Hồi 17: Tự đại thành cuồng

Hai ba trăm người đánh nhau loạn xạ, đều mặc y phục màu trắng, cùng sử dụng trường kiếm. Đâu là bạn, đâu là thù, thật khó mà phân biệt. Ban đầu là chi bốn đánh nhau với chi trưởng, rồi chi ba ác đấu với chi bốn, chi hai choảng nhau với chi năm. Sau cùng bọn sư huynh sư đệ cùng thầy có hiềm khích với nhau từ trước cũng nhân cơ hội, hoặc đánh nhau thật sự, hoặc ngấm ngầm đâm lén. Chiến trường biến thành hỗn loạn.

Giữa lúc ấy một tiếng binh vang lên, hai cánh cửa bật cả bản lề bay ra. Một người dõng dạc lên tiếng: “Sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác ở Hiệp Khách Đảo đến đây, bái kiến chưởng môn phái Tuyết Sơn.” Thanh âm này rõ ràng dõng dạc, át hẳn những tiếng hô hoán chém giết nhau của mấy trăm người trong đại sảnh.

Mọi người đều kinh hồn táng đởm. Có người lập tức dừng tay, nhảy ra ngoài vòng chiến đứng sang một bên. Những người bãi chiến mỗi lúc một nhiều. Chỉ trong khoảng khắc mọi người đều lui vào bên tường, giương mắt nhìn ra cửa sảnh đường.

Trong nhà đại sảnh, ngoài tiếng rên la của những người bị thương, không còn tiếng động chi nữa. Một lúc sau, ngay cả những người bị trọng thương cũng im miệng, nhìn ra ngoài cửa.

Ngoài cửa sảnh đường có hai người một mập một gầy, ăn mặc cực kỳ hoa lệ, sóng vai mà đứng. Thạch Phá Thiên nhận ra Trương Tam, Lý Tứ đã đến. Suýt nữa chàng buột miệng la gọi, nhưng sực nhớ đến mình đang giả làm Thạch Trung Ngọc, không biết lúc này có tiện để lộ thân phận chưa.

Trương Tam mỉm cười nói: “Chẳng trách võ công phái Tuyết Sơn lừng danh thiên hạ, các phái khác không thể bì kịp. Té ra trong quý phái, huynh đệ đồng môn luyện võ hết sức thật tình, chém giết thực sự cứ như đánh nhau trên bãi chiến trường vậy. Thật là hiếm có! Thật là đáng phục! Ha ha!”

Lão họ Liêu mạnh dạn tiến lên một bước, lớn tiếng hỏi: “Hai vị tôn giá phải chăng là sứ giả Thưởng Thiện, Phạt Ác ở Hiệp Khách Đảo?”

Trương Tam nói: “Đúng vậy! Không hiểu vị nào là chưởng môn phái Tuyết Sơn? Bọn tại hạ đã phụng mạng của đảo chủ Hiệp Khách Đảo, đem đồng bài mời chưởng môn quý phái tới tệ đảo dự yến Lạp Bát.” Gã dứt lời, rồi thò tay vào bọc lấy ra hai tấm đồng bài. Đoạn gã quay lại nhìn Lý Tứ nói: “Nghe nói chưởng môn phái Tuyết Sơn là Uy Đức tiên sinh Bạch lão gia, nhưng dường như không hiện diện tại đây.”

Lý Tứ lắc đầu nói: “Tiểu đệ cũng nhận thấy ở đây không có Bạch lão gia.”

Lão Liêu nói: “Lão họ Bạch chết rồi. Tân chưởng môn…”

Lão chưa dứt lời thì Phong Vạn Lý đã lớn tiếng thóa mạ: “Nói thúi lắm! Uy Đức tiên sinh còn chưa chết, có điều…”

Lão Liêu tức giận nói: “Ngươi nói chuyện với sư thúc mà vô lễ đến thế ư?”

Phong Vạn Lý hỏi lại: “Người như ngươi làm sao xứng đáng làm sư thúc của ta?”

Lão họ Liêu tên là Liêu Tự Lệ, tính nóng như lửa, thấy Phong Vạn Lý ăn nói hỗn xược thì không nhịn được nữa, phóng kiếm đâm tới. Phong Vạn Lý vung kiếm lên gạt, đồng thời lui lại một bước.

Liêu Tự Lệ mặt đầy sát khí, hai mắt đỏ ngầu, vung kiếm sấn lại. Một tên đệ tử chi trưởng liền đứng ra ngăn cản. Tiếp theo Thành Tự Học, Tề Tự Miễn, Lương Tự Tiến cùng tới tấp vung kiếm lên, lại đánh nhau loạn xạ.

Thì ra hiện nay phái Tuyết Sơn đang có nội biến cực kỳ nghiêm trọng. Bốn lão Thành, Tề, Lưu, Lương là sư huynh sư đệ mà đố kỵ, kiềm chế nhau. Chi trưởng thì lúc này địa vị cũng không thuận lợi lắm, nhưng thực lực thì rất vững vàng. Lúc sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác tới nơi, phái này đang lâm vào tình trạng khẩn trương tối hậu, vinh nhục mất còn là ở lúc này. Họ đều chẳng nhượng bộ hay nới tay chút nào, ai cũng cố gắng cướp lấy thượng phong về mình, rồi sau sẽ xử trí đến việc tiếp thẻ đồng đi dự yến Lạp Bát.

Trương Tam mỉm cười nói: “Các vị chuyên tâm nghiên cứu kiếm pháp để phát dương võ học, lẽ ra cũng là hảo sự trên giang hồ. Nhưng ngày tháng còn dài, chuyện đó cũng không đến nỗi gấp rút lắm. Chưởng môn nhân của phái Tuyết Sơn rốt cuộc là vị nào?” Gã nói xong, từ từ sải bước ra phía trước, hai tay vung ra vừa chụp vừa bắt.

Những tiếng loảng xoảng vang lên không ngớt, bảy tám thanh trường kiếm rơi xuống đất. Binh khí trong tay bốn lão Thành, Tề, Liêu, Lương, và Phong Vạn Lý cùng mấy tên đệ tử chi hai, đều bị họ Trương không biết làm thế nào mà đoạt lấy rồi ném xuống đất.

Mọi người chỉ thấy cánh tay rung lên một cái, là trường kiếm tuột khỏi tay. Ai nấy đều cả kinh thất sắc, bây giờ mới biết võ công của người mới đến thật là quỷ khốc thần sầu. Mọi người kinh hãi quá độ, bất giác quên khuấy cả cuộc tương tranh nội bộ, nhớ lại trong võ lâm có lời đồn đại: hai vị sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác đi tới đâu là cả môn phái bị tận diệt tới đó. Bọn họ đều nhịn không nổi phải dựng cả tóc gáy lên, có một số người sợ tới mức răng khua lách cách, run rẩy toàn thân.

Lúc trước bọn chúng đều nghĩ rằng thành Lăng Tiêu ở mãi Tây Vực, ít khi đi lại với võ lâm trung thổ, đồng bài thiệp mời này chưa chắc đã đưa đến phái Tuyết Sơn. Còn võ công của hai sứ giả Thưởng Thiện, Phạt Ác cũng chỉ là lời đồn đại, nhiều phần là nói quá sự thật, chưa chắc đã lợi hại như thế. Hơn nữa phái Tuyết Sơn đã có cây cao bóng cả, dù gặp chuyện lớn bằng trời cũng có chưởng môn Uy Đức tiên sinh Bạch Tự Tại đứng ra chống đỡ, nên chuyện này cũng không ai để ý đến. Lúc này chính mắt họ thấy võ công hai sứ giả này hơn hẳn những lời đồn đại, e rằng toàn thể phái Tuyết Sơn hiệp lực lại cũng khó lòng chống cự nổi, huống chi bản phái lại đang chém giết lẫn nhau. Ai nấy bất giác khiếp sợ, râu tóc đứng dựng cả lên.

Ba mươi năm qua, những vị chưởng môn được mời đi Hiệp Khách Đảo không ai sống sót trở về. Lúc này, ai lên làm chưởng môn phái Tuyết Sơn cũng giống như tự sát vậy. Trước đây vài phút, năm chi này còn kèn cựa nhau, ai cũng mong lãnh tụ chi mình lên làm chưởng môn, trước còn ngấm ngầm đả kích, về sau đi đến chỗ chém giết mặt. Nhưng lúc này tình hình đã hoàn toàn thay đổi, cả năm người Thành, Tề, Liêu, Lương, Phong đều chỉ trỏ lẫn nhau mà nói: “Chính y đó. Y là chưởng môn.”

Chỉ trong chốc lát, cả tòa đại sảnh bỗng im bặt. Một hồi lâu, Liêu Tự Lệ mới lên tiếng: “Tam sư ca tuổi tác lớn nhất, theo lẽ sẽ đương nhiên sẽ tiếp nhận chức chưởng môn bản phái.”

Tề Tự Miễn cãi: “Tuổi cao thì có ích gì? Liêu sư đệ võ công cao cường, dưới trướng lắm tay hảo thủ, góp sức nhiều nhất trong vụ này. Nếu Liêu sư đệ không đứng ra làm chưởng môn, người khác có muốn ngồi vào ghế đó cũng chắc chắn ngồi không vững.”

Lương Tự Tiến lạnh lùng nói: “Chức chưởng môn bản phái nguyên trước do đại sư ca chấp chưởng. Nay đại sư ca không làm nữa, thì đương nhiên theo thứ tự phải đến tay nhị sư ca. Còn việc gì phải tranh chấp?”

Thành Tự Học lại nói: “Anh em chúng ta đây hiện có bốn người, kể về túc trí đa mưu thì ngũ sư đệ là hơn hết. Ta tán thành việc đề cử ngũ sư đệ lên ngôi đại nhiệm, vì tình thế hiện nay là đấu trí chứ không phải đấu lực.”

Liêu Tự Lệ xen vào: “Chức chưởng môn đúng ra là do chi trưởng trong bản phái đảm nhiệm. Tề sư ca đã không chịu làm, thì phải nhường lại cho Phong sư điệt ở chi trưởng kế vị, có vậy mới tránh khỏi lời dị nghị của bạn đồng môn. Liêu mỗ xin tán thành trước nhất.”

Phong Vạn Lý nói: “Vừa rồi có người lớn tiếng quát tháo giết cho hết sạch bọn đệ tử chi trưởng chúng ta. Không hiểu ai đã thối mồm thối miệng đến thế?”

Liêu Tự Lệ tức quá, lông mày dựng ngược lên. Lão toan buông lời thóa mạ, nhưng nghĩ lại đành phải nén giận nói: “Việc đã đến trước mắt mà còn đùn đẩy trốn tránh trách nhiệm, sao phải là anh hùng hảo hán?”

Năm người lời qua tiếng lại, mỗi người một câu, ai cũng từ chối không chịu nhận chức chưởng môn. Trương Tam mỉm cười đứng nghe, không nói nửa lời. Lý Tứ nghe mấy người tranh luận hồi lâu mà chẳng được gì, không nhẫn nại được nữa, lên tiếng quát hỏi: “Bây giờ vị nào làm chưởng môn? Các vị cứ lằng nhằng thế này mãi thì đến mười ngày nửa tháng cũng không có kết quả. Ta không rảnh để chờ đợi lâu.”

Lương Tự Tiến nói: “Thành sư ca! Sư ca nên ưng thuận mau lẹ là hơn, đừng để cả phái phải liên lụy vì một mình sư ca.”

Thành Tự Học tức giận nói: “Sao lại vì một mình ta mà liên lụy đến mọi người? Không có phần ngươi hay sao?” Năm người lại cãi nhau ồn ào cả lên.

Trương Tam mỉm cười nói: “Tại hạ có ý kiến để giải quyết vụ này. Năm vị hãy tỉ đấu võ công để quyết thắng bại, ai võ công cao nhất thì được làm chưởng môn phái Tuyết Sơn.” Năm người ngơ ngác nhìn nhau, ngấm ngầm suy tính kế.

Trương Tam lại nói: “Vừa rồi, lúc hai người chúng ta đến đây, năm vị đang động thủ đâm chém nhau. Hẳn là các vị đang nghiên cứu võ công, lại kết hợp việc phân thắng bại để ấn định chức chưởng môn. Chúng ta đến không đúng lúc, đã làm gián đoạn nhã hứng của các vị. Bây giờ các vị lại tiếp tục đấu đi, trong vòng một giờ phải phân thắng bại. Vị huynh đệ của ta vốn rất nóng tính, trong vòng một giờ mà không giải quyết vụ này, e rằng y sẽ tru diệt sạch phái Tuyết Sơn, khi đó ai muốn làm chưởng môn cũng không được nữa, thành ra câu chuyện không hay. Nào, bây giờ các vị bắt đầu động thủ đi! Một… hai… ba.”

Liêu Tự Lệ vừa nghe Trương Tam đếm dứt tiếng thứ ba, liền rút kiếm ra đánh soạt một tiếng. Trương Tam đột nhiên nói: “Những người ẩn ngoài cửa sổ đứng nhìn trộm chắc cũng đều là nhân vật phái Tuyết Sơn, xin mời cả vào đây. Bây giờ căn cứ vào võ công cao thấp để ấn định chức chưởng môn, vậy bất luận địa vị lớn nhỏ, ai cũng có thể ra tay được.”

Gã chưa dứt lời đã xoay tay áo bào ra sau phất một cái. Binh một tiếng, hai cánh cửa sổ bị kình phong hất tung ra lập tức. Sử bà bà nói: “Vào đi!” Một tay bà dắt A Tú, một tay kéo Thạch Phá Thiên, ba người tiến vào trong đại sảnh.

Mọi người vừa trông thấy đều kinh hãi biến sắc. Bốn lão Thành, Tề, Liêu, Lương đều cầm binh khí bao vây bọn Sử bà bà vào giữa. Sử bà bà chỉ cười lạnh nhạt, không nói gì. Phong Vạn Lý tiến lên khom lưng thi lễ, ngập ngừng nói: “Tham… tham kiến… sư… sư nương…”

Thạch Phá Thiên kinh ngạc tự hỏi: “Tại sao sư phụ mình lại là sư nương của ông ấy?” Sử bà bà ngước mắt nhìn trời, không thèm ngó Phong Vạn Lý.

Trường Tam mỉm cười nói: “Hay lắm! Hay lắm! Chú nhỏ mạo xưng bang chúa bang Trường Lạc cũng về tới phái Tuyết Sơn rồi.” Hắn quay lại hỏi Lý Tứ: “Nhị đệ! Nhị đệ thử xem người này có giống tam đệ của chúng ta không?”

Lý Tứ gật đầu nói: “Tên này chỉ có cái miệng dẻo, còn lòng dạ như chó mà đầu óc cũng như chó. Chỗ nào có con gái đẹp là hắn mò đến ngay.”

Thạch Phá Thiên bụng bảo dạ: “Đại ca, nhị ca cũng tưởng mình là Thạch Trung Ngọc. Nếu mình cứ không lên tiếng thì họ không thể phát giác ra được.”

Trương Tam nói: “Té ra bà bà đây là Bạch lão phu nhân, tại hạ thật là thất kính. Bọn sư đệ của tôn giá xem chừng đều rất muốn kế nhiệm chức chưởng môn của Bạch lão gia, họ đang tỉ thí võ công để tranh đoạt ngôi cao. Được rồi, bây giờ các vị bắt đầu đi!”

Sử bà bà sắc mặt đầy vẻ khinh bỉ, hai tay dắt hai người ngang nhiên tiến vào. Bọn Thành Tự Học bốn người không dám cản trở, giương mắt thao láo nhìn mụ tiến vào ngồi ở ghế thái sư chính giữa.

Lý Tứ quát lớn: “Các vị chưa chịu động thủ, còn đợi đến bao giờ?”

Thành Tự Học nói: “Đúng lắm!” Rồi lão phóng kiếm nhằm Lương Tự Tiến đâm tới.

Lương Tự Tiến giơ kiếm lên gạt. Chân lão loạng choạng dường như đứng không vững, miệng hô lên: “Thành sư ca kiếm hạ lưu tình. Tiểu đệ không phải là đối thủ của sư ca.”

Bên kia Liêu Tự Lệ cùng Tề Tự Viễn cũng bắt đầu khai diễn cuộc đấu. Bốn lão mới qua lại hơn chục chiêu đã khiến mọi người phải ngấm ngầm lắc đầu. Cả bốn lão ra chiêu cùng sơ hở cả trăm chỗ, chiêu nào phóng ra cũng không nhằm trúng đích hoặc chỉ hời hợt bên ngoài, chẳng ai có phong độ cao thủ hạng nhất của phái Tuyết Sơn. Cứ xem kiếm pháp thì tưởng chừng những thiếu niên chỉ học vài năm cũng đủ thắng họ rồi. Tình trạng thật rõ ràng, ai cũng nhìn ra là bốn lão hiện giờ không phải tranh thắng mà là tranh bại. Chẳng một ai chịu làm chưởng môn phái Tuyết Sơn, họ bất đắc dĩ phải động thủ, chỉ mong sao bị hạ về tay đối phương.

Nhưng khốn nỗi, chủ trương người nào cũng giống nhau, thành ra muốn thất bại cũng không phải dễ. Bỗng thấy Lương Tự Tiến nghiêng người đi, đưa mình vào mũi kiếm của Thành Tự Học. Thành Tự Học liền la lên: “Úi chà!” Đột nhiên chân trái lão Thành nhũn ra, khụy ngay xuống, mũi kiếm chống xuống đất.

Bên kia Liêu Tự Lệ phóng một nhát kiếm đâm Tề Tự Miễn, mà lão Tề chẳng né tránh chi hết, cứ đứng trơ ra như tượng gỗ. Mũi kiếm sắp đâm trúng bả vai đối phương, lão Liêu vội thu kiếm về, xoay người lại đưa lưng cho đối phương.

Trương Tam bật lên cười ha hả rồi nói: “Lão nhị! Hai chúng ta đi khắp thiên hạ, chỗ nào cũng in dấu giày, mà đây là lần đầu tiên được xem cuộc tỉ võ phi thường này, thật là đại khai nhãn giới. Chẳng trách võ công phái Tuyết Sơn là số một hiện nay, khác xa những môn phái khác.”

Sử bà bà lớn tiếng hét: “Vạn Lý! Ngươi đã giam hãm chưởng môn cùng các đệ tử chi trưởng ở đâu, mau thả họ ra!”

Phong Vạn Lý run rẩy nói: “Đó là… là do Liêu sư thúc giam giữ, đệ tử thực tình không biết.”

Sử bà bà nói: “Ngươi biết hay không biết cũng vậy, nếu không nhanh chóng đi thả bọn họ ra thì lập tức ta phải đánh chết ngươi.”

Phong Vạn Lý nói: “Dạ! Dạ! Để đệ tử đi tìm thử.” Gã nói xong, trở gót toan rời khỏi sảnh đường.

Trương Tam mỉm cười nói: “Khoan đã! Các hạ là người thừa kế ngôi chưởng môn phái Tuyết Sơn, lẽ nào lại tự nhiên đi ra được? Ngươi! Ngươi! Ngươi! Ngươi!” Gã liên tiếp trỏ bốn tên đệ tử phái Tuyết Sơn, rồi nói tiếp: “Bốn ngươi đưa hết những người bị giam cầm trong thành Lăng Tiêu ra đây. Nếu để thiếu một người, thì đầu các ngươi sẽ như thế này.” Tay phải gã đưa ra chụp vào một cây cột trong sảnh đường. Cây cột lập tức bị thủng một lỗ lớn, gỗ vụn theo kẽ ngón tay gã rớt xuống lả tả.

Bốn tên đệ tử phái Tuyết Sơn kia không tự chủ được nữa, đều sợ run lên. Chúng chợt thấy Trương Tam đưa mắt nhìn mình, năm ngón tay nhúc nhích như muốn chụp vào đầu mình, lập tức chẳng còn hồn vía nào nữa. Chúng liền vâng dạ luôn miệng rồi chạy ra khỏi sảnh đường.

Lúc này bốn lão Thành, Tề, Liêu, Lương vẫn tiếp tục đâm qua chém lại, tỉ đấu một cách giả dối. Cả bốn lão nghe thấy những lời châm chọc của Trương Tam, không dám để lộ sơ hở rõ quá nữa. Lão nào cũng sợ tư thế không đủ hung hãn, quát tháo không đủ lớn tiếng, đều nghiến răng trợn mắt nhìn đối phương, giống như đánh nhau thí mạng vậy. Thần sắc họ đều giận dữ, kiếm chiêu xuất ra nhanh như gió, nhưng hoàn toàn không có sức lực bên trong.

Sử bà bà càng xem càng tức giận. Mụ quát lên: “Chiêu thức mèo què kia mà bảo là võ công của phái Tuyết Sơn ư? Thể diện thành Lăng Tiêu bị các ngươi làm tiêu tan mất cả.” Mụ quay lại bảo Thạch Phá Thiên: “Đồ nhi! Ngươi cầm thanh đao này ra chặt mỗi người một cánh tay cho ta.”

Thạch Phá Thiên đứng trước mặt Trương Tam, Lý Tứ sợ bị lộ tẩy, không dám mở miệng nói gì, đành đón lấy đơn đao trỏ vào Thành Tự Học rồi chém tới một nhát. Thành Tự Học nghe Sử bà bà kêu người ta chặt cánh tay mình, biết không phải chuyện nói đùa. Lão thấy chàng vung đao chém tới, vội vung kiếm lên gạt. Thế kiếm này vừa thủ vừa công, vừa cương mãnh vừa hung hiểm. Bất giác lão để lộ kiếm pháp chân chính của phái Tuyết Sơn.

Trương Tam lớn tiếng hoan hô: “Thế này mới đúng là một chiêu kiếm chứ!”

Thạch Phá Thiên bụng bảo dạ: “Hai vị nghĩa huynh biết mình nội lực thâm hậu, nếu mình dùng nội lực để thủ thắng thì họ sẽ nhận ra mình là Cẩu Tạp Chủng. Mình đã mạo xưng là Thạch Trung Ngọc, thì chỉ nên thi triển kiếm pháp phái Tuyết Sơn mà thôi.” Chàng liền vung đao đâm xéo đi. Đó là chiêu Ám Sơn Hư Ảnh trong Tuyết Sơn kiếm pháp.

Thành Tự Học thấy chiêu thức của chàng tầm thường thì trong lòng cũng không ái ngại gì nữa, chỉ vận kiếm phong tỏa những chỗ trọng yếu. Được mấy chiêu, lão dẫn dụ cho Thạch Phá Thiên đâm vào đùi bên trái. Lão không đỡ gạt, rồi la lên một tiếng: “Trời ơi!” Mũi đao của chàng đã quẹt trúng đùi lão.

Thành Tự Học vứt kiếm xuống đất, nói bằng một giọng thê lương: “Anh hùng phát xuất tự thiếu niên. Lão già thật sự là vô dụng mất rồi!”

Lương Tự Tiến vung kiếm chém xuống vai Thạch Phá Thiên, lớn tiếng quát: “Thằng lỏi này không còn biết đạo lý luân thường là gì nữa, dám đả thương cả sư thúc tổ!” Lão đã biết rõ kiếm pháp của Thạch Phá Thiên, chỉ trong mấy chiêu là dẫn dụ được chàng thi triển chiêu Phong Sa Mãng Mãng đâm sướt vào cánh tay bên trái. Lão cũng nhảy lùi ba bước, khuỵu gối trái dưới đất la lên: “Hỏng rồi! Hỏng rồi! Suýt nữa cánh tay này đã bị thằng lỏi kia chém đứt.”

Tiếp theo là Tề Tự Miễn và Liêu Tự Lệ xông lên giáp công Thạch Phá Thiên, cũng sử những chiêu lão luyện để mũi đao của chàng đâm sướt da thịt trên người mình, rồi cả hai nhận thua lùi xuống.

Mọi người đều lắc đầu chán ngán, có người giận dữ mở miệng la mắng om sòm. Sử bà bà lớn tiếng quát: “Các ngươi đã chịu thua thằng nhỏ này, vậy có tình nguyện để gã làm chưởng môn không?”

Thành, Tề, Liêu, Lương bốn gã cùng bụng bảo dạ: “Tôn gã làm chưởng môn chẳng qua là đưa gã đến Hiệp Khách Đảo làm con ma thế mạng, có gì mà không được?”

Thành Tự Học nói: “Hai vị sứ giả đã ra luật lệ, muốn chúng ta căn cứ vào võ công để tranh đoạt chức chưởng môn. Bọn ngu đệ tài nghệ không bằng người, dù phải lấy lớn thờ nhỏ cũng chẳng còn cách gì chối cãi nữa.” Rồi ba người họ Tề, Liêu, Lương cũng lên tiếng đồng ý.

Sử bà bà lại hỏi: “Các ngươi phục hay là không phục?”

Bốn lão đều nói: “Ngoài miệng đã phục thì trong lòng cũng phải phục, tuyệt không miễn cưỡng.” Ngoài miệng nói vậy, nhưng trong lòng chúng tự nhủ: “Hai thằng quỷ sứ kia đi rồi, thì thành Lăng Tiêu lại là giang sơn của chúng ta. Một mụ già và một thằng tiểu quỷ thì làm gì được?”

Sử bà bà nói: “Vậy sao các ngươi không làm lễ tham bái tân chưởng môn phái Tuyết Sơn đi?” Bà nghĩ đến chuyện khai sơn đại đệ tử của phái Kim Ô được làm chưởng môn phái Tuyết Sơn, trong lòng thực sự rất vui mừng. Lúc đó bà cũng không nghĩ đến chuyện đại đệ tử của phái Kim Ô mà kiêm nhiệm chức chưởng môn phái Tuyết Sơn thì không thể thọ mạng lâu dài được.

Đột nhiên bên ngoài sảnh đường có người lớn tiếng quát: “Ai là tân chưởng môn phái Tuyết Sơn?” Đó chính là thanh âm của Bạch Vạn Kiếm. Rồi những tiếng xiềng xích loảng xoảng vang lên, mấy chục người đi vào trong này, tay chân đều bị xiềng xích. Bạch Vạn Kiếm đi đầu, tiếp theo là Cảnh Vạn Chung, Kha Vạn Quân, Vương Vạn Nhận, Hô Diên Vạn Thiện, Văn Vạn Phu, Uông Vạn Dực, Hoa Vạn Tử, cả đám đệ tử chi trưởng vừa ở Trung Nguyên trở về.

Bạch Vạn Kiếm vừa nhìn thấy Sử bà bà đã vội la lên: “Má má! Má má đã về đấy ư?” Thanh âm hắn đầy vẻ kinh hãi, pha lẫn vui mừng.

Lúc nãy Thạch Phá Thiên đã nghe Phong Vạn Lý kêu Sử bà bà bằng sư nương, chàng đoán ngay mụ là vợ của Bạch Tự Tại. Bây giờ chàng lại nghe Bạch Vạn Kiếm kêu mụ bằng má má thì không còn nghi ngờ gì nữa. Có điều trong lòng chàng lấy làm kỳ lạ, tự hỏi: “Sư phụ mình đã là phu nhân của chưởng môn phái Tuyết Sơn, sao còn đi sáng lập phái Kim Ô? Chẳng những thế, lúc nào người cũng nói oang oang là võ công phái Kim Ô khắc chế phái Tuyết Sơn.”

Chàng còn đang ngẫm nghĩ, bỗng thấy A Tú chạy đến trước Bạch Vạn Kiếm gọi: “Gia gia!” Sử bà bà là mẹ của Bạch Vạn Kiếm, thì đương nhiên A Tú là con của Bạch Vạn Kiếm. Nhưng nàng vừa kêu một tiếng gia gia, Thạch Phá Thiên lại một phen kinh hãi.

Bạch Vạn Kiếm mừng quá, run giọng hỏi: “A Tú! Hài nhi… hài nhi chưa chết ư?”

Sử bà bà hững hờ đáp: “Dĩ nhiên là nó chưa chết. Chẳng lẽ nó cũng là đồ bị thịt như ngươi hay sao? Thế mà ngươi còn dám vác mặt kêu ta bằng má má. Ta lỡ đẻ ra cái đồ khốn nạn này, thật chỉ tiếc tại sao khi đó không bóp chết ngay đi. Lão già thì để chúng bắt giam, còn chính mình phải đeo hàng đống sắt rỉ khua loảng xoảng. Mùi vị thơm tho quá phải không? Ngươi mà là Khí Hàn Tây Bắc cái gì, là Khí Tử Tây Bắc thì có. Con mẹ nó! Phái Tuyết Sơn cái quái gì mà tay chân đầy rẫy gông xiềng, còn gì là cao minh nữa? Già cũng là quân chó chết, trẻ cũng là quân chó chết, toàn là phường chó chết. Ta muốn đổi tên phái Tuyết Sơn là phái Chó Chết cho đúng sự thật.”

Bạch Vạn Kiếm đợi mụ thóa mạ một hồi rồi mới nói: “Má má! Hài nhi cùng các sư huynh đệ không phải võ công kém cỏi để họ bắt được. Chẳng qua là mấy tên gian tặc này ngấm ngầm dùng gian kế. Chúng…” Hắn nói tới đây, đưa tay chỉ mặt Liêu Tự Lệ giận dữ nói: “Hắn giả làm gia gia, chui vào nằm trong chăn màn của gia gia, âm thầm bố trí cơ quan nên hài nhi mới bị mắc bẫy…”.

Sử bà bà lại càng tức giận, thóa mạ tiếp: “Thằng lỏi khốn nạn này muốn chết rồi hay sao? Ngươi nhận lầm người khác còn nghe được, ai đời lại nhận lầm cả gia gia? Thế mà cũng đòi làm người ư?”

Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Nhận lầm gia gia cũng đâu có phải là chuyện lạ lắm? Thạch trang chủ, Thạch phu nhân lại còn nhận lầm ta là con của họ. Ôi, không biết gia gia của ta rút cuộc là ai.”

Bạch Vạn Kiếm từ nhỏ đã quen bị mẫu thân đánh mắng. Bây giờ hắn bị bà ta thóa mạ tục tằn trước mặt mọi người, tuy cũng thấy xấu hổ nhưng chẳng để vào lòng, mà chỉ lo lắng về sự an nguy của phụ thân. Hắn liền hỏi: “Má má! Gia gia có bình yên không?”

Sử bà bà tức giận nói: “Lão chó già đó chết hay sống, ngươi là thằng chó con còn chẳng biết, thì ta đây biết thế nào được? Lão chó già mà còn sống ở đời thì cũng là đồ ngu ngốc mới để cho bọn sư đệ cùng đồ đệ gông cổ lại. Ta tưởng lão chết đi còn tốt hơn.”

Bạch Vạn Kiếm nghe Sử bà bà nói vậy, biết là phụ thân mình bị bọn phản nghịch giam cầm, tính mệnh chưa có gì đáng ngại, nên cũng hơi yên tâm. Hắn liền nói: “Tạ ơn trời đất! Gia gia vẫn được bình yên.”

Sử bà bà thóa mạ tiếp: “Bình yên cái quái gì?” Tuy miệng mụ mắng chửi thậm tệ, nhưng trong lòng cũng có quan tâm. Mụ nhìn bọn Thành Tự Học hỏi: “Các ngươi mang đại sư huynh giam vào đâu? Sao còn chưa thả ông ấy ra?”

Thành Tự Học nói: “Đại sư huynh nóng nảy vô cùng, không ai dám đến gần. Vừa mới nghe tiếng là ông ta đã muốn giết người rồi”.

Trên mặt Sử bà bà thoáng nét hoan hỉ. Mụ nói: “Hay lắm! Hay lắm! Hay lắm! Lão chó già này tưởng võ công mình là đệ nhất thiên hạ, lên mặt kiêu ngạo ngông cuồng không ngửi nổi. Để lão bị hành hạ ít lâu cũng là xứng đáng.”

Lý Tứ nghe Sử bà bà cứ thóa mạ hoài, tức mình hỏi xen vào: “Rốt cuộc thì ai là chưởng môn nhân của phái Chó Chết này?”

Sử bà bà đột nhiên đứng dậy, bước lên hai bước quát lớn: “Ba chữ Phái Chó Chết đâu đến hạng chó chết như ngươi được nói? Ta mắng chồng ta, mắng con ta, còn ngươi là cái thá gì mà cả gan dám nhục mạ phái Tuyết Sơn chúng ta? Võ công của ngươi cao cường, phóng chưởng đánh chết ta đi thì được, còn thóa mạ bừa bãi trước mặt ta thì thứ ngươi chưa đáng.”

Mọi người thấy Sử bà bà mắng Lý Tứ như tát nước vào mặt thì không khỏi sợ run, tay ai cũng ướt đẫm mồ hôi. Họ đều biết rằng nếu Lý Tứ nổi giận ra tay là Sử bà bà không tài nào sống sót được. Thạch Phá Thiên đã lắc người ra đứng chắn trước mặt Sử bà bà, đề phòng Lý Tứ động thủ giết mụ thì chàng sẽ đón đỡ. Bạch Vạn Kiếm khổ nỗi chân tay không được tự do, chỉ la thầm trong bụng: “Khổ rồi! Khổ rồi!”

Không ngờ Lý Tứ chỉ mỉm cười nói: “Phải rồi! Coi như tại hạ lỡ lời, xin Bạch phu nhân thứ tội. Vậy vị nào là chưởng môn phái Tuyết Sơn?”

Sử bà bà chỉ Thạch Phá Thiên nói: “Thằng nhỏ này đã đánh bại bốn tên phản đồ là Thành, Tề, Liêu, Lương. Bọn chúng đã tôn gã lên làm chưởng môn phái Tuyết Sơn. Có ai chưa phục không?”

Bạch Vạn Kiếm lớn tiếng nói: “Hài nhi không phục, muốn tỉ đấu với gã.”

Sử bà bà nói: “Được lắm! Mau cởi bỏ xiềng xích cho mọi người.”

Bốn người Thành, Tề, Liêu, Lương nhìn nhau, đều nghĩ: “Nếu bây giờ mở xiềng thả bọn đệ tử chi trưởng ra, thì muốn kiềm chế chúng trở lại không phải chuyện dễ. Bốn chi chúng ta đã làm loạn phạm thượng, chắc là phải chết không có đất chôn. Nhưng tình thế trước mắt nguy cấp, không thả họ cũng không được.”

Liêu Tự Lệ quay lại hỏi Bạch Vạn Kiếm: “Ngươi là bại tướng dưới tay ta, mà bọn ta đã phục cả rồi, ngươi còn tư cách gì mà nói là không phục?”

Bạch Vạn Kiếm tức giận nói: “Ngươi là đồ nghịch tặc phản loạn, ta chỉ hận mình chưa được phân thây ngươi làm muôn đoạn. Ngươi có những hành vi ám muội đê hèn, bây giờ còn mặt mũi nào nói chuyện với ta? Sao ngươi dám nói ta đã bại dưới tay ngươi?”

* * *

Thì ra sư phụ của Bạch Tự Tại chết sớm, võ công của bốn người Thành, Tề, Liêu, Lương phần lớn là do Bạch Tự Tại truyền thụ. Bạch Tự Tại với bốn lão này tiếng là sư huynh đệ, nhưng thật sự là thầy trò. Võ công phái Tuyết Sơn sở trường về biến hóa chiêu thức, còn nội lực không có chi là kỳ bí. Nhưng Bạch Tự Tại năm xưa đã gặp cơ duyên ăn gan hút máu quái xà trên núi Tuyết Sơn, nên nội lực mới được hùng hậu. Cộng thêm chiêu số biến hóa tinh vi, nên mấy chục năm nay lão là đệ nhất cao thủ ở Tây Vực. Lão ta truyền thụ cho sư đệ và đệ tử hoàn toàn không giấu giếm gì, nhưng nội lực lão là của trời cho, không liên quan đến sức người, nên võ công của bọn sư đệ kém lão rất xa.

Bạch Tự Tại cũng rất hiếu thắng, không hề nói ra việc mình gặp kỳ duyên mà tăng cường nội lực, để tỏ ra công phu của mình không phải là do may mắn mà nên. Trong lòng bốn tên sư đệ này cũng không khỏi có phần oán trách. Chúng nghĩ rằng sư phụ đã truyền thụ riêng cho đại sư huynh, đại sư huynh lại ích kỷ nên đã giấu giếm hơn một nửa võ nghệ bản môn. Đến đời sau, võ công của Bạch Vạn Kiếm cũng hơn hẳn bốn vị sư thúc, nên Thành Tề Liêu Lương lại càng bất mãn. Nhưng vì oai phong của Bạch Tự Tại lớn quá, nên không ai dám có nửa lời oán trách.

Phen này phần lớn đệ tử chi trưởng đã rời khỏi thành Lăng Tiêu, còn Bạch Tự Tại đột nhiên tâm trí thất thường làm những việc không đúng, người nào trong thành Lăng Tiêu cũng cảm thấy nguy cơ mất mạng trong sớm tối. Bọn sư đệ bị tình thế ép bức, lại thấy có cơ hội để hành sự nên mới phát sinh vụ nội loạn này.

Lúc bọn đệ tử chi trưởng trở về núi, người đã ẩn trong giường Bạch Tự Tại giả vờ mắc có bệnh chính là Liêu Tự Lệ. Lão ép thê thiếp của Bạch Tự Tại dụ Bạch Vạn Kiếm vào trong phòng để vấn an phụ thân, xuất kỳ bất ý bắt được Bạch Vạn Kiếm, rồi sau đó bắt hết bọn đệ tử chi trưởng từ Trung Nguyên trở về. Thủ lĩnh đã mắc bẫy rồi, bọn kia hoặc là trúng kế bị bắt, hoặc bị ép phải phục tùng, tên nào không phục đều bị giam cầm. Bây giờ Bạch Vạn Kiếm nhìn thấy Liêu Tự Lệ, tức giận nghiến răng ken két là phải.

Liêu Tự Lệ nói: “Nếu ngươi không phải là bại tướng dưới tay ta, thì sao tay ngươi lại phải đeo gông đeo cùm? Ta không dùng ám khí, mà cũng chẳng dùng thuốc mê.”

Lý Tứ quát lên: “Tranh chấp đã nửa ngày trời vẫn chưa rõ ràng. Mau mở xiềng cho y, hai người tỉ đấu một trận nữa đi.”

Liêu Tự Lệ hãy còn do dự, Lý Tứ đã đưa tay trái ra giật lấy thanh kiếm của lão. Nghe choang choảng mấy tiếng, khóa chân khóa tay Bạch Vạn Kiếm đều bị chém đứt trong chớp nhoáng. Những xiềng khóa này đúc bằng thép nguyên chất, mà thanh trường kiếm của Liêu Tự Lệ tuy sắc bén nhưng cũng không phải là bảo kiếm, thế mà Lý Tứ vận nội lực vào chém một nhát là đứt ngay, tựa như chém gỗ mục vậy. Xiềng xích đều rơi dưới đất, tay chân của Bạch Vạn Kiếm không bị sây sát chút nào.

Mọi người thấy thế đều lớn tiếng hoan hô. Có kẻ xiểm nịnh lại hô vang “thủ pháp tuyệt hảo” để lấy lòng Lý Tứ. Bạch Vạn Kiếm vốn là người tự phụ, ít khi chịu phục ai, mà lúc này cũng phải khen: “Thán phục! Thán phục!”

Một tên đệ tử chi trưởng cầm kiếm lại đưa cho hắn. Bạch Vạn Kiếm không nhận kiếm, nhổ một bãi nước miếng vào mặt gã. Tiếp theo, hắn phóng cước đá gã kia lăn long lóc, vừa đá vừa mắng: “Đồ phản bội!” Gã này vốn là đệ tử chi trưởng, ở lại thành Lăng Tiêu mà bình yên vô sự thì dĩ nhiên đã tham dự vào âm mưu phản nghịch.

A Tú kêu lên một tiếng: “Gia gia!” Nàng cầm ngược thanh kiếm của mình đưa cho phụ thân.

Bạch Vạn Kiếm mỉm cười nói: “Con gái ta ngoan lắm!” Mấy ngày liền, Bạch Vạn Kiếm toàn gặp chuyện xúi quẩy bực mình, nhưng hôm nay gặp mẫu thân cùng con gái vẫn còn sống trên đời, thật sự là việc rất đáng mừng. Hắn quay đầu lại, vẻ mặt đang hiền hòa bỗng biến thành giận dữ, mắt tóe lửa nhìn Liêu Tự Lệ, quát to: “Ngươi đã phản nghịch sư môn, vậy không còn là trưởng bối của ta nữa. Tiếp chiêu!”

Bạch Vạn Kiếm rút kiếm đâm tới đánh véo một tiếng. Giữa lúc ấy Lý Tứ xoay ngược trường kiếm lại, khẽ gạt thanh kiếm của Bạch Vạn Kiếm ra rồi nhét chuôi kiếm vào tay Liêu Tự Lệ.

Phen này Bạch Vạn Kiếm cùng Liêu Tự Lệ tỉ đấu thí mạng, hai bên đều đem hết sở học bình sinh của mình ra, hoàn toàn khác hẳn cuộc đấu giữa bốn lão Thành, Tề, Liêu, Lương vừa rồi. Những nhân vật đời thứ nhất phái Tuyết Sơn, sau Bạch Tự Tại thì đến Liêu Tự Lệ là võ công cao cường hơn cả. Lão biết Bạch Vạn Kiếm muốn giết mình, nên lúc này xuất chiêu không nể nang gì, thanh trường kiếm vung lên loang loáng nhanh nhẹn vô cùng, chiêu nào cũng lợi hại.

Bạch Vạn Kiếm nóng ruột trả thù, nên cố sống cố chết mà tấn công. Qua lại ba chục chiêu, hắn phóng kiếm đâm thẳng tới, lực đạo cực kỳ mãnh liệt. Liêu Tự Lệ nghiêng người tránh qua, rồi trả lại một kiếm. Nghe roạt một tiếng, Bạch Vạn Kiếm đã bị hớt đứt một mảnh áo.

A Tú vội la lên một tiếng kinh hãi, Sử bà bà lớn tiếng mắng: “Thằng chó con cũng chẳng hơn gì lão chó già. Lão chó già sinh ra thằng chó con này cũng là đồ vô dụng.” Bạch Vạn Kiếm trong lòng nóng nảy, kiếm chiêu có phần rối loạn.

Liêu Tự Lệ mừng thầm, cười xảo quyệt rồi hỏi: “Ta đã bảo ngươi là tên bại tướng dưới tay ta, chẳng lẽ còn giả được ư?” Lão nói câu này là cốt để làm rối loạn tâm thần của Bạch Vạn Kiếm, nhân đó mà thủ thắng, không ngờ khéo quá hóa vụng. Chuyến đi Trung Nguyên vừa rồi, Bạch Vạn Kiếm đã trải qua vô số thất bại, khiến hắn tăng thêm mấy phần lịch duyệt. Hắn nghe đối phương mai mỉa, chẳng những không nổi giận mà lại bình tĩnh hơn trước. Hắn xuất luôn bảy chiêu nghiêng về thế thủ, đưa cục diện trở lại bình thường. Rồi sau đó, Bạch Vạn Kiếm cứ ra những chiêu vừa kín đáo vừa cực kỳ lợi hại.

Liêu Tự Lệ chuyển mình rất mau lẹ xung quanh đối phương. Miệng lão không ngớt châm chọc và thóa mạ. Giữa làn kiếm quang lấp loáng, Bạch Vạn Kiếm bỗng hú lên một tiếng dài, rồi soạt soạt chém luôn ba nhát. Đến chiêu thứ tư, ánh kiếm vừa chớp lên thì nghe một tiếng chát, chân trái Liêu Tự Lệ bị chặt đứt tận đầu gối. Lão la lên một tiếng thê thảm, nằm lăn trên vũng máu.

Bạch Vạn Kiếm cầm thanh trường kiếm trỏ về phía Thành Tự Học, lên tiếng gọi: “Ngươi qua đây!” Mũi kiếm của hắn còn đẫm máu, từng giọt một nhỏ xuống đất.

Thành Tự Học sắc mặt lợt lạt, tay nắm chuôi kiếm nhưng chưa rút ra khỏi vỏ. Lão đứng yên hồi lâu rồi mới nói: “Ngươi muốn làm chưởng môn thì cứ… thì cứ việc lên làm là xong. Ta có tranh giành với ngươi đâu?” Bạch Vạn Kiếm lại đưa mắt nhìn thẳng vào mặt Tề Tự Miễn và Lương Tự Tiến. Hai lão Tề, Lương đều lắc đầu.

* * *

Sử bà bà bỗng lên tiếng: “Đả bại được mấy tên cuồng đồ đã lấy chi làm giỏi?” Rồi mụ quay lại bảo Thạch Phá Thiên: “Đồ nhi! Ngươi ra tỉ đấu với gã đi, thử xem đồ nhi của lão chó già lợi hại hơn, hay đồ nhi do ta giáo huấn lợi hại hơn.”

Mọi người nghe mụ nói câu này, ai cũng kinh ngạc tự hỏi: “Thằng lỏi Thạch Trung Ngọc này rõ ràng là đồ nhi của Phong Vạn Lý, tại sao lại biến thành đồ nhi của bà ta?”

Sử bà bà lớn tiếng giục: “Ngươi tiến ra lẹ lên, mà phải dùng đao chứ không được dùng kiếm. Lão chó già đó dạy kiếm pháp tầm thường lắm, đao pháp của chúng ta lợi hại hơn chúng nhiều.”

Thạch Phá Thiên thực tình không muốn tỉ đấu với Bạch Vạn Kiếm, vì chàng nghĩ đến ông ta là phụ thân của A Tú, thật không muốn đắc tội. Nhưng khổ nỗi, nếu chàng mở miệng từ chối thì lập tức Trương Tam, Lý Tứ nhận ra ngay. Chàng cầm thanh đơn đao đứng trước mặt Sử bà bà, vẻ mặt ra chiều khó xử.

Sử bà bà quát lớn: “Chuyện vừa rồi ta đồng ý với ngươi, ngươi không muốn nữa sao? Ta cần ngươi lập được đại công thì việc ấy mới thành. Đại công này tức là đả bại gã đồ nhi của lão già khốn nạn đó. Nếu ngươi mà thua gã thì cút cho xa, vĩnh viễn ta không muốn nhìn thấy ngươi nữa, mà ngươi cũng đừng hòng được gặp A Tú.”

Thạch Phá Thiên gãi gãi đầu, bụng bảo dạ: “Té ra sư phụ bảo mình lập công lớn, chính là đánh bại người con mà lão nhân gia đã sinh ra. Việc này thật là kỳ lạ!”

Bấy giờ mọi người trong sảnh đường đều phỏng đoán ý định của Sử bà bà là muốn thằng lỏi này làm chưởng môn phái Tuyết Sơn, để gã đến Hiệp Khách Đảo nộp mạng thay cho con mụ. Chỉ có A Tú và Bạch Vạn Kiếm là hiểu rõ dụng ý của Sử bà bà.

Thì ra cả đôi vợ chồng Bạch Tự Tại và Sử bà bà đều tính nóng như lửa. Bình thời Sử bà bà phải nhân nhượng chồng ba phần, mối phẫn hận chứa chất trong lòng đã lâu. Khi xảy ra vụ Thạch Trung Ngọc định cưỡng gian A Tú, rồi A Tú mất tích, ai cũng nghĩ là nàng đã nhảy xuống vực sâu mà chết. Bạch Tự Tại chẳng những chặt tay Phong Vạn Lý, quát mắng Sử bà bà, mà trong cơn thịnh nộ lão còn đánh mụ một tát tai. Sử bà bà căm giận bỏ xuống núi, may mà xuống dưới thung lũng cứu được A Tú. Cái tát này mụ vẫn ghi nhớ trong lòng, nhưng võ công không bằng chồng mình nên tuy căm hận mà không có chỗ phát tiết. Bà muốn dạy một tên đồ đệ đả bại con mình, tức là đả bại được đồ đệ của Bạch Tự Tại, để hơn lão một lần.

Bạch Vạn Kiếm vẫn tưởng Thạch Phá Thiên là Thạch Trung Ngọc, mà cũng chưa biết Thạch Phá Thiên là đồ đệ của mẫu thân hắn. Về vụ này thì A Tú hiểu hơn hắn nhiều. Bạch Vạn Kiếm trợn mắt lên nhìn Thạch Phá Thiên ra chiều khinh bỉ.

Sử bà bà nói: “Sao? Ngươi khinh miệt gã ư? Gã thiếu niên này đã bái ta làm sư phụ, đã được ta giáo huấn, hoàn toàn không như trước. Bây giờ ngươi cùng gã tỉ thí một phen. Nếu ngươi thắng được gã, thì coi như lão chó già sư phụ ngươi quả là lợi hại. Còn nếu ngươi bại dưới đao của gã, thì ta gả A Tú cho gã làm vợ.”

Bạch Vạn Kiếm giật mình kinh hãi la lên: “Má má! Việc này nhất định không nên. A Tú nhà ta sao lại gả cho thằng lỏi này được?”

Sử bà bà mỉm cười nói: “Nếu ngươi đánh bại được thằng nhỏ này, thì đương nhiên không gả A Tú cho nó. Nếu không, thì ngươi đâu được có chủ trương nữa?”

Bạch Vạn Kiếm không khỏi ngấm ngầm tức giận, nghĩ thầm: “Má má giận gia gia mà lại trút hận lên đầu mình. Ta mà không đánh bại được thằng lỏi này thì làm người trên thế gian cũng uổng mà thôi.”

Sử bà bà thấy sắc mặt của hắn có phần giận dữ, bèn quát: “Trong lòng ngươi không phục thì cứ rút kiếm ra, chứ đứng đó mà giận dữ vô duyên như thế thì có ích gì?”

Bạch Vạn Kiếm “Vâng” một tiếng rồi quay lại bảo Thạch Phá Thiên: “Ngươi xuất chiêu đi!”

Thạch Phá Thiên đưa mắt nhìn A Tú, thấy nàng vừa bẽn lẽn vừa lo lắng, thì bụng bảo dạ: “Sư phụ đã nói nếu mình thua thì vĩnh viễn không được gặp A Tú nữa. Cuộc tỉ võ này mình không thắng không được.” Chàng cầm thanh đơn đao hướng mũi đao xuống, hai tay ôm quyền, hơi nghiêng người một tí, đây là khởi chiêu Khai Môn Hiệp Đạo của Kim Ô đao pháp. Chàng không biết Khai Môn Hiệp Đạo là câu dùng để mắng người, còn Bạch Vạn Kiếm lại càng không biết tên của chiêu này. Hắn thấy tư thế của chàng cũng rất cung kính, chỉ hừ một tiếng rồi vung trường kiếm ra, kiếm phong rít lên.

Thạch Phá Thiên đưa đao ra đỡ chiêu kiếm đó rồi trả lại một đao. Lúc ở Tử Yên đảo chàng đã dùng một con dao rỉ sét giao đấu cùng Bạch Vạn Kiếm. Khi Bạch Vạn Kiếm sử dụng những công phu thô sơ nhất của phái Tuyết Sơn, chàng không biết đường chống đỡ mới bị mũi kiếm của đối phương khoét thủng một lỗ tròn trước ngực áo.

Sau này được nghe vợ chồng Thạch Thanh chỉ điểm những đạo lý trong võ học, chàng mới hiểu là khi giao đấu phải tùy cơ ứng biến, không thể cứ chăm chút chiêu thức của mình. Bây giờ chàng tỉ đấu lần thứ hai với Bạch Vạn Kiếm, không như lần trước cứ thấy chiêu nào trả chiêu đó, cứ như người ta tập vẽ. Lúc xuất đao chàng đã sử dụng những yếu quyết mà vợ chồng Thạch Thanh phu phụ đã dạy. Nội lực của chàng mà vận vào thì dù những chiêu thức bình thường nhất cũng rất có uy lực, huống hồ những công phu của Sử bà bà và vợ chồng Thạch Thanh đã dạy cho chàng đều là võ công thượng thừa.

Hai bên qua lại được mười mấy chiêu, Bạch Vạn Kiếm đã ngấm ngầm kinh hãi tự hỏi: “Không hiểu thằng lỏi này đã học được đao pháp cao thâm ở đâu?” Hắn nghĩ lại ngày ở đảo Tử Yên đã tỉ võ cùng chàng thiếu niên bang chúa bang Trường Lạc, tự xưng là khai sơn đại đệ tử phái Kim Ô. Đao pháp cả hai người tương tự như nhau, nhưng về chiêu thức biến ảo tinh kỳ thì thiếu niên kia còn thua thằng lỏi Thạch Trung Ngọc này xa lắm. Rồi hắn tự hỏi: “Hai người này tướng mạo giống nhau, phải chăng cùng ở một sư môn? Mẫu thân ta nói là đã truyền thụ võ nghệ cho gã, chẳng lẽ là chuyện thật ư?”

Sau khi Sử bà bà kết hôn với Bạch Tự Tại không lâu, có lần hai người đàm luận võ công có những điểm không hợp nhau, bèn chiết chiêu động thủ. Dĩ nhiên là Sử bà bà địch không lại, Bạch Tự Tại cũng lập tức dừng tay rồi tự ca ngợi mình. Sử bà bà xấu hổ vì võ công của mình không bằng trượng phu, từ đó về sau không biểu diễn một chiêu nửa thức, cho nên Bạch Vạn Kiếm cũng hoàn toàn không biết võ công của mẹ mình.

Thêm mấy chiêu nữa, Bạch Vạn Kiếm cầm thanh kiếm chém ngang, Thạch Phá Thiên vung đao ra gạt. Nghe choang một tiếng, tia lửa ra bắn tung tóe. Bạch Vạn Kiếm cảm thấy một luồng đại lực chấn động cánh tay phải hắn tê nhức, trước ngực đau nhói lên. Hắn giật mình kinh hãi, bất giác lùi lại ba bước.

Thạch Phá Thiên không truy kích, quay lại nhìn Sử bà bà ngầm hỏi: “Như vậy đã thắng chưa?”

Không ngờ Bạch Vạn Kiếm gặp địch càng mạnh thì dũng khí lại càng tăng. A Tú bình yên vô sự, đáng lẽ nỗi hận của hắn đối với Thạch Trung Ngọc phải tiêu giảm đến chín phần mười. Nhưng lòng khinh bỉ tính cách gian xảo bỉ ổi thì chưa giảm bao nhiêu, huống gì Thạch Trung Ngọc là một gã hậu bối bản môn, nếu chịu thua gã thì còn chi là thể diện?

Bạch Vạn Kiếm thét lên: “Tiểu tử! Xem kiếm đây.” Rồi hắn lại tiến lên ba bước, phóng kiếm đâm tới. Khi Thạch Phá Thiên vung đao lên gạt, Bạch Vạn Kiếm không để cho thanh kiếm của mình chạm vào đơn đao của chàng. Lập tức hắn biến chiêu, xoay mũi kiếm lại đâm xéo lên yết hầu đối phương. Chiêu kiếm này gọi là Tuyết Mê Hồng Trảo, bộ vị tính toán rất đúng, phát huy được tuyệt nghệ của Tuyết Sơn kiếm pháp.

Trương Tam khen ngợi: “Hảo kiếm pháp!”

Thạch Phá Thiên bèn hoành đao chém vào cánh tay đối phương. Đây là chiêu Đạp Tuyết Tầm Mai trong Kim Ô đao pháp, chính là khắc tinh của chiêu Tuyết Mê Hồng Trảo trong Tuyết Sơn kiếm pháp. Sau khi người ta đạp trên mặt tuyết để tìm hoa mai, dấu vết trước đó trên mặt tuyết dĩ nhiên không thể tìm được nữa.

Trương Tam lại khen: “Hảo đao pháp!”

Hai người càng đấu càng nhanh. Bạch Vạn Kiếm hơn ở chỗ kiếm pháp thuần thục, nhưng về nội lực thì Thạch Phá Thiên chiếm được thượng phong. Hai bên qua lại hơn hai chục chiêu nữa. Thạch Phá Thiên phóng đao đâm lẹ vào trước ngực. Đao thế rất lợi hại, Bạch Vạn Kiếm không kịp tránh né, bị ép phải đưa ngang thanh kiếm ra đỡ.

Bỗng nghe đánh choảng một tiếng, trường kiếm trong tay Bạch Vạn Kiếm bị gãy đôi. Thạch Phá Thiên lập tức thu đao lùi lại phía sau. Bạch Vạn Kiếm sắc mặt xám xanh, giật lấy trường kiếm trong tay một tên đệ tử phái Tuyết Sơn đứng cạnh, lại đâm tới trước mặt Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên kịch đấu một hồi, nội lực súc tích trong thân thể chàng càng lúc càng phát sinh thêm. Mỗi đao chàng chém tới đều khiến cho Bạch Vạn Kiếm khó mà chống đỡ, vì nội lực đã phát huy vào lưỡi đao vô cùng lợi hại. Thêm mấy chiêu nữa, lại nghe đánh rắc một tiếng, thanh kiếm trong tay Bạch Vạn Kiếm gãy đôi.

Bạch Vạn Kiếm lại đổi một thanh kiếm khác, được bốn chiêu lại gãy. Hắn cầm thanh kiếm lớn tiếng nói: “Nội lực của ngươi mạnh hơn ta, nhưng chiêu số ta không chịu thua ngươi.” Hắn liệng thanh kiếm gãy đi, lại xoay tay lấy một thanh kiếm khác, xông lên đánh tiếp với Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên nghiêng người đi tránh né, chỉ mong Sử bà bà hạ lệnh ngừng đấu. Chàng không ngừng liếc sang bà, nhưng lại thấy bà ta có vẻ đắc chí, còn ánh mắt A Tú đứng bên thì lại có phần lo lắng quan tâm. Chàng động tâm, nhớ lại ngày trước ở đảo Tử Yên, nàng từng dặn dò mình: “Người trong võ lâm đều rất hiếu danh. Nhân vật nổi tiếng mà đả thương đại ca thì chẳng sao, nhưng nếu bại về tay đại ca thì họ còn khó chịu hơn là chết. Vì thế mà lúc tỉ võ, hay hơn hết là đại ca để người ta có lối thoát.” Chàng thấy vẻ mặt Bạch Vạn Kiếm cực kỳ nghiêm trọng thì bụng bảo dạ: “Y là một người rất có danh vọng trong phái Tuyết Sơn, mà nay ở trước mặt đông người bản phái thế này, nếu bị mình đả bại thì còn chi là thể diện? Nhưng nếu ta chịu thua y, thì sư phụ lại không cho ta gặp A Tú nữa. Bây giờ biết làm thế nào? Phải rồi! Để ta sử chiêu Bàng Cổ Trắc Kích mà nàng đã dạy ta, để giữ lấy thế không thua không thắng là được rồi.”

Nghĩ tới đây, trong óc chàng lóe lên một tia sáng, chợt tỉnh ngộ ngay. Chàng tự nhủ: “Lúc ở đảo Tử Yên, ta đã hứa với A Tú là khi tỉ võ với người khác nhất quyết không cạn tàu ráo máng, hễ tha người được phải tha ngay. Nàng đã cảm kích vô cùng, lại còn quỳ xuống lạy ta. Cái lạy ấy chính là vì cuộc chiến hôm nay, nếu không vì phụ thân, hà tất nàng phải lạy ta? Thì ra ngày ấy nàng thấy Sử bà bà truyền thụ đao pháp cho ta, đã nghĩ đến phụ thân mình chắc chắn không địch nổi.”

Thạch Phá Thiên nghĩ vậy, bèn thi triển chiêu Bàng Cổ Trắc Kích, bên tả chém một đao, bên hữu chém một đao, trước ngực để sơ hở.

Bạch Vạn Kiếm thấy đối phương lộ ra sơ hở, bất giác phấn khởi tinh thần. Hắn không nghĩ ngợi gì nữa, phóng kiếm đâm thẳng vào trước ngực đối phương. Giữa lúc ấy, Thạch Phá Thiên vung đao chém xuống phía trước một nhát. Mũi kiếm Bạch Vạn Kiếm phóng tới còn cách ngực chàng một thước, bỗng đụng phải lưỡi đao này chém xuống. Toàn thân hắn run bắn lên như người bị điện giật, thanh kiếm rung động ngân lên những tiếng u u mãi không dứt.

Thạch Phá Thiên lại lùi hai bước nữa, nghĩ bụng: “Ta đánh gãy của ông ấy ba thanh trường kiếm, muốn giữ thế hòa thì cũng chịu gãy một thanh đơn đao mới phải.” Chàng liền ngấm ngầm vận nội kình vào tay. Nghe cách một tiếng, thanh đao bị gãy làm hai đoạn.

Người ngoài cứ tưởng là thanh đao bị gãy vì luồng kình lực ở lưỡi kiếm xô ra. A Tú thở phào một cái như cất được gánh nặng. Nàng lớn tiếng gọi: “Gia gia! Đại ca! Cuộc tỉ đấu này hai bên ngang sức, không ai thắng ai.”

Nàng quay lại nhìn Thạch Phá Thiên mỉm cười tự nhủ: “Chàng vẫn còn nhớ được lời mình dặn ngày trước, đã vì ta mà làm thế. Thạch lang xử sự thật là phải phép, tình nghĩa đối với mình thật là thâm trọng.” Trong lòng nàng mừng rỡ không tả xiết.

Bạch Vạn Kiếm thì sắc mặt không còn chút huyết sắc, thanh kiếm trong tay cắm xuống đất ngập hơn nửa. Hắn nhìn Thạch Phá Thiên nói: “Ngươi cố ý nhường ta chiêu này, Bạch mỗ đâu phải là không biết? Ngươi không muốn để ta mất mặt trước đám đông, thịnh tình này cũng khá đủ rồi.”

Sử bà bà ra chiều đắc ý nói: “Hài nhi! Ngươi bất tất phải lấy thế làm khó chịu. Đao pháp đó ta đã dạy cho gã, rồi đây sẽ đem truyền cho hài nhi. Ngươi có thua gã cũng là thua ta, chúng ta là mẹ con trong nhà, có ai đâu mà ngại?”

Trước kia mụ căm hận trong lòng, hễ mở miệng là thóa mạ “lão chó già”, “thằng chó con” không ngớt. Nhưng bây giờ mụ thấy Thạch Phá Thiên dùng Kim Ô đao pháp đả bại được con trai, tức là mụ đã thắng thế lang quân, trong lòng thỏa mãn bèn lấy lời ngọt ngào để an ủi con.

Bạch Vạn Kiếm nghe mẫu thân nói, không biết nên cười hay nên khóc. Hắn đành nói: “Đao pháp của mẫu thân quả là lợi hại. E rằng hài nhi ngu xuẩn không học nổi.”

Sử bà bà đi đến cạnh hắn vuốt đầu vỗ vai ra vẻ thương yêu rồi nói: “Hài nhi còn thông minh hơn tiểu tử ngu ngốc kia nhiều. Gã học được, thì sao hài nhi lại không học được?” Rồi mụ quay lại Thạch Phá Thiên: “Mau mau tới khấu đầu trước nhạc phụ của ngươi đi!”

Thạch Phá Thiên ngẩn người ra một chút rồi mới hiểu ý. Chàng vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ, trông về Bạch Vạn Kiếm khấu đầu sụp lạy.

Bạch Vạn Kiếm vội lạng người tránh né, giận dữ nói: “Khoan đã, việc này thong thả rồi sẽ tính.” Đoạn hắn quay lại nói với Sử bà bà: “Mẫu thân! Thằng lỏi này tuy võ công cao cường nhưng phẩm hạnh tồi tàn. Ta không nên vội vàng làm lỡ cuộc chung thân của A Tú.”

Lý Tứ bỗng dõng dạc lên tiếng: “Được rồi! Được rồi! Ngươi nhận người ta là con rể cũng được mà không cũng không sao, chúng ta không đợi uống rượu mừng đâu. Ta thấy trong phái Tuyết Sơn không còn ai võ công cao bằng tiểu huynh đệ này. Thế thì y có phải là chưởng môn không? Các vị có phục hay là không phục?”

Bạch Vạn Kiếm, Thành Tự Học và hết thảy đệ tử phái Tuyết Sơn không ai lên tiếng. Người thì tự biết võ công mình không bằng, người thì chỉ mong chàng nhận chức chưởng môn rồi đến Hiệp Khách Đảo chịu chết. Vì thế mà trong nhà đại sảnh yên lặng như tờ, không ai lên tiếng. Trương Tam lấy trong bọc ra hai tấm bài đồng, mỉm cười nói: “Chúc mừng huynh đệ lại làm thêm chưởng môn phái Tuyết Sơn. Nhận lấy hai tấm đồng bài này đi.” Hắn nói xong, liếc nhìn Thạch Phá Thiên nháy mắt mấy cái.

Thạch Phá Thiên sửng sốt tự hỏi: “Đại ca nhận ra ta rồi ư? Ta chưa nói câu nào, sao lại bại lộ hành tung được?” Chàng có biết đâu, Trương Tam Lý Tứ võ công đã cao cường thì kiến thức cũng hơn người. Tuy chàng chưa lên tiếng mà cử chỉ cũng chưa lộ hình tích, nhưng vừa rồi chàng đã động thủ cùng Bạch Vạn Kiếm, về đao pháp thì chẳng nói làm gì, song nội lực chàng thâm hậu ít thấy trên chốn giang hồ. Trương Tam và Lý Tứ đã cùng chàng thi uống rượu độc, đã phải tâm phục nội lực đó, nên vừa nhìn thấy nội lực phi thường là nhận ra chàng ngay.

Thạch Phá Thiên thấy Trương Tam đưa đồng bài ra trước mặt mình, thì nghĩ bụng: “Khi ở bang Trường Lạc ta đã tiếp nhận thẻ đồng. Tiếp nhận một lần là chết, tiếp nhận hai lần bất quá cũng chết là cùng. Vậy bây giờ ta nhận nữa cũng chẳng hề chi”. Chàng toan đưa tay ra đón lấy bài đồng, bỗng nghe Sử bà bà la lên: “Khoan đã!”

Thạch Phá Thiên đưa hai tay ra nửa chừng lại rụt về, quay lại nhìn Sử bà bà. Mụ lên tiếng nói: “Ngôi chưởng môn phái Tuyết Sơn đã nói rõ là căn cứ vào võ công để quyết định, như vậy kể như ngươi đã đoạt được rồi. Có điều ta thấy lão chó già đã làm chưởng môn, oai phong chưa tới đâu mà đã ngông cuồng tự phụ, nên bây giờ cũng muốn làm chưởng môn chơi một phen. Hài tử! Ngươi nhường lại chức chưởng môn cho ta đi.”

Thạch Phá Thiên ngạc nhiên nói: “Đồ đệ… đồ đệ nhường cho sư phụ ư?”

Hành động này của Sử bà bà là hết sức chí tình với chàng và A Tú. Bà không muốn chàng mất mạng trên Hiệp Khách Đảo, chính mình thì tuổi tác đã cao, sống bớt đi vài năm cũng chẳng khác gì. Còn vụ Thạch Phá Thiên đã nhận đồng bài ở Trường Lạc Bang, bà ta hoàn toàn không biết.

Sử bà bà tức giận quát lên: “Sao? Ngươi không chịu ư? Vậy chúng ta lại phải tỉ đấu, căn cứ vào võ công mà ấn định.”

Thạch Phá Thiên thấy mụ nổi giận, chàng không dám nói gì nữa, buột miệng vâng dạ rồi khom lưng lùi lại. Sử bà bà cười ha hả nói: “Bây giờ ta là chưởng môn phái Tuyết Sơn. Có ai chưa phục không?”

Mọi người ngơ ngác nhìn nhau. Ai cũng cảm thấy biến diễn này hết sức kỳ cục, nhưng chẳng ai dám hé răng. Sử bà bà rảo bước tiến lên, đón lấy hai tấm đồng bài trong tay Trương Tam rồi nói: “Chưởng môn mới của phái Tuyết Sơn là Sử thị đa tạ quý đảo đã đưa thư mời, xin hẹn đến kỳ sẽ tới dự yến.”

Trương Tam cười ha hả nói: “Lão phu nhân! Tuy bà đã đích thân nhận lấy đồng bài, nhưng lát nữa Uy Đức tiên sinh tỉ võ với bà thì chức chưởng môn chắc không giữ được. Được rồi! Phu phụ của bà sẽ quyết thắng bại sau, vị nào võ công cao hơn sẽ là chưởng môn phái Tuyết Sơn.” Rồi gã cùng Lý Tứ mỉm cười, xoay mình vọt ra cửa. Chưa chớp mắt xong, tiếng cười của hai người đã ở ngoài xa mấy chục trượng rồi.

Sử bà bà ngồi trên ghế thái sư giữa đại sảnh, lạnh lùng lên tiếng: “Mở khóa xiềng xích cho bọn người kia ra!”

Lương Tự Tiến lên tiếng: “Sư tẩu căn cứ vào cái gì mà phát lệnh? Chức chưởng môn phái Tuyết Sơn đâu phải là đồ chơi con nít, lấy tình riêng mà truyền thụ cho nhau?”

Thành Tự Học, Tề Tự Miễn cũng hùa theo: “Sư tẩu sử đao chứ không sử kiếm, không phải là chiêu số phái Tuyết Sơn thì làm chưởng môn bản phái thế nào được?”

Lúc Trương Tam, Lý Tứ còn ở đại sảnh, mọi người chỉ mong sao tống khứ được hai tên quỷ sứ đó đi càng sớm càng tốt, lại mong có người đứng ra đến Hiệp Khách Đảo chịu chết thay cho họ. Nhưng bây giờ hai người bỏ đi rồi, mọi người coi như vận hạn đã qua, nghĩ lại mình đã truất phế chưởng môn, phạm tội phản nghịch cũng không phải là chuyện nhỏ. Thế là trong đại sảnh lại bắt đầu huyên náo.

Sử bà bà nói: “Được lắm! Các ngươi không phục ta làm chưởng môn, thì cũng chẳng hề chi.” Mụ xát hai tấm bài đồng trong tay vào nhau bật thành tiếng leng keng, rồi nói tiếp: “Người nào muốn lên làm chưởng môn để tới Hiệp Khách Đảo dự yến Lạp Bát thì cứ qua đây nhận lấy tấm bài đồng này. Vừa rồi gã mập kia đã nói, đồng bài tuy là ta nhận, nhưng ngôi chưởng môn phái Tuyết Sơn còn có thể dựa vào võ công mà phân định”. Mụ đưa mắt nhìn bọn Thành Tự Học, Tề Tự Miễn, Lương Tự Tiến. Mọi người đều quay đầu đi, không dám nhìn thẳng vào mặt mụ.

Phong Vạn Lý nói: “Bẩm sư nương! Mọi người đã phạm thượng làm loạn, ngỗ nghịch với sư phụ, thực là tội đáng muôn thác, nhưng bên trong cũng có chỗ khổ tâm không nói ra được.” Hắn nói tới đó, quỳ hai chân xuống đất dập đầu lia lịa, rồi tiếp: “Bây giờ sư nương lên làm chưởng môn bản phái thì còn gì hay hơn nữa? Sư nương có giết đệ tử, đệ tử cũng cam lòng chịu chết. Nhưng đệ tử chỉ xin sư nương ban lệnh đại xá để mọi người được yên lòng, tránh khỏi đại họa người trong một phái tàn sát lẫn nhau.”

Sử bà bà nói: “Sư phụ ngươi tâm địa không tốt, làm gì ta chẳng biết? Lão đã chặt đứt cánh tay của ngươi, đó là một chuyện sai lầm rất lớn. Việc này đầu đuôi thế nào, ngươi hãy nói cho ta nghe!”

Phong Vạn Lý lại dập đầu binh binh hai cái nữa, rồi nói: “Từ khi sư nương cùng Bạch sư ca và các sư đệ xuống núi, ngày nào sư phụ cũng nóng nảy. Đệ tử bị sư phụ đánh mắng thì chỉ là chuyện nhỏ, mọi người đã chịu ơn sâu của sư môn, chẳng khi nào dám buông lời oán thán. Nhưng nửa tháng trước đây, đột nhiên có hai lão già đến viếng sư phụ. Họ tự xưng là họ Đinh, một là Đinh Bất Tam, một là Đinh Bất Tứ.”

Sử bà bà nghe đến đó bỗng giật mình kinh hãi, ngắt lời: “Đinh Bất Tam… Đinh Bất Tứ? Hai gã này đến thành Lăng Tiêu có chuyện gì?”

Phong Vạn Lý nói: “Hai lão này sau khi đến thành Lăng Tiêu đã cùng sư phụ mật đàm trong thư phòng. Họ nói những gì, bọn đệ tử đều chẳng ai hay, chỉ biết hai lão kia đã đắc tội với sư phụ. Ba người to tiếng tranh chấp. Bọn đệ tử nghĩ sư phụ một mình không địch nổi hai người, vì thế mà canh giữ ngoài cửa phòng, chỉ đợi sư phụ hô lên một tiếng là xông vào đối phó với họ. Bọn đệ tử thấy sư phụ tức giận vô cùng, cãi nhau ầm ầm với Đinh Bất Tứ. Người nói những gì là Bích Loa Sơn, Tử Yên Đảo, lại nhắc đến tên bà Tiểu Thúy nào đó.”

Sử bà bà hắng giọng một tiêng, sa sầm nét mặt. Nhưng mụ nghĩ bọn đồ đệ không biết khuê danh mình là Tiểu Thúy, nói ra thì chẳng hay ho gì, nên chỉ hỏi: “Rồi sao nữa?”

Phong Vạn Lý nói: “Sau không hiểu vì lẽ gì hai bên đi đến chỗ động thủ. Trong thư phòng chưởng phong rít lên vù vù, mọi người chưa được hiệu lệnh của sư phụ nên không dám tiến vào. Sau một lúc, tường vách bị chấn động đổ xuống, bọn đệ tử mới nhìn thấy sư phụ đang cùng Đinh Bất Tứ động thủ, còn Đinh Bất Tam chỉ thõng tay đứng xem. Chưởng phong hai người chấn động bốn bức tường thư phòng phải nứt ra. Cuộc đấu kéo dài khá lâu, về sau Đinh Bất Tứ không địch nổi thần lực của sư phụ, bị sư phụ đánh một chiêu trúng ngực hộc máu tươi ra.”

Sử bà bà à lên một tiếng. Phong Vạn Lý lại kể tiếp: “Sư phụ lại phóng tiếp chưởng thứ hai ra. Bấy giờ Đinh Bất Tam mới ra tay ngăn cản rồi nói: “Đã phân thắng bại rồi, còn đánh làm gì nữa? Vụ này đâu phải mối thù chẳng đội trời chung?” Lão nâng đỡ Đinh Bất Tứ dậy, rồi cả hai rời khỏi thành Lăng Tiêu.”

Sử bà bà gật đầu hỏi: “Bọn họ đi rồi sau này có trở lại nữa không?”

Phong Vạn Lý đáp: “Hai lão đó không trở lại, nhưng từ đấy thần trí sư phụ trở nên thất thường. Suốt ngày người cứ cười ha hả, lảm nhảm một mình: “Thằng giặc già Đinh Bất Tứ là bại tướng dưới tay ta. Lần này hắn bị thua đã phải tâm phục khẩu phục rồi. Nhưng hắn nói Tiểu Thúy đã từng theo hắn đến núi Bích Loa…”

Sử bà bà tức quá quát lên: “Nói láo! Làm gì có chuyện đó?”

Phong Vạn Lý vâng dạ liên hồi rồi tiếp: “Sư phụ cũng nói: “Tên lão tặc kia rõ ràng đã lừa gạt ta. Tiểu Thúy là cái gì mà đến Bích Loa Sơn của hắn? Chẳng qua… chẳng qua… Mà không chừng hắn nói thật, nhất thời người ta không quyết định được chủ ý.”

Sử bà bà vẻ mặt xám xanh, lại quát lên: “Lão chó già nói trăng nói cuội. Làm gì có chuyện không quyết định chủ ý?”

Phong Vạn Lý chẳng hiều ý Sử bà bà ra sao, lại vâng dạ một hồi. Sử bà bà lại hỏi: “Lão chó già kia còn nói gì nữa không?”

Phong Vạn Lý hỏi: “Phải chăng sư nương đang nhắc tới sư phụ?”

Sử bà bà đáp: “Dĩ nhiên là ta nói lão.”

Phong Vạn Lý nói: “Từ đó dường như trong lòng sư phụ phải ôm mối tâm sự nặng nề. Lão nhân gia thường tự hỏi: Nàng có lên Bích Loa Sơn hay không? Nhất định là không. Nhưng nàng một mình phiêu bạt giang hồ, những lúc hiu quạnh không khỏi trông trời trông nước. Chuyện này thật khó nói lắm, thật khó nói lắm! Không chừng tình cũ còn chưa quên hẳn, ngó sen tuy gãy nhưng tơ lòng vẫn còn vương víu.”

Sử bà bà lại hứ một tiếng, tức giận quát mắng: “Nói thúi lắm.” Phong Vạn Lý quỳ dưới đất, vẻ mặt hết sức khó coi. Nếu hắn “vâng” một tiếng, tức là đã thừa nhận sư phụ nói thúi. Sử bà bà bảo hắn: “Ngươi đứng dậy nói tiếp đi. Rồi sau ra làm sao?”

Phong Vạn Lý dập đầu một cái rồi nói: “Đa tạ sư nương.” Đoạn hắn đứng lên kể tiếp: “Hai ngày sau, sư phụ đột nhiên cười rộ không ngừng, gặp ai cũng hỏi: “Theo ngươi thì trên khắp thiên hạ, võ công của ai cao nhất?” Ai nấy đều đáp: “Dĩ nhiên võ công của chưởng môn phái Tuyết Sơn ta cao nhất”. Ai cũng nhận thấy thái độ sư phụ so với ngày thường thực khác nhau xa. Có lúc người lại hỏi: “Võ công của ta cao ở chỗ nào?”. Thì mọi người lại trả lời: “Từ xưa tới nay, nội lực sư phụ đã độc đáo nhất thiên hạ, kiếm pháp lại càng thế gian vô địch. Thực ra chưởng môn không cần phải dùng kiếm, chỉ hai bàn tay không cũng đủ đả bại hết thiên hạ, không ai địch nổi”. Sư phụ thấy bọn đệ tử trả lời như vậy thì chỉ mỉm cười chứ không lên tiếng, hiến nhiên người rất vừa lòng. Không ngờ một hôm sư phụ ở trong viện gặp Lục sư đệ liền hỏi: “Võ công ta so với chưởng môn phái Thiếu Lâm là Phổ Pháp đại sư thì ai cao hơn?”. Lục sư đệ trả lời thế nào, bọn đệ tử không nghe rõ, về sau chỉ thấy gã bị chưởng đánh nát đầu, chết ngay lập tức.”

Sử bà bà thở ra một hơi, thần sắc buồn bã nói: “Gã họ Lục ngày thường vẫn đần độn. Sao ngươi biết là sư phụ đã hạ thủ giết gã?”

Phong Vạn Lý đáp: “Bọn đồ nhi thấy Lục sư đệ bị chết một cách thê thảm, lại sợ rằng thành Lăng Tiêu có địch nhân xâm nhập, vội chạy đến báo với sư phụ. Ngờ đâu sư phụ cười ha hả rồi nói: “Gã đáng chết lắm! Chết là phải! Ta hỏi gã, giữa ta và chưởng môn phái Thiếu Lâm là Phố Pháp đại sư, võ công ai cao hơn? Thằng lỏi đó dám nói từ khi Diệu Đế đại sư chưởng môn phái Thiếu Lâm tới Hiệp Khách Đảo, nghe nói Phổ Pháp đại sư ở chùa Thiếu Lâm là võ công cao nhất. Câu đó thì không sao, nhưng hắn lại nói nhăng những gì là công phu bản phái sở trường về kiếm chiêu biến ảo, còn võ công phái Thiếu Lâm lại tinh thâm hơn nhiều, bảy mươi hai tuyệt kỹ đều có chỗ cao minh, về kiếm pháp thì bản phái hơn phái Thiếu Lâm, còn nói chung về võ công thì phái Thiếu Lâm đã sáng lập hơn ngàn năm, những chỗ sở đắc của họ so với bản phái dĩ nhiên phải hơn nhiều.”

Sử bà bà nói: “Gã trả lời như vậy chẳng sai chút nào. Thằng ngốc họ Lục đã học được cách ăn nói rõ ràng như vậy từ lúc nào? Mà nói riêng về kiếm pháp, thì kiếm pháp phái Tuyết Sơn cũng chưa thấy có chỗ nào đặc biệt hơn Đạt Ma kiếm pháp của người ta. Hừ, vậy rồi lão chó chết bảo sao?”

Phong Vạn Lý nói: “Sư nương mạt sát sư phụ như vậy, đệ tử không dám nói nữa.”

Sử bà bà tức giận dữ hỏi: “Bây giờ ngươi lại tôn kính sư phụ rồi ư? Chà, vậy mà lúc ta chưa quay về thành Lăng Tiêu, sao ngươi dám cấu kết với phường phản bạn để ám toán sư phụ?”

Phong Vạn Lý lại quỳ hai gối xuống, dập đầu đáp: “Tội đệ tử thật đáng chết.”

Sử bà bà nói: “Hừ! Bọn đồ đệ của lão chó già đều dùng chữ Vạn làm chữ lót, tên nào cũng có cái tên nghe rất mỹ miều. Theo ý ta thì bọn ngươi phải gọi là Vạn Tử mới đúng. Nào là Phong Vạn Tử, Cảnh Vạn Tử, Kha Vạn Tử, Hoa Vạn Tử, Hô Diên Vạn Tử…”

Mụ nói đến tên ai, mục quang lại chiếu thẳng vào mặt người đó. Bọn Cảnh Vạn Chung, Vương Vạn Nhận đều hổ thẹn cúi gầm mặt xuống. Sử bà bà lại quát: “Đứng dậy! Sư phụ ngươi còn nói sao nữa?”

Phong Vạn Lý dạ một tiếng, đứng dậy nói tiếp: “Sư phụ bảo: “Thằng lỏi này nói võ công bản phái cùng phái Thiếu Lâm mỗi bên một vẻ. Thế là gã nói ta cùng lão trọc Phổ Pháp chẳng ai hơn ai. Gã đáng chết, đáng chết lắm! Uy Đức tiên sinh Bạch Tự Tại này chẳng những võ công đệ nhất thiên hạ, mà năm ngàn năm sau trước, mấy vạn dặm dọc ngang, không tiền khoáng hậu, từ cổ chí kim chẳng ai bằng được.”

Sử bà bà buông lời mạt sát: “Ái chà! Nói khoác đến thế mà không biết thẹn!”

Phong Vạn Lý nói: “Bọn đồ đệ thấy sư phụ nói mấy câu này chứng tỏ thần trí đã thất thường, chứ không phải lời sáng suốt. May lúc đó toàn người trong nhà, không đến nỗi đồn đại ra ngoài để bọn võ sư các phái khác lấy làm trò cười. Lúc ấy anh em ngơ ngác nhìn nhau, không ai dám nói gì. Sư phụ lại tức giận quát mắng: “Bọn ngươi câm hết rồi sao mà không nói năng gì? Ta nói không đúng ư?” Sư phụ lại chỉ Tô sư đệ hỏi: “Vạn Hồng! Ngươi bảo ta nói thế có đúng không?” Tô sư đệ đành đáp: “Lời sư phụ dĩ nhiên là đúng”. Sư phụ tức giận nói: “Đúng là đúng mà sai là sai, sao lại còn dĩ nhiên với chẳng dĩ nhiên? Ta hỏi ngươi, võ công của ta cao đến mức nào?” Tô sư đệ run rẩy đáp: “Võ công của sư phụ cao thâm không biết đến đâu mà lường, cổ kim chỉ có mình sư phụ mà thôi. Võ công bản phái đều do sư phụ chấn hưng cho rộng lớn thêm.” Sư phụ lại càng nổi giận, quát mắng: “Theo lời ngươi nói thì võ công của ta là do tiền nhân truyền dạy ư? Ngươi thật là ngu xuẩn. Võ công phái Tuyết Sơn là tự ta một mình sáng lập, còn những lời đồn đại về tổ sư gia phái Tuyết Sơn đều là nhảm nhí. Tổ sư gia truyền lại kiếm phổ quyền phổ gì thì ai nấy đều biết cả rồi, đâu có cao minh như ta?” Tô sư đệ liền nói: “Đồ nhi e rằng tổ sư gia cũng không cao minh bằng sư phụ.”

Sử bà bà than thở: “Cái tính ngông cuồng tự đại của sư phụ ngươi đã có từ lâu. Từ lúc ba mươi mấy tuổi lên làm chưởng môn bản phái, lão không gặp ai thắng được mình, đã vội tự cho là võ công mình thiên hạ đệ nhất. Ai nhắc tới võ công các phái khác như Thiếu Lâm, Võ Đang, lão đều cho là chẳng ra gì, chỉ có hư danh không đáng kể. Không ngờ tính ngông cuồng tự đại của lão càng ngày càng tệ, dám coi cả tổ sư gia bản phái không vào đâu. Thẳng lỏi Tô Vạn Hồng cũng thật sự không có chút tư cách nào, dám phỉ báng cả tổ sư gia để nịnh hót sư phụ.”

Phong Vạn Lý nói: “Sư nương! Chắc sư nương không ngờ nổi, sư phụ nghe xong câu đó là vung chưởng đánh Tô sư đệ văng ra mấy trượng, chết ngay lập tức. Sư phụ còn quát: “Không cao minh bằng là không cao minh bằng, sao còn e rằng với chẳng e rằng gì nữa?”

Sử bà bà la lớn: “Nói càn, nói bậy! Lão chó già đó có hồ đồ gấp mười cũng không đến nỗi vì hai chữ “e rằng” mà giết một tên đệ tử thân yêu.”

Phong Vạn Lý nói: “Sư nương minh xét! Ngày thường sư phụ đối với bọn đệ tử ơn nặng như núi, dù đệ tử có tệ hại đến đâu cũng không dám bịa đặt nói càn. Việc này có hơn hai chục người thấy rõ, sư nương cứ hỏi thì sẽ biết.”

Sử bà bà đảo mắt nhìn vào mặt từng tên đệ tử chi trưởng ở lại thành Lăng Tiêu. Sắc mặt của bọn này đều tỏ vẻ đồng ý, tựa như cùng nói: “Tình hình lúc đó thật sự là như thế, Phong sư ca hoàn toàn không nói dối.”

Sử bà bà lắc đầu quầy quậy, thở ra một hơi nói: “Việc như thế làm sao ta tin được? Chẳng khác nào lão bị điên rồi sao?”

Phong Vạn Lý nói: “Sư phụ thật tình đã mắc bệnh, thần trí không được minh mẫn.”

Sử bà bà nói: “Thế thì các ngươi phải tìm thầy chữa thuốc cho lão chứ?”

Phong Vạn Lý nói: “Bọn đệ tử lúc đó cũng đã nghĩ vậy, nhưng không dám tự quyết, liền cùng mấy vị sư thúc thương lượng rồi đi mời hai vị danh y nổi tiếng nhất trong thành là Nam đại phu và Đới đại phu đến xem mạch cho sư phụ. Sư phụ vừa thấy đã hỏi họ đến để làm gì. Hai vị đại phu không dám nói thẳng, chỉ bảo là nghe tin sư phụ ăn uống không được ngon miệng. Bọn họ ở trong thành đã được sư phụ chiếu cố lâu ngày, một là vì lòng cảm kích, hai là vì quan tâm đến sức khỏe của sư phụ nên đến vấn an thăm hỏi. Sư phụ liền nói ngay là chẳng có bệnh gì, lại hỏi họ: “Các vị có biết từ cổ chí kim võ công cao cường nhất là ai không?” Nam đại phu đáp: “Về võ học tiểu nhân không biết một tí gì, nếu bàn luận trước mặt Uy Đức tiên sinh thì có khác gì múa rìu qua mắt thợ?” Sư phụ cười ha hả rồi nói: “Múa rìu qua mắt thợ cũng không sao, ngươi cứ nói ta nghe thử”.

Nam đại phu liền đáp: “Tiểu nhân nghe nói phái Thiếu Lâm là núi Thái Sơn là sao Bắc Đẩu trong võ lâm. Đạt Ma tổ sư thả bè lau qua sóng lập ra phái Thiếu Lâm trước hết. Vậy tiểu nhân nghĩ rằng tự cổ chí kim, Đạt Ma tổ sư là người võ công cao hơn hết.”

Sử bà bà gật đầu nói: “Nam đại phu đó nói rất hay.”

Phong Vạn Lý nói: “Nhưng sư phụ nghe thế lại không vui vẻ, nổi giận nói: “Lão Đạt Ma đó là người nước Thiên Trúc cõi Tây Vực, nhung địch man di. Ngươi cho một tên mọi rợ là ghê gớm, há chẳng làm mất oai phong của Trung Hoa hay sao?” Nam đại phu hoảng hốt nói: “Vâng vâng! Tiểu nhân biết tội.”

Sư phụ lại hỏi tới Đới đại phu. Đới đại phu đã trông gương Nam đại phu, khi nào còn dám đề cao phái Thiếu Lâm? Lão liền đáp: “Tiểu nhân nghe nói tổ sư Trương Tam Phong phái Võ Đang võ thuật thông thần, đã sáng lập ra quyền chưởng nội gia, còn cao minh hơn phái Thiếu Lâm. Theo ý kiến của tiểu nhân thì Đạt Ma tổ sư là người mọi rợ không đáng nói đến, vậy Trương Tam Phong tổ sư đáng là người thứ nhất trong võ lâm từ cổ chí kim.”

Sử bà bà nói: “Thiếu Lâm, Võ Đang là hai môn phái lớn, không thể nói võ công phái Võ Đang hơn phái Thiếu Lâm được. Có điều Trương Tam Phong tổ sư là một vị đại tôn sư đã nổi tiếng võ lâm mấy trăm năm nay. Đó hoàn toàn là những việc không thể nghi ngờ.”

Phong Vạn Lý nói: “Sư phụ đang ngồi trên ghế, vừa nghe Đới đại phu nói xong liền đứng phắt dậy nói: “Ngươi bảo Trương Tam Phong sáng lập ra quyền chưởng nội gia là ghê gớm lắm ư? Ta thấy cũng tầm thường thôi. Phái Võ Đang sở trường về quyền pháp, thì chiêu Hư Trung Hữu Thực ta chỉ cần đánh như thế này đỡ như thế kia là phá được ngay. Trương Tam Phong mà ra chiêu Dã Mã Phân Tông trong Thái Cực Quyền, thì ta chỉ cần móc bên này một cái, đá bên kia một cước là ông ta lập tức ngã lăn xuống đất. Thái Cực Quyền của phái Võ Đang làm sao là đối thủ với Tuyết Sơn kiếm pháp được?” Sư phụ vừa nói vừa biểu diễn, chưởng phong vù vù khiến cho hai vị đại phu sợ tái mặt. Bọn đệ tử đứng ở ngoài cửa thấy rất rõ ràng, nhưng cũng chẳng ai dám chạy vào cản trở. Sư phụ thi triển mấy chục chiêu rồi hỏi: “Võ công của ta so với lão trọc Đạt Ma và lão mũi trâu Trương Tam Phong đó thế nào?” Nam đại phu ấp úng: “Cái đó… Cái đó…” Đới đại phu liền nói: “Bọn tiểu nhân chỉ biết chẩn bệnh chữa thuốc chứ không hiểu võ công. Uy Đức tiên sinh nói vậy, chả lẽ võ công của lão tiên sinh còn lợi hại hơn Đạt Ma cùng Trương Tam Phong hay sao?”

Sử bà bà tức mình nói: “Đồ mặt dày!” Không biết mụ nói ba chữ đó là thóa mạ Đới đại phu hay Bạch Tự Tại.

Phong Vạn Lý nói: “Sư phụ giận dữ la lên: “Ta đã biểu diễn mấy chục chiêu, mà ngươi còn chưa tin lời ta nói, dám nói “chẳng lẽ” thì ngươi khinh ta quá lắm.” Đoạn sư phụ vung tay phóng chưởng, đánh chết hai vị đại phu ngay ở trong phòng…”

Sử bà bà nghe Phong Vạn Lý nói một hồi, bất giác lạnh toát cả người. Mụ lại thấy đệ tử phái Tuyết Sơn tên nào cũng lộ vẻ bất phục, con trai mình là Bạch Vạn Kiếm xấu hổ cúi đầu, bèn nghĩ: “Điều thứ ba trong môn quy bản phái đã ghi rõ: Không được đả thương những người không biết võ công. Điều thứ bốn lại cấm không được hại kẻ vô tội. Lão chó già này đã giết đệ tử bản môn khiến mọi người sinh lòng bất mãn, lại hạ sát cả hai vị y sinh, thật sự đã phạm rất nặng vào môn quy bản phái thì còn làm chưởng môn thế nào được?”

Bỗng nghe Phong Vạn Lý lại nói tiếp: “Lúc đó sư phụ thấy bọn đệ tử lộ vẻ khác lạ, liền quát hỏi: “Bọn ngươi nhìn ta ngơ ngáo kiểu gì vậy? Hừ! Có phải bọn ngươi đang mắng thầm ta đã vi phạm môn quy có phải không? Môn quy phái Tuyết Sơn là do ai lập ra? Từ trên trời rớt xuống hay do người phàm tục lập ra? Nếu đã do người ấn định, thì sao lại không canh cải được. Giả tỉ tổ sư là người dựng ra mười điều môn quy mà còn sống đến nay, nhất định cũng đánh không lại ta, để ta đoạt chức chưởng môn, chính lão cũng phải nghe lệnh ta sai khiến.” Sư phụ trỏ vào mũi Yên sư đệ nói: “Lão thất! Tự cổ chí kim, ai là người võ công cao nhất? Ngươi thử nói ta nghe!”

“Yên sư đệ bản tính quật cường, liền đáp: “Đệ tử không biết.” Sư phụ tức quá quát hỏi: “Sao ngươi lại không biết?” Yên sư đệ đáp: “Sư phụ chưa dạy qua nên đệ tử không biết.” Sư phụ liền bảo: “Tốt! Vậy bây giờ ta dạy cho ngươi: Chưởng môn phái Tuyết Sơn, Uy Đức tiên sinh Bạch Tự Tại là tay kiếm thủ đệ nhất, quyền cước đệ nhất, nội công đệ nhất, ám khí đệ nhất từ cổ chí kim, là đại anh hùng, đại hào kiệt, đại hiệp sĩ, đại tôn sư. Ngươi đọc lại cho ta nghe thử!” Yên sư đệ đáp: “Đệ tử ngu dốt, thật tình không thể nhớ nổi một câu dài như vậy.”

“Sư phụ liền giơ chưởng lên hỏi: “Ngươi có đọc không?” Yên sư đệ hậm hực đáp: “Đệ tử xin đọc. Chưởng môn phái Tuyết Sơn, Uy Đức tiên sinh Bạch lão gia đã nói người là tay kiếm thủ đệ nhất…” Sư phụ không chờ y đọc hết, đã vung chưởng đánh vào đầu y, quát lên: “Sao ngươi lại thêm hai chữ “đã nói” vào là có dụng ý gì? Ngươi tưởng ta không nghe thấy hay sao?” Yên sư đệ bị sư phụ đánh một chưởng, đầu óc vỡ tan ra mà chết. Mọi người còn lại dù lớn mật đến đâu cũng phải theo ý sư phụ, từng người đọc: “Chưởng môn phái Tuyết Sơn, Uy Đức tiên sinh Bạch lão gia là tay kiếm thủ đệ nhất, quyền cước đệ nhất, ám khí đệ nhất từ cổ chí kim. Lão gia còn là đại anh hùng, đại hào kiệt, đại hiệp sĩ, đại tôn sư.” Ai nấy đều phải thuộc lòng không được sai một chữ. Bấy giờ sư phụ mới tha cho bọn đệ tử lui ra.”

Phong Vạn Lý lại kể tiếp: “Bọn đệ tử đều lấy làm tức giận mà không dám nói, hôm sau tân liệm và đưa đám ba vị sư đệ cùng hai vị đại phu. Sư phụ lại đến đại náo linh đường, đá tung năm cỗ bài vị của năm người quá cố. Đỗ sư đệ cả gan tiến ra khuyên can, liền bị sư phụ lượm một cái bài vị đập què chân. Ngay tối hôm ấy, có bảy vị sư huynh sư đệ không từ biệt bỏ đi. Hết thảy mọi người đều nhìn thấy cục diện phái Tuyết Sơn sắp đổ vỡ tan tành, ai cũng hồi hộp trong lòng, tự biết bàn tay của sư phụ bất cứ lúc nào cũng có thể đập xuống đầu mình. Anh em lâm vào tình trạng bất đắc dĩ, liền bàn nhau bỏ thuốc mê vào thức ăn để lão gia ngã lăn ra rồi lấy xiềng xích khóa chân tay lại. Bọn đệ tử hành động phản loạn phạm thượng, đại nghịch bất đạo, tội rất lớn. Xử trí thế nào là tùy sư nương quyết định.” Phong Vạn Lý nói xong, khom lưng thi lễ trước mặt Sử bà bà rồi lùi vào đám đông mà đứng.

Sử bà bà ngẩn người ra hồi lâu, nghĩ tới trượng phu nổi tiếng anh hùng một thời mà đến lúc già lại đâm ra thần trí hồ đồ, không khỏi đau lòng, hai mắt đỏ hoe như sắp trào lệ. Mụ cất giọng run run hỏi: “Những lời Phong Vạn Lý nói có chỗ nào quá đáng hay sai sự thực không?” Hỏi xong câu này, nước mắt mụ đã chảy ra ngoài.

Mọi người không ai lên tiếng. Hồi lâu Thành Tự Học mới đáp: “Sư tẩu! Sự thật đích xác là như thế. Nếu bọn tiểu đệ lừa gạt sư tẩu, chẳng hóa ra tội càng thêm tội ư?”

Sử bà bà lớn tiếng nói: “Dù cho chưởng môn sư huynh của các ngươi có thần trí hồ đồ giết người vô tội đi nữa, thì các ngươi hiệp lực phế trừ lão đi là được rồi. Sao các ngươi lại ám toán cả đến bọn Vạn Kiếm vừa ở Trung Nguyên về? Các ngươi muốn diệt trừ hết bọn đệ tử chi trưởng hay sao? Hành động nhổ cỏ tận gốc này là nghĩa gì?”

Tề Tự Miễn đáp: “Tiểu đệ không tán thành việc gia hại sư ca cùng đệ tử chi trưởng, vì thế đã cùng Liêu sư ca tranh biện kịch liệt, thậm chí hạ sát thủ suýt giết Liêu sư ca. Vụ này chắc sư tẩu cũng đã biết.”

