Trong lúc Châu hoàn-vương mượn binh đánh Trịnh , thì nước Trần sai Bá viên-chư làm tướng, nước Sái sai Sái-quý cầm binh.
Hai tướng này gặp nhau hỏi thăm qua tình hình hai nước.
Sái-quý hỏi Bá viên-chư :
– Tình hình nước Trần có chi khác chăng ?
Bá viên-chư đáp :
– Ngày nay nước tôi, Công-tử Ðà cướp ngôi, lòng dân không phục. Bởi thế quân lính rất hỗn độn, khó mà điều binh lắm !
Sái Quý nói :
– Thế sao không lo thu phục nhơn tâm, làm cho mọi người kính mến ?
Bá viên-chư, mỉm cười lắc đầu nói :
– Cướp ngôi đã là điều bất chánh, làm sao dân phục nổi ! Vả lại Công tử Ðà lại không lo chính-sự, cứ ham-mê săn bắn. Tôi chắc nước Trần sau này sẽ có biến.
Sái Quý nói :
– Ðã vậy thì cứ kể tội Công-tử Ðà mà giết quách đi để tránh tai hại về sau.
Bá viên-chư nói :
– Ðiều đó rất muốn , song vì sức đương không nổi.
Sau khi rút quân về nước, Sái Quý đem chuyện ấy thuật lại với Sái hầu.
Sái hầu nói :
– Công-tử Ðà là một đứa phản loạn, sao lại để nó được an-nhiên ngồi hưởng quyền thế . Nay Thái-tử Vân bị giết thì cháu ngoại ta là Công-tử Dược lên ngôi mới phải.
Sái-quý tâu :
– Muốn giết Công-tử Ðà cũng chẳng khó chi. Tánh Công-tử Ðà ưa săn bắn, ta chờ va ra đi, phục binh mà giết ắt xong.
Sái hầu cho là phải, bèn khiến Sái-quý đem một trărn cổ binh xa, phục nơi Giới-khẩu , rồi cho người đi thám thính.
Chẳng bao lâu quân sĩ về báo :
– Công-tử Ðà đi săn đã ba ngày rồi, nay còn đóng quân nơi Giới-khẩu này .
Sái-quý cả mừng, cải trang làm một người thợ săn , dẫn vài mươi tên quân lần tới .
Vừa gặp lúc Công-tử Ðà đang bắn hạ một con nai, Sái Quý xông vào cướp giựt, rồi cứ đường tắt chạy thẳng về hướng phục binh của mình .
Công-tử Ðà tức giận, giục ngựa đuổi theo.
Bỗng nghe hai bên bụi rậm, tiền quân ó vang dậy, rồi quân binh ào ra như kiến cỏ, bắt Công-tử Ðà trói lại.
Công-tử Ðà chưa hiểu nguyênđo, đang trố mắt nhìn thì Sái-Quý đã quay lại hét lớn :
– Phản tặc, ta đây là Sái-quý em ruột của Sái-hầu đến đây để trừ quân phản-loạn.
Nói xong, vung gươm chém Công-tử Ðà đứt làm hai đoạn.
Rồi kéo binh đến khu rừng chiêu dụ quân-sĩ của Công-tử Ðà rằng :
– Công-tử Ðà vốn là đứa nghịch thần phản phúc, nay ta muốn lập Công-tử Dược lên nối ngôi, các ngươi nghĩ sao ?
Quân sĩ nước Trần đều quỳ mọp xuống đất, nói lớn :
– Nếu được thế thật là hợp lý.
Sái-quý bèn tiến quân vào nước Trần, hiểu dụ nhân dân, rồi tôn Công-tử Dược lên ngôi, tức là trần lệ-công .
Từ đấy, Trần và Sái trở nên thân mật .
Trần lệ-công được lòng dân mến phục, trong nước hưởng cảnh thái-bình.
Lúc bấy giờ tại nước Sở , có vua Hùng-thông là một người cường bạo, tánh hiếu chiến, lại có ý muốn xưng Vương hiệu, nhưng vì thấy chư hầu đều tùng phục nhà Châu, nên không dám. Kế đó , nghe tin nhà Châu vừa thua nước Trịnh, nên có ý dễ ngươi, triệu các quan cận-thần đến bàn tính.
Quan Lịnhđoãn là Ðấu bá-tỷ nói :
– Nước Sỡ bỏ Vương hiệu đã lâu, nếu nay xưng lại e chư-hầu không phục. Xin Chúa-công phải tính kế làrn cho các chư-hầu khiếp oai trước đã.
Hùng-thông hỏi :
– Muốn được vậy phải làm cách nào ?
Ðấu bá Tỷ tâu :
– Các nước Hớn- đông chỉ có nước Tùy là lớn hơn hết. Chúa-Công nên cất binh sang dọa nước Tùy rồi cho sứ sang cầu hòa. Hễ nước Tùy mà đầu phục thì các chư-hầu khác phải nghe theo.
Hùng-thông khen phải, bèn bổn thân đem đại-binh sang đóng nơi đất Hà, rồi cho quan Ðại-phu Viễn-chương vào nước Tùy hòa-giải.
Lúc bây giờ nước Tùy có một tôi hiền là Quý-lương và một nịnh thần là Thiều-sư.
Hai người này luôn luôn có những ý-kiến chống đối nhau.
Tùy-hầu lại tin dùng kẻ nịnh, nên Thiều-sư rất được nhiều quyền thế.
Khi có sứ nước Sở đền giảng-hòa .
Tùy hầu cho đòi cả hai người đến vấn kế.
Quý-lương tâu :
– Nước Sở mạnh, nước Tùy yếu, nay lại đến cầu hòa ắt có điều ám muội. Vậy bề ngoài, ta nên hòa dịu, mà bên trong phải hết sức đề phòng.
Thiều-sư tâu :
– Lời ấy chưa chắc đã đúng, xin Chúa-công cho sang nước Sở để dò xét tình-hình đã.
Tùy-hầu nghe theo, khiến Thiều-sư sang đất Hà để hội- đàm với Sở .
Ðấu bá-tỷ nghe tin sứ nước Tùy là Thiều-sư đến vội vào thưa với Hùng-thông :
– Ta nghe Thiều-sư là người ít trí, chỉ có tài dua-nịnh mà được Chúa nước Tùy yêu. Nay va phụng mạng sang đây ắt cũng để dò la hư thực. Vậy ta nên giấu các đạo binh tinh nhuệ đi , chỉ cho va xem những đội binh lão nhược . Hễ va kiêu-ngạo mà trể-biếng thì mới có cơ thắng dễ dàng được.
Quan Ðại-phu Hùng xuất-ty nói :
– Kế ấy cũng hay, song nước Tùy còn có Quý-lương, ta khó mà che mắt va được.
Ðấu bá-tỷ nói :
– Kế đó không phải lợi cho ngày nay mà sẽ có lợi cho ngày sau đó .
Hùng-thông nghe theo, liền dàn các đội quân lão nhược ra , rồi mới cho đòi Thiều-sư vào ra mắt.
Thiều Sư vào đến dinh Sở , liếc mắt thấy hai bên quân sĩ gầy gò ốm-yếu, liền lên mặt kiêu-căng, hỏi Hùng-thông :
– Hai nước chúng ta bờ cõi ai nay giữa cần gì quí-quốc phải nói đến chuyện giải hòa ?
Hùng-thông giả vờ nói :
– Nước tôi mấy năm liên tiếp bị mất mùa , dân chúng đói khổ. Sợ e các lân-bang đến hiếp chế nên phái cầu hòa với quý quốc , để nhờ nhau trong lúc hoạn nạn.
Thiều-sư nói :
– Quí quốc bất tất phải lo ngại. Các nước chư-hầu bên Hớn- đông này đều thần phục nước tôi cả .
Hùng-thông bèn cùng với Thiều-sư kết ước.
Ðoạn hai đàng giã biệt ai về nước nấy.
Thiều-sư về đến Kinh- đô, vào yết kiến Tùy-hầu, thuật lại tình hình quân binh nước Sở già nua, hèn yếu , rồi tiếp :
– Nước Sở sau khi kết-ước họ lui binh trở về tức khắc. Ðiều đó tỏ rằng nước Sở rất sợ Tùy. Xin Chúa-công cấp cho tôi một đạo binh để đuổi theo đánh cho tan tành. Làm như vậy từ nay nước Sở sẽ không dám dòm ngó đến nước Tùy nữa.
Tùy-hầu nghe nói, còn đang lưỡng lự, Quý-lương vội quỳ tâu :
– Tâu Chúa-công, nước Sở từ đời Phấn-mạo đến nay hùng cứ Giang-hớn , binh lương hùng mạnh. Nay Hùng-thông là một kẻ hiếu chiến, đến đây cầu hòa ắt mưu độc kế, nếu Chúa-công cho ra quân, e lầm mưu nước Sở đó.
Tùy-hầu rũ quẻ thầy điềm xấu, nên không cho Thiều-sư cất quân nữa.
Sở Hùng-thông kéo binh về, nghe được tin Quý-lương can Tùy-hầu không cho rượt theo mình, bèn đòi Ðấu bá-tỷ đến hỏi :
– Nay ta không gạt được nước Tùy để gây hấn, khanh có kế gì khác chăng ?
Ðấu bá-tỷ nói :
– Bây giờ phải làm kế hội các nước chư-hầu nơi Thẩm-lộc, thuộc nước Sở. Nếu Tùy-hầu không đến, ta sẽ cất binh sang đánh về tội bội ước.
Hùng-thông chuẩn tâu, sai sứ đi khắp các nước Hớn- đông mời đến đất Thẩm-lộc để phó hội.
Các nước đều tề-tựu đũ mặt, duy có nước Hoàng và Tùy không đi dự.
Hùng-thông bèn cho hai sứ-giả Cừ-chương và Khuất-hà sang hai nước Hoàng và Tùy để trách-cứ .
Nước Hoàng cho người đến tạ tội . Còn nước Tùy vẫn im lìm, không nói gì cả.
Hùng-thông lấy cớ ấy, cất quân sang đánh Tùy ; binh tướng đóng đồn nơi sông Hoài và sông Hớn.
Tùy-hầu nghe được tin, vội vã họp các quan thương nghị.
Quý-lương tâu :
– Nước Sở mới họp chư-hầu, thế rất mạnh, quân ta khó thắng nổi. Theo ý tôi, nên sai sứ đến cầu hòa. Nếu nước Sở lui binh ta giử niềm hòa-hảo, bằng cố đánh, quân-sĩ nước ta sẽ căm phẩn. Chừng ấy, ta lấy nhân-tâm làm sức mạnh mà thắng địch.
Thiều-Sư nghe nói cười xòa :
– Sao ngài lại nhát gan đến thế. Ðáng gì một mớ binh lao, mã liệt của nước Sở mà phải hạ mình đi cầu hòa. Nếu ta không đánh gấp e binh Sở lại có thì giờ rút về nước, thì uổng lắm !
Tùy-hầu nghe theo lời Thiều-sư, bèn phong Thiều Sư làm chức Nhung-hữu, Quý-lương làm Ngự-xa, còn bổn thân dẫn đạo trung quân kéo đến đóng dưới chân núi Thanh lâm-sơn mà nghênh chiến .
Sau khi xem xét địch tình, Quý-lương nói với Tùy-hầu :
– Quân Sở chia làm hai đạo. Theo phong-tục nước Sở , đạo tả quân là chính, ắt có vua Sở ngự nơi đây, và có nhiều tinh binh hộ-giá. Vậy ta nên đánh vào phía hữu để uy-hiếp địch trước.
Thiều-sư nói :
– Ðã đem binh đi đánh giặc mà còn sợ không dám đánh vào bộ đầu não của địch thì thật là kẻ không biết dụng binh. Xin Chúa-công cứ cho đánh vào đạo binh phía tả để bắt vua Sở , kẻo rnất thì giờ vô ích.
Tùy-hầu nghe theo, đốc binh xông vào phía tả.
Bên Sở mở trận cho quân Tùy kéo vào.
Vừa đến giữa trận , binh-phục của Sở nổi dậy, ó lên một tiếng kéo nhau vây phủ tứ bề.
Thiều-sư giao chiến với tướng nước Sở là Ðấu- đơn chưa đặng mấy hiệp, đã bị Ðấu-Ðơn chém một đao rơi đầu.
Quý Lương thấy thế đã nguy, liều chết phò Tùy-hầu mở đường máu mà chạy.
Tùy-hầu phải cởi bỏ mũ áo, lộn trong đám tàn-quân mới thoát nổi vòng vây.
Chạy ước năm dặm, Tùy-hầu mới đám dừng lại, kiểm điểm binh mã hao hơn phân nữa, bèn nói với Quý-lương :
– Bởi ta không nghe lời ngươi nên mới bị thảm-bại như vầy , Thiều Sư hiện giờ ở đâu ?
Quân-sĩ kể lại việc Thiều-sư bị tử trận , Tùy-hầu thương tiếc chẳng cùng.
Quý-lương tâu :
– Chúa-công chớ tiếc làm chi, bây giờ chỉ còn một kế là nên cầu hòa với Sở, mặc dầu đã muộn, nhưng vẫn còn hơn.
Tùy-hầu nói :
– Bây giờ ngươi liệu thế nào ta cũng chấp-thuận. Vậy ngươi hãy thay ta mà đến dinh Sở xem sao.
Quý-lương tuân lệnh, một mình thẳng đến trại Sở, vào tâu với Hùng-Thông, xin nghị hòa.
Hùng-thông cả giận mắng :
– Chúa của ngươi đã bội-thề, bỏ việc phó hội, lại còn đem binh đánh với ta . Nay bị thua mới đến cầu hòa, hành động ấy tỏ ra kẻ gian dối.
Mặc dầu Hùng-thông thét mắng , nét mặt Quý-lương vẫn thản nhiên, không chút sợ sệt , chậm rãi đáp :
– Ngày trước, nước Tùy vì có Thiều-Sư là một tôi nịnh , ép vua làm điều quấy. Nay Thiều-Sư đã chết, Chúa-công tôi đã ăn-năn . Nếu Hiền-hầu vui lòng giao-hảo để thêm vây cánh, chẳng có lợi cho nước Sở lắm sao ?
Ðấu bá-ty nghe Quý-lương nói, bèn tâu với Hùng-thông :
– Thiều-sư chết, quả lòng trời chưa muốn nước Tùy diệt . Vậy ta không nên trái ý trời. Xin Chúa-công hãy xử hòa, lợi dụng nước Tùy làm đầu xướng cho các nước Hớn- đông ca tụng nước Sở , rồi Chúa công nhân đó xưng đỡ vương-hiệu đặng trấn phục Manđi, như vậy có lợi cho nước Sở hơn .
Hùng-thông nghe theo lời Ðấu bả-ty, bèn khen Viên-Chương nói riêng với Quý-lương rằng :
– Chúa tôi có đất Giang Hớn rất rộng, nay muốn tạm xưng vương hiệu đặng có oai mà trị Man di . Ấy nếu Tùy-hầu bằng lòng rũ các chư-hầu đến xin với Châu hoàn-vương việc ấy, thì Chúa-công tôi sẽ ngưng binh mà đợi vương-mạng.
Quý lương ra về , đem việc ấy báo lại với Tùy-hầu.
Tùy-hầu vì sợ sệt , nên rũ các chư hầu Hớn- đông vào triều Châu, xin cho Hùng-thông được tạm xưng vương-hiệu.
Châu hoàn-vương không thuận ý, khiến các chư-hầu phải cúi lạy , lui về .
Hùng-thông nghe tin nổi giận nói :
– Tiên nhân của ta là Giục-Hùng có công giúp Văn vương , Võ-vương dựng nên nhà Châu, thế mà lại phong cho một nước Sở nhỏ bé nơi núi Kinh-sơn . Ðã bao nărn ta đánh dẹp Manđi mở mang bờ cỡi, mà không hưởng được một tấc công lao . Trong lúc ấy Trịnh trang-công bắn vai vua, vua vẫn bỏ qua không vấn tội . Công không thưởng, tội không phạt, thì bảo các chư-hầu phải kính nễ làm sao ! Vả chăng, Tiên-quân của ta trước kia đă có xưng vương-hiệu, thì nay ta xưng vương cũng chỉ là phục chức cũ mà thôi, chẳng cần phải chờ Châu-vương thuận-ý.
Nói rồi , tự lập mình lên làm Sở võ-vương, giao hòa với Tùy-hầu rồi kéo binh về nước.
Các nước chư-hầu miệt Hớn- đông nghe nước Sở xưng Vương-hiệu đều sai sứ đến chúc mừng.
Châu hoàn-vương hay tin, giận lắm nhưng không dám cất binh vấn tội, đành làm lơ.
Từ đó, nhà Châu càng ngày càng suy yếu, nước Sở mỗi ngày một cường thịnh.
Sau Hùng-thông chết, truyền ngôi lại cho con là Hùng-xi , dời đô sang đóng nơi đất Dĩnh, âm-mưu xâm phạm bờ cõi nhà Châu.
Nói về Trịnh trang-công, từ khi đánh thắng nhà Châu trở về, trong nước thái bình, lo sửa sang triều chính, phong cho Công-tử Ngươn đất Lịch-ấp, các quan đại thần cũng đều được phong thưởng , duy chỉ có Chúc- đạm không không được ân-huệ nào cả.
Chúc- đạm buồn ý, vào triều khiếu-nại.
Trịnh trang-công nói :
– Ngươi đã bắn trúng Thiên-tử, nếu ta phong chức cho ngươi , e mang tiếng với thiên-hạ.
Chúc- đạm ngậm hờn, nhưng không dám nói.
Về đến tư dinh phát sanh chứng ung-thư mà thác.
Trịnh trang-công ban cấp tiền bạc cho gia đình vợ con, rồi lo việc tống táng rất trọng hậu .
Qua đến năm thứ mười chín, đời Châu hoàn-vương, Trịnh trang-công lâm bịnh rất nặng.
Biết mình không thể sống được lâu, bèn kêu Tề-Túc đến bên giường nói :
– Ta có cả thảy mười một đứa con, trừ Thế-tử Hốt ra, thì còn có Công-tử Ðột, Công-tử Vĩ, Công-tử Nghi đều là những người có nhân-cách. Trong số đó, ta xét thấy Công-tử Ðột tài trí hơn cả. Ta muốn truyền ngôi cho Ðột chẳng biết ý khanh thế nào ?
Tế-Túc tâu :
– Tâu Chúa-công. Thế-tử Hốt là trưởng-tử, được Chúa-công phong tước, lâu nay lập nhiều công trạng, lại được dân chúng kính vì. Nay Chúa-công muốn bỏ trưởng mà lập thứ, hạ thần rất khó phụng mệnh.
Trịnh trang-công nói :
– Ta vẫn biết Công-tử Ðột thuộc dòng thứ, song tánh Ðột ngang-ngạnh, không chịu ở dưới ai. Vì muốn cho gia- đình thảo thuận , ta mới có ý đó. Tuy nhiên, xét lại làm như vậy sẽ không đúng đạo nhân luân. Thế thì phải đưa Công-tử Ðột đến ở một nước khắc mới yên nhà, yên nước được.
Tề-túc nói :
– Biết ý con không ai hơn là cha. Vậy xin Chúa-công cứ định liệu.
Trịnh trang-công thở dài nói :
– Thế là từ nay nước Trịnh sắp phải trải qua bao nhiêu tai biến .
Nói rồi đòi Công-tử Ðột dạy phải sang nước Tống mà cư ngụ.
Khi Trịnh trang-công mất, triều thần tôn Thế-tử Hốt lên nối ngôi, xưng là Trịnh chiêu-công.
Trịnh chiêu-công sửa sang việc triều chính.
Sai sứ sang kết giao với các nước chư-hầu, và sai Tề-Túc sang Tống để dò xét tin-tức Công-tử Ðột.
Nguyên mẹ Công-tử Ðột là con Ung-thị, người nước Tống , hiện dòng dõi Ung-thị đang được Tống trang-công mến yêu. Khi Công-tử Ðột sang Tống, tỏ ý với Ung-thị muốn cướp ngôi Thế-tử Hốt.
Ung-thị liền vào yết kiến Tống trang-công, kể rõ sự tình.
Tống trang-công có ý muốn giúp Công-tử Ðột tiếm vị.
Kế nghe Tế-Túc sang Tống cầu hòa, Tống trang-công mừng rỡ nói :
Chỉ dùng một mình Tề-Túc cũng đủ cho Công-tử Ðột trở về lên ngôi nước Trịnh được.
Bèn sai tướng Nam-cung Trường-vạn mai phục sẵn một đoàn giáp sĩ , đợi Tề-Túc đến để thi kế.
Tề-Túc vào triều bái Tống trang-công vừa rồi, thì quân giáp-sĩ lẹ làng nhảy ra thộp ngực Tề-Túc trói lại.
Tề-Túc la lớn :
– Kẻ ngoại-thần này có tội chi mà trói ?
Tống trang-công nói :
– Ngươi cứ an lòng vào chốn quân phủ rồi sẽ thấy tội lỗi.
Quân Giáp-sĩ dẫn Tế-Túc đem giam vào quân phủ canh gác rất cẩn mật.
Ðêm ấy, quan Thái-tể nước Tống là Hoa- đốc đem rượu thịt đến quân-phủ thăm Tề-Túc.
Tề-Túc hỏi :
– Chúa tôi cho tôi sang đây để giao hảo, xét mình không có tội gì sao quí quốc lại có ý xử bạc ?
Hoa- đốc nói :
– Không phải thế đâu ! Ai cũng biết Công-tử Ðột là con nhà họ Ung, hiện được vua Tống quí mến. Nay Công-tử Ðột cư ngụ nơi nước Tống, lẽ nào vua Tống lại không giúp đỡ.
Tề-túc nói :
– Giúp đỡ Công-tử Ðột bằng cách đối xử với tôi như thế .
Hoa- đốc nghe nói mỉm cười rồi đáp :
– Ðúng vậy ! Vua Tống thấy Thế-tử Hốt nhu nhược, không đáng lên nối ngôi, muốn lập Công-tử Ðột lên kế vị, nếu ngài bằng lòng việc ắt được trọng đãi.
Tề-Túc cau mày nói :
– Thế-tử Hốt phụng mệnh Tiên-công mà nối ngôi. Nay phế lập ắt lòng dân không thuận .
Hoa- đốc nói :
– Việc phế lập là việc thường trong thiên hạ, của những kẻ có sức mạnh. Nếu ngài thuận ý sẽ được Chúa-công tôi giúp sức.
Tề-túc nói :
– Thôi xin ngài hãy trở về tưđinh mà an nghỉ. Tôi không thể chiều ý được
Hoa- đốc nói :
– Nếu thế thì tôi cũng chưa về được, vì lần này là lần chót mà tôi được hội-kiến với ngài. Ngài đã không nghe lời, Chúa-công tôi sẽ sai tướng Nam-cung Trường-vạn đem quân đưa Công-tử Ðột về nước để lên ngôi. Và trước khi làm cái việc đó, Chúa-công tôi buộc lòng phải khai đao chém ngài trước.
Tề-túc túng thế phải vâng lời .
Hoa- đốc chưa tin , nói :
– Nếu ý ngài đã quyết xin thề lên một tiếng.
Tề-Túc thề rằng :
– Nếu tôi không lập Công-tử Ðột lên ngôi, xin đất trời tru diệt !
Hoa- đốc đem việc ấy tâu lại với Tống trang-công.
Hôm sau Tống trang-công cho vời Công-tử Ðột vào hậu cung, nói :
– Nay nước Trịnh đã lập Thế-tử Hốt lên ngôi , lại sai người đem mật thư đến đây bảo ta ngầm giết Công-tử thì sẽ hiến ba thành mà tạ ơn. Lòng ta không nỡ , muốn đưa Công-tử trở về Trịnh nối ngôi , ý Công-tử như thế nào ?
Công-tử Ðột sụp lạy, tâu :
– Tâu Chúa-công , tôi mang thân sang đây, việc sống chết đều nhờ tay Chúa-công định liệu. Nếu tôi được nối ngôi , Chúa-công muốn gì mà chẳng được, cần gì phải dâng ba thành .
Tống trang-công rất mừng, nói :
– Ta đã bắt Tế-Túc giam ở Quân-phủ, cốt dùng vào việc này .
Nói xong, đòi Tề-Túc và Ung-thị đến nói rõ ý muốn của mình.
Lại bắt Công-tử Ðột làm tờ cam kết nếu được lên ngôi phải dâng ba thành, một trăm đôi bạch-bích, một vạn nén vàng-kim, và hàng năm phải nộp ba vạn hộc thóc.
Tuy vậy, Tống trang-công vẫn thấy chưa đũ bảo đảm sau này , bèn bắt Tề-Túc phải gả con gái cho con trai Ung-thị là Ung-củ, rồi dẫn Ung-củ về Trịnh phong cho chức Ðại-phu để coi sóc công việc làm của Công-tử Ðột.
Trước tình thế đó Tề-Túc không dám cải lời, đành phải tuân theo.
Bấy giờ Công-tử Ðột cùng với Ung-củ giả dạng làm lái buôn theo Tề-Túc về nước Trịnh.
Về đến nơi, Tề-Túc dẫn hai người vào tưđinh, rồi cáo bịnh không vào chầu.
Lại khiến quân giáp-sĩ phục khắp nơi.
Các quan nghe tin Tề-Túc bị bịnh kéo đến vấn an.
Nhưng khi vào nhà thấy Tề-túc vẫn khoẻ mạnh như thường, mặt mày tươi tắn, lấy làm lạ hỏi :
– Tướng-quân không có bịnh, cớ sao viện cớ không vào chầu ?
Tề-túc đáp :
– Thân ta không có bịnh mà nước ta đang có bịnh !
Các quan không hiểu đều ngơ ngác nhìn.
Tề-túc nói tiếp :
– Ngày trước Tiên-công đưa Công-tử Ðột sang trú-ngụ nơi nướcTống, nay Tống sai tướng Nam-cung Trường-vạn đem quân đánh mà lập Công-tử Ðột lên ngôi. Vậy các quan có kế gì chống lại chăng ?
Các quan đều ngơ ngác nhìn nhau, nín lặng.
Tề-Túc nói tiếp :
– Muốn tránh tai nạn cho nước Trịnh không gì hơn là phải lập Công-tử Ðột lên ngôi . Hiện Công-tử Ðột đã có mặt nơi nhà tôi. Ý các quan thế nào cho biết ?
Cao cừđi trước đây có bất bình Thế-tử Hốt về việc ngăn cản Trịnh trang-công không cho phong chức Thượng-khanh cho mình , nhơn cơ hội này liền đứng dậy rút gươm nói :
– Tướng-công định như thế thật là phúc cho nước Trịnh đó . Các quan ngỡ Cao cừđi và Tề-Túc đã xếp đặt trước, ai này đều sợ sệt cuối đầu tuân theo.
Tề-túc liền mời Công-tử Ðột ra ngồi trên sập, rồi cùng Cao cừđi cúi lạy.
Các quan không biết làm thế nào cũng phải lạy theo .
Kế đó, Tề-Túc làm một tờ biểu lấy đũ chữ ký của các quan dâng lên cho Trịnh chiêu-công.
Trong biểu đại-khái nói : Nước Tống cất binh đưa Công-tử Ðột về Trịnh. Chúng tôi không thể phụng thờ Chúa-công được nữa.
Ðồng thời, Tề-Túc lại viết mật thư trao riêng cho Trịnh chiêu-công.
Trong thư nói :
Chúa công nối ngôi là điều không phải ý của Tiên-công. Ðó là do tôi đã cán đán . Khi tôi đi sứ, nước Tống lại bắt giam tôi, ép lập Công-tử Ðột lên kế vị. Tôi thiết nghĩ, nếu đem thân liều chết, e không giúp ích được cho Chúa-công sau này. Vì vậy ép lòng phải nhận lời. Nay các quan đều sợ nước Tống mà nghe theo, xin Chúa-công khá mau tìm nơi lánh nạn để chờ cơ hội phục-nghiệp. Lòng tôi có trắc-ẩn xin Hoàng-thiên tru diệt.
Trịnh chiêu-công xem tờ biểu-chương và bức mật thư xong xét thấy mình cô thế, không còn ai giúp đỡ nữa, bèn bỏ trốn sang nước Vệ .
Công-tử Ðột lên ngôi, xưng hiệu là Trịnh lệ-công.
Mọi việc quốc chính đều giao cho Tề-Túc.
Tề-Túc giữ lời, gả con gái cho Ung-Củ, và xin Trình lệ-công phong cho Ung-Củ làm chức Ðại-phu .
Khi còn ở bên Tống , Trịnh lệ-công chơi thân với Ung-củ, nên nay Ung-củ rất được tin dùng, không kém gì Tề-Túc.
Việc Trịnh lệ-công tiếm ngôi không làm cho dân-chúng phẫn uất lắm. Duy có Công-tử Vĩ và Công-tử Nghi tỏ ý bất bình, lại sợ lâm hại đến bản thân nên Công-tử Vĩ trốn qua nước Sái, còn Công-tử Nghi trốn qua nước Trần lánh nạn.
Tống trang-công hay được tin Trịnh lệ-công đã tức vị , vội sai sứ đến chúc mừng.
Sứ Tống sang Trịnh tuy là bề ngoài để chúc mừng, song bên trong cố đòi các lễ vật đã giao ước.
Trịnh lệ-công thấy vậy, kêu Tế-Túc hỏi :
– Trước kia, vì muốn nối ngôi nên vua Tống yêu-sách bao nhiêu ta cũng phải chịu. Nay mới vừa lên ngôi, chưa đặng bao lâu mà phải dâng ba thành, cùng các lễ vật cho Tống, thì các kho tàng sẽ trống rỗng, các chư hầu sẽ cười ta, biết liệu làm sao .
Tế-Túc nói :
– Bây giờ phải trả lời với Tống trang-công là nhân-tâm chưa định, nếu giao đất cát e có biến. Vậy xin đem sưu thuế ba thành mà nạp còn ngọc-bích cùng vàng lụa thì ba phần trả một, số lúa hẹn năm tới sẽ đong.
Trịnh lệ-công nghe theo, viết thư trả lời cho vua Tống, xin nạp ba chục bích ngọc và ba nén vàng ròng, kỳ dư hẹn lại năm tới sẽ tính.
Sứ giả mang thư về .
Tống trang-công cả giận mắng :
– Kẻ đã chết đi, được ta cứu sống, đưa lên địa-vị, giầu sang, lẽ ra phải biết ơn ta mới phải, sao lại hẹp hòi ?
Nói rồi, sai sứ trở lại nước Trịnh, quyết đòi cho đủ số nợ mới nghe .
Lần này Trịnh lệ-công cũng lại bàn với Tế-Túc, rồi đem nạp hai vạn thùng thóc mà thôi .
Sứ giả trở về, Tống trang-công vẫn không bằng lòng, sai đi lần nữa, bảo Trịnh lệ-công rằng :
– Nếu không nộp đủ số tiền nợ đã giao ước, Tế-Túc phải qua thương-thuyết lại mới được.
Tế-Túc thấy Tống trang-công xử sự như thế, bèn nói với Trịnh lệ-công :
– Nước Tống vốn mang ơn Tiên-công ta nhiều lắm, thế mà ngày nay cậy chút công lao quên điều nhân nghĩa . Vậy xin Chúa-công cho tôi sang Tề và Lỗ nhờ hai nước ấy can thiệp giùm mới được.
Trịnh lệ-công nói :
– Biết Tề và Lỗ có vì ta mà can thiệp chăng ?
Tế-Túc nói :
– Trước kia Tiên-công ta đi đánh nước Hứa và Tống được Tề và Lỗ giúp sức. Mối tình ấy chưa mờ phai . Lỗ-hầu được lên ngôi cũng nhờ Tiên-công ta đó . Nếu Tề phụ bạc, thì Lỗ không lẽ chối từ .
Trịnh lệ-công nói :
– Muốn làm cho Tống trang-công khỏi ác cảm với ta thì phải dùng kế chi ?
Tế-Túc nói :
– Trước kia vua nước Tống bị giết, lập con vua là Công-tử Bằng, Tiên-công ta cùng Tề với Lỗ đều giúp việc ấy . Sau đó, Tống có đem một cái vạc lớn mà tặng cho Lỗ, lại đem một cái chén ngọc, tặng cho Tiên-công để đền ơn. Nay tôi sang Tề và Lỗ, nhờ hai nước ấy thương thuyết với Tống đem trả cái chén ngọc ấy, để Tống nhớ chuyện cũ mà thẹn , không đám kể công nữa.
Trịnh lệ-công nghe nói mừng rỡ khen Tế-Túc là mưu lược , vội sai sứ giả mang lễ vật rất hậu đến nước Tề và Lỗ để thương-thuyết việc ấy.
Sứ Trịnh qua Lỗ kể hết đầu đuôi sự việc.
Lỗ-hầu cười lớn, nói :
– Trước kia Chúa Tống chỉ đem đến cho ta một cái vạc, mà ta còn giúp đỡ thay, huống chi nay Trịnh-hầu đem lễ vật rất nhiều , lẽ nào ta lại làm lơ.
Bèn nhận lễ vật , hứa sẽ can thiệp.
Sứ Trịnh tạ ơn lui về.
Còn sứ-giả của Trịnh sang Tề cũng thuật lại đầu đuôi sự việc .
Tề hi-công vốn có cảm-tình với Thế-tử Hốt, song Tề hi-công nhớ đến công trạng của Thế-tử Hốt giúp mình thắng giặc Bắc-nhung, nên lòng không vui, hỏi sứ-giả :
– Thế-tử Hốt bị tội gì mà nước Trịnh lại phế đi lập Công-tử Ðột ? Ta nhất định hưng binh vấn tội, đừng hòng đem lễ vật đến nhờ ta !
Nói xong, trả hết lễ vật, đuổi sứ về nước.
Sứ-giả trở về thuật.lại mọi việc.
Trịnh lệ Công thất kinh, nói với Tế-Túc :
– Nước Tề đã không nhận giúp , ắt nay mai kéo binh đến vấn tội . Ta phải lập mưu gì mà cự địch ?
Tế-Túc nói :
– Xin Chúa-công chớ lo. Tôi xin chỉnh tu binh mã để phòng cái ngày đó.
Trịnh lệ-công nơm-nớp lo âu, nhưng không biết làm sao hơn , đành lặng thinh mà chờ ngày binh biến.
Giữa lúc đó thì Lỗ hầu sai sứ sang mời Tống đến đất Phó-chung để phó hội mà bàn việc giúp Trịnh.
Trong cuộc hội kiến Lỗ hoàn-công đem việc Trịnh lệ-công nhờ mình mà nói lại.
Tống trang-công nói :
– Trịnh đột trước kia chỉ là một cái trứng, nhờ tôi ấp cho nở ra, nay được làm chúa một cõi sơn-hà lại quên điều ước hẹn. Hiền-hầu bắt tôi ngồi yên được sao ?
Lỗ hoàn-công nói :
– Ngài đã gia ơn cho Trịnh, thì Trịnh nào dám quên. Ngặt vì nối nghiệp chưa bao lâu, kho tàng thiếu hụt, chưa thể thanh-toán nổi cùng một lúc. Vậy tôi xin bảo lãnh món nợ ấy cho.
Tống trang-công nói :
– Ðược ! Số vàng ngọc có thể nói là kho tàng thiếu thốn còn như giao đất ba thành chỉ một lời là xong, thế mà Trịnh đột không nói đến thật quả đứa bội nghĩa.
Lỗ hoàn Công nói :
– Ðất của tiền-nhân, nếu Trịnh lệ-công đem giao cho nước khác e thiên hạ chê cười, lòng dân không phục, nên mới đem số thuế ba thành mà nạp cho Hiền-hầu. Tôi nghe Trịnh đã đem đến mấy muôn hộc lúa nạp cho nước ngài rồi mà !
Tống trang-công nói :
– So với điều ước thì có thấm vào đâu. Việc này tôi không thể nào bỏ qua được, xin Hiền-hầu chớ nhọc công.
Thấy Tống trang-công khăng khăng cố chấp, Lỗ hoàn-công tức giận bỏ ra về, sai sứ sang nước Trịnh thuật lại cho Trịnh lệ-công hay.
Trịnh lệ-công liền khiến Ung-củ đem cái chén ngọc đến nhờ Lỗ-hầu thương lượng với Tống , trả thay vào việc nộp đất ba thành , lại đem thêm ba mươi cặp bạch-bích, hai ngàn nén vàng kim nữa.
