Chương 40: Tiên Chẩn lập kế lừa Đắc Thần – Tấn Sở giao binh tại Thành Bộc

Triệu Thôi phụng mệnh Tấn Văn công đến thăm bệnh Ngụy Thù Bấy giờ Ngụy Thù còn vết thương nặng ở ngực, vẫn nằm trên giường, chưa trở dậy được, nghe báo có quan đến thăm, liền hỏi người nhà rằng :

– Cả thảy có mấy người đến ?

Người nhà nói :

– Chỉ có một mình quan tư mã là Triệu Thôi.

Ngụy Thù nói :

– Hắn định đến dò xem ta có sống được hay không, nếu bệnh không sống được thì tất đem ta ra để trị tội đây.

Nói xong, liền sai người nhà lấy lụa bó kín ngực lại, để ra tiếp kiến Triệu Thôi. Người nhà nói – Tướng quân đau nặng lắng, không nên cử động vội.

Ngụy Thù quát to nên rằng :

– Bệnh ta không đến nỗi chết, các người chớ nói càn ! Nói xong, liền đứng dậy, mũ áo chỉnh tề, ra tiếp kiến Triệu Thôi Triệu Thôi hỏi:

– Nghe nói tướng quân bị thương nặng lắm, chúa công có sai tôi đến hỏi thăm.

Ngụy Thù nói :

– Bởi có quân mệnh, nên tôi phải miễn cưỡng ra đây. Tôi cũng tự biết tội mình là đáng chết, nhưng may mà chúa công ân xá cho thì cái thân sống thừa này xin hết sức để báo đáp.

Ngụy Thù lại nhảy lên mấy lần, để tồ cho Triệu Thôi biết là sức mình còn mạnh.

Triệu Thôi nói :

– Tướng quân cứ yên lòng mà chăm thuốc men cho chóng khỏi, rồi tôi xin tâu lại với chúa công.

Triệu Thôi về tâu với Tấn Văn công rằng :

– Ngụy Thù dẫu bị thương, nhưng gân sức còn mạnh lắm. Vả lại vẫn biết giữ phép làm tôi. nếu chúa công tha cho y thì sau này tất cũng dùng được việc.

Tấn Văn công nói :

– Nếu tha mà không trái với pháp luật thì ta có muốn giết làm gì ! Được một lúc, Tuân Lâm Phủ đưa Điên Thiệt đến, Tấn Văn công mắng rằng :

– Vì cớ gì nhà ngươi dám đốt nhà Hi Phụ Cơ ?.

Điên Thiệt nói :

– Giới Tử Thôi cắt thịt đùi để dâng chúa công mà cũng bị chết cháy, huống chi là Hi Phụ Cơ chi dâng có một bữa cơm ! Tôi đốt nhà Hi Phụ Cơ như vậy, là muốn cho Hi Phụ Cơ được phối hưởng ở đền thờ Giới Tử Thôi đó thôi ! Tấn Văn công nổi giận, nói :

– Giới Tử Thôi chết cháy, có phải là lỗi tại ta đâu.

Nói xong, bèn ngảnh lại hỏi Triệu Thôi rằng :

– Điên Thiệt dám làm việc trái phép đốt nhà Hi Phụ Cơ, thì nên bắt tội gì ?

Triệu Thôi nói :

– Cứ theo pháp luật thì đáng tội chết.

Tấn Văn công truyền đem Điên Thiệt ra chém, để làm lễ tế Hỉ Phụ Cơ, rồi bêu đầu ở cửa bắc, yết thị rằng :

– Từ nay ai làm trái phép thì nom vào đây !” Tấn Văn công lại hỏi Triệu Thôi rằng :

– Ngụy Thù cùng đi với Điên Thiệt mà không biết can ngăn nay nên bắt tội gì ?

Triệu Thôi nói :

– Nên cách chức Ngụy Thù, vả bắt phải lập công chuộc tội.

Tấn Văn công bèn cách chức Ngụy Thù, cho Chu Chi Kiều thay vào.

Các tướng sĩ thấy vậy, đều bảo nhau rằng :

– Ngụy Thù và Điên Hiện có công tòng vong khó nhọc trong mười chín năm trời, nay làm trái phép mà cũng người thì bị giết, người thì bị cách chức, huống chi là kẻ khác ? Thế mới thật là phép nước không riêng ai cả, chúng ta nên cẩn thận mới được ! Lại nói chuyện Sở Thành vương đi đánh Tống, chiếm được đất Mân ấp, đang đem quân vây đất Hoài Dương, định làm cho nước Tống khốn quẫn phải xin hàng, bỗng nghe báo có sử thần nước Vệ là Tôn Viêm đến cáo cấp. Sở Thành vương triệu vào hỏi, Tôn Viêm báo cho Sở Thành vương biết chuyện nước Tấn đã chiếm mất đất Ngũ Lộc, vua nước Vệ phải chạy ra ở đất Tương Ngưu, và nếu nước Sở không đem quân đến cứu thì thảnh Sở Khau cũng khó lòng mà giữ nổi. Sở Thành vương liền chia quân ra làm hai đạo, cho Thành Đắc Thần cùng các vua chư hầu ở lại vây Tống, còn mình thì đem quân đi cứu Vệ Các vua chư hầu cũng đều lo trong nước có biến, cáo từ về cả, mỗi người cho một viên đại tướng ở lại :

– Tướng nước Trần là Viên Tuyển, tướng nước Sái là công tử An, tướng nước Trịnh là Thạch Quỳ, tướng nước Hứa là Bách Trù, đều phải theo lệnh tướng nước Sở là Thành Đắc Thần cả.

Sở Thành vương đi đến nửa đường, nghe tin quân Tấn đã kéo sang đánh Tào, toan sang cứu Tào thì lại nghe tin quân Tấn đã phá vỡ nước Tào, vua Tào đã bị bắt rồi. Sở Thành vương giật mình sợ hãi mà nói rằng :

– Nước Tấn dùng quân sao mà thần tốc như vậy ?

Sở Thành vương liền đóng quân lại ở Thân Thành, sai người sang đất Cốc gọi công tử Ung và Dịch Nha về, rồi đem đất Cốc giao trả nước Tề, mà cùng với Tề giảng hòa ; lại sai người sang Tống, rút quân của Thành đắc Thần về, và báo Thành Đắc Thần rằng :

– Vua nước Tấn lưu lạc ở các nước ngoài mười chín năm trời, nay tuổi ngoại sáu mươi mới về làm vua nước Tấn, từng trải gian hiểm, am hiểu tình dân, chẳng qua cũng là lòng trời xui khiến, để làm cho nước Tấn được cường thịnh, ta khó lòng mà địch nổi, chi bằng ta hãy chịu nhường.

Thành Đắc Thần cậy tài, nghe Sở Thành vương nói lấy làm căm tức bảo các tướng chư hầu rằng :

– Quân ta chẳng bao lâu nữa thì phá vỡ kinh thành nước Tống, can gì mà bỏ ! Đấu Việt Tiêu cũng cho là phải. Thành Đắc Thần sai Đấu Việt Tiêu đến nói với Sở Thành vương rằng :

– Xin chờ lại ít lâu để phá vỡ nước Tống, bấy giờ sẽ rút quân trở về nhược bằng có gặp quân Tấn thì xin cố hết sức để thắng ; nếu đánh không được xin chịu tội chết.

Sở Thành vương sai người gọi Tử Văn đến mả hỏi rằng :

– Ta cho người triệu Thành Đắc Thần về, mà Thành Đắc Thần cố ý xin đánh, nhà ngươi nghĩ thế nào ?

Tử Văn nói :

– Nước Tấn đem quân cứu Tống là muốn làm bá chủ, nhưng Tấn làm bá chủ thì nước Sở không lợi. Nay chỉ có Sở là đối địch nổi với Tấn, nếu Sở nhường Tấn thì Tấn là bá chủ. Vả Tào và Vệ xưa nay vẫn giao hiếu với ta, thấy ta nhường Tấn, thì rồi tất cũng theo Tấn. Bây giờ chúa công hãy cho Thành Đắc Thần đóng quân ở đấy để khiến Tào và Vệ đều được vững lòng, chẳng cũng nên lắm ru ! Nhưng chúa công nên dặn Thành Đắc Thần phải cẩn thận, chớ nên khinh thường mà đánh nhau với Tấn ; nếu bất đắc dĩ thì cùng Tấn giảng hòa để chia nhau nam bắc, còn không đến nỗi mất thể diện.

Sở Thảnh vương theo lời, dặn Đấu Việt Tiêu về bảo Thành Đắc Thần rằng :

– Chớ có khinh thường mả đánh nhau với Tấn, nếu có thể giảng hòa thì nên giảng hòa.

Thành Đắc Thần được Đấu Việt Tiêu truyền lại lời dặn, mừng thầm Sở Thành vương không bắt rút quân ngay, liền ngày đêm đánh Tống rất gấp. Tống Thành công lúc trước thấy công tôn Cố về nói rằng vua Tấn sắp đem quân đi đánh Tào và Vệ để giải vây cho Tống, liền cố sức chống giữ Sau thấy Thành Đắc Thần đánh gấp lắm, cũng có ý lo sợ Quan đại phu là Môn Dân Ban nói với Trung Thành công rằng :

– Vua Tấn chỉ biết đem quân đi đánh Tào và Vệ để cứu Tống, mà không biết rằng quân Sở vẫn đánh Tống gấp như thế này. Tôi xin liều chết trèo qua thành ra mà đến nói với vua Tấn.

Tống Thành công nói :

– Mình cầu người ta đến hai lần, mà chi nói miệng không thì sao cho phải ! Nói xong cho người kê biên những đỗ bảo ngọc trong kho, làm thành sổ sách để đem dâng Tấn Văn công, hẹn khi nào lui được quân Sở rồi thì chiếu theo sổ sách mà đệ nạp. Môn Doãn Ban xin cho một người nữa đi theo. Thành công cho Hoa Tú Lão cùng đi. Hai người từ biệt Tống hầu, rồi trèo qua thành lên ra, tìm đến đại dinh Tấn Văn công Môn Dân Ban và Hoa Tú Lão vào yết kiến Tấn Văn công, khóc mà nói rằng :

– công tôi sai chúng tôi đem nộp quyển sổ có biên những lễ vật nhỏ mọn này đề dâng quý quốc, xin quý quốc thương tình mà đến cứu cho.

Tấn Văn công bảo Tiên Chẩn rằng :

– Việc nước Tống gấp lắm, nếu không đi cứu thì còn chi là Tống, mà nếu đi cứu thì tất phải đánh nhau với Sở. Ngày trước Khước Cực đã bàn với ta rằng :

– “Tất phải hợp sức với Tề và Tần thì mới kiềm chế nổi Sở. Nay Sở giảng hòa với Tề, trả lại đất Cốc cho Tề, còn Tần thì lại không có hiềm khích gì với Sở cả, ta biết làm thế nào ?

Tiên Chẩn nói :

– Tôi có một kế, khiến cho Tề và Tần tự khắc phải đem quân đánh Sở Tấn Văn công mừng lắm, hỏi :

– Nhà ngươi có kế gì mà thần diệu như vậy ?

Tiên Chẩn nói :

– Nước Tống lễ ta, kể cũng là hậu, nhưng ta nhận lễ rồi mới đi cứu thì sao gọi là nghĩa ? Chi bằng ta từ chối đi và bảo Tống đem những đồ lễ vật ấy mà chia biếu Tề và Tần, để Tế và Tần nói hộ với nước Sở. Khi Tề và Tần sai sứ đến nói với Sở mả Sở không theo, bấy giờ tất nhiên Tề và Tần phải sinh lòng hiềm khích với Sở.

Tấn Văn công nói :

– Giả sử Tề và Tần nói mà Sở nghe thì tất Tề và Tần phải bắt Tống thần phục Sở, ta còn ích gì ?

Tiên Chẩn nói :

– Tôi lại có một kế, khiến cho Sở không theo lời Tề và Tần được.

Tấn Văn công nói :

– Kế gì ?

Tiên Chẩn nói :.

– Sở yêu Tào và Vệ mà ghét Tống. Nay ta đã đuổi vua nước Vệ, bắt vua nước Tào thì đất đai hai nước ấy đều ở trong tay ta. Mà hai nước ấy lại tiếp giáp với Tống, vậy nếu ta đem đất đai hai nước ấy mà cho Tống thì Sở lại càng ghét Tống lắm ; Tề và Tần nói hộ, chắc Sở Cũng không nghe nào ! Khi bấy giờ Tề và Tần thương Tống mà giận Sở, tài nào không phải kết liên với nước Tấn ta.

Tấn Văn công vỗ tay khen phải, rồi bảo Môn Doãn Ban kê biên các thứ bảo ngọc, làm thành hai quyển sổ để đem biếu Tề và Tần, sai Môn Doãn Ban đi sứ Tần, Hoa Tú Lão đi sứ Tề, lại dặn hai người cách thương thuyết với Tần và Tề sao cho khẩn thiết.

Hoa Tú Lão đến nước Tề, nói với Tề Chiêu công rằng :

– Tấn và Sở nay đang kình địch với nhau, cái nạn binh đao ấy tất phải nhờ quý quốc mới phân giải được. Nếu quý quốc có lòng giúp cho nước tôi giữ gìn được xã tắc thì là không những không dám tiếc các thứ bảo ngọc của tiên triều mà từ nay trở đi, xin mỗi năm một lần cống hiến, không bao giờ dám thôi.

Tề Chiêu công hỏi rằng :

– Hiện bây giờ vua Sở đóng ở đâu ?

Hoa Tú Lão nói :’ – Vua Sở cúng muốn giải vây chónước tôi, đã rút quân về đóng ở Thân thành rồi, chỉ vì quan lệnh Doãn nước Sở là Thành đắc Thần mới lên cầm quyền chính, muốn lập công mà không chịu rút quân.

Tề Chiêu công nói :

– Vua Sở ngày trước lấy đất Cốc của ta, nay lại giao trả mà cùng ta giảng hòa, vậy thì vua Sở cũng không có ý tham muốn ; còn Thành Đắc Thần không chịu rút quân, để ta sai sứ đến nói giúp cho.

Tề Chiêu công liền sai Thôi Yến sang nước Tống để nói với Thành Đắc Thần.

Môn Dân Ban đến nước Tần, công nói với Tần Mục công như lời Hoa Tú Lão. Tần Mục công công sai công tử Chí đến nói với Thành đắc Thần.

Môn Dân Ban và Hoa Tú Lão lại trở về đại dinh Tấn Văn công.

Tấn Văn công bảo Môn Dân Ban và Hoa Tú Lão rằng :

– Ta đã diệt được nước Tào và nước Vệ, bao nhiêu những ruộng đất tiếp giáp nước Tấn, ta xin để biếu nước Tống.

Nói xong, liền sai Hồ Yến đưa Môn Doãn Ban đi nhận lấy ruộng ở đất nước Vệ, và Tư Thần đưa Hoa Tú Lão đi nhận lấy ruộng ở đất nước Tào. Các quan trấn thủ nước Tào và nước Vệ đều bị đuổi cả. Thôi Yến (sứ nước Tề) và công tử Chí (sứ nước Tần) đang thương thuyết với Thành Đắc Thần xin cho nước Tống được giảng hòa, bỗng thấy các quan trấn thủ nước Tào và nước Vệ kéo nhau đến nói với Thành Đắc thần rằng :

– Quan đại phu nước Tống là Môn Doãn Ban và Hoa Tú Lão cậy thế nước Tấn đem quân sang chiếm lấy ruộng đất của nước chúng tôi.

Thành Đắc Thần nổi giận, bảo Thôi Yến và công tử Chí rằng :

– Người nước Tống ức hiếp nước Tào và nước Vệ như vậy, sao các ngài lại xin cho nước Tống giảng hòa, việc ấy tôi không dám vâng mệnh.

Thôi Yến và công tử Chí chán quá, tức khắc cáo lui về. Tấn Văn công nghe tin Thành Đắc Thần không theo lời Thôi Yến và công tử Chí, liền sai người đón đường mời Thôi Yến và công tử Chí về chốn đại dinh rồi bày tiệc để thết đãi mà phân trần rằng :

– Thành Đắc Thần kiêu ngạo vô lễ, nay sắp sửa giao chiến với nước Tấn tôi, xin hai quý quốc đem quân đến giúp cho.

Thôi Yến và công tử Chí nhận lời, rồi cáo từ về nước. Thành Đắc Thần họp các tướng sĩ lại mà thề rằng :

– Nếu ta không lấy lại được nước Tào và nước Vệ thì dẫu chết cũng không chịu lui quân.

Tướng nước Sở là Uyển Xuân nói với Thành Đắc Thần rằng :

– Tôi có một kế khiến không phái đánh mà tự khắc lấy lại được nước Tào và nước Vệ.

Thành Đắc Thần hỏi :

– Nhà ngươi có kế gì ?

Uyển Xuân nói :

– Nước Tấn đuổi vua Vệ, bắt vua Tào, đều là vì nước Tống cả ; nay nguyên soái nên sai sứ đến nói với vua Tấn xin giảng hòa :

– hễ nước Tấn trả lại đất nước Tào và nước Vệ thì ta cũng giải vây cho nước Tống. Hai bên cùng rút quân trở về, chẳng cũng hay lắm ru ! Thành Đắc Thần nói :

– Giả sử nước Tấn không nghe thì làm thế nào ?

Uyển Xuân nói :

– Nguyên soái nên bảo rõ cho người nước Tống biết ràng ta sắp thương thuyết để giảng hòa với Tấn mà giải vây cho Tống, vì nước Tống đang mong được giải vây, khác nào như một kẻ bị treo ngược mà mong người đến cởi ; nếu vua Tấn không nghe lời thì chẳng những hai nước Tào và Vệ Oán Tấn, mà Tống cũng oán Tấn nữa. Bấy giờ ta họp ba nước oán Tấn mà đánh Tấn thì ta tất phải được.

Thành Đắc Thần nói :

– Nay ai là người dám sang thương thuyết với quân Tấn ?

Uyển Xuân nói :

– Nếu nguyên soái sai tôi thì tôi xin vâng mệnh.

Thành Đắc Thần liền hoãn binh không đánh Tống vội, rồi sai Uyển Xuân sang thương thuyết với Tấn Văn công. Uyển Xuân đến đại dinh quân Tấn, vào nói với Tấn Văn công rằng :

– Kẻ ngoại thần của nhà vua lâu Thành Đắc Thần có lời kính tỏ với nhà vua rằng :

– Tào và Vệ đối với nước Sở tôi, khác nào như Tống đối với quý quốc Nếu quý quốc trả lại đất cho Tào và Vệ thì nước tôi cũng xin giải vây cho Tống, hai bên cùng giảng hòa với nhau để dân chúng khỏi phải lầm than khổ sở.

Uyển Xuân nói chưa dứt lời thì Hồ Yến đứng ở bên cạnh, hầm hầm giận mà mắng rằng :

– Thành Đắc Thần nói vô lý quá ? Định bỏ một nước Tống chưa lấy được mà đòi hai nước (Tào và Vệ) của tấn đã lấy được rồi, thì sao cho phải ! Tiên Chẩn vội vàng giẫm vào chân Hồ Yến để làm hiệu, và nói với Uyển Xuân rằng :

– Kể ra thì tội nước Tào và nước Vệ cộng không đến nỗi đáng phải tuyệt diệt, chúa công tôi vẫn muốn bảo toàn cho. Xin hãy tạm nghi lại ở hậu dinh, để chúa công tôi thương nghị xem nên thế nào cho phải.

Loan Chi liền đưa Uyển Xuân vào nghỉ ở hậu dinh. Hồ Yến hỏi Tiên Chẩn rằng :

– Nguyên soái định nghe lời Uyển Xuân hay sao ?

Tiên Chẩn nói :

– Lời xin của Uyển Xuân không nên nghe mà cũng không nên không nghe.

Hồ Yến nói :

– Tại sao thế ?

Tiên Chẩn nói :

– Uyển Xuân đến đây là bởi mưu kế của Thành Đắc Thần, muốn mua ơn với Tống mà đổ oán cho nước Tấn ta đó. Ta không nghe thì Tào, Vệ và Tống đều oán ta cả, mà ta nghe thì nước Sở được ơn, chi bằng ta giảng hòa riêng với Tào và Vệ, để chia rẽ cánh ấy ra lại bắt giam Uyển Xuân, làm cho Thành Đắc Thần phải tức giận mà đem quân sang đánh ta, tự khắc giải vây được cho nước Tống. Nếu không dùng kế ấy thì tôi e rằng Thành Đắc Thần giảng hòa riêng với Tống, tất nhiên Tống lại về bè với Sở mà bỏ ta.

Tấn Văn công nói với Tiên Chẩn rằng :

– Nguyên soái nghĩ phải lắm ! Nhưng ngày trước ta có chịu ơn vua Sở, mà nay lại bắt giam sứ thần nước Sở thì còn ra thế nào ?

Loan Chi nói :

– Sở ăn cướp nước nhỏ, khinh rẻ nước lớn, đó là một điều sỉ nhục cho trung nguyên. Nay chúa công không muốn làm bá chủ thì thôi, nếu muốn làm bá chủ thì đó cũng là điều sỉ nhục của chúa công. Việc gì mà phải băn khoăn vì một cái ơn riêng nhỏ mọn ! Tấn Văn công khen phải, liền sai Loan Chi bắt giam Uyển Xuân ở đất Ngũ Lộc, giao cho quan trấn thủ ở đấy là Khước Bộ Dương phải coi giữ cẩn thận. Còn bao nhiêu những người theo hầu Uyển Xuân đều đuổi về cả, để chúng truyền lại cho Thành Đắc Thần biết rằng :

– Uyển Xuân vô lễ đã bị nước Tấn bắt giam rồi, đợi khi nào bắt được lệnh doãn, sẽ giết một thể.

Các người theo hầu Uyển Xuân đều len lét cúi đầu chạy về. Tấn Văn công bắt giam Uyển Xuân rồi, lại sai người bảo Tào Cung công rằng :

– Chúa công tôi không phải là vì một điếu hiềm nhỏ ngày xưa mà bẻ lỗi nhà vua đâu, chẳng qua chỉ vì nhà vua thần phục nước Sở đó mà thôi. Nay nhà vua sai người đưa thư sang tuyệt giao với Sở thì chúa công tôi tức khắc trả lại nước Tào cho nhà vua.

Tào Cung công nóng lòng được tha, liền viết ngay một bức thư đưa sang cho Thành Đắc Thần. Thư rằng :

– Tôi sợ rằng xã tắc nước tôi sụp đổ. nhân dân khó tránh cái nạn chết chóc cho nên bất đắc dĩ phải thần phục nước Tấn, mà không thể phụng sự quý quốc được nữa ; nếu quý quốc trừ được nước Tấn, để gia yên cho nước tôi, thì có đâu nước tôi lại dám hai lòng’.

Tấn Văn công lại sai người đến đất Tương Ngưu, hứa với Vệ Thành công nếu tuyệt giao với Sở thì trả lại nước Vệ cho. Vệ Thành công mừng lắm. Quan đại phu nước Vệ là Ninh Du can rằng :

– Đó là cái kế phản gián của nước Tấn, chúa công chớ nên theo.

Vệ Thành công không nghe lời Ninh Du, liền đưa thư cho Thành Đắc Thần, đại ý chừng nói như Tào Cung công. Thành Đắc Thần nghe tin Uyển Xuân bị bắt, thì gào thét mắng chửi ầm ý lên, nói rằng :

– Trùng Nhĩ ? Mảy là một thằng lão tặc, trời đánh không chết ! Khi trước trốn sang nước ta, khác nào như con cá nằm trên mặt thớt, nay về làm vua, lại dám bắt giam sứ thần nước ta, để phen này ta thân hành đến nói rõ cho mày biết.

Thành Đắc Thần đang hầm hầm nổi giận, bỗng có quân báo rằng :

– Nước Tào và nước Vệ có thư đệ trình nguyên soái.

Thành Đắc Thần nghĩ thầm rằng :

– Tào và Vệ đang lúc khốn khổ này, còn có việc gì mà đưa thư cho ta nữa ; hay là có do thám được tình hình nước Tấn mà định bảo riêng ta điều gì chăng, ấy là trời giúp cho ta được thành công đó.

Nói xong, mở thư ra xem, mới biết là thư Tào và Vệ tuyệt giao với Sở lại càng căm tức vô cùng, bèn quát to lên rằng :

– Hai bức thư này chính là đứa lão tặc kia bắt người ta phải viết đây ! Thằng lão tặc ! Thằng lão tặc ! Bây giờ, không phải là mày thì là ta, nhất định trong hai người phải có một người chết ! Đấu Việt Tiêu nói :.

Đại vương đã có dặn nguyên soái không nên đánh nhau với Tấn, nếu nguyên soái muốn đánh, phải tâu với đại vương mới được.

Vả Tề và Tần căm tức nguyên soái không nghe lời giải vây cho Tống, tất nhiên ngày nay đem quân giúp Tấn, vậy thì nước ta dẫu có Trần, Sái, Trịnh và Hứa giúp vào, nhưng địch lại với Tề và Tần sao nổi ?

Nguyên soái nên tâu với đại vương, xin thêm quân rồi sẽ đi đánh.

Thành Đắc Thần nói :

– Nhà ngươi đi hộ ta, nên phải nhanh chóng mới được ! Đấu Việt Tiêu phụng mệnh Thành Đắc Thần đến đất Thân ấp nói với Sở thành vương xin thêm quân. Sở Thành vương nổi giận, nói :

– Ta đã dặn rằng chớ nên khinh thường đánh nhau với Tấn, nay Thành Đắc Thần lại cố xin ra đánh, phỏng có chắc được hay không ?

Đấu Việt Tiêu nói :

– Thành Đắc Thần đã có nói :

– nếu đánh không được, xin chịu tội chết.

Sở Thành vương vẫn không bằng lòng, chỉ sai Đấu Nghi Thân đem bốn nghìn quân giúp Thành Đắc Thần mà thôi.

Con Thành Đắc Thần là Thành Đại Tâm cũng xin đem quân đi đánh, Sở Thành vương thuận cho. Đấu Nghi Thân cùng với Đấu Việt Tiêu đem quân đến nước Tống. Thành đắc Thần trông thấy quân ít, lại càng tức giận nói rằng :

– Dẫu không thêm quân, ta lại không thắng Tấn được à ?

Nói xong, họp quân bốn nước chư hầu cùng đi đánh Tấn. Tấn Văn công họp các tướng lại để thương nghị. Tiên Chẩn nói :

– Nước Sở từ khi đánh Tề vây Tống đến nay, quân sĩ đều đã mỏi mệt cả, ta nên đem quân đánh ngay, chớ để mất cơ hội ấy.

Hồ Yến nói :

– Ngày trước chúa công ở trước mặt vua Sở, đâu có hẹn một câu rằng :

– “Ngày khác gặp nhau ở trung Nguyên thì xin tránh quân Sở ba xá” nếu nay đem quân ra đánh, chẳng hóa ra thất tín với Sở lắm ru ! Các tướng nghe lời Hồ Yến đều không bằng lòng mà nói rằng :

– Chúa công ta là vua một nước, mà phải rút quân tránh một viên tướng nước Sở thì nhục biết dường nào ! Không nên ! Không nên ! Hồ Yến nói :

– Cái ơn của vua nước Sở, ta không nên quên, nay ta rút quân tránh đi, thế nghĩa là tránh nước Sở, chứ không phải tránh Thành Đắc Thần.

Các tướng lại nói :

– Nếu ta lui mà quân Sở đuổi theo thì làm thế nào ?

Hồ Yến nói :

– Nếu ta lui mà quân Sở đuổi theo thì trái tại quân Sở, bấy giờ ta sẽ đánh.

Tấn Văn công nói :

– Hồ Yến nói phải lắm ?

Tấn Văn công truyền lui quân ra ngoài ba xá, đóng ở đất Thành Lộc. Tề Hiếu công sai người con Quyết Ý Trọng là Quắc Quy Phủ làm chánh tướng ; Thôi Yến làm phó tướng ; Tần Mục công cũng sai người con thứ là công tử Mẫn làm chánh tướng, Kiến Bính làm phó tướng, cùng đem quân sang đất Thành Bộc để giúp Tấn đánh Sở. Tống Thành công thấy quân Sở giải vây rồi, cũng sai quan tư mã là công tôn Cố sang tạ Ơn Tấn Văn công và giúp việc đánh Sở.

Quân Sở thấy quân Tấn lui ra ngoài ba xá, đều có ý mừng rỡ.

Đấu Bột nói :

– Vua Tấn đã chịu rút quân tránh chúng ta thì cũng vẻ vang cho ta lắm rồi, chi bằng ta nhân thế mà thu quân về, dẫu không công cũng được khỏi tội Thành Đắc Thần nói :

– Ta đã xin thêm quân, nếu không đánh một trận, còn ra thế nào ! Nay quân Tấn lui về là có ý nhát sợ, ta nên mau mau đuổi theo mới được.

Các tướng nước Tấn nói với Tiên Chẩn rằng :

– Quân Sở ngắm xem địa thế để lập đồn trại, lả có ý muốn thủ hiểm, ta nên đem quân đánh ngay.

Tiên Chẩn nói :

– Thành Đắc Thần đến đây là muốn cùng quân ta giao chiến, chứ không phải muốn thủ hiểm đâu.

Tấn Văn công cũng có ý nghi ngờ, không muốn đánh nhau với Sở Hồ Yến nói ?

Sự thế ngày nay, ta đánh Sở mà thắng thì làm được bá chủ chư hầu. Nếu đánh không thắng thì ta rút quân về mà giữ thế thủ, nước Sở cũng chẳng làm gì ta nổi.

Tấn Văn công cũng chưa kiên quyết, đêm hôm ấy nằm mộng thấy hình như trong khi mình còn đi trốn, đang ở nước Sở, cùng với vua nước Sở đùa bỡn đánh tay nhau, nhưng yếu sức bị thua, ngã ngửa xuống dưới đất ; vua Sở nằm đè lên trên mình, đánh vào đầu chảy cả óc rồi hút lấy óc, đến lúc tỉnh dậy, lấy làm sợ lắm. Bấy giờ Hồ Yến cùng ngủ ở trong màn, Tấn Văn công gọi dậy, kể chuyện cho nghe và bảo rằng :

– Cứ như cái mộng này thì ta đánh Sở không được, ta bị Sở hút lấy óc, chắc là điềm xấu.

Hồ Yến nghe nói, liền chúc mừng rằng :

– Đó là cái điềm rất tốt ! Chúa công tất đánh được quân Sở.

Tấn Văn công nói :

– Sao lại bảo là rất tốt ?

Hồ Yến nói :

– Chúa công nằm ngửa thì được ánh sáng mặt trời chiếu vào ; vua Sở nằm trên mình, nghĩa là phục xuống đất mà chịu tội. Óc là một vật mềm nhũn, vua Sở hút óc chúa công, nghĩa là phải mềm nhũn mà thần phục chúa công đó, xem thế thì tất chúa công đánh được quân Sở.

Tấn Văn công nghe nói, không nghi ngờ gì nữa. Trời vừa sáng, quân lại vào báo rằng nước Sở cho người đến hạ chiến thư. Tấn Văn công mở xem. Thư rằng :

– Quân Sở tôi muốn cùng với quân Tấn làm trò, xin nhà vua ở trên xe mà xem. Thành Đắc Thần nay cũng được ghé mắt một chút Hồ Yến nói :

– Chinh chiến là một việc quan hệ mà dám nói là làm trò, kẻ kia không cẩn trọng như vậy thì tài nào mà khỏi thua.

Tấn Văn công sai Loan Chi viết thư đáp lại. Thư rằng :

– Tôi còn nhớ ơn vua nước Sở, bởi vậy phải rút quân lui ba xá, không dám cùng với nguyên soái đối địch ; nay nguyên soái muốn xem quân hai bên, có đâu tôi lại không vâng lời. Sáng ngày mai xin ra tiếp kiến.

Sứ nước Sở về rồi, Tiên Chẩn điểm duyệt quân sĩ cả thảy hơn năm vạn người, ấy là chưa kể đến quân Tề và quân Tần đến giúp. Tấn Văn công trèo lên gò cao đứng xem trông thấy quân sĩ tiến thoái rất có thứ tự bằng lòng mà khen rằng :

– Đó là theo phép của Khước Cốc ngày xưa. Như thế có thể đối địch với quân Sở được.

Nói xong, liền sai đốn cây ở trên rừng xuống để làm các thứ chiến cụ. Tiên Chẩn truyền lệnh cho các hàng tướng sĩ :

– Hồ Mao và Hồ Yến đem toán thượng quân, cùng với phó tướng nước Tần là Kiến Bính tiến vào tả đội quân Sở, giao chiến với Đấu Nghi Thân ; Loan Chi và Tư Thần đem toán hạ quân, cùng với phó tướng nước Tề là Thôi Yến, tiến vào hữu đội quân Sở, giao chiến với Đấu Bột. Tiên Chẩn đã dặn bảo các tướng đủ các mưu kế ; còn mình thì cùng với Khước Tần và Kỳ Mãn đem toán trung quân để đối địch với Thành Đắc Thần. Tiên Chẩn lại sai Thân Lâm Phủ và Sĩ Hội, mỗi người đem năm nghìn quân, chia làm hai cánh để phòng khi tiếp ứng ; lại sai Quốc Quý Phủ (chánh tướng nước Tề) và công tử Mẫu (chánh tướng nước Tấn) đem quân đi phục sẵn ở phía sau quân Sở, để đợi khi quân Sở thua chạy thì xông vào mà chiếm cứ lấy đồn trại. Bấy giờ Ngụy Thù đã khỏi vết thương ở ngực rồi, tình nguyện xin làm tiên phong.

Tiên Chẩn nói :

– Tôi đã sẵn có ý định nhờ lão tướng quân một việc :

– Từ đây đi về phía nam, đến đất Không Tang, là chỗ tiếp giáp với nước Sở, lão tướng quân nên đem quân phục sẵn ở đấy, đợi khi quân Sở thua chạy trở về thì đổ ra mà bắt.

Ngụy Thù mừng rỡ, vâng mệnh đi ngay. Bọn Triệu Thôi cùng với các quan văn vũ theo Tấn Vãn công lên đứng ở trên núi để xem trận. Tấn Văn công lại sai Chu Chi Kiểu sửa soạn thuyền bè sẵn ở sông Nam Hà để đợi khi lấy được các xe lương thực của nước Sở thì vận tải đem về.

Sáng sớm hôm sau, quân Tấn cùng với quân Sở đều bày trận ở dưới chân núi Hữu Sản. Loan Chi nghe tin hữu đội nước Sở dùng quân Trần và quân Sái làm tiên phong, thì mừng thầm mà nói :

– Khi trước nguyên soái đã mật bảo ta rằng quân Trần và quân Sái nhút nhát mà dễ loạn ; ta đánh tan quân .Trần và quân Sái thì tự khắc hữu đội nước Sở phải thua.

Loan Chi sai Kiến Bính ra đánh. Viên Tuyển nước Trần và công tử An nước Sái tranh nhau lập công, xin với Đấu Bột để ra nghênh chiến. Chưa kịp nghênh chiến thì bỗng thấy quân Tấn kéo lui, Viên Tuyển và công tử An giục quân đuổi theo. Đuổi được một quãng, nghe có pháo nổ, quân mai phục của Tư Thần đổ ra đón đánh. Ngựa kéo xe của quân Tư Thần đều đội lốt da hổ cả. Ngựa nước Sở trông thấy, ngỡ là hổ thật, sợ hãi lồng chạy, xông cả vào hữu đội quân Sở, không gì có thể kìm hãm được nữa, thành ra quân Sở bị chết hại không biết bao nhiêu mà kể.

Loan Chi liền sai quân sĩ, giả làm quân Trần, cầm cờ hiệu nước Trần và nước Sái chạy đến phi báo với Thành Đắc Thần, nói hữu đội quân Sở đã thắng trận rồi, nên mu mau tiến binh, để đuổi quân Tấn. Thành Đắc Thần đứng trên xe trông thấy quân Tấn chạy toán loạn, cát bụi bay mù cả trời, không biết đó là kế của quân Tấn, mừng mà nói rằng :

– Toán hạ quân của Tấn đã thua thật rồi ! Thành đắc Thần bèn truyền lệnh cho tả đội tiến binh. Đấu Nghi Thân trông thấy lá cờ đại của quân Tấn bay phấp phới, liền xông lại đánh Hỗ Yến đem quân ra nghênh chiến. Đánh được mấy hợp, bỗng thấy đằng sau quân Tấn đại loạn, Hồ Yến vội vàng bỏ chạy ; lá cờ đại cũng thấy rút lui về phía sau. Đấu Nghi Thân ngỡ là quân Tấn tan vỡ, vội vàng giục tướng nước Trịnh và tướng nước Hứa, cùng nhau đuổi theo. Đuổi được một quãng, bỗng nghe tiếng trống vang lừng, Tiên Chẩn và Khước Tần đem quân đổ ra đánh chặn ngang, cắt đứt quân Sở ra làm hai đoạn. Hồ Mao, Hồ Yến đang chạy, cũng quay lại, hai bên đánh thốc vào. Quân Trịnh và quân Hứa sợ hãi bỏ chạy, Đấu Nghi Thân không sao cản lại được nữa, lại gặp tướng nước Tề là Thôi Yến đem quân đến đánh, Đấu Nghi Thân bỏ cả khí giới, lẩn mình trong đám bộ binh trườn vào trong núi mà trốn.

Nguyên toán hạ quân của nước Tấn giả cách thua chạy, cát bụi mù trời, là vì Loan Chi đâ cho đốn các cây ở trên núi buộc vào sau xe mà kéo lê đi, Hồ Mao lại sai cho dựng cột cờ đại lên xe rồi kéo mà chạy, cố làm ra vẻ loạn quân, đó đều là mưu Tiên Chẩn đã định sẵn từ trước để lừa quân Sở. Thành Đắc Thần chưa biết là trúng kế, vẫn tưởng tả đội và hữu đội đều thắng trận cả, lại sai con trai là Thành Đại Tâm đem quân ra tiếp chiến. Kỳ Man khi trước vâng mệnh Tiên Chẩn, chỉ giữ vững trận thế, không chịu đem quân ra đánh, bấy giờ thấy quân Sở nổi trống ra trận, Kỳ Man không thể nhịn được, sai người đi dò xem tướng nước Sở là ai. Quân sĩ về báo rằng :

– Tướng nước Sở mới mười lăm tuổi.

Kỳ Man nói :

– Một đứa trẻ con như vậy còn có võ nghệ gì ! Ta quyết đem quân bắt sống.

Nói xong, tức khắc truyền nổi trống đem quân trận, cùng với Thành Đại Tâm giao chiến, đánh nhau hơn hai mươi hợp, chưa phân được thua. Đấu Việt Tiêu trông thấy Thành Đại Tâm đánh mãi không được, liền đứng ở trên xe, giương cung bắn một phát tên, trúng ngay vào dải mũ Kỳ Man. Kỳ Man giật mình kinh sợ, vội vàng lui về, nhưng e náo động đại quân, phải vòng quanh ra phía sau trận mà trốn chạy. Đấu Việt Tiêu quát to lên rằng :

– Viên tướng thua chạy ấy không cần đuổi làm chi, phải mau mau đánh vào trong quân để bắt lấy nguyên soái nước Tấn là Tiên Chẩn !

Chương 41: Thành Đắc Thần rút gươm tự tử – Tấn Văn công phụng mệnh đăng đàn

Tướng nước Sở là Đấu Việt Tiêu cùng với Thành Đại Tâm không đuổi theo Kỳ Man, liền tiến binh xông vào đại quân nước Tấn.

Bỗng có hai toán quân Tấn đến tiếp ứng :

– Tuân Lâm Phủ đón đánh Đấu Việt Tiêu, Tiên Miệt đón đánh Thành Đại Tâm. Thành đắc Thần cầm cờ vẫy quân tiến vào, hăng hái mà reo rầm lên, nói :

– Ngày nay quyết không để cho quân Tấn còn một mống nào sống sót ! Nói chưa dứt lời thì bỗng thấy Tiên Chẩn kéo đại binh đến, bấy giờ Thành Đắc Thần mới biết là tả đội vả hữu đội quân Sờ đã tan vỡ cả rồi, toan thu quân trở lại, nhưng không kịp nữa, bị quân Tấn vây kín cả xung quanh. Thành Đại Tâm ra sức phá vỡ vòng vây, Thành Đại Tâm không thấy Đấu Việt Tiêu đâu cả, lại quay vào tìm ; chẳng ngờ Đấu Việt Tiêu đang xung đột ở trong đám quân Tấn để tìm cứu cha con Thành Đắc Thần, khi gặp được Thành Đại Tâm, mới biết là Thành Đắc Thần đã ra khỏi, liền cùng phá vòng vây chạy trốn.

Tấn Văn công đứng ở trên núi, thấy quân Tấn đã toàn thắng, sai người bảo Tiên Chẩn hạ lệnh cho quân sĩ chỉ đuổi quân Sở ra khỏi địa giới nước Tống và nước Vệ là được, không nên đuổi nữa, và cũng không được giết hại nhiều người, để đến nỗi tổn thương tình hòa hiếu hai nước và phụ Ơn vua nước Sở ngày trước. Tiên Chẩn truyền thu quân về, không đuổi theo quân Sở nữa ; còn Kỳ Man khi trước dám trái lệnh ra đánh cũng truyền bắt giam để trị tội.

Trần, Sái, Trịnh và Hứa thấy hao binh tổn tướng nhiều lắm đều bỏ trốn về nước cả. Thành Đắc Thần cùng với Thành Đại Tâm và Đấu Việt Tiêu ra khỏi vòng vây, đem nhau về bản trại. Bỗng gặp quân sĩ bảo rằng :

– Đồn trại của ta, đã trông thấy cờ hiệu Tề và Tấn cắm đặc cả rồi ! Nguyên Quốc Quy Phủ (tướng nước Tề) và công tử Mẫn (tướng nước Tấn) nhân khi quân Sở bị vây, vào chiếm cứ lấy đồn trại của quân Sở, bao nhiêu lương thực thu hết cả. Thành Đắc Thần không dám đi qua, phải quặt ra đằng sau núi,men theo sông Như Thủy mà đi Đấu Nghi Thân và Đấu Bột cũng đem tàn quân chạy theo. Đi đến đất Không Tang, bỗng nghe mấy tiếng pháo nổ, có một toán quân chặn ngang đường, trên lá cờ tướng đề một chữ “Ngụy”.