Sử bà bà ngơ ngẩn xuất thần, nước mắt chảy ròng xuống má. Một lúc sau, mụ thở dài nói: “Cái đó kêu bằng trời không chịu đất, đất chẳng chịu trời. Việc đã đến thế, cũng không thể trách mọi người được.”

Liêu Tự Lệ từ lúc bị Bạch Vạn Kiếm chặt đứt một chân, vết thương chảy máu ra như suối. Nhưng hắn là người rất cương ngạnh, không thèm kêu la một tiếng, tự điểm huyệt đạo để cầm máu rồi gắng gượng xé vạt áo buộc vết thương. Ngay cả những tên đệ tử thân cận của lão cũng sợ liên lụy, không tên nào dám lại nâng đỡ.

Sử bà bà lúc trước nghe Liêu Tự Lệ khởi xướng việc sát hại bọn đệ tử chi trưởng của Bạch Tự Tại thì trong lòng căm hận vô cùng. Nhưng từ lúc mụ nghe Phong Vạn Lý tường thuật mọi chi tiết mới biết rõ mầm họa từ đâu, thực tình đầu mối vụ này là do trượng phu mụ mà phát sinh biến cố. Mụ không khỏi mềm lòng, liền ngó bọn đệ tử chi bốn quát lớn: “Tụi bay thật là giống súc sinh! Mắt thấy sư phụ mình bị trọng thương mà chỉ đứng tụ thủ bàng quan, còn đáng làm người nữa không?”

Bấy giờ bọn đệ tử chi bốn mới chạy lại, tranh nhau buộc vết thương cho Liêu Tự Lệ. Mọi người khác cũng tưởng như cất được khối đá đang đè nặng trên vai. Chúng tự nghĩ: “Sử bà bà đã khoan dung cho cả Liêu Tự Lệ, tội trạng bọn mình còn nhẹ hơn, dĩ nhiên không có gì đáng ngại lắm.” Có người lấy chìa khóa mở xiềng xích hết cho bọn Cảnh Vạn Chung, Vương Vạn Nhận, Uông Vạn Dực, Hoa Vạn Tử.

Sử bà bà lại nói: “Chưởng môn nhất thời thần trí thất thường, hành vi không đúng đắn, các ngươi nên tìm cách khuyên can y mới phải. Thế mà các ngươi lại mưu đồ phản loạn, đại phạm môn quy. Việc này xử đoán thế nào, ta cũng chưa quyết được. Việc trước tiên là chúng ta hãy tha chưởng môn ra, để thương nghị với ông ấy trước đã.”

Mọi người vừa nghe thấy đều biến sắc, bụng bảo dạ: “Bây giờ mà tha lão hung thần ác sát đó ra, thì mọi người chúng ta làm sao còn giữ được mạng nữa?” Họ ngơ ngác nhìn nhau, không ai dám lên tiếng.

Sử bà bà tức giận nói: “Sao? Các ngươi muốn giam cầm ông ta cả đời ư? Tội ác của các ngươi như vậy còn chưa đủ hay sao?”

Thành Tự Học nói: “Sư tẩu! Mọi người ở đây đều mắt thấy tai nghe, chưởng môn phái Tuyết Sơn bây giờ là sư tẩu chứ không phải Bạch sư ca. Dĩ nhiên là phải vâng lệnh chưởng môn mà thả Bạch sư ca ra, nhưng trước hết phải tìm cách chữa bệnh cho ông ấy đã. Nếu không… nếu không…”

Sử bà bà thét lớn: “Nếu không thì sao?”

Thành Tự Học đáp: “Tiểu đệ chẳng còn mặt mũi nào nhìn thấy Bạch sư ca nữa, xin cáo từ trước.” Lão nói xong, xá dài một cái.

Tề Tự Miễn, Lương Tự Tiến cũng nói: “Nếu sư tẩu khoan hồng đại lượng, tha mạng cho tất cả, thì bọn tiểu đệ xin xuống núi, suốt đời không dám bước vào thành Lăng Tiêu một bước.”

Sử bà bà nghĩ bụng: “Bọn này sợ lão chó già ra đây tính sổ, cũng là chuyện thường tình mà thôi. Nhưng nếu chúng bỏ đi hết thì thành Lăng Tiêu chỉ còn lại tòa thành trống rỗng, còn gì là phái Tuyết Sơn nữa?” Mụ liền nói: “Được! Như vậy ta bất tất phải vội vàng. Trước hết ta phải đến xem ông ấy thế nào cái đã, nếu chưa có phương pháp hoàn thiện thì chưa thả ông ta ra một cách dễ dàng.”

Thành Tự Học, Tề Tự Miễn, Lương Tự Tiến đưa mắt nhìn nhau, bụng bảo dạ: “Họ là vợ chồng dĩ nhiên có mối thâm tình, mụ phải thiên vị trượng phu. May ở chỗ chúng ta còn đủ cặp giò. Nếu mụ thả lão điên đó ra thật, thì chẳng lẽ chúng ta không biết chạy hay sao?”

Sử bà bà gọi: “Kiếm nhi! A Tú!” Rồi mụ lại quay gọi Thạch Phá Thiên: “Ức Đao! Cả ba người đi theo ta.” Mụ lại nhìn bọn Thành Tự Học nói: “Xin ba vị dẫn đường, cứ đứng ngoài nhà lao để nghe ta nói chuyện với y. Nếu không e rằng mọi người không thể yên tâm, cứ sợ ta bàn tính với y giăng một mẻ lưới mà quét sạch.”

Thành Tự Học nói: “Khi nào tiểu đệ dám nghĩ như vậy?” Tuy miệng lão nói thế, nhưng trong lòng không khỏi nơm nớp sợ chết. Lão đưa mắt nhìn Tề Tự Miễn và Lương Tự Tiến rồi ra khỏi sảnh đường. Liên Tự Lệ nhìn một tên đệ tử tinh khôn nhất trong bọn ra hiệu. Gã này hiểu ý, bèn đi sau một đoạn.

* * *

Đoàn người xuyên qua dãy hành lang, đi một lúc thì tới chỗ giam Thạch Phá Thiên trước kia. Thành Tự Học đi đến chỗ ông lão bị nhốt liền nói: “Chính là chỗ này. Xin chưởng môn gánh vác trách nhiệm thay cho bọn tiểu đệ.” Thạch Phá Thiên lúc ở nhà đại sảnh nghe mọi người nói chuyện, đã đoán người bị giam trong thạch lao là Bạch Tự Tại. Quả nhiên chàng đã đoán trúng.

Thành Tự Học lấy chìa khóa bên mình ra mở cửa thạch lao, ngờ đâu khi nhìn đến thì thấy khóa đã bị ai mở ra từ trước rồi. Lão “ủa” lên một tiếng, lộ vẻ cực kỳ kinh hãi, mặt không còn huyết sắc, nghĩ bụng: “Khóa đã mở rồi, chắc là lão điên kia đã trốn thoát ra.” Hai tay lão run lên, không dám đẩy cánh cửa đá ra.

Sử bà bà đẩy mạnh một cái, cánh cửa mở rộng. Thành Tự Học, Tề Tự Miễn, Lương Tự Tiến, ba người chẳng ai bảo ai mà cùng lùi lại mấy bước. Mọi người thấy trong thạch thất chẳng có một ai. Thành Tự Học la lên: “Hỏng rồi! Hỏng rồi! Ông ta… ông ta chạy trốn rồi!”

Nhưng lão vừa nói xong, sực nhớ ra đây mới là cửa ngoài thạch lao, còn một lần cửa bên trong nữa mới đến chỗ giam người. Tay lão run lên, xâu chìa khóa kêu loảng xoảng, không dám vào mở tầng cửa thứ hai. Thạch Phá Thiên toan nói cho lão hay là lần cửa trong chàng cũng đã mở rồi. Nhưng chàng nghĩ hiện mình đang giả câm, thì không nói hay hơn, nên cứ im lặng.

Sử bà bà giành lấy chùm chìa khóa tra vào lỗ, thì phát giác khóa đã mở rồi. Mụ nói nhỏ: “Lão đã trốn mất rồi.” Mụ lại càng thêm lo: “Đầu óc ông ta đang có bệnh, nếu trốn ra khỏi thành Lăng Tiêu len lỏi vào chốn giang hồ, biết đâu lại gây nên nhiều họa lớn.” Hai tay mụ run lẩy bẩy, đưa lên đẩy cánh cửa đá.

Cánh cửa vừa hé mở, đã nghe tiếng lão già khàn khàn cười hô hố. Mọi người thấy Bạch Tự Tại còn ở trong nhà lao đều tưởng chừng như cất được gánh nặng, ai nấy thở phào nhẹ nhõm.

Bạch Tự Tại cười một trận điên cuồng rồi lớn tiếng nói: “Phái Thiếu Lâm là gì? Phái Võ Đang là gì? Võ công những phái đó ra cái chó gì? Bắt đầu từ hôm nay, hết thảy mọi người trong võ lâm đều nên chuyển qua học võ công của phái Tuyết Sơn, còn bất luận môn phái nào khác nên hủy bỏ hết đi. Mọi người có nghe rõ không? Dưới gầm trời này, nói về hàng quan chức thì hoàng đế là chí tôn, nói về kẻ đọc sách thì thánh Khổng Phu Tử là chí tôn, còn nói về đao kiếm quyền cước thì mỗ đây tức Uy Đức tiên sinh Bạch Tự Tại là bậc chí tôn. Kẻ nào không phục, ta sẽ chặt rụng đầu nó xuống.”

Sử bà bà lại đẩy cửa mở rộng thêm ra một chút. Trong ánh sáng lờ mờ, mụ nhìn thấy chân tay trượng phu bị xiềng khóa, toàn thân lão bị dây lòi tói quấn chặt, trói giữa hai cây cột đá. Lòng mụ không khỏi se lại. Bạch Tự Tại chợt nhìn thấy vợ mình, lão ngẩn người ra rồi lại cười nói: “Hay lắm! Hay lắm! Ngươi đã về đấy ư? Hiện nay người võ lâm đều thờ ta là bậc chí tôn. Phái Tuyết Sơn bao trùm thiên hạ, các môn phái khác đều phải thủ tiêu. Bà bà! Ngươi thấy như vậy có hay không?”

Sử bà bà lạnh lùng đáp: “Hay thì có hay đấy! Nhưng không biết tại sao phải thủ tiêu hết các gia các phái khác?”

Bạch Tự Tại cười nói: “Đầu óc của ngươi lại suy nghĩ chậm chạp rồi? Võ công phái Tuyết Sơn cao thâm hơn hết, các môn phái khác không thể bì kịp thì đương nhiên phải bị thủ tiêu.”

Sử bà bà kéo A Tú đến trước mặt Bạch Tự Tại nói: “Ông xem, là ai trở về đây?” Mụ biết rằng Bạch Tự Tại rất thương yêu cô cháu gái này. Sở dĩ thần trí lão trở nên thất thường, bắt đầu từ vụ A Tú nhảy xuống vực thẳm tự tận mà ra. Không chừng lão nhìn thấy cô cháu cưng, trong lòng vui sướng rồi khỏi được bệnh điên khùng cũng nên.

A Tú kêu lên: “Gia gia! Cháu đã về đây, cháu chưa chết! Cháu rơi xuống đáy hang Đại Tuyết rồi được bà bà cứu lên.”

Bạch Tự Tại nhìn A Tú một cái rồi nói: “Hay lắm! Cháu là A Tú! Cháu chưa chết, ta rất vui mừng. A Tú, A Tú ngoan, cháu có biết hiện nay ai là người võ công cao nhất không? Hiện nay ai là bậc chí tôn trong võ lâm?”

A Tú rụt rè khẽ đáp: “Là gia gia.”

Bạch Tự Tại lớn tiếng cười ha hả nói: “A Tú ngoan lắm.”

Bạch Vạn Kiếm tiến lên hai bước nói: “Gia gia! Hài nhi về chậm, để bọn tiểu nhân áp bức gia gia. Để hài nhi mở khóa cho gia gia.” Bọn Thành Tự Học đứng ngoài lập tức thay đổi sắc mặt, chỉ đợi Bạch Vạn Kiếm đi đến mở xiềng khóa là ai cũng xoay lưng chạy trốn.

Bạch Tự Tại quát lên: “Cút ra ngoài! Ai cần ngươi đến mở khóa cho ta? Những xiềng chân khóa tay này, trong mắt gia gia chỉ là gỗ mục đất bùn, ta khẽ cựa một cái là thoát khỏi ngay. Nhưng ta lại không thích, tự nguyện ở đây để nhắm mắt dưỡng thần. Bạch Tự Tại này tung hoành thiên hạ, dù hàng ngàn hàng vạn người cũng không thể làm ta rụng một cọng lông. Làm gì có người xiềng khóa được ta?”

Bạch Vạn Kiếm nói: “Dạ! Gia gia thiên hạ vô địch, dĩ nhiên chẳng ai làm gì được gia gia. Có điều A Tú cùng mẫu thân con đã về, quả là chuyện vui mừng lớn của gia đình. Vậy xin mời gia gia qua sảnh đường uống mấy chung rượu đoàn viên.” Hắn nói xong, toan lại mở khóa tay cho Bạch Tự Tại.

Bạch Tự Tại giận dữ quát lên: “Ta bảo ngươi cút đi, thì cứ việc cút đi. Tay chân ta đeo mấy thứ đồ chơi này thấy thú vị lắm. Ngươi tưởng ta không giật bỏ được nó hay sao? Cút đi!”

Hai tiếng “cút đi” lão quát thật to. Bạch Vạn Kiếm giật mình kinh hãi, buông chùm chìa khóa rớt xuống đất đánh choang một tiếng rồi lùi lại hai bước.

Thì ra Bạch Vạn Kiếm là người tâm cơ linh mẫn, hắn biết phụ thân sĩ diện, quyết không để cho người khác mở khóa giúp lão thoát nạn. Hắn liền giả vờ thất kinh để đánh rớt chìa khóa xuống. Bọn Thành Tự Học ở gian thạch thất bên ngoài nghe thấy Bạch Tự Tại quát to, họ không nhịn được liền thò đầu qua khe cửa nhìn vào.

Bạch Tự Tại quát lên: “Các ngươi vào ra mắt ta, sao không ngỏ lời vấn an? Ai là đại anh hùng, đại hào kiệt?”

Thành Tự Học nghĩ thầm: “Hiện giờ lão bị trói vào cột đá thì mình chẳng sợ gì. Nhưng sư tẩu thế nào cũng tìm cách thả lão ra. Chi bằng ta dùng lời đường mật lấy lòng lão, để tránh khỏi cái họa sát thân sau này.” Lão liền khom lưng nói: “Bạch lão gia chưởng môn phái Tuyết Sơn là bậc đại anh hùng, đại hào kiệt, đại hiệp sĩ, đại tôn sư, đệ nhất về kiếm pháp, đệ nhất về nội công, đệ nhất về quyền cước, đệ nhất về ám khí, tự cổ chí kim không một ai sánh kịp.”

Lương Tự Tiến cũng nói tiếp: “Bạch lão gia đã là chưởng môn phái Tuyết Sơn, còn nào là Thiếu Lâm, Võ Đang, Nga Mi, Thanh Thành, bất cứ môn phái nào cũng phải thủ tiêu hết cả. Khắp thiên hạ chỉ còn Bạch lão gia là người độc tôn.”

Tề Tự Miễn cùng những tên đệ tử chi bốn cũng buông lời tâng bốc xiểm nịnh. Bạch Tự Tại hiu hiu tự đắc, gật đầu mỉm cười.

Sử bà bà lấy làm hổ thẹn vô cùng, lẩm bẩm: “Lão già cũng chưa chắc là bị điên, vừa thấy mình cùng Kiếm nhi và A Tú đã nhận ra được ngay. Có điều cái bệnh ngông cuồng tự đại của lão đã đến độ không thuốc nào chữa khỏi. Biết làm sao bây giờ?”

Đột nhiên Bạch Tự Tại ngẩng đầu lên hỏi Sử bà bà: “Mấy hôm trước đây Đinh Lão Tứ đến viếng ta, nói là ngươi lên núi Bích Loa thăm hắn, ở lại với hắn mấy ngày. Việc đó có thực không?”

Sử bà bà tức giận nói: “Lão điên thật rồi ư? Sao lại đi tin hạng người ăn nói càn rỡ đó được.”

A Tú nói: “Gia gia! Lão Đinh Bất Tứ đó quả là có bức bách cháu cùng bà nội lên núi Bích Loa. Lão nhân lúc người ta gặp nguy nan mà ép buộc, nhưng bà bà thà gieo mình xuống sông tự tử, quyết không chịu đi.”

Bạch Tự Tại mỉm cười nói: “Hay lắm! Hay lắm! Bạch Tự Tại phu nhân khi nào lại chịu nhục với người? Rồi sau sao nữa?”

A Tú đáp: “Về sau… về sau may nhờ đại ca đây ra tay giúp đỡ, đánh đuổi được Đinh Bất Tứ đi.”

Bạch Tự Tại liếc mắt nhìn Thạch Phá Thiên một cái. Trong gian thạch lao này ánh sáng chỉ mờ mò nên lão chưa nhận ra chàng là Thạch Trung Ngọc, chỉ biết rằng đây chính là thiếu niên vừa muốn cứu mình ra. Trong lòng lão cũng có chút tình cảm nên gật đầu nói: “Công phu của thằng lỏi này cũng tạm được đấy. Tuy so với ta thì còn cách một trời một vực, nhưng đánh đuổi Đinh Bất Tứ thì có thể đủ rồi.”

Sử bà bà không nhịn được nữa, lớn tiếng quát: “Ngươi nói cái gì? Bảo phái Tuyết Sơn là đệ nhất thiên hạ gì gì đó thì thật là hồ đồ! Thằng nhỏ này là đồ đệ của ta, chính ta đã đích thân truyền thụ cho gã. So với đồ đệ của lão thì bản lãnh đồ đệ ta còn cao cường hơn nhiều.”

Bạch Tự Tại cười ha hả nói: “Hoang đường! Hoang đường! Mụ có bản lãnh gì mà thắng được ta?”

Sử bà bà nói: “Kiếm nhi là đồ đệ do ngươi dạy dỗ nên. Trong đám đệ tử thì võ công của Kiếm nhi là cao nhất phải không? Kiếm nhi! Ngươi nói với sư phụ của ngươi đi, đồ đệ của ta giỏi hơn hay đồ đệ của lão giỏi hơn?”

Bạch Vạn Kiếm ấp úng: “Chuyện này… Chuyện này…” Hắn khiếp oai phụ thân, không dám nói ra những lời ngược với ý lão.

Bạch Tự Tại mỉm cười nói: “Đồ đệ của ngươi khi nào là đối thủ của đồ đệ ta? Đồ nhi! Có phải mẹ của ngươi nói tầm bậy không?”

Bạch Vạn Kiếm là một hán tử thẳng thắn, thắng thì nói là thắng, bại thì nói là bại. Hắn đã bại về tay Thạch Phá Thiên thì khi nào lại không nhận? Hắn liền đáp: “Hài nhi không đủ sức, vừa cùng gã động thủ, thực sự không địch nổi gã.”

Bạch Tự Tại nhảy bắn lên, xiềng xích kêu loảng xoảng. Lão la lớn! “Hỏng rồi! Hỏng rồi! Có lý nào thế được?”

Sử bà bà đã ở với lão mấy chục năm, dĩ nhiên tâm trạng lão lúc này mười phần mụ hiểu đến tám chín. Mụ nghĩ thầm: “Lão khốn này tự cho võ công mình là thiên hạ vô địch. Lão ở thành Lăng Tiêu làm vua một cõi, bị Đinh Bất Tứ nói khích nên thành dở điên dở khùng. Người ta thường nói, chữa tâm bệnh thì phải dùng tâm dược. Phải cho lão gặp đối thủ cao cường hơn để giảm bớt ngông cuồng, có khi vì thế mà bệnh khùng của lão khỏi được cũng nên. Tiếc là Trương Tam Lý Tứ bỏ đi mất rồi, nếu ta nhờ hai người đó chữa bệnh điên cho lão thì thật là đúng thuốc. Bây giờ ta đành dùng kế hoạch thứ hai. Đồ đệ ta tuy võ công chẳng lấy gì là cao thâm cho lắm, song nội lực còn thâm hậu hơn lão khốn này nhiều. Ta thử kích lão một phen.”

Mụ liền nói: “Lão nói cái gì mà tự cổ chí kim võ công đệ nhất, nội lực đệ nhất? Thật là không biết xấu hổ. Nói riêng về nội lực, ngay đồ đệ của ta đây cũng đã hơn ngươi rất nhiều.”

Bạch Tự Tại ngửa mặt lên trời cười rộ, nói: “Giả tỉ Đạt Ma và Trương Tam Phong sống lại cũng không phải là đối thủ của Bạch lão gia, nói gì thằng lỏi miệng còn hôi sữa này. Nó chỉ cần có ba phần nội lực của ta cũng đủ làm mưa làm gió trong võ lâm rồi.”

Sử bà bà cười lạnh nói: “Nói khoác lác thế mà không biết xấu hổ, thật đáng cho người khắp thiên hạ chê cười. Ngươi thử tỉ thí nội lực với nó xem?”

Bạch Tự Tại vẫn cười hô hố nói: “Thằng lỏi này đâu có đáng động thủ với ta? Cũng được! Ta chỉ dùng một bàn tay cũng đủ hất gã ngã lăn lông lốc.”

Sử bà bà biết võ công của trượng phu rất cao, nếu đánh nhau thực sự thì e rằng lão sẽ đả thương Thạch Phá Thiên, lại còn đánh chết là khác. Mụ thấy lão nói rất đúng ý của mình, liền bảo: “Gã thiếu niên này là đồ đệ của ta, lại là hôn phu của A Tú, cũng là cháu rể của lão đó. Hai người chỉ tỉ thí mà thôi, không ai được đả thương ai.”

Bạch Tự Tại mỉm cười nói: “Nó là cháu rể của ta ư? Vậy để ta xem nó có xứng đáng hay không. Được rồi, ta không đánh chết nó là xong.”

Đột nhiên nghe có tiếng bước chân vang lên, một người hốt hoảng chạy đến bên ngoài thạch lao, chính là Cảnh Vạn Chung. Hắn lớn tiếng nói: “Khải bẩm chưởng môn, bang chúa bang Trường Lạc là Thạch Phá Thiên cùng với Ma thiên cư sĩ Tạ Yên Khách đã cứu vợ chồng Thạch Thanh ra rồi. Bây giờ bọn họ đang ở ngoài đại sảnh khiêu chiến.”

Bạch Tự Tại cùng Sử bà bà đều la lên một tiếng, đồng thanh hỏi: “Ma thiên cư sĩ Tạ Yên Khách ư?”

Thạch Phá Thiên vừa kinh hãi vừa mừng thầm. Chàng thấy vợ chồng Thạch Thanh đã thoát nạn bình yên thì vui mừng, nhưng Thạch Trung Ngọc lại đến thành Lăng Tiêu thì chàng e vụ giả mạo của mình sẽ bị bại lộ. Mặt khác, chàng cùng Tạ Yên Khách xa cách đã lâu, bây giờ được gặp cũng không khỏi vui mừng.

Sử bà bà nói: “Chúng ta cùng bang Trường Lạc và Tạ Yên Khách vốn chẳng dính líu gì với nhau mà sao họ lại đến sinh sự? Phải chăng vợ chồng Thạch Thanh mời họ đến để trợ lực?”

Cảnh Vạn Chung nói: “Gã Thạch Phá Thiên thật là vô lễ. Gã bảo gã thấy thích thành Lăng Tiêu của chúng ta, và yêu cầu chúng ta… bỏ đi nơi khác để nhường lại cho gã.”

Bạch Tự Tại tức giận nói: “Nói thúi lắm! Trường Lạc Bang là cái thá gì, Thạch Phá Thiên là cái thá gì? Trường Lạc Bang của chúng có bao nhiêu người đến?”

Cảnh Vạn Chung nói: “Bọn chúng có năm người cả thảy. Ngoài vợ chồng Thạch Thanh, Tạ Yên Khách và Thạch Phá Thiên còn một vị cô nương trẻ tuổi, là cháu gái Đinh Bất Tam.”

Thạch Phá Thiên nghe nói Đinh Đang đến thì không khỏi chau mày. Chàng liếc mắt nhìn A Tú, thì thấy đôi mắt trong sáng của nàng cũng đang nhìn mình. Thạch Phá Thiên bất giác đỏ mặt lên, ngoảnh đầu nhìn ra chỗ khác. Chàng nghĩ bụng: “Nàng đã bảo ta mạo xưng Thạch Trung Ngọc để cứu vợ chồng Thạch trang chúa, vậy sao lại cùng Thạch Trung Ngọc đến đây? À phải rồi! Chắc nàng cùng Thạch Trung Ngọc vẫn không yên tâm, sợ ta gặp nguy, không chừng mất mạng tại thành Lăng Tiêu là khác, nên mới mạo hiểm đến đây tiếp ứng. Còn Tạ tiên sinh thì dĩ nhiên đến đây để cứu mình rồi.”

Bạch Tự Tại nói: “Bọn chúng vỏn vẹn có năm người thì làm trò gì được? Người có bảo với bọn chúng, chủ nhân thành Lăng Tiêu, chưởng môn phái Tuyết Sơn, Bạch lão gia là một tay đại anh hùng, đại hào kiệt, đại hiệp sĩ, đại tôn sư, đệ nhất về kiếm pháp, đệ nhất về quyền cước, đệ nhất về nội lực, đệ nhất về ám khí tự cổ chí kim, để chúng biết chưa?”

Cảnh Vạn Chung ngập ngừng đáp: “Cái đó… cái đó… bọn chúng đã là người võ lâm tất nhiên phải nghe oai danh sư phụ từ lâu.”

Bạch Tự Tại nói: “Đúng vậy! Nhưng thế thì kỳ thật, có người đã nghe oai danh của ta lại còn dám đến thành Lăng Tiêu gây chuyện thị phi ư? À phải rồi! Chắc là vụ ta ẩn cư trong thạch thất này để tránh việc tục lụy đã đồn ra khắp thiên hạ. Họ tưởng là Bạch lão gia đã gác kiếm rửa tay, không nói đến võ công nữa, nên mới lần mò đến đây ăn hiếp. Ha ha! Các ngươi xem đó. Sư phụ các ngươi là một cây đại thụ, nếu không che chở cho các ngươi thì các ngươi hỏng bét ngay.”

Sử bà bà tức giận nói: “Ngươi cứ ở đây một mình mà mơ mộng. Còn các ngươi hãy theo ta ra xem họ làm gì?” Mụ dứt lời, rảo bước đi trước. Bạch Vạn Kiếm, Thành Tự Học đều theo ra ngoài.

Thạch Phá Thiên đang muốn đi ra thì đột nhiên Bạch Tự Tại kêu lên: “Tiểu tử này ở lại đây! Ta dạy cho ngươi một bài học đã”. Thạch Phá Thiên liền dừng bước quay đầu lại.

A Tú đã chạy đến bên cửa nhưng nàng rất lo lắng đến sự an nguy của Thạch Phá Thiên. Thấy chàng quay lại, nàng nghĩ ngay đến ông nội mình dở điên dở khùng, giả tỉ lão cùng Thạch Phá Thiên tỉ thí thật sự, biết đâu hạ thủ không biết nặng nhẹ mà giết mất chàng? Nàng biết mình công lực kém cỏi, nếu Thạch Phá Thiên gặp nguy cấp thì không có cách nào cứu được. Nàng vội lớn tiếng gọi: “Bà nội! Gia gia thực sự muốn… muốn tỉ thí với huynh ấy!”

Sử bà bà quay lại nói với Bạch Tự Tại: “Nếu lão mà đánh chết đồ đệ của ta, thì chúng ta sẽ lên núi Bích Loa hết, không trở về nữa.”

Bạch Tự Tại cả giận quát lên: “Mụ… mụ nói gì vậy?”

Sử bà bà mặc kệ lão, đi băng băng ra khởi thạch lao rồi xoay tay đóng cửa lại. Trong nhà lao lại tối mò.

* * *

A Tú cúi xuống lượm chiếc chìa khóa dưới chân Bạch Tự Tại lên, mở xiềng chân cho lão rồi nói: “Gia gia! Gia gia dạy cho huynh ấy mấy chiêu võ công đi! Huynh ấy chưa luyện võ được bao nhiêu, bản lãnh tầm thường lắm.”

Bạch Tự Tại mừng rỡ cười nói: “Ta chỉ cần dạy mấy chiêu là đủ cho nó dùng suốt cả đời.”

Thạch Phá Thiên nghe A Tú nói rất đúng ý mình. Chàng đã nghe Bạch Tự Tại tự xưng những gì là võ công đệ nhất từ cổ chí kim, nhắm mình không địch nổi lão. Nếu đổi chuyện tỉ thí thành chuyện truyền thụ võ công thì thật là hợp lẽ, chàng liền nói: “Đa tạ lão gia có lòng chỉ giáo.”

Bạch Tự Tại mỉm cười nói: “Hay lắm! Để ta dạy cho ngươi mấy chiêu công phu thô thiển nhất, còn những gì thâm sâu hơn thì ngươi khó mà lãnh hội được.”

A Tú chạy ra mở rộng cánh cửa đá, trong thạch lao lại sáng lên. Thạch Phá Thiên thấy Bạch Tự Tại đứng thẳng người lên, cao hơn chàng một cái đầu, oai phong lẫm liệt chẳng khác một vị thiên thần. Chàng đối với lão càng thêm phần kinh sợ, bất giác lùi lại hai bước.

Bạch Tự Tại cười nói: “Đừng sợ! Đừng sợ! Gia gia không đả thương ngươi đâu. Ngươi hãy xem đây, ta chỉ đưa tay một cái là nắm được sau gáy ngươi, rồi vật ngươi ngã lăn…” Lão vừa dứt lời đã đưa tay phải ra, quả nhiên túm được gáy Thạch Phá Thiên.

Thủ pháp lão mau lẹ vô cùng, phương vị lại rất chuẩn xác. Thạch Phá Thiên thoát thế nào được? Chàng thấy luồng lực đạo ở tay Bạch Tự Tại ghê gớm vô cùng, người mình dường như sắp bị nhấc bổng lên không. Chàng vội đề khí đứng vững lại, đồng thời đưa tay phải ra gạt tay Bạch Tự Tại.

Bạch Tự Tại vừa xuất thủ là đã nắm được huyệt đạo sau gáy Thạch Phá Thiên. Ngờ đâu lão vừa vận sức toan nhấc lên thì người Thạch Phá Thiên lại rớt xuống mặt đất, không nhấc bổng lên được. Cánh tay lão lại bị chàng gạt trúng, lão bị tê nhức đành buông tay ra. Lão la lên một tiếng “Ái chà”, bụng bảo dạ: “Nội lực thằng lỏi này quả nhiên rất khá.”

Lão lại đưa tay trái ra nắm lấy trước ngực Thạch Phá Thiên rồi thuận đà đẩy một cái, nhưng vẫn không lay động thân hình của chàng được chút nào. Chiêu thứ hai này Thạch Phá Thiên đã đề phòng trước, để ý né tránh mà lão chỉ đưa tay ra là chụp trúng ngay. Trong lòng chàng khâm phục, cất tiếng khen ngợi: “Bản lãnh lão gia quả nhiên phi thường! Chỉ hai chiêu này đã lợi hại hơn Đinh tứ gia nhiều rồi.”

Bạch Tự Tại đang ngấm ngầm hổ thẹn thì được nghe chàng khen mình lợi hại hơn Đinh Bất Tứ. Lão lại cao hứng nói: “Đinh Bất Tứ đâu phải là đối thủ của ta?” Chân trái lão tiện đà móc một cái, Thạch Phá Thiên lảo đảo người đi một chút nhưng không bị hất ngã.

Bạch Tự Tại liên tiếp nắm ở sau lưng, chụp vào trước ngực, rồi quét chân một cái. Ba chiêu liên hoàn này là tuyệt kỹ đắc ý nhất trong đời lão, đâu phải là công phu thô thiển gì? Mấy chục năm nay, không biết bao nhiêu anh hùng hảo hán lừng danh đã thua dưới ba chiêu liên hoàn này. Ngờ đâu hôm nay những chiêu này đều trúng cả, nhưng vấp phải nội lực Thạch Phá Thiên thâm hậu vô cùng, nên không có hiệu quả chút nào.

Mấy hôm trước lão gặp hai anh em họ Đinh, nghe Đinh Bất Tứ bảo Sử bà bà đã lên núi Bích Loa ở mấy ngày. Lão vừa ghen tức vừa căm hận đến nỗi thần trí thất thường. Hôm nay lão thấy ái thê trở về, biết chuyện mụ lên núi Bích Loa hoàn toàn là bịa đặt, lại gặp được A Tú thì trong lòng sung sướng vô cùng. Bệnh điên khùng của lão đã thuyên giảm đến quá nửa. Nhưng ý niệm về võ công mình là đệ nhất thiên hạ, lão vẫn tin là sự thực. Vừa rồi lão ra ba chiêu liên hoàn mà không hất ngã được chàng thiếu niên này thì lửa giận bốc lên ùn ùn, đầu óc lại đâm ra hồ đồ. Lão bèn phóng chưởng nhằm đánh vào trước ngực Thạch Phá Thiên, vận đến ba bốn thành công lực.

Thạch Phá Thiên thấy phát chưởng của đối phương phóng ra cực kỳ hung mãnh, liền đưa tay trái lên gạt. Bạch Tự Tại lại vung quyền bên trái đánh tới. Thạch Phá Thiên né người đi toan tránh, nhưng thoi quyền của Bạch Tự Tại thần diệu vô cùng. Nghe “bịch” một tiếng, quyền đã đánh trúng vào vai phải chàng.

A Tú la lên một tiếng. Thạch Phá Thiên liền an ủi: “Tú muội đừng lo, ta không đau đâu.”

Bạch Tự Tại tức giận nói: “Hảo tiểu tử! Ngươi không đau thì nếm thêm một quyền nữa của ta.” Quyền này bị Thạch Phá Thiên đưa tay gạt ra. Bạch Tự Tại liên tiếp phóng ra bốn quyền nữa. Quyền thứ tư đánh trúng đùi Thạch Phá Thiên, nhưng lão lại bị Thạch Phá Thiên đá trúng chân trái một phát.

A Tú thấy hai người càng đấu càng nhanh. Những chiêu quyền cước Bạch Tự Tại phát ra, Thạch Phá Thiên chỉ chống đỡ được một phần, còn phần lớn đánh trúng người chàng. Ban đầu A Tú lo lắng vô cùng, lớn tiếng la: “Gia gia hạ thủ lưu tình.” Sau nàng thấy nét mặt Thạch Phá Thiên vẫn bình thường, không lộ vẻ gì đau đớn, nên nàng cũng yên tâm hơn.

Bạch Tự Tại đã đánh trúng người Thạch Phá Thiên đến mười mấy chiêu. Lúc đầu lão còn nhớ tới lời bà vợ dọa bỏ lên núi Bích Loa, chỉ vận dụng có ba bốn thành công lực vì sợ đả thương chàng. Nhưng bất luận là bị quyền hay chưởng đánh trúng, Thạch Phá Thiên chỉ đảo mình một cái chứ hoàn toàn không bị gì cả. Bạch Tự Tại vừa kinh ngạc vừa tức giận, lão ra đòn mỗi lúc một nặng hơn. Nhưng lạ thay, dù lão tăng gia công lực đến đâu, vẫn không sao đánh ngã được Thạch Phá Thiên.

Bạch Tự Tại gầm thét om sòm, vận hết sức bình sinh để xuất chiêu. Chỉ trong khoảng khắc, chưởng phong quyền phong xô đẩy ầm ầm trong thạch lao. Những xiềng xích treo trên cột đá rung lên loảng xoảng không ngớt. A Tú cảm thấy hô hấp khó khăn, cơ hồ nghẹt thở. Tuy nàng đã tựa lưng vào cánh cửa mà vẫn khó chịu vô cùng, đành mở cửa nhà lao chạy ra ngoài, vẫn thấy gia gia liên tiếp giáng quyền vào mình Thạch Phá Thiên. Nàng tối tăm mặt mũi, không nỡ nhìn cảnh đau lòng này nữa, liền xoay tay đóng cửa lại.

A Tú trong lòng xao xuyến, chắp hai tay trước ngực khấn thầm: “Xin hoàng thiên phù hộ cho hai người không ai bị thương để xảy chuyện lôi thôi. Hay hơn hết là hai bên bất phân thắng bại rồi ngừng tay.” Nàng tựa lưng vào cửa đá, cảm thấy cánh cửa không ngừng rung chuyển. Tiếng xiềng xích sắt va chạm vào nhau mỗi lúc một vang dội. Nàng sợ quá cơ hồ ngất đi, tưởng chừng mặt đất dưới chân cũng bị lung lay.

Không biết sau bao lâu, đột nhiên cửa đá không rung chuyển nữa, mà xiềng xích sắt cũng hết khua loảng xoảng. A Tú đứng ngoài áp tai vào cửa lắng nghe động tĩnh, thì thấy trong thạch lao yên lặng như tờ, không còn một chút tiếng động nào. Nàng lại còn kinh hãi hơn lúc nghe thấy những tiếng trời long đất lở vừa rồi, tự hỏi: “Nếu gia gia thắng thì nhất định người đã đắc ý cười ha hả. Nếu Thạch lang thắng thì chàng đã đẩy cửa ra ngoài tìm mình rồi. Sao lại không nghe thấy thanh âm nào cả? Chẳng lẽ có người bị thương rồi chăng? Hay là cả hai người cùng kiệt lực mà chết hết?”

A Tú nghĩ tới đây sợ quá, run lên bần bật. Nàng đưa tay từ từ đẩy cửa đá ra, song hai mắt vẫn nhắm chặt không dám nhìn tình hình trong thạch lao. Nàng chỉ sợ mở mắt ra là ngó thấy một xác chết nằm dưới đất, thậm chí cả hai người nằm giữa đống máu mà chết.

Sau một lúc khá lâu, nàng khẽ hé mắt ngó vào thì thấy Bạch Tự Tại và Thạch Phá Thiên đều ngồi bệt dưới đất. Bạch Tự Tại hai mắt nhắm chặt, còn Thạch Phá Thiên thì trên môi thoáng lộ nụ cười đang nhìn nàng. A Tú à một tiếng rồi thở phào nhẹ nhõm. Nàng giương mắt lên nhìn, thấy rõ Thạch Phá Thiên đang áp bàn tay phải lên lưng Bạch Tự Tại, chắc là đang vận khí để trị thương cho lão.

A Tú cất tiếng gọi: “Gia gia! Gia gia bị thương rồi ư?”

Thạch Phá Thiên nói: “Không bị thương đâu. Lão gia bị khó thở một chút, chỉ một lúc là khỏi ngay.”

A Tú đặt tay phải lên ngực, nhẹ nhõm nói: “Cảm ơn hoàng thiên phù hộ! Cảm ơn…”

Đột nhiên Bạch Tự Tại đứng phắt dậy lớn tiếng quát: “Cái gì mà khó thở? Ta… ta chẳng thở được là gì đây?” Lão vung chưởng lên toan đánh xuống đầu Thạch Phá Thiên, nhưng chợt cảm thấy hai bàn tay đau đớn vô cùng. Lão liền giơ lên xem, thì thấy hai bàn tay đã sưng to như hai quả bóng, chỗ đỏ thẫm, chỗ tím bầm. Phát chưởng này mà đánh xuống người Thạch Phá Thiên thì e rằng chính bàn tay lão phải vỡ nát trước.

Lão ngẩn người ra một chút rồi hiểu ngay. Thì ra nội lực của Thạch Phá Thiên quả là thâm hậu ngoài sức tưởng tượng. Lão đánh trúng mấy chục chiêu quyền chưởng, đều bị nội lực chàng hất ngược lại. Quyền chưởng đánh vào chàng chẳng khác gì đập vào tường đá, đối phương chưa bị thương mà bàn tay lão đã không chịu nổi. Lão lại cảm thấy chân của mình ngấm ngầm đau buốt tựa hồ muôn ngàn mũi kim đâm vào. Phen nãy lão đã phóng ra mấy cước, chân cũng bị sức hất ngược lại làm chấn động.

Bạch Tự Tại đứng ngẩn ra một lúc rồi nói: “Hỏng rồi! Hỏng rồi!” Lập tức lão thấy chán nản vô cùng, nghĩ lại những câu mình đã nói, võ công đệ nhất tự cổ chí kim gì gì đó, thật chỉ là những lời để gạt người và tự gạt mình.

Lão lượm xiềng xích lên mắc vào chân tay mình. Lách cách mấy tiếng, lão tự khóa lại. A Tú hốt hoảng la lên: “Gia gia! Gia gia làm sao vậy?”

Bạch Tự Tại xoay mình quay mặt vào vách đá, nói một cách thê lương: “Bạch Tự Tại mỗ cuồng vọng tự cao, tội nghiệt nặng nề. Bây giờ ta phải ở đây, quay mặt vào tường đá để sám hối lỗi lầm. Các ngươi ra cả đi, từ nay ta không gặp ai cả! Ngươi kêu bà nội của người lên núi Bích Loa đi, vĩnh viễn đừng trở về thành Lăng Tiêu nữa.”

A Tú cùng Thạch Phá Thiên ngơ ngác nhìn nhau, không biết làm thế nào. Hồi lâu, A Tú mới lên tiếng trách: “Chuyện này chỉ tại Thiên ca không tốt. Sao lại hiếu thắng đến thế.”

Thạch Phá Thiên nói: “Ta… ta có làm gì đâu? Ta không đánh trúng gia gia của muội một quyền nào.”

A Tú lườm chàng rồi nói: “Chỉ là gia gia của tiểu muội thôi ư? Thiên ca kêu một tiếng gia gia cũng đâu có gì là sỉ nhục?”

Thạch Phá Thiên thầm sung sướng trong lòng, khẽ gọi: “Gia gia!”

Bạch Tự Tại xua tay nói: “Đi đi! Đi mau đi! Ngươi mạnh hơn ta. Ta là con cháu ngươi, ngươi mới là gia gia của ta!”

A Tú lè lưỡi rồi mỉm cười nói: “Gia gia lại nổi giận nữa rồi! Chúng ta mau ra ngoài nói với bà nội đi.”

Hồi 18: Điều phải cầu xin

Hai người ra khỏi thạch lao, đi về phía đại sảnh. Thạch Phá Thiên nói: “A Tú! Người nào thấy ta cũng tưởng là Thạch Trung Ngọc, ngay cả Thạch trang chúa cùng Thạch phu nhân cũng không phân biệt được. Sao Tú muội lại không nhận lầm?”

Mặt A Tú đỏ lên một chút, rồi lại lợt lạt. Nàng dừng bước lại. Lúc này hai người đang đi trên một lối nhỏ trong vườn hoa. Người A Tú hơi lảo đảo, phải vịn vào một gốc bạch mai mới đứng vững, da mặt vừa mềm mại vừa trắng bạch như cánh hoa mai. Nàng định thần lại nói: “Gã Thạch Trung Ngọc này đã từng hà hiếp muội. Tiểu muội buồn giận quá, phải nhảy xuống vực thẳm tự tận. Đại ca! Đại ca có chịu trả thù cho muội hay không?”

Thạch Phá Thiên ngần ngừ nói: “Gã là đứa con yêu độc nhất của ông bà Thạch trang chúa. Thạch trang chúa cùng Thạch phu nhân đối với ta rất tốt. Ta… ta… không thể giết con trai của họ.”

A Tú cúi đầu, hai giọt nước mắt lăn xuống má, nghẹn ngào nói: “Tiểu muội mới yêu cầu Thiên ca một việc đầu tiên mà Thiên ca đã chối từ. Sau này… nhất định Thiên ca sẽ bức hiếp tiểu muội, cũng như ông nội đối với bà nội vậy. Tiểu muội… tiểu muội đi mách Sử bà bà và má má đây!” Nàng nói xong, lấy tay che mặt chạy vọt đi.

Thạch Phá Thiên gọi: “A Tú! A Tú! Tú muội hãy nghe ta nói đã!”

A Tú vừa khóc thút thít vừa nói: “Đại ca không giết gã, thì vĩnh viễn tiểu muội không nhìn đến đại ca!”

Miệng nói, chân vẫn bước đều, chớp mắt hai người đã đến trước đại sảnh. Thạch Phá Thiên theo nàng đi vào, thì thấy trong đại sảnh kiếm quang lấp loáng, bốn người đang đánh nhau kịch liệt. Bạch Vạn Kiếm, Thành Tự Học và Tề Tự Miễn, ba người cùng vung kiếm vây đánh một lão già râu ngắn mặc áo bào xanh.

Thạch Phá Thiên vừa thấy đã buột miệng kêu lên: “Lão bá bá! Lão bá mạnh giỏi không! Cháu vẫn thường nhớ đến bá bá”. Thì ra lão già đó chính là Tạ Yên Khách ở Ma Thiên Nhai.

Tạ Yên Khách bị ba tay đại cao thủ phái Tuyết Sơn vây đánh mà vẫn ung dung như thường. Lão dùng hai bàn tay không để đối phó với ba thanh trường kiếm, vẫn rất tự do tự tại. Chẳng những lão không khốn đốn chút nào mà lại chiếm được thượng phong.

Bất thình lình Tạ Yên Khách nghe tiếng người la gọi, liền đưa mắt nhìn qua, bất giác giật mình la lớn: “Tại sao… tại sao lại thêm một gã này nữa?”

Những tay cao thủ đang lúc tranh phong, đâu thể xao lãng phân tâm được? Giữa lúc Tạ Yên Khách giật mình kinh ngạc, Bạch, Thành, Tề chớp lấy cơ hội, trong nháy mắt đã phóng kiếm đâm vào bụng lão. Ba người cùng học một thầy, cùng ra chiêu Minh Đà Tuấn Túc, thế kiếm vừa mau lẹ vừa hiểm độc.

Thạch Phá Thiên thấy mũi kiếm đã chạm đến chiếc áo xanh của Tạ Yên Khách, tựa như ba người cùng sắp đâm thủng bụng lão. Chàng hốt hoảng kêu lên: “Cẩn thận!”

Đồng thời chàng tung người nhảy vọt vào, nắm lấy sau lưng Bạch Vạn Kiếm kéo lui ra mấy bước.

* * *

Tiếp theo nghe hai tiếng “rắc rắc”, Tạ Yên Khách trong lúc nguy cấp đã thi triển tuyệt kỹ Bích Châm Thanh Chưởng. Tay trái lão chấn gãy trường kiếm của Tề Tự Miễn, tay phải chấn gãy trường kiếm của Thành Tự Học.

Hai phát chưởng này tuy lão phát ra cực kỳ mau lẹ, mà áo cũng đã bị hai thanh kiếm đâm rách hai vệt dài. Rồi lão xoay song chưởng lại, vận nội lực phóng ra. Thành, Tề hai người bị bắn văng đi, lưng giáng vào vách đá đánh huỵch một tiếng. Xà cột rung lên, bụi cát rơi xuống như mưa rào. Lại nghe đánh bốp một tiếng, thì ra Bạch Vạn Kiếm đã tát Thạch Phá Thiên một phát.

Tạ Yên Khách đưa mắt nhìn Thạch Phá Thiên, rồi lại ngó gã Thạch Trung Ngọc đứng trong góc nhà. Trong lòng lão rất đỗi kinh nghi, cất tiếng hỏi: “Ngươi… hai ngươi sao lại giống nhau như thế?”

Thạch Phá Thiên nét mặt hớn hở vui mừng, lên tiếng: “Lão bá bá đến đây để cứu cháu phải không? Đa tạ bá bá, cháu vẫn khỏe, họ không giết cháu.” Rồi chàng quay sang bên kia nói tiếp: “Đinh Đinh Đang Đang! Thạch đại ca! Cả hai người cũng đến đây ư? Thạch trang chúa! Thạch phu nhân! Bọn họ có đả thương trang chủ và phu nhân hay không? Vậy là con yên tâm rồi. Sư phụ! Gia gia tự đeo xiềng tay xích chân vào rồi, không chịu ra ngoài nữa. Gia gia bảo sư phụ cứ lên núi Bích Loa đi!”

Chỉ trong chốc lát, chàng lên tiếng nói với Tạ Yên Khách, Đinh Đang, Thạch Trung Ngọc, vợ chồng Thạch Thanh và Sử bà bà mỗi người mấy câu, giọng nói rất rõ ràng dõng dạc. Ai nghe cũng giật mình kinh hãi.

* * *

Ngày trước Tạ Yên Khách ở trên đỉnh Ma Thiên Nhai, một mình rèn luyện Bích Châm Thanh Chưởng. Một hôm lão hứng chí muốn thử xem bản lãnh mình đã đến mức nào, liền phát huy toàn bộ nội lực để ra chiêu. Đúng lúc ấy Trước thủ hồi xuân Bối Hải Thạch thống lãnh tám cao thủ bang Trường Lạc đến Ma Thiên Nhai, nói là để đón bang chúa họ về. Họ cứ nhất định nói bang chúa đang ở trên Ma Thiên Nhai.

Tạ Yên Khách vừa ra một chiêu đã bắt được Mễ Hoành Dã. Nhưng về sau lão cùng Bối Hải Thạch động thủ, thì một là họ Bối bản lãnh hơn người, hai là lúc ấy nội lực lão đã bị hao tán hết, lão bèn quyết định nhân lúc chưa thất bại mà rút lui chạy trốn. Lão đánh ra một chưởng rồi rút lui ngay. Tuy lão chưa thua hẳn, nhưng để người khác xông thẳng vào nhà, bức bách phải xuống núi, quả là chuyện nhục nhã nhất trong đời lão.

Tạ Yên Khách suy nghĩ lại, lần ấy mình chịu để người áp bức chỉ vì trong lúc luyện công đã tiêu hao nội lực quá mức, không thì đối phương đông người hơn nữa lão cũng không sợ. Nếu không báo được mối thù này thì đâu phải là bậc trượng phu? Tạ Yên Khách liền sắp xếp kế hoạch trước rồi mới hành động sau. Lão tìm một nơi hẻo lánh, luyện thêm mấy tháng tuyệt kỹ Bích Châm Thanh Chưởng đến mức độ xuất thần nhập hóa, không còn chỗ nào sơ hở, rồi mới tìm đến tổng đà bang Trường Lạc ở Trấn Giang.

Vừa mới vào cửa, lão đã phóng chưởng đánh chết bốn tên hương chủ, khiến cho bang Trường Lạc lập tức phải chấn động. Khi ấy, Thạch Phá Thiên đã bị Đinh Đang lừa gạt đánh tráo lấy Thạch Trung Ngọc đưa đi rồi.

Thạch Trung Ngọc toan cùng Đinh Đang xa chạy cao bay. Không ngờ bang Trường Lạc chỗ nào cũng bố trí đông người, chưa tới nửa ngày đã gặp Thạch Trung Ngọc rồi đưa gã về tổng đà. Bọn Bối Hải Thạch từ đó về sau giám thị hết sức cẩn mật, nghĩ rằng: “Thằng lỏi này lúc trước thì đầy hào khí, nhưng về sau nghĩ lại sợ hãi, toan chạy trốn. Trên thiên hạ đâu có chuyện dễ dàng như thế?” Mấy chục người kề cận ngày đêm, canh giữ không rời, bất kể hắn ta có xảo trá như thế nào cũng không trốn được.

Thạch Trung Ngọc khó khăn lắm mới thoát khỏi thành Lăng Tiêu, lại gặp phải kiếp nạn ở Hiệp Khách Đảo. Trong lúc hắn sầu não không sao nói hết, đã cùng Đinh Đang thương nghị mấy lần. Hai người đều quyết định là bất luận thế nào cũng không đi Hiệp Khách Đảo, nhưng ở trong tổng đà cũng khó mà chạy trốn, chỉ còn đợi dọc đường đến Hiệp Khách Đảo sẽ tìm cách thoát thân.

Thạch Trung Ngọc không biết làm sao, đành tạm thời mạo xưng là Thạch Phá Thiên rồi sẽ tính sau. Gã là tay cực kỳ lanh lợi, trong bang Trường Lạc từ trên xuống dưới gã đều nhẵn mặt, tính nết ai thế nào gã cũng hiểu cả. Gã giả trang làm Thạch Phá Thiên mà không để mọi người nghi ngờ, so với việc Thạch Phá Thiên giả mạo gã còn dễ hơn nhiều. Nhưng gã có tật giật mình, không dám ra oai ra phước như khi làm bang chúa trước kia. Hằng ngày gã chỉ ru rú trong phòng, đùa giỡn với Đinh Đang. Ai hỏi đến đại sự trong bang thì gã chỉ ậm ừ, không dám có quyết định chi hết. Mọi người trong bang Trường Lạc cũng chỉ mong đến kỳ hạn để đưa gã đi Hiệp Khách Đảo. Gã không hỏi han gì, họ lại càng được yên ổn.

Ngày trước Bối Hải Thạch đến Ma Thiên Nhai đón Thạch Phá Thiên về, mới phóng một chưởng đã bức bách Tạ Yên Khách phải bỏ đi. Lão biết việc này còn gây rắc rối, vẫn ngấm ngầm lo lắng. Nhưng lão thấy chưởng pháp của Tạ Yên Khách tinh thâm mà nội lực lại bình thường, không xứng với danh tiếng của họ Tạ lừng lẫy trong võ lâm, nên cũng chẳng thèm để ý làm gì nữa.

Về sau Bối Hải Thạch phát giác Thạch Phá Thiên không phải là Thạch Trung Ngọc, biết mình đã vô duyên vô cớ đắc tội với một cao thủ võ lâm, thì trong lòng cũng có phần hối hận. Nhưng việc tiếp đồng bài đi dự yến Lạp Bát chúc là việc cấp bách vô cùng, trong bang chẳng thể không có bang chúa để đứng ra gánh lấy vụ này. Lão bèn nhân lúc Thạch Phá Thiên bị hai luồng nội lực âm dương xung đột làm bất tỉnh, ngụy tạo dấu hiệu trên người Thạch Phá Thiên.

Trước kia Thạch Trung Ngọc được Bối Hải Thạch cùng mọi người đưa lên làm bang chúa Trường Lạc Bang, mới được vài ngày gã đã bỏ trốn mất. Sau đó Bối Hải Thạch bắt được gã về, bèn lột sạch quần áo ra giam lại mấy bữa để gã khó mà trốn được, về sau Thạch Trung Ngọc lại trốn thoát, nhưng trên người gã có những dấu vết hoặc thương tích gì thì Bối Hải Thạch đều đã nhìn rõ hết.

Bối Hải Thạch tuy không phải là y sinh chính thức, nhưng lão bị bệnh lâu ngày nên nghiên cứu y thuật đến mức cao minh. Bao nhiêu dấu vết trong mình Thạch Trung Ngọc lão đều nhớ rất rõ, bèn ngụy tạo những dấu vết trên vai, trên đùi, trên mông Thạch Phá Thiên giống hệt như Thạch Trung Ngọc, không sai một ly. Thậm chí tình nhân gã là Đinh Đang, kẻ thù gã là Bạch Vạn Kiếm, song thân gã là vợ chồng Thạch Thanh cũng bị lừa gạt.

Bối Hải Thạch nghĩ rằng lần này Thạch Trung Ngọc đã trốn thoát, mà gã lại rất giảo quyệt lanh lợi, tất không xuất hiện trước ngày Lạp Bát, nên lão phải làm liều. Thạch Trung Ngọc và Thạch Phá Thiên hoàn toàn giống nhau không khác chút nào, chẳng những gạt được người ngoài, mà ngay chính Thạch Phá Thiên về sau cũng tin là thật không nghi ngờ gì nữa.

Thật ra Thạch Phá Thiên và Thạch Trung Ngọc tuy tướng mạo giống nhau, nhưng không thể giống hết mọi chỗ được. Có điều sau khi đã xem đúng mấy dấu tích thì ai cũng hết sức yên trí, dù có chỗ nào không giống lắm cũng bỏ qua không kể đến.

Thạch Phá Thiên vốn không hiểu nhân tình thế thái, những chuyện rắc rối chàng không sao hiểu được, bèn tin vào lời nói của người ngoài. Chàng cũng cho là sau khi mình bị bệnh nặng một thời gian, đã quên hết những việc đã qua. Không ngờ hai sứ giả Thiện Ác của Hiệp Khách Đảo quả thực bản lãnh hơn người, đã tìm được Thạch Trung Ngọc rồi đưa từ kỹ viện thành Dương Châu về, thành ra bao nhiêu mánh khóe của Bối Hải Thạch đều bị phanh phui.

Tuy Thạch Phá Thiên đã chịu tiếp nhận chức bang chúa bang Trường Lạc để hứng lấy kiếp nạn cho toàn bang, nhưng thể diện Bối Hải Thạch coi như mất sạch. Lão bèn tìm chỗ kín ẩn lánh, không dám thò mặt ra nhìn Thạch Phá Thiên nữa. Vì thế mà vụ Thạch Trung Ngọc giả làm Thạch Phá Thiên, lẽ ra rất khó qua mắt Bối Hải Thạch, nhưng lại không bại lộ.

Khi Tạ Yên Khách đến cửa đích danh khiêu chiến, Bối Hải Thạch nghe tin họ Tạ đã đả thương liên tiếp bốn tên hương chủ thì lượng sức mình không tài nào thắng được ông ta. Một mặt lão ra nhà đại sảnh để sắp xếp mọi việc, một mặt lão sai người mời cho bằng được Thạch bang chúa ra đối phó.

Thạch Trung Ngọc từ chối hai ba lần. Những người vào mời gã toàn là hương chủ, đà chủ, đứng chật ních trong phòng. Tin tức cứ truyền vào liên tục: “Bối Hải Thạch cùng lão họ Tạ đang đánh nhau kịch liệt ngoài sảnh đường, xin bang chúa ra định đoạt!”

Có người nói: “Bối tiên sinh bị Tạ Yên Khách đánh trúng một chưởng vào vai. Tay trái tiên sinh hình như không nhúc nhích được nữa.”

Có người nói: “Bối tiên sinh chém đứt được nửa tay áo Tạ Yên Khách. Lão họ Tạ thừa cơ đánh một chưởng trúng trước ngực Bối tiên sinh.”

Có người nói: “Bối tiên sinh ho sù sụ, miệng ứa máu tươi. Bang chúa mà không ra mặt thì Bối tiên sinh khó lòng thoát chết.”

Có người lại nói khích: “Lão họ Tạ lớn tiếng khoác lác, tuyên bố chỉ dùng hai bàn tay không là đủ đánh bay cả bang Trường Lạc. Bang chúa mà không ra mặt thì lão phóng hỏa đốt tổng đà của chúng ta!”

Thạch Trung Ngọc nghĩ bụng: “Lão họ Tạ mà đốt mất tổng đà của Trường Lạc Bang, thì không những chẳng liên quan gì đến ta, mà còn là chuyện tốt. Tốt nhất là lão họ Tạ kia mau mau giết sạch các ngươi đi.” Nhưng gã bị đám hương chủ đà chủ ép bức quá, không sao tránh mặt được nữa, đành bấm bụng bước ra đại sảnh. Gã định bụng ra lệnh cho toàn bộ hảo thủ của Trường Lạc Bang xông lên hết, bất kể là ai sống ai chết, hay tốt nhất là lưỡng bại câu thương chết chung tất cả, thì mình có thể thừa cơ hội mà chạy trốn.

Ngờ đâu, Tạ Yên Khách vừa trông thấy gã liền giật mình kinh hãi la gọi: “Cẩu Tạp Chủng! Té ra là ngươi!” Lúc này Bối Hải Thạch nằm co ro dưới đất, hơi thở chỉ còn thoi thóp, vạt áo đầm đìa máu tươi.

Thạch Trung Ngọc khiếp sợ đến mức muốn hô hào mọi người xông lên liều mạng mà cũng không thể thốt ra lời được, chỉ run rẩy nói: “Thì ra là Tạ tiên sinh!”

Tạ Yên Khách cười lạnh nói: “Hay lắm! Hay lắm! Thằng lỏi này quả nhiên đã làm bang chúa của Trường Lạc Bang!” Nhưng lão nghĩ lại hết mọi việc, cũng không nén nổi lạnh toát cả người.

Lão nghĩ thầm: “Hỏng bét! Hỏng bét! Thằng cha Bối Hải Thạch thật là tâm cơ ghê gớm! Năm xưa ta từng có lời thề, sẽ làm bất cứ việc gì theo lệnh của người đem Huyền Thiết Lệnh đến cho ta, việc này mọi người đều biết cả. Lão biết mình lấy lại Huyền Thiết Lệnh từ tay thằng Cẩu Tạp Chủng, bèn tính trăm phương ngàn kế đến Ma Thiên Nhai đón gã về, dựng lên làm bang chúa bù nhìn. Dụng ý của lão không ngoài chuyện bắt mình nghe lệnh của Trường Lạc Bang. Tạ Yên Khách ơi là Tạ Yên Khách, ngươi tự phụ là thông minh quán thế, nhưng lại một lúc hồ đồ, hôm nay tự chui vào cái lưới này. Rồi đây, chúng làm dao làm thớt, mình làm cá làm thịt, không còn ngóc đầu dậy được nữa.”

Ta nên biết, người đang lo lắng điều gì thì gặp chuyện gì cũng bất giác liên hệ đến điều đó. Kẻ trèo tường vượt ngục thì tưởng chừng khắp thiên hạ chỗ nào cũng có công sai truy nã mình. Hung thủ gây án thì nơm nớp lo sợ mọi người đã nghi ngờ mình. Thanh niên nam nữ nặng lòng vì nhau thì cho là câu nói nào, động tác nào của đối tượng cũng vì mình mà nói mà làm. Ngay cả những người thông minh tuyệt đỉnh cũng khó tránh khỏi có tâm trạng như thế. Tạ Yên Khách bị ám ảnh bởi lời thề Huyền Thiết Lệnh, tâm trạng lão hiện giờ cũng vậy.

Lão càng nghĩ lại càng khiếp sợ, đoán chắc Bối Hải Thạch đã bố trí cơ quan lợi hại từ trước. Hai mắt lão đăm đăm nhìn Thạch Trung Ngọc, im lặng chờ xem gã ra lệnh cho mình làm việc gì, nghĩ bụng: “Giả tỉ thằng lỏi này bảo mình chặt hai tay đi, từ đây biến thành phế nhân sống dở chết dở thì biết làm thế nào?” Nghĩ tới đây, lão không nén nổi, hai tay run rẩy từng cơn.

Giả tỉ Tạ Yên Khách lập tức chạy trốn khỏi tổng đà bang Trường Lạc, rồi suốt đời tránh mặt gã Cẩu Tạp Chủng này, thì dĩ nhiên tránh được vấn đề nan giải này. Nhưng nếu làm như vậy thì từ đây trở đi, danh hiệu của lão không còn trên chốn giang hồ nữa. Đó hãy còn là chuyện nhỏ, ngày trước lão đã lập lời thề độc. Nếu lời thề linh ứng thì còn thảm khốc hơn nhiều so với chuyện phải cụt hai tay.

Ngờ đâu trong lòng Thạch Trung Ngọc cũng sợ hãi vô cùng. Gã thấy sắc mặt Tạ Yên Khách lộ vẻ quái dị, không hiểu lão muốn hạ độc thủ với mình thế nào. Hai người cứ đăm đăm nhìn nhau, chỉ trong chốc lát mà cả hai người đều thấy lâu bằng mấy ngày.

Sau một lúc nữa, Tạ Yên Khách lớn tiếng nói: “Được rồi! Ta đã nhận lấy tấm Huyền Thiết Lệnh từ tay ngươi! Ngươi muốn ta làm việc gì cho ngươi thì cứ nói ra. Tạ mỗ này một đời vùng vẫy giang hồ, dù gặp chuyện khó bằng trời thì cũng coi là chuyện nhàn hạ giải sầu mà thôi.”

Thạch Trung Ngọc nghe lão nói vậy, kinh ngạc đến ngẩn người ra. Nhưng hắn đã từng nghe nói đến chuyện Tạ Yên Khách phát Huyền Thiết Lệnh, lại là người rất thông minh cơ trí, chỉ xoay chuyển ý nghĩ một chút là hiểu ngay. Gã biết nhất định Tạ Yên Khách đã nhận lầm mình là thằng ngốc đang làm con ma đi đến thành Lăng Tiêu chết thế. Nghe Tạ Yên Khách nói bất luận mình đưa ra vấn đề gì nan giải đến đâu, lão cũng hết sức làm cho bằng được, gã sung sướng chẳng khác gì bắt được của báu từ trên trời rơi xuống.

Gã biết võ công lão này tuyệt cao, chẳng việc gì mà lão không làm nổi. Nhưng gã tự hỏi: “Mình bảo lão làm việc gì bây giờ?” Rồi gã lộ vẻ ngần ngừ không quyết định.

Tạ Yên Khách đã nhận ra thái độ của Thạch Trung Ngọc là vừa kinh hãi vừa sợ sệt. Lão liền nói: “Tạ mỗ đã từng tuyên bố, người nào trên chốn giang hồ đã lấy được Huyền Thiết Lệnh, thì Tạ mỗ quyết không đụng vào người đó một ngón tay. Ngươi còn sợ gì nữa? Cẩu Tạp Chủng! Ngươi còn chưa chết, thật là mạng lớn! Nội công của ngươi đã luyện đến mức độ nào rồi?” Lão đoán rằng thằng lỏi này ngại khó hoặc biếng nhác, sau này không luyện công nữa. Nếu không, hai luồng nội khí âm dương xung kích nhau trong cơ thể thì làm sao gã sống được đến ngày nay?

Thạch Trung Ngọc nghe ông ta gọi mình là Cẩu Tạp Chủng, chỉ tưởng rằng ông ta mở miệng thóa mạ mình thôi, chỉ mỉm cười chứ không trả lời. Về sau gã tự nhủ: “Sau khi thằng ngốc kia đến thành Lăng Tiêu thổ lộ chân tướng, bọn Bạch Tự Tại, Bạch Vạn Kiếm, Phong Vạn Lý khi nào chịu bỏ qua? Nhất định chúng sẽ đến đây để tìm ta, mình khó mà chường mặt ra giang hồ nữa. Nay được cơ hội tốt này, sao mình không nhờ lão giải quyết cho xong đi? Lực lượng phái Tuyết Sơn cùng Trường Lạc Bang cũng tương đương nhau, kẻ tám lạng người nửa cân. Thế mà một mình Tạ Yên Khách có thể dẹp được Trường Lạc Bang, thì chắc là ta có thể dựa vào song chưởng của lão để đánh cho phái Tuyết Sơn một trận muôn đời chưa phục hồi được.”

Gã tính toán xong liền nói: “Tạ tiên sinh quả nhiên là người thủ tín, khiến cho ai cũng phải kính phục. Việc mà tại hạ muốn nhờ tiên sinh giúp đỡ, người tầm thường mà nghe thấy tất phải tái mặt. Nhưng Tạ tiên sinh đã có bản lãnh thiên hạ vô song, thì đó lại là một việc nhẹ nhàng chẳng đáng gì.”

Tạ Yên Khách nghe giọng lưỡi Thạch Trung Ngọc dường như không có ý làm khó mình thì trong bụng mừng thầm. Lão hỏi ngay: “Ngươi muốn nhờ ta việc gì?” Ông ta cũng chưa được bình tâm lắm, nên cũng không lưu ý đến chuyện Thạch Trung Ngọc nói chuyện văn nhã, hoàn toàn khác thằng ăn xin Cẩu Tạp Chủng.

Thạch Trung Ngọc nói: “Tại hạ cả gan xin Tạ tiên sinh đến thành Lăng Tiêu, tru diệt sạch sẽ phái Tuyết Sơn từ trên xuống dưới, không để sống sót một người nào.”

Tạ Yên Khách ngấm ngầm kinh hãi nghĩ bụng: “Tuyết Sơn là một phái lớn nổi tiếng trong võ lâm, uy danh Uy Đức tiên sinh Bạch Tự Tại lừng lẫy gần xa. Lão ta là một đại cao thủ, ta khó mà thắng được, huống chi lại phải tiêu diệt hết cả phái đó thì đâu phải chuyện dễ dàng? Nhưng đối phương đã đưa ra vấn đề này, thì ta phải làm cho bằng được, còn hơn suốt ngày cứ phải lo lắng run rẩy, nghi này cái nọ. Sau khi ta diệt xong phái Tuyết Sơn thì không còn phải lo âu gì nữa, suốt đời tiêu diêu khoái lạc.”

Lão bèn gật đầu nói: “Được! Ta đi đây!” rồi trở gót đi luôn.

Thạch Trung Ngọc gọi giật lại: “Tạ tiên sinh! Hãy khoan đã!”

Tạ Yên Khách quay lại hỏi: “Còn gì nữa?” Lão nghĩ bụng: “Thằng chó lộn giống này kêu mình đi diệt phái Tuyết Sơn, chắc là do chủ ý của bọn Bối Hải Thạch. Không hiểu bang này có thâm thù gì với phái Tuyết Sơn mà mượn tay mình tiêu diệt đối phương? Mình đi sớm được khắc nào hay khắc ấy, biết đâu bọn Bối Hải Thạch lại chẳng đưa ra ngụy kế gì khác.”

Thạch Trung Ngọc nói: “Tạ tiên sinh! Tại hạ muốn đi theo tiên sinh để đích thân trông thấy tiên sinh lo liệu việc này.” Lúc gã nghe Tạ Yên Khách nhận lời đến thành Lăng Tiêu để tru diệt phái Tuyết Sơn, bèn nghĩ ngay rằng đây là cơ hội tốt nhất để mình thoát khỏi bang Trường Lạc, thật là nhất cử lưỡng tiện.

Lời trọng thệ của Tạ Yên Khách ngày trước chỉ nói là khi nhận được Huyền Thiết Lệnh thì phải làm cho người ta một việc. Nhưng chuyện Thạch Trung Ngọc muốn cùng đi lại có liên quan đến việc mà gã bảo lão làm, lão không tiện cự tuyệt bèn nói: “Được! Ngươi cứ việc đi với ta.”

Bang chúng bang Trường Lạc rất đỗi hoang mang, đưa mắt nhìn Bối Hải Thạch để xem lão chỉ thị ra sao. Thạch Trung Ngọc dõng dạc lên tiếng: “Bản tòa đã nhận lời mời đến Hiệp Khách Đảo, thì sẽ một mình gánh vác chuyện này. Ta nhất định không để huynh đệ trong bang bị làm khó dễ, mọi người cứ yên tâm.”

Bối Hải Thạch đang bị trọng thương, lại không ngờ được Tạ Yên Khách phải nghe hiệu lệnh của Thạch bang chúa. Lão không còn sức để cản trở, đành thều thào nói: “Bang… bang chúa… bảo… bảo… bảo trọng. Xin thứ… thứ lỗi cho thuộc hạ… không tiễn chân được.”

Thạch Trung Ngọc chắp tay từ biệt mọi người, rồi theo Tạ Yên Khách ra khỏi tổng đà.

Tạ Yên Khách cười lạnh, lên tiếng thóa mạ: “Thằng Cẩu Tạp Chủng này nghe lệnh của Bối đại phu, muốn ta đi diệt phái Tuyết Sơn. Phái Tuyết Sơn với ngươi thì có rắc rối gì? Bối đại phu dựng ngươi lên làm bang chúa, chẳng qua chỉ vì muốn ngươi đến chết ở Hiệp Khách Đảo mà thôi. Thằng ngốc này nói chuyện nghĩa khí với bọn gian tặc xảo trá, thật là hồ đồ đến cực điểm. Sao ngươi không kêu ta làm chuyện gì có ích cho ngươi hơn?” Nhưng đột nhiên lão lại nghĩ: “May mà hắn không bắt ta làm bang chúa Trường Lạc Bang để thay hắn đi chết ở Hiệp Khách Đảo”. Võ công của lão tuy rất cao, nhưng vẫn rất kiêng nể Hiệp Khách Đảo, nên nghĩ đến đó thì không khỏi hoan hỉ, vừa cười vừa mắng thầm: “Con mẹ nó! Coi như lão gia hên vận, giả tỉ thằng ngốc này bớt ngốc đi một chút thì chắc chắn lão gia gặp chuyện xúi quẩy rồi.”

Lúc này Thạch Trung Ngọc đã ra hiệu lệnh, Tạ Yên Khách hoàn toàn không phải sợ hãi gì hắn nữa. Chỉ trừ việc động thủ đánh đập gã là không được, còn lão muốn ăn nói ngông cuồng hay sỉ nhục gã cũng không phạm gì đến lời thề. Gã mà muốn yêu cầu lão làm một việc thứ hai, lão có thể không lý gì đến. Thạch Trung Ngọc không dám nhiều lời, chỉ mỉm cười nói: “Thật là đắc tội.”

Đinh Đang thấy Thạch Trung Ngọc đi theo Tạ Yên Khách rời khỏi Trường Lạc Bang, bèn cố đuổi kịp để đi cùng với hai người lên thành Lăng Tiêu. Thạch Trung Ngọc tuy có Tạ Yên Khách là cao thủ hạng nhất đi kèm, nhưng khi đến thành Lăng Tiêu vẫn khiếp oai Bạch Tự Tại. Gã liền khuyên Tạ Yên Khách âm thầm tập kích chứ đừng đánh ra mặt.

Tạ Yên Khách nghe gã hiến kế rất hợp ý mình, ba người bèn lẻn vào thành Lăng Tiêu. Thạch Trung Ngọc đã ở trong thành này nhiều năm, nên đường lối cửa ngõ gã đều thuộc hết. Trong thành lại đang gặp tai biến, các nơi yếu điểm dọc đường không ai bảo vệ, ba người đi vào thành không phí một chút sức.

Tạ Yên Khách động thủ giết bốn tên đệ tử đời thứ ba của phái Tuyết Sơn rồi đi vào cửa giữa. Lão nghe được người phái Tuyết Sơn bàn lén với nhau, có người giận dữ, có người sợ sệt, có người muốn chạy trốn ngay, có người muốn xem tình hình ra sao rồi mới tính tiếp. Tạ Yên Khách và Thạch Trung Ngọc biết được thành Lăng Tiêu vừa có nội loạn đại biến, cùng nghĩ đây là cơ hội trời cho. Rồi lão lại biết vợ chồng Thạch Thanh đã bị bắt giam.

Thạch Trung Ngọc tuy có những hành vi ác độc vô sỉ, nhưng còn giữ được tình cảm với cha mẹ. Gã không mở miệng yêu cầu Tạ Yên Khách, chỉ lẳng lặng dẫn lão đến nhà giam trong thành để lão xuất thủ giết mấy người, cứu Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu ra, rồi mới vào đại sảnh. Lúc ấy Sử bà bà, Bạch Vạn Kiếm, Thạch Phá Thiên đang ở trong thạch lao nói chuyện với Bạch Tự Tại.

Tạ Yên Khách định bụng gặp ai giết nấy, giết cho kỳ sạch phái Tuyết Sơn. Nhưng Thạch Thanh, Mẫn Nhu cực lực khuyên can. Thạch Thanh dùng lời nói khích lão: “Nếu đúng là anh hùng hảo hán thì phải cùng chưởng môn phái Tuyết Sơn là Uy Đức tiên sinh quyết một trận sinh tử. Lúc này chủ nhân không xuất hiện, tiên sinh giết bọn đệ tử hậu bối của lão thì sao tránh khỏi lời nghị luận trên giang hồ? Người ta sẽ đồn đại Ma Thiên cư sĩ cậy lớn hiếp nhỏ, bắt nạt người yếu, sợ kẻ cương ngạnh.”

Tạ Yên Khách nói lạnh nhạt: “Đây là cuộc tru lục tận số, ta cứ gặp già giết già, gặp trẻ giết trẻ, khỏi cần phân biệt trước sau.”

Lát sau Sử bà bà cùng Bạch Vạn Kiếm đi ra, chỉ mấy câu nói không lọt tai là xảy ra động thủ. Võ công Bạch Vạn Kiếm tuy cao thâm, nhưng chưa phải là địch thủ của chủ nhân Huyền Thiết Lệnh. Mới được mấy chiêu, hắn đã liên tiếp gặp nguy hiểm. Bọn Thành Tự Học, Tề Tự Miễn nghe Tạ Yên Khách tuyên bố tận diệt phái Tuyết Sơn, liền xông ra giáp công. Nhưng ba người chọi một cũng không chịu nổi Bích Châm Thanh Chưởng cực kỳ lợi hại của Tạ Yên Khách.

Lúc Thạch Phá Thiên đi vào đại sảnh thì Sử bà bà cùng Lương Tự Tiến cũng đang định nhảy vào vòng đấu để hợp công Tạ Yên Khách. Không ngờ Tạ Yên Khách gặp lúc kinh nghi, cục diện lập tức biến đổi rất nhiều.

* * *

Thạch Trung Ngọc thấy võ công Thạch Phá Thiên cao cường như thế, dĩ nhiên là thập phần sợ hãi. Hắn chỉ sợ phái Tuyết Sơn tính sổ nợ cũ, Thạch Phá Thiên chắc cũng làm khó dễ mình, nhưng thấy A Tú bình yên vô sự thì cũng yên tâm được phần nào.

Đinh Đang tuy thương yêu gã Thạch Trung Ngọc phong lưu đàng điếm, chán ghét chàng Thạch Phá Thiên ngớ ngẩn không có vẻ phong tình, nhưng dù sao cũng đã kề cận lâu ngày, không khỏi có chút tình bè bạn. Cô nàng thấy Thạch Phá Thiên còn sống cũng mừng thầm trong bụng.

Vợ chồng Thạch Thanh đến bây giờ mới biết người mình dẫn lên núi Tuyết Sơn không phải là con trai, mà lại là gã thiếu niên Thạch Phá Thiên kia, thì không khỏi vừa thẹn thùng lại vừa buồn cười. Lần thứ nhất nhận lầm con đã đành, không ngờ lại nhận lầm một lần thứ hai nữa. Hai vợ chồng nhìn nhau lắc đầu, bụng bảo dạ: “Từ đây e rằng chuyện vợ chồng Huyền Tố Trang Chúa nhận lầm con sẽ biến thành giai thoại của võ lâm, bằng hữu sẽ đem mình ra mà chế giễu.” Cả hai cùng hỏi: “Thạch bang chúa! Sao bang chúa lại phải giả vờ đau họng để đánh tráo Ngọc nhi đi?”

Sử bà bà nghe Thạch Phá Thiên nói trượng phu mình không chịu ra khỏi nhà lao, lại giục mình lên núi Bích Loa, vội hỏi: “Lão với ngươi tỉ võ ai thắng ai bại? Sao lão bảo ta lên núi Bích Loa?”

Tạ Yên Khách hỏi: “Tại sao lại có hai gã Cẩu Tạp Chủng! Chuyện này là như thế nào?”

Bạch Vạn Kiếm lên tiếng: “Thằng lỏi Thạch Trung Ngọc kia! Ngươi dám cả gan dẫn xác đến thành Lăng Tiêu ư?”

Đinh Đang cũng hỏi: “Ngươi không theo lời ta dặn, để tiết lộ bí mật rồi phải không?”

Cả đại sảnh xúm xít vào, mỗi người hỏi một câu. Dù Thạch Phá Thiên có mười cái miệng cũng không thể trả lời cùng một lúc tất cả bấy nhiêu câu hỏi. Bỗng thấy một thiếu phụ trung niên từ nhà sau đi ra, hỏi A Tú: “A Tú! Trong hai thiếu niên kia, gã nào tử tế, gã nào hư đốn?”

Thiếu phụ này là vợ Bạch Vạn Kiếm, mẹ A Tú. Từ ngày A Tú nhảy xuống vực thẳm, bà thương nhớ con gái mà hóa điên cuồng, thần trí hồ đồ. Bọn Thành Tự Học, Tề Tự Miễn, Liêu Tự Lệ âm mưu làm phản cũng bỏ mặc không hỏi gì đến bà. Hôm nay A Tú theo bà nội vào thành, việc đầu tiên là tới thăm mẫu thân. Mẹ vừa thấy con gái trở về, tinh thần tỉnh táo lại được quá nửa, nhưng tới bây giờ mới lên tiếng hỏi.

Sử bà bà lớn tiếng nói: “Đừng huyên náo nữa! Ai cũng hỏi loạn cả lên, thì còn biết đằng nào mà nghe?” Mọi người nghe bà ta nói đều im lặng hết, chỉ có Tạ Yên Khách còn cười khẩy một tiếng, nhưng cũng không nói gì thêm.

Sử bà bà lại nói: “Ngươi hãy trả lời ta trước. Ngươi tỉ võ với gia gia thì ai thắng?” Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn đều trố mắt ra nhìn Thạch Phá Thiên, không khỏi nơm nớp trong lòng. Đám sư đệ, sư điệt và đệ tử Bạch Tự Tại tuy bất mãn lão về tật ngông cuồng hung dữ, nhưng nếu lão thua chàng thiếu niên này thật thì còn gì là oai danh phái Tuyết Sơn, dĩ nhiên mọi người cũng mất thể diện.

Thạch Phá Thiên đáp: “Dĩ nhiên là gia gia thắng. Cháu làm sao xứng đáng thí võ với gia gia? Gia gia nói là muốn dạy cho con vài công phu thô thiển, đánh trúng con đến bảy tám chục quyền, hai ba chục cước, còn tay chân con không động vào được người gia gia cái nào.”

Bọn Bạch Vạn Kiếm đều thở phào nhẹ nhõm. Sử bà bà liếc nhìn chàng hỏi: “Sao ngươi không bị thương chỗ nào?”

Thạch Phá Thiên nói: “Đó là gia gia có ý hạ thủ lưu tình, về sau gia gia đánh chán rồi ngồi phệt xuống đất. Cháu thấy gia gia hơi thở không thông, bế tắc hô hấp, liền trợ lực cho gia gia dễ thở. Bây giờ gia gia đã trở lại bình thường rồi.”

Tạ Yên Khách cười lạnh nói: “À, ra thế đấy!”

Sử bà bà lại hỏi: “Gia gia ngươi nói những gì?”

Thạch Phá Thiên nói: “Gia gia nói, Bạch Tự Tại này tự đại gì đó, tội nghiệt gì đó… ở nhìn vách làm gì đó… các ngươi ra lẹ đi, từ nay ta không muốn nhìn thấy ai nữa, kêu bà nội đi lên núi Bích Loa đi, vĩnh viễn đừng trở về thành Lăng Tiêu.”

Thạch Phá Thiên một chữ cũng không biết, nên những thành ngữ “tội nghiệt thâm trọng”, “cuồng vọng tự đại” “nhìn vách hối lỗi” mà Bạch Tự Tại đã nói, chàng chẳng hiểu gì nên không nhắc lại được. Tuy nhiên mọi người cũng đoán được phần lớn.

Sử bà bà giận dữ nói: “Lão coi ta là hạng người nào? Sao lại kêu ta lên núi Bích Loa?”

Sử bà bà có nhũ danh là Tiểu Thúy, lúc đương xuân dung nhan nguyệt thẹn hoa nhường. Bọn thanh niên trong võ lâm vì mụ mà mê man tâm thần không phải là ít. Trong đám này thì Bạch Tự Tại và Đinh Bất Tứ là hai nhân vật có giá hơn hết. Bạch Tự Tại vốn là con người ngông cuồng tự đại, Sử Tiểu Thúy không ưa lão, nhưng song thân mụ lại thích võ công cùng danh vọng của lão. Thế là mụ được gả cho chưởng môn phái Tuyết Sơn.

Lúc mới thành thân, Sử Tiểu Thúy thường đấu khẩu với trượng phu, cứ mỗi phen cãi vã lại oán trách song thân. Mụ nói là nếu được gả cho Đinh Bất Tứ thì chắc không đến nỗi khổ sở thế này. Thật ra Đinh Bất Tứ hành sự cũng rất quái dị, nhân phẩm còn kém Bạch Tự Tại nhiều. Nhưng người đời quen đứng núi này trông núi nọ, mà Sử Tiểu Thúy cũng thích chọc tức trượng phu, nên hay đem chuyện Đinh Bất Tứ ái mộ mình thêm mắm thêm muối vào kể cho chồng mình nghe. Những chuyện nhỏ xíu mà mụ cũng phóng đại mười phần, khác nào lửa cháy đổ thêm dầu, Bạch Tự Tại nghe mà nhảy dựng lên nhưng lại không làm gì được.

May mà hai người thành hôn chưa được bao lâu thì sinh hạ Bạch Vạn Kiếm. Sử Tiểu Thúy lo chăm sóc con, không rời khỏi thành Lăng Tiêu nửa bước, mấy chục năm không gặp Đinh Bất Tứ lần nào. Dù Bạch Tự Tại đem lòng ghen tuông, nhưng cũng biết vợ không thể ngoại tình được. Không ngờ đến lúc tuổi già lại xảy ra chuyện Thạch Trung Ngọc hãm hại A Tú. Sử Tiểu Thúy bị Bạch Tự Tại đánh cho một tát, mụ tức giận bỏ ra khỏi thành Lăng Tiêu, xuống thung lũng tuyết cứu được A Tú.

Nhưng mụ vẫn chưa nguôi giận, bèn dắt cô cháu gái vào Trung Nguyên du ngoạn cho đỡ bực dọc, đồng thời bắt trượng phu phải một phen lo lắng. Oan gia đụng đầu ngõ hẹp, lúc mụ đến phủ Võ Xương thì gặp Đinh Bất Tứ. Hai người chia tay từ lúc thiếu thời, ngờ đâu khi bạc hết đầu lại gặp nhau.

Nói chuyện một hồi, té ra Đinh Bất Tứ lại rất si tình, đến nay vẫn chưa lấy vợ. Bây giờ gặp mụ, lão năn nỉ mời mụ lên núi Bích Loa để hàn huyên mấy bữa. Hai người tuổi đã lục tuần, chẳng còn gì mối tình nam nữ. Sở dĩ Đinh Bất Tứ mời mụ lên chơi, chẳng qua là để thỏa mãn tâm nguyện từ hồi còn trẻ. Lão chỉ cần người trong mộng đặt chân lên núi Bích Loa thì có chết cũng cam tâm.

Mặc cho Sử bà bà dứt khoát từ chối, Đinh Bất Tứ cứ năn nỉ hoài. Lão cứ theo đuổi, nhất định không chịu buông tha. Sử bà bà khí tức xông lên, từ đấu khẩu chuyển sang động thủ. Hai người tỉ đấu, võ công Sử bà bà còn kém Đinh Bất Tứ nhiều. May mà lão không có ý sát hại mụ, mỗi khi tới lúc sinh tử quyết liệt thì lão lại nương tay.

Sử bà bà vừa tức giận vừa nóng nảy, thuê thuyền đi dọc sông Trường Giang gấp rút luyện nội công, đến nỗi bị tẩu hỏa nhập ma. Mụ thấy mình sắp bị Đinh Bất Tứ cưỡng bách lên núi Bích Loa, đã định cùng cháu gái nhảy xuống sông thì khéo sao lại gặp Thạch Phá Thiên giải vây. Về sau Sử bà bà lên đảo Tử Yên lại gặp hai anh em họ Đinh. Mụ không muốn gặp lão, càng không muốn gặp con trai trong cảnh khó xử, liền dắt A Tú bỏ đi lánh mặt.

Đinh Bất Tứ mấy chục năm nay không gặp Tiểu Thúy, phen này trùng phùng mà không thỏa nguyện, bèn tính bài cưỡng ép, dù sao cũng bắt mụ đặt chân lên núi Bích Loa một lần mới chịu thôi. Lão tự biết một mình mình không phải là địch thủ của phái Tuyết Sơn, bèn muối mặt đến cầu viện huynh trưởng là Đinh Bất Tam, dù trước nay anh em lão vẫn không hòa thuận với nhau.

Hai anh em dẫn nhau đến thành Lăng Tiêu, định ép Sử bà bà lên núi Bích Loa. Lão chỉ mong mụ đặt chân lên núi một lần, rồi sẽ lập tức lấy thuyền đưa bà ta trở về. Nhưng lúc huynh đệ họ Đinh lên thành Lăng Tiêu, Sử bà bà lại chưa trở về. Đinh Bất Tứ bèn dựng chuyện nói là Sử bà bà đã từng lên núi Bích Loa, cùng lão bàn luận về quyền kiếm, ôn lại mối tình xua. Lão đã không cưới được Sử Tiểu Thúy, khi có cơ hội liền cố bắt tình địch phải tức giận.

Ban đầu Bạch Tự Tại không tin, nhưng Đinh Bất Tứ cứ mồm năm miệng mười kể lể võ công của Sử bà bà đã đến chỗ tuyệt diệu phi thường. Lão trình bày một cách rõ ràng tường tận những chiêu thức mà Sử bà bà đã luyện trong ba bốn chục năm nay, khiến cho Bạch Tự Tại không khỏi đem lòng ngờ vực. Hai người lời qua tiếng lại, rồi xảy cuộc động thủ ngay trong thư phòng. Đinh Bất Tứ trúng phải một chưởng của Bạch Tự Tại, bị trọng thương. Đinh Bất Tam liền hộ vệ lão rời khỏi thành Lăng Tiêu.

Vụ này lẽ ra chẳng có chi quan hệ, nhưng Bạch Tự Tại vừa nóng giận vừa căm tức, hờn giận trong lòng không có nơi phát tiết khiến lão nổi điên. Lão tàn sát những người vô tội, gây nên phong ba bão táp trong thành Lăng Tiêu.

Lúc Sử bà bà về thành, thấy tình hình trượng phu như vậy thì trong lòng hết sức hối hận. Bệnh điên của chồng, một phần vì tính tình tự đại, còn một phần thật đã vì mình mà phát khởi. Bây giờ mụ nghe Thạch Phá Thiên nói trượng phu giục mình lên núi Bích Loa vĩnh viễn đừng trở về, còn lão tự biết đã gây nên tội lỗi thâm trọng, nên ở lại trong thạch lao quay mặt vào tường để ăn năn sám hối. Mụ liền quyết định chủ ý: “Hai người đã đồng tịch đồng sàng gần hết đời người, bây giờ đến lúc tuổi già, có lý đâu lại phải chia tay? Lão đã quyết ở trong thạch lao để tự trừng phạt chính mình, thì ta cũng ở trong nhà lao bầu bạn với lão cho đến cùng, tránh cái thảm cảnh lão chết không nhắm mắt được.”

Sử bà bà lại nghĩ: “Ta đã bắt Ức Đao phải nhường chức chưởng môn, chỉ vì ta muốn thay nó lên đảo Hiệp Khách phó ước, tránh cho A Tú cái họa góa bụa ngay từ thuở nhỏ, phòng không chiếc bóng một đời. Vụ này khó mà lưỡng toàn được, bây giờ biết làm thế nào? Ta đành tạm gác lại việc này, từ từ hãy nói, bây giờ phải vào xem lão điên kia trước đã.” Mụ liền quay lưng đi vào thạch thất. Bạch Vạn Kiếm cũng lo lắng cho phụ thân nên muốn theo vào, nhưng hắn lại nghĩ đến đại địch đang ở trước mắt, bản phái đang lúc hưng vong, đối phó với Tạ Yên Khách là chuyện khẩn yếu nhất.

* * *

Tạ Yên Khách hết nhìn Thạch Trung Ngọc lại ngó Thạch Phá Thiên, thật khó mà biết được ai thật ai giả. Xem cử chỉ và cách nói năng thì Thạch Phá Thiên giống Cẩu Tạp Chủng hơn, nhưng lão nghĩ tới võ công cao thâm của Thạch Phá Thiên, chỉ một chiêu đã kéo lùi Bạch Vạn Kiếm, thì lại sinh lòng nghi hoặc. Lão cho là chàng thiếu niên quê mùa ở Ma Thiên Nhai với lão ngày trước không thể có bản lãnh này. Chàng mới chia tay lão được mấy tháng, khi nào võ công lại tăng tiến mau đến thế?

Đột nhiên mặt lão xanh lè, lớn tiếng quát hỏi: “Hai thằng lỏi này, thằng nào là Cẩu Tạp Chủng?” Tiếng quát của lão làm chấn động mọi người, trái tim ai nấy đập loạn lên, đất cát trên nóc nhà cũng đổ xuống ầm ầm. Ai cũng biết lão đang phẫn nộ tới cực điểm, chỉ cất tay là giết người.

Thạch Trung Ngọc không biết ba chữ Cẩu Tạp Chủng là tên thật của Thạch Phá Thiên. Gã cho là Tạ Yên Khách đang giận dữ mà thóa mạ, lại tưởng mưu kế của mình đã bị lão khám phá. Bây giờ chỉ còn cách mặt dày chống chế được lúc nào hay lúc ấy, về sau sẽ tính chuyện trốn đi. Gã nghĩ vậy liền đáp: “Tại hạ không phải. Nó… nó mới là Cẩu Tạp Chủng.”

Tạ Yên Khách trợn mắt lên nhìn Thạch Trung Ngọc, cười lạnh hỏi: “Ngươi thật không phải là Cẩu Tạp Chủng ư?”

Thạch Trung Ngọc bị mục quang của lão làm run lên bần bật, đáp ngay: “Tại hạ không phải.”

Tạ Yên Khách quay lại nhìn Thạch Phá Thiên hỏi: “Thế thì ngươi là Cẩu Tạp Chủng à?”

Thạch Phá Thiên gật đầu đáp: “Đúng thế! Tạ lão bá! Ngày trước ở trên núi, cháu được lão bá dạy võ công, đột nhiên toàn thân cháu phát hàn phát nhiệt, đau khổ không chịu nổi rồi ngất đi. Sau cháu tỉnh lại thì gặp rất nhiều chuyện quái lạ, hết chuyện này đến chuyện khác, mãi đến bây giờ. Mấy tháng nay lão bá có khỏe không? Không biết ai đã giặt giũ nấu ăn cho lão bá? Cháu cũng thường nhớ đến lão bá. Cháu không giặt áo nấu cơm cho lão bá, chắc lão bá phải mệt nhọc lắm.” Giọng nói của chàng đầy vẻ quan tâm.

Tạ Yên Khách không còn nghi ngờ gì nữa, thầm nghĩ: “Thằng ngốc này đối với ta rất tốt.” Rồi lão quay lại nói với Thạch Trung Ngọc: “Ngươi mạo xưng người này để giỡn chơi với ta. Hừ! Lá gan của ngươi thật là to.”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu thấy sắc mặt Tạ Yên Khách xanh lè, hai mắt quắc lên, thì biết lão đã bị con mình lừa gạt, phẫn nộ đến cực điểm. Lão mà nhấc tay một cái là con trai mình phải chết ngay tại chỗ. Hai người vội vàng nhảy ra đứng chắn trước mặt Thạch Trung Ngọc. Mẫn Nhu cất giọng run run nói: “Tạ tiên sinh! Tiên sinh là người lớn khoan nhân đại độ, xin tha thứ cho một thằng nhỏ chưa biết gì. Ta… ta sẽ bảo nó dập đầu chịu tội với tiên sinh.”

Tạ Yên Khách đang phiền não vô cùng, không chỉ vì đã bị Thạch Trung Ngọc lừa gạt, mà chính yếu là vì lời thề Huyền Thiết Lệnh lại chưa xong được. Lão cười lạnh nhạt nói: “Con của ngươi dám lừa gạt Tạ mỗ, đâu thể chỉ dập đầu mấy cái mà xong việc được? Mau lui ra!” Chưa dứt lời, lão vung tay áo một cái, hai luồng đại lực đẩy tới như bài sơn đảo hải.

Thạch Thanh, Mẫn Nhu nội lực không phải tầm thường, mà cũng đứng không vững, phải lùi lại mấy bước. Thạch Phá Thiên thấy Mẫn Nhu kinh hãi vô cùng, hai hàng nước mắt đã trào ra. Chàng vội la lên: “Lão bá đừng giết y.”

Tạ Yên Khách đã vận nội lực vào hữu chưởng, sắp đánh tới. Lúc này cho dù mấy chục người trong đại sảnh đồng thời ngăn cản cũng chưa chắc cứu được tính mạng của Thạch Trung Ngọc, nhưng Thạch Phá Thiên chỉ hô một tiếng là lão đã sửng sốt quay lại hỏi: “Ngươi muốn ta không giết hắn ư?” Lão thấy mình chỉ cần tha mạng cho thằng lỏi hèn hạ này là hoàn thành lời thề ngày trước, thật là một việc nhẹ nhàng. Bất giác lão lộ vẻ hoan hỉ.

Thạch Phá Thiên nói: “Đúng thế! Người này là con của Thạch trang chúa và Thạch phu nhân. Đinh Đinh Đang Đang cũng thương yêu y lắm. Nhưng… nhưng… y có những hành vi bất hảo, khinh khi A Tú, lừa gạt mọi người, khi làm bang chúa bang Trường Lạc đã gây ra nhiều chuyện tồi bại…”

Tạ Yên Khách hỏi lại: “Ngươi yêu cầu ta đừng giết hắn phải không?” Tạ Yên Khách là một tay kiêu hùng hơn đời, tuy tiếng tăm không tốt nhưng võ công tuyệt đỉnh. Thế mà lão nói câu đó cũng hơi run giọng, chỉ sợ Thạch Phá Thiên lại thay đổi ý kiến.

Thạch Phá Thiên nói: “Đúng thế! Xin lão bá đừng giết y. Nhưng người này hại người đã nhiều, tốt nhất là lão bá đem y theo giáo huấn điều hay lẽ phải, để y trở thành người tốt rồi hãy thả y ra. Tạ lão bá! Cháu biết lão bá tâm địa rất tốt, đã đem cháu đi nuôi dạy mấy năm lại rèn luyện võ công. Từ khi cháu không tìm thấy má má, chỉ nhờ lão bá dưỡng dục cho mới thành người. Thạch đại ca đây mà đi theo lão bá, nhất định được lão bá dạy cho trở thành người tốt.”

Dùng bốn chữ “tâm địa rất tốt” mà nói về Tạ Yên Khách thật là không hợp. Lão vừa nghe thấy đã lấy làm phẫn nộ, cho là Thạch Phá Thiên mỉa mai mình, mặt lại xám xanh. Nhưng lão nghĩ lại, không khỏi cười dở khóc dở, hiểu Thạch Phá Thiên nói câu này bằng một tấm lòng thành thật. Lão nhớ lại mấy năm ở cùng chàng trên Ma Thiên Nhai, lúc nào lão cũng tìm cách hại chàng mà chàng vẫn chất phác ngây thơ, chẳng nghi kỵ chút nào. Lúc chàng bị bắt đi mấy tháng, lão phải tự mình giặt giũ nấu ăn cũng thấy mất thời gian.

