâm không ngớt ca tụng môn Gậy ông đập lưng ông của nhà gã rất nhiều, chắc không phải là vô lý. Lúc hắn ném quân cờ đã thi triển công phu ném ám khí đến mức tuyệt diệu. Nhưng lúc hắn ngẩn ra nhìn cuộc cờ, người khác mà không kịp cứu thì ta đã thừa cơ trừ khử rồi. Thế thì thằng lỏi này võ công tuy cao, nhưng chưa chắc đã hiểu các pháp thuật khác.” Lão quay sang bảo A Tử: “Ngươi bảo giả tỉ ta phế bỏ công lực, cắt gân bứt mạch, hoặc chặt chân tay của ngươi, thì ngươi thà chết lập tức chứ không cũng chịu nói ra cái đó ở đâu. Có phải thế không?”

A Tử sợ tái mặt, run run đáp: “Sư phụ đại lượng, chẳng nên.., chẳng nên lưu tâm mấy câu hồ đồ loạn ngữ của đệ tử làm gì.” Mộ Dung Phục cười nói: “Đinh tiên sinh! Niên kỷ tiên sinh cũng đã cao rồi, chấp nhặt với đứa con nít làm chi? Lại đây, lại đây, chúng ta cạn ba chén rượu rồi đàm văn luận võ có phải hơn không? Trước mặt người ngoài mà đem việc trong môn hộ ra thanh toán, thì coi sao tiện?”.

Đinh Xuân Thu chưa trả lời, một tên đệ tử phái Tinh Tú đã nổi giận quát lên: “Thằng lỏi này không biết trên biết dưới. Sư phụ ta là bậc võ lâm chí tôn, sao lại thèm đàm văn luận võ với tiểu tử hậu sinh như ngươi được? Ngươi có tư cách gì mà đòi đàm luận với sư phụ của ta?”.

Lại có tên hùa theo: “Nếu ngươi muốn thỉnh giáo sư phụ ta thì phải biết kính cẩn dập đầu, may ra Tinh Tú lão tiên thương yêu kẻ hậu bối mà chỉ điểm cho một hai điều. Mi dám mở miệng đòi đàm văn luận võ với Tinh Tú Lão Tiên thì người ta phải cười mi đến trẹo quai hàm. Ha ha!” Gã cười hai tiếng, vẻ mặt đột nhiên hơi sương lại, sau một lúc gã lại cười mấy tiếng khô khan, rồi há hốc miệng ra mà không nói gì nữa, nhưng vẻ mặt vẫn cười cợt một cách bí hiểm.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú biết bạn đồng môn trúng phải Tam Tiếu Tiêu Dao Tán tắt hơi rồi, đều không khỏi kinh sợ mà im bặt, cúi đầu xuống không dám nhìn sư phụ nữa. Bọn chúng tự hỏi: “Không hiểu gã này lỡ miệng xúc phạm chỗ nào mà sư phụ bực tức đến mức hạ thủ giết y?”

Còn Đinh Xuân Thu thì vừa tức giận vừa sợ hãi. Lão vừa đối thoại với A Tử vừa khẽ phẩy tay áo, ngấm ngầm vận nội lực tung Tam Tiếu Tiêu Dao Tán vào Mộ Dung Phục. Thứ phấn độc này không hương không sắc, lại cực kỳ mịn hạt không tài nào nhìn rõ được, lão tin chắc võ công Mộ Dung Phục cao đến đâu cũng không thể phát giác ra. Nào ngờ Mộ Dung Phục dùng thủ đoạn gì không hiểu, hất Tam Tiếu Tiêu Dao Tán vào người gã kia, chết mất một gã đệ tử chẳng có gì đáng tiếc, nhưng Mộ Dung Phục đang cười cười nói nói, chẳng giơ tay nhấc chân gì mà hất được phấn độc qua người khác, thì công lực này quả là phi thường quá sức tưởng tượng. Đinh Xuân Thu là người kiến văn quảng bác, nhớ ngay đến thủ pháp “gây ông đập lưng ông” vốn là sở trường của Mộ Dung Phục. Thủ pháp này tương tự như thủ pháp chụp ám khí để phóng lại, bây giờ gã lại đón lấy phấn độc để tung ra. Nhưng phấn độc nhỏ li ti vô hình vô sắc mà sao không có chút nào dính vào người, lại bị gã hất hết ra ngoài được?

Đinh Xuân Thu lại nghĩ: “Tam Tiếu Tiêu Dao Tán do mình phóng ra, sao gã dùng thủ pháp gây ông đập lưng ông mà không hất trở về mình? Hừ! Chắc là thằng lỏi con này úy kỵ lão tiên nên không dám vuốt râu hùm.” Lão nghĩ đến ba chữ “vuốt râu hùm”, bèn đưa tay lên vuốt thì chỉ thấy bảy tám sợi râu bị cháy dở chỉ còn ngắn chùn ngũn. Trong lòng lão không lấy thế làm buồn mà lại mừng thầm, lẩm bẩm: “Tô Tinh Hà cùng với tên sư già Huyền Nạn nội lực cao thâm khó lường, rút cục vẫn chết về tay lão tiên, thì thằng lỏi Mộ Dung Phục miệng còn hôi sữa có chi đáng kể?” Đinh Xuân Thu bèn nói: “Mộ Dung công tử, chúng ta thật là có duyên với nhau. Lại đây, lại đây! Để ta mời công tử chén rượu.” Nói xong lão búng ngón tay một cái, chén rượu trước mặt lão bay sang bàn Mộ Dung Phục, không rớt ra ngoài nửa giọt.

Bình thời thì bọn đệ tử đã thi nhau tán tụng, nhưng vừa rồi một gã đồng môn mới nói mấy câu đã bị thảm tử, nên chúng sợ hãi quá, chẳng ai dám mở miệng nói nhiều để lộ chỗ sơ hở. Song ít ra cũng phải reo lên một tiếng tán thưởng, nếu không tất bị sư phụ hành hạ thảm khốc, Chén rượu vừa đáp xuống trước mặt Mộ Dung Phục, bọn đệ tử đồng thanh hô một tiếng: “Tuyệt diệu!” như sấm vang. Trong bọn đệ tử có ba tên đặc biệt nhát gan không dám hoan hô, khi thấy bọn đồng môn reo hò, mới sực nhớ ra mình chưa lên tiếng. Ba tên này vội kêu lên “tuyệt diệu!” nhưng đã chậm mất một chút, nghe có vẻ không nghiêm chỉnh, chúng thấy bọn đồng môn liếc mắt quở trách thì vừa hổ thẹn vừa sợ hãi vô cùng.

Mộ Dung Phục nói: “Chén rượu này của Đinh tiên sinh, vãn bối xin chuyển sang mời lệnh cao đồ!” Nói xong gã thổi phù một cái, chén rượu lại bay đến trước mặt một tên đệ tử phái Tinh Tú ngồi bên trái.

Một bên búng ngón tay vào chén rượu, một bên lấy hơi thổi chén rượu bay đi, thật ra cũng chưa thể phân biệt được nội lực hơn kém. Nhưng nhìn qua thì ai cũng có cảm tưởng như thủ pháp của Mộ Dung Phục xảo diệu hơn, mà nội lực cũng mạnh hơn Đinh Xuân Thu.

Gã đệ tử phái Tinh Tú thấy chén rượu bay đến trước mặt, hốt hoảng không kịp suy nghĩ, bất giác đưa tay trái ra đón lấy mà nói: “Sư phụ mời công tử mà!” Gã định dùng chưởng lực đẩy chén rượu lại Mộ Dung Phục, thì đột nhiên rú lên một tiếng thê thảm, ngã ngửa ra sau rồi không nhúc nhích gì nữa. Bọn đệ tử hiểu ngay lúc sư phụ búng chén rượu đã để thuốc kịch độc bám quanh cái chén. Mộ Dung Phục bất tất phải uống rượu, chỉ cần cầm đến chén cũng đủ mất mạng như gã đệ tử này rồi.

Đinh Xuân Thu biến sắc mặt, căm giận vô cùng. Lão biết rằng lần này không che mắt được bọn đệ tử, chúng đều biết mình dùng phấn độc ám hại Mộ Dung Phục, lại bị gã trả miếng làm mất mạng đệ tử phái Tinh Tú. Lão dùng cả hai tay nâng một chén rượu khác, từ từ đứng lên nói: “Mộ Dung công tử! Lão phu mời công tử một chén, đừng từ chối mà bẽ mặt lão phu!” Lão vừa nói vừa đi tới phía Mộ Dung Phục.

Mộ Dung Phục thấy trong chén rượu trắng có ẩn sắc xanh, rõ ràng có pha thuốc kịch độc. Đinh Xuân Thu đi tới chỉ còn cách một cái bàn, Mộ Dung Phục liền vận nội công hít mạnh một hơi. Rượu trong chén Đinh Xuân Thu đang cầm đột nhiên bay lên thành một sợi dây nước xanh lè.

Đinh Xuân Thu kêu thầm: “Lợi hại quá!”, biết đối phương hít mạnh cho rượu vọt lên, rồi sẽ thổi ra để rượu bắn về phía mình. Tuy lão không sợ rượu độc, nhưng để khắp người rượu ướt đầm đìa thì thật khó coi, bèn vận nội lực nhắm vào dây rượu thổi mạnh trước. Tia rượu bay đến cách mũi Mộ Dung Phục nửa thước, đột nhiên chuyển hướng sang trái, lượn vòng qua sau gáy y rồi bay vào đến miệng một tên đệ tử phái Tinh Tú.

Gã này đang há miệng sắp hoan hô, chữ “Tuyệt diệu” chưa kịp thốt ra thì tia rượu độc đã bắn vào miệng gã rồi chui xuống bụng. Đầu óc gã còn chậm chạp hơn tia rượu, không kịp nghị vẫn hô: “Tuyệt diệu!”, rồi mới giật mình kêu lên: “Chết rồi!” Gã ngã gục ngay xuống đất, trong chớp mắt mặt đã sạm đen lại, mất mạng tức khắc. Mộ Dung Phục thấy thuốc độc ghê gớm như vậy không khỏi rùng mình nghĩ thầm: “Ta bôn tẩu giang hồ bấy lâu, chưa thấy chất độc nào ghê gớm đến thế.”

Hai người tỉ đấu chưa xong, nhưng phái Tinh Tú đã chết mất ba tên đệ tử, như vậy rõ ràng Đinh Xuân Thu lép vế.

Đinh Xuân Thu cả giận, đặt chén rượu xuống bàn rồi phóng chưởng ra. Mộ Dung Phục từng nghe tiếng Hóa Công Đại Pháp, gia tâm đề phòng rất cẩn thận. Đinh Xuân Thu phóng veo véo luôn ba chưởng, Mộ Dung Phục đều dùng thân pháp để né tránh, không để cho tay lão chạm vào.

Trong phạn điếm nhỏ bé bàn ghế ngổn ngang, lối đi chật hẹp, mà hai người tiến thoái không một tiếng động. Hai bên xuất chiêu nhanh như chớp nhưng quyền chưởng không hề chạm nhau, bàn ghế cũng không bị xô đẩy chút nào.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú chỉ biết sợ hãi đứng sát vào tường, không ai dám trốn ra ngoài vì sợ phạm tội đại bất trung, sau này tất bị sư phụ nghiêm trị. Chúng biết rõ tình thế nguy hiểm vô cùng, chỉ chạm phải một chút chưởng phong là có thể nguy hại đến tính mạng, tên nào cũng cố ép người mỏng như tờ giấy dán vào tường. Mộ Dung Phục thủ nhiều công ít, tuy chưởng pháp tinh thục nhưng không dám đối chưởng với Đinh Xuân Thu, thành ra bị trói chân trói tay ở thế hạ phong.

Tinh Tú Lão Quái vừa trao đổi mấy chiêu, thấy Mộ Dung Phục không dám đối chưởng, biết ngay gã sợ Hóa Công Đại Pháp, lão liền nảy ra ý định tỉ thí nội lực. Nhưng Mộ Dung Phục thân pháp kỳ ảo, chiêu thức vừa mau lẹ vừa khó đoán được phương hướng, lão muốn đối chưởng cũng không phải chuyện dễ. Một lúc sau Đinh Xuân Thu nảy ra một kế, dùng hữu chưởng đánh như gió bão để uy hiếp đối phương, giả vờ sử dụng tay trái không được tinh nhuệ, lại còn cố ý giấu giếm sợ đối phương khám phá ra.

Nhãn quan Mộ Dung Phục sắc bén vô cùng, nhìn ra ngay đối phương có nhược điểm. Gã lạng người đi nửa vòng, rồi đột nhiên phóng hai chưởng mãnh liệt nhằm đánh vào sườn trái Đinh Xuân Thu. Đinh Xuân Thu khẽ kêu lên một tiếng, lùi lại tránh né, tựa như không dám đưa tay trái ra đón đồ. Mộ Dung Phục cả mừng nghĩ thầm: “Chắc hẳn lão quái này đã bị nội thương gì ở nửa người bên trái.” Gã bèn giả vờ tấn công dữ dội vào bên phải, chờ bên trái đối phương lộ sơ hở mới dùng hết sức đánh một chiêu.

Hai bên đấu hơn hai chục chiêu nữa, Đinh Xuân Thu rút tay trái về giấu trong tay áo, hữu chưởng biến thành trảo chụp xuống Mộ Dung Phục. Gã bèn nghiêng người lách qua, phóng quyền đánh thẳng vào sườn trái. Đinh Xuân Thu chỉ chờ có vậy, bèn phất tay áo bên trái nghe vù vù để cuốn lấy tay phải đối phương.

Mộ Dung Phục nghĩ thầm: “Tụ phong của ngươi có lợi hại gấp mười cũng đừng hòng đả thương nổi ta.” Gã không chịu thu quyền về, lại vận thêm kình lực vào cánh tay để đón lấy tụ phong của đối phương. Nghe “soạt” một tiếng, tay áo bên phải Mộ Dung Phục bị rách toạc một miếng, gã giật mình, lại gia tăng kình lực cho phát quyền hung hãn hơn, đột nhiên đầu quyền bị bàn tay Đinh Xuân Thu nắm lấy.

Chiêu thức này vượt ngoài dự liệu của Mộ Dung Phục. Y kinh hãi nghĩ thầm: “Thì ra lão quái này giả vờ bị thương nửa người bên trái là kế dụ địch, ta mắc bẫy rồi.” Rồi gã hối hận nghĩ: “Mình tự cao quá, coi Tinh Tủ Lão Quái vang danh thiên hạ không vào đâu. Quân tử báo thù mười năm chưa muộn, hà tất ta phải căm giận nhất thời, chưa tính toán kỹ đã mạo hiểm khiêu chiến với lão.” Mộ Dung Phục không còn đường rút lui nữa, liền huy động nội lực toàn thân phóng ra đầu quyền. Nhưng nội kình gã xuất ra chỉ như cục đá chìm xuống biển, không hiểu mất đi đâu hết. Mộ Dung Phục kêu thầm một tiếng: “Ôi chao!” Lúc gã đến gây sự với Đinh Xuân Thu đã định bụng không để Hóa Công Đại Pháp của lão chạm được vào mình, nhưng cuối cùng lại không tránh khỏi. Lúc này Mộ Dung Phục tiến thoái lưỡng nan, nếu tiếp tục vận nội kình để kháng cự, thì nội lực cứ bị hóa tán dần đi, chỉ trong khoảnh khắc là mất hết công lực biến thành phế nhân. Gã cũng không dám dùng thủ pháp Bảo Nguyên Thủ Nhất rút nội lực về, vì Đinh Xuân Thu nổi tiếng dụng độc ghê gớm, không chừng thuốc độc của lão có thể theo đường chân khí rút về mà chui vào nội thể, rồi xâm nhập đến tạng phủ.

