Nghìn Lẻ Một Đêm – Chương 40: Hoàng tử Admed và nàng tiên Pari-Banou

Hoàng hậu Scheherazade kể tiếp câu chuyện Hoàng tử Admed và nàng tiên Pari-Banou sau chuyện Cọn ngựa thần diệu. Bà nói:

– Thưa bệ hạ, một trong những vị tiền bối của bệ hạ trị vì ngôi vua Ấn Độ yên bình trong nhiều năm, về già hài lòng thấy ba hoàng tử con Người xứng đáng học tập đạo đức của Người và một công chúa cháu gái, trang điểm cho triều đình thêm tươi vui. Hoàng tử con trưởng tên là Houssain, người thứ hai Ali, người trẻ nhất Ahmed và cháu gái là Nourounnihar.

Công chúa Nourounnlhar là con gái hoàng thân em vua được chia một phần lãnh thổ thu nhập lớn nhưng mất sau khi cưới vợ mấy năm, để nàng lại từ tấm bé. Nhà vua thấy hoàng thân em mình có tình nghĩa anh em hoàn hảo, rất gắn bó với mình, nên nhận việc giáo dục con gái em, đưa nàng về cung để nuôi dạy cùng ba hoàng tử. Sắc đẹp đặc biệt cùng thân hình hoàn hảo, công chúa cũng rất thông minh và đoan trang không chê trách được làm nàng nổi lên so với các công chúa cùng thời.

Nhà vua, bác công chúa, đã định khi nàng đến tuổi, sẽ kết thân với một hoàng tử ở những nước xóm giềng, gả cho làm vợ; Người suy nghĩ về việc đó rất nghiêm túc vậy mà bỗng nhiên nhận ra ba hoàng tử con mình đều yêu công chúa say đắm. Người rất đau lòng không chỉ niềm say mê ấy cản trở sự kết thân được dự tính mà còn vì khó khăn làm hai người em sẽ không chấp nhận nhường cho anh cả như ông tiên đoán. Người nói chuyện với riêng từng hoàng tử, chỉ rõ một công chúa không thể là vợ của cả ba, sẽ gây rối loạn nếu họ vẫn cương quyết say mê công chúa, Nhà vua cố gắng thuyết phục, tuyên bố công chúa chỉ dành cho một trong ba người hoặc sẽ gả cho một hoàng tử nước khác, Người để các con suy nghĩ lựa chọn. Nhưng thấy các hoàng tử vẫn khăng khăng theo ý họ, Người cho gọi cả ba người đến trước mặt và bảo:

– Các con ta, vì lợi ích và sự thanh thản của các con, ta không thuyết phục các con bỏ nguyện vọng cưới cháu ta và là em họ các con, nhưng ta không muốn dùng quyền lực cho phép một trong ba con, ta nghĩ đã tìm được một cách làm các con hài lòng và giữ được tình đoàn kết với nhau vậy các con hãy lắng nghe và thực hiện theo điều ta nói. Các con hãy đi du lịch riêng rẽ, đến những đất nước khác nhau để không thể gặp nhau. Các con biết ta tò mò thích những vật hiếm và đặc biệt, ta hứa sẽ cưới công chúa cho người nào trong các con mang về cho ta vật khác thường nhất và đặc biệt nhất. Như vậy do tình cờ các con xét xem vật gì đặc biệt đứa về so sánh với nhau, ai hơn sẽ được ưu tiên một cách xứng đáng. Về chi tiêu dọc đường và tìm mua vật hiếm, ta cho các con một số tiền ngang nhau phù hợp với nguồn gốc sinh trưởng tuy nhiên các con không được dùng tiền đó phung phí vào người hầu và hành trang vì như vậy các con sẽ tự làm lộ ra mình là ai, làm mất tự do, các con cần phải làm như vậy, không chỉ để hoàn thành mục đích chuyến đi mà còn để quan sát những điều đáng chú ý, cuối cùng thu được lợi ích lớn nhất về chuyến đi .

Ba hoàng tử vẫn luôn luôn vâng lệnh phụ hoàng và mỗi người đều nghĩ mình sẽ gặp may và có điều kiện chiếm lấy công chúa Nourounnihar, họ tỏ ra sẵn sàng thực hiện theo ý vua cha. Không chần chừ, nhà vua cho đếm số tiền Người đã hứa và ngay hôm ấy các hoàng tử cho lệnh chuẩn bị hành trang, thậm chí chào từ biệt phụ hoàng để sáng hôm sau đi sớm. Họ đi ra cùng một cổng thành, ngựa và hành trang chu đáo, ăn mặc giả thương nhân mỗi người mang theo một võ quan hầu cận cải trang thành nô lệ, đến một địa điểm con đường phân làm ba mỗi hoàng tử đi theo một đường riêng. Buổi tối lúc ăn họ quyết định sẽ đi một năm, hẹn gặp nhau ở chỗ chia tay, người đến trước chờ người đến thứ hai, hai người phải chờ người thứ ba để khi đi cùng chào phụ hoàng thì khi về cũng đến trình diện Người một lúc. Ngày hôm sau vừa bình minh họ ôm nhau hôn, chúc nhau may mắn trên đường đi rồi lên ngựa mỗi người theo một con đường để khỏi trùng lặp trong việc lùa chọn.

Hoàng tử Houssain, người anh cả nghe nói về sự lớn mạnh giàu có và vẻ đẹp của vương quốc Bisnagar, đi theo con đường ven bờ biển Ấn Độ, sau khoảng ba tháng hành trình cùng những đoàn lữ hành khác nhau, khi qua những hoang mạc đồi núi cằn cỗi, lúc đến những vùng đông dân, văn minh màu mỡ nhất trên thế giới, chàng đến Bisnagar, thành phố mang tên vương quốc và là kinh thành, chỗ ở của các nhà vua. Chàng thuê phòng trong nhà trọ dành cho các thương gia nước ngoài và được biết có bốn khu chính ở đó thương gia mở hiệu đủ các loại hàng hoá. Hoàng cung ở giữa thành phố, chiếm một vùng đất rất rộng có ba lớp tường bao và hai vùng đất thông nhau về các mặt từ cổng này đến cổng khác. Ngày hôm sau chàng đến một trong những khu chính đó.

Hoàng tử Houssain không thể không ngỡ ngàng; khu vực thật rộng, nhiều con đường cắt ngang dọc tất cả có vòm che nhưng sáng sủa. Các cửa hiệu lớn như nhau, bố trí cân đối, mỗi con đường lại kinh doanh một loại hàng hoá hoặc một loại công nghệ phẩm khác nhau.

Rất, nhiều cửa hàng đầy vải vóc mịn nhất ,của các vùng ở Ấn độ, vải màu rực rỡ có hình như thật về người, phong cảnh, cây, hoa, lụa và gấm như ở Ba Tư, Trung Quốc và những nước khác, đồ sành sứ của Nhật Bản và Trung Quốc thảm trải khổ rộng các cỡ… làm hoàng tử rất ngạc nhiên không biết có nên tin vào mắt mình không. Nhưng đến cửa hàng thợ kim hoàn và vật trang sức (hai nghề này cùng một loại thương gia kinh doanh), chàng loá mắt trước số lượng thần kỳ về phẩm vật vàng, bạc, về màu sắc rực sáng của ngọc, kim cương, hồng ngọc, ngọc bích, xa-phia xen lẫn nhau bày ra bán. Nếu ngạc nhiên về bao nhiêu của cải tập trung vào một chỗ, chàng không kém sửng sốt về tài sản của toàn vương quốc, kể cả những nơi xa xôi, không chỗ nào không có những người dân Ấn Độ cả nam lẫn nữ không mang vòng cổ, vòng tay và những trang sức ở chân; ngọc hoặc đá quý có vẻ càng ánh lên vì da họ đen, một màu đen càng làm nổi bật màu sáng chói.

Một nét đặc biệt khác làm hoàng tử thán phục là rất nhiều những người bán hoa hồng thành đám đông trên đường phố. Chàng hiểu ra những người Ấn Độ phải rất thích loại hoa này vì ai cũng cầm một bó hoa hồng trên tay hoặc hoa trong cửa hàng nên khu phố rộng đến mức nào thì hương hoa cũng lan toả khắp nơi.

Hoàng tử Houssain đi qua nhiều đường phố, tâm trí đầy của cải đã thấy, chàng cảm thấy cần phải nghỉ ngơi. Hoàng tử liền ngỏ lời với một thương gia ông này lịch sự mời chàng vào ngồi trong quán, ngồi không lâu chàng thấy một người vắt một tấm thảm khoảng sáu bộ vuông trên tay rao bán, đấu giá với ba mươi đồng tiền vàng. Chàng gọi lại xem tấm thảm, thấy giá quá đáng không chỉ vì tấm thảm nhỏ mà còn vì chất lượng. Quan sát kỹ tấm thảm, chàng hỏi người bán không hiểu vì sao một tấm thảm nhỏ và không đẹp mà giá cao đến thế.

Người rao bán nghĩ hoàng tử Houssain là một thương gia nên giải đáp ngay:

– Ông chủ, nếu ông cho giá đó quá cao, ông sẽ ngạc nhiên hơn nhiều khi ông biết tôi được lệnh đưa lên tới bốn mươi đồng tiền bằng vàng và chỉ giao cho người trả đủ số.

– Nếu vậy – Hoàng tử lại nói – nó có điểm nào quý giá mà tôi chưa biết?

– Đúng đấy thưa ông, và ông phải chấp nhận nếu biết khi ông ngồi lên đấy, tám thảm sẽ đưa ông bay tới chỗ ông muốn và ngay lập tức không gặp một trở ngại nào.

Hoàng tử nghe nói thế, thấy mục đích hành trình của mình là mang về cho vua cha vật hiếm hoi đặc biệt nào đó, nghĩ rằng không có gì làm vua hài lòng hơn vật này. Chàng nói với người bán:

– Nếu tấm thảm có tính chất quý như ông nói, không những tôi không cho là đắt mà tôi sẽ thu xếp để mua của ông giá đó cộng thêm một quà tặng hẳn ông bằng lòng.

– Thưa ông chủ, tôi nói thật đấy và ông dễ dàng xác nhận khi mua với giá bốn mươi đồng tiền bằng vàng với điều kiện tôi bay thử cho ông xem. Tôi sẽ theo ông đến chỗ trọ, chúng ta vào sân sau, tôi trải tấm thảm, ông và tôi ngồi lên, ông đưa ra ý muốn lên phòng của ông trong quán trọ, nếu chúng ta không được mang ngay tới đó thì ông không phải mua bán gì nữa cả. Về quà tặng, tôi xin nhận và cảm ơn ông còn tiền công thì đã có người buôn thảm trả.

Tin vào người rao hàng, hoàng tử chấp nhận mua với điều kiện ấy, cùng nhau ra phía sau quán trọ sau khi xin phép chủ nhà. Người rao trải tấm thảm, cả hai ngồi lên trên và ngay lúc hoàng tử nói ý muốn vào phòng mình trong quán, chàng có mặt ngay trong đó với người rao. Chắc chắn về tính chất quý của tấm thảm, chàng đếm cho ông ta bốn mươi đồng tiền vàng và tặng thêm hai mươi đồng tiền cho người rao.

Hoàng tử Houssain có chiếc thảm, chàng vô cùng vui mừng vừa đến Bisnagar đã kiếm được ngay một vật hiếm hoi, chắc chắn sẽ chiếm được công chúa Nourounnihar. Thực vậy chàng tin rằng hai người em không thể tìm được một vật gì sánh được tấm thảm chàng may mắn gặp được.

Không cần ở lại Bisnagar lâu hơn, chàng có thể ngồi lên tấm thảm ngay hôm ấy đến chỗ hẹn với họ nhưng chàng buộc phải chờ. Muốn biết thêm về nhà vua, triều đình xứ Bisnagar và tìm hiểu lực lượng, luật pháp, phong tục, tôn giáo cùng tình hình toàn vương quốc, chàng ở lại mấy tháng để thoả tính tò mò.

Thông lệ của vua Bisnagar là mỗi tuần một lần cho các thương gia nước ngoài tiếp kiến. Với danh nghĩa đó Houssain đã gặp ông nhiều lần. Hoàng tử này vốn tuấn tú, vô cùng thông minh và hiểu biết lễ nghi, nổi hẳn lên giữa những thương gia đến tiếp kiến vua. Chính nhà vua thích trao đổi với chàng hơn những thương gia khác để hỏi thăm sức khoẻ nhà vua Ấn Độ và ca tụng về sự hùng cường, giàu có của triều đình vương quốc ông.

Những ngày khác hoàng tử đi tham quan những nơi đáng chú ý trong kinh thành và các vùng xung quanh. Trong số cảnh vật đáng khâm phục, chàng thấy một ngôi đền thờ thần, kiến trúc thật đặc biệt ở chỗ tất cả bằng đồng đen: mặt bằng khoảng năm mét vuông, cao bảy mét rưới và đẹp nhất là một tượng thần bằng vàng khối cao bằng một người, đôi mắt bằng hồng ngọc bố trí nghệ thuật đến mức quay nhìn chiều nào cũng thấy. Chàng thấy một điều khác không kém phần được thán phục: giữa một ngôi làng có một bãi đất bằng khoảng mười mẫu trung tâm là khu vườn đầy hồng và các loài hoa nhìn rất đẹp, có cột bức tường thấp bao quanh ngăn súc vật lại gần. Ở giũa vườn là một khu vực cao bằng đầu người gắn kết bằng những viên đá nối với nhau tinh vi như chỉ là một tảng đá. Ngôi đền mái vòm xây trên khu vực kết bằng đá đó, cao hai mươi lăm mét cách nhiều dặm quanh đấy vẫn trông thấy. Chiều dài ngôi đền mười lăm, rộng mười mét, tất cả bằng đá hoa cương màu đỏ phẳng lì. Vòm trần trang trí ba hàng phong cảnh, có chạm nổi hình các nữ thần, từ trên cao xuống dưới không chỗ nào để trống.

Sáng và chiều người ta làm lễ, cúng bái trong đền kèm theo những trò chơi, những hoà tấu nhạc cụ, nhảy múa, hát và yến tiệc. Những người lo việc trong đền, nhân dân ở đó sống vào phẩm vật những người hành hương đông đảo mang tới từ những nơi xa xôi nhất để cầu nguyện.

Hoàng tử Houssaln còn được tham dự buổi lễ long trọng hàng năm ở triều đình Bisnagar đủ mặt các quan chức địa phương, các tướng lĩnh những tổng trấn, những người Bà-la-môn, nổi tiếng nhất, có những nơi xa xôi ít nhất phải bốn tháng đi đường. Cuộc tập hợp vô vàn người Ấn Độ trên một bãi bằng rất rộng là một quang cảnh thật ngoạn mục. Giữa bãi bằng có một quảng trường rất dài và rộng, một mặt ngăn bởi một toà nhà rất đẹp dưới dạng lâu đài chín tầng dựa trên bốn mươi chiếc cột, dành cho vua, triều đình và những người nước ngoài được vinh dự tiếp kiến vua mỗi tuần một lần, phía trong trang trí và trang bị tuyệt vời, bên ngoài vẽ những cảnh vật đủ các loài vật, chim, côn trùng cả những loại ruồi muỗi, tất cả theo tự nhiên. Ba mặt khác là những lâu đài ít nhất bốn, năm tầng cũng tô vẽ như nhau. Những lâu đài này có nét đặc biệt là người ta có thể xoay chuyển, thay đổi mặt và cảnh vẽ từng giờ.

Xung quanh quảng trường, cách đều nhau sắp xếp hàng nghìn con voi trang phục lộng lẫy mỗi con mang trên lưng một lầu vuông bằng gỗ tấm vàng và những nhạc công và các người làm trò trong mỗi lầu. Vòi vọi, tai và phần thân sơn màu đỏ thẫm và các màu thể hiện những hình thù kỳ lạ.

Trong toàn cảnh đó, hoàng tử Houssain ca ngợi hơn cả kỹ nghệ, sự khéo léo và thiên tài sáng tạo của những người Ấn Độ là được thấy một con voi to khoẻ nhất đứng chụm bốn chân trên một chiếc cọc lớn cắm sâu vào đất, cách mặt đất khoảng hai bộ, múa vòi trên không theo nhịp nhạc cụ. Chàng cũng khâm phục không kém một con voi khác cũng to khoẻ thế đứng một đầu thanh ngang bắc trên cọc cao mười bộ, đầu kia buộc một tảng đá cực kỳ lớn dùng làm đối trọng, lúc lên cao lúc xuống thấp làm các động tác thân và vòi theo nhịp điệu các nhạc cụ như con voi kia trước mặt vua và triều đình. Những người Ấn Độ buộc chặt tảng đá đối trọng, dùng sức người kéo đầu kia xuống sát đất, nâng bổng được con voi lên.

Hoàng tử Houssain có thể ở lại lâu hơn ở vương quốc Bisnagar, vô vàn những điều kỳ lạ khác có thể hấp dẫn chàng cho đến ngày cuối năm; nhưng đã đến ngày ước định các anh em gặp nhau; vả lại chàng cũng đã thoả mãn về những điều trông thấy, chàng lại luôn luôn nghĩ đến đối tượng mình yêu, từ khi mua được vật hiếm, sắc đẹp, sự duyên dáng của công chúa ngày càng in đậm trong niềm say mê của chàng, chàng cảm thấy yên tâm, hạnh phúc hơn khi sắp được về đến gần nàng. Sau khi chi phí thoải mái cho người giữ phòng thuê trọ, hẹn giờ đến lấy chìa khoá để ở cửa mà không nói sẽ đi bằng cách nào, chàng vào phòng đóng cửa lại để chìa khoá ở đấy. Chàng trải tấm thảm, ngồi lên cùng viên võ quan hầu cận, vừa tĩnh tâm ước được mang đến chỗ hẹn với các em thì đã thấy đến nơi rồi. Chàng dừng lại đấy, cho người ta biết mình là một thương gia và chờ các em. Hoàng tử Ali, em kế tiếp Houssain, dự định đi Ba Tư phù hợp với ý vua Ấn Độ, lên đường cùng một đoàn lữ hành vào ngày thứ ba đã chia tay với anh em. Sau bốn tháng chàng đến thành phố Schiraz lúc đó là kinh thành Ba Tư. Dọc đường kết bạn với một số thương gia nhân danh là người buôn kim hoàn, chàng cùng thuê phòng ở trong một nhà trọ với họ.

Ngày hôm sau trong lúc các thường gia mở hàng hoá, hoàng tử Ali đến đây theo ý thích và chỉ quan tâm đến những vật cần thiết, sau khi thay đổi quần áo, chàng cho dẫn đến các khu phố bán đá quý, những vật vàng, bạc, gấm, lụa, vải đẹp và những vật khác hiếm hoi và quý nhất. Nơi này lộng lẫy và xây dựng chắc chắn, có mái vòm do những cột to đỡ, xung quanh là các cửa hàng bố trí dọc theo tường cả trong lẫn ngoài, rất nổi tiếng ở Schiraz. Trước hết hoàng tử đi dọc ngang khắp chỗ ấy, nhận thấy sự giàu có trong số lượng khổng lồ những hàng hoá quý bày bán. Trong số những người rao hàng đi lại mang theo hàng hoá, chàng ngạc nhiên thấy một người cầm trong tay một chiếc ống bằng ngà voi dài khoảng một bộ, to hơn ngón tay cái một ít rao với giá ba mươl đồng tiền vàng. Lúc đầu chàng tưởng người kia mất trí. Để rõ ràng hơn, chàng lại gần một cửa hàng hỏi người bán: Thưa ông chủ, ông cho biết người rao hàng kia có mất trí không mà đòi chiếc ống ngà vơi những ba mươi đồng tiền bằng vàng?

– Thưa ông – Người kia trả lời nếu ông ta không bị mất trí vào hôm qua thì tôi có thể khẳng định với ông đấy là người thông minh nhất trong số những người rao hàng và được người ta tin tưởng nhất khi cho giao bán những đồ vật quý. Còn chiếc ống rao bán ba mươi đồng tiền bằng vàng thì đáng giá đấy, thậm chí còn hơn. Ông ta sẽ đi trở lại qua đây chúng ta gọi vào và tự ông hỏi xem. Mời ông ngồi nghỉ đã.

Hoàng tử Ali không từ chối lời mời tử tế của ông chủ cửa hàng, ngồi một lúc thì người rao hàng trở lại. Nghe gọi tên, ông ta vào, ông chủ cửa hàng chỉ vào Ali nói:

– Ông trả lời cho ông này xem có điên không mà rao bán những ba mươi đồng tiền bằng vàng một chiếc ống có vẻ ít tác dụng như vậy. Tôi cũng ngạc nhiên đấy nếu không biết ông vốn là người thông minh.

Người rao hàng nói với hoàng tử:

– Thưa ông chủ, không phải chỉ riểng ông cho tôi là điên vì chiếc ống này. Tôi hy vọng ông sẽ không, nghĩ thế như những người khác khi tôi nói rõ tính chất đặc biệt của nó. Trước hết ông chả ý ở mỗi đầu ống có miếng kính, khi nhìn vào một trong hai đầu đó, bất cứ ông muốn trông thấy gì ông sẽ trông thấy ngay.

– Tôi sẵn sàng xin lỗi vì đã đụng chạm tới danh dự của ông nếu ông cho tôi thấy thực tế như ông nói – Hoàng tử nói.

Cầm chiếc ống trong tay quan sát hai miếng kính, chàng bảo:

– Ông chỉ cho tôi phải nhìn vào đâu xem nào.

Người rao hàng chỉ. Hoàng tử nhìn vào, mong nhìn được vua cha, chàng thấy nhà vua ngay, Người rất mạnh khoẻ, ngồi trên ngai vàng giữa các triều thần. Sau vua cha không ai thân yêu trên đời bằng công chúa Nourounnihar, chàng mong được thấy nàng, chàng liền nhìn thấy nàng đang ngồi trang điểm có thị nữ vây quanh vui vẻ cười đùa.

Hoàng tử Ali không cẩn chứng minh gì khác để khẳng định chiếc ống này là vật quý nhất chàng có được không riêng trong thành phố Schiraz mà cả toàn cầu. Chàng nghĩ nếu không mua thì không bao giờ mua được một vật hiếm như vậy đem về dù ở Shiraz hay chỗ nào khác đến mười năm. Chàng nói với người rao hàng:

– Tôi xin rút lui ý kiến không đúng đã tưởng ông mất trí. Tôi nghĩ ông sẽ rất hài lòng việc tôi bù đắp lại là mua chiếc ống của ông. Tôi không muốn một người khác sở hữu nó, ông nói đúng giá để khỏi phải rao hàng nữa và đi lại mệt nhọc. Ông đến chỗ tôi, tôi sẽ trả đủ tiền cho ông.

Người rao hàng khẳng định và thề thốt được lệnh bán cho được bốn mươi đồng tiền bằng vàng. Hoàng tử dẫn ông ta về chỗ trọ đếm đủ số tiền vàng và như vậy, sở hữu chiếc ống bằng ngà voi.

Được chiếc vật hiếm này, hoàng tử vô cùng vui sướng chắc chắn các anh, em chàng không gặp được vật hiếm hoi đáng khâm phục như vậy và công chúa Nourounnihar sẽ là phần thưởng cho cuộc hành trình vất vả của chàng. Chàng chỉ còn nghĩ đến việc tham quan triều đình Ba Tư, xem những gì lạ ở Schiraz và quanh vùng, rồi chờ đoàn lữ hành cùng đi trở về Ãn Độ. Thoả mãn tính tò mò rồi thì đoàn lữ hành chuẩn bị lên đường, chàng gia nhập hành trình.

Không một trở ngại làm gián đoạn chuyến đi ngoài việc phải đi nhiều ngày và mệt mỏi dọc đường, hoàng tử Ali may mắn đến chỗ hẹn đã có hoàng tử Houssain. Họ ở lại cùng nhau chờ hoàng tử Ahmed.

Hoàng tử Ahmed theo con đường đi Samarcande, ngày hôm sau khi đến nơi, cũng như hai hoàng tử anh, chàng ra vùng trung tâm đô thị. Một người rao hạng đến trước mặt chàng, tay cầm một quả táo nhân tạo, rao giá ba mươi lăm đồng tiền bằng vàng. Chàng ngăn người ấy dừng lại và nói:

– Ông cho tôi xem quả táo và cho biết rõ tính năng đặc biệt nào của nó mà hô giá cao đến thế.

Đưa cho chàng để quan sát kỹ, người rao hàng bảo:

– Thưa ông chủ, nhìn bề ngoài quả táo này không đáng giá mấy, nhưng nếu người ta nhìn vào tính năng và việc sử dụng rất tốt làm lợi cho người, thì có thể nói nó vô giá, chắc chắn người có nó là người sở hữu cả một kho báu. Thực vậy bất cứ căn bệnh nào, dù bị bệnh chờ chết như sốt kéo dài, sốt xuất huyết, viêm màng phổi, dịch hạch hoặc các loại bệnh như thế, kể cả đang hấp hối, sử dụng nó đều chữa khỏi, phục hồi ngay được sức khoẻ như chưa bao giờ đau yếu. Làm việc đó cũng dễ nhất trần đời vì chỉ đơn giản xoa nó vào người.

– Nếu như lời ông nói thì quả táo có một đặc tính tuyệt vời và có thể nói vô giá nhưng một người trung thực như tôi muốn mua, làm sao xác nhận được không có gì giả dối và ông không ca tụng thái quá?

– Thưa ông, việc đó được toàn thành phố, Samarcande biết rõ và xác nhận. Không cần đi xa, ông cứ hỏi tất cả những người buôn bán ở đây trong đó một số người hôm nay sẽ không còn sống nữa nếu không dùng phương thuốc chữa bệnh rất công hiệu này. Để ông hiểu rõ thêm xin nói đó là kết quả nghiên cứu lâu dài của một học gia nổi tiếng ở thành phố này dành suốt đời tìm hiểu đặc tính quý của cây cối và khoáng chất, đã tổng hợp tạo ra quả táo này, dùng nó chữa bệnh thật kỳ lạ trong thành phố làm người ta không quên ông được. Cái chết đột ngột làm ông không có thì giờ sử dụng phương thuốc đặc biệt này, mới đây ông lìa trần và bà vợ goá nhà đông con còn nhỏ tuổi phải bán nó đi để gia đình sống thong dong hơn.

Trong lúc người rao hàng kể lại với hoàng tử Ali những đặc tính quý của quả táo kỳ diệu, nhiều người đứng lại vây quanh họ, phần đông xác nhận đúng như lời người kia nói. Một trong số ấy bảo ông có một người bạn đang bị bệnh nghiêm trọng chỉ chờ chết, là một dịp thử nghiệm hiệu quả hoàng tử Ahmed nói với người rao hàng nếu chữa lành người bệnh ấy thì chàng sẽ mua với giá bốn mươi đồng tiền bằng vàng.

Người rao hàng được lệnh bán với giá ấy nói với chàng:

– Thưa ông, chúng ta đi thử nghiệm xem và quả táo sẽ thuộc về ông. Tôi tin chắc như vậy vì lần nào chữa bệnh nó cũng đưa lại cuộc sống cho những người chuẩn bị vào cửa tử thần.

Cuộc thử nghiệm thành công, hoàng tử đem đủ bốn mươi đồng tiền bằng vàng, người rao hàng đưa cho chàng quả táo nhấn tạo và chàng kiên trì chờ ngày ra đi của đoàn lữ hành thứ nhất để trở về Ấn Độ. Chàng dùng thời gian ấy đi xem Samarcande và những vùng xung quanh, chủ yếu là lưu vực sông Sogde mà những người A-rập xem là một trong bốn thiên đường của vũ trụ về vẻ đẹp đồng ruộng và những khu vườn quanh các lâu đài dồi dào đủ loại hoa quả và những thú vui ở đây vào mùa nắng đẹp.

Hoàng tử Ahmed không bỏ lỡ dịp đoàn lữ hành đầu tiên lên đường đi Ấn Độ, chàng cùng đi và mặc dù những khó khăn không tránh được trong một hành trình lâu dài, chàng vẫn khoẻ mạnh về đến chỗ hẹn nơi hoàng tử Houssain và Ali đang chờ đợi.

Hoàng tử Ali đến trước Ahmed một thời gian, hỏi hoàng tử Houssain, người tới nơi hẹn đầu tiên, đến được bao lâu rồi. Được biết hoàng tử anh đến đã ba tháng, chàng nói:

– Như thế hẳn anh không đi xa được.

– Bây giờ anh không nói với em chỗ anh đã đến – Hoàng tử Houssain lại nói – nhưng anh có thể khẳng định phải đi hơn ba tháng mới tới nơi.

– Nếu vậy anh ở lại đấy rất ít.

Em lầm rồi; anh ở lại chỗ ấy từ bốn đến năm tháng, ở lại lâu hơn là do anh thôi.

– Ít ra thì anh cũng không từ đó bay về. Em không hiểu làm sao anh về đến đây đã ba tháng như anh nói.

– Anh sẽ nói rõ sự thật, sẽ giải thích điều bí mật ấy khi Ahmed, hoàng tử em chúng ta, trở về, đồng thời sẽ tuyên bố vật quý hiếm anh đưa về. Đối với em, anh không biết em đưa vật gì về, chắc chẳng được bao nhiêu, anh thấy hành lý của em không tăng thêm.

– Còn anh – Hoàng tử Ali đáp lại – ngoài việc dự trữ tấm thảm chẳng đẹp đẽ gì chắc anh phải mua mà ghế xô- pha của anh cũng đã có, hình như em có thể nhạo lại anh đấy. Nhưng anh đang muốn giấu vật quý hiếm mang về, anh cũng cho em giữ bí mật về vật em đã mua.

– Anh cho là vật anh mang về hơn hẳn mọi vật khác dù đến thế nào chăng nữa, anh không khó gì để cho em xem làm em phải đồng ý vật anh mang về như anh ước tính. Nhưng chúng ta chờ hoàng tử Ahmed đến đã rồi có thể cho nhau biết, trân trọng và tuân theo thủ tục quy định về vận may của nhau.

Hoàng tử Ali không muốn đi sâu tranh cãi với hoàng tử anh cho rằng vật anh mang về quý hiếm hơn. Chàng thầm nghĩ nếu chàng đưa ra chiếc ống ngà voi, hẳn nó không hơn được thì ít nhất cũng không thua kém vật của anh và đồng ý sẽ đưa ra vật lạ của mình ra khi hoàng tử Ahmed trở về.

Khi Ahmed về gặp hai anh, sau khi đã ôm hôn nhau trìu mến và chúc mừng hạnh phúc gặp lại nhau ở chỗ đã chia tay ra đi, hoàng tử Houssain với danh nghĩa anh cả, lên tiếng nói:

– Các em, sau này chúng ta sẽ kể chuyện về những nét đặc biệt của hành trình, hãy nói về điều quan trọng nhất cần biết đã. Anh nghĩ các em đều nhớ đến mục đích chuyến đi của chúng ta, đừng giấu giếm nhau vật lạ chúng ta mang về và trước khi đưa ra chúng ta phải thật công bằng xét xem phụ hoàng sẽ cho ý kiến ai thắng cuộc.

– Để làm gương – Anh nói với các em – vật quý hiếm anh mang về từ vương quốc Bisnagar là tấm thảm anh đang ngồi, nó bình thường, bề ngoài không có gì hấp dẫn như các em thấy nhưng khi anh nói về tính chất của nó, các em sẽ khâm phục như chưa bao giờ được nghe nói và sẽ phải xác nhận rất quý. Thực vậy, nếu ngồi lên đấy như chúng ta đang ngồi và ước muốn được mang tới một chỗ nào đấy dù xa mấy, người ta sẽ đến ngay chỗ ấy hầu như lập tức. Anh đã thử nghiệm trước khi không tiếc đếm đủ số tiền bốn mươi đồng tiền bằng vàng và khi đã hoàn toàn thoả mãn tính tò mò về triều đình Bisagar, muốn trở về anh không dùng xe cộ nào khác ngoài tấm thảm kỳ diệu này. Nó đã đưa anh và người hầu cùng bay, người hầu có thể cho các em biết anh mất bao nhiêu thời gian để đến đấy. Anh sẽ thử nghiệm để các em xem khi thích hợp. Còn bây giờ anh chờ xem các em cho biết đã đem vật gì về, có thể so sánh với tấm thảm của anh được không.

Hoàng tử Houssain kết thúc lời ca ngợi tấm thảm ở đấy, hoàng tử Ali tiếp lời anh:

– Thưa anh, phải thú nhận tấm thảm của anh là một trong những vật tuyệt vời nhất nếu nó có đặc tính như anh vừa nói không ai nghi ngờ gì. Nhưng cũng phải công nhận có những vật khác em không nói hơn nhưng ít nhất cũng tuyệt vời như thế ở dạng khác, Để anh đồng ý, em đưa anh xem chiếc ống bằng ngà voi này, nhìn không đáng chú ý như tấm thảm của anh. Em cũng mua với giá như anh mua nhưng cũng không kém bằng lòng về nó như anh thích tấm thảm. Công minh như anh, hẳn phải công nhận em đã không nhầm khi có thể biết bất cứ vật nào muốn thấy. Em không muốn anh chỉ tin vào lời nói, đây là chiếc ống, anh thử xem sao.

Hoàng tử Houssain cầm chiếc ống, đưa lên mắt nhìn vào một đầu theo cách em chỉ, ý muốn được thấy công chúa Nourounnihar và biết sức khoẻ của nàng thế nào. Hoàng tử Ali và Ahmed nhìn vào anh, rất ngạc nhiên thấy nét mặt anh thay đổi rất lạ, sau đó có vẻ buồn. Hoàng tử Houssain không để các em hỏi, bảo ngay:

Các hoàng tử, hai em và anh đi xa vất vả để mong được thưởng cho mình công chúa Nourounnihar thật vô ích. Chỉ một lúc nữa thôi nàng không còn sống nữa. Anh vừa thấy nàng nằm trên giường xung quanh là các thị nữ, thái giám khóc lóc, xem ra chỉ chờ giờ chết của nàng. Đây, các em tự nhìn xem cảnh thương tâm ấy và cùng khóc với anh đi.

Hoàng tử Ali cầm chiếc ống ở tay hoàng tử Houssain nhìn xem, rất buồn đưa lại cho hoàng tử Ahmed cùng thấy quang cảnh thật bi thảm và làm họ quan tâm nhiều.

Khi hoàng tử Ahmed cầm chiếc ống từ tay hoàng tử Ali, nhìn thấy công chúa Nourounnihar chẳng còn sống được bao lâu nữa, chàng nói với hai anh:

– Các anh ạ, công chúa là người chúng ta đều mong muốn đang ở trong tình trạng hấp hối rồi nhưng em thấy chúng ta còn cơ may cứu được nàng nếu tranh thủ được thời gian.

Chàng rút trong túi ra quả táo kỳ diệu, đưa cho hai anh xem và nói:

– Quả táo này đắt không kém tấm thảm và chiếc ống bằng ngà các anh mua đưa về. Có dịp để các anh thấy đặc tính tuyệt vời của nó làm em không tiếc đã mua với giá bốn mươi đồng tiền bằng vàng. Người bệnh ngửi nó, dù đang hấp hối cũng phục hồi sức khoẻ ngay lập tức, em đã thử nghiệm rồi. Chúng ta phải mau chóng đến cứu công chúa và các anh sẽ thấy ngay tác dụng.

Hoàng tử Houssaln nói:

– Nếu thế, chúng ta sẽ đến ngay phòng của công chúa bằng cách ngồi lên tấm thảm của anh. Các em lại ngay đây, ngồi vào như anh, khá rộng đủ chỗ cho cả ba người. Trước hết hãy ra lệnh cho người hầu cùng lên đường ngay và đến tìm chúng ta ở hoàng cung.

Ra lệnh cho tuỳ tùng xong hoàng tử Ali và Ahmed ngồi vào tấm thảm, cùng hoàng tử Houssain, cả ba cùng ước muốn được mang đến phòng công chúa Nourounnihar. Họ tới nơi rất nhanh, hầu như chưa rời khỏi chỗ vừa ra đi.

Ba hoàng tử có mặt thật bất ngờ làm các thị nữ, thái giám sợ hãi, không hiểu phép lạ nào đưa ba người đàn ông tới đây. Lúc đấy chưa nhận ra, các thái giám chuẩn bị tấn công họ như những người đã vào tới phòng cấm nhưng rồi tự thấy sai lầm vì sau đó đã biết họ là ai.

Hoàng tử Ahmed vừa vào đến phòng công chúa. Nourounnihar, thấy nàng hấp hối bèn ra khỏi tấm thảm lại gần gíường đưa quả táo thần diệu lại sát mũi công chúa trong lúc hai hoàng tử kia cũng tới sát giường. Một lúc sau công chúa mở mắt, ngoảnh đầu nhìn những người bao quanh nàng, ngồi dậy đòi mặc quần áo ngoài thoải mái, tỉnh táo như vừa qua một giấc ngủ dài. Các thị nữ vui mừng bảo với nàng nhờ ba hoàng tử anh họ nàng đặc biệt là nhờ hoàng tử Ahmed đã cứu nàng nhanh chóng phục hồi sức khoẻ. Thể hiện niềm vui được gặp lại họ, công chúa cám ơn cả ba chàng, nhất là hoàng tử Ahmed. Thấy nàng bảo thị nữ lấy quần áo, các hoàng tử nói rất sung sướng được đến kịp để mỗi người góp một phần cứu nàng khỏi cơn hiểm nguy, được gặp nàng và mong nàng sống lâu rồi họ rút lui.

Trong lúc công chúa thay quần áo, ba hoàng tử ra khỏi phòng nàng đến quỳ trước phụ hoàng chúc thọ. Họ nhận thấy vua cha đã được trưởng thái giám bẩm báo họ đã về và công chúa mà các thầy thuốc chịu bó tay, đã được họ chữa khỏi một cách thần diệu. Sau những lời chúc mừng trong những trường hợp như vậy, mỗi hoàng tử trình với vua cha vật quý hiếm mình mang về: hoàng tử Houssain, tấm thảm chàng đã lấy lại từ buồng công chúa, hoàng tử Ali chiếc ống ngà voi và hoàng tử Ahmeđ quả táo kỳ diệu. Ca tụng đặc tính quý hiếm rồi, họ nộp lại cho vua cha, khẩn cầu Người công bố vật nào hơn và như vậy theo như lời hứa, Người cho ai lấy công chúa Nourounnihar làm vợ.

Nhà vua Ấn Độ đôn hậu lắng nghe những gì các hoàng tử nói về lợi thế của vật mình mang về không ngắt lời họ và biết rõ việc chữa khỏi bệnh cho công chúa, ngồi im lặng một lúc như suy nghĩ để trả lời. Sau đó ông ngắt lời các con và khôn khéo nói:

Các con ta, ta vui lòng tuyên bố điều đó nếu ta xét được thật đúng đắn nhưng các con xem ta có thể phán quyết như thế không. Con, hoàng tử Ahmed, đúng là công chúa khỏi bệnh nhờ quả táo nhân tạo của con nhưng ta hỏi con có điều kiện làm việc ấy không nếu trước đó không có chiếc ống ngà voi của Ali cho biết mối nguy hiểm đang đe doạ công chúa và tấm thảm của Houssain không nhanh chóng đưa con về kịp cứu chữa? Con hoàng tử Ali, chiếc ống ngà voi cho con và anh em con biết sắp mất công chúa và như vậy phải công nhận nàng, chịu ơn con. Nhưng con cũng phải công nhận biết như thế cũng vô ích nếu không có quả táo và tấm thảm. Cuối cùng, hoàng tử Houssain, công chúa sẽ vô ơn nếu không coi trọng tác dụng của tấm thảm. Nhưng con xem tấm thảm sẽ không đóng góp được gì nếu không nhờ ống – ngà voi của Ali để nắm được tình hình và Ahmed không dùng quả táo nhân tạo chữa cho công chúa. Như vậy cả ba vật quý hiếm không cái nào hơn cái nào mà ngược lại các con hoàn toàn bằng nhau mà ta chỉ có thể cho một người cưới công chúa, các con cũng tự thấy vật các con mang về chỉ vinh dự góp phần như nhau cứu sống được công chúa Nourounnihar.

Vì vậy ta phải dựa vào một con đường khác để xác định được chắc chắn việc chọn lựa giữa các con. Bây giờ còn có thì giờ cho đến tối. Các con hãy đi lấy mỗi người một chiếc cung tên, ra khỏi thành phố đến sân lớn đua ngựa, ta cũng sẽ ra đấy và tuyên bố cho người nào bắn xa hơn sẽ được cưới công chúa.

Ta cũng không quên cám ơn các con nói chung và riêng từng người về món quà quý mang về. Trong kho cũng đã có nhiều vật hiếm nhưng không có gì sánh với tính chất đặc biệt của tấm thảm, chiếc ống ngà voi và quả táo kỳ diệu sẽ làm phong phú thêm cho kho tàng. Đấy làb ba vật đứng đầu, ta sẽ giữ gìn không chỉ vì vật lạ mà để có dịp sử dụng có lợi sau này.

Ba hoàng tử không có gì phản bác lại quyết định của phụ hoàng vừa nêu ra. Khi ra ngoài, người ta đem lại cho họ mỗi người một cung một tên, họ giao lại đồ dùng cho lính hầu vừa về tập hợp và họ cùng ra bãi đua ngựa với vô số dân chúng đi theo.

Nhà vua không để phải chờ đợi. Khi ngài đến, hoàng tử Houssain là anh cả, cầm cung tên bắn trước, hoàng tử Ali bắn sau đó và mũi tên rơi xuống xa hơn, hoàng tử Ahmed bắn sau cùng nhưng mũi tên vút đi, không thấy rơi xuống. Người ta vội vã chạy theo tìm, hoàng tử Ahmed cũng tìm nhưng xa hay gần đều không thấy. Tuy có thể tin là chàng bắn xa hơn cả và đáng được cho cưới công chúa Nourounnihar nhưng phải có mũi tên để xác thực, dù chàng chứng minh ra sao, nhà vua vẫn xét để Ali thắng cuộc. Ngài ra lệnh chuẩn bị lễ cưới thật trang trọng và mấy ngày sau đó hôn lễ được tố chức thật rầm rộ.

Hoàng tử Houssaln không tham dự tôn vinh buổi lễ. Quá say mê công chúa chàng không đủ sức chịu đựng nỗi đau khổ thấy nàng thuộc về Ali mà chàng bảo không xứng đáng và cũng không yêu công chúa hơn chàng. Chàng bất mãn rõ rệt đến nỗi rời bỏ triều đình, từ chối quyền kế vị để đi tu, khép mình vào kỷ luật một tu sĩ nổi tiếng về một cuộc sống gương mẫu cùng một số đông môn đồ xây dựng một nơi ở ẩn rất tĩnh lặng.

Hoàng tử Ahmed với lý do như Houssain, cũng không tham dự lễ cưới hoàng tử Ali và công chúa Nourounnihar nhưng không từ bỏ thế tục. Vì không hiểu được tại sao mũi tên của chàng mất tích, chàng giấu mọi người, quyết tâm tìm cho được mũi tên để khỏi phải ân hận điều gì, chàng đến chỗ người ta lượm tên của hai hoàng tử anh, đi thẳng tới trước mặt, nhìn trái nhìn phải đã quá xa mà không thấy, chàng không cho rằng mình đã phí công vô ích. Rồi như bị cuốn hút, chàng cứ đi tiếp không mệt mỏi cho đến những núi đá cao buộc phải đi vòng khi muốn vượt qua và những tảng đá ở đó rất hiểm trở, ở trong một vùng khô cằn cách nơi chàng ra đi bốn dặm.

Lại gần những tảng đá, hoàng tử Ahmed thấy một mũi tên, nhặt lên nhìn kỹ thì chính là mũi tên chàng đã bắn. Chàng nghĩ: Đúng mũi tên này nhưng mình cũng như mọi người sống trên đời không đủ sức bắn một mũi tên xa đến thế? Thấy nó nằm trên mặt đất không cắm sâu xuống, chàng cho là mũi tên bắn vành tảng đá cứng quá bị bật lại. Chàng lại tự nhủ:

– Có điều gì bí mật trong việc lạ lùng này và điều bí mật này chỉ có lợi cho mình. Số phận làm mình buồn nản khi tước đi quyền được có về người mình yêu mong đưa lại hạnh phúc trong đời có lẽ dành cho mình một cái khác để an ủi mình chăng:

Với ý nghĩ đó, thấy núi đá nhô ra lõm vào, hoàng tử đi vào một trong những chỗ lõm ấy, đôi mắt nhìn vào từng góc, chàng thấy một cánh cửa sắt có vẻ không khoá. Đẩy mạnh cánh cửa mở vào trong, có lối dốc không bậc thang, chàng bước xuống tay cầm mũi tên. Tưởng sẽ vào chỗ tối tăm nhưng một luồng ánh sáng mới tiếp theo đó, chàng bước vào một quảng trường lộng lẫy cách khoảng năm mươi, sáu mươi bộ thấy có một lâu đài thật đẹp. Nhưng chưa kịp có thì giờ ngắm nghía vẻ đẹp của toà lâu đài thì ngay lúc đó bỗng xuất hiện vị nữ hoàng phong thái oai nghiêm, với sắc đẹp mà quần áo sang trọng và đá quý nàng trang điểm cũng không thể làm tăng thêm được vẻ đẹp tuyệt vời của nàng hơn nữa. Nàng tiến ra tiền sảnh có toán thị nữ đi theo cũng tuyệt đẹp đến nỗi phải khó khăn lắm mới nhận ra ai là nữ chủ.

Hoàng tử thấy nàng, bước vội đến cung kính chào và nữ hoàng cao giọng nói:

– Hoàng tử Ahmeđ lại gần đây, chàng sẽ được tiếp đón nồng nhiệt.

Hoàng tử rất ngạc nhiên thấy có người gọi tên mình trong một vùng chưa bao giờ chàng nghe nói tuy rất gần kinh thành vua cha và không hiểu vì sao một nữ hoàng chàng không quen lại đã biết nàng. Hoàng tử quỳ xuống dưới chân nàng lồi vừa đứng dậy chàng vừa nói:

– Thưa nữ hoàng, tôi vừa đến một nơi mà do tò mò tôi đã liều lĩnh bước vào, rất cám ơn nữ hoàng đã sẵn sàng tiếp đón. Nhưng thưa nữ hoàng , xin lỗi cho phép tôi được hỏi do đâu nàng biết tôi, tuy nàng ở rất gần chúng tôi mà hôm nay tôi mới biết?

– Hoàng tử – Nữ hoàng nói – chúng ta vào phòng khách thiếp sẽ trả lời như thế tiện hơn cho thiếp và cho chàng.

Nói xong nữ hoàng dẫn Ahmed vào một ngôi nhà có kiến trúc tuyệt vời có màu vàng và màu xanh da trời trang trí vòm nhà, và bài trí bằng những vật giàu có vô giá. Ngôi nhà quả là có vẻ vô cùng mới lạ làm chàng tấm tắc khen, nói chưa từng thấy tương tự. Nàng lại nói: Tuy thế thiếp bảo đảm với chàng đây là gian phòng kém nhất trong lâu đài của thiếp. Chàng sẽ đồng ý với nhận định ấy khi thiếp đưa chàng đi xem hết các phòng”. Nàng lên ngồi trên ghế xô pha và khi hoàng tử đã ngồi gần mình, nàng giải đáp câu hỏi của chàng: Hoàng tử, chàng ngạc nhiên vì thiếp biết chàng mà chàng không biết thiếp. Khì biết thiếp là ai chàng sẽ hết ngạc nhiên ngay. Chắc chàng cũng biết tôn giáo chàng đã dạy, trên đời có các vị thần ở cũng như người. Thiếp là con gái một trong các vị thần đó, những vị thần quyền lực và nổi bật nhất, tên thiếp là PariBanou. Thiếp biết chàng, vua cha, các hoàng tử anh chàng và công chúa Nourounnihar. Thiếp cũng được tin cả tình yêu và cuộc hành trình của các hoàng tử, có thể kể lại mọi trường hợp vì chính thiếp đã bán quả táo nhân tạo ở Samarean mà chàng đã mua, tấm thảm ở Bisnagar hoàng tử Houssaln tìm được và chiếc ống nhòm bằng ngà voi hoàng tử Ali mang về. Như thế đủ để chàng hiểu thiếp biết hết những gì liên quan đến chàng. Thiếp nói thêm một điều là chàng xứng đáng có một vận mệnh sung sướng hơn việc có công chúa Nourounnlhar. Và để dẫn chàng tới đây, thiếp đã có mặt trong cuộc bắn thi, thiếp thấy cách bắn cung của chàng thậm chí không đưa nổi mũi tên vượt quá mũi tên của hoàng tử Houssain, thiếp liền bắt lấy nó trên không, phóng vào tảng đá dội lại như chàng vừa tìm thấy. Bây giờ tuỳ thuộc ở chàng có nên tranh thủ cơ hội để trở nên hạnh phúc hơn .

Nàng tiên Pari-Banou nói những lời cuối với giọng khác biệt, thậm chí nhìn hoàng tử Ali một cách âu yếm, đôi mắt khiêm tốn nhìn xuống nét mặt ửng hồng, hoàng tử không khó khăn gì để hiểu nàng muốn nói về hạnh phúc nào. Xét kỹ thấy công chúa Nourounnihar không thể thuộc về chàng nữa và nàng tiên Pari- Banou hơn hẳn nàng về sắc đẹp, sự hấp dẫn và nàng đang rất vui sướng nếu được chàng chấp thuận, nàng lại thông minh, giàu có qua lâu đài tráng lệ chàng được chứng kiến, hoàng tử Ali hàm ơn ý nghĩ đi tìm mũi tên của mình và thuận theo xu hướng nghiêng về đối tượng đang đốt cháy lòng chàng. Thưa nữ hoàng – chàng nói – nếu suốt đời được là kẻ nô lệ của nàng và là người thán phục bao nhiêu sự duyên dáng làm ta say mê, ta cho là mình sung sướng nhất trong những người trần. Hãy thứ lỗi cho ta táo tợn xin nàng ân huệ ấy và mong nàng không từ chối nhận vào triều một hoàng tử nguyện hy sinh tất cả vì nàng.

– Thưa hoàng tử, đã từ lâu thiếp làm chủ ý muốn của mình và đối với sự thoả thuận của bố mẹ, thiếp không muốn nhận chàng vào triều như một nô lệ mà là chủ nhân của bản thân thiếp và của những gì đã và có thể thuộc về thiếp bằng cách phối hợp với thiếp, cho thiếp lòng tin và cưới thiếp làm vợ. Thiếp hy vọng chàng không có ý nghĩ không hay đối với thiếp khi thấy thiếp đề nghị như thế. Thiếp đã nói thiếp làm chủ ý muốn của mình, các nàng tiên không như phụ nữ ngoài đời đối với đàn ông, không có thói quen đi trước như vậy mà họ cho là mất danh giá của mình. Đối với thiếp, thiếp làm thế và cho rằng người ta phải biết ơn thiếp.

Hoàng tử Ahmed không trả lời gì về lời nói của nàng tiên, nhưng lòng đầy biết ơn, chàng nghĩ không thể hiện gì hơn bằng tiến lại gần hôn vào tà áo của nàng. Nàng tiên không để chàng làm thế, đưa bàn tay ra cho chàng hôn và giữ lại, nắm chặt tay chàng:

– Hoàng tử Ahmed – Nàng nói – chàng có cho thiếp lòng tin như thiếp đã tin tưởng chàng không?

– Chà! – Hoàng tử vô cùng sung sướng đáp- ta có thể làm gì hơn và có niềm vui nào hơn? Vâng, thưa nữ hoàng của ta, ta tặng nàng lòng tin với cả tấm lòng không dè dặt.

– Nếu vậy – Nàng tiên lại nói – chàng là chồng thiếp và thiếp, vợ chàng. Trong bọn thiếp, việc thành hôn không do các lễ tiết: vững chắc và lâu bền hơn những lễ cưới hỏi của người trần tuy họ nhiều thủ tục hơn. Bây giờ, trong lúc chờ đợi chuẩn bị tiệc cưới cho chúng ta tối nay và hình như hôm nay chàng chưa ăn gì, người ta sẽ đưa tới cho chàng một bữa ăn nhẹ sau đó thiếp dẫn chàng đi xem các phòng trong lâu đài để chàng thấy có đúng gian phòng này là gian phòng kém nhất như thiếp nói không.

Một số thị nữ vào trong phòng khách với nàng tiên hiểu được ý định của nữ chủ, liền ra ngoài và một lúc sau đem vào một số thức ăn và rượu ngon tuyệt.

Khi hoàng tử Ahmed đã ăn uống thoải mái, nàng tiên Pari-Banou dẫn chàng đi từ phòng này sang phòng khác, thấy kim cương, hồng ngọc, ngọc bích và đủ loại đá quý, chưa nói đến đồ đạc giàu sang vô giá tất cả phối hợp hài hoà kỳ lạ làm hoàng tử phải thốt lên không thể thấy như thế ngoài đời. Nàng tiên bảo chàng:

– Thưa hoàng tử, nếu chàng khen ngợi lâu đài của thiếp đến thế, thực ra cũng rất đẹp rồi nhưng chàng sẽ nói ra sao về lâu đài của những trưởng các vị thần chúng thiếp, đẹp, tráng lệ, lộng lẫy khác hẳn? Thiếp có thể đưa chàng đi xem vẻ đẹp khu vườn của thiếp nữa nhưng để lần khác. Trời gần tối rồi, chúng ta chuẩn bị đi ăn thôi.

Gian phòng nàng tiên dẫn hoàng tử Ahmed vào đã có bàn ăn dọn sẵn là phòng cuối cùng chàng thấy trong lâu đài, không kém một phòng nào đã được xem. Bước vào chàng choáng ngợp với vô số ngọn nến có mùi thơm, rất nhiều nhưng không hề lẫn lộn mà bố trí cân đối ưa nhìn. Chàng cũng ngợi khen một chiếc tủ buýp-phê lớn đầy bát đĩa vàng, nghệ thuật tạo dáng quý hơn chất liệu và nhiều toán phụ nữ, tất cả đẹp mê hồn và ăn mặc sang trọng, bắt đầu hoà tấu với giọng hát và đủ loại nhạc cụ hay nhất chưa bao giờ được nghe. Họ ngồi vào bàn, Pari-Banou chú trọng tiếp hoàng tử những thức ăn ngon nhất vừa kể tên vừa mời chàng dùng tnử mà hoàng tử chưa từng được nghe nói đến nên hết lời ca tụng, cho bàn ăn vượt mọi bàn tiệc của người đời. Chàng cũng kêu lên như thế về chất lượng tuyệt vời của rượu, hai người bắt đầu say sưa uống và đến bữa tráng miệng bằng những quả cây, bánh ngọt và những loại khác càng ngon hơn.

Sau tráng miệng, nàng tiên Pari-Banou và hoàng tử Ahmed rời khỏi bàn tiệc đã được dọn dẹp ngay. Họ cùng ngồi thoải mái trên ghế xô-pha, tựa lưng vào gối vải lụa thêu các loại hoa rất khéo. Bỗng một số đông các vị thần và các nàng tiên bước vào phòng, bắt đầu một điệu vũ kỳ lạ nhất, tiếp tục mãi cho đến khi nàng tiên và hoàng tử đứng dậy. Các thần và tiên nữ vừa nhảy múa vừa ra khỏi phòng đi trước đôi tân hôn đùa họ đến gian phòng đã chuẩn bị giường cưới. Đến trước cửa, họ xếp thành hàng để hai người đi vào sau đó rút lui để vợ chồng tự do đi nằm.

Những tiệc tùng mừng hôn lễ tiếp tục vào ngày hôm sau, đúng hơn là những ngày nối tiếp mà nàng tiên Pari- Banou dễ dàng cho thay đổi những món ăn mới, những buổi hoà tấu khiêu vũ mới, những cuộc biểu diễn giải trí mới, tất cả đều khác thường làm hoàng tử Ahmed không thể hình dung trong đời thường dù có sống đến một nghìn năm.

Ý định của nàng tiên không chỉ thể hiện với hoàng tử những điều cần thiết về tình yêu trung thực và niềm say mê của nàng, nàng cũng muốn qua sự tiếp đón, làm cho chàng thấy không thể tìm được ở triều đình vua cha hoặc một chỗ nào khác ở trên đời một hạnh phúc được hưởng thụ như bên cạnh nàng, chưa nói đến sắc đẹp của nàng kèm theo, để chàng hoàn toàn gắn bó với nàng không bao giờ rời bỏ. Nàng đã rất thành công theo lòng mong muốn của mình: hoàng tử Ahmed không chủ động được nữa trong tình yêu của mình, tình yêu của chàng tăng lên đến mức không thể đừng yêu nàng được khi mà nàng vẫn có thể quyết định được không yêu chàng nữa.

Qua sáu tháng, hoàng tử Ahmed vẫn luôn yêu thương và tôn vinh vua cha, cảm thấy mong muốn biết tin tức của Người, chàng muốn rời khỏi lâu đài về gặp mặt vua cha. Trong một buổi nói chuyện với Pari-Banou chàng đã nói ra ước muốn đó và mong nàng cho phép. Nàng tiên hoảng hốt, sợ đây là một cớ để chàng bỏ rơi nàng, nàng nói với chàng:

– Thiếp đã có gì làm chàng không bằng lòng khiến chàng phải xin phép điều đó? Phải chăng chàng có thể quên đã cho thiếp lòng tin và không yêu thiếp nữa trong lúc thiếp vẫn yêu chàng tha thiết? Chàng phải thấy rõ điều đó qua những thể hiện không ngừng của thiếp đối với chàng.

– Nữ hoàng của ta – Hoàng tử nói – ta biết rất rõ tình yêu của nàng và sẽ không xứng đáng nếu không đáp lại nàng với một tình yêu như thế. Nếu nàng bị xúc phạm về đề nghị của ta thì hãy tha lỗi cho ta, ta sẵn sàng sửa chữa vì nàng. Ta nói ra việc đó không phải để làm nàng mất lòng mà chỉ vì lòng kính trọng vua cha, muốn Người khỏi buồn rầu vì ta vắng mặt lâu ngày, nỗi buồn của Người sẽ càng lớn cho rằng ta không còn sống nữa. Nhưng vì nàng không muốn ta đi làm nhiệm vụ an ủi ấy thì thôi vậy, không có gì ta không làm để làm nàng vừa lòng.