Nguyên xưa Ngụy Thù khi ở nước Sở, đã từng một mình đánh nổi con mạc thú, người nước Sở ai cũng phục là thần dũng, bấy giờ quân Sở trông thấy Ngụy Thù đều kinh sợ chẳng còn hồn vía nào cả.

Đấu Việt Tiêu bảo Thành Đại Tâm phò tá lấy nguyên soái là Thành Đắc Thần, rồi một mình cố sức, xông lại đánh nhau với Ngụy Thù.

Đấu Nghi Thân và Đấu Bột bất đắc dĩ cũng phải xông vào đánh giúp. Ba tướng nước Sở cùng nhau đánh với Ngụy Thù mà không địch nổi.

Bỗng có một người phi ngựa ở phía bắc đi đến, quát to lên mà bảo Ngụy Thù rằng :

– Nguyên soái vâng mệnh chúa công truyền phải bãi chiến, tha cho các tướng bên Sở được sống mà về nước, để báo lại cái ơn vua Sở biết trọng đãi ta trong khi còn đi trốn ?

Ngụy Thù nghe lệnh, liền dừng tay không đánh nữa, lại bảo quân sĩ đứng tránh ra hai bên, để cho các tướng nước Sở chạy được thoát. Bọn Thành Đắc Thần cắm đầu đi thẳng. Đi đến đất Liên Cốc, Thành Đắc Thần điểm duyệt tướng sĩ thấy chết hại rất nhiều, thì than van khóc lóc mà nói rằng :

– Ta muốn lảm cho nổi uy danh nước Sở, chẳng ngờ lại mắc phải mưu nước Tấn, đến nỗi thua quân, thật là tội đáng chết lắm ! Nói xong, liền cùng với Đấu Nghi Thân và Đấu Bột đều ở lại đất Liên Cốc, mà sai con là Thành Đại Tâm đến Thân Thành yết kiến Sở Thành vương để xin chịu tội chết. Sở Thành vương nổi giận mà mắng rằng :

– Cha mày khi trước đã có nói :

– Nếu không đánh được quân Tấn thì xin chịu tội chết”, nay còn kêu ca gì nữa ?

Thành Đại Tâm sụp lạy mà nói rằng :

– Cha tôi biết tội đã nhiều, toan liều mình tự tử, nhưng tôi cố ngăn lại, muốn để đại vương trị tội, khiến cho phép nước được nghiêm minh.

Sở Thành vương nói :

– Phép nước Sở xưa nay, ai đánh giặc bị thua, cũng phải chết cả, các tướng nên liệu mà tự xử, chớ để làm bẩn lưỡi gươm của ta.

Thành Đại Tâm thấy Sở Thành vương không có ý thương xót, thì khóc lóc mà lui ra, trở về báo cho Thành Đắc Thần biết. Thành Đắc Thần than rằng :

– Giả sử vua Sở có tha cho ta, thì ta cũng chẳng còn mặt mũi nào mà trông thấy phụ lão ở đất Thân và đất Tức nữa ?

Nói xong, liền ngảnh mặt về phía bắc lạy hai lạy, rồi tuốt gươm ra tự vẫn mà chết.

Vi Giả nghe tin Thành đắc Thần bị thua, hỏi cha là Vi Lô Thần rằng :

– Nghe nói quan lệnh doãn bị thua, chẳng hay có thực hay không ?

Vi Lã Thần nói :

– Thực đấy ?

vi Giả nói :

– Chẳng hay đại vương xử trí ra thế nào ?

Vi Lã Thần nói :

– Thành Đắc Thần và các tướng đều xin chịu tội chết, đại vương chẳng động lòng thương.

Vi Giả nói :

– Thành Đắc Thần là người ngang ngạnh mà kiêu ngạo, không thể nắm quyền hành một mình được, nhưng nếu được một người trí mưu giúp vào, thì có thể lập công. Nay dẫu bị thua nhưng ngày khác báo thù được nước Tấn, tất là Thành Đắc Thần, phụ thân nên can đại vương để mà giữ người ấy lại.

Vi Lã Thần nói :

– Nay đại vương đang tức giận, nói cũng vô ích.

Vi Giả nói :

– Phụ thân không nhớ lời nói của người thầy đồng ở Phạm ấp tên là Quật Tự hay sao ?

Vi Lã Thần nói :

– Con thử thuật lại cho cha nghe.

Vi Giả nói :

– Quật Tự là người tài xem tướng lắm. Lúc đại vương ta còn làm thái tử, Quật Tự có nói :

– Đại vương cùng với Thành Đắc Thần và Đấu Nghi Thân, ba người này sau đều bất đắc kỳ tử. Đại vương nhớ lời ấy, khi lên làm vua, ban cho Thần Đắc Thành và Đấu Nghi Thân mỗi người một cái miễn tử bài, cất để làm cho lời nói của Quật Tự không ứng nghiệm được nữa. Vì đại vương đang khi tức giận, nên không nhớ ra, nếu phụ thân nhắc đến thì thế nào đại vương cũng tha tội cho hai người ấy.

Vỉ Lã Thần tức khắc vào tâu với Sở Thành vương rằng :

– Thành Đắc Thần tội dẫu đáng chết, nhưng khi trước đây được đại vương ban cho một cái miễn tử bài, vì vậy, tôi thiết tưởng đại vương cũng nên xá tội cho y.

Sở Thành vương ngạc nhiên mà rằng :

– Phải chăng là câu chuyện của Quật Tự ngày trước ? Nếu nhà ngươi không nhắc, thì ta quên hẳn đi mất ! Sở Thành vương sai quan đại phu là Phan Uổng cùng với Thành Đại Tâm tức khắc truyền mệnh cho các tướng đều khỏi tội chết Khi Phan Uổng và Thành Đại Tâm đi đến Liên Các thì Thành Đắc Thần chết đâm nửa ngày rồi. Đấu Nghi Thân đã thắt cổ treo lên xà nhà, nhưng thân thể to lớn, đứt dây rơi xuống lại vừa gặp có lệnh miễn tử đến, thành ra khỏi chết. Đấu Bột thì còn có ý chờ chôn cất xong Thành Đắc Thần và Đấu Nghi Thân, rồi mới tự tử, bởi vậy cũng khỏi chết. Thành Đại Tâm ở lại Liên Cốc để khâm liệm cho cha, còn bọn Đấu Nghi Thân, Đấu Bột và Đấu Việt Tiêu thì theo Phan Uổng về Thân Thành vào lạy tạ Sở Thành vương. Sở Thành vương thấy nói Thành Đắc Thần đã tự tử rồi, thì thương xót vô cùng, rồi truyền thu quân trở về kinh đô nước Sở, cho Vi Lã Thần lên làm lệnh doãn, truất Đấu Nghi Thân ra trấn thủ Thương ấp, và Đấu Bột ra trấn thủ ở Tương thành.

Sở Thành vương lại nghĩ thương Thành Đắc Thần, cho con là Thành Đại Tâm và Thành Gia đều làm quan đại phu. Quan nguyên lệnh doãn nước Sở là Tử Văn, bấy giờ đã trí sĩ về ở nhà, nghe tin Thành Đắc Thần bị thua, thở dài mà than rằng :

– Quả như lời nói của Vi Giả ngày trước ! Kiến thức của ta, lại không bằng một đứa trẻ con, chẳng cũng xấu hổ lắm ru ! Nói xong, hộc máu mấy thăng, nằm gục xuống giường không dậy được nữa, rồi gọi con là Đấu Ban đến mà dặn rằng :

– Cha gần đến lúc chết, dặn lại con một câu này :

– Chú con là Đấu Việt Tiêu, từ khi mới sinh ra, đã có hình dáng như con hùm con gấu, tiếng kêu như giống sài lang, đó là cái tướng diệt tộc ; bấy giờ ta đây nói với ông mày không nên nuôi, ông mày không nghe. Nay Vỉ Lã Thần chắc là không thọ, Đấu Bột và Đấu Nghi Thân cũng khó lòng mà được toàn tính mệnh, sau này làm lệnh doãn nước Sở, không phải là mày thì tất là Việt Tiêu, Việt Tiêu là người tàn ác, được cầm quyền hành, tất sinh lòng phản nghịch, dòng dõi họ Đấu ta không khéo thì đến nỗi tuyệt tự. Khi ta đã chết rồi, nếu Việt Tiêu lên làm lệnh doãn thì mày nên trốn đi, kẻo mắc phải tai vạ đấy ! Đấu Ban sụp lạy xin vâng lời dạy. Tử Văn nói xong thì chết.

Chẳng được bao lâu, Vi Lã Thần cũng chết. Sở Thành vương nghĩ đến cái công Tử Văn bèn cho Đấu Ban lên làm lệnh doãn, lại đem Đấu Việt Tiêu làm quan tư mã và Vi Giả làm quan công chính.

Tấn Văn công từ khi đánh được Thành Đắc Thần, tiến quân vào đóng ở trong đồn trại quân Sở. Quân Sở bỏ lại lương thực nhiều lắm, quân Tấn lấy ra để ăn, lại nói đùa với nhau rằng :

– Thế này mới thật là người nước Sở mời ta đến ở, lại thết đãi ta đấy ! Các tướng nước Tề và nước Tần đều vào chúc mừng Tấn Văn công Tấn Văn công từ tạ không dám nhận lời chúc mừng mà nét mặt lại sắc buồn rầu. Các tướng nói :

– Nhà vua đánh được giặc mà sao lại có ý không vui ?

Tấn Văn công nói :

– Thành Đắc Thần vốn là người không chịu thua ai, ta dẫu thắng trận, phỏng đã chắc gì, bởi vậy ta có ý lo sợ.

Bọn Quắc Quy Phủ (tướng nước Tề) và công tử Mẫn (tướng nước Tần) đều cáo từ xin về. Tấn Văn công đem một nửa những đồ lấy được của nước Sở, đưa tặng nước Tề và nước Tần. Tướng nước Tắng là công tôn Cố cũng cáo từ về nước. Tiên Chẩn cho áp giải Kỳ Man đến trước mặt Tấn Văn công rồi kể tội trái lệnh, gây mối nguy hại cho ba quân.

Tấn Văn công nói :

– Nhà ngươi trái lệnh nguyên soái như thế, nếu không có thượng quân và hạ quân đã đánh được quân Sở từ trước thì còn chống lại sao nổi ?

Tấn Văn công sai quan tư mã là Triệu Thôi định tội rồi chém đầu Kỳ Man để hiệu lệnh cho các quân sĩ :

– Từ nay trở đi, ai dám trái lệnh quan nguyên soái thì trông gương vào đãy !” Quân sĩ thấy vậy, càng biết sợ uy. Tấn Văn công đóng ở Hữu Sẵn ba ngày, rồi thu quân về nước. Đi đến sông Nam Hà quân sĩ báo rằng :

– Dưới sông chưa thấy sửa soạn thuyền bè gì cả.

Tấn Văn công sai người triệu Chu Chi Kiều vốn là tướng nước Quắc, khi trước đầu hàng, về làm tôi nước Tấn. Đến lúc Tấn Văn công đánh Sở, Chu Chi Kiều theo đi, vẫn có ý muốn lập công ; nhưng Tấn Văn công lại sai đi sửa soạn thuyền bè chực sẵn ở sông Nam Hà, để đợi đánh xong quân Sở thì về đấy. Bởi vậy Chu Chi Kiều không bằng lòng, nhân lại vừa tiếp được tin vợ Ở nhà ốm nặng, Chu Chi Kiều bèn nghĩ rằng quân Tấn đánh nhau với Sở, tất còn lâu ngày, liền lẻn về thăm vợ, ai ngờ mới được sáu ngày Tấn Văn công đã đánh xong quân Sở thu quân trở về rồi.

Tấn Văn công không thấy Chu Chi Kiều, tức thì nổi giận, sai quân đi bắt thuyền của dân. Tiên Chẩn nói :

– Dân ở xứ Nam Hà này, nghe tin ta đánh được quân Sở, ai không sợ hãi, nếu ta sai quân sĩ đi bắt thuyền, tất nhiên họ bỏ mà trốn cả, chi bằng ta hạ lệnh thuê thuyền là tiện hơn cả.

Tấn Văn công khen phải, rồi sai quân sĩ đi thuê thuyền. Được một lúc, thuyền đâu kéo đến, không biết bao nhiêu mà kể để đưa đại binh qua sông. Tấn Văn công bảo Triệu Thôi rằng :

– Ta đã báo thù được nước Tào và nước Vệ rồi, chỉ còn nước Trịnh là chưa báo được, nên nghĩ thế nào ?

Triệu Thồi nói :

– Chúa công kéo quân qua nước Trịnh thì tự khắc nước Trịnh phải xin thần phục.

Tấn Vãn công nghe lời. Đi trong mấy ngày nữa, bỗng gặp một đoàn xe ngựa, rước một vị quý nhân từ phía đông kéo đến. Tướng đi tiền đội của quân Tấn là Loan Chi ngăn lại mà hỏi rằng :

– Quân nào ?

Vị quý nhân ấy đáp rằng :

– Ta đây là vương tử Hồ, làm quan khanh sĩ nhà Chu, Thiên tử nhà Chu nghe tin vua Tấn đánh được quân Sở, để giữ yên Trung quốc, muốn thân hành đến khao thưởng quân sĩ, vậy có sai ta đi báo trước cho biết.

Loan Chi tức khắc đưa vương tử Hổ lại yết kiến Tấn Văn công.

Tấn Văn công hỏi các tướng rằng :

– Nay thiên tử muốn thân hành đến để khao thường quân ta, vậy ở nơi đường sá lễ nghi nên thế nào ?

Triệu Thôi nói :

– Từ đây sang Hành Ung cũng gần, ở đấy có một nơi gọi là Tiễn Thổ đất phẳng mà rộng, ta nên nhật dạ khởi công để dựng lên hành cung nhà vua ở đấy rồi chúa công đem các vua chư hầu đi đón thiên tử đến ngự tại đấy, để cùng nhau làm lễ triều kiến, cho khỏi trái đạo vua tôi.

Tấn Văn công liền hẹn với vương tử Hổ, định đến ngày mồng một tháng năm thì đón thiên tử sang đất Tiễn Thổ. Vương tử Hổ cáo từ trở về. Đại binh nước Tấn thẳng đường keo sang Hành Ung. Đi được một quãng lại gặp một đoàn xe ngựa đi đầu là sứ thần nước Trịnh, tên là Tử Nhân Cửu. Nguyên Trịnh Văn công sợ quân Tấn đến hỏi tội, mới sai Tử Nhân Cửu đi xin giảng hòa. Tấn Văn công nổi giận, nói :

– Nước Trịnh nghe tin quân Sở thua, rồi mới chịu xin giảng hòa thì không phải là thực lòng, chờ khi ta nếu kiến thiên tử xong, bấy giờ sẽ đem quân đến tận dưới thành để nói chuyện.

Triệu Thôi nói :

– Từ khi ta cử binh đến nay, đuổi vua Vệ, bắt vua Tào, lại phá được quân Sở, uy danh đã lừng lẫy lắm rồi nếu lại còn đánh nước Trịnh nữa, thì quân sĩ mệt nhọc quá, xin chúa công cứ cho giảng hòa, nếu nước Trịnh còn có lòng khác thì ta nghỉ quân mấy tháng, rồi sẽ sang đánh, cũng chưa lấy gì làm chậm.

Tấn Văn công bèn cho nước Trịnh giảng hòa Đại binh kéo đến Hành Ung. Một mặt Văn công sai Hỗ Mao và hồ Yến đem quân bản bộ đến đất Tiễn Thổ để dựng hành cung, một mặt sai Loan Chi vào kinh thành nước Trịnh để cùng với Trịnh Văn công hội thề Trịnh Văn công lại thân hành đến Hành Ung để tạ Ơn Tấn Văn công đã cho giảng hòa. Tấn Văn công cùng với Trịnh Văn công nói chuyện rất là vui vẻ Trong khi nói chuyện, Tấn Văn công khen Thành Đắc Thần nước Sở là người vũ dũng. Trịnh Văn công nói :

– Thành Đắc Thần nay đã tự tử ở đất Liên Cốc rồi ! Tấn Văn công. thở dài thương tiếc. Khi Trịnh Văn công lui ra rồi, Tấn Văn công nói riêng với các tướng rằng :

– Ngày nay ta được nước Trịnh thần phục, cũng chẳng lấy gì làm mừng, chi mừng rằng nước Sở đã mất Thành Đắc Thần mà thôi.

Thành đắc Thần đã chết rồi, thì những người khác, ta chẳng lo ngại gì nữa, các người có thể nằm yên được ! Hồ Mao và Hỗ Yến ra sức hơn một tháng trời, mới dựng xong vương cung, Tấn Văn công truyền hịch đi các nước chư hầu, hẹn đến mồng một tháng năm phải có đủ mặt ở đất Tiễn Thổ. Lúc bấy giờ, Trung Thành công (Vương thần) Tề Chiêu công (Phan) là những nước giao hiếu từ trước, Trịnh Văn công (Tiệp) là một nước mới quy phụ là những nước đầu tiên đến dự hội. Còn như Lỗ Hi công (Thân) Trần Mục công (Khoản), Sái Trang công (Giáp Ngọ) đều là về cánh nước Sở, nhưng sợ uy nước Tấn, cũng phải đến dự hội. Châu và Cử là nước nhỏ, chẳng kể làm chi, chỉ có Hứa Hi công (Nghiệp) thần phục nước Sở đã lâu không muốn theo Tấn ; Tần Mục công (Nhâm Hiếu) dẫu có giao hiếu với Tấn, nhưng xưa nay chưa dự hội với trung quốc bao giờ, vậy cũng ngần ngại không đến. Vệ Thành công (Trịnh), trước tránh ra Tương Ngưu , Tào Cung công (Tượng) hiện còn giam ở Ngũ Lộc, Tấn Văn công đã hẹn trả lại nước cho, nhưng chưa nói rõ, bởi vậy cũng không được dự hội. Vệ Thành công nghe Tấn Văn công sắp họp chư hầu, bèn bảo Ninh Du rằng :

– Vua Tấn hội chư hầu mà không nói gì đến nước Vệ ta, thế thì nước Tấn còn căm tức ta lắm, có lẽ ta phải trốn đi nước khác.

Ninh Du nói :

– Nay chúa công chỉ nghĩ một đường trốn đi mà thôi thì sau này ai là người giúp cho chúa công được trở về nước, chi bằng chúa công nhường ngôi cho Thúc Vũ, lại sai Nguyên Huyến đưa Thúc Vũ đến Tiễn Thổ để xin dự hội. Nếu lòng trời còn tựa nước Vệ mà Thúc Vũ được dự hội thì Thúc Vũ được giữ ngôi nước Vệ, cũng như chúa công giữ ngôi chứ sao. Huống chi Thúc Vũ vốn là người hiếu hữu, tất chẳng nỡ mà trả lại ngôi cho chúa công.

Vệ Thành công dẫu trong lòng không muốn, nhưng đã đến nước ấy cũng không làm thế nào được, liền sai Tôn Viêm phụng mệnh nhường ngôi cho Thúc Vũ, theo như lời của Ninh Du. Tôn Viêm phụng mệnh đi sang Sở Khâu để nói với Thúc Vũ, Vệ Thành công lại hỏi Ninh Du rằng :

– Nay ta nên trốn sang nước nào ?

Ninh Du còn ngần ngừ chưa trả lời. Vệ Thành công nói :

– Có nên sang nước Sở không ?

Ninh Du nói :

– Nước Sở nay đang là một nước cừu địch với nước Tấn. Và khi trước ta đây đưa thư tuyệt giao với Sở, bây giờ còn sang làm gì, chi bằng ta sang nước Trần. Nước Trần sắp sửa thần phục nước Tấn, ta lại có thể nhờ nước Trần mà giao thiệp với nước Tấn được.

Vệ Thành công nói :

– Đưa thư tuyệt giao, không phải tự ý ta, điều ấy hẳn nước Sở cũng biết. Vả nước Tấn và nước Sở sau này đối đãi với nhau như thế nào cũng chưa biết được, Thúc Vũ theo Tấn mà ta theo Sở thì có phải lại giữ được cả hai bên không ?

Vệ Thành công bèn đi sang Sở. Những người nước Sở ở biên giới trông thấy Vệ Thành công, đều đuổi theo mà mắng nhiếc. Vệ Thành công bất đắc dĩ lại phải quay sang nước Trần, và phục Ninh Du là người cao kiến.

Tôn Viêm phụng mệnh Vệ Thành công đến báo Thúc Vũ. Thúc Vũ nói :

– Tôi xin quyền giữ lấy nước mà thôi, dẫu chúa công nhường ngôi, lẽ đâu tôi dám nhận..

Nói xong, liền cùng với Nguyên Huyền đến đất Tiễn Thổ để hội với các nước chư hầu, rồi lại sai Tôn Viêm về nói lại cho Vệ Thành công biết rằng khi sang đến Tiễn Thổ thì thế nào cũng vì Vệ Thành công mà xin Tấn phục quốc cho. Nguyên Huyền nói :

– Chúa công ta rất đa nghi, ta không sai con theo sang thì sao cho chúa công tin được ?

Nguyên Huyền liền sai con là Nguyên Dốc đi theo Tôn Viêm.

Công tử Chuyên Khuyển bảo riêng với Nguyên Huyền rằng :

– Chúa công chắc hẳn không trở về được, sao nhà ngươi không đem việc chúa công nhường ngôi mà công bố cho người trong nước biết rồi tôn lập Thúc Vũ lên làm vua, nhà ngươi làm tướng ? Tất nhiên vua Tấn cũng bằng lòng, bấy giờ nhà ngươi nhờ uy nước Tấn thì sẽ cùng Thúc Vũ cùng cầm quyền chính nước Vệ chả hơn ư ?

Nguyên Huyền nói :

– Thúc Vũ còn có lòng với anh, nữa là ta lại dám quên vua hay sao ? Ta đi chuyến này, quyết nói với vua nước Tấn để xin trả lại nước cho chúa công.

Công tử Chuyên Khuyển nín lặng lui ra, nhưng lại sợ khi Vệ Thành công đã phục quốc rồi mà Nguyên Huyền tiết lộ lời nói của mình ra thì tất Vệ Thành công bắt tội, mới lập kế lẻn sang nước Trần, mật báo với Vệ Thành công, lại nói dối là Nguyên Huyền đã lập Thúc Vũ lên làm vua, và nhờ uy nước Tấn bảo hộ. Vệ Thành công tin là chuyện thực, liền bảo Tôn Viêm. Tôn Viêm nói :

– Việc ấy tôi không được biết. Nay Nguyên Dốc hiện đang ở đây, cha hắn có mưu gì thì hắn tất biết, sao chúa công không gọi mà hỏi xem ?

Vệ Thành công lại hỏi Nguyên Dốc. Nguyên Dốc nói :

– Việc ấy chắc hẳn không có.

Ninh Du cũng nói rằng :

– Nếu Nguyên Huyền có lòng bất trung thì sao lại chịu sai con đến ở đây, xin chúa công chớ nghi ngờ.

Công tử Chuyên Khuyển lại nói với Vệ Thành công rằng :

– Nguyên Huyến lập mưu làm phản chúa công kể đã lâu ngày, nay cho con sang ở đây, chính là muốn dò xem tình hình chúa công ra sao để phòng bị. Nếu Nguyên Huyền định xin với vua Tấn trả lại nước cho chúa công thì tất Thúc Vũ không dám dự hội, nhược bằng Thúc Vũ dám công nhiên dự hội thề thật là chí định chiếm ngôi, chúa công nên xét kỹ.

Vệ Thành công mật sai người sang đất Tiễn Thổ để dò xemn tình hình Thúc Vũ ra làm sao.

Xa giá Chu Tương vương ngự sang Tiễn Thổ. Tấn Văn công đem chư hầu ra đón ở ngoài ba mươi dặm rồi rước về chốn vương cung.

Chư hầu làm lễ triều kiến xong, Tấn Văn công đem các phẩm vật lấy được của nước Sở ra dâng nộp. Chu Tương vương bằng lòng, nói :

– Từ khi Tề Hoàn công tạ thế rồi, nước Sở lại cậy sức mạnh, xâm phạm các nước Trung quốc, nay được thúc phụ đem quân đánh Sở để giữ yên nhà Chu ta, điều đó chẳng những một mình ta đội ơn, dẫu tiên vương nhà Chu ta thủa xưa cũng đội ơn nhiều lắm.

Ngày hôm sau, Chu Tương vương sách phong Tấn Văn công làm phương bá. Tấn Văn công lập một cái đàn ở bên cạnh vương cung, để hội thề với chư hầu. Đến hôm khai hội, Tấn Văn công lên đàn trước chư hầu lục tục theo sau. Nguyên Huyền hôm trước đưa thúc Vũ vào yết kiến Tấn Văn công, hôm ấy Thúc Vũ quyền nhận nghi vua nước Vệ, cũng được đứng phụ Ở cuối tờ ước thư.

Vương tử Hổ tuyên đọc lời thế rằng :

– Phàm các nước đồng minh ta, nên cùng một lòng giữ nhà Chu, chớ tàn hại lẫn nhau, kễ nào trái lời thề thì quỷ thần tru diệt.

Các vua chư hầu đồng thanh nói :

– Xin phụng mệnh ! Thề xong Tấn Văn công muốn đem Thúc Vũ vào tiểu kiến Chu Tương vương và lập làm vua nước Vệ để thay Vệ Thành công. Thúc vũ ứa nước mắt mà từ chối với Tấn Văn công rằng :

– Ngày xưa Tề Hoàn công hội chư hầu ở đất Ninh Mặc, thế tử Hoa nước Trịnh là con mà làm phản cha, Tề Hoàn công còn đem lời trách mắng ; nay chúa công đang noi theo sự nghiệp của Tề Hoàn công thủa trước, mà lại muốn cho Thúc Vũ này là em mà làm phản anh hay sao ? Nếu chúa công có lòng thương đến tôi thì xin trả ngôi vua nước Vệ cho anh tôi, anh tôi sẽ dốc một lòng thần phục quý quốc.

Nguyên Huyền cũng sụp lạy mà xin cho Vệ Thành công. Tấn Văn công thấy vậy, mới gật đầu thuận cho.

Chương 42: Tương vương thiết triều ở Hà Dương – Nguyên Huyền khiếu oan cho Thúc Vũ

Chu Tương vương thân hành đến Tiễn Thổ úy lạo Tấn Văn công, rồi lại trở về nhà Chu. Các vua chư hầu cũng cáo từ về nước cả.

Vệ Thành công từ khi nghe lời Chuyên Khuyển nói, có ý nghi ngờ, mới sai người đến đất Tiễn Thổ để dò xem tình hình Thúc Vũ ra sao. Bấy giờ thấy Nguyên Huyền đưa Thúc Vũ vào dự hội với các vua chư hầu, chưa kịp xét kỹ vội vàng về phi báo cho Vệ Thành công biết. Vệ Thành công nổi giận nói :

– Nếu vậy thì Thúc Vũ tự lập làm vua nước Vệ rồi. Nguyên Huyền là đứa phản tặc, tham cầu phú quý, phù lập Thúc Vũ lên làm vua ; lại sai con đến ở đây để dò xét tình hình ta, khi nào ta lại dung tha cho cha con nó.

Con Nguyên Huyến là Nguyên Dốc toan tìm lời phân giải. Vệ Thành công chém một nhát, Nguyên Dốc chết ngay. Những người theo hầu Nguyên Dốc vội vàng trốn về báo tin cho Nguyên Huyền biết. Nguyên Huyền nói :

– Con ta sống chết chẳng qua cũng là tại số, chúa công dẫu phụ lòng Nguyên Huyền này, nhưng Nguyên Huyền này có đâu dám phụ lòng Thúc Vũ !

Tư mã Man bảo Nguyên Huyến rằng :

– Chúa công đã có lòng’nghi thì nhà người há chẳng nên từ chức bỏ về, để tỏ lòng tnmg thành của mình ru !

Nguyên Huyền thở dài mà than rằng :

– Nếu tôi từ chức .bỏ về thì ai cùng Thúc Vũ giữ nước này ? Con ta bị giết là một việc riêng, lẽ nào ta vì một việc riêng mà không nghĩ đến nước hay sao ?

Nói xong, liền bảo Thúc Vũ viết thư xin Tấn Văn công trả lại ngôi vua cho Vệ Thành công.

Tấn Văn công sau khi đã phụng mệnh thiên tử lên làm bá chủ, liền thu quân về nước. Dân nước Tấn, già trẻ lớn bé tranh nhau đi đón, tưng bừng nô nức. Tấn Văn công về đến triều, bàn việc ban thưởng các công thần, lấy HỒ Yến làm công đầu, thứ nhì Tiên Chẩn.

Các tướng đều nói rằng :

– Trận Thành Bộc, ta phá được quân Sở, đều nhờ công Tiên Chẩn cả, nay lại lấy HỖ Yến làm công đầu là cớ làm sao ?

Tấn Văn công nói :

– Về việc Thành Bộc, Tiên Chẩn bảo ta rằng : “Nên đánh ngay quân Sở, chớ có bỏ mất dịp hay” mà HỒ Yến bảo ta rằng : “Nên lui tránh quân Sở, chớ bỏ mất điều tín nghĩa” Đánh được quân giặc, chẳng qua là cái công một thời ; giữ được điều tín nghĩa, mới thật là cái lợi muôn đời, thế thì HỒ Yến ở trên Tiên Chẩn là phải.

Các tướng đều tâm phục cả. HỔ Yến lại tâu rằng :

– Tuân Tức ngày xưa chết vì cái nạn Hề Tề và Trác Tử, thật là một kẻ trung thần đáng nêu gương, xin chúa công bổ dụng con cháu, để khích lệ các bề tôi khác.

Tấn Văn công nghe lời, liền triệu con trai Tuân Tức là Tuân Lâm Phủ, bổ làm chức quan đại phu. Chu Chi Kiều đang ở nhà với vợ con, nghe tin Tấn Văn công sắp đến, vội vàng đón đường để yết kiến.

Tấn Văn công truyền giam lại một chỗ. Khi ban thưởng công thần xong, Tân Văn công liền sai quan tư mã là Triệu Thôi nghị tội Chu Chi Kiều. Chu Chi Kiều kêu van vì cớ vợ ốm. Tấn Văn công nói :

– Kẻ bề tôi đã hết lòng thờ vua thì dẫu thân mình cũng chẳng dám tiếc, huống chi là vợ con !

Nói xong, truyền đem ra chém.

Tấn Văn công từ khi đem quân đi đánh Sở, lần thứ nhất chém Điên Thiệt, lần thứ hai chém Kỳ Man, đến bây giờ lại chém Chu Chi Kiều, ba người ấy đều là bậc danh tướng mà làm việc trái phép cả, bởi vậy các tướng sĩ ai cũng sợ uy theo lệnh. Một hôm, Tấn Văn công ngự triều đang cùng với HỐ Yến bàn việc nước Tào và nước Vệ, bỗng tiếp được thư của nước Vệ gửi đến, Tấn Văn công nói :

– ĐÓ tất là thư của Thúc Vũ xin hộ cho anh.

Nói đoạn mở thư ra xem. Thư rằng :

– Chúa công không nỡ diệt nước Vệ và đã hứa lời tha cho vua nước Vệ tôi. Người nước Vệ tôi ai cũng nghển cố trông chở việc làm cao nghĩa của chúa công. Vậy xin chúa công sớm liệu cho

Trần Mục công cũng sai sứ đến nước Tấn, xin lỗi hộ cho Vệ Thành công. Tấn Văn công viết thư hồi đáp, thuận cho Vệ Thành công về nước ; lại hạ lệnh cho Khước BỘ Dương chớ đem quân ngăn trở.

Thúc Vũ được tin Tấn Văn công tha cho Vệ Thành công về nước, vội vàng sai người sang nước Trần để đón Vệ Thành công. Trần Mục công cũng sai người khuyên Vệ Thành công về nước. Công tử Chuyên Khuyển bảo Vệ Thành công rằng :

– Thúc Vũ làm vua nước Vệ đã lâu, được người trong nước ai cũng quy phụ, và nước ngoài giao hảo, nay dẫu cho người sang đón, chúa công cũng chớ nên tin vội.

Vệ Thành công nói :

– Ta cũng lấy làm lo lắm !

Nói xong, liền sai Ninh Du đến Sở Khâu trước để dò xét tình hình. Ninh Du đến Sở Khâu, vừa gặp lúc Thúc Vũ đang bàn việc ở trong triều. Ninh Du vào triều, thấy Thúc Vũ không đặt chỗ ngồi ở chính giữa điện mà chỉ ngồi ở trái đông, lại trở mặt về hướng tây.

Thúc vũ trông thấy Ninh Du, vội vàng chạy ra đón vào, tiếp đãi rất lễ phép. Ninh Du giả cách hỏi rằng :

– Ngài đã quyền ngự ngôi vua, mà lại ngồi ở bên trái thì sao cho trọng thể thống ?

Thúc Vũ nói :

– Ngôi chính ở giữa là chỗ anh tôi ngự xưa nay, tôi ngồi Ở gian bên cạnh, cũng còn có ý sợ hãi, khi nào lại dám ngự ở gian giữa.

Ninh Du nói :

– Bây. giờ tôi mới biết rõ lòng ngài ?

Thúc Vũ nói :

– Tôi vẫn ngày đêm mong nhớ anh tôi lắm, đại phu nên khuyên anh tôi mau mau về triều, để cho tôi được yên lòng. .

Ninh Du mới đính ước, hẹn đến ngày mùng một tháng sáu thì đưa. Vệ Thành công về nước. Ninh Du cáo từ lui ra, và nghe ngóng ý kiến của mọi người thì thấy nói các quan trong triều đều xúm nhau bàn luận, chỉ sợ vua cũ lại về thì tất nhiên trị tội những kẻ ở nhà , bởi vậy ai cũng lấy làm lo ngại. Ninh Du bèn nói với các quan rằng :

– Tôi phụng mệnh vua cũ đến đây để truyền . bảo cho các quan biết rằng khi vua cũ về nước, quyết không bắt tội ai cả ; nếu cắc quan không tin thì tôi xin cùng với các quan cùng thề.

Các quan đều nói :

– Nếu cùng thề với nhau thì còn nghi ngại gì nữa !

Ninh Du liền cùng với các quan thề. Cắc quan đều bằng lòng cả.

Thúc Vũ lại sai quan đại phu là Trường lương chuyên giữ quốc môn, và dặn rằng phàm những người của Vệ Thành công thì bất cứ lúc nào, cũng mở cửa cho vào ngay. Ninh Du về nói với Vệ Thành công rằng :

– Thúc Vũ thật lòng đợi chúa công về. chứ không có ý làm phản.

Vệ Thành công cũng có lòng tin. Khốn nỗi Chuyên Khuyển khi trước đây đem lời gièm pha Thúc Vũ, sợ khi lộ việc ra thì bi tội, nên lại nói với Vệ Thành công rằng :

– Tôi chỉ e Thúc Vũ cùngvới Ninh Du ước định nhau để làm hại chúa công, chi bằng chúa công cứ nhân lúc bất ngờ, về trước ngày hẹn thì mới có thể vẹn toàn được.

Vệ Thành công theo lời, truyền sắp sửa xa giá để về nước Vệ. Chuyên Khuyển xin làm tiến khu. Vệ Thành công cho đi. Ninh Du nói :

– Tôi đã hẹn ngày với người trong nước rồi, nay chúa công về trước ngày hẹn thì người trong nước tất có lòng nghi hoặc.

Chuyên Khuyển quát to lên rằng :

– Ninh Du không muốn cho chúa công chóng về là chủ ý thế nào ?

Ninh Du không dám can ngăn nữa, chỉ xin với Vệ Thành công cho đi trước để hiểu dụ người trong nước, khiến mọi người được yên lòng Vệ Thành công nói :

– Nhà ngươi hiểu dụ cho người trong nước biết rằng nay ta vội về là có lòng nhớ nước, chứ không vì cớ gì khác.

Ninh Du đi rồi, Chuyên Khuyển lại nói với Vệ Thành công rằng :

– Ninh Du xin về trước, cũng đáng nghi lắm, chúa công phải đi mau mới được.

Vệ Thành công truyền cho quân sĩ đi mau. Ninh Du về đến quốc môn, Trường Dương hỏi biết là người của Vệ Thành công tức khắc mở cửa cho vào. Ninh Du nói :

– Chúa công sắp về đến nơi ?

Trường Dương nói :

– Sao chưa đến hẹn mà chúa công đã về ngay như vậy ? Nhà ngươi vào thành báo tin cho Thúc Vũ biết, để tôi đi đón chúa công.

Ninh Du vừa mới quay mình đi khỏi thì Chuyên Khuyển đã đến nơi rồi. Chuyên Khuyển nói :

– Chúa công đang đi sau

Trường Dương vội vàng đem quân đi đón. Chuyên Khuyển tiến thẳng vào trong thành. Bấy giờ Thúc Vũ đang đốc thúc quân sĩ quét dọn cung thất, rồi ngồi gội đầu ở giữa sân, thấy Ninh Du vào báo tin vệ Thành công về, nửa sợ nửa mừng, vừa toan hỏi vì cớ gì mà về trước ngày hẹn, thì lại nghe có tiếng xe ngựa rầm rầm, tưởng là Vệ Thành công đã về, tóc còn chưa ráo, vội vàng lấy tay vén lên, chạy ra đón,

chẳng ngờ lại là Chuyên Khuyển. Chuyên Khuyển sợ để Thúc Vũ sống thì sau này anh em hỏi nhau, lại tỏ rõ tội mình ra, liền giương cung bắn một phát, trúng ngay vào bụng Thúc Vũ. Thúc Vũ ngã gục xuống.

Ninh Du vợi vàng chạy lại để cứu thì đã không kịp rồi.

Nguyên Huyền nghe tin Thúc Vũ bị giết, thì giật mình kinh sợ và chửi rằng :

– Đứa hôn quân vô đạo ! Mày giết oan một người vô tội, trời nào có dung mày, phen này ta quyết sang kêu với vua Tấn, thử xem mày có ngồi yên được hay không ?

Nguyên Huyền lăn khóc một lúc, rồi bỏ trốn sang nước Tấn. Vệ Thành công về đến quốc môn, Trùng Dương đón. Vệ Thành công hỏi chuyện. Trường Dương nói :

– Thúc Vũ có dặn tôi rằng chúa công muốn về lúc nào cũng cứ để cho vào, không được ngăn trở.

Vệ Thành công thở dài mà than rằng :

– Em ta quả không có ý gì khác cả.

Khi vào đến trong thành, trông thấy Ninh Du nước mắt dàn dụa chạy lại nói rằng :

– Thúc Vũ đang gội đầu, nghe tin chúa công về, vội vàng mừng rỡ lấy tay vén tóc, chạy ra để đón, ai ngờ Chuyên Khuyển bắn chết, khiến cho tôi thất tín với người trong nước, xin chúa công xét cho.

Vệ Thành công hổ thẹn đáp rằng :

– Ta đã biết Thúc Vũ oan rồi.

Nói xong, liền tiến thẳng vào trong cung. Các quan nghe tin lục tục ra đón, kẻ trước người sau, không được đều nhau. Ninh Du đưa Vệ Thành công đến xem thi thể Thúc Vũ : hai mắt Thúc Vũ còn mở trừng trừng như người sống vậy. Vệ Thành công ôm đầu Thúc Vú để kê lên trên đùi, rồi khóc òa lên rằng :

– Em ơi ? Vì em mà anh được về, nay vì anh mà em phải chết, đau lòng anh lắm ! .

Bỗng hai mắt Thúc Vũ sáng quắc lên, rồi dần dần nhắm lại.

Ninh Du nói :

– Không giết Chuyên Khuyển thì sao cho thỏa linh hồn Thúc Vũ

Vệ Thành công tức khắc sai người bắt Chuyên Khuyển. Bấy giờ Chuyên Khuyển toan đi trốn, nhưng bị Ninh Du sai người bắt ngay được đem về nộp Vệ Thành công. Chuyên Khuyển nói rằng :

– Tôi giết Thúc Vũ cũng là vì chúa công !

Vệ Thành công nổi giận, nói :

– Mày cố tình gièm pha em ta, lại tự tiện giết người vô tội, nay còn toan đổ lỗi cho ta hay sao !

Nói xong, truyền đem ra chém, lại truyền lấy lễ quốc quân hậu táng cho Thúc Vũ. Người nước Vệ khi trước nghe tin Thúc Vũ bị giết, đều huyên náo cả lên, nay thấy Vệ Thành công chém Chuyên Khuyển và hậu táng cho Thúc Vũ, trong nước mới được yên ổn.

Quan đại phu nước Vệ là Nguyên Huyền trốn sang nước Tấn, vào yết kiến Tấn Văn công, sụp lạy ở dưới đất thuận lại câu chuyện Vệ Thành công nghi ngờ Thúc Vũ mà sai Chuyên Khuyển bắn chết Thúc Vũ, Nguyên Huyền vừa nói vừa khóc. Tấn Văn công động lòng thương xót, đem lời an ủi Nguyên Huyền, mời ra nghỉ ở nhà công

quán rồi họp triều thần lại để thương nghị. Tấn Văn công hỏi các quan rằng :

– Ta nhờ sức các ngươi, đánh một trận mà thắng quân Sở, lại phụng mệnh thiên tử, hội chư hầu ở đất Tiễn Thổ, sát nghiệp bá chủ chẳng kém gì Tề Hoàn công thủa xưa, nhưng nước Tần không dự hội, nước Hứa không vào triều, nước Trịnh dẫu hội thề mà vẫn có lòng nghi hoặc, nay vua Vệ về nước mà dám tự tiện giết em là một người đã dự hội với ta, nếu ta không đem quân đi đánh thì sao cho thu phục được chư hầu, vậy chúng ta phải định kế như thế nào ?

Tiên Chẩn nói :

– Nước nào làm điều trái phép thì bá chủ có quyền đem quân hỏi tội. Tôi xin sẵn sàng binh mã để chờ lệnh.

HỒ Yến nói :

Làm bá chủ muốn thu phục được chư hầu, tất phải nhờ uy linh của thiên tử, nay thiên tử đã thân hành đến khao thưởng chúa công, mà chúa công thì chưa vào triều kiến thiên tử, vậy thì lấy gì cho người ta phục, chi bằng chúa công hiệu triệu chư hầu vào triều kiến thiên tử, nước nào không đến thì ta sẽ kể tội tiết mạn thiên tử mà đem quân đi đánh.

Triệu Thôi nói :

– Tử Phạm (tên tự HỖ Yến) nói phải lắm ! Nhưng tôi e rằng việc vào triều kiến thiên tử khó lòng mà làm xong sớm được

Tấn Văn công nói :

– Tại sao mà khó lòng?