Lúc này Mộ Dung Phục nghĩ không ra phương kế gì nữa, tình trạng vô cùng nguy ngập. Bỗng sau lưng gã có người lớn tiếng nói: “Sư phụ bày mưu xảo diệu vô cùng, hãm tên tiểu tử này vào tuyệt địa.” Mộ Dung Phục lùi lại hai bước, không quay đầu lại, chỉ nghe tiếng nói mà xoay tay trái nắm trúng ngực tên đệ tử phái Tinh Tú đang ngoác mồm nịnh hót.

Nhà Cô Tô Mộ Dung có phép cầm nã tuyệt diệu gọi là Đẩu Chuyển Tinh Di, cũng là một kỹ thuật mượn sức người để đánh người. Người ngoài không biết rõ, cứ tưởng nhà Mộ Dung hiểu biết sâu xa tuyệt kỹ của các môn phái khắp thiên hạ, không sót một môn nào, do đó mới có chủ trương “Gậy ông đập lưng ông”, muốn hạ sát ai thì dùng chính môn tuyệt kỹ thành danh của người đó. Thực ra trong võ lâm có tới hàng ngàn hàng vạn môn tuyệt kỹ, cho dù nhà Mộ Dung có thông minh đến đâu cũng không học hết được, mà đã gọi là tuyệt kỹ thì cũng không phải luyện trong một sớm một chiều mà thành. Đúng ra nhà Mộ Dung chỉ có thuật Đẩu Chuyển Tinh Di là xảo diệu, chuyển phương hướng chiêu thức của đối phương phản kích vào chính người đã ra chiêu.

Người quen dùng Tỏa Hầu Thương, thì nhân vật nhà Mộ Dung sẽ dùng thuật Đẩu Chuyển Tinh Di kéo mũi thương quay trở lại tự đâm vào cổ. Người nào giỏi về Đoạn Tí Đao thì đi đến kết quả tự chém đứt cánh tay mình. Chưa ai tận mắt trông thấy nhà Mộ Dung thi triển môn Đẩu Chuyển Tinh Di, chỉ thấy cũng binh khí ấy, cũng chiêu thức ấy, nên không đoán được là chính người đó mất mạng về chiêu thức của mình, thực ra là tự sát. Người nào võ công càng cao thâm, thì cái chết lại càng ly kỳ. Trước nay nhà Mộ Dung ở Cô Tô nếu không lấy một chọi một, hay không chắc thắng đối phương cả trăm phần trăm thì không bao giờ dùng đến thuật Đẩu Chuyển Tinh Di, nên tiếng tăm vang lừng khắp giang hồ mà không ai hiểu được đạo lý bên trong.

Dùng thuật Đẩu Chuyển Tinh Di để di chuyển phương hướng những vật hữu hình như khí giới quyền cước thì còn dễ, chứ di chuyển những thứ vô hình như nội lực, khí công thì khó vô cùng. Mộ Dung Phục luyện thuật này chưa đạt đến mức tinh vi, gặp phải Đinh Xuân Thu là cao thủ bậc nhất, gã tự biết không thể dùng phép Đẩu Chuyển Tinh Di để lại chính đối phương được. Vì thế mấy lần chàng thi triển thuật Đẩu Chuyển Tinh Di chỉ di chuyển sang người thứ ba, kẻ lãnh nạn là đệ tử phái Tinh Tú. Đinh Xuân Thu dùng Tam Tiếu Tiêu Dao Tán, quăng chén để rải phấn độc và thổi tia rượu độc, Mộ Dung Phục đều kiếm được kẻ chết thay cho mình một cách dễ dàng.

Bây giờ Đinh Xuân Thu dùng Hóa Công Đại Pháp, Mộ Dung Phục không biết làm gì nữa, nghe thấy một tên đệ tử phái Tinh Tú há miệng tung hô sư phụ ở ngay sau lưng, trong lúc cấp bách gã cũng không nghĩ kỹ, liền nắm ngay lấy tên này để thay thế cho mình, không ngờ cuộc mạo hiểm này hiệu quả vô cùng. Bản ý Tinh Tú Lão Quái là hóa giải công lực của Mộ Dung Phục, ngờ đâu đệ tử bản môn lãnh nạn.

Mộ Dung Phục thí nghiệm thành công, chẳng khác nào được cải tử hoàn sinh. Y quyết không để Đinh Xuân Thu kịp suy nghĩ, liền đẩy tên đệ tử này cho chạm vào người một tên đệ tử khác. Tên đệ tử thứ hai cũng bị Hóa Công Đại Pháp của Đinh Xuân Thu hóa giải mất công lực.

Đinh Xuân Thu thấy Mộ Dung Phục mượn gió bẻ măng, làm hại đệ tử của mình thì căm hận vô cùng. Nhưng lão lại nghĩ: “Nếu mình muốn giữ mạng cho mấy tên đệ tử vô dụng này mà thả hắn ra thì không biết bao giờ mới gặp được cơ hội. Thằng lỏi này mà chạy thoát thì mình mất năm tên đệ tử để chỉ xé được nửa cái tay áo của hắn, thế là phái Tinh Tú đại bại rồi. Tinh Tú Lão Tiên còn mặt mũi nào mà diễu võ dương oai ở Trung Nguyên nữa?” Lão bèn quyết định không buông đầu quyền của Mộ Dung Phục ra.

Mộ Dung Phục lại lùi mấy bước, dính tên đệ tử này vào tên đệ tử khác cho Đinh Xuân Thu hóa giải công lực. Chỉ trong khoảnh khắc ba tên đệ tử phái Tinh Tú đã kiệt quệ chân khí như bị ma cà rồng hút máu, thân thể khô kiệt dính vào với nhau không sao gỡ ra được. Đám đệ tử còn lại cả kinh, thấy Mộ Dung Phục lùi dần về phía mình, đều thất thanh la hoảng.

Mộ Dung Phục rung tay một cái, chuỗi ba tên đệ tử phái Tinh Tú bị hất tung lên, lại trúng vào một tên khác. Tên này đang hô hoán chưa kịp ngậm miệng lại thì người đã mềm nhũn ra. Thế là bốn người dính liền nhau như một xâu cá.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú chưa bị dính vào đều chỉ mong Đinh Xuân Thu buông tha Mộ Dung Phục. Đinh Xuân Thu thi triển Hóa Công Đại Pháp thần kinh quỷ khốc, đều bị gã mượn sức người để hại người, hóa tán công lực của đệ tử phái Tinh Tú. Những tên còn ở ngoài chỉ lo đến lượt mình dính vào, nhưng chúng không dám phóng ra cửa, chỉ chạy lui chạy tới quanh quẩn bên trong phạn điếm, cố né tránh để khỏi mắc độc thủ.

Căn phạn điếm này nhỏ hẹp, Mộ Dung Phục cứ vung tay một cái là lại chạm vào một tên đệ tử phái Tinh Tú, trong chớp mắt đã câu được thêm bốn tên, thế là xâu chuỗi dài tới tám người. Bây giờ gã cầm cây “bát tiết côn” vừa lớn vừa dài như vậy, muốn tìm kẻ chết thay cho mình thật dễ như chơi. Lúc này rõ ràng Mộ Dung Phục đang chiếm thượng phong, nhưng y vẫn lo sợ, vì bọn đệ tử phái Tinh Tú tuy nhiều nhưng dùng mãi cũng phải hết, đến lúc Đinh Xuân Thu hóa giải công lực hết thảy bọn chúng rồi, thì tất phải đến lượt mình. Y nghĩ vậy nên lúc nào cũng cố tìm cơ hội thoát khỏi tay Đinh Xuân Thu.

Đinh Xuân Thu thấy bọn môn đồ mình cứ từng tên một dính mãi vào, chẳng khác gì một cành liễu xâu đàn cá. Bấy giờ bọn còn ở ngoài vòng chỉ lo tìm đường né tránh, chẳng tên nào hoan hô Đinh Xuân Thu nữa. Lão vừa thẹn vừa tức, nhất quyết nắm giữ đầu quyền Mộ Dung Phục không buông, nghĩ thầm: “Mất hết lũ đệ tử vô dụng này cũng không sao, rốt cuộc ta hủy được công lực của Mộ Dung Phục là Tinh Tú Lão Tiên thắng Cô Tô Mộ Dung, vụ này sẽ chấn động thiên hạ.” Lão bèn không giận dữ nữa, lại ra vẻ ung dung.

Bọn đệ tử phái Tinh Tú chỉ mong sư phụ ném chuột sợ vỡ đồ, buông tha Mộ Dung Phục để mình khỏi chết oan, bây giờ thấy Đinh Xuân Thu trở lại bộ mặt tiên phong đạo cốt thì biết rằng hết hy vọng rồi. Gã nào cũng la ó rầm trời, nhưng chưa dám chạy trốn, cũng chưa có tên nào dám mở miệng van xin Đinh Xuân Thu thả Mộ Dung Phục ra.

Đinh Xuân Thu liếc mắt nhìn quanh thì trong đám đệ tử chỉ có hai người không lẩn tránh. Một người là Du Thản Chi, đang ngồi ủ rũ trong góc nhà, hai tay ôm lấy cái đầu sắt, nửa như sợ hãi vô cùng, nửa như chán đời không thèm trốn tránh. Còn người kia là A Tử, mặt mày tái mét, ngồi co ro trong góc nhà đối diện.

Đinh Xuân Thu gọi to: “A Tử!” A Tử đang ngơ ngẩn xuất thần, đột nhiên nghe tiếng sư phụ gọi, bèn giật mình nói: “Sư phụ! Sư phụ đại triển thần oai…” Nàng chỉ nói được nửa câu rồi ngượng nghịu gượng cười. Đúng là Đinh Xuân Thu đang thi triển thần oai, nhưng hại toàn là đệ tử mình. A Tử thông minh lanh lợi nhưng lúc này cũng nghĩ không ra lời ca tụng nào cho hợp lý.

Đinh Xuân Thu không làm gì được Mộ Dung Phục đã bực lắm rồi, lại thấy giọng cười của A Tử có vẻ trào phúng, lão nổi điên lên, phất tay áo bên trái cuốn hai chiếc đũa trên bàn phóng vọt tới cặp mắt của A Tử.

A Tử la lên: “Trời ơi!”, vội vàng đưa tay lên gạt đôi đũa nhưng đã chậm một chút, đầu đũa đã trúng vào trong mắt. Nàng thấy vừa tê vừa ngứa, vội lấy tay áo dụi mắt, lúc mở mắt ra chỉ thấy những đốm trắng nhảy múa. Chốc lát thì những đốm trắng này cũng biến mất, trước mắt nàng chỉ còn một tấm màn đen kịt.

Hồn vía A Tử bay mất hết, bất giác la lên: “Ta.. Mắt của ta… Ta không thấy gì hết.” Bỗng nhiên nàng cảm nhận có một làn gió lạnh buốt thổi qua, rồi một cánh tay choàng ngang hông, có người kéo mình chạy đi. A Tử vẫn kêu gào: “Mắt của ta…”, đột nhiên nghe một tiếng “Bình, sau lưng có hai người đối chưởng. Rồi nàng thấy thân thể bay lên như đằng vân giá vũ, mơ hồ còn nghe tiếng Mộ Dung Phục kêu to: “Thôi thôi, ta đi trước đây! Tinh Tú Lão Quái! Sau này…”

A Tử thấy lạnh buốt tới xương, bên tai nghe tiếng gió vù vù, một người lạnh như băng đang ôm nàng chạy nhanh. Hai hàm răng nàng khua lách cách, rên rỉ: “Lạnh quá… Mắt của ta… Lạnh, lạnh quá!” Người kia nói: “Phải, phải! Chúng ta chạy đến bên kia rừng, Tinh Tú Lão Quái không tìm được đâu.” Miệng gã nói mà chân vẫn chạy không chậm lại chút nào. Một lúc sau A Tử cảm thấy gã dừng lại rồi để nàng xuống, dưới chân có tiếng xào xạc tựa như một đám lá khô. Người đó hỏi: “Cô nương! Mắt của cô ra sao rồi?”

A Tử chỉ thấy hai mắt đau buốt, cố gắng trợn đến rách khóe ra mà vẫn không thấy gì, cả trời đất vũ trụ chỉ như một khối màu đen. Nàng hiểu rằng đôi mắt của mình đã bị độc dược của Đinh Xuân Thu làm cho đui mù, đột nhiên khóc òa lên, vừa khóc vừa la: “Ta… Mắt của ta mù rồi! Ta mù rồi!”

Người kia dịu dàng an ủi: “Không chừng sẽ chữa khỏi.” A Tử cả giận đáp: “Độc dược của Đinh lão quái lợi hại vô cùng, làm sao mà trị được? Ngươi gạt ta! Mắt ta mù rồi! Mắt ta mù rồi!” Nàng càng khóc lớn tiếng. Người kia lại nói: “Bên kia có một khe suối nhỏ, chúng ta qua đó thử xem, không chừng rửa sạch được chất độc dính trong mắt cô nương.” Gã nói xong liền nhẹ nhàng nắm tay A Tử, kéo nàng đứng dậy.

A Tử thấy tay người đó lạnh buốt, bất giác rụt tay lại, gã liền buông ra. A Tử bước được hai bước, vấp một cái suýt ngã. Gã khẽ la lên: “Cẩn thận!”, rồi lại nắm lấy tay nàng. A Tử không rút về nữa, để gã nắm tay dẫn đi. Gã nói: “Cô nương đừng sợ, đến cạnh khe suối rồi đó.”

A Tử quì xuống, dùng hai tay vốc nước lên rửa mặt. Nước suối mát rượi, nàng thấy cơn đau mắt từ từ dịu đi, nhưng trời đất vẫn tối đen, trước mắt không thấy chút ánh sáng nào. Nàng vừa tuyệt vọng, vừa thương tâm, vừa phẫn nộ, vừa không thấy ai giúp mình được. Rất nhiều cảm giác cùng ùa đến, nàng ngồi bệt xuống đất, khóc òa, giẫm chân liên hồi, nấc lên: “Ngươi gạt ta! Ngươi gạt ta! Mắt ta mù rồi! Mắt ta mù rồi!”

Người kia nói: “Cô nương đừng đau buồn quá. Tại hạ không rời cô nương đâu, cô nương cứ yên tâm đi.” A Tử cảm thấy được an ủi, bèn hỏi: “Ngươi… ngươi là ai?” Người đó đáp: “Tại hạ… tại hạ là…” A Tử lại nói: “Thật là không phải, xin lỗi nhé. Đa tạ các hạ đã ra tay cứu mạng, xin hỏi tôn tính đại danh là gì?” Người đó ấp úng đáp: “Tại hạ… Tại hạ… Cô nương không biết tại hạ đâu.” A Tử đáp: “Ngay cả tên họ ngươi cũng không nói ra, lại còn nói dối là không rời ta nữa ư? Mắt của ta mù rồi, ta… ta chết đi còn hơn.” Rồi nàng lại thút thít khóc.

Người đó cuống quít kêu lên: “Cô nương nhất định không được chết. Tại hạ… tại hạ nhất định vĩnh viễn không rời xa cô nương, chỉ cần cô nương đồng ý cho tại hạ ở bên mình là được.” A Tử la lên: “Ta không tin! Ngươi gạt ta, ngươi lừa gạt không cho ta chết, ta lại càng muốn chết. Mắt ta mù rồi, làm người thế nào được nữa?” Người đó nói: “Tại hạ không lừa dối cô nương. Nếu tại hạ bỏ cô nương mà đi thì sẽ không được chết yên lành.” Giọng nói của gã nghe vừa lo lắng vừa chân thành. A Tử hỏi lại: “Thế thì ngươi là ai?” Người đó nói: “Tại hạ… tại hạ ở Tụ Hiền Trang… không phải, không phải, ta ở họ Trang, tên là Trang Tụ Hiền.”