Hoàng tử Ahmed không giấu giếm nỗi nhớ vua cha nhưng chàng cũng yêu nàng hoàn toàn như lời đã nói, nên không nài xin về đề nghị ấy nữa, nàng tiến tỏ ra thoả mãn về việc chàng chiều theo ý mình. Tuy thế hoàng tử không bỏ hẳn ý định của mình, thỉnh thoảng chàng nói chuyện về những đức tính của vua cha, nhất là sự trìu mến đối với riêng chàng, với hy vọng cuối cùng nàng xiêu lòng.

Như hoàng tử Ahmed dự đoán, gĩưa niềm vui về hôn lễ của hoàng tử Ali và công chúa Nourounnihar, nhà vua Ấn Độ vẫn buồn rầu vô cùng về sự ra đi của hai con trai khác. Không bao lâu ngài được tin hoàng tử Houssain đã dứt bỏ đời thường và nơi chàng chọn để ở ẩn. Là một người bố tốt ngài xác định một phần hạnh phúc của mình ở chỗ thấy những đứa con của lòng mình nhất là khi chúng xứng đáng với tình thương của mình, sống gắn bó bên cạnh mình, tuy không thể chối bỏ sự lựa chọn cách sống của các hoàng tử, ngài đành nóng lòng chờ đợi trong lúc chúng vắng mặt. Nhà vua cử các đoàn nhanh chóng đi tìm tin tức của hoàng tử Ahmed, ban chiếu đi tất cả các tỉnh trong vương quốc, ra lệnh cho các quan tổng đốc bắt giữ và buộc chàng về triều nhưng các biện pháp đều không hiệu quả và nỗi phiền muộn đáng lẽ giảm bớt thì càng tăng thêm. Thường ngài hay trao đổi việc ấy với quan tể tướng của ngài.

– Quan tể tướng – Ngài nói – khanh biết Ahmed là người trong các hoàng tử ta luôn yêu thương nhất và ta đã làm mọi cách tìm kiếm mà không có kết quả. Ta đau lòng đến mức suy sụp nếu khanh không thông cảm với ta. Để bảo vệ ta, ta cần khanh giúp đỡ và cho ta những lời khuyên.

Vlên tể tướng gắn bó với nhà vua cũng như tích cực giải quyết những công việc trong nước, suy nghĩ để làm sao an ủi được Người, nhớ đến một bà phù thuỷ có nhiều phép lạ. Ông đề nghị cho triệu bà ta vào hỏi ý kiến. Nhà vua đồng ý, ông cho người đi tìm và đích thân dẫn vào triều.

Vua nói với bà phù thuỷ:

– Từ khi hoàng tử Ali, con ta thành hôn cùng công chúa Nourounnihar, hoàng tử trưởng và hoàng tử Ahmed bỏ đi, ta buồn không nguôi và mọi người đều biết. Với pháp thuật và sự khéo léo vốn có, bà có thể nói với ta hoàng tử ra sao rồi không? Chàng còn sống không? Đang ở đâu? Làm gì? Ta có hy vọng gặp lại chàng không?

Mụ phù thuỷ trả lời để vua hài lòng:

– Thưa bệ hạ, dù khéo léo trong nghề đến mấy thần cũng không thể giải đáp ngay những câu hỏi của bệ hạ được. Nếu Người cho thần thời gian đế ngày mai, thần sẽ xin trả lời.

Vua đồng ý thời hạn trên, để mụ trở về, hứa sẽ khen thưởng xứng đáng nếu giải đáp được lòng mong muốn của ngài.

Mụ phù thuỷ hôm sau trở lại, vị tể tướng lại giới thiệu lần thứ hai với vua. Mụ trình bày:

– Thưa bệ hạ, thần đã nhanh chóng sử dụng mọi thủ thuật trong nghề để vâng theo lệnh Người, thần chỉ biết được một điều là hoàng tử Ahmed chưa chết. Đó là điều chắc chắn, bệ hạ có thể tin như thế. Còn về những điều khác thần vẫn chưa thể phát hiện thêm gì được.

Vua Ãn Độ đành bằng lòng với câu trả lời đó, nhưng ngài vẫn lo lắng chẳng kém trước về số phận hoàng tử con trai mình.

Trở lại với hoàng tử Ahmed, chàng tuy vẫn luôn nói chuyện về vua cha với nàng tiên Pari-Banou nhưng không nêu lên nguyện vọng được gặp lại Người nữa, nỗi nhớ nhưng đó làm nàng hiểu ý muốn của chàng. Vì vậy nàng cảm thấy càng giữ chàng lại càng sợ chàng mếch lòng vì bị từ chối và nhận ra tình yêu của chàng đối với nàng thể hiện rất trung thực. Sau đó xét thấy thật bất công đối với một người con yêu mến cha khi muốn buộc chàng từ bỏ thiên hướng tự nhiên, nàng quyết định thuận tình theo nguyện vọng của chàng. Một hôm nàng bảo:

– Hoàng tử, điều chàng xin phép về thăm vua cha làm thiếp lo ngại đấy chỉ là vì thiếp sợ đó chính là lý do thể hiện chàng không chung thuỷ và muốn bỏ rơi thiếp, thiếp từ chối chỉ vì thế. Hôm nay hoàn toàn tin tưởng vì những việc làm và lời nói của chàng, thiếp có thể yên tâm về tình yêu chung thuỷ và vững chắc của chàng nên thiếp đã đổi ý, đồng ý để chàng về thăm vua cha với một điều kiện, chàng phải thề trước với thiếp sẽ không ở lại lâu và trở lại sớm. Điều kiện đó chắc không làm chàng phiền lòng và cho là thiếp không tin chàng. Thiếp nêu lên điều này vì rất tin tưởng vào sự trung thực trong tình yêu của chàng.

Hoàng tử Ahmed muốn quỳ xuống dưới chân nàng để tỏ lòng cảm kích nhưng nàng tiên ngăn lại. Chàng nói:

– Nữ hoàng của ta, ta biết rõ giá trị của ân huệ nàng ban cho ta nhưng lời nói không thể hiện đủ lòng cám ơn như ta mong muốn. Nàng hãy tin chắc ta nhớ mãi điều đó. Nàng đã đúng khi tin rằng buộc ta thề thất không làm ta phiền lòng. Ta sẵn sàng hứa từ nay ta không thể sống nếu thiếu nàng. Ta sẽ ra đi nhưng mau chóng trở lại, không phải lo sợ vì bội ước mà do lương tâm mách bảo là đã mong ước được sống không xa rời nàng suốt đời và nếu đôi khi được nàng vui vẻ cho xa nàng, ta sẽ tránh phải buồn phiền vì xa cách nhau lâu ngày.

Nghìn Lẻ Một Đêm – Chương 41: Hoàng tử Admed và nàng tiên Pari-Banou (tiếp theo)

Pari-Banou càng phấn khởi vì những tình cảm của hoàng tử, không còn nghi ngờ việc chàng vội vã về thăm cha là một lý do đặc biệt để chối bỏ lòng tin chàng đã hứa. Nàng nói:

– Hoàng tử, chàng cứ đi khi nào chàng muốn nhưng trước hết, đừng phiền lòng vì vài lời thiếp dặn chàng về chuyến đi. Đầu tiên thiếp nghĩ chưa đến lúc nói với vua cha về cuộc hôn nhân của chúng ta, về sự khác thường của thiếp và chỗ chàng ở từ khi xa Người. Mong chàng chỉ nói được sung sướng, không mong muốn gì hơn và lý do duy nhất trở về là để Người khỏi lo lắng về số phận của chàng.

Để cùng đi, nàng cho hai mươi kỵ sĩ trang bị tất hộ tống chàng. Khi mọi việc đã sẵn sàng, hoàng tử Ahmed ôm hôn từ biệt nàng tiên, nhắc lại lời hứa sẽ mau chóng trở lại. Người ta dắt con ngựa nàng đã cho chuẩn bị sẵn cho chàng; ngoài việc trang bị yên cương sang trọng, con ngựa cũng đẹp và đắt giá nhất so với bất cứ con ngựa nào trong chuồng của nhà vua. Chàng duyên dáng lên ngự a trước sự rất vui về của nàng tiên và ra đi sau khi chào từ biệt lần cuối.

Đường về hoàng cung không xa, hoàng tử không phải đi lâu. Vào đến kinh thành, dân chúng vui mừng gặp lại chàng, hoan nghênh nhiệt liệt, phần lớn bỏ công việc tụ tập thành đám đông hộ tống chàng về đến cung vua. Nhà vua rất vui mừng ôm hôn chàng, tuy hơi than phiền về nỗi buồn vắng mặt chàng lâu ngày. Ngài nói thêm:

– Sự vắng mặt càng làm ta đau lòng sau sự thiệt thòi của con về lợi thế của hoàng tử Ali, anh con, ta sợ con có một hành động tuyệt vọng nào đấy.

– Thưa phụ hoàng, Người cho rằng sau khi mất Nourounnlhar đối tượng mong mỏi độc nhất của con, con có thể chứng kiến hạnh phúc của Ali anh con sao? Nếu con có thể lì lợm như thế, ở triều đình, trong thành phố và cả bệ hạ nữa sẽ nghĩ về mối tình của con như thế nào? Tình yêu là một sự say mê người ta không rời bỏ được dù muốn; nó chế ngự, làm chủ và không để người tình có lý trí. Bệ hạ biết khi bắn mũi tên, một điều kỳ lạ đã xảy ra với con tuy bãi đua ngựa rộng rãi và bằng phẳng đến thế mà không tìm được mũi tên làm con mất đi lý do về sự công bằng đối với con và các anh. Thất bại trong số phận nhưng con không mất thì giờ phàn nàn vô ích. Để thoả mãn nỗi băn khoăn về mũi tên phiêu lưu đó, con lén mọi người một mình trở lại chỗ cũ tìm nó. Kiếm mãi quanh quẩn chỗ nhặt được tên của các anh không được con đi mãi gần như theo đường thẳng, hình dung ra nơi mũi tên có thể rơi. Đã đi hơn một dặm, mắt vẫn nhìn các bên, thỉnh thoảng con lại quay lại tìm một vật gì đó như mũi tên, rồi lại suy nghĩ nó không thể bắn ra xa như vậy. Con dừng lại tự nhủ có mất trí không khi cho rằng mình đủ sức bắn một mũi tên đi xa đến thế khi mà không một anh hùng thời cổ nào và những người nổi tiếng về sức mạnh đương thời cũng chưa bao giờ vươn tới. Con ngẫm nghĩ như thế và suýt bỏ việc mình đang làm nhưng rồi con cảm thấy bị lôi kéo đi dù không muốn. Con đi đến bốn dặm tới cuối bãi bằng có những tảng núi đá thì thấy mũi tên con bắn nhưng cả chỗ rơi lẫn thời gian đều không hợp lý. Như vậy thay vì nghĩ bệ hạ bất công đối với con khi tuyên bố công chúa thuộc về hoàng tử Ali, con cho rằng việc xảy ra đối với con là một điều bí mật có lợi cho con, con cần phải làm sáng tỏ và con đã biết rõ bí mật đó không quá xa chỗ ấy. Nhưng đây lại là một bí mật khác mà con khẩn cầu bệ hạ đừng cho con là xấu vì con không nói ra, chỉ xin Người bằng lòng được biết con sung sướng và thoả mãn với hạnh phúc của mình. Sống giữa niềm hạnh phúc đó chỉ một điều làm con băn khoăn là lo bệ hạ không yên tâm về số phận của con từ khi con mất tích, xa triều đình. Con thấy con có nhiệm vụ phải về để bây giờ yên lòng. Đây là mục đích đưa con về. Ân huệ độc nhất con xin Người ban cho là thỉnh thoảng cho con trở về tôn kính Người và biết tình hình sức khoẻ của Người.

– Con trai ta – Nhà vua nói – ta không thể từ chối lời cầu xin của con, ta những muốn con quyết định ở lại bên ta thì hơn. Ít nhất con cho ta biết hỏi tin tức về con ở chỗ nào những lúc con không đến được hoặc khi cần phải có mặt con.

– Thưa phụ hoàng – Hoàng tử Ahmed lại nói – điều Người hỏi là một phần trong điều bi1 mật con đã nói. Con khẩn cầu Người cũng cho con im lặng về điểm ấy, con sẽ trở về luôn, thà bất chợt còn hơn để Người trách con lơ là khi con cần có mặt.

Vua Ấn Độ không ép hoàng tử về việc ấy nữa. Ông nói:

– Con trai, ta không muốn đi sâu hơn về điều bí mật của con, để con hoàn toàn làm chủ mình. Con về đây đã đưa lại cho ta một niềm vui lớn đã tê lâu không cảm nhận được. Con sẽ được hoan nghênh tất cả những lần con có thể đến mà không tổn hại đến công việc hoặc những vui thú của con.

Hoàng tử Ahmed chỉ ở lại triều đình nhà vua ba ngày, ngày thứ tư chàng ra đi sớm và nàng tiên Pari- Banou gặp lại chàng thật vui mừng. Nàng không nghĩ chàng trở lại sớm thế và sự nhanh chóng đó làm nàng tự dằn vặt đã nghi ngờ chàng thiếu chung thuỷ. Nàng không giấu giếm hoàng tử, thú nhận sự yếu đuối của mình và xin lỗi chàng. Hai người càng gắn bó với nhau thắm thiết hơn, người này muốn gì, người kia cũng muốn thế.

Hoàng tử trở lại đã một tháng, nàng tiên Pari-Banou nhận thấy sau khi kể lại chuyến đi, câu chuyện với vua cha và xin phép thỉnh thoảng về thăm, chàng không nói gì về nhà vua nữa. Đoán chắc vì dè chừng đối với nàng nên một hôm nàng bảo chàng:

– Hoàng tử, chàng lãng quên vua cha rồi chăng? Không nhớ lời hứa thỉnh thoảng đến thăm Người ư? Thiếp vẫn nhớ điều chàng kể lại hôm trở lại đây nên nhắc chàng đừng để quá lâu chưa thực hiện lời hứa lần trước.

– Nàng ơi – Hoàng tử Ahmed nói với giọng vui vẻ như nàng tiên – ta không quên lời hứa đâu, thà chịu lời trách của nàng vừa rồi còn hơn bị từ chối vì vội vã làm nàng phiền lòng phải chấp nhận.

– Hoàng tử, thiếp không muốn chàng giữ kẽ như thế đối với thiếp hơn nữa. Để việc tương tự không lặp lại, đã một tháng nay chàng không gặp vua chà, thiếp nghĩ chàng không nên để đợt thăm viếng cách nhau trên một tháng. Ngày mai chàng đi thăm vua cha đi và hàng tháng chàng cứ tiếp tục đi thăm như vậy, không cần phải nói với thiếp hoặc chờ thiếp nói, thiếp sẵn sàng chấp nhận điều ấy.

Hôm sau hoàng tử ra đi cùng đoàn tuỳ tùng lần trước nhưng nhanh gọn hơn, bản thân chàng cũng trang bị đẹp hơn, được vua cha tiếp đón vui vẻ, hài lòng như lần trước. Trong nhiều tháng chàng về thăm vua cha như vậy, bao giờ cũng với đoàn người ngựa sang trọng, rực rỡ hơn.

Cuối cùng một số cận thần của nhà vua xét theo quyền lực của hoàng tử Ahmed qua những trang bị bề ngoài, lợi dụng nhà vua để cho tự do nói, đã làm nảy sinh những ngờ vực về chàng trong lòng ngài. Họ nói ngài cần khôn khéo, phải biết rõ chỗ ở của hoàng tử, chàng dựa vào đâu để chi phí lớn thế trong lúc không có đất phong và lợi tức ổn định, hình như chàng về triều chỉ để thách thức vua cha, tỏ ra không cần ngài chu cấp cho một cuộc sống xứng với hoàng tử và cuối cùng đáng sợ là có thể chàng sẽ xúi giục dân chúng nổi dậy cướp ngôi vua.

Vua Ấn Độ không hề nghĩ hoàng tử Alimed có thể có một âm mưu nguy hại như các cận thần muốn làm ngài tin. Ngài nói với họ:

– Các khanh đùa đấy chứ, con trai ta, thương yêu ta, ta tin chắc vào sự trìu mến và trung thành của chàng nên ta không nhớ đã có điều gì đó làm chàng bất bình về ta không.

Nghe vua nói vậy, một cận thần thừa dịp tâu lên:

– Thưa bệ hạ tuy Người đã suy xét một cách hợp lý nhất để các hoàng tử cùng thoả thuận về đám cưới của công chúa Nourounnihar nào ai biết hoàng tử Ahmed có chấp nhận số phận như hoàng tử Houssain không? Chàng có thể hình dung chỉ mình xứng đáng được hưởng những bệ hạ đáng lẽ ưu tiên cho chàng lại để vấn đề cho số phận quyết định nên chàng chịu bất công.

Ông cận thần ranh mãnh nói thêm:

– Bệ hạ có thể cho rằng hoàng tử Ahmed không thể hiện một sự bất bình nào, nỗl lo sợ của chúng thần là vô ích, chúng thần đã dễ hốt hoảng và gợi ra ở bệ hạ những nghi ngờ về hoàng tử con trai Người là sai và có lẽ không có cơ sở Nhưng thưa bệ hạ, cũng có thể những nghi ngờ ấy có chỗ dựa chắc chắn đấy. Bệ hạ cũng rõ trong một vấn đề tế nhị và quan trọng như vậy phải dựa vào điều chắc chắn nhất. Việc hoàng tử giấu giếm có thể đánh lừa Người và mối nguy cơ còn đáng sợ hơn vì hình như hoàng tử Ahmed ở không xa kinh thành. Thực thế, nếu Người để ý như chúng thần, Người thấy sẽ ngay những lần chàng đến,chàng và tuỳ tùng đều tươi tắn, quần áo của họ, vải phủ ngựa cùng những đồ trang sức ánh lên như vừa trong xưởng làm mới ra. Ngựa cũng không có vẻ vất vả hơn một cuộc đi dạo. Những dấu hiệu hoàng tử Ahmed ngay bên cạnh thật rõ ràng, chúng thần nghĩ nếu không trình với bệ hạ thì chúng thần đã thiếu sót về trách nhiệm bảo vệ Người và quyền lực quốc gia, xin bệ hạ xét xem nếu thấy phù hợp.

Khi viên đại thần kết thúc lời nói dài dòng của mình, nhà vua nói để cắt đứt cuộc trao đổi:

– Dù thế nào ta cũng không nghĩ con trai Ahmed của ta độc địa như các khanh thuyết phục ta. Ta cám ơn những lời khuyên của các khanh, chắc chắn với ý định tốt.

Nhà vua nói như vậy với các cận thần, không để họ biết lời nói của họ có tác động đến tâm trí ngài. Nhà vua cũng không hoảng hốt và quyết định theo dõi hoàng tử Ahmed mà không nói vội tể tướng. Ngài cho gọi mụ phù thuỷ, mụ được đưa vào phòng ngài theo một cánh cửa bí mật. Nhà vua nói:

– Ngươi đã nói đúng khi khẳng định con trai Ahmed của ta không chết và ta chịu ơn ngươi, bây giờ ngươi hãy tạo cho ta một niềm vui khác. Từ khi gặp lại, hoàng tử hàng tháng vẫn đến thăm ta nhưng không nói hiện ở đâu mà ta cũng không muốn buộc chàng phải nói điều bí mật ấy. Ta biết ngươi khá khôn ngoan để thoả mãn sự tò mò của ta mà chàng hay bất cứ một ai trong triều đình cũng không hay biết. Ngươi biết chàng đang ở đây, thường ra về không chào từ biệt ta hoặc một người nào trong triều, ngươi đừng để mất thì giờ ngay hôm nay đón đường hoàng tử xem chàng về đâu và cho ta biết kết quả.

Ra khỏi hoàng cung, mụ phù thuỷ đến ngay chỗ hoàng tử đã tìm thấy mũi tên, giấu mình trong những tảng đá để không ai thấy mình.

Ngày hôm sau hoàng tử Ahmed ra đi từ bình minh, theo thói quen không chào từ biệt vua cha hoặc đại thần nào. Mụ phù thuỷ thấy chàng đi tới, nhìn theo mãi cho đến khi chàng và tuỳ tùng đi khuất.

Thấy những tảng đá hình thành một hàng rào chắn những người trần, người hay ngựa đều không vào được vì dốc đứng, mụ phù thuỷ phán đoán chắc hoàng tử vào trong hang hoặc một căn hầm ngẩm mà các thần tiên xây dựng thành chỗ ở. Nghĩ thế khi thấy hoàng tử và tuỳ tùng mất hút, mụ rời khỏi chỗ nấp đi thẳng lại đoạn hõm họ đi vào, bước đến tận chỗ chia la thành ngõ ngách, nhìn tứ phía, đi đi lại lại nhiều lần. Mặc dù nhanh nhẹn, mụ không thấy có lối nào vào hang, cả cánh cửa sắt hoàng tử thấy trước đây cũng không có. Chính vì cánh cửa ấy chỉ những người đàn ông mới thấy, đặc biệt là những người đàn ông có thể được nàng tiên Pali-Banou có cảm tình còn đàn bà thì không trông thấy được.

Mụ phù thuỷ nghĩ tìm tòi thêm cũng vô ích, đành trở về trình bày với vua về sự phát hiện của mình. Mụ kể lại việc làm của mình và nói thêm:

– Thưa bệ hạ, Người cũng rõ qua những điều đã thấy, thần không khó khán lắm trong việc tìm hiểu hành vi của hoàng tử Ahmed. Bây giờ thì thần chưa nói được gì. Thần muốn để bệ hạ biết rõ mà không nghi ngờ gì được. Thần xin Người cho thời gian và lòng kiên trì và cho phép thần làm mọi việc mà không hỏi gì về cách thức thần dự định tiến hành.

Nhà vua chấp nhận theo yêu cầu của mụ phù thuỷ. Ngài bảo:

– Ngươi được chủ động, cứ đi và làm theo cách ngươi thấy thích hợp. Ta kiên trì chờ đợi những lời hứa hẹn của ngươi.

Để khuyến khích, nhà vua tặng mụ một viên kim cương đắt giá, và nói rằng đó chỉ là món quà trong lúc chờ đợi khen thưởng đầy đủ khi công việc hoàn thành.

Biết hoàng tử Ahmed mỗi tháng về thăm triều đình vua cha một lần, mụ phù thuỷ chờ cho tháng này qua đi. Một vài ngày trước cuối tháng, mụ tới chân tảng đá chỗ mất hút hoàng tử và tuỳ tùng, chờ ở đấy với một kế hoạch dự định tiến hành.

Ngày hôm sau, như thường lệ hoàng tử Ahmed ra khỏi cánh cửa sắt với đoàn tuỳ tùng quen thuộc, đi qua gần mụ phù thuỷ chàng vốn không quen. Thấy mụ nằm đấy đầu tựa vào tảng đá, rên rỉ như người bị đau nặng, chàng thương hại quay lại chỗ mụ ta hỏi đau như thế nào và cần giúp đỡ gì.

Mụ phù thuỷ, không ngẩng đầu lên, nhìn hoàng tử một cách đáng thương tâm, giọng ngắt quãng trả lời như khó thở nói rằng mụ đi từ nhà ra thành phố, giữa đường bị cơn sốt rất nặng, không còn sức phải dừng lại trong tình trạng rất xa dân cư không hy vọng được cứu chữa.

– Này bà – Hoàng tử Ahmed nói – bà không xa nơi cứu chữa như bà tưởng đâu. Để tôi cho bà thấy, rất gần đây cô một chỗ người ta sẽ chữa cho bà, thậm chí rất mau khỏi đấy. Bà dậy ngồi lên phía sau ngựa của một người chúng tôi Nghe hoàng tử Ahmed nói thế, mụ phù thuỷ muốn biết chỗ chàng ở, chàng làm gì và số phận ra sao, nên vờ đau quá cố gắng ngồi dậy nhận ngay việc làm ơn ấy. Cùng lúc đó hai kỵ sĩ nhảy xuống giúp mụ đứng lên đưa lên sau lưng ngựa một người khác. Trong lúc họ lên ngựa, hoàng tử quay lại đi đầu, đến trước cánh cửa sắt có một kỵ sĩ ra bước tới trước. Chàng đi vào, không xuống ngựa bảo một kỵ sĩ vào báo chàng muốn gặp nữ chủ.

Nàng tiên Pari-Banou chạy vội ra, không hiểu vì sao, hoàng tử trở lại sớm thế. Không để nàng hỏi, chàng nói ngay:

– Nữ hoàng của ta, hoàng tử nói vừa chỉ vào mụ phù thuỷ đã được hai người đỡ xuống ngựa, ta mong nàng cũng thương hại bà này như ta. Ta vừa gặp bà ta trong tình trạng đau đớn, và đã hứa sẽ chăm sóc bà ấy lúc đang cần. Ta nhờ nàng, đừng bỏ rơi bà ta.

Nàng tiên nhìn vào người đàn bà nói là đau ốm trong lúc hoàng tử nói, ra lệnh cho hai thị nữ đưa bà ta vào một phòng trong lâu đài và chăm sóc như đối với chính nàng.

Hai thị nữ làm theo lệnh vừa nhận được. Pari-Banou lại gần hoàng tử nhỏ giọng nói:

– Hoàng tử, thiếp hoan nghênh lòng thương người xứng đáng với chàng và nguồn gốc của chàng và thiếp vui lòng đáp ứng với ý định tốt ấy nhưng cho phép thiếp nói với chàng thiếp rất sợ ý định tốt ấy không được đền đáp xứng

đáng. Thiếp thấy người đàn bà này có vẻ không đau ốm như bà ta tỏ ra thế và thiếp rất lầm nếu bà không làm quá đi để làm hại chàng. Nhưng chàng đừng ngại, dù người ta có mưu mô như thế nào để phản lại chàng, cứ tin chắc thiếp sẽ giải thoát cho chàng khỏi mọi cạm bẫy. Chàng cứ đi, tiếp tục hành trình của mình.

Lời nói đó không làm hoàng tử hốt hoảng, chàng lại nói:

– Nữ hoàng của ta, ta không nhớ đã làm hại ai và cũng không có ý định ấy nên nghĩ chẳng có ai muốn làm hại mình, dù sao ta vẫn không thôi làm điều tốt khi có dịp.

Nói xong chàng từ biệt nàng tiên trở lại con đường bị gián đoạn vì mụ phù thuỷ và một lúc sau cùng tuỳ tùng đến hoàng cung. Nhà vua tiếp đón chàng gần như bình thường cố gắng không lộ ra những nghi ngờ các cận thần gây ra cho ngài.

Hai thị nữ theo lệnh nàng tiên đưa mụ phù thuỷ vào một gian phòng đẹp, trang trí sang trọng. Lúc đầu họ để mụ ngồi lên một chiếc xô pha tựa vào gối gấm vàng. Sau đó họ giúp mụ nằm lên giường (vì mụ phù thuỷ vẫn giả vờ đang sất cao mệt mỏi), một người ra ngoài một lúc đưa vào một cốc nước cho mụ trong lúc người kia đỡ mụ ngồi lên.

– Bà uống cốc nước này đi – Thị nữ nói – đây là nước giếng Sư Tử, sốt nào cũng chữa khỏi. Không đầy một giờ bà sẽ thấy tác dụng ngay.

Mụ phù thuỷ muốn giả vờ như thật, phải để đề nghị nhiều lần giả như ghê sợ phải uống thuốc. Cuối cùng mụ cầm chiếc cốc, uống hết nước, vừa lắc đầu mạnh như cố gắng lắm. Khi mụ đã nằm lại, hai thị nữ đắp chăn kỹ cho mụ và người đưa nước uống nói:

– Bà cứ ngủ đi, nếu muốn ngủ. Chúng tôi để bà yên tĩnh, hy vọng khoảng một giờ nữa chúng tôi trở lại thấy bà đã hoàn toàn khỏi bệnh.

Mụ phù thuỷ không phải đến để ốm lâu mà chỉ để thăm dò chỗ ở của hoàng tử và nguyên nhân buộc chàng phải giấu vua cha, thấy mình đã biết khá rõ, muốn nói ngay liều thuốc đã có tác dụng, muốn ra về để báo cáo kết quả với nhà vua. Vì người ta không nói nước có tác dụng ngay nên mụ đành chờ hai thị nữ trở vào.

Hai người thị nữ đến theo giờ đã nói, thấy mụ phù thuỷ đã ngồi dậy trên ghế, mặc quần áo tử tế và đứng lên khi thấy họ bước vào. Mụ kêu lên:

– Chà, nước- thuốc thật hay, có hiệu quả sớm hơn nhiều so với lời các cổ nói, tôi phải nóng lòng chờ, đã đến lúc nhờ các cô dẫn, tôi vào gặp nữ chủ để cám ơn đã được chữa khỏi bệnh như có phép lạ, tôi phải tiếp tục đi.

Hai thị nữ, cũng là các nàng tiên như chủ của họ, sau khi thể hiện vui mừng vì mụ chóng khỏi bệnh, đi trước dẫn đường qua nhiều gian phòng, tất cả đều lộng lẫy, họ vào phòng khách đẹp nhất và trang bị sang trọng nhất –trong lâu đài.

Pari-Banou ở trong phòng khách, ngồi trên một ngai vàng, trang điểm thêm những kim cương, hồng ngọc, ngọc trai kích thước khác thường, bên phải, trái có một số lớn nàng tiên, tất cả đều đẹp tuyệt vời và quần áo lộng lẫy. Thấy bao nhiêu màu sáng chói và oai vệ, mụ phù thuỷ không chỉ loá mắt mà sững sờ cả người, quỳ xuống trước ngai vàng không mở được miệng để cám ơn như đã dự định. Pari-Banou miễn cho mụ khỏi phiền hà, lên tiếng:

– Này bà, ta vui lòng gặp dịp bà phải đến đây và thấy bà đã hồi phục để tiếp tục lên đường. Ta không giữ bà lại nhưng có lẽ bà không phiền lòng được thấy lâu đài của ta. Bà đi với cáo thị nữ của ta; họ sẽ đưa bà đi xem.

Mụ phù thuỷ vẫn sững sờ: quỳ lạy lần thứ hai, trán cúi sát tấm thảm phủ chân ngai vàng chào tạm biệt, không đủ sức và can đảm nói một lời, để hai nàng tiên dẫn đi. Mụ kinh ngạc và luôn miệng tấm tắc khen từng gian phòng, cũng đầy những của cải và vẻ đẹp mà hoàng tử Ahmed đã thấy khi nàng tiên Pari- Banou dẫn chàng đi tham quan lâu đài lần đầu. Điều làm mụ thán phục hơn là sau khi được xem toàn bộ lâu đài, mụ nghe hai nàng tiên nói những gì thấy ở đây chỉ là hình mẫu về sự sống lớn và quyền lực của nữ chủ họ, trong quốc gia mênh mông. Nàng có những lâu đài khác nhiều không kể xiết, tất cả đều kiến trúc kiểu dáng khác nhau không kém phần đẹp lộng lẫy.Vừa nói một số chi tiết họ vừa đưa mụ ra cánh cửa sắt mà hoàng tử đã dẫn mụ vào, mở cửa chúc mụ lên đường mạnh khoẻ và họ chia tay nhau.

Đi mấy bước, mụ phù thuỷ ngoảnh lại quan sát để nhận rõ cánh cửa nhưng vô ích, cửa đã trở thành không trông thấy được đối với mụ cũng như mọi người phụ nữ khác. Mụ đành trở về gặp nhà vua theo đường tắt, khá hài lòng đã đạt yêu cầu. Mụ được đưa vào cửa bí mật của lâu đài. Nghe tin mụ đến, nhà vua đến gặp, thấy nét mặt buồn ngài đoán không có kết quả và nói với mụ:

– Nhìn thấy bà, ta cho rằng chuyến đi của bà không được việc, không làm rõ được điều ta chờ đợi.

– Thưa bệ hạ – mụ phù thuỷ đáp – Người cho phép thần không nói về tâm trạng của thần khi thực hiện việc thần được giao làm vinh dự cho thần mà xin trình bày thật thà những gì thần làm, không bỏ quên đíều gì để xứng đáng với sự uỷ thác của Người và mọi việc đã xảy ra như thế nào. Việc Người thấy nét mặt thần buồn do một nguyên nhân khác chứ không vì công việc không kết quả, mong Người sẽ hài lòng. Thần không nói về nguyên nhân; câu chuyện thần kể sẽ làm Người biết rõ nếu Người bình tĩnh nghe cho.

Mụ phù thuỷ bèn kể với vua Ấn Độ mình đã vờ bị đau ốm ra sao, được hoàng tử Ahmed thương hại, cho dẫn vào một chỗ ở dưới mặt đất, giới thiệu và uỷ thác cho một nàng tiên sắc đẹp không gì trên trần đời sánh nổi chăm sóc mụ. Nàng tiên lệnh cho hai tiên nữ cùng đi phụ trách việc chạy chữa mụ cho đến khi bình phục, thái độ tỏ ra chỉ có từ một người vợ đối với người chồng.

Mụ hơi cường điệu sự ngạc nhiên của mình khi thấy mặt ngoài lâu đài của nàng tiên, cho rằng không lâu đài nào trên đời sánh bằng trong lúc hai tiên nữ xốc tay hai bên người mụ như một bệnh nhân không bước được nếu không có họ hỗ trợ. Mụ kể chi tiết sự sốt sắng của họ giúp đỡ mụ khi ở phòng mụ được đưa vào, cốc nước thuốc họ cho uống và tác dụng chữa khỏi nhanh chóng cũng giả vờ như căn bệnh tuy mụ tin chắc vào hiệu nghiệm của nước thuốc, vào sự uy nghi của nàng tiên ngồi trên ngai vàng trang trí đá quý giá trị hơn hẳn mọi tài sản của vương quốc Ấn Độ. Cuối cùng mụ nói về những của cải vô biên không ước tính được chung cũng như riêng trong lâu đài bao la.

Mụ phù thuỷ kết thúc kết quả về nhiệm vụ của mình và nói tiếp: Thưa bệ hạ, Người nghĩ thế nào về tài sản vô giá của nàng tiên? Có lẽ Người sẽ cho là đáng khâm phục và vui vì vận may của hoàng tử Ahmed con trai người được hưởng thụ chung với nàng tiên. Riêng thần, xin khẩn cầu bệ hạ tha tội cho dám tỏ ra nghĩ khác hẳn, thậm chí sợ có thể hoàng tử sẽ gặp tai hoạ. Và chính vì vậy thần không giấu được nỗi lọ lắng mà Người đã nhận thấy. Thần nghĩ rằng hoàng tử với bản chất tốt tự nhiên, không thể tiến hành việc gì chống lại bệ hạ nhưng ai biết được với sự hấp dẫn, trìu mến và quyền lực đã chiếm được tâm trí chồng, nàng tiên ấy không gợi lên ý định nguy hiểm thay chỗ của bệ hạ, chiếm lấy vương quốc Ấn Độ. Xin Người hết sức lưu ý về một việc quan trọng như thế.

Dù tin chắc vào bản chất tốt đẹp của hoàng tử Ahmed, vua Ấn Độ không khỏi bị lời mụ phù thuỷ tác động. Ngài cho mụ lui xuống vừa nói: “Ta cám ơn ngươi về công khó nhọc và về lời khuyên. Ta biết tầm quan trọng của điều ấy nên không thể giải quyết mà không bàn bạc”.

Khi người ta báo tin mụ phù thuỷ đến, ngài đã trao đổi với những cận thần đã nêu lên những nghi ngờ về hoàng tử con trai ngài. Sau khi mụ phù thuỷ trình bày sự việc, ngài cho gọi họ tới cho họ biết tình hình và cũng nói cả chuyện sợ nàng tiên làm tâm trí hoàng tử thay đổi và nêu chuyện đề phòng việc không hay bằng cách nào.

Một trong những cận thần thay mặt tất cả trả lời:

– Để đề phòng việc không hay, thưa bệ hạ, vì Người biết ai có thể trở thành thủ phạm, vốn đang ở trong triều và Người có quyền làm, Người không nên ngần ngại ít nhất cũng cho bắt giam lại trong ngục tối suốt quãng đời còn lại, thần không muốn nói là giết đi sợ có tiếng vang quá lớn.

Những cận thần khác đồng thanh hoan nghênh ý kiến đó.

Mụ phù thuỷ thấy biện pháp ấy quá tàn bạo, xin phép nói:

– Thưa bệ hạ, thần chắc chắn vì sốt sắng cho lợi ích của bệ hạ mà các đại thần đề nghị Người cho bắt giam hoàng tử Ahmed. Nhưng các vị ấy không thấy khi bắt hoàng tử là đồng thời phải bắt cả những người đi theo chàng mà họ lại là các vị thần. Các vị nghĩ dễ dàng bắt được họ chăng? Với tính chất vốn có họ sẽ biến mất và đi báo với nàng tiên nữ chủ về việc nhục mạ chồng nàng. Nàng tiên sẽ để yên không báo thù ư? Nếu có cách nào đó, ít gây ầm hơn, bệ hạ có thể vạch rõ những ý đồ xấu của hoàng tử Ahmed mà không ai ngờ được ý định của bệ hạ có lẽ phù hợp hơn. Nếu bệ hạ tin lời thần khuyên do những thần tiên có những điều người đời không làm nổi, Người khích hoàng tử nhờ nàng tiên làm điều gì thật cao xa với lý do vì lợi ích chung mà hoàng tử có nhiệm vụ. Ví dụ mỗi lần bệ hạ muốn ra trận, Người buộc phải chi phí rất lớn về cờ, tăng bạt cho cả đoàn quân cả lạc đà, lừa ngựa để hành quân. Phải chăng nên bảo hoàng tử, với của cải chàng có được chỗ nàng tiên, chàng hãy kiếm một lá cờ cầm tay mà phủ được hết đoàn quân. Nếu hoàng tử đem lá cờ đến, ta lại còn bao nhiêu yêu cầu loại ấy có thể đòi hỏi nữa, cho đến lúc chàng lâm vào những khó khăn không thực hiện được, dù nàng tiên đã cướp chàng đi giàu có và sáng tạo đến mức nào. Như vậy chàng sẽ xấu hổ, đành suốt đời ở bên cạnh nàng tiên không dám xuất hiện ngoài đời nữa, bệ hạ không còn lo gì hoạt động của chàng và người ta không thể chê trách Người làm đổ máu một đứa con trai hoặc cấm cố con suốt đời.

Mụ phù thuỷ nói xong, nhà vua hỏi các cận thần có cách gì đề nghị hơn không và thấy họ im lặng, ngài quyết định theo lời khuyên của mụ phù thuỷ, có vẻ hợp lý hơn vả lại điều đó cũng phù hợp với sự nhẹ nhàng ngài vẫn dùng trị nước.

Ngày hôm sau hoàng tử Ahmed đến trình vua cha đang họp bàn với các cận thần, chàng lại ngồi gần nhà vua và sự có mặt của chàng không cản trở hội đồng trao đổi nhiều vấn đề trong một lúc nữa. Sau đó nhà vua lên tiếng nói với hoàng tử:

– Con trai ta, khi con về cất cho ta nỗi buồn sâu sắc vì vắng con lâu ngày, con giữ bí mật nơi con ở, ta hài lòng được gặp lại con và biết con thoả mãn về số phận mình, ta không muốn đi sâu vào điều con muốn giữ kín. Ta không hiểu vì lý do gì con có thể như vậy với một người cha luôn quan tâm đến hạnh phúc của con. Bây giờ ta biết hạnh phúc ấy, ta vui mừng cho con và chấp nhận việc con thành hôn với một nàng tiên xứng đáng được yêu, giàu có và quyền lực đến thế như ta được Người ta báo lại. Ta có quyền lực thật nhưng không thể tạo cho con một cuộc hôn nhân như vậy. Với dòng dõi của con, có ai khác ngoài một người cha như ta mơ ước điều ấy, ta mong con không những sống với ta hiếu thảo như cho đến nay con vẫn làm mà còn dùng tiền nong con có được bên cạnh nàng tiên vợ con để hỗ trợ ta những lúc cần thiết và hôm nay ta muốn con đưa vốn liếng ra thử thách. Con cũng biết chi phí rất lớn, không nói đến sự lúng túng mà tướng tá của ta và cả bản thân ta phải gánh chịu những lần đưa quân ra chiến trường để cung cấp cờ, tàng bạt, lạc đà và những vật chở khí cụ khác. Nếu con quan tâm đến việc làm vui lòng ta, ta chắc con không khó khăn gì nói với nàng tiên cho con một lá cờ nắm trong tay mà che phủ được toàn đoàn quân của ta nhất là khi con cho nàng biết lá cờ đó đành cho ta. Khó khăn của việc đó chắc sẽ không làm con từ chối. Mọi người đều biết thần tiên có quyền lực làm nên những điều kỳ lạ nhất.

Hoàng tử Ahmed không ngờ vua cha đòi hỏi chàng một điều như thế, chàng thấy điều đó có vẻ rất khó khăn nếu không nói không thể được. Thực vậy, tuy chàng biết quyền lực của thần tiên rất lớn nhưng nghi ngờ nàng có thể làm ra một lá cờ như vua đề nghị. Vả lại cho đến lúc đó chàng chưa hề yêu cầu Pari- Banou điều gì. Chàng chỉ hài lòng về những cử chỉ luôn luôn yêu chàng say mê, không quên xác định đền đáp lại nàng hết lòng, không nghĩ đến lợi ích gì khác ngoài việc giữ gìn trân trọng lòng quý mến ấy. Vì vậy chàng rất lúng túng khi trả lời:

– Thưa bệ hạ, con giữ km việc đã xảy ra với con và xung quanh, trường hợp con đã tìm được mũi tên vì con thấy không cần thiết trình bày rõ với Người. Con không rõ do đâu mà bí mật ấy được báo cáo với bệ hạ con không giấu giếm điều người ta nói là sự thực. Con là chồng của một nàng tiên, con yêu nàng và chắc chắn nàng cũng yêu con. Nhưng về tiền nong con có được từ nàng như bệ hạ nghĩ thì con không thể nói gì được. Vì không chỉ con không sử dụng mà con cũng không hề có ý nghĩ đó và con mong Người miễn cho con đụng chạm tới, để cho con hưởng niềm hạnh phúc yêu và được yêu, không quan tâm đến việc gì khác. .Nhưng điều mà một người cha yêu cầu là mệnh lệnh đối với một đứa con trai như con, con cho là có nhiệm vụ phải vâng lời về mọi việc. Mặc dù con rất chán ngán việc đó, con sẽ đề nghị với vợ con làm theo yêu cầu của bệ hạ nhưng con không dám hứa là sẽ có. Và nếu con không được vinh dự đến thăm Người thì đó là dấu hiệu con không đạt hiệu quả mong muốn, xin bệ hạ gia ân tha thứ cho con trước và xem như Người đã đưa con đến tình trạng cuối cùng ấy.

Nhà vua lại nói với hoàng tử:

– Con trai, ta rất phiền lòng vì yêu cầu của ta gây cho con không vui và có thể ta sẽ không được gặp lại con. Ta thấy rõ con không biết đến quyền một người chồng đối với vợ, vợ con tỏ ra chỉ yêu con rất ít nếu nàng từ chối một việc không là gì đối với quyền lực của nàng mà con yêu cầu vì yêu mến ta. Con bỏ lối dè dặt đi, chỉ do con nghĩ không được yêu như con yêu thôi. Con cứ đề nghị và sẽ thấy nàng tiên yêu con hơn con nghĩ và nên nhớ do không yêu cầu, người ta sẽ thiệt thòi nhiều lợi thế lớn. Con cứ suy ra, nếu nàng đòi hỏi gì con sẽ không từ chối vì con yêu nàng thì nàng cũng không từ chối điều gì con yêu cầu vì nàng yêu con.

Lời nói của nhà vua không thuyết phục được hoàng tử Ahmed. Chàng muốn người ta đòi hỏi chàng điều gì khác hơn là làm mất lòng Pari-Banou thân yêu của chàng. Cảm thấy buồn, chàng rời hoàng cung sớm hơn thường lệ hai ngày. Gặp chồng, nàng tiên cho đến nay bao giờ cũng thấy chàng về với mình nét mặt hoan hỉ, hỏi về nguyên nhân sự thay đổi đó. Thay vì trả lời, chàng hỏi thăm sức khoẻ của nàng với thái độ cho thấy chàng không muốn cho biết. Nàng nói:

– Thiếp sẽ trả lời câu hỏi của chàng khi nào chàng trả lời câu hỏi của thiếp.

Hoàng tử chống chế khá lâu nói rằng không có việc gì nhưng chàng càng giấu giếm nàng càng hối thúc.

– Thiếp không thể nhìn chàng trong tình trạng này – Nàng nói – Chàng hãy nói điều gì làm mình phiền lòng để thiếp xoá bỏ nguyên nhân dù đến thế nào: chắc điều phải thật khác thường nếu không phải là cái chết của phụ hoàng. Nếu thế thiếp sẽ cố giúp phần và thời gian sẽ an ủi chàng.

Hoàng tử Ahmed không thể chống chế lâu hơn trước sự gặng hỏi nhiệt tình của vợ. Chàng nói:

– Nàng ạ, Chúa kéo dài cuộc sống của vua cha và ban phúc cho Người đến suốt đời? Ta từ biệt Người khi Người đầy sức sống và hoàn toàn khoẻ mạnh, không phải vì điều đó mà ta buồn. Chính bản thân phụ hoàng là nguyên nhân làm ta rất chán ngán vì Người buộc ta phải quấy rầy nàng. Trước hết, nàng biết là ta cẩn thận giấu Ngựời về hạnh phúc ta được gặp nàng, yêu nàng và nhận ân huệ, tình yêu của nàng, chúng ta cùng đưa lại niềm tin cho nhau nhưng không biết do đâu mà Người biết được mọi chuyện.

Nàng tiên Pari-Banou ngắt lời chàng:

– Còn thiếp, thiếp biết điều đó. Chàng có nhớ điều thiếp đã nói về người đàn bà làm chàng tin bị đau ốm và thương hại: chính bà ta báo với vua cha những gì chàng đã giấu Người. Thiếp đã nói bà ta không đau ốm gì như chàng và thiếp, thật đúng như vậy. Thực thế sau khi uống nước chữa bệnh thị nữ đưa cho mà thực ra không cần dùng, bà ta giả vờ nhờ nước ấy mà khỏi bệnh và vội đến chào từ biệt để ra về nếu thiếp không lệnh cho hai thị nữ đưa bà ta đi xem khắp lâu đài. Nhưng chàng nên tiếp tục đi, xem vua cha buộc chàng quấy rầy thiếp như thế nào, điều mà thiếp cam đoan với chàng thiếp sẽ không hề bị khó khăn gì.

– Nàng có thể nhận thấy cho đến nay, ta rất hài lòng được nàng yêu, ta không xin nàng một ân huệ nào khác. Có một người vợ đáng yêu như vậy ta còn mong gì hơn nữa? Ta cũng biết nàng có quyền lực nhưng nghĩ mình có nhiệm vụ không đưa ra thử thách. Nàng hãy biết cho, ta đoán chắc với nàng, không phải ta mà là vua cha đã thiếu tế nhị yêu cầu nàng cho Người một lá cờ cầm tay mà che kín gió mưa toàn bộ triều đình và đoàn quân của Người khi ra trận. Một lần nữa ta muốn nói, không phải ta mà chính vua cha đề nghị nàng ân huệ đó.

– Hoàng tử thiếp phiền lòng vì một điều nhỏ nhặt như thế đã làm chàng bối rối, tâm trí bị xáo trộn như thiếp thấy. Thiếp thấy rõ hai điều: một là nguyên tắc chàng đặt ra cho mình chỉ yêu thiếp và được yêu, không yêu cầu điều gì phải dùng đến quyền lực của thiếp, hai là theo thiếp nghĩ tuy chàng không nói ra, chàng hình dung yêu cầu của vua cha vượt quá khả năng của thiếp. Về điều thứ nhất thiếp hoan nghênh chàng, càng yêu chàng hơn nếu có thể. Điều thứ hại, thiếp chẳng phiền phức gì để chàng biết đấy chỉ là một việc vặt, có dịp thiếp còn có thể làm việc khác khó hơn. Chàng hãy bình tâm nghỉ ngơi, hãy tin rằng thay vì bị quấy rầy, thiếp luôn rất vui lòng thoả mãn những điều gì chàng mong muốn vì tình yêu của thiếp đối với chàng.

Nói xong nàng tiên cho gọi người trông nom kho. Người coi kho đến, nàng tiên bảo: “Nourgihan (tên người coi kho), đem đến cho ta lá cờ lớn nhất trong kho . Một lúc sau Nourgihan trở lại, đưa lá cờ tới không chỉ cầm trong tay mà có thể nắm kín trong tay, nữ chủ cầm lấy đặt vào trong tay hoàng tử.

Ahmed nghe Pari- Banou bảo lấy trong kho lá cờ lớn nhất, chàng nghĩ nàng muốn chế nhạo mình, nét mặt và thái độ tỏ vẻ ngạc nhiên. Nàng tiên thấy vậy phá lên cười:

– Sao? Hoàng tử tưởng thiếp chế nhạo chàng ư? Chàng sẽ thấy thiếp không đùa đâu! Nourgihan – nàng vừa nói vừa lấy lại lá cờ trong tay hoàng tử đưa cho người coi kho – hãy giương lá cờ lên để hoàng tử xem vua cha của chàng có cho là bé hơn yêu cầu không.

Người coi kho ra khỏi lâu đài, đi khá xa để khi đường lá cờ đầu cờ đến một phía bên lâu đài. Hoàng tử nhận thấy ngay lá cờ không phải bé hơn mà lớn đến mức che kín được cả hai đoàn quân của vua cha. Chàng bèn nói:

– Nữ hoàng, ta xin lỗi vì đã hoài nghi. Theo như ta thấy, ta nghĩ không có điều gì nàng muốn làm mà không được.

– Chàng xem – Nàng tiên bảo – lá cờ lớn hơn sự cần thiết. Nhưng chàng chú ý nó có đặc tính căng rộng thêm hoặc thu nhỏ lại phù hợp với kích cỡ cần che mà người ta không phải bỏ tay vào.

Người coi kho bỏ lá cờ xuống, thu nhỏ như ban đầu và đặt vào tay hoàng tử. Ahmed cầm lấy và ngày hôm sau, không chần chừ lâu, lên ngựa có tháp tùng như thường lệ, đưa đến cho phụ hoàng.

Nhà vua chắc chắn một lá cờ như ngài đòi hỏi vượt ra ngoài mọi khả năng, ngài rất ngạc nhiên thấy con trai mau chóng trở lại. Ngài nhận lá cờ, khen nó nhỏ gọn, sửng sốt khó định thần khi cho căng rộng biết rằng hai đoàn quân lớn như của ngài có thể được che kín thừa thãi. Thấy ngài cho như thế khó sử dụng, hoàng tử Ahmed báo với ngài độ che phủ bao giờ cũng cân đối phù hợp với đoàn quân.

Bề ngoài nhà vua tỏ ra cảm động vì hoàng tử đã cho ngài một món quà quý giá, nhờ chàng cảm ơn nàng tiên và sai người đưa vào giữ cẩn thận trong kho. Nhưng trong thâm tâm ngài ghen tức dữ dội hơn những cận thần nịnh bợ và mụ phù thuỷ đã gợi lên nghĩ rằng con trai ngài nhờ nàng tiên có thể làm những việc cao hơn nhiều so với dòng dõi mình tuy đã lớn mạnh và giàu có. Vì thế ngài càng tích cực hơn trong việc tìm cách tiêu diệt hoàng tử. Ngài hỏi ý kiến mụ phù thuỷ, mụ khuyên nên đòi hỏi hoàng tử đưa nước giếng Sư Tử về.

Buổi chiều trong lúc họp triều thần như thường lệ, có hoàng tử Ahmed tham dự, ngài bảo hoàng tử:

– Con trai, ta đã chịu ơn con về lá cờ con tặng, xem như vật quý nhất trong kho hoàng cung, vì thương mến ta con hãy làm cho ta một việc khác ta không kém phần thích thú. Ta được biết nàng tiên vợ con dùng loại nước ở giếng Sư Tử chữa khỏi mọi căn bệnh nguy hiểm nhất. Sức khoẻ của ta đối với con là trọng, ta chắc con sẵn lòng xin cho ta một thùng, đem về cho ta làm thuốc quý khi cần. Con hãy giúp ta việc quan trọng này, để tâm huyết vào đó như của một đứa con hiếu thảo đối với cha.

Hoàng tử Ahmed nghĩ vua cha đã hài lòng vì có lá cờ đặc biệt và rất có ích, sẽ không giao một nhiệm vụ khác có thể phiền hà đến Pari-Banou, chàng sững sờ vì yêu cầu này tuy nàng đã đảm bảo làm mọi việc cho chàng theo quyền lực của mình. Sau một lúc im lặng, chàng nói:

– Thưa bệ hạ, con khẩn cầu Người tin rằng con sẵn sàng làm mọi việc để góp phần kéo dài tuổi thọ của Người nhưng con mong không có sự can thiệp của vợ con, vì vậy con không dám hứa sẽ mang về loại nước ấy. Tất cả những gì con có thể làm là con sẽ đề nghị với nàng nhưng con cũng thật khổ tâm như con đã nêu ra chuyện lá cờ.

Ngày hôm sau hoàng tử Ahmed trở về bên cạnh nàng tiên Pari- Banou, thành thật kể lại việc mình làm ở triều đình khi trình diễn lá cờ, nhận được lòng biết ơn vô cùng đối với nàng và cũng nói về yêu cầu mới của vua cha. Kết thúc câu chuyện, chàng nói thêm:

– Nữ hoàng của ta, ta nêu ra điều đó như kể chuyện lại với nàng về việc xảy ra giữa phụ hoàng và ta, phần còn lại thuộc về nàng, thoả mãn lời đề nghị của Người hay bỏ đi tuỳ theo ý nàng, ta chỉ muốn như lòng nàng muốn.

– Không, không – Pari-Banou nói – thiếp rất vui khi biết vua cha thấy chàng không thờ ơ với thiếp. Thiếp muốn làm Người hài lòng và vì mụ phù thuỷ khuyên Người những gì (thiếp thấy rõ Người nghe lời mụ), Người sẽ không trách cứ được chàng và thiếp. Có sự độc ác trong lời yêu cầu đó.Giếng Sư Tử ở giữa sân một lâu đài có bốn con sư tử mạnh nhất canh cửa lần lượt hai con ngủ hai con thức. Nhưng chàng đừng sợ hãi, thiếp sẽ chỉ cho chàng cách đi giữa chúng không gặp nguy hiểm gì.

Nàng tiên lúc đó đang may vá, bên cạnh có những cuộn chỉ nàng cầm lấy một cuộn đưa cho hoàng tử:

– Trước hết – Nàng nói – chàng cầm lấy cuộn chỉ này, thiếp sẽ bảo chàng cách sử dụng. Thứ hai chàng cho chuẩn bị hai con ngựa, một chàng cưỡi lên và một dắt tay mang một con cừu giết thịt từ hôm nay chia làm bốn phần. Thứ ba chàng cầm một chiếc thùng thiếp sẽ đưa để lấy nước. Ngày mai vào sáng sớm chàng lên ngựa vừa dắt con ngựa kia, khi ra khỏi cánh cửa sắt chàng vứt cuộn chỉ ra trước mặt; cuốn chỉ sẽ lăn đi đến tận cổng lâu đài. Chàng đi theo đến đấy, hai con thức canh phòng sẽ đánh thức hai con đang ngủ ngáy râm ran. Chàng đừng sợ, ném cho mỗị con một phần cừu, nhưng phải nhớ không xuống ngừa. Làm xong chàng thúc ngựa, nhanh nhẹn lại bên giếng múc nước đầy thùng, cũng không xuống ngựa, phi trở ra nhanh. Những con sư tử mải ăn sẽ để chàng tự do đi qua.

Hôm sau hoàng tử ra đi theo lời nàng tiên dặn, thực hiện từng điểm một theo lời nàng. Đến cổng lâu đài chàng ném bốn chân cừu cho bốn con Sư tử, rồi dũng cảm phóng qua chúng, ,vào sát giếng múc nước và trở lại, bình yên ra khỏi lâu đài. Khi đã hơi xa, ngoảnh lại nhìn chàng thấy hai con sư tử chạy theo mình; chàng rút gươm sẵn sàng tự vệ. Nhưng thấy một con quay lại lắc đầu và đuôi tỏ ra không phải đến làm hại chàng mà để đi trước chàng còn con kia ở lại phía sau đi theo. Chàng tra gươm vào vỏ tiếp tục đến kinh thành, có hai con sư tử tháp tùng cho đến cổng hoàng cung rồi trở lại con đường cũ làm một phần dân chúng sợ hãi chạy trốn đề khỏi gặp chúng tuy chúng bước đều không có biểu hiện nào hung dữ.

Nhiều quân lính chạy tới giúp hoàng tử xuống ngựa, đi theo chàng đến hoàng cung nơi nhà vua đang hội họp với cận thần. Chàng tiến lại gần ngai vàng, đặt thùng nước trước chân vua cha, hôn tấm thảm phủ bậc lên xuống rồi đứng dậy nói:

– Thưa phụ hoàng, đây là nước chữa bệnh Người muốn đưa vào làm những vật quý hiếm làm dồi dào kho tàng hoàng cung. Con kính chúc phụ hoàng luôn luôn dồi dào sức khoẻ để không bao giờ phải dùng đến nó.

Hoàng tử nói xong, vua bảo ngồi vào bên phải mình và nói:

– Con trai, ta chịu ơn con về quà tặng của con càng nhiều khi con phải đối mặt với nguy hiểm vì tình thương yêu ta. (Ngài đã được mụ phù thuỷ bẩm báo về giếng Sư Tử và mối nguy hiểm khi đi lấy nước). Con cho ta biết con đã khôn khéo như thế nào, đúng hơn là do sức mạnh không ngờ được nào mà con vẫn an toàn.

– Thưa phụ hoàng – Hoàng tử trả lời – con không có được một phần nào về lời khen của Người mà hoàn toàn do nàng tiên vợ con, con chỉ nghe theo lời khuyên của nàng.

Chàng kể lại việc bố trí của vợ và chàng đã làm như thế nào. Nghe hoàng tử nói xong, nhà vua đã tỏ rõ sự vui mừng nhưng trong lòng sự ghen tị ấy vẫn càng tăng thêm, ngài đứng dậy vào bên trong lâu đài gặp mụ phù thuỷ được ngài cho gọi đến.