Thấy vậy Lỗ hoàn-công cũng nễ lòng thân hành sang trước Tống một phen nữa.
Lần này hai vua gặp nhau nơi đất Cốc-châu .
Lỗ hoàn-công nói :
– Hôm trước Hiền-hầu trách Trịnh không nạp đũ lễ vật , nên nay Trịnh lại cậy tôi đến nạp thêm.
Tống trang-công không nói một lời cám ơn, lãnh đạm hỏi :
– Còn đất ba thành bao giờ mới nạp ?
Thái độ ấy làm cho Lỗ hoàn-công bất bình, song đã trót làm ơn cho Trịnh, đành nén giận, nói :
– Trịnh đột không thể vì ơn riêng của mình mà cắt đất đem nạp cho một nước khác. Nay xin dâng vật này để thế cho ba thành.
Ðoạn, khiến quân đem lễ vật vào.
Tống trang-công nghe nói đến hai tiếng ơn riêng , lòng đã bất bình lại thấy quân đem đến dâng một chiếc chén ngọc chiếc chén mà trước kia nước Tống đã khấn-lễ cho nước Trịnh, lòng thêm bực tức , mặt sầm lại, nói :
– Vật này để làm gì ?
Lỗ hoàn-công đáp :
– Ngày trước, vì nước Trịnh có chút ơn riêng với quí-quốc, nên được quí-quốc tặng cho bảo-vật ấy. Nay Trịnh đột nghĩ lại không dám tham-lam, gởi qua trả lại quí-quốc để quí-quốc xét tình mà tha cho việc nạp đất, thì không những Trịnh đột mang ơn , mà Tiên-công cũng rất lấy làm may mắn.
– Việc ấy đã chôn sâu trong dĩ-vãng, đâu có liên quan gì với hiện tại ?
Lỗ hoàn-công nghe nói trố mắt nhìn, không làm sao hiễu được câu nói của kẻ tham lam.
Vừa lúc ấy có sứ nước Yên là Yên-bá đến xin ra mắt.
Tống trang-công cho vào.
Yên-bá bước đến thi lễ, và nói :
– Nước tôi giáp với nước Tề, thường bị binh Tề kéo vào quấy nhiễu, dân chúng không an. Nay tôi vưng lệnh Yên-chúa đến đây nhờ Chúa-công điều đình giúp với Tề, cho nước tôi được sống trong cảnh yên vui.
Tống trang-công nhận lời.
Lỗ hoàn-công nói :
– Nước Tề vẫn có cựu hiềm với nước Kỷ nữa, vì thế năm nào cũng đem quân đánh phá. Nếu ngài điều giải giúp nước Yên thì tôi cũng sẽ xin nói giúp cho nước Kỷ , để bá tánh khỏi nạn binh đao.
Kế đó ba nước Lỗ, Tề và Yên cùng tuyên thệ kết thân với nhau , rồi chia tay ra về.
Tống trang-công lại khiến người qua nước Trịnh đòi nợ mãi .
Trịnh lệ-công không biết làm sao , sai sứ sang nước Lỗ khẩn cầu một phen nữa.
Lỗ hoàn-công bất đắc dĩ phải cho người sang trình vua Tống họp nơi đất Hư-qui để quyết định việc nước Trịnh .
Tống trang-công từ chối, sai sứ đến nói với Lỗ hoàn-công rằng :
– Tống với Trịnh có lời giao ước riêng , xin các chư-hầu chớ can thiệp .
Lỗ hoàn-công nổi giận mắng :
– Dẫu một đứa thường dân mà tham lam, bất tín cũng chẳng ra chi, huống hồ một ông vua !
Bèn lên xe thẳng đến nước Trịnh, bàn với Trịnh cử binh sang đánh Tống .
Vua Tống hay được tin ấy, lòng lo-lắng, lại được nghe nước Tề bất-bình với Trịnh lệ-công, nên nhơn cơ hội sai Công-tử Du qua Tề kể tội Trịnh lệ-công và xin Tề giúp quân đánh Trịnh để phế Công-tử Ðột , phục nghiệp cho Thế-tử Hốt. Mặt khác, cầu hòa giúp cho nước Yên .
Sứ giả đi chưa về , thì có tin từ biên cương báo về : Lỗ với Trịnh hiệp binh đến đánh . Nay đã gần tới đất ThơĐương .
– Quân-lực mạnh hay yếu là đo hành động chính nghĩa hay phi-nghĩa. Bởi ta tham của hối-lộ gây nỗi bất bình nên Lỗ và Trịnh mới có cơ hiệp binh chinh-phạt. Bây giờ ta phải chịu lỗi, giữ niềm hòa hảo cho hợp với lòng dân.
Tướng Nam-cung Trường-vạn nói :
– Giặc đến bên thành, chưa rờ tới lưỡi gươm đã tính việc hạ mình, thế thì còn chi là thể diện nước nhà .
Thái-tể Hoa đốc nói :
– Lời của Trường-vạn nói rất phải , xin Chúa-công chớ do dự làm nhục chí ba quân.
Tống trang-công liền sai tướng Nam-cung Trường-vạn, họp với Mãnh-hoạch làm Tiên phuông dẫn ba trăm chiến-xa ra khỏi thành nghênh-chiến.
Hai bên dàn quân đâu đó sẵn sàng.
Lỗ hoàn-công và Trịnh lệ-công ngồi chung một xe, tuốt đến bên thành kêu Tống trang-công ra nói chuyện.
Tống trang-công vì mắc cỡ, giả bệnh không ra.
Nam-cung Trường-vạn đứng xa thấy trên xe có cắm hai cây tàn thêu , biết là xe của hai vua Lỗ và Trịnh, bèn vỗ vai Mãnh-hoạch nói :
– Lần này tướng-quân không lập công thì đợi chừng nào ?
Mãnh-hoạch hét lên một tiếng, tay cầm xà-mâu lướt đến giữa trận.
Lỗ hoàn-công và Trịnh hoàn-công thấy tướng dữ, vội lui xe trở lại .
Tướng nước Lỗ là Công-tử Nịch, tướng nước Trịnh là Nguyên-Phồn vội xông ra cản Mãnh-hoạch lại, nói :
– Mi tên họ là chi ? Làm chức gì mà hung-hăng làm vậy !
Mãnh-hoạch đáp :
– Ta là Tiên-phuông Mãnh-hoạch.
Nguyên-phồn mắng rằng :
– Thật là đứa vôđanh tiểu-tốt, đã bắt tài lại không sợ chết, hãy về kêu tên chánh-tướng của mi ra đây đặng ta chém đầu cho khỏi dơ lưỡi đao của ta .
Mãnh-hoạch nổi giận vung xà-mâu đánh liền .
Quân Trịnh và Tề vây chặt Mãnh-hoạch vào giữa.
Thấy hai tướng mình không thắng nổi Mãnh-hoạch, Lỗ hoàn-Công liền khiến hai đạo binh hậu đến tiếp-ứng.
Mãnh-hoạch cự không lại bị Lương-tử là tướng của nước Lỗ, bắn nhằm cánh tay rớt xà-mâu, nên bị trói.
Nam-cung Trường-Vạn hay được tin Mãnh-Hoạch thất trận , nghiến răng nói :
– Nếu không đánh giải thoát được cho Mãnh-hoạch ta thề chẳng vào thành.
Nói rồi sai con trai lớn là Nam cung-ngưu đem ba chục cổ xe ra khiêu chiến. Nhưng lại dặn :
– Khi đấu chiến phải giả thua mà chạy, dụ địch đến cửa thành phía Tây ta sẽ có kế bắt nó .
Nam cung-ngưu lãnh mạng, xua binh ra trận, cả tiếng mắng :
– Trịnh đột là đứa thất-phu bội nghĩa. Hãy ra đây mà chịu chết .
Viên tùy-tướng bên Trịnh thấy Nam cung-ngưu hãy còn niên thiếu bèn xông ra tiếp đánh.
Vừa đánh được ba hiệp, Nam cung-Ngưu giả thua bỏ chạy.
Tướng Trịnh rượt theo đến thành Tây bị Nam-cung Trường-Vạn phục binh bắt sống đem vào nạp cho Tống trang-công.
Tống trang-công sai sứ qua dinh Trịnh xin đổi Mãnh-Hoạch về .
Trịnh lệ-công chấp-thuận, mở trói Mãnh-Hoạch thả ra ngoài thành rồi dẫn viên tùy-tướng vào.
Giữa lúc quân hai bên đang cầm cự, chưa phân thắng bại, thì Công-tử Du phụng mạng Tống qua Tề mượn binh đánh Trịnh, đã trở về.
Tống trang-công đòi vào bệ kiến .
Công-tử Du nói :
– Tề hi-công vẫn có ý ghét Trịnh đột đoạt ngôi anh, song còn đang mắc đánh nước Kỷ. Nếu Tống hiệp binh với Tề đánh Kỷ thì Tề sẽ giúp Tống đánh Trịnh.
Tống trang-công chưa biết liệu định lẽ nào, còn đang thương nghị.
Cũng cùng lúc đó, bên dinh Trịnh, Lỗ hoàn-công và Trịnh lệ-Công đang bàn kế đánh Tống, xảy có sứ nước Kỷ đem thư đến cầu viện .
Lỗ hoàn-công mở thư ra xem :
Binh Tề bang đánh nước tôi quá ngặt. Nếu quân-hầu tưởng tình suôi gia lúc trước, đem binh cứu viện thì nước Kỷ tôi mang ơn chẳng nhỏ. Việc binh rất gấp, xin chớ diên trì.
– Nước Kỷ có nạn, tôi không thể nào bỏ qua được . Nay thành nước Tống chưa thể phá gấp được, tôi phải tạm rút quân về để cứu nước Kỷ đã. Từ rày Tống không còn dám qua đòi hối lộ nữa đâu.
Trịnh lệ-công nói :
– Nay ngài dời binh qua cứu nước Kỷ, tôi cũng đem hết binh gia trong nước theo ngài mà giúp nước Kỷ luôn thể .
Lỗ hoàn-công nghe nói cả mừng. Hai vua lập tức truyền lịnh nhổ trại kéo binh thẳng qua nước Kỷ.
Tống trang-công thấy Trịnh, Lỗ bỗng nhiên rút quân, trong lòng nghi ngại, cho người đi do thám.
Quân thám-thính về báo :
– Binh giặc đã kéo khỏi ải địa đầu, chắc là qua giúp nước Kỷ.
Quan Thái-tể Hoa đốc tâu :
– Tâu Chúa-công Tề hi-công đã hứa giúp ta đánh Trịnh thì ta cũng nên nhơn cơ hội này mà giúp Tề đánh Kỷ trước.
Thái-tể Hoa đốc nói vừa dứt tiếng thì tướng Nam-cung Trường-Vạn bước ra nói.
– Tôi xin lãnh mạng đem quân đi đánh nước Kỷ cho.
Tống trang-công chấp-thuận, phát cho hai trăm cổ binh xa, lại khiến Mảnh-hoạch làm tiên-phuông như cũ, ngày đêm kéo riết qua trước Kỷ để giúp Tề-hầu.
Giữa lúc đó, Tề hi-công cũng đã cho sứ sang nước Vệ và rước bên mượn thêm binh viện .
Vệ tuyên-công vừa muốn phát binh giúp Tề thì bỗng lâm bịnh mà thác .
Thế-tử Sốc lên nối ngôi, xưng hiệu là Vệ huệ-công . Tuy còn mắc tang cha, song Vệ huệ-công không dám chối từ, vội vã xuất binh kéo sang nước Kỷ.
Còn nước Yên, bấy lâu nay vẫn có ý cầu-thân với Tề. Nay được dịp lẽ nào từ chối.
Thế là binh ba nước Tề, Vệ, Yên họp nhau đánh nước Kỷ rất ngặt.
Vua nước Kỷ không dám chống cự, chỉ cố thủ để chờ binh viện.
Ngày kia có quân vào báo :
– Nay quân hai nước Lỗ và Trịnh đã kéo đến giúp nước ta, xin Chúa-công liệu định .
Kỷ-hầu nghe báo, lòng mừng khấp khởi, vội leo lên thành xem và truyền chuẩn bị cuộc đón tiếp.
Lỗ hoàn-công vừa kéo binh đến, gặp Tề hi-công giữa trận, bèn đáp lễ và nói :
– Nước Kỷ có thân thuộc với tôi, vì vô lễ phạm đến quí-quốc, nên tôi vội vàng đến đây xin lỗi hộ .
Tề hi-công nói :
– Nước Kỷ với tôi mang mối thù rất lớn, không thể dùng lời nói mà hỉ-xả được !
Lỗ hoài-công hỏi :
– Chẳng hay thù ấy là thù gì vậy ?
Tề hi-công nói:
– Xưa tổ-tiên tôi là Ai-Công bị nước Kỷ dèm-pha nên vua Châu mổ bụng. Từ ấy đến nay đã trên tám mươi đời rồi, mà mối thù vẫn chưa báo được. Nay ngài đem binh giúp cho nước Kỷ, còn tôi phải đánh nước Kỷ để báo thù, thế thì chúng ta không cần phải bàn bạc làm gì.
Lỗ hoàn-công cả giận, khiến Công-tử Nịch xuất trận.
Bên kia Tề hi-công cũng khiến Công-tử Bành-sinh vốn có sức mạnh phi thường, Công-tử Nịch làm sao cự lại, nên hai tướng cạnh của Lỗ-hầu là Trần-tử và Lương-tử thay thế xông vào tiếp ứng .
Tuy nhiên, ba tướng Lỗ cũng không làm sao thắng nổi Công-tử Bành-sinh được .
Cuộc chiến đấu kéo dài mãi cho đến lúc quân Trịnh kéo đến phủ vây tứ phía.
Tướng Trịnh là Nguyên-phồn và Mạnh-bá xông vào tiếp ứng.
Trong thành , Kỷ-hầu thấy bên ngoài đang giáp chiến, củng mở cửa thành cho quân ào ra đánh một lượt .
Công-tử Bành-sinh nhắm cự không nổi phải kéo binh bỏ chạy , lại bị trúng một mũi tên gần vong mạng.
Lúc đó quân Tống cũng vừa kéo đến kịp thời nhưng binh sĩ từ đàng xa mới đến, chưa định trú thì bị quân Trịnh tràn tới đánh rất hăng.
Quân Tống bị thua , bỏ cả khí giới mà chạy.
Tề hi-công thấy quân sĩ mình chết quá nhiều, lại không còn lực lượng nào để duy trì nữa, đành kéo tàn quân trở về nước.
Trước khi rút lui, Tề hi-công chỉ vào thành nước Kỷ nói :
– Ta cùng nước Kỷ quyết chẳng đội trời chung.
Lỗ và Trịnh thắng trận, ra lệnh thu quân.
Kỷ-hầu rước vào thành mở tiệc khoản đải.
Em của Kỷ-hầu là Dinh-quý thưa rằng :
– Binh Tề thất trận, thù oán chưa tan, xin nhị vị quân-hầu ra ơn giúp cho một chước để có thể bảo tồn được nước Kỷ.
Lỗ hoàn-công nói :
– Việc ấy sẽ tính sau, bây giờ không thể liệu nổi.
Rạng ngày Lỗ và Trịnh kéo quân về nước.
Kỷ-hầu đưa khỏi ba dặm đường mới giã biệt .
Từ đó, chư hầu chia làm hai phe, một phe là Tống, một phe là Trịnh.
Tề hi-công từ khi thất trận , lòng uất-ức đến nổi sanh bịnh nặng .
Một hôm, gọi Thế-tử Chư-nhi đến bên giường dặn rằng :
– Nước Kỷ là kẻ thù bất cọng đái thiên . Nếu sau này con diệt được nước Kỷ mà trả thù cho tổ tiên, ấy là điều chí-hiếu. Còn nếu con bất lực, không diệt nổi kẻ thù thì chớ vào nhà thái-miếu.
Thế-tử Chư-nhi quỳ móp xuống đất cúi đầu tuân mạng .
Tề hi-công lại cho đòi con trai của Di-trọng-niên là Công-tôn Vô-tri vào, rồi nói với Chư nhi :
– Em một mẹ một cha với ta là Di-trọng-niên chỉ sanh được một mình Vô-tri này mà thôi. Con phải cư xử sao cho tử-tế, cũng như ta đã đối xử với em ta là Di-trọng-Niên vậy.
Tề hi-công trăn trối mấy lời rồi tắt thở.
Các quan đưa Thế-tử Chư-nhi lên ngôi, xưng hiệu là Tề tương-công.
Nhắc qua Tống trang-công từ khi sanh, giúp Tề bị thua một trận manh giáp tơi bời, lòng càng căm thù Trịnh hơn nữa. Bèn đem lễ vật sang các nước Vệ, Tề, Trần, Sái, mượn binh kéo qua đánh Trịnh để báo thù.
Trịnh lệ-công muốn ra cự địch, nhưng Tế-Túc can rằng :
– Tống là nước lớn nay đem toàn lực đến đây, quân ta cự sao lại chi bằng cố-thủ là hơn.
Nói rồi dạy quân đóng chặt cửa thành, cấm không cho tướng nào xuất quân cả .
Trịnh lệ-công đành chịu không dám trái lời Tế-Túc.
Quân Tống đến bên thành khiêu chiến mấy phen, không thấy tướng Trịnh ra đánh bèn phân nhau cướp phá quanh thành, lại lấy cột nhà Thái-miếu đem về làm cột thành, cốt làm nhục nước Trịnh.
Trịnh lệ-công uất-ức, than rằng :
– Làm vua mà bị áp chế, tưởng không còn gì nhục bằng.
Từ đó, Trịnh lệ-công có ý muốn giết Tế-Túc.
Lúc bấy giờ Châu hoàn-vương đau nặng, liệu thế không sống được bao lâu, nên kêu Châu-công Hắc-kiên vào nói :
– Nhà Châu mỗi ngày một suy yếu, trẫm cậy có các khanh gìn-giữ sơn hà. Nay trẫm không còn sống được nữa, đúng phép, Thái-tử Ðà lên ngôi, song vì trẫm rất thương Hoàng-tử Khắc nên muốn cho Khắc sau này được nối ngôi anh nó.
Chẳng bao lâu Châu hoàn-vương băng-hà.
Triều đình tuân theo Vương-mạng lập Thái-tử Ðà lên ngôi, xưng hiệu là Châu trang-vương.
Trịnh lệ-công được tin Thiên-tử băng-hà, muốn sai người vào triều điếu tang .
Tế-Túc can rằng :
– Trước kia nhà Châu có thù với Tiên-công, hơn nữa Châu hoàn-vương bị Chúc đạm bắn một mũi tên, giận ấy chưa nguôi, nay chẳng chung đội trời.
Châu hoàn-vương chết, Chúa-công cho người đến điếu tang ắt sẽ bị nhục.
Trịnh lệ-công lòng hoài- nghi không còn tin lời Tế-Túc nữa.
Tuy ngoài mặt thản-nhiên, nhưng trong lòng cay đắng.
Một hôm Trịnh lệ-công dạo mát ở huê-viên, có quan Ung-củ theo hầu, bỗng có đàn chim bay qua, kêu hát véo von.
Trịnh lệ-Công nhìn chim thở dài.
Quan Ðại-phu Ung-củ biết ý hỏi :
– Tâu Chúa-công, trời đang tiết xuân, muôn hoa đua nở, chim hát chào mừng, sau Chúa-công lại không vui ?
Trịnh lệ-công nói :
– Các giống chim đều được sung sướng, tựđo, không ai áp-chế. Còn ta tuy là vua nhưng không bằng giống chim.
Ung-củ nói :
– Có lẽ Chúa-công đang nghĩ đến người đã đoạt lấy quyền hành trong nước chăng .
Trịnh lệ-công nín lặng không đáp.
Ung-cả nói :
– Tôi thiết tưởng, làm con không giãi được ưu-phiền cho cha là bất hiếu, làm tôi không giúp được vua trong lúc hoạn nạn là bất trung, nếu Chúa công không cho tôi là kẻ hèn mạt thì dầu việc gì nguy hiểm đến đâu tôi quyết không từ nan.
Trịnh lệ-công đuổi hết quân hầu ra ngoài, rồi hỏi Ung-củ :
– Ngươi không phải là rễ của Tế-Túc sao ?
Ung-củ đáp :
– Tâu Chúa-công, tuy rễ thật, song tình cha con đâu bằng tình vua tôi. Vả lại Tế-Túc gả con gái cho tôi chỉ vì vua Tống ép buộc chứ đâu phải ý muốn.
Trịnh lệ-công rõ được lòng Ung-củ, bèn nói thẳng :
– Nếu ngươi giết được Tế-Túc ta sẽ phong cho ngươi chức Thượng-khanh . Vậy ngươi có kế chi chăng ?
Ung-củ suy nghĩ một lúc rồi nói :
– Xứ Ðông-giao bị quân Tống cướp phá, dân-tình đang đói khổ, nay Chúa-công sai Tế-Túc đến đó phát chẩn chiêu an. Tôi lợi dụng cơ hội ấy đãi rượu tiễn hành, bỏ thuốc độc vào ly rượu mà giết đi là xong.
Trịnh lệ-công nói :
– Kế ấy rất hay, song phải cẩn mật lắm mới được.
Ung-củ về nhà, nghĩ đến vợ là Tế-thị trong lòng áy-náy không an , mặt mày có vẻ lơ láo.
Tế-thị thấy thế hỏi :
– Hôm nay trong triều có việc gì quan hệ không ?
Ung-củ lắc đầu, đáp :
– Không có việc gì cả.
Tế-thị không tin, gạn hỏi nhiều lần :
– Vợ chồng ở với nhau đã lâu lẽ nào không biết ý. Nếu tướng-quân có điều gì lo lắng xin cho thiếp biết, may ra thiếp có thể giúp được phần nào chăng.
Ung-củ cực chẳng đã phải nói :
– Chúa-công muôn sai nhạc phụ ra Ðông-giao mà ủy lạo dân chúng. Lại khiến tôi dâng rượu tiễn hành để chúc thọ nhạc-gia.
Tế-thị hỏi :
– Dưng rượu để chúc thọ nhạc-gia việc gì tướng quân lại lo lắng như vậy. Thiếp tưởng trong triều có điều chi rắc-rối mà tướng quân không muốn cho thiếp biết.
Ung-củ nói :
– Không có việc gì cả. Sai nhạc-phụ đến Ðông-giao, chi là mệnh-vua, phu-nhân chớ hỏi nhiều.
Thái độ và lời nói của Ung-củ làm cho Tế-thị càng nghi ngờ thêm, mới lập kế phục rượu cho Ung-củ uống thật say, rồi đợi lúc Ung-củ đang ngủ mơ màng, đập mạnh vào vai hỏi lớn :
– Này, Chúa-công sai mày giết Tế-Túc mà mày lại quên rồi sao ?
Trong lúc đang ngũ, Ung-Củ giật mình đáp :
–
Tề thị đứng nhìn chồng mà đôi dòng nước mắt chảy ròng ròng .
Rồi nàng tự nghĩ :
– Có thể như thế được sao ? Hay chàng đã vì hoảng hốt mà nói sằng .
Sáng ngày, Tế-thị nói với Ung-củ :
– Tướng-quân có ý muốn giết phụ-thân, việc ấy tôi đã rõ .
Ung-củ giựt mình nhìn vợ nói :
– Ấy chết ! ta có bao giờ dám làm điều vô đạo ! Sao phu-nhân lại nghĩ thế .
Tế-thị nói :
– Ðem hôm qua tướng-quân say rượu đã nói rỏ thiếp rồi bây giờ còn giấu làm chi.
Ung-củ rướm mồ hôi trán, nhìn vợ, nói :
– Nếu quả có việc ấy thì phu-nhân nghĩ thế nào ?
Tế-thị ngao ngán thở dài. Rồi như để soi sáng tấm lòng ác hiểm của chồng, nàng giả vờ nói :
– Ðã lấy chồng thì theo chồng, tướng quân hỏi làm gì câu ấy !
Ung-củ nghe vợ nói mừng rỡ, đem đầu đuôi câu chuyện thuật lại một hồi.
Tế-thị nói :
– Phụ thân thiếp là một kẻ đa mưu, túc trí, e không dám đi, xin cho thiếp vào tưđinh xét thử tình ý như thế nào.
Ung-củ mừng rỡ nói :
– Nếu việc thành tôi được lên chức Thượng-khanh thì phu-nhân cũng được vinh hiển trọn đời.
Tối hôm ấy, Tế-thị ghé về tưđinh thăm mẹ.
Tế-Túc phu-nhân thấy con về, mừng rỡ hỏi :
– Lâu nay con vẫn được mạnh giỏi chứ ?
Tế-thị không đáp, buồn-bã hỏi mẹ :
– Chồng với cha nên trọng đàng nào hơn ?
Câu hỏi lạ lùng ấy làm cho Tế-Túc phu-nhân ngạc nhiên nói :
– Sao con lại hỏi vậy . Chồng với cha đàng nào mà chẳng trọng .
Tế-thị nói :
– Nhưng nếu gặp trường hợp giữa cha và chồng có điều mâu thuẩn nhau thì nên trọng đàng nào ?
Tế-Túc phu-nhân nói :
– Cha mẹ do trời định, vợ chồng do người định. Mất chồng có thể lấy chồng khác, còn mất cha không thể tìm một người cha khác được.
Vệ tuyên-công vốn là kẻ ham dâm dục, lúc chưa lên ngôi đã tư thông với vợ lẻ của cha là nàng Di-khương sanh được một trai, tên Cấp-Tử.
Sau khi lên ngôi lại phong cho Cấp-tử làm Thế-tử, giao cho Công-tử Chức trông nom.
Khi Cấp-Tử lên mười sáu tuổi, Vệ tuyên-công cho người sang hỏi con gái Tề hi-công về làm vợ Cấp-Tử. Lại được nghe con gái của Tề-hầu nhan sắc tuyệt trần, hoa nhường nguyệt thẹn , Vệ tuyên-công đem lòng ham muốn.
Tuy-nhiên đã trót lỡ cưới người đẹp cho con trai mình, còn biết nói năng làm sao, bèn nghĩ ra một kế .
Vệ tuyên-công cất một cái đài thật đẹp nơi mé sông Tân-kỳ, đặt tên là Tân đài rồi sai Cấp-Tử làm sứ-giả sang nước Tống để có cơ hội đoạt vợ của con.
Cấp-tử ra đi chưa bao lâu, Vệ tuyên-công sai Công-tử Tiết qua Tề rước nàng Khương-thị về Tân đài.
Rồi từ đó ăn ở với Khương-thị, coi như vợ mình. Nàng ấy tức là nàng Tuyên-khương.
Cấp-Tử đi sứ về vào yết-kiến Vệ tuyên-công.
Vệ tuyên-công khiến Cấp-Tử đến Tân đài ra mắt Khương-thị, và gọi Khương-thị bằng kế-mẫu.
Cấp-Tử vốn là con hiếu thảo, dù hành động Vệ tuyên-công có bỉ-ổi, Cấp-Tử cũng không lấy thế mà oán trách cha.
Từ ngày lấy được Tuyên-khương, Vệ tuyên-công say mê sắcđục, đêm ngày ở mãi nơi Tân đài không ngó ngàn đến Di-khương nữa.
Cách ba năm sau, Tuyên-khương sanh đặng hai trai là Công-tử Thọ và Sóc .
Nàng Di-Khương bị thất sủng, Vệ tuyên-công cũng không còn thương Cấp-Tử nữa. Bao nhiêu sự say sưa đối với Di-khương đổ dồn về Tuyên-khương thì bao nhiêu tình thương đối với Cấp-Tử cũng đổ dồn về Thọ và Sóc hết.
Vệ tuyên-công quyết định sau này truyền ngôi cho Công-tử Thọ .
Thọ và Sóc tuy anh em ruột, nhưng tâm-tính rất khác nhau . Thọ thì tánh hiền hậu, nhân từ, thương yêu Cấp-Tử như người anh ruột, còn Sóc thì độc ác, hiểm-hóc, chẳng những ghét Cấp-Tử mà còn ghét cả Thọ nữa. Sóc muốn tiếm ngôi của Thọ sau này, nên định ý trước tiên hại cho được Cấp-Tử rồi sau mới lập mưu hại Thọ .
Một hôm, Sóc nói với mẹ :
– Nay tuy thân phụ rất thương yêu mẹ con ta, song Cấp-Tử là anh, chúng con là em , sau này Cấp-Tử thế nào cũng được nối ngôi. Hơn nữa, vì mẹ mà Di-khương bị vua bạc đãi nếu sau này Di-Khương được lên làm Quốc-mẫu, thì mẹ con ta không tránh khỏi tai vạ .
Nàng Tuyên-khương tâm trạng trước kia khác, bây giờ khác .
Trước kia hy-vọng làm vợ Cấp-Tử, nên muốn mua chuộc lòng Vệ tuyên-công để sau này truyền ngôi lại cho Cấp-tử mà vợ chồng vui hưởng phú quý. Bây giờ thì đã có hai con với Vệ tuyên-công, hy-vọng ấy đâu còn nữa, nên bàn mưu với Sóc để hại Cấp-tử. Vì vậy thỉnh thoảng có những lời dèm pha, xoi bói.
Ngày kia, nhằm ngày sanh nhựt của Cấp-Tử, Công-tử Thọ làm tiệc rượu chúc mừng, có Công-tử Sóc dự.
Trong bữa tiệc Công-tử Thọ chuyện trò rất thân-mật.
Sóc tỏ ý khó chịu, thoái thác lui về , trong lòng rất căm phẩn.
Về đến cung, Sóc làm bộ khóc lóc, nói với mẹ :
– Con vì lòng tốt mà dự tiệc với Cấp-tử , thế mà Cấp-Tử lúc say rượu lại giở trò đùa, gọi con bằng con và nói :
– Mẹ của mày tức là vợ của ta, mày phải gọi ta bằng cha mới phải .
Con rất lấy làm xấu hổ, xin mẹ xét nghĩ.
Tuyên-khương tin là thực, chờ Vệ tuyên-công vào cung, khóc lóc thuật lại mọi điều , lại nói thêm rằng :
– Cấp-tử cố tình muốn làm nhục thiếp nên đã có lúc nói nhiều câu lỗ mãng.
Vệ tuyên-công hỏi :
– Thằng súc sanh ấy đã nói những lời gì phạm đến ái-khanh ?
Tuyên-khương sụt-sùi nói :
– Thiếp được nghe nó nói rằng : Mẹ ta là Khươngđi vợ của ông nội ta, mà phụ-thân ta còn lấy làm vợ được thay, huống hồ Tuyên-khương là vợ của ta mà ta không lấy được sao ! Nay ta chỉ cho phụ-thân ta mượn đỡ mà thôi. Ngày nào đó ta sẽ lấy lại, và lấy luôn cả ngôi nước Vệ nữa.
Vệ tuyên-công nghe nói cả giận, kêu Công-tử Thọ vào hỏi.
Công-tử Thọ nói :
– Tâu phụ-thân, Cấp-Tử là đưa con chí hiếu, chẳng bao giờ lại có những lời nói lỗ mãng như thế đâu .
Vệ tuyên-công không biết phải phân xử lẽ nào, bèn đòi Khươngđi đến trách mắng đủ điều.
Khươngđi đau đớn, không chịu nổi, thắt cổ tự-vận.
Cấp-tử quá thương mẹ, nhưng không dám nói ra, chỉ ôm bụng khóc thầm.
Giết được Khươngđi, mẹ con Công-tử Sóc vẫn chưa thôi, ngày đêm ép buộc Vệ tuyên-công phải làm cách nào giết cho được Cấp-Tử mới nghe.
Vệ tuyên-công nói :
– Cấp-Tử không có tội chi, nếu đem giết đi thiên-hạ sẽ chê cười.
Tuyên-khương nói :
– Khươngđi thác oan, thế nào Cấp-tử cũng vì mẹ mà trả thù, nếu Chúa-công không giết Cấp-tử, mẹ con tôi không làm sao ở trong cung này được.
Vệ tuyên-công cực chẳng đã phải nghe theo, tìm cách giết Cấp-Tử cho ổn-thỏa để che mắt thiên hạ.
Gặp lúc Tề hi-công cho người sang mượn quân nước Vệ.
Vệ tuyên-công mới bày mưu với Công-tử Sóc sai Cấp-tử cầm cờ tiết trắng đi sứ nước Tề, rồi cho võ sĩ phục giữa đường mà giết.
Công-tử Sóc được kế rất mừng, triệu-tập bọn côn đồ, dặn đến núp nơi Sằng giả là chỗ đường thủy giáp liền với đường bộ . Hễ thấy có người cầm cây cờ trắng đi ngang qua là nhãy ra giết lập tức.
Sắp đặt xong Công-tử Sóc trở về cung thuật lại với Tuyên-Khương hay .
Tuyên-khương mừng rỡ vô cùng.
Công-tử Thọ thấy mẹ mình mặt mày hớn hở, sanh nghi, dò hỏi sự tình .
Tuyên-khương ngỡ là Công-tử Thọ cũng đã biết việc ấy nên không hề giầu diếm gì cả, nói rõ sự việc.
Công-tử Thọ thất kinh, nhưng biết rằng âm mưu đã định sẳn dù can gián cũng chẳng ích chi, bèn lén qua nói với Cấp-tử .
Cấp-Tử ngồi thẩn-thờ không đáp.
Công-tử Thọ nói :
– Ðường đi từ đây sang Tề thế nào cũng phải qua Sằng-giả, mà đã qua đó tánh mạng anh ắt dữ nhiều lành ít. Chi bằng trốn sang nước khác rồi sẽ lo toan.
Cấp-Tử đáp :
– Ðạo làm con, nếu không nghe lời cha mẹ đâu còn là hiếu thảo. Vả lại, nếu Phụ-vương đã có ý muốn ta chết thì dẫu có sống cũng chẳng ích chi .
Nói xong, sửa soạn hành trang, từ biệt Công-tử Thọ, xuống thuyền đi theo đường thủy.
Công-tử Thọ khuyên can đến bực nào Cấp-Tử cũng không nghe .
Công-tử Thọ đứng nhìn theo, đôi dòng lệ không vơi, nghĩ thầm :
– Anh ta quả là một người hiếu-hữu, nếu để anh ta chết sau này mặt mũi nào mà ta nối ngôi. Vả lại trong hoàn cảnh này chỉ có cái chết của ta , may ra mới đánh thức được lòng thương xót của cha mẹ ta, đem lại một gia đình thảo thuận được.
Nghĩ rồi liền dọn một chiếc thuyền, đem đũ vật thực gọi vài tên tùy tùng bảo chèo theo cho kịp thuyền của Cấp-Tử để cùng dự tiệc rượu tiễn biệt. Chẳng bao lâu hai thuyền gặp nhau, Công-tử Thọ gọi Cấp-Tư sang thuyền mình.
Cấp-Tử nói :
– Anh đi đường xa, em muôn dâng cho anh một chén rượu tiễn hành, để tỏ tình mong nhớ.
Nói rồi rót một chén rượu đầy dâng cho Cấp-tử.
Nhưng vừa lòng chén chưa kịp nói thì nước mắt đã tuôn tràn, chảy vào ly rượu .
Cấp Tư vội vã bưng chén rượu uống một hơi cạn chén.
Công-tử Thọ sụt sùi nói :
– Em khóc làm cho nước mắt nhỏ vào rượu thực là vô lễ .
Cấp-Tử nói :
– Anh chỉ muốn uống những giọt nước mắt ấy để được giữ mãi vào lòng tấm thâm tình của em.
Thọ rót thêm một chén nữa trao cho Cấp-Tử .
Hai anh em vừa uống, vừa khóc.
Nước mắt càng hòa với rượu bao nhiêu thì rượu càng nồng bấy nhiêu.
Công-tử Thọ cốt phục rượu cho Cấp-Tử thực say , nên một lúc sau Cấp-tử say mèm nằm vật xuống khoan thuyền ngủ thiếp.
Công-tử Thọ ôm anh khóc một lúc lâu, rồi bảo bọn thủ-hạ :
– Lệnh vua phải đi gấp mà anh ta say nên trể nải vậy ta phải đi thế mới được .
Nói rồi cầm cây cờ trắng cắm lên mũi thuyền mình, và viết một bức thư, dặn tên quân hầu lúc nào Cấp-Tử tỉnh dậy sẽ đưa.
Ðoạn Công-tử Thọ cứ thẳng đường cho thuyền đến Sằng-giả.
Vừa đến nơi, bọn côn đồ thấy có ngọn cờ trắng, kéo nhau chạy ào ra bắt.