Triệu Thôi nói :

– Chư hầu đã lâu nay không vào triều kiến thiên tử, bây giờ chúa công đem quân vào chốn kinh sư thì tất thiên tử có lòng nghi ngại mà kiếm cách để từ tạ, chi bằng ta đại hội chư hầu ở đất ôn ấp rồi mời thiên tử đến đấy để ta được triều kiến thì tiện được nhiều điều lắm : một là vua tôi không ngờ vực nhau ; hai là chư hầu không phải

đi xa khó nhọc ; ba là ở đấy đã sẵn có cung thất của vương tử Đái làm ngày trước, không phải tốn công xây dựng nữa.

Tấn Văn công nói :

– Làm thế nào mà đem được thiên tử đến đấy ?

Triệu Thôi nói :

– Nay thiên tử đang muốn làm thân với nước Tấn ta, xin chúa công cho tôi vào sứ nhà Chu mà nói về việc ấy.

Tấn Văn cồng bằng lòng, liền sai Triệu Thôi vào nhà Chu liệu.

Thôi tâu với Chu Tương vương rằng .

Chúa công tôi cảm cái ơn thiên tử thân hành khao thưởng và phong chức phương bá, cho nên muốn đem chư hầu đến kinh sư để làm lễ triều kiến, vậy cúi xin thiên tử soi xét

chu Tương vương nín lặng, truyền cho Triệu Thôi hãy ra nghỉ ở công quán, và gọi vương tử HỔ vào để thương nghị. Chu Tương vương bảo vương tử HỔ rằng :

– Tấn hầu xin đem quân đến kinh sư để làm lễ triều kiến, sự thể rất là bất trắc, trẫm muốn từ chối thì nên làm thế nào ?

Vương tử HỔ nói :

– Xin nhà vua cho tôi được phép đến tiếp kiến sứ thần nước Tấn, để dò xét tình ý, nếu từ chối được thì tôi sẽ kiếm lời mà từ chối.

Vương tử HỔ đến tiếp kiến Triệu Thôi. Triệu Thôi nói đến việc Tấn Văn công xin vào triều. Vương tử HỔ nói :

– Tấn hầu muốn xuất lĩnh các nước để vào triều kiến thiên tử, đó là một việc rất hay, chỉ ngặt một điều là các nước họp mặt ở kinh sư thì ngựa xe, lính tráng, ra vào tấp nập, dân nhà Chu lạ mắt, đem lòng nghi ky mà sinh ra điều nọ tiếng kia, lại tránh ra phụ lòng Tấn hầu, cho nên tôi nghĩ rằng việc này nên thôi đi là hơn.

Triệu Thôi nói :

– Chúa công tôi thực lòng nhớ mến thiên tử, ngày tôi ra đi, đã truyền hịch các nước, ước định họp nhau cả ở ôn ấp ; nếu nay thôi đi thì chẳng hóa ra chuyện đùa bỡn hay sao ?

Vương tử HỔ nói :

– Vậy thì nên làm thế nào ?

Triệu Thôi nói :

– Tôi nghĩ có một kế, nhưng không dám nói ra.

Vương tử HỔ nói :

– Ngài có kế gì hay, tôi xin theo ý.

Triệu Thôi nói :

– Đời xưa thiên tử có lễ đi tuần thú, để xem tục dân. Nay thiên tử mượn tiếng đi tuần thú, ngự ra đất Hà Dương (tức là ôn ấp) nhân đó chúa công tôi đem chư hầu đến làm lễ triều kiến, như thế thì giữ được cái thể tôn nghiêm của thiên tử mà khỏi phụ tấm lòng thành của chúa công tôi. Tôi nghĩ như vậy, không biết nên chăng ?

Vương tử HỔ nói :

– Ngài bàn kế ấy thật là tiện cả đôi đường, để tôi xin tâu lại với thiên tử.

Vương tử HỔ vào triều, đem lời nói của Triệu Thôi tâu lại với Chu Tương vương. Chu Tương vương mừng lắm, hẹn đến ngày 1 tháng mười thì ngự Hà Dương. Triệu Thôi về nói lại với Tấn Văn công Tấn Văn công bá cáo cho chư hầu biết. Đến hôm ấy, Tề Chiêu công (Phan), Tống Thành công (Vương Thần), Lỗ Hi công (Thân), Sái Trang công (Giáp Ngọ), Tần Mục công (Nhâm Hiếu), và Trịnh Văn cõng (Tiệp) đều lục tục đến cả. Tần Mục công nói với Tấn Văn công rằng :

– Ngày trước quý quốc chư hầu Ở Tiễn Thổ, nước tôi còn ngại đường xa đến chậm nên không dự hội. Ngày nay nước tôi xin đi theo phía sau chư hầu.

Tấn Văn công nhận lời. Bấy giờ Trần Mục công (Khoản) mới mất, con là Sóc mới lên nối ngôi, tức là Trần Cung công. Trần Cung công sợ, uy nước Tấn, cũng để tang mà đến dự hội. Các nước nhỏ như nước Châu và nước Cử đều cũng đến dự hội cả. Vệ Thành công tự biết mình có tội, đã toan không đi, Ninh Du can rằng :

– Nếu ta không đi thì lại càng thêm tội, tất nhiên nước Tấn đem quân đến đánh.

Vệ Thành công bất đắc dĩ phải đi. Ninh Du, Hàm Trang Tử và Si Vinh ba người cùng đi theo. Khi Vệ Thành công đi đến ôn ấp, thì Tấn Văn công không cho vào yết kiến, lại phái một toán quân bắt mà giam lại. Các nước họp tại ôn ấp, cả thảy có mười nước là :

– 1 Tấn 6. Tần

2. Tễ 7. Trinh

3. Tống 8. Trần

4. LỖ 9. Châu

5. Sái 10. Cử

Chỉ có nước Hứa là một mực thủ hiểm, không chịu theo lệnh Tấn Văn công. Đúng ngày 1 tháng mười thì Chu Tương vương ngự đến. Tấn Văn công đem chư hầu đi đón, rỗi làm lễ triều kiến, mũ áo cân đai, trông rất nghiêm chỉnh. Khi triều kiến xong, Tấn Văn công đem sự tình Thúc Vũ nước Vệ bị oan tâu với Chu Tương vương, và xin sai vương tử HỔ cùng xử cái án ấy. Chu Tương vương thuận cho, rồi sai người gọi Vệ Thành công. Vệ Thành công mặc áo tù mà đến. Quan đại phu nước Vệ là Nguyên Huyền cũng đến. Vương tử HỔ nói với Tấn Văn công rằng :

– Chẳng lẽ hai vua tôi lại đối tụng nhau, xin cho người khác vào thay .

Nói xong, truyền cho Vệ Thành công lui xuống nhà dưới. Ninh Du theo liền bên cạnh Vệ Thành công không rời một bước. hàm Trang tử thay Vệ Thành công vào đối tụng với Nguyên Huyền. Sĩ Vinh được quyền làm trị ngục quan để đối chứng việc ấy, Nguyên Huyền miệng nói trơn như nước chảy, kể hết đầu đuôi từ khi Vệ Thành công trốn ở đất Tương Ngưu, dặn lại Thúc Vũ giữ nước như thế nào, về sau vì thế nào mà giết chết Nguyên Dốc và Thúc Vũ. Hàm Trang Tử nói :

– ĐÓ là tại Chuyên Khuyển đem lời gièm pha, khiến chúa công lầm nghe, không can dự gì đến chúa công cả.

Nguyên Huyền nói :

– Chuyên Khuyển lúc trước có nói với tôi xin lập Thúc Vũ, nếu tôi nghe lời thì khi nào chúa công lại được trờ về ; chỉ vì tôi nghĩ đến cái lòng yêu anh của Thúc Vũ. mà cự tuyệt Chuyên Khuyển. Ai ngờ Chuyên Khuyển lập kế báo thù, nhưng nếu chúa công không có lòng nghi kỵ Thúc Vũ thì Chuyên Khuyển gièm pha thế nào nổi ? Tôi sai con tôi là Nguyên Dốc theo hầu chúa công, để tỏ bày tâm tích, ấy chính là do lòng tốt của tôi, thế mà tự chiên vô cớ, con tôi không có tội gì, chúa công cũng giết đi ; cứ suy việc giết con tôi là Nguyên Dốc thì cũng đủ biết chúa công có ý định giết Thúc Vũ rồi.

Sĩ Vinh bẻ lại rằng :

– Nhà ngươi vì việc con mình bị giết mà đem lòng thú oán, chứ không phải vì Thúc Vũ

Nguyên Huyền nói :

– Tôi vẫn thường nói : giết con là oán riêng, giữ nước là việc lớn, có đâu tôi dám vì oán riêng mà bỏ việc lớn. Ngày trước Thúc Vũ dâng thư xin với vua Tấn phục quốc cho anh thì bức thư ấy chính tay tôi làm, nếu tôi đem lòng thù oán, khi nào tôi chịu như thế. Việc giết Nguyên Dốc, trước tôi cũng cho là một sự nghe lầm, tất có ngày phải hối mà nghĩ lại, ngờ đâu lại đi lụy đến Thúc Vũ ngày nay !

Sĩ Vinh nói :

– Thúc Vũ không có ý cướp ngôi, chúa công ta cũng đã xét tình rồi. Chẳng may bị Chuyên Khuyển giết, đó không phải là tự ý chúa công

Nguyên Huyền nói :

– Chúa công đã biết Thúc Vũ không có ý cướp ngôi, và những lời Chuyên Khuyển nói toàn là bịa đặt cả, thì sao không trị tội Chuyên Khuyển, mà lại nghe lời hắn ; trước thì hẹn đem quân về nước, mà khi về nước lại cho hắn làm tiền khu, rõ ràng là muốn mượn tay Chuyên Khuyển để giết Thúc Vũ, sao lại bảo rằng không biết ?

Hàm Trang Tử cúi đầu, không cãi được một câu nào. Sĩ Vinh lại bẻ Nguyên Huyền rằng :

– Thúc Vũ dẫu bi oan khổ, nhưng Thúc Vũ là bề tôi, chúa công là vua, xưa nay bề tôi bị vua giết oan, biết bao nhiêu mà kể cho xiết !

Và chúa công đã giết Chuyên Khuyển, và làm lễ hậu táng cho Thúc Vũ thế là thưởng phạt phân minh lắm rồi, còn tội gì nữa !

Nguyên Huyền nói :

– Ngày xưa, Kiệt giết oan Long Bàng, thì vua Thang cử binh đánh Kiệt ; Trụ giết oan Tỉ Can, thì Vũ vương cử binh đánh Trụ: Vua Thang và Vũ vương đều là bề tôi của Kiệt, Trụ cả, thế mà mắt trông thấy người trung lương. bị oan khổ, cũng phải cử binh để giết kẻ hung tàn. Huống chi Thúc Vũ cùng với chúa công là tình anh em, Thúc Vũ

lại có công giữ nước, không phải như Long Bàng và Tỉ Can mà thôi ; mà chúa công chẳng qua là chư hầu, còn ở dưới quyền thiên tử và phương bá, chưa phải là thiên tử như Kiệt và Trụ, sao lại cho là vô tội được?

Sĩ Vinh nghẹn lời, không cãi sao được nữa, lại nói lảng rằng :

– Chúa công dẫu trái nữa, nhưng nhà ngươi là bề tôi, nếu đã một lòng tận trung với chúa công thì sao khi chúa công về nước nhà ngươi không ra triều kiến mà lại bỏ trốn, là nghĩa thế nào ?

Nguyên Huyền nói :

– Tôi cùng Thúc Vũ giữ nước, thật là vâng mệnh chúa công. Chúa công đã không bao dung được Thúc Vũ, thì khi nào lại có lòng bao dung tôi ? Tôi trốn đi, không phải là sợ chết tham sống mà chỉ muốn bày tỏ cái oan khổ này cho Thúc vũ

Tấn Văn công nghe nói, ngảnh lại bảo vương tử HỔ rằng :

– Xem Sĩ Vinh và Nguyên Huyền qua lại bấy nhiêu lời thì rõ Nguyên Huyền là người thẳng thắn. Vua nước Vệ là bề tôi của thiên tử, tôi không dám trị tội, nay hãy xin trị tội những kẻ về bè cánh với vua nước Vệ.

Nói xong, liền sai đem chém tất cả những kẻ vây cánh của Vệ Thành công Vương tử HỔ nói :

– Tôi nghe nói Ninh Du là một quan đại phu có đức ở nước Vệ, mà trong việc này Ninh Du cũng hết lời khuyên bảo, nhưng vua nước Vệ không nghe. Vả việc này không can dự gì đến Ninh Du, vậy không nên bắt y chịu tội. Còn Sĩ Vinh được quyền chức tội ngục, mà xét đoán không minh thì nên trị tội trước nhất, Hàm Trang Tử biết là trái lẽ, không cãi câu nào, cũng nên giảm tội cho.

Tấn Văn công theo lời, truyền chém đầu SĨ Vinh, chặt chân Hàm Trang Tử, còn Ninh Du thì tha không hỏi đến. Tấn Văn công cùng vương tử HỔ đem những lời nói của bên nguyên và bên bị vào tâu với Chu Tương vương và xin trị tội Vệ Thành công. Chu Tương vương nói :

– Thúc phụ xử đoán thật là công minh, nhưng trẫm e rằng vì bề tôi mà giết vua thì sao cho phải đạo. Trẫm nói vậy thật không có tư tình gì với vua Vệ đâu !

Tấn Văn công sợ hãi, sụp lạy mà xin lỗi rằng :

– Kẻ hạ thần không nghĩ đến điều ấy thiên tử đã dạy như vậy thì nên giải vua Vệ về kinh sư để tùy lượng trên xử đoán.

Tấn Văn công truyền cho quân sĩ giữ Vệ Thành công để giải về kinh sư ; lại một mặt cho Nguyên Huyền trở về nước Vệ mà lập vua khác Nguyên Huyền về đến nước Vệ, cùng các quan triều thần thương nghị nói dối là Vệ Thành công đã bị tội chết rồi, nay phụng mệnh thiên tử về lập vua khác. Các quan triều thần đều cử em ruột Thúc Vũ là công tử Thích, tên tự là Tử Hà. Công tử Thích vốn là người nhân hậu. Nguyên Huyền nói :

– Lập công tử Thích là phải lắm, anh chết thì em nối.

Nói xong, liền tôn công thử Thích lên nối ngôi, Nguyên Huyền làm tể tướng. Từ bấy giờ nước Vệ mới hơi được yên ổn.

Chương 43: Ninh Du lập kế cứu vua Vệ – Chúc Vũ thương thuyết lui quân Tần

Chu Tương vương nhận lễ tiễu kiến xong thì lên đường trở về Lạc Dương. Chư hầu tiễn đưa Tương vương ra đến ngoài cõi Hà Dương. Tiên Miệt lĩnh mệnh chư hầu giải Vệ Thành công về kinh sư.

Bấy giờ Vệ Thành công có bệnh đau, Tấn Văn công sai thầy thuốc là Y Diễn đi theo, mượn tiếng chữa bệnh cho Vệ Thành công, kỳ thực là để đánh thuốc độc cho Vệ Thành công chết đi. Lại bắt Y Diễn phải làm xong việc, nếu không sẽ phải tội chết. Tấn Văn công lại dặn riêng Tiên Miệt phải cùng với Y Diễn lưu ý về việc ấy. Chu Tương vương về rồi, Tấn Văn công bảo các vua chư hầu rằng :

– Tôi phụng mệnh thiên tử, được giữ quyền chinh phạt. Nay người nước Hứa một lòng theo Sở, không thần phục nhà Chu ; thiên tử ngự ra đất này, chư hầu đều phải đến triều kiến cả, thế mà nước Hứa ở gần đây, lại làm ra như không nghe thấy gì cả, khinh nhờn đến thế là cùng, vậy tôi xin cùng với các vua chư hầu đến hỏi tội nước Hứa.

Các vua chư hầu đều xin vâng mệnh. Tấn Văn công cùng với tám nước chư hầu là : Tề, Tống, Lỗ, Sái, Trần, Tần, Cử và Châu đem quân tiến sang nước Hứa. Chỉ có Trịnh Văn công nguyên có thân tình với nước Sở, mà vì sợ uy nước Tấn, cho nên trước đây phải đến dự hội, nhưng nay thấy Tấn Văn công đối đãi với Tào và Vệ một cách thái quá thì có ý không bằng lòng, nghĩ thầm rằng :

– Khi vua Tấn còn đi trốn, nước ta đây thất lễ với hắn, chắc hắn cũng không quên được cái thù ấy, xem như hắn đối đãi với vua Tào và vua Vệ thì biết. Chi bằng ta cứ tư thông với sở, phòng khi hoạn nạn, ta có chỗ mà lui chân.

Quan thượng thư nước Trịnh là Thúc Thiêm thấy Trịnh Văn công trù trừ, có ý muốn phản bội nước Tấn, thì can rằng :

– Vua Tấn đã cho ta giảng hòa, đó là một điều may cho ta, chúa công chớ nên nước đôi, nếu nước đôi thi tất có tai vạ.

Trịnh Văn công không nghe, cho người phao tin rằng trong nước có bệnh dịch, rồi lấy cớ là phải về làm lễ kỳ an mà cáo tứ Tấn Văn công để về trước ; lại sai người sang báo tin với Sở rằng :

– Vua Tấn ghét nước Hứa thần phục quý quốc, sắp đem quân chư hầu đến đánh ; nước tôi sợ uy quý quốc, không dám đem quân đi theo Các nước, xin nói để quý quốc biết.

Người? nước Hứa nghe tin các nước đến đánh, cũng sai người cáo cấp với Sở Thành vương. Sở Thành vương nói :

– Quân ta mới thua, không nên sinh sự với Tấn vội, đợi khi nào nước Tấn chán việc chinh chiến, bấy giờ ta sẽ cùng Tấn Giảng hòa.

Thế là Sở không đem quân cứu Hứa. Chư hầu đem quân vây chặt đất Dĩnh Dương (kinh thành nước Hứa). Bấy giờ Tào Cung công vẫn bị giam ở trong thành Nghi Lộc, chờ mới không thấy lệnh tha của Tấn Văn công, muốn tìm một người có tài ăn nói để sang kêu với Tấn Văn công. CÓ một viên quan nhỏ là Hầu Nhu xin đi, và xin mang theo nhiều lễ vật quý giá: Tào Cung công cho đi.

Hầu Nhu nghe tin các nước họp Ở nước Hứa, mới đi tắt đến đất Dĩnh Dương, xin vào yết kiến Tấn Văn công. Lúc bấy giờ Tấn Văn công nhân khi hành quân nhọc mệt, bị bệnh cảm hàn, đêm nằm mộng thấy một con ma đội mũ mặc áo; kêu với Tấn Văn công xin cho bữa ăn. Tấn Văn công quát to lên một tiếng thì con ma ấy lui ra. Từ đó

bệnh Tấn Văn công mỗi ngày một nặng, chỉ nằm mà không dậy được, định triệu quan thãi bốc là Quách Yến vào để bói một quẻ. Hầu Nhu biết vậy, mới đem một xe vàng lụa đưa cho Quách Yến, và kể hết sự tình nhờ Quách Yến mượn lời quỷ thần mà xin hộ cho Tào. Quách Yến nhận lời, khi vào yết kiến Tấn Văn công, bói được quẻ “thiên

trạch. Tấn Văn công hỏi :

– Quẻ này tốt xấu thếnào ?

Quách Yến nói :

– Cứ như quẻ này thì tất có những vị quỷ thần không ai cúng tế, mà đến kêu với chúa công xin tha tội cho.

Tấn Văn công nói :

– Việc cúng tế quỷ thần, ta không ngăn cấm bao giờ. Vả quỷ thần còn có tội gì mà phải xin tha ?

Quách Yến nói :

– Cứ như tôi thiển nghĩ thì hoặc giả là nước Tào chăng ? Chúa công đã ngỏ lời phục hưng nước Tào và nước Vệ, nay nước Vệ đã được phục quốc rồi, mà nước Tào chưa được phục quốc, vậy nên nên tổ nước Tào báo mộng mà kêu với chúa công đấy.

Tấn Văn công nghe nói, bỗng thấy trong người khoan khoái bệnh nhẹ đi đến nửa. bèn sai người đi Ngũ Lộc truyền lệnh cho TÀo Cung công được trở về nước Tào, và những ruộng đất của nước TÀo đã đem cho nước Tống, đều trả lại cả. Tào Cung công mừng rỡ khôn xiết. lập tức đến thẳng đất Dĩnh Dương để tạ ơn Tấn Văn công, rồi cùng với các nước chư hầu vây nước Hứa. Tấn Văn công dần dần khỏi bệnh.

Hứa Hi công thấy nước Sở không đem quân đến cứu, mới mở cửa thánh xin hàng. Tấn Văn công cùng các vua chư hầu đều rút quân về nước.

Trong khi từ biệt, Tần Mục công ước với Tấn Văn công rằng :

– Ngày sau có việc chiến tranh gì thì Tấn Tần hai nước phải giúp đỡ lẫn nhau.

Tấn Văn công về đến nửa đường, nghe tin Trịnh Văn công sai sứ tư thông với Sở tức thì nồi giận, toan đem quân đi đánh. Triệu Thôi can rằng :

– Chúa công nhọc mệt mới khỏi, vả quân các nước chư hầu đều rút về cả, chi bằng ta hãy nghỉ yên trong một năm, rồi sẽ liệu kế đánh Trịnh sau.

Tấn Vân công truyền rút quân về.

Chu Tương vương về đến kinh sư, truyền cho quan thái tuế nghị tội Vệ Thành công, rồi giam vào tù thất. Chu Tương vương muốn bảo toàn cho Vệ Thành công, chỉ vì sợ trái ý Tấn Văn công, mới phải giam lại một chỗ, nhưng kỳ thực thì vẫn có lòng khoản đãi. Ninh Du lúc nào cũng theo liền Vệ Thành công, chẳng rời một bước. Phàm các thức ăn uống, Ninh Du đều nếm trước tất cả, rồi mới dâng lên Vệ Thành công Tiên Miệt đã nhiều lần giục Y Diễn đầu độc Vệ Thành công, nhưng Ninh Du phòng bị rất cẩn thận, nên Y Diễn không làm gì nổi.

Bắt đắc dĩ Y Diễn phải đem thực tình nói với Ninh Du rằng :

– Vua Tấn là người quyết đoán, có tội tất giết, có oán tất báo ; tôi đến đây là phụng mệnh vua Tấn đầu độc vua Vệ, mà làm không được thì tính mệnh tôi cũng khó lòng bảo toàn, vậy thì nhà ngươi nên làm ngơ, để cho tôi khỏi chết.

Ninh Du ghé tai bảo thầm Y Diễn rằng :

– Nhà ngươi đã nói hết chân tình với ta thì ta cũng xin bàn mưu hộ nhà ngươi. Vua Tấn nay đã già rồi, hay tin việc ma quỷ, mới rồi vua Tào được tha, cũng chỉ vì một câu nói của người thầy bói ; nay nhà ngươi hãy cho thuốc độc nhẹ liều đi, để dâng chúa công ta, rồi giả thác về việc quỷ thần thì vua Tấn không trị tội.

Y Diễn hiểu ý lui ra. Ninh Du giả cách phụng mệnh Vệ Thành công đến xin rượu thuốc của Y Diễn về để chữa bệnh, rồi nhân tiện đưa cho Y Diễn một hòm bảo ngọc. Y Diễn bảo Tiên Miệt rằng :

– Vua Vệ đã đến ngày tận số ?

Nói xong, liền hòa thuốc độc vào bình rượu để đem dâng Vệ Thành công nhưng cho liều lượng rất nhẹ, lại pha thêm những thứ thuốc khác để cho lẫn sắc đi. Ninh Du xin nếm trước. Y Diễn giả cách không cho, rồi đổ vào miệng, cố ép phải uống ngay. Vệ Thành công mới uống được mấy hớp thì Y Diễn trợn mắt, ngã lăn xuống giữa sân,

miệng hộc máu tươi ra, bất tỉnh nhân sự. Bình rượu rơi vỡ, thuốc độc lênh láng cả dưới đất. Ninh Du giả cách giật mình kinh ngạc, sai người vực Y Diễn dậy. Hồi lâu Y Diễn mới tỉnh lại. Ninh Du hỏi :

– Tại sao vậy ?

Y Diễn nói :

– Lúc tôi đang đổ rượu thuốc, bỗng thấy một vị thần nhân mình cao hơn một trượng, đầu to như cái hộc, ở trên trời xuống, bước vào trong nhà, tự xưng là Đường Thúc (tiên tổ nước Tấn) đến cứu vua Vệ, rồi cầm cái dùi đồng đập vỡ bình rượu thuốc, làm cho tôi chẳng còn hồn vía nào nữa !

Vệ Thành công cũng nói mình thấy thần xuống như lời Y Diễn.

Ninh Du giả cách nổi giận nói :

– Thế ra mày dùng thuốc độc để hại chúa công ta, nếu không được thần nhân đến cứu thì còn gì nữa ! Ta cùng với mày, quyết không cùng sống.

Nói xong, liền xông lại đánh Y Diễn. Các người xung quanh đều khuyên can Ninh Du. Tiên Miệt nghe tin, cũng vội vàng chạy đến, bảo Ninh Du rằng :

– Vua Vệ đã được thần nhân giúp, tất nhiên hưởng lộc còn lâu dài, để tôi sẽ nói lại với chúa công.

Vệ Thành công dẫu có uống phải thuốc độc, nhưng thuốc làm rất nhẹ, bởi vậy chỉ ốm qua loa rồi lại khỏi ngay. Tiên Miệt cùng với Y Diễn về nước Tấn, đem việc ấy nói với Tấn Văn công. Tấn Văn công tin là chuyện thực, liền tha Y Diễn mà không trị tội. Lỗ Hi công nguyên là thân thuộc với Vệ, nghe tin Y Diễn dâng thuốc độc mà Vệ

Thành công không chết, Tấn Văn công lại không trị tội Y Diễn, mới hỏi Tang Tôn Thần rằng :

– Vua Vệ có thể về nước được không ?

Tang Tôn Thần nói :

– Về được

Lỗ Hi công nói :

– Tại sao mà biết ?

Tang Tôn Thần nói :

– Vua Tấn trị tội vua Vệ, không dùng hành pháp mà lại sai Y Diễn đánh thuốc độc. Y Diễn làm không xong việc mà vua Tấn không dám giết Y Diễn, thế là vẫn sợ cái tiếng giết vua Vệ. Vua Vệ đã không chết lần này thì lẽ nào lại chết già đời ở đất nhà Chu được ! Nay chúa công làm ơn xin vua Tấn tha cho vua Vệ thì khi vua Vệ được về nước rồi, tất càng thêm thân tình với nước LỖ ta. Các nước chư hầu, ai mà không phải phục cái cao nghĩa ấy.

LỖ Hi công bằng lòng, liền sai Tang Tồn Thần đem mười đôi bạch bích vào dâng Chu Tương vương để xin hộ cho vua Vệ. Chu Tương vương nói :

– Việc ấy là tự ý Tấn hầu, nếu Tấn hầu bằng lòng thì trẫm có ghét gì Vệ hầu.

Tang Tôn Thần nói :

– Chúa công tôi cũng muốn sai tôi sang nói với Tấn hầu, nhưng nếu không bẩm mệnh thiên tử trước thì tôi không dám đi.

Chu Tương vương nhận ngọc bạch bích, tỏ là có ý thuận cho.

Tang Tôn Thần lại sang nước Tấn, vào yết kiến Tấn Văn công, cũng dâng mười đôi bạch Mạch và nói với Tấn Văn công rằng :

– Chúa công tôi với Vệ hầu là tình thân thuộc, Vệ hầu có tội thì chúa công tôi không được yến lòng. Nay nhà vua đã tha tội cho Tào hầu, vậy chúa công tồi cũng xin đem lễ mọn này mà chuộc tội cho Vệ

Tấn Văn công nói :

– Vệ hầu hiện nay ở kinh sư nhà Chu, việc này phải bẩm mệnh thiên tử, chứ ta không dám tự chuyên

Tang Tồn Thần nồi:

Nhà vua thay quyền thiên tử để ra hiệu lệnh cho chư hầu nếu nhà vua bằng lòng tha tội cho Vệ hầu thì CÓ khác gì mệnh lệnh của thiên tử .

Tiên Miệt nói với Tấn Văn công rằng :

– Chúa cồng vì nước Lỗ mà tha cho vua Vệ thì hai nước Lỗ, Vệ cùng thần phục chúa công, còn gì hay hơn nữa.

Tấn Văn công thuận cho, liền sai Tiên Miệt cùng với Tang Tôn Thần sang tâu với Chu Tương vương, rồi tha cho Vệ Thành công về . Bấy giờ Nguyên Huyền đã lập công tử Hà lên làm vua nước Vệ; sửa sang thành quách, canh giữ rất nghiêm mật. Vệ Thành công sợ khi mình về nước, tất nhiên Nguyên Huyền không cho vào, mới bàn mưu với Ninh Du.

Ninh Du nói :

– Tôi nghe Chu Chuyên, Dã Cận khi trước có công phù lập công tử Hà, mà xin làm quan khanh không được, bởi vậy trong lòng oán giận, nay ta nên kết giao với hai người ấy để làm nội ứng. Tôi có quen thân với một người, tên gọi Không Đạt ; người ấy có tài kinh luân, cũng có quen biết Chu Chuyên và Dã Cận, bây giờ nếu bảo Không Đạt

vâng mệnh chúa công hẹn cho Chu Chuyên và Dã Cận làm chức công khanh, để sai hai người ấy giết Nguyên Huyền, thì chẳng còn sợ ai nữa !

Vệ Thành công nói :

– Nhà ngươi vì ta mà mưu việc ấy, nếu thành việc, ta có tiếc gì một chức công khanh.

Ninh Du liền sai người tâm phúc phao tin là Vệ thành công đã được tha tội, nhưng không mặt mũi nào mà về nước, vì vậy sắp sửa đi tránh nữa ở nước Sở ; rồi đem tờ thủ thư của Vệ Thành công đưa cho Không Đạt để làm tin và bảo Khổng Đạt mạt kết với Chu Chuyên và Dã Cận. Chu Chuyên và Dã Cận bàn nhau rằng :

– Nguyên Huyền đêm nào cũng đi tuần ở trên mặt thành nếu ta phục binh mà giết chết đi, rồi kéo vào trong cung, giết nốt công tử Hà, rồi đón chúa công, như thế tức là hai ta có công to lắm !

Nói xong, hai người đều cho quân phục sẵn để đến đêm thì khởi sự Đêm hôm ấy Nguyên Huyền đi tuần tới cửa đông, trông thấy Chu Chuyên và Dã Cận đi đến, bèn giật mình kinh sợ mà hỏi rằng :

– Hai ngài đến đây có việc gì ?

Chu Chuyên nói :

– Tôi nghe người ngoài đồn rằng vua cũ ta đã về nước, sắp sửa tới đây, đại phu lại không biết hay sao ?

Nguyên Huyến ngạc nhiên mà nói rằng :

– Tin đồn ấy từ đâu lại? .

Dã Cận nói :

– Tôi nghe Ninh Du có cho người vào thành, ước với các quan triều thần đi đón, đại phu tính thế nào ?

Nguyên Huyến nói :

– ĐÓ là lời nói bậy, ta chớ nên tin. Và ngôi vua đã nhất định rồi, lẽ nào lại còn đón vua cũ ?

Chu Chuyên nói :

– Đại phu tay cầm quyền nước, nên phải trông xa muôn dặm, việc lớn như thế mà không biết người ta còn dùng ngài làm gì

Dã Cận bèn nắm lấy hai tay Nguyên Huyền. Nguyên Huyến vùng vằng chống cự lại. Chu Chuyên cầm dao, quát to một tiếng, chém vào đầu Nguyên Huyền. Phục binh bốn mặt đổ đến. Những quân sĩ đi theo Nguyên Huyền đều bỏ chạy tán loạn. Chu Chuyên và Dã Cận đem quân đi diễu ở ngoài đường, reo rầm lên rằng :

– Vua Vệ đã đem quân Tề và quân Sở về, đóng tại ngoài thành rồi ! Nhân dân trong nước, đâu ở yên đấy, không được náo động.

Bấy giờ dân trong thành nhà nhà đều đóng cửa thật chặt, không ai dám ra ; các quan triều thần cũng nửa tin nửa ngờ, chưa hiểu sự thể ra sao cả, chỉ khoanh tay ngồi yên, để nghe ngóng tin tức.

Chu Chuyên và Dã Cận kéo vào trong cung. Tử Thích (tức là Tử Hà) đang cùng với em là Tử Nghi uống rượu. Tử Nghi nghe nói mặt ngoài có biến, liền rút gươm cầm ta đi ra cửa cung, bị Chu Chuyên. giết chết. Chu Chuyên lại vào tìm cồng tử Thích, nhưng không thấy đâu cả. Bấy giờ trong cung náo động cả lên ; đến sáng, mới biết công tử Thích đã đâm đầu xuống giếng mà chết rồi. Chu Chuyên và Dã Cận đem thủ thư của Vệ Thành công tuyên yết ở chốn triều đường, rồi cùng các quan đi đón Vệ Thành công về nước, chọn ngày vào tế ở nhà Thái miếu. Vệ Thành công theo lời ước cũ phong Chu Chuyên và Dã Cận làm chức thượng khanh cho vào làm bồi tế. Đầu trống canh năm ngày hôm ấy, Chu Chuyên mũ áo lên xe vào tế, vừa vào đến cửa miếu, tự nhiên hai mắt trợn ngược, rồi quát to lên rằng :

– Chu Chuyên ! Mày là đồ chó má, tham chức công khanh mà hại ta ? Cha con ta một lòng vì nước, nay phải ngậm oan ở dưới suối vàng để cho mày được mũ áo xênh xang, mày sướng nhỉ ? Ta chỉ bắt mày đẽm đến nộp Thúc Vũ và công tử Thích, xem mày nói ra làm sao ? Ta chính là quan đại phu Nguyên Huyền đây ?

Nói xong, hộc máu mồm ra, mà chết tươi ở trong xe. Dã Cận đến sau trông thấy, giật mình kinh sợ, vội vàng cởi bỏ mũ áo ra, giả cách bị bệnh cảm hàn mà trở về. Vệ Thành công đến nhà Thái miếu, phải cho Ninh Du cùng Khổng Đạt vào bổi tế thay Chu Chuyên và Dã Cận: Khi Vệ Thành công về triều thì đã tiếp được thư của Dã Cận xin từ chức. Vệ thành công thấy Chu Chuyên chết lạ như vậy, nên cũng không ép Dã Cận nữa, liền cho từ chức. Chưa được một tháng thì Dã Cận cũng ốm mà chết. Vệ Thành công nghĩ Ninh Du có công bảo giá toan dùng làm thượng khanh. Ninh Du nhường cho Khổng Đạt. Vệ Thảnh công liền cho Khổng Đạt lảm thượng khanh, Ninh Du làm á khanh. Khổng Đạt bàn mưu với Vệ Thành công, đem việc công tử Thích chết, đổ lỗi cho Chu Chuyên và Dã Cận, rồi sai sứ đến tạ ơn Tấn Văn công. Nước Tấn cũng xếp việc ấy lại, không hỏi đến nữa.

Nước Tấn nghỉ quân đã được hơn một năm, Tấn Văn công họp các quan triều thần lại mà hỏi rằng :

– Người nước Trịnh ngày trước vô lễ mà ta chưa báo thù được, nay nước Trịnh lại bỏ ta mà theo sở, ta muốn họp chư hầu để cùng đi hỏi tội nước Trịnh, các ngươi nghĩ thế nào ?

Tiên Chẩn nói :

– Các nước đã động binh nhiều lần, nay vì cớ nước Trịnh mà lại hiệu triệu chư hầu một lần nữa, thì không phái là cách giữ yên Trung quốc Huống chi nước ta quân hùng tướng mạnh, cần gì phải mượn đến quân chư hầu.

Tấn Văn công nói :

– Khi trước vua Tấn từ biệt ta có ước với ta rằng : sau này hai nước có việc chiến tranh, tất phải giúp đỡ lẫn nhau.

Tiên Chẩn nói :

– Nước Trịnh ở một nơi trọng yếu ở trung quốc, bởi vậy Tề Hoàn công ngày xưa, muốn làm bá chủ, tất phải tranh lấy nước trịnh ; nay ta ước với nước Tần cùng đánh thì Tần tất tranh mất, chi bằng ta chi dùng quân nước nhà mà thôi.

Tấn Văn công nói :

– Đất nước Trịnh tiếp giáp với địa giới nước Tấn ta mà xa nước Tần thì nước Tần còn lợi về nỗi gì !

Nói xong, liền sai người sang ước với nước Tần, hẹn đến thượng tuần tháng chín thì gặp nhau ở nước Trịnh. Khi Tấn Văn công cử binh đi đánh Trịnh, có cho công tử Lan đi theo. Công tử Lan nguyên là thứ đệ của Trịnh Văn công, năm trước trên sang nước Tấn, làm quan đại phu ; đến lúc Tấn Văn công lên ngôi, công tử Lan hầu hạ tay chân, một lòng trung cẩn, bởi vậy Tấn Văn công có lòng yêu Lần này cho công tử lan đi theo, là muốn dùng công tử Lan làm hướng đạo. Công tử Lan chối từ, nói :

– Người quân tử dẫu ở nước ngoài cũng không dám quên nước cũ của cha mẹ mình. Nay chúa công sang đánh nước Trịnh, tôi không dám dự biết việc ấy.

Tấn Văn công khen rằng :

– Nhà ngươi thật là một người không bội phản !

Nói xong, liền lưu công tử Lan ở Đông đô, từ bấy giờ có ý nâng đỡ cho công tử Lan lên làm vua nước Trịnh. quân Tấn đã vào địa giới nước Trịnh, thì Tần Mục công cũng đem quân đến, hai bên hợp quân đánh phá các đồn ải và thẳng tiến đến sông Khúc Vị. Quân Tấn đóng ở đất Hàm Lăng, về phía tây thành nước Trịnh. Quân Tần đóng

ở đất Dĩ Nam, về phía đông thành nước Trịnh. Quân Tấn và quân Tần ngày đêm vây kín bốn mặt. Trịnh Văn công sợ hãi, không biết làm thế nào. Đại phu là Thúc Thiêm nói với Trịnh Văn công rằng :

– Tần Tấn hợp sức nhau thì thế mạnh lắm, ta không thể chống nổi, những nếu được một người có tài biện bác nói với vua Tần, khiến cho nước Tần lui quân, thì nước Tấn thế cô, ta chẳng sợ gì nữa !

Trịnh Văn công nói :

– Ai có thể ra nói với vua Tần được ?

Thúc Thiêm nói :

– Dật Chi HỖ có thể dùng được.

Trịnh Văn công liền sai Dật Chi Hồ. Dật Chi HỒ nói :

– Việc ấy tôi không thể đương nổi, tôi xin cử một người để thay tôi. Người ấy có tài ứng đối, lôi cuốn người ta như dòng sông, nhưng nay đã già rồi, nếu chúa công phong chức cho, khiến ra nói với vua Tần, thì chắc là vua Tần phải nghe.

Trịnh Văn công hỏi :

– Người nào vậy ?

Dật Chi HỒ nói :

– Người ấy ở đất Khảo Thành, tên gọi Chúc Vũ, năm nay đã ngoại bảy mươi tuổi, ba đời vẫn làm chức ngự chính, xin chúa công trọng đãi mà sai đi thì tất được việc.

Trịnh Văn công liền triệu Chúc Vũ vào triều. Khi Chúc Vũ vào, thì tóc bạc, lưng còng, chân đi lẩy bẩy, các quan trông thấy, ai cũng phải cười thầm. Chúc Vũ sụp lạy Trịnh Văn công mà nói rằng :

– Chẳng hay chúa công triệu lão thần có việc gì ?

Trịnh Văn cồng nói :

– Dật Chi HỒ nói nhà ngươi có tài biện bác hơn người, ta muốn phiền nhà ngươi ra nói với vua Tần ; nếu vua Tần chịu lui quân thì ta sẽ trọng dụng nhà ngươi.

Chúc Vũ sụp lạy hai lạy mà chối từ rằng :

– Tôi sức hèn tài mọn, đang lúc trai trẻ còn chẳng làm nên việc gì nay đã già yếu, gân sức mỏi mệt, động cất tiếng nói thì lại ho hen, vậy tôi nói với vua Tần sao được ?

Trịnh Văn công nói :

– Để cho nhà ngươi già mà không được dùng, ấy là cái lỗi của ta đó ? Nay ta phong cho nhà ngươi làm chức á khanh. nhà ngươi cố đi giúp ta.

Dật Chi HỒ đứng bên cạnh, lại nói thêm vào rằng :

– Đại trượng phu già mà không đắc dụng, chẳng qua cũng là số mệnh. Nay chúa công đã biết đến tiên sinh mà dùng, tiên sinh cbớ lên từ chối.

Chúc Vũ mới nhận lời. Bấy giờ quân Tần và quân Tấn vây trịnh gấp lắm ; đêm hôm ấy, Chúc Vũ sai kẻ tráng sĩ dòng dây trên thành xuống cửa đông, rồi đi thẳng đến dinh quân Tần. Quân Tần

không cho vào. Chúc Vũ đứng ngoài cửa dinh khóc rầm lên. Quân Tần bắt đem vào nộp Tần Mục công. Tần Mục công hỏi :

– Nhà ngươi là người ở đâu ?

Chúc Vũ nói : .

– Lão thần là quan đại phu nước Trịnh, tên gọi Chúc Vũ.

Tần Mục công nói :

-Vì việc gì mà nhà ngươi khóc?

Chúc Vũ nói :

– Tôi khóc là vì nước Trịnh sắp mất. .

Tần Mục công nói : .

Nước Trịnh sắp mất, sao nhà ngươi lại đến khóc ở cửa dinh ta ?

Chúc Vũ nói : .

Lão thần khóc nước Trịnh, và khóc Cả nước Tần nhân thể . Nước Trịnh mất chẳng đáng tiếc, chỉ đáng tiếc cho nước Tần !

Tần Mục công nổi giận mà mắng rằng :

– Nước ta có điều gì đáng tiếc ? Nhà ngươi nói không hợp lý thì ta chém đầu đó.

Chúc Vũ nét mặt không sợ hãi gì cả, ung dung đáp rằng :

– Tần Tấn hợp sức mà đánh Trịnh thì Trịnh tất phải mất, không đợi nói nữa ! Trịnh mất mà có ích được cho Tần, thì kẻ hạ thần côn dám nói gì, nhưng chẳng những không ích mà lại còn có hại thì sao nhà vua lại chịu nhọc quân tốn của, để giúp việc cho người khác nhưvậy?