Mụ phù thuỷ qua tiếng đồn biết kết quả hoàng tử đưa về liền nghĩ ra một mưu mô khác chắc chắn thành công như mụ nghĩ. Mụ trao đổi cách đó với nhà vua và ngày hôm sau trong cuộc họp hội đồng triều thần có mặt hoàng tử Ahmed, nhà vua nói vói hoàng tử:

Con trai, ta chỉ còn một điều xín con, sau đó ta không buộc con vâng lời nữa, cũng không đòi hỏi đến tiền nong của nàng tiên vợ con. Đấy là dẫn đến cho ta một người đàn ông biết nói cao không đến một bộ rưỡi, bộ râu dài ba mươi bộ, mang trên vai một thanh sắt nặng năm trăm li-vrơ mà ông ta dùng như một chiếc gậy hai đầu .

Hoàng tử Ahmed không tin trên đời có một người như thế, muốn từ chối nhưng nhà vua nằng nặc yêu cầu, nói rằng nàng tiên có thể làm những điều không tưởng tượng được.

Ngày tiếp theo hoàng tử trở về vương quốc trong lòng đất của Pari-Banou, nói về yêu cầu mới của vua cha mà chàng xem còn không thể có được như hai lần trước.Chàng nói:

– Ta không thể hình dung trên đời có thể có loại người như thế. Chắc Người. muốn thử xem ta có chịu đi tìm không hoặc nếu có thì ý đồ của Người là muốn tiêu diệt ta. Thực thế, làm sao Người có thể cho rằng ta bắt được một người bé nhỏ như vậy và trang bị vũ khí theo cách đó? Ta phải dùng những biện pháp nào để có thể chinh phục một người như thế vâng theo ý muốn của ta được? Nếu có thề, mong nàng gợi ý cho ta cách thoát khỏi mưu kế thâm hiểm này một cách vinh dự.

– Hoàng tử của thiếp đừng hoảng hốt. Đi lấy nước ở giếng Sư Tử còn phải trải qua nguy hiểm nhưng tìm người này không phải lo ngại gì. Người ấy là anh thiếp, Schalbar, không giống thiếp tí nào tuy cùng là con một cha, bản chất rất dữ tợn, không có gì ngăn cản được anh ấy hành động đổ máu nếu người ta làm anh phật lòng hoặc xúc phạm anh. Ngoài ra anh là người tốt nhất trên đời và bao giờ cũng sẵn sàng giúp mọi điều người ta mong muốn. Anh ấy đúng như Vua cha đã tả, vũ khí chỉ là thanh sắt nặng, không có nó không bao giờ anh bước đi và anh ấy dùng nó để mọi người kính trọng. Thiếp sẽ mời anh ấy đến nhưng trước hết, chàng phải chuẩn bị tinh thần để khi gặp không sợ hãi về khuôn mặt khác thường của anh ấy.

– Nữ hoàng của ta – Hoàng tử Ahmed lại nói – Schaibar là anh của nàng? Dù xấu xí và hình dạng như thế nào, thay vì sợ hãi khi gặp anh, ta sẽ làm cho anh ấy thương yêu ta và là người thân cận nhất của ta.

Nàng tiên cho đưa vào tiền sảnh lâu đài một lò lửa và một chiếc hộp. Nàng lấy từ hộp ra một loại hương vị thơm vứt vào bếp lò, một làn khói dày bốc lên.

Một lúc sau nàng nói với hoàng tử:

– Hoàng tử, anh thiếp đến đấy, chàng có thấy không?

Hoàng tử nhìn kỹ, nhận ra Schaibar, cao một bộ rưỡi, nghiêm trang bước tới với thanh sắt nặng năm trăm li-vrơ trên vai, bộ râu dài ba mươi bộ vươn ra phía trước, ria mép cân đối vòng lên đến tai che hầu hết khuôn mặt, đôi mắt lợn hõm sâu trong chiếc đầu đồ sộ đội một chiếc mũ nhọn.

Thêm vào đó, ông ta gù người cả trước và sau.

Nếu hoàng tử Ahmed không được biết trước Schaibar là anh của Pari-Banou, chàng không thể không sợ hãi khi gặp. Yên tâm vì mối quan hệ đó, chàng vững vàng chờ ông ta đến và tiếp đón ông không một biểu hiện yếu đuối nào.

Schalbar vừa tiến đến vừa nhìn hoàng tử với con mắt làm chàng lạnh toát người, chào Pạri-Banou và hỏi người này là ai nàng trả lời:

– Thưa anh đây là chồng em, tên là Ahmed, con trai nhà vua Ấn Độ. Lý do em không mời anh đến dự hôn lễ là không muốn làm anh lỡ việc đang tiến hành mà em rất vui biết anh trở về thắng lợi. Vì vậy em đã tự tiện gọi anh đến.

Nghe nói thế Schaibar nhìn hoàng tử với con mắt duyên dáng hơn tuy không giảm kiêu ngạo và thái độ dữ tợn. Ông ta bảo:

– Em gái, ta có thể giúp chàng việc gì? Chàng cứ nói. Chỉ cần là chồng em, ta có trách nhiệm làm chàng vui lòng về những gì mong muốn.

– Vua cha của chàng – Pari-Banou lại nói – tò mò muốn gặp anh, em đề nghị anh để chàng đưa đi.

– Chàng cứ đi trước, ta sẵn sàng theo chàng.

– Thưa anh, hôm nay đi thì đã muộn, xin anh lùi lại sáng mai. Vả lại anh cũng cần biết giữa nhà vua và hoàng tử đã xảy ra những gì từ khi chúng em thành hôn với nhau, tối nay em sẽ nói rõ hơn.

Hôm sau, Schaibar đã biết tình hình, ra đi sớm có hoàng tử Ahmed đi cùng để giới thiệu ông ta với nhà vua. Họ vừa xuất hiện ở cổng thành những người trông thấy sợ hãi vì một người xấu xí đến thế, trốn vào cửa hàng hoặc trong nhà khép cửa lại, những người khác bỏ chạy gây lo sợ cho những người khác cũng bỏ chạy theo không dám nhìn lại phía sau. Vì thế trong lúc Schaibar và hoàng tử thong thả bước tới, họ thấy vắng lặng trên mọi đường phố, quảng trường cho đến tận hoàng cung. Những người gác cổng thay vì ngăn cản Schaibar vào, đã bỏ chạy hết để cổng hoàng cung bỏ ngỏ. Hoàng tử và Schalbar tiến vào đến phòng họp không gặp trở ngại gì, thấy nhà vua đang ngồi trên ngai vàng, quân bảo vệ đã bỏ chạy không có ai cản trở họ.

Schaibar ngẩng cao đầu, lại gần ngai vàng và không chờ hoàng tử giới thiệu, hỏi nhà vua:

– Người đã muốn gặp thì có tôi ở đây, Người muốn gì ở tôi?

Nhà vua đáng lẽ trả lời thì đưa tay bịt mắt quay đầu về phía khác để không thấy một vật đáng sợ như vậy. Schaibar tức giận vì cách tiếp đón bất lịch sự ấy và bực bội vì đã cất công đến đây, giơ chiếc gậy sắt quát:

– Nói đi chứ? – Vừa nói ông ta vừa giáng gậy sắt vào đầu nhà vua làm ngài chết ngay. Ông ta đánh ngay làm hoàng tử Ahmed không kịp chặn lại. Chàng chỉ có thể ngăn cản ông ta đánh luôn vị tể tướng ngồi bên phải vua, chàng phải nói đấy là người đã cho vua những lời khuyên tốt Schaỉbar hỏi:

– Thế những người này khuyên vua làm những điều xấu à?

Vừa nói ông ta vừa đánh chết những đại thần khác ngồi bên phải, bên trái, tất cả đều nịnh bợ xúi giục nhà vua và là kẻ thù của hoàng tử Ahmed. Bao nhiêu cú đánh là bấy nhiêu người chết, chỉ thoát được những người chưa đến nỗi sợ hãi quá không đứng yên mà vùng chạy trốn khỏi cung vua.

Việc hành quyết khủng khiếp kết thúc, Schaibar ra khỏi gian phòng họp, thanh sắt trên vai, nhìn vị tể tướng đi theo hoàng tử vừa cứu mạng mình.

– Ta biết – Người kỳ dị nói – ở đây có một mụ phù thuỷ còn độc ác hơn những cận thần không xứng đáng ta vừa giết chết, cho người đưa mụ phù thuỷ đến ngay.

Tể tướng vội bảo người đi tìm, người ta dẫn mụ đến và Schaibar vừa dùng gậy đánh vừa nói:

– Này, cứ đưa ra những lời khuyên nguy hại và giả làm người bệnh đi.

Mụ phù thuỷ chết ngay tại chỗ.

Schaìbar nói thêm:

– Chưa đủ đâu, ta sẽ đánh chết dân cả thành phố nếu không tôn xưng ngay hoàng tử Ahmed em rể ta, làm vua của nước Ấn Độ.

Những người có mặt lúc đó nghe thấy thế hô vang:

– Vua Ahmed muôn năm!

Và một lúc sau cả thành phố cùng ho vang như thế và đồng thời là lời tuyên bố hoàng tử Ahmed nối ngôi. Schaibar mặc quần áo vua Ấn Độ cho hoàng tử, đưa chàng ngồi lên ngai vàng và sau khi để triều thần tôn vinh, thề trung thành với nhà vua mới, con người kỳ dị đi dẫn em gái Pari-Banou đến trong không khí rầm rộ, giới thiệu là hoàng hậu Ấn Độ.

Hoàng tử Ali và công chúa Nourounnihar, do không tham gia vào âm mưu chống hoàng tử Ahmed, thậm chí cũng không biết có âm mưu đó, nhà vua mới liền ban lãnh địa là một tỉnh rất lớn có cả thủ đô để họ đến đấy sống trong những ngày còn lại. Nhà vua cũng cho một lính hầu đến gặp hoàng tử Houssain thông báo sự thay đổi vừa xảy ra và cho chàng lựa chọn một tỉnh theo ưa thích làm nơi cai trị của mình. Nhưng hoàng tử cảm thấy hạnh phúc trong cô đơn, nhờ tên lính cám ơn nhà vua em chàng về lòng tốt dành cho chàng, hoàng tử Houssain khẳng định sự thần phục và chỉ xin gia ân cho phép chàng tiếp tục sống ẩn dật ở nơi chàng đã chọn.

Nghìn Lẻ Một Đêm – Chương 42: Hai người chị ghen tỵ và cô em út

Hoàng hậu Scheherasade kể những câu chuyện nối tiếp nhau làm nhà vua Ấn Độ tạm ngưng ý đồ của mình, ngài không biết sẽ giết hay để nàng sống. Hoàng hậu tiếp tục một chuyện mới như sau:

– Thưa bệ hạ, có một hoàng tử Ba Tư tên là Khosrouschah, mới tham gia cai trị vương quốc rất thích những cuộc phiêu lưu về đêm. Chàng thường cải trang cùng một trong những tên lính hầu tin cậy làm tuỳ tùng cũng cải trang như chàng đi khắp các khu trong thành phố. Nhiều lúc họ gặp những trường hợp rất đặc biệt. Thiếp hy vọng bệ hạ vui lòng nghe câu chuyện chàng gặp hôm đầu sau khi được vua cha chết vì già yếu truyền ngôi trị vì vương quốc Ba Tư.

Sau những lễ nghi theo thủ tục nhân sự kiện nối ngôi vua và sau khi chôn cất vua cha, nhà vua mới Khosrouschah muốn tìm hiểu những gì xảy ra trong đời vì tính chàng thích thế hơn là vì nhiệm vụ, ra khỏi hoàng cung vào một đêm lúc hai giờ sáng, có quan tể tướng đi theo cũng cải trang như chàng. Đến một khu dân thường, trên đường ông nghe tiếng nói khá to, chàng lại gần một ngôi nhà sáng đèn nhìn qua khe cửa thấy ba chị em nhà nọ ăn khuya xong đang ngồi trên ghế sô-pha nói chuyện. Theo câu nói của người chị lớn tuổi, nhà vua trẻ biết ngay họ đang trao đổi về ước mong của mình. Người ấy nói:

– Chị mong lấy được chồng là người thợ làm bánh của nhà vua; chị sẽ ăn no nê loại bánh ngon mà người ta gọi là bánh ngon nhất cửa vua. Nào ý thích của các em ra sao?

– Riêng em – Người chị thứ hai nói – em ước muốn là vợ bếp trưởng của nhà vua; em được ăn những thức ăn tuyệt vời và chắc chắn bánh nhà vua rất nhiều trong hoàng cung, em sẽ không sợ thiếu. Chị thấy không – cô nói thêm với chị cả ý thích của em giá trị hơn của chị chứ?

Cô em út rất đẹp và tinh tế, thông minh hơn các chị, đến lượt mình nói:

– Các chị ạ, em không hạn hẹp trong những điều ít ỏi đó, em sẽ bay cao hơn và đã là ước mong, em muốn sẽ là vợ nhà vua. Em sẽ sinh cho Người một hoàng tử có mái tóc một bên vàng, một bên bạc; khi hoàng tử khóc nước mắt rơi xuống là những viên ngọc và mỗi lần cười đôi môi xinh đẹp như một nụ hoa hồng chớm nở.

Những mong ước của ba chị em, đặc biệt của cô em út có vẻ rất đặc biệt đối với vua Khosrouschah nên chàng quyết định làm họ vừa lòng và chàng nói rõ ý định ấy với tể tướng, chàng bảo phải nhớ lấy ngôi nhà để hôm sau đến đưa họ vào cung cả ba người.

Viên tể tướng thực hiện lệnh nhà vua, hôm sau đến bảo ba chị em ăn mặc nhanh chóng để đi yết kiến nhà vua, ông chỉ nói Người muốn gặp họ. Đến hoàng cung họ được đưa vào trình diện, nhà vua hỏi:

– Đêm qua trong lúc vui vẻ các cô ước muốn những gì, ta muốn biết rõ, đừng giấu giếm ta.

Nghe vua hỏi, ba chị em bị bất ngờ, thẹn đỏ mặt. Họ cúi xuống và màu má ửng hồng trang điểm thêm cho cô em út chiếm được lòng nhà vua trẻ. Ngại ngùng và lo sợ câu chuyện của họ làm nhà vua không hài lòng họ im lặng: nhà vua thấy thế nói cho họ yên tâm:

– Các cô đừng sợ, ta không cho gọi các cô đến để gây khó dễ; ta thấy câu hỏi của ta làm các cô sợ ngoài ý định của ta và do biết điều ước muốn của từng người, ta muốn làm cho các cô được toại nguyện. Cô – chàng nói thêm – cô ước được lấy ta làm chồng, hôm nay cô sẽ được thoả mãn; còn hai cô – chàng tiếp tục nói hướng về cô chị cả và chị hai ta cũng cho làm lễ thành hôn với người làm bánh và trưởng đầu bếp phục vụ ta.

Vua tuyên bố xong, cô em út làm gương cho các chị, quỳ xuống chân nhà vua để tỏ lòng biết ơn.

– Thưa bệ hạ – Nàng nói – ước muốn của thần thiếp đã được bệ hạ biết, chỉ là một cách chuyện trò và giải trí; thiếp không xứng đáng với vinh dự bệ hạ ban cho và xin Người tha lỗi cho sự táo tợn của thiếp.

Hai người chị cũng muốn xin lỗi như thế nhưng vua ngắt lời họ và nói:

– Không, không, không sao khác được, ước mong của mỗi người các cô sẽ được thực hiện.

Lễ cưới được tiến hành ngày hôm đó như nhà vua đã quyết định những tổ chức rất khác nhau. Hôn lễ của cô em út rất trang trọng kèm theo những cuộc hoan hỉ phù hợp với việc thành hôn của một vị vua và hoàng hậu Ba Tư còn hôn lễ hai người chị chỉ tưng bừng theo địa vị của những người chồng nghĩa là người làm bánh và trưởng bếp hoàng cung.

Hai người chị cảm thấy rõ rệt sự cách biệt vô biên giữa đám cưới của họ và của cô em út. Thay vì hài lòng về hạnh phúc đến với họ theo ước mong, sự vượt xa hy vọng của họ, do quyết định ấy của nhà vua làm họ ghen tức quá đáng nó không chỉ vẩn đục niềm vui của họ mà gây ra những bất hạnh lớn, nhục nhã và làm phiền muộn nặng nể cho hoàng hậu, cô em út của họ. Lúc đầu họ chưa có thì gỉờ trao đổi về sự lựa chọn của vua như họ nghĩ là mang lại tổn hại cho họ vì phải chuẩn bị cho lễ thành hôn. Nhưng sau đó mấy ngày họ có thể gặp nhau trong một buổi tắm công cộng như đã hẹn. Người chị cả nói với chị hai:

– Thế nào em gái, em nói sao về về cô em út của chúng ta? Phải chăng trở thành hoàng hậu mới là một chuyện thật thú vị?

– Em thú nhận chẳng hiểu ra sao nữa – người chị kia nói – Không rõ nhà vua thấy ở cô ấy có những nét gì hấp dẫn làm quáng cả mắt mà làm như vậy. Cô ta chỉ là một đứa trẻ con, trong tình trạng chúng ta đã thấy. Có phải vì cô ta trẻ hơn chúng ta một ít mà nhà vua không để mắt đến chị? Chị xứng đáng sánh vai với nhà vua hơn và Người phải công bằng thích chị hơn cô ta mới phải.

– Em gái ạ – Người chị cả nói – đừng nói về chị. Nếu nhà vua chọn em thì chị chẳng bàn cãi gì nhưng lại chọn một con bé bẩn thỉu làm chị buồn lòng; chị sẽ trả thù khi có thể và chắc em cũng quan tâm đến việc ấy như chị. Nên mong em cùng với chị làm vì việc này mà chúng ta quan tâm như nhau, chứng ta sẽ bàn với nhau những cách mà mình nghĩ ra để hạ nhục nó.

Sau khi âm mưu với nhau như thế, hai chị em thường gặp nhau, mỗi lần gặp đều bàn về những thủ đoạn có thể vượt qua thậm chí phá hoại hạnh phúc của cô em út họ. Họ vẽ ra nhiều cách nhưng bàn thực hiện, họ lại thấy nhiều khó khăn lớn không dám làm liều. Tuy vậy thỉnh thoảng họ vẫn cùng nhau đến thăm em, giấu giếm ý đồ đáng kết tội của mình, hết sức tỏ ra thân mật để làm cô em tin chắc họ rất phấn khởi có một cô em ở địa vị cao sang như thế. Về phần mình hoàng hậu luôn tiếp đón họ trân trọng, không cao điệu và vẫn không bớt thương yêu các chị như trước đây.

Mấy tháng sau khi cưới hoàng hậu nhận thấy mình mang thai; nhà vua rất vui mừng và niềm vui ấy không chỉ trong hoàng cung mà lan rộng ra khắp các khu phố ở kinh thành Ba Tư. Hai người chị đến chúc mừng và bàn tính về bà đỡ giúp việc sinh nở, họ ngỏ ý với hoàng hậu đừng chọn ai khác ngoài họ. Hoàng hậu cám ơn họ, và nói:

– Các chị, em không mong gì hơn như các chị nghĩ, nếu việc lựa chọn thuộc về em hoàn toàn, em sẽ vô cùng cám ơn lòng tốt của các chị nhưng em không thể không tuân theo lệnh của nhà vua. Tuy vậy mỗi chị nên làm thế nào để chồng các chị nhờ bạn bè xin nhà vua gia ân cho như vậy và nếu nhà vua nói với em điều đó, các chị cứ tin rằng em sẽ tỏ ra vui sướng và còn cám ơn Người về sự lựa chọn các chị làm việc đó.

Hai người chồng mỗi người nhờ những cận thần đỏ đầu của mình, khẩn cầu họ xin nhà vua cho vợ họ được vinh dự họ mong muốn; các cận thần ra sức nỉ non với nhà vua kết quả là nhà vua đã hứa sẽ nghĩ đến điều ấy vua giữ lời hứa và trong một buổi trao đổi với hoàng hậu, nhà vua bảo theo chàng hai bà chị có vẻ thích hợp trong việc giúp đỡ hoàng hậu lúc sinh hơn mọi bà đỡ nào khác nhưng chưa muốn chỉ định khi chưa được hoàng hậu đồng tình. Hoàng hậu nhạy cảm về sự tôn trọng của vua, tỏ rõ lòng biết ơn và nói:

– Thưa bệ hạ. Thiếp chỉ làm theo lệnh của bệ hạ. Người đã có lòng tốt để mắt đến hai chị của thiếp, thiếp rất cám ơn sự chiếu cố đó vì tình thương yêu thiếp và thiếp không giấu giém rằng thiếp vui lòng nhờ họ hơn những người lạ.

Vậy là vua Khosrouschah cử hai người chị hoàng hậu làm bà đỡ, từ đó cả hai vào cung, rất vui mừng có dịp mong muốn để thực hiện mưu mô độc ác đối với cô em út.

Ngày sinh đã tới, hoàng hậu may mắn có một hoàng tử xinh như mộng. Sắc đẹp và sự non nớt của đứa bé cũng không thể khiến lòng hai người đàn bà vô lương tâm cảm động hoặc thương hại. Họ bọc đứa trẻ sơ sinh khá cẩu thả, bỏ vào một chiếc giỏ thả trên dòng nước một con suối chảy qua nhà hoàng hậu, đem một con chó nhỏ đã chết thay thế nói rằng do hoàng hậu sinh ra. Tin xấu ấy được báo lên vua; nhà vua tức giận suýt giết chết hoàng hậu nếu vị tể tướng không can ngăn nhà vua không nên bất công bắt hoàng hậu chịu trách nhiệm về những kỳ quặc của tự nhiên.

Chiếc giỏ trong đó có hoàng tử nhỏ nằm được dòng nước suối đưa ra khỏi bức tường bao quanh nhà hoàng hậu theo lỗ hổng bên dưới, tiếp tục trôi qua khu vườn thượng uyển. Tình cờ người quản lý khu vườn, một trong những võ quan cấp cao và được coi trọng nhất vương quốc, đi dạo trong vườn dọc con suối. Ông thấy chiếc giỏ bập bềnh trên nước, liền gọi một người làm vườn gần đó chỉ cho và nói:

Anh nhanh tay vớt cho ta chiếc giỏ xem có gì trong đó.

Người làm vườn lại bên bờ suối khéo léo dùng một cây sào kéo chiếc giỏ vào, nâng lên và đưa tới.

Người quản lý khu vườn rất ngạc nhiên thấy một đứa bé trong giỏ tuy vừa mới sinh nhưng có những nét đẹp ưa nhìn. Ông đã lấy vợ từ lâu, rất mong có người nối dõi nhưng trời chưa cho. Ông bỏ cuộc đi dạo, bảo người làm vườn mang giỏ và đứa bé đi theo về nhà mình ngay bên cạnh cổng vườn, vào phòng của bà vợ nói:

– Bà ơi, chúng ta chưa có con và Chúa trời đưa đến cho ta đây. Tôi uỷ thác cho bà, tìm ngay một vú nuôi và chăm nom cẩn thận như con trai chúng ta: bây giờ tôi nhận ra nó là ai rồi.

Bà vợ vui mừng bế đứa bé, rất hài lòng được chăm sóc nó. Người quản lý khu vườn không muốn đi sâu tìm hiểu đứa bé ở đâu ra. Ông tự nhủ:

– Ta thấy rõ nó từ phía nhà hoàng hậu trôi đến nhưng ta không có nhiệm vụ điều tra xem việc gì xảy ra ở đó cũng như không được gây xáo trộn trong một nơi rất cần thiết phải yên ổn.

Năm sau hoàng hậu sinh một hoàng tử khác. Những người chị mất tính người cũng không thương hại đứa bé hơn anh nó. Họ cũng bỏ vào giỏ thả trôi trên dòng suối và nói rằng hoàng hậu sinh ra một con mèo. May mắn cho đứa bé, người quản lý khu vườn ở gần suối, cho vớt lên đưa về cho vợ, dặn chăm nom cẩn thận như đứa đầu. Bà vợ chăm sóc ,chu đáo không kém do ý thích của minh và chiều theo lòng tốt của chồng.

Vua Ba Tư lần này càng giận hoàng hậu hơn lần trước và định phản ứng mãnh liệt nếu vị tể tướng lại không làm cho ngài nguôi đi. Cuối cùng hoàng hậu sinh lần thứ ba, không phải hoàng tử mà một công chúa; cô bé vô tội cũng chịu số phận như hai anh. Hai người chị đáng ghét quyết tầm không dừng tay khi cô em út chưa bị truất ngôi hoặc ít ra là bị đuổi đi và phải bị làm nhục lại thả trôi ở dòng suối. Công chúa được cứu khỏi cái chết chắc chắn cũng do tình thương và lòng nhân hậu của người quản lý khu vườn, và cũng được nuôi dưỡng như hai anh.

Vẫn bản tính vô nhân đạo của hai người chị lần này sự dối trá lừa bịp của họ còn tăng thêm. Họ đưa ra một mẩu gỗ nói là do hoàng hậu sinh ra.

Vua Khosrouschah không nuốt giận được nữa khi được tin lần sinh mới kỳ lạ này. Ngài nói:

– Sao! Người đàn bà không xứng đáng này định sẽ làm đầy quái vật trong cung của ta nếu ta để cho cô ta sống ư? Không, không bao giờ được thế nữa, bản thân cô ta đã là một quái vật, ta phải tẩy rửa khỏi cuộc đời.

Nhà vua tuyên bố lệnh tử hình hoàng hậu và giao cho tể tướng thực hiện.

Quan tể tướng và các cận thần có mặt lúc đó vội quỳ xuống chân nhà vua khẩn cầu rút bỏ lệnh ấy. Quan tể tướng nói:

– Thưa bệ hạ, xin Người cho phép thần được trình bày, lệnh tử hình chỉ dùng trong những tội trạng giết người. Ba lần sinh của hoàng hậu, lạ lùng đến thế, không phải tội giết người. Căn cứ vào đâu có thể quy cho bà góp phần làm việc ấy? Một số lớn phụ nữ thường ngày vẫn sinh nở như vậy; họ đáng thương nhưng không đáng xử phạt. Bệ hạ có thể không ban ân huệ đến bà nữa nhưng nên để bà sống. Sự buồn tủi vì mất ân huệ củn bệ hạ trong những ngày còn lại đã là một hình phạt nặng đối với bà.

Vua Ba Tư bình tĩnh lại thấy kết tội hoàng hậu vì sinh ra những quái thai là bất công thật. Nhà vua phán:

– Thôi được, để cho bà ấy sống nhưng với một điều kiện hàng ngày bà ấy chỉ muốn được chết. Làm cho bà ấy một căn nhà nhỏ ở cổng nhà thờ chính, một cửa sổ mở thường xuyên; nhốt bà vào đấy bắt bà ấy mặc quần áo thô, mỗi người dân đạo Hồi đi qua đấy vào nhà thờ cầu nguyện phải nhổ vào mặt bà ta nếu không cũng bị phạt như thế. Để lệnh được thực hiện nghiêm, ta giao cho ông, quan tể tướng bố trí canh gác.

Giọng nói của vua nêu lên hình phạt này làm vị tể tướng không dám nói nữa. Ông cho tiến hành hình phạt trong sự thoả lòng của hai người chị ghen tức. Căn nhà nhỏ xây dựng xong và hoàng hậu thực sự đáng thương sau lúc sinh bị nhốt vào đó theo cách nhà vua ra lệnh, nhục nhã làm trò cười và chịu sự khinh bỉ của dân chúng. Hình phạt ấy bà không đáng bị xử, nhưng bà kiên trì chịu đựng nên đã đưa lại lời khen và lòng thương cảm của tất cả những người phán xét sáng suốt, công bằng hơn người thường.

Hai hoàng tử và công chúa được người quản lý khu vườn và bà vợ nuôi dạy với tình âu yếm của những người cha mẹ; tình âu yếm đó càng tăng khi công chúa và các hoàng tử càng lớn lên nhất là vì những vẻ đẹp của công chúa. Tính ba anh em ngoan ngoãn, xu hướng tốt đẹp hơn hẳn trẻ con bình thường và có một phong thái nào đó chỉ có thể thuộc về các hoàng tử và công chúa. Để phân biệt anh em, họ gọi tên đứa trẻ đầu là Bahman, đứa thứ hai Pervij, tên những nhà vua Ba Tư cổ. Họ gọi công chúa là Parijađe, tên của nhiều hoàng hậu, công chúa trong vương quốc .

Khi hai hoàng tử đến tuổi, người quản lý khu vườn tìm thầy dạy đọc và viết; công chúa có mặt ở những buổi học tỏ ra rất muốn đọc, viết tuy còn ít tuổi hơn các anh. Người bố nuôi phấn khởi trước tình hình ấy cũng để ông thầy đó dạy cho công chúa luôn. Được khuyến khích, cộng với sự nhanh nhẹn và thông minh một thời gian sau công chúa cũng thành thạo như các anh.

Từ lúc đó ba anh em cùng học chung một thầy về mỹ thuật, địa lý, thơ, lịch sử và các môn khoa học. Cả trong những môn khoa học bí ẩn, họ cũng không thấy có gì khó khăn, mỗi lúc một thêm tiến bộ xuất sắc làm các thầy dạy ngạc nhiên và rồi thú nhận thẳng thắn chẳng bao lâu học trò sẽ đi xa hơn thầy. Trong những tiết nghỉ học công chúa chơi âm nhạc, tập hát và sử dụng nhiều loại nhạc cụ; khi các hoàng tử học đi ngựa, công chúa không muốn thua kém các anh cũng luyện tập với họ nên biết lên ngựa, dẫn dắt ngựa, bắn cung, ném lao cũng giỏi như họ thậm chí thường vượt họ trong các cuộc đua.

Người quản lý vườn thượng uyển vô cùng vui sướng thấy những đứa con nuôi hoàn hảo như thế về thể chất và tinh thần, xứng đáng với chi phí bỏ ra trong việc nuôi dạy vượt xa kinh phí dự trù, thậm chí ông còn chi thêm một khoản nữa rất lớn. Cho đến lúc đó, hài lòng với ngôi nhà đang ở ven khu vườn, ông chưa có nhà nghỉ ở vùng thôn dã. Giờ đây ông mua một trang trại cách thành phố không xa, có nhiều đất trồng trọt, đồng cỏ, rừng cây và thấy ngôi nhà không được đẹp và đủ tiện nghi, ông không tiếc công cho xây dựng lại cho đẹp nhất trong vùng. Hàng ngày ông tới đó đôn đốc một số đông thợ làm việc và khi xong một căn phòng đủ ở, ông ở luôn đấy nhiều ngày những lúc công việc ở triều đình cho phép. Ngôi nhà hoàn thành trong đó người ta trang trí nội thất với những đồ đạc sang trọng nhất phù hợp với vẻ đẹp của ngôi nhà, ông cho bố trí khu vườn theo ý mình như những ông chủ lớn ở Ba Tư thường làm. Ông xây dựng thêm một vườn cây rất rộng bao tường cao thả vào đấy các loại thú rừng để các hoàng tử và công chúa khi thích thì đi săn giải trí.

Khi trang trại đã hoàn chỉnh và ở được, người quản lý vườn thượng uyển đến quỳ dưới chân nhà vua, trình bày đã phục vụ lâu năm, bây giờ già yếu xin vua cho từ chức và lui về nhà. Vua rất hài lòng về quá trình phục vụ của ông từ thời vua cha cho đến đời ngài trị vì vui lòng gia ân, và hỏi có thể khen thưởng ông như thế nào. Người quản lý vườn thượng uyển trả lời:

– Thưa bệ hạ, thần đã nhận được đầy đủ ân đức của bệ hạ và của vua cha đã khuất đến mức chỉ còn muốn chết trong vinh dự của những ân đức ấy.

Ông chào từ biệt vua Khosrouschah rồi về sống ở trang trại vừa xây dựng cùng hai hoàng tử và công chúa; vợ ông đã mất cách đó vài năm. Nhưng rồi người quản lý vườn thượng uyển cũng chỉ sống với họ thêm năm, sáu tháng nữa rồi đột ngột qua đời, không có thì giờ nói một lời về nguồn gốc thật của họ, một việc mà ông đã định làm, nó rất cần thiết để buộc họ sống như từ trước đến nay theo tinh thần và điều kiện của họ, phù hợp với việc giáo dục và xu hướng ông đưa lại cho họ.

Hoàng tử Bahman và Pervij, công chúa PariJade không biết người cha nào khác ngoài người quản lý vườn thượng uyển, thương tiếc ông hết mức và làm mọi nhiệm vụ an táng, phụng thờ ông với tình yêu và lòng biết ơn của những người con đối với cha. Với tài sản lớn ông để lại, họ tiếp tục sống hoà hợp với nhau như trước đây; các hoàng tử cũng không có tham vọng về triều tìm kiếm chức tước và danh giá mà hai chàng dễ dàng đạt được.

Một hôm hai hoàng tử đi săn, công chúa Parijade ở nhà, một bà Hồi giáo sùng đạo, rất già đến trước cổng xin vào nhà cầu kinh vì đã đến giờ. Người hầu vào xin phép công chúa; nàng ra lệnh đưa bà vào, chỉ cho bà nhà nguyện mà người quản lý vườn thượng uyển đã cẩn thận xây dựng bên cạnh nhà vì trong vùng không có nhà thờ. Nàng cũng bảo khi bà già cầu nguyện xong nên đưa bà đi xem cả ngôi nhà, vườn cây rồi dẫn đến gặp nàng.

Bà tín đồ Hồi giáo đi vào, đọc kinh ở nhà nguyện; khi xong, hai người hầu gái đang chờ mời bà đi xem ngôi nhà và khu vườn. Thấy bà tỏ ra sẵn sàng theo họ, hai người đưa bà hết qua phòng này lại đến phòng khác. Trong mỗi phòng bà nhìn mọi thứ đồ đạc và lối bố trí phù hợp với từng nơi lòng đầy khâm phục; họ lại đưa bà ra vườn. Bà thấy cảnh vật thật mới và hoà hợp, liền khen ngợi rằng người bố trí khu vườn phải là bậc thầy về nghệ thuật. Cuối cùng bà được dẫn đến gặp công chúa đang chờ ở phòng khách lớn, hơn hẳn các phòng khác về vẻ đẹp, sạch sẽ và sang trọng.

Thấy bà già vào, công chúa nói:

– Mẹ phúc hậu, bà lại gần đây và ngồi bên cạnh tôi; tôi rất hạnh phúc có dịp tranh thủ một lúc học tập tấm gương tốt và con đường thờ phụng Chúa của một người như bà mà mọi người khôn ngoan đều phải noi theo.

Bà già thay vì lên ngồi trên ghế xô-pha, muốn ngồi ở dưới thềm nhưng công chúa không chịu, đứng dậy đến nắm tay bà buộc đến ngồi cạnh nàng ở vị trí danh dự. Bà già cảm động về phong cách lễ độ ấy.

– Thưa quý cô – Bà nói – Tôi không đáng được đối xử trân trọng như thế, tôi vâng lời chỉ vì cô ra lệnh và cô là chủ trong gia đình.

Khi đã ngồi, trước khi trò chuyện: một trong những người hầu nữ của công chúa đưa lại trước mặt bà và công chúa một chiếc bàn nhỏ, thấp bằng gỗ mun khảm ngọc, bên trên là một chiếc đĩa sứ đầy bánh ngọt và nhiều bình hoa quả trong mùa, mứt khô và nước uống.

Công chúa cầm một chiếc bánh đưa cho bà già, nói:

– Mẹ phúc hậu, bà ăn đi và chọn những quả cây bà thích. Bà cần ăn uống sau khi đi đường đến tận đây.

– Thưa quý cô – Bà già nói – Tôi không quen ăn những thứ ngon lành này nhưng tôi ăn để không từ chối những gì Chúa đưa đến cho tôi do bàn tay hào hiệp của cô.

Trong lúc bà già ăn, công chúa cũng ăn một ít để khuyến khích bà cùng ăn. Nàng hỏi bà về những biện pháp hành đạo của bà và cách sinh sống; bà già trả lời rất khiêm tốn. Tữ chuyện này sang chuyện khác, nàng hỏi bà cảm nghĩ về ngôi nhà và thấy có vừa ý không.

– Thưa quý cô – Bà già trả lời – Phải thật kém thẩm mỹ mới thấy có gì đó phải thay đổi. Ngôi nhà rất đẹp, vui tươi trang trí nội thất hài hoà, việc bố trí không thể làm gì hơn được. Về địa điểm, ngôi nhà ở trên khu đất thoáng đãng và không thể hình dung có một cảnh vườn nhìn ngắm thích hơn khu vườn trong đó. Tuy vậy nếu cô cho phép, tôi không giấu giếm được nói với cô, ngôi nhà sẽ không so sánh được nếu được bổ sung vào ba điều đang thiếu.

– Thưa bà – Công chúa Parijade hỏi – Đó là ba điều gì? Nhờ bà chỉ dẫn cho; nhân danh Chúa tôi đoán chắc với bà sẽ không tiếc nuối gì để tìm cho được nếu có thể.

– Thưa quý cô, điều thứ nhất là con chim biết nói: đây là một con chim đặc biệt tên là Bulbulhejar, còn có đặc tính lôi kéo những con chim trong vùng đến cùng hót theo. Điều thứ hai là cây hay hát, lá cây là miệng tấu lên một hợp âm với những giọng khác nhau không bao giờ ngừng. Cuối cùng thứ ba là loại nước màu vàng nhỏ một giọt vào chiếc bể làm thêm vào một chỗ trong khu vườn, lúc đầu nó làm đầy bể sau đó ở giữa bắn lên thành tia không ngớt vươn cao và rơi lại xuống bể mà không tràn.

– Chà? Mẹ phúc hậu – Công chúa kêu lên- Tôi rất cám ơn bà đã cho biết những điều ấy. Thật kỳ lạ, tôi chưa được nghe nói có vật gì trên đời lạ lùng và đáng ca ngợi hơn. Tôi chắc bà biết chỗ có những vật đó, mong bà làm ơn chỉ cho.

Để làm công chúa thoả mãn, bà già nói:

– Thưa quý cô, tôi sẽ không xứng đáng với lòng mến khách, tốt như thế đối với tôi, nếu từ chối không thoả mãn yêu cầu của cô. Vậy tôi vinh dự được nói, ba vật tôi vừa nói đó ở cùng một chỗ ở biên giới vương quốc về phía Ấn độ. Con đường đến đấy đi qua trước nhà cô; người được cô cử đi chỉ việc theo con đường đấy đi hai mươi ngày và ngày thứ hai mươi hỏi người gặp đầu tiên, con chim biết nói, cây hát và nước vàng ở đâu, người ấy sẽ chỉ cho.

Nói xong bà già đứng dậy xin từ biệt và tiếp tục đi theo đường mình.

Công chúa Parijade tâm trí bận về những lời chỉ dẫn của bà già về ba vật kỳ lạ, chỉ nhận ra bà đã ra đi khi muốn hỏi rõ thêm. Nàng suy nghĩ nếu chỉ nghe nói như vậy mà tiến hành một chuyến đi thì vô ích. Nàng không muốn cho người chạy theo mời bà trở lại mà cố gắng nhớ lại những gì bà đã cho biết. Khi thấy đã không quên điều gì, công chúa rất vui nếu có được những vật tuyệt vời như vậy nhưng nàng đoán sẽ có rất nhiều những khó khăn, sợ không thể có được chúng, nàng đắm mình trong lo âu.

ông chúa Parijade đang triền miên suy nghĩ thì các hoàng tử anh đi săn trở về. Họ vào phòng khách thay vì thấy nàng vui vẻ, cởi mở như thường lệ, họ ngạc nhiên trông thấy nàng đăm chiêu có vẻ buồn, không ngẩng đầu để ít nhất cũng nhận ra có mặt họ.

Hoàng tử Bahman lên tiếng hỏi:

– Em gái, sự vui vẻ và tính hiếu động của em vốn có nay ở đâu rồi? Em có bị ốm không? Có việc gì xảy ra chăng? Vì sao em buồn thế, nói cho các anh biết đi. Các anh phải san sẻ hoặc chữa trị cho em, hoặc sẽ trả thù nếu có kẻ nào xúc phạm đến một người đáng kính như em.

Công chúa ngồi một lúc không trả lời, đưa mắt nhìn các anh rồi cúi xuống ngay sau khi nói không có gì.

– Em gái – Hoàng tử Bahnlan lại nói – Em giấu các anh sự thật. Phải có điều gì đó thậm chí nghiêm trọng. Không thể trong một thời gian ngắn các anh đi ra ngoài, có một sự thay đê lớn, bất ngờ như các anh đang nhận thấy ở em mà lại không có chuyện gì. Các anh không thoả mãn về một câu trả lời như vậy. Em đừng giấu các anh đó là việc gì nếu không muốn để các anh nghĩ rằng em chối bỏ tình cảm thắm thiết và sự gắn bó vững chắc, không thay đổi giữa chúng ta từ hồi còn bé bỏng cho đến ngày nay.

Công chúa còn lâu mới cắt đứt với các anh, không muốn để các anh phải nghĩ như vậy, bèn nói:

– Khi em nói điều làm cho em phiền lòng không có gì là em nói dối với các anh chứ không phải đối với em vì thấy có tầm quan trọng nào đó. Vì các anh ép buộc em nhân danh tình thân và sự gắn bó giữa chúng ta vốn rất quý báu đối với em, em sẽ nói với các anh đó là điều gì. Các anh chắc đã nghĩ, và em cũng nghĩ như các anh, ngôi nhà người cha quá cố xây dựng cho chúng ta mọi mặt đều hoàn hảo, không còn thiếu gì. Tuy thế hôm nay em được biết thiếu ba điều làm cho mọi trang trại trên đời không so sánh nổi với nó. Đó là con chim biết nói cây hay hát và giọt nước vàng – Sau khi giải thích tính ưu việt của ba vật đó, nàng nói thêm: – Do một bà tín đồ Hồi giáo nhận xét với em điều đó, chỉ dẫn chỗ có ba vật ấy và đường đi đến đấy. Có lẽ các anh thấy có thể bỏ qua chuyện ấy đấy là những vật ít hiệu quả không cần thiết bổ sung vào mà ngôi nhà chúng ta vẫn lả một nhà rất đẹp rồi . Các anh nghĩ thế nào tuỳ thích nhưng riêng em, em thấy cần thiết và chỉ hài lòng khi có ba vật ấy ở chỗ chúng ta. Như vậy các anh có quan tâm hay không cũng được nhưng mong hãy giúp em, xem em có nên cử người đi tìm về không.

– Em gái – Hoàng tử Bahman lại nói – Không có gì em quan tâm mà các anh không quan tâm. Chỉ cần em sốt sắng tìm cho được những vật em nói là đã buộc các anh tham gia rồi. Các anh cũng cảm thấy cần hành động và được thoả mãn, anh tin rằng em trai thứ hai cũng vậy và chúng ta cùng bắt tay chinh phục lấy các thứ ấy như em nói. Tầm quan trọng và nét đặc biệt của việc này đáng được gọi thế. Anh đảm nhiệm việc thực hiện, em chỉ cần nói cho anh con đường đi tới đó và địa điểm, anh không lùi cuộc hành trình lại lâu quá ngày mai.

– Thưa anh – Hoàng tử Pervij nói – Anh là chủ gia đình và là chỗ dựa, không nên vắng nhà lâu ngày. Chắc em gái sẽ đồng tình với em mong anh từ bỏ ý định đó để em đi thì tất hơn. Em sẽ hoàn thành việc đó không kém anh và mọi công việc sẽ đúng nề nếp hơn.

– Em trai – Hoàng tử Bahman nói – Anh tin chắc vào lòng tự nguyện của em và em hoàn thành việe đó không kém anh nhưng vấn đề đã được quyết định, anh muốn làm lấy và sẽ làm. Em ở nhà với em gái chúng ta, không cần bàn lại nữa.

Chàng để thì giờ còn lại trong ngày chuẩn bị cho cuộc hành trình và hỏi kỹ công chúa về những lời chỉ dẫn của bà tín đồ để khỏi lạc đường.

Hôm sau từ sáng sớm hoàng tử Bahman lên ngựa; hoàng tử Pervij và công chúa Parijade ra tiễn, ôm hôn anh cả chúc đi đường gặp may mắn. Giữa lúc chia tay, công chúa chợt nhớ ra một điều trước đó chưa nghĩ tới. Nàng nói:

– Thưa anh, em đã không nghĩ đến những rủi ro dọc đường, biết đâu không được gặp lại anh bao giờ nữa? Anh xuống ngựa, đừng đi nữa. Thà em không thấy và sở hữu con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng còn hơn anh gặp nguy hiểm và mất anh.

– Em gái – Hoàng tử Bahman mỉm cười về mối lo sợ của công chúa – Anh đã quyết định rồi và chưa lấy được những cái đó thì anh chưa thôi. Những tai nạn em nói chỉ đến với những người bất hạnh. Đúng là anh có thể trong số đó nhưng cũng có thể là một trong những người may mắn vốn rất nhiều so với những người bất hạnh. Do những tình huống đều không chắc chắn và anh cũng có thể ngã xuống trong việc làm, tất cả những gì anh có thể làm là để lại cho các em một con dao, nó đây.

Hoàng tử rút ra một còn dao đưa cho công chúa và nói:

– Em giữ lấy, thỉnh thoảng rút ra khỏi vỏ xem, nếu thấy lưỡi dao trong sáng như thường là dấu hiệu anh còn sống; nếu thấy có vết máu thì biết là anh đã chết và cầu nguyện cho anh.

Công chúa Parijade không làm gì hơn được. Hoàng tử Bahman trang bị đầy đủ từ biệt nàng và Pervij lần cuối và ra đi. Chàng không rẽ trái rẽ phải, theo đúng con đường tiếp tục đi qua đất nước Ba Tư và ngày thứ hai mươi chàng nhận thấy bên đường một ông già xấu xí ngồi dưới gốc cây tơ gần đấy là căn nhà tranh ông vẫn để ẩn mình trong mưa nắng.

Đôi lông mày trắng như tuyết cũng như mái tóc, ria mép và bộ râu, rủ dài xuống đến đầu mũi; ria mép phủ kín miệng, bộ râu và mái tóc rủ xuống gần tận bàn chân. Móng tay móng chân dài quá thể, trên đầu là một chiếc mũ bằng rất rộng theo hình lọng; quần áo chỉ là một chiếc chiếu bọc quanh người.

Ông già là một ẩn sĩ xa lánh cuộc đời, từ nhiều năm không chăm sóc thân thể chỉ gắn bó với Chúa nên cuối cùng thành người như vậy.

Hoàng tử Bahman suốt buổi sáng đã chú ý quan sát để hỏi về chỗ định đến, tới gần ông già thì dừng lại xem như người đầu tiên mình gặp, xuống ngựa hỏi thăm như bà tín đồ đã dặn công chúa Parijade. Tay dắt ngựa tiến lại chỗ ông già, chàng chào và hỏi:

– Bố phúc hậu, mong Chúa để bố kéo dài tuổi thọ và hoàn thành mọi mong ước của mình!.

Ẩn sĩ trả lời chàng nhưng rất khó nghe nên chàng không hiểu một chữ. Hoàng tử thấy cản trở đó do bố ria phủ kín miệng ông già, không muốn bỏ qua lời chỉ dẫn cần thiết, cầm chiếc kéo đem theo và sau khi buộc ngựa vào một cành cây, lại nói với ẩn sĩ:

– Thưa ẩn sĩ, tôi muốn nói chuyện với cụ nhưng bộ ria mép của cụ làm tôi không nghe được lời. Xin cụ vui lòng để tôi làm, sửa sang râu tóc lại cùng với bộ lông mày che hết mặt mũi làm cụ giống một con gấu hơn là người.

Ân sĩ không phản đối ý định của hoàng tử, để chàng cắt tỉa và khi xong, chàng thấy khuôn mặt ông già sáng sủa trẻ hơn rất nhiều so vội tuổi bèn nói:

– Ân sĩ phúc hậu, nếu tôi có chiếc gương tôi sẽ đưa để cụ xem đã trẻ lại bao nhiêu; bây giờ cụ là một con người mà trước đây người ta không nhận ra được.

Lời vuốt ve của hoàng tử Bahman làm ông già mỉm cườì khen:

– Tên ông, dù ông là ai, tôi biết ơn ông về việc tốt ông vừa làm cho tôi; tôi sẵn sàng tỏ lòng biết ơn đối với ông về mọi việc theo sức mình. Ông từ xa đến chắc có việc cần thiết, hãy cho tôi biết đó là việc gì, nếu có thể tôi cố gắng làm ông hài lòng.

– Thưa ẩn sĩ phúc hậu – Hoàng tử Bahman nói – Tôi từ xa đến, đi tìm con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng. Tôi biết ba vật ấy ở trong vùng này nhưng không biết chỗ cụ thể. Nếu cụ biết xin cụ chỉ đường cho tôi để tôi không lấy nhầm và mất công làm một cuộc hành trình từ xa.

Trong lúc ,nói thế, hoàng tử nhận thấy nét mặt ẩn sĩ thay đổi, cúi mặt xuống, vẻ nghiêm trang và đứng yên không trả lời. Điều đó buộc hoàng tử nói tiếp:

Bố phúc hậu, hình như cụ đã nghe rồi: nhờ cụ nói cho có biết điều tôi đề nghị hay không để khỏi mất thì giờ và tôi đi hỏi chỗ khác.

Cuối cùng ẩn sĩ không nín lặng nữa:

– Tôn ông, tôi biết con đường ông hỏi nhưng tình cảm từ khi gặp ông, càng tăng thêm khi ông giúp tôi sửa sang râu tóc làm tôi ngập ngừng không biết có nên thoả mãn yêu cầu của ông không.

– Lý do gì ngăn cản cụ và những khó khăn gì tôi sẽ gặp phải vậy?

– Tôi nói đây. Mối nguy hiểm ông đương đầu lớn hơn ông nghĩ nhiều. Rất nhiều tôn ông không kém dũng cảm và táo bạo đã đi qua đây và cũng hỏi tôi điều ấy. Sau khi dùng mọi cách để họ quay lại nhưng họ không tin, tôi phải chỉ đường cho họ vì họ nài nỉ, tôi đảm bảo với ông họ đều thất bại và không thấy một ai trở về. Nếu ông còn yêu cuộc sống một ít và nghe lời tôi khuyên thì ông nên quay lại nhà đi.

Hoàng tử cố giữ ý định của mình, nói với ẩn sĩ:

– Tôi tin vào lời khuyên rất thành thật của cụ và xin cám ơn về tình cảm của cụ đối với tôi. Nhưng dù nguy hiểm đến mức nào cũng không làm tôi thay đổi ý định. Nếu có ai đó tấn công tôi, tôi có vũ khí tốt và kẻ đó sẽ không hăng hái, dũng cảm hơn tôi đâu.

– Nếu những kẻ tấn công ông – Ẩn sĩ chỉ rõ- không xuất hiện (vì họ rất nhiều), ông làm sao chống cự lại những kẻ vô hình?

– Bất kể cụ nói thế nào, cụ không làm tôi từ bỏ nhiệm vụ của tôi được. Cụ đã biết đường, một lần nữa xin cụ chỉ dẫn cho, đừng từ chối gia ân cho tôi việc ấy.

Ẩn sĩ thấy không thể thuyết phục tinh thần của hoàng tử Bahman và chàng vẫn kiên quyết hoàn thành cuộc hành trình mặc dù đã được nghe những lời khuyên cứu mạng, ông đưa tay vào chiếc túi bên cạnh mình lấy ra một viên tròn đưa cho chàng:

– Ông đã không nghe và tranh thủ những lời khuyên của tôi, vậy ông hãy cầm lấy viên này, khi lên ngựa thì quăng ra phía trước và theo nó đến chân một quả núi. Khi nó dừng lại đó, ông xuống ngựa để nguyên dây cương trên cổ ngựa, nó sẽ đứng yên chờ ông trở lại. Lên núi ông thấy bên phải, trái rất nhiều tảng đá màu đen và nghe lẫn lộn nhiều giọng chửi rủa để ông ngã lòng, làm sao để ông không lên cao được. Nhưng ông đừng sợ và nhất là không được ngoảnh nhìn lại phía sau, ông sẽ bị biến ngay thành một tảng đá đen giống như những tảng đá ông thấy, những tảng đá đó vốn là những tôn ông đã thất bại như tôi nói. Nếu ông tránh được mối nguy hiểm lớn tôi tả đó và lên đến đỉnh núi, ông sẽ thấy một cái lồng trong đó là con chim ông tìm. Vì nó biết nói, ông hỏi nó cây hay nói và nước vàng ở đâu, nó sẽ chỉ cho. Tôi không dặn gì hơn nữa, đấy là điều ông phải làm và phải né tránh. Nhưng nếu ông tin tôi, theo lời tôi đã khuyên thì không nên dấn thân vào nguy hiểm. Một lần nữa trong lúc còn thì giờ suy nghĩ, ông hãy xem sự mất mát không sửa chữa được ấy gắn liền với điều kiện người ta có thể vi phạm dù không chấp nhận được như ông hiểu.

– Về lời khuyên của cụ vừa nhắc lại mà tôi rất biết ơn – Hoàng tử Bahman nói sau khi nhận viên tròn cụ đưa – Tôi không nghe theo được nhưng tôi cố gắng làm đúng lời dặn của cụ, không ngoảnh lại nhìn phía sau khi bước lên núi và hy vọng cụ sẽ thấy tôi trở lại mang theo những vật mình tìm kiếm và cám ơn cụ rất nhiều.

Nói xong và sau lời chúc của ẩn sĩ, chàng nhảy lên ngựa cúi chào từ biệt và ném viền tròn ra phía trước.

Viên tròn lăn đi, tiếp tục lăn với tốc độ gần như lúc chàng ném, buộc ngựa phải phi nhanh theo để khỏi mất hút. Chàng theo mãi, đến khi nó dừng lại ở chân núi, chàng xuống ngựa bỏ dây cương lên cổ ngựa đang đứng nguyên tại chỗ. Khi nhận ra ngọn núi và thấy những tảng đá đen, chàng bắt đầu leo lên, chưa đầy bốn bước thì những giọng nói vang lên mà không thấy người. Có những tiếng nói: Tên điên khùng kia đi đâu? Nó lên làm gì? Nó muốn gì? Không cho nó đi qua! . Những tiếng khác: Bắt nó lại, túm lấy nó, giết nó đi! . Có những giọng khác vang lên như sấm: Có kẻ trộm! Kẻ ám sát? Giết người? . Ngược lại có những giọng chế giễu: Không, đừng làm hại nó, để cho cậu bé xinh xắn đi qua; thực ra người ta giữ chiếc lồng và con chim cho nó! .

Dù nghe những tiếng nói quấy rầy, hoàng tử Bahman vẫn cố đi lên được một đoạn, quyết tâm và vững vàng tự kiềm chế mình nhưng những giọng nói tăng lên gấp bội, tiếng ồn ào lớn và ngay bên cạnh chàng cả trước cả sau làm chàng bỗng sợ hãi. Chân tay bắt đầu run, chàng lảo đảo, cảm thấy đuối sức và quên hẳn lời dặn của ẩn sĩ; chàng quay lại để đi xuống và ngay lúc ấy biến thành một tảng đá đen, đó chính là sự biến dạng của bao nhiêu người trước chàng muốn đi tìm những vật như chàng; con ngựa cũng cùng chung số phận.

Từ lúc hoàng tử Bahman ra đi, công chúa Parijade vẫn giắt con dao ở thắt lưng để biết anh mình sống hay chết, mỗi ngày rút ra xem nhiều lần. Như vậy nàng yên tâm được biết anh đang mạnh khoẻ và thường trao đổi tình hình với hoàng tử Pervij.

Lần cuối cùng trong cái ngày thê thảm mà hoàng tử Bahman vừa biến thành đá, hoàng tử Pervlj và công chúa theo thường lệ vẫn nói về chàng vào buổi tối:

– Em gái này – Hoàng tử Pervlj bảo – Em rút lưỡi dao ra xem tin tức của anh cả ra sao.

Công chúa rút dao, nhìn vào họ thấy có máu chảy ở đầu lưỡi Hoảng hốt, công chúa ném dao đi kêu lên:

– Ôi? Anh thân mến, thế là em mất anh rồi, do lỗi của em mà không bao giờ chúng em thấy lại anh nữa! Ta thật khốn khổ? Tại sao em lại nói với anh về con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng? Đúng ra thì mặc bà già tín đồ thấy ngôi nhà đẹp hay xấu, hoàn chỉnh hay không hoàn chỉnh? Ích kỷ, lừa đảo, bà trả ơn sự tiếp đón của ta như thế đấy! Vì sao bà nói với ta về ba vật kỳ lạ ấy, tất cả chỉ là ảo tưởng qua cái chết khốn khổ của người anh thân yêu làm tinh thần ta không ngớt rối loạn!

Hoàng tử Pervij cũng không kém đau buồn về cái chết của người anh như công chúa Parijade nhưng không mất thì giờ thương tiếc vô ích, biết rằng em gái vẫn say mê con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng, chàng can thiệp:

– Em gái, chúng ta thương tiếc anh Bahman của chúng ta cũng vô ích: những than phiền, đau đớn của chúng ta không trả lại cuộc sống cho anh ấy được. Đấy là ý muốn của Chúa, chúng ta đành phục tùng ý Chúa mà không đi sâu. vào làm gì. Tại sao bây giờ em lại nghi ngờ lời của bà tín đồ sau khi đã chắc chắn cho là có thật? Phải chăng em nghĩ bà ấy bịa ra để lừa bịp em khi mà em không nêu lên vấn đề và tiếp đón bà trung thực và tốt như vậy? Chúng ta hãy nghĩ anh cả chết do lỗi của anh ấy hoặc vì tai nạn gì chúng ta không hình dung được. Vì thế cái chết của anh cả không cản trở chúng ta tiếp tục theo đuổi cuộc tìm kiếm: anh sẽ tự đi thay thế anh ấy; anh cũng bố trí đúng thế và theo gương anh cả, ý anh không thay đổi và ngày mai anh sẽ lên đường.