Công-tử Thọ đứng dậy chỉ vào mặt bọn chúng mắng lớn :
– Ta là Cấp-tử, Thế-tử nước Vệ, phụng mệnh sang nước Tề đi sứ , sao chúng bây dám cản trở .
Bọn côn đồ nói :
– Ngươi đã là Cấp-Tử thì đừng có xưng hô làm gì cho uổng tiếng. Chúng ta tuân lệnh Vệ-hầu ra đây lấy đầu ngươi.
Nói xong, bọn côn đồ áp lại, chém đầu Công-tử Thọ, bỏ vào một cái hộp rồi đoạt lấy cờ tiết mang về.
Bọn gia đinh theo hầu Công-tử Thọ sợ hải , chạy tán loạn.
Còn Cấp-Tử khi tỉnh rượu, mở mắt ra không thấy Thọ đâu, lại nhận được bức thư, trong lòng hoảng-hốt.
Mở thư ra xem, trong thư chỉ thấy một hàng chữ như sau :
– Em đi thay anh , anh tìm nơi lánh nạn .
Cấp-Tử khóc oà, vội-vã bảo bọn tùy tùng :
– Hãy chèo thuyền đi cho mau, kẻo chúng lầm mà giết mất em ta .
Bọn tùy-tùng tuy không hiểu gì cả, nhưng cũng cố sức chèo đi rất mau.
Thuyền lướt sóng, dưới ánh trăng vằng-vặc, lăn tăn trên mặt sông đài, cảnh vật êm đềm nhưng lòng người rộn rã.
Cấp-tử chỉ nghĩ đến sinh mạng em mình, nên hối thúc liên hồi làm cho mấy tên quân chèo thuyền mệt không kịp thở.
Một lát sau, thấy đàng xa có bóng thuyền nhấp nhô, Cấp-tử mừng rỡ, hét to :
– Em ta còn sống ! Thật lòng trời không phụ !
Một tên quân hầu đưa mắt nhìn một lúc rồi nói :
– Thưa Thế-tử, thuyền đó đang đi tới phía chúng ta !
Cấp-Tử ngơ-ngác, chưa biết thế nào, thì chiếc thuyền nọ đã từ đàng xa phăng phăng rẽ nước đi đến.
Trên thuyền không thấy Công-tử Thọ, chỉ thấy một bọn côn đồ, gươm giáo sáng lòa.
Cấp-Tử lòng nghi ngại, hỏi :
– Các ngươi phụng mệnh Chúa-công đã làm xong nhiệm-vụ chưa ?
Bọn côn đồ nghe hỏi, tưởng người của Công-tử Sóc sai đến tiếp-ứng nên bưng chiếc hộp có đựng đầu của Công-tử Thọ đưa ra và nói :
– Chúng tôi đã thành công.
Cấp-Tử vừa cầm đến chiếc hộp vùng ngã ra, khóc to, nói :
– Ôi thôi ! còn gì em ta nữa !
Bọn côn đồ ngơ ngác đưa mắt nhìn nhau.
Cấp-Tử nói tiếp :
– Ta đây mới là Cấp-Tử, vì ta có tội nên cha ta sai giết, chớ Công-tử Thọ là em ta, nào có tội chi .
Bọn côn đồ biết mình đã giết lầm, thất kinh, nói nhỏ với nhau :
– Thế này thì phải giết cả nó nữa, mới chuộc nổi tội chúng ta đã lầm lẫn.
Nói xong, bọn côn đồ áp lại chặt đầu Cấp-tử, bỏ chung vào một hộp, rồi chèo thuyền đi, để mặc cho bọn quân hầu của Cấp-tử ngồi run rẩy trong thuyền, mặt mày tái ngắt.
Về đến thành Vệ, bọn côn đồ đem chiếc hộp và cờ trắng vác dâng cho Công-tử Sóc , kể lại sự giết lầm, và rất lo sợ Công-tử Sóc trách-phạt.
Chẳng dè Công-tử Sóc đã không giận mà lại còn vui mừng, đem vàng lụa thuởng cho bọn chúng rất trọng hậu, rồi vào cung nói với mẹ.
Tuyên-khương buồn vui lẫn lộn. Buồn vì mất con, vui vì đã biết được Cấp-Tử, trừ được hậu-họa cho mình. Vì biết Vệ tuyên-công thương yêu Công-tử Thọ, nên Tuyên-khương bảo Sóc hãy khoan cho Vệ tuyên-công biết .
Sau người nước Vệ có làm thơ vịnh hai anh em Cấp-Tử và Thọ rằng :
Hai chiếc đầu rơi, một mối tình
Hồn oan ôm hận khóc xuân xanh.
Lòng cha ví có không thương xót
Thà chết cho tròn nghĩa đệ huynh.
Nguyên trước kia Vệ tuyên-công có ủy thác Cấp-tử cho Công-tử Tiết để lên ngôi còn Công-tử Thọ cũng được uỷ thác cho Công- tử Chức, nay hai người nghe được tin dữ, liền họp nhau vào tâu với Vệ tuyên-công.
Vệ tuyên-công tuy ghét Cấp-Tử song rất yêu Thọ, nên sau khi nghe Thọ chết , lòng bàng hoàng đau đớn, nằm vật xong long sàng than rằng :
– Ôi ! Chính con Tề-nữ đã hại nhà ta rồi.
Liền cho đòi Công-tử Sóc vào khiển trách.
Công-tử Sóc chối dài.
Từ đó , Vệ tuyên-công buồn rầu sanh bịnh.
Mỗi khi nằm mê lại thấy Di-khương , Cấp-Tử và Thọ hiện đến trước mặt khóc than.
Cách nữa tháng sau Vệ tuyên-công tạ thế.
Công-tử Sóc lên nối ngôi, tức là Vệ huệ-công.
Vệ huệ-công lên ngôi chưa được ba ngày đã cách chức Công-tử Tiết và Chức .
Hai người này oán hận vô cùng chờ dịp trả thù cho Công-tử Thọ và Cấp-Tử.
Còn Công-tử Ngoạn là anh của Vệ huệ-Công không chịu phục bỏ trốn sang Tề trú-ẩn.
Từ hôm Vệ huệ-Công bị quân Trịnh đánh tan-tành, lòng oán-hận Trịnh lệ-Công không xiết, xảy nghe có sứ Trịnh đến, mới hay Trịnh lệ-công đã bỏ ngôi mà trốn, và sứ nước Trịnh đến xin rước Trịnh chiêu-công tức là Thế-tử Hốt , về nước.
Vệ huệ-công cho vào.
Sứ nước Trịnh là Tế-Túc trông thấy Trịnh chiêu-công vội vã sụp lạy xin tội về việc phế lập trước kia.
Trịnh chiêu-công tuy không bắt tội Tế-Túc, song đã mất lòng tin, tỏ ra lãnh đạm .
Vì vậy sau khi Trịnh chiêu-công phục-nghiệp, Tế-Túc thường cáo bịnh ít vào triều.
Cao cừđi cũng bị Trịnh chiêu-công oán ghét nên có ý muốn giết Trịnh chiêu-công mà lập Công-tử Vĩ .
Trịnh lệ-Công tức Công-tử Ðột, từ ngày bỏ ngôi, trốn sang nước Sái, liền mượn người nói với Đàn-Bá xin được dung thân nơi đất Lịch.
Đàn-Bá không chịu cho, nên Trịnh lệ-công mưu với người nước Sái giết Đàn-Bá đi, chiếm lấy đất Lịch, rồi lo chiêu mộ binh sĩ định về đương đầu với Trịnh chiêu-công mà cướp ngôi Trịnh.
Tế-Túc hay được tin ấy, lòng lo sợ, vào triều tâu với Trịnh chiêu-công hay.
Trịnh chiêu-công liền khiến quan Ðại phu Phô-hà đem quân đến đất Ðại-lăng để phòng ngừa việc binh biến.
Trịnh lệ-công dò biết, liệu thế khó bề khởi sự, bèn cho người sang nhờ Lỗ hoàn-công thương thuyết với Tống trang-công nếu lần này giúp cho mình được về nước phục nghiệp sẽ nạp đủ đất ba thành cùng lễ vật đã hứa trước kia .
Lỗ hoàn-công liền sai sứ sang Tống .
Tống trang-công tuy việc cũ đã mờ phai, song nghe nhắc đến động lòng tham, liền kết liên với Sái và Vệ để giúp Trịnh lệ-công.
Vệ huệ-công từ khi cho Tế-Túc rước Trịnh chiêu-công về nước mãi đến nay chưa thấy tạ ơn mình lòng hậm hực bèn nhận lời hợp binh với Tống trang-công, sang đánh Trịnh.
Hai Công-tử Tiết và Chức thấy vậy bàn với nhau :
– Nếu Vệ-Sóc định kéo binh sang Tống để đánh Trịnh, thì lúc này chính là lúc chúng ta có thể báo thù cho Công-tử Cấp-tử và Thọ đó .
Công-tử Chức hỏi :
– Nếu phế được Vệ-Sóc thì nên đưa ai lên kế vị ?
Hai người đang bàn luận thì bỗng có quan Ðại phu Ninh-quy vào thăm.
Hai Công-tử mời vào .
Ninh-quy nói :
– Nhị vị đã quên việc Công-tử Thọ và Cấp-Tử trước kia sao ?
Công tử Chức đáp :
– Chúng tôi nào có quên đặng. Song chưa biết phải lập ai kế vị .
Quan Ðại-phu Ninh-quy nói :
– Tôi xem trong hàng Công-tử chỉ có Kiềm-mâu là người hiền . Hơn nữa Kiềm-mâu là Phò-mã của nhà Châu, nếu lên ngôi ắt lòng người chịu phục.
Ba người bàn xong lập lời ước thệ, rồi làm một tờ thông-báo , chờ cho Vệ huệ-công kéo binh ra đi phao tin trong dân chúng rằng :
– Vệ huệ-công sang đánh Trịnh bị từ-trần, nên phải lập công-tử Kiềm-mâu lên thay .
Kế hoạch quả thành tựu.
Công-tử Kiềm-mâu tức vị, hạch tội Vệ-Sóc việc giết anh và làm cho Vệ tuyên-công vì buồn rầu mà chết.
Ðoạn thọ tang hai vị Công-tử Thọ và Cấp-Tử rồi cho sứ sang triều Châu báo tin việc phế lập ấy.
Ninh-quy lại dẫn quân ra đóng nơi biên giới nước Vệ để chân đường Vệ-Sóc.
Công-tử Tiết muốn đem Tuyên-khương ra hài tội, nhưng Công-tử Chức can rằng :
– Tuyên-khương là em của vua Tề, nếu hành tội e mất việc giao hảo, chi bằng giữ niềm hòa hiếu với Tề là hơn .
Bèn bàn với Kiềm-mâu cho Tuyên-khương ra ở một biệt cung, cấp lương bỗng hàng tháng.
Lỗ, Tống, Sái và Vệ bốn nước cũng đem binh đánh Trịnh, bị Tế-Túc cử binh chận nơi Ðại-lăng hiệp với Phô-hà mà chống giữ.
Bốn nước đánh không lại, phải rút binh về.
Vệ Sóc kéo binh về nữa đường, nghe tin hai Công-tử Tiết và Chức đã lập Kiềm-mâu lên ngôi liền bỏ sang nước Tề cầu viện.
Tề tương-công hay được việc ấy nói :
– Vệ-Sóc là cháu gọi ta bằng cậu lẽ nào ta lại không đem quân đi giúp.
Vệ Sóc khóc lóc nói :
– Nếu cháu được phục nghiệp tất cả vàng bạc châu báu trong nước Vệ , cháu xin dâng biếu cho Quốc-trượng:
Tề tương-công rất mừng. Còn đang bàn bạc, bỗng có sứ nước Lỗ đến.
Nguyên vì trước đây Tề tương-công có sang cầu hôn nhà Châu, nên nhà Châu sai Lỗ hoàn-công đứng làm chủ hôn coi việc gã nàng Vương-cơ cho vua Tề. Vì vậy, hôm nay Lỗ hoàn Công mới đến.
Nghe nhắc đến Lỗ hoàn-công, Tề tương-công sực nhớ đến mấy lời hẹn ước riêng với em mình là Văn-khương, đã lâu chưa đặng gặp , lúc này cũng nên nhờ cơ hội Lỗ hoàn-công đến, mà rước luôn nàng Văn-khương về Tề một phen. Vì vậy lúc các quan Ðại- phu hỏi thăm bao giờ thì cử binh đánh Vệ ?
Tề tương-công nói :
– Kiềm-mâu là rể của Thiên-tử, còn ta thì đang cầu hôn với vua nhà Châu, việc ấy phải thư thả đã.
Tuy nhiên, Tề tương-Công lại sợ nước Vệ giết mất nàng Tuyên-Khương nên cho Công-tôn Vô-Tri đem Công-tử Thạc về nước Vệ.
Lại dặn riêng Vô-tri bày cách cho Công-tử Thạc tư thông với Tuyên-khương, để ngày sau liệu kế đem Vệ-Sóc về nước.
Công-tôn Vô-tri lãnh mạng dẫn Công-tử Thạc về Vệ, ra mắt Tân quân Kiềm-mâu.
Lúc ấy vợ Công-tử Thạc đã qua đời .
Công-tôn Vô-tri bàn mưu với Công-tử Chức :
– Nếu ngài giúp cho việc này, ắt Tề-hầu mến phục mà hai nước giao hòa.
Công-tử Chức vẫn có ý muốn giao hảo với Tề, lại ghét Tuyên-khương, muốn cho Tuyên-khương mang tiếng với thiên hạ, nên chịu làm việc đó.
Về phần Công-tử Thạc nghĩ tình cha con, nên chẳng chịu.
Công-tử Chức bèn ép Công-tử Thạc uống rượu say rồi bắt bỏ vào phòng Tuyên-khương.
Gặp Tuyên-khương là người háo dâm, nên ép uổng Công-tử Thạc, cuối cùng phải mang tội bất hiếu cùng cha .
Công-tử Thạc và Tuyên-khương kết làm vợ chồng, sau sanh đặng năm người con.
Nhắc qua việc nước Trịnh, Tế-Túc đem quân ra đất Ðại-lăng đương cự với Công-tử Ðột, sau khi các chư-hầu rút quân về hết mà Công-tử Ðột vẫn đóng quân nơi đất Lịch, phá rối mãi.
Tế-Túc tìm hết kế để ngăn ngừa.
Ngày kia, Tế-Túc nhớ lại rằng trước kia nước Tề có thù với Công-tử Ðột, trong lúc đánh nước Kỷ, lại nghe nước Lỗ hiện đang đứng ra làm chủ-hôn cho nước Tề, bèn vào triều tâu với Trịnh chiêu-công xin đem lễ vật qua Lỗ và Tề thông-biếu, để nhờ hai nước ấy giúp mình cự với Tống.
Trịnh chiêu-công y tấu.
Tế-Túc lãnh mạng ra đi.
Trong lúc Tế-Túc bận lo về việc trừ khử Công-tử Ðột thì Cao-cừđi trái lại âm-mưu muốn hại Trịnh chiêu-công, nhưng vì sợ Tế-Túc là kẻ đa mưu nên chẳng dám thi hành .
Nay nhân dịp Tế-Túc đi xa liền sai người đi rước Công-tử Vĩ về nhà, rồi nhơn lúc Trịnh chiêu-công đi tế lễ phục binh giết chết.
Công-tử Vĩ lên ngôi sai người sang nước Tề đòi Tế-Túc về để cùng với Cao cừđi lo việc quốc-chánh.
Tề tương-công thấy sứ Trịnh là Tế-Túc đem lễ vật đến rất nhiều, nên tiếp đón niềm-nở. Kế nghe việc Cao cừđi giết Trịnh chiêu-Công lập Công-tử Vỉ , cả giận muốn hưng binh vấn tội. Nhưng lại có tin vợ chồng Lỗ hoàn-công đã sắp đến nước Tề.
Tề tương-công liền gác chuyện đánh Trịnh, thân hành qua sông Lạc-thuỷ đón tiếp.
Nguyên nàng Văn-khương nghe sứ Tề sang mời Lỗ hoàn-công, sực nhớ đến anh, nên xin với Lỗ hoàn-công cho đi theo về thăm quê quán, Lỗ hoàn-Công vốn chiều vợ nên nhận lời.
Khi đến sông Lạc-thuỷ, vợ chồng Lỗ hoàn-Công đã thấy Tề tương-công đón sẵn.
Hai bên tay bắt mặt mừng cùng nhau trở về Kinh đô Lâm-tri .
Lỗ-hầu đặt bày chiếu mạng vua Châu , nghị việc hôn nhơn.
Tề hầu cảm động bày tiệc đãi đằng rất trọng hậu.
Tiệc mãn Tề tương-công xin phép Lỗ hoàn-công đưa nàng Văn-Khương vào cung để thăm viếng các cung phi.
Lỗ hoàn-công thuận ý Tề tương-công dẫn Văn-khương vào trong một phòng kín đã sắp đặt sẵn , hai anh em uống rượu vui vầy rồi bày cuộc gió mưa .
Người sau có bài thơ cười Tề tương-công như vầy :
Khéo vẻ làm chi cái giống hề
Hôn quân dâm loạn nghỉ mà ghê
Gái xinh thiên-hạ, đời không thiếu
Mà lấy em mình chịu tiếng chê !
Sáng hôm sau mặt trời đã cao, mà hai người vẫn còn ôm nhau nằm ngũ mãi.
Lỗ hoàn-công ở ngoài đợi lâu quá, sanh buồn, lại có ý nghi hoặc vợ mình, chẳng biết bên trong cánh cửa cung thăm thẳm ấy có việc gì rối lòng chăng ?
Mà dù có nghi hoặc cũng không làm sao hiểu thấu, khi mà tường cao vòi vọi, bức rèm châu đã khép cánh song thưa. Tuy-nhiên, lòng thấy nao nao không thể nào chịu được .
Lỗ hoàn-Công bèn cho người dò xét mới hay Tề tương-công chưa có Chánh phi, chỉ có Thứ-phi là Liên-thị em họ của quan Đại-phu Liên-xứng, mà Tề tương-công đã ghét bỏ từ lâu rồi.
Lại nghe nói đêm vừa rồi , chỉ có anh em Tề tương-công tư tình chứ không có phi tần nào cả.
Lỗ hoàn-công uất hận vô cùng, bỏ ra ngoài thơ thẩn nơi hiên Tây , bỗng gặp Văn-khương từ đàng xa lểnh-mểnh đi đến.
Lỗ hoàn-Công đưa mắt nhìn từ đầu đến chân, rồi nói :
– Đêm hôm ái-khanh uống rượu với ai ?
Văn-khương nũng-nịu đáp :
– Thần thiếp vui vầy với Liên-thị.
Lỗ hoàn-công hỏi :
– Vui đến bao lâu mới hết ?
Văn Chương đáp :
– Đã lâu quá chưa gặp nhau, nên vui mãi cho đến lúc trăng lên đỉnh đầu mới thôi.
– Anh của phu nhân có đến đó dự tiệc chăng ?
– Không, anh tôi đâu có lại đó dự tiệc ?
– Chẳng lẽ anh em lâu ngày xa cách lại không cùng nhau uống một chén rượu cho vui sao ?
Văn-khương có vẻ lưỡng-lự, đáp :
– Lúc mãn tiệc, anh tôi có đến uống một chun rượu rồi đi ngay.
Xét thấy lời nói và thái độ Văn-khương có điều uẩn-khúc .
Lỗ hoàn-công lại càng nghi ngờ nói :
– Tiệc mãn sao ái-khanh không ra ngay còn ở trong đó làm gì ?
– Vì đêm khuya quá, thần thiếp thấy ra ngoài bất tiện.
– Thế thì ái-khanh đã ngủ lại nơi đâu ?
– Trong cung thiếu gì nơi nghỉ ngơi , sao quân hầu lại hỏi lẩn-thẩn như thế ?
– Tại sao ái-khanh lại dậy trưa ?
– Vì uống rượu quá say nên mệt mỏi, không thể dậy sớm nỗi .
– Ái khanh ngũ chung với ai ?
– Thần thiếp ngủ chung với mấy người cung nhân nơi Tây cung.
– Còn anh của ái-khanh ngủ ở đâu ?
Văn-khương sợ sệt, làm ra mặt giận đáp :
– Anh ngủ ở đâu làm sao em gái biết mà nói rõ được !
Lỗ hoàn-công cũng giận dữ nói :
– Thế mà ta biết anh của ái-khanh đã ngủ đâu và ngủ với ai rồi ? Ái khanh đừng có giấu diếm làm gì.
Văn-Chương hổ thẹn, khóc oà.
Lỗ hoàn-công lòng đầy hậm hực nhưng biết mình đang ở trên đất Tề khó lòng nói năng được , nên vào từ giã Tề tương-công về nước.
Tề tương-công nghỉ lại việc xấu của mình lấy làm hối-hận, sợ Lỗ hoàn-công hay được, nên sai người tâm phúc là Thạch-chi Phân-Như theo dõi .
Phân-như trở về kể lại những lời cãi vã vừa rồi của vợ chồng Lỗ hoàn-công cho Tề tương-công nghe.
Tề tương-công bối-rối, nói :
– Ta không ngờ Lỗ-hầu lại có thể biết được việc ấy. Như thiên hạ hay được thì việc cầu hôn của ta với vua nhà Châu ắt bại sự .
Bèn khiến Phân-như đòi Công-tử Bành-sinh đến dạy việc.
Công-tử Bành-sinh vào chầu, Tề tương-công nói:
– Nay ta muốn lập kế giết Lỗ-hầu, chẳng hay khanh có bằng lòng giúp sức chăng ?
Bành-sinh ngạc-nhiên hỏi :
– Lỗ-hầu đến đây để làm chủ hôn cho Chúa-công, sao Chúa-công lại có ý ấy ?
– Tề tương-công cực chẳng đã phải đem câu chuyện mình thố lộ cho Bành Sinh biết.
Tuy không bằng lòng hành động của Tề tương-công, song Bành-sinh có cựu thù với Lỗ trong lúc đánh nước Kỹ, bị Lỗ bắn trúng tim gần chết, nên nhận lời.
Tề tương-công cả mừng, đặt tiệc nơi quán địch sai người mời Lỗ hoàn-công đến dự trước khi về nước.
Tề tương Công tiếp đãi rất ân-cần, nhưng Lỗ hoàn-công mặt dàu dàu, ngồi gục đầu xuống đất, không nói năng gì cả.
– Tề tương-công truyền cho bọn cung-nga mỹ-nữ rất đẹp, ca múa và dâng rượu.
Lỗ hoàn-công nhân lúc đau đớn trong lòng cũng muốn dùng rượu để khuây khoả, nên lần uống hết.
Đến lúc quá say, Lỗ hoàn-công không còn biết gì nữa, nằm gục trên ngự-ỷ .
Tề tương-công liền sai Công-tử Bành-sinh phò Lỗ hoàn-công lên xe, về sứ quán.
Bành-sinh ngồi bên cạnh, khi ra khỏi quốc môn vài dặm thấy Lỗ-hầu ngủ say .
Bành-sinh cho hai ngón tay vào cạnh sườn, bóp rất mạnh.
Lỗ hoàn-công bị gãy xương sườn, la lên một tiếng rồi hộc máu chết tươi.
Bành-sinh mới hô-hoán rằng Lỗ-hầu bị say rượu nên cảm gió mà chết.
Tề hi-công hay tin, giả cách khóc lóc thảm thương , cho người tẩn liệm theo vương lễ, rồi tin về nước Lỗ.
Quân sĩ đi theo Lỗ hoàn-công trở về thuật lại chuyện vua nước Lỗ bị chết trên xe.
Quan Đại-phu Thân-nhu nói :
– Trong nước không nên để một ngày không có vua.
Công-tử Khánh-phủ nói :
– Tề-hầu vô đạo, loạn luân làm hại tính mệnh phụ-thân tôi, vậy để tôi cử đại binh sang vấn tội mà báo thù.
Thi-bá can rằng :
– Việc này còn ám muội, vả lại nước ta yếu, nước Tề mạnh, vị tất đã trả được thù mà còn bươi tiếng xấu. Chi bằng viết thư sang Tề buộc Tề-hầu giết Bành-sinh đi. Nếu tướng Bành-sinh chết sau này ta tính chuyện báo thù rất dễ.
Thân-nhu nói lại với Công-tử Khánh-phủ rồi sai Thi-bá viết thư đưa qua Tề.
Lúc đó Thế-tử Đồng đang cư-tang không ký tên, nên Thân-nhu đứng thay.
Thư ấy như sau :
Ngoại thần Thân-nhu kính gởi Tề-hầu ngự lãm. Chúa tôi vâng mệnh Thiên-tử qua quí-quốc để bàn định việc hôn nhân không biết lâm bịnh thế nào mà chết trên xe. Đường xa cách trở , lại nghe thiên-hạ đồn nhiều tiếng xấu, nước tôi thật lấy làm hổ thẹn. Nếu muốn giữ tiếng tăm, xin hiền hầu hãy bắt Bành-sinh mà trị tội , nước tôi lấy làm may mắn.
Tề tương-công được thư, cho người gọi Bành-sinh đến.
Bành-Sinh cậy mình có công, ngang nhiên bước vào.
Sứ nước Lỗ cũng có nặt nơi đấy.
Tề tương-công làm mặt giận quở trách :
-Ta thấy Lỗ-hầu quá say nên sai ngươi phò tá, ngươi lại không giữ gìn để Lỗ-hầu phải chết như vậy tội thật đáng chém.
Nói xong hô vô sĩ trói lại, dẫn ra chợ mà gia-hình.
Bành-sinh uất hận hét lớn :
– Hôn quân ! Đã dâm loạn với em gái mình, lập mưu giết Lỗ- hầu, lại còn đổ lỗi cho ta sao ? Dầu có chết, ta quyết làm qui? , mà banh thây ngươi ra muôn mảnh !
Tề tương-công ngồi chết điếng.
Cả quân sĩ và triều thần ai nấy đều bụm miệng, nín cười.
Cách đó không lâu , Tề tương-công vào triều Châu xin cưới nàng Vương-cơ và làm ma chay , đưa linh cửu Lỗ hoàn-công về nước .
Còn nàng Văn-khương vì hổ thẹn, ở luôn bên nước Tề không về nước Lỗ .
Lễ an táng vua Lỗ xong .
Thế-tử Đồng lên nối ngôi, tức là Lỗ trang-công.
Ngày Lỗ trang-công tức-vị, các quan đều chầu chực đủ mặt .
Lỗ trang-công hỏi :
– Phụ-thân ta trước kia vâng mệnh Thiên-tử đứng chủ hôn cho Tề tương-công, nay công việc chưa thành mà tạ thế. Vậy chư khanh có ý chi chăng ?
Thi-bá nói :
– Nước ta hiện có ba điều nhục. Điều thứ nhất là Tiên-công ta dẫu đã an táng nhưng tiếng xấu vẫn còn. Điều thứ hai là Quốc-mẫu hiện nay lưu lại bên nước Tề, thiên hạ dị-nghị . Điều thứ ba là nước ta có tang, không làm được trọng trách của Thiên-tử đã uỷ thác.
Lỗ trang-công nghe nói buồn bã hỏi :
– Ba điều nhục ấy có cách nào rửa được chăng ?
Thi-bá nói :
– Điêu thứ nhất muốn cho Tiên-công dưới suối vàng được hài lòng thì phải làm cho danh tiết của Tiên-công được vẻ-vang. Trước kia Tiên-công lên ngôi chưa đặng vương-mạng, bây giờ cũng nên nhân dịp chủ-hôn mà xin vương-mạng cho Tiên-công. Điều thứ hai nên rước quốc-mẫu về mà phụngđưỡng . Điều thứ ba là việc chủ-hôn thực khó lưỡng-toàn. Nay phải cất một nhà quán địch nơi ngoài đồng rồi rước Công-chúa Vương-cơ đến nhà ấy mà đưa sang Tề .
Chúa-công cáo tang không đến. Làm như vậy, trên không nghịch chỉ vua, dưới không mích lòng các chư-hầu, mà cũng hợp với vương lễ nữa.
Lỗ trang-công khen lời của Thi-bá rất phải liền sai quan Đại-phu Chuyên tôn-sính sang triều Châu đón Công-chúa Vương-cơ, và luôn tiện xin vua Châu phong cho Lỗ hoàn-công.
Vua nhà Châu chuẩn tấu, bèn sai sứ qua nước Lỗ để ban áo mão cho Lỗ hoàn-công.
Châu-công Hắc-kiên lãnh mạng xin đi.
Châu trang-vương không đồng ý, sai quan Đại-phu Vinh-Thúc qua Lỗ.
Sở dĩ Châu trang-vương không muốn Châu-công Hắc-kiên ra ngoài nước là vì Châu trang-vương có một người em tên Vương tử-khắc, trước kia Châu hườn-vương còn sống có lời phú-thác cho Châu-công Hắc-kiên, nay sợ Châu-công Hắc-kiên liên kết với các ngoại-bang tạo nên vây cánh .
Hắc-kiên thấy Châu trang-vương không muốn cho mình đi sứ , hiểu ngay nội-ý, đêm ấy qua dinh Vương tử-khắc kể tỏ sự tình.
Vương tử-khắc nói :
– Đã bị nghi ngờ thì làm cách nào thoát khỏi tai nạn ?
Châu-công Hắc-kiên nói :
– Nếu đã bị vua nghi ngờ thì tai nạn không tránh khỏi, chỉ có cách sớm liệu là hơn.
Đoạn Hắc-kiên bàn mưu , nhân đám cưới của Vương-Cơ mà nổi loạn, cướp ngôi Châu trang-vương.
Quan Đại-phu Tần-Bá biết được liền đem thuật lại với Châu trang-vương.
Châu trang-vương nổi giận bắt Châu-công Hắc-kiên đem chém, và dẫn quân bao vây tư dinh bắt Vương tử-khắc.
Nhưng Vương tử-khắc hay tin trốn qua nước Yên tị nạn.
Quan Đại-phu Chuyên tôn-Sính được phụng mạng đưa Công-chúa Vương-cơ sang Tề, rồi lại được Lỗ trang-công ủy-nhiệm rước nàng Văn-khương về Lỗ.
Tề tương-công bịn rịn không nỡ để nàng Văn-khương trở về nhưng vì sợ dư-luận thành thử cuối cùng phải gạt lệ chia ly.
Văn Chương buồn tủi lên đường, lòng đầy hổ thẹn.
Khi qua đến đất Chướng, nơi biên giới Tề-Lỗ, thấy phong cảnh tốt tươi, muôn hoa tươi đẹp, Văn-khương nghĩ thầm :
đã trót lầm lỗi, nay về Lỗ làm gì . Đất này không thuộc Lỗ, cũng không phải Tề thế thì ta ở đây mà dung thân cho an phận.
Nghĩ rồi cho bọn tùy tùng về tâu lại với vua Lỗ rằng :
– Gái góa bụa này muốn tìm chỗ thanh tịnh ở cho an nhàn . Lúc nào sắp chết mới về cung. Bọn tùy tùng trở về tâu lại.
Lỗ trang-công biết mẹ mình hỗ thẹn mà không về nước nên khiến cất một nhà quán nơi Chức-khâu để Văn-khương yên trú.
Từ đó, Văn-khương vui với phong cảnh mà khuây khỏa mảnh hồng-nhan.
Nhắc qua Tề tương-công từ khi âm-mưu giết Lỗ hoàn-Công, người trong nước đều cho là vô đạo, tiếng xấu đồn khắp xa gần . Nay tuy cưới được Công-chúa Vương-cơ đem về nhưng miệng đời vẫn chưa thôi mai mỉa. Muốn trấn áp lòng dân, Tề tương-công dự tính phải ra oai làm một vài việc đại nghĩa, để nâng phẩm giá của mình.
Tề tương-công nghĩ ngay đến nước Vệ và Trịnh, hai nước ấy có việc soán nghịch . Nhưng vua nước Vệ lại là phò mã của vua, chỉ có nước Trịnh là có thể đánh được, song chưa chắc đã thắng.
Tề tương-công nghĩ ngay một kế, sai sứ sang mời Trịnh-vĩ đến phó hội nơi đất Thủ-chỉ.
Công-tử Vĩ được lời mời có ý mừng thầm, nói :
-Tề-hầu chịu giao-hảo với ta thì cơ-nghiệp ta sẽ vững bền.
Bèn đòi Cao cừđi và Tế-Túc , khiến theo bảo giá.
Tế-Túc cáo bịnh, từ chối.
Cao cừđi phò Công-tử Vĩ lên xe, chúa tôi cùng khởi hành rất vui vẻ.
Tế-Túc ung dung trở về dinh, gặp Nguyên-phồn đón lại hỏi :
– Chúa-công sang phó hội với Tề, vì cớ gì ngài lại cáo bịnh mà không theo phò
Tế-Túc mỉm cười đáp :
– Vua Tề là một kẻ loạnđâm, tàn bạo. Trước kia Tiên-công ta vì có công lớn nên Tề mới khâm phục mà giao hảo . Nay bỗng dưng mời Chúa-công đi phó hội, tôi e không khéo cả vua tôi đều bị giết.
Nguyên-phồn nghe nói trố mắt nhìn Tế-Túc hỏi :
– Ngài đoán thực như thế sao ?
Tế-Túc đáp :
– Việc đó xảy đến không bao lâu, ngài cứ chờ đợi kết quả sẽ rõ.
Nguyên-phồn hỏi :
– Nếu quả đúng như lời ngài thì nước Trịnh sẽ về tay ai ?
Tế-Túc nói :
– Tất nhiên sẽ về Công-tử Nghi. Công-tử Nghi là người quý-tướng, trước kia Tiên-công thường vẫn nói thế.
Nguyên-phồn nói :
– Người ta cho rằng ngài là một kẻ tiên tri , nếu việc này quả đúng như lời thì tôi mới tin .
Dự đoán của Tế-Túc quả không sai.
Trước ngày phó hội, Tề tương-công đã đem một trăm quân giáp-sĩ phục nơi nhà Công-quán, và hôm ấy truyền cho Thạch-chi, Phân-như đứng hầu một bên.
Công tử Vĩ và Cao cừđi đến nơi bước vào yết kiến.
Vua Tề cầm tay Công-tử Vĩ nói :
– Hân hạnh được gặp ngài ! Đã từ lâu tôi muốn biết một điểu mà không sao biết được.
Công-tử Vĩ nói :
– Nay hiền-hầu có lòng tốt hạ cố đến tôi, nếu có điều gì xin hiền hầu cứ vui lòng chỉ giáo.
Tề tương-công nói :
– Tại sao ngày trước Trịnh chiêu-công bị chết Công-tử Vĩ nghe hỏi việc ấy, mồ hôi toát ướt áo, lúng túng không biết trả lời làm sao .
Cao cừđi rước lời nói :
– Tiên quân tôi bị bịnh mà tạ thế. Nhưng vì cớ gì mà hiền-hầu lại thắc mắc ?
Tề tương-công nói :
– Ta nghĩ Trịnh chiêu-công bị giết tạ thế chứ đâu phải bị đau mà tạ thế .
Cao cừđi liệu không thể giấu được bèn tìm lời bào chữa :
– Vâng một phần cũng vì Tiên-quân tôi có tâm bịnh nên khi thấy giặc thì sợ mà chết.
Tề tương-công cười lớn nói :
– Vua đi tất có phòng bị, sao lại để giặc giết được ?
Cao cừđi đáp :
– Trong nước tôi có lắm phe đảng, thực khó mà đề phòng.
Tề tương-công nói :
-Vậy có bắt được tên giặc đã giết vua chăng ?
Cao cừđi nói :
-Hiện nay nước tôi đang cho người lùng kiếm khắp nơi mà vẫn chưa bắt được.
Tề tương-công trợn mắt, chỉ vào mặt Cao CừĐi nói :
-Giặc chính là ngươi mà sao ngươi lại không biết ? Người chịu ơn vua lộc nước thế mà vì oán riêng dám thí vua, lại đem ba tắc lưỡi làm bức màn thưa để che thắt thiên hạ. Ta phải vì tiên-quân của ngươi mà bắt tên giặc ấy.
Nói rồi gọi Thạch-chi và Phân-như bắt Cao cừđi trói lại.
Công-tử Vĩ thất kinh, sụp lạy, nói :
– Việc đó Cao cừđi chủ mưu, xin hiền-hầu rộng-lượng.
Tề tương-công hét lớn :
– Đã giết anh cướp ngôi mà còn lắm lời xảo trá. Nếu có điều gì oan ức thì ngươi cứ xuống dưới âm phủ mà kêu nài.