Tần Mục công nói :

– Chẳng những không ích mà lại có hại là nghĩa thế nào ?

Chúc Vũ nói :

– Nước Trịnh ở phía đông nước Tấn, nước Tần ở phía tây nước Tấn, đông tây cách nhau, kể hàng nghìn dặm. Nước Tần có thể vượt qua nước Tấn, nước Chu mà chiếm được nước Trịnh hay không ? Nước Trịnh mất thì địa giới nước Trịnh thuộc về nước Tấn, chứ nước Tần có được gì ? Tần Tấn giáp giới với nhau, thế lực vẫn ngang nhau, nếu nước Tấn mỗi ngày một cường thịnh thì nước Tần tất mỗi ngày một suy yếu Mở đất cho người ta mà làm cho nước mình suy yếu đi, tôi thiết tưởng bậc trí giả có đâu lại làm như thế ! Vả Tấn Huệ công ngày xưa hẹn biếu nhà vua năm thành, khi đã về nước rồi thì lại bội ước, điều đó nhà vua cũng đã biết ; nhà vua làm ơn cho Tấn đã mấy đời, mà có thấy Tấn giả ơn chút nào không ? Vua Tấn từ khi về nước,

luyện binh tuyển tướng, chỉ chăm về việc đi chiếm đất nước ngoài, ngày nay mở đất ở phía đông, đã làm mất nước Trịnh rồi, ngày khác muốn mở đất ở phía tây thì cái tai vạ ấy tất phải đến nước Tần chịu.

Chúa công lại không rõ việc nước Ngu và nước Quắc ngày xưa hay sao ? Nước Tấn mượn đường nước Ngu để diệt nước Quắc khi đã diệt được Quắc rồi thì lại quay về mà đánh Ngu. Vua Ngu dại dột mà giúp Tấn, đến nỗi mất nước, điều ấy không có gì là đáng tin cậy, mà nước Tấn lập kế để dáng chúa công, thì cái kế ấy lại khó mà lường được ? Chúa công là bậc trí giả mà mắc mưu Tấn như thế, cho nên tôi bảo là không những vô ích mà còn có hại, và sở dĩ tôi khóc ở đây cũng là vì thế

Tần Mục công lắng nghe hồi lâu, đổi hẳn sắc mặt, chốc chốc lại gật đầu rồi nói rằng :

– đại phu nói phải lắm!

Bách Lý Hề nói với Tần Mục công rằng :

– Chúc Vũ là một biện sĩ, chỉ muốn cho ta bất hòa với Tấn . đó thôi chúa công chớ nên nghe

Chúc Vũ nói :

– Nếu chúa công giải vây cho nước tôi thì nước tôi xin lập điều ước, bỏ Sở để hàng Tần ; khi nào nước Tần có việc ở phía đông thì nước tôi xin cung cấp vật dụng như là một phủ ngoài của nước Tần vậy

Tần Mục công bằng lòng lắm, liền cùng với Chúc Vũ lập điều ước lại sai Kỷ Tử, Phùng Tôn và Dương Tôn ba tướng đóng quân lại, để giữ hộ cho nước Trịnh, rồi không cáo từ với vua Tấn mà bí mật rút quân về. CÓ quân thám tử báo tin cho Tấn Văn công. Tấn Văn công nổi giận. HỒ Yến ở bên cạnh, nói với Tấn Văn công, xin đem quân đuổi theo để đánh quân Tần.

Chương 44: Thúc Thiêm lâm hình cãi vua Tấn – Huyền Cao giả mệnh khao quân Tần

Tần Mục công giảng hòa riêng với nước Trịnh, kết lập điều ước, rồi rút quân về. Tấn Văn công nổi giận. Hỗ Yến nói rằng :

Quân Tần dẫu đi, nhưng cũng chưa xa, tôi xin đem quân đi đuổi đánh Quân Tần đã có lòng về thì tất không có chí muốn đánh, tôi chắc rằng chỉ một trận là đủ phá được quân Tần ; ta đã phá được quân Tần thì quân Trịnh sẽ mất vía, không đợi đánh mà tự khắc phải hàng.

Tấn Văn công nói :

– Không nên ! Ngày xưa ta nhờ sức vua Tần mà được phục quốc, nếu không có vua Tần thì sao ta được thế này ? Thành đắc Thần vồ lễ với ta, mà ta còn lui quân ba xá để trả ơn nước Sở, huống chi là vua Tần ! Vả không có quân Tần, ta cũng vây nổi nước Trịnh, chứ có lo gì !

Nói xong, liền chia quân mấy mặt, cứ việc vây thành nước Trịnh. Trịnh Văn công lại bảo Chúc Vũ rằng :

Tần chịu lui quân là nhờ sức nhà ngươi, nhưng quân Tấn chưa lui thì biết làm thế nào ?

Chúc Vũ nói :

Tôi nghe nói vua Tấn yêu công tử Lan lắm, nay ta sai người đón công tử Lan về mà giáng hòa thì tất thế nào vua Tấn cũng thuận cho

Trịnh Văn công nói :

– việc này lại phải nhờ đến lão đại phu đi giúp cho mới được.

Thạch Thân Phủ nói với Trịnh Văn công rằng :

– Chúc Vũ nhọc lắm rồi, để tôi xin đi thay.

Nói xong, liền đem lễ vật đến dinh Tấn Văn công, xin vào yết kiến. Tấn Văn công cho vào. Thạch Thân Phủ sụp lạy dâng lễ vật nói với Tấn Văn công rằng :

Chúa công tôi vì cớ ở gần nước Sở, vậy nên không dám ra mặt chống cự với Sở, nhưng kỳ thực vẫn thần phục nhà vua. Nay. nhà vua đem quân đến đánh, chúa công tôí biết tội đã nhiều, sai tôi đem những bảo vật của cha ông để lại đến dâng nhà vua để tạ tội. Chúa công tôi có người em là công tử Lan, lâu nay được hầu hạ nhà vua, xin nhà vua vì tình công tử Lan mà cho nước tôi được giáng hòa ; xin nhà vua cho công tử Lan về giám sát quyền chính nước Trịnh, công Tử Lan ngày ngày có mặt, nước tôi đâu dám đổi lòng.

Tấn Văn cồng nói :

Nước ngươi lập kế khiến cho Tần lui quân là có ý khinh ta một mình không hạ nổi nước Trịnh ; nay lại xin giảng hòa, chẳng qua là muốn dùng kế hoãn binh để đợi quân Sở đến cứu viện đó thôi. Nay muốn cho ta lui quân thì tất phải theo ta hai điều.

Thạch Thân Phủ nới :

– Hai điều ấy là gì, xin nhà vua dạy cho.

Tấn Văn công nói :

– Một là phải lập công tử Lan làm thế tử ; hai là phải đem Thúc Thiêm sang nộp ta, có như thế mới tỏ rõ tấm lòng thành thực của Trịnh hầu được.

Thạch Thân Phủ về nói với Trịnh Văn công. Trịnh Văn công nói :

Ta chưa có con trai, mà công tử Lan thì ngày xưa có ứng vào mộng triệu, nay lập làm thế tử cũng có thể được ; còn Thúc Thiêm là bề tôi tay chân của ta, ta bỏ đi thế nào cho đành !

Thúc Thiêm nói :

– Vua Tấn đòi nộp tôi, nếu tôi không sang thì không chịu lui quân, vậy thì có đâu tôi dám sự chết mà để nỗi lo cho chúa công. Xin chúa công cứ cho tôi đi.

Trịnh Văn công nói :

Ta không muốn để cho nhà ngươi đi, vì nhà ngươi đi thì tất phải chết !

Thúc Thiêm nói :

– Chúa công không nỡ để cho tôi chết, mà nỡ để cho trăm họ phải chịu lầm than khổ sở hay sao ? BỎ một mạng tôi mà cứu được trăm họ, chúa công tiếc gì !

Trịnh Văn công ứa nước mắt cho đi. Thạch Thân Phủ đưa Thúc Thiêm sang nộp Tấn Văn công, và xin đón công tử Lan về để lập làm thế tử. Tấn Văn công bằng lòng, bảo Thạch Thân Phú hãy đợi ở trong dinh, rồi sai HỒ Yến đến Đông ĐÔ triệu công tử Lan.

Khi Tấn Văn công trông thấy Thúc Thiêm thì quát to lên mà mắng rằng :

Nhà ngươi cầm quyền chính nước Trịnh mà để cho vua Trịnh thất lễ với ta, đó là một tội ; nước Trịnh đã dự hội với ta, mà sau lại bội ước, đó là hai tội !

Nói xong, liền sai quân sĩ đem vạc ra, sắp sửa để nấu Thúc Thiêm. Thúc Thiêm vẫn cứ nghiễm nhiên, không sợ hái gì cả, chắp tay mà nói với Tấn Văn công rằng :

Tôi đành phận chết, nhưng xin nhà vua hãy cho tôi nói hết lời.

Tấn Văn công nói :

– Nhà ngươi nói điều gì ?

Thúc Thiêm nói :

Khi trước nhà vua qua nước tôi, tôi có nói với chúa công tôi rằng : nhà vua là người hiền minh, mà các người đi theo hầu lại toàn là những bậc tài giỏi cả, vậy thì khi về nước tất làm bá chủ ; đến khi nhà vua hội chư hầu ở đất ôn ấp, tôi lại khuyên chúa công tôi một lòng thờ Tấn, chớ có bội ước, nhưng trời làm hại nước tôi, khiến cho lời

nói của tôi không được dùng. Nay nhà vua đòi bắt tôi, chúa công tôi cũng thương là vô tội, toan không cho đi ; tôi xin liều một mình tôi để cứu cho trăm họ. Phàm người ta, việc gì cũng liệu trước được, thế là trí ; một lòng giúp nước, thế là trung ; không tránh hoạn nạn, thế là dũng ; liều mình để cứu trăm họ, thế là nhân. CÓ người bề tôi đủ cả nhân, trí, trung, dũng như thế thì cố nhiên theo pháp luật nước Tấn phải đem bỏ vào vạc mà nấu !

Nói xong, tay nắm tai vạc mà kêu to lên rằng :

– Từ nay trở đi, những người làm bề tôi, nên lấy Thúc Thiêm này làm răn ?

Tấn Văn công hoảng hốt, liền thuyền tha ngay Thúc Thiêm rồi nói với Thúc Thiêm rằng :

– Ta thử nhà ngươi đó thôi ! Nhà ngươi thật là một người giỏi !

Từ đó Thúc Thiêm được kính trọng và hậu đãi khác thường.

được mấy ngày thì công tử Lan ở Đông ĐÔ đến. Tấn Văn công báo cho biết sự thể nước Trịnh đón về, lại bảo Thúc Thiêm và bọn Thạch Thân Phủ lấy lễ thế tử mà yết kiến công tử Lan, rồi rước vào trong thành nước Trịnh. Trịnh Văn công lập công tử Lan làm thế tử. Bấy giờ Tấn Văn công mới rút quân về nước. Năm ấy, Ngụy Thù say rượu, ngã xe gãy tay, bệnh cũ lại phát, rồi hộc máu ra mà chết. Tấn Văn công cho

con Ngụy Thù là Ngụy Khỏa được nối quan tước. Chưa được bao lâu, HỒ Mao và HỖ Yến cũng đều ốm chết cả. Văn công thương xót vô cùng khóc mà rằng :

– Ta được thoát hoạn nạn mà có ngày nay là sức của hai quốc cữu, chẳng ngờ hai quốc cữu lại bỏ ta mà đi, khiến cho ta như người mất cánh tay phải, thương ôi !

Tư Thần nói với Tấn Văn công rằng :

– Chúa công tiếc tài hai vị HỒ quốc cữu, tôi xin cử một người khác cũng có tài làm khanh tướng được.

Tấn Văn công nói :

– Nhà ngươi định cử ai ?

Tư Thần nói :

– Ngày trước tôi đi sứ qua đổng Ký Giã, thấy một người đang cày ruộng ; người vợ đem cơm đến bờ ruộng, hai tay bưng đưa cho chồng, chồng cũng kính trọng mà đỡ lấy. Lúc người chồng ăn thì người vợ đứng hầu ở bên cạch, chỉ hai vợ chồng với nhau, mà còn kính trọng nhau như khách lạ, huống chi là khi đối với người khác. Tôi nghe nói người biết giữ lễ phép là người có đức hạnh, nên tôi đến hỏi họ tên thì ra đó là con trai của Khước Nhuế, tên gọi Khước Khuyết. Nếu nước Tấn ta dùng được người ấy thì cũng chẳng kém gì HỒ quốc cữu.

Tấn Văn công nói :

Cha có tội, chẳng lẽ lại dùng con ư ?

Tư Thần nói :

– Nghiêu, Thuấn là thánh nhân mà có con là Đan Chu và Thương Quân là người bất đức ; Cổn là người ác mà có con là vua Vũ là bậc thánh nhân, thế mới biết thiện ác không phải là cha truyền con nối. Sao chúa công lại nghĩ đến điều ác của cha mà bỏ cái tài hữu dụng của con ?

Tấn Văn công khen phải mà bảo rằng :

– Nhà ngươi triệu Khước Khuyết đến đây cho ta.

. Tư Thần nói :

Nguyên tôi sợ người ấy trốn sang nước khác thì người ta dùng mất, vậy đã mời về ở tại nhà tôi. Xin chúa công sai sứ đến triệu, mới phải đạo cầu hiền.

Tấn Văn công theo lời sai nội thị đem áo bào mũ giải đi mời Khước Khuyết. Khước Khuyết sụp lạy mà từ chối rằng :

Tôi là một kẻ nông phu Ởø Ký Giã, chúa công nghĩ đến tội cha tôi mà khoan dung cho cũng đã đội ơn lắm rồi, đâu còn dám lạm dự quan tước.

NỘI thị về nói với Tấn Văn công. Tấn Văn công hai ba lần sai nội thị khuyên mời, Khước Khuyết mới đội mũ mặc áo vào triều.

Khước Khuyết mình dài chín thước, mũi cao mặt to, tiếng nói sang sảng như tiếng chuông. Tấn Văn công trông thấy mừng lắm, liền cho Tư Thần làm chánh tướng ở đạo hạ quân, mà lấy Khước Khuyết làm phó tướng Nước Tấn lại mới lập ra hai đạo quân là : tân thượng quân và tân hạ quân. Tân Thượng quân thì cho Triệu Thôi làm chánh tướng, mà lấy Cơ Trịnh làm phó tướng. Tân hạ quân thì cho Tư Anh (Con Tư Thần) làm chánh tướng, mà lấy Tiên ĐÔ làm phó tướng.

Sở Thành vương nghe tin nước Tấn sửa sang quân chính có ý sợ hãi, mới sai quan đại phu là Đấu Chương xin giảng hòa. Tấn Văn công nghĩ đến ơn cũ, cũng bằng lòng, sai quan đại phu là Dương Xử Phủ sang ăn thề với nước Sở.

Trịnh Văn công mất năm 24 đời Chu Tương vương. Triều thần tôn công tử Lan lên nối ngôi, tức là Trịnh Mục công, quả ứng vào cái triệu nằm mộng thấy cành hoa lan ngày trước. Mùa đồng năm ấy, Tấn Văn công ốm nặng, gọi bọn Triệu Thôi, Tiên Chẩn, HỒ Xạ CÔ và Dương Xử Phủ vào nghe di mệnh , để sau phù tá thế tử hoan nối được

nghiệp bá. Lại sợ các vị công tử khác có lòng tranh cạnh, mới cho công tử Ung (con nàng ĐỖ Kỳ) sang làm quan ở nước Tần ; công tử Lạc (con nàng Doanh Thần) sang làm quan ở nước trần ; còn người con bé là Hắc điền thì cho sang làm quan ở nhà Chu, để cầu thân với thiên tử.

Tấn Văn công mất, ở ngôi được tám năm, thọ 68 tuổi. Thế tử Hoan lên nối ngôi, tức là Tấn Tương Công Tấn Tương công rước linh cữu Tấn Văn công đưa ra quàn ở đất Khúc ốc. Khi ra khỏi cửa thành, tự nhiên trong linh cữu có tiếng kêu to như tiếng trâu rống, mà linh cữu thì nặng lắm, xe không đi được. Triều thần từ lớn đến nhỏ ai cũng sợ hãi.

Quan thái bốc là Quách Yển bói một quẻ, rồi đoán trong quẻ bói rằng :

Trong mấy ngày qua thì có giặc tự tây phương đến, nhưng quân ta đánh được, bởi vậy tiên quân báo trước cho chúng ta biết.

Triều thần lạy tạ ở trước linh cữu. Bấy giờ linh cữu lại đi được như thường Tiên Chẩn nói : “Tây phương tức là nước Tần”, liền sai người đi do thám tin nước Tần.

Lại nói chuyện ba tướng nước Tần là Kỷ TỬ, Phùng Tôn và Dương Tồn đóng quân để phòng ngự cho nước Trịnh, thấy nước tấn đưa công tử lan về lập làm thế tử và giải vây cho nước trịnh thì lấy làm tức giận nói:

Chúng ta đóng quân ở đây để giúp nước trịnh đối phó với nước tấn, ai ngờ trịnh lại đầu hàng nước tấn, vậy công chúng ta thật uổng .

Nói xong, liền sai người mật báo với Tần Mục công. Tần Mục công trong lòng cũng có ý giận, nhưng nể Tấn Văn công, không dám nói ra, đến lúc công tử Lan lên làm vua nước Trịnh, tiếp đãi bọn Kỷ Tử cũng không ra gì. Kỷ Tử mới cùng với Phùng Tôn và Dương Tôn thương nghị rằng: .

– Chúng ta đóng đồn ở đây, không biết bao giờ cho xong việc, chi bằng ta mật tâu với chúa công đem quan sang đây để đánh úp nước Trịnh thì chúng ta kiếm được lợi to mà về.

Trong khi ba người đang thương nghị với nhau, thì lại nghe tin Tấn Văn công mất. Kỷ Tử liền chấp tay lên trán mà nói :

đó là lòng trời muốn giúp cho chúng ta được thành công đó ?

Kỷ Tử sai người tâm phúc về mật tâu với Tần Mục công rằng :

Nước Trịnh giao cho chúng tôi giữ mặt Bắc môn, nếu chúa công cho một đạo quân lẻn sang đánh Trịnh, thì đã có chúng tôi làm nội ứng, vậy tất phá vỡ được. Nước Tấn đang có tang, tất không sang cứu nước trịnh và vua Trịnh cũng mới lên nối ngôi, việc phòng thủ chưa được cẩn thận lắm, chúa công chớ nên bỏ mất cơ hội này.

Tần Mục công tiếp được mật thư liền cùng với Kiển Thúc và Bách Lý Hề thương nghị. Kiển Thúc và Bách Lý Hề đồng thanh mà can rằng :

– Nước Tần ta xa cách Trịnh, kể hàng nghìn dặm, không thể chiếm cứ lấy nước Trịnh được, chẳng qua chỉ lấy được của cải đem về mà thôi. Ta đem quân đi nghìn dặm, tài nào mà che được tai mắt thiên hạ, nếu kẻ kia biết mà phòng thủ trước, có phải là ta uổng công khó nhọc không ? Vả mới đây mình đem quân sang để giữ hộ nước cho

người ta mà nay lại đánh, sao gọi là tín được ? Nhân lúc người ta có tang mà đánh, sao gọi là nhân được ? Việc này nếu thành thì cái lợi cũng nhỏ thôi mà nếu không thành thì cái bại lớn lầm, thế sao gọi là trí được ? Mất cả ba điều ấy, thì chúng tôi không thấy việc này nên làm ở chỗ nào đây.

Tần Mục công phật ý đáp rằng :

– Ta đây, ba lần lập vua cho nước Tấn, hai lần dẹp loạn cho nước Tấn, uy danh lừng lẫy khắp thiên hạ. Chỉ vì vua Tấn đánh được quân sở ở Thành Bộc, vậy nên ta nhường cho Tấn làm bá chủ, nay vua Tấn tạ thế rồi, thiên hạ chẳng còn ai địch nổi ta. Nước Trịnh theo Tấn chẳng qua như con chim tựa người, có lúc cũng phải bay đi, chi bằng ta nhãn cơ hội này sang diệt nước Trịnh, rồi đổi cho Tấn mà lấy đất Hà Đông thì Tấn tất phải nghe, sao lại bảo rằng không lợi ?

Kiến Thúc lại nói :

Sao chúa công không sai người sang viếng tang nước Tấn, nhân tiện mà viếng tang nước Trịnh để dò xem tình hình nước Trịnh có nên đánh hay không ? Chớ nên nghe lời bọn Kỷ Tử vội.

Tần Mục công nói : .

Nếu đợi đi viếng tang, rồi mới đem quân sang đánh thì những đi cùng về đã gần một năm, cái đạo dùng binh phải như sét đánh ngang trời, không kịp bưng tai mới được. Nay nhà ngươi già lẫn rỗi không hiểu điều ấy !

Nói xong, liền sai người mật báo cho bọn Kỷ Tử biết trước rằng đến thượng tuần tháng hai thì đem quân tới Bắc môn để đánh Trịnh, rồi tức khắc cho mạnh Minh (con Bách Lý Hề) làm chánh tướng, Tây Khất Thuật và Kiến Bính (con Kiến Thúc) làm phó tướng đem hơn hai nghìn quân thẳng đường tiến sang nước Trịnh. Khi Mạnh Minh

và Kiến Bính đem quân đi, Bách Lý Hề cùng với Kiến Thúc ra tiễn, khóc mà bảo rằng :

Than ôi ? Ta trông thấy con đi, mà không được trông thấy con về ?

Tần Mục công giận lắm, sai người trách Bách Lý Hề và Kiến Thúc rằng :

Sao nhà ngươi lại dám khóc quân ta, muốn làm cho quân ta ngã lòng hay sao ?

Bách Lý Hề và Kiến Thúc nói :

Chúng tôi có dám khóc quân sĩ đâu, chỉ khóc riêng con chúng tôi mà thôi.

Kiến Bính thấy cha khóc, toan từ chối không đi. Kiến Thúc nói :

Cha con ta ăn lộc nước Tần bấy lâu, nay con chết để báo ơn nước Tần cũng là phải đạo !

Nói xong, liền đưa cho Kiến Bính một bức thư, niêm phong rất kỹ, lại dặn một câu rằng :

Con cứ theo lời dặn trong thư này ?

Kiến Bính vâng lời rồi đi, nhưng trong lòng vừa nghi hoặc, vừa buồn rầu, chỉ có Mạnh Minh cậy tài vũ dũng, chắc là thế nào cũng thành công không cần nghĩ ngợi. Khi đại binh đã đi rồi, Kiến Thúc cáo ốm không vào triều và xin từ chức. Tần Mục công cố ép mãi, Kiến Thúc cáo là ốm nặng, rồi xin về ở diệt Thôn. Bách Lý Hề đến nhà hỏi thăm, bảo Kiến Thúc rằng :

Tôi không phải là không biết cơ mà từ chức đâu, sở dĩ còn ở lại đây là còn mong có ngày được trông thấy mặt con tôi. CÓ điều gì xin Ngô huynh chi bảo cho.

Kiến Thúc nói :

– Quân Tần ta đi chuyến này tất thua, hiền đệ nên mật báo công tôn Chi sắp thuyền bè ở sông Hoàng Hà, may ra các tướng thoát được thì đón về. Nhớ kỹ, nhớ kỹ !

Tần Mục công nghe nói Kiến Thúc quyết chí xin về làm ruộng, thì ban cho vàng đỏ hai mươi cân, lụa hoa một trăm tấm. Các quan đều đi tiễn ra đến ngoài cửa quan mới về. Bách Lý Hề cầm tay công tôn Chi, đem lời nói của Kiến Thúc thuật lại cho nghe, và dặn công tôn Chi rằng :

– Việc này, Kiến tiên sinh không ủy thác ai mà ủy thác tướng quân, là biết tướng quân trung dũng, hết lòng lo việc nước, vậy tướng quân nên lưu ý, chớ tiết lộ cho ai biết.

Công tôn Chi nói :

– Xin vâng lời.

Nói xong liền sắp sẵn thuyền bè ở bên sông Hoàng Hà.

Mạnh Minh thấy Kiến Thúc đưa cho Kiến Bính một phong mật thư thì nghi là trong thư tất có kỳ kế để phá quân Trịnh, đêm hôm ấy đến dinh Kiến Bính xin cho xem. Kiến Bính mở thư ra đọc. Trong thư có mấy hàng chữ như sau : “Chuyến đi này, không lo gì quân Trịnh, chi lo quân Tấn mà thôi. Chỗ Hào Sơn địa thế hiểm lắm, con nên cẩn

thận. Không khéo thì ta phải nhặt xương con ở chỗ ấy đó

Mạnh Minh trông thấy, liền đứng dậy đi ra rất nhanh, vừa đi vừa nói :

– Thôi thôi ! Điềm chẳng lành . Điềm chẳng lành !

Kiến Bính cũng cho là vị tất đã như thế. Quân Tần khởi hành từ tháng chạp năm trước, đến tháng giêng năm sau qua cửa Bắc nhà Chu. Mạnh Minh nói :

– Đây là chỗ thiên tử ở, ta nên kính nể mới phải !

Nói xong, truyền cho các tướng đều hạ mũ trụ, xuống xe đi đất.

Tướng tiên phong quân Tần là Bao Man Tử, vốn người có tài vũ dũng, khi đi khỏi Bắc Môn rồi, lại lên xe phóng ngựa như bay. Mạnh Minh khen rằng :

– Giả sừ ai cũng như Bao Man Tử thì việc gì chẳng làm xong !

Các tướng sĩ nghe nói, đều nhao nhao bảo nhau rằng :

Sao chúng ta lại chịu kém Bao Man Tử ! .

Bấy giờ các tướng sĩ đều ganh đua nhau đi trước, quân kéo mau quá như gió cuốn, như chớp nhoáng, thoáng một nhát đã không thấy đâu.nữa. Chu Tương Vương sai vương tử HỔ và vương tôn Mân xem quân Tần. Vương tử HỔ tâu với Chu Tương Vương rằng :

– Quân Tần vũ dũng như thế, còn nước nào địch nổi ?

Bấy giờ vương tồn Mãn tuổi hây còn nhỏ , nghe vương tử HỔ nói

chỉ mỉm cười mà không nói gì. Chu Tương Vương hỏi :

Cậu bé con kia, nghĩ gì thế ?

Vương tôn Mân nói :

Theo lễ, thì các nước đem quân qua chỗ thiên tử ở, tất phải cuốn áo giáp và bỏ binh khí lại rồi đi cho mau, bây giờ quân Tần chỉ hạ mũ trụ mà thôi, thế là không biết giữ lễ ! Quân đã không biết giữ lễ tài nào khỏi rối loạn ; chuyến đi này tôi chắc là quân Tân phải thua !

Nước Trịnh có một người lái buôn, tên gọi Huyền Cao, vẫn làm nghề buôn trâu. từ khi vương tử Đái nhả Chu thích chơi trâu, các lái trâu ở nước Trịnh và nước Vệ đem trâu đến bán, được lãi to lắm, bởi vậy Huyền Cao còn giữ nghề ấy. Huyền Cao dẫu là người lái buôn, nhưng Vẫn có lòng trung quân ái quốc, chỉ vì không gặp người tiến

dẫn, thành ra chẳng ai biết đến. Bấy giờ Huyền Cao buôn được mấy trăm con trâu béo, định đem sang nhà Chu để bán. Khi đi đến gần bến Lê Dương, gặp một người bạn cũ tên là Kiến Tha mới ở nước Tần về. Huyền Cao hỏi :

Nước Tần độ này có chuyện gì lạ không ?

Kiến Tha nói :

– Trong hồi tháng chạp mới rồi, nước Tần có sai ba tướng đem quân đi, hình như muốn đánh úp nước Trịnh, không bao lâu nữa quân Tần sẽ sang đến nơi.

Huyền Cao giật mình mà nói rằng :

– Nước cha mẹ của ta, nay có cái tai nạn ấy, ta không nghe được thì thôi, nếu nghe được mà không cứu thì một mai nước mất, ta còn mặt mũi nào mà trở về nữa !

Huyền Cao nghĩ ra một kế, bèn từ biệt Kiến Tha, rồi một mặt sai người phi báo cho nước Trịnh biết mà phòng bị ; lại một mặt chọn hai mươi con trâu béo để sửa soạn làm lễ khao quân. Huyền Cao ngồi một cái xe nhỏ đi đón quân Tần.

Đi đến đất Diên Tân nước Hoạt, gặp tiền đội quân Tần, Huyền Cao đón ngang dọc đường mà nói với quân Tần rằng :

– Tôi là sứ thần nước Trịnh xin yết kiến quan nguyên soái.

Quân tiền đội báo với Mạnh Minh, Mạnh Minh giật mình, nghĩ rằng :

Tại sao nước Trịnh biết có quân ta đến mà sai sứ thần đón ? âu là ta hãy tiếp kiến, để xem thế nào.

Mạnh Minh nói xong, liền tiếp huyền Cao. Huyền Cao làm như phụng mệnh vua Trịnh nói với Mạnh Minh rằng :

Chúa công tôi nghe tin ba vị tướng quân, sắp sửa đem quân đi qua nước tôi, vậy có sai tôi dâng lễ mọn này, để khao các hàng quân sĩ. Nước tôi tiếp giáp các nước lớn, thường hay có việc can thiệp, nhờ có quân quý quốc đóng đồn để giữ hộ cho, nhưng nước tôi vẫn lo sợ rằng lỡ khi có sự bất trắc, lại nên tội với thượng quốc, bởi vậy phải hết sức ngày đêm phòng giữ, không dám trễ nải, xin ba vị tướng quân xét cho .

Mạnh Minh nói :

– Vua Trịnh sai nhà người khao quân, sao không có quốc thư ?

Huyền Cao nói :

– Chúa công tôi nghe tin các vị tướng quân khởi hành từ tháng chạp, mà quân đi gấp lắm, sợ đợi sửa quốc thư thì không kịp nghênh tiếp bời vậy chỉ truyền miệng cho tôi ra đây, xin các vị tướng quân lượng thứ cho.

Mạnh Minh ghé tai Huyền Cao mả bảo nhỏ rằng :

– Chúa công tôi sai chúng tôi đem quân đi đây là định đánh nước Hoạt, không phải có ý đến nước Trịnh đâu !

Nói xong, truyền đóng quân lại ở đất Diên Tân. Huyền Cao tạ ơn lui ra. Tây Khất Thuật và Kiến Bính hỏi Mạnh Minh rằng :

– Tướng quân đóng quân lại đây, là có ý gì ?.

Mạnh Minh nói :

– Quân ta đi xa hai nghìn dặm, chỉ có nhân lúc nước Trịnh bất ngờ để tiến đánh, nay người nước trịnh đã biết mà phòng bị trước, ta đánh cũng chẳng được nào. Vả ta muốn vây nước Trịnh thì lại không có quân tiếp ứng, chi bằng tiện đây ta đánh úp nước Hoạt, để khỏi mang tiếng là đem quân đi mà không được việc gì.

Đêm hôm ấy, ba tướng nước Tần chia quân làm ba mặt lẻn vào đánh lấy thành nước Hoạt. Vua nước Hoạt bỏ chạy sang nước Địch.

Quân Tần bắt lấy hết sạch châu báu ngọc lụa của nước Hoạt. Nước Hoạt bị tàn phá, và sau đó lại bị nước Vệ kiêm tính mất.

Trịnh Mục công tiếp được mật báo của Huyền Cao, chưa lấy gì làm tin lắm, tức thì sai người dò thám bọn Kỷ Tử, xem tình hình thế nào. Bấy giờ đã thượng tuần tháng hai, bọn Kỷ Tử đang sửa soạn xe cộ và khí giới chỉ đợi quân Tần đến nơi thì trong ngoài hợp sức mà đánh Quân sĩ về báo Trịnh Mục công. Trịnh Mục công sợ hãi, liền sai lão đại phu là Chúc Vũ đến yết kiến bọn Kỷ Tử, đưa biếu mỗi người một tấm lụa mà bảo rằng :

– Các ngài đóng quân ở nước tôi, nước tôi vì việc khoản đãi mà hươu nai ở chốn Nguyên Phố đã hết sạch cả, nay nghe tin các ngài đang sửa soạn quân mã, tất là muốn thu quân về nước. Hiện nay Mạnh Minh cùng các tướng đã tiến quân đến nước Hoạt, sao các ngài không đi theo ? .

Kỷ Tử giật mình, thầm trong lòng rằng :

– Mưu kế của ta đã tiết lộ ra rồi, quân đến mà vô công thì ta là hữu tội, chẳng những không ở yên được nước Trịnh, mà muốn về nước Tần cũng không được nữa. .

Kỷ Tử xin lỗi với Chúc Vũ, rỗi bỏ trốn sang nước Tề. Phùng Tôn và Dương Tôn cũng sợ tội, bỏ trốn sang nước Tống. Quân lưu thú không có chủ tướng họp nhau toan nổi loạn. Trinh Mục công sai Dật Chi HỖ đem lương thực cấp phát cho quân Tần để về nước ; rồi ghi công Huyền Cao, cử cho làm chức quận úy: Từ đó nước Trịnh được yên ổn. . .

Tấn Tương công đang thủ tang ở đất Khúc ốc, nghe tin nước Tần sai Mạnh Minh thống lĩnh đại binh đi về phía đông, không biết là đi đâu liền họp triều thần lại để thương nghị. Tiên Chẩn đã cho người đi dò thám, biết rõ mưu quân Tần định lẻn đánh nước Trịnh, tức khắc vào yết kiến Tấn Tương công.

Chương 45: Mạnh Minh cậy tài bị Tấn vây – Tiến Chẫn cởi giáp cho địch bắn

Nguyên soái nước Tấn là Tiên Chẩn đã biết rõ mưu quân Tần định đánh úp nước Trịnh, mới vào nói với Tấn Tướng công rằng:

– Vua Tần không nghe lời Kiến Thúc và Bách Lý Hề, đem quân đi kế hàng nghìn dặm, định lẻn đánh nước người ta, chính ứng vào cái lời của quan thái bốc là Quách Yến nói có giặc ở tây phương đến, ta nên mau mau đón đường mà đánh, chớ bỏ mất cơ hội này !

Loan Chi nói:

– Vua Tần có ơn với tiên quân ta ngày xưa to lắm, nay ta chưa đền ơn mà đã chực đón đánh thì đối với tiên quân, sao cho phải đạo?

Tiên Chẩn nói:

– Nay ta đánh Tần, chính là theo được cái chí tiên quân đó ! Tiên quân tạ thế đi, các nước đến viếng tang cả, chỉ có Tần không đến viếng tang, thế là nước Tần vô lễ với ta, còn ân nghĩa gì ! Vã nước Tần đã có giao ước với ta rằng: hai nước có việc binh thì đồng lòng giúp nhau, thế mà khi vây Trịnh, nước Tần bội ước rút quân, đủ biết tình nghĩa nước Tần như thế nào. Người ta đã không thủ tính thì tội gì mình phải nhớ ơn?

Loan Chi nói:

– Quân Tần chưa xâm phạm gì nước ta, mà ta đón đánh thì chẳng cũng quá lắm ư !

Tiên Chẩn nói:

– Ngày trước nước Tần giúp tiên quân ta, không phải yêu gì nước Tấn, chẳng qua là vì tư lợi. Khi tiên quân ta lên làm bá chủ, nước Tần dẫu ngoài mặt phải theo, nhưng trong lòng vẫn ghen ghét, nay nhân lúc ta có tang mà đem quân sang đánh Trịnh, thế là có ý khinh ta không dám cứu Trịnh, tất cũng có ngày lên đánh nước at. Tục ngữ có câu rằng: “Một ngày tha giặc, để họa mấy đời!” Nếu ta không đánh Tần thì sao tự lập được?

Triệu Thôi nói:

– Nước Tần dẫu nên đánh, nhưng chúa công đang lúc có tang mà gây việc chiến tranh, tôi sợ không hợp lẽ.

Tiên Chẩn nói:

– Ðể tang là cốt giữ cho trọn đạo hiếu, mà đánh giặc là để giữ yên nước nhà;còn điều gì hiểu hơn nữa ! Nếu các ngài cho là không nên thì tôi xin đi một mình.

Bọn Tư Thần đều tán thành lời nói của Tiên Chẩn. Tấn Tướng công nói:

– Nguyên soái liệu xem quân Tần đi đánh Trịnh, độ bao giờ trở về?Khi về thì đi theo đường nào?

Tiên Chẩn tính đốt ngón tay, rồi đáp lại rằng:

– Ði xa mà không có tiếp ứng, không thể đi lâu được, kể cả đi lẫn về hơn bốn tháng thì đầu mùa hạ thế nào cũng đi qua Thăng Trì. Thăng Trì là chỗ giáp nước Tần và nước Tấn, phía tây có hai dãy núi Hào Sơn, từ Ðông Hào đến Tây Hào cách nhau ba mươi nhăm dặm. Chỗ ấy hiểm lắm, cây cối rậm rạp, đá núi lởm chởm, nhiều nơi xe không đi được, phải tháo ngựa ra. Nếu ta phục một đạo binh ở đấy rồi đổ ra mà đánh thì bắt sống được hết quân Tần

Tấn Tướng công nói:

– Việc đó ta ủy thác cho quan nguyên soái.

Tiên chẩn sai con là Tiên Thả Cư cùng với Ðỗ Kích đem năm nghìn quân phục ở phía tả núi Hào Sơn, sai con Tư Thần là Tư Anh cùng với Hồ Cúc Cư đem năm nghìn quân phục ở phía hữu núi Hào Sơn, đợi khi quân Tần đến thì đổ ra mà đánh. Lại sai con Hồ Xạ Cô cùng với Hàn Tử Dư đem năm nghìn quân phục ở phía tây núi Hào Sơn, rồi đẵn gỗ lấp ngang đường, để cho quân Tần không đi được, sai con Lương Do Mỹ là Lương Hoằng cùng với Lai Câu đem nghìn quân phục ở phía đông Hào Sơn, đợi khi quân Tần qua đó thí đem quân ra mà đuổi. Tiên Chẩn cùng với bọn Triệu Thôi và các tướng theo Tấn Tướng công đem quân đóng ở ngoài Hào Sơn hai mươi dặm để tiếp ứng.

Quân Tần diệt được nước Hoạt, về gần đến Hào Sơn, Kiển Binh nói với Mạnh Minh rằng:

– Hào Sơn hiểm lắm, khi trước phụ thân tôi đã có lời dặn nguyên soái nên cẩn thận mới được.

Mạnh Minh nói:

– Ta đem quân đi nghìn dặm, còn chẳng sợ hải gì, huống chi đi khỏi Hào Sơn tức là địa giới nước nhà, còn ngại gì nữa !

Tây Khất Thuật nói:

– Nguyên soái cũng nên phòng xa, sợ khi quân Tấn có mai phục, đỗ ra đánh thì ta chống lại sao nổi?

Mạnh Minh nói:

– Tướng quân sợ nước Tần như thế, tôi xin đi trước, nếu có quân mai phục, để mặc tôi đối địch.

Mạnh Minh sai Bao Man Tử đi tiên phong, rồi đến nhị đội là Mạnh Minh, tam đội là Tây Khất Thuật, tứ đội là Kiển Binh, mỗi toán quân cách nhau đến một hai dặm. Bao Man Tử tay cầm phương thiên họa kích nặng tám mươi cân sắt, tự đắc cho là thiên hạ không ai địch nổi. Khi đi đến phía đông Hào Sơn, bỗng có một viên đại tướng đem quân ra đón đường hỏi rằng:

– Nhà ngươi có phải là đại tướng nước Tần, tên gọi Mạnh Minh đó không? Chúng ta chờ đợi đã lâu lắm rồi !

Bao Man Tử nói:

– Nhà ngươi họ tên là gì, nên nói trước cho ta biết?

Viên đại tướng ấy đáp:

– Ta đây đại tướng nước Tấn tên gọi Lai Câu !

Bao Man Tử nói:

– Nước mày có Loan Chi và Ngụy Thù đến, họa chăng đối địch với ta được mấu hợp, mày là đứa vô danh tiểu tốt, biết điều thì tránh ra một bên để quân ta đi, kẻo ta cho một ngọn kích này thì khôn toàn được tính mệnh!

Lai Câu giận lắm, xông lại đánh Bao Man Tử. Bao Man Tử cầm kích đánh vào cái ngáng ở trên xe Lai Câu, gãy làm hai đoạn. Lai Câu thấy Bao Man Tử sức mạnh như vậy thì bất giác khen rằng:

– Ta vẫn nghe tiếng Mạnh Minh, thật cũng không sai.

Bao Man Tử bật cười mà rằng:

– Ta là một viên tiểu tướng, tên gọi là Bao Man Tử !Nguyên soái ta khi nào lại thèm giao chiến với lũ chuột !Chúng bây nên mau mau tránh đi, kẻo nguyên soái ta tới đây thì không còn mống nào sống sót !

Lai Câu nghĩ thầm:

– Tiểu tướng nước Tần mà còn giỏi như thế, huống chi là Mạnh Minh, không biết giỏi đến đâu!

Lai Câu liền quát to lên mà bảo Bao Man Tử rằng:

– Ta tránh cho nhà người đi, nhà ngươi chớ nên xâm phạm đến quân ta.

Nói xong, lại thu quân đứng dẹp một bên, nhường cho Bao Man Tử đi. Bao Man Tử tức khắc sai quân truyền báo với chủ soái là Mạnh Minh rằng:

– Nước Tấn có một toán quân mai phục, đã bị tôi đánh tan rồi, xin nguyên soái mau mau tiến binh. Lai Câu thu quân về yết kiến Lương Hoằng, khen Bao Man Tử là người tài giỏi. Lương Hoằng cười mà nói rằng:

– Dẫ cá mập thuồng luồng mà đã chui vào lưới sắt, cũng chẳng cựa quậy được nữa!Chúng ta nên tránh một bên cho quân Tần đi qua hết, rồi sẽ đuổi đánh thì chắc được toàn thắng!

Bọn Mạnh Minh kéo quân qua phía đông Hào Sơn. Ði được mấy dặm thì thấy núi đá cheo leo, cây rừng rậm rạp, đường lối rất hiểm trở, xe ngựa không tài nào đi được, nhưng thấy quân tiền đội của Bao Man Tử đi đã xa rồi, Mạnh Minh mới bảo các tướng rằng:

– Bao Man Tử đi đã xa như vậy thì chắc là không còn có quân mai phục nữa!

