Trịnh văn-công thấy uy thế nước Tề mỗi ngày một mạnh, sợ đem binh đến đánh nước mình, bèn sai sứ cầu hòa.
Vào năm Châu huệ-vương thứ mười, Tề hoàn-công họp các nước Tống, Lỗ, Trần, Trịnh nơi đất U làm lễ huyết-thệ.
Từ ấy, các nước đều tùng phục nước Tề.
Sau lễ huyết-thệ, Tề hoàn-công trở về nước bày tiệc khao thưởng các quan. Tiệc nữa chừng, Bảo thúc-nha rót một chén rượu đầy dâng cho Tề hoàn-công và chúc thọ.
Tề hoàn-công rất đẹp lòng nói :
– Tiệc rượu ngày hôm nay vui vẻ biết bao !
Bao thúc-nha tâu :
– Bậc minh-quân, hiền-sĩ tuy vui mà chẳng quên lo . Chúa-công chớ nên quên những ngày chạy trốn sang nước Cử, Quản-Trọng chớ quên những ngày ở trong tù xa, Ninh-thích đừng quên lúc cỡi trâu dưới núi.
Tề hoàn-công cười lớn, đứng dậy xá hai cái, và nói :
– Nếu chúng ta không bao giờ quên những lúc gian nan, đó là phúc lớn cho nước ta đó.
Ngày ấy Chúa tôi vui vầy, rượu càng say, lòng người càng hoan-hỉ .
Một hôm, có sứ nhà Châu sai đến.
Tề hoàn-Công vội vã ra nghinh-tiếp.
Sứ triều truyền chỉ phong cho Tề-hầu làm Phương-bá, có quyền đem quân vấn tội các chư-hầu.
Lại giao cho Tề hoàn-công một tờ mật chiếu như sau :
Vệ hầu Sóc, đem quân giúp Vương-tử Đồi, gây loạn Thiên-triều , lòng trẫm tích oán đã mười năm, song chưa chinh phạt đặng. Nay trẫm cậy khanh toan liệu việc ấy mà rửa hờn cho trẫm.
Tề hoàn-công bái mạng, rồi đưa Thiên-sứ về nước .
Cách đó không lâu, Tê hoàn-Công hưng binh phạt Vệ.
Lúc ấy Vệ huệ-công (tức Vệ-sóc) đã qua đời , con là Thế-tử Xích lên nối ngôi xưng hiệu Vệ ý-công.
Vệ ý-công nghe binh Tề kéo đến, không cần hỏi nguyên do, cứ việc đem quân ra thành chống cự. Nhưng đánh không lại, bị thua một trận khá lớn, phải kéo binh trở về cố thủ.
– Đó là lỗi của Tiên-quân ta, đâu có can hệ gì đến ta mà sợ !
Nói rồi sai con trưởng là Khai-phương đem lễ vật xin giảng hòa .
Tề hoàn-công nói :
– Theo phép nhà Châu ta thì không bắt tội đến con cháu. Nay Vệ huệ-công đã chết, ta cũng nên khoan thứ.
Nói rồi, thâu lễ vật , thừa nhận việc cầu hòa, rồi rút quân về nước.
Công-tử Khai-phương thấy nước Tề cường-thịnh, xin được làm quan nơi nước Tề .
Tề hoàn-công nói :
– Ngươi là con trưởng của Vệ-hầu, tất ngày sau lên nối ngôi , tại sao lại bỏ ngôi của mình mà sang làm tôi ở nước ta ?
Công-tở Khai-phương tâu :
– Chúa-công là bậc hiền đức trong thiên-hạ, nếu được hầu hạ chúa-công tôi tưởng còn sung sướng hơn là làm vua.
Tề hoàn-công suy nghĩ, rồi phong cho Khai-phương làm quan Đại phu, và cũng thân yêu như bọn Thụ điêu và Dịch-Nha vậy.
Người nước Tề gọi ba người này là “Tam quí” . Nghĩa là ba người
được vua tin nhứt.
Công-tử Khai-phương lại nói với Tề hoàn-công rằng :
– Vệ huệ-công trước kia còn lại một người con gái rất đẹp , chưa định vu-quy.
Tề hoàn-công hỏi :
– Con gái Vệ huệ-công là Vệ-Cơ ta đã cưới về làm phu-nhân rồi , nay còn một người em nữa sao ?
Công-tử Khai-phương nói :
– Tâu Chúa-công, thật đúng vậy. Nàng này là em nhưng nhan sắc còn mặn mà hơn.
Tề hoàn-công mừng rỡ sai người đến thương lượng với Vệ ý-Công , xin rước về làm tiểu thiếp.
Vệ ý Công không dám trái lời, phải đưa Vệ-Cơ sang Tề.
Tề hoàn-Công gọi người chị là Trưởng Vệ-Cơ, người em là Thiếu Vệ-Cơ để
phân biệt. Hai chị em đều được Tề hoàn-công yêu chuộng cả.
Đây nói qua việc Tấn. Chúa nước Tấn lúc bấy giờ là Tấn hiền-Công , con của Xưng đại tức là Tấn Võ-công.
Hiến-công lúc còn làm Thế-tử, cưới nàng Giả-thị làm chánh thất nhưng không con, bèn cưới cháu gái của Khuyển-Nhung là Hồ-Cơ làm thứ thất, sinh đặng một trai là Trùng-nhĩ . Sau đó lại cưới thêm con gái họ Doãn, sinh đặng một trai là Di-ngô.
Lại nữa, trong lúc Tấn võ-Công còn sang có cưới nàng Tề-Khương, con nhà tôn-thất nước Tề làm tiểu thiếp. Nhưng Tấn võ-công đã già, còn nàng Tề-khương còn trẻ, nên Hiến-Công tư thông với Tề-khương (tiểu thiếp của cha) ăn ở với nhau sinh đặng một trai là Thân-sanh.
Đến lúc Hiến-công lên ngôi, thì chánh thất Giả-thị đã qua đời .
Tấn hiến-công bèn lập nàng Tề-Khương lên làm chánh-thất, và con nàng Tề-khương là Thân-sanh lên làm Thế-tử, mặc dầu lúc đó Trùng-Nhĩ, Di-ngô, cũng là con của Tấn hiền-công, đã lớn tuổi hơn .
Sau đó Tề-khương sinh thêm được một gái nữa, mới mãn phần .
Nàng Tề-khương chết , Tấn hiến-công cưới em gái nàng Giả-thị là Giả-quân làm tiểu thiếp, nhưng Giả-quân cũng không con, Tấn hiến-Công bảo phải nuôi con gái mới sinh của Tề-khương làm con nuôi.
Chưa hết, Tấn hiến-công lên ngôi được mười lăm năm , cử binh sang đánh nước Ly-nhung. Chúa Ly-nhung bị thua, dâng hai người con gái cho Tấn hiến-công mà cầu hòa. Hai người con gái ấy , người lớn là Ly-cơ, người nhỏ là Thiếu-Cơ. Nàng Ly-cơ xinh đẹp phi thường, nhan sắc không thua Tức-Vĩ , tướng mạo không nhường Đắc-Kỷ, lại thêm lòng dạ nham hiểm, đũ mánh khoé làm say lòng người , do đó Tấn hiến-công rất yêu chuộng.
Chẳng bao lâu, Ly-cơ sanh đặng một trai là Hề-Tề, còn Thiếu-Cơ cũng sanh đặng một trai là Trác-tử .
Vì quá yêu nàng Ly-cơ, Tấn hiến-công không còn thiết gì đến mối tình nàng Tề-Khương thuở trước, muốn lập Ly-Cơ lên làm chánh-thất, bèn đòi quan Thái-bốc là Quách-yến vào triều bảo :
– Khanh thử bói một quẻ xem ta lập Ly-cơ lên chánh-thất có đặng chăng ?
Quách-yến tuân lời gieo quẻ, rồi nói :
– Quẻ không tốt. Điềm ứng việc thay đổi lộn xộn không hay.
Tấn hiến-công không tin, truyền quan Sử-tô bói lại.
Quan Sử-tô cũng cho là xấu, và nói :
– Tâu Chúa-công, chư-hầu không đặng cưới vợ hai lần , nay Chúa-công đã lập chánh thất rồi, mặc đầu chánh thất sớm lìa trần nhưng vẫn có con trai. Nếu Chúa-công lập chánh-thất nữa thật trái lẽ .
Tấn hiến-công không nghe, chọn ngày cáo với Thái-miếu , rồi lập Ly-cơ làm Chánh-cung, Thiếu-cơ làm Thứ-phi.
Sử-tô thấy vậy thở dài , nói riêng với quan Đại-phu Lý-khắc :
– Nước Tấn ta sắp mắt rồi ! Biết làm sao !
Lý-khắc nghe nói giật mình hỏi :
– Sao thế ! Ai làm mất nước Tấn ?
Sử-tô đáp :
– Nước Tấn ắt phải bị mất về tay nước Ly-nhung. Ngày xưa vua Kiệt nhà Hạ, đánh nước Thi , người nước Thi dâng nàng Muội-Hỉ, vua Kiệt yêu Muội-Hỉ mà nhà Hạ mất. Vua Trụ nhà Ân đánh nước Tô, người nước Tô dâng Đắc-kỷ, vua Trụ yêu Đắc-Kỷ mà nhà Ân mất. Vua U-vương nhà Châu đánh nước Bao, người nước Bao dâng Bao-tự, vua U-vương yêu Bao-tự nên nhà Tây Châu suy mất. Nay Chúa-công đi đánh nước Ly-Nhung người Ly-Nhung, dâng gái đẹp mà Chúa-Công say mê như thế , lẽ nào nước Tấn còn được.
Lúc đó có quan Thái-bốc là Quách-yến bước vào, Lý-khắc đem những lời của Sử-tô thuật lại.
Quách-yến nói :
– Cứ theo quẻ, thì nước Tấn ta bị loạn chứ chưa mất , vì tiên-quân ta mới được thọ-phong ở nước Tấn này, nên vận nước còn dài.
Lý Khắc hỏi :
– Đến bao giờ thì loạn ?
Quách-yến nói :
– Chi trong mười năm nữa mà thôi.
Ba vị đại thần nhìn nhau buồn bã rồi lui về.
Kế đó, Tấn hiến-công tỏ ý muốn lập con trai nàng Ly-cơ lên làm Thế-tử. Một hôm nói với Ly-cơ :
– Nay phu nhân ở chức chánh cung, chẳng lẽ không lập Hề-Tề , con trai của phu-nhân, lên làm Thế-tử sao phải lẽ ?
Ly-cơ nghe nói lòng mừng khấp-khởi, nhưng nàng vốn là một kẻ mưu mô, thâm hiểm, bèn nghĩ thầm :
– Thân-sanh được phong Thế-tử đã lâu , nay vô cớ mà phế đi ắt quần thần chẳng phục. Hơn nữa Trùng-nhĩ và Di-ngô lại thân mật với Thân-sanh lắm. Nếu bây giờ nói ra chưa làm chi được, mà họ lại biết trước đề phòng, thì sau này rất khó.
Nghĩ như vậy, bèn tâu với Tấn hiến-công :
– Khi Chúa-công lập Thế-tử Thân-sanh, cả chư-hầu đều biết. Nay Thế-tử không có tội gì mà Chúa-công tính việc phế-lập, thiếp thà chết chứ không dám vâng mệnh.
Tấn hiến-công ngỡ Ly-cơ có lòng tốt , khen ngợi vô cùng, rồi bỏ qua việc ấy không nói đến nữa.
Trong triều có hai người tôi được Tấn hiến-công rất yêu mến.
Một người là Lương-ngũ và một người là Đông quang-ngũ. Cả hai họp sức với Tấn hiến-công lo việc quốc-chính. Vì được yêu dùng nên hai người này làm lắm chuyện lộng quyền, đến nỗi người nước Tần gọi là “nhị-ngũ” . Nghe tiếng “nhị-ngũ” ai cũng phải sợ.
Cũng trong lúc ấy, có một phường hát tên Ưu-thi, trẻ tuổi, đẹp trai, có tài khôi hài rất duyên dáng, vì vậy Tấn hiến-công rất thích , cho phép được tựđo ra vào cung điện, không ai ngăn cấm cả.
Ly-cơ được thế, tư tình với Ưu-thi, hai bên tỏ ra tương đắc .
Một hôm, Ly-cơ đem ý muốn lập Thế-tử Hề-Tể nói với Ưu-Thi .
Ưu Thi đáp :
– Ba vị Công-tử kia còn ở tại Kinh đô, việc đó khó thực hiện được . Nay phải tìm cách đưa ba người ra trấn cõi ngoài rồi tùy cơ ứng biến.
Ly-cơ hỏi :
– Thế thì ta đem ý ấy bàn với Chúa-công có đặng chăng ?
Ưu-thi nói :
– Không nên, nay trong triều có “nhị ngũ” nói gì mà Chúa-công chẳng nghe . Phu-nhân nên đem vàng bạc mua lòng mà giao kết với họ. Hễ “nhị ngũ” thưa thuận thì việc chẳng khó gì .
Ly-cơ liền đưa vàng bạc cho Ưu-thi đem lo lót cho Lương-Ngũ và Đông quang-ngũ.
Ưu Thi lãnh mạng, đến nhà Lương-ngũ trước và nói :
– Thưa ngài, phu-nhân muốn làm đẹp lòng ngài nên sai tôi đem lễ vật đến đây, mong ngài không từ chối .
Lương-ngũ nghe nói, ngạc nhiên hỏi :
– Phu-nhân có dặn điều chi chăng ? Nếu không nói rõ tôi đâu dám nhận ?
Ưu Thi đem mưu kế của Ly-cơ , thuật lại.
Lương-ngũ nói :
– Việc này phải có Đông quang-ngũ giúp sức mới xong.
Ưu Thi nói :
– Phu-nhân củng có lễ vật biếu Đông-quang-ngũ như ngài.
Hai người liền dắt nhau đến nhà Đông quang-ngũ để cùng nhau đàm luận.
Sáng hôm sau, Lương-Ngũ vào triều thưa với Tấn hiến-công :
– Đất Khúc-ốc là chỗ Tiên-quân thuở xưa lập nghiệp, hiện nay tôn miếu hãy còn. Còn đất Bồ và đất Khuất, tiếp giáp với Nhung định là một nơi trọng địa. Ba chỗ ấy cần phải có người ra trấn thủ, xin Chúa-công sai Thế-tử Thân-sanh ra trấn nơi Khúc-ốc, Công-tử Trùng-Nhĩ ra trấn nơi đất Bồ và Công-tử Di-ngô ra trấn nơi đất Khuất . Được như vậy giang-san nước Tấn mới vững vàng.
Tấn hiến-công nói :
– Đất Khúc-ốc thì phải rồi, còn đất Bồ và đất Khuất là hai nơi hoang địa, tại sao lại phải cho hai vị Công-tử ra trấn giữ ?
Đông quang-Ngữ quỳ tâu :
– Tuy hoang địa nhưng lại là nơi trọng địa. Nếu xây thành sửa sang cho kiên cố thì đất ấy trở nên trù mật. Và nước Tấn sẽ giàu mạnh hơn các chư hầu.
Tấn hiến-Công nghe lời sai Thế-tử Thân-sanh ra trấn thủ nơi Khúc-ốc, có quan Thái-Phó Đỗ nguyên-Khoản theo hầu . Công-tử Trùng-Nhỉ ra trấn nơi đất Bồ, có Hồ-Mao theo hầu . Công-tử Di-Ngô ra trấn nơi đất Khuất, có Lã di-Sảnh theo hầu .
Ba vị Công-tử đi rồi trong triều chỉ còn có Hề-Tề và Trác-tử gần gũi Tấn hiến-công .
Nàng Ly-cơ lại tìm hết mánh khóe để làm say lòng vua Tấn.
Lức bấy giờ Tấn hiền-công chia quân ra làm hai đạo : Thượng quân và hạ quân. Đạo thượng quân thì do Tấn hiến-công điều khiển, còn đạo hạ quân thì giao cho Thế-tử Thân-sanh xử dụng.
Thân-sanh cùng với quan Đại-phu Triệu-Túc và Tất-Vạn kéo quân sang chinh phục nước Cảnh, nước Quắc và nước Ngụy.
Ba nước này đánh không lại phải đầu hàng.
Vì vậy công lao của Thế-tử Thân-sanh rất lớn.
Mà cũng vì vậy, nàng Ly-cơ ngày đêm buồn bã, tính chưa ra kế để làm hại Thế-tử Thân-sanh được.
Đây nói đến việc nước Sở. Từ khi Sở văn-vương tạ thế, Hùng-hi lên nối ngôi. Hùng-Hi và Hùng-Vận cùng là con nàng Tức-Vĩ sinh ra, nhưng Hùng-vận tài trí hơn anh , do đó Tức-Vĩ có lòng yêu dấu . Cả đến người trong nước cũng mến phục.
Hùng-hi thấy vậy muốn tìm kế giết Hùng-vận đi để khỏi di-họa về , sau ngặt vì Hùng-vận được các quan trong triều hết lòng che chở , nên Hùng-hi không tìm ra kế.
Lần hồi, Hùng-hi chán nản, bỏ bê việc triều chính, thích săn bắn nơi chốn hoang vu . Vì vậy, Hùng-hi lên ngôi đã hơn ba năm mà chưa chỉnh đốn được việc gì cả.
Một hôm, Hùng-vận mật sai người đón đường giết Hùng-hi đi , rồi nói dối với Tức-vĩ là Hùng-hi đi săn gặp tai nạn mà thác.
Tức-Vĩ lòng nghi ngờ nhưng không tiện nói ra, bèn truyền cho các quan lập Hùng-vận lên nối ngôi, hiệu là Sở thành-vương.
Sở thành-vương phong cho người chú là Vương-tử Nguyên làm Tể-tướng.
Vương-tử Nguyên từ khi Sở văn-vương chết đi, đã có ý muốn cướp ngôi, lại thấy chị dâu là Tức-Vĩ, nhan sắc tuyệt vời, đem lòng ham muốn. Trước kia, vì sợ Đấu bá-tỷ là một Đại-thần cương-trực , lại có nhiều tài trí nên chẳng dám làm càn . Nay Đấu bá-tỷ đã chết, Vương-tử Nguyên không còn kính trọng ai nữa, mới lập lên một ngôi nhà bên cạnh cung Tức-Vĩ, ngày đêm bắt vũ-nhạc múa hát, cốt làm cho Tức-Vĩ say lòng.
Tức-Vĩ nghe tiếng, hỏi bọn thế nữ :
– Tiếng đờn ca ở đâu mà gần thế ?
Bọn thế-nữ tâu :
– Đó là tiếng nữ-nhạc bên nhà mới của quan Tể-tướng đó.
Tức-Vĩ thở dài nói :
– Tiên-quân ngày xưa chăm lo luyện tập binh-sĩ đánh dẹp các chư hầu, vì vậy các nước đều thần phục. Bây giờ quân nước Sở ta đã mười năm nay, không tiến được nữa bước trên đất Trung-quốc , thế mà quan Tể-tướng không nghĩ những điều xấu hổ ấy lại bày việc đờn ca, hát xướng bên cung gái góa này, thật lạ lùng làm sao !
Nội-thị đem mấy lời ấy thuật lại với Vương-tử Nguyên.
Vương-tử Nguyên lấy làm xấu hổ , nghĩ thầm :
– Một người đàn bà còn có chí như vậy, lẻ nào ta đây là một đấng trượng-phu lại chẳng nghĩ đến sao ! Nếu không đánh được nước Trịnh quyết chẳng
làm người.
Nói rồi, điểm sáu trăm cỗ binh xa, khiến Đấu ngự-cương và Đấu Ngô làm tiên-phuông, Vương-tôn Du và Vương-tôn Gia đi hậu tập rầm rộ kéo đến nước Trịnh.
Trịnh văn-công nghe tin binh Sở kéo đến đánh liền hội quần-thần thương nghị.
Đỗ-thúc nói :
– Quân-sở rất hùng mạnh, ta làm sao địch lại , chi bằng xin giảng hòa rồi sẽ tính.
Sư Thúc nói :
– Nước ta đã có minh thệ với Tề, nếu cầu cứu ắt Tề đem binh đến giúp. Xin cứ cố-thủ chờ viện binh.
Thế-tử Hoa bấy giờ còn trẻ tuổi, lòng bồng-bột nghe nói vội xin đem quân ra đối địch.
– Trong ba lời nói vừa rồi, chỉ có lời của Sư-thúc là hợp ý tôi . Tôi đoán binh Sở chẳng bao lâu phải kéo về.
Trịnh văn-công hỏi :
– Vương-tử Nguyên đã đem binh đến đây, nếu không bị thua lẽ nào chịu lui về.
Thúc-thiêm nói :
– Xưa nay nước Sở đi đánh nước ngoài chưa bao giờ dùng binh lực nhiều như thế. Lần này Vương-tử Nguyên cốt ý làm cho vừa lòng Tức-Vĩ. Nhưng đã cố thắng tất sẽ thua. Vì vậy không đáng sợ .
Các quan còn đang thương nghị bỗng có tin báo :
– Binh Sở đã phá đặng Kiết-thất quan, nay đã vào đến Thuần-môn rồi.
Đỗ-thức nói :
– Ấy vậy, nếu không muốn giảng hòa thì phải qua nơi đất Đồng-khâu để tránh nhuệ khí của giặc .
Thúc-thiêm nói :
– Đừng sợ gì cả ! Tôi đã có kế làm cho quân giặc phải lui .
Nói xong, sai quân giáp sĩ mai phục trong thành, rồi khiến mở bét cả bốn cửa thành ra. Dân sự, chợ búa vẫn đi lại như thường.
Tướng nước Sở là Đấu ngự-cương vừa kéo quân đến thầy vậy lòng nghi ngờ, nói với Đấu-ngô :
– Ta đến đây mà quân Trịnh không chút gì xao dộng, tất có mưu kế chi đây. Ta không nên tiến quân vội, phải án binh đợi quan Tể-tướng đã.
Nói xong, truyền đóng quân ngoài thành, cách xa năm dặm .
Được một lúc, đại binh của Vương-tử Nguyên kéo đến, Đấu ngự-Cương cáo-báo lại quân tình.
Vương-tử Nguyên lấy làm lạ, trèo lên chỗ cao xem, thấy trong thành Trịnh quân-sĩ có thứ lớp, cờ xí rộn-ràng, liền thở dài, nói :
– Nước Trịnh có ba người tài (ý nói Thúc-thiêm, Đỗ-Thúc và Sư-thúc) ắt có mưu kế chi đây. Nếu ta sơ-xuất còn mặt mũi nào trông thấy nàng Tức-Vĩ. Chi bằng cho quân thám thính kỹ, nắm được địch mình rồi sẽ liệu.
Ngày hôm sau, có quân thám thính về báo :
– Quân nước Tề , Lỗ, Tống đồng hưng binh qua cứu Trịnh.
Vương-tử Nguyên giật mình, bảo các tướng :
– Nay các nước chư hầu đem binh đến đây, trong đánh ra, ngoài đánh vào, quân ta cự sao lại. Thôi thì ta tiến quân được đến đây cũng gọi là thắng trận rồi. Bây giờ rút lui về nước thì tiện hơn .
Nói xong, truyền quân-sĩ cuốn cờ im trống, ngay đêm hôm ấy lẻn ra khỏi địa-giới nước Trịnh.
Nhưng khi về đến biên giới nước Sở lại truyền mở cờ đánh trống lên ầm-ĩ.
Về chưa đến Kinh-thành Vương-tử Nguyên đã sai người đến báo cho Tức-Vĩ hay tin quân Sở đắc thắng khải-hoàn.
Tức-Vĩ nói :
– Nếu quan Tề-tướng đắc thắng thì cáo-tế với nhà Thái-miếu, rồi truyền bá cho dân chúng biết chứ nói với gái góa này làm chi ?
Quân về báo lại. Vương-tử Nguyên thẹn thùng, lểnh mểnh đem quân vào thành mặt buồn khôn xiết.
Cũng trong đêm ấy, tại nước Trịnh, Thúc-thiêm thấy bốn bề yên lặng, mới cho người ra dò xét.
Quân vào báo :
– Trại quân Sở không còn một bóng người.
Thúc-thiêm dẫn các quan lên mặt thành xem, rồi chỉ vào trại địch nói :
– Quân Sở đã bỏ trốn rồi.
Các tướng không tin hỏi :
– Tại sao ngài biết được ?
Thúc-thiêm nói :
– Dinh quan Đại tướng bao giờ cũng phải có quân canh gác cẩn mật, nay thấy có đàn quạ đậu trên cây mà kêu thì biết đó là trại không người. Tôi chắc rằng quân Sở hay tin các nước chư hầu kéo đến nên đã âm thầm rút lui.
Đang lúc bàn bạc, bỗng có quân vào báo :
– Quân các nước chư hầu vừa kéo đến biên giới, hay tin quân Sở đã bỏ về nên các chư hầu đem binh trở lại.
Ai nấy vỗ tay reo hò, khen ngợi Thúc-thiêm là người cao kiến.
Còn Vương-tử Nguyên, từ khi đi đánh nước Trịnh không được công-trạng gì lại bị Tức-Vĩ thờ ơ, lãnh đạm, lòng áy-náy muốn cướp ngôi nước Sở. Tuy nhiên, Vương-tử Nguyên lại định ý tư thông với Tức-Vĩ trước đã.
Gặp lúc Tức-Vĩ bị bệnh, Vương-tử Nguyên giả cách vào thăm , rồi ở mãi trong cung, không chịu về.
Quan Đại-phu là Đấu-liêm hay được, liền vào cung thấy Vương-tử Nguyên đang soi gương, chải đầu.
Đấu-liêm nói :
– Quan Tể-tướng dẫu là chú vua, nhưng vẫn là kẻ bề tôi. Vã lại, quốc-mẫu góa chồng, nam nữ nên tị-hiềm, sao Tể-tướng không nghĩ đền điều ấy.
Vương-tử Nguyên nỗi giận nói :
– Quyền bỉnh nước Sở hiện ở trong tay ta. Sao ngươi dám nói càn .
Liền sai bọn thủ-hạ bắt Đấu-liêm trói lại, giam vào ngục.
Tức-Vĩ thấy hành động lăng-loàn của Vương-tử Nguyên liền sai nội thị đến báo với Đấu-cấu ô đồ (con của Đấu bá-tỷ) tìm mưu diệt loạn.
Đầu-cấu ô đồ tâu với Sở thành-vương, rồi cùng với Đấu ngự-cương, Đấu-ngô và Đấu-bàn (con của Đấu-cấu) đem quân vào cung.
Vương-tử Nguyên đang vui say với bọn cung-nữ, nằm ngủ mơ màng, nghe tiếng quân reo, giật mình thức dậy, cầm gươm chạy ra.
Vừa đền cửa, gặp Đấu-ban bên ngoài cầm kiếm xốc tới .
Vương-tử Nguyên hét to :
– Thằng ranh con này, mày dám đến đây tác-loạn sao ?
Đấu Ban nói :
– Ta đâu có làm loạn, ta đến để trừ loạn đấy chứ !
Nói xong vung kiếm chém Vương-tử Nguyên.
Hai bên đánh một lúc thì Đấu-ngô và Đấu ngự-cương đến tiếp ứng .
Vương-tử Nguyên nhắm thế cự không lại bõ chạy .
Đấu-ban rượt theo chém một nhát, rơi đầu.
Giết được Vương-tử Nguyên rồi, Đấu-cấu ô đồ mở trói cho Đấu Liêm rồi cùng nhau đến thăm Tức-Vĩ.
Xảy có lệnh Sở thành-vương triệu tập quần thần để chọn người thay thế Vương-tử Nguyên làm chức Tể-tướng.
Các quan tề tựu đũ mặt.
Sở thành-Vương muốn chọn Đấu-Liêm, nhưng Đấu-liêm một mặt chối từ, nói :
– Hiện nay nước ta có một đối thủ đáng sợ là nước Tề .
Nước Tề dùng Quản-Trọng và Ninh-Thích mà nước giàu, quân mạnh, nay Đại-vương muốn chỉnh đốn lại nước Sở tất phải dùng Đấu Cấu Ô đồ mới được.
Quân Sơn-nhung tức là nước Linh-Chi , phía Tây giáp nước Yên , phía Đông Bắc giáp với Tề và Lỗ. Chúa nước Linh-chi ỷ mình là nơi hiểm địa, không ai dám xâm lấn nên chẳng chịu tùng phục ai, lại còn phá phách nhiều nơi, cướp bóc của cãi .
Trước đây, đã một lần xâm lấn nước Tề, bị Thế-tử Hốt nước Trịnh, đem binh giúp Tề đánh một trận phải lui về . Nay nghe nước Tề làm bá chủ, nên cử đại binh sang đánh nước Yên, mục đích làm cho nước Yên sợ oai mình, không dám tùng phục Tề nữa .
Nước Yên cự không lại, phải sai sứ sang Tề cầu cứu .
Tề hoàn-công hay tin hỏi Quản-trọng :
– Nước Yên bị giặc Sơn-nhung xâm lấn, ta phải làm cách nào để cứu nước Yên .
Quản-trọng nói :
– Yên là một nước trong hội minh chủ, nay đã cầu cứu thì không bỏ qua được. Vả lại, quân Sơn-Nhung lâu nay không tùng-phục nhà Châu, ta cũng nên mượn cớ mà đem quân chinh phạt.
Tề hoàn-công nhậm lời, kiểm điểm binh mã kéo đi .
Khi qua đến sông Tề-thức thuộc địa giới nước Lỗ, Lỗ trang-công thân hành đến nơi tiếp đón, làm tiệc đãi đằng.
Lỗ trang-công nói :
– Minh công đánh được quân Sơn-nhung chẳng những nước Yên đội ơn, mà nước Lỗ tôi cũng lấy làm toại nguyện . Vậy xin Minh-công cho tôi được đem quân giúp sức.
Tề hoàn-công nói :
– Tôi không dám làm phiền Hiền hầu đến những nơi hiểm địa ấy . Nếu tôi không thắng được sẽ cần đến sự giúp đỡ của Hiền-hầu cũng chẳng muộn.
Nói xong từ biệt Lỗ trang-công kéo quân đi .
Lúc ấy Chúa nước Linh-chi tên Mật-lư , đem quân quấy nhiễu nước Yên đã hai tháng rồi, cướp bóc của cải, bắt đàn bà, con gái không biết bao nhiêu mà kể . Nay nghe tin binh Tề đến cứu, bèn lật đật rút lui về nước.
Tề hoàn-Công đem binh đến nơi .
Yên trang-Công khai thành nghinh tiếp, và tạ ơn khó nhọc đã đem binh đến cứu .
Quản-trọng nói :
– Quân Sơn-nhung chưa thua mà kéo về, nếu quân ta trở về ắt chúng lại đến phá rối nữa . Bây giờ phải thừa thế thẳng đến nội địa mà đánh mới dứt hậu hoạn được.
Tề hoàn-công khen phải, truyền tiến binh .
Yên trang-công thưa :
– Tôi xin đem binh đi tiên phong mà giúp Minh công .
Tề hoàn-công nói :
– Nước Yên vừa bị quân giặc tàn phá, ta nở nào để hiền-hầu đi tiên phong . Xin Hiền-hầu cứ đem binh đi sau làm tiếp ứng mà trợ oai cũng đủ.
Yên trang-công nói :
– Cách đây tám mươi dặm có một nước gọi là Vô-chung cũng là giống người Sơn-nhung nhưng không thuộc nước Linh-chi, Minh công nên sai người đi dụ để mượn chúng đưa đường thì mới tinh .
Tề hoàn-công đắc ý, liền sai Thấp-bằng đem vàng bạc đến dụ vua nước Vô-chung .
Vua nước Vô-chung sai tướng Hồ nhi-bang đem hai ngàn quân đến giúp.
Hồ nhi-bang theo Thấp-bằng đến ra mắt Tề hoàn-công .
Tề hoàn-công hậu thưởng, và khiến đi tiền đội .
Đi độ ba ngày , đến một nơi rừng núi hiểm trở, hai bên đá dựng chập chồng, Tề hoàn-công hỏi Yên trang-công :
– Chỗ này kêu là chỗ gì ?
Yên trang-công thưa :
– Đây là Quy-từ, yết lộ của Sơn-nhung ra vào.
Tề hoàn-công thương nghị với Quản-trọng rồi cho đốn cây lập đồn, khiến Bảo Thúc-nha ở lại đó trấn thủ, coi việc vận lương .
Cách hai ngày sau, đại binh tiến bước.
Chúa nước Linh-chi, hay được tin binh Tề đến đánh, liền sai mời Đại-tướng Tốc-mãi đến thương nghị.
Tốc-mãi nói :
– Quân Tề từ xa đến đây, binh lao mã liệt ta phải đánh gấp chớ nên trì hoãn.
Mật-lư y lời, đem quân mai phục trong rừng, rồi sai Tốc-mãi dẫn một ngàn binh, đợi nghênh-chiến.
Hồ nhi-bang vừa kéo binh thì gặp Tốc-mãi đã dàn quân sẵn.
Hai bên đánh nhầu một trận.
Tốc-mãi giả thua, kéo binh chạy.
Hồ nhi-bang đuổi theo, vừa đến giữa rừng , binh phục của Mật-Lư nổi dậy, ó lên một tiếng, áp đến chém giết, quân của Hồ nhi-Bang bị chết rất nhiều, bỏ chạy trở lại.
Còn Hồ nhi-bang bị quân của Mật-Lư bắt trói.
May thay , đại binh của Tề hoàn-Công đền kịp đánh đuổi Mật-Lư, giải cứu cho Hồ nhi-bang khỏi tay giặc đem về trại.
Hồ nhi-bang có ý thẹn thuồng.
Tề hoàn-công vỗ về, an ủi .
– Ra trận thắng-bại lẽ thường, tướng quân chớ lấy thế làm áy náy .
Nói xong chọn một con ngựa tốt tặng cho Hồ nhi-bang .
Hồ nhi-bang cảm tạ lui ra .
Tề hoàn-công tiến quân đến núi Phục-long truyền quân đóng trại nơi đỉnh núi . Lại khiến Vương-tử Thành-phủ và Tân tu-vô đóng trại dưới núi, đem những binh xa kết liền với nhau làm một bức thành giả, canh giữ rất nghiêm nhặt.
Sáng hôm sau, Mật-lư cũng với Tốc-mãi đem hơn một vạn quân đến khiêu chiến. Nhưng vì bị bức thành binh xa ngăn đón không làm sao tiến quân được, phải đánh cầm chừng.
Quản-trọng trèo lên ngọn núi cao xem thấy quân sĩ Sơn-nhung lớp nằm lăn xuống đất lớp ôm nhau nô đùa, bỏ cả ngựa xe, vũ khí . Bèn vỗ vai Hồ nhi-bang, nói :
– Lúc này là lúc tướng quân có thể đem quân ra đánh trả thù đó .
Hồ nhi-bang trợn mắt, nhìn số quân Sơn-nhung đang nằm dưới bãi rồi hậm hữuc kéo quân ra đi .
Thấp-bằng nói :
– Tôi e giặc Sơn-nhung dùng kế để dụ ta chăng ?
Thữuc vậy quân Sơn-nhung thấy quân Tề không ra đánh nên cho hai đội quân phục nơi mé rừng, rồi khiến một số quân sĩ giả cách trễ biếng mà dụ địch.
Tuy nhiên, Quản-Trọng đâu phải không biết binh-pháp, nhìn Thấp-bằng mỉm cười nói :
– Ta đã liệu trước cả rồi.
Nói xong khiến Thành-phủ đem một toán quân đi về phía tả, Tân tu-vô dẫn một toán quân đi về phía hữu, để chận quân mai phục.
Hồ nhi-bang vừa kéo quân xuống khỏi núi quân giặc ào ào bỏ chạy .
Hồ nhi-bang giục ngựa đuổi theo . Nhưng nghe trên núi có tiếng kẻng thu quân, nên Hồ nhi-bang quay ngựa trở lại .
Mật-lư thấy Hồ nhi-bang không đuổi theo lòng tức tối, ra hiệu cho hai toán quân trong rừng ùa ra truy kích.
Vừa lúc ấy hai đạo quân của Thành-phủ và Tân tu-vô cũng vừa kéo đến đổ ra đánh.
Hai bên xáp chiến một hồi, hai đạo binh Sơn-nhung vỡ loạn bỏ chạy, bị chết không biết bao nhiêu mà kể.
Mật-lư thu góp tàn quân, thấy hao hơn nữa, lòng buồn bã nói với tướng Tốc-mãi.
– Xưa nay chưa hề có nước nào đem binh đánh nước ta mà thắng trận như vầy . Nay ngươi có kế chi chăng ?
Tốc-mãi nói :
– Quân Tề đóng trên đỉnh Phúc-long sơn xung quanh không có suối nước , chỉ có con sông Nhụ-thuỷ mà thôi . Nay ta đắp ngang nguồn sông, làm cho nước sông không chảy tới, ắt binh Tề phải chết khát .
Mật-lư nói :
– Kế ấy tuy hay, song phải kéo dài thời gian . Hiện nay, quân ta hao hụt quá nhiều, nếu quân Tề thiếu nước uống liều chết mà tiến binh thì ta lấy gì cự địch.
Tốc-mãi, nói :
– Một mặt phải sai sứ qua nước Cô-Trúc viện binh thêm .
Mật-lư đẹp ý, truyền quân chặt cây, đào đất lấp dòng sông Nhụ-thuỷ, rồi sai người qua cầu cứu nước Cô-trúc .
Tề hoàn-công đang ở trên núi Phúc-long bàn bạc với các tướng sĩ mưu việc tiến quân, xảy nghe quân vào báo :
– Giặc Sơn-nhung lấp lòng sông Nhụ-thuỷ quân sĩ không còn nước uống .
Mọi người kinh hãi ngơ ngác nhìn nhau .
Tề hoàn-công hỏi :
– Xung quanh núi này không có một khe nước nào sao ?
Quân sĩ tâu :
– Chúng tôi đã tìm kiếm khắp nơi, nhưng không thấy một vũng nước nào cả .
Quản-trọng nói :
– Xin cho quân sĩ đào giếng, lấy nước mà uống.
Tề hoàn-công truyền đào giếng lấy nước, hễ ai đào được giếng có nước trước thì sẽ trọng thưởng.
Quân sĩ thi nhau đào khắp nơi nhưng tuyệt nhiên, không chỗ nào có mạch nước cả.
Phần thì mệt phần lại khát ai nấy chán nản.
Tề hoàn-công muốn rút quân về.
Thấp-bằng nói :
– Xin Chúa-công hãy chậm rãi, tôi còn có cách này.
Nói xong dẫn quân đi tìm ổ kiến.
Tề hoàn-công trông thấy hỏi :
– Trong lúc quân sĩ thiếu nước, khanh lại đi tìm ổ kiến làm chi ?
Thấp-bằng thưa :
– Giống kiến là một linh vật, nơi nào có nước ắt nó làm tổ mà ở.
Quân sĩ đi tìm một lúc lâu, bắt gặp một tổ kiến nơi hướng mặt trời mọc.
Thấp-bằng cho đào nơi đó.
Quả nhiên, tìm được một mạch nước rất trong trẻo.
Quân sĩ reo hò, không còn sợ chết khát nữa.
Tề hoàn Công khen Thấp-bằng là bậc kỳ tài và đặt tên giếng nước ấy là Thánh-tuyền.
Chúa nước Linh-chi, sau khi đắp xong dòng sông Nhụ-thuỷ cho người dò xét, thấy binh Tề lâu ngày mà không thiếu nước, lấy làm lạ hỏi tướng Tốc-mãi :
– Đã lâu sao binh Tề vẫn chưa thiếu nước ?
Tốc-mãi nói :
– Tôi có nghe quân Tề vừa đào được suối nước, đặt tên là Thánh-tuyền. Nhưng đó chỉ là sống tạm với thời gian, thế nào cũng phải kéo binh về . Ta chờ họ rút binh, đem quân truy kích, đoạt một số vũ khí mà dùng.
Chúa tôi đắc ý, cả ngày say sưa không còn lo nghĩ gì nữa .
Bỗng một hôm, có tin báo :
– Quân Tề đem đại binh đến vây thành .
Mật-Lư và Tốc-mãi kinh hãi bỏ trốn.
Quân Sơn-nhung mất Chúa, chạy tán loạn, lớp thì đầu hàng, lớp ôm nhau kêu khóc.
Tề hoàn Công không cho quân sĩ giết hại một người nào, kéo quân vào thành mở ngục thả một số đàn bà con gái rất đông , mà trước đây bọn Sơn-nhung đã bắt bên nước Yên .
Đoạn chiêu an bá tánh.
Quân Sơn-Nhung thấy vua Tề nhơn đức, rủ nhau ra đầu hàng hết.
Tề hoàn-công hỏi quân Sơn-nhung :
– Chúa bây hiện giờ trốn nơi nào ?
Quân Sơn-nhung thưa :
– Nước tôi giáp với nước Cô-Trúc, hai nước vốn giao hảo với nhau . Trước đây Chúa-công tôi có cho người sang mượn quân, nhưng chưa kịp đi . Nay Chúa-công tôi tất trốn qua nước đó .
Tề hoàn-công hỏi :
– Nước Cô-trúc mạnh hay yếu đường sá thế nào ?
Quân Sơn-nhung thưa :
– Cô-Trúc là một nước lớn, địa thế hiểm-trở, cách đây chừng trăm dặm, có suối Tỵ-Nhỉ làm giới hạn.
Quản-trọng nói :
– Người Sơn-nhung chiếm miền rừng núi, tuyệt địa khó lòng, sớm đánh tối đầu, rất nên nguy hiểm. Nay nước Linh-Chi và Cô-trúc đã kết giao, nếu lấy được Linh-Chi mà không phá được Cô-Trúc thì Linh-chi không thể giữ nỗi . Xin Chúa-công kéo quân đánh Cô-trúc một thể .
Tề hoàn-công nhậm lời , truyền nghĩ binh lại đó ba ngày, rồi kéo sang đánh Cô-trúc.
Nói về Chúa nước Linh-chi là Mật-Lư sau khi bỏ thành chạy trốn sang nước Cô-trúc , đem việc bại binh thuật lại.
Chúa nước Cô Trúc là Đáp lý-kha nghe nói than rằng :
– Ta vừa toan cất binh đến giúp chẳng ngờ Hiền-hầu lại bị thảm bại như vầy. Thôi thì cứ ở lại đây, chờ ta chỉnh tu binh mã dõng sẽ mưu việc phục quốc cho .