Người cứu A Tử chính là thiếu trang chủ Du Thản Chi của Tụ Hiền Trang.

A Tử đáp: “Thì ra là Trang… Trang tiền bối. Tiểu nữ đa tạ tiền bối đã cứu mạng.” Du Thản Chi vội đáp: “Ta cứu được cô thoát khỏi độc thủ của Tinh Tú Lão Tiên là mừng lắm rồi, không cần cô phải đa tạ. Ta cũng không phải là tiền bối chi hết, chỉ lớn hơn cô mấy tuổi thôi.” A Tử bèn nói: “Ồ, thế thì ta phải gọi huynh là Trang đại ca mới phải.” Du Thản Chi vui sướng vô hạn, run giọng đáp: “Chuyện này… thật là không dám.”

A Tử nói: “Trang đại ca, ta muốn cầu xin huynh một việc.” Du Thản Chi đáp: “Cô nương đừng nói tới hai chữ cầu xin. Cô nương sai bảo việc gì thì cứ nói, ta sẽ xả thân tận lực mà làm cho bằng được.” A Tử mỉm cười hỏi lại: “Chúng ta chưa từng quen biết, sao huynh lại tốt với ta như thế?” Du Thản Chi đáp: “Đúng… đúng là chưa quen biết. Ta chưa từng gặp cô nương, cô nương cũng chưa từng thấy ta. Hôm nay chúng ta mới gặp mặt lần đầu.” A Tử khẽ nói: “Không phải là ta chưa từng thấy huynh, phải nói là ta vĩnh viễn không thể thấy huynh mới đúng.” Nàng nói rồi, không kìm lòng được lại tuôn nước mắt ra.

Du Thản Chi vội nói: “Không sao đâu. Cô nương không nhìn thấy ta thì lại càng tốt.” A Tử hỏi: “Sao lại thế?” Du Thản Chi đáp: “Ta… tướng mạo ta rất khó coi, nếu cô nương thấy ta nhất định sẽ không vui.” A Tử cười nói: “Huynh lại gạt ta nữa rồi. Người nào càng cổ quái, ta lại càng thích nhìn. Trước kia ta có một tên đầy tớ bị chụp một cái mặt nạ sắt không tháo ra được. Hắn mới là khó coi nhất trong thiên hạ. Nếu huynh nhìn thấy hắn, chắc chắn phải cười đến ba ngày ba đêm mới nín được. Huynh có muốn xem hắn không?” Du Thản Chi run rẩy đáp: “Không, không! Ta không muốn xem.” Gã nói xong, bất giác lui lại hai bước.

A Tử nói: “Lúc nãy huynh ôm ta chạy nhanh như bay, võ công thật là tuyệt diệu, giống hệt tỉ phu của ta. Thế mà lá gan của huynh lại nhỏ xíu, không dám nhìn cả người đầu sắt. Gã đầu sắt ấy thật là ngoan ngoãn, ta sẽ kêu hắn nhào lộn nhảy múa cho huynh xem. Ta đã kêu hắn đút cái đầu sắt vào chuông cho sư tử cắn thử, lại còn kêu thuộc hạ cột dây vào người hắn đem thả cho bay lên như diều, chuyện đó mới là thú nhất.”

Du Thản Chi bất giác run rẩy, nói: “Ta không muốn xem, thật tình ta không muốn xem.” A Tử than thở: “Thôi được. Vừa rồi huynh nói, bất kể ta muốn huynh làm chuyện gì, huynh cũng xả thân làm cho được, thì ra toàn là chuyện lừa gạt.” Du Thản Chi đáp: “Không, không! Ta quyết không lừa dối cô nương. Cô nương muốn ta làm chuyện gì?” A Tử bảo: “Ta muốn về với tỉ phu, hiện ở Nam Kinh nước Liêu. Trang đại ca! Huynh đưa ta đi nhé.”

Du Thản Chi thấy đầu óc rối như mớ bòng bong, trong giây lát không nói được tiếng nào. A Tử lại hỏi: “Thế nào? Huynh không muốn hay sao?” Du Thản Chi lắp bắp cố đáp: “Không… không phải. Ta… ta không phải… không… muốn đi Nam Kinh nước Liêu.” A Tử nói: “Ta muốn huynh đi xem tên hề đầu sắt cho vui, huynh không chịu đi. Ta nhờ huynh dẫn ta về gặp tỉ phu, huynh cũng không dẫn. Để ta đi một mình vậy.” Nàng nói xong, chầm chậm đứng dậy, rồi đưa hai tay ra trước quờ quạng tìm đường bước đi.

Du Thản Chi la lên: “Ta đưa cô nương đi! Cô nương đi một mình… thế nào được?” Thế là Du Thản Chi nắm lấy bàn tay mềm mại của A Tử, dẫn nàng ra khỏi rừng, trong lòng nghĩ: “Giả tỉ ta cứ được nắm tay nàng đi chầm chậm thế này, dẫu là đi xuống mười tám tầng địa ngục cũng thấy hoan hỉ vô hạn.”

Vừa ra tới đường lớn, gã bỗng thấy phía trước có một đám ăn mày. Gã nhận ra người đi đầu thân thể cao lớn, tướng mạo thanh tú, chính là Toàn Quan Thanh, đà chủ của Đại Trí phân đà trong Cái Bang, bèn nghĩ thầm: “Hôm trước người này bị sư phụ ta đả thương, thế mà chưa chết.” Gã không muốn đối mặt bọn này, liền nắm tay A Tử rời khỏi đường lớn, đi vào một bãi đất trống. A Tử cảm thấy dưới chân không bằng phẳng, liền hỏi: “Chuyện gì thế?” Du Thản Chi chưa trả lời, Toàn Quan Thanh đã thấy hai người bèn chạy tới ngăn lại, quát hỏi: “Các ngươi lén lén lút lút làm cái gì thế? Ngươi… ngươi đội cái gì kỳ vậy?”

Du Thản Chi cả kinh nghĩ thầm: “Hắn mà nói ra hai chữ Đầu Sắt là A Tử cô nương lập tức biết ta là ai, nhất định sẽ không thân cận với ta nữa. Cho dù nàng có sai ta đưa về Nam Kinh, cũng nhất định không cho ta nắm tay nàng”, không tự chủ được, đột ngột quì xuống sụp lạy, rồi đưa tay cố ra hiệu cho Toàn Quan Thanh hiểu rằng không nên nói ra chân tướng của mình.

Toàn Quan Thanh không hiểu nổi y đưa tay ra hiệu cái gì, bèn hỏi: “Ngươi làm gì vậy?” Du Thản Chi chỉ A Tử, xua tay, rồi chỉ mặt mình, xua tay, rồi lại lạy mấy lạy. Toàn Quan Thanh nhìn lại thấy A Tử mù cả hai mắt, cũng hơi hơi hiểu rằng gã đầu sắt này muốn mình đừng nói lộ chuyện. Trong lúc đó bọn đệ tử Cái Bang đều đã đến gần.

Một tên chỉ vào đầu Du Thản Chi, cười ha hả rồi nói: “Thật là kỳ quái, gã đầu…” Du Thản Chi tức khắc nhảy vọt lên đánh ra một chưởng. Gã Cái Bang đưa tay ra đỡ, nhưng chỉ nghe răng rắc vài tiếng rồi gãy cả xương tay lẫn xương sườn, thân thể bay vọt ra sau mấy thước, rơi tới đất thì đã chết rồi.

Bon đệ tử Cái Bang vừa cả kinh vừa phẫn nộ, năm người cùng xông lên công kích. Hai tay Du Thản Chi múa lên loạn xạ, chưởng pháp thật là tệ hại, so với đệ tử Cái Bang hạng bét cũng còn thua xa, nhưng chưởng phong đi tới đâu thì ở đó vang lên những tiếng: “lắc cắc”, “binh binh”, “Ái chà”, “Trời ơi”, rồi cả năm tên Cái Bang đều văng ra mấy trượng mất mạng. Những người còn lại đều sợ hãi, chia nhau bao vây Du Thản Chi và A Tử, nhưng không dám bước lên xuất thủ nữa.

Đột nhiên Du Thản Chi lại quì xuống trước mặt Toàn Quan Thanh, lại đưa tay ra dấu, chỉ A Tử rồi lại chỉ đầu mình, xua tay không ngớt.

Toàn Quan Thanh thấy gã này chỉ cất tay đã đánh chết sáu tên Cái Bang, công lực ghê gớm trên đời hiếm thấy. Tại sao hắn không tiếp tục xuất thủ giết người bịt miệng mà lại quỳ lạy mình, thì thật không hiểu nổi. Y cũng ra dấu, chỉ A Tử, chỉ cái đầu sắt của gã, rồi lại chỉ mình, lắc lắc đầu. Du Thản Chi cả mừng, gật đầu lia lịa. Toàn Quan Thanh nghĩ: “Võ công của người này vừa cao thâm vừa cổ quái, trong lòng lại nơm nớp sợ ta làm lộ bí mật của hắn. Không chừng ta có thể nhận việc này để kìm chế hắn mà sử dụng.”, bèn quay lại ra lệnh cho bọn Cái Bang: “Các người đừng nói gì hết, không ai được mở miệng.” Du Thản Chi trong lòng cảm kích vô cùng, lại lạy hắn mấy cái nữa.

A Tử hỏi: “Trang đại ca, bọn họ là ai vậy? Huynh đã đánh chết mấy người rồi phải không?” Du Thản Chi đáp: “Họ là mấy vị bằng hữu Cái Bang, vừa rồi chúng ta có chút hiểu lầm. Vị này là đà chủ Đại Trí phân đà, nhân nghĩa hơn người, là một đại hảo nhân ta vốn rất khâm phục. Ta… ta sơ ý đả thương mấy vị huynh đệ của ông ta, thật là có lỗi.” Gã nói xong bèn chắp tay thi lễ với bọn Cái Bang.

A Tử nói: “Trong Cái Bang mà lại có hảo nhân ư? Trang đại ca! Võ công của huynh cao cường đến thế, sao không giết sạch chúng để rửa bớt hận cho tỉ phu ta?” Du Thản Chi vội đáp: “Không, không! Đó chẳng qua là chuyện hiểu lầm, ta với vị Toàn đà chủ đây vốn là hảo bằng hữu. Cô nương ở đây đợi ta một chút, để ta cùng Toàn là chủ nói cho rõ những chuyện hiểu lầm.” Gã nói xong liền quay lại Toàn Quan Thanh vẫy vẫy tay.

Toàn Quan Thanh nghe gã nói là biết mình cũng thấy ngạc nhiên, nhưng xem chừng không có ác ý, liền cùng hắn đi ra xa mười mấy trượng.

Du Thản Chi thấy đã đi đủ xa để A Tử không nghe chuyện được, lại sợ đi xa hơn nữa thì bọn Cái Bang thừa cơ khinh khi nàng, liền dừng lại chắp tay nói: “Toàn đà chủ! Được đà chủ giấu giếm cho, tại hạ không dám quên đại ân đại đức.”

Toàn Quan Thanh đáp: “Tại hạ không biết tí gì nguyên ủy bên trong. Tôn tính đại danh của huynh là gì?” Du Thản Chi đáp: “Tại hạ họ Trang, tên gọi là Tụ Hiền, bất hạnh bị người ta chụp cái thứ quỉ quái này lên đầu, nhưng không thể để cô nương đó biết được.” Toàn Quan Thanh thấy gã vừa nói vừa chăm chăm nhìn A Tử đầy vẻ chiêm ngưỡng, trong lòng đã đoán ra đến bảy tám phần: “Cô nương này thanh tú mỹ lệ, nhất định gã đầu sắt này ái mộ nàng, nhưng rất sợ nàng biết chân tướng kỳ dị của gã.” Hắn bèn hỏi: “Sao Trang huynh biết tại hạ?” Du Thản Chi đáp: “Hôm trước Đại Trí phân đà của quí bang hội họp về chuyện đề cử bang chủ, tại hạ may mắn ở cạnh đó nên nghe người ta gọi đến danh hiệu Toàn đà chủ. Hôm nay tại hạ sơ ý đả thương mấy vị huynh đệ quí bang, thật là có lỗi, mong Toàn đà chủ lượng thứ cho.”

Toàn Quan Thanh đáp: “Chỉ là chuyện hiểu lầm, huynh đừng để tâm. Trang huynh! Cái vật trên đầu huynh, tại hạ nhất định không nói ra, lát nữa cũng sẽ dặn dò thuộc hạ không để lộ đâu.” Du Thản Chi cảm kích đến rơi lệ, chắp tay không ngừng nói: “Đa tạ, đa tạ!”. Toàn Quan Thanh lại nói: “Nhưng Trang huynh cùng vị cô nương đó dắt tay nhau đi trên đường lớn sẽ gặp nhiều người, thế nào cũng có người thấy lạ mà hô hoán. Trang huynh muốn giết họ cũng không kịp đâu.”

Du Thản Chi đáp: “Phải lắm, phải lắm!” Từ lúc gã cứu được A Tử đến nay, thần hồn điên đảo, chưa hề nghĩ đến việc này. Bây giờ nghe Toàn Quan Thanh nhắc nhở, gã mất hết chủ ý, do dự nói: “Tại hạ… tại hạ chỉ còn cách… đưa nàng vào chỗ thâm sơn cùng cốc mà tránh người ta.”

Toàn Quan Thanh mỉm cười nói: “Như vậy chỉ sợ cô nương đó nghi ngờ. Hơn nữa, sau khi hai vị kết thành phu phụ, cô nàng sớm muộn gì cũng phát giác ra thôi.” Du Thản Chi nóng cả người, đáp lại: “Kết thành phu… phu phụ thì tại hạ không dám nghĩ đến, chắc không được đâu. Tại hạ… tại hạ sao dám thế? Chuyện đó… thật là khó hơn lên trời.”

Toàn Quan Thanh nói: “Trang huynh, lúc nãy huynh có gọi tại hạ là hảo bằng hữu. Đã là hảo bằng hữu thì có chuyện khó xử dĩ nhiên phải giúp nhau giải quyết. Thôi thì thế này nhé, chúng ta cùng đến thị trấn phía trước thuê một cỗ xe lớn, huynh cùng với cô nương đó ngồi trong xe thì không ai thấy được nữa.” Du Thản Chi cả mừng, nghĩ đến lúc được ngồi cùng A Tử trong xe, thật là thần tiên cũng không bằng. Gã vội đáp: “Vâng, vâng! Toàn đà chủ thật là cao kiến.”

Toàn Quan Thanh đáp: “Sau đó chúng ta mới tìm cách tháo bỏ cái chụp sắt trên đầu Trang huynh. Toàn mỗ vỗ ngực đảm bảo vĩnh viễn vị cô nương đó không biết được cái chuyện làm Trang huynh khó chịu. Huynh nghĩ xem có được không?”

Nghe phịch một tiếng, Du Thản Chi đã quì mọp xuống đất, dập đầu lạy Toàn Quan Thanh lia lịa, cái đầu sắt gõ xuống đất vang lên những tiếng boong boong.

Toàn Quan Thanh cũng quì xuống trả lễ, đáp lời: “Trang huynh dùng tới đại lễ như vậy, tại hạ thật không dám nhận. Trang huynh đã không chê bỏ, thì hai chúng ta kết nghĩa kim lan, huynh nghĩ thế nào?”

Du Thản Chi cả mừng đáp: “Thật là tuyệt diệu. Đệ thì chuyện gì cũng không hiểu, bây giờ có một vị nghĩa huynh túc trí đa mưu chỉ điểm cho, thật là cầu còn chưa được.” Toàn Quan Thanh cười ha hả nói: “Chắc ta lớn hơn mấy tuổi, thôi thì không khách sáo nữa, ta làm ca ca của hiền đệ vậy.”