Nói xong, truyền bọn giáp-sĩ bắt Công-tử Vĩ đem chém.
Cao cừđi hoảng vía, lạy lúc mãi.
Tề tương-công nói :
– Chúa mi đã chết mà mi sống được sao ?
Nói rồi truyền đem Cao cừđi ra cửa Nam cột tay chân vào bốn cỗ xe trâu, đánh trâu cho chạy bốn ngã.
Xác của Cao cừđi bị xé ra làm bốn mảnh.
Đoạn Tề tương-công truyền chặt đầu Cao cừđi treo lên cửa, thành, yết một tấm bãng lớn đề chữ như vầy : “Tấm gương của những kẻ làm tôi bất trung” .
Việc ấy xong, Tề tương-công sai người sang Trịnh nói cho biết là nước Tề đã trừ xong đứa phản nghịch, hãy đưa vua khác lên thay .
Nguyên-phồn hay được tin ấy tấm tắc khen thầm :
– Tế-Túc quả là một người sáng suốt ít ai bì kịp.
Các quan nước Trịnh họp nhau lại bàn việc lập vua mới.
Thúc-thiềm nói :
– Vua cũ là Trịnh lệ-công hiện nay đang ở nơi đất Lịch, ta nên rước về tôn lên ngôi.
Tế-Túc nói :
– Vua cũ đã bõ nước mà trốn đi thì không nên lập lại. Ta nên lập Công-tử Nghi mới phải lẽ.
Nguyên-phồn khen là hợp-lý.
Các quan cũng đồng thanh đưa Công-tử Nghi lên ngôi.
Tế-Túc vẫn giữ chức Thượng Đại-phu, Thúc-Thiềm làm Trung Đại-phu, còn Nguyên-phồn làm Hạ Đại-phu.
Việc triều chính giao cho Tế-Túc lo việc giao hảo với các nước Tề, Trần v.v… và sang cống nước Sở.
Còn Trịnh lệ-công vẫn phải chịu tá túc nơi cõi ngoài.
Công-chúa Vương-cơ từ lúc về với Tề tuyên-công lòng sầu khôn xiết . Vương-cơ vốn là một người thông-minh, tề-chỉnh nay gặp tánh nết Tề tương-công lòng đã bất bình, lại biết được câu chuyện nàng Văn-khương nên buồn bã mà thọ bệnh, chẳng bao lâu từ trần.
Từ ngày Vương-cơ thác rồi, Tề tương-công không còn kiêng nể ai nữa, hễ lúc nào nhớ Văn-khương thì giả đi săn bắn nơi đất Chước rồi sai người đến Chúc-khâu rước Văn-khương đến đó mà vui vầy . Tuy nhiên, lại sợ Lỗ trang-công hay được mà sanh sự, bèn lấy việc binh đao ra hăm dọa .
Tề tương-Công cất binh sang đánh nước Kỷ lấy ba thành ở đất Bình, đất Tư và đất Ngô, rồi kéo thẳng đến Hề-thành kêu Kỷ-hầu bảo rằng :
– Nếu muốn cho nước Kỷ còn , phải đầu hàng lập tức.
Ký-hầu đau đớn than thầm :
– Tề là một nước cựu thù, lẽ nào ta lại quên lấy thù mà cầu an sao !
Nghĩ rồi bèn khiến vợ là Bá-Cơ, con gái Lỗ huệ-công viết thư về nước cầu cứu viện binh.
Tề tương-công hay được tin ấy, dọa rằng :
– Nước nào đem binh cứu nước Kỷ, nước đó sẽ bị quân Tề kéo đến tàn phá ngay.
Lỗ-hầu nghe nói cũng sợ, cho sứ sang nước Trịnh yêu cầu nước Trịnh họp binh với mình cứu nước Kỷ.
Nhưng, Trịnh-nghi vì sợ Trịnh đột đem binh từ đất Lịch về cướp ngôi nên từ chối việc hợp tác.
Lỗ trang-công thấy mình cô thế không dám xuất quân.
Còn vua nước Kỷ thấy không ai cứu viện, bèn giao quyền lại cho em là Doanh-quý, rồi bõ trốn ra nước ngoài .
Doanh-quý họp triều-thần bàn rằng :
– Bây giờ chỉ có hai việc, một là liều chết giữ nước, hai là đầu làng để bảo vệ sinh linh. Vậy ta nên theo đàng nào ?
Các quan đều nói :
– Nay nước Kỷ bị cô thế, dầu có hy sinh đến đâu, cuối cùng cũng chịu thảm bại chi bằng đầu hàng để cứu vớt mạng dân và giữ gìn tôn miếu của tiên-quân.
Doanh-quý theo lời, viết thư sai sứ dâng cho Tề tương-công, cùng nạp các sổ sách dinh điền , cầu xin đầu hàng.
Tề tương-công chấp thuận, cho Doanh-quý được thâu thuế ba mươi bộ trong nước để phụng thờ tôn miếu.
Vợ vua Kỷ là Bá-Cơ, buồn bã nhuốm bịnh rồi chết.
Tề tương-Công an-táng rất trọng thể, mục đích để mua lòng nước Lỗ.
Trong thời gian đó, tại nước Sỡ, vua Hùng-thông lên kế vị, tự xưng vương-hiệu là Sỡ võ-vương, trách Tùy không đến chầu mình nên cử binh sang đánh. Song đi mới nữa đường mang bịnh mà thác.
Quan Lịnhđoãn là Đấu-kỳ, Mạc-ngao và Khuất-trọng giấu nhem việc ấy không phát tang, kéo quân thẳng đến vây thành của Tùy.
Tùy hầu sợ sệt, xin cầu hòa .
Khuất-trọng thay mặt đứng ra làm lễ chiêu an rồi kéo binh về nước, tôn con Hùng-thông là Hùng-xi lên nối ngôi, lấy Vương-hiệu là Sở văn-vương.
Còn Tề tương-công sau khi thắng được nước Kỷ kéo quân về ngang đất Chúc-khâu, rước nàng Văn-khương qua đất Chước để vui câu tình tự. Nào tiệc nào tùng, đờn ca hát xướng vui say ngày đêm trong hoan-lạc .
Tề tương-công lại khiến Văn-khương viết thư mời Lỗ trang-công đến đó để phó hội.
Lỗ trang-công vốn sợ oai Tề, lại không dám trái lời mẹ, nên vội đến đất Chước mà ra mắt Văn-khương.
Văn-khương khiến Lỗ trang-công, theo lễ cậu cháu ra mắt Tề tương-công và tạ ơn Tề tương-công việc chôn cất Bá-Cơ.
Lỗ trang-công không vui, nhưng phải tuân lời mẹ.
Tề tương-công rất đẹp dạ , bày tiệc đãi đằng, say sưa tưởng như trời nghiêng đất ngửa .
Văn-khương nghe Tề tương-công mới sinh được một gái bèn nói với Lỗ trang-công :
– Con chưa định người nội-chủ , mà cậu con vừa sanh đặng một gái , mẹ tưởng đó cũng là dịp may, con nên đính ước đi .
Lỗ trang-công nhìn mẹ, ngơ ngác, nói :
– Con đã chừng này tuổi, còn con gái của cậu mới sanh, lẽ nào đính việc hôn nhân .
Văn-khương giận dữ nói :
– Con không muốn gần gũi với họ ngoại sao ?
Lỗ trang-công thưa :
– Thưa mẹ, con đâu có ý ấy , song tuổi tác cách biệt rất khó lòng làm cái chuyện đó được !
Văn-khương nói :
– Cứ đợi đến hai mươi năm nữa sẽ cưới không được sao ?
Lỗ trang-công nín lặng không dám cãi.
Tề tương-công cũng nễ lời , hai đàng cùng nhau uống ly rượu hứa hẹn cuộc hôn nhân ấy.
Đã cậu ruột mà lại là cha vợ nữa thì còn gì thân thiết bằng ! Có lẽ vì thế mà Tề và Lỗ càng thắt chặt mối dây thân mật hơn trước !
Ngày kia, Lỗ trang-công cùng Tề tương-công rủ nhau đi săn bắn.
Lỗ trang-công có tài thiện-xạ, bắn mười phát trúng cả mười, ai này đều khâm phục, riêng Tề tương-công lại càng đẹp lòng hơn.
Trong đám quân sĩ, ngoài những lời tấm tắc ngợi khen lại còn có cả lời châm biếm nữa.
Họ thì thào :
– Chàng rể hờ của Chúa-công ta đó.
Lỗ trang-công lấy làm hổ thẹn, truyền bắt những người đã thốt ra lời nói vô lễ ấy đem chém .
Nhưng Tề tương-Công vẫn thản-nhiên không trách cứ.
Từ ấy Văn-Khương không kiêng nể nữa, thường thường ở chung với Tề tương-Công, khi thì đất nhau ở đất Phong, khi thì gặp nhau nơi đất Cốc, có lúc lại về Tề đô mà vui với Tề tương-công đến sáu bảy ngày liền rồi mới trở về đất Chước.
Một hôm Tề tương-công ở đất Chước về xảy thấy Vệ-Sóc ra đón tiếp và nhắc lại lời hứa trước kia .
Vệ-Sóc nói :
– Trước kia Chúa-công có hứa sẽ cử binh đánh Vệ giúp cho tôi phục-nghiệp , từ ấy đến nay việc chưa thành.
Tề tương-công nói :
– Sở dĩ ta chưa đánh Vệ vì Kiềm-mâu là phò-mã của vua Châu . Nay nàng Vương-cơ đã thác, ta không còn e ngại gì nữa. Tuy-nhiên muốn đánh Vệ , phải hiệp binh với chư hầu thì mới thắng nỗi. Cháu phải chờ đợi ít hôm đã.
Vệ-Sóc tạ ơn lui ra.
Cách vài ngày sau Tề tương-công làm một tờ hịch , sai sứ đểrr qua các nước Lỗ , Tống, Trần và Sái hẹn hợp binh đánh Vệ Kiềm-mâu để đưa Vệ-Sóc về nước phục nghiệp .
Tờ hịch như sau :
Nước Vệ không may bị bọn nghịch thần Tiết và Chức tác loạn , phế vua này, lập vua khác , Vệ huệ-công (Vệ-Sóc) phải bỏ chạy ẩn tránh nơi nước tôi đã bảy năm trời. Lẽ ra phải trừng phạt để bảo vệ công bình, song lâu nay nước tôi bận nhiều công việc chưa tính đặng. Lại nghĩ rằng để lâu ngày bất tiện, nên nay tôi nguyện đem hết binh lực nước Tề hiệp cùng quý-quốc giúp cho Vệ-Sóc hưng binh vấn tội kẻ tặc loàn. Được quý-quốc tưởng đến thật lấy làm may mắn.
Nhận được tờ hịch ấy bốn nước đều hưng binh.
Riêng Tề tương-công đem năm trăm cỗ xe, cùng với Vệ-Sóc kéo thẳng đến biên giới nước Vệ.
Vệ Kiềm-mâu hay tin, lòng lo lắng, cho đòi Công-tử Tiết và Công-tử Chức vào thương nghị .
Công-tử Chức nói :
– Nay binh năm nước đồng kéo binh đến một lượt, nước Vệ ta không tài nào đũ sức cản ngăn , xin Chúa-công cho người sang cầu cứu với vua nhà Châu mới được .
Vệ Kiềm-mâu y lời, viết tờ cáo-cấp sai quan Đại-phu Ninh-quý vào triều Châu cầu cứu.
Châu trang-vương xem văn biểu rồi hỏi các quan :
– Ai dám thay mặt trẫm đem binh cứu nước Vệ chăng ?
Châu-công Hắc-kiên quỳ tâu :
-Tâu Bệ-hạ, từ khi nhà Châu thua Trịnh, lòng quân giải đải nay nếu đi chinh phạt e khó thắng. Vả lại, các chư hầu lấy cớ lập lại Chúa Trịnh là danh chánh ngôn thuận. Mà đã danh chánh ngôn thuận thì binh ắt mạnh, ta khó thắng nổi.
Quách-công Kỵ-Phủ cũng cho lời nói đó là phải.
Bỗng có một người bước ra tâu :
– Lời nói của hai ông không đúng. Nếu nói rằng binh các chư hầu mạnh hơn binh của triều thì có lý. Nhưng nếu cho việc lập Chúa Trịnh lại là danh chánh ngôn thuận thì thật quả đã lầm.
Các quan xem lại, người ấy là Tử Đột, đang làm chức Hạ-sĩ.
Châu-công Hắc-kiên quắc mắt nhìn Tử đột, hỏi :
– Một nước chư-hầu bị tiếm ngôi , các nước khác đem binh tới cứu , thế mà không danh chánh ngôn thuận ư .
Tử đột nói :
– Việc lập Kiềm-mâu lên ngôi Trịnh đã có Vương-mạng thì sao gọi là tiếm-vị ? Vương-mạng mà không kể , lại lấy việc chư-hầu này lập chư-hầu kia mà cho là thuận sao ?
Quách-công Kỵ-Phủ nói :
– Đừng nói đến thuận nghịch gì cả , việc binh-gia phải căn-cứ vào sức mạnh. Cái mạnh bao giờ cũng có hễ lý mà có lý tức là lẻ phải rồi .
Tử đột nói :
– Lý lẽ và sức mạnh là hai việc khác nhau . Mạnh yếu là tại sức còn hơn thua là tại lý. Nếu bỏ lý mà vẫn nên việc ắt thiên hạ phải đảo điên không còn một ai theo lẽ phải nữa.
Châu-công Hắc-kiên đỏ mặt nói :
– Ấy vậy nếu đem binh cứu Vệ, ngươi có dám gánh vác việc ấy chăng ?
Tử đột nói :
– Cứ lấy lý mà nói thì tôi sẽ thắng vì tôi sẽ đem lý lẽ của tôi mà khuyến dụ các chư-hầu. Một khi các chư-hầu đã nhìn nhận lẻ phải thì gươm giáo không còn là vật đáng sợ nữa.
Các quan nghe Tử đột lý lẽ như vậy ai nấy đều muốn thử-thách tài năng, nên tâu với vua cho phép Tử đột được hưng binh cứu Vệ .
Châu trang-vương nhậm lời, khiến Ninh-quý về báo với Vệ-hầu trước.
Đoạn, truyền cho Quách-công Kỵ-Phủ phát cho Tử đột ba muôn binh ròng.
Châu-công Hắc-kiên đã có ý ghét Tử đột nên chỉ phát có hai trăm cỗ binh xa mà thôi.
Tử đột ngạc nhiên hỏi :
– Sao ngài lại phát quân cho tôi ít như vậy ?
Châu-công Hắc-Kiên nói :
– Nếu ngươi dùng sức mạnh mà thắng giặc thì ta sẽ phát binh nhiều, nhưng nay ngươi chỉ dùng lý-lẽ để thắng giặc thì cần chi đến quân sĩ cho đông ?
Tử đột làm thinh, qua nhà Thái-miếu lạy tạ rồi kéo binh ra đi.
Lúc ấy binh của năm nước Chư-hầu đã đến vây đánh nước Vệ đông nghẹt.
Công-tử Tiết và Công-tử Chức không dám chống cự chỉ thủ thành chờ cứu binh đến.
Nhưng thảm thay ! Tử đột đến với một toán binh quá ít , người lao mã liệt, xe cộ ngửa nghiêng như một nhóm tàn quân vừa thất trận.
Tử đột mới tới, chưa kịp đóng trại, binh của năm nước đã áp lại đánh nhầu một trận , quân sĩ chạy tán loạn, không kịp thốt ra nữa lời.
Tở đột ngước mặt lên trời than :
– Ta vâng mạng Thiên-tử đến đây dầu có thác cũng được làm con ma trung nghĩa.
Nói rồi, liều chết vung đao giết đặng hơn mười người rồi mới tự vận.
Quân sĩ trong thành Vệ thấy binh thiên triều bị thua, lớp tử trận, lớp bỏ trốn , hoảng hốt mở cửa thành mà chạy.
Các nước chư-hầu đốc quân tràn vào.
Công-tử Tiết và Công-tử Chức cùng Ninh-quý thu góp tàn quân , phò Kiềm-mâu chạy trốn.
Nhưng vừa lọt qua khỏi vòng vây thứ nhứt thì bị địch quân bắt lại.
Duy có Ninh-quý lanh trí, cởi bõ xiêm giáp , lộn vào đám quân Tề thoát ra khỏi thành chạy qua nước Tần lánh nạn.
Chiến trận vừa tan , các chư hầu đưa Vệ-Sóc vào thành, dẫn Kiềm-mâu , Công-tử Tiết và Công-tử Chức vào nạp.
Tề tương-công sai đao phủ-thủ dẫn Tiết và Chức ra chém đầu, còn Kiềm-mâu vì nghĩ tình anh em bạn rể, nên bõ vào tù xa sai người đem về nạp cho vua nhà Châu.
Vệ-Sóc lên tức vị , lấy hiệu cũ là Vệ huệ-Công rồi đem vàng bạc châu báu trong kho nạp cho Tề để đến ơn.
Tề tương-công nói :
– Bắt đặng Kiềm-mâu là công của Lỗ-hầu, vậy nước Lỗ phải liệng thiên-lnểu chl cho Thiên-tử nhà Châu được hướng công đầu.
Nói rồi chia hai của ấy cho Lỗ, lại khiến Vệ-hầu thu góp các báu vật khác thưởng cho Tống, Trần, Sái.
Sau khi mở tiệc đãi đằng, các chư hầu lần lượt kéo quân về.
Tề tương Công về đến Kinh đô lòng rất lo lắng. Bụng bảo dạ : Thắng Kiềm-mâu thì chẳng nói làm chi, nay lại thắng cả binh thiên triều là điều đáng ngại. Vua Châu ắt cử binh sang vấn tội, ta nên đề phòng trước thì hơn.
Nghĩ rồi liền sai Liên-xứng làm Chánh-tướng Quản chí-phủ làm Phó tướng đem binh ra đồn trú nơi đất Quý-châu để trấn giữ mặt Đông-Nam.
Hai tướng vâng lệnh, kiểm điểm binh mã kéo đi.
Nhưng trong lức bái-biệt, hai tướng tâu với Tề tương-công :
– Tâu Chúa-công, việc đồn trú nơi biên-ải là một công lao cực nhọc cần phải có hạn-kỳ để quân sĩ khối nản lòng vì buồn chán.
– Đến mùa dưa hấu năm sau ta sẽ cho người ra thay.
Hai tướng cúi lạy giã từ.
Tháng ngày thắm thoát trôi, trôi trên sự mong chờ của đoàn lính xa nhà, gối tuyết màn sương, nơi chốn biên cương lạnh lẻo.
Rồi, mùa dưa đến, đoàn quân biên-khu khoắc-khoải mơ ước được hồi hương , mà tin vua biền-biệt không thấy đến.
Hai tướng Liên-xứng và Quản chí-phủ cho người về kinh đô do thám.
Quân về báo :
– Chúa-công ở nơi Cốc-thành vui riêng với nàng Văn-khương đã một tháng nay chưa về triều.
Liên-xứng nghe báo nổi giận, nói :
– Vương-cơ đã thác, lẽ thì em gái ta là Liên-thị đặng làm phu-nhân, nhưng hôn quân vô đạo, đã không đoái tưởng mà lại còn tiếp tục việc dâm loạn với Văn-khương, thật là quá lắm. Thân ta cực nhọc đồn trú nơi biên-thùy biết bao giờ mới được về triều ?
Quản chí-phủ nói :
– Chúa-công đã hứa với ta, đến mùa dưa hấu cho người đến thay, vậy ta làm sớ về triều nhắc lại. Nếu Chúa-công bỏ qua, chừng ấy lòng quân sanh oán, ta sẽ tùy cơ ứng biến.
Liên-xứng khen phải, sai người đem sớ về Kinh trình tấu.
Tề tương-công xem sớ, nổi giận mắng lớn :
– Việc binh dời đổi là quyền của ta, cớ sao lại được xin ?
Nói rồi ra lệnh cho người dâng sớ trở về nói lại với hai tướng chờ đến mùa dưa năm sau nữa sẽ định liệu.
Liên-xứng được tin, mặt giận hầm hầm, nói với Quản chí-phủ :
– Hôn quân vô đạo đã không giữ lời hứa , ta há lại đem thân trung thành với kẻ thất tín sao . Ý ta muốn thí-quân lập vua khác, tướng công liệu lẽ nào ?
Quản chí-phủ nói:
– Nếu muốn thí Tề tương-Công trước hết phải định người thay thế. Công-tôn Vô-tri là con của Di trọng-niên , thuộc dòng thứ . Trong lúc Tiên-quân còn sống rất mực yêu mến Vô-Tri . Từ ngày Chúa-công lên ngôi có sự xích mích , nên đem lòng oán ghét.
Liên-xứng hỏi :
– Tại sao có sự xích mích ấy ?
Quản chí-phủ nói :
– Nguyên trước kia Vô-tri ở trong cung hay cãi nhau với Tề tương-công. Một hôm Vô-tri nổi giận đá Tề tương-công ngã xuống ghế. Lại một hôm nọ, Vô-Tri tranh với quan Đại-phu Ung-Lẫm đi trước nên Tề tương-công rất ghét. Tôi xem ý Vô-tri muốn mưu loạn, ngặt không ai giúp sức, nay ta viết thư về nhờ Vô-tri làm nội ứng thì việc cả ắt nên.
Liên-xứng nói :
– Thế thì nên thừa cơ hội nào mà thực hiện ý định .
Quản chí-phù nói :
– Tề tương-công là người giỏi binh pháp, nhưng tính lại ưa săn bắn, vậy phải dụ cọp ra khỏi hang thì mới trị nổi. Ta cứ chờ dịp nào Tề tương-công ra ngoài là hành-sự.
Liên-xứng nói :
– Em gái tôi là Liên thị, bị thất-sũng, lâu nay cũng rất oán ghét Tề tương-công, bây giờ viết thư dặn Vô-tri tư-thông với Liên-thị, lúc nào Tề tương-công đi săn bắn phải lập tức cho chúng ta biết.
Quản chí-phủ khen phải bèn viết thư sai người đem đến cho Vô-tri.
Thư ấy như vầy:
Tiên quân ngày trước rất yêu mến Công-tôn, thế mà nay Tề tương-Công ỷ mình quyền theo không kể mình anh em tộc họ. Vả lại, Tề tương-Công lại là một hôn quân dâm loạn, trong bỏ bê việc triều chính, ngoài không nghĩ đến lương dân. Chúng tôi đi đồn trú suốt cả năm đã không ngó-ngàng đến lại còn trách-cứ. Lòng quân rất oán hận muốn khởi loạn , ngặt chưa có dịp . Nếu nay Công-tôn đồng lòng với chúng tôi phế bỏ hôn-quân, thật là một dịp tốt. Trong cung lại có Liên-thị, có thể giúp Công-tôn làm nội ứng được. Xin chớ bỏ qua .
Lòng trời đã chán ghét hôn quân nên mới xui tướng-quân nghĩ đến việc ấy. Tôi xin thành tâm hiệp lực, và lúc nào có dịp, sẽ tin cho tướng quân hay .
Đoạn Vô-tri cho người vào cung bàn tính với Liên-thị, lại hứa với Liên-thị rằng : Nếu chiếm được ngai vàng sẽ lấy Liên-thị làm phu nhân.
Liên-thị mừng lắm .
Mùa đông năm ấy, Tề tương-công sắp đặt đến núi Bối-Kỳ nơi đất Cô-phần để săn bắn.
Liên-thị hay tin, sai người nói lại với Công-tôn Vô-tri.
Công-tôn Vô-tri liền viết một mật thư, đưa ra biên giới cho Liên-xứng hẹn ngày khởi sự.
Liên-xứng bàn với Quản chí-phù :
– Hôn quân đi săn bắn, trong nước không có ai bọn ta kéo binh về thẳng Tề đô mà lập Công-tôn lên ngôi cho rồi.
Quản chí-phủ nói :
– Tuy Tề tương-công là một hôn quân dâm loạn, song có liên kết với các chư-hầu, và các chư hầu cũng hết lòng tương trợ. Nếu để hôn quân còn sống , viện binh nước ngoài về đánh chúng ta cự sao lại. Chi bằng phục binh mà giết quách đi , rồi sau sẽ tôn Vô-tri lên cũng chẳng muộn.
Hai tướng bàn bạc xong, kéo binh sang đất Cô-phần phục sẵn.
Chỉ mấy ngày sau, Tề tương-công sắm sửa xe giá, dẫn đoàn ngự lâm quân cùng hai viên cận-tướng là Thạch-chi Phân-như và Mạnhđương theo hầu, cùng nhau đến núi Bối-Kỳ.
Cạnh núi Bối-kỳ rất đẹp, có khe, có suối hai bên đá dựng chập-chồng, rừng cây rậm rạp .
Tề tương-công truyền đốt lửa ở hai bên ven rừng để dồn các muông thú vào giữa mà săn bắn.
Lửa cháy rần rần, gió reo vi vút, những loài điểu thú sợ lửa bay nhảy tán loạn.
Vua tôi được một dịp trổ tài xạ kích.
Bỗng từ nơi ven rừng một con quái vật xuất-hiện, hình dung kỳđị, to bằng con trâu, nữa giống cọp nữa giống heo, chạy đến trước mặt Tề tương-công rồi dừng lại.
Tề tương-công quay lại, gọi Mạnhđương bảo :
– Ngươi hãy bắn con quái vật đó cho ta.
Mạnhđương, tay rút tên, mắt nhìn chăm chăm con quái vật đó, rồi nói to :
– Tâu Chúa-công con quái-vật này giống Công-tử Bành-sinh quá !
Tề tương-công nói :
– Bành-sinh đã chết, sao còn dám đến đây phạm giá .
Nói rồi giật lấy cung tên, bắn một mũi.
Quái-vật kia né tên .
Tề tương-công bắn luôn ba phát mà vẫn không trúng.
Bỗng quái-vật đứng dậy, đi hai chân như người, lại khóc lóc rất thê-thảm.
Tề tương-công cả người rởn ốc, té nhào xuống xe , trợt chân rơi ra một chiếc giày.
Quái-vật chạy đến tha chiếc giày biến mất.
Kẻ tả hữu vội chạy đến đỡ Tề tương-công lên xe, rồi phò về ly-cung nơi Cô-phần an nghỉ.
Đêm ấy, Tề tương-công lòng nóng như đốt, không làm sao ngủ được , lại bị trặc chân, đau nhức vô cùng, mới bảo Mạnhđương đở mình đi lại trong phòng cho thư thả.
Nhìn lại, thấy mất một chiếc giày , Tề tương-công cho đòi Đồ nhân-phí là kẻ hầu cận vào, hỏi :
– Sao giày ta chỉ còn một chiếc thế này ?
Đồ nhân-phí tâu :
– Tâu Chúa-công, lúc Chúa-công bị té, chiếc giày văng ra, con quái vật ngoạm lấy tha đi mất.
Tề tương-công cả giận hét :
– Ngươi giữ việc y-quan, thế mà để con quái vật đó tha mất chiếc giày của ta, mà ngươi vẫn còn sống sao ?
Nói xong rút roi da đánh bổ vào lưng Đồ nhân-phí.
Đánh đến máu chảy dầm dề mới chịu thôi.
Đồ nhân-phí vừa khóc lóc, vừa bước ra cửa.
Bỗng gặp Liên-Xứng đi với hai người tùy tùng đến đó mà thám thính.
Thấy Đồ nhân-phí, Liên-xứng liền thộp ngực, hỏi :
– Hôn-quân hiện giờ ở đâu ?
Đồ nhân-phí ngạc nhiên không hiểu Liên-xứng đang trấn nơi biên thùy, sao lại đến đây tác-loạn, bèn hỏi :
– Sao tướng quân lại đến đây và có ý gì đó ?
Liên-xứng nói :
– Ta quyết giết đứa hôn quân để đem lại hạnh phúc cho bá tánh. Ngươi đừng có nhiều lời, hãy nói mau.
Liên-xứng vừa nói, vừa giơ đao muốn chém.
Đồ nhân-phí cả sợ nói :
– Tôi vừa bị hôn-quân đánh một trận, thịt còn sưng, máu còn chảy đây. Xin tướng-quân tha chết cho tôi để tôi làm nội ứng cho.
Liên-xứng xem lại thấy Đồ nhân-phí áo quần lem luốc những vệt máu, mới tin lời, và dặn :
– Hãy vào xem hôn quân ngủ ở đâu, rồi ra báo với ta lập tức .
Nói xong, quay lại gọi Quản chí-phủ bảo dẫn quân sĩ thẳng vào ly-cung.
Đồ nhân-phí vào khỏi cửa gặp Thạch-chi Phân-như liền kể lại chuyện Liên-xứng khởi loạn.
Hai người dắt nhau đến báo cho Tề tương-công hay.
Tề tương-công cả sợ, chưa biết tính lẽ nào, Đồ nhân-phí tâu :
– Việc đã quá gấp, xin Chúa-công cho một người giả Chúa-công , liều chết thay mạng nằm trên giường, còn Chúa-công lo ẩn núp sau cửa , may có cơ-hội thoát nạn.
Nói rồi trèo lên giường, nằm ngoảnh mặt vào trong.
Tề tương-Công cởi áo cẩm-bào khoác lên mình Mạnhđương rồi lẻn ra phía sau mà trốn.
Thấy Đồ nhân-phí không theo mình, Tề tương-công hỏi :
– Ngươi không đi trốn sao ?
Đồ nhân-phí tâu :
– Tôi phải hiệp sức với Thạch-chi Phân-như để cự địch .
Tề tương-công nhìn Đồ nhân-phí nói :
– Lưng của ngươi đau như thế mà không ngại sao ?
– Dẫu chết còn chưa tiếc thì cái đau đó đâu đáng kẻ.
Tề tương-công than dài :
– Ôi ! ngươi quả là đấng trung thần, tiếc rằng ta đã không có con mắt nhận xét.
Đồ nhân-phí bảo Phân-như cầm dao đứng chận nơi cửa.
Lúc ấy Liên-xứng cũng vừa phá được cửa ngoài, ồ ạt bước vô.
Đồ nhân-phí xốc đến toan chém, nhưng Liên-xứng đã lẹ tay đâm một gươm lòi ruột, nhào xuống đất chết ngay.
Phân-như thấy vậy nhãy tới cũng bị Liên-Xứng vớt cho một gươm , đầu lìa khỏi cổ .
Giết xong hai viên cận-vệ , Liên-xứng bước đến bên giường ngủ của Tề tương-công, không thấy bọn cận vệ đâu cả, chỉ thấy một người nằm đắp cẩm bào sau bức màn thêu. Ngỡ đó là Tề tương-công, Liên-xứng liền vung gươm chém một nhát, đầu văng ra khỏi gối.
Liên-xứng lượm đầu lên xem, thấy không râu, biết mình đã lầm, vội khiến quân lục lạo khắp nơi.
Khi ra đến phòng sau, Liên-xứng bắt gặp một chiếc giày thêu bỏ nơi cửa hậu. Chiếc giày ấy chính là chiếc giày mà con quái-vật đã tha đi. Vì vậy ai cũng tin là Công-tử Bành-sinh báo oán.
Trông thấy chiếc giày , Liên-xứng nghi Tề tương-công núp đâu đây vội phá cửa bước ra.
Quả thật, lúc đó Tề tương-công đang núp ở xó cửa.
Liên-xứng nắm cổ, đè xuống đất, hét lớn :
– Hôn quân dâm loạn ! Mi không kể đến sự nghiệp Tiên-quân , gây nên nhiều tội ác, khiến dân chúng lầm than khổ sở. Không nghe lời cha dạy khinh bỏ việc công ấy là bất hiếu, gian dâm với em gái mình, đó là phi-nghĩa, bắt người đi đồn thú rồi sai ước, đó là bội-tín, cậy sức mạnh, giết oan mọi người đó là bất nhân. Cả nhân nghĩa, hiếu, tín đều phạm phải, dầu ta có phân thây mi làm mấy mảnh cũng vẫn chưa đền được tội.
Nói xong, chặt Tề tương-công ra làm hai khúc, rồi cùng với Quản chí-phủ kéo quân trở về Tề đô.
Công-tôn Vô-tri hay tin mở cửa thành nghênh tiếp.
Hai tướng vào thành tôn Công-tôn Vô-Tri lên kế vị.
Công-tôn Vô-tri lập Liên-thị làm phu-nhân phong Liên-xứng làm Chánh-Khanh, Quản chí-Phủ làm á-khanh còn các quan Đại phu đều giữ nguyên chức.
Triều thần tuy không ai phản đối nhưng ít ai khâm phục.
Riêng có Ung-lẫm, trước kia vì có tội dành đi trước với Vô-tri nên nay cúi lạy xin lỗi , còn Cao-quốc là người có thân thế nhất tại triều, cáo bịnh không vào chầu.
Vô Tri lên ngôi được mấy hôm, thì Quản chí-phủ khuyên Vô-tri nên treo bảng cầu người hiền ra giúp nước, lại tiến cử người cháu họ của mình là Quản di-ngô, yêu cầu Vô-tri thuđụng để chung lo việc triều-chính.
Nói về Quản di-ngô tên chữ là Trọng, một người tướng mạo khôi ngô, thông minh xuất chúng, học rộng, mưu cao, đũ tài kinh thiên vĩ địa. Lúc còn là hàn sĩ, làm bạn với Bảo thúc-Nha. Hai người thường đi buôn chung. Nhưng mỗi khi kiếm được lời, Quản di-ngô bao giờ cũng nhận lấy phần hơn, chỉ chia cho Bảo thúc-nha chút ít mà thôi. Tuy-nhiên, Bảo thúc-nha chẳng hề tỏ ý phàn-nàn.
Người ngoài thấy nói với Bảo thúc-nha :
– Cùng công cán như nhau, sao ông lại để cho Quản di-ngô hiếp mình như thế ?
Bảo thúc-nha đáp :
– Quản di-ngô đâu phải tham-lam, ấy chỉ vì nhà nghèo, tiêu không đủ, nên ta nhường cho va đó.
Sau đến lúc ra phò Tề tương-công giúp việc quân-vụ, mỗi lần ra trận, Quản di-ngô đi sau, nhưng đến lúc lui binh về thì Quản di-Ngô lại đi trước. Ai nấy cho Quản di-ngô là nhát gan.
Bảo thúc-nha nói :
– Không phải Quản di-ngô nhát gan đâu, chỉ vì va còn mẹ già nên muốn giữ lấy thân để phụng dưỡng mẹ.
Việc làm của Quản di-ngô phần nhiều bị thất bại. Ai nấy cho là kẻ bất trí.
Bảo thúc-nha nói :
– Đó là con người chưa gặp thời . Nếu lúc Quản di-ngô đã gặp thời , thì nói mười lời không sai một.
Quản di-ngô nghe Bảo thúc-nha nhận xét mình như thế, lòng rất khâm phục, than thầm :
– Sinh ra ta ấy là cha mẹ, mà hiểu biết ta thì trong đời chỉ có một Bảo thúc-nha mà thôi.
Từ lúc đó, hai người trở nên tương đắc.
Quản di-ngô cũng như Bảo thúc-nha được tiếng là học rộng , đều được Tề tương-công chọn làm Sư-phó.
Nguyên Tề tương-công có hai người con, người lớn là Công-tử Cả mẹ người nước Lỗ, người nhỏ là Tiểu-bạch, mẹ người nước Cư .
Hai vị Công-tử này tuy không phải con dòng đích, nhưng Tề tương-công thấy đã khôn lớn cần phải tìm thầy dạy dỗ.
Quản di-ngô nói với Bảo thúc-nha :
– Tề-hầu có hai người con tuy là dòng thứ mặc lòng, song không có dòng đích thì ngày sau dòng thứ phải được nối ngôi. Bây giờ chúng ta lãnh mỗi đứa một người mà dạy dỗ , sau này nếu người nào được nối ngôi thì chúng ta tiến cử lẫn nhau để được trọng dụng.
Bảo thúc-nha khen phải.
Hai người vào triều yết kiến Tề tương-Công.
Bảo thúc-nha thì lãnh Công-tử Tiểu-bạch còn Quản di-Ngô lãnh Công-tử Củ, có Thiệu-hốt giúp đỡ.
Một thời gian sau Tề tương-công ham mê săn bắn , thường đến đất Chước để tư tình với Văn-khương .
Thúc-Nha mới tỏ ý với Tiểu-bạch rằng :
– Chúa-công dâm loạn, dân tình không phục, tôi e trong nước sanh biến chẳng lâu, Công-tử nên có lời can gián.