Công chúa làm mọi cách để thuyết phục anh đừng đi, bảo rằng. không nên liều mình vào nơi nguy hiểm vì có thể sẽ mất cả hai người anh, nhưng chàng vẫn không lay chuyển. Trước khi ra đi, để em gái biết kết quả về cuộc hành trình như nàng đã theo dõi chuyến đi của anh cả qua con dao để lại, chàng đưa cho em chuỗi hạt ngọc một trăm viên và dặn:

– Em dựa vào chuỗi ngọc để biết tình hình lúc anh đi vắng, nếu những viên ngọc như dính với nhau nghĩa là em không xoay chúng được hoặc không chảy nối tiếp nhau thì đó là dấu hiệu anh đã cùng số phận với anh cả. Nhưng chúng ta hy vọng sẽ không xảy ra điều đó và anh may mắn được gặp lại em, thoả mãn về điều chúng ta mong đợi.

Hoàng tử Pervij ra đi, ngày thứ hai mươi gặp cùng ẩn sĩ ấy ở chỗ hoàng tử Bahman đã gặp. Chàng lại gần chào hỏi và đề nghị chỉ dẫn nơi có con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng. Ân sĩ cũng nêu lên những khó khăn và khuyên răn như đã làm với hoàng tử Bahman, nói cả việc mới đây thôi có một kỵ sĩ trẻ có nhiều nét giống chàng cũng hỏi con đường với mục đích ấy. Do chàng kia nài ép, ông đã chỉ đường, cho phương tiện dẫn đường, dặn những gì cần chú ý để thành công nhưng rồi không thấy trở lại, chắc đã chung số phận với những người đi trước.

– Thưa ẩn sĩ – Hoàng tử Pervij nói – Tôi biết người cụ nói đó: đấy là anh cả tôi và tôi được tin chính xác anh ấy đã chết nhưng không biết chết vì gì.

– Tôi có thể nói với ông – Ân sĩ đáp: – Ông ấy biến thành tảng đá đen như những người tôi vừa nói; ông cũng đề phòng về sự biến dạng ấy nếu không giữ thật đúng những lời tôi dặn. Ông nên từ bỏ ý muốn ấy đi, tôi khuyên ông một lần nữa.

– Thưa ẩn sĩ, tôi không đủ lời nói lên lòng biết ơn đối với cụ đã có chú ý bảo vệ cuộc sống cho tôi tuy tôi là người không quen biết và chưa làm gì xứng đáng với thái độ quý hoá đó. Nhưng xin nói trước khi quyết định tôi đã suy nghĩ kỹ và không thể từ bỏ được. Tôi xin cụ chỉ dẫn cho như đã chỉ dẫn anh tôi, có lẽ tôi sẽ vâng theo tốt hơn.

Vì không thuyết phục được ông, tôi tuổi đã cao không đứng vững được, tôi cho ông viên này làm người dẫn đường cho ông.

Không để ẩn sĩ nói thêm, hoàng tử Pervij xuống ngựa lại gần ông già; ông già vừa rút một viên trong túi còn rất nhiều viên, đưa cho chàng bảo cách sử dụng và sau khi dặn kỹ đừng sợ những tiếng nói không thấy người dù đe doạ đến mấy và lên đến chỗ có chiếc lồng và con chim.

Hoàng tử Pervij cám ơn ẩn sĩ, nhảy lên ngựa ném viên tròn lên phía trước và thúc ngựa đuổi theo. Đến chân núi thấy viên ấy dừng lại, chàng xuống ngựa. Trước khi bước lên, chàng đứng tại chỗ nhớ lại những lời dặn của ẩn sĩ lấy can đảm trèo lên núi, quyết tâm lên đến đỉnh. Vừa lên năm, sáu bước chàng nghe phía sau có tiếng quát rất gần gọi lại và chửi:

– Chờ đã, thằng táo tợn, ta sẽ trừng phạt mày, to gan.

Bị lăng nhục, hoàng tử Pervij quên hết lời dặn của ẩn sĩ, đưa tay rút gươm quay người lại trả thù nhưng vừa kịp thấy chẳng có ai theo mình chàng đã bị hoá đá, cả người và ngựa.

Nghìn lẻ một đêm – Chương 43: Hai người chị ghen tỵ và cô em út (tiếp theo)

Từ khi hoàng tử Pervij lên đường, công chúa Parijade hàng ngày cầm chuỗi ngọc lẩm nhẩm lần từng viên ngọc những lúc không có việc. Suốt thời gian ấy ban đêm nàng vòng chuỗi ngọc quanh cổ, sáng thức dậy tay lần xem những viên ngọc có lăn nối tiếp nhau không. Một hôm, vào lúc hoàng tử Pervij cùng chung số phận như hoàng tử Bahman, bị biến thành đá, nàng đang cầm chuỗi ngọc và lẩm nhẩm nói bỗng cảm thấy những viên ngọc không lăn theo ngón tay mình, nàng chắc chắn đấy là dấu hiệu anh đã chết. Đã quyết định phải làm gì nếu tai hoạ xảy ra, nàng không để thì giờ thở than khóc lóc. Cố trấn tĩnh và ngay sáng hôm sau, cải trang thành đàn ông, trang bị vũ khí đầy đủ, dặn người nhà đi ít ngày sẽ trở về, nàng lên ngựa ra đi theo con đường của hai người anh.

Công chúa Parijade vốn quen cưỡi ngựa đi săn giải trí, chịu đựng mệt nhọc đường trường hơn những phụ nữ khác. Cũng đi nhiều ngày như hai anh, đến ngày thứ hai mươi nàng cũng gặp ông già ẩn sĩ như họ. Lại gần, nàng xuống ngựa, dây cương cầm tay, nàng đến ngồi gần ông chào và nói:

– Ẩn sĩ phúc hậu, cho phép tôi ngồi nghỉ một lúc gần cụ và làm ơn cho biết cụ có nghe nói đâu đó trong vùng này có một nơi tìm được con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng không ạ?

Ẩn sĩ trả lời:

– Quý cô, nghe giọng nói tôi biết là,của phụ nữ tuy cô đã cải trang thành đàn ông; tôi cám ơn cô về lời chào mừng và rất vui lòng có vinh dự được gặp cô. Tôi biết chỗ có những vật cô nói nhưng cô hỏi với ý định gì?

Thưa ẩn sĩ, người ta kể cho tôi một chuyện rất hay khiến tôi nóng lòng muốn sở hữu những vật ấy.

– Thưa cô, người ta nói đúng đấy, những vật ấy còn kỳ lạ đặc biệt hơn những gì người ta giới thiệu nhưng giấu cô những khó khăn phải vượt qua để có nó. Cô sẽ không dấn thân vào một việc vất vả và nguy hiểm như vậy nếu người ta nói rõ hết với cô. Cô hãy tin tôi, đừng tiến lên nữa, cô trở về đi để tôi khỏi phải góp phần vào sự thiệt hại của cô.

– Bố phúc hậu – Công chúa đáp – Tôi đến từ xa và sẽ bực bội vì không thực hiện được ý định của mình. Cụ nói những khó khăn và nguy cơ mất mạng nhưng không nói đó là những khó khăn gì và nguy cơ ra sao; tôi muốn biết để cân nhắc, có thể tin tưởng vào quyết định, lòng can đảm và sức lực của mình không, nên giữ hay nên bỏ.

Ãn sĩ bèn nhắc lại với công chúa những lời đã nói với hai hoàng tử, nói quá lên những khó khăn leo lên núi chỗ có lồng chim? phải làm chủ được con chim, nó sẽ cho biết chỗ có cây hay hát và nước vàng; tiếng ồn và âm vang những giọng nói đe doạ và đáng sợ nghe khắp quanh mình mà không thấy người; cuối cùng là số lượng những tảng đá đen gây khiếp sợ cho cô và bất cứ ai khi biết rằng đấy là những ky sĩ dũng cảm bị biến dạng do không giữ vững điều kiện chủ yếu là không được ngoảnh lại phía sau trước khi nắm chiếc lồng chim.

Khi ẩn sĩ nói xong, công chúa kết luận:

– Theo tôi hiểu khó khăn lớn nhất để thành công trong việc này là thứ nhất: leo núi lên đến chỗ có lồng chim mà không hoảng hốt về âm vang những giọng nói nghe không thấy người và thứ hai, không được ngoảnh lại nhìn phía sau mình. Về điều kiện sau này, tôi hy vọng khá tự chủ để giữ đúng. Còn điều thứ nhất, tôi thú nhận những giọng nói như cụ kể, có thể làm kinh hoàng những người vững vàng nhất. Nhưng như trong mọi việc làm có hậu quả lớn và nguy hiểm, người ta không cấm dùng thủ thuật, xin hỏi cụ tôi có thể dùng trong việc làm này vốn rất quan trọng đối với tôi không?

– Cô định dùng thủ thuật gì – Ấn sĩ hỏi.

– Tôi thấy nếu dùng bông nút chặt tai lại thì dù giọng nói to và đáng sợ đến mấy, tôi cũng cảm nhận bớt đi rất nhiều, sẽ kém tác động và trí óc tôi vẫn giữ được bình tĩnh, không đến nỗi bối rối mất cả lý trí.

– Thưa cô, cho đến nay tất cả những người hỏi đường như cô, tôi không biết đã có ai dùng thủ thuật ấy chưa. Điều tôi thấy là, không một ai đề nghị dùng cách đó và tất cả đều bị chết. Nếu cô quyết tâm theo ý định của mình, cô cứ thử xem: may ra cô thành công; tuy thế tôi không khuyên cô nên dấn thân vào.

– Bố phúc hậu, tôi quyết tâm vô cùng. Lòng tôi nói với tôi thủ thuật ấy sẽ thành công và tôi quyết định dùng nó. Như vậy chỉ còn hỏi cụ tôi phải đi con đường nào, xin cụ làm ơn đừng từ chối.

Ẩn sĩ một lần khuyến khích nàng suy nghĩ kỹ lại, thấy không lay chuyển được lòng quyết tâm, rút một viên tròn ra đưa cho nàng:

– Cô cầm lấy viên này – ông nói – lên ngựa ném ra phía trước, đi theo nó vòng vòng qua mọi nẻo đường cho đến chân núi cô tìm và dừng lại khi nó dừng; cô xuống ngựa và leo lên núi. Cô đi đi, đừng quên những lời tôi dặn.

Công chúa Parijade cảm ơn ẩn sĩ, chào từ biệt rồi lên ngựa, ném viên tròn ra phía trước mặt lăn đi, thúc ngựa chạy theo cho đến khi nó dừng lại ở chân núi:

Nàng xuống ngựa, lấy bông nút chặt lỗ tai, nhìn kỹ đường rồi bắt đầu dũng cảm bước lên núi. Nàng nghe những tiếng la hét, nhận thấy bông là một cứu cánh rất tác dụng. Càng đi lên những giọng nói càng tăng, càng mạnh nhưng không làm nàng có cảm giác rối trí. Nghe nhiều loại chửi rủa, chế diễu giới tính nhưng nàng khinh thường, chỉ cười. Nàng tự nhủ: Ta chẳng bị xúc phạm vì những lời chửi rủa, hay chế giễu; các người cứ nói tệ hại nữa ta cũng không cần và không ngăn cản được ta tiếp tục đi lên . Cuối cùng lên trên cao, nàng nhận thấy lồng và con chim, cùng hoà theo những giọng nói, cố làm nàng bối rối bằng giọng oang oang tuy người bé: Rút lui đi, không được lại gần đây :

Công chúa phấn khích trước vật đó, bước nhanh hơn khi thấy gần tới mục đích; nàng lên tới đỉnh núi, đất bằng, chạy thẳng đến chiếc lồng nắm lấy nói với con chim:

– Chim ơi, không muốn ta cũng bắt; mày không thoát khỏi đâu.

Trong lúc Parijade lấy bông ở tai ra, con chim nói:

– Cô gái dũng cảm, đừng giận tôi vì phụ hoạ với những giọng nói cố bảo vệ tự do cho tôi. Tuy bị nhốt trong lồng, tôi vẫn luôn bằng lòng về số phận mình; nhưng do phải làm nô lệ tôi mong có nàng là chủ, người đã nắm được tôi một cách can đảm, xứng đáng hơn tất cả mọi người khác trên đời. Từ nay tôi thề trung thành tuyệt đối với nàng, hoàn toàn vâng theo lệnh nàng. Tôi biết nàng là ai, tôi sẽ nói cho nàng biết nàng là ai mà chính nàng cũng không biết xuất thân của mình; một ngày nào đó tôi sẽ giúp nàng một việc hy vọng nàng sẽ rất biết ơn. Để bắt đầu chứng tỏ sự thành thật của tôi xin nàng cho biết nàng mong mụốn điều gì, tôi sẵn sàng vâng lệnh.

Công chúa vui sướng không tả hết về việc chinh phục trả giá bằng mạng sống của hai anh và bản thân phải mệt nhọc, vượt qua mối nguy lớn, nói với chim:

– Chim ơi, ta định nói với chim ta muốn nhiều điều rất quan trọng, rất phấn khởi thấy chim tỏ ra sẵn sàng. Việc đầu tiên nghe nói ở đây có loại nước vàng đặc tính tuyệt vời, ta muốn chim chỉ cho ta trước đã.

Con chim chỉ chỗ cũng gần đấy nàng đến múc đầy một chiếc bình bạc mang theo. Trở lại nàng hỏi chim:

– Chim ơi, không chỉ thế, ta tìm cây hay hát, cây ấy ở đâu?

– Nàng quay lạỉ, thấy một khu rừng phía sau có cây ấy.

Khu rừng không xa, công chúa đến đấy và giữa nhiều cây cối nàng nghe có hoà âm du dương làm nàng nhận ra cây mình tìm nhưng rất to, cao. Nàng trở lại hỏi chim:

– Chim ơi, ta đã tìm thấy cây hay hát nhưng không thể nhổ bật gốc hay mang đi được.

– Không cần nhổ bật gốc – Chim lại nói- Nàng chỉ cần lấy một nhánh nhỏ đưa về trồng trong vườn; nó sẽ bén rễ vào đất và ít lâu sau nàng sẽ thấy nó trở thành một cây lớn như vừa thấy.

Khi đã có trong tay ba vật quí mà bà tín đồ Hồi giáo làm nàng khát khao, nàng nói với chim:

– Chim ơi, những gì chim vừa giúp ta không đủ. Chim là nguyên nhân cái chết của hai anh ta đã biến thành đá đen trong số ta thấy khi lên đây. Ta muốn đưa họ cùng về.

Có vẻ chim muốn công chúa miễn cho điều này vì thực ra làm được việc đó cũng khá khó khăn. Công chúa nài nỉ:

– Chim à, chim nhớ đã nói là nô lệ của ta, chim đã làm đúng thế và cuộc sống thuộc về ta rồi.

– Tôi không phủ nhận điều đó – Chim nói- Việc nàng đòi hỏi khó khăn hơn nhiều so với những việc khác, nhưng tôi cố gắng làm nàng vui lòng. Nàng nhìn quanh đây xem có một chiếc binh nào không.

– Ta thấy có đấy – Công chúa trả lời.

– Nàng cầm lấy và khi xuống núi rỏ một ít nước trong bình lên mỗi tảng đá đen; đó là cách tìm lại những người anh của nàng.

Công chúa Parljade cầm lấy bình và mang theo lồng chim, lọ nước, cành cây, vừa đi xuống vừa rỏ nước trong bình lên mỗi tảng đá đen trên đường và những tảng đá ấy ngay sau đó biến thành người. Nàng không bỏ sót tảng đá nào, tất cả những con ngựa của các hoàng tử anh cũng như của những người khác đều xuất hiện trở lại. Như vậy nàng nhận ra các hoàng tử Bahman và Pervij; họ cũng nhận ra nàng, chạy lại ôm hôn em gái. Vừa ôm hôn họ nàng vừa tỏ ra ngạc nhiên:

– Các anh thân yêu, các anh làm gì ở đây vậy?

Nghe họ trả lời vừa ngủ một giấc, nàng lại nói:

– Vâng, nhưng không có em, giấc ngủ của các anh còn kéo dài và có lẽ đến mãi ngày tận thế. Các anh không nhớ đã đến đây tìm con chim biết nói, cây hay hát và nước vàng, đã thấy những tảng đá đen rải rác chỗ này ư? Các anh nghĩ xem có còn lại tảng nào không? Các người xung quanh ta và các anh đã là những tảng đá ấy, cả những con ngựa đang chờ các anh nữa. Các anh muốn phép lạ ấy xảy ra như thế nào thì đây vừa tiếp tục nói nàng vừa chỉ chiếc bình nàng đã đặt xuống ở chân núi – nhờ nước trong bình này em đã rỏ xuống từng tảng đá. Sau khi đã làm chủ con chim biết nói trong lồng này, nhờ nó bảo em đã tìm được cây hay hát lấy một cành và nước vàng em lấy vào chiếc lọ, em không muốn trở về mà không có các anh đi cùng, em buộc nó phải làm cách nào, nó chỉ cho lấy chiếc bình nước và làm ra sao.

Các hoàng tử Bahman và Pervij nghe rõ, biết mình vừa chịu ơn công chúa em gái; những người vây quanh họ cũng tỏ lòng biết ơn, thay vì ganh tị việc chinh phục họ đã muốn làm, chỉ có thể đội ơn cứu sống mình, tự nguyện là những nô lệ của nàng, sẵn sàng làm những việc nàng ra lệnh cho họ.

– Thưa các ông – Công chúa nói – Nếu đã nghe tôi nói các ông hẳn nhận thấy tôi không có ý gì khác là làm như thế để tìm lại các anh mình; nếu là một việc tốt cho các ông thì cũng không phải cảm ơn tôi. Tổi xem mỗi người các ông là những người tự do như trước khi gặp không may và tôi chung vui với các ông về hạnh phúc trở lại làm người nhân dịp này. Chúng ta cũng chẳng nên ở lại một nơi không còn gì giữ chúng ta lâu hơn nữa: hãy lên ngựa và mỗi chúng ta trở về nơi ta đã đi.

Công chúa Parijade đi trước lại chỗ nàng để con ngựa đứng chờ. Trước khi nàng lên ngựa, hoàng tử Bahman muốn đỡ cho em, đề nghị nàng đưa lồng chim để chàng cầm cho. Công chúa nói:

– Thưa anh, con chim là nô lệ của em, em muốn tự minh giữ nó; nếu muốn anh giũ cho cành cây và anh Pervij anh phụ trách cho lọ nước vàng.

Khi hoàng tử Bahman, Peryij và tất cả những người khác đã lên ngựa, công chúa chờ để một người trong bọn họ đi trước dẫn đầu. Hai Hoàng tử lịch sự muốn nhường cho những người kia và những người kia muốn nhường vinh dự cho công chúa.

– Thưa các ông, tôi không xứng đáng được vinh dự ấy nhưng tôi chấp nhận vì các ông muốn thế – Nàng phi ngựa lên trước rồi hai hoàng tử và tất cả mọi người cùng đi theo.

Đoàn người muốn gặp ẩn sĩ lúc đi qua để cám ơn sự tiếp đón và những chỉ dẫn thành tâm nhưng ông đã chết, người ta không rõ vì ông đã già yếu hay vì không cần thiết phải chỉ đường lên chinh phục ba vật quí hiếm nữa.

Vậy là đoàn tiếp tục đi nhưng mỗi ngày một ít dần. Những quí ông đến từ những nước khác nhau, lần lượt nhắc lại lời cảm ơn được trở lại cuộc sống, từ biệt công chúa và các anh nàng khi gặp con đường về địa phương mình. Công chúa và hai hoàng tử theo đường mình về đến tận nhà.

Trước hết công chúa để lồng chim trong vườn, bên cạnh phòng khách; khi con chim hót lên những hoạ mi, mai tước, chiền chiện, chim chích, hồng tước và vô vàn các loại chim khác trong nước kéo đến cùng hót theo. Về cành cây nàng cho trồng ở một chỗ không xa ngôi nhà lắm; cành đâm rễ và chẳng bao lâu trở thành một cây to, cành lá reo vui một hợp âm như ở cây nàng lấy cành. Lọ nước vàng, nàng cho xây giữa vườn một bể lớn đá hoa cương, khi xong nàng đổ cả lọ vào đấy. Nước phồng lên tăng nhanh khối lượng và khi lên đến gần mép bể, nó phun ở giữa thành dòng lên cao hai mươi bộ, rơi xuống lại, cứ thế tiếp tục mà nước không tràn.

Tin về những kỳ quan ấy lan khắp vùng, cổng ngôi nhà cũng như cổng vườn không đóng lại với ai chẳng bao lâu nhân dân những vùng quanh đấy đổ xô đến ngắm xem rất đông.

Sau mấy ngày lại sức, hai hoàng tử Baliman và Pervij trở lại cuộc sống bình thường; đi săn là thú vui quen thuộc. Lần đầu từ khi về họ lên ngựa cùng đi, không phải trong rừng nhà mình mà cách đó hai, ba dặm. Trong lúc họ săn, vua Ba Tư bất chợt cũng đến săn cùng chỗ. Khi họ thấy nhà vua sẽ đến qua số đông kỵ sĩ xuất hiện nhiều nơi, họ ngừng săn bắn, rút lui để khỏi gặp nhau nhưng không ngờ lại đúng theo con đường nhà vua đến, trong một chỗ chật hẹp không quay đi hoặc lùi lại mà không bị bắt gặp. Kinh ngạc họ chỉ còn biết xuống ngựa, quỳ xuống trước mặt nhà vua, trán đập xuống đất không ngẩng đầu lên nhìn. Vua thấy họ ăn mặc, nai nịt gọn gàng sạch sẽ như đã ở trong triều, tò mò muốn xem mặt bèn dừng lại, lệnh cho họ đứng dậy.

Hai hoàng tử đứng dậy trước mặt vua thái độ thoải mái tuy có vẻ khiêm tốn, lễ phép. Vua im lặng nhìn họ một lúc từ đầu đến chân sau khi ngắm phong thái và khuôn mặt dễ mến của họ, ngài hỏi họ là ai và ở đâu.

Hoàng tử Bahman trả lời:

– Thưa bệ hạ, chúng thần là con trai viên quản lý khu vườn thượng uyển đã mất, ở trong một trang trại ông cho xây dựng trước khi chết để chúng thần ở trong lúc chờ đợi đến tuổi phục vụ bệ hạ và đến xin Người công việc khi gặp điều kiện.

– Theo ta thấy, các anh thích đi săn?

– Thưa bệ hạ, đấy là việc tập dượt bình thường của chúng thần mà bất cứ ai chuẩn bị nhập vào quân ngũ của bệ hạ cũng không lơ là theo truyền thống cũ của vương quốc .

Vua rất thích thú vì câu trả lời khôn ngoan, nói với họ:

– Nếu thế ta rất vui lòng thấy các ngươi đi săn. Các ngươi cùng đi với ta, chọn săn bắn gì tuỳ thích.

Các hoàng tử lại lên ngựa đi theo nhà vua; chưa đi xa thì thấy xuất hiện nhiều loại thú. Hoàng tử Bahman chọn một con sư tử, hoàng tử Pervij chọn con gấu, đuổi theo thật dũng cảm làm vua ngạc nhiên. Hầu như cùng một lúc tới gần con mồi, họ phóng lao khôn khéo xuyên hẳn con sư tử và con gấu một lúc con nào cũng ngã xuống. Không dừng lại hoàng tử Bahman đuổi theo một con gấu khác, hoàng tử Pervij một con sư tử, chẳng mấy chốc họ đâm chết hai con vật. Họ muốn tiếp tục nhưng vua không cho phép cho gọi họ lại và bảo:

– Nếu ta để các anh tiếp tục, các anh sẽ tiêu diệt hết những con thú của ta. Không phải ta cần phải dành lại cho cuộc săn bắn của ta đến thế mà muốn bảo vệ cuộc sống của các anh từ nay trở thành thân thiết với ta qua lòng can đảm của các anh trông ra có ích nhiều cho ta.

Vua Khosrouschah cuối cùng cảm thấy rất mến hai hoàng tử đến mức bảo đến thăm ngài ngay.

– Thưa bệ hạ – Hoàng tử Bahman nói- Người ban cho chúng thần một vinh dự mà chúng thần không xứng đáng xin khẩn cầu Người miễn cho.

Vua không rõ vì lý gì các hoàng tử không nhận sự chiếu cố của mình, bảo hai chàng giải thích xem.

– Thưa bệ hạ – Hoàng tử Bahman nói- Chúng thần có em gái út cùng sống; chúng thần gắn bó với nhau đến mức chưa làm điều gì khi chưa hỏi ý kiến nàng cũng như nàng chưa làm gì khi chưa hỏi chúng thần.

– Ta rất khen tình anh em đoàn kết của các ngươi. Vậy cứ về hỏi em gái và ngày mai đi săn với ta các ngươi sẽ trả lời.

Hai hoàng tử về nhà nhưng không ai nhớ việc gặp nhà vua, có vinh dự săn bắn với ông, cũng quên nói chuyện với công chúa nhà vua muốn đưa họ về cung. Ngày hôm sau gặp vua trong đợt đi săn, vua hỏi:

– Thế nào? Các ngươi nói chuyện với em gái chưa? Nàng có bằng lòng để ta gặp các ngươi thường xuyên hơn không?

Các hoàng tử đỏ mặt nhìn nhau:

– Thưa bệ hạ – Hoàng tử Bahman trả lời: Xin Người tha lỗi cho chúng thần, cả em thần và thần đều không nhớ ra.

– Vậy hôm nay các ngươi phải nhớ và ngày mai trả lời ta.

Hai hoàng tử lại quên một lần nữa; nhà vua không những không mắng mà rút ra ba viên vàng bỏ vào lòng hoàng tử Bahman. Ông mỉm cười nói:

– Những viên này nhắc các anh không quên lần thứ ba điều ta muốn vì tình cảm đối với ta: tối nay tiếng chúng rơi ra từ thắt lưng sẽ nhắc các anh nếu quên.

Sự việc xảy ra như vua dự kiến. Không có ba viên vàng các hoàng tử đã quên nói chuyện với em gáì. Khi hoàng tử cởi thắt lưng chuẩn bị đi ngủ thì những viên ấy rơi ra. Chàng bèn lại tìm hoàng tử Pervij cùng nhau sang phòng công chúa lúc chưa đi nằm, trình bày lại mọi trường hợp đã gặp nhà vua.

Công chúa Parijade nghe tin hoảng hốt nói:

– Việc các anh gặp vua thật sung sướng và vinh dự, sau này sẽ còn tăng thêm nhưng không ổn và rất buồn đối với em. Em thấy rõ vì em mà các anh chống lại ý muốn của vua; tình cảm hoàn toàn dành cho em, em rất cám ơn. Có thể nói các anh thà chịu vô lễ với vua, thẳng thắn từ chối vì nghĩ sẽ tổn hại đến tình anh em; các anh thấy đến với nhà vua thì phải bỏ rơi em để dành tất cả cho Người. Nhưng các anh tưởng dễ dàng từ chối ý định của nhà vua có vẻ rất sốt sắng như thế nào? Những ý muốn của vua thật nguy hiểm khi chống lại. Vì vậy theo em, các anh hãy làm vui lòng nhà vua, em chỉ biết để các anh đi và có nguy cơ khổ sở vì các anh. Các anh thấy em nghĩ thế đấy, tuy nhiên trước khi kết luận chúng ta thử hỏi con chim xem nó khuyên chúng ta như thế nào; nó rất khôn, tinh tường và đã hứa cứu giúp chúng ta khi gặp khó khăn.

Công chúa Parijade cho mang lồng chim vào, nói rõ tình trạng lúng túng với chim trước mặt các hoàng tử và hỏi cách giải quyết.

Con chim trả lời:

– Các hoàng tử anh nàng phải nghe theo ý muốn của nhà vua và đến lượt mình họ mời vua về thăm nhà.

– Nhưng chim ơi – Công chúa nói – Anh em chúng ta thương yêu nhau; tình cảm không gì sánh bằng ấy có bị tổn hại gì không?

– Không hề; ngược lại càng mạnh mẽ hơn.

– Nếu thế vua sẽ thấy ta.

Chim nói cần thiết vua phải gặp, mọi việc càng tốt hơn thôi.

Ngày hôm sau hai hoàng tử trở lại chỗ đi săn; nhà vua ngay từ xa đã hỏi họ có nhớ nói chuyện với em gái không. Hoàng tử Bahman lại gần trình bày:

– Thưa bệ hạ, xin Người cứ sử dụng chúng thần; không những em gái chúng thần đồng ý mà còn cho chúng thần sai khi vì nàng mà không sẵn sàng làm bổn phận đối với bệ hạ. Nàng tỏ ra xứng đáng thế còn chúng thần đã sai lầm, hy vọng bệ hạ tha thứ cho chúng thần.

– Các ngươi không lo ngại về điều đó. Thay vì cho việc các ngươi làm là sai lầm, ta rất đồng tình, hy vọng các ngươi cũng tôn trọng và gắn bó với ta như thế tuy có phần nhỏ hơn trong tình cảm của các ngươi đối với nhau.

Các hoàng tử ngượng ngùng trước lòng tất quá lớn của nhà vua chỉ trả lời bằng cách cúi thấp mình thể hiện rất tôn kính thái độ của nhà vua.

Trái với thường ngày hôm ấy vua không săn bắn lâu. Xét thấy các hoàng tử không kém thông minh hơn lòng dũng cảm, ngài nóng lòng nói chuyện thoải mái với họ nên chóng trở về cung. Nhà vua muốn họ đi bên cạnh ngài, vinh dự mà chẳng những cận thần tháp tùng, cả quan tể tướng cũng ghen tị thấy họ đi trước mình.

Khi vua vào đến kinh thành, dân chúng đầy đường nhìn vào hai hoàng tử Bahman và Pervij, tìm hiểu xem họ là ai, người lạ hay trong vương quốc. Phần đông nói:

– Dù sao mong nhà vua có hai hoàng tử mạnh khoẻ, thần tú như thế? Có thể đã cùng lứa tuổi ấy nếu hoàng hậu đang chịu hình phạt từ lâu, trước đây sinh nở may mắn.

Việc đầu tiên về đến hoàng cung là nhà vua dẫn các hoàng tử đi xem những cung điện chính mà họ khâm phục về vẻ đẹp, sự giàu có, đồ đạc và trang trí thật cân đối. Người ta phục vụ một bữa ăn phong phú và vua bảo hai chàng cùng ngồi ăn. Họ muốn xin lỗi nhưng phải vâng lời khi vua nói ngài muốn thế. Nhà vua vốn vô cùng thông minh, có những hiểu biết uyên thâm vượt bậc về khoa học đặc biệt về lịch sử, thấy trước các hoàng tử không dám tự do nói chuyện vì khiêm tốn và tôn kính. Để họ có. dịp nôi, ngài bắt đầu nói và trao đổi nhiều vấn đề suốt trong bữa ăn nhưng dù đề cập đến đề tài nào, hai chàng nói với nhiều hiểu biết, thông minh, phân tích bình luận tất làm vua luôn khen ngợi. Nhà vua tự nhủ: “Nếu là con mình, với trí óc như thế, ta dù dạy dỗ chúng cũng không biết được gì hơn, cũng không thành thạo hoặc có học vấn hơn thế . Nhà vua rất vui khi trò chuyện với họ ; ngồi ăn lâu hơn thường lệ và sau khi ở đấy ra nhà vua còn nói chuyện lâu với họ. Cuối cùng nhà vua nói:

– Chưa bao giờ ta nghĩ ở ngoài kinh thành có những thần dân của ta được giáo dục đặc biệt và có khả năng đến thế, trong đời ta chưa có cuộc trò chuyện nào làm ta hài lòng như với các ngươi. Nhưng thế là đủ, đã đến lúc các ngươi thư giãn trí óc với vài trò vui cung đình; không có gì xua tan được mây mù bằng âm nhạc, các ngươi sẽ nghe một hợp tấu nhạc cụ và và công múa hát không tồi.

Vua vừa dứt lời, các nhạc công được lệnh vào đáp ứng khá tất sự chờ đợi về tài năng của họ. Những vai hề rất giỏi tiếp nối ban hoà tấu rồi các nam nữ vũ công kết thúc cuộc vui.

Hai hoàng tử thấy gần hết ngày quỳ xuống trước mặt vua xin phép rút lui sau khi cám ơn về lòng tốt và vinh dự được ban cho. Vua để họ ra về, nói:

– Ta để các anh về, nên nhớ đích thân ta dẫn các ngươi về cung là để chỉ đường; sau này các ngươi tự đến; bao giờ cũng được hoan nghênh và càng đến nhiều hơn, các ngươi càng làm ta vui lòng.

Trươc khi ra đi, hoàng tử Bahman tâu với vua:

– Thưa bệ hạ, chúng thần dám xin Người gia ân cho anh em thần và em gái thần, lần đi săn tới đưa Người đến trong vùng mời Người ghé qua nhà chúng thần một lúc; ngôi nhà không xứng đáng được Người đến thăm nhưng đôi khi các vị vua không chê vảo một nhà tranh.

Vua nói:

– Một ngôi nhà của những chủ nhân như các ngươi chỉ có thể đẹp và xứng với các ngươi ta vui lòng đến và càng vui hơn với những chủ nhà như các ngươi và em gái ngươi mà nghe kể về đức tính ta đã thấy thân mến. Ta không lùi lại quá ngày kia để thoả mãn điều đó. Ta sẽ có ở chỗ gặp các ngươi lần đầu từ sáng sớm; các ngươi cũng đến đo để hướng dẫn ta.

Cùng ngày hôm đó hai hoàng tử về nhà, sau khi kể lại với em gái vinh dự được vua tiếp đón, họ báo đã mời vua đến nhà họ khi đi săn trong vùng và vua đã định ngày kia sẽ ghé thăm.

Công chúa nói:

– Nếu vậy ngay từ bây giờ phải nghĩ đến việc chuẩn bị một bữa ăn xứng đáng với nhà vua. Chúng ta hỏi ý kiến con chim thì hay nhất: có lẽ nó chỉ cho ta một sớ món ăn hợp, khẩu vị nhà vua hơn.

Các hoàng tử thống nhất theo ý kiến em gái; khi họ lui về phòng nàng hỏi riêng con chim. Nàng nói:

– Chim ơi, vua sẽ cho chúng ta vinh dự ghé thăm nhà và chúng ta phải chiêu đãi Người. Chim bảo chúng ta phải làm cách nào để Người hài lòng?

– Nữ chủ phúc hậu, nhà có khá nhiều đầu bếp giỏi, bảo họ cố gắng hết sức mình và trên hết họ phải làm một đĩa dưa chuột, nhồi nhân ngọc mà nàng cho phục vụ trước mặt vua hơn tất cả những thức ăn khác ngay từ đợt đầu.

– Dưa chuột nhồi nhân ngọc? – Công chúa ngạc nhiên kêu lên – Chim ơi, đó là một món ăn kỳ lạ. Nhà vua có thể khen là một vật đẹp nhưng Người ngồi vào bàn để ăn chứ không phải để ngắm ngọc. Hơn nữa nếu ta dùng tất cả những ngọc ta có thể có cũng không đủ làm nhân.

– Nữ chủ, nàng cứ làm như tôi đã nói, đừng lo sẽ ra sao; chỉ xảy đến việc tốt thôi. Còn về ngọc sáng sớm mai nàng ra cây to đầu tiên trong vườn về bên tay phải, cho đào dưới gốc.

Người làm vườn đào đến một chiều sâu nào đó thấy cứng, phát hiện ra một chiếc hộp vàng khoảng một bộ vuông chỉ cho công chúa. Nàng nói:

– Chính vì vật đó mà tôi dẫn ông đến đây. Cứ tiếp tục đi.

Người làm vườn lôi chiếc hộp ra đưa vào tay công chúa. Chiếc hộp chỉ khép bằng những móc sạch, công chúa mở ra thấy đầy những viên ngọc rất nhỏ nhưng đều nhau và tiện dùng theo yêu cầu dự định. Rất hài lòng phát hiện được kho của này, nàng đóng hộp lại mang về nhà trong lúc người làm vườn vun trả lại đất vào gốc cây như trước.

Hoàng tử Bahman và Pervij ở trong phòng thấy em gái ra vườn sớm hơn thường lệ, đi ra gặp nàng giữa vườn tay mang chiếc hộp vàng, ngạc nhiên hỏi:

– Em gái – Hoàng tử Bahman nói – Khi các anh thấy em ra vườn có người làm vườn đi theo thì không mang gì, bây giờ trở vồ tay mang chiếc hộp vàng; phải chăng người làm vườn tìm được kho của chỉ cho em?

– Thưa các anh – Công chúa trả lời – Ngược lại đấy.

– Chính em lẫn người làm vườn đến chỗ có chiếc hộp bảo đào lên. Các anh sẽ ngạc nhiên hơn khi thấy hộp đựng gì.

Công chúa mở hộp và các hoàng tử sửng sốt thấy đầy ngọc rất có giá trị về chất lượng và số lượng, hỏi từ đâu mà em gái biết có kho của này.

– Thưa các anh – Nàng trả lời – Có một việc gấp gáp hơn đang chờ, các anh vào nhà em sẽ bảo.

Hoàng tử Pervij bảo:

– Việc nào gấp gáp hơn điều các anh muốn biết rõ này? Chúng ta cùng vào với nhau vậy.

Trên đường vào nhà, công chúa Pariìađe kể lại việc hỏi ý kíến con chim và nó bảo nên làm thế nào, đặc biệt cần có món đưa chuột nhồi nhân ngọc và nó chỉ chỗ cho đi lấy chiếc hộp này. Ba anh em phân tích nhiều, không hiểu vì sao chim bảo làm món ăn ấy nhưng đành phải theo đúng lời khuyên từng điểm một.

Công chúa cho gọi trưởng đầu bếp, ra lệnh chuẩn bị bữa ăn chiêu đãi nhà vua theo cách nàng hướng dẫn:

– Ngoài những thứ đó – Nàng nói thêm – Ông làm một món ăn thích hợp với khẩu vị nhà vua: một đĩa dưa chuột nhồi nhân. Nhân là những viên ngọc này đây.

Đồng thời nàng mở hộp chỉ cho bếp trưởng. Chưa bao giờ nghe nói nhồi nhân như vậy, bếp trưởng ngạc nhiên lùi lại hai bước. Công chúa đoán được ý nghĩ của ông, nói:

– Tôi biết ông cho tôi là một người điên bảo làm một món ăn chưa bao giờ có như thế. Nhưng không đâu, tôi rất tỉnh táo bảo chuẩn bị món ăn đó. Ông phát huy sáng kiến mang chiếc hộp này đi làm đi và đem trả lại tôi số ngọc còn lại không dùng hết.

Bếp trưởng chẳng còn gì để nói nữa, cầm chiếc hộp mang đi. Cùng ngày ấy công chúa cho dọn dẹp thật sạch sẽ, ngăn nắp cả trong nhà và ngoài vườn để tiếp đón vua xứng đáng hơn.

Ngày hôm sau, hai hoàng tử đã ở chỗ đi săn thì vua Ba Tư đến. Ngài bắt đầu săn bắn cho đến khi mặt trời lên cao, nắng gắt phải nghỉ. Hoàng tử Bahman ở bên cạnh vua để hướng dẫn còn hoàng tử Pelvij đi trước chỉ đường, khi đã trông thấy nhà mình, chàng thúc ngựa về báo tin nhưng người hầu của công chúa được bố trí trên đường đã đi báo, công chúa đang chờ sẵn đón tiếp.

Vua vào đến sân, xuống ngựa trước tiền sảnh; công chúa Parijade chạy đến quỳ dưới chân ngài chào; các hoàng tử giới thiệu em gái, xin phép cho được đón tiếp vua.

Nhà vua cúi xuống nâng công chúa lên, nhìn nàng một lúc, ngỡ ngàng về sắc đẹp, duyên dáng, phong thái không có vẻ gì thôn dã giống nơi nàng ở. Nhà vua nói:

– Hai anh xứng đáng với em gái và em gái xứng đáng với các anh trai; nhìn bề ngoài xét bên trong ta không lạ nữa việc các anh trai không muốn 1àm gì mà không được em gái tán thành. Ta hy vọng biết rõ nàng hơn về điểm này nhưng để xem ngôi nhà đã.

Công chúa thưa:

– Thưa bệ hạ, đây chỉ là một ngôi nhà ở thôn dã phù hợp với những người như chúng thần sống xa người đời. Nó không so sánh được với những ngôi nhà thành phố lớn, càng làm thế nào bằng được những biệt thự ở hoàng cung.

– Ta không hoàn toàn đồng ý như nàng nghĩ nhà vua nói – Những gì ta thấy trước hết làm ta nghi ngờ nàng. Ta sẽ nêu những nhận xét của ta sau khi xem xong; nàng đi trước dẫn đường!

Công chúa để riêng phòng khách lại, dẫn vua đi phòng này đến phòng khác; sau khi xem xét từng phòng; khen sự đa dạng của những gian phòng, nhà vua nói với công chúa Parijade:

– Người đẹp, nàng gọi như thế là một ngôi nhà thôn dã à? Những thành phố lớn, đẹp nhất cung sẽ vắng vẻ nếu tất cả những nhà ở thôn dã giống ngôi nhà của nàng. Ta không ngạc nhiên thấy các ngươi rất thích ở đây và khinh thường thành phố. Đưa ta đi xem khu vườn, xem có phù hợp với ngôi nhà không.

Công chúa mở cửa ra vườn và điều đập vào mắt nhà vua trước tiên là vòi nước phun màu vàng. Lạ lùng về một cảnh quan mới, sau khi ngắm một lúc vua hỏi:

– Ngọn nước tuyệt vời, xem rất thích, ở đâu ra vậy? Nguồn suối ở đâu, nghệ thuật lấm nước phun có vẻ trên đời không có như vậy. Ta muốn đến xem sao.

Ông vừa nói vừa tiến lại. Công chúa tiếp tục dẫn đường, đưa vua đến chỗ trồng cây hay hát.

Lại gần, vua nghe có một hoà âm khác hẳn những bản hợp tấu ông đã nghe nhiều, dừng lại đưa mắt tìm các nhạc công, không thấy nhưng vẫn nghe rõ ràng tiếng nhạc. Ông hỏi:

– Người đẹp, những nhạc công đang hợp tấu ở đâu vậy? Họ ở dưới đất hay biến dạng trên không? Với những giai điệu hay như thế họ ngại gì mà không ra mắt cho người ta vui thích?

Thưa bệ hạ – Công chúa mỉm cười trả lời- Không phải nhạc công hợp tấu mà do cây bệ hạ thấy trước mặt phát ra; xin Người bước lại mấy bước nữa sẽ nghe rõ ràng Vua lại gần say sưa vì âm điệu bản hợp tấu, nghe mãi không thôi. Cuối cùng vua lên tiếng hỏi:

– Người đẹp này cây này tình cờ mọc trong vườn nhà nàng hay là một món quà tặng từ đất nước xa xôi nào? Nàng gọi cây tên là gì?

– Thưa bệ hạ, đây là cây hay hát, không mọc trong vùng này. Đây là một câu chuyện dài liên quan đến nước vàng trong bể và con chim biết nói mà bệ hạ sẽ thấy sau khi xem nước vàng. Nếu Người thấy đượe thần sẽ kể lại khi Người đã nghỉ ngơi giải trí sau cuộc săn mệt nhọc.

– Người đẹp, ta không mệt nhọc gì như nàng nói vì đã được những vật ta ngắm nhìn bù lại. Chúng ta đến xem bể nước vàng đi, ta muốn ngắm con chim biết nói lắm rồi.

Đến bể nước vàng vua nhìn rất lâu vào tia nước không ngớt phun lên cao rồi rơi xuống và nói với công chúa:

– Theo nàng nước này không có nguồn, không có vòi dẫn đến từ một chỗ nào gần đây; ta rất lạ về điều đó cũng như về cây hay hát.

– Thưa bệ hạ, điều ấy đúng như Người vừa nói, bể nước liền một tấm, nước không do từ các bên hay phía dưới đưa vào. Thần đã bỏ vào bể một lọ nước, với đặc tính riêng biệt, nước tự phun lên như bệ hạ thấy.

Vua rời bể nước, nói:

– Lần thứ nhất thế đủ rồi vì ta hứa sẽ thường đến đây hơn. Nàng dẫn ta đi để ta xem con chim biết nói.

Vào gần phòng khách, vua thấy trên những cây quanh đấy có một số lượng chim khổng lồ đang hót râm ran vang lên trong không khí. Nhà vua hỏi vì sao chim tập hợp tại đây mà những cây khác trong vườn không có. Công chúa trả lời:

– Thưa bệ hạ tất cả chúng đến từ những vùng xung quanh để phối hợp với tiếng hót của con chim biết nói. Bệ hạ thấy nó đang trong chiếc lồng để ở một cửa sổ phòng khách Người sẽ vào. Nếu để ý Người sẽ nhận ra tiếng hót của nó rất hay, kể cả chim hoạ mi cũng còn xa mới bằng nó.

Vua vào phòng khách; thấy chim vẫn hót, công chúa cao giọng bảo:

– Nô lệ của ta, đây là nhà vua, chim chào mừng đi.

Con chim ngừng hót ngay và những chim khác cũng ngừng theo. Nó nói: Kính chào nhà vua, mong Người luôn thịnh vượng và sống lâu, . Bữa ăn chuẩn bị gần cửa sổ treo lồng chim, vua vừa ngồi vào bàn vừa nói:

– Ta cảm ơn lời chim chúc mừng; ta rất hài lòng ,thấy chim là vua của các loài chim.

Thấy đa đưa chuột trước mặt, vua nghĩ nhồi nhân như bình thường đưa tay gắp nhưng rất ngạc nhiên thấy nhồi hạt ngọc. Nhà vua nói:

– Món ăn gì mới lạ đây? Nhồi hạt ngọc với ý định gì? Ngọc có ăn được đâu! – Nhà vua nhìn hai anh em hoàng tử và công chúa bảo giải thích nhưng con chim can thiệp ngay:

Thưa bệ hạ, Người có thể nào ngạc nhiên đến vậy khi thấy một món ăn nhồi hạt ngọc trong lúc Người dễ dàng tin rằng hoàng hậu vợ Người đã sinh ra một con chó, một con mèo và một khúc gỗ ư?

– Ta đã tin thế vì các bà đỡ khẳng định với ta.

– Những bà đỡ ấy, thưa bệ hạ – Chim lại nói – Là hai người chị của hoàng hậu, nhưng những người chị này lại ghen ty với hạnh phúc Người đã vinh dự đem lại cho hoàng hậu. Để thoả lòng tức giận họ đã lợi dụng sự dễ dãi của bệ hạ; nếu Người cho tra hỏi, họ sẽ thú nhận tội. Hai anh em trai và em gái Người thấy đây là con của Người bị thả trôi theo dòng suối nhưng được người quản lý khu vườn thượng uyển vớt lên đưa về nuôi dạy chu đáo.

Lời nói của chim làm rõ ngay lòng phân vân của nhà vua. Ngài kêu lên:

– Chim ơi, ta không phân vân gì mà tin vào sự thật chim phát hiện ra và báo với ta. Xu hướng và sự trìu mến ta cảm thấy đối với chúng nói rõ với ta chúng là dòng máu của ta. Đến đây, các con trai, con gái của ta, để ta ôm hôn các con, thể hiện tình cảm đầu tiên của một người bố.

Nhà vua đứng dậy lần lượt ôm lấy hai hoàng tử và công chúa, chan hoà dòng lệ với họ. Nhà vua nói:

– Chưa đủ đâu các con, các con phải ôm hôn nhau không phải với tư cách con của người quản lý vườn ta vĩnh viễn chịu ơn vì bảo vệ cuộc sống của các con mà nhân danh con ta, từ dòng máu các vua Ba Tư ta chắc chắn các con giữ được vinh quang.

Sau khi hai hoàng tử và công chúa ôm hôn nhau với một niềm thoả mãn mới mẻ như nhà vua mong muốn, vua lại ngồi vào bàn cùng họ và ăn vội. Ăn xong, nhà vua nói:

– Các con ta, các con đã biết ta là phụ hoàng rồi, ngày mai ta sẽ dẫn hoàng hậu mẹ các con đến. Các con chuẩn bị sẵn sàng đón tiếp bà.

Nhà vua lên ngựa nhanh chóng trở về kinh thành. Việc đầu tiên khi vào hoàng cung là ra lệnh cho tể tướng xét xử ngay hai người chị hoàng hậu. Hai người bị bắt đưa tới, thẩm vấn riêng rẽ, đối chiếu xác nhận, bị kết tội phanh thây, tất cả không tới một tiếng đồng hồ.

Trong lúc đó vua Khosrouschah, với tất cả triều thần có mặt tháp tùng, đi bộ đến trước cửa nhà thờ lớn đưa hoàng hậu bị giam giữ khổ sở từ bao nhiêu năm nay ra ngoài. Vua đầy nước mắt ôm hôn bà trong tình trạng đáng thương ấy và nói:

– Hoàng hậu, ta đến xin lỗi bà đã xử sự bất công đối với bà và xin sửa chữa mọi việc. Ta đã bắt đầu làm việc đó bằng cách trừng phạt những người đàn bà đã tồi tệ lừa bịp ta và hy vọng bà cho là đã khôi phục được hoàn toàn khi ta đưa lại cho bà hai hoàng tử hoàn hảo và một công chúa đáng yêu xinh đẹp, những đứa con của ta và của bà. Bà về cung đi, lấy lại chức phận của bà với đầy đủ vinh dự.

Việc sửa chữa ấy làm trước một số đông dân chúng nghe tin chạy đến từ các nơi và chỉ một lát sau lan khắp thành phố.

Hôm sau từ sáng sớm vua và hoàng hậu đã thay bộ quần áo buồn rầu nhục nhã, trang bị phù hợp với chức tước, cả triều đình tháp tùng, cùng đến nhà hai hoàng tử và công chúa:

– Hoàng hậu, đây là hai hoàng tử con trai và công chúa con gái bà; bà ôm hôn chúng cũng trìu mển như ta đã ôm hôn chúng; chúng xứng đáng với ta và với bà.

Nước mắt tràn đầy qua những ôm hôn cảm động ấy, đặc biệt về phần hoàng hậu vì niềm an ủi và lòng vui mừng được ôm hôn hai con trai, một con gái đã gây cho bà bao phiền muộn lâu dài. Khi hoàng tử và công chúa đã cho chuẩn bị một bữa ăn ngon chiêu đãi vua, hoàng hậu và các triều thần: mọi người ngồi vào bàn và sau bữa ăn, vua đưa hoàng hậu ra xem khu vườn, chỉ cho bà xem cây hát hay và cảnh nước vàng phun lên cao. Về con chim bà đã thấy trong lồng treo ở cửa sổ và vua đã ca ngợi nhiều trong lúc ăn.

Khi xong việc, vua lên ngựa về cung; hoàng tử Bahmán đi bên phải, hoàng tử Perviì bên trái ông; hoàng hậu và công chúa bên trái bà, đi sau vua. Với trật tự ấy, trước và sau có những võ quan của triều đình theo chức vụ từng người, cả đoàn lên đường về kinh. Khi gần tới kinh thành, dân chúng kéo đến rất đông, ra cổng thành đón họ. Họ nhìn vào hoàng hậu, vui mừng cho bà sau nỗi đau khổ kéo dài và hai hoàng tử, công chúa mà đi theo hoan hô nhiệt liệt. Họ cũng bị con chim trong chiếc lồng công chúa mang theo hấp dẫn vì tiếng hót kéo theo tất cả những con chim khác vừa hót vừa đậu trên cây đọc đường và trên mái nhà trên đường phố.

Hai hoàng tử Bahman và Pervij, được hộ tống rầm rộ về cung và tối đến là những cảnh chiếu sáng và trò vui ở hoàng cung và cả kinh thành kéo dài trong nhiều ngày.

Chương kết: Nghìn một đêm lẻ trôi qua

Vua Ấn Độ không ngăn được mình ca ngợi trí nhớ tuyệt vời của hoàng hậu vợ ngài mỗi đêm đều giải trí mới cho ngài bằng bao nhiêu câu chuyện khác nhau không hề cạn.
Nghìn một đêm lẻ trôi qua với những thú vui nhẹ nhàng ấy; thậm chí giúp vua bớt đi nhiều định kiến xấu về sự chung thuỷ của phụ nữ; trí óc dịu đi, ngài công nhận đức tính và sự khôn khéo của Scheherasade, nhớ đến lòng can đảm tự nguyện muốn trở thành vợ ngài, không e ngại cái chết bà biết sẽ chờ mình vào sáng hôm sau như những người trước bà.
Nhìn nhận điều đó và biết những đức tính khác của bà cuối cùng đưa ngài đến quyết định gia ân cho bà. Ngài nói:

– Scheherasade thân mến, ta thấy rõ nguồn chuyện kể của nàng không hề cạn: nàng giải trí cho ta đã khá lâu, đã làm ta nguôi giận? vì nàng ta sẵn lòng từ bỏ luật lệ độc ác ta đặt ra. Ta hoàn toàn tha thứ và muốn nàng được xem là người giải phóng cho tất cả những cô gái phải hy sinh vì lòng thù hận chính đáng của ta.

Hoàng hậu quỳ xuống chân vua, trìu mến hôn chân ngài tỏ rõ lòng biết ơn sốt sắng và hoàn hảo nhất.

Quan tể tướng là người đầu tiên được vua truyền đạt tin tốt lành ấy. Nguồn tin lan rộng ngay trong thành phố, ra các tỉnh làm mọi dân tộc của vương quốc Ấn độ hô lên hàng nghìn lời ngợi ca và chúc phúc vua và Scheherasade đáng yêu, vợ vua.

HẾT

Đại Đường du hiệp truyện – Chương 1: Mở đầu

Nói tới văn đàn tiểu thuyết võ hiệp Trung Hoa, phải kể tới “năm đại gia” là Lương Vũ Sinh, Kim Dung, Cổ Long, Ngọa Long Sinh, Ôn Thụy An hay khác hơn là “ba đại gia” Lương Vũ Sinh, Kim Dung, Cổ Long. Nhưng nhiều người biết về Kim Dung, Cổ Long và phần nào là Ngọa Long Sinh, song ít người biết tới Lương Vũ Sinh và Ôn Thụy An, trong khi Lương Vũ Sinh là một trong những người mở đầu cho tiểu thuyết võ hiệp hiện đại.

Lương Vũ Sinh tên thật là Trần Văn Thống, sinh năm 1922, người huyện Mông Sơn tỉnh Quảng Tây, học ngành kinh tế đối ngoại ở Đại học Lĩnh Nam Quảng Châu. Năm 1949 ông qua định cư ở Hương Cảng, đầu tiên làm việc ở Đại công báo, về sau chuyển về Tân văn báo. Năm 1953, La Phù, chủ Tân văn báo mở chuyên mục “tiểu thuyết võ hiệp nhiều kỳ”, và người mà La Phù “đặt hàng” đầu tiên là Lương Vũ Sinh. Nhận được sự ủng hộ từ tòa soạn, Lương Vũ Sinh bắt tay vào việc viết tiểu thuyết võ hiệp, với tác phẩm đầu tiên là Long hổ đấu kinh hoa được đăng suốt hai năm, có tiếng vang lớn, số lượng báo in tăng vọt. Các báo khác thấy vậy tranh nhau đặt hàng Lương Vũ Sinh, ông không đáp ứng nổi nhu cầu nên mời Kim Dung giúp đỡ (tác phẩm đầu tiên của Kim Dưng là Thư kiếm ân cừu lục trong thời gian 1955 – 1956 là viết theo đơn đặt hàng này). Ngoài Long hổ đầu kinh hoa, ông còn có nhiều tác phẩm khác như Đại Đường du hiệp ký, Long phụng bảo thoa lục, Bình tung hiệp ảnh lục, Thất kiếm Thiên Sơn, Giang hồ tam nữ hiệp… được nhiều người đọc lớn tuổi ở Hương Cảng, Đài Loan ưa thích.

Tương tự Kim Dung, phần lớn tác phẩm của Lương Vũ Sinh cũng lấy đề tài lịch sử. La Lập Quần trong bài Cổ Long – quái hiệp(Thay lời tựa tác phẩm Cổ long), in trong Huyết anh vũ của Nhà xuất bản Châu Hải, Đài Loan, 1995 từng so sánh:

“Lấy nội dung sáng tác mà bàn, thì tiểu thuyết võ hiệp của Lương Vũ Sinh, Kim Dung chú trọng biểu hiện hoàn cảnh lịch sử, dựa vào lịch sử, từ đó sáng tạo, mở ra một câu chuyện hư cấu xuyên suốt.

Nhưng từ việc sử dụng tư liệu lịch sử mà nhìn, thì giữa hai người có sự khác biệt rất rõ ràng, Lương Vũ Sinh hư cấu nhân vật và sự kiện, đặt vào bối cảnh lịch sử, lấy đó để gia tăng không khí lịch sử, Kim Dung thì trực tiếp lấy nhân vật và sự kiện lịch sử phô diễn thành tiểu thuyết võ hiệp, các nhân vật, sự kiện lịch sử mà Kim Dung viết rất có mức độ, thường có thể lấy giả làm loạn thật”.

Về khuynh hướng sáng tác, thì La Lập Quần nhận định “Nhân vật trong tiểu thuyết võ hiệp của Lương Vũ Sinh mang đậm màu sắc đạo đức phân chia tà chính rạch ròi, nội hàm xã hội của nhân vật phong phú nhưng tính cách nhân vật đơn điệu, có thiếu sót khái niệm hóa, công thức hóa nhân vật”. Trên cùng đường hướng nhận định này, Trần Hiểu Lâm trong bài Thử bàn về chức năng của sự ngẫu nhiên” trong tiểu thuyết võ hiệp – lấy tác phẩm của Kim Dung, Cổ Long và Lương Vũ Sinh làm ví dụ in trong Đại địa phi ưng, Công ty xuất bản Phong vân thời đại, Đài Bắc, 1999 cũng nhận xét:

“Trong các tác phẩm Thất kiếm hạ Thiên Sơn, Giang hồ tam nữ hiệp…, sự đối lập nhị nguyên và đấu tranh qua lại giữa chính tà, đen trắng, thiện ác, thị phi vẫn là mạch chủ yếu thúc đẩy tình tiết của câu chuyện, thể hiện rõ việc Lương Vũ Sinh kế thừa tiểu thuyết võ hiệp truyền thống… Trong thực tế, nếu xâu chuỗi tác phẩm của Lương Vũ Sinh lại, thì sẽ hình thành một phổ hệ hiệp nghĩa thảo dã phát triển song hành với lịch sử chính thống. Từ phổ hệ hiệp nghĩa thảo dã ấy nhìn lại vương triều chính thống tranh giành nhau vì quyền lực dục vọng, rõ ràng ta thấy nó toát lên sự giải thích và châm chọc lịch sử Trung Quốc. Cho nên ý đồ ngẫu nhiên hóa lịch sử chính thống của ông là điều dễ nhận thấy. Về mặt này, Lương Vũ Sinh và Kim Dung khác đường cùng đích, hai người đều tạo ra một thế giới tưởng tượng riêng, lấy thế giới tưởng tượng ấy soi rọi lại lịch sử Trung Quốc, rất nhiều cay đắng máu lệ tự nhiên hiện rõ giữa những dòng chữ và phía sau tác phẩm”.