***

Trong lúc Đinh Xuân Thu cùng Tô Tinh Hà đánh nhau đến trời sầu đất thảm, ánh mắt si tình của Đoàn Dự trước sau vẫn không rời khỏi Vương Ngữ Yên, còn ánh mắt ngưỡng mộ của Vương Ngữ Yên thì lại không rời biểu huynh Mộ Dung Phục chút nào. Vì thế hai luồng nhãn quang của chàng và nàng không hề gặp nhau.

Đến khi Đinh Xuân Thu thua trận chạy trốn, Hư Trúc bàn chuyện với môn hạ phái Tiêu Dao, bọn Mộ Dung Phục bỏ đi, Đoàn Dự không hiểu sao vẫn lẽo đẽo theo sau Vương Ngữ Yên.

Sau khi xuống núi, Mộ Dung Phục quay lại Đoàn Dự chắp tay nói: “Đoàn huynh! Hôm nay chúng ta may mắn gặp nhau, bây giờ xin tạm biệt, sau này còn có khi gặp lại.” Đoàn Dự đáp: “Vâng, vâng! Hôm nay chúng ta may mắn gặp nhau, bây giờ xin tạm biệt, sau này còn có khi gặp lại.” Mắt chàng vẫn chăm chăm ngắm nhìn Vương Ngữ Yên, Mộ Dung Phục lộ vẻ bất bình, hừ một tiếng rồi quay lưng bỏ đi ngay. Đoàn Dự vẫn luyến tiếc nhìn theo.

Bao Bất Đồng cũng chắp tay tiến đến chỗ Đoàn Dự, lên tiếng: “Đoàn công tử! Hôm nay công tử ra tay tương trợ Mộ Dung công tử nhà ta, Bao mỗ xin đa tạ.” Đoàn Dự đáp: “Không cần khách sáo.” Bao Bất Đồng lại nói: “Chuyện đó đã cảm ơn rồi là xong, bây giờ chúng ta không ai nợ ai nữa. Nhưng mắt của ngươi cứ trợn lên nhìn vào Vương cô nương, thật là vô lễ. Tới bây giờ vẫn còn ráng nhìn theo, lại càng vô lễ hơn. Ngươi đã là người đọc sách, có biết thế nào là Phi lễ vật thị, phi lễ vật hành (không đúng lễ không nhìn, không đúng lễ không làm) không? Lúc này Bao mỗ mất hết khí lực, trong đầu còn nhiều câu mắng người rất hay ho, nhưng không đủ sức nói ra.” Đoàn Dự thở dài một tiếng rồi đáp: “Đã vậy thì Bao huynh không đúng lễ không nói, còn ta không đúng lễ thì không theo, như thế là xong.” Bao Bất Đồng cười ha hả đáp: “Vậy thì hay lắm!”, rồi quay lưng, đi theo Mộ Dung Phục.

Đoàn Dự nhìn theo Vương Ngữ Yên đến khi nàng đi khuất vào rừng cây, rồi đứng đó ngơ ngẩn xuất thần. Chu Đan Thần tiến lại nói: “Công tử! Chúng ta đi thôi.” Đoàn Dự đáp: “Phải lắm, chúng ta đi thôi.” Nhưng nói thì nói vậy, chân vẫn không nhúc nhích, đến khi Chu Đan Thần giục đến lần thứ ba, chàng mới chậm chạp leo lên con ngựa do Cổ Đốc Thành mang tới, Đoàn Dự ngồi trên lưng ngựa rồi, ánh mắt vẫn dõi theo con đường Vương Ngữ Yên vừa ra đi.

Thì ra sau khi Đoàn Dự đưa thư cho Toàn Quan Thanh, chàng lập tức đi bái kiến Đoàn Chính Thuần. Phụ tử xa nhau lâu ngày, nay được trùng phùng mừng vui khôn xiết. Nguyễn Tinh Trúc đối với tiểu vương tử lại càng chiều chuộng lấy lòng. A Tử đã không từ biệt mà đi, nên huynh muội không được gặp nhau. Đoàn Chính Thuần và Nguyễn Tinh Trúc nghĩ rằng chuyện A Châu, A Tử nói ra thêm ngượng, nên cũng không kể cho chàng nghe.

Được mười mấy ngày, Thôi Bách Tuyền cùng Quá Ngạn Chi cũng đến gặp mặt. Hai người sư thúc sư điệt này đã mất liên lạc với Đoàn Dự từ Cầm Vận Tiểu Trúc ở Tô Châu, đi khắp nơi tìm kiếm cũng không thấy tung tích chàng đầu. Sau này họ về núi Phục Ngưu ở Hà Nam, nghe người trong bản môn cho biết Trấn Nam Vương nước Đại Lý cũng đến Hà Nam, liền đến bái kiến thì thấy Đoàn Dự bình yên vô sự, lúc đó mới yên lòng.

Đoàn Dự trải qua bao nhiêu nguy hiểm, hưởng thú đoàn tụ gia đình ở bên phụ thân thật là vui sướng, nhưng lòng nhớ nhung Vương Ngữ Yên mỗi ngày lại tăng lên. Sắp đến ngày kỳ hội, chàng liền xin phép phụ thân, dẫn theo bọn Cổ Đốc Thành đi dự. Quả nhiên hoàng thiên không phụ lòng người, chàng đã gặp mặt ý trung nhân, nhưng phen này gặp xong lại càng thêm sầu não. Gặp hay là không gặp thì tốt hơn, đến bây giờ chính chàng vẫn không hiểu được.

Đoàn người đi được hơn hai mươi dặm thì thấy trước mặt có một đám bụi lớn đang cuộn tới, rồi mười mấy con ngựa chạy đến. Đó chính là tam công Phạm Hoa, Hoa Hách Cấn, Ba Thiên Thạch nước Đại Lý cùng một số quân sĩ, chạy đến nơi liền xuống ngựa thi lễ với Đoàn Dự. Thì ra họ phụng mệnh Đoàn Chính Thuần đến đây tiếp ứng, e rằng trong kỳ hội này có  hung hiểm gì chăng. Mọi người nghe kể trong kỳ hội có cả Đoàn Diên Khánh đến dự thì lo ngay ngáy, thấy lão không động tới Đoàn Dự, đều cho là phen này may mắn vô cùng.

Chu Đan Thần khẽ kể cho bọn ba người Phạm Hoa biết chuyện Đoàn Dự trong kỳ hội đã gặp cô nương mỹ lệ của nhà Mộ Dung Cô Tô, ngắm nhìn cô ta không nháy mắt, ngẩn ngơ đi theo, cũng may mà bị người ta đuổi về. Bọn Phạm Hoa nhìn nhau cười thầm, trong lòng đều nghĩ: “Tiểu vương tử phong lưu thành tính, thật là gia học uyên nguyên. Nếu chàng nhờ chuyện này mà quên đi mối tương tư với cô em ruột Mộc Uyển Thanh thì thật đáng mừng vô cùng.”

Đến hoàng hôn, đoàn người ghé vào phạn điếm ăn cơm. Phạm Hoa đang kể về chuyến đi Giang Nam, bỗng dưng lại nói: “Công tử! Nhà Mộ Dung có nhiều chuyện kỳ bí, sau này nếu gặp họ thì phải để ý đề phòng.” Đoàn Dự hỏi lại: “Chuyện như thế nào?” Phạm Hoa kể: “Ba người bọn thuộc hạ vâng lệnh vương gia đi đến Yến Tử Ổ nhà Mộ Dung ở Tô Châu, xem có dấu tích gì về việc Huyền Bi đại sư của phái Thiếu Lâm bị họ sát hại không?” Thôi Bách Tuyền cùng Quá Ngạn Chi đều hết sức chú ý, vội hỏi: “Ba vị có hỏi ra được chuyện gì không?” Phạm Hoa đáp: “Ba người chúng ta không công khai cầu kiến, chỉ ngấm ngầm điều tra. Nhà Mộ Dung không có nam nữ chủ nhân ở nhà, chỉ có mấy tên tì bộc. Một tiểu cô nương tên là A Bích đảm đương hết công chuyện cả mấy tòa trang viện.” Đoàn Dự gật đầu nói: “Ô, A Bích cô nương là người tốt. Ba vị không đả thương cô ấy chứ?” Phạm Hoa mỉm cười nói: “Không đâu. Bọn thuộc hạ dò xét mấy đêm liền, lục hết trang viên nhà Mộ Dung từ trước ra sau cũng không thấy chút manh mối nào. Ba huynh đột nhiên nhớ đến chuyện tên Phiên tăng Cư Ma Trí bắt công tử từ Đại Lý đi Giang Nam, nói là đem tế điện trước mộ phần Mộ Dung tiên sinh…”

Thôi Bách Tuyền ngắt lời: “Chính thế. Cũng may mấy ả nha đầu trong nhà Mộ Dung nhất định không chịu đưa tên mọi trọc đầu đó đi tế mộ, nhờ vậy mà công tử mới thoát khỏi độc thủ.”

Đoàn Dự lại gật đầu nói: “Hai vị cô nương A Châu, A Bích đối với ta rất tốt. Không biết hiện nay họ ra sao?” Ba Thiên Thạch cười cười đáp: “Bọn thuộc hạ điều tra ba đêm đều có nhìn vào cửa sổ, chỉ thấy A Bích cô nương đang may một cái áo bào của nam nhân, luôn miệng than thở: Không hiểu công tử ở bên ngoài có lạnh không? Khi nào chàng mới về đây? Có phải nàng may cái áo đó cho công tử không?” Đoàn Dự vội nói: “Không phải đâu. Đó là nàng may áo cho Mộ Dung công tử.” Ba Thiên Thạch nói: “Phải đấy. Thuộc hạ xem chừng cô tiểu a đầu này thần hồn điên đảo về công tử của nàng. Ba người bọn thuộc hạ đi tới đi lui, cô ả cũng chẳng biết gì.” Gã nói vậy, hiển nhiên muốn nhắc nhở Đoàn Dự đừng học theo phụ thân mà đi đến đâu để nợ tình đến đó, trong lòng A Bích chỉ có Mộ Dung công tử chứ không hề có Đoàn công tử đâu.

Đoàn Dự thở dài một tiếng rồi đáp: “Mộ Dung công tử tuấn tú trên đời có một, khó mà trách được nàng. Huống hồ họ là biểu huynh biểu muội, lại có tình thanh mai trúc mã từ bé với nhau.” Phạm Hoa cùng Ba Thiên Thạch ngơ ngác nhìn nhau, cùng nghĩ: “Tiểu a đầu đó với công tử của thị mà có tình thanh mai trúc mã thì cũng hợp lý, nhưng sao lại là biểu huynh biểu muội được?” Thì ra Đoàn Dự bỗng dưng chuyển qua nói về Vương Ngữ Yên.

Thôi Bách Tuyền hỏi lại: “Phạm tư mã, Ba tư không! Hai vị nghĩ tên Phiên tăng đó đòi đi tế mộ Mộ Dung tiên sinh là có ý gì? Chuyện đó có liên quan gì đến cái chết của tệ sư huynh không?” Phạm Hoa đáp: “Đúng là tại hạ đang muốn nhờ mọi người bàn cho rõ chuyện này. Hoa huynh nghe tới chữ mộ là ngứa tay liền, liền đoán rằng trong mộ của lão này có điều cổ quái, cần phải đào vào thám thính. Tại hạ cùng Ba huynh không tán thành lắm, dòng họ Mộ Dung Cô Tô danh vang thiên hạ, Đoàn gia chúng ta mà đào mả của chúng thì thật là khó giải thích. Hoa huynh lại cho rằng lén lút đào, thần không hay, quỉ không biết thì không việc gì mà sợ. Bên tại hạ cãi không lại, đành phải nghe theo. Một phần đó an táng phía sau trang viện, ở chỗ vừa thanh tĩnh vừa bí hiểm, thật là khó tìm. Ba người bọn tại hạ đào vào trong mộ, cạy nắp quan tài ra. Thôi huynh biết có gì trong đó không?” Thôi Bách Tuyền cùng Quá Ngạn Chi cùng đứng bật dậy, hỏi dồn: “Có cái gì?” Phạm Hoa đáp: “Quan tài trống rỗng, không có xác chết.”

Hai người Thôi Quá cùng há hốc miệng ra không ngậm lại được. Qua một lúc lâu, Thôi Bách Tuyền mới vỗ đùi đánh bép rồi nói: “Cái lão Mộ Dung Bác này chưa chết đâu. Lão sai thằng con xuất hiện dương oai khắp nơi ở Trung Nguyên để bày nghi trận, còn mình thì lén lút ra ngoài ngàn dặm giết người. Sư huynh ta… sư huynh ta nhất định là bị lão ác tặc Mộ Dung Bác này sát hại.”

Phạm Hoa lắc đầu phản đối: “Thôi huynh nói vậy, có chỗ không hợp lý. Lão Mộ Dung Bác võ công cao thâm khôn lường, thiếu gì thủ đoạn giết người, hà tất phải dùng tới công phu Gậy ông đập lưng ông cho thiên hạ nghi ngờ nhà Mộ Dung Cô Tô? Còn nếu lão muốn nổi tiếng võ lâm thì phải giả chết làm gì?” Thôi Bách Tuyền lại ngồi xuống, vò đầu bứt tai mãi mà cũng chẳng nghĩ ra được cái gì.

Đoàn Dự nói: “Trong thiên hạ có cả ngàn cả vạn môn phái, muốn biết rành được hết thì khó như lên trời. Thế mà nàng hiểu rõ như trong lòng bàn tay, thật là…”

Thôi Bách Tuyền la lên: “Đúng rồi! Tuyệt chiêu Thiên Linh Thiên Liệt của sư huynh ta là độc môn bí truyền của phái Phục Ngưu, rất ít người biết, chắc là cô gái đó giết sư huynh ta chứ còn ai nữa?” Đoàn Dự lắc đầu cãi lại: “Sức nàng không trói nổi con gà, tuy là hiểu hết võ công các nhà các phái, nhưng cũng không thể ra tay giết người được.”

Mọi người ngồi nhìn nhau mãi, cũng chẳng ai đưa ra được ý kiến gì nữa.

***

Đinh Xuân Thu đánh mù mắt A Tử, không ngờ Du Thản Chi lại liều mạng cướp nàng chạy trốn. Lúc đó lão quái không khỏi phân tâm, kình lực ở ngón tay giảm sút, Mộ Dung Phục bèn nhân cơ hội xuất tuyệt chiêu Đẩu Chuyển Tinh Di. Nghe một tiếng “phập”, năm ngón tay của Đinh Xuân Thu bỗng chuyển qua nắm cổ tay một tên đệ tử. Mộ Dung Phục đánh bừa một quyền rồi phóng vọt đi, cười ha hả hô lớn: “Thôi thôi, ta đi trước đây. Tinh Tủ Lão Quái! Sau này còn có dịp gặp nhau.” Y vừa hô vừa vận khinh công chạy thẳng, không quay lại nhìn cái nào nữa.

Chuyến này Mộ Dung Phục coi như toàn thắng. Một mình y đả thương hơn hai chục tên đệ tử phái Tinh Tú, chọc Đinh Xuân Thu tức điên lên, lại còn thoát thân không mất một sợi tóc, thật là may mắn vô cùng. Trên đường chạy về, y nhớ lại trận chiến vừa qua mà bủn rủn cả người, Mộ Dung Phục cùng với Vương Ngữ Yên và bọn Đặng Bách Xuyên tìm một khách điếm ở lì bên trong để bọn Đặng Bách Xuyên dưỡng thương:

Được mấy ngày thì Bao Bất Đồng, Phong Ba Ác hồi phục trước, rồi dần dần Đặng Bách Xuyên cùng Công Dã Càn cũng khỏe mạnh trở lại. Sáu người bàn đến chuyện A Châu hiện không biết ở đâu, bèn quyết định đi Lạc Dương thám thính tin tức của nàng.