Tiểu-bạch y lời.
Một hôm vào tâu với Tề tương-công :
– Lỗ-hầu bị thác, thiên hạ dị-nghị rất nhiều, xin phụ thân nên tị hiềm, đừng đi săn bắn mà sinh hậu-hoạn.
Tề tương-công nổi giận xách giày liệng Tiểu-bạch, hét :
– Mày là đứa con nít biết gì đến công việc ta mà nói .
Tiểu-bạch thất-kinh, bõ chạy về nói lại với Thúc Nha.
Thúc-Nha buồn bã nói :
– Đã không bỏ được lòng tà, ắt tai họa phải đến. Vậy Công-tử nên cùng tôi sang một nước khác lánh nạn, ngày sau sẽ tính.
Tiểu Bạch hỏi :
– Bây giờ phải qua nước nào ?
Thúc-nha nói :
– Nước lớn thường cậy thế cậy thần , tánh tình hay thay đổi. Còn nước nhỏ thủ phận, ít sinh chuyện lôi thôi . Vậy ta nên sang nước Cử, gần gũi với nước Tề, sau này có trở về cũng dễ.
Tiểu bạch thuận tình. Hai người cùng trốn qua nước Cử.
Cách đó không lâu, Tề tương-công bị giết . Công-tôn Vô-tri nên đoạt ngôi và sai người đến triệu Quản di-ngô vào triều nghị việc .
Quản di-ngô nói :
– Bọn ấy gươm đã sắp kề cổ mà không biết đến mình còn muốn làm phiền luỵ đến kẻ khác nữa sao ?
Nói rồi bàn với Thiệu-hốt phò Công tử Củ chạy sang nước Lỗ.
Nước Lỗ vốn là bên ngoại của Công-tử Củ , nên Công-tử Củ được Lỗ trang-công trọng đãi, cho ở nơi đất Sinhđậu .
Còn Vô-tri từ khi lên kế vị, quần thần không phục, Liên-xứng và Quản chí-phủ được tin dùng nên mỗi lúc một làm cao, khiến ai nấy bất bình ra mặt.
Ung Lẫm thấy tình trạng ấy, một hôm tìm cách thử lòng mọi ngươi, bèn phao lên một tin đồn, nói :
– Có người nước Lỗ cho biết Lỗ-hầu sắp đem quân phạt Tề . Tề đưa Công-tử Củ lên ngôi . Chẳng hay các ngài có ai nghe tin ấy chăng ?
Các quan đều ngơ ngơ ngác nhìn nhau thầm tỏ vẻ đắc ý.
Khi bãi triều, các quan lần lượt đến dinh Ung-lẫm để thăm dò.
Ung-lẫm hỏi :
– Nếu việc đó là sự thật các ngài sẽ tính sao ?
Đông quách-nha nói :
– Tiên-quân ta vô đạo, nhưng con của người đâu có tội chi, lẽ nào chúng ta lại phò một người khác.
Ung-lẫm đưa mắt nhìn mọi người thấy ai nấy đều có vẻ cảm động, bèn nói :
– Trước kia sở dĩ tôi lạy lục xin tha tội là có ý muốn dành thân này đặng dùng vào việc ngày nay . Nếu các ngài giúp tôi trừ bọn phản-nghịch đem ngôi lại cho con cái Tiên-quân thì thật là việc đại nghĩa.
Đông quách-Nha hỏi :
– Nhưng ngài đã có kế hoạch gì để mưu việc đại nghĩa ấy chưa ?
Ung-lẫm nói :
– Cao-quốc là một lão thần, được nhiều người kính trọng, cả đến Liên-xứng và Quản chí-Phủ cũng phải sợ, chẳng dám cậy quyền-uy mà lên mặt. Nay ta đến bàn với Cao-quốc mở một tiệc rượu mời Liên-xứng và Quản chí-phủ đến dự thì thế nào hai đứa ấy cũng đến. Lúc bấy giờ chúng ta vào triều, gạt Vô-tri ra khỏi cung mà giết, đồng thời, đóng cửa nhốt Quản chí-phủ và Liên-Xứng nơi dinh Cao-quốc, để lo việc lập vua mới .
Đông quách-nha nói :
– Cao-quốc lâu nay vì ghét bọn nịnh thần nên chẳng thèm ngó đến việc triều chính. Nay đem mưu ấy mà bàn ắt Cao-quốc không từ chối . Vậy tôi xin lãnh việc ấy cho.
Nói rồi, Đông quách-Nha vội vã đến dinh Cao-quốc, đem ý kiến của Ung-lẫm thuật lại.
Cao-quốc nhận lời, sai Đông quách-Nha đi mời Liên-Xứng và Quản chí-phủ.
Liên-xứng và Quản chí-phủ lâu nay thấy Cao Quốc không trọng mình nên lòng không vui.
Nay được tin Cao-Quốc đặt tiệc khoản đãi lấy làm hớn hở, lập tức đến dự.
Trong bữa tiệc , Cao-quốc nói với Liên-xứng và Quản chí-phủ :
– Xưa Tiên-quân thất đức, lão phu chi sợ e nước phải mất , không ngờ được nhị vị tướng quân ra tay cứu nước, lập lên tân quân nắm giữ giềng mới thật là may mắn. Nay phận tôi già yếu, không còn sức lực để chung lo việc triều chính, vậy có chén rượu lạt này nhờ nhị vị tướng quân tưởng tình mà che chở cho con cháu tôi, tôi rất mang ơn .
Liên-xứng và Quản chí-phủ tỏ lời khiêm nhượng , rồi cả hai uống đến say vùi .
Cao-quốc khiến người đóng chặt cửa dinh lại.
Giữa lúc ấy, Ung-lẫm dắt dao trong mình, đi vào cung nói với Vô-Tri :
– Công-tử Củ sắp đem quân Lỗ về đánh, xin Chúa-công lâm triều mà nghị kế.
Vô-tri hỏi :
– Liên-xứng và Quản chí-phủ không có mặt ở đây sao ?
Ung-lẫm tâu :
– Hai người ấy đi uống rượu chưa về, song việc binh rất gấp các quan đã hội đủ mặt xin Chúa-công ra mà thương-nghị.
Vô-trị tin lời, khoác long bào bước ra.
Ung-lẫm bước theo sau thừa cơ hội đâm lén Vô-tri một dao, ngã quỵ xuống đất máu tuôn lai láng.
Giết Vô-tri xong, Ung-Lẫm liền khiến đốt lửa làm hiệu .
Cao-quốc cùng với Liên-xứng và Quản chí-Phủ uống rượu trong dinh, thấy lửa cháy, biết việc đã thành, liền bõ đứng dậy hô võ sĩ bắt Liên-xứng và Quản chí-phủ trói lại, dẫn ra ngoài chợ chém đầu.
Ung-lẫm cùng các quan lại nhóm họp nơi nhà Cao-quốc để bàn việc cho người sang nước Lỗ , rước Công-tử Củ về nối nghiệp.
Còn Liên-thị, vợ Vô-Tri hay được tin cả sợ, rút gươm tự-vận .
Tính lại, từ lúc Vô-tri lên ngôi đến nay chỉ có một tháng mà thôi .
Ngày kia, Lỗ trang-công đang ngồi nghị việc, xảy có nước Tề đem thư đến , kể rõ việc giết Vô-Tri và xin rước Công-tử Củ về nước .
Lỗ trang-công cả mừng, muốn cho người cất quân đưa Công-tử Củ đi .
Xảy có Thi-bá bước vào tâu :
– Tâu Chúa-công, nước Tề bị tai biến, đó là việc tốt. Hễ Tề yếu thì Lỗ mạnh xin Chúa-công hãy thư thả mà tính việc.
Lỗ trang-công nghe nói lòng dù dự chưa quyết .
Lại nói đến nàng Văn-khương , từ khi nghe Tề tương-công bị giết liền bõ đất Chước trở về Lỗ , khuyên Lỗ trang-công cất quân đánh Tề để báo thù cho anh mình. Nay được nghe kẻ thù Vô-tri bị giết liền hối thúc Lỗ trang-công đưa Công-tử Củ về kế vị.
Lỗ trang-công tuy nễ lời Thi-bá nhưng không dám cãi lời mẹ, liền khiến người đem quân hộ tống Công-tử Củ về nước.
Quản di-Ngô nghe được tin vội vã vào triều tâu với Lỗ trang-Công :
– Tâu Chúa-công, Tề tương-công hiện còn hai đứa con là Công-tử Củ và Công-tử Tiểu-bạch. Hiện nay Tiểu-bạch đang trú nơi nước Cử là nước giáp liền với Tề. Tôi e Tiểu-bạch được tin về nước trước mà lên ngôi. Vậy xin Chúa-công cho tôi mượn một con ngựa hay và một ít quân binh đặng đón đường Tiểu-bạch . Như thế mới tranh ngôi cho Công-tử Củ được .
Lỗ trang-công hỏi :
– Ngươi muốn đem bao nhiêu quân ?
Quản di-ngô đáp :
– Không cần nhiều lắm. Chỉ độ ba mươi cỗ xe là đũ .
Lỗ trang-công liền phát binh.
Quản di-ngô lãnh mạng kéo quân đi.
Ngay lúc ấy, bên nước Cử, Công-tử Tiểu-bạch cũng đã hay tin Vô-Tri bị giết, liền bàn với Bảo thúc-nha mượn một trăm cỗ xe của nước Cử, hộ tống trở về Tề.
Cử và Tề sát biên giới, Công-tử Tiểu-bạch đi chưa bao lâu đã khỏi biên giới nước Cử.
Còn Quản di-ngô đem binh đuổi theo, đến biên giới thì đã nghe tin Tiểu-bạch đi qua rồi .
Quản di-ngô vội vã đuổi theo hơn ba mươi dặm nữa mới theo kịp.
Vừa thấy Tiểu-Bạch .
Quản di-ngô gọi lớn :
– Từ ngày các mặt nhau đến nay Công-tử vẫn được mạnh giỏi chứ ? Chẳng hay Công-tử cất binh đi đâu mà gấp lắm vậy ?
Công-tử Tiểu-bạch đáp :
– Tôi muốn về nước lo việc cư-tang cho phụ-thân tôi .
Quản di-ngô nói :
– Việc cư-tang đã có Công-tử Củ là anh cả , còn Công-tử là em thì vội làm gì . Xin hãy đình lại đã.
Thúc-nha nói :
– Chúng ta, ai vì chúa nấy xin Di-ngô chớ nhiều lời.
Nói xong, thúc quân tiến bước.
Quản di-ngô muốn cản lại, nhưng thấy binh cửa Tiểu-bạch đông hơn binh mình gấp bội, liệu thế khó đương bèn rút cung tên nhắm ngay Tiểu-bạch bắn một mũi.
Tiểu-bạch la lên một tiếng , trào máu miệng té ngửa trong xe.
Thúc-nha thất kinh, lật đật đến cứu.
Bọn tùy tùng trông thấy khóc rống lên.
Quản di-ngô tin chắc Tiểu-bạch đã thác, vội vã quảy xe lui binh trỡ về lòng hớn hở, nghĩ thầm :
– Công-tử Củ có phước lắm ! Thế là ngôi báu kia không còn ai tranh đoạt nữa !
Khi về đến nơi, Quản di-ngô thuật rõ câu chuyện bắn chết Tiểu-bạch cho Lỗ-hầu nghe.
Lỗ-hầu lấy làm thích thú, truyền dọn tiệc ăn mừng rồi lo việc đưa Công-tử Củ về nước.
Tuy-nhiên, Quản di-ngô đã lầm, mũi tên kia không giết được Công-tử Tiểu-bạch , vì mũi tên đó xẹt qua chiếc dây đai thắt lưng. Còn Công-tử Tiểu-bạch là người lanh trí, biết tài bắn của Quản di-Ngô nên giả vờ cắn chót lưỡi phun máu ra, rồi ngả ngựa trên xe, để Quản di-ngô khỏi bắn tiếp mũi tên thứ hai. Trí của Tiểu-bạch lanh như vậy đến nỗi Thúc-nha cũng không ngờ. Khi thấy Tiểu-bạch không bị thương tích gì, Thúc-nha vội thay quần áo và giấu vào trong một cỗ xe riêng, hối quân tiến gấp .
Ðến nơi, Thúc-nha vào thành, ra mắt các quan, tiến cử Công-tử Tiểu-bạch và xin lập lên kế vị.
Các quan nói :
– Chúng tôi đã cho người qua nước Lỗ, rước Công-tử Củ rồi, nếu bây giờ tôn Tiểu-bạch lên nay mai Công-tử Củ về tới biết liệu .
Thúc-nha nói :
– Nước không nên để một ngày không có vua. Các quan đi rước Công-tử Củ mà Công-tử Củ chưa về, còn Công-tử Tiểu-bạch lại có mặt. Ðó là lòng trời muốn Tiểu-bạch lên ngôi. Vả lại, nếu để nước Lỗ đem binh đưa Công-tử Củ trở về phục nghiệp thế nào nước Lỗ cũng kể công ơn mà đòi hối lộ như trường hợp nước Tống với Trịnh-hốt ngày trước, thật là xấu hổ.
Các quan Ðại-phu lại nói :
– Nếu vậy chúng ta phải dùng kế chi mà trả lời với Lỗ-hầu ?
Thúc-nha nói :
– Hễ nước đã có vua tự nhiên Lỗ-hầu phải kéo binh về, không cần phải dụng kế gì cả.
Quan Ðại-phu Thấp-bằng và Ðông quách-nha đều khen phải.
Bèn mở cửa thành rước Công-tử Tiểu-bạch vào tôn lên ngôi, tức là Tề hoàn-công.
Tề hoàn-công được Thúc-Nha giúp đỡ, chỉnh đốn việc triều chính, ban bố ân đức cho mọi người.
Các quan tuy tôn Tề hoàn-công lên ngôi, song lòng hồi họp lo lắng, sợ binh Lỗ kéo đến bất ngờ.
Bảo thúc-Nha tâu với Tề hoàn-Công :
– Bây giờ muốn cho cả triều thần được an tâm, xin Chúa-công cho một đạo binh ra đón nơi biên thùy để ngăn quân Lỗ thì khỏi lo gì cả .
Tề hoàn-công chuẩn tấu, sai Trọng tôn-thu dẫn ba trăm chiến xa ra đóng nơi quan ải, nếu binh Lỗ kéo đến thì nói cho Lỗ-hầu biết là nước Tề đã có vua.
Ngày kia, Lỗ trang-công kéo binh rần rộ, đưa Công-tử Củ về nước để phục nghiệp. Nhưng vừa tới biên giới, hay được sự tình lòng hậm hực, nói :
– Theo thứ tự, hễ lớn thì được nối ngôi nay Tiểu-bạch là em lại tranh giành như vậy thật là vô lễ. Ta quyết không chịu lui binh .
Trọng-thu thấy thái độ giận dữ của Lỗ-hầu lập tức viết thư về triều cáo cấp.
Tề hoàn-công hỏi Thúc-nha :
– Quân Lỗ không chịu lui thì làm thế nào ?
Thúc-nha đáp :
– Nếu không lui binh thì ta phải đem binh chống cự.
Tề hoàn-công lập tức khiến Vương-tử Thành-phù và Ninh-việt cầm đạo binh bên tả, Ðông quách-nha cầm đạo binh bên hữu, Ung-Lẫm đi tiên phuông còn Thúc-nha thì phò xe giá đi trung quân.
Ðông quách-nha quì tâu :
– Quân Lỗ thế nào cũng sợ ta dự bị trước, chẳng dám tiến gấp nay xin đem quân ra nơi đất Kiều-thời mà mai phục, chờ cho quân Lỗ đến đó đồn binh, chúng ta xuất kỳ bất ý xua binh hỗn chiến, làm cho hàng ngũ binh Lỗ rối loạn thì thế nào cũng đặng trọn thắng.
Thúc-nha khen phải, khiến Trọng tôn-thu và Ninh-việt kéo binh đi trước, chận đường mai phục sẵn, còn Vương-tử Thành-phủ và Ðông quách-nha thì đi đường tắt, chận đường về. Lại khiến Ung-Lẫm dẫn một đạo binh đi dọ thám, hễ gặp binh Lỗ thì giả thua mà dụ địch. Các tướng tuân lệnh, kéo binh ra đi.
Khi Lỗ trang-công và Công-tử Củ kéo binh đến đất Kiều-Thời, Lỗ trang-công ra lệnh đóng quân đồn trú.
Quản di-ngô nói :
– Tiểu-bạch vừa lên ngôi, việc quân chưa định, nay phải đánh gấp nếu diên trì e khó thắng.
Lỗ trang-công nói :
– Tiểu-Bạch đoạt ngôi anh thế nào cũng đề-phòng nếu ta ào ạt kéo đến không khỏi lầm kế. Vậy cứ đóng quân nơi đây dò xét tình hình rồi sẽ liệu.
Lỗ trang-công nói vừa dứt lời, có quân thám-thính về báo :
– Binh Tể đã đến, Ung-lẫm dẫn một đoàn binh đến đây cách chừng vài dặm .
Lỗ trang-công nói :
– Nếu ta không đề phòng ắt lầm kế của quân Tề rồi.
Liền khiến Lương-tử và Tần-Tử dàn quân ra hai đạo tiếp ứng .
Còn Lỗ trang-công đốc quân tiến tới.
Vừa gặp Ung-lẫm, Lỗ trang-công chỉ vào một mắng :
– Ngươi đã ra công giết Vô-tri, cho người sang Lỗ rước Công-tử Củ về tức vị , cớ sao ngươi lại lập Tiểu-bạch lên . Thế thì còn gì là tín nghĩa ?
Nói rồi trương cung bắn Ung-lẫm.
Ung-Lẫm giả đò hổ ngươi đem binh trở lại.
Lỗ trang-Công khiến Tào-Muội đuổi theo .
Ung-lẫm quay xe trở lại đánh.
Nhưng đánh chưa được mười hiệp lại bỏ chạy nữa.
Tào-Muội tức giận, đốc binh tiến tới.
Lỗ trang- Công sợ Tào-Muội có điều sơ thất, liền khiến Tần-Tử và Lương-Tử kéo binh theo tiếp ứng.
Hai tướng kéo binh đi chưa khỏi vài dặm đường bỗng gặp đạo quân của Bảo Thúc-Nha chận lại.
Hai bên giao chiến rất hăng.
Lỗ trang-công được tin vội vã kéo đại binh đến tiếp cứu , chẳng ngờ vừa tới nơi thì binh phục của Ninh-Việt và Tôn trọng-Thu đã chờ sẵn nổi dậy phủ vây bốn mặt.
Binh Lỗ bị chận đánh nhiều đoạn, quân-lực không đủ, lại bị đánh bất ngờ, hàng ngũ rối loạn bõ chạy.
Bảo thúc-nha xua binh chém giết một hồi, rồi hô lớn :
– Ai bắt được Lỗ-hầu thì được trọng thưởng.
Binh Tề được lịnh xông vào đạo trung quân vây rất ngặt .
Tần-Tử thất kinh vội rút cây cờ hiệu của Lỗ trang-công quăng xuống đất.
Lương-tử lại nhặt lên, cắm vào xe mình.
Tần-Tử hỏi :
– Ta đã muốn cứu nguy cho Chúa công nên mới quăng cờ đi , sao Tướng-quân lượm làm chi ?
Lương-tử đáp :
– Ta cũng vì muốn cứu nguy cho Chúa-công mà lượm đó.
Lỗ trang-công hiểu ý cởi cả áo mão bỏ trên xe Lương-tử , rồi sang qua xe khác mà trốn .
Ninh-việt thấy trên xe có cắm cờ hiệu, lại có người mặc long bào, ngỡ là Lỗ trang-công, nên dồn cả quân-lực về phía đó, quyết bắt sống cho được để lãnh thưởng.
Lương-tử chống cự một lúc, rồi cởi áo, nói lớn :
– Ta đây là Lỗ-tướng chứ đâu phải Lỗ-hầu mà chúng bay đánh hăng như vậy ?
Quân Tề nghe nói, xem lại thấy tướng Lỗ là Lương-Tử, nỗi giận chưởi rủa om sòm, rồi áp lại bắt sống, đem nạp cho Tề hoàn-công.
Tề hoàn-công truyền chém đầu tại chỗ.
Bảo thúc-nha biết Lỗ trang-công đã trốn thoát liền xua quân đuổi theo truy kích.
Quân sĩ la ó vang trời.
Lúc đó, Quản di-Ngô đang phòng thủ nơi hậu dinh, nghe tin báo trung quân của Lỗ-hầu bị bại trận, liền khiến Thiệu-hốt ở lại phò Công-tử Củ, còn mình xuất quân cứu ứng.
Vừa ra khỏi dinh đã gặp Lỗ trang-công hơ hải dẫn một số tàn-quân chạy về.
Lỗ trang-công nói :
– Quân ta đại bại, thế giặc rất hăng. Phải gấp gấp nhổ trại lui binh kẻo không kịp.
Quản di-ngô tuân lệnh , truyền nhổ trại tức khắc.
Ði chưa được bao xa, xảy thấy trước mặt có một đạo binh kéo đến.
Ấy là binh của Vương-tử Thành-phủ và Ðông Quách-nha vâng lệnh Bảo thúc-nha phục binh đón đường về.
Lỗ trang-công thất kinh than rằng :
– Ta đã lầm kế phục binh, trận này ắt khó thoát !
Tào-muội thấy thếm vội nói lớn :
– Chúa công hãy mau đi trước, để tôi liều thác đây mà cự với giặc.
Nói xong, quay qua hỏi Tần-Tử :
– Tướng-quân có vui lòng cùng tôi hy-sinh chăng ?
Tần-tử nói :
– Ðiểu đó ngài khỏi phải bận tâm.
Hai người giục ngựa tới trước, vung gươm cản Vương-tử Thành-phù và Ðông quách-nha lại.
Còn Quản di-ngô thì phò Lỗ trang-công, Thiệu-Hốt phò Công-tử Củ tìm đường tắt mà chạy về nước Lỗ.
Hai tướng Tề thấy Lỗ-hầu chạy thoát liền bỏ Tào-muội và Tần-tử, giục ngựa đuổi theo .
Lỗ trang-Công vội vàng rút cung tên bắn trở lại.
Quản di-ngô cũng tiếp tay .
Lỗ trang-công và Quản di-ngô là hai tay thiện-xạ , nên tướng Tề cả sợ chẳng dám tới gần.
Đến lúc Tào-muội và Tần-Tử theo kịp thì hai tướng Tề không dám đuổi theo nữa, quay lại đánh.
Tào-muội chống cự một lúc rồi mở huyết lộ thoát thân, còn Tần-tử thì bị chết giữa trận tiền.
Giết được tướng Lỗ, quân Tề đắc thắng trở về.
Bảo thúc-nha ra lệnh tập họp các toán binh sĩ, rồi cùng nhau hộ giá hồi loan.
Về đến Lâm-tri, Tề hoàn-công mở tiệc khao thưởng ba quân. Chúa tôi vui mừng hỉ-hạ.
Bảo thúc-nha nói :
– Công-tử Củ còn ở bên Lỗ, có Quản đi-Ngô và Thiệu-hốt phò tá lại thêm Lỗ-hầu bị thất bại vừa rồi, hết tình giúp đỡ, như thế thì mầm khởi loạn vẫn còn, chưa phải lúc chúng ta hoan-hỉ.
Tề hoàn-công hỏi :
– Vậy muốn trừ hậu-hoạn phải làm thế nào ?
Bảo thúc-nha nói :
– Nay nhân Lỗ-hầu vừa thất trận, quân sĩ kinh-hoàng, chúa tôi thất đởm , ta nhơn cơ-hội này kéo binh đến đóng nơi biên-giới, ép Lỗ hầu phải nạp Công-tử Củ. Tôi chắc rằng Lỗ-hầu phải sợ mà tuân lời .
Tề hoàn-công nói :
– Mọi việc ta cũng ủy-thác cho khanh, vậy khanh hãy liệu-lượng .
Bảo thúc-nha được lệnh, kiểm điểm ba vạn binh ròng và hai trăm cỗ chiến-xa, kéo đến đóng nơi mé sông Vạn-thủy . Rồi viết một phong thư sai Công tôn Thấp-bằng đem dâng cho Lỗ trang-công .
Bức thư như sau :
Ngoại-thần Bảo thúc-nha kính đệ Lỗ-hầu ngự lãm. Thuở nay, nhà không hai chủ, nước không thể để hai vua. Nay Chúa tôi đã thuận theo lòng dân, lên tức vị, nối nghiệp Tiên-quân thế mà Công-tử vẫn còn tranh lập là trái lẽ . Tuy nhiên, Chúa tôi vì tình ruột thịt không nỡ nhúng tay trong việc cốt-nhục tương tàn, cho nên cậy tay hiền- hầu vì Chúa tôi, mà giúp việc ấy. Còn Quản di-ngô và Thiệu-hốt là ngươi thù của Chúa tôi, xin hiền-hầu bắt nạp về cho Chúa tôi trị tội. Được thế, tình thân của hai nước Tề và Lỗ sẽ bền vững muôn đời.
Khi Thấp-bằng lãnh thư ra đi, Thúc-nha lại dặn thêm :
– Quản di-ngô là người kỳ-tài trong thiên-hạ, tôi đã tâu với Chúa-công xin đem va về dùng. Vậy tướng quân đến đó phải tùy cơ ứng-biến, đừng để cho Quản di-ngô bị chết hoặc liều mình .
Thấp-bắng nói :
– Nếu Lỗ-hầu muốn giết , thì tôi biết lấy lời gì mà can đặng ?
Thúc-nha nói :
– Tướng-quản nhắc lại chuyện bắn Chúa-công, ắt Lỗ-hầu phải nghe theo.
Thấp-bằng qua đến nước Lỗ, và dâng thư cho Lỗ trang-công.
Lỗ trang-công vội-vã cho đòi Thi-bá đến, nói :
Ngày trước vì ta không nghe lời ngươi nên mới bị thua , nay binh lao mã liệt, Tiểu-bạch lại còn sai Bảo thúc-nha đem quân đến biên-giới, đòi nạp Công-tử Củ nữa. Nay chỉ có hai đường. Một là giết Công-tử Củ, hai là quyết sống chết với Tề một phen, ý khanh liệu thể nào ?
Thi-bá nói :
– Tiểu-bạch mới lập lên mà được lòng quân mến phục. Đánh một trận nơi Kiều-thời, ta đã thấy rõ Tiểu-bạch tài trí hơn Công-tử Củ nhiều . Nếu vì tình mà bảo vệ Công-tử Cũ , e nước Lỗ phải lâm nguy . Còn giết Công-tử Củ để bảo vệ nước Lỗ, lại tổn-thương đến tình nghĩa. Hai việc rất khó tính.
Lỗ trang-công suy nghĩ một lúc rồi hỏi :
– Khanh có cách gì tính cho song toàn chăng ?
Thi-bá nói :
– Đành phải hy-sinh Công-tử Củ vậy .
Lỗ trangCông ứa nước mắt, ruột xót như bào.
Lúc bấy giờ Công-tử Củ, Quản di-ngô và Thiệu-hốt đang ở tại Sanhđậu.
Lỗ trang-công sai Công-tử Yến đem binh đến giết Công-tử Củ bắt Quản di-ngô và Thiệu-hốt bỏ vào tù xa.
Thiệu-hốt thấy vậy than rằng :
– Làm con nên vì cha mẹ mà chết, làm tôi nên vì Chúa mà hy-sinh , ấy mới phải đạo. Nay Công-tử Củ đã chết thì Hốt nấy còn sống mà làm chi.
Nói rồi đập đầu vào một cây cột mà tự vận .
Quản di-ngô nói :
– Nếu Thiệu-hốt đã liều chết theo Chúa, thì ta cũng nên vì Chúa mà giữ thân này lại, để có ngày minh oan cho Chúa ta.
Nói rồi bó tay chịu trói mà vào tù xa.
Công-tử Yến giải Quản di-ngô về triều .
Thi-bá thấy Quản di-ngô liền tâu với Lỗ trang-công :
– Công-tử Củ đã chết, lẽ ra Quản di-ngô phải vì Chúa và buồn rầu, nhưng tôi trông sắc mặt của va vẫn tươi tỉnh như thường, tỏ rằng va không sợ nước Tề bắt về giết. Nếu Tề đã không giết ắt dùng va, mà va là một nhân tài có thể đồ vương, định bá được. Vậy xin Chúa Công lưu lại mà dùng.
Lỗ trang-công nói Quản di-ngô là kẻ thù của Tiểu-bạch, lẽ nào Tiểu-bạch lại chịu dùng ?
Thi-bá nói :
– Một ông vua chí lớn, biết mưu đồ đại sự sẽ không vì một tư thù nhỏ mọn mà giết đi một nhân tài. Nếu Chúa-công không muốn dùng, xin đem giết đi rồi trả xác lại cho Tề mới khỏi lo về sau .
Lỗ trang-công còn đang dụ dự , Thầp-bằng vội quỳ tâu :
– Quản di-ngô trước kia đã bắn Chúa-công, Chúa-công tôi muốn tự tay mình giết chết mới hả lòng. Nay nếu quí-quốc đem giết đi, rồi trả xác lại, ắt Chúa-công tôi sẽ không nguôi được giận.
Lỗ trang-công giết Công-tử Củ cốt làm hài lòng nước Tề, nay sứ nước Tề tỏ ý như thế, nên không dám giết Quản di-ngô, bèn truyền đem Quản di-ngô, giao cho sứ Tề giải về nước.
Thấp-bằng lãnh tù xa, rồi bái biệt lui về.
Ngồi trong tù xa, Quản di-Ngô đoán biết đó là mưu của Bảo thúc Nha muốn cứu mình. Song lại sợ Thi-bá ăn năn cho người đuổi theo bắt giết đi, nên nóng lòng, muốn cho quân-sĩ mau mau vượt qua khỏi biên giới Lỗ.
Quản di-ngô bèn đặt ra bài hát cho vui mà quên cực nhọc, để đi cho mau .
Bài hát như vầy :
Thương chim hồng hộc mắc lồng
Ngoài kia bát ngát chập chổng núi non
Tấm lòng son
Dạ không mòn
Rừng cây còn đó, chim càng ước mong
Màn vũ-trụ , thu phong man-mác
Kiếp hải hồ, mây bạc lửng-lơ
Lồng son của kín bây giờ
Ngày mai ai biết mà ngờ ngày mai.
Thực vậy nhờ bài hát ấy mà quân sĩ quên cả mệt nhọc đi rất mau không mấy lúc qua khỏi biên giới nước Lỗ.
Lỗ trang-công sau khi đàm luận với Thi-bá, ăn năn hồi hận, vội sai Côqg-tử Yến đem quân đuổi theo để bắt Quản di-ngô lại, nhưng theo không kịp, đành phải trở về.
Quản di-ngô ngước mặt lên trời cười lớn, nói :
– Mạng ta chắc đặng sống rồi.
Khi đi tới đất Đường-phụ , Bảo thúc-nha đã chờ sẵn nơi đó để nghênh-tiếp.
Vừa thấy mặt Quản di-ngô, Thúc-nha mừng rỡ chạy đến mở tù xa đưa Quản di-ngô ra.
Quản di-ngô nói :
– Chưa có quân-mạng sao lại mở tù xa.
Bảo thúc-nha nói :
– Không hề chi, tôi sẽ tiến cử ông với Tề-hầu. Ông đã quên lời hứa của chúng ta ngày trước rồi sao ?
Quản di-ngô nói :
– Làm sao mà quên được. Nhưng trước kia khác, nay khác. Tôi với Thiệu-hốt phò Công-tử Củ mà chẳng làm nên việc, lại không trọn tiết làm tôi, còn mặt mũi nào dám chịu ơn kẻ địch !
Bảo thúc-nha nói :
– Câu chấp những việc nhỏ nhặt không thể thành danh được, cũng như không nhẫn nhục được những tiếng xấu nhỏ nhen, chẳng bao giờ làm nên đại sự . Ông có tài trị thiên hạ nhưng chưa gặp thời, còn chúa tôi là một người đại-lượng, nhưng thiếu người giúp. Nếu ông không tị-hiềm phò chúa tôi, chẳng khác nào như cây nước gặp nhau, dựng nên nghiệp bá, oai danh lừng lẫy trong thiên hạ, để tiếng muôn đời, thật là quí hóa.
Quản di-Ngô làm thinh như đang suy nghĩ điều gì.
Bảo thúc- Nha mở trói, dắt Quản di-ngô vào nhà Công-quán đãi đằng, rồi cầm Quản di-ngô ở lại nơi Đường-phụ, một mình trở về triều ra mắt Tề hoàn-công, tâu rằng :
– Tôi về đây để chia buồn và đồng thời cũng chia vui với Chúa-công.
Tề hoàn-công hỏi :
– Có việc gì buồn, vui ta chưa hề biết ?
Bảo thúc-nha nói :
– Việc buồn là Công-tử Củ, anh ruột của Chúa-công đã bõ mình. Biết rằng vì nước bất đắc dĩ phải để Công-tử Củ chết, nhưng tình cốt-nhục không thể không buồn !
Tề hoàn Công nghe nói thở dài.
Bảo thúc-nha nói tiếp :
– Còn việc vui là Quản di-ngô chưa chết, và đã được đưa về nước Chúa-công sẽ gặp được một nhân tài lẽ nào lại chẳng vui .
Tề hoàn-công nói :
– Quản di-ngô bắn ta một mũi tên, hiện nay mũi ten ấy ta còn giữ, lòng oán hận chưa nguôi, lẽ nào ta lại dùng va được sao ?
Bảo chúc-nha nói :
– Làm tôi thì ai cũng phải hết lòng vì Chúa. Quản di-ngô bắn Chúa-công là vì lúc đó Quản di-ngô phò Công-tử Củ, trong lòng chỉ biết có Công-tử Củ mà không biết đến Chúa-công. Nay Chúa-công dùng Quản di-Ngô, thì Quản di-ngô lại vì Chúa-công mà bắn thiên-hạ. Chính những kẻ như thế mới đáng là trung thần.
Tề hoàn-công tươi ngay nét mặt, như hiểu được sự kỳđiệu của lòng người, nói :
– Nếu khanh không nói, thì ta đã nghĩ đến điều oán-hận nhỏ nhen mà quên cả đại-sự.
Bảo thúc-Nha cả mừng cúi lạy lui ra, đến đón Quản di-Ngô, mời về tưđinh mà bàn bạc.
Tề hoàn-công nghị thưởng các công thần đã có công với nước, phong cho Cao-Quốc làm chức Thế-khanh, và Bảo thúc-nha làm Thượng khanh, lại muốn giao hết việc triều-chính cho Bảo thúc-nha.
Bảo thúc-nha tâu :
– Chúa-công ban ơn cho tôi được no ấm thì cũng đũ rồi , còn việc trị nước, tài tôi thật không đũ.
Tề hoàn-công nói :
– Ta hiểu tài đức của khanh lắm, khanh chớ khiêm nhượng làm chi .
Bảo thúc-nha nói :
– Chúa-công biết tôi là người kính-cẩn , có thể giữ đúng bổn phận của mình chứ không phải có tài chính-trị. Tài chính-trị phải là kẻ nhìn xa thấy rộng, trên hiểu lòng vua, dưới rõ bụng dân, biết sức mình, lượng sức địch, lúc thái-bình cũng như cơn nguy biến, đũ sức làm chủ được mình mà điều khiển công việc. Những điều đó tôi không thể có được.
Tề hoàn Công nghe nói mỉm cười, bước đến bên Thúc-nha hỏi nhỏ :
– Người mà khanh vừa nói đến, trong đời này có thể có được chăng ?
Bảo thúc-nha nói :
– Có Người đó đang ở trong nước chúng ta. Nếu Chúa-công xét thấy cần người như vậy thì đã sẵn có Quản di-ngô.
Tề hoàn-công nói :
– Tài Quản di-ngô lại hơn khanh được sao ?
Bảo thúc-nha nói :
– Có năm điều tôi không bằng được Quản di-ngô : Thứ nhất rộng rãi mềm mỏng, ra ơn với dân, tôi không bằng được Thứ hai : lấy trung tín mà mua lòng bá tánh, tôi không bằng được. Thứ ba: trị nước không sai giềng mối, tôi không bằng được. Thứ tư: chế lễ nghĩa ra khắp bốn phương , tôi không bằng được. Thứ năm : cầm dùi thẳng đứng giữa ba quân giục lòng quân sĩ, tôi không bằng được .