Về yếu tố “võ công” đặc trưng của tiểu thuyết võ hiệp, thì ba đại gia Lương, Kim, Cổ đều có phong cách riêng. Võ công trong tác phẩm của Kim Dưng thì mang tính văn hóa – triết lý, thậm chí tiếng sáo điệu đàn cũng có thể trở thành phương tiện chuyển tải nội lực đả thương đối phương, võ công trong tác phẩm của Cổ Long thì mang đậm dấu ấn kỹ thuật hiện đại, “có thức không chiêu, còn võ công trong tác phẩm của Lương Vũ Sinh vẫn mang nhiều yếu tố truyền thống:

La Lập Quần nhận xét “Võ công trong tiểu thuyết võ hiệp của Lương Vũ Sinh tính tả thực trong hư ảo rất mạnh, một chiêu một thức rõ rõ ràng ràng, tinh tế mà lại giống như thật, khẩn trương kịch liệt, khoa trương tới mức tột cùng. “Võ công” của Lương Vũ Sinh cũng mang tính khuynh hướng, có võ công của chính phái, cũng có võ công của tà phái, lực đạo võ công của chính phái nhu hòa, tượng trưng cho sự thiện lương, nhân từ vừa tiện lợi trong việc tấn công phòng thủ, lại có ích cho việc tu tâm dưỡng tính, mà võ công của tà phái thì vô cùng bá đạo, tàn độc hung dữ, đầy ý vị tà ác…”.

Đặt cạnh Kim Dung và Cổ Long, Lương Vũ Sinh ít nhiều mang dáng dấp một tác gia “cổ điển” trong dòng tiểu huyết võ hiệp. Ông vẫn rung cảm với các giá trị trung hiếu tiết nghĩa “phi chính thống”, vẫn đề cao tinh thần thượng võ và hào hiệp của những hiệp khách chống triều đình, vẫn dùng tiểu thuyết võ hiệp như một phương tiện để khẳng định cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ. Trong ý nghĩa này, có thể nói Đại Đường du hiệp ký là một tác phẩm tiêu biểu của Lương Vũ Sinh.

Dịch giả: Cao Tự Thanh

Mục lục

Đại Đường du hiệp truyện – Chương 1: Mở đầu
Chương 2: Chén rượu kết giao vui đạm bạc – Chiếc thoa làm lễ định lương duyên
Chương 3: Thiếu niên vô lại thành tôn quý – Nghĩa sĩ cao phong chịu ngục tù
Chương 4: Ngàn dặm cầu người người không đến – Mười năm lánh họa họa khôn trừ
Chương 5: Cười nhạo Kinh Kha không hảo hán – Ngợi khen nam bát đúng nam nhi !
Chương 6: Chuyện lạ quý phi tiền tắm con – Mừng gặp anh hùng khách mài kiếm
Chương 7: Hổ dực đều run nhìn ánh kiếm – Long tuyền muốn chém đứa gian tà
Chương 8: Dị cái cứu anh hùng gặp nạn – Truy binh theo tuyệt kỹ đánh lui
Chương 9: Bạn thù chưa rõ lòng còn rối – Tà chính khôn hay dạ vẫn nghi
Chương 10: Một kiếm thù kinh lòng hiệp sĩ – Bao năm nghi án hận trời tình
Chương 11: Hiệp sĩ núi hoang gặp giặc cướp – Thần thâu ban tối trộm anh nhi
Chương 12: Kiếm báu đạn thần đương giặc mạnh – Gió tanh mưa máu nổi rừng xanh
Chương 13: Trăm năm bá nghiệp theo dòng nước – Một mảnh cơ tâm dấy sóng cuồng
Chương 14: Trước bàn yến tiệc thấy ăn mày – Trên hội anh hùng phá kế quỷ
Chương 15: Trong cốc Long Miên gây sóng gió – Đầu non Ngọc Thụ chứa nguy nan
Chương 16: Con yêu bị cướp thù không cởi – Thân thế khôn hay hận vẫn dài
Chương 17: Dấy loạn, cường phiên giam sứ giả – Trở về, tráng sĩ hãm trùng vây
Chương 18: Khôn phân yêu hận tình trăn trở – Nói tới ân thù ý mịt mờ
Chương 19: Đêm rằm quán trọ nghe tin dữ – Ngàn dặm biên cương dấy lửa binh
Chương 20: Theo hẹn tới tìm, người chẳng gặp – Lời đồn khó biết, chuyện nên nghi
Chương 21: Giặc Hồ ruổi ngựa thành to sập – Tráng sĩ vung đao ý khí hào
Chương 22: Đáng thương dưới kiếm tình nhi nữ – Khơi dậy trong non chuyện kiếm đao
Chương 23: Cờ Hán vừa giương doanh tế liễu – Ngựa Hồ đã giẫm đất Trung Nguyên
Chương 24: Nợ tình khôn trả sầu dằng dặc – Tương tư chưa dứt hận miên man
Chương 25: Truy tìm động thỏ đào ba chỗ – Sợ thấy hơi ma ngút chín trời
Chương 26: Rắn rồng lẫn lộn thôi ngờ vực – Én nhỏ riêng bay ý mịt mờ
Chương 27: Lối lạ tương phùng gian kế lộ – Cung sâu lại thấy nghịch mưu sinh
Chương 28: Diệu thủ thần thâu kinh thánh tượng – Đa tình công chúa mộ anh hùng
Chương 29: Đói rét xôn xao lòng tướng sĩ – Lửa binh loạn lạc xót nhân dân
Chương 30: Thê lương đường Thục người ít đi – Quằn quại mày ngài chết trước ngựa
Chương 31: Quan ải tiêu điều đường khi bước – Anh hùng say rượu lệ đau đời
Chương 32: Quê xưa lại thấy người phiêu bạt – Khách trốn sao kham ý nhớ thương
Chương 33: Hang cọp náu thân lo báo nước – Phòng khuê nói chuyện biết lòng ngươi
Chương 34: Giết voi cậy mạnh ra oai dữ – Tắm khỉ lên ngôi chuốc tiếng cười
Chương 35: Ma chưởng truy hồn tài khó chống – Khổ tâm vì bạn oán đâu sờn
Chương 36: Mười năm nhịn nhục thù đà trả – Mấy độ tìm con hận chửa tiêu
Chương 37: Lục lâm nợ máu than khôn giải – Ma trận hơi yêu hóa chẳng tan
Chương 38: Chuộc tội xóa hờn thà một chết – Một lời giải họa kết tân tri
Chương 39: Mừng gặp con hùng ngờ giữa mộng – Đau nghe bạn thiết khốn trong thành
Chương 40: Đâu Buồn Giặc Mạnh Vào Trung Thổ -còn Có Anh Hùng Dựng Hán Tinh

Chương 2: Chén rượu kết giao vui đạm bạc – Chiếc thoa làm lễ định lương duyên

Chén rượu kết giao vui đạm bạc -Chiếc thoa làm lễ định lương duyên

Chúc mừng năm mới, năm mới đại cát!.

Hôm ấy là ngày mồng một Tết năm Thiến Bảo thứ bảy nhà Đại Đường.

Ở một sơn thôn cách Trường An sáu mươi dặm có một gia đình, chủ nhân họ Sử, tên Dật Như, thi đỗ Tiến sĩ năm Khai Nguyên thứ hai mươi hai, nhưng không muốn làm quan trong triều, nên chưa đến tuổi trung niên đã về quê ở ẩn, người làng tôn trọng y là một bậc quân tử có học thức, vừa sáng ra đã tới chúc Tết y.

Sử Dật Như theo tục lệ chúc Tết người làng một lượt, đưa khách về xong, lại lắc lắc đầu chép miệng khẽ than :

– Thế đạo thế này, có gì mà mừng?.- U oa, u oa, trong hà vang ra tiếng trẻ khóc, hòa lẫn vào tiếng pháo bộc can tạch tạch đùng đùng (Theo phong tục người thời Đường ngày đầu năm lấy tre tươi đốt cho nổ, gọi là bộc can, khác với loại bộc trượng về sau. Bài thơ Tảo xuân của Lai Hộc có câu :

– Vừa xem lịch mới được vài trang, sân nhỏ còn vun tro bộc can, tức là vịnh chuyện ấy).

Sử Dật Như trên mặt thoáng nét tươi cười, nghĩ thầm :

– Nếu nói có chuyện mừng, thì chính là bắt đầu từ hôm nay có thêm một đứa nhỏ, trong nhà có thể náo nhiệt hơn một chút.

Y sai đứa thư đồng đang đốt bộc can trước thềm :

– Những lễ vật ngươi thu nhận, lấy ra cho ta bốn hộp bánh trái mang tới nhà Đoàn đại gia, mời y qua uống vài chén rượu, trong lòng hơi thắc mắc :

– Mồng một hàng năm người tới chúc Tết sớm nhất là y, sao năm nay lại tới muộn thế này?.

Đứa thư đồng dạ một tiếng, nhưng lại chợt cười nói :

– Lão gia, không cần đi mời nữa, người xem, không phải là Đoàn đại gia đã tới kia rồi sao?.

Chỉ nghe có người cao giọng ngâm :

– Phong cảnh tháng ngày không chịu đợi, ruộng dâu bể biếc thoắt đổi dời. Nhà ngọc thềm son ngày trước đâu, đến nay chỉ thấy cỏ xanh bãi. Vắng vẻ tịch mịch Sử quân tử, năm dài sách vở không rời tay. May có cố nhân còn gặp gỡ, gà vàng rượu trắng cùng nhau say.

Sử Dật Như hô hô cười nói :

– Bài thơ của Lư Chiếu Lân bị sửa thành một bài thơ tức cảnh rồi. Đoàn huynh, gà vàng rượu trắng đã chuẩn bị sẵn, chờ huynh cùng say một bữa, sao bây giờ mới tới?.

Người mà Sử Dật Như gọi là :

– Đoàn huynh tên Đoàn Khuê Chương, là một người trung niên hơn bốn mươi tuổi, tướng mạo vạm vỡ, ăn mặc theo lối võ sư, Sử Dật Như lại là một thư sinh ôn nhu văn nhã, từ tướng mạo mà nhìn thì hai người tựa hồ không thể thân thiết như thế, nhưng thật ra hai người lại là bạn thân sớm tối qua lại với nhau, nguyên Đoàn Khuê Chương không những tinh thông võ nghệ mà còn có biệt tài về thơ văn. Y vốn là người nơi khác, dời nhà tới đây ở chưa đầy mười năm, Sử Dật Như cũng chưa biết rõ lai lịch của y, chỉ là kính trọng y lòng dạ ngay thẳng, văn võ toàn tài, hai người ý khí hợp nhau, bên thành tri kỷ.

Đoàn Khuê Chương nghe Sử Dật Như có ý trách móc như thế, bèn cười nói :

– Sử huynh, hôm nay tiểu đệ tới muộn, là có lý do. Sử Dật Như hỏi :

– Vì chuyện gì vậy?. Đoàn Khuê Chương mặt mày rạng rỡ nói :

– Tối qua tiện nội có thêm một đứa nhỏ. Sử Dật Như cả mừng nói :

– Ha ha! Đây đúng là không lẻ thì có đôi, con huynh là trai hay gái thế?

Đoàn Khuê Chương nói :

– Là một thằng tiểu tử thối tha, à mà huynh hỏi như thế, chắc là tẩu phu nhân cũng mới sinh phải không?. Sử Dật Như nói :

– Ta thì sinh được một con nhóc vô dụng. Đoàn Khuê Chương cười lớn nói :

– Hô hô, là một cô nương, vậy thì đệ phải chúc mừng huynh gấp đôi. Sử Dật Như hơi kinh ngạc, không hiểu ý y. Đoàn Khuê Chương cười nói :

– Chắc Sử huynh đã nghe chuyện trong Trường An gần đây rồi chứ? Hoàng thượng cướp Dương Thái Chân – là vợ của Thọ vương Lý Mạo rồi phong làm Qúy phi, đó là chuyện năm Thiên Bảo thứ tư. Dương Qúy phi rất được sủng ái, đến nay không đầy ba năm, ba người chị của nàng đều được phong là Phu nhân, tháng trước tin tức trong kinh đồn ra, ngay anh họ của nàng là Dương Quốc Trung cũng được làm Tể tướng, đúng là một nhà phú quý, không ai sánh được. Vì thế phong khí trong kinh thay đổi hẳn, vừa nghe có ai sinh con gái là thân thích bạn bè tranh nhau chúc mừng, ai cũng nói thế đạo hiện nay là không trọng sinh trai, trọng sinh gái. Ngô huynh sinh được một tiểu thư, há không phải đáng chúc mừng hai lần sao?.

Sử Dật Như không vui, nói :

– Nếu ta muốn cầu công danh phú quý, thì mười năm nay đã không cam tâm ẩn dật ở thôn quê, ta là vì không quen nhìn tiểu nhân nắm quyền, gian tà đầy triều nên mới bỏ cái mũ sa đen, chẳng lẽ ta lại học theo lối của bọn tiểu nhân hèn hạ vô sỉ như Dương Quốc Trung à?.

Đoàn Khuê Chương vội nói :

– Chúng ta kết giao mười năm, lẽ nào tiểu đệ lại không biết Sử huynh là người ra sao? Câu ấy chẳng qua chỉ là nói đùa cho vui thôi, rồi lại thở dài nói :

– Chúng ta đem phong khí kinh đô ra làm chuyện cười, chứ thật ra chuyện ấy đủ cho những kẻ có lòng hiện nay phải khóc đấy! Phong khí ngày càng tệ, việc nước ngày càng suy, sắp tới thật không biết sẽ ra thế nào nữa!.

Sử Dật Như cũng thở dài nói :

– Truyện cười mà, thật càng lúc càng chẳng ra sao! Nào nào, chúng ta cứ say khướt một phen, mặc chuyện đời sẽ ra thế nào!.

Hai người đối ẩm được vài chén, Sử Dật Như trong lòng ngứa ngáy, cầm cái như ý gõ vào mâm hát :

– Sầm phu tử, Đan Khâu sinh, rượu sắp thuốc, ly đừng dừng. Cùng huynh ca một khúc, xin huynh vì ta nghe tới cùng:

Chuông trống thức ngon không đáng quý, chỉ mong say khướt không cần tỉnh. Hô hô, chỉ mong say khướt không cần tỉnh.

Bài Tương tiến tửu ấy của Lý Thái Bạnh thật rất đúng ý ta, thi nhân trên đời hiện nay ta chỉ khâm phục có y và Lão Đỗ thôi, nghe nói y hiện đang ở Trường An, tiếc là thường bị hoàng đế giữ lại trong cung, nếu không quả thật ta cũng muốn tới Trường An gặp y một lần.

Đoàn Khuê Chương như bị động chạm, chợt lại cười nói :

– Sử huynh, ta nói huynh có thêm một tiểu thư, thật đáng chúc mừng gấp đôi, cũng không phải là nói đùa đâu. Ngươi khâm phục Lão Đỗ không phải là vì bài thơ Binh xa hành sao. Bài thơ ấy làm xong là giá giấy ở Lạc Dương tăng vọt, trong đó có mấy câu thế này:

Mới biết sinh trai dở, chẳng bằng sinh gái tốt. Sinh gái còn gả cho láng giềng, sinh trai cỏ nội vùi xương cốt. Hiện nay nước nhà chinh chiến liên miên, vả lại dấu hiệu loạn lạc dường như đã hiện rõ ra rồi, sinh được một thằng tiểu tử thối tha quả thật không bằng sinh được một đứa con gái đâu.

Sử Dật Như uống cạn một chén rượu đầy, dằn mạnh chén một cái, nói:

– Chuyện đàn bà con gái, chúng ta có quản được bao nhiêu? Đúng là câu thơ của Đỗ Phủ mà huynh mới đọc lại khiến ta nghĩ tới một chuyện. Đoàn Khuê Chương hỏi :

– Chuyện gì?. Sử Dật Như nói :

– Sinh gái còn gả cho láng giềng, chúng ta tuy không phải là láng giềng nhưng cũng là cùng thôn, chẳng lẽ lại vừa khéo như thế, hai đứa nhỏ đều sinh đúng ngày ba mươi Tết, chúng ta cứ kết duyên Tần Tấn, ý huynh thế nào?.

Đoàn Khuê Chương cả mừng nói :

– Ta vừa nghe nói tẩu phu nhân sinh được một tiểu thư là đã sớm có ý ấy, chỉ là không dám mở miệng, chúng ta là bạn tâm giao, nay lại làm thông gia với nhau, đúng là không gì tốt hơn. Vừa khéo ta có mang theo một chiếc thoa ngọc, thôi thì lấy đó làm sính lễ vậy. Sử Dật Như vừa nhìn thấy chiếc thoa ngọc, bất giác sửng sốt. Chỉ thấy chiếc thoa ngọc ấy lóng lánh tươi nhuận, chính là loại ngọc Hòa Điền hạng nhất, phía trên đầu khảm một hạt minh châu, đẹp rực rỡ, xem ra quả thật giá trị không nhỏ. Sử Dật Như không kìm được nghĩ thầm :

– Y làm sao có được vật báu vô giá như thế?. Nên biết Đoàn Khuê Chương từ khi tới ở thôn ấy, sinh sống bằng việc dạy võ cho một số thiếu niên trong thôn, nhà rất nghèo, mỗi khi gặp chuyện khó khăn Sử Dật Như còn thường phải giúp đỡ y, bây giờ lại thấy y lấy chiếc thoa ngọc ra làm sính lễ, cảm thấy rất kỳ lạ. Có điều Sử Dật Như hiểu rõ Đoàn Khuê Chương là người hào hiệp, quang minh chính trực, nên tuy cảm thấy rất kỳ lạ nhưng không hề nghi ngờ chiếc thoa ngọc ấy của Đoàn Khuê Chương là có lai lịch bất minh.

Đoàn Khuê Chương như cũng biết ý, không đợi Sử Dật Như hỏi, lập tức nói ngay :

– Ông cố ta vào năm Trình Quan từng theo Đại tướng quân Lý Tĩnh viễn chinh Đột Quyết, tới Hòa Điền lấy được một cặp thoa ngọc, về sau luận công xét thưởng, lại được Thái tông hoàng đế thưởng cho hai viên minh châu Nam Hải, người bèn tìm thợ khéo khảm minh châu lên thoa, giữ lại làm vật báu gia truyền, nên tiểu đệ bất kể gia đạo khó khăn thế nào cũng không nỡ bán cặp thoa ngọc này.

Sử Dật Như nới :

– Té ra Đoàn huynh là dòng dõi nhà tướng, thảo nào mà mười tám ban võ nghệ đều tinh thông. Không còn nghi ngờ gì về lai lịch của chiếc thoa ngọc nữa, nhưng trong lòng Sử Dật Như lại dấy lên một mối ngờ vực:

thân thuộc dòng dõi nhà tướng, là điều vinh dự, mà tại sao trước nay Đoàn Khuê Chương không hề nói tới?

Đoàn Khuê Chương uống một chén rượu, nói tiếp :

– Tiểu đệ trong nhà không có vật gì đáng giá, chỉ có chiếc thoa ngọc này là vật quý, nên trước nay lúc nào cũng mang theo bên người. Cặp thoa ngọc này, một chiếc chạm rồng, một chiếc chạm phụng, gọi là Long Phụng bảo thoa, bây giờ ta đưa chiếc Phụng thoa này cho lệnh ái làm sính lễ.

Sử Dật Như nói :

– Ngô huynh đem vật báu gia truyền làm sính lễ, trịnh trọng như thế, tiểu đệ vô cùng cảm kích. Y vốn không dám nhận, nhưng nghĩ tới con gái về sau gả về cho con trai Đoàn Khuê Chương, chiếc thoa ngọc này vẫn là vật của nhà y, nên cũng không từ chối nữa.

Y đón lấy chiếc thoa ngọc nhìn qua một lượt, chỉ thấy trên chiếc thoa dài năm tấc quả nhiên cỏ chạm hình một con chim phụng xòe cánh bay cao, khéo léo tinh tế, thần thái sinh động, dáng vẻ giống như núp trong chiếc thoa ngọc, và như muốn bay ra. Có điều vì chiếc thoa ngọc này chỉ có năm tấc ( tấc =, cm), con phụng chạm ở giữa, phải nhìn kỹ mới có thể thấy rõ.

Sử Dật Như tấm tắc khen ngợi, Đoàn Khuê Chương nói :

– Còn chiếc chạm rồng này, cũng mời ngô huynh thưởng lãm. Dật Như nhìn tới chiếc Long thoa, kiểu dáng cũng giống chiếc Phụng thoa, trên cũng có khảm một viên minh châu, chỉ khác là trên chạm một con rồng vàng nhe nanh múa vuốt, chạm trổ cũng rất tinh xảo.

Đoàn Khuê Chương nói :

– Hiện nay kẻ gian trị nước, mối loạn đang sinh, tương lai thế đạo ra sao, không ai dám nói trước Tiểu đệ đem chia tách Long Phụng bảo thoa, lấy chiếc Phụng thoa làm sính lễ, là còn có ý…. Nói tới đó thì hơi ngần ngừ, dường như có điều gì e ngại, Sử Dật Như nói :

– Còn có ý gì, xin được thỉnh giáo. Chúng ta đã là thông gia, còn có chuyện gì không nói ra được chứ?.

Đoàn Khuê Chương nói :

– Huynh là bậc đạt nhân, vào ngày đầu năm ắt không kiêng kỵ, tiểu đệ nói ra lời không may. Ta nghĩ tương lai hai nhà chúng ta nếu vì loạn lạc chia lìa, thì đôi vợ chồng chưa cưới chứng nó cũng có thể mỗi đứa giữ một chiếc thoa xem như là vật làm tin.

Sử Dật Như hô hô cười rộ nói :

– Huynh cũng lo xa quá!, lòng nghĩ thầm :

– Hai nhà chúng ta ở cùng một thôn, cho dù gặp lúc loạn lạc mất mùa, cũng nhất định phải cùng chia hoạn nạn, làm sao mà chia lìa được. Nhưng thấy Đoàn Khuê Chương nói rất trịnh trọng, trong lòng bất giác cảm thấy có điềm chẳng lành bên cố gắng nói cười vui vẻ, xua đi không khí nặng nề. Vừa nói chuyện vừa đưa trả chiếc Long thoa cho Đoàn Khuê Chương, còn chiếc Phụng thoa thì nâng niu cất giữ.

Đoàn Khuê Chương nói :

– Tiểu nhi còn chưa đặt tên, huynh học rộng tài cao, xin đặt giúp cho một cái tên được không?.

Sử Dật Như cười nói :

– Con gái của ta cũng chưa có tên. Ngoài cửa hoa tuyết như lông ngỗng đang tơi xuống, mấy gốc lạp mai trong sân đang nở rộ trong tuyết, Sử Dật Như uống cạn một chén đầy, ngẩng lên cười nói :

– Ta rất thích hoa mai khinh tuyết ngạo tuyết, con gái ta cứ dặt tên là Nhược Mai vậy. Ngừng lại một chút lại nói tiếp :

– Cho dù khinh tuyết ngạo tuyết cũng chưa đủ. Thế sự hiện nay, gian tà đầy đường, trang nam nhi phải có khả năng lên ngựa múa gươm, xuống ngựa múa bút mới phải. Được, ta có ý này, bạo gan thay huynh đặt tên cho hiền lang, gọi là Khắc Tà thì thế nào?.

Đoàn Khuê Chương vỗ tay cười nói :

– Hay, hay lắm! Đoàn Khắc Tà, Sử Nhược Mai, hai cái tên ấy gói ghém tiết tháo và mong muốn của chúng ta. Chỉ mong sau này chúng nó khôn lớn thành người, đừng quên kỳ vọng của cha mẹ vào chứng nó.

Đúng lúc hai người đang nói cười thắm thiết, chợt nghe thấy tiếng tù và tu tu, tiếng la thét hòa với tiếng trẻ con kêu khóc. Sử Dật Như kinh ngạc nói :

– Ngoài kia có chuyện gì vậy, chẳng lẽ là nha lại xuống bắt phu, trưng thu lương thực sao? Chúng ta ra xem đi.

Nhà họ Sử cách đường không quá mươi bước, hai người ra tới cổng lớn, ngước mắt nhìn ra, chỉ thấy bụi bay mù mịt, một toán quan quân từ đầu thôn phóng mau tới, giáp trụ sáng loáng, người mạnh ngựa khỏe, người cưỡi ngựa đi đầu vung một lá cờ to, thêu một chữ :

– An bằng kim tuyến lớn, bay phần phật trước gió. Tiếp theo là hai kỵ mã, mỗi người cũng cầm một lá cờ to, trên thêu quan hàm, một lá đề :

– Bình Lô Tiết độ sứ, một lá đề :

– Bình Dương Tiết độ sứ. Tiết độ sứ là quan trấn thủ một phương của nhà Đường, trong phạm vi địa phương mà y cai quản thì việc quân việc dân đều do một tay y nắm giữ, cũng như một vương quốc nhỏ, uy phong không ai sánh được. Một người mà kiêm làm Tiết độ sứ tới hai nơi, lại càng là chuyện trước nay chưa từng có.

Sử Dật Như sửng sốt, nghĩ thầm :

– Té ra là An lộc Sơn!. Cái tên An Lộc Sơn thì người đương thời không ai không biết, nhưng Sử Dật Như là lần đầu thấy mặt, chỉ thấy y là một gã to béo như con heo mập, mặc áo giáp đính ghim vàng, khệnh khạng ra vẻ, oai phong lẫm liệt ngồi trên một con ngựa cao lớn, giữa đám quân sĩ tiền hô hậu ủng vung roi quát :

– Quân đâu, mặc kệ bọn khỉ gió trên đường, đạp chết thì thôi, phóng ngựa cho nhanh, hôm nay chúng ta phải tới Trường An để chúc Tết Qúy phi.

Nguyên là năm trước An Lộc Sơn tới Trường An, ra sức lấy lòng Dương Qúy phi, mặc dù y lớn tuổi hơn Dương Qúy phi rất nhiều, nhưng lại được Dương Qúy phi nhận làm con nuôi. Y được nếm mùi ngon ngọt, nên năm nay lại tới chúc Tết Dương Qúy phi, y một mình kiêm chức :

– Tiết độ sứ hai trấn Bình Lô, Phạm Dương còn chưa thoa? mãn, lại muốn luồn lọt cửa Dương Qúy phi để được kiêm chức Tiết độ sứ Hà Đông! Y sốt ruột cầu cạnh, nên dọc đường cứ thúc hối xe ngựa đi mau.

Ngày mùng một Tết, nhà nông đều mặc sức vui chơi, những người nhàn rỗi tụ họp ở đầu làng cuối thôn rất đông, nhất là bọn trẻ con, giống như bầy khỉ sút chuồng, nô đùa khắp nơi, lúc ấy lại có một bọn trẻ trên dư mười tuổi đang đánh đáo trên đường.

Đoàn tùy tùng của An Lộc Sơn rầm rập phóng tới, vung roi ngựa đốp đốp chát chát đánh bửa ra, bọn người nhàn rỗi cạnh đường cũng có vài kẻ bị đánh trúng, hoảng sợ bỏ chạy tán loạn, đâu còn ai dám xông ra đường che chở cho bọn trẻ con.

Đám trẻ con hoảng sợ kêu cha gọi mẹ, dồn thành một đám hỗn loạn, những đứa can đảm lanh lợi vội vàng bỏ chạy, nhưng có ba đứa nhỏ tuổi nhất, có lẽ vì sợ quá nên nhũn người ra, bò lê bò càng trên đường, vẫn chưa bò ra khỏi đường, rõ chắc sẽ bị thương dưới vó ngựa của đoàn thiết ky!

Đột nhiên bóng người chớp lên băng ngang qua đường, nhanh như ưng cắt, chỉ thấy hai tay y quờ một cái túm lấy hai đứa nhỏ ở giữa đường vung tay ném ra xa, nói thì chậm chứ lúc ấy rất mau, con ngựa đi đầu đã phóng tới, trên đường vẫn còn một đứa nhỏ, người ấy vừa bế nó lên thì con ngựa cao to chỉ còn cách y ba thước, chỉ nghe :

– roát một tiếng, kỵ sĩ trên ngựa vung roi đập xuống, con chiến mã bị y cản đường đứng thẳng trên hai nhân sau, hai cái móng sắt vó trước bổ xuống người y.

Đúng vào chớp mắt cực kỳ nguy hiểm ấy, chỉ thấy y ôm đứa nhỏ điểm mũi chân xuống đất chênh chếch bay ra, chiếc roi da rát một tiếng lướt qua đánh rách một mảnh trên vạt áo y nhưng không đánh trúng đứa nhỏ, con chiến mã hai vó bổ xuống đúng vào chỗ y vừa đứng, sự việc diễn ra chỉ trong một cái chớp mắt!

Sử Dật Như ngỡ rằng người ấy là Đoàn Khuê Chương, sau mới nhìn kỹ lại, thì ra là một thiếu niên nhà quê, mặc một chiếc áo bông màu xám, không ngờ thân thủ lại mau lẹ như thế! Trong nháy mắt đoàn thiết ky đã phóng qua, thiếu niên kia buông đứa nhỏ xuống, nói :

– Bọn nhỏ bị hoảng sợ, xin vị thúc bá này đưa chúng về nhà giúp.

Người nhà của ba đứa nhỏ kia vừa khéo cũng có mặt ở đó, vội vàng chạy tới nhìn, chỉ thấy bên ven đường có một đống rơm, hai đứa nhỏ lồm cồm bò ra, nức nở gọi :

– Mẹ Ơi, mẹ Ơi!, chính là hai đứa nhỏ y vừa ném ra, rơi xuống giữa đống rơm, tuy bị hoảng sợ nhưng không hề bị thương.

Mọi người vội vàng xúm lại xem xét hai đứa nhỏ, trong tiếng kêu la ầm ĩ, thiếu niên nhà quê kia đã lặng lẽ bỏ đi,đến khi người nhà của bọn trẻ sực nhớ ra, định cảm tạ ân nhân, thì đã không còn thấy thiếu niên nhà quê ấy đâu nữa…

Sử Dật Như trú ngụ Ở thôn này mười mấy năm, người trong thôn y đều biết mặt, mới rồi trong lúc căng thẳng không kịp nhận mặt, lúc này nhớ lại diện mạo của thiếu niên kia, mới phát giác ra y không phải là người trong thôn, Sử Dật Như vô cùng kinh ngạc, hỏi :

– Đoàn huynh, huynh có biết người ấy không?. Y e là mình nhìn không rõ, nên lại hỏi Đoàn Khuê Chương lần nữa, nhưng không nghe trả lời, chợt phát hiện ra Đoàn Khuê Chương đã không còn đứng bên cạnh!

Sử Dật Như giật nảy mình, lúc đưa mắt nhìn ra, chỉ thấy Đoàn Khuê Chương đang đi mau về phía trước, bẻ cái cổ áo da dê lên trùm đầu, dường như sợ gió lạnh, lộ ra vẻ co ro cóm róm. Nhà họ Sử chỉ cách đường mươi bước, lúc ấy y đã đi tới dưới một gốc cây ngoài hiên nhà.

Sử Dật Như vốn định lớn tiếng gọi y, chợt nghĩ lại, nảy ý nghi ngờ :

– Đoàn đại ca lúc bình thời hay trượng nghĩa phù nguy, hoàn toàn không phải là một kẻ hèn nhát, mới rồi mấy đứa nhỏ suýt nữa bị ngựa xéo bị thương, với bản lĩnh của y thì cũng có thể cứu, nhưng y lại không ra cứu, đó đã là một chuyện lạ, bây giờ lại rón rén bỏ đi, cũng không nói với mình câu nào, tại sao lại thế? Thêm nữa, y là người luyện võ lẽ ra không sợ lạnh như thế, sao lại bẻ cổ áo lên trùm đầu lộ ra dáng vẻ co ro cóm róm như vậy? Chẳng lẽ y sợ người ngoài nhận ra y sao?. Sử Dật Như là người đọc sách, tâm tư tinh tế, vừa nảy ý nghi ngờ liền lập tức không gọi y nữa, cũng vội vội vàng vàng trở vào nhà.

Đoàn Khuê Chương đã bước vào tới nhà họ Sử, đợi Sử Dật Như bước vào, y lập tức đóng chặt cổng lớn, hạ giọng hỏi :

– Quan quân đi qua hết rồi chứ?. Sử Dật Như nói :

– Qua hết rồi. Đại ca, huynh….

Đoàn Khuê Chương nói :

– Vào trong hãy nói, để đề phòng trên vách có tai, tiết lộ phong thanh.

Sử Dật Như vô cùng nghi ngờ, hai người cùng nhau bước vào sảnh đường, Đoàn Khuê Chương còn hết sức cẩn thận đóng cửa phòng lại.

Sử Dật Như không nhịn được hỏi :

– Đoàn huynh, chẳng lẽ trước đây huynh đã làm chuyện gì phạm pháp sao?.

Đoàn Khuê Chương cười gượng một tiếng, rót đầy một chén rượu, uống một hơi cạn sạch, khẽ nói :

– Chắc đại ca nghi ta phạm vào vương pháp phải không? Ta chưa từng phạm pháp, chỉ là từng xúc phạm một gã thiếu niên vô lại.

Sử Dật Như càng thêm kinh ngạc, nói :

– Đại ca, huynh không phải là một kẻ nhát gan, cho dù từng xúc phạm một gã thiếu niên vô lại, thì huynh võ nghệ như vậy, cũng có gì phải sợ chứ?. Đoàn Khuê Chương nói :

– Nói ra dài lắm. Huynh nói gã thiếu niên vô lại ấy là ai nào? Chính là vị Tiết độ sứ Bình Lô kiêm Tiết độ sứ Phạm Dương mà huynh vừa nhìn thấy đấy.

Sử Dật Như kêu lên thất thanh :

– Hả, An Lộc Sơn à?.

Đoàn Khuê Chương nói :

– Trong bấy nhiêu năm ta chưa từng nói với huynh về lai lịch của ta, bây giờ thì có thể nói rồi. Ta vốn là người U Châu, dời tới quý thôn chính là để tránh xa gã An Lộc Sơn ấy.

Đoàn Khuê Chương lại uống một chén rượu rồi nói tiếp :

– Tiên tổ ta lập nhiều quân công, làm tới chức Binh mã sứ U Châu, tính ra cũng là một chức võ quan không vừa. Tiên phụ bất hạnh mất sớm, ta kế thừa di ấm tổ phụ, không biết trời cao đất dày, kết giao với một bọn thiếu niên nhàn rỗi lêu lổng, thường ngày chuyên quản chuyện không đâu trong làng xóm, dẹp nỗi bất bình, tự cho là mình trượng nghĩa. Thật ra trong bọn thiếu niên ấy có quá nửa là kẻ vô lại, vì muốn kiếm rượu thịt nên kết giao với ta mà thôi. Trong đó có một gã, chính là An Lộc Sơn, mà lúc ấy thì y còn chưa mang họ An.

Đoàn Khuê Chương ngừng lại một lúc rồi nói tiếp :

– An Lộc Sơn là người Hồ ở Tây Vực, vốn họ Khang, mẹ là người Đột Quyết, về sau tái giá với tướng Hồ, An Diên Yển, y mới đổi mang họ An. Sử Dật Như cười nói :

– Bất kể y vốn họ gì, nhưng mọi người hiện đều biết y là An Lộc Sơn, thì cứ gọi y là An Lộc Sơn thôi. Về sau giữa huynh với An Lộc Sơn phát sinh chuyện gì vậy?.

Đoàn Khuê Chương nói :

– An Lộc Sơn thông hiểu ngôn ngữ Lục phiên, lúc ấy làm Hỗ thị lang ở U Châu. Ở U Châu người Hán người Hồ xen lẫn, Hỗ thị lang là một chức quan nhỏ chuyên trách quản lý thương vụ của người Hán người Hồ ở chợ, gặp lúc đôi bên ngôn ngữ bất thông thì kiêm luôn việc phiên dịch. Y thường nhân đó trục lợi, lừa dối các thương nhân lương thiện, nhưng bề ngoài thì tỏ vẻ phóng khoáng, thích kết giao với các hảo hán. Ta thấy y biết vài đường quyền bổng, lại thông hiểu ngôn ngữ Lục phiên, nhất thời không xem xét, cho rằng y là một nhân tài, bèn kết bạn với y.- Dần dần ta phát giác ra hành vi của y không chính cương, cũng từng khuyên nhủ y, y bề ngoài nghe theo nhưng bên trong thì làm trái lại, thay vốn thêm lời, có lần y ngụy tạo giấy nợ, sách nhiễu một thương nhân, bắt ép họ đưa con gái cho y trừ nợ, ta biết được chuyện ấy, trong lúc nóng giận đánh y một trận no đòn, từ đó tuyệt giao. An Lộc Sơn giữa chợ đông người bị ta mắng cho một chặp, đánh cho một trận, không còn mặt mũi nào tới đó nữa, hôm sau mất tăm luôn, không biết đi đâu.- Qua vài năm, chợt nghe nói y làm tới chức Binh mã sứ quân Bình Lô, thì ra y được cha dượng tiến cử, vào làm Tróc sinh tướng dưới trướng U Châu Tiết độ sứ Trương Hữu Khuê. Quân ở biên cương trọng dụng tướng Hồ, y lại giỏi luồn lọt, lại thêm cũng vài phen lập được công lao, nên được thăng chức rất mau, sau khi làm Binh mã sứ, không đầy hai năm lại được thăng làm Phó Tiết độ sứ Bình Lô, rồi dẫn quân về đóng ở U Châu.- Lúc ấy một chút của cải tiên tổ để lại ta đã vung phí hết sạch, thất thểu bơ vơ, bọn bạn bè ngày trước cũng tan đi hết. Ta biết An Lộc Sơn là một kẻ tiểu nhân báo thù từ một cái lườm một cái nguýt.

Sau khi y làm quan to, những chuyện tác oai tác phúc của hắn ta cũng đã nghe không ít. Đoán chắc là sau khi y trở về U Châu nhất định không bỏ qua ta, mà ta đối với cố hương cũng đã không còn gì để lưu luyến, nên lập tức xa lìa đất cũ, phiêu bạt vài năm, mới tới ở nơi này, không ngờ hôm nay lại gặp y ở đây. Sử huynh, chỉ e hôm nay đã là ngày chúng ta chia tay rồi.

Sử Dật Như nói :

– Ta cứ cho rằng huynh đã gây ra họa lớn tày trời gì, thì ra chỉ là lúc trẻ từng đánh một gã vô lại mà thôi. Chuyện đã lâu năm, An Lộc Sơn cũng chưa chắc còn nhớ đâu.

Đoàn Khuê Chương nói :

– An lộc Sơn coi chuyện ấy là mối sỉ nhục lớn nhất trong đời, e đến chết vẫn còn chưa quên, nếu ta không chạy, nhất định sẽ gặp mối họa lớn, ta chết không đáng tiếc, chỉ là sợ liên lụy tới vợ con bè bạn. An lộc Sơn hiện nay khí thế ngất trời, hôm nay chẳng phải huynh cũng đã chính mắt nhìn thấy y thị uy sao?.

Sự tàn bạo vô đạo của An Lộc Sơn thì Sử Dật Như hoàn toàn không phải không biết, nhưng y không nghĩ sự tình lại nghiêm trọng tới mức như thế, y kết giao với Đoàn Khuê Chương nhiều năm, quả thật không thể xa nhau một ngày, vì thế nên khuyên giải :

– Hôm nay ở ven đường có rất đông người, An Lộc Sơn giữa đám tiền hô hậu ủng, mau lẹ phóng ngựa, chắc gì y đã nhận ra huynh trong đám đông?.

Đoàn Khuê Chương nói :

– Người xưa nói rất hay, là đề phòng tai họa từ lúc chưa xảy ra. Sự tình phải nghĩ tới chỗ xấu nhất, nhỡ khi tai họa đột ngột xảy ra, lúc ấy ta muốn ẩn núp cũng không còn kịp nữa.

Huống chi từ khi An Lộc Sơn bợ đỡ Dương Qúy phi năm trước, sắp tới nhất định thường tới Trường An, chỗ này cách Trường An rất gần, thế nào cũng có một ngày bị y phát hiện ra.

Sử Dật Như nói :

– Hai người chúng ta tình như thủ túc, bây giờ lại kết thành thông gia, lẽ ra phải hoạn nạn có nhau, muốn đi thì hai nhà chúng ta cùng đi.

Đoàn Khuê Chương tỏ vẻ lúng túng, hồi lâu mới nói :

– Huynh cao nghĩa, thật đáng khâm phục. Chỉ là tẩu phu nhân vừa sinh nở, như thế thì coi sao được?.

Sử Dật Như cười nói :

– Thế tẩu phu nhân không phải cũng vừa sinh nở sao?.

Đoàn Khuê Chương nói :

– Tiện nội biết chút võ nghệ, thân thể khỏe mạnh, việc đến lúc nguy cấp, muốn đi cũng không khó. Tẩu phu nhân lại là khuê tú danh môn, làm sao phiêu bạt sinh nhai, dầm mưa dãi nắng được?.

Sử Dật Như nói :

– Theo ta thấy, muốn đi cũng không phải vào lúc này, thiết nghĩ An Lộc Sơn vào tới Trường An, ít nhất cũng phải qua Nguyên Tiêu mới về lại U Châu. Tẩu phu nhân tuy thân thể khỏe mạnh, nhưng vừa sinh nở xong, vậy cũng không nên đi xa. Theo ta thấy, chẳng bằng cứ chờ thêm mươi bữa nửa tháng, lúc ấy hai nhà cùng đi, há không phải hay hơn sao?.

Đoàn Khuê Chương nghe Sử Dật Như nói rất có lý, lại nghĩ tới việc hứa hôn lúc nãy, nếu hai nhà chia tay ngay trong hôm nay, tuy nói có Long Phụng bảo thoa làm tin, nhưng về sau có thể gặp lại nhau không thì chỉ còn cách thuận theo mệnh trời. An Lộc Sơn vào tới Trường An, không tránh khỏi rất nhiều quan lại thù tạc, trong kinh phú quý phồn hoa, y lại vừa nhận Dương Qúy phi làm mẹ nuôi, cũng sẽ tự đắc hưởng lạc một phen. Cho dù y nhận ra mình, muốn trả cái thù bị nhục năm xưa, thì chắc cũng phải đến lúc sau khi y rời Trường An trở về, lại đi qua thôn trang này chăng?

Ngẫm nghĩ hồi lâu, cuối cùng Đoàn Khuê Chương nghe theo lời khuyên của Sử Dật Như, quyết định trước ngày Nguyên Tiêu một hôm, hai nhà sẽ cùng xa chạy cao bay.

Sử Dật Như hồi Đoàn Khuê Chương có nhận ra thiếu niên nhà quê kia không, lúc ấy mới có cơ hội nói tới. Đoàn Khuê Chương nghe xong rất kinh ngạc, nói :

– Có một người như vậy sao? Lúc ấy ta vừa nhìn thấy cờ hiệu của An Lộc Sơn là vội trùm đầu tránh đi. Té ra ầm ĩ cả lên là vì chuyện ấy.

Sử Dật Như nhìn thấy thần sắc Đoàn Khuê Chương có vẻ khác lạ, nghĩ thầm :

– Thiếu niên nhà quê kia bản lĩnh quả thật hơn người, không trách gì Đoàn đại ca nghe thấy phải kinh ngạc.

Đoàn Khuê Chương ngồi thêm một lúc, đoán là đoàn người ngựa của An Lộc Sơn đã đi xa hơn mười dặm, mới cáo từ Sử Dật Như, hẹn Sử Dật Như ngày mai tới nhà y chơi.

Đoàn Khuê Chương về rồi, Sứ Dật Như vào nhà trong thăm vợ và đứa con gái vừa sinh, vợ y còn rất yếu, tình thần vẫn chưa hồi phục, con gái thì như một khối phấn chạm ngọc, cực kỳ khả ái. Sử Dật Như sợ vợ lo lắng, nên định đến khi nàng nghỉ ngơi khỏe rồi, trước lúc lên đường mới nói việc cả nhà đi xa với nàng. Còn chiếc Phụng thoa Đoàn Khuê Chương đưa làm sính lễ thì lấy ra đưa cho vợ xem.

Vợ Sử Dật Như họ Lư, là đại tộc ở Hà Đông, con nhà phú quý nhưng thấy chiếc Phụng thoa cũng tấm tấc khen ngợi, vội hỏi từ đâu ra. Sứ Dật Như nói :

– Là của Đoàn đại ca. Lư thị hỏi :

– Là Đoàn Khuê Chương Đoàn đại ca phải không ?. Sử Dật Như cười nói :

– Còn có vị Đoàn đại ca nào khác nữa chứ?. Lư thị nói :

– Ờ, cũng lạ thật. Đoàn đại ca lại có được chiếc thoa quý giá trị liên thành này. Sử Dật Như cười nói :

– Còn có chuyện lạ hơn, là ngày ba mươi Tết hôm qua Đoàn đại ca cũng sinh được một đứa con, có điều chúng ta sinh được con gái, còn y sinh được con trai. Lư thị nói :

– Lại có chuyện vừa khéo thế à! Các huynh là bạn thân, con cái cũng cùng sinh ra một ngày? Phu quân, thiếp nói đùa một câu nhé hai đứa nhỏ này giống như một đôi trời sinh vậy. Sử Dật Như hô hô cười rộ nói :

– Không phải nói đùa đâu, việc hôn nhân đã định rồi. Chiếc Phụng thoa này chính là sính lễ Đoàn đại ca đưa con gái chúng ta đấy. Có lẽ nàng cũng không chê nhà họ nghèo chứ?.

Lư thị nghĩ ngợi một lúc, nói :

– Đoàn đại ca, Đoàn đại tẩu đều là người tốt, hàng trăm người không có được một người như họ, Đoàn đại ca lại là văn võ toàn tài, thiếp thấy thế đạo hiện nay, chỉ e tương lai khó tránh khỏi đại loạn, con gái gả cho nhà họ, so với gả cho con em nhà thư hương, quan lại nào cũng hay hơn nhiều. Chỉ là thiếp có chút lo lắng…. Sử Dật Như vội hỏi :

– Lo lắng chuyện gì?. Lư thị nói :

– Đoàn đại ca nhà nghèo, mà lại có chiếc bảo thoa này…. Sử Dật Như cười nói :

– Chẳng lẽ nàng ngờ chiếc thoa này lai lịch bất minh à?. Lư thị lắc đầu nói :

– Không phải ý ấy. Với con người của Đoàn đại ca, thì cho dù là vật đáng tiền hơn thiếp cũng không nghi là của cải bất nghĩa.

Nhưng xét từ việc y có chiếc bảo thoa, thì nhất định y không phải là người tầm thường, nếu không phải ông cha từng làm quan to thì bản thân y ắt là nhân vật loại Kinh Kha Nhiếp Chính. Mà y lại cam tâm sống vô danh trong thôn nhỏ này, theo như thiếp thấy, chỉ e có quá nửa là y trốn tránh tai họa gì đó, lánh nạn mà tới thôi!

Sử Dật Như ngấm ngầm khâm phục sự hiểu biết của vợ, nghĩ thầm :

– Lúc mình vừa nhìn thấy chiếc bảo thoa này cũng từng thầm nghi ngờ, nhưng không suy nghĩ được trọn vẹn như nàng, đoán một lần là ra ngay. Nhưng y sợ vợ vừa sinh xong lo nghĩ quá độ, nên vẫn giấu diếm chưa nhắc tới chuyện Đoàn Khuê Chương kết oán với An Lộc Sơn, chỉ nói :

– Nàng đoán không sai, y đúng là dòng dõi nhà tướng, chiếc Phụng thoa này là lúc tiên tổ của y theo Lý Tĩnh Lý Đại Tổng quản Tây chinh lấy được. Đoàn đại ca là người hiếu nghĩa, có thể cũng đắc tội với vài kẻ tiểu nhân, nhưng chắc không đến nỗi có tai họa gì lớn đâu. Lư thị nói :

– Chỉ mong không có là hay.

Sử Dật Như đưa chiếc thoa cho vợ cất, ra ngoài đi chúc Tết mấy người trưởng bối; lại đi một vòng từ đầu thôn tới cuối thôn, thấy người trong thôn đều nhao nhao bàn tán chuyện sáng hôm nay, chửi mắng An Lộc Sơn coi mạng người như rác, khen ngợi thiếu niên vô danh kia ban lĩnh phi phàm. Sử Dật Như qua lời bàn luận của họ biết sau chuyện ấy hoàn toàn không có người lạ nào vào thôn, mới yên tâm nghĩ thầm :

– Nếu An Lộc Sơn nhận ra y, nhất định sẽ phái người tới nghe ngóng, còn đã không có ai tới, thì không cần phải lo lắng.

Chiều tối y về nhà, vì vợ trong thời gian nghỉ ngơi sau khi sinh nở, theo tập tục phải mời bà đỡ tới bầu bạn qua đêm, y ăn cơm tối xong, qua thăm vợ một lúc, rồi tới thư phòng nghỉ ngơi. Lúc ấy đã gần đến canh hai, y bước vào thư phòng, vừa thắp nến lên, đột nhiên thấy một người lạ mặt đang ngồi trong thư phòng của mình bèn giật mình hoảng hốt. Trong ánh nến chập chờn, chỉ thấy người kia là một võ quan trên mặt đầy râu, toàn thân khoác áo da, viên võ quan ấy không đợi y mở miệng đã lập tức đứng lên đón, ôm quyền cười nói :

– Làm khách không mời, đang đêm tới thăm, thật rất mạo muội! May là Đoàn tiên sinh lại là hiệp sĩ giang hồ, những chuyện thế này cũng đã thường nhìn thấy, nghĩ chắc không đến nỗi trách móc.

Sử Dật Như tuy là một thư sinh yếu ớt, nhưng vốn gan dạ, tuy vì bất ngờ nên giật nảy mình, nhưng đến khi thấy rõ khách là một võ quan, trong lòng đã hiểu một nửa, lúc ấy lại nghe viên võ quan kia gọi mình là :

– Đoàn tiên sinh thì đã hoàn toàn hiểu rõ sự tình, nghĩ thầm :

– Sáng nay Đoàn đại ca núp vào nhà mình, không hỏi cũng biết, gã này tưởng mình là Đoàn đại ca đây!.

Sử Dật Như định thần xong, y tuy trong lòng hiểu rõ nhưng làm như không biết gì, làm ra vẻ kinh ngạc hỏi :

– Tôn giá là ai, tới đây có ý gì? Xin được cho biết.

Viên võ quan kia nhìn Sử Dật Như một cái, Sử Dật Như tuy nói đã hơi định thần nhưng dáng vẻ hoảng sợ rốt lại cũng không che giấu được hết, viên võ quan kia nghĩ thầm :

– An đại soái nói y tinh thông võ nghệ, bản lĩnh phi phàm, tại sao lại có dáng vẻ thư sinh thế này, vừa nhìn thấy mình đã hoảng sợ run bắn cả người? Hay y là kẻ đại trí nhược ngu, đại dũng nhược khiếp, thân mang tuyệt kỹ, mà cố ý làm ra dáng vẻ như thế chăng?.

Viên võ quan kia ngồi xuống, nói :

– Tiểu nhân là Phiêu kỵ tướng quân dưới trướng An đại soái, họ Điền tên Thừa Tự, Điền trong điền thổ, Thừa trong phụng thừa, Tự trọng thừa tự Y nói rặt giọng Sơn Đông, dường như sợ Sử Dật Như nghe không rõ, vừa nói vừa dùng ngón tay chấm nước trà viết ra trên bàn, trên bàn xuất hiện ba chữ Điền Thừa Tự, giống như thợ mộc dùng đục đục vào, sâu tới ba phân.

Điền Thừa Tự vốn xuất thân là giang hồ đại đạo, trước kia có thể nói là một nhân vật không ai không biết trong hắc đạo, y tự báo tính danh, lại bộc lộ bản lĩnh ấy, dụng ý là định trấn áp :

– Đoàn Khuê Chương để :

– Đoàn Khuê Chương không dám kháng cự.

Sử Dật Như vốn không biết võ công, lúc ấy trong lòng y đã có chủ ý, cũng không sợ sệt nữa, đối với việc Điền Thừa Tự ra oai chỉ thấy buồn cười, lúc ấy hờ hững nói :

– Té ra là Điền tướng quân, ngưỡng mộ đã lâu, ngường mộ đã lâu! Có việc gì xin cứ chỉ giáo.

Điền Thừa Tự bộc lộ công phu ấy, lại thấy Sử Dật Như thần sắc trở lại thản nhiên, không hề tỏ vẻ khiếp sợ, nghĩ thầm :

– Quả nhiên y là chân nhân không lộ tướng, suýt nữa mình nhìn lầm rồi, càng lúc càng cho rằng Sử Dật Như đúng là Đoàn Khuê Chương, vì không dò được y sâu cạn ra sao, trong lòng hơi phát hoảng, bèn bộc lộ công phu Kim chung thủ, khẽ xoa một cái, xóa ba chữ Điền Thừa Tự trên bàn đi, cười gượng nói :

– Té ra Đoàn tiên sinh đã sớm biết tiện danh của tiểu nhân, chúng ta hiện thân phận tuy có chỗ khác nhau, nhưng đều từng lăn lộn trên giang hồ, lá xanh hoa đỏ cũng từ một cội mà ra, Điền mỗ tuyệt không thể đắc tội với Đoàn tiên sinh, xin tiên sinh cũng đừng làm khó Điền mỗ, cho ta một chút thể diện, cùng đi với ta một lần!

Sử Dật Như vẫn làm ra vẻ không biết gì, hờ hững nói :

– Điền tướng quân, chuyện này mới là lạ đây, ngươi và ta vốn không quen biết, mà ngươi lại muốn ta đi theo ngươi à? Mà nói lại, ta cũng chưa thấy qua chuyện đêm hôm khuya khoắt tới mời khách!.

Điền Thừa Tự đứng phắt lên, phần sắc căng thẳng, trầm giọng nói :

– Đoàn tiên sinh, tính ra ngươi cũng là nhân vật có tiếng tăm, Điền mỗ đã theo quy củ võ lâm, lấy lễ mà mời, chẳng lẽ ngươi quả thật muốn :

– Rượu mời không uống, uống rượu phạt sao? Đi hay không đi, chỉ một lời là quyết! Cần gì đùn đẩy thoái thác lôi thôi, làm như không biết? Đó đâu phải là bản sắc anh hùng?.

Sử Dật Như cười nói :

– Ta vốn không phải anh hùng, vả lại quả thật ta còn chưa biết ý tướng quân tới đây làm gì. Cho dù mời khách cũng phải có lý do mời khách chứ.

Điền Thừa Tự hừ một tiếng, nói :

– Lý do à? Vậy thì hãy hỏi An Tiết độ sứ của bọn ta.

Sử Dật Như nói :

– Ủa, té ra người mời khách là An Lộc Sơn sao?.

Điền Thừa Tự nói :

– Đúng thế, An đại soái căn dặn là bất kể thế nào cũng phải mời được tiên sinh ngươi tới, nên ngươi không đi cũng phải đi?. Y ngừng lại một chút, rồi chuyển qua giọng ôn hòa hơn :

– Đoàn tiên sinh, ngươi là người sáng suốt không cần dài dòng. Điền mỗ vâng lệnh An đại soái, không thể không thế này, xin ngươi đừng làm khó ta. Nguyên là Điền Thừa Tự đối với :

– Đoàn Khuê Chương cũng có mấy phần sợ sệt, nếu không y đã sớm động thủ rồi.

Sử Dật Như trong lúc ra sức kéo dài thời gian đã suy đi nghĩ lại.

Nếu đi thì hậu quả ra sao, rất khó đoán trước. Vả lại y bình sinh chán ghét kẻ quyền quý, loại vua con hại dân ra oai, cát cứ một phương như An Lộc Sơn chính là kẻ mà y căm hận. Nếu là bình thời thì y có chết cũng không chịu đi gặp An Lộc sơn. Nhưng hiện chuyện có liên quan tới Đoàn Khuê Chương, nếu không đi thì y phải nói rõ thân phận của mình ra, để gã Điền Thừa Tự này hiểu rõ đây là một sự hiểu lầm, nhưng nếu thế thì Đoàn Khuê Chương lại khó mà thoát thân.

Điền Thừa Tự thúc ép đến cùng, Sử Dật Như nảy ra ý nghĩ :

– Mình đi cũng không hề gì, thủ hạ của An Lộc Sơn bắt lầm người, cho dù y ngông cuồng không nói lý lẽ cũng chưa chắc đã dám giết mình. Đoàn đại ca mà đi thì ít nhất cũng không tránh được một phen bị lăng nhục, y là một anh hùng hảo hán thà chết không chịu nhục, mình mà nói rõ chân tướng ra thì chính là hại chết mạng y!.

Sử Dật Như tâm ý đã quyết, lập tức hô hô cười rộ, ngẩng đầu cười nói :

– An Tiết độ sứ đã biết trên đời có ta, phái một vị dại tướng tới mời, quả thật khiến ta vừa mừng vừa lo! Đó là chuyện mong còn chưa được, biết đâu ta còn có thể được làm quan, hô hô, đã được triệu, lẽ nào không đi?.

Điền Thừa Tự trong lòng vốn đang căng thẳng như dây cung, sẵn sàng động thủ bất cứ lúc nào, nghe y nói một câu như thế, lập tức chùng xuống, cười nói :

– Đoàn tiên sinh quả nhiên là người sáng suốt, nghe An đại soái nói ngươi vốn là bạn cũ của người, chỉ cần ngươi chịu nói vài câu dễ nghe, thì ngươi muốn làm chức quan lớn nào cũng dễ như trở bàn tay! Đoàn tiên sinh, ta đã sắp sẵn ngựa, xin mời lên đường thôi!.

Sử Dật Như lại làm như chuyện đùa, cười nói :

– Có gì mà gấp? Ta không thể cứ nói lên dường là lên đường ngay được.