Đến Lạc Dương không tìm được gì, họ lại sang phía tây để điều tra. Một hôm, sáu người đi gấp nên lỡ độ đường, đến tối mịt vẫn còn trong vùng núi, chung quanh không một bóng người. Phong Ba Ác lên tiếng: “Hình như bọn mình đi lạc rồi, nãy giờ cứ quanh qua quẹo lại chẳng có vẻ gì là đúng đường cả.” Đặng Bách Xuyên đáp: “Thôi thì chúng ta tìm một hang động hay miếu hoang gì đó để trú tạm vậy.”

Phong Ba Ác rảo bước đi lên trước tìm chỗ nghỉ chân, nhưng thấy đường càng lúc càng khó đi, chung quanh toàn là đá tảng ngổn ngang. Gã thì nằm đâu cũng ngáy o o được, nhưng tìm chỗ cho Vương Ngữ Yên thì thật là khó khăn. Lúc đi vòng qua một sườn núi, bỗng thấy phía hữu có ánh đèn le lói, Phong Ba Ác mừng quá quay lại gọi to: “Bên này có nhà!”

Bọn Mộ Dung Phục nghe tiếng chạy đến, Công Dã Càn hoan hỉ nói: “Chắc đây chỉ là lều của thợ săn, nhưng cũng đủ chỗ cho Vương cô nương nghỉ một đêm.” Sáu người hướng về phía có ánh đèn mà đi khá lâu, vẫn chỉ thấy ánh đèn le lói chứ không thấy nhà đâu. Phong Ba Ác lẩm bẩm thóa mạ: “Con mẹ nó! Cái đèn kia coi bộ tà môn.” Đột nhiên Đặng Bách Xuyên khẽ gọi: “Dừng lại đã! Công tử nhìn xem, ảnh lửa kia kỳ quá!” Mộ Dung Phục ngưng thần nhìn kỹ, quả nhiên ngọn đèn đó phát ra ánh sáng xanh biếc khác thường. Cả bọn đều gia tăng cước lực đi về phía ngọn đèn, một lúc nữa thì trông đã rõ. Bao Bất Đồng kêu lên: “Thì ra bọn tà ma ngoại đạo tụ tập ở đây!”

Kể ra thì năm người này võ công cơ trí tuyệt cao, gặp phải bang phái nào trên giang hồ cũng không sợ hại gì. Nhưng họ nghĩ hôm nay cùng đi với Vương Ngữ Yên nên đừng dây dưa gây sự là hơn. Bao Bất Đồng cùng Phong Ba Ác lâu rồi không động thủ với ai, tuy ngứa chân ngứa tay nhưng cũng tự kiềm chế. Phong Ba Ác nói: “Đi suốt ngày mệt quá. Chỗ này xem chừng không tốt, bọn ta quay lại là hơn.” Mộ Dung Phục mỉm cười nghĩ thầm: “Phong tứ ca đổi tính, thật là hay quá!” Y liền nói: “Biểu muội! Chỗ đó không yên tĩnh đâu, chúng ta quay lại thôi.” Vương Ngữ Yên chẳng hiểu gì hết, nhưng cũng vui vẻ nghe theo lời biểu huynh.

Sáu người bèn quay trở lại, mới được mấy bước, đã nghe tiếng người văng vẳng: “Các ngươi đã biết đây là chỗ ngoại đạo tà ma tụ hội, đã thành yêu ma quỷ quái chưa, sao không vào đây hội họp cho vui?” Thanh âm này chợt cao chợt thấp, lúc liền lúc đứt rất khó chịu, nhưng mọi người đều nghe rõ.

Mộ Dung Phục bất giác kêu lên một tiếng, biết rằng lời của Bao Bất Đồng vừa nói đã lọt vào tai chúng. Nghe thanh âm cũng biết người vừa nói có nội lực thâm hậu, nhưng chưa hẳn là cao thủ bậc nhất. Mộ Dung Phục phất tay áo một cái nói: “Chúng ta không rảnh mà dính vào. Họ nói gì cũng mặc kệ, ta đi thôi!”

Thanh âm vừa rồi lại vang lên: “Tiểu súc sinh! Miệng thì nói giọng ngông cuồng, bây giờ lại cúp đuôi chạy trốn. Bọn mi muốn trốn thì phải quỳ xuống lạy lão tổ tôn ba trăm lạy trước đã.”

Phong Ba Ác không nhịn được nữa, dừng bước lại hạ giọng nói: “Công tử! Bọn này khinh mình quá lắm.” Mộ Dung Phục lắc đầu nói: “Họ chưa biết mình là ai đâu, cứ mặc kệ.” Phong Ba Ác đành đáp: “Vâng.”

Sáu người đi được hơn chục bước nữa thì thanh âm kia lại nói: “Bọn đàn ông đã muốn trốn thì lão tổ tôn tha cho, nhưng phải để con điếm non kia lại cho lão tổ tôn tiêu khiển!”

Năm người thấy đối phương dám xúc phạm Vương Ngữ Yên thì giận tái mặt, dừng bước rồi quay lại. Thanh âm kia lại nói: “Thế nào? Các ngươi ngoan ngoãn để con nhỏ đó lại thì lão tổ tôn…”

Y vừa nói đến chữ “tôn” thì Đặng Bách Xuyên đã đề khí từ đan điền quát lên: “Tôn… ôn… ôn” hòa vào chữ “tôn” của đối phương vang rền cả hang núi. Tai mọi người ù cả lên, nhưng cũng nghe thấy một tiếng rú thê thảm ở chỗ ngọn đèn xanh vọng ra. Giữa đêm khuya, tiếng rú này lẫn trong dư âm tiếng quát của Đặng Bách Xuyên nghe thật là dễ sợ.

Vừa rồi Đặng Bách Xuyên vận nội lực tuyệt cao quát lên làm chấn động đối phương, cứ nghe tiếng rú  thì biết gã bị thương khá nặng, không chừng mất mạng cũng nên. Tiếng rú chưa dứt, bỗng nghe “vèo” một tiếng, một mũi tên bắn lên không rồi nổ ra, ánh lửa xanh là chiếu sáng đến nửa vòm trời.

Phong Ba Ác nói: “Một vừa hai phải thôi, muốn nhịn cũng không được. Chúng ta quét sạch sào huyệt bọn yêu quái này rồi nói chuyện sau.” Mộ Dung Phục gật gật đầu nói: “Chúng ta tưởng là nhường họ một chút cho yên, bây giờ đã làm thì phải làm đến nơi đến chốn.” Sáu người chạy thẳng đến chỗ có ánh lửa xanh.

Mộ Dung Phục sợ Vương Ngữ Yên kinh hãi quá, bèn chậm bước lại đi song song với nàng. Bỗng nghe tiếng la ó om sòm, Phong Ba Ác cùng Bao Bất Đồng đã cùng người động thủ. Dưới ánh sáng lờ mờ thấy ba bóng đen vụt tới, phóng ra ba chưởng đập vào vách núi nghe ầm ầm, rõ ràng không trúng hai gã Bao, Phong.

Lúc Mộ Dung Phục tới chỗ ngọn đèn, đã thấy Đặng Bách Xuyên cùng Công Dã Càn đứng trên một cái đỉnh đồng xanh rất lớn, vẻ mặt cực kỳ nghiệm trọng. Từ đỉnh đồng có một luồng khói bốc thắng lên không, nhỏ như sợi dây mà nhanh như tên bắn. Vương Ngữ Yên nói: “Đây là phái Tang Thổ Công, động Bích Lân ở Xuyên Tây.” Đặng Bách Xuyên gật đầu nói: “Cô nương quả nhiên biết nhiều hiểu rộng.” Bao Bất Đồng quay người lại cãi: “Sao đại ca biết? Kiểu đốt khói này là cách báo tin đã có cả ngàn năm, chưa chắc đã là phái Tang Thổ Công động Bích Lân ở Xuyên Tây…” Gã chưa nói xong, Công Dã Càn đã trỏ vào một cái chân đỉnh đồng, có ý bảo gã tự xem lấy.

Bao Bất Đồng cúi xuống thắp lửa lên nhìn kỹ thì thấy chân đỉnh có chữ “Tang”, nét khắc ngoằn ngoèo như hình mấy con rắn nhỏ xếp thành, đồng đã teng xanh lại, đúng là một cái đỉnh rất cổ. Gã biết Vương Ngữ Yên nói đúng rồi, nhưng vẫn cãi bướng chơi: “Giả tỉ đây là đỉnh đồng của phái Tang Thổ Công ở Xuyên Tây thật đi nữa, thì cũng có thể là chúng mượn về đây. Huống chi mười chiếc đỉnh cổ thì có đến chín chiếc là giả.”

Mộ Dung Phục tự hỏi: “Nơi đây cách Xuyên Tây rất xa, chẳng lẽ địa giới phái Tang Thổ Công rộng lớn đến thế?” Gã có nghe nói phải Tang Thổ Công động Bích Lân ở Xuyên Tây là một giống rợ Miêu, chuyên về ám khí độc, hành vi khác hẳn với nhân sĩ võ lâm ở Trung Nguyên. Cũng may là bọn họ không tranh chấp với ai, miễn là đừng ai xâm nhập địa giới núi Dao Sơn đất Xuyên Tây của họ thì thôi. Mộ Dung Phục, Đặng Bách Xuyên dĩ nhiên chẳng sợ phái Tang Thổ Công, nhưng họ nghĩ rằng mình vốn không thù không oán thì tránh đi là hơn, thắng bọn tà môn ngoại đạo cũng chẳng vẻ vang gì, mà dây dưa đến họ lại thêm phiền phức.

Mộ Dung Phục trầm ngâm một lát rồi quyết định: “Chỗ này lắm chuyện thị phi, ta mau mau rời đi là hơn.” Y nhìn thấy một lão già còn thoi thóp thở nằm bên đỉnh đồng, mình mặc áo ngắn, lưng thắt dây cỏ, mắt mở trừng trừng nhìn mọi người, dĩ nhiên là người vừa hỗn láo lúc nãy. Mộ Dung Phục nhìn Bao Bất Đồng gật gật đầu, rồi liếc lão già đó một cái. Bao Bất Đồng hiểu ý, bẻ lấy cành trúc có buộc chiếc đèn sáng xanh, đập cả trúc lẫn đèn vào ngực lão già đánh chát một tiếng, ngọn đèn xanh liền tắt phụt. Vương Ngữ Yên kinh ngạc la lên một tiếng. Công Dã Càn nói: “Lượng nhỏ không phải quân tử, ít độc bất thành trượng phu! Phải giết người bịt miệng để khỏi lo về sau.” Y nói xong liền phóng chân ra đá đổ cái đỉnh đồng. Mộ Dung Phục kéo tay Vương Ngữ Yên chạy về phía bên trái.

Mới chạy được hơn mười trượng thì trong bóng tối bỗng nghe tiếng binh khí rít lên vù vù, một đao một kiếm từ trong bụi cỏ vung ra. Mộ Dung Phục phất tay áo một cái, mượn sức đánh sức, đao bên trái chém vào đầu người bên phải, còn kiếm bên phải đâm trúng ngực người bên trái. Chỉ chớp mắt là Mộ Dung Phục đã hạ xong hai tên đánh lén, chân vẫn bước đi. Công Dã Càn tán dương: “Công tử! Hảo công phu!”

Mộ Dung Phục chỉ mỉm cười, vượt lên phía trước phóng chưởng đánh ra trúng một địch nhân đang xông tới, gã này lăn xuống sườn núi. Tay trái Mộ Dung Phục lại phóng ra một chưởng, một tên khác đưa song chưởng lên đỡ, bỗng la lên một tiếng “úi chao” rồi phun máu tươi ra. Đột nhiên có mùi tanh hôi theo chiều gió bay đến, Mộ Dung Phục vội phóng chưởng đánh bật thứ ám khí quái lạ đó ra. Lại nghe một tiếng rú, rõ ràng địch thủ đã trúng phải ám khí kịch độc của chính mình.

Trong đêm tối đen, mọi người bị vây hãm mà không biết địch nhân nhiều hay ít. Mộ Dung Phục thuận tay giết đến người thứ sáu, ngấm ngầm kinh hãi nghĩ bụng: “Ba người đầu thuộc phái Tang Thổ Công ở Xuyên Tây, còn võ công ba người sau rõ ràng thuộc ba phái khác nhau. Kẻ thù càng lúc càng nhiều, thật là bất lợi.”

Đặng Bách Xuyên hô lên: “Chúng ta cùng nhau đi về hướng Thính Hương Thủy Tạ.” Thính Hương Thủy Tạ là một cái trại ở hướng Tây trong Yến Tử Ổ của nhà Mộ Dung, trước kia A Châu ở đó. Đặng Bách Xuyên muốn gọi mọi người chạy qua hướng Tây, nhưng không muốn địch nhân biết mà ngăn trở.

Mộ Dung Phục nghe là hiểu ngay, nhưng lúc đó trời không trăng không sao, khó mà phân biệt phương hướng, không hiểu hướng Tây ở chỗ nào. Y ngưng thần một chút, nghe thấy ở bên phải có tiếng hai phát chưởng của Đặng Bách Xuyên, liền kéo Vương Ngữ Yên lùi lại ba bước để đi gần lại Đặng Bách Xuyên. Hai tiếng véo véo lại vang lên, Đặng Bách Xuyên lại đánh ra hai chưởng, cứ nghe cũng biết địch nhân không phải tay vừa. Đặng Bách Xuyên ngưng tụ chân khí quát lên một tiếng, Mộ Dung Phục biết ngay là y ra chiêu Thạch Phá Thiên Kinh, chắc đối phương khó lòng tránh nổi. Quả nhiên người kia rú lên một tiếng kinh hồn, tiếng rú dần dần xuống thấp tựa như người đang rơi xuống, rồi lại nghe một tảng đá lớn lăn xuống đè cành cây gãy răng rắc, Mộ Dung Phục cả kinh nghĩ thầm: “Người này sẩy chân rơi xuống vực sâu rồi! Nãy giờ ta có thấy hang động gì đâu, may mà Đặng Bách Xuyên đánh một người rơi xuống, không thì trong lúc tối đen thế này bọn mình rất dễ quờ quạng mà rớt xuống vực.”

Lúc đó phía bên trái có tiếng người hỏi: “Cao nhân phương nào đến phá quấy Vạn Tiên đại hội? Không xem ba mươi sáu động chúa và bảy mươi hai đảo chúa ra gì ư?”

Bọn Mộ Dung Phục đều la lên kinh ngạc. Họ đã nghe tiếng ba mươi sáu động chúa và bảy mươi hai đảo chúa, nhưng đã là động chúa, đảo chúa thì không thuộc môn phái nào mà cũng không đi hội họp với ai bao giờ. Bọn người này võ công có kẻ hơn người kém, nhân phẩm cũng có kẻ lành người dữ, giao kết không thân thiện được nên đi đâu hay hành động gì cũng chỉ có một mình. Nhân sĩ giang hồ trước nay chẳng trọng vọng gì bọn này, chỉ biết họ ở tản mác ngoài đảo ở Đông Hải, Hoàng Hải, hoặc trong dãy Côn Luân. Lâu nay họ vẫn mai danh ẩn tích nên chẳng ai để ý đến làm gì, ngờ đâu hôm nay họ tụ tập tại đây.

Mộ Dung Phục dõng dạc lên tiếng: “Bọn tại hạ sáu người, không biết các vị tụ hội nên đi lạc vào đây. Trong đêm tối đã có hiểu lầm, mạo phạm quá nhiều, mong các vị miễn thứ mà cho bọn tại hạ lên đường.” Y nói mấy câu thật là vừa phải, không gây sự, cũng không hạ mình, lại không để lộ tông tích. Đối với việc đã ngộ sát mấy người của đối phương, y đành phải xin lỗi mấy câu.