Lão hiểu rằng từ lúc chàng lạc mất mẫu thân, mình biến thành nơi để dựa dẫm cùng quyến luyến, nên việc gì cũng chỉ nhìn thấy mặt tốt mà thôi. Lão dạy nội công là cố ý làm cho chàng mất mạng, nhưng chàng lại cảm ơn không ngớt. Bây giờ lão thấy chàng muốn mình giáo huấn Thạch Trung Ngọc, liền nghĩ bụng: “Thằng ngốc này ăn nói hồ đồ. Tạ mỗ đi đâu cũng chỉ một mình mới là một trang kỳ nam tử, không chịu đàn dúm với ai. Khi nào ta chịu để thằng lỏi đê hèn ấy quấn quít bên mình?” Lão liền đáp: “Ta đã ưng thuận làm cho ngươi một việc. Ngươi yêu cầu ta đừng giết gã, ta theo lời ngươi mà tha mạng cho gã là được rồi. Chúng ta từ đây ly biệt, vĩnh viễn không gặp nhau nữa.”

Thạch Phá Thiên nói: “Không! Không! Lão bá mà không giáo huấn y, y lại đi lừa người, hại người, rồi rốt cuộc cũng bị người khác giết chết. Khi đó Thạch phu nhân cùng Đinh Đang lại phải đau lòng. Cháu cầu xin lão bá giáo huấn y, trông nom y. Nếu y chưa trở thành người tốt thì lão bá đừng để y rời khỏi lão bá. Mẹ cháu đã từng dạy cháu không được cầu xin gì người khác, nhưng… nhưng việc này thật sự là quan trọng, cháu chỉ còn cách cầu xin lão bá mà thôi.”

Tạ Yên Khách chau mày, thầm nghĩ: “Việc này thật là rắc rối, kể ra cũng chẳng khó gì, nhưng không phải là đơn giản. Chính mình có phải là người tốt đâu, làm sao dạy cho người ta thành người tốt được? Huống chi thằng lỏi Thạch Trung Ngọc lại quen gian trá dẻo miệng, e rằng đức Khổng Phu Tử sống lại cũng chưa chắc giáo huấn nổi gã thành người tốt. Nếu mình ưng thuận việc này, há chẳng phiền lụy suốt đời một cách vô ích ư?” Lão bèn lắc đầu lia lịa nói: “Không được! Việc này ta làm không được. Ngươi đề nghị việc khác đi, dù khó hơn nữa ta cũng làm cho ngươi.”

Thạch Thanh đột nhiên cười ha hả nói: “Ai cũng cho rằng lời nói của Ma Thiên cư sĩ nặng như núi, vì thế mà Huyền Thiết Lệnh mới chấn động giang hồ. Nếu sớm biết chủ nhân Huyền Thiết Lệnh cự tuyệt lời yêu cầu của người ta, thì bao nhiêu người ở Hầu Giám Tập đâu đến nỗi phải chết oan uổng.”

Tạ Yên Khách đột nhiên dựng đứng lông mày, giận dữ lớn tiếng hỏi: “Sao Thạch trang chúa lại nói thế?”

Thạch Thanh đáp: “Vị tiểu huynh đệ đây cầu xin tiên sinh dạy dỗ đứa con của tại hạ, tuy là làm khó tiên sinh, nhưng ngày trước tiểu huynh đệ này đã giao tận tay tấm Huyền Thiết Lệnh cho Tạ tiên sinh. Lúc ấy chính mắt vợ chồng tại hạ trông thấy, ngoài ra còn Cảnh huynh, Vương huynh, Kha huynh, Hoa cô nương và nhiều người khác nữa cũng chứng kiến. Trước nay thiên hạ vẫn đồn, Ma Thiên cư sĩ nói ra điều gì, ngàn vàng khó chuộc. Thế mà sao Tạ tiên sinh lại từ chối lời thỉnh cầu của vị tiểu huynh đệ này?”

Tạ Yên Khách tức giận nói: “Ngươi đã sinh con sao không biết dạy con? Thằng con bất hiếu này làm bại hoại gia phong, sao ngươi không phóng chưởng đánh chết nó đi?”

Thạch Thanh nói: “Con của tại hạ bản tính ngỗ ngược như quỷ sứ, nếu không gặp nghiêm sư dạy dỗ thì khó mà thành người được.”

Tạ Yên Khách giận dữ quát lên: “Dạy cái quỷ gì? Ta mà đem thằng lỏi này đi, thì chỉ trong ba ngày là dạy nó thành người chẳng ra ngươi, quỷ chẳng ra quỷ.”

Mẫn Nhu đưa mắt nhìn Thạch Thanh, la lên: “Sư ca…” Bà cho rằng con mình mà giao cho Tạ Yên Khách đem đi thì dữ nhiều lành ít. Bà muốn Thạch Thanh đừng nói khích lão nữa.

Ngờ đâu Thạch Thanh lờ đi như không biết. Ông nói: “Anh hùng hảo hán trên chốn giang hồ mà nói đến chủ nhân Huyền Thiết Lệnh, không ai không đưa ngón tay lên khen ngợi, ai cũng phải thán phục. Những hành vi bội tín, vi phạm lời thề, đâu phải là việc làm của Ma Thiên cư sĩ tiếng tăm lừng lẫy?”

Tạ Yên Khách bị Thạch Thanh dồn cho cứng lưỡi. Giả tỉ lão kiếm chuyện để từ chối thằng ngốc Thạch Phá Thiên không hiểu việc đời thì rất dễ dàng, nhưng cãi lý với người lịch duyệt giang hồ như Thạch trang chủ thì thật khó lòng. Lão biết thòng lọng đã quàng vào cổ, chỉ còn cách ưng thuận cho xong, liền nói: “Được rồi! Không ngờ Tạ mỗ đã quá nửa đời người mà còn bị thằng Chó Lộn Giống này làm cho phiền lụy.”

Lão dùng chữ Cẩu Tạp Chủng để gọi Thạch Phá Thiên, mà thực ra là ám chỉ Thạch Trung Ngọc, nói vòng vòng để thóa mạ người. Thạch Thanh làm gì chẳng hiểu, nhưng ông chỉ mỉm cười không đáp. Mặt Mẫn Nhu thì ửng đỏ lên rồi biến sang nhợt nhạt.

Tạ Yên Khách quay lại nhìn Thạch Trung Ngọc nói: “Thằng lỏi kia! Ngươi lại đây, đi theo ta! Nếu ngươi không trở thành người tốt, thì mỗi ngày lão gia phải lột của ngươi ba lớp da.”

Thạch Trung Ngọc bở vía, hết ngó song thân lại nhìn Thạch Phá Thiên, chỉ mong chàng đổi lại lời yêu cầu khác. Thạch Phá Thiên lại nói: “Thạch đại ca! Đại ca bất tất phải sợ hãi. Tạ lão bá bề ngoài giả vờ hung dữ, mà thật ra là người tốt nhất trên đời. Hàng ngày đại ca chỉ cần thổi cơm nấu thức ăn cho lão bá ăn, giặt giũ quần áo cho lão bá, rồi trồng rau đốn củi nuôi gà. Lão bá có giơ tay lên dọa thì cũng không đụng đến đại ca đâu. Ta từng ở với lão bá nhiều năm, lão bá đối với ta chẳng khác gì mẫu thân vậy, lại còn luyện võ công cho ta nữa.”

Tạ Yên Khách nghe Thạch Phá Thiên so sánh mình với mẹ chàng thì không khỏi thở dài, thầm nghĩ: “Mẫu thân ngươi là một mụ điên, đặt tên con mình là Cẩu Tạp Chủng. Thằng lỏi này ăn nói mỗi lúc một hồ đồ, dám đem ví một mụ điên với Ma Thiên cư sĩ mà nhân vật giang hồ nghe tới phải kinh hồn táng đởm, thật chẳng ra thế nào.”

Thạch Trung Ngọc buồn khổ vô cùng. Gã lẩm bẩm: “Ngươi bảo ta giặt quần áo, trồng rau, đốn củi, nuôi gà, thì có khác gì đòi lấy mạng ta? Thế còn chưa đủ, ngươi lại còn bảo ta hằng ngày thổi cơm nấu nướng cho lão ma đầu này ăn. Ta có biết thổi nấu bao giờ đâu?”

Thạch Phá Thiên lại nói: “Thạch đại ca! Nếu y phục của Tạ lão bá bị rách thì đại ca nhớ khâu vá lại. Ngoài ra Tạ lão bá thích ăn đổi món, vậy đại ca đừng nấu nướng cho lão bá ăn một món đến mười ngày.”

Tạ Yên Khách nheo mắt nhìn Thạch Trung Ngọc cười lạt mấy tiếng, rồi quay lại hỏi Thạch Thanh: “Thạch trang chúa! Khi ở Hầu Giám Tập, hai vị cũng muốn tìm Huyền Thiết Lệnh của lão phu. Chẳng lẽ khi đó trang chúa đã định thuê Tạ mỗ làm gia sư để dạy dỗ công tử thay cho trang chúa chăng?” Miệng lão nói, hai mắt lại nhìn Thạch Trung Ngọc từ đầu xuống đến gót chân. Thạch Trung Ngọc chạm phải mục quang của lão cứ như chuột thấy mèo, cả người bủn rủn, hoảng sợ đến mức hồn như đã lìa khỏi xác.

Thạch Thanh nói: “Tại hạ không dám. Chẳng giấu gì tiên sinh, vợ chồng tại hạ có một kẻ đại thù đã giết hại một đứa con khác. Người đó từ bấy đến nay không biết đã lẩn trốn phương nào. Vợ chồng tại hạ tìm khắp nơi mười mấy năm nay, vẫn chẳng thấy tông tích đâu.”

Tạ Yên Khách nói: “Giả tỉ ngày ấy trang chúa có Huyền Thiết Lệnh của lão phu, thì bảo lão phu đi trả thù giúp hay sao?”

Thạch Thanh nói: “Việc báo thù tại hạ không dám phiền tới đại giá. Có điều Tạ tiên sinh thần thông quảng đại, chắc có thể điều tra ra được hành tung của người đó.”

Tạ Yên Khách nói: “Nếu ngày ấy vợ chồng trang chúa lấy được Huyền Thiết Lệnh, thì Tạ mỗ thật cảm ơn trời phật.”

Thạch Thanh xá dài nói: “Nếu hài tử được nhờ tiên sinh dạy dỗ cho thành người, thì Thạch Thanh cảm tạ vô cùng! Vợ chồng tại hạ từ nay về sau sẽ thắp nhang khẩn Phật, cầu cho Tạ tiên sinh thọ mạng lâu dài.” Ông nói hết sức khiêm cung, giọng điệu thành khẩn vô cùng.

Tạ Yên Khách hừ một tiếng rồi đột nhiên đưa tay tháo một cái bao dài dài trên lưng ra, vứt xuống đất đánh “binh” một tiếng. Tay trái lão đưa ra nắm lấy cổ tay Thạch Trung Ngọc, rồi tung mình nhảy ra khỏi đại sảnh. Thạch Trung Ngọc kêu rầm lên. Tiếng kêu mỗi lúc một xa dần, chỉ chớp mắt đã ra ngoài mười trượng.

Giữa lúc mọi người ngơ ngác nhìn nhau, Đinh Đang vung tay tát vào mặt Thạch Phá Thiên đánh bốp một cái, lớn tiếng la gọi: “Thiên ca! Thiên ca!” rồi vọt mình đuổi theo.

Thạch Phá Thiên đưa tay lên xoa má, kinh ngạc hỏi: “Đinh Đinh Đang Đang! Sao muội lại đánh ta?”

Thạch Thanh cúi xuống lượm chiếc bọc lên, vừa cầm vào tay đã biết là vật gì rồi. Ông mở bọc ra, thì quả nhiên là song kiếm Hắc Bạch của vợ chồng mình.

Mẫn Nhu thấy bảo kiếm được trả về mà vẫn không lộ vẻ vui mừng, hai mắt đẫm lệ. Bà hỏi: “Sư ca… Sao sư ca lại để Ngọc nhi… Ngọc nhi đi theo lão?”

Thạch Thanh thở dài nói: “Nhu muội! Tại sao Ngọc nhi lại trở thành như thế này, muội có biết không?”

Mẫn Nhu nói: “Sư ca… sư ca lại trách tiểu muội quá nuông chiều nó chứ gì?” Bà nói xong, hai hàng nước mắt lăn xuống má.

Thạch Thanh nói: “Sư muội đối với Ngọc nhi thật quá hiền từ, nhất là từ ngày Kiên nhi bị người hại chết, sư muội lại càng cưng chiều Ngọc nhi quá mức. Ta thấy nó còn nhỏ tuổi nhưng đã có những hành vi tai ác, mà trước mặt muội thật khó mà dạy nó, nên mới quyết định đưa nó lên thành Lăng Tiêu. Ngờ đâu nó hư đốn quá, làm hại vợ chồng mình không còn mặt mũi nào nhìn thấy các huynh đệ phái Tuyết Sơn nữa. Tạ tiên sinh mưu trí hơn Ngọc nhi nhiều, thủ đoạn cũng gấp mấy nó. Trị độc phải dùng độc, chỉ có tiên sinh mới trị được nó mà thôi. Sư muội hãy yên tâm, Ma Thiên cư sĩ tuy hành động chỉ theo ý mình, nhưng vẫn là người thủ tín nhất thiên hạ. Vị tiểu huynh đệ đây đã xin ông ta dạy bảo Ngọc nhi, nhất định tiên sinh sẽ làm cho chu đáo.”

Mẫn Nhu nói: “Nhưng… nhưng Ngọc nhi từ thuở nhỏ được nuôi dưỡng sung sướng, làm sao nó biết thổi cơm nấu nướng?” Bà vừa nói vừa nghẹn ngào, nước mắt chảy xuống như mưa.

Thạch Thanh đáp: “Những chuyện đó chính vì quá chiều con mà ra.”

Bỗng ông thấy Bạch Vạn Kiếm đi vào nhà trong, đoán rằng hắn vào báo cho Bạch Tự Tại cùng Sử bà bà hay. Thạch Thanh ghé tai vợ nói nhỏ: “Nếu không để Tạ tiên sinh đưa Ngọc nhi đi, thì vụ này ở đây cũng chưa chắc đã xong một cách dễ dàng. Nội biến ở phái Tuyết Sơn cũng từ Ngọc nhi mà phát khởi lên, khi nào họ chịu bỏ qua cho nó?”

Mẫn Nhu nghĩ lại, biết chồng nói đúng. Bà chậm chạp lau nước mắt rồi nhìn Thạch Phá Thiên nói: “Ngươi đã cứu mạng cho con ta, mà ta… ta… không biết… Ngươi tốt như thế, còn nó lại hư đốn như thế. Nếu ta có được… được đứa con…”

Bà muốn nói: “Nếu ta có được đứa con như ngươi thì tốt biết bao!” Nhưng câu này vừa đến cửa miệng, bà kìm lại được không nói ra. Thạch Phá Thiên thấy Thạch Trung Ngọc được bà thương yêu, thì trong lòng cảm xúc vô cùng. Chàng nhớ tới hai lần bà nhận lầm mình là con, đối với chàng cũng đã thương yêu như vậy. Chàng chạnh lòng nhớ tới mẫu thân mình không biết hiện ở nơi đâu, mà cũng không hiểu tại sao tình mẫu tử của mẹ đối với chàng lại khác xa Mẫn Nhu đối với con bà. Nghĩ tới đó, chàng không khỏi buông tiếng thở dài.

Mẫn Nhu lên tiếng hỏi: “Tiểu huynh đệ! Sao ngươi lại giả trang làm Ngọc nhi, suốt dọc đường giấu giếm chúng ta?”

Thạch Phá Thiên đỏ mặt lên ấp úng: “Đó là… Đinh Đinh Đang Đang…”

Chàng nói chưa dứt lời, đột nhiên Vương Vạn Nhận chạy vào, vừa thở hồng hộc vừa la lên: “Không… Không xong rồi! Sư phụ đâu mất rồi.”

Mọi người trong đại sảnh đều giật mình kinh hãi, giật giọng hỏi: “Sao lại đâu mất?”

Vương Vạn Nhân chỉ biết kêu lên: “Sư phụ không thấy đâu nữa.”

A Tú kéo tay áo Thạch Phá Thiên bảo: “Chúng ta đi nhanh lên!” Hai người gấp rút chạy về phía thạch lao. Thạch Phá Thiên đến ngoài thạch lao thì thấy trong đường hầm đầy đệ tử phái Tuyết Sơn. Mọi người thấy A Tú đến, vội tránh ra để nhường lối.

A Tú cùng Thạch Phá Thiên tiến vào trong thạch lao thì thấy vợ chồng Bạch Vạn Kiếm đang đỡ Sử bà bà ngồi dưới đất. A Tú la lên: “Gia gia! Má má! Bà nội… bà nội làm sao vậy? Người bị thương rồi sao?”

Bạch Vạn Kiếm mặt đầy sát khí nói: “Có nội gián! Bà bà bị điểm huyệt bằng thủ pháp bản môn, gia gia thì bị bắt đem đi. Ngươi trông coi bà bà, để ta đi cứu gia gia.” Nói xong, hắn tung mình vọt đi ngay. Trước mặt hắn có một tên đệ tử chi ba cản lối, đang lúc nóng nảy, Bạch Vạn Kiếm đẩy mạnh một cái hất gã ra ngoài rồi rảo bước chạy đi.

A Tú giục Thạch Phá Thiên: “Đại ca! Huynh giúp bà nội vận khí giải huyệt đi.”

Thạch Phá Thiên đã được Sử bà bà dạy cho phép Thôi Cung Quá Huyệt giải khai huyệt đạo, chàng cứ theo đúng cách đó mà làm. Chẳng mấy chốc, chàng giải khai xong ba chỗ đại huyệt của bà ta đã bị điểm.

Sử bà bà la lên: “Các ngươi đừng náo loạn nữa! Chưởng môn đã điểm huyệt ta, rồi tự mình bỏ đi.”

Ai nghe thấy cũng phải ngạc nhiên nghĩ bụng: “Té ra Uy Đức tiên sinh vừa thấy mặt phu nhân đã động thủ liền. Chính Uy Đức tiên sinh ra tay điểm huyệt, chẳng trách Bạch sư ca không giải khai nổi.”

Lúc này chưởng môn của phái Tuyết Sơn là ai, thật sự không rõ ràng. Ngày thường mọi người đã quen gọi Bạch Tự Tại là chưởng môn, nên cứ xưng hô như cũ. Mọi người đang nghi ngờ bản phái lại phát sinh nội biến, e rằng khó mà tránh khỏi đánh nhau chết chóc. Họ nghe nói đây là chuyện xích mích giữa hai vợ chồng chưởng môn mới yên tâm, liền đưa tin ra ngoài.

Bạch Vạn Kiếm được tin lại quay trở về, lên tiếng hỏi nói: “Má má! Vụ này là thế nào?” Giọng nói của hắn ra chiều bất mãn.

Mấy hôm nay chuyện gì cũng rối ren, khiến cho con người lanh lợi minh mẫn đến như Khí Hàn Tây Bắc cũng phải biến thành con rùa mất đầu. Bây giờ vụ này lại từ song thân hắn mà ra, hắn phiền não khó chịu mà không biết phát tác vào đâu được.

Sử bà bà giận dữ nói: “Ngươi chưa hỏi rõ đầu đuôi, sao đã dám trách mẫu thân?”

Bạch Vạn Kiếm đáp: “Hài nhi không dám!”

Sử bà bà nói: “Gia gia ngươi muốn cho mọi người được yên ổn, nên đã thân hành đến Hiệp Khách Đảo rồi.”

Bạch Vạn Kiếm thất kinh nói: “Gia gia đến Hiệp Khách Đảo rồi ư? Tại sao lại thế?”

Sử bà bà nói: “Còn sao nữa? Gia gia ngươi mới thật sự là chưởng môn của phái Tuyết Sơn, lão không đi thì ai đi? Ta vào nhà lao nói chuyện với gia gia, nếu lão tự nhốt mình cả đời trong ngục, thì ta cũng ở chung với lão suốt đời. Khi nói đến hẹn ước ở Hiệp Khách Đảo không biết ai đi mới phải, lão hỏi đầu đuôi câu chuyện, ta kể hết cho lão nghe. Lão bèn nói, lão là chưởng môn, dĩ nhiên phải đi. Ta khuyên lão cứ thong thả để bàn tính tìm kế vẹn toàn, lão bèn nói: “Ta có lỗi với phái Tuyết Sơn, đã hại chết bao nhiêu đệ tử vô tội, nghĩ lại chỉ muốn đập đầu vào tường chết ngay lập tức. Ta chỉ còn cách chết vì phái Tuyết Sơn để chuộc lỗi, đồng thời để phu nhân, con trai, con dâu, cháu gái, cháu rể và mọi đệ tử của ta rút kinh nghiệm làm người.” Thế rồi lão đưa tay điểm huyệt đạo của ta, móc lấy hai tấm thẻ đồng mời đi dự yến. Chắc là bây giờ lão đã đi xa rồi.”

Bạch Vạn Kiếm dậm chân nói: “Má má! Gia gia tuổi đã già, mà thân thể lại chưa hoàn toàn hồi phục thì đi thế nào được? Đáng lẽ để hài nhi đi mới phải.”

Sử bà bà hỏi: “Đến bây giờ mà ngươi còn chưa hiểu được tính khí gia gia ư?” Dứt lời, mụ cất bước đi ra ngoài thạch lao.

Bạch Vạn Kiếm vội hỏi: “Má má… Má má đi đâu thế?”

Sử bà bà đáp: “Ta là chưởng môn phái Kim Ô, chắc cũng đủ tư cách để lên Hiệp Khách Đảo.”

Bạch Vạn Kiếm ruột rối như tơ vò. Hắn lẩm bẩm: “Thôi thì mọi người cùng liều mạng mà đi, chết hết ở Hiệp Khách Đảo là cùng”.

Hồi 19: Cháo Lạp Bát

Ngày mồng năm tháng chạp, Sử bà bà dẫn Bạch Vạn Kiếm, Thạch Thanh, Mẫn Nhu, Thạch Phá Thiên, A Tú, Thành Tự Học, Tề Tự Miễn, Lương Tự Tiến đi đến một xóm chài nhỏ ở bến Nam Hải.

Khi Sử bà bà rời khỏi thành Lăng Tiêu đã chỉ định Cảnh Vạn Chung tạm quyền chưởng môn lo việc thủ thành, Uông Vạn Dực cùng Hô Diên Vạn Thiện phụ giúp mọi việc. Phong Hỏa Thần Long Phong Vạn Lý đã tham gia vào vụ phản sư nghịch phái, tuy vì thời thế ép bức, nhưng bọn Bạch Vạn Kiếm là đệ tử chi trưởng cũng không tính gì đến hắn. Mụ đưa ba người Thành Tự Học, Tề Tự Miễn và Lương Tự Tiến cùng đi là có ý đề phòng bọn đệ tử các chi lại làm phản trong môn phái. Còn Liêu Tự Lệ thì đã trọng thương, võ công mất hết, không đến nỗi gây thành mầm họa.

Phía sau đồng bài Hiệp Khách Đảo phát ra có khắc rõ ngày tháng và địa điểm hẹn gặp, mỗi người một khác. Lúc Sử bà bà cùng mọi người đến đây, thấy xóm chài này hoàn toàn không có ai, cũng không gặp nhân vật giang hồ nào khác. Bạch Tự Tại cũng không biết đâu mà tìm, thậm chí suốt vùng biển đó không có chiếc thuyền nào.

Đoàn người tạm nghỉ chân trong một gian nhà tranh. Chiều hôm ấy, có một hán tử áo vàng cầm trượng đến xóm chài dõng dạc nói: “Sứ giả Hiệp Khách Đảo vâng mệnh đảo chúa nghênh tiếp tân khách. Kính thỉnh Thạch bang chúa của bang Trường Lạc lên đường.”

Bọn Sử bà bà nghe tiếng từ trong nhà chạy ra. Hán tử kia đi tới trước mặt Thạch Phá Thiên, khom lưng thi lễ rồi nói: “Phải chăng các hạ là Thạch bang chúa?”

Thạch Phá Thiên nói: “Đúng vậy! Quý tính các hạ là gì?”

Người kia nói: “Tiểu nhân họ Triệu. Mời Thạch bang chúa lên đường!”

Thạch Phá Thiên nói: “Tại hạ còn có mấy vị sư trưởng cùng bạn hữu cũng muốn đến thăm quý đảo.”

Người kia nói: “Việc đó thì khó lắm. Thuyền nhỏ không chở nặng được, đảo chúa đã có nghiêm lệnh chỉ đón một mình Thạch bang chúa mà thôi. Chỉ thêm một người, thuyền nhỏ mà không bị lật thì tiểu nhân cũng mất đầu.”

Sử bà bà cười lạnh nói: “Việc đã thế này, e rằng ngươi không tự quyết định được.” Mụ nói xong, nhảy ra trước, tay nắm chuôi đao.

Gã kia không lý gì đến mụ, cứ nhìn Thạch Phá Thiên nói: “Tiểu nhân xin dẫn đường. Mời Thạch bang chúa thượng lộ.” Dứt lời, gã trở gót đi luôn. Thạch Phá Thiên cùng Sử bà bà, Thạch Thanh đều đi theo sau. Gã kia theo ven biển mà đi, quanh co qua hai eo núi thì đến một bãi cát.

Tại đây có một con thuyền nhỏ, rộng không đầy ba thước, dài chừng sáu thước, thật không còn con thuyền nào nhỏ hơn nữa. Thuyền này chưa chắc đã chở được hai người, đừng nói đến ba. Hán tử kia nói: “Các vị muốn giết tiểu nhân thì chỉ cất tay một cái là xong. Sau đó vị nào biết đường đến Hiệp Khách Đảo thì đi cùng Thạch bang chúa.

Sử bà bà cùng Thạch Thanh ngơ ngác nhìn nhau, không ngờ Hiệp Khách Đảo bố trí chu đáo đến thế, muốn đi thêm một người ra đó cũng không được. Mọi người chỉ biết tên đảo, còn đảo này ở phía Nam hay phía Bắc, gần hay xa thì hoàn toàn không biết. Huống hồ ba chữ Hiệp Khách Đảo đến chín phần mười cũng là tự đặt, cho dù những thuyền chài thường xuyên đi biển cũng chưa chắc đã tìm được. Biển cả rộng lớn mênh mang, biết tìm ở nơi nào?

Ai nấy cố giương mắt nhìn ra thật xa, nhưng ngoài biển tuyệt không thấy chiếc thuyền nào khác, chẳng còn cách nào đi theo được. Sử bà bà tức giận vô cùng. Mụ vung chưởng lên toan đánh hán tử áo vàng, nhưng phát chưởng phóng ra nửa vời bỗng thu lại, nhìn Thạch Phá Thiên nói: “Đồ nhi! Ngươi đưa thẻ đồng để ta đi thay. Mụ già này dù thế nào cũng phải chết với lão điên kia một chỗ.”

Hán tử áo vàng nói: “Đảo chúa đã có lệnh không cho đón lầm người. Tiểu nhân bị xử trảm cũng chẳng có chi đáng tiếc, nhưng còn lụy cho cha mẹ vợ con tiểu nhân cũng bị chém đầu hết.”

Sử bà bà tức giận nói: “Chém đầu thì chém đầu, có gì là quan trọng?” Miệng nói vậy, nhưng trong lòng mụ cũng nghĩ thầm: “Đối với mình thì không quan trọng, nhưng đối với gã này lại trọng đại vô cùng.”

Mụ nghĩ ra một kế khác, liền bảo Thạch Phá Thiên: “Đồ nhi! Vậy ngươi nhường ngôi bang chúa bang Trường Lạc cho ta. Ta là bang chúa, chắc gã không bị trách đã đón lầm người nữa.”

Thạch Phá Thiên ngần ngừ nói: “Chuyện này… e rằng…”

Gã hán tử nói: “Hai vị sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác đã nói rất rành mạch, bang chúa bang Trường Lạc là một thiếu niên anh hùng tuổi mới đôi mươi. Đâu có phải là một bà bà tuổi cao đức trọng?”

Sử bà bà tức giận nói: “Ngươi nói thúi lắm! Sao ngươi lại biết ta tuổi cao đức trọng? Tuổi ta tuy có cao, nhưng đức ta không trọng.” Người kia chỉ mỉm cười, không nói gì nữa, xuống bãi biển tháo dây buộc thuyền.

Sử bà bà thở ra một hơi rồi nói: “Đồ nhi, ngươi đi đi. Hãy nghe sư phụ dặn một câu.”

Thạch Phá Thiên nói: “Dĩ nhiên là đệ tử phải nghe lời sư phụ.”

Sử bà bà nói: “Nếu ngươi còn có đường sống, thì phải nhớ kỹ là cố tìm cách chạy trốn ra đây, đừng vì chuyện cứu gia gia mà tự hãm mình vào nơi tuyệt địa. Đó là lệnh của sư phụ, ngươi nhất định không được vi phạm.”

Thạch Phá Thiên ngạc nhiên, không hiểu tại sao sư phụ không cho mình cứu trượng phu, chẳng lẽ trong lòng của người chưa hết căm hận gia gia? Chàng nghĩ: “Gia gia không thể không cứu”, thật không đồng ý với lệnh của Sử bà bà.

Sử bà bà lại nói tiếp: “Ngươi đến đó nói cho lão già điên biết, ta ở đây chờ lão ba tháng. Đến ngày mùng tám tháng ba sang năm, nếu lão không đến đây gặp ta thì ta sẽ nhảy xuống biển chết đi. Nếu lão còn nói đến chuyện lên núi Bích Loa con khỉ gì nữa, ta sẽ làm quỷ dữ không tha cho lão.”

Thạch Phá Thiên gật đầu vâng dạ. A Tú cũng nói: “Đại ca! Tiểu muội… tiểu muội cũng thế, ở lại đây chờ đại ca ba tháng. Nếu huynh không về thì muội sẽ… muội sẽ nhảy xuống biển theo bà bà.”

Thạch Phá Thiên cảm thấy trong lòng vừa ấm áp vừa thê lương. Chàng nói: “Tú muội bất tất phải làm như vậy.”

A Tú nói: “Tiểu muội muốn làm thế.” Nàng nói rất khẽ, nhưng giọng đầy vẻ cương quyết, tuyệt không hối hận.

Mẫn Nhu cũng nói: “Hài tử! Ta mong ngươi bình yên trở về. Chúng ta đều chờ ở đây, cầu cho ngươi được vô sự.”

Thạch Phá Thiên đáp: “Thạch phu nhân hãy bảo trọng, không cần lo lắng cho lệnh lang. Huynh ấy đi theo Tạ tiên sinh, nhất định sẽ trở thành người tốt. Phu nhân cũng đừng lo lắng cho con, chức bang chúa bang Trường Lạc này chỉ là đồ giả, không chừng họ sẽ thả con về. Trương Tam, Lý Tứ lại là huynh trưởng kết nghĩa của con, nếu xảy ra chuyện nguy hiểm, chắc hai vị ca ca cũng chẳng thể nào thấy chết mà không cứu.”

Mẫn Nhu nói: “Ta cũng mong như vậy.” Bà nghĩ bụng: “Thằng nhỏ này chưa biết lòng người hiểm ác, chuyện kết nghĩa kim lan này đâu phải là chuyện thực?”

Thạch Thanh nói: “Tiểu huynh đệ! Giả tỉ trên đảo phải động thủ với ai, ngươi cứ vận nội lực ra mà đánh loạn xạ, đừng quan tâm gì đến chiêu số hay đao pháp cả.” Ông nghĩ nội lực của Thạch Phá Thiên kinh người, nếu có một tia sống sót thì chỉ dựa vào nội lực mà thôi.

Thạch Phá Thiên nói: “Vâng! Đa tạ Thạch trang chủ chỉ điểm.”

Bạch Vạn Kiếm kéo tay chàng nói: “Hiền tế! Từ đây chúng ta đã là người một nhà. Phụ thân ta tuổi đã già, con nhớ chiếu cố cho lão gia gia.”

Thạch Phá Thiên nghe Bạch Vạn Kiếm kêu mình bằng hiền tế, không khỏi đỏ mặt lên nói: “Chuyện đó con sẽ biết lo liệu.”

Chỉ có ba người Thành Tự Học, Tề Tự Miễn và Lương Tự Tiến là sung sướng vì thoát khỏi tai vạ của mình. Họ đều nghĩ thầm: “Ba mươi năm nay đã có ba đoàn cao thủ võ lâm đến Hiệp Khách Đảo, nhưng chẳng ai sống sót trở về. Thằng lỏi này đâu có ba đầu sáu tay, dĩ nhiên không thể là ngoại lệ.”

Thạch Phá Thiên cùng mọi người chia tay để ra bãi biển. Mọi người đưa chàng ra đến chỗ thuyền đậu, A Tú cùng Mẫn Nhu khóe mắt đỏ hoe.

Sử bà bà đột nhiên nhảy xổ đến trước hán tử áo vàng, tát bốp một phát vào mặt gã rồi quát lên: “Ngươi vô lễ với bậc tôn trưởng, ta phải cho ngươi một bài học.” Người kia không đánh trả, đưa tay lên xoa má bị tát rồi mỉm cười bước vào trong con thuyền nhỏ. Thạch Phá Thiên đưa tay xá mọi người rồi cũng xuống theo.

Con thuyền nhỏ chỉ chở hai người mà nước đã mấp mé mạn thuyền chỉ cách mấy tấc, thật không thể chở thêm một người nữa được. May mà gặp mùa rét lạnh, Nam Hải gió lặng sóng yên, không thì chỉ một con sóng nhỏ cũng đủ làm lật thuyền. Sở dĩ Hiệp Khách Đảo chọn tháng chạp để khai yến, chắc cũng vì lẽ này.

Gã hán tử kia chèo mấy cái cho thuyền rời khởi bờ, rồi quay thuyền lại, kéo cánh buồm tam giác màu vàng lên. Gió bấc hiu hiu thổi, thuyền chạy về phía Nam. Thạch Phá Thiên nhìn lên bờ biển ở phía Bắc, thấy Sử bà bà cùng A Tú nhỏ dần lại, về sau chỉ còn là những chấm đen, nhưng vẫn còn đứng đó nhìn theo.

* * *

Trời vừa tối, con thuyền nhỏ chuyển hướng đi về phía Đông Nam. Thuyền lênh đênh trên mặt biển ba ngày, đến ngày thứ tư vào khoảng giờ ngọ, tính ra đúng là mồng tám tháng chạp, hán tử trỏ vào một vệt đen đen ở phía trước nói: “Hiệp Khách Đảo kia rồi!”

Thạch Phá Thiên giương mắt nhìn ra xa vẫn chưa thấy gì khác lạ, nhưng trái tim chàng đã đập loạn lên. Thuyền đi chừng hơn một giờ nữa mới nhìn rõ trên đảo có ngọn núi đá cao ngất. Trên núi xanh rì rậm rạp, cây cỏ mọc đầy. Vào khoảng giờ thân, con thuyền nhỏ áp sát bờ phía Nam đảo.

Hán tử nói: “Mời Thạch bang chúa lên!” Phía Nam đảo là một bãi cát lớn. Về hướng Đông núi đá có đến bốn chục con thuyền vừa lớn vừa nhỏ đang neo đậu.

Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Nơi đây rất nhiều thuyền bè. Nếu lên đảo mà không chết, thì quay lại đây đoạt lấy một con thuyền nhỏ để thoát hiểm cũng chẳng khó khăn gì.” Chàng liền nhảy lên bờ. Hán tử nhảy lên theo, lấy dây buộc thuyền vào một tảng đá lớn. Gã lấy trong bọc ra một con ốc biển, thổi lên mấy tiếng tu tu…

Chẳng bao lâu, từ phía núi có bốn hán tử chạy ra. Chúng đều mặc áo ngắn màu vàng, rảo bước đến trước mặt Thạch Phá Thiên khom lưng thi lễ nói: “Đảo chúa hiện ở cung Nghinh Tân chờ bang chúa. Mời Thạch bang chúa qua bên này.”

Thạch Phá Thiên rất quan tâm đến Bạch Tự Tại, liền hỏi ngay: “Chưởng môn phái Tuyết Sơn là Uy Đức tiên sinh đã đến chưa?”

Hán tử mặc áo vàng đứng đầu đáp: “Tiểu nhân phụ trách việc đón Thạch bang chúa, không biết đến việc khác. Thạch bang chúa cứ vào cung Nghinh Tân sẽ rõ.” Gã nói xong, quay lưng đi trước dẫn đường. Thạch Phá Thiên theo sau. Còn bốn gã hán tử áo vàng nữa thì lùi lại bảy tám bước rồi đi theo sau Thạch Phá Thiên.

Đoàn người đi vào trong núi, hai bên toàn là rừng rậm, chỉ có một con đường xuyên qua rừng. Thạch Phá Thiên chú ý quan sát cảnh trí bốn bên để nhận định đường lối, phòng khi thoát thân biết đường mà chạy. Đi thêm mấy dặm nữa lại rẽ vào một con đường mọc toàn đá tai mèo, bên trái là một thung lũng rất sâu, từ dưới vọng lên tiếng nước chảy xiết xô vào đá. Con đường cứ mỗi lúc một lên cao, sau hai khúc quanh bỗng thấy một thác nước từ trên cao mười mấy trượng đổ xuống.

Thác nước này là chỗ đầu nguồn của lạch nước kia. Hán tử dẫn đường đưa tay vào sau một cây lớn bên đường, lấy một tấm áo mưa bằng vải dầu treo sẵn ở đó. Gã cầm áo đưa cho Thạch Phá Thiên rồi nói: “Cung Nghinh Tân ở bên trong thác nước. Xin Thạch bang chúa mặc áo mưa vào để khỏi ướt y phục.”

Thạch Phá Thiên nhận lấy áo mặc vào. Chàng thấy hán tử đi tới thác nước rồi tung mình nhảy vào, chàng cũng nhảy theo. Phía trong thác là một con đường hầm khá dài, hai bên đường hầm có thắp đèn dầu, ánh sáng lờ mờ nhưng cũng trông rõ được đường đi. Chàng theo sau gã kia, tiếp tục tiến về phía trước.

Đường hầm này là một hang động thiên nhiên trong lòng núi rồi được sửa sang, chỗ nào do nhân công đào ra thì rất chật hẹp, nhưng có lúc lại gặp những quãng rất rộng. Chàng cảm thấy càng tiến vào sâu càng đi xuống thấp, trong động có tiếng nước chảy róc rách nghe rất êm tai, tưởng chừng như tiếng khánh ngọc.

Trong sơn động có rất nhiều ngõ ngách, Thạch Phá Thiên dụng tâm ghi nhớ. Chàng đi trong đường hầm chừng hơn hai dặm thì trước mặt hiện ra một cửa động xây bằng ngọc thạch. Trên cổng có khắc ba chữ lớn.

Thạch Phá Thiên hỏi: “Đây là cung Nghinh Tân phải không?”

Hán tử đáp: “Đúng thế.” Gã hơi ngạc nhiên, nghĩ thầm: “Trên cổng có đề chữ rõ ràng mà hắn còn hỏi làm chi? Chẳng lẽ hắn không biết chữ hay sao?”

Đúng là Thạch Phá Thiên một chữ cũng không biết. Chàng tiến vào cửa thạch động, thấy mặt đất lát đá xanh rất ngay ngắn. Hán tử dẫn Thạch Phá Thiên đi sang động bên trái rồi nói: “Thạch bang chúa! Bang chúa hãy tạm nghỉ ở đây một chút, lát nữa vào dự yến tiệc, đảo chúa sẽ cùng bang chúa làm lễ tương kiến.” Trong thạch động này cũng có đủ bàn ghế. Ba cây nến đỏ lớn chiếu sáng cả động. Một tên tiểu đồng bưng trà cùng bốn món điểm tâm vào.

Thạch Phá Thiên vừa nhìn thấy thức ăn, liền nhớ lại lúc lên đường, Thạch Thanh đã mấy lần căn dặn: “Tiểu huynh đệ! Ba mươi năm nay không biết bao nhiêu anh hùng hảo hán mình mang tuyệt kỹ đến Hiệp Khách Đảo, không ai sống sót trở về. Những nhân vật trên Hiệp Khách Đảo dù bản lãnh cao cường đến đâu cũng không thể chỉ một mẻ lưới mà quét hết được rất nhiều hào kiệt tuyệt đỉnh võ lâm. Theo ta phỏng đoán thì trên đảo nhất định có sử dụng những thủ đoạn đê hèn, nếu không bố trí cơ quan cạm bẫy thì cũng bỏ chất kịch độc vào đồ ăn thức uống. Họ công khai tuyên bố là mời đi ăn cháo Lạp Bát, khiến cho người ta phải chú ý đến món cháo này. Nhưng không chừng món cháo này lại không có gì quái lạ, mà trong những thức ăn uống thông thường như nước trà, bánh điểm tâm hoặc rau xanh, cơm trắng lại có vấn đề. Tiểu huynh đệ không thể không đề phòng. Nhưng lý lẽ này rất nông cạn, Thạch Thanh này đã nghĩ tới thì có lý đâu thủ lĩnh các môn phái lớn lại không nghĩ tới? Khi họ đi Hiệp Khách Đảo, dĩ nhiên cũng đã dự bị linh dược để giải độc, mà cuối cùng cũng mắc độc thủ. Như vậy thì chẳng còn trời nào hiểu được. Tiểu huynh đệ! Ngươi có lòng nhân hậu, bản tính lương thiện, tất được ông trời che chở, không đến nỗi phải chịu ác báo. Nhưng lúc nào cũng phải đề phòng cẩn thận.”

Thạch Phá Thiên nhớ Thạch Thanh lời dặn dò, nhưng mùi thơm ngào ngạt lại xông vào mũi, liền tự nhủ: “Bụng ta đã đói, mà suốt thời gian ở đảo này không ăn uống gì thì làm sao chịu nổi? Hai vị Trương Tam Lý Tứ đã kết nghĩa huynh đệ với ta, từng lập lời trọng thệ có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu. Nếu hai vị đó muốn hại ta, thì cũng tự hại chính mình hay sao?”

Chàng liền lấy đồ điểm tâm mà ăn. Cả bốn đĩa xíu mại, chả nướng, bánh chiên và bánh chưng, chàng ăn hết sạch chẳng còn lại chút nào. Bình trà xanh chàng cũng uống đến quá nửa.

Thạch Phá Thiên ngồi trong thạch động chừng một giờ, bỗng nghe tiếng đàn sáo nổi lên. Gã hán tử dẫn đường lại đến trước mặt chàng khom lưng nói: “Đảo chúa đã có lời mời, xin Thạch bang chúa lên dự yến.”

Thạch Phá Thiên đứng dậy theo gã ra khỏi động. Chàng đi qua mấy thạch động, tiếng chiêng trống sáo đàn càng lúc càng lớn. Đột nhiên trước mắt sáng rực, chàng thấy một tòa sơn động lớn thắp sáng bằng rất nhiều đèn nến. Trong động bày đến hơn trăm bộ bàn ghế mà lối đi vẫn còn rộng thênh thang. Mấy trăm tên hán tử áo vàng đi lui đi tới, dẫn tân khách vào chỗ ngồi.

Tân khách mỗi người một bàn, hoàn toàn không có người của bên chủ nhân ngồi chung. Khi khách đã an tọa hết thì tiếng nhạc chấm dứt. Thạch Phá Thiên đảo mắt nhìn bốn phía, nhìn thấy Bạch Tự Tại nghênh ngang ngồi một bàn, đầu lão bạc phơ nhưng tinh thần quắc thước. Lão ngồi lẫn giữa các vị anh hùng, thân thể cao lớn trội hẳn lên tựa hồ chim hạc đứng giữa đàn gà.

Hôm trước ở trong thạch lao, vì ánh sáng lờ mờ nên Thạch Phá Thiên không nhìn rõ được tướng mạo lão. Hiện giờ dưới ánh đèn sáng rực, Uy Đức Tiên Sinh uy nghiêm chẳng khác một pho thần tượng trong miếu điện, khiến ai trông thấy cũng sinh lòng kính phục. Thạch Phá Thiên đi đến trước mặt lão gọi: “Gia gia! Cháu đến đây!”

Trong nhà đại sảnh tuy đông người, nhưng bên chủ nhân tiếp đãi ai cũng nói rất khẽ. Còn bên khách thì ai cũng nghĩ đến chuyện mình sắp mất mạng trong khoảng khắc, nên trong lòng nặng trĩu. Hơn nữa oai danh Hiệp Khách Đảo quá lớn, chấn động võ lâm khiến mọi người đều khiếp vía, chẳng ai nói câu nào.

Bây giờ Thạch Phá Thiên đột nhiên la gọi Bạch Tự Tại nên ánh mắt của mọi người đều hướng về phía chàng. Bạch Tự Tại hắng giọng một tiếng rồi nói: “Thằng quỷ con này không biết tốt xấu gì cả. Ngươi đến đây thì làm sao ta có được chút chắt ngoại?”

Thạch Phá Thiên ngẩn ra, một lúc sau mới dần dần hiểu ý câu nói của lão. Thì ra Bạch Tự Tại có ý nói là Thạch Phá Thiên đến Hiệp Khách Đảo chịu chết, không ở nhà thành thân cùng A Tú để sinh con. Chàng liền đáp: “Gia gia! Bà bà hiện ở xóm chài nhỏ gần bờ biển để đợi gia gia đó. Người dặn cháu nói là người chờ gia gia trong ba tháng, tức là đến ngày mồng tám tháng ba, nếu chưa thấy mặt gia gia thì bà bà… sẽ nhảy xuống biền tự tử.”

Bạch Tự Tại giương cặp lông mày dài lên hỏi: “Mụ không lên núi Bích Loa ư?”

Thạch Phá Thiên nói: “Bà bà nghe gia gia nói vậy, tức giận vô cùng… lại còn thóa mạ… thóa mạ gia gia…”

Bạch Tự Tại hỏi giật giọng: “Mụ thóa mạ ta thế nào?”

Thạch Phá Thiên nói: “Bà bà thóa mạ gia gia là điên khùng. Người nói là Đinh Bất Tứ dựng chuyện đồn đại hoang đường để gạt người, lão điên khùng này mất hết đầu óc mới tin lời của hắn. Bà bà còn nói, khi nào nhìn thấy Đinh Bất Tứ nhất định sẽ sử dụng Kim Ô đao ơháp chặt đứt một cánh tay của hắn, rồi sẽ cắt lưỡi của hắn ra.”

Bạch Tự Tại cười ha hả nói: “Hay lắm! Hay lắm! Có thế mới phải!”

Đột nhiên trong một góc đại sảnh có tiếng người than vãn: “Sao mụ lại mắng ta như vậy? Ta có bao giờ đối xử không đúng với mụ đâu? Ta đối với mụ một dạ chí thành, đến già cũng không lấy vợ. Thế mà lòng dạ mụ như sắt đá, không chịu bước lên núi Bích Loa lấy một bước chân.”

Thạch Phá Thiên nhìn về phía phát ra thanh âm, thì thấy Đinh Bất Tứ ngồi chống hai tay xuống bàn. Toàn thân lão run lên, hai hàng nước mắt lã chã tuôn rơi. Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Lão cũng đến rồi! Tuổi già như thế mà còn khóc lóc như con nít, sao lão không biết mắc cỡ?”

Nếu là lúc bình thường, mọi người chắc chắn không khỏi nhìn nhau mà chê cười, nhưng lúc này ai cũng nghĩ vận rủi sắp đến nên trong lòng đều thương cảm, chỉ mong được cùng khóc với nhau chứ không ai muốn cười. Những anh hùng hào kiệt này, nếu không phải là chưởng môn các phái thì cũng là chủ nhân của bang hội, suốt đời làm bạn với gươm đao, hai chữ “sợ chết” đối với họ dĩ nhiên không phải. Nhưng nếu được dùng đao thương tỉ đấu liều mạng thì chuyện sống chết chẳng có chi đáng kể, huống hồ ai cũng tự cho mình võ công rất cao, lúc nào cũng nghĩ mình sẽ sống, đối phương phải chết. Đằng này tình hình hoàn toàn khác hẳn, ai đã đến Hiệp Khách Đảo thì không thể nào tránh được cái chết, lại thêm vào nỗi nghi hoặc lo sợ phải chết như thế nào. Cái chết mơ hồ này so với việc đứng trước cường địch liều mạng một phen thì còn khó chịu hơn nhiều.

Đột nhiên ở phía tây tòa viện có tiếng nữ nhân cười lạnh, vừa cười vừa nói: “Hừ! Một dạ chí thành, đến già cũng không lấy vợ! Đinh Bất Tứ quả là kẻ mặt dày. Giả tỉ ngươi đối với Sử Tiểu Thúy trung thành như vậy, thì sao lại để tỷ tỷ ta sinh một đứa con gái?”

Chỉ trong chớp nhoáng đó, Đinh Bất Tứ thẹn đỏ mặt lên. Lão vô cùng bối rối, đứng dậy ấp úng hỏi: “Ngươi… ngươi… ngươi là ai, sao lại biết…?”

Nữ nhân kia nói: “Bà ấy là chị ruột của ta, sao ta lại không biết? Con nhỏ đó đâu? Còn sống hay chết rồi?”

“Binh” một tiếng, Đinh Bất Tứ ngồi phịch xuống ghế. Tiếp theo lại có mấy tiếng “rắc rắc”, cả bốn chân chiếc ghế gỗ đều gãy hết. Nữ nhân kia hỏi một cách giận dữ: “Con nhỏ đó đâu? Còn sống hay chết? Nói mau!”

Đinh Bất Tứ chậm chạp đáp: “Ta… ta làm sao biết!”

Nữ nhân kia nói: “Lúc lâm tử, tỷ tỷ ta có dặn ta tìm ngươi, hỏi xem đứa con gái đó lạc lõng nơi đâu. Tỷ tỷ còn yêu cầu ta chiếu cố cho đứa nhỏ. Ngươi… ngươi là một tên lòng lang dạ thú, hại đời tỷ tỷ của ta chưa đủ, còn muốn hại đến vợ người khác nữa ư?”

Sắc mặt của Đinh Bất Tứ xám xịt như đất. Chiếc ghế gãy hết chân, lão phải nửa đứng nửa ngồi. Bây giờ đầu gối nhũn ra, lão ngồi phịch xuống, suýt nữa ngã ngửa. May mà võ công lão tinh thâm, khẽ nhún hai chân rồi đứng vững lại được.

Nữ nhân kia lại hỏi, giọng còn gay gắt hơn: “Con nhỏ đó còn sống hay chết?”

Đinh Bất Tứ đáp: “Hai chục năm trước thì nó còn sống. Nhưng sau này ta không biết nữa.”

Nữ nhân hỏi: “Sao ngươi không đi kiếm nó?”

Đinh Bất Tứ không biết trả lời ra sao, chỉ ấp úng: “Cái đó… cái đó… không phải là chuyện dễ. Có người nói cô ấy đã đi đến Hiệp Khách Đảo, cũng không biết có đúng không.”

Thạch Phá Thiên thấy nữ nhân đang nói chuyện thân hình bé nhỏ thấp lùn, mình mặc áo vóc màu tía. Nàng che mặt bằng tấm sa đen khá dày, dĩ nhiên dung mạo không thể nhìn thấy rõ ràng. Không hiểu sao Đinh Bất Tứ, vốn là một tên cường hung bá đạo giết người không nháy mắt, trông thấy nàng lại ra chiều sợ hãi.

* * *

Đột nhiên chuông trống nổi lên. Một hán tử áo vàng dõng dạc nói: “Hai vị Long đảo chúa và Mộc đảo chúa của Hiệp Khách Đảo ra mắt tân khách.”

Mọi người chấn động tâm thần. Đến giờ họ mới biết Hiệp Khách Đảo có hai vị đảo chúa, một vị họ Long và một vị họ Mộc. Bỗng thấy cánh cửa giữa mở rộng rồi hai hàng người cao có, thấp có, nam có, nữ có, đi ra. Hàng người bên trái mặc toàn áo xanh, hàng người bên phải mặc toàn áo vàng.

Người thủ lễ lại tuyên bố: “Chúng đệ tử dưới trướng Long đảo chúa và Mộc đảo chúa ra mắt quý khách.”

Mọi người đưa mắt nhìn thì thấy cả hai vị sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác đi phát thẻ đồng hôm trước cũng có mặt trong đám đông. Trương Tam mặc áo vàng đứng thứ mười một bên phải, Lý Tứ mặc áo xanh đứng thứ mười ba bên trái. Sau hai người này, mỗi bên còn có đến hơn hai chục người nữa.

Ai nấy bất giác cảm thấy ớn lạnh xương sống. Võ công Trương Tam Lý Tứ, mọi người đã thấy rồi. Té ra hai gã còn có rất nhiều huynh đệ đồng môn, chắc bản lãnh bọn này cũng tương đương với hai gã. Mọi người nghĩ bụng: “Thảo nào ba mươi năm nay, bao nhiêu anh hùng hảo hán hễ đến Hiệp Khách Đảo là không còn sống sót trở về. Chưa kể đến người khác, chỉ cần hai sứ giả Thưởng Thiện Phạt Ác ra tay, những nhân vật nổi tiếng trong võ lâm Trung Nguyên chúng ta cũng chẳng có mấy ai chống đỡ nổi hai chục chiêu.”

Hai hàng đệ tử đứng hai bên tả hữu nhất tề khom lưng, hướng về phía quần hùng thi lễ rất cung kính. Quần hùng vội đáp lễ. Ai cũng nghĩ tới Trương Tam cùng Lý Tứ lúc đi phân phát thẻ đồng ở Trung Nguyên, vừa cười nói vừa giết người, phong độ rất ung dung. Chúng chỉ cất tay một cái là trọn một bang hội hoặc một môn phái bị giết sạch. Thế mà về đến đảo, mắt chúng không dám nhìn ngang nhìn ngửa, giữ thái độ cực kỳ nghiêm cẩn.

Giữa tiếng âm nhạc vang lừng, hai lão già từ từ cất bước đi ra, một lão mặc đồ vàng, một lão mặc đồ xanh. Người thủ lễ lớn tiếng hô: “Tệ đảo chúa hoan nghênh các vị quý khách.” Hai vị Long, Mộc đảo chúa cùng xá dài gần tới đất. Quần hùng cũng tới tấp đáp lễ.

Lão mặc áo bào vàng là Long đảo chúa cười ha hả nói: “Tại hạ cùng Mộc huynh đệ ở nơi hoang đảo hẻo lánh này, hôm nay được cùng các vị cao hiền tương kiến, lại được quý vị ra ân đến thăm, rất lấy làm vinh hạnh. Có điều trên hoang đảo cảnh vật hủ lậu, khoản đãi không được chu đáo, mong liệt vị lượng thứ cho.”

Thanh âm lão rất ôn hòa. Hiệp Khách Đảo là một hòn đảo lẻ loi trong miền Nam Hải, mà khẩu âm Long đảo chúa lại giống người ở Trung Châu.

Mộc đảo chúa cũng nói: “Mời chư vị an tọa.” Thanh âm lão này lanh lảnh tựa như người ở vùng Phúc Kiến Quảng Châu.

Quần hùng an tọa rồi, hai vị Long Mộc đảo chúa mới ngồi vào một cái bàn ở hướng Tây. Còn bọn đệ tử không ai được ngồi, đều phải đứng thõng tay hầu hạ kế bên.

Quần hùng bụng bảo dạ: “Cách mời khách của Hiệp Khách Đảo cực kỳ bá đạo, hễ khách không chịu đi là tru diệt hết cả môn phái hay bang hội. Nhưng khách lên đảo rồi thì lễ nghi đón tiếp lại vô cùng chu đáo. Ta hãy chờ xem họ còn làm trò gì nữa.”

Có người lại nghĩ: “Tội phạm trước khi bị chặt đầu cũng thường được ăn một bữa no say, nói mấy lời an ủi. Cuộc yến tiệc này chắc là bữa ăn chúng bố thí cho mình trước khi hạ sát.”

Mọi người liếc mắt ngó hai vị đảo chúa, thì thấy Long đảo chúa râu tóc bạc phơ, mặt mũi hồng hào như đứa trẻ, còn Mộc đảo chúa mái tóc dài chỉ còn lơ thơ, phần đen nhiều hơn phần bạc, nhưng mặt đầy vết nhăn nheo. Họ bao nhiêu tuổi, thật khó mà đoán được. Cứ nhìn mặt thì nói họ sáu chục hay chín chục cũng đều có lý, mà đoán họ đã ngoài trăm tuổi cũng chẳng có chi quá đáng.

Mọi người thi lễ xong ngồi xuống. Người trên đảo bước ra rót rượu và đưa thức ăn lên. Bàn nào cũng có bốn bát bốn đĩa, cả thảy tám món. Những món ăn gồm đủ cả thịt, gà, cá, tôm, mùi thơm ngào ngạt đưa lên tận mũi, xem chừng có vẻ ngon lành chứ chẳng có chi khác lạ.

Thạch Phá Thiên đã hơi yên lòng. Chàng nhìn quanh bàn tiệc thấy cả quán chủ Thượng Thanh Quán là Thiên Hư đạo nhân cũng đã đến. Chưởng môn bốn phái lớn tại Quan Đông là Phạm Nhất Phi, Phong Lương, Lữ Chính Bình và Cao Tam nương tử cũng có mặt. Những người này tâm thần rất đỗi hoang mang, khi ánh mắt chạm phải mục quang của Thạch Phá Thiên, họ chỉ gật đầu thi lễ chứ không dám cất tiếng chào hỏi.

Hai vị đảo chúa Long, Mộc nâng chén rượu lên nói: “Xin mời!” rồi uống một hơi can sạch.

Quần hùng thấy rượu xanh lè. Tuy hương vị rất thơm tho, nhưng họ không khỏi băn khoăn tự hỏi: “Chẳng hiểu trong rượu này có thuốc độc gì không?” Đa số chỉ để chén rượu lên môi chứ không dám uống.

Một số ít nghĩ bụng: “Đối phương mà muốn hại mình thì chỉ cần cất tay một cái là xong. Trong rượu có độc cũng thế mà không có độc cũng vậy, đằng nào cũng chết. Chi bằng cứ ngang tàng mà uống.” Họ liền nâng chén lên uống cạn.

Những người đứng chầu một bên tiếp tục rót rượu vào. Hai vị đảo chúa đảo Long Mộc mời khách cạn ba tuần rồi, Long đảo chúa giơ tay trái lên. Bọn nô bộc từ nội đường xếp hàng đi ra, mỗi tên bưng ra một bát cháo nóng rất to đặt trước mặt tân khách.

Quần hùng bụng bảo dạ: “Đây chắc là chén cháo Lạp Bát mà chốn giang hồ thường đồn đại.” Những bát cháo vừa múc ra, hơi còn bốc lên nghi ngút, bọt sủi từ đáy bát lên. Bát cháo nào cũng một màu xanh thẫm, ai nhìn cũng không khỏi sinh lòng nghi hoặc. Thứ cháo này thường nấu với táo tàu, vừng đen, hạt sen, long nhãn, đậu đỏ… nhưng trong bát cháo này lại có những thứ rau chẳng ra rau, cỏ chẳng ra cỏ, thứ là rễ cây thái nhỏ, thứ lại xắt ra từng khúc trăng trắng như khoai mài, mùi thuốc rất nồng.

Quần hùng đều biết đa số độc dược có màu xanh, mà bát cháo này lại màu xanh thẫm, mặt người soi vào cũng ánh lên xanh biếc. Chỉ ngửi mùi thuốc nặng nề xông vào mũi cũng biết là bát cháo này độc đến mức nào.

Cao Tam nương tử vừa ngửi thấy mùi thuốc đã phát ngán, nghĩ bụng: “Lúc họ nấu nồi cháo này, không biết đã thả bao nhiêu rắn rết nhện độc vào trong.” Mụ không nhịn được cơn buồn nôn, vội đẩy bát cháo ra cạnh bàn rồi đưa tay bịt mũi.

Long đảo chúa nói: “Các vị đường xa ngàn dặm đã có lòng chiếu cố, tệ đảo không biết lấy gì kính khách, chỉ dùng chén cháo Lạp Bát ở Trung Châu khó kiếm để đưa ra thết đãi. Vị cốt yếu trong bát cháo là Đoạn Trường Thực Cốt Hủ Tâm Thảo. Loại cỏ này sau khi đã nở hoa mới thật công hiệu, nhưng phải tám năm, mười năm không chừng mới có một lần nở hoa. Tệ đảo phải chờ tới khi cỏ khai hoa mới mời đồng đạo giang hồ tới đây cùng hưởng, tính ra lần thiết yến này là lần thứ tư. Mời chư vị ăn uống thực tình, không nên khách sáo.” Lão nói xong, cùng Mộc đảo chúa tay trái cầm bát cháo, tay phải giơ đũa lên mời.

Mọi người nghe đến tên loại cỏ Đứt Ruột Mòn Xương Nát Tim, ai cũng bở vía. Tuy ai đã tới đảo này cũng không tính đến chuyện sống sót trở về nữa, nhưng họ công khai tuyên bố thứ cỏ độc trong bát cháo Lạp Bát khiến mọi người càng kinh tâm động phách, ai nấy sắc mặt tái mét.

Long Mộc hai vị đảo chúa đều giơ đũa lên khoanh một vòng hướng về mọi người, tỏ ý mời toàn thể cử tọa, rồi bưng chén cháo lên bắt đầu ăn.

Quần hùng đều nghĩ bụng: “Trong bát cháo của hai lão này chắc toàn là nhân sâm, yến sào cùng các vị đại bổ.”

Đột nhiên phía đông có một hán tử đứng phắt dậy, trỏ tay vào mặt Long Mộc đảo chúa lớn tiếng quát: “Lão Long và lão Mộc kia hãy nghe đây! Ta là Giải Văn Báo ở Quan Tây. Trước khi tới Hiệp Khách Đảo này, ta đã thu xếp mọi việc về sau đâu đó xong cả rồi. Giải Văn Báo này đường đường là tay hán tử đội trời đạp đất, lòng dạ sắt đanh. Các ngươi muốn giết thì cứ giết, Giải mỗ quyết chẳng chau mày. Còn bắt Giải mỗ phải ăn uống thứ độc vật dơ bẩn này thì nhất định không thể được.”

Long đảo chúa ngạc nhiên mỉm cười nói: “Giải anh hùng đã không muốn ăn cháo, dĩ nhiên bọn tại hạ không miễn cưỡng được. Các hạ chẳng cần nổi giận, xin mời ngồi!”

Giải Văn Báo lại hét lớn: “Giải mỗ đã không mong toàn mạng, thì chết sớm hay chết muộn cũng là chết. Ta chỉ muốn vạch mặt các ngươi là bọn chó má ỷ mạnh làm càn, gây tai họa ở nhân gian.” Hắn nói xong, bưng chén cháo lên tạt vào mặt Long đảo chúa.

Một lão già ngồi cách hai bàn đứng phắt dậy quát: “Giải hiền đệ không được lỗ mãng!” Lão phất tay áo một cái, phát ra một luồng kình phong ngăn cản bát cháo còn đang lơ lửng trên không. Chén cháo không bay về phía trước nữa, dừng lại trên không gian một giây rồi rớt xuống.

Ai cũng yên trí chiếc bát Thanh Hoa Đại Hải sắp vỡ tan tành, còn cháo sắp đổ lênh láng. Bỗng một tên hầu chuyên việc rót rượu cho tân khách đang đứng gần đó khom lưng chuồi người xuống đất, vọt tới đưa tay ra đỡ lấy chén cháo. Lúc này chén cháo chỉ còn cách mặt đất vài tấc, bắt được thật khó vô cùng.

Quần hùng không nhịn được, bật lên tiếng hoan hô vang dội: “Công phu tuyệt diệu!” Tiếng hoan hô vừa dứt, nét mặt quần hùng càng lộ vẻ lo âu. Ai nấy bụng bảo dạ: “Chỉ một tên hầu rượu mà thân thủ đã kỳ diệu đến thế, mình còn mong sống sót trở về được nữa ư?”

Mọi người đâm ra tính quẩn lo quanh. Người thì nhớ con cháu cùng sản nghiệp trong nhà, kẻ thì nghĩ tới mối đại cừu chưa trả được. Có người lẩm bẩm: “Ta mà chết đi, cơ nghiệp của bản bang tất phải điêu tàn.”

Có người lại tự oán mình: “Đã biết sắp đến ngày Hiệp Khách Đảo mời đi dự yến, sao mình không sớm tìm nơi thâm sơn cùng cốc để ẩn lánh, lại cứ ngồi cầu may đồng bài đừng đưa tới chỗ mình. Lúc họa đến trước mắt rồi thì lại mong Hiệp Khách Đảo không lợi hại đến như lời đồn đại. Bây giờ chính mắt thấy một tên hầu rượu chuồi mình đón bắt bát cháo, thì chút hy vọng nhỏ xíu đó cũng bị vỡ tan.”

Bỗng thấy một thư sinh ốm yếu vào tuổi trung niên đứng lên, cất tiếng dõng dạc nói: “Long Mộc đảo chúa! Hai vị đảo chúa chỉ cho hai tên thuộc hạ vào Trung Nguyên là đủ lừng danh khét tiếng. Vậy nếu hai vị muốn lên ngôi võ lâm chí tôn thật dễ như trở bàn tay, hà tất phải hao tổn tâm cơ, phí phạm công phu để triệu bọn tại hạ lên đảo này làm chi? Tại hạ đến quý đảo cũng không còn hy vọng sống sót trở về, nhưng trong lòng còn mối nghi ngờ thì chết cũng không nhắm mắt được. Vậy xin hai vị đảo chúa giãi bày cho tại hạ được tỏ tường mối nghi ngờ đó, rồi tại hạ sẽ vươn cái cổ này ra chờ chém.”

Những câu này thì hết thảy mọi người đều muốn nói ra, có điều người khác không hoạt bát văn hoa được như y mà thôi. Mọi người nghe thấy đều lấy làm hợp ý, mấy trăm con mắt đổ dồn vào hai đảo chủ Long, Mộc.

Long đảo chúa cười nói: “Tây Môn tiên sinh hãy ngồi xuống, bất tất phải quá khiêm như vậy.”

Quần hùng nghe Long đảo chúa nói vậy, lại quay nhìn gã thu sinh tự hỏi: “Phải chăng người này là Tây Môn Quán Chỉ tú tài, tiếng tăm lừng lẫy giang hồ hai chục năm trước? Nhưng coi y bất quá mới ngoài bốn chục tuổi, mà hai chục năm trước vị tú tài kia chỉ hai bàn tay không đã đánh chết bảy tên ác ôn ở Thiểm Bắc, rồi trong ba ngày dùng một cây Phán Quan Bút phá hủy tám sơn trại của bọn lục lâm tỉnh Hà Bắc. Người ta đồn khi đó y đã ngoài bốn mươi tuổi, rồi sau mấy vụ đó thì không có tin tức gì nữa, chẳng biết sống chết thế nào. Theo tuổi người này thì không phải, song họ Tây Môn chẳng có mấy người, mà hiện nay trong võ lâm lại không có cao thủ nào họ Tây Môn ăn mặc theo kiểu thư sinh, nhiều phần chắc đúng là ông ấy.”

Bỗng nghe Long đảo chúa nói tiếp: “Ngày trước Tây Môn tiên sinh song chưởng đả bại thất bá, một bút dẹp yên tám trại…”

Lúc này thì quần hùng đều nghĩ: “Quả là ông ấy!”

Long đảo chúa nói tiếp: “Tại hạ cùng Mộc huynh đệ đây đem lòng ngưỡng mộ tôn giá đã lâu, hôm nay mới được gặp, đâu dám vô lễ với tiên sinh?”

Tây Môn Quán Chỉ đáp: “Tại hạ không dám. Mấy việc nhỏ mọn ngày xưa, hoặc giả có thể nhất thời ngông cuồng ở Trung Nguyên, còn dưới mắt hai vị đảo chúa thì chỉ là trò trẻ nít tập cầm dao, chẳng đáng kể đến làm gì.”

Long đảo chúa nói: “Tây Môn tiên sinh lại quá khiêm rồi! Câu hỏi vừa rồi của tôn giá, tại hạ cũng muốn trình bày ngay cùng các vị anh hùng, nhưng trong bát cháo Lạp Bát này có vị Đoạn Trường Thực cốt Hủ Tâm Thảo, cần phải ăn nóng mới hiệu nghiệm. Vậy mời các vị hãy dùng cháo trước, rồi tại hạ sẽ trình bày sau có được chăng?”

Thạch Phá Thiên nghe hai người nói chuyện với nhau toàn những lời khách sáo, dùng rất nhiều thành ngữ, mình chỉ hiểu phần nào. Bụng chàng lại đang đói, ruột gan cồn cào không chịu được. Vừa nghe Long đảo chúa nói vậy, chàng liền bưng ngay chén cháo lên, húp sì sụp một hồi đã cạn đến nửa bát. Tuy mùi thuốc nồng nặc, nhưng cháo lại ngon lành, chẳng thấy gì là khó ăn cả.

Chỉ trong khoảnh khắc, chàng ăn hết sạch bát cháo. Trong quần hùng có người nghĩ: “Thằng lỏi này chẳng biết trời cao đất rộng là gì, chỉ tỏ vẻ ta đây hào kiệt nhất thời, chẳng sợ chết là gì. Giả tỉ gã muốn cướp đường chạy trước tới quỷ môn quan cho rộng, thì cũng chưa cần phải vội vã đến thế.”

Có người lại nghĩ: “Tự sát cũng là chết, bị giết cũng là chết. Đằng nào cũng chết, thì thà cứ như vị thiếu niên anh hùng kia, chết thật là sảng khoái.”

Bạch Tự Tại hô lên: “Hay lắm! Giỏi lắm! Cháu rể của phái Tuyết Sơn chúng ta quả nhiên khác với mọi người.” Đã đến lúc này mà lão vẫn còn có ý ngạo nghễ, muốn phái Tuyết Sơn phải cao hơn các môn phái khác một bậc. Lão cho là Thạch Phá Thiên đã thay mặt cho lão mà bảo toàn thể diện.

Sau cuộc tỉ đấu trong thạch lao tại thành Lăng Tiêu, nhuệ khí của Bạch Tự Tại đã cùn nhụt đi nhiều. Ngay lúc ấy lão đã nghĩ, mình tự xưng là “đại anh hùng, đại hiệp sĩ, đại tôn sư, kiếm pháp đệ nhất, quyền cước đệ nhất, nội công đệ nhất, ám khí đệ nhất tự cổ chí kim”, nay phải bỏ bớt bốn chữ “nội công đệ nhất”.

Đến lúc lão thấy tên hầu rót rượu thi triển thân thủ bắt được chén cháo sắp rớt, thì lão lại cho là bốn chữ “quyền cước đệ nhất” cũng không đứng vững được nữa. Có điều lão vẫn tự nhủ, chưa chắc võ công mọi người trên Hiệp Khách Đảo đều tuyệt cao. Không chừng tên hầu này là tay cao thủ đệ nhất trên đảo, giả vờ đóng vai nô bộc để hù dọa người khác mà thôi.

Lão thấy Thạch Phá Thiên thản nhiên ăn chén cháo độc một cách ngon lành, liền lấy làm đắc ý vì chàng là cháu rể của chưởng môn phái Tuyết Sơn. Bất giác hào khí trong lòng lại nổi dậy, lão liền bưng chén cháo lên húp soàn soạt rồi nhìn khắp mặt quần hùng, nghĩ bụng: “Trong đại sảnh này, bất quá chỉ có ta và cháu ta là dám ăn chén cháo đó thôi. Người khác làm sao có khí khái anh hùng hào kiệt như vậy?”

Rồi lão lại nghĩ: “Ta là người thứ hai ăn chén cháo này, vậy kể về anh hùng hào kiệt thì ta đứng hàng thứ hai trong thiên hạ. Thế thì sáu chữ “đại anh hùng, đại hào kiệt” cũng phải bỏ đi.” Lão không nén nổi, lại ủ rũ suy nghĩ: “Ăn cháo độc thì cũng đến chết là cùng. Sao mình không ăn trước tiên, phải hạ xuống “thiên hạ đệ nhị” thì còn thú gì nữa?” Bạch Tự Tại trong lòng buồn bã tự trách, nên về sau Long đảo chúa nói gì, lão cũng chẳng buồn lắng nghe nữa.

Long đảo chúa nói: “Bốn chục năm về trước, tại hạ cùng Mộc huynh đệ kết giao ý hợp tâm đầu. Đáng lẽ hai người định dắt tay nhau vào chốn giang hồ, khen thưởng người thiện, trừng phạt kẻ ác trong võ lâm, cố dựng nên sự nghiệp. Không ngờ bọn tại hạ vừa bước chân vào chốn giang hồ đã ngẫu nhiên tìm được một tấm địa đồ viết đầy chữ nhỏ. Tại hạ xem xong thì biết bản đồ này vẽ một hoang đảo vô danh, và tại đó có cất giấu một bí lục võ công kinh thiên động địa.”

Giải Văn Báo nói xen vào: “Rõ ràng đây là Hiệp Khách Đảo, sao lại bảo là hoang đảo vô danh?”

Lão già lúc nãy phất tay áo để cản chén cháo lại quát lên: “Giải hiền đệ không nên ngắt lời Long đảo chúa!”

Giải Văn Báo vẫn cãi: “Dù lão huynh cố gắng lấy lòng, nhưng chưa chắc họ đã tha mạng đâu.”

Lão già tức quá, bưng bát cháo lên húp một hơi quá nửa rồi nói: “Ta với ngươi kết giao đã nửa đời, mà ngươi chưa biết Trịnh Quang Chi này là người thế nào ư?”

Giải Văn Báo ra chiều hối hận nói: “Đai ca! Tiểu đệ sai rồi. Xin đại ca lượng thứ cho.” Đoạn hắn quỳ xuống dập đầu binh binh ba cái, tiện tay vớ lấy bát cháo trên bàn, cũng húp một hơi hơn nửa bát.

Trịnh Quang Chi chạy lại ôm lấy Giải Văn Báo nói: “Huynh đệ! Ngày anh em ta kết nghĩa đã tuyên lời trọng thệ, không sinh cùng ngày cùng tháng cùng năm, nhưng nguyện chết cùng năm cùng tháng cùng ngày. Hôm nay lời thề đó sắp thành hiện thực, như thế mới không uổng một phen kết nghĩa huynh đệ.” Hai người ôm lấy nhau, vừa hoan hỉ vừa bi thương đến chảy nước mắt.

Thạch Phá Thiên nghe lão nhắc tới lời thề, bất giác đưa mắt nhìn Trương Tam Lý Tứ. Hai gã này nhìn nhau cười một cái, rồi đưa mắt nhìn Long Mộc đảo chúa. Mộc đảo chúa khẽ gật đầu. Trương Tam Lý Tứ liền bước ra khỏi hàng của mình, mỗi người bưng một bát cháo Lạp Bát đi đến bàn Thạch Phá Thiên nói: “Nào, mời hiền đệ!”

Thạch Phá Thiên vội ngăn lại: “Đừng làm thế! Nhị vị ca ca bất tất phải chết chung với tiểu đệ. Tiểu đệ chỉ mong nhị vị sau này chiếu cố cho A Tú…”

Trương Tam mỉm cười nói: “Huynh đệ! Ngày chúng ta kết nghĩa đã có lời thề, sau này có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu. Hiền đệ đã ăn cháo Lạp Bát, thì có lý đâu bọn ca ca lại không ăn?” Trương Tam nói xong, cùng Lý Tứ bưng cháo lên ăn một hơi hết sạch. Đoạn hai gã quay lại khom lưng nhìn Long Mộc đảo chúa nói: “Tạ ơn sư phụ đã ban cho bát cháo.” Rồi chúng mới quay lại chỗ cũ.

Quần hùng thấy Trương Tam, Lý Tứ vì nghĩ đến tình kết nghĩa với Thạch Phá Thiên mà ăn cháo độc để chết cùng chàng. So với Trịnh Quang Chi và Giải Văn Báo nhất định phải chết, trường hợp của hai người này khó khăn gấp mười, vậy mà họ cũng giữ lòng nghĩa khí. Ai nấy đều khâm phục vô cùng.

Bạch Tự Tại cũng tự nghĩ: “Như hai người này thì chữ Hiệp mới có ý nghĩa. Giả tỉ mình có bạn kết nghĩa uống phải chất kịch độc, liệu mình có nghĩ đến nghĩa chi lan mà chết cùng bạn không?” Nghĩ tới đây lão không khỏi ngần ngừ một chút, rồi lại nghĩ: “Ta đã ngần ngừ một chút rồi, cho dù về sau có chết cùng người đó thì cũng không khỏi xấu hổ với ba chữ Đại Hiệp Sĩ.”

Bỗng nghe Trương Tam nói tiếp: “Tam đệ! Ở đây có một số tân khách dường như không ưa mùi vị thứ cháo Lạp Bát này. Tam đệ muốn ăn thêm mấy bát thì cứ lấy mà ăn, chẳng hề gì đâu.”

Thạch Phá Thiên đói bụng đã nửa ngày, mới ăn một chén cháo chưa thấm vào đâu. Chàng nghĩ bụng: “Mình đã ăn một bát rồi, dù ăn nhiều hay ăn ít cũng không phân biệt gì nữa.” Chàng đưa mắt nhìn sang những bàn bên cạnh.

Mấy người ngồi gần đấy, thấy chàng nhìn qua bàn mình vội bưng cháo giơ lên nói: “Loại cháo này mùi vị khác thường, tại hạ không quen. Tiểu anh hùng cứ tùy tiện lấy mà dùng, bất tất phải khách sáo.” Họ thấy Thạch Phá Thiên chỉ có hai tay, dĩ nhiên không đón hết được bấy nhiêu bát. Họ còn sợ Trương Tam đột nhiên thay đổi ý kiến để lỡ mất cơ hội này, liền bưng chén cháo sang để trên bàn trước mặt Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên cất tiếng cảm ơn, rồi ăn liền một lúc hai bát nữa.

Long đảo chúa mỉm cười, gật đầu rồi nói: “Câu hỏi vừa rồi của Giải anh hùng quả là không sai. Hoang đảo vô danh ghi trên địa đồ chính là Hiệp Khách Đảo mà hiện chúng ta đang ngồi đây, có điều cái tên Hiệp Khách Đảo là sau khi tại hạ và Mộc huynh đệ đến đây rồi mới đặt ra. Cũng không phải bọn tại hạ ngông cuồng tự cho mình là hiệp khách, thật sự bên trong còn có nguyên do khác. Bọn tại hạ theo chỉ thị trong địa đồ mà tìm kiếm trên đảo mất mười tám ngày, cuối cùng cũng tìm được võ công bí quyết. Té ra bí lục này là một bài thơ cổ, nghĩa lý rất sâu xa và phức tạp. Hai anh em tại hạ mừng quá, liền theo đồ giải mà luyện tập.”

“Hỡi ơi! Chẳng ai ngờ được phúc mà thành họa. Sau mấy năm nghiên cứu luyện tập, đột nhiên hai anh em có chuyện bất đồng ý kiến về võ công trong bức đồ giải. Tại hạ bảo phải luyện như tại hạ mới đúng, mà Mộc huynh đệ lại cho là tại hạ nghĩ sai, phải luyện thế kia mới được. Hai người tranh luận mấy ngày trời, rốt cuộc chẳng ai chịu ai. Về sau đi đến chỗ quyết định, người nào luyện theo ý người ấy, bao giờ luyện thành công rồi sẽ cùng nhau chứng nghiệm, ai đúng ai sai đến bấy giờ sẽ rõ. Sau khi luyện được quá nửa năm, hai chúng ta động thủ để chiết giải với nhau. Hai anh em mới qua lại mấy chiêu, bất giác đột nhiên thất sắc. Thì ra… thì ra…”

Lão nói tới đây, vẻ mặt buồn rầu, ngừng lại không nói nữa. Mộc đảo chúa cũng ra chiều uất ức, thở một hơi dài. Qua một lúc lâu, Long đảo chúa lại nói tiếp: “Té ra hai anh em tại hạ đều luyện sai cả.”

Quần hùng nghe nói mà tâm thần chấn động. Ai cũng nghĩ, võ công Trương Tam Lý Tứ đã cao như vậy, dĩ nhiên hai vị đảo chủ phải đến mức xuất thần nhập hóa, không thể nào lường được. Môn võ công họ đã cố luyện, nếu không phải là quyền cước phi thường thì cũng là nội công tối cao. Nếu luyện sai nội công tất nhiên phải tẩu hỏa nhập ma, nhẹ là trọng thương tàn phế, mà nặng thì phải chết người.

Long đảo chúa lại tiếp: “Anh em tại hạ khi phát giác luyện sai, liền lập tức ngưng lại để cùng nhau phân tích, cố nghiên cứu cho ra đạo lý bên trong. Nhưng hai chúng ta tư chất tầm thường, mà chỉ thị trong đồ giải lại rất thâm sâu, nghiên cứu mấy tháng vẫn trì trệ, không hiểu được những chỗ khó khăn. Khi ấy bỗng có một chiếc thuyền của bọn cướp biển trôi dạt vào đảo. Hai anh em tại hạ giết ba tên cầm đầu, rồi bắt bọn đồng lõa đem ra thẩm vấn. Những tên nào hành vi tàn ác đều bị xử tử, những kẻ được tha chết thì giữ lại trên đảo. Hai anh em bàn nhau: Sở dĩ mình nghiên cứu đồ giải trong bài cổ thi không thông suốt được, có thể vì đã luyện nhiều năm võ công, những điều sở học trước kia khác hẳn khiến mình luyện công sai đường lạc lối, chi bằng thu nạp mấy tên đệ tử cho chúng suy nghĩ về bài cổ thi đồ giải. Thế rồi bọn tại hạ lựa trong bọn đạo tặc đó ra sáu tên biết chữ khá nhiều, tương đối thông minh mà võ công lại thấp kém. Bọn tại hạ chia chúng làm hai nhóm đồ đệ, không truyền thụ nội công mà chỉ dạy một ít quyền thuật cùng kiếm pháp, rồi để chúng tự nghiên cứu đồ giải.”

“Ngờ đâu, cách hiểu của ba tên đồ đệ tại hạ không giống như của ba tên đệ tử Mộc huynh đệ. Thậm chí giữa ba tên đồ đệ tại hạ, cách suy nghĩ cũng đã ngược nhau rồi. Giữa ba tên đồ đệ của Mộc huynh đệ cũng vậy. Hai anh em lại thương nghị tỉ mỉ hơn: Phần đồ giải này là một bài thơ cổ của Lý Thái Bạch, mà bọn ta lại là hạng võ biền thô lỗ, tuy biết một chút chữ nghĩa, nhưng khó mà so với các nhà văn tinh thông thi lý. Xem chừng đồ giải này nếu không phải là kẻ sĩ tài kiêm văn võ thì khó lòng hiểu được. Vì thế tại hạ cùng Mộc huynh đệ chia nhau vào Trung Nguyên, hẹn nhau trong một năm mỗi người cố tìm bốn tên đồ đệ là nho sĩ đầy bụng kinh luân, không thì cũng là những tay danh sĩ văn tài mẫn tiệp.”

Lão giơ tay trỏ vào bảy tám tên đệ tử mặc áo vàng và xanh, nói tiếp: “Không dám giấu liệt vị, mấy tên đệ tử này giả tỉ đi thi thì việc đậu tiến sĩ, hàn lâm dễ như trở bàn tay. Ban đầu chúng đến Hiệp Khách Đảo cũng chưa hẳn là cam tâm tình nguyện, nhưng về sau vừa học võ công vừa nghiên cứu đồ giải, ai cũng tình nguyện sống chết ở đảo, vì đã hiểu ra học võ luyện công còn thú hơn đọc sách làm quan.”

Quần hùng nghe Long đảo chúa nói “học võ luyện công thú hơn đọc sách làm quan” đều lấy làm vừa ý, nhiều người bất giác gật đầu khen phải.

Long đảo chúa nói tiếp: “Nhưng tám đệ tử nguyên là danh sĩ xuất thân này nghiên cứu đồ giải xong, mỗi người lại có ý kiến rất khác nhau, chẳng những không làm cho Mộc huynh đệ và ta hiểu thêm được điều gì, mà còn khiến cho hai anh em tại hạ lún sâu thêm vào chỗ mơ hồ. Bọn tại hạ không biết làm thế nào, trong lòng rất là phiền muộn, mà bỏ đi thì cũng không đành lòng. Một hôm, Mộc huynh đệ bảo tại hạ: “Hiện nay những bậc tinh thâm về võ học không ai hơn được Diệu Đế đại sư, một vị cao tăng chùa Thiếu lâm. Sao chúng ta không mời lão nhân gia tới đây một phen để chỉ giáo cho?” Tại hạ nói: “Diệu Đế đại sư đã ẩn cư mười mấy năm, không màng thế sự, e rằng khó mà mời được.”

“Mộc huynh đệ nói: “Thế sao chúng ta không chép thêm một bản đưa đến chùa Thiếu Lâm, để nhờ lão nhân gia xem giúp? Nếu Diệu Đế đại sư cũng bó tay thì e rằng đồ giải này có chỗ sai lầm, hai chúng ta chẳng hơi đâu mà nghiên cứu thêm cho mệt.” Tại hạ liền vỗ tay khen: “Kế ấy rất diệu! Chúng ta có thể chép thêm một bản nữa đưa cho Ngu Trà đạo trưởng phái Võ Đang. Võ công phái Thiếu Lâm và Võ Đang nổi tiếng nhất trên chốn giang hồ, hai vị cao nhân đó nhất định kiến thức siêu việt hơn người.”

“Tức thì hai người chúng ta liền sao chép đồ giải rất kỹ, cả nét vẽ lẫn chữ viết không sai một chút nào, rồi đích thân đưa đến chùa Thiếu Lâm. Không giấu gì quý vị, lúc đầu hai ta phát hiện đồ giải cổ thi này thì mừng như điên, vì nghĩ rằng cứ theo đồ giải mà luyện tập thì võ công của mình sẽ tới chỗ cao nhất thiên hạ, không có người thứ ba nào bì kịp. Nhưng càng luyện tập, hai ta lại càng đi sâu vào chỗ nghi ngờ không sao giải quyết được. Lúc cùng lên chùa Thiếu Lâm, thì ý niệm trước đây không chịu truyền bí quyết cho người khác, phải giữ cho mình đã hoàn toàn tiêu tan hết. Hai ta không muốn giấu giếm nữa, chỉ mong sao có người giải khai được mối nghi ngờ canh cánh trong lòng bấy lâu nay, dù có phải đem đồ giải công bố cho thiên hạ cũng chẳng có chi đáng tiếc.”

“Sau khi hai anh em tại hạ đến chùa Thiếu Lâm, liền cho đồ giải vào bao thư, nhờ tri khách tăng trình lên Diệu Đế đại sư. Ban đầu tri khách tăng không chịu, nói là Diệu Đế đại sư đã đóng cửa ẩn cư lâu năm, không giao thiệp với người ngoài. Hai anh em tại hạ liền lấy mỗi người một chiếc bồ đoàn, ngồi giữa cổng chùa Thiếu Lâm suốt bảy ngày bảy đêm, khiến cho sư sãi trong chùa không có lối ra vào. Tri khách tăng không biết làm sao, đành đem phong thư vào đệ trình đại sư.”

Quần hùng đều nghĩ bụng: “Lão chỉ nói hời hợt là ngồi giữa cổng chùa Thiếu Lâm bảy ngày bảy đêm, nhưng thực ra câu chuyện đâu có dễ dàng thế được? Trong bảy ngày này chắc đã xảy ra nhiều cuộc long tranh hổ đấu, quần tăng chùa Thiếu Lâm không có cách nào đuổi được hai lão này đi, mới phải đưa thư vào.”

Long đảo chúa lại kể tiếp: “Tri khách tăng chịu nhận thư rồi, anh em tại hạ mới đứng lên, rời khỏi cổng chùa Thiếu Lâm, xuống chân núi Thiếu Thất đợi. Chừng nửa giờ thì thấy Diệu Đế đại sư xuống, hỏi ngay: “Ở đâu?” Mộc huynh đệ liền đáp: “Còn phải đi mời một vị nữa?” Diệu Đế đại sư đáp: “Không sai! Đi mời Ngu Trà!” Ba người lên đến núi Võ Đang. Diệu Đế đại sư nói: “Lão tăng là Diệu Đế ở chùa Thiếu Lâm, muốn ra mắt Ngu Trà!” Rồi đại sư không chờ thông báo, đi thẳng vào trong. Diệu Đế đại sư chùa Thiếu Lâm là nhân vật lừng lẫy nhất võ lâm, bọn đệ tử phái Võ Đương không ai dám cản trở, anh em tại hạ cũng theo ông ấy vào. Diệu Đế đại sư vào tận chỗ thanh tu của Ngu Trà đạo trưởng, lấy đồ giải ra, đem chiêu thứ nhất trong đồ giải diễn thử một phen, rồi không nói một lời đã quay đầu đi ngay. Ngu Trà đạo trưởng vừa kinh ngạc vừa hoan hỉ, cũng không hỏi lại, lập tức đi theo Diệu Đế đại sư lên Hiệp Khách Đảo.”

“Diệu Đế đại sư tinh thông tuyệt nghệ của phái Thiếu Lâm, còn Ngu Trà đạo trưởng kiếm pháp thần thông, hai vị đều là nhân vật tuyệt đỉnh mà võ lâm đều công nhận. Hai vị tới đảo rồi, lập tức rèn luyện đồ giải. Trong tháng đầu ý kiến hai lão nhân gia gần giống nhau, chỉ bất đồng một vài điểm nhỏ nhặt. Từ tháng thứ hai, những chỗ mâu thuẫn đã nảy sinh khá nhiều. Đến tháng thứ ba, hai vị không muốn giữ tư cách cao nhân xuất thế nữa, chỉ vì mỗi người giải thích đồ giải một kiểu khác nhau mà sinh ra tranh chấp kịch liệt. Thậm chí… thậm chí… Hỡi ôi, hai vị xảy cuộc động thủ.”

Quần hào kinh ngạc vô cùng. Có người vội hỏi: “Hai vị cao nhân này tỉ võ thì ai thắng ai bại?”

Long đảo chúa nói: “Diệu Đế đại sư cùng Ngu Trà đạo trưởng đem những công phu nghiên cứu trong đồ giải ra thi triển, đến chiêu thứ năm thì còn có phần giống nhau nên vui vẻ tươi cười, không cần tỉ đấu nữa. Từ lúc bắt đầu chiêu thứ sáu hai vị đã có chỗ bất đồng ý kiến, nhưng còn có lúc tỉ đấu, có lúc bỏ qua. Sau mấy tháng trời, kết quả nghiên cứu của hai vị đi đến chỗ giống nhau thì ít mà khác nhau lại nhiều. Nhưng chuyện so bì ai hơn ai kém thì khó mà định được. Tại hạ cùng Mộc huynh thương nghị với nhau nhiều lần, đều cho là đồ giải đó bao la huyền diệu quá chừng. Ngay cả Diệu Đế đại sư cùng Ngu Trà đạo trưởng là những cao nhân quán thế mà cũng chỉ lĩnh hội được một phần nhỏ trong đó mà thôi. Xem ra nếu muốn thông suốt được toàn thể bản đồ giải này, chỉ có cách mở rộng cuộc nghiên cứu để nhiều người tham gia, chứ không còn cách nào khác. Ý kiến của nhiều người góp lại phải hơn ý kiến của một bậc đại tài. Vì thế chúng ta muốn mời những bậc kỳ tài khắp thiên hạ lên đảo này, đem hết tâm lực ra mà nghiên cứu.”

Long đảo chúa ngừng lại một lúc rồi nói tiếp: “May mà lúc đó Đoạn Trường Thực Cốt Hủ Tâm Thảo đang nở hoa. Loại cỏ này đem phối hợp với mấy vị thuốc nữa, nấu thành cháo nóng thì ăn vào rất có ích cho những người luyện võ chúng ta. Vì thế hai anh em tại hạ cho sứ giả đi mời các vị chưởng môn phái lớn, các giáo chủ, các bang chúa cùng đến tệ đảo ăn cháo Lạp Bát. Ăn cháo xong, sẽ mời quần hùng tham gia vào công cuộc nghiên cứu đồ giải.”

Mọi người nghe Long đảo chúa nói vậy thì bán tín bán nghi, sắc mặt người nào cũng thập phần kỳ dị.

* * *

Qua một hồi lâu, Đinh Bất Tứ lớn tiếng nói: “Đảo chúa nói vậy, thì ra hai vị mời anh em đồng đạo đến đây ăn cháo Lạp Bát là vì lòng tốt hay sao?”

Long đảo chúa nói: “Nếu nói hoàn toàn vì lòng tốt thì cũng không đúng hẳn. Tại hạ cùng Mộc huynh đệ vẫn có chút tư tâm, muốn những cao thủ võ học trong thiên hạ hội họp trên đảo này nghiên cứu đồ giải, giúp hai ta gỡ được những chỗ nghi ngờ bấy lâu nay, đồng thời để phát huy võ học được thêm một mức. Nhưng nếu bảo bọn tại hạ mời khách để gia hại, thì thật là ý kiến sai lầm.”

Đinh Bất Tứ cười lạnh nói: “Đảo chúa nói vậy, chẳng hóa ra lừa bịp mọi người một cách trắng trợn ư? Nếu bảo là mời đồng đạo đến nghiên cứu võ học thì sao khi người ta không chịu đi, các vị lại hạ sát toàn gia hoặc cả môn phái? Trên thiên hạ có ai đi mời khách một cách cường hung bá đạo đến thế bao giờ?”

Long đảo chúa gật đầu, vỗ tay ra hiệu rồi bảo: “Lấy sổ thưởng thiện phạt ác ra đây!” Tám tên đệ tử quay vào nội đường, ôm ra tám chồng sổ, mỗi chồng cao đến hai thước.

Long đảo chúa nói: “Các ngươi hãy phân phát sổ ra để chư vị cùng xem.” Bọn đệ tử lần lượt chia sổ sách cho mọi người ở bàn tiệc, trên mỗi quyển đều dùng giấy vàng chú thích là của môn phái hay bang hội nào.

Đinh Bất Tứ cầm xem một cuốn, thì thấy ngoài bìa cuốn sổ của lão đề bốn chữ “Lạc Hợp nhân thị”. Lão không khỏi kinh hãi nghĩ thầm: “Huynh đệ của ta đúng là người Lạc Hợp. Chuyện này khắp thiên hạ ít ai biết đến, thế mà Hiệp Khách Đảo xa xôi hẻo lánh này cũng biết rõ. Tin tức của họ thu lượm được thật là xác thực.” Lão mở sổ ra xem thì thấy bên trong ghi chú rõ năm nào, tháng nào, ngày nào Đinh Bất Tam làm gì ở đâu, ngày nào tháng nào năm nào Đinh Bất Tứ làm gì ở đâu. Dĩ nhiên là cuốn sổ ghi chép không thể hoàn toàn, nhưng phần lớn những việc sai trái lão làm trong hai chục năm nay đều có ghi cả.

Đinh Bất Tứ trán toát mồ hôi, liếc mắt nhìn trộm những người bên cạnh thì ai nấy đều lộ vẻ hoang mang bối rối. Chỉ có một mình Thạch Phá Thiên là ngồi cắm đầu ăn cháo, chẳng ngó gì đến cuốn sổ đề ba chữ “Bang Trường Lạc” trước mặt. Chàng không biết chữ nào, nên hoàn toàn không biết trong đó viết cái gì.

Thời gian ăn xong một bữa cơm, Long đảo chúa nói: “Thu sổ thưởng thiện phạt ác lại!” Bọn đệ tử chia nhau đi thu sổ về.

Long đảo chúa mỉm cười nói: “Huynh đệ ta đã phái đệ tử đi nghe tin tức trên chốn giang hồ, nhưng cũng không phải là cả gan thám thính những việc riêng tư bí mật của các vị, chỉ là biết được chuyện nào thì ghi lại mà thôi. Bất cứ môn phái hay bang hội nào bị Hiệp Khách Đảo tiêu diệt, đều đã gây nên những tội ác tày trời, không thể dung tha được. Bọn tại hạ không dám nói là thế thiên hành đạo, nhưng chuyện thị phi thiện ác cũng phân biệt rõ ràng. Tại hạ cùng với Mộc huynh đệ đều nghĩ, chúng ta ở trên Hiệp Khách Đảo, thì việc làm cũng phải hợp với hai chữ Hiệp Khách mới đúng. Chúng ta chỉ hối hận một điều là khả năng của Hiệp Khách Đảo còn giới hạn, không thể giết sạch ác đồ khắp thiên hạ. Các vị thử nghĩ kỹ lại xem, có danh môn chính phái hoặc bang hội nghĩa hiệp nào đã bị Hiệp Khách Đảo tiêu diệt không?”

Hồi lâu không thấy ai trả lời. Long đảo chúa lại nói: “Những người mà bọn tại hạ đã sát hại, thật sự chẳng có ai vô tội…”

Bây giờ Bạch Tự Tại mới lên tiếng chất vấn: “Nhiếp lão quyền sư Nhiếp Lập Nhân ở Thông Châu tỉnh Hà Bắc có làm việc ác gì đâu? Sao lão cũng bị hai vị hạ sát toàn gia?”

Long đảo chúa lấy ra một cuốn sổ, đẩy về phía trước rồi nói: “Mời Uy Đức tiên sinh xem thử!” Cuốn sổ này từ từ bay về phía Bạch Tự Tại. Lão Bạch toan giơ tay ra đón, thì cuốn sổ đột nhiên dừng lại trên không một chút, rồi rớt thẳng xuống mặt bàn, chỉ cách tay lão chừng hai thước.

Bạch Tự Tại vội vàng đưa tay ra chụp được cuốn sổ, không đến nỗi để rớt vào bát cháo trên bàn. Cuốn sổ cầm vào tay rồi, lão còn cảm thấy lực đạo nặng trĩu. Bất giác trong lòng lão ngấm ngầm kinh hãi, bụng bảo dạ: “Thằng cha này thuận tay liệng cuốn sổ mỏng dính có mấy trang, thế đi rất chậm mà lực đạo ghê gớm, thật là xa gần tùy ý, biến hóa khó lường. Thế thì truyền thuyết “cánh hoa tấn công địch, mảnh lá đả thương người” là chuyện có thật. Thủ kình của thằng cha này mà phóng ám khí thì thật không thể đỡ gạt hay né tránh được. Ta đã tự xưng là “ám khí đệ nhất”, bốn chữ này chắc chắn cũng phải xóa đi.”