Tề hoàn-công nói :
– Nếu Quản di-ngô là kẻ có tài thì khanh đòi vào yết kiến, để ta xem thư tài học vấn của Quản di-ngô đến bực nào?
Bảo thúcha nói :
– Người hèn không dám gần gũi với kẻ sang, kè sơ không dám sánh với người thân. Nếu Chúa-công muốn dùng Quản di-ngô thì phải cho va làm đến chức Tướng-quốc, đối đãi như sư-phụ, thì con người tài ấy mới đem hết sở-năng của mình mà hiến cho Chúa-công được.
Tề hoàn-công nói :
– Theo ý của khanh thì ta phải làm cách nào để triệu Quản di-ngô ?
Bảo thúc-nha nói :
– Quản di-ngô là bậc phi-thường trong thiên-hạ. Các bậc Tiên-vương thuở xưa muốn được người hiền phải thân hành đem lễ vật đến cầu. Lúc người hiền đã về triều thì phải để ăn chung một bàn , ngồi chung một chiếu. Xin Chúa-công hãy noi gương ấy để thiên-hạ thấy Chúa-công là người biết quí kẻ hiền-sĩ.
Tề hoàn-công nghe lời, đòi quan Thái-bốc đến hỏi ngày lành, rồi thân hành đi đón Quản di-ngô.
Bảo thúc-nha tin cho Quản di-ngô biết trước để nghinh đón.
Tề hoàn-công và Quản di-ngô cùng ngồi chung một xe mà về triều.
Mọi người đón xem đông đặc, ai nấy đều lấy làm lạ lùng.
Quản di-ngô về đến Kim-loan điện , phục lạy Tề hoàn-công, và tâu:
– Tâu Chúa-công, tôi là kẻ trọng tội, đáng chết, được Chúa-công dung thứ đã là may lắm. Nay Chúa-công lại nhọc lòng ban ơn nữa . Thật tôi không biết phải lấy gì đến đáp cho xứng đáng.
Tề hoàn-công nói :
– Tiên-quân ta có âm đức rất lớn, mới khiến ta được gặp khanh . Vậy khanh hãy vì ta mà có đôi lời chỉ giáo, chẳng những ta mang ơn, mà cả dân chúng nước Tề cũng lấy làm vinh hạnh .
Nói xong, đỡ Quản di-ngô dậy, mời ngồi nơi chiếc cẩm đôn bên cạnh.
Quản di-ngô sụp lạy rồi mới lên ghế ngồi.
Tề hoàn-công hỏi :
– Nước Tề ta vốn là một nước lớn, Tiên-quân ta là Hi-công đã làm cho các chư-hầu kính nể. Đến đời Tương-Công chính lệnh bất thường, đến nỗi xẩy ra tai biến. Nay ta vừa mới lên ngôi, lòng dân chưa định thế nước chưa yên, nay muốn cho nước mạnh dân an phải làm điều gì trước ?
Quản di-ngô nói :
– Lễ , nghĩa, liêm, sĩ là bốn điều cốt yếu để trị nước. Nếu thiếu một trong bốn điều đó tai-biến sẽ xảy ra. Nếu cả bốn điều đó không có, thì nước sẽ mất.
Tề hoàn-Công hỏi :
– Nếu đã có bốn điều đó thì dùng cách nào mà trị dân ?
Quản di-ngô nói :
– Muốn trị dân trước hết phải yêu dân.
Tề hoàn-công hỏi :
– Muốn yêu dân phải làm cách nào ?
Quản di-ngô nói :
– Yêu dân phải dạy dân lấy đạo thân ái, chăm sóc đời sống hàng ngày cho dân, bớt xâu giảm thuế , làm cho dân giàu. Hễ dân giàu tức là nước mạnh.
Tề hoàn-công hỏi :
– Dân giàu, nhưng binh-khí, quân-cụ trong nước thiếu-thốn thì phải làm sao ?
Quản di-ngô đáp :
– Muốn đũ binh khí, quân-cụ thì hình pháp trong nước nên đặt lệ cho chuộc tội : Tội nặng cho chuộc một cái tê-giáp, tội nhẹ cho chuộc một cái quy-thuẫn, tội nhỏ cho nạp kim-khí, tội nghi thì tha hẳn. Kẻ nào tụng lý tương đối thì bắt nộp một bó tên rồi giải hòa . Làm như thế ắt quân dụng không thiếu.
Tề hoàn-công hỏi :
– Đã làm như vậy nhưng không đũ dùng thì phải làm sao ?
Quản di-ngô nói :
– Khai mỏ, đúc tiền , nấu nước bể làm muối, trữ hàng hóa lấy lãi , cắt ba trăm nhà nữ-lưu cho các khách buôn bán đi lại tụ họp ở đó mà đánh thuế. Như vậy, công quỹ phải đủ dùng.
Tề hoàn-công hỏi :
– Của dùng đã đủ , nhưng quân lính còn ít, không đũ sức mạnh thì làm sao ?
Quản di-ngô nói :
– Quân không cần nhiều, chỉ cần tinh nhuệ. Mạnh không vì sức, mà cốt ở tinh thần. Do đó, Chúa-công muốn có binh mạnh chỉ cần giử vững lòng quân , rèn luyện kỹ thuật chiến đấu là đủ .
Tề hoàn-công hỏi :
– Binh thế đã mạnh, có nên đi đánh các nước chư-hầu chăng ?
Quản di-ngô đáp :
– Chưa nên đánh vội . Làm chủ các chư hầu không phải đem sức mạnh hăm dọa, mà phải đem đạo đức ra chinh phục. Trước hết , phải đặt mình lên một địa vị chính đáng đã, sau sẽ dùng cái địa vị đó mà trấn an các chư-hầu.
Tề hoàn-công hỏi :
– Làm thế nào để đặt mình vào địa vị chính đáng ?
Quản di-ngô đáp :
– Danh chánh ngôn thuận là ý muốn của mọi người. Các chư-hầu đều có bổn phận phải tuân vương-mạng. Vậy trước tiên, Chúa-công phải kính trọng nhà Châu và bắt các chư-hầu cũng phải kính trọng như mình.
Tề hoàn-công hỏi :
– Rồi làm thế nào để trấn an các chư-hầu.
Quản di-ngô đáp :
– Phải đem đạo đức mà giao hữu với họ. Đem tất cả các đất đai đã chiếm được trả cho họ để tỏ ra mình không tham lam, lại đem lễ vật đến khắp nơi cầu người hiền đem về nước mà dùng . Nước chư-hầu nào bị loạn tặc, đem quân đến cứu. Làm như vậy nước nào không mến phục.
Tề hoàn-công hỏi :
– Xưa nay đất rộng, dân đông là biểu hiệu cho nước giàu mạnh mà khanh lại bảo không nên đem quân lấn đất giành dân thì làm sao cho nước hùng ?
Quản di-Ngô nói :
– Đem sức mạnh chiếm đất cũng chỉ chiếm được một phần nhỏ nào thôi, vì chiếm rồi còn phải giữ , nếu không đủ sức giữ sẽ bị mất. Còn đem đạo đức mà chiếm đặt thì đặt không cần phải giữ, do đó có thể chiếm bao nhiêu cũng được.
Tề hoàn-công cùng Quản di-ngô nói chuyện trong ba ngày đêm , mà không biết chán.
Tề hoàn-công lấy làm đắc ý, phong cho Quản di-ngô làm Tể-tướng.
Quản di-ngô từ chối không nhận .
Tề hoàn-Công nói :
– Bởi ta muốn theo sách lược của khanh nên phải dùng khanh bỉnh chánh , cớ gì khanh lại từ chối ?
Quản di-ngô nói :
– Không phải sức một cây gỗ có thể làm nên một nhà lớn, không phải sức một giòng nước tạo nỗi một bể cả . Nếu Chúa-công đã có chí lớn thì nên dùng đến năm kiệt-sĩ.
Tề hoàn-công hỏi :
– Năm kiệt-sĩ ấy là ai ? Tài năng như thế nào ?
Quản di-ngô nói :
– Có tài giao-thiệp, biết giữ lễ phép thì tôi không bằng Thấp Bằng, xin cho Thấp-bằng làm Đại Tư-hanh. Có tài khai khẩn, biết cách trồng trọt thì tôi không bằng Ninh-Việt, xin cho Ninh-việt làm Đại Tư điền. Có tài luyện tập quân-sĩ, khiến cho người ta quên chết thì tôi không bằng Thành-phủ, xin cho Thành-phủ làm Đại Tư-mã. Có tài xử đoán, khiến người ta khỏi bị hàm oan, thì tôi không bằng Tân tu-vô, xin cho Tân tu-vô làm Đại Tư-lý. Có tính cương trực, thấy điều trái tất phải nói ngay, thì tôi không bằng Đông quách-nha, xin cho Đông quách-nha làm Đại Giám-quan. Chúa-công trọng dụng năm người ấy ắt trong nước được cường thịnh.
Tề hoàn-công nghe theo lời Quản di-ngô phong-chức cho năm người ấy, và quyết định phong cho Quản di-ngô làm Tể-tướng.
Quản di-ngô nói :
– Chúa-công đã có chí lớn, dẫu tài tôi hèn mọn cũng xin cố sức mà vâng lệnh Chúa-công.
Tề hoàn-công lại hỏi :
-Ta bình sanh có tánh ưa săn bắn, lại thích nữ sắc chẳng hay hay điều ấy có hại đến nghiệp bá chăng ?
Quản di-ngô đáp :
– Đã rõ được nhược điểm của mình tất không hại.
Tề hoàn-công hỏi :
– Thế thì điều gì mới có hại cho nghiệp bá ?
Quản di-ngô nói :
– Không biết người hiền là hại. Biết người hiền mà không dùng là hại. Dùng người hiền mà không dám phú thác việc lớn là hại . Phú chác việc lớn mà để kẻ tiểu nhơn xen vào là hại .
Tề hoàn-công khen phải.
Từ đó công việc triều chính đều phó thác cho Quản di-ngô, lại gọi Quản di-ngô bằng Trọng-phụ . Hễ có việc gì lớn, đều hỏi ý kiến Quản di-ngô trước. Tề hoàn-công lại cấm người trong nước không được gọi Quản di-Ngô, mà chỉ gọi là Quản-Trọng. Vì Trọng là tên chữ, còn Di-Ngô là tên tộc.
Nhắc qua Lỗ trang-công từ ngày thả Quản-trọng về nước Tề có ý hơi tiếc, nay lại được nghe Tề-hầu phong cho Quản-trọng làm Tướng-quốc, lòng tức tối không an, kéo binh sang đánh trả thù việc thất trận ngày trước .
Tề hoàn-công hay đặng tin, hỏi Quản-trọng :
– Ta mới lên ngôi, không muốn để cho nước ngoài tới đánh, vậy nên tính chuyện phạt Lỗ trước là hơn.
Quản-trọng nói :
– Quân chánh chưa yên, chưa thể dùng chinh phạt được.
Tề hoàn-công không nghe khiến Bảo thúc-nha làm tướng, đem binh thẳng đến đất Trường-thược mà đánh Lỗ .
Lỗ trang-công hay tin, hỏi Thi-bá :
– Nước Tề khinh ta thái thậm. Ta muốn đem binh phạt Tề nhưng chưa kịp, thì Tề đã sai tướng sang đánh nước ta . Vậy khanh có kế chi cự địch chăng ?
Thi-bá nói :
– Tôi xin tiến cử một người đủ tài trí, có thể đánh lui binh Tề đặng.
Lỗ trang-công cả mừng, hỏi :
– Chẳng hay người ấy là ai ?
Thi-bá nói :
– Tôi có quen biết ai một người ở ẩn tại làng Đông-bình, tên là Tào-quới , thuở nay chưa ra làm quan, nhưng kinh luân thao lược gồm đũ.
Lỗ trang Công chuẩn tấu, khiến Thi-bá đến Đông-bình rước Tào-quới về triều.
Thi-bá đến nơi, nói rõ ý định của mình.
Tào-Quới vừa cười vừa nói :
– Người ăn thịt còn lo chưa nỗi, huống hồ kẻ đang ăn rau.
Thi-bá nói :
– Ăn rau mà có tài rồi cũng đến ngày ăn thịt vậy.
Hai người dắt nhau đến yết kiến Lỗ trang-công.
Lỗ trang-công hỏi Tào-quới :
– Muốn cự binh Tề phái liệu kế chi ?
Tào-quới tâu :
– Việc binh phải tùy cơ ứng biến. Chưa nắm được địch tình không thể định trước.
Lỗ trang-công khen phải, bèn cùng với Tào-Quới cử binh kéo đến Trường-thược.
Bảo thúc-Nha vì trước đây đã thắng binh Lỗ, nên nay có ý khinh địch. Nghe tin Lỗ-hầu kéo binh tới thì lập tức hạ lệnh tiến quân.
Trại quân Lỗ vừa đóng xong binh Tề đã ào tới.
Lỗ trang-công muốn đem binh xuất trận, Tào Quái can rằng :
– Quân Tề ỷ mạnh, thế quân đang hăng. Ta nên chống giữ đã.
Nói xong, truyền cho quân sĩ chống giữ các cửa trại , nhất thiết không được trái lệnh.
Quân Tề thấy quân Lỗ không đánh, buộc phải rút lui.
Bảo thúc-Nha nghĩ thầm :
– Quân Lỗ bị thất trận trước kia đến nay còn khiếp sợ , nếu ta giục trống đến cướp trại, ắt chúng phải bỏ chạy.
Nghĩ rồi giục trống cho quân sĩ ào tới trại Lỗ một lần nữa.
Quân Lỗ vẫn cố-thủ, quân Tề không làm sao xông vào nỗi, nên một lần nữa lại phải rút lui.
Lúc đó Tào-quới tâu với Lỗ trang-công :
– Lúc này có thể phá quân Tề được, xin Chúa-công ra lệnh tiến quân.
Lỗ trang-công nghe theo, giục trống ra lệnh cho quân Lỗ ào ra khối trại , áp tới đánh quân Tề như vũ bão.
Tề cả thua, bõ chạy.
Lỗ trang-công muốn giục trống đuổi theo.
Tào-quới nói :
– Hãy khoan, xin để tôi xem lại thế trận đã. Nói xong, liền xuống xe, leo lên chỗ cao xem xét một hồi , rồi nói : Đúng là nên đuổi theo truy cản.
Lỗ trang-công xua binh đuổi theo chém giết binh Tề, đoạt khí giới và lương thực không biết bao nhiêu mà kể.
Lỗ trang-công phá xong binh Tề, đắc thắng kéo kinh về kinh đô , người người lòng vui khôn xiết.
Lỗ trang-công mới hỏi Tào-quới :
– Thế chiến vừa rồi, tại sao ta lại thắng được giặc ?
Tào-quới nói :
– Phàm việc quân lấy oai làm sức mạnh. Quân Tề xông trận đã hai phen , mà hai phen phải bị đẩy lui, thì oai của địch đã mất. Ta thừa lúc địch mất oai ta thị oai, như thế tất thắng.
Lỗ trang-công nói :
– Lúc quân Tề đã thua chạy, ý gì khanh lại chưa cho truy cản.
Tào-quới đáp :
– Trong binh pháp có chỗ dĩ hư vi thiệt. Nhiều lúc địch-quân giả thua để mà thắng nếu không đề phòng ắt lầm kế. Vì vậy, trước khi truy cản phải nắm địch tình.
Lỗ trang-công nghe nói khen ngợi chẳng cùng, phong cho Tào-Quới làm Đại-phu, và trọng thưởng Thi-bá về việc tiến cử hiền tài.
Quân Tề thất trận, kéo nhau về nước, manh giáp tơi bời .
Bảo thúc-Nha vào yết kiến Tề hoàn-công mà tạ tội.
Tề hoàn-công tức giận nói :
– Không thắng được binh Lỗ thì làm sao các chư-hầu kính-nễ ?
Bảo thúc-nha nói :
– So với quân lực nước ta không kém Lỗ. Trước đây Lỗ đem binh đánh nước ta, Lỗ là khách, ta là chủ, nên ta thắng được Lỗ . Ngày nay ta kéo binh sang đánh Lỗ, ta là khách, Lỗ là chủ vì vậy mà Lỗ thắng ta . Xin Chúa-công cho sang Tống mượn thêm quân mà báo thù .
Tề hoàn-công nhận lời, sai sứ sang nước Tống cầu viện.
Lúc bấy giờ , vua nước Tống là Tống mẫn-công đang kế vị . Vì muốn giao hảo với Tề , nên Tống mẫn-công sai Nam-cung Trường-vạn làm Chánh-tướng , Mảnh-Hoạch làm Phó-tướng , hiệp binh với Tề do Bảo thúc-nha cầm quân, kéo đến đóng nơi đất Lang-thành.
Lỗ trang-công được tin, triệu tập quần thần bàn kế.
Lỗ trang-công nói:
– Bảo thúc-nha vì thù trước , quyết hợp binh với Tống mà đánh ta . Tướng Nam-cung Trường-Vạn ai có sức mạnh phi thường , nước ta làm sao cự nỗi ?
Quan Đại-phu là Công-tử Yến, tâu :
– Tôi xin ra trận để đò xét quân địch rồi sẽ trở về nghị kế .
Lỗ trang-công nhận lời.
Công-tử Yến ra Lang-thành xem xét rồi trở về tâu :
– Bảo thúc-nha lần này không khinh địch như lần trước , có ý đề phòng cẩn mật lắm . Duy có tướng Nam-cung trường-vạn ỷ có sức mạnh không ai địch nỗi , nên để binh mã lộn xộn . Tôi thiết tưởng nếu quân ta xuất kỳ bất ý đánh úp một trận ắt binh Tống phải chạy. Hễ Tống mà thua thì Tề đâu dám đánh .
Lỗ trang-công nói :
– Ta e không ai cự nỗi Nam-cung Trường-vạn !
Công-tử Yến nói :
– Xin Chúa-công cho tôi thử thi hành mưu chước ấy.
Lỗ trang-công nói :
– Nếu khanh đã quyết ta cũng bằng lòng song phải cẩn-thận .
Công-tử Yên bái mạng, kéo quân ra đi .
Lỗ trang-công nói :
– Ta phải tiếp-ứng cho Công-tử Yến mới xong .
Bèn điểm binh kéo theo sau, cách vài dặm.
Đêm ấy trăng lờ mờ sáng, Công-tử Yến lấy vài trăm tấm da cọp bao lên mình ngựa, rồi khiến quân dẹp cờ giấu trống, âm thầm kéo qua cửa Vu-môn.
Đi đã gần tới dinh Tống mà chẳng ai hay biết gì cả .
Công-tử Yến bèn cho quân ó lên một tiếng , phất cờ giục trống , xông vào trại Tống.
Binh Tống thấy xa xa có một bầy cọp kéo tới, thảy đều run sợ, bỏ chạy tán loạn.
Nam-cung Trường-vạn thấy quân-sĩ mình chạy hết, cũng quày xe bỏ chạy, không dám cự địch.
Kế đó Lỗ trang-công tiếp binh tới, rượt theo chém binh Tống rất nhiều.
Nam-cung Trường-vạn thấy thế nói với Mảnh-hoạch :
– Bây giờ nếu không tử chiến ắt bị giặc bắt.
Mảnh-hoạch nghe nói quày ngựa lại đánh với Công-tử Yến.
Còn Nam-cung. Trường-vạn hươi thương xông vào đám quân Lỗ gặp ai đâm nấy .
Lỗ trang-công nói với Siềng tôn-sanh :
– Người có tiếng là mạnh, nay dám đương đầu với Nam-cung Trường-vạn một phen chăng ?
Siềng tôn-sanh nói :
– Dẫu va có sức mạnh đến đâu mà một ngựa một thương cũng chưa đủ sợ .
Nói rồi hét lên một tiếng, vung đao lướt tới đâm ngay vào bụng tướng Nam-cung Trường-Vạn.
Nam-cung Trường-Vạn đỡ ra một đao nẩy lửa làm cho Siềng tôn-sanh bủn rủn cả tay chân.
Lỗ trang-công biết Siềng tôn-Sanh không cự nỗi , vội bảo kẻ tả hữu :
– Hãy lấy kim-hộc-cô ra cho ta.
Kẻ tả hữu dâng tên, Lỗ trang-công lắp cung nhắm tướng Trường-Vạn bắn ra một mũi .
Mũi tên bay đèn găm vào vai phía hữu của Trường-vạn thấu xương.
Trường-vạn hét lên một tiếng, đưa tay rút mũi tên ra.
Siềng tôn-Sanh thừa cơ hội đâm bồi một giáo trúng nơi cánh tay phía tả, Trường-Vạn bị té xuống đất toan vùng dậy chạy, Siềng tôn-sanh liền nhẩy xuống xe, bắt sống trói lại.
Mảnh-Hoạch thấy chúa-tướng bị bắt vội bỏ xe chạy trốn.
Lỗ trang-công trọn thắng thu binh về, truyền dẫn Trường-vạn vào dưới trướng .
Trường-Vạn tuy bị thương song vẫn còn đủ sức mạnh đi đứng như thường, chẳng hề tỏ về đau đớn gì cả.
Lỗ trang-công mến tài Trường-vạn nên lấy lễ mà đãi.
Còn Bảo thúc-nha thấy binh Tống bị thua nghĩ mình cô thế, phải rút binh về.
Tề hoàn-công thấy Thúc-nha hai phen thua nước Lỗ, mặt buồn dau dàu, tuy không nói ra nhưng lòng hậm hực không an.
Năm ấy, Tề hoàn-công sai quan Đại hành là Thấp-bằng sang nhà Châu để cầu hôn.
Qua năm sau Châu hoàn-vương sai sứ qua nước Lỗ , khiến Lỗ trang-công đứng làm chủ hôn đặng gả Công-chúa Vương-cơ cho Tề hoàn-công .
Nhân việc Chủ hôn ấy mà Tề và Lỗ lại giao hảo như xưa bỏ hết những thù oán cũ.
Bấy giờ nước Tống bị một trận lụt rất lớn , các Chư hầu đều cho sứ đến viếng thăm.
Lỗ trang-Công trước kia có thù với Tống , nay đã thân thiện với Tề thì không còn ghét gì Tống nữa, nên cũng cho sứ sang viếng thăm.
Nước Tống cảm nghĩa, cũng cho sứ sang trả lễ và xin tha cho Trường-vạn về nước .
Lỗ trang-công nhận lời.
Nam-cung Trường-vạn được đưa về ra mắt Tống mẫn-công .
Tống mẫn-công trông thấy Trường-vạn bèn nói đùa rằng :
-Ngày trước ngươi là tướng, ta rất mực kính yêu, nhưng nay người là tù của nước Lỗ, ta không còn kính yêu nữa.
Nam-cung Trường-vạn nghe nói thẹn đỏ mặt, cáo từ lui ra.
Quan Đại-phu Cửu-mục hiểu ý nói riêng với Tống mẫn-công :
– Vua tôi giao tiếp với nhau cần phải đứng đắn, không nên đùa bỡn. Nếu đùa bỡn là mất lễ nghi sinh điều khinh lờn phản nghịch. Xin Chúa-công xét lại. Tống mẫn-công nói :
– Ta cùng Nam-cung Trường-vạn quá ư thân thiết. Đã thân thiết mà còn giữ lễ thì sao gọi là thân ? Ta tưởng điều ấy chẳng tai hại gì.
Năm ấy vua Trang-vương nhà Châu mất, Thái-tử Hồ-Tề lên nói gối tức là vua Hi-vương.
Châu hi-vương gởi tờ cáo phó khắp các chư-hầu. Lúc đến nước Tống thì gặp lúc Tống mẫn-công đang cùng các cung-phi vui chơi nơi Mông-trạch. Lại khiến Nam-cung Trường-vạn ném kích làm trò vui: Nguyên Nam-cung Trường-vạn có tài ném kích lên trời cao đến mấy trượng rồi lại giơ tay bắt lấy, trăm cái không trật một. Cung-nhân nghe nói ai nấy cũng muốn xem, nên Tống mẫn-công cho Nam-cung Trường-vạn theo hầu, và bảo làm trò ném kích ấy.
Các cung-nhân xem thấy tài của Trường-vạn đều vỗ tay khen ngợi không dứt lời.
Tống mẫn Công không bằng bằng lòng, có ý ghen tài, liền sai nội thị đem bàn cờ ra để đánh với Nam-cung Trường-vạn, hễ ai thua phải uống một bát rượu rất lớn.
Tống mẫn-công vốn là tay cao cờ, Trường-vạn thua luôn năm ván .
Trường-Vạn đã ngà ngà say nhưng lòng chưa thua, xin đánh thêm ván nữa.
Tống mẫn-công nói :
– Tù-nhân thì tất phải thua, dù đánh thêm mấy ván cũng chẳng thắng nỗi.
Nam-cung Trường-vạn xấu-hổ, ngồi lặng thinh không nói.
Bỗng có tin sứ nhà Châu đem thiệp cáo phó đến .
Tống mẫn-công nói :
– Thế thì ta phải sai ngươi vào triều Châu điếu tang và chúc mừng vua mới. Nam-cung Trường-vạn nói :
– Tôi nghe Kinh đô nhà Châu đẹp lắm, mà mắt chưa từng xem , xin Chúa-công cho tôi đi sứ .
Tống mẫn-công vừa cười, vừa nói :
– Khi nào nước Tống không còn ai nữa thì mới sai tù-nhân đi sứ .
Các cung-nhân đều cười ầm lên.
Trường-Vạn mặt đỏ bừng, vì thẹn quá mà hoá giận, lại đang lúc say rượu chẳng còn nghĩ gì đến đạo vua tôi, cả tiếng mắng :
– Hôn quân vô lễ ! Ngươi phải biết rằng tù-nhân có thể giết người được !
Tống mẫn-công nổi giận, nói :
– A ! Thằng tù-nhân ! Mày dám nói càn đến thế sao ?
Nói xong giật cây kích của Trường-vạn, toan đâm một nhát.
Nam-cung Trường-vạn giật ngay bàn cờ đập vào đầu Tống mẫn-công té xuống, rồi phang luôn mấy cái , Tống mẫn-công chết tươi.
Bọn cung nhân sợ hãi, bỏ chạy tán loạn.
Nam-cung Trường-vạn hơi giận chưa nguôi cầm kích ra khỏi ly-cung, gặp quan Đại-phu Cửu-mục.
Cửu Mục hỏi :
– Chúa-công có ở trong đó chăng ?
Nam-cung Trường-vạn đáp :
– Hôn quân vô lễ ! Ta đã giết chết rồi, chớ hỏi làm gì !
Cửu-Mục ngỡ Nam-cung Trường-vạn say rượu, nói sảng, nên mỉm cười nói :
– Uống bao nhiêu rượu mà say đến thế ?
Nam-cung Trường-vạn nói :
– Ta không say rượu. Ta nói thật đấy.
Vừa nói Nam-cung Trường-vạn vừa giơ bàn tay lên cho Cửu-mục xem. Máu me còn dính ràng rụa.
Cửu-mục thất kinh mắng lớn :
– Đồ phản-nghịch giết vua ! Tội ấy khó dung.
Nói rồi liền giơ cái hốt lên đánh Nam-cung Trường-vạn.
Nam-cung Trường-vạn bỏ cây kích xuống đất , tay trái đỡ văng cái hốt đi , tay mặt đấm mạnh vào đầu Cửu-mục .
Đầu Cử-mục vỡ nát ra từng mảnh , răng gãy bắn vào một chánh cửa, ghìm sâu vào đấy.
Giết xong Cửu-mục, Nam-cung Trường-vạn lượm kích lên cầm tay thủng thẳng bước lên xe, coi như không có việc gì cả.
Quan Thái-tể Hoa đốc hay tin, vội vàng dẫn quân đến bắt.
Khi đến gần Đông-cung, gặp Nam-cung Trường-vạn đi tới, nét mặt lầm-lì .
Hoa đốc chưa kịp múa gươm đã bị Nam-cung Trường-vạn xáng cho một kích , chết không kịp mắng chưởi tiếng nào.
Nam-cung Trường-vạn vào triều, tôn Công-tử Du lên nối ngôi .
Các Công-tử khác nghe tin đều bỏ trốn ra nước ngoài, trong số đó có Công-tử Nghị-thuyết trốn sang nước Bạc.
Nam-cung Trường-vạn nói :
– Nghị-thuyết là người học giỏi có tài, nay trốn sang nước Bạc , ắt về sau sinh biến. Chỉ cần giết được Nghị-thuyết là xong, còn các Công-tử khác chẳng làm chi nỗi mà sợ.
Nói rồi liền sai con là Nam-cung-ngưu, cùng với Mảnh-hoạch đem quân vây đất Bạc.
Công-tử Nghị-thuyết hay tin bàn với Bạc-chúa sai người qua nước Tiêu cầu cứu .
Chúa nước Tiêu đem binh đến, lại họp với các Công-tử vừa chạy đi lánh nạn, mà giải vây.
Công-tử Nghị Thuyết thấy có cứu binh đến vội mở cửa thành tiếp-ứng.
Hai bên đánh dồn lại, quân Tống vỡ loạn, đầu hàng Công-tử Nghị-thuyết rất nhiều.
Tướng Nam cung-ngưu bị tử rạn, còn Mảnh-hoạch không dám trở về, trốn qua đất Vệ cư trú.
Dẹp được binh Tống, Đái thúc-bì bày kế cho Nghị-thuyết dựng cờ hiệu của binh Tống, kéo về kinh đô giả làm đoàn quân của Nam cung-ngưu chiến thẳng kéo về.
Nam-cung Trường-vạn ngỡ thiệt không chút đề phòng.
Các Công-tử kéo quân thẳng vào trong thành, hô lớn :
– Hãy bắt tên phản nghịch Nam-cung Trường-vạn mà giết !
Nam-cung Trường-vạn thất kinh, lật đật vào cung phò Công-tử Du lánh nạn, nhưng vừa vào đến cửa đã nghe tin Công-tử Du bị giết .
Trường-vạn thở dài nghĩ thầm :
– Các nước chư hầu đều có giao-hảo với Tống cả, nay chỉ có nước Trần là nghịch với Tống mà thôi . Vậy ta qua đó mới yên thân .
Nghĩ rồi toan thoát ra cửa, nhưng sực nhớ đến mẹ già hơn tám mươi tuổi, còn ở nơi dinh thất, bèn quay về nhà ôm mẹ lên xe , tay trái cầm kích, tay phải đẩy xe cho mẹ, phá cửa thành chạy nhanh như bay, không một ai dám cản trở cả.
Từ Tống sang Trần đường xa hơn ba trăm dặm, mà Nam-cung Trường-vạn chỉ 41 một ngày đã đến nơi . Thật là một người sức khỏe lạ lùng, xưa nay ít có !
Công-tử Du bị chết, Công-tử Nghị-thuyết lên nối ngôi xưng hiệu là Tống hoàn-công. .
Tống hoàn-công phong cho Đái thúc-bì làm Đại-phu, lại sai sứ sang nước Trần, yêu cầu Trần bắt giao Nam-cung Trường-vạn về nước .
Lúc bấy giờ Công-tử Mụcđi mới lên năm tuổi, đứng bên cạnh Tống hoàn-công, nghe nói cười lớn, thưa :
– Không bắt được Nam-cung Trường-vạn đâu.
Tống hoàn-công hét :
– Mi là con nít, biết chi mà nói .
Công-tử Mụcđi nói :
– Người có sức khoẻ ai mà chẳng kính trọng. Tống bỏ đi thì Trần tất dùng. Nếu không có lễ-vật để mua lòng, chẳng bao giờ Trần chịu bắt Trường-vạn.
Tống hoàn-công nghĩ lại, khen phải, liền sai sứ đem nhiều lễ-vật châu-báu sang cống hiến cho Trần. Đồng thời cũng sai sứ sang nước Vệ yêu cầu bắt Mãnh-hoạch nữa.
Sứ Tống qua đến Vệ, vào ra mắt .
Vệ huệ-công hỏi quần thần.
Quần thần đều thưa :
– Mãnh-hoạch trong lúc nguy cấp sang đầu ta , lẽ nào ta lại bỏ.
Quan Đại-phu Công tôn-nhĩ can :
– Dung dưỡng kẻ hung ác thật chẳng ích chi. Nước Vệ và Tống xưa nay vẫn giao-hảo với nhau nay chỉ vì muốn giữ Mãnh-hoạch làm cho hòa-khí hai nước mất đi, đó là thất sách !
Vệ huệ-Công khen phải, truyền trói Mảnh-Hoạch giải sang nước Tống .
Lại nói qua việc sứ Tống sang Trần yêu cầu bắt Nam-cung Trường-vạn.
Sứ Tống mang lễ vật rất nhiều, vào ra mắt.
Trần tuyên-Công tham lễ, thuận trả Nam-cung Trường-Vạn, nhưng lại sợ sức
mạnh của Nam-cung Trường-vạn khó mà bắt được bèn bảo Công-tử Kết đến nói với Nam-cung Trường-vạn rằng :
– Chúa-công tôi được tướng-quân đến đây khác nào như được mười thành, dẫu nước Tống cố xin đến đâu, Chúa công tôi cũng chẳng nghe. Chúa-công tôi sợ tướng-quân có lòng nghi, nên sai tôi ngỏ lời tâm-phúc để tướng-quân được biết. Nếu tướng quân có chê nước Trần là nhỏ mọn, muốn đi đến một nước khác thì cũng xin thư thả. Chúa-công tôi sẽ vì tướng quân mà sắp sửa hành trang.
Nam-cung Trường-vạn cảm động nói :
– Chúa-công có lòng bao dung, tôi rất mến phục, xin ở đây để đem sức mình mà đền ơn.
Công-tử Kết bày tiệc rượu đãi đằng, rồi xin cùng Trường-vạn kết làm anh em.
Ngày hôm sau, Nam-cung Trường-vạn thân hành đến tưđinh Công-tử Kết để tạ ơn.
Công-tử Kết cũng bày tiệc thết đãi, khiến các tỳ-thiếp dâng rượu cho Trường-vạn uống đến say mèm.
Công-tử Kết lấy một tấm da dê rất lớn khiến bọn võ sĩ bó Trường-vạn lại,
bên ngoài dùng dây gân trâu cột rất chắc. Lại bắt cả bà mẹ của Trường-vạn nữa, rồi áp giải một lượt qua Tống.
Đi đến nữa đường, Nam-cung Trường-Vạn tỉnh rượu, vùng vẫy rất dữ, nhưng da dê bền và trói chặt quá không làm sao tung ra được. Khi đến gần thành Tống, tấm da dê rách, tay chân Trường-Vạn lòi ra ngoài, bọn quân-sĩ lấy gậy đánh đến dập cả xương ống.
Tống hoàn-công truyền đem Nam-cung Trường-Vạn và Mãnh-Hoạch ra lóc từng mảnh thịt để làm mắm, rồi chia cho các quan mỗi người một ít và bảo :
– Kẻ nào làm tôi không trọn đạo thờ vua hãy trông vào thứ mắm đó.
Mẹ Nam-Cung Trường-Vạn già hơn tám mươi tuổi cũng bị giết chết.
Nhắc qua Tề hoàn-công từ khi thua Lỗ ở đất Trường-thược, lấy làm hối hận, nghĩ thầm :
– Bởi ta không nghe lời Quản-trọng nên mới thất binh như vậy. Từ đó, giao tất cả quyền-chính cho Quản-Trọng, ngày nào cũng ở trong cung uống rượu với các cung-phi.
Nếu có ai đem việc nước nói đến thì Tề hoàn-công bảo :
– Sao nhà ngươi không nói với Quản-trọng ?
Bầy giờ có Thụ điêu là đầy tớ yêu của Tề hoàn-công, từ khi Tề hoàn-công giao việc quốc-chính cho Quản-trọng , thường ở trong cung, ít ra ngoài, nên Thụ điêu không làm sao thân cận đặng, vì ra vào nội đình là chuyện cấm.
Thụ điêu bèn tự thiến mình rồi xin cho vào cung hầu hạ.
Tề hoàn-công thấy vậy thương tình, cho hầu cận một bên.
Lại có Dịch-Nha là người rất thạo về nghề đánh xe, bắn giỏi, nấu ăn rất khéo.
Ngày kia, Công-chúa Vương-Cơ có bịnh, Dịch-nha nấu đồ ăn dâng lên, Vương-cơ ăn xong khỏi bịnh. Do đó, Vương-cơ đem lòng yêu mến.