Điền Thừa Tự sắc mặt sa sầm, hô hô cười nói :

– Ngươi còn có công việc gì nữa? An đại soái căn dặn ta phải mời được tôn giá về tới Trường An trước khi trời sáng, ta thì có thể chờ ngươi, chứ An đại soái thì không rảnh đâu mà chờ ngươi.

Sử Dật Như nói :

– Ta cũng phải từ biệt người nhà một tiếng.

Điền Thừa Tự cười nói :

– Nếu không phải đã sớm biết thân phận của ngươi, quả thật ta đã nghĩ ngươi là một kẻ sĩ cổ hủ. Đại trượng phu làm việc, há lại lằng nhằng lần khân như vậy? Ngươi đi từ biệt người nhà, trong lúc nhất thời làm sao nói được rõ ràng? Nhỡ như vợ ngươi kêu kêu khóc khóc, thì chỉ e ầm ĩ đến sáng cũng chưa lên đường được. Y hắng giọng một tiếng, lại nói :

– Ta nể mặt ngươi là đồng đạo võ lâm, hoàn toàn chưa làm kinh động người nhà của ngươi, ngươi cần gì gọi họ dậy giữa đêm hôm khuya khoắt?, trong lòng nghĩ thầm :

– Gã Đoàn Khuê Chương này uổng có tiếng tăm như vậy, chẳng biết gì về luật giang hỗ, cũng không giống nhân vật giang hồ.

Thật ra Sử Dật Như hoàn toàn không muốn vào từ biệt vợ, khiến vợ đau lòng, y nói như thế là có sự tính toán khác. Mà việc Điền Thừa Tự không ưng thuận thì y đã sớm tính tới rồi.

Y nghe Điền Thừa Tự nói chưa làm kinh động người nhà của mình, liền yên tâm nói :

– Tuy nói là thế, nhưng ta đi chuyến này không biết lúc nào mới về, cũng phải để lại vài chữ để họ khỏi ngờ thần ngờ ma, mất công lo lắng.

Điền Thừa Tự rất bực bội, nhưng cũng đành nói :

– Được, ngươi cứ để lại vài chữ đi, nhưng không được nói tới An Tiết độ sứ cứ bịa bừa ra chuyện gì đó, chỉ cần cho người nhà của ngươi biết ngươi yên ổn là được. Sắp tới ngươi áo gấm về làng, sẽ cho họ vừa mừng vừa sợ một phen. Sử Dật Như cười nói :

– Ta biết rối, đương nhiên không nói gì tới An Lộc Sơn, rồi lập tức cầm bút lên viết một lá thư ngắn, chỉ nói ra ngoài có việc bảo vợ nếu gặp khó khăn, cứ nhờ bạn bè thân thích.

Điền Thừa Tự đứng bên cạnh nhìn y viết thư, không nói một tiếng.

Sử Dật Như lấy cái nghiên chặn lên lá thư, đặt lên giữa bàn trong lòng nghĩ thầm :

– Vợ mình còn thông minh hơn mình, sáng mai nàng nhìn thấy lá thư này, nhất định sẽ đoán được mình gặp chuyện bất ngờ, sẽ lập tức phái người báo cho Đoàn đại ca. Lúc ấy tuy nàng đau lòng, nhưng so với chuyện vợ chồng chia tay bây giờ thì vẫn tốt hơn.

Đoàn đại ca cũng nhất định sẽ chiếu cố cho mẹ con nàng, bảo vệ họ xa chạy cao bay!. Đáng thương Sử Dật Như tuy phí tâm lo nghĩ, nhưng rốt lại y vẫn thiếu kinh nghiệm giang hồ, nào biết Điền Thừa Tự đã sớm an bài, nếu không thì đời nào lại cho y viết lá thư ấy?

Điền Thừa Tự khẽ nói :

– Nhẹ chân một chút!. Hai người ra tới ngoài thư phòng, Điền Thừa Tự phi thân nhảy lên nóc nhà, thấy Sử Dật Như không đi theo, vội vàng nhảy xuống, tức giận hỏi :

– Cái gì, lại không muốn đi à? Sử Dật Như nói :

– Ta đang ở trong nhà mình, muốn rời nhà cũng không thể lén lén lút lút như thế, muốn đi thì ta phải đi từ cổng lớn. Trên giang hỗ vừa khéo có quy củ như thế, nhân vật có thân plận trong võ lâm cho dù bị người ta bức bách cũng nhất định phải ra đi từ cổng lớn mới không đến nỗi bị mất mặt. Điền Thừa Tự mắng thầm :

– Đang lúc này mà còn nghênh ngang thối tha như thế, nhưng y cũng chỉ đành làm theo, từ cổng lớn đi ra. Sử Dật Như đưa mắt nhìn, thì ngoài cửa đã có ba con tuấn mã yên cương đầy đủ!

Một viên võ quan áo đen bước tới, ôm quyền nói :

– Vị này là Đoàn tiên sinh phải không? Tiểu đệ là Tiết Tung, trước đây cũng từng sống ở U Châu một thời gian. Đại danh của Đoàn huynh như sét ngang tai, hôm nay may mắn được gặp. Thủ hạ của An Lộc Sơn có mấy viên tướng đắc lực, Tiết Tung cũng là một trong số đó. Sử Dật Như đáp lễ nói :

– Đại danh của Tiết tướng quân, tại hạ đã ngưỡng mộ từ lâu. Tiết Tung vô cùng đắc ý hô hô cười rộ, Sử Dật Như không biết y cười chuyện gì, chỉ nghe Điền Thừa Tự nói :

– Nghe nói trước kia vì chuyện Lý gia ở Thanh Hà câu mà các ngươi suýt nữa động đao động kiếm với nhau, có chuyện ấy không? Tiết Tung nói :

– Đúng thế, cả thời gian cũng đã hẹn rồi. Về sau có một người tự xưng là đệ tử của Cù Nhiêm Khách ra mặt thu xếp chuyện ấy, ta và Đoàn huynh cũng mỗi người đi một phương, trước nay chưa từng gặp nhau, hô hô, nói ra cũng đã là chuyện mười bốn năm rồi. Điền Thừa Tự cười nói :

– Trở đi chúng ta đều là đồng liêu, hai người các vị cũng có thể thân cận với nhau nhiễu hơn.

Sử Dật Như vốn không biết chuyện Thanh Hà câu, may là họ vội vàng lên đường, Tiết Tung theo phép tắc giang hồ, nói vài câu xong, lập tức giục y lên ngựa, không nói chuyện nữa, Sử Dật Như mới không bị lộ chỗ sơ hở.

Điền Thừa Tự đi trước, Tiết Tung đi sau, hai con ngựa kẹp Sử Dật Như vào giữa. Vốn Tiết Tung cũng xuất thân giang hố đại đạo, là một tay Viên Công kiếm pháp tài giỏi, An Lộc Sơn sai hai người họ tới là để đề phòng Đoàn Khuê Chương chống cự, Tiết Tung vừa rồi tiếp ứng ở ngoài, cũng để chuẩn bị một trận ác đấu, không ngờ Điền Thừa Tự lại thu xếp sự tình ổn thỏa như thế, y cũng cả mừng.

Tâm trạng Sử Dật Như lại vô cùng nặng nề, y nhảy lên ngựa, ngoái đầu nhìn lại, nghĩ thầm :

– Bây giờ chắc nàng đang ngủ, làm sao biết được chuyện vợ chồng ly biệt ôi, không biết về sau còn có ngày vợ chồng tái ngộ, cha con gặp mặt không? Con gái mới sinh ra đã mất cha, sắp tới nó lớn lên, không biết sẽ đau lòng đến thế nào?. Đồng thời trong lòng chợt lại nảy ý nghi ngờ, Điền Thừa Tự tới nhà y, lằng nhằng với y trong thư phòng tới nửa giờ, phòng ngủ ở bên trong cách đó khá xa, vợ vừa sinh xong yếu ớt, ngủ say không dễ tỉnh lại thì còn có thể, nhưng trong nhà y còn có một thư đồng, một tỳ nữ, lại còn thêm một bà đỡ được mới tới, buổi tối lúc sắp đi ngủ còn tới chăm sóc cho sản phụ và đứa nhỏ, tại sao họ không hề nghe thấy tiếng động gì?

Y nói chuyện với Điền Thừa Tự trong thư phòng lâu như thế, chẳng lẽ đứa thư đồng ngủ phía sau thư phòng lại không nghe thấy sao?.

Nhưng lúc ấy đã không còn thời gian để y nghĩ kỹ, Điền Thừa Tự thúc ngựa phi mau đi trước dẫn đường, y chỉ còn cách bám chặt theo.Tuy y không giỏi kỵ thuật nhưng con ngựa y cưỡi là chiến mã xông pha trận mạc đã nhiều, không cần y sai khiến cũng vững vàng phóng mau theo con ngựa phía trước. Nhà y cách Trường An chẳng quá sáu mươi dặm, ba con ngựa này đều là tuấn mã, mỗi ngày đi vài trăm dặm, không đầy hai giờ đã tới một nơi, phía trước là một hòn núi, dưới chán núi có một tòa nhà lớn, Sử Dật Như biết đó là Ly Sơn thì ra tòa nhà lớn này chính là phủ đệ của An Lộc Sơn ở Trường An.

Lúc ấy vừa đến canh năm, trời còn chưa sáng, Điền Tiết hai người dắt y từ cửa ngách bước vào, mời y ngồi nghỉ trong Bạch hổ đường, chỗ bọn vệ sĩ canh gác tụ tập. Tiết Tung dương dương tự đắc nói :

– Vị này chính là U Châu kiếm khách Đoàn Khuê Chương đại danh lừng lẫy, về sau các ngươi nên thỉnh giáo y nhiều thêm.

Trong Bạch hổ đường có mười mấy vệ sĩ trực ban, nghe nói tới Đoàn Khuê Chương, đều :

– Ái chà một tiếng, đứng bật cả dậy, đến khi nhìn thấy tướng mạo Sử Dật Như lại không khỏi ngẩn người ra, trong lòng đều nghĩ :

– Đoàn Khuê Chương tung hoành giang hồ, đại danh lừng lẫy sao lại giống như một bạch diện thư sinh thế này?.

Bọn vệ sĩ ấy tuy cảm thấy tướng mạo của :

– Đoàn Khuê Chương không giống như họ từng nghĩ, nhưng oai danh của Đoàn Khuê Chương mười mấy năm trước đã chấn động vùng Hà Sóc, ai dám coi thường? Vì thế bên nhao nhao bước tới làm lễ. Sử Dật Như cũng làm ra vẻ khệnh khạng, ai làm lễ với y y cũng oai vệ ngồi đó, hững hờ gật đầu một cái.

Một tên vệ sĩ nói :

– Đoàn đại hiệp kiến thức rộng rãi, hiện bọn ta có một chuyện muốn thỉnh giáo Đoàn đại hiệp. Sử Dật Như xua xua tay, nói :

– Không cần đa lễ, cứ nói đi. Tên vệ sĩ ấy nói :

– Gần đây có một người tên Diệu thủ Không Không Nhi nổi tiếng võ lâm, Đoàn đại hiệp có biết lai lịch của y không? Đại soái của bọn ta muốn mời y, không biết Đoàn đại hiệp cớ cách nào không.

Sử Dật Như lạnh lùng nói :

– Cái gì mà Không Không Nhi, trước nay ta chưn từng nghe qua!.

Bọn vệ sĩ đều giật nảy mình không nói tiếng nào, nên biết những nhân vật thành danh trong võ lâm mười người thì có tới tám chín kẻ cho mình là nhất, trong mắt không người. Họ chỉ biết :

– Đoàn Khuê Chương coi thường Không Không Nhi, nên giọng nói mới có vẻ khinh miệt như vậy. Tên vệ sĩ hỏi y lại nghĩ thầm :

– Một núi khó dung hai cọp, y đã đầu thân vào dưới trướng đại soái, đương nhiên không muốn có người hơn y. Mình hỏi y nghĩ cách đi tìm Không Không Nhi, quả là lỡ lời, chẳng khác gì xúc phạm y. Nhưng y dám công nhiên coi thường Không Không Nhi, e là thân hoài tuyệt kỹ, danh bất hư truyền!.

Tên vệ sĩ ấy lỡ lời, mọi người đều không dám lên tiếng. Điền Thừa Tự khẽ cười một tiếng nói qua chuyện khác, hỏi một tên vệ sĩ :

– Công chuyện làm tới đâu rồi?.

Tên vệ sĩ ấy nói :

– Rất là bất lợi, lão già ấy võ công quái dị, bọn tôi đều nhìn không ra võ công của y là gì. Còn có một tên thiếu niên, không biết có phải là đồ đệ y không, đầu bù tóc rối giống một thiếu niên nhà quê, nhưng tay chân vô cùng tàn độc, ngay Trương Thống lĩnh cũng bị y đả thương.

Điền Thừa Tự hỏi :

– Bị thương nặng không Tên vệ sĩ ấy nói :

– May ra thì không bị tàn phế, nhưng ít nhất cũng phải chữa chạy ba tháng.

Điền tướng quân, tôi thấy phải đích thân người ra tay mới xong!.

Sử Dật Như nghe họ nói tới dáng vẻ thiếu niên nhà quê kia, trong lòng rúng động, nghĩ thầm :

– Chẳng lẽ đó là thiếu niên hôm qua cứu người dưới vó ngựa ?.

Điền Thừa Tự cười nói :

– Đoàn đại ca tới rồi, đúng là vừa khéo nên nhường công lao này cho Đoàn đại ca làm cái lễ ra mắt. Đoàn đại ca, chắc ngươi phá giải được công phu Mai hoa châm thích huyệt chứ.

Sử Dật Như chưa kịp trả lời, chợt nghe kỳ bài quan cao giọng truyền lệnh :

– Đại soái truyền hai tướng quân Điền Tiết cùng Đoàn Khuê Chương vào yết kiến.

Nguyên là trời đã sáng hẳn, An Lộc Sơn đã thăng đường. Đúng là:

Gan ruột soi người chân nghĩa sĩ, Không nề đao kiếm quả lương bằng.

Muốn biết tính mạng Sử Dật Như thế nào, xin hạ hồi phân giải.

Chương 3: Thiếu niên vô lại thành tôn quý – Nghĩa sĩ cao phong chịu ngục tù

Thiếu niên vô lại thành tôn quý -Nghĩa sĩ cao phong chịu ngục tù

Sử Dật Như theo hai người Điền Tiết, chưa lên tới bậc thềm, chỉ nghe An Lộc Sơn trên sảnh hô hô cười rộ nói :

– Tiểu Đoàn, Tiểu Đoàn, ngày trước ngươi mắng ta là vô lại, khốn kiếp, không ra cái gì, hôm nay thì sao? Là ngươi không ra gì hay ta không ra gì?.

Sử Dật Như cố ý cúi đầu thật thấp, im lặng không lên tiếng, Điền Thừa Tự thân thể cao lớn, cao hơn y cả một cái đầu, An Lộc Sơn chưa nhìn thấy rõ ràng, lại hô hô cười rộ nói :

– Đoàn Khuê Chương, ngươi cũng biết sợ hãi sao? Nghĩ tới giao tình ngày trước, ngươi dập đầu nhận lỗi với ta, thì ở đây đang là ta đang thiếu một tên chăn ngựa, sẽ thưởng cho ngươi chức ấy!, trong lòng thì nghĩ thầm :

– Đợi ngươi dập đầu nhận lỗi xong, ta sẽ lập tức sai người chặt chân ngươi, phế bỏ võ công của ngươi, cho ngươi suốt đời chịu nhục, như thế hay hơn một đao chém ngươi thành hai đoạn, quá tiện lợi cho ngươi.

An Lộc Sơn đang lúc vô cùng đắc ý, Sử Dật Như đột ngột ngẩng đầu lên, cao giọng nói :

– Tiểu nhân tuy bất tài cũng đã từng thi đậu Tiến sĩ, làm tới chức Lang quan, Tiết độ sứ muốn ta làm mã phu, như thế không hợp với thể lệ của triều đình, chỉ e trước hết ngươi phải tâu với hoàng thượng chuẩn y cách hết công danh của ta mới được!. Nên biết chế độ khoa cử bắt đầu từ nhà Đường, Đường Thái tông Lý Thế Dân mở khoa chọn kẻ sĩ, nhìn thấy sĩ tử xếp hàng tiến vào trường thi, từng đắc ý cười nói :

– Anh hùng thiên hạ đều rơi hết vào vòng rồi!. Để lung lạc người đọc sách trong thiên bạ, khiến người ta coi trọng chế độ khoa cử, Đường Thái Tông từng lập ra điều lệ người đi học thì có thể được miễn lao dịch cho chính quyền, người thi đậu Tú tài có thể được miễn hình phạt, người thi đậu Tiến sĩ thì không cần phải nói.

An Lộc Sơn giật nảy mình, hai mắt tròn xoe nói :

– Ngươi là ai? Sao lại tới đây?. Sử Dật Như nói :

– Ta là Tiến sĩ Sử Dật Như, còn tại sao tới đây, xin ngươi cứ hỏi hai vị tướng quân này.

An Lộc Sơn đập bàn mắng :

– Khốn nạn, khốn nạn! Ta bảo các ngươi đi bắt Đoàn Khuê Chương, tại sao các ngươi lại bắt người này về?

Điền Thừa Tự vô cùng hoảng sợ, ngấm ngầm kêu khổ, vội nói- Chúng tôi hoàn toàn không nhận lầm chỗ, quả thật là tới nhà họ Đoàn, chúng tôi nói rất rõ, đại soái mời Đoàn Khuê Chương, người này bên đi theo!.

Sử Dật Như nói :

– Ta nói với các ngươi ta là Đoàn Khuê Chương lúc nào, các ngươi cứ nhất định bảo ta là Đoàn Khuê Chương, vung đao múa gậy cứ như hung thần ác sát, ta làm sảo dám phân biện, làm sao dám không đi? Ngươi nói ngươi vào nhà họ Đoàn, Tiết độ sứ cứ phái người tới tra vấn, nhà ta thì người trong thôn không ai không biết, xem thử rốt lại là nhà họ Sử hay nhà họ Đoàn?.

Tiết Tung bước, lên bẩm :

– Cho dù chúng tôi vào lầm nhà, thì ban ngày đại soái, người cũng đã nhìn thấy, hán tử trùm áo lên đầu bước vào nhà y, đại soái đã nhận ra hán tử ấy là Đoàn Khuê Chương, vả lại còn núp trong nhà y, không cần nói cũng biết là có liên quan với y, đại soái muốn bắt Đoàn Khuê Chương thì cứ tra hỏi y là được!.

Điền Thừa Tự và Tiết Tung là hai viên đại tướng đắc lực nhất của An lộc Sơn, An Lộc Sơn đành để cho họ có ba phần thể diện, chửi mắng một hồi, cũng coi như xong, rồi quay qua mắng Sử Dật Như- Ngươi cũng không phải tốt lành gì, hay ngươi cậy là từng thi đậu Tiến sĩ, trong con mắt ta, Tiến sĩ không đáng một đồng, giết chết ngươi cũng như xéo chết một con kiến thôi! Nói đi, Đoàn Khuê Chương ở đâu?.

Sử Dật Như cười lớn nói :

– Ngươi coi rẻ mạng người, lạm sát người vô tội, không cần khoe khoang nữa, ta đã sớm nghe tiếng rồi? Nói thật, nếu ta sợ chết đã không tới chỗ ngươi đâu!.

Sử Dật Như chẳng qua chỉ là một thư sinh văn nhã, tả hữu của An Lộc Sơn phần lớn đều là bọn ma vương giết người không chớp mắt, nhưng Sử Dật Như nói câu ấy ra, bọn ma quỷ ấy không ai không cả kinh thất sắc! Thử nghĩ An Lộc Sơn tay nắm binh phù, quyền khuynh trong ngoài, có bao nhiêu người dám ăn nói bừa bãi, không hề úy kỵ như thế trước mặt y?

An Lộc Sơn tức tới mức bảy khiếu bốc khói, đập bàn mắng :

– Lôi, lôi y ra, đánh chết đi?.

Một viên đại tướng bên cạnh y chợt đứng lên nói :

– Xin đại soái bớt giận, có thể nghe ta nói một câu không? Người ấy là anh em kết nghĩa với An Lộc Sơn, Bình Lô quân Phó Tiết độ sứ Sử Tư Minh, chức vụ chỉ sau An Lộc Sơn, nhưng mưu trí thì cao hơn An Lộc Sơn nhiều.

An Lộc Sơn nói :

– Sử huynh đệ có lời gì?.

Sử Tư Minh nói :

– Sử Dật Như vốn giỏi thơ văn, vả lại nổi tiếng cứng đầu, nghe nói năm trước y thi đậu Tiến sĩ, từng dâng Trị an thập sách, lại từng vạch tội Tể tướng đương thời là Lý Lâm Phủ, vì thế bị bãi quan. Loại kẻ sĩ có danh tiếng này, giết đi e sẽ bị người ta bàn tán. Ta nghe nói Lý Thái Bạch từng trong cung mượn rượu mắng người, có lần uống rượu say thậm chí còn bắt Cao Lực Sĩ cởi giày cho y, Qúy phi nương nương mài mực cho y, kẻ ngông cuồng như thế mà hoàng đế vẫn khoan dung ưu đãi. Nguyên soái, nếu ngươi đã thỏa mãn với chức vị hiện tại thì giết y không hề gì, còn nếu không như thế thì ngại gì tha chết cho y, để người trong thiên hạ biết nguyên soái là người kính lễ bậc hiền sĩ!

An Lộc Sơn tuy thô lỗ nhưng cũng là một kẻ khá thông minh, y nhất thời tức giận định giết Sử Dật Như, lúc ấy nghe Sử Tư Minh nói thế, lại bất giác xoay chuyển ý nghĩ, vốn y dã tâm bừng bừng, đã sớm có ý cướp giang sơn của nhà Lý Đường, lời Sử Tư Minh quả thật là ngấm ngầm nhắc nhở y muốn y mua chuộc lòng người, nhất là đối vôi các sĩ đại phu, không nên đắc tội quá đáng.

An Lộc Sơn nghĩ ngợi xong, hô hô cười nói :

– Được, hoàng đế có thể dung tha Lý Thái Bạch, chẳng lẽ ta không dung được ngươi? Được thôi, ta thấy ngươi gan dạ, cũng giống một kẻ có tài ngươi cứ làm Ký thất (chức quan, tương tự Thư ký hiện nay) cho ta vậy. Còn Đoàn Khuê Chương ngươi cứ tìm tới đây giúp ta, ta cũng sẽ phong cho y làm một chức võ quan. Ngươi còn nói gì nữa không?.

Sử Dật Như tức giận tới cùng cực, lớn tiếng cười nhạt nói :

– Sử mỗ tuy bất tài cũng từng đọc qua sách thánh hiền, biết được sự khác nhau giữa người trung kẻ nịnh! Sử mỗ ngay chức Lang quan của triều đình cũng không muốn làm, há lại uốn mình khuất thân đi thờ kẻ loạn thần tặc tử nhà ngươi à!.

Câu chửi này đừng nói An Lộc Sơn không chịu nổi, mà ngay Sử Tư Minh cũng hoảng sợ tái mặt, run giọng kêu lên :

– Ngươi, ngươi, thiên hạ lại có kẻ không biết hay dở như ngươi!.

An Lộc Sơn cả giận quát :

– Được, kẻ sĩ các ngươi coi thường ta, thì ta cũng không cần loại người như các ngươi, như vậy ta cũng có thể dành lấy thiên hạ.

An Lộc Sơn đang thịnh nộ, Sử Tư Minh cũng không dám khuyên can, lúc ấy lại vừa khéo một tên vệ sĩ tiến vào, nhìn thấy tình hình, bất giác ngẩn ra.

An Lộc Sơn quát :

– Chuyện gì?. Tên vệ sĩ kia quỳ một gối xuống nói :

– Bẩm đại soái, đã mời gia quyến của vị Đoàn đại gia này tới rồi.

Nguyên là Điền Thừa Tự tuy nói với Sử Dật Như là không làm kinh động gia quyến của y, nhưng đó là giả, thử nghĩ An Lộc Sơn muốn bắt Đoàn Khuê Chương, làm sao có thể tha cho gia quyến của y, để họ lọt lưới? Chẳng qua lúc ấy hai người Điền Tiết e xảy ra một trận đánh nhau, hai bên sẽ bị tổn thương, nên nói toàn lời nghĩa khí giang hồ, sắp xếp Đoàn Khuê Chương xong, lừa y lên đường, sau đó lại cho bọn vệ sĩ của họ đã mai phục sau nhà bắt hết người nhà của y. Lúc Sử Dật Như và Điền Thừa Tự trò chuyện trong thư phòng, Tiết Tung đã dùng loại thuốc mê đặc chế không mùi làm tất cả người nhà của y ngất đi.

An Lộc Sơn hô hô cười rộ nói :

– Hay lắm, ngươi xem ngươi còn có cần tới vợ con không, có chịu phục ta không?. Tiếng cười chưa dứt đã nghe Sử Dật Như quát lớn :

– Ác tặc vô lại, Đoàn đại ca ta nói về ngươi không sai, triều đình dùng loại người như ngươi làm đại tướng, quả thật khiến người ta đau lòng, ta chết làm ma dữ, cũng không tha cho ngươi đâu!. Y nghe nói vợ con bị bắt, lập tức nổi giận, bất kể tất cả, vừa lớn tiếng chửi mắng vừa xông lên thềm, An Lộc Sơn giật nảy mình, nhưng không chờ y sai bảo đã có vệ sĩ cản Sử Dật Như lại, đáng thương Sử Dật Như là một thư sinh, làm sao địch được bọn vệ sĩ như sói như cọp, bị một tên vệ sĩ đập một quyền vào ngực, phun ra một ngụm máu, lập tức ngã lăn xuống đất ngất đi luôn.

An Lộc Sơn lắc lắc đầu nói :

– Trong những người đọc sách lại có kẻ cứng cỏi thế này, kể cũng hiếm có. Được, ngươi muốn được chết thì ta lại không cho người chết, cứ từ từ hành hạ ngươi, xem ngươi chịu phục hãy khòng.

Sử Tư Minh cũng cười nói :

– Họ Sử này cậy vào cái dũng khí nhất thời, lớn mật làm càn, xúc phạm đại soái, đợi y tỉnh lại, tự nhiên sẽ nghĩ tới vợ con, lúc ấy đại soái cứ ban cho y một phút ân huệ, không sợ y không phục.

An Lộc Sơn nói :

– Nói rất phải. Y sai bọn vệ sĩ đưa Sử Dật Như vào nhà ngục. Tên vệ sĩ đầu tiên biết là bắt lầm người, liền hỏi :

– Còn vợ con của gã họ Sử này thì sắp xếp thế nào?. An Lộc Sơn nói :

– Lằng nhằng lắm chuyện, cứ nhốt vào nhà lao phụ nữ, còn hỏi cái gì.

Tên vệ sĩ liền :

– Dạ? một tiếng, đang định lui xuống, An Lộc Sơn chợt nói :

– Vợ y nhan sắc ra sao, gọi lên đây xem thử. Tiết Tung đột nói chen vào :

– Bẩm đại soái, người đàn bà ấy nhan sắc bình thường, vả lại vừa sinh nở xong…. Y chưa dứt lời, An Lộc San đã nổi giận mắng- Xui xẻo, xui xẻo, ngươi thật là một kẻ khốn, tại sao lại bắt sản phụ vào phủ!. Lúc ấy quan trường có rất nhiều điều kiêng ky, An Lộc Sơn sợ máu sản phụ xung phạm :

– Quan tinh của y, nên đùng đùng nổi giận.

Tên vệ sĩ kia bị y mắng một trận, thầm kêu là oan uổng, tự nhủ- Là ngươi bảo ta bắt, ngươi lại không dặn là sản phụ thì không bắt, đồng thời lại cảm thấy vô cùng ngạc nhiên. Nên biết vợ Sử Dật Như là danh môn khuê tú, tuy vừa sinh nhưng vẫn không che giấu được nhan sắc chim sa cá lặn, tên vệ sĩ kia là người đưa Lư thị lên ngựa, đương nhiên nhìn thấy rất rõ, nghĩ thầm trong lòng :

– Người đàn bà này mười phần xinh đẹp, tại sao Tiết tướng quân lại nói là nhan sắc bình thường?.

Tiết Tung thấy An Lộc Sơn nổi giận, lại bước lên bẩm :

– Vợ họ Sử là một sản phụ, giam trong phủ quả rất bất tiện. Tiểu tướng lớn mật bẩm với nguyên soái, xin giao người phụ nữ này cho ty chức xử trí.

An Lộc Sơn cười nói :

– Ngươi cần thị làm gì?. Tiết Tung nói :

– Ty chức ít nhất cũng có một đứa con chưa dứt sữa, người đàn bà này vừa sinh xong, còn rất nhiễu sữa, ty chức muốn thị làm bà vú, vả lại thị biết chữ, thì tương lai khuyển tử có thể theo thị học được vài chữ.

An Lộc Sơn cười lớn nói :

– Tiết tướng quân hôm nay lại đại phát từ bi, quả thật hiếm có. Được rồi, ngươi không sợ xui xẻo thì cứ lãnh thị về đi.

Vốn Tiết Tung là một kẻ hiếu sắc, y cố ý nói Lư thị nhan sắc bình thường, nhận nàng về, thật ra là có ý đồ, trong lòng mưu việc bất chính, muốn đợi sau một tháng, Lư thị nghỉ ngơi xong sẽ chiếm làm của mình.

An Lộc Sơn nói :

– Đoàn Khuê Chương chưa bắt được, chúng ta quả thật không thể yên tâm. Đã phát hiện ra tung tích của y tại thôn ấy, chắc y cũng thì ở quanh đó không xa, Điền Tiết hai vị tướng quân hôm nay còn phải vất vả vì ta chuyến nữa. Lúc ấy bèn phát lệnh tiễn, lại thêm bốn tên vệ sĩ đắc lực sai họ nhất định phải bắt được Đoàn Khuê Chương về.

Lại nói Đoàn Khuê Chương hôm mồng một Tết sau khi chia tay Sử Dật Như trở về nhà, vợ y là Đậu thị, chính là cháu cố của Đậu Kiến Đức, một trong :

– Phản vương mười tám lộ vào cuối đời Tùy. Đậu Kiến Đức sau khi bị Lý Thế Dân tập kích đánh bại, hậu nhân vẫn ẩn náu trong chốn lục lâm làm nghề không vốn. Con trai, cháu nội đều là kẻ cướp nổi tiếng trên giang hố, có thể nói là một :

– Thế gia cường đạo. Nhưng Đậu Tuyến Nương tuy võ nghệ cao cường lại không thích sống bằng nghề cướp bóc, có lần nàng gặp Đoàn Khuê Chương, đôi bên tỷ võ bất phân thắng bại, lại mến tài nhau, sau cùng kết thành vợ chồng. Tuyến Nương sau khi lấy chồng, thoa gai quần vải, tần tảo việc nhà, giấu kín tài nghệ, người trong thôn chỉ biết nàng là một phụ nữ lương thiện bình thường, không biết nàng từng là một nữ tướng cướp danh chấn gừng hồ. Vì nàng từ nhỏ đã luyện tập võ công, nên đù mới sinh nở xong, thân thể vẫn khỏe mạnh.

Đoàn Khuê Chương gặp vợ, trước tiên nói chuyện kết thông gia với nhà họ Sử, Đậu thị cũng rất vui mừng. Đoàn Khuê Chương biết rõ vợ là một nữ hào kiệt, nguy hiểm tới mức nào cũng dám đương đầu, kế đến kể lại chuyện chạm trán với An Lộc Sơn và cái hẹn của y với Sử Dật Như, chỉ chờ qua rằm tháng giêng thì hai nhà sẽ cùng ra đi.

Đậu Tuyến Nương nói :

– Hai nhà cùng đi đương nhiên là hay, nhưng cũng không thể không đề phòng An Lộc Sơn sẽ sai người tới bắt chàng trước rằm tháng giêng. Đoàn Khuê Chương nói :

– Theo ý nàng thì nên làm sao?. Đậu Tuyến Nương nói :

– Nếu lúc bình thời thì cho dù dưới trướng An Lộc Sơn, cao thủ như mây cũng chưa chắc đã làm gì được chúng ta, nhưng bây giờ thiếp vừa sinh xong, võ công nhiều lắm chỉ còn ba phần, lại thêm thằng bé này, chỉ sợ lúc đại nạn xảy ra, hai mẹ con thiếp lại trở thành gánh nặng cho chàng. Đoàn Khuê Chương nói :

– Sao lại nói thế? Chúng ta sống thì cùng sống, chết thì cùng chết, ta lại trách nàng sao? Đậu Tuyến Nương mỉm cười nói- Ý thiếp không phải như vậy, thiếp và chàng cùng chết cố nhiên không có gì đáng tiếc, nhưng người lại không bảo toàn một chút gốc rễ của nhà ta sao? Cho nên theo thiếp thấy ….

Đoàn Khuê Chương nói :

– Vợ chồng chúng ta có chuyện gì mà không nói được, theo ý nàng thì thế nào, cứ việc nói ra. Đậu Tuyến Nương nói :

– Thiếp nói thì người không được giận đấy, theo như thiếp thấy chẳng bằng thiếp cứ đi trước chàng một bước. Đoàn Khuê Chương nói :

– Không chờ đại huynh đại tẩu nhà họ Sử sao? Vậy, vậy thì coi sao được?. Đậu Tuyến Nương nói :

– Không phải bỏ rơi họ, ý của thiếp là người ở lại đây, đợi sau rằm tháng giêng, đại tẩu nhà họ Sử khỏe hẳn rồi, thì người bảo vệ họ cùng tới nhà ta. Đoàn Khuê Chương hai mắt mở to, kêu lên :

– Cái gì, nàng muốn về nhà mẹ à?.

Đậu Tuyến Nương cười khẽ nói :

– Tuy thiếp vừa sinh xong, có khi không địch nổi các cao thủ dưới trướng An Lộc Sơn, nhưng đối với bọn cướp vặt trên đường thì thiếp rất yên tâm. Vì thế chẳng bằng thiếp mang con tới chỗ huynh trưởng thiếp tạm thời ẩn náu. Người và đại huynh đại tẩu nhà họ Sử cứ đi sau, như vậy há không phải là kế lưỡng toàn à?.

Đoàn Khuê Chương không vui, nói :

– Nương tử, năm xưa nàng theo ta xuất giá, đã nói những gì? Đậu Tuyến Nương nói :

– Năm ấy chú bác huynh trưởng của thiếp bảo người nhập bọn, người thà chết không theo, thiếp cũng vì thế mà quyết ý xa lìa họ, lúc ra cửa từng nói rằng nếu không phải họ rửa tay gác kiếm thì nhất định thiếp không quay về, nhất định không làm cường đạo nữa. Đoàn Khuê Chương nói :

– Vậy bây giờ họ đã rửa tay gác kiếm chưa?. Đậu Tuyến Nương nói :

– Bây giờ là lúc hoạn nạn…. Đoàn Khuê Chương ngắt lời nói :

– Chí khí của một người không nên vì gặp lúc hoạn nạn nguy hiểm mà thay đổi! Hơn nữa lúc chúng ta gặp nạn mới tới dựa vào họ, cho dù họ không chế nhạo, thì ta cũng chẳng còn mặt mũi nào!.

Đậu Tuyến Nương biết chống khí cốt cao ngạo, chuyện nhỏ thì hòa hoãn, nhưng gặp chuyện lớn có quan hệ tới việc xuất xử thì tính nết lại mười phần cố chấp, biết không thể khuyên được y, bên thở dài một tiếng nói :

– Nếu người đã không muốn, thì thôi đi vậy.

Đoàn Khuê Chương sợ vợ lo nghĩ, lại an ủi :

– An Lộc Sơn cầu kết với Dương Qúy phi, bây giờ đang hưởng lạc trong kinh, chưa chắc đã tới tìm ta làm khó. Mà cho dù muốn tới, cũng chưa chắc trong vài hôm nữa, cứ để ta nghĩ cách. Nàng tuy khỏe mạnh nhưng vừa sinh xong cũng không nên nghĩ ngợi nhiều, nàng cứ đi nghỉ sớm đi!.

Đoàn Khuê Chương nhà nghèo, không mời được :

– Bà đỡ chăm sóc sản phụ, Đoàn Khuê Chương lo cho vợ đi nghỉ, kiểm lại bảo kiếm và ám khí trước đây đã dùng, ra ngoài sân mài kiếm cho sắc, chép miệng nói :

– Kiếm ơi kiếm, ta đã bỏ mặc ngươi hơn mười năm, hôm nay lại phải dùng tới ngươi rồi!. Đang lúc tâm sự dâng trào, chợt nghe có tiếng răng rắc vang lên, âm thanh cực nhỏ, nhưng rơi vào tai bậc hành gia như Đoàn Khuê Chương, lập tức biết ngay là có người cực kỳ cao minh dạ hành! Đoàn Khuê Chương nghĩ thầm :

– Hay đấy tới nhanh thật! Xem ra tối nay chỉ e mình phải đại khai sát giới rồi. Tối mùng một tháng giêng, ở chân trời chỉ có mấy ngôi sao lập lòe, trong sân tối om, Đoàn Khuê Chương núp sau góc tường, một tay cầm bảo kiếm, tay kia thò vào túi ám khí, đầu tiên lấy ra hai ngọn Tam lăng thấu cốt tiêu tẩm độc, ngẫm nghĩ một lúc lại cất trở vào trong túi, rút ra hai quả Thiết liên tử không tẩm độc.

Thiết liên tử vừa nắm trong tay, nói thì chậm chứ lúc ấy rất mau, chỉ nghe tiếng vạt áo sột soạt trong gió, hai cái bóng đen đã vọt qua tường, Đoàn Khuê chương đột ngột đứng phắt lên, quát lớn một tiếng- Nằm xuống!. Y là thân phận võ học danh gia, tuy gặp phải kình địch, bị bức bách phải sử dụng ám khí, nhưng cũng không thể im lặng không lên tiếng ngấm ngầm tập kích.

Nào ngờ hai quả Thiết liên tử đánh ra lại như bùn rơi vào đáy biển, không thấy dấu vết đâu nữa, đã không đánh trúng địch nhân, cũng không nghe tiếng rơi xuống đất. Đoàn Khuê Chương vừa sửng sốt, y vốn đã đoán hai người kia hoàn toàn không phải là kẻ tầm thường, nhưng không ngờ bản lĩnh của họ lại cao cường như thế, chỉ nghe giọng một người già hô hô cười rộ nói :

– Dượng nó, ám khí của ngươi càng lúc càng cao cường đấy!

Đoàn Khuê Chương nói :

– A, té ra là tam ca!. Người già kia cười nói :

– Chẳng lẽ ngươi còn nhớ được thân thích nhà này, xa cách hơn mười năm mà sao ngay một lá thư cũng không gởi tới?.

Đậu Tuyến Nương có năm anh trai, người này xếp thứ ba, tên Đậu Lệnh Phù, Đoàn Khuê Chương tuy không muốn dấn thân vào dòng nước đục với họ, nhưng vẫn có tình thân thích, lúc ấy bèn mời họ vào nhà, thắp nến lên, chỉ thấy Đậu Lệnh Phù trên người có vết máu, người kia là một thiếu niên mười bảy mười tám tuổi, mặc quần áo màu xám, từ tướng mạo mà nhìn thì rất giống một thiếu niên nhà quê, đứng cạnh Đậu Lệnh Phù không nói tiếng nào, thái độ đối với Đoàn Khuê Chương rất lãnh đạm. Đoàn Khuê Chương rất bồn chồn :

– Y nửa đêm tới đây, không biết là có chuyện gì? Xem ra trên áo y có vết máu, dường như bị ngoại thương một chút.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Thằng nhỏ ngốc, không biết chút lễ phép nào, nhìn thấy bậc trưởng bối sao còn chưa chịu dập đầu?.

Thiếu niên kia đành phải dập đầu ba cái lạy Đoàn Khuê Chương, kêu một tiếng :

– Dượng!.

Đoàn Khuê Chương đỡ y đứng dậy, nghĩ thầm :

– Lúc mình rời nhà họ, tam ca chỉ có một đứa con gái, thằng nhỏ này đường như sau đó mới sinh, theo lẽ không thể lớn thế này. Thiếu niên kia giật tay lại, không để y đỡ, bèn đứng lên, xòe bàn tay ra, một quả Thiết liên tử từ kẽ tay y rơi xuống, lạnh lùng nói :

– Dượng, quả Thiết liên tử này trả lại cho người đây. Đoàn Khuê Chương giật nảy mình, nên biết mới rồi y ngờ là cao thủ của An Lộc Sơn phái tới bắt mình, tuy trước khi chưa hỏi rõ không dám sử dụng ám khí tẩm độc, nhưng lúc phóng hai quả Thiết liên tử ra, y cũng đã vận tới bảy thành công lực, dùng công phu ám khí đả huyệt mạnh, Đậu Lệnh Phù tiếp được thì không đáng ngạc nhiên, nhưng thiếu niên này chỉ mười bảy mười tám tuổi cũng có thể cứng cỏi tiếp được ám khí của y, chuyện đó không thể không khiến người ta kinh ngạc.

Đậu Lệnh Phù hừ một tiếng, trách thiếu niên :

– Đúng là một đứa xuẩn tài, ngươi cũng đã qua lại giang hồ hai năm, sao còn trẻ con như thế?.

Thiếu niên ấy lui qua một bên nhìn Đoàn Khuê Chương, chỉ nghe Đậu Lệnh phù nói tiếp :

– Sau này, trong đêm tối đừng cậy mình giỏi, dùng tay tiếp ám khí của đối phương nữa, may là Thiết liên tử của dượng ngươi chưa tẩm độc, nếu không thì một chút công phu của ngươi làm sao phong bế được huyệt đạo, độc khí xâm nhập thì cho dù không chết, cánh tay ấy của ngươi cũng sẽ trở thành tàn phế, kế lần trong tay áo ra một quả Thiết liên tử đưa cho Đoàn Khuê Chương, lại dạy dỗ thiếu niên :

– Bản lĩnh nghe tiếng ám khí ngươi đã học được rồi, về sau có gặp phải ám khí trong đêm tối ngươi từ tiếng ám khí rít gió có thể nghe biết được kình lực của đối phương, tự mình đánh giá, nếu có thể tiếp được thì cũng nên học cách dùng tay áo cuốn lấy như ta, nếu không thì cứ tránh cho mau.

Thiếu niên ấy nói :

– Tạ Ơn tam thúc dạy bảo. Đoàn Khuê Chương nghĩ thầm :

– Lời dạy bảo này cũng chỉ đúng một nửa. Nếu người phát ám khí là cao thủ nội gia tuyệt đỉnh, thì căn bản không dễ mà nghe được kình lực của đối phương!. Y liếc mắt nhìn qua, chỉ thấy thiếu niên kia ngón tay giữa tím đen, vội vàng rút thuốc trị thương ra, cười nói :

– Không trải qua một chuyện, không khôn thêm một chút, người trẻ tuổi bị thua thiệt cũng có chỗ hay, mà nói lại lúc chúng ta còn trẻ như y, chỉ e còn chưa có được bản lĩnh và kinh nghiệm như y đâu!

Ngón tay của ngươi đau không? Buộc một chút thuốc vào sẽ đỡ ngay.

Hai câu sau là nói với thiếu niên, thiếu niên ấy lại đẩy tay Đoàn Khuê Chương ra, lạnh lùng nói :

– Không cần đâu, cũng chưa bị dập xương, chỉ hơi đau một chút, nếu lại dùng thuốc, thì còn gì là anh hùng hảo hán nữa?.

Đậu Lệnh Phù cười nói :

– Dượng không cần để ý tới y, y muốn làm hảo hán thì cứ để y chịu đau một chút.

Đoàn Khuê Chương nghĩ thầm :

– Tính nết của thằng nhỏ này cũng quật cường lắm, chẳng lẽ vì thế mà kỳ lạ với mình?. Thiếu niên kia đối với Đoàn Khuê Chương tuy lạnh lùng, nhưng Đoàn Khuê Chương lại rất thích y, đột nhiên có ý nghĩ :

– Chẳng lẽ thiếu niên nhà quê cứu người dưới vó ngựa sáng nay chính là y?. Vừa định hỏi, Đậu Lệnh Phờ đã hỏi trước :

– Em gái ta đâu?.

Câu nói chưa dứt, chỉ nghe tiếng Đậu Tuyến Nương. cười khanh khách từ mái ngói nhảy xuống, cười nói :

– Tam ca, cơn gió nào thổi huynh tới đây thế?. Nguyên là Đậu Tuyến Nương sau khi nghe tiếng người dạ hành, biết Đoàn Khuê Chương ở ngoài sân, địch nhân từ trước mặt tới đã có y cản trở, đoán là y không bị gì, vì thế bèn đi vòng ra phía sau nhìn một lúc, nhìn xem còn có đồng bọn nào khác không, vừa trở lại thì nghe câu nói của anh nàng.

Đậu Lệnh Phù cười nói :

– Lục muội, muội còn chưa quên một chút tài nghệ ấy của giới lục lâm. Chà, sắc mặt của muội không tốt lắm, có bị bệnh không?.

Đậu Tuyến Nương cười không trả lời, Đoàn Khuê Chương cười nói không phải bệnh, là tối ba mươi hôm qua vừa sinh được một thằng mập.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Chúc mừng, chúc mừng, đáng tiếc là ông cậu ta không mang theo chút quà ra mắt nào.

Thiếu niên kia bước tới ra mắt Đậu Tuyến Nương, Đậu Tuyến Nương nghe y gọi mình là cô cô, cũng hơi ngạc nhiên, vội hỏi :

– Thằng cháu này, sao ta không nhận ra là ai?.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Lục muội còn nhớ Thiết trại chủ ở Yên Sơn không?. Đậu Tuyến Nương nội :

– Ủa, thì ra vị tiểu huynh đệ này là cháu nhà họ Thiết? Có phải tên Thiết Ma Lặc không? Ta nhớ ra rối, hôm ta và Khuê Chương thành thân, Thiết trại chủ cũng từng đắt một đứa nhỏ tới uống rượu mừng. Đậu Lệnh Phù nói :

– Thằng nhỏ ấy chính là y đấy. Đậu Tuyến Nương nói :

– Ờ, ngày tháng qua mau thật, bấm đốt tay tính lại đã hơn mười năm rối, lúc ấy vị tiểu huynh đệ này còn nước mũi thò lò đùa giỡn với một đám trẻ con, chắc chỉ mới bảy tám tuổi thôi mà? Không ngờ bây giờ cao lớn thế này, trở thành một vị thiếu niên anh hùng rồi! Thiết trại chủ khỏe không?. Thiếu niên kia tròng mắt đỏ lên, Đậu Lệnh Phù nói :

– Sau khi các ngươi ra đi hai năm thì Thiết trại chủ qua đời, đại ca nhận y làm nghĩa tử, năng lực nhận thức và nắm bắt của y trong chuyện học võ rất cao, hơn hẳn bọn trẻ nhà chúng ta, nên lần này ta không dắt ai theo, mà dắt y đi. Ma Lặc, ngươi muốn học công phu Mai hoa châm, thì sau này cứ thỉnh giáo cô cô ngươi nhiều hơn.

Nguyên Thiết trại chủ ở Yên Sơn tên Thiết Côn Luân, là người Hồ. Thời Đường ở phương Bắc, người Hồ người Hán cư trú xen lẫn, lấy vợ gả chồng với nhau, sự phân biệt giữa người Hồ người Hán không nhiều như về sau. Vợ Thiết Côn Luân chính là con gái lão anh hùng Phong Lý Thường ở Phạm Dương, có chút quan hệ thân thích với Đậu gia. Thiết Côn Luân võ công cực cao, anh em họ Đậu thân thiết với y, kết bạn sinh tử chi giao, nên sau khi bị kẻ thù ám hại, Thiết Côn Luân bên gởi gắm con côi cho Đậu gia. Đoàn Khuê Chương nghĩ thầm- Chẳng trách y còn trẻ mà đã thành tựu như thế. Té ra y là con trai Thiết Côn Luân.

Đậu Tuyến Nương hỏi :

– Tam ca, trên má huynh dính máu, là chuyện gì vậy, có phải là dọc đường giết người không?.

Đậu Lệnh Phù hô hô cười rộ nói :

– Ta bình sinh giết người rất nhiều, mà lần này suýt nữa bị người giết chết?. Đậu Tuyến Nương giật nảy mình nói :

– Tam ca gặp phải cường địch nào thế, ở nhà có chuyện gì?. Nàng nghĩ nếu không xảy ra chuyện gì, thì anh nàng quả không ngàn dặm xa xôi tìm tới. Đậu Lệnh Phù nói :

– Đêm nay ta tới đây là có hai chuyện muốn các ngươi giúp đỡ. Đoàn Khuê Chương nói- Xin cứ nói.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Chuyện thứ nhất là xin dượng cho thuốc giải.

Thật xấu hổ, ta lần đầu tiên thua trận bị thương.

Đoàn Khuê Chương bất giác sửng sốt, nghĩ thầm :

– Y chẳng qua chỉ bị một chút ngoại thương, tại sao lại xin mình thuốc giải?. Y nghĩ chưa dứt chợt nghe soạt một tiếng, Đậu Lệnh Phù sốt ruột không chờ được đã xé một mảnh vạt áo, chỗ tâm oa (vùng ngực) hiện ra một đốm nhỏ màu đỏ, nói :

– Ngươi là đại hành gia, có nhận ra được không?.

Đoàn thuê Chương giật mình thất sắc, nói :

– Đây là Bạch mi châm!

Tam ca kết oán với Đường gia ở Kiếm Nam sao?.- Bạch mi châm là một loại ám khí cực độc, vào cơ thể người ta xong có thể theo huyệt đạo đi lên tim, khiến người ta mất mạng, mà hiện tại đốm đỏ trên tâm oa của Đậu Lệnh Phù cách tim chẳng quá năm tấc, quả thật rất nguy hiểm. Đúng là:

Giang hồ sông gió trùng trùng hiểm,

hiệp khách làm sao ẩn núi hoang?.

Muốn biết chuyện sau thế nào, xin nghe hạ hồi phân giải.

Chương 4: Ngàn dặm cầu người người không đến – Mười năm lánh họa họa khôn trừ

Ngàn dặm cầu người người không đến -Mười năm lánh họa họa khôn trừ

Đậu Lệnh Phù nói :

– Người đánh ta bị thương, ta còn chưa biết lai lịch, nhưng có thể đoán được, y quyết không phải là người của Đường gia. Đậu Tuyến Nương hỏi :

– Tam ca là bị người ta ám hại một cách ám muội phải không?. Đậu Lệnh Phù nói :

– Không phải. Là đôi bên chính diện giao đấu, tuy y dùng loại ám khí tẩm độc xấu xa này, ta cũng không thể nói gì được. Đậu Tuyến Nương nói :

– Nói thế thì đúng là người của Đường gia rồi. Nên biết Đường gia ở Kiếm Nam tuy nổi tiếng về ám khí, nhưng nói tới bản lĩnh võ công thật sự thì vẫn chưa phải là đối thủ của anh em họ Đậu, võ công đạt tới mức như Đậu Lệnh Phù thì trừ phi đối phương bất ngờ ám hại, nếu không thì chính diện giao đấu, cho dù ám khí cực kỳ tàn độc cũng quyết không thể làm y bị thương.

Nhưng Đoàn Khuê Chương vẫn còn chút nghi ngờ :

– Người kia đã dùng Bạch mi châm bắn trúng huyệt đạo của y thì cần gì dùng đao kiếm làm y bị thương? Vả lại đây chỉ là bị thương nhẹ ngoài da, cũng không phải là do bậc cao thủ gây ra. Chẳng lẽ trước sau y bị thương tới hai lần à?. Chỉ vì trong giới lục lâm có rất nhiều điều kiêng ky, chuyện thù oán không bao giờ chịu nói với người ngoài, Đoàn Khuê Chương đã không muốn dính dấp vào đó, nên tuy nghi ngờ cũng không muốn hỏi nhiều, lúc ấy bèn nói :

– Linh chi khử độc hoàn trong nhà ta tuy không đúng là thuốc giải, nhưng cônglực của tam ca thâm hậu, uống vào một viên, chắc có thể bình an vô sự. Nguyên là lúc tổ phụ của Đoàn Khuê Chương Tây chinh, lấy được một cây linh chi ngàn năm, chế thành dược hoàn, có thể giải được bách độc, nên Đậu Lệnh Phù mới tìm tới y nhờ vả.

Đậu Tuyến Nương đi lấy Linh chi khử độc hoàn cho anh, từ phòng ngủ bước ra, cười nói :

– Thằng nhỏ rất ngoan, đang ngủ rất say, muội có thể ngồi với các huynh một lúc. Tam ca, chuyện thứ hai là gì?.

Đậu Lệnh Phù sắc mặt trở nên nghiêm trang, nhìn Đậu Tuyến Nương nói :

– Lục muội, không biết muội còn nghĩ tới tình nghĩa anh em không?. Đậu Tuyến Nương nói :

– Tam ca nặng lời quá, cùng một mẹ sinh ra, tình nghĩa anh em, sao lại không nghĩ tới?.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Nếu muội nghĩ tới tình nghĩa anh em, thì mời vợ chồng muội cùng về nhà, cứu mạng cho bọn ta!. Đậu Lệnh Phù biết Đoàn Khuê Chương xuất thân con nhà tướng, chí hạnh cao khiết, không chịu hòa mình vào đám lục lâm, nên tuy y muốn mời Đoàn Khuê Chương nhưng lại không nói thẳng với Đoàn Khuê Chương.

Đậu Lệnh Phù nhìn em gái, Đậu Tuyến Nương lại nhìn nhìn chồng, suốt hồi lâu mới nói :

– Tam ca, huynh nói thử xem, là chuyện gì vậy?.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Gần đây người nhà Bình Dương vương khiêu chiến với bọn ta, nói ra thật xấu hổ, mấy thằng anh vô dụng của muội đều thất trận.

Gia thế nhà Bình Dương vốn giống như Đậu gia, cũng là hậu duệ của một trong Phản vương mười tám lộ, sau khi Vương Thế Sung bị Lý Thế Dân tiêu diệt, hậu nhân của y cũng trở thành thế gia cường đạo. Hai nhà Vương Đậu lại có thù oán nhiều đời, chuyện minh tranh ám đấu không đời nào không có, vốn rất bình thường, nhưng Đậu Tuyến Nương nghe thấy như thế, lại vô cùng ngạc nhiên.

Nguyên là nhà họ Vương đến hiện nay nhân tài đã thua xa nhà họ Đậu, năm anh em nhà họ Đậu người nào cũng võ nghệ cao cường, đệ tử con em có tới vài mươi người, đều là nhân vật nổi tiếng trong lục lâm. Còn nhà họ Vương chỉ một mạch đơn truyền, người đương gia tên Vương Bá Thông, võ công tuy cao cường nhưng so với Đậu gia ngũ hổ vẫn còn thua kém một chút, cho dù đơn đả độc đấu thì anh em họ Đậu bất kể là ai cũng không thua y, càng không cần nói tới chuyện liên thủ hợp công. Vương Bá Thông lại chỉ có một trai một gái, còn chưa trưởng thành, đệ tử dưới trướng cũng ít hơn nhà họ Đậu, mấy lần đánh nhau đều là nhà họ Đậu thắng, về sau người nhà họ Đậu đi tới đâu Vương Bá Thông cũng tránh xa, không dám tranh phong. Cho nên lần này Đậu Tuyến Nương nghe nói năm anh trai đều thua trận, thì vô cùng ngạc nhiên.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Lục muội có chỗ không biết, hiện nay hình thế trong hắc đạo đã khác hẳn, anh hùng liên tiếp xuất hiện, đám già bọn ta đều bi áp đảo!.

Đậu Tuyến Nương xuất giá tòng phu, đã sớm quyết tâm rời khỏi chốn lục lâm, nhưng đối với gia đình vẫn rất quan tâm, vội hỏi :

– Vương Bá Thông mời nhân vật lợi hại nào tới trợ trận thế? Các anh ấy có bị thương không?.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Vương Bá Thông đúng là đã mời tới một nhân vật cực kỳ lợi hại, tên là Tinh Tinh Nhi. Đậu Tuyến Nương kinh ngạc nói :

– Tinh Tinh Nhi à? Ta còn chưa nghe thấy cái tên này. Đoàn Khuê Chương cười nói :

– Chúng ta ở ẩn tại thôn này mười năm, đúng là đã sắp biến thành người điếc rồi.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Vài năm gần đây, trên giang hồ nảy sinh hai nhân vật lợi hại, tuổi đều còn trẻ, đều chẳng quá hai mươi, nhưng thủ đoạn lại rất tàn độc. Tinh Tinh Nhi chính là một trong hai người ấy, người kia là Không Không Nhi, bọn ta chưa gặp qua, nghe nói bản lĩnh còn cao cường hơn Tinh Tinh Nhi rất nhiều, đó quả thật là rất kỳ diệu!.

Đậu Tuyến Nương mày liễu nhướng lên, nói :

– Kỳ diệu như thế nào? Chẳng lẽ chỉ dựa vào một mình Tinh Tinh Nhi mà thắng được cả năm người các huynh à?.

Đậu Lệnh Phù biết em gái bề ngoài thì mềm nhưng bên trong thì cứng, đang định nói khích lòng cùng căm thù của nàng, thở dài một tiếng nói :

– Khỏi phải nói, lần này Đậu gia thua một trận tan nát, ngay đại ca cũng bị thương, hai người em trai bị trúng Bạch mi châm.

Đại ca Đậu Lệnh Khản là thủ lĩnh lục lâm vùng Sóc Bắc, võ công cao cường, Đoàn Khuê Chương cũng rất khâm phục, lúc đầu y còn chưa để ý, bây giờ nghe nói Đậu Lệnh Khản cũng bị thương, mới giật nảy mình.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Hôm ấy Vương Bá Thông dắt một mình Tinh Tinh Nhi tới, Tinh Tinh Nhi vừa gầy vừa nhỏ, giống như một con khỉ, bọn ta đều không coi y ra gì. Y lại muốn một mình đánh nhau với năm người bọn ta, bọn ta đương nhiên không muốn làm mất tiếng tăm của mình, trước tiên là nhị ca ra tiếp chiến, không đầy vài chiêu, toàn thân đã bị kiếm quang của y trùm lên, tứ đệ, ngũ đệ nhìn thấy không xong đành sấn vào giúp đỡ, nhưng vẫn bị y ép lùi lại liên tiếp, sau cùng ta và đại ca cũng nhảy vào vòng chiến, đại ca dùng cặp Thiên tứ thần bài không sợ bảo kiếm của y đón đỡ phía trước, bốn anh em bọn ta bao vây hai bên, kịch chiến nửa giờ vây chặt lấy y, nào ngờ đúng lúc bọn ta đang chiếm thượng phong, y liền lập tức phóng Bạch mi châm ra!.