Lão nhìn ngoài bìa cuốn sổ có đề bảy chữ “Hà Bắc Thông Châu Nhiếp Gia Quyền”. Vừa mở sổ ra đọc dòng đầu, lão đã phải kinh hãi. Hàng đầu ghi: “Năm Giáp Thân, tháng năm ngày mùng hai, Nhiếp Tôn Đài đã gian dâm và giết hai mạng người ở Hắc gia trang hạt Thương Châu, lại để thư giá họa cho đạo tặc Hắc Hổ Trại.” Hàng thứ hai ghi: “Năm Giáp Thân, tháng mười ngày mười bảy, Nhiếp Tôn Hiệp vì một chuyện nhỏ mọn mà đả thương con cả của Lưu Văn Chất ở phủ Tế Nam. Đêm hôm ấy, y lại hại sát toàn gia nhà họ Lưu mười ba người để bịt miệng.”

Nhiếp Tôn Đài và Nhiếp Tôn Hiệp đều là con trai Nhiếp lão quyền sư. Nhà này nổi tiếng là hào hiệp trên chốn giang hồ, không ngờ đã làm những điều cực kỳ tàn ác trong bóng tối. Bạch Tự Tại suy nghĩ một chút rồi nói: “Những việc này không có gì đối chứng, chẳng hiểu thực giả ra sao. Tại hạ không dám nói hai vị đảo chúa cố ý chụp mũ rồi giết người vô tội, nhưng e rằng bọn đệ tử Hiệp Khách Đảo phái đi đã nghe lời đồn đại không đúng sự thực cũng chưa biết chừng.”

Trương Tam liền đứng dậy nói: “Nếu Uy Đức tiên sinh không tin, thì hãy xem cái này…” Gã nói xong, quay lưng đi vào nhà trong, lúc trở ra tay phải có cầm một cuốn sổ. Gã cũng giơ tay lên cho cuốn sổ từ từ bay về phía Bạch Tự Tại, còn chừng hai thước thì đột nhiên rớt thẳng xuống, thủ pháp giống hệt như của Long đảo chúa.

Phen này Bạch Tự Tại dĩ nhiên đã chuẩn bị sẵn, lão đưa tay chụp lấy, khi cầm vào tay cũng thấy nhẹ nhàng hơn lúc Long đảo chủ ném sách đến. Lão mở ra xem, thì đây là cuốn sổ nợ của nhà họ Nhiếp. Bạch Tự Tại đã quen Nhiếp lão quyền sư từ thuở nhỏ, nên biết rõ bút tích. Lão thấy chữ trong cuốn sổ này rõ ràng là của lão Nhiếp, trong số toàn ghi những việc liên quan đến tiền bạc. Ngay trang đầu đã phê hai chữ son: “Đáng giết”. Trang này có khoản ghi: “Ngày mồng tám mua tám mươi ba mẫu ruộng ở Chu Gia Thôn, giá tiền bảy mươi lạng.” Bạch Tự Tại nghĩ bụng: “Bảy chục lạng bạc mà mua được tám mươi mẫu ruộng ư? Đâu có của rẻ thế được? Vụ này chắc là có dùng uy lực để cưỡng ép.”

Lão đọc tiếp xuống dưới lại thấy một khoản nữa có phê hai chữ son “Đáng giết”. Khoản này ghi: “Ngày mười lăm, thu của quan huyện họ Trương ở Thông Châu hai ngàn năm trăm lạng.” Bạch Tự Tại nghĩ thầm: “Nhiếp Lập Nhân nổi tiếng là người nghĩa hiệp, sao lại lấy tiền của quan nha? Chắc là lão cấu kết với bọn tham quan vô lại để chèn ép người lương thiện, làm ra những việc thương thiên bại lý.”

Bạch Tự Tại lật tiếp xuống dưới thì thấy có tới năm sáu chục chỗ phê hai chữ “Đáng giết” bằng son đỏ, chắc là do Trương Tam hay Lý Tứ phê vào. Bất giác lão gập sổ lại, thở dài nói: “Biết người biết mặt khó biết lòng! Nhiếp Lập Nhân thật là đáng giết. Giả tỉ Bạch mỗ mà được xem cuốn nhật ký này mấy năm trước, thì dù Hiệp Khách Đảo có hạ thủ lưu tình cho lão, Bạch mỗ cũng phải giết hết cả nhà lão ta.”

Lão nói xong, đứng lên đi đến trước mặt Trương Tam, bưng hai tay trả cuốn sổ lại rồi nói: “Đáng phục! Đáng phục!” Lão quay lại nhìn Long Mộc đảo chúa ra chiều ngưỡng mộ, trong lòng thầm nghĩ: “Bọn đồ đệ Hiệp Khách Đảo chẳng những võ công trác tuyệt, mà còn rất chu đáo trong việc chủ trì công đạo. Thưởng Thiện thì mình chưa hiểu ra sao, nhưng hai chữ Phạt Ác thật là chí công, vậy việc thưởng thiện chắc cũng đích đáng không còn nghi ngờ gì nữa. Bốn chữ Thưởng Thiện Phạt Ác quả nhiên danh bất hư truyền. Bọn đệ tử phái Tuyết Sơn của mình tuy đông đúc, nhưng làm gì có được nhân tài như Trương Tam Lý Tứ? Hỡi ôi! Ba chữ Đại Tôn Sư còn dán vào trán Bạch Tư Tại này làm sao được? Thật càng nghĩ tới càng hổ thẹn.”

Long đảo chúa dường như đã đoán được ý nghĩ của Bạch Tự Tại, liền mỉm cười nói: “Mời Uy Đức tiên sinh ngồi. Tiên sinh ở Tây Vực đã lâu, thì làm sao biết được hành động của bọn cầm thú biết đội mũ mặc áo kia? Tiên sinh không thể tự trách mình.” Bạch Tự Tại lắc đầu, trở về chỗ ngồi.

Đinh Bất Tứ lớn tiếng hỏi: “Nói vậy thì mấy chục năm nay nhị vị đảo chúa giết toàn là hạng người đáng tội cả ư? Việc mời đồng đạo võ lâm đến đây chỉ vì mục đích cùng nghiên cứu võ công thôi ư?”

Long, Mộc đảo chúa gật đầu đáp: “Không sai.”

Đinh Bất Tứ lại hỏi: “Thế thì sao đồng đạo võ lâm đã đến đảo đều bị giết chết, ngay cả thi thể cũng không được trả về quê quán?”

Long đảo chúa lắc đầu nói: “Câu này Đinh tiên sinh nói sai rồi. Những lời đồn đãi dọc đường, làm sao có thể tin được?”

Đinh Bất Tứ nói: “Theo lời Long đảo chúa thì những cao thủ võ lâm vô tội chẳng ai chết cả ư? Ha ha! Thật đáng buồn cười!”

Long đảo chúa cũng ngửa mặt lên trời, cười lớn tiếng nói: “Ha ha, thật đáng buồn cười.”

Đinh Bất Tứ ngạc nhiên hỏi: “Có gì mà đáng cười?”

Long đảo chúa mỉm cười đáp: “Đinh tiên sinh là tân khách của đệ đảo. Tiên sinh nói là đáng buồn cười thì tại hạ cũng phải phụ họa, chỉ còn cách nói là đáng buồn cười mà thôi.”

Đinh Bất Tứ nói: “Trong ba mươi năm nay, số cao thủ võ lâm đến Hiệp Khách Đảo ăn cháo Lạp Bát nếu chưa tới ba trăm thì cũng phải hai trăm. Long đảo chủ nói họ đều ở đây bình yên vô sự, chẳng đáng buồn cười lắm sao?”

Long đảo chúa đáp: “Đã là người, ai cũng có số mạng. Nếu đại hạn đã đến thì dù là Đại La Kim Tiên cũng không thể không chết. Có điều những người đã chết không phải bị Hiệp Khách Đảo hạ sát.”

Đinh Bất Tứ nghiêng đầu ngẫm nghĩ một lát rồi nói: “Vậy tại hạ muốn hỏi thăm tin tức một người, một cô gái tên là… tên là… Phương Cô. Tại hạ nghe nói hai mươi năm trước đây cô ấy đã đến Hiệp Khách Đảo, vẫn còn mạnh khỏe chứ?”

Long đảo chúa hỏi: “Vị nữ hiệp đó họ gì? Chừng bao nhiêu tuổi? Là thủ lãnh môn phái bang hội nào?”

Đinh Bất Tứ nói: “Họ gì… thì tại hạ cũng không biết rõ. Đúng ra cô ấy cũng phải ở họ Đinh.”

Đột nhiên nữ nhân che mặt cất tiếng lanh lảnh nói: “Đó chính là con gái rơi của lão, nhưng cô này không theo họ cha mà theo họ mẹ, tên là Mai Phương Cô.”

Đinh Bất Tứ thẹn đỏ mặt lên nói: “Hừ! Họ Mai thì họ Mai chứ sao, làm gì phải nhặng lên thế? Cô ấy… cô ấy năm nay khoảng bốn chục tuổi…”

Nữ nhân che mặt lại lanh lảnh nói: “Việc gì phải nói khoảng bốn mươi tuổi? Nói rõ là ba mươi chín có được không?”

Đinh Bất Tứ nói: “Được rồi, được rồi, thì ba mươi chín tuổi. Cô ấy không phải là chưởng môn phái nào, cũng chẳng phải bang chúa, giáo chủ chi hết, chỉ là đã học được Mai Hoa Quyền. Trong thiên hạ chỉ có một nhà cô ấy biết Mai Hoa Quyền, chắc cũng được mời lên Hiệp Khách Đảo rồi?”

Mộc đảo chúa lắc đầu nói: “Mai Hoa Quyền không đủ tư cách.”

Nữ nhân che mặt tức giận hỏi: “Mai Hoa Quyền mà không đủ tư cách ư? Thế sao ta… ta cũng nhận được đồng bài?”

Mộc đảo chúa lại lắc đầu nói: “Không phải vì Mai Hoa Quyền.”

Long đảo chúa nói: “Mộc huynh đệ của tại hạ thích nói ngắn gọn, không ưa dài dòng như tại hạ. Mộc huynh đệ muốn nói bọn tại hạ mời tôn giá đến Hiệp Khách Đảo, không phải vì tôn giá có môn Mai Hoa Quyền gia truyền, mà vì môn kiếm pháp mà tôn giá mới sáng chế hai năm trước.”

Bà họ Mai nói: “Kiếm pháp mà tại hạ mới sáng chế chưa một ai thấy qua, sao đảo chúa lại biết?” Tiếng mụ nói vốn đã chói tai khiến người nghe phải khó chịu, lúc này mụ ra chiều kinh ngạc lại càng khó nghe hơn.

Long đảo chúa mỉm cười chỉ vào hai tên đệ tử, một tên áo vàng, một tên áo xanh. Hai gã lập tức bước ra khom lưng chờ lệnh. Long đảo chúa nói: “Các ngươi hãy đem pho kiếm pháp tân kỳ của Mai nữ hiệp ra biểu diễn một lượt. Nếu có chỗ nào chưa đạt, thì xin Mai nữ hiệp sửa giúp cho.”

Hai tên đệ tử “dạ” một tiếng rồi đến bên cái bàn đặt cạnh tường, người áo vàng lấy một thanh kiếm, người áo xanh lấy một cây nhuyễn tiên. Hai gã nhìn bà họ Mai khom lưng nói: “Xin Mai nữ hiệp chỉ giáo!” Rồi chúng bắt đầu thi triển võ công, đâm dọc chém ngang tỉ đấu với nhau. Quân hùng trong sảnh đường đều là những người kiến văn quảng bác, nhưng kiếm pháp mà tên áo vàng sử dụng thì chưa ai được thấy qua.

Nữ nhân họ Mai nói không ngớt miệng: “Kỳ lạ thật! Kỳ lạ thật! Các ngươi xem trộm kiếm pháp của ta lúc nào?”

Thạch Phá Thiên xem mấy chiêu, rồi động tâm tự hỏi: “Chẳng lẽ gã áo xanh kia đang sử dụng Kim Long Tiên Pháp của Đinh Bất Tứ gia gia hay sao?”

Quả nhiên Đinh Bất Tứ la lên: “Úi chà! Ngươi sáng chế pho kiếm pháp này để đối phó Kim Long Tiên Pháp của ta, là có dụng ý gì?” Tên đệ tử áo xanh đúng là đang sử Kim Long Tiên Pháp, nhưng mỗi chiêu mỗi thức đều bị đệ tử áo vàng dùng môn kiếm pháp tân kỳ khắc chế.

Nữ nhân che mặt chỉ cười lạt mấy tiếng, không thèm đáp. Đinh Bất Tứ càng xem càng tức giận, quát lên: “Ngươi tưởng kiếm pháp này có thể đối phó với Kim Long Tiên Pháp của ta ư? E rằng chưa đủ tư cách.”

Câu này vừa ra khỏi miệng lão, tên áo vàng liền biến đổi kiếm pháp. Chiêu nào cũng cực kỳ gian trá thâm hiểm, tuyệt không giữ phong độ danh gia.

Đinh Bất Tứ lại quát: “Ngươi thật chẳng ra gì! Kiếm pháp gì mà kỳ vậy, y như bọn đàn bà đánh nhau ngoài đường.”

Tuy ngoài miệng lão nói thế, nhưng trong lòng không khỏi ngấm ngầm kinh hãi, bụng bảo dạ: “Giả tỉ mình đánh nhau với y mà đột nhiên gặp phải kiếm pháp này thì không chừng bất lợi. Tuy nhiên môn kiếm pháp thâm độc này chỉ có thể dùng đánh lén mà thôi, không thể tỉ đấu một cách quang minh chính đại được.”

Đinh Bất Tứ tuy kinh ngạc nhưng cũng có chỗ mừng thầm, tự nhủ: “Những chiêu thức hạ lưu này mà đột ngột đưa ra thì dĩ nhiên khó bề chống đỡ, nhưng ta đã được thấy một lần thì chẳng có gì đáng sợ nữa. Những đồ bàng môn tả đạo này chỉ lừa bịp người ta được một lần, không triển khai đến lần thứ hai được.”

Phong Lương, Cao Tam nương tử, Lữ Chính Bình, Phạm Nhất Phi từng thua dưới tay của Đinh Bất Tứ, nhìn thấy Kim Long Tiên Pháp bị kiếm pháp quái lạ kia khắc chế đến mức tay chân rối loạn, cùng nhịn không nổi phải lên tiếng hoan hô.

Đinh Bất Tứ giận dữ nói: “Có gì là hay đâu?”

Phong Lương cười nói: “Ta nói là Kim Long Tiên Pháp của Tứ gia rất hay.”

Cao Tam nương tử mỉm cười nói: “Kim Long Tiên Pháp thật là tuyệt diệu. Tức chết đi được! Tức chết đi được! Tức chết đi được!” Mụ kêu tức ba lần, chính là nhại lại khẩu khí của Đinh Bất Tứ lúc lão sinh sự trong phạn điếm ngày trước.

Gã đệ tử áo xanh thi triển Kim Long Tiên Pháp được hơn một nửa thì đột nhiên vẫy roi mấy cái. Gã đệ tử áo vàng cũng lập tức thu chiêu, đợi gã áo xanh đem nhuyễn tiên đặt lại lên bàn. Rồi gã áo xanh dùng tay không tiếp tục tỉ đấu với gã áo vàng.

Xem được mấy chiêu, Thạch Phá Thiên ồ lên một tiếng rồi nói: “Đinh gia Cầm Nã Thủ.” Thì ra người áo xanh đó đang sử dụng Cầm Nã Thủ của Đinh Bất Tam, nào là Phụng Vĩ Thủ, Hổ Trảo Thủ, Ngọc Nữ Niêm Châm, Dạ Xoa Tỏa Hầu… Những chiêu thức này Đinh Đang đã dạy cho Thạch Phá Thiên trên thuyền dọc Trường Giang.

Đinh Bất Tứ lại càng tức giận, lớn tiếng quát: “Họ Mai kia! Ngươi kiếm chuyện với anh em ta, rốt cuộc là có dụng ý gì? Vụ này… vụ này… vụ này thật là khó hiểu!” Nhưng trong lòng lão dĩ nhiên đã biết, bà họ Mai này muốn hỏi tội anh em nhà họ Đinh là vì muốn trả thù cho tỷ tỷ.

Gã đệ tử áo vàng sử dụng kiếm pháp lẫn quyền cước cực kỳ thâm hiểm để khắc chế cầm nã thủ của nhà họ Đinh, nào là đánh vào hạ bộ, móc mắt… không thiếu chỗ nào không đánh tới, nhưng gã áo xanh vẫn đỡ gạt được hết. Đột nhiên gã áo vàng hoành kiếm chém xuống dưới, gã áo xanh vội nhảy lên tránh né. Gã áo vàng buông kiếm trong tay xuống, hai tay ôm vòng lấy ngang hông gã áo xanh, mở miệng cắn vào yết hầu của đối phương.

Đinh Bất Tứ kinh hãi hét lên: “Úi chà!”. Dường như gã áo vàng mở miệng cắn vào cổ họng của chính lão vậy. Trái tim lão nhảy thình thịch, biết rằng tư thế ôm cắn này thật là xảo diệu, nếu là mình chắc chắn không thể tránh né được.

Tên đệ tử áo vàng buông hai tay ra, cùng tên áo xanh cúi mình hướng về phía Đinh Bất Tứ và nữ nhân che mặt thi lễ, rồi nói: “Xin Đinh lão tiền bối cùng Mai nữ hiệp chỉ giáo.” Bọn chúng lại hướng về phía Long Mộc hai vị đảo chúa thi lễ, rồi mới cất kiếm, lui về hàng ngũ.

Nữ nhân họ Mai cất giọng lanh lảnh nói: “Các ngươi đã nấp lén trong bóng tối, học mót đến bảy thành kiếm pháp của ta, thật cũng không phải là chuyện dễ. Nhưng các ngươi đã diễn cho lão xem qua thì… thì…”

Đinh Bất Tứ giận dữ nói: “Thứ kiếm pháp hạ lưu đó chẳng ra thể thống gì, có gì mà khó học?”

Bạch Tự Tại nói xen vào: “Sao lại chẳng ra thể thống gì? Lão họ Đinh kia! Nếu lão gặp người ta một cách đột ngột, trong lúc chân tay còn luống cuống thì đã bị người ta đâm trúng đến bảy tám chỗ huyệt đạo.”

Đinh Bất Tứ lại càng tức giận hem, thách: “Ngươi có giỏi thì cứ thử xem!”

Bạch Tự Tại đáp: “Dù sao ngươi cũng không phải là địch thủ của Mai nữ hiệp. Cô ấy mà cắn trúng vào cổ họng ngươi, thì cho dù bản lãnh của ngươi mạnh thêm gấp mười lần cũng không tài nào thoát được.”

Nữ nhân họ Mai cất giọng the thé nói: “Ai cần lão lấy lòng ta? Nếu ta đi tỉ thí với Sử Tiểu Thúy thì ngươi tính sao?”

Bạch Tự Tại nói: “Ngươi còn kém xa lắm. Phu nhân ta không có đây, nhưng đồ đệ của phu nhân ta hiện đã đến Hiệp Khách Đảo rồi. Cháu rể! Ngươi ra tỉ thí với thị đi!”

Thạch Phá Thiên đáp: “Cháu nghĩ rằng bất tất phải tỉ thí làm chi.”

Nữ nhân họ Mai hỏi: “Ngươi là đồ đệ của Sử Tiểu Thúy ư?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Vâng.”

Nữ nhân lại hỏi: “Thế sao ngươi lại là cháu rể của lão ta? Thật chẳng còn có trên dưới gì nữa, thứ bậc loạn xà ngầu! Ngươi có phải là đồ Cẩu Tạp Chủng không?”

Thạch Phá Thiên lại đáp: “Đúng thế! Tại hạ là Cẩu Tạp Chủng.” Nữ nhân sửng sốt một chút rồi không nhịn được, cười phá lên.

Mộc đảo chúa nói: “Đủ rồi!” Lão chỉ nói hai chữ, nhưng âm thanh rất oai nghiêm, đủ khiến nữ nhân họ Mai ngẩn người im lặng.

Long đảo chúa nói: “Khách quan mà nói thì kiếm pháp của Mai nữ hiệp chưa tinh thâm ảo diệu bằng nhà họ Đinh. Nhưng Mai nữ hiệp tự mình sáng chế ra chiêu thức tân kỳ, thì cũng là bậc thiên tư trí tuệ phi thường. Trong những chiêu thức này có nhiều chỗ rất khá, vì thế mà bọn tại hạ mời nữ hiệp đến tệ đảo, mong rằng có thể phá giải bài cổ thi đồ hình đó. Còn về môn học tổ truyền Mai Hoa Quyền thì chẳng cần nói đến làm chi.”

Mai nữ hiệp nói: “Nếu là như thế thì Mai Phương Cô có đến Hiệp Khách Đảo không?”

Long đảo chúa lắc đầu đáp: “Không có.”

Mai nữ hiệp ngồi thừ người ra, lẩm bẩm. “Tỷ tỷ của ta… Tỷ tỷ của ta lúc lâm tử còn nhắc đến đứa con này!”

Long đảo chúa liền quay lại bảo một tên đệ tử áo vàng đứng ở bên phải: “Ngươi tra giúp Mai nữ hiệp!” Gã đệ tử dạ một tiếng rồi quay vào nhà trong, ôm ra mấy cuốn sổ.

Gã lật mấy trang, rồi trỏ một hàng chữ, dõng dạc đọc: “Truyền nhân Mai Hoa Quyền là Mai Phương Cô, phụ thân ở họ Đinh, tức là Đinh…” Gã đọc đến đây rồi ngừng lại, nhưng mọi người cũng biết ngay là gã giữ ý, tránh cho Đinh Bất Tứ khỏi phải khó chịu.

Gã đọc tiếp: “… Từ thuở nhỏ học võ ở mẫu thân. Năm mười tám tuổi… ẩn cư ở Sơn Tây, trên ngọn Khô Thảo Lĩnh, núi Hùng Nhĩ.”

Đinh Bất Tứ cùng Mai nữ hiệp đồng thời đứng bật dậy, cất tiếng hỏi. “Cô ấy ở núi Hùng Nhĩ ư? Sao ngươi biết?”

Gã đệ tử đáp: “Tại hạ có biết đâu? Nhưng trong sổ ghi như vậy.”

Đinh Bất Tứ hỏi: “Ta không biết, mà lại có người biết để ghi vào sổ ư?”

Long đảo chúa dõng dạc nói: “Hiệp Khách Đảo bất tài, chỉ cố noi theo mục đích bảo toàn chính nghĩa võ lâm. Muốn thưởng thiện phạt ác được công minh, thì nhất cử nhất động của các bằng hữu võ lâm, bọn tại hạ đều phải tìm hiểu và ghi chép rành mạch, để sau này tra xét.”

Nữ nhân họ Mai lên tiếng: “Ra thế đấy! Vậy thì Phương Cô… hiện ở Khô Thảo Lĩnh núi Hùng Nhĩ…” Rồi bà chăm chú nhìn Đinh Bất Tứ, thấy lão ta cũng có vẻ vui mừng, nhưng rồi thần sắc lại ảm đạm, thở ra một hơi. Nữ nhân họ Mai cũng nhè nhẹ thở dài. Cả hai đều hiểu, tuy đã biết được hành tung của Mai Phương Cô, nhưng kiếp này khó mà gặp được cô ta nữa.

Hồi 20: Hiệp Khách Hành

Long đảo chúa nói: “Nếu các vị còn chỗ nào hoài nghi, xin nói rõ hết ra.”

Bạch Tự Tại nói: “Long đảo chúa đã nói là mời bọn tại hạ đến đây để xem đồ giải bài thơ cổ. Vậy đó là cái gì, xin cho xem được chăng?”

Long đảo chúa và Mộc đảo chúa đều đứng dậy, Long đảo chúa nói: “Đó chính là vấn đề mà bọn tại hạ muốn thỉnh giáo ý kiến của các bậc cao minh.” Bốn tên đệ tử chạy ra, nắm lấy mép hai tấm bình phong rất lớn, từ từ kéo sang một bên, để lộ ra một đường hầm khá dài phía sau đại sảnh.

Long Mộc nhị vị đảo chúa nói: “Xin mời.” Rồi hai lão đi trước dẫn đường.

Quần hùng đều nghĩ: “Trong đường hầm này nhất định đã sắp đặt rất nhiều cơ quan để giết người.” Mọi người không nén nổi, mặt ai cũng biến sắc.

Bạch Tự Tại gọi: “Cháu rể! Hai ông cháu ta đi trước đi.” Thạch Phá Thiên vâng dạ, rồi để Bạch Tự Tại nắm tay dắt đi trước. Miệng lão cười ha hả, nhưng trong tiếng cười cũng không tránh khỏi có phần run rẩy. Những người khác cũng nghĩ, số kiếp đã tới thì khó mà chạy trốn, nên từng người một theo sau. Còn lại mười mấy người cứ ngồi tại bàn không dám nhúc nhích. Đám đệ tử Hiệp Khách Đảo và những người giúp việc cứ mặc kệ không lý gì đến họ.

Bạch Tự Tại dẫn đầu đoàn người đi chừng mười mấy trượng thì đến trước một cái cửa đá. Trên cửa đề ba chữ “Hiệp Khách Hành” theo lối cổ lệ. Một tên đệ tử áo vàng tiến lại, đẩy cửa đá ra nói: “Trong động này có hai mươi bốn gian thạch thất, xin mời các vị tùy ý vào xem, lúc nào mỏi mệt có thể ra ngoài động cho thoải mái. Trong thạch thất nào cũng có dự bị đầy đủ thức ăn vật dụng, các vị cứ tự tiện lấy mà dùng, bất tất phải khách sáo.”

Đinh Bất Tứ cười lạnh nhạt nói: “Cái gì cũng được tùy ý thì còn khách sáo làm chi? Nhưng không được tùy ý rời khỏi đảo phải không?”

Long đảo chúa cười ha hả nói: “Sao Đinh tiên sinh lại nói vậy? Các vị đã tự nguyện đến Hiệp Khách Đảo, thì lúc ra đi cũng chẳng ai dám miễn cưỡng lưu lại. Bãi biển đầy đủ thuyền lớn nhỏ, các vị muốn về lúc nào cũng được.”

Quần hùng sửng sốt. Chẳng ai ngờ Hiệp Khách Đảo lại dễ dãi thoải mái như vậy, muốn ở lại hay muốn đi về tùy ý. Lập tức có mấy người cất tiếng hỏi: “Bọn tại hạ muốn đi ngay bây giờ, có được không?”

Long đảo chúa nói: “Dĩ nhiên là được. Các vị coi tại hạ và Mộc huynh đệ là hạng người nào mà lại hỏi thế? Anh em tại hạ đãi khách không được chu đáo đã tự lấy làm hổ thẹn, có lý nào còn dám miễn cưỡng lưu khách?”

Quần hùng nghe Long đảo chúa nói vậy cũng hơi yên tâm, liền nghĩ: “Đã thế thì ta thử xem cổ thi đồ giải là cái thá gì rồi hãy ra về. Lão này đã nói là không miễn cưỡng giữ khách, thân phận của lão chẳng lẽ nuốt lời được hay sao?” Thế rồi mọi người lục tục đi vào trong thạch thất.

Trong thạch thất có tám ngọn đuốc rất lớn soi sáng, hướng Đông có một vách đá nhẵn nhụi trơn tru, trên mặt vừa khắc hình vừa khắc chữ. Ở đây đã có sẵn mười bảy mười tám người, kẻ chú ý ngưng thần, người đang ngồi luyện công. Có người nhắm nghiền hai mắt, miệng lẩm bẩm những gì không nghe rõ, lại có ba bốn vị đang lớn tiếng tranh luận với nhau.

Bạch Tự Tại chợt thấy một người quen quen. Lão để ý nhìn hồi lâu, rồi kinh hãi gọi: “Ôn tam huynh! Huynh… huynh ở đây ư?”

Lão này mình mặc áo đen, không ngớt đi lại trước phiến đá, họ Ôn tên gọi Nhân Hậu, là chưởng môn phái Bát Tiên Kiếm ở Sơn Đông. Giữa lão và Bạch Tự Tại vốn có giao tình nồng hậu, nhưng khi lão nhìn thấy Bạch Tự Tại lại không ra vẻ kinh ngạc, chỉ mỉm cười hỏi: “Sao huynh đến đây trễ thế?”

Bạch Tự Tại nói: “Mười năm trước ta nghe nói Ôn tam huynh bị Hiệp Khách Đảo mời đi ăn cháo Lạp Bát, tưởng rằng huynh… huynh đã chết rồi, lắm phen nghĩ mà thương tiếc… Ai ngờ…”

Ôn Nhân Hậu nói: “Ta vẫn bình yên ở đây nghiên cứu võ công thượng thừa, sao lại bảo là chết rồi? Tiếc là Bạch huynh đến chậm quá. Bạch huynh xem, câu đầu bài thơ là “Triệu Khách Mạn Hồ Anh”. Dưới này có chú giải Hồ là người ở Tây Vực. Trong truyện Thừa Can ở sách Tân Đường có câu: Mấy trăm người học nói theo tiếng người Hồ, tóc bới thành búi, may áo bằng lụa màu…” Lão vừa nói vừa trỏ vào phiến đá chỗ có chú thích bằng chữ, đọc cho Bạch Tự Tại nghe.

Bạch Tự Tại bất ngờ gặp cố tri, trong lòng hoan hỉ vô cùng. Lão rất muốn biết mọi việc ở đây cùng tình hình trên đảo, liền hỏi: “Ôn tam huynh! Mười năm nay huynh thế nào? Sao không đưa tin về Sơn Đông?”

Ôn Nhân Hậu trợn mắt nói: “Bạch huynh nói gì? Bức đồ giải cổ thi Hiệp Khách Hành này, câu nào cũng bao hàm những ý nghĩa màu nhiệm về võ học, cao thâm nhất từ cổ chí kim. Chúng ta đã đem hết tâm trí mà vẫn chưa tham ngộ được một hai phần trong đó, khi nào còn phân tâm để lo những chuyện tục lụy thế gian? Bạch huynh hãy xem, người trong bức đồ hình này dáng điệu phong nhã thanh tú, rõ ràng là văn nhân ở Giang Nam, tuyệt không giống hào kiệt nước Yên nước Triệu bi ca khẳng khái. Thế mà lại gọi là Triệu Khách, thật là kỳ lạ. Muốn giải đáp được vấn đề này, thì phải cố tìm ra mấu chốt trọng yếu, ngoài ra không còn cách nào khác.” Bạch Tự Tại nhìn lên bức họa trên vách đá, thì quả nhiên là một chàng thư sinh trẻ tuổi, tay trái cầm quạt, tay phải vung chưởng, vẻ mặt rất ung dung nhàn nhã.

Ôn Nhân Hậu nói: “Bạch huynh! Gần đây ta mới mò ra được. Sở dĩ trên đồ hình vẽ người phong nhã ôn hòa, để biểu hiện cái ý âm nhu. Trong chú giải có nói: Phải xuất thủ cứng rắn oai mãnh. Đương nhiên phải lấy âm nhu làm “thể”, lấy dương cương làm “dụng”, cái đó cũng không khó hiểu lắm. Nhưng thế nào là “thể”, thế nào là “dụng”, thì phải nghiên cứu sâu xa mới hiểu được.”

Bạch Tự Tại gật đầu nói: “Không sai! Ôn huynh! Đây là cháu rể của ta. Ôn huynh thử xem nhân phẩm gã thế nào? Tiểu tử! Ngươi lại chào Ôn tam gia gia đi.”

Thạch Phá Thiên đến gần, quỳ trước mặt Ôn Nhân Hậu khấu đầu gọi: “Ôn tam gia gia!”

Ôn Nhân Hậu nói: “Hay lắm, hay lắm!” Lão nói vậy, nhưng chẳng buồn để mắt nhìn đến Thạch Phá Thiên cái nào. Tay trái lão bắt chước tư thức người trong đồ hình, tay phải đột nhiên phóng chưởng đánh vèo một tiếng đánh thẳng ra. Lão nói: “Tả âm hữu dương, chắc là nghĩa lý như vậy.”

Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Chưởng lực của Ôn tam gia gia thật là cao cường.”

Bạch Tự Tại đọc lời chú giải trên vách: “Trong thiên Thuyết Kiếm của Trang Tử có ghi: “Thái tử nói: nhà vua thấy các kiếm sĩ đều đầu bù tóc rối, đội mũ đính giải thô sơ, áo ngắn vạt sau”. Họ Tư Mã chú thích “Mạn hồ anh” là giải mũ trơn, mộc mạc, không có màu sắc rực rỡ.”

Lão bèn nói: “Ôn huynh! Theo ý kiến của ta thì hai chữ “Mạn hồ” phải để liền nhau mà giải thích. Mạn Hồ nghĩa là thô lậu cục kịch. Mạn Hồ Anh là giải mũ không diêm dúa, chứ không phải là giải mũ như người Hồ. Vậy chữ Hồ này nghĩa là hồ đồ luộm thuộm, chứ không phải nghĩa là người Hồ bên Tây Vực.”

Ôn Nhân Hậu lắc đầu cãi lại: “Không phải! Bạch huynh hãy xem xuống câu dưới: Bài Tả Tư Ngụy Đồ Phú có câu: Mạn hồ chi anh, phải chú như thế này: “Mạn hồ” là giải mũ của người võ sĩ. Giải mũ của võ sĩ thì thô lậu cũng được, mà diêm dúa cũng được. Mấy năm trước tiểu đệ đã thỉnh giáo chưởng môn Quả Nghị Môn ở Kinh Châu là Khang Côn Luân. Ông ta là người Hồ bên Tây Vực, chuyện gì của người Hồ ông ta đều biết hết. Ông ta nói là những võ sĩ người Hồ đội mũ có giải hình dạng thế này…” Lão nói tới đó, cúi lom khom lấy ngón tay vạch xuống đất.

Thạch Phá Thiên nghe hai lão bàn luận dài dòng, chẳng hiểu gì cả. Những bài chú giải bên vách đá, chàng lại mù tịt chẳng biết chữ nào. Chàng nghe đến nửa ngày mà không thấy gì hứng thú, bèn dạo qua gian thạch thất thứ hai.

Vừa vào cửa, chàng đã thấy kiếm khí tung hoành, bảy cặp đang tỉ đấu, đều dùng trường kiếm. Tiếng kiếm chạm nhau choang choảng không ngớt nghe chói cả tai. Kiếm pháp của những người này đang sử dụng cũng không giống nhau, biến hóa kỳ dị, hiển nhiên đều rất tinh thâm ảo diệu.

Bỗng thấy hai người qua lại mấy chiêu rồi ngừng đấu. Một lão già tóc bạc nói: “Lão đệ! Chiêu kiếm vừa rồi của lão đệ kể ra cũng rất tinh kỳ mãnh liệt. Nhưng lão đệ nên nhớ, năm chữ chủ chốt là: Ngô Câu Sương Tuyết Minh. Ngô câu chính là lưỡi đao cong, vậy lúc xuất kiếm chiêu phải tâm niệm hai chữ “loan đao”, nếu không thì mất cả bản ý. Dùng đao pháp để sử kiếm thì chẳng khó gì, nhưng phải sử kiếm đúng như loan đao, trong chỗ thẳng có chỗ cong, trong chỗ cong có chỗ thẳng, có thế mới đúng tôn chỉ của năm chữ Ngô Câu Sương Tuyết Minh.”

Lão già râu đen lắc đầu nói: “Đại ca! Đại ca chỉ chú trọng một mặt, mà lại quên mất những điểm trọng yếu khác. Đại ca hãy xem lại lời chú giải trên vách, trong bài Bảo Chiếu Nhạc Phủ có câu: “Cẩm đới bội ngô câu”. Thơ của Lý Hạ cũng có câu: “Nam nhi hà bất đới ngô câu”. Vậy chữ “đới” là đeo, mới là mấu chốt. Ngô câu đúng là lưỡi loan đao, nhưng chỉ “đeo” vào mình, chứ không đem ra sử dụng. Theo ý kiến của tiểu đệ thì ngô câu phải ẩn giấu trong kiếm pháp, tức là chuyển kiếm theo vòng tròn chứ không phải là uốn cong lưỡi kiếm thật sự.”

Ông lão râu bạc cãi lại: “Ngươi nói cũng có lý, nhưng không đúng. Ngô Câu Sương Tuyết Minh, rõ ràng là kiếm quang nhấp nhoáng, thì đâu có phải là ngô câu để trong vỏ? Làm gì có ai đeo đao kiếm bên mình mà không cất trong vỏ?”

Thạch Phá Thiên không muốn nghe hai người tranh chấp nữa, lại đi xem một cặp khác. Cặp này tỉ đấu mau lẹ, một người ra kiếm chiêu cực kỳ lợi hại tấn công rất rát, còn người kia chỉ dùng trường kiếm vạch những vòng tròn, gạt hết được những chiêu kiếm của đối phương.

Bất thình lình nghe “choang” một tiếng, cả hai thanh kiếm đều gãy, hai người đều nhảy vọt ra sau. Hán tử mặt đen thân hình cao lớn nói: “Lời chú giải trên vách đá nói rằng, trong thơ của Bạch Cư Dị có câu: “Vật khinh trực chiết kiếm, do thắng khúc toàn câu”. Rõ ràng lối đánh thẳng của tại hạ mới đúng với ý bài chú giải này.”

Lão kia là một đạo sĩ, Thạch Phá Thiên nhận ra chính là Thiên Hư đạo nhân, chưởng môn Thượng Thanh Quán, là sư huynh của vợ chồng Thạch trang chủ. Thạch Phá Thiên bất giác hơi sợ hãi, sợ lão gặp mình sẽ nổi giận. Nào ngờ lão ta hình như không thấy chàng, trong tay cầm nửa thanh kiếm gãy lắc đầu nói: “Ngô Câu Sương Tuyết Minh là chủ, còn Do Thắng Khúc Toàn Câu là khách. Trọng khách mà khinh chủ thì không phải là chính đạo.”

Thạch Phá Thiên đứng nghe hai người tranh biện về hai chữ “chủ khách” hàng giờ nữa, không ai chịu ai, mỗi lúc một to tiếng. Chàng chẳng hiểu gì, lại đưa mắt nhìn sang hướng Tây, thấy một đôi nam nữ đang tỉ kiếm.

Hai người này ra chiêu rất chậm rãi, chiêu nào cũng thử đi thử lại. Có lúc nam nhân ngừng tay ngoẹo đầu suy nghĩ, có lúc nữ nhân sử tới sử lui một chiêu kiếm đến tám chín lần. Xem chừng hai người này nếu không phải là vợ chồng thì cũng là anh em hay bạn đồng môn, vì họ có vẻ rất thân thiết với nhau, đồng tâm hiệp lực để nghiên cứu võ học, tuyệt không tranh chấp nửa lời.

Thạch Phá Thiên bụng bảo dạ: “Ta theo hai người này mà học, chắc có thể học được kiếm pháp tinh diệu hơn.” Chàng liền từ từ tiến lại gần.

Bỗng thấy nam nhân dừng tay một chút rồi vận khí phóng kiếm xéo ra, nhưng mới phóng ra nửa chừng lại thu về, lắc đầu một cái tỏ vẻ chán nản rồi thở dài nói: “Rút cục vẫn không đúng.”

Nữ nhân liền an ủi: “Viễn ca! So với năm tháng trước, chiêu này đã tiến bộ rất nhiều. Chúng ta thử nghĩ lại câu chú thích này: “Ngô câu là thanh bảo đao của Ngô Vương Hạp Lư”. Bảo đao của Ngô Vương Hạp Lư có chỗ nào khác biệt với bảo đao của người khác?”

Nam nhân thu trường kiếm về, đọc bài chú giải trên vách: “Sách Ngô Việt Xuân Thu chép rằng: “Hạp Lư đã có bảo kiếm Mạc Tà, còn ra lệnh cho người trong nước đúc ngô câu bằng vàng, ai làm tốt sẽ được thưởng trăm lạng vàng. Người Ngô làm câu rất nhiều, có kẻ tham được nhà vua trọng thưởng nên giết hai đứa con lấy máu pha với vàng, làm được đôi câu dâng lên Hạp Lư”. Thiên muội! Câu chuyện này thật là tàn nhẫn. Ai lại giết hai con của mình vì tham trăm lạng vàng thưởng bao giờ?”

Nữ nhân nói: “Muội đoán, không chừng hai chữ “tàn nhẫn” là yếu quyết của chiêu này. Tức là phải hạ thủ quyết liệt không nhân nhượng chút nào, dù chính con mình sinh ra cũng phải giết chết. Nếu không thế thì bài chú thích trên vách lại dẫn câu chuyện đó làm chi?”

Thạch Phá Thiên thấy nữ nhân này tuổi trạc tứ tuần, dung mạo rất thanh tú, nhưng nói đến chuyện ta giết con một cách thản nhiên, hoàn toàn không lộ vẻ trắc ẩn. Chàng phát sinh chán ghét không muốn nghe nữa, ngẩng lên nhìn vách đá thấy trên đó khắc đầy những chữ. Trong cả trăm ngàn nét chữ đó có khoảng hai ba chục nét vẽ rất giống thanh trường kiếm. Những thanh kiếm này hoặc ngang, hoặc thẳng, hoặc như dấu phẩy, hoặc như nét mác. Trong mắt những người biết chữ thì đó chỉ là một nét trong một chữ mà thôi, nhưng Thạch Phá Thiên không biết chữ nên chàng lại nhìn thấy chúng giống như kiếm dài kiếm ngắn, có thanh hướng lên, có thanh hướng xuống, có thanh như đang cất mình bay lên, có thanh lại như đang bằng băng rơi xuống.

Thạch Phá Thiên bắt đầu ngắm nghía từng thanh một. Khi chàng xem đến thanh kiếm thứ mười hai thì đột nhiên huyệt Cự cốt ở vai phải nóng ran, một luồng nhiệt khí rần rần phát khởi bên trong. Chàng nhìn sang thanh kiếm thứ mười ba, luồng nhiệt khí thuận theo kinh mạch chuyển tới huyệt Ngũ Lý. Xem đến thanh thứ mười bốn, luồng nhiệt khí chuyển vào huyệt Khúc Trì. Luồng nhiệt khí mỗi lúc một nóng lên, từ huyệt Đan Điền bốc lên không ngớt.

Thạch Phá Thiên rất lấy làm kỳ lạ, bụng bảo dạ: “Từ khi ta theo những đồ hình kinh mạch trên tượng gỗ mà rèn luyện, nội lực tăng tiến rất mau, nhưng chưa bao giờ nhanh chóng như lần này. Trong người ta giống như có lửa cháy, không chừng chất độc trong chén cháo Lạp Bát đã bắt đầu phát tác.”

Chàng nghĩ tới bát cháo xanh lè kịch độc đó thì không khỏi sợ hãi, nhưng cứ tiếp tục xem những hình kiếm vẽ trên vách đá. Nội lực cũng theo đó mà chuyển vận, luồng nhiệt khí trong bụng từ từ chuyển vận qua các huyệt đạo trong nội thể.

Thạch Phá Thiên bắt đầu xem lại từ thanh kiếm thứ nhất, rồi tuần tự xem tiếp xuống dưới. Luồng nội lực cứ ào ạt như nước sông, thuận đường mà chuyển vận. Chàng xem từ đầu cho đến thanh kiếm thứ hai mươi bốn, thì luồng nội lực phát khởi từ huyệt Nghinh Hương đã vận hành đến huyệt Thương Dương.

Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Té ra hình những thanh kiếm này có liên quan đến việc tu luyện nội lực. Đáng tiếc là mình không hiểu những chữ trên vách, nếu biết thì cứ theo đúng phép mà luyện tập, lo gì chẳng học được một môn kiếm pháp ra trò? Chi bằng ta trở về phòng đầu, tìm Bạch gia gia để xin người cắt nghĩa cho nghe.”

Chàng liền chạy về phòng thứ nhất, đã thấy Bạch Tự Tại và Ôn Nhân Hậu mỗi người cầm một thanh kiếm gỗ, thi triển một chiêu lại tranh luận một hồi. Có lúc hai lão lại chỉ trỏ lên những chữ trên vách đá, lão nào cũng cố bảo vệ ý kiến của mình mà chỉ trích chỗ lầm lẫn của đối phương.

Thạch Phá Thiên kéo tay áo Bạch Tự Tại hỏi: “Gia gia! Những chữ này nói gì vậy?”

Bạch Tự Tại giải nghĩa cho chàng nghe mấy câu. Ôn Nhân Hậu liền nói xen vào: “Sai rồi! Sai rồi! Bạch huynh! Võ công Bạch huynh tuy cao thâm thật, nhưng ta ở đây đã mười mấy năm, chẳng lẽ mười năm công phu này là uổng phí? Có những chỗ ta tâm đắc mà huynh chưa lĩnh hội được.”

Bạch Tự Tại nói: “Học võ cũng giống như tu thiền của nhà Phật, mười năm khổ công tu luyện chưa chắc đã bằng một đêm hoát nhiên đại ngộ. Ta cho là câu này phải hiểu như thế mới đúng…”

Ôn Nhân Hậu lắc đầu lia lịa nói: “Không phải như thế!”

Thạch Phá Thiên nghe Bạch Tự Tại cùng Ôn Nhân Hậu tranh chấp không dứt, nghĩ bụng: “Những văn tự chú giải trên vách khó hiểu đến thế ư? Vừa rồi Long đảo chúa đã nói, họ đã mời không biết bao nhiêu cao thủ võ lâm tới đây, trong số đó rất nhiều người học vấn uyên thâm, bàn cãi mấy chục năm trời mà chưa đưa ra được kiến giải. Ta một chữ cũng không biết, hà tất phải khổ công suy nghĩ cùng họ cho uổng phí.”

Trong nhà thạch thất, vô số người đi đi lại lại không ngớt. Đầu này một tốp, đầu kia một đám, chỗ nào cũng nghị luận gay go sôi nổi. Ai nấy đều phô bày ý nghĩ của mình, tự cho là phải. Chàng muốn kiếm một người nói chuyện cho đỡ buồn cũng không được, cảm thấy bơ vơ lạc lõng, liền bỏ đi xem những đồ hình trên vách đá.

Chàng tiếp tục quan sát hai mươi bốn thanh kiếm trong gian thạch thất thứ hai, thì phát giác ra phương vị cùng hình trạng các thanh kiếm hoàn toàn tương hợp với vị trí và đường lối vận chuyển của kinh mạch trong nội thể mình.

Bức đồ hình ở gian thứ nhất vẽ một chàng thanh niên thư sinh, ngoài ra không có gì nữa. Chàng xem một lúc, bỗng thấy tư thế phất tay áo của người trong đồ hình đó xem rất ung dung đẹp mắt. Bất giác chàng nhìn lại mấy lần, đột nhiên cảm thấy huyệt Uyển Mạch ở hông phải mình rung chuyển, phát sinh một luồng nhiệt khí đi theo Túc Thiếu Dương Đảm Kinh, hướng vào hai huyệt Nhật Nguyệt và Kinh Môn.

Thạch Phá Thiên mừng thầm, xem lại tỉ mỉ thì thấy những nét vẽ cấu tạo nên y phục, nét mặt và cây quạt của người trong đồ hình, nét nào cũng có liên quan tới nhau. Chàng liền thuận chiều nhìn xuống, thì quả nhiên nội lực trong nội thể cũng chuyển vận theo đường dây đó. Chàng liền nghĩ bụng: “Bút pháp trong họa đồ này phù hợp với kinh mạch trong thân thể, chẳng qua là chuyện rất đơn giản, ai cũng hiểu được. Còn những võ học cao thâm hơn thì mình không lĩnh hội được. Ngày trước những khi rảnh việc, mình đã đem những pho tượng gỗ ra luyện công theo nét vẽ trên người gỗ, thì bây giờ mình cũng theo đồ hình mà luyện một chút công phu thô thiển cho vui, đợi gia gia lĩnh hội được võ công thượng thừa rồi sẽ cùng nhau rời đảo trở về.”

Nghĩ vậy, chàng liền tìm đến chỗ bắt đầu nét bút, rồi luyện theo thứ tự. Bút pháp trên đồ hình này có nhiều chỗ khác với bút pháp thông thường. Nét bút thuận nghịch dị thường, có lúc đi từ dưới lên trên, lại có lúc đi từ phải sang trái, khác hẳn với nét bút viết vẽ thông thường trong sách vở cùng họa đồ ở nhân gian.

May ở chỗ Thạch Phá Thiên chưa học viết chữ bao giờ. Nên biết, bất luận là viết chữ hay vẽ tranh thì nét bút cũng đưa từ trên xuống dưới, từ trái sang phải, chỉ có nét móc nét hất là đưa từ dưới lên trên, từ phải sang trái. Trong đồ hình này lại có những nét sổ từ dưới lên trên, nét hoành từ phải sang trái, những nét móc ngược từ trái sang phải cũng rất nhiều, ngược hẳn với sách vở bình thường. Nhưng chàng chẳng thấy gì là lạ, cứ theo đó mà luyện, giống như là một đứa trẻ mới bắt đầu tập viết mấy ngày, không biết là mình đang viết xuôi hay ngược nữa.

Những nét bút trên đồ hình, kể cả thuận lẫn nghịch là chín lần chín tám mươi mốt nét. Thạch Phá Thiên luyện được hơn ba mươi nét thì bụng đã đói meo. Chàng thấy bốn góc thạch thất bày đủ thứ bánh trái và trà nước, liền tới ăn trước rồi ra ngoài đi đại tiểu tiện. Rồi chàng lại trở vào phòng, chiếu theo những đường lối trên nét bút mà luyện tập. Trong thạch thất đèn đuốc sáng trưng, chàng cứ mệt thì ngồi tựa vào vách mà ngủ, đói lại lấy bánh mà ăn.

Thạch Phá Thiên không hiểu mình đã luyện mất bao nhiêu thời gian, thuộc lòng hết tám mươi mốt nét bút trên đồ hình thứ nhất. Chàng liền đi kiếm Bạch Tự Tại thì không thấy lão ở trong thạch thất đó nữa.

Thạch Phá Thiên hơi sợ hãi, bèn la gọi: “Gia gia! Gia gia!” Chàng hộc tốc chạy sang gian thạch thất thứ hai, nhìn vào thì thấy Bạch Tự Tại tay cầm kiếm gỗ, đang đấu cùng một vị đạo sĩ già, mặt mũi hồng hào như trẻ nít, mà mái tóc đã bạc phơ. Kiếm pháp hai người mới nhìn thì non nớt vụng về, nhưng hai thanh kiếm đều rút lên veo véo. Đúng là hai người đã dồn nội lực thượng thừa vào kiếm chiêu của mình.

Bỗng nghe vù một tiếng, thanh kiếm gỗ trong tay Bạch Tự Tại văng đi mất, còn thanh kiếm gỗ trong tay lão đạo sĩ lại gãy đôi. Hai người đồng thời lui lại hai bước.

Lão đạo sĩ kia mỉm cười nói. “Uy Đức tiên sinh được trời phú cho thần lực. Lão đạo này phải chịu hạ phong rồi, nhưng chúng ta đang tỉ thí kiếm pháp chứ không phải tỉ thí nội lực.”

Bạch Tự Tại nói: “Ngu Trà đạo trưởng! Kiếm pháp của đạo trưởng so với tại hạ còn cao minh hơn nhiều, tại hạ rất khâm phục. Nhưng đó là võ học truyền đời của phái Võ Đang, chứ không phải là môn kiếm pháp chú thích trên vách đá này.”

Ngu Trà đạo trưởng lại cười, gật đầu nói: “Theo ý Bạch tiên sinh thì sao?”

Bạch Tự Tại nói: “Trong câu Ngô Câu Sương Tuyết Minh này, chữ Minh có ý nghĩa rất sâu xa…”

Thạch Phá Thiên đi đến bên Bạch Tự Tại nói: “Gia gia! Chúng ta trở về được chưa?”

Bạch Tự Tại ngạc nhiên hỏi: “Ngươi nói gì?”

Thạch Phá Thiên nói: “Long đảo chúa đã nói, nếu chúng ta muốn về thì lúc nào cũng có thể tự do rời khỏi đảo. Ngoài bờ biển có rất nhiều thuyền bè, vậy chúng ta về được rồi.”

Bạch Tự Tại giận dữ quát: “Ăn nói bậy bạ! Sao phải gấp gáp như vậy?”

Thạch Phá Thiên thấy lão nổi giận, cũng hơi sợ bèn nói: “Bà bà đang đợi gia gia ở bờ biển. Người đã nói chỉ đợi đến mười tám tháng ba, đến ngày đó mà không thấy gia gia trở về, người sẽ nhảy xuống biển tự tử.”

Bạch Tự Tại ngẩn người ra nói: “Mười tám tháng ba ư? Chúng ta tới đây vào ngày mười tám tháng chạp, mới có mấy bữa, còn lâu, sợ gì? Thủng thẳng rồi hãy về cũng kịp.”

Thạch Phá Thiên rất lo lắng cho A Tú. Chàng nhớ lại cảnh tượng nàng đứng trên bãi biển tiễn đưa, vẻ mặt u sầu, tình cảm vô cùng thân thiết. Nếu có thể chắp cánh bay về, chắc chắn chàng sẽ bay ngay. Nhưng chàng thấy Bạch Tự Tại hoàn toàn chìm đắm vào võ học khắc trên vách đá, không hề có ý định trở về, mà cũng không thể bỏ lão lại để về một mình. Thạch Phá Thiên không dám nói gì nữa, chàng dạo bước tới gian thạch thất thứ ba.

* * *

Vừa bước chân vào thạch thất, chàng đã nghe tiếng gió ào ào rất gấp, ba lão già đang thi triển khinh công ở một tốc độ phi thường.

Ba lão này chạy nhanh đến mức cả gian thạch thất lộng gió ào ào, vừa đuổi nhau vừa chuyện trò không ngớt, giọng nói vẫn rất bình thường. Như vậy đủ thấy nội công của họ hết sức cao thâm, không vì nói chuyện mà phải bước chậm lại, hay phải thở gấp hơn.

Lão thứ nhất nói: “Bài thơ Hiệp Khách Hành là của đại thi gia Lý Bạch. Nhưng Lý Bạch là thi tiên chứ không phải kiếm tiên, làm sao trong vỏn vẹn hai mươi bốn câu thơ mà bao hàm được những đạo lý tối cao của võ học?”

Lão già thứ hai nói: “Người sáng chế ra môn võ học này phải là một đại tông sư võ học không ai sánh kịp từ cổ chí kim. Lão nhân gia chăng qua chỉ mượn bài thơ này của Lý Bạch để phô diễn võ công thần kỳ của mình mà thôi. Chúng ta cũng đừng quá chui sâu vào ngõ cụt, mãi câu nệ vào ý tứ trong bài thơ Hiệp Khách Hành này.”

Lão già thứ ba lên tiếng: “Lời nghị luận của Kỷ huynh thật sự là có lý, nhưng ta cho rằng câu Ngân Yên Chiếu Bạch Mã mà tách ra khỏi ý thơ của Lý Bạch thì không thể giải thích được.”

Lão già thứ nhất lại nói tiếp: “Đúng vậy! Chẳng những như thế, ta còn cho là phải liên hệ câu này với câu Tạp Đạp Như Lưu Tinh ở gian thạch thất thứ tư mới có thể giải thích cho đúng đắn. Chúng ta nghiên cứu võ học, không thể tầm chương trích cú để cắt nghĩa được.”

Thạch Phá Thiên thầm ngạc nhiên, tại sao ba người này đàm luận võ công mà không ngồi xuống nói chuyện, cứ đuổi nhau hoài như thế, vừa đuổi nhau vừa cãi nhau. Nhưng chỉ trong khoảnh khắc là chàng hiểu rõ ngay.

Lão già thứ hai nói: “Các huynh tự cho là hiểu hai câu thơ này hơn ta nhiều. Nhưng tại sao lúc thi triển khinh công lại chẳng hơn gì, rút cuộc vẫn đuổi không kịp ta?”

Lão thứ nhất hỏi lại: “Vậy huynh có đuổi kịp ta không?” Ba người mỗi lúc một chạy nhanh hơn, vạt áo kêu phần phật. Ba người chạy vòng tròn, khoảng cách mãi không thay đổi, hiển nhiên công lực ngang nhau, chẳng ai hơn được ai.

Thạch Phá Thiên đứng xem một lúc, rồi quay đầu nhìn vào đồ hình khắc trên vách đá, thấy vẽ một con tuấn mã đang nghểnh cổ phóng nước đại, dưới vó có rất nhiều mây mù, chẳng khác gì đang bay trên trời. Chàng cứ theo biện pháp như trước mà tập trung vào con tuấn mã, thì cảm thấy khí nóng trong người bị ngừng trệ, không chuyển vận. Chàng nghĩ bụng: “Công phu trên bức vẽ này không giống như ở gian thạch thất thứ nhất và thứ hai.”

Chàng lại nhìn kỹ làn mây tỏa dưới chân ngựa, thì thấy luồng mây mù này tựa như không ngừng xô đẩy về phía trước, muốn phá tường vách bay ra ngoài. Thạch Phá Thiên xem một lúc nữa thì thấy nội lực cuồn cuộn nổi lên, không tự chủ được phải co chân mà chạy.

Chàng chạy quanh một vòng rồi nhìn lại làn mây tỏa trên vách, lại cảm thấy nội lực trong người xô đẩy rần rần, phải chạy quanh một vòng nữa. Vì chàng chưa từng học khinh công nên chân bước loạng choạng, người xiêu vẹo như say rượu, chạy chậm hơn ba lão già kia nhiều. Ba lão đó chạy được bảy tám vòng thì chàng mới chạy hết một vòng.

Bên tai chàng nghe văng vẳng tiếng ba lão kia mỉa mai: “Gã thiếu niên này ở đâu đến thế? Gã cũng học đòi chúng ta mà chạy. Ha ha, gã chạy giống cái gì nhỉ?”

Một lão nói: “Khinh công gã như vậy mà cũng đòi nghiên cứu võ công trên vách đá! Ha ha!”

Lão khác nói: “Người ta luyện bộ pháp giống như Túy Bát Tiên đã là cao minh lắm rồi. Chú em này lại giống đến Túy Cửu Tiên mới thật buồn cười.”

Thạch Phá Thiên thẹn quá, mặt đỏ ra đến mang tai, bèn dừng bước lại. Nhưng chàng vừa đưa mắt nhìn lên vách đá lại không nhịn được nữa, co giò chạy tiếp. Chạy được tám chín vòng thì tâm trí chàng để hết vào làn mây trên vách đá, cố nhớ lấy hình trạng. Ba lão già kia vẫn đem chàng ra làm trò cười, buông lời chế giễu, nhưng chẳng câu nào lọt vào tai chàng nữa.

Không hiểu Thạch Phá Thiên chạy được bao nhiêu vòng rồi, hình trạng đám mây trên vách đã ghi nhớ hết vào lòng, chàng mới dừng bước. Ba lão già bỏ đi lúc nào chàng cũng không hay. Bây giờ bên cạnh chàng lại xuất hiện bốn người khác tay cầm binh khí, đang mô phỏng tư thế ngựa phi vẽ trên vách đá mà chiết chiêu với nhau.

Bốn người này tỉ đấu ra vẻ hung hãn, miệng cứ tụng niệm gì đó, hình như là những câu chú giải ghi trên vách đá. Một người nói: “Ánh ngân quang rực rỡ, yên ngựa vững vàng.”

Một người khác nói: “Chiếu bạch, đã gọi là chiếu thì phải từ trên hướng xuống dưới, bạch tức là trong trắng thâm sâu.”

Người khác nói: “Thiên mã hành không, chớp mắt đã đi xa ngàn dặm.”

Người thứ tư lại nói: “Lý Thương Ẩn nói “Tay là thiên mã, tâm là quốc đồ”. Vận Phủ nói: “Đạo gia dùng tay làm thiên mã”. Thế thì thiên mã là tay, không phải là con ngựa thật.”

Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Những khẩu quyết này cực kỳ huyền diệu sâu xa, mình thật sự không thể nào hiểu rõ được. Họ đã ở đây luyện kiếm ít ra là mười năm, mà nhiều là tới ba chục năm. Mình làm gì có thì giờ ở đây lâu như họ, thôi thì chỗ nào cũng xem qua một lượt cho biết.” Chàng liền qua gian thạch thất thứ tư, trên vách đá có đồ hình câu Tạp Đạp Như Lưu Tinh. Chàng cứ theo đồ hình để luyện tập.

* * *

Bài Hiệp Khách Hành gồm hai mươi bốn câu, thì ở đây cũng có hai mươi bốn gian thạch thất cùng đồ giải chú thích. Thạch Phá Thiên đi từ gian này sang gian khác, vì không biết chữ ghi trên vách đá, đành xem theo họa đồ mà luyện tập nội công cùng võ thuật.

Trong câu thứ năm là Thập Bộ Sát Nhất Nhân, thứ mười là Thoát Kiếm Tất Tiền Hoành, mười bảy là Cứu Triệu Huy Kim Trùy, mỗi câu là một loại kiếm pháp. Câu sáu là Thiên Lý Bất Lưu Hành, câu số bảy Sự Liễu Phất Y Khứ, câu số tám Thâm Tàng Thân Dữ Danh, mỗi câu là một loại khinh công. Câu số chín Nhàn Quá Tín Lăng Ẩm, số mười bốn Ngũ Nhạc Đảo Vi Khinh, số mười sáu Túng Tử Hiệp Cốt Hương thì mỗi câu là một loại chưởng pháp. Câu số mười ba Tam Bôi Thổ Nhiên Nặc, câu số mười tám Ý Khí Tố Như Sanh, câu số hai mươi Huyền Hách Đại Lương Thành là những công phu dạy phép vận khí luyện công.

Thạch Phá Thiên có lúc học rất mau, một ngày được hai ba môn, nhưng có khi đến mười bảy mười tám ngày cũng chưa xong một môn. Chàng chuyên tâm về võ học, hoàn toàn quên cả thời gian. Không biết đã mất bao nhiêu ngày, chàng đã luyện hết đồ hình trên vách đá ở hai mươi ba gian thạch thất.

Mỗi khi chàng học xong một đồ hình, tâm thần bình tĩnh, lại đến giục Bạch Tự Tại ra về. Nhưng Bạch Tự Tại đã luyện được khá nhiều võ học ghi trên vách đá, càng ngày càng đi vào chỗ say mê. Hễ lão thấy Thạch Phá Thiên đến thúc giục là ngoác miệng ra mà thóa mạ, bảo chàng là quấy nhiễu làm rối loạn tâm thần, trở ngại đến việc nghiên cứu võ công, về sau thấy chàng đến là lão vung quyền đánh luôn, không cho chàng đến gần nói chuyện.

Thạch Phá Thiên không làm sao được, bèn đi tìm bọn Phạm Nhất Phi, Cao Tam nương tử để bàn tính với họ. Chẳng ngờ bọn này cũng đang si cuồng, tâm thần chìm đắm cả vào võ học trên vách đá. Họ tranh nhau níu kéo chàng mà nói yếu quyết câu này ở chỗ nào, câu kia chú giải thế nào mới phải.

Thạch Phá Thiên kinh hãi nghĩ thầm: “Té ra hai vị Long Mộc đảo chúa mời cao nhân võ lâm đến đây nghiên cứu võ học, thật sự ai cũng được tự do ra về, nhưng ba mươi năm nay chẳng một người nào chịu rời khỏi đảo. Thế thì đủ biết những môn võ học trên vách đá này thật sự làm cho người ta say mê quá đỗi. May mà võ công mình kém cỏi, lại không biết chữ nghĩa, nên không đến nỗi chìm đắm vào như họ.”

Bọn Phạm Nhất Phi vì lòng tốt mà muốn giải thích văn tự trên vách đá cho chàng hiểu, nhưng chàng chỉ nghe qua quít mấy câu rồi kiếm cớ bỏ đi, không dám quay đầu lại. Chàng còn cố mau mau quên đi những lời chú giải đó, không dám nghĩ tới nữa.

Thạch Phá Thiên bấm đốt tay mà tính, thì ra đã ở Hiệp Khách Đảo hơn hai tháng rưỡi rồi, chỉ còn mấy hôm nữa là phải khởi hành ra về. Chàng nghĩ bụng: “Trong hai mươi bốn gian thạch thất này, ta đã xem được hai mươi ba rồi. Còn gian cuối cùng mình thử vào xem, chắc phải mất một hai ngày, còn nếu đồ hình quá khó khăn thì ta cũng chẳng học được nữa. Nếu gia gia nhất định không chịu đi, thì ta cũng phải về trước, đem tình hình trên đảo nói cho Sử bà bà cùng mọi người biết để họ yên tâm. Gia gia ở lại trên đảo để luyện công, hoàn toàn không có nguy hiểm chi hết.” Nghĩ vậy, chàng liền đi đến gian thạch thất thứ hai mươi bốn.

* * *

Chàng vừa bước vào đã thấy Long đảo chúa cùng Mộc đảo chúa đang ngồi xếp bằng trên đệm gấm, quay mặt vào vách đá, ngưng thần suy nghĩ ra chiều cực nhọc. Thạch Phá Thiên rất tôn kính hai lão này, chàng đứng tận ngoài xa không dám tới gần. Lúc đưa mắt lên nhìn vách đá, chàng hết sức thất vọng.

Hai mươi ba gian thạch thất kia đều có đồ hình trên vách đá, chỉ riêng gian sau cùng chỉ khắc văn tự chứ không có họa đồ. Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Trong này đã không có đồ hình, thì còn gì để ta xem? Thôi thì ta đi nói với gia gia, rồi hôm nay ra về thôi.” Chàng nghĩ tới mấy ngày nữa sẽ được gặp A Tú, Thạch Thanh, Mẫn Nhu, trong lòng vui mừng khôn tả.

Chàng liền khom lưng hướng về Long Mộc đảo chúa lạy mấy lạy rồi nói: “Được hai vị đảo chúa khoản đãi, cho xem võ công trên vách đá để mở mang kiến thức, tiểu nhân cảm tạ vô cùng. Hôm nay tiểu nhân xin cáo từ.”

Long, Mộc hai vị đảo chúa vẫn chăm chú nhìn vào vách đá mà xuất thần, dường như chẳng nghe chàng nói, chẳng thấy chàng bái lạy. Thạch Phá Thiên biết trong lúc tu luyện võ học cao thâm, ai cũng phải tập trung tinh thần chăm chú, nên chàng cũng không trách cứ gì. Chàng liền hướng mắt nhìn lên vách đá một lúc, đột nhiên thấy văn tự trên vách đá dường như đang nhảy múa quay cuồng, bất giác cảm thấy chóng mặt.

Thạch Phá Thiên ráng trấn tĩnh tâm thần, nhưng nhìn lại những chữ trên vách đá thì lại thấy đầu váng mắt hoa. Chàng bèn nhìn ra chỗ khác, tự hỏi: “Chữ gì mà kỳ vậy? Hễ nhìn vào lại choáng váng đầu óc là nghĩa làm sao?” Chàng động tính hiếu kỳ, không dằn lòng được, lại quay vào giương mắt lên nhìn, thì thấy vô số nét bút trên vách đá tựa như đều biến thành những con nòng nọc đang nhúc nhích chuyển động. Nhưng nếu chỉ chăm chú nhìn một nét bút, thì con nòng nọc đó lại không chuyển động nữa.

Thuở nhỏ Thạch Phá Thiên phải sống một mình ở chốn hoang sơn. Đến mùa xuân, chàng thường vào khe núi bắt rất nhiều nòng nọc rồi nuôi ở những cái ao trên núi, đợi chúng mọc chân đứt đuôi biến thành ếch nhái, nhảy ra khỏi vũng kêu ồm ộp, inh ỏi cả một vùng sơn cước cho đỡ tịch mịch. Lúc này chàng tưởng như gặp bạn trong hồi thơ ấu, cũng thấy vui vẻ.

Chàng chú ý nhìn kỹ hình trạng từng con nòng nọc, chỉ thấy vô số nòng nọc đang bơi hoặc là lên trên hoặc là xuống dưới, tư thế mỗi con khác nhau thật là thú vị. Chàng xem một hồi, cảm thấy nội tức nhảy nhót ở huyệt Chí Dương sau lưng, bỗng nghĩ: “Thì ra những con nòng nọc vùng vẫy bơi lượn trên vách đá kia lại có liên quan đến nội khí.”

Chàng lại xem đến con nòng nọc khác thì huyệt Huyền Khu ở sau lưng lại nảy lên. Sau đó bỗng nội khí lan từ huyệt Chí Dương đến huyệt Huyền Khu, nối thành một sợi dây. Chàng nhìn sang con thứ ba thì luồng nội khí không thấy động tĩnh gì.

Đột nhiên chàng nghe một giọng bình thản lên tiếng: “Thạch bang chúa đang chú tâm đọc pho Thái Huyền Kinh, thì ra là một nhà học vấn uyên thâm, tinh thông cả Khoa Đẩu Văn Tự.”

Thạch Phá Thiên ngoảnh đầu lại, thấy cặp mắt sáng như điện của Mộc đảo chúa đang chăm chú nhìn mình. Chàng không khỏi đỏ mặt lên, vội đáp: “Tiểu nhân không biết chữ nào, chỉ thấy những con nòng nọc này thú vị, nên xem chơi một lúc mà thôi.”

Mộc đảo chúa gật đầu nói: “Thế thì phải rồi! Pho Thái Huyền Kinh này viết bằng lối cổ tự gọi là Khoa Đẩu Văn. Ta đang ngạc nhiên, Thạch bang chúa còn trẻ mà hiểu được lối chữ cổ xưa như vậy, thì phải là bậc kỳ tài hiếm thấy.”

Thạch Phá Thiên bẽn lẽn nói: “Nếu vậy tiểu nhân xin rút lui, không dám quấy nhiễu hai vị đảo chúa nữa.”

Mộc đảo chúa nói: “Bang chúa bất tất phải đi, cứ ở đây mà xem cũng chẳng hề chi, không phiền gì đến chúng ta đâu.” Lão nói xong, nhắm hai mắt lại.

Thạch Phá Thiên cũng muốn bỏ đi, nhưng lại sợ làm Mộc đảo chúa phật ý. Chàng định xem một lúc nữa rồi sẽ đi ra. Ngờ đâu chàng vừa nhìn tiếp lên mấy con nòng nọc trên vách đá, thì đột nhiên huyệt Trung Chú dưới bụng nảy lên một cái rất mạnh, khiến cho toàn thân chấn động. Chàng lẩm bẩm: “Mấy con nòng nọc này thật là cổ quái, chưa biến thành ếch nhái mà đã nhảy loạn lên.”

Bất giác tính trẻ nít lại nổi lên, chàng lần lượt ngắm nhìn từng con nòng nọc một, cho những huyệt đạo trong người lần lượt rung động, cảm thấy rất thích thú. Trên vách đá kể có đến hàng ngàn, hàng vạn con nòng nọc nhỏ, có lúc nội khí ở hai huyệt đạo nối thông được với nhau thì toàn thân cảm thấy rất khoan khoái.

Chàng thích thú quá, quên cả những câu Mộc đảo chúa vừa nói, bèn đi tìm những con nòng nọc thích hợp để những luồng nội khí ở huyệt đạo trong người mình thông được với nhau. Nhưng trên vách đá có không biết bao nhiêu là nòng nọc, mà muốn cho mấy trăm huyệt đạo liền lạc với nhau thành một luồng nội khí thông suốt toàn thân thì đâu phải chuyện dễ dàng?

Trong thạch thất này không nhìn thấy ánh mặt trời, chỉ có đèn lửa, dĩ nhiên chàng chẳng biết ngày đêm là gì, chỉ khi nào thấy bụng đói thì lấy mì mà ăn. Thạch Phá Thiên từ lúc vào thạch thất này đã ăn đến bảy tám bữa, những huyệt đạo trong người thông suốt nhau đã được khá nhiều.

Chàng tưởng chừng như những con nòng nọc nhỏ xíu kia cứ từng con một di chuyển dần vào các kinh mạch trong người chàng, tựa như chúng đã biến thành những con ếch nhỏ đang nhảy nhót trong tứ chi xương cốt. Thạch Phá Thiên vừa thích thú lại vừa kinh hãi, chỉ những chỗ huyệt đạo đã thông liền nhau thì luồng nội khí mới yên tĩnh lại một chút. Nhưng huyệt đạo này vừa bình ổn lại, thì huyệt đạo khác lại xôn xao.

Chàng như người đang mơ ngủ hay người bị ma ám, cứ ngưng thần nhìn vào văn tự trên vách đá. Chỉ khi nào mỏi mệt quá không chịu được nữa, chàng mới tựa lưng vào vách đá mà ngủ thiếp đi, vừa tỉnh dậy là cặp mắt lại bị hàng vạn con nòng nọc trên vách đá hút chặt vào.

Cứ si mê như thế, đói thì ăn, mệt thì ngủ, còn bao nhiêu thời gian chàng cứ chăm chú nhìn những con nòng nọc nhỏ đó. Có lúc chàng cũng thấy Long Mộc đảo chúa đưa mắt nhìn mình, mục quang rất kỳ lạ, chàng cũng thấy hơi xấu hổ, nhưng chỉ chốc lát là lại không để ý gì đến nữa.

Không biết đã bao lâu, Thạch Phá Thiên đột nhiên cảm thấy nội khí trong người ào ào cuộn lên, chỉ trong khoảnh khắc đã đả thông bảy tám chỗ còn tắc nghẽn. Sau cùng nội khí trong người chàng chẳng khác một con sông lớn, chảy cuồn cuộn từ huyệt Đan Điền lên Bách Hội, lại từ Bách Hội xuống Đan Điền, càng chảy càng mau.

Thạch Phá Thiên kinh hoảng không biết phải làm gì. Nhất thời chàng không có chú ý, chẳng biết làm thế nào cho được. Chàng cảm thấy khắp mọi chỗ trong người, khí lực rần rần không nơi phát tiết, tiện tay bèn phóng chưởng theo chưởng pháp Ngũ Nhạc Đảo Vi Khinh.

Chưởng lực phóng ra rồi, khí lực lại càng bồng bột. Tay phải chàng như cầm thanh kiếm vô hình, liền sử kiếm pháp Thập Bộ Sát Nhất Nhân. Tuy tay không có kiếm, mà kiếm khí lạnh ngắt cũng giàn giụa khắp gian thạch thất.

Kiếm pháp Thập Bộ Sát Nhất Nhân chưa sử hết, da thịt toàn thân chàng căng thẳng tựa như sắp nổ tung ra. Chàng không tự chủ được nữa, bỗng đưa luồng nội khí vận chuyển dọc kinh mạch theo bức đồ phổ Triệu Khách Mạn Hồ Anh. Đồng thời chàng khoa chân múa tay, tựa như người vui mừng quá đỗi, lại giống kẻ đau khổ điên khùng.

Thạch Phá Thiên vận khí theo đồ hình Triệu Khách Mạn Hồ Anh xong, tiếp tục chuyển sang đồ phổ Ngô Câu Sương Tuyết Minh. Rồi chàng không còn nghĩ ngợi gì nữa, từng bức đồ phổ trên vách đá tự nhiên lần lượt xuất hiện ra trong đầu óc. Từ bức số ba Ngân Yên Chiếu Bạch Mã đến bức số hai mươi ba Thùy Năng Thư Các Hạ, chàng thi triền ra một hơi, cứ như một môn võ công duy nhất. Lúc này bất luận là kiếm pháp hay chưởng pháp, nội công hay khinh công đều hòa hợp vào nhau thành một khối, không còn phân biệt được đâu là chưởng pháp, đâu là kiếm pháp nữa.

Lúc Thạch Phá Thiên diễn xong công phu Thùy Năng Thư Các Hạ, lập tức cảm thấy luồng nội khí vận ngược lên, liền theo câu thứ hai mươi hai Bất Tàm Thế Thượng Anh biểu diễn ngược lên tới câu số một Triệu Khách Mạn Hồ Anh. Bất giác chàng không nén nổi, hú lên một tiếng dài. Chỉ trong khoảng khắc, bao nhiêu công phu học ngày trước, bất luận là nội lực mà chàng tự tập ở mười tám pho tượng La Hán, cầm nã chàng được Đinh Đang truyền thụ, Tuyết Sơn kiếm pháp chàng thấy bọn đệ tử phái Tuyết Sơn rèn luyện cho nhau, Thượng Thanh kiếm pháp chàng được vợ chồng Thạch Thanh dạy cho, quyền pháp chưởng pháp của Đinh Bất Tứ, đao pháp của Sử bà bà, đồng thời kéo đến đảo lộn trong đầu óc chàng, tay chân múa lên loạn xạ không theo thứ tự gì cả.

Bất luận là công phu Tương Chả Đạm Chu Hợi cũng được, hay Thoát Kiếm Tất Tiền Hoành cũng được, chàng muốn thi triển môn gì tùy ý, không cần nghĩ tới nội khí, cũng chẳng cần nhớ tới chiêu thức. Hàng ngàn hàng vạn chiêu thức trên vách đá bỗng dưng từ vô thức mà phát ra không ngớt.

Thạch Phá Thiên càng diễn càng cảm thấy vui sướng, về sau chàng không nhịn được nữa, bật lên cười ha hả, buột miệng la lên: “Thật là tuyệt diệu!”

Đột nhiên chàng nghe thấy hai người hoan hô: “Quả nhiên tuyệt diệu.” Thạch Phá Thiên giật mình, dừng tay thu chiêu lại. Chàng thấy Long Mộc hai vị đảo chúa đứng trong góc thạch thất, lộ vẻ vừa kinh hãi vừa vui mừng đang chăm chú nhìn chàng.

Thạch Phá Thiên vội nói: “Tiểu nhân đã hồ đồ, xin hai vị miễn trách.” Chàng nghĩ bụng: “Phen này chắc hỏng bét rồi! Ta ở đây mà dám la hét lung tung, quấy nhiễu việc luyện công của hai vị đảo chúa.” Chàng không nén nổi, hoảng sợ vô cùng.

Hai vị đảo chúa trán toát mồ hôi đầm đìa, quần áo cũng ướt hết. Góc thạch thất chỗ hai lão đứng, nước lênh láng thành vũng. Long đảo chúa nói: “Thạch bang chúa được trời ban cho kỳ tài, thật là đáng mừng, thật là đáng mừng. Xin nhận của lão phu một lạy.”

Lão nói xong, phục xuống lạy. Mộc đảo chúa cũng sụp lạy theo.

Thạch Phá Thiên cả kinh, vội quỳ xuống khấu đầu lia lịa, trán rạp xuống đất kêu binh binh. Chàng nói: “Hai vị làm như vậy… như vậy… khách sáo, cái này… cái này… chết tiểu nhân mất.”

Long đảo chúa nói: “Thạch bang chúa… Xin… xin… đứng… đứng dậy!”

Thạch Phá Thiên đứng dậy, thấy Long đảo chúa cũng toan đứng thẳng người lên, nhưng đột nhiên lão lảo đảo người đi hai cái rồi ngồi phệt xuống đất. Mộc đảo chúa thì lấy hai tay chống xuống đất, cố gắng mãi cũng chưa đứng lên được.

Thạch Phá Thiên cả kinh nói: “Hai vị làm sao vậy?” Rồi chàng vội sang nâng đỡ Long đảo chúa ngồi dậy hẳn hoi, rồi dìu Mộc đảo chúa đứng dậy. Long đảo chúa lắc đầu mỉm cười, rồi nhắm mắt vận khí. Mộc đảo chúa chắp hai tay lại, cũng tự mình hành công.

Thạch Phá Thiên không dám quấy nhiễu, hết nhìn Long đảo chúa lại nhìn Mộc đảo chúa, trong lòng kinh nghi khôn xiết. Hồi lâu, bỗng nghe Mộc đảo chúa thở phào một cái rồi đứng phắt dậy, bước tới ôm lấy Long đảo chúa. Hai lão ôm lấy nhau phá lên cười ha hả, ra chiều hoan hỉ vô cùng.

Thạch Phá Thiên không hiểu vì lẽ gì mà hai lão lại vui mừng đến thế, nhưng không dám hỏi. Chàng thấy hai lão cười thì cũng ngớ ngẩn cười theo, nghĩ rằng đây không phải là chuyện xấu nên trong lòng cũng thấy nhẹ đi.

Long đảo chúa dựa vào vách đá từ từ đứng lên rồi nói: “Thạch bang chúa! Hai anh em lão phu mấy chục năm nay bị những mối nghi ngờ canh cánh bên lòng. Hôm nay được tôn giá phá giải, anh em ta thật là cảm kích không biết đến đâu mà nói.”

Thạch Phá Thiên lắp bắp hỏi lại: “Tiểu nhân… tiểu nhân… phá giải được cái gì?”

Long đảo chúa mỉm cười nói: “Thạch bang chúa hà tất phải khiêm nhường như vậy. Bang chúa đã hiểu thấu được những đồ giải trên vách đá về Hiệp Khách Hành này. Như vậy thì bang chúa chẳng những là người số một võ lâm hiện tại, mà ngoài bậc cao nhân tiền bối đã khắc đồ phổ lên vách đá xưa kia, e rằng cổ kim ít người bì kịp bang chúa.”

Thạch Phá Thiên hoảng sợ đáp: “Tiểu nhân không dám! Tiểu nhân không dám!”

Long đảo chúa nói: “Khoa đẩu văn tự khắc trên vách đá này, tại hạ cùng với Mộc huynh đệ mười phần chưa hiểu được một. Không biết Thạch bang chúa có chịu chỉ giáo cho bọn tại hạ hay không?”

Thach Phá Thiên nhìn Long đảo chủ rồi lại nhìn Mộc đảo chủ, thấy sắc mặt của hai lão rất thành khẩn, hình như họ sợ mình không chịu tiết lộ bí quyết ra. Chàng vội vàng nói: “Để tiểu nhân nói thật với hai vị là xong. Lúc tiểu nhân nhìn con nòng nọc này thì huyệt Trung Chú máy động một cái, xem tới con nòng nọc này thì huyệt Đại Thất lại nhảy lên.”

Chàng chỉ từng con nòng nọc mà giải thích cho hai người nghe, nói một hồi thì thấy cả hai ra vẻ mơ hồ, tựa như chẳng hiểu gì. Chàng bèn hỏi: “Tiểu nhân nói bậy bạ quá hay sao?”

Long đảo chủ nói: “Thì ra… thì ra… Thạch bang chúa xem là xem con… con nòng nọc chứ không phải xem chữ. Thế thì làm sao Thạch bang chúa hiểu được bài Thái Huyền Kinh?”

Thạch Phá Thiên đỏ bừng mặt, đáp: “Tiểu nhân từ thuở nhỏ chưa đọc sách bao giờ, thực tình một chữ cũng không biết. Nói ra thật là xấu hổ.”

Long Mộc đảo chúa kinh ngạc đến giật nảy người, đồng thanh hỏi: “Bang chúa không biết chữ ư?”

Thạch Phá Thiên lắc đầu đáp: “Tiểu nhân không biết. Khi tiểu nhân trở về Trung Nguyên, nhất định sẽ nhờ A Tú dạy cho biết chữ. Nếu không, ai cũng đều biết chữ, chỉ có tiểu nhân không biết chữ, để người ta chê cười thật là xấu hổ.”

Long, Mộc hai vị đảo chúa thấy vẻ mặt chàng thật thà, tuyệt không có ý xảo trá, thật không thể không tin. Long đảo chúa đầu óc hỗn loạn, nhìn vào vách đá hỏi: “Bang chúa đã không biết chữ, thế thì từ gian thạch thất thứ nhất cho đến gian thứ hai mươi ba, ai đã giải thích cho bang chúa nghe những chú thích trên vách đá?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Không có ai giải thích cho tại hạ cả. Bạch lão gia gia giảng mấy câu, Phạm đại hiệp ở Quan Đông cũng giảng mấy câu mà tiểu nhân chẳng hiểu gì, nên không nghe tiếp. Tiểu nhân… tiểu nhân chỉ xem đồ hình rồi nghĩ vơ nghĩ vẩn, đột nhiên thấy những áng mây hoặc những thanh kiếm nhỏ trên đồ hình có liên quan với những luồng nhiệt khí trong nội thể mình.”

Mộc đảo chúa nói: “Bang chúa không biết chữ mà hiểu được đồ giải, chuyện này… chuyện này kể cũng lạ thật!”

Long đảo chúa nói: “Chẳng lẽ trong cõi mênh mang quả có ý trời? Hay là vị bang chúa này được trời ban cho kỳ tài?”

Mộc đảo chúa đột nhiên dậm chân nói: Tiểu đệ hiểu rồi! Tiểu đệ hiểu rồi! Đại ca! Té ra là thế!”

Long đảo chúa ngẩn người ra một chút, rồi cũng hiểu ngay. Hai lão cùng ở với nhau mấy chục năm trời, tu luyện với nhau hằng ngày, bản lãnh ngang nhau, trí lực cũng tương đương. Có điều Mộc đảo chúa vốn trầm lặng ít nói hơn, nên về ngoại giao thì lão kém Long đảo chúa một chút, nhưng ngộ tính thì lại nhanh hơn lão Long một chút. Hai người bốn bàn tay nắm chặt lấy nhau, trên sắc mặt cùng pha lẫn đau khổ với vui mừng.

Long đảo chúa quay lại nói với Thạch Phá Thiên: “Thạch bang chúa! May mà bang chúa không biết chữ nên mới phá giải được mối nghi ngờ sâu xa này, khiến anh em lão phu dù có chết cũng nhắm mắt được, không đến nỗi phải ôm hận mà chết.”

Thạch Phá Thiên, gãi đầu ngơ ngác hỏi: “Sao… sao lại chết cũng nhắm mắt được?”

Long đảo chúa khẽ thở dài rồi nói: “Té ra vô số văn tự chú thích ở đây, câu nào cũng cố ý đưa người ta vào con đường lạc lõng. Đã là người nghiên cứu đồ phổ, ai mà không cố chiêm nghiệm những câu chú giải?”

Thạch Phá Thiên kinh ngạc hỏi: “Đảo chúa nói vậy, thì ra bao nhiêu văn tự ở đây đều vô dụng cả ư?”

Long đảo chúa nói: “Chẳng những vô dụng mà còn có hại lớn là khác. Giả tỉ không có những bài chú thích này, thì hai anh em lão phu không đến nỗi phải tốn bao nhiêu tâm huyết, sức cùng lực kiệt, đau khổ mấy chục năm nay. Lẽ ra ít nhiều cũng phải có tiến triển chứ?”

Mộc đảo chúa cũng buồn rầu nói: “Thì ra bài Thái Huyền Kinh này không phải là khoa đẩu văn tự chi hết, chẳng qua… chẳng qua chỉ là những đường dây vẽ phương vị các kinh mạch mà thôi. Hỡi ôi! Uổng công bốn chục năm trời! Uổng công bốn chục năm trời!”

Long đảo chúa nói “Quả là Bạch Thủ Thái Huyền Kinh. Hiền đệ! Đầu tóc hiền đệ đã bạc trắng cả rồi!”

Mộc đảo chúa nhìn đầu Long đảo chúa, “Ồ” một tiếng. Tuy lão chẳng nói gì, nhưng trong lòng ba người đều hiểu, lão muốn nói: “Đầu tóc của đại ca lại chẳng bạc trắng rồi sao?”

Long, Mộc hai vị đảo chúa nhìn nhau buông tiếng thở dài. Cả hai bỗng lộ vẻ già nua, không còn thần thái oai nghiêm như ngày đãi cháo Lạp Bát nữa. Thạch Phá Thiên vẫn còn nhiều chỗ hoài nghi, liền hỏi: “Vị cao nhân đó đã viết rất nhiều văn tự lên vách đá, dắt người ta đi lạc đường là có mục đích gì?”

Long đảo chúa lắc đầu nói: “Mục đích của lão nhân gia thế nào, thật khó mà biết được. Có khi vị tiền bối võ lâm đó không muốn bọn hậu sinh lượm được kết quả một cách quá dễ dàng. Hoặc giả những câu chú thích là do người khác thêm vào cũng chưa biết chừng. Quá khứ đã xảy ra những gì, ai mà biết được.”

Mộc đảo chúa nói: “Cũng có khi vị võ lâm tiền bối này không ưa những người đọc sách nhai văn nhấm chữ, nên cố ý bày ra cạm bẫy này để chỉ có người thành thật trung hậu không biết chữ như Thạch bang chúa mới được hưởng.”

Long đảo chúa thở dài nói: “Dụng tâm của vị tiền bối đó quả là sâu sắc, còn ai suy đoán ra được?”

Thạch Phá Thiên thấy thần sắc hai lão lộ vẻ mệt mỏi, hùng khí tiêu tan, trong lòng chàng cũng thấy băn khoăn. Chàng liền nói: “Hai vị đảo chúa! Nếu những công phu mà tiểu nhân vừa học được là hữu dụng thật, thì tiểu nhân xin trình bày hết để hai vị hiểu rõ. Bây giờ chúng ta hãy về gian thạch thất thứ nhất để tiểu nhân nói lại từ đầu. Tiểu nhân nhất quyết không giấu giếm chút nào.”

Long đảo chúa lắc đầu, cười đau khổ nói: “Lòng thành của tiểu huynh đệ, hai người chúng ta xin tâm lãnh. Tiểu huynh đệ là người nhân hậu mới được hưởng phúc duyên này. Ngày sau tiểu huynh đệ dẫn dắt thiên hạ anh hùng, tạo phúc cho chúng sinh, thì bao nhiêu tâm huyết của hai anh em ta cũng không đến nỗi uổng phí.”

Mộc đảo chúa nói: “Đúng vậy! Những điều bí mật về đồ phổ này đã giải quyết xong, hai ta thỏa mãn tâm nguyện rồi. Dù tiểu huynh đệ luyện được, hay hai chúng ta luyện được thì cũng thế mà thôi.”

Thạch Phá Thiên chân thành nói: “Vậy để tiểu nhân đem những con nòng nọc này giải thích tường tận cho mọi người nghe, có được hay không?”

Long đảo chúa nở một nụ cười đau khổ nói: “Thần công đã có truyền nhân rồi, thì đồ phổ trên vách đá trở nên vô dụng. Tiểu huynh đệ nhìn lại mà xem!”

Thạch Phá Thiên quay lại nhìn lên vách đá, bất giác kinh hãi thất sắc. Từng mảnh đá vụn trên vách đá đang từ từ rớt xuống. Những chữ khoa đẩu chi chít trên vách đá đã mất mát nhiều, mười phần chỉ còn lại bảy tám. Chàng hoảng hốt nói: “Sao… sao lại thế này?”

Long đảo chúa đáp: “Vừa rồi tiểu huynh đệ…”

Mộc đảo chúa ngắt lời: “Vụ này để từ từ rồi hãy nói. Bây giờ chúng ta hãy ra ngoài gặp mọi người, tuyên bố việc này cái đã.”

Long đảo chúa hiểu ý ngay, liền nói: “Hay lắm! Hay lắm! Thạch bang chúa, xin mời!” Thạch Phá Thiên không dám đi trước, theo sau hai vị đảo chủ họ Long và họ Mộc ra khỏi thạch thất. Long đảo chúa triệu tập bọn đệ tử, truyền lệnh mời hết tân khách ra đại sảnh tụ hội.

Thì ra lúc Thạch Phá Thiên hiểu thấu được thần công trên vách đá, chàng không nhịn được bèn đem ra diễn thử. Long, Mộc hai vị đảo chúa vừa thấy đã kinh hãi. Long đảo chúa bèn tiến lại phóng chưởng ra thử thách. Lúc này Thạch Phá Thiên tựa hồ người bị tà ma ám ảnh, cảm thấy có người tấn công là tự nhiên phóng chưởng trả đòn.

Qua lại mấy chiêu, Long đảo chúa biết ngay là khó mà chống đỡ nổi, Mộc đảo chúa bèn tiến lên giáp công. Võ công hai lão thì hiện nay khó kiếm được một người thứ ba tương tự, nhưng cả hai lão hợp lực cũng không địch nổi Thạch Phá Thiên, vì chàng mới học được thần công.

Giả tỉ hai lão thu chiêu, thì đương nhiên Thạch Phá Thiên cũng dừng tay ngay, nhưng hai lão còn muốn thử xem cho biết uy lực võ công trên vách đá lợi hại đến mức nào. Sáu chưởng bay qua bay lại, càng đánh càng kịch liệt. Chưởng lực hai lão mãnh liệt bao nhiêu, thì Thạch Phá Thiên cũng phản kích mãnh liệt bấy nhiêu. Chưởng phong ba người liên tục quét trúng vách đá, mặt vách đá bị chấn động mạnh nên nứt ra dần.

Chỉ cần chưởng lực của Long Mộc đảo chúa cũng đủ phá hủy vách đá này, huống hồ nội lực của Thạch Phá Thiên vốn đã mạnh, lại thêm thần công mới học được. Chưởng lực của ba người đã đến mức tuyệt cao, nên vách đá bị nứt nẻ mà không vỡ ngay, chỉ từ từ rơi xuống.

Mộc đảo chúa biết trong lúc Thạch Phá Thiên thử nghiệm võ công thì chẳng khác người đang ngủ mơ, chẳng hay biết gì chuyện bên ngoài. Vì thế lão mới ngắt lời Long đảo chủ, để Thạch Phá Thiên khỏi phải hối hận vì đã vô ý làm nứt nẻ vách đá. Hơn nữa, vách đá hư hỏng là vì hai lão đã ra tay phóng chưởng trước, lỗi là của mình chứ không phải của Thạch Phá Thiên.

* * *

Ba người vào đại sảnh an tọa rồi, tân khách và bọn đệ tử lục đục kéo vào. Long đảo chúa truyền lệnh tắt hết đèn đuốc trong các gian thạch thất, mới gọi được những người quá say mê nghiên cứu võ công, không chịu ra đại sảnh hội họp.

Lúc này trong đại sảnh đầy người. Những nhân sĩ võ lâm đến Hiệp Khách Đảo trong ba chục năm nay, trừ những vị tuổi cao đã tạ thế, đều đã tập hợp đông đủ trong đại sảnh. Suốt ba mươi năm nay, những nhân vật đầu não này ngày đêm chỉ quanh quẩn lui tới trong hai mươi bốn gian thạch thất, đi qua đi lại. Đây là lần đầu tiên có cuộc tụ hội đông đảo.

Long đảo chúa sai bọn đệ tử kiểm điểm nhân số, thấy tân khách đã đến đông đủ, bèn quay lại dặn một tên đệ tử mấy câu. Tên này lộ vẻ vừa ngạc nhiên vừa kinh hãi. Mộc đảo chúa cũng khẽ dặn một tên đệ tử của lão mấy câu. Hai tên đệ tử này nghe sư phụ nói, hỏi lại cặn kẽ mọi điều, rồi mới dẫn mười mấy tên sư đệ ra khỏi sảnh đường để lo sắp đặt mọi việc.

Long đảo chúa lại gần Thạch Phá Thiên, nhỏ giọng nói: “Tiểu huynh đệ! Những chuyện vừa rồi trong thạch thất, huynh đệ đừng nói cho ai biết, cho dù là người thân cận nhất. Cũng đừng để cho người khác biết là huynh đệ đã hiểu rõ những võ công màu nhiệm trên vách đá, nếu không suốt đời sẽ gặp hoạn nạn lớn lao, phiền não vô cùng.”

Thạch Phá Thiên đáp: “Vâng! Tiểu nhân xin tuân theo lời dạy của đảo chúa.”

Long đảo chúa lại tiếp: “Người ta thường nói, lòng người khó mà ngờ được. Tiểu huynh đệ đã có thần công tuyệt thế, nếu để người khác biết được thì trên võ lâm chẳng thiếu gì người ghen ghét đố kỵ. Từ đố kỵ sẽ sinh ra thù hận, hoặc là cầu xin huynh đệ truyền thụ chỉ điểm, hoặc là ép huynh đệ tiết lộ bí mật, nếu họ không được toại nguyện thì sẽ dùng trăm phương ngàn kế để hại huynh đệ. Võ công huynh đệ tuy cao, nhưng tâm địa thực thà trung hậu, chẳng thể đề phòng cho hết được. Vì thế mà vụ này bất luận thế nào cũng đừng tiết lộ ra ngoài.”

Thạch Phá Thiên lập tức đáp: “Đa tạ đảo chúa đã dặn dò chỉ điểm. Tiểu nhân cảm kích vô cùng!”

Long đảo chúa nắm lấy tay chàng, dịu dàng nói: “Đáng tiếc là lão phu cùng Mộc huynh đệ không được xem huynh đệ thi triển thần kỹ, dương oai trên chốn giang hồ!” Dường như Mộc đảo chúa đã đoán được hai người nói gì với nhau. Lão quay lại chăm chú nhìn Thạch Phá Thiên, mục quang đầy ắp vẻ quan tâm và luyến tiếc.

Thạch Phá Thiên nghĩ bụng: “Hai vị đảo chúa thật là tốt với mình. Chuyến này mình về gặp A Tú xong, nhất quyết cùng nàng trở lại đảo bái kiến hai vị lão gia.”

Long đảo chúa dặn dò Thạch Phá Thiên xong, lại quay về chỗ ngồi. Lão nhìn quần hùng lên tiếng: “Các vị hảo bằng hữu! Chúng ta đã cùng nhau tụ hội trên đảo này bấy lâu, cũng là do phúc duyên mà gặp. Đến nay duyên phận đã hết, bây giờ là lúc phải chia tay.”

Quần hùng nghe lời tuyên bố của Long đảo chúa đều kinh ngạc hỏi nhau: “Tại sao lại thế?” “Đảo chúa đã gặp chuyện gì?” “Hai vị đảo chúa bảo gì? Chẳng lẽ chúng ta phải rời đảo mà đi hay sao?”

Giữa lúc mọi người ồn ào huyên náo, đột nhiên có những tiếng ầm ầm vọng lại. Những tiếng nổ này khủng khiếp chẳng khác trời long đất lở. Quần hùng lập tức im hơi lặng tiếng, không hiểu trên đảo đã xảy ra biến cố gì trọng đại.

Long đảo chúa nói: “Các vị bằng hữu! Chúng ta tụ hội ở đây, chỉ mong tìm hiểu được những môn võ công màu nhiệm ghi trên đồ giải Hiệp Khách Hành, nhưng tiếc là ông trời không cho chúng ta làm vậy. Đảo Hiệp Khách chỉ lát nữa sẽ chìm xuống đáy biển.”