Dịch-nha lại đem nghề nấu ăn của mình khoe với Thụ điêu, nhờ Thụ điêu tiến cử mình được yết kiến vua .
Thụ điêu tâu lại với Tề- hoàn-công.
Một hôm Tề hoàn-công gọi Dịch-nha đến hỏi :
– Ngươi có phải là kẻ nấu ăn khéo không ?
Dịch-nha tâu :
– Tâu Chúa-công , tài ấy không ai sánh kịp.
Tề hoàn-công nói đùa :
– Các giống điểu thú trùng ngư ta đã dùng đũ, bây giờ chỉ có thịt người ta chưa biết vị mà thôi.
Dịch-nha lui ra. Đến bữa trưa đem vào dâng một mâm thịt chín, mềm như thịt dê non, mùi thơm ngào ngạt .
Tề hoàn-công ăn xong, hỏi Dịch-nha :
– Thịt gì mà ngon thế ?
Dịch-nha tâu :
– Đó là thịt người.
Tề hoàn-công giật mình, kinh ngạc, hỏi .
– Nhà ngươi lấy ở đâu ?
Dịch-nha tâu :
– Đứa con trai đầu lòng của tôi mới lên ba tuổi. Tôi thiết tưởng đã trung với vua thì còn kể gì đạo nhà, nên làm thịt con đem dâng cho Chúa-công ăn.
Tề hoàn-công trầm mặt nói :
– Thôi, ngươi hãy lui ra.
Từ ấy Tề hoàn-công cho rằng Dich-nha có lòng trung nghĩa, nên vẫn yêu quí như Thụ điêu vậy.
Thụ điêu và Dịch-nha không ưa Quản-trọng, nay thấy mình được vua tin dùng, bèn tâu với Tề hoàn-công :
– Tâu Chúa-công, chúng tôi thiết tưởng quyền hạn vua tôi có giới hạn, nay mỗi mỗi Chúa-công đều giao cho Quản-trọng, tựa hồ như nước Tề không còn có vua.
Tề hoàn-công vừa cười vừa nói :
– Ta đối với Trọng-phụ chẳng khác nào như thân thể đối với tay chân nếu tay chân mà mất, thân thể bị tàn phế, có dùng được việc gì ? Chúng bây là tiểu-nhân biết gì mà nói.
Thụ điêu và Dịch-nha từ đó không dám nói nữa.
Quản-trọng từ ngày bỉnh chánh, đem lại cho nước Tề khá thịnh vượng.
Thời bấy giờ nước Sư đương hồi cường thạnh, mấy nước nhỏ ở miệt Hớn đông đều phục tùng cống lễ, duy có nước Sái, cậy thế kết thân với Tề, nên không chịu tùng phục.
Nước Sái và nước Tức đều kết-hôn với nước Trấn. Sái-hầu cưới người chị, Tức-hầu cưới người em. Tức phu-nhân là Tức-Vỉ nhan sắc tuyệt vời, đã đẹp mà tánh tình lại đoan chính trông rất khả ái.
Một hôm Tức-Vĩ được phép Tức-hầu cho về nước Trần để viếng quê hương. Khi đi ngang qua thành nước Sái .
Sái-hầu hay tin , bụng bảo dạ :
– Tức phu-nhân là em vợ ta, nhân lúc đi ngang qua đây lẽ nào ta lại không rước vào thành hội kiến.
Bèn sai người đón Tức phu-nhân rước vào cung đãi tiệc.
Trong lúc ăn uống, Sái-hầu dùng lời trêu ghẹo, tỏ ra không đứng đắn.
Tức phu-nhân nổi giận, bỏ tiệc ra đi.
Tức-hầu hay được chuyện Sái-hầu vô lễ, chọc ghẹo vợ mình, lòng căm phẫn nghĩ cách báo thù, liền sai sứ vào triều-cống nước Sở và mật-cáo với Sở văn-vương rằng :
– Sái-hầu cậy thế có Tề che chở nên không phục Sở. Vậy xin Sỡ cứ cất binh qua đánh nước tôi. Nước tôi sẽ sang cầu cứu nước Sái. Sái-hầu là người nông nổi, thì tất đem binh đến cứu . Bấy giờ quí-quốc sẽ hiệp binh với nước tôi mà bắt Sái-hầu trị tội.
Sở văn-vương được kế, mừng lắm, cất quân sang nước Tức .
Quân-sĩ rần rộ kéo đến vây thành.
Tức hầu liền viết mật thư sai sứ sang nước Sái cầu cứu.
Đúng như lời Tức-hầu đã dự tính .
Sái-hầu không suy nghĩ gì cả cơ binh đến nước Tức mà giải vây.
Nhưng vừa đến nơi thì bị binh Sở phục nơi yếu lộ, đánh một trận tơi-bời, quân sĩ rối loạn.
Sái-hầu thất kinh, toan chạy vào thành nước Tức mà trốn. Nhưng Tức-hầu đóng chặt cửa thành không cho vào .
Biết mình đã mắc kế, oán hận thấu trời, Sái-hầu đành bó tay nộp mình cho nước Sỡ.
Sở văn-vương dẫn Sái-hầu về nước, truyền quân đem xử trảm.
Dục-quyền bước ra can rằng :
– Đại Vương đang muốn mở mang thế lực khắp Trung-quốc đáng gì một Sái-hầu mà không thể tha thứ, để cho thiên hạ cho nước Sở ta không phải là một nước đại độ .
Sở văn-vương nói :
– Sái hầu là một đứa ngạo nghễ, lâu nay không đầu phục, hận ấy chưa nguôi. Nay đã bắt được lẽ nào lại tha đi.
Nói rồi truyền quân đem chém.
Dục-quyền cản lại nói :
– Không, không, xin Đại-vương nghĩ lại, lẽ nào vì một oán nhỏ mà quên đại-sự. Nếu Đại-vương cho Sái-hầu về nước ắt từ nay Sái-hầu không còn dám ngạo mạn nữa. Đã vậy các chư-hầu khác trông thấy gương nấy mà mến đức Đại-vương.
Sở văn-vương nhất định không nghe.
Dục-quyền nổi giận một tay nắm áo Sở văn-vương một tay rút gươm nói lớn :
– Thà tôi cùng chết với Đại-vương còn hơn để Đại-vương làm mất nghiệp cả.
Sở văn-vương thay thế sợ sệt nói vội :
– Thôi, thôi ta chịu nghe theo lời khanh.
Nói xong , truyền tha cho Sái-hầu.
Dục-quyền thấy vua đã tha chết cho Sái-hầu, vội vã quăng gươm, quỳ tâu :
– Tâu Đại-vương Đại-vương đã nghe lời can gián của tôi, thật may mắn cho nước Sở. Nhưng tôi phạm tội hiếp vua thực đáng chết . Vậy xin cúi đầu chịu tội.
Sở văn-vương nói :
– Lòng trung thành của ngươi đã vượt quá tội lỗi. Ta không thể vì lỗi nhỏ ấy mà làm cho lu mờ tấm gương trung nghĩa.
Dục-quyền tâu :
– Tâu Đại-vương . Đại-vương tưởng tình tha cho tôi, nhưng tôi tôi không thể tha cho tôi được.
Nói xong, cúi xuống, lượm thanh gươm cắt đứt một chân, rồi hét to :
– Kẻ nào làm tôi vô lễ với vua thì hãy xem đây.
Sở văn-vương quá cảm động truyền đem cái chân của Dực-Quyền cất vào kho, để ghi cái lỗi mình không chịu nghe lời can gián.
Đoạn sai ngự y chuyên chữa cho Dực-Quyền.
Sau một thời gian , Dục-quyền được lành bịnh, nhưng không đi được .
Sở văn-vương phong cho làm chức Đại-hôn để giữ cửa thành.
Kế đó, Sở văn-vương mở tiệc tiễn hành đưa Sái-hầu về nước .
Trong tiệc, Sở văn-vương truyền bọn vũ-nữ đờn ca hát-xướng tưng bừng. Lại truyền cho mỹ-nữ dâng rượu. Trong lúc đang đối ẩm , Sở văn-vương chỉ vào một mỹ-nữ, nói :
– Nàng này đã đẹp lại có tài ht hay.
Nói xong, bảo mỹ-nữ ấy dâng cho Sái-hầu một chung rượu .
Sái-hầu tiếp lấy uống cạn, rồi tự tay rót một chén đầy bước đến dâng cho Sở văn-vương để tạ ơn .
– Sái-hầu đã bao giờ trông thấy một người nào đẹp tuyệt trần chưa ?
Sái hầu nghe nói, sực nhớ đến mối thù của Tức-hầu vừa rồi đã xui Sở đánh Sái, bèn tâu :
– Tâu Đại-vương, theo nhận xét của tôi, trên thế gian này không ai đẹp bằng Tức-Vĩ. Nàng ấy quả sánh với tiên-nga trên cung Quản.
Sở văn Vương hỏi :
– Cái đẹp của Tức-Vĩ như thế nào ?
Sái-hầu nói :
– Mắt trong như thu-thủy, má ửng như nhuỵ đào mình mai , vóc liễu gót sen uyển chuyển như án mây chiều trước gió , tưởng không tài nào tả hết.
Sở văn-vương nói :
– Người đẹp đến thế, tiếc rằng ta không làm sao thấy mặt.
Sái hầu nói :
– Uy đức của Đại-vương dẫu Tề-khương, Tống-tử cũng chẳng khó gì, huống chi Tức-Vĩ chỉ là một người đàn bà trong vòng thế lực của mình.
Sở văn-Vương ngh nói rất đẹp lòng.
Tiệc mãn , Sái-hầu bái tạ về nước.
Sở văn-Vương muốn thấy mặt Tức-Vĩ liền giả kế đi tuần du qua nước Tức.
Tức-hầu hay tin ra khỏi thành tiếp đón rất trọng thể.
Hai vua cùng dắt nhau vào thành mở tiệc chung vui.
Tức-hầu bưng chén rượu dâng cho Sở văn-vương mừng cuộc hội ngộ .
Sở Văn-vương tiếp lấy, vui vẻ nói :
– Ngày trước ta cũng có chút công mọn với quí phu-nhân , vậy nay xin mời quí phu-nhân ra đây tương kiến mà mời ta một chung rượu cho vui .
Tức-hầu không dám trái ý, vội bước vào cung, gọi Tức-Vĩ ra .
Giữa lúc ấy, Sở văn-vương ngồi một mình mắt mơ màng nhìn vào hậu cung, tay mân mê ly rượu, tỏ vẻ nóng lòng.
Cánh màn se sẽ động , những chuỗi ngọc lóng lánh với ánh huyền đăng, nàng Tức-Vĩ từ từ bước ra, gót hài thoăn thoắt, hơi hương ngạt ngào, khiến cho Sở văn-vương cảm thấy như mình đang lạc vào chốn tiên bồng.
Tức-Vĩ đến sụp lạy Sở văn-vương rồi đưa tay lấy ly rượu rất đầy .
Bàn tay ngọc, với ly ngày không phân biệt màu sắc.
Sở văn-vương ngẩn ngơ nhìn, rồi đứng dậy toan tiếp lấy chén rượu, nhưng Tức-Vĩ đã trao cho một cung-nữ để dâng lên cho Sở văn-vương.
Sở văn-vương vừa cạn chén thì Tức-vĩ đã bái tạ lui vào cung.
Năm ấy, vào năm thứ nhứt của vua Ly-Vương nhà Châu, Tề hoàn-công sau một thời gian giao việc triều chính cho Quản-trọng, thấy trong nước dân tình yên ổn, binh lương dồi dào bèn hỏi Quản-trọng :
– Trước kia nước Tề chưa đủ sức, trong thì việc triều chính chưa an, ngoài lòng dân chưa ổn , nay đã tạm yên , chẳng hay cái mộng làm bá-chủ các nước chư hầu đã nên thực hiện chưa ?
Quản-trọng đáp :
– Các chư-hầu còn nhiều nước mạnh hơn Tề. Như phía Nam có Sở phía Tây có Tần và Tấn. Tuy nhiên, nước nào cũng chỉ mạnh về binh-lực chứ không phải mạnh về chính nghĩa , vì họ không biết tôn vua nhà Châu. Nhà Châu dẫu có suy yếu, vẫn là Thiên-tử chung của thiên hạ, thế mà từ khi quân Trịnh bắn vua Hoàn Vương , quân Vệ chống vua Trang-vương, các nước chư-hầu khinh khi bỏ cả việc triều cống. Thậm chí ở nước Sở, Hùng-thông tiếm xưng Vương hiệu nước Trịnh, nước Tống giết vua mà không ai dám hỏi tội.
Nước Tề ta, muốn mạnh phải nắm cho chính nghĩa, luôn luôn thi hành theo mệnh lệnh thiên triều. Nay nước Tống tuy vừa giết được Nam-cung Trường-vạn, khôi phục ngôi vua , nhưng Tống-hầu vẫn chưa được các nước công nhận . Chúa-công nên vào triều Châu , xin Vương mệnh , hợp các chư hầu , công nhận vua nước Tống, còn các chư hầu nào suy yếu ta nên giúp đỡ, các chư-hầu nào ngang-ngược , ta nên họp sức nhau mà vấn tội. Làm như thế các chư hầu phải tùng phục Tề , không cần phải dùng đến binh lực.
Tề hoàn-công nghe nói rất hài lòng, vội sai sứ vào triều Châu , xin phép được tổ chức hội họp.
Vua Ly-vương nói :
– Lâu nay các nước chư hầu đều dễ ngươi không ai về triều bái, nay Tề hầu đã có lòng tưởng đến trẫm, vậy trẫm cho phép được thay mặt trẫm mà lo việc ấy.
Sứ giả trở về báo lại với Tề hoàn-công.
Tề hoàn-công phụng mệnh Thiên-tử, bố cáo khắp chư-hầu triệu-tập các nước họp nhau nơi đất Bắc-hạnh thuộc đất Tề.
Tề hoàn-công lại hỏi Quản-trọng :
– Lần này hội chư hầu ta phải dùng bao nhiêu binh-sĩ ?
Quản-trọng nói :
– Hội họp là để bàn luận với nhau, nếu dùng đến quân sĩ tỏ ra dùng sức mạnh áp-bức, làm sao mọi người phục ?
Tề hoàn-công theo lời sai cất một cái đài cao ba trượng, chính giữa lập bàn hương án để vọng bái Thiên-tử, còn chung quanh bày trí các lễ vật đâu đó rất uy-nghi.
Đến ngày hội, Tống hoàn-công (Nghị-thuyết) đến trước, vào tạ ơn Tề hoàn-công. Kế đến nước Trần, nước Châu đến một lượt, sau cùng là nước Sái, vì Sái-hầu oán nước Sở bắt mình ngày nọ, quyết đến hội để minh oan.
Bốn nước Tống, Trần , Châu, Sái thấy Tề không dùng đến quân sĩ , nhìn nhau khen thầm :
– Tề-hầu quả đem lòng chân thật mà đối đãi với chúng ta.
Bốn nước đều bàn với nhau lui quân ra ngoài cách mười dặm.
Tề hoàn-công hỏi Quản-trọng :
– Nay chư hầu không hội đông đủ, có nên hoãn lại một ngày khác chăng ?
Quản-trọng nói :
– Nay đã có bốn nước đến đũ, như vậy cũng có thể bàn luận được , nếu hẹn lại tức là thất tín. Mà đã thất tín thì sau này mời sẽ không ai đến.
Sáng hôm ấy , Tề hoàn-công thay mặt vua Châu, đứng ra tuyên-bố :
– Tôi phụng mệnh Thiên-tử, mời quí quốc đến đây, mục đích gặp nhau thảo luận việc chính-trị, chỉnh đốn các cơ-cấu tương-quan giữa các chư-hầu . Được như thế, chúng ta mới cùng nhau giữ vững đạo vua tôi và sự công bình trong thiên-hạ. Muốn làm được việc đó , điều cần thiết chúng ta phải tôn lên một nước làm minh-chủ, có quyền hạn điều khiển các nước chư-hầu.
Các nước chư-hầu đều thì thào bàn bạc không dứt . Người thì muốn tôn nước Tống vì nước Tống đã rộng mà phẩm-tước lại cao hơn nước Tề. Nhưng có kẻ cho rằng vua nước Tống mới lập, còn phải nhờ Tề đại diện cho Thiên-tử mà tấn phong.
Cuộc bàn cãi kéo dài mãi không dứt . Cuối cùng, nước Trần đứng lên nói :
– Nay Thiên-tử đã giao quyền cho nước Tề đứng ra triệu-tập chư-hầu, thì đã mặc nhiên công nhận nước Tề là minh-chủ rồi, lựa phải bàn cãi làm chi, xin tôn nước Tề làm minh chủ.
Các nước đồng thanh nói :
– Chỉ có nước Tề mới đảm đương nổi nhiệm vụ đó.
Tề hoàn-công đôi ba phen từ chối, rồi mới bước lên đàn tuyên bố thứ vị :
– Nước Tề làm minh chủ, thứ đến nước Tống , nước Trần, nước Sái, và sau cùng là nước Châu.
Định thứ vị xong, các nước lần lượt vào trước đài bái mạng Thiên-tử , rồi Trọng tôn-thu thay mặt Tề hầu, đọc tờ ước-thệ như sau :
Châu ly-vương năm đầu , tháng ba, ngày mồng một.
Chúng tôi là : Tề-hầu Tiểu-bạch, cùng với Tống, Trần , Sái, Châu, vâng lệnh thiên-tử , hội nơi Bắc-hạnh để làm ước thệ, nguyện trung thành với vua Châu và giúp đở nhau trong lúc cần thiết . Hễ ai trái ước, các nước có quyền họp binh vấn tội.
Nghe xong, các nước chư hầu đều nghiêng mình bái mạng.
Quản-trọng bước lên thềm nói lớn :
– Các nước Lỗ, Vệ, Trịnh, Tào có ý khinh khi Thiên-tử, miệt hạ chư-hầu, lẽ ra phải hiệp binh vấn tội trước, xin các nước quyết định.
Ba nước Trần, Sái, Châu đồng thanh nói :
– Chúng tôi xin vâng mệnh.
Duy có nước Tống, làm thinh không nói gì cả.
Chiều hôm ấy, Tống hoàn-công về nhà quánđịch, nói với Đái thúc Bì :
– Tề-hầu có ý tự đắc, không kể ngôi thứ, vượt lên làm minh chủ, lại còn có ý lấy binh các nước mà thị oai. Nếu ta vâng theo ý ấy ắt sau này ta phải bị phục tùng mãi mãi.
Thúc-bì nói :
– Hiện nay chư-hầu không phải một ý, kẻ theo, người không, dầu Tề có muốn làm bá-chủ cũng chưa thể được . Nếu ta chịu giúp Tề, đánh Lỗ và Trịnh, chẳng khác nào ta củng cố địa vị cho Tề. Như thế có hại cho Tống. Hiện nay, trong bốn nước đến dự, chỉ có Tống là lớn , nếu Tống không giúp thì ba nước kia cũng phải thôi.
Tống hoàn-công nói :
– Mục đích ta đến đây dự hội là để nhận lấy Vương-mạng. Nay Vương-mạng đã nhận xong, còn ở đây làm gì ?
Đêm hôm ấy Tống hoàn-công lẵng-lặng đem quân về nước.
Tề hoàn-công hay tin tức giận nói :
– Chưa chi mà nước Tống đã tính chuyện bội ước rồi.
Bèn sai Trọng tôn-thu đuổi theo.
Quản-trọng nói :
– Tống đã làm sai, mà mình đuổi theo lại là việc trái. Nếu muốn phạt Tống phải tâu với thiên-tử đem quân đến đánh mới được.
Tề hoàn-công nói :
– Nếu vậy, ta cho sứ về triều Châu xin việc ấy.
Quản-trọng nói :
– Đánh Tống chưa lợi. Tống là nước xa, Lỗ là nước gần , muốn cho Tống phục, trước phải đánh Lỗ.
Tề hoàn-công hỏi :
– Muốn đánh Lỗ phải lập mưu chi ?
Quản-trọng thưa :
– Phía Đông-Bắc có nước Toại, thuộc Lỗ. Nước ấy nhỏ lắm, dân cư có bốn họ, ta đem quân lấy nước ấy không khó. Mà chiếm được nước ấy rồi, Lỗ phải sợ. Chừng ấy ta sai sứ sang trách Lỗ-hầu về việc không đi dự hội, một mặt thông tin cho Văn-khương biết việc xích mích giữa Tề, Lỗ hiện nay. Hễ Văn-khương biết được Lỗ-hầu không hòa hiếu với bên ngoại , ắt khiển trách. Trong thì sợ mẹ, ngoài sợ uy ta , làm sao Lỗ-hầu không xin hòa. Lúc bấy giờ ta mới đem quân đánh Tống.
Tề hoàn-công khen phải, liền hưng binh đi đánh nước Toại.
Lỗ trangCông hay tin vội họp triều thần bàn kế.
Công-tử Khánh-phủ thưa :
– Binh Tề đã đem binh đến nước ta hai lần, lần nào cũng bị thua, nay xin Chúa-công cho tôi đem binh ra đánh.
Thi-Bá nghe nói, can rằng :
– Không nên khinh địch. Hiện nay Quản-trọng nắm quyền bỉnh-chánh , quân luật nghiêm minh, ta khó mà thắng nỗi. Vả lại, nước Lỗ ta trước đây rất nhiều ơn huệ với Tề như việc giết Công-tử Cũ , đứng làm chủ-hôn cho Vương-cơ, mà Tề-hầu chưa thể quên được . Nay xin cứ giải-hòa để giữ lấy ân-huệ đó là hơn.
Các quan còn đang thương nghị , bỗng có thư Tề hoàn-công gởi đến.
Lỗ trang-công cả mừng, mở ra đọc.
Thư rằng :
Tôi và hiền-hầu cũng thờ một Thiên-tử nhà Châu, khác nào như anh em, hơn nữa hai nước Tề, Lỗ là chỗ thân thuộc, thế mà kỳ hội vừa rồi nơi Bắc-hạnh, hiền-hầu không chịu đi dự, đã trái với lệnh Thiên-tử lại thương tổn đến tình thân. Tôi rất đau lòng khi phải đem binh sang nước của hiền-hầu để đạo đạt bức thư này.
Tề hoàn-công lại gởi riêng một bức thư cho Văn-khương, vì vậy khi được thư , Văn-khương gọi Lỗ trang-công vào hậu cung nói :
– Tề, Lỗ là hai nước thân thuộc, nếu Tề-hầu có điều không phải với ta đi nữa, ta cũng không nên làm giãm tình thân , huống chi Tề đã có ý muốn cầu hòa với ta mà con lại không nghe sao ?
Lỗ trang-Công không dám cãi lời mẹ liền sai Thi-Bá viết thư phúc đáp :
– Kỳ hội nơi Bắc-hạnh, tôi bị đau không đến dự được, tự thấy mình có lỗi. Nay quí-quốc trách vấn, tôi rất ăn năn. Tuy-nhiên, nếu bắt tôi phải nhận những điều cam kết dưới thành, thật là điều quốc-sĩ. Quí-quốc lui binh ra khỏi biên-giới bấy giờ nước tôi sẽ tuân mệnh.
Tề hoàn-công tiếp được thư rất đẹp lòng, truyền kéo binh khỏi nước Lỗ, ra đóng nơi đất Kha, để chờ Lỗ-hầu đến hội-kiến.
Lỗ trang-công sắp sửa đến đất Kha, hỏi triều thần :
– Có ai dám theo ta đến đất Kha hộiđiện với Tề chăng ?
Tào-muội bước ra xin đi.
Lỗ trang-Công nói :
– Ngươi ba lần giao chiến bị thua nước Tề, nay xin ra đó không sợ nước Tề chê cười sao ?
Tào-muội thưa :
– Chỉ vì bị thua nước Tề ba lần nên tôi mới xin theo Chúa-công để rửa nhục !
Lỗ trang-công nói :
– Ngươi muốn rửa nhục mà theo ta trong chuyến này chỉ thêm xấu hổ. Vì đến ăn thề với họ, tự nhiên mình đã là kẻ chiến bại rồi .
Tào-muội nói :
– Tôi quyết không để cho nước Lỗ mang cái danh biểu xấu xa ấy.
Lỗ trang-công nhận lời cùng Tào-muội lên đường.
Khi đến đất Kha, Tề hoàn-công đã sai người đắp một cái đài rất lớn , bày sẵn lễ vật, đợi Lỗ trang-Công đến làm lễ huyết thệ . Lại truyền lệnh chỉ cho một người được theo hầu Lỗ trang-công lên đài thôi, còn bao nhiêu quân sĩ phải đứng xa, cách hai trăm thước.
Tào-Muội trong mặc áo giáp, ngoài cầm gươm đi theo sau lưng Lỗ trang-công.
Lỗ trang-Công có ý sợ, trái lại Tào-Muội rất hùng dũng.
Hai người vừa bước khỏi thềm .
Đông quách-nha bảo Tào-muội :
– Ngày nay hai nước giao-hòa, gặp nhau để bàn bạc, xin tướng quân hãy bỏ đồ binh khí đi.
Tào-muội trừng mắt nhìn Đông quách-nha, hai khóe mắt toét ra, rươm rướm máu.
Đông quách-nha thấy vậy bước lùi ra sau .
Tào-Muội ungđung bước theo Lỗ trang-công đến trước bàn hương án .
Thấp-Bằng bưng bát máu dâng lên để Lỗ trang-công cùng Tề hoàn-công ăn thề .
Tào-muội mặt hầm hầm, một tay nắm áo Tề hoàn-công , một tay rút gươm nói :
– Hãy khoan !
Quản Trọng vội vã xen vào giữa, hỏi Tào-muội :
– Quan Đại-phu làm gì thế ?
Tào-muội đáp :
– Nước Lỗ bị suy yếu, đã hao tổn nhiều về chiến-tranh thế mà ngày nay những nước tự xưng mình là minh-chủ, hối chư-hầu để cứu giúp những kẻ suy yếu, lại đến làm khổ nước Lỗ nữa, như vậy dám tự hào là chính đáng sao ?
Quản-trọng nói :
– Nước tôi đã làm điều gì hại cho quí-quốc ?
Tào-muội nói :
– Cậy sức mạnh, đem quân chiếm lấy đất Vânđương của nước tôi , sao lại bảo là không làm hại . Nếu quí-quốc thực-tình giao-hảo , hãy trả đất ấy lại cho Lỗ, Chúa-công tôi mới chịu ăn thề. Bằng không tôi nhất định liều chết. .
Quản-trọng ngoảnh lại, nói với Tề hoàn Công :
– Xin Chúa-công chấp thuận lời xin ấy.
Tề hoàn-công nói :
– Thôi, quan Đại-phu hãy buông ra. Tôi hứa sẽ trả đất ấy lại.
Tào-muội nghe nói vội bỏ thanh kiếm xuống, bưng lấy bát máu thay cho Thấp-bằng mà dâng lên .
Lỗ trang-công cùng với Tề hoàn-công làm lễ huyết-thệ .
Xong Tào-muội lại nói :
– Quản-trọng giữ quyền-binh nước Tề, tôi xin cùng Quản-Trọng ăn thề để khỏi có điều hối-hận.
Tề hoàn-công nói :
– Bất tất phải làm như vậy, lời ta đã hứa lẽ nào lại lành trái được sao.
Lễ tuyên-thệ xong các quan nước Tề ai nấy hậm-hực, muốn tìm cách trả thù Tào-muội.
Tề hoàn-công nói :
– Ta đã hứa với Tào-muội rồi ! Dẫu kẻ thất phu đã ước với ai câu gì cũng không nên sai lời, huống hồ ta là Chúa một nước .
Bấy giờ các quan mới chịu thôi.
Sáng hôm sau, Tề hoàn-công lại bày tiệc ở nhà Công-quán để tiễn biệt Lỗ trang-công, rồi đem đất Vânđương trả lại cho nước Lỗ.
Các nước chư-hầu nghe được việc ấy, kêu Tề hoàn-công là người tín nghĩa. Hai nước Vệ và Tào sai sứ đến tạ tội và xin ăn thề.
Tề hoàn-công sai sứ vào tâu với vua Ly-vương nhà Châu , xin cất quân phạt Tống.
Châu Ly-vương nhậm lời, khiến quan Đại-phu Đơn-miệt, kéo binh sang hội với binh Tề.
Lúc ấy nước Trần, nước Tào hay tin cũng xin đem binh giúp sức.
Tề hoàn-công khiến Quản-trọng dẫn một đạo binh đi trước để đón binh hai nước Trần và Tào . Còn mình thì đi với Thấp-bằng , Vương-tử Thành-phủ và Đông quách-Nha, thống lãnh đại binh, hẹn hội nhau nơi đất Thượng-kỳ.
Quản-trọng lãnh mệnh kéo quân ra đi.
Quản-Trọng vốn có một người tiểu-thiếp tên Tĩnh-nương, nàng này tuy phận quần thoa, nhưng lại thông minh học rộng. Vì vậy Quản-trọng đi đâu cũng đem nàng theo hầu.
Ngày kia, Quản-trọng vừa kéo binh đến núi Dao-sơn, bỗng gặp một người chăn trâu, mình mặc áo cộc , đầu đội nón rách ngồi trên lưng trâu, gõ sừng ca hát.
Quản-trọng nghe tiếng ca biết không phải là người tầm thường khiến quân sĩ đem rượu thịt đến cho.
Người chăn trâu ăn xong hỏi quânsĩ :
– Tôi muốn được yết kiến quan Tể-tướng.
Quân sĩ đáp :
– Xe của quan Tê-tướng đã đi xa rồi. Vậy thì cứ ăn cho no mà thôi, cần chi phải gặp mặt.
Người chăn trâu nói :
– Tôi có một lời muốn nói cùng quan Tể-tướng.
Quân sĩ hỏi :
– Lời gì ? Nếu chỉ nói một lời thì bọn ta nói giúp cho cũng được.
Người chăn trâu nói :
– Nước trong leo léo
Quân sĩ đem lời ấy nói lại với Quản-trọng.
Quản-trọng không hiểu gì cả, liền hỏi Tĩnh-nương.
Tĩnh-nương nói :
– Thiếp có nghe, xưa có một bài thơ “Nước trong” .
Bài thơ ấy có câu rằng : “Nước trong leo lẻo , cá lội giữa dòng, người đến triệu ta , ta cũng bằng lòng”. Ý chừng người ấy muốn ra làm quan.
Quản-trọng khiến dừng xe lại , rồi sai người đòi gã chăn trâu đến hỏi .
Gã chăn trâu cúi đầu thi lễ chứ không lạy .
Quản-trọng hỏi tung tích, người chăn trâu nói :
– Tôi là Ninh-thích, người đất Vệ, được nghe Tướng-quốc là kẻ ưa hiền, chuộng sĩ, nên tìm qua nước Tề để tiến thân, ngặt không có ai tiến dẫn nên phải chăn trâu cho người trong làng mà nuôi sống .
Quản-trọng thử-thách trình độ học thức .
Ninh-thích ứng đáp rất rành mạch.
Quản-trọng nói :
– Kẻ hào-kiệt lúc chưa gặp vận cũng khó thi thố tài năng của mình được. Đại binh của Chúa-công ta cũng sắp đến đây , ta viết cho nhà ngươi một phong thơ , nhà ngươi an lòng ở đây mà chờ, lúc nào Chúa-công ta đến, hãy xin yết kiến mà trình thơ , ắt được trọng dụng .
Nói xong Quãn-trọng viết một phong thơ , trao cho Ninh-thích.
Ninh-thích lãnh thơ , rồi ở nơi núi Dao-sơn chăn trâu như cũ .
Cách ba ngày sau, đại binh của Tề hoàn-công kéo đến .
Ninh-Thích lại gõ sừng trâu ca hát vang trời .
Hát rằng :
Mặt Thường-lan nhấp nhô đá trắng
Thân lý-ngư thầm lặng xuôi dòng
Đời không hiền-sĩ
Đất thiếu minh-quân
Thương thân, ta lại tủi thầm
Hởi con trâu trắng
Hơi cụm rừng thâm
Hùng anh sống với âm thầm mãi ư ?
Tề hoàn-công nghe giọng ca lấy làm lạ , khiến kẻ tả hữu bắt dẫn đến hỏi thăm họ tên, quê quán.
Ninh-thích tâu :
– Tôi người nước Vệ, lưu lạc nơi đây .
Tề hoàn-công hỏi :
– Ngươi là một đứa chăn trâu, cớ sao lại dám chê bai thiên hạ ?
Ninh-thích nói :
– Tôi đâu có chê bai . Tôi chỉ tiếc rằng đời nay không có người hiền.
Tề hoàn-công hỏi :
– Sao ngươi lại dám chê rằng “đời thiếu minh-quân” , trong lúc Thiên-tử nhà Châu đang trị vì thiên-hạ, còn ta một nước chư hầu giàu mạnh, trên phục tùng Thiên-tử, dưới chế-ngự chư-hầu đem lại thái bình cho thiên hạ .
Ninh-thích nói :
– Một minh-quân tất phải biết mình, hiểu người rõ được thời bình, thấy được lúc biến, đem ân đức rãi khắp nhân gian, lấy lòng nhân mà trị thiên hạ. Như nhà Châu hiện nay vận nước mỗi lúc một suy, trong thì dân tình không phục, ngoài thì chư hầu bất tuân, tài trị nước không có, sao gọi là minh-quân ? Đến như Chúa-công, giết anh ruột mình mà cướp ngôi , mượn uy thiên-tử để chế ngự chư hầu, nlưng chư hầu đều không phục, sao gọi là giàu mạnh ?
Tề hoàn-công nghe nói nỗi giận mắng lớn :
– Đứa thất phu, dám nói càn.
Liền hô kẻ tả hữu bắt Ninh-thích đem chém.
Ninh-thích không chút sợ hãi, ngước mặt lên trời than :
– Ngày xưa vua Kiệt giết Long-bàng, vua Trụ giết Tỉ-can, nay tôi cùng với hai ông ấy kể là ba người ?
Thấp-bằng thấy thế tâu với Tề hoàn-công :
– Người ấy lời nói không dua mị, lòng không sợ uy nghiêm, chắc không phải là kẻ tầm thuờng, xin Chúa-công chớ nên giết.
Tề hoàn-Công sực nghĩ lại cơn giận đã nguôi, bước tới mở trói cho Ninh-thích, và nói :
– Ta thử nhà ngươi đó thôi . Nhà ngươi quã là một người khí phách.
Ninh Thích thò vào túi lấy phong thư của Quản-trọng dâng cho Tề hoàn-công.
Tề hoàn-công tiếp lấy đọc.
Trong thư viết :
Tôi phụng mệnh đem quân qua núi Dao-sơn , có tiếp được một người nước vệ, tên là Ninh-thích. Người này là một nhân tài trong thiên hạ , không phải những kẻ chăn trâu tầm thường, xin Chúa-công thu dụng, đừng để người ấy đi nước khác mà hối tiếc.
Tề hoàn-công nói :
– Nhà ngươi đã có bức thư của Trọng-phụ sao không tâu trình cho sớm ?
Ninh-thích nói :
– Tôi nghe nói vua hiền chọn người ngay , tôi trung chọn Chúa có đức . Nếu Chúa-công ghét người thẳng , ưa kẻ nịnh , thì thà tôi chết đi còn hơn là đưa thư để được trọng dụng.
Tề hoàn-công rất đẹp lòng, truyền ngồi vào một cỗ xe theo sau .
Tối hôm ấy đóng quân lại nghĩ, Tề hoàn-công sai thắp đuốc tìm mũ áo Tề phong chức cho Ninh-Thích.
Thụ điêu tâu :
– Từ đây đến nước Vệ không xa, xin Chúa-công đợi đến đó hỏi xem Ninh-thích quả là người hiền không đã, rồi sẽ phong cũng chẳng muộn.
Tề hoàn-công nói :
– Đã nghi thì không nên dùng, mà đã dùng thì đừng nghi. Giả thử Ninh-Thích trước kia có một vài lỗi nhỏ đi nữa, nay ta cũng không nên vì lỗi nhỏ ấy mà bỏ phí một nhân tài.
Nói xong, ngay đêm ấy, phong cho Ninh-thích làm quan Đại-phu, lại khiến cùng với Quản-trọng coi việc quốc-chánh.
Ninh-thích lạy tạ lui ra.
Tề hoàn-công truyền tấn binh.
Chẳng bao lâu, đại-binh của Tề hoàn-công đã kéo đến biên-giới nước Tống , hợp với binh các nước chư-hầu đông như kiến cỏ.
Tề hoàn-công họp các tướng bàn kế lấy thành.