Mật-lư cúi đầu cảm tạ, lòng buồn không vơi .
Xảy có quân vào báo :
– Quân nước Tề chiếm nước Linh-chi nay lại cử binh sang đánh Cô-trúc nữa.
Đáp lý-kha cười lớn nói :
– Đã lấy được nước Linh-chi, còn mạo hiểm đến đây mà chịu chết !
Nói rồi truyền quân thu hết các thuyền bè nơi suối Tỵ-Nhỉ để ngăn giặc.
Đại tướng Hoàng-hoa thưa :
– Tôi sợ quân Tề có thể đóng bè qua suối, xin Chúa-công cho quân sĩ phục nơi mé rừng mà phòng bị trước là hơn .
Đáp lý Kha nói :
– Việc đóng bè để đổ binh qua sông không phải chốc lát mà làm xong . Ta không cần phải lo sớm.
Nói rồi cùng Mật-lư uống rượu say sưa cả ngày không lo gì cả.
Trong lúc đó, binh Tề đã kéo đến bên Tỵ-nhĩ .
Nơi đây núi đá lởm chởm cỏ cây rậm rạp chận kín đường đi .
– Sức mạnh của câu ca, lời hát quả thữuc nhiệm mầu !
Quản-trọng nói :
– Thể xác và tinh thần của con người là hai mối tương-quan , thể xác mệt mỏi, tinh thần tất yếu đuối. Ngược lại như tinh thần hưng khởi , thể chất ắt sung mãn. Do đó, kích thích tinh thần là điều cần thiết.
Tề hoàn-công nói :
– Trọng-phụ qua là một kẻ thấu đáo nhân tình.
Qua khỏi vài hòn núi nữa, lại đến một cụm núi cao, xe cộ phải dừng lại, không có lối đi . Trước mặt hai bên đá dựng như vách, chỉ có một con đường nhỏ ở giữa vừa một người một ngựa.
Tề hoàn-công biến sắc, nói :
– Chỗ này nếu bị phục binh, chúng ta sẽ không còn một mạng .
Nói vừa dứt lời mặt vua xây xẩm, thoáng thấy trong kẹt đá nhảy ra một quái thú, nữa người nửa vật, mình mặc áo đỏ, đầu đội mũ đen, bước đến trước mặt Tề hoàn-công cúi đầu thi lễ, rồi giơ tay một vén vạt áo lên đoạn chạy biến vào núi.
Tề hoàn-công kinh hãi, quay qua hỏi Quản-trọng :
– Khanh có thấy gì chăng ?
Quản-trọng đáp :
– Tôi không thấy gì cả .
Tề hoàn-công thuật lại quái-trạng vừa rồi cho Quản-trọng nghe .
Quản-trọng đáp :
– Theo tôi đoán, đó là thần Du-nhi . Một vị thần núi đến mách bảo với Chúa-công đó.
Tề hoàn-công hỏi :
– Tại sao lại vén áo lên để làm gì ?
Quản- trọng đáp :
– Vén áo là ý nói, phía trước mặt có nước, mà vén phía tay mặt là ý nói phía tay mặt nước sâu, bảo phải đi phía trái. Nay xin đóng quân nơi đây do thám thì biết.
Tề hoàn-công khiến quân thám-tử đi dò xét.
Quân về báo :
– Phía trước có suối Tỵ-nhỉ, sâu lắm. Chúa nước Cô-trúc đã thâu đoạt hết thuyền bè, không thể qua đặng.
Tề hoàn-công còn đang suy nghĩ , bỗng có toán quân khác về báo :
– Suối Tỵ-nhỉ phía mặt sâu thăm thẳm, nhưng về phía trái thì cạn, lội không quá gối.
Tề hoàn-công vỗ tay, cười lớn :
– Thế thì đúng theo lời thần Du-nhi đã mách bảo rồi.
Yên trang-công nói :
– Thuở nay tôi không nghe nói suối Tỵ-Nhỉ có chỗ nào cạn như vậy . Đây chắc là thần Du-nhi muốn độ Minh-công qua sông đó .
Tề hoàn-công hỏi :
– Từ đây đến Cô-trúc còn bao xa ?
Yên trang-công đáp :
– Thành quách nước Cô-trúc mới dựng lên từ đời nhà Thương . Qua khỏi suối Tỵ-nhỉ có ba hòn núi cách nhau ba mươi dặm gọi là Tiên đoàn sơn , Mã-tiên sơn và Song-tử sơn . Ba hòn núi ấy chính là ba ngôi mộ của Tiên-quân xứ Cô-trúc. Khỏi ba hòn núi ấy đến Vô đệ thành tức là Kinh đô rồi .
Tề hoàn-công cả mừng, truyền quân theo triền núi tiến về hướng trái mà lội qua suối.
Lúc ấy Chúa nước Cô-trúc đang ăn uống, nghe quân báo rằng quân Tề đã qua suối rồi lòng hoảng sợ, sai tướng Hoàng-hoa đem năm ngàn quân ra cự địch.
Mật-lư nói :
– Tôi tới đây đã lâu chưa lập được công trạng gì, xin đi với Tốc-mãi làm tiên-phuộng
Tướng Hoàng-hoa cười lớn :
– Thôi thôi, một vị vua mất nước, một bại tướng không còn một tên quân, lại muốn theo tôi mà làm gì ?
Nói xong, tướng Hoàng-hoa kéo quân ra đi .
Mật-lư có ý trẽn tràng.
Đáp lý-kha thấy vậy nói :
– Hiền-hầu kéo binh đi trước mà tiếp ứng cho Hoàng-Hoa, rồi tôi sẽ đem quân đến sau .
Mật-lư tuân lệnh, kéo quân đến Mã-tiên sơn, nghĩ đến lời nói của Hoàng-hoa lòng không nguôi giận .
Hoàng-Hoa kéo quân vừa đến mé suối Tỵ-nhỉ, gặp đại binh của Tề hoàn-công, cầm đầu là tướng Cao-hắc.
Hai bên khai chiến đánh với nhau một lúc .
Cao-hắc yếu thế gần bỏ chạy, xảy có Vương-tử Thành-phủ đem binh tiếp ứng.
Hai bên đánh với nhau dư trăm hiệp, bất-phân thắng bại.
Vương-tử Thành-phủ cả giận hét :
– Sơn cẩu ! Mi tài cán chi mà dám đương sức với ta .
Nói xong, giục trống cho ba quân áp trận.
Hoàng-Hoa vẫn là tay thao lược, có sức mạnh hơn người, nên không lấy thế làm nao núng, trợn mắt, chỉ vào mặt Vương-tử Thành-phủ nói :
– Ta quyết xây nấm mồ để vùi xác chúng bây !
Hai bên đánh năm mươi hiệp nữa thì đạo trung-quân của Tề hoàn-công tiếp đến , bên hữu có Công-tử Khai-phương, bên tả có Thụ điêu, áp tới đánh nhầu.
Tướng Hoàng-Hoa tuy có sức mạnh, song binh Tề quá đông . Nhắm cự không lại quảy ngựa bỏ chạy.
Binh Tề rượt theo, chém giết binh Cô-trúc không biết bao nhiêu mà kể.
Tướng Hoàng-hoa một mình một ngựa chạy riệt đến Đoàn-tử sơn , thấy trên núi quân Tề đã chiếm mất rồi, bèn quày ngựa chạy vòng ra sau núi tẩu thoát. Chạy một đổi nửa đến chân núi Mã-tiên sơn, thấy quân của Mật-Lư vừa kéo đến, lòng mừng rỡ cho ngựa lần tới.
Thấy tướng Hoàng-hoa mặt mày hơ-hải, Mật-lư mỉm cười hỏi :
– Tướng-quân chưa bao giờ biết thất trận, sao nay lại bỏ cả binh sĩ chạy về đây một mình ?
Tướng Hoàng-hoa thẹn thùng cúi mặt xuống đất không đáp, biết Mật-lư muốn trả thù cử chỉ khinh dễ của mình vừa rồi, song cũng bỏ qua , xin một ít lương khô ăn cho đỡ đói rồi sẽ hay .
Mật-lư sai lấy gói cơm , móc đưa cho Hoàng-hoa ăn .
Ăn xong, Hoàng-hoa xin một con ngựa cởi.
Mật-lư lựa một con ngựa ốm trao cho .
Tướng Hoàng-hoa lòng đầy căm tức, nhưng chẳng biết nói sao, đành lủi thủi trở về Vô đệ thành ra mắt Đáp lý-kha .
Đáp lý-kha nói :
– Bởi ta không nghe lời khanh nên mới thất trận.
Hoàng-hoa nói :
– Bởi Mật-lư trốn sang nước ta , nên binh Tề mới đem quân đến đánh. Chi bằng chém Mật-lư nạp đầu cho Tề hầu , thà giảng hoà thì hơn .
Đáp lý-kha nói :
– Mật-lư cùng khốn về đây với ta, ta nở nào lại xử bạc như vậy.
Quan Tể-tướng Ngột luật-cổ nói :
– Tôi xin dâng một kế có thể phá binh Tề dễ như chơi .
Đáp lý Kha hỏi :
– Kế gì vậy ?
Ngột luật-cổ nói :
– Phía Bắc nước ta có một cái bể cát, không có nước non, cây cối gì cả .Xưa nay người trong nước chết, thường đem thây ra bỏ nơi đây, xương chất thành đống , ban ngày cũng như ban đêm, bóng ma hiện hình kêu khóc rất ghê rợn. Đặc biệt là thỉnh thoảng có lồng luồng gió độc thổi đến, ai ngộ phải đều xây xẩm mặt mày rồi chết ngay . Nếu gạt quân Tề đến đó, tự nhiên phải bỏ mạng.
Đáp lý Kha nói :
– Quân Tề dại gì mà đến nơi đó ?
Ngột luật-cổ nói :
– Chúa-công hãy tạm đem cung-quyến ẩn-trú nơi Dương-sơn, rồi sai người nói dối với Tề hầu rằng Chúa-công trốn đi cầu cứu nước khác,thế nào Tề hầu cũng đem quân đuổi theo .
Hoàng-hoa nói :
– Tôi xin đem quân đến giả cách đầu hàng , rồi dụ binh Tề đến đó cho .
Đáp lý Kha nhậm lời.
Hoàng-hoa kéo quân ra đi, nghĩ bụng :
– Nếu ta không chém đầu Mật-Lư đem nạp thì Tề-hầu đâu có tin ta . Vả lại đó cũng là dịp để ta trả thù quân bội nghĩa.
Nghĩ rồi kéo binh đến Mã-tiên sơn, vào ra mắt Mật-lư .
Lúc ấy Mật-lư đang đốc quân chống lại cuộc tấn công của binh Tề, nghe Hoàng-Hoa kéo binh đến tiếp ứng thì mừng lắm, vội ra tiếp đón.
Hoàng-hoa thừa lúc Mật-Lư bất ý, rút gươm chém một nhát bay đầu .
Tốc-mãi xem thấy nổi giận, giục ngựa đến quyết giết cho được Hoàng-hoa trả thù cho chúa mình.
Hai đàng dành nhau được một lúc, Tốc-mãi mồ hôi ướt giáp, biết mình cự không lại , bỏ cả quân sĩ chạy sang trại Hồ nhi-bang xin đầu hàng.
Hồ nhi-bang cho là giả dối, khiến quân bắt Tốc-mãi đem chém.
Còn Hoàng-hoa xách đầu Mật-lư thẳng đến trại Tề hoàn-công xin-vào ra mắt .
Tề hoàn-công cho vào.
Hoàng-hoa quỳ móp dưới trướng tâu :
– Chúa-công tôi đã đem cả gia quyến đến nước Sa-tích mà viện binh . Tôi can mãi không được nên đến đây đầu đàng. Nếu Minh-công không chê tôi hèn yếu , tôi xin đi trước dẫn đường để đưa Minh-công vào thành.
Tề hoàn-công thấy đầu Mật-lư, nên tin thật bèn cho Hoàng-Hoa làm tiên phong . Rồi kéo rốc binh mã vào thành nước Cô-trúc.
Khi đến nơi, thấy thành quách đều bỏ trống, Tề hoàn-công lại càng tin lời Hoàng-hoa là thật.
Hoàng-hoa nói :
– Nay Đáp lý-ba dẫn gia quyền đi cầu vinh , sớm tối ắt đem quân về báo thù . Xin Minh-công cho người theo truy cản, bắt Đáp lý-ba mà giết đi thì mới giữ thành này được.
Tề hoàn-công khen phải, liền sai Cao-hắc dẫn một ngàn quân theo Hoàng-hoa đi tiền bộ, lại giao thành cho Yên trang-công trấn giữ rồi kéo đại binh theo sau, để phòng binh viện kéo về.
Đi được một lúc thì trời gần tối, không còn thấy đạo binh của Cao-hắc và Hoàng-hoa đâu nữa, trước mặt chỉ thấy một bãi sa-mạc rộng thênh thênh, bốn bề hoang vắng, gió thổi lạnh lùng, xa xa văng vẳng những tiếng ma kêu, quỷ khóc lẫn với tiếng huýt, tiếng gầm của loài hổ-mang và thú dại.
Quân sĩ người người rởn ốc, và cứ thỉnh thoảng một luồng gió thổi đến một số quân binh ngã gục, ngất thở.
Quản-trọng thất kinh nói với Tề hoàn-công :
– Tôi được nghe xứ này có cái bể cát rất độc, chắc bể cát ấy là đây . Xin chớ đến nữa.
Tề hoàn-công truyền thâu quân .
Nhưng quân sĩ lạc đường không biết hướng nào trở lại.
Trong lúc trời tối mịt mùng, rải rác những đống xương khô ngổn-ngang trên bãi, cứ mỗi tên quân lạc ra khỏi đoàn là bị một con ác điểu từ đâu bay đến mổ vào sọ, như một nhát búa , hốt hút lấy tuỷ óc mà ăn .
Quản-trọng truyền đánh kiễng lên thu quân vào một chỗ, rồi bảo vệ Tề hoàn-công tìm đường cũ trở lại.
Nhưng, đường cũ đã mịt mù, không còn dấu vết.
Quản-trọng nói :
– Nước Chung-vô tiếp giáp với nước này, những con ngựa già xứ Chung-vô ắt thuộc đường, vậy thì bảo Hồ nhi-bang chọn lấy vài con ngựa già thả cho đi trước, quân ta theo sau, ắt thoát đặng.
Tề hoàn-Công làm theo kế ấy, quả nhiên ra khỏi sa mạc.
Nhắc lại tướng Hoàng-hoa, có ý đi trước để đánh lừa binh Tề, và lập kế đưa Cao-hắc đến núi Dương-sơn .
Nhưng đi được một lúc, Cao-hắc thấy Hoàng-hoa cứ một mạch đi thẳng, không chờ đại binh theo sau, lòng nghi ngại, không dám đi nữa.
Hoàng Hoa biết ý, lập tức bắt sống Cao-hắc, rồi thẳng đường đến núi Dương-sơn, vào yết kiến Đáp lý-kha, và nói :
– Mật-lư thua trận ở Mã-tiên sơn , bị quân Tề giết, nay tôi đã trá hàng, gạt được quân Tề vào nơi bể cát, lại bắt sống được tướng Cao-Hắc đem về đây, xin Chúa-công định liệu.
Đáp lý Kha bảo Cao Hắc :
– Nếu nhà ngươi chịu đầu hàng, ta tha chết.
Cao-hắc trừng mắt nhìn lên, hét lớn :
– Ta là quan nước Tề, có bao giờ lại thần phục loài khuyểnđương . Chúng bây đừng có nói những lời vô lễ đó !
Hoàng-hoa cả giận, rút gươm chém Cao-hắc một nhát bay đầu .
Đoạn họp binh lại, cùng với Đáp lý-kha kéo quân về thu phục Kinh-thành.
Yên trang-công chống giữ, nhưng không lại, phải bỏ thành, đem binh chạy về Đoàn-tử sơn .
Trong khi ấy, đại binh của Tề hoài-Công đã ra khỏi biển cát, kiểm điểm binh mã thấy hao hơn hai phần mười.
Tề hoàn-công nói :
– Không giao tranh mà binh mã bị tổn thương thật là đau đớn .
Quản-trọng nói :
– Bây giờ trở lại nơi Kinh-thành Cô-trúc để quân sĩ nghỉ ngơi rồi sẽ tính.
Tề hoàn-công y lời, truyền quân kéo về thành Cô-trúc.
Về gần đến nơi bỗng thấy nhân dân già trẻ, dắt nhau đi lũ lượt .
Quản Trọng sai người đến dò hỏi, mới biết Đáp lý-Kha đã đánh đuổi Yên trang-công mà chiếm thành rồi.
Nhân dân nước kia tránh vào rừng nay nghe thành đã lấy lại nên trở về yên trú.
Tề hoàn-công thất kinh đưa mắt nhìn Quản-trọng.
Quản-trọng nói :
– Tôi đã có cách lấy lại kinh thành Cô-trúc rồi !
Nói xong , khiến Hồ nhi-bang cho quân thay hình đổi dạng lẫn với đám đông người , lẻn vào thành để làm nội ứng. Đoạn truyền quân vây kín ba mặt thành chỉ chừa cửa phía Bắc để phục binh mà bắt Đáp lý-kha .
Đêm ấy Đáp lý-kha hay tin quân Tề kéo đến, liền đốc quân lên mặt thành chống giữ .
Bỗng trong thành lửa cháy sáng ngời , đoàn quân nội ứng của Hồ nhi-bang nổi dậy, ó lên một tràng , tràn ra mở bét bốn cửa thành.
Bên ngoài quân Tề kéo vào ba mặt.
Đáp lý-kha thất kinh vội lên ngựa chạy thoát ra cửa phía Bắc.
Đi được vài ba dặm xảy nghe một tiếng pháo lệnh, binh Tề phục hai bên rừng kéo ra đông như kiến.
Đáp lý-Kha bị bắt, còn tướng Hoàng-hoa và Ngột luận-cổ bị chết trong đám loạn quân .
Tề hoàn-công kéo binh vào thành truyền chém đầu Đáp lý-kha bêu nơi Bắc-môn, rồi treo bản phủ*** nhân dân .
Dân Cô-trúc thuật lại chuyện Cao-hắc bị giết.
Tề hoàn-Công thương tiếc vô cùng, khiến ghi công vào sổ để khi về nước gia-ân .
Yên trang-công đang đóng binh ở Đoàn-tử sơn nghe Tề hoàn-Công đã chiếm được Kinh-thành Cô-trúc liền kéo binh đến chúc mừng.
Tề hoàn-Công nói với Yên trang-công :
– Tôi đem binh sang giúp quí-quốc, may thu phục được hai nước Linh-chi và Cô-trúc này rộng hơn năm trăm dặm vậy xin biếu .
Yên trang-công nói :
– Tôi đã làm phiền Minh-công quá nhiều, và mang ơn quá trọng, lẽ đâu còn dám hưởng ơn huệ ấy.
Tề hoàn-công nói :
– Linh-chi và Cô-trúc, hai nước giáp liền với nước Yên, nếu giao cho người khác ắt bị quấy nhiễu. Hiền-hầu chớ nên chối từ hãy nhận lấy mà mở mang bờ cõi rồi sai sứ vào triều cống nhà Châu như thế tôi cũng đã được một phần vinh dự rất lớn.
Yên trang-công từ chối không được, phải nhận lời.
Tề hoàn-công truyền mở tiệc khao thưởng ba quân, lại cắt một thuở ruộng nơi chân núi Tiên đoàn sơn thưởng công cho Hồ nhi-bang , rồi kéo binh về nước.
Yên trang-Công đưa tiễn Tề hoàn-Công ra khỏi nước Yên , rồi mới trở về .
Từ đấy, nước Yên trở nên một nước hùng mạnh ở phía Bắc.
Khi Tề hoàn-công về đến sông Tể-thủy, địa giới nước Lỗ .
Lỗ trang-công ra đón tiếp, mở tiệc nơi mé sông khoản đãi để chúc mừng .
Tề hoàn-công đem những bảo vật lấy được ở hai nước Linh-chi và Cô-trúc đem chia cho Lỗ trang-công .
Lỗ trang-công vì mến tài Quản-Trọng, lại biết được Quản-trọng có một cái ấp riêng gọi là Tiểu-cốc ở địa phận nước Lỗ, bèn cho người đến đó sửa sang, xây thành quách rất tử tế.
Trong thời gian Lỗ trang-công còn ở ngôi, nước Lỗ được thái bình cường thịnh. Nhưng vào tháng tám năm đó Lỗ trang-công tạ thế khiến cho nước Lỗ sinh ra rối loạn.
Nguyên Lỗ trang-công có một người em cùng mẹ là Công-tử Quí, trong bàn tay của Công-tử Quí có chữ hữu nên gọi là Quí-hữu .
Quí-hữu vốn tánh cương trực, lại cùng một mẹ, nên Lỗ trang-Công rất yêu quí.
Lỗ trang-công lại còn có một thứ huynh là Khánh Phủ, và một thứ đệ là Thúc-nha, hai người này gian xảo, nên Lỗ trang-Công chẳng phục.
Quý-hữu , Khánh-phủ, Thúc-nha cả ba đều làm chức Đại-phu trong triều.
Trong thời gian Lỗ trang-Công mới lên ngôi, ra chơi nơi đất Lang đài, gặp người con gái họ Đảng tên là Mạnh-Nhâm, nhan sắc tuyệt trần, Lỗ trang-Công đem lòng yêu dấu, sai người đi thỉnh.
Mạnh-nhâm không đến.
Lỗ trang-công sai người đến hứa với Mạnh Nhâm nếu kết duyên tơ tóc sẽ được phong làm chánh thất.
Mạnh-nhâm bắt Lỗ trang-Công phải chích huyết ăn thề mới nhận lời.
Sau khi thề nguyền xong, Lỗ trang-công đem Mạnh-nhâm về cung chung sống.
Qua một thời gian Mạnh-nhâm sanh đặng một trai là Công-tử Ban .
Lỗ trang-công muốn giữ lời thề, lập Mạnh-nhâm lên làm chánh thất, người mẹ Lỗ trang-Công là Văn-khương nhất thiết không thuận , bảo phải lấy nàng Ai-khương, con gái Tề tương-công về làm chánh-thất.
Lỗ trang-công không dám cãi lời mẹ. Tuy-nhiên lúc bây giờ nàng Ai-khương còn bé lắm, phải chờ đợi hai mươi năm trời nữa mới cưới được.
Bởi vậy, Mạnh-Nhâm dù chưa lập chánh-thất nhưng trong hai mươi năm ấy vẫn làm chủ trong cung .
Đến lúc Ai-khương về làm phu-nhân thì Mạnh-nhâm đã qua đời rồi.
Nàng Ai-Khương không con . Em gái Ai khương là Thúc-khương theo Ai-khương sang , lấy Lỗ trang-công sinh được Công-tử Khải .
Trước kia, Lỗ trang-công lại còn lấy nàng Phong-thị làm tiểu-thiếp, có sanh đặng một trai là Công-tử Thân nữa.
Như vậy, Lỗ trang-công có ba trai : Công-tử Ban , Công-tử Khải và Công-tử Thân .
Về phần nàng Ai-khương, tuy được lập làm chánh-thất, song đã chẳng con, lại hận vì trước kia Tề tương-Công giết cha mình, nên bề ngoài kính trọng Lỗ trang-công , mà bên trong ghét thầm.
Ai-khương thấy Khánh-phủ mặt mũi khôi ngô, đem tình dan díu tư thông với nhau; lại kết đảng với Thúc Nha em cùng mẹ của Khánh phủ để mưu lập Khánh-phủ lên ngôi .
Thúc-nha làm Tể tướng.
Một hôm nhân tiết trời không mưa .
Lỗ trang-công đi tế đảo-vũ, truyền bọn nữ-nhạc tập dượt nơi sân nhà quan Đại-phu Lương-thị.
Quan Đại-phu Lương-thị có một đứa con gái khá đẹp, thường đi lại với Công-tử Ban . Hai bên trao tình cá nước, và Công-tử Ban hứa sau này nối ngôi sẽ phong cho nàng làm phu-nhân .
Hôm ấy con gái Lương-thị , bắc thang lên tường xem diễn nhạc, chẳng may gặp Ngữ nhân-Lạc là tên giữ ngựa, đứng ngoài tường trông thấy .
Dẫu là phận tôi đòi, nhưng khát vọng của con người đâu cách biệt, Ngữ nhân-lạc cất lên vài giọng hát đưa tình để ghẹo hoa .
Hát rằng :
Hoa xuân hơ hớ nhuỵ đào
Tiếc thay ! Ong bướm chưa vào vườn xuân
Tường cao vòi vọi
Bóng nguyệt mông lung
Ước ao cá nước tương phùng
Ấp yêu mộng đẹp cho lòng phôi pha !
Công-tử Ban nghe tiếng hát chạy đến, trông thấy Ngữ nhân-lạc , lòng căm tức truyền bắt vào, đánh ba trăm roi, máu tuông lai láng .
Ngữ nhân-lạc khóc lóc van xin .
Công-tử Ban mới tha cho và đem việc ấy thuật lại với Lỗ trang-công .
Lỗ trang Công nói :
– Đối với đứa tiểu-nhân vô lễ, một là bỏ qua , hai là giết đi . Con đánh nó như vậy không khỏi gây thù oán. Vả lại Ngữ nhân-lạc là đứa có sức mạnh phi-thường, mọi người ai cũng biết, con khá cẩn thận.
Quả vậy, Ngữ nhân-lạc tuy là một kẻ tôi đòi , song sức mạnh ít ai sánh kịp. Đã có lần Ngữ nhân-lạc từ trên chòi canh cao hai mươi trượng nhảy xuống đất mà vẫn đứng dậy như chơi . Lại cầm cột chòi canh rung rinh làm cho mọi người phải khiếp sợ.
Bị Công-tử Ban đánh đập ; Ngữ nhân-lạc đem lòng thù oán, đến xin làm tôi cho Khánh-phủ.
Khánh-phủ liền thu dùng.
Năm sau Lỗ trang-Công bệnh biết mình không sống được lâu , lại nghi Khánh Phủ muốn cướp ngôi, nên gọi Thúc Nha và hỏi dò ý kiến.
Quả nhiên Thúc-nha khen Khánh-phủ, và khuyên Lỗ trang-Công nên truyền ngôi lại cho Khánh-phủ.
Lỗ trang-công buồn bã, nhưng không tỏ ý cho Thúc-Nha biết.
Thúc-nha bái tạ lui ra .
Lỗ trang-công lại cho đòi Quí-hữu vào hỏi.
Quí-hữu nói :
– Chúa-công ngày trước đã có lời ước với Mạnh-Nhâm . Tuy không lập Mạnh-nhâm lên chánh-thất nhưng vẫn phải coi con của Mạnh-Nhâm là chính.
Lỗ trang-công nói :
-Thúc-nha khuyên ta nên truyền ngôi cho Khánh-phủ, việc ấy nên chăng ?
Quí-hữu nói :
– Khánh-phủ là một kẻ thiếu đạo đức, không đủ tư-cách làm vua . Thúc-nha muốn mưu cầu quyền lợi, xin Chúa-công chớ nghe theo . Tôi xin hết sức phò Công-tử Ban để cứu lấy nước Lỗ.
Lỗ trang-công gật đầu nở một nụ cười tươi nhìn Quí-hữu tỏ vẻ trìu mến.
Quí-hữu lui ra, nghĩ thầm :
– Nếu không chặt bớt vây cánh của Khánh-phủ, sau này ắt khó trừ đặng. Nghĩ rồi, giả chiếu của Lỗ trang-công triệu Thúc Nha đến tư dinh quan Đại-phu Hàm-quí để nghe lệnh .
Thúc-nha ngỡ thật bôn ba đến.
Quí-hữu bỏ thuốc độc vào một ly rượu, đưa cho Hàm-quí bắt Thúc-nha uống. Lại viết cho Thúc-nha một bức thư, đại ý nói Chúa-công có lệnh bắt Công-tử phải phục độcđược mà chết đi thì con cháu mới được phong chức bằng không toàn gia phải bị tru lục .
Thúc-nha không chịu uống.
Hàm-quí phải đè Thúc-nha xuống đất đổ thuốc độc vào miệng.
Thúc-nha hộc máu chết ngay .
Chiều hôm ấy, Lỗ trang-công từ trần .
Quí-hữu lập Công-tử Ban lên nối ngôi .
Chưa bao lâu, ông ngoại của Công-tử Ban qua đời, Công-tử Ban nghĩ đến tình mẹ mình là Mạnh-Nhâm, nên đến tận nhà thăm viếng.
Khánh-phủ hay được, kêu Ngữ nhân-lạc đến nói nhỏ :
– Ngươi không nhớ cái thù thuở xưa ? Ngày nay con giao-long đã ra khỏi mặt nước thì sức một người có thể bắt được, sao nhà ngươi không đến nhà họ Đảng mà báo thù .
Ngữ nhân-lạc nói :
– Nếu có điều gì xin nhờ Công-tử bênh vực thì tôi mới dám.
Khánh-phủ nói :
– Điều đó ngươi khỏi lo .
Ngữ nhân-Lạc liền giấu một con dao găm vào mình, thừa lúc đêm tối trèo tường vào nhà họ Đảng, đứng núp trước cửa phòng.
Trời tang-tảng sáng, nội thị mở cửa ra lấy nước .
Ngữ nhân-lạc lén vào buồng ngủ.
Lúc ấy, Công-tử Ban cũng đã thức dậy, vừa bước chân xuống đất. Thấy Ngữ nhân-lạc, Công-tử Ban sợ hãi, hét lớn :
– Mầy đến đây để làm gì .
Ngữ nhân-lạc nói :
– Ta đến để báo thù trận đòn năm trước.
Công-tử Ban liền rút thanh kiếm ở đầu giường chém một nhát vào trán Ngữ nhân-lạc đến lòi tuỷ óc ra .
Ngữ nhân-lạc vốn có sức mạnh, tay trái nắm lưỡi kiếm, tay phải cầm dao đâm vào cạnh sườn Công-tử Ban đến lút cán.
Công-tử Ban té nhào xuống đất tắt thở.
Bọn nội thị sợ hãi kêu ầm lên .
Còn Ngữ nhân-lạc, sau khi đâm được Công-tử Ban một nhát trả thù, cũng té xỉu xuống đất chết ngay .
Quí-hữu nghe tin Công-tử Ban chết biết mưu của Khánh-phủ. Liệu mình cô thế, liền bỏ qua nước Trần tị nạn.
Khánh-phủ tuy mưu giết vua, nhưng bên ngoài vẫn làm ra vẻ đạo đức để che mắt thiên hạ, liền đổ tội cho Ngữ nhân-lạc, và bắt cả nhà Ngữ nhân-lạc đem chém.
Lúc bấy giờ nàng Ai-khương muốn lập Khánh-Phủ lên ngôi, nhưng Khánh-phủ lòng sâu độc, muốn cho tăm tiếng được vẹn toàn, nói với Ai-khương :
– Chưa giết được Công-tử Thân và Công-tử Khải thì chưa nên nối ngôi .
Thương hỏi :
– Thế thì có nên lập Công-tử Thân hay không ?
Khánh-phủ nói :
– Công-tử Thân đã trưởng thành, khó kiềm chế, nên lập Công-tử Khải thì hơn .
Công-tử Khải là con nàng Thúc-khương cháu ngoại của Tề hầu , nên Khánh-phủ thân hành sang nước Tề mang lễ vật lo lót với Thụ điêu , yêu cầu Tề hoàn-Công thừa nhận Công tử Khải lên nối ngôi .
Lúc đó Công-tử Khải mới có tám tuổi, tuy được lên ngôi, song bên trong thì sợ Ai-khương , bên ngoài thì sợ Khánh-phủ, không dám quyết đoán điều gì cả.
Cách nữa tháng sau, Công-tử Khải mới làm lễ tức vị xưng hiệu là Lỗ mẫn-công, rồi sai sứ sang Tề xin hội ở đất Lạc-cô thuộc Tề.
Đến ngày hội, Lỗ mẫn-công nắm áo Tề hoàn-công khóc oà, kể lể chuyện Khánh-phủ hiếp chế mình .
Tề hoàn-công hỏi :
– Các quan Đại phu ở nước Lỗ bây giờ có hiền sĩ nào chăng ?
Lỗ hoàn-Công nói :
– Chỉ có Quí-hữu trung trực hơn cả, nay cánh trốn sang nước Trần .
Rồi Tề hoàn-công hỏi :
– Sao không triệu về mà dùng .
Lỗ mẫn-công nói :
– Nếu triệu Quí-hữu về thì Khánh-phủ nghi ngờ khó lòng lắm .
Tề hoàn-công nói :
– Không sao ! Cứ bảo là theo ý nước Tề thì ai dám trái mạng .
Nói xong, sai sứ sang nước Trần triệu Quí-hữu về.
Lỗ mẫn-công chờ Quí-hữu đến. Rồi mới cùng về nước Lỗ.
Về đến nơi, Lỗ mẫn-công phong cho Quí-hữu làm Tể-tướng.
Tề hoàn-công lại sợ nước Lỗ có loạn nên sai Trọng tôn-thu đến dò xét tình hình.
Sau khi nhận xét mọi điều, Trọng tôn-thu vào yết kiến Công-tử Thân .
Công-tử Thân bàn bạc tình hình nước Lỗ rất rành mạch , khiến Trọng tôn-thu cũng phải khen là một kẻ có tài trị nước .
Trọng tôn-thu dặn nhỏ Quí-hữu nên bảo vệ Công-tử Thân và phải trừ Khánh-phủ đi mới được.
Quí-hữu lắc đầu, giơ lên một cánh tay .
Trọng tôn-thu biết Quí-hữu muốn nói mình cô thế, liền đáp :
– Để tôi về tâu với Chúa-công tôi . Nếu có gì cần giúp đỡ, xin ngài cho biết. Trong thời gian Trọng tôn-phu lưu lại nơi nước Lỗ, Khánh-phủ đem vàng bạc, lễ vật đến mua lòng, nhưng Trọng tôn-thu nhất quyết không nhận nói :
– Nếu ngôi là kẻ trung quân ái-quốc, hà tất phải nhọc lòng làm cái việc đó. Khánh-phủ sợ hãi lui ra, lòng áy náy không an .
Khi về đến nước Tề, Trọng tôn-thu kể lại nội tình nước Lỗ cho Tề hoàn-công nghe, và nói :
– Nếu không trừ được Khánh-phủ thì nước Lỗ không thể nào yên được.
Tề hoàn-công nói :
– Ta đem quân sang mà trừ đi, phỗng có nên chăng ?
Trọng tôn-thu nói :
– Tội ác Khánh Phủ chưa rõ ràng, xin cứ chờ cho Khánh-phủ làm loạn sẽ giết cũng chăng muộn.
Tề hoàn-công khen phải, bỏ qua việc ấy không bàn đến nữa.
Thế rồi, thời gian trôi trong âm mưu đen tối của Khánh-Phủ.
Khánh-Phủ lúc nào cũng mong cướp ngôi nước Lỗ , chỉ vì Lỗ-mẫn Công là cháu ngoại của Tề hoàn-công, lại có Quí-hữu hết lòng phò tá nên chưa dám làm vội.
Một hôm, có quan Đại-phu Bốc-Kỳ đến chơi .
Khánh-phủ mời vào thư trang, Bốc-Kỳ mặt hầm hầm nói :
– Thế này thiệt quá ức !
Khánh-phủ ngạc nhiên hỏi :
– Việc gì thế ?
Bốc-Kỳ đáp :
-Tôi có một thửa ruộng tiếp giáp với thửa ruộng quan Thái-phó Thân bất-hại bị Thân bất-hại xâm lấn. Tôi vào tâu với Chúa-công để định lẽ công bằng. Chúa-công bênh-vực quan Thái-phó, bảo tôi nhường thửa ruộng ấy. Thưa Công-tử, như thế còn gì ức hiếp bằng. Nếu Công-tử nói giúp, tôi sẽ nhớ ơn suốt đời.
Khánh phủ cười lớn nói :
– Chúa-công còn bé, chưa rõ được tình đời . Đem điều phải quấy mà bàn thữuc vô ích. Nếu nhà ngươi có thể làm được đại sự ta sẽ vì nhà ngươi mà giết Thân bất-hại cho .
– Nay Quí-hữu đang bĩnh-chánh, thì việc đại sự ấy không phải dễ . Nếu thất bại làm sao thoát nạn ?
Khánh-phủ nói :
– Thành bại do mưu lược và lòng cương-quyết. Nếu sợ sệt, tính toán chẳng bao giờ làm nên đại sự !
Bốc-Kỳ mỉm môi, hỏi :
– Xin Công-tử cho tôi biết ý.
Khánh-phủ nói :
– Chúa-công hãy còn trẻ tính, nhiều khi đang đêm vẫn ra ngoài phố chơi . Nếu đón đường giết đi rồi đổ tội cho quân trộm cướp có khó gì. Bấy giờ ta phụng mệnh Ai-khương quốc-mẫu mà nối ngôi lại đuổi Quí-hữu đi, thì còn ai ngăn cản.
Bốc-kỳ vâng lời, trở về nhà tìm được một võ-sĩ tên Thu-á, đưa cho một con dao gâm, sai đến phục ở ngoài cửa cung .
Đêm ấy, quả nhiên Lỗ mẫn-công ra ngoài bị Thu-á đâm một dao chết ngay tại chỗ.
Bọn thị vệ kêu ầm lên, xúm đến vây bắt Thu-á.
Trong lúc đó Khánh-phủ lợi dụng cơ hội đến tận nhà giết chết Thân bất-hại.
Quí-hữu đang ở nơi tư dinh hay tin, biết Khánh-phủ làm loạn vội vã đến gõ cửa nhà Công-tử Thân thuật lại mọi việc, rồi bàn với Công-tử Thân trốn sang nước Châu tị nạn.
Nhân dân nước Lỗ lâu nay rất tin phục Quí-hữu, nghe tin Lỗ mẫn-công bị giết , Quí-hữu phải chạy trốn, cả nước đều hậm hữuc, căm tức Khánh-phủ vô cùng, rủ nhau đến vây nhà Khánh-phủ đông như kiến.
Khánh-phủ hoảng hốt, không dám nghĩ đến việc tiếm ngôi, định trốn ra nước ngoài để tránh mối căm phẫn của dân chúng.
Lại sực nhớ đến nước Cử, trước kia Tề hoàn-công cũng nhờ mượn binh nước Cử về phục nghiệp, vả lại Văn-khương trước kia có tư thông với thầy thuốc nước Cử , nay Ai-khương là cháu, ta cùng Ai-Khương đến đó ắt dung thân được.
Bèn sắp sửa hành trang, tin cho Ai-khương biết, rồi trốn đi.
Ai-khương hay được tin Khánh-phủ bỏ trốn, cũng muốn đi theo .
Các cung nhân bàn rằng :
– Vì Khánh Phủ mà phu-nhân lỡ mang tai tiếng, lòng dân oán ghét, nay còn theo Khánh-phủ nữa e họa đến không tránh kịp. Chi bằng qua nước Châu , bàn với Quí-hữu mưu lo việc nước để tránh tiếng tăm.
Ai-khương nghe lời, bõ sang nước Châu vào xin yết kiến Quí-hữu .
Quí-hữu nghe được tin Khánh-phủ đã trốn đi, không chịu tiếp kiến Ái-khương, lập tức đem Công-tử Thân về nước.
Lúc đó Tề hoàn-công được tin nước Lỗ không có vua , liền đòi Trọng tôn-thu vào hỏi :
– Nay nước Lỗ đang rối loạn, chưa người kế vị, ta có nên nhơn cơ hội này đem binh đến chiếm chăng ?
Trọng tôn-thu nói :
– Lỗ là một nước trọng nghĩa, dân chúng chưa quên ơn đức Châu-công. Dẫu gặp biến cố, ta cũng không nên chiếm vội. Vả lại, Công-tử Thân là người thông minh tài trí, còn Quí-hữu cũng am hiểu việc nước, chi bằng nhân dịp này ta đem quân sang giúp, để tỏ ra nước ta là một nước đại nghĩa.
Tề hoàn-công nghe lời, sai quan Thượng-khanh là Cao-hề đem ba ngàn quân sang đóng nơi nước Lỗ nhắm tình hình mà định đoạt . Hễ Công-tử Thân đủ tài trị nước thì ý giao hòa, bằng không, chiếm đoạt ngay nước Lỗ.
Cao-hề tuân lệnh, kéo binh ra đi.
Vừa đến nước Lỗ thì Quí-Hữu cũng vừa phò Công-tử Thân về đến nơi.
Cao-hề thấy Công-tử Thân mặt mũi khôi ngô, nói năng đứng đắn , tỏ ý kính trọng, nên bàn với Quí-hữu lập Công-tử Thân lên ngôi, tức là Lỗ hi-công.
Lỗ hi-công nhờ Cao-hề giúp sức, đắp thành Lộc-môn để đề phòng nước Châu và nước Cử. Đoạn sai Hề-tư theo Cao-hề sang nước Tề để tạ ơn Tề hoàn-công. Lại khiến người đem lễ vật sang nước Cử, nhờ vua nước Cử giết Khánh-Phủ.
Khi Khánh-phủ chạy sang nước Cử , đã đem lễ vật cống hiến cho vua nước Cử rồi, nên mới được dung nạp, nay sứ nước Lỗ lại đem lễ vật đến nhờ giết Khánh-phủ, vua nước Cử không biết làm sao, bèn thu lễ vật, rồi nói với Khánh-phủ :
– Nước Cử tôi nhỏ mọn, binh lực yếu ớt, nếu Công-tử ở đây nước tôi mang họa. Xin Công-tử tạm tránh nơi nước khác.
Khánh-Phủ dùngđằng không chịu đi, vua nước Cử phải sai người đến đuổi.
Khánh-phủ cùng cực nghĩ đến nước Tề, trước kia Thụ điêu có ăn lễ mà bênh vực cho mình. Nay liều sang đó rồi sẽ liệu. Nghĩ rồi lểnh mểnh qua Tề.
Tướng giữ ải nước Tề, từng nghe tiếng Khánh-phủ là gian ác, không cho vào nước.
Khánh-phủ phải tạm trú nơi bờ sông Vạn-thủy để chờ dịp liên lạc với Thụ điêu.