Quần hùng kinh hãi thất sắc, nhao nhao lên, mỗi người hỏi một câu: “Tại sao lại thế?”, “Là động đất hay là núi lửa?”, “Sao đảo chúa biết?”.

Long đảo chúa nói: “Vừa rồi lão phu cùng Mộc huynh đệ thấy ngay giữa đảo này có núi lửa sắp sửa bộc phát. Khi đã bộc phát thì chỉ trong nháy mắt, toàn đảo biến thành biển lửa. Bây giờ đã nghe tiếng ầm ầm, đại họa sắp đến rồi! Các vị mau mau rời khỏi đây đi.”

Quần hùng nửa tin nửa ngờ, chẳng ai biết quyết định ra sao. Đại đa số còn luyến tiếc võ công trên vách đá, thà liều mạng ở lại đây còn hơn phải bỏ đi.

Long đảo chúa lại nói: “Nếu các vị không tin, có thể xuống thạch thất xem lại. Các gian thạch thất đều bị rung động, tường vách bị phá hủy cả rồi. Giả tỉ không có động đất, núi lửa không bộc phát, thì các vị ở lại đây cũng chẳng có việc gì để làm nữa.”

Quần hùng nghe nói vách đá bị phá hủy, ai cũng kinh hãi, tới tấp ra khỏi đại sảnh, chạy đến khu thạch thất. Thạch Phá Thiên cũng theo mọi người chạy về hướng đó, thì quả nhiên thấy các gian thạch thất chấn động xiêu vẹo, đồ hình trên vách đều bị phá hủy. Chàng biết đây là hai vị đảo chủ họ Long họ Mộc cố ý sai đệ tử phá hủy đi, bèn băn khoăn tự nghĩ: “Chỉ vì ta mà gây ra cái họa lớn này.”

Trong quần hùng cũng có người nhận xét thấy tình hình có chỗ đáng ngờ, thạch thất bị phá hủy là do tay người chứ không phải vì động đất. Người đó bèn giơ tay lên, kêu gọi quần hùng kéo về đại sảnh để chất vấn Long Mộc đảo chúa. Nhưng vừa đến cửa sảnh đường đã nghe thấy tiếng người kêu khóc om sòm, quần hùng càng lấy làm kinh dị, nhìn xem thì thấy hai vị Long Mộc đảo chúa nhắm mắt ngồi yên đó. Bọn đệ tử của hai lão vây quanh, nằm phục xuống đất vừa la vừa khóc.

Thạch Phá Thiên kinh hãi đến nỗi trống ngực đánh thình thình, tưởng chừng như trái tim sắp vọt ra miệng. Chàng rẽ đám đông, chạy lên la gọi: “Long đảo chúa! Mộc đảo chúa! Hai vị làm sao thế?” Hai người sắc mặt cứng đờ, thì ra đã tạ thế rồi.

Thạch Phá Thiên lắc đầu, quay sang hỏi Trương Tam, Lý Tứ: “Hai vị đảo chúa đang bình yên vô sự mà sao… mà sao lại chết nhanh như thế?”

Trương Tam nghẹn ngào đáp: “Hai vị gia sư trước khi quy tiên có nói là đại nguyện đã toại rồi, nhẹ nhõm rời bỏ thế gian.” Thạch Phá Thiên đau xót trong lòng, bất giác khóc rống lên.

Chàng còn chưa hiểu hết, hai vị đảo chúa sở dĩ chết đột ngột không chỉ vì tuổi già. Hai lão đã hiểu ra bí mật về võ công trên đồ hình, không còn bận bịu đến việc đời nữa. Còn một nguyên do là hai lão đã đối chưởng với chàng trong thạch thất, nội lực chàng vô cùng vô tận, mà hai lão cứ ra sức chống đỡ, sau cùng sức cùng lực kiệt rồi lâm vào tình trạng dầu cạn đèn tắt. Giả tỉ chàng biết mình có liên quan rất lớn đến cái chết của hai lão, thì chàng còn phải hối hận hơn nhiều, tự trách mình gây nên tai họa, thương tâm không biết đến đâu mà kể.

Một tên đệ tử áo vàng lau nước mắt rồi dõng dạc tuyên bố: “Quý vị tân khách! Trước khi gia sư quy tiên, có di mệnh bảo các vị gấp rút rời khỏi đảo. Bài đồng Thưởng Thiện Phạt Ác quý vị đã nhận được, sau này có khi dùng đến, xin giữ lấy đừng vứt bỏ. Khi nào các vị có việc gì khó, xin cứ đến xóm chài nhỏ ngoài bãi biển Nam Hải, anh em tại hạ sẽ đem chút sức mọn ra giúp đỡ các vị.”

Quần hùng đang lúc thất vọng cũng được một điểm vui mừng, bụng bảo dạ: “Bọn đệ tử Hiệp Khách Đảo đều là những tay bản lãnh phi thường. Nếu được họ ra tay viện trợ, dù có gặp họa lớn bằng trời cũng có thể giải quyết được.”

Một tên đệ tử áo xanh lại nói: “Ngoài bãi biển đã chuẩn bị thuyền bè đầy đủ, xin các vị cứ tự tiện khởi hành.”

Quần hùng đều tới phục lạy trước thi thể hai vị đảo chúa để bái biệt ra về. Trương Tam, Lý Tứ nắm chặt tay Thạch Phá Thiên ra chiều lưu luyến, Trương Tam nói: “Tam đệ! Hôm nay tam đệ trở về Trung Nguyên, sau này có dịp, chúng ta nhất định sẽ đến thăm tam đệ.”

Thạch Phá Thiên cáo biệt, rồi đi theo Bạch Tự Tại, Phạm Nhất Phi, Cao Tam nương tử, Thiên Hư đạo nhân ra bờ biển, xuống thuyền. Chuyến này trở về, mọi người dùng những chiếc thuyền lớn, chỉ ba bốn thuyền đã đủ đưa tất cả quần hùng rời khỏi đảo.

Thuyền nhổ neo, giương buồm ra khơi.

Hồi 21: Ta là ai?

Trong quần hùng, ai đã ở đảo hai ba chục năm đều say mê điên cuồng võ công trên đồ giải, thấy vách đá bị hủy hoại đều rất đau lòng. Có người tự oán trách, tự than thở, hối hận tại sao không sớm sao chép lấy một phần. Trên thuyền có người đập đầu muốn tự tử, có người tự đấm ngực thình thình. Còn những người mới đến, nghĩ đến chuyện sống sót trở về quê quán thì phần hân hoan nặng hơn phần luyến tiếc.

Nhìn Hiệp Khách Đảo mỗi lúc một xa, Thạch Phá Thiên chợt nhớ ra một chuyện, lưng toát mồ hôi ướt đẫm, dậm chân la lớn: “Hỏng rồi… Hỏng rồi… Gia gia, hôm… hôm nay là… mồng mấy tháng mấy rồi?”

Bạch Tự Tại cũng giật mình la hoảng: “Trời ơi!” Chòm râu lão không ngớt rung động, lắp bắp: “Ta không… không biết… hôm… hôm nay là… ngày mấy tháng… mấy…”

Đinh Bất Tứ ngồi ở một góc thuyền, hỏi: “Cái gì mà ngày mấy tháng mấy?”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Tứ gia gia! Gia gia có nhớ không? Chúng ta đến Hiệp Khách Đảo đã bao nhiêu ngày rồi?”

Đinh Bất Tứ đáp: “Một trăm ngày cũng được, mà hai trăm ngày cũng thế. Ai mà nhớ được?”

Thạch Phá Thiên lo lắng đến muốn khóc. Chàng quay lại hỏi Cao Tam nương tử: “Chúng ta tới đảo nhằm ngày mồng tám tháng chạp. Hôm nay đã là tháng mấy rồi?”

Cao Tam nương tử bấm đốt tay tính nhẩm rồi đáp: “Chúng ta ở trên đảo đã một trăm mười lăm ngày. Hôm nay nếu không phải mùng năm tháng tư, thì là mùng sáu tháng tư rồi.”

Thạch Phá Thiên cùng Bạch Tự Tại đồng thanh la hoảng: “Tháng tư rồi sao?”

Cao Tao nương tử nói: “Dĩ nhiên là tháng tư rồi!”

Bạch Tự Tại đấm ngực, gào lên: “Khổ quá! Khổ quá!”

Đinh Bất Tứ cười ha hả nói: “Hay quá! Hay quá!”

Thạch Phá Thiên giận dữ nói: “Tứ gia gia! Bà bà đã nói, nếu đến mồng tám tháng ba không thấy Bạch gia gia trở về thì người sẽ nhảy xuống biển tự tử. Ông… ông lại cười được ư? Cả A Tú… A Tú cũng đã nói là nhảy xuống biển…”

Bạch Tự Tại ngơ ngác nói: “Bà ta nói mùng tám tháng ba nhảy xuống biển, mà hôm… hôm nay đã là tháng tư…”

Thạch Phá Thiên vừa khóc vừa nói: “Đúng thế! Phải… phải làm sao bây giờ?”

Đinh Bất Tứ giận dữ nói: “Mùng tám tháng ba Tiểu Thúy nhảy xuống biển, lúc này đã chết được hai mươi mấy ngày rồi, còn làm gì nữa? Tính khí nàng rất cương cường, đã nói là mùng tám tháng ba nhảy xuống biển thì mùng bảy cũng không nhảy, mùng chín cũng không nhảy, đúng mùng tám là mùng tám. Lão chó già Bạch Tự Tại kia! Sao ngươi không về sớm hơn một chút? Con mẹ nó!”

Bạch Tự Tại không ngớt đấm ngực kêu la: “Đúng lắm! Ta là lão khốn! Ta là lão tặc!”

Đinh Bất Tứ lại thóa mạ: “Còn cái thằng Chó Lộn Giống chết đâm chết chém này nữa! Sao không về sớm hơn một chút?”

Thạch Phá Thiên khóc lóc: “Là lỗi của cháu! Cháu thật là đáng chết!”

Đột nhiên có một giọng nữ nhân lanh lảnh cất lên: “Sử Tiểu Thúy sống thì tốt mà chết cũng không sao, có liên quan gì đến ngươi? Tại sao lại mắng người ta.”

Người nói câu đó chính là bà lão bịt mặt họ Mai. Đinh Bất Tứ vừa nghe thấy liền không dám mắng nữa, nhưng cứ lầm bầm mãi không dứt.

Bạch Tự Tại lại trách Thạch Phá Thiên: “Ngươi đã biết bà bà cùng A Tú đến mùng tám tháng ba là nhảy xuống biển, sao không nói với ta sớm? Thằng lỏi này hồ đồ quá, ta… ta chỉ muốn bẻ gãy cổ ngươi.” Thạch Phá Thiên vì quá đau lòng, chẳng buồn cãi lại lão nữa, cứ để lão oán trách tha hồ.

Lúc này gió Nam thổi mạnh, thuyền giương cả ba lá buồm, vượt biển rất mau. Bạch Tự Tại cứ điên điên khùng khùng la mắng Thạch Phá Thiên, Đinh Bất Tứ lại mồm năm miệng mười đấu khẩu với Bạch Tự Tại. Mấy lần hai lão toan động thủ đánh nhau, nhưng được người di cùng thuyền ngăn cản rồi khuyên giải.

* * *

Đến chiều tối ngày thứ ba, thuyền đã gần đến bờ Nam Hải, quần hùng sung sướng hò reo vang dội. Hai mắt Bạch Tự Tại trợn ngược lên, đăm đăm ngó làn sóng biếc như để tìm thi thể của Sử bà bà và A Tú.

Thuyền mỗi lúc một vào gần bờ, Thạch Phá Thiên đưa mắt nhìn ra xa đã thấy khung cảnh trên bờ vẫn như lúc mình rời đi, hàng cây trên bãi biển vẫn còn trơ đó. Sườn núi bên phải lồi ra ngoài biển, chỗ nhô ra có ba cây dừa, trông tựa như ba người gầy ốm mà cao nghêu.

Thạch Phá Thiên nhớ lại bốn tháng trước mình rời khỏi nơi đây, Sử bà bà cùng A Tú đứng trên bờ biển tiễn chân. Hôm nay chàng bình yên trở về, mà sư phụ và A Tú đã chôn vào bụng cá, thi thể cũng không còn nữa. Bất giác hai hàng lệ tầm tã như mưa, làm cặp mắt chàng mờ đi.

Con thuyền vẫn tiếp tục tiến vào bờ, bỗng nhiên có tiếng la từ vách núi vọng lại. Mọi người ngẩng đầu nhìn lên, thấy hai bóng người một xám một trắng từ sườn núi nhảy xuống biển.

Thạch Phá Thiên nhìn rõ hai người đó chính là Sử bà bà cùng A Tú. Chàng vừa kinh hãi vừa vui mừng, thật không thể nói hết. Trong lúc cấp bách ngàn cân treo đầu sợi tóc, chàng không kịp nghĩ xem tại sao đến nay hai người vẫn chưa chết, giật ngay một tấm ván thuyền liệng về phía hai người nhảy xuống, rồi co chân lại, vận hết nội lực toàn thân xuống chân, nhảy thật mạnh về phía trước. Người chàng vọt đi như tên bắn.

Lúc chàng ở Hiệp Khách Đảo đã học được những môn võ công cực kỳ cao thâm trên vách đá, lúc này một cái ném một cái đẩy đều sử dụng những môn đó. Chàng vọt người đi một cái chỉ còn cách tấm ván từng vài thước, liền đá hất chân trái lại sau, người tiến thêm một bước trên không, đạp được lên tấm ván đó. Nói ra thì chậm, nhưng hành động thì nhanh vô cùng

Lúc chân chàng đặt lên ván thuyền thì A Tú cũng rơi xuống kế bên, chàng vội đưa tay trái ra ôm được ngang lưng nàng. Hai người đã nặng lại thêm đà nhảy từ trên xuống, hai chân Thạch Phá Thiên chìm hẳn xuống mặt nước. Chàng lại thấy Sử bà bà đang rớt xuống bên tay phải, lập tức vung hữu chưởng ra chụp được lưng bà, thi triển công phu Ngân Yên Chiếu Bạch Mã học được trên vách đá, mượn đà để vận sức ném ra. Thân hình Sử bà bà bay thẳng ra chiếc thuyền ngoài biển. Mọi người trong thuyền lớn tiếng hoan hô.

Bạch Tự Tại cùng Đinh Bất Tứ đã tranh nhau vọt lại đầu thuyền từ trước, thấy Sử bà bà bay tới nơi, cả hai cùng giơ tay ra đón. Bạch Tự Tại quát lên: “Tránh ra!” rồi phóng tả chưởng đánh Đinh Bất Tứ. Lão Đinh chần chừ không muốn rút tay lại, không ngờ nữ nhân che mặt vung tay đánh mạnh một cái, thủ pháp rất kỳ lạ. Nghe một tiếng bõm, Đinh Bất Tứ lập tức rớt xuống biển.

Lúc này Bạch Tự Tại đã đón được Sử bà bà. Không ngờ bà bay đến nơi mà dư lực của Thiên Phá Thiên chưa hết, khiến cho Bạch Tự Tại đứng không vững phải lùi lại một bước. “Rắc” một tiếng, hai chân lão đạp xuống ván thuyền mạnh quá, sàn thuyền thủng một lỗ lớn. Lão ngồi phịch xuống mà tay vẫn ôm Sử bà bà vào lòng, không chịu buông ra.

Lúc này Thạch Phá Thiên ôm A Tú, vịn vào tấm ván thuyền bập bềnh trên mặt nước, đợi đến bên thuyền rồi nhảy vọt lên.

May mà Đinh Bất Tứ biết bơi, lão vừa bơi vừa chửi bới om sòm. Thủy thủ trên thuyền liệng dây xuống kéo lão lên. Mọi người mồm năm miệng mười, nhốn nháo cả lên. Đinh Bất Tứ người ướt sũng, đứng thộn mặt ra nhìn nữ nhân che mặt. Đột nhiên lão la lên: “Ngươi… ngươi không phải là muội muội của nàng! Ngươi chính là nàng… chắc chắn là nàng rồi!”

Nữ nhân che mặt chỉ cười lạnh nhạt, hững hờ đáp: “Ngươi thật là to gan, trước mặt ta còn định ôm lấy Sử Tiểu Thúy.”

Đinh Bất Tứ la lên: “Muội… Chính là muội! Muội đã đẩy ta! Chiêu Phi Lai Kỳ Phong này, khắp thiên hạ chỉ có một mình muội biết mà thôi.”

Nữ nhân kia nói: “Ngươi biết vậy là được rồi.” Mụ đưa tay gỡ tấm khăn che mặt để lộ những vết nhăn nheo, nhưng làn da rất trắng. Chỉ có người ở trong bóng tối lâu ngày không thấy ánh mặt trời mới trắng đến như vậy.

Đinh Bất Tứ gọi: “Văn Hinh! Văn Hinh! Quả nhiên là muội… Tại sao lúc gặp ta, muội lại nói là đã chết rồi?”

Nữ nhân che mặt họ Mai, tên gọi là Văn Hinh. Mụ là người tình ngày trước của Đinh Bất Tứ, hai người đã sinh được một đứa con gái tên là Mai Phương Cô. Nhưng Đinh Bất Tứ lại say mê Sử Tiểu Thúy, bỏ rơi Mai Văn Hinh. Vụ này xảy ra đã mấy chục năm, không ngờ đến nay hai người lại trùng phùng.

Mai Văn Hinh đưa tay trái ra kéo tai Đinh Bất Tứ, rít lên the thé: “Ngươi chỉ mong ta chết sớm, càng sớm ngươi càng hoan hỉ. Có đúng thế không?”

Đinh Bất Tứ sợ sệt không dám giãy giụa, cười khổ sở nói: “Buông ta ra! Ở đây còn có các vị anh hùng, làm như vậy có gì là đẹp mặt đâu?”

Mai Văn Hinh nói: “Ta cứ mặc xác ngươi xấu mặt. Phương Cô của ta đâu, trả lại cho ta!”

Đinh Bất Tứ nói: “Muội buông tay ra mau! Long đảo chúa đã biết được nó ở Khô Thảo Lĩnh trên núi Hùng Nhĩ. Chúng ta đến đó mà tìm nó.”

Mai Văn Hinh nói: “Tìm được con rồi, ta mới buông tha cho ngươi. Nếu không tìm thấy nó, ta phải xẻo đứt cả hai tai ngươi!”

Hai người còn đang cãi vã, thuyền đã áp mạn vào bờ. Vợ chồng Thạch Thanh cùng bọn Bạch Vạn Kiếm, Thành Tự Học ở phái Tuyết Sơn ra đón. Mọi người thấy Bạch Tự Tại cùng Thạch Phá Thiên bình yên trở về, Sử bà bà cùng A Tú gieo mình xuống biển cũng được cứu thoát, ai nấy vui mừng khôn xiết. Chỉ có ba người Thành Tự Học, Tề Tự Miễn, Lương Tự Tiến là trong lòng thất vọng, nhưng ngoài mặt cũng phải giả bộ vui tươi, bước đến nói lời chúc tụng.

Hết thảy anh hùng hảo hán trên thuyền đều chỉ muốn biến thành mũi tên để bay về nhà cho sớm, vừa đặt chân lên đất liền là giải tán đi hết. Bốn người Phạm Nhất Phi, Lữ Chính Bình, Phong Lương và Cao Tam nương tử cũng cáo biệt Thạch Phá Thiên, trở về Liêu Đông.

Bạch Vạn Kiếm nói: “Gia gia! Má má đã nói, đến mồng tám tháng ba mà không thấy gia gia trở về thì người nhảy xuống biển tự tử. Hôm nay đúng là mồng tám, hài nhi đã chăm chú đề phòng, không ngờ má má đột nhiên xuất thủ điểm huyệt hài nhi, nên không cản trở được. Tạ ơn trời phật! Nếu gia gia trở về chỉ muộn hơn nửa giờ là không được gặp má má nữa rồi.”

Bạch Tự Tại kinh ngạc hỏi: “Ngươi nói cái gì? Hôm nay mới là mùng tám tháng ba ư?”

Bạch Vạn Kiếm đáp: “Đúng thế. Hôm nay chính là mùng tám.”

Bạch Tự Tại lại hỏi: “Mùng tám tháng ba thật ư?”

Bạch Vạn Kiếm gật đầu đáp: “Đúng là mùng tám tháng ba.”

Bạch Tự Tại gãi đầu nói: “Chúng ta đến Hiệp Khách Đảo vào ngày mồng tám tháng chạp, rồi ở đó hơn một trăm ngày. Sao hôm nay mới là mùng tám tháng ba?”

Bạch Vạn Kiếm nói: “Gia gia quên rồi ư? Năm nay nhuận tháng hai, có hai tháng hai.”

Bạch Vạn Kiếm vừa nói câu này, Bạch Tự Tại hiểu ra lập tức. Lão ôm chầm lấy Thạch Phá Thiên mà nói: “Hảo tiểu tử! Sao ngươi không nói sớm? Ha ha! Nhuận tháng hai! Có hai tháng hai thật là hay!”

Thạch Phá Thiên hỏi: “Nhuận tháng hai là gì? Tại sao lại có đến hai tháng hai?”

Bạch Tự Tại mỉm cười nói: “Mặc kệ nó, có hai tháng hai cũng được, ba tháng hai cũng tốt. Miễn là bà bà không chết thì dù có một trăm tháng hai cũng không sao.” Mọi người nghe lão nói đều cười ồ cả lên.

Bạch Tự Tại quay đầu nhìn lại rồi hỏi: “Úi chà, lão tặc Đinh Bất Tứ chuồn đi đâu mất rồi?”

Sử bà bà mỉm cười nói: “Lão để tâm đến hắn làm chi? Mai Văn Hinh kéo tai hắn, bắt đưa đi tìm con gái của họ là Mai Phương Cô rồi.”

Ba chữ Mai Phương Cô vừa ra khỏi miệng Sử bà bà, Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu biến đổi sắc mặt, đồng thanh hỏi: “Bà bà nói là Mai Phương Cô ư? Họ đưa nhau đi đâu để tìm cô ấy?”

Sử bà bà đáp: “Vừa rồi ở trên thuyền, ta nghe mụ họ Mai nói là họ đi đến Khô Thảo Lĩnh, núi Hùng Nhĩ, để tìm con gái là Mai Phương Cô.”

Mẫn Nhu run run lên tiếng: “Tạ ơn trời đất! Cuối cùng… cuối cùng cũng biết được tin tức về cô gái này rồi! Sư ca! Chúng ta… chúng ta cũng đến đó chứ?”

Thạch Thanh gật đầu đáp: “Đúng thế.” Hai người liền ngỏ lời từ biệt bọn Bạch Tự Tại.

Bạch Tự Tại la lên: “Đang lúc náo nhiệt tưng bừng, vui vẻ thế này, các vị phải ở lại đây ít nhất là mười ngày nửa tháng, không ai được đi đâu.”

Thạch Thanh nói: “Bạch lão gia có chỗ chưa hiểu. Mai Phương Cô là kẻ đại thù giết con của vợ chồng tại hạ. Vợ chồng tại hạ bôn tẩu giang hồ, tìm thị khắp nơi mười tám năm nay mà không có chút manh mối nào. Hôm nay đã hay tin, phải cấp tốc đi ngay, nếu chậm một bước thì e rằng con tiện nhân kia lại trốn đi mất.”

Bạch Tự Tại vỗ đùi la lên: “Con nữ tặc đó đã giết chết con trai các ngươi ư? Có lý nào thế được? Nếu vậy thì phải bắt thị phân thây làm muôn đoạn. Việc của các ngươi cũng là việc của ta. Đi đi, chúng ta cùng đi hết. Thạch lão đệ! Con nữ tặc đó được lão tặc Đinh Bất Tứ hộ vệ, lão thái bà Mai Văn Hinh lại có công phu Mai Hoa Quyền gia truyền vô cùng lợi hại. Lão đệ phải đưa mấy người đi giúp sức mới chắc chắn trả được mối thù này.”

Bạch Tự Tại được trùng phùng Sử bà bà cùng A Tú, lại vừa thoát phải tai kiếp, nên lão đang sung sướng vô cùng. Lúc này bất cứ ai nhờ lão làm bất cứ việc gì, lão cũng ưng thuận ngay. Thạch Thanh, Mẫn Nhu cũng nghĩ đến Mai Phương Cô có Đinh Bất Tứ và Mai Văn Khanh ở bên bảo vệ, mối thù này thật khó mà trả được. Bạch Tự Tại chịu ra tay viện trợ, chính là điều mà hai người mong mỏi vô cùng.

Chưởng môn Thượng Thanh Quán là Thiên Hư đạo nhân đi trên thuyền khác, chưa về tới đây. Vợ chồng Thạch Thanh gấp rút báo thù, không nén lòng chờ lão được, lập tức lên đường. Thạch Phá Thiên cũng đi theo mọi người.

* * *

Chưa đến một ngày, mọi người đã lên đến núi Hùng Nhĩ. Quả núi này chu vi rộng đến vài trăm dặm, không ai biết Khô Thảo Lĩnh ở chỗ nào. Đoàn người tìm kiếm mấy ngày cũng chẳng thấy đâu.

Bạch Tự Tại nóng nảy không dằn lòng được nữa, quay ra mắng Thạch Thanh: “Thạch lão đệ! Huyền Tố Song Kiếm lão đệ nổi tiếng ở Giang Nam. Võ công của vợ chồng lão đệ tuy còn kém ta, nhưng cũng không phải hạng tầm thường. Thế mà có đứa con cũng không giữ nổi, để cho người ta giết mất ư? Nữ tặc kia có thù hằn gì mà giết con của ngươi?”

Thạch Thanh thở ra một hơi rồi nói: “Vụ này là tiền oan nghiệp chướng từ đời trước. Lúc này tại hạ cũng không biết phải bắt đầu kể từ đâu.”

Mẫn Nhu đột nhiên lên tiếng: “Sư ca… Phải chăng sư ca cố ý dẫn mọi người đi lạc đường? Nếu sư ca không thực lòng muốn giết thị để báo thù cho Kiên nhi thì muội… thì muội…” Bà nói tới đây, nước mắt ràn rụa chảy xuống ướt cả ngực áo.

Bạch Tự Tại kinh ngạc hỏi: “Sao ngươi lại không muốn giết con nữ tặc? Úi chà! Hỏng bét! Lão đệ! Chắc là nữ tặc này đẹp lắm. Lão đệ đã dây dưa với thị phải không?”

Thạch Thanh đỏ mặt lên nói: “Bạch lão gia đừng trêu chọc tại hạ nữa.”

Bạch Tự Tại trợn mắt lên nhìn Thạch Thanh một lúc rồi nói: “Nhất định là như thế! Con nữ tặc kia nổi dạ ghen tuông, nên mới hạ độc thủ sát hại đứa con của Mẫn nữ hiệp.” Bạch Tự Tại nhận xét việc của mình thì hết mực hồ đồ, mà suy đoán việc của người thì lại rất sáng suốt. Thạch Thanh nghẹn họng không biết nói sao được nữa.

Mẫn Nhu đáp hộ: “Bạch lão gia! Cũng không phải là Thanh ca có tình ý gì, chỉ vì… chỉ vì cô gái họ Mai kia tự ý tương tư, rồi từ ghen tuông chuyển sang thù hận, giận lây cả đến thằng con của tại hạ, thằng con… thằng con tội nghiệp của tại hạ…”

Thạch Phá Thiên đột nhiên la lên một tiếng: “Trời ơi!”, vẻ mặt hết sức kỳ lạ. Chàng lại cất tiếng hỏi: “Tại sao… tại sao lại ở đây?” Rồi chàng quay người chạy ào ào lên một quả núi bên tay trái. Thì ra đột nhiên chàng nhận ra mình quen thuộc quả núi này từng gốc cây, từng ngọn cỏ. Đó là nơi chàng đã sống hồi thơ ấu, nhưng xưa kia chàng thường đi từ phía bên kia núi, nên lúc này mới nhận ra.

Hiện nay khinh công chàng đã đến mức phi thường, chớp mắt đã lên đến đỉnh núi, băng qua khu rừng rồi đến một gian nhà cỏ. Bỗng nghe tiếng chó sủa rầm lên, một con chó vàng từ trong nhà chạy ra, chồm lên vai Thạch Phá Thiên.

Thạch Phá Thiên mở rộng tay ôm lấy nó, mừng rỡ gọi rối rít: “A Hoàng! A Hoàng! Ngươi về nhà rồi ư? Má má của ta đâu?” Rồi chàng lớn tiếng gọi: “Má má! Má Má!” Trong nhà có ba người chạy ra. Đi giữa là một nữ nhân cực kỳ xấu xí, chính là mẫu thân Thạch Phá Thiên. Hai người hai bên là Đinh Bất Tứ và Mai Văn Hinh.

Thạch Phá Thiên mừng rỡ la lên: “Má má!” Chàng ôm con A Hoàng, chạy đến trước mặt mụ kia.

Mụ lạnh lùng nói: “Ngươi đi đâu?”

Thạch Phá Thiên đáp: “Con… con…”

Bỗng nghe thanh âm Mẫn Nhu ở phía sau cất lên: “Mai Phương Cô! Ngươi bôi mặt hóa trang, tưởng giấu được ta ư? Dù ngươi có trốn đi cùng trời cuối đất, ta… ta…”

Thạch Phá Thiên cả kinh, nhảy tránh sang một bên, ấp úng: “Thạch phu nhân… Phu nhân… nhận lầm rồi. Bà này là mẹ của cháu, chứ không phải là kẻ thù đã giết con phu nhân đâu.”

Thạch Thanh ngạc nhiên hỏi: “Người này là mẹ của ngươi ư?”

Thạch Phá Thiên nói: “Đúng thế! Cháu ở chung với má má từ thuở nhỏ. Chỉ vì… chỉ vì hôm đó cháu không thấy má má đâu nữa, chờ mấy hôm không thấy má má trở về, bèn xuống núi đi kiếm má má, càng đi càng lạc xa không biết đường về, cả con A Hoàng cũng không thấy. Thạch trang chúa xem, đây không phải là A Hoàng hay sao?” Chàng ôm con A Hoàng, tha thiết âu yếm nó.

Thạch Thanh quay lại nhìn mụ đàn bà xấu xí nói: “Phương Cô, ngươi đã có con của mình rồi, sao năm xưa còn sát hại con của ta?” Tuy giọng nói của ông bình tĩnh, nhưng mọi người đều nghe thấy trong đó ẩn chứa nỗi buồn khổ vô cùng.

Mụ đàn bà xấu xí đó chính là Mai Phương Cô. Mụ cười lạnh nhạt, mục quang tràn đầy oán hận, nói: “Ta muốn giết ai thì ta giết. Ngươi… làm gì được ta?”

Thạch Phá Thiên nói: “Má má! Má má đã sát hại con của Thạch trang chúa và Thạch phu nhân thật ư? Sao… sao lại như thế?”

Mai Phương Cô vẫn cười lạnh nhạt nói: “Ta muốn giết ai thì cứ giết, cần gì phải giải thích?”

Mẫn Nhu chậm chạp rút trường kiếm ra, nói với Thạch Thanh: “Sư ca! Muội cũng không làm khó huynh, huynh đứng qua một bên đi. Giả tỉ muội không giết được cô ấy, cũng không cần huynh ra tay trợ giúp.” Thạch Thanh chau mày lại, thần sắc rất khổ não.

Bạch Tự Tại nói: “Đinh Lão Tứ! Chúng ta nói trước cho ngươi hay! Vợ chồng ngươi muốn tử tế thì đứng ngoài, thì chúng ta cũng chỉ đứng xem hai người động thủ. Nếu hai ngươi mà ra tay viện trợ đứa con gái bảo bối của các ngươi, thì đừng có trách chúng ta. Thạch lão đệ mời vợ chồng ta lên núi Hùng Nhĩ này không phải là để xem đánh nhau náo nhiệt mà thôi.”

Đinh Bất Tứ thấy đối phương đông người, suy nghĩ một chút rồi nói: “Được rồi! Nói lời phải giữ lấy lời, chúng ta đều không xuất thủ. Vậy bên các ngươi có vợ chồng Thạch trang chúa, bên ta có hai mẹ con nó. Mỗi bên đều một nam một nữ, tỉ đấu đến phân thắng bại là xong.” Lão đã cùng Thạch Phá Thiên động thủ mấy lần, biết rõ võ công chàng cao hơn vợ chồng Thạch Thanh nhiều. Mai Phương Cô có chàng trợ lực, nhất quyết không chịu thua.

Mẫn Nhu đưa mắt nhìn Thạch Phá Thiên nói: “Tiểu huynh đệ! Tiểu huynh đệ không muốn cho chúng ta báo thù ư?”

Thạch Phá Thiên lắp bắp: “Cháu… Cháu… Thạch phu nhân… Cháu…” Đột nhiên chàng quỳ hai gối xuống, nói tiếp: “Cháu khấu đầu van xin Thạch phu nhân. Phu nhân là người tốt nhất trên đời, xin đừng sát hại má má của cháu.” Chàng nói xong, dập đầu xuống đất phát ra những tiếng binh binh.

Mai Phương Cô lớn tiếng quát: “Cẩu Tạp Chủng! Đứng dậy! Ai bảo ngươi năn nỉ con tiện nhân đó?”

Mẫn Nhu chợt động tâm hỏi: “Tại sao ngươi lại gọi nó như vậy? Nó… nó có phải là con ruột của ngươi không? Hay là… Hay là…” Rồi bà quay lại hỏi Thạch Thanh: “Sư ca! Tướng mạo tiểu huynh đệ này giống Ngọc nhi như đúc. Phải chăng Thanh ca cùng Mai tiểu thư đã sinh ra nó?” Bà bản tính ôn nhu, tuy gặp cừu địch mà lời nói vẫn dịu dàng.

Thạch Thanh vội lắc đầu nói: “Không phải! Không phải! Làm gì có chuyện đó?”

Bạch Tự Tại cười ha hả nói: “Thạch lão đệ! Nếu đúng thế, thì không cần phải chối từ nữa! Dĩ nhiên là lão đệ cùng thị đã sinh ra thằng nhỏ này, nếu không thế thì có ai lại kêu con của mình là Chó Lộn Giống bao giờ? Chắc là Mai cô nương này hận ngươi lắm mới gọi con như thế.”

Mẫn Nhu khom người, đặt thanh kiếm xuống đất rồi nói: “Chúc mừng gia đình các vị ba người đoàn tụ. Ta… ta đi đây.” Bà nói xong, quay lưng từ từ cất bước.

Thạch Thanh lo lắng, chụp lấy tay vợ, giận dữ nói: “Sư muội! Nếu sư muội đem lòng ngờ vực ta, thì để ta tự tay giết chết con tiện nhân này để chứng minh tấm lòng ngay thẳng.”

Mẫn Nhu cười khổ nói: “Tiểu huynh đệ này chẳng những giống hệt Ngọc nhi, mà còn giống Thanh ca nữa.”

Thạch Thanh chống kiếm bước ra, vung tay một cái nhằm Mai Phương Cô đâm tới. Ngờ đâu Mai Phương Cô lại không né tránh, ưỡn ngực ra đón lấy. Ai cũng thấy nhát kiếm này sắp đâm thủng ngực mụ. Thạch Phá Thiên giơ ngón tay ra búng đánh choang một tiếng, thanh trường kiếm của Thạch Thanh gãy làm hai đoạn.

Mai Phương Cô nở một nụ cười thê thảm nói: “Được lắm! Thạch Thanh, ngươi nhất định muốn giết ta, có phải hay không?”

Thạch Thanh nói: “Không sai! Phương Cô! Ta muốn nói rõ với ngươi một lần nữa, kiếp này trong lòng Thạch mỗ chỉ có một mình Mẫn Nhu mà thôi. Cả đời Thạch Thanh này chưa từng có một nữ nhân thứ hai nào. Ngươi mà đem lòng thương yêu ta, thì chỉ hại ta mà thôi. Câu này ta đã nói với ngươi hai mươi năm về trước, bây giờ vẫn nói y nguyên như thế.” Nói tới đây, giọng ông hòa hoãn lại, nói tiếp: “Phương Cô! Con của ngươi đã khôn lớn rồi. Vị tiểu huynh đệ này lòng dạ ngay thẳng, võ công tuyệt diệu, chỉ mấy năm nữa là danh tiếng lừng lẫy giang hồ, thành nhân vật số một số hai trong võ lâm. Vậy gia gia của nó là ai? Sao ngươi không nói rõ cho nó biết?”

Thạch Phá Thiên vội nói: “Đúng thế! Má má! Gia gia hài nhi là ai? Hài nhi… họ tên gì? Má má mau nói cho hài nhi biết. Sao má má lại gọi hài nhi là Cẩu Tạp Chủng?”

Mai Phương Cô nói hết sức thê thảm: “Gia gia ngươi là ai, khắp thiên hạ chỉ có một mình ta biết.” Mụ quay sang nói với Thạch Thanh: “Thạch Thanh! Ta đã biết trong lòng ngươi chỉ có một mình Mẫn Nhu. Năm xưa ta tự hủy dung mạo của mình là vì thế.”

Thạch Thanh khẽ hỏi: “Ngươi tự hủy dung mạo của mình ư? Sao lại phải tự chuốc khổ vào thân như thế?”

Mai Phương Cô hỏi: “Trước kia, dung mạo của ta so với Mẫn Nhu thì ai đẹp hơn?”

Thạch Thanh đưa tay nắm tay vợ, ngần ngừ một lúc rồi nói: “Hai mươi năm trước, ngươi là người đẹp nhất trong võ lâm. Vợ của ta dung mạo tuy không xấu, nhưng không bằng ngươi.”

Mai Phương Cô mỉm cười, hắng giọng một tiếng. Đinh Bất Tứ nói: “Đúng thế! Thằng lỏi Thạch Thanh kia! Ngươi thật là ngu ngốc. Ngươi đã biết Phương Cô dung mạo xinh đẹp không ai bì kịp, mà sao lại không thương yêu nó?”

Thạch Thanh không đáp. Ông nắm tay vợ càng chặt hơn, tựa như sợ bà lại giận dữ bỏ đi.

Mai Phương Cô lại hỏi: “Trước kia, võ công của ta so với Mẫn Nhu thì ai cao hơn?”

Thạch Thanh nói: “Ngươi đã có môn võ gia truyền là Mai Hoa Quyền, lại học thêm được nhiều thứ võ công kỳ quái.”

Đinh Bất Tứ nổi giận ngắt lời: “Sao lại nói là kỳ quái? Đó là những công phu mà Đinh Tứ Gia của nhà ngươi lấy làm đắc ý. Ngươi là kẻ kiến thức hẹp hòi, không biết chi hết, thấy con lạc đà lại kêu là con ngựa bị gù lưng.”

Thạch Thanh nói: “Đúng thế! Võ công của cô kiêm thông hai nhà họ Đinh, họ Mai, sở trường nhiều môn hiếm thấy trên đời. Ngày ấy vợ của ta còn chưa được chân truyền về kiếm thuật của Thượng Thanh Quán, dĩ nhiên kém ngươi rất xa.”

Mai Phương Cô lại hỏi: “Còn về văn học, thì giữa ta và Mẫn Nhu ai hơn?”

Thạch Thanh đáp: “Ngươi biết cả làm thơ làm từ. Vợ chồng ta biết chữ chẳng được bao nhiêu, ví với ngươi thế nào được?”

Trong lòng Thạch Phá Thiên hết sức kinh ngạc. Chàng tự hỏi: “Thì ra má má ta văn võ toàn tài. Thế mà sao người không dạy cho con một chút nào?”

Mai Phương Cô cười lạnh nhạt nói: “Xem ra về những chuyện kim chỉ, thêu thùa, nấu nướng, chắc chắn ta không bằng cô em nhà họ Mẫn rồi.”

Thạch Thanh vẫn lắc đầu nói: “Vợ của ta không biết thêu thùa may vá, ngay cả chiên trứng gà cũng không ngon, làm sao bằng được đôi tay khéo léo của ngươi?”

Mai Phương Cô lớn tiếng nói: “Vậy mà sao hễ ngươi thấy mặt ta là lạnh nhạt, không vui vẻ được tới nửa phần? Còn khi ngươi gặp cô sư muội họ Mẫn kia lại có nói có cười? Tại sao? Tại sao lại thế?” Mụ nói đến đây giọng nói run lên, ra vẻ khích động vô cùng. Khuôn mặt mụ căng cứng như bị tê liệt, da thịt hoàn toàn không rung động.

Thạch Thanh nói chậm rãi: “Mai cô nương! Ta cũng không tự hiểu rõ. Bất luận về môn gì, cô nương cũng giỏi hơn Mẫn Nhu của ta. Chẳng những cô giỏi hơn vợ ta, mà còn giỏi hơn cả ta nữa. Mỗi khi ta với cô ở chung một nơi đều tự cảm thấy kém cỏi, không thể nào sánh được với cô.”

Mai Phương Cô ngơ ngẩn xuất thần một lúc, đột nhiên la lên một tiếng rồi chạy vào trong căn nhà tranh. Mai Văn Hinh cùng Đinh Bất Tứ cũng chạy vào theo.

Mẫn Nhu tựa đầu vào ngực Thạch Thanh, dịu dàng nói: “Sư ca! Số mạng Mai cô nương cực kỳ đau khổ. Tuy cô ta đã giết con tiểu muội, nhưng tiểu muội… tiểu muội so với cô ta còn vui vẻ hơn nhiều. Tiểu muội biết rõ, trong lòng đại ca lúc nào cũng chỉ có một mình tiểu muội mà thôi. Chúng ta đi thôi! Mối thù này không cần trả nữa.”

Thạch Thanh ngạc nhiên hỏi: “Mối thù này không trả nữa ư?”

Mẫn Nhu nói một cách đau khổ: “Dù có giết Mai cô nương, thì Kiên nhi của chúng ta cũng không thể sống lại được.”

Bỗng nghe tiếng Đinh Bất Tứ la hoảng: “Phương nhi! Sao ngươi lại liều mình như vậy? Ta phải thí mạng với gã họ Thạch kia.”

Bọn Thạch Thanh đều giật mình kinh hãi, nhìn lại thấy Mai Văn Hinh ôm Phương Cô chạy từ trong nhà ra. Tay áo bên trái Phương Cô trễ xuống để lộ làn da trắng ngọc, trên cánh tay mụ vẫn còn một chấm hồng. Đó là dấu thủ cung sa của người xử nữ.

Mai Văn Hinh lanh lảnh thét lên: “Phương Cô giữ mình băng thanh ngọc khiết, đến nay vẫn còn là xử nữ. Vậy thằng lỏi Cẩu Tạp Chủng kia không phải là nó sinh ra.”

Mọi người chăm chú nhìn Thạch Phá Thiên, trong lòng ai cũng tràn đầy nghi hoặc: “Mai Phương Cô còn là xử nữ, dĩ nhiên không phải là mẫu thân của Thạch Phá Thiên. Vậy mẫu thân chàng là ai? Phụ thân chàng là ai? Tại sao Mai Phương Cô lại tự nhận là mẫu thân của chàng?”

Thạch Thanh cùng Mẫn Nhu nghĩ bụng: “Chẳng lẽ ngày đó Phương Cô đã bắt Kiên nhi đem đi mà không hại mạng nó? về sau cô ta có gửi đến xác chết một đứa nhỏ, mặt mũi máu thịt bầy nhầy, mặc áo quần của Kiên nhi, nhưng có thật là Kiên nhi không? Nếu tiểu huynh đệ này không phải là Kiên nhi, thì sao bà ta lại kêu nó là Cẩu Tạp Chủng? Sao nó lại giống Ngọc nhi đến thế?”

Dĩ nhiên Thạch Phá Thiên hết sức hoang mang. Chàng liền miệng hỏi: “Gia gia ta là ai? Má má ta là ai? Ta là ai?”

Mai Phương Cô đã tự tận. Những câu hỏi đó, chẳng ai có thể trả lời thay cho bà ta.

HẾT

Hậu ký

Từ hai người tướng mạo giống nhau mà xảy ra những chuyện hiểu lầm, đề tài cũ rích như thế không thể tạo nên một cuốn tiểu thuyết kết cấu chặt chẽ được. Tuy rằng Shakespeare cũng đã từng sử dụng những đôi anh em, chị em song sinh làm đề tài, nhưng đó không phải là những vở kịch hay nhất của ông. Bộ tiểu thuyết Hiệp Khách Hành này do tôi tưởng tượng mà viết ra, chủ yếu là muốn diễn đạt tình cảm yêu con cái của vợ chồng Thạch Thanh, nên mới cho tướng mạo của Thạch Phá Thiên và Thạch Trung Ngọc giống nhau như thế. Đó không phải là trọng tâm của bộ tiểu thuyết này.

Vào mùa đông năm 1975, trong số kỷ niệm mười năm nguyệt san Minh Báo, tôi có viết bài Minh Nguyệt Thập Niên Cộng Thử Thời, đã dẫn vào một đoạn đối thoại lúc Thạch Thanh khấn khứa trong miếu. Lần này tu sửa lại bản cũ, nước mắt tôi lại rơi vào đúng đoạn này.

Mọi cố gắng để chú thích và bình luận đều làm tổn hại đến bản ý của tác giả, lại còn tạo ra những trở ngại nghiêm trọng. Bộ Hiệp Khách Hành này viết 12 năm trước, đã diễn giải ý kiến này khá đầy đủ. Gần đây tôi đọc nhiều kinh Phật hơn, đối với ý này lại càng tâm đắc.

Kinh Bát Nhã của Đại Thừa, Trung Quán Luận của Long Thọ đều cực lực bài bác những luận giải phiền phức, cho rằng các loại kiến thức chú giải đều do hư vọng sinh ra, chỉ làm trở ngại cho việc thấy đạo của người tu học. Khi tôi viết bộ Hiệp Khách Hành này, tuy không thể nói là hoàn toàn không biết kinh Phật, nhưng chỉ mới đọc hết kinh Kim Cang vào tháng 11 năm ngoái, còn việc đọc về Bát Nhã và Trung Quán lại còn mới hơn, mới xuân hạ năm nay.

Nhân duyên bên trong việc này, thật không thể nào giải thích được.

Tháng 7.1977

Chú thích của người dịch

Trong bản Hiệp Khách Hành đầu tiên, Kim Dung đã cho Mai Phương Cô dạy Thạch Phá Thiên môn Âm Chưởng. Tạ Yên Khách truyền cho chàng môn Viêm Viêm Công chí dương đối nghịch lại, là để hại mạng chàng. Nhưng càng về cuối truyện, ông càng nhấn mạnh việc “má má” của Thạch Phá Thiên đối xử với chàng hờ hững, chẳng dạy chàng chút gì, thật là có mâu thuẫn.

Trong bản tu sửa này (in năm 1996), Kim Dung đã hiệu chỉnh vấn đề này. Ông bỏ đi Âm Chưởng và Viêm Viêm Công, cho Tạ Yên Khách ngầm hại Thạch Phá Thiên bằng cách chỉ đạo chàng luyện nội công âm dương không theo thứ tự. Nhưng đến đoạn cuối, không hiểu vì sao mà lão nhân gia lại mấy lần nhắc đến Âm Chưởng và Viêm Viêm Công.

Là một người đọc Kim Dung, rất yêu Kim Dung, người dịch mạn phép sửa chữa nhỏ vài chỗ để câu chuyện được nhất quán hơn. Chắc rằng Kim Dung lão nhân gia (nếu ông biết) và đa số độc giả sẽ không bắt lỗi về việc làm có phần quá phận này.

Xin lượng thứ.

Hồi 01: Giữa đường gặp chuyện bất bình

Ánh sáng xanh lóe ra, cây kiếm thép nhằm thẳng vai trái hán tử trung niên phóng tới lẹ như chớp. Người thanh niên phóng kiếm chưa đến nơi đã rung cổ tay biến chiêu nhằm sang bên phải cổ đối phương. Đối thủ là một hán tử trung niên dựng kiếm lên đỡ nghe “choang” một tiếng. Tiếng ngân chưa tắt, mới chớp mắt mà hai bên đã trao đổi thêm ba chiêu. Vụt một cái, hán tử trung niên vung trường kiếm nhằm giữa mặt thanh niên chém xả xuống. Thanh niên né sang bên hữu tránh khỏi, rồi tiện tay trái phóng kiếm đâm chúc xuống chân địch nhân.

Hai gã ra chiêu vừa mau lẹ vừa tàn độc, tưởng chừng như cuộc đấu ăn thua trí mạng.

Trong luyện võ sảnh, có hai người ngồi phía đông. Bên trên là một đạo cô tuổi trạc bốn mươi đang mím môi, mặt mũi hầm hầm. Bên dưới là một ông già, tuổi ngoại năm mươi, giơ tay lên vuốt chòm râu dài ra chiều đắc ý. Hai người ngồi cách nhau hơn một trượng, sau lưng có đến hơn hai chục tên đồ đệ vừa nam vừa nữ. Phía tây, hơn mười người khách ngồi trên ghế lót đệm gấm xem cuộc đấu, nhìn không chớp mắt.

Ngoài võ trường một lớn, một nhỏ giao đấu đã ngoài bảy mươi chiêu vẫn chưa phân hơn kém. Đột nhiên gã đứng tuổi đâm một kiếm quá mạnh, xiêu hẳn người đi, dường như sắp té nhào. Trong đám khách ngồi xem, một chàng trai mặc áo bào xanh thấy vậy phì cười. Y biết ngay thế là bất lịch sự, vội lấy tay che miệng.

Ngay lúc ấy, gã trẻ tuổi phóng chưởng trái vào lưng gã đứng tuổi. Gã này tiến lên nửa bước tránh được, xoay mình lại, thanh trường kiếm tiện đà vòng tới, quát một tiếng “trúng”. Nhát kiếm đến nhanh như chớp, trúng vào đùi bên trái tên thanh niên. Chân gã khuỵu xuống, phải chống kiếm mới đứng vững lại được. Hắn còn toan đấu nữa, nhưng gã đứng tuổi đã tra kiếm vào vỏ, tươi cười hỏi: “Cảm ơn Chử sư đệ nhường nhịn. Sư đệ có đau không?”. Thanh niên kia mặt tái đi, mím môi đáp: “Đa tạ Cung sư huynh đã nương tay.”

Lão già râu dài vẻ mặt hớn hở, mỉm cười nói: “Đông tông thắng ba trận rồi, vậy được ở lại Kiếm Hồ Cung năm năm nữa. Tân sư muội có thêm ý kiến gì chăng?” Vị đạo cô đứng tuổi nén giận đáp: “Tả sư huynh khéo dạy đồ đệ. Nhưng năm năm vừa qua chẳng hay sư huynh đã nghiên cứu Vô Lượng Ngọc Bích được chút gì chưa?” Lão già râu dài trừng mắt nhìn đạo cô, nghiêm mặt nói: “Sư muội quên qui củ bản phái rồi sao?” Đạo cô hừ một tiếng, rồi không nói gì nữa.

Ông già họ Tả, tên gọi Tử Mục, là chưởng môn Đông tông của phái Vô Lượng Kiếm. Đạo cô kia họ Tân, đạo hiệu là Song Thanh, cầm đầu Tây tông Vô Lượng Kiếm.

Nguyên phái Vô Lượng Kiếm chia làm Đông, Tây, Bắc ba tông. Nhưng Bắc tông suy sụp từ lâu, chỉ còn Đông và Tây là hai chi phái hưng thịnh và có lắm nhân tài. Phái Vô Lượng Kiếm sáng lập từ triều Hậu Đường đời Ngũ Đại, chưởng môn ở tại Kiếm Hồ Cung nước Nam Chiếu. Đến đời Tống Nhân Tông thì chia ra ba tông, cứ năm năm đồ đệ cả ba chi phái hội họp ở Kiếm Hồ Cung để đấu kiếm, bên nào thắng thì được ở cung Kiếm Hồ năm năm, đến năm thứ sáu lại mở cuộc đấu. Mỗi kỳ đấu năm trận, hễ thắng ba là được. Trong khoảng thời gian năm năm, phe thua dĩ nhiên là phải cố gắng tập dượt để rửa hận, mà phe thắng cũng chẳng dám chểnh mảng chút nào. Bốn mươi năm trước Bắc tông thua nặng, chưởng môn bực tức dẫn hết đệ tử qua Sơn Tây, không quay lại tỉ kiếm nữa. Hai mươi lăm năm qua, Đông và Tây tông thắng qua thua lại. Đông tông thắng được bốn lần, Tây tông được hai. Kỳ này, gã trung niên hán tử họ Cung đấu với gã trẻ tuổi họ Chử là trận thứ tư, Cung thắng. Thế là Đông tông thắng ba trận, trận thứ năm không cần phải đấu nữa.

Các tân khách ngồi ở phía tây là những nhân sĩ võ lâm được mời đến chứng kiến. Họ đều là những nhân vật tiếng tăm lừng lẫy trong võ lâm ở Vân Nam, chỉ mình chàng thanh niên mặc áo xanh ngồi hàng cuối là hạng hậu bối vô danh. Chính chàng bật cười lúc gã họ Cung giả vờ lỡ trớn.

Chàng thanh niên này theo võ sư Mã Ngũ Đức ở phủ Phổ Nhị tỉnh Vân Nam đến đây. Mã Ngũ Đức nguyên là một nhà buôn trà lớn, đã giàu có lại hiếu khách, có phong thái Mạnh Thường Quân, bao nhiêu khách giang hồ thất thế đến nhờ vả đều được tiếp đãi, vì vậy mà Mã quen biết nhiều, mặc dù võ công chỉ tầm thường. Lúc Mã Ngũ Đức giới thiệu chàng thanh niên áo xanh kia người họ Đoàn, Tả Tử Mục chả thèm để ý, vì tưởng chàng là đồ đệ Mã Ngũ Đức. Chính võ công Mã còn chưa vào đâu, huống chi là đồ đệ Mã nên Tả hà tiện cả đến câu khách sáo “ngưỡng mộ đã lâu”, chỉ khinh khỉnh chắp tay rồi dẫn vào ghế ngồi. Ngờ đâu anh chàng ngốc nghếch chẳng biết trời đất gì, thấy đồ đệ Tả Tử Mục giả vờ trượt chân dụ địch lại dám phì cười chế nhạo.

Tả Tử Mục tươi cười nói: “Năm nay Tân sư muội đưa ra bốn tên đồ đệ kiếm thuật rất khá, trận thứ tư bọn ta thắng được chỉ nhờ may. Chử sư điệt nhỏ tuổi mà đã tới trình độ đó thì tiền đồ chưa biết đâu mà lường. Sau hạn năm năm này nữa hai bên Đông Tây chắc lại đổi chỗ, hà hà.” Nói xong y cười ha hả một hồi rồi quay sang chàng thanh niên họ Đoàn nói: “Vừa nãy tệ đồ đánh dứ đòn Trật Phác Bộ để thủ thắng, dường như Đoàn thế huynh không vừa ý. Vậy Đoàn thế huynh ra sân chỉ giáo cho y một vài miếng nên chăng? Người ta thường nói tướng giỏi không có quân hèn, Mã ngũ ca oai danh lừng lẫy khắp Vân Nam, môn đồ quyết không phải tay vừa.”

Mã Ngũ Đức hơi đỏ mặt, vội đáp: “Đoàn huynh đệ đây không phải là đồ đệ ta đâu. Lão ca kiếm thuật mèo què đâu dám dạy ai. Tả hiền đệ chẳng nên buông lời giễu cợt. Nguyên Đoàn huynh đệ qua chơi tệ xá, biết ngu huynh sắp lên núi Vô Lượng, nói là núi Vô Lượng phong cảnh thanh u, liền theo tới đây để mở rộng nhãn quang mà thôi.”

Tả Tử Mục nghĩ thầm:”Tưởng y là đồ đệ Mã Ngũ Đức thì mình còn nể mặt, không nỡ tuyệt tình, nếu chỉ là kẻ sơ giao thì hà tất mình phải e dè? Kẻ nào cả gan dám đến Kiếm Hồ Cung ngạo mạn mà mình để xuống núi yên lành thì còn chi là thể diện Tả Tử Mục này?”. Nghĩ vậy Tả liền cười nhạt, hỏi: “Xin Đoàn huynh cho biết đại hiệu là gì, môn hạ cao nhân nào?”

Chàng thanh niên họ Đoàn cười đáp: “Tên tại hạ vẻn vẹn một chữ Dự, chưa hề học võ. Tại hạ phải cái tật hễ thấy người té nhào thì bất luận là té thật hay té giả vờ cũng phải phì cười chứ không nín được.” Tả Tử Mục thấy chàng ăn nói không có vẻ gì cung kính, bất giác tức giận hỏi: “Làm sao mà phải phì cười?” Đoàn Dự mở quạt giấy ra phe phẩy, tỉnh bơ đáp: “Người ta đứng hay ngồi thì có gì mà cười, nằm trên giường cũng chẳng ai đáng cười, chứ nằm lăn xuống đất thì phải cười chứ sao? Trừ trẻ con lên ba thì không kể”. Tả Tử Mục đã tức lên tận cổ, nhưng phải cố giữ vẻ trầm tĩnh, quay sang hỏi Mã Ngũ Đức: “Mã ngũ ca! Đoàn huynh đệ phải chăng là bạn thân với ngũ ca?”.

Mã Ngũ Đức cùng Đoàn Dự chỉ là chỗ sơ giao, nhưng Mã vốn tính vui vẻ, dễ dãi, thấy Đoàn Dự xin theo lên núi Vô Lượng, không tiện thoái thác nên bằng lòng. Bây giờ trót xảy ra chuyện lôi thôi, Tả Tử Mục đã có vẻ nổi xung, ông chẳng muốn để Đoàn Dự bị đòn đau, liền chậm rãi đáp rằng: “Đoàn huynh đệ với ta tuy không phải là chỗ thâm giao, nhưng đã cùng đến đây. Xem ra Đoàn huynh đệ là người nho nhã không hiểu võ công, chẳng qua vì vô ý bật cười. Thôi, bỏ qua đi, ngu huynh đói lắm rồi! Hiền đệ có gì cho ăn uống thì sắp ra, để chúng ta được mừng hiền đệ mấy chén. Hôm nay là ngày vui, hiền đệ chấp nhặt với anh chàng trẻ người non dạ đó làm chi?”

Tả Tử Mục nói: “Đoàn huynh không phải là chỗ thâm giao với Mã ngũ ca, vậy tiểu đệ không sợ vô ý làm bẽ mặt ngũ ca nữa. Quang Kiệt đâu? Vừa nãy có người chê con đó, con ra thỉnh giáo đi!”

Cung Quang Kiệt, chỉ đợi có thế, rút trường kiếm ra đứng xoay chuôi kiếm lại, chắp tay nói với Đoàn Dự: “Xin mời Đoàn bằng hữu!”. Đoàn Dự nói: “Hay lắm! Luyện kiếm đi, ta ngồi đây coi được mà!” Chàng ngồi nghiễm nhiên nói vọng ra, chứ không thèm đứng dậy. Cung Nhân Kiệt đỏ mặt tía tai, tức giận dằn giọng: “Mi, mi… nói sao?” Đoàn Dự đáp: “Ngươi cầm kiếm múa đông chém tây, chắc là muốn luyện võ, còn chờ gì nữa? Ta trước nay không thích xem ai động đao kiếm, nhưng đã đến đây thì cũng đành ngồi xem vậy.” Cung Nhân Kiệt quát lớn: “Sư phụ ta bảo mi ra đây cùng ta tỷ thí.”

Tay vẫn phe phẩy cây quạt giấy, Đoàn Dự lắc đầu thong thả đáp: “Sư phụ ngươi không phải là sư phụ ta. Sư phụ ngươi sai ngươi thì được chứ làm sao sai ta? Sư phụ ngươi bảo ngươi đấu kiếm với ta thì ngươi cứ đấu. Chứ sư phụ ngươi bảo ta đấu với ngươi thì ta không đấu; một là ta không biết đấu kiếm, hai là ta sợ thua, ba là ta sợ đau, bốn là ta sợ chết, nên ta không dấu. Ta đã bảo không đấu là không đấu.”

Mọi người nghe Đoàn Dự cho ra một tràng “sư phụ ngươi, sư phụ ta” giọng nửa hách dịch nửa ỡm ờ thì không sao nhịn cười được. Đám môn đồ của Song Thanh đạo cô chiếm đến nửa sảnh, các nữ đệ tử cứ rũ ra mà cười ngặt nghẽo khiến cho bầu không khí trong luyện võ sảnh mất hẳn vẻ trang nghiêm.

Cung Nhân Kiệt điên tiết, tiến đến chĩa kiếm thẳng vào bụng Đoàn Dự quát: “Có thật mi không biết kiếm pháp hay là mi giả vờ?” Đoàn Dự nhìn mũi kiếm chỉ còn cách bụng mình vài tấc, chỉ cần đâm nhẹ một phát là thủng tim gan, vậy mà nét mặt chẳng chút sợ sệt, ung dung đáp: “Ta không biết võ thật, giả vờ làm gì?” Nhân Kiệt hùng hổ nói: “Mi dám tới Kiếm Hồ Cung núi Vô Lượng quậy phá thì chắc là chán sống. Mi là môn hạ ai? Kẻ nào đã sai mi đến đây? Phải nói cho thật, không thì đừng trách mũi kiếm của đại gia là quá vô tình!”

Đoàn Dự đáp: “Đại gia sao lại hung ác thế? Quí phái tên là Vô Lượng Kiếm, lại ở trong núi Vô Lượng. Kinh Phật dạy rằng: Có bốn điều vô lượng là từ, bi, hỉ, xả. Chắc quí vị ai cũng biết rồi, lấy trong lòng vui là Từ, dứt được điều khổ là Bi, vui thích khi thấy chúng sinh hết khổ là Hỉ, mong chúng sinh bỏ oán niệm thành bình đẳng là Xả. Vô lượng thọ Phật chính là Phật A Di Đà. A Di Đà Phật…” Chàng thao thao hết giảng Phật pháp lại niệm kinh. Cung Nhân Kiệt cáu quá, thu kiếm về vung tay tát bốp thật mạnh vào má Đoàn Dự. Chàng nghiêng đầu đi nhưng không tránh nổi, mặt sưng vù lên, năm vết ngón tay in rành rành trên má.

Mọi người đều chưng hửng, vì ai nấy đều thấy Đoàn Dự thần sắc thản nhiên, coi đối phương bằng nửa con mắt, tất mình mang tuyệt nghệ. Ngờ đâu Cung Nhân Kiệt giơ tay ra tát mà chàng không tránh kịp, thì ra chàng chẳng biết tý võ nghệ nào cả. Những tay võ nghệ siêu quần giả vờ ngớ ngẩn để trêu cợt đối phương là thường, chứ chưa từng thấy ai không biết võ nghệ mà dám cả gan ngạo mạn bao giờ. Chính Cung Nhân Kiệt cũng không khỏi ngây người ra một lúc rồi túm lấy ngực Đoàn Dự nhấc bổng lên quát mắng: “Ta tưởng mi ghê gớm thế nào, té ra chỉ là cái bị thịt.”

Đoạn y xô Đoàn Dự lăn kềnh xuống đất. Đoàn Dự tế thế nào lại va đầu vào chân bàn đánh binh một cái.

Mã Ngũ Đức trong lòng không nỡ, chạy đến nâng dây nói: “Đoàn lão đệ đã không biết võ thì đến đây đùa giỡn làm chi cho khổ thân?” Đoàn Dự xoa đầu nói bâng quơ: “Mình chỉ định du sơn ngoạn thủy, té ra họ lại tỉ kiếm đánh nhau. Cái trò người nọ giết người kia có gì đáng xem đâu? Đi xem khỉ làm trò còn hay hơn nhiều. Chào Mã ngũ gia nhé, ta đi về đây.”

Một tên thanh niên đứng cạnh Tả Tử Mục nhảy ra đứng chắn lại nói: “Mi đã chẳng biết tí võ công, giá cứ cụp đuôi mà đi thẳng thì còn khả dĩ, sao dám bảo kiếm pháp bọn ta không bằng khỉ làm trò? Ta cho ngươi chọn: một là cùng ta tỷ thí để nếm mùi kiếm pháp không bằng trò khỉ của bọn ta; hai là đến trước mặt sư phụ ta dập đầu lạy tám lạy, tự mắng to ba tiếng: “Thối lắm!”. Đoàn Dự cười đáp: “Bảo thầy trò mi thối thì ai mà ngửi được?” Gã kia nổi xung, giơ quyền ra toan thoi một quả thôi sơn, nào ngờ quả đấm mới ra nửa chừng bỗng một vật từ trên không rớt xuống, quấn lấy cổ tay gã. Gã cảm thấy lành lạnh, mềm nhũn, lại ngọ nguậy thì giật mình vội rụt tay, nhìn kỹ lại xem thì ra là một con rắn đỏ chấm xanh, trông đến phát khiếp. Gã ra sức vẫy tay thật mạnh cho nó rơi ra, nhưng nó bám rất chặt, làm thế nào nó cũng không chịu buông ra. Chợt nghe tiếng Cung Quang Kiệt la thất thanh: “Rắn! Rắn!” Mặt y tái mét, thò tay vào trong cổ áo, mò sau lưng nhưng không thấy gì, sợ quá hai chân nhảy loạn lên rồi cố cởi áo ra. Hai vụ quái đản xảy ra cùng lúc, mọi người còn đang kinh ngạc, chợt nghe trên đầu có tiếng cười khúc khích, liền ngẩng lên nhìn thì thấy một cô gái ngồi vắt vẻo trên xà nhà, hai tay cầm hai nắm… rắn.

Cô gái này tuổi chừng mười sáu mười bảy, vận áo xanh, mặt tươi như hoa. Trong hai tay cô có đến chục con rắn nhỏ, con xanh, con sặc sỡ, đầu hình tam giác, xem ra toàn là rắn độc cả. Cô bé cầm rắn như thể cầm đồ chơi, không chút sợ hãi. Mọi người đang mải nhìn cô bé, bỗng nghe Cung Nhân Kiệt cùng sư đệ sợ quá la hét om sòm, lại quay xuống nhìn hai gã.

Đoàn Dự vẫn ngây người ra mà nhìn cô bé ngồi trên xà nhà đung đưa hai chân, ra chiều ung dung lắm. Chàng lên tiếng hỏi: “Cô nương! Phải chăng cô đã cứu ta?” Cô gái hỏi lại: “Mấy tên ác nhân đánh ngươi, sao ngươi không trả đòn?” Đoàn Dự lắc đầu: “Ta không biết đánh trả.”

Bất thình lình nghe “A” một tiếng, mọi người cùng reo lên, Đoàn Dự nhìn xuống thấy Tả Tử Mục tay cầm thanh trường kiếm hãy còn chút vết máu, dưới đất một con rắn bị đứt làm hai khúc, thì ra nó đã bị họ Tả chém chết. Còn Cung Quang Kiệt, mình trần trùng trục đang nhảy tưng tưng, một con rắn xanh đang bò trên lưng rất nhanh, Quang Kiệt vỗ mấy lần đều sểnh, không sao bắt được.

Tả Tử Mục quát: “Quang Kiệt ngồi im! Không được động đậy!” Quang Kiệt sững người thấy ánh kiếm lóe sáng, con rắn xanh cũng bị chặt làm đôi. Tả Tử Mục chém nhanh như điện, mọi người không ai kịp trông rõ làm thế nào y chém chết con rắn mà lưng Quang Kiệt không bị sây sát mảy may, liền lớn tiếng hoan hô.

Cô gái trên xà nhà kêu lên: “Ô hay! Lão già râu dài kia! Sao người dám chém chết hai con rắn của ta? Ta không nể mặt ngươi nữa đâu!” Tả Tử Mục giận dữ đáp: “Mi là con cái nhà ai, đến đây làm gì?” Hỏi thì hỏi vậy nhưng trong lòng y không khỏi băn khoăn nghĩ thầm: con bé này ngồi trên xà nhà từ lúc nào? Sao bấy nhiêu người mà không một ai hay biết? Chuyện này đồn đại ra giang hồ thì Vô Lượng Kiếm phái thật là bẽ mặt. Cô gái vẫn đung đưa hai chân, phô đôi hài màu lục thêu mấy đóa hoa vàng, rõ ràng là cách ăn mặc của một cô gái nhỏ. Tả Tử Mục lại nói: “Nhảy xuống đây mau!” Đoàn Dự vội kêu lên: “Cao như vậy mà bảo nhảy xuống để té chết người ta à? Mau mau mang thang đến.” Chàng vừa dứt lời, mấy người cười ồ lên. Mấy nữ đồ đệ Tây tông nghĩ thầm: Anh chàng này mặt mày cũng sáng sủa, sao lại ngớ ngẩn đến thế được. Cô gái kia đến ngồi trên xà nhà, thần không hay, quỷ không biết thì khinh công đã chẳng vừa, việc gì phải bắc thang cho cô xuống.

Cô gái lại nói: “Lão có đền ta hai con rắn, ta mới xuống nói chuyện với lão!” Tả Tử Mục nói: “Hai con rắn nhỏ có chi đáng kể, bắt đâu chả được?” Lão nói có phần đỡ gay gắt là do trong bụng nghĩ: Con nhỏ này dù chơi được với rắn độc, nhưng nó chỉ là đứa trẻ nít chả có gì đáng ngại; chỉ e đằng sau nó còn có sư trưởng, cha mẹ hẳn là những tay ghê gớm. Cô gái cười bảo: “Lão tưởng dễ lắm à? Thử đi bắt về cho ta xem nào?”

Tả Tử Mục lại giục: “Hãy xuống đây đã!” Cô gái nói: “Ta không xuống.” Tả Tử Mục nói: “Ngươi không chịu xuống, ta sẽ lên kéo xuống.” Cô gái cười khanh khách nói: “Lão có giỏi thì lên bắt ta xuống xem nào!” Tả Tử Mục nghĩ mình đường đường là một vị tôn sư đang ở trước mặt bao nhiêu anh hùng thiên hạ cùng các môn đồ, chả lẽ lại đi đôi co với đứa trẻ nít, bèn quay lại bảo Song Thanh đạo cô: “Tân sư muội! Sư muội cho một tên nữ đệ tử lên kéo cổ nó xuống đây!” Song Thanh đáp: “Môn đồ Tây tông chả có đứa nào giỏi khinh công như thế.” Tả Tử Mục sầm nét mặt lại, toan nói nữa thì cô gái lại lên tiếng: “Lão không đền ta hai con rắn thì ta cho lão biết tay.” Nàng thò tay vào túi da đeo bên hông lấy ra một vật đây lông lá, nhằm Cung Quang Kiệt ném xuống.

Quang Kiệt tưởng là một thứ ám khí không dám giơ tay ra đón lấy, nhích sang một bên để tránh, bất ngờ đó lại là một sinh vật, ở trên không chỉ uốn một cái đã nhảy tót lên lưng mình. Mọi người mới nhìn rõ, thì ra là một con chồn nhỏ màu xám nhạt. Con này linh hoạt vô cùng, chạy từ sau lưng ra trước ngực lên đầu, rồi chạy tứ tung khắp mọi nơi trong người gã. Cung Quang Kiệt cố giơ tay lên bắt, nhưng con chồn kia nhanh gấp mười y, người chung quanh chỉ thấy y huơ chân múa tay, vỗ lưng đập ngực, hết chộp vào mặt lại đập vào cổ, nhưng con chồn vẫn thoăn thoắt không ngừng. Đoàn Dự cười nói: “Hay lắm! Hay lắm! Con chồn chơi trò này thú tuyệt!”

Con chồn đó dài chưa đầy hai gang tay, mắt đỏ chót, móng chân chắc là sắc lắm nên chỉ giây lát thân mình trần trùng trục của Cung Quang Kiệt đã đầy vết xước. Chợt nghe cô gái chúm miệng thổi mấy tiếng còi, con chồn bò lên má Cung Quang Kiệt, cái đuôi rậm rì lướt qua mắt, qua mũi. Quang Kiệt đưa tay ra chộp, nhưng con chồn đã luồn ra sau gáy, mấy ngón tay y thành ra chộp vào mắt mình.

Lúc đó Tả Tử Mục lại gần, thanh trường kiếm cũng đang phóng ra, con chồn đang bò trên mặt trái Quang Kiệt thấy mũi kiếm phóng tới liền luồn ra sau tránh khỏi. Mũi kiếm chỉ tới ngoài da mí mắt liền ngừng lại ngay. Tuy y đâm không trúng con chồn nhưng người xem cũng phải thán phục, mũi kiếm chỉ vào sâu một phân là Quang Kiệt sẽ mất một mắt. Song Thanh tự nghĩ “Kiếm thuật Tả huynh thật là ghê gớm. Chỉ một chiêu Kim Châm Độ Kiếp đó ta chẳng thể nào bì nổi.”

Soẹt soẹt soẹt soẹt, Tả Tử Mục lại đâm luôn bốn nhát liền mà dường như con chồn có mắt cả ở trên lưng nên nó tránh được hết, mỗi nhát chỉ cách nhau chừng sợi tóc. Cô gái gọi bảo: “Lão râu dài kia! Kiếm pháp của ông giỏi đấy!”

Nàng lại huýt hai tiếng nữa, con chồn lập tức chạy xuống đất, thoắt cái đã biến mất. Tả Tử Mục còn đang ngơ ngác, Cung Quang Kiệt lại đập hai tay, hai chân loạn cả lên. Thì ra nó đã chui vào trong ống quấn gã.

Đoàn Dự vừa vỗ tay vừa cười ha hả nói: “Bây giờ mới thật là mở rộng tầm mắt. Hay tuyệt là hay!”

Cung Quang Kiệt vội cởi nốt quần dài ra để hở cặp đùi đầy lông lá. Cô gái chẳng e dè gì cả, lên tiếng gọi to: “Tên ác ôn kia! Tính mi thích ăn hiếp người khác, bây giờ ta làm cho mi trần như nhộng, thử xem mi có biết xấu hổ không?”

Nàng lại thổi toét toét hai tiếng. Con chồn nghe lệnh, không bám vào chân nữa mà chui ngay vào trong quần đùi Cung Quang Kiệt. Trong luyện võ sảnh có nhiều thiếu nữ, Quang Kiệt thà chết chứ không thể cởi nốt quần đùi ra. Gã hét lên một tiếng, hai chân nhảy tưng tưng, hai tay vỗ hết lên bụng lại lên mông, chạy vội ra ngoài.

Y vừa chạy đến cửa sảnh, bất thình lình ngoài cửa cũng có người chạy vào. Cả hai cùng vội quá thành ra đụng mạnh đánh “binh” một cái, Cung Quang Kiệt bắn ngược trở lại, còn người ngoài cửa chạy vào bị hất ngã ngửa. Tả Tử Mục nhìn thấy kêu lên: “Dung sư đệ”.

Cung Quang Việt không lý gì đến con chồn đang chạy từ đùi trái sang đùi phải, lại từ đùi phải lên mông, lật đật chạy lại nâng sư thúc dậy. Đang nâng dở thì con chồn cào ngay vào “sở chỉ huy”, y la lên một tiếng, hai tay chộp vào con chồn, buông sư thúc ra cho té xuống.

Trên xà nhà cô gái cười khanh khách nói: “Cho mi đáng kiếp!” Cô lại huýt một tiếng dài, con chồn ở trong quần đùi Cung Nhân Kiệt chui ra, rồi theo bờ tường chạy vút lên xà nhà, nhanh như chớp chuồn vào lòng cô gái. Cô gái khen: “Ngoan lắm”, rồi lấy hai ngón tay nhón đuôi một con rắn nhỏ, giơ lên nhứ nhứ trước mặt con chồn. Con vật liền giơ chân trước vồ lấy ăn ngay. Thì ra nàng đem theo rắn là để cho con vật này ăn. Đoàn Dự chưa thấy bao giờ nên thú vị lắm. Con chồn ăn hết con rắn nhỏ lại chui vào túi đa bên hông cô gái

Cung Quang Kiệt nâng được sư thúc lên, cả kinh líu lưỡi gọi: “Dung… Dung sư thúc! Sư… sư thúc làm sao vậy?” Tả Tử Mục chạy lại xem thì sư đệ Dung Tử Củ hai mắt đã trợn ngược lên, mặt đầy vẻ căm phẫn và tắt thở mất rồi. Tả Tử Mục cả kinh vội làm mọi cách khai thông các huyệt đạo, nhưng y không thể nào hồi tỉnh lại nữa. Tả Tử Mục biết võ công Dung Tử Củ chưa bằng mình nhưng so với Cung Nhân Kiệt thì cao hơn nhiều, thế mà đụng một cái đã chết thì ắt bị trọng thương từ trước, vội cởi áo ra xem, thấy trên bụng có tám chữ: “Thần Nông Bang tru diệt Vô Lượng Kiếm”. Mọi người đều kinh hoảng kêu lên.

Tám chữ đó ăn sâu vào trong da, không phải do bút mực viết ra, cũng không phải do mũi nhọn sắc vạch vào, đúng là viết bằng một thứ độc dược ghê gớm, thuốc độc ngấm xuống ăn loét vào trong.

Tả Tử Mục chú ý nhìn một lát, bất giác nổi giận đùng đùng, tay rung thanh trường kiểm nghe tiếng u u, nghiến răng quát to: “Để xem Thần Nông Bang tru diệt Vô Lượng Kiếm hay là Vô Lượng Kiếm tru diệt Thần Nông Bang? Thù này không trả, ta làm người sao được?”

Y xem hết các chỗ trong mình Dung Tử Củ, không thấy có thương tích nào khác nữa, bèn quát: “Quang Hào, Quang Kiệt đâu? Mau ra ngoài xem sao.” Can Quang Hào và Cung Quang Kiệt là hai đại đồ đệ, vội cầm trường kiếm chạy ra.

Từ lúc đó ở đại sảnh nhốn nháo cả lên, mải xúm quanh xác Dung Tử Củ bàn tán, không ai ngó gì đến Đoàn Dự cùng cô gái trên xà nhà nữa. Mã Ngũ Đức trầm ngâm nói: “Thần Nông Bang ngày càng làm dữ. Tả hiền đệ, chẳng hay vì sao họ lại kết mối thâm thù với quý phái?”

Tả Tử Mục xót sư đệ bị thảm tử, nghẹn ngào đáp: “Đầu đuôi câu chuyện vì hái thuốc mà ra. Mùa thu năm ngoái, bốn tên hương chủ Thần Nông Bang đến Kiếm Hồ Cung xin gặp, yêu cầu cho ra mé sau núi hái thuốc. Kể ra thì việc hái thuốc cũng chẳng có gì quan trọng, Thần Nông Bang lấy nghề hái thuốc làm sinh kế và trước nay vẫn không có thù hiềm gì với phái Vô Lượng cả. Nhưng chắc Mã ngũ ca cũng đã biết, chúng ta đâu dám để người ngoài vào sau núi, đừng nói Thần Nông Bang là chỗ sở giao, mà ngay đến các bạn hữu thân thiết cũng chưa ai được ra du ngoạn mé sau núi bao giờ. Đó là quy luật tổ truyền, bọn ta không dám vi phạm, kỳ thực sau núi cũng chẳng có gì ghê gớm.”

Cô gái ngồi trên xà nhà bỏ hết mấy chục con rắn trên tay vào một cái giỏ tre nhỏ rồi móc trong túi lấy ra một nắm hạt dưa ngồi nhai, vẫn lắc lư đôi chân bỏ thõng, bỗng cầm một hạt ném trúng giữa trán Đoàn Dự, cười hỏi: “Này! Có ăn hạt dưa không? Lên đây chơi nhé!” Đoàn Dự đáp: “Không có thang thì làm sao ta lên được?” Cô gái đáp: “Dễ lắm mà.” Nói rồi cởi chiếc dây lưng màu lục, thả một đầu xuống bảo: “Người nắm lấy đầu dây này để ta kéo lên!” Đoàn Dự đáp: “Ta nặng lắm, cô nương lôi không nổi đâu!” Cô gái cười: “Thì hãy thử xem sao, té cũng không chết đâu mà sợ!” Đoàn Dự thấy cái thắt lưng thòng trước mặt liền giơ tay nắm lấy. Cô gái dặn: “Nắm chắc nhé!”, nhẹ nhàng kéo Đoàn Dự bổng lên khỏi mặt đất, rồi liên tiếp hai tay rút luôn mấy cái, xách Đoàn Dự để lên trên xà nhà.

Đoàn Dự nói: “Con chồn của cô thật dễ thương, lại biết nghe lời.” Cô gái lấy con chồn trong túi da ra, hai tay bồng lên. Đoàn Dự thấy con vật lông mượt, đôi mắt đỏ hồng long lanh nhìn mình trông thật dễ thương liền hỏi: “Ta vuốt ve nó một chút có được không?” Cô gái đáp: “Ngươi vuốt nó đi.” Đoàn Dự giờ tay vỗ nhè nhẹ lên lưng con chồn, thấy đám lông của nó thật là mềm mại ấm áp.

Bất thình lình con chồn kêu chít một tiếng rồi lại chui tọt vào cái túi da bên hông cô gái. Đoàn Dự không đề phòng thụt lùi lại sau, nhưng vì ngồi không vững, loạng choạng suýt té nhào xuống. Cô gái tóm ngay được cổ áo, kéo chàng lại gần bên mình rồi cười nói: “Thật ngươi chẳng biết chút võ công nào, thế thì lạ nhỉ!” Đoàn Dự hỏi lại: “Có chi đáng lạ?” Cô gái nói: “Không biết võ mà dám một mình đến đây, thảo nào bị ác nhân bắt nạt. Người đến đây làm gì?”

Đoàn Dự đang định đem chuyện mình đến đây thuật lại, bỗng nghe tiếng chân rầm rập, Can Quang Hào và Cung Quang Kiệt hai người chạy vào đại sảnh.

Lúc ấy Cung Quang Kiệt đã mặc lại quần dài nhưng còn để mình trần. Cả hai gã đều có vẻ hốt hoảng chạy đến trước mặt Tả Tử Mục. Can Quang Hào bẩm: “Trình sư phụ, Thần Nông Bang tụ tập tại ngọn núi phía trước, chúng trấn giữ lối đi, cấm không cho ai xuống núi nữa. Chúng con thấy đối phương nhiều người, chưa có lệnh sư phụ nên không dám tùy tiện ra tay.” Tả Tử Mục nói: “Hừ, chúng nó có bao nhiêu đứa?” Can Quang Hào đáp: “Chừng bảy tám mươi tên.” Tả Tử Mục cười nhạt nói: “Bảy tám mươi đứa mà đòi tiêu diệt Vô Lượng Kiếm, đâu có dễ thế?”

Cung Quang Kiệt nói: “Bọn chúng dùng tên bắn qua một bao thư, trên phong bì viết thật là vô lễ.” Y đem lá thư trình lên.

Tả Tử Mục thấy trên phong bì vẻn vẹn có năm chữ lớn “Lệnh truyền Tả Tử Mục”, không thèm cầm, bảo: “Ngươi xem hắn nói gì?” Quang Kiệt vâng lời mở thư ra.

Ngồi trên xà nhà cô gái ghé tai bảo Đoàn Dự: “Thằng cha đánh người lúc nãy chết đến nơi rồi.” Đoàn Dự ngạc nhiên hỏi: “Tại sao vậy?” Cô gái đáp: “Vì lá thư đó tẩm thuốc độc.” Đoàn Dự lại hỏi: “Ghê gớm đến thế sao?”

Bên dưới đã thấy Quang Kiệt đọc: “Thần Nông Bang truyền cho Tả… (y không dám đọc rõ tên sư phụ). Hạn cho các ngươi trong một tiếng đồng hồ phải tự chặt hết cánh tay phải, bỏ hết binh khí, ra khỏi Kiếm Hồ Cung, nếu trái lệnh sẽ giết hết không chừa con gà con chó”.

Song Thanh chưởng môn Tây tông cười nhạt nói: “Thần Nông Bang là hạng nào mà dám nói khoác thế?

Bất thình lình nghe đánh “huych” một tiếng. Cung Quang Kiệt ngã ngửa xuống đất, Can Quang Hào đứng bên cạnh la to: “Sư đệ, sự đệ…” rồi toan cúi xuống nâng dậy. Tả Tử Mục vội bước lên, xòe bàn tay để phía trước ngực Can Quang Hào, phóng kình lực đẩy gã lùi trở lại ngoài ba bước, quát lớn: “Chớ sờ vào người Quang Kiệt, coi chừng thuốc độc.” Da mặt Cung Quang Kiệt dúm đó, giần giật, bàn tay cầm phong thư chỉ trong nháy mắt đã thâm lại. Y giãy mạnh mấy cái rồi chết ngay. Chỉ trong giây lát mà Đông tông Vô Lượng Kiếm mất hai tay hảo thủ, ai cũng kinh hãi.

Đoàn Dự hạ giọng hỏi cô gái: “Cô nương cũng là người Thần Nông Bang ư?” Cô gái giận dỗi đáp: “Bậy nào? Không phải đâu, sao người nói nhăng thế?” Đoàn Dự lại hỏi: “Thế sao cô biết phong thư đó có tẩm thuốc độc?” Cô gái cười đáp: “Hạ độc như thế là tầm thường lắm, mới nhác trông đã biết ngay. Cách này chỉ bịt mắt được kẻ ngu dốt mà thôi.” Nàng nói mấy câu đó mọi người trong luyện võ sảnh đều nghe rõ.

Tả Tử Mục nhìn lại phong thư, chẳng thấy chi khác lạ, sau nghiêng đầu chú ý xem kỹ quả thấy có ánh lân quang nhấp nháy, liền ngẩng đầu lên trông cô gái, chắp tay nói: “Xin cô nương cho biết tôn tính đại danh.” Cô gái cười đáp: “Tôn tính đại danh ta đâu có thể nói cho lão biết được.” Nàng nói hỗn xược đến thế mà Tả Tử Mục vẫn cố nhẫn nại ôn tồn hỏi lại: “Vậy lệnh tôn là ai? Cô nương học võ với vị tôn sư nào?” Cô gái cười đáp: “Ha ha! Ta vừa bảo lão rồi cơ mà! Nếu ta nói lệnh tôn ta là ai thì dĩ nhiên lão biết quý tính ta. Khi đã biết quý tính ta là tra được đại danh ta. Còn sư phụ ta nào phải ai đâu xa lạ, chính là mẫu thân ta đó. Tên họ mẫu thân ta lại càng cần giữ kín không cho ai biết.”

Tả Tử Mục nghe giọng cô ta ríu rít đúng là thổ âm Vân Nam, nghĩ thầm: Trong các phái võ Vân Nam có đôi vợ chồng nào vào hàng tiền bối khinh công cao siêu đâu? Cô gái đó chưa ra tay nên lão không thể đoán qua gia số võ công được, Tả Tử Mục lại nhìn cô gái nói: “Cô nương không chịu cho biết thì thôi, xin mời cô xuống đây nói chuyện! Thần Nông Bang đã không cho ai xuống núi thì cả cô cũng bị vạ lây”.

Cô gái cười nói: “Bọn họ sao lại giết ta? Họ chỉ giết hết phái Vô Lượng Kiếm thôi. Lúc ta đang đi đã nghe tin này nên mới đến đây xem cuộc náo nhiệt. Lão già râu dài kia! Kể ra thì kiếm thuật bọn người cũng không đến nỗi dở lắm, chỉ vì không biết dùng thuốc độc nên ngươi không địch nổi bọn họ mà thôi.”

Mấy lời nàng nói đánh trúng vào nhược điểm của Vô Lượng Kiếm. Giả tỷ cứ đem võ công ra mà tỉ thí thì hai phái Đông và Tây Vô Lượng Kiếm, cộng thêm tám vị hảo thủ các phái võ được mời đến hiện có mặt tại đó, thì Thần Nông Bang không thể thắng được, nhưng chết ở chỗ không ai hiểu tí gì về cách giải độc.

Nghe ngữ khí của cô gái, dường như phái Vô Lượng Kiếm càng chết nhiều thì cô càng khoái chí. Tả Tử Mục đằng hắng một tiếng rồi hỏi lại: “Qua đường cô nương nghe được tin gì?” Câu hỏi vẫn lên giọng bề trên, tưởng như ai nghe cũng phải trả lời trịnh trọng.

Song cô gái lại hỏi: “Lão có cắn hạt dưa không?” Tả Tử Mục mặt đã hơi biến sắc, nhưng bên ngoài còn cừu địch ghê gớm nên không dám nổi khùng, cố nén giận đáp: “Không ăn!”

Đoàn Dự xen vào hỏi: “Hạt dưa cô nương ăn đó là thứ Quế Hoa, Mai Côi hay Tùng Tử?” Cô gái đáp: “Úi chà! Hạt dưa cũng lắm thứ thế à? Vậy mà ta không biết. Hạt dưa này mẫu thân ta sao bằng mật rắn để ăn cho sáng mắt, ngươi thử ăn mà xem.” Nói xong nàng cầm một nắm nhét vào tay Đoàn Dự, tiếp: “Người chưa ăn quen thấy nó đăng đắng nhưng thật ra ngon lắm.”

Đoàn Dự chiều ý nàng cầm một hạt bỏ vào miệng. Lúc đầu nhấm quả thấy có vị đắng nhưng sau thấy ngòn ngọt, đầu lưỡi nước bọt thấm vào lại thêm có mùi thơm, rồi chàng quen mùi ăn mãi, nhả vỏ ra để trên xà nhà. Còn cô gái ăn tới đâu nhả vỏ tới đó, bay lả tả. Những người ngồi dưới cau mày, né ra.

Tả Tử Mục lại hỏi: “Thế nào, đi qua đường cô nương nghe được tin gì xin cho ta biết, cảm ơn cô nhiều lắm.” Y muốn thám thính tin tức nên lại hạ giọng lịch sự. Cô gái nói: “Ta nghe họ bàn đến Vô Lượng Ngọc Bích chi chi đó, thế cái đó có gì thú vị không?” Tả Tử Mục giật mình nói: “Vô Lượng Ngọc Bích? Lạ nhỉ! Hay là trong núi Vô Lượng có thứ ngọc quý báu gì chăng? Ta chưa từng nghe ai nói tới bao giờ. Song Thanh sư muội có nghe ai nói đến thứ đó bao giờ chưa?” Song Thanh chưa kịp đáp, cô gái đã cướp lời: “Dĩ nhiên bà ta cũng chưa nghe! Ta còn lạ gì cái trò kẻ tung người hứng của các ngươi nữa? Đã muốn giấu thì cứ giấu, hà tất phải quanh co?”

Tả Tử Mục sượng sùng giải thích: “À phải! Ta nghĩ ra rồi, Thần Nông Bang nói đó chắc là phiến đá mặt gương trên đỉnh Bạch Long Phong, núi Vô Lượng. Phiến đá này phẳng lì, nhẵn như gương lại trong suốt có thể soi rõ cả dây tơ, sợi tóc. Có người cho đó là một khối ngọc quý, song thực ra chỉ là một phiến đá lớn sắc trắng và trong suốt mà thôi.”

Cô gái nói: “Thế sao lão không nói từ trước có phải hay hơn không? Làm gì đến nỗi gây nên oán thù với bang Thần Nông? Vì cớ gì mà họ muốn tuyệt diệt cả phái Vô Lượng?”

Tả Tử Mục biết rằng nếu muốn cô bé này tiết lộ những điều y đã nghe được tất mình phải chịu nước lép, bèn nhã nhặn bảo: “Cô nương hãy xuống đây để ta kể đầu đuôi cho mà nghe!” Cô gái vẫn đong đưa hai chân nói: “Kể đầu đuôi thì không cần! Có điều lão nói mười phần ta chỉ tin được ba, bốn mà thôi. Lão nói gì thì nói đi!”

Lông mày Tả Tử Mục nhướng lên, lộ sắc giận, nhưng lại đổi sắc mặt nói: “Năm ngoái Thần Nông Bang có đến xin bọn ta ra phía sau núi hái thuốc, ta không nghe. Thế rồi bọn chúng đến hái trộm bị sư đệ ta là Dung Tử Củ cùng mấy tên đồ đệ bắt gặp, có buông lời trách móc. Bọn chúng đáp: nơi đây nào phải Kim Loan điện hay Ngự Hoa viên mà cấm người ngoài vào? Phái Vô Lượng đã bỏ tiền ra mua trái núi này làm của riêng chăng? Sau hai bên lời qua tiếng lại sinh ra ẩu đả, Dung sư đệ chẳng nể nang gì giết mất hai tên trong bọn chúng. Từ đó kết mối thâm cừu. Sau lại đánh nhau trên bờ sông Lan Thương, bang Thần Nông bị chết thêm vài mạng nữa.” Cô gái nói: “A ra thế đấy! Nhưng bọn họ định hái thứ thuốc gì?” Tả Tử Mục đáp: “Ta cũng không rõ!”

Cô gái vẻ mặt đắc ý nói: “Lão cũng không rõ ư? Lão đã kể cho ta nghe chuyện kết oán gây thù thế nào thì ta cũng kể cho lão vài điều. Hôm đó ta vào trong núi bắt rắn cho con thiểm điện điêu ăn…” Đoàn Dự xen vào: “Con chồn của cô tên là thiểm điện điêu (con chồn nhanh như ánh chớp) đấy ư?” Cô gái đáp: “Đúng thế, nó chạy chẳng nhanh như ánh chớp là gì?” Đoàn Dự khen ngợi: “Đúng vậy, thiểm điện điêu, cái tên đó nghe hay quá!” Tả Tử Mục trừng mắt nhìn chàng, bực bội vì bị ngắt quãng nhưng cô gái sắp nói đến đoạn gay cấn, nếu như mình lên tiếng trách mắng Đoàn Dự chỉ sợ nàng ta nối cáu không nói thêm nữa nên chỉ đành hầm hầm lặng thinh không nói lời nào.

Cô gái quay sang nói với Đoàn Dự: “Thiểm điện điêu thích ăn rắn độc, còn ngoài ra không ăn gì khác. Ta nuôi nó từ khi còn nhỏ, nay đã bốn tuổi rồi, chỉ nghe lời một mình ta thôi, ngay cả cha ta mẹ ta nói nó cũng không nghe. Ta bảo nó dọa người là dọa người, cắn người là cắn người. Con chồn này ngoan lắm.” Nói xong cô gái thò tay vào túi vuốt ve con chồn.

Đoàn Dự nói: “Vị Tả tiên sinh này đang nóng ruột, cô nói cho ông ta nghe đi.” Cô gái mỉm cười cúi xuống nói với Tả Tử Mục: “Lúc đó ta đang ở trong đám cỏ bắt rắn, bỗng nghe tiếng có mấy người đi tới. Một người nói: Lần này nếu không giết sạch Vô Lượng Kiếm, chiếm lấy núi Vô Lượng, Kiếm Hồ Cung thì Thần Nông Bang chúng ta chỉ còn có nước tự cắt cổ mà chết. Ta nghe nói bọn chúng giết sạch gà chó không tha, lấy làm thích thú nên nín hơi không lên tiếng. Lại nghe bọn chúng nói chuyện tiếp, nghe nói gì phụng mệnh cung Linh Thứu trên núi Phiêu Diểu phải chiếm lấy Kiếm Hồ Cung đế tra xét cho rõ Vô Lượng Ngọc Bích như thế nào.”.

Cô ta nói đến đây, Tả Tử Mục và Song Thanh hai người liền đưa mắt nhìn nhau. Thiếu nữ hỏi: “Thế núi Phiêu Diểu, cung Linh Thứu là cái gì? Sao Thần Nông Bang lại nghe hiệu lệnh của họ?” Tả Tử Mục đáp: “Núi Phiêu Diểu, cung Linh Thứu đây là lần đầu mới nghe cô nương nói đến. Ta thực quả không biết Thần Nông Bang nghe hiệu lệnh của người khác đến làm khó dễ chúng ta.” Nghĩ đến việc bang Thần Nông mà phải nghe lệnh thì núi Phiêu Diểu hẳn phải lợi hại ghê gớm, thế nhưng núi non ở Vân Nam có đến hàng ngàn hàng vạn mà chưa từng nghe nói đến núi Phiêu Diểu bao giờ khiến cho y càng lo lắng, không khỏi nhíu mày.

Cô gái cắn thêm hai hạt dưa rồi nói tiếp: “Lúc đó lại nghe một người khác nói: Cái mầm bệnh của bang chủ nếu như thông thiên thảo trong núi Vô Lượng có thể giải được, anh em chúng tôi dù có phải chịu nghìn đao vạn kiếm cũng phải nhất định hái cho bằng được thứ cỏ này. Người kia thở dài: Sinh Tử Phù cấy trên người ta ngoại trừ Thiên Sơn Đồng Mỗ lão nhân gia thì không ai có thể giải được. Thông thiên thảo tuy dược tính linh dị thật nhưng cũng chỉ giúp cho bớt được phần nào cái đau đớn khổ sở sống dở chết dở một khi Sinh Tử Phù phát tác… Bọn họ vừa nói vừa đi mỗi lúc một xa. Ta nói thế có rõ ràng không?”

Tả Tử Mục không trả lời, cúi đầu suy nghĩ. Song Thanh nói: “Tả sư huynh, thông thiên thảo cũng chẳng có gì là quí báu, nếu như bang chủ Thần Nông Bang Tư Không Huyền muốn dùng để trị bệnh, giảm đau thì mình cứ cho họ có được không?” Tả Tử Mục giận dữ đáp: “Cho họ thông thiên thảo thì có gì là khó? Thế nhưng họ còn muốn chiếm cung Kiếm Hồ và núi Vô Lượng kia mà, sư muội không nghe thấy hay sao?” Song Thanh hừ một tiếng, không nói nữa.

Cô gái luồn tay trái qua lưng Đoàn Dự nói: “Chúng ta xuống thôi!” Nói rồi nhảy liền. Đoàn Dự sợ quá, chỉ kêu lên được một tiếng “ối” thì người chàng đã bật ra quãng không. Cô gái cắp chàng từ từ đặt xuống đất, tay trái nàng vẫn còn nắm tay phải chàng. Nàng nói: “Chúng ta thử ra ngoài xem Thần Nông Bang kéo đến bao nhiêu tên?”

Tả Tử Mục liền bước ra nói: “Hãy thong thả! Tại hạ còn hỏi cô nương mấy điều. Cô nương nói là lão Tư Không Huyền bị trúng phải Sinh Tử Phù nếu khi phát tác thì sống không được, chết không xong là như thế nào? Thiên Sơn Đồng Mỗ là ai thế?”

Cô gái đáp: “Thứ nhất, hai câu hỏi của lão ta đều không biết. Thứ hai, lão hỏi mà mặt hầm hầm hung hăng, nếu có biết ta cũng không nói cho mà nghe đâu.”