Nói xong, truyền cho quân sĩ bỏ mũ trụ áo giáp ra, rồi dắt ngựa mà đi đất, không có hàng ngũ nào cả. Ði được một quãng, bỗng nghe báo ở mặt sau có quân Tấn đuổi theo. Mạnh Minh nói:

– Ta đi khó khăn thế này thì chúng ta đi cũng chẳng dễ nào! Ta chỉ sợ có quân ngăn trở, chớ không sợ có quân đuổi theo.

Mạnh Minh truyền cho các đội quân đều mau mau kéo trước, còn mình thì đi sau, để đối địch với quân Tấn. Lại đi khỏi mấy ngọn núi nữa, bổng nghe báo có nhiều cây gỗ bỏ chặng ngang đường, quân không đi được. Mạnh Minh nói:

– Nếu vậy thì tất có quân mai phục!

Mạng Minh trèo lên ngọn núi đứng nom, trông thấy ở khe núi có cắm một ngọn cờ đỏ cao hơn ba trượng, trên lá cờ đề một chữ “Tấn”, còn dưới thì có nhiếu cây gỗ bỏ ngang lấp cả lối đi. Mạnh Minh nói:

– Ðây là kế nghi binh của quân Tấn đó!

Nói xong, truyền cho quân sĩ nhổ lá cờ đỏ, rồi xúm nhau xô gỗ ra để lấy đường đi. Ai ngờ lá cờ đỏ ấy là ký hiệu của quân Tấn, quân Tấn thấy mất là cờ đỏ, biết là quân Tần đã đến, tức khắc bốn mặt đổ ra đón đánh. Kiển Binh truyền cho quân sĩ đứng lại để đối địch, bỗng thấy ở trên ngọn núi có một vị tướng quân, tức là Hồ Xạ Cô, quát to lên rằng:

– Tướng tiên phong của nhà ngươi là Bao Man Tử, đã bị bắt trói ở đây rồi, nhà ngươi nên mau mau đầu hàng đi thì mới bảo toàn được tính mệnh!

Nguyên Bao Man Tử cậy có sức khỏe;xung đột đi trước, bỗng sa xuống một cái hầm sâu, quân Tấn thả câu liêm xuống móc lên, rồi trói lại đưa lên từ xa. Kiển Binh sợ lắm, sai người truyền báo cho Tây Khất Thuật và Mạnh Minh biết. Mạnh Minh thấy chỗ ấy chỉ rộng chừng một thước, mà một bên thì núi đá chênh vênh, một bên thì hố sâu muôn trượng, đại binh không thể co duỗi được, thì nghĩ ra một kế, mới truyền cho đại binh lui về phía đông Hào Sơn để cùng với quân Tấn quyết chiến. Quân Tấn vừa lui lại một quãng thì bỗng thấy một viên đại tướng là Lương Hoằng, và một viên phó tướng là Lai Câu đem năm nghìn quân Tấn đổ ra đón đánh. Mạnh Minh kinh hãi, truyền cho quân sĩ theo hai phía trèo núi vượt khe để tìm lối đi, bổng thấy ở đầu núi phía tả, chiêng trống rầm rĩ, có một viên đại tướng quát to lên rằng:

– Ta đây là đại tướng nước Tấn, tên gọi Tiên Thả Cư, Mạnh Minh nên mau mau đầu hàng đi !

Mạnh Minh trông sang đầu núi phía hữu, lại thấy hiện cờ của một viên đại tướng nước Tấn tên là Tư Anh.

Quân Tần chạy trốn tán loạn, kẻ trèo núi, người vượt khe, đều bị quân Tấn chém giết hoặc bắt sống. Mạnh Minh tức giận, lại cùng với Tây Khất Thuật và Kiển Binh đánh thốc lên phía trước. Ai ngờ trong đống cây gỗ ngổn ngang dọc đường, đều có lưu hoàng diêm tiêu là vật dẫn hỏa, bị tướng nước T- án là Hàn Tử Dư châm lửa đốt lên, tàn bay đỏ rực, khói tỏa mù trời. Phía sau lại có quân Lương Hoằng tiến đến, thành ra bên phải bên trái, phía trước phía sau, đều có quân Tấn cả, quân Tần không còn có đường nào mà chạy thoát được. Mạnh Minh bảo Kiển Binh rằng:

– Kiển tiên sinh (trỏ Kiển Thúc)thật là thần toán ! Ngày nay chúng ta đành chết ở đây mà thôi ! Tướng quân nên cùng với Tây Khất Thuật thay hình đổi dạng, tìm đường trốn đi, họa may có người nào thoát vế nước được, tâu với chúa công ta, để ngày khác đem quân sang đánh báo thù thì ta dẫu chết xuống suối vàng, cũng được thỏa dạ.

Tây Khất Thuật và Kiển Binh khóc mà rằng:

– Chúng ta sống chết có nhau, lòng nào mà bỏ nhau !

Tây Khất Thuật và Kiển Binh nói chưa dứt thì quân sĩ chạy trốn đã gần hết, xe cộ khí giới bỏ lại ngổn ngang chồng đống trên đường.

Mạnh Minh và các tướng không còn kế gì đành ngồi ở khe núi chờ chịu trói. Quân Tấn bốn mặt vây kín, tất cả tướng sĩ nước Tần đều bó tay chịu tù. Tiên Thả Cư và chư tướng hội họp ở dưới núi Ðông Hào, đem ba tướng nước Tần và Bao Man Tử, bỏ vào tù xa cùng với quân sĩ, xe ngựa và bao nhiêu trai gái ngọc lụa của nước Hoạt, giải về đại dinh Tấn tướng công. Quân Tấn vui mừng, hò reo vang động. Tấn Tướng công hỏi tên họ ba tướng và hỏi Bao Man Tử là ai. Lương Hoằng nói:

– Viên ấy dẫu là tiểu tướng, nhưng có tài vũ dũng hơn người, khi trước Lai Câu ra đối địch với hắn, đã bị thua một trận, nếu hắn không sa xuống hầm sâu thì cũng khó lòng mà bắt được.

Tướng công kinh ngạc nói:

– Hắn vũ dũng như thế, để hắn tất có ngày sinh biến !

Rồi gọi Lai Câu đến trước mặt bảo rằng:

– Ngày trước nhà ngươi bị hắn đánh thua, nay ta cho phép nhà ngươi được chém đầu hắn ở trước mặt ta, để nhà ngươi thỏa dạ.

Lai Câu vâng mệnh, đem Bao Man Tử trói vào cái cột ở giữa sân, rồi tay cầm thanh đao, toan bổ vào đầu Bao Man Tử. Bao Man Tử thét lên rằng:

– Mày đã bị ta đánh thua, sao dám phạm đến ta !

Tiếng thét của Bao Man Tử, khác nào một tiếng thét ở lưng chừng trời, làm cho cửa nhà chuyển động cả. Trong khi Bao Man Tử miệng thét mà hai tay vùng vằng, bao nhiêu dây trói đứt sạch cả. Lai Câu giựt mình kinh sợ, tay chân rụng rời, đánh rơi thanh đao xuống đất. Bao Man Tử tức khắc cướp lấy đao, bỗng một viên tiểu tướng tên gọi Lang Ðàm, đứng gần đấy trông thấy, vội vàng cầm đao xông vào chém Bao Man Tử ngã xuống rồi cắt đầu đem nộp ở trước mặt Tấn Tướng công. Tấn Tướng công mừng lắm nói:

– Vũ dũng của Lai Câu, lại không bằng một viên tiểu tướng !

Nói xong, liền cách chức Lai Câu không dùng nữa, cho Lang Ðàm làm chức xa hữu. Lang Ðàm tạ ơn lui ra, nghĩ rằng tài năng của mình đã được nhà vua biết, bèn không đến yết kiến quan nguyên soái là Tiên Chẩn. Tiên Chẩn có ý không bằng lòng.

Ngày hôm sau, Tướng công cùng các tướng nổ bài nhạc “Khải Hoàn”mà trở về. Vì linh cữu của Văn công còn quàn ở Khúc Ốc, cho nên đại binh ghé vào đấy để dâng chiến công trước linh cữu, rồi chôn cất một thể. Ba tướng nước Tần cũng được đưa về Khúc Ốc để làm lễ dâng tù lên Thái miếu, chờ đến khi trở về Giáng đô đem hành hình. Văn công phu nhân là Doanh thị (con gái nước Tần)cũng đến hội tang ở Khúc Ốc. Phu nhân đã biết tin ba tướng bị bắt rồi nhưng cố ý hỏi Tấn Tướng công rằng:

– Ta nghe nói quân Tấn thắng trận, bọn Mạnh Minh đều bị bắt cả, đó là cái phúc lớn của nước nhà, chẳng hay đã đem bọn ấy ra hành hình chưa?

Tướng công nói:

– Chưa !

Phu nhân nói:

– Tấn Tần hai nước đã mấy đời làm thân gia với nhau, thế mà bọn Mạnh Minh muốn lập công, gây việc binh đao, để làm cho hai nước đổi ân thành oán. Ta chắc rằng vua Tần cũng giận bọn ấy lắm. Bây giờ ta giết thì cũng vô ích thôi, không bằng thả cho chúng về để vua Tần tự tay giết lấy, như thế thì gỡ được mối thù oán của hai nước, chẳng cũng hay lắm sao?

Tấn Tướng công nói:

– Bọn Mạnh Minh rất đác dụng ở Tần, nay ta tha cho về, có hại cho Tấn.

Phu nhân nói:

– “Kẻ nào thua giặc thì chịu tử hình”, đó là phép nước, bởi vậy khi quân sở thua trận, thì Thành Ðắc Thần bị xử tử;Thế thì há nước Tần lại không có quân Pháp hay sao?Và Tấn Huệ công ngày xưa bị vua Tần bắt, vua Tần biết trọng đãi, lại tha cho về, Tần đã có ơn với ta như thế, bây giờ chỉ có mấy viên bại tướng mà ta cứ muốn giết đi cho được, chẳng hoá ta bạc tình lắm sao?

Tấn Tướng công nghe nói đến việc vua Tần tha cho Tấn Huệ công ngày trước, thì trong lòng cảm động, tức khắc truyền tha cho bọn Mạnh Minh về nước. Bọn Mạnh Minh được tha, chẳng vào lạy tạ nữa, cứ việc cắm đầu trốn đi. Tiên Chẩn đang ngồi ăn cơm ở nhà, nghe tin Tấn Tướng công tha bọn Mạnh Minh, vội vàng nhả miếng cơm ra mà vào yết kiến Tấn Tướng công, nét mặt hầm hầm tức giận, hỏi Tướng công rằng:

– Bọn tù nhân nước Tần đâu cả?

Tấn Tướng công nói:

– Mẫu phu nhân xin tha cho về nước để mặc vua Tần giết đi, ta đã theo lời mà tha cho họ về rồi !

Tiên Chẩn nổi giận nhổ vào mặt Tấn Tướng công mà mắng rằng:

– Úi chà ! Thật rõ là con nít chẳng biết gì Vũ sĩ trăm nghìn gian khổ, mới bắt được bọn tù ấy, nay vì nửa câu nói của người đàn bà ma hỏng hết! Thế mới thật thả hổ về rừng, tất có ngày hối không kịp nữa !

Tấn Tướng công bây giờ mới nghĩ ra, lấy áo chùi mặt mà xin lỗi Tiên Chẩn rằng:

– Ðiều ấy tôi xin chịu lỗi !

Rồi ngảnh lại hỏi các tướng rằng:

– Có ai dám đuổi tướng nước Tần hay không?

Dương Xử Phủ xin đi. Tiên Chẩn bảo Dương Xử Phủ rằng:

– Tướng quân dùng lời nói khéo mà lừa bắt họ lại được thì thật là công to lắm!

Dương Xử Phủ tức khắc lên ngựa truy phong, cầm dao đi đuổi theo bọn Mạnh Minh. Bọn Mạnh Minh từ khi được tha trón đi, vừa đi vừa bàn nhau rằng:

– Chúng ta có qua khỏi sông Hoàng Hà, mới chắc được sống, nếu không thì còn sợ vua Tấn hối lại mà đuổi theo, khó lòng đã thoát nạn.

Khi đi đến bến sông Hoàng Hà, chẳng có một chiếc thuyền nào cả, bọn Mạnh Minh thở dài than rằng:

– Thế này thì thật là trời hại chúng ta!

Bỗng thấy một ông lão đánh cá chèo chiếc thuyền nhỏ ở phía tây đi đến, đang ngâm nga rằng:

“Con vượn kia được thoát cũi

Con chim kia được sổ lồng !

Nay đã gặp ta ở đây, dẫu thua cũng là thành “công” !

Mạnh Minh nghe câu hát, lấy làm lạ, liền gọi mà bảo rằng:

– Ông lão đánh cá kia ôi ! Cho chúng tôi sang với.

Ông lão đánh cá nói:

– Lão chỉ chở người Tần, chứ không chở người Tấn !

Mạnh Minh nói:

– Chúng tôi là người Tần đây ! Mau mau cho chúng tôi sang.

Ông lão đánh cá nói:

– Nhà ngươi có phải là người thua trận ở Hào Sơn đấy không?

Mạnh Minh nói:

– Phải !

Ông lão đánh cá nói:

– Ta phụng mệnh của công tôn tướng quân, cắm thuyền ở đây để đón các ngài đã lâu lắm ! chiếc thuyền này nhỏ không thể chở được, tướng quân nên men bờ sông đi độ nửa dặm nửa dặm nữa, đã có thuyền lớn đợi ở đó.

Ông lão đánh cá ấy nói xong, lại chèo thuyền đi về phía tây. Thuyền đi như bay. Bọn Mạnh Minh men sông đi về phía tây, chưa được nữa dặm, quả nhiên thấy mấy chiếc thuyền lớn đậu ở dưới sông, cách bờ một quãng ngắn. Ông lão đánh cá đã đứng ở đấy để mời bọn Mạnh Minh xuống thuyền. Chưa kịp mở lái thì trông lên trên bờ, thấy có một vị tướng quân ruổi xe đi đến, tức là Dương Xử Phủ. Dương Xử Phủ gọi to lên rằng:

– Các tướng nước Tần kia, hãy thư thả một chút!

Bọn Mạnh Minh nghe tiếng, đều giật mình kinh sợ. Dương Xử Phủ trông thấy bọn Mạnh Minh đã xuống thuyền rồi, liền nghĩ ngay một kế:giả cách phụng mệnh Tấn Tướng công, đem một con ngựa đến ban cho Mạnh Minh, rồi nói với Mạnh Minh rằng:

– Tôi phụng mệnh chúa công tôi đem con ngựa hay này đến tặng tướng quân để tỏ lòng kính mến, xin tướng quân nhận cho.

Dương Xử Phủ định lừa cho Mạnh Minh lên bờ nhận ngựa thì thừa cơ mà bắt lấy, nhưng Mạnh Minh không chịu lên, chỉ đứng trên mũi thuyền cúi đầu bái tạ và nói rằng:

Chúng tôi đội ơn nhà vua không giết, cũng đã cảm tạ lắm rồi, nay lại còn cho ngựa, chúng tôi không dám nhận. Chuyến này chúng tôi về nếu không bị chúa công chúng tôi tra lục, thì sau ba năm nữa, chúng tôi lại xin sang tạ ơn nhà vua.

Dương Xử Phủ vừa toan đáp thì lại thấy thủy thủ đã bẻ lái chèo thuyền ra giữa dòng rồi vùn vụt đi thẳng. Dương Xử Phủ ngao ngán trở về, đem lời nói của Mạnh Minh tâu lại với Tấn Tướng công. Tiên Chẩn tức giận mà nói rằng:

– Hắn nói sau ba năm nữa sẽ sang tạ ơn là nói sau ba năm nữa sẽ sang báo thù đó, chi bằng ta nhân dịp hắn mới thua, đem quân đánh trước đi là hơn.

Tấn Tướng công lấy làm phải, mới bàn định việc cử binh đi đánh Tần. Tần Mục công nghe tin bọn Mạnh Minh bị nước Tấn bắt, vừa buồn vừa giận, bỏ ăn bỏ ngủ, sau mấy ngày nữa, lại nghe tin bọn mạnh Minh được tha về, nỗi mừng tỏ rõ trên mặt. Các quan đều nói:

– Bọn Mạnh Minh làm nhục nước, nên bắt tội chết. Ngày trước vua Sở giết Thành Ðắc Thần để cho quân sĩ phải khiếp sợ, nay chúa công cũng nên theo phép ấy.

Tần Mục công nói:

– Ta không nghe lời Bách Lý Hề và Kiển Thúc, để di lụy dến bọn Mạnh Minh, thế là lỗi tại ta đó!

Nói xong, liền thân hành ra đón ngoài cõi, rồi lại dùng Mạnh Minh làm chủ tướng, càng có ý trọng đãi lắm. Bách Lý Hề nói:

– Cha con tôi ngày nay lại được gặp nhau, thật là một sự bất ngờ !

Bách Lý Hề cáo lão về hưu. Tần Mục công dùng Do Dư và Công Tôn Chi làm tả, hữu thứ trưởng, để thay Kiển Thúc và Bách Lý Hề.

Tấn Tướng công đang bàn việc đánh Tần, bỗng nghe báo có vua nước Ðịch là Bạch Bộ Hồ đem quân đến đánh, đã tiến vào đất Cơ Thành, Tấn Tướng công giật mình kinh sợ, nói:

– Ta với nước Ðịch, không có hiềm khích gì với nhau, mà sao vua Ðịch lại đem quân sang xâm phạm bờ cõi ta?

Tiên Chẩn nói:

– Tiên quân ta ngày xưa trốn sang ở nước Ðịch, vua nước Ðịch đem hai người con gái là Thúc Ngỗi và Qúy Ngỗi, gả cho tiên quân ta và Triệu Thôi, trong mười mấy năm trời, vẫn một lòng trọng đãi. Khi tiên quân ta về nước, vua nước Ðịch có sang mừng, lại đưa Thúc Ngỗi và Qúy Ngỗi về nước ta, thế mà tiên quân ta không hề có sai sứ sang tạ ơn lần nào cả, bởi vậy vua Ðịch cùng giận, nhưng nể mà không nói, nay con là Bạch Bộ Hồ lên nối ngôi, cậy có sức mạnh, mới đem quân sang đánh ta.

Tấn Tướng công nói:

– Tiên quân ta ngày xưa lo công việc bá chủ, không kịp nghĩ đến ơn riêng, nay vua địch lại nhân đất nước ta có tang mà đem quân đánh, thế tức là một nước cừu địch với ta, vậy nguyên soái nên vì ta mà đem quân ra đối địch.

Tiên Chẩn sụp lạy hai lạy mà từ chối rằng:

– Trước kia, khi tôi nghe tin bọn Mạnh Minh được tha về, tôi đã quá nóng nảy, nhổ vào mặt chúa công, thật có gì vô lễ hơn nữa. Con người vô lễ thì không làm tướng được, vì vậy dám xin chúa công bãi chức nguyên soái của tôi mà chọn người khác xứng đáng hơn.

Tấn Tướng công nói:

– Nguyên soái vì việc nước mà tức giận, đó là bởi lòng trung thành khích động, ta lại không rõ hay sao ! Nay ta muốn chống lại với quân nước Ðịch, trừ phi nguyên soái thì không ai đương nổi, nguyên soái chớ nên từ chối.

Tiên Chẩn bất đắc dĩ phải vâng mệnh. Khi ở trong triều ra, Tiên Chẩn thở dài mà than rằng:

– Ta vốn muốn chết với quân Tần, ai ngờ lại thành ra chết với quân Ðịch !

Các quan triều thần không ai hiểu ý ra làm sao cả. Tấn Tướng công thu quân trở về Giáng Ðô. Tiên Chẩn trèo lên tướng đài, điểm duyệt quân sĩ, rồi hỏi các tướng rằng :

– Ai là người dám lãnh chức tiên phong?

Bỗng có một người ngang nhiên bước ra mà nói rằng :

– Tôi xin đi !

Tiên Chẩn nhìn xem ai thì tức là Lang Ðàm, hiện mới lĩnh chức xa hữu. Nguyên trước Lang Ðàm mới lĩnh chức không chịu vào yết kiến Tiên Chẩn, bởi thế Tiên Chẩn có ý không bằng lòng, ngày nay lại thấy Lang Ðàm xin đi tiên phong, thì lại càng ghét, mắng rằng:

– Mày là một tên tiểu tốt, chém chết một thằng giặc mà được trọng dụng, thế mà nay đã kiêu ngạo tự đắc, dám khinh bọn tướng sĩ ta không có ai là người tài giỏi hay sao !

Lang đàm nói:

– Tiểu tướng tình nguyện ra sức giúp nước, sao nguyên soái lại ngăn trở như vậy?

– Ở đây không thiếu gì người ra sức, mày có tài trí gì mà dám vượt qua chủ tướng?

Tiên Chẩn liền thét đuổi Lang Ðàm, không dùng mà cho Hồ Cúc Cư vào thay, vì có cái công giáp chiến ở Hào Sơn khi trước. Lang đàm cúi đầu thở dài, lui ra, bỗng gặp người bạn là Tiên Bá ở ngoài đường. Tiên Bá hỏi rằng:

– Tôi nghe quan nguyên soái đang tuyển tướng để đi đánh giặc, sao nhà ngươi lại lửng thửng đi đâu đấy?

Lang Ðàm nói:

– Tôi đã tình nguyện đi tiên phong, để ra sức giúp nước ai ngờ lại gặp phải lúc nguyên soái nổi giận, mắng tôi là tài trí gì mà dám vượt qua các tướng, hiện nay đã cách chức tôi, không dùng nữa rồi.

Tiên Bá nổi giận, nói:

– Tiên Chẩn ghen ghét tài năng như thế, âu là ta cùng nhau vào giết chết nó đi, cho hả cái lòng bất bình của chúng ta. Dâũ có chết nữa cũng được thỏa lòng.

Lang Ðàm nói :

– Không nên ! Không nên ! Ðại trượng phu chết phải có danh nghĩa. Chết mà không có danh nghĩa thì không gọi là vũ dũng được !Chúa công biết ta là người vũ dũng mà dùng ta làm chức xa hữu, nay Tiên Chẩn cách chức ta đi, nếu ta làm điều bất nghĩa mà chết thì thành ra Tiên Chẩn được tiêng là cách chức một người bất nghĩa, vậy nên thư thả mà đợi dịp.

Tiên Bá thở dài mà than rằng :

– Nhà ngươi thật là cao kiến, ta không bằng được.

Nói xong, cùng nhau trở về.

Tiên Chẩn dùng con là Tiên Thả Cư làm tiên phong, rồi xuất quân. Quân Tấn và quân Ðịch gặp nhau ở Cơ Thành, hai bên đều hạ trại. Tiên Chẩn hợp các tướng lại mà bảo rằng:

– Ở Cơ Thành này có một cái thung lũng rộng, chỗ ấy có thể đánh bằng xe trận, mà hai bên cây cối rậm rạp, có thể phục binh được. Loan Thuẫn và Khước Nhuế nên đem hai đạo quân phục ở chỗ ấy, đợi khi nào Tiên Thả Cư giao chiến với quân Ðịch, giả cách thua chạy vài thung lũng, bấy giờ đổ ra mà đánh thì chắc là bắt được vua Ðịch;còn Hồ Tần và Hồ Cúc Cư đem hai đạo quân đi tiếp ứng, để phòng khi quân Ðịch đến cứu.

Ngày hôm sau, vua Ðịch là Bạch Bộ Hồ đem hơn trăm quân kỵ mã đến đánh. Tiên Thả Cư ra nghênh chiến được mấy hợp, giả cách thua chạy. Bạch Bộ Hồ không biết là mưu kế, ra sức đuổi theo, bị Tiên Thả Cư dụ vào trong thung lũng. Phục binh ở hai bên đổ ra đón đánh. Bạch Bộ Hồ tả xung hữu đột, hơn trăm kỵ binh chết đã gần hết. Quân Tấn cũng tổn hại rất nhiều. Ðược một lúc Bạch Bộ Hồ phá tan mấy vòng quân Tấn mà không ai địch nổi. Khi ra gần đến cửa hang, gặp đại tướng Tấn là Khước Khuyết giương cung bắn trúng vào mặt. Bạch Bộ Hồ ngã ngựa, chết ngay. Khướt Khuyết nhận mặt, biết là vua Ðịch, liền cắt lấy đầu để đem về nộp Tiên Chẩn. Tiên Chẩn nghe tin Bạch Bộ Hồ bị bắt, ngữa mặt lên trời mà reo mừng:

– May cho vua Tấn ta lắm ! May cho vua Tấn ta lắm !

Ðoạn lấy giấy bút viết một tờ biểu đề ở trên thư án, không nói cho các tướng biết, rồi cùng với mấy người tâm phúc tức khắc xông vào trận địa quân Ðịch. Em Bạch Bộ Hồ là Bạch Ðôn, chưa biết là Bạch Bộ Hồ đã chết, toan đem quân đi tiếp ứng, bỗng thấy đại tướng Tiên Chẩn cưỡi binh xa sừng sực xông đến, Bạch Ðôn vội vàng ra nghênh chiến. Tiên Chẩn cầm ngang ngọn giáo, trợn mắt thét to một tiếng, mí mắt rách hết cả, máu chảy dòng xuống mặt. Bạch Ðôn kinh sợ, lui lại mấy mươi bước, nhưng trông thấy Tiên Chẩn không có quân theo, liền truyền cho quân Ðịch xúm quanh lại, giương cung ra bắn. Tiên Chẩn hăng hái ra sức, giết chết ba người đầu mục, và hơn hai chục quân sĩ, mà khắp mình không bị phải mũi tên nào cả, bởi quân Ðịch thấy Tiên Chẩn là người vũ dũng, thảy đều kinh hồn khiếp đảm, thành ra run tay, bán chẳng trúng được phát nào. Vả Tiên Chẩn mình mặc mấy lần áo giáp, dẫu tên trúng cũng không trúng, mới thở dài than rằng:

– Ta không giết giặc thì không tỏ được cái tài vũ dũng của ta, nay quân giặc đã biết ta là người vũ dũng, còn giết lắm làm gì ! Thôi thì ta đánh chết ở đây cho rồi !

Tiên Chẩn nói xong, liền cởi áo giáp ra để cho quân Ðịch bắn. Quân Ðịch bắn một lúc, mũi tên cắm vào mình Tiên Chẩn như lông nhím. Tiên Chẩn chết rồi mà người vẫn đứng trơ trơ, không hề chuyển động. Bạch Ðôn toan chém lấy đầu, nhưng thấy Tiên Chẩn vẫn trợn mắt vểnh râu như người còn sống, nghĩ lại khiếp sợ, không dám vào chém. Trong đám quân Ðịch, có người nhận được mặt, nói với Bạch Ðôn rằng:

– Người ấy là nguyên soái nước Tấn, tên gọi Tiên Chẩn.

Bạch Ðôn liền cùng với các quân sĩ sụp lạy, rồi bảo nhau rằng:

– Ngài thật là một bậc thần nhân !

Nói xong, lại quỳ trước mặt Tiên Chẩn mà khấn rằng:

– Thần có cho chúng tôi đem về nước Ðịchđể thờ cúng thì xin ngã xuống.

Tiên Chẩn vẫn đứng yên như trước. Bạch Ðôn lại khấn rằng:

– Hay là thần muốn về nước Tấn thì chúng tôi xin đưa về.

Khấn xong, tự nhiên Tiên Chẩn ngã xuống

Chương 46: Thượng Thần giết cha ở trong cung – Quân Tần chết trận được cúng tế

Vua nước Ðịch là Bạch Bộ Hồ bị giết rồi,quân sĩ trốn về báo với Bạch Ðôn.Bạch Ðôn khóc rằng:

– Khi trước ta đã nói là nước Tần có trời giúp,không dễ đánh nổi,mà anh ta không nghe lời, để đến nổi bị hại !

Bạch Ðôn sai người sang nói với quân Tấn,xin đem thi thể Tiên Chẩn đổi lấy thi thể Bạch Bộ Hồ.

Lại nói chuyện Khước Khuyết chém được thủ cấp Bạch Bộ hồ,cùng với các tướng đem về nộp Trung quân nguyên soái,nhưng không thấy Tiên Chẩn đâu cả,liền hỏi các quân sĩ,quân sĩ đều nói:

– Nguyên soái vừa đi khỏi,có truyền cho chúng tôi phải canh giữ cẩn mật,không biết ngài đi đâu !

Tiên Thả Cư nghe nói,có ý nghi ngờ,bỗng thấy trên án thư có một tờ biểu,vội vàng lấy xem.Tờ biểu nói như sau:

– “Trung quân đại phu là Tiên Chẩn có lời tâu lên chúa công:Tôi đây là kẻ bề tôi mà đã vô lễ với vua,chúa công đã không trị tội,lại dùng cho làm nguyên soái.Ngày nay thắng trận,tất sao chúa công cũng ban thưởng,nếu tôi về mà chịu thưởng thì thành ra kẻ vô lễ cũng được quận công còn lấy gì làm phép cho kẻ khác.Vậy tôi xin liều thân xông vào quân Ðịch, để mượn tay quân Ðịch thay cho sự trừng phạt của nhà vua ! Con tôi là Tiên Thả Cư có tướng tài,có thể thay tôi được. Ðứng trước cái chết tôi mạo muội dâng thư”

Tiên Thả Cư nói:

– Như vậy thì thân phụ tôi xông vàp quân Ðịch mà chết mất rồi !

Nói xong,khóc òa lên một hồi,rồi toan xông vào quân Ðịch để tìm Tiên Chẩn.Các tướng xúm lại can ngăn,xxin hãy sai người đi dọ thám trước xem nguy- en soái sống chết thế nào,rồi sẽ tiến binh.Bỗng có quân báo em vua Ðịch là Bạch Ðôn sai người đến xin đổi thi thể Tiên Chẩn lấy thi thể Bạch Bộ Hồ.Tiên Thả Cư nghe tin cha chết,liền vật mình lăn khóc,rồi hẹn với quân Ðịch đến ngày hôm sau thì đem hai thi thể đổi lẩn cho nhau.Sứ nước Ðịch cao từ lui về.Tiên Thả Cư lại bảo các tướng rằng:

– Quân Ðịch hay gian dối lắm,ngày mai ta cũng nên phòng bị mới được !

Nói xong,truyền cho các tướng đều phục quân sẵn để phòng khi có việc giao chiến.Ngày hôm sau,Thiên Thả Cư mặc tang phục,ra nơi trận tiền để nhận thi thể Tiên Chẩn.Bạch Ðôn sợ vong hồn Tiên Chẩn thiêng,mới nhổ hết những mũi tên ở mình Tiên Chẩn ra, đem nước trầm hương tắm rửalại phủ thêm cái áo cẩm bào, đạt lên trên xe,trông như người còn sống,rồi đưa ra trận tiền,giao trả Tiên Thả Cư.Quân Tấn cũng đem thủ cấp Bạch Bộ Hồ giao trả cho quân Ðịch.Bạch Ðôn trông thấy quân Tấn chỉ gaio trả có thủ cấp Bạch Bộ Hồ thôi,không được đủ thân thể,liền không bằng lòng mà nói rằng:

– Nước Tấn thật hay lừa người ! Sao không giao đủ thân thể?

Tiên Thả Cư sai người truyền bảo Bạch Ðôn rằng:

– Có muốn lấy đủ thân thể thì nhà ngươi phải vào thung lũng mà tìm ờ trong đống xác người chết ấy.

Bạch Ðôn giận lắm,cầm cáo khai sơn đại phủ,vẫy quân xông vào đánh.Tướng nước Tấn là Hồ Xạ Cô đem quân ra đối địch.Hai bên vừa giao chiến được mấy hợp thì phía tả có Khước Khuyết,phía hữu có Loan Tần đổ ra đón đánh.Bạch Ðôn thấy quân Tấn đông quá,vội vàng quay ngựa bỏ chạy.Quân Tấn tranh nhau đuổi theo Bạch Ðôn.Khi đuổi gần đến nơi,Bạch Ðôn trông thấy,liền hỏi Hồ Xạ Cô rằng:

– Ta trông tướng quân quen mặt lắm,có phải Hồ Xạ Cô đó không?

Hồ Xạ Cô nói:

– Phải !

Bạch Ðôn nói:

– Vậy tôi xin có lời chào tướng quân ! Cha con tướng quân khi trước ở nước tôi mười hai năm trời,nước tôi có điều gì bạc đãi đâu,ngày nay tướng quân nên nghĩ lại một chút,tôi chính là em ruột Bạch Bộ Hồ,tên gọi Bạch Ðôn đây.

Hồ Xạ Cô thấy Bạch Ðôn nhắc lại chuyện cũ,không nỡ giết chết,liền đáp lại rằng:

– Thôi thì ta khoang tha cho nhà ngươi,nhà ngươi nên mau mau thu quân về ngay,chớ ở đây nữa !

Hồ Xạ Cô quay ngựa trở lại. Ðêm hôm ấy,Bạch Ðôn rút hết quân kéo về nước Ðịch.Bạch Bộ Hồ không có con trai,Bạch Ðôn phát tang,rồi lên nối ngôi làm vua nước Ðịch.Quân Tấn thắng trận rồi các tướng về yết kiến Tấn Tướng công và đệ trình tờ di biểu của Tiên Chẩn.Tướng công thương xót vô cùng,truyền đem thi thể Tiên Chẩn ra xem,trông thấy hai mắt vẫn mỡ trừng trừng như lúc còn sống,vội vàng ôm lấy thi thể mà khóc rằng:

– Tướng quân vì việc nước mà chết ! Sống khôn chết thiêng ! Xem mấy lời di biểu này thì đủ biết tướng quân là người trung nghĩa.

Tấn Tướng công nói xong,sụp lạy ở trước linh cữu Tiên Chẩn,phong cho Tiên Thả Cư làm nguyên soái.Bấy giờ hai mắt Tiên Chẩn mới nhắm lại.Về sau,người nước Tấn có lập đền thờ Tiên Chẩn ở đất Cơ Thành.

Tấn Tướng công lại khen Khước Khuyết có công giết dược Bạch Bộ Hồ,phong cho đất Ký Ấp mà bảo rằng:

– Nhà ngươi biết đền bồi cáo lỗi của thân phụ nhà ngươi ngày xưa,vậy nên ta trả lại cho đất Ký Ấp là đất ăn lộc của thân phụ nhà ngươi trước.

Tấn Tướng công lại bảo Tư Thần rằng:

– Nhà ngươi có công tiến cử Khước Khuyết,nếu không có nhà ngươi thì sao ta biết Khước Khuyết mà dùng.

Tấn Tướng công bèn đem đất Tiêu Mao thưởng cho Tư Thần.

Nước Hứa và nước Sái từ khi Tấn Văn Công mất đi,lại thần phục nước Sở.Tấn Tướng công cho Dương Xử Phủ làm đại tướng, đem quân sang đánh nước Hứa và nước Sái.Sở Thành Vương sai Ðấu Bột và Thành Ðại Tâm đem quân đi cứu. Ði đến bến sông Chi Thủy,trông thấy quân Tấn ở bờ bên kia,liền truyz- én cho quân sĩ đóng lại ở bờ sông nên này.Hai bên chỉ cách nhau một dòng nước chảy.Quân Tấn bị quân Sở ngăn trở,không qua sông được, đã hơn hai tháng,thành ra hết cả lương ăn.Dương Xử Phủ định rút quân về,nhưng sợ người nước Sở đuổi theo,lại e rằng người ta cười mình chịu kém quân Sở,mới lập kế sai sứ sang nói với tướng nước Sở là Ðấu Bột rằng:

– “Ðã đến thì không sợ, đã sợ thì không đến”,tướng quân muốn đánh nhau với quân Tấn tôi thì quân Tấn tôi xin rút quân lùi lại một xá, để nhường cho tướng quân qua sông mà bày trận,rồi ta sẽ cùng nhau giao chiến,nếu tướng quân không muốn qua sông thì tướng quân cũng lùi lại một xá, để nhường cho quân T- án tôi qua sông mà bày trận và xin định ngày giao chiến.Bằng nay không lui thì hai bên cùng nhọc công tốn của,phỏng có ích gì ! Xin tướng quân nghĩ lại.

Ðấu Bột nổi giận nói :

– Nước Tấn khinh ta không dám qua sông sao !

Nói xong,toan đem quân qua sông để đánh Tấn.Thành Ðại Tâm vội vàng ngăn lại mà nói rằng:

– Người nước Tấn xin rút quân lùi lại một xá là nói dối để dụ quân ta sang đó mà thôi,ngài chớ nên tin vội.Nếu quân ta sang được một nữa,tất quân Tấn đánh ngay,bấy giờ ta tiến cũng dở mà thoái cũng dở,chi bằng ta hãy rút quân,nhường cho quân Tấn sang trước.

Ðấu Bột khen phải,rồi truyền quân sĩ lùi ra ba mươi dặm (tức là một xá) để nhường cho quân Tấn sang sông.Sứ nước Tấn về nói với Dương Xử Phủ.Dương Xử Phủ đôn đốc trong quân rằng:

– Tướng nước Sở là Ðấu Bột sợ thế quân ta,hiện đã rút quân trốn đi rồi.

Quân sĩ tưởng thực, đem chuyện ấy truyền cho nhau.Dương Xử Phủ lại nói:

– Quân Sở đã trốn đi rồi thì ta còn qua sông làm gì nữa ! Bây giờ ngày hết tết đến,tiết trời lại rét, âu là hãy thu quân về nghĩ,rồi sau sẽ liệu.

Dương Xử Phủ bèn thu quân về nước. Ðấu Bột chờ đã hai ngày không thấy quân Tấn qua sông,sai người đi dò thám thì ra quân T- án rút về đã xa rồi,mới cũng truyền lệnh thu quân về nước.

Lại nói chuyện Sở Thành Vương có người con trưởng tên là Thương Thần,khi trước Sở Thành Vương muốn lập làm thái tử hỏi ý kiến Ðấu Bột. Ðấu Bột nói:

– Nước Sở ta mấy đời nay vẫn lập con thứ,không lập con trưởng,và tôi xem tướng mạo Thương Thần,mắt như mắt cú,tiếng như tiếng heo;là người có tính tàn nhẫn,ngày nay đại vương yêu mà lập nên,ngày khác lại ghét mà trút đi,tất hằn nổi loạn.

Sở Thành Vương không nghe,liền lập Thương Thần làm thái tử và cho Phan Sùng làm chức thái phó.Thương Thần nghe nói Ðấu Bột không muốn lập mình làm thái tử,có ý căm tức, đến lúc Ðấu Bột đem quân về,Thương Thần mới đem lời dèm pha với Sở Thành Vương rằng:

– Ðấu Bột ăn lễ của Dương Xử Phủ,vậy nên mới rút quân về.

Sở Thành Vương tin lời,khi Ðấu Bột về,không cho vào yết kiến,lại sai người đưa cho một thanh kiếm đâm cổ mà chết.Thành Ðại Tâm vào yết kiến Sở Thành Vương,sụp lạy kêu khóc,thuật lại cái cớ Ðấu Bột rút quân về,hkông phải ăn lễ của Dương Xử Phủ,nếu bắt tôi về việc rút quân thì Thành Ðại Tâm cũng xin chịu tội.Sở Thành Vương nói:

– Nhà ngươi nói mà chi nữa ! Ta cũng lầy việc ấy làm hối hận.

Sở Thành Vương từ bấy giờ có ý nghi thái tử Thương Thần,sau Sở Thành Vương lại yêu người con thứ tên là Chức;muốn bỏ Thương Thần mà lập Chức làm thái tử,nhưng lại sợ Thương Thần nổi loạn,mới định tìm cớ để giết đi.Có người cũng nhận nghe được tin ấy,nói với Thương Thần.Thương Thần còn ngần ngừ chưa cho điều ấy làm thực,thuật chuyện lại cho quan thái phó là Phan Sùng nghe.Phan Sùng nói:

– Tôi xin hiến một kế,có thể dò xét được điều ấy thực hay là giả.

Thương Thần hỏi:

– Kế gì?

Phan Sùng nói:

– Em gái đại vương ta,lấy chồng ở nước Giang,gọi là nàng Giang Vu,nay về thăm dại vương ta, ở chơi trong cung lâu ngày,tất biết rõ điều ấy.Thái tử nên bày một tiệc rượu,mời Giang Vu đến ăn tiệc,rồi trong khi ăn tiệc,cố ý làm ra bộ khinh bỉ, để khiến cho Giang Vu phải tức giận.Giang Vu đã túc giận,tất thế nào cũng nói lộ điều ấy ra.

Thương Thần nghe lời,bày tiệc rượu để mời Giang Vu.Lúc Giang Vu mới đến thì Thương Thần tiếp đãi rất lễ phép,khi uống rượu tới nữa chừng,dần dần làm ra bộ khinh bỉ,sai người nhà bếp đưa món ăn mà không thèm đứng dậy mời,lại cố ý ngảnh mặt nói chuyện riêng với mấy đứa thị nữ hầu rượu.Giang Vu hai lần hỏi chuyện Thương Thần đều không trả lời.Giang Vu giận lắm, đạp bàn đứng dậy mà xỉ mắng Thượng Thần rằng:

– Mày tệ quá như thế,thảo nào mà đại vương định giết mày để lập công tử Chức.

Thương Thần giả cách xin lỗi.Giang Vu không thèm nhìn mặt,lên xe đi ngay,vừa đi vừa mắng Thương Thần thậm tệ.Ngay đêm hôm ấy,Thương Thần đến bảo Phan Sùng,và hỏi kế để thóat nạn,Phan Sùng nói:

– Thái Tử có thể cúi đầu mà thần phục công tử Chức được không?

Thương Thần nói:

– Ta là con trưởng mà phải thần phục con thứ thì chịu đựng thế nào được?

Phan Sùng nói:

– Nếu không chịu thần phục người ta thì chi bằng trốn sang nước khác.

Thương Thần nói:

– Trốn cũng vô ích,chỉ thêm nhục thôi !

Phan Sùng nói:

– Ngoài hai cách ấy ra thì chẳng còn cách gì nữa !

Thương Thần lại cố ý hỏi mãi.Phan Sùng nói:

– Có một kế này rất thần diệu,nhưng chỉ sợ thái tử không nỡ làm.

Thương Thần nói:

– Trong lúc đang nguy cấp này lại còn điều gì là điều không nỡ !

Phan Sùng ghé tai mà bảo rằng:

– Chỉ làm đại sự thì mới có thể đổi họa làm phúc được.

Thương Thần nói:

– Việc đó ta làm được !