Trong lúc đó, Công-tử Hề-tư, được lệnh Lỗ hi-công sang tạ ơn nước Tề, trở về tới Vạn-thủy gặp Khánh-phủ, bèn nói :
– Nếu đã không được nước nào cho trú ngụ thì về nước còn hơn.
Khánh-phủ buồn bã, nói :
– Quí-Hữu thấy mặt tôi ắt không dung, nếu người có thương tôi thì về trước tâu với Chúa-công nghĩ tình tiên-quân mà tha tội, tôi mới dám về.
Hề-tư từ giã Khánh-phủ trở về ra mắt Lỗ hi-Công , thuật lại lời Khánh-phủ.
Lỗ hi-công động lòng muốn tha tội cho Khánh-phủ về nước .
Quí-hữu nói :
– Nếu kẻ giết vua mà không bắt tội thì còn gì phép nước ?
Lỗ hi-công thở dài, lòng không quyết.
Quí-Hữu kêu Hề-Tư dặn nhỏ :
– Nếu Khánh-phủ chịu xử lấy mình để làm gương cho kẻ khác, ắt con cháu không mất ngôi quyền quí.
Hề-tư đến bờ sông Vạn-thủy, định vào ra mắt Khánh-phủ, nói rõ sự tình, nhưng xét thấy mình không đủ can đảm bắt người tự-vận nên đứng ngoài cửa khóc lớn.
Khánh-phủ nghe tiếng khóc của Hề-tư, biết mạng mình không thể bảo toàn được, ngước mặt lên trời than dài, rồi mở dây lưng thắt cổ tự vận.
Hề-Tư trở về báo tin với Lỗ hi-công.
Lỗ hi-Công buồn bã thở dài.
Bỗng có quân vào báo :
– Nước Cử sai tướng Doanh-nô đem binh đánh Lỗ, đòi tiền lễ tạ về cái chết của Khánh-phủ.
Quí-hữu nói :
– Người nước Cử đã không bắt Khánh-phủ, nay nghe Khánh-phủ chết lại đến đòi tiền công là lý gì ?
Nói xong, tâu với Lỗ hi-công xin đem quân ra đánh .
Lỗ hi-công cởi thanh bửu-kiếm trao cho Quí-hữu nói :
– Đây thanh bửu-kiếm này gọi là Mạnh-lao, tuy dài không được một thước, nhưng lưỡi bén lắm, nó là một bảo vật, xin biếu cho thúc-phụ.
Quí-hữu đeo kiếm vào lưng, cúi lạy tạ ơn, rồi dẫn quân thẳng đến đất Lịch-trì mà cự với tướng Doanh-nô.
Đến nơi, tướng Doanh-nô đã bày trận sẳn sàng .
Quí-Hữu nhủ thầm :
– Chúa ta mới lên ngôi, uy thế chưa vững, nếu rủi ro bị thất trận ắt lòng dân không phục. Vả lại tướng Doanh-nô là người hữu dõng vô mưu, ta phải dụng kế mới thắng nỗi .
Quí-hữu liền tiến ra giữa trận, kêu Doanh-nô nói :
– Nơi chiến trường, quân sĩ là những kẻ vô tội chết oan để bồi đắp danh tiếng cho chủ tướng. Hôm nay ta không muốn như thế. Ngươi vốn là một hổ tướng, nếu có tài hãy cùng ta bõ hết vũ khí đánh bằng tay không, nếu ai thắng sẽ định đoạt số phận kẻ bại.
Doanh-nô cười lớn, nói :
– Lỗ tướng ! Ta chưa hề thầy tướng nào ra trận với ý định lạ lùng đó. Nhưng thôi, dẫu ngươi muốn đánh bằng cách nào ta vẫn không sợ.
Nói xong, truyền quân sĩ dang ra hai bên, rồi cùng với Quí-hữu đấu võ.
Hai người đánh với nhau hơn năm mươi hiệp, bất phân thắng bại .
Quí-hữu có một đứa con trai tên Hạnh-Phủ, lúc bấy giờ mới lên tám tuổi, nhưng có ý kiến ngộ nghĩnh lắm, do đó Quí-hữu yêu mến vô cùng, đi đâu cũng đem theo.
Hạnh-phủ thấy cha mình không thắng nỗi tướng Doanh-nô liền gọi lớn :
– Thanh Mạnh-lao ở đâu sao không dùng đến nó ?
Quí-Hữu nhớ lại thanh gươm báu đeo bên mình, liền sụt lại một bước chờ cho Doanh-nô chồm tới, rút lưỡi kiếm chém sả một nhát.
Đầu Doanh-nô toét từ trán xuồng đến vai, mà thanh kiếm không vấy giọt máu nào . Thật là một thanh gươm sắc bén phi-thường .
Quân binh nước Cử thấy chủ tướng mình đã thác, bỏ chạy rồi .
Quí-hữu đắc thắng thâu quân trở về.
Lỗ hi-cỗng thân hành đón tiếp thưởng một chung ngự tửu, phong cho Quí-hữu làm Thượng-tướng, lại thưởng cho đất Phí-ấp.
Quí-hữu tâu :
– Tôi cùng Khánh-phủ và Thúc-nha đều là cháu của tiên-công nay vì nước phải ép Thúc-Nha uống thuốc độc, buộc Khánh-Phủ thắt cổ , nếu cho đó là công trạng, hưởng lấy lộc nước thật xấu hổ với lương tâm, tôi chẳng dám nhận lãnh.
Lỗ hi-công thông cảm nỗi lòng trung nghĩa của Quí-hữu nói :
– Thế thì khanh muốn thế nào ?
Quí-hữu nói :
– Khánh-phủ và Thúc-nha tuy phạm tội với nước nhưng con cháu không can hệ gì, xin Chúa-công tặng phong cho con cháu để gánh vác việc nước.
Lỗ hi-công y lời, phong cho con Khánh-Phủ ở đất Thành-ấp tức dòng Mạnh-tôn, phong cho con Thúc-nha ở đất Hậu-ấp, tức dòng Thúc-tôn, phong cho Quí-hữu đất Phí-ấp, tức dòng Quí-tôn. Ba dòng Mạnh, Thúc, Quí đều cầm quyền-chính nước Lỗ gọi là Tam hoàn .
Chỉnh đốn xong nước Lỗ, Lỗ hi-công cho người sang viếng nước Tề để kết thêm tình giao hảo.
Tề hoàn-công nghĩ đến Ai-khương là gái nước Tề, nay lại trốn sang nước Châu ấy là điều xấu hổ, liền hỏi Quản-trọng :
– Lỗ hoàn-công và Lỗ mẫn-công đều bị chết do tay Văn-Khương và Ai-khương, gái nước Tề, nếu không trừng phạt e xấu lây đến quốc-thể .
Quản-trọng nói :
– Tuy hai người ấy là gái nước Tề song đã gả về Lỗ rồi, hễ con gái xuất giá tùng phu, hành động đâu còn liên quan đến cố quốc. Nếu Chúa-công muốn trị tội cũng được, nhưng phải âm thầm thì hay hơn.
Tề hoàn-công liền sai Thụ điêu sang nước Châu đưa Ai-khương về Lỗ.
Ai-khương tuân-lệnh, đi đến đất Di địa thì trời vừa xẩm tối phải tìm quán xá nghỉ ngơi.
Thụ điêu nói với Ai-khương :
– Phu-nhân một tay làm hại hai vua, nay còn mặt mũi nào về Lỗ. Chi bằng tự xử lấy mình là hay hơn.
Ai-khương nghe nói, quay lưng vào phòng đóng cửa lại.
Đêm ấy Thụ điêu nghe tiếng khóc sụt sùi suốt đêm trường. Mãi cho đến lúc trời hừng sáng mới dứt.
Thụ điêu chờ mãi không thấy Ai-khương ra liền xô cửa vào xem, thấy Ai-khương đã treo cổ tự vận . Máu hồng còn ướt đẫm, đôi dòng lệ chưa nhòa .
Thụ điêu lập tức sai người qua nước Lỗ phi-báo.
Lỗ hi-công đưa linh cữu Ai-khương về nước tống táng, và tin cho Tề hoàn công hay.
Tề hoàn-công tuy cũng có động lòng nhưng không lấy thế làm buồn bã.
Lúc bấy giờ, mọi việc trong nước Tề hoàn-Công đều giao cho Quản-trọng gánh vác, còn mình chỉ uống rượu, hoặc săn bắn để hưỡng lạc.
Một hôm, Tề hoàn-Công đi săn nơi Đại-trạch, có Thụ điêu theo hầu.
Bỗng Thụ điêu thấy Tề hoàn-công mặt mày ngơ ngác, đôi mắt chăm chăm, đứng nhìn sững về một hướng.
Thụ điêu lấy làm lạ, hỏi :
– Chúa công nhìn thấy gì vậy ?
Tề hoàn-công nói :
– Ta vừa trông thấy một giống ma quỉ, hình thù rất ghê sợ vụt chốc lại biến đi mất, chắc là điềm không tốt.
Thụ điêu nói :
– Ma qui? thuộc về âm, lẽ nào lúc ban ngày lại hiện lên được ?
Tề hoàn-công nói :
– Ngày trước tiên-quân ta cũng đi săn trong lúc ban ngày, thấy beo mà bõ mạng. Ngươi mau mời Trọng-phụ ra đây ta hỏi.
Thụ điêu nói :
– Quản-trọng làm gì biết được chuyện ma quái ?
Tề hoàn-công nói :
– Ngày trước đi đánh Cô-trúc, Quản-trọng đã đoán biết được thần Du-nhi, thì ắt cũng biết đưa giống ma qui? chớ chẳng không.
Thụ điêu thưa :
– Trước kia Chúa-công tả hình dáng thần Du-nhi nên Quản-Trọng phỏng theo đó nói càn, để Chúa-công an lòng đi đánh Cô-trúc . Nay Chúa-công muốn thử tài Quản-trọng, Chúa công đừng nói rõ hình dáng, nếu Quản-trọng biết được mới thực là thánh.
Tề hoàn-công nghe lời thâu quân trở về. Tối hôm đó vì quá sợ sệt nên Tề hoàn-công sanh bệnh sốt.
Rạng ngày, các quan chầu chực đủ mặt để vấn an .
Tề hoàn-Công hỏi Quản-trọng :
– Hôm qua nơi Đi-trạch, ta thấy một giống ma qui? hiện lên chẳng hay khanh có biết được đó là giống gì chăng ? Hình dáng ra sao ?
Quản-trọng không biết trả lời sao, xin hẹn lại đễ suy xét.
Thụ điêu tủm tỉm cười bước đến nói với Tề hoàn-công :
– Tôi đã biết Quản-Trọng không phải là vị thánh.
Tề hoàn-công mỗi ngày một đau nặng.
Quản-trọng rất lo lắng sai người yết bãng khắp nơi, hễ ai biết mà nói được hình dáng giống ma qui? mà Tề hoàn-công đã thấy thì được trọng thưởng.
Yết bảng chưa được ba ngày, có một người mặc áo rách, đội nón mê, xin vào yết kiến.
Quản-trọng cho vào hỏi :
– Ngươi biết được hình dáng ma qui? sao ?
Người ấy thưa :
– Không có giống ma quái nào tôi không thạo. Xin ngài cho tôi được phép vào yết kiến Chúa-công.
Quản-trọng vội vã đưa vào cung, giữa lúc Tề hoàn-công đang ngồi trên long sàng, có hai thị-nữ đấm bóp và Thụ điêu đang dâng nước trà.
Quản-trọng thưa :
– Có người nói được hình dáng ma quái, tôi đã đem đến đây , xin Chúa-công cho phép yết-kiến.
Tề hoàn-công cho vào.
Người ấy quì móp trước long- sàng, cúi đầu thi lễ .
Thấy người áo rách, nón mê, Tề hoàn-công có ý khinh dễ, hỏi :
– Một kẻ quê mùa như ngươi lại có thể biết được chuyện ma quái sao ?
Người ấy tâu :
– Chúa-công gặp ma quái nơi đâu ?
Tề hoàn-công nói :
– Ta thấy giống ấy nơi Đại-trạch, lúc ban ngày.
Người ấy nói :
– Chúa-công tự làm hại lấy mình, chứ ma quái đâu có làm hại được Chúa-công.
Tề hoàn-công hỏi lớn :
– Nhà ngươi bảo rằng không có ma quái sao ?
Người ấy tâu :
– Hạ thần vẫn cho là có ma quái, như ở dưới nước có giống Võng-ượng, ở gò thì có giống Trăn, ở núi thì có giống Quỉ, ở đồng bằng thì có giống Bàng-hoàng, còn nơi Đại-trạch thì chỉ có giống Uy đà mà thôi.
Tê hoàn-công hỏi :
– Giống Uy đà hình dáng thế nào ?
Người ấy thưa :
– Giống Uy đà to lớn như người, mặc áo đỏ đội mũ đỏ. Giống ấy sợ tiếng xe chạy. Hễ nghe tiếng xe chạy rầm rĩ thì ôm đầu mà đứng. Ai trông thấy giống ấy tất dựng nên nghiệp bá đặng .
Tề hoàn-công nghe xong, vùng đứng dậy, nét mặt tươi tỉnh, không còn đau đớn gì cả, nói :
– Chính ta đã thấy giống ấy, nhà ngươi tên gì ở đâu mà lại có tài xét đoán như vậy ?
Người ấy nói :
– Tôi tên Hoàng-tử, một kẻ nông phu sống nơi cõi Tây nước Tề.
Tề hoàn-công nói :
– Nhà ngươi ở đây ta sẽ phong cho nhà ngươi làm chức Đại-phu.
Hoàng-tử từ chối, nói :
– Tôi không muốn làm quan, chỉ mong Chúa-công sửa sang chính trị, trừ gian diệt nịnh, làm cho nước mạnh dân giàu, khiến cho tôi được yên nghiệp làm ăn là tôi mãn nguyện rồi.
Tề hoàn-công khen là người cao sĩ, ban cho thóc lúa, rồi sai người đến tận nhà viếng thăm.
Lại thưởng cho Quản-trọng rất hậu .
Thụ điêu nói :
– Hoàng-tử nói được chứ Quản-trọng có nói được đâu mà Chúa-công trọng thưởng ?
Tề hoàn-công nói :
– Nếu không có Trọng-phụ thì sao ta được nghe lời nói của Hoàng-tử.
Thụ điêu không dám nói nữa .
Lúc bây giờ, nước Vệ bị nước Bắcđịch đem quân xâm chiếm .
Vệ ý-công sai sứ sang Tề cầu cứu .
Tề hoàn-công nói :
– Quân ta mới đi đánh Sơn-nhung vừa rồi, hãy còn mệt mỏi, quân lực chưa dùng đặng. Nếu nước Vệ thấy nguy cấp nên cầu viện ở nước khác. Sứ nước Vệ nghe Tề hoàn-công nói, buồn bã ra về.
Rồi, cuối năm ấy, có quan Đại-phu nước Vệ là Ninh-Tốc sang Tề báo tin Vệ ý-công đã bị quân Bắcđịch giết , nay phải sang đón Công tử Hủy về nước nối ngôi.
Nhắc qua việc nước Vệ, Vệ ý-công lên ngôi đã chín năm trời, mà tính tình biếng nhác, chẳng lo chính sự, chỉ thích chơi một giống chim gọi là chim hạc.
Giống chim này tính ưa sạch sẽ, hình dung đã tao nhã lại hát hay, múa khéo.
Người trong nước thấy vua ưa thích , đua nhau bắt chim hạc đem đến dâng rất nhiều. Hễ chim nào tốt thì được Vệ ý-công phong hàm-phẩm, cấp lương bổng, chim nào đẹp thì được ăn lộc Đại-phu, xem như một triều đình chim hạc.
Mỗi khi Vệ ý-công đi chơi đâu trên các cỗ xe loan, chim hạc đậu bao quanh, gọi là Hạc tướng quân.
Các người nuôi hạc lúc bấy giờ ăn lương rất hậu. Triều đình phải thâu thuế của dân thật nặng, để đủ tiền cấp lương cho hạc .
Lúc bấy giờ việc triều chính do tay Thạch-kỳ con cháu Thạch-Thác và Ninh-tốc đảm đương. Hai người này là hai tôi trung liệt đã nhiều lần can gián nhưng Vệ ý-công không nghe.
Công-tử Hủy là thứ huynh của Vệ huệ-công, thấy cháu mình như vậy, biết nước Vệ một ngày nào đó tất sanh biến , bỏ sang nước Tề cư ngụ .
Tề hoàn-công chọn con gái dòng Tôn-thất gả cho, rồi cho ở luôn bên nước Tề.
Nước Vệ sang trong tình trạng ngoắc ngoải ấy mãi cho đến lúc quân Bắcđịch đến xâm lấn bờ cõi.
Bắcđịch là một nước cường thạnh , lâu nay có ý xâm chiếm Trung-nguyên .
Vừa rồi lại nghe Tề hoàn-công đi đánh Sơn-nhung lấy làm tức tối. Vua nước Bắcđịch là Sưu-man, vỗ án hét :
– Quần Tề đem quân đi đánh Sơn-nhung là có ý khinh dễ nước ta lắm, nếu không nghĩ cách mà trị trước, ắt quân Tề còn dễ ngươi nữa.
Nói xong, kéo binh sang đánh nước Hình.
Tề hoàn-công toan đem binh sang cứu nước Hình , thì quân Bắcđịch lại kéo sang đánh nước Vệ.
Lúc ấy, Vệ ý-công đang sai người đẩy xe chim bạc đi chơi, nghe báo có quân Bắcđịch đến đánh thất kinh, hạ lệnh gọi quân đi đánh giặc.
Dân nước Vệ bỏ trốn cả, không ai dám ra đi lính.
Vệ ý-công sai quan Tư đồ đi bắt khắp nơi mới được hơn một trăm người đem về tra hỏi.
Dân nước Vệ thưa :
– Chúa-công chỉ dùng một giống vật cũng đủ đẹp được quân Bắcđịch, hà tất phải gọi lính làm gì ?
Vệ ý Công hỏi :
– Giống vật gì lại có thể đuổi được giặc ?
Dân nước Vệ thưa :
– Giống chim hạc !
Vệ ý-công quát mắng :
– Giống chim hạc làm thế nào mà đánh giặc, các ngươi đám dùng lời khi quân như thế sao ?
Dân nước Vệ vẫn không sợ sệt, đáp :
– Chim hạc không đánh được giặc, thì đó là vật vôđụng thế mà Chúa-công đã dùng vật vô dụng cho hưởng ơn vua lộc nước , còn kẻ hữuđụng lại bõ đi , như vậy làm sao trong cơn hữu-sự dân chúng không bõ trốn ?
Vệ ý-Công tỉnh ngộ, dịu giọng nói :
– Nay ta đã hối lỗi. Ta sẽ theo ý dân đuổi hết chim hạc đi.
Thạch-kỳ tâu :
– Xin Chúa-công thực hành ngay ý định ấy. Tôi e bây giờ đã trễ lắm !
Vệ ý-Công tức khắc sai người đi đuổi chim hạc, nhưng chim hạc lâu nay được nuôi nấng, quen nơi ăn, chốn ở nên cứ quanh quẩn mãi trong cung không chịu bay đi.
Thạch-kỳ và Ninh-Tốc thân hành ra đứng giữa chợ , giảng dụ dân chúng, nói rõ lòng hối hận của Vệ ý-công, dân chúng mới chịu nhập vào quân ngũ.
Thì, lúc đó giặc Bắcđịch đã kéo đến đất Huỳnh-Trạch rồi.
Thạch-kỳ bàn với Vệ ý-công :
– Quân Bắc Địch mạnh lắm, chớ khinh thường. Tôi xin sang nước Tề cầu cứu, nhờ binh Tề giúp sức mới xong.
Vệ ý-Công nói :
– Ngày trước Tề phụng mệnh Thiên-tử đem binh chinh phạt nước ta. Dẵu không bắt tội, nhưng từ ấy đến nay ta chưa sang tạ tội , nay chắc gì Tề chịu đem binh đến giúp. Chi bằng ta liều quyết chiến với Bắc địch một phen rồi sẽ liệu.
Ninh-tốc tâu :
– Nếu vậy xin Chúa-công lo bảo vệ thành trì, để tôi đem quân ra quyết chiến cho.
Vệ ý-công nói :
– Nếu ta không thân hành ra trận, lòng quân không cởi mở được căm hờn.
Nói xong, trao cho Thạch-kỳ một cái ngọc-quyết và dặn :
– Ta giao việc nước cho khanh hãy ráng vì ta mà tận tâm.
Lại giao cho Ninh-tốc một mũi tên, rồi nói tiếp :
– Khanh khá lo việc giữ thành. Nếu không đánh được quân. Bắcđịch ta thề không trở về.
Thạch-kỳ và Ninh-tốc đều ứa nước mắt nhìn Vệ ý-công nghẹn ngào không nói được nữa lời.
Vệ ý Công cùng với tướng Cừ-khổng khai thành, kéo quân đi .
Tuy Vệ ý-công đã ăn năn, nhưng lòng dân oán hận chưa nguôi .
Lúc đi đường, quân lính hát lên nhiều câu ngập tràn uất ức.
Hát rằng :
Hỡi chim hạc ! Hỡi chim hạc !
Lầu son bát ngát !
Chim hạc ăn lương !
Đồng rẫy ruộng nương
Dân thuờng lo cày cấy !
Hạc lai chơi bay nhảy
Xuống ngựa lên xe !
Dân khổ cực trăm bề
Khi hữu sự , bắt lê ra chiến trận
Đi phen này số phận mong manh.
Vệ ý Công nghe hát, lòng buồn rũ rượi.
Khi đến đất Huỳnh-Trạch trông thấy quân Bắcđịch ngựa xe lộn xộn, hàng ngũ không chỉnh tề, Cừ-khổng nói :
– Quân lực BắcĐịch như vậy mà bảo rằng mạnh thì thật là lầm to.
Nói xong giục trống cho quân sĩ xáp chiến.
Quân Bắcđịch giả thua bõ chạy, dụ quân Vệ đến chổ phục quân, đổ ra đánh.
Quân Vệ vốn không cố lòng đánh giặc, thấy quân Bắcđịch quá mạnh hè nhau bỏ trốn.
Vệ ý-công và Cừ-khổng bị quân Bắcđịch vây vào giữa rất ngặt .
Cừ-khổng nói với Vệ ý-công :
– Tình thế rất hiểm nghèo xin Chúa-công bõ cờ hiệu, thay đổi y phục rồi xuống xe mà chạy, may ra mới thoát được.
Vệ ý-Công thở dài nói :
– Ta thà liều chết để tạ tội với bá tánh còn hơn !
Quân Bắcđịch vây mỗi lúc một dày thêm, các tướng Vệ lần lượt bỏ mạng, quân sĩ chết không biết bao nhiêu mà kể, máu tuôn như suối.
Vệ ý-công cầm cự đến phút cuối cùng rồi cũng chết trong đám loạn quân.
Quân Bắcđịch bắt sống được Hoa long-hoạt và Lễ-không, giữ chức Thái-sử, theo Vệ ý-công hộ giá.
Chúa nước Bắcđịch là Sưu-Man truyền đem chém.
Hai người này vồn biết tinh thần tín ngưỡng của người Bắcđịch, nên lập kế nói dối :
– Các ngươi không muốn chiếm nước Vệ hay sao mà chém chúng ta .
Sưu-Man hỏi :
– Để chúng bây mà làm gì ?
Hoa long-Hoạt nói :
– Ta đây làm chức Thái-sử, giữ việc cúng tế . Nếu sống ta sẽ vì các ngươi mà cáo trước với thần linh, nhờ thần linh giúp sức thì mới chiếm nước được.
Sưu-Man tin thực, tha cho hai người lên xe về thành.
Lúc ấy Ninh-tốc đang tuần phòng trên mặt thành thấy Hoa long-hoạt và Lễ Không hơ hải chạy về, thất kinh hỏi lớn :
– Chúa-công đâu ?
Hoa long-hoạt và Lễ-không nói :
– Quân ta tan vỡ, Chúa-công bõ mình rồi ! Quân giặc mạnh lắm hãy mau lánh nạn kẻo trễ !
Ninh-tốc mở cửa thành cho hai người vào.
Lễ-khổng vào thành. Vừa khóc vừa nói :
– Lúc ra đi có Chúa-công, lúc trở về có một mình. Âu là ta chết theo Chúa-công còn hơn.
Nói xong, rút gươm đâm vào cổ tự vận.
Hoa long-hoạt nói :
– Ta làm chức Thái-sử, giữ sổ bộ, không nên liều mình bõ sách sử thất lạc.
Liền vào nhà Thái-miếu ôm tất cả sách sử đem ra.
Thạch-kỳ và Ninh-tốc đưa cung quyến của Vệ ý-công và Công-tử Thân đi trốn.
Hoa long-hoạt cũng ôm sổ sách đi theo.
Dân chúng nước Vệ hay tin hai quan Đại-phu Thạch-kỳ, Ninh-tốc đã bỏ trốn, đều bồng con, dắt vợ bỏ nhà ra đi, tiếng kêu khóc rất thảm thiết.
Hay tin thành nước Vệ bõ trống, quân Bắcđịch kéo vào, một mặt đốt phá cung thất, vơ vét của cải, giết người cướp của, một mặt cho tướng theo Thạch-kỳ và Ninh-tốc truy nã.
Thạch-kỳ và Ninh-Tốc chạy đến sông Hoàng hà hay tin quân Bắcđịch đuổi theo, lòng kinh hãi, tưởng không trốn thoát , may nhờ có đạo quân nước Tống kéo đến, chận quân Bắcđịch lại, hai người mới kịp xuống đò sang sông lánh nạn.
Quân Bắcđịch, sau khi tàn phá Kinh-thành nước Vệ, thu góp vàng bạc, thóc lúa, rồi kéo binh về nước, để lại một cảnh điêu tàn , tang tóc, thê lương.
Giữa lúc đó có quan Đại-phu nước Vệ là Hoằngđiễn, khi trước lảnh mạng Vệ ý-Công sang sứ nước Trần, nay trở về thấy nước Vệ đã bị quân Bắcđịch phá tan-tành, lại nghe Vệ ý-công bị tử chiến nơi Huỳnh-trạch, lòng đau xót, vội vã đến Huỳnh-trạch để tìm xác Vệ ý Công .
Dọc đường, Hoằngđiễn chạy đâu đâu cũng đầy những xác chết và máu me tanh hôi không thể tả.
Đến Huỳnh-trạch, Hoằngđiễn xông vào các đống xác chết kiếm tìm.
Chợt thấy cây cờ hiệu bõ dưới đất, HoằngĐiễn mừng thầm, nói :
– Cờ hiệu nơi đây, ắt xác Chúa-công không đâu xa.
Bèn tiến đến hai bước.
Bỗng nghe trong đống thịt người lại có tiếng rên rỉ, Hoằngđiễn bới lên xem, thì thấy một người nội thị chưa chết, bị gãy cả chân tay, đang nằm ở đây.
Hoằngđiễn hỏi :
– Ngươi có biết Chúa-công chết chỗ nào chăng ?
Người nội-thị hắt hàm qua một bên nói :
– Đây là đống thịt của Chúa-công. Quân giặc bằm nhỏ ra chính mắt tôi trông thấy. Vì vậy dầu bị gãy cả tay chân, tôi vẫn cố nằm nơi đây, đợi người nước Vệ đến mà chỉ.
Hoằngđiễn rơi lệ, hai tay bới đống thịt đã tan nát từng mảnh, chỉ tìm được một buồng gan còn nguyên vẹn mà thôi.
Bèn để buồng gan trước mặt vừa lạy vừa khóc.
Lạy xong, Hoằngđiễn nói :
– Nay Chúa-công ta bỏ xác như vầy không lấy gì mai táng. Vậy ta hy sinh tấm thân của ta làm áo quan mà tẩn liệm cho Chúa-công.
Nói xong quay lại bảo tên gia nhân :
– Sau khi ta chết, ngươi đem chôn ta vào khu vườn này, đợi lúc nào nước Vệ có vua mới, hãy tường trình câu chuyện này lại.
Đoạn cầm dao mổ bụng xách buồng gan của Vệ ý-công bõ vào .
Được một lúc thì chết.
Tên gia-nhân tuân lời dặn , đem Hoằngđiễn mai táng trong rừng, rồi sửa chữa một chiếc xe hư, đưa người nội thị về thành để dò xét tin tức trong nước.
Lúc đó, Thạch-kỳ và Ninh-tốc đã chiêu tập được một số dân chúng, đưa Công-tử Thân vệ lập lên ngôi, tức là Vệ đái-công.
Nhưng Vệ đái-công trước đây bị bịnh, lên ngôi được có mấy hôm thì từ trần.
Ninh-tốc phải sang nước Tề triệu Công-tử Huỷ về kế vị .
Tề hoàn-công sai Công-tử Vô-khuyết đem quân hộ tống Công-tử Hủy trở về , tôn lên ngôi, tức là Vệ văn-công.
Vệ văn-công vừa lên ngôi, được nghe câu chuyện HoằngĐiễn mổ bụng làm áo quan để chôn buồng gan Vệ ý-công, lòng rất cảm động, cho người đến Huỳnh-trạch dùng vương-lễ mai táng Vệ ý-Công , rồi phong cho Hoằngđiễn và dùng con cháu Hoằngđiễn ra làm quan .
Vệ văn-công tính tinh cần mẫn, tuy làm vua vẫn đội mũ lụa xấu, mặc áo vải , ăn cơm đỏ canh rau, lại siêng năng chăm lo việc liêm chính. Vì vậy, chẳng bao lâu dân tình bớt khốn đốn .
Công-tử Vô-khuyết cho ba ngàn quân đến trấn tại Tào ấp để phòng giữ quân giặc, rồi trở về nước Tề, kể lại đạo đức của Vệ văn-công và thuật lại chuyện HoằngĐiễn mổ bụng chôn vua cho Tề hoàn-Công nghe.
Tề hoàn-công khen :
– Một ông vua vô đạo mà có được bề tôi trung nghĩa như vậy thì nước Vệ chưa đến nỗi mất.
Quản-trọng thưa :
– Nay bắt quân sĩ đóng đồn phòng thủ cho nước Vệ thì khổ nhọc lắm , chi bằng đắp cho nước Vệ một cái thành, tuy khó nhọc một lần, song yên ổn mãi mãi.
Tề hoàn-công y lời, toan hội chư hầu sang đắp thành cho nước Vệ .
Bỗng có sứ nước Hình đến cáo-cấp , nói quân Bắcđịch lại kéo đến đánh , xin cho quân cứu viện.
Tề hoàn-công hỏi Quản-trọng :
– Ta có nên cất binh đi cứu nước Hình chăng ?
Quản-trọng thưa :
– Sở dĩ chư hầu phục ta là vì nước ta hay cứu vớt tai nạn các nước khác. Nay đã không cứu Vệ, lại không cứu Hình nữa thì làm sao gọi là bá-chủ .
– Thế thì bây giờ nên đi đắp thành cho nước Vệ, hay đi cứu nước Hình trước ?
Quản-trọng nói :
– Cứu binh như cứu lửa, không nên duyên trì. Cứu xong nước Hình, rồi nhân tiện, đến đắp thành cho nước Vệ thì được lưỡng toàn.
Tề hoàn-Công khen phải, truyền hịch cho các chư hầu, hội nơi đất Nhiếp-bắc để cùng nhau đánh quân Bắcđịch.
Quản-trọng lại thưa với Tề hoàn-công :
– Quân nước Bắcđịch vừa thắng nước Vệ, thế quân đang mạnh lắm. Còn nước Hình cầu cứu, song quân lực chưa phải suy yếu. Nay ta đợi cho hai bên giáp chiến đã. Nước Hình dẫu thua trận, thì quân Bắcđịch lúc đó cũng mệt mỏi. Ta thừa thế kéo binh đến đánh, ắt dễ thắng hơn.
Tề hoàn-Công nghe theo lời, đem binh đến nơi Nhiếp-bắc, giả cách chờ đợi binh các nước chư hầu, rồi sai người do thám tin tức nước Hình.
Quân Bắcđịch đang lúc hung hăng, ngày đêm công thành.
Nước Hình cự không nổi, vua tôi bỏ chạy tán loạn .
Chúa nước Hình là Thúc-Nhan chạy đến trại Tề hoàn- Công cầu cứu .
Tề hoàn-công nói :
– Tôi không đến quí-quốc kịp, thật có lỗi lớn.
Nói xong, họp các chư hầu bàn mưu phá giặc .
Vua Bắcđịch là Sưu-man chiếm được kinh thành nước Hình, vơ vét của cải, đốt phá cung điện, lòng tham đã mãn nguyện, không còn thiết gì nữa, lại nghe quan các nước chư hầu sắp sửa kéo đến, vội vã rút quân về.
Vì vậy khi các nước chư hầu đến thì chỉ còn vườn không nhà trống, cung điện hoang-tàn mà thôi.
Tề hoàn-công hỏi Thúc-nhan :
– Thành cũ còn có thể ở tạm nữa được chăng ?
Thúc-nhan thưa :
– Dân chúng đã bỏ đi quá nữa, đến trú ngụ nơi Di-nghi , bây giờ tôi phải theo ý dân, dời đô sang Di-nghi mới được.
Tề hoàn-công hội chư hầu, giúp vua nước Hình xây đắp thành lũy nơi Di-nghi, và cắp cho trâu bò, lúa thóc rất nhiều.
Vua nước Hình mến đức, ca tụng chẳng cùng.
Tề hoàn-công lại đem quân các chư hầu sang nước Vệ.
Vệ văn-Công ra khỏi thành nghênh tiếp.
Tề hoàn-công thấy Vệ văn-công đội mũ lụa xấu, mặc áo vải thô, lòng thương xót, hỏi :
– Tôi nhờ các chư hầu đến giúp cho quí-quốc xây thành, đắp lũy chẳng hay quí-quốc muốn đóng đô nơi nào ?
Vệ văn-công thưa :
– Tôi đã chọn đất Sở-khâu là nơi cát địa, có thể đóng đô được , song việc xây cất thành quách tổn phí lắm, không thể nào làm nổi.
Tề hoàn-công nói :
– Việc đó đã có tôi và các nước chư-hầu giúp sức, xin hiền-hầu chớ lo .
Nói xong, truyền các nước chư hầu đền đất Sở-khâu , đốc suất việc xây thành đắp lũy cho nước Vệ .
Tiếng đồn vang đến nước Sở .
Sở thành-vương Hùng-vận từ khi dùng Tử-văn Đầu-cầu Ô đồ làm Tể-tướng, chăm lo sửa sang chính-trị trong nước, mưu việc bá-chủ chư-hầu, nay nghe Tề hoàn-công cứu nước Hình , giúp nước Vệ khiến các chư-hầu mến phục, lòng áy náy không an.
Một hôm hỏi Tử-văn :
– Hiện nay các chư hầu đều quy thuận nước Tề, không biết đến nước Sở, ta thật lấy làm xấu hổ, khanh có ý chi chăng ?
Tử-văn tâu :
– Tề-hầu sửa sang việc quốc-chính đã hơn ba mươi chín năm, các chư-hầu đều tin phục. Ta khó địch nỗi với Tề. Bây giờ xin Đại-vương mở mang bờ cõi, thu phục nhân tâm, chuẩn bị lực lượng để ngày sau cùng với Tề đối địch.
Sở thành-vương nói :
– Mở rộng bờ cõi bằng cách nào ?
Tử-văn thưa :
– Nay có nước Trịnh, nằm vào giữa Nam, Bắc, làm tấm bình phong che đỡ cho các nước Trung-nguyên. Nếu Đại-vương muốn mở mang bờ cõi tất phải đánh lấy Trịnh mới được.
Sở thành-vương nói :
– Có ai vì ta ra sức đảm đương việc đánh Trịnh chăng ?
Quan Đại-phu Đầu-Chương bước ra xin đảm nhận.
Sở thành-Vương cấp cho ba vạn binh hùng, khiến Đầu-chương thẳng đường kéo sang nước Trịnh.
Nước Trịnh từ khi bị nước Sở sang quấy nhiễu ở đất Thuần-môn, ngày đêm có ý đề phòng, nay nghe binh Sở kéo đến nữa, Trịnh văn-Công sợ hãi, một mặt sai tướng tăng cường việc phòng thủ Thuần-môn, một mặt sai sứ sang Tề cáo cấp.
Tề hoàn-công hay tin hội các chư hầu bàn mưu cứu Trịnh .
Đầu-Chương kéo quân đến Thuần-môn, thấy quân Trịnh đề phòng cẩn mật, lại hay tin các chư hầu hiệp binh đến cứu liệu thế không làm gì được phải kéo binh về.
Sở thành-vương hay được Đầu-Chương chưa đánh đã lui binh tức giận, rút thanh gươm đeo mình đưa cho Đầu-liêm, bảo đi chém đầu Đầu-chương.
Đầu-Liêm là anh Đầu-chương nên khi được lệnh lòng phân vân, giấu mật lệnh vào mình, không cho ai biết, rồi lén đến cùng với Đấu-chương thương nghị.
Đầu-Liêm nói :
– Em đã trái lệnh vua không tránh khỏi tội . Nay phải tìm cách lập công chuộc tội mới được .
Đầu-Chương sụp lạy nói :
– Nếu anh tưởng tình đến em, xin anh bày kế cho.
Đầu-Liêm nói :
– Nước Trịnh thấy em kéo binh về tất không còn đề phòng nữa . Nay em phải lập tức đến đó xuất kỳ bất ý đánh một trận, may thắng đặng.
Đầu-Chương vâng lời chia quân làm hai đạo kéo đi trước.
Còn Đầu-liêm theo sau tiếp ứng.
Quan giữ thành nơi biên giới nước Trịnh là Đam-Bá , từ lúc thấy quân nước Sở không đánh mà rút về , có ý trễ biếng. Bất ngờ nay Đầu-chương lại kéo đến nữa không còn để phòng kịp, bị Đầu-Chương hãm thành bắt sống trên lưng ngựa, còn quân sĩ chết hơn quá nữa. hừa thắng, Đầu-chương kéo quân thẳng đến vây thành nước Trịnh.
Được hai ngày, Đầu-liêm bàn với Đầu-chương :
– Ta chỉ cốt lập công để chuộc tội chết, nay thắng trận như vầy cũng đã đũ , không nên khinh thường đóng quân trên đất địch lâu.
Hai anh em liền rút quân về.
Đầu-chương vào yết kiến Sở thành-vương và tâu :
– Khi trước tôi lui binh về cốt là để lập mưu đánh lừa giặc chứ không có ý khi quân hay sợ giặc xin Đại-vương xét lại.
Sở thành-vương nói :
– Ngươi đã thắng giặc, bắt được tướng Trịnh, tội ấy có thể dung tha. Nhưng tại sao nước Trịnh chưa chịu đầu hàng mà ngươi đã kéo binh về ?
Đầu-Chương nói :
– Tôi sợ quân ít, không đánh nổi nước Trịnh làm tổn thương đến uyđanh nước Sở nên phải rút binh về.
Sư thành-vương nổi giận hét :
– Nếu đổ thừa cho quân ít thì quả ngươi đã sợ giặc rồi ! Nay ta cấp thêm quân cho ngươi, nếu không đánh được nước Trịnh thì đừng thấy mặt ta nữa.
Đầu-Liêm bước tới, quỳ tâu :
– Xin Đại-vương cho anh em tôi cùng đi. Nếu nước Trịnh không chịu đầu hàng chúng tôi xin đem đầu Chúa Trịnh về nạp cho Đại-vương.
Sở thành-vương nhậm lời, phong cho Đầu-liêm làm Đại-tướng, Đầu-chương làm phó tướng, cấp cho mỗi người năm vạn binh ròng kéo thẳng đến nước Trịnh.
Trịnh văn-công hay được tin Đam-bá bị bắt, lại nghe quân Sở ồ ạt kéo đến nữa, hoảng hốt, sai sứ sang nước Tề cầu cứu.
Quản-trọng thưa với Tề hoàn-công :
– Mấy năm qua, Chúa-công đã giúp nước Yên, cứu nước Lỗ, lại xây thành đấp lũy cho nước Hình và Vệ. Vậy ngày nay Chúa công có thể dùng quân các nước ấy để đánh Sở được . Mà đánh Sở tức là cứu Trịnh vậy.
Tề hoàn-công nói :
– Nếu hội các chư hầu đánh Sở, nước Sở hay được tất phòng bị trước, thì khó thắng.
Quản-Trọng nói :
– Nước Sái là một nước nhỏ, tiếp giáp với Sở, trước kia có lỗi với Chúa-công. Nay Chúa-công mượn tiếng ấy đi đánh Sái, rồi kéo binh qua đánh Sở, thì nước Sở không phòng bị kịp .
Nguyên trước đây Sái-hầu có em gái là Sái-cơ, đem gã cho Tề hoàn-công làm đệ tam phu-nhân. Một hôm, Tê hoàn-công cùng với Sái-cơ chèo thuyền du ngoạn nơi ao sen, Sái-Cơ đùa bỡn, lấy tay khuấy nước làm tung vào mặt Tề hoàn-công. Tề hoàn-Công phải tránh né mãi. Sái-cơ biết Tề hoàn-công sợ nước, mới cố ý làm cho thuyền lay động, nước bắn vào ướt áo.
Tề hoàn-công nổi giận mắng :
– Tiện-tỳ, mi dám vô lễ với ta đến thế ư ?
Nói xong sai Thụ điêu đuổi Sái-cơ về nước .
Sái-hầu thấy vậy giận lắm, nói :
– Ta đã gả em gái cho, mà còn xử bạc, xua đuổi. Thế thì còn tình nghĩa gì nữa.
Sái hầu đem Sái-cơ gả cho Sở thành-vương lập làm phu-nhân.
Từ ấy, Tề hoàn-Công đem lòng căm giận Sái-hầu.
Nay nghe Quản-trọng nhắc đến, Tề hoàn-công nói :
– Sái và Sở đáng phải trừng trị. Nay có nước Giang và nước Hoàng, cũng tiếp giáp với Sở, bị nước Sở quấy nhiễu đem lòng căm phẫn. Ta muốn cùng với hai nước ấy thề ước, và nhờ làm nội ứng phỗng có nên chăng ?
Quản-trọng bàn rằng :
– Nước Giang và Hoàng là hai nước ở xa Tề lại gần Sở. Nếu qui thuận nước ta tất nước Sở giận, kéo quân sang đánh . Chừng đó ta đến cứu thì quá xa xôi, bằng không đến cứu, mang tiếng với chư-hầu, chi bằng liên-kết với nước khác là hơn.