Đoàn Khuê Chương nói :

– Các huynh lấy đông đánh ít, thì vốn không thể trách ngươi ta sử dụng ám khí tẩm độc.

Đậu Lệnh Phù nói tiếp :

– Nếu là người khác thì Bạch mi châm chưa chắc đã làm được gì bọn ta. Nhưng đáng hận là Tinh Tinh Nhi vô cùng giảo hoạt, một đường kiếm pháp quả đã tới chỗ xuất thần nhập hóa, mà lúc phóng Bạch mi châm ra, kiếm pháp cũng hoàn toàn không chầm lại, liên tiếp bức bách bọn ta, nếu bọn ta muốn tránh Bạch mi chám, ắt phải bị thương dưới kiếm của y! Hai cái hại phải chọn một, bọn ta chỉ còn cách liều mạng để độc châm phóng vào chỗ yếu hại, tử chiến với y. May là có song bài của đại ca đón đỡ, nhị ca ngũ đệ chưa bị thương, ta và tứ đệ tay chân đều chậm lại, chưa kịp liên thủ với đại ca, đều đã bị trúng một mũi Bạch mi châm, ta bị thương trên tay, tứ đệ bị thương ở bắp chân, đại ca đón đỡ được ba chiêu sát thủ của y, kết quả tuy giữ được tính mạng, nhưng hai ngón tay trái lại bị bảo kiếm của y hốt đứt! May là nhị ca và ngũ đệ còn chưa bị thương, đúng lúc đôi bên đang liều mạng tử chiến ấy, đều đánh trả lại một kiếm, cũng làm cho y bị thương hai chỗ, lúc ấy đôi bên mới ngừng tay.

Đậu Tuyến Nương thở ra một hơi, nói :

– Thế cũng còn may, còn chưa tới mức thua một trận tan nát.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Tuy Tinh Tinh Nhi bị thương, nhưng chỉ là ngoài da thịt, thương thế của ba người bọn ta, nói ra cũng kể như thua một trận tan nát.

Đậu Tuyến Nương nói :

– Thương thế của tứ ca ra sao?. Nàng biết đại ca bản lĩnh cao cường, chỉ bị chém đứt hai ngón tay, cũng không hề gì, tứ ca công lực kém hơn, bị trúng :

– Bạch mi châm mới khiến người ta lo lắng, nên đầu tiên hỏi về tứ ca trước.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Tứ đệ tuy công lực hơi kém, nhưng may là bị thương không phải chỗ yếu hại, Bạch mi châm mà muốn lên tới tim, ít nhất cũng phải hơn một tháng nữa.

Đoàn Khuê Chương vừa tính ngày tháng thì Đậu Lệnh Phù sau khi trúng Bạch mi châm đến nay đã qua hơn hai mươi ngày, Bạch mi châm vừa từ cánh tay theo huyệt đạo lên tới ngực y, bèn nghĩ thầm- Với công lực của y mà nói vốn đã thuộc loại ít có trong võ lâm, chứ người bình thường mà trúng Bạch mi châm thì nhiều nhất cũng không sống thêm được quá ba ngày. Mà công lực của đại ca thì ít nhất còn cao gấp đôi y. Nhưng Đậu gia ngũ hổ bọn họ liên thủ hợp công mà lại bị một mình Tinh Tinh Nhi đánh bại, thì bản lĩnh của gã Tinh Tinh Nhi này quả thật đủ để kinh thế hãi tục.

Đậu Lệnh Phù trầm giọng nói :

– Lục muội, muội là người nhà Đậu gia, muội nên biết nhà họ Đậu chúng ta trước naychưa từng nhờ vả người ngoài, may mà các người cũng không phải người ngoài, lần này ta tới cầu cứu, cũng không gọi là phá lệ của nhà họ Đậu.

Đậu Tuyến Nương cảm thấy khó nghĩ, ngần ngừ một lúc, liếc nhìn chồng, không dám trả lời ngay. Chỉ nghe Đậu Lệnh Phù nói tiếp- Hiện nay trên đời e chi có kiếm pháp của dượng là có thể đối địch với Tinh Tinh Nhi, lục muội, bản lĩnh của muội, không phải là ta tán dương, chứ trên giang hồ cũng ít có kẻ sánh được, nhất là công phu Mai hoa châm thích huyệt, chỉ có muội là được chân truyền của cha, không ai bì được, ý của đại ca là muốn ta đưa các ngươi về nhà ngay, đợi lúc Tinh Tinh Nhi trở lại, thì dượng sẽ tỷ kiếm với y, muội ở bên cạnh đấu ám khí với y, đánh như thế thì có thể nắm chắc phần thắng.

Lục muội, nhà họ Đậu chúng ta chỉ còn dựa vào hai vợ chồng muội thôi!

Đậu Tuyến Nương không dám tự ý, đưa mắt nhìn chồng, Đoàn Khuê Chương đã sớm có mấy phần không quyết, nói :

– Tam ca, em gái huynh vừa sinh xong, chỉ e có chỗ bất tiện.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Tinh Tinh Nhi cũng phải dưỡng thương xong mới dám trở lại, lục muội chỉ đứng cạnh dùng ám khí trợ trận, cũng không cần phải mất nhiều khí lực, nhiều lắm là sau một tháng đã có thể ứng chiến rồi.

Đậu Tuyến Nương nói :

– Đoàn lang, ý huynh ra sao?. ý ở ngoài lời là nàng đã không thành vấn đề, chỉ chờ chồng nói một câu thôi.

Đoàn Khuê Chương nói :

– Trong nhà nàng có chuyện, nàng phải trở về thì ta không cản trở. Võ nghệ của ta đã gác bỏ nhiều năm, Tinh Tinh Nhi lợi hại như thế, ta tự thấy không phải là đối thủ của y.

Đậu Lệnh Phù chợt biến sắc trầm giọng nói :

– Đệ không muốn đi cứ thẳng thắng nói ra là được, đệ là anh hùng hiệp khách, không muốn nhận bọn ta là thân thích, Đậu Lệnh Phù ta cũng không mặt dày năn nỉ đệ đâu.

Đoàn Khuê Chương nói :

– Tam ca, không phải như thế, đệ có một lời khuyên, còn nghe hay không là tùy huynh.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Nói đi!.

Đoàn Khuê Chương nói :

– Đệ khuyên các huynh nên nhân lúc này rửa tay gác kiếm! Nghĩ chắc Vương Bá Thông chẳng qua chỉ là tranh bá lục lâm với các huynh, các huynh ẩn tích mai danh, im hơi kín tiếng, chẳng lẽ y và Tinh Tinh Nhi lại tìm tới nữa sao?.

Đậu Lệnh Phù cười nhạt, nói :

– Thật là lời vàng ngọc! Đệ không phải là người Đậu gia, nhưng đệ cưới con gái nhà Đậu gia, chắc cũng phải biết gia huấn nhà họ Đậu là:

Thà chết không chịu nhục? Hơn trăm năm nay chưa từng bị ai khinh rẻ vì tìm tới cửa, mà lại co đầu rụt cổ không dám ra. Cho dù có rửa tay gác kiếm, thì cũng phải trả mối thù này đã.

Đoàn Khuê Chương nghĩ thầm :

– Nếu nói tới chuyện trả thù, thì món nợ máu các người thiếu thiên hạ cũng không ít đâu! Người trong lục lâm sống trên ngọn đao, thắng bại tử thương là điều không thể tránh khỏi, nếu lại thù oán báo phục, giết Tinh Tinh Nhi, thì khó mà nói sẽ lại không có một Tinh Tinh Nhi khác. Nhưng y thấy Đậu Lệnh Phù đang giận dữ, nói ra câu ấy không khác gì lửa đổ thêm dầu, y vốn không khéo ăn nói, đã định nói mà không tiện nói ra, chỉ đành im lặng, để Đậu Lệnh Phù khỏi nổi trận lôi đình.

Đậu Tuyến Nương vốn định khuyên chồng chỉ giúp anh em mình lần này, nhưng nhìn thấy dáng vẻ của chồng như thế, biết là có khuyên cũng vô dụng, nên cũng không lên tiếng. Đậu Lệnh Phù phất tay áo một cái, giận hờn nói :

– Cứ xem như là ta tới lầm cửa, tự mình gây ra chuyện mất mặt, xin cáo từ.

Đậu Tuyến Nương vội nói :

– Tam ca, tam ca, hãy ngồi xuống đã, rồi từ từ bàn tính.

Đoàn Khuê Chương nói :

– Tam ca nhất định trả thù, người ta ai có chí của kẻ ấy, ta cũng không dám khuyên nữa, hai viên Linh chi khử độc hoàn này huynh mang về cho tứ ca vậy.

Đậu Lệnh Phù đã phất tay áo đứng lên, lạnh lùng nói :

– Không cần đâu. Cho dù có chữa được y cũng sẽ lại bị thương dưới kiếm của Tinh Tinh Nhi nữa thôi!.

Đậu Tuyến Nương nói :

– Đêm đã khuya rồi, tam ca, huynh có muốn đi thì cũng hãy chờ đến sáng hãy đi!.

Thiếu niên cùng đi với Đậu Lệnh phù kia nãy giờ đứng cạnh cười nhạt im lặng không nói gì, lúc ấy đột nhiên lên tiếng :

– Nghỉ lại một đêm không hề gì, chỉ sợ bạn bè làm quan của dượng tới đây, nhìn thấy đại đạo lục lâm ở trong nhà của người thì có chỗ bất tiện! Tam thúc, chúng ta cứ lập tức lên đường là hay.

Đoàn Khuê Chương sửng sốt, lập tức nhảy bật lên nói :

– Ma Lặc, ngươi nói gì?. Trong lòng lấy làm lạ, nghĩ thầm :

– Mình bình sinh chưa từng kết giao với bạn bè làm quan, chẳng lẽ là họ nói Sử Dật Như Sử đại ca cũng đã từ quan lâu rồi. Huống hồ lần thứ nhất họ tới thôn này, làm sao mà biết được?.

Thiết Ma Lặc tránh qua một bên, cao giọng nói :

– Bạn bè người kết giao lại sợ ta nói ra à? Người không cho ta đi, dường như muốn trói ta giao cho quan phủ lập công phải không? Không sai, người cứu người dưới vó ngựa hôm nay chính là ta, người xông vào An Lộc Sơn cũng là ta, người còn đợi gì nữa?.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Nghĩa phụ ngươi đã không dạy ngươi sao, đạo khác nhau thì không mưu việc với nhau. Ngươi nói nhiều làm gì?

Ngươi gây ra tai họa không hề gì, nhưng bộ xương già này của ta cũng phải liên lụy với ngươi, phải chôn ở đây rồi. Câu ấy bề ngoài là mắng Thiết Ma Lặc, nhưng thật ra là để đối phó với Đoàn Khuê Chương.

Đậu Tuyến Nương sợ tới mức ngẩn ra, kêu lên :

– Tam ca, tam ca, huynh nói gì thế? Tuy Khuê Chương không chịu giúp huynh đánh nhau với Tinh Tinh Nhi, nhưng huynh ấy cũng không trở mặt thành thù, trói các người đem nộp quan đâu, huynh coi huynh ấy là người thế nào?.

Đoàn Khuê Chương thân hình chớp lên đứng chặn giữa cửa, lạnh lùng nói :

– Tam ca, nói chuyện cho rõ ràng rồi hãy đi!.

Đậu Lệnh Phù lạnh lùng nói :

– Đệ nói hay lắm, kẻ sĩ ai có chí của người ấy, không thể miễn cưỡng, đệ muốn tới tìm công danh phú quý dưới trướng An Lộc Sơn, cũng không lạ gì đệ không nhìn nhận nhà họ Đậu là thân thích! Nhưng mong đệ nghĩ tới một chút nghĩa khí giang hồ, sau khi bọn ta đi rồi, đệ hãy báo tin được không? Có điều nếu quả thật đệ muốn giữ bọn ta lại đây, thì Đậu Lệnh Phù ta tuy không phải là đối thủ của đệ cũng quyết không chịu bó tay chịu trói đâu!.

Đậu Tuyến Nương trách :

– Tam ca, huynh định đi đâu? Huynh không biết, An Lộc Sơn chính là kẻ thù của Đoàn lang, tối nay muội đã bàn cách tránh họa với huynh ấy, chuẩn bị đào tẩu đấy.

Đoàn Khuê Chương đã bình tĩnh lại, nói :

– Tam ca, ở đây nhất định có chuyện hiểu lầm gì đó. Huynh nói xem, tại sao huynh cho rằng đệ muốn tìm công danh phú quý dưới trướng An Lộc Sơn?.

Đậu Lệnh Phù vừa nghe hai vợ chồng họ nói thế, giống như không phải giả tạo, trong lòng cũng ngờ vực không hiểu được bên nói- Thủ hạ của An Lộc Sơn có hai viên tướng đắc lực một người là Điền Thừa Tự, một người là Tiết Tung, hai người ấy với đệ có giao tình thế nào?.

Đoàn Khuê Chương nói :

– Đệ đã nghe tới tên họ, trước đây vì cái hẹn ở Thanh Hà câu (khe Thanh Hà), Tiết Tung từng hẹn tỷ kiếm với đệ, về sau do đồ đệ của Cù Nhiệm Khách ra mặt, hóa giải chuyện ấy nên không có đánh nhau. Từ đó đến nay, đệ vẫn chưa từng gặp mặt y.

Đậu Lệnh Phù kinh ngạc nói :

– Đệ nói thật à? Vậy thì lạ thật.

Đoàn Khuê Chương nói :

– Huynh không tin đệ cũng phải tin em gái huynh, huynh cứ hỏi muội ấy, lúc bình sinh đệ đã từng nói qua chuyện ấy chưa?.

Đậu Tuyến Nương nói :

– Hai người ấy quả thật không hề có quan hệ gì với bọn ta, tam ca, tại sao huynh lại coi hai người ấy và Khuê Chương là một bọn?.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Ở đầu thôn này có một nhà, trước cổng có ba cây hòe, chủ nhà là một thư sinh mặt trắng không có râu, khoảng trên dưới bốn mươi tuổi, chẳng lẽ người ây cũng không hề có quan hệ với ngươi?.

Đoàn Khuê Chương nói :

– Người ấy là bạn thân của đệ, tên Sử Dật Như. Không sai, người họ Sử ấy từng làm quan, nhưng hơn mười năm trước vì đàn hặc gian tướng Lý Lâm Phủ nên đã bị bãi quan rồi. HÔ hô, huynh nói đệ kết giao với bạn bè làm quan là nói y chứ gì? Người ấy có đạo có lòng, cao thượng ngay thẳng tuy từng làm quan, nhưng cũng là người trong bọn hiệp nghĩa đấy.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Y từng làm quan, đệ có biết quan hệ giữa y và An Lộc Sơn ra sao không?.

Đoàn Khuê Chương nói :

– Sử đại ca chơi thân với đệ mười năm, đệ vốn biết y căm hận An Lộc Sơn, thì việc y có quan hệ gì với An Lộc Sơn thì không đời nào có.

Đậu Tuyến Nương chen vào :

– Có một chuyện vừa khéo huynh còn chưa biết, tối hôm trước Sử đại tẩu cũng sinh được một con gái, bọn ta và họ đã kết thông gia. Nói ra thì họ Sử cũng là thân thích của huynh đấy.

Đậu Lệnh Phù vuốt vuốt râu, trầm ngâm một lúc, nói :

– Như thế thì ta càng lúc càng hồ đồ. Được rồi, ta cứ nói mọi chuyện từ đầu đã.

Mấy hôm trước có một người bạn nói từng nhìn thấy đệ vội vã đi ngang qua Trường An, vì thế ta đoán chắc là đệ cư trú gần Trường An, liền cùng Thiết Ma Lặc tới tìm các ngươi. Ba hôm trước trong đường sơn đạo Phượng Tường, lại gặp tám tên cao thủ dưới trướng An Lộc Sơn, ác đấu một trận.

Đậu Tuyến Nương hỏi :

– Huynh cũng có thù với An Lộc Sơn à?.

Đậu Lệnh Phù cười nói :

– Muội rời khỏi lục lâm không đầy mười năm mà ngay chuyện đó cũng không hiểu. Đậu gia chúng ta chính là cường đạo trong khu vực thuộc quyền An Lộc Sơn quản hạt, chịu nghe y chiêu an hay đối đầu với y, không phải chuyện đơn giản đâu.

Đậu Tuyến Nương cười nói :

– Chuyện đó muội biết, có điều lúc muội rời nhà, An Lộc Sơn còn chưa làm Tiết độ sứ. Muội vẫn chưa biết Đậu gia chúng ta thuộc quyền y quản hạt.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Bọn ta không những không chịu nghe y chiêu an, lúc y kiêm thêm chức Tiết độ sứ Phạm Dương, tứ đệ còn giở trò đùa cợt y, cướp mất một chiếc áo cừu quý báu mà Dương Qúy phi gửi cho y, vì thế y đã sớm muốn bắt bọn ta rồi. Vương Bá Thông và Điền Thừa Tự dưới trướng An Lộc Sơn trước đó là bạn tốt trong hắc đạo, sau khi Điền Thừa Tự theo An Lộc Sơn, Vương Bá Thông vẫn ngấm ngầm đi lại với y. Cho nên theo chỗ ta đoán, lần này bọn ta bị thủ hạ của An Lộc Sơn vây đánh ở sơn đạo Phượng Tường có quá nửa là do thằng đầy tớ Vương Bá Thông báo tin?.

Đoàn Khuê Chương nghĩ thầm :

– Trong lục lâm cũng có chia cao thấp, ông anh vợ này của mình lại không chịu dấn thân vào dòng nước đục, ngấm ngầm thông đồng với quan phủ, rốt lại cũng còn hon Vương Bá Thông một bậc.

Đậu Lệnh Phù nói tiếp :

– Tám tên vệ s của An Lộc Sơn tuy không thuộc hạng là cao thủ bậc nhất nhưng võ công cũng rất cao cường, trong đó có một người tên Trương Trung Chí, trước đó cũng là người trong hắc đạo, sử dụng một cặp Hổ đầu câu là lợi hại nhất. Vết thương trên vai ta, là bị Hổ đầu câu của y móc rách đấy.

Thiết Ma Lặc cười nói :

– Tam thúc, người vẫn thích nói địch nhân lợi hại hơn một chút, đó là lão nhân gia cố ý để lộ chỗ sơ hở, chứ nếu không thì họ Trương kia làm sao tới gần người được?.

Đậu Lệnh Phù nghiêm trang nói :

– Ma Lặc, người trẻ tuổi như ngươi rất dễ có tật khinh địch, tật xấu ấy mà không sửa thì tương lai nhất định sẽ gặp rủi ro. Nên biết lời giáo huấn trong chốn lục lâm là lúc giáp mặt với địch thì thủ thắng là tốt nhất, càng mau càng tốt, để tránh xảy ra chuyện bất ngờ, cho dù là sư tử bắt thỏ cũng phải dùng hết sức. Huống chi chúng ta không phải là sư tử, mà đối phương càng không phải là thỏ.- Từ tình hình hôm ấy mà nói, ta đã bị trúng Bạch mi châm, cục diện đối phương hợp vây đã hình thành, nhìn thấy rất rõ, bọn ta không muốn dằng dai với họ, nếu không phải ta cố ý để lộ chỗ sơ hở, dụ cho Trương Trung Chí mắc câu, chỉ e còn chưa chắc đã dễ dàng thoát được khỏi vòng vây! Chứ cứ cắm đầu liều mạng đánh bừa như ngươi, quả thật rất nguy hiểm.

Giáo huấn Thiết Ma Lặc xong, Đậu Lệnh Phù quay lại nói :

– Ta căm hận Trương Trung Chí là ăn cướp giết ăn cướp, đồng loại tương tàn, nên dụ y tới gần, lập tức thi triển tuyệt kỹ Tích lịch chưởng, một chưởng đánh gãy xương sườn y, y cũng nhân chỗ sơ hở của ta lại đánh trúng ta một câu, xem ra cũng là một đối thủ dữ dằn.

Đậu Tuyến Nương nói :

– Trong tám tên vệ sĩ ấy, không có Điền Thừa Tự và Tiết Tung à?.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Điền Tiết hai người là thân phận đại tướng, đương nhiên không có trong đó. Cũng có thể họ cho rằng tám người kia đối phó với một già một trẻ bọn ta cũng đủ rồi. Y cười một tiếng, lại nói tiếp :

– May mà họ không nhận ra được ta, chứ nếu hai vị tướng quân Điền Tiết đích thân ra tay, thì ta nguyên khí chưa khôi phục, chắc chắn không phải là đối thủ của họ, chỉ sợ tối nay đã không thể gặp mặt muội rồi.

Đậu Tuyến Nương hơi kinh ngạc, nói :

– Tam ca, mới rồi huynh nói…. Đậu Lệnh Phù đã hiểu ý, lập tức nói tiếp :

– Muội không biết tại sao mới rồi ta không nhắc tới hai người ấy trước chứ gì? Hôm ấy ta không có duyên được gặp gỡ hai vị tướng quân, nhưng tối hôm nay lại nhìn thấy rồi!.

Đoàn Khuê Chương không khỏi giật nảy mình, vội hỏi :

– Tối hôm nay à? Huynh nhìn thấy họ Ở đâu?.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Chính trong thôn này, chưa quá một giờ Đậu Tuyến Nương nói :

– Chuyện là thế nào?. Đậu Lệnh Phù nói :

– Muội đừng gấp, cứ nghe ta kể tiếp đã.

Đậu Lệnh Phù nói tiếp :

– Ra khỏi sơn đạo Phượng Tường, vừa khéo là ngày mồng một tết, ta tới thôn các ngươi, gặp phải cả đoàn người ngựa của An Lộc Sơn đang vội vàng lên Trường An để chúc tết Qúy phi nương nương của y. Lão già ta là con chim phải tên sợ cành cây cong, không dám gây thêm chuyện khác, vội tránh vào sơn cốc ẩn núp. Thằng tiểu tử này lại là con nghé mới sinh không kinh gì cọp lại ra khỏi sơn cốc xem cảnh nhộn nhịp.

Thiết Ma Lặc nói tiếp :

– Vừa khéo lúc tiểu diệt ra xem, liếc thấy dượng, dượng kéo cổ áo da dê trùm đầu, chân không rời đất bước chậm rãi nhưng đi rất mau, vừa nhìn thấy là biết ngay người có võ công thượng thặng.

Đoàn Khuê Chương trong lòng e sợ nghĩ thầm :

– Thằng nhô nãy nhãn quan lợi hại thật. Hỏng bét, mình nhất thời nôn nóng, bước mau hai bước, kết quả là bị nhìn ra. Y có thể nhìn ra mình có võ công thượng thặng thì bọn cao thủ dưới trướng An Lộc Sơn lẽ nào lại không nhận ra.

Chỉ nghe Thiết Ma Lặc nói tiếp :

– Về sau lại xảy ra chuyện bọn vệ sĩ của An Lộc Sơn phóng ngựa xéo lên đám trẻ con, tiểu diệt nhịn không được nên cứu mấy đứa trẻ ấy.

Đậu Lệnh Phù cười nói :

– May mà họ vội đi, không có thời gian để bắt ngươi. Có điều cũng may là ngươi nhìn ra võ công của dượng ngươi, nếu không ta còn chưa biết các ngươi cư trú trong thôn này đâu!.

Đậu Lệnh Phù ngừng lại một lúc, rồi nói tiếp :

– Ma Lặc vừa nói, ta đã đoán ra ngay là đệ. Ma Lặc thấy đệ bước vào một căn nhà ở đậu thôn, ta lại cho rằng đó là nhà của đệ.

Đoàn Khuê Chương nói :

– Rồi các người tới nhà họ Sử phải không?.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Không sai, bọn ta đang chờ ở cổng nhà họ Sử, thì nhìn thấy Điền Thừa Tự và Tiết Tung.

Đoàn Khuê Chương buột miệng kêu lên :

– Các người có vào xem không Sử đại ca của ta không biết ra sao rồi?.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Ta còn nhìn thấy một thư sinh mặt trắng không có râu khoảng bốn mươi tuổi đi cùng với họ, trò chuyện rất vui vẻ, trong tình hình như thế, ta làm sao dám bước vào?.

Đoàn Khuê Chương vô cùng hoảng sợ vội hỏi :

– Huynh có nghe họ nói chuyện gì với nhau không?.

Đậu Bệnh Phù nói :

– Ta và Thiết Ma Lặc núp trên cây tùng, lúc ấy họ đang nhảy lên ngựa, ta chỉ nghe Tiết Tung nói:

đại soái nhất định sẽ cho ngươi làm quan. Về sau lại thấp thoáng nghe họ nói hai lần:

Đoàn tiên sinh. Họ đã phóng ngựa đi, không còn nghe được gì nữa, tựa hồ họ rất kính trọng vị :

– Đoàn tiên sinh kia.

Đoàn Khuê Chương nói :

– Chẳng trách gì huynh lại cho rằng hai thằng đày tớ ấy là bằng hữu của đệ, thế về sau thế nào?.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Còn thế nào nữa? Vị Sử đại ca kia của đệ đi với họ rồi, ta cũng biết đó không phải là nhà của đệ, lúc ấy bèn tới từng nhà trong thôn nhìn trộm, kể cũng may mắn, cuối cùng đã tới chỗ các ngươi. Y ngừng lại một lúc, lạnh lùng nói :

– Nếu không phải ta còn cho rằng đệ có vài phần thân thích, thì ta cũng không dám tới gặp đệ đâu. Được rồi, ta đã nói hết những chuyện ta nghe thấy rồi, có cho ta đi hay không là do đệ thôi! Nếu đệ muốn bắt ta nộp cho An Lộc Sơn làm cái lễ ra mắt, thì cứ động thủ đi!.

Hai chữ :

– động thủ vừa từ miệng Đậu Lệnh Phù buông ra, chợt nghe Đoàn Khuê Chương quát lớn một tiếng, như một mũi tên vọt ra cửa, Đậu Lệnh Phù giật mình hoảng sợ, kêu lên :

– Ngươi, ngươi quả thật…. Y chỉ cho rằng Đoàn Khuê Chương quả thật muốn đi tố cáo, gây ra chuyện bất lợi cho y, trong lúc nóng nảy không kịp suy nghĩ, cũng vội vàng lao ra khỏi nhà.

Câu ấy của y chưa nói xong, bước chân vừa bước qua bậc cửa, vạt áo đã bị Đậu Tuyến Nương giữ lại, chỉ nghe Đậu Tuyến Nương kêu lớn- Tam ca, huynh hồ đồ quá!.

Đậu Lệnh Phù nói :

– Cái gì?. Đậu Tuyến Nương nói :

– Nếu huynh ấy muốn gây ra chuyện bất lợi cho huynh, sao không đích thân động thủ?

Lẽ nào lại có chuyện bây giờ còn đi gọi người tới giúp, chẳng lẽ huynh ấy không đoán là các người sẽ lập tức đào tẩu sao?.

Đậu Lệnh Phù kinh nghiệm giang hồ phong phú hơn em gái nhiều, lời Đậu Tuyến Nương lại cùng có lý, y đương nhiên cũng nghĩ tới, chỉ vì nhất thời hoảng sợ, nên mới thất thố, bây giờ nghĩ lại, quả nhiên là mình hồ đồ, vội dừng bước lại quay đầu nhìn qua, chỉ thấy Thiết Ma Lặc đang tuốt một thanh đoản kiếm sắc bén sáng lóa, nhắm vào giữa người của Đậu Tuyến Nương, nguyên là y cho rằng Đậu Tuyến Nương không kể tới tình anh em, muốn giữ :

– Tam thúc của y lại, nên chuẩn bị đến lúc cần sẽ liều mạng với Đậu Tuyến Nương.

Đậu Lệnh Phù quát :

– Ma Lặc, dừng tay!. :

– Lục muội, muội nói đi!

Tính mạng tam ca của muội giao hết cho muội đấy?.

Đậu Tuyến Nương cười nói :

– Tam ca, không cần hấp tấp, nghe muội nói rõ đã. Nàng khêu bấc đèn lên, kể lại chuyện chồng mình kết oán với An Lộc Sơn, quan hệ giữa hai nhà Đoàn Sử, việc hai nhà hẹn nhau đi lánh nạn… tường tận kể rõ đầu đuôi với Đậu Lệnh Phù.

Đậu Lệnh Phù và Thiết Ma Lặc lúc ấy mới hiểu rõ, chỉ nghe thấy gà gáy ngoài cửa, đã đến canh năm, đứa trẻ sơ sinh trong phòng cũng đã oa oa khóc lớn, câu chuyện của Đậu Tuyến Nương cũng vừa kể xong, cười nói :

– Con muội đòi bú rồi, thằng nhỏ này ngoan thật, ngủ một mạch đến sáng. Nó cũng phải ra gặp cậu nó chứ.

Đậu Tuyến Nương cho con bú xong, bế đứa bé bước ra, Đậu Lệnh Phù nói :

– Thằng nhỏ này cốt cách thanh kỳ, là một nhân tài học võ đây. Đứa nhỏ vừa ra, không khí căng thẳng đã giảm đi rất nhiều, nhưng trong lòng người nào cũng còn nơm nớp không yên.

Chợt nghe một tiếng hú dài, Đoàn Khuê Chương cao giọng ngâm nga :

– Bảo kiếm muốn rời vỏ, Chém chết kẻ gian tà, Há vì thù oán nhỏ, Nửa đêm đâm người ta, Cho dù thân gãy nát, Cũng chẳng mềm lòng mà!, búng vào kiếm vang thành tiếng như rồng ngâm sải chân bước lên bậc thềm.

Lúc ấy ánh mặt trời đã bắt đầu hiện ra, chỉ thấy y tức giận trợn ngược lông mày, hai mắt đổ lửa, Đậu Tuyến Nương trước nay chưa thấy chồng có dáng vẻ như thế, hoảng sợ ngẩn ra, nàng còn chưa lên tiếng, Thiết Ma Lặc đã đột nhiên sấn tới một bước, nói :

– Ta trách lầm dượng rồi, rồi đùng đùng đùng ba tiếng dập đầu lạy Đoàn Khuê Chương.

Đoàn Khuê Chương đỡ Thiết Ma Lặc đứng dậy, ngẩng đầu cười nói :

– Được, ngươi thương ghét phân minh, không hổ là kẻ có bản sắc anh hùng!.

Đậu Lệnh Phù cũng bước tới tạ lỗi, Đoàn Khuê Chương nghiêng người tránh qua một bên trầm giọng nói :

– Lúc này còn khách sáo làm gì nữa. Tam ca, đệ có một chuyện, trăm nhờ cậy huynh.

Đậu Lệnh Phù cười nói :

– Ngươi với ta là thân thích, cần gì phải nói thế, ngươi vừa bảo không cần khách sáo, mà ngươi đã khách sáo trước rồi?. Y thấy dáng vẻ Đoàn Khuê Chương như thế, biết ngay nhất định đã có chuyện vô cùng nghiêm trọng, vì thế cố ý bật tiếng cười ha hả để làm giám đi sự căng thẳng của mọi người.

Đoàn Khuê Chương chỉ con trai nói :

– Tam ca, xin người chiếu cố cho hai mẹ con họ, trời vừa sáng là đưa họ đi ngay. Tuyến Nương, nàng cố nuôi con cho tốt, lúc nó trưởng thành thì đem kiếm phổ của ta ra dạy lại cho nó.

Đậu Tuyến Nương vốn muốn đưa con về nhà mẹ lánh nạn nên tranh luận với chồng, không ngờ chồng lại đột nhiên ưng thuận, nàng linh cảm thấy có chuyện không hay, bàn tay run lên, không dám nhận kiếm phổ. Đoàn Khuê Chương thở dài một tiếng, nói :

– Cầm lấy đi, sau này có thể ta và nàng không gặp lại nhau nữa đâu.

Đậu Tuyến Nương nói :

– Khuê lang, chàng định đi đâu?.

Thật ra nàng đã đoán được bảy tám phần rồi. Đoàn Khuê Chương nói :

– Ta đi tìm Sử đại ca.

Đậu Tuyến Nương nói :

– Chàng tới Sử gia nhìn qua rồi à? Rốt lại thế nào? Sứ đại tẩu và con gái chị ấy ra sao rồi?.

Đoàn Khuê Chương nói :

– Đều bị bọn thủ hạ của An Lộc Sơn bắt đi rồi.

Đậu Tuyến Nương thốt lên :

– Thật à? Quả là chuyện không ngờ tới được!.

Đoàn Khuê Chương nói :

– Chẳng lạ đâu, hôm qua ta nhất thời sơ ý, tránh vào nhà họ Sử, An Lộc Sơn đương nhiên tưởng Sử đại ca là ta.

Đậu Tuyến Nương nói :

– Sử đại ca là một Tiến sĩ, sao y không nhận ra được?. Đậu Lệnh Phù nói tiếp :

– Ta nghe Điền Thừa Tự nói cho y làm quan, dượng nó, ta thấy, lòng người khó dò, ngươi….

Đoàn Khuê Chương mày kiếm dựng lên, lập tức ngắt lời y :

– Tuyến Nương, người khác không biết Sử đại ca là người thế nào, nhưng chẳng lẽ nàng cũng không biết sao? Y là vì bảo toàn cho ta, nên cố ý giả mạo nhận tên ta đi rồi.- Ta tới Sử gia, trong nhà không có cả một cái bóng, ta ngửi thấy mùi mê hương trong phòng ngủ còn sót lại, tìm thấy trong thư phòng một lá thư của Sử đại ca viết. Nàng cầm lấy mà xem!.- Nàng thấy đấy, Sử đại ca khổ tâm thế nào, y vì muốn bày chuyện qua mặt bọn Điền Thừa Tự, nên cố ý trò chuyện lấy lệ với y một hồi, chẳng lẽ nàng cũng tin huynh ấy muốn làm quan với An Lộc Sơn sao.- Nàng thấy đấy, tại sao Sử đại ca gửi thư cho họ, trong di thư bảo vợ con y tìm tới nhờ thân thích chiếu cố, lúc y viết lá thư này không tiện nói rõ, chứ người chí thân chí thích của y không phải chúng ta thì là ai?.- Tuyến Nương, sự tình như thế, nàng còn chưa hiểu rõ sao?.

Đậu Tuyến Nương là con nhà thế gia lục lâm, đương nhiên hiểu rõ thủ đoạn trong hắc đạo, căm hờn nói :

– Hai gã Điền Tiết này trước kia cũng đã là nhân vật thành danh trong giang hồ, mà hành vi lại hèn hạ như thế, cả đàn bà trẻ con cũng không buông tha.

Đoàn Khuê Chương nói :

– Đúng thế, cả nhà Sử đại ca đều bị liên lụy vì ta, nàng nói xem, nàng có thể đứng ra ngoài chuyện này không?.

Đậu Tuyến Nương lòng như dao cắt, nàng biết rõ dưới trướng An Lộc Sơn cao thủ như mây, chồng mình tới đó nhất định dữ nhiều lành ít, nhưng chuyện tã tới nước này làm sao nàng có thể cản trở, vả lại nàng cũng là một người đàn bà có khí khái anh bùng hiểu rõ nghĩa lớn, gặp phải trường hợp này nếu đổi lại là nàng, nàng cũng phải xả thân vì nghĩa như chồng mà thôi.

Hai vợ chồng bốn mắt nhìn nhau, im lặng không nói gì. Qua một lúc, Đậu Tuyến Nương mới run run đưa tay đón lấy kiếm phổ mà Đoàn Khuê Chương đưa, hạ giọng nói :

– Đoàn lang, thiếp đi đây. Chỉ mong người tốt có trời giúp, chàng và Sử đại ca, Sử đại tẩu đều được bình an trở về? Chỉ tiếc là thiếp vừa sinh xong, không thể đi cùng với chàng.

Đoàn Khuê Chương mỉm cười nói :

– Nếu nàng nuôi cho con khôn lớn thì còn khó khăn hơn cùng liều mạng với ta nhiều. Ta không thể chia sẻ sự vất vả với nàng, chỉ còn cách xin tam ca chiếu cố cho nàng. Y cố gắng giữ giọng bình thản, nhưng trong nụ cười vẫn không giấu được nét u buồn.

Đậu Lệnh Phù cười nói :

– Khuê Chương, với võ công của đệ, chưa chắc đã không thể trở về đâu, bọn ta còn phải chờ đệ tới đối phó với Tinh Tinh Nhi đấy!. Thật ra y nói câu ấy chẳng qua là để an ủi em gái mà thôi. Cho dù Đoàn Khuê Chương võ công cao cường hơn nhưng xông vào nơi đầm rồng hang cọp thì song quyền khó địch bốn tay, muốn yên lành trở về đã là cực kỳ khó khăn, huống chi còn muốn cứu người.

Gà đã gáy ba lần, Đoàn Khuê Chương nói :

– Được rồi, chúng ta cùng đi thôi. Ta đi với các người một đoạn, tới đầu thôn sẽ chia tay.

Tối hôm mồng một, mọi người đều thức rất khuya, trên đường còn chưa có người, nhà họ Sử ở đầu thôn, lúc đi ngang qua Sử gia, Đoàn Khuê Chương chợt dừng chân, nói :

– Cho ta nhìn con một lúc. Y hôn lên trán con một cái, trầm giọng nói :

– Nếu nhỡ ta không thể trở về, thì Sử đại Ca Cũng không thể trở về. Sau khi con trưởng thành, nàng phải bảo nó nghe ngóng tung tích Sử tiểu thự.. Hy vọng con bé còn sống trên đời. Nếu hoàn toàn không có tin tức gì, cũng phải chờ đến lúc sau ba mươi tuổi mới được cưới vợ. Chiếc bảo thoa này, nàng nên cất kỹ, làm vật làm tin về sau.

Đậu Tuyến Nương ứa nước mắt nói :

– Thiếp sẽ dặn lại nó, chàng cứ yên tâm!. Đoàn Khuê Chương nói :

– Kết duyên mười năm, đã làm nàng vất vả rất nhiều, xin nhận của ta một lạy? Đậu Tuyến Nương nói- Thiếp có được một phu quân anh hùng thế này, bất kể sau này ra sao cũng suốt đời không hối tiếc! Xin chàng cũng nhận của thiếp một lạy.

Đôi bên lạy nhau xong, Đoàn Khuê Chương lập tức rời đi. Y sợ nhìn thấy vợ khóc, không hề ngoái đầu lại, lập tức lên đường. Chợt nghe Thiết Ma Lặc cao giọng gọi :

– Dượng, khoan đã! Đoàn Khuê Chương nói :

– Ngươi có chuyện gì?. Thiết Ma Lặc nói :

– Tiểu diệt theo người tới Trường An. Đoàn Khuê Chương nói :

– Ngươi theo ta làm gì?.

Thiết Ma Lặc nói :

– Muốn tới Trường An để mở rộng tầm mắt!. Đoàn Khuê Chương cười nói :

– Ngươi biết ta tới Trường An làm gì không?

Đây không phải là chuyện đùa đâu. Thiết Ma Lặc nói :

– Tiểu diệt biết người định tới phủ An Lộc Sơn cứu vị nghĩa sĩ họ Sử kia, cô cô vừa sinh xong, tam thúc thì độc thương chưa hồi phục hoàn toàn, lại phải trở về để đối phó với người nhà Vương gia, đều không thể đi cùng với người. Tiểu diệt lại đang rảnh rỗi, có thể làm bạn với người. Đoàn Khuê Chương nghiêm trang nói :

– Chuyện này có quan hệ tới tính mạng, ngươi có biết không? Ta không thể cho ngươi theo được. Thiết Ma Lặc cũng nghiêm trang nói :

– Dượng, người cũng không khỏi có chỗ coi thường tiểu diệt quá đấy, chỉ coi một mình người là anh hùng hảo hán thôi à? Bất kể người có muốn hay không, tiểu diệt cũng nhất định đi theo.

Đoàn Khuê Chương rất cảm động, nói :

– Được, người có chí như thế thì ta mang ngươi cùng đi. Tới Trường An rồi, ngươi phải nghe lời ta đấy. Thiết Ma Lặc nói :

– Chuyện đó đương nhiên.

Đậu Lệnh Phù vốn không muốn rời Thiết Ma Lặc, nhưng y biết gã thiếu niên này tính nết rất cương cường, nói một thì không nói hai, vả lại y nghĩ tới lần này mình tới đây nhờ vả, bây giờ Đoàn Khuê Chương có việc mà mình không thể giúp đỡ, để Thiết Ma Lặc đi cũng vừa khéo để đến đáp tình nghĩa, bên nói :

– Thằng nhỏ này công phu cũng khá, ít nhất cũng có thể làm người báo tin, đệ cứ đưa nó đi, cho nó rèn luyện thêm cũng tốt.

Đoàn khuê Chương nói :

– Tam ca yên tâm, dù sao đệ cũng không thể để thằng nhỏ này mất mạng vì đệ được. Tới Trường An rồi, đệ sẽ có cách thu xếp. Nếu may mắn giữ được tính mạng, cứu được Sử đại ca trở về, đệ sẽ tới U Châu thăm các người, tiện dịp so tài cao thấp với Tinh Tinh Nhi một phen. Y đã quyết định trong lòng, phải đem tâm pháp võ công của mình truyền lại cho Thiết Ma Lặc, chứ tuyệt đối không để Thiết Ma Lặc phải mạo hiểm xông vào phủ An Lộc Sơn.

Thiết Ma Lặc rất thông minh, đã sớm hiểu được ý tứ của hai người, nghĩ thầm trong lòng :

– Tới Trường An rồi, ta cũng có cách, người muốn bỏ rơi ta cũng chưa chắc đã làm được.

Đậu Lệnh Phù vô cùng vui vẻ, tuy Đoàn Khuê Chương đi chuyến này dữ nhiều lành ít, nhưng rốt lại cũng không phải hoàn toàn tuyệt vọng, bây giờ y đã đáp ứng sau khi xong việc sẽ tới đối phó với Tinh Tinh Nhi, vậy chỉ cần y vô sự trở về thì trong cuộc tranh chấp giữa hai nhà Đậu Vương, nhất định Đậu gia nắm chắc phần thắng.

Đậu Tuyến Nương nghe Thiết Ma Lặc cùng đi, trong lòng hơi nhẹ nhõm, nói :

– Đoàn lang, lần này chàng đi nên tùy tình hình mà hành sự, nếu gặp lúc nguy cấp không thể ra tay cũng đừng nên miễn cưỡng mà làm, muốn có người giúp đỡ, cứ bảo Thiết Ma Lặc đem thư về.

Đoàn Khuê Chương nói :

– Ta biết rồi. Nương tử, nàng cũng nên cố bảo trọng, nhớ kỹ lời ta, nuôi dạy con cho tốt. Y sợ rơi nước mất, không dám quay đầu, mang theo Thiết Ma Lắc đi thẳng về phía Trường An.

Trường An cách nhà y không đến sáu mươi dặm, ngay trong hôm ấy đã tới. Chính là:

Hiệp khí trong lòng chưa để mất,

Bỏ nhà làm khách chốn Trường An.

Muốn biết chuyện sau thế nào xin nghe hạ hối phân giải.

Chương 5: Cười nhạo Kinh Kha không hảo hán – Ngợi khen nam bát đúng nam nhi !

Cười nhạo Kinh Kha không hảo hán -Ngợi khen Nam Bát đúng nam nhi!

Ba ngày sau, có hai người khách lạ ghé vào một tửu lâu cạnh cửa Minh Phong thành Trường An.

Cửa Minh Phong là một cửa lớn ở hoàng cung thời Đường, tòa tửu lâu này tọa lạc cạnh hoàng cung, khách tới đây đều là những nhân vật không tầm thường. Trong đó có một số quan văn võ đi chầu buổi sáng trở về, vì nhà ở xa không về kịp nên ghé vào đó dùng cơm trưa, cũng có một số là túc vệ, sau khi xong phiên trực cùng bạn bè tới đây uống rượu. Cho nên các tửu lâu khác buổi chiều mới đông đúc, nhưng tửu lâu này thì buổi trưa lại là lúc làm ăn tốt nhất, mà trong số khách khứa, mười người thì đến tám chín người là khách quen.

Nhưng hai người khách tới hôm nay lại là lần đầu bước vào tửu lâu này, trong tửu lâu không ai nhận ra. Hai người này, một người khoảng ngoài bốn mươi tuổi, khí vũ hiên ngang, mặc áo cừu đeo kiếm báu, tựa hồ là một hiệp khách, người đi cùng với y là một thiếu niên khoảng mười bảy mười tám tuổi, ăn mặc cũng giống một con em nhà giàu có, nhưng hai mắt sáng quắc, tinh quang rực rực, khiến người ta vừa nhìn thấy đã biết y là một thiếu niên tinh minh có tài, bọn khố gấm dựa vào di ấm của tổ tiên không thể sánh được.

Khách trên tửu lâu tuy cảm thấy hai người khách lạ này có điểm đặc biệt, nhưng tửu lâu này rất nổi tiếng ở Trường An, thỉnh thoảng cũng có hiệp khách ở ngoài tới, hoặc những kẻ tới đây để chạy chọt làm quan, nên mọi người tuy cảm thấy hơi đặc biệt, nhưng cũng không để ý.

Hai người này chính là Đoàn Khuê Chương và Thiết Ma Lặc.

Nguyên là Đoàn Khuê Chương sau khi tới Trường An bèn tới tá túc trong một ngôi chùa quen, trụ trì ngôi chùa tên Hoài Nhân, là một cao tăng, lúc tổ phụ của Đoàn Khuê Chương còn sống từng là đại thí chủ của chùa này, Hoài Nhân và Đoàn Khuê Chương cũng là chỗ quen biết, nên Đoàn Khuê Chương chọn chùa này làm nơi ẩn náu. Nhưng tuy Đoàn Khuê Chương có chỗ ở nhưng không sao biết rõ phủ đệ của An Lộc Sơn tại Trường An, về sau y hỏi thăm biết được tửu lâu này, nghĩ thầm An Lộc Sơn đã thường vào cung, khách khứa tới tửu lâu này cũng không ít người có quan hệ với cung đình, bèn mang theo Thiết Ma Lặc vào đó uống rượu hy vọng có thể nghe ngóng được một vài tin tức. Để phù hợp với thân phận khách khứa trong tửu lâu này, y bỏ tiền ra mua y phục đắt tiền.

Lúc ấy đã gần đến giờ Ngọ, đúng là lúc tửu lâu náo nhiệt. Ở một cái bàn cạnh cửa sổ có mấy viên quan đang quây quần uống rượu, trong đó có một thư sinh trung niên, chỉ mặc một bộ quần áo vải, ngồi xổm trên đầu tiệc, ăn nói tự nhiên, hào khí hơn người! Mấy viên quan kia lại như sao chầu mặt trăng, đối với y vô cùng cung kính!

Đoàn Khuê Chương trong lòng chợt hoảng sợ, nghĩ thầm :

– Người này tướng mạo thanh kỳ, khí khái bất phàm, quả thật bình sinh hiếm thấy, không biết rốt lại là nhân vật nào? Mấy viên quan kia cũng khác hẳn kẻ phàm tục. Không ngờ trong quan trường lại có loại nhân vật như vậy!.

Đoàn Khuê Chương đang chăm chú nhìn thư sinh áo vải kia, đột nhiên thấy ánh mắt của thư sinh cũng bắn thẳng qua y, kế gõ mạnh bàn khen :

– Kiếm tốt, kiếm tốt!. Đoàn Khuê Chương giật nảy mình, nghĩ thầm :

– Thư sinh này quả thật là kẻ biết hàng, thanh kiếm của mình còn chưa tuốt ra khỏi vỏ mà y đã biết là bảo kiếm!. Thư sinh kia nhìn y vẫy tay gọi :

– Nào nào, lại đây! Chén vàng rượu ngon cùng say khướt, Mời khách cần chi hỏi họ tên! Ngươi qua đây uống rượu, cho ta xem thanh bảo kiếm với!.

Tuy Đoàn Khuê Chương đi khắp giang hồ, trước nay cũng chưa gặp phải chuyện thế này, một kẻ vốn không quen biết đột nhiên đòi mượn bảo kiếm của y ngắm nghía, đó là chuyện vô cùng cấm kỵ trên giang hồ, nhưng thư sinh kia hào khí hơn người, tựa hồ giống như có một sức mạnh không sao kháng cự, khiến Đoàn Khuê Chương vì thế mến phục, nhất thời không kìm được sự nhiệt thành, quên mất cần phải cẩn thận, ứng tiếng đứng lên, bước qua nói :

– Vinh hạnh được tiên sinh mời qua uống rượu, chỉ sợ thanh kiếm này không đáng gọi là bảo kiếm, lại làm bẩn mắt tiên sinh mà thôi.

Thanh bảo kiếm ấy của Đoàn Khuê Chương là năm xưa tổ phụ y theo Đại tướng quân Lý Tĩnh Tây chinh, được Lý Tĩnh ban cho làm bảo vật gia truyền, kiếm vừa tuốt khỏi vỏ ánh sáng lấp lánh, thư sinh búng vào thanh kiếm nói :

– Tuy không phải là Can Tương, Mạc Tà, nhưng cũng đáng gọi là thần khí ở nhân gian rồi. Ngươi từ đâu tới đây?.

Đoàn Khuê Chương hàm hỗ đáp :

– Ta từ U Châu tới. Thư sinh kia nói :

– Đường đi xa thật! Trên đường nhiều nguy hiểm, nghĩ chắc nếu ngươi không cầm thanh bảo kiếm này, thì cũng khó mà tới được Trường An. Hô hô, ta cầm tới thanh kiếm này lại nhớ tới chuyện du hiệp lúc còn trẻ. Một viên quan bên cạnh cười nói :

– Sĩ khí của Học sĩ, đến nay vẫn chưa giảm. Thư sinh kia cười nói :

– Bây giờ thì dựa vào hoàng đế kiếm rượu thịt, còn sĩ khí gì nữa chứ?.

Y đột nhiên đứng phắt lên, tay cầm bảo kiếm, cao giọng ngâm nga :

– Chén vàng rượu thơm mười ngàn đấu, Mâm ngọc trân hào ức vạn đồng, Dừng chén ném đũa không ăn nổi, Tuốt kiếm nhìn quanh lòng mênh mông.

Tiếng ngâm chưa dứt, chợt có một viên đại quan áo thêu đai ngọc từ đám khách bước ra, đi tới gần hỏi :

– Vị tiên sinh này, xin hỏi….

Một viên quan lớn tuổi cùng bàn với thư sinh kia kêu lên :

– A, ngươi là Ngô Tư mã phải không? Lý Học sĩ, vị này là Hồ Châu Tư mã Ngô đại nhân, cũng là người đồng đạo với chúng ta.

Đoàn Khuê Chương đang ngạc nhiên nghi ngại, không biết thư sinh kia là nhân vật loại nào, chợt nghe thư sinh hô hô cười rộ, thuận miệng ngâm nga trả lời viên Tư mã Hồ Châu kia :

– Thanh Liên cư sĩ người tiên trích, Chợ rượu vùi tên ba chục xuân, Hồ Châu Tư mã can chi hỏi, Kim túc Như Lai ấy hậu thân.

Đoàn Khuê Chương vừa sợ vừa mừng, nguyên thư sinh mà y gặp chính là đại thi nhân Lý Bạch mà y và Sử Dật Như vốn ngưỡng mộ.

Nguyên vị đại thi nhân nổi tiếng thiên hạ này không những hay thơ mà còn thông hiểu kiếm thuật, y thích rượu mê thơ, rất phóng khoáng, tự hiệu là Thanh Liên cư sĩ, người khác thấy y có dáng vẻ phiêu nhiên xuất thế, lại gọi y là :

– Lý Trích tiên., y lúc còn trẻ tuổi, hâm mộ phong thái du hiệp hào hùng, cũng từng chống kiếm ngao du bốn phương, lên Nga Mi, tới Thái Hàng, chơi Vân Mộng.., dạo khắp những nơi danh sơn đại xuyên trong thiên hạ, nếm qua hết rượu ngon trong thiên hạ, sau khi tới Trường An, được Bí thư giám Hạ Tri Chương tiến cử ca tụng, mọi người coi trọng, dần dần tên họ truyền vào trong cung, ngay hoàng đế cũng biết tới đại danh của y. Vị hoàng đế này (Đường Huyền tông) chính là một nhân vật phong nhã hiếm có trong các hoàng đế Trung Quốc, thông hiểu âm nhạc, cũng biết thưởng thức thơ văn, hâm mộ Lý Bạch tài hoa nên đặc biệt phá lệ ưu đãi, triệu vào phong làm Hàn lâm Học sĩ, lại thường gọi y vào cung ngắm hoa, nghe nhạc, uống rượu, làm thơ, nhưng Lý Bạch không thích giàu sang, vẫn tự hào là kẻ :

– áo vải. cười nói ngạo công khanh, kết giao cùng hiệp sĩ, nên y thấy Đoàn Khuê Chương tướng mạo bất phàm, lưng đeo bảo kiếm, bèn hành động thoải mái, không câu nệ tiểu tiết, gọi y qua cùng uống rượu.

Đoàn Khuê Chương vừa mừng rỡ vừa đau xót, nghĩ thầm :

– Nếu là Sử đại ca ở đây, được uống rượu ngâm thơ với Thanh Liên cư sĩ mà y ngưỡng mộ, không biết sẽ cao hứng tới mức nào?.

Lý Bạch hô hô cười rộ, trả thanh bảo kiếm cho Đoàn Khuê Chương, nói :

– Hôm nay ta được thưởng thức bảo kiếm, kết bạn mới, chuyện vui thế nảy, sao không uống cho thật say!. Rồi tay trái kéo Tư mã Hồ Châu Ngô Quân, tay phải kéo Đoàn Khuê Chương cùng vào tiệc, lập tức ra sức thống ẩm, liên tiếp uống mấy chén lớn, đột nhiên thịch mộttiếng, y cởi giày ra, ngoẹo đầu qua một bên, cởi mũ vứt xuống đất, lắc lư nói :

– Ô, say rồi, say rồi, đúng là say thật rồi!. Rồi nghiêng đầu để chân trần, nằm phục xuống bàn, quả nhiên khò khò ngáy ầm lên.

Một viên quan cùng bàn hoảng sợ nói :

– Thanh Liên Học sĩ quả say thật rồi. Nếu hoàng thượng gọi y vào làm thơ, thì làm sao đây?. Một người khác nói :

– Chưa chắc đã có chuyện vừa khéo như thế đâu. Viên quan lớn tuổi vừa gọi Ngô Quân cười nói :

– Các ngươi cũng hơi coi thường y đấy, Lý Bạch đấu rượu thơ trăm bài, uống rượu càng say y làm thơ càng hay!. Viên quan kia nói :

– Lý Bạch đấu rượu thơ trăm bài, hay hay, đó cũng là một câu thơ hay. Một người trẻ tuổi cùng bàn cười nói :

– Ngươi biết câu thơ ấy là ai làm không? Là Lão Đỗ mấy hôm trước làm một bài Ẩm trung bát tiên tặng Thanh Liên Học sĩ.

Ẩm trung bát tiên có Hạ lão đại nhân, còn có vị Trương huynh này….

Viên quan già kia nói :

– Cũng có ngươi nữa, ngươi quên nói tới mình rồi. Thiếu niên kia cười nói :

– Ta là phụ thêm vào thôi. Y uống một chén, lại cười nói :

– Mấy câu Lão Đỗ tả Thanh Liên cư sĩ thật giống hệt như dáng vẻ của y hôm nay. Ngô Quân hỏi :

– Mấy câu ấy ra sao?.

Thiếu niên kia ngâm :

– Lý Bạch một đấu thơ trăm bài, Quán rượu kinh đô cứ ngủ say, Thiên tử gọi tới không lên thuyền, Tự xưng thần là tiên rượu đây!. Nếu quả thật hôm nay hoàng thượng triệu y, thì đúng là càng hợp cảnh đấy!.

Đoàn Khuê Chương lúc ấy mới thông tính danh của họ, vốn người già chính là Bí thư giám Hạ Tri Chương ra sức tán dương Lý Bạch ở Trường An, chính y cũng là một thi nhân nổi tiếng, thiếu niên đẹp trai kia tên Thôi Tông Chi, người họ Trương chính là Trương Húc viết chữ thảo nổi tiếng khắp thiên hạ, mấy người còn lại cũng là những kẻ có tên tuổi ở Trường An, Đoàn Khuê Chương hàm hồ nói ra một cái tên giả.

Tư mã Hồ Châu Ngô Quân cười nói :

– Ẩm trung bát tiên ngoài Lý Học sĩ, Hạ lão đại nhân, Trương huynh, Thôi huynh ra, không biết còn có những ai nữa. Bài thơ ấy của Đỗ Phủ ngươi có nhớ được hết không?.

Thôi Tông Chi nói :

– Khó mà được dịp tụ họp đông đủ như hôm nay, Trương huynh, phiền ngươi vung bút lớn một phen, ta đọc hết bài Ẩm trung bát tiên ấy cho ngươi nghe, ngươi viết một bức thảo thư tặng Ngô Tư mã, coi như món quà ra mắt của chúng ta tặng y, có được không?. Ngô Quân cả mừng nói :

– Trương huynh là Thảo thánh hiện nay, Lão Đỗ có hiệu là Thi thánh hiện nay, lấy bút của thảo thánh viết thơ hay của thi thánh, thật rất thích hợp, món quà này quả thật vô cùng quý báu!.

Trương Húc nôi :

– Chỉ sợ say quá viết không đẹp, khiến Ngô Tư mã cười cho. Thôi Tông Chi cười nói :

– Ngươi viết chữ thảo cũng như Lý Học sĩ làm thơ, càng say càng đẹp, cần gì phải khách sáo.