Nói xong,liền tụ tập quân sĩ, đến nữa đêm vào vây cung Sở Thành Vương.Phan Sùng tay cầm thanh kiếm,cùng với mấy người lực sĩ đi thẳng đến trước mặt Sở Thành Vương.Các nội thị sợ hải,, đều bỏ chạy tán loạn cả.Thành Vương hỏi:

– Nhà ngươi vào đây có việc gì?

Phan Sùng nói:

– Ðại Vương làm vua đã bốn mươi sáu năm rồi,cũng nên thôi đi ! Nay người trong nước đều mong có vua mới,xin đại vương truyền ngôi lại cho thái tử.

Thành Vương kinh sợ mà nói rằng:

– Ta bằng lòng nhường ngôi lại cho,nhưng chẳng biết các người có để ta sống hay không?

Phan Sùng nói:

– Vua nọ chết đi thì vua kia mới lập lên,có lẽ nào một nước hai vua bao giờ ! Sao đại vương đã già mà còn chưa hiểu việc đời?

Thành Vương nói:

– Ta vừa mới sai nhà bếp nấu món chân gấu, đợi chín cho ta ăn một miếng thì dẫu chết ta cũng cam lòng

Phan Sùng quát to lên rằng:

– Món chân gấu thì còn lâu mới chín được,hay là đại vương định dùng dằng đợi người đến cứu đó chăng?Xin đại vương tự liệu đi,chớ để tôi phải động thủ.

Phan Sùng cởi dây lưng ném trước mặt Thành Vương.Thành Vương ngửa mặt lên trời mà kêu rằng:

– Ôi Ðấu Bột ! Ôi Ðấu Bột ! Ta không nghe lời nói của trung thần, đến nổi phải tai vạ,còn nói gì nữa !

Nói xong,liền cầm lấy giây lưng mà buộc vào cổ.Phan Sùng sai mấy người đứng hai bên nắm đầu guây mà kéo, được một lúc thì Thành Vương tắt hơi.Giang Vu nghe tin,thở dài mà than rằng:

– Thôi ! Chính ta làm hại anh ta rồi đó !

Giang Vu cũng thắt cổ tự tử.Thương Thần đã giết xong Thành Vương,nói dối là Sở Thành Vương bị cảm mà chết,sai người báo tang cho chư hầu biết,rồi lên nối ngôi,tức là Sở Mục Vương;Sở Mục Vương gia phong cho Phan Sùng làm chức thái sư,và giao binh quyền cho, để coi giữ vương cung.Quan lệnh doãn nước Sở là Ðấu Ban cùng các quan đều biết là Sở Thành Vương bị giết mà không dám nói. Ðấu Nghi Thân nghe tin SởThành Vương bị giết,liền cùng với quan đại phu là Trọng Quy bàn mưu để giết Sở Mục Vương,chẳng ngờ việc tiết lộ,Mục vương truyền cho quan tư mã là Ðấu Việt Tiêu bắt Ðấu Nghi Thân và Trọng Quy mà giết đi.Ngày trước có người thầy đồng tên là Duật Tự đã nói: “Sở Thành Vương cùng với Thành Ðắc Thần và Ðấu Nghi Thân,ba người đều bất đắc kỳ tử” đến bây giờ quả nhiên ứng nghiệm. Ðấu Việt Tiêu có ý muốn làm lệnh doãn mới nói với Sở Mục Vương rằng:

– Tôi thấy Ðấu Ban nói chuyện với người ta,thường phàn nàn về nỗi cha con nhà hắn chịu ơn tiên vương nhiều lắm;mà không giúp nên được cái chí lớn của tiên vương ngày xưa thì lấy làm xấu hổ.Hắn muốn lập công tử Chức lên làm vua,mới rồi Ðấu Nghi Thân làm phản là mưu tự Ðấu Ban,nay Ðấu Nghi Thân đã bị giết rồ, Ðấu Ban có ý lo sợ,tôi e rằng hắnlại bày mưu khác, đại vương nên phải phòng bị mới được.

Sở Mục công đem lòng nghi Ðấu Ban,mới triệu Ðấu Ban vào,sai đi giết công tử Chức. Ðấu Ban chối từ không chịu đi,Mục vương nổi giận,nói:

– Nhà ngươi muốn giúp nên cái chí lớn của tiên vương ngày xưa có phải không?

Mục vương liền cầm cái dùi đồng đánh chết Ðấu Ban.Công tử Chức sợ hải, định chạy sang nước Tấn. Ðấu Việt Tiêu đuổi theo đến ngoài cõi,giết chết công tử Chức.Sở Mục Vương cho Thành Ðại Tâm làm lệnh doãn,chưa được bao lâu thì Thành Ðại Tâm chết,Mục Vương liền cho Ðấu Việt Tiêu làm lệnh doãn,và nhớ đến công tử Văn ngày xưa,mới cho Ðấu Khắc Hoàng (con Ðấu Ban,cháu Tử Văn)làm quan châm doãn.

Tấn Tướng công nghe tin Sở Thành vương chết,bão Triệu Thuẫn rằng:

– Thế là lòng trời đã chán nước Sở rồi !

Triệu Thuẫn nói:

– Vua nước Sở trước là dẫu là bạo ngược,nhưng còn có thể đem điều lễ nghĩa mà giáo hoá được,Thương Thần là đứa Vô phụ,cha còn không tha huống là người khác ! Tôi e rằng cái vạ chư hầu chưa thật là hết !

Mấy năm sau,quả nhiên Sở Mục vương đem quân đi đánh các nước, đúng như lời nói của Triệu Thuẫn.

Tướng nước Tần là Mạnh Minh nói với Tần Mục công xin đem quân đánh Tấn, để báo thù trận thua ở Hào Sơn khi trước.Tần Mục công khen mà cho đi.Mạnh Minh liền cùng với Kiển Binh và Tây Khất Thuật đem quân đi đánh Tấn.Tấn tướng công vẫn lo nước Tần đem quân sang báo thù,ngày nào cũng sai người đi dò thám,khi được tin mạnh Minh lại sắp sang đánh,mới cười mà bảo rằng:

– Nước Tần nay đã sắp sang tạ ơn ta đó !

Tấn Tướng công bèn cho Tiên Thả Cư làm chánh tướng,Triệu Thôi làm phó tướng,Hồ Cúc Cư làm chức xa hữu, để đợi quân Tần sang đến nơi thì đánh.Khi đại binh sắp khởi hành,Lang Ðàm nói với Tiên Thả Cư xin đi theo.Tiên Thả Cư cho đi.Bấy giờ bọn Mạnh Minh chưa sang đến nơi,Tiên Thả Cư bảo các tướng rằng:

– Ðợi quân Tần đến mới đánh,chi bằng ta kéo sang mà đánh quân Tần.

Tiên Thả Cư nói xong,liền kéo quân sang đất Bành Nha (đất nước Tần) để đón quân Tần.Khi quân Tần đến nơi,hai bên đã bày thành trận thế,Lang Ðàm nói với Tiên Thả Cư rằng:

– Tiên nguyên soái ngày xưa chê tôi là người vô dũng,vậy nên truất bỏ không dùng,ngày nay tướng quân hãy thử cho tôi ra trận,tôi không dám cầu công,chỉ mong rửa được cái điều xấu hổ trước mà thôi.

Tiên Thả Cư bằng lòng.

Lang Ðàm cùng với bạn là Tiên Bá đem hơn một trăm người xông thẳng vào trong đám quân Tần.Bọn Lang Ðàm đi đến đâu thì quân Tần tan rã đến đấy,Tiên Bá bị Kiển Binh giết chết.Tiên Thả Cư đứng ở trên xe,trông thấy quân Tần rối loạn,mới giục quân tiến vào.Bọn Mạnh Minh không thể chống lại được,tức thì bỏ chạy.Tiên Thả Cư tìm cứu Lang Ðàm ra thì thân thể Lang Ðàm chỗ nào cũng bị thương cả, được hơn một ngày thì chết.Quân Tấn đã được thắng trận kéo nhau trở về.Tiên Thả Cư tâu với Tấn Tướng công rằng:

– Ngày nay thắng trận là nhờ sức của Lang Ðàm chứ không dự gì đến tôi.

Tấn Tướng công truyền theo lễ quân thượng đại phu mà an táng Lang Ðàm ở Tây Quách,bắt các quan triều thần phải đi đưa cả.

Mạnh Minh thua trận,chạy về nước Tần,tự nghĩ mình lần này tất phải tội chết,ai ngờ Tần Mục công chẳng trách giận gì cả,lại sai người ra đón,và vẫn giao quyền chính cho như trước.Mạnh Minh tự nghĩ xấu hổ vô cùng,mới dốc một lòng sửa sang quyền chính,lại đem hết những của riêng ra để tư cấp cho những nhà có người chết trận để đánh báo thù nước Tấn.Cuối năm ấy,Tấn Tướng công lại sai Tiên Thả Cư liên hợp với quan đại phu nước Tống là công tử Thành,quan đại phu nước Trần là Viên Tuyển,quan đại phu nước Trịnh là công tử Quý Sinh,cung đem quân sang đánh Tần,chiếm lấy đất Giang và đất Bành Nha,rồi rút quân về,lại nói giỡn một câu rằng:

– Mới rồi,nước Tần sang tạ ơn ta thì ngày nay ta đáp lại đó !

Mạnh Minh không đem quân đi đánh quân Tấn,chỉ vì chưa gặp thời đó thôi.

Ðến thắng năm năm sau,Mạnh Minh luyện tập quân sĩ đều đã tinh nhuệ cả rồi,mới xin Tần Mục công thân hành đi đánh,lại nói với Tần Mục công rằng:

– Nếu lần này tôi không báo thù được nước Tấn thì quyết không sống mà về làm gì !

Tần Mục công nói:

– Quân ta đã ba lần bị quân Tấn đánh thua rồi ! Nếu lần này lại thua thì ta cũng chẳng còn mặt mũi nào mà về nước nữa !

Tần Mục công nói xong,liền chọn ngày cử đại binh đi đánh Tấn,phàm các quân sĩ phải đi tòng chinh, đều tư cấp cho người nhà rất hậu.Các quân sĩ thấy vậy, đều hăng hái xin hết sức.Khi đại binh đã qua sông Hoàng Hà,Mạnh Minh truyền đem bao nhiêu thuyền bè đốt hết sạch cả.Tần Mục cônglấy làm lạ hỏi rằng:Tại sao nguyên soái lại đốt hết cả thuyền bè như vậy?

Mạnh Minh nói:

– Quân có khí thế mới đánh được giặc ! Quân ta thua luôn mãi,khí thế đã mất hết cả rồi,nay tôi đốt thuyền bè đi là tỏ cho quân ta biết rằng: Chỉ có tiến chứ không có thoái,khiến cho khí thế quân ta được thêm hăng hái,nếu quân ta đã thắng trận rồi,thì lo gì không có thuyền bè trở về.

Tần Mục công khen phải.Mạnh Minh kéo quân đi tiên phong,xông vào đánh lấy thành Vương Quan.Quân nước Tấn phi báo Tấn Tướng công.Tấn Tướng công hợp triều thần lại để thương nghị.Triệu Thôi nói:

Nước Tần căm tức ta nhiều lần,lần nay vua Tần thân hành cử đại binh sang,cố chết mà đánh ta,ta không thể địch nổi,chi bằng ta hãy tạm tránh,khiến cho quân Tần thỏa lòng, để dập tắt mối oán thù hai nước.

Tiên Thả Cư cũng nói với Tấn Tướng công rằng:

– Vua Tần lấy việc ngày trước thua ta làm xấu hổ,mà các tướng nước Tần cũng đều hăng hái,nếu không thắng được ta thì thế tất không thôi.Tướng công nên nghe lời Tử Dư.

Tấn Tướng công truyền cho quân sĩ các nơi, đều một mực cố thủ,không được giao chiến với quân Tần,Do Dư bảo Tần Mục công rằng:

– Quân Tấn sợ ta rồi ! Ta nên nhân dịp này đem quân đến dãy núi Hào Sơn,thu nhặt lấy hài cốt của quân sĩ ta ngày trước để mai táng,cho khỏi điều hổ thẹn.

Tần Mục công theo lời,kéo quân thẳng tới Hào Sơn,quân Tấn không thấy có một người nào dám ra ngăn trở cả.Tần Mục công sai người thu nhặt lấy hài cốt quân Tấn chết trận khi trước, đem mai táng ở một nơi,rồi giết trâu bò đế cúng tế.Tần Mục công mặc tang phục đứng rót rượu để làm lễ,lại ứa nước mắt rồi khóc òa lên.Mạnh Minh và các tướng đều sụp lạy mà khóc cả.Quân sĩ trọng thấy ai cũng chảy nước mắt.Dân ở đất Giang và đất Bành Nha nghe tin Tần Mục công thắng được quân Tấn,liền cùng nhau tụ hợp, đuổi các quan trấn thủ nước Tấn đi,rồi lại theo về nước Tần.

Tần Mục công thu quân về nước ban thưởng cho Mạnh Minh,Kiển Binh và Tây Khất Thuật.

Vua Tây Nhung là Xích Ban,khi trước thấy quân Tần hai ba lần bị thua,có ý khinh nước Tần hèn yếu, định làm phản nước Tần. Ðến lúc Tần Mục công thắng được quân Tấn,thu quân trở về,toan sẽ sang đánh Tây Nhung.Do Dư mới nói với Tần Mục công ,xin truyền hịch cho Tây Nhung bắt phải triều cống,nếu không chịu triều cống,bấy giờ sẽ đánh.

Xích Ban nghe tin Mạnh Minh nước Tần thắng được quân Tấn, đang có lòng lo sợ,thấy có tờ hịch thì vội vàng rủ nhau hai mươi nước nhỏ ở phía Tây cùng vào triều cống nước Tần,tôn Tần Mục công làm bá chủ tất cả các nước ở Tây Phương.Uy danh Tần Mục công đồn đến chốn kinh sư nhà Chu.Chu Tương vương bảo Doãn Vũ công rằng:

– Ngày xưa Trùng Nhĩ (tức là Tống Văn công)nước Tấn đại hội chư hầu,trẫm sách phong cho làm bá chủ,nay Nhâm Hiếu (tức là Tần Mục công ) nước Tấn cường thịnh,chẳng kém gì nước Tần,trẫm cũng muốn sách phong cho,nhà ngươi nghĩ thế nào?

Doãn Vũ công nói:

– Nước Tần dẫu cường thịnh,nhưng chưa có công trạng gì với nhà Chu ta,nay lại có ý bất hòa với Tấn,mà Tấn hầu ngày nay, đang nối được nghiệp cha.Nếu ta sách phong cho Tần thì mếch lòng Tấn,chi bằng ta sai sứ ban thưởng cho Tần,thế thì Tấn biết ơn ta,mà Tấn cũng chẳng oán gì ta được.

Chu Tương vương theo lời.

Chương 47: Lộng Ngọc cưỡi phượng theo Tiêu Sử – Triệu Thuẫn bội Tần lập Di Cao

Tần Mục công đã làm bá chủ các nước ở Tây phương. Chu Tương vương sai Doãn Vũ công đem một cái trống đồng ban thưởng cho Tần Mục công. Tần Mục công viện lẽ tuổi già, không vào triều được, sai công tông Chỉ sang nhà Chu để tạ ơn. Năm ấy Do Dư ốm chết, Mục công thương tiếc vô cùng, liền cho Mạnh Minh thay Do Dư làm chức hữu thứ trưởng. Công tôn Chỉ khi ở nhà Chu về, biết ý Mục công có một người con gái bé;lúc mới sinh, gặp có kẻ đem dâng viên ngọc phác, Tần Mục công sai thợ đẽo dũa đi, thành một viên ngọc sắc biếc mà đẹp lắm. Ðến lúc con gái Mục công đầy tuổi tôi, trong cung bày đồ toái bàn, người con gái nhặt ngay viên ngọc, rồi ngắm nghía mãi, bởi vậy Mục công đặt tên cho con là Lộng Ngọc.

Lộng Ngọc lớn lên, nhan sắc tuyệt trần, lại thêm tính trời thông minh, tài thổi ống sinh lắm, không học ai cả, mà thành âm điệu. Mục công sai thợ làm một cái ống sinh bằng ngọc để cho nàng thổi. Nàng thổi ống sinh ấy, tiếng trong như tiếng chim phượng. Mục công yêu lắm, lại lập một cái lầu cho nàng ở, đặt tên là Phượng lâu, trước lầu có xây một cái đài. Năm Lộng Ngọc đã mười lăm tuổi, Tần Mục công muốn kéo rễ cho nàng, Lộng Ngọc tự thề với mình rằng:

– Người nào có tài thổi sinh, có thể họa với ta được, ta mới chịu lầy làm chồng, còn ai thì ta cũng chẳng thiết.

Mục công sai người đi tìm, chẳng được một người nào vứa ý. Một hôm Lộng Ngọc ở trên lầu cuốn rèm lên ngắm cảnh, thấy trời tạnh mây trong, trăng sáng như gương, gọi thị nữ đốt lên một nén hương, rồi đi cái ống sinh bằng ngọc bích, đến bên cửa sổ mà thổi. Tiếng sinh véo von vọng lên vòm trời gió hây hây thổi, bỗng nghe như có người họa lại, khi gần khi xa. Lộng Ngọc không hkỏi băng khoăn, bèn ngừng lại không thổi nữa, có ý để nghe xem sao. Tiếng họa bỗng im đi, nhưng dư âm còn lẽo đẽo không dứt. Lộng Ngọc bâng khuâng trước gió, như một ngưới vừa đánh mất vật gì. Chốc đã nữa đêm, trăng xế hương tàn, nàng đem ống sinh để trên đầu giường, gắng gượng đi nằm. Nàng đang thiêm thiếp, bỗng thấy về phía tây nam trên trời, cửa mỡ rộng ra, hào quang ngũ sắc, rực rỡ như ban ngày, có một chàng trẻ tuổi, mũ lông áo hạc, cưỡi con chim phượng ở trên trời xuống, đứng trước Phượng đài bảo nàng rằng:

– Ta đây làm chủ ở núi Họa Sơn, Ngọc Hoàng thượng đế cho ta kết duyên với nàng, đến ngày trung thu này thì đôi ta gặp nhau, ấy là duyên số định sẵn như vậy !

Chàng trẻ tuổi ấy nói xong, thò tay vác bên mình, cởi ống ngọc tiêu, rồi đứng dựa lan can mà thổi. Con chim phượng đứng bên, cũng vươn cánh ra, vừa kêu vừa múa.

Tiếng phượng cùng với tiếng ngọc tiêu xướng họa, cùng nhịp với nhau như một, theo điệu cung thương, nghe rất êm ái. Lộng Ngọc mê mẩn tâm thần, hỏi rằng:

– Khúc này là khúc ở đâu?

Chàng trẻ tuổi ấy nói:

– Ấy là khúc “Họa Sơn Ngâm” đó!

Lộng Ngọc lại hỏi:

– Khúc này có học đưọc không?

Chàng trẻ tuổi ấy nói:

– Khi ra đã kết duyên với nàng rồi thì khó gì mà ta không dạy nàng được.

Chàng trẻ tuổi ấy đến gần trước mặt , cầm lấy tay của LỘng Ngọc;Nàng giật mình tỉng dậy, thì ra một giấc chiêm bao. Sáng hôm sau, Lộng Ngọc thuật lại chuyện chiêm bao cho Mục công nghe. Mục công sai Mạnh Minh cứ theo như hình tượng người trong mộng mà đến dò tìm ở núi Họa Sơn. Kẻ nông phu ở đấy trỏ lên núi mà bảo Mạnh Minh rằng:

– Hôm rầm tháng bảy mới rồi, có một người lạ mặt, đến làm nhà ở trên núi này, ngày nào cũng xuống mua rượu uống, đến buổi chiều lại thổi chơi khúc ngọc tiêu, ai nghe cũng lấy làm thích lắm, không biết là người ở đâu. Mạnh Minh lên núi, quả nhiên thấy có một người mũ lông áo bạc, trông như một vị thần tiên. Mạnh Minh biết là không phải người thướng , mới đến trước mặt vái chào, mà hỏi họ tên người ấy. Người ấy nói:

– Tôi họ Tiêu, tên Sử, chẳng hay ngài là ai? Ðến đây có việc gì?

Mạnh Minh nói:

– Tôi là chức hữu thứ trưởng nước này, tên gọi Mạnh Minh. Chúa công tôi có một người con gái yêu, còn đang kén chồng. Người con gái chúa công tôi, tài thổi ống sinh, muốn tìm một người như thế nữa mà kết duyên, nay nghe ngài am hiểu âm nhạc, vậy chúa công tôi sai đến đón!

Tiêu Sử nói:

– Tôi không có tài cán gì, chỉ gọi là có biết âm nhạc đôi chút mà thôi, có đâu tôi dám vâng mệnh.

Mạnh Minh nói:

– Xin ngài cứ đi cùng tôi xuống yết kiến chúa công.

Khi về đến kinh thành, Mạnh Minh vào tâu Mục công trước, rồi sau đưa Tiêu Sử vào. Mục công ngồi ở trên Phượng đài, Tiêu Sử sụp lạy mà tâu rằng:

– Chùng tôi ở thão dã chưa biết lễ nghi, có điều gì sơ suất, xin chúa công miễn thứ cho.

Mục công thấy Tiêu Sử hìng dung thanh tú, không phải là ngưòi thướng, trong lòng đã có mấy phần vui vẻ, mới cho ngồi ở bên cạnh mà nói rằng:

– Ta nghe nhà ngươi tài thổi ống tiêu, tất cũng tài thổi cả ống sinh nữa !

Tiêu Sử nói:

– Tôi chỉ biết thổi tiêu, không biết thổi ống sinh.

Mục công nói:

– Ta định tìm một người tài thổi ống sinh, nếu chỉ biết thổi ống tiêu thì không sánh đôi với con ta được !

Tần Mục công nói xong, bảo Mạnh Minh đưa Tiêu Sử ra. Lộng Ngọc sai nội thị tâu với Mục công rằng:

– Tiêu với sinh cũng là một loài, người ta đã atéi thổi ống tiêu thì sao chúa công không bảo dạo chơi một khúc để cho người ta được phô tài.

Mục công lấy làm phải, lại bảo Tiêu Sử thổi ống tiêu. Tiêu Sử mới thổ một khúcthì thấy có gió mát hây hây;thổi đến khúc thứ hai thì mây che bốn mặt, đến khúc thứ ba thì có đôi hạc trắng múa lượn trên không, lại có mấy đôi khổn gtước bay về, và các giống chim kêu ríu rít;một lúc lâu rồi mới tan đi. Mục công rất bằng lòng. Bấy giờ Lộng Ngọc đứng ở trong rèm trông thấy, cũng bằng lòng mà nói rằng:

– Người ấy thật đánh làm chồng ta !

Mục công lại hỏi Tiêu Sử rằng:

– Nhà ngươi biết ống sinh và ống tiêu làm ra từ đời nào không?

Mục công nói:

– Nhà ngươi hãy thử kể rõ nguyên ủy cho ta nghe.

Tiêu Sử nói:

– Nghề tôi ở ống tiêu, vậy tôi xin kể nguyên ủy ống tiêu:Ngày xưa vua Phục Hi ghép trúc làm ống tiêu, chế theo hình chim phượng, tiếng thổi cũng giống tiếng chim phượng. Thứ lớn gọi là nhã tiêu, ghép liền hai mươi ba ống, dài một thước bốn tấc, thứ nhỏ gọi là tụng tiêu, ghép liền mười sáu ống, dài hai thước một tấc. Cả hai thứ gọi chung một tiếng là tiêu quản, còn thứ không có đáy thì là đồng tiêu. Về sau vua Hoàng Ðế sai Linh Luân lấy trúc ở Côn Khê, chế làm ống địch, ống địch có bảy lỗ, cầm ngang mà thổi, cũng giống tiếng chim phượng, trông giản dị lắm ! Người đời sau thấy tiêu quản nhiều ống quá, mới chỉ dùng một ống địch rồi cầm mà thổi dọc. Thứ dài gọi là tiêu, thứ ngắn gọi là địch, bởi vậy ống tiêu đời nay, không phải như ống tiêu đời xưa.

Mục công lại hỏi:

– Sao nhà ngươi thổi ống tiêu mà lại có giống chim bay đến?

Tiêu Sử nói:

– Ống tiêu dẫu mỗi đời một khác, nhưng tiếng thổi bao giờ cũng vẫn giống tiếng chim phượng. Chim phượng là đầu các giống chim, bởi vậy các giống chim nghe tiếng phượng, đều kéo nhau đến cả. Ngày xưa vua Thuấn chế ra khúc “Tiêu Thiều” mà chim phượng còn hay bay đến, huống chi là các giống chim khác !

Tiêu Sử ứng đối trôi như nước chảy, tiếng nói lại sang sảng. Mục công càng bằng lòng lắm, bảo Tiêu Sử rằng:

– Ta có một người con gái, tên gọi LỘng Ngọc, cũng có biết âm nhạc , không muốn gã cho phường ngu ngốc, vậy xin cùng với nhà ngươi kết duyên.

Tiêu Sử nghe nói, nghiêm nét mặt lại, rồi sụp lạy hai lạy mà từ chối rằng:

– Tôi vốn là người thôn giã, có đâu dám sánh với bậc tôn quý !

Mục công nói:

– Con gái ta vốn có lời thề nguyện, có chọn được người nào tài thổi ống sinh thì mới lấy làm chồng. Nay nhà ngươi mới thổi ống tiêu mà lại cảm động được đến trời đất và muôn vật, như vậy thì lại hơn người thổi ống sinh nhiều lắm. Vả con gái ta khi trước đã có điềm mộng, ngày nay lại chính là tiết trung thu rầm tháng tắm, duyên trời định sẵn, nhà ngươi chớ nên chối từ.

Tiêu Sử lạy tạ. Mục công sai quan thái sử chọn ngày để làm lễ cưới. Quan thái sử nói:

– Hôm nay là ngày trung thu, trăng vừa tròn bóng, xin chúa công cho làm lễ cưới, để hợp cái nghĩa ân ái vẹn tròn.

T- àn Mục công truyền cho Tiêu Sử tắm gội, thay mũ áo mới, rồi sai người đưa đến phượng lâu, để cùng với Lộng Ngọc kết duyên. Ngày hôm sau, Tần Mục công phong cho Tiêu Sử làm trung đại phu. Tiêu Sử dẫu làm trung đại phu, nhưng không dự gì đến quyền chínhcả, ngày nào cũng vui chơi ở chốn Phượng lâu, lại không ăn cơm, chỉ thỉnh thoảng uống mấy chén rượu mà thôi. Lộng Ngọc học được phép tiên của Tiêu Sử, cũng không ăn cơm. Tiêu Sử lại dạy nàng thổi ống tiêu. Vợ chồng ở với nhau ước được nữa năm thì một đêm, bóng trăng vằng vặc, hai vợ chồng đem ống tiêu ra thổi, bỗng thấy một con phượng xuống đậu ở bên tả, và một con rồng xuống phục ở bên hữu.

Tiêu Sử bảo Lộng Ngọc rằng:

– Ta vốn là người tiên trên trời, Ngọc Hoàng thượng đế thấy sử sách ở trần gian, nhiều chỗ tán loạn, vậy nên giáng sinh ta xuống họ Tiêu nhà Chu để sửa sang lại. Người nhà Chu thấy ta có công về sử sách, mới gọi là Tiêu Sử, đến nay đã hơn trăm năm rồi. Ngọc Hoàng thượng đế cho ta làm chủ ở núi Họa Sơn. Vì ta cùng nàng có tiền duyên với nhau, nhưng không nên ở mãi chốn trần gian này Nay rồng cùng phượng đã đến đón ở đây, chúng ta nên cùng đi.

Lộng Ngọc toan vào từ biệt với cha. Tiêu Sử can rằng:

– Không nên ! Ðã là thần tiên thì chớ nên quyến luyến chút tình riêng !

Bấy giờ Tiêu Sử cưỡi con rồng, Lộng NGọc cỡi con Phượng cùng bay lên trời. Ngày hôm sau, nội thị vào báo với Mục công. Mục công thở dài mà than rằng:

– Giả sử bây giờ rồng phượng đến đón ta thì ta cũng chẳng thiết gì ngôi vua nữa !

Mục công liền sai người đến núi Họa Sơn để tìm, nhưng chẳng thấy Tiêu Sử đâu cả, mới truyền lập đền thờ, gọi là đền Tiêu Nữ. Mục công bấy giờ chán việc chiến tranh, giao hết quốc chính cho Mạnh Minh, rồi ngày nào cũng ham mê đường tu luyện. Chẳng bao lâu, côn gtôn chỉ cũng mất, Mạnh Minh tiến dẫn ba con Tử Xa Thị là Yêm Tức, Trọng Hàng và Kiểm Hồ, Mục công đều cho làm quan đại phu. Một hôm Mục công ngồi ở trên Phượng đài, ngắm cảnh trăng sáng, lại nhớ đến Lộng Ngọc, bỗng chợp mắt ngủ đi, trông thấy Tiêu Sử và Lộng Ngọc đem một con phượng đến đón, Mục công cưỡi phượng lên chơi cung trăng, khí lạnh buốt vào tận xương. Ðến lúc tỉnh dậy, liền bị bệnh cãm hàn, sau mấy ngày thì tạ thế. Ai cũng cho là Tần Mục công đắc đạo thành tiên.

Nguyên trước Mục công lấy con gái Tấn HIếu công sinh thế tử Oánh, đến bấy giờ thế tử Oánh lên nối ngôi, tức là Tần Khang công. Tần Khang công an táng Mục công theo tục nước Tần, dùng một trăm bảy mươi bảy người đem chôn sống. Trong số người bị chôn theo ấy có cả ba con Tử Xa Thị, người trong nước ai cũng thương tiếc.

Lại nói chuyệnTấn Tướng công lập con là Di Cao làm thế tử, cho thứ đệ là công tử Lạc sang làm quan ở nước Trần. Bấy giờ Triệu Thôi, Loan Chi, Tiêu Thả Cư và Tư Thần đều dần dần chết cả. Năm sau Tấn Tướng công ra duyệt binh ở đất Di (đất nước Tấn), rồi muốn bổ dụng Si Cốc và Lương Ích Nhĩ làm tướng ở đạo trung quân, Cơ Trịnh Phủ và Tiên Ðô (con Tiên Chẩn) làm tướng ở đạo thuợng quân. Con Tiên Thả Cư là Tiên Khắc nói với Tướng công rằng:

– Họ Hồ và họ Triệu có công to với nước Tấn, chúa công chớ nên bỏ con cháu của hai họ ấy mà không dùng. Nay Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ đều chưa có chiến công, đã cho làm ngay đại tướng, sao cho người ta phục?

Tướng công theo lời mới cho Hồ Xạ Cô làm trung quân nguyên soái, mà lấy Triệu Thuẫn làm phó tướng, cho Cơ Trịnh Phủ làm thượng quân nguyên soái;mà lấy Tuân Lâm Phủ làm phó tướng, cho Tiên Miệt làm hạ quân nguyên soái, mà lấy tiên đô làm phó tướng. Hồ Xạ Cô trèo lên tướng đài, tuyên bố hiệu lệnh cho các tướng sĩ, có ý kiêu ngạo, không coi ai ra gì cả. Quan tư mã là Du Biền can rằng:

– Tôi nghe trong quân phải có nhân hoà, nay các tướng đều là những bậc lão luyện thế thầ, nguyên soái chớ nên coi khinh. Ngày xưa Thành Ðắc Thần chỉ vì kiêu ngạo mà phải thua nước Tấn, nguyên soái nên lấy làm răn.

Hồ Xạ Cô nổi giận, quát to lên ràng:

– Nay ta đang tuyên bố hiệu lệnh cho các tướng sĩ, kẻ thất phu kia sao dám nói càn !

Nói xong, truyền nọc Du Biền đánh một trăm roi. Các tướng sĩ trông thấy, đều có ý không phục. Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ nghe nói Tiên Khắc nói với Tấn Tương công không nên dúng mình nên đem lòng oán giận. Tiên Ðô không đưọc giữ chức thượng quân nguyên soái, cũng có ý oán giận Tiên Khắc. Bấy giờ Dương Xử Phủ đang sang sứ nước Vệ, không dự biết việc ấy, đến lúc về nước, nghe tin HỒ Xạ Cô được làm nguyên soái, liền mật tâu với Tấn Tương crằng:

– Hồ Xạ Cô là người cương cường mà hiếu thắng, không được lòng dân, không thể làm đại tướng, chỉ có con Triệu Thôi là Triệu Thuẫn, rất có đức độ, mà lại có tài, chúa công muốn chọn nguyên soái thì nên dùng Triệu Thuẫn.

Tấn Tướng công theo lời, liền ra duyệt binh ở đất Ðồng. Hồ Xạ Cô chưa biết ý Tấn Tướng công muốn dùng người khác, vẫn nghiễm nhiên tự nhận làm trung quân nguyên soái. Tấn Tướng công gọi Hồ Xạ Cô mà bảo rằng:

– Ngày trước ta cho nhà ngươi làm nguyên soái, nay ta muốn để cho Triệu Thuẫn chức ấy, mà cho nhà ngươi làm phó tướng giúp Triệu Thuẫn.

Hồ Xạ Cô không dám nói gì, vâng dạ mà lui xuống. Tấn Tướng công liền cho Triệu Thuẫn làm trung quân nguyên soái, mà lấy Hồ Xạ Cô làm tướng, còn thượng quân và hạ quân vẫn dể yên như cũ?Triệu Thuẫn từ khi cầm quyền chính trong nước, chỉnh đốn pháp lệnh, người trong nước ai cũng kính phục. Có người bảo Dương Xử Phủ rằng:

– Ngài dám nói thẳng mà không kiêng nể ai, thật là một lòng vì nước, nhưng ngài không sợ người ta thù oán hay sao?

Dương Xử Phủ nói:

– Nếu có lợi cho nước thì ta chẳng sợ gì thù oán !

Ngày hôm sau, Hồ Xạ Cô vào yết kiến Tấn Tướng công, nhân lúc vắng vẻ mới hỏi Tấn Tướng công rằng:

– Chúa công nghĩ dến công lao của tiên nhân tôi ngày xưa mà cho tôi làm nguyên soái, nay lại đổi cho ngưòi khác, chẳng hay tôi có tội gì, xin chúa công chỉ bảo cho biết. Hay là vì cái công lao của tiên nhân tôi là Hồ Yến không bằng cái công lao của Triệu Thôi chăng?

Tấn Tướng công nói:

– Không phải có gì khác đâu ! Chỉ vì Dương Xử Phủ nói với ta rằng nhà ngươi không mấy người phục, khó làm được đại tướng , nên ta mới dùng người khác.

Hồ Xạ Cô nín lặng lui ra. Ðến tháng ba năm sau, Tấn Tướng công ốm nạng, khi sắp chết, triệu quan thái phó là Dương Xử Phủvà quan thượng khanh là Triệu Thuẫn với nhiều vị triều thần đến cạnh giường nằm mà dặn rằng:

– Ta đây nối theo nghiệp cha, , đánh đông dẹp bắc, chưa hề chịu kém ai, ngày nay chẳng may cùng với các người từ biệt, thế tử Di Cao tuổi hãy còn nhỏ, các khanh nên hết lòng giúp thế tử mà giao hiếu với các nước láng giềng, để giữ lấy sự nghiệp bá chủ.

Các quan đều sụp lạy xin vâng mệnh. Tấn Tướng công mất. Ngày hôm sau, triều thần định tôn thế tử Di Cao lên nối ngôi. Triệu Thuẫn nói:

– Nước ta ngày nay gặp lúc lắm việc, phải đối địch với nước Tần và nước Ðịch, không nên lập vua nhỏ, nay có công tử Ung, hiện đang làm quan ở nước Tần, ta nên đ&on về làm vua.

Các quan không ai dám nói gì. Hồ Xạ Cô nói:

– Chi bằng ta lập công tử Lạc ! Côn tử Lạc nay đang làm quan ở nước Trần, mà nước Trần lại thân với nước ta, không như nước Tần là một nước cừu địch, từ nước ta sang nước trần, chỉ sáng đi thì chiều đến nơi mà thôi.

Triệu Thuẫn nói:

– Không được ! Trần là một nước nhỏ mà ở xa, Tần là nước lớn mà ở gần. Ta sang nước Trần đón vua, cũng khônh thêm được tình thân ái, mà sang nước Tần đón vuathì lại bỏ được cái điều thù oán năm xưa và còn thêm vây cánh cho ta nữa. Như thế thì tất phải đón công tử Ung mới được!

Các quan đều nín lặng cả;Triệu Thuẫn liền sai Tiên Miệt làm chánh sứ, Sĩ Hội làm phó sứ;sang nước Tần báo tang, và đón công tử Ung về làm vua. Lúc Tiên Miệt sắp đi, Tuân Lâm Phủ ngăn lại mà bảo rằng:

– Phu nhân và thế tử đều ở đây cả, mà lại sang nước khác để đón vua, tôi e rằng nếu việc không thành thì tất có biến, sao nhà ngươi không cáo ốm mà từ chối đi?

Tiên Miệt nói:

– Quyền chính ở tay Triệu Thuẫn, sao lại có biến được !

Tuân Lâm Phủ nói riêng với người khác rằng:

– Ta cùng với Tiên Miệt là bạn đồng liêu với nhau, nên ta mới thực lòng mà bảo, nhưng hắn không nghe, ta e hắn khó lòng đã về được !

Hồ Xạ Cô thấy Triệu Thuẫn không theo ý mình, trong lòng tức giận mà nói rằng:

– Họ Hồ và họ Triệu, có kém gì nhau ! Ta quyết phen này có họ Triệu thì không họ Hồ!

Hồ Xạ Cô bèn mật người sang nước Tần đón công tử Lạc về, để tranh lấy ngôi vua. Có người báo tin với Triệu Thuẫn. Triệu Thuẫn sai công tôn Chử Cữu đem hơn một trăm người phục sẳn ở dọc đường, đón công tử Lạc mà giết đi. Hồ Xạ Cô thấy thế càng tức giận mà nói rằng:

– Làm cho Triệu Thuẫn được cầm quyền chính là bởi Dương Xử Phủ, nay có các nước đến hộ tang, Dương Xử Phủ ra ngủ ở ngoài thành để tiếp đón, nếu ta sai người ra đâm chết hắn thật dễ như chơi ! Và Triệu Thuẫn đã giết chết công tử Lạc thì ta giết Dương Xử Phủ chứ sao !

Hồ Xạ Cô bèn bàn mưu với em ruột là HỒ Cúc Cư. Hồ Cúc Cư nói:

– Việc ấy tôi có thể làm được !

Hồ Cúc Cư liền cùng với người nhà giả hìng làm kẻ trộm, nửađêm trèo tường vào chỗ Dương Xử Phủ ở. Dương Xử Phủ đang ngồi xxem sách ở bên cây nến, Hồ cúc Cư xông đến mà đánh, trúng vào vai Dương Xử Phủ. Dương Xử Phủ giật mình bỏ chạy. Hồ Cúc Cư đuổi theo giết chết, rồi cắt đầu đem về. Người nhà Dương Xử Phủ có kẻ nhận được mặt Hồ Cúc Cư, chạy vào báo với Triệu Thuẫn. Triệu Thuẫngiả cách không tin mà mắng rằng:

– Dương thái phó bị kẻ trộm giết chết, sao nhà ngươi dám vu oan cho Hồ Cúc Cư?

Triệu Thuẫn bèn sai người khâm liệm cho Dương Xử Phủ. Ðến tháng mười năm ấy, làm lễ an táng Tấn Tướng công ở đất Khúc Ốc. Tương phu nhân là Mục Doanh và thế tử Di Cao cũng đi đưa đám. Mục Doanh bảo Triệu Thuẫn rằng:

– Tiên quân có tội gì, thế tử có tội gì, mà ngài nỡ bỏ thế tử, để đi đón vua ở nước khác?

Triệu Thuẫn nói:

– Ðó là việc quan trọng của nước nhà, không phải ý riêng của một mình tôi !

Khi đã làm xong lễ an táng Tương công rồi, lúc rước thần chủ vào nhà miếu, Triệu Thuẫn đứng ở trong miếu, bảo các quan đại phu rằng:

– Tiên quân ngày xưa, chỉ vì biết dùng pháp luật mà làm bá chủ được chư hầu, nay linh cữu hãy còn để đấy, mà Hồ Cúc Cư dám tự tiện giết chết quan thái phó;khiến cho triều thần ai cũng lo sợ, tội ấy không thể tha được !

Triệu Thuẫn bèn cho bắt Hồ Cúc Cư giao cho quan tư khấu kết án mà chém đi. Triệu Thuẫn lại sai người đến khám nhà Hồ Cúc Cư, tìm thấy đầu Dương Xử Phủ, rồi đem chấp vào thi thể Dương Xử Phủ để an táng. HỒ Xạ Cô sợ Triệu Thuẫn biết cái mưu ấy tự mình bày ra, nhân lúc đêm hôm trốn sang nước Ðịch, vào đầu với vua nước Ðịch là Bạch Ðôn. Bấy giờ nước Ðịch có người tên gọi Kiều Như, mình dài một trượng năm thước, bởi vậy mới gọi là Trường Ðịch. Trường Ðịch có sức khỏe, mang nổi nghìn cân, đầu rắn như đồng trán cứng như sắt, cầm gạch ngói mà đập vào, cũng không thể xây xát được. Bạch Ðôn dùng làm tướng, sai đi đánh nước Lỗ?Lỗ Văn công sai Thúc Tôn Ðắc Thần đem quân ra đối địch. Bấy giờ đang tiết mùa đông, sương mù nhiều lắm, quan đại phu là Phú Phủ Chung Sanh biết rằng trời sắp mưa tuyết, mới bảo Thúc Tôn Ðắc Thần rằng:

– Kiều Như là người vũ dũng lạ thường, không lấy sức khỏe mà địch nổi, phải dùng mưu kế mới đánh được.

Nói xong, liền sai người đào hố ở các nơi hiểm yếu, rồi đem đất và cỏ phủ kín trên mặt. Ðêm hôm ấy quả nhiên trời mưa tuyết to lắm, mặt đất phủ đầy những tuyết, không biết chỗ nhận là hầm hố cả. Phú Phủ Chung Sanh đem một toán quân đến cướp phá đồn trại của Kiều Như. Kiều Như đem quân ra đánh. Phú Phủ Chung Sanh giả cách thua chạy. Kiều Như vội vàng đuổi theo. Phú Phủ Chung Sanhdã có ý đi tránh những nơi có đào hầm có hố còn Kiều Như vô tình ngã lăn xuống hố. Thúc Tôn Ðắc Thần đem quân ra đuổi đánh;Phú Phủ Chung Sanh cầm giáo đâm suốt qua cổ họng Kiều Như, Kiều Như chết, Phú Phủ Chung Sanh đem xác để lên một cái xe lớn rồi kéo đi, ai trông thấy cũng phải kinh sợ. Năm ấy Thúc Tôn Ðắc Thần nhân sinh được đứa con trai trưởng, mới đặt tên là Thúc Tôn Kiều Như, để kỷ niệm trận tháng ấy. Từ bấy giờ nước Lỗ, nước Tề và nước Vệ cùng hợp nhau dể đánh nước Ðịch. Hồ Xạ Cô lại chạy sang Xích Ðịch nương tựa vào quan đại phu nước Xích Ðịch là Phong Thư.