Tề hoàn-công nói :
– Dẫu xa xôi, nhưng họ có lòng hâm mộ về với mình, lẽ nào lại từ chối để cho họ phải thất vọng !
Quản-trọng nói :
– Nếu Chúa-công không nghe lời thì cứ xin ghi lấy lời tôi nói, sau này sẽ thấy điều lợi hại.
Tề hoàn-công sai mời nước Hoàng và nước Giang đền giao hòa, rồi cùng hai nước ăn thề, họp binh đánh Sở.
Vua nước Giang và nước Hoàng bàn với Tề hoàn-công :
– Lâu nay nước Thư vốn giúp cho nước Sở thi hành nhiều điều tàn ác. Ấy vậy, nên đánh nước Thư trước để chặt vây cánh.
Tể hoàn-công y lời viết một phong thư sai người đem đến nước Từ. Nước Từ vốn là một nước tiếp giáp với nước Thư. Vua nước Từ gả con gái cho Tề hoàn-công làm đệ nhị phu-nhân, lâu nay vẫn tùng phục nước Tề, nên nay Tề hoàn-công khiến hưng binh sang đánh nước Thư. Vua nước Từ được lệnh hưng binh .
Chẳng bao lâu lấy được nước Thư .
Tề hoàn-công bảo vua nước Từ đóng quân ở Kinh-thành Thư , phòng khi cấp biến .
Giữa lúc đó, Tề hoàn-công lại tiếp sứ nước Lỗ sang thương nghị.
Sứ nước Lỗ là Quí-hữu vào ra mắt và tâu :
– Nước tôi có hiềm khích nước Châu và nước Cử, nên trước đây không sang đắp thành cho nước Vệ và nước Hình. Nay nghe tin quí quốc hội với nước Giang và Hoàng, sắp sửa tranh chiến , Chúa-công tôi xin đem binh giúp sức.
Tề hoàn-công nghe nói, mừng rỡ đem việc đánh Sở mật ước với Lỗ.
Lúc bấy giờ nước Sở đang đem quân xâm chiếm nước Trịnh, vây thành rất ngặt.
Trịnh văn-công muốn xin giảng hòa để cứu dân nước khỏi cảnh lầm than.
Quan Đại-phu Khổng-thúc can :
– Xin Chúa-công hãy chậm rãi . Nước Tề đang chuẩn bị đánh Sở , mục đích để cứu Trịnh. Ta nên cố thủ chờ xem.
Trịnh văn-công nghe lời, sai người cáo cấp với Tề hoàn-công.
Tề hoàn-công lập tức hội chư hầu, mượn cớ đánh Sái, để đem quân phạt Sở .
Tề hoàn-công phong cho Quản-trọng làm Đại tướng, lại khiến Thụ điêu đem quân sang đánh nước Sái trước.
Nước Sái lâu nay vốn cậy Sở không phòng bị gì cả. Khi thấy Thụ điêu kéo quân đến, mới vội vàng đem quân chống giữ.
Sái hầu thấy Thụ điêu bỗng nhớ lại Thụ điêu trước kia là người hầu hạ Sái-cơ trong cung Tề , là một kẻ tiểu-nhân, bèn sai người đem vàng lụa đến cống lễ , để nhờ Thụ điêu hoãn binh.
Thụ điêu nhận lễ vật rồi đem các điều dự tính của Tề hoàn-công hội chư hầu, trước đánh Sái sau đánh Sở nói cho nước Sái biết, bảo Sái hầu phải đem gia quyến lánh nạn kẻo bị diệt vong .
Sứ tề tâu lại , Sái hầu thất kinh, nội đêm ấy bỏ thành, dắt cung quyến chạy sang nước Sở.
Dân trong thành thấy vua bỏ trốn tức khắc tìm đường lánh nạn.
Thụ điêu kéo quân vào thành, sai người về phi báo với Tề hoàn Công xưng tụng công lao của mình.
Còn Sái-hầu trốn sang nước Sở. Vào ra mắt Sở thành-vương thuật lại những lời nói của Thụ điêu.
Sở thành-vương biết được mưu kế của Tề hoàn-công, liền ra lệnh cho quân sĩ canh phòng khắp nơi cẩn mật.
Lại sai người sang nước Trịnh bão Đầu-chương rút quân về.
Mấy hôm sau, đại binh của Tề hoàn-công kéo đến nước Sái.
Thụ điêu đem quân ra nghênh tiếp, bảy nước chư-hầu cùng đến một lượt quân bị rất chỉnh tề.
Bảy nước ấy là :
1- Tống hoàn-công (Ngự-thuyết)
2- Lỗ hi-công (Thân)
3. Trần tuyên-công (Xử-Cựu)
4- Vệ văn Công (Hủy)
5- Trịnh văn-công (Thiệp)
6.- Tào chiêu-công (Ban)
7- Hứa mục-công (Tân-thần) .
Bảy nước ấy chịu dưới quyền điều khiển của Tề hoàn-Công , Tiểu-bạch làm Minh-chủ.
Lúc ấy Hứa mục-công đang bịnh nhưng cũng ráng đem quân hội nơi nước Sái . Vì vậy, khi đến nơi, Hứa mục-công lâm bịnh nặng bỏ mình.
Tề hoàn-công cảm tình ấy phong cho nước Hứa được đứng trên hàng nước Tào.
Đóng quân nơi nước Sái được ba ngày, an táng Hứa mục-công xong.
Tề hoàn-công cử đại binh thẳng đường kéo qua nước Sở .
Vừa đến biên giới nước Sở, bống thấy một người mũ áo chỉnh tề khép nép bên đường, cúi chào Tề hoàn-công hỏi :
– Ngài có phải Tề-hầu chăng ? Tôi là sứ-thần nước Sở, chờ ngài nơi đây đã lâu.
Nguyên người ấy là Khuất-hoàn , hiện làm quan Đại-phu nước Sở . Nay vâng lệnh Sở thành-vương đến để thuyết khách .
Tề hoàn-công lấy làm lạ, hỏi Quản-trọng :
– Tại sao nước Sở biết được quân ta đến đây mà cho người ra đón ?
Quản-trọng nói :
– Tất có kẻ nào đem mưu kế của ta tiết lậu cho người nước Sở biết. Tuy nhiên nay đã có thuyết khách của Sở đến đây, xin Chúa-công cho phép tôi dùng đại nghĩa mà nhắn nhủ vài lời, làm cho nước Sở phải nhục nhã phục tùng, khỏi dùng đến binh lực cũng nên .
Nói xong bước ra tiếp kiến Khuất-Hoàn.
Hai người chắp tay cùng thi lễ.
Khuất-hoàn nói :
– Chúa-công tôi hay tin quí quốc đem binh đến nên sai tôi thưa với quí-quốc vài lời. Tề với Sở ai có nước nấy. Nước Tề ở Bắc-hải, nước Sở ở Nam-hải cách nhau vạn dặm, cớ gì lại đem binh xâm phạt ?
Quản-trọng nói :
– Ngày xưa vua Thành-vương nhà Châu phong cho Tiên-quân ta nước Tề là Thái-công , có dặn Hễ nước nào không chịu mệnh nhà Châu , nước Tề có quyền đem binh vấn tội . Từ khi nhà Châu thiên sang Đông Đô, các nước chư hầu đều chểnh-mảng không theo vương-lệnh. Chúa ta phụng mệnh Thiên-triều giữ quyền Minh-chủ. Nay nước Sở bỏ lệ hàng năm cống hiến nhà Châu, mặc dầu chỉ một xe cỗ thanh-mao mà không giữ lễ. Như thế nước Sở không có lỗi sao ?
Khuất-hoàn nói :
– Từ lúc nhà Châu suy yếu, các nước đều bỏ lệ triều cống đâu phải riêng gì nước Sở. Nếu quí-quốc cho đó là một tội lỗi thì thật là đáng buồn cười.
Nói xong, cười lớn rồi quay xe trở về.
Quản-trọng nói với Tề hoàn-công :
– Người nước Sở rất tự cao, tự đắc không thể dùng lời chinh phục được, phải dùng binh lực để thị uy mới xong .
Tề hoàn-công truyền các nước tấn binh, đến đánh nơi Kinh địa .
Sở thành-Vương cũng không nhịn, phong Tử-văn làm Đại-tướng , đem quân ra đóng nơi đất Hán-nam để chống với quân các chư hầu .
Tử-văn nói với Sở thành-vương :
– Quản-trọng là một người giỏi binh-pháp, nay đem quân các nước chư hầu đến đây tất đã có sẵn mưu kế , xin Chúa-công cho một người nữa đến dò xét binh tình rồi sẽ tuỳ liệu.
Sở thành-vương nói :
– Bây giờ phải sai ai ?
Tử-văn nói :
– Khuất-hoàn đã biết mặt Quản-trọng, vậy cứ sai Khuất-hoàn đi một phen nữa.
Sở thành-vương chưa có ý kiến, Khuất-hoàn đã nói :
– Lần trước tôi đã gặp Quản-Trọng nhưng không bàn luận được gì, nay đi nữa cũng chẳng ích chi. Nếu Đại-vương muốn hoà , tôi sẽ lựa lời đáp ứng, còn nếu muốn đánh, xin Đại-vương sai người khác.
Sở thành-vương nói :
– Đánh hay hoà là tuỳ ở tình-hình địch quân. Ta giao cho ngươi quyền xét đoán ấy, để định liệu việc nói năng .
– Nước Sở sai sứ đến một lần nữa chắc là xin giảng hoà, Chúa-công nên tiếp đãi tử tế .
Tề hoàn-công cho đòi Khuất-hoàn vào.
Khuất-Hoàn quỳ móp dưới trướng tâu :
– Chúa công tôi chỉ vì không cống cỏ thanh-mao, để quí-quốc nhọc lòng đem quân đến đây thật tội rất lớn . Chúa công tôi đã biết lỗi , xin quí-quốc lui binh khỏi ba mươi dặm. Chúa công tôi sẽ tuân-mệnh .
Tề hoàn-công nói :
– Nếu vua nước Sở biết giữ bổn-phận ta còn đòi gì nữa mà không rút quân.
Khuất-hoàn lạy tạ lui ra, trở về thưa lại với Sở văn-vương :
– Tôi hứa với Tề-hầu, chịu cống hiến một xe cỏ thanh-mao, và Tề-hầu cũng đã hứa rút quân khỏi ba mươi dặm.
Sở thành-vương không tin, sai người đi thám thính .
Bỗng có quân vào báo :
– Quân các nước chư-hầu đã rút khỏi ngoài ba mươi dặm , hiện đóng nơi đất Thiệu-lăng.
Sở thành-vương nói :
– Tề-hầu chịu rút quân ấy là có ý sợ ta, ta há lại giữ lời hứa làm chi ?
Tử-văn thưa :
– Đại Vương chớ nên làm thế ! Người ta không bội tín với mình, mà mình bội tín với họ sao phải.
Sở thành-vương nín lặng, nét mặt buồn buồn.
Kế đó, sai Khuất-Hoàn đem mấy xe vàng lúa đến đất Thiệu-lăng để ban thưởng cho quân các nước chư hầu .
Lại sai sửa soạn một xe cỏ thanh-mao đem đến trình với Tề hoàn-công để đem vào triều cống Thiên-tử .
Lúc đó, Hứa mục-công đã qua đời, con Hứa mục-công là Hiệp, lên nối ngôi, xưng hiệu Hứa hi-công .
Hứa hi-công sai quan Đại-phu Bách đà đến hội diện cùng các chư-hầu nơi Thiệu-lăng để điều khiển đoàn quân của mình.
Khuất-hoàn vào yết kiến Tề hoàn-công dâng vàng lụa để ban thưởng cho quân sĩ.
Tề hoàn-công đem phân phát cho các nước.
Khuất-hoàn lại dâng cỏ thanh-mao.
Tề hoàn-công xem xong giao trả cho Khuất-hoàn , sai sứ đem vào triều cống Thiên-tử.
Tề hoàn-công hỏi Khuất-hoàn :
– Nhà ngươi đã bao giờ được trông thấy quân lực của các nước Trung-nguyên chưa ?
Khuất-hoàn nói :
– Tôi ở nơi xa xôi hẻo lánh về cõi Nam này, chưa từng thấy những đạo binh hùng mạnh của Trung-nguyên , nếu Minh-công có hảo-ý, xin cho tôi được xem tường tận .
Tề hoàn-công liền đưa Khuất-hoàn đi xem các trại quân của các nước chư-hầu.
Bấy giờ quân các nước đóng liền nhau dài hơn mấy mươi dậm. Mỗi khi trại quân Tề nỗi trống hiệu, các trại chư-hầu đồng ứng tiếng, gióng lên như sấm.
Tề hoàn-công đắc ý, cười lớn , nói với Khuất-hoàn :
– Binh-lực của các nước Trung-nguyên ta như thế này đánh đâu mà chẳng thắng .
Khuất-hoàn nói :
– Minh-công là bá chủ Trung-quốc, dùng đạo đưc để chinh-phục lòng người, dùng đại-nghĩa thắng thiên-hạ. Cái đó mới đáng sợ . Chư như lấy binh lực cậy oai, thì nước Sở tôi, dẫu nhỏ mọn, nhưng có Phương-thành, có sông Hán-thuỷ , thành cao, hào sâu, dẫu trăm vạn binh hùng, vị tất đã làm gì nổi !
– Nhà ngươi thật là một hiền-sĩ của nước Sở. Nay ta xin cùng vua nước Sở giữ lấy chức phận của tiên quân ta ngày xưa , nhà ngươi nghĩ thế nào ?
Khuất-hoàn nói :
– Minh-công có lòng nghĩ đến Chúa-công tôi mà giảng-hoà thì còn gì may mắn hơn.
Tề hoàn-công truyền mở tiệc đãi đằng.
Sáng hôm sau Tề hoàn-Công lập đàn , để cùng với nước Sở ăn thề và lập điều ước giảng-hoà với nhau.
Quản-Trọng xin tha cho Đam-Bá về nước Trịnh.
Khuất-hoàn cũng thay mặt Sái-hầu xin lỗi với Tề hoàn-công.
Đoạn, hai bên từ giã nhau.
Tề hoàn-Công ra lệnh thu quân về nước.
Trong khi đi đường, Bảo thúc-nha hỏi Quản-trọng :
– Nước Sở tiếm xưng vương hiệu, tại sao Trọng-phụ không đem việc ấy bắt tội khi-quân lại nhận cỏ thanh-mao làm chi ?
Quản-trọng nói :
– Nước Sở tiếm xưng vương-hiệu đã ba đời. Nếu nay bắt bỏ vương-hiệu, không đời nào nước Sở chịu tuân theo. Ấy vậy, nước ta làm sao điều khiển được. Muốn điểu khiển họ, cốt yểu phải làm cho họ nghe lời mình trước đã. Mà muốn họ nghe lời mình, không gì hơn đừng để họ bất mãn mình.
Bảo thúc-nha nghĩ ngợi một lúc, rồi cũng cho là phải.
Quan Đại-phu nước Trần là Đào đồ, nghe tin Tề hoàn-Công đem quân về nước, liền bàn với quan Đại-phu nước Trịnh là Thân-hầu :
– Nếu để quân Tề đi qua địa giới nước Trần và nước Trịnh, thì ta phải cung đốn lương thực, như thế đã tốn của lại mất công , chi bằng nói với Tề hầu đi về phía Đông, khiến cho nước Từ và Cử phải chịu lấy sự khó nhọc ấy thì hai nước ta mới rảnh-rang được.
Thân-hầu vốn là một kẻ nham hiểm, ngoài mặt tán thành lời nói của Đào đồ, nhưng trong bụng có ý cười thầm, liền bảo Đào đồ vào tâu với Tề hoàn-công.
Đào đồ bước vào ra mắt, tâu :
– Minh-công đánh Sơn-nhung nơi phía Bắc, phạt nước Sở nơi phía Nam, bây giờ nên rút quân về phía Đông, để cho các nước trông thấy oai mà sợ.
Tề hoàn-công nói :
– Nhà ngươi nói rất phải.
Được một lúc Thân-Hầu cũng vào ra mắt Tề hoàn-công, tâu :
– Minh-công đem quân chinh phạt đã lâu ngày, phải tìm cách để quân sĩ có nơi trú ngụ mà giải-lao. Nay nếu kéo binh về phía Đông rủi có nước mọi rợ nào đón đường ngăn trở, làm cho quân sĩ mệt nhọc, ta thán thì thật là điều bất lợi !
Tề hoàn-công như sực tỉnh, nói :
– Nếu không có nhà ngươi, ta đã lầm lẫn rồi .
Nói xong sai người bắt Đào đồ trị tội, Trần tuyên-công phải đem lễ vật xin lỗi hai ba lần Tề hoàn-công mới chịu tha. Lại khiến Trịnh văn-công phải đem đất Hổ-lao thưởng cho Thân-hầu .
Trịnh văn-công, dẫu phải nghe lời, nhưng lòng không phục.
Tề hoàn-công thấy Quản-trọng lập được nhiều công lao to tác , bèn đem đất Biền-ấp , hơn ba trăm nóc nhà của quan Đại-phu Bá-thị phong thêm cho Quản-trọng.
Sở thành-vương thấy binh Tề và các nước chư-hầu đã rút về , ý chừng muốn đem cổ thanh-mao vào nhà Châu triều cống.
Khuất-hoàn thưa :
– Ta không nên thất tín với nước Tề. Vã lại chỉ vì nước Sở ta không cống hiến nhà Châu , nên nước Tề mới được tiếng là biết tôn kính Thiên-tử. Nay nhân cơ hội này, ta sai vào cống hiến thì nước ta cũng chẳng kém gì nước Tề.
Sở thành-vương nói :
– Chỉ ngặt một điều nước ta đã xưng Vương-vị . Nay xưng hô thế nào cho tiện ?
Khuất-hoàn nói :
– Không hề chi. Trong tờ biểu chỉ xưng là viễn-thần cũng đủ .
Sở thành vương nhậm lời, sai Khuất-hoàn đem mười xe cỏ thanh-mao và các thư vàng lụa vào dâng vua Huệ-vương nhà Châu.
Châu huệ-vương mừng lắm, phán :
– Nước Sở lâu nay đã bỏ bổn phận, bây giờ lại biết triều phục như thế thực là phước lớn của Tiên-vương ta.
Nói rồi đem lễ-vật cáo-yết Thái-miếu, lại ban thưởng cho nước Sở rất hậu .
Khuất-hoàn lạy tạ, rồi cáo từ.
Chẳng bao lâu, Tề hoàn-công lại sai Thấp-bằng đến yết kiến Châu huệ-vương , tâu về việc nước Sở đã chịu thần phục .
Châu huệ-Vương tiếp đãi Thấp-bằng rất trọng thể.
Thấp-bằng tâu với Châu huệ-vương , xin được phép đến chúc mừng ngôi Thái-tử.
Châu huệ-vương nghe nói vẻ mặt lúng túng, trộn lẫn một ít u buồn, rồi sai người đòi Thái-tử Trịnh và Vương-tử Đái đến.
Thấp-Bằng lạy mừng xong, bái tạ ra về.
Về đến nước Tề, Thấp-bằng vào ra mắt Tề hoàn-công tâu :
– Nhà Châu sắp có loạn !
Tề hoàn-công thất kinh hỏi :
– Tại làm sao thế ?
Thấp-bằng nói :
– Người con trưởng của Thiên-tử là Trịnh, tức con bà Khương-hậu, đã lập lên Thái-tử. Nay bà Khương-hậu mất, bà thứ-hậu là Trần-vỉ, được vua yêu, sinh đặng Vương-tử Đái. Thiên-tử muốn bỏ con trưởng lập con thứ, vì vậy lúc tôi xin yết kiến, vua đòi ra cả hai người. Tôi e rằng chẳng bao lâu nhà Châu sẽ có loạn .
Tề hoàn-công vội vã đòi Quản-trọng vào thương-nghị.
Quản-trọng nói :
– Tôi có một kế, có thể giữ yên được nhà Châu.
Tề hoàn-công hỏi :
– Kế gì vậy ?
Quản-trọng nói :
– Cần gây cho Thái-tử một thế-lực mạnh mẽ. Nay viết một đạo biểu dâng lên vua nhà Châu tỏ ý các chư-hầu muốn yết-kiến ngôi Thái-tử, xin nhà vua cho Thái-tử ra hội với các chư-hầu. Hễ Thái-tử đã hội diện với các chư-hầu thì địa-vị đã được căng-co dầu muốn thay đổi cũng không được.
Tề hoàn-công khen phải, liền viết hịch hẹn với các chư-hầu sang năm họp mặt tại đất Thủ-chỉ thuộc nước Vệ, rồi lại sai Thấp-Bằng đến triều Châu , tỏ ý các chư-hầu muốn yết kiến ngôi Thái-tử để tỏ lòng tôn kính.
Châu huệ-vương không muốn cho Thái-tử đi hội, nhưng sợ thế lực nước Tề, chẳng dám từ khước.
Thấp-bằng về nước, báo với Tề hoàn-công.
Đầu năm sau, Tề hoàn-công sai Trần kính-trọng sang đất Thủ-Chỉ làm một nhà hành-cung để đón Thái-tử.
Đúng kỳ hẹn Thái-tử Trịnh đến. Các chư-hầu kéo đến lạy mừng .
Thái-tử Trịnh hai ba lần từ chối không dám nhận lễ.
Tề hoàn-công tâu :
– Chúng tôi là chư-hầu, đối với Thái-tử cũng như bề tôi đối với vua, xin Thái-tử chớ tị-hiềm.
Thái-tử Trịnh tỏ lời cảm tạ.
Rồi đêm ấy, mời Tề hoàn-công đến hành-cung, đem việc Vương-tử Đái muốn cướp ngôi thuật lại .
Tề hoàn-công tâu :
– Chúng tôi cùng các Chư-hầu ước nguyện quyết bảo vệ cho Thái tử , xin Thái-tử chớ ngại.
Thái-tử Trịnh sợ ở nơi đất Thủ-Chỉ lâu ngày làm phiền các chư hầu, nên muốn về triều.
Tề hoàn-công nói :
– Sở dĩ chúng tôi muốn lưu Thái-tử lâu ngày là muốn Thiên-tử hiểu thấu lòng lưu luyến của chư-hầu đối với Thái-tử. Nay đang giữa mùa hè nóng nực, xin đợi đến mùa thu mát trời, chúng tôi sẽ hộ giá hồi loan cũng chẳng muộn .
Châu huệ-vương thấy Thái-tử Trịnh lâu về, đoán biết Tề hoàn-Công có lòng mến phục , nên không vui . Hơn nữa, Thứ-phi Trần-Vỉ và Vương-tử Đái ngày đêm ở bên cạnh kiếm lời gièm siểm.
Nhơn lúc quan Thái-sử Chu-khổng vào yết kiến .
Châu huệ-Vương nói :
– Vừa rồi, Tề-hầu đánh được Sở, song quân-lực nước Tề cũng không hơn gì Sở. Nay Sở lại tùng phục Thiên-triều không hổn láo như trước nữa, thì Sở cũng đáng tin cậy .
Chu-khổng tâu :
– Tâu Bệ-hạ, ý chừng Bệ-hạ có điều gì bất bình nước Tề ?
Châu huệ-vương nói :
– Tề-hầu cậy thế , nhóm chư-hầu qui phục Thái-tử, như thế đã có mầm khi quân ! Ta muốn nhờ khanh đem cho Trịnh-hầu một mật chiếu, bảo Trịnh-hầu bỏ Tề theo Sở , rồi đem ý của Trẫm truyền lại với vua Sở.
Chu-khổng tâu :
– Sở về triều cống là nhờ có Tề bắt buộc, sao Bệ-hạ lại không nghĩ đến công lao của Tề-hầu.
Châu huệ-vương nói :
– Nếu các nước chư-hầu cứ tùng phục nước Tề mãi chắc gì Tề-hầu không sanh dị tâm , ý trẩm đã quyết khanh chớ bàn bạc làm chi !
Chu-khổng không dám nói nữa.
Châu huệ-vương liền viết một mật chiếu, niêm phong rất cẩn thận trao cho Chu-khổng.
Chu-khổng không hiểu trong tờ chiếu đó đã viết gì , vội vã đem đến trao cho Trịnh văn-công .
Trịnh văn-công mở ra đọc.
Chiếu rằng :
Thái-tử Trịnh bất tuân phụ lệnh, tự tập các chư-hầu mưu gây rối Thiên triều. Đó là tội bất hiếu, không thể nối ngôi được. Nay ý trẫm muốn lập Vương-tử Đái làm Thái-tử, nếu hiền-hầu bỏ Tề theo Sở , để cùng giúp Vương-tử Đái thì trẫm sẽ giao hết quyền bính cho.
Trịnh văn-công xem chiếu xong, lòng mừng thầm, nói với các quan Đại phu :
– Tiên quân ta Vũ-công , Trang-công trước kia hai đời làm Khanh-sĩ nhà Châu đến đời Lệ-công cũng có công nghiệp lớn, giúp vua Châu, nhưng chưa giữ được quyền chính. Nay vua nhà Châu lại định giao quyền cho ta, thực điều đáng mừng đó !
Quan Đại-phu Đổ-thúc can :
– Nước ta chịu ơn nước Tề , nay bõ Tề theo Sở là điều bội nghĩa. Hơn nữa, Thái-tử Trịnh được mọi người tôn sùng, nay bõ đi phò Vương-tử Đái là trái với ý-nguyện chung của mọi người, xin Chúa-công thận trọng việc này .
Trịnh văn-công nói :
– Theo ý Tề-hầu sao bằng theo ý Thiên-tử nhà Châu , việc phế lập là do ý Thiên-tử chứ đâu phải ý ta .
Đổ-thúc nói :
– Ngôi Thái-tử nhà Châu bao giờ cũng phải là con trưởng. Nếu lập con thứ không tránh điều rắc rồi. Xem như trước kia U-vương yêu Vương-tử Bá-Phục, vua Hoàng-vương yêu Vương-tử Khắc, vua Trang-vương yêu Vương-tử Đồi kết quả đều mang tai vạ. Nếu Chúa-công không xét kỹ e phải hối hận.
Quan Đại phu Thân-hầu cãi :
– Dù muốn dù không đó là lệnh Thiên-tử. Ta há lại trái lệnh Thiên-tử để nghe theo Tề-hầu sao ? Như vậy còn gì đạo quân thần.
Trịnh văn-công cho lời nói của Thân-hầu là phải, đêm ấy bỏ ra về không hội chư-hầu nữa.
Tề hoàn-công hay tin nổi giận, toan đem binh đánh Trịnh.
Quản-Trọng can :
– Dẫu một nước Trịnh bội ước , cũng chưa hại chi, nay xin Chúa-công cứ lập minh thệ với các nước rồi tính sau.
Tề hoàn-công nghe theo lời, lập đàn nơi đất Thủ-chỉ, để cùng với các chư hầu ăn thề , đồng tâm giúp ngôi Thái-tử .
Lời thề như sau :
Tất cả các nước chư hầu có mặt hôm nay đồng tâm giữ ngôi Thái-tử để giữ vững nhà Châu. Nếu ai đổi lòng sẽ bị đất trời tru diệt.
Ngày hôm sau các nước chư-hầu đưa Thái-tử Trịnh về nước.
Trịnh văn-công hay tin các nước chư hầu lập minh thệ, có ý lo sợ cho mình.
Kế đó Sở thành-vương sai người sang Trịnh để bàn việc giao hữu .
Trịnh văn-công lòng dụ dự không quyết, nên không tiếp sứ.
Sở thành-vương bèn tư thông với Thân-hầu , để nhờ Thân-hầu xúi giục Trịnh văn-công bỏ Tề theo Sở.
Nguyên Thân-hầu trước kia làm quan nước Sở , được Sở văn-vương yêu chuộng. Sau Sở văn-vương gần mãn phần, sợ người sau không dùng Thân-hầu nên mới cho Thân-hầu một số châu ngọc để trốn sang nước khác lập nghiệp . Thân-hầu trốn sang đất Lịch, được Trịnh lệ-công yêu dùng. Sau Trịnh lệ-công phục nghiệp mới phong Thân-hầu làm chức Đại phu nước Trịnh.
Đến lúc Trịnh lệ-công qua đời. Trịnh văn-công lên nối nghiệp, Thân-hầu vẫn giữ chức ấy.
Nay được tin nước Sở, Thân-hầu vào bàn với Trịnh văn-công :
– Ta vì phụng mệnh Thiên tử mà trái ý Tề, chỉ còn trông cậy ở nước Sở, nếu không theo Sở thì lấy đâu nương tựa ?
Trịnh văn-công nghe lời, mật sai Thân-hầu qua kết liên với Sở .
Tề hoàn-Công hay tin tức giận cử binh sang vây thành Tần-Mật của nước Trịnh.
Lúc bấy giờ Thân-hầu còn đang ở nước Sở , nghe tin ấy liền tâu với Sở thành-vương :
– Nước Trịnh sở dĩ giao kết với Sở là cậy có Sở giúp. Nếu Đại vương không đem binh cứu nước Trịnh , ắt Trịnh phải theo Tề .
Sở thành-vương triệu tập quân thần thương nghị.
Quan Tể-tướng Tử-văn tâu :
– Nước Hứa đang tùng phục nước Tề, được Tề hoàn-công rất ưu đãi , nay muốn cứu Trịnh, chỉ cần đem binh qua đánh Hứa, quân Tề tất phải rút về mà cứu Hứa.
Sở thành-Vương y lời, đem quân vây thành nước Hứa. Quả nhiên Tề bõ Trịnh kéo thẳng qua nước Hứa để cứu viện .
Nước Sở lại rút quân về.
Thân-hầu trở về nước lòng hiu hiu tự đắc, cho rằng mình đã có công phu rất lớn đối với nước Trịnh.
Qua năm sau, Tề hoàn-công lại đem quân đánh Trịnh nữa.
Quan Đại-phu nước Trần là Đào đồ, lúc trước theo Tề hoàn-công đi Sở có hiềm khích với Thân-Hầu, nên nay viết một mật thư sai người đem đưa cho quan Đại-phu nước Trịnh là Đổ-thúc.
Thư ấy như vầy :
Thân-hầu là một đứa ô-mị, trước kia nịnh bợ Tề-hầu được thuởng đất Hổ-lao nạp , lại ô-mị nước Sở để làm cho Trịnh-hầu phải mang tiếng thất tín. Nếu chém đầu Thân-hầu đem tạ tội, ắt quân Tề tức khắc lui về nước .
Đổ-thúc đem bức thư ấy trình với Trịnh văn-công.
Trịnh văn-công cả giận truyền chém Thân-hầu, cắt đầu bỏ vào một chiếc hộp, sai Đổ-thúc đem nạp cho Tề hoàn-công và nói :
– Ngày trước sở dĩ nước Trịnh bội ước là do Thân-hầu ô-mị , nay xin giết Thân-hầu đem dâng đầu tạ tội.
Tề hoàn-công biết Đổ-Thúc là một tôi hiền, thuận cho nước Trịnh giảng hoà.
Rồi, cũng trong năm ấy Tề hoàn-công lại triệu tập các chư-hầu họp nơi đất Ninh-mãn để kiểm điểm việc binh.
Trịnh văn-công e ngại có chiếu mệnh Thiên-tử, nên chẳng dám công nhiên đi dự mới sai con là Thế-tử Hoa đi thế.
Nguyên Thế-tử Hoa cùng với em là Công-tử Tang đều con bà Đích phu-nhân . Bấy giờ Đích phu-nhân được Trịnh văn-công yêu, mới lập Hoa lên làm Thế-tử. Sau đó, Trịnh văn-công lại lập thêm hai bà phu-nhân nữa cũng đều có con trai cả .
Cách đó chẳng bao lâu Đích phu-nhân chết. Trong cung có một nàng cung nữ tên Yên-cật, một hôm nằm mộng thấy một người đàn ông tay cầm cành hoa đến nói : Ta đây là thuỷ tổ nhà ngươi, nay cho nhà ngươi cành hoa lan này, mai sau sẽ sinh quí-tử, khiến cho nước nhà thịnh vượng.
Nói xong cầm cành hoa lan đưa cho Yên-cật rồi biến mất.
Yên-Cật giật mình thức dậy, đem chuyện ấy tâu với vua.
Trịnh văn-công cho là điềm tốt, ăn ở với Yên-cật, sinh đặng một trai đặt tên là Lan.
Thế-tử Hoa thấy cha mình nhiều vợ yêu như vậy, sợ ngày sau bõ mình lập người khác, mới bàn riêng với các quan Đại-phu, như Thúc-thiêm, Đổ-thúc, Sư-thúc, để bầy mưu gây uy-thế cho mình.
Nhưng các quan đều khuyên Thế-tử Hoa nên giữ lấy đạo-hiếu .
Do đó, Thế-tử Hoa không bằng lòng, tỏ ý hiềm-khích với các quan.
Đến ngày hội chư-hầu, Thế-tử Hoa vào yết-kiến Tề hoàn-công nói riêng :
– Nước Trịnh tôi ngày nay quyền binh đều ở trong tay Thúc-thiêm , Đổ-thúc và Sư-thúc định đoạt cả . Sở dĩ phụ-thân tôi bõ không đi dự hội cũng vì ba người ấy. Nếu Hiền-hầu trừ được ba người ấy thì nước Trịnh tôi mới phần phục quí quốc mãi mãi .
Tề hoàn-công đem chuyện để bàn lại với Quản-trọng .
Quản-trọng nói :
– Không nên ! Xét lời nói của Thế-tử Hoa tỏ ra một kẻ bất trung , bất tín. Thúc-thiêm, Sư-thúc và Đổ-thúc đã được tiếng là Tam-lương của nước Trịnh, ta chớ nên nghe lời mà hõng việc.
Tề hoàn-công bỏ qua không nói đến nữa. Tuy nhiên Quản-Trọng vốn ghét Thế-tử Hoa là kẻ gian-giảo, cố ý đem lời nói của Thế-tử Hoa tiết-lộ cho người nước Trịnh biết.
Trịnh văn-công hay được, đòi Thế-tử Hoa vào hỏi.
Thế-tử Hoa nói dối rằng :
– Phụ thân không qua dự hội nên Tề hoàn-công không chịu giảng hoà. Vậy thì ta nên theo nước Sở là hơn.
Trịnh văn-công đã rõ hết ngọn ngành vỗ án hét :
– Nghịch-tử , mi muốn b*n n**c lại còn dám nói dối với ta nữa sao ?
Nói xong, truyền giam Thế-tử Hoa vào ngục .
Thế-tử Hoa khoét tường trốn ra .
Trịnh văn-công hay được truyền đem chém.
Em Thế-tử Hoa là Công-tử Tang sợ liên luỵ liền trốn sang nước Tống , nhưng Trịnh văn-công được sai người theo giết chết.
Trịnh văn-công lại cảm nghĩa Tề hoàn Công không nghe lời Thế-tử Hoa, nên sai Đỗ-thúc đến tạ ơn .
Năm ấy Châu huệ-vương ốm nặng Thái-tử Trịnh sợ có biến loạn, nên sai quan Hạ-sĩ Vương-tử Hổ đến báo với Tề hoàn-công.
Chẳng bao lâu Châu huệ-vương băng-hà.
Tề hoàn-công nay tin , vội vả họp các chư-hầu ở đất Thao (thuộc nước Tào) làm tờ ai điếu vào triều Châu dâng lễ tế .
Mỗi nước chư-hầu phái một quan Đai-phu thay mặt, kể tên sau đây :
l. Quan Đại-nhu nước Tề : Thấp-bằng
2. Quan Đại-phu nước Tống : Hoa tú-lão
3. Quan Đại-phu nước Lỗ : Công tôn-ngao
4. Quan Đại-phu nước Vệ : Ninh-tốc.
5. Quan Đại-phu nước Trần : Viên-tuyền
6. Quan Đại-phu nước Trịnh : Tư nhân-sư.
7. Quan Đại-phu nước Tào : Công-tử Mậu.
8. Quan Đại-phu nước Hứa : Bách đà.
Tuy mượn tiếng là điếu tang nhưng kỳ thật để làm hậu thuẫn , tôn Thái-tử Trịnh lên ngôi.
Sau lễ an-táng, Thái-tử Trịnh lên tức vị, hiệu là Châu tương-vương.
Trần-vỉ , vợ vua Huệ-vương và Vương-tử Đái lòng rất căm phẫn, nhưng sợ oai các chư-hầu không dám kinh động.
Việc nhà Châu sắp đặt đã yên, Tề hoàn-công lui về nước, định triệu tập chư hầu nơi đất Quí-khâu để bàn tính mọi việc.
Quản-trọng nói :
– Nhà Châu vừa rồi chỉ vì con trưởng , con thứ, không nhất định mà sắp bị rối loạn. Vậy Chúa-công định ngôi Thế-tử trước để khỏi di-hoa. về sau.
Tề hoàn-công nói :
– Ta có tất cả sáu con, đều là con của vợ thứ : Công-tử Võ-Khuy lớn tuổi hơn , nếu cứ lấy người hiền thì có Công-tử Chiêu. Trưởng Vệ-cơ (mẹ Công-tử Võ-khuy) hầu ta đã lâu, ta đã hứa định
lập Công-tử Võ-khuy rồi ; Dịch-nha và Thụ điêu hai người ấy thường thường có nói với Võ-khuy . Công-tử Chiêu là người hiền , nhưng ý ta chưa quyết, bây giờ tuỳ ý Trọng-phụ.
Quản-trọng biết Dịch-nha với Thụ điêu là hai tên nịnh, lại là bè đảng của Trưởng Vệ-cơ , e cho ngày sau Công-tử Võ-khuy lên nối ngôi thì nội công, ngoại ứng làm loạn Quốc-chính. Công-tử Chiêu là con của Trịnh-cơ, nước Trịnh vừa mới giảng hoà với Tề , lập Công-tử Chiêu thì giữa Tề và Trịnh càng thêm thân mật.
Nghĩ như vậy, Quản-Trọng mới thưa với Tề hoàn-công :
– Hiện nay Chúa-công không có con hiền nối ngôi thì làm sao giữ được cơ-nghiệp bá-chủ. Chúa-công đã xét đoán biết Công-tử Chiêu là người hiền, thì nên lập ngay mới phải .
Tề-hoàn-công nói :
– Ta chỉ sợ Công-tử Võ-khuy cho mình là lớn tuổi hơn, sinh ra chuyện tranh giành lẫn nhau, thì biết làm thế nào ?
Quảnđi-ngô thưa :
– Nay nhân dịp Chúa-công sắp đại hội các nước chư hầu ; nên chọn trong các vua chư hầu có ông nào hiền, hãy đem việc Công-tử Chiêu mà uỷ thác cho còn lo ngại gì.
Tề hoàn-công nhậm lời.
Bây giờ Tống hoàn-công là Ngự-thuyết Mật, Thế-tử Tư-phủ nhường ngôi cho Công-tử Mụcđi (thứ huynh của Tư-phủ) . Mụcđi không chịu làm vua. Tư-phủ phải lên nối ngôi hiệu là Tống tương-công.
Tống tương-công theo lệnh của bá chủ (Tề hoàn-công) , mặc dầu có tang vẫn đến dự hội ở đất Quí-khâu
Quản-trọng tâu với Tề hoàn-công :
– Vua nước Tống biết nhường ngôi cho người hiền là Công-tử Mụcđi. Vả lại trong lúc có tang mà đi dự hội, là họ rất kính trọng nước ta. Chúa-công nên uỷ thác Công-tử Chiêu cho vua nước Tống .
Tề hoàn-công y-lời, lập tức sai Quản-Trọng đến quân-xá, để hầu chuyện trước cùng Tống tương-công .
Tống tương-công đến yết kiến Tề hoàn-công.
Tề hoàn-công tiếp đãi rất nồng hậu rồi đem việc Công-tử Chiêu ân-cần gửi gắm :
– Để giữ yên được cơ nghiệp tôi hy-vọng lòng tốt của hiền-hầu không quên chăm sóc Công-tử Chiêu, khiến cho cơ nghiệp Tề vẫn còn tồn-tại vĩnh-viễn.
Tuy Tống tương-công khiêm nhượng, không dám nhận lời , nhưng nỗi lòng đã thầm cảm lời ủy-thác của Tề hoàn-công.
Ngày hội, các chư-hầu cùng họp mặt trước đàn để vọng bái thiên-tử .
Quan Thái-tế Chu-khổng đọc lời chiếu của Thiên-tử nhà Châu
– Xin Chúa-công lấy lễ nghĩa làm trọng, để nêu gương cho các chư-hầu.
Như sực tĩnh, Tề hoàn-công nói lớn :
– Dẫu Thiên-tử thương tình, song kẻ làm tôi có bao giờ vô lễ được .
Nói xong phục xuống trước đàn lạy hai lạy. Các nước chư-hầu
thấy vậy đều khâm phục.
Tề hoàn-công nhân các nước chư-hầu còn đũ mặt, tuyên đọc năm điều cấm của vua nhà Châu :
1. Không được lấp dòng nước chảy
2. Không được cấm đong thóc.
3. Không được đổi con trưởng.
4. Không được lấy tiểu thiếp làm chánh.
5. Không được cho đàn bà dự vào việc chính-trị .
Đoạn Tề hoàn-công lập thệ với các nước chư-hầu rằng :
– Phàm là nước đồng minh , phải cùng nhau giao hiếu, lúc hoạn
nạn phải cứu nhau .
Xong cuộc lễ Tề hoàn-công hỏi Chu-khổng :
– Ta nghe đời Tam Đại (nhà Hạ, nhà Thương và nhà Châu) , ngày xưa có lễ Phong-thiện, chẳng hay lễ ấy có nghĩa như thế nào ?
Chu-khổng nói :
– Đời Tam Đại làm lễ “Phong” ở núi Thái-sơn làm lễ “Thiện” ở núi Lương-phù. Lễ Phong là tế trời, lấy nghĩa trời cao, nên phải đắp đất lên mà tế. Còn lễ Thiện là tế đất, lấy nghĩa đất thắp, nên quét sạch đất mà tế, ấy là cái lễ của đời Tam đại vậy.
Tề hoàn-công nói :
– An-ấp là thủ đô của nhà Hạ, Bậc-ấp là thủ đô của nhà Thương, Phong-kiều là thủ đô của nhà Châu, chốn Đô-thành rất xa núi Thái-sơn và núi Lương-phủ , núi này lại nằm trong địa-giới nước ta, ý ta cũng muốn làm cái lễ ấy, các ngài nghĩ sao ?