Đột nhiên bốn mặt nổi lên những chuỗi cười ha hả, khanh khách, hô hố… Tiếng cười mỗi lúc một nhiều, thoạt đầu chỉ độ mười mấy người, rồi sau nổi lên liên tiếp khắp bốn mặt tám phương, chắc phải đến năm sáu trăm người, từ ở ngay bên cạnh đến xa ngoài mấy dặm.

Mộ Dung Phục thấy thanh thế đối phương rất lớn, lại nghe bốn chữ Vạn Tiên đại hội thì nghĩ thầm: “Xem chừng đêm nay phải có đánh nhau. Mình bước nhầm vào chỗ tụ họp của bọn bàng môn tả đạo thật là rầy rà. May mà ta chưa để lộ tên tuổi, bỏ đi là hay hơn để bớt chuyện lôi thôi. Huống chi mình ít họ nhiều, sáu người làm sao địch nổi mấy trăm người.”

Giữa lúc tiếng cười còn đang râm ran, bỗng nghe trên sườn núi cao có tiếng nói: “Ngươi ăn nói hồ đồ, việc đã đến thế này mà đám hờ hững coi chẳng vào đâu. Bọn ngươi sáu người đã ra tay đánh chết mấy vị bằng hữu của chúng ta. Nếu quần tiên trong Vạn Tiên đại hội này mà tha cho bọn ngươi đi thì ba mươi sáu động cùng bảy mươi hai đảo còn mặt mũi nào trên giang hồ nữa?”.

Mộ Dung Phục trấn tĩnh lại, nhìn quanh thì thấy bóng người trùng trùng điệp điệp khắp bốn hướng tiền hậu tả hữu, trên đỉnh núi, dưới thung lũng, chỗ nào cũng thấy. Người thì tay áo rộng thùng thình, người thì mặc áo chẽn, có ông già râu dài phất phơ, lại có cô gái búi tóc ngược lên đỉnh đầu, chẳng biết họ ở đâu mà chui ra lắm thế. Bốn người Đặng Bách Xuyên, Công Dã Càn, Phong Ba Ác, Bao Bất Đồng đứng vây quanh Mộ Dung Phục cùng Vương Ngữ Yên để hộ vệ, nhưng so với mấy trăm người vây quanh thì chẳng khác gì một con thuyền nhỏ giữa biển cả.

Mộ Dung Phục cùng bọn Đặng Bách Xuyên tuy đã từng trải vô số nguy hiểm mà lúc này cũng không khỏi kinh sợ, nghĩ thầm: “Giả tỉ bọn người cổ quái này chỉ có mươi tên thì không đáng sợ, nhưng đông đến mấy trăm thì thật khó đối phó.”

Mộ Dung Phục đề tụ chân khí vào đan điền lớn tiếng nói: “Người ta thường nói: Không biết là không có tội. Tại hạ từng nghe đại danh ba mươi sáu động chúa và bảy mươi hai đảo chúa, nhất định không dám cố ý phạm lỗi. Tang Thổ Công động Bích Lân ở Xuyên Tây, Huỳnh Long tử động Câu Long bên Tây Tạng, Chương Chu Phu tiên sinh đảo chúa đảo Huyền Minh ở Bắc Hải, chắc mấy vị tiền bối này cũng có mặt tại đây. Tại hạ vô tình phạm tội, xin các vị miễn thứ cho.”

Bỗng nghe một tràng cười ha hả, rồi có tiếng người nói: “Ngươi tưởng nhắc đến danh hiệu chúng ta là được thả ra một cách dễ dàng chăng? Ha ha!…”

Mộ Dung Phục bắt đầu khó chịu, liền nói: “Tại hạ thấy các vị là bậc trưởng bối nên phải tiên lễ hậu binh nói năng lịch sự mà thôi. Mộ Dung Phục này há sợ gì ai?”

Rất nhiều người vừa nghe thấy ba chữ “Mộ Dung Phục” liền la lên “Ái chà!”. Thanh âm khô khan lại hỏi: “Phải chăng ngươi là Cô Tô Mộ Dung chuyên môn chơi trò Gậy ông đập lưng ông?” Mộ Dung Phục đáp: “Không dám! Chính là tại hạ.” Người kia nói: “Cô Tô Mộ Dung thì không thể chỉ thấy lờ mờ. Thắp đèn lên, để mọi người được nhìn rõ mặt y.”

Gã vừa nói xong, một ngọn đèn vàng thắp lên ở hướng Đông Nam, tiếp theo hướng Tây và Tây Bắc kéo đèn đỏ. Chỉ trong chớp mắt, bốn phương tám hướng đều sáng bừng lên, chỗ thì đèn lồng hay đuốc, chỗ lại đốt củi khô, nhựa thông. Mỗi động, mỗi đảo đều dùng đèn lửa khác nhau, có nơi còn hủ lậu thô sơ, có nơi đã rất tinh vi. Ánh lửa soi rõ mặt mọi người, thật là muôn hình muôn vẻ.

Bọn này có nam, có nữ, có đẹp, có xấu, có tăng nhân, có đạo sĩ, có người tay áo phất phơ, có người áo chẽn sát mình. Có những ông già râu dài quá rốn, lại có những cô gái búi tóc cao, phục sức đều rất kỳ lạ, không giống người ở Trung Thổ chút nào. Quá nửa bọn này đều tay cầm binh khí, mà nhiều thứ binh khí hình thù quái dị không biết gọi tên là gì. Mộ Dung Phục quay qua quay lại vái chào cả bốn phía, dõng dạc lên tiếng: “Tại hạ là Mộ Dung Phục ở Cô Tô, kính cẩn thi lễ cùng các vị”. Bốn bề đều có tiếng đáp lễ, nhưng cũng có nhiều người không thèm lý gì tới y.

Ở hướng tây có người nói: “Nhà Mộ Dung Cô Tô muốn diễu võ dương oai ở Trung Nguyên thì còn được, nhưng vào Vạn Tiên đại hội mà càn rỡ không coi chúng ta vào đâu, thì quả là lớn mật! Ngươi chuyên nghề Gậy ông đập lưng ông, vậy ta hỏi: Ngươi lấy gì mà đập vào lưng ta?”

Mộ Dung Phục nhìn về phía tiếng nói, thì thấy một lão già đầu trọc lóc, không tóc cũng không râu, mặt đỏ như máu, ngồi xếp bằng trên một tảng đá lớn. Nhìn xa xa, đầu lão vừa to vừa tròn, y như một quả huyết cầu, Mộ Dung Phục ôm quyền thi lễ nói: “Không rõ tôn tính đại danh các hạ là gì?”

Người kia ôm bụng cười nói: “Lão phu chỉ muốn coi thử chân tài thực học của nhà Mộ Dung ở Cô Tô, thì ra cũng chỉ có hư danh. Ta vừa hỏi ngươi làm cách nào dùng gậy ta đập vào lưng ta, ngươi đã hỏi lại ta rồi. Thôi thôi! Người khác thì ta không biết, còn ta chẳng muốn làm khó dễ gì ngươi nữa, muốn đi đâu thì đi!”

Mộ Dung Phục xem chừng cục diện hôm nay không thể nói cho xuôi được, tất phải động quyền động cước. Y liền nói: “Đã vậy thì tại hạ xin lãnh giáo mấy chiêu, mời tiền bối ra tay trước!”

Lão kia lại ôm bụng cười ha hả đáp: “Ta muốn khảo nghiệm ngươi chứ không phải muốn ngươi khảo nghiệm ta. Nếu ngươi không giữ được năm chữ Gậy ông đập lưng ông, thì cứ đi đi!”

Mộ Dung Phục nhíu mày nghĩ thầm: “Lão cứ ngồi không nhúc nhích, mình chẳng hiểu môn phái lại không biết họ tên lão, thì làm sao biết được lão sở trường môn gì, làm sao đập vào lưng lão được?”.

Y còn đang ngẫm nghĩ thì lão già kia cười khẩy nói: “Bọn ta ở tản mát ba mươi sáu động, bảy mươi hai đảo khắp chân trời góc bể, ít hiểu việc ở Trung Nguyên, bây giờ mới biết trong đám đui mù kẻ chột làm vua. Một thằng lỏi miệng còn hôi sữa như ngươi đã dám tự xưng Nam Mộ Dung, Bắc Kiều Phong gì gì thật là nghe muốn điếc cả lỗ tai! Ha ha! Thật là tức cười, thật là hèn mạt! Này này ta bảo, bữa nay mi muốn thoát thân cũng chẳng khó đâu. Tất cả có ba mươi sáu động chúa và bảy mươi hai đảo chúa, ngươi phải dập, đầu lạy mỗi vị mười lạy, tổng cộng một ngàn lẻ tám chục cái lạy, là bọn ta tha cho đi ngay.”

Bao Bất Đồng ráng nhịn đã lâu, bây giờ tức đến cành hông, dõng dạc lên tiếng: “Ngươi muốn công tử ta đem tuyệt kỹ của ngươi đập vào lưng ngươi, rồi lại bảo dập đầu lạy, thì ra nghề ruột của ngươi là dập đầu lạy người. Tuyệt kỹ đó thì công tử ta học không vào. Ha ha! Thật là tức cười, thật là hèn mạt!” Gã ngưng một chút rồi quay về phía lão đầu to, lặp lại câu của lão mười lần.

Lão kia quát lên một tiếng, khạc ra một cục đờm rồi phun vào mặt Bao Bất Đồng. Bao Bất Đồng nghiêng người tránh, bất ngờ cục đờm đang lơ lửng bỗng chuyển hướng bay vòng sang trái, bắn ngay trán Bao Bất Đồng đánh “tách” một tiếng. Cục đờm đó kình lực rất mạnh, lại bắn trúng huyệt Dương Bạch trên mí mắt khiến Bao Bất Đồng đau điếng, lảo đảo suýt ngất đi. Mộ Dung Phục cả kinh nghĩ thầm: “Kình lực trong cục đờm thì chẳng đáng gì, chỉ lạ ở chỗ cục đờm của lão lại chuyển hướng giữa chừng được.”

Lão đầu to cười ha hả nói: “Mộ Dung Phục! Không cần ngươi biểu diễn, chỉ cần ngươi nói rõ được lai lịch cục đờm đó là lão phu phục lắm rồi.”

Mộ Dung Phục nghe lão hỏi về lai lịch cục đờm, nghĩ mãi chẳng được gì, không biết nói sao. Đột nhiên thanh âm trong trẻo của Vương Ngữ Yên cất lên: “Đoan Mộc đảo chúa! Các hạ luyện thành Ngũ Đẩu Mễ Thần Công chắc không phải dễ dàng, đã phải tàn sát bao nhiêu sinh mạng rồi? Công tử của ta có nhã ý tránh cho các hạ khỏi bị đồng đạo thù ghét mà không muốn nói huỵch toẹt ra, lẽ nào lại dùng công phu đó để đối phó với các hạ?”

Mộ Dung Phục vừa kinh ngạc vừa mừng thầm, mấy chữ Ngũ Đẩu Mễ Thần Công quả là mình chưa từng nghe nói đến mà biểu muội lại biết, nhưng chưa hiểu nàng nói có đúng hay không.

Lão già đầu to giật mình, chỉ trong nháy mắt là khuôn mặt đỏ như máu biến thành trắng bệch không chút huyết sắc. Lão nói: “Con lỏi kia chỉ ăn nói hồ đồ, không hiểu biết chi hết. Ngũ Đẩu Mễ Thần Công là môn hại nhân lợi kỷ, nham hiểm độc ác vô cùng, ta luyện làm chi? Nhưng mi đã gọi đúng được họ của ta thì cũng không phải hạng tầm thường.”

Vương Ngữ Yên nghe vậy biết là mình đoán trúng rồi, nhưng lão không chịu thừa nhận môn võ vì sợ người ta khinh bỉ thôi. Nàng bèn nói: “Đoan Mộc động chúa ở động Xích Diệm trên núi Ngũ Chỉ tại đảo Hải Nam, trên giang hồ còn ai không biết, tiểu nữ đoán được có chi là lạ? Tuyệt kỹ vừa rồi của Đoan Mộc động chúa đã không phải là Ngũ Đẩu Mễ Thần Công, thì hẳn là một môn thần diệu do động chúa chế biến từ Địa Hỏa Công ra!”

Địa Hỏa Công vốn là tuyệt nghệ của Xích Diệm Động, các động chúa của động này đều ở họ Đoan Mộc, lão đầu to này tên gọi Đoan Mộc Nguyên. Lão nghe Vương Ngữ Yên nói rõ lai lịch mình, đã đem lòng khâm phục, lại thấy nàng giấu cho mình cái môn Ngũ Đẩu Mễ Thần Công chẳng tốt đẹp gì, đâm ra có cảm tình với nàng. Huống chi động Xích Diệm vốn chẳng có tiếng tăm gì, cái môn phái nhỏ bé của lão cũng chẳng mấy ai biết, thế mà nàng lại nói là “trên giang hồ còn ai không biết” khiến cho lão càng hoàn hỉ. Lão cười nói: “Phải rồi! Phải rồi! Đó chỉ là Địa Hỏa Công biến hóa đi một chút, chẳng có chi đáng kể. Lão phu nói trước rồi, ngươi đã gọi ra đúng môn phái thì lão phu không làm khó dễ nữa đâu.”

Đột nhiên ở tảng đá đối diện có tiếng khóc thút thít rất nhỏ, nghẹn ngào như có như không. Người đó vừa khóc vừa nói: “Đoan Mộc Nguyên! Lang quân ta cùng mấy vị huynh đệ có phải đều chết về tay ngươi không? Ngươi luyện cái môn Ngũ Đẩu Mễ Thần Công trời đánh ấy để sát hại bọn họ chứ gì?” Người đó nấp sau tảng đá không trông rõ tướng mạo, chỉ thoáng thấy mụ mặc áo đen, người cao, tay áo rộng thùng thình.

Đoan Mộc Nguyên cười ha hả đáp: “Nương tử là ai thế? Lão phu chẳng biết cái môn Ngũ Đẩu Mễ Thân Công đó là cái gì. Nương tử đừng nghe tiểu cô nương kia nói lung tung!”

Người đàn bà quay sang Vương Ngữ Yên vẫy tay gọi: “Tiểu cô nương qua đây chơi, ta muốn hỏi cô một điều.” Tay mụ cầm một cái cần trúc dài ba thước, ở đầu cần có gắn thiết trảo. Mụ vừa vẫy tay, cái bàn tay sắt đó đã móc đúng vào thắt lưng Vương Ngữ Yên, kéo người nàng bước tới một bước. Nàng cố gượng đứng vững, nhưng mụ kia lại vẫy tay nữa.

Vương Ngữ Yên lại bị kéo tới hai bước, sợ quá la lên một tiếng. Mộ Dung Phục liền phất tay áo một cái, thi triển công phu Đẩu Chuyển Tinh Di, khiến cho kình lực đang kéo Vương Ngữ Yên xoay lại kéo mụ kia.

Mụ kia “A” lên một tiếng, chân đứng không vững, loạng choạng rồi bước ra ngoài khe đá, đến trước mặt Mộ Dung Phục chừng hơn một trượng thì kình lực mới tiêu tan, không bị kéo tới nữa. Mụ cả kinh thất sắc, sợ Mộ Dung Phục xuất thủ hại mình liền buông cần trúc, ráng sức nhảy ngược lại phía sau một trượng.

Vương Ngữ Yên gỡ thiết trảo dính trong thắt lưng của mình ra, đưa cái cần cho Mộ Dung Phục. Y bèn phất tay trái, cái cần trúc từ từ bay về phía mụ. Mụ đưa tay định đón lấy, nhưng cái cần lại đột ngột rơi xuống, cắm trên mặt đất cách mụ ba thước.