Triệu Thuẫn nói:

– Hồ Xạ Cô có công với tiên quân ta nhiều lắm, ta giết Hồ Cúc Cư là muốn cho Hồ Xạ Cô yên lòng, ai ngờ hắn lại sợ tội bỏ trốn, nay ta nỡ lòng nào mà khiến cho hắn phải bơ vơ một mình ở nơi đất khách !

Nói xong, liền sai Du Biền đưa vợ con Hồ Xạ Cô sang nước Xích Ðịch giao trả cho Hồ Xạ Cô. Khi Du Biền vừa sắp sửa khởi hành, thì người nhà Du Biền nói vói Du Biền rằng:

– Ngày trước ngài đã bị Hồ Xạ Cô làm sĩ nhục một lần, cái thù ấy cũng nên báo lại, nay quan nguyên soái sai người đưa vợ con Hồ Xạ Cô sang nước Xích Ðịch, đó là trời cho ta cái dịp để báo thù ! Ta nên giết cả đi.

Du Biền gạt đi mà bảo rằng:

– Không nên ! Không nên ! Nguyên soái đem việc ấy giao cho ta là có lòng tin cậy ta. Nguyên soái muốn giao trả người ta, mà ta lại giết đi thì tất nguyên soái giận ta lắm. Nếu ta nhân lúc người ta nguy cấp mà làm hại thì không phải là nhân, làm một việc mà để cho người ta giận thì không phải là trí.

Du Biền liền mời vợ con HỒ Xạ Cô lên xe đưa đi, còn bao nhiêu gia tài của Hồ Xạ Cô, đều biên vào trong một quyển sổ, mà đem sang trả tận nơi, không để mất tí gì cả. HỒ Xạ Cô thấy vậy, thở dài mà than rằng:

– Du Biền là người có hiền đức mà ta không biết ! nay ta phải chạy trốn thế này, cũng là đáng lắm !

Triệu Thuẫn từ bấy giờ kính trọng Du Biền, có ý muốn trọng dụng. Tiên Miệt và Sĩ Hội sang đến nước Tần, xin đón côngtử Ung về làm vua. Tần Khang công mừng mà nói rằng:

– Tiên quân ta ngày xưa hai lần lập vua cho nước Tấn nay ta lại lập côn gtử Ung, như vậy thì các vua nước Tấn đều tự tay nước Tần ta lập cả.

Tần Khang công sai Kiển Bính đem quân đưa công tử Ung về nước Tấn. Phu nhân Mục Doanh từ khi đưa đám Tấn Tướng công xong rồi, ngày nào cũng cứ mờ mờ sáng đã ẵm thế tử Di Cao vào chốn triều đường ngồi khóc và bảo các quan đại phu rằng:

– Con trưởng của tiên quân đây, sao các ngài lại bỏ đi?

Lúc đã tan buổi triều, lại đi xe đến nhà Triệu Thuẫn, nói với Triệu Thuẫn rằng:

– Khi quân sắp mất, có đem đứa bé này ủy thác cho ngài, nay tiên quân dẫu khuất mặt đi rồi, nhưng lời nói ấy bên tai ta hãy còn văng vẳng, nếu ngài lập ngưòi khác thì định để đứa bé này vào chỗ nào? Thôi thì mẹ con tôi cũng liều một thác cho rồi !

Nói xong, lại vật mình lăn khóc. Người trong nước nghe nói, ai cũng có lòng thương xót mà đổ lỗi cho Triệu Thuẫn. Các quan đại phu cũng lấy việc đi đón công tử Ung làm thất sách. Triệu Thuẫn lo lắm, bàn mưu với Khước Khuyết rằng:

– Tiên Miệt đã sang nước Tần đón công tử Ung rồi, có lẽ nàota lại lập thế tử Di Cao được.

Khước Khuyết nói:

– Ngày nay bỏ thế tử Di Cao mà lập công tử Ung, ngày khắc thế tử Di Cao lớn lên, tất lại sinh biến, chi bằng ta kiếp sai người sang nước Tấn để gọi Tiên Miệt về.

Triệu Thuẫn nói:

– Ta lập vua đã rồi sẽ sai sứ đi !

Triệu Thuẫn bèn hợp các quan triều thần, lập thế tử Di Cao lên nối ngôi, tức là Tấn Linh công. Bấy giờ Tấn Linh công còn bé, mới lên bảy tuổi. Các quan triều thần vừa lạy mừng xong thì bỗng nghe có báo đại binh nước Tần hiện đã đưa công tử Ung về đến sôngHoàng Hà rồi. Các quan đại phu nói:

– Nay ta thất tính với nước Tần, biết nói lại làm sao cho được !

Triệu Thuẫn nói :

– Nếu ta lập công tử Ung thì Tần là nước thân tình với ta, nay ta không chịu lập thì Tần lại thành ra một nước cừu địch, chi bằng ta cứ đem quân ra đánh.

Triệu Thuẫn sai quan thượng quân nguyên soái là Cơ Trịnh Phủ ở nhà để phù tá Tấn Linh công, còn mình thì đem quân đi đối địch với quân Tần. Quân Tần đến đất Linh Hồi, nghe báo phía trước có quân Tấn, vẫn tưởng là đến đón công tử Ung, vậy nên không phòng bị gì cả. Tiên Miệt đi trước đến chỗ quân Tấn đóng, vào yết kiến Triệu Thuẫn. Triệu Thuẫn nói cho biết là đã lập thế tử Di Cao rồi. Tiên Miệt trừng mắt lên mà bảo rằng:

– Tự ai bàn mưu đi đón công tử Ung, mà nay lại lập thế tử Di Cao?

Nói xong, liền đứn ngay dậy, quay mình đi ra, lại gặp Tuân Lâm Phủ, Tiên Miệt bảo Tuân Lâm Phủ rằng :

– Tiếc thay, ta hkông nghe lời nhà ngươi trước, để đến nỗi thế này !

Tuân Lâm Phủ can rằng:

– Ngài là bề tôi nước Tấn, bỏ nước Tấn sao được !

Tiên Miệt nói:

– Ta đã phụng mệnh sang nước Tần để đón công tử Ung thì công tử Ung tức là vua ta, mà nước Tần tức là một nước phù tá cho vua ta, nay ta chịu trái lời nói trước mà cu lấy sự phú quý ở chốn cố hương hay sao !

Tiên Miệt nói xong, đi thẳng sang trại quân Tần?Triệu Thuẫn nói:

– Tiên Miệt đã không chịu theo Tấn thì ngày mai quân Tấn tất tiến sang đánh ta, chi bằng đêm hôm nay nhân lúc quân Tần bất ngờ, ta sang đánh ngay thì có thể thang được.

Nói xong, truyền cho quân sĩ sữa soạn binh mã để đêm hôm ấy sang đánh quân Tần, thì vừa canh ba, quân Tần đang ngủ, hoảng hốt vùng dậy, bỏ chạy tán loạn cả. Quân Tấn đuổi mãi tận đất Hoa Thủ (giáp giới Tấn và Tần ), Kiển Bính liều chết mới chạy thoát được, còn công tử Ung thì chết ở trong đám loạn quân, Tiên Miệt than rằng :

– Triệu Thuẫn bội ước với ta, nhưng ta không nên bội ước với Tần !

Nói xong, liền chạy sang nước Tần. Sĩ Hội cũng than rằng:

– Ta cùng với Tiên Miệt cùng đi sứ, nay Tiên Miệt đã trốn sang nước Tần, ta cũng không nên trở về nước Tấn một mình nữa !

Nói xong, cũng theo Tiên Miệt trốn sang nước Tần, Tần Khang công đều cho làm quan đại phu. Tuân Lâm Phủ nói với Triệu Thuẫn rằng:

– Ngày xưa Hồ Xạ Cô chạy sang nước Ðịch, ngài nghĩ tình đồng liêu, sai người đưa vợ con đi theo, nay Tiên Miệt và Sĩ Hội cùng tôi, cũng là đồng liêu với nhau, tôi xin bắt chước lối cũ.

Triệu Thuẫn nói:

– Nhà ngươi trọng nghĩa như vậy, chính hợp với ta.

Triệu Thuẫn bèn sai người gia quyến và tài sản của Tiên Miệt cùng Sĩ Hội đưa sang nước Tần.

Việc đánh nhau mới rồi, các tướng nước Tần đều có công thắng trận cả;chỉ có Khoái Ðắc, bộ tướng của Tiên khắc (trung quân phó nguyên soái )cứ thẳng đường đuổi theo mãi, bị quân Tần đánh thua . Tiên Khắc đã toan theo quân luật đem Khoái Khắc ra chém. Các tướng đều xin hộ Khoái Khắc. Tiên Khắc nói với Triệu Thuẫn, rồi truất bỏ lộc điền của Khoái Khắc. Khoái Khắc đem lòng căm tức.

Cơ Trịnh Phủ, Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ vốn chơi thân với nhau, từ khi Triệu Thuẫn lên làm trung quân nguyên soái, Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ đều mất hết quyền thế, mới cùng với Cơ Trịnh Phủ cùng oán giận Triệu Thuẫn. Bấy giờ Triệu Thuẫn đem quân đi đánh quân Tần, Cơ Trịnh Phủ cùng Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ hợp nhau mà thương nghị rằng:

– Triệu Thuẫn chuyên quyền, tự ý bỏ người nọ lập người kia, nay đại binh nước Tần đưa công tử Ung về, Triệu Thuẫn đang đem quân ra đánh, chi bằng nhằm lúc hai bên còn giữ nhau, chúng ta nổi dậy đánh Triệu Thuẫn, bỏ Di Cao đi mà đón công tử Ung về, như vậy thì quyền chính nước Tấn sẽ ở trong tay chúng ta cả.

Chương 48: Năm tướng bàn nhau làm loạn Tấn – Thọ Dư lập kế đánh lừa Tần

Cơ Trịnh Phủ cùng với Sĩ Cốc và Lôi Ích Nhĩ, ba người bàn nhau, chỉ đợi quân Tần thắng trận thì thừa cơ nổi loạn, mà tranh lấy quyền chính của Triệu Thuẫn, chẳng ngờ Triệu Thuẫn phá tan được quân Tần, thì ba người lại càng căm tức.Bấy giờ Tiên Đô làm tướng ở đạo hạ quân, thấy chủ tướng mình là Tiên Miệt bị Triệu Thuẫn đánh lừa mà phải trốn sang nước Tấn, cũng có ý căm tức Triệu Thuẫn.Khoái Đắc bị Tiên Khắc truất mất lộc điền, đem lòng oán giận, mới bàn mưu với Sĩ Cốc, Sĩ Cốc:

– Tiên Khắc cậy thế Triệu Thuẫn, làm nhiều điều ngang ngược, nếu được một người can đảm, giết chết Tiên Khắc đi thì Triệu Thuẫn thế cô không làm gì được nữa, nhưng việc này trừ phi Tiên Đô ra thì không ai dám làm nổi.

Khoái Đắc nói với Sĩ Cố rằng:

– Tiên Đô thấy chủ tướng là Tiên Miệt bị Triệu Thuẫn đánh lừa, phải trốn qua Tần, cũng có ý căm tức Triệu Thuẫn đấy.

Sĩ Cốc nói:

– Nếu vậy thì khó gì mà không giết được Tiên Khắc.

Nói xong, liền ghé vào tai Khoái Đắc mà bảo thầm mưu kế giết Tiên Khắc.Khoái Đắc mừng lắm, nói:

– Để ta sẽ nói với Tiên Đô!

Nói xong, tức khắc đến yết kiến Tiên ĐộTiên Đô nói với Khoái Khắc rằng:

– Triệu Thuẫn bội ước với Tiên Miệt, lại lén đánh quân Tần, chẳng có tín nghĩa chút nào cả, ta cũng khó lòng mà ở với hắn được !

Khoái đắc đem lời Sĩ Cốc nói với Tiên ĐộTiên Đô nói :

– Nếu vậy thì là phúc cho nước Tần lắm !

Bấy giờ hết mùa đông, sang mùa xuân, Tiên Khắc đi ra Cơ Thành để bái yết miếu tổ là Tiên Chẩn.Tiên Đô sai người phục ở ngoài Cơ Thành, khi Tiên Khắc đi đến nơi thì đổ ra giết chết.Những người theo hầu Tiên Khắc thấy vậy, đều bỏ chạy tán loạn cả.Triệu Thuẫn nghe tin Tiên Khắc bị giết, tức thì nổi giận, truyền cho quân tư khấu phải lùng để bắt quân gian, hạn trong nam ngày phải bắt cho bằng được.Bọn Tiên Đô luống cuống, cùng với Khoái Đắc bàn mưu với nhau, rồi xui giục Sĩ Cốc và Lương Ích Nhĩ khởi sự gấp.Lương Ích Nhĩ lúc rượu say, nói lộ chuyện cho Lương Hoàng biết.Lương Hoàng kinh sợ mà nói rằng:

– Nếu vậy thì chết cả họ, chứ chẳng chơi đâu !

Lương Hoàng tức thì mật báo cho Du Biền.Du Biền bèn vào n&oi với Triệu Thuẫn.Triệu Thuẫn tức khắc truyền cho quân sĩ phải sẳn sàng đợi lệnh.

Tiên Đô thấy vậy, vội vàng sang nhà Sĩ Cốc, giục kíp khởi sự.Cơ Trịnh Phủ muốn đợi đến ngày thượng nguyên, nhân khi Tấn Linh công mở tiệc tứ bố thì thừa cơ nổi loạn, bởi vậy cứ phân vân, chưa quyết định.Triệu Thuẫn sai Du Biền đến vây nhà Tiên Đô, bắt Tiên Đô đem bỏ ngục.Lương Ích Nhĩ và Khoái Đắc trong khi bối rối, toan cùng Cơ Trịnh Phủ nổi loạn.Triệu Phuẫn bèn sai đem việc Tiên Đô muốn nổi loạn đến báo với Cơ Trịnh Phủ và mời Cơ Trịnh Phủ vào Triều để bàn việc.Cơ Trịnh Phủ nói:

– Triệu Thuẫn sai người mời ta đến bàn việc, thế là vẫn không có ý nghi ta !

Cơ Trịnh Phủ thản nhiên đến ngaỵNguyên Triệu Thuẫn thấy Cơ Trịnh Phủ đang làm thượng quân nguyên soái, sợ hắn hợp quân nổi loạn, nên mới giả cách đem người đến triệu.Cơ Trịnh Phủ không biết kế, vội vàng đi thẳng vào triều.Triệu Thuẫn giữ ở trong triều để bàn việc Tiên Đô, rồi mật sai Tuân Lâm Phủ, Khước Khuyết và Long Thuẫn đem quân bắt Sĩ Cốc, Lương Ích Nhĩ và Khoái Đắc cùng bỏ ngục cả.Bọn Tuân Lâm Phủ về đến trong triều, trông thấy Cơ Trịnh Phủ liền quát to lên rằng:

– Cơ Trịnh Phủ cùng là một người trong đám khởi loạn, mà làm sao không bắt bỏ ngục,

Cơ Trịnh Phủ nói:

– Lúc trước các ông đem quân đi vắng cả, tôi còn không noẩi loạn, huống cho ngày nay các ngài đã thắng quân Tần rồi, tôi lại sinh sự để muốn cầu lấy cái chết hay sao!

Triệu Thuẫn nói:

– Nhà ngươi còn dùng dằng mà chưa nổi loạn, là có ý đợi Tiên Đô và Khoái Khắc đó thôi.Ta đã dò biết hết sự tình, còn cãi gì được nữa !

Cơ Trịnh Phủ cúi đầu chịu vào ngục.triệu Thuẫn tâu với Tấn Linh công, xin đem bọn Cơ Trịnh Phủ ra chém, cả thảy năm người (Cơ Trịnh Phủ, Sĩ Cốc, Lương Ích Nhĩ, Khoái Đắc và Tiên Đô ).Linh công hãy còn ít tuổi, chỉ vâng dạ mà thôi.Khi Linh công đã vào cung, Tương phu nhân nghe tin bọn Cơ Trịnh Phủ bị bắt, mới hỏi Linh công rằng:

– Tướng xử trí việc ấy thế nào ?

Linh công nói:

– Tưog quốc xin trị tội mà đem chém tất cả.

Phu nhân nói:

– Bọn Cơ Trịnh Phủ nổi loạn, là vì tranh quyền lẫn nhau, chứ không can dự gì đến thoán nghịch.Và việc mưu giết Tiên Khắc, chẳng qua chỉ một vài người chủ mưu mà thôi, xử tội phải có thủ phạm tùng phạm, lẽ nào lại tru lục như nhau.Gần đây các bậc lão thành kế tiếp mà chết, thành ra nhân tài rất hiếm.Nay một lúc giết năm đại thần thì triều đình trống trải, không đáng lo lắm sao?

Ngày hôm sau, Linh công đem lời nói của Tương phu nhân, , thuật lại cho Triệu Thuẫn nghẹTriệu Thuẫn nói:

– Bọn hắn nổi loạn, nếu không giết đi thì lấy gì làm gương cho kẻ khác !

Nói xong, truyền đem bọn Cơ Trịnh Phủ ra chém, lại cho con Tiên Khắc là Tiên Cốc làm quan đại phụNgười nước Tấn thấy Triệu Thuẫn nghiêm khắc như vậy ai cũng sợ hãi, Hồ Xạ Cô ở nước Xích Địch nghe thấy việc ấy, cũng giật mình mà nói rằng:

– May thay cho ta được khỏi chết !

Một hôm quan đại phu Xích Địch là Phong Thư hỏi Hồ Xạ Cô rằng:

– Triệu Thuẫn với Triệu Thôi, hai người ấy ai hơn?

Hồ Xạ Cô nói:

– Triệu Thôi khác nào như mặt trời mùa đônh, Triệu Thuẫn khác nào như mặt trời mùa hạ.Mặt trời mùa đông ấm áp thì ai cũng yêu, mặt trời mùa hạ nóng dữ thi ai cũng sợ !

Phong Thư cười mà bảo rằng:

– Nhà ngươi làm tướng đã lâu năm, có nhiều công trạng mà cũng sợ Triệu Thuẫn à !

Lại nói chuyện Sở Mục vương từ khi cướp ngôi lên làm vua, cũng có chí lớn muốn làm bá chủ trung nguyên, nghe Tấn Linh công mới lập, Triệu Thuẫn chuyên quyền, các quan đại phu giết lẫn nhau, thì muốn đem quân sang đánh Trịnh, liền hơp( triều thần lại để thương nghị.Quan đại phu là Phan Sơn nói:

– Vua Tấn tuổi hãy còn nhỏ, các bề tôi chỉ tranh quyền lẫn nhau, còn nghĩ gì đến chư hầu, nay ta thừa cơ đem quân sang đánh lấy các nước ở phía bắc thì còn ai đương nổi !

Sở Mục công bằng lòng, liền sai Đấu Việt Tiêu làm chánh tướng, Vĩ Giả làm phó tướng, đem quân đi đánh Trịnh, còn mình thì đóng đại binh ở đất Lang Uyên để tiếp ứng, lại sai công tử Tiên làm chánh tướng, công tử Phiệt làm phó tướng, đem quân đi đánh Trần.Trịnh Mục công nghe tin quân Sở đến đánh, vội vàng sai công tử Kiên, công tử Mang và Lạc Nhĩ, ba người đem quân ra ngoài cõi để chống cự với quân Sở, lại dặn phải giữ thế thủ, chớ nên giao chiến, rồi cho người sang cáo cấp với nước Tấn. Đấu Việt Tiêu ngày nào cũng đem quân đến khiêu chiến.Quân Trịnh nhất định không rạVĩ Giả mật nói với Đấu Việt Tiêu rằng:

– Từ trận Thành Bộc đến giờ, quân Sở ta đã lâu không kéo sang nước Trịnh, người nước Trịnh chắc đợi có quân nước Tấn đến cứu, vậy mới cố giữ thế thủ mà không giao chiến với tạNay ta nên nhân lúc quân Tấn chưa đến, dụ ra mà đánh thì có thể báo được cái thù năm xưa, nếu để lâu ngày, các nước đem quân đến cứu thì e rằng lại giống như việc Thành Đắc Thần ngày trước, biết làm thế nào !

Đấu Việt Tiêu nói:

– Nay muốn dụ quân Trịnh ra thì làm thế nào?

Vĩ Giả ghé tai mà bảo mưu kế. Đấu Vuệt Tiêu nghe lời, liền giả cách nói lương thực sắp hết, truyền cho các quân sĩ đi ăn cướp ở các thôn xóm, còn mình thì ngày nào cũng ngồi ở trong màn uống rượu nghe hát đến nữa đêm mới thôi.Có người đến đất Lang Uyên báo tin cho Sở Mục vương biết.Sở Mục vương nghi lé Đấu Việt Tiêu có lòng khinh giặc, đã toan đem quân đến đễ đốc chiến.Phạm Sơn nói với Sở Mục vương rằng:

– Vĩ Giả là người có trí, tất là mưu kế chi đây.Tôi chắc chỉ trong mấy ngày nữa, phải có tin thắng trận đưa về.

Bọn công tử Kiên(tướng nước Trịnh )thấy quân Sở không đến khiêu chiến nữa, trong lòng nghi hoặc, mới sai người đi dọ thám xem tình hình quân Sở ra sao.Quân thám tử về báo rằng:

– Quân Sở ngày nào cũng kéo nhau đi cướp phá các thôn xóm, còn Đấu Việt thì chỉ suốt ngày nghe hát và uống rượu, khi rượu say, lại xỉ mắng người nước Trịnh ta là hèn mạt không làm gì được!

Công tử Kiên mừng mà nói rằng:

– Quân Sở đi cướp phà thôn xóm thì trong đồn trại tất bỏ không, mà nguyên soái nước Sở ngày nào cũng nghe hát uống rượu thì trông gì đến việc quan nữa ! Đêm hôm nay ta đem quân sang cướp phá đồn trại quân Sở, có thể toàn thắng được.

Công tử Mang và Lạc Nhĩ đều lấy làm phải. Đêm hôm ấy, ba người cùng đem quân lẻn đến dinh quân Sở, đứng xa trông thấy đèn đuốc sáng rực, lại nghe có tiếng hát véo von.Công tử Kiên nói:

– Đấu Việt Tiêu sắp đến ngày tận số !

Rồi tức thì vẫy quân xông vào.Quân Sở không chống cự gì cả.Công tử Kiên tiến vào tận trong trại, mấy người nhạc công bỏ chạy tán loạn, chỉ có Đấu Việt Tiêu vẫn thấy ngồi trơ, không động đậy chút nào.Công tử Kiên đến gần nhìn kỹ xem sao thì hóa ra một người bằng cỏ kết lại, chứ không phải Đấu Việt Tiêu thật, bấy giờ mới biết là trúng kế, giật mình kinh sợ, toan quay trở rạBỗng thấy ở phía sau trại pháo vang rầm, một viên đại tướng kéo quân ra đuồi đánh, quát to:

– Ta là Đấu Việt Tiêu đây !

Công tử Kiên vội vàng cùng với công tử Mang và Lạc Nhĩ tìm đường trốn chạy.Chạy chưa được một dặm, lại nghe có tiếng súng nổ.Vĩ Giả đem một toán quân chấn ngang giữa đường .Phía trước có Vĩ Giả, phía sau có Đấu Việt Tiêu, hai phía cùng đánh ập lại.Quân Trịnh thua tọCông tử Mang và Lạc Nhĩ bắt.Công tử Kiên chạy lại để cứu, cũng bị quân Sở bắt nốt.Trịnh Mục công kinh sợ, báo các bề tôi rằng:

– Ba tướng nước ta đều bị bắt cả, mà vẫn chưa thấy quân Tấn đến cứu, biết làm thế nào?

Các quan triều thần nói:

– Thế quân Sở mạnh lắm ! nếu ta không xin hàng thì chẳng bao lâu quân ta sẽ bị quân Sở phá vỡ, dẫu nước Tấn cũng không thể phá nổi.

Trịnh Mục công liền sai công tử Phong (con Trịnh Mục công ) đem các đồ lễ vật đến dinh quân Sở để xin giảng hòa. Đấu Việt Tiêu sai người tâu với Sở Mục vương.Sở Mục vương thuận cho, truyền tha công tử Kiên, công tử Mang và Lạc Nhĩ, rồi lại thu quân trở về nước Sở.Bấy giờ công tử Tiên (tướng nước Sở ) đem quân đi đánh Trần bị thua, quan phó tướng là công tử Phiệt bị quân nước Trần bắt.Côn tử Tiên mới đón đường tâu với Sở Mục công xxin thêm quân để đi đánh báo thù.Sở Mục công giận lắm, toan kéo quân sang nước Trần.Bỗng thấy nước Trần sai sứ đem công tử Phiệt sang xin giảng hoà.Sở Mục vương mở thư ra xem, đại lược nói rằng:

– Nước tôi nhỏ mọn, chưa từng được giao tiếp với thượng quốc, nay thượng quốc hành quân sang nước tôi, bọn ở biên giới không biết gì, có thất lễ với công tử Phiệt, tôi lấy làm lo sợ lắm, vậy phải sai sứ đem ngựa sang tạ tội.Từ nay trở đi, nước tôi một lòng thần phục, vậy xin thượng quốc dung thứ cho.

Mục vương cười rằng:

– Nước Trần sợ ta hỏi tội mà xin qui phục, cũng là kiến cơ đó !

Nói xong, thuận cho nước Trần được giảng hoà.Mục vương lại truyền hịch cho vua Trịnh, vua Trần, và vua Sái hẹn đến tháng mười năm ấy thì hội nhau ở đất Quyết Lạc (đất nước Tống ).

Lại nói chuyện Triệu Thuẫn nước Tấn thấy người nước Trịnh đến cáo cấp liền hợp quân bốn nước, Tống , lỗ, Vệ và Hứa để cùng sang cứu nước Trịnh.Chưa sang đến nơi, đã nghe tin nước Trần cũng theo Sở.Quan đại phu nước Tống là Hoa Ngẫu cùng quan đại phu nước Lỗ là công tử Toại đến nói với Triệu Thuẫn xin đem quân sang đánh Trần và Trịnh.Triệu Thuẫn nói:

– Chỉ vì ta không đến cứu nhanh, để đến nổi hai nước phải theo Sở, chớ hai nước ấy có tội lỗi gì ! Chi bằng ta rút quân về mà sửa sang chính sự trong nước còn hơn !

Nói xong liền rút quân về.Cuối mùa thu năm ấy, vua Trần (Sóc ) và vua Trịnh ( Lan) đều đến cả ở Tức Địa để đón Sở Mục vương.Mục vương hỏi:

– Khi trước tôi có hẹn đến hội ở Quyết Lạc, sao hai vua lại còn ở đây?

Vua Trần và vua Trịnh đồng thanh đáp:

– Chúng tôi sợ đến chậm thì có lỗi, vậy phải hợp ở đây để đón đại vương, rồi cùng đi một thể.

Sở Mục vương bằng lòng.Bỗng nghe báo vua Sái (Giáp Ngọ) đã đến ở đất Quyết Lạc rồi.Sở Mục vương liền cùng với vua Trần và vua Trịnh đi gấp đến đất Quyết Lạc.Khi Sở Mục vương đến, vua Sái ra đón, dùng lễ thần hạ, sụp lạy hai lạy.Vua Trần và vua Trịnh giật mình, nói riêng với nhau rằng:

– Vua Sái chịu nhún mình quá như vậy, thì vua Sở tất cho chúng ta là quá vô lễ !

Vua Trần và vua Trịnh mới cùng nhau nói với Sở Mục vương rằng:

– Đại vương thân hành đến đây mà vua Tống không đến nghênh tiếp, xin đại vương cho đem quân đi đánh.

Mục vương cười mà rằng:

– Tôi đem quân tới đây, chính là muốn đánh nước Tống đó.Bấy gìờ Tống thành công đã mất rồi, con là Chủ Cữu (tức là Tống Chiêu Công )lên nối ngôi mới được ba năm, hay tin dùng bọn tiểu nhân, mà ruồng bỏ người trông công tộc, bởi vậy người trong công tộc nổi loạn, giết quan tư mã là công tử Ngang.Quan tư thành là Đãng Y Chư bỏ chạy sang nước Lỗ, nhờ có quan tư khấu là Hoa Ngự Sự hết sức điều đình để triệu Đãng Y Chư về, nước Tống mới được yên ổn.Hoa Ngự Sự nghe tin Sở Mục công hội chư hầu ở đất Quyết Lạc có ý muốn dòm ngó nước Tống, mới nói với Tống Chiêu công ràng:

– Nước nhỏ mà không chịu thần phục nước lớn thì sao giữ được, nay nước Trần và nước Trịnh đều theo Sở cả, chúa công cũng nên thân hành đến mà nghênh tiếp vua Sở, nếu chờ khi vua Sở đem quân đến đánh, rồi mới xin giảng hoà thì sao cho kịp !

Tống Chiêu công lấy làm phải, mới thân hành đến đất Quyết Lạc để nghenh tiếp Sở Mục vương, và mời Sở Mục vương đi sắn bắn ở rừng Mạnh ChựSở Mục vương bằng lòng.Tống Chiêu công cùng với các chư hầu theo Sở Mục vương đi săn.Sở Mục vương truyền lệnh cho các chư hầu đi săn, trong xe đều phải đem theo một cái mồi lửa, phòng khi lấy lửa. Đến lúc đi săn, Sở Mục vương ngảnh lại hỏi Tống Chiêu công lấy cái mồi lửa toan hun đốt đàn cáo.Tống Chiêu công không đem mồi lửa đi theo.Quan tư mã nước Sở là Thân Vô Úy nói với Sở Mục vương rằng:

– Vua Tống trái lệnh như vậy, nếu đại vương không trị tội thì cũng nên đánh người theo hầu vua Tống để giữ phép.

Nói xong, liền thét nọc người dong xe của Tống Chiêu công đánh ba trăm roi, dể làm gương cho chư hầu.Tống Chiêu công hổ thẹn khôn xiết.Bấy giờ nước Sở cường thịnh, sai Đấu Việt Tiêu sang sứ nước Tề và nước Lỗ, nghiễm nhiên tự coi là bá chủ Trung nguyên.Nước Tấn biết vậy mà cũng không kiềm chế nổi.

Năm thứ tư đời Chu Khoảnh vương, Tần Khang công hợp các quan triều thần lại thương nghị rằng:

– Ta nghĩ đến việc Linh Hồ mà căm tức nước Tấn, đến nay đã năm năm trời, bây giờ Triệu Thuẫn nước Tấn chuyên quyền, giết hại các quan đại thần, không biết sửa sang chánh sự.Trần, Sái, Trịnh, Tống đều bỏ Tống theo Sở cả, mà Tấn cũng không làm gì nổi, xem thế đủ biết Tấn đã suy nhược lắm rồi, nay ta không đánh Tấn , còn đọi đến bao giờ !

Các quan đại phu đều nói:

– Chúa công muốn đánh Tấn, chúng tôi xin hết sức.

Tần Khang công liền giao quốc chính cho Mạnh Minh, rồi sai Tây Khất Thuật làm chánh tướng, Kiển Binh làm phó tướng, Sĩ Hội làm tham mưu, đem quân sang nước Tấn đánh lấy đất Cơ Mã.Triệu Thuẫn nghe báo, tức khắc muốn đem quân ra đối địch.Bấy giờ Triệu Thuẫn làm trung quân nguyên soái, cho Tuân Lâm Phủ làm trung quân phó nguyên soái, thay chân Tiên Khắc, dùng Đế Di Minh làm chức xa hữu, lại cho Khước Khuyết làm thượng quân nguyên soái, thay chân Cơ Trịnh Phủ.Triệu Thuẫn có người em họ têngọi Triệu Xuyên, là con rễ Tấn Tướng công, xin làm thượng quân phó nguyên soái, Triệu Thuẫn bảo Triệu Xuyên rằng:

– Nhà ngươi tuổi trẻ, chưa có lịch duyệt, không nên làm vội.

Nói xong liền cho Du Biền làm thượng quân phó nguyên soái, lại dùng Loan Thuẫn làm hạ quân phó nguyên soái, thay chân Tiên miệt, dùng con Tư Thân là Tư Giáp làm hạ quân phó nguyên soái, thay chân Tiên ĐộTriệu Xuyên lại xin đem thân thuộc của mình phụ theo với đạo thương quân để lập công trạng.Triệu Thuẫn thuận chọCon Hàn Tử Dư tên gọi Hàn Quyết, có hiến đức mà lại có tài năng, từ lúc bé vẫn ở nhà Triệu Thuẫn.Bấy giờ khuyết chức tư mã, Triệu Thuẫn liền tiến cử lên Tấn Linh công, mà dùng tư mã. Đại binh từ Giáng Đô kéo ra, rất là chỉnh tề, uy nghiêm ! Đi chưa được mười dặm, bỗng thấy có một người rẽ hàng quân mà quay xe trở lại.Quan tư mã là Hàn Quyết hỏi.Người dong xe ấy nói:

– Triệu Tướng quốc bỏ quên các đồ uống rượu, vậy có sai tôi trở lại lấy.

Hàn Quyết nổi giận nói :

– Đại binh đang đi ma sao nhà ngươi dám rẽ hàng quân trở lại, tất phải đem chém mới được !

Người dong xe ấy khóc mà kêu rằng:

– Việc này là do lệnh quan Tướng quốc.

Hàn Quyết nói:

– Ta làm chức tư mã, chỉ biết quân pháp, chứ không biết quan tướng quốc nào cả!

Nói xong, truyền chém người dong xe của ngài, thật là một kẻ phụ Ơn, xin chớ nên dùng làm gì !

Triệu Thuẫn cười, rồi sai người đi triệu Hàn Quyết.Hàn Quyết đến, Triệu Thuẫn đang ngồi đúng dậy, tỏ ý kính trọng mà bảo rằng:

– Nhà ngươi biết giữ phép như vậy, thật không uổng công ta tiến dẫn ! Nhà ngươi nên gắng thêm nữa !

Hàn Quyết lạy tạ rồi lui rạTriệu Thuẫn lại bảo các tướng rằng:

– Sau ngày Hàn Quyết tất được cầm quyền chính nước Tấn ! Họ Hàn đã sắp đến ngày hưng thịnh !

Quân Tấn đóng đồn ở đất Hà Khúc.Du Biền hiến kế rằng :

– Quân Tấn dương uy sức nhuệ trong mấy năm trời, mới sang đánh ta thì không địch nổi, ta nên cố thủ mà không nên ra đánh, lâu ngày tự khắc quân Tấn phải lui.Khi quân Tần đã lui, bấy giờ ta sẽ đuổi thì tất được toàn thắng.

Triệu Thuẫn theo lời.Tần Khang công thấy quân Tấn không đánh, mới hổi kế Si Hội.Sĩ Hội nói :

– Triệu Thuẫn mới dùng một người tên gọi Du Biền.Người ấy nhiều mưu trí lắm ! Nay quân Tấn không ra đánh là theo mưu của Du Biền, muốn lém cho quân ta lâu ngày mỏi mệt.Tôi nghe Triệu Xuyên là con rễ Tấn Tương công thuở trước, có nói với Triệu Thuẫn không cho, lại dùng Du Biền, Triệu Xuyên không bằng lòng, bởi vậy xin đem thân thuộc đi theo đạo thượng quân, thì tất Triệu Xuyên cậy sức mạnh, vội vàng ra nghênh chiến.Chỉ dùng kế ấy mới đánh nổi được quân Tấn.

Tần Khang công theo lời, liền sai Kiển Binh đến đánh đạo thượng quân.Khước Khuyết và Du Biền đều cố thủ không rạTriệu Xuyên nghe tin quân Tần đến, tức khắc đem thân thuộc của mình ra nghênh chiến.Kiển Binh quay xe bỏ chạy.Xe chạy rất nhanh.Triệu Xuyên đuổi theo đến hơn mười dặm mà không kịp, phải trở về.Triệu Xuyên thấy bọn Du Biền không đem quân tiếp ứng, mới gọi các tướng sĩ mà mắng rằng:

– Ta đem quân đi tới đây là cốt để đánh giặc, nay giặc đến mà ra đánh, vậy thì đạo thượng quân này đều là đàn bà cả hay sao !

Các tướng sĩ nói:

– Nguyên soái đã định sẳn mưu kế để phá quân giặc, chúng tôi không dám trái lệnh.

Triệu Xuyên lại mắng rằng:

– Lũ chuột ấy lại còn có mưu kế gì ! Chẳng qua là sợ chết mà thôi, Ai sợ quân Tần, chứ ta đây quyết không sợ.Ta quyết đem quân ra đánh một trận để khỏi thẹn với quân Tần.

Triệu Xuyên lại tiến quân ra đánh, vừa đi vừa reo to lên rằng:

– Ai có can đảm thì đi theo ta !

Các tướng sĩ không ai theo cả.Chỉ có quan hạ quân phó nguyên soái là tư giáp khen rằng:

– Người ấy thật là anh hùng, ta nên giúp mới phải !

Thượng quân nguyên soái là Khước Khuyết vội vàng sai người đem việc ấy báo cho Triệu Thuẫn biết.Triệu Thuẫn giật mình kinh sợ mà nói rằng:

– Thằng điên ấy đem quân đi một mình, tất bị quân Tần bắt, ta phải cứu mới được !

Nói xong, liền truyền cho các quân cùng ra, đế giao chiến với quân Tần.

Lại nói chuyện Triệu Xuyên tiến sang quân Tần, cùng với Kiển Binh giao chiến. Đánh được hơn ba mươi hợp, hai bên đang xung đột, thì Tây Khất Thuật vừa toan xông đến để đánh giúp Kiển Binh, bỗng thấy đại binh Tấn kéo ra, nên không dám đánh nữa, lại nổi hiệu thu quân trở về..Triệu Thuẫn thấy vậy cũng thu quân về.

Triệu Xuyên về đến dinh quân Tấn, hỏi Triệu Thuẫn rằng:

– Tôi định dốc lực ra phá vỡ quân Tần, để rửa thẹn cho các tướng, sao ngài lại nổi hiệu thu quân?

Triệu Thuẫn nói:

– Tần là một nước lớn, không nên khinh địch, phải dùng kế mới được.

Triệu Xuyên nói:

Đùng kế ! Dùng kế ! Nghĩ mà chán quá !

Nói chưa dứt lời thì có người vào báo có sứ nước Tần đưa chiến thư đến.Triệu Thuẫn sai Du Biền ra tiếp kiến.Sứ nước Tần đưa bức thư cho Du Biền.Du Biền đệ trình Triệu Thuẫn.Triệu Thuẫn mở ra xem, thư rằng:

“Các chiến sĩ của hai nước chúng ta, đều chưa thiếu ai cả, xin đến ngày mai quyết một trận được thua”.

Triệu Thuẫn nhận lời, sứ nước Tần về rồi, Du Biền bảo Triệu Thuẫn rằng:

– Tôi thấy sứ nước Tần ngoài miệng dẫu nói xin khai chiến, nhưng trông mắt ngơ ngác nhìn quanh có ý sợ hãi ta lắm.Tôi chắc đêm hôm nay quân Tần tất bỏ trốn , xin nguyên soái sai một toán quân ra phục sẳn ở bên Hoàng Hà, chờ khi quân Tần qua sông sẽ đổ ra đánh, tôi chắc là quân ta tất được toàn thắng.

Triệu Thuẫn khen phải, toan sai quân đi mai phục.Tư Giáp nghe thấy mưu ấy, liền nói với Triệu Xuyên.Triệu Xuyên liền với Tư Giáp kéo nhau đến cửa dinh quân Tấn mà reo ầm lên rằng:

– Các quân sĩ, hãy nghe ta nói một câu:nước Tấn ta dùng binh hùng tướng dũng, có kém gì nước Tần , nay nước Tần đưa chiến thư, ta đã nhận lời rồi, mà lại còn đem quân mai phục, để làm kế đánh trộm thì sao gọi là trượng phu được !

Triệu Thuẫn nghe nói, liền gọi Triệu Xuyên và Tư Giáp đến mà bảo rằng:

– Ta có ý đâu ! Các người chớ làm cho quân sĩ náo động !

Thám tử của nước Tần đem chuyện ấy về báo với Tần Khang công. Đêm hôm ấy, quân Tần bỏ trốn, rút về mạt Hà Ấp, qua ải Đào Lâm mà về nước Tần.Triệu Thuẫn cũng thu quân trở về, rồi trị tội những kẻ làm tiết lộ quân tình.Triệu Xuyên là con rễ Tấn Tương công, lại là em họ Triệu Thuẫn, được tha tội, còn Tư Giáp thì phải cách bỏ quan tước, đuổi sang ở nước Vệ.Triệu Thuẫn nói :

– Ta không nên quên công của Tư Thần ngày xưa !

Nói xong, lại cho con Tư Giáp là Tư Khắc làm hạ quân phó nguyên soái.

Triệu Thuẫn sợ quân Tần lại đến, mới sai quan đại phu là Thiêm Gia ra ở Hà Ấp để trấn thủ Ải Đào Lâm.Du Biền nói với Triệu Thuẫn rằng:

– Trận vừa rồi, bày mưu kế cho nước Tần là bởi Sĩ Hội, nếu người ấy còn ở nước Tần thì chúng ta cũng khó lòng mà ngồi yên được.

Triệu Thuẫn lấy làm phải, hợp các quan đại phu lại để thương nghị.Triệu Thuẫn hỏi rằng:

– Nay Hồ Xạ Cô ở nước Xích Địch, Sĩ Hội ở nước Tần, hai người đều lập mưu để hại nước Tấn ta, các quan nghĩ thế nào?

Tuân Lâm Phủ nói:

– Công lao của họ Hồ ngày xưa, ta cũng nên nhớ, nay xin triệu Hồ Xạ Cô về mà phục chức cho y.

Khước Khuyết nói:

– Hồ Xạ Cô nhiều công lao, nhưng có cái tội giết quan đại thần, nếu ta phục chức cho thì lấy gì làm gương cho kẻ khác, chi bằng ta triệu Sĩ Hội.Sĩ Hội là người nhu thuận mà nhiều mưu trí, dẫu có trốn sang nước Tần, nhưng không phải là có tội.Xích Địch xa mà nước Tần gần, ta muốn trừ cái hại nước Tần thì nên triệu Sĩ Hội về.