Thấy Tề hoàn-công có ý kiêu-ngạo và tự đắc, Chu-khổng không hài lòng, liền đáp :
– Hiền-hầu cho là phải, thì còn ai dám bảo là không phải ?
Tề hoàn-công nói :
– Thôi, hoãn lại ngày mai ta sẽ bàn .
Các vua chư-hầu đều lui về tửu quán.
Chu-khổng đến nói riêng với Quản-trọng :
– Lễ Phong-thiện là cái lễ trọng thể của Thiên-tử, tôi thiết tưởng nước chư-hầu không nên nói đến. Sao Trọng-phụ không can được một câu nào ?
Quản-trọng ôn tồn đáp :
– Bản năng hiếu thắng của Chúa-công tôi, không thể nào can thẳng một cách đột-ngột được, phải tìm phương chửa lần, vậy hôm nay tôi sẽ liệu nói .
Tối đến, Quản-trọng vào yết kiến Tề hoàn-công :
– Chúa-công có thật lòng muốn làm lễ Phong-thiện không ?
Tề hoàn-công đáp :
– Đã nói, sao lại không thật !
Quản-trọng thưa :
– Lễ Phong-thiện bắt đầu có từ đời Vô hoài-thị đến đời Chu thành-vương , tất-cả 73 nhà, đều là tuân mệnh trời làm Thiên-tử, nên mới được phép làm lễ Phong-thiện.
Tề hoàn Công tỏ ý không hài lòng, nói lớn :
– Ta đây, đánh nước Sở ở phía Nam, tiến quân vào đất Thiệu-Lăng, phía Bắc đánh Sơn-nhung, Linh-chi và Cô-trúc ; phía Tây qua bãi Lư-sa đến tận núi Thái-hàng. Các chư-hầu ấy không ai đám trái ý, ba lần hội chư-hầu về việc xa, sáu lẫn hội chư-hầu về việc y thường. Dầu đời Tam đại chịu mệnh trời làm Thiên-tử cũng không thể có một sức mạnh nào hơn ! Vậy giờ đây ta có làm lễ Phong-thiện để cho con cháu noi theo tưởng cũng là lẽ phải !
Quản-trọng nói :
– Các bậc đế-vương thời xưa lúc nào gặp điềm lành mới làm lễ Phong-thiện , nay Chúa-công bỗng nhiên tổ chức lễ ấy ắt những thức-giả sẽ chê cười .
Tề hoàn-công không nói đến việc đó nữa.
Hôm sau kéo binh về nước lọ sửa sang cung-thất rất rực rỡ , mỗi dụng-cụ của nhà vua, món gì cũng sang trọng như đồ dùng của Thiên-tử nhà Châu.
Người trong nước ai cũng chê Tề hoàn-công cố ý tiếm phạm .
Quản-trọng cũng đắp một cái đài cao ba từng gọi là “Tam qui”.
Nghĩa là cả ba hạng người : Nhân dân, chư-hầu, mọi rợ đều tùng phục mình cả . Lại còn lập ra Tắc-môn để che cửa, Phạn điếm để tiếp sứ thần các nước.
Bảo thúc-nha thấy vậy có ý nghi hoặc hỏi :
– Vua xa xỉ , mình cũng xa xỉ . Vua tiếm phạm mình cũng tiếm phạm như thế sao phải ?
Quản-trọng nói :
– Dẫu một ông vua hay một thường dần mà đã có công khổ nhọc gây dựng cơ đồ , tất có ngày phải được huởng sung sướng để bù lại công khó nhọc của mình chứ . Nếu cứ đem lễ nghĩa bó buộc đời sống mình thì ai lại không chán . Vẳ lại việc làm của tôi cũng chỉ vì Chúa-công , mà muốn chia cái tiếng chê cười của thiên hạ đó .
Bảo thúc-nha nghe nói tuy làm thinh không cãi lại, song lòng không phục .
Trong lúc đó quan Thái-Tể nhà Châu là Chu-khổng cáo biệt trở về triều.
Đi đến nữa đường gặp Tần hiến-công đi dự hội trễ.
Chu-khổng nói :
– Hội đã tan rồi sao đến bây giờ hiền-hầu mới đến ?
Tần hiến-công dậm chân, than :
– Nước tôi xa quá nên đến trễ, không được trong thay cảnh uy-nghiêm của ngày hội, thực tiếc thay !
Chu-khổng nói :
– Tôi tưởng không phải là điều đáng tiếc. Tề-hầu cậy mình có công to, tỏ ý kiêu ngạo , làm lắm điều trái đạo . Hễ trăng tròn thì phải khuyết, nước đầy tất phải tràn. Chẳng bao lâu nước Tề sẽ suy đốn .
Tấn hiến-công nghe nói quay xe trở về. Nhưng di dọc đường bị bệnh, nên về đến nước Tấn thì tạ thế.
Nhắc lại chuyện nước Tấn, Tấn hiến-công mê nàng Ly Cơ, yêu dùng bọn nịnh như Lương-ngũ, Đông-quan-ngũ, lại đem lòng ghét bõ Thế-tử Thân-sanh, yêu Hề-Tể là con trai của Ly-cơ , ý muốn lập lên ngôi Thế-tử, nhưng vì Thế-tử Thân-sanh đã lập được công trạng lại một lòng thảo thuận , nên không biết lấy cớ gì để phế được . Nàng Ly-cơ thấy con mình chưa có địa vị , đêm ngày lo lắng, bàn với Ưu-thi :
– Bây giờ phải làm cách nào để phế Thân-sanh, lập Hề-Tể lên làm Thế-tử ? Ưu-thi đáp :
– Hiện nay ba vị Công-tử (Thế-tử Thân-sanh, Công-tử Di-Ngô và Công-tử Trùng-nhỉ) đã ra trấn nơi cõi ngoài, phu-nhân còn sợ gì nữa ? Ly-cơ nói :
– Tuy vậy, ba vị Công-tử đó đã trưởng thành , giữ quyền chính lâu ngày, lại được các quan trong triều kính mến, khó làm chi được . Ưu Thi nói :
– Chi có cách là nghĩ kế trừ dần đi thì mới tiện. Ly-cơ hỏi :
– Cần phải trừ ai trước ? Ưu-thi nói :
– Trước hết phải trừ cho được Thế-tử Thân-sanh, vì Thân-sanh hiện được dân chúng mến phục, cho là một kẻ nhân từ, chính trực. Ly-cơ thở dài nói :
– Làm thế nào để trừ được con người nhân-từ, chính trực ? Ưu-thi nói :
– Đã chính-trực thì không bao giờ chịu tiếng xấu, và đã nhân-từ thì chẳng bao giờ làm hại ai. Như vậy phu-nhân tìm cách nói xấu Thân-sanh, ắt Thân-sanh không chịu nỗi. Nhưng đã mang tiếng xấu mà không muốn hại người , ắt phải tự hại mình. Ly-cơ nói :
– Nói xấu một người hiền từ nhân đức đâu phải dễ . Làm sao người ta tin được lời mình ? Ưu-thi nói :
– Điều đó cũng khó thực. Song nhờ tài khéo léo của phu-nhân có thể làm lay lòng Chúa-công được . Đêm ấy Ly-Cơ khóc nức nở ! Tấn hiến-công trông thấy ngạc-nhiên hỏi :
– Vì cớ gì mà phu-nhân khóc ? Lòng quí mến của ta không làm cho phu nhân vui sao ? Ly-cơ sụt sùi nói :
– Chính lòng quí mến của Chúa-công đã làm cho thần-thiếp sợ không được hầu Chúa-công trọn đời . Tấn hiến-công hỏi :
– Tại sao phu-nhân lại có ý lạ lùng đó ? Ly-cơ gạt nước mắt nói :
– Thiếp trộm nghĩ Thân-sanh là người rất mực nhân từ . Hiện nay ở đất Khúc-ốc . Thân-Sanh ra ơn với thiên-hạ . Ai nấy một lòng kính phục ! Tấn hiến-công hỏi :
– Nếu thế thì tại sao phu-nhân lại buồn . Phu-nhân không muốn Thân-sanh trở nên người tốt sao ? Ly-cơ nói :
– Nếu chỉ có vậy, lòng thiếp mừng chưa hết, có đâu lại than khóc đêm ngày . Đàng này Thân-Sanh lại thường nói với mọi người rằng :
Chúa-công quả say mê thiếp, tất một ngày nào đó, triều đình phải sanh biến. Mục đích Thân-sanh thi-ân với mọi người chỉ để gây thế lực mà trừ cho được thiếp. Ấy vậy trước sau gì thiếp cũng phải chết, xin Chúa-công cứ giết thiếp đi để sau này khỏi phải mang tiếng với muôn dân . Tấn hiến-công nói -Thân Sanh là một kẻ hiền từ, nhân đức, lẽ nào lại không biết giữ hiếu đối với cha ? Ly-cơ nói :
– Lòng nhân-từ của một kẻ tầm thường với lòng nhân-từ của một vị anh hùng không thể giống nhau . Kẻ tầm thường lấy lòng thương người làm nhân, nhưng kẻ anh hùng lấy sự yêu nước làm nhân. Tình thương cá-nhân phải hy-sinh cho tình thương tỏ-quốc . Những kẻ đặt tình thương tổ-quốc lên trên sẽ không còn nghĩ đến gia đình bản thân nữa . Tấn hiến-công nói :
– Dầu sao, Thân-sanh cũng không thể nào làm những việc ác , để tiếng trong thiên hạ. Ly-cơ nói :
– Nhiều khi con giết cha, thiên hạ vẫn không cho là xấu. Tấn hiến-Công cười to, nói :
– Phu nhân điên rồi sao . Có đời nào con giết cha mà thiên-hạ lại không chê cười ? Ly-cơ nói :
– Ngày xưa U-vương không giết Nghi-Cửu, đuổi ra nước Thân . Sau Thân Hầu đem quân Khuyển-nhung về giết U-vương, tôn Nghi-Cửu lên làm vua tức là Châu Bình-vương , thuỷ tổ nhà Đông-châu ta . Thế mà cho đến ngày nay người ta chỉ biết điều ác của U-Vương chứ có ai chê Châu Bình-vương điều gì đâu. Tấn hiến-công nghe nói ngẩm nghĩ một lúc rồi vén áo đứng dậy nói :
– Phu-nhân nói có lý ! Song bây giờ ta biết phải làm sao ? Ly-cơ nói :
– Thôi thì Chúa-công nên mượn tiếng già yếu mà giao quyền quốc chánh cho Thế-tử. Như thế ắt Thế tử thoa? lòng, không còn nghi ngờ Chúa-công, và hiềm thù thiếp nữa. Vả chăng trước kia Vũ-Công chiếm Khúc-ốc thu phục giang-sơn nước Tấn , nay Thế-tử Thân Sanh cũng cùng một ý đó. Tấn hiến-công nói :
– Không thể như thế được ! Đối với các nước chư-hầu, nước ta là một nước có đủ uy-vũ. Nay không trị nỗi đứa con thì sao gọi là uy , còn chịu mất ngôi thì sao gọi là vũ. Vũ-uy mà mất đi thì thiên hạ sẽ chê cười . Thôi phu-nhân chớ lo ngại, để rồi ta sẽ tính. Ly-cơ nói :
– Việc này không lo sớm e khó thành. Nay quân Xíchđịch thường đến quấy rối nước ta. Chúa-công hãy sai Thân-sanh đem quân đi đánh, để xem tài năng Thân-sanh ra thể nào. Nếu không thắng giặc, ta mượn cớ ấy mà bắt tội. Còn thắng giặc, thế nào Thân-Sanh cũng ỷ công trạng mà làm càn, bây giờ ta sẽ tìm cách nghiêm trị. Như thế vừa dẹp yên được bờ cõi, vừa thực hiện được ý muốn của Chúa-công. Tấn hiến-công khen phải, liền truyền lệnh sai Thế-tử Thân-sanh đem quân ở Khúc-ốc đi đánh nước Xíchđịch. Quan Thái-phó là Lý-khắc hay được, vào can :
– Thế-tử là người nối dõi nhà vua , chức vụ Thế-tử là ngày đêm hầu hạ Chúa-công, nay sai đi đánh giặc sao phải. Tấn hiến-công nói :
– Thân-sinh đã thân chinh dẹp giặc nhiều rồi. Việc ấy không hại ! Lý-khắc nói :
– Ngày trước Thế-tử đem quân theo Chúa-công, chứ nay sai đi một mình thì không nên. Tấn hiến-công lãnh đạm nói :
– Ta có chín người con, nào đã định ai làm Thế-tử đâu, nhà ngươi chớ can gián nhiều. Lý-Khắc không dám nói nữa, thở dài lui ra, đem chuyện ấy thuật lại với Hồ đột. Hồ đột cũng buồn bã nói :
– Thế thì nguy cho Thế-tử rồi . Nói xong liền viết một mật thư cho người đến Khúc-ốc đưa cho Thân-sanh, khuyên Thân-sanh không nên đi đánh . Vì thắng giặc càng làm cho người ta thêm ghét, còn thua thì thiệt mạng. Thân-sanh tiếp được thư , thở dài than :
– Phụ-Vương sai ta đi đánh giặc không phải có ý yêu ta, chỉ muốn thử lòng ta coi xem ta làm sao . Nay ta trái mệnh vua là lỗi lớn , thà đánh giặc mà chết, còn giữ được danh tiếng về sau. Bèn đem quân sang đánh Xíchđịch. Quân Xíchđịch cự không lại phải bỏ chạy. Thân-sanh sai người về báo tin với Tấn hiến-công. Ly-cơ nói :
– Thế-tử quả là người tài năng xuất chúng, bây giờ biết liệu làm sao ? Tấn hiến-công nói :
– Thế-tử chưa có lỗi gì phải đợi dịp khác mới được . Chẳng bao lâu có nước Ngu và nước Quắc, hai nước giáp liền với Tấn, đem quân quấy nhiểu. Đã vậy Chúa nước Quắc là Xú một người có tánh kiêu ngạo, dùng nhiều lời lẻ rất vô lễ khinh miệt nước Tấn. Tấn hiến-công cả giận, muốn hưng binh sang đánh nước Quắc . Ly-cơ nói :
– Sao Chúa-công không sai Thân-sanh đi . Thân-sanh là người đã được nhiều uyđanh, ắt thắng giặc dễ hơn. Tấn hiến-công vẫn biết thế , song sợ Thân-sanh đánh thắng nước Quắc thì uy-thế càng lớn khó lòng kiềm chế nỗi, mới hỏi quan Đại-phu Tuân-tức :
– Ta có nên đánh nước Quắc chăng ? Tuân-tức nói :
– Quắc và Ngu hai nước giao hữu nhau. Ta đánh Quắc thì Ngu tất cứu còn đánh Ngu thì Quắc tất cứu . Vậy một nước địch với hai nước tôi e khó thắng. Tấn hiến-công hỏi :
– Nếu vậy ta cứ để cho hai nước Ngu, Quắc quấy rối mãi sao ? Tuân-tức thưa :
– Tôi được nghe vua nước Quắc là người háo sắc, vậy Chúa-công lựa những người gái đẹp trong nước dạy nghề múa hát, cho ăn mặc rất lịch sự, đem hiến cho vua Quắc mà giảng hoà. Hễ vua Quắc được gái đẹp ắt say mê, bỏ bê triều chính, chừng đó ta đem lễ vật lo lót cho vua Khuyển-Nhung, nhờ vua Khuyển-Nhung cử binh sang đánh. Liệu chừng binh nước Quắc đã yếu, ta mới đem binh sang chinh phạt . Tấn hiến-công y lời đem bộ nữ-nhạc dâng cho vua nước Quắc. Vua nước Quắc mừng rỡ thu nhận . Quan Đại-phu Chu nhi-kiều can :
– Đó là cái lưỡi câu của nước Tấn muốn câu nước ta đó, xin Chúa-công chớ thấy thế mà mừng. Vua nước Quắc không nghe, nhất định giảng-hoà với Tấn, rồi đem đoàn nữ nhạc về nước. Từ ấy, vua nước Quắc ngày đêm say đắm tửu sắc, không còn thiết đến việc triều-chính nữa. Chẳng bao lâu, quân Khuyển-nhung ham lễ vật của nước Tần đem binh sang quấy nhiễu nước Quắc . Tuy-nhiên, quân Khuyển-Nhung đánh không lại, phải bỏ chạy về nước. Vua nước Khuyển-nhung nổi giận, liền cử đại binh sang đánh . Nước Quắc cũng không nhịn, hai bên dàn quân, lập trận nơi đất Tang điền, quyết tranh thắng phụ. Tin ấy đến nước Tấn, Tấn hiến-công hỏi Tuân-tức :
– Ngày nay nước Quắc và nước Khuyển-nhung đang đánh nhau ta có nên đem binh đánh nước Quắc không ? Tuân-tức nói :
– Tôi có một kế, có thể lấy được cả hai nước Ngu và Quắc. Tấn hiến-công hỏi :
– Kế gì vậy ? Tuân-tức nói :
– Ngu và Quắc hai nước giao hữu nhau. Nay ta đem lễ vật lo lót cho nước Ngu, mượn đường sang đánh Quắc. Hễ nước Ngu nhận lễ vật cho mượn đường thì sẽ không sang cứu Quắc. Mà Ngu không cứu Quắc ắt mất. Lúc đã lấy Quắc rồi thì Ngu muốn lấy lúc nào chẳng được. Tấn hiến-Công nói :
– Kế ấy rất hay song nước ta mới giảng hoà với nước Quắc , nay lấy cớ gì gây chiến để cho nước Ngu tin. Tuân-tức thưa :
– Giữ hoà hiếu thật khó , chứ gây xích mích có khó chi. Nay Chúa-công mật sai một số người sang biên giới nước Quắc quấy rối , thế nào nước Quắc cũng nổi giận trách móc. Ta thừa dịp ấy làm duyên cớ nói với vua Ngu. Tấn hiến-công y kế . Quả nhiên nước Quắc cho người sang trách , hai bên gây sự bất hoà. Tấn hiến-công lại hỏi Tuân-tức :
– Nay phải đem lễ vật gì để dâng cho nước Ngu mà mượn đường . Tuân-tức nói :
– Việc này quan hệ ! Nước ngu và Quắc lâu nay giao hữu , nếu không dâng báu vật , khó làm cho nước Ngu chấp thuận. Xin Chúa-công hãy hy-sinh vài món quý của mình. Tấn hiến-công hỏi :
– Ý định nhà người thế nào, cứ nói cho ta nghe thử . Tuân-tức thưa :
– Vua nước Ngu thích nhất là ngọc quí và ngựa quí. Nay Chúa-công có ngọc Thuỳ-cúc và ngựa Khuất-sản , xin đem hai món ấy dâng cho Chúa nước Ngu tất phải thành công . Tấn hiến Công nói :
. – Hai thứ ấy là hai bảo vật quí giá của ta, lẽ nào lại đem dâng . Tuân-tức nói :
– Mượn đường đánh nước quốc là việc lớn, nếu Chúa-công không dứt bỏ chút ít quyền lợi riêng thì sao thành công được. Vã lại hễ mượn đường được thì Ngu và Quắc ắt về tay ta, thì ngọc và ngựa có mất đi đâu mà sợ. Chẳng qua chỉ gởi tạm cho người khác giử một thời gian nào đó thôi ! Tấn hiến-Công còn đang dụ dự, quan Đại-phu Lý-Khắc nói :
– Nước Ngu có hai người tôi hiền là Cung chi-kỳ và Bá lý-hề . Hai người ấy thông minh hiểu rộng, chắc gì đã để cho vua Ngu nhận lễ vật ? Tuân-tức nói :
– Vua nước Ngu là người tham lam , dầu có tôi hiền can gián vị tất đã nghe. Tấn hiến-công nghe theo, liền đem ngọc bích và ngựa giao cho Tuân-Tức để sang dâng cho nước Ngu mượn đường đánh Quắc. Thoạt đầu vua nước Ngu nghe sứ nước Tần sang mượn đường đánh Quắc nổi giận la hét om sòm, nhưng đến lúc thấy ngọc tốt và ngựa quí lại đổi giận làm vui, hỏi Tuân-tức :
– Ðó là những vật chí-bảo của nước ngươi, cớ sao lại chịu đem dâng cho ta ? Tuân-tức nói :
– Chúa-công tôi mến lòng của hiền-hầu, nên mới đem những vật ấy mà dâng, nếu được hiền-hầu thu nhận thì Chúa-công tôi không còn gì sung sướng bằng. Vua nước Ngu hỏi :
– Thế thì quí quốc có muốn yêu cầu ta điều chi chăng ? Tuân-tức nói :
– Người nước Quắc thường sang quấy nhiễu bờ cõi nước tôi . Chúa-công tôi muốn dân chúng hai nước yên vui, đã nhiều phen hòa giải , thế mà nước Quắc lại sanh sự lôi thôi. Nay Chúa-công tôi muốn mượn đường quí quốc để sang đánh Quắc. Hễ đánh được Quắc rồi, thì bao nhiêu tiền của lấy được, xin hiến cho quí quốc để cùng với quí quốc giao hảo. Vua nước Ngu có ý mừng thầm. Cung chi-kỳ bước ra, nói :
– Chúa-công chớ nên nghe ! Xưa nay sở dĩ nước Tấn không dám quấy rối nước ta là vì nước ta giao-hảo với nước Quắc bảo vệ lấy nhau. Nay để mất nước Quắc , nước Ngu sẽ mất. Vua nước Ngu nói :
– Vua Tấn không tiếc đồ chí bảo đem đến dâng cho ta, lẽ nào ta tiếc một lối đi nhỏ hẹp mà không thuận, vả lại thế lực nước Tấn mạnh hơn nước Quắc nhiều. Mất lòng nước Quắc mà được lòng nước Tấn thì hại gì ? Thôi, các ngươi chớ bàn bạc nhiều lời. Cung-chi Kỳ toan nói nữa nhưng thấy Bá lý-hề nháy nhó nên thôi, cúi đầu lui ra . Lúc bãi triều, Cung-chi Kỳ hỏi Bá lý-hề :
– Việc như vậy sao ngài không cùng tôi can vua, lại nháy nhỏ không cho tôi nói :
Bá lý-hề nói :
– Tôi thiết tưởng đem lời nói phải mà nói với người ngu chẳng khác nào đem ngọc vãi ra đường cái. Ngày xưa vua Kiệt giết Long Bàng, vua Trụ giết Tỷ-can cũng chỉ vì hai người ấy cố tình can gián. Nếu ngài không chịu nghe lời tôi ắt nguy đến tánh mạng . Cung-chi Kỳ nói :
– Thế thì đành để nước Ngu bị mất hay sao ? Bá lý-hề nói :
– Thà kẻ ngu chịu mất nước đã đành , còn người hiền không thể để cho kẻ ngu hại mạng. Cung-chi Kỳ nói :
– Nếu vậy chúng ta đi nơi khác còn hơn chứ ở đây mà ích gì ? Bá lý-hề nói :
– Ngài đi là phải, nhưng rủ thêm một người nữa cùng đi là có tội . Vậy cứ để tôi ở lại đây đã. Cung chi-Kỳ đem cả gia quyến ra đi. Không ai biết đi đâu. Còn Tuân-tức trở về nói với Tấn hiến-công :
– Vua nước Ngu đã nhận ngọc bích và ngựa để cho ta mượn đường rồi. Tấn hiến-công mừng rỡ, toan cử binh sang đánh Quắc . Lý-khắc ta ? – Nước Quắc lấy dễ như trở bàn tay cần gì Chúa-công phải thân chinh cho mệt. Tấn hiến-công hỏi :
– Nhà ngươi có kế gì sao ? Lý-khắc nói :
– Nước Quắc tuy đóng đô ở HướngĐương, nhưng HạĐương là nơi hiểm địa. Lấy được HạĐương tức như đã lấy được nước Quắc rồi. Dẫu tôi hèn mạt xin đảm đương cái việc nhỏ nhặt đó cho, nếu đánh không thắng tôi xin chịu tội. Tấn hiến-Công liền khiến Lý-Khắc làm chủ tướng, Tuân-tức làm phó-tướng, đem quân qua nước Ngu mở đường đánh Quắc . Lý-khắc tin cho vua nước Ngu trước ngày kéo binh đến. Vua nước Ngu ra đón tiép, và nói :
– Quí-quốc đem đồ quí-bảo đến cho tôi, ơn ấy không lấy gì đền đáp . Nay tôi xin đem binh theo giúp sức. Tuân-tức nói :
– Hiền-hầu đem binh theo giúp đâu bằng cho chúng tôi lấy đất Hạđương . Vua nước Ngu nói :
– Hạđương là đất của nước Quắc do người nước Quắc chiếm giữ , tôi làm cách nào cho được . Tuân-tức nói :
– Vua nước Quắc hiện tranh chiến với Khuyễn-nhung nơi đất Tang điền chưa phân thắng bại. Nếu hiền-hầu giả đem binh đến giúp nước Quắc, rồi để cho quân nước Tấn tôi trà trộn vào mà lấy Hạđương. Vua nước Ngu nghe lời, giả cách đem quân sang giúp nước Quắc . Quan trấn thủ đất HạĐương là Chi-chu Kiều mở cửa cho quân nước Ngu kéo sang. Chẳng ngờ quân nước Tấn lộn vào đó , nên sau khi qua khỏi cửa thành nổi dậy đánh rất dữ. Quân nước Quắc vỡ chạy tứ tán. Chu-chi kiều sợ vua nước Quắc bắt tội, phải xin đầu hàng nước Tấn. Lý-Khắc và Tuân-tức thừa thế kéo quân thẳng đến lấy ThượngĐương. Vua nước Quắc đang ở đất Tang điền, hay tin Thượngđương bị vây lập tức kéo quân về cứu. Lại bị quân Khuyễn-nhung rượt theo, đánh một trận tơi bời. Khi về đến ThượngĐương, vua nước Quắc luống cuống không biết làm cách nào nữa, đành phải đóng cửa thành cố thủ . Chẳng bao lâu, lương thực hết, quân sĩ đói khát, tình trạng rất nguy ngập. Biết không thế giữ thành được nữa, vua nước Quắc dẫn cả gia quyến bỏ trốn sang nhà Châu lánh nạn. Tuân-tức và Lý-khắc kéo binh vào thành chiêu-an bá tánh, vơ vét kho tàng, bảo vật đem biếu cho vua Ngu. Vua Ngu lòng mừng khôn xiết. Kế đó, Tuân-tức một mặt cho người về nước báo tin cho Tấn hiến-công biết, một mặt kéo quân sang đóng bên thành nước Ngu giả đau, đồn binh dưỡng bệnh. Vua nước Ngu ngỡ thật, cứ thĩnh thoáng sang thăm viếng . Cách một tháng sau có tin Tấn hiến-công kéo binh đến. Vua nước Ngu ngạc nhiên ra ngoài thành hỏi Tuân-tức :
– Chẳng hay Tấn-hầu đem binh đến đây có việc gì ? Tuân-tức nói :
– Chúa-công tôi sợ chưa đánh nổi nước Quắc nên đem binh sang cứu viện. Vua nước Ngu nói :
– Ta đã có ý muốn hội kiến với Tấn-hầu nhưng chua có dịp, nay Tấn-hầu lại đến đây thì may mắn lắm ! Nói xong vội vàng đem quân ra nghênh-tiếp. Tấn hiến-Công rất đẹp lòng. Hai vua ân cần tâm-sự. Chưa bao lâu, Tấn hiến-công tỏ ý mời vua Ngu đi săn bắn nơi núi Cơ-sơn. Vua nước Ngu muốn nhân cơ hội ấy phô diển binh lực của mình nên đem cả đoàn quân giáp sĩ trong thành ra đi . Vừa đến núi Cơ-sơn nghe tin trong thành nước Ngu phát hỏa . Tấn hiến-công nói :
– Ðó là dân chúng vô ý, gây lửa cháy, chẳng bao lâu rồi cũng dập tắt được, có chi mà sợ. Quan Ðại-phu nước Ngu là Bá lý-Hề mật tâu :
– Tôi nghe đồn trong thành có biến, xin Chúa-công phải về ngay mới được. Vua Ngu vội vã xin phép Tấn hiến-Công trở về. Nhưng về được nữa đường đã thấy dân trông thành bồng con, dắt vợ chạy trong kêu khóc như ri. Vua Ngu thất kinh, hỏi :
– Tại sao thế ? Dân nước Ngu thưa :
– Quân nước Tấn đã chiếm mất Ðô-thành rồi. Vua Ngu nổi giận, kéo quân thẳng về Thành đô. Vừa đền nơi thấy một viên tướng nước Tấn, đứng trên mặt thành nói lớn :
– Ngày trước hiền-hầu cho nước ta mượn đường, thì nay cho nước ta, mượn thành để đóng quân xin hiền-hầu chớ buồn ! Vua Ngu cả giận, xua quân phá thành. Bên trong nổi lên một hồi trống, tức thì trên thành tên bắn xuống như mưa. Vua Ngu vội vã lui quân lại , bỗng có quân Tấn hiến-Công kéo đến đánh dồn. Vua Ngu ngước mặt lên trời than :
– Bởi ta không nghe lời can gián của Cung chi-Kỳ nên ngày nay phải mất nước . Nói xong, ngoảnh lại thầy Bá lý-hề đứng bên cạnh, vua Ngu trách :
– Sao trước đây ngươi không chịu can ta ? Bá lý-hề nói :
– Chúa công đã không nghe lời Cung chi-kỳ thì có khi nào Chúa-công lại nghe lời tôi ? Tôi không can là ý muốn lưu lại cái thân này để theo hầu Chúa-công lúc hoạn nạn . Vua nước Ngu vua không biết tính sao, xảy có Chu nhi-kiều là quan nước Quắc mới vừa đầu hàng Tấn, ngồi xe tiến đến . Vua Ngu trông thấy thẹn đỏ mặt . Chu nhi-kiều nói :
– Hiền-hầu nghĩ lầm, bõ nước Quắc tôi đó là điều đáng tiếc . Tuy nhiên, việc đã qua không nhắc đến làm chi . Nay nước Ngu đã mất, hiền hầu còn nghĩ gì mà không đầu Tấn. Vả chăng, Tấn hiến-công là một kẻ đại-lượng, sẽ không đối xử tệ bạc với hiền-hầu đâu. Xin chớ ngại ! Vua Ngu chưa biết nói sao, kế có người vâng mệnh Tấn hiến-công đến mời vua Ngu hội kiến. Vua Ngu bắt đắc dĩ phải tuân lời . Tấn hiến-công tiếp đón vua Ngu và nói :
– Tôi đến đây chỉ để đòi lại ngựa quí và ngọc-bích. Nói xong, cùng với vua Ngu vào thành. Bá lý-hề vẫn đi theo vua Ngu hầu hạ. Có người thấy thế nói :
– Sao nhà ngươi không bõ đi, còn theo làm gì ? Bá lý-hề nói :
– Ta làm quan, ăn lộc nước Ngu đã lâu, nay cố theo để đền ơn. Tấn hiến-công vào thành nước Ngu . Tuân-tức ra nghênh đón, tay trái cầm bích ngọc, tay phải dắt ngựa nói :
– Ngày nay mưu kế tôi đã thành vậy xin đem ngựa và ngọc quí trao lại cho Chúa-công. Tấn hiến-Công rất đẹp lòng. Lại muốn bắt vua Ngu giết đi . Tuân-tức thưa :
– Vua nước Ngu là người ngu, giết mà ích chi . Tần hiến-công khen phải, tiếp đãi tử tế , rồi tặng cho một viên bích ngọc và một con ngựa khác, nói :
– Ta không dám quên ơn đã cho mượn đường sang đánh nước Quắc . Ðoạn, phong cho Chu nhi-kiều làm quan Ðai-phu . Chu nhi-kiều biết Bá lý-hề là người hiền, nên tiến cử với Tấn hiến-công. Tấn hiến-công sai Chu nhi-kiều đến dụ. Bá lý-hề nói :
– Bao giờ Chúa-công tôi mãn đời, tôi mới phò kẻ khác. Chu nhi-kiều nói :
– Không chịu làm quan, phò kẻ mất nước mà ích gì ? Bá lý-hề cười lớn, nói :
– Dẫu muốn làm quan, cũng không thể làm quan nước địch. Câu nói ấy làm cho Chu nhi-Kiều chạm tự ái, bõ về thưa lại với Tấn hiến-công . Giữa lúc ấy có tin sứ nước Tần đến. Nguyên Tần mục Công là Nhâm-Hiên lên ngôi đã sáu năm mà chưa lấy vợ, nay sai Công-tử Trí sang hỏi con gái Tấn hiến-công là Bá-Cư đem về lập làm phu-nhân. Tấn hiến-công mời vào, tiếp đãi sứ Tần rất hậu, và đồng ý gã Bá-Cư cho Tần mục-công. Công-tử Trí lạy tạ lui về nước. Ði đến nữa đường Công-tử Trí gặp một người , mặt đỏ như son, mũi cao, râu rậm, tay cầm cây đang cày ruộng, mà lưỡi cầy ngập xuống đến mấy thước. Công-tử Trí lấy làm lạ, sai người nhắc cái cầy lên xem, nhưng quân sĩ không ai nhắc nỗi. Bèn hỏi người cày ruộng :
– Ngươi tên họ gì , quê quán nơi đâu ? Người cày ruộng thưa :
– Tôi tên là Công tôn-chi, tự là Tử-Tang vốn giòng họ vua nước Tấn. Công-tử Trí hỏi :
– Nhà ngươi có tài, tại sao lại phải đi cày ruộng ? Công tôn-chi thưa :
– Chỉ vì không có ai tiến dẫn. Công-tử Trí nói :
– Hay nhà ngươi theo ta sang nước Tần , ta sẽ tâu xin Chúa-công ta trọng dụng . Công tôn-chi nói :
– Kẻ sĩ gặp người tri kỷ dầu chết cũng cam. Nếu ngài có lòng tốt tôi còn mong gì hơn . Công-tử Trí cho Công tôn-chi cùng ngồi chung với xe mình về nước Tần, tâu với Tần mục-công . Tần mục-công cho Công tôn-Chi làm quan Ðại-phu. Lại sai công-tử Trí đem lễ vật sang nước Tấn, cưới nàng Bá-Cư đem về nước. Công-tử Trí phụng mệnh, bèn đi nạp lễ vật, và xin rước nàng Bá-Cư. Tấn hiến-công hỏi các quan :
– Bây giờ nên cho ai theo hầu Bá-Cư ? Chu-nhi Kiều thưa :
– Bá lý-hề không có ý giúp nước Tấn , lòng thực khó lường. Xin Chúa-công sai Bá lý-hề làm việc ấy . Tấn hiến-công nhận lời sai Bá lý-hề đi theo hầu Bá-Cư. Bá lý-hề vốn là người nước Ngu tên tự là Tỉnh-bá, lúc nhỏ nghèo khổ, ngoài ba mươi tuổi mới lấy nàng Ðỗ-thị làm vợ, sinh đặng một ngươi con trai. Trong cảnh túng thiếu ấy, Bá lý-hề muốn đi lập công danh , song vợ con đơn độc, không biết nhờ cậy ai, vì vậy cứ quyến luyến mãi, không rỡ dứt tình . Ðỗ thị thấy vậy thưa :
– Thiếp nghe nói làm trai phải lập chí, nay phu quân không tìm công danh, cứ vượng bận gia đình, biết bao giờ làm lên đại sự. Phận thiếp tuy yếu đuối nhưng cũng có thể kiếm ăn được , xin phu quân đừng ngại. Nói xong, Ðỗ-thị bắt con gà mái mập làm thịt để tiễn chân Bá lý-Hề . -Nhà hết củi, Ðỗ-thị phải bẻ phên làm củi, nấu một nồi cơm gạo đỏ bưng cho Bá lý-hề ăn. Bá lý-hề ăn no, từ giã vợ con ra đi . Ðỗ-thị tay ẵm con, tay níu áo chồng, trối :
– Lúc phú-quí xin chớ phụ nhau. Bá lý-hề sang nước Tề, muốn xin vào yết-kiến Tề tương-công nhưng không có ai tiến đẫn, đành phải đi ăn xin nơi đất Diệt (thuộc nước Tề) trong thời gian khá lâu. Lúc đó, Bá lý-Hề đã bốn mươi tuổi. Một hôm, lang thang nơi thôn dã, Bá lý-Hề gặp một người tên Kiên-thúc, tánh tình hiền hậu, có dạ thương người . Kiên-thúc thầy Bá lý-hề tướng mạo khôi ngô, lấy làm lạ hỏi :
– Người như ngươi lẽ nào đến nỗi phải đi ăn xin ? Bá lý-hề nói :
– Không gặp vận, không thể ngồi không mà có cơm ăn được. Kiên-thúc mời Bá lý-Hề về nhà làm cơm thết đãi, rồi lưu lại trong nhà, kết làm anh em, Kiên-thúc hơn Bá lý-hề một tuổi nên Bá lý-hề gọi bằng anh. Kiên-thúc nhà cũng nghèo nên Bá lý-hề phải đi chăn trâu thuê cho người trong làng để sinh sống. Ðến lúc Công-tử Vô-Tri giết Tề tương-công lên nối ngôi, treo bảng cầu hiền . Bá lý-hề muốn ra làm quan, Kiên-thúc nói :
– Tiên-quân còn một người con trốn đi nước khác, nay Vô-Tri cướp ngôi tất không giữ được lâu. Bá lý-hề nghe theo, không tính chuyện ra làm quan nữa. Kế đó, nghe tin Vương-tử Đồi nhà Châu thích chơi trâu, những người nuôi trâu được ăn lương rất hậu, Bá lý-hề nói với Kiên-thúc xin sang nhà Châu tìm cơ hội. Kiên Thúc nói :
– Kẻ trượng phu không nên khinh thường đem thân giao cho kẻ khác . Nếu làm quan với người ta, đến khi hoạn nạn lại bõ đi là bất trung, còn nếu không bỏ đi là bất trí. Em có đi phải cẩn thận trong việc đó mới được. Lúc nào anh thu xếp xong việc nhà cũng sẽ vào Kinh đô nhà Châu để thăm em. Bá lý-hề vào nhà Châu, yết kiến Vương-tử Ðồi, nói về cách nuôi trâu . Vương-tư Ðồi mừng lắm toan dùng Bá lý-hề làm gia-nhân. Gặp lúc Kiên-thúc đến thăm, Bá lý-hề đưa Kiên-thúc vào yết-kiến Vương-tử Ðồi. Sau khi ra về, Kiên-thúc nói với Bá lý-hề :
– Vương-tử Đồi chí lớn, nhưng bất tài, lai gần gũi kẻ nịnh tất có ngày làm bậy. Chi bằng chúng ta bỏ đi là hơn. Bá lý-hề nói :
– Em xa cách quê hương đã lâu ngày, nay trở về nước Ngu thăm vợ con có đặng không ? Kiên-thúc nói :
– Nước Ngu có một người tôi hiền là Cung-chi Kỳ, người ấy quen biết với anh. Nay nếu em muốn. về nước Ngu thì anh cùng đi với sang đồ thăm Cung-chi Kỳ luôn thể. Nói xong, liền cùng với Bá lý-hề trở về nước Ngu. Lúc bấy giờ vợ Bá lý-hề là Ðổ thị, vì nghèo quá không lấy gì nuôi sống, phải lưu lạc tha phương không rõ đi vào đâu . Bá lý-hề không thấy mặt vợ con, thương xót vô cùng. Kiên-thúc vào yết-kiến Cung-chi Kỳ thuật chuyện Bá lý-hề là người hiền tài, đề-nghị tiến cử với vua nước Ngu. Vua nước Ngu cho đòi Bá lý-hề vào phong làm quan Trung đại-phu. Kiên-thúc nói :
– Ta xét thấy vua nước Ngu là người thiếu kiến thức, mà tự đắc thì không phải là vua hiền vậy . Bá lý-hề nói . – Em lâu nay nghèo khổ, có khác nào như cá bị cạn, ngóng chờ nước để đồng thân ! Dẫu chưa phải vua hiền cũng cứ tạm dung thân đã. Kiên-thúc nói – Vì nghèo khổ mà em phải ra làm quan anh không thế nào ngăn em được, nhưng mai sau em có nhớ anh đến thăm, em cứ đến làng Minh-lộc nước Tống. Nơi ấy phong cảnh tịch-mịch, nên anh có ý định ở đó . Nói xong, Kiên-thúc từ giã. Bá lý-hề ở lại làm quan nước Ngu . Ngày tháng trôi qua, chẳng bao lâu vua Ngu mất nước, Bá lý-hề không nở bõ đi, cứ quanh-quẩn phàn nàn một mình :
– Tiếng bất trí ta đã mang lấy thì có lẽ nào còn gánh chịu chữ bất trung nữa. Lúc bấy giờ Bá-Cư sang nước Tấn, Tấn-hiến Công sai Bá lý-Hề đi theo hầu . Bá lý-hề than :
– Tài của ta mà không gặp được đấng minh-quân để thi thố, cứ mãi đi hầu hạ người ta, có khác gì tên đầy tớ, thì còn gì nhục bằng . Tuy nhiên, lệnh vua không thể không tuân . Vừa đi được nửa đường, Bá lý-hề tìm cách trốn sang nước Tống, nhưng đường bị nghẽn nên lại qua nước Sở, đến đất Uyển-thành (đất nước Sở). Lúc ấy người đi săn ở đất Uyển-thành trông thấy Bá lý-hề, ngỡ là quân phiến-loạn, nên bắt trói lại. Bá lý-hề điềm tĩnh nói :
– Nước Ngu của tôi bị thất thủ, nên tôi phải trốn đến đây. Người đi săn hỏi :
– Nhà ngươi có biết làm nghề gì không ? Bá lý-hề đáp :
– Tôi có tài nuôi trâu. Người đi săn cởi trói cho Bá lý-hề và đem về cho nuôi trâu. Bá lý-Hề nuôi trâu rất mau lớn và tốt đẹp, mọi người đều khen tặng, tiếng ấy đến tai vua nước Sở. Nhà vua bèn triệu Bá lý-hề vào, hỏi :
– Nhà ngươi nuôi trâu như thế nào mà chóng , bén tốt vậy ? Bá lý-hề tâu :
– Cho ăn có điều độ, không bắt nó làm quá sức luôn luôn chăm sóc, không bỏ quên nó . Vua nước Sở nói :
– Nhà ngươi nói rất phải ! Không riêng cho nuôi trâu như vậy mà nuôi ngựa cũng cần phải thế. Bá lý-hề được vua Sở cho làm chức Ngữ-nhân ra xứ Ðông-hải chăn ngựa. Một hôm Tần mục-Công ngồi xem sổ những người đi theo hầu Bá-Cư, có tên Bá lý-hề, mà không thấy người, lấy làm lạ, liền gọi Công-tử Trí hỏi . Công-tử Trí thưa :
– Trước đây Bá lý-hề là bề tôi của nước Ngu, nhưng hiện giờ người đã trốn đi rồi ! Tần mục-công bảo Công tôn-chi :
– Nhà ngươi lúc trước có ở nước Tấn. Chắc cũng được biết Bá lý-Hề là người thế nào ? Công tôn-chi thưa :
– Bá lý-hề là người hiền:
Biết vua nước Ngu không thể can nên không nói đến, ấy là người trí, theo vua nước Ngu sang ở nước Tấn ; song không chịu phò Tấn, ấy là người trung. Kẻ có tài như vậy mà chưa gặp được cơ-hội, cũng phải đành chịu. Tần mục-công nói :
– Nếu ta dùng được Bá lý-hề thật là hay lắm ! Công tôn-chi thưa :
– Tôi được tin đồn vợ con Bá lý-hề cư-trú tại nước Sở, chắc Bá lý-hề trốn sang nước đó. Vậy ta sai người đến nước Sỏ tìm hiểu tin-tức. Tần mục-công liền sai người đi. Trong thời gian dò hỏi, người ấy đã hiểu được rõ ràng, nên về tâu lại với Tần mục-công :
– Bá lý-hề chăn ngựa cho vua nước Sở , hiện nay ở tại xứ Nam-hải. Tần mục-công nói :
– Ta muốn sai ngươi đem lễ vật sang xin rước về, không biết vua Sở có thuận chăng ? Công tôn-Chi thưa :
– Ðem lễ vật, chưa chắc nước Sở đã chịu cho Bá lý-hề về. Tần mục-công hỏi :
– Tại sao ? Công tôn-chi thưa :
– Vua nước Sở dùng Bá lý-hề chăn ngựa tức là không biết Bá lý-Hề là tôi hiền. Nay Chúa-công đem lễ vật sang, chẳng khác nào bảo cho vua nước Sở biết Bá lý-hề là hiền-sĩ. Chi bằng lấy cớ Bá lý-Hề trốn đi, xin chuộc về để trị tội, ấy là kế của Quản-trọng ngày xưa đánh lừa nước Lỗ mà thoát thân đó. Tần mục-công khen phải, sai người đem năm bộ da dê, biếu vua nước Sở, và nói :
– Nước tôi có một kẻ tiện-nhân trốn sang quí-quốc tên Bá lý-Hề . Chúa-công tôi muốn bắt đem về trị tội để làm gương, nên gởi biếu quí quốc năm tấm da dê, để xin chuộc mạng tội nhân. Vua Sở sợ mắt lòng vua Tần liền sai bắt Bá lý-Hề giao trả. Thấy Bá lý-hề bị bắt, mọi người đều có ý thương xót, lại có kẻ ứa nước mắt, buồn cho số phận kẻ long đong. Bá lý-hề mĩm cười nói :
– Tôi nghe vua nước Tần có chí lớn từng mưu đồ đại sự. Một người như vậy đâu có thiết gì một kẻ theo hầu mà bắt tội. Ðây chắc vua Tần muốn đem tôi về để dùng, vậy xin các bạn chớ có than khóc làm chi . Nói xong dõng dạc bước vào tù xa để cho quân sĩ giải về nước Tần. Vừa về đến nơi, đã thầy Công tôn-chi được lệnh Tần mục-công ra tận biên ải đón rước, để triệu vào triều yết kiến . Tần mục-công hỏi Bá lý-Hề :
– Năm nay nhà ngươi đã bao nhiêu tuổi ? Bá lý-hề nói :
– Tôi đã hơn bảy mươi. Tần mục-công thở dài nói :
– Ðáng tiếc thay . Tuổi nhà ngươi đã quá cao. Bá lý-hề nói :
– Nếu là việc lên rừng bắt hổ, xuống biển chèo ghe thì tuổi tôi già thực. Nhưng nếu bàn về chính-trị, luận việc “phải trái” ở đời thì tuổi tôi vẫn còn trẻ lắm. Ngày xưa, ông Lã-vọng hơn tám mươi tuổi đầu , đi câu ở bên sông Vị, vua Văn-vương đem về làm Tương phụ, rồi giúp nên cơ nghiệp nhà Châu. Nay tôi gặp Chúa-công, thiết tưởng còn sớm hơn ông Lã Vọng đến mười tuổi. Tần mục-công nghe Bá lý-hề nói khí-khái như vậy có ý kính trọng hỏi tiếp :
– Nay nước ta tiếp giáp với Nhungđịch là một nước bất tuân vương-mạng, thường quấy rối, thế thì ta phải làm sao cho nước Tần ta cường thịnh ? Bá lý-hề nói :
– Nếu Chúa-công không khinh tôi là kế bất tài, hỏi đến, tôi đâu dám tiếc lời. Ðất Ung-kỳ là nơi hiểm yếu, trước kia Văn-vương, Võ Vương cũng đều dùng nơi đó để lập nghiệp. Thế mà nay nhà Châu không biết, cắt cho nước Tần, ấy là lòng trời muốn cho nước Tần dựng nên nghiệp bá. Vả lại, phía Tây này có hơn vài mươi nước nhỏ. Các nước đó rất lợi hại cho ta. Lúc chưa chinh phục được họ, là hại. Vì họ sẽ đem binh quấy rồi làm cho nước ta bất an. Nhưng nếu lúc đã chinh phục được họ, thì nước ta sẽ nắm trong tay một sức mạnh oai hùng, có thể dùng chinh phục Trung-nguyên nỗi. Tần mục-công nghe nói như người chiêm bao mới tĩnh, đứng dậy xá Bá lý-hề một cái, nói :
– Ta được nhà ngươi giúp sức, khác nào nước Tề được Quản-trọng. Tần mục-công cùng với Bá lý-hề nói chuyện với nhau trong ba ngày mà không thấy chán. Bá lý-hề được phong làm chức Thượng-khanh nắm giữ quyền-bỉnh trong nước . Vì vậy người ta gọi là Ngũ cỗ Thượng-khanh . Bá lý Hề đang là một kẻ chăn trâu mà được vua Tần đem về dùng phong chức lớn như vậy, ai lại không ngạc nhiên.