Vương Ngữ Yên nói: “Thì ra là Lê phu nhân tại đảo Na Hoa biển Nam Hải. Thái Yến Công của phu nhân thật là tuyệt diệu, tiểu nữ khâm phục vô cùng!” Thiếu phụ kia biến sắc hỏi lại: “Tiểu cô nương! Sao cô nương… lại biết họ của ta? lại biết cả Thái Yến Công của ta?” Vương Ngữ Yên đáp: “Phu nhân vừa thi triển công phu thần diệu bắt vật ở trên không, chính là Thái Yến Công lừng danh thiên hạ của đảo Na Hoa chứ còn gì nữa.” Nguyên đảo Na Hoa ở miền Nam Hải, trên đảo này có nhiều chim én làm tổ ở những hốc núi đá vừa cao vừa hiểm hóc, việc lấy tổ yến không phải dễ dàng. Nhà họ Lê ở đảo này đã mấy trăm năm, do công việc dùng cần trúc gắn móc để gỡ yến sào mà luyện thành tuyệt kỹ Thái Yến Công độc đáo của riêng mình. Tuyệt kỹ này chính là một môn chuyên bắt lấy vật trên không, về khinh công, bộ pháp cũng có chỗ đặc biệt. Vương Ngữ Yên vừa thấy thân pháp Lê phu nhân nhảy ngược ra sau rất giống như cánh én bị gió biển thổi bạt đi, nên nàng không nghi ngờ gì nữa, nói rõ ra.

Lê phu nhân thấy Mộ Dung Phục phất tay áo một cái đã lôi được mình đi thì đã kinh hãi trong lòng, bây giờ lại nghe Vương Ngữ Yên gọi ra lai lịch võ công nhà mình, bèn cho là đối phương đã biết hết sở trường của mụ. Mụ không dám ngang ngược nữa, quay lại nói với Đoan Mộc Nguyên: “Đoan Mộc lão nhi! Hảo hán thì phải dám làm dám chịu. Lang quân ta cùng mấy vị huynh đệ phải chăng đã bị hại về tay ngươi?”

Đoan Mộc Nguyên cười ha hả đáp: “Lê phu nhân là đảo chủ đảo Na Hoa ở Nam Hải, vậy cũng là hàng xóm mà lão phu không biết, thật là thất kính. Lão phu chưa gặp trượng phu của phu nhân lần nào, đừng nói đến chuyện gia hại!”

Lê phu nhân có vẻ không tin, nói: “Sau này sẽ biết rõ, chỉ mong ngươi không phải là hung thủ.” Mụ nói xong, lại ẩn vào trong khe đá.

Lê phu nhân vừa rút lui, đột nhiên từ trên ngọn cây tùng có một vật nặng rớt xuống, đụng vào một tảng đá đánh choang một tiếng. Vật đó là một chiếc đỉnh đồng rất lớn đã teng xanh lại. Mộ Dung Phục ngẩng đầu nhìn lên ngọn cây tùng để xem ai nấp trên đó, tự hỏi: “Không biết ai đã mang một vật nặng đến mấy trăm cân lên ngọn cây, rồi lại thả xuống làm gì? Cái đỉnh này trông giống như cái đỉnh đồng của động Bích Lân mà Công Dã Càn vừa đá lăn ra lúc này, nhưng lớn hơn nhiều. Chẳng lẽ Tang Thổ Công lại nấp trên ngọn cây? Gã quan sát ngọn cây thật kỹ, nhưng chẳng thấy ai.

Bỗng nghe mấy tiếng vo vo nhỏ xíu lẫn trong tiếng gió, Mộ Dung Phục tâm cơ linh mẫn vô cùng, lập tức phóng chưởng đánh ra, lúc đó mới nhìn thấy ánh sáng lập lòe, mấy nghìn mũi kim nhỏ như lông trâu bắn tung tóe ra bốn phía, Mộ Dung Phục kêu thầm: “Nguy rồi!”, vội chụp lấy lưng Vương Ngữ Yên, tung mình nhảy lên không. Công Dã Càn, Phong Ba Ác cùng mọi người xung quanh đều nhao nhao kêu lên: “Nguy rồi!” “Trời ơi, trúng phải độc châm rồi!” “Con mẹ nó! Ám khí này độc lắm đây!” “Úi chao! Ngứa đến chết người.”

Mộ Dung Phục đang lơ lửng trên không, nhìn xuống thấy nắp chiếc đỉnh đồng lớn kia nhúc nhích, rồi trong đỉnh có vô số vật nhỏ tung ra. Y không suy nghĩ gì nhiều, đặt Vương Ngữ Yên lên ngọn cây rồi nói:”Biểu muội ngồi yên!”, rồi hạ mình xuống, dùng phép Thiên Cân Trụy đạp hai chân lên nắp đỉnh, đè chặt lấy.

Mộ Dung Phục nhảy lên rồi hạ xuống, chỉ trong chớp mắt đã giữ được nắp đỉnh lại. Những tiếng la gọi vang lên tứ phía: “Mau lấy thuốc giải độc!” “Đây là Ngưu Mao Châm của động Bích Lân, chỉ trong một giờ là nghẹt thở, độc chất công thẳng vào tâm tạng rất nguy hiểm.” “Thằng giặc thối tha Tang Thổ Công ở đâu, phải tóm lấy mà đòi thuốc giải” “Thằng cha này phóng Ngưu Mao Châm bừa bãi, cả ta đây là lão bằng hữu cũng bị thương rồi!” “Lấy thuốc giải mau! Tang Thổ Công đâu?”

Những tiếng gọi tìm Tang Thổ Công, gọi lấy thuốc giải nhốn nháo cả lên. Có người trúng độc châm phải nhảy loạn lên, có người lại ôm gốc tùng mà kêu rống. Ngưu Mao Châm quả là lợi hại vô cùng, khiến người trúng phải không sao chịu nổi.

Công Dã Càn tay trái xoa ngực, tay phải ôm bụng, đang ngưng thần vận khí. Phong Ba Ác thì hai chân nhảy loạn lên quát mắng om sòm. Mộ Dung Phục biết hai gã này đã trúng ám khí, trong lòng vừa lo lắng, vừa nghi ngờ, lại vừa căm hận. Rõ ràng trong đỉnh đồng phải có người vận động cơ quan thì mới phóng độc châm ra vừa nhanh vừa nhiều đến thế. Rủi ro ở chỗ cái đỉnh rớt xuống đánh choang một tiếng, khiến mọi người phải ngửng đầu nhìn lên ngọn cây, người ngồi trong đỉnh mới thừa cơ hội phóng độc châm ra.

Giả tỉ Mộ Dung Phục không ứng biến mau lẹ, hoặc chưởng phong không mãnh liệt thì đã bị hàng ngàn hàng vạn mũi độc châm bắn vào da thịt rồi. Kẻ ngồi trong đỉnh phóng trộm ám khí lại được chiếc đỉnh che kín, những mũi độc châm bị Mộ Dung Phục vận nội kình hất ra đều bắn vào người xung quanh hoặc bắn vào đỉnh, không thể trúng gã được.

Bỗng nghe một giọng nói bán nam bán nữ lên tiếng: “Mộ Dung Phục! Ngươi không trách ai được. Ngươi quen lấy gậy ông đập lưng ông, bây giờ hất độc châm ra làm bằng hữu nhà ngươi bị nạn là đúng nghề rồi.” Tên này đứng xa, lại ẩn sau một tảng đá lớn nên không trúng phải độc châm, bèn châm biếm chơi.

Mộ Dung Phục không lý gì đến gã, nghĩ bụng: “Muốn giải được độc châm này, dĩ nhiên cần đến người ngồi trong đỉnh đã vận động cơ quan phóng độc châm ra.” Chiếc nắp đỉnh dưới chân Mộ Dung Phục không ngớt rung động, chắc hẳn người ngồi trong đỉnh toan hất nắp đỉnh để xông ra. Nhưng ba ngón tay Mộ Dung Phục đang bám vào cây tùng lớn, nắp đỉnh chẳng khác gì đã liền vào gốc cây, sức đè xuống nặng đến vạn cân. Cây tùng lớn cứ lắc đi lắc lại vang lên những tiếng kẽo kẹt, những rễ nhỏ bị đứt mất nhiều, nhưng đẩy bật gốc cây lên đâu phải chuyện dễ dàng? Người ngồi trong đỉnh muốn thoát ra chỉ có cách dùng bảo đao bảo kiếm chém vỡ đỉnh, còn cố đội nắp đỉnh lên thì không ăn thua gì.

Mộ Dung Phục định bụng chờ một lát nữa rồi sẽ đột nhiên nới tay cho đối phương vọt ra, thế nào gã cũng liệng ra một nắm độc châm để hộ thân, khi đó sẽ vung chưởng hất độc châm bắn trở lại trúng vào người hắn. Dĩ nhiên hắn phải lấy thuốc giải ra để tự cứu, lúc đó sẽ cướp lấy, dễ hơn nhiều so với việc năn nỉ gã xin thuốc giải.

Nắp đỉnh bị đẩy hai lần nữa, rồi đột nhiên không thấy động tĩnh gì. Mộ Dung Phục nghĩ rằng người ngồi trong đỉnh đang vận hết nội lực để đột ngột phóng ra một lần chót. Y định bụng lần này sẽ nới tay cho hắn ra, cũng vận nội lực sẵn sàng phóng chưởng. Ngờ đâu một lúc lâu mà người trong đỉnh vẫn không nhúc nhích, tựa như đã chết ngạt trong đó rồi.

Tiếng kêu gào chung quanh mỗi lúc một thê thảm hơn. Có người ngứa quá không nhịn được phải lăn lộn dưới đất, lại có kẻ đập đầu vào đá, hay tự đấm ngực thình thình, xem thật là dễ sợ. Bảy tám giọng cùng la lối: “Mau mau lôi gã Tang Thổ Công ra đây, bắt hắn lấy thuốc giải độc!” Giữa những tiếng la ó, mười mấy người mắt đỏ ngầu đồng thời xông về phía Mộ Dung Phục.

Mộ Dung Phục điểm chân trái xuống nắp đỉnh, nhẹ nhàng nhảy vọt lên không. Y toan đáp xuống một cành tùng đâm ngang ra, đột nhiên nghe những tiếng vo vo, hàng trăm hàng ngàn mũi kim sáng chói bắn xéo lên.

Diễn biến thật là đột ngột. Người bắn độc châm là Tang Thổ Công hãy còn ngồi trong đỉnh, thế mà nắm độc châm này phóng ra rất mãnh liệt, rõ ràng đã được phát xạ bằng máy móc. Chẳng lẽ Tang Thổ Công còn có đồng đảng nấp gần đây để hạ độc thủ nữa chăng?

Lúc này Mộ Dung Phục đang lơ lửng trên không, khó mà tránh được. Nếu dùng chưởng lực hất xuống thì bốn người bọn Đặng Bách Xuyên đang ngồi dưới gốc cây lại bị trúng châm, như thế là làm hại đến huynh đệ. Mộ Dung Phục phất tay áo bên trái cho phồng lên như cánh buồm, mượn đà lượn trên không sang bên trái ba thước né tránh, đồng thời vung tay áo bên phải phát ra một luồng nội lực hất hàng ngàn mũi độc châm phóng lên trời. Sau đó người gã mới nhẹ nhàng hạ dần xuống.

Lúc này trên trời không có trăng sao, nhưng đèn đuốc bốn mặt chiếu sáng tỏ. Mọi người nhìn thấy thân pháp Mộ Dung Phục nhẹ nhàng như người biết cưỡi gió mà đi, đều không khỏi kinh hãi. Người thì la ó quát mắng, người thì hoan hô tán thưởng, át hẳn những tiếng rên la thê thảm.

Mộ Dụng Phục lúc còn lơ lửng trên không đã để mắt chú ý nhìn xem đám độc châm đó từ đâu bắn lên, lúc rớt xuống còn cách mặt đất hơn một trượng, chân trái liền đạp một cành cây mọc ngang để mượn đà nhảy sang mé hữu. Y đang hạ xuống từ từ, bỗng vọt đi lẹ như chim ưng, hai chân nhắm đạp xuống đầu một người vừa thấp lùn vừa béo trùng trục ngồi cạnh một phiến đá. Thì ra lúc Mộ Dung Phục đảo mắt nhìn quanh đã thấy người này ôm một cái đỉnh như đang thủ thế.

Gã lùn xoay người đi tránh ra ba thước, trông như một quả cầu lăn tròn dưới đất cực kỳ mau lẹ. Mộ Dung Phục đáp xuống chỗ trống, phóng chưởng ra đánh binh một tiếng vào lưng đối phương. Gã lùn đang muốn đứng dậy thì trúng chưởng lại ngã ra, liền mượn thế lăn luôn bảy tám trượng rồi mới đứng lên. Nhưng phát chưởng này cực kỳ mãnh liệt, gã vừa đứng lên đã lảo đảo mấy cái, hai chân nhũn ra, lại ngồi phệt xuống.

Tứ phía kia có mười mấy người cùng la lên: “Tang Thổ Công! Lấy thuốc giải ra!” rồi nhảy xổ lại. Đặng Bách Xuyên và Bao Bất Đồng đều nghĩ: “Gã lùn này là Tang Thổ Công.” Hai người muốn bắt gã để lấy thuốc giải trị thương cho huynh đệ, vội vàng vừa quát vừa nhảy vọt tới.

Tang Thổ Công chống tay trái xuống đất toan đứng lên, nhưng không đủ sức. Bao Bất Đồng nhảy tới trước tiên, thò tay ra chụp lấy vai gã, ngờ đâu đòn trảo vừa trúng đích thì bàn tay đau nhức không chịu được phải rút về, xoay bàn tay lên coi thấy máu chảy đầm đìa. Thì ra trên áo Tang Thổ Công giắt đầy kim nhọn chẳng khác gì con nhím, mà những mũi châm này đều tẩm thuốc độc. Chỉ trong chốc lát, Bao Bất Đồng thấy vừa ngứa ngáy vừa đau ghê gớm, chỉ muốn chặt đứt bàn tay mà vứt đi. Bao Bất Đồng vừa sợ vừa tức liền phóng chân trái ra, xuất chiêu Kim Câu Phá Băng đá vào mông Tang Thổ Công. Gã này đang nằm quằn quại dưới đất, rõ ràng thế nào cũng bị đá trúng.

Bàn chân chỉ còn cách mông Tang Thổ Công mấy tấc, đột nhiên Bao Bất Động tỉnh ngộ: “Hỏng bét, nếu mông hắn cũng gắn độc châm thì mình lại hỏng thêm một chân, thật là ngu xuẩn.” Nhưng gã sợ rút chân về đột ngột sẽ tổn thương đến gân cốt, bèn tức tốc phóng tả chưởng xuống đất, mượn đà lộn người đi.

Bao Bất Đồng biến thế rất mau lẹ, bàn chân chỉ lướt khẽ qua quần Tang Thổ Công, cũng chẳng hiểu mông của y có gắn châm độc hay không.

Lúc ấy Đặng Bách Xuyên cùng mọi người đã nhảy tới, thấy Bao Bất Đồng.rõ ràng đã chụp được Tang Thổ Công, mà không hiểu sao lại bị thương. Bởi vậy Tang Thổ Công nằm phục dưới đất không nhúc nhích mà chẳng ai dám mạo hiểm động thủ. Chỉ có Bao Bất Đồng tính tình cố chấp, nhất định không chịu thua. Gã nhấc một khối đá nặng đến hơn hai trăm cân, quát lên: “Tránh ra! Tiểu đệ phải đập chết con rùa đen này!”