Lúc này Vô Lượng Kiếm đang bị đại địch thúc ép ở bên ngoài, Tả Tử Mục không muốn gây hấn làm gì, nhưng nghe cô ta nói bên trong dường như có rất nhiều điểm quan trọng liên hệ đến sự tồn vong vinh nhục của Vô Lượng Kiếm nên không thể nào không hỏi cho rõ đầu đuôi ngọn ngành. Lão lạng người ra chắn đường cô gái cùng Đoàn Dự, rồi nói: “Cô nương! Bọn ác ôn Thần Nông Bang ở ngoài kia, cô nương tự tiện đi ra, nếu xảy chuyện gì thì Vô Lượng Kiếm bọn ta đây ân hận lắm đó.” Cô gái mỉm cười đáp: “Ta không phải khách các người mời đến, lão cũng chưa biết tôn tính đại danh của ta. Dù ta có bị Thần Nông Bang sát hại, phụ mẫu ta đâu có đến trách lão về tội không bảo vệ chu đáo cho ta?” Nói xong nàng nắm tay Đoàn Dự kéo đi.

Bỗng thấy tay phải Tả Tử Mục cử động, lão rút thanh trường kiếm cầm lăm lăm trong tay nói to: “Cô nương, dừng bước!” Cô gái hỏi lại: “Lão muốn động võ chăng?” Tả Tử Mục điềm tĩnh nói: “Tại hạ chỉ muốn cô kể lại câu chuyện đó cho rõ ràng.” Cô gái lắc đầu nói: “Ta không nói thì lão giết ta chăng?” Tả Tử Mục đáp: “Ta cũng chẳng còn cách nào khác.” Lão cầm trường kiếm chĩa ra trước mặt nàng để ngáng lối đi.

Cô gái quay sang bảo Đoàn Dự: “Lão râu dài này định giết ta đây, bây giờ người tính sao?” Đoàn Dự phe phẩy cây quạt đáp: “Cô nương làm thế nào thì làm!” Cô gái lại hỏi: “Thế ngộ lão chém ta một nhát chết tươi thì sao?” Đoàn Dự đáp: “Chúng ta phúc cùng hưởng, họa cùng chịu, hạt dưa đã cùng ăn, đao kiếm phải cùng lãnh chứ sao?” Cô gái hớn hở nói: “Ngươi nói mấy câu nghe được, rất xứng đáng là bạn của ta, không uống một phen gặp gỡ. Chúng ta cứ đi thôi!” Đoạn rảo bước ra cửa, dường như không trông thấy lưỡi kiếm sáng loáng của Tả Tử Mục chĩa ra trước mặt.

Tả Tử Mục rung kiếm nhằm vai bên trái cô gái đâm tới. Sự thực thì Tả Tử Mục cũng không có ý giết nàng, mà chỉ muốn giữ không cho nàng cùng Đoàn Dự đi mà thôi.

Cô gái vỗ tay vào túi da đeo bên hông, miệng huýt hai tiếng. Bóng trắng lấp loáng, con chồn nhanh như điện phóng ra nhảy phắt lên cánh tay Tả Tử Mục. Y vội vung tay chộp nhưng con chồn đã cắn một miếng vào cổ tay phải y, rồi lập tức chui tọt vào túi da.

Tả Tử Mục “oái” một tiếng, rơi kiếm xuống đất, chỉ chốc lát đã thấy cổ tay tê chồn, kêu lớn: “Độc, độc! Ngươi… con chồn quỉ có độc!” Tay trái y nắm chặt cổ tay phải, sợ chất độc chạy ngược lên.

Các đệ tử Đông tông Vô Lượng Kiếm nhao nhao cả lên, ba tên đỡ sư phụ, còn bao nhiêu vây hết quanh cô gái và Đoàn Dự, quát: “Đưa thuốc giải ngay, nếu không chúng ta đâm chết!”

Cô gái cười bảo: “Ta không có thuốc giải. Các ngươi phải lấy thông thiên thảo sắc một bát nước thật đặc mà cho ông ta uống ngay đi. Trong ba giờ phải nằm yên bất động, nếu không thân thể sẽ cứng đờ, hết phương cứu chữa. Các ngươi chặn ta làm gì, muốn con chồn lại cắn mỗi tên một miếng ư?” Cô nói xong lại thò tay vào túi lấy con chồn ra bế vào lòng, tay kia nắm tay Đoàn Dự đi ra.

Bọn đệ tử thấy tình cảnh sư phụ, biết mình chẳng làm gì được, đành đứng giương mắt nhìn hai người ra khỏi sảnh.

Nàng ra khỏi cửa lớn vừa cười vừa hạ thấp giọng bảo Đoàn Dự: “Con thiểm điện điêu trước nay ăn không biết bao nhiêu là rắn độc nên răng nó độc địa lắm, lão già râu dài bị nó cắn một miếng, nếu như lúc ấy chặt ngay cánh tay đi thì không sao, chứ để thêm một hai giờ thì chỉ sống được tám ngày nữa thôi.” Đoàn Dự hỏi: “Thế sao cô bao là chỉ cần hái một nắm có thông thiên sắc một bát thật đặc uống vào là khỏi ngay?” Thiếu nữ cười: “Đó là ta nói dối chúng đó. Nếu không đời nào bọn họ để cho mình đi ra.” Đoàn Dự hoảng hốt: “Cô đợi một chút để ta vào nói cho họ hay.” Thiếu nữ giơ tay giữ chàng lại, giận dỗi nói: “Đồ ngốc, nếu anh nói ra thì mạng chúng mình có còn được hay chăng? Con chồn của ta tuy lợi hại thật nhưng bọn họ cùng xông lên thì làm sao chống cự nổi? Ngươi đã nói hạt dưa cắn chung, đao kiếm cùng lãnh, ta đâu có thể nào bỏ ngươi chạy một mình?”

Đoàn Dự gãi đầu nói: “Thế thì cô cho họ giải dược đi.” Cô gái đáp: “Ô, sao người lại giở tính đàn bà, người ta đánh ngươi ngươi lại còn tốt bụng với họ là sao?” Đoàn Dự xoa má nói: “Người ta đánh ta cũng đã hết đau rồi, nhớ làm gì? Ôi, tiếc thay người đánh ta đã chết rồi. Mạnh Tử nói: Lòng thương xót chính là đầu của đức nhân. Nhà Phật cũng dạy rằng: Dù xây chín đợt phù đồ, Không bằng làm phúc cứu cho một người. Tả Tử Mục tiên sinh tuy hung hăng thật nhưng nói chuyện với cô cũng nể nang lắm, ông ta râu đã dài thượt mà với một cô gái nhỏ như thế vẫn xưng là tại hạ (bề dưới).”

Thiếu nữ cười khúc khích nói: “Lúc đó ta đang ngồi trên xà nhà, y ở dưới đất, thì đúng là tại hạ rồi còn gì? Ngươi cứ nói tốt cho y để ta đưa cho giải dược. Thế nhưng quả thật ta không có. Thuốc giải chỉ cha ta có thôi, hơn nữa, phái Vô Lượng Kiếm lát nữa bị Thần Nông Bang giết sạch, gà chó không còn, ta có đến xin cha ta thuốc giải đem tới thì gã Tả Tử Mục kia đầu cũng không còn trên cổ nữa rồi. Cái xác chết không có đầu thì sao uống thuốc giải được?”

Đoàn Dự lắc đầu, đành không nói chuyện thuốc giải nữa. Vầng trăng vừa mới lên chiếu trên khuôn mặt trắng trẻo ửng hồng của nàng, chàng thấy cô gái dung nhan xinh đẹp, bèn nói: “Tôn tính đại danh cô nương là gì? Cô không chịu nói cho lão râu dài biết, liệu cô có thể cho ta hay được không?” Cô gái cười đáp: “Tôn tính đại danh cái quái gì? Ta họ Chung, cha mẹ gọi ta là Linh Nhi. Tôn tính thì có, đại danh thì không, chỉ có tiểu danh thôi. Bây giờ chúng mình sang sườn núi bên kia ngồi chơi đi! À mà này, từ nãy đến giờ ngươi chưa nói cho ta hay ngươi đến núi Vô Lượng làm gì?”

Hai người sóng vai đi sang sườn núi phía tây bắc. Đoàn Dự vừa đi vừa nói: “Ta ở nhà trốn ra ngoài ngao du tứ xứ, đến Phổ Nhĩ thì trong mình hết tiền, vào nhà Mã Ngũ Đức ăn cơm chực. Sau thấy ông ta bảo lên núi Vô Lượng, ta nghe nói núi Vô Lượng phong cảnh thanh u nên theo đi.” Chung Linh gật đầu lại hỏi: “Tại sao người đang ở nhà lại trốn đi?” Đoàn Dự đáp: “Phụ thân ta cứ muốn dạy ta học võ, nhưng ta không chịu, ông ép quá nên ta chỉ có nước chuồn đi.”

Chung Linh giường đôi mắt đen lay láy nhìn Đoàn Dự từ đầu đến chân, ra vẻ ngạc nhiên hỏi: “Sao ngươi không chịu học võ nghệ? Sợ vất vả phải không?” Đoàn Dự đáp: “Vất vả thì ta không ngại. Ta nghĩ đi nghĩ lại mãi mà không hiểu tại sao… Trời ơi, có thế mà phụ mẫu ta cãi lẫy om sòm…” Chung Linh mỉm cười nói: “Chắc là mẹ ngươi bênh ngươi, cãi lại cha ngươi phải không?” Đoàn Dự nói: “Đúng rồi.” Chung Linh thở dài nói: “Mẫu thân ta cũng vậy!” Nàng đưa mắt bâng khuâng nhìn ra phương trời xa thẳm, ngơ ngẩn hỏi tiếp: “Ngươi nghĩ mãi mà không hiểu cái gì?”

Đoàn Dự nói: “Từ thuở nhỏ ta đã thụ giới theo đạo Phật, sau cha ta mời thầy đồ dạy ta học Tứ thư ngũ kinh, đồng thời mời một vị cao tăng dạy kinh Phật. Ta đang học nào giới sát giới sân, nào từ bi đại lượng, đột nhiên cha ta lại bắt ta luyện tập võ nghệ. Học lối đánh người giết người lòng ta cảm thấy có điều trái ngược. Cha ta khuyên giải ba ngày, ta nhất định không chịu. Ông dẫn kinh Phật toàn trật lất, giải thích cũng sai.”

Chung Linh hỏi: “Thế rồi cha ngươi tức mình đập cho một trận phải không?”

Đoàn Dự lắc đầu đáp: “Cha ta không đánh, ông ấy thò ngón tay ra điểm hai chỗ, chỉ chớp mắt trong mình ta dường như hàng ngàn, hàng vạn con kiến cùng cắn khắp mọi nơi. Cha ta lại còn hỏi trêu ngươi: “Con nếm mùi điểm huyệt như vậy có dễ chịu không? Ta là cha ngươi, tất nhiên sẽ giải huyệt cho. Nếu gặp kẻ địch điểm huyệt thì người muốn sống không được mà muốn chết cũng không xong. Bây giờ hãy thử tự tử đi xem nào!”. Khốn nỗi từ lúc bị điểm huyệt, dù là muốn cử động một ngón tay cũng không thể được thì còn nói chi đến chuyện tự tử? Hơn nữa ta đang sống yên lành, có gì phải tự tử? Thế rồi mẹ ta gây gổ với cha ta, ông phải giải huyệt cho ta. Hôm sau ta lén trốn đi.”

Chung Linh ngây người chăm chú nghe Đoàn Dự kể chuyện, đột nhiên cất tiếng hỏi: “Cha ngươi biết điểm huyệt? Phải chăng phép điểm huyệt đó chỉ lấy một đầu ngón tay chỉ vào người là tự nhiên hết cựa quậy, lại ngứa ngáy không chịu nổi?” Đoàn Dự đáp: “Chính thế! Có gì kỳ lạ đâu?” Chung Linh lộ vẻ kinh ngạc nói: “Ngươi hỏi có gì kỳ lạ à? Người trong võ lâm dù phải đập đầu lạy đến mười ngàn lạy, van xin đến hai mươi năm còn chưa được học. Chỉ mình ngươi không chịu học mới thật là kỳ.”

Đoàn Dự nói: “Cái trò điểm huyệt đó ta xem chẳng có gì là ghê gớm.” Chung Linh thở dài nói: “Ngươi đừng nên nói thế! Nhất là chớ lộ cho ai biết!” Đoàn Dự ngạc nhiên: “Sao vậy?”

Chung Linh nói: “Ngươi đã không biết võ nghệ nên không hiểu được những chuyện tồi bại trên giang hồ. Phép điểm huyệt của họ Đoàn nhà ngươi thật là trên đời có một không hai, người ta gọi là Nhất Dương Chỉ. Những người đã học võ nghệ nghe thấy ba chữ Nhất Dương Chỉ là thèm nhỏ ra đến ba thùng nước dãi, tán dương hàng mười ngày đêm không hết chuyện. Nếu có người biết cha ngươi giỏi môn tuyệt kỹ Nhất Dương Chỉ, thì thế nào họ cũng sinh lòng đen tối, bắt cóc ngươi đòi cha ngươi phải đem bí quyết Nhất Dương Chỉ ra chuộc thì làm thế nào?”

Đoàn Dự lắc đầu nói: “Cha ta tính nóng như lửa, nếu xảy ra chuyện này tất đánh người đó một trận.” Chung Linh nói: “Phải rồi, người ngoài không dám giao đấu với người họ Đoàn thật, nhưng vì bí quyết Nhất Dương Chỉ không chừng họ dám liều. Huống gì khi ngươi đã bị bắt rồi thì cha anh đâu còn dám đánh nhau với họ nữa? Từ nay ngươi đừng nói với ai là mình họ Đoàn đấy nhé!”

Đoàn Dự nói: “Ở Vân Nam có đến hàng ngàn, hàng vạn người họ Đoàn, chẳng lẽ người nào cũng biết phép điểm huyệt đó sao? Ta không lấy họ Đoàn thế cô nương bảo ta dùng họ gì bây giờ?” Chung Linh mỉm cười đáp: “Thôi người dùng tạm họ Chung với ta đi!” Đoàn Dự cười nói: “Vậy cũng hay! Thế là cô nương phải gọi ta bằng đại ca rồi! Năm nay cô bao nhiêu tuổi nhỉ?” Chung Linh đáp: “Ta mười sáu, còn ngươi?” Đoàn Dự nói: “Ta lớn hơn cô ba tuổi.”

Chung Linh vặt một lá cỏ ở dưới đất rứt ra từng đoạn, bất giác nàng lắc đầu nói: “Ta vẫn không thể tin được rằng ngươi không muốn học bí quyết Nhất Dương Chỉ, chắc là ngươi giấu ta thôi.”

Đoàn Dự phì cười nói: “Cô thử nói xem Nhất Dương Chỉ có gì mà thần diệu đến thế? Nó có đổi được cơm ăn không? Ta thấy con thiểm điện điêu của cô còn hay hơn nhiều, có điều nó cắn là chết người nên ta không thích lắm.” Chung Linh thở dài: “Nếu con thiểm điện điêu cắn không chết người thì để làm gì?” Đoàn Dự nói: “Một cô gái bé nhỏ như cô cũng mong học lấy cái nghề giết người là nghĩa làm sao?”

Chung Linh lại hỏi: “Có thật ngươi không biết hay chỉ giả vờ?” Đoàn Dự lấy làm kỳ hỏi lại: “Cô nói sao?” Chung Linh trỏ tay về phía đông nói: “Ngươi trông kìa!”

Đoàn Dự nhìn theo phía tay Chung Linh trỏ, thấy lưng chừng sườn núi về phía đông, từng luồng khói xanh lè bốc lên, cả thảy có đến mươi đám nhưng không hiểu đó là gì.

Chung Linh nói tiếp: “Tuy ngươi không nghĩ đến cách chém giết ai nhưng người ta cứ nghĩ cách đánh ngươi, chẳng lẽ ngươi cứ bó tay chịu chết hay sao? Những luồng khói đen đó là Thần Nông Bang đang nấu thuốc độc để lát nữa đối phó với Vô Lượng Kiếm. Thôi chúng mình cũng liệu từ từ mà rút lui cho khỏi liên lụy.”

Đoàn Dự phe phẩy quạt, cho là thuyết của Chung Linh không đúng. Chàng nói: “Mối thù nghịch giữa hai phái võ này không thành vấn đề nữa. Phái Vô Lượng Kiếm có giết người Thần Nông Bang thì Dung Tử Củ đã bị sát hại rồi, ấy là chưa kể Cung Quang Kiệt. Như thế là có vay có trả rồi, mà trả nhiều hơn vay nữa là khác. Nếu thế mà còn cho là chưa được công bằng thì đưa lên phủ nha mà kiện để quan phụ mẫu xét xử minh bạch! Sao lại động một tý là cứ giết người phóng hỏa? Thế thì ra trong nước Đại Lý này không còn có vương pháp nữa hay sao?”

Chung Linh tặc lưỡi ba cái rồi giễu cợt nói: “Nghe ngươi nói giọng cứ như hoàng thân quốc thích hay quan phủ quan huyện gì đấy. Dân đen chúng ta chẳng cần gì đến mấy ông ấy đâu.” Nàng ngẩng đầu nhìn trời rồi chỉ về phía tây nam khẽ bảo: “Đợi mây đen che mặt trăng rồi chúng mình từ từ theo phía đó mà rút lui, Thần Nông Bang chắc không phát hiện.” Đoàn Dự nói: “Không được, ta phải đến gặp bang chủ của họ giải thích một phen, không để bọn họ giết người một cách hồ đồ như vậy.”

Ánh mắt Chung Linh lộ vẻ thương hại: “Đoàn huynh! Ngươi thật chả biết trời đất gì cả. Bang Thần Nông nham hiểm vô cùng, quen dùng thuốc độc, mới giết hai người xong chính mắt ngươi cũng thấy. Mình chẳng nên dây vào làm gì, chạy đi là hơn!” Đoàn Dự nói: “Không được, việc này ta không thể không nhúng tay vào. Nếu cô sợ thì đứng đây chờ ta.” Nói xong chàng đứng dậy nhằm hướng đông bước tới.

Chung Linh đợi chàng đi được vài trượng, nhỏm dậy chạy theo, đưa tay phải ra níu lấy vai chàng. Đoàn Dự nghe sau lưng có tiếng chân người toan ngoảnh đầu lại, nhưng Chung Linh đã nắm lấy vai chàng rồi thò chân ra khoèo, Đoàn Dự đứng không vững ngã dập mặt xuống, mũi vập vào một cục đá chảy máu ra. Chàng lóp ngóp đứng dậy, tức giận hỏi: “Cô ác thế? Làm ta ngã đau quá.” Chung Linh cười nói: “Ta muốn thử lần nữa, xem ngươi thực không biết võ hay là giả vờ, để còn tính chuyện giúp ngươi.”

Đoàn Dự hậm hực hỏi lại: “Giúp cái gì?”. Chàng thò tay lên mũi thấy tay đỏ lòm, máu tươi chảy cả xuống ngực. Tuy bị thương nhẹ nhưng máu chảy khá nhiều, chàng xuýt xoa luôn miệng.

Chung Linh cũng hơi lo, vội lấy khăn tay lau máu cho chàng. Đoàn Dự tức mình đưa tay đẩy ra nói: “Không cần cô đấu dịu, ta không chơi với cô nữa đâu!” Chàng không hiểu võ nghệ, đẩy Chung Linh thế nào lại nhè ngay vào ngực cô gái. Nàng không kịp suy nghĩ, tự nhiên đưa tay ra gạt rồi tiện đà hất về phía trước, Đoàn Dự ngã ngửa đánh huỵch một tiếng, ót lại va vào tảng đá, ngất đi.

Chung Linh thấy chàng nằm duỗi thẳng cẳng dưới đất, liền gọi to: “Đoàn huynh dậy mau, ta có chuyện muốn nói đây.” Đoàn Dự vẫn không cựa quậy, nàng hơi hoảng, cúi xuống thấy chàng mắt trợn ngược lên, hơi thở yếu ớt thì biết là chàng ngất đi, liền đưa tay ra ấn vào nhân trung rồi xoa bóp mạnh trên ngực.

Một lúc lâu Đoàn Dự dần dần hồi tỉnh, cảm thấy mình dựa vào một thân hình mềm mại, một làn hương thơm nhẹ nhàng đưa vào mũi. Chàng từ từ mở mắt ra thấy đôi mắt trong trẻo của Chung Linh đang lo lắng nhìn mình, Chung Linh thấy chàng hồi tỉnh, thở dài nhẹ nhõm. Nàng nói: “Chà! Ngươi khỏi chết là may.” Đoàn Dự thấy mình nằm trong lòng Chung Linh, đầu gối ngay lên hông nàng, tâm hồn chàng không khỏi phiêu diêu. Nhưng chàng chợt cảm thấy đau giật từng cơn ở chỗ bị thương, bất giác rên lên: “Ôi chao!”

Chung Linh giật mình hỏi: “Ngươi làm sao vậy?” Đoàn Dự vẫn la: “Ta… ta đau quá!” Chung Linh nói: “Ngươi có chết đâu mà kêu be be lên?” Đoàn Dự đáp: “Thế ta chết rồi liệu còn kêu be be lên được nữa chăng?”

Chung Linh bật cười khúc khích, nàng nâng đầu Đoàn Dự lên xem thì thấy sau gáy có một chỗ sưng vù như quả trứng gà, dù không chảy máu nhưng cũng đau lắm. Nàng giận dỗi nói: “Ai bảo người ra tay khinh bạc hạ lưu, nếu là kẻ khác thì ta giết chết rồi. Ta mới đẩy ngươi ngã còn là phúc đấy.”.

Đoàn Dự lấy làm kỳ, ngồi dậy hỏi: “Ta khinh bạc hạ lưu ư? Đâu có chuyện lạ vậy? Oan uổng cho ta quá!”

Chuyện nam nữ Chung Linh chỉ hiểu lờ mờ, nói là nàng đã cảm thấy cõi lòng rung động thì không đúng, mà bảo nàng chưa biết tí gì thì cũng không phải. Nghe Đoàn Dự nói má nàng ửng hồng rồi ngập ngừng: “Ta không nói với ngươi nữa, tại ngươi không đứng đắn mà ra, ai bảo ngươi nhè chỗ đó… chỗ đó…” Bấy giờ Đoàn Dự mới tỉnh ngộ, biết mình vô ý, tìm lời giải thích, nhưng chàng lúng túng chưa biết nói sao bèn gắng gượng đứng lên.

Chung Linh cũng đứng lên theo, nói: “Lúc ngươi ngất đi làm cho ta bồn chồn lo lắng hết sức.” Đoàn Dự nói: “Lúc ở Kiếm Hồ Cung, nếu không có cô ra tay chắc là ta ăn thêm mấy cái bạt tai, bây giờ cô xô ta té hai lần thế là đủ trả vào đó, thì ra số kiếp ta phải vậy không sao tránh khỏi.” Chung Linh nói: “Ngươi còn giận ta thì phải?” Đoàn Dự nói: “Chứ lại không tức à? Chẳng lẽ cô đánh ta, ta lại hớn hở vui mừng bảo: Cô nương đánh hay quá, tuyệt quá! Dễ thường cô còn muốn người ta tạ ơn cô nữa hẳn?” Chung Linh cầm tay chàng an ủi: “Từ nay trở đi ta không đánh ngươi đâu. Thôi đừng giận nữa!” Đoàn Dự nói: “Không được, trừ phi cô để ta đánh trả hai cái.”

Chung Linh không muốn tí nào, nhưng thấy chàng mặt giận lầm lì, toan quay gót bỏ đi, đành ngoảnh mặt lại nói: “Thôi được, ta để ngươi đánh trả hai cái… nhưng đánh nhè nhẹ thôi nhé!” Đoàn Dự nói: “Đã đánh là phải đánh thật nặng mới gọi là rửa hận. Ta không nhẹ đòn được đâu. Cô bảo ta nhẹ đòn thì thà thôi đi, đừng cho đánh nữa.”

Chung Linh thở dài rồi nhắm mắt lại nói khẽ: “Thôi được. Ngươi đánh rồi đừng giận nữa nhé!”

Nàng đứng khá lâu mà chưa thấy Đoàn Dư hạ thủ, lại mở mắt ra thấy Đoàn Dự nửa tươi cười, nửa nghiêm trang, cứ nhìn mình chòng chọc. Chung Linh lấy làm kỳ hỏi: “Sao ngươi không đánh?” Đoàn Dự giơ ngón tay út búng nhè nhẹ vào hai bên má nàng, rồi cười mà nói rằng: “Đánh hai đòn này cô có đau lắm không?” Chung Linh cả mừng, cười nói: “Ta biết ngươi tử tế lắm mà!”

Đoàn Dự thấy nàng đứng trước mặt mình, cách nhau không đầy một thước, hương lan thoang thoảng, càng nhìn càng thấy nàng đẹp nên không muốn rời ra. Hồi lâu chàng mới nói: “Đại cừu đã báo, bây giờ ta sang chỗ lão bang chủ Tư Không Huyền đây.”

Chung Linh vội nói: “Chàng ngốc ơi! Không đi được đâu! Ngươi không hiểu tí gì về lề luật giang hồ, lỡ ra phạm vào điều húy kỵ của họ thì ta không cứu nổi.” Đoàn Dự lắc đầu cười nói: “Cô không cần gì phải lo cho ta, ta chỉ đi một lát sẽ trở lại ngay. Cô cứ đây chờ.” Nói xong chàng hùng dũng lên đường, nhằm phía có khói xanh thẳng tiến.

Chung Linh gọi giật giọng bảo chàng trở lại nhưng chàng không trả lời. Nàng ngơ ngẩn một hồi rồi nói: “Được rồi! Ngươi đã bảo có hạt dưa cùng ăn, gặp gươm đao cùng chịu.” Nàng đuổi theo cùng sánh vai Đoàn Dự ra đi, không khuyên can nữa.

Hai người đi khoảng cạn tuần trà thì thấy hai gã to lớn mặc áo vàng chạy ra đón đường. Gã đi bên trái nhiều tuổi hơn quát hỏi: “Ai đó! Đến đây có việc chi?” Đoàn Dự thấy hai gã đều vai vác bọc thuốc, tay cầm đao rộng bản, chàng đáp: “Tại hạ tên Đoàn Dự, có việc muốn vào ra mắt Tư Không bang chủ.” Lão già hỏi: “Có việc gì?” Đoàn Dự nói: “Để tại hạ yết kiến bang chủ, sẽ xin trình bày.” Lão già lại hỏi: “Các hạ thuộc môn phái nào? Tôn sư đại hiệu là gì?”

Đoàn Dự đáp: “Ta không ở môn phái nào cả. Sư phụ ta là Mạnh Thuật Thánh, tên tự Kế Nho. Người chuyên nghiên cứu các sách cổ văn về Dịch lý, Thuyết quái, Hệ từ đến chỗ thâm sâu.” Sư phụ mà Đoàn Dự nói đây là ông thầy chàng đọc sách làm văn, nhưng lão già nghe thấy chàng nói Dịch lý Hệ từ chi chi đó tưởng là những môn võ công kỳ lạ, lại thấy chàng cầm quạt phe phẩy tựa hồ một tay võ nghệ tuyệt luân, cố ý giấu tài nên lão không dám coi thường, có nghĩ mãi trong võ lâm có nhân vật nào tên là Mạnh Thuật Thánh mà không sao nghĩ ra được. Đối phương đã dám khoe “đến chỗ thâm sâu” thì chắc là không phải nói chơi. Nghĩ vậy lão liền bảo Đoàn Dự: “Xin Đoàn thiếu hiệp, chờ cho một chút, để ta vào báo trước!”

Lão già băng băng chạy đi, quanh khuất vào sườn núi rồi, Chung Linh mới bảo Đoàn Dự: “Ngươi ba hoa gạt lão về môn Thuyết quái Thuyết quỉ gì gì đó, đến lúc gặp lão Tư Không Huyền mà bị y khảo sát, ta e rằng khó lòng che mắt y được.” Đoàn Dự nói: “Cô khỏi lo! Chu Dịch ta học thuộc làu, sách này lời ít mà nghĩa nhiều. Tư Không Huyền muốn so với ta về môn này vị tất đã hơn.” Chung Linh ngơ ngác không sao đáp lại.

Lão già nét mặt hầm hầm quay lại hỏi: “Ngươi nói ba hoa những gì? Bang chủ ta gọi người vào đó!” Cứ xem thái độ của lão cũng biết lão vừa bị Tư Không Huyền cạo cho một trận. Đoàn Dự gật đầu, cùng Chung Linh theo lão đi vào.

Ba người đi một lát đến một hốc núi, thấy giữa những tảng đá lớn ngổn ngang có chừng hai mươi người ngồi quây quần với nhau. Đoàn Dự tiến lên, trông thấy giữa đám người này có một lão già nhỏ bé gầy còm ngồi trên một tảng đá cao; dưới cằm quặp xuống một chòm râu dê, nét mặt đầy vẻ ngạo nghễ, chắc đó là Tư Không Huyền, bang chủ Thần Nông Bang. Chàng liền chắp tay vái chào nói: “Tại hạ là Đoàn Dự xin có lời chào bang chúa.”

Tư Không Huyền chỉ khẽ gật đầu, không thèm đứng dậy, cất tiếng hỏi: “Các hạ tới đây có việc gì?” Đoàn Dự đáp: “Nghe nói quý bang cùng Vô Lượng Kiếm kết mối thâm thù. Hôm nay chính mắt tại hạ đã thấy hai người bên phái Vô Lượng Kiếm bị thảm tử, vì động mối thương tâm nên đến đây có đôi lời khuyên giải. Tại hạ trộm nghĩ rằng: Oan cừu nên gỡ ra chứ chẳng nên buộc vào, vả lại gây cuộc giao đấu, chém giết là trái phép nước, việc đến tai quan lại càng rắc rối. Vậy xin Tư Không bang chủ kìm ngựa trước vực sâu, cấp tốc quay về, không nên gây thêm cừu oán cùng Vô Lượng Kiếm nữa!”

Tư Không Huyền tỏ vẻ lãnh đạm không nói nửa lời, đưa mắt nhìn ra chỗ khác.

Đoàn Dự lại nói tiếp: “Tại hạ nói toàn là những lời phế phủ, bang chủ thử nghĩ kỹ xem!” Bấy giờ Tư Không Huyền mới nhìn Đoàn Dự bằng con mắt tò mò, rồi đột nhiên ngửa mặt lên trời, cười ha hả nói: “Gã tiểu tử kia là ai mà dám đến đùa cợt lão gia? Ai sai ngươi đến đây?” Đoàn Dự đáp: “Không có ai sai tôi cả, đó là tự ý tôi đến nói với ông mà thôi.”

Tư Không Huyền hừ một tiếng rồi nói: “Lão gia bôn tẩu giang hồ bốn mươi năm trời, chưa từng thấy đứa nhỏ nào to gan lớn mật ăn nói càn rỡ như ngươi. A Thắng đâu! Bắt lấy cả hai đứa nhỏ này cho ta!” Một gã đại hán đứng bên vâng dạ, đưa tay ra nắm lấy cánh tay Đoàn Dự.

Chung Linh vội la lên: “Tư Không bang chúa hãy khoan! Đoàn tướng công đem lời hay lẽ phải ra khuyên nhủ, ngươi không nghe thì thôi, sao lại giở trò ngang ngược?” Nàng quay lại bảo Đoàn Dự: “Đoàn đại ca! Thần Nông Bang không nghe lời đại ca, mình chẳng hơi đâu mà can thiệp việc người nữa. Chúng ta đi thôi.”

A Thắng đã đưa bàn tay khổng lồ ra bẻ hai tay Đoàn Dự quặt ra sau lưng giữ chặt, mắt đăm đăm nhìn Tư Không Huyền chờ lệnh. Tư Không Huyền mặt lạnh như tiền nói: “Thần Nông Bang không ưa những kẻ xía vào công việc của mình. Hai đứa con nít chưa ráo máu đầu kia giở giọng dạy đời, lại tưởng muốn đến là đến, muốn đi là đi, đâu phải chuyện dễ dàng như thế được? A Hồng đâu! Bắt trói con bé này lại!” Một tên đại hán khác vâng lời đưa tay ra bắt Chung Linh.

Chung Linh xoay mình một cái, lui xa ba bước nói: “Tư Không bang chúa! Ta há sợ gì ngươi? Ta sợ là sợ gia gia ta quở trách sao lại ra ngoài gây sự mà thôi. Ngươi bảo chúng tha ngay Đoàn đại ca, đừng có ép ta ra tay càng thêm bất tiện.”

Tư Không Huyền cả cười nói: “Ha ha! Con nhỏ này thế mà khoác lác. A Hồng, chờ gì nữa mà chưa động thủ?” A Hồng “vâng” một tiếng, đưa tay ra chộp Chung Linh. Chung Linh co tay phải lại, tay trái đánh vụt ra, cạnh bàn tay sắc như dao nhằm cổ A Hồng chém tới. A Hồng cúi đầu xuống tránh, tay phải Chung Linh nhanh như điện chớp hất ngược lên đánh binh một tiếng trúng vào cằm A Hồng. Tức thì cây thịt nặng mấy trăm cân ngã xuống đất, ngửa mặt lên trời, không sao dậy được nữa.

Tư Không Huyền vẫn tỏ vẻ khinh khỉnh nói: “Con bé này cũng võ vẽ được vài miếng, nhưng muốn đến Thần Nông Bang giở trò thì chưa đủ đâu.” Lão nhìn sang mé bên, đưa mắt ra hiệu cho một lão già cao mà gầy như que củi. Y chẳng nói chẳng rằng bước tới. Lão cao hơn Chung Linh đến hai thước, từ trên cao đánh xuống, mười đầu ngón tay nhọn như vuốt chim ưng chộp vào đầu vai Chung Linh.

Chung Linh thấy thế đánh hung hãn liền né sang một bên, năm ngón tay trái lão cao nghều lướt qua má nàng, còn cách chừng năm tấc mà đã cảm thấy một luồng gió cực mạnh. Nàng giật mình kinh hãi la lên: “Tư Không bang chúa! Ngươi có bảo lão dừng tay không? Ta nói thật, nếu ngươi cứ để hắn làm già thì đừng trách ta là không biết điều. Sau này cha mẹ quở trách ta, ngươi cũng chẳng sung sướng gì đâu!” Trong khi nàng nói thì lão cao nghều đã ra ba chiều, nàng đều tránh khỏi, chỉ cách chừng sợi tóc, Tư Không Huyền cả tiếng quát: “Sao không chụp lấy nó?”.

Lão cao nghều vung tay trái đánh xéo tới, tay phải xoay vòng tròn chụp xuống rồi nắm được tay phải Chung Linh. Nàng kêu lên một tiếng kinh hồn, đau đến tái mặt. Trong cơn nguy cấp, nàng vẫy tay trái một cái, miệng huýt một tiếng, chỉ thấy bạch quang lấp loáng, lão cao nghều rú lên rồi buông nàng ra, ngồi phịch xuống đất. Thiểm điện điêu nhảy ra đớp trúng mu bàn tay lão một miếng xong lại nhảy về nằm trong bàn tay Chung Linh.

Một gã đứng tuổi đứng bên cạnh Tư Không Huyền liền tung mình nhảy ra, đưa tay nâng lão cao nghều dậy, thấy khắp mình lão run bần bật, mu bàn tay có một vầng đen mỗi lúc một loang to ra. Chung Linh huýt lên tiếng nữa, thiểm điện điêu lại nhảy ra, lướt tới trước mặt gã A Thắng đang túm lấy Đoàn Dự. Gã đưa tay lên toan gạt ra, liền bị đớp ngay vào cạnh bàn tay. Võ công gã này còn kém lão cao nghều, không chịu đựng nổi, thân thể co quắp, rên rỉ luôn miệng. Chung Linh nắm tay Đoàn Dự kéo đi, khẽ bảo: “Nguy đến nơi rồi, phải chạy cho mau!”

Những tên đứng xung quanh Tư Không Huyền đều là hảo thủ trong Thần Nông Bang. Bọn này sinh nhai bằng nghề chế thuốc, bất luận rắn rết gì, nọc độc thể nào chúng đều hiểu rõ. Tuy nhiên con chồn này nhanh như ánh chớp, nọc độc của nó cực kỳ nguy hiểm, bọn này lại không biết tí gì. Tư Không Huyền cũng phải giật mình kêu lên: “Mau ra bắt con nhãi ranh này, chớ để nó chạy thoát.” Bốn gã đại hán vội nhảy xổ ra, chia hai bên sấn vào.

Chung Linh luôn miệng huýt còi, con thiểm điện điêu nhảy từ gã nọ sang gã kia. Chỉ trong chớp mắt nó đã đớp hết cả bốn, gã nào gã nấy lăn ra co quắp giày giụa.

Bang chúng Thần Nông Bang tuy khiếp sợ nhưng trước mặt bang chúa không dám rụt đầu, bảy tám tên la hét xông ra. Chung Linh gọi to lên: “Đứa nào muốn sống thì đừng lại gần!” Mấy tên này kẻ thì cầm cuốc xuổng, kẻ khác lại cầm đoản đao bản rộng, thảy đều vung lên đón đỡ. Nhưng con chồn nhỏ này còn lẹ hơn ám khí, đao kiếm cứ việc đâm chém, nó vẫn lăn xả vào mà chẳng ai chém trúng. Vèo một cái nó đã đớp trúng, cả bảy tám kẻ địch ngã lăn kềnh.

Tư Không Huyền vén áo lấy một bình thuốc nước, đổ ra lòng bàn tay, thoa từ khuỷu tay trở xuống, đoạn nhảy ba bước đến trước mặt Chung Linh cùng Đoàn Dự, cất tiếng khàn khàn quát: “Đứng lại!”

Con thiểm điện điêu từ bàn tay Chung Linh nhảy vọt lên vỗ vào sống mũi Tư Không Huyền. Tư Không Huyền giơ thắng bàn tay lên đỡ, trong lòng vẫn lo thầm: không hiểu thứ thuốc kỵ rắn bí chế của mình đối với con chồn kỳ quái này có ăn thua gì không? Nếu không hiệu nghiệm thì chẳng những tính mạng lâm nguy mà cả Thần Nông Bang cũng bị tan tành. Con chồn há miệng toan đớp vào lòng bàn tay Tư Không Huyền, song đột nhiên quay lộn đầu trở lại, dùng chân sau chống vào bàn tay lão để lấy đà nhảy tót về. Dù cơ thể thiểm điện điêu tích đầy nọc rắn nhưng thứ thuốc kỵ rắn bí chế của Tư Không Huyền cũng cực kỳ linh nghiệm, mùi xông ra mạnh quá, con chồn không chịu nổi. Tư Không Huyền cả mừng đưa tay trái đánh vù một cái, phát ra một luồng gió mạnh ghê gớm, Chung Linh tránh không kịp lảo đảo suýt ngã. Bỗng nghe đánh huỵch một tiếng, thì ra Đoàn Dự bị dư lực luồng gió quạt ngã lăn xuống đất, ngửa mặt lên trời.

Chung Linh cả kinh, chúm miệng huýt luôn mấy tiếng huy động con thiểm điện điêu xông trận. Con chồn mấy lần cố xông vào nhưng bàn tay Tư Không Huyền đã xát thuốc kỵ rắn, nó phải tìm chỗ khác như đầu, đùi để cắn. Tư Không Huyền múa tít song chưởng để trấn áp con vật không cho đến gần.

Tư Không Huyền liên tiếp ra lệnh cho thủ hạ. Mấy chục tên đồ đệ kéo ra vây bốn mặt. Tên nào cũng cầm cây, cỏ dược liệu ra đốt, một làn khói đặc bốc lên ngùn ngụt, Đoàn Dự vừa đứng dậy được, đầu nhức lạ thường, tối tăm mặt mũi lại ngã lăn ra. Trong lúc mê man chàng thấy Chung Linh cũng lảo đảo ngã theo. Hai tên thủ hạ bang Thần Nông chạy đến định bắt Chung Linh, thiểm điện điêu cố tình cứu chủ vội xông lại đớp mỗi tên một miếng. Cả bọn vây quanh bốn phía, quát tháo om sòm nhưng không dám xông vào hạ thủ.

Tư Không Huyền hô: “Mé đông đốt hùng hoàng, mé nam đốt xạ hương! Còn các người ở mé tây bắc giãn ra!”

Bang chúng vâng lệnh đốt xạ hương, hùng hoàng. Thần Nông Bang có đủ mọi thứ thuốc tốt, cách chế biến lại rất tinh vi. Thứ hùng hoàng, xạ hương này thuần chất và rất mạnh, đốt lên phát ra một luồng khói dày đặc cay xè theo chiều gió đông nam thổi về phía Chung Linh. Chẳng ngờ những thứ thuốc kỵ rắn này không làm gì nổi thiểm điện điêu. Nó vẫn tung hoành lanh lợi như thường, chỉ nháy mắt đớp luôn năm tên.

Tư Không Huyền bóp trán nghĩ ra một kế, hô lớn: “Xúc đất cho mau, đổ lấp chôn sống con nhãi ranh kia lẫn con chồn!” Thần Nông Bang chuyên nghề kiếm dược liệu lúc nào cũng mang đủ xẻng, cuốc, thúng, mủng, lập tức đào từng khối đất lớn nhằm chỗ Chung Linh hất lên tới tấp.

Lúc ấy Đoàn Dự nghĩ: tai vạ này tự mình gây nên, nếu Chung Linh bị chôn sống thì mình còn sống làm gì nữa? Chàng hùng hổ nhảy vào ôm lấy nàng, nằm đè lên trên, miệng hô lớn: “Rút cục ai mà chẳng chết!”

Đất đá đổ xuống ầm ầm lấp lên người chàng. Tư Không Huyền vẳng nghe câu chàng la: “Rút cục ai mà chẳng chết!” không khỏi động lòng, ngó lại hai mươi tên đồng đảng đang nằm quằn quại, trong đó có đến bảy tám tên quan trọng cùng hai sư đệ của mình. Lão nghĩ thầm: nếu giết con nhỏ này đi cho hả giận thì làm thế nào để cứu sống bọn thủ hạ của mình? Nọc độc con chồn này đâu phải tầm thường, chúng khó lòng thoát chết. Trừ phi được chính cô ta cứu chữa cho mới được, ngoài ra không còn cách nào. Nghĩ vậy lão liền truyền lệnh: “Đừng để cho hai đứa này chết ngay, không được lấp kín đầu chúng!”

Đất đá lấp đến cổ, Chung Linh không còn hơi sức để cử động được nữa, chỉ thấy trên mình bị đè nặng vô cùng. Đoàn Dự ôm lấy nàng, cả hai đành chịu nằm im, đầu còn thò ra nhưng không nhúc nhích được.

Tư Không Huyền khinh khỉnh hỏi Chung Linh: “Mi muốn sống hay muốn chết?” Chung Linh đáp: “Dĩ nhiên là ta muốn sống. Nếu ngươi sát hại Đoàn đại ca cùng ta thì vô số đứa trong bọn ngươi cũng không sống được đâu.” Tư Không Huyền nói: “Lấy thuốc giải độc của mi đưa ra đây thì ta sẽ tha mạng cho.” Chung Linh lắc đầu nói: “Ngươi tha một mình ta không đủ, phải tha cả hai mạng.” Tư Không Huyền nói: “Thôi được, ta sẽ thả cả hai đứa, thuốc giải độc đâu?” Chung Linh nói: “Hiện trong mình ta không có. Con thiểm điện điêu này độc vô cùng, chỉ có cha ta mới trị được thôi. Trước ta đã bảo ngươi rồi, đừng bức bách ta phải động thủ. Gây ra chuyện lôi thôi, cha ta sẽ quở trách ta thì cái mạng ngươi cũng chẳng tốt lành gì.” Tư Không Huyền cả tiếng mắng: “Con nhãi ranh này! Thân mi đến thế mà còn ăn nói hỗn láo, lão gia mà giận lên sẽ để mi thế này mà chết đói.”

Chung Linh nói: “Ta đã nói thực mà mi không tin. Ôi thôi! Chuyện này hỏng bét. Không thể che mắt cha ta được đâu, bây giờ biết làm thế nào?” Tư Không Huyền hỏi: “Cha mi tên họ là gì?” Chung Linh đáp: “Ngươi đã bấy nhiêu tuổi đầu mà còn không thông tình lý. Đời nào ta lại nói tên cha ta cho ngươi biết?”

Tư Không Huyền vùng vẫy giang hồ đã mấy mươi năm, tiếng tăm lừng lẫy trong võ lâm, nay gặp phải hai đứa con nít mà chịu bó tay, không làm gì được.

Lão nghiến răng thét lên: “Đem lửa ra đây cho ta đốt tóc con nhãi ranh này, xem nó có khai tên cha nó không?” Một tên cầm bó đuốc đưa đến. Tư Không Huyền cầm lấy bước tới.

Chung Linh nhìn mặt lão dưới ánh lửa bập bùng lại càng hung dữ, nàng sợ phát khiếp la lên: “Trời ơi! Ngươi chớ đốt tóc ta, tóc cháy thì đầu sẽ bị đau lắm. Ngươi không tin thì hãy thử đốt chòm râu dê của người coi!” Tư Không Huyền cũng phải phì cười nói: “Đã đốt là phải đau, hà tất còn phải đốt thử râu nữa?” Lão cầm bó đuốc dứ dứ vào mặt Chung Linh. Chung Linh sợ quá kêu thét lên.

Đoàn Dự ôm chặt lấy nàng la lớn: “Lão râu dê kia! Chuyện này là tại ta gây ra, ngươi đốt đầu ta đây này!” Chung Linh nói: “Chớ chớ! Đau lắm ngươi không chịu nổi đâu!” Tư Không Huyền nói: “Mi đã sợ đau sao không đưa thuốc giải độc ra để cứu bọn ta?”

Chung Linh nói: “Ngươi thật là thằng ngốc! Ta đã bảo rằng chỉ có cha ta mới trị nổi nọc độc con thiểm điện điêu, đến mẹ ta còn không hiểu. Ngươi tưởng dễ lắm sao?”

Tư Không Huyền lại nghe tứ phía đều có tiếng người rên rỉ cực kỳ thê thảm thì nghĩ thầm: đây là loại độc vật kỳ dị, làm nhức nhối phi thường, không thì làm gì bọn hảo hán này phải rên xiết như thế? Cả những khi phải chặt cụt tay chân họ còn có thể nghiến răng chịu đựng. Bọn này đã được đồng bọn đem thuốc trừ rắn độc thoa đắp, song vẫn rên la hoài. Rõ ràng là thuốc của mình chỉ công hiệu với rắn rết, bò cạp, nhện độc, còn đối với con chồn này chẳng ăn thua gì. Lão nghĩ vậy căm giận vô cùng, trừng mắt nhìn Chung Linh quát hỏi lần nữa: “Cha mi là ai? Phải nói cho mau!” Chung Linh đáp: “Người cố tình muốn biết ư ? Thế ngươi không sợ sao?”

Tư Không Huyền giận lắm, tay lão giờ bó đuốc chỉ còn cách đầu Chung Linh chừng một thước, bất thình lình lão cảm thấy sau gáy nhói lên. Tư Không Huyền sợ hết hồn vội vận khí ra trấn giữ trái tim, vứt bỏ đuốc xuống đất, thò tay phải về phía sau bóp chặt gáy. Bỗng nhiên cườm tay lại thấy tê nhức, thì ra con thiểm điện điêu bị vùi trong đám đất từ nãy, lách mãi bò ra được, nhân lúc kẻ thù của chủ nó không kịp để phòng nhảy đến lớp. Tư Không Huyền liên tiếp bị cắn luôn hai miếng thì chẳng còn hồn vía nào nữa, ngồi xếp bằng xuống đất, vận công trừ độc.

Thủ hạ trong Thần Nông Bang vội xúc đất đổ lên mình con thiểm điện điêu. Con chồn xông lên đớp ngã một tên nữa rồi chạy trốn, chui vào đám cỏ rậm, chỉ thấy ánh trắng nhấp nháy mấy cái trong bóng tối rồi mất hút.

Những kẻ tả hữu Tư Không Huyền vội lấy thuốc chữa rắn độc trong uống, ngoài thoa, chạy chữa cho chủ, lại lấy Dã sơn sâm nhét vào miệng cho lão thêm khí lực. Đồng thời Tư Không Huyền đề khí trấn áp hai chỗ vết cắn. Nhưng chỉ một lát không chịu nổi nữa, tay trái lão rút đoản đao ra nghiến răng chém một nhát, cổ tay phải đứt lìa rơi ra. Bọn thủ hạ đều ghê rợn hãi hùng, vội lấy thuốc kim sang rịt vào. Nhưng máu tuôn ra như suối, thuốc rịt vào lại bị trôi đi. Một tên xé vạt áo ra sức buộc chặt cánh tay chủ, máu chảy ra từ từ rồi ngừng hẳn. Thật là: “Muốn ngăn nọc độc, tráng sĩ chặt tay”. Song cổ tay chặt bỏ đi còn được, chứ vết cắn sau gáy thì không thể chặt bỏ đầu.

Chung Linh thấy cảnh rùng rợn này cũng phải phát khiếp, mặt tái mét, không dám lên tiếng. Tư Không Huyền cất giọng trầm trầm hỏi: “Bị con chồn độc đó cắn thì còn sống được bao lâu?” Chung Linh ấp úng đáp: “Cha tôi nói là chỉ bảy ngày. Nhưng… nhưng Tư Không bang chủ nội lực thâm hậu, võ công hơn người, chắc là… thêm được mấy ngày nữa.”

Tư Không Huyền hừ một tiếng, sai thủ hạ: “Đem thằng nhỏ ra đây!” Bang chúng vâng lời, bới đống đất đá lôi Đoàn Dự ra. Chung Linh vội kêu lên: “Đừng, đừng! Việc này không can dự gì đến Đoàn huynh, đừng gia hại đến y.” Nàng vừa nói vừa toan vùng dậy. Bọn Thần Nông Bang vội xúc đất lấp lên lỗ hổng chỗ Đoàn Dự khi nãy. Chung Linh lại không cựa quậy được nữa, khóc rống lên.

Chính Đoàn Dự tuy trong lòng cũng sợ hãi vô cùng nhưng ngoài mặt vẫn gượng trấn tĩnh, mỉm cười nói: “Chung cô nương! Đại trượng phu coi chết như về. Trước mặt đám ác ôn này ta không nên tỏ ra khiếp nhược.” Chung Linh vừa khóc vừa nói: “Ta không phải là đại trượng phu. Ta không coi chết như về đâu. Ta cứ tỏ ra khiếp nhược thì đã sao?”

Tư Không Huyền vẫn một giọng trầm trầm sai thủ hạ: “Các ngươi lấy Đoạn trường tán cho thằng nhỏ này uống, phân lượng bảy ngày.” Một tên bang chúng lấy ra thứ thuốc tán sắc đỏ bắt Đoàn Dự uống nửa bình. Chung Linh vội kêu lên: “Thuốc độc đó, chớ uống!” Đoàn Dự nghe thấy tên Đoạn trường tán đã biết ngay là thuốc độc, nhưng nghĩ mình đã ở trong tay người, không uống cũng không xong. Chàng thản nhiên cầm lấy uống, còn chép chép miệng cười nói: “Thuốc ngon ngọt lắm. Tư Không bang chủ cũng uống nửa bình chăng?”

Tư Không Huyền cả giận hừ một tiếng. Chung Linh đang nước mắt ròng ròng cũng phải phì cười nhưng rồi nàng lại bật tiếng khóc ngay.

Tư Không Huyền nói: “Thuốc đoạn trường tán này uống sau bảy ngày chất độc mới phát tác, làm cho ruột đứt từng khúc mà chết. Bây giờ mi phải đi lấy thuốc giải nọc chồn độc, trong bảy ngày về kịp thì ta sẽ giải độc cho mi.” Chung Linh nói: “Chỉ uống thuốc giải không chưa đủ, phải có cha ta vận nội công mới giải được nọc độc con thiểm điện điêu.” Tư Không Huyền nói: “Nếu vậy y phải mời cho được cha mi tới đây giải cứu mi chứ sao.” Chung Linh nói: “Ngươi nói dễ nghe thế, cha ta có chịu ra khỏi núi bao giờ đâu. Ông ấy đã quyết định không rời khỏi cửa hang nửa bước.” Tư Không Huyền trầm ngâm không nói nữa.

Đoàn Dự nói: “Thế thì chúng ta kéo cả đến nhà Chung cô nương xin tôn đại nhân giải cứu cho có mau hơn không?” Chung Linh gạt đi: “Không được! Cha ta đã có lời nguyền: bất luận kẻ nào bước chân vào hang núi nhà ta nhất định phải chết.”

Tư Không Huyền nghĩ thầm: “Chuyện của Vô Lượng Kiếm còn chưa xong, ta làm sao rời nơi đây được. Nếu hỏng việc thì Thiên Sơn Đồng Mỗ trị tội còn thảm hại hơn cả chết.” Y thấy chỗ sau gáy bị chồn cắn mỗi lúc một thêm nhức nhối, ngứa ngáy, nhịn không nổi phải rên lên.

Chung Linh nói: “Tư Không bang chủ, xin lỗi nhé!”. Tư Không Huyền bực tức đáp: “Xin lỗi cái con khỉ mốc.” Đoàn Dự nói: “Tư Không bang chủ, sao ông lại nói năng với Chung cô nương thô bỉ như thế, mất hết phong độ của người quân tử.”

Tư Không Huyền quát lớn: “Quân tử cái con bà mày!” Ynghĩ thầm: “Trên người ta đã cấy Sinh Tử Phù rồi, khi phát tác ra khổ sở biết chừng nào, chi bằng chết ngay lúc này cho xong”, bèn dịu giọng nói với Chung Linh: “Ta còn nhiều việc phải làm, ngươi không đi mời cha ngươi được, thôi thì cả bọn cùng chết vậy.” Giọng của y nghe thật thê thảm, quả là “mình lại thương mình xót xa”.

Chung Linh nghĩ một lúc rồi bảo: “Ngươi thả ta ra để ta viết thư mời cha ta đến đây cứu ngươi. Ngươi cho đứa nào không sợ chết cầm thư đi.” Tư Không Huyền đáp: “Ta bảo thằng nhỏ họ Đoàn này đi, hà tất phải sai ai?” Chung Linh nói: “Ngươi không nhớ gì cả. Ta đã bảo: bất luận kẻ nào hễ bước chân vào nhà ta đều phải chết mà. Ta không muốn Đoàn đại ca chết, nghe chưa?” Tư Không Huyền vẫn lạnh lùng nói: “Y không đáng chết, thủ hạ ta lại đáng chết sao? Tùy bọn người, không đi thì thôi, rồi xem ai chết trước.”

Chung Linh nghẹn ngào nói: “Lão già râu dê kia! Ngươi bắt nạt trẻ con không biết xấu. Chuyện này giang hồ đồn ra thì ai cũng biết bang chủ Thần Nông Bang hành vi đê mạt, không phải anh hùng hảo hán.”

Tư Không Huyền chỉ để tâm vận nội công ngăn ngừa nọc độc, không thèm để ý cô ta nữa.

Đoàn Dự khẳng khái nói: “Chỉ vì ta không ra gì. Chung cô nương ơi, lệnh tôn thấy ta đến gọi đi cứu cô nướng tất không gia hại đâu.” Chung Linh đột nhiên lộ vẻ vui mừng nói: “Ta nghĩ ra một kế. Ngươi đừng nói rõ với cha ta là ta ở đâu, nếu giết người đi thì ông không biết đâu mà tìm ta. Khi người đưa cha ta tới đây rồi phải chuồn đi tức khắc, không thì người sẽ nát ra như cám đó.” Đoàn Dự gật đầu: “Kế đó hay lắm.”.

Chung Linh nói với Tư Không Huyền: “Tư Không bang chủ, Đoàn đại ca đưa cha ta về đây là phải trốn ngay, làm sao ngươi đưa thuốc giải đoạn trường tán cho Đoàn đại ca được?” Tư Không Huyền trỏ tay về một tảng đá ở góc tây bắc nói: “Ta phái người đem thuốc giải ra chờ ở đó, Đoàn huynh đệ chạy trốn đến phía sau tảng đá này, sẽ có người đưa cho.” Tư Không Huyền thấy Đoàn Dự chịu đi mời người cứu mạng cho bọn lão, cách xưng hô đã đổi ra chiều nhã nhặn. Lão truyền lệnh cho thủ hạ moi Chung Linh ra, lấy xích sắt trói hai tay nàng lại rồi mới cào nốt chỗ đất lấp dưới chân.

Chung Linh hỏi: “Ngươi không cởi trói tay làm sao ta viết thư được?” Tư Không Huyền đáp: “Con bé điêu ngoa này, việc gì phải viết thư? Lại định giở trò đấy chứ gì? Cô cứ đưa đồ vật gì giắt bên mình cho Đoàn huynh đệ cầm đi làm tin là mời được lệnh tôn ngay.”

Chung Linh cười nói: “Ta rất ghét viết thư. Ngươi bảo ta khỏi viết thì còn gì bằng? Nhưng ta có vật gì để cầm đi làm tin đâu? À phải! Đoàn đại ca gỡ lấy đôi giày của ta, cha mẹ ta thấy là biết ngay.”

Đoàn Dự gật đầu, cúi xuống tháo đôi giày của nàng ra, tay trái giở gót chân, thấy bàn chân nàng nhỏ nhắn, vừa cầm tới đã thấy trong lòng rung động, ngửng đầu nhìn lên, hai người nhìn nhau mỉm cười. Trong ánh lửa bập bùng, Đoàn Dự thấy khuôn mặt nàng rạng rỡ, tuy trên má có điểm mấy giọt lệ nhưng ánh mắt đầy vẻ vui tươi, khiến chàng như ngây như dại.

Tư Không Huyền thấy thế vội giục: “Thôi đi mau, đi mau, hai cô cậu ngắm nhau biết đến bao giờ? Đoàn huynh đệ, ngươi mau đi mời người tới đây, ta sẽ thả cô bé này cho ngươi lấy làm vợ. Sau này ngày rộng tháng dài, ngươi muốn sờ chân nàng suốt đêm cũng được.”

Đoàn Dự và Chung Linh hai người mặt đỏ bừng, chàng vội cởi đôi giày hoa dưới chân cô gái bỏ vào túi, không nhịn nổi lại liếc Chung Linh một cái, nàng khúc khích bật cười.

Tư Không Huyền nói: “Đoàn huynh đệ đi chóng mà về. Tính mạng bọn ta nguy trong sớm tối, nếu dọc đường còn xảy chuyện rắc rối là chết ráo. Chung cô nương, từ đây đến quý phủ, vừa đi vừa về mất độ mấy ngày? Chung Linh nhi: “Nếu đi nhanh thì chỉ mất hai ngày là tới, bốn ngày về lại đây.” Tư Không Huyền thấy hơi yên dạ lại giục: “Thôi lên đường đi!”

Chung Linh nói: “Ta còn phải dặn đường đi lối về cho Đoàn đại ca, các ngươi hãy tránh đi, không ai được nghe trộm đấy nhé!” Tư Không Huyền vẫy tay, bang chúng đều tránh ra. Chung Linh nói: “Cả ngươi nữa, tránh đi cho ta dặn Đoàn huynh!” Tư Không Huyền ngấm ngầm nghiến răng, đứng dậy vừa đi vừa nguyền rủa: Chờ ta khỏi vết thương rồi sẽ liệu tính cho mi. Nếu để mi yên lành chẳng hóa ra Tư Không Huyền này sống uổng hay sao?

Chung Linh thở dài nói: “Đoàn đại ca, đôi ta vừa gặp gỡ đã phải chia tay rồi.” Đoàn Dự cười nói: “Vừa đi, vừa về bốn ngày có là mấy”.

Chung Linh nhìn chàng chăm chăm một hồi rồi nói: “Chàng tới nơi phải vào ra mắt mẹ ta, đem chuyện thuật cho người nghe, để mẹ ta nói với cha ta, thế thì dễ hơn.” Nàng giơ ngón chân nhỏ xíu vạch rõ đường lối trên mặt đất. Nhà nàng ở tây ngạn sông Lan Thương, trong hang núi. Kể đường sá cũng chẳng bao xa, nhưng địa thế rất hiểm trở, qua khỏi cửa lại còn mấy ám hiệu, nếu không được chỉ dẫn cặn kẽ thì người ngoài quyết không vào đến nơi được. Đoàn Dự có trí nhớ rất tốt, chàng nghe Chung Linh nói những ngã đường chuyển động qua tây, rẽ nam ngược bắc nhất nhất ghi vào lòng. Chung Linh dặn xong, chàng nói: “Thế là xong rồi chứ? Ta đi nhé!” Nói xong trở gót đi liền.

Chàng đi được mươi bước, Chung Linh chợt nhớ ra điều gì gọi giật lại: “Chàng hãy trở lại đây!” Đoàn Dự hỏi: “Còn gì nữa?” rồi quay trở lại. Chung Linh dặn: “Chàng chớ nói thực họ Đoàn, nhất là phải giấu kín chuyện cha chàng biết Nhất Dương Chỉ, để… để cha ta khỏi nghĩ ngợi.” Đoàn Dự cười nói: “Được rồi!” Chàng nghĩ bụng cô nương này tuy còn nhỏ tuổi mà bụng dạ thật sâu sắc, cao hứng cất tiếng hát, hiên ngang ra đi.

(*) Ở những trường hợp xét thấy cần thiết, chúng tôi đặt lại tên hồi để bạn đọc tiện theo dõi. (ND)

Hồi 02: Lời nguyền ở Vạn Kiếp cốc

Lúc đó trời vừa tối, trăng mới mọc. Đoàn Dự nhờ ánh trăng trông về hướng tây tiến bước. Tuy chàng không có võ công nhưng tuổi còn trẻ, sức lực dồi dào, chân thoăn thoắt bước mau. Được chừng mười dặm, đến sau ngọn cao nhất núi Vô Lượng, bỗng nghe tiếng nước chảy róc rách, trước mặt hiện ra một con suối. Chàng đang khát bèn lần đến bờ suối, thấy nước trong xanh, vừa thò tay xuống toan vốc nước uống, chợt nghe phía sau có tiếng ai đạp vào cành cây khô “cách” một tiếng, kế đó là tiếng bước chân của hai người. Đoàn Dự vội vàng nằm phục bên bờ suối, không dám động đậy.

Chỉ nghe một người nói: “Ở đây có suối, uống xong mình lại đi tiếp.”

Giọng nghe rất quen, Đoàn Dự nhận ra Can Quang Hào đệ tử của Tả Tử Mục, lại càng không dám cử động. Chỉ thấy hai người đi đến bên trên mé nước, tiếp theo nghe thấy tiếng vục nước và tiếng người uống. Một lát sau Can Quang Hào nói: “Cát sư muội, chúng mình đã thoát hiểm rồi, nàng đi cũng đã mệt, ta ngồi nghỉ một lát rồi hãy đi tiếp.” Có tiếng người đàn bà “ừ” rồi tiếng loạt soạt ở bên bờ suối, hẳn là hai người đã ngồi xuống.

Lại nghe người đàn bà nói: “Sư huynh, liệu Thần Nông Bang có cho người canh ở chỗ này không?” Nghe giọng hơi run run, xem chừng sợ hãi lắm. Can Quang Hào an ủi: “Sư muội an tâm. Sơn đạo này rất kín đáo, ngay cả trong Đông tông chúng ta cũng chẳng mấy người lui tới, Thần Nông Bang không biết được đâu.” Người đàn bà lại hỏi: “Thế làm sao sư huynh biết được con đường mòn này?” Can Quang Hào đáp: “Cứ năm ngày một lần sư phụ lại dẫn đệ tử đến nghiên cứu khối Vô Lượng Ngọc Bích xem có gì bí ảo, thế nhưng bao năm qua chúng ta chỉ cứ chăm chăm nhìn khối đá này, chẳng nhận ra được điều gì. Sư phụ lão nhân gia nói cái gì người muốn làm nên đại nghiệp thì phải có nghị lực bền bỉ, lại thêm rằng có chí thì nên. Thế nhưng quả thực ta nhìn mãi chán lắm rồi, có khi giả vờ đi đại tiện rồi ra ngoài chạy lăng quăng nên mới tìm ra được đường mòn.”

Cô gái kia cười khúc khích nói: “Thì ra sư huynh không dụng công, chỉ trốn học đi chơi. Xem ra trong các đồng môn, sư huynh là người kém nghị lực hơn cả.” Can Quang Hào cười nói: “Cát sư muội, năm năm trước tỉ kiếm trên Kiếm Hồ Cung ta đã thua sư muội rồi.” Cô gái ngắt lời: “Thôi đừng nói là thua sư muội. Lúc đó sư huynh giả vờ không đủ nội lực, cố ý nhường cho tiểu muội, người ngoài thì không thấy nhưng chẳng lẽ muội cũng không biết hay sao?”

Đoàn Dự nghe thấy thế nghĩ thầm: Thì ra người đàn bà này thuộc về Tây tông của Vô Lượng Kiếm.

Can Quang Hào đáp: “Ta vừa thấy mặt nàng trong lòng nguyện thể nào cũng phải được cùng nhau ăn ở suốt đời. May gặp cơ hội nghìn năm một thuở, Thần Nông Bang đột nhiên đến tấn công, lại thêm có hai đứa nhãi nhép đem con chồn độc đến làm loạn cả lên khiến cho Kiếm Hồ Cung nhốn nháo, hai đứa mình mới thừa cơ bỏ chạy, thế chẳng phải có chí thì nên đó sao?” Cô gái kia cười khúc khích nhỏ nhẹ đáp: “Muội cũng thật là có chí thì nên.” Can Quang Hào nói: “Cát sư muội, nàng tốt với ta như thế, ta sẽ cưng chiều muội suốt kiếp.” Nghe giọng nói thấy y vui sướng không để đâu cho hết.

Cô gái kia thở dài nói: “Chúng mình phản thầy rủ nhau đi trốn, thật không còn chỗ đứng trong võ lâm nữa. Mình phải đi càng xa càng tốt, kiếm chỗ nào kín đáo mà ở, đừng để sư phụ và đồng môn biết được mới xong. Càng nghĩ đến muội càng sợ.” Can Quang Hào đáp: “Muội chớ lo làm gì. Phen này Thần Nông Bang đã chuẩn bị rồi mới đến, hai phái Đông Tây ngoài huynh và muội ra e rằng chẳng một ai thoát khỏi độc thủ.” Người đàn bà lại thở dài nói: “Cũng mong được vậy.”

Đoàn Dự nghe xong khí tức xông lên, nghĩ thầm: Hai đứa chúng bay muốn thành vợ chồng, thừa cơ sư môn có nạn mà bỏ trốn thì cũng đành, nhưng sao lại mong sư trưởng đồng môn của mình đều bị độc thủ? Tâm địa chúng bay thật là tàn độc. Chàng nghĩ đến hai người tính tình thâm hiểm như thế, nếu như chúng phát giác ra mình, thể nào cũng biết để diệt khẩu, thành thử đến thở mạnh cũng không dám.

Cô gái lại nói: “Cái phiến Vô Lượng Ngọc Bích kia có gì kỳ lạ, bên huynh ở đây đã mười năm, không lẽ vẫn chưa có chút manh mối nào?”

Can Quang Hào đáp: “Mình đã là một nhà, lẽ nào ta còn dối muội sao? Sư phụ nói, nhiều năm trước, lúc đó thái sư phụ của ngu huynh làm chưởng môn Đông tông, những đêm trăng thấy trên bức tường ngọc có hình người múa kiếm, khi thì nam, khi thì nữ, có khi nam nữ đấu kiếm với nhau, đâm chém kịch liệt. Kiếm pháp trên khối ngọc bích đó tinh diệu lắm, thái sư phụ bình sinh chưa thấy bao giờ, dù có nằm mơ cũng không tưởng tượng nổi, hẳn là do thiên tiên biểu diễn. Thái sư phụ ta chỉ mong học được vài chiêu tiên kiếm, thế nhưng kiếm ảnh trên vách núi quá ư kỳ lạ, lanh lẹ lại mờ ảo khi có khi không, chẳng thể nào coi cho rõ được, có muốn học nửa chiêu cũng không xong. Hình ảnh của tiên kiếm có lúc thật khuya mới có, có khi một hai tháng mới thấy một lần. Thái sư phụ mê say kiếm ảnh trên ngọc bích xao lãng cả việc luyện tập kiếm pháp bản môn, cũng lơ là cả việc đốc thúc đệ tử luyện tập nên về sau mới bị Tây tông của muội đánh bại. Cát sư muội, thái sư phụ muội cùng đệ tử vào ở trong Kiếm Hồ Cung rồi có thấy cái gì không?”

Cô gái nói: “Cứ như sư phụ muội nói, kiếm ảnh trên tường đó thái sư phụ muội cũng thấy, nhưng về sau chỉ thấy một người đàn bà múa kiếm, còn vị nam kiếm tiên kia không thấy đâu nữa. Chắc vì thái sư phụ muội là đàn bà nên chỉ có một nữ kiếm tiên hiện ra chỉ dạy thôi. Thế nhưng mới được hai năm thì vị nữ kiếm tiên kia cũng biến mất. Thái sư phụ cũng nói, thân pháp kiếm pháp của những vị tiên hiện ra trên ngọc bích tuy thật là kỳ diệu, nhưng mơ hồ mông lung, lại quá nhanh không thể quan sát kỹ càng. Bức tường ngọc đó lại cách một vực sâu thành thử muốn liều mạng cũng không đến gần mà coi được. Thái sư phụ tuy được thiên duyên nhưng lại không đủ phúc trạch mà học được nửa chiêu nửa thức dương oai thiên hạ, trong lòng uất ức thế nào không nói cũng biết. Sau khi tiên ảnh biến mất rồi, thái sư phụ muội ngày đêm ở trên đỉnh núi bàng hoàng, chăm chăm xuất thần nhìn vào bức tường ngọc kia, ngày càng tiều tụy, chỉ nửa năm sau thì lâm bệnh mà chết. Khi lâm chung lão nhân gia còn đang ở trên đỉnh núi, tuy hơi thở chỉ còn thoi thóp nhưng vẫn không cho đệ tử đem về Kiếm Hồ Cung. Sư phụ muội kể rằng, khi thái sư phụ tắt thở, hai mắt vẫn còn trừng trừng nhìn vào ngọc bích.” Cô ta ngừng lại một chút rồi nói tiếp: “Can sư ca, huynh nghĩ trên đời này có tiên thật chăng? Hay là hai vị thái sư phụ của huynh và của muội nói thế để đánh lừa người khác?”

Can Quang Hào đáp: “Nếu bảo hai vị thái sư phụ dựng chuyện đánh lừa đệ tử thì chắc không phải, có được gì đâu. Hơn nữa, ta nghe Thẩm sư bá nói rằng khi người còn nhỏ quả đã chính mắt trông thấy hình ảnh của kiếm tiên. Thế nhưng trên đời này có tiên thật hay không, ta cũng không biết.” Người đàn bà nói: “Hay là có hai vị cao nhân múa kiếm ở trước hồ rồi bóng họ in lên bức tường ngọc đó chăng?” Can Quang Hào đáp: “Hồi đó thái sư phụ đã nghĩ đến. Thế nhưng trước bức tường ngọc là Kiếm Hồ, phía tây hồ lại là vực sâu, hai vị cao nhân kia dù có thể thủy thượng phiêu mà múa kiếm ngay trên mặt hồ thì thái sư phụ cũng phải nhìn thấy rồi. Còn như nếu ở bên bờ hồ mà múa kiếm thì cách xa như thế, cái bóng không thể nào chiếu lên trên ngọc bích được.” Cô gái nói: “Thái sư phụ muội lìa đời rồi, các đệ tử đêm đêm thắp hương lễ bái trước bức tường ngọc, khấn nguyện chỉ mong cái bóng của kiếm tiên hiện ra một lần nhưng không bao giờ thấy nữa. Sư phụ muội chỉ mong được quay lại xem thế nào, nhưng mười năm qua hai lần tỉ kiếm đều thua Đông tông bên huynh cả.”

Can Quang Hào nói: “Từ nay trở đi, hai đứa mình không còn phân biệt Đông tông, Tây tông gì nữa. Hai tông bây giờ đã hợp làm một…” Chỉ nghe cô gái cười rúc rích, ứ hự mấy tiếng, nói khẽ: “Đừng… đừng làm thế…” Hiển nhiên Can Quang Hào có hành vi sàm sỡ nên cô nàng mới ngúng nguẩy. Can Quang Hào nói: “Muội cứ chiều ta, nếu như sau này ta phụ bạc thì nguyện sẽ biến thành chó ngay ở cạnh hồ này.” Thiếu nữ cười khanh khách, nũng nịu nói: “Nếu huynh là con chó thì có khác gì huynh mắng muội là đồ chó cái?”

Đoàn Dự nghe đến đây, nhịn không nổi bật cười một tiếng. Tiếng cười vừa ra khỏi miệng, chàng biết ngay là không xong, vội vàng nhỏm lên chạy thục mạng. Phía sau Can Quang Hào quát lớn: “Ai đó?” Rồi tiếng người rầm rập đuổi theo.

Đoàn Dự kêu khổ, càng ra sức chạy. Chỉ trong giây lát, phía tây lấp loáng ánh sáng, một người đàn bà tay cầm trường kiếm chạy về phía sườn núi hẳn là định chặn đường của chàng. Đoàn Dự kêu lên: “Ôi chao!” liền quay sang hướng đông, trong bụng lẩm bẩm: Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm bồ tát, cứu cho đệ tử Đoàn Dự thoát được kiếp nạn này. Tai chàng vẫn nghe thấy tiếng Can Quang Hào đuổi theo rất gấp. Chỉ được một lát Đoàn Dự đã thở hồng hộc, tai nghe Can Quang Hào quát lớn: “Cát sự muội mau chặn sơn khẩu!”

Đoàn Dự nghĩ thầm: Ta chết cũng không có gì quan trọng, nhưng làm cho cả Chung cô nương cũng không sống nổi, lại thêm bao nhiêu mạng người trong Thần Nông Bang, tội nghiệt thâm trọng. A Di Đà Phật! Quan Thế Âm bồ tát! Chàng lại nghĩ tiếp: “Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, bọn chúng có thành chó cái chó đực gì cũng mặc kệ, có liên can gì đến ngươi? Việc gì ngươi phải cười người ta? Tiếng cười đó chẳng phải là giết đến mấy chục mạng hay sao? Tuyệt sắc mỹ nhân thì một nụ cười mới nghiêng nước nghiêng thành, còn ngươi Đoàn Dự cười thì nghiêng cái quái gì? Nghiêng thùng đổ nước chăng?” Trong bụng tự oán trách như thế nhưng chân không chậm lại chút nào, chẳng cần nhắm hướng cứ xông bừa vào phía rừng sâu rậm rạp.

Chạy thêm một lúc nữa, hai chân chàng đã mỏi nhừ, hơi thở phì phò, tai bỗng nghe thấy tiếng nước chảy ào ào, gầm rú chẳng khác gì sóng biển. Chàng ngửng đầu lên thấy về phía tây bắc dường như có giải ngân hà lơ lửng giữa trời, chính là dòng thác lớn từ trên sườn núi cao đổ xuống. Phía sau Can Quang Hào kêu lên: “Phía trước là cấm địa phái ta. Mi chỉ chạy mười trượng nữa là chết không có đất mà chôn.” Đoàn Dự nghĩ thầm: Ta không vào cấm địa thì ngươi cũng giết, đã chết thì có đất chôn hay không cũng chẳng hơn kém là mấy. Nghĩ vậy chàng càng chạy nhanh hơn trước. Can Quang Hào lại gọi giật giọng: “Phải đứng lại ngay! Mi muốn chết hay sao? Trước mặt là…”

Đoàn Dự cười đáp: “Vì ta muốn sống nên mới chạy…” Chưa dứt lời, bất thình lình chân chàng bước hẫng. Chàng đã không có võ nghệ lại đang lúc chạy nhanh nên không dừng lại kịp. Chàng vừa kêu lên một tiếng “chết” thì người đã rơi đến quá mười trượng.

Chàng đang ở giữa khoảng không, hai tay múa may loạn lên, chỉ mong nắm được vật gì. Thêm mấy trăm trượng nữa, đột nhiên nghe “bình” một tiếng, mông đụng vào một cây cổ tùng mọc xiên từ vách núi ra, thân hình liền bắn trở lên. Lách cách lách cách mấy tiếng, cành cùng to lớn đã gãy lìa nhưng sức rơi xuống đã giảm bớt.

Đoàn Dự hai tay liền chồm ra, ôm chặt được một cành tùng khác, đánh đu giữa lưng trời, thân mình lắc lư không ngớt. Chàng cúi đầu nhìn xuống, hang núi mây mù che phủ, không thấy đâu là đáy. Chàng đong đưa thân hình chạm được vào sườn núi, hai chân mò được một chỗ tựa, mới hơi bình tâm lại, lần theo vách đá về phía cây tùng, miệng nói: “Ông thông già ơi, may nhờ hôm nay ông đại hiển thần thông, cứu được mạng cho Đoàn Dự này. Tổ tiên ông được Tần Thủy Hoàng trú mưa ngày xưa nên phong cho làm Ngũ Đại Phu. Che mưa so với cứu mạng người thì có đáng gì? Ta sẽ phong cho ông làm Lục Đại Phu, không, phải là Thất Đại Phu, Bát Đại Phu mới xứng.”

Chàng xem kỹ thấy vách đá có một khe nứt lớn, nếu may mắn có thể leo xuống được. Chàng thở một hồi rồi nghĩ thầm: “Can Quang Hào và Cát sư muội của y chắc nghĩ mình đã nát như tương rồi, đâu có ngờ mình được Bát Đại Phu cứu. Giờ này chắc bọn chúng đã bỏ xuống dưới núi, hai người đang chàng chàng thiếp thiếp, Đông tông Tây tổng hợp thành một rồi. Dưới đáy sơn cốc này chắc nguy hiểm lắm, nhưng nếu số chết thì ở đâu cũng chết thôi. Biết đâu được Quan Thế Âm bồ tát phù hộ mà không chết.”

Chàng men theo khe đá, từ từ tuột xuống. Cái khe đó có rất nhiều đá và cây cỏ nên không bị trượt, nhưng quần áo chân tay bị xé rách bầm dập lung tung. Hang núi tưởng như vô cùng vô tận, mãi chàng vẫn chưa xuống được tới đáy hang. May sao càng xuống sâu, vách núi càng thoai thoải không còn thẳng đứng như trước, chàng bèn ngồi phệt xuống vừa trượt vừa lết từ từ nên nhanh hơn nhiều.

Tiếng thác nước ì ầm mỗi lúc một lớn khiến chàng không khỏi kinh hãi, nghĩ thầm: Nếu dưới này nước chảy xiết thì thật là nguy hiểm. Bỗng thấy những giọt nước như mưa rào bắn tung lên đập cả vào mặt mũi rát rạt.

Đoàn Dự không thể suy tính nữa, chỉ khoảnh khắc đã xuống đến đáy khe. Chàng đứng thẳng người lên, bất giác cất tiếng khen: Đẹp quá! Bên tả sườn núi, thác nước lớn trắng phau, trông tựa như một con rồng lơ lửng trên không, cuồn cuộn đổ xuống một cái hồ trong vắt. Tuy thác nước đổ xuống suốt ngày đêm mà hồ vẫn không tràn, hẳn có chỗ thoát nước đi. Trên mặt hồ chỉ chỗ thác đổ vào là sóng vỗ bập bềnh, còn cách từ mười trượng lại phẳng như một tấm gương khổng lồ. Dưới đáy hồ còn có một vầng trăng vằng vặc, do ánh trăng phản chiếu.

Đứng trước phong cảnh kỳ tuyệt của tạo hóa, Đoàn Dự ngây người mà nhìn đến ngơ ngẩn xuất thần. Lát sau chàng mới nhìn chếch sang bên: trên bờ hồ những bụi hoa trà trùng điệp, lung linh trong đêm. Hoa trà Vân Nam nổi tiếng đệ nhất thiên hạ, Đoàn Dự vốn đã yêu thích, ngờ đâu lâm cảnh hiểm nghèo lại được thấy nhiều. Chàng đến xem kỹ, lẩm bẩm: “Nơi đây hoa trà mọc nhiều, nhưng cũng bình bình. Chỉ có vài khóm Vũ Y Nghê Thường là đẹp hơn ở nhà ta. Còn mấy bụi Bộ Bộ Sinh Liên toàn là thứ phẩm.”

Chàng ngắm hoa một hồi rồi ra bờ hồ vốc nước lên uống. Nước hồ mới ngon ngọt làm sao, uống tới đâu thấy mát mẻ tới đó. Tinh thần đã tỉnh táo, chàng nhớ đến công việc cần kíp, phải mau tìm lối ra.

Bờ hồ này hình bầu dục, có đến phần nửa ẩn vào các bụi cây um tùm, Đoàn Dự quanh về mé đông đi hết một vòng, được chừng ba dặm. Mé đông nam cũng như mé tây bắc, sườn núi đều dựng đứng, tuyệt không có đường nào ra được. Duy chỗ chàng rơi xuống vừa rồi là sườn núi tương đối thoải hơn cả, ngoài ra không còn nơi nào có thể trèo lên được. Chàng ngửng đầu lên thấy mây mù che phủ miệng hang, xuống đã biết bao gian nan, nghĩ đến việc trèo lên lại càng ngán ngẩm, nghĩ thầm: Dù người võ công tuyệt đỉnh cũng chưa chắc đã lên được. Có hay không có võ công thì cũng thế thôi.

Khe núi im lặng như tờ, đừng nói vết chân người, ngay vết chân loài dã thú cũng không thấy. Thỉnh thoảng chỉ nghe tiếng chim kêu từ xa vẳng lại. Nhìn cảnh tượng này, Đoàn Dự lại buồn thiu. Chàng nghĩ thầm: dù mình chết đói ở đây cũng chẳng sao nhưng chỉ sợ Chung cô nương thiệt mạng, còn cha mẹ mình sẽ ngày đêm khắc khoải nhớ thương.

Chàng ngồi phịch xuống bên bờ hồ rầu rĩ, bụng chưa biết tính sao. Trong khi thất vọng lòng nảy ra ảo tưởng: Giá như biến được thành con cá, theo thác nước bơi ngược lên thì may ra mới thoát khỏi vách đá dựng đứng này. Chàng đưa mắt nhìn theo dòng nước từ dưới đi lên, thấy bên phải của dòng thác có một vách đá nhẵn bóng, sáng loáng như ngọc, nghĩ thầm muôn ngàn năm trước chắc dòng thác lớn hơn bây giờ nhiều, qua không biết bao nhiêu thời gian mới mài cho nửa bên vách đá thành nhẵn nhụi đến thế, về sau lượng nước giảm ít mới lộ ra phiến đá lưu ly khiến cho vách núi trong như một mặt gương.

Lúc đó chàng nhớ lại những lời mà Can Quang Hào và Cát sư muội của y nói chuyện, nghĩ thầm: Xem ra đây chính là cái mà họ nói là Vô Lượng Ngọc Bích rồi. Họ kể lại năm xưa các chưởng môn Đông tông, Tây tông của Vô Lượng Kiếm thường nhìn thấy trên vách núi này bóng các vị tiên hiện ra trong những đêm trăng. Ngọc bích này dựng đứng bên cạnh cái hồ, nếu có kiếm tiên thì phải nổi trên mặt hồ, còn không phải ở bờ hồ phía đông mà múa kiếm thì bóng mới chiếu lên trên đó được. Thế nhưng phía đông cũng lại là vách đá thẳng tắp phản chiếu ánh sáng, nếu không có ánh trăng thì không thể có bóng người. A, đúng rồi, chắc tại mặt hồ có chim bay qua lượn lại, bóng nó chiếu lên trên vách núi, nhìn xa thấp thoáng thì thấy thân pháp linh động, vừa nhanh nhẹn, vừa kỳ lạ. Bọn họ trong đầu đã có chủ ý nên tưởng là tiên đang múa kiếm, mờ mờ tỏ tỏ không nhìn thấy rõ vì sao nên phải đi vào ma đạo.

Chàng nghĩ ra rồi không khỏi bật cười. Từ lúc ăn uống ở trong Kiếm Hồ Cung tới giờ cũng đã bảy tám canh giờ nên bụng đói meo, thấy bên bờ hồ có một lùm cây đầy trái xanh xanh đỏ đỏ nên đến hái một chùm, cho vào miệng nhai thử thấy chua lè, nhưng đang đói nên cũng đành ăn luôn một hơi đến hơn chục chùm mới lưng lửng dạ, thấy toàn thân xương cốt mỏi nhừ nên lăn ra cỏ nằm thiu thiu ngủ.

Chàng ngủ một giấc thật say, đến khi tỉnh dậy mặt trời đã ngả về tây, mặt hồ hiện ra một hình cầu vồng, đẹp không tả được, Đoàn Dự biết rằng bụi nước từ thác nước bắn lên gặp ánh mặt trời chiếu vào nên hiện ra cầu vồng, nghĩ thầm mình tuy sắp chết nhưng được thưởng thức cảnh đẹp thiên nhiên, phúc lộc không phải nhỏ. Được chết dưới bóng hoa nơi bờ hồ thật phong lưu biết bao, ánh hồ sáng loáng diễm lệ, chỉ hiềm hoa trà không phải là giai chủng nên có phần mỹ trung bất túc.

Hồi lâu chàng tự nhủ: Chẳng qua tại mình hoảng hốt chưa tìm ra mà thôi, thế nào cũng có con đường nhỏ phía sau rừng cây kia. Nghĩ vậy chàng cao hứng, vừa cất tiếng hát vang, vừa men theo bờ hồ để tìm lối ra. Lần này Đoàn Dự men theo bờ hồ xem xét kỹ càng, lách cả vào những nơi âm u, rậm rạp. Song sau bao nhiêu đám hoa cỏ, cây cối um tùm, chỗ nào cũng vách đá kiên cố, dựng đứng lên cao ngất trời. Đừng nói lối ra, cả đến một hang dã thú hay một lỗ rắn chui cũng không có.

Giọng hát mỗi lúc một khản, đầu óc mỗi lúc một tối. Chàng đi một vòng về đến chỗ thác nước thì cặp giò đã mỏi nhừ, ngồi phịch xuống đất, vẻ mặt bơ phờ mệt nhọc, lại nghĩ thầm: Chung cô nương vì cứu ta mà chết oan.

Nghĩ đến Chung Linh, chàng thò tay vào túi lấy đôi giày hoa ra ngắm nghía, hình dung đôi chân bé nhỏ, khuôn mặt xinh xắn của nàng, nhịn không nổi đưa đôi giày lên miệng hôn một cái rồi lại bỏ vào túi, nghĩ thầm: “Phen này ta chắc không thoát chết được rồi, Chung cô nương cũng bỏ mạng. Giá như nàng cũng ở đây, hai đứa chết chung bên bờ hồ này thì đẹp biết bao. Chỉ tiếc nàng giờ đây lại ở bên cạnh lão râu dê Tư Không Huyền thật là chán ngắt. Lúc này ta đang nghĩ đến nàng chắc hẳn nàng cũng đang nghĩ đến ta.”

Chàng không có việc gì làm đành đi hái mấy quả chua kia ăn tạm, bỗng nghĩ ra: Chỗ nào mình cũng tìm hết rồi, chỉ còn chỗ này chưa mò đến, không chừng sờ sờ trước mắt mà không thấy. Chàng liền vạch bụi cây ra, lập tức lắc đầu. Đằng sau bụi cây chỉ là một vách núi trơ trơ, bám đầy dây leo, làm gì có lối nào ra? Thế nhưng phiến thạch bích đó phẳng lạ thường, chẳng khác gì một tấm gương đồng nhưng so với vách đá bên phía tây thì nhỏ hơn nhiều, trong lòng chợt động: Hay đây mới thực là Vô Lượng Ngọc Bích? Chàng bèn gỡ hết các dây leo bám trên phiến đá, nhưng chỉ thấy mặt đá phẳng lì, tuyệt nhiên không có gì khác lạ. Chàng nghĩ bụng: Ta chết nơi thâm cốc này vĩnh viễn không ai hay biết, chi bằng khắc vài chữ trên phiến đá này. À, khắc tám chữ “Đại Lý Đoàn Dự Chết Tại Nơi Đây” xem ra cũng thú.

Chàng bèn dọn sạch đám dây leo bám trên mặt đá, cởi trường bào ra, xuống dưới hồ nhúng nước, đem lên rửa thật sạch cho hết rong rêu khiến phiến đá đó trở nên trắng bóng như ngọc. Chàng nhặt một hòn đá nhọn kẽ chữ lên trên thạch bích, thế nhưng vách đá cứng rắn lạ thường, một hồi lâu mới xong một chữ “Đoàn” vừa cạn vừa méo xẹo chẳng ra gì. Chàng nghĩ thầm: Người sau nhìn thấy sẽ cho rằng Đoàn Dự không biết viết chữ, viết hết tám chữ này chắc để tiếng xấu đến muôn đời! Chàng thấy cổ tay mỏi nhừ, đau nhức nên liệng hòn đá đi không viết nữa.

Đến khi trời tối, chàng lại ăn thêm ít trái cây dại rồi nằm xuống ngủ. Trong giấc mơ chàng thấy một đôi giày bay qua lượn lại trước mắt, vải xanh thêu hoa vàng, chính là đôi giày của Chung Linh, vội vươn tay ra cầm lấy nhưng đôi giày chẳng khác gì đôi bướm, chập chờn lên xuống không sao bắt được. Một lúc sau, đôi giày bay mỗi lúc một cao, Đoàn Dự kêu lên: “Giày kia đừng bay nữa.” Chàng bàng hoàng tỉnh dậy thì mới biết là mộng, giơ tay dụi mắt, sờ thấy đôi giày hoa vẫn còn trong túi bèn đứng lên ngửng đầu nhìn. Ánh trăng vằng vặc, chiếu xuống chẳng khác gì dát bạc lên mặt hồ. Đột nhiên chàng giật mình thấy ở bức vách bên kia có một bóng người.

Chàng kinh hãi không để đâu cho hết, nhưng cũng xiết đỗi vui mừng, kêu lên: “Các vị tiên ơi! Cứu tôi với!” Hình người kia hơi rung động nhưng không trả lời. Đoàn Dự định thần, chăm chú nhìn kỹ bóng người kia không rõ ràng mấy, chỉ thấy áo dài, khăn nho sinh quả là một người đàn ông. Chàng vội vàng tiến lên mấy bước đến bên cạnh hồ kêu to: “Tiên ông ơi, cứu tôi với!” Bóng người trên vách ngọc lắc lư mấy cái, lớn thêm lên nhiều. Đoàn Dự đứng lại, cái bóng đó cũng không di chuyển nữa.

Chàng ngạc nhiên lập tức hiểu ra: Thì ra đó là bóng của chính mình! Chàng nghiêng qua trái, cái bóng đó cũng nghiêng qua trái, chàng bước qua phải cái bóng trên vách núi cũng qua phải, không còn hoài nghi gì nữa, nhưng vẫn còn điều chưa hiểu được: Vầng trăng từ tây nam chiếu qua làm sao lại chiếu được bóng ta lên bức tường trước mặt nhỉ?

Chàng quay đầu lại thấy chữ Đoàn chàng khắc lúc ban ngày cũng có một cái bóng in lên trên thạch bích, chữ đó bé nhưng rõ nét hơn nhiều. Chàng nghĩ ra ngay: Thì ra ánh trăng chiếu bóng của ta lên trên phiến đá trước, sau đó mới rọi lên trên vách núi, chẳng khác gì mình đứng giữa hai tấm gương, tấm gương lớn phản ánh hình của ta trên tấm gương nhỏ.

Chàng suy nghĩ thêm một chút, hiểu ra ngay cái “ngọc bích tiên ảnh” của Vô Lượng Kiếm mấy chục năm qua chẳng có gì thần kỳ: Năm xưa quả có người đứng đây múa kiếm, bóng chiếu lên trên bức vách đá. Đầu tiên có một nam một nữ, sau đó người đàn ông bỏ đi đâu hay chết rồi không biết, chỉ còn người đàn bà ở lại u cốc này tịch mịch cô đơn, mấy năm sau cũng từ trần. Chàng nghĩ đến giai nhân cô độc, sống vò võ nơi hang sâu, uất hận mà chết không khỏi ngậm ngùi.

Thế nhưng sau khi hiểu được lý lẽ đó rồi, nỗi buồn biến mất không còn tăm hơi đâu nữa. Chàng huơ tay múa chân, tay đấm chân đá, nghĩ thầm: “Giá như Tả Tử Mục, Song Thanh hai người đang ở trên mỏm núi kia bỗng thấy ngọc bích có hình ta hiện ra, chắc tưởng là đang biểu diễn võ công thần kỳ, thể nào chẳng hết sức cố gắng học, vùi đầu nghiên cứu để truyền cho hậu thế, ha ha…” Chàng càng nghĩ càng khoái chí, nhịn không nổi cười lên sằng sặc.

Cười chán chê rồi, chàng bỗng nghĩ ra một việc: Hai vị tiền bối kia ngày xưa thường thường luyện kiếm cùng nhau, nếu như không sống ngay dưới đáy vực này thì phải có đường đi ra đi vào. Dù cho hai người võ công cao đến đâu nhưng leo lên leo xuống để múa kiếm thì thật là phiền toái, một hai lần còn được chứ ngày nào cũng làm thì xem ra không ổn. Chàng bỗng thấy một tia hi vọng trước mắt, nghĩ thầm: “Ngày mai mình sẽ cố gắng tìm đường ra. Gã Can Quang Hào đã chẳng nói có chí thì nên đấy ư? Ha ha! Ha ha! Y lập chí quyết lấy cho bằng được Cát sư muội làm vợ, còn ta lập chí phải thoát khỏi nơi đây.”

Chàng ngồi ôm gối, thản nhiên nhìn ánh trăng trên mặt hồ, bốn bề thanh tĩnh, nghĩ thầm: “Có chí thì nên”, câu đó tuy không phải là sai nhưng Khổng Phu Tử lại nói: “Người biết không bằng người hiền, người hiền không bằng người vui”. Câu này xem ra hợp với bụng ta hơn. Cha mẹ ta vẫn bảo ta là si nhi, từ thuở bé đã thích cái gì là mê mẩn điên cuồng. Năm bảy tuổi, ta mê một cây hoa trà Thập Bát Học Sĩ, ngắm từ sáng đến tối, đến nửa đêm còn len lén trở dậy nhìn ngơ ngẩn, bỏ ăn bỏ uống quên cả học hành, đến khi hoa tàn khóc mấy ngày chưa thôi. Lúc ta học đánh cờ cũng không ăn không ngủ, suốt ngày suốt đêm chỉ nghĩ đến bàn cờ, chẳng còn thiết gì khác. Một hôm kia gia gia bảo ta luyện võ, thế nhưng lúc đó ta đang nghiên cứu Dịch Kinh, ngay cả khi ăn cơm giơ đũa ra gắp đồ ăn cũng nghĩ phương vị chiếc đũa bên này là Đại Hữu hay là Đồng Nhân. Ta không chịu học võ, không hiểu vì không muốn bỏ Kinh Dịch qua một bên hay thực sự không thích cái môn đánh nhau giết người này? Cha ta bảo ta cưỡng từ đoạt lý, chắc hẳn ta có cãi chày cãi cối thật không chừng. Mẹ ta hiểu bụng dạ tính nết ta lắm mới khuyên gia gia: Thằng con si này một mai thích học võ rồi, ông có bảo nó bớt luyện đi một chút, nó cũng chẳng nghe đâu. Bây giờ nó không chịu học, cứng đầu không chịu có ép cũng không xong. Ôi! Bảo ta lập chí làm điều gì quả là khó, nếu như một ngày nào đó ta mê luyện võ thì gia gia, má má, bá phụ hẳn sung sướng biết bao nhiêu. Ta luyện võ cho giỏi rồi, không đánh ai cũng chẳng giết ai, luyện võ đâu phải chỉ là để giết người. Bá phụ võ công cao cường biết bao nhưng tính tình nhân từ, chắc xưa nay chưa giết ai. Có điều ông ấy mà muốn giết thì đâu cần phải tự ra tay?

Chàng ngồi bên bờ hồ, đầu óc suy nghĩ miên man không biết thời gian trôi qua, bỗng chợt thấy vách đá bên cạnh dường như có màu sắc di động, nhìn kỹ thấy bên dưới chữ Đoàn chàng khắc có bóng một thanh kiếm rõ ràng lạ thường, có cả cán, cả miếng che tay, thân kiếm, mũi kiếm mọi thứ đều đâu ra đấy. Mũi kiếm nghiêng nghiêng chỉ xuống, còn thanh kiếm có màu cầu vồng tỏa ra, lấp loáng chuyển động không ngừng. Chàng lấy làm lạ tự hỏi: Sao bóng thanh kiếm lại hiện màu cầu vồng? Chàng ngửng đầu lên nhìn nhưng không thấy vầng trăng đâu, thì ra bóng nguyệt đã chìm về phương tây, ẩn ở đằng sau vách núi rồi. Thế nhưng vách núi đó có một lỗ hổng, ánh trăng theo đó mà rọi xuống, trong hang có ánh sáng lấp lánh. Chàng vỡ lẽ ra: Đúng rồi. Thì ra trên vách núi kia có treo một thanh kiếm, trên thanh kiếm này có nạm các loại bảo thạch đủ màu, ánh trăng chiếu vào in hình thanh kiếm và các loại châu báu đủ màu sắc thành ra mới rực rỡ đến thế.

Chàng nghĩ tiếp: Như thế ắt phải đục được lưỡi kiếm ra rồi nạm bảo thạch cho ánh trăng chiếu qua mới thành hình đủ màu. Còn như không đục được lưỡi kiếm thì ánh trăng đâu có thể chiếu xuyên qua bảo thạch. Người chế tạo ra chiếc kiếm quái lạ này thật tốn nhiều công sức.

Cái hang đó cách mặt đất đến mấy chục trượng không thể trèo tới mà xem cho kỹ được, từ dưới trông lên, chỉ thấp thoáng thấy ánh sáng của mấy viên đá quí chiếu lên vách đá vừa huyền ảo, vừa đẹp đẽ, nhìn mà mê mẩn tâm thần.