Tần Mục công biết tài Bách Lý Hề, muốn phong làm chức thượng khanh. Bách Lý Hề nói :
– Tôi có một người bạn tên là Kiển Thúc, tài gấp mười tôi, nay chúa công muốn sửa sang chính trị thì nên dùng Kiển Thúc mà cho tôi giúp vào Tần Mục công nói :
Cái tài của nhà ngươi thì ta đã biết rõ rồi, nhưng ta chưa biết Kiển Thúc là người thế nào ?
Bách Lý Hề nói :
– Kiển Thúc là người hiền, chẳng những chúa công chưa biết, mà người nước Tề và nước Tống cũng chưa ai biết cả, duy chỉ có một mình tôi biết mà thôi. Nguyên khi trước tôi định theo công tử Vô Tri nước Tễ, Kiển Thúc can tôi không nên , tôi liền bỏ nước Tề mà thoát được cái tai vạ Vô Tri , sau tôi định theo vương tử Đồi nhà Chu, Kiển Thúc cũng can tôi không nên, tôi lại bỏ nhà Chu mà thoát được cái nạn vương tử Đồi , sau tôi theo vua nước Ngu, Kiển Thúc là can tôi không nên, nhưng bấy giờ tôi nghèo khổ quá, phải liều mà ra làm quan, thành ra bị người nước Tấn bắt. Hai lần trước, tôi theo lời Kiển Thúc thì thoát khỏi tai vạ, mà một lần sau tôi không theo lời Kiển Thúc thì suýt nữa đến nỗi hại thân. Xem thế thì biết tài trí của Kiển Thúc hơn người nhiều lắm. Bây giờ Kiển Thúc ẩn thân ở làng Minh Lộc nước Tống, xin chúa công cho người đi tnệu ngay về.
Tần Mục công mới sai công tử Chí giả làm người đi buôn , đem lễ vật sang nước Tống để đón Kiển Thúc. Bách Lý Hễ lại viết riêng một bức thư gửi sang. Công tử Chí đi đến làng Minh Lộc, gặp mấy người nông phu ngồi nghỉ ở trên bờ ruộng, cùng nhau gõ nhịp mà hát.
Hát rằng :
‘Núi trèo không thang hề…. đá mọc lủng củng , Đường đi không đuốc hề…. bùn lầy xùng xục ! Cùng ngồi ở trên bở ruộng hề…. kìa kìa suối ngọt mà đất nục , Chúng ta chàn lấm tay bùn hề…. chăm chỉ về sự trồng thóc ! Trời cho không mất mùa hề…. miếng ăn được sung túc , Hưởng trọn tuổi trời hề…. chẳng vinh mà cũng chẳng nhục Công tử Chí ngồi trên xem, nghe thấy bài hát có ý ung dung tự thích, không theo thói đời, mới bảo người đánh xe rằng :
Người ta thường nói :
làng nào có người quân tữ ở thì đổi được những phong tục dở, nay ta tới làng Kiển Thúc ở, thấy người cày ruộng cũng có tư cách cao thượng, thì chắc rằng Kiển Thúc là một bậc đại hỉền.
Nói xong, liến xuống xe hỏi thăm mấy người cày ruộng rằng :
Nhà Kiển Thúc ở chỗ nào ?
Người? cày ruộng nói :
– Nhà ngươi hỏi làm gì ?
Công tử Chí nói :
Có người bạn cũ của Kiển Thúc là Bách Lý hề gởi ta một phong thư đưa cho Kiển Thúc.
Người cày ruộng trỏ mà bảo rằng :
Đi lên một quâng nữa, có cái rừng trúc, bên tả có suối, bên hữu có đá, ở giữa có một mái nhà tranh, tức là nhà Kiển Thúc đó.
Công tử Chí chắp tay vái cháo, rồi lại lên xe đi nửa dặm nữa, đến cái nhà tranh ấy, đỗ xe ở ngoài, sai người gõ cửa gọi. Có một đứa trẻ con mở cửa ra mà hỏi rằng :
Quý khách đi đâu thế ?
Công tử Chí nói :
– Tôi đến thăm Kiển Thúc tiên sinh.
Đứa trẻ nói :
– Thầy tôi đi vắng.
Công tử Chí nói :
Tiên sỉnh đi chơi đâu ?
Đứa trẻ nói :
– Thầy tôi cùng với hai ông cụ bên láng giềng đi xem suối Thạch Hương, độ lát nữa thì về.
Công tử Chí không dám vào trong nhà vội, ngồi ở trẽn viên đá để đợi Đứa trẻ con lại khép cửa, trở vào trong nhả. Được một lúc, có một người to lớn, mắt tròn mày rậm, mặt vuông , mình đài, lưng vác hai chiếc chân hươu, từ đường phía tây đi về. Công tử Chí trông thấy người ấy hình dáng khác thường, liền đứng dậy đón chào. Người ấy bỏ cái chân hươu xuống đất cùng với công tử Chí đáp lễ. Công tử Chí hỏi đến họ tên. Người ấy đáp rằng :
– Tôi tên gọi Kiển Bính, tự là bạch ất.
Công tử Chí nói :
– Ông cùng với Kiển Thúc là người thế nào ?
Kiển Bính nói :
– ấy là thân phụ tôi đấy.
Công tử Chí lại thi lễ mà nói rằng :
– Tôi được nghe tiếng đă lâu.
Kiển Bính nói :
Ngài là người ở đâu ? Đến đây có việc gì ?
Có người bạn cũ của cụ nhà tên là Bách Lý Hễ, nay làm quan ở nước Tần, gửi tôi bức thư đưa sang đây.
Kiển Bính nói :
Xin mời ngài vào ngồi chơi tạm trong nhà, thân phụ tôi cũng sắp về bây giờ ?
Nói xong, liền đẩy hai cánh cửa, nhường công tử Chí vào trước, rồi lại vác cái chân hươu vào sau, đưa cho đứa trẻ con cất đi. Kiển Bính mời công tử Chí ngồi cùng nhau bàn những việc cày ruộng trồng dâu, lại nói đến võ nghệ nữa. Kiển Bính nói đâu ra đấy, rất có mạch lạc Công tử Chí khen thầm trong bụng rằng :
Cha có hiền thì con mới được như thế, Bách Lý Hề tiến dẫn thật đă không sai.
Uống trà xong, Kiển Bính sai đứa trẻ con ra cửa để đứng đón Kiển Thúc. Được một lúc, đứa nhỏ chạy vào báo rằng :
– Ông đã về ?
Bấy giờ Kiển Thúc cùng với hai ông cụ bên láng giềng về đến ngoài cửa , trông thấy có xe đỗ, ngạc nhiên mà nói rằng :
– Người làng ta làm gì có cái xe này ?
Kiển Bính ở trong nhà chạy ra thuật lại chuyện công tử Chí. Kiển Thúc cùng hai ông cụ bẽn láng giềng cùng vào, chào hỏi công tử Chí, rồi mời nhau ngồi. Kiển Thúc nói :
Mới rồi tiện nhi nói em tôi là Bách Lý Hề có gửi một bức thư, xin ngài cho xem.
Công tử Chí mới đưa trình bức thư của Bách Lý Hề. Kiển Thúc mở ra đọc, trong thư đại lược nói rằng :
,Em là Bách Lý Hề này không biết theo lới anh dàn, suýt nữa thì mắc nạn ở nuớc Ngu , may mà vua nước Tấn muốn dùng ngưởi hiền, chuộc em ớ trong bọn chàn trâu chăn ngựa, đem về giao cho quyền chính , nhưng em tự luợng sức hèn tài mọn. một mình không làm nối, muốn nhở anh giúp vào. Vua nước Tấn cũng mến tiếng anh lắm, vậy có sai công tứ Chi đem lễ vật sang đón, xin anh nhận lời cho , nếu anh còn quyến luyến chốn sơn lâm mà không nỡ rời thì em cũng xin bỏ nước Tấn mà theo anh sang ớ đất Minh Lộc vậý.
Kiển Thúc nói :
Tại sao nước Tần lại biết đến Bách Lý Hề ?
Công tử Chí bèn đem chuyện Bách Lý Hề thuật hết cả lại một lượt rồi nói với Kiển Thúc rằng :
– Chúa công tôi phong Bách Lý Hề làm chức thượng khanh, nhưng Bách Lý hề tiến dẫn tiên sinh, muốn mời tiên sinh sang giúp cho thì mới dám nhận chức, vậy chúa công tôisai tôi đem lễ vật sang đây để mời tiên sinh.
Nói xong, hền sai người ra mở thùng xe đem các đồ lễ vật vào, bày la liệt ở trong nhà. Hai ông cụ bên láng giềng vốn là nông phu, xưa nay chưa được trông thấy những lễ vật ấy bao giờ, nhìn nhau lấy làm kinh dị, bảo công tử Chí rằng :
– Có quý nhân đến đây mà chúng tôi không biết, xin ngài tha lỗi cho.
Công tử Chí nói :
Các cụ dạy quá lời ! Chúa công tôi mong đợì Kiển Thúc tiên sinh đây khác nào như lúa khô mong mưa, nhờ hai cụ nói hộ cho một lời thì chúng tôi lấy làm cám ơn lắm.
Hai ông cụ bên láng giềng bèn bảo Kiển Thúc rằng :
– vua nước Tần đâ biết trọng người hiền như thế thì ông cũng ‘ không nên để cho quý nhân phải về không.
Kiển Thúc nói :
– Ngày trước vua nước Ngu không dùng Bách Lý Hề, đến nỗi mất nước. Nay vua nước Tần đã biết trọng người hiền tài mà dùng Bách Lý Hễ thì một mình Bách Lý Hề cũng đă đủ rồi. Lão phu đây đă lâu nay không nghĩ gì đến việc đời nữa, xin tha cho lão phu. Các đồ lễ vật này, lão phu xin nộp lại, nhờ ngài nói hộ với vua nước Tần cho.
Công tử Chí nói :
Nếu tiên sinh không đi thì Bách Lý Hề tất cũng không chịu nhận chức.
Kiển Thúc ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi thở dài mà than rằng :
– Bách Lý Hề là người có tài mà lâu nay chưa được gặp minh chủ, âu là ta cũng phải giúp Bách Lý Hễ mà đi một phen mới được. Nhưng chẳng bao lâu rồi ta cũng sẽ lại về đây cày ruộng mà thôi ! Đứa trẻ con vào nói với Kiển Thúc rằng :
– Chân hươu nấu đã chín rồi ! Kiển Thúc sai vào đầu giường lấy chai rượu mới cất, đem ra để thết khách. Kiêån Thúc mời công tử Chí và hai ông cụ bên láng giềng cùng uống rượu, đũa tre, chén đất, chủ khách cùng nhau thù tạc, đều no say vui vẻ cả. Trời đă gần tối, Kiển Thúc mời cõng tử Chí nghỉ lại ở trong nhà tranh. Sáng hôm sau, hai cụ bên láng giềng lại mời một tiệc rượu để tiễn chân. Trong khi uống rượu, công tử Chí khen tài Kiển Bính, cũng ngỏ ý mời sang Tần một thể.
Kiển Thúc vâng lời, rồi đem các thứ lễ vật chia cho hai ông cụ bên láng giềng, nhờ trông nom hộ nhà cửa, lại dặn dò người nhà phải chăm chỉ công việc ruộng nương, không được trễ biếng. Kiển Thúc từ giă hai ông cụ bên láng giềng rồi cùng với Kiển Bính và công tử Chí lên xe thẳng đường sang nước Tần. Khi gần đến địa giới nước Tần, công tử Chí về trước, vào yết kiến Tần Mục công, nói rằng :
– Kiển Thúc đã đến, và con trai là Kiển Bính cũng là người có tài, tôi mời cả về để chúa công dùng.
Tần Mục công mừng lắm, liền sai Bách Lý Hề đi đón. Khi Kiển Thúc vào Tần Mục công xuống thềm nghênh tiếp, mời ngồi mà hỏi rằng :
– Bách Lý Hề thường nói tiên sinh là một người hiền tải xin tiên sinh chỉ bảo cho.
Kiển Thúc nói :
Nước Tần ta ở cõi tây này, tiếp giáp với các nước Nhung Địch, đất hiểm quân mạnh, mà không được bằng các nước Trung quốc, là chỉ vì không có uy đức đó mà thôi. Không có Uy thì sao cho người ta sợ , không có đức thì sao cho người ta mến , người ta không sợ, không mến thì làm bá chủ thế nào được ?
Tần Mục công nói :
– Uy và đức, hai điều ấy điều nào nên làm trước ?
Kiển Thúc nói :
– Nên ]ấy đức làm gốc, lại có uy để giúp vào. Nếu có đức, mà không có uy thì sao giữ được nước, có uy mà không có đức thì sao yên được dân.
Tần Mục công nói :
– Ta muốn sửa đức mà lập uy thì nên làm thế nào ?
Kiển Thúc thưa :
Dân nước Tần ta tập nhiễm phong tục rợ mọi, không biết lễ nghĩa, nay muốn cho dân biết tôn kính người trên thì tất phải có giáo hóa và có hình phạt. Có giáo hóa thì dân biết ơn, có hình phạt thì dân biết sợ, bấy giờ kẻ trên người dưới, khác nào như thân thể trong một người. Quản Di Ngô giúp nước Tề mà sai khiến được thiẽn hạ, cũng vì lẽ ấy.
Tần Mục công nói :
Cứ làm theo như lời nói của tiên sinh, có thể làm bá chủ thiên hạ đưọc không ?
Kiển Thúc nói :
Thế cũng chưa đủ ? Muốn làm bá chủ thiên hạ thì có ba điều nên kiẽng :
chớ có tham lam , chớ có tức giận , chớ có vội vàng. Tham lam thì nhiều đường lầm lỗi , tức giận thì nhiều sự khó khăn , vôïi vàng thì nhiều việc vấp váp. Chúa công biết kiêng ba điều ấy thì có thể làm nên nghiệp bá chủ.
Tần Mục công khen phải, rồi nói với Kiển Thúc rằng :
– Tiên sinh thử nghĩ xem công việc ngày nay điều gì là cấp thiết hơn cả ?
Kiển Thúc nói :
Tề hầu già yếu, nghiệp bá chủ mỗi ngày một suy kém, chúa công nên thu phục lấy các nước Nhung Địch ở vễ cõi tây này , khi đã thu phục được rồi, bấy giờ sẽ tìm cách mà tiến vào Trung Quốc, dùng sự ân nghĩa mà chữa những điều khuyết điểm của Tề hầu, như thế thì còn ai tranh được ngôi bá chủ nữa ! Tần Mục công bằng lòng mà nói rằng :
– Tiên sinh và Bách Lý Hề thật là bậc tôn trướng của thứ dân trong thiên hạ.
Nói xong liền phong Kiển Thúc làm hữu thứ trưởng, Bách Lý Hề làm tà thứ trưởng, cùng lâm chức thượng khanh, gọi là hai quan tể tướng. Lại cho Kiển Bính làm quan đại phu. Từ bấy giờ nước Tần mỗi ngày.một cường thịnh. Tần Mục công nghe đồn nước nào có người hiền tài cũng sai người đi tìm. Công tử Chí tiến ngườì nước Tần là Tây Khuất Thuật, Tần Mục công cũng tnệu đến để dùng. Bách Lý Hễ nghe đồn Do Dư nước Tấn là người có tài, mới hỏi thăm công tôn Chi.
Công tôn Chi nói :
– Do Dư ở nước Tấn mâi không có ai dùng, nay đã làm quan ở nước Tây Nhung rồi ! Bách Lý Hế có ý tiếc lắm.
Lại nói chuyện vợ Bách Lý Hề là Đỗ thị, từ khi Bách Lý Hề đi vắng, vẫn làm thuê làm mướn để kiếm ăn , sau nghèo khổ quá, không lấy gì cho đủ được, mới đem con đi lưu lạc sang nước Tần, làm nghề đi giặt thuê. Con trai Bách Lý Hề tên là Thị, tên tự là Mạnh Minh, chỉ quen tính lêu lổng, theo người ta đi săn bắn, chẳng chịu làm ăn gì cả, Đỗ thị thường khuyên bảo mà Mạnh Minh cũng không nghe.
Đến lúc Bách Lý Hễ làm tể tướng nước Tần, Đỗ thị đã nghe tiếng, lại hai ba lần trông thấy ngồi xe đi qua mâ không dám nhận. Bấy giờ trong dinh Bách Lý Hề cần đến người giặt thuê, Đỗ thị tình nguyện xin vào giặt, làm lụng rất chăm chỉ, người nhà đều có lòng yêu nhưng vẫn chưa lần nào được giáp mặt Bách Lý Hề Một hôm, Bách Lý Hề ngồi ở nhà trên, các phưừng nhạc gẩy đàn thồi sáo ở dưới thềm , Đỗ thị bèn nói với ngưừi nhà rằng :
Tôi cũng có biết âm nhạc, xin cho tôi đến dưới thềm nghe một vài bài đàn.
Ngườì nhà đưa Đỗ thị đến dưới thềm, nói chuyện với các phường nhạc. Phường nhạc bèn hỏi Đỗ thị rằng :
– Trong các nghề âm nhạc, nhà ngươi biết những thứ nào ?
Đỗ thị nói :
Tôi biết gẩy đàn, lại biết hát nữa.
Phường nhạc liền đưa cho Đỗ thị một cây đàn cầm, Đỗ thị Ồm cây đàn mà gẩy, nghe tiếng rất ai oán ! Các phường nhạc đều chịu là hay , lại bảo Đỗ thị hát chơi một bài.
Đỗ thị nói :
– Từ khi tôi lưu lạc đến đây, chưa hề cất tiếng hát bao giờ, nay tôi muốn xin lên nhà trên, hát hầu quan tể tướng một bài.
Phường nhạc lên nói với Bách Lý Hề, Bách Lý Hề cho lên. Đỗ thị cúi đầu khép nép rồi cất tiếng hát. Hát rằng :
Bách Lý Hề năm bộ da dê ! Nhớ ngdy nào càng nhau ly biệt :
mố con gà mdi ấp, thối nổi cơm gạo vàng. Chừ thương thì thương….
Ngày nay giàu sang, quên ta hay sao?
“Bách Lý Hề năm bộ da dê ! Cha ăn thịt cá, con đói khóc dài , chổng mặc gấm vóc, vợgiặt thuẽ hoâi ! Chừ thương thì thương…. Ngày nay giàu sang, quên ta hay sao?
Bách Lý Hề, năm bộ da dê ! Nhớ ngày xưa tiễn chàng ra đi, thiếp tôi nưóc mắt chứa chan! “Tới bây chừ, thấy chàng ngồi đó, thiếp tới ruột ầứt đòi cơn ! Chừ thương thì thương…. Ngày nay giàu sang, quẽn ta hay sao.. “.
Bách Lý Hề nghe câu hát, lấy làm ngạc nhiên, gọi đến trước mặt mà hỏi chuyện thì hóa ra vợ mình khi trước, liền ôm lấy mà khóc òa lên một hồi lâu, rồi hỏi đến con. Đỗ thị nói :
– Nó vẫn đi săn bắn ở trong xóm.
Bách Lý Hề sai người đi triệu đến. Vợ chỗng cha con thành ra lại được sum họp cùng nhau. Tần Mục công nghe tin vợ Bách Lý Hề mới đến, sai người đem cho nghìn chung thóc và một xe vàng lụa.
Ngày hôm sau, Bách Lý Hề đem con là Mạnh Minh vào yết kiến Tần Mục công. Mục công cho Mạnh Minh làm quan đại phu, cùng với Tây Khuất Thuật và Kiển Bính đều được gọi là tướng quân, giữ việc chinh phạt.
Vua nước Khương Nhung là Ngô Lý đem quân sang quấy nhiễu. Mục công sai Mạnh Minh, Tây Khuất Thuật và Kiển Bính đem quân đi đánh, Ngô Lý bị thua, chạy sang nước Tấn.
Vua nước Tây Nhung là Xích Ban thấy nước Tần cường thịnh, sai Do Dư đem lễ vật sang yết kiến Tần Mục công, để dò xem tần Mục công là người thế nào. Mục công đưa Do Dư đi chơi các nơi lâu đài vườn tược, có ý khoe khoang. Do Dư nói :
Chúa công sửa sang như thế này, bắt ma làm hay bắt người làm ? Bắt ma làm thì khổ ma, bắt người làm thì khổ người.
Tần Mục công nghe nói lấy làm lạ, liền hỏi Do Dư rằng :
– Nước Tây Nhung không có lễ nhạc, pháp độ gì cả thì lấy gì mà trị nước ?
Do Dư cười mà nói rằng :
– ấy chi vì có lễ nhạc, pháp độ mà Trung Quốc đến nỗi hay biến loạn đó ? Thánh nhân đời xưa lập ra văn pháp để bó buộc người ta nên thiên hạ mới hơi được yên ổn một chút , sau này người ta sinh ra kiêu dâm, chi mượn cái uy của danh của lễ nhạc để trang sức thân mình, chỉ mượn cái uy của pháp độ để đốc trách kẻ dưới, khiến cho nhiều người oán giận mà gây ra đánh lẫn nhau. Còn như nước Tây Nhung tôi thì không thế. Người trên thì lấy ân nghĩa mà tiếp đãi kẻ dưới, kẻ dưới thì lấy trung tín mà phụng thừ ngưừi trên, kẻ trên người dưới, không lấy hình tích mà lừa dối nhau, không lấy văn pháp mà ràng buộc nhau, thế mới thật là đời thịnh trị.
Mục công nín lặng, không nói gì cả, sau đem lời nói của Do Dư thuật lại cho Bách Lý Hề nghe. Bách Lý Hễ nói :
Do Dư là một bậc đại hiễn ở nước Tấn, tôi vẫn biết tiếng đã lâu ! Mục công nghe nói, có ý buỗn mà nói rằng :
– Do Dư là bậc đại hiền mà Tây Nhung dùng được, ấy là một sự lo cho nước Tần ta, biết làm thế nào ?
Bách Lý Hề nói :
Nội sử Sưu là người mưu trí, chúa công nên bàn với hắn. Tần Mục công liền cho triệu nội sử Sưu vào để thương nghị.
Sưu nói :
– Vua Tây Nhung ở nơi hoang dã, chưa được nghe âm nhạc của Trung quốc ta bao giờ, nay chúa công sai người đem một bộ nữ nhạc đưa biếu vua Tây Nhung , còn Do Dư thì giữ lại ở đây không cho về vội khiến cho vua tôi ngờ vực lẫn nhau, chính sự sinh ra trễ biếng, như thế thì dẫu muốn lấy cả nước Tây Nhung cũng đưực, huống chi là một mình Do Dư.
Tần Mục công khen phải, liền giữ Do Dư ờ lại, cùng ăn một mâm, cùng ngồi một chiếu , lại sai bọn Kiển Thúc , Bách Lý Hề và công tôn Chi thay nhau mà tiếp đăi Do Dư, để dò hỏi địa thế và binh lực của nước Tây Nhung. Một mật sai nội sử Sưu đem nữ nhạc sang dâng vua Tây Nhung là Xích Ban. Xích Ban bằng lòng lắm , từ bấy giừ Xích Ban ngày đêm say mẽ về nữ nhạc, chẳng thiết gì đến chính sự cả Do Dư ở nước Tần một năm mới về. Vua Tây Nhung thấy Do Dư về, có ý không bằng lòng. Do Dư nói :
Tôi vẫn xin vễ luôn mà vua nước Tần cứ cố ý giữ lại mãi.
Vua Tây Nhung nghi Do Dư có tình ý với nước Tần, từ bấy giờ không tin dùng nữa. Do Dư thấy vua Tây Nhung say mẽ nữ nhạc, chẳng thiết gì đến chính sự, thì gắng sức can ngăn. Vua Tây Nhung không nghe lời. Tần Mục công nghe tin, sai người sang mật triệu Do Dư. Do Dư bỏ Tây Nhung về với Tần Mục công. Mục công cho làm chức á khanh, cùng với Kiển Thúc và Bách Lý Hề cùng cầm quyền chính. Do Dư liền dâng kế đánh Tây Nhung.
Khi quân nước Tần kéo sang đất Tây Nhung, đường đi lối lại đều thông thuộc cả Vua Tây Nhung không chống cự nổi, phải đầu hàng nước Tần. Vua Tây Nhung xưa nay vẫn là thủ lĩnh của nước Nhung Địch. Các nước nhỏ nghe thấy vua Tây Nhung phải đầu hàng nước Tần, thì cũng đều đem nhau đến đầu hàng cả. Tần Mục công mở tiệc ăn mừng. Các quan triếu thần thay đổi nhau mà chúc thọ. Mục công uống rưọu say quá, khi vào trong cung, mê mẩn chẳng biết gì cả, nội thị thấy vậy đều lấy làm sợ hăi. Các quan triều thần nghe tin, kéo nhau vào vấn an.
Thế tử Bình mời quan thầy thuốc vào xem mạch thấy mạch chạy như thường, nhưng mắt nhắm mà miệng không nói năng, mình không cử động được. Quan thầy thuốc nói :
– Đó là việc quỷ thần ! Xin sai người làm lễ cúng.
Nội sử Sưu nói :
Dẫu cúng cũng vô ích. Ngủ say như thế tất là đương mộng, nên chở ít lâu, tự khắc tinh lại , chớ nên làm huyên náo.
Thế tử Bình ngồi liền ở bẽn cạnh, bỏ cả ăn ngủ , chở đến ngày thứ năm, Mục công mới tinh dậy, mồ hôi trán đầm đìa như mưa. Thế tử Bình quỳ xuống mà hỏi rằng :
– Phụ thân nghe trong mình thế nào ? Sao giấc ngủ của phụ thân lâu thế ? ‘.
Tần Mục công nói :
– Ta vừa mới ngủ được một lúc.
Thế tử Bình nói :
– Phụ thân ngủ đã năm ngày nay, tất là có mộng thấy gì lạ, chớ chẳng không ?
Tần Mục công ngạc nhiên mà hỏi rằng :
– sao nhà ngươi lại biết ?
Thế tử Bình nói :
– Nọi sử Sưu nói thế.
Tần Mục công liền gọi nội sử Sưu đến cạnh giường mà bảo rằng :
Mới rồi ta mộng thấy một người đàn bà mặt hoa da ngọc tay cầm cái ấn ngọc, nói là phụng mệnh Ngọc Hoàng thượng đế đến triệu ta. Ta liền đứng dậy đi theo, bỗng thấy hình như đi ở trong đám mây, đến một nơi cung điện, thềm cao chín thước, trẽn rủ rèm châu. Người đàn bà đưa ta vào lạy ở dưới thềm. Được một lúc, rèm châu cuốn lên, ta trông thấy trên điện :
cột vàng tường gấm, hào quang rực rỡ, có mộtt vị Ngọc Hoàng mũ miện áo bào, ngồi trên ngai vàng, hai bên có các quan đứng hầu, nghi vệ rất nghiêm chỉnh ? Đức Ngọc hoàng lại sai người đem một cái sổ tay ra, gọi tên ta mà tuyên cáo rằng :
“Nhâm Hiếu ! Nhà ngươi nghe lời trẫm mà dẹp loạn cho nước Tấn”. Tuyên cáo xong, người đàn bà ấy bảo ra lạy tạ, rồi đưa ta về. Ta hỏi tên là gì, thì người ấy tự xưng là Bảo phu nhân ở núi Thái Bạch. Nếu ta vì hắn lập đền thờ thì hắn sẽ phù hội cho được nên sự nghiệp bá chủ. Ta lại hỏi nước Tấn có loạn gì thì hắn không chịu nói, bảo là việc trời không dám tiết lộ. Bấy giờ ta nghe tiếng chim trĩ kêu, bỗng sực tỉnh dậy, chẳng hay đó là điềm gì ?
Nội sử Sưu nói :
– Hiện nay Tấn hầu đang yêu Ly Cơ, ghét thế tử, tải nảo mà khỏi loạn được. Đức Ngọc hoàng truyền lệnh cho chúa công, ấy là cái phúc của chúa công đó ! Tần Mục công hỏi :
– Bảo phu nhân là ai ?
Sưu nói :
Tôi nghe nói đời Tần Văn công ta ngày xưa, có người ở đất Trần Sương bắt được một con vật kỳ dị, đem dâng Tần Văn công. Khi đi đến nửa đường, bỗng gặp hai đứa trẻ vỗ tay cười và nói rằng :
con vật ấy là loài Vị, nó hay ăn óc người chết ở dưới đất , con Vị cũng nói được như người mà bảo hai đứa trẻ kia là loài Trĩ tinh , một con s6ng, một con mái, nếu bắt đưọc con sống thì làm nên nghiệp vương, bắt được con mái thì làm nên nghiệp bá. Bấy giở người Trần Sương liễn bỏ con Vị mả đi đuổi theo bắt hai đứa trẻ. Hai đứa trẻ hóa làm hai con chim tn mâ bay mất. Người Trần Sương thuật chuyện lại cho Tần Văn công nghe, Tần Văn công sai chép việc ấy vào sách, hiện còn cất ở trong kho. Đất Trần Sương nay ở phía tây núi Thái Bạch, chúa công nên ra đấy đi săn bắn để xem xét thì có thể biết rõ được.
Tần Mục công mở sách ra xem, quả như lời nói của nội sử Sưu. Ngày hôm sau, Tần Mục cồng đi săn bắn ở núi Thái Bạch. Người ở Trần Sương, chăng lưới bắt được con chim trĩ tự nhiên hóa ra con gà đá, trông rất kỳ dị, liền đem dâng Tần Mục công. Nội sử Sưu nói :
– Đó tức là Bảo phu nhân. ấy lả cái điềm bắt được con mái thì làm nên nghiệp bá đó ! Chúa công nên lập đền thờ ở đất Trần Sương. Tẩn Mục công bằng lòng, truyền lập đền thờ, gọi là đền Bảo phu nhân, sau quả nhiên Tần Mục công dẹp được loạn nước Tấn.
Tấn Hiến công từ khi lấy được cả nước Ngu và nước Quắc, các quan triều thần đều vào chúc mừng, chỉ có Ly Cơ trong bụng không bằng lòng, bởi vì bản tâm muốn cho Tấn Hiến công sai thế tử Thân Sinh đi đánh Quắc, không ngờ lại hóa ra Lý Khắc đi thay, mả lại lập nên công trạng, chẳng còn nghĩ kế gì để hại thế tử Thân Sinh được nữa ? Ly Cơ lại bàn riêng với ưu Thi rằng :
– Lý Khắc là người trong bè cánh Thân Sinh, bây giờ công to chức trọng như vậy thì ta còn làm gì nổi ! Ưu Thi nói :
– Tuân Tức đem một viên ngọc bích và một cỗ ngựa mà lập kế lấy được nước Ngu và nước Quắc, thế thì tài còn gấp mấy Lý Khắc, mà công trạng cũng chẳng kém gì Lý Khắc. Bây giờ phu nhân dùng Tuân Tức làm chức thái phó để dạy Hề Tề và Trác Tử thì mới có thể trị nổi Lý Khắc được.
Ly Cơ nói với Hiến công, dùng Tuân Tức lảm chức thái phó để dạy Hễ Tề vâ Trác Tử. Ly Cơ lại bảo Ưu Thi rằng :
– Nay Tuân Tức đã vào cánh với ta rồi ! Nhưng hễ Lý Khắc còn ở trong triều thì mưu kế của ta khó lòng thành được. Bây giờ biết dùng kế gì mà trừ được hắn đi ? Có trừ được Lý Khắc thì mới có thể hại nổi Thân Sinh.
ưu Thi nói :
– Lý Khắc là người bề ngoài thì cương trực mà trong lòng hay lo sợ, nếu đem sự lợì hại mà bảo hắn thì hắn tất có ý bắt cá hai tay, bấy giờ ta sẽ dụ hắn phải theo ta. Lý Khắc vốn thích uống rượu, để tôi xin bày một tiệc rượu mời hắn, rồi thử đem lời nói dò xem ý hắn thế nào, nếu hắn theo lời thì may cho phu nhân, mà nếu hắn không theo lời nữa thì tôi đây là một người phường hát, chẳng qua cũng là sự nói đùa bỡn đó thôi, có tội gì mà sợ.
Ly Cơ khen phải. Ưu Thi liền đến nói với Lý Khắc rằng :
Đại phu lâu nay đi đánh dẹp nước Ngu và nước Quắc, khó nhọc nhiều lắm, tôi muốn đem chén rượu nhạt đến để ngồi hầu đại phu, gọi là mua vui trong chốc lát, chẳng hay đại phu nghĩ thế nào ?
Lý Khắc thuận cho. ưu thi liễn mang rượu đến nhà lý Khắc để mời Lý Khắc uống. Trong khi ăn tiệc, Lý Khắc và vợ là Mạnh Nương cùng ngồi. Ưu Thi sụp lạy hai lạy, dùng chén rượu để chúc mừng, rồi ngồi hầu rượu ở bên cạnh chuyện trò, rất vui vẻ ! Rượu đă ngà ngà Ưu Thi đứng dậy múa để chúc thợ, rồi nói với Mạnh Nương rằng :
Bà lớn cho tôi ăn uống, tôi xin ca một bài hát mới để bà lớn nghe.
Mạnh Nương rót chén rượu để thưởng cho ưu Thi, và đưa cho một món thịt dê mà hỏi rằng :
– Bài hát mới là bài gì ?
ưu Thi nói :
– Tên gọi là bài Hạ Dư ! Quan đại phu đây được nghe bài hát ấy thì mới có thể giữ được phú quý.
Nói xong, liền gõ nhịp hát. Hát rằng :
“Chim hạ dư ngô ngô hề…. chi cho bằng ô ô ! Người ta họp cả ở trong vườn hoa hề…. sao mày cứ đậu ở cành khô ?
Vườn hoa kia, tốt đẹp dường bao hề…. cành khó kia, tất có ngày bị lưỡi dao! Lưỡi dao sắp đến nơi hề…. cành khô kia biết làm thế nào ? ” ưu Thi hát xong, Lý Khắc cười mà nói rằng :
– Thế nào là vườn hoa ? Thế nào là cành khô ?
Ưu Thi nói :
Thí dụ như người ta, mẹ đang làm phu nhân, con sắp sửa được nói ngôi vua, tức là một cái cây tươi rườm rà, các giống chim nương tựa ở đấy, thế gọi là vườn hoa ; còn như mẹ đã chết rồi, con lại bị người ta dèm pha, chẳng bao lâu sẽ có tai vạ, tức là một cái cây gốc lay lá rụng, các giống chim còn nương tựa vào đâu, thế gọi là cành khô.
Nói xong, bèn cáo từ lui ra. Lý Khắc trong lòng áy náy, đứng dậy trở vào thư phòng, một mình lững thững, đi quanh trong nhà, vừa đi vừa suy nghĩ, nghĩ quẩn nghĩ quanh, không thể ngủ được. Lý Khắc nghĩ thầm trong lòng rằng :
– ưu Thi là một người yêu của chúa công và phu nhân bây giờ, vẫn được ra vào ở chỗ cung cấm, ngày hôm nay hát như thế tất là có ý Hắn nói chưa hết lời, âu là sáng ngày mai ta phải hỏi lại mới được. Đến nửa đêm, Lý Khắc ruột nóng như lửa, không thể chờ được nữa, mới sai người gọi ưu Thi đến hỏi chuyện. ưu Thi biết trước, đã sắp sửa mũ áo chỉnh tề, liền đi theo người nhà vào thẳng đến tận chỗ giường nằm của Lý Khắc. Lý Khắc cho ưu Thi ngồi ở bên cạnh giường, lấy tay vỗ vào đùi mà hỏi rằng :
– Bài hát của nhà ngươi hôm nay, ta đã hiểu ý, có phải là trỏ thế tử Thân Sinh ở đất Khúc ốc không ? Tất là nhả ngươi có được biết chuyện làm sao ; vậy nên nói cho ta hay đừng giấu ta làm gì ! ưu Thi nói :
– Tôi vẫn muốn nói đã lâu, nhưng chỉ hiềm ngài là quan thái phó của Thân Sinh, nên chưa dám nói, sợ ngài lấy làm quái dị mà thôi.