Ninh-thích tâu :
– Chúa-công phụng mệnh Thiên-tử đem binh chế-ngự chư-hầu . Mục đích bắt họ phục tùng chứ không phải chiếm đất. Ấy vậy quân lực chỉ làm cho người ta sợ uy chứ không mến phục. Theo ý tôi, chớ nên đánh vội . Tôi dẫu hèn mạt, dám xin đem ba tấc lưỡi mà bảo vua nước Tống phải giảng-hòa.
Tề hoàn-công nghe theo, truyền đóng quân lại, sai Ninh-thích vào trước nghị hòa với Tống hoàn-công.
Ninh-thích ngồi một chiếc xe nhỏ đem theo mấy tên gia-nhân thẳng đến ThưĐương , xin vào yết-kiến.
Tống hoàn-công hỏi Đái thúc-bì :
– Ninh-thích là người thế nào ?
Đái thúc-Bì thưa :
– Tôi nghe người ấy là một kẻ chăn trâu, được Tề-hầu mới dùng làm quan, tất người ấy có tài ứng đối.
Tống hoàn-công nói :
– Vậy thì nên đối xử như thế nào ?
Đái thúc-bì thưa :
– Xin Chúa-công triệu vào lấy lễ mà đãi, để xem ý tứ Ninh-Thích như thế nào. Nếu va có điều chi lỗ mãng, tôi sẽ vuốt giải mão làm hiệu, Chúa-công khiến võ-sĩ bắt giam lại. Như thế mưu của Tề ắt phải hư .
Tống hoàn-công gật đầu khen phải, truyền võ-sĩ mai phục xong xuôi , rồi mới cho Ninh-thích vào.
Ninh-thích mặc áo rộng, thắt đai lớn ung dung bước vào xá Tống hoàn-công một cái.
Tống hoàn-công ngồi yên không đáp lễ.
Ninh-thích ngước mặt lên trời than :
– Nước Tống đã đến lúc nguy khốn rồi.
Tống hoàn-công nghe nói, lấy làm lạ hỏi :
– Ta làm đến bực Thượng-công, phẩm trật đứng trên các chư-hầu , trong nước binh hùng tướng mạnh, dân chúng an vui , sao gọi là nguy khốn .
Ninh-thích nói :
– Hiền-hầu có thể sánh được với Châu-công ngày xưa chăng ?
Tống hoàn-công nói :
– Châu-công là bậc thánh, ta làm sao sánh được.
Ninh-thích nói :
– Châu-công ngày xưa, trong lúc thiên-hạ thái bình thế mà còn phải hết lòng trọng người hiền-sĩ . Lúc đang ăn cơm, nghe người hiền sĩ vào vội nhả miếng cơm, để ra tiếp đón . Trong lúc đang tắm nghe người hiền sĩ đến vội vẫy nắm tóc để ra mời. Nay Hiền-hầu là dòng dõi một nước đã mất rồi, lại gặp buổi loạn lạc, các liệt-quốc tranh hùng, dẫu bắt chước như Châu-công, hết lòng cầu kẻ sĩ , chưa chắc hiền sĩ đã chịu đến, huống hồ lại còn tự đắc, kiêu căng thì những lời trung-trực có bao giờ đến trước mặt hiền-hầu
được . Thế mà lại không cho là nguy khốn sao ?
Tống hoàn-công nghe nói sững sờ, giây lâu mới đứng dậy , nói với vẻ ăn năn :
– Ta mới lên ngôi, chưa được nghe lời giáo huấn của quân-tử, vậy xin tiên sinh miễn chấp.
Thúc-bì đứng hầu một bên thấy Tống hoàn-công đã tỏ ý xiêu lòng, vội đưa tay vuốt giải mão. Nhưng vuốt đến đôi ba lần mà Tống hoàn-công vẫn không thèm nói tới.
Tống hoàn-công hỏi Ninh-thích :
– Chăng hay tiên-sinh đến đây có điều chi dạy bảo tôi chăng ?
Ninh-thích nói :
– Nay Thiên-tử suy-yếu, chư hầu đoạt quyền, việc tranh chấp càng ngày càng khốc liệt, dân gian đồ thán. Tề-hầu không nỡ để cho thiên hạ lâm cảnh tóc tang, phải phụng mệnh Thiên-tử liên kết chư-hầu để lo việc tương thân và trách phạt. Hiền-hầu bội tín làm cho Thiên tử nổi cơn thịnh nộ, nên sai chư hầu đến đây vấn tội. Nếu Hiền-hầu cự với binh triều thì chưa đợi giao binh đã thấy được lẽ thắng phụ rồi.
Tống hoàn-công hỏi :
– Theo sở kiến của Tiên-sinh thì việc này phải thế nào ?
Ninh-thích nói :
– Theo ý tôi, Hiền hầu nên dùng chút đỉnh lễ vật mà cầu hôn . Trên chẳng trái với Châu-vương, dưới vẫn đặng quyền cùng minh-chúa. Như thế nước Tống không cần phải động binh mà vẫn vững vàng thư non Thái.
Tống hoàn-công nói :
– Trước kia ta đã không trọn ước, nữa đêm kéo quân bỏ về không dự hội. Nay Tề-hầu đã đem binh đến đây biết có chấp thuận việc hòa ước của ta chăng ?
Ninh-thích nói :
– Tề-hầu là một người đại nhân đại độ, không kể đến lỗi lầm của kẻ khác. Trước đây Lỗ-hầu không chịu dự hội, sau đến xin ăn thề nơi đất Kha, Tề-hầu vẫn đem đất Vânđương trả lại. Huống chi Hiền-hầu là kẻ đã có lòng đến dự hội, lẽ nào Tề-hầu lại không cho giảng hòa .
Tống hoàn-công hỏi :
– Bây giờ phải dùng những lễ vật chi để cống hiến ?
Ninh-thích nói :
– Là một kẻ đại nhân đại độ, không bao giờ xem của cải là trọng . Hiền-hầu chỉ dùng một vật mọn cũng đũ .
Tống hoàn-công mừng rỡ, sai sứ mang lễ vật xin hòa ước với Tề.
Đái thúc-bì hổ thẹn lui ra.
Sứ Tống đến trại Tề dâng mười cặp bạch-ngọc, ngàn nén vàng ròng, mà tạ tội.
Tề hoàn-công nói :
– Có chỉ mạng của Thiên-tử, ta đâu dám tự chuyên. Phải cậy đại thần của Thiên-tử chuyển tấu về triều Châu mới đặng.
Bèn giao những vàng ngọc ấy lại cho Đơn-miệt.
Đơn-miệt nói :
– Quân hầu đã rộng lòng tha lỗi, nay lại cậy tôi chuyển tấu về triều, tôi đâu dám từ chối.
Tề-hầu tin cho Tống hoàn-Công hay để sắm sửa qua triều Châu, rồi các nước thâu binh về.
– Từ ngày nhà Châu thiên sang Đông đô đến nay, các nước chư hầu không nước nào mạnh bằng Trịnh. Kinh đô nước Trịnh là nơi Đông-quách, chỗ ấy phía trước có núi Trung-sơn, phía sau có sông Hà, phía hữu có sông Lạc, phía tả có sông Tề, thật là nơi hiểm địa.
Hơn nữa, từ lúc Trịnh trang-công thắng được Tống và Hứa, lại kết thân với Sỡ là nước tiếm xưng vương-hiệu, đất rộng binh hùng. Hai nước ấy cấu kết với nhau, nước Tề ta khó bề thắng được.
Tề hoàn-công hỏi :
– Như thế thì biết làm thế nào cho hai nước ấy tùng phục ?
Quản-trọng nói :
– Nhất định phải hạ cho được Sở. Mà muốn hạ Sở trước phải dẹp Trịnh.
Tề hoàn-công nói :
– Ta vẫn biết Trịnh là nơi cốt yếu, muốn thâu đoạt đã lâu, song không biết dùng kế gì đặng.
Ninh-thích nói.
– Công-tử Đột bên nước Trịnh, trước kia lên ngôi chỉ có hai năm, bị Tế-Túc đuổi ra nước ngoài, cư trú nơi đất Lịch. Hiện nay nước Trịnh, Công-tử Nghi đang ở ngôi. Tế-Túc là tôi mà dám đuổi Chúa, Công-tử Nghi là em mà chiếm ngôi anh đó trái là lễ. Xin Chúa-công cho người đến đất Lịch đưa Trịnh đột về nước , lập lên ngôi, ắt Trịnh đột phải mang ơn Chúa-công mà tùng phục nước Tề .
Tề hoàn-Công khen phải, khiến Tân tu-vô đem hai trăm binh ra đóng đồn nơi đất Lịch , rồi sai người đến tỏ ý với Trịnh đột.
Lâu nay Trịnh đột nghe Tế-Túc đã qua đời thường cho người dò xét tình hình nước Trịnh để tính việc phục nghiệp, xảy được tin nước Tề muốn giúp mình về nước, lòng mừng khôn xiết cho người đến đón Tân tu-vô vào thành thết đãi.
Trong lúc đang ăn uống, Tân tu-vô hỏi :
– Chẳng hay nước Trịnh hiện nay ai thay cho Tế-túc ?
Trịnh đột đáp :
– Thay Tế-Túc là Thúc-Thiêm. Người này có tài trị nước , nhưng không có tài cầm binh.
Giữa lúc ấy, bỗng có quân vào báo rằng :
– Kinh-thành nước Trịnh vừa xảy ra một chuyện rất lạ : Phía trong cửa Nam môn có một con rắn dài tám thước, đầu xanh đuôi vàng, cắn lộn với một con rắn phía ngoài cửa dài hơn một trượng, đầu đỏ đuôi xanh. Hai con cắn nhau đến mười bảy ngày thì con rắn trong bị con rắn ngoài cắn chết. Con rắn ngoài chạy thẳng vào thành, đến nhà Thái-Miếu thì biến mất. Thiên hạ đến xem đông nghẹt, nhưng chẳng ai dám lại gần.
Tân tu-vô nghe nói đứng dậy chức mừng Trịnh đột :
– Như thế chắc chắn hiền-hầu sẽ khôi phục được ngôi nước Trịnh.
Trịnh đột hỏi :
– Sao ngài biết được ?
Tân tu-vô đáp .
– Con rắn ngoài cửa tức là hiền-hầu, vì hiền-hầu là anh, nên rắn ấy dài hơn một trượng, còn con rắn trong cửa tức là Công-tử Nghi. Công-tử Nghi là em nên có tám thước. Đến ngày thứ mười bẩy , con rắn bên trong chết, nghĩa là từ khi hiền-hầu bỏ ngôi đến nay đã mười bảy năm, nay trở về phục-quốc được thành công. Đó là điềm trời cho biết trước.
Sáng hôm sau , Tân tu-vô bàn với Trịnh đột đem quân lẻn về lấy đất Đại-lăng.
Quan giữ thành Đại-lăng là Phó-Hà, nghe được tin Trịnh đột kéo quân đến đánh , vội điểm quân khai thành đối địch .
Chẳng ngờ Tân tu-vô phục binh nơi phía sau, tràn vào chiếm thành .
Phó-hà tưởng quân Trịnh đột, sau biết được có binh Tề giúp sức , liệu thế không chống lại, phải xin đầu hàng.
Trịnh đột vốn căm hờn Phó-Hà trong mười bảy năm qua, đã giữ thành rất gắt chống lại quân mình, nên truyền quân đem chém
Phó-Hà la lớn :
– Nếu muốn về nước Trịnh mà Chúa-công đem giết tôi thật là thất sách .
Trịnh đột nghe nói, liền bảo đao phủ thủ dừng lại hỏi :
– Ngươi có kế gì hay sao
Phó-hà nói :
– Tôi có thể lấy đầu Công-tử Nghi được !
Trịnh đột lắc đầu nói :
– Ngươi là một tiểu-tướng, tài cán, mưu mô chi mà làm được chuyện đó , chẳng qua ngươi tham sanh úy tử, kiếm lời gạt ta để khỏi chết mà thôi.
Phó-hà nói :
– Quyền chính trong nước ngày nay thuộc về tay Thúc-thiêm. Tôi cùng với Thúc-thiêm thân nhau lắm. Nếu Chúa-công không chê tôi bất tài, để tôi sống, tôi sẽ về bàn mưu với Thúc-thiêm giết Công tử Nghi đem đầu nạp cho Chúa-công.
Trịnh đột hét to :
– Tên lão tặc ! Đừng gạt ta. Mi muốn trở về bàn với Thúc-Thiêm đem quân đến đây chống cự với ta, ta đã biết rõ.
Nói rồi truyền đao-phủ-thủ đem chém.
Tân tu-vô cản lại, nói :
– Vợ con Phó-hà nay còn trên đất Đại-lăng này. Ta hãy giam lại để làm tin .
Phó-hà nghe nói quỳ móp xuống đất rên rỉ :
– Vợ con tôi còn đó, chẳng lẽ tôi ham sống một mình, bỏ vợ bỏ con tôi sao .
Nói xong ngước mặt lên trời thề.
Lúc đó Trịnh đột mới tin , truyền quân mở trói thả đi.
Đêm ấy, Phó-Hà lẻn về Kinh đô nước Trịnh , vào yết kiến Thúc-thiêm.
Trông thấy Phó-Hà, Thúc-thiêm ngạc nhiên hỏi :
– Nhà ngươi đang trấn thủ Đại-lăng sao lại về đây ?
Phó-hà nói :
– Tề-hầu sai tướng Tân tu-vô đem quân đưa Công-tử Đột về nước , nay đã chiếm được Đại-lăng . Nay mai ắt đại binh kéo đến Kinh-thành. Ngài nên làm cách nào chém được Công-tử Nghi, đem đầu dâng cho Công-tử Đột thì mới khỏi mất ngôi Công-khanh. Vả lại Công-tử Đột là anh đáng lý phải ở ngôi mới thuận.
Thúc-thiêm ngẫm nghĩ một lúc rồi nói :
– Trước kia ta đã có ý đưa Công-tử Đột là vua cũ, về nước nối ngôi, nhưng bị Tế-túc ngăn cản . Nay Tế-túc đã thác, việc này không khó.
Phó-hà hỏi :
– Nếu vậy thì liệu kế nào ?
Thúc-thiêm nói :
– Tin cho binh Tề kéo đến. Lúc đó ta giả đò mở cửa thành đem quân đối địch, tất nhiên Công-tử Nghi phải lên mặt thành đứng xem . Nhà ngươi theo hầu, rút gươm chém đầu Công-tử Nghi, còn ta , ta mở cửa rước Công-tử Đột vào tôn lên ngôi .
Hai người bàn tính xong, mật sai người báo tin với Trịnh đột.
Phó-hà lại vào ra mắt Công-tử Nghi, nói :
– Quân Tề giúp Công-tử Đột chiếm được Đại-lăng rồi .
Công-tử Nghi giật mình nói :
– Thế thì phải viết thư qua nước Sở cầu cứu mới được.
Thúc-thiêm bên ngoài tuân lệnh , nhưng bên trong cố ý chần chờ, đã hai ngày mà không sai sứ qua nước Sở. Bỗng có tin quân Tề kéo đến vây thành.
Thúc-thiêm xin phép Công-tử Nghi khai chành chống cự, rồi hẹn Phó-Hà lên mặt thành mà phòng giữ.
Công-tử Nghi lầm kế, cũng theo Phó-Hà lên mặt thành xem xét binh tình. Vừa đến nơi Phó-hà rút gươm đâm Công-tử Nghi một nhát, ngã quỵ xuống đất tắt thở.
Bên ngoài Thúc-thiêm mở cửa , đón Công-tử Đột và Tân tu-vô , vào Thanh-cung bắt hai con của Công-tử Nghi giết đi, rồi cùng nhau tôn Công-tử Đột lên ngôi, lấy hiệu cũ xưng là Trịnh lệ-công.
Người nước Trịnh lâu nay vẫn mến Trịnh lệ-công , nên dân tình vẫn được yên ổn.
Trịnh lệ-công cảm tạ Tân tu-vô, lo việc đãi đằng, khao thưởng binh Tề rồi tiễn Tân tu-vô về nước.
Lúc bấy giờ Trịnh lệ-công mới đòi Phó-Hà đến nói :
– Ngươi giữ đất Đại-lăng trong mười bẩy năm, cố sức cùng ta chống cự, thật đã hết lòng với chúa cũ. Nay tham sống, sợ chết, vì ta mà giết bỏ vua cũ, như thế ngươi là một kẻ nham hiểm, tâm địa không biết đâu mà lường. Ta phải giết nhà ngươi đi, mới khỏi lo hậu hoạn.
Nói xong, truyền võ sĩ đem Phó-Hà ra chém, còn vợ con thì cho về.
Nguyên-phồn trước kia tán thành việc lập Công-tử Nghi, nay sợ Trịnh lệ-Công bắt tội nên xin từ chức .
Trịnh lệ-Công sai người đến trách mắng .
Nguyên-phồn thắt cổ tự vận.
Trịnh lệ-công lại bắt trị tội những người đuổi mình khi trước.
Cường-thủ trốn vào nhà Thúc-thiêm, nhờ Thúc-thiêm xin cho mới khỏi , nhưng cũng phải bị chặt chân.
Định-Thúc trốn sang nước Vệ, nhưng cách ba năm sau Trịnh lệ-công lại cho triệu về.
Thúc-thiêm vẫn giữ chức Chính-khanh, Đổ-thúc và Sư-thúc đều được phong chức Đại-phu.
Người nước Trịnh gọi là “tam lương” nghĩa là ba người hiền.
Đây nói qua việc Sở văn-vương, từ khi lấy được nước Tức, bắt nàng Tức-Vỉ làm vợ , đêm ngày ấp ủ không rời. Chỉ ba năm mà sanh đặng hai con. Người lớn là Hùng-hi, người nhỏ là Hùng-vận.
Trong ba năm trời , Tức-Vỉ không nói chuyện với Sở văn-vương câu nào. Sở văn-vương lấy làm lạ, một hôm cố hỏi Tức-Vỉ vì cớ gì mà không chịu nói. Tức-Vỉ chỉ ứa nước mắt, không đáp.
– Thần thiếp phải thờ hai chồng, đã không biết giữ tiết thì còn mặt mũi nào mà chuyện trò với ai .
Sở văn-vương nói :
– Việc này cũng bởi Sái-hầu trước kia giới thiệu phu-nhân cho ta, nên ngày nay mới sanh ra thảm cảnh này. Ta sẽ vì phu-nhân đem quân đến bắt Sái hầu đền tội.
Nói xong, cất binh đi đánh nước Sái .
Sái hầu hay tin thất kinh, thân hành đến đất Phu , quì móp giữ đường đợi Sở văn-vương đến mà tạ tội. Lại đem tất cả vàng bạc châu báu trong kho ra mà cống lễ.
Sở văn-vương nhận lễ vật, rồi rút binh về.
Vừa về đến nước Sở, lại có tin Trịnh lệ-công sai sứ đến tỏ việc mình đã phục-vị và xin cầu hoà.
Sở văn-vương cả giận nói :
– Trịnh đột về nước đã hai năm , nay mới cho cho sứ đến ra mắt nước ta thật là vô lễ .
Bèn đem binh phạt Trịnh.
Trịnh lệ-công phải ra ngoài thành tạ tội, xin dâng lễ vật, Sở văn-vương mới chịu thâu quân.
Từ đó Trịnh lệ-công sợ oai nước Sở không dám cho sứ sang chầu nước Tề. Tề hoàn-công biết được tâm trạng ấy cho người đến trách cứ.
Trịnh lệ-công không biết phải làm sao , bèn sai sứ đến thưa với Tề hoàn-công rằng :
– Chúa-công tôi vì bận lo việc kiên-thủ sợ binh Sở đến đánh, không có dịp để triều cống Tề . Nếu Minh-công lấy oai trị được nước Sở thì Chúa tôi mới an lòng vâng mạng Tề được.
Tề hoàn-công nghe lời nói của sứ nước Trịnh không được khiêm tốn, tức giận, bắt giam vào ngục.
Sứ nước Trịnh trốn thoát, về nước.
Từ đó, nước Trịnh lại phản, về đầu Sở như cũ.
Giữa lúc đó, bên nhà Châu , vua Ly-vương thăng hà , con là Ngân lên nối ngôi, tức Châu huệ-vương.
Nhơn lúc nhà Châu mới lập, các chư-hầu bận việc điếu tang, và chúc tụng vua mới, Sở văn-vương kéo quân quấy nhiễu nước Ba , đánh nước Thân, làm lắm điều hiếp chế.
Nước Ba căm thù, kéo quân lẻn sang nước Sở chiếm đất Na .
Tướng giữ đất Na là Diêm-ngao cự không lại bỏ thành trốn về tâu lại với Sở văn-vương .
Sở văn-vương truyền đem Diêm-ngao ra chém.
Thân tộc của Diêm-ngao uất hận vô cùng, quyết lòng rửa nhục , mới tư thông với nước Ba , yêu cầu đem binh phạt Sở, và hứa sẽ đứng ra làm nội ứng.
Nước Ba nghe theo, cử binh kéo đến vây thành.
Sở văn-vương thân hành đem binh ra đối địch, chẳng ngờ thân tộc của Diêm-ngao lẻn vào vòng binh đốt dinh phá trại.
Binh Sở không đề phòng nên rối loạn.
Quân nước Ba thừa thế đánh tan được quân Sở.
Sở văn-vương bị một mũi tên nơi gò má , giục xe chạy dài.
Tuy thắng trận, nhưng nước Ba là nước nhỏ, không dám đuổi theo, vội vã thâu quân về nước.
Còn thân tộc Diêm-ngao cũng theo về nước Ba mà cư trú.
Sở văn-vương về đến Phướng thành đã nữa đêm, bèn gọi quan giữ cửa là Dục-quyền khai thành đón tiếp.
Dục-quyền hỏi :
– Chúa-công thắng trận chăng ?
Sở văn-vương đáp :
– Không, ta vừa bị thất trận.
Dục-quyền nói :
– Tiên-vương xưa ra đánh trận nào cũng thắng, nay. Đại-vương thân chinh đánh nước Ba là một tiểu quốc mà bị thua ắt thiên hạ chê cười. Xin chớ vào thành.
Sở văn-vương hỏi .
– Việc đã rồi, khanh bảo ta phải làm thế nào bây giờ ?
Dục-quyền nói :
– Gần đây có nước Hoàng, không chịu chầu Sở đã lâu , nếu Đại vương đem binh đánh nước Hoàng mà đắc thắng thì mới rửa bớt điều nhục ấy.
Sở văn-vương quay lại nói với quân sĩ :
– Nếu ta đánh không thắng nước Hoàng quyết không về Sở.
Nói xong lập tức kéo binh sang đánh nước Hoàng.
Đến nơi, Sở văn-vương cầm trống giục quân tử chiến .
Quân nước Hoàng không làm sao cự lại kéo nhau bỏ chạy, thây nằm chật đất , gướm bỏ đầy đường.
Sở văn-vương truyền đóng trại nghĩ ngơi.
Đêm ấy , Sở văn-vương ngũ trong dinh , nằm mộng thấy Tức-hầu, mặt hầm hầm chạy đến trước mặt hét lớn :
– Ta có lỗi gì mà mi giết ta, xâm chiếm đất ta , gian dâm với vợ ta. Nay ta đã minh oan với thượng đế rồi !
Nói xong giơ tay tát vào mặt Sở văn-vương một cái.
Sở văn-vương giật mình thức dậy, thấy vết thương nơi mặt lỡ toét ra, máu
chảy đầm đìa, đau nhức khôn xiết.
Sở văn-vương liền truyền lệnh thu quân về nước.
Nhưng vừa về đến Thu địa , thuộc đất Sở , thì từ trần.
Tướng sĩ phò thi thể của Sở văn-vương về Kinh đô tẩn liệm, làm ma chay. Con trưởng Sở văn-vương là Hùng-hi lên nối ngôi.
Dục-quyền sau khi lo việc ma chay cho Sở văn-vương tự nghĩ :
– Ta đã hai lần phạm đến chúa ta, dẫu vua không bắt tội, ta cũng không có quyền sống.
Nghĩ rồi kêu con cháu dặn rằng :
– Ta có chết, chúng bây đem chôn ta nơi cửa thành, để con cháu đời sau biết ta là người gát cửa .
Nói xong rút gươm tự vận .
Hùng-hi động lòng, phong cho con cháu nối đời làm chức Đại-hôn.
Trịnh lệ-Công được tin Sở văn-vương chết, có ý mừng thầm nói :
– Sở văn-vương đã chết, ta không còn lo gì nữa .
Thúc-thiêm nói :
– Nước Trịnh nay phải thần phục nước người, một bên là Tề , một bên là Sở cố tranh nhau bắt chẹt. Tôi tưởng đó là điều quốc-sĩ. Thuở xưa, tiên-quân ta Hoàn-công, Võ-công, Trang-công đều làm đến bực Khanh-sĩ nơi triều Châu, đứng đầu liệt quốc , xử phạt chư-hầu, nay xin Chúa-công vào triều Châu nhờ ơn Thiên-tử gia-phong để lấy oai mà chế lại các chư-hầu thì mới khỏi bị ai lấn áp.
Trịnh lệ-công khen phải sai quan Đại-phu là Sư-thúc qua Châu triều Cống.
Sư Thúc đi chưa được mấy ngày trở về báo :
– Nhà Châu lúc này loạn lắm.
Trịnh lệ-công hỏi :
– Sao mà loạn ?
Sư Thúc nói :
– Nguyên trước kia, vua Trang-vương nhà Châu yêu nàng Diên-cơ, có sanh đặng một con là Vương-tử Đồi, Châu Trang-vương mến Vương-tử Đồi lắm sai quan Đại-phu Vỉ-quốc làm chức sư-phó để dạy dỗ. Vương-tử Đồi có tánh thích chơi trâu. Một mình nuôi trong nhà hơn hai trăm con trâu, ngày nào cũng cho ăn uống , chăm sóc rất kỹ lưỡng, lại cho trâu mặc toàn là gam vóc, và đặt tên là văn thú.
Vương-tử Đồi đi đâu đều có đàn trâu đi theo, dậm nát cả ruộng nương, vườn tược mà không ai dám nói. Hơn nữa Vương-tử Đồi còn kết thân với năm quan Đại-phu là : Vỉ-quốc , Biên-bá, Tử-cầm, Chúc-quỵ và Thiêm-phủ, là những kẻ có thế lực trong triều. Vì vậy trong lúc Châu ly-vương còn ở ngôi cũng phải kính nể.
Vừa rồi, vua Huệ-vương lên ngôi, Vương-tử Đồi ỷ mình là chú, càng lên mặt kiêu ngạo hơn nữa.
Châu huệ-vướng rất ghét , tìm cách trấn áp Vương-tử Đồi cùng bè đảng. Chẳng ngờ một hôm tên thiện phu là Thạch-tốc, dâng đồ ngự thiện không được tinh sạch .
Châu huệ-vướng cách chức không dùng nữa .
Thạch-tốc bất bình nhập bọn với Vương-tử Đồi làm nội ứng , bày mưu cho Vương-tử Đồi đem quân đánh Châu huệ-vương để cướp ngôi, may nhờ có Châu-công Kỵ-phủ và Châu Bá-Liên cố sức chống giữ nên bọn Vương-tử Đồi bị thua chạy trốn sang đất Tô.
Trịnh lệ-công hỏi :
– Chúa đất Tô là ai ?
Sư-thúc đáp : .
– Chúa đất Tô tên Phận-sanh, trước kia có nhiều công trạng với đời Võ-vương nên được phong làm Tô-công. Đến sau Phận-Sanh thác, con Phận- Sanh bị nước Địch hiếp chế cho nên phải bỏ vua thờ địch . Qua đến đời Châu hoàn-vương mới lấy đất Tô-công phong cho Trịnh, vì vậy Tô-công mất đất đem lòng oán hận nhà Châu gặp lúc Vương tử Đồi trốn sang , bàn mưu mượn binh nước Vệ để phản loạn. Còn Vệ huệ-công tức Vệ-Sóc trước kia có cư hiềm với vua Châu việc phong lập cho Kiềm-Mâu, nên cố lòng giúp sức, cử đại binh sang đánh . Châu công Kỵ-phủ và Châu bá-Liên cự không lại phải phò Châu huệ-vương chạy sang đất Yên. Hiện nay Vương tử Đồi đã chiếm ngôi , nhưng lòng dân không phục. Nếu chúa-công đem quân đến đất Yên rước Châu Huệ-vương về Lạc-vương, khôi phục được vương-vị thì ắt đặng công lớn với triều đình.
Trịnh lệ Công khen phải, những lại nghĩ rằng :
– Vương tử Đồi là nhu nhược, đặng thành công là nhờ sự giúp đỡ của nước Vệ. Nay trước tiên phải đem lời lẽ phân giải, nếu Vương-tử Đồi không nghe
ta sẽ dùng đến binh lực cũng chẳng muộn.
Nghĩ như vậy , một mặt sai người đến đất Yên đón Châu huệ-Vương , một mặt sai người đưa thư cho Vương-tử Đồi.
Thư rằng :
Tôi, Trịnh đột, được nghe người ta nói : hễ làm tôi phạm đến vua là bất trung, làm em nghịch với anh là bất thuận. Người đã bất trung bất thuận ắt trời chẳng dung . Nay Vương-tử nghe lời bọn dua nịnh, đuổi thiên-tử đoạt ngôi là điều quấy. Nếu Vương-tử biết ăn-năn , rước Thiên-tử về bó mình chịu tội , sẽ không mất phú-quí, xin Vương-tử nên xét lại.
Vương-tử Đồi tiếp được thư, lòng lưỡng lự, Vỉ-Quốc quỳ tâu:
– Tâu Bệ-hạ, ngày nay Bệ-bạ chẳng khác nào như người đang cởi trên lưng cọp. Nếu bước xuống ắt bị cọp phân thây. Vả lại mình đang làm Thiên-tử lại trở xuống làm tôi là chuyện không thể được . Trịnh đột muốn lừa Bệ-hạ đó, xin Bệ-hạ chớ nghe theo.
Vương-tử Đồi bèn đuổi sứ Trịnh trở về nước.
Trịnh lệ-công-tức giận họp lực với Quắc-công (chúa nước Quắc) , cất quân phò Châu huệ-vương kéo đến Lạcđương vấn tội.
Quân-sĩ Vỉ-quốc thất kinh chạy vào cung tâu lại với Vương-tử Đồi.
Lúc đó vương-tử Đồi đang bận cho Trâu ăn nên không ra tiếp.
Vĩ-quốc nói lớn :
– Việc nguy cấp lắm rồi !
Nói xong giả mệnh vua sai các tướng đem quân đối địch.
Quân sĩ nhà Châu vốn không phục Vương-tử Đồi nên ra khỏi thành đều bỏ chạy về phía Châu huệ-vương.
Vỉ-Quốc thấy vậy vội vã thảo chiếu sang nước Vệ cầu cứu . Nhưng tờ chiếu thảo chưa xong, đã nghe quân báo :
– Châu huệ-Vương đã vào thành ngự triều rồi.
Vỉ-Quốc biết không thể thoát nỗi , liền đâm gươm vào cổ tự vận .
Chúc-quy và Tử-cầm bị chết giữa đám loạn quân , còn Biên-bá và Thiềm-phủ thì bị bá tánh bắt trói đem nạp.
Vương-tử Đồi thì chạy ra cửa phía Tây, khiến Thạch-tốc lùa trâu đi trước . Nhưng vì trâu quá mập nên đi chậm , quân Trịnh hay được đuổi theo bắt lại .
Châu huệ-vương khiến quân dẫn Vương-tử Đồi, Biên-Bá , Thiềm-phủ và Thạch-tốc ra pháp trường xử trảm .
Đoạn cắt đất Hô-lao thưởng cho nước Trịnh, và lấy đất Tử-Toàn thưởng cho nước Quắc.
Trịnh lệ-công và Quắc-công cáo từ về nước.
Trịnh lệ-công về mới nữa đường bị mang bịnh mà thác .
Quần thần lo việc an-táng rồi tôn Thế-tử Tiệp lên ngôi, hiệu là Trịnh Văn-Công.
Lúc đó, Trịnh lệ-công lại còn có một người con tên Công-tử Huấn, tên chữ là Kỉnh-trọng, có chơi thân với Công-tử Ngự-khấu . Về sau Công-tử Ngự-khấu toan cướp ngôi Trần tuyên-công , nên bị Trần tuyên-công giết đi . Công-tử Kỉnh-trọng sợ liên luỵ đến mình, bỏ nhà trốn sang nước Tề, được Tề hoàn-công phong chức Công-chính.
Một hôm, Tề hoàn-công đến chơi nhà Kỉnh-trọng, uống rượu đàm đạo rất vui . Gặp trời tối, Tề hoàn-công sai thắp đèn lên để uống thêm cho trọn cuộc.
Kỉnh-trọng nói :
– Tôi không tính đãi tiệc Chúa-công lúc ban đêm, vì vậy nên không dám đốt đèn, xin Chúa-công miễn chấp .
Tề hoàn-công cười lớn, nói :
– Kỉnh-trọng giữ lễ với ta như thế thực là hiếm có .
Nói xong, từ giã ra về.
Từ ngày ấy Tề hoàn-công thường khen Kỉnh-trọng là một hiền thần, và cắt đất phong cho Kỉnh-Trọng . Đến sau con cháu của Kỉnh-trọng nối nghiệp và Kỉnh-trọng là Thỉ-tổ của họ Điền.
Lại nhắc qua việc Văn-khương từ ngày Tề tương-công qua đời, lòng thương tiếc chẳng cùng. Và cũng vì thương tiếc thái quá mà mang tâm bịnh.
Một hôm, nội thị đưa viên thầy thuốc nước Cử đến xem mạch điều trị, Văn-khương chạnh lòng nhớ đến chuyện xưa, liền lưu vị thầy thuốc lại trong cung để ăn uống và vui hưởng hoan lạc.
Thấy Văn-khương quá dâm dục, biết mình không phải là tay đối thủ, vị thầy thuốc vội từ giã trở về nước Cử .
Văn-khương lại giả cách đi tìm thầy thuốc, ghé qua nước Cử , đến nhà vị thầy thuốc đó đôi ba phen .
Vị thầy thuốc không biết tính sao phải tìm người khác thay mình để làm cho Văn-khương vừa ý . Nhưng Văn-khương vẫn không hài lòng, tiếc rằng không bằng được Tề tướng-công thuở trước.
Qua năm thứ tư của Châu huệ-vương , bịnh của Văn-khương càng ngày càng nặng, tính không sống được lâu, bèn trở về nước Lỗ mà thác.
Trong lúc lâm chung , Văn-khương trối với con là Lỗ trang-công :
– Con của anh ta đã đặng mười tám tuổi, theo lời hứa thuở nọ, con nên mau cưới về, đừng câu chắp. Được như thế mẹ mới mát lòng nơi cửu tuyền.
Lỗ trang-công cúi đầu tuân lời mẹ, Văn-khương lại dặn :
– Nước Tề đương dựng nghiệp bá, oai thế càng ngày càng mạnh, con chớ nên bỏ việc giao hảo.
Nói rồi trút hơi thở cuối cùng.
Nhắc đến Văn-khương, người sau có thơ rằng :
Non nước đầy vơi thật khó lường
Ngàn đời còn mãi gái Văn-khương
Trăm năm miệng túi càn khôn khép
Lòng chửa phôi-pha mảnh má hường.
Lỗ trang-công chôn cất xong, tính theo lời di-chúc nghị việc hôn nhân
– Lời mẹ ta đã dạy, nếu trái lời e bất hiếu. Song cưới vợ trong lúc tang chế lòng ta không an. Vậy thì, chờ đến giáp năm sẽ tính việc ấy.
Qua năm sau, Lỗ trang.Công cho người qua Tề cầu hôn.
Tề hoàn-công nói :
– Lỗ-hầu chửa mãn tang. Xin chờ đến hai năm nữa đã.
Vào năm thứ bảy của Châu huệ-vương, Lỗ trang-công hết tang mẹ thì đã ba mươi bẩy tuổi, mới cưới được con gái Tề tướng-công đem về Lỗ, tức là nàng Ái-khương.
Từ ngày Khương-thị về Lỗ, Tề và Lỗ giao-hảo rất thân thiết.
Tề hoàn-công lại khiến Lỗ trang-công hiệp binh đánh nước Từ và nước Nhung.
Hai nước này không dám chống cự, phải đem lễ vật triều cống, chịu làm tôi nước Tề.