Chàng chỉ mới xem được chừng thời gian uống một chén trà, ánh trăng đã di động, cái bóng đó mờ dần rồi biến mất, vách đá chỉ còn một màu trắng bệch. Đoàn Dự nghĩ thầm: Thanh bảo kiếm đó chắc là của hai vị cao nhân kia. Sơn cốc hiểm sâu thế này, người của phái Vô Lượng Kiếm chẳng một ai dám mạo hiểm trèo xuống xem xét, cứ đứng trên đỉnh núi thì đâu có thấy được phiến đá nhỏ, cũng không thấy cái hang trên bức vách bên kia có treo một thanh kiếm. Họ có đứng ngơ ngẩn trên đầu núi một trăm năm nữa thì cũng không sao hiểu được cái bí mật này. Thế nhưng lấy được thanh bảo kiếm kia thì có ích lợi gì? Chàng nghĩ ngợi một hồi rồi ngủ thiếp đi.

Ngủ một lúc đột nhiên chàng choàng tỉnh dậy, nghĩ thầm: Treo được thanh kiếm trên bức tường đá kia quả là khó khăn, dẫu võ công có cao cường đến đâu cũng không dễ gì làm được. Xếp đặt mất nhiều công lao như thế, phải có thâm ý gì. Hẳn là trong cái hang này còn cất giấu võ học bí kíp chi đó. Chàng nghĩ đến võ công thấy không còn gì hứng thú. Bí kíp võ công kia bọn Vô Lượng Kiếm coi là quí giá chứ còn như ta, dù có để ngay trước mặt ta cũng chẳng thèm liếc mắt đến làm gì.

Hôm sau chàng lại đi men quanh hồ, tính ra từ hôm rơi vào cái vực này đã đến ngày thứ ba, nghĩ thầm chỉ còn bốn ngày nữa, chất kịch độc của đoạn trường tán trong ruột phát tác, lúc đó có tìm được lối ra cũng thành vô dụng.

Hôm đó chàng ngủ đến nửa đêm liền tỉnh dậy, đợi cho bóng trăng chếch về phương tây. Đến khoảng canh tư, ánh trăng chiếu vào hang núi, lại chiếu lên trên thạch bích hình thanh kiếm đủ màu. Chỉ thấy thanh kiếm trên bức vách nghiêng sang hướng bắc, mũi kiếm chỉ đúng vào một khối đá lớn. Đoàn Dự trong lòng chợt động: Không lẽ khối nham thạch này có gì khác thường? Chàng đi đến bên tảng đá đẩy thử, tay chạm vào rêu xanh trơn tuột nhưng khối đá dường như hơi lắc lư. Chàng ra sức đẩy cả hai tay, lại thấy tảng đá rung rinh. Khối đá đó cao đến ngực, không đến hai nghìn cũng phải một nghìn cân, nếu là một tảng đá bình thường thì không thể nào làm cho nó nhúc nhích được. Chàng đưa tay mò dưới đáy thì ra tảng đá này không sát đất mà kê trên một tảng đá nhỏ hơn, không biết trời sinh như thế hay là do người sắp đặt. Tim chàng đập thình thành nghĩ thầm: Khối đá này quả có điều gì khác lạ.

Chàng dùng hai tay đẩy phía bên phải tảng đá, hòn đá lắc lư nhưng rồi lại trở về, nghe như có tiếng dây leo bị nghiến đứt, biết là có cây cỏ quấn chặt hai tảng đá với nhau. Lúc bấy giờ trăng đã lặn, chàng chỉ thấy mờ mờ, nghĩ bụng: Tối thế này nhìn không rõ, để đến sáng mai xem kỹ thế nào.

Chàng nằm xuống bên cạnh tảng đá chợp mắt một lúc, đến khi sáng rõ mới trở dậy xem kỹ chung quanh rồi cúi xuống gỡ sạch các dây leo cỏ dại quấn giữa hai tảng đá, lại vét cả đất cát ra, sau đó mới giơ tay đẩy lần nữa, quả nhiên khối nham thạch từ từ chuyển động chẳng khác gì một cánh cửa lớn, xê dịch mới một nửa đã thấy để lộ ra một cái hang cao chừng ba thước.

Chàng mừng lắm, không kịp nghĩ xem trong động có gì nguy hiểm, liền khom lưng chui vào, được mươi bước thì cái hang đã tối om không còn chút ánh sáng nào. Chàng giơ hai tay ra trước, mỗi bước lại mò thử xem có gì không nhưng thấy dưới chân vững chãi chẳng khác gì đi trên một con đường đá, hẳn là hang này do tay người tu sửa nên càng mừng hơn. Thế nhưng cái hang đi xeo xéo xuống dưới, càng lúc càng thấp. Bỗng nhiên tay chàng chạm phải một vật tròn tròn, lạnh lạnh, phát lên tiếng leng keng trong như tiếng chuông, đưa tay sờ lại thì nhận ra cái vòng này giống như vòng đồng thường được gắn lên các cánh cửa, dùng để gọi cửa.

Đã có vòm cửa, tất có cánh cửa. Chàng nghĩ vậy rồi cứ lần mò, sờ soạng mãi, quả thấy đến chục cái đinh đồng to bằng cái bát thì vừa mừng vừa sơ, tự hỏi: Chẳng lẽ trong này lại có người ở? Chàng liền lắc mạnh cái vòng cho nó bật lên tiếng kêu leng keng rồi chờ xem bên trong có ai thưa không. Chờ một lát chẳng thấy gì, lại gõ mạnh ba tiếng nữa cũng chẳng thấy ai. Chàng liền đưa tay ra đẩy cửa. Cánh cửa này dường như đúc bằng kim loại nên rất nặng. Nhưng then trong không cài nên chàng cố hết sức đẩy, cánh cửa từ từ hé mở. Chàng lớn tiếng gọi: “Tại hạ là Đoàn Dự, không được mời mà đường đột tới quý phủ, thật là có lỗi, xin chủ nhân khoan thứ cho!” Chàng chờ một lát, không thấy bên trong có tiếng đáp lại, đành cất bước mạnh dạn tiến vào.

Đoàn Dự vào trong cửa rồi, tuy chàng mở mắt thật to mà nhìn cũng chẳng rõ chi hết, chỉ thấy nơi đây không còn ẩm ướt như ở bên ngoài. Chàng tiếp tục đi vào, bỗng đánh kịch một tiếng, trán va phải vật gì, cũng may mà đi thong thả nên không đau mấy. Chàng đưa tay lên sờ thì ra đây lại là một tầng cửa. Lại cố sức đẩy, chợt thấy ló ra chút ánh sáng mờ ảo, không phải ánh sáng mặt trời.

Chàng nhằm phía có ánh sáng đi tới, chợt thấy một con tôm hùm rất lớn bơi ngoài cửa sổ. Chàng rất lấy làm kỳ, đi thêm mấy bước nữa, lại thấy một con cá chép có vân rực rỡ bơi vụt qua. Bấy giờ chàng mới để ý nhìn kỹ cửa sổ, thì ra là một khối pha lê lớn bằng miệng chậu gắn vào vách đá. Ánh sáng bên ngoài chiếu qua cửa sổ pha lê vào trong nhà.

Đoàn Dự đứng bên cửa sổ nhìn ra, thấy nước xanh biếc, tôm cá bơi qua bơi lại bên ngoài, mịt mờ xa thẳm không rõ đâu là bờ bến. Chàng lại nghĩ đến người chủ tòa thạch thất này đã tốn biết bao nhiêu tâm cơ để kiến tạo nên, cùng nghĩ cách lấy ánh sáng ở ngoài rọi vào trong nhà: Khối pha lê kia là bảo vật khó lòng kiếm được. Chàng định thần suy nghĩ bỗng dưng kêu khổ: “Chết rồi, chết rồi! Ta đang ở dưới đáy hồ, đường đi chỉ toàn giơ tay lần mò không biết qua bao nhiêu chỗ quẹo, chui xuống đây rồi làm thế nào mà trở ra?”

Chàng lại quay vào trong nhà quan sát thấy có một cái bàn đá, trước bàn để cái ghế đá, trên bàn có đặt một tấm gương đồng, bên gương còn mấy thứ nào lược chải đầu, nào vòng đeo tay, rõ ràng là phòng khuê nữ. Tấm gương đồng đã hoen gỉ xanh lè, mặt bàn cát bụi dày đến đốt ngón tay, đủ tỏ rằng trong nhà đã bao lâu nay không có người đặt chân tới.

Trước cảnh tượng đó Đoàn Dự không khỏi ngơ ngẩn nghĩ thầm: Mấy chục năm về trước, tại đây nhất định đã có một vị tiểu thư ở ẩn. Không hiểu nàng đau buồn nỗi gì mà phải xa cõi nhân gian, lánh mình vào nơi tĩnh mịch này?. Chàng thầm suy nghĩ một lúc rồi lại xem khắp mọi chỗ trong nhà. Trên vách đá gắn la liệt những gương đồng, chàng đếm được hơn ba chục chiếc thì lấy làm lạ, đoán ra rằng: Vị tiểu thư ở đây trước là bậc tuyệt thế giai nhân, ngày ngày ngắm bóng lẻ loi thương thân trách phận. Nghĩ vậy chàng cũng vì ai đau lòng xót dạ. Đoàn Dự quanh quẩn trong thạch thất, lúc lẩm bẩm một mình, lúc thở dài sườn sượt thương cho thân phận người mình chưa từng thấy mặt. Bỗng chàng sực nhớ lại chuyện mình, bất giác than rằng: “Trời ơi! Từ nãy tới giờ mình chỉ vơ vẩn nghĩ chuyện đâu đâu, quên cả lo tính việc mình. Trong buồng này không có ngõ ngách nào, làm sao tìm được lối ra?” Chàng lẩm bẩm một mình: Đoàn Dự này quả là một thằng đàn ông thối tha, nếu như chết ở đây đúng là đường đột với giai nhân, chết ở bên ngoài bờ hồ mới đúng. Kẻo rồi người sau tìm đến, thấy hài cốt của ta, lại tưởng là nắm xương tàn của người đẹp, chẳng hóa ra… chẳng hóa ra… Chàng chưa nghĩ được “chẳng hóa ra” cái gì, thấy bên phía đông có một tấm gương treo hơi lệch phản chiếu ánh sáng, có hình góc tường phía tây nam, trên tường đá dường như có vết nứt. Chàng liền tiến đến, cố gắng đẩy bức tường đó, quả nhiên là một cánh cửa, từ từ mở ra, để lộ một cái hang. Chàng nhìn vào trong động, thấy có những bậc thang bằng đá.

Đoàn Dự mừng rỡ khôn xiết kêu lên: Tạ ơn Trời Phật, quả có đường ra rồi. Đoạn chàng theo bậc đá đi xuống. Không ngờ xuống được vài chục bậc, Đoàn Dự thấy phía trước có tia sáng, hình như một cánh cửa. Chàng giơ tay đẩy ra bỗng thấy sáng lòa, giật nẩy mình kêu to “Ối chao!”.

Một trang mỹ nữ tay cầm thanh trường kiếm, mũi nhắm thẳng vào bụng chàng. Nhác trông thật là một giai nhân thanh nhã khác thường, diễm lệ vô song. Chàng chưa từng thấy người nào đẹp đến thế.

Hồi lâu thấy mỹ nhân vẫn đứng yên không nhúc nhích. Đoàn Dự định thần nhìn kỹ, thì ra mỹ nữ này tuy đẹp mê hồn nhưng không phải là người thật, mà là một pho tượng ngọc thạch, chạm trổ rất tinh vi. Pho tượng lớn bằng người thật, tà áo lụa màu vàng nhạt như cũng rung rinh. Kỳ nhất là đôi mắt long lanh như sóng gợn hồ thu, linh động dị thường, khiến cho Đoàn Dự phải ngây người ra mà nhìn. Chàng ấp úng: “Xin lỗi! Tôi nhìn cô nương chăm chăm, thật là vô lễ.” Biết là khiếm lễ mà chàng vẫn không sao rời mắt khỏi đôi mắt tuyệt vời của pho tượng được. Hồi lâu mới biết là đôi mắt pho tượng chạm bằng thứ đá đen có vân, càng nhìn càng thấy sâu thăm thẳm.

Mặt pho tượng lại bằng thứ ngọc trắng có vân hồng ẩn hiện, trông chẳng khác gì da người thật. Khi Đoàn Dự nghiêng mình, hình như luồng nhãn quang pho tượng cũng đổi hướng chăm chú nhìn chàng, chẳng khác chi một vị thần nữ. Ánh mắt thật là khó hiểu: mừng không ra mừng, lo không ra lo; dường như thoáng buồn, lại tựa hồ hờn mát; có thể nói là tình ý nồng nàn, hay chứa sầu lai láng cũng không sai.

Đoàn Dự ngẩn ngơ ngắm đi ngắm lại pho tượng rồi xá dài cung kính thưa rằng: “Thần tiên tỉ tỉ! Hôm nay tiểu sinh Đoàn Dự được chiêm ngưỡng phương dung, dù chết cũng không oán thán. Tỉ tỉ xa lánh trần tục, một mình ẩn tại nơi đây, chẳng hiu quạnh lắm sao?” Đôi mắt pho tượng biến ảo khôn lường, nghe lời chàng nói như ra chiều xúc động.

Đoàn Dự tâm thần ngây ngất, mê mẩn. Chàng nghĩ thầm: “Không biết xưng hô với thần tiên tỉ tỉ thế nào cho phải. Ta thử nhìn kỹ lại, hoặc giả thấy chỗ nào có ghi phương danh tỉ tỉ chăng?” Chàng nhìn đi nhìn lại xung quanh rồi chợt nhìn lên đầu pho tượng, thấy mớ tóc đúng là tóc thật. Một làn tóc mây óng mượt quấn lại từng lọn bồng bềnh. Bên mái tóc có cài một chiếc vòng ngọc, mặt trên nạm hai hạt minh châu lớn bằng đầu ngón tay út, chiếu ra một thứ ánh sáng huyền ảo. Bên vách phía tây có sáu khối pha lê lớn, nhìn ra thấy nước thấp thoáng khiến cho gian phòng này so với gian phòng trước còn sáng hơn nhiều.

Chàng lại say sưa ngắm pho tượng ngọc một hồi rồi mới quay ra, thấy bức tường phía đông được mài nhẵn nhụi, trên khắc mấy hàng chữ đều lấy từ trong sách Trang Tử các thiên Tiêu Dao Du, Dưỡng Sinh Chủ, Chí Lạc.., bút pháp khoáng đạt dường như do một người nào đó có sức cổ tay rất mạnh dùng vật nhọn khắc thành, nét nào nét nấy sâu vào trong đá đến nửa tấc. Cuối bài văn đó là một hàng lạc khoản đề: “Tiêu Dao Tử vì Thu Thủy muội mà viết. Trong động không ngày tháng, chính cực lạc nhân gian.”

Đoàn Dự nhìn hàng chữ đó mà thừ người ra, nghĩ thầm: Vị Tiêu Dao Tử và Thu Thủy muội hẳn là hai vị cao nhân nam nữ mấy chục năm trước cùng nhau múa kiếm dưới sơn cốc. Pho tượng ngọc có lẽ là người mà ông ta gọi là Thu Thủy muội, Tiêu Dao Tử được sống với bà ta ở nơi mật động dưới u cốc này, đúng là cực lạc của nhân gian. Thực ra cực lạc đâu phải chỉ của nhân gian, mà ngay cả trên trời chắc cũng không bằng.

Mắt chàng nhìn đến mấy hàng chữ trên vách: “Nơi núi xa xăm mờ mịt, có thần nhân ở; da trắng như tuyết, giữ mình như ngọc, không ăn ngũ cốc, hút gió uống sương.” Chàng lại quay đầu nhìn qua pho tượng nghĩ thầm: Mấy câu này của Trang Tử, đem ra để hình dung vị thần tiên tỉ tỉ quả là chuẩn xác. Chàng đi đến trước pho tượng, ngây ngất đứng nhìn, xem có đúng là da trắng như tuyết không, chỉ tiếc là không dám đưa ngón tay ra vuốt ve thử, lòng như mê đi, thoang thoảng dường như ngửi thấy mùi lan xạ thơm ngát, vì say đắm mà đâm ra kính trọng, từ kính trọng lại càng thêm say đắm.

Một lúc sau chàng không nhịn nổi phải kêu lên: “Thần tiên tỉ tỉ ơi! Nếu tỉ tỉ có phép mầu nói với tôi chỉ một lời thôi, thì dù tôi có phải vì tỉ tỉ mà tan xương nát thịt cũng hoan hỉ như vào cực lạc.” Đoạn tự nhiên chàng quỳ gối xuống lạy.

Quỳ rồi chàng mới biết rằng ở dưới đất, trước pho tượng có đặt sẵn hai cái bồ đoàn, dường như để cho người vào tham bái. Chân chàng quỳ lên cái lớn, dưới chân pho tượng cũng có cái nhỏ hơn, phải chăng để người lạy dập đầu xuống? Đoàn Dự vừa phục xuống, bỗng nhìn mé trong gót hài tựa như có thêu chữ. Chàng định thần nhìn kỹ quả thấy hài chân trái có tám chữ: “Lạy ta nghìn lạy, cho ta sai khiến”. Hài chân phải cũng có tám chữ: “Tuân theo lệnh ta, chết đừng hối hận”.

Thần tượng đi đôi hài màu nước biển, mười sáu chữ trên đây nhỏ như đầu ruồi lại thêu bằng chỉ màu xanh hơi thẫm hơn một chút, nếu không cúi đầu sát xuống thì không tài nào nhìn rõ được. Đoàn Dự đã bị dung nhan pho tượng mê hoặc, khấu đầu ngàn lạy giai nhân cũng chẳng sao. Còn việc được giai nhân sai bảo thì cầu khẩn vị tất đã được? Sau cùng là việc vì mỹ nhân mà bị đại họa sát thân lại là điều sở nguyện của chàng, dù nước sôi lửa cháy cũng không hối hận. Tâm hồn chàng say mê điên đảo, đọc xong mấy câu chàng khấu đầu rất cung kính vừa lạy, vừa đếm “năm, mười, mười lăm, hai mươi…”

Chàng lạy được năm, sáu trăm lạy, bắt đầu thấy lưng mỏi, xương đau, sái đầu sái cổ nhưng vẫn cố gắng lạy cho đủ số mới thôi. Mệnh lệnh đầu tiên của thần tiên tỉ tỉ đã không xong thì còn nói gì đến chuyện dẫu chết cũng không hối hận? Đến lúc được trên tám trăm cái, mặt chiếc bồ đoàn nhỏ đã sờn, lộ ra bên dưới có vật gì đó, Chàng không để ý đến, vẫn cứ cung cung kính kính lên gối xuống gối đủ một nghìn lần. Khi xong rồi thấy lưng mỏi nhừ, vừa ngóc đầu đã khuỵu ngay xuống.

Chàng nằm lăn ra nghỉ cho lại sức, thấy mình đã tuân hành được một chuyện của người ngọc, chân càng chồn, gối càng mỏi thì trong lòng càng sung sướng. Qua một lúc sau chàng mới từ từ trở dậy, giơ tay mò vào chỗ rách của cái bồ đoàn nhỏ thấy vật gì trơn nhẵn, hóa ra là một cái túi bằng lụa nghĩ thầm: “Thì ra thần tiên tỉ tỉ đã sắp xếp, nếu ta không lạy đủ một nghìn cái thì cái đệm nhỏ này đâu có rách, vật báu của nàng tặng cho ta đâu có lộ ra được”. Chàng xưa nay chẳng coi châu báu ngọc ngà vào đâu nhưng cái túi này là của thần tiên tỉ tỉ ban cho, dẫu bên trong chỉ là vải rách giấy vụn thì cũng coi như quý giá nhất đời. Chàng lôi cái túi ra, hai tay bưng lên ngang ngực.

Cái túi đó dài chừng một thước, trên nền lụa trắng viết mấy chữ nhỏ: “Ngươi đã lạy ta đủ một nghìn lần thì hãy tuân theo mệnh lệnh. Cuộn này là tinh yếu võ công của phái Tiêu Dao, mỗi ngày ba lần cố gắng tu tập những giờ mão, ngọ, dậu, nếu như biếng nhác thì ta thật đau lòng. Thần công thành tựu rồi, hãy tới Lang Hoàn Phúc Địa đọc cho kỳ hết kinh điển để biết gia số các môn phái trong thiên hạ mà dùng. Đừng gấp gáp, cứ thư thả, học xong rồi hạ sơn, giết sạch đệ tử phái Tiêu Dao, nếu sót một người thì ta dù trên trời hay dưới đất cũng không tiêu mối hận.”

Hay tay chàng run rẩy cầm cái bọc lụa nghĩ thầm: “Thế là thế nào? Ta vốn đã không muốn học võ, còn việc giết sạch người của phái Tiêu Dao thì lại càng không thể làm được. Thế nhưng mệnh lệnh của thần tiên tỉ tỉ lẽ nào không tuân hành? Ta đã dập đầu đủ một nghìn lần, nghĩa là bằng lòng cho nàng sai khiến. Thế nhưng nàng bảo ta học võ giết người, biết làm sao đây?”

Trong đầu chàng lúc này thật rối như tơ vò, nghĩ tiếp: “Nàng bảo ta học võ của phái Tiêu Dao, rồi lại bảo ta đi giết sạch đệ tử phái Tiêu Dao, thật lạ lùng thay. Ôi, chắc là sư huynh sư đệ, sự tỉ sư muội trong phái Tiêu Dao của nàng làm nàng khốn khổ cho nên nàng mới mong báo thù. Nàng đến lúc chết vẫn chưa nguôi mối hận nên mới tính chuyện thu đệ tử để thay mình hoàn thành tâm nguyện. Những kẻ đó làm hại thần tiên tỉ tỉ đến như thế, hẳn là xấu xa, gian ác nhất trên đời, có giết cho hết cũng phải. Khổng Phu Tử có nói: Lấy ngay thẳng mà báo oán, chính là như thế. Cha ta cũng nói rằng, nếu gặp kẻ xấu xa gian tà, mình không giết nó, nó cũng giết mình, nếu như không biết võ công thì có khác gì để cho người ta đâm chém sao cũng được. Câu đó xem ra không sai chút nào.” Khi cha chàng ép chàng học võ, chàng đem ra đủ các đạo lý của nhà nho, nhà Phật nhất định không chịu học. Cha chàng không thông hiểu sách vở bằng chàng nên không cãi được. Lúc này chàng vì say mê pho tượng ngọc mới nhận rằng lời cha là đúng.

Chàng nghĩ tiếp: “Thần tiên tỉ tỉ qui tiên đã mấy chục năm, chắc gì trên đời này còn phái Tiêu Dao? Người đời có nói: ác hữu ác báo, biết đâu những kẻ xấu xa kia chẳng đợi ta ra tay giết cũng đã chết cả rồi. Nếu không còn đệ tử phái Tiêu Dao, tâm nguyện của thần tiên tỉ tỉ đã hoàn thành, nàng ở trên trời dưới đất đâu có còn ôm mối hận nữa.”

Nghĩ ra như thế trong lòng chàng cảm thấy dịu lại, khấn thầm: “Thần tiên tỉ tỉ, những việc tỉ tỉ sai bảo, Đoàn Dự này dĩ nhiên phải tuân theo không dám cãi, nhưng mong rằng tỉ tỉ pháp lực vô biên, đệ tử phái Tiêu Dao ai nấy đều không bệnh hoạn mà chết cả rồi.” Chàng hồi hộp mở cái bọc gấm ra, bên trong là một cuộn lụa cuốn tròn.

Chàng mở cuộn lụa, hàng chữ đầu tiên viết: Bắc Minh thần công, nét chữ mềm mại nhưng có lực, so với hàng chữ bên ngoài túi không khác gì. Bên dưới viết tiếp: “Trang Tử Tiêu Dao Du có viết: ở tận cùng phía bắc có ao tối, đó chính là ao trời. Trong ao có cá lớn, vài nghìn dặm không ai nhìn thấy bao giờ.” Lại viết: “Nếu như nước tích không đủ thì không có sức mang nổi thuyền lớn. Đổ một chén nước vào chỗ trũng, lấy cái lá cỏ làm thuyền thì được, còn lấy cái chén làm thuyền thì không xong vì nước nông mà thuyền quá lớn. Bản phái võ công cũng chẳng khác, yếu quyết đầu tiên là tích súc nội lực. Nội lực đầy đủ rồi, võ công trong thiên hạ ta đều dùng được, khác gì biển bắc, thuyền lớn thuyền nhỏ đều chở được, cá lớn cá nhỏ đều dùng được. Cho nên nội lực là gốc, chiêu số là ngọn. Những hình vẽ dưới đây nên cố gắng tu tập.”

Đoàn Dự khen: “Đoạn này thần tiên tỉ tỉ viết thật là rõ ràng.” Chàng nghĩ thầm: Bắc Minh thần công là công phu tu luyện nội lực, có học cũng không sao. Tay trái chàng lần từ từ giở cuộn vải ra, đột nhiên “A” lên một tiếng, tim đập thình thành rồi mặt đỏ bừng, người nóng rực.

Thì ra trên tấm lụa là hình vẽ một người con gái nằm ngang, thân thể không một mảnh vải, diện mạo chẳng khác gì pho tượng ngọc. Đoàn Dự cảm thấy nếu nhìn lâu thêm không khỏi coi thường thần tiên tỉ tỉ, nên vội vàng cuộn lại không coi nữa. Một hồi sau chàng mới nghĩ thầm: Thần tiên tỉ tỉ có dặn là những hình vẽ dưới đây nên cố gắng tu tập, ta cũng chỉ theo lệnh mà làm không thể coi là bất kính.

Chàng run run đưa tay mở cuộn vải ra, thấy bức hình người con gái khỏa thân kia đang mỉm cười đầu mày cuối mắt, trên môi trên má thật là kiều mị, so với pho tượng khuôn mặt trang nghiêm tuy dung mạo có giống nhưng tinh thần khác hẳn. Chàng thấy ngực mình rộn ràng, nghe được cả tiếng tim đập, liếc mắt nhìn trộm bức tranh, thấy có một đường chỉ nhỏ màu xanh từ trên vai trái vòng xuống dưới cổ rồi chạy xéo xuống ngực bên phải. Chàng nhìn đến đôi nhũ hoa đầy đặn của người đẹp trong lòng thảng thốt, vội vàng nhắm mắt lại, một lát sau mới he hé nhìn thấy sợi chỉ xanh đó chạy xuống dưới nách rồi kéo dài đến tận cánh tay phải, qua cổ tay tới ngón tay cái mới ngừng. Chàng càng nhìn càng yên bụng, nghĩ thầm mình nhìn bàn tay, ngón tay của thần tiên tỉ tỉ thì không sao, nhưng nghĩ đến cánh tay trắng muốt trong lòng không khỏi rộn ràng.

Lại có một sợi chỉ xanh khác từ cổ đi xuống, qua bụng rồi đi tiếp nữa tới cách rốn mấy tấc mới ngừng. Đoàn Dự không dám nhìn sợi dây đó lâu, chăm chú nhìn đường trên cánh tay, thấy bên cạnh sợi dây ghi đầy những chữ nhỏ, nào Vân Môn, Trung Phủ, Thiên Phủ, Hiệp Bạch, Xích Trạch, Khổng Tối, Liệt Khuyết, Kinh Cừ, Đại Uyên, Ngư Tế… đến Thiếu Thương ở ngón tay cái thì ngừng lại. Chàng thường ngày nghe cha mẹ bình luận võ công, tuy không lưu ý những lọt vào tai cũng khá nhiều, biết ngay Vân Môn, Trung Phủ… đều là tên các huyệt đạo trên thân thể con người.

Chàng mở thêm một chút thấy bên dưới có một hàng chữ: “Bắc Minh thần công lấy nội lực của thiên hạ làm của mình. Nước lớn biển bắc không phải tự nhiên mà có. Lời rằng: Trăm sông đổ vào biển, nước của biển sở dĩ có là vì dung chứa nước của trăm sông. Biển cả bao la cũng là vì biết tích tụ. Thủ Thái Âm Phế Kinh này là bài học đầu tiên của Bắc Minh thần công.” Bên dưới viết kỹ phương pháp luyện môn công phu này.

Sau cùng chép: “Người đời luyện công đều đi từ Vân Môn đến Thiếu Thương, phái Tiêu Dao ta lại đi ngược lại, đi từ Thiếu Thương trở về Vân Môn, ngón tay cái vừa chạm vào người khác, nội lực của người liền chảy vào thân thể mình, tới tận các huyệt. Nếu như nội lực kẻ địch mạnh hơn ta, tức là nước biển chảy ngược vào sông hồ cực kỳ hung hiểm, phải hết sức cẩn thận. Bọn phản đồ trong bản phái không hiểu được đạo lý này nên chỉ biết làm tiêu hao nội lực kẻ địch mà không biết biến nội lực của địch thành của mình, khác nào trong tay có nghìn vàng đem vứt dưới đất, coi bảo vật không ra gì, thật đáng buồn cười!”

Đoàn Dự thở dài một tiếng, mang máng thấy công phu này dường như không được quang minh, lấy nội lực của người làm của mình thì khác nào ăn cắp tài vật người ta? Thế nhưng chàng lại nghĩ ngay: “Thí dụ của thần tiên tỉ tỉ thật là đúng, trăm sông đổ vào biển là do tự ý chảy vào chứ biển có ăn cắp nước của sông đâu? Ta lại cho rằng thần tiên tỉ tỉ đi lấy của người khác, thật là lếu láo, đáng đánh đòn.”

Chàng giơ tay lên, tát ngay vào mặt mình một cái, má trái liền sưng lên thật là đau, lại tát bên phải một cái nữa nhẹ hơn, nghĩ thầm: “Kẻ xấu xa tàn ác dám mạo phạm đến thần tiên tỉ tỉ, thần tiên tỉ tỉ lấy nội lực của chúng chính là bẻ nanh vuốt bọn chúng, khác gì giật con dao trong tay kẻ cướp chứ có phải giết y đâu. Thần tiên tỉ tỉ làm như thế có gì là không phải?”

Chàng mở tiếp cuộn vải lụa, trên đó vẽ toàn là hình con gái khỏa thân, kẻ đứng người nằm, hoặc trước mặt, hoặc sau lưng, cùng một khuôn mặt nhưng khi vui khi buồn, khi thì tình ý triền miên, lúc lại có vẻ bực bội, mỗi bức một khác. Tất cả tổng cộng ba mươi sáu bức tranh, trên bức tranh nào cũng có những sợi chỉ màu, ghi rõ bộ vị huyệt đạo và phương pháp luyện công.

Đến cuốn lụa sau cùng có bốn chữ Lăng Ba Vi Bộ, kế đó vẽ đầy những vết chân, ghi rõ Qui Muội, Võ Vọng các loại, đều là những phương vị trong kinh Dịch. Mấy hôm trước đây Đoàn Dự toàn tâm toàn lực nghiên cứu kinh Dịch, vừa đọc đến những tên này lập tức tinh thần phấn khởi chẳng khác gì tha hương ngộ cố tri. Chỉ thấy dấu chân chằng chịt, không biết bao nhiêu trăm, bao nhiêu nghìn, từ bước nọ sang bước kia có một đường dây xuyên qua, vô số dấu mũi tên, xem ra là một loại bộ pháp phức tạp. Sau cùng là một hàng chữ viết: “Nếu gặp phải cường địch, thì dùng bộ pháp này để bảo vệ chính mình, tích thêm nội lực sau đó sẽ quay lại giết địch.”

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Bộ pháp của thần tiên tỉ tỉ để lại ắt là tinh diệu, khi gặp cường địch đào tẩu thoát thân thì tốt biết bao, còn như việc quay lại thì bất tất phải nghĩ đến.”

Chàng cuộn tấm lụa lại, để lên vái hai cái rồi trinh trọng bỏ vào trong túi, quay sang nói với pho tượng ngọc: “Thần tiên tỉ tỉ dặn ta sáng trưa chiều ba lần luyện công, Đoàn Dự này không dám trái lời. Từ nay trở đi đối với người khác sẽ hết sức nể nang để cho người khác khỏi đánh, khỏi phải hút nội lực của người ta. Còn Lăng Ba Vi Bộ kia ta sẽ gia tâm luyện cho thành thục, nếu thấy không êm thì lập tức chạy ngay, khỏi phải hút nội lực của họ.” Còn lời dặn giết sạch đệ tử phái Tiêu Dao, chàng không dám nhắc đến.

Chàng thấy bên trái có một cái cửa hình tròn nên chậm rãi đi vào, bên trong lại là một gian thạch thất khác, trong đó có một chiếc giường đá, trước giường để một cái nôi nho nhỏ bằng gỗ. Chàng ngơ ngẩn nhìn chiếc nôi, nghĩ thầm: Không lẽ thần tiên tỉ tỉ lại có con ư? Nghĩ đến người thần tiên tỉ tỉ bằng thanh ngọc khiết kia lại có con, không khỏi cực kỳ thất vọng, nhưng chàng lại nghĩ ngay: “A, đúng rồi. Đây chắc là cái nôi của thần tiên tỉ tỉ nằm khi nàng còn bé. Hai người Tiêu Dao Tử và Thu Thủy muội chắc là song thân, đúng rồi.” Chàng cũng không thèm nghĩ thêm xem mình đoán trúng hay trật, tinh thần lại trở nên cao hứng.

Trong gian phòng không có chăn gối quần áo gì, trên tường có treo một cây đàn, dây đã đứt cả. Bên cạnh giường lại có một cái bàn đá, trên bàn khắc mười chín đường bàn cờ, trên còn sắp xếp đến hơn hai trăm quân trắng đen đang hồi kịch liệt. Đàn còn đó, cờ chưa xong mà giai nhân mờ mịt nơi nào? Đoàn Dự đứng sững sờ trong gian thạch thất, không khỏi bị thương, hai hàng lệ chảy dài trên má.

Bỗng dưng chàng lại hoảng hốt: “Trời ơi! Nếu có bàn cờ, ắt phải có hai người giao đấu, e rằng thần tiên tỉ tỉ chính là Thu Thủy muội, cùng chồng là Tiêu Dao Tử ngồi đây đánh cờ. Ôi thôi! Thật là… thật là… Ô, đúng rồi! Bàn cờ này không phải hai người đánh mà là thần tiên tỉ tỉ ở một mình nơi u cốc, tịch mịch không có gì làm, nên đánh cờ một mình. Thần tiên tỉ tỉ, năm xưa sao nàng không gọi lên vài tiếng? Đoàn Dự này nghe tiếng oanh êm ả, thể nào chẳng vào trong sơn cốc hầu cờ cùng tỉ tỉ”. Chàng đến bến xem kỹ cuộc cờ, không ngờ càng xem càng kinh hãi.

Cuộc cờ đó biến hóa phức tạp vô song, là thế cờ vẫn gọi là Trân Lung, hai bên hết sức tranh đoạt mà không bên nào dứt điểm được. Đoàn Dự đã từng nghiên cứu về cờ vây mấy năm qua, có lúc từng đánh cờ mê mẩn với Thôi tiên sinh trong nhà. Chàng vốn thông minh nên lúc đầu Thôi tiên sinh chấp chàng bốn quân mà sau một năm đã chấp lại ông ta ba quân, có thể nói là một tay cờ cao thủ trong nước Đại Lý. Thế nhưng bàn cờ trước mắt rồi sẽ ra sao vẫn không thể nghĩ ra, bên nào cũng có thể thắng có thể bại. Chàng đứng hồi lâu, thế cờ càng lúc càng mờ mịt, thấy có hai chân đèn trên còn hai cây nến cháy dở, bên cạnh có cả hỏa đao, hỏa thạch, bùi nhùi nên đánh lửa lên đốt đèn coi cho rõ. Chàng xem đến khi đầu váng mắt hoa.

Đoàn Dự đứng lên, vặn lưng cho bớt mỏi, bỗng giật mình: “Cuộc cờ này có nghĩ thêm mười ngày chưa chắc đã giải xong, đến lúc đó tính mạng mình đã không còn mà Chung cô nương thì cũng đã bị Thần Nông Bang chôn đến chết đói.” Chàng không dám ngồi coi nữa, tiện tay cầm luôn cây đèn, trong lòng đột nhiên mừng rỡ: “Đúng rồi! Đúng rồi! Bàn cờ này phức tạp đến thế, chắc là thần tiên tỉ tỉ tự mình sắp đặt một thế Trân Lung, chứ nào phải hai người đánh với nhau, quả thật hay quá.”

Chàng ngửng đầu lên thấy dưới chân giường lại cũng có một cái cửa hình tròn, tường bên cạnh có bốn chữ Lang Hoàn Phúc Địa. Chàng nhớ đến câu thần tiên tỉ tỉ viết bên ngoài cuộn lụa, nghĩ thầm: Thì ra Lang Hoàn Phúc Địa ở ngay đây. Thần tiên tỉ tỉ có nói là kinh điển các môn phái trong thiên hạ đều có ở trong này. Ta đâu muốn học võ công, những kinh điển đó không xem là hơn. Thế nhưng thần tiên tỉ tỉ đã dặn, đâu thể trái lời. Chàng bèn cắm đuốc tiến vào.

Vừa bước chân vào, Đoàn Dự đưa mắt nhìn bốn phía thở ra khoan khoái, trong lòng nhẹ hẳn đi. Thì ra Lang Hoàn Phúc Địa là một cái thạch động thật lớn, to gấp mấy lần những phòng ở bên ngoài, trong bày đầy những giá sách bằng gỗ. Có điều trên những kệ đó trống trơn, không còn một quyển nào. Chàng bưng cây nến lại gần thấy trên giá có cắm đầy những thẻ, nào là Côn Luân Phái, Thiếu Lâm Phái, Tứ Xuyên Thanh Thành Phái, Sơn Đông Bồng Lai Phái… bên trong có cả Đại Lý Đoàn Thị. Thế nhưng trong chiếc thẻ đề Thiếu Lâm Phái thì có chú thích “thiếu Dịch Cân Kinh”, trong thẻ đề Cái Bang thì chú thích “thiếu Hàng Long Thập Bát Chưởng”, còn thẻ để Đại Lý Đoàn Thị thì ghi chú “thiếu Nhất Dương Chỉ, Lục Mạch Thần Kiếm kiếm pháp, thật đáng tiếc”.

Như vậy hẳn là năm xưa trên những kệ sách này chất đầy đồ phổ, kinh sách của các môn phái nhưng nay đã bị lấy đi hết chỉ còn giá không. Thoạt tiên Đoàn Dự tưởng như trút được tảng đá trong lòng: “Nếu như không còn võ công điển tịch nữa thì ta không học võ công cũng không thể nói là không theo lệnh của thần tiên tỉ tỉ”. Thế nhưng trong lòng chàng bỗng cảm thấy hổ thẹn: “Đoàn Dự ơi là Đoàn Dự, ngươi vui vì không phải tuân lệnh của thần tiên tỉ tỉ thì đã là bất trung với nàng rồi. Ngươi không thấy võ công điển tịch đáng lẽ phải thất vọng mới phải, sao lại lấy làm sung sướng là sao? Thần tiên tỉ tỉ trên trời dưới đất nếu có linh thiêng ắt sẽ không bằng lòng.”

Lang Hoàn Phúc Địa này không có cửa ra, chàng trở lại phòng ngoài. Trong lòng vẫn còn quyến luyến pho tượng mỹ nhân, chân bước đi mặt còn ngoảnh lại, chàng định nhìn lần nữa rồi thôi, nhưng vừa nhìn lên gặp ngay đôi mắt pho tượng ngọc đang nhìn mình, lòng chàng lại thẫn thờ, đầu óc lại quay cuồng, đứng ngây ra một lúc rồi vái dài sát đất nói: “Thần tiên tỉ tỉ ơi! Hôm nay vì có việc khẩn cấp, ta xin tạm biệt. Sau khi cứu được Chung Linh ra rồi, ta sẽ trở về đây đoàn tụ cùng tỉ tỉ.”

Ra khỏi thạch thất, chàng theo bậc đá đi chếch lên. Chàng vừa đi vừa do dự, mấy phen toan quay trở lại ngắm tượng ngọc mỹ nhân. Chàng phải quả quyết lắm mới chế phục được cõi lòng.

Đoàn Dự đi được hơn trăm bậc, chuyển qua ba khúc quanh, văng vẳng có tiếng sóng vỗ bì bõm, chàng đi hơn hai trăm bậc nữa, tiếng sóng nghe đã rõ, phía trước đã thấy ánh sáng rọi vào. Chàng càng đi mau hơn cho đến bậc đá cuối cùng thì thấy trước mắt có một cái hang vừa đủ một người đứng. Chàng ló đầu ra ngoài, giật mình hồi hộp, run lên cầm cập.

Bên ngoài nước chảy băng băng, sóng vỗ ầm ầm, một con sông lớn hiện ra trước mắt Đoàn Dự. Hai bên bờ sông là hai rặng núi đá dựng đứng cao chót vót, cực kỳ hiểm trở. Chàng nhận ra đây đã đến bờ sông Lan Thương, thì nửa mừng nửa sợ, cúi rạp xuống bò ra cửa động, nhìn thấy chỗ mình nằm cao hơn mặt nước đến mười trượng. Dù mực nước sông có lên cao cũng không thể tràn tới được. Chỉ còn một điều khó khăn là phải vượt qua mấy tầng đèo cao, vực thẳm mới ra tới chỗ đất bằng. Chàng vận dụng cả chân tay lúc trèo lên, khi tụt xuống đồng thời vẫn lưu ý nhìn kỹ mọi địa thế, ghi nhớ vào lòng để sau này cứu người xong, sẽ trở lại chốn này. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Từ nay mỗi năm ta để vài tháng vào trong hang này làm bạn với thần tiên tỉ tỉ.”

Bờ sông toàn là núi đá lởm chởm, không có lấy một con đường nhỏ, Đoàn Dự vất vả lắm mới đi được bảy tám dặm. Đến một gốc cây đào mọc tự nhiên, trên cành trái chín lúc lỉu, chàng mừng quá, trèo lên hái ăn kỳ no bụng. Lại thấy tinh thần phấn khởi, đi chừng hơn mười dặm nữa mới thấy một lối đi xuất hiện. Chàng lần theo lối nhỏ này đi cho tới lúc mặt trời xế bóng thì đến một cái cầu sắt bắc qua sông. Đầu cầu dựng một tấm bia đá khắc ba chữ: Thiện Nhân Độ.

Đoàn Dự trông thấy cả mừng, vì trước Chung Linh đã dặn chàng phải qua cầu này. Cầu gồm bốn sợi dây sắt: hai sợi dưới gác ván gỗ để đi, còn hai sợi trên dùng làm tay vịn. Đoàn Dự bước chân lên cầu thấy chao qua chao lại đã sợ. Ra đến giữa sông cầu lắc mạnh hơn, chàng nhìn xuống sông chỉ thấy nước chảy băng băng, tựa như đàn ngựa hoang đuổi nhau dưới cầu. Chỉ sểnh một chút té nhào xuống thì dù có biết bơi lội cũng không toàn tánh mạng.

Chàng kinh hãi không dám trông xuống nữa, mắt chỉ nhìn về phía trước, vừa đi vừa run, lập cập tụng niệm: A Di Đà Phật, A Di Đà Phật! Lần từng bước một, sang tới đầu cầu bên kia bấy giờ mới hoàn hồn.

Chàng ngồi nghỉ một lúc, lại theo lời dặn của Chung Linh mà đi. Chừng nửa giờ thì thấy một khu rừng rậm, biết là đã đến cửa Vạn Kiếp Cốc, nơi nàng ở. Chàng đến gần quả nhiên thấy một hàng chín cây cổ tùng vươn lên cao vút. Chàng đến cây thứ tư bên phải, vòng qua phía sau vạch đám cỏ cao, quả nhiên trên cây có một cái hang, nghĩ thầm: “Vạn Kiếp Cốc quả thật kín đáo, nếu không được Chung cô nương cho hay thì nào ai biết được cửa cốc lại ở ngay trong một cây tùng.”

Chàng tiến vào cửa hang, một tay vạch cỏ ra, tay phải mò thấy một cái vòng sắt lớn, dùng sức kéo lên, nắp gỗ liền mở, bên dưới là một hàng bậc thang bằng đá. Chàng đi xuống mấy bậc rồi hai tay lại nâng cánh cửa gỗ để lại chỗ cũ, tiếp tục đi xuống, khoảng chừng ba mươi bước thì đường ngoặt qua phía phải, sau mấy trượng lại trồi trở lên, nghĩ thầm: ở đây làm bậc đá dễ hơn thần tiên tỉ tỉ nhiều. Lên chừng ba mươi bậc thì đến một khoảng đất bằng.

Trước mắt chàng thấy một bãi cỏ rộng, xa xa là những cây tùng. Đến gần thấy một cây tùng lớn trên bạt đi một mảng vỏ dài chừng một trượng, ngang chừng một thước, trên sơn trắng viết tám chữ lớn: Họ Đoàn vào đây tất giết không tha. Những chữ khác đều màu đen, riêng chữ giết lại màu đỏ.

Đoàn Dự nghĩ thầm: Sao cốc chủ lại hận thù họ Đoàn ta đến thế? Dẫu như có người họ Đoàn đắc tội với y nhưng trên đời này người họ Đoàn hàng nghìn, hàng vạn, đâu phải ai cũng đáng giết. Khi đó trời đã tối, những chữ đó trông như giơ nanh múa vuốt, chữ giết kia màu đỏ chói chẳng khác gì bôi đầy máu tươi, trông thật ghê rợn. Đoàn Dự nghĩ thầm: “Chung cô nương bảo ta đừng xưng mình họ Đoàn thì ra là thế. Cô ta bảo mình gõ vào chữ thứ hai ba lần, tức là phải gõ vào chữ Đoàn. Lúc đó nàng không nói rõ ra, sợ ta nổi giận. Gõ thì đã sao nào? Nàng cứu mạng ta, đừng nói chỉ gõ vào chữ Đoàn ba lần, mà có đá cho Đoàn Dự này ba phát cũng không sao.”

Chàng thấy trên cây có đóng một cái đinh treo một cái búa nhỏ, liền lấy xuống gõ vào chữ Đoàn một cái. Tiếng kim loại vang lên, Đoàn Dự không đề phòng phải giật nảy người, mới hay bên dưới là một miếng sắt, phía sau rỗng, chỉ vì bên ngoài sơn trắng nên không nhìn ra. Chàng gõ thêm hai lần nữa rồi treo cái búa lại chỗ cũ.

Qua một lát, đằng sau cây tùng có tiếng một thiếu nữ reo lên: “Tiểu thư về đấy ạ?”.

Đoàn Dự đáp: “Tại hạ vâng mệnh Chung cô nương xin đến bái kiến cốc chủ.” Cô gái bỗng “Ồ” một tiếng, ra chiều kinh ngạc hỏi: “Ngươi… ngươi là người ngoài ư? Tiểu thư của ta đâu?” Đoàn Dự đáp: “Chung cô nương hiện đang bị nguy khốn, tại hạ đến để báo tin.”

Thiếu nữ kinh hãi hỏi lại: “Nguy hiểm gì?” Đoàn Dự đáp: “Chung cô nương bị người ta bắt giữ, e rằng nguy hiểm đến tính mạng.” Cô gái kêu lên: “Ngươi… ngươi chờ đây để ta vào bẩm lại phu nhân.” Đoàn Dự nói: “Hay lắm!” Chàng nghĩ thầm: “Chung cô nương dặn ta đến ra mắt mẫu thân nàng trước”.

Đoàn Dự đứng ngoài chờ một lúc khá lâu, chợt nghe có tiếng chân người đi tới. Cô gái lúc nãy trở ra lên tiếng: “Phu nhân mời vào.” Đoàn Dự trông cô gái chừng mười bảy, mười tám tuổi, cách ăn mặc theo kiểu a hoàn, liền cất tiếng hỏi: “Tôi gọi tỉ tỉ bằng gì cho phải?” Cô gái ngoảnh lại, lắc đầu, đưa tay ra hiệu cho chàng đừng lên tiếng. Đoàn Dự thấy y có vẻ sợ sệt nên không hỏi han gì nữa, cứ lẳng lặng theo sau.

Nữ tì dẫn chàng xuyên qua một rừng cây, men theo lối đi nhỏ hẹp về mé tay trái đến một căn nhà ngói. Y đứng ngoài gõ cửa ba tiếng cạch cạch cạch. Cánh cửa từ từ mở ra, y đưa tay vẫy Đoàn Dự rồi đứng tránh sang bên, nhường lối cho chàng vào trước. Đoàn Dự bước vào trong nhà nhìn xem thì đây là một phòng khách nhỏ. Trên bàn đặt một cây nến lớn, thắp sáng trưng. Bàn ghế sạch như lau. Trên vách treo mấy bức họa, trên án trần thiết đỉnh đồng cùng những đồ bằng ngọc. Căn nhà này tuy không rộng lắm song bài trí cực kỳ tao nhã. Chàng vào ghế ngồi, nữ tỳ bưng trả lại mời: “Xin mời công tử dùng trà! Phu nhân sắp ra đó.

Đoàn Dự nhấp hai ngụm, thấy ở phía đông treo một bộ tứ bình trên vẽ mai lan cúc trúc bốn loại hoa cỏ, nhưng thứ tự lại xếp thành lan, trúc, cúc, mai; bên phía tây có bốn bức tranh vẽ xuân hạ thu đông nhưng lại treo thành đông, hạ, xuân, thu; nghĩ thầm: cha mẹ của Chung cô nương là con nhà võ, không rành thư họa, cũng không có gì lạ.

Chợt nghe tiếng ngọc va vào nhau kêu leng keng, một thiếu phụ mặc áo lụa xanh uyển chuyển bước ra, trạc tuổi bốn mươi, dung nhan diễm lệ, đôi mắt giống Chung Linh như hệt. Chàng biết đó là Chung phu nhân liền đứng dậy vái dài thưa rằng: “Vãn sinh là Đoàn Dự xin bái kiến bá mẫu.” Chàng vừa nói xong, mặt liền biến sắc, bụng kêu thầm: “Chao ôi! Sao ta lại xưng tên thật của mình thế này? Ta chỉ chăm chăm xem bà ta có giống Chung Linh hay không, quên bẵng đi là mình phải dùng tên giả.”

Chung phu nhân chắp tay đáp lễ nói: “Chào công tử!”

Phu nhân vừa chào vừa nhìn diện mạo Đoàn Dự, bất giác biến sắc, lắp bắp hỏi: “Cậu… cậu… họ Đoàn phải không?”

Đoàn Dự thấy Chung phu nhân hoảng hốt ra mặt, chàng muốn nói dối là mình họ khác, nhưng đã lỡ mất rồi, đành thưa lại: “Bẩm phu nhân, vãn sinh họ Đoàn.” Chung phu nhân lại hỏi: “Công tử quê quán ở đâu? Đại danh lệnh tôn là gì?”

Đoàn Dự nghĩ thầm: Hai câu này mình phải nói dối mới được, để phu nhân khỏi biết rõ tông tích nhà mình. Chàng nghĩ vậy liền đáp: “Vãn sinh quê ở phủ Lâm An, tỉnh Giang Nam, gia phụ tên gọi Đoàn Long.” Mặt Chung phu nhân lộ vẻ hoài nghi nói: “Thế sao giọng nói của công tử nghe như tiếng người Đại Lý?” Đoàn Dự đáp: “Vãn sinh đã ở Đại Lý ba năm rồi, học nói khẩu âm bản địa e rằng chưa được giống lắm, mong phu nhân đừng cười.”

Chung phu nhân hừ một tiếng nói: “Công tử nói giọng giống lắm, thật chẳng khác gì người chính gốc ở đây. Mời công tử ngồi.”

Hai người an tọa rồi, Chung phu nhân nhìn đi nhìn lại từ đầu đến chân chàng, dường như để đánh giá điều gì. Đoàn Dự không giữ được vẻ tự nhiên nữa, liền cất tiếng thưa: “Vãn sinh trên đường đi gặp hung hiểm khiến cho áo quần rách rưới, quả thực thất lễ. Lệnh ái đang gặp hiểm nguy, văn sinh vội đến báo tin, việc quá gấp gáp không kịp thay đổi áo mũ, xin phu nhân thứ tội.”

Chung phu nhân thần sắc đang hoảng hốt, nghe thấy thế như tỉnh giấc mơ, hỏi ngay: “Tiểu nữ ra sao?”

Đoàn Dự lấy trong túi ra đôi giày hoa của Chung Linh nói: “Xin bá mẫu hãy coi vật này! Lệnh ái đã đưa cho vãn sinh đem về làm tin.” Chung phu nhân cầm lấy đôi giày nói: “Đa tạ công tử, không biết tiểu nữ gặp phải chuyện gì?”

Đoàn Dự bèn đem chuyện mình gặp Chung Linh ở Kiếm Hồ Cung trong trường hợp nào, tự mình đòi đi can thiệp vào việc Thần Nông Bang ra sao, Chung Linh bị dồn vào tình thế bắt buộc phải cho con thiểm điện điêu ra cắn người, rồi bị bang Thần Nông bắt giữ thế nào nên mình phải đến đây cầu cứu, bị rơi vào hang núi mấy ngày qua, nhưng chàng không nhắc đến pho tượng ngọc trong động đá.

Chung phu nhân lẳng lặng, chăm chú lắng nghe chàng thuật chuyện, nét mặt mỗi lúc càng thêm vẻ lo âu. Chờ Đoàn Dự dứt lời, phu nhân thở dài thườn thượt nói: “Con nhỏ này cứ bước chân ra khỏi cửa là lại sinh chuyện lôi thôi, chuốc lấy tai họa.” Đoàn Dự nói: “Vụ này là do vãn sinh gây ra, bá mẫu chẳng nên quở trách cô nương.”

Chung phu nhân chăm chăm nhìn chàng nói nhỏ: “Ừ phải! Kể ra vụ này chẳng nên trách y. Ngay mình trước kia cũng thế.” Đoàn Dự hỏi: “Sao kia ạ?” Chung phu nhân rùng mình, hai má ửng hồng. Tuy bà đã đứng tuổi song vẻ thẹn thùng, e lệ chẳng khác chi cô gái đang xuân, ngượng nghịu đáp: “Ta… ta nhớ lại một chuyện ngày xưa.” Trong khi phu nhân nói câu này, mặt bà đỏ bừng lên rồi đánh trống lảng: “Ta nghĩ việc này nan giải quá!”

Đoàn Dự thấy phu nhân thay đổi sắc mặt, ra vẻ hoang mang thì nghĩ thầm trong bụng: Bà này còn không già dặn bằng cô con gái. Giữa lúc ấy ngoài sân có tiếng nói lạnh lẽo khô khan: “Hay nhỉ, Tiến Hỉ Nhi lại bị người ta giết là sao?”

Chung phu nhân giật mình bảo Đoàn Dự: “Lang quân ta đã về, tính người đa nghi lắm, Đoàn công tử hãy tạm lánh mặt đi!” Đoàn Dự nói: “Vãn sinh cần được bái kiến tiền bối, xin để…” Chàng chưa dứt lời, Chung phu nhân liền một tay bịt miệng chàng còn một tay kéo tuột vào căn phòng phía đông, ghé tai bảo: “Công tử nấp vào đây, chớ có lên tiếng nhé! Lang quân ta tính nóng như lửa, chỉ lỡ tay một tí là cậu mất mạng, ta không cứu nổi đâu.”

Chung phu nhân bề ngoài mảnh dẻ, mà bản lãnh không vừa. Đoàn Dự bị kéo tuột đi, muốn kháng cự không được, đành chịu một phép. Chàng cảm thấy ấm ức trong lòng, nghĩ mình vất vả lặn lội đến báo tin, dù sao mình cũng là một người khách mà phải ấn nấp lén lút, chẳng khác gì kẻ trộm cắp. Chung phu nhân quay sang nhìn chàng mỉm cười vẻ thật ôn nhu. Đoàn Dự thấy nụ cười đó liền hết giận, gật đầu. Chung phu nhân quay mình đi ra khép cửa phòng, trở lại khách sảnh.

Chỉ nghe thấy tiếng bước chân hai người đi vào trong phòng, một giọng đàn ông cất tiếng chào: “Phu nhân!” Đoàn Dự nhìn qua khe tường thấy một người chừng ba mươi tuổi ăn mặc theo lối gia nhân, vẻ mặt đang sợ hãi. Một người đàn ông khác mặc áo đen, vừa cao vừa gầy, mặt quay ra ngoài nên chàng không nhìn rõ tướng mạo, chỉ thấy hai bàn tay to như hai cái quạt, trên lưng bàn tay nổi đầy gân xanh, nghĩ thầm: Bàn tay cha Chung cô nương to thật.

Chung phu nhân hỏi: “Tiến Hỉ Nhi chết rồi ư? Có chuyện gì thế?” Người kia đáp: “Lão gia sai Tiến Hỉ Nhi và tiểu nhân đến Bắc Trang đón khách. Lão gia nói là tất cả có bốn người, hôm nay lúc trưa mới có một vị, nói là họ Nhạc. Lão gia từng dặn nếu gặp họ Nhạc thì chào là tam lão gia! Tiến Hỉ Nhi tiến lên cung kính gọi tam lão gia. Ngờ đâu người đó bỗng nổi cơn lôi đình, quát lớn: Ta là Nhạc lão nhị, cớ gì lại gọi ta là tam lão gia? Người coi thường ta phải không? Nghe bộp một cái đã đánh cho Tiến Hỉ Nhi sứt đầu chảy máu, lăn ra ngay.” Chung phu nhân nhíu mày: “Trên đời này sao lại có kẻ ngang ngược đến thế? Nhạc lão tam trở thành Nhạc lão nhị từ bao giờ?”

Chung cốc chủ nói: “Nhạc lão tam xưa nay tính tình nóng nảy, lại điên điên rồ rồ.” Nói xong y quay mình lại.

Đoàn Dự từ bên kia bức vách nhìn ra không khỏi giật mình vì tướng mạo lão rất ghê sợ: mặt dài như mặt ngựa, mắt xếch, mũi to mà tròn như trái cà xệ xuống gần miệng, thành ra giữa mắt và mũi cách một khoảng khá lớn. Chàng tưởng đến Chung Linh mi thanh mục tú nét mặt xinh tươi, lại ngạc nhiên sao cha ruột nàng lại xấu xí đến thế được?

Chung động chủ vốn mặt mày đăm đăm nhưng khi quay lại nhìn vợ lại đổi ra vẻ ôn hòa, bộ mặt xấu xí nanh ác cũng dịu lại đôi phần. Lão cười bảo vợ: “Nhạc lão tam tính tình ngang ngược, ta cũng sợ y kinh động đến phu nhân, nên không để cho y vào trong cốc. Chuyện nhỏ nhặt kia nàng đừng để tâm làm gì.”

Đoàn Dự càng lấy làm lạ nghĩ thầm: Chung phu nhân vừa nghe tiếng chồng về đã sợ cuống quít, nhưng giờ xem động chúa đối với bà vợ không những đầy vẻ thương yêu còn ra dáng kính nể nữa.

Chung phu nhân nói: “Sao lại là chuyện nhỏ nhặt được? Tiến Hỉ Nhi trung thành chăm chỉ hầu hạ mình bao nhiêu năm nay, nay bị gã bằng hữu chó lợn kia giết chết, trong lòng ta thật đau đớn xiết bao.” Chung cốc chủ cười gượng: “Đúng, đúng lắm! Nàng thương xót kẻ ăn người làm, quả là tốt bụng.”

Chung phu nhân hỏi gã gia nhận: “Lai Phúc Nhi, rồi sau ra sao?” Lai Phúc Nhi đáp: “Tiến Hỉ Nhi bị y đánh ngã xuống vốn đâu đã chết. Tiểu nhân vội vàng chào Nhị lão gia, xin nhị lão nhân gia đừng nóng nảy. Y liền cười hề hề rất là cao hứng. Tiểu nhân bèn đỡ Tiến Hỉ Nhi dậy, rồi dọn một mâm rượu cho gã họ Nhạc kia ăn. Y hỏi: Chung… Chung… sao không ra tiếp ta? Tiểu nhân trả lời: Lão gia chúng tôi chưa biết nhị lão gia đại giá quang lâm, nếu không thì đã ra nghinh tiếp rồi, để tiểu nhân quay vào bẩm báo. Người đó gật đầu, thấy Tiến Hỉ Nhi khép na khép nép đứng bên cạnh hầu hạ, liền hỏi: Hồi nãy ta đánh người một chưởng, trong bụng ngươi thể nào cũng rủa thầm ta, có đúng không nào? Tiến Hỉ Nhi vội đáp: Không, không, tiểu nhân đâu dám thế? Vạn lần không dám. Người đó nói: Ngươi trong bụng nhất định bảo ta là một đại ác nhân, không ai có thể ác hơn, hà hà! Tiến Hỉ Nhi nói: Không, không! Nhị lão gia là một người rất tốt, không ác một tí nào. Người kia dựng ngược lông mày quát: Ngươi bảo ta không ác chút nào ư? Tiến Hỉ Nhi sợ đến toàn thân run rẩy, nói: Ngài… nhị lão gia… không ác tí nào, chẳng… hoàn toàn chẳng ác. Người kia gầm lên một tiếng, đột nhiên giơ tay ra bẻ gãy cổ Tiến Hỉ Nhi…” Y giọng vẫn còn run rẩy, hiển nhiên chưa hoàn hồn.

Chung phu nhân thở dài một tiếng, vẫy tay nói: “Ngươi đã sợ hãi lắm rồi, thôi xuống nhà nghỉ ngơi đi.” Lai Phúc Nhi đáp: “Vâng, để tiểu nhân ra xem Nhạc lão tam có gây thêm chuyện gì không.” Chung phu nhân nói: “Ta khuyên người nên gọi hắn là Nhạc lão nhị cho xong.” Chung cốc chủ nói: “Hừ, tuy Nhạc lão tam hung ác thật nhưng ta lại nghĩ tình y nể mặt ta mà vạn dặm xa xôi đến đây giúp một tay, việc giết Tiến Hỉ Nhi thôi cũng đừng hỏi nữa làm gì.”

Chung phu nhân lắc đầu: “Hai người chúng ta yên lành nơi đây, trong mười năm qua ta chưa hề đặt chân ra khỏi cốc, phu quân còn chưa vừa ý hay sao? Việc gì còn tính chuyện đi mời Tứ Đại Ác Nhân đến để một phen long trời lở đất? Bình thời… chàng nói với ta những lời ngon ngọt dễ nghe, thực ra chàng có coi ta ra gì đâu.” Chung cốc chủ vội nói: “Ta… ta có làm gì mà bảo không coi nàng vào đâu? Ta mời bốn người đó tới đây chẳng phải vì nàng hay sao?” Chung phu nhân hừ một tiếng nói: “Vì tôi ư? Thế thì cảm ơn ông. Nếu quả thực vì tôi thì hãy bảo Tứ Đại Ác Nhân về đi.”

Đoàn Dự ở bên kia vách nghe thế bụng lấy làm lạ lùng: Gã Nhạc lão tam kia ra tay giết người vô duyên vô cớ, thật ác không ai bằng, không lẽ trên đời này còn có ba người cũng hung ác như y hay sao?

Chỉ thấy Chung cốc chủ hầm hầm giận dữ đi qua đi lại trong phòng khách, thở hổn hển nói: “Gã họ Đoàn kia làm nhục ta quá lắm, thù này không báo, Chung Vạn Cừu này còn mặt mũi nào mà sống trong trời đất nữa?”

Đoàn Dự nghĩ bụng: Thì ra tên ngươi là Chung Vạn Cừu, cái tên đó xem ra không ổn. Người đời thường nói oan gia nên cởi không nên buộc, nhớ một mối cừu cũng đã không hay, huống chi lại Vạn Cừu? Thảo nào mặt ngươi mới dài ngoằng như thế. Cứ như dung mạo nhà ngươi, lấy được một người vợ như hoa như ngọc thì quả là một đại hạnh trên đời, phải đổi tên thành Chung Vạn Hạnh mới phải.

Chung phu nhân nhướng mày lên, lạnh lùng đáp: “Thực ra ông trong lòng hận tôi chứ đâu phải là hận người khác. Nếu quả như ông muốn gây chuyện với người ta, sao không tự mình đến kiếm y, lấy quyền cước mà so cao thấp? Nhờ người đến giúp, dẫu có thắng thì cũng đâu có vinh dự gì.” Gân xanh trên trán Chung Vạn Cừu cuồn cuộn nổi lên, y quát lớn: “Hắn ta bộ hạ đông như thế, bà không biết hay sao? Ta muốn một chọi một y không chịu gặp, còn làm thế nào được bây giờ?” Chung phu nhân cúi đầu không nói, nước mắt tuôn tràn rơi xuống vạt áo. Chung Vạn Cừu vò đầu bứt tai, vẻ bối rối, chỉ biết luôn miệng: “A Bảo, nàng đừng giận, ta nhất thời không tự chế được, thật đáng chết.”

Chung phu nhân nói nhỏ: “Thì ra trong lòng ông chẳng bao giờ quên được chuyện cũ, tôi có sống cũng thật là vô vị. Chi bằng ông phóng chưởng đánh chết tôi đi, thế là kết thúc mọi chuyện, để trong bụng ông khỏi ấm ức. Sau đó ông ra ngoài kiếm một bà nào xinh đẹp làm vợ là xong.”

Chung Vạn Cừu giơ bàn tay lên, vả vào mặt mình hai cái bôm bốp, nói: “Ta đáng chết! Ta đáng chết!”

Đoàn Dự thấy bàn tay to như cái quạt của y đánh vào bộ mặt dài như ngựa, trông thật là vừa vặn, nhịn không nổi phải cười khì một tiếng. Tiếng cười vừa ra khỏi miệng, chàng biết ngay lần này gây họa còn lớn gấp mấy, chỉ mong Chung Vạn Cừu không nghe thấy. Nào ngờ đã nghe y quát tháo: “Đứa nào đó?” Tiếp theo nghe “bình” một tiếng, cửa phòng bị đá tung ra, ai đó đã bước vào. Đoàn Dự bị nắm cổ lôi ra, quẳng một cái mạnh xuống sàn nhà, mắt tối sầm, bao nhiêu xương cốt tưởng như gãy hết.

Chung Vạn Cừu lại nắm cổ áo chàng dựng dậy, quát hỏi: “Ngươi là ai? Sao trốn ở trong phòng phu nhân làm gì?” Y thấy chàng dung mạo thanh tú, trong lòng nổi cơn nghi ngờ, quay sang hỏi Chung phu nhân: “A Bảo, nàng… nàng… lại…”

Chung phu nhân giận dỗi nói: “Lại với chẳng lại cái gì? Mau bỏ y ra, y tới báo tin cho mình đó,” Chung Vạn Cừu hỏi: “Báo tin gì?” Y nhấc Đoàn Dự lên khỏi mặt đất, quát lớn: “Thằng lỏi thối tha này, ta xem ngươi mặt mày trơ trẽn không tốt lành gì. Ngươi lấp ló trốn trong phòng phu nhân là sao? Khai mau, khai mau! Ngươi chỉ nói láo nửa câu, ta sẽ đánh cho cái sọ ngươi nát như tương.”Y vung quyền đấm xuống, nghe lách cách, chiếc bàn bằng gỗ lê sứt một góc.

Đoàn Dự bị quật một cái đã đau, lại bị y nhấc bổng lên vùng vẫy không được, nghe giọng xem chừng nghi mình thậm thụt gì với vợ y, trong lòng hết sợ mà hóa giận, lớn tiếng đáp: “Ta họ Đoàn, ngươi muốn giết thì ra tay mau đi. Không biết gì thì đừng có nói bậy nói bạ”

Chung Vạn Cừu giơ tay lên, hầm hầm nói: “Tên tiểu tử này cũng lại họ Đoàn ư? Lại cũng họ Đoàn nữa, lại… lại cũng họ Đoàn nữa.” Nói đến câu sau, giọng phẫn nộ của y biến thành thê thảm, đôi mắt ốc nhồi ứa lệ.

Đoàn Dự bỗng nổi lòng thương xót, dường như y biết tài mạo mình không xứng với vợ cho nên chuyện gì cũng dễ ghen tuông, thực là đáng thương hại. Chàng quên rằng mạng mình đang ở trong tay người, cất tiếng an ủi: “Ta họ Đoàn, chưa từng gặp mặt phu nhân, cốc chủ chớ có nghi ngờ cho khổ vào thân.”

Chung Vạn Cừu mặt lộ vẻ vui mừng, nghẹn ngào nói: “Thật thế sao? Ngươi trước nay chưa hề… chưa hề gặp A Bảo ư?” Đoàn Dự nói: “Ta đến đây chưa đầy nửa giờ.” Chung Vạn Cừu ngoác mồm cười hề hề mấy tiếng nói: “Đúng lắm, đúng lắm! A Bảo mười năm nay chưa ra khỏi cốc, mười năm trước ngươi chỉ mới chín mười tuổi, không thể nào… không thể nào…” Thế nhưng y vẫn xách Đoàn Dự lên chưa thả xuống.

Chung phu nhân mặt đỏ lên, nói: “Mau thả Đoàn công tử ra!” Chung Vạn Cừu vội đáp: “Vâng!” Y nhẹ nhàng để Đoàn Dự xuống, đột nhiên mặt lại lộ vẻ ngờ vực, hỏi: “Đoàn công tử? Đoàn công tử? Thế… thế cha ngươi là ai?”

Đoàn Dự nghĩ thầm: Nếu ta còn nói láo hóa ra có tà ý hay sao? Chàng ngang nhiên đáp: “Hồi nãy ta giấu Chung phu nhân, thực ra chẳng có gì đáng dối. Ta tên Đoàn Dự, chính người Đại Lý. Tên cha ta thượng Chính hạ Thuần.”

Chung Vạn Cừu thoạt đầu chưa nghĩ ra thượng Chính hạ Thuần là gì, Chung phu nhân đã run run hỏi lại: “Cha ngươi là… là Đoàn… Đoàn Chính Thuần ư?” Đoàn Dự gật đầu: “Đúng thế.”

Chung Vạn Cừu gào lên: “Đoàn Chính Thuần!” Ba tiếng đó y hét đến long trời lở đất, đột nhiên mắt đỏ ngầu, toàn thân run lên bần bật: “Ngươi là… ngươi là con tên cẩu tặc Đoàn Chính Thuần đấy sao?”

Đoàn Dự giận quá, quát lại: “Sao ngươi lớn mật dám mắng cha ta?” Chung Vạn Cừu bực bội nói: “Có gì mà không dám? Đoàn Chính Thuần, ngươi là tên cẩu tặc, là đồ khốn nạn.”

Đoàn Dự bấy giờ mới rõ, y viết ở ngoài cửa cốc: Họ Đoàn Vào Đây Sẽ Giết Không Tha, chính là vì căm hận cha mình mới giận lây ra hết thảy họ Đoàn khác, nên thản nhiên đáp: “Chung cốc chủ, nếu ông có thù với cha ta thì nên quang minh chính đại mà giải quyết. Ông có giỏi thì tới trước mặt cha ta mà chửi, còn chửi sau lưng thì đâu có gì là anh hùng hảo hán? Cha ta ở trong thành Đại Lý, ông muốn kiếm thì dễ như trở bàn tay, việc gì mà phải để biển hiệu trước cửa nhà?”

Mặt Chung Vạn Cừu lúc xanh xám, lúc đỏ bừng, dường như những lời nói của Đoàn Dự đều đánh trúng vào tâm khảm lão. Mắt lão nẩy ra những tia hung dữ. Lão mím môi đứng ngẩn người ra một lúc, đột nhiên nổi giận đùng đùng, nắm tay đấm mạnh xuống bàn đánh rầm một cái. Bàn bị gãy đôi ra, lão lại đưa chân đá phốc vào tường, làm thủng một lỗ lớn. Lão la lên: “Ta không sợ đánh không lại cha ngươi, ta… ta chỉ sợ… chỉ sợ cha ngươi biết được… biết được A Bảo đang ở đây thôi…” Nói tới mấy câu đó, trong giọng lão đã lẫn tiếng nức nở, hai tay ôm mặt, kêu lên: “Ta là con quỷ nhát gan! Ta là con quỷ nhát gan!” Y cắm đầu cắm cổ chạy ra, chỉ nghe bình bình, loảng xoảng liên tiếp không ngừng, hắn là trên đường đụng phải các thứ bồn hoa, ghế đá.

Đoàn Dự ngạc nhiên hồi lâu, nghĩ thầm: Cha ta biết được phu nhân của ngươi ở đây thì đã sao? Không lẽ đến đây giết bà ta chăng? Nghĩ lại lời mình nói ra quả có nặng nề, khơi dậy mối đau lòng của Chung Vạn Cừu nên chàng cảm thấy ăn năn, quay đầu lại thì thấy Chung phu nhân đang chăm chăm nhìn mình.

Hai người ánh mắt chạm nhau, Chung phu nhân lập tức quay đi chỗ khác, trên khuôn mặt xanh xao kia ẩn hiện sắc hồng, một hồi sau hạ giọng hỏi: “Đoàn công tử, lệnh tôn mấy năm nay có được khỏe không? Mọi việc vẫn trôi chảy chứ?”

Đoàn Dự thấy bà ta hỏi thăm cha mình, vội vàng đứng lên, cung kính đáp: “Gia nghiêm vẫn khỏe, mọi việc bình thường.”

Chung phu nhân nói: “Thế thì hay lắm. Ta… ta cũng…”

Đoàn Dự thấy hàng mi dài của bà rưng rưng lệ, nói chưa dứt lời đã quay đi, giơ tay lau mắt, trong lòng không khỏi thương cảm, liền an ủi: “Chung cốc chủ tuy tính tình nóng nảy nhưng thật là kính yêu bá mẫu. Hai vị nhân duyên mỹ mãn, nếu có đôi khi lỡ lời va chạm, bá mẫu cũng chẳng nên đau lòng.”

Chung phu nhân quay đầu lại, miệng mỉm cười nói: “Cậu mới bấy nhiêu tuổi đầu, biết thế nào là nhân duyên mỹ mãn hay không.”

Đoàn Dự thấy nụ cười của bà đầy vẻ ngây thơ, trong lòng chợt động, lập tức nghĩ đến chung Linh, mắt quay qua nhìn đôi giày hoa của nàng trên ghế, nghĩ thầm: Chung cô nương bị gã râu dê kia bắt giữ, một giờ một khắc cũng đau đớn biết bao, phải mau mau cứu nàng ra mới được. Chàng bèn nói: “Vãn sinh mới rồi ăn nói vô lễ, xin bá mẫu chuyển lời tạ tội đến cốc chủ, xin người sớm lên đường đi cứu lệnh ái.”

Chung phu nhân đáp: “Phu quân ta hiện đang bận tiếp những bằng hữu từ xa tới, thật khó mà ra đi được. Công tử nghe rồi đó, những người khách đó tính tình cổ quái, ra tay giết người vô cớ, nếu như đối đãi với họ lễ số không chu toàn, không khỏi hậu hoạn vô cùng. Ôi! Sự đã đến nước này, ta đi theo công tử vậy.” Đoàn Dự mừng rỡ nói: “Bá mẫu đích thân ra đi thì hay quá.”

Chàng nhớ lại lời của Chung Linh nên hỏi thêm: “Bá mẫu có trị được chất độc của thiểm điện điêu chăng?” Chung phu nhân lắc đầu nói: “Ta không trị được.” Đoàn Dự phân vân nói: “Thế thì… e rằng…”

Chung phu nhân quay vào phòng ngủ, lật đật viết một lá thư, vừa xong liền lấy trên tường xuống một thanh trường kiếm đeo vào lưng, quay trở lại sảnh đường nói: “Ta đi.” Bà ta xoay mình đi trước.

Đoàn Dự thuận tay nhặt lấy đôi giày của Chung Linh bỏ vào túi. Chung phu nhân lặng lẽ lắc đầu, định nói gì, nhưng lại thôi.

Hai người ra khỏi cái hang sau thân cây, Chung phu nhân liền gia tăng cước bộ, nếu chỉ thấy thân hình mảnh dẻ thì không ai dám bảo bà ta chạy nhanh hơn Đoàn Dự nhiều. Đoàn Dự vẫn không yên tâm, nói: “Phu nhân không trị được nọc độc, vãn sinh e rằng bang Thần Nông không chịu buông tha lệnh ái.”

Chung phu nhân lạnh lùng đáp: “Ai cần bọn chúng tha? Bang Thần Nông dám cả gan bắt giữ con gái ta là không nể mặt ta rồi. Ta dù không cứu được người, há lại không biết giết người sao?”

Đoàn Dự nghe nói không khỏi chột dạ. Vài lời đơn giản mà ngụ ý coi mạng người như cỏ rác, phu nhân nhìn bề ngoài xinh đẹp ôn hòa, lại hay luống cuống sợ sệt mà hành động chẳng kém gì tên hung thần ác quỷ Nhạc lão tam.

Chung phu nhân hỏi lại: “Cha cậu có tất cả bao nhiêu thị thiếp?” Đoàn Dự đáp: “Chẳng có ai cả, một người cũng không. Mẹ cháu không chịu.” Chung phu nhân hỏi thêm: “Cha cậu sợ mẹ cậu lắm sao?” Đoàn Dự cười nói: “Cũng chẳng phải sợ, có lẽ là vì yêu mà đâm ra kính, cũng như cốc chủ đối với bà mẫu vậy thôi.” Chung phu nhân nói: “Thế cha cậu hàng ngày có luyện võ không? Bao nhiêu năm nay công lực chắc tiến triển lắm rồi?” Đoàn Dự đáp: “Cha cháu mỗi ngày đều luyện công nhưng công lực đến đâu thì cháu không biết.” Chung phu nhân nói: “Nếu công phu ông ta không kém sút, ta… ta cũng yên lòng. Sao cậu lại không biết chút võ công nào?”

Hai người vừa nói chuyện vừa chạy, chừng hơn một dặm chợt có tiếng gọi to: “A Bảo! Nàng… nàng đi đâu đó?” Đoàn Dự ngoảnh đầu nhìn lại thì ra Chung Vạn Cừu chạy như bay đuổi gần đến nơi.

Chung phu nhân luồn tay qua nách Đoàn Dự, nhấc bổng lên quát một tiếng “mau”, rồi cứ nhằm phía trước mà lao vút đi. Đoàn Dự chân không chấm đất, mất hết tự chủ để mặc phu nhân cắp chạy. Thành ra trước hai sau một, cả ba người cùng lướt như bay, thoáng cái đã được vài chục trượng. Kể ra thì khinh công Chung phu nhân còn cao hơn chồng, nhưng còn phải đeo thêm một người nên Chung Vạn Cừu dần dần đuổi kịp. Chạy thêm chục trượng nữa, Đoàn Dự đã thấy hơi thở Chung Vạn Cừu phập phù sau gáy. Bỗng nghe đánh roạt một tiếng, sau lưng mát lạnh, thì ra áo chàng đã bị Chung Vạn Cừu nắm được, kéo rách toạc một miếng.

Chung phu nhân tay trái vận kình hất Đoàn Dự ra ngoài hơn một trượng, quát lên “chạy đi!”, còn tay phải rút thanh trường kiếm đâm ngược lại, cốt để ngăn cản không cho Chung Vạn Cừu đuổi theo.

Với võ công của mình, Chung Vạn Cừu có thể tránh mũi kiếm dễ như chơi, huống chi Chung phu nhân tuyệt không có ý giết chồng. Ai ngờ tay bà thấy hơi vướng, mũi kiếm đã đâm vào ngực Chung Vạn Cừu.

Thì ra gã không tránh cũng không gạt, cốt ý nhận lấy nhát kiếm của vợ: Chung phu nhân thất kinh quay đầu lại thấy mặt chồng đầy vẻ phẫn nộ, khóe mắt rưng rưng ướt lệ, trước ngực máu loang. Lão cất tiếng thê thảm hỏi vợ: “A Bảo nàng ơi! Nàng… nàng rồi cũng bỏ ta đấy ư?”

Chung phu nhân thấy nhát kiếm tự tay mình đâm trúng ngực chồng, tuy không đụng đến trái tim nhưng sâu tới vài tấc, không biết sống chết ra sao. Trong lúc hoảng hốt, phu nhân rút mũi kiếm ra, tay nắm chặt lấy vết thương, nhưng máu cứ tuôn ra như suối chảy, luồn qua kẽ ngón tay phun ra ngoài.

Chung phu nhân giận dỗi hỏi: “Tại sao mình không tránh?” Chung Vạn Cừu nhăn nhó cười đáp: “Nàng đã muốn bỏ ta mà đi thì ta chết phứt cho rồi.” Chung phu nhân hỏi: “Ai nói tôi lìa bỏ mình?… Tôi đi cứu con vài ngày rồi lại trở về chứ đi đâu? Trên giấy đã viết rõ đấy thôi!” Chung cốc chủ nói: “Ta có thấy tờ giấy nào đâu.” Chung phu nhân nói: “Ôi, sao ông vô tâm đến thế?” Đoạn bà vội đem chuyện Chung Linh bị bang Thần Nông bắt giữ thuật sơ qua.

Đoàn Dự thấy tình cảnh như vậy trong tâm không khỏi xúc động, ngẩn người ra một hồi. Sau chàng trấn tĩnh lại, vội xé vạt áo, ba chân bốn cẳng chạy lại, định buộc vết thương cho Chung Vạn Cừu. Không ngờ Chung Vạn Cừu đưa chân đá cho một cái và quát to: “Thằng chó đẻ, tao không muốn thấy cái mặt mày.” Y quay lại nói với Chung phu nhân: “Bà lừa ta, ta không tin. Rõ ràng là nó… nó đến gọi bà đi. Thằng khốn kiếp này là con nó… Nó lại còn mở miệng chửi ta…” Nói xong y lại ho rũ ra, mỗi cơn ho chỗ vết thương lại chảy máu ra rất nhiều. Lão quay lại gọi Đoàn Dự: “Mi lại đây! Dù ta bị trọng thương vẫn không sợ Nhất Dương Chỉ của nhà mi đâu. Lại đây mau cùng ta thử sức!”

Đoàn Dự bị cái đá như trời giáng ngã lăn ra, má bên trái đâm vào một viên đá nhỏ nhọn hoắt, một bên mặt máu tươi chảy ra đỏ lòm, lóp ngóp bò dậy nói: “Ta không biết sử dụng Nhất Dương Chỉ mà dẫu có biết, ta cũng không đánh nhau với ông.” Chung Vạn Cừu lại ho lên mấy tiếng, vẫn một giọng căm hờn: “Mi còn giả vờ ư? Mi về gọi thằng cha mi đến đây!” Lão càng giận lại càng ho như xé phổi.

Chung phu nhân nói: “Mình vẫn chưa chừa cái bệnh ghen tuông mù quáng. Mình đã không tin tôi thì tôi chết trước mặt mình đi còn hơn.”

Chung Vạn Cừu lộ vẻ vui mừng, run run nói: “A Bảo, có thực nàng không bỏ ta để đi theo quân tiểu tạp chủng kia chứ?”

Chung phu nhân giận dữ đáp: “Người ta là một vị công tử họ Đoàn, sao mình lại ăn nói càn rỡ, luôn miệng xỉa xói hết tiểu tạp chủng nọ đến lão tạp chủng kia? Tôi định theo Đoàn công tử đi giết hết bọn Thần Nông Bang mà cứu con gái về.” Chung Vạn Cừu thấy vợ không tính chuyện bỏ mình, trong lòng vui mừng khôn xiết, nhìn nàng hờn dỗi lại càng thương hơn, vội cười: “Nếu thế thì ta quả không ra gì thật. Chẳng qua…chẳng qua, sao ta đuổi theo mà nàng không đứng lại nói cho rõ ràng?” Chung phu nhân hơi đỏ mặt nói: “Tôi không muốn ông lại gặp Đoàn công tử.” Chung Vạn Cừu đột nhiên lại nổi nghi ngờ, hỏi dồn: “Thằng tiểu… à Đoàn công tử, không phải là con bà đấy chứ?”

Chung phu nhân vừa thẹn vừa giận, hứ một cái nói: “Ông nói lăng nhăng gì đó? Lúc thì nghi y là tình lang của tôi, lúc lại nghi y là con tôi. Tôi nói thật với ông nhé, y là cha tôi, là bố vợ ông đó. Mau tham kiến nhạc phụ đại nhân.” Chung Vạn Cừu ngơ ngẩn, hiểu ra là vợ mình nói đùa, ôm bụng cười ngặt nghẽo. Y cười khiến cho máu ở vết thương lại túa ra.

Chung phu nhân xem vết thương thấy máu chảy hoài, nước mắt chan hòa nức nở: “Bây giờ biết làm… làm thế nào?” Chung Vạn Cừu cả mừng, đưa tay lên vuốt ve lưng vợ nói: “Mình khóc vì tôi thế này, dù tôi có chết ngay cũng thỏa dạ.” Chung phu nhân nhẹ nhàng đẩy tay chồng ra nói: “Có Đoàn công tử kia kìa, mình làm gì như kẻ điên rồ vậy?” Chung Vạn Cừu vẫn cười hà hà, cực kỳ hoan hỉ, cười mấy tiếng lại ho mấy tiếng.

Chung phu nhân thấy chồng đã nguôi giận, nhưng sắc mặt lại càng nhợt nhạt, trong lòng lo sợ nói: “Thôi tôi không đi cứu Linh Nhi nữa, nó đã gây nên tai vạ, tính mạng đành phó thác cho trời.” Bà nâng chồng dậy, bảo Đoàn Dự: “Đoàn công tử, cậu đi nói với Tư Không Huyền rằng chồng ta là Mã Vương Thần Chung Vạn Cừu năm xưa ngang dọc giang hồ, còn ta Cam Bảo Bảo có cái ngoại hiệu khó nghe là Tiếu Dược Xoa, nếu y dám động đến một sợi tóc của Chung Linh thì đừng trách vợ chồng ta độc ác vô tình.” Bà ta nói câu nào Chung Vạn Cừu cũng gật gù: “Đúng thế, đúng thế.”

Đoàn Dự thấy Chung Vạn Cừu bị thương nặng, Chung phu nhân cũng không thể bỏ chồng thập tử nhất sinh để đi cứu con, chỉ còn trông vào hai cái tên Mã Vương Thần Chung Vạn Cừu và Tiếu Dược Xoa Cam Bảo Bảo không biết có dọa được lão Tư Không Huyền chăng? Chưa thể biết. Chàng nghĩ đến đoạn trường tán ở trong ruột mình không ai giải cứu được mà giật mình tự nhủ: Cơ sự đã đến thế này, nói lắm cũng vô ích. Chàng đành cáo từ Chung phu nhân: “Vãn sinh xin đem lời dặn của phu nhân bảo Thần Nông Bang.”

Chung phu nhân thấy chàng vừa nói vừa cất bước, hành động dứt khoát không câu nệ, chợt nhớ đến người xưa, liền gọi chàng lại dặn: “Đoàn công tử, ta còn câu này nữa.” Nói rồi nhẹ nhàng đặt Chung Vạn Cừu xuống, vọt đến trước mặt Đoàn Dự, lấy trong bọc ra một vật nhét vào tay chàng dặn nhỏ: “Cậu đem vật này về giao lại cho cha, nhờ ông ra tay cứu con ta.”

Đoàn Dự đáp: “Nếu như cha cháu ra tay thì thể nào cũng cứu được Chung cô nương. Chỉ có điều ở đây xa Đại Lý, e rằng không kịp.” Chung phu nhân nói: “Để ta đi mượn cho cậu một con ngựa tốt, cậu chờ nơi đây. Đừng quên nói với cha cậu rằng: Xin ông ra tay cứu con ta.” Không đợi Đoàn Dự đáp lời, bà quay mình chạy lại bên trượng phu, đỡ y dậy, dìu nhau đi.

Đoàn Dự vừa đi vừa xem Chung phu nhân nhét cho mình vật gì, thì ra là một cái hộp nhỏ bằng vàng, chạm trổ rất tinh vi. Chàng mở nắp hộp ra, thấy bên trong đựng một mảnh giấy để lâu ngày đã biến ra màu vàng lợt. Trên mảnh giấy còn vết tích mấy giọt máu và viết tám chữ: Quý Hợi, Tháng Hai, Mồng Năm, Giờ Sửu. Nét chữ mềm mại, chắc là chữ đàn bà. Ngoài mảnh giấy ra không còn vật gì nữa. Đoàn Dự tự hỏi: Bát tự này ghi năm tháng ngày giờ sinh của ai? Phu nhân bảo ta đưa về cho gia gia để làm gì? Năm Quý Hợi… Chàng bấm đốt ngón tay tính toán thì ra là mười sáu năm trước… không lẽ lại là niên canh bát tự của Chung cô nương? Hay là Chung phu nhân muốn gả con gái cho ta nên nhờ cha ta đi cứu con dâu?

Chàng còn đang trầm ngâm, bỗng nghe tiếng một người đàn ông gọi: “Đoàn công tử dừng bước!”.

Hồi 03: Người được vợ, kẻ vạ lây

Đoàn Dự quay đầu lại, thấy một hán tử ăn mặc theo lối gia nhân đang hấp tấp đi tới, chính là Lai Phúc Nhi, người lúc nãy chàng nhìn thấy qua khe vách. Y đi đến gần, hành lễ nói: “Tiểu nhân Lai Phúc Nhi, vâng lệnh phu nhân đến đưa công tử đi mượn ngựa.” Đoàn Dự gật đầu nói: “Nếu vậy càng hay!”

Lai Phúc Nhi liền đi trước dẫn đường, qua khỏi rừng tùng rồi, chuyển qua hướng bắc, đi vào một con đường nhỏ chừng sáu bảy dặm đến trước một tòa nhà lớn. Y tiến lên cầm vòng cửa gõ nhẹ hai tiếng, ngừng lại một chút, lại gõ thêm bốn tiếng, rồi lại gõ thêm ba tiếng. Cánh cửa kêu kẹt một cái rồi mở ra. Lai Phúc Nhi đứng ngoài cùng người mở cửa nói với nhau một hồi tiếng lóng. Lúc đó trời đã tối mịt, trên trời ánh sao lờ mờ, Đoàn Dự lại nghĩ đến pho tượng ngọc mỹ nhân dưới đáy sông.

Bất thình lình trong cổng có tiếng vó câu lộp cộp và tiếng ngựa hí. Đoàn Dự bất giác bật lên tiếng khen “Ngựa hay tuyệt”. Cánh cổng chợt mở, đầu ngựa ló ra, đôi mắt lóe sáng trong đêm tối. Nhác trông Đoàn Dự đã biết ngay là một giống thần mã, khác hắn ngựa thường. Lông nó đen láy, bốn vó thon thon rất cao, toàn thân hùng vĩ hiên ngang. Con tiểu tỳ dắt ngựa, tóc còn buông rủ, trời tối không trông rõ mặt, tuổi chừng mười bốn mười lăm, dáng điệu rất là mềm mại.

Lai Phúc Nhi nói: “Thưa công tử, phu nhân sợ công tử không kịp về Đại Lý, sai tiểu nhân qua đây mượn con tuấn mã này.” Đoàn Dự được xem ngựa đã nhiều, mới nghe tiếng con này kêu cũng đã biết là ngựa hay vô cùng, hàng vạn con chưa chắc đã chọn được một. Chàng hoan hỉ đáp: “Xin đa tạ!” rồi đưa tay ra đón lấy dây cương.

Ả tiểu tỳ nhẹ nhàng xoa đầu và vuốt ve bờm ngựa, dịu dàng bảo: “Hắc Mai Côi! Hắc Mai Côi! Tiểu thư cho công tử mượn ngươi để cưỡi, ngươi phải nhất nhất nghe lệnh công tử. Đi mau lên rồi mà về nghe!” Con ngựa quay đầu lại liếm tay ả, coi bộ thân mật lắm. Tiểu tỳ cầm cương đưa cho Đoàn Dự nói: “Con ngựa này không thể giục bằng roi vọt được. Công tử càng ngọt ngào chừng nào nó càng mau lẹ chừng ấy.”

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Tên Hắc Mai Côi hẳn là ngựa cái” bèn kính cẩn nói: “Bẩm Hắc Mai Côi tiểu thư, tiểu sinh xin ra mắt.” Nói rồi xá dài. Ả tiểu tỳ nhoẻn miệng cười nói: “Công tử nói chuyện khéo quá. Này, cưỡi cho khéo kẻo ngã đấy nhé!” Đoàn Dự nhẹ nhàng nhảy lên yên rồi nhìn tiểu tỳ bảo: “Đa tạ tiểu thư!” Tiểu tỳ cười nói: “Thế công tử không cảm ơn tiểu tỳ này sao?” Đoàn Dự chắp tay nói: “Đa tạ tỉ tỉ! Lúc trở lại ta sẽ mua mứt về làm quà.” Tiểu tỳ vẫn cười nói: “Mứt thì không dám mong, chỉ mong công tử cẩn thận đừng làm con ngựa bị thương.”

Lai Phúc Nhi nói: “Công tử trông hướng bắc mà đi, ra đường lớn thì về thẳng nước Đại Lý. Xin công tử bảo trọng.” Đoàn Dự vừa khẽ giật cương, ngựa tung bốn vó nhảy vài cái đã ra xa tới vài mươi trượng.

Con Hắc Mai Côi không cần phải giục, đêm tối mà nó vẫn phóng như bay. Đoàn Dự ngó hai bên đường, cây cối trong rừng trông như chạy giật lùi lại sau. Chàng ung dung ngồi trên ngựa, êm ru dị thường, tuyệt không thấy xóc chút nào. Chàng nghĩ thầm: “Con ngựa chạy nhanh như gió thế này thì chỉ trưa mai là về đến Đại Lý.”

Chưa đầy một khắc đồng hồ chàng đã đi chừng mười dặm. Gió khuya thổi hiu hiu, mùi hương dịu mát của cây cỏ thoảng vào mũi, chàng tự nhủ: “Đêm thanh ruổi ngựa kể cũng là lạc thú trên đời”. Bất thình lình phía trước mặt chàng có tiếng quát: “Tiện tỳ kia! Đứng lại!” Ánh đao lấp loáng trong đêm tối nhằm chàng chém tới, nhưng ngựa chạy lẹ quá, đao chém vào quãng không. Ngựa tung vó lên đã nhảy xa hơn một trượng. Đoàn Dự ngoảnh đầu lại, nhìn thấy phía sau có hai gã đại hán đang đuổi theo rất gấp. Một gã tay cầm đơn đao, còn một gã sử cây trường thương. Hai gã vẫn lớn tiếng mắng: “Con tiện tỳ kia! Ngươi mặc giả trai định che mắt lão gia phải không?” Ngựa phi nhanh như gió cuốn, chỉ trong chớp mắt đã bỏ hai người một quãng khá xa. Hai gã đại hán tuy chạy mau, đuối gấp mà trong khoảnh khắc tiếng la gọi cũng không nghe thấy nữa.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Hai tên này mồm năm miệng mười gọi ta là con tiện tỳ, rồi còn nói cái gì gái mặc giả trai. Thôi phải rồi, bọn chúng đón đường chủ nhân con Hắc Mai Côi để trả hận. Chúng nhìn ra ngựa mà không nhận ra người cỡi ngựa là ai. Thật là lỗ mãng!”. Chàng đi thêm quãng nữa, bỗng la lên: “Thôi hỏng to rồi! Ta nhờ con ngựa này phóng nhanh mà thoát được hai gã phục kích. Xem ra hai gã này võ nghệ không phải tay vừa. Nếu như tiểu thư cho mình mượn ngựa không biết vụ này, cứ nghiễm nhiên đi ra tất bị chúng ám toán. Ta phải trở lại báo tin cho tiểu thư mới được.” Chàng liền dừng ngựa lại nói: “Hắc Mai Côi! Có người toan ám hại tiểu thư ngươi đó, chúng ta phải quay lại báo tin cho tiểu thư hay để nàng cẩn thận đừng có ra ngoài.”

Thế rồi Đoàn Dự theo đường cũ quay trở lại. Gần đến chỗ hai gã đại hán đón đường vừa rồi, chàng giục ngựa: “Lẹ lên! Lẹ lên!” Con Hắc Mai Côi hình như hiểu tiếng người, vừa nghe tiếng giục “lẹ lên”, quả nhiên nó phóng nhanh hơn trước. Nhưng tới nơi thì chẳng thấy hai gã đại hán đâu nữa. Đoàn Dự lại càng nóng ruột tự hỏi: “Phải chăng hai gã này đến vây trang trại tiểu thư? Nếu vậy càng nguy biết mấy!”. Chàng luôn mồm giục ngựa: “Nhanh lên!” Hắc Mai Côi phi như bay, vó không chấm đất.

Chàng về đến trước trại, bất thình lình hai cây côn phóng ra phang vào chân ngựa. Hắc Mai Côi không chờ Đoàn Dự giục, nhảy vọt qua, chân sau đó phốc một cái, một tên cầm côn bắn ra xa.

Hắc Mai Côi rướn lên một cái nữa là đến cổng trại, Đoàn Dự thấy bốn năm tên đứng đó thò tay ra giằng lấy dây cương. Tay phải chàng bị giật mạnh lôi xuống, đoạn có tiếng quát hỏi: “Thằng nhỏ này! Mi đến đây làm chi? Dòm dỏ cái gì?”

Đoàn Dự than thầm: “Thật là hỏng bét. Tòa nhà này đã bị vây kín cả rồi. Không biết chủ nhân đã mắc độc thủ của chúng chưa?”. Tay phải chàng bị một bàn tay nắm giữ, chẳng khác gì cái đai sắt bóp chặt lại, làm cho nửa người tê nhức. Chàng nói: “Ta đến tìm chủ nhân tòa nhà này. Sao các ngươi hung hăng thế?” Chợt có tiếng khàn khàn của một lão già khác nói: “Thằng nhãi ranh kia cỡi ngựa của con tiện tỳ, chắc là chỗ thân thích với nhau. Hãy thả cho nó vào, bọn ta đã nhổ cỏ phải nhổ tận gốc, để rồi tóm cả một mẻ.”.

Đoàn Dự hoảng hồn nghĩ thầm: “Thôi ta tự chui đầu vào tròng mất rồi! Đã đến thế này có muốn chạy cũng không thoát, đành vào đây rồi sau sẽ liệu”. Gã kia buông tay chàng ra. Chàng sửa lại khăn áo chỉnh tề rồi ngang nhiên đi vào.

Qua khỏi cổng đến một trang viện, giữa là lối đi lát đá, hai bên trồng toàn hoa Mai Côi, hương thơm sực nức. Con đường đá này khúc khuỷu, quanh co xuyên qua một cái cổng tò vò. Đoàn Dự cứ theo đường đá đi mãi vào trong, thấy hai bên đều có người đứng rải rác. Chàng chợt nghe trên cao có tiếng ho, ngẩng lên nhìn đầu tường cũng có tới bảy tám người tay cầm gươm đao sáng loáng. Trời tối trông ánh gươm đao lại càng ghê rợn. Đoàn Dự tự hỏi: Tòa nhà này xem chừng không to là mấy, làm gì có nhiều người ở, vậy mà chúng kéo đến làm gì lắm thế? Phải chăng chúng định giết sạch cả nhà người ta?