Lý Khắc nói :
Nhà ngươi nói để cho ta biết cách mà tránh vạ, thế là nhà ngươi yêu ta, có gì mà quái dị ?
Ưu Thi cúi đầu ghé lại bên gối mà nói thầm rằng :
Chúa công đã hứa lời với phu nhân, định giết Thân Sinh mà lập Hề Tề rồi đó ! Lý Khắc nói :
Còn ngăn cản được nữa không ?
ưu Thi nói :
Chúa công yêu phu nhân, điều đó ngài đã biết ; chúa công lại yêu Lương Ngũ và Đông Quan Ngĩl, điều đó ngài cũng đã biết. Trong thì có phu nhân, ngoài thì có Lương Ngũ và Đông Quan Ngũ, việc ấy còn ngăn thế nào được ! Lý Khắc nói :
– Theo ý chúa công mà giết Thân Sinh thì ta không nỡ’ ; mà giúp Thân Sinh để chống nhau với chúa công thì ta không dám ; âu là ta cứ ở giữa chẳng theo bên nào cả, mới có thể thoát nạn được.
Ưu Thi nói :
Ngài nghĩ phải lắm ! Khi Ưu Thi đã lui về rồi, Lý Khắc ngồi cho đến suốt sáng, đem quyển sách của Sử Tô và Bốc Yển ghi chép mấy lời trong quẻ bói ngày trước tính ra vừa được mười năm, mới thở dài mà than rằng :
Việc bói toán cũng nghiệm thật ! Nói xong, liền đến nhà quan đại phu là Phi Trịnh Phủ, đuổi hết người xung quanh đi, rồi bảo Phi Trịnh Phủ rằng :
– Lời nói Sử Tô và Bốc Yển đến nay mới nghiệm.
Phi Trịnh Phủ hỏi :
– Ngài nghe thấy chuyện gì vậy ?
Lý Khắc nói :
– Đêm mới rồi, ưu Thi có bảo tôi rằng :
“Chúa công sắp giết Thân Sinh mà lập Hề Tề ?” Phi Trịnh Phủ nói :
Vậy ngài trả lời thế nào ?
Lý Khắc nói :
Tôi bảo hắn là tôi cứ đứng giữa mà thôi.
Phi Trịnh Phủ nói :
– Ngài nói như thế thì khác nào trông thấy lửa cháy mà lại cho thêm củi vào. Cứ như ngài bây giờ thì tôi thiết tưởng nên giả cách làm ra ý không tin ; hắn thấy ngài không tin thì tất phải e sợ mà chưa dám làm vội ; bấy giờ sẽ vì Thân Sinh mà lập thêm vây cánh để giữ gìn lấy ngôi thế tử, rồi sau tìm cách mà giãi bày với chúa công, khiến cho chúa công nghĩ lại, như thế thì còn có thể cứu vãn được. Nay ngài bảo là ngài đứng giữa thì Thân Sinh thành ra cô thế, chẳng bao lâu sẽ có tai vạ.
Lý Khắc giẫm chân xuống đất mà than rằng :
Tiếc thay ! Tôi không bàn với ngài trước. Lý Khắc cáo từ trở vễ, giả cách ngã xe, rồl ngày hôm sau nói dối là bị thương ở chân, không vào triều được. Ưu Thi đem chuyện Lý Khắc nói lại cho Ly Cơ nghe. Ly Cơ rất bằng lòng ; đêm hôm ấy Ly Cơ nói với Hiến công rằng :
– Lâu nay thế tứ vẫn ở đất Khúc ốc, chúa công nên cho người triệu vễ, nói là thiếp có lòng mong thế tử lắm, để thiếp mua chuộc lấy lòng thế tử, họa may thế tử nghĩ lại mả đừng làm hại thiếp chăng. Chúa công nghĩ thế nào ?
Hiến công nghe lời, cho người triệu thế tử Thân Sinh về. Thân Sinh vào yết kiến Tấn Hiến công, rồi lại vào cung yết kiến Ly Cơ, Ly Cơ bày yến tiệc để thết đãi, chuyện trò vui vẻ. Ngày hôm sau, Thân Sinh lại vào cung tạ Ơn bữa yến. Ly Cơ lại giữ Thân Sinh ở lại ăn cơm với nàng. Đêm hôm ấy, Ly Cơ lại khóc lóc mà nói với Tấn Hiến công rằng :
– Thiếp muốn mua chuộc lòng thế tử cho nên mời thế tử để tỏ lòng kính nề, chẳng ngờ thế tử vô lễ quá ?
Hiến công hỏi :
Làm sao ?
Ly Cơ nói :
Thiếp mời thế tử ở lại dùng bữa cơm trưa, thế tử đòi rượu, khi đã ngà ngà say thì giở giọng đùa bỡn mà bảo thiếp rằng :
“- Cha tôi già rồi ? Thế mẹ làm sao bấy giờ ?” Thiếp nổi giận nhưng không trả lời Thế tử lại nói :
“- Ông tôi ngày xưa lúc về già thì đem mẹ tôi là Tề Khương mà để lại cho cha tôi, nay cha tôi già, tất lại để nàng cho tôi chứ còn ai !” Nói xong toan xông lại mà nắm lấy tay thiếp, thiếp chống cự mãi mới chạy thoát. Nếu chúa công không tin thì xin chúa công thử cho thiếp cùng thế tử vào chơi trong vườn hoa, rồi chúa công đứng ở trên đài mà nom xem thì sẽ biết rõ được tình ý.
Hiến công nghe lời. Sáng hôm sau, Ly Cơ triệu thế tử Thân Sinh cùng vào chơi trong vườn hoa. Ly Cơ đã lập kế sẵn, đem mật ngọt bôi vào mái tóc ; khi vào đến vườn hoa, ong bướm bay xúm xít lại, đậu khắp trẽn đầu. Ly Cơ bèn quay bảo Thân Sinh rằng :
– Kìa ! Sao thế tử không đuổi hộ Ong bướm đi cho tôi ? Thân Sinh vô tình, đi đằng sau lấy tay áo xua đuổi đàn ong bướm. Hiến công đứng ở trên đài trông thấy, yên chí là Thân Sinh trêu ghẹo Ly Cơ, trong lòng tức giận toan bắt Thân Sinh đem chém.
Ly Cơ quỳ xuống mà tâu rằng :
Nay thiếp triệu Thân Sinh đến mà chúa công lại đem giết đi thì làm cho thiếp mang tiếng là mưu giết thế tử. Vả lại, đó là một việc ám muội, người ngoài chưa ai biết đến, xin chúa công hãy nẽn nén lòng đãHiến công liền cho Thân Sinh trở về Khúc ốc, rồi mật sai người bới lông tìm vết để trị tội. Một hôm, Tấn Hiến công đi săn ở đất Địch Hoàn, Ly Cơ lại cùng với Ưu Thi thương nghị ; rồi sai người ra bảo thế tử Thân Sinh rằng :
Đêm qua thiếp nằm mộng thấy Tề Khương (mẹ Thân Sinh) kêu đói , không có gì ăn, thế tử nẽn mau mau cúng tế đi. Bấy giờ Tề Khương có đền thờ ở đất Khúc ốc, Thân Sinh liền làm lễ tế, rồi sai người đem phần tế biếu Hiến công. Hiến công đi săn chưa về, phần tế ấy để tại trong cung đă được sáu ngày. Khi Hiến công về Ly Cơ đem thuốc độc bỏ vào rượu và tẩm vào thịt đệ trình Hiến công, rồi nói :
– Thiếp nằm mộng thấy Tề Khương kẽu đói, nhân chúa công đi vắng, thiếp có sai người ra bảo thế tử làm lễ tế Tề Khương ; đây là phần tế của thế tử biếu chúa công đó ! Tấn Hiến công toan rót rượu ra uống. Ly Cơ quỳ xuống mà can rằng :
Những đồ ăn từ ngoài đem đến, nên phải cho thử mới được. Tấn Hiến công khen phải, liền đem rượu rót thử xuống đất, tức thì chỗ đất ấy dộp phồng lên. Lại gọi chó đến, lấy một miếng thịt ném cho nó ăn thì nó chết ngay. Ly Cơ giả cách không tin, lại gọi một đứa nội thị nhỏ ra bắt ăn thử. Đứa nội thị không chịu ăn. Ly Cơ cố bắt ép. Đứa nội thì vừa mới nuốt khỏi cổ họng thì đổ máu mồm máu mũi ra mà chết. Ly Cơ giả cách kinh hoảng, chạy xuống dưới thềm mà kẽu lên rằng :
– Ối giời đất ơi ! Cơ nghiệp này bao giờ cũng là của thế tử ? Chúa công đã già rồi, thế tử lại không thể chừ đợi trong ít lâu được hay sao ! Nói xong, nước mắt chảy xuống ròng ròng. Ly Cơ bèn quỳ trước mặt Hiến công, nức nở nói :
– Thế tử sở dĩ bày ra mưu kế này chỉ tại mẹ con thiếp mà thôi, xin chúa công hãy đem rượu thịt ấy cho thiếp, thiếp xin chết thay chúa công để cho thế tử được thỏa lòng.
Nói xong, cầm lấy chén rượu toan uống. Hiến công vội vàng giằng lấy, tức giận uất lên, không thể nói đựoc. Ly Cơ lăn xuống đất mà khóc, lại than thở rằng :
Thế tử nhẫn tâm quá ! Cha đẻ ra mà còn muốn giết, huống chi là người khác. Trước kia chúa công toan bỏ hắn đi, thiếp vẫn không muốn ; đến khi hắn trêu ghẹo thiếp trong vườn, chúa công cũng toan đem giết, thiếp lại cố xin hộ ; để đến ngày nay suýt nữa thì làm hại chúa công, thật là lỗi tại thiêp đó ! Hiến công im lặng giờ lâu, rỗi giơ tay ôm lấy Ly Cơ, đỡ dậy mà bảo rằng :
– Thôi phu nhân cứ đứng dậy, để ta tuyên cáo việc này cho các quan nghe, rồi giết đứa tặc tử ấy đi mới được.
Nói xong, liền ra ngự triều, triệu các quan đại phu đến thương nghị. Các quan biết chủ ý của Hiến công đă quyết định như vậy, đều nhìn nhau mà không dám nói.
Đông Quan Ngũ nói :
– Thế tử vô đạo như vậy, tôi xin đem quân đi đánh.
Hiến công bèn sai Đông Quan Ngũ làm phó tướng, đem quân đi đánh đất Khúc ốc. Hồ Đột dẫu đóng cửa ở trong nhà, không đi đến đâu nhưng vẫn cho người đi dò la công việc trong triều, nghe tin Đông Quan Ngũ và Lương Ngũ đem quân đi đánh Khúc ốc, tức khắc sai ngưừi tâm phúc đi mật báo cho Thân Sinh biết trước. Thân Sinh nói chuyện với quan thái phó là Đỗ Nguyên Khoản.
Đỗ Nguyên Khoản nói :
Phần tế để trong cung đã sáu ngày thì rõ là có người trong cung bỏ thuốc độc vào ; thế tử nên làm một tờ trạng khiếu oan, chẳng lẽ cả trong triều thần lại không có ai dám nói hay sao ? Còn hơn là cứ ngồi mà chịu chết ?
Thân Sinh nói :
Chúa công ta không có Ly Cơ thì ăn không được ngon, ngủ không được yẽn. Nay tôi khiếu oan mà không minh ra được thì lại càng thêm tội ; may mà minh ra được thì vị tất chúa công đă trị tội Ly Cơ, mà khiến cho chúa công lại thêm một nỗi đau lòng, chi bằng tôi chịu chết cho xong ?
Đỗ Nguyên Khoản nói :
Ta hây trốn sang nước khác, để lo liệu về sau, thế tử nghĩ thế nào ?
Thân Sinh nói :
Chúa công không xét cho là vô tội mà sai người đem quân đến đánh tôi ; tôi đă mang cái tiếng là người giết cha thì dẫu đi đến đâu, người ta cũng coi tôi như một giống chim cử mổ mẹ mà thôi. Nếu tôi trốn đi mà đổ lỗi cho chúa công thì thành ra bêu cái tiếng ác của quân phụ cho các nước khác chê cười. Thôi thì chỉ một chết là hơn cả.
Nói xong, liền viết thư trả lời Hồ Đột rằng :
Thân Sinh này có tội, xin đành chịu chết ! Nhưng chúa công nay già rồi, các công tứ hăy cón ít tuối, xin ngài lưu ý mà giúp đỡ cho ; tôi dầu chết xuống suối vàng, thật cũng đội ơn nhiều lắm !” Đoạn Thân Sinh ngảnh mặt về phía bắc, sụp lạy hai lạy rồi tự thắt cổ mà chết. Sáng hôm sau, Đông Quan Ngũ đem quân đến, thấy Thân Sinh đã chết rỗi, liền bắt Đỗ Ngllyên Khoản vễ nộp Hiến công và nói rằng :
Thế tử biết tội, đă tự tử mà chết trước rồi ! Hiến công sai Đỗ Nguyên Khoản làm chứng vào từ tội trạng của Thân Sinh, Đỗ Nguyên Khoản kêu rầm lên rằng :
– Trời có thấu nỗi oan nảy cho chăng ! Tôi sở dĩ không chết theo mà chịu cho bắt về đây, chính là muốn để giãi bày tấm lòng của thái tử đó Phần tế để ở trong cung đã sáu ngày, nếu có thuốc độc từ trước thì làm gì mà còn nguyên vẹn được ?
Ly Cơ đứng nấp ở sau bình phong, nghe thấy Đỗ Ngllyên Khoản nói vậy, vội vàng quát to lên rằng :
– Đỗ Nguyên Khoản giữ chức thái phó mà để cho thế tử làm phản, chẳng đem giết đi, còn để làm gì ! Hiến công liền sai lực sĩ cầm dùi đồng đánh vào đầu Đỗ Nguyên Khoản, vỡ óc ra mà chết. Các quan trong triều đều gạt nước mắt thương thầm. Đông Quan Ngũ và Lương Ngũ bảo ưu Thi rằng :
Trùng Nhĩ và Di Ngô cùng một bè cánh với thế tử, thế tử dẫu chết rỗi, nhưng hai vị công tử kia hăy còn, ta cũng lấy lãm lo ngại.
ưu Thi bèn khuyên Ly Cơ lập kế để hại Trùng Nhĩ và Di Ngô. Đêm hôm ấy, Ly Cơ lại khóc nức nở mà nói với Hiến công rằng :
– Thiếp nghe tin đồn Trùng Nhĩ và Di Ngô cùng dự mưu với Thân Sinh. Nay Thân Sinh chết đi thì hai vị công tử kia đổ lỗi tại thiếp, đã sắp định đem quân về đánh úp kinh thành để giết thiếp đi, chúa công cũng nên xét đến việc ấy.
Hiến công còn có ý chưa tin. Sáng hôm sau ra tnều, có người báo rằng :
Trùng Nhĩ và Di Ngô định vào triều, khi đến cửa quan nghe thấy việc thế tử Thân Sinh chết, đều lại quay xe đi cả.
Hiến công nói :
Trùng Nhĩ và Di Ngô không cáo từ với ta mà bỏ đi ngay tất là có dự mưu với Thân Sinh dó ! Nói? xong, liền sai Bột Đề đem quân sang đất Bồ để bắt công tử Trùng Nhĩ ; Giả Hoa đem quân sang đất Khuất để bắt công tử Di Ngô.
Hồ Đột bèn gọi ngườì con thứ là Hồ Yển đến trước mặt mà bảo rằng :
Công tử Trùng Nhĩ là người có tướng lạ :
xương sườn dính nhau, mỗi mắt có hai con ngươi, lại là ngườì hiễn minh, mai sau tất làm nên. Vả nay thế tử Thân Sinh chết rồi thì tất đến Trùng Nhĩ được nối ngõi, mày nên sang đất Bồ mà cùng với anh mày lâ Hồ Mao (bấy giờ Hồ Mao đã theo Trùng Nhĩ sang ở đất Bồ) cùng giúp Trùng Nhĩ đi trốn.
Hổ Yển vâng lời tức khắc sang đất Bồ để theo Trùng Nhĩ. Trùng Nhĩ sọ hâi, cùng với Hồ Mao và Hồ Yển bàn nhau đi trốn. Bỗng nghe báo Bột Đề đă đem quân đến vây nhà Trùng Nhĩ. Trùng Nhĩ cùng với Hồ Mao và Hồ Yển chạy ra vườn sau để trốn đi. Bột Đề cầm gươm đuổi theo, Hồ Mao và Hồ Yển trèo tưừng ra trước, rồi đtmg ở ngoài mà dìu Trùng Nhĩ sang. Bột Đề nắm được vạt áo Trùng Nhĩ, vừa giơ gươm toan chém thì vạt áo đứt, Trùng Nhĩ chạy thoát được. Bột Đề đem cái vạt áo ấy về nộp Tấn Hiến công.
Trùng Nhĩ trến sang nước Địch. Vua nước Địch hôm trước nằm mọng thấy con rồng xanh phủ ở trên mặt thành, bấy giừ thấy có Trùng Nhĩ đến, liền vui ỵe? mời vào. Được một lúc, lại? có một bọn kéo đến, gọi cửa thành gấp lắm, Tnìng Nhĩ ngơ là quân đuổi theo, liễn bảo trên mặt thành bắn tên xu6ng. Người dưới thành kêu rầm lên rằng :
– Chúng tôi không phải là quân đuổi theo, đều là bế tôi ở nước Tấn tình nguyện đi theo công tử.
Trùng Nhĩ trèo ]ên mặt thành nhìn xem thì thấy người đi đầu là Triệu Thôi, tên tự là Tử Dư hiện đang làm quan nước Tấn. Trùng Nhĩ nói :
– Triệu Thôi đâ tới đây thì ta không lo gì nữa ?
Nói xong, sai mở cửa đón vào. Trong bọn ấy có Tư Thần, Ngụy Thù Hồ Xạ Cô, Điên Hiệt, Giới Tử Thôi, Tiên Chẩn đếu là những người có danh tiếng ; lại có bọn Hồ Thúc đến vài ba mươi người nữa.
Trùng Nhĩ giật mình, nói :
– Các ngươi đang ở trong tnều, sao lại đến cả đây thế này ? Bọn Triệu Thôi đồng thanh nói rằng :
– Chúa công thất đức, mê đắm Ly Co mà giết hại thế tử, chẳng bao lâu nước Tấn tất có loạn to. Chúng tôi vốn biết công tử là người hiền minh, cho nên quyết chí theo công tử.
Trùng Nhĩ khóc mà nói rằng :
Các ngươi có lòng giúp tôi, bao giở tôi dám quên ơn.
Ngụy Thù nói :
Công tử ở đất Bồ đã mấy năm nay, người đất Bồ ai cũng yêu mến, đều một lòng theo công tử. Nếu công tử nhờ người nước Địch giúp cho, lại đem quân đất Bồ mà kéo về, tồi chắc rằng trong triều tất có người nổi lên làm nội ứng. Bấy giờ công tử trừ bọn làm loạn ở bên cạnh chúa công đi mà giữ yên lấy cơ nghiệp nước nhà, chảng hơn là cứ trốn tránh mãi thế này hay sao ! Trùng Nhĩ nói :
– Nhà ngươi nói hăng hái lắm ! Nhưng e rằng làm thế thì khiến cho quân phụ ta phải sợ hãi, có đâu ta dám theo lời.
Ngụy Thù là một người dũng sĩ, thấy Trùng Nhĩ không theo lời, liền nghiến răng nghiến lợi, giẫm chân xuống đất mà nói rằng :
– Công tử sợ bọn Ly Cơ như là hùm cọp, rắn rết, còn bao giờ làm được việc gì ?
Hồ Yển bảo Ngụy Thù rằng :
Công tử không phải sợ bọn Ly Cơ, chi sợ hai chữ “danh nghĩa” mà thôi ! Ngụy Thù không dám nói nữa. Nguyên Trùng Nhĩ từ thuở bé vốn là người có lễ phép mà lại biết trọng những kẻ hiền sĩ, vậy nên đến khi đi trốn, có rất nhiều hào kiệt muốn theo. Chỉ có ba người là Khước Nhuế, Lã Di Xanh vả Quắc Xạ (công tử Di Ngô gọi lả cậu), chạy sang đất Khuất để theo Di Ngô, ba người ấy đem việc Giả Hoa sắp đến bắt báo trước cho công tử Di Ngô biết. Công tử Di Ngô liền sai người đóng cửa thành lại để chống giữ. Giả Hoa không có ý muốn bắt Di Ngô, bèn mật sai người vào bảo Di Ngô rằng :
– Công tử nên trốn ngay đi, nếu không thì sắp có quân đuổi theo, công tử không thể nào địch nổi đâu.
Di Ngô bảo Khước Nhuế rằng :
Trừng Nhĩ nay ở nước Địch, hay là ta cũng chạy sang nước Địch, phỏng có nên không ?
Khước Nhuế nói :
– Chúa công vẫn bảo là hai vị công tử thông mưu với nhau, bởi vậy mới sai người đem quân đi đánh ; bây giờ hai người cùng chạy đến cả một nơi thì Ly Cơ lại có cớ mà nói được. Vả chúa công thế nảo cũng sai người đem quân đi đánh nước Địch, chi bằng ta chạy sang nước Lương là hơn. Nước Lương tiếp giáp với nước Tần, mà nước Tần nay đang cường thịnh ; khi chúa công trăm tuổi rồi, ta có thể mượn binh nước Tần mà về nước được.
Công tử Di Ngô liễn chạy sang nước Lương. Giả Hoa giả cách đuổi theo không kịp, đem quân trở về. Tấn Hiến công nổi giận truyền đem Giả Hoa ra chém. Phi Trịnh Phủ tâu rằng :
– Ngày trước chúa công sai đắp thành cho hai vị công tử ở, bắt làm kiên cố quá, vậy nên nay không đánh nổi, chứ Giả Hoa có tội gì đâu ! Lương Ngũ cũng tâu rằng :
Di Ngô là người ngu hèn, khồng cần gì hắn, còn Trùng Nhĩ có tiếng là người tài đức, hiện nay các quan trong triều đi theo nhiều lắm. Vả nước Địch là một nước thù với ta, nếu ta không đánh nước Địch mà trừ Trùng Nhĩ đi thì mai sau tất có tai vạ.
Hiến công liền tha cho Giả Hoa lại sai người triệu Bột Đề đến. Bột Đề nghe tin Giả Hoa suýt phải tội chết ; có ý sợ hãi, mới nói với Hiến công, tình nguyện đem quân đi đánh nước Địch. Hiến công cho đi, Bồ Đề đem quân đến nước Địch. Vua nước Địch cũng đem quân ra chống giữ. Quân hai bên giữ nhau đến hai tháng. Phi Trịnh Phủ nói với Hiến công rằng :
Cha con không nên tuyệt tình quá ! Hai vị công tử cũng chưa có tội trạng gì, nay đã chạy trốn mà còn cố theo để giết, chẳng hóa ra nhẫn tâm lắm ru ! Vả quân ta vị tất đã đánh nổi quân nước Địch, nếu ta cố đánh mãi thì chỉ nhọc quân mà để cho nước láng giềng chê cười mà thôi.
Hiến công nghĩ lại, triệu Bột Đề đem quân về. Hiến cõng nghi các vị công tử phần nhiều là bè cánh Trùng Nhĩ và Di Ngô, mai sau tất ngăn trở việc Tề Hề, liền hạ lệnh đuổi hết các vị công tử, rồi lập Tề Hề lên làm thế tử. Các quan trong triều, chỉ trừ Đông Quan Ngũ, Lương Ngũ và Tuân Tức, còn ai cũng khõng bằng lòng cả ; phần đông cáo ốm xin từ chức. Đến tháng chín năm ấy, Tấn Hiến công định sang hội với Tề Hoàn công ở đất Quỳ Khâu, nhưng sang không kịp, lại trở về nước. Trong khi đi đường, bị đau nặng, đến lúc về cung, Ly Cơ ngồiø ở dưới chân mà khóc rằng :
Chúa công gặp cơn gia biến, đuổi hết các vị công tử mà lập Hề Tề ; một mai chúa công trăm tuổi, thiếp là đàn bà, Hề Tề hây còn bé, bấy giờ các vị công tử ỷ thế nước ngoài mà đem quân vế thì mẹ con thiếp biết trông cậy vào đâu ! Hiến công nói :
– Phu nhân chớ lo ! Quan thái phó Tuân Tức vốn ngưởi trung thành để ta đem thế tử Hề Tề ủy thác cho Tuân Tức. Nói xong, liền gọi Tuân Tức đến bên cạnh giường nằm mà hỏi rằng :
– Ta nghe nói người quân tử lấy điều trung tín làm gốc, thì thế nào gọi là điều trung tín ?
Tuân Tức nói :
– Hết lòng để thờ vua thì gọi là trung ; dẫu chết không sai lời thì gọi là tín.
Hiến công nói :
Ta muốn đem thế tứ Hề Tề ủy thác cho nhà ngươi, chẳng hay nhà ngươi có nhận lời chăng ?
Tuân Tức sụp lạy mà nói rằng :
– Tôi xin hết sức giúp thế tử.
Hiến công ứa hai hàng nước mắt. Ly Cơ cũng rên n khóc ở trong màn. Mấy hôm sau, Hiến công mất, Ly Cơ ẵm công tử Hề Tề đưa cho Tuân Tức. Bấy giờ Tề Hề mới mười một tuổi.
Tuân Tức theo di mệnh lập Hề Tề nối ngôi. Ly Cơ cũng theo di mệnh cho Tuân Tức làm chức thượng khanh, Lương Ngũ và Đông Quan Ngũ làm chức Tả tư mã để tổng thống binh quyền, đi tuần hành trong nước. Phàm các việc chính trị, bất cứ việc lớn việc nhỏ, đều phải trình với Tuân Tức rồi mới được thi hành.
Tuân Tức lập công tử Hề Tề lên nối ngôi, các quan trong triều đều bái mệnh cả, chỉ có Hỗ Đột cáo ốm không đến. Lý Khắc nói riêng với Phi Trịnh Phủ rằng :
Bây giờ lập Hề Tề thì còn Trùng Nhĩ vả Di Ngô làm thế nào ?
Phi Trịnh Phủ nói :
– Việc này cốt ở tay Tuân Tức, để ta dò xem ý hắn thế nào. Nói xong, hai người cùng lên xe đến nhà Tuân Tức, Tuân Tức mời vào. Lý Khắc nói :
– Nay chúa công mất đi, Trùng Nhĩ và Di Ngô đều ở ngoài cả, ngài là quan đại thần trong nước, sao không đón Trùng Nhĩ là một vị công tử hơn tuổi để về nối ngôi, mà lại lập Hề Tề là con Ly Cơ thì sao cho người ta phục. Vả bè cánh các vị công tử, ai cũng oán mẹ con Hề Tề thâm nhập cốt tủy nhưng không làm gì chỉ vì sợ uy của tiên quân ta ngày xưa mà thôi. Bây giờ ghe tin tiên quân mất rồi, tất nhiên sinh biến :
mặt ngoài thì nước Tần nước Địch giúp vào, mặt trong thì người trong nước nổi lên bấy giờ ngài nghĩ cách gì mà giữ nổi ! Tuân Tức nói :
Tôi chịu di mệnh của tiên quân ta mà lập Hề Tề thì tôi chỉ xin hết một lòng để giúp Hề Tề mà thôi, còn ngoài ra không biết có ai cả nếu không giúp nổi thì đành chịu chết để đáp lại tấm lòng ủy thác của tiên quân ta.
Phi Trịnh Phủ nói :
Thế thì chỉ là chết uổng mà thôi, sao ngài không nghĩ lại ?
Tuân Tức nói :
Tôi đã nhận lời với tiên quân rồi, dẫu biết rằng chết uổng, cũng không dám sai lời.
Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ hai ba lần khuyên bảo mãi. Tuân Tức cứ một lòng sắt đá, nhất định không nghe. Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ bèn cáo từ lui ra. Hai người nói riêng với nhau rằng :
– Ta nghĩ Tuân Tức là bạn đồng liêu với nhau, đem việc phải đến bảo hắn,hắn lại nhất định không nghe thì biết làm thế nào ?
Phi Trịnh Phủ nói :
Hắn giúp Hề Tề, ta giúp Trùng Nhĩ, mỗi đằng giúp một bên, có ngại chi điều ấy ?
Nói xong, hai người liền mật ước với nhau, sai kẻ lực sĩ đi lẫn vào trong bọn thị vệ, nhân lúc Hề Tề đi tế ở thái miếu, đổ ra mà giết , bấy giờ có Ưu Thi đứng ở bên cạnh, cầm gươm đến cứu, cũng bị bọn lực sĩ giết chết.
Tuân Tức nghe tin, giật mình kinh sợ, vội vàng chạy đến, ôm lấy thây Hề Tề mà khóc rằng :
Ta chịu di mệnh giúp thế tử mà giúp không nổi, thật là cái lỗi của ta Nói xong, toan đập đầu vào cột. Ly Cơ vội vàng sai người ngăn lại mà can rằng :
Xin quan đại phu nghĩ lại, Hề Tề dẫu chết, còn Trác Tử cũng có thể giúp được ?
Tuân Tức liền sai bắt vài ba mươi người canh giữ ở đấy đem giết cả đi, rồi cùng với các quan hội nghị và cùng nhau lập Trác Tử lên nối ngôi. Bấy giờ Trác Tử mới lên chín tuổi. Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ giả cách không biết, không dự hội nghị. Lương Ngũ nói :
Việc giết thế tử chính là Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ vì Thân Sinh mà báo thù nay họ không đến dự hội nghị thì tội lại càng rõ lắm, xin đem quân đến bắt để trị tội.
Tuân Tức nói :
– Hai người ấy là lão thần nước Tấn ta, vây cánh rất mạnh, nếu trị mà không nổi thì lại thành ra hỏng việc, âu là ta hãy ẩn nhẫn một chút, rồi sẽ liệu dần.
Lương Ngũ lui về, nói riêng với Đông Quan Ngũ rằng :
Tuân Tức là người trung, nhưng ít mưu kế, lâm việc gì cũng rút rát lắm, không có thể trông cậy được ? Nay Lý Khắc dẫu cùng với Phi Trịnh Phủ là một đảng, nhưng chỉ có Lý Khắc mới thật có lòng với Thân Sinh nếu ta trừ được Lý Khắc đi thì Phi Trịnh Phủ tự khắc phải sinh chán.
Đông Quan Ngũ nói :
Dùng kế gì mà trừ được ?
Lương Ngũ nói :
– Nay nhân lúc có tang, thế nảo Lý Khắc cũng phải đi đưa đám, ta sai người đón đường mà giết đi thì chẳng khó nhọc gì cả, chi mất công một ngày thôi..
Đông Quân Ngũ khen phải, bảo Lương Ngũ rằng :
Đồ Ngạn Di là một người có sức mang nổi ba nghìn cân, nếu ta đem tước lộc mà dụ dỗ thì có thể sai khiến được.
Nói xong, bèn bảo Đỗ Ngạn Di. Đồ Ngạn Di quen thân với quan đại phu là Chuy Suyễn, lại đem việc ấy đến bảo với Chuy Suyễn và hỏi có nên làm không. Chuy Suyễn nói :
Việc Thân Sinh ngày xưa vì mẹ con Ly Cơ mà bị Oan, người trong nước ai cũng thương xót, nay Lý Khắc và Phi Trinh phủ định giết bọn Ly Cơ, rồi đón công tử Trùng Nhĩ vễ nối ngôi, đó là một nghĩa cử ! Nếu nhà ngươi giúp đứa gian nịnh thì chẳng những chúng ta không tha nhà ngươi, mà muôn đời về sau, nhà ngươi còn đeo mãi cái tiếng xấu ấy, nhà ngươi chớ có nghe lời.
Đồ Ngạn Di nói :
– Chúng tôi dốt nát không biết gì, bây giờ chẳng hay làm thế nào mà từ chối được.
Chuy Suyễn nói :
– Nhà ngươi từ chối thì tất hắn lại sai người khác, chi bằng cứ giả cách nhận lời, rồi quay lại giết cả bọn gian nịnh ấy đi, như thế nhà ngươi có công to, sau này vừa được phú quý, vừa được danh tiếng, chẳng hơn là làm việc bất nghĩa mà chết thiệt thân ư ! Đồ Ngạn Di nói :
– Ngài dạy phải lắm ! Chuy Suyễn nói :
Chỉ sợ nhà ngươi lại thay lòng đổi dạ thôi ! Đồ Ngạn Di nói :
Nếu ngài không tin thì tôi xin ăn thề.
Nói xong, liền cắt tiết gà lấy máu ăn thề. Đồ Ngạn Di lui về. Chuy Suyễn tức khắc thuật chuyện lại cho Phi Trịnh Phủ nghe. Phi Trịnh Phủ bàn với Lý Khắc, rồi sửa soạn sẵn để định đến hôm đưa đám thì khởi sự. Đến hôm ấy, Lý Khắc cáo ốm không đi. Đỗ Ngạn Di nói với Đông Quan Ngũ rằng :
– Các quan đều đi đưa đám cả, chỉ có Lý Khắc không đi, đó là Lý Khắc đến ngày tận số ! Xin ngài giao cho tôi ba trăm giáp binh, tôi đến nhà Lý Khắc bắt mà giết đi là xong.
Đông Quan Ngũ bằng lòng, liền giao cho Đồ Ngạn Di ba trăm giáp binh. Đỗ Ngạn Di giả cách đến vây nhả Lý Khắc. Lý Khắc cố ý sai người báo tin cho Tuân Tức biết. Tuân Tức giật mình kinh sợ mà hỏi Đông Quan Ngũ. Đông Quan Ngũ nói :
– Tôi nghe Lý Khắc sắp sửa nổi loạn, vậy có sai người đem quân đến vây nhà, việc ấy không can ngại gì ! Tuân Tức ruột nóng như lửa, liền sai Lương Ngũ và Đông Quan Ngũ đem quân đi ngay để đò la tin tức, còn mình thì ẵm Trác Tử ngồi ở trong triều. Đông Quan Ngũ đi đến nửa đường, gặp Đồ Ngạn Di. Đỗ Ngạn Di giả cách đến gần nói có việc cần kíp, rồi giơ tay bóp cổ Đông Quan Ngũ. Đông Quan Ngũ gẫy cổ mà chết, quân sĩ bỏ chạy tán loạn cả, Đồ Ngạn Di thét to lên rằng :
Công tử Trùng Nhĩ đem quân nước Tần và nước Địch về, hiện đã đóng ở ngoài thành Ta đây phụng mệnh quan đại phu là Lý Khắc, vì Thân Sinh mà báo thù, giết những kẻ gian nịnh, để đón công tử Trùng Nhĩ về làm vua. Trong các ngươi, ai muốn theo thì đứng lại, ai không muốn theo thì cho đi ! Quân sĩ thấy nói đến Trùng Nhĩ về làm vua, thẩy đều tình nguyện xin theo cả. Lương Ngũ nghe tin Đông Quan Ngũ biết bị giết, toan trở về triều để cùng với Tuân Tức đem Trác Tử đi trốn, chẳng ngờ lại bị Đỗ Ngạn Di đuổi kịp, Lý Khắc, Phi Trịnh Phủ và Chu Suyễn lại cũng kéo quân đến. Lương Ngũ biết cơ không chạy thoát được, liền rút gươm đâm cổ tự tử, nhưng đâm không đứt, bị Đỗ Ngạn Di tóm ngay được. Lý Khắc xông lại, giơ gươm chém Lương Ngũ đứt làm hai mảnh. Bấy giờ quan đại phu là Cung Hoa cũng đem quân đến đánh giúp rồi cùng nhau kéo vào trong triều. Tuân Tức vẫn nghiễm nhiên không sợ hãi gì cả, tay trái ẵm Trác Tử, tay phải giơ ống tay áo để đỡ che. Trác Tử sợ hãi khóc rầm lên. Tuân Tức bảo Lý Khắc rằng :
Đứa bé con này có tội lỗi gì ! Thôi thì nhà ngươi giết ta mà tha cho giọt máu của tiên quân.
Lý Khắc nói :
Thân Sinh cũng là một giọt máu của tiên quân ta đó, bây giờ có thấy ở đâu ! Nói xong, liễn ngảnh lại bảo Đồ Ngạn Di rằng :
– Sao nhà ngươi không hạ thủ đi ?
Đồ Ngạn Di tức khắc giằng lấy Trác Tử ném xuống đất, chỉ nghe thấy đánh “huỵch” một tiếng trông ra thì Trác Tử đă chết tươi rồi. Tuân Tức nổi giận, giơ gươm đánh nhau với Lý Khắc, cũng bị Đồ Ngạn Di chém chết. Lý Khắc lại kéo quân vào trong cung. Ly Cơ chạy trốn vào phòng Giả Quân. Giả Quân đóng cửa không cho vào. Ly Cơ lại chạy vào trong vườn, đâm đầu xuống hồ mà chết. Lý Khắc sai vớt xác lên mà đem xả ra, lại giết cả họ nhà Lương Ngũ, Đông Quan Ngũ và Ưu Thi. Lý Khắc họp các quan ở trong mà bảo rằng :
– Nay đă trừ được bọn phản loạn rồi ! Trong ba công tử, chỉ có Trùng Nhĩ là hiền mà nhiều tuổi hơn cả, nên lập lên vua. Các quan ai thuận thì xin ký tên vào thẻ.
Phi Tnnh Phủ nói :
Việc nảy tất phải có lão quan là Hỗ Đột làm chủ mới được ! Lý Khắc liền sai người đem xe đi đón Hồ Đột. Hồ Đột từ chối mà nói rằng :
– Lão phu có hai con theo công tử Trùng Nhĩ đi trốn, nay lão phu lại dự vào việc này thì sao cho tiện ? Lão phu đã già rồi, điếu ấy xin tùy ý các quan.
Lý Khắc liền cầm bút viết ngay tên mình ở trên nhất, thứ nhì đến tên Phi Trịnh Phủ, dưới đến bọn Cung Hoa, Giả Hoa và Chuy Suyễn, cả thẩy hơn ba mươi người, rồi sai Đỗ Ngạn Di sang nước Địch đón công tử Trủng Nhĩ. trùng Nhĩ xem trong tờ biểu không thấy tên Hồ Đột, có ý nghi hoặc. Ngụy Thả nói :
Người ta đón mà không về, thế công tử muốn ở mãi đây hay sao ? Trùng Nhĩ nói :
Nhà ngươi không biết rõ, số là các công tử còn nhiều, cứ gì một ta. Vả Hề Tề và Trác Tử mới bị giết, bè cánh hãy còn nhiều. Nay ta về thì sau không có thể lại đi được. Nếu trời có lòng tựa, lo gì không có ngày Hổ Yển cũng lấy việc nhân lúc biến loạn để về nối ngôi là một sự dở, liền khuyên Trùng Nhĩ không nên về. Trùng Nhĩ bèn từ chối rằng :
– Trùng Nhĩ này là một người có tội phải đi trốn, lúc cha còn đã không đưọc phụng dưỡng, lúc cha chết cũng không được trông nom, có đâu lại dám nhân sự biến loạn để về nối ngôi, xin các quan chọn người khác Đồ Ngạn Di về bảo với Lý Khắc. Lý Khắc toan sai người đi đón lẫn nữa. Quan đại phu là Lương Do My nói :
Trong bọn công tử, ai chả có thể nối ngôi được sao ngài không đón Di Ngô ?
Lý Khắc nói :
Di Ngô là người tham lam mà tản nhẫn, không bằng Trùng Nhĩ Lương Do My nói :
– Chẳng vẫn hơn các công tử khác ư ! Các quan đều thuận cả. Lý Khắc bất đầc dĩ lại sai Đỗ Ngạn Di và Lương Do My sang nước Lương để đón Di Ngô. Bấy giờ công tử Di Ngô ở nước Lương, vua nước Lương gả con gái cho, sinh được một ngườii con tên lả Ngữ. Di Ngô ngày đêm mong cho trong nước có biến loạn để mưu cơ trở về , đến lúc nghe tin Tấn Hiến công mất, liền sai Lã Di Xanh đem quân về đánh lén lấy đất Khuất. Tuân Tức nhân trong nước lắm việc, cũng chưa kịp hỏi đến. Sau Lã Di Xanh nghe tin Hề Tề và Trác Tử bị giết, các quan sai người đi đón Trùng Nhĩ về nối ngôi, liền sai người phi báo cho Di Ngô biết. Di Ngô cùng với Quắc xạ và Khước Nhuế thương nghị, định đem quân về cướp ngôi. Bỗng thấy Lương Do My đến đón. Di Ngô liễn chắp tay để lên trán mà nói rằng :
Thế này mới thật là lòng trời định lấy ngôi của Trùng Nhĩ mà cho ta đó ! Nói xong, vẻ mừng rỡ hiện ra nét mặt.
Khước Nhuế nói :
Trùng Nhĩ có phải là không muốn nối ngôi đâu, nay không chịu về, tất là có nghi ngại điều gì đây ! Xin công tử chớ tin vội. Vả các quan ở trong nước đón ai về nối ngôi, tất là có ý muốn cầu lợi , nay trong bọn bề tôi nước Tấn, Lý Khắc đứng đầu, công tử nên để cho hắn được hậu lợi. Tuy vậy, cũng còn mối nguy. Ngày nay công tử về nước, khác nào như ngưừi vào hang hùm, tất phải có khí giới sắc bén, tôi thiết tưởng nên nhờ nước ngoài giúp sức thì mới có thể được. Mà các nước láng giềng ngày nay chi có Tần là mạnh.hơn cả, công tử nên sai người kết giao với Tần, nếu Tần chịu giúp sức cho thì ta không ngại gì nữa.
Di Ngô theo lời, liền viết thư hẹn cho Lý Khắc một trăm vạn mẫu ruộng ở đất Phần Dương, và hẹn cho Phi Trịnh Phủ bảy mươi vạn mẫu ruộng ở đất Phù Qùy, sai Đồ Ngạn Di về báo tin trước , rồi lại viết một bức thư, sai Lương Do My sang sứ nước Tần, nói việc các quan đại phu nước Tấn cho sang đón Di Ngô về nối ngôi. Tần Mục công bảo Kiển Thúc rằng :
– Khi trước ta đã nằm mộng thấy Ngọc Hoàng thượng đế sai ta dẹp loạn nước Tấn , nay ta nghe nói Trùng Nhĩ và chưa biết nên giúp ai ?