Hạ Tri Chương gọi tửu bảo lấy giấy bút ra, vuốt thẳng tờ giấy trải ra trên một cái bàn bên cạnh, Trương Húc chọn một ngọn bút lông sói lớn nhúng đẫm mực, Thôi Tông Chi bèn đọc:

– Tri Chương cưỡi ngựa tựa đi thuyền, Mắt hoa rơi giếng lại nằm yên. Như Dương ba đấu ngẩng lên trời, Ngửi thấy mùi men nước bọt rơi, Hận chẳng gởi thư tới Tửu tuyền. Tả tướng ngày ngày phí vạn tiền, Uống như cá kình hút nước sông, Ngậm chén vui thánh khoe tránh hiền. Tông Chi tiêu sái lại xinh trai, Nâng chén trợn mắt ngước lên trời, Trông như cây ngọc trước xuân đài. Tô Tấn ăn chay thêu trước Phật, Lúc say chỉ thích trốn vào Thiền. Lý Bạch một đấu thơ trăm bài, Quán rượu kinh đô cứ ngủ say, Thiên tử gọi tới không lên thuyền, Tự xưng thần là tiên rượu đây! Trương Húc ba chén thảo thánh truyền, Bỏ mũ lộ tóc giữa đám đông, Vung bút xuống giấy như khói mây. Tiêu Toại năm đấu mới hăng say, Cao đàm hùng biện kinh bốn bề.

Thôi Tông Chi đọc một câu mọi người lại cười ầm lên một tràng, Hạ Tri Chương nói :

– Đó đúng là tả dáng vẻ uống rượu xấu xa của bọn ta thật thấu đáo!. Trương Húc vung múa ngọn bút lớn, mực bắn như mưa, viết xong bài thơ, trên mặt y đông một đốm, tây một đốm, cả bộ râu cũng dính đầy mực, trên quần áo của những người đứng gần cũng lấm tấm vết mực, Trương Húc hô hô cười rộ, vung bút cười nói :

– Dáng vẻ uống rượu của các ngươi hiện ra rõ ràng, còn dáng vẻ xấu xí của ta cũng lộ ra hết!.

Hạ Tri Chương nói đáng tiếc ngươi không tới Trường An sớm, nghe nói rượu Ô Trình ở Hồ Châu rất ngon, ngươi chỉ vì rượu Ô Trình ngon mới tới Hồ Châu nhận chức Tư mã, nếu ngươi ở Trường An thì Lão Đỗ phải sửa bài thơ ấy thành ẩm trung cửu tiên rồi. Ờ, ta quên hỏi ngươi, ngươi không giữ chức ở Hồ Châu, lại lên kinh làm gì?.

Ngô Quân nói :

– Ta phụng chiếu lên kinh thuật chức, đã tới năm hôm rồi, vẫn chưa được đội ơn hoàng thượng triệu kiến.

Hạ Trì Chương trên mặt lộ vẻ kinh ngạc, nói :

– Hoàng thượng rất ít khi hỏi tới việc chính sự, tại sao lại đột nhiên triệu ngươi lên kinh thuật chức?. Hạ Tri Chương trầm ngâm hồi lâu chợt hỏi :

– Ngươi đã gặp Dương Quốc Trung chưa?. Ngô Quân nói :

– Chưa. Hạ Tri Chương nói :

– Vậy ngươi nên mau chuẩn bị một món lễ vật biếu y. Thôi Tông Chi cười nói :

– Nếu lúc vội vàng không lo kịp, thì biếu vàng càng hay.

Vị tướng gia bảo bối ấy của chúng ta mà thấy vàng ròng sáng ngời rồi, thì dễ nói chuyện lắm.

Ngô Quân cười lớn nói :

– Ta làm quan vài năm, hai tay áo toàn gió mát, lấy đâu ra vàng? Mà nói nếu ta có tiền, thì tự mình không biết mua rượu uống à? Tại sao lại phải biếu lễ vật cho Dương Quốc Trung?.

Hạ Tri Chương nói :

– Tư mã có chỗ chưa biết, Dương Quốc Trung sau khi chuyên quyền, mua quan bán tước không gì không làm, trưởng quan các châu quận nếu không phải là người của y thì trước sau đều bị thay đổi. Theo như ta thấy việc triệu ngươi về kinh thuật chức lần này chỉ e là chủ ý của y. Y đang chờ ngươi đưa lễ vật tới đấy, ai ngờ ngươi lại không biết nhân tình thế cố như vậy!. Y cười một tiếng, nói tiếp :

– Nếu túi quan của ngươi eo hẹp, mấy người bạn rượu bọn ta giúp ngươi một phần được không? Có lẽ y thấy ngươi có chính thanh tốt đẹp nên chần chừ không dám thay ngươi, chỉ triệu ngươi vào báo cáo, muốn chờ ngươi tìm tới cửa. Ngươi cũng nên cho y một chút gì hay, để y có chút thể diện, chắc sẽ được vô sự thôi.

Ngô Quân tức giận nói :

– Tiểu đệ chẳng thà bỏ cái mũ Ô sa này, chứ nhất định không luồn lọt kẻ quyền quý, chuyện tặng biếu lễ vật xin đừng nói tới nữa.

Hạ Tri Chương nói :

– Ngô huynh giữ lòng liêm khiết, đương nhiên rất hay, nhưng sao ngươi không nghĩ thử nếu đổi cho một viên quan tham lam giữ chức Tư mã Hồ Châu, há không phải làm khổ bách tính Hồ Châu sao. Không phải bọn ta khuyên ngươi luồn lọt Dương Quốc Trung, mà là muốn giữ cho Hồ Châu một viên quan tốt. Bây giờ quan tốt trong thiên hạ quá ít, giữ được người nào thì hay được người ấy.

Thôi Tông Chi nói :

– Nếu ngô huynh không chịu biếu lễ vật thì có một cách, có thể nhờ Lý Bộc xạ nói giúp ngươi. Y cũng là một bạn rượu của bọn ta, vị Tả tướng ngày ngày phí vạn tiền, Uống như cá kình hút nước sông, Ngậm chén vui thánh khoe tránh hiền trong bài Ẩm trung bát tiên của Đỗ phủ chính là y, Lý Bộc xạ tuy xa xỉ, nhưng là người rất ngay thẳng.

Ngô Quân lại thở dài nói :

– Hạ lão đại nhân khuyên ta lấy bách tính Hồ Châu làm trọng, tấm lòng ấy rất đáng cảm động, có điều quan trường thế này quả thật cũng khiến ta lòng tàn ý lạnh, hơn nữa, cho dù bỏ tiền ra ta cũng không phải là kẻ dấn thân vào dòng nước đục, chức quan này còn làm được bao lâu nữa? Thịnh tình của các vị ta xin ghi nhận, cái mũ Ô sa này có giữ được không cũng chỉ còn cách thuận theo mệnh trời.

Bọn Hạ Tri Chương còn định khuyên nữa, chợt nghe tiếng bước chân trên thang lầu vang lên, tên tửu bảo khom lưng kêu lên :

– Xin mời Lệnh Hồ đại nhân, Lệnh Hồ Đô uý, hôm nay lão nhân gia tới muộn thế.

Ngô Quân hỏi :

– Bọn quan này sao oai phong thế?. Hạ Tri Chương cười nói :

– Chắc là quân Vũ lâm (tức quân Ngự lâm) chuyên bảo vệ thánh thượng, ngươi đừng coi thường phẩm cấp của họ không bằng ngươi, họ còn hào hoa sang trọng hơn chúng ta đấy. Bọn lão gia thị vệ này là khách quen của tửu lâu, người trong tửu lâu đương nhiên phải lấy lòng họ. Một viên quan nói :

– Đô úy trong cung tới rồi, không biết có phải là hoàng thượng muốn triệu Lý Học sĩ vào cung không!.

Còn đang nói chuyện, chợt thấy ba viên võ quan bước lên lầu, người đi đầu mặc y phục quân Vũ lâm, mười phần oai vệ, hai viên võ quan đi sau mặc nhung trang, lưng đeo đai vàng, chân đi Man hài(một loại hài đen phổ biến), nhìn qua lối ăn mặc đủ biết là tướng lĩnh cao cấp ngoài biên.

Viên võ quan Vũ lâm kia nói :

– Ta dắt tới cho các ngươi hai vị khách quý, vị này là Điền tướng quân, vị này là Tiết tướng quân, mau tìm cho bọn ta một bàn sạch sẽ. Tửu bảo luôn miệng vâng dạ, vội vàng bước tới dọn dẹp một cái bàn cạnh cửa sổ.

Một viên võ quan đi sau Lệnh Hồ Đô úy thân hình hơi béo mập vừa đưa mắt nhìn quanh một vòng, thấy Lý Bạch nằm phục xuống bàn ngáy khò khò giày mũ đều vứt bên cạnh, từ xa đã nghe mùi rượu nồng nặc, lại thêm Trương Húc bộ râu lốm đốm vết mực đang hoa tay múa chân đòi uống thi với người khác liền cau mày nói :

– Người ta đều nói đây là tửu lâu nổi tiếng nhất Trường An, tại sao lại có bọn người rừng nghèo xác xơ múa may ở đây. Lệnh Hồ Đô uy không chờ y đứt lời, vội kéo kéo y, kề miệng vào tai y hạ giọng nói :

– Người đang ngủ chính là Lý Thanh Liên Lý Học sĩ rất được hoàng thượng sủng ái.

Viên võ quan kia hoảng sợ giật nảy mình, vội vàng im bặt, vẻ mặt vô cùng khó coi, liếc liếc qua hai cái bàn của Lý Bạch và Trương Húc, thấy họ ai uống cứ uống, ai ngủ cứ ngủ, tựa hồ không nghe thấy mình nói gì, lúc ấy mới yên tâm.

Lúc ấy Đoàn Khuê Chương đã trở về chỗ ngồi lúc đầu, Thiết Ma Lặc hạ giọng nói :

– Hai người này là Điền Thừa Tự và Tiết Tung, thủ hạ của An Lộc Sơn. Đoàn Khuê Chương nói :

– Phải kìm chế, không được gây sự đấy.

Trên tửu lâu có ba cái bàn, những người ngồi ở đó đều là thị vệ trong cung và võ quan quân Vũ lâm, nhìn thấy Lệnh Hồ Đô uý, nhao nhao đứng lên chào hỏi, Lệnh Hồ Đô úy hô hô cười rộ nói :

– Ta giới thiệu vời các ngươi hai người bạn tốt, là Điền tướng quân và Tiết tướng quân trong quân Bình Lô, hai vị này là tay trái tay phải của An Tiết độ sứ. Trong Tiết độ sứ các lộ thì An Lộc Sơn có kinh quyền lớn nhất, lại là con nuôi của Dương Qúy phi, bọn thị vệ và võ quan kia cũng nhao nhao lấy lòng Điền Tiết hai người.

Đoàn Khuê Chương nghe lời lẽ của họ, biết viên lệnh Hồ Đô úy này tên Lệnh Hồ Đạt, tựa hồ có chức vụ cao nhất trong quân Vũ lâm, mọi người đối với y đều rất cung kính. Điền Tiết hai người là theo An Lộc Sơn từ Bình Lô vào cung, An Lộc Sơn được Dương Qúy phi giữ lại, bảo họ chiều tối vào đón y.

Đoàn Khuê Chương nghĩ thầm :

– Ngôi tửu lâu này vừa khéo đối diện với cửa Minh Phong, tối nay mình trở lại đợi ở đây chờ lúc hai thằng đầy tớ này đón An Lộc Sơn, mình sẽ ngấm ngầm theo sau là được.

Hôm trước Thiết Ma Lặc cứu người dưới vó ngựa, tuy hai người Điền Tiết đi hai bên An Lộc Sơn, nhưng lúc ấy trông Thiết Ma Lặc như một thiếu niên nhà quê, bây giờ lại ăn mặc như công tử nhà giàu, Điền Tiết hai người làm sao nhận ra được? Huống hỗ ánh mắt của họ đều bị dáng vẻ say khướt của Lý Bạch thu hút, không hề chú ý tới hai người Đoàn Thiết.

Nhưng Đoàn Khuê Chương cũng không dám khinh suất, sợ bị họ nhận ra, nên định nghe ngóng được tin tức của An Lộc Sơn xong thì sẽ rời khỏi tửu lâu.

Đang định gọi tửu bảo tính tiền, thì lại có một người khách bước lên tửu lâu, vừa lên tới là cao giọng hỏi :

– Lý Học sĩ có uống rượu ở đây không?. Người này cũng ăn mặc kiểu võ quan nhưng khác hẳn hai người Điên Tiết, y mặc một bộ nhung trang bằng vải, đang mùa đông lạnh. lẽo vẫn đi hài cỏ, nhưng lưng đeo trường đao, vỏ đao làm bằng sừng tê giác quý báu, kiểu thức cổ nhã, chuôi đao khảm chỉ vàng, nếu không phải y mang thanh đao quý báu như thế thì hoàn toàn giống hệt một tên quân sĩ nghèo khổ.

Đoàn Khuê Chương ngẩng đầu lên nhìn người ấy một cái, bất giác ngấm ngầm hoảng sợ, viên võ quan ấy khoảng trên dưới ba mươi tuổi, ánh mắt sáng rực có thần, râu quai nón nhọn như mũi kích, trên mặt đầy vẻ phong trấn nhưng không che lấp được hiệp khí hùng phong của y, Đoàn Khuê Chương chợt nhớ tới một người, nhưng không dám chắc có phải là y không.

Lệnh Hồ Đạt quát :

– Thằng đầy tớ ngươi là ai thế. Lý Học sĩ lại rảnh rỗi gặp loại người như ngươi à?.

Viên võ quan cười nhạt nói :

– Ta tìm Lý Học sĩ thì dính líu gì tới ngươi? Ai cần ngươi nhiều chuyện?.

Tiết Tung nói :

– Ngươi la lối không có quy củ gì, Lý Học sĩ đang ngủ, ngươi dám gọi y dậy à? Xem dáng vẻ ngươi quê mùa như thế, Lý Học sĩ chắc không giao du với loại bằng hữu như ngươi đâu?. Mới rồi Tiết Tung không nhận ra Lý Bạch, buông lời vô lễ, cảm thấy khó xử, muốn nhân dịp này, một là để giúp oai cho Lệnh Hồ Đạt, hai là để lấy lòng mấy viên quan uống rượu với Lý Bạch, trong bụng nghĩ thầm:

– Lần này chắc không đến nỗi nhìn lầm người. Xem ra thằng đầy tớ này giỏi lắm cũng chỉ là một viên võ quan nhỏ trong biên quân, làm sao mà quen biết được Lý Bạch.

Tiết Tung đứng cản đường, viên võ quan kia cả giận nói :

– Ngươi lại mắt chó nhìn người à?., tay chưởng bằng bặn xô ra, Tiết Tung cười nhạt nói :

– Ngươi muốn đánh nhau sao?., lập tức thi triển Cầm nã thủ chụp vào mạch môn của y, định bẻ cổ tay y, làm một trò cười cho bọn võ quan trước mặt. Nào ngờ y chưa chụp được người ta, thì đã bị viên võ quan kia một chưởng hất ra, loạng choạng suýt ngã!

Lệnh Hồ Đạt giật nảy mình, nên biết Tiết Tung là Thanh Châu kiếm khách nổi tiếng, lấy kiếm thuật, ám khí và cầm nã thủ nổi tiếng tam tuyệt, mà vừa ra tay đã bị thua thiệt trước đối phương, vả lại Lệnh Hồ Đạt cũng không nhận ra viên võ quan kia làm sao tránh được chiêu cầm nã của Tiết Tung.

Tiết Tung cả giận, đã toan tuốt kiếm ra. Hạ Tri Chương bước lên giảng hòa, nói :

– Lý Học sĩ kết giao khắp thiên hạ, lòng kính yêu Lý Học sĩ của Tiết tướng quân rất đáng cảm kích, vị này…. Viên võ quan kia nói :

– Ta họ Nam, nam trong đông tây nam bắc. Hạ Tri Chương nói tiếp :

– Vị Nam huynh này nếu đã là bạn tương tri của Lý Học sĩ, thì cũng đừng trách móc Tiết tướng quân cản trở, Lý Học sĩ quả thật có uống thêm vài chén, hiện đang ngủ ở đây. Câu ấy của Hạ Tri Chương quả rất mềm mỏng, Tiết Tung cũng biết y là một vị đại quan, chỉ đành nén giận, không dám phát tác.

Viên võ quan họ Nam kia đưa mắt nhìn quanh, hoi :

– Vị nằm ngủ trên bàn kia là Lý Học sĩ phải không?.

Hạ Tri Chương kinh ngạc nói :

– Không sai, đó chính là Lý Học sĩ.

Tiết Tung cười nhạt nói :

– Làm ầm lên suốt nửa ngày, thì ra ngươi cũng không quen Lý Học sĩ!.

Người họ Nam nói :

– Ta nói ta quen y lúc nào, ta không muốn lầm người thôi.

Hạ Tri Chương nói :

– Vậy các hạ tìm y có chuyện gì?. Người họ Nam nói :

– Ta không dám mạo nhận là tri kỷ, nhưng có một người là bạn tri kỷ của Lý Học sĩ nhờ ta chuyển một lá thư cho y.

Hạ Tri Chương nói :

– Là vị nào vậy?., nghĩ thầm :

– Bạn bè tri kỷ của Lý Bạch, nói ra thì cho dù mình không quen chắc cũng không đến nỗi chưa nghe thấy tên họ. Người họ Nam kia nói là một vị bằng hữu họ Quách, lá thư này ta phải đích thân đưa cho Học sĩ, không tiện đưa qua người khác., xem tình hình thì y không muốn nói tên của người họ Quách.

Hạ Tri Chương nghĩ thầm :

– Mình cũng chưa từng nghe Lý Bạch nói tới người bạn nào họ Quách. Nhưng y già dặn việc đời, người khác không muốn nói, y cũng không hỏi nữa, lúc ấy bèn nói :

– Lý Học sĩ không biết lục nào mới tỉnh dậy, có cần ta gọi y giúp không?.

Viên võ quan họ Nam nói :

– Không cần, không cần. Ta cứ ngồi ở đây uống rượu, chờ y tỉnh dậy là được., rồi cao giọng gọi :

– Lấy năm cân rượu ngon, thái ba cân thịt bò!.

Tiết Tung liếc mắt nhì y, nghênh ngang đắc ý nói :

– Thấy chưa, hai mắt ta nhìn người có sai đâu?. Ý ở ngoài lời, là muốn nói :

– Các ngươi xem đấy, ta nói Lý Học sĩ không có loại bạn bè thế này, là đâu có sai?. Người họ Nam kia rót rượu vào cốc lớn uống ừng ực, không đếm xỉa gì tới y. Tiết Tung lại cười nói :

– Đây là tửu lâu nổi tiếng nhất Trường An, hô hô, thật không ngờ có người cho rằng đây là quán rượu ven đường. Đó là y chế nhạo người họ Nam kia chỉ biết những món tầm thường trong quán rượu ven đường, trong tửu lâu này có rất nhiều sơn hào mỹ vị mà y không gọi, chỉ biết gọi rượu trắng và thịt bò thái.

Người họ Nam kia dằn mạnh chén rượu một cái, cao giọng nói:

– Ta ăn uống cái gì, lại cần ngươi quản à?.

Cái chén rượu làm bằng đồng xanh, bị y dằn mạnh một cái chỉ nghe keng một tiếng, đã ngập lút xuống mặt bàn không thấy đâu nữa, mọi người đều hoảng sợ, Tiết Tung cũng hơi sợ, nhưng không muốn mất mặt chỗ đông người, lùi lại một bước nói :

– Ngươi đừng ngang ngạnh, ở đây không phải là chỗ đánh nhau, nếu có bản lĩnh, ngươi dám hẹn chỗ tỷ kiếm với ta không?., khẩu khí đã mềm đi rất nhiều.

Viên võ quan họ Nam kia cười nhạt nói :

– Ngươi cứ vạch đường đi, ta cứ theo đó tiếp là được. Đợi ta gặp Lý Học sĩ xong, sẽ lập tức đến nơi hẹn.

Đoàn Khuê Chương nhìn thấy thân thủ của người này, trong lòng nghĩ thầm :

– Đây nhất định là y rồi, không ngờ lại gặp y ở đây.

Nhưng trên tửu lâu đông người nhiều miệng, tuy y nhận ra được người kia nhưng vẫn tạm thời nhẫn nại, không dám bước tới chào hỏi.

Điền Thừa Tự và Tiết Tung cùng đi, Tiết Tung phát sinh chuyện cãi vã với người họ Nam, nhưng Điền Thừa Tự lại nép qua một bên, sợ sệt như con ve mùa lạnh, Đoàn Khuê Chương ngấm ngầm lưu ý, chỉ thấy y sắc mặt xám xanh, nhìn chằm chằm vào viên võ quan họ Nam kia, mấy lần đặt tay lên chuôi đao, nhưng trước sau vẫn không dám đứng dậy. Đoàn Khuê Chương ngấm ngầm ngạc nhiên, nghĩ thầm:

– Điền Thừa Tự và họ Nam này nhất định đã có chuyện đụng chạm, xem ra chỉ e sắp có trò vui.

Tiết Tung nghĩ thầm :

– Công phu trên tay của ngươi tuy cao cường, nhưng tỷ kiếm thì chưa chắc ta đã thua ngươi. Đang định hẹn với họ Nam, bọn Hạ Tri Chương cũng đang định bước tới giảng hòa, giữa lúc huyên náo, chợt nghe ba tiếng thanh la keng keng keng, có người cao giọng gọi :

– Thánh chỉ tới?.

Trên tửu lâu lập tức im ắng, những người làm quan có phẩm cấp đều đứng cả lên tránh qua hai bên, chủ tửu lâu vội vàng bước ra đón tiếp nói :

– Xin chào Trung sứ đại nhân, không biết thánh chỉ là triệu vị đại nhân nào. Chuyện này đã xảy ra ở đây mấy lần, chủ nhân cũng biết nhất định là tuyên triệu Lý Bạch, nhưng vẫn không thể không hỏi một câu như vậy.

Thời Đường thái giám phụng chỉ ra ngoài làm việc được tôn xưng là Trung sứ, nhưng người đứng đầu mấy tiểu thái giám phụng chỉ ra tìn Lý Bạch lần này lại không phải thái giám, mà là một nhạc công tên Lý Quy Niên, tuy là nhạc công nhưng rất được hoàng thượng sủng ái, trao cho chức Chưởng nhạc ngự phụng, thân phận không phải tầm thường, bọn Hạ Tri Chương đều biết y.

Lý Quy Niên bước lên cao giọng hô lớn :

– Phụng thánh chỉ lập tức tuyên triệu Lý Học sĩ tới gác Trầm Hương ra mắt. Sau lưng y có một tiểu thái giám tay bưng áo mão, đai ngọc, hốt ngà, cũng tới tìm Lý Bạch.

Lý Quy Niên cười nói :

– Lý Học sĩ quả nhiên say rồi. Hoàng thượng gọi y vào gặp lập tức, thế này thì làm sao được? Hạ đại nhân cũng ở đây, xin giúp ta gọi y dậy.

Hai người đang đỡ Lý Bạch lên, Lý Bạch chợt hai tay xô ra, hơi rượu nồng nặc, lẩm bẩm :

– Ta say muốn ngủ ông cứ về. đầu cũng không ngẩng lên, lại nằm vật xuống ngủ tiếp. Hạ Tri Chương và Lý Quy Niên bị y xô một cái, loạng choạng suýt ngã, Lý Quy Niên cười gượng nói :

– Lần này lại còn say hơn cả lần trước, làm sao bây giờ?.

Tiểu thái giám nói :

– Chúng ta khiêng y đi. Lý Quy Niên nói:

– Cũng phải để y mặc triều phục vào chứ. Rồi kêu lên :

– Chủ quán, mang một chậu nước ra đây.

Hạ Tri Chương làm quan tới chức Bí thư giám, cũng là chức cận thần hầu hạ hoàng đế, cũng rất quen biết Lý Quy Niên, Lý Quy Niên đã tuyên đọc thánh chỉ, đôi bên cũng chẳng cần câu nệ lễ tiết gì, Hạ Tri Chương hỏi :

– Lần này hoàng thượng tuyên triệu lý Học sĩ vào gấp, có chuyện gì thết?. Lý Quy Niên nói :

– Năm nay Dương Châu tiến cống rất nhiều loại hoa mẫu đơn nổi tiếng, đều trồng phía đông ao Hưng Khánh, dưới gác Trầm Hương. Hôm nay mẫu đơn nở rộ, hoàng thượng sai nội thị bày tiệc trong đình, cùng Dương Qúy phi thưởng ngoạn, sai ta dắt mười sáu đệ tử Lê Viên, đều cầm nhạc khí, tới đó hầu hạ. Vừa tấu được vài khúc, không hợp ý hoàng thượng. Hoàng thượng bèn bảo ta dừng lại, nói :

– Hôm nay đối diện Phi tử, thưởng thức danh hoa, há lại dùng nhạc cũ? Ngươi cứ dắt theo con ngựa Ngọc hoa thông ta vẫn cưỡi, mau đi tuyên triệu Học sĩ Lý Bạch vào đây làm một bài hát mới để thường ngoạn. Ngươi thấy đấy, ngay ngự mã của hoàng thượng cũng đã dắt tới, là để đón Lý Học sĩ, làm sao không sốt ruột cho được?.

Còn đang nói chuyện, chủ tửu lâu đã đích thân bưng một chậu nước ra, Lý Quy Niên hỏi lấy một chiếc khăn, cũng bất kể trời đông lạnh buốt, đích thân cầm khăn nhúng vào nước lạnh, vắt vắt hai cái rồi đặt lên trán Lý Bạch, lại bảo chủ tửu lâu đưa ra một tấm bình phong bốn cánh, quây lấy Lý Bạch, cười nói :

– May mà ta rất biết tính nết của Lý Học sĩ, nên đã tới Hàn lâm viện lấy quan bào, ngọc đới, hốt ngà của y tới, quả nhiên đúng như ta đoán, y lại mặc một bộ áo vải uống rượu với chư công ở đây.

Bọn Lý Bạch bị tấm bình phong che khuất, Đoàn Khuê Chương không nhìn thấy tình hình bên trong, qua một lúc, chỉ nghe giọng Lý Bạch nói :

– Phong cảnh đáng ghét, ta uống rượu còn chưa đủ, làm thơ gì được?. Lý Quy Niên thì thà thì thào, dường như đang ghé vào tai Lý Bạch nài nỉ, qua một lúc lại nghe Lý Bạch cười nói :

– Ờ, các loại mẫu đơn nổi tiếng ở Dương Châu đều nở rộ rồi, Đại hồng, Thâm tử, Đạm hoàng, Đạm hồng, Thông bạch các loại đều có, hoàng thượng lại chuẩn bị rượu ngon Lương Châu chờ ta tới uống, hô, chuyện này hợp ý ta đây, đi xem mẫu đơn Dương Châu, ta cũng đi một chuyến vậy.

Tiếng ván lầu kêu cót két, nguyên là lúc y nói tới các loại mẫu đơn, rượu ngon Lương Châu, không kìm được hoa chân múa tay. Kế lại nghe tiếng sột soạt, dường như y đã cởi áo vải ra, mặc triều phục vào.

Lại qua một lúc, chỉ thấy Lý Bạch đảy tấm bình phong bước ra, bước chân vẫn còn xiêu vẹo, ánh mắt đờ đẫn, mùi rượu nồng nặc, mấy thái giám tiền hô hậu ủng dìu đỡ hai bên, bước qua trước mặt viên võ quan họ Nam. Lý Bạch chợt dừng lại, nói :

– Thật là một vị tráng sĩ, này, ngươi…. Người họ Nam nói :

– Ta mang một lá thư của Quách lệnh công cho ngươi, đang định gặp ngươi. Còn chưa dứt lời bọn thái giám đã sớm sấn lên xô y ra, quát :

– Là kẻ nào, mau cút đi?. Lý Bạch tức giận nói :

– Lẽ nào lại có chuyện ấy, các ngươi muốn đuổi bạn tốt của ta đi à?., hai tay giang ra, hai tên tiểu thái giám đỡ y đùng đùng một tiếng, ngã chổng bốn vó lên trời.

Bọn thái giám cả kinh thất sắc, một viên quan đứng bên cạnh cũng rất ngạc nhiên, hạ giọng hỏi bạn :

– Này, mới rồi người kia còn chưa nhận ra Lý Học sĩ mà, tại sao lại đột nhiên trở thành bạn tốt của y thế?.

Lý Bạch xô bọn thái giám ra, nghiêng đông ngã tây, lảo đảo lắc lư bước lên vài bước, chi vào viên võ quan họ Nam kia hô hô cười rộ nói :

– Ngươi không nhận ra ta à? Nhưng ta lại nhận ra ngươi? Ngươi, ngươi nhất định là Nam Bát huynh, Cười nhạo Kinh Kha gan tựa chuột, Ngợi khen Nam Bát đúng nam nhi! Hô hô hô, đã gặp Nam Bát, không thèm đếm xỉa tới Qúy phi nương nương nữa, nào nào, chúng ta lại uống tiếp đi.

Lý Quy Niên đã bước lên kéo Nam Bát, vái y một vái, hạ giọng nói :

– Hoàng thượng chờ gặp Lý Học sĩ, xin ngươi giúp cho.

Lý Bạch sải chân bước một bước dài, thân hình nghiêng nghiêng, vịn vào một cái bàn kêu lên :

– Nam Bát, Nam Bát, sao ngươi không tới đây uống rượu, ồ, ồ! Mới rồi ngươi nói gì? Có Lão công công giàu có nào nhờ ngươi mang cái gì tới đưa cho ta à? Hô hô, Nam Bát ngươi lại biết mang lễ vật giúp người khác sao? Chuyện đùa, chuyện đùa. Mau lại đây nói cho rõ xem?. Lý Bạch còn chưa tỉnh hẳn, lại tập trung sự chú ý vào cả Nam Bát, nên chưa nghe rõ y nói gì, tưởng mấy chữ Quách lệnh công mà y nói là Lão công công gì đó. Viên võ quan họ Nam cười lớn nói :

– Học sĩ quả nhiên là người trong bọn ta, nhưng hiện dưới lầu có ngự mã chờ chở ngươi vào cung, nếu ngươi bồi tiếp ta uống rượu, ta uống cũng không thoải mái, chẳng bằng đợi đến tối nay ngươi rảnh rỗi, ta sẽ tới uống rượu với ngươi suốt đêm!.

Lý Bạch nói :

– Được, ngươi nói rất đúng! Đợi ta gặp hoàng thượng xong sẽ gặp lại ngươi, đúng là có thể uống một phen thống khoái?.

Hạ Tri Chương vội nói lý Học sĩ ở trong nhà ta, ngươi cứ hỏi nhà họ Hạ Ở phía tây thành là biết. Người họ Nam kia nói :

– Lão tiên sinh, người là Hạ Thiếu giám, ta biết rồi. Y biết ý tứ của Hạ Tri Chương, là muốn y để Lý Bạch đi cho mau, y nghĩ nếu muốn nhờ Hạ Tri Chương nói lại thì không phải đôi ba câu là có thể nói rõ ràng, mà Lý Bạch vẫn đang còn say, trong tình hình này cũng không tiện đưa lá thư kia ra.

Lý Quy Niên cùng bọn thái giám vội đưa Lý Bạch xuống lầu, bọn bạn rượu của Lý Bạch cũng theo xuống ra về! Viên võ quan họ Nam kia lắc lắc đầu, thở dài nói :

– Ngọc Môn đã báo tin binh lửa, Cửa cung mê mệt còn ca múa…., ầm một tiếng đập bàn kêu lên :

– Đáng tiếc cho Lý Học sĩ!., rồi ngửa cổ lên, trút tất cả rượu còn trong chén vào miệng một hơi cạn sạch, ném một đĩnh bạc xuống bàn rồi định bỏ ra. Lệnh Hồ Đạt và Tiết Tung đột nhiên bước tới, Lệnh Hồ Đạt tươi cười nói:

– Nam huynh, khoan đã!.

Viên võ quan họ Nam kia mày kiếm giương lên, cao giọng nói:

– Chỗ nào, đi luôn bây giờ phải không? Ngoài họ Tiết này ra, ngươi cũng muốn dính dấp vào chứ gì?.

Lệnh Hồ Đạt cười nói :

– Nam Bát huynh, không phải hẹn ngươi tỷ kiếm đâu. Người họ Nam hai mắt trợn tròn nói :

– Không phải hẹn ta tỷ kiếm, thì ngươi giữ ta lại làm gì?. Tiết Tung bước tới ôm quyền nói:

– Mới rồi không biết là Nam huynh, mạo phạm rất nhiều, xin Nam huynh bỏ qua.

Nam Bát trong bụng thấy buồn cười, nghĩ thầm :

– Chắc là thằng đầy tớ này thấy Lý Học sĩ đối xử với mình như thế nên lập tức trở thành lễ phép. Y là một người phóng khoáng, tuy khinh thường Tiết Tung, nhưng người ta đã qua xin lỗi, y cũng hô hô cười nói :

– Đụng chạm một chút, cần gì để bụng? Tiết tướng quân đã không cần tỷ kiếm với ta nữa, vậy ta xin đi trước một bước.

Lệnh Hồ Đạt nói :

– Không đánh không quen biết, Nam Bát huynh ngồi thêm một lúc có hề gì?. Nam Bát nói :

– Không dám với cao!.

Lệnh Hỗ Đạt cười nói :

– Nam Bát huynh nói thế là vẫn còn có ý trách móc rồi. Tiết Tung cũng nói :

– Đôi bên đều là đồng đạo võ lâm, Lệnh Hồ Đô úy lại rất thích kết giao, Nam Bát huynh cần gì phải dè xẻn lời chi giáo như thế?. Nam Bát nghĩ thầm :

– Hai người này võ công cũng cao cường, mà lại đáng ghét như thế!., đành ngồi trở lại, lạnh nhạt nói :

– Hai vị có gì chỉgiáo?.

Lệnh Hồ Đạt cười nói :

– Đúng là có chuyện muốn thỉnh vấn Nam huynh, vị Quách lệnh công mới rồi Nam huynh nói tới có phải là Quận thú Cửu Nguyên Quách Tử Nghi không?. Quách Tử Nghi có công lao to lớn, được phong là Phần Dương vương, nhưng lúc ấy chỉ là một viên Quận thú, người biết tên y vẫn còn không nhiều. Đoàn Khuê Chương bên cạnh lắng nghe, cũng cảm thấy hơi kinh ngạc, nghĩ thấm:

– Lệnh Hồ Đạt là Đô úy quân Vũ lâm, Tiết Tung là tướng tâm phúc của An Lộc Sơn, họ kính trọng Lý Học sĩ thì không nói làm gì, vì Lý Học sĩ rốt lại cũng là người hoàng thượng coi trọng. Nhưng tại sao đối với một viên Quán thú mà lại chột dạ như vậy, không biết Quách Tử Nghi là nhân vật thế nào?.

Nam Bát ngần ngừ một lúc, đáp :

– Không sai, người nhờ ta đưa thư cho Lý Học sĩ chính là Quách Quận thú. Hai vị cũng quen y à?.

Nguyên việc kết giao giữa Lý Bạch và Quách Tử Nghi rất không tầm thường. Có một hôm Lý Bạch du sơn ngoạn thủy tới địa giới Tinh Châu, chợt gặp một toán quân tốt cầm thương xách gậy, áp giải một chiếc tù xa, tù nhân trong xe dáng mạo khôi vĩ, Lý Bạch nảy dạ hiếu kỳ, bước tới hỏi thăm, té ra người ấy chính là Quách Tử Nghi, lúc bấy giờ là Thiên tướng dưới trướng Lũng Tây Tiết độ sứ Kha Thư Hàn, vì phụng quân lệnh kiểm tra binh lương, lại do thủ hạ lỡ tay làm cháy hết lương thực, tội quy về chủ tướng, theo pháp luật phái xử trảm, lúc ấy Kha Thư Hàn đi tuần tới địa giới Tinh Châu, vì thế Quân chính ty đem y ra trước quân môn hành quyết.

Quách Tử Nghi trong tù xa nói rõ nguyên nhân, giọng nói sang sảng như chuông. Lý Bạch quay ngựa lại đi cạnh tù xa, vừa đi vừa thong thả hỏi y về quân cơ, vũ lược, kiếm thuật, binh thư, Quách Tử Nghi đối đáp trôi chảy, giống như gặp được người tri kỷ, càng nói càng hợp, càng bàn càng hăng, thần thái hiên ngang, không hề giống một tên tù đang bị mang ra xử trảm, Lý Bạch càng nghe càng ngạc nhiên, nghĩ thầm :

– Mình bình sinh kết giao với anh hùng hào kiệt không phải là ít, nhưng nói người xứng đáng được gọi là quốc sĩ thì dường như chi có người này.

Lý Bạch theo xe tù thẳng tới trước quân môn, đích thân vào gặp Tiết độ sứ Lũng Tây Kha Thư Hàn, nói rõ ý mình, xin y rộng lòng tha tội cho Quách Tử Nghi, Kha Thư Hàn vốn hâm mộ đại danh của Lý Bạch, cũng nhân dịp này lấy lòng y, bên ưng thuận cho Quách Tử Nghi được ở lại dưới trướng, lấy công chuộc tội.

Sau đó vài năm, Quách Tử Nghi nhiều lần lập quân công, dần dần bộc lộ tài năng, làm tới chức Thái thú Cửu Nguyên, Lý Bạch ở Trường An nghe được tin tức cố nhân, lấy làm rất vui. Nhưng y không muốn khoe khoang ơn đức của mình, nên trước nay chưa từng kể lại chuyện ấy cho người khác, vì vậy cho dù là bạn thân như Hạ Tri Chương cũng không biết tới mối thâm tình ấy giữa y và Quách Tử Nghi.

Quách Tử Nghi cũng nghe tin tức của Lý Bạch ở Trường An, biết y tuy được hoàng đế sủng ái, nhưng chằng qua chỉ là một loại khách thanh cao của hoàng đế chứ không được trọng dụng. Vả lại kẻ quyền thần nắm việc nước, nghĩ thầm với tính cách của Lý Bạch chắc cũng không hòa mình vào chốn quan trường như thế. Quách Tử Nghi nghĩ tới đó, bèn nhờ một người bạn của y cầm giúp thư vào kinh tìm Lý Bạch, muốn mời Lý Bạch tới chỗ của y.

Người bạn ấy chính là viên võ quan mà Lý Bạch gọi là Nam Bát huynh, lúc ấy đang ở dưới trướng Quách Tử Nghi, giúp Quách Tử Nghi bảo vệ biên giới. Người này theo vai vế là thứ tám, tên thật là Nam Tễ Vân, là một hiệp khách nổi tiếng ở Yên Triệu, trên giang hồ trong vòng hai mươi năm chỉ có hai hiệp khách nổi tiếng, mười năm trước là Đoàn Khuê Chương, từ khi Đoàn Khuê Chương ẩn cư thì người nổi tiếng nhất là y. Y ở Cửu Nguyên, từng có lần một mình một ngựa đánh lui ba trăm thiết ky của người Chương vào cướp bóc biên giới, nên dân gian lúc bấy giờ có một câu ca tụng y là :

– Phải như Nam Bát mới là nam nhi.

Lúc ấy Lệnh Hồ Đạt vừa hỏi Nam Tễ Vân về Quách Tử Nghi, Nam Tễ Vân cho biết rằng y quen Quách Tử Nghi, nên cũng thẳng thắn thừa nhận không ngại ngùng, nói người nhờ y đưa thư cho Lý Bạch chính là Quách Tử Nghi.

Nào ngờ Lệnh Hồ Đạt hỏi rõ ràng xong, gượng gạo nói :

– Lá thư ấy Lý Học sĩ vẫn chưa nhận, xin cho tại hạ mượn xem qua được không?.

Lá thư ấy tuy không có gì là cơ mật, nhưng yêu cầu như thế lại không khỏi có chỗ bất cận nhân tình, Nam Tễ Vân phật ý không vui, nói :

– Lệnh Hồ đại nhân nói đùa rồi, thư của người khác, tại sao lại hỏi mượn xem?. Lệnh Hồ Đạt cười nhạt một tiếng, lại hỏi :

– Nam Bát huynh, vừa rồi ngươi nói:

Đáng tiếc cho Lý Học sĩ, câu ấy là có ý gì?.

Nam Tễ Vân tức giận nói :

– Ngươi cậy vào cái gì mà thẩm vấn ta?.

Lệnh Hồ Đạt nói :

– Lý Học sĩ đội ơn hoàng thượng, phái Trung sứ mang ngự mã tới đón, vinh dự không ai sánh bằng, ngươi lại nói y đáng tiếc, xin thứ lỗi cho ta ngu muội, quả thật không hiểu được, còn xin ngươi nói cho rõ. Nam Tễ Vân bị y hỏi vặn, không sao giải thích, liền sa sầm mặt nói :

– Ta không có thời giờ đâu mà nói chuyện với ngươi.

Tiết Tung cười nhạt nói :

– Có thời giờ để tỷ kiếm, chứ không có thời giờ để nói chuyện phải không?. Lệnh Hồ Đạt nham hiểm gian hoạt, lúc ấy nói chen vào :

– Ngươi đưa lá thư ấy cho ta, chúng ta tìm chỗ khác nói chuyện, thì ta vẫn coi ngươi là bạn bè.

Nam Tễ Vân hừ một tiếng, nói :

– Nam Bát ta lại chịu để người uy hiếp à? Không đưa ra thì sao?.

Lệnh Hồ Đạt biến sắc, đột nhiên quát lớn :

– Ngươi chạy theo cận thần, câu kết với ngoại bang, lại mang lòng bất mãn, phỉ báng triều đình, hai tội đều rõ rành rành, còn muốn chạy à?.

Đoàn Khuê Chương nãy giờ hờ hững ngồi ngoài nghe, mới rồi nhìn thấy Lệnh Hồ Đạt bước qua chắp tay tạ tội với Nam Tễ Vân, cũng chỉ cho rằng y là kẻ tiểu nhân chạy theo thế lợi, vì chuyện Lý Học sĩ nên mới lấy lòng Nam Tễ Vân, không ngờ trong khoảnh khắc y lại đột nhiên trở mặt động thủ với Nam Tễ Vân, cho dù Đoàn Khuê Chương từng trải nhiều cũng cảm thấy vô cùng bất ngờ!

Nói thì chậm chứ lúc ấy rất mau, chi thấy Lệnh Hồ Đạt đã rút ra một đôi Hộ thủ câu ra chiêu Đảo quyển châu liêm, câu trái móc ngang vào ngực, câu phải chênh chếch đánh tới, đều đánh vào trước mặt Nam Tễ Vân. Nam Tễ Vân chưa tuốt đao, chỉ nghe soạt một tiếng, vạt áo Nam Tễ Vân đã bị Hộ thủ câu của y móc rách một mảnh lớn, kế lại chát một tiếng, Lệnh Hồ Đạt đã bị y đánh một tát tai tóe lửa!

Nam Tễ Vần thân thủ mau lẹ, lùi lại, nghiêng người, tránh câu, ra chưởng, tuốt đao, một hơi liền lạc, chưởng trái vỗ ra, lập tức tay phải một đao vung lên, keng một tiếng đón đỡ thanh trường kiếm của Tiết Tung.

Tia lửa bắn tung tóe, thanh Thanh cương kiếm của Tiết Tung bị mẻ một miếng, Tiết Tung có hiệu là Thanh Châu kiếm khách, công phu kiếm pháp quả thật đã tới mức phi phàm, đao kiếm vừa chạm nhau, lập tức biết đối phương mang bảo đao, lập tức biến chiêu, thanh trường kiếm khua một vòng ra chiêu Long Môn cổ lãng, liên hoàn ba thức, liên tiếp đánh vào ba chỗ hiểm yếu trên thượng bàn, trung bàn và hạ bàn của Nam Tễ Vân, kiếm quang chớp chớp, quả thật giống như sóng nước cuồn cuộn, bay châu rắc ngọc, nhìn hoa cả mắt! Lệnh Hồ Đạt võ công còn cao hơn Tiết Tung một bậc, y từ khi xuất đạo đến nay, đây là lần đầu tiên bị người ta tát vào giữa mặt, lửa giận bùng lên, cũng lập tức sử dụng tuyệt chiêu sát thủ, song câu một ngang một dọc ra chiêu :

– Chỉ thiên hoạch địa., câu trước móc vào bối tâm Nam Tễ Vân, câu sau móc vào khuỷu chân Nam Tễ Vân, nếu Nam Tễ Vân đứng yên không động, ắt bối tâm sẽ bị y móc thủng một lỗ lớn, nếu nhảy về phía trước, ắt trước ngực sẽ trúng kiếm của Tiết Tung, còn nếu nhảy bật lên thì cũng như đưa bắp chân ra cho ngọn câu sắc nhọn của Lệnh Hồ Đạt móc vào!

Nam Tễ Vân rất giỏi, chỉ thấy y trong kiếm quang câu ảnh, nhao người chúc xuống một cái, sau lưng dường như mọc ra thêm hai con mắt, một cước đá về phía sau, vừa khéo đá trúng hổ khẩu Lệnh Hồ Đạt, ngọn Hộ thủ câu nhắm vào khuỷu chân y của Lệnh Hồ Đạt còn chưa chạm tới ống quần y đã bị y đá bay tung ra, cùng lúc ấy y dựng thanh đạo đang nằm ngang lên, chênh chếch chém tới. Chiêu ấy đánh vào chỗ địch nhân phải cứu, kiếm thế của Tiết Tung nếu không thay đổi, vẫn tiếp tục phóng tới, thì có thể khiến y bị thương, nhưng cánh tay ấy của Tiết Tung nhất định sẽ không giữ được, may mà chiêu thức của Tiết Tung còn chưa sử dụng hết, vội vàng thu kiếm lùi bước, chỉ nghe Nam Tễ Vân hô hô cười rộ, đã lướt qua cạnh người Lệnh Hồ Đạt.

Thiết Ma Lặc nhìn thấy xuất thần, bất giác đập bàn kêu lớn :

– Hay lắm!. Nên biết hai thức đao cước dùng cùng lúc ấy của Nam Tễ Vân, đao chém tễ phía trước, cước lại đá ra phía sau, phương hướng hoàn toàn trái ngược nhau, quả thật là một công phu vô cùng khó luyện, không những phải tập trung cao độ, mà còn phải nắm đúng thời điểm, lại không được chệch một phân. Thiết Ma Lặc gần đây đã được Đậu Lệnh Khản dạy cho công phu Tiền cung hậu tiễn này, hóa giải chiêu số của địch nhân đồng thời đánh vào cả trước mặt sau lưng nhưng vẫn chưa luyện thành, nên lúc ấy nhìn thấy Nam Tễ Vân sử dụng chiêu Tiền đao hậu cước tinh diệu như vậy liền bất giác bật tiếng ca ngợi.

Nam Tễ Vân nghe thấy tiếng kêu, đưa mắt nhìn qua phía y chợt giật mình :

– Kia không phải là Đoàn đại ca sao?. Bước chân tự nhiên chậm lại một chút, cũng đúng lúc ấy, Điền Thừa Tự quát lớn một tiếng, hất đổ một cái bân, chặn đường lui của Nam Tễ Vân.

Nam Tễ Vân hai mắt chớp lên, quát :

– Té ra là gã cường đạo nhà ngươi mà cũng làm được võ quan rồi!. Điền Thừa Tự tức giận nói:

– Thật hồ đồ, ta là Bình Lô tướng quân, ngươi lại dám bôi nhọ à!.

Nam Tễ Vân ngẩng đầu lên trời hú dài một tiếng, căm tức nói :

– Quan quân giặc cướp không phân biệt, hào cường cậy thế, quốc gia làm sao không loạn?. Trong tiếng hú dài, chưởng trái vỗ ra, bức Điền Thừa Tự lui lại hai bước, tay đao lật lại một cái, gạt thanh trường kiếm của Tiết Tung ra, Lệnh Hồ Đạt quát :

– Làm phản rỗi, làm phản rồi!Thằng đầy tớ này đã phỉ báng triều đình, bôi nhọ đại tướng, loạn thần tặc tử ai cũng được giết, loạn đao giết chết y cho ta. Mấy viên võ quan có giao tình với Lệnh Hỗ Đạt lập tức sấn tới bao vây.

Nguyên là Điền Thừa Tự trước khi theo An Lộc Sơn là một tên độc hành đại đạo, có lần trên đường Tinh Châu đánh cướp một nhóm thương khách, bị Nam Tễ Vân gặp được trượng nghĩa cứu người, chém y một đao, từ đó kết oán. Cho nên mới rồi Điền Thừa Tự nhìn thấy Nam Tễ Vân bước vào, nhất thời không dám lên tiếng, chính vì sợ y nói toạc ra chuyện cũ. Nhưng Tiết Tung lại không thể không cảm thấy ngạc nhiên, sau khi cãi nhau với Nam Tễ Vân lần đầu xong, lúc bọn thái giám tới đón Lý Bạch đi, y quay về bàn, bèn hỏi Điền Thừa Tự tại sao lại không ra giúp đỡ y. Điền Thừa Tự có thể giấu diếm người khác, nhưng không dám giấu diếm Tiết Tung và Lệnh Hồ Đạt, vả lại hai người bọn họ cũng đều là hắc đạo xuất thân, bèn kể rõ đầu đuôi câu chuyện. Lệnh Hồ Đạt nghe xong, lập tức nghĩ ra mưu kế.

Lệnh Hồ Đạt thêu dệt tội lỗi cho Nam Tễ Vân, rốt lại hoàn toàn không chỉ để báo thù cho Điền Thừa Tự, mà trong đó còn có lý do phức tạp khác.

Quách Tử Nghi lúc ấy tuy chỉ là một viên Thái thú, nhưng vì y giỏi việc dùng binh, lại không chịu a dua theo An Lộc Sơn nên đã sớm bị An Lộc Sơn căm ghét, mà Lý Bạch ở trong triều cũng đã sớm bị Dương Qúi Trung đố ky, chỉ vì Lý Bạch tiếng tăm quá lớn, hoàng đế lại đang coi trọng y, Dương Quốc Trung không biết làm sao đành chịu thôi. Mặt khác tuy An Lộc Sơn câu kết với Dương Qúy phi nhưng lại có xung đột về quyền lợi với Dương Quốc Trung, đôi bên giành giật lòng tin yêu trước mặt hoàng đế, công kích lẫn nhau. Bấy nhiêu quan hệ rắc rối phức tạp ấy, người ngoài không biết, chứ Lệnh Hồ Đạt thì biết rất rõ.

Cho nên sau khi Lệnh Hố Đạt biết được Nam Tễ Vân cầm thư của Quách Tử Nghi cho Lý Bạch, bèn nảy ra một chủ ý thâm độc, nghĩ thầm :

– Bất kể trong thư nói những gì, mình lấy được xong thì có thể mang tới dâng cho Dương Quốc Trung, để y tìm được một người giỏi thư pháp, mô phỏng bút tích của Quách Tử Nghi, vu hãm họ mưu phản, có thể hoàng đế sẽ không tin, nhưng ít nhất cũng có thể vu hãm họ vào tội cấu kết trong ngoài, kết bè đảng riêng, đó cũng là khiến hoàng thượng nghi ngờ. Như thế cho dù Lý Bạch vẫn được gần gũi thì cũng bớt được sủng ái, còn Quách Tử Nghi ắt là sẽ bị lật, mình làm như thế đã có thể lấy lòng Dương Quốc Trung, lại có thể lấy lòng An Lộc Sơn, há không phải nhất cử lưỡng tiện sao? Y vốn còn muốn lôi kéo Nam Tễ Vân, lấy oai để hiếp, lấy lợi để dụ, dùng cả hai cách, bức bách y đứng ra làm nhân chứng, không ngờ Nam Tễ Vân không mắc lừa y, mới xảy ra chuyện động thủ.

Trên tửu lâu có mười mấy võ quan trong quân Vũ lâm và thị vệ trong đại nội, đều thân thiết với Lệnh Hồ Đạt. Lệnh Hố Đạt quát một tiếng như thế, bấy nhiêu người đều nhao nhao xông tới bao vây Nam Tễ Vân vào giữa. Lệnh Hỗ Đạt nghĩ thầm :

– Chuyện thằng đầy tớ này mới rồi buông lời oán thán triều đình, mang thư cho Quách Tử Nghi, đã do y chính miệng nói ra, tất cả những người ở đây đều có thể làm chứng cho mình, mình cứ giết chết y cũng không đến nỗi có tội, vả lại vẫn có thể theo đúng kế hoạch mà làm.

Lệnh Hố Đạt một tiếng hạ lệnh, sai loạn đao chém chết Nam Tễ Vân, lập tức trong tửu lâu trên dưới hỗn loạn, chỉ nghe tiếng đao kiếm chạm nhau choang choang, tiếng chén bát rơi vỡ loảng xoảng, tiếng bàn ghế ngã đổ ầm ầm, những khách khứa sợ chuyện đều bỏ chạy, người trong tửu lâu luôn miệng kêu khổ không ngớt, khuyên thì khuyên không được, chỉ đành núp hết vào trong.

Nam Tễ Vân cả giận, một thanh bảo đao chỉ đông đánh tây chỉ nam đánh bắc, nhấc chân đá một cái bàn bay ra, có ba viên võ quan đang xông vào y, bị cái bàn tròn đập xuống, lập tức vỡ đầu chảy máu, bò suốt nửa ngày không đứng lên được.

Nhưng hảo hán không chống nổi nhiều người, song câu của Lệnh Hồ Đạt, trường kiếm của Tiết Tung, Kim cương chưởng của Điền Thừa Tự lại càng lợi hại, vòng vây càng lúc càng hẹp lại, Nam Tễ Vân giở hết tài năng ra vẫn không thoát được khỏi vòng vây.

Trong lúc kịch chiến một viên thị vệ trong đại nội phóng ra ba mũi Thấu cốt đinh, Nam Tễ Vân nghiêng người tránh qua, chợt cảm thấy đầu vai bị siết chặt, giống như một cái cùm sắt.

Vốn là Điền Thừa Tự đang đứng gần y, y nghiêng người tránh qua, vừa khéo xoay tới trước mặt Điền Thừa Tự, Điền Thừa Tự bên vung tay chụp. Tiết Tung cả mừng, lập tức bước lên một bước, phóng kiếm đâm vào huyệt Hoàn khiêu trên đầu gối y, song câu của Lệnh Hồ Đạt cũng cuốn tới, móc vào hai gót chân y, ngoài ra còn có hai viên võ quan cầm đao sấn vào chém xuống hai vai y, nhìn thấy Nam Tễ Vân sẽ phải mất mạng dưới loạn đao.

Tiết Tung chiêu kiếm vừa đánh ra, chợt thấy sau lưng có tiếng gió rít, Tiết Tung là một hành gia sử kiếm, lập tức giật nảy mình, không rảnh tấn công mà phải quay về cứu mình trước, lật tay phóng lại một kiếm, chợt nghe keng một tiếng, lại là thanh trường đao của một viên võ quan bị bảo kiếm của người kia chém gãy, mà một kiếm của Tiết Tung phóng ngược lại lại đánh trượt.

Tiết Tung trợn mắt nhìn, thì người ấy chính là kẻ mới rồi uống rượu với Lý Bạch. Đó cũng là Đoàn Khuê Chương mà Tiết Tung nghe danh đã lâu nhưng chưa từng gặp mặt.

Đoàn Khuê Chương phóng kiếm như chớp, y xông vào vòng vây, trường kiếm phóng hờ vào huyệt Chí đường trên lưng Tiết Tung một nhát, y biết Tiết Tung là một hành gia, chiêu này của y lại đánh vào chỗ địch nhân nhất định phải quay về tự cứu, Tiết Tung nhất định sẽ rút kiếm đón đỡ, Nam Tễ Vân có thể bớt đi một cường địch, nên chiêu ấy y không cần sử hết, ung dung chém gãy cương đao của một viên võ quan đang chém tới y xong mới hô hô cười nói :

– Tiết Tung, kiếm pháp của ngươi còn phải luyện thêm mười năm nữa?.

Tiết Tung cả giận xoay người lại ra chiêu Lưu tinh bôn nguyệt đâm vào bụng dưới Đoàn Khuê Chương. Nhưng Đoàn Khuê Chương còn nhanh hơn y, soạt soạt hai kiếm, kiếm quang chớp mau trước mắt y, Tiết Tung vội lăn tròn xuống đất vung kiếm hộ thân, chỉ nghe hai tiếng choang choang, binh khí của hai viên võ quan xông vào cứu viện cho y đã bị bảo kiếm của Đoàn Khuê Chương chém gãy.

May mà hai viên võ quan ấy đã đón đỡ cho y, Tiết Tung lúc ấy mới bật người đứng dậy, nghĩ lại mới rồi nếu không phải thấy việc mau lẹ, ứng biến kịp thời thì hai mắt đã bị người kia đâm thủng, bất giác toát mồ hôi lạnh. Còn chưa định thần, Đoàn Khuê Chương đã hất thanh Thiết giản của một tên vệ sĩ ra, một bông kiếm hoa lại phóng vào y, soạt soạt soạt liên hoàn ba kiếm, giống như gió trời mưa biển, bức người phóng tới, khiến Tiết Tung chân tay luống cuống. Y tự phụ là danh gia kiếm thuật, nhưng trước nay lần đầu nhìn thấy kiếm thuật tinh diệu như thế, bất giác thất thanh la lên :

– Ngươi, ngươi là ai?.

Ở bên kia, Lệnh Hồ Đạt cũng gặp phải sự cản trở bất ngờ, y chỉ còn cách vài bước, song câu cơ hồ đã móc trúng chân Nam Tễ Vân, chợt dưới đất có một cái chén bay tới, y sấn lên một bước, vừa đúng đạp lên cái chén, răng rắc mấy tiếng, cái chén bị y đạp nát, y cũng chúi người đi, suýt nữa ngã lăn ra, lúc ngẩng lên trợn mắt nhìn, thì thấy người ném cái chén ấy lại là một thiếu niên mặt còn bấm ra sữa, nhiều lắm cũng chỉ mười bảy mười tám tuổi.

Lệnh Hồ Đạt tức giận quát :

– Thằng tiểu tử ngươi cũng muốn tìm cái chết à?. Y chưa dứt lời, Thiết Ma Lặc đã sấn tới trước mặt. Đúng là:

Con nghé mới sinh đâu sợ cọp, Thiếu niên hiệp sĩ đấu cường gian.

Muốn biết Đoàn Khuê Chương và Thiết Ma Lặc có cứu được Nam Tễ Vân không, xin nghe hạ hồi phân giải.