Tuy trời tối nhưng Đoàn Dự thấy tên nào cũng nhìn mình trừng trừng, vẻ mặt hung dữ, có đứa tay lăm lăm cầm đốc gươm thị uy. Chàng cố gượng trấn tĩnh, nhìn vào tận cùng đường đã thấy một tòa đại sảnh, ánh đèn trong nhà qua khe cửa lọt ra ngoài. Đoàn Dự đi thẳng đến trước cửa dõng dạc lên tiếng: “Tại hạ là Đoàn Dự có việc xin vào ra mắt chủ nhân.”

Trong nhà có tiếng khàn khàn quát hỏi: “Ai? Vào trong này!” Đoàn Dự cảm thấy bực mình, đẩy mạnh của bước vào. Chàng đưa mắt nhìn thấy đứng ngồi có đến mười bảy, mười tám người, không khỏi kinh ngạc. Trên ghế tựa giữa nhà, một người áo đen ngồi xoay lưng ra ngoài. Tuy không rõ mặt nhưng trông dáng dấp cùng mớ tóc đen nhánh, óng mượt rủ xuống thì biết ngay là một thiếu nữ. Ngoài hai bà già ngồi trên ghế bành phía đông là tay không, còn hơn chục người khác ai cũng cầm binh khí. Bên dưới hai mụ già có một người nằm lăn dưới đất, đã chết rồi nhưng máu tươi trên cổ còn chảy ròng ròng, chính là gã Lai Phúc Nhi đã đưa Đoàn Dự sang mượn ngựa. Đoàn Dự nghĩ gã này đối với mình cung kính lễ độ, ngờ đâu phút chốc đã tử nạn, cũng vì mình mà ra nông nỗi, trong lòng thương xót không sao kể xiết.

Bà già ngồi trên tóc đã bạc trắng, dáng người bé nhỏ, giọng khàn khàn quát: “Thằng nhỏ kia! Mi đến đây có việc gì?”

Ngay từ lúc mới bước chân vào, Đoàn Dự đã định sẵn chủ ý: mình dấn thân vào nơi hiểm địa nếu tìm được kế thoát thân là nhất, còn không thì coi như đi nhằm giờ xấu, năn nỉ đám côn đồ cũng chẳng ích gì. Vào trong sảnh lại thấy Lai Phúc Nhi chết nằm đó, chàng đâm ra phẫn nộ ngang nhiên trả lời: “Bà bất quá sống lâu hơn ta vài tuổi, làm gì mà gọi thằng nọ thằng kia, ăn nói vô lễ thế?”

Mụ già đó mặt ngắn chùn chùn, đầy vết nhăn, lông mày trắng rủ xuống, đôi mắt nhỏ lóe hung quang, đưa mắt đánh giá Đoàn Dự là hạng người nào. Mụ già ngồi bên dưới bèn quát: “Thằng nhỏ thối tha kia, thật ngươi chẳng biết trời trăng gì? Thụy bà bà đích thân mở miệng hỏi là coi trọng ngươi lắm rồi. Ngươi có biết vị lão bà bà này là ai không? Thật mi có mắt mà không thấy núi Thái Sơn.”

Bà già đó người to béo, cái bụng ưỡn ra như có chửa bảy tám tháng, đầu tóc hoa râm, mặt nung núc những thịt, giọng nói còn khó nghe hơn đàn ông con trai, hai bên hông đeo hai thanh đoản đao bản rộng, một thanh còn dính đầy máu tươi. Hiển nhiên Lai Phúc Nhi đã bị mụ ta giết chết.

Đoàn Dự trông thấy thanh đao nhuốm máu đó, nối căm tức xông lên, lớn tiếng nói: “Nghe giọng mụ là người ở phương xa, sao dám đến Đại Lý giết người bừa bãi? Đại Lý tuy là nước nhỏ nhưng cũng có vương pháp, Thụy bà bà lai lịch thế nào tại hạ không biết, nhưng dẫu có là Hoàng thái hậu nước Đại Tổng cũng không thể đến đây tùy tiện ra tay giết người được.”

Mụ già mập giận dữ, đứng phắt lên vùng hai tay ra, mỗi tay cầm một thanh đoản đao, quát lớn: “Để ta giết người xem ai làm gì nào? Nước Đại Lý chẳng ai tốt lành, đáng giết hết.” Đoàn Dự ngẩng đầu cười ha hả nói: “Ngang ngược vô cớ, tức cười thật!” Mụ già mập tiến lên hai bước, đao bên tay trái chém luôn vào cổ Đoàn Dự.

Nghe keng một tiếng, một cây thiết trượng phóng ra gạt đao đi, chính là Thụy bà bà ra tay ngắn trở. Mụ nói nhỏ: “Bình bà bà hãy hượm đã, hỏi y cho rõ ràng rồi giết cũng không muộn.” Nói xong dựng trượng vào bên ghế hỏi Đoàn Dự: “Ngươi là ai?”

Đoàn Dự đáp: “Ta là người Đại Lý. Mụ mập này nói người Đại Lý ai cũng đáng chết, vậy thì ta cũng đáng chết.” Bình bà bà bực tức nói: “Ngươi gọi ta là Bình bà bà là được rồi, cần gì phải mập hay ốm?” Đoàn Dự cười: “Mụ thử sờ bụng xem mập hay ốm thì biết.”

Bình bà bà mắng liền: “Con bà ngươi!” Mụ vung đao chém nhứ hai nhát cách mặt chàng mấy tấc, tiếng gió vù vù. Đoàn Dự sợ đến toát mồ hôi lạnh, tim đập thình thịch nhưng trên mặt cố làm ra vẻ thản nhiên.

Thụy bà bà nói: “Tên tiểu tử bảnh bao này chắc là bạn trai của tiểu tiện nhân chứ gì?” Nói xong mụ giơ tay chỉ cô gái áo đen đang quay lưng lại. Đoàn Dự đáp: “Vị cô nương này ta chưa hề gặp bao giờ. Thế nhưng Thụy bà bà này, ta khuyên mụ ăn nói lịch sự một chút, ai đời mở miệng là chửi rủa người ta. May mà vị cô nương này đại nhân đại lượng nên không đôi co làm chi, chứ mụ cũng nào có cao quí gì.” Thụy bà bà hừ một tiếng nói: “Thằng nhãi này bây giờ lại dạy ngược lại ta. Nếu ngươi không quen biết với con tiểu tiện nhân thì đến đây làm gì?”

Đoàn Dự đáp: “Ta đến đây là để báo tin cho chủ nhân hay.” Thụy bà bà hỏi: “Báo tin gì?” Đoàn Dự thở dài đáp: “Ta đến chậm một chút, thành ra có báo cũng như không.” Thụy bà bà hỏi dồn: “Báo tin gì nói ngay cho ta hay!” Giọng mụ càng lúc càng gay gắt.

Đoàn Dự nói: “Ta chỉ cần gặp chủ nhân nhà này, nói với ngươi làm gì?” Thụy bà bà cười khẩy, một hồi sau mới nói: “Nếu ngươi muốn gặp mặt y mới nói thì nói liền cho kịp! Lát nữa thì xin mời nhị vị xuống âm phủ mà nói chuyện.” Đoàn Dự hỏi: “Vị nào là chủ nhân? Tại hạ cảm tạ đã cho mượn ngựa.”

Câu đó vừa nói ra, ai nấy đều quay lại nhìn người thiếu nữ áo đen ngồi trên ghế. Đoàn Dự ngạc nhiên: “Không lẽ cô nương này là chủ nơi đây? Nàng ta là một cô gái mảnh mai, lại bị đông đảo cường địch vây quanh thế này, thật là nguy quá”. .

Chỉ nghe cô gái chậm rãi nói: “Ta nể mặt người khác nên cho ngươi mượn ngựa, có chi mà phải tạ ơn? Ngươi không đi cứu người còn trở lại đây làm gì?” Nàng miệng nói vậy nhưng không quay đầu lại, vẫn nhìn vào phía trong.

Đoàn Dự đáp: “Tại hạ ngồi trên lưng Hắc Mai Côi, giữa đường gặp hai tên phục kích, chúng tưởng lầm tại hạ là cô nương, mở miệng nói những câu vô lễ. Tại hạ xem chừng không ổn, không về báo không được.”

Thiếu nữ lại hỏi: “Ngươi báo tin gì?” Tiếng nàng trong vắt nhưng giọng nói tẻ ngắt, chẳng thân thiện chút nào khiến người nghe không được êm tai, dường như ở đời tuyệt không còn có điều gì đáng làm cho nàng quan tâm cả. Có thể nàng ngán ngẩm cuộc đời vô vị, hay nàng coi hết thảy mọi người đều là thù địch, những mong đem loài người giết cho kỳ hết.

Đoàn Dự nghe nàng nói năng vô lễ, kể ra cũng hơi bất mãn, song chàng lại nghĩ rằng hiện nàng đang bị bao vây giữa đám cường đồ, đứng trước một cảnh tượng vô cùng nguy hiểm, tâm thần hoang mang âu cũng là chuyện thường nên chàng không lấy làm khó chịu. Chàng ôn tồn đáp: “Tại hạ biết hai tên cường đồ đó có ý gia hại cô nương. Sở dĩ tại hạ thoát được bọn chúng là nhờ ở con thần mã của cô nương. Nhưng tại hạ nghĩ chắc cô nương chưa biết có cừu nhân đang rình rập nên chạy về báo tin để cô nương biết mà lánh đi, chẳng ngờ về chậm một chút, cừu nhân đã kéo đến bao vây, tại hạ ân hận vô cùng.”

Thiếu nữ cười lạt hỏi: “Ngươi đưa chuyện làm quà để cầu cạnh ta điều gì chăng?” Đoàn Dự tức quá lớn tiếng đáp: “Tại hạ cùng cô nương vốn không quen biết. Chỉ vì thấy người muốn ám hại, không đành nhắm mắt làm ngơ. Sao cô nương lại nói đến hai chữ cầu cạnh?” Thiếu nữ lại hỏi: “Ngươi có biết ta là ai không?” Đoàn Dự đáp: “Chưa biết!”

Thiếu nữ tiếp: “Ta nghe Lai Phúc Nhi nói, ngươi không biết chút võ nghệ nào mà dám vào hang Vạn Kiếp mạt sát động chúa, thực là to gan. Bây giờ ngươi lại dấn thân vào cạm bẫy này để làm gì?” Đoàn Dự rùng mình đáp: “Tại hạ tưởng quay lại báo tin cho cô nương hay xong rồi lập tức ra đi.” Đoạn chàng thở dài tiếp: “Xem chừng cô nương khó lòng thoát khỏi tai ương mà Đoàn Dự này cũng gặp vạ lớn. Song chưa rõ vì sao mà cô nương kết nối thâm thù với bọn này?”

Thiếu nữ áo đen lại cười lạt, hỏi: “Ngươi muốn biết để làm gì?” Đoàn Dự có vẻ bẽn lẽn đáp: “Nếu là chuyện riêng của cô nương thì thôi, tại hạ chẳng dám thóc mách làm gì. Mục đích của tại hạ chỉ là đến báo tin mà thôi. Giờ cô nương đã biết rồi, tại hạ không còn ân hận điều gì nữa.” Thiếu nữ áo đen lại hỏi: “Chắc ngươi không ngờ rằng trở lại đây sẽ bị mất mạng? Ngươi hối hận lắm đấy nhỉ?” Đoàn Dự nghe nàng hỏi có vẻ châm biếm, tức mình nói lớn: “Bậc đại trượng phu thấy việc nghĩa nên làm là làm, rồi đến đâu thì đến, sao lại hối hận?”

Cô gái hừ một tiếng nói: “Tài cán cỡ như người mà cũng dám xưng là đại trượng phu sao?” Đoàn Dự đáp: “Anh hùng hảo hán hay không há phải ở chỗ võ công cao hay thấp? Những kẻ võ nghệ tuyệt luân mà hành vi bỉ ổi đốn mạt, đâu có xứng đáng là bậc đại trượng phu?” Cô gái áo đen cười: “Ha ha, ngươi giữa đường gặp chuyện bất bình, trượng nghĩa đến đây báo tin, chẳng qua mong được làm đại trượng phu một chút. Đến lúc đại trượng phu bị người ta chặt ra làm mười bảy, mười tám mảnh lại biến thành… nát bét trượng phu!”

Bình bà bà đột nhiên cất giọng ồm ồm: “Con tiện nhân kia! Mi đừng kéo dài thời gian nữa! Đứng lên động thủ đi thôi!” Mụ vung song đao đập vào nhau, tiếng choang choang nghe chói cả tai.

Cô gái áo đen cười khẩy nói: “Ngươi chán sống rồi chăng? Con mụ Vương ác phụ ở Tô Châu sao không đích thân tới đây cùng ta động thủ lại sai bọn đầy tớ chúng bay đến làm trò?”

Thụy bà bà nói: “Phu nhân bọn ta tôn quí dường ấy, con tiểu tiện nhân muốn gặp phu nhân một lần cũng đã khó bằng lên trời rồi. Ngươi có khôn hồn thì ngoan ngoãn đi theo chúng ta, rập đầu tạ tội với phu nhân, không chừng phu nhân chúng ta khoan hồng đại lượng, tha mạng cho ngươi, chuyện đào tẩu thì chớ có tư tưởng đến. Sư phụ ngươi đâu?”

Cô gái áo đen kêu rít lên: “Sư phụ ta ở sau lưng các ngươi chứ đâu.” Thụy bà bà, Bình bà bà cả bọn giật mình kinh hãi cùng quay lại. Thế nhưng sau lưng nào có ai.

Đoàn Dự thấy cả bọn ai nấy tưởng thật, hoảng hồn thất sắc, nhịn không nổi cười lên khanh khách. Bình bà bà hầm hầm nói: “Cười cái gì?” Đoàn Dự nói: “Buồn cười quá! Buồn cười quá!” Bình bà bà hỏi lại: “Cái gì mà buồn cười?” Đoàn Dự đáp: “Ha ha, buồn cười quá đỗi!” Bình bà bà hỏi thêm: “Cái gì mà buồn cười quá đỗi?” Đoàn Dự đáp: “Hì hì, buồn cười quá đỗi, buồn cười đến chết mất thôi!” Bình bà bà bực mình: “Cái gì mà buồn cười đến chết mất thôi?”

Thụy bà bà nói: “Bình bà bà, mặc xác thằng lỏi thối tha đó.” Mụ quay sang cô gái áo đen nói: “Cô nương từ Giang Nam chạy tới Đại Lý, bọn ta vạn dặm xa xôi đuổi tới tận đây, liệu cô nghĩ chúng ta có bỏ qua không? Bọn ta dẫu có chết hết trong tay cô nương cũng phải làm quỉ bắt cô đem về. Thôi, ra tay đi.”

Đoàn Dự nghe giọng Thụy bà bà có vẻ e ngại cô gái này, không khỏi lạ lùng, thấy trong sảnh mười bảy mười tám người phùng mang trợn mắt, tay cầm binh khí, nhưng không một ai dám xông lên trước. Bình bà bà hai tay hai đao, mấy lần tiến đến sau lưng cô gái rồi lại rụt về.

Cô gái áo đen nói: “Này, anh chàng đưa tin kia, bấy nhiêu người toan xông vào đánh một mình ta, ngươi tính sao đây?” Đoàn Dự đáp: “Con Hắc Mai Côi đang ở bên ngoài, nếu cô phá vòng vây chạy ra được thì cưỡi ngựa chạy đi. Con ngựa này chạy nhanh lắm, bọn họ không đuổi kịp được.” Cô gái hỏi lại: “Thế còn ngươi thì sao?” Đoàn Dự trầm ngâm một lát rồi đáp: “Ta và bọn chúng chưa từng quen biết, lại không thù oán, chắc họ chẳng làm khó dễ gì với ta.”

Thiếu nữ áo đen cười lạt đáp: “Nếu bọn chúng hiểu biết lẽ phải như người nói đã chả kéo cả bè cả lũ đến đây vây đánh một mình ta. Cái mạng nhỏ xíu của ngươi không sống nổi với chúng đâu. Giả tỷ may mà ta chạy thoát, ngươi có muốn dặn ta điều gì không?”

Đoàn Dự thấy nao nao trong dạ đáp: “Chung cô nương bị bọn Thần Nông Bang bắt giữ ở núi Vô Lượng. Mẫu thân nàng có đưa cho ta cái hộp nhỏ bảo đem về trao cho gia gia ta để người tìm kế cứu nàng. Ví bằng chạy thoát được, cô nương làm thay ta việc này thì ta cảm kích vô cùng.” Nói xong chàng cầm cái hộp bằng vàng bước tới trịnh trọng đưa. Chàng đứng chỉ cách nàng không đầy hai thước, chợt có mùi hương thoảng đưa vào mũi, mùi thơm nhẹ nhàng như lan mà không phải lan, ngây ngất như xạ mà không phải xạ. Một mùi thơm dìu dịu như có như không, nhưng làm cho người ngửi thấy phải mê ly, phải rùng mình.

Thiếu nữ áo đen chưa đón lấy cái hộp, hỏi lại chàng: “Chung cô nương đẹp lắm, nàng có phải là ý trung nhân của ngươi chăng?” Đoàn Dự đáp: “Không phải đâu! Chung cô nương còn nhỏ tuổi, tính tình chất phác ngây thơ, ta đâu dám có ý nghĩ ấy.” Bấy giờ thiếu nữ áo đen mới với tay về phía sau đón lấy cái hộp. Đoàn Dự thấy tay nàng xỏ trong bao lụa mỏng dính sắc đen, không để hở da thịt chỗ nào.

Nàng bỏ chiếc hộp vào túi nói: “Lão họ Chúc kia, mau cút đi.” Một ông già râu tóc bạc trắng run run hỏi lại: “Ngươi nói sao?” Cô gái gằn giọng: “Ta bảo mi cút ra khỏi nhà này, hôm nay ta không muốn giết mi.” Ông già kia vung kiếm đâm ra, quát lên: “Ngươi không được khinh khi ta quá thế!” Giọng nói run run, vì căm tức thì ít mà vì sợ hãi thì nhiều. .

Thiếu nữ áo đen dằn giọng: “Ngươi không phải thủ hạ của ác bà nương họ Vương, chẳng qua bị hai mụ già này rủ lại đây coi trò vui. Trên đường đi người đối với ta có chiều nể nang, tên khốn kiếp kia toan giở mạng che mặt ta ra xem, ngươi liên tiếp ngăn trở. Hừ, người xem ra không đáng chết, vậy mau cút ra khỏi đây ngay.” Ông già kia sắc mặt nhợt nhạt, mũi kiếm trên tay từ từ hạ xuống.

Đoàn Dự khuyên: “Cô nương, cô bảo ông ta đi ra cũng đủ rồi, đâu cần phải dùng chữ cút. Cô nói năng chẳng nể nang chút nào, Chúc lão gia sao không khỏi bực tức?”

Ngờ đâu ông già họ Chúc vẻ mặt lúc thì do dự, lúc thì hoảng hốt, đột nhiên ném thanh trường kiếm xuống đất đánh choang một tiếng, hai tay ôm mặt chạy đi. Y vừa giơ tay đẩy cửa sảnh, Bình bà bà vung tay phải, một ngọn đoản đao phóng vụt ra trúng ngay giữa lưng. Ông già té nhào xuống đất, giãy giụa lăn đi đến hơn một trượng rồi nằm im tắt thở.

Đoàn Dự giận dữ nói: “Hừ, mụ mập kia, vị lão gia đó cũng là đồng bọn với ngươi, sao ngươi nỡ hạ độc thủ?”Câu hỏi của Đoàn Dự dường như mụ không để vào tai. Trong sảnh đường, người nào cũng lăm lăm tay cầm gươm đao, tựa hồ như họ chỉ chờ một tiếng hô là xông vào băm vằm thiếu nữ áo đen.

Đoàn Dự thấy vậy bất giác nổi cơn thịnh nộ đến cực điểm, quát to lên rằng: “Bọn người đông như thế mà vây đánh một người con gái yếu ớt, tay không khí giới thì trên cõi đời này không còn nghĩa lý gì nữa.” Nói xong chàng xông lại đứng đỡ phía lưng cho thiếu nữ áo đen và quát lớn: “Bọn người có giỏi thì vào đây!” Đoàn Dự tuy không biết chút võ nghệ nào nhưng chính khí bốc lên ngùn ngụt đầy vẻ oai phong.

Thụy bà bà thấy chàng có vẻ ngang tàng như thế, trong bụng lại đâm hoang mang, liệu rằng gã thanh niên này nếu không phải thân mang tuyệt nghệ cố ý giả vờ thì hẳn có kẻ nào ghê gớm lắm đứng đằng sau. Mụ ta phụng mệnh dẫn đồng bọn từ Giang Nam đuổi theo cô gái áo đen tới tận Đại Lý, ở chốn đất khách quê người, thực không muốn gây thêm rắc rối, bèn nói: “Các hạ nhất định can thiệp vào vụ này?” giọng điệu thật là khách khí. Đoàn Dự đáp: “Đúng! Ta quyết không để các ngươi cậy mạnh hiếp yếu, lấy thịt đè người.” Thụy bà bà lại hỏi: “Các hạ có họ hàng quen biết gì với con tiện nhân vô liêm sỉ này? Ai sai các hạ đến đây để tiếp tay cho nó?”

Đoàn Dự lắc đầu đáp: “Ta cùng cô nương đây chẳng phải họ hàng, cũng không quen biết, chỉ vì thấy việc bất bằng không thể bỏ qua. Ta khuyên các ngươi nên thôi đi, cậy đông người để hiếp đáp một cô gái sao đáng mặt anh hùng?” Chàng lại nói khẽ: “Cô nương trốn mau đi! Để ta kiếm cách ngăn chặn bọn này.”

Thiếu nữ áo đen khẽ hỏi lại chàng: “Ngươi vì ta mà mất mạng, vậy có ân hận gì không?” Đoàn Dự khảng khái đáp: “Chết cũng không hối hận.” Thiếu nữ áo đen lại hỏi: “Ngươi không sợ chết à?” Đoàn Dự thở dài đáp: “Ai mà không sợ chết? Nhưng… nhưng…”

Thiếu nữ áo đen đột nhiên lớn tiếng bảo: “Sức ngươi không trói nổi con gà thì anh hùng hảo hán cái gì?” Nàng vẫy tay phải một cái, tung hai sợi dây ra trói chân tay chàng lại. Thụy bà bà, Bình bà bà thấy cô ta bất thình lình tấn công Đoàn Dự, quả thực ngoài dự tính, ai nấy còn đang kinh ngạc thì tay trái của cô gái liên tiếp vung lên. Từ lúc đó bên tai Đoàn Dự chỉ còn nghe tiếng reo hò cùng tiếng “huỳnh huỵch” thân người ngã xuống. Trước mắt tối đen như mực, chỉ có ánh kiếm lập lòe, đèn lửa đều bị dập tắt. Thân thể chàng bị đẩy lên cao, và bị giữ trên không trung.

Những biến cố xảy ra cực kỳ mau lẹ. Chớp mắt Đoàn Dự đã không biết mình hiện ở nơi nào, tứ phía tiếng người hô hoán: “Đừng để con tiện nhân chạy thoát! Đừng sợ tên độc của y! Phóng phi đao! Phóng phi đao!” Rồi nào tiếng binh khí chạm nhau chát chúa, nào tiếng leng keng phát ra do những mũi tên đụng vào gươm đao. Bất thình lình người chàng như bị tung lên, kế đến tiếng vó ngựa dồn dập, thì ra chàng đã ở trên lưng con Hắc Mai Côi. Chân tay chàng bị trói không nhúc nhích được chút nào.

Chàng cảm thấy cổ mình để tựa vào người ai, mũi thoang thoảng mùi hương ngào ngạt, chàng biết ngay đó là mùi hương từ cô thiếu nữ áo đen. Tiếng vó ngựa vẫn khua giòn, chạy rất nhanh mà vẫn êm ru. Tiếng người reo hò đuổi theo mỗi lúc một xa. Con tuấn mã Hắc Mai Côi lông đen tuyền, y phục cô thiếu nữ cũng tuyền một màu đen, đêm khuya trời lại tối, mùi hương ngào ngạt phảng phất từng cơn càng tăng thêm vẻ huyền bí.

Con ngựa chạy một hồi thì tiếng gào thét của địch nhân không còn nghe thấy nữa, Đoàn Dự nói: “Cô nương ơi! Ta không ngờ bản lãnh cô nương ghê gớm đến bậc này. Cô cởi trói cho ta đi!” Thiếu nữ áo đen chỉ hừ một tiếng không trả lời. Đoàn Dự đã bị trói chặt, mỗi bước ngựa chạy dây trói lại xiết thêm làm cho tay chân chàng mỗi lúc một đau dữ, đầu chàng mỗi lúc một tụt xuống thấp như bị treo ngược. Tâm thần choáng váng, mắt hoa lên, không thể chịu được. Chàng lại la ầm lên: “Cô nương buông ta ra mau!”

Bỗng nghe đánh bốp một cái, chàng bị thiếu nữ tát vào má rồi có tiếng lạnh lùng bảo: “Im cái mồm! Không được léo nhéo! Cô nương không hỏi thì ngươi không được nói.” Đoàn Dự tức giận hỏi: “Tại sao vậy?” Lại “bốp bốp”, chàng bị hai cái tát mạnh hơn trước, tai bên hữu ù hẳn đi, cơ hồ như bị thủng màng nhĩ.

Đoàn Dự vốn tính bướng bỉnh không chịu khuất phục ai, kêu ầm ĩ: “Làm gì mà ngươi đánh ta? Ngươi buông ta ra đi! Ta không theo ngươi nữa.” Bỗng nhiên chàng thấy thân mình bị nhấc bổng lên rồi bị quẳng xuống đất, chân tay vẫn bị trói, một đầu dây thiếu nữ cầm trong tay. Chàng bị ngựa lôi đi xềnh xệch.

Cô gái quát một tiếng nhỏ ra lệnh cho con ngựa đi chậm lại, hỏi: “Ngươi đã chịu hàng phục chưa? Đã chịu vâng lời ta chưa?” Đoàn Dự quát to: “Ta không hàng phục, ta không vâng lời! Dù chết đến nơi ta cũng chả sợ, giờ ngươi mới hành hạ ta một chút, ta sợ… ta sợ…” Chàng định nói “ta sợ cóc gì?” nhưng thân chàng bị kéo qua hai mô đất nổi trên đường, liên tiếp bị hai lần tung lên quật xuống nên hai tiếng “cóc gì” còn nghẹn trong cổ chưa thốt ra được.

Thiếu nữ cười khẩy hỏi: “À, ra ngươi biết sợ rồi phải không?” Nàng liền kéo chàng lên lưng ngựa. Đoàn Dự gân cổ cãi: “Ta muốn nói ta sợ cóc gì, lẽ dĩ nhiên là không sợ, mau thả ta ra. Ta không muốn để ngươi lôi đi như thế này nữa.” Cô gái hừ một tiếng: nói: “Trước mặt ta kẻ nào dám nói bướng, ta quyết làm cho phải điêu đứng, sống dở chết dở, đâu chỉ hành hạ chút xíu thế này thôi?” Nói xong lại quăng Đoàn Dự xuống đất.

Đoàn Dự căm tức vô cùng, nghĩ thầm: “Bọn kia hễ mở miệng thì mắng ngươi là tiểu tiện nhân, kể cũng có lý”. Đoạn chàng la inh ỏi: “Ngươi không buông ta ra, ta mắng cho bây giờ.” Thiếu nữ đáp: “Ngươi có giỏi thì mắng đi! Đời ta bị thiên hạ mắng còn chưa đủ hay sao?”

Đoàn Dự nghe thiếu nữ nói hai câu này có vẻ rất thê lương, nên chàng toan cất miệng mắng “tiểu tiện nhân” lại cảm thấy trong dạ bùi ngùi, không mắng nữa.

Thiếu nữ chờ một lúc không thấy chàng lên tiếng, liền nói: “Ta biết rằng người không dám mắng ta.” Đoàn Dự gân cổ lên cãi: “Ta nghe ngươi nói thương tình nên không mắng nữa, chứ có phải ta sợ ngươi đâu?”

Thiếu nữ giục ngựa chạy mau. Con Hắc Mai Côi lên nước đại, phi như gió làm cho Đoàn Dự đau đớn ở chề. Chân tay mặt mũi bị cát bám đầy, có lúc chạm phải gạch đá, máu chảy đầm đìa. Thiếu nữ quát: “Ngươi đã chịu đầu hàng chưa?” Đoàn Dự lớn tiếng mắng lại: “Ngươi điên rồ, không biết điều!” Thiếu nữ ngắt lời: “Ta là kẻ điên rồ thì phải rồi, dù ngươi không nói ta cũng tự biết mà! Nhưng sao ngươi bảo ta không biết điều?” Đoàn Dự đáp: “Ta… ta… đối với người một lòng thành thật…” Chưa dứt lời, đầu chàng va phải khối đá bên đường đau quá ngất đi…

Không biết bao lâu, bỗng chàng thấy mát lạnh rồi hồi tỉnh lại. Miệng bị nước tràn vào, chàng vội ngậm miệng lại nhưng một cơn ho nổi lên, nước lại vào đầy cả miệng, cả mũi, sặc sụa… Nguyên từ lúc thiếu nữ áo đen thấy chàng ngất đi liền bắt ngựa chạy xuống khe suối, để nước mát lạnh thấm vào cho tỉnh lại. May mà dòng suối hẹp, con Hắc Mai Côi đi mấy bước đã qua. Đoàn Dự bị ướt hết quần áo, bụng uống đầy nước chướng lên, lại bị thương tích khắp mình mẩy, nỗi đau đớn kể sao cho xiết?

Thiếu nữ lại hỏi chàng: “Bây giờ ngươi đã chịu hàng phục chưa?” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Trên đời này sao lại có đứa con gái ngang ngạnh không biết điều đến thế, quả đúng là số kiếp mình đen đủi nên mới rơi vào tay cô ta, có nói thêm nữa cũng bằng thừa”. Thiếu nữ thấy chàng không đáp, hỏi luôn mấy câu: “Ngươi đã phục tùng chưa? Ngươi đã nếm đủ mùi điêu đứng rồi chứ?” Đoàn Dự vẫn nín thinh giả vờ như không nghe thấy gì. Thiếu nữ tức mình gầm lên: “Ngươi điếc à? Ta hỏi sao lại không đáp?” Đoàn Dự vẫn chẳng nói chẳng rằng.

Thiếu nữ dừng ngựa lại xem chàng đã hồi tỉnh chưa. Lúc đó gần sáng, chân trời phía đông đã ửng màu mỡ gà, nàng nhìn thấy rõ Đoàn Dự mắt mở thao láo, bất giác nổi giận đùng đùng, trừng mắt lên quát: “Ngươi gớm thật! Rõ ràng người vẫn tỉnh như sáo mà giả chết để thi gan với ta. Vậy bây giờ ta đập vào xác ngươi thử xem ngươi ghê gớm hay là ta ghê gớm.” Nói xong nàng nhảy xuống ngựa, rồi lại vọt lên cây, bẻ lấy một cành trỏ vào mặt Đoàn Dự.

Lúc đó Đoàn Dự mới nhìn thẳng mặt nàng được che kín bằng vải đen thẫm, chỉ để hở đôi mắt đen láy, sáng như điện. Chàng tủm tỉm cười nghĩ thầm: “Dĩ nhiên ngươi ghê gớm hơn, con đàn bà độc ác này, ai còn lợi hại hơn người được nữa?”.

Cô gái hỏi: “Đến nước này mà người còn cười được ư? Ngươi cười gì?” Đoàn Dự nhìn nàng, nhăn mặt trêu chọc rồi lại cười. Thiếu nữ giơ cành cây lên quất chàng bảy tám roi, Đoàn Dự không kể gì đến sống chết, cứ mặc kệ cho nàng đánh thế nào thì đánh. Nhưng ác thay thiếu nữ cứ nhằm những chỗ nhạy cảm mà quất. Có lúc chàng chịu không nổi, tưởng chừng phải la lên nhưng rồi lại cố nhịn được.

Thiếu nữ thấy chàng quật cường như vậy, trầm ngâm một lát rồi nói: “Được lắm, người giả điếc ư? Ta làm cho người điếc thật.” Nàng thò tay vào bọc, móc cây trủy thủ ra, lưỡi dao dài chừng bảy tấc, ánh dao lấp loáng ghê người. Nàng hùng hổ bước đến trước mặt Đoàn Dự cầm trủy thủ nhằm tai bên trái chàng quát to lên: “Ngươi không nghe ta nói gì phải không? Ngươi có muốn giữ cái tai này thì bảo ta.” Đoàn Dự vẫn làm thinh, mắt thiếu nữ long lên sòng sọc lộ ra những tia hung dữ, toan hạ lưỡi trủy thủ xuống định cắt tai bên trái Đoàn Dự.

Đoàn Dự hoảng quá kêu lên: “Này, người định đâm thật hay sao chứ? Ngươi đâm điếc tai ta, liệu có tài chữa cho khỏi hay không thì bảo?” Cô gái hứ một tiếng nói: “Cô nương giết người vẫn làm cho sống lại được, ngươi không tin thì thử cho biết.” Đoàn Dự vội đáp: “Ta tin, ta tin, khỏi cần thử làm gì.”.

Cô gái thấy chàng mở mồm nói, xem chừng khuất phục mình rồi nên không hành hạ thêm nữa, nhấc Đoàn Dự lên để lên yên ngựa, chính nàng ta cũng nhảy lên yên nhưng lần này để đầu cao chân thấp tử tế hơn một chút. Đoàn Dự không còn bị treo ngược đầu, tay chân tuy vẫn còn đau vì bị trói chặt, nhưng so với bị kéo lê dưới đất đã là một trời một vực nên không dám mở mồm chọc cho nàng ta nổi cáu nữa.

Chạy được chừng hơn nửa giờ, Đoàn Dự mắc tiểu quá, muốn nói cô gái cho mình đi giải nhưng tay bị trói không cách nào ra hiệu, hơn nữa dẫu tay có tự do cũng không biết diễn tả làm sao cho cô ta hiểu được nên đành phải nói: “Ta đau bụng, xin cô nương thả ta ra một chút.” Cô gái đáp: “Hay lắm, thế là bây giờ ngươi hết câm rồi? Có còn gì để nói nữa không?” Đoàn Dự nói: “Đành rằng thân lươn bao quản lấm… quần, nhưng cô nương là hương mỹ nhân, mà để ta biến thành xú tiểu tử thì đâu có hay ho gì.” Cô gái không nhịn được phải phì cười. Nàng nghĩ bụng: “Đã đến thế này đành phải tha y ra”. Đoạn nàng rút kiếm cắt đứt dây trói, đẩy Đoàn Dự xuống đất, đoạn nàng cũng xuống ngựa, bỏ đi ra chỗ khác.

Đoàn Dự bị trói đến quá nửa ngày, chân tay ê ẩm tê liệt, nằm co duỗi hồi lâu mới đứng lên được. Chàng thấy con Hắc Mai Côi đang gặm cỏ gần đó, có vẻ hiền lành ngoan ngoãn, lại không thấy thiếu nữ thì nghĩ bụng: “Không nhân cơ hội này trốn đi thì còn đợi đến bao giờ?”. Nghĩ vậy chàng nhảy tót lên lưng ngựa. Con Hắc Mai Côi tuyệt không phản kháng, chàng liền gò cương cho nó phi nước đại, trông về hướng bắc mà tiến.

Cô gái nghe tiếng vó ngựa lốp cốp vội rượt theo. Tuy nàng khinh công giỏi, nhưng ngựa chạy quá mau không tài nào đuổi kịp. Đoàn Dự quay lại chắp tay nói: “Cô nương! Non xanh trơ đó, nước biếc vẫn đây, còn ngày tái ngộ.” Mới nói được bấy nhiêu thì con Hắc Mai Côi đã chạy xa hơn hai chục trượng, bóng thiếu nữ đã khuất sau rừng. Đoàn Dự thoát khỏi độc thủ của con người quỷ quái, trong lòng khoan khoái vô cùng, luôn miệng dỗ ngựa: “Hắc Mai Côi ơi! Ngoan lắm! Chạy lẹ lên! Chạy lẹ lên!”

Hắc Mai Cổi chạy được chừng một dặm, Đoàn Dự nghĩ thầm: “Mình lằng nhằng mất một ngày, không biết có còn kịp cứu Chung cô nương nữa hay không? Nếu mình chạy suốt, không ăn không ngủ, không kể sống chết, chẳng biết Hắc Mai Côi chịu nổi hay không?”. Chàng còn đang suy tính, bỗng nghe một tiếng huýt sáo từ xa vẳng lại, tiếng ngân rất dài, lan tỏa cả khu rừng.

Con Hắc Mai Tôi nghe tiếng huýt sáo lập tức quay đầu trở về, Đoàn Dự cả kinh, vội dỗ dành: “Hắc Mai Côi ngoan ơi! Hắc Mai Côi giỏi ơi! Đừng chạy trở về nghe!” Rồi chàng hết sức gò cương bắt nó quay đầu lại, không ngờ con thần mã bây giờ lại bất kham, muốn gò cương thế nào thì gò, nó cứ đứng dựng thẳng lên quay trở lại chứ không chịu nghe lời Đoàn Dự chỉ huy.

Chớp mắt con Hắc Mai Côi đã chạy về đến trước mặt cô gái rồi dừng lại không nhúc nhích. Đoàn Dự không biết nên cười hay nên khóc, nét mặt chàng trông cực kỳ thảm hại. Cô gái kia lạnh lùng hỏi: “Ta vốn chẳng muốn giết người, thế nhưng người lén bỏ trốn, lại còn ăn cắp con Hắc Mai Côi của ta, thế có phải là đại trượng phu chăng?”

Đoàn Dự nhảy xuống ngựa, ngang nhiên đáp: “Ta không phải là nô lệ của cô, muốn đi đâu thì đi, làm gì có chuyện lén bỏ trốn? Hắc Mai Côi là cô cho ta mượn, ta đã trả lại đâu, sao lại gọi là ăn cắp được? Cô muốn giết ta thì giết, có sao đâu. Ta tự mình quay lại, có gì mà không phải đại trượng phu?”

Cô gái tay cầm cán kiếm, rút ra nửa chừng nói: “Ngươi tưởng ngươi to gan lớn mật, ta không dám giết ngươi sao? Ngươi cậy vào kẻ nào mà dám bướng bỉnh với ta?” Đoàn Dự đáp: “Ta đối với cô không có điều chi hổ thẹn, cần gì phải mượn thế lực ai?”

Đôi mắt thu ba của cô gái lóe ra những tia sáng chiếu thẳng vào mặt Đoàn Dự, Chàng cũng nhìn chằm chặp vào mắt nàng, tuyệt không tỏ chút chi sợ hãi. Hai người nhìn nhau một hồi rồi “soạt” một tiếng, cô gái lại tra kiếm vào vỏ quát: “Ngươi cút đi! Bản cô nương hãy tạm gửi cái đầu trên cổ ngươi, lúc nào cao hứng sẽ lại lấy!” Đoàn Dự vốn dĩ coi như mình chắc chết rồi, không ngờ nàng ta lại thả cho mình đi, hơi ngạc nhiên nhưng không dám nói thêm, quay mình cà nhắc bước đi.

Đoàn Dự đi vài mươi trượng vẫn không nghe tiếng vó ngựa, quay đầu nhìn lại, thấy cô gái vẫn đứng đó ngơ ngơ ngẩn ngẩn thì nghĩ thầm: “Có lẽ nàng còn có chủ ý gì cay độc đây, hẳn sắp giở trò mèo vờn chuột chán chê rồi mới cắn chết. Ta thoát chết hay không là tùy ở nàng”.

Chàng rẽ luôn qua mấy con đường nhánh, bấy giờ mới thấy hơi yên tâm, những vết thương trên đầu cổ chân tay lúc này mới thấy đau, nghĩ thầm: “Ôi, tính tình cô này thật là kỳ quặc! Hay là cha mẹ nàng chết cả rồi, đời nàng đã trải bao nhiêu bước đường cay đắng? Hay là nàng xấu xa, nên phải che kín không muốn để ai nhìn thấy mặt? Như vậy thì nàng cũng thật đáng thương… Chao ôi! Cái hộp vàng của Chung phu nhân đưa cho ta nay ở trong tay nàng rồi”. Chàng muốn quay lại đòi nhưng không dám, nghĩ thầm: “Ta gặp cha ta, cùng lắm là bằng lòng học võ công, cha ta thể nào cũng đi cứu Chung cô nương, còn như nếu cha ta không tự đi mà cử người khác đi thì cũng được, cái hộp đó cũng chẳng công dụng bao nhiêu. Nhưng ta không có ngựa cưỡi, tình cảnh này chưa về đến Đại Lý thì nửa đường đã bị chất độc phát tác chết rồi. Chung cô nương chờ đợi mỏi mòn, một ngày dài như một năm, nàng không thấy ta quay lại, cha nàng cũng không tới, chắc lại tưởng mình không đưa tin. Chi bằng mình quay lại núi Vô Lượng, cùng nàng chết chung một nơi để cho nàng biết ta không có ý phụ nàng.”

Chủ ý đã quyết, Đoàn Dự nhìn nhận phương hướng, nhằm thẳng phía núi Vô Lượng mà đi. Bờ sông Lan Thương thật quá hoang vu, có khi đi đến mấy chục dặm đường mà không gặp một nóc nhà. Suốt ngày hôm đó, chàng đành kiếm trái cây trong rừng ăn cho đỡ đói. Tối đến tìm chỗ cao ráo, ngủ một giấc.

Hôm sau quá trưa, lại đến một chiếc cầu làm bằng xích sắt, qua trở lại bờ sông bên kia, đi hơn ba chục dặm đến được một cái thị trấn nhỏ. Tiền bạc chàng giắt trong lưng đã bị rơi mất sau khi nhảy xuống hồ. Trong bụng đói quá, chàng nhìn lại quần áo rách tả tơi, chỉ còn viên ngọc bích đính vào mũ là vật quý liền lấy ra tìm đến tiệm bán gạo. Tiệm này không phải nơi mua bán vàng ngọc, nhưng cả thị trấn chỉ có cửa hàng này là lớn hơn cả. Chủ tiệm thấy chàng phong độ hiên ngang, không dám khinh thường nhưng không biết ngọc quý, chỉ chịu mua với giá ba lượng bạc. Đoàn Dự cũng chẳng kèo nài, cầm tiền định đi mua áo mũ, nhưng thị trấn nhỏ quá không có chỗ bán y phục nên đành đến quán mua cơm ăn.

Chàng vừa ngồi xuống ghế, hai đầu gối theo chỗ rách thò ra, trường bào vạt trước vạt sau rách mất cả rồi, quần thì sau đũng cũng có mấy cái lỗ lớn, lộ cả mông ra, gió thổi mát hiu hiu, nghĩ thầm: “Cái cảnh lòi da lòi thịt thế này trông thật bất nhã, phải tìm cách nào che đi mới được”. Gã chủ quán mang đồ ăn lên nói: “Hôm nay không gặp ngày, chẳng có cá thịt gì hết, xin tướng công ăn ít rau đậu qua bữa vậy.”

Đoàn Dự đáp: “Không sao? Không sao!” Nói xong liền cầm đũa lên ăn ngay. Chàng con nhà quyền quí, hôm nay ăn mặc rách rưới hở cả mông, ngồi ăn cơm bụi mấy món bình dân, nhưng vì mấy ngày qua không có hạt cơm nào vào bụng, tuy chỉ rau đậu nhưng ngon miệng vô cùng.

Chàng ăn đến bát thứ ba bỗng nghe ngoài cửa tiệm có tiếng người nói: “Nương tử, ở đây có cái quán nhỏ, vào xem có gì ăn không nào?” Có tiếng một người đàn bà ỏn ẻn: “Gớm, chẳng bao giờ thấy chàng no cả.” .

Đoàn Dự nghe thấy thanh âm quen thuộc, nhận ra ngay đó là Can Quang Hào của phái Vô Lượng Kiếm cùng với Cát sư muội của y, trong bụng hoảng hốt, vội vàng quay mặt vào tường, nghĩ thầm: “Sao y lại gọi là nương tử nhỉ? Ồ, thế ra họ đã thành vợ chồng. Ta xủ phải quẻ Vô Vọng, hào lục tam: Kẻ kia buộc con bò, người qua đường lấy trộm, dân trong xóm bị oan (Vô Vọng chi tai, hoặc hệ chì ngưu, hành nhân chi đắc, ấp nhân chi tai). Can lão huynh được vợ, Đoàn công tử vạ lây.”

Lại nghe Can Quang Hào cười hì hì nói: “Vợ chồng mới cưới, có biết thế nào là no?” Cô nàng Cát sư muội kia bèn hứ một cái, tủm tỉm cười nói nhỏ: “Đồ chết tiệt! Thế chắc đến lúc hai đầu gối lỏng lẻo hết chàng mới biết no chăng?” Giọng thị nghe đầy vẻ lẳng lơ. Hai người vào quán ngồi xuống, Can Quang Hào liền gọi: “Chủ quán đâu, đem rượu thịt ra đây, có thịt bò thì lấy ra một bát trước. Ủa…”

Đoàn Dự nghe thấy tiếng bước chân ở đằng sau, một bàn tay to lớn chộp vào vai phải, xoay ngược chàng lại, đối diện với Can Quang Hào. Đoàn Dự cười gượng: “Can lão huynh, Cát đại tẩu, kính chúc hai vị trăm năm hòa hợp, đầu bạc răng long, hai phái Đông tông, Tây tông của Vô Lượng Kiếm nay hợp làm một.”

Can Quang Hào cười ha hả, quay đầu liếc nhìn Cát sư muội của y một cái: Đoàn Dự thuận thế nhìn theo, thấy ở Cát sư muội này mặt trái xoan, má bên trái có mấy nốt rỗ hoa, nhưng trông cũng khá xinh xắn. Ánh mắt y thị ban đầu kinh ngạc, nhưng dần dần chuyển thành hung quang, gằn giọng hỏi: “Hỏi nó cho rõ ràng làm sao đến được nơi đây? Chung quanh có người nào của Vô Lượng Kiếm không?”

Vẻ tươi cười trên mặt Can Quang Hào liền biến mất, y hầm hầm hỏi: “Vợ ta nói gì ngươi có nghe không? Nói mau!” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Ta phải nói nhăng nói cuội một phen, dọa cho chúng bỏ chạy, nếu không thể nào hai đứa này cũng giết mình để bịt miệng”. Chàng bèn nói: “Quí phái có bốn vị sư huynh tay cầm trường kiếm, vừa mới hấp tấp chạy qua đây, đi về hướng đông, dường như đang đuổi theo ai đó.”

Can Quang Hào thất sắc, nói với Cát sư muội: “Thôi đi.” Mụ vợ y liền đứng lên, tay phải ra hiệu. Can Quang Hào gật đầu, rút phắt trường kiếm, nhắm ngay cổ Đoàn Dự chém tới một nhát thật nhanh. Đoàn Dự thấy ả Cát sư muội kia ra hiệu biết là không xong, vội rụt người về sau nhưng làm sao tránh kịp, chỉ thấy một làn bạch quang vụt tới cổ mình. Đột nhiên nghe bụp một tiếng nho nhỏ, Can Quang Hào ngã ngửa ra, trường kiếm tuột khỏi tay rơi xuống. Lại nghe bụp một tiếng nữa, ở Cát sư muội kia đang toan chạy ra, nghe tiếng Can Quang Hào kêu lên, chưa kịp quay đầu lại nhìn thì cũng đã gục ngay bên ngạch cửa. Hai người chỉ kịp oằn oại mấy cái rồi nằm yên, trên cổ Can Quang Hào cắm một mũi tên nhỏ màu đen, còn Cát sư muội kia thì trúng đằng sau ót. Hai tiếng bụp bụp đó chính là tiếng mà cô gái áo đen tối hôm qua bắn ám khí dập tắt nến, giết địch nhân để tháo lui.

Đoàn Dự vừa mừng vừa lo, quay đầu nhìn ra thấy đằng sau không có ai cả, nhưng nghe bên ngoài cửa quán có tiếng ngựa hí đã thấy cô gái cưỡi con Hắc Mai Côi chầm chậm chạy ngang.

Đoàn Dự kêu lên: “Đa tạ cô nương cứu mạng.” Chàng chạy vội ra, cô gái không thèm liếc mắt nhìn chàng, cứ giục ngựa chạy tiếp. Đoàn Dự nói: “Nếu không nhờ hai mũi tên của cô thì lúc này đầu ta không còn trên cổ nữa rồi.” Cô gái cũng không buồn trả lời.

Gã chủ quán đuổi theo kêu lên: “Tướng… tướng công, giết… giết người rồi, đâu có bỏ đi được.” Đoàn Dự đáp: “Ôi chao, ta chưa trả tiền cơm.” Chàng mò tay vào túi lấy tiền nhưng thấy con Hắc Mai Côi đã đi xa mấy trượng vội kêu: “Trong túi người chết có tiền định làm đám cưới, ngươi lấy mà dùng.” Nói rồi chàng đuổi theo con ngựa.

Cô gái cho ngựa chạy chậm lại, cả hai chẳng mấy chốc đã ra khỏi thị trấn. Đoàn Dự lẽo đẽo theo sau, nói: “Cô nương, cô đã làm ơn thì làm ơn cho trót, nhờ cô đi cứu Chung cô nương luôn thể.” Cô gái lạnh lùng nói: “Chung Linh là bạn ta, ta vốn định đi cứu. Có điều ta rất ghét ai xin xỏ. Người cầu ta cứu Chung Linh, đã thế ta không đi cứu nữa.” Đoàn Dự vội nói: “Được, thế thì ta không cầu nữa.” Cô gái nói: “Thế nhưng người đã cầu rồi.” Đoàn Dự nói: “Thôi thì những gì ta nói cô đừng tính đến.” Cô gái hỏi: “Hừ, ngươi là nam tử hán đại trượng phu, nói rồi lẽ nào lại không tính?”.

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Lúc trước ta nhất định làm lại trượng phu nàng đã biết rồi, thôi để cứu mạng Chung cô nương, mình không được làm đại trượng phu cũng đành chịu vậy”. Chàng bèn nói: “Ta không phải là nam tử hán đại trượng phu, cái… cái mạng giun dế của ta… toàn là do cô nương cứu.”

Cô gái bật cười, đưa mắt nhìn chàng xem nói thật lay đùa: “Ngươi đối với con tiểu quỉ Chung Linh tốt quá nhỉ? Hôm qua ngươi thà chết chứ nhất định phải là đại trượng phu, sao hôm nay lại chịu làm giun dế? Hừ, ta không cứu Chung Linh đâu.”

Đoàn Dự vội nói: “Thế… thế thì phải làm sao đây?” Cô gái đáp: “Sư phụ ta có bảo rằng đàn ông con trai trên đời này chẳng có ai tử tế cả, toàn là đầu môi chót lưỡi để đánh lừa đàn bà con gái, còn trong bụng thì toan tính chuyện xấu xa. Loại nam nhân các ngươi một câu cũng không tin nổi.” Đoàn Dự nói: “Cái đó cũng không phải là hoàn toàn đúng, chẳng hạn… chẳng hạn…” Chàng nhất thời chưa nghĩ ra ai, bèn nói: “Chẳng hạn như phụ thân của cô nương, chắc phải là người tử tế chứ?” Cô gái đáp: “Sư phụ ta bảo rằng, cha ta cũng không phải là người tốt.”

Đoàn Dự thấy cô gái thúc ngựa chạy mỗi lúc một nhanh hơn, mình không thể nào đuổi kịp bèn gọi: “Cô nương, chậm lại.” .

Đột nhiên bóng người thấp thoáng, từ khu rừng bên cạnh bốn người xông ra chặn đường. Hắc Mai Côi liền ngừng vó, lùi lại hai bước. Cả bốn người đều là con gái còn trẻ, ai nấy đều khoác áo màu xanh biếc, tay cầm song câu, người đứng giữa quát lớn: “Các ngươi hai người, hẳn là Can Quang Hào và Cát Quang Bội của Vô Lượng Kiếm, đúng không?”

Đoàn Dự đáp: “Không phải, không phải. Can Quang Hào và Cát cô nương, hai người đã… đã…” Cô gái kia hỏi: “Đã đã cái gì? Các ngươi một nam một nữ, tuổi trẻ đi chung với nhau, trông dớn dác đúng là dẫn nhau đi trốn, sao lại không phải là hai đứa bạn đồ Can Cát của Vô Lượng Kiếm?” Đoàn Dự cười nói: “Cô nương nói sai rồi. Cát Quang Bội trên mặt có mấy nốt rỗ hoa, còn cô nương đây hoa nhường nguyệt thẹn đâu có giống chút nào.” Cô gái quay sang quát nữ lang áo đen: “Bỏ khăn che mặt xuống!”

Bỗng tách tách tách tách, cô gái áo đen đã bắn ra bốn mũi tên ngắn. Keng keng hai tiếng, hai người đã giơ câu ra gạt được, còn hai người kia trúng tên ngã xuống. Bốn mũi tên bắn ra không có một dấu hiệu gì, thế đi thần tốc vậy mà cũng trật hết hai mũi. Cô gái áo đen lập tức nhảy khỏi lưng ngựa, còn đang trên không đã rút phắt trường kiếm, chân trái vừa chấm đất, chân phải đã vọt lên soạt soạt đâm luôn hai nhát, tấn công hai cô gái kia. Hai cô gái cũng mua câu xông lên, một người chống đỡ cô gái áo đen, còn một người đâm vào Đoàn Dự.

Đoàn Dự kêu “Ối giời!” một tiếng, chui tọt xuống dưới bụng con Hắc Mai Côi. Cô gái kia ngạc nhiên, không ngờ người này lại xuất chiêu quái dị đến thế, đang toan đuổi theo đâm Đoàn Dự, bỗng lưng đau nhói, lập tức ngã xuống. Thì ra cô gái áo đen đã thừa cơ bắn một mũi tên, thế nhưng vì phải phân tâm, cánh tay trái của cô ta đã bị địch nhân móc phải, soạt một tiếng rách mất một nửa tay áo, để lộ cánh tay trắng như tuyết, trên tay cũng bị rạch một đường dài cả thước, máu túa ra.

Cô gái áo đen liền múa kiếm tấn công, nhưng người con gái sử câu kia võ nghệ ghê gớm quá, song câu huy động toàn những chiêu số xảo diệu, đấu thêm một hồi thì đùi cô gái áo đen lại trúng câu, bị rạch rách cả quần. Nàng liên tiếp bắn ra hai mũi tên nhưng đều bị đối phương gạt ra được. Người con gái kia luôn mồm quát hỏi: “Ngươi là ai? Kiếm pháp của ngươi không phải Vô Lượng Kiếm.” Cô gái áo đen không trả lời, kiếm chiêu càng lúc càng tấn công gấp rút hơn. Đột nhiên nàng “A” lên một tiếng, trường kiếm bị một thanh câu móc trúng, địch nhân liền xoay cổ tay một cái, thanh kiếm cầm không vững bay tung lên trời, nàng vội vàng nhảy lên theo. Người sử câu lập tức liên tiếp đâm luôn mấy nhát nhưng nàng đều tránh được.

Đoàn Dự đứng coi trong lòng bồn chồn, khổ nỗi không có tài ba gì để xông vào giúp đỡ, thấy cô gái áo đen nguy cấp đến nơi, không nghĩ ngợi thêm, ôm luôn một cái xác dưới đất bồng lên như một cây bổng lớn xông tới húc vào cô gái cầm song câu.

Nàng ta giật mình, thấy vật húc tới lại chính là đầu của chị em bên mình, trong lòng đau đớn, lấy câu đâm luôn vào mặt Đoàn Dự nhưng vì vướng cái xác chết nên còn cách xa đến cả nửa thước, nghe bình một tiếng, ngực đã bị cái đầu xác chết đụng vào. Ngay lúc đó, một mũi đoản tiễn đã bắn ngay vào mắt phải, nàng ngã lăn ra chết ngay.

Đoàn Dự thấy cô gái áo đen khuỵu đầu gối vội kêu: “Cô nương, cô… cô có sao không?” Chàng chạy đến bên cạnh giơ tay đỡ, cô gái kia đứng dậy, ngờ đâu Đoàn Dự trong cơn hoảng loạn vẫn còn vác cả cái xác chết, húc ngay đầu tử thi vào ngực nàng. Cô gái giơ tay đẩy đầu xác chết ra, Đoàn Dự kêu “ối” một cái ngã lăn cù, cái xác kia liền đè lên người chàng.

Cô gái thấy chàng vụng về lúng túng như thế bật cười khúc khích, nghĩ lại cuộc chiến vừa qua nguy hiểm vạn phần, nếu lúc đầu không bất ngờ ra tay giết được hai người, lại không được Đoàn Dự đứng bên cạnh ra tay giúp, e rằng chỉ một người cầm song câu nàng đã không chống nổi. Không biết bốn thiếu nữ này lai lịch ra sao, võ công lại cao cường đến thế? Nàng kêu lên: “Chàng ngốc ơi! Ngươi cứ ôm cái xác đó làm gì thế?”

Đoàn Dự lồm cồm ngồi dậy, bỏ cái xác xuống, nói: “Tội nghiệp! Tội nghiệp? Ôi, quả thật ta có lỗi. Các ngươi nhận lầm người, cứ thong thả hỏi han cho ra lẽ, sao lại nói năng lếu láo để cô nương phải nổi giận đến nỗi chết oan. Cô nương ơi! Đúng ra cô đâu cần giết họ làm gì, cứ mở khăn ra cho họ coi một tí thì đâu có sao.”

Cô gái hậm hực quát: “Câm mồm! Ta phải đợi đến ngươi dạy dỗ nữa hay sao? Ai bảo chúng nói hai đứa mình dẫn nhau… cái gì… cái gì đó.” Đoàn Dự đáp: “Đúng thế, đúng thế! Chính là họ nói năng tầm bậy, nhưng cô nương cũng chẳng nên giết người làm gì. A, cô… vết thương của cô phải buộc lại chứ.” Chàng thấy đùi nàng hở da trắng nõn, không dám nhìn lâu, vội quay đầu sang chỗ khác.

Cô gái bị chàng lải nhải trách cứ chuyện giết người, bực bội toan tiến lên vả cho chàng mấy cái, nghe đề cập đến vết thương mới thấy tay và đùi đau đớn, cũng may cả hai vết thương chỉ ngoài da thịt không chạm đến gân cốt, vội vàng lấy kim sang đắp lên, xé chiếc áo khoác của kẻ địch buộc đùi lại.

Đoàn Dự kéo mấy cái xác vào trong đám cỏ nói: “Đúng ra mình nên chôn cất họ cho tử tế, thế nhưng nơi đây không có cuốc xẻng. Ôi, bốn cô gái tuổi còn thanh xuân, dung mạo tuy không nói là đẹp, nhưng cũng chẳng đến nỗi xấu…”.

Cô gái nghe chàng nói đến mặt mũi xấu đẹp liền hỏi: “Này, sao anh biết ta mặt không bị rỗ, lại bảo cái gì nguyệt thẹn hoa nhường là sao?” Đoàn Dự cười nói: “Cái lý đương nhiên đấy thôi.” Cô gái hỏi: “Cái lý, đương nhiên là thế nào?” Đoàn Dự đáp: “Cái lý đương nhiên có nghĩa là đương nhiên phải như thế.” Cô gái nói: “Chỉ đoán mò. Ngươi có nằm mơ cũng không biết được mặt mũi ta ra sao, mặt ta rỗ như bánh tráng mè.” Đoàn Dự đáp: “Không đâu, không đâu! Cô đừng quá khiêm nhường.”

Cô gái thấy quần áo mình bị móc rách nên lột một chiếc áo khoác của xác chết choàng lên người. Đoàn Dự kêu lên: “Chao ôi!” nghĩ đến quần mình cũng bị toạc mấy lỗ lớn, mông đít lòi cả ra trước mặt cô gái này, còn ra thế thống gì nữa? Chàng không dám quay lưng về phía cô ta, vội vàng đi giật lùi, bắt chước lột lấy một cái áo choàng trên xác chết, khoác lên mình. Cô gái bật cười, Đoàn Dự mặt đỏ như gấc, nghĩ đến quần mình rách một mảng lớn, xấu hổ không tả xiết.

Cô gái nhổ mấy mũi tên ngắn trên người những xác chết bỏ vào túi, lại đá luôn mấy cái vào kẻ đã móc trúng cô ta. Đoàn Dự nói: “Đoản tiễn của cô kiến huyết phong hầu (thấy máu là tắt thở) thật là độc địa. Ta khuyên cô nương từ nay về sau chỉ trừ khi vạn bất đắc dĩ, chớ có nên dùng làm gì, làm tổn thương nhân mạng là phạm đến đức hiếu sinh…” Cô gái quát: “Ngươi lải nhải hoài, liệu có muốn nếm mùi kiến huyết phong hầu hay chăng?” Tay phải nàng vung lên, nghe vút một tiếng, một mũi độc tiễn xẹt ngang người Đoàn Dự cắm thẳng xuống đất.

Đoàn Dự mặt xanh như tàu lá, không dám nói gì thêm. Cô gái nói: “Chắc ta phải phong luôn yết hầu ngươi cho hết lải nhải.” Nói xong nàng đi đến nhổ mũi tên lên, giơ tay nhứ nhứ về phía Đoàn Dự. Chàng sợ quá nhảy vọt ra phía sau.

Cô gái cười khanh khách, bỏ mũi tên vào túi, trừng mắt nhìn chàng nói: “Ngươi khoác cái áo đó, phải kéo cái áo choàng lên che đầu mà giả gái. Lỡ có gặp ai, người ta không bảo là mình một nam một nữ bỏ…” Đoàn Dự nói: “Đúng lắm! Đúng lắm!” Chàng nghe lời, cởi chiếc mũ nho sinh trên đầu xuống bỏ vào trong túi, kéo áo choàng lên che. Cô gái vỗ tay cười khanh khách.

Đoàn Dự thấy nàng dáng thật ngây thơ, nghĩ thầm: “E rằng nàng còn ít tuổi hơn ta, sao lại ra tay giết người tàn độc đến thế”. Chàng thấy chiếc áo khoác của nàng trên ngực có thêu một con chim thứu màu đen ngửng đầu nhìn chằm chằm, thần thái uy mãnh, trên ngực mình cũng có một con y như thế, bèn lắc đầu thở dài: “Con gái có thêu thì thêu hoa, thêu bướm, ai lại thêu hình một con chim hung tợn thế này, xem ra có vẻ giang hồ quá.” Nói xong chàng lại lắc đầu quầy quậy.

Cô gái trừng mắt nói: “Ý ngươi muốn nói ta đấy chăng?” Đoàn Dự vội đáp: “Không đâu, không đâu. Không dám thế, không dám thế.” Cô gái vặn lại: “Thế thì ngươi không đâu hay là không dám?” Đoàn Dự đáp: “Không dám đâu.” Cô gái không nói thêm nữa.

Đoàn Dự hỏi: “Vết thương cô có đau lắm không? Mình nghỉ một chút nhé?” Cô gái đáp: “Đã là vết thương dĩ nhiên phải đau. Để ta cắt trên người ngươi vài dao, xem ngươi có đau không nào?” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Ngang ngược chua ngoa đến vậy là cùng”. Cô gái lại hỏi: “Có thực sự ngươi lo lắng cho ta hay không? Trên đời này làm gì có người con trai nào tốt đến thế? Có phải người mong ta mau mau đi cứu Chung Linh nhưng không nói ra chứ gì? Thôi đi!” Nói xong nàng đi đến bên con Hắc Mai Côi, nhảy lên lưng ngựa, chỉ tay về hướng tây bắc nói: “Kiếm Hồ Cung của Vô Lượng Kiếm ở phía đó phải không?” Đoàn Dự đáp: “Dường như là thế.”

Hai người chầm chậm đi về hướng tây bắc. Được một lúc, cô gái lại hỏi: “Trong cái hộp vàng có ngày sinh tháng đẻ là của ai thế?” Đoàn Dự nghĩ thầm: “Thì ra cô ả đã mở ra coi rồi”, Chàng bèn nói: “Ta không biết.” Cô gái hỏi: “Của Chung Linh phải không?” Đoàn Dự đáp: “Quả thực ta không biết.” Cô gái nói: “Sao ngươi còn giấu ta? Chung phu nhân hứa gả con gái cho ngươi, có phải không? Nói thật cho ta nghe đi.” Đoàn Dự đáp: “Không đâu, quả là không có. Đoàn Dự này nếu như nói láo cô nương, cô cứ việc cho ta nếm mùi kiến huyết phong hầu.”

Cô gái lại hỏi thêm: “Ngươi họ Đoàn đấy ư? Tên là Đoàn Dự à?” Đoàn Dự đáp: “Đúng thế! Chữ Dự là danh dự.” Cô gái nói: “Hừ, thế danh dự ngươi có ra gì không, sao ta chẳng thấy?” Đoàn Dự cười đáp: “Trong câu danh dự bại hoại cũng có chữ dự.” Cô gái nói: “Thế thì đúng rồi.” Đoàn Dự hỏi: “Còn tôn tính của cô nương?” Cô gái nói: “Sao ta lại phải nói cho người nghe? Tên ngươi tự miệng nói ra chứ ta đâu có hỏi.”

Chạy một đoạn nữa, cô gái lại hỏi: “Đến khi mình cứu. được Chung Linh ra rồi, con nhãi đó mà gọi tên ta ra, ngươi không được nghe đấy nhé.” Đoàn Dự cố nhịn cười: “Được rồi, ta không nghe đâu.” Cô gái xem chừng câu trả lời đó không thật thà, nói thêm: “Nếu như ngươi lỡ nghe thì cũng không được nhớ.” Đoàn Dự đáp: “Được rồi, nếu như có lỡ nhớ thì ta cũng phải tìm cách quên đi.” Cô gái nói: “Hứ, ngươi định nhạo báng ta, tưởng ta không biết hay sao?”

Trong khi nói chuyện, trời tối dần, chẳng bao lâu mặt trăng đã nhô lên ở phương đông, hai người nhờ có ánh trăng nên tìm đường đi khá dễ dàng. Đi được chừng hai canh, nhìn xa xa nơi triền núi có những đốm lửa lập lòe, ở phía đông có một ngọn núi vươn lên cao, dưới chân núi là mươi gian nhà lớn, chính là Kiếm Hồ Cung của Vô Lượng Kiếm. Đoàn Dự chỉ vào những ngọn lửa nói: “Thần Nông Bang ở phía bên kia, bọn mình lẳng lặng tới đó, cướp lấy Chung Linh rồi chạy, có được chăng?”

Cô gái lạnh lùng hỏi: “Chạy cách nào?” Đoàn Dự đáp: “Cô và Chung Linh hai người cưỡi con Hắc Mai Côi chạy cho nhanh, Thần Nông Bang đuổi không kịp đâu.” Cô gái hỏi: “Còn ngươi thì sao?” Đoàn Dự đáp: “Ta đã bị Thần Nông Bang ép phải uống đoạn trường tán, Tư Không Huyền nói là sau bảy ngày, chất độc phát tác sẽ chết, thành thử ta phải làm cách nào lừa chúng cho thuốc giải trước rồi mới chạy được.”

Cô gái nói: “Thì ra người đã bị chúng ép uống thuốc độc rồi. Sao không tìm cách giải độc cho xong lại chạy về báo tin cho ta làm gì?” Đoàn Dự đáp: “Ta vẫn nghĩ con Hắc Mai Côi chạy nhanh như thế, có quay trở về báo tin cũng chẳng mất bao nhiêu thời gian.” Cô gái hỏi vặn lại: “ Trời sinh ra ngươi là người tốt bụng hay là một chàng ngốc?” Đoàn Dự cười: “E rằng mỗi thứ một nửa.”

Cô gái hừ một tiếng nói: “Làm sao đánh lừa lấy được giải dược đây?” Đoàn Dự trù trừ rồi nói: “Giá như có thuốc giải thiểm điện điêu đem tới đổi cho chúng lấy thuốc giải đoạn trường tán là tốt nhất. Bọn chúng không có thuốc giải thiểm điện điêu thì thuốc giải đoạn trường tán thật khó mà đánh lừa để có được. Cô nương, cô có cách gì không?” Cô gái đáp: “Đàn ông con trai mới giỏi đánh lừa người khác, ta làm gì có cách nào để lừa thiên hạ. Chỉ có cách ép chúng phải vừa thả Chung Linh, vừa đưa thuốc giải.”

Đoàn Dự rợn người biết rằng nàng lại toan giết mấy chục mạng, nghĩ thầm: “Hay nhất… hay nhất…”. Thế nhưng cái hay nhất ấy thế nào, chàng vẫn nghĩ không ra.

Hai người sánh vai đi về phía đống lửa. Đi đến chỗ còn cách đống lửa to nhất chừng vài mươi trượng, trong bóng tối đột nhiên có hai người nhảy ra, tay cầm cuốc xẻng giơ ngang ngực. Một người quát hỏi: “Ai đó? Đến có việc gì?” Cô gái đáp: “Tư Không Huyền đâu? Mau bảo y ra gặp ta!”

Dưới ánh trăng hai người đó thấy cô gái và Đoàn Dự đều khoác áo choàng gấm màu xanh biếc, trên ngực thêu chim thứu đen, liền hoảng hồn lập tức quì xuống. Một người nói: “Vâng, vâng! Tiểu nhân không biết sứ giả Linh Thứu Cung giá lâm, quả… quả là mạo phạm, mong thánh sứ tha tội cho.” Giọng y run run hiển nhiên cực kỳ sợ hãi.

Đoàn Dự lấy làm lạ: “Cái gì mà sứ giả Linh Thứu Cung?” nhưng hiểu ngay: “À, đúng rồi, họ nhận lầm người là do cái áo choàng này”. Chàng nhớ lại mấy hôm trước nghe Chung Linh kể lại, Tư Không Huyền nghe hiệu lệnh của Thiên Sơn Đồng Mỗ của Linh Thứu Cung núi Phiêu Diểu đến chiếm cho bằng được Kiếm Hồ Cung trên núi Vô Lượng. Thần Nông Bang đã là bộ thuộc của Linh Thứu Cung, thảo nào bọn này sợ hãi đến thế.

Cô gái dĩ nhiên không hiểu nguyên do, hỏi lại: “Cái gì Linh…” Đoàn Dự sợ nàng làm lộ chuyện với vàng quát át đi: “Mau gọi Tư Không Huyền ra đây!” Hai người kia vội vàng vâng dạ, đứng lên, lùi lại mấy bước rồi quay mình chạy về phía đống lửa.

Đoàn Dự nói nhỏ với cô gái: “Linh Thứu Cung là chủ của bọn họ.” Chàng kéo cái áo khoác lên che kín mồm mũi, chỉ để lộ hai con mắt.

Cô gái toan hỏi thêm, Tư Không Huyền đã chạy tới, lớn tiếng nói: “Thuộc hạ Tư Không Huyền cung nghinh thánh sứ, không kịp ra xa đón tiếp, xin tha tội.” Y chạy đến trước mặt, quì xuống khấu đầu nói: “Thần Nông Bang Tư Không Huyền cung chúc Đồng Mỗ vạn thọ thánh an.”

Đoàn Dự nghĩ thầm: “Đồng Mỗ là hạng người nào? Đâu phải hoàng đế, hoàng thái hậu, cái gì mà vạn thọ thánh an, thật chẳng ra gì”. Chàng bèn gật đầu nói: “Đứng lên đi!” Tư Không Huyền đáp: “Vâng.” Y lại dập đầu thêm hai cái nữa mới đứng dậy. Lúc này sau lưng y đã quì đầy người, đều là bang chúng Thần Nông Bang.

Đoàn Dự hỏi: “Chung tiểu cô nương đâu? Mau đưa ra đây!” Hai tên bang chúng không đợi Tư Không Huyền ra lệnh đã chạy ngay về phía đống lửa dẫn Chung Linh ra. Đoàn Dự tiếp: “Cắt dây trói.” Tư Không Huyền đáp: “Vâng.” Y rút truy thủ cắt hết dây trói chân tay Chung Linh, Đoàn Dự thấy nàng an toàn không thương tích gì trong lòng mừng rỡ, cố gắng giả giọng nói: “Chung Linh, lại đây!” Chung Linh hỏi: “Ngươi là ai?” Tư Không Huyền gằn giọng quát: “Trước mặt thánh sứ không được vô lễ. Lão nhân gia gọi ngươi là ngươi phải đến.” Chung Linh nghĩ thầm: “Ta cóc cần biết lão nhân gia, tiểu nhân gia gì ráo. Có điều ngươi không để cho người khác trói ta, lão râu dê kia lại sợ ngươi một phép, thà nghe lời ngươi còn hơn”. Nghĩ thế nàng bèn đi đến trước mặt Đoàn Dự.

Đoàn Dự giơ tay ra nắm lấy tay Chung Linh, kéo lại bên mình, cào cào lòng bàn tay nàng, nhưng biết nàng không thể hiểu được nên thôi, bèn nói với Tư Không Huyền: “Đem thuốc giải đoạn trường tán ra đây!”

Tư Không Huyền lấy làm lạ, nhưng vội sai thuộc hạ: “Lấy hòm thuốc của ta ra, mau lên!” Y hơi trầm ngâm lập tức suy đoán: “Chắc là tên họ Đoàn đi năn nỉ được sứ giả Linh Thứu Cung”. Hòm thuốc đem đến nơi, y mở nắp, lấy ra một cái bình sứ, cung kính dâng lên, nói: “Thỉnh thánh sứ thu dùng. Thuốc giải này uống liên tiếp ba ngày, mỗi ngày một lần, mỗi lần một đồng cân là đủ.” Đoàn Dự mừng lắm cầm ngay lấy.

Chung Linh vội hỏi: “Này, lão râu dê kia, ngươi có còn thuốc giải không? Ngươi bằng lòng giải độc cho Đoàn đại ca, nếu như đưa cho người ta hết rồi, một khi Đoàn đại ca đưa cha ta tới thì ngươi lấy gì mà đưa?” Đoàn Dự trong lòng cảm kích, lại khều khều tay nàng. Tư Không Huyền nói: “Cái đó… cái đó…” Chung Linh vội vã nói: “Cái đó, cái đó là sao? Ngươi không giải độc được cho Đoàn đại ca, ta không bảo gia gia ta giải độc cho ngươi đâu.”

Cô gái áo đen ngứa tai không chịu nổi quát lên: “Chung Linh, không được lắm lời, Đoàn đại ca của ngươi không chết đâu.”

Chung Linh nghe giọng quen tai, “ồ” một tiếng quay sang nhìn, liền nhận ra ngay, vui mừng nói: “A! Mộc…” Nàng lập tức nghĩ ra, vội vàng giơ tay bịt miệng lại.

Tư Không Huyền lòng đầy lo âu, vội quỳ xuống nói: “Khải bẩm hai vị thánh sứ, thuộc hạ bị con thiểm điện điêu của tiểu cô nương đây cắn phải, độc tính thật lợi hại, xin nhị vị khai ân.” Đoàn Dự nghĩ thầm, nếu như mình không cho y thuốc giải, chỉ sợ y đường cùng liều mạng nên quay sang nói với cô gái áo đen: “Tỉ tỉ, cho y một chút linh đơn thánh được của Đồng Mỗ.” Tư Không Huyền nghe nói linh đơn thánh được của Đồng Mỗ, trong bụng mừng quá, liên tiếp dập đầu xuống đất binh binh nói: “Đa tạ Đồng Mỗ đại ân đức, thánh sứ ân đức, cả thảy mười chín người bọn thuộc hạ bị độc điêu cắn phải.”

Cô gái nghĩ thầm: “Ta làm gì có linh đơn thánh dược của Đồng Mỗ? Có điều ta đang bị thương cả tay lẫn chân, muốn lo cho cả hai người này không phải dễ. Chi bằng nghe lời Đoàn tiểu tử mà đánh lừa lão râu dê một chuyến”. Nàng lấy trong túi ra một cái bình nhỏ nói: “Đưa tay đây!” Tư Không Huyền vội đáp: “Vâng, vâng.”Y xòe tay ra, mắt nhìn xuống không dám nhìn thẳng. Cô gái đổ lên bàn tay y một ít bột màu xanh nói: “Uống một chút là giải độc.” Nàng nghĩ thầm: “Phấn thơm xoa mặt của ta chế tạo đâu có dễ, không thể cho ngươi nhiều được”.

Khi nàng vừa mở bình, Tư Không Huyền đã thấy hương thơm sực nức bay xông lên mũi. Y cả đời nghiên cứu thuốc men nhưng cũng không đoán ra loại dược vật này, đến khi bột thuốc để lên tay rồi, mùi thơm bốc ra khiến toàn thân thư thái, nghĩ bụng Thiên Sơn Đồng Mỗ quả là thần thông quảng đại, linh đơn thánh dược này thật khác thường. Y mừng lắm, luôn mồm cảm tạ, có điều tay đang đựng thuốc bột nên không dám khấu đầu.

Đoàn Dự thấy mọi việc đã xong xuôi bèn nói: “Tỉ tỉ, chúng mình đi.” Chàng đang khoái chí, quên cả giả tiếng, cũng may bọn Tư Không Huyền không ai nghi ngờ gì.

Tư Không Huyền nói: “Khải bẩm thánh sứ, Tả Tử Mục của Vô Lượng Kiếm chẳng biết trời đất, dám ngang nhiên kháng mệnh. Thuộc hạ vì trúng độc bị thương, đứt mất một cánh tay nên việc chưa xong ngay được, thật là phụ ân đức của Đồng Mỗ, tội đáng chết muôn lần. Thuộc hạ xin lập tức thống suất bộ thuộc, tấn công vào Kiếm Hồ Cung. Xin thánh sứ ở lại đốc chiến cho.”

Đoàn Dự đáp: “Cũng chẳng cần. Kiếm Hồ Cung cũng không phải tấn công làm gì nữa, các ngươi rút lui di.”

Tư Không Huyền sợ quá, vốn biết tính nết của Đồng Mỗ, sứ giả nói năng càng dịu dàng thì sau này trừng phạt càng nặng, xem chừng mấy câu này thánh sứ trách mình hành động bất lực nên vội vàng nói: “Thuộc hạ đáng chết! Mong thánh sứ trước mặt Đồng Mỗ nói tốt cho vài câu.”

Đoàn Dự không dám nói nhiều, vẫy tay một cái, cầm tay Chung Linh đi ra, Tư Không Huyền giơ cao bàn tay chứa phấn thơm, hai gối quì xuống, lớn tiếng nói: “Thần Nông Bang cung tống hai vị thánh sứ, cung chúc Đồng Mỗ lão nhân gia vạn thọ thánh an.” Bọn bang chúng đứng đằng sau cũng nhất loạt quì xuống, đồng thanh cất tiếng: “Thần Nông Bang cung tống hai vị thánh sứ, cung chúc Đồng Mỗ lão nhân gia vạn thọ thánh an.”

Đoàn Dự đi được mấy trượng, thấy bấy nhiêu người cùng quì dưới đất không khỏi tức cười bèn lớn tiếng nói: “Linh Thứu Cung chúc Tư Không Huyền lão nhân gia vạn thọ thánh an.”

Tư Không Huyền nghe chàng nói thế, xem ra đảo ngược ý nghĩa lại càng thêm ghê gớm, sợ đến mất vía, tưởng chừng muốn lăn ra bất tỉnh. Hai tên bang chúng đằng sau thấy bang chủ lảo đảo, sợ linh đan diệu dược trong tay đổ mất, vội vàng tiến lên đỡ lấy tay y.

Đoàn Dự cùng hai cô gái đi ra ngoài mấy chục trượng rồi không còn nghe thấy bang Thần Nông lao xao gì nữa. Chung Linh huýt sáo miệng liên tiếp, gọi con chồn quay lại nhưng không thấy đâu, bèn nói: “Mộc tỉ tỉ, đa tạ hai vị đến cứu, nhưng tiểu muội muốn ở lại đây.”

Cô gái hỏi: “Ở lại đây để làm gì? Chờ con chồn của ngươi ư?” Chung Linh đáp: “Không đâu! Tiểu muội muốn ở lại đây chờ Đoàn đại ca, chàng đi mời cha muội tới giải độc cho bọn Thần Nông Bang. Nàng quay lại nói với Đoàn Dự: “Tỉ tỉ ơi, có thể cho muội một ít thuốc giải đoạn trường tán không?” Cô gái nói: “Gã họ Đoàn kia không trở lại nữa đâu.” Chung Linh hấp tấp nói: “Không đâu, không đâu! Chàng nói đến là thế nào cũng đến, dẫu cho cha muội không chịu đi, Đoàn đại ca cũng sẽ quay lại một mình.” Cô gái nói: “Hừ, đàn ông con trai chỉ giỏi lừa dối, làm sao người tin lời của y được?” Chung Linh nghẹn ngào nói: “Đoàn đại ca không lừa dối… không lừa dối muội đâu.”

Đoàn Dự cười ha hả, lột chiếc áo choàng che trên đầu nói: “Chung cô nương, Đoàn đại ca của cô quả là không lừa dối cô đâu.”

Chung Linh sững sờ nhìn chàng, mừng không biết để đâu cho hết, nhào tới ôm chặt lấy cổ chàng, kêu lên: “Huynh không lừa muội! Huynh không lừa muội!”

Cô gái kia đột nhiên nắm cổ áo, nhấc Chung Linh lên để qua một bên, lạnh lùng nói: “Không được làm thế!” Chung Linh sợ hãi, tuy trong bụng hết sức hoan hỉ nhưng không dám trái lời bèn hỏi: “Mộc tỉ tỉ, hai người làm sao mà lại gặp nhau?” Cô gái hừ một tiếng, không trả lời, Đoàn Dự nói: “Thôi mình vừa đi vừa nói chuyện.”

Chàng lo ngại Tư Không Huyền thấy thuốc không linh nghiệm sẽ đuổi theo. Cô gái nhảy lên lưng ngựa, tự mình đi trước. Đoàn Dự thuật sơ qua cho Chung Linh nghe những việc xảy ra, nhưng việc chàng bị cô gái hành hạ thì không nhắc đến, chỉ nói nàng đã cứu mạng mình mà thôi. Chung Linh lớn tiếng nói: “Mộc tỉ tỉ, chị cứu Đoàn đại ca, em thật không biết làm sao mà đền đáp.” Cô gái kia bực bội nói: “Ta cứu y thì có liên quan gì đến ngươi đâu?” Chung Linh quay sang Đoàn Dự le lưỡi, nhăn mặt làm trò.

Cô gái lại nói: “Này, Đoàn Dự, tên ta không cần phải để con tiểu quỉ Chung Linh nói cho ngươi hay, tự mình nói được rồi, tên ta là Mộc Uyển Thanh.” Đoàn Dự nói: “Ồ, họ đã hay mà tên cũng đẹp quá!” Mộc Uyển Thanh nói: “Có đẹp bằng tên ngươi, danh dự bại hoại không?” Đoàn Dự cười ha hả.

Chung Linh cầm tay Đoàn Dự, nói nhỏ: “Đoàn đại ca, huynh tốt với muội quá.” Đoàn Dự nói: “Chỉ tiếc là tìm không thấy con chồn của cô.” Chung Linh lại huýt thêm mấy tiếng nói: “Cái đó cũng không sao, đợi bọn ác nhân đi khỏi rồi, muội sẽ quay lại tìm. Huynh đi với muội, có được không?” Đoàn Dự đáp: “Được chứ!” Chàng nghĩ đến pho tượng ngọc trong sơn động, liền tiếp: “Từ nay ta sẽ thường xuyên quay lại đây.” Mộc Uyển Thanh bực bội nói: “Ngươi không cần phải đi, nó tự mình đi tìm con chồn được rồi.” Đoàn Dự quay sang Chung Linh le lưỡi, nhăn mặt, hai người cùng mỉm cười.

Ba người thôi nói chuyện, chầm chậm đi thêm mấy dặm, Mộc Uyển Thanh đột nhiên hỏi: “Chung Linh, sinh nhật ngươi là ngày mùng năm tháng hai phải không?” Nàng ngồi trên lưng ngựa, nói chuyện mà không quay đầu lại. Chung Linh nói: “Đúng đó, Mộc tỉ tỉ làm sao biết được?” Mộc Uyển Thanh giận quá, hậm hực nói: “Đoàn Dự, ngươi không nói dối thì là gì?” Nàng giật giây cương, con Hắc Mai Côi liền vọt lên trước.

Bỗng từ hướng tây bắc có tiếng người hú lên, rồi phía đông bắc có người vỗ tay bốn cái. Một bóng người vụt qua, đến cách ba người chừng bảy tám trượng, đột nhiên đứng lại, giọng khàn khàn quát lên: “Tiểu tiện nhân, xem người còn chạy đi đâu?” Nghe giọng nói, chính là Thụy bà bà. Ngay lúc đó, ở đằng sau cũng có tiếng người cười gằn, Đoàn Dự vội quay đầu lại, dưới ánh trăng sao mờ mờ thấy đó chính là Bình bà bà, hai tay cầm song đao sáng lấp loáng. Thế rồi hai bên cũng thấy có người, bên trái là một ông già râu bạc, tay cầm ngang một chiếc xẻng sắt, bên phải là một hán tử còn trẻ, tay cầm trường kiếm. Đoàn Dự chợt nhớ hai người này cũng trong số những kẻ vây đánh Mộc Uyển Thanh.

Mộc Uyển Thanh cười khẩy nói: “Các ngươi thật chẳng khác gì âm hồn bất tán, đã đuổi đến tận đây quả là có chí lắm.” Bình bà bà đáp: “Con tiểu tiện nhân có chui xuống đất, bọn ta cũng đuổi theo cho bằng được.” Nghe soẹt một tiếng, Mộc Uyển Thanh đã bắn ra một mũi đoản tiễn, gã cầm kiếm mắt tinh tay lẹ liền giơ kiếm lên gạt đi. Mộc Uyển Thanh từ trên yên tung mình nhảy lên, xông thẳng vào lão già.

Ông già đó tuổi tác đã cao nhưng ứng biến thật là nhanh nhẹn, tay phải vung lên, chiếc xẻng đã đâm nhứ vào Mộc Uyển Thanh. Mộc Uyển Thanh chưa rơi tới đất, chân trái đã điểm vào cán xẻng mượn sức, kiếm trên tay đâm luôn vào Bình bà bà. Bình bà bà vung dao gạt ra, nghe “cách” một cái, đầu thanh đao đã bị kiếm của Mộc Uyển Thanh chém gãy, tiếp theo kiếm quang như một làn sương mỏng lao luôn xuống. Thụy bà bà vội vàng vung thiết trượng đánh vào sau lưng Mộc Uyển Thanh, cô gái không kịp đả thương Bình bà bà, trường kiếm đập ngang, lưỡi kiếm đè vào vai Bình bà bà một cái, thân hình lại vọt trở lên. Nếu như nàng không phải tránh thiết trượng của Thụy bà bà, lưỡi kiếm thay vì tạt ngang mà đâm thẳng, Bình bà bà ắt đã bị đâm xuyên qua người.

Chung Linh ở bên ngoài giơ tay vẫy Đoàn Dự lia lịa, kêu lên: “Đoàn đại ca, mau lại đây?” Đoàn Dự chạy vội tới, hỏi: “Cái gì thế?” Chung Linh đáp: “Thôi mình chạy đi.” Đoàn Dự đáp: “Mộc cô nương đang bị người ta vây đánh, mình nỡ nào bỏ chạy?” Chung Linh đáp: “Mộc tỉ tỉ bản lãnh cao cường lắm, chị ấy sẽ có cách thoát thân.” Đoàn Dự lắc đầu: “Cô ấy vì cứu muội mà đến đây, nếu bây giờ mình bỏ cô ta mà đi, làm sao yên lòng được?” Chung Linh dậm chân nói: “Huynh thật đúng là đồ gàn. Chàng ở lại đây có giúp gì được Mộc tỉ tỉ chăng? Ôi, tiếc thay con thiểm điện điêu của ta lại chưa quay về.”

Khi đó bốn người bọn Thụy bà bà và Mộc Uyển Thanh đang đấu đến lúc hăng, thiết trượng của Thụy bà bà và thiết sản của ông già là binh khí dài, múa lên lộng gió nghe vù vù, Mộc Uyển Thanh tuy đang ác đấu nhưng vẫn nghe hết mọi phía, những gì Chung Linh và Đoàn Dự nói với nhau đều lọt vào tai. Lại nghe Đoàn Dự nói tiếp: “Chung cô nương, cô đi trước đi. Nếu như ta phụ Mộc cô nương thì không phải đạo làm người. Một khi nàng không địch lại người, ta ở bên ngoài khuyên nhủ, biết đâu lại không vãn hồi được cuộc thế.” Chung Linh nói: “Huynh ở đây chỉ chết uổng mạng thôi chứ chẳng ích gì. Thôi chạy mau, Mộc tỉ tỉ không trách huynh đâu.” Đoàn Dự đáp: “Nếu như không có Mộc cô nương tốt bụng cứu cho, cái mạng này đã không còn nữa rồi. Chết trễ nửa ngày là sống thêm được nửa ngày, không phải là không ích gì.” Chung Linh vội nói: “Huynh gàn bướng quá, cãi với huynh cũng chẳng đến đâu.” Nói xong nàng liền nắm tay Đoàn Dự lôi đi.

Đoàn Dự kêu lên: “Ta không đi! Ta không đi!” Thế nhưng chàng bị Chung Linh lội đi sềnh sệch.

Bỗng nghe Mộc Uyển Thanh cao giọng quát: “Chung Linh, ngươi mau chạy đi, đừng kéo y như thế.” Chung Linh càng kéo Đoàn Dự nhanh hơn, đột nhiên nghe soẹt một tiếng, bím tóc nàng rung rung, một mũi đoản tiễn đã cắm vào. Mộc Uyển Thanh quát lên: “Nếu người không buông tay, ta sẽ bắn vào mắt ngươi đó.” Chung Linh biết Mộc Uyển Thanh nói sao làm vậy, đành phải buông Đoàn Dự ra.

Mộc Uyển Thanh quát lớn: “Chung Linh, mau cút về với cha mẹ ngươi, đi mau! Ngươi còn lẩn quẩn ở đây đợi Đoàn đại ca của ngươi, ta sẽ bắn ngươi ba mũi tên đó.” Miệng tuy nói nhưng tay không chậm lại chút nào, liên tiếp gạt những binh khí tấn công ra.

Chung Linh không dám cãi, quay sang nói với Đoàn Dự: “Đoàn đại ca, huynh phải cẩn thận.” Nói xong cô gái ôm mặt chạy vào trong bóng tối.

Mộc Uyển Thanh đuổi được Chung Linh đi rồi, lượn qua lượn lại trong vòng vây của bốn người, vết thương trên đùi ngâm ngẩm đau, đột nhiên biến đổi kiếm chiêu, từng vầng kiếm quang vùn vụt như sao băng. Bỗng ông già kêu oái lên một tiếng, bên sườn trúng kiếm, Mộc Uyển Thanh liên tiếp đâm ra ba nhát, ép cho Thụy bà bà và gã cầm kiếm phải nhảy ra khỏi vòng để tránh, mũi kiếm quay trở lại quấn chặt lấy Bình bà bà. Chỉ trong khoảnh khắc Bình bà bà đã bị ba vết thương nhưng mụ không coi vào đâu, vẫn lăn xả vào Mộc Uyển Thanh như một con hổ điên. Ba người kia quay trở lại đấu tiếp, Bình bà bà xông được vào gần bên Mộc Uyển Thanh, đoản đao trong tay đâm vào đùi nàng. Mộc Uyển Thanh giơ chân đá mụ ta lăn cù, nhưng ngay khi đó thiết trượng của Thụy bà bà phóng tới giữa hai lông mày. Mộc Uyển Thanh vội vàng thu kiếm trở về, gạt trượng ra, thuận thế đâm luôn vào giữa ngực kẻ địch.

Thụy bà bà nghiêng người tránh né, vung gậy lên gạt. Mộc Uyển Thanh thở hắt ra một hơi toan biến chiêu, đột nhiên nghe sột một cái, vai trái đau nhói. Thì ra lão già sau khi bị thương rồi không còn sử thiết sản được nữa, liền rút búa sắt thừa cơ chém một nhát vào vai Mộc Uyển Thanh. Mộc Uyển Thanh quật ngược lại một chưởng, đánh cho mặt lão già nát bấy, lập tức chết ngay. Bọn Thụy bà bà lúc ấy đã tiến lên giáp kích, Bình bà bà kêu lên: “Tiểu tiện nhân bị thương rồi, không cần bắt sống, giết nó cũng được.”

Đoàn Dự thấy Mộc Uyển Thanh bị thương, trong lòng hoảng hốt, lại sử dụng trò cũ, xông lên ôm xác lão già quật vào, nhưng vướng phải bốn người nên không tiến lên được, trong cơn gấp gáp, cởi chiếc áo choàng ra, xông vào múa lên chụp được lên đầu Bình bà bà. Bình bà bà không nhìn thấy gì, kinh hãi quá vội giơ tay ra gạt đi, nhưng quên mất trong tay mình đang cầm đoản đao nên tự chém phải mặt mình, kêu lên oai oái như heo bị chọc tiết.

Mộc Uyển Thanh không có thì giờ rút búa ra khỏi vai, cố nhịn đau, gấp rút công luôn hai kiếm về phía Thụy bà bà, lại đâm một nhát vào hán tử sử kiếm. Ba chiêu đó thật tuyệt diệu, bên má phải của Thụy bà bà bị rạch một đường, còn hán tử cấm kiếm cũng bị mũi kiếm xẹt ngang cổ. Hai người tuy bị thương nhẹ nhưng những nơi trúng kiếm đều là bộ vị yếu hại, trong cơn kinh hoảng, vội vàng nhảy qua một bên, giơ tay sờ thử vết thương. Mộc Uyển Thanh kêu thầm: “Tiếc quá, không giết được hai đứa này”. Nàng hít một hơi chân khí, cất tiếng hú lên, con Hắc Mai Côi liền chạy tới. Mộc Uyển Thanh nhảy vọt lên, thuận tay nắm cổ áo Đoàn Dự để lên yên, hai người cưỡi chung một con ngựa chạy vọt về hướng tây.

Chạy chưa đầy mười trượng, trong rừng bỗng có tiếng người reo hò, hơn một chục người xông ra chặn ngang đường. Đứng giữa là một lão già cao lớn quát lên: “Tiểu tiện nhân, lão gia đợi ngươi ở đây lâu rồi.” Y vung tay toan nắm dây cương con Hắc Mai Côi. Mộc Uyển Thanh tay phải vươn ra, ba mũi đoản tiễn bắn ra cùng lúc. Trong đám người ba kẻ trúng tên, lập tức ngã lăn ra. Lão già kia còn đang sững sờ, Mộc Uyển Thanh liền giật cương con Hắc Mai Côi theo chỗ trống trên hàng rào người vọt qua. Những người đó sợ độc tiễn của nàng ghê gớm, tuy chạy đuổi theo nhưng ai cũng lo múa binh khí giữ mặt nên hai bên càng lúc càng xa. Chỉ nghe đoàn người nhao nhao mắng chửi: “Tặc a đầu! Lại để nó chạy mất rồi.” “Dù cho ngươi chạy lên trời, ta cũng phải bắt cho kỳ được ngươi đem lột da, cắt gân.” “Tất cả đuổi theo!”

Trên núi Vô Lượng đường đi ngoằn ngoèo, lượn bên đông vòng bên tây, không dễ gì nhận định được phương hướng. Mộc Uyển Thanh để cho con Hắc Mai Côi ở trong núi chạy đâu thì chạy, đến một mỏm núi cao, trước mặt lại là một hang sâu bèn giục ngựa quay lại tìm đường ra. Đột nhiên ở phía trước có tiếng người: “Con ngựa chạy tới rồi đó!” “Theo hướng này đuổi!” “Tiểu tiện nhân quay lại rồi!” Mộc Uyển Thanh đã bị thương, không còn hơi sức mà đánh tiếp, vội vàng quay đầu ngựa ra phía khác, theo con đường dốc phía bên phải mà đi. Lúc này không còn đường sá mà gặp đâu theo đó, cũng may Hắc Mai Côi là loại thần mã, trên triền núi đầy đá lởm chởm mà vẫn chạy như bay. Lại đi thêm một hồi nữa, chân trước Hắc Mai Côi bất thình lình khuỵu xuống, đầu gối va vào nham thạch, chân khập khiễng, bước bắt đầu loạng choạng, chạy chậm hẳn đi.

Đoàn Dự trong bụng lo lắng nói: “Mộc cô nương để ta xuống, một mình cô dễ thoát thân hơn. Bọn họ với ta không thù không oán, dù có bắt được ta chắc cũng không làm gì.” Mộc Uyển Thanh hừ một tiếng, nói: “Ngươi mà biết cái gì? Ngươi là người Đại Lý, nếu như họ bắt được ngươi lập tức chém cho mấy nhát.” Đoàn Dự nói: “Thế thì lạ lùng thật, người Đại Lý biết bao nhiêu, làm sao giết hết được? Cô nương cứ chạy trước là hơn.”

Mộc Uyển Thanh thấy trên đầu vai đau nhói từng chập, nghe Đoàn Dự cứ lải nhải mãi, cáu tiết nói: “Ngươi có câm mồm đi không? Đừng nhiều lời nữa!” Đoàn Dự đáp: “Thôi được. Cô để ta ngồi sau lưng.” Mộc Uyển Thanh hỏi: “Để làm gì?” Đoàn Dự đáp: “Chiếc khăn choàng của ta chụp lên đầu mụ mập kia rồi.” Mộc Uyển Thanh hỏi: “Thế thì đã sao?” Đoàn Dự đáp: “Quần ta bị thủng một lỗ lớn, ngồi ở trước mặt cô, hở cả… hở cả…, quả là… quả là vô lễ với cô nương.”

Mộc Uyển Thanh dường như vết thương đau không chịu nổi, nghiến răng đưa tay nắm lấy vai Đoàn Dự, bóp một cái, khớp xương kêu lên răng rắc, quát lớn: “Câm mồm!” Đoàn Dự đau quá, vội nói: “Được rồi! Được rồi, ta không nói nữa”.