Kiển Thúc nói :
– Trùng Nhĩ ở nước Địch, Di Ngô ở nước Lương, đều tiếp giáp nước ta cả, sao chúa công không sai người đến thăm để xét xem là người thế nảo đã.
Mục công theo lời, liền sai công tử Chí sang thăm Trùng Nhĩ trước rồi sau thăm đến Di Ngồ. Công Tử Chí sang thăm Trùng Nhĩ, sai người nói riêng với Trùng Nhĩ rằng :
Công Tử nên nhân dịp này mà vê nước, chúa công tôi xin đem quân giúp công tử.
Trùng Nhĩ nói chuyện với với Triệu Thôi. Triệu Thôi nói :
– Người ta đón, mình không chịu về, mà nay lại mượn thế nước ngoài để về còn ra thế nào ! Trùng Nhĩ liền ra nói với công tử Chí rằng :
Quý quốc có lòng giúp thì tôi xin cảm ơn, nhưng cha tôi mới chết,có đâu tôi dám nghĩ đến điều ấy.
Nói xong phục xuống đất mà khóc. Công tử Chí biết là người hiền, trong bụng khen thầm, rồi cáo từ lui ra , lại sang nước Lương để thăm Di Ngô. Di Ngô bảo công tử Chí rằng :
Ngài phụng mệnh vua Tần sang thăm tôi?, có điều gì hay, xin ngài chỉ bảo cho.
Công tử Chí lại bảo Di Ngô nên nhân dịp mà về nước. Di Ngô nói chuyện lại với Khước Nhuế. Khước Nhuế nói :
Vua nước Tần có yêu gì ta, chẳng qua cũng là chỉ muốn cầu lợi, cõng tử nên hẹn cắt đất để tạ Ơn.
Di Ngô nói :
– Bây giờ mà cắt nhiều đất cho Tần thì chẳng thiệt hại nước Tấn tal ắm ru ! Khước Nhuế nói :
– Công tử không được về nối ngôi thì lảm sao mà có nước Tấn, nào phải là của nêng công tử đâu mà tiếc ! Di Ngô lại ra tiếp kiến công tử Chí, cầm lấy tay mà bảo rằng :
Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ đã thuận cho tôi về nối ngôi, tôi đều có hẹn lời để báo đáp lại, không dám quên ơn , nếu qúy quốc có lòng giúp tôi, khiến cho tôi giữ yên được cơ nghiệp thì tôi xin biếu năm thành, để gọi là đền ơn chút đỉnh.
Nói xong, liền rút tở ước thư ở trong tay áo ra đưa cho công tử Chí, nét mặt có ý tự đắc. Công Tử Chí toan từ chối không nhận, Di Ngô lại nói :
Tôi có bốn chục nén hoàng kim, năm đôi bạch ngọc, xin dâng lẽn công tử, nhờ công tử nói giúp với vua Tần cho, không bao giừ tôi dám quên ơn.
Công tử Chí mới nhận lời. Khi về đến Tần, công tử Chí thuật lại chuyện Trùng Nhĩ và Di Ngô cho Tần Mục công nghe. Tần Mục công nói :
Trùng Nhĩ hiền hơn Di Ngô nhiều lắm, ta nhất định giúp Tnìng Nhĩ.
Công tử Chí nói :
– Chúa công giúp Trùng Nhĩ là lo việc hộ nước Tấn hay muốn lấy tiếng với thiên hạ ?
Mục công nói :
Đó là việc nước Tấn, có dự gì đến tả’Ta chỉ muốn lấy tiếng với thiẽn hạ mà thôi.
Công tử Chí nói :
– Nếu chúa công muốn lo hộ việc cho nước Tấn thì nên chọn người hiền mà lập , bằng nếu chúa công muốn lấy tiếng với thiên hạ thì không cần chọn lựa gì. Dẫu lập ai thì mình cũng vẫn được tiếng, mà lập người hiền thì để người ta hơn mình, lập người bất hiền thì để người ta kém mình, đàng nào lợì hơn ?
Mục công nói :
– Lời nhà ngươi nói khiển ta tỉnh ngộ ! Nói xong, liền sai công tôn Chi đem quân giúp Di Ngô về nước Tấn. Vợ Tần Mục công là em thế tử Thân Sinh nước Tấn, tức là nàng Mục Cơ, lúc bé Giả Quân (vợ thứ Tấn Hiến công) nuôi ở trong cung. Mục Cơ là người rất nhân đức, nghe tin công tồn Chi gìúp Di Ngô về nước, liễn gửi một bức thư đưa cho Di Ngô, bảo khi về nước phải hậu đãi Giả Quân , còn các vị công tử khi trước chạy trốn, đều không có tội lỗi gì, nên cho về cả, để thêm nhiêu vây cánh. ‘Di Ngô sợ mất lòng Mục Cơ, cũng phúc thư lại, xin vâng lời dặn.
Tề Hoàn công nghe tin nước Tấn có loạn, đem quân đến đất Cao Hương (đất nước Tấn), gặp nước Tần kéo đến , vua Huệ vương nhà Chu cũng sai quan đại phu là vương tử Đảng đem quân đến họp. Tề Hoàn công liền sai Thấp Bằng hội với quân nhà Chu và quân nước Tần cùng đưa Di Ngô về nước Tấn để nối ngôi, tức là Tấn Huệ công.
Người nước Tấn ai cũng yêu mến Trùng Nhĩ là người hlền, đến lúc nghe tin Di Ngô vễ làm vua, đều có ý thất vọng. Tấn Huệ công đã lên nối ngôi, lập con là Ngữ làm thế tử, cho Hỗ Đột, Quắc Xạ làm thường đại phu , Lã Di Xanh, Khước Nhuế làm trung đại phu , Đồ Ngạn Di làm hạ đại phu. Lại sai Lương Do My theo vương tử Đảng sang nhà Chu, Hàn Giản theo Tháp Bằng sang nưóc Tề để tạ Ơn.
Công tôn Chi nước Tần còn ở nước Tấn để đòi lấy năm thàh. Tấn Huệ công có ý tiếc, liền họp các quan lại để thương nghị. Quắc Xạ đưa mắt nhìn Lă Di Xanh. Lã Di Xanh nói :
– Chúa công khi trước phải khấn lễ với nước Tần là vì chưa được về nước Tấn chưa phải là của chúa công. Nay đã về rồi thì nước Tấn là của chúa công. Vả lại dẫu ta không cho nước Tần, thì nước Tần cũng chẳng làm gì đuợc kia mà ?
Lý Khắc nói :
– Chúa công mới lên nối ngôi, mà đã thất tín với một nước láng giềng cường thịnh thì quyết không nên.
Khước Nhuế nói :
Nay mất năm thành tức là mất nửa nước Tấn. Dẫu nước Tần có sức sang đánh, cũng vị tất lấy nổi được năm thành của ta , vả lại tiên quân ta ngày xưa trải bao khó nhọc mới mở mang được đất ấy, ta không nên bỏ ! Lý Khắc nói :
– Đã biết là cơ nghiệp của tiên quân, sao lại hẹn cho ngưòì ta ? Hẹn mà không cho thì sẽ lảm nước Tần phải tức giận. Vả lại tiên quân ta ngày xưa ở đất Khúc ốc, chẳng qua chỉ là một khu đất nhỏ, mà biết sửa sang chính trị, rồi mở mang dần dần, thành ra một nước lớn Nếu chúa công biết sửa sang chính tn mả giao hiếu với các nước láng giềng thì lo gì không có năm thành ?
Khước Nhuế quát to lên rằng :
Lời nói của Lý Khắc, không phải là vì nước. Tần, mả lại là vì một trăm vạn mẫu ruộng ở đất Phần Dương, chỉ sợ chúa công không cho vậy phải mượn việc nước Tần để làm lệ mà theo.
Phi Trịnh Phủ lấy cánh tay đẩy Lý Khắc. Lý Khắc biết ý, không dám nói nữa. Huệ công nói :
Bây giừ mình không cho thì là thất tín, mà cho thì lại làm cho nước mình phải suy yếu, hay là ta chịu cho một vài thành phỏng có nẽn không ?
Lã Di Xanh nói :
– Dẫu cho một vải thành, cũng không gọi là thủ tín được, mà chỉ khơi lòng tham của nước Tần, chi bằng ra cứ từ chối đi là hơn.
Huệ công liền sai Lã Di Xanh viết thư trá lời nước Tần. Thư đại lược rằng :
Lúc trưóc Di Ngô này có hẹn với quý quổc xin dâng năm thành, nay được về nước, nghĩ đến cái ơn quý quốc, toan y lời hẹn, nhưng các quan đại thần nước tôi cùng nói rằng :
Đất nước Tấn là của tiên quân ngày xưa để lại, sao chúa công lại dám tự tiện đem cho người khác.
Tôi cố nói mãi mà không đuợc. Vậy xin quý quốc hãy hoãn lại ít lâu, tôi không dám quên lời Huệ công hỏi :
Ai là ngưòi? dám vì ta mà sang sứ nưức Tần ?
Phi Trịnh Phủ xin đi. Huệ công thuận cho, Nguyên Huệ công khi sắp về nước, có hứa lời cho Phi Trịnh Phủ bảy mươi vạn mẫu ruộng ở đất Phụ Quỳ, nếu bây giờ Huệ công không dâng đất cho Tần, thì khi nào chịu cho Lý Khắc vả Phi Trịnh Phủ ruộng nữa. Phi Trịnh Phủ ngoài miệng dẫu không nói ra, nhưng trong lòng có ý căm tức, mới xin đi sứ để định nói chuyện ấy với Tần.
Phi Trịnh Phủ theo công tôn Chi đến nước Tần, vào yết kiến Tần Mục công, đệ trình tờ thư. Tần Mục công xem xong nổi giận, đập bàn và nói rằng :
Ta vẫn biết Di Ngô không đáng lảm vua, ngày nay quả nhiên ta bị hắn lừa dối thật:
Nói xong, toan chém Phi Trịnh Phủ. Công tôn Chi nói :
Đó không phải là tội Phi Trịnh phủ. xin chúa công dung thứ cho Tần Mục công vẫn còn chưa nguôi giận, hỏi rằng :
Người nào xui Di Ngô phụ Ơn ta, ta muốn tự tay cầm dao găm mà đâm chết ! Phi Trịnh Phủ nói :
Xin chúa công bảo hết người xung quanh ra để tôi xin nói.
Mục công truyền người xung quanh lui cả ra, rồi vẫy Phi Trịnh Phủ lại gần mà hỏi. Phi Trịnh Phủ nói :
Các quan đại phu nước tôi, ai cũng cám ơn quý quốc mà muốn nộp đất, chỉ có Lã Di Xanh vả Khước Nhuế cố tình ngăn trở. Nay xin quý quốc cứ làm ra vẻ tử tế, gọi hai người ấy sang mà giết đi, rồi giúp cho Trùng Nhĩ về , bấy giờ tôi xin cùng Lý Khắc làm nội ứng, đuổi Di Ngô, quý quốc nghĩ thế nào ?
Tần Mục công khen rằng :
– Kế ấy phải đó, ta cũng nghĩ như vậy ! Nói xong, liền sai quan đại phu là Lãnh Chi theo Phi Trịnh Phủ sang nước Tấn, rồi lập kế dụ Lã Di Xanh và Khước Nhuế đến để giết.
Chủ ý của Lý Khắc là đón Trùng Nhĩ về nối ngôi, nhưng Trùng Nhĩ lại chối từ không chịu nhận, mà Di Ngô thì khấn lễ để xin về, cho nên Lý Khắc bất đắc dĩ cũng phải theo ý mọi người mà lập Di Ngô, tức là Tấn Huệ công. Ai ngờ khi Tấn Huệ công đã được nối ngôi, những ruộng đất hẹn cho khi trước, Lý Khắc chẳng được gì cả mà Huệ công lại tin dùng bọn lã Di Xanh và Khước Nhuế, còn bao nhiêu các quan cựu thần khác đều không coi ra gì. Lý Khắc đã có ý không phục, đến lúc khuyên Huệ công nộp đất cho Tấn, cũng là vì việc nước mà nói, thì lại bị bọn Khước Nhuế cho là có ý nêng tây,. bởi vậy Lý Khắc vẫn tức giận mà không dám nói ra. Ở triều ra về, nét mặt Lý Khắc còn hầm hầm. Sau, Phi trịnh Phủ phụng mệnh đi sứ nước Tần, bọn Khước Nhuế sợ có thông mưu với Lý Khắc, liền sai người dò la ý tứ Phi Trịnh Phủ cũng sợ Khước Nhuế sai người dò thám, bèn không từ biệt Lý Khắc mà đi ngay. Khi Lý Khắc sai người mời Phi Trịnh Phủ sang để nói chuyện thì Phi Trinh phủ đã ra khỏi cửa thành rồi, Lý Khắc đi theo không kịp, lại? phải trở về. Có ngườì báo tin cho Khước Nhuế biết.
Khước Nhuế vào nói với Huệ công rằng :
Lý Khắc thấy chúa công tước quyền của hắn, lại không cho ruộng Phần Dương, nên sinh lòng oán vọng. Nay nghe tin Phi Trịnh Phủ sang sứ nước Tần, lại thân hành đi đuổi theo, tất là cơ mưu làm phản. Và Lý Khắc vẫn muốn lập Trùng Nhĩ, chứ không muốn lập chúa công, nếu bây giờ hắn thông mưu với Trùng Nhĩ thì ta khó lòng mà giữ nổi, chi bằng chúa công bắt tội hắn chết, để khỏi di hoạn về sau.
Huệ công nói :
Lý Khắc có công với ta, bây giờ nói làm sao mà xử tử hắn được ?
Khước Nhuế nói :
– Lý Khắc giết Hề Tề và Trác Tử, lại giết quan đại thần là Tuân Tức, kể tội thì đáng giết lắm, còn cái công đón chúa công vê nước, chẳng qua là một cái ơn riêng, nếu chúa công không vì ơn riêng mà bỏ nghĩa lớn thì tôi xin phụng mệnh đến giết Lý Khắc.
Tấn Huệ công cho đi. Khước Nhuế đến nhà Lý Khắc, bảo Lý Khắc rằng :
Chúa công sai tôi đến nói cho ngài biết :
nếu không có ngài thì chúa công.không được vễ nối ngôi, công ấy không bao giờ chúa công dám quên, nhưng ngài. đã giết hai vua và một quan đại thần thì chúa công cũng không dám vì ơn riêng ấy mà bỏ ,nghĩa lớn, xin ngài tự liệu lấy Lý Khắc nói :
Không có người bị giết thì sao chúa công lên nối ngôi được ! Muốn bắt tội ngưòi? ta thì thiếu gì lẽ, tôi đã hiểu ý rồi ! Khước Nhuế lại cố bức mãi. Lý Khắc bèn rút gươm nhảy lên mà kêu to :
Trời ơi ! Có thấu cho ta ? Ta còn mặt mũi nào mà trông thấy Tuân Tức ở dưới đất nữa ?
Nói xong, liễn đâm cổ mà chết. Tấn Huệ công giết Lý Khắc rồi, các quan có nhiều người không phục, bọn Cung Hoa, Giả Hoa và Chuy Suyễn đếu oán giận ra mồm. Huệ công muốn giết tất cả. Khước Nhuế nói :
Phi Trịnh Phủ còn đang ở nước ngoài mà ta giết nhiều người quá thì sợ hắn sinh nghi, âu là chúa công hãy chịu ẩn nhẫn đã.
Huệ công nói :
– Mục Cơ nước Tần có dặn ta phải hậu đãi Giả Quân và cho hết các công tử về, nhà ngươi nghĩ thế nào ?
Khước Nhuế nói :
Các công tử ai chả muốn tranh ngôi, chớ nên cho về, còn việc hậu đãi Giả Quân để báo ơn Mục Cơ thì nên làm lắm.
Huệ công liền vào yết kiến Giả Quân. Bấy giờ Giả Quân nhan sắc hãy còn xuân, Huệ công trông thấy bỗng động lòng dâm dục bảo Giả Quân rằng :
Mục Cơ có dặn ta cùng với quý nhân giao hoan, vậy quý nhân không nên từ chối.
Nói xong, liền đứng dậy ôm lấy Giả Quân. Các cung nhân trông thấy, đều buồn cười mà tránh đi cả. Giả Quân sợ uy Huệ công, bất đắc dĩ phải nghe lời. Khi việc đã xong Giả Quân ứa hai hàng nước mắt nói với Huệ công rằng :
Thiếp trước hầu tiên quân mà nay lại thất thân với chúa công, thân thiếp không đáng kể nhưng xin chúa công vì thế tử Thân Sinh ngày xưa mà giải tình oan khuất, để Mục Cơ được bằng lòng.
Tấn Huệ công nói :
– Hề Tề và Trác Tử bị giết thì tình oan của Thân sinh đã giải được rồi ?
Giả Quân nói :
Thi thể Thân Sinh còn chôn tạm ở Khúc ốc, xin chúa công cho ]àm lễ cải táng, khiến cho hồn oan được yên, đó cũng là một điều ước mong của người trong nước.
Tấn Huệ công sai em Khước Nhuế là Khước Khuất sang đất Khúc ốc để cải táng cho Thân Sinh , lại sai Hồ Đột đến lâm lễ tế ở trước mộ. Khi đào lên thì thi thể Thân Sinh vẫn còn nguyên như lúc sống, nhưng mùi thối xông ra không thể nào chịu được. Quân sĩ đều bưng mũi buồn nôn, không làm gì được nữa, Khước Khuất bên thắp hương khấn rằng :
– Thế tử lúc sống là người trong sạch, sao lúc chết lại làm ra hôi hám như vậy, xin thế tử chớ khiến quân sĩ phải kinh sợ.
Khước Khuất khấn xong, bao nhiêu mùi hôi mất hết, lại có mùi hương ngào ngạt. Quân sĩ bèn thu liệm rồi cải táng. Người đất Khúc ốc kéo nhau đi đưa tất cả, ai cũng ứa nước mắt thương khóc. Đến ngày thứ ba, Hồ Đột đem lễ vật đến tế , tế xong, sắp sửa trở về, bỗng có một toán quân sĩ kéo đến xe ngựa đông lắm. Hồ Đột khồng biết là quân ở đâu. vội vàng tránh ra một bên, bỗng thấy một người đầu râu tóc bạc, mũ cao áo dài ở trên xe bước xuống, đến trước mặt Hồ Đột mà bảo rằng :
– Thế tử muốn mời ngài lại để nói chuyện.
Hồ Đột nhìn xem ai thì ra quan thái phó là Đỗ Nguyên Khoản.
Trong khi hoảng hốt, Hồ Đột cũng quên mất là Thân Sinh đâ chết rồi, mới hỏi lại rằng :
– Thế tử đâu ?
Đỗ Nguyên Khoản bèn trỏ vào xe sau mà bảo rằng :
Xe thế tử đó ?
Hỗ Đột bèn đi đến trước xe, thấy thế tử Thân Sinh đội mũ đeo gươm, hệt như lúc sống. Thân Sinh sai người dắt Hỗ Đột lên ngồi xe, rồi bảo rằng :
– Ngài còn nhớ đến tôi chăng ?
Hỗ Đột ứa nước mắt mà đáp rằng :
Thế tử bị Oan, dẫu người qua đường cũng phải thương xót, huống chi Hồ Đột này, khi nào lại quên được ! Thân Sinh nói :
– Đức Ngọc Hoàng thượng đế thương tôi là người nhân hiếu, cho tôi làm chủ ở đất Khúc ốc này. Di Ngô xử với Giả Quân rất vô lễ, tôi ghét nó mà toan làm cho nó không cải táng được , nay vua nước Tần là người hiền, tôi muốn đem nước Tấn cho Tần, để người nước Tần giữ việc cúng tế tôi vễ sau, ngài nghĩ có nên không ?
Hồ Đột nói :
– Thế tử ghét vua nước Tấn bây giờ, nhưng dân nước Tấn có tội gì ? Vả tiên quân ngày xưa có tội gì, mà thế tử lại muốn bỏ người cùng họ mà đi cầu ngưòi? khác họ giữ việc cúng tế. Như vậy tôi e rằng sẽ trái mất cái đạo nhân hiếu đó ?
Thân Sinh nói :
– Ngài nói cũng phải, nhưng tôi đã tâu với Ngọc Hoàng thượng đế rồi ! Để tôi sẽ tâu lại, có tbế nào trong bảy ngày nữa tôi sẽ mượn mồm một người thầy đồng mà báo cho ngài biết.
Đỗ Nguyên Khoản đứng ở dưới xe, gọi Hỗ Đột mà bảo rằng :
– Thôi, ngài nên trở về ! No’l xong, liền giơ tay dắt Hố Đột xuống xe, Hồ Đột vấp chân, ngã lăn xuống đất, giật mình tỉnh dậy, té ra.đang nằm ở nhà quán xá, liễn hỏi người hầu xung quanh rằng :
– Sao ta lại ở đây ?
Người xung quanh nói :
‘ – Khi tế vừa xong thì ngài ngã xuống, gọi mãi không tỉnh, chúng tỗiphải vực lên xe rồi đem ngài về đây..
Hố Đột biiết là mình nằm mộng, có ý lấy làm lạ, nhưng không nói cho ai biết, giả cách kêu mệt nhọc, nghỉ lại ở nhà quán xá.
Được bảy ngày, bỗng có một người thầy đồng xin vào yết kiến. Hồ Đột sai đuổi hết người xung quanh rồi cho vào. Người thầy đồng nói :
– Thế tử Thân Sinh bảo tôi nói lại để ngài biết rằng thế tử đã tâu với Ngọc Hoàng thượng đế, Ngọc Hoàng thượng đế sẽ chỉ trị tội một mình hắn mà thôi, không hại gì đến nước Tấn cả.
Hỗ Đột giả cách không hiểu., hỏi lại rằng :
Trị tội một mình hắn là ai ?
Người? thầy đồng nói :
– Tôi chi biết nói thế thôi, còn không biết việc gì hết.
Hồ Đột sai đem tiền bạc thưởng cho người thầy đồng rồi dặn không được nói cho ai biết. Hồ Đột về nước, nói chuyện với con Phi Trịnh Phủ là Phi Báo. Phi Báo nói :
– Chúa công làm nhiều điều trái lẽ, tất không an toàn được, có lẽ nước Tấn lại về tay Trùng Nhĩ mà thôi Phi Trịnh Phủ cùng với quan đại phu nước Tần lả Lãnh Chi trở về nước Tấn, mới về đến ngoài cõi đã nghe tin Lý Khắc bị giết. Phi Trịnh Phủ trong lòng nghi hoặc, toan quay sang nước Tần, nhưng lại nghĩ đến con là Phi Báo hiện đang ở nhà, nếu mình bỏ trốn thì tất con bị hại, bới vậy còn trù trừ chưa quyết. Bỗng gặp quan đại phu là Cung Hoa, Phi Trịnh Phủ mới hỏi chuyện Lý Khắc. Cung Hoa bèn kể lại đầu đuôi một lượt. Phi Trịnh Phủ hỏi :
– Bây giờ tôi có nên về không ?
Cung Hoa nói :
– Những người cùng lòng với Lý Khắc còn nhiều, Cung Hoa này cũng là một người ở trong số đó. Nay chúa công chỉ giết một mình Lý Khắc, còn không bắt liên lụy đến ai cả , huống chi ngài hiện đang đi sứ nước Tần, tôi thiết tưởng cứ nên làm như người không biết là hơn , bằng nay sợ mà không về thì.thành ra lại tự thú là người có tội.
Phi Trịnh Phủ nghe lời, liền trở về nước Tấn, đưa Lãnh Chi vào yết kiến chúa công. lãnh Chi dâng các đồ lễ vật, rồi đệ trình từ thư.
Huệ công mở ra xem. Trong thư đại lược nói rằng :
Nước Tấn và nưóc Tần, hai nước vốn là thân thuộc với nhau thì đất của nước Tấn cũng như của nước Tần. Các quan đại phu nước Tấn không chịu nộp đất, cũng là trung với nước mình, có đâu tôi lạii tham muốn mà bỏ mất cái bụng tốt của các quan đại phu , nhưng tôi có một việc biên giới, muốn cùng hội nghị với quan đại phu Lã Di Xanh và quan đại phu Khước Nhuế. Xin mời sang ngay, kẻo tôi mong đợi ?
Cuối thư lại có viết một câu :
“Nay xin trả lại tờ ước thư ngày trước” Tấn Huệ công là người thiểu cận, thấy lễ vật của nước Tần rất hậu và tờ ước thư của mình xin nộp đất ngày trước cũng được trả lại, trong lòng mừng lắm, toan sai Lã Di Xanh và Khước Nhuế sang tạ Ơn nước Tần. Khước Nhuế nói riêng với Lã Di Xanh rằng :
– Nước Tần cho sứ đến, không phải vì lòng tốt. Của nhiều nói ngọt như vậy, tất là có ý muốn lừa ta. Chúng ta sang đến nơi, không khéo Tần sẽ bắt hiếp chúng ta phải nộp đất.
Lã Di Xanh nói :
Tôi cũng cho rằng người nước Tần không có lòng tốt với ta đến như thế ? Đó tất là Phi Trịnh Phủ nghe tin Lý Khắc bị giết, sợ không khỏi tội , mới lập mưu với người nước Tần, muốn cho họ giết chúng ta, để hắn nổi loạn.
Khước Nhuế nói :
Phi Trịnh Phủ cùng với Lý Khắc nguyên vẫn lả cùng cánh. Lý Khắc bị giết, Phi Trịnh Phủ tài nào không sợ, ngài nói phải đó ! Nay trong số các triều thần thì người vây cánh của Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ đến một nửa , nếu Phi Trịnh Phủ có lòng nào, tất nhiẽn nhiều người theo với hắn, chi bằng ta hãy bảo sứ nước Tần về trước, để ta sẽ dò xét xem.
Lã Di Xanh khen phải, liền vào nói với Huệ công, hãy bảo Lãnh Chi về nước Tần trước, rồi sẽ cho lã Di Xanh và Khước Nhuế sang sau. Lã Di Xanh và Khước Nhuế sai người tâm phúc ngày đêm chực ở cửa nhà Phi Trịnh Phủ để dò thám. Phi Trịnh Phủ thấy Lã Di Xanh và Khước Nhuế khồng sang Tần, liền mật cho triệu bọn Kỳ Cử, Cung Hoa, Giả Hoa và Chuy Suyễn, đêm hôm ấy đến nhà để hội họp Quân thám tử về báo với Khước Nhuế. Khước Nhuế tức khắc cùng Lã Di Xanh thương nghị, sai người gọi Đồ Ngạn Di đến, bảo rằng :
– Tai vạ nhà ngươi sắp đến nơi, nhả ngươi có biết không ?
Đỗ Ngạn Di glật mình kinh sợ mà hỏi rằng :
– Tôi làm gì nên vạ ?
Khước Nhuế nói :
– Nhà ngươi ngày trước gỉúp Lý khắc giết Hfê Tề và Trác Tử, nay Lý Khắc đã bị giết, chúa công lại sắp giết cả nhà ngươi. Chúng ta thấy nhà ngươi có cái công đón lập chúa công, không nỡ để cho nhà ngươi bị giết, vậy nên chúng ta bảo cho mà biết.
Đồ Ngạn Di vừa khóc vừa nói :
Tôi chi là một kẻ vũ phu, bị ngưừi ta sai khiến, nào có biết thế là nên tội đâu ! Xin ngài làm ơn cứu cho.
Khước Nhuế nói :
Chúa công giận lắm, không thể xin được ! Nay chỉ có một kế này, may ra thoát khỏi được chăng ?
Đồ Ngạn Di liền quỳ xuống hỏi kế. Khước Nhuế vội vàng đỡ dậy vả bảo rằng :
– Nay Phi Trịnh Phủ cùng một bè cánh với Lý Khắc, đang cùng các quan đại phu mưu định giết chúa công mà đón Trùng Nhĩ về nối ngôi. Nhà ngươi giả cách sợ tội đến thông mưu với Phi Trịnh Phủ ,khi đã dò được thực tình rồi thì ra mà thú, rồi ta tâu với chúa công lấy ba mươi vạn mẫu ruộng ở đất Phụ Quỳ ngày trước đã hẹn cho Phi Trịnh Phủ mà cho nhà ngươi, lại thăng chức để đền công cho nhà ngươi, thì nhà ngươi còn lo gì tội nữa ! Đồ Ngạn Di mừng nói rằng :
Nếu vậy thì thật là ngài cải tử hoản sinh cho tôi đó, tôi xin vâng lời, chỉ hiềm một nỗi tôi nói năng vụng lắm thì biết làm thế nào ?.
Lã Di Xanh nói :
để ta dạy cho nhà ngươi..
No’l xong, liền nghĩ. sẵn câu hỏi. và câu trả lời, để cho Đồ Ngạn Di học thuộc. Đêm hôm ấy, Đồ Ngạn Di đến gõ cửa Phi Trịnh Phủ, nói có việc bí mật muốn vào bàn. Phi Trịnh Phủ chối từ là đang say rượu nằm ngủ, không ra tiếp kiến. Đỗ Ngạn Di đứng đợi, mãi đến canh khuya cũng không trở về. Phi Trịnh Phủ bèn cho gọi vào, Đồ Ngạn Di vào đến nơi, liền quỳ xuống đất mà kêu rằng :
– Chúa công bảo là tôi giúp Lý Khắc giết Tề Hề và Trác Tử, sắp đem chém tôi, xin ngài cứu cho ! Phi Trịnh Phủ nói :
Nay quyền chính ở tay Lã Di Xanh và Khước Nhuế, sao nhà ngươi không đến mà kêu với hai người ấy ?
Đổ Ngạn Di nói :.
– Việc này là do mưu của Lã Di Xanh và Khước Nhuế, tôi tiếc rằng không thể ăn thịt được hai người ấy, kêu với họ thì có ích gì ! Phi Trịnh Phủ còn chưa tin lời, lại hỏi rằng :
– Thế thì nhà ngươi định thế nào ?
Đồ Ngạn Di nói :
Công tử Trùng Nhĩ là ngườì nhân hiếu, trong nước ai cũng muốn tôn lên lảm vua, mà vua nước Tần ngày nay đang ghét chúa công ta là người bội ước, cũng muốn lập Trùng Nhĩ. Nếu ngài viết một bức thư, sai tôi đem ra cho Trùng Nhĩ, để Trùng Nhĩ hợp binh nước Tần và nước Địch, còn đại phu ở trong hợp nhau với người của Thân Sinh ngày xưa mà làm nội ứng. Trước hết hãy chém đầu Lã Di Xanh và Khước Nhuế rồi đuổi chúa công đi mà lập Trùng Nhĩ, chắc hẳn phải nên việc.
Phi Trịnh Phủ nói :
Nhà ngươi có giữ được một lòng như thế không ?
Đồ Ngạn Di liền cắt đầu ngón tay chảy máu ra mà thề rằng :
– Nếu tôi sai lời thì xin chết cả họ ?
Phi Trịnh Phủ tin lời, hẹn đến canh ba đêm hôm sau thì lại hội nghị. Đêm hôm sau, Đố Ngạn Di lại đến ‘tbì đã thấy Kỳ Cử, Cung Hoa, Giả Hoạvà Chuy Suyền đâu ở đấy rồi , lại có Thúc Kiên, Lụy Hổ, Đặc Cung và Điền Kỳ bốn người nữa, đều là môn hạ cũ của Thân Sinh củng với Phi Trịnh Phủ và Đỗ Ngạn Di cả thẩy mười người, cùng nhau quệt máu ăn thề để giúp Trùng Nhĩ. Phi Trịnh Phủ bày tiệc thết đãi mọi người uống rượu say, rồi đâu vế đấy cả. Đồ Ngạn Di bèn về báo cho Khước Nhuế biết. Khước Nhuế nói :
– Nhà ngươi nói thế, không có bằng cứ gì cả, làm thế nào lấy được bức thư của Phi Tnnh Phủ thì mới trị tội hắn được.
Đêm hôm sau, Đỗ Ngạn Di lại đến nhà Phi Trịnh Phủ để nhận tờ thư đem cho Trùng Nhl. Phi Trịnh Phủ đã viết sẵn sảng rồi, chín người cùng ký tên cả, chỉ thiếu có một mình Đồ Ngạn Di. Đỗ Ngạn Di cũng cầm bút ký tên nốt. Phi Trịnh Phủ niêm phong kỹ càng, rồi giao cho Đồ Ngạn Di, dặn Đô Ngạn Di phải cẩn thận, chớ tiết lộ ra cho ai biết. Đồ Ngạn Di được bức thư, quý như người được của, đem thẳng đến nhà Khước Nhuế. Khước Nhuế xem xong, liền giấu kín Đồ Ngạn Di ở trong nhà, rồi cùng Lã Di Xanh đem bức thư sang thuật lại mọi chuyện cho quốc cữu là Quắc Xạ biết rồi nói rằng :
Nếu không trừ ngay thì tất sinh biến loạn. Đêm hôm ấy, Quắc Xạ vào ngay trong cung, yết kiến Huệ công, kể hết âm mưu của Phi Trịnh Phủ, lại nói với Huệ công rằng.
– Sáng mai ra triều, chúa công nên đem bức thư này ra làm chứng cớ mà trị tội đi.
Ngày hôm sau, Huệ công ra triều. lã Di Xanh, Khước Nhuế đã sai các vũ sĩ phục sẵn ở xung quanh. Huệ công gọi Phi Trịnh Phủ mà hỏi rằng :
Ta đã biết nhà ngươi định đuổi ta mà lập Trùng Nhĩ, xin hỏi nhả ngươi là ta có tội gì ?
Phi Trịnh Phủ vừa toan biện bạch thì Khước Nhuế chống gươm quát to lên rằng :
– Nhà ngươi sai Đồ Ngạn Di đem thư đưa cho Trùng Nhĩ, may nhờ hồng phúc chúa. công mà ta đón bắt được Đồ Ngạn Di, Đỗ Ngạn Di đã thú nhận cả rồi, nhà ngươi còn nói gì nữa ?
Huệ công cầm. bức thư ném ra trước án. Lã Di Xanh nhặt lấy, rồi chiếu tên đọc lên, để cho vũ sĩ bắt từng người một. Chỉ có Cung Hoa ở nhà, lã Di Xanh tức khắc sai người đi bắt, còn tám người ở đấy, đều ngơ ngác nhìn nhau, không chối cãi thế nào được. Huệ công truyền đem ra chém. Trong bọn ấy có Giá Hoa kêu rầm lên rằng :
– Năm xưa tôi phụng mệnh tiên quân đi đánh chúa công, có cái ơn tha cho chúa công đi trốn, xin chúa công nghĩ lại.
Lã Di Xanh nói :
Ngày trước nhà ngươi làm tôi tiên quân mà tư tình với chúa công ngày nay nhà ngươi làm tôi chúa công lại tư tình với Trùng Nhĩ, thế là một đứa tiểu nhân phản phúc, càng nên giết lắm Giả Hoa không nói thế nào được nữa. Tám ngưòí đều chết chém cả Cung Hoa ở nhà, nghe tin bọn Phi Tnnh Phủ bị giết, toan tức khắc vào triều để xin nhận tội. Em là Cung Tứ can rằng :
– Vào thì tất chết chẳng thà trốn đi còn hơn ?
Cung Hoa nói :
– Ngày trước ta bảo Phi Trịnh Phủ cứ về, để đến nỗi Phi Trịnh Phủ chết, nay ta sống lấy một mình thì sao gọi là trượng phu được ?
Ta không phải là không muốn sống nhưng ta không nỡ phụ lòng Phi Trịnh Phủ ! Nói xong, không đợi cho người đến bắt, tức khắc vào thẳng ngay trong triều để xin chịu tội. Tấn Huệ công cũng sai đem chém. Phi Báo nghe tin cha là Phi Trịnh Phủ bị giết, tức khắc trốn sang nước Tần.
Huệ công muốn giết cả họ những ngưừi trong bọn Lý Khắc và Phi Trịnh Phủ. Khước Nhuế nói :
– Trị tội người ta, không bắt đến vợ con, đó là phép đời xưa. Nay bọn phản nghịch đã bị giết thế cũng đủ làm gương cho kẻ khác rồi, cần gì phải giết lắm, cho ngưò’i ta kinh hãi.
Huệ công mới tha cho các họ, rồi thăng Đồ Ngạn Di làm trung đại phu, thưởng cho mưòi? vạn mẫu ruộng ở đất Phụ Quỳ. Phi Báo đến nước Tần, vào yết kiến Tần Mục công, phục xuống đất mà khóc. Tần Mục công hỏi. Phi Báo đem chuyện với Mục công nẽn đem quân sang đánh Tấn. Mục công hội các quan để thương nghị.
Kiển Thúc nói :
Vì lời nói của Phi Báo mà sang đánh Tấn, là giúp bề tôi mà đánh vua, sao cho phải nghĩa ! Bách Lý Hề nói :
– Nếu dân không phục thi tất sinh biến, chúa công nên đợì cho Tấn sinh biến, rồi sẽ sang đánh..
Mục công nói :
– Ta cũng lấy làm ngi lắm, trong một lúc mà giết đến chín quan đại phu, nếu không được lòng dân tin phục thì sao làm thế được ? Huống chi ta sang đánh mà không có nội ứng thì đánh làm sao nổi ?
Phi Báo liền ở lại, làm quan đại phu nước Tần.
Bấy giừ vương tử Đái nhà Chu sai ngườì xui nước Nhung ở Y Lặc đem quân vào đánh kinh sư để định ở trong làm nội ứng. Chu Tương vương sai người cáo cấp với chư hầu. Tần Mục công và Tấn Huệ công đem quân đến cứu. Quân Nhung nghe tin chư hầu đến cứu, liền đốt phá cửa đông rồi kéo nhau về. Tấn Huệ công trông thấy Tần Mục công, có ý thẹn thùng. Tấn Huệ công lại tiếp được từ mật thư của Mục Cơ kể tội mình vô lễ với Giả Quân, và khồng cho các công tử về nước , lại bảo nẽn đổi lỗi ngay đi, bởi vậy Tấn Huệ công có ý nghi Tần Mục công, vội vảng rút quân về nước. Phi Báo bèn xui Tần Mục công đánh lẻn vào quân nước Tấn. Tần Mục công nói :
Nay nước Tấn vì việc cứu nhà Chu mà đến đây, ta dẫu có thù riêng, cũng không nên đánh vội.
Nói xong liền rút quân về. Tề Hoàn công cũng sai Quản Di Ngô đem quân cứu nhà Chu, nghe tin quân Nhung đã rút về rồi, bèn sai người sang trách vua nước Nhung. Vua Nhung sợ uy thế Tề, sai người sang xin lỗi rằng :
chúng tôi có dám xâm phạm kinh sư đâu, chỉ vì vương tử Đái xui chúngtôi làm vậy.
Chu Tương vương mới đuổi vương tử Đái. Vương tử Đái chạy sang nước Tề.
Mùa đông năm ấy, Quản Di Ngô đau nặng. Tề Hoàn công đến hỏi thăm, trông thấy Quản Di Ngô gầy lắm, mới cầm tay mà bảo rằng :
Trọng phụ đau nặng lắm, bất hạnh mà có thế nào thì tôi biết giao quyền chính cho aĩ được ?
Bấy giờ Ninh Thích và Tân Tu Vô cũng đều mất cả rồi, Quản Di Ngô thở dài mà than rằng :
Tiếc thay cho Ninh Thích ! Tề Hoàn công nói :.
-trừ Ninh Thích ra, không còn ai nữa hay sao ? Ta muốn giao quyền chính cho Bảo Thúc Nha, Trọng phụ nghĩ thế nào ?
Quản Di Ngô nói :
– Bảo Thúc Nha là người quân tử, nhưng không có tài chính trị, hay phân biệt thiện ác quá , yêu điều thỉện thì phải, chứ ghét điều ác quá thì không được ! Bão Thúc Nha thấy ai có điều ác gì thì suốt đời không quên, đó cũng là một điếu dở.
Hoàn công nói :
Thấp Bằng thế nào ?
Quản Di Ngô nói :
– Thấp Bằng là người không lấy điều hỏi kẻ dưới làm xấu hổ , lúc nào cũng lo nghĩ đến việc nước, có thể dùng được.
Nói xong, lại thở dài mà than rằng :
Trời sỉnh Thấp Bằng, khác nào như cái lưỡi của tôi, nay tôi đã chết thì cái lưỡi cũng không sống được. Tôi e rằng chúa công dùng Thấp Bằng cũng chẳng được bao lâu ! Hoàn công nói :
– Thế thì Dịch Nha thế nào ?
Quản Di Ngô nói :
Chúa công không hỏi, tôi cũng sắp nói đến. Dịch nha, Thụ Điêu và Khai Phương, ba người ấy quyết không nên gần.
Hoàn công nói :
– Dịch Nha làm thịt con cho ta ăn, thế là yêu ta hơn yêu con, còn nghi gì nữa ?
Quản Di Ngô nói :
-Tình người ta không gì yêu hơn con. Con mình mà nỡ như thế thì còn nghĩ gì đến vua ! Hoàn công nói :
Thụ Điêu tự hoạn mình đi để xin vào hầu ta, thế là yêu ta hơn yêu thân mình, còn nghi gì nữa ?
Quản Di Ngô nói :
người ta không gì yêu hơn thân. Thân mình mà còn như thế thì còn nghĩ gì đến vua ! Hoàn công nói :
-Khai Phương là công tử nước Vệ, bỏ ngôi thế tử mà theo ta, khi cha mẹ chết, cũng chẳng thiết về, thế là yêu ta hơn yêu mẹ cha, cỏn nghi gì nữa ?
Quản Di Ngô nói :
Tình người ta không gì thân hơn cha mẹ. Cha mẹ mình mà nỡ như thế thì con nghĩ gì đến vua ! Vả lại được phong lảm thế tử ai mà chẳng muốn. nay Khai Phương bỏ ngôi thế tử mà theo chúa công thì tất còn muốn được hơn ngôi thế tử nữa, chúa công chớ nên gần. gần thì tất có ngày sinh loạn.
Hoản công nói :
Ba người ấy theo hầu ta đã lâu lắm, sao ta khõng thấy Trọng phụ nói đến bao giờ ?
Quản Di Ngô nói :.
– Tôi không nói ra là muốn chiều ý chúa công. Ví như nước tràn bờ có tôi đứng ra lảm bờ đê, thì nước không tràn được, nay bờ đê đã bỏ đi rồi thì khó lòng mà ngăn cho nước khỏi tràn, xin chúa công chớ nên gần bọn ấy.