Triệu Thuẫn nói:

– Nước Tần đang trọng dụng Sĩ Hội, ta triệu thì tất nước Tần không cho về, biết làm thế nào?

Du Biền nói:

– Tôi có nghe một người tên gọi Thọ Dư, tức là cháu Ngụy Thù, hiện nay ăn lộc ở Ngụy Ấp.Người ấy khéo bày mưu kế, muốn triệu Sĩ Hội về, chi giao cho người ấy là được việc !

Nói xong, lại ghé vào tai Triệu Thuẫn mà bảo mưu kế.Triệu Thuẫn mừng lắm nói:

– Nhà ngươi đến gọi người ấy cho ta.

Chiều hôm ấy Du Biền đến nhà Thọ Dư, Thọ Dư mời vào.Du Biền xin vào phòng kín để nói chuyện, rồi đem mưu kế định triệu Sĩ Hội bảo với Thọ DựThọ Dư nhận lời.Du Biền về nói với Triệu Thuẫn.Ngày hôm sau, Triệu Thuẫn vào tâu với Tấn Linh công rằng:

– Người nước Tần thường hay xâm nhiễu nước Tấn ta, ta nên bắt các quan ấp tể ở Hà Đông phải mộ quân ra trấn thủ bến sông Hoàng Hà, lại bắt cả những người có ăn lộc, cũng phải đi đốc biện về việc ấy , nếu sai suyển thì tức khắc trị tội.

Nói xong, truyền gọi Thọ Dư, bắt phải hết sức mà đốc biện việc ấy.Thọ Dư nói với Triệu Thuẫn rằng :

– Chúa công nghĩ đến tiền nhân tôi thuở xưa mà cho tôi được ăn lộc ở Ngụy Ấp, nhưng tôi chưa hề có quen việc quân lữ bao giờ.HUống chi sông Hoàng Hà dài hơ, một trăm dặm, chỗ nào quân giặc cũng có thể sang đò dược, dẫu đem quân ra trấn thủ, chẳng qua cũng vô ích mà thôi.

Triệu Thuẫn nổi giận, nói:

– Sao nhà ngươi lại dám trái lệnh ta ! Hạn cho nhà ngươi trong ba ngày, phải đem quân tịch đến trình, nếu chưa làm xong thì sẽ chiếu quân pháp mà trị tội.

Thọ Dư than thở mà lui ra, khi về đến nhà, có vẻ buồn bả.Vợ con thấy vậy, xúm lại hỏi.Thọ Dư nói:

– Triệu Thuẫn ác nghiệt quá, bắt ta đem quân ra giữ các cửa sông Hoàng Hà thì biết bao giờ cho xong việc ! Các người nên thu thập gia tư, cùng ta trốn sang Tần theo Sĩ Hội là hơn cả.

Nói xong, truyền cho người nhà sắp sửa xe ngựa. Đêm hôm ấy Thọ Dư uống một bữa rượu thật say, rồi nhân cớ món ăn làm không được sạch, Thọ Dư lại đánh người làm bếp hơn một trăm roi, đánh xong, vẫn còn hầm hầm tức giận đe giết người nhà bếp.

Người nhà bếp tức khắc đem việc Thọ Dư có ý định phản Tấn theo Tần báo Triệu Thuẫn.Triệu Thuẫn sai Hàn Quyết đem quân đến bắt.Hàn Quyết để Thọ Dư chạy thoát, chỉ bắt vợ co đem bỏ ngục.Thọ Dư đi suốt mấy đêm sang đến nước Tần, vào yết kiến Tần Khang công, kể tội Triệu Thuẫn ác nghiệt, bắt giam vợ con mình, chỉ có một mình trốn thoát sang xin đầu hàng nước Tần.Tần Khang công hỏi Sĩ Hội xem việc ấy thực hay giả?

Sĩ Hội nói:

– Người nước Tấn hay gian dối lắm, ta chớ nên tin.Nếu Thọ Dưthực lòng đầu hàng, thì có đem được vật gì sang dân nước Tần ta mới phải.Thọ Dư thò vào trong tay áo, rút ra một quyển sổ, biên những thổ địa nhân dân tại Ngụy ấp, đem dân Tần Khang công mà nói rằng:

– Nếu chúa công thu dụng tôi thì tôi xin đem Ngụy ấp mà dân nộp cho chúa công.

Tần Khang công lại hỏi Sĩ Hội rằng:

– Có nên nghe lời Thọ Dư không?

Thọ Dư đua mắt cho Sĩ Hội và sẽ giẫm vào chân Sĩ Hội.Sĩ Hội dẫu ở nước Tần, nhưng lòng vẫn nhớ nước Tấn khi thấy Thọ Dư ra hiệu, mới nói với Tần Khang công rằng:

– Nước Tần ta khi trước bỏ năm thành ở đất Hà Đông mà không lấy, là vì có tình thân gia với Tấn.Bây giờ Tấn đánh nhau với ta luôn mấy năm nay, thì ta còn vì lẽ gì mà không chiếm lấy năm thành ở đất Hà Đông nữa.Và năm thành ở đất Hà Đông thì Ngụy ấp là lớn hơn cả, nếu ta chiếm được Ngụy ấp rồi nhân đấy mà lấy luôn cả năm thành , còn gì hơn nữa ! Tôi chỉ e rằng quân trấn thủ ở Ngụy ấp, sợ uy người nước Tấn, không dám về với nước ta mà thôi.

Thọ Dư nói:

– Quan trấn thủ ở Ngụy ấp dẫu là bề tôi nước Tấn, nhưng vẫn chịu ơn họ Ngụy tôi, nếu chúa công đem một toán quân đóng đồn ở Hà Tây để làm thanh viện, thì tôi có thể dụ cho họ phải theo.

Tần Khang công ngảnh lại bảo Sĩ Hội rằng:

– Nhà ngươi đã am hiểu việc nước Tấn, nên cùng đi với ta.

Tần Khang công cho Tây Khuất Thuật làm chánh tướng.Sĩ Hội làm phó tướng, và thân hành sang đóng đồn ở Hà Tây.

Quân thám tử nước Tần về báo rằng:

– Phía trước có một toán quân Tấn đóng đồn, không biết là ý tứ gì.

Thọ Dư nói:

– Đó tất là người Ngụy ấp, nghe tin quân Tần kéo đến mà phòng bị sẵn đấy ! Đó là vì chúng ta chưa biết có tôi ở bên này.Nay được một người nào am hiểu việc nước Tấn, cho cùng sang trước với tôi, đem sự họa phúc mà dụ bảo chúng thì chúng tất phải theo.

Tần Khang công sai Sĩ Hội đi với Thọ DựSĩ Hội sụp lạy mà nói rằng:

– Người nước Tấn tàn ác như hổ lang, không thể lường được.Chuyến này tôi phụng mệnh sang dụ bảo mà chúng chịu theo thì một sự may cho nước Tần, vạn nhất chúng không theo mà bắt tôi ở bên ấy, tôi e rằng chúa công lại cho tôi là người không làm nổi việc mà trị tội vợ con tôi.Như vậy có phải là không ích gì cho chúa công, mà vợ con tôi cũng phải chịu oan khổ, hối sao cho kịp !

Tần Khang công bèn bảo Sĩ Hội rằng:

– Nhà ngươi cứ nên hết lòng vì ta mà đi, lấy được Ngụy ấp thì ta sẽ hậu thưởng, nếu người nước T- án có bắt giữ nhà ngươi ỡ bên ấy, ta xin sai người đem vợ con sang trả, để tỏ tấm lòng yêu mến bấy lâu.

Nói xong lại trỏ sông Hoàng Hà mà thề với Sĩ Hội.

Quan đại phu nước Tần Nhiễu Triều can Tần Khang công rằng:

– Sĩ Hội là một mưu thần của nước Tấn, đi chuyến này khác nào như con cá lớn được xuống vực sâu, khi nào còn trở lại nữa.Sao chúa công lại quá nghe lời Thọ Dư mà giúp cho địch thêm một mưu thần như thế?

Tần Khang công nói:

– Việc này ta tự gánh lấy, nhà ngươi chớ có lo ngại.

Sĩ Hội và Thọ Dư từ biệt Tần Khang công rồi địNhiễu Triều ra tiễn, đem một cái roi da tặng Sĩ Hội mà bảo rằng:

– Nhà ngươi chớ khinh nước Tần ta không có trí sĩ, chỉ tiếc chúa công không nghe lời ta mà thôi ! Nhà ngươi cầm cái roi này đánh ngựa mà về cho mau, nếu chậm thì chắc có tai vạ.

Sĩ Hội lạy tạ, rồi giục ngựa đi mau.

Chương 49: Công tử Bão phóng tiền mua nước – Tề Ý Công tham sắc hại thân

Sĩ Hồi cùng Thọ Dư qua sông Hoàng Hà, đi về phía đông. Đi chưa được nữa dặm, thấy một viên tướng trẻ tuổi đem môt toán quân đến đón.Viên tướng ấy ngồi trên xe, cúi đầu chào Sĩ Hội.Sĩ Hội lại gần nhìn xem ai thì tức là Triệu Sóc (con Triệu Thuẫn).Sĩ Hội hỏi Triệu Sóc rằng:

– Nhà ngươi đem quân tới đây là có ý gì?

Triệu Sóc nói:

– Tôi phụng mệnh cha tôi, tới đây để đón ngài về triều, mặt sau sắp có đại binh kéo đến.

Nói chưa dứt lời thì bỗng nghe có tiếng pháo nổ, quân Tấn kéo đến đông như nước chảy, đem Sĩ Hội và Thọ Dư về triều.Thám tử nước Tần về báo, Tần Khang công nổi giận, toan đem quân qua sông để đánh Tấn.Lại nghe báo bên kia sông có Tuân Lâm Phủ và Khước Khuyết đem đại binh nước Tấn kéo đến, Tây Khất Thuật bèn nói với Tần Khang công rằng:

– Đại binh nước Tấn đã đến tiếp ứng như thế, tất không để cho quân ta sang sông, chi bằng ta hãy rút về.

Nói xong, liền rút quân về.Bọn Tuân Lâm Phủ thấy quân Tần rút về, cũng đem quân trở về nước Tấn.Sĩ Hội trốn sang nước Tần đã ba năm trời, ngày nay lại về nước Tấn, ngẫm nghĩ trong lòng, xiết bao cảm khái, vào yết kiến Tấn Linh công, sụp lạy tạ tội.Tấn Linh công nói:

– Nhà ngươi có tội gì đâu !

Tấn Linh công cho Sĩ Hội làm quan đại phụTriệu Thuẫn tâu với Linh công thưởng cho Thọ Dư mười cổ xe, để đền công khổ nhọc đi triệu được Sĩ Hội.Tần Khang công sai người đua vợ con Sĩ Hội về trả nước Tấn và bảo Sĩ Hội rằng:

– Ta không lỡ trái lời thề ở sông Hoàng Hà đâu !

Sĩ Hội cảm cái ân nghĩa của Tần Khang công, cũng viết thư cảm tạ, và khuyên Tần Khang công nên nghĩ việc binh, để nuôi sức dân, mà giữ yên bốn cõi.Tần Khang công nghe lời, từ bấy giờ Tần Tấn hai nước không gây việc chiến tranh, được đến vài ba mươi năm.

Chu Khoảnh vương lên ngôi được sáu năm thì băng hà.Thái tử Ban lên nối ngôi, tức là Chu Khuôn vương.Sở Mục vương mất.Thế tử Lữ lên nối ngôi, tức là Sở Trang vương.Triệu Thuẫn thấy nước Sở mới có tang, muốn nhân cơ hội ấy khôi phục lại sự nghiệp bá chủ của nước Tấn trước, liền đại hội chư hầu ở đất Tân Thành.Tống Chiêu công, Lỗ Thành công, Trần Linh công, Vệ Thành công, Trịnh Mục công và Hứa Chiêu công đều đến dự hội.Tống Chiêu công, Trần Linh công và Trịnh Mục công đều bày tỏ sự tình ngày trước, nói phải theo Sở chỉ là việc bất đắc dĩ.

Triệu Thuẫn cũng lấy lời ngọt ngào mà phủ dụ.Chư hầu lại thần phục nước Tấn cả, chỉ có nước Sái vẫn theo Sở như cũ, không đến dự hội.Triệu Thuẫn sai Khước Khuyết đem quân đi đánh nước Sái.Nước Sái xin giảng hoà.Khước Khuyết mới thu quân về nước.Tề Chiêu công vẫn định đến dự hội, nhưng phát bệnh nặng chưa kịp đến đã mất, con là thế tử Xá lên nối ngôi.Mẹ thế tử Xá là con gái nước Lỗ, tên gọi Thúc Cơ, tức là nàng Chiêu CợNàng Chiêu Cơ dẫu là Tề Chiêu công phu nhân, nhưng không được yêu chuộng mà con là Thế tử Xá, thì tài học lại tầm thường, cũng không được người trong nước kính trọng.Công tử Thương Nhân là con nàng Mật Cơ (thiếp của Tề Hoàn công) vốn có chí cướp ngôi, chỉ vì được Chiêu công hậu đãi, nên không nỡ làm vội, vẫn định chờ Chiêu công mất rồi mới khởi sự.Mấy năm sau, Chiêu công triệu công tử Nguyên ở nước Vệ về, giao quốc chính chọCông tử Thương Nhân thấy công tử Nguyên là người giỏi, vẫn có lòng ghen ghét, lại muốn mua chuộc lòng dân, mới đem hết gia tài, cấp phát cho những kẻ nghèo khổ, bởi vậy dân trong nước ai cũng phục. Đến lúc thế tử Xá được lên nối ngôi, bỗng gặp có sao chổi xuất hiện, công tử Thương Nhân mới sai người bói xem tốt xấu thế nào.Người thầy bói nói:

– Đó là cái triệu nước Tống nước Tề và nước Tấn có loạn, mà vua ba nước đều bị giết cả.

Công tử Thương Nhân nói:

– Nếu vậy thì làm loạn ở Tề, chắc là tay ta!

Nói xong, liền sai kẻ tử sĩ vào đâm chết thế tử Xá.Công tử Thương Nhân thấy công tử Nguyên hơn tuổi mình, mới nói dối công tử Nguyên rằng:

– Thế tử Xá không đáng làm vua, tôi làm việc này là vì anh đó !

Công tử Nguyên giật mình kinh sợ và nói rằng:

– Ta vẫn biết nhà ngươi muốn làm vua đã lâu, sao bây giờ lại trút cho tạTa thờ nhà ngươi thi được, chớ nhà ngươi không thể thờ ta được, ta chỉ mong nhà ngươi làm vua bao dung cho ta được trọn đời làm một kẻ thường dân ở nước Tề này, thế là mãn nguyện !

Công tử Thương nhân lên nối ngôi, tức là Tề Ý công.Công tử Nguyên ghét Tề Ý công làm những việc tàn nhẫn, mới cáo ốm về nhà, đóng cửa không đi đến đâu cả, cũng không vào triều nữa.Chiêu Cơ thương con chết oan, ngày đêm kêu khóc.Tề Ý công thấy vậy bắt giam vào một nơi, lại cho ăn uống rất kham khổ.Chiêu Cơ đút tiền cho các cung nhân để đưa tin sang cho Lỗ Văn công biết.Lỗ Văn công sợ thế nước Tề mạnh, sai người sang nói với Chu Khuông vương, muốn nhờ uy Chu Khuông vương, xin Tề ý công tha cho Chiêu Cơ, Chu Khuông vương sai Đan Bá sang nước Tề, bảo Tề Ý công rằng:

– Đã giết con thì thôi, còn giam mẹ làm gì ! Sao không tha cho người ta về nước Lỗ, để tỏ lòng quảng đại của nước Tề?

Tề Ý công vẫn muốn giấu việc giết thế tử Xá, bấy giờ nghe lời Đan Bá , mặt đỏ bừng lên, không nói gì cả. Đan Bá về nhà công quán.Tề Ý công truyền đem Chiêu Cơ sang cung khác, rồi sai người nói lừa Đan Bá rằng:

– Chúa công toi đối với quốc mẫu (tức là Chiêu Cơ ), chưa hề dám khinh, huống chi lại có lệnh thei- n tử, kẻ nào mà không tuân theo?Sao cương sứ không vào yết kiến quốc mẫu, để tỏ tấm lòng quyền cố của thiên tử.

Đan Bá tưởng thực, vội vàng vào cung yết kiến Chiêu CợChiêu Cơ ứa nước mắt, kể những nông nổ oan khổ. Đan Bá chưa kịp trả lời bỗng Tề Ý công ở đâu sực đến, quát to lên rằng:

– Đan Bá sao dám tự tiện vào cung tư thông với quốc mẫu, định làm việc bậy bạ hay sao? Ta quyết đem việc này tâu với thiên tử.

Nói xong, truyền đem Đan Bá và nàng Chiêu Cơ mỗi người giam vào một nơi;lại căm tức Lỗ Văn công dám mượn uy lệnh thiên tử mà áp chế nước mình, mới đem quân đi đánh Lỗ.Lỗ Văn công sai quan thượng khanh là Qúy Tôn Hàng Phủ (con công tử Hữu)sang cáo cấp với nước Tấn.Triệu Thuẫn vâng lệnh Tấn Linh công hội các nước Tống, Vệ, Sái, Trần, Trịnh, Tào;và Hứa ở đất Hỗ, để bàn việc đánh Tề.Tề Ý công bèn sai người sang lễ nước Tấn, tha Đan Bá về nhà Chu, lại cho nàng Chiêu Cơ về Lỗ.Các nước đều rút quân về cả.Lỗ Văn công nghe tin nước Tấn không sang đánh Tề, cũng sai công tử Toại sang nước Tề để xin giảng hoà.

Lại nói chuyện Tống Tương công phu nhân là Vương Cơ, tức là chị của Chu Tương vương, thân mẫu của Tống Thành công (Vương Thần )và tổ mẫu của Tống Chiêu công (Chử Cữu ).Tống Chiêu công tử khi còn làm thế tử, vẫn cùng với công tử An, công tử Khổng Thúc và công tôn Chung Ly đi săn bắn, đến khi lên ngôi làm vua, việc gì cũng nghe lời ba người ấy, bỏ hết cả chính sự, chỉ hằng ngày rủ nhau đi săn bắn để mua vui.Quan tư mã Lạc biết cơ nước Tống tất loạn, mới nhường quan chức cho công tử An.Quan tư thành là công tôn Thọ cũng sợ tai vạ, xin cáo lão về hưu.Tống Chiêu công lại dùng người con công tôn Thọ là Đăng Y Chư làm quan tư thành?Tống Tương công phu nhân là Vương Cơ đã già mà còn đa dâm.Tống Chiêu công có người con thứ đệ tên gọi công tử Bão uống rượu thật say, rồi ép công tử Bão thông dâm với mình và hứa sẽ lập làm vuạTừ đó Vương Cơ muốn bỏ Tống Chiêu công mà lập công tử Bắc.Tống Chiêu công sợ các chi họ về Mục công và Tương công mạnh thế lắm, mới bàn mưu với công tử Ngang để đuổi những người ở trong hai chi ấy ra nước ngoài.

Vương Cơ biết mưu, tức khắc mật báo cho hai chi ấy biết.Hai chi ấy nổi loạn, vay bắt công tử Ngang và công tử Chung Ly ở chỗ triều môn mà giết địQuan tư thành là Đăng Y Chư sợ hãi trốn sang nước Lỗ.Công tử Bão vốn được lòng các quan lục khanh, bấy giờ liên kết với bọn ấy và hai chi hộ, không hỏi đến tội giết chết công tửNgang và công tôn Chung Ly, lại sai người sang nước Lỗ triệu Đăng Y Chư về mà phục chức chọCông tử Bão nghe nói công tử Thương Nhân (tức là Tề Ý công ) ở nước Tề, phóng tiền tài để mua lòng người, mà cướp được ngôi vua, thì cũng bắt chước đem hết gia tài chu cấp cho những kẻ nghèo khổ.Năm thứ bảy đời Tống Chiêu công, nước Tống mất mùa, công tử Bão đem thóc gạo phát cho dân đói, lại kính kẻ già, tôn người hiền, phàm những người nào từ bảy mươi tuổi trở lên, cứ mỗi tháng lại sai người biếu thóc lụa và các thứ thực phẩm, mà cấp lương cho, các quan công, khanh, đại phu thì tháng nào công tử Bão cũng có đồ biếu, trong họ tôn thất, bất cứ thân sơ, hễ hơi có việc gì, cũng đem tiền bạc đến tư giúp. Đến năm thứ tám đời Tống Chiêu công, nước Tống lại mất mùa to, côn tử Bão hết cả tiền của.Vương Cơ lại đem của riêng ở trong cung ra mà đưa cho công tử Bão.Bở i vậy cả nước ai cũng khen ngợi công tử Bão là người nhân đức, mà muốn cho công tử Bão lên làm vuạCông tử Bão biết là người trong nước ai cũng bằng lòng với mình mới bàn mưu với Vương Cơ để định giết Tống Chiêu công.Vương Cơ nói:

– Nghe nói Chữ Cữu (tên Tống Chieu công ) sắp đi săn ở đất Mạnh ChựHôm ấy ta dặn công tử (em cùng mẹ với công tử Bão ) đóng cửa thành lại, rồi nhà ngươi đem người đi giết Chữ Cữu thì chắc phải xong việc.Công tử Bão theo lời.Quan tư thành là Đăng Y Chư vốn là người hiền, xưa nay công tử Bão vẫn kính trọng, bấy giờ nghe biết mưu của công tử Bão, liền nói với Tống Chiêu công rằng:

– Chúa công chớ nên đi săn, nếu đi thì tất không trở về được.

Tống Chiêu công nói:

– Nếu có kẻ nào định nổi loạn thì dẫu ta ở nhà, cũng chẳng tránh được nào !

Nói xong, liền sai quan hữu sự là Hoa Nguyên và quan tả sư là công tôn Hữu ở nhà để giữ nước, còn mình thì chuyên chở các thứ bảo ngọc trong kho, thẳng đường tiến ra Mạnh ChựTống Chiêu công mới ra khỏi cửa thành thì Vương Cơ sai người triệu Hoa Nguyên và công tôn Hữu vào mà giữ ở trong cung, rồi sai công tử Tu đóng chặt cửa thành lại.Công tử Bão bảo quan tư mã Hoa Ngẫu tuyên cáo với quân sĩ rằng:

– Ta phụng mệnh Vương Cơ tôn lập công tử Bão lên làm vua, trừ bỏ hôn quân vô đạo đi, các người nghĩ thế nào?

Quân sĩ đều reo ầm lên

– Xinn vâng mệnh !

Người nước Tống nghe nói, ai cũng thuận cả.Hoa Ngẫu đem quân đi đuổi theo Chiêu công.Tống Chiêu công đi đến nữa đường, nghe tin có biến, Đăng Y Chư khuyên Chiêu công chạy sang nước khác.Tống Chiêu công nói:

– Tr- en từ tổ mẫu (trỏ Vương Cơ )dưới đến người trong nước, ai cũng là cừu địch với ta, huống chi là các nước láng giềng ai còn chịu giúp ta nữa.Ta chết ở nước khác, chẳng thà chết ở nước nhà còn hơn !

Nói xong, truyền đóng quân lại, rồi nấu cơm ăn, để cho các người theo hắn đều được ăn no cả. Ăn xong, Chiêu công bảo các người theo hầu rằng :

– Việc này là lỗi tại ta, chứ các người có dự gì đến ! các người theo hầu ta trong mấy năm, ta chưa có gì đền công, nay có các đồ bảo ngọc ở đây, ta chia tặng cho các người.Các người nên trốn đi, kẻo mà chết oan !

Các người theo hầu đều khóc mà nói rằng:

– Xin chúa công cứ đi, nếu có quan đuổi theo, chúng tôi sẽ hết sức cố đánh.

Chiêu công nói:

– Chỉ chết uổng mà thôi, không được ích gì.Các người chớ quyến luyến ta nữa !

Được một lúc quân Hoa Ngẫu kéo đến, vây kín Tống Chiêu công, rồi tuyên cáo với quân sĩ rằng:

– Ta phụng mệnh Vương Cơ, chỉ giết một mình đứa hôn quân vô đạo mà thôi, không hại gì đến các người cả.Chiêu công vội vàng xua đuổi những người theo hầu địCác người theo hầu tan chạy đến quá nữa, chỉ còn Đăng Y Chư vẫn chống gươm đứng bên cạnh Chiêu công.Hoa Ngẫu lại tuyên bố mệnh lệnh của Vương Cơ triệu Đăng Y Chư về. Đăng Y Chư thở dài mà rằng:

– Làm bề tôi mà lúc hoạn nạn lại bỏ vua thì sống làm gì cho nhục, chẳng thà chết đi còn hơn !

Hoa Ngẫu cầm giáo, xông vào giết Tống Chiêu công. Đăng Y Chư lấy mình che cho Chiêu công, rồi cầm gươm đánh nhau với Hoa Ngẫu.Quân Hoa Ngẫu xúm lại, giết Đăng Y Chư trước, giết Tống Chiêu công sau.Các người theo hầu Tống Chiêu công, ai không trốn đi cũng bị giết cả.Hoa Ngẫu đem quân về báo với Vương CợBọn Hoa Nguyên và Công Tôn Hữu cùng với các quan trong triều đều tán tụng công tử Bão là người nhân đức , nên lập làm vuạVương Cơ truyền lập công tử Bão lên nối ngôi, tức là Tống Văn công.Hoa Ngẫu vừa triệu hạ xong, về nhà đau bụng chết ngay lập tức.Tống Văn công khen Đăng Y Chư là người trung thần, mới dùng người em là Đăng Huỷ làm quan tư mã, để thay cho Hoa Ngẫu.Tống Văn công lại cho người em cng mẹ là công tử Tu làm quan tư thành, để thay cho Đăng Y ChựTriệu Thuẫn nghe tin giết Tống có loạn giết vua, liền sai Tuân Lâm Phủ làm đại tướng, hội quân nước Vệ, nước Trần và nước Trịnh để sang đánh Tống.Quan Hữu sư nước Tống là Hoa Nguyên đến nói với quân Tấn, kể hết những sự tình người trong nước muốn lập công tử Bão, lại đưa mấy xe vàng lụa làm lễ khao quân, va xin giảng hoà với Tấn.Tuân Lam Phủ toan nhận.Trịnh Mục công nói:

– Chúng tôi dựng cờ dóng trống để theo tướng quân sang đánh Tống là muốn trừ những đứa loạn lạc, tướng quân lại cho nước Tống giảng hòa thì những đứa loạn tặc cìn sợ gì nữa!

Tuân Lâm Phủ nói:

– Tề và Tống có khác gì nhau, ta đã khoan dung cho Tề, có lẽ nào lại nghiêm khắc với Tống ! Và người nước Tống đều muốn như vậy, ta nhân đó mà an định nước Tống chẳng là hay lắm sao ?

Nói xong, liền cho nước Tống được giảng hoà.Trịnh Mục công lui ra mà nói rằng:

– Nước Tấn không nghĩ gì đến công nghĩa, chỉ tham lễ vật mà thôi thì làm bá chủ thế nào được ! Nay vua Sở mới lập, chẳng bao lâu tất cũng gây việc chiến tranh, chi bằng ta bỏ Tấn theo Sở, để giữ yên lấy nước nhà là hơn.

Trịnh Mục công liền sai sứ sang giao hảo với nước Sở.Nước Tấn biết vậy mà không làm gì được.Tề Ý công (Thương Nhân)là người ngang ngược, từ khi cha là Tề hoàn công hãy còn, đã có một lần cùng với quan đại phu là Bính Nguyên tranh nhau ruộng đất.Tề Hoàn công giao cho Quản Di Ngô xử đoán việc ấy.Quản Di Ngô mới xử cho Bính Nguyên được nhận ruộng đất ấy.Công tử Thương Nhân tức lắm, đến lúc giết thế tử Xá mà lên làm vua, liền chiếm lấy những ruộng đất của Bính Nguyên, cũng tước bỏ phong ấp của họ Quản, họ Quản sợ tội, trốn sang nước Sở, con cháu làm quan ở nước Sở.Tề Ý công vẫn còn căm tức Bính Nguyên, bấy giờ Bính Nguyên đã cgết rồi, Tề Ý công khi đi săn qua mộ Bính Nguyên, sai quân sĩ khai quật lên mà chặt bỏ chân đi.

Con Bính Nguyên là Bính Súc lúc ấy đang đi theo hầu ở bên cạnh Tề Ý CÔNG.Tề Ý công bèn hỏi Bính Súc rằng:

– Cứ như tôi thân phụ nhà ngươi thì phỏng có đáng chặt chân không?Chắc nhà ngươi oán ta lắm hẳn?

Bính Súc đáp rằng:

– Cha tôi lúc sống được khỏi tội chết, đã là may lắm rồi, huống chi bây giờ chỉ còn một nắm xương không, có đâu tôi dám oán giận.

Tề Ý công bằng lòng mà khen rằng:

– Thế mới thật con chữa được lổi cho cha !

Tề Ý công lại đem những ruộng đất chiếm lấy khi trước trả lại cho Bính Súc.Bính Súc xin chôn lại hài cốt của cha mình.Tề Ý công thuận chọTề Ý công lại mua gái đẹp trong nước, ngày nào cũng dâm đãng vui chơi.Lại nghe nóiquan đại phu là Diêm Chức có người vợ rất đẹp, nhân dịp tết nguyên đán Tề Ý công mới ra lệnh cho các vợ quan đại phu đều phải vào triều ở trong nội cung.Vợ Diêm Chức cũng vâng lệnh vào triều.Tề Ý công trông thấy bằng lòng, liền giữ lại không cho về, rồi sai người ến bảo Diêm Chức rằng:

– Phu nhân ở trong nội cung muốn kết bạn với vợ ngươi, vậy ngươi nên tìm vợ khác.

Diêm Chức tức giận lắm không nói ra.

Phía cửa tây nước Tề có cái ao, tên gọi Thân Trì, nước ao trong sạch, có thể tắm được.Bên ao có nhiều khóm trúc rườm rà.Bấy giờ đang tháng năm mùa hạ, Tề ý công ịnh ra Thân Trì để nghĩ mát, mới cho Bính TRúc và Diêm Chức đi hầu.Quan hữu sư là Hoa Nguyên nói riêng với Tề Ý công rằng:

– Chúa công chặt chân cha Bính Súc và cướp vợ Diêm Chức, hai người ấy biết đâu không căm giận chúa công.Các quan nước Tề thiếu gì người, sao chúa công lại hay thân cận hai người ấy?

Tề công nói:

– Hai người ấy chưa hề oán giận ta bao giờ, nhà ngươi chớ nghi ngại !

Nói xong, liền ngự xe ra chơi Thân Trì, uống rượu rất vui.Tề Ý công rượu say, thấy nóng bức quá, mới sai lấy một cái giường gấm kê ở trong bụi trúc để nằm cho mát.Bính Súc và Diêm Chức cùng tắm ở dưới ao.Bính Súc oán giận Tề Ý công lắm, vẫn muốn giết đi để báo thù cho cha, nhưng chưa được ai đồng lòng với mình.Thấy Diêm Chức cũng có cái thù mất vợ, muốn cùng bàn với Diêm Chức nhưng thấy khó nói quá, nhưng khi cùng tắm ở dưới ao, bèn nghĩ ngay một kế, cầm cái dóng trúc đánh vào đầu Diêm Chức.Diêm Chức nổi giận mà mắng rằng:

– Sao nhà ngươi dám khinh ta như vậy?

Bính Súc tủm tỉm cười mà bảo rằng:

– Người ta cườp vợ nhà ngươi mà nhà ngươi còn khp- ng giận, ta đánh một cái đã hề gì !

Diêm Chức nói:

– Mất vợ dẫu là một điều xấu hổ cho ta, nhưng so với việc cha phải chặt chân thì đằng nào nhục hơn? Nhà ngươi chẳng thiết gì đến cha, mà lại trách ta không biết nghĩ đến vợ, sao ngu tối thế?

Bính Súc nói:

– Ta có mấy lời tâm phúc, vẫn muốn bàn với nhà ngươi mà không dám nói, chỉ sợ nhà ngươi quên mất thù xưathì dẫu ta có nói , cũng không ích gì.

Diêm Chức nói:

– Bụng người ta ai cũng vậy, bao giờ quên được, chỉ vì sức không làm nổi.

Bính Súc nói:

– Nay kẻ thù đang say rượu, nằm ngủ ở trong bụi trúc, mà theo hầu đây thì chỉ có hai ta mà thôi, ấy là trời cho ta cái dịp để báo thù, ta chớ nên bỏ hoài.

Diêm Chức nói:

– Nhà ngươi dám làm đại sự, ta xin giúp một tay.

Hai người cùng lau mình mặc áo, rủ nhau vào trong bụi trúc, trông thấy Tề ý công đang nằm ngủ say, tiếng ngáy như sấm, lại có mấy tên nội thị đứng bên cạnh.

Bính Súc bảo các nội thị rằng:

– Lúc chúa công tỉnh rượu, tất thế nào cũng khát nước, các ngươi nên phải sắp sẳn mới được.

Các nội thị đều đi sửa soạn nước uống.Diêm Chức bèn nắm lấy tay Tề Ý công, Bính Sức thì bóp cổ, rồi rút gươm cắt lấy đầu.Hai người khiêng thi thể Tề Ý công giấu vào trong bụi trúc, rồi đem đầu ném xuống dưới ao.Khi nội thị đem nước uống đến, Bính Súc bảo rằng:

– Thương Nhân giết vua mà cướp ngôi, nay ta trừ bỏ đi rồi, có công tử Nguyên là người hiền, nên lập làm vua.

Các nội thị vâng dạ, không ai dám nói câu gì.Bính Súc cùng với Diêm Chức tiến vào trong thành, lại bày tiệc uống rượunmừng rỡ với nhau.Có người báo với hai quan thượng klà Cao Khuynh (con Cao Hổ )và Quốc Quy Phủ (con Quốc Ý Trọng ).Cao Khuynh nói:

– Bọn Bính Súc làm càn như vậy, ta nên kể tội mà bắt giết đi, để làm gương cho kẻ khác.

Quốc Quy Phủ nói:

– Một đứa giết vua, ta đã không trừ nổi, mà người ta trừ được thì sao gọi là tội.

Bính Súc cùng Diêm Chức uống rượu xong, sai lấy một cổ xe lớn, xếp của cải lên, rồi đem vợ con ra cửa nam.Người nhà khuyên Bính Súc nên đi mau.Bính Súc nói:

– Thương Nhân vô đạo, người trong nước nghe tin chết, ai cũng lấy làm may, ta còn sợ gì nữa !

Nói xong cứ việc thủng thỉnh mà đi sang nước Sở.Cao Khuynh và Quốc Duy Phủ hợp các quan trong triều lại để thương nghị, rồi lập cô, g tử Nguyên lên làm vua, tức là Tề Huệ công.

Lại nói chuyện Lỗ Văn công, tên là Hưng, là con nàng Thanh Khương (con gái Tề Hoà công).Lỗ Văn công lấy con gái Tề Chiêu công là Khương thị làm phu nhân, sinh đươc( hai con là Ác và Thị, lại lấy con gái nước Tần là Kinh Doanh làm thiếp, cũng sinh dược hai con là:Tiếp và Thúc Miện.Trong bốn người con ấy Tiếp là lớn tuổi hơn cả, mà Ác lại là con bà đích phu nhân, bởi vậy mới lập Ác làm thế tử.Bấy giờ quyền chính nước Lỗ, đều ở tay Tam Hoàn cả.

1.Mạnh Tôn thị là công tôn Ngao, sinh con là Cốc và Nạn.

2.Thúc Tôn thị là công tôn Tư, sinh con là Thúc Trọng Bành Sinh và Thúc Tôn Đắc Thần.Lỗ Văn công dùng Thúc Trọng Bành Sinh làm chức thái phó để dạy thế tử Ác.

3.Qúy Tôn thị là Qúy Vô dật(con Qúy Hữu), sinh con là Qúy Tôn Hàn Phủ, tức là Qúy Văn Tử.

Lỗ Trang công có ngươi con thứ là công tử Toại, tức là Trọng Toại, nhân vì công tôn Ngao đắc tội với Trọng Toại chết ở nước ngoài, bởi vậy Mạnh Tôn thị (tức là công tôn Ngao)mất quyền hành nước Lỗ đều về tay Trọng Thị (tức là Trọng Toại ), cùng với Thúc Tôn thị và Qúy Tôn thị.

Lại nói chuyện công tôn Ngao vì cớ gì mà đắc tội?Nguyên công tôn Ngao lấy con gái nước Cử là Đái Kỷ (sinh con là Cốc )và Thanh Kỷ (sinh con là Nạn ). Đến lúc Đái Kỷ chết, công tôn Ngao lại muốn lấy con gái nước Cử là Dĩ Thị, người nước Cử từ chối rằng:

– Còn nàng Thanh Kỷ đó, nên cho làm kế thất.

Công tôn Ngao nói:

– Em tôi là Trọng Toại, chưa có vợ, xin cưới Dĩ Thị cho em tôi.

Người nước Cử bằng lòng chọ Đến năm thứ bảy đời Lỗ Văn công, công tôn Ngao phụng mệnh sang sứ nước Cử nhân tiện xin đón Dĩ thị về cho Trọng Toại.Khi Dĩ thị về đến đất Yên Lăng(đất nước Cử ), công tôn Ngao đứng trên mặt th&énh, trông thấy Dĩ thị có nhan sắc, đêm hôm ấy cùng Dĩ thị ép duyên, rồi đưa về nhà.Trọng Toại thấy công tôn Ngao chiếm mất vợ mình, căm tức vô cùng, mới vào nói với Lỗ Văn công, xin đem quân đến đánh.Thúc Trọng Bành Sinh can rằng:

– Không nên, nếu vậy thì sinh biến loạn mất!

Lỗ Văn công cho triệu công tôn Ngao đến, bắt phải đem Dĩ thị trả lại cho nước Cử, để cho Trọng Toại khỏi giận.Công tôn Ngao và Trọng Toại lại hoà nhau như cũ.Công tôn Ngao vẫn có lòng nhớ Dĩ thị, năm sau phụng mệnh sang viếng tang Chu Tương vương, nhưng không sang nhà Chu mà đem tiền của trốn sang nước Cử, cùng với Dĩ thị đoàn tụ.Lỗ Văn công cũng không hỏi đếnviệc ấy nữa, cho con côn gtôn Ngao là Cốc nối dòng Mạnh Tôn thị.Sau công tôn Ngao nhớ nước Lỗ muốn về, sai người nói với con là Mạnh Tôn Cốc.Mạnh Tôn Cốc liền xin với chú là Trọng Toại.

Trọng Toại bảo Mạnh Tôn Cốc rằng:

– Nếu cha mày muốn về thì phải theo ta ba điều;không được vào triều, không được dự quốc chính, không được đem Dĩ thị về.

Mạnh Tôn Cốc sai người sang nói với công tôn Ngao.Công tôn Ngao muốn về lắm, đành phải theo lời.Công tôn Ngao về Lỗ trong tám năm, quả nhiên chỉ đóng cửa, không đi đến đâu cả bỗng một hôm lại đem hết tiền của trốn sang nước Cử.Mạnh Tôn Cốc nghĩ ngợi nhớ cha, được hơn một năm thì chết.Con là Trọng Tôn Miệt(tức là Mạnh Hiến Tử)hãy còn nhỏ, Lỗ Văn công liền cho Mạnh Tô Nạn nối làm quan khanh.Chưa được bao lâu, Dĩ thị chết, công tôn Ngao lại muốn về nước Lỗ, mới đem hết gia tài lễ đút, Lễ Văn công và Trọng Toại, mà sai con là Mạnh Tôn Nạn đứng xin lỗi cho chạLỗ Văn công thuận cho.

Khi công tôn Ngao trở về đến nước Tề thì ốm không đi được nữa, rồi chết ở đất Đường Phụ.Mạnh Tôn Nạn xin đem thi thể công tôn Ngao về chôn ở nước Lỗ.Mạnh Tôn Nạn là con người có tội, không được dự quyền chính.Qúy Tôn Hàng Phủ giữ mực kính nhường đối với Trọng Toại, Bành Sinh và Đắc Thần cả ba đều thuộc về hàng chú, việc gì cũng phải đến hỏi.Bành Sinh tính nết hiền hậu, làm chức thái phó mà đắc Yhần thì chuyên giữ binh quyền, thế là chỉ có Trọng Toại và Đắc Thần giữ quyền chính nước Lỗ.Nàng Kinh Doanh cậy thế Lỗ Văn công yêu, giận rằng con mình không được làm thế tử, mới đem tiền của lễ đút Trọng Toại nhờ binh vực cho con là công tử OạTrọng Toại nghĩ thầm:

– Thúc Trọng Bàng Sinh là quan thái phó của thế tử Ác, thì tất không chịu đồng mưu với mình, mà Thúc Tôn Đắc Thần, tính tham ăn lễ, có thể lấy lợi mà dụ được.

Liền đem lễ vật của Kinh Doanh cho, chia biếu Thúc Tôn Đắc Thần mà bảo rằng:

– Đây là những lễ vật của Kinh Doanh nhờ ta đưa biếu nhà ngươi.

Trọng Toại lại bảo công tử Tiếp thỉnh thoảng đến thăm Thúc Tôn Đắc Thần để tỏ lòng kính mến, bởi vậy Thúc Tôn Đắc Thần cũng có lòng yêu . Đến năm Lỗ Văn công mất, thế tử Ác làm chủ tang, lên nối ngôi, các nước đều sai sứ đến thăm viếng.Bấy giờ Tề Huệ công(tức công tử Nguyên)mới lên nối ngôi, muốn biến cải những chính lệnh bạo ngược của Tề Ý công (tức là công tử Thương Nhân)khi trước, cũng sai sứ đến viếng tang Lỗ Văn công.Trọng Toại bảo Đắc Thần rằng:

– Tề Lỗ thuở xưa vẫn giao hiếu với nhau, chỉ vì Tề HIếu công gây nên thù oán, kéo dài cho đến Tề Ý công nay công tử Nguyên mới lên nối ngôi, ta chưa sai người sang mừng, mà đã đến viếng tang nước ta, là có ý muốn thân thiện với ta, ta nên sai sứ sang tạ, và nhân cơ hội này giao kết với Tề để làm vây cánh cho công tử Oa.

Hai người bên cùng sang sứ nước Tề.