Có người vội la lên: “Không được! Đập chết gã thì lấy đâu ra thuốc giải độc? Có người lại kêu: “Thuốc giải ở trong mình hắn, cứ đập chết là lấy được.” Xem chừng bọn này tụ họp với nhau mà mỗi người vẫn có ý kiến riêng, chẳng đồng tâm hiệp lực chi hết. Bao Bất Đồng muốn đập chết Tang Thổ Công, có người phản đối lại có người đồng tình, mỗi người một phách.

Giữa lúc lộn xộn, Bao Bất Đồng xách một tảng đá lớn bước tới, quát lên: “Ta phải đập nát bét con rùa đen mình đầy độc châm này.” Lúc đó lòng bàn tay gã càng ngứa ran lên không chịu nổi, bèn giơ thẳng hai tay đập mạnh tảng đá xuống lưng Tang Thổ Công. Chỉ nghe một tiếng binh vang lên, cát bụi bay mù mịt.

Mọi người đều giật mình kinh hãi. Tảng đá đó mà trúng lưng Tang Thổ Công thì tất nhiên hắn phải rú lên thê thảm, da thịt phải tan nát, không thể có cát bụi bay mù như thế được. Ai nấy định thần nhìn lại thì lại càng ngạc nhiên hơn, chỉ thấy khối đá nằm trơ dưới đất, Tang Thổ Công đã biến đi đâu mất.

Bao Bất Đồng phóng chân hất khối đá lăn sang một bên, dưới đất hiện ra một cái hang. Trong tên Tang Thổ Công đã có chữ “Thổ”, thuật địa hành của hắn rất mực tinh thông. Lúc nãy Mộ Dung Phục đè chặt nắp đỉnh, Tang Thổ Công không có cách nào hất nắp đỉnh lên để thoát ra, hắn phải đạp dưới đáy đỉnh vận động cả chân tay đào một cái hang chui xuống đất để thoát thân. Bao Bất Đồng ngẩn ngơ, nhìn cả bốn phương tám hướng xem Tang Thổ Công ở đâu. Gã nghĩ thầm: “Thằng cha này không phải là con Xuyên sơn giáp, thì dù hắn có chui xuống đất cũng đào được mấy thước là cùng, chẳng lẽ hắn biết thuật độn thổ mà trốn được ngay?”

Bỗng nhiên Mộ Dung Phục la lên: “Hắn đây rồi!” rồi vung tay áo bên phải quét vào tảng đá một cái. Tang Thổ Công thật là một con người cổ quái, có đủ ngón che mắt bịp người, nếu nhãn lực Mộ Dung Phục không đủ tinh vi thì không thể phát giác ra tảng đá này chính là lưng gã.

Tang Thổ Công như một trái bóng thịt, bị tụ phong mãnh liệt tung lên trên không. Lúc nãy hắn trúng chưởng của Mộ Dung Phục đã bị thương khá nặng, không còn sức kháng cự, vội cất tiếng la lên: “Đừng hạ độc thủ, để tại hạ lấy thuốc giải cho!”

Mộ Dung Phục chỉ mỉm cười, lại vung tay trái, phát ra một luồng kình phong vừa tiêu trừ tụ phong bên tay phải, vừa giữ thân thể Tang Thổ Công lại cho hạ từ từ xuống.

Xa xa phía trước có tiếng hoan hô: “Cô Tô Mộ Dung, danh bất hư truyền!” Mộ Dung Phục xua tay đáp: “Chẳng đáng làm trò cười, nghĩ mà hổ thẹn.” Lúc ấy một luồng kim quang, một luồng ngân quang vụt tới bên trái đầu y nhanh như chớp, tiếng rít lên nghe rất ghê sợ. Mộ Dung Phục không dám chần chờ, vận nội lực vào hai tay áo để đón lấy. Một tiếng “ầm” vang lên, tụ phong dội ngược lại, hai luồng ánh sáng cũng lui lại ba thước. Bấy giờ Mộ Dung Phục mới nhìn rõ, đó là hai cái đai vừa dài vừa rộng, một là đai vàng, một là đai bạc.

Hai người cầm đai đều đã già, lão sử đai vàng thì mặc áo bào bạc, lão sử đai bạc lại mặc áo bào vàng. Cả áo lẫn đai đều chiếu hào quang rực rỡ, cực kỳ diễm lệ. Loại áo bào vàng bạc này tựa như phục trang trên sân khấu, không phải để mặc lúc bình thường. Lão mặc áo bạc lên tiếng: “Bái phục, bái phục! Hãy tiếp thêm một chiêu của huynh đệ ta!” Hào quang lấp loáng, đai vàng vọt thẳng tới bên trái, còn đai bạc thì vung lên không rồi chụp xuống thượng bộ Mộ Dung Phục.

Mộ Dung Phục nói: “Hai vị tiền bối…”, mới được bốn chữ thì nghe mấy tiếng veo véo, phía dưới lại có ba thanh trường đao chém tới. Ba người này đều sử dụng Địa Đường Đao Pháp, chia nhau tấn công vào hạ bàn Mộ Dung Phục. Thế là Mộ Dung Phục bị ba mặt giáp công. Y nghĩ thầm: “Đối phương đã tự xưng là ba mươi sáu động chúa và bảy mươi hai đảo chúa, người nhiều thế mạnh, nếu hỗn chiến thì nguy hiểm khôn lường. Ta phải đánh phủ đầu, khủng bố tinh thần họ trước.” Ba lưỡi đao quét tới nơi, Mộ Dung Phục mắt lẹ chân nhanh, phóng luôn ba cước, đều trúng vào cổ tay địch nhân. Ba thanh đao đều bị đá tung lên không, bạch quang lấp loáng. Mộ Dung Phục lạng người sang bên, thi triển công phu Đẩu Chuyển Tinh Di gạt vào đầu cái đai vàng, nghe đánh chát một tiếng, đai vàng và đai bạc đã cuốn vào nhau.

Lúc này ba người sử đao đã lăn vào khoảng giữa Mộ Dung Phục và Tang Thổ Công. Bọn chúng đã mất đơn đao mà không chịu lùi lại, la lối om sòm, cứ định vồ lấy chân Mộ Dung Phục. Y không dám để chúng lấn quất bên mình, lại phóng cước nhanh như gió đá trúng huyệt đạo trước ngực cả ba. Đột nhiên xuất hiện một người mặc áo đen, chân tay dài như vượn, vượt qua mọi người rồi xòe bàn tay lớn bằng chiếc quạt nắm lấy Tang Thổ Công xách đi. Không hiểu trời sinh tên này có da bàn tay dày như da voi, hay là có đeo bao tay sắt, mà y không sợ độc châm trên người Tang Thổ Công. Y nắm được Tang Thổ Công rồi nhảy lùi lại xa hơn một trượng.

Mộ Dung Phục thấy mỗi cái giơ tay cất chân của người này đều ghê gớm, rõ ràng võ công hắn cao thâm hơn bọn kia nhiều. Y kinh hãi nghĩ thầm: “Tang Thổ Công mà bị tên này xách đi thì khó lòng kiếm được thuốc giải. Tâm niệm vừa động, Mộ Dung Phục liền vọt người lên, vượt qua ba tên nằm dưới đất, phóng chưởng đánh tới người áo đen. Gã kia cười lạnh lẽo, hoành đao trước ngực, thanh quang lấp loáng.

Đó là một lưỡi quỉ đầu đao sống dày lưỡi mỏng, sắc nhọn dị thường, đao quang xanh lè. Mộ Dung Phục thấy lưỡi đao của đối phương đã đón sẵn mà vẫn đánh xuống, tưởng chừng bàn tay y sắp đập vào lưỡi đao mà đứt lìa ra. Nhưng bàn tay y còn cách lưỡi đao chừng hai tấc thì đột nhiên xoay ngang ra, quét dọc theo lưỡi đao để hớt vào tay của người áo đen.

Cườm tay của Mộ Dung Phục đã vận chân lực vào, lợi hại chẳng kém gì lưỡi quỷ đầu đao, nếu chém trúng cũng chặt đứt được tay đối phương. Gã áo đen giật mình la lên một tiếng, buông rơi thanh đạo rồi xoay tay lại đỡ. Hai người đối chưởng nghe ầm một tiếng, gã áo đen lại la lên một tiếng nữa, rồi nhảy lùi lại xa hơn một trượng. Nhưng tay trái gã vẫn nắm chặt lấy Tang Thổ Công, nhất định không chịu buông ra. Mộ Dung Phục xoay tay lại nắm lấy thanh quỷ đầu đạo đang rơi xuống, bỗng ngửi thấy một mùi tanh tưởi, biết ngay lưỡi đao này có bôi thuốc độc tà môn.

Mộ Dung Phục tuy mới xuất một chiêu đã đoạt được khí giới của đối phương, song y thấy bảy tám người bên địch đã đưa binh khí ra chắn trước mặt người áo đen, thì khó mà xông vào cướp Tang Thổ Công lại được. Y lại vừa đối chưởng với người áo đen, biết rằng công lực hắn kém mình, nhưng bên trong lại có chỗ quái dị, giả tỉ được lấy một chọi một cũng không thể thủ thắng trong chốc lát được.

Tiếng người vẫn huyên náo không ngừng: “Tang Thổ Công! Mau lấy thuốc giải ra!” “Con mẹ nó! Thứ độc châm này mà không trị thì chỉ một giờ là mất mạng.” “Ô Lão Đại! Mau mau kêu hắn lấy thuốc giải ra, ta không chịu được nữa!” Dưới ánh đèn lửa, vô số bóng người chen lấn nhau chạy tới chỗ gã áo đen Ô Lão Đại để xin gã lấy thuốc giải cho.

Lão Đại nói: “Được rồi! Lão họ Tang béo phì này, móc thuốc giải ra đi!” Tang Thổ Công đáp: “Ngươi phải buông ta ra chứ!” Ô Lão Đại nói: “Ta mà buông tay thì địch nhân lại bắt ngươi mất, buông ra thế nào được? Lấy thuốc giải ra đi!” Những người đứng cạnh đều quát lên: “Phải rồi! Lấy thuốc giải ra đi.” Có người lớn tiếng thóa mạ: “Thằng rợ Miêu này! Ngươi còn chần chờ nữa là lão gia cho một mớ lửa đốt rụi cái động Bích Lân, họ hàng nhà rùa đen cháy không còn một cái móng chân!”

Tang Thổ Công ấp úng đáp: “Ta để thuốc giải dưới đất, phải buông ra thì ta mới đi lấy được.” Mọi người đều chưng hửng, biết hắn nói thật tình. Tang Thổ Công vốn thích ở trong sơn động âm u không có bóng mặt trời, hắn giấu thuốc dưới đất là hợp lý.

Mộ Dung Phục không nghe Công Dã Càn cùng Phong Ba Ác rên la, nhưng y thấy mọi người đang ngứa ngáy quằn quại, thì nhị ca cùng tứ ca tất cũng chẳng khác gì. Y quyết định trước mắt phải dùng toàn lực để cướp lại Tang Thổ Công rồi sẽ tính tiếp, bèn quát lên một tiếng, múa tít thanh quỷ đầu đao xông vào giữa đám đông như con hổ đói xông vào giữa đàn dê, mọi người đều dạt sang hai bên. Đặng Bách Xuyên và Bao Bất Đồng thì đang phải hộ vệ cho Công Dã Càn cùng Phong Ba Ác, không dám rời xa nửa bước vì sợ địch nhân ám hại.

Ô Lão Đại thấy Mộ Dung Phục hung hãn quá không dám chống đối, xách Tang Thổ Công lui ra xa. Bỗng có người kêu lên: “Các vị phải cẩn thận! Gã đang cầm Lục Ba Hương Lộ Đao, đừng để chém trúng.” Người khác lại kêu: “Trời ơi! Sao Ô Lão Đại lại để y đoạt được Lục Ba Hương Lộ Đao? Thế thì nguy to rồi!”

Mộ Dung Phục vung đao tiến vào, gặp đủ loại người. Hòa thượng cùng đạo sĩ, hán tử xấu xa cùng nữ nhân mỹ lệ, mặt ai cũng có vẻ khiếp sợ, hối hả tránh ra. Rõ ràng thanh quỷ đầu đao này có nhiều lai lịch, nhưng tanh tưởi khó ngửi mà lại gọi là Hương Lộ Đao, thật tức cười! Mộ Dung Phục nghĩ: “Ta múa thanh độc đao này chém chết mươi tên động chúa, đảo chúa gì gì đó cũng chẳng khó khăn gì, nhưng mình với bọn họ vốn không thù oán, thì giết người làm chi? Giả tỉ chúng liều chết không chịu cho thuốc giải, thì chất độc trong người nhị ca cùng tứ ca không hiểu sẽ phát tác thế nào.” Y nghĩ vậy nên tuy vung đao xông vào đám đông mà không hạ sát thủ chém chết mạng nào, chỉ điểm huyệt mấy người thôi.

Bọn người kia lúc đầu còn khiếp sợ, về sau thấy uy lực thế đạo của y không hung hãn lắm, đều trấn tĩnh lại. Chỉ trong khoảnh khắc trường kiếm, đoản đao, nhuyễn tiên… từ bốn phía tới tấp phóng ra nhằm vào người y. Mộ Dung Phục võ công cao cường, nhưng bị mười mấy người bao vây, tả xung hữu đột một lúc đã bắt đầu luống cuống. Y thấy bên ngoài vòng chiến còn ba bốn trăm người trùng trùng điệp điệp, không khỏi kinh hãi.

Mộ Dung Phục chống đỡ một lát nữa rồi nghĩ thầm: “Không hạ độc thủ thì biết đến bao giờ mới kết liễu tình thế này?” Y múa tít thanh đao, nghe hai tiếng “binh binh”, sống đao đã đánh trúng hai người bất tỉnh ngay. Bỗng nghe Đặng Bách Xuyên lớn tiếng quát: “Bọn đê tiện kia! Không được động đến cô nương!” Mộ Dung Phục liếc qua, thấy hai người đang tung mình nhảy lên ngọn cây có Vương Ngữ Yên ngồi trên, Đặng Bách Xuyên đang vừa chạy như bay tới, vừa tới tấp phóng chưởng ra ngăn trở. Mộ Dung Phục cực kỳ bối rối, lại thấy thêm ba người nữa chạy tới chỗ cây tùng đó. Y hiểu rõ ngay chủ ý bọn này, không hạ nổi mình nên nhảy lên bắt biểu muội để uy hiếp, thật là vô sỉ. Mộ Dung Phục bị vô số người bao vây, không có cách nào phân thân để chạy lại cứu Vương Ngữ Yên được, chỉ chốc lát đã thấy hai cô gái nắm tay Vương Ngữ Yên nhảy từ trên cây xuống. Một tên đầu đà tóc dài đội vòng vàng cầm giới đao kê vào cổ Vương Ngữ Yên quát lên: “Mộ Dung tiểu tử! Mi mà không chịu đầu hàng thì ta cắt đầu con bé này!”

Mộ Dung Phục ngẩn người ra, nghĩ bụng: “Bọn yêu ma này tàn ác vô cùng, chẳng kiêng nể cái gì, không chừng dám sát hại biểu muội ta thật. Biết làm thế nào đây? Tiếng tăm nhà Mộ Dung ở Cô Tô lừng lẫy võ lâm, sao lại đầu hàng được? Bây giờ mà mình mở miệng đầu hàng, thì sau này còn làm người được chăng?” Trong lòng y rối loạn mà tay chân không chậm lại chút nào, phóng ra hai chưởng vù vù, hất hai tên địch bay ra ngoài một trượng.

Gã đầu đà lại quát lớn: “Mi không đầu hàng là ta cắt cái đầu đẹp như hoa như ngọc này rớt xuống lập tức!”. Thanh giới đao vung lên, đao quang xanh lè rung động không ngớt.