Chương 50: Trọng Toại tôn lập Oa công tử – Triệu Thuấn khuyên can Tấn Linh Công

Trọng Toại cùng với Thúc Tôn Ðắc Thần sang nước Tề để mừng vua mới và tạ ơn nước Tề đã sai sứ sang viến tang.Tề Huệ công mời ăn tiệc, nhân hỏi Trọng Toại và Thúc Tôn Ðắc Thần rằng:

– Chảng hay vua mới nước Lỗ sao lại đặt tên là Ác?Thế gian thiếu gì tên đẹp mà lại dùng cái chữ xấu xí ấy?

Trọng Toại nói:

– Tiên sinh tôi lúc mới sinh thế tử Ác, có sai quan thái sứ bói xem tốt xấu thế nào, quan thái sứ bảo rằng cứ theo số tất phải chịu ác tử không được hưởng lộc, vậy nên tiên quân tôi mới đem chữ “Ác” đặt tên để trấn yểm đi.Chỉ vì Ác là con đích mà phải lập làm thế tử chứ tiên quân tôi vẫn không có lòng yêu, tiên quân tôi chỉ yêu người con hơn tuổi nhất là công tử Oa.Công tử Oa tính nết hiền hậu, biết kính trọng các quan đại thần, người trong nước ai cũng muốn tôn làm vua.

Tề Huệ công nói:

– Ðời xưa cũng có phép được lập người con hơn tuổi, huống chi lại là con yêu.

Thúc Tôn Ðắc Thần nói:

– Nước Lỗ tôi vẫn quen lệ lập đích tử, khi nào không có đích tử mới lập người con hơn tuổi, bởi vậy tiên quân tôi bỏ công tử Oa mà lập công tử Ác, người trong nước chẳng ai thuận cả.Nếu quý quốc có lòng vì nước tôi đối lập vua hiền thì công tử Oa xin cùng với quý quốc kết làm hôn nhân, rồi dốc một lòng mà thần phục quý qốc.

Tề Huệ công rất bằng lòng mà nói rằng:

– Nếu đại phu giúp ở bên trong thì tôi đây cũng xin tuân mệnh.

Trọng Toại cùng với Thúc Tôn Ðắc Thần quệt máu ăn thề và lập tờ hôn ước.Tề Huệ công thuận cho.Bọn Trọng Toại về đến nước Lỗ, bảo Quý Tôn Hàng Phủ rằng:

– Ngày nay sự nghiệp bá chủ của nước Tấn đã suy kém rồi, nước TỀ sắp lại cường thịnh.Nước Tề muốn đem đích nữ gã cho công tử Oa, như vậy thì nước ta lại càng thêm vây cánh.

Quý Tôn Hàng Phủ nói:

– Chúa công bây giờ là cháu gọi vua Tề bằng cậu, vua Tề có con gái, sao không gả cho chúa công mà lại gả cho công tử Oa?

Trọng Toại nói:

– Vua Tề nghe nói công tử Oa là người hiền, muốn kết thân với công tử Oa, nhận làm rễ, còn như bà phu nhân Khương thị là con Tề Chiêu công mà các con Tề Hoàn công thì coi nhau như cừu địch, vậy nên bốn đời vua Tề đều là em lên thay anh, người ta đã chẳng nghĩ gì đến anh, đâu lại còn nghĩ gì đến cháu.

Quý Tôn Hàng Phủ nín lặng, khi ra về thở dài mà than rằng:

– Ðông Môn thị đã có ý khác rồi !

Nói xong, liền mật báo với Thúc Trọng Bành Sinh, Thúc Trọng Bành Sinh nói:

– Ngôi vua đã định rồi, ai còn dám có ý khác !

Thúc Trọng Bành Sinh cũng chẳng nghĩ gì đến nữa.Trọng oại cùng với Kính Doanh bàn mưu đem bọn dũng sĩ phục ở trong chuồng ngựa, sai người báo là ngựa mới đẻ con đẹp lắm.Kính Doanh báo công tử Oa cùng với vua Lỗ (tức là công tử Ác) và công tử Thị thân hành ra chuồng ngựa để xem.Bọn dũng sĩ đổ ra, cầm côn gỗ đánh chết vua LỖ lại giết chết cả công tử Thị nữa.Trọng Toại nói:

– Quan Thái phó là Thúc Trọng Bành Sinh hãy còn, nếu chưa trừ bỏ được người ấy thì tất không xong việc.

Trọng Toại liền sai nội thị giả cách phụng mệnh vua Lỗ đến triệu Thúc Trọng Bành Sinh sắp sửa vào cung.Gia Thần là Công Nhiễm Vụ Nhân vẫn biết chuyện TRọng Toại mật giao với người trong cung mới can Thúc Trọng Bành Sinh rằng :

– Thái phó chớ vào, vào thì tất chết.

Thúc Trọng Bành Sinh nói:

– Vua sai người triệu thì dẫu chết ta cũng đành lòng!

Công Nhiễm Vụ Nhân nói:

– Nếu vua triệu thật quan thái phó không chết, chỉ e rằng không phải vua triệu thì ngài sẽ chết uổng mà thôi.

Thúc Trọng Bành Sinh không nghe.Công Nhiễm Vụ Nhân nắm lấy vạt áo mà khóc.Thúc Trọng Bành Sinh dứt vạt áo, rồi đi thẳng vào cung, đến nơi không thấy vua Lỗ đâu cả, mới hỏi các nội thị.Các nội thị nói:

– Chúa công đi ra chuồng ngựa, để xem ngựa mới đẻ.

Các nội thị liền đưa Thúc Trọng Bành Sinh đi ra chuồng ngựa.Bọn dũng sĩ lại đổ ra giết chết Thúc Trọng Bành Sinh, rồi đem thi thể chôn ở trong đống phân ngựa.Rồi Kính Doanh sai người bảo Khương thị rằng:

– Chúa công cùng công tử Thị đều bị ngựa đá chết rồi.

Khương thị khóa òa, rồi đi ra chuồng ngựa để xem.Khi Khương thị đến chuồng ngựa thì thi thể vua Lỗ và công tử Thị đã được đưa ra ngoài cung môn.Quý Tôn Hàng Phủ nghe tin, biết ngay là do mưu kế của Trọng Toại, không dám nói ra, lại bảo riêng TRọng Toại rằng:

– Nhà ngươi hiểm độc quá, ta nghĩ không đang tâm!

Trọng Toại nói:

– Ðấy là mưu của Kính Doanh, chứ ta có dự đâu đến.

Quý Tôn Hàng Phủ nói:

– Giả sử nước Tấn đem quâ, đến hỏi tội thì ta biết nói ra thế nào?

Trọng Toại nói:

– Xem việc nước Tề và nước Tống trước thì đủ biết, người ta giết ua lớn mà chẳng ai hỏi tội, huống chi ta giết chết hai đứa trẻ con ấy, có lo ngại gì !

Quý Tôn Hàng Phủ ôm lấy thi thể vua Lỗ mà khóc, đến nổi khàn cả tiếng.Trọng Toại nói:

– Quan đại thần nên phải bàn việc lớn trong nước, sao lại bắt chước thói đàn bà !

Quý Tôn Hàng Phủ mới gạt nước mắt không khóc nữa.Thúc Tôn Ðắc Thần đến, hỏi anh mình là Thúc Trọng Bành Sinh ở đâu.

Trọng Toái chối là không biết, Thúc Tôn Ðắc Thần cười mà rằng:

– Anh ta chết đi làm người trung thần, đó là cái chí của anh ta, can gì mà phải giấu.

Trọng Toại mới nói thực với Thúc Tôn Ðắc Thần và bảo với các quan rằng:

– Công việc ngày nay, cần phải lập vua trước đã.Công tử Oa là người hiền mà lại nhiều tuổi hơn cả các công tử, nên lập lên làm vua.

Các quan đều vân dạ xin theo, rồi cùng tôn lập công tử Oa lên làm vua, tức là Lỗ Tuyên công.Thúc Tôn Ðắc Thần bới đống phân ngựa, đem thi thể Thúc Trọng Bành Sinh ra làm lễ an táng.Khương thị nghe tin hai con bị giết, Trọng Toại lập công tử Oa lên làm vua, vật mình lăn khóc, chết đi sống lại mấy lượt.Trọng Toại lại nịnh hót Lỗ Tuyên công, viện lẽ “mẫu dỉ tử qui”mà xin tôn Kính Doanh lên làm quốc mẫu.Khương thị buồn rầu, ngày đêm khóc lóc, sai thị nữ thu xếp đồ đạc để sắp trở về nước Tề;Trọng Toại lại giả cách sai người lưu lại mà nói rằng:

– Chúa công bây giờ dẫu không phải phu nhân sinh ra, nhưng phu nhân vẫn là đích mẫu, bao giờ chúa công cũng kính trọng, can gì phu nhân phải về Tề?

Khương thị mắng rằng:

– Thằng giặc Trọng Toại kia! Mẹ con ta có phụ bạc gì mày;mà mày lại làm những việc tàn ác như vậy?Bây giờ lại còn định nói lừa ta, quỷ thần biết, tất chẳng dung tha cái tội ấy !

Khương thị không vào yết kiến Kính Doanh nữa, tức khắc lên xe đi ngay.Khi đi qua những chỗ chợ to phố lớn, Khương thị lại khóc to lên mà kêu rằng:

– Trời đất ơi ! Trời đất ơi ! Hai con nhỏ của tôi có tội gì, mà thằng giăc Trọng Toại nỡ lòng giết con đích lập con thứ?Nay tôi từ biệt nước Lỗ, không bao giờ trở về nữa !

Người trong nước nghe nói, ai cũng động lòng thương xót, có kẻ chảy nước mắt.Ngày hôm ấy ở nước Lỗ nhiều chợ phải tan, bởi vậy người ta mới gọi khương htị là bà Ai Khương, lại vì Khương thị trở về nước Tề, nên cũng gọi là bà Xuất Khương.Xuất Khương về đến nước Tề, cùng với Chiêu công phu nhân, mẹ con gặp nhau, đem những sự oan khổ kể lể với nhau, rồi hai mẹ con cùng khóc lóc.Tề Huệ công thấy vậy, không muốn nghe, mới sai người làm riêng một cái cung để hai mẹ con ở.

Lại nói chuyện em cùng mẹ của Lỗ Tuyên công là Thúc Miện, vốn người trung trực, thấy anh mình nhờ sức Trọng Toại, giết em mà lên làm vua, trong lòng khinh bỉ, mới không vào chúc mừng.Lỗ Tuyên sai người triệu Thúc Miện, muốn dùng làm quan to.Thúc Miện từ chối, không làm.Có người bạn THúc Miện hỏi Thúc Miện vì cớ gì mà không làm quan, Thúc Miện nói:

– Không phải là tôi có ghét gì phú quý, nhưng trông thấy anh tôi thì lại nhớ đến các em, vậy nên tôi không đành lòng.

Người bạn nói:

– Công tử đã cho anh là bất nghĩa thì sau không bỏ mà sang nước khác?

Thúc Miện nói:

– Anh tôi chưa hề tuyệt tình với tôi, sao tôi nỡ tuyệt tình trước.

Gặp bấy giờ Lỗ Tuyên công sai sứ đến thăm hỏi và đem vàng lụa đưa tặng Thúc Miện.Thúc Miện chối từ không lấy mà nói rằng:

– Tôi đây cũng không đến nổi đói rét, có đâu lại còn dám tham !

Sứ giả hai ba lần nói mãi.Thúc Miện bảo rằng:

– Khi nào tôi có thiếu dùng, tôi sẽ xin đến lấy, chứ bây giờ thì quyết không dám nhận.

Người bạn nói:

– Công tử không chịu làm quan, cũng đủ tỏ cái nghĩa khí rồi, nay trong nhà túng tiêu, chúa công có tặng gì thì xin cứ nhận, việc gì mà từ chối ! Dẫu công tử nhận, cũng không ai dám bảo là tham.

THúc Miện chỉ cười, chẳng nói một lời nào cả.Người bạn thở dài mà lui ra.Sứ giả về nói với Lỗ Tuyên công.Lỗ Tuyên công nói:

– Em ta vốn nghèo, không biết lấy gì mà tiêu cho đủ.

Lỗ Tuyên công bèn sai người đương đêm đến rình xem Thúc Miện làm gì, thì thấy Thúc Miện đang thắp đèn ngồi khâu giầy, để ngày hôm sau đem bán lấy tiền ăn.Lỗ Tuyên công than rằng :

– Em ta muốn học Bá Di, Thúc Tề thuở xưa, hái rau vi ở núi Thú Dương mà ăn hay sao ! Thôi thì ta cũng tùy ý.

Thúc Miện suốt đời không chịu ăn lộc của anh, mà cũng không nhắc đến lỗi của anh bao giờ.Người nước Lỗ ai cũng khen Thúc Miện có nghĩa khí. Ðến đời Lỗ Thành công lại dùng con THúc Miện là công tôn Anh Tề làm quan đại phu.Từ đó, ngoài họ Thúc Tôn thị, lại thêm có Thúc thị, Thúc Lão, Thúc Cung, Thúc Chiết, Thúc Ương, và Thúc Nghệ, đều là con cháu Thúc Miện cả.TRọng Toại nhân tết nguyên đán, tâu với Lỗ Tuyênc công rằng:

– Nay chúa công chưa có nội chủ ở trong cung.Trước đây tôi đã cùng với vua Tề kết lập tờ hôn thư, việc ấy chúa công chớ nên để chậm.

Tuyên công nói:

– Bây giờ nên sai ai sang sứ Tề?

Trọng Toại nói:

– Việc này tự tôi bày ra, xin chúa công cho tôi đi.Lỗ Tuyên công liền sai TRọng Toại sang nước Tề thỉnh hôn.Tháng hai năm ấy, đón con gái nước Tề là Khương thị về lập làm phu nhân.Trọng Toại lại mật tâu với Tuyên công rằng:

– Chuá công mới lên ngôi, tất phải một phen dự hội với chư hầu thì ngôi vua mới vững bền được.Chuá công nên khấn lễ vua Tề, để vua Tề cho chúa công dự hội.

Tuyên công khen phải, liền sai Quý Tôn Hàng Phủ sang tạ ơn vua Tề về việc kết hôn, và nói với vua Tề rằng:

– Chúa công tôi nhờ ơn nhà vua mà được nối ngôi nhưng trong lòng vẫn lo sợ không được liệt vào hàng chư hầu, để đến nổi nhà vua phải hổ thẹn.Nếu nhà vua nghĩ tình mà cho tướng công tôi được đến hội với nhà vua, thì chúa công tôi sẽ xin đem ruộng đất ở Tế Tây mà dâng lên nhà vua để tạ ơn.

Tề Huệ công bằng lòng, ước định đến tháng năm năm ấy sẽ cùng Lỗ Tuyên công ội nhau ở đất Bình Châu (đất nước Tề ). Ðến hôm ấy, Lỗ Tuyên công đến trước, Tề Huệ công đến sau, hai bên làm lễ tưởng kiến.TRọng Toại bưng nhưng sổ biên ruộng đất ở Tề Tây, đưa nộp Tề Huệ công.Tề Huệ công nhận ngay.Lỗ Tuyên công từ biệt Tề Huệ công rồi về.Trọng Toại nói:

– Ngày nay ta mới có thể nằm yên được !

Từ bấy giờ nước Lỗ hết lòng phụng sự nước Tề, đến sau Tề Huệ công cụng thương tình mà trả cho nước Lỗ những ruộng đất ở Tề Tây.

Lại nói chuyện Sở Trang Vương (Lữ ) lên làm vua, đã ba năm trời, mà không làm một việc gì cả, ngày nào cũng đi săn bắn, và cùng với mỹ nữ uống rượu mua vui ở trong cung.Sở Trang Vương ra lệnh tuyên yết ở chốn triều môn rằng:

– Nếu ai can thì sẽ bắt tội chết !

Quan đại phu là Thân Vô Úy vào yết kiến, thấy Sở Trang Vương tay phải ôm Trịnh Cơ, tay trái ôm Sái Nữ, xung quanh chỗ ngồi, đầy những đàn địch chuông trống.Sở Trang vương hỏi Thân Vô Ý rằng:

– Quan Ðại phu vào đây có muốn uống rượu không? Có muốn nghe hát không? Hay là muốn nói điều gì?

Thân Vô Uý nói:

– Tôi tới đây không phải muốn uống rượu và nghe hát, nguyên vì mới rồi tôi đang di chơi, có người đem một câu đố đố tôi, tôi không đoán ra được, vậy tôi muốn tâu lên để đại vương nghe.

Trang vương nói:

– Câu đố gì mà đại vương không đóan ra được, hãy nói cho ta nghe?

Thân Vô Uý nói:

– Có một con chim lớn, lông đủ năm sắc, đậu ở trên gò cao nước Sở, đã ba năm nay, mà không thấy hay, cũng không thấy kêu, không biết là con chim gì?

Trang vương hiểu là Thân Vô Uý có ý can mình, mới cười mà bảo rằng:

– Ta đã biết rồi ! Con chim ấy không phải là con chim thường, ba năm nay không bay, bay tất cao đến tận trời, ba năm không kêu, kêu tất làm cho người phải khiếp sợ.Nhà ngươi hãy đợi mà xem.

Thân Vô Uý sụp lạy rồi đi ra. Ðợi trong mấy hôm thấy Sở vương vẫn chơi bời như cũ.Quan đại phu là Tô Tòng xin vào yết kiến.Khi vào, trông thấy Trang vương, liền khóc oà lên, Trang vương nói:

– Tại sao mà khóc lóc như vậy?

Tô Tòng nói:

– Tôi khóc vì nổi thân tôi sắp chết mà nước Sở cũng sắp mất.

Trang vương nói:

– Vì cớ gì mà nhà ngươi chết, vì sao mà nước Sở mất?

Tô Tòng nói:

– Tôi muốn can đại vương, đại vương tất không nghe mà giết tôi.Tôi chết thì nước Sở không ai dám can nữa.Mà đại vương thì cứ say đắm tửu sắc, chẳng thiết gì đến chính sự, còn gì mà nước Sở không mất !

Trang vương bỗng nhiên biến sắc mà bảo rằng:

– Ta đã có lệnh: ai can thì bắt tội chết, sao nhà ngươi đã biết chết mà còn dám can, chẳng cũng ngu lắm ư?

Tô Tòng nói:

– Tôi dẫu ngu cũng chưa đến nổi ngu lắm như đại vương.

Trang vương nổi giận mà nói rằng:

– Sao nhà ngươi dám bảo là ta ngu lắm?

Tô Tòng nói:

– Ðại vương làm vua một nước, có muôn cổ xe, có đất nghìn dặm, binh mã hùng cường, chư hầu tinh phục, đó là cái lợi muôn đời, nay say đắm tửu sắc, chẳng thiết gì đến chính sự, đến nổi nước lớn đến mặt ngoài, nước nhỏ phản ở mặt trong, thế là chỉ ham cái vui một lúc mà bỏ cái lợi muôn đời, không phải ngu là gì! Cái ngu của tôi chẳng qua chỉ đến chết mà thôi, nhưng đại vương giết tôi, thì đời sau tất gọi tôi là trung thần, ví tôi như Long Bàng và Tí Can thuở trước, vậy thì tôi chẳng ngu chút nào ! Còn cái ngu của đại vương thì đến nỗi muốn làm một đứa thất phu cũng không thể được ! Thôi tôi nói đến đây là hết, xin cho mượn thanh gươm của đại vương đeo để tôi đâm cổ trước mặt đại vương, cho khỏi trái với cái mệnh lệnh của đại vương dã ban bố.

Trang vương vội vàng đứng dậy, ngăn Tô Tòng mà bảo rằng:

– Tôi, xin đại phu hãy thôi ! Lời nói của đại phu thật là trung thực, ta xin nghe !

Nói xong, liền bỏ hết âm nhạc, xa Trịng Cơ, lìa Sái Cơ, mà lập Phàn Cơ làm chũ trong cung.Sở Trang vương nói rằng:

– Khi trước ta hãy săn bắn, Phàn Cơ thường can mà ta không nghe, Phàn Cơ bèn không ăn thịt các giống cầm thú nữa. Ấy là ngươi nội trợ hiền của ta đó !

Trang vương lại bổ dụng Vĩ Giả, Phan Uông và Khuất Ðăng để chia quyền của quan lệnh doãn là Ðấu Việt Tiêu, và chỉnh đốn chính sự trong nước, rồi sai công tử Qui Sinh (người nước Trịnh sang làm quan ở nước Sở ) đem quân đi đánh Tống.Qui Sinh cùng với quân nước Tống là Hoa Nguyên.Lại sai Vĩ Giả đem quân sang cứu Trịnh, cùng với quân nước Tấn đánh nhau ở Bắc Lâm, bắt được tướng nước Tấn là Giải Dương.Sang năm sau Trang vương mới tha cho Hoa Nguyên và Giải vương về nước.Từ bấy giờ thế lực nước Sở mỗi ngày một cường thịnh, Trang vương có ý muốn làm bá chủ Trung nguyên.

Thượng khanh nước Tấn là Triệu Thuẫn thấy nước Sở cường thịnh, muốn kết với Tấn để chống Sở.Triệu Xuyên hiến kế rằng:

– Nước Tấn có một thuộc quốc gọi là nước Sùng, qui phụ nước Tần đã lâu, nay ta đem quân đi đánh Sùng thì Tần tất phải cứu, bấy giờ ta phải giảng hoà với Tần.

Triệu Thuẫn theo lời, liền tâu với Tấn Linh công, sai Triệu Xuyên đem quân đi đánh Sùng, Triệu Sóc nói với Triệu Thuẫn rằng:

– Nước Tần từ xưa vẫn thâm thù với ta, nay ta lại đánh thuộc quốc của Tần, chắc Tần giận lắm, khi nào chịu giảng hòa.

Triệu Thuẫn nói:

– Chủ ý ta đã định rồi !

Triệu Sóc lại nói với Hàn Quyết, Hàn Quyết tủm tỉm cười, rồi ghé tai Triệu Sóc mà bảo rằng:

– Triệu tướng quốc làm việc nay là muốn giúp TRiệu Xuyên giữ lấy quyền thế họ Triệu, không phải là muốn giảng hoà với Tần đâu.

Triệu Sóc nín lặng lui ra.Nước Tần nghe tin nước Tấn đánh Sùng, mà lại đem quân đi đánh Tấn, vây đất Tiêu Ấp.Triệu Xuyên rút quân về cứu đất Tiêu Ấp, quân Tần mới chịu lui.Từ đó, Triệu Xuyên mới được tham dự binh quyền.Du Biền ốm chết, Triệu Xuyên lại thay chức của Du Biền.

Tấn Linh công năm đã lớn tuổi, sinh ra hoang dâm bạo ngược, hăm chơi bời, tin yêu một quan đại phu tên gọi Ðỗ Ngạn Giả lập một cái vườn hoa ở trong kinh thành, đi tìm những thứ hoa đào, cứ về mùa xuân thì hoa đào nở ra trông như gấm vóc, mới đặt tên là Ðào Tiên.Trông vườn xây một cái đài cao ba từng, khỏang giữa lại lập một cái lầu gọi là Giáng Tiên lầu, cột vẽ hoàng sơn, gạch hoa ngói đỏ, bốn bề bao lơn con tiện, đứng trên ấy mà trông xuống thì phố xá thành quách đều như ở trước mặt cả.Linh công thích ý lắm, thường thường lên lầu thưởng lãm hoăc cùng với Ðồ Ngạn Giả thi nhau bắn chim và uống rượu.Một hôm Linh công cho gọi phường hát diễn tuồng ở trên đài, nhân dân đều đứng ở ngoài vườn để xem.Linh công nói với Ðỗ Ngạn Giả rằng:

– Bắn chim sao bằng bắn người, ta cùng với nhà ngươi hãy thử chơi, ai bắn trúng mắt thì được giải nhất, bắn trúng vai và cánh thì không kể, nếu bắn không trúng thì phạt một đấu rượu thực to.

Tấn Ling công bắn về phía hữu, Ðổ Ngạn Giả bắn về phía tả.Nhân dân ở ngoài vườn, người thì bị trúng vào mang tai, người thì bị trúng vào cạnh sườn, đều nhốn nháo bỏ chạy cả, kêu rầm lên rằng:

– Hãy còn bán nữa đấy !

Linh công giận lắm, truyền cho quân sĩ cùng bắn ra như mưa, nhân dân, người thì vỡ đầu, kẻ thì sầy trán, người thì lòi mắt, kẻ thì gẫy răng, tiếng khóc như ri.Linh công ở trên đài trông thấy, ném cái cung xuống đất cười ha hả, bảo Ðỗ Ngạn Giả rằng:

– Ta chơi ở cái đài này, chưa có hôm nào vui như hôm nay !

Từ bấy giờ dân nước Tấn không ai dám đi qua đấy nữa ! Lại có một người nhà Chu đem dâng một con chó dữ, tên gọi Linh ngao, mình cao ba thưóc, sắc như than đỏ, mà lại tinh khôn lắm, biết theo ý người.Người có lỗi, Linh công vẫn gọi Linh ngao sai cắn.Con Linh ngao chồm lên, cắn vào tận mặt, kỳ chết mới thôi.Linh công dùng một người chuyên việc nuôi con Linh ngao mỗi ngày cho ăn mấy cân thịt dê.Con Linh ngao cũng khéo theo ý người nuôi, bảo sao được vậy.Người nuôi con Linh ngao ấy gọi là ngao nô, được ăn lộc quan trung đại phu.Linh công bỏ lễ ngoại triều ở ngoài điện mà bắt các quan phải vào triều ở nội tẩm.Mỗi lần coi triều hoặc đi chơi đâu thì ngao nô vẫn dắt con Linh ngao hầu ở bên cạnh, ai trông thấy cũng phải khiếp sợ.Bọn Triệu Thuẫn thường khuyên Linh công nên dùng người hiền, xa kẻ nịnh, và chăm nom chính sự trong nước.Linh công cứ như người điếc, chẳng thèm để vào tai, lại có ý nghi kỵ.Một hôm tan triều, các quan đại phu đều lui về cả, chỉ co Triệu Thuẫn và Sĩ Hội còn đứng ở cửa cung.Hai người đang nói chuyện với nhau, than thở về việc nước, bỗng thấy có hai người nội thị khiêng một cái giỏ tre ở trong cung ra.Triệu Thuẫn nói:

– Sao lại có cái giỏ tre ở trong cung ra như vậy?Tất là có cớ sao đây !

Nói xong, liền gọi hai người nội thị mà bảo rằng :

– Đem lại đây xem, đem lại đây xem !

Hai người nội thị chỉ cấm đầu đi thẳng, không nói gì cả.Triệu Thuẫn hỏi rằng:

– Trong giỏ tre đựng cái gì thế ?

Nội thị nói:

– Ngài là quan tướng quốc, nếu ngài muốn xem thì xin ngài đến mà xem, chứ chúng tôi không dám nói.

Triệu Thuẫn lòng càng nghi, rủ Sĩ Hội cùng đến để xem, thì thấy một cánh tay người thò ra phía ngoài giỏ.Triệu Thuẫn và Sĩ Hội liền nắm giỏ tre lại, thì thấy ở trong có một cái xác chết.Triệu Thuẫn giật mình kinh sợ, hỏi đầu đuôi làm sao.Nội thị không dám nói.Triệu Thuẫn nói:

– Nếu nhà ngươi không chịu nói thì ta chém đầu nhà ngươi trước.

Nội thị mới chịu nói:

– Người này nguyên là một tên nhà bếp, chúa công sai nấu món thịt gấu, nấu mãi không xong, chúa công nóng uống rượu, giục hai ba lần, người ấy lật đật dâng lên, khi chúa công ném thì lại chưa chín, bởi vậy chúa công đánh chết, chém làm mấy khúc, rồi sai chúng tôi đem khiêng bỏ ra ngoài đồng.Chúa công đã hẹn thời khắc cho mà đi, nếu chậm thì chúng tôi có tội.

Triệu Thuẫn tha cho nội thị cứ việc khiêng đi.Nội thị đi khỏi rồi, Triệu Thuẫn bảo Sĩ Hội rằng:

– Chúa công bạo ngược quá, coi mạng người như cỏ rác.Nước nhà chẳng bao lâu sẽ đến ngày nguy vong.Âu là hai ta cùng vào khuyên can.

Sĩ Hội nói:

– Hai ta khuyên can mà chúa công không nghe thì sau không ai dám nói nữa, chi bằng để tôi vào trước, nếu tôi khuyên can mà chúa công không nghe, bấy giờ tướng quốc sẽ vào.

Linh công đang ngồi ở trên thềm, trông thấy Sĩ Hội vào, biết là có ý muốn khuyên can, liền bảo Sĩ Hội rằng :

– Đại phu chớ nói, ta đã biết lỗi rồi, để ta xin lỗi.

Sĩ Hội sụp lạy mà tâu rằng :

– Người ta ai là không có lỗi, chúa công đã biết lỗi thì tất sửa đổi, thế là một điều đại phúc cho nước nhà, chúng tôi lấy làm mừng lắm.

Nói xong lui ra, thuật chuyện lại với Triệu Thuẫn.TRIỆU Thuẫn nói :

– Chúa công nếu có lòng đổi lỗi thì chỉ trong ngày hôm nay tất có chinh lệnh khác.

Ngày hôm sau, Linh công truyền thẳng xe đi ra chơi Đào Viên, chờ xa giá đến thì ra yết kiến.Tấn Linh công ngạc nhiên hỏi:

– Ta không cho Triệu sao khanh lại đến đây ?

TRIỆU Thuẫn sụp lạy xin lỗi, và tâu rằng:

– Tôi nghe nói dẫu ông vua vô đạo đến đâu, cũng chưa có lấy ai giết người làm vui bao giờ !Nay tướng công nuôi chó để cắn người, bắn cung để hại người, lại vì một điều lỗi nhỏ mà xả thây đứa nhà bếp, mạng người rất là quan trọng, mà chúa công coi rẻ như vậy thì sao giữ yên được nước nhà ?Nếu tôi không nói thì không ai dám nói nữa, xin chúa công quay xe về triều, sửa đổi lỗi trước, khiến cho nước nhà khỏi sự biến loạn, thì tôi dẫu chết cũng thỏa lòng!

Tấn Linh công có ý hổ thẹn, lấy vạt áo che mặt mà bảo rằng:

– Khanh hãy lui về, đẻ cho ta chơi một hôm nay nữa, từ mai trở đi ta xin nghe lời.

Triệu Thuẫn đứng chắn cửa vườn, không cho Linh công vào.Đỗ Ngạn Giả ở bên cạnh, liền nói:

– Tướng quốc khuyên can chúa công, thế là phải lắm, nhưng xa giá đã đến đây, chẳng lẽ về không, khiến cho người ta chê cười, âu là tướng quốc hãy lui về, đến buổi triều sáng mai rồi sẽ thương nghị.

Triệu Thuẫn bất đắc dĩ đứng tránh ra một bên, đẻ cho Linh công đi, rồi trừng mắt nhìn Đỗ Ngạn Giả mà mắng rằng :

– Làm cho nước nhà đến nỗi nguy vong là bởi lũ mày !

Nói xong, vẫn còn hầm hầm tức giận.Đỗ NGẠN Giả theo Linh công vào chơi trong vườn.Linh công đang vui cười.Đỗ Ngạn Giả bỗng thở dài mà nói rằng:

– Tiếc thay cuộc vui chỉ còn lần này mà thôi !

Linh công nói:

– Sao đại phu lại nói như vậy ?

Đỗ Ngạn Giả nói:

– Tôi chắc rằng sáng mai thì Tiệu tướng quốc lại nói lôi thôi, không để cho tướng công đưọc đến đây nữa.

Linh công nổi giận mà nói rằng:

– Từ xưa đến nay, chỉ có bề tôi bị vua kiềm chế, chưa nghe nói vua bị kiềm chế bao giờ ?Lão ấy còn sống thì lại không tiện cho ta lắm, ta biết dùng kế gì mà trừ đi cho được ?

Đổ Ngạn Giả nói:

– Tôi có một người tên gọi Thư Nghê, nhà nghèo, vẫn được tôi chu cấp cho, bởi vậy cảm cái ơn tôi mà vẫn xin cố sức chết để đền báo.Nếu sai người ấy giết chết Triệu tướng quốc thì chúa công tha hồ mà vui chơi, không lo gì nữa !

Linh công nói:

– Nếu làm được việc ấy thì công nhà ngươi to lắm !

Đêm hôm ấy, Đổ Ngạn Giả mật triệu Thư Nghê đến cho ăn cơm uống ruợu, rồi bảo rằng:

– Triệu Thuẫn chuyên quyền, nay ta phụng nệnh chúa công sai nhà ngươi đến giết đi, nhà ngươi nên phục ở cửa Triệu Thuẫn, đợi đến đầu canh năm, khi hắn vào triều, thì xông lại mà đâm chết, chớ có làm hỏng việc!

Thư Nghê vâng mệnh, liền dắt một con dao nhọn đến dinh Triệu Thuẫn, trông thấy cửa mở toang, xe ngựa đã sắp sẳn ở ngoài cửa.Trên thềm bóng đèn lờ mờ.Thư Nghê mới lẻn vào núp ở một chỗ tối.Bấy giờ Triệu Thuẫn mũ áo đại triều, tay cầm cái hốt, nghiêm trang ngồi ở gian giữa, (nguyên là Triệu Thuẫn muốn vào triều, nhưng còn sớm quá vậy ngồi đấy để đợi cho sáng).Thư Nghê thấy vậy, giật mình kinh sợ, lui ra ngoài cửa, thở dài mà than rằng:

– Người ta một lòng cung kính thế kia, tức là trung thần, nếu ta giết người trung thần thì là bất trung, không giết thì trái mệnh vua, lại là bất tín.Bất trung bất tín thì sống làm gì nữa !

Thư Nghê bèn đứng giữa cửa nói to rằng :

– Ta là Thư Nghê đây, thà trái mệnh vua, không nỡ giết người trung thần !Nay ta tự tử mà chết, nhưng sau này tất chúa công sai người khác đến, tướng quốc phải phòng bị mới được.

Nói xong, liền đập đầu vàào cây hoè trước cửa, vở óc ra mà chết.Người nhà Triệu Thuẫn náo động cả lên, bvội vàng vào báo với Triệu Thuẫn.Viên xa hũu của Triệu Thuẫn là Đề Di Minh nói với Triệu Thuẫn rằng:

– Tướng quốc không nên vào triều vội nếu vào triều thì tôi e có biến.

Triệu Thuẫn nói:

– Chúa công đã hẹn với ta hôm nay vào triều sớm, nếu ta không vào thì là không biết giữ lễ, còn việc chết sống dã có số mệnh, ta có lo gì !

Triệu Thuẫn truyền cho người nhà đem Thư Nghê chôn ở dưới gốc cây hoè rồi lên xe vào triều.Linh công thấy Triệu Thuẫn không chết, liền hỏi Đồ Ngạn Giả về việc Thư Nghê.Đồ Ngạn Giả nói:

– Thư Nghê đi không thấy về, có người nói là đập đầu vào cây hoè mà chết, chư rỏ vì cớ gì.

Linh công nói :

– Kế ấy mà không thành thì biết làm thế nào ?

Đồ Ngạn Giả nói :

– Tôi còn có một kế, chắc hẳn thế nào cũng giết được Triệu Thuẫn.

Linh công nói:

– Kế gì ?

Đồ Ngạn Giả nói:

– Ngày mai chúa công mời Triệu Thuẫn vào uống rượu ở trong cung, rồi phục sẵn giáp sĩ ở phía sau tường, đợi khi đang uống rượu dở dang, chúa công giả cách mượn thanh gươm của Triệu Thuẫn đeo để xem, tất nhiên Triệu Thuẫn phải cởi gươm mà đưa cho tướng công.Bấy giờ tôi đứng bên, sẽ quát to lên là Triệu Thuẫn rút gươm, toan sự hại vua, gọi quân sĩ đến cứu giá, quân sĩ sẽ đổ ra bắt mà giết đi.Như vậy thì người ngoài ai cũng bảo là Triệu Thuẫn làm phản bị giết, chúa công tránh được cái tiếng giết quan đại thần, chúa công nghĩ sao ?

Linh công khen phải, rồi theo kế mà làm.Ngày hôm sau, Linh công ra triều, bảo Triệu Thuẫn rằng:

– Tướng quốc đã hết lòng khuyên bảo ta, nay ta có sửa tiệc rượu ở trong cung, để tạ ơn tướng quốc.

Nói xong, liền bảo Đổ Ngạn Giả đưa Triệu Thuẫn vào cung.Viên xa hữu của Triệu Thuẫn là Đế Di Minh theo vào.Khi bước lên thềm, Đổ Ngạn Giả bảo Đế Di Minh rằng:

– Chúa công cùng với tuớng quốc uống rượu, người khác không ai được lên thềm cả.

Đế Di Minh liền đứng ở dưới thềm.Triệu Thuẫn sụp lạy hai lạy, rồi ngồi ở bên hữu Tấn Linh công.Đổ Ngạn Giả đứng hầu bên tả.Khi uống rượu mới được ba tuần, Linh công bảo Triệu Thuẫn rằng :

– Ta nghe nói thanh gươm của tướng quốc tốt lắm.Tướng quốc cho ta xem.

Triệu Thuẫn không biết là kế, toan cởi gươm ra để đưa.Đế Di Minh ở dưới thềm trông thấy, nói to lên rằng :

– Bề tôi hầu rượu vua, theo lễ không được uống quá ba chén, cớ sao lại rút gươm ở trước mặt vua như thế ?

Triệu Thuẫn biết ý, liền đứng ngay dậy.Đế Di Minh hầm hầm tức giận, bước lên thềm vực Triệu Thuẫn xuống.Đổ NGẠN Giả gọi Ngao Nô thả con Linh ngao đuổi theo, đến gần cửa cung, Đế Di Minh cầm ngay cái dùi đánh con Linh ngao gãy cổ mà chết.LLinh công giận lắm, truyền cho quân sĩ đổ ra bắt Triệu Thuẫn.Đế Di Minh đứng chắn ngang lại, để cho Triệu Thuẫn chạy trước.Giáp sĩ tới nơi, Di Minh cự chiến một hồi, mình mẫy đầy vết thương rồi kiệt sức mà chết.

Triệu Thuẫn đang chạy, thấy có người đuổi kịp đến nơi, Triệu Thuẫn sợ lắm.Người ấy nói:

– Tướng quốc chớ sợ, tôi đến cứu ngài đây!

Triệu Thuẫn nói:

– Nhà ngươi là ai ?

Người ấy nói:

– Tướng quốc không nhớ người nằm ở bụi dâu khi xưa hay sao! Linh Triếp tức là tên tôi đó.

Nguyên năm năm về trước, Triệu Thuẫn có đi săn ở Cửu Nguyên Sơn, ngồi nghĩ trong bụi dâu, trong thấy một người đàn ông nằm lăn dưới đất.Triệu Thuẫn nghi là thích khách mới sai người bắt.Người ấy đói không trở dậy được, hỏi đến họ tên thì người ấy nói:

– Tên tôi là Linh Triếp.Tôi sang học ở nước Vệ, đã ba năm nay, bây giờ trở về, tiền lưng hét cả, không lấy gì mà ăn, nhịn đói đã ba ngày rồi!

Triệu Thuẫn nghe nói thương lắm, sai người mang cho cơm và thịt, Linh Triếp chia cơm thịt làm hai phần, một nữa bỏ vào giỏ con của mình, còn một nữ để ăn.

Triệu Thuẫn hỏi:

– Nhà ngươi cất đi một nữa để làm gì ?

Linh Triếp nói:

– Tôi còn mẹ già, hiện ở cửa.Tôi đi vắng đã lâu ngày, chưa biết mẹ tôi còn hay mất, nay chỉ cách đấy có mấy dặm, may mà mẹ tôi hãy còn thì tôi xin đem lộc của quan tướng quốc ban cho về dâng mẹ tôi.

Triệu Thuẫn khen là hiếu tử, bảo cư ăn hết đi, rồi lấy cơm và thịt khác để xếp vào giỏ cho.Linh Triếp lạy tạ rồi đi.Sau Linh Triếp ứng mộ ra lính, lại ở trong số quân giáp sĩ đuổi bắt Triệu Thuẫn, Linh Triếp nghĩ đến cái ơn Triệu Thuẫn.Bấy giờ người tùy tùng bỏ chạy tán loạn cả.Linh Triếp ghé lưng cõng Triệu Thuẫn chạy ra triều môn.Bọn giáp sĩ giết xong Đế Di Minh lại kéo nhau đuổi theo Triệu Thuẫn.Vừa lúc ấy, thì có Triệu Sóc đem quân đến đón Triệu Thuẫn, tức khắc vực Triệu Thuẫn lên xe.Triệu Thuẫn vội vàng gọi Linh Triếp bảo cùng lên xe thì Linh Triếp đã trốn rồi.Bọn giáp sĩ thấy quân Triệu Sóc đông lắm, không đuổi theo nữa.Triệu Thuẫn bảo Triệu Sóc rằng:

– Nay ta không thể về nhà được ! Một là ta sang nước Địch, hai là sang nước Tần, phải tìm chỗ để nương thân mới xong.

Bấy giờ hai cha con cùng ra cửa tây, đi về phía tây.

Chương 51: Ðồng hồ chép thẳng án Đào Viên – Vua Sở mừng công mở đại hội

Tấn Linh công lập mưu giết Triệu Thuẫn,dẫu không giết được,nhưng thấy Triệu Thuẫn bỏ trốn đi thì trong lòng cũng mừng rỡ khác nào đứa học trò được rời thầy học ra, sự mừng rỡ kể sao cho xiết,liền đem cung quyến đến ở luôn ngày đêm tại Ðào Viên, không về cung nữa. Triệu Xuyên đang đi săn ở Tây Giao trở về, gặp Triệu Thuẫn và Triệu Sóc.Triệu Xuyên hỏi chuyện đầu đuôi và bảo Triệu Thuẫn rằng:

– Thúc phụ chớ sang nước khác vội,hãy đợi trong mấy ngày tôi sẽ có tin báo.

Triệu Thuẫn nói:

– Nếu vậy thì ta hãy tạm ở lại núi Thu Dương để đợi tin nhưng nhà ngươi nên cẩn thận,chớ đẻ thêm tai vạ đấy.

Triệu Xuyên từ biệt Triệu Thuẫn và Triệu Sóc,rồi trở về kinh thành,nghe biết Tấn Linh công chơi ở Ðào Viên,mới giả cách vào yết kiến và xin lỗi với Linh công rằng:

– Tôi là thân thích với người có tội,khi nào lại còn dám hầu hạ ở bên cạnh chúa công,xin chúa công cho tôi được từ chức.

Linh công tin là thực,mới phủ dụ Triệu Xuyên rằng:

– Triệu Thuẫn đã nhiều lần khinh bỉ ta,ta không thể chịu được,việc nàykhông can dự gì đến nhà ngươi,nhà ngươi cứ yên tâm mà giữ chức.

Triệu Xuyên lại tạ,rồi lại tâu rằng:

– Tôi thiết tưởng làm vua chỉ quý hơn người ta là được thoả thích cả về thanh,cả về sắc mà thôi,nay chúa công dẫu có đàn sáo chuông trống,nhưng số nội cung chưa đủ,còn lấy gì làm vui ! Tề Hoàn công thuở xưa biết bao nhiêu phi tần,ngoại vị chánh cung,lại còn sáu bà như phu nhân nữa,tiên quân ta là Tấn Vương công,từ khi còn trốn ở các nước, đến đâu cũng lấy vợ,lúc trở về nước,ngọai sáu mươi tuổi,mà phi tần còn rất đông,nay chúa công đã lập ra đài cao vườn rộng thư thế này,mà sao không sai ngưòi đi tuyển gái đẹp về dạy múa hát để làm trò vui,chẳng cũng hay lắm ư !

Linh công nói:

– Nhà ngươi nói chính hợp ý ta ! Nay ta muốn tuyển gái đẹp trong nước thì nên sai ai được?

Triệu Xuyên nói:

– Quan đại phu là Ðỗ Ngạn Giả đi tuyển con gái,bất cừ trong thành ngoài ấp,phàm có con gái trong hai mươi tuổi bắt phải làm sổ khai trinh,hạn trong một tháng thì về báo tin.Triệu Xuyên mượn việc ấy để sai Ðỗ Ngạn Giả đi biệt chỗ khác,rồi lại tâu với Linh công rằng:

– Ðội quân thị vệ của chúa công ở Ðào Viên hãy còn ít lắm,tôi có tuyển được hai trăm lính tinh dùng,xin chúa công cho sung vào làm quân thị vệ.

Linh công thuận cho,Triệu Xuyên về dinh,tuyển hai trăm quân giáp sĩ.Bọn giáp sĩ hỏi Triệu Xuyên rằng:

– Chẳng hay tướng quân định sai chúng tôi đi đâu?

Triệu Xuyên nói:

– Chúa công chẳng thương gì đến dân,chỉ vui chơi ở chốn Ðào Viên,nay có sai ta tuyển bọn các ngươi vào đấy để ngày đêm canh phòng.Bọn các ngươi đây,ai là người không vợ con nhà cửa,nay đi vào đấy, ăn sương nằm gió,biết bao giờ xong;

Bọn giáp sĩ đều than vãn mà nói rằng:

– Ðưá vô đạo hôn quân ấy,sao không chóng chết đi ! Nếu Triệu tướng qiân (trỏ Triệu Thuẫn)còn ở nhà,tất không có việc này.

Triệu Xuyên nói:

– Ta có một câu nàynmuốn bàn cùng các ngươi,chẳng biết có nên không?

Bọn giáp sĩ đều nói:

– Nếu tướng quân cứu được cho chúng tôi thoát khỏi nông nổi khổ sở này thì ơn tái sinh ấy bao giờ chúng tôi quên được.

Triệu Xuyên nói:

– Chỗ Ðào Viên này không kín đáo lắm,như chốn thâm cung.Canh hai đêm hôm nay,các ngươi xông vào trong vườn,giả cách đòi xin ban thưởng,chờ khi ta vẫy tay áo làm hiệu thì các ngươi giết ngay hôn quân đi,ta sẽ đón quan tướng quốc về lập vua khác,các ngươi nghĩ thế nào?

Bọn giáp sĩ đều nói:

– Chúng tôi xin vâng mệnh !

Triệu Xuyên cho bọn giáp sĩ ăn cơm uống rượu,sai chực sẳn ở ngoài cửa Ðào Viên,rồi vào tâu với Linh công.Linh công lên đài trong thấy bọn giáp sĩ người nào cũng tráng kiện,thì bằng lòng lắm ,bèn giữ Triệu Xuyên ở lại hầu rượu.Uống rượu đến canh hai,bỗng nghe thấy bên ngoài có tiếng uyên náo.Linh công kinh sợ,hỏi là cớ gì.Triệu Xuyên nói:

– Ý chừng quân túc vệ xua đuổi người đi đêm đó mà thôi, để tôi xin ra bảo họ đừng làm kinh động thánh giá.

Triệu Xuyên sai thấp đèn lồng, ở trên đài bước xuống.Bọn giáp sĩ hai trăm người đã phá cửa vào đến nơi.Triệu Xuyên bảo bọn giáp sĩ đứng yên cả ở dưới đài,rồi lại trở lên tâu với Linh công rằng:

– Quân sĩ biết chúa công dự tiệc,vậy muốn xin chúa công ban thưởng cho lộc thừa,chứ không có ý gì khác cả.

Linh công truyền cho nội thị đem rượu ban thưởng cho quân sĩ,rồi đứng tựa bao lơn mà trông xuống.Triệu Xuyên đứng bên cạnh,gọi to lên rằng:

– Chuá công thân hành ra đây ban thưởng cho các ngươi,các ngươi hãy bái tạ ơn trên.

Nói xong,giơ tay áo vẫy một cái .Quân sĩ biết là Linh công liền kéo ồ lên.Linh công sợ hãi,bảo Triệu Xuyên rằng:

– Giáp sĩ trèo lên lầu làm gì thế? Nhà ngươi truyền cho họ xuống đi !

Triệu Xuyên nói:

– Quân sĩ nhớ quan tướng quốc là Triệu Thuẫn,muốn xin chuá công cho đón về.

Linh công chưa kịp trả lời thỉ đã bị quân giáp sĩ xúm lại đâm chém chết ngay.Thi vệ xung quanh đều bỏ chạy tán loạn cả.Triệu Xuyên nói:

– Nay đã trừ được hôn quân rồi,các ngươi chớ nên giết bậy một người nào,phải theo ta đi đón quan tướng quốc về triều.

Ðỗ Ngạn Giả đang đi tuyển gái đẹp ở ngoài cõi xa,nghe báo Linh công bị giết,giật mình kinh sợ,biết là mưu kế của Triệu Xuyên,nhưng không dám nói ra,bèn lẻn về nơi dinh phủ.

Bọn Sĩ Hội nghe tin ấy,cũng vội vàng chạy đến Ðào Viên,nhưng chẳn thấy một người nào cả,biết là Triệu Xuyên đã đi đón Triệu Thuẫn về.Triệu Thuẫn.Triệu Thuẫn về đến kinh thành, đi thẳng vào Ðào Viên.Các quan trong triều đều hợp đông đủ cả.Triệu Thuẫn phục ở bên cạnh thi thể Tấn Linh công mà khóc òa lên,rất là thảm thiết,tiếng khóc vang động đến ngoài vườn.Dân nước Tấn nghe tiếng, đều bảo nhau rằng:

– Xem thế thì biết quan tướng quân là người trung thành.Việc này chẳng qua chỉ bởi chúa công ta gây nên tai vạ,chứ không phải lỗi của quan tướng quốc.

Triệu Thuẫn truyền rước thi thể của Tấn Linh công sang chôn ở đất Khúc Ốc,rồi hợp triều thần để lập vua mới.Bấy giờ Tấn Linh công chưa có con trai.Triệu Thuẫn nói:

– Từ khi tiên quân ta mất đi,tôi đã có xướng nghị rằng không nên lập vua nhỏ,vì nhiều người không thuận,mà thành ra có việc này,bây giờ ta phải thận trọng mới được.

Sĩ Hội nói:

– Trong nước có vua lớn thì là một điều đại phúc,quan tướng quốc dạy phải lắm !

Triệu Thuẫn nói:

– Tiên quân ta (tức là Tấn Văn công) ngày xưa hiện còn một người con.Lúc mới sinh ra,bà mẹ nằm mộng thấy thần nhân giơ bàn tay đen xoa vào đứa bé,bởi vậy mới đặt là Hắc Ðiến.Ngày nay đang làm quan ở nhà Chu,hiện đã lớn tuổi,tôi muốn đón về để lập lên làm vua.

Các quan không dám trái ý, đồng thanh mà nói rằng:

– Quan tướng quốc nghĩ rất phải.

Triệu Thuẫn muốn gỡ cái tội giết vua cho Triệu Xuyên,mới sai Triệu Xuyên sang nhà Chu đón công tử Hắc Ðiến về nước Tấn.Công tử Hắc Ðiến vào triều nhà Thái miếu,rồi nối ngôi lên làm vua,tức là TấnThành công.Tấn Thành công đã lên ngôi,giao hết quyền chính cho Triệu Thhuẫn,lại đem con gái gả cho Triệu Sóc,tức là nàng Trang Cơ.Triệu Thuẫn tâu với Tấn Thành công rằng:

– Mẹ tôi nguyên là con gái nước Ðịch.Bà Triệu Cơ tôi (con gái Tấn văn công gả cho thân phụ Triệu Thuẫn là Triệu Thôi )thuở xưa nhường cho mẹ tôi làm vợ cả,vậy nên tôi được làm đích tử,nhận chức trung quân,nay con bà Triệu Cơ tôi là:Triệu Ðồng,Triệu Quát,và Triệu Anh, đều đã lớn tuổi cả,tôi lại xin nhường lại quyền chức ấy.

Thành công nói:

– Quan tướng quốc không phải nhường, để ta sẽ dùng cho làm quan tất cả.

Nói xong,liền cho Triệu Ðồng,Triệu Quát và Triều Anh làm quan đại phu.Triệu Xuyên nói riêng với Triệu Thuẫn rằng:

– Ðổ Ngạn GIả ngày trước xu nịnh tiên quân để làm hại họ Triệu.Việc Ðào Viên này chỉ có Ðổ ngạn Giả ra ý không thuận,nếu không trừ bỏ người ấy đi thì họ Triệu ta cũng khò lòng mà yên được.

Triệu Thuẫn nói:

– Người ta không bắt tội nhà ngươi thì chớ,nhà ngươi lại định bắt tội người ta hay sao ! Họ Triệu ta ngày nay chỉ nên cùng với các quan triều thần hòa mực với nhau,chớ nên gây ra những việc thù oán.

Triệu Xuyên không dám nói đến việc Ðổ Ngạn Giả nữa. Ðỗ Ngạn Giả cũng một lòng theo ý họ Triệu để được khỏi tội.Triệu Thuẫn vẫn lấy việc Ðào Viên làm áy náy,một hôm sang chơi sử quán, đòi lấy bản chép của quan thái sử là Ðồng Hồ để xem Ðồng Hồ chép việc Ðào Viên ra sao. Ðồng Hồ đem bản thảo đưa trình Triệu Thuẫn.Triệu Thuẫn mở ra xem,trông thấy chép rỏ ràng: “Mùa thu,tháng bảy,năm Ất Sửu Triệu Thuẫn giết vua là Di Cao ở Ðào Viên”.

Triệu Thuẫn giật mình kinh sợ nói:

– Quan thái sử lầm rồi ! Ta đã chạy ra Hà Ðông cách kinh thành hơn trăm dặm,ta có biết đâu đến việc giết vua,mà quan thái sử lại đổ lỗi cho ta,chẳng cũng oan lắm ư!

Ðồng Hồ nói:

– Ngài làm quan tướng quốc,trốn đi chưa khỏi địa giới nước nhà mà đã có việc giết vua này,khi ngài về lại không trị tội quân giặc,như thế mà bảo không phải tự ngài chủ mưu,còn ai tin được?

Triệu Thuẫn nói:

– Bây giờ có thể chửa lại được không?

Ðồng Hồ nói:

– Ðã gọi là tín sử thì có thế nào phải chép như thế,bởi vậy đầu tôi có thể cắt được,chứ bản thảo này thì không thể chữa lại được.

Triệu Thuẫn thở dài than rằng:

– Thế mới biết cái quyền chép sử,còn lớn hơn cái quyền làm tướng quốc ! Tiếc thay,bấy giờ ta chưa ra khỏi địa giới, để đến nỗi chịu tiếng xấu muôn đời,hối sao cho kịp !

Từ bấy giờ Triệu Thuẩn phụng sự Tấn Thành công,càng thêm kính cẩn.Triệu Xuyên cậy có công to,xin làm chức chính khanh,Triệu Thuẩn sợ mang tiếng,không cho.Triệu Xuyên tức giận,phát ra cái ung ở đằng lưng mà chết.Con Triệu Xuyên là Triệu Chiên xin nối giữ chức vị của cha.Triệu Thuẫn bảo Triệu Chiên rằng:

– Ðợi khi nào nhà ngươi lập được công trạng thì dẫu ngôi khanh tướng cũng chẳng khó gì !

Chu Khuông vương mất.Em là Du lên nối ngôi,tức là Chu Ðịnh vương.Năm đầu Chu Ðịnh vương,Sở Trang vương đem quân đánh đất Lục Hồn,qua sông Lạc Thủy,keó đến địa giới nhà Chu, định dùng uy lực áp chế thiên tử mà cùng với nhà Chu chia đôi thiên hạ.Chu Ðịng vương sai quan đại phu là Vương Tôn Mẫn đến uý dụ Sở Trang vương.Sở Trang vương hỏi:

– Tôi nghe nói vua Ðại Vũ ngày xưa có đúc chín cái đinh,từ nhà Hạ,nhà Thương đến nhà Chu ta vẫn truyền cho nhau,coi là của quý,hiện nay để ở đất Lạc Dương.Chẳng hay những cái đinh ấy hình dáng,lớn bé và nặng nhẹ thế nào,xin quan đại phu cho biết?

Vương Tôn Mẫn nói:

Vua Ðại Vũ nhà Hạ đúc nên chín cái đinh, đến đời vua Kiệt vô đạo,mới thiên sang nhà Thương?Vua Trụ nhà Thương bạo ngưọc,chín cái đinh ấy lại thiên sang nhà Chu,xem thế thì biết đời nào có đức thì mới giữ nổi chín cái đinh ấy.Khi nhà vua Thành vương nhà Chu tôi để chín cái đinh ấy ở Lạc Dương, đã có bói một quẻ thì biết rằng nhà Chu tôi truyền được ba mươi đời,bảy tram năm có lẻ,năm nay vận mệnh nhà Chu hãy còn,nhà vua chớ nên hỏi đến đinh vội !

Sở Trang vương hổ thẹn,từ bấy giờ không dám có ý nom dòm nhà Chu nữa.

Lại nói chuyện quan lệnh doãn nước Sở là Ðấu Việt Tiêu từ khi thấy Sở Thành vương chia mất quyền chính của mình,trong lòng oán giận,lại cậy mình là người tài giỏi và đời trước có công lao,dân trong nước ai cũng tin phục,mới có ý muốn làm phản,thường vẫn nói rằng:

– Nhân tài nước Sở chỉ có một mình Vĩ Giả mà thôi,còn thì chẳng đáng kể.

Khi Sở Trang vương đi đánh Lục Hồn,cũng lo đấu Việt Tiêu làm phản,mới bảo Vĩ Giả ở lại để giữ nước. Ðấu Việt Tiêu thấy Sở Trang vương đem quân đi vắng,mới quyết chí nổi loạn, định đem hết những quân của bản tộc ra để khởi sự. Ðấu Khắc (con Ðấu Ban ) không theo. Ðấu Việt Tiêu giết chết Ðấu Khắc,rồi đem quân đến giết quan tư mã là Vĩ Giả.Con Vĩ Giả là Vĩ Ngao đem mẹ chạy trốn sang Mộng Trạch. Ðấu Việt Tiêu ra đóng đồn ở đất Chưng Giã để chặng đường Sở Trang vương trở về.Sở Trang vương nghe tin Ðấu Việt Tiêu nổi loạn,tức khắc rút quân về nước.Về gần đến đất Chương Lạp, Ðấu Việt Tiêu đem quân ra đối địch.Quân Sở Trang vương trông thấy Ðấu Việt Tiêu đeo cung cầm giáo, đi lại hăng hái ở trước trận, đều có ý sợ hãi.Sở Trang vương nói:

– Họ Ðấu mấy đời có công với nước,nay chẳng thà để cho Ðấu Việt Tiêu hpụ ta,chớ ta không nỡ phụ Ðấu Việt Tiêu.

Nói xong,liền sai quan đại phu là Tô Tùng sang điều đình với Ðấu Việt Tiêu,thuận cho giảng hoà và tha cho cái tội giết quan tư mã. Ðấu Việt Tiêu nói:

– Ta xấu hổ vì phải làm chức lệnh doãn,chứ ta có mong ân xá đâu ! Có dám đánh thì đem quân tới đây !

Tô Tùng hai ba lần phủ dụ mà Ðấu Việt Tiêu không nghe.Khi Tô Tùng về rồi, Ðấu Việt Tiêu truyền nổi hiệu trống tiến quân sang dắnh.Sở Trang vương hỏi các tướng rằng:

– Các tướng,có ai dám đối địch với Ðấu Việt Tiêu không?

Quan đại tướng là Nhạc Bá vâng mệnh ra trận.Con Ðấu Việt Tiêu là Ðấu Bí Hoàng liền đem quân ra nghinh chiến.Phan Uông trông thấy Nhạc Bá không đánh nổi Ðấu Bí Hoàng,cũng giục ngựa ra trận.Em Ðấu Việt Tiêu là Ðấu Kỳ cũng đem quân ra giao chiến với Phan Uông.Sở Trang vương ngồi trên xe,cầm dùi đánh trống để đốc chiến. Ðấu Việt Tiêu lại bắn mũi tên nữa,cắm vào cái mộc.Sở Trang vương vội vàng truyền lịnh thu quân.

Ðấu Việt Tiêu cố sức tiến đánh,may có hữu quân đại tướng là công tử Trắc và tả quân đại tướng là công tử Anh Tề,hai mặt đổ lại,bấy giờ Ðấu Việt Tiêu mới lui quân.Nhạc Bá và Phan Uông nghe hiệu cũng thu quân trở về.Về đến đất Hoàng Hử,Sở Trang vương truyền đem hai cái tên của Ðấu Việt Tiêu ra xem thì thấy dài gấp rưỡi cái tên khác,cánh tên bằng lông hạc, đốc tên bằng răng báo,mũi tên sắc không biết thế nào mà kể ! Các người xung quanh trông thấy,ai cũng lắc đầu lè lưỡi,lấy làm sợ hãi,cho là mũi tên thần. Ðêm hôm ấy,Sở Trang vương đi tuần các dinh,nghe thấy quân sĩ chỗ nào cũng hợp nhau bàn về mũi tê thần tiên của Ðấu Việt Tiêu,cho là khó lòng đánh nổi.Sở Trang vương mới lập kế sai người đặt chuyện ra mà nói với quân sĩ rằng:

– Ðời tiên quân ta là Sở Van vương ngày xưa nghe nói người Nhung Nam làm tên tốt lắm,sai sứ đi hỏi,người Nhung Nam mới đem dâng hai cái tên,gọi là “Thấu cốt phong”,vẫn để ở nhà thái miếu. Ðấu Việt Tiêu lấy trộm được hai cái tên ấy,nhưng bắn hai phát là mất rồi,còn sợ gì nữa ! Chỉ đến ngày mai là ta đánh tan được thôi.

Bấy giờ quân sĩ mới được yên lòng.Sở Trang vương hạ lệnh rút quân sang nước Tùy,giả cách nói định mướn quân các nước ở Hán Ðông về đánh Ðấu Việt Tiêu.Tô Tùng nói với công tử Trắc rằng:

– Giặc mạnh ở trước mặt mà ta lui quân thì e hỏng việc.

Công tử Trắc nói:

– Ðấy tất là đại vương lập kế đó thôi ! Chúng ta vào yết kiến thì tự khắc biết rõ.

Ðêm hôm ấy,công tử Trắc cùng với công tử Anh Tề vào yết kiến Trang vương.Trang vương nói:

– Ðấu Việt Tiêu mạnh thế lắm,ta không thể địch nổi,phải dùng kế mới đánh được.

Trang vương đem mật kế bảo với hai tướng,và sai họ đem quân đi mai phục.Cả hai đều vâng mệnh đem quân đi.Gà gáy hôm sau,Trang vương truyền cho đại binh kéo lui. Ðấu Việt Tiêu nghe tin,tức khắc đem quân đuổi theo.Quân Trang vương cố sức đi gấp qua đất Cánh Lăng. Ðấu Việt Tiêu cũng cố sức đuổi theo,một ngày một đêm đi hơn hai trăm dặm, đến cầu Thanh Hà,trông thấy quân Trang vương đang thổi cơm ở bên kia cầu,lại cố sức đuổi theo cho kịp.Khi đấu Việt Tiêu đến nơi thì quân Trang vương bỏ cả nồi niêu mà chạy. Ðấu Việt Tiêu hạ lệnh đuổi theo,cốt ý bắt cho kỳ được Trang vương,rồi mới được ăn cơm sáng.Quân Ðấu Việt Tiêu đang lúc mỏi mệt,lại phải nhịn đói để cố mà tiến lên,bèn theo kịp Trang Uông.Phan Uông bảo Dấu Việt Tiêu rằng :

– Nhà ngươi muốn bắt vua Sở thì sao không cố mau lên một chút !

Ðấu Việt Tiêu tưởng thực mới bỏ Phan Uông,lại cố đuổi theo sáu mươi dặm nữa, đến địa giới Thanh Sơn,gặp toán quân của Hùng Phụ Cơ. Ðấu Việt Tiêu hỏi Hùng Phụ Cơ rằng:

– Vua Sở ở đâu?

Hùng Phụ Cơ nói:

– Vua Sở chưa đi đến đây !

Ðấu Việt Tiêu trong lòng nghi ngờ,lại bảo Hùng Phụ Cơ rằng:

– Nhà ngươi tìm vua Sở cho thìkhi ta lên lém vua,sẽ cho nhà ngươi được quyền chính.

Hùng Phụ Cơ nói:

– Ta trông quân sĩ nhà ngươi đều mệt mỏi cả,nên phải cho ăn no thì mới giao chiến được.

Ðấu Việt Tiêu lấy làm phải,mới đóng quân lại để nấu cơm ăn.Quân Ðấu Việt Tiêu đang nấu cơm ăn,bỗng thấy công tử TRắc và công tử Anh Tề hai mặt đem quân đến đánh.Quân Ðấu Việt Tiêu đói không thể đánh được,bỏ chạy về phía nam,lui về cầu Thanh Hà thì cầu ấy đã bị phá đổ từ bao giờ rồi.Nguyên Sở Trang vương đã đem quân phục sẵn ở bên cầu, đợi cho Ðấu Việt Tiêu qua cầu thì phá cầu đi để chặn lối trở về. Ðấu Việt Tiêu thấy cầu đã bị phá gẫy,giật mình kinh sợ,truyền cho quân sĩ dò xem nước sông nông sâu thế nào để tìm đường sang.Bỗng nghe ở bên kia sông có tiếng pháo nổ,một toán quân Sở quát to:

– Quân Nhạc Bá đóng đây, Ðấu Việt Tiêu mau mau xuống ngựa mà đầu hàng đi !

Ðấu Việt Tiêu giận lắm,truyền cho quân sĩ đứng bên này sông giương cung ra bắn.Trong toán quân Nhạc Bá có một viên tiểu tướng tài nghề bắn cung tên gọi Dưỡng do Cơ,người ta vẫn khen là “thần tiển”.Dưỡng Do Cơ nói với Nhạc Bá xin cùng với Ðấu Việt Tiêu bắn thì Nhạc Bá thuận cho.Dưỡng Do Cơ đứng ở bờ sông bên này,quát to lên mà bảo Ðấu Việt Tiêu rằng:

– Mặt sông rộng nhì thế này,tên nào mà bắn cho thấu ! Tôi nghe nói quan lệnh doãn (tức là Ðấu Việt Tiêu )tài bắn lắm,vậy tôi xin cùng với ngài bắn thi.Hai bên nên đứng giáp ở trên dịp cầu,mỗi bên bắn ba phát,ai may thì sống.

Ðấu Việt Tiêu hỏi rằng:

– Nhà ngươi là ai?

Dưỡng Do Cơ nói:

– Tôi là tiểu tướng thuộc quân Nhạc Bá,tên gọi Dưỡng Do Cơ.

Ðấu Việt Tiêu có ý khinh bỉ,mới bảo Dưỡng Do Cơ rằng:

– Nhà ngươi muốn bắn thi thì hãy nhường ta bắn trước ba phát.

Dưỡng Do Cơ nói:

– Ðừng nói ba phát,dẫu đến trăm phát,tôi cũng không sợ ! Ai tránh là không giỏi !

Nói xong,liền ra đứng ở trên dịp cầu về phía sông bên này. Ðấu Việt Tiêu đứng ở dịp cầu bên kia,giương cung bắn ngay một phát,tưởng rằng phát tên này bắn ra thì Dưỡng Do Cơ lộn cổ xuống sông mà chết.Ai ngờ Dưỡng Do Cơ trông thấy mũi tên đến,tay cầm đốc cung,gạt liền một cái,mũi tên rơi xuống dưới sông.Dưỡng Do Cơ lại quát to lên mà bảo Ðấu Việt Tiêu rằng:

– Bắn nữa đi ! Bắn nữa đi !

Ðấu Việt Tiêu lại giương cung nhắm thẳng vào Dưỡng Do Cơ bắn luôn một phát nữa.Dưỡng Do Cơ ngồi sụp xuống thì mũi tên ấy qua đầu mà bay đi mất; Ðấu Việt Tiêu nói:

– Nhà ngươi bảo rằng ai tránh là không giỏi,sao lại còn ngồi sụp xuống,như vậy không phải là trưọng phu.

Dưỡng Do Cơ nói:

– Quan lệnh doãn còn được bắn một phát nữa, đến phát này thì tôi không dám tránh,nếu phát này không trúng thì ngài phải nhường cho tôi bắn.

Ðấu Việt Tiêu nghĩ thầm:

– Nếu hắn không tránh thì phát tên này tất phải trúng. Ðấu Việt Tiêu tức khắc giương cung ra bắn.Dưỡng Do Cơ đứng vững hai chân,không cựa cậy chút nào,khi mũi tên tới nơi,liền há mồm thật to,cắn chặt ngay lấy. Ðấu Việt Tiêu bắn ba phát tên cùng không trúng cả,có ý sợ hải,nhưng trót đã hẹn lời,cũng phải để cho Dưỡng Do Cơ bắn lại,mới bảo Dưỡng Do Cơ rằng:

– Nay ta nhường hco nhà ngươi bắn lại ba phát,nếu bắn không trúng bấy giờ nhà ngươi lại phải nhường ta.

Dưỡng Do Cơ cười mà bảo rằng:

– Có bao giờ mà lại đến ba phát ! Tôi chỉ bắn một phát thì quan lệnh doãn đi đơì mà thôi !

Ðấu Việt Tiêu nói:

– Nhà ngươi nói khoát làm gì thế,hãy thử bắn xem nào !

Ðấu Việt Tiêu nghĩ thầm:

– Hắn bắn phát tên này mà trúng,chẳng kể làm chi,nhược bằng không trúng ta còn sợ nữantha hồ cho hắn bắn.Ai ngờ Dưỡng Do Cơ là người bắn giỏi lắm,trăm phát trúng cả trăm,bấy giờ Dưỡng Do Cơ giả cách giương cung ra bắn,nhưng tay vẫn giữ lấy tên. Ðấu Việt Tiêu nghe tiếng dây cung,tưởng là tên đến,mới nghiêng mình tránh về phía tả.Dưỡng Do Cơ nói:

– Tên vẫn còn ở tay tôi,nào đã bắn đâu ! Quan lệnh doãn bảo ai tránh là không giỏi,cớ sao lại tránh?

Ðấu Việt Tiêu nói:

– Còn sợ ngưòi ta tránh sao gọi là bắn giỏi!

Dưỡng Do Cơ lại gỉa cách giương cung ra bắn. Ðấu Việt Tiêu lại trắnh về phiá hữu.Dưỡng Do Cơ thừa lúc Ðấu Việt Tiêu tránh luôn tay bắn một phát nữa, Ðấu Việt Tiêu không biết tên đến,né tránh không kịp,mũi tên xuyên qua sọ,chết ngay tại trận.Quân Ðấu Việt Tiêu thấy chủ tướng đã chết rồi,bỏ chạy tán loạn.Công tử Trắc và công tử Anh Tề chia đường đuổi theo,giết cho quân Ðấu Việt Tiêu thây chết như núi,máu chảy thành sông.Con Ðấu Việt Tiêu là Ðấu Bí Hoàng trốn sang nước Tấn,sau vua Tấn dùng làm quan đại phu,phong cho ở đất Miêu,gọi là Miêu Bí Hoàng.Sở Trang vương đã được toàn thắng,thu quân trở về kinh thành,bao nhiêu người họ Ðấu,bất cứ lớn bé đều đem chém đầu cả,chỉ trừ co con Ðấu Ban là Ðấu Khắc Hoàng hiện đang làm quan châm doãn, đương phụng mệnh Sở Trang vương sang sứ nước Tề.Khi Khắc Hoàng về đến nước Tống,nghe tin Ðấu Việt Tiêu nổi loạn,các người theo hầu đều can không nên về vội Ðấu Khắc Hoàng không nghe.

Khi Ðấu Khắc Hoàng về đến kinh thành nước Sở,vào nói với quan tư khấu xin chịu tội và bảo rằng:

– Tổ phụ ta ngày xưa là Tử Văn đã biết Ðấu Việt tiêu có tướng làm phản,tất đến nổi diệt tộc,khi sắp tạ thế,có dặn thân phụ tôi trốn sang nước khác.Thân phụ tôi nghĩ ơn nước Sở,không nơỏ bỏ đi,thành ra bị Ðấu Việt Tiêu giết chết.Nay tôi đã cùng họ với kẻ phản nghịch,lại không theo được lời dặn của tổ phụ tôi,vậy thì còn sống làm gì ! Tôi xin chịu tội chết !

Trang vương nghe nói bèn than rằng:

– Tử Văn ngày xưa thật là thần nhân ! Huống chi lại có công to với nước Sở,nỡ nào lại để cho tuyệt tự !

Nói xong,liền xá tội cho Ðấu Khắc Hoàng,vẫn cho làm quan,lại cho đổi tên là Ðấu Sinh,nghĩa là đáng chết mà được sống.

Trang vương khen Dưỡng Do Cơ có công bắn chết Ðấu Việt Tiêu,cho làm chức xa hữu,nghe nói Ngu Khâu là người hiền,cho quyền chức lệnh doãn.Sở Trang vương truyền mở một tiệc đại yến ở trên tiệm đài,triệu các quan triều thần đến dự tiệc,lại cho cả các phi tần theo đi.Trang vương bải triều thần rằng:

– Ta không uống rượu nghe hát, đã sáu năm trời này,bấy giờ dẹp yên được bọn phản nhgịch rồi,ta xin cùng với các người bày một tiệc vui gọi là thái bình yến.Phàm các quan viên văn vũ,bất cừ to nhỏ đều được dự tiệc cả.

Các quan sụp lạy,rồi theo thứ tự vào ngồi.Chức bào nhân (Người nhà bếp) dâng món ăn,chức thái sử (chức quan coi việc văn hóa,nghệ thuật )tấu nhã nhạc.Khi mặt trời đã gần lặn,tiệc rượu còn đang vui,Sở Trang vương truyền thắp nến lên để uống rượu nữa,lại sai một cung tần được vua yêu là Hứa Cơ, đi mời khắp các quan mỗi người một chén rượu.Các quan đều đứng dậy để uống,bỗng có một trận gío to,bao nhiêu nến thắp ở trên điện,tắt hết cả.Các nội thị còn đang châm lửa chưa đến.Trong các quan đại phu,có một người trông thấy Hứa Cơ đẹp,nhân lúc tối tăm,thò tay nắm lấy vạt áo nàng.Hứa Cơ tay trái dứt vạt áo,tay phải nắm được giải mũ của người ấy.Giải mũ đứt,người ấy sợ lắm,vội vàng buông tay ra,Hứa Cơ lấy được cái giải mũ,rón rén đi đến trước mặt Trang vương,ghé tai mà tâu rằng:

– Thiếp vâng mệnh đại vương ra mời các quan uống rượu,mà có một người vô lễ,dám nhân lúc tắt nến,nắm lấy vạt áo thiếp,thiếp đã dứt được cái giải mũ của người ấy,xin đại vương thắp nến mà xem xét xem.

Trang vương vội vàng truyền cho nội thị chớ thắp nến vội và bảo các quan triều thần rằng:

– Ngày nay ta bày tiệc,mong cùng các người mua vui,các người nên bỏ cả giải mũ đi,rồi cùng ta uống rượu thật say.Nếu ai không dứt giải mũ thì chưa được vui lắm.

Các quan triều thần đều dứt bỏ hết giải mũ.Bấy giờ Trang vương mới thắp nến,thàng ra không biết người nào nắm vạt áo Hứa Cơ cả.Tiệc xong,trở về trong cung,Hứa Cơ tâu với Sở Trang vương rằng:

– Thiếp nghe nói nam nữ phải có phân biệt,huống chi lại là vua tôi. Ðại vương sai thiếp mời các quan uống rượu,là để tỏ lòng kính trọng các quan,nay người ấy nắm lấy vạt áo thiếp mà đại vương không trị tội,thì còn ra thể thống gì nữa !

Trang vương cười mà bảo rằng:

– Ta bày tiệc rượu này là muốn để các quan đều được cùng vui,bởi vậy mới sai thắp nến để uống rượu thêm.Rượu say sinh ra chớt nhả,chẳng qua cũng là thường tình,trị tội một người mà làm cho các quan không được vui, đó không phải là điều ta muốn !

Hứa Cơ thán phục.Về sau người ta gọi tiệc rượu ấy là “Tuyệt anh hội” (nghĩa là hội dứt giải mũ ).Một hôm,Trang vương cùng với Ngu Khâu bàn tiệc chính trị, đêm đã khuya,mới trở cung.Bà phu nhân là Phàn Cơ hỏi Trang vương rằng:

– Ngày hôm nay trong triều có việc gì mà đại vương về chậm như vậy?

Trang vương nói:

– Ta cùng vơi Ngu Khâu bàn việc,thành ra khuya quá mà không biết.

Phàn Cơ nói:

– Ngu Khâu là người hiền ở nước Sở ta.

Phàn Cơ nói:

– Cứ như ý thiếp thì Ngu Khâu vị tất là người hiền.

Trang vương hỏi:

– Sao thế?

Phàn Cơ nói:

– Ngu Khâu mỗi lần cùng với đại vương bàn việc chính trị,thường đến đêm khuya,mà chưa thấy tiến cử một người nào cả.Cái trí của một người thì có hạn,mà số kẻ sĩ nước Sở thì vô cùng.Ngu Khâu muốn đem cái trí của một người để che lấp tất cả kẻ sĩ trong thiên hạ sao gọi là người giỏi được?

Trang vương khen phải.Ngày hôm sau, đem lời Phàn Cơ thuật lại cho Ngu Khâu nghe.Ngu Khân nói:

– Vậy mà tôi chưa kịp nghĩ đến điều đó; để tôi xin liệu ngay.

Ngu Khâu liền hỏi khắp triều thần,xem có ai biết người hiến thì nói. Ðấu Sinh nói với Ngu Khâu rằng:

– Tôi có biết người con của Vĩ Giả tên gọi Vi Ngao là người hiền.Vi Ngao vì tránh cái nạn Ðấu Việt Tiêu mà đi ẩn ở Mộng Trạch,người ấy thật có tài làm tướng quốc.

Ngu Khâu vào tâu,Trang vương nói:

– Vĩ Giả ngày xưa là người trí sĩ thì con Vĩ Giả tất cũng không phải tầm thường,nếu nhà ngươi khôn gnói,có lẽ ta quên mất !

Sở Trang vương bèn sai Ngu Khâu cùng với Ðấu Sinh đi đến Mộng Trạch để triệu Vĩ Ngao.Nguyên Vĩ Ngao tên tự là Tôn Thúc,bởi vậy người ta vẫn gọi là Tôn Thúc Ngao.Tôn Thúc Ngao đem mẹ đi tránh nạn,sang ở Mộng TRạch,làm ruộng nuôi thân.Một hôm,Tôn Thúc Ngao vác cày ra đồng,thấy ở dưới ruộng có con rắn hai đầu,giật mình kinh sợ mà nói rằng:

– Ta nghe nói con rắn hai đầu là vật chẳng lành,ai trông thấy nó là chết,ta nguy đến nơi rồi !

Nói đoạn,lại nghĩ thầm rằng:

– Nếu ta để con rắn ấy sống thì sau này ai trông thấy nó lại bỏ mạng,cho bằng một mình ta đành chịu mà thôi.

Tôn Thúc Ngao nghĩ vậy,mới giơ cái cày đánh chết con rắn,chôn ở bờ ruộng,rồi trở về nhà khóc với mẹ.Bà mẹ hỏi cớ làm sao,Tôn Thúc Ngao nói:

– Con nghe nói ai thấy con rắn hai đầu cũng chết,nay con trông thấy,con lo rằng không sống mà nuôi mẹ được vậy nên con khóc.

Bà mẹ nói:

– Bây giờ con rắn ở đâu?

Tôn Thúc Ngao nói:

– Con sợ người khác lại trông thấy nữa,nên đã giết chết mà chôn đi rồi.

Bà mẹ nói:

– NGười ta hễ có một niềm thiện ở trong lòng,trời tất phù hộ cho.Nay con trông thấy con rắn hai đầu,sợ di lụy đến người khác,giết mà chôn đi,thế là con hơn một niềm thiện nhiều lắm ! Con tất không chết mà lại được phúc nữa.

Mấy hôm sau,bọn Ngu Khâu phụng mệnh Sở Trang vương đến triệu Tôn Thúc Ngao.Bà mẹ mới cười mà bảo Tôn Thúc Ngao rằng:

– Ðấy là vì việc con chôn rắn mà được phút đó !

Tôn Thúc Ngao đem mẹ theo bọn Tôn Ngu Khâu về kinh thành nước Sở,Sở Trang vương cùng với Tôn Thúc Ngao nói chuyện suốt một ngày,lấy làm bằng lòng lắm,mới bảo Tôn Thúc Ngao rằng:

– Tôi mới ở chỗ thảo dã tới đây, đại vương đã vội giao quyền chính cho,e rằng người ngoài không phục.Vậy tôi xin theo các quan đại phu.

Trang vương nói:

– Ta đã biết tài nhà ngươi thì nhà ngươi không nên từ chối.

Tôn Thúc Ngao hai ba lần từ chối không,mới nhận làm chức lệnh doãn.Tôn Thúc Ngao chỉng đốn chính trị nước Sở,lập ra quân pháp,cho Ngu Khâu coi đạo trung quân,công tử Anh Tề coi đạo tả quân,công tử Trắc coi đạo hữu quân,Dưỡng Do Cơ đạo hữu quảng,Khuất Ðăng coi đạo tả quảng,hiệu lệnh rất nghiêm,nhân dân được yên ổn,lại đáp đê khơi sông để tiện việc làm ruộng,dân nước Sở ai cũng ca tụng công đức.Triều thần thấy Trang vương tin dùng Tôn Thúc Ngao,thì lúc đầu không phục,nhưng đến lúc Tôn Thúc Ngao sửa sang chính trị hẵn hòi rành mạch,mới tấm tắc mà khen rằng:

– Nước Sở có phúc, được người hiền thần ấy,chẳng kém gì Tử Văn thuở xưa.Tử Văn thuở xưa làm lệnh doãn khiến cho nước Sở được cường thịnh,nay có Tôn Thúc Ngao,khác nào như Tử Văn sống lại !

Bấy giờ Trịnh Mục công (Lan )mất,thế tử Di lên nối ngôi,tức là Trịnh Linh công.Công tử Tống và công tử Quy Sinh cầm quyền chính nước TRịnh,vẫn bắt cá cả hai tay,chưa biết theo Tấn hay theo Sở.Sở Trang vương mới cùng với Tôn Thúc Ngao thương nghị, định đem quân sang đánh Trịnh.Bỗng nghe tin Trịnh Linh công bị công tử Quy Sinh giết chết?Sở Trang vương bảo Tôn Thúc Ngao rằng:

– Nhân việc này ta đem quân sang đánh Trịnh,lại càng có cơ lắm!

Chương 52: Công tử Tống nghĩ ghen miếng ăn – Trần Linh Công qúa mê sắc đẹp

Công tử Quy Sinh,tên tự là Tử-Gia.Công tử Tống tên tự là Tử-Công,hai người đều là quý thích(họ hàng thân thích của vua) ở nước Trịnh.Bấy giờ đang năm đầu Trịnh Linh Công,công tử Tống và công tử Quy Sinh hẹn nhau cùng vào triều.Bỗng đâu ngón tay trỏ của công tử Tống tự nhiên rung động.Công tử Tống mới giở ngón tay mình đang rung cho công tử Quy Sinh xem.Công tử Quy Sinh lấy làm lạ.Công tử Tống nói:

– Bao giờ ngón tay trỏ của tôi rung động thì thế nào ngày ấy tôi cũng được ăn một món gì lạ.Ngày trước tôi đi sứ nước Tấn, được ăn thạch hoa ngư (cá),sau sang sứ nước Sở, được ăn thiên nga(ngỗng),một lần được ăn hợp hoan quất (quýt),ngón tay trỏ đều báo trước,mà lần nào cũng nghiệm cả.Chưa biết ngày hôm nay được ăn món gì đây !

Khi công tử Tống và công Quy Sinh vào đến triều môn,thấy nội thị phụng mệnh đi gọi đồ tể gấp lắm…Công tử Tống hỏi nội thị rằng:

– Nhà ngươi gọi đồ tể có việc gì?

Nội thị nói:

– Có người ở Hán Giang về,mua được một con giải to lắm,nặng hơn hai trăm cân đem dâng cho chúa công.Chúa công nhận mà thưởng cho người ấy,bây giờ buộc con giải ở dưới thềm,sai tôi đi gọi người vào làm thịt, để định bày tiệc thết các quan đại phu.

Công tử Tống nói:

– Ðó tức là một món ăn quý lạ,ngón tay trỏ của ta rung động quả là có nghiệm.

Khi vào đến trong triều,trong thấy ở chân cột dưới thềm có buộc một con giải thật to,hai người cứ nhìn nhau mà cười. Ðến lúc yết kiến Trịnh Linh Công,nét mặt hai người vẫn còn hớn hở.Trịng Linh Công hỏi:

– Hai người hôm nay có sự gì mà vui mừng như vậy?

Công tử Quy Sinh nói:

– Lúc công tử Tống cùng với tôi sắp vào triều thì ngón trỏ rung động,công tử Tống có nói:hễ ngón tay trỏ rung động thì bao giờ cũng được ăn món gì quý lạ.Nay trông thấy dưới thềm có buộc con giải to,chắc là thế nào chúa công ngự tiệc,cũng có gia ân đến chúng tôi,vậy nên chúng tôi buồn cười.

TRịnh Linh Công nói đùa rằng:

– Nghiệm hay không,việc ấy còn tùy ở ta.

Khi tan triều về,công tử Quy Sinh bảo công tử Tống rằng:

– Miếng ngon dẫu có,nhưng nếu chúa công triệu nhà ngươi thì làm thế nào?

Công tử Tống nói:

– Ðã bày tiệc để thết các quan,có lẽ nào lại quên ta được!

Ðến lúc ngự tiệc,nội thị đi triệu khắp cả các quan đại phu.Công tử Tống hớn hở vào triều trông thấy công tử Quy Sinh.Liền cười mà bảo rằng:

– Tôi vẫn chắc rằng chúa công thế nào cũng triệu tôi.

Ðược một lúc,các quan đều đến cả.Trịnh Linh Công mời ngồi,rồi bảo các quan rằng:

– Thịt giải là một món ăn quý lạ,ta không dám ăn một mình,xin cùng với các ngươi cùng uống rượu.

Các quan cùng nói:

– Chúa công có của ngon vật lạ gì,cũng nhớ đến chúng tôi,chúng tôi biết lấy gì mà báo đền cho được.

Nhà bếp đem món thịt giải dâng lên Trịnh Linh Công trước.Trịnh Linh Công nếm mà khen ngon,rồi sai người ban cho các quan mỗi người một bát thịt giải và một đôi đủa ngà,mà đưa từ bàn dưới lên đến bàn trên.Khi đưa đến bàn nhất,bàn nhì thì chỉ có một bát thịt giải,nhà bếp bèn tâu với Linh Công rằng:

– Thịt giải hết cả rồi,chỉ còn một bát,chúa công dạy đưa cho ai?

Trịnh Linh Công nói:

-Ðưa cho Tử Gia (tức là công tử Quy Sinh).

Nhà bếp đêm bát thịt giải đưa đến trước mặt công tử Quy Sinh.Linh Công cười rầm lên mà bảo rằng:

– Ta định ban khắp cho các ngươi mà lại thiếu một mình Tử-công(tức là công tử Tống).Thế là số Tử Công không được ăn thịt giải.Ngón tay trỏ sao gọi là nghiệm được.

Nguyên Linh công cố ý truyền cho nhà bếp nấu thiếu đi một bát thịt giải đế chứng tỏ rằng ngón tay trỏ của công tử Tống không nghiệm,cốt ý gây nên một câu chuyện cười.Ai ngờ công tử Tống đã trót nói khoát với công tử Quy Sinh,ngày nay thấy các quan đều được ăn cả,mà mình không đưọc ăn,thẹn quá hóa giận,mới chạy thẳng đến trước mặt Linh công,thò ngay tay vào bát thịt giải của Linh Công,vớt lấy một miếng cầm ăn,vừa ăn vừa nói:

– tôi đã được ăn rồi,có phải ngón tay trỏ của tôi không nghiệm đâu!

Nói xong,tức khắc lui ra.Trịnh Linh công nổi giận,ném đũa xuống mà rằng:

– Công tử Tống vô lễ,dám khinh ta như vậy,hay là cho nước Trịnh không có lưỡi gươm sắc chém được đầu hắn chăng!

Bọn công tử Quy Sinh đều sụp lạy mà tâu rằng:

– Công tử cậy tình thân thuộc,muốn được thừa huệ chúa công,có phải dám vô lễ đâu,xin chúa công tha lỗi cho.

– Linh công hầm hầm tức giận.Các quan đều mất vui mà tan về cả.Công tử Quy Sinh tức khắc đến nhà công tử Tống mà bảo rằng:

– Ngày hôm nay chúa công tức giận lắm,sáng mai công tử nên vào triều xin lỗi.

Công tử Tống nói:

– Hễ mình khinh người thì người ta cũng khinh mình dẫu ai cũng vậy,nay chúa công khinh tôi trước,lại còn trách nổi gì!

Công tử Quy Sinh nói:

– Ðã đành rằng thế,nhưng theo lễ vua tôi thì công tử nên tạ mới phải.

Ngày hôm sau,hai người lại cùng vào triều.Công tử Tống cũng đứng trong bạn mình mà làm lễ,nhưng không tỏ ra hối hận sợ hải chút nào, đến nổi công tử Quy Sinh không an tâm mới tâu với Linh công rằng:

– Công tử Tống sợ chúa công quở trách,nay đến tạ tội nhưng sợ quá không nói nên lời,xin chúa công khoan dung cho.

Trịnh Linh công nói:

– Ta sợ có lỗi với Tử Cống chứ Tử Cống có sợ có lỗi với ta đâu!

Nói xong,tức thì vùng vằng đứng dậy.Khi tan triều trở về,công tử Tống mời công tử Quy Sinh đến hà mà bảo rằng:

– Chúa công giận ta lắm,thế nào cũng trị tội ta,chi bằng ta nổi loạn mà giết ngay chúa công đi,thì mới khỏi chết được.

Công tử Quy Sinh lấy tay bịt tai mà bảo công tử Tống rằng:

– Chết nổi! Giống vật mình nuôi lâu ngày,mình còn chẳng nở giết,huống chi là vua một nước,sao công tử lại nói hồ đồ như vậy !

Công tử Tống nói:

– Ta nói bỡn đó thôi,xin chớ tiết lộ cho người khác biết.

Công tử Quy Sinh cáo từ trở về.Công tử Tống dò biết công tử Quy Sinh cùng với em Trịnh Linh công là công tử Khứ Tật chơi bời thân thiết lắm,mới đặt điều nói ngay giữa triều đường rằng:

– Tử Gia (tên tự công tử Quy Sinh) cùng với Tử Lương (tên tự công tử Khứ Tật ) hai người ngày đêm bàn nhau,không biết định làm việc gì ! E rằng việc ấy rất nguy hiểm cho nước Trịnh ta !

Công tử Quy Sinh vội vàng nắm lấy tay công tử Tống dắt đến chỗ vắng người mà bảo rằng:

-Sao công tử lại nói như vậy?

Công tử Tống nói:

– Nhà ngươi không đồng mưu với ta,thế nào ta cũng khiến nhà ngươi chết trước ta một ngày !

Công tử Quy Sinh vốn người nhu nhược,không dám quyết đoán,nghe lời công tử Tống nói,sợ hãi mà hỏi rằng:

– Nhà ngươi định làm thế nào?

Công tử Tống nói

-Chúa công vô đạo,xem một việc chia thịt giải này thì đủ biết.Nếu làm xong đại sự,thì ta cùng nhà ngươi lập công tử Tử Lương (tức là công tử Khứ Tật ) lên làm vua,rồi cầu thân với Tấn mà giữ lấy nước nhà.

Công tử Quy Sinh nghĩ ngợi hồi lâu rồi đáp lại rằng:

– Thôi,mặc công tử muốn làm gì thì làm,ta cũng không tiết lộ cho ai biết cả.

Công tử Tống liền tụ hợp trong nhà,nhân khi Linh công đi làm lễ thu tế,bèn đem nhiều tiền bạc đút lót cho thị vệ,nửa đêm lẻn vào chỗ vua ngủ ở trai cung,lấy cái bị đất đè lên mình mà giết đi rồi nói dối là Linh công bị bệnh trúng áp.Công tử Quy Sinh biết việc ấy mà không dám nói ra.Ngày hôm sau,công tử Quy Sinh và công tử Tống bàn nhau lập công tử Khứ Tật lên làm vua.Công tử Khứ Tật kinh sợ,từ chối rằng:

– Tiên quân ta có tám người con.Nếu định lập người hiền,thì tôi không có tài đức gì cả,mà định lập người nhiều tuổi thì đã có công tử Kiên.Tôi dầu chết thì thôi,chứ không dám quá phận như vậy!

Bấy giờ công tử Quy Sinh và công tử Tống mới lập công tử Kiên lên làm vua,tức là Trịnh Tướng công.Nguyên Trịnh Mục Công thuở xưa,cả thảy có mười ba người con.Trịnh Linh công bị giết,Trịnh Tướng công nối ngôi làm vua.Còn mười một người con nữa là: 1.Công tử KHứ Tật,tên tự là Tử Lương;2.Công tử Hỷ,tên tự là Tử Hán;3.Công tử Phi,tên tự là Tử Tứ;4.Công tử Phát,tên tự là Tử Quốc;5.Công tử Gia,tên tự là Tử Khổng;6.Công tử Yến,tên tự là công tử Du;7.Công tử Phú,tên tự là Tử Ấn;8.Côn gtử Phong;9.Công tử Vũ;10.Công tử Nhiên;11.Công tử Chí.

Trịnh Linh công ghét các em hay bè phái,chỉ sợ ngày sau sinh biến,mới bàn riêng với công tử Khứ Tật, định để một mình Khứ Tật ở nhà,còn thì đuổi hết các em đi sang các nước khác.Công tử Khứ Tật nói:

– Tiên quân ta thuở xưa,lúc mới sinh ra,có ứng vào cái mộng cành lan, đó là điềm họ ta sẽ được hưng thịnh.Anh em trong một nhà cũng ví như cái cây có cành,có lá,nếu đem cắt bỏ cành lá đi mà để cho gốc rễ trơ trọi thì chắc cái cây ấy chẳng bao lâu cũng đến khô héo.Nay chúa công bao dung được các em thì thôi,nhược bằng không bao dung được mà phải đuổi đi thì tôi cũng xin đi,chớ nỡ đâu một mình ở lại,mai sau còn mặt mũi nào trông thấy tiên quân ở dưới suối vàng nữa.

Trịnh Linh công nghe nói cảm động,mới cho cả mười một người em đều ở lại làm quan đại phu,cùng cầm quyền chính.Công tử Tống sai sứ giao kết với nước Tấn, để nhờ che chở cho nước Trịnh.Năm sau,Sở Trang vương sai công tử Anh Tề làm tướng, đem quân sang đánh Trịnh,và hỏi nước Trịnh rằng:

– Sao nước Trịnh dám giết vua?

Nước Tấn sai Tuần Lâm Phủ đem quân sang cứu Trịnh.Nước Sở mới rút quân về đánh nước Trần.

Năm thứ ba đời Chu Ðịnh vương,quan thượng khanh nuớc Tấn là Triệu Thuẩn mất,Khướt Khuyết thay làm trung quân nguyên soái nghe nói nước Trần cùng với nước Sở giảng hòa,liền tâu với Tấn Thành công,sai Tuân Lâm Phủ theo Tấn Thành công, đem quân bốn nước Tống,Vệ Trịnh,Tào,kéo sang đánh nước Trần.Tấn Thành công đi đến nữa đường thì bị bệnh mà chết.Tuân Lâm Phủ liền rút quân về,rồi lập thế tử Nho lân làm vua,tức là Tấn Cảnh Công.Năm ấy Sở Trang vương đánh Trịnh, đóng quân ở đất Liễu Phân(đất nước Trịnh).Khướt Khuyết đem quân sang cứu Trịnh,lẻn đánh quân Sở.Quân Sở bị thua,người nước Trịnh ai cũng mừng rỡ,chỉ có một mình công tử Khứ Tật là sắc mặt lo âu.Trịnh tướng công lấy làm lạ,liền hỏi.Công tử Khứ Tật nói:

– Nước Tấn đánh được quân Sở,chẳng qua là gặp may mà thôi.Tôi chỉ sợ quân Sở căm tức mà lại sang đánh Trịnh, đóng quân ở phía Bắc sông Ðĩnh Thủy.Gặp bấy giờ công tử Quy Sinh bị bệnh chết,công tử Khứ Tật mới truy cứu cái tội nếm thịt giải khi trước,mà giết công tử Tống, đem phanh thây ở trong triều,lại đẽo áo quan của công tử Quy Sinh và đuổi gia quyến đi nơi khác,rồi sai sứ sang tạ tội với Sở Trang vương rằng:

– Nước tôi có kẻ phản nghịch là công tử Quy Sinh và công tử Tống,nay đã trị tội cả rồi,vậy chúa công tôi xin theo vua Trần cùng sang ăn thề mà qui phụ thượng quốc.

Sở Trang vương thuận cho, định họp vua Trần và vua Trịnh cùng ăn thề ở đất Thần lăng,bèn sai sứ sang ước hẹn với vua Trần.Sứ giả ở nước Trần về,nói rằng vua TRần bị quan đại phu là Hạ Trung Thư giết chết,trong nước đại loạn.Nguyên Trần Linh công là con Trần Cung công vốn người lẳng lơ biếng nhác,không có uy nghi gì cả,lại ham mê tửu sắc,chẳng thiết gì đến chính sự,tin dùng hai quan đại phu là Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ.Hai người ấy đều một phường tửu sắc,bởi vậy vua tôi ý hợp tâm đầu,nói cười đùa bỡn,rất là chớt nhã,không còn e lệ gì nữa!

Bấy giờ trong triều có một người hiền thần là Tiết Giả,trung thực dám nói thẳng,Trần Linh công vẫn có ý nễ sợ.Lại có quan đại phu là Hạ Ngự Thúc?Nguyên người cha Hạ Ngự Thúc là công tử Thiếu Tây (con Trần Ðịnh công ),tên tự là Tử Hạ,bởi vậy Ngự Thúc dùng chữ Hạ làm họ,gọi là Hạ Ngự Thúc,vẫn nối đời làm quan tư mã nước Trần, ăn lộc ở đất Châu Lâm.Hạ Ngự Thúc lấy con gái TRịnh Mục công làm vợ,gọi là nàng Hạ Cơ,mắt phượng mày ngài,môi son má phấn,dáng dấp đã chẳng kém gì Ly Cơ,Tức Vi,lẳng lơ lại có phần hơn Ðắc Kỷ,Văn Khương,ai trông thấy cũng phải tâm thần mê mẫn.Hạ Cơ lại còn một câu chuyện ly kỳ nữa là: Năm mới mười lăm tuổi,nằm mộng thấy một chàng đẹp trai,mũ ngọc áo lông,tự xưng là thượng giới thiên tiên,cùng với Hạ Cơ giao hợp,rồi dạy Hạ Cơ những phép hấp tinh đạo khí, để thỏa thích lòng người trong khi giao tiếp.

Khi Hạ Cơ chưa lấy chồng, đã tư thông với anh là công tử Man (thứ huynh của Trịnh Linh công ),chưa được ba năm thì công tử Man ốm quặt quẹo rồi chết non,sau lấy Hạ Ngự Thúc,sinh được một người con trai tên gọi là Hạ Trưng Thư.Hạ Trưng Thư tên tự là Tử Nam,năm mười hai tuổi thì cha là Hạ Ngự Thúc ốm chết.Hạ Cơ thường có ngoại tình,mới để Hạ Trưng Thư ở trong thành theo thầy học tập,còn mình thì về ở đất Châu Lâm.Khổng Ninh và Nghi Hàng phủ nguyên trước là bạn đồng liêu với Hạ Ngự Thúc,trong thấy Hạ Cơ đẹp,vẫn có ý nom dòm.Hạ Cơ có một con thị nữ tên gọi là Hà Hoa là người rất tinh quái,vốn đã hiểu biết tính chủ.Một hôm Khổng Ninh cùng với Hạ Trưng Thư đi săn,nhân tiện đến Châu Lâm,rồi ở chơi ngủ lại ở đấy,Khổng Ninh chịu phí tâm cơ,mật kết cùng Hà Hoa,tặng một cành trâm và nhờ nói hộ với chủ,bởi thế mới cùng Hạ Cơ tư thông.

Khổng Ninh lại lấy trộm cái quần trong bằng gấm của Hạ Cơ đem ra khoe với Nghi Hàng Phủ.Nghi Hàng Phủ cũng thèm thuồng,mới đem tiền của bàn mưu với Hà Hoa, để nhờ tiến dẫn hộ.Hạ Cơ xưa nay trông thấy Nghi Hàng Phủ là người vóc dạc cao lớn,mặt mũi phương phi,cũng đã có lòng thích,mới bảo Hà Hoa mời đến.Nghi Hàng Phủ khéo làm cho Hạ Cơ được bằng lòng,bởi vậy được Hạ Cơ yêu hơn Khổng Ninh.Nghi Hàng Phủ bảo Hạ Cơ rằng:

– Ngày trước quý nương có cho Khổng Ninh một cái quần gấm,nay đã có lòng yêu tôi,cũng nên cho tôi cái gì để kỷ niệm.

Hạ Cơ cười mà bảo rằng:

– Cái quần gấm ấy là hắn lấy trộm của thiếp,chứ không phải thiếp tặng cho đâu.

Hạ Cơ lại ghé tai bảo nhỏ Nghi Hàng Phủ rằng:

– Dẫu nằm cùng giường với nhau,nhưng cũng có kẻ hậu người bạc chứ!

Nói xong,liền cởi cái áo cánh bằng lụa đưa tặng Nghi Hàng Phủ.Nghi Hàng Phủ bằng lòng lắm,từ bấy giờ hai người lại càng thân mật,còn Khổng Ninh thì mỗi ngày Hạ Cơ một nhạt dần.Vì Khổng Ninh khi trước có đem cái quần gấm của Hạ Cơ khoe khoang với Nghi Hàng Phủ,sau Hàng Phủ được cái áo cánh của Hạ Cơ,lại đem khoe với KHổng Ninh.KHổng Ninh hỏi chuyện Hà Hoa,biết là Nghi Hàng PHủ cùng với Hạ Cơ thân mật lam,mới sinh lòng ghen ghét định tìm kế để phá.Khổng Ninh nghĩ thầm rằng:

– Chúa công cũng là người dâm dục,nghe đồn Hạ Cơ đẹp,vẫn có lòng mơ ước, đã nhiều lần nói đến,chỉ tiếc rằng cờ chẳng đến tay,chi bằng ta dắt chúa công đến,tất nhiên chúa công phải ơn ta.Vả chúa công có bệnh hôi nách,chắc là Hạ Cơ cũng không ưa,bấy giờ ta thừa cơ mà hưởng chung cuộc vui thú,khiến Nghi Hàng Phủ phải nhạt bớt đi một vài phần,cho thỏa tấm lòng căm tức của ta, ấy chính là diệu kế đó!

KHổng Ninh bèn lẻn vào yết kiến Trần Linh công,nhân khi đàm luận,nói đến chuyện Hạ Cơ là người đẹp,thiên Hạ không ai bằng.Linh công nói:

– Ta cũng nghe đồn từ lâu,nhưng năm nay chắc nàng đã gần bốn mươi tuổi,e rằng hoa đắc tháng ba,còn gì là xuân nữa!

Khổng Ninh nói:

– Hạ Cơ khéo giữ nhan sắc lắm,năm nay vẫn còn như con gái mười lăm tuổi,và am hiểu cái thuật trong phòng,giao tiếp rất thần diệu.

Linh công bấy giờ lửa dục nổi lên ngùn ngụt,sắc mặt đỏ bừng,bảo Khổng Ninh rằng:

– Nhà ngươi có kế gì khiến cho ta được đi lại với Hạ Cơ thì ta không dám quên ơn.

Khổng Ninh nói:

– Hạ Cơ nhà ở Châu Lâm.Chỗ ấy nhiều cây cối,phong cảnh rất đẹp,sáng mai chúa công giả cách ra chơi Châu Lâm,tât thế nào Hạ Cơ cũng phải nghênh tiếp.Hạ Cơ có một con thị nữ,tên gọi Hà Hoa,cũng khá thông thạo việc tình,dẻ tôi xin đem ý chúa công bảo nó khéo nói với Hạ Cơ,chắc thế nào cũng xong chuyện.

Linh công cười mà bảo rằng:

-Việc này ta tin cậy ngươi đó!

Ngày hôm sau,Trần Linh công truyền thẳng ngựa xe ra chơi Châu Lâm,cho quan đại phu là Khổng Ninh đi theo.Khổng Ninh sai người đưa tin trước cho Hạ Cơ để sửa tiệc sẵn,lại tỏ ý cho con Hà Hoa biết,bảo nó nói với Hạ Cơ.Linh công đến Châu Lâm.Hạ Cơ mặc lễ phục ra rước vào trong nhà rồi sụp lạy mà tâu rằng:

– Con trai thiếp là Hạ Trưng Thư đi trọ học vắng nhà,không biết chúa công tới đây,vậy nên không kịp nghêng tiếp,xin chúa công tha lỗi.

Giọng nói thỏ thẻ như tiếng chim oanh,nghe rất êm tai ! Linh công thấy Hạ Cơ nhan sắc chẳng khác gì một vị thiên tiên,bọn phi tần trong cung ít ai bì kịp,mới bảo Hạ Cơ rằng :

– Thôi ta miễn lễ cho quý nương,ta nghe nói quý nương ở đây có cái vườn hoa đẹp,vậy ta muốn vào xem một chút.Hạ Cơ nói:

– Từ khi phu quân tạ thế đi rồi,cái vườn này bỏ hoang,không ai quét dọn,thiếp xin cáo tội trước với chúa công.

Hạ Cơ ứng đối rất lưu loát.Trần Linh công càng thêm có lòng yêu mến,truyền cho Hạ Cơ cởi bỏ lễ phục ra, để đưa vào ngoạn cảnh ở vườn hoa.Hạ Cơ bỏ lễ phục ra,bên trong lại mặc có một bộ quần áo thường rất nhã đạm,trông khác nào như đóa hoa lê ở dưới bóng trăng,chùm mai nhị ở trong đám tuyết, ưa nhìn biết nhường nào ! Hạ Cơ đưa Linh công vào chốn hậu viên.Vườn dẫu chẳng lấy gì làm rộng lắm,nhưng có đủ hoa tươi lá lạ,cây đẹp cỏ thơm,một dòng nước chảy quanh,mấy gian nhà thủy tạ,khoảng giữa lại có hiên cao,tức là chỗ yến khách,hai đầu có hai dãy nhà,lối đi thông vào nội tẩm.Phía trong nữa có một chuồng ngựa,còn về phía tây vườn có một chỗ đất bỏ không, để làm chỗ tập bắn.

Linh công còn đang ngoạn cảnh thì trong hiên đã bày một bàn tiệc thịnh soạn.Hạ Cơ bưng chén rượu đứng mời?Trần Linh công cho ngồi hầu ở bên cạnh.Hạ Cơ khiêm nhượng không dám vào ngồi.Linh công nói :

– Có lẽ nào chủ nhân lại không ngồi! Thôi thì hôm nay ta hãy miễn lễ vua tôi cho,cứ ngồi lại uống rượu cho vui.

Linh công truyền cho Khổng Ninh ngồi bên hữu,Hạ Cơ ngồi bên tả.Trong khi uống rượu,Linh công cứ nhìn Hạ Cơ chòng chọc,mắt không hề chớp.Hạ Cơ cũng liếc mắt đưa tình.Linh công nhân lúc tửu hứng,lại càng si tình.Khổng Ninh ở bên cạnh tán tụng thêm vào,làm cho Linh công tấm lòng phơi phới,rượu uống vào mãi mà không thấy nhiều ! Mặt trời đã lặn về tây,người nhà thắp nến,lại uống một chập nữa,Linh công say quá,nằm gục xuống đấy mà ngủ,tiếng ngáy khè khè.Khổng Ninh bảo riêng với Hạ Cơ rằng:

– Chúa công hâm mộ nhan sắc của quí nương,ngày nay tới đây,tìm cuộc truy hoan,quý nương chớ nên trái ý.

Hạ Cơ mĩm cười,không nói gì cả.Khổng Ninh tức khắc truyền cho quân sĩ đều ra ngoài yên nghỉ.Hạ Cơ sửa soạn gối thêu mền gấm,lại tắm gội sạch sẽ để chờ khi vua ngự.Bấy giờ chỉ để có thị nữ Hà Hoa đứng hầu ở cạnh Linh công. Ðược một lúc,Linh công tỉnh rượu,mở mắt nhìn,trông thấy Hà Hoa,liền hỏi:

– Ai đấy ?

Hà Hoa quỳ xuống mà tâu rằng:

– Tiện tì tên gọi Hà Hoa,phụng mệnh chủ mẫu cho ra đây hầu hạ chúa công.

Nói xong,liền dâng một chén nước mai thang để giã rượu.

Trần Linh công hỏi:

– Nước mai thang này,ai nấu mà khéo nhĩ?

Hà Hoa nói:

– Tâu chúa công,nước mai thang là do tiện tì nấu.

Trần Linh công nói:

– Nhà ngươi biết nấu mai thang,vậy thì nhà ngươi biết làm mối cho ta không?

Hà Hoa giả cách không hiểu mà đáp rằng:

– Tiện tì đây không quen làm mối,nhưng cũng xin hết lòng,chẳng hay chúa công để ý đến người nào?

Trần Linh công nói:

– Ta vì chủ mẫu nhà ngươi mà ruột gan rối loạn.Nếu nhà ngươi giúp ta được thì ta sẽ trọng thưởng.

Hà Hoa nói :

– Chủ mẫu tôi phận hèn,sợ không đáng hầu quý nhân,nếu chúa công có lòng nghĩ đến thì tiện tì xin đưa vào.Linh công mừng lắm,sai Hà Hoa cầm đèn lồng để dẫn lối. Ðường đi khuất khúc,rối vào đến phòng ngủ của Hạ Cơ.Hạ Cơ đang ngồi một mình ở dưới bóng đèn ngẩn ngơ chờ đợi,bổng nghe tiếng giầy,toan hỏi xem ai thì Linh công đã bước vào đến trong cửa.Hà Hoa cầm đèn quay ra.Linh công không nói năng gì, ẫm Hạ Cơ vào màn cùng nằm.Trong khi ân ái thấy chẳng khác gì gái tơ,Linh công lấy làm lạ,liền hỏi.Hạ Cơ nói:

– Thiếp có phép nội thị,sau khi sanh đẻ cũng chẳng qua chỉ ba ngày thì đã lại nguyên cũ.Linh công khen rằng:

– Ta được gặp quý nương,chẳng khác gì được gặp thiên tiên.

Sức Linh công, đã không bằng Khổng Ninh và Nghi Hàng Phú,hơi hám lại không được thơm tho,chỉ vì là ông vua một nước,nên Hạ Cơ cũng ham lợi mà không quản ngại,chiều chuộng đủ điều trong khi cùng giường cùng gối.Linh công thấy vậy,cho là một sự gặp gỡ ít có gần đến gà gáy,Hạ Cơ giục Linh công trở dậy.Linh công nói:

– Ngày nay ta được gần gụi ái khanh,nghĩ lại bọng phi tần,không khác gì đất bùn chẳng hay ái khanh có nghĩ đến ta chút nào không?

Hạ Cơ ngờ Linh công đã biết việc Khổng Ninh và Nghi hàng Phủ đi lại với mình,mới nói với Linh công rằng:

– Xin nói tình thực với chúa công,từ khi phu nhân thiếp tạ thế đi rồi,thiếp không tự chế được mình,cũng có đi lại với người khác,nay đã được hầu hạ chúa công thì từ bây giờ trở đi,thiếp không dám tiếp ai nữa !

Linh công nói:

– Ái khanh xưa nay giao tiếp những ai,nên kể thực cho ta biết,can chi mà phải giấu diếm?

Hạ Cơ nói:

– Hai quân đại phu là khổng Ninh và Nghi Hàng phủ vì cớ đi lại trông nom đứa con nhỏ của thiếp,thành ra có cùng thiếp dan díu,ngoài ra không có một ai.

Linh công cười mà bảo rằng:

– Thảo nào mà Khổng Ninh cứ khen cái tài tiếp của ái khanh.Nếu chưa trải qua sao có biết được !

Hạ Cơ nói:

– Tiện thiếp biết tội đã nhiều,xin chúa công thứ cho.

Linh công nói:

– Khổng Ninh có cái công tiến dẫn ái khanh,ta còn nhớ ơn, ái khanh chớ ngại.Ta chỉ ước ao được cùng ái khanh đi lại lâu dài,còn thì mặc ái khanh,ta chẳng cấm làm gì!

Hạ Cơ nói:

– Chúa công cứ thường thường đi lại thì có khó gì chẳng được lâu dài với nhau.

Linh công trở dậy.Hạ Cơ cởi cái áo lót mình,mặc vào cho Trần Linh công mà nói rằng:

– Mỗi lúc chúa công trông thấy cái áo này cũng như trông thấy tiện thiếp.

Hà Hoa lại cầm đèn lồng đưa Linh công theo lối cũ ra ngoài hiên.Sáng hôm sau,Hạ Cơ mời Linh công lên nhà trên để ngự cơm sáng.Cơm xong.Khổng Ninh lại theo Linh công về triều.Các quan đều hợp cả ở triều môn chờ đợi.Linh công truyền cho miễn triều,rồi đi thẳng vào trong cung.Nghi Hàng Phủ nắm lấy áo Khổng Ninh,cố hỏi xem tối hôm trước Linh công ngủ ở đâu.Khổng Ninh không thể giấu được ,mới phải nói thật cả.

Nghi Hàng Phủ biết là Khổng Ninh tiến dẫn,mới giẫm chân xuống đất mà gắt rằng:

– Món tốt như thế ,sao lại nhường cho người ta hưởng một mình !

Khổng Ninh nói:

– Chúa công lấy làm đắc ý lắm ! Lần sai thì đến phần nhà ngươi,có gì mà lo !

Hai người cười sằng sặc rồi trở về.Ngày hôm sau,Linh công ra triều, đợi lúc quan đã tan về cả,mới gọi Khổng Ninh đến trước mặt mà tạ ơn tiến dẫn Hạ Cơ,lại gọi Nghi Hàng Phủ vào mà hỏi rằng:

– Có ái thú như thế mà không tâu với ta,hai người lại hưởng trước là nghĩa làm sao?

Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ đồng thanh tâu rằng:

– Thần đằng quả không gì cả !

Linh công nói:

– Chính Hạ Cơ đã thú với ta như vậy,các người lại còn giấu diếm làm gì!

Khổng Ninh nói:

– Thí dụ như một món ăn,bày tôi phải nếm trước,nếu nếm mà không thấy ngon thì không dám tiến dâng.

Linh công cười mà bảo rằng:

– Thí dụ như món chân gấu (là món ăn ngon nhất trong các món ăn của Trung quốc) thì nhường cho ta ăn trước cũng được chứ sao !

Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ đều bưng miệng cười,Linh công lại nói:

– Ta cùng hai người dẫu đều đều đi lại với nàng,nhưng riêng với ta,nàng có tặng một vật để làm kỷ niệm.

Nói xong,liền vạch cái áo lót mình cho Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ xem mà bảo rằng:

– Mỹ nhân cho ta đấy,hai người có được không ?

Khổng Ninh nói

– Tôi cũng có !

Linh công hỏi :

– Nàng tặng nhà ngươi cái gì ?

Khổng Ninh vén áo, để lộ cái quán gấm,rồi nói với Linh công rằng:

– Hạ Cơ tặng cho tôi đấy ! Chẳng những tôi có,Nghi Hàng phủ cũng có.

Linh công lại hỏi Nghi Hàng Phủ.Nghi Hàng Phủ cởi cái áo cánh lụa đưa trình Linh công.Linh công bật cười mà nói rằng:

– Ba ta người nào cũng đều có một vật tùy thân để làm tang chứng,ngày khác đi ra Châu Lâm,có thể cùng nhau mỡ đại hội “liên sàng” được đấy !

Một vua và hai bày tôi, đùa bỡn nhau ở chốn triều đường,tiếng đồn đến ngoài,làm cho một vi trung thần nghiến răng nghiến lợi mà kêu rằng:

– Triều đình là chỗ phép tắc kỷ cương mà nhảm nhí như vậy thì cơ mất nước đến nơi rồi !

Nói xong,liền đi thẳng vào triều để đem lời can ngăn.

Chương 53: Sở Trang Vương trả lại đất Trần – Tấn Cảnh Công đem quân đánh Trịnh

Trần Linh công cùng với Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ đem những đồ vật của Hạ Cơ tặng cho, đùa bởn với nhau ở chốn triều đường.Quan đại phu là tiết gia nghe nói, liền vào triều để định can Linh công.Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ vốn sợ Tiết Giã là người chính trực, nay thấy vua không triệu mà Tiết Giã đến, biết là Tiết Giã có ý muốn đem lời can ngăn, mới cáo từ Linh công mà lui ra.Linh công rảo đến trước mặt, nắm lấy vạt áo Linh công, rồi quỳ xuống mà tâu rằng:

– Tôi nghe nói vua tôi phải lễ nghĩa, nam nữ phải có phân biệt, nay vua tôi dắt nhau đi dâm loạn, lại đem chuyện ấy khoe khoang ở chốn triều đường, không còn một mãy may liêm sỉ nào cả. Ðó là cái cơ mất nước, xin chúa công hãy nghĩ lại.

Trần Linh công thẹn toát mồ hôi ra, lấy áo che mặt mà nói rằng:

– Nhà ngươi bất tất phải nói lắm, ta đã biết hối rồi !

Tiết Giã cáo từ lui ra.Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ đứng ở ngoài cửa, trong thấy Tiết Giã hầm hầm nổi giận mà lui ra, thì lẩn vào trong đám đông người để tránh.Tiết Giã trông thấy, gọi Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ lại mà trách rằng:

– Vua có điều thiện , bề tôi nên bày ra, vua có điều bất thiện, bề tôi nên dấu đi.Nay hai người đã xui vua làm điều bất thiện, mà lại còn nói ra, nhân dân ai cũng biết cả, thì còn ra thể thống gì, sao hai ngươi không biết xấu hổ !

Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ không biết nói sao, chỉ vâng dạ và chịu lỗi.Tiết Giã đi khỏi, Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ vào yết kiến Linh công, thuật lại những lời nói của Tiết Giã và tâu với Linh công rằng:

– Từ nay trở đi, chúa công chớ đi chơi Châu Lâm nữa !

Linh công nói:

– Vậy thì hai người có đi hay không?

Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ nói:

– Tiết Giã chỉ cốt can chúa công, chứ có việc gì đến chúng tôi.Vậy thì chúng tôi đi được, mà chúa công không nên đi.

Linh công hăng hái nói rằng:

– Thà rằng ta mất lòng Tiết Giã, chứ đời nào lại chịu bỏ nơi vui thú ấy !

Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ lại tâu rằng:

– Nếu chúa công lại đi nữa thì không khỏi Tiết Giã làm rầy rà lôi thôi, biết làm thế nào?

Linh công nói:

– Hai người có kế gì mà khiến Tiết Giã đừng nói nữa không?

Khổng Ninh nói:

– Nếu muốn cho Tiết Giã đừng nói thì chỉ có một cách khiến hắn không mở miệng ra được.

Linh công cười mà nói rằng:

– Hắn có miệng thì hắn nói, ta dùnh cách gì mà khiến cho hắn không mở miệng ra được.

Nghi Hàng Phủ nói:

– Tôi hiểu câu nói của Khổng Ninh rồi ! Người ta chết thì không mở miệng ra được, sao chúa công không hạ lệnh giết chết Tiết Giã đi thì có phải được vui thú suốt đời hay không?

Linh công nói:

– Ta giết hắn thế nào được?

Khổng Ninh nói:

– Hay là dể tôi sai một người rình mà đâm chết hắn đi !

Linh công nói:

– Nhà ngươi cứ làm !

Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ cáo tự lui ra, rồi bàn nhau đem tiền của thuê thích kháchđứng rình ở một chỗ hẻo lánh đợi Tiết Giã vào triều đi qua, giết chết Tiết Giã.Người nước Trần thấy vậy, cho là Trần Linh công sai người giết, chứ không biết rằng đó là âm mưu của Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ.Tiết Giã chết rồi, vua tôi lại càng không kiêng nễ gì nữa, lâu lâu lại rủ nhau ra chơi Châu Lâm.Trưóc còn giấu giếm, sau lâu ngày quen thói, công nhiên ra chơi chẳng nghĩ gì đến tai tiếng nữa.Người nước Trần có làm một bài thơ “Châu Lâm” để chê Linh công.Hạ Trưng Thư dần dần khôn lớn, biết chuyện mẹ như vậy, trong lòng khác nào dao đâm, nhưng ngại vì có Trần Linh công, không làm thế nào được.Mỗi khi Linh công sắp ra Châu Lâm thì Trưng Thư tạo sự đi vắng, để cho khuất mắt, còn bọn trai gái dâm loạn ấy thấy Hạ Trưng Thư đi vắng thì lấy làm mừng.

Ngày tháng thoi đưa, Hạ Trưng Thư đã mười tám tuổi, cao lớn đẹp đẽ, có sức khỏe, lại giỏi nghề bắn cung.Linh công muốn lấy lòng Hạ Cơ;mới cho Trưng Thư nối chức của cha làm quan tư mã, coi giữ binh quyền.Trưng Thư tạ ơn, rồi vào bái yết Hạ Cơ.Hạ Cơ dặn rằng:

– Ðấy là ân điền của chúa công, con nên một lòng vì nước, chớ nghĩ gì đến việc nhà.

Trưng Thư từ biệt Hạ Cơ vào triều cung chức.Một hôm, Linh công cùng với Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ lại ra chơi Châu Lâm.Hạ Trưng Thư cảm ơn vua cho được làm tư mã, về nhà bày tiệc để thết đãi.Hạ Cơ vì có con ở đấy, không dám ra hầu rượu.Trần Linh công cùng với Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ trong khi say rượu, cười nói đùa bỡn, múa tay hoa chân.Hạ Trưng Thư trông thấy ghét lắm mới lui vào sau bình phong để nghe xem nào thế nào.Trần Linh công bảo Nghi Hàng Phủ rằng:

– Hạ Trưng Thư cao lớn đẹp đẻ lắm, trông giống nhà ngươi lắm, hay là con rơi của nhà ngươi đấy?

Nghi Hàng Phủ cười mà nói rằng:

– Hạ Trưng Thư hai mắt lau láu, rất giống chúa công.

Khổng Ninh ở bên cạnh nói bông rằng:

– Chúa công và Nghi Hàng Phủ hãy còn ít tuổi, sinh thế nào được hắn, tôi chắc hắn có nhiều bố lắm, dẫu mẹ hắn cũng không nhớ được hắn là con ai nữa !

Nói xong, ba người lại vỗ tay cười ầm lên.Hạ Trưng Thư nghe nói, hổ thẹn vô cùng, tức thì hầm hầm nổi giận, vào khóa chặt cửa phòng của Hạ Cơ lại, rồi lẻn qua cửa ngang ra ngoài, truyền cho quân sĩ vây kín xung quanh phủ, không được để cho Linh công cùng KHổng Ninh và Nghi Hàng Phủ chạy thoát.

Quân sĩ vâng lệnh, vây kín quanh phủ.Hạ Trưng Thư mình mặc nhung phục tay cầm bảo kiếm, đem một toán quân tiến vào cửa giữa, quát to lên rằng:

– Mau mau bắt lũ dâm tặc !

Linh công đang cười nói khề khà, chẳng biết tí gì cả.Khổng Ninh nghe tiếng, vội vàng nói với Linh công rằng:

– Nguy cấp lắm rồi!

Hạ Trưng Thư đánh lừa ta rồi !Nay hắn đem quân vào, kêu bắt dâm tặc, ta biết chạy đường nào cho thoát?

Nghi Hàng Phủ nói:

– Cửa trước nó đã vây kín thì ta chạy về cửa sau.

Ba người xưa nay ở nhà Hạ Cơ đã thông thuộc cả đường lối, Linh công định chạy vào phòng Hạ Cơ, dể cầu Hạ Cơ cứu cho.Chẳng ngờ khi vào đến nơi, thấy cửa phòng đã khóa chặt, lại càng sợ hãi, liền chạy ra sau vườn.Trưng Thư cầm kiếm đuổi theo.Linh công nhớ rằng ở bên chuồng ngựa, có cái tường thấp, có thể nhảy qua được, mới chạy về phía chuồng ngực.Trưng Thư quát to lên rằng:

– Ðứa hôn quân kia, mày chạy đường nào cho thoát !

Trưng Thư giương cung bắn ngay một phát, nhưng không trúng.Linh công chạy vào chuồng ngựa, toan tìm chỗ ẩn thân, chẳng may bị đàn ngựa cắn đá, vội vàng lui ra.Trưng Thư đuổi kịp, lại bắn thêm một phát nữa, trúng vào giữa bụng, Trần Linh công chết ở cạnh chuồng ngựa.Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ trông thấy Linh công chạy về phía đông, biết là Hạ Trưng Thư tất nhiên đuổi theo, mới quay về phía Tây chạy vào trường tập bắn, tìm chỗ rào thủng chui ra được, không dám về nhà nữa, rủ nhau trốn sang nước Sở.Hạ Trưng Thư bắn chết Trần Linh công, rồi kéo quân vào thành, nói dối là Linh công say rượu ngộ cảm mà chết, lập thế tử Ngọ lên nối ngôi, tức là Trần Thành công.Trần Thành cọng trong lòng căm tức Hạ Trưng Thư, nhưng sức không làm gì nổi, nên phải ẩn nhẩn không dám nói ra.Hạ Trưng Thư cũng sợ chư hầu đem quân đến hỏi tội mình, mới cố ép Trần Thành công phải sanh chầu nước Tấn, để vững chỗ dựa.

Lại nói chuyện sứ nước Sở phụng mệnh Sở Trang vương sang hẹn Trần Linh công đến hội ở đất Thần Lăng, khi sang chưa đến nước Trần, nghe tin có bạn, mới quay trở về, lại vừa gặp Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ trốn sang nước Sở, vào yết kiến Sở Trang Vương, giấu kín những chuyện vua tôi dâm loạn, chỉ nói việc Hạ Trưng Thư làm phản, giết Trần Linh công, cũng giống như sứ nước Sở về báo khi trước.Sở Trang vương mới hợp triều thần để thương nghị.Bấy giờ nước Sở có quan đại phu tên gọi là Khuất Vu , tên tự là Tử Linh (con Khuất Ðăng ).Khuất Vu mặt mày thanh tú, văn vũ toàn tài, chỉ phải cái bệnh hiếu sắc, vẫn chuyên học phòng trung bí thuật của Bành tổ, mấy năm trước sang sứ nước Trần, gặp Hạ Cơ đi chơi được thấy nhan sắc, lại nghe đồn nghề chơi tuyệt diệu, thì trong lòng ước ao lắm. ÐẾn lúc nghe nói Hạ Trưng Thư làm phản, KHuất Vu muốn nhân việc ấy để mà sang lấy Hạ Cơ, mới cố khuyên Sở Trang vương đem quân sang đánh Trần.Quan lệnh doãn là Tôn THúc Ngao cũng nói nên đánh.

Sở Trang Vương mới đưa một đạo hịch sang nước Trần, nói rằng: “Hiếu thị cho nhân dân nước Trần biết, Hạ Trưng Thư có tội giết vua, trên thần dưới người đều tức giận cả, nước Trần không đánh được, vậy ta phải yên lặng, không được náo động”

Người nước Trần đọc hịch, ai cũng đổ lỗi cho Hạ Trưng Thư, muốn nhờ tay nước Sở giết đi, cho nên không muốn chống cự quân Sở.Sở Trang vương củng với các tướng là công tử Anh Tề, công tử Trắc và Khuất Vu đem đại binh kéo thẳng đến kinh thành nước Trần, chẳng có ai chống cự lại cả.Hạ Trưng Thư biết là người trogn nước oán mình, bèn trốn ra Châu Lâm.Bấy giờ Trần Thành Công còn đang ở nước Tấn chưa vềnquan đại phu là Viên Pha (cháu bốn đời Viên Ðào Ðề )cùng với triều thần thương nghị rằng:

– Vua nước Sở đem quân sang đây, chỉ cốt để trị tội Hạ Trưng Thư, chi bằng ta bắt gặp Hạ Trưng Thư đem nộp vua Sở rồi xin giảng hòa.

Triều thần đều lấy làm phải.Viên Pha liền sai con là Kiều Như đem quân tới Châu Lâm để bắt Hạ Trưng Thư?Kiều Như chưa kịp đi thì quân nước Sở đã kéo đến dưới chân thành .Nước Trần lâu nay, chính lệnh không ra gì, và Trần Thành công đi vắng, không ai làm chủ, dân nước Trần mới mở cửa thành cho quân Sở vào.Sở Trang vương kéo quân vào hỏi bọn Viên Pha rằng:

– Hạ Trưng Thư ở đâu?

Viên Pha nói:

– Hiện nay ở Châu Lâm.

Sở Trang vương lại hỏi:

– Sao các quan nước Trần lại dung túng cho Hạ Trưng Thư mà không trị tội?

Viên Pha nói:

– Không phải là chúng tôi không muốn trị tội, nhưng thế không làm gì nổi.

Sở Trang vương liền sai Viên Pha đi dẫn đường rồi đem đại phu tiến sang Châu Lâm, để công tử Anh Tề đóng một toán quân ở trong thành.Hạ Trưng Thư đang thu nhập gia tài, địng đem mẹ là Hạ Cơ trốn sang nước Trịnh, nhưng chưa kịp thì quân Sở vây kín Châu Lâm, bắt được Hạ Trưng Thư.Sở Trang vương không thấy Hạ Cơ đâu cả, sai tướng sĩ sục tìm thì bắt được ở sau vườn, còn Hà Hoa không biết trốn đi đâu mất.Hạ Cơ sụp lạy trước mặt.Sở Trang vương mà tâu rằng:

– Thiếp chẳng may gap lúc nước nhà biến loạn, phận liễu bồ sống chết ở trong tay đại vương, nếu đại vương rủ lòng thương, thì xin cho thiếp được sung vào làm kẻ thị tì phục dịch.

Hạ Cơ nhan sắc đã diễm lệ, lời nói lại trang nhã rạch ròi, Sở Trang vương thấy vậy tâm thần mê mẩn, bảo các tướng rằng:

– Phi Tần nước Sở ta dẫu nhiều, nhưng được như Hạ Cơ thì rất ít, ý ta muốn đem về cung, các người nghĩ thế nào?

Khuất Vu can rằng:

– Ðại vương đem quân sang đây là cốt để trị kẻ có tội, nếu lấy Hạ Cơ thì hoá ra một người tham sắc, sao gọi là bá chủ được?

Trang vương:

– Tử Linh (tên tự của Khuất Vu )nói phải lắm, ta không dám nạp vào hậu cung nữa.Nhưng người đàn bà này là một vật quí ở thế gian nếu để mắt ta trông thấy thì khó lòng nhịn được.

Trang vương bèn truyền cho quân sĩ đuổi Hạ Cơ đi.Bấy giờ công tử Trắc đứng bên cạnh cũng mê nhan sắc của Hạ Cơ, lại thấy Sở Trang vương không dùng, mới quỳ mà tâu rằng:

– Tôi chẳng may góa vợ, xin đại vương cho tôi lấy nàng làm vợ.

Khuất Vu lại can rằng:

– Ðại vương không nên cho.

Công tử Trắc giận lắm, nói:

– Tử Linh không bằng lòng cho ta lấy Hạ Cơ là bởi cớ sao?

Khuất Vu nói:

– Người đàn bà ấy là một vật chẳng lành ở trong trời đất, cứ như tôi đã biết thì công tử Man và Hạ Ngự Thúc chính vì nó mà chết non, vua Trần và Hạ Trưng Thư vì nó mà bi giết, Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ vì nó mà phải tan nát.Thiên hạ thiếu gì người có nhan sắc mà lại đi lấy một người như thế, để di họa về sau !

Sở Trang vương nói:

– Cứ như lời Tử Linh nói thì ta cũng sợ lắm !

Công tử Trắc lại bảo Khuất Vu rằng:

– Nếu vậy thì tôi cũng không dám ! Nhưng người bảo đại vương, không nên lấy, và ta cũng không nên lấy, hay nhà ngươi muốn lấy chăng ?

Khuất Vu nói luôn mấy câu rằng:

– Không dám ! Không dám !

Sở Trang vương nói:

– Nếu để hắn vô chủ thì có người tranh, ta nghe nói Tương lão mới rồi vợ chết, âu là ta cho Tương lão lấy làm vợ kế.

Bấy giờ Tương Lão cũng đem quân theo Sở Trang vương, ở toán hậu đội.Trang vương bèn triệu đến mà gã Hậu Cơ.Hai vợ chồng cùng nhau lạy tạ rồi lui ra.

Khuất Vu can Sở Trang vương và công tử Trắc không nên lấy Hạ Cơ là có ý muốn giữ phần cho mình, nay thấy Sở Trang vương đem gả cho Tương Lão thì nghĩ thầm rằng: “Ðáng tiếc ! Ðáng tiếc!”.Nhưng lại tự nhủ rằng:

– Tương Lão chịu nổi Hạ Cơ thế nào được, chẳng qua cũng chỉ trong dăm sáu tháng, một năm thì Hạ Cơ cũng lại góa chồng thôi !Bấy giờ ta sẽ định liệu.

Sở Trang vương đóng quân ở Châu Lâm một đêm, rồi lại trở về kinh thành nuớc Trần.Công tử Anh Tề đón vào trong thành.Sở Trang vương truyền đem Hạ Trưng Thư ra cửa thành mà phân thây, theo như lối Tề Tướng công xử tội Cao Cừ Di ngày trước.Sở Trang vương trị tội Hạ Trưng Thư rồi, thu hết bản đồ nước Trần, lập làm một huyện của nước Sở, cho công tử Anh Tề làm quan trấn thủ, để quản trị dân nước Trần, còn bọn Viên Pha, đều bắt đem về nước Sở cả.

Các nước phụ thuộc vào nước Sở ở Nam Phương nghe tin Sở Trang vương diệt được nước Trần, đều đến triều hạ, chỉ có quan đại phu nước Sở là Thân Thúc Thời đi sứ nước Tề chưa về (bấy giờ Tề Huệ công mất thế tử Vô Giã lên nối ngôi, tức là Tề Khoảnh công.Tề và Sở vẫn giao hiếu với nhau, bởi vậy Sở Trang vương mới sai Thân Thúc Thời sang viếng vua cũ và dùng vua mới ), đến lúc về, thấy Sở Trang vương diệt được nước Trần mà không chúc mừng câu nào cả, Sở Trang vương sai nội thị ra trách mắng Thân Thúc Thời rằng:

– Hạ Trưng Thư vô đạo giết vua, ta đem quân sang hỏi tội, thu được bờ cõi nước Trần, các nước phụ thuộc của ta đều đến triều hạ cả, mà nhà ngươi chẳng nói gì đến, hay có ý cho việc ta đánh Trần là không phải?Thân THúc Thời đi theo sứ giả vào yết kiến để được nói hết lời trước mặt nhà vua.Sở vương thuận cho.Thân Thúc Thời nói rằng:

– Có một người dắt trâu đi tắt qua ruộng người ta, dẫm nát cả lúa mạ.Người chủ có ruộng giận lắm, cướp lấy trâu.Như cái kiện ấy mà đến tai đại vưong thì đại vương định xử ra làm sao?

Sở Trang vương nói:

– Dắt trâu dẫm lúa, dẫu có tổn hại nhưng cũng chẳng là bao, mà lại cướp lấy trâu thì chẳng cũng quá lắm ư ! Nếu ta xử cái kiện ấy thì phạt nhẹ đứa dắt trâu mà trả trâu cho nó, nhà ngươi nghĩ có phải không?

Thân Thúc Thời nói:

– Sao đại vương xử kiện thì sáng như thế mà xử với nước Trần lại tối như vậy ! Hạ Trưng Thư giết vua, thì nó có tội, không phải vì thế mà giết Trần đáng diệt, đại vương trị tội hắn là đủ, nay lại diệt nước Trần thì khác nào như chuyện cướp trâu, còn mừng về nổi gì !

Sở Trang vương nói:

– Nhà ngươi nói phải lắm !

Thân Thúc Thời nói:

– Ðại vương đã cho lời nói tôi là phải thì sao không bắt chước việc trả lại trâu cho người ta?

Sở Trang vương tức khắc triệu quan đại phu nước Trần là Viên Pha vào mà hỏi rằng:

– Hiện nay vua nước Trần ở đâu?

Viên Pha nói:

– Khi trước ở nước Tấn, bây giờ không biết đi đâu?

Nói xong, nước mắt chảy xuống ròng ròng.Sở Trang vương động lòng mà bảo rằng:

– Nay ta định trả lại nước cho nhà ngươi, mà ngươi nên tìm đón vua Trần về, rồi một lòng thần phục nước Sở ta, chớ có quên cái ơn ấy.

Sở Trang vương lại triệu Khổng Ninh và Nghi Hàng PHủ, tha cho về nước để cùng giúp vua Trần .Viên Pha dẫu biết là tai vạ nước Trần bởi tại Khổng Ninh và Nghi Hàng Phủ nhưng ở trước mặt Sở Trang vương không dám nói đến, chỉ cùng nhau lạy tạ rồi lui ra.Khi bọn Viên Pha gần ra khỏi địa giới nước Sở thì gặp Trần Thành Công ở nước Tấn về, nghe tin nước nhà bị diệt, cũng toan sang để kêu với Sở Trang vương.

Viên Sa thuật lại cái lòng tử tế của Sở Trang vương cho Trần Thành Công nghe, rồi vua tôi cùng nhau về nước.Quan trấn thủ nước Trần là công tử Anh Tề đã tiếp được thư của Sở Trang vương triệu về nước, mới đem bản đồ nước Trần gaio trả lại cho Trần Thành Công.Khổng Ninh về nước chưa được một tháng, nhiều khi ban ngày trông thấy Hạ Trưng Thư đến bắt đền mạng rồi thành ra bệnh điên cuồng, nhảy xuống ao mà chết. Ðêm hôm Khổng Ninh chết, Nghi Hàng Phủ cũng nằm mộng thấy Trần Linh Công, Khổng Ninh và Hạ Trưng Thư, ba người cùng đến bắt Nghi Hàng PHủ.Nghi Hàng Phủ.Nghi Hàng Phủ cũng kinh sợ mà chết.

Công tử Anh Tề về đến nước Sở vào yết kiến Trang vương.Trang vương nói:

– Ta đã t rả lại nước Trần rồi, sẽ xin đền cho nhà ngươi chỗ khác.

Công tử Anh Tề xin khu ruộng ở đất Thân và đất Lã.Trang vương toan thuận cho.Khuất Vu liền nói với Trang vương rằng:

– Ðất Thân và đất Lã là một nới trọng yếu, nước Sở ta dùng để chống giữ với nước Tấn, không nên đem thưởng cho ai cả.

Sở Trang vương mới thôi, không cho công tử Anh Tề nữa. Ðến lúc Thân Thúc Thời cáo lão, Trang vương đem đất Thân phong cho Khuất Vu.Khuất Vu chẳng từ chối mà nhận ngay.Công tử Anh Tề vì thế sinh hiềm khích với Khuất Vu.Trang Vương thấy nước Trần dẫu thần phục mình, nhưng còn nước Trịnh vẫn theo nước Tấn, mới cùng triều thần thương nghị việc đánh TRịnh.

Quan lệnh doãn là Tôn Thúc Ngao nói với Trang vương rằng:

– Ta đánh Trịnh thì nước Tấn tất đến cứu, vậy mới phải đem đại binh đi mới được.

Trang vương liền cử đại binh tiến sang đánh Trịnh.Tương lão đi làm tiền hộ.Viên phó tướng thuộc toán quân của Tương Lão tên là Ðường Giao xin với Tương Lão rằng:

– Trịnh là một nước nhỏ, bất tất phải phiền đến đại binh, tôi xin đem thủ hạ một trăm người để mỡ đường đi trước.

Tương Lão khen mà cho đi. Ðường Giao cố sức xông pha đi trước, quân nước Trịnh không đương nổi, vì thế mà đại binh của Sở Trang vương thấy quân tiền bộ đi được nhanh cóng như vậy, mới khen Tương Lão rằng:

– Ta không ngờ nhà ngươi đã già mà còn khỏe được như thế.

Tương Lão nói:

– Ðó không phải là công tôi, nhờ có viên phó tướng là Ðường Giao cố sức, mới được như vậy !

Trang vương triệu Ðường Giao đến, toan trọng thưởng, Ðường Giao nói:

– Tôi chịu ơn Ðại vương to lắm, ngày nay gọi chút báo đền có đâu lại dám lĩnh thưởng.

Trang vương ngạc nhiên mà nói rằng:

– Ta có biết nhà ngươi bao giờ mà nhà ngươi bảo chịu ơn ta ?

Ðường Giao nói:

– Trong bữa tiệc “Tuyệt Anh”có người nắm vạt áo Hứa Cơ, người ấy tức là tôi đó! Ðại vương rộng lượng tha mà không giết, vậy nên tôi phải cố sức để báo đền.

Trang vương nói:

– May làm sao! Giả sử bấy giờ ta thắp nến lên để trị tội người mất giải mũ vì ta thì sao bây giờ lại có người vì ta mà cố sức như vậy !

Sở Trang vương truyền ghi lấy công Ðường Giao để đợi khi đánh Trịnh xong trở về thì sẽ trọng dụng. Ðường Giao nói chuyện với mọi người rằng:

– Tội ta đáng chết mà đại vương không giết, vậy ta cố sức để báo đền.Nay ta đã nói rỏ ra rồi, chẳng lẽ ta là người có tội mà lại đợi sau này đại vương trọng dụng hay sao?

Ðêm hôm ấy, Ðường Giao tức khắc bỏ trốn, không biết đi đâu mất.Sở Trang vương nghe nói khen rằng:

– Ðường Giao thật là một người giỏi!

Ðại binh nước Sở vây thành nước Trịnh, cả thẩy mười bảy ngày.Trịnh Tương công có lòng trông mong quân Tấn đến cứu, không chịu giảng hòa, quân sĩ chết hại rất nhiều.Phía đông bắc thành nước Trịnh có một chỗ lở hơn mười trượng, quân nước Sở sắp sửa trèo vào.Sở Trang vương nghe trong thành có tiếng khóc rầm rĩ, động lòng thương xót, truyền cho quân sĩ hãy lui lại mười dặm.Công tử Anh Tề nói với Sở Trang vương rằng:

– Ta nên nhân lúc thành lở mà tiến vào, cớ sao lại lui quân?

Sở Trang vương nói:

– Người nước Trịnh chỉ biết sợ uy ta, chưa biết mến đức ta, nay ta lui quân là để tỏ cho nước Trịnh biết ta có lòng nhân đức.

Trịnh Tương công thấy nước Sở lui quân, ngờ là nước Tấn đã đem quân đến cứu, mới chở những nơi thành lở, rồi cố sức chống giỡ.Sở Trang vương biết là nước Trịnh không chịu đầu hàng, lại tiến quân vây thành đến hơn ba tháng.Tướng nước Sở là Nhạc Bá phá cửa thành tiến vào.Sở Trang vương truyền cho quân sĩ không được nhũng nhiễu hại dân.Trịnh Tương công để trần vai áo, dắt đàn dê ra đón quân Sở mà tạ tội rằng:

– Tôi là kẻ ngu dại, không biết thần phục thượng quốc, để đến nổi đại vương nổi giận phải đem quân tới nước tôi, nay tôi biết tội đã nhiều, xin đại vương rộng lượng thương cho nước tôi làm nước phụ thuộc, không đến nổ tuyệt duyệt, thì nước tôi được đội ơn nhiều lắm.

Công tử Anh Tề nói với Sở Trang vương rằng:

– Nước Trịnh cùng quá , mới chịu đầu hàng, nếu ta tha cho thì rồi họ lại làm phản, chi bằng ta diệt hẳn đi.

Sở Trang vương nói:

– Nếu ngày nay ta diệt nước Trịnh mà Thân Thúc Thời hãy còn thì tất lại đem cái chuyện “cướp trâu dẫm lúa” mà cười ta đó.

Sở Trang vương truyền lui quân ba mươi dặm, rồi cho nước Trịnh giảng hoà.Trịnh Tương công thân hành đến đại dinh quân Sở xin hội thề, và cho người em là công tử Khứ Tật sang làm con tin.Sở Trang vương truyền rút quân về đóng ở Diên Ðịa.Quân thám tử về báo với Sở Trang vương rằng:

– Nước Tấn cho Tuân Lâm phủ làm chánh tướng, Tiên Cốc làm phó tướng, đem quân sang cứu Trịnh đã giảng hòa, ta còn sinh sự với Tấn gì nữa, chi bằng ta giữ cho toàn quân mà về.

Có kẻ cận thần là Ngủ Sâm tâu với Sở Trang vương rằng:

– Quan lệnh doãn nói thế là phải ! Nước Trịnh cho sức ta không bằng Tấn, cho nên mới theo Tấn, nay quân Tấn đến mà ta rút về thì tỏ ra rằng thật là ta không bằng Tấn.Vả nước Tấn biết Trịnh theo Sở thì tất đánh Trịnh, vậy ta đánh Tấn để cứu Trịnh, chẳng cũng nên lắm ư!

Tôn Thúc Ngao nói với Sở Trang vương rằng:

– Quân nước Sở ta, năm trước sang đánh Trần, năm nay sang đánh Trịnh, nhọc mệt lắm rồi, nếu đánh mà không mắng thì dẫu ăn thịt Ngũ Sâm, cũng không đáng cái tội của hắn vậy.

Ngũ Sâm nói:

– Nếu đánh mà được thì quan lệnh doãn là người vô mưu, nếu đánh không dược thì thịt Ngũ Sâm này tất bị quân Tấn ăn mất, còn đâu mà để phần người nước Sở nữa!

Sở Trang vương liền hỏi ý tất cả các tướng, đưa cho mỗi người một cai bút để viết vào bà tay, ai định đánh thì viết chữ “Ðánh”, ai định lui thì viết chữ “Lui”.Các tướng viết xong, Sở Trang vương sai mở bàn tay ra xem thì chỉ có bốn người viết chữ “Lui” là: Quan trung quân nguyên soái Ngưu Khâu, quan lệnh doãn Tương lão và hai tướng là Sai Cưu Cơ và Bánh Danh.Còn bọn công tử Anh Tề, công tử Trắc, công tử Cốc Thần, Khuất Ðăng, Phan Ðảng, Nhạc Bá, Dưỡng Do Cơ, Hứa Bá, Hùng Phụ Bá, và Hứa Yển hơn hai mươi người đều viết chữ “Ðánh” cả.

Sở Trang vương nói:

– Ngưu Khâu là bậc lão thành, nay cùng vớ quan lệnh doãn hợp ý nhau, vậy thì lui quân về là phải.

Sở Trang vướng truyền đến sáng mai thì rút qaun về? Ðêm hôm ấy, Ngũ Sâm xin vào yết kiến, nói với Trang vương rằng:

– Ðại vương sợ gì nước Tấn mà phải bỏ nước Trịnh như vậy?

Sở Trang vương nói:

– Nào ta có bỏ nước Trịnh bao giờ?

Ngũ Sâm nói:

– Quân Sở ta vây nước TRịnh ba tháng mới thu phục được nước TRịnh nay quân Tấn đến mà ta rút về, khiến cho Tấn được côn glà cứu nước Trịnh, thế thì chẳng phải ta bỏ nước Trịnh là gì !

Sở Trang vướng nói:

– Quan lệnh doãn bảo ta rằng đánh Tấn vị tất đã được, vậy nên ta phải bỏ.

Ngũ Sâm nói:

– Tôi đã tính trước cả rồi ! Tuân Lâm PHủ nước Tấn mời lên làm trung quân nguyên soái, chưa có uy tính gì để cho người ta phục, quan phó tướng là Tiên Cốc, nguyên là con Tiên Thả Cư, cháu Tiên Chẩn, cậy thế mấy đời có công, làm nhiều điều kiêu ngạo, còn bọn Loan , Triệu đều mỗi người một ý, xem thế thì các tướng nước Tấn, không đồng tâm với nhau, dẫu nhiều quân đến đâu, cũng có thể phá tan được.Vả đại vương làm vua một nước mà phải sợ các tướng nước Tấn, để cho thiên hạ chê cười thì sao cho nước Trịnh chịu phục.

Sở Trang vương ngạc nhiên mà nói rằng:

– Ta dẫu không khéo dùng quân, cũng chẳng chịu thua các tướng nước Tấn !

Nói xong, liền sai người bảo quản lệnh doãn là Tôn Thúc Ngao cho tất cả chiến xa quay về hướng bắc mà tiến đến Quản Thành để đợi quân Tấn đến thì đánh.

Chương 54: Sở Vương đuổi quân Lâm Phủ – Ưu Mạnh đóng vai Tôn Thúc Giao

Tấn Cảnh cũng nghe tin Sở Trang vương thân hành đem quân sang đánh Trịnh, mới phong Tuân Lâm Phủ làm trung quân nguyên soái, Tiên Cốc làm phó nguyên soái, để đem quân sang cứu.Khi đi đến sông Hoàng Hà, có quân thám tử báo rằng:

– Trịnh bị Sở vây, đợi mãi không thấy quân ta đến cứu, đã hàng Sở rồi.Quân Sở đã sắp sửa rút về.

Tuân Lâm Phủ bèn triệu các tướng vào để hội nghị.Sĩ Hội nói:

– Ðem quân đi cứu mà không kịp, bây giờ đánh Sở cũng chẳng ra thế nào, chi bằng ta hãy rút về, sau sẽ định liệu.

Tuân Lâm Phủ khen phải, toan truyền rút quân về.Bỗng có một viên đại tướng đứng dậy can rằng:

– Không nên ! Nước Tấn ta làm được bá chủ là vì biết bênh vực kẻ yếu, nay Trịnh đợi mãi không thấy quân ta đến cứu, mới phải hàng nước Sở, ta đánh được nước Sở thì Trịnh tất lại về với ta.Nếu ta bỏ Trịnh mà tránh quân Sở thì các nước nhỏ còn trông cậy vào ta nổi gì ! Nước Tấn không làm được bá chủ nữa rồi.Nếu nguyên soái nhất định rút quân về, thì tôi tình nguyện đem quân bản bộ của tôi ra đánh một trận.

Tuân Lâm Phủ nhìn xem ai là quan phó nguyên soái Tiên Cốc.Tuân Lâm Phủ bảo Tiên Cốc rằng:

– Vua Sở thân hành đem quân tới đây, binh nhiều tướng mạnh, nếu ta đem một toán quân sang đánh, khác nào như ném thịt vào hổ đói mà thôi, phỏng có ích gì !

Tiên Cốc thét lên rằng:

– Nếu ta không đi thì sẽ có người bảo rằng đường đường nước Tấn mà không có một người nào dám đánh, chẳng cũng xấu hổ lắm ư ! Chuyến này ta đi, dẫu chết tại trậncũng còn được tiếng là người có chí khí !

Tiên Cốc nói xong, tức khắc lui ra. Ði đến cửa dinh gặp anh em Triệu Ðồng và Triệu Quát.Tiên Cốc bảo Triệu Ðồng và Triệu Quát rằng:

– Quan nguyên soái sợ nước Sở muốn rút quân về, chỉ một mình ta quyết đem quân đi đánh.

Triệu Ðồng và Triệu quát nói:

– Ðại trượng phu phải như thế ! Anh em tôi cũng xin đem quân bàn bộ đi theo tướng quân.

Ba người cùng nhau đem quân qua sông Hoàng Hà.Tuân Thủ không thấy Triệu Ðồng và Triệu Quát, liền hỏi quân sĩ mới biết hai người đã theo Tiên Cốc qua sông Hoàng Hà để đón đánh quân Sở, liền giật mình kinh sợ, và nói với quan tư mã Hàn Quyết.Hàn Quyết vào bảo Tuân Lâm Phủ rằng:

– Nguyên soái không biết việc Tiên Cốc qua sông Hoàng Hà hay sao?Nếu gặp quân Sở thì tất bị thua, ngài làm nguyên soái mà để cho Tiên Cốc bị thua thì lỗi ở ngài đó !

Tuân Lâm Phủ kinh sợ hỏi kế, Hàn Quyết nói:

– Việc đã lỡ ra như vậy, chi bằng ta kéo cả đại binh sang đánh, nếu được thì công về ngài, nếu không được thì cả các tướng cùng phải chịu tội, chẳng hơn là ngài chịu tội một mình hay sao?

Tuân Lâm Phủ khen phải, truyền kéo đại binh qua sông.Tiên Cốc nghe tin, mừng mà nói rằng:

– Ta vẫn biết là nguyên soái phải theo lời nói của ta !

TRịnh tướng công cho người đi dò thám, biết là quân Tấn cường thịnh lắm, chỉ sợ một mai chiến thắng thì lại trị cái tội theo Sở, mới hợp triều thần lại để thương nghị.Quan đại phu là Hoàng Thủ nói:

– Tôi xin sang sứ bên quân Tấn dể khuyên Tấn đánh Sở, Tấn được thì theo Tấn, Sở được thi theo Sở.Bên nào mạnh thế thì ta theo, chứ có lo gì !

Trịnh Tương công khen phải, rồi sai Hoàng Thú đi.Hoàng Thú đến nói với quân Tấn rằng:

– Chúa công tôi mong quý quốc đến cứu, khác nào đại hạn mong mưa.Chỉ vì xã tắc lâm nguy nên mới phải theo Sở trước mặt chứ không phải dám phản bội thượng quốc.Nay Sở chiến thắng mà sinh kiêu, vả lại đi lâu mỏi mệt, nếu thượng quốc đánh quân Sở thì nước Trịnh tôi cũng xin theo.

Tiên Cốc nói:

– Ta đánh được Sở và làm cho Trịnh phải phục, chỉ ở trận này !

Loan Thư nói:

– Người nước Trịnh hay phản phúc lắm, ta chớ nên tin lời !

TRiệu Ðỗng và Triệu Quát nói:

– Người nước Trịnh xin theo ta để cùng đánh Sở, đó là một cơ hội chớ nên bỏ ! Ta nên theo lời Tiênn Cốc

Hai người nói xong, bèn không vân lệnh Tuân Lâm Phủ, mà lại tự tiện theo Tiên Cốc cùng với Hoàng Thú định ước đánh Sở, Trịnh Tương công lại sai sứ đến quân Sở, khuyên Sở Trang vương giao chiến với Tấn.Quan lệnh doãn nước Sở là Tôn Thúc Ngao lo quân Tấn cường thịnh, nói với Sở Trang vương rằng:

– Người nước Tấn không có ý quyết chiến, chi bằng ta cho người sang giảng hoà, giảng hoà mà không được, bấy giờ ta sẽ giao chiến thì lỗi tại nước Tấn.

Sở Trang vương lấy làm phải, liền sai Sái Cưu Cư sang quân Tấn xin giảng hòa.Tuân Lâm Phủ mừng lắm, nói:

– Nếu vậy thì là phúc cả cho hai nước!

Tiên Cốc trỏ vào mặt Thái Cưu Cư mà mắng rằng:

– Nước người đã cướp thuộc quốc của ta, nay lại còn sang giảng hòa ! Dẫu nguyên soái ta cho hòa, ta cũng nhất định không chịu, ta quyết đánh cho chẳng còn một mống nào trở về, khiến nước ngươi biết tay Tiên Cốc này.Nhà ngươi nên mau mau về báo với vua Sở, liệu mà trốn trước đi, kẻo nữa khó toàn tính mệnh đó !

Sái Cưu Cư bị Tiên Cốc sỉ mắng một hồi, cúi đầu lui ra. Ði đến cửa dinh, lại gặp anh em Triệu Ðồng và Triệu Quát, Triệu Ðồng và Triệu Quát giơ gươm trỏ vào mặt Sái Cưu Cư mà bảo rằng:

– Nếu mày còn sang đây lần nữa thì ta sẽ cho mày nếm lưỡi gươm này !

Sái Cưu Cư ra khỏi dinh quân Tấn là Triệu Chiên.Triệu Chiên giương cung vào mặt Sái Cưu Cư mà bảo rằng:

– Mày là miếng thịt ở đầu mũi tên của ta, chẳng bao lâu ta sẽ bắt sống mày, hãy cho mày trở về báo trước cho vua Sở mày biết.

Sái Cưu Cư trở về nói với Sở Trang vương.Sở Trang vương nổi giận, hỏi các tướng xem ai dám sang khiêu chiến với quân Tấn không? Quan đại tướng là Nhạc Bá xin đi.Nhạc Bá ngồi một cái xe tiến sang vòng quân Tấn.Gặp một bọn quân hơn mười người, Nhạc Bá bắn chết một người, rồi quay xe trở về.Quân Tấn chia làm ba toán đuổi theo, toán đi giữa là Bảo Quý, toán đi phía tả là Bảng Ninh, toán đi phía hữu là Bàng Cái.Nhạc Bá hét to lên rằng:

– Ta bắn về phía tả thì trúng ngựa, bắn về phía hữu thì trúng người , nếu bắn không trúng thì ta thua !

Nhạc Bá giương cung bắn luôn mỗi bên một phát, phát bên tả trúng suốt ba bốn con ngực, xe không đi được nữa, phát bên hữu trúng Bàng Cái, còn quân sĩ thì bị thương rất nhiều.Bởi vậy toán quân phía tả và phía hữu đều không dám theo nữa, chỉ có Bảo Quý chỉ huy toán quân di giữa là cố sức đuổi gần đến nơi, Nhạc Bá chỉ còn có một phát tên, toan giương cung ra bắn Bảo Quý, nhưng lại nghĩ thầm rằng:

– Nếu phát tên này ta bắn không trúng thì tất nhiên bị hại !

Nhạc Bá còn đang nghĩ ngợi thì bỗng có một con hươu to ở đâu chạy qua trước mặt.Nhạc Bá liền bắn chết con hươu ấy rồi sai Nhiếp Thúc xuống xe lấy con hươu, đưa biếu Bảo Quý.Bảo Quý thấy Nhạc Bá bắn chẳng sai phát nào, trong lòng sợ hãi, nhân thấy Nhạc Bá sai người biếu con hươu, mới giả cách than rằng:

– Tướng nước Sở biết giữ lễ như vậy thì ta không dám xâm phạm.

Bảo Quý quay xe trở về.Tướng nước Tấn là Ngụy Kỳ biết Bảo Quý thả cho Nhạc Bá chạy, nổi giận mà nói rằng:

– Nước Sở có người đến khiêu chiến, mà nước Tấn ta không ai dám sang trận địa quân Sở, tôi e rằng người nước Sở tất cũng cười ta, vậy tôi xin sang để dò xem quân Sở mạnh yếu thế nào.

TRiệu Chiên cũng nói với Tuân Lâm Phủ rằng:

– Tôi xin cùng với NGụy tướng quân cùng đi.

Tuân Lâm Phủ nói :

– Khi trước Sở sang xin giảng hòa với ta rồi mới đánh, nay các người sang quân Sở, cũng phải xin giảng hòa trước để gọi là đáp lễ lại Sở.

Ngụy Kỳ xin vâng mệnh.Triệu Chiên đưa Ngụy Kỳ lên xe trước mà bảo rằng:

– Tướng quân báo lại việc Sái Cưu Cư, còn tôi xin báo lại việc Nhạc Bá.

Quan thượng quân nguyên soái là Sĩ Hội nghe tin Triệu Chiên và Ngụy Kỳ sang trận địa quân Sở, vội vàng vào yết kiến Tuân Lâm Phủ, đeẻ can ngăn việc ấy, nhưng vào đến nơi thì hai tướng đã đi rồi.Sĩ Hội mới nói riêng với Tuân Lâm Phủ rằng:

– Ngụy Kỳ và Triệu Chiên còn ít tuổi nóng nảy bồng bột, không biết tùy cơ ứng biến, tất làm cho quân Sở phải tức giận.Nếu quân Sở bất thình lình mà đến đánh thì ta làm thế nào?

Bấy giờ quan phó tướng là Khước Khắc cũng đến nói với Tuân Lâm Phủ rằng:

– Tình ý nước Sở khó mà lường được, ta nên phòng bị trước !

Tiên Cốc thét to lên rằng:

– Sắp sửa giao chiến, lại còn phòng bị gì nữa !

Tuân Lâm Phủ không biết đằng nào mà quyết đoán.Sĩ Hội lui ra, nói riêng với Khước Khắc rằng:

– Nguyên Soái chẳng khác gì người bù nhìn ! Thôi chúng ta phải tự liệu lấy mới được.

Sĩ Hội nói xong, liền bảo Khước Khắc rủ hai quan thượng quân đại phu là Củng Sóc và Hàn Xuyên đem quân bản bộ ra phục ở trước núi ngao Sơn.Quan Trung quân đại phu là Triệu Anh Tề cũng lo quân Tấn thua, sai người sắp thuyền sẵn ở cửa sông Hoàng Hà đề phòng khi chạy trốn.Ngụy kỳ vẫn ghét Tuân Lâm Phủ, muốn làm cho Tuân Lâm Phủ mang tiếng, nên trước mặt Tuân Lâm Phủ thì nói đến việc hoà, nhưng khi sang đến quân Sở thì lại nói đến việc đánh.Tướng nước Sở là Phan Ðảng biết chuyện trước kia Sái Cưu Cơ sang sứ nước Tấn, bị tướng nước Tấn sĩ nhục nay thấy Ngụy Kỳ đến, bàn tính sự báo thù, vội vàng bước vào đại binh thì Ngụy Kỳ đã ra khỏi dinh rồi.Phan Ðảng tức khắc dục ngựa đuổi theo, bèn toan quay lại để đối địch, bỗng thấy trông rừng có sáu con hươu lớn, nhân nghĩ đến việc tướng nước Sở biếu hươu khi trước, liền giương cung bắn chết một con, sai người hầu xe đem biếu Phan Ðảng mà nói rằng:

– Khi trước Nhạc tướng quân có cho quân Tấn tôi một con hươu, nay quân Tấn tôi đáp lễ lại.

Phan Ðảng nghĩ thầm rằng:

– Quân Tấn cũng bắt chước lối cũ của ta như vậy, nếu ta đuổi theo thì chẳng hóa ra người nước Sở ta vô lễ lắm ư! Bèn cùng truyền quay xe trở lại.Ngụy Kỳ về đến dinh quân Tấn, nói với Tuân Lâm Phủ rằng:

– Vua nước Sở không cho giảng hòa, định đánh một trận để quyết thắng phụ.

Tuân Lâm Phủ hỏi:

– Triệu Chiên đâu?

Ngụy Kỳ nói:

– Tôi đi trước, hắn đi sau, thành ra tôi không được gặp.

Tuân Lâm Phủ nói :

– Nước Sở đã không cho giảng hòa thì Triệu Chiên tất nhiên bị hại !

Nói xong, sai Tuân Dinh đem quân đi đón Triệu Chiên.Nguyên Triệu Chiênđang đêm đi đến trước cửa dinh quân Sở, giải chiếu xuống đất ngồi, đem rượu ra uống, rồi sai hơn hai mươi người giả cách nói tiếng nước Sở, lén vào trong dinh quân Sở.Quân Sở biết là giả, nắm lại để hỏi.Người ấy rút dao đâm chết một người trong đám quân Sở.Quân Sở náo động cả lên, đốt đuốc đuổi bắt được mấy người.Những người khác trốn thóat chạy ra, trông thấy Triệu Chiên vẫn còn ngồi trên chiếu, thì vội vàng ôm lên xe, rồi tìm người dong xe thì đã mắc trong đám quân Sở, không ra được rồi.Triệu Chiên phải cầm cương ngựa lấy, ngựa đói không thể đi được.

Sở Trang vương nghe nói có giặc lên đến, liền thân hành đem quân ra đuổi.Quân đuổi gấp lắm, Triệu Chiên vội vàng bỏ xe trốn vào trong rừng.Tướng nước Sở là Khuất Ðăng trông thấy cũng xuống xe đuổi theo, Triệu Chiên cởi áo giáp và xe ngựa đem về nộp Sở Trang vương.Sở Trang vương vừa toan quay xe trở về thì thấy Phan Ðảng chạy đến.Phan Ðảng trỏ về phía bắc mà bảo Sở Trang vương rằng:

– Trông cắt bụi bay lên thế kia thì đại nước Tấn sắp sửa kéo đến!

Sỡ dĩ có đám cát bụi ấy là bởi có toán quân của Tuân Dinh phụng mệnh Tuân Lâm Phủ đi đón Triệu Chiên, Phan Ðảng trông không rỏ, tưởng là đại binh quân Tấn, làm cho Sở Trang vương sợ hãi, mặt xám xanh lại, may gặp có toán quân của quan lệnh doãn là Tôn Thúc Ngao kéo đến.Sở Trang vương mới được yên lòng.Sở Trang vương hỏi Tôn Thúc Ngao rằng:

– Sao lệnh doãn biết có đại binh nước Tấn sắp tới mà đem quân ra cứu ta?

Tôn Thúc Ngao nói:

– Tôi không biết có đại binh nước Tấn, nhưng tôi sợ đại vương khinh thường xông vào quân giặc, nên tôi phải đem quân tiếp ứng, còn đại binh ta cũng sắp tới đây bây giờ.

Sở Trang vương ngảnh về phía bắc, trông lại một lượt, thấy đám cát bụi cũng không thấy gì làm cao;mới bảo Tôn Thúc Ngao rằng:

– Không phải đại binh nước Tấn.

Tôn Thúc Ngao nói:

– Nay các tướng đều đả đến cả, xin đại vương cứ truyền lệnh tiến đánh, nếu ta đánh được một toán thì các toán khác đều phải vỡ tan.

Sở Trang vương liền truyền lệnh tiến binh.Tuân Lâm Phủ cũng đem quân ra đối địch, nhưng quân Sở nhiều quá, quân Tấn không thể nào địch nổi, tức khắc bỏ chạy tán loạn.Tuân dinh đi đón Triệu Chiên, không thấy đâu cả, lại gặp tường nước Sở là Hùng Phụ Cơ, hai bên giao chiến một lúc, hưng Tuân Dinh thấy quân Sở đông quá, cũng phải bỏ chạy, bị Hùng Phụ Cơ bắt sống.Tướng nước Tấn là Bàng Bá đem hai con là Bàng Ninh và Bàng Cái cùng ngồi một cái xe nhỏ để chạy trốn, đi chận không, da bàn chân trầy ra hết.Triệu Chiên trông thấy, kêu to lên rằng:

– Ai đi xe thế kia, cứu tôi với !

Bàng Bá nghe tiếng Triệu Chiên, bảo hai con chớ ngảnh cổ lại.Hai con không hiểu ý cha, tức thì ngảnh cổ nom lại phía sau xem ai.Triệu Chiên trông thấy liền gọi:

– Bàng Bá cho ta lên xe với !

Hai con nói với Bàng Bá.Bàng Bá tức giận lắm, nói:

– Ðã như vậy thì hai đứa mày nhường chỗ cho người ta ! Bàng Bá tức thì đuổi hai con xuống mà cho Triệu Chiên lên xe.Bàng Ninh và Bàng Cái mất xe thành ra chết ở trong đám loạn quân.Tuân Lâm Phủ và Hàn Quyết cùng một bọn tàn quân chạy men bờ sông Hoàng Hà, ngảnh lại trông thấy Tiên Cốc bị thương ở ttrán, máu chảy đầm đià, đang xé áo chiến bào ra để buộc.Tuân Lâm Phủ trỏ vào mặt Tiên Cốc mà bảo rằng:

– Tướng quân hăng hái lắm mà sao cũng như thế !

Ði đến cửa sông Hoàng Hà, gặp Triệu Quát cũng đến, Quát nói với Tuân Lâm Phủ rằng:

– Anh tôi là Triệu Anh Tề, khi trước có sắp sẵn thuyền bè, nay đã qua sông rồi, mà chẳng bảo cho chúng ta biết, như vậy thì còn ra nghĩa lý gì nữa !

Tuân Lâm Phủ nói:

– Những lúc nguy cấp này còn bảo nhau sao kịp !

Triệu Quá vẫn hầm hầm tức giận, từ bấy giờ cùng với Triệu Anh Tề thành ra hiềm khích.

Tuân Lâm Phủ nói:

– Quân ta không thể đánh nhau với Sở được nữa, bây giờ nên mau mau nghĩ kế để qua sông.

Tuân Lâm Phủ liền sai Tiên Cốc đi tìm thuyền, nhưng chỉ tìm được có mấy chiếc.Tuân Lâm Phủ chưa kịp qua sông thì lại thấy có vô số quân ùn ùn chạy đến.Tuân Lâm Phủ nhìn xem quân nào thì tức là toán quân của Triệu Sóc và Loan Như bị tướng nước Sở là công tử Trách đánh đuổi, cùng chạy đến đây.Tuân Lâm Phủ ngảnh về phía nam, trông thấy cát bụi bay lên ngỡ là quân Sở đuổi tới, mới sai đánh trống và hạ lệnh rằng:

– Ai sang trước thì sẽ có thưởng !

Quân sĩ tránh cướp thuyền chở, thành ra giết hại lẩn nhau.Dưới thuyền người đã đầy rồi, mà còn nhiều người chen nhau bước xuống đến nổi đắm mất ba mươi chiếc thuyền.Tiên Cốc đứng ở trong thuyền lại thét to lên rằng:

– Ðứa nào bíu vào mái chèo và mạn thuyền thì cứ lấy dao mà chặt tay đi !

Các thuyền đều theo lệnh lấy dao ra chặt, ngón tay rơi vào trong thuyền, khác nào hoa rụng, phải bốc từng bốc mà ném xuống sông.Trên bờ người khóc như ri, nghe rất thê thảm ! Mặt sau lại có bọn Tuân Thủ, Triệu Ðồng, Ngụy Kỳ, Bàng Bá và Bảo Quý lục tục kéo đến.Tuân Thủ đã xuống thuyền rồi, không trông thấy con là Tuân Dinh, sai người đứng ở trên bờ gọi rầm lên.Có người biết là Tuân Dinh bị bắt, nói với Tuân Thủ.Tuân Thủ nói:

– Con ta đã bị bắt thì ta không chịu về không !

Nói xong tức thì lên bờ để lại xông vào đám quân Sở.Tuân Lâm Phủ can rằng:

– Tuân Dinh đã bị bắt thì tướng quân đi cũng vô ích.

Tuân Thủ nói:

– Nếu tôi bắt được tướng nước Sở thì cũng có thể đòi lại được con tôi.

Ngụy Kỳ vốn chơi thân với Tuân Dinh, bởi vậy cũng xin theo đi.Tuân THủ mừng lắm, đem mấy trăm quân trở lại.Quân sĩ nhiều người vẫn kính phục Tuân Thủ, cho nên đều vui lòng theo cả, có người đã xuống thuyền rồi, nghe nói Tuân Thủ định trở lại để tìm Tuân Dinh, cũng đều lên bờ xin theo.Tuân Thủ là người bắn giỏi lắm, bấy giờ xông vào quân Sở, trông thấy tướng nước Sở là Tương Lão đang đi thu thấp những xe ngựa và khí giới của quân Tấn bỏ lại, có ngờ đâu quân Tấn thình lình kéo đến, không kịp đề phòng, bị Tuân Thủ bắn cho một phát, ngã lăn xuống đất.Công tử CỐc Thần trông thấy Tương Lão bị mũi tên, vội vàng đến cứu.

Ngụy Kỳ xông vào, giao chiến với công tử Cốc Thần.Tuân Thủ lại bắn luôn phát nữa, trúng ngay vào cánh tay phải của công tử Cốc Thần.Công tử Cốc Thần đau quá, đứng lại để nhổ mũi tên, bị ngụy Kỳ bắt sống và lấy thêm cả cái xác của Tương Lão mang về, Tuân Thủ nói:

– Ðem công tử Cốc Thần và xác Tương Lão này cũng đủ chuộc lại được con ta, ta nên trở về.

Nói xong, liền giục ngựa về ngay.Khi quân Sở biết mà đuổi theo thì đã khôn gkịp.Côn gtử Anh Tề đem quân đuổi đánh Sĩ HỘi.Sĩ Hội vừa đánh vừa chạy, may nhờ có quân của Cung Spốc tiếp ứng, mới chạy thoát được.Công tử Anh Tề có sức đuổi theo, lại gặp tướng nước Tấn là Khước Khắc đem quân đến.Công tử Anh Tề thấy vậy, phải thu quân trở về.Tuân THủ về đến cữa sông Hoàng Hà, thấy toán quân của Tuân Lâm Phủ chưa qua sông thết, có ý kinh sợ, may nhờ có toán quân của Triệu Anh Tề đã qua sông rồi, cho người đem thuyền sang đón, quân Tấn mới qua được sông Hoàng Hà.

Ðại Bình quân Sở đã kéo đến Bí Thành, NGũ Sâm nói với Sở Trang vương xin mau mau đuổi theo để đánh quân Tấn.Trang vương nói:

– Nước Sở ta từ khi thua Tấn ở đất Thành Bộc, vẫn lấy làm xấu hổ, nay được một trận này đủa rưả cái thẹn năm xưa, nhưng hai bên rồi cũng nên giảng hòa với nhau, ta còn giết hại làm gì nữa.

Sở Trang vương truyền đóng quân lại.Trịnh Tương công biết là quân Sở thắng trận, thân hành đến Bí Thành để khao thưởng quân sĩ, đón Sở Trang Vương về đất Hành Ưng, rước vào ở trong vương cung, mở tiệc chúc mừng.Phan Ðảng nói với Sở Trang vương xin chất xác quân Tấn để đắp một cái đài gọi là “Kinh quán” kỷ niệm võ công của người nước Sở.Sở Trang vương nói:

– Ta chỉ nhờ may mà đánh được quân Tấn, sao đáng gọi là vũ công !

Sở Trang vương nói xong, truyền cho quân sĩ nhặt chôn những xác người chết, lại làm văn tế thần sông Hoàng Hà, rồi thu quân về.Khi về đến nước Sở, ban thưởng công thần, cho ngũ Sâm làm quan đại phu.Quan lệnh doãn là Tôn Thúc Ngao thở dài mà than rằng:

– Tuân Lâm Phủ là một bậc đại thần.Việc đánh Sở này bởi tại Tiên Cốc trái lệnh, đến nổ thua quân, nay chúa công giết một Tiên Cốc, cũng đủ làm gương cho kể khác.Ngày xưa nước Sở giết Thanéh Ðắc Thần mà Tấn Văn công mừng;nước Tấn tha Mạnh Minh mà Tấn Tướng công sợ, xin chúa công tha tội cho Tuân Lâm Phủ, khiến được lập công về sau.

Tấn Cảnh công theo lời, liền chém Tiên Cốc, phục chức cho Tuân Lâm Phủ, và sai luyện tập quân mã, đợi ngày khác đi đánh báu thù.

– Quan lệnh doãn nước Sở là Tôn Thúc Ngao ốm nặng, dặn con là Tôn An rằng:

– Ta có một tờ di biểu, khi ta chết rồi, mày nên đem dâng đại vương. Ðại vương có cho mày làm quan thì mày chớ nhận.Tài mày nhỏ mọn, không nên dự vào đám quan trường.Nếu đại vương có phong ấp cho mày, mày phải từ chối, từ chối mà không được thì nên xìn đất Tẩm Khâu.Tẩm Khâu là một chỗ đất xấu, chẳng ai thèm tranh dành, hoạ may con cháu về sau mới được hưởng cái lộc ấy.

Nói xong thì chết, Tôn An đem tờ di biểu vào dâng Sở Trang vương;Trang vương mở ra đọc.Tờ di biểu như sau này:

– “Tôi vốn là kẻ khốn cùng đội ơn đại vương cất nhắc cho làm lệnh doãn, trong mấy năm nay không có công trạng gì đáng kể phụ lòng đại vương ủy thác, cũng lấy àm hổ thẹn.Nay nhờ uy linh của đại vương được mệnh chung trong nhà, thật là may cho tôi! Tôi chỉ có một đứa con ngu dốt, không thể cho làm quan được, còn cháu tôi là Viễn Bằng thì cũng có tài năng, có thể dùng được.Nước Tấn làm bá chủ đã mấy đời, mời rồi dẫu bị thua, nhưng chúa công chớ nên xem thường.Dân nước Sở ta khổ về việc chiến tranh đã lâu, chúa công nên nghĩ lại mà khiến cho dân được yên nghĩ.Người ta đến lúc sắp chết, câu hỏi thường hay họp lẽ phải.Xin chúa công xét cho”.

Sở Trang vương đọc xong, than rằng:

– Tôn Thúc Ngao gần chết mà vẫn không quên việc nước.Trời làm cho Tôn Thúc Ngao chết, cũng là một sự không may cho ta.

Trang vương nói xong thân hành đến nhà Tôn Thúc Ngao ôm lấy áo quan mà khóc.Các quan đi theo hầu, cũng đều khóc cả.Ngày hôm sau, Trang vương cho công tử Anh Tề làm quan lệnh doãn, và cho Viễn Bằng làm quan châm doãn.Trang vương lại muốn cho Tôn An làm quan công chính, nhưng Tôn An theo lời cha dặn, nhất định xin từ chối, trở về xin làm ruộng.Trang vương có yêu một người kép hát là Mạnh Thù Nho, vẫn gọi là Ưu Mạnh. Ưu Mạnh là người lùn, không đầy năm thước, nguyên là một người kép hát, rất giỏi lại có tài khôi hài, được Trang vương yêu lắm.Một hôm, Ưu Mạnh ra chơi ngoài đồng, gặp Tôn An đi kiếm củi, quẩy một gánh củi trở về. Ưu Mạnh đón mà hỏi rằng:

– Sao công tử chịu khó nhọc mà gánh củi như vậy?

Tôn An nói:

– Cha tôi làm tướng quốc trong mấy năm trời, không lấy một đồng tiền nào của ai, đến lúc chết chẳng còn lý gì, bởi vậy tôi phải gánh củi.

Ưu Mạnh than rằng:

– Công tử cứ vững lòng, rồi đây thế nào đại vương cũng triệu công tử!

Ưu Mạnh về nhà chế ra một bộ mũ áo giống như của Tôn Thúc Ngao ngày trước, lại bắt chước dáng điệu ăn nói của Tôn Thúc Ngao luyện tập trong ba ngày, cái gì cũng giống, thật là Tôn Thúc Ngao sống lại !Gặp bấy giờ Sở Trang vương ngự yến ở trong cung, triệu Ưu Mạnh vào làm trò. Ưu Mạnh sai một người khác ra trò trước, đóng vai Sở Trang vương, làm ra bộ tưởng nhớ Tôn Thúc Ngao, còn mình thì đóng vai Tôn Thúc Ngao.Sở Trang vương (vai trò) trông thấy, giật mình king sợ mà nói rằng:

– Ô hay ! Tôn Thúc Ngao hãy còn sống à? Ta tưởng nhớ nhà ngươi lắm, nhà ngươi nên ở lại mà giúp ta !

Ưu Mạnh nói:

– Tôi đây chỉ giống Tôn Thúc Ngao mà thôi, có phải là Tôn Thúc Ngao thật đâu!

Sở Trang vương (vai trò ) nói:

– Ta tưởng nhớ Tôn Thúc Ngao mà không được trông thấy, nay thấy nhà ngươi giống Tôn Thúc Ngao, cũng khiến cho ta được đỡ nhớ.Ta cho nhà ngươi cứ làm tướng quốc, nhà ngươi chớ từ.

Ưu Mạnh nói:

– Đại vương tin dùng tôi như vậy, rất hợp với sở nguyện của tôi , nhưng tôi có lão thê ở nhà, rất là từng trải tinh đời để tôi xin về bàn với lão thê tôi, rồi mới dám vâng lệnh.

Ưu Mạnh trở vào buồng trà, một lúc lại bước lên sàn hát mà tâu với Sở Trang vương(vai trò ) rằng:

– Vừa rồi tôi có bàn với lão thê tôi, thì lão thê tôi khuyên tôi chớ nhận.

Sở Trang vương (vai trò) hỏi:

– Sao vậy?

Ưu Mạnh nói:

– Lão thê tôi có đặt một bài hát để khuyên tôi, vậy tôi xin hát.

Nói xong liền hát:

– Quan tham không nên làm, thế mà nên làm !

Quan liêm nên làm, thế mà không nên làm !

Quan tham không nên làm, đã tham thì tất đê hạ, mà nên làm vì con cháu được lên xe xuống ngựa !

Quan liêm nên làm, đã liêm thì tất cao khiết, mà không nên làm vì con cháu phải ăn đói mặc rách !

Chàng chẳng thấy:

Quan lệnh doãn nước Sở ta là Tôn Thúc Ngao, lúc sống làm quan không lấy của ai một đồng nào.

Chẳng may thất lộc( người làm quan chết đi, người ta gọi là thất lộc, nghĩa là mất lộc(lương bổng ) đi rồi, con cháu nghèo hèn đói khát, chỉ có cái túp chui ra chui vào…

Chàng, chàng ôi, chàng chớ học đòi Tôn Thúc Ngao !

Quân vương nào có nhớ công lao!

Trang vương trông thấy Ưu Mạnh lời ăn tiếng nói, giống hệt như Tôn Thúc Ngao thuở xưa, đã động lòng thương xót, sau nghe đến bài hát của Ư Mạnh, bỗng ứa nước mắt mà nói rằng:

– Khi nào ta dám quên công Tôn Thúc Ngao !

Trang vương liền sai Ưu Mạnh đi triệu Tôn An.Tôn An mặc áo rách, đi giày cỏ, vào yết kiến Trang vương.Trang vương hỏi:

– Nhà ngươi đến nổi cùng khốn như thế ư?

Ưu Mạnh đứng bên cạnh, đỡ lời mà tâu rằng:

– Nếu không cùng khốn thì đã không tỏ được cái nhân đức của quan lệnh doãn ngày trước!

Trang vương nói:

– Tôn An khi trước đã từ chối không muôn làm quan, nay ta nên phong cho một cái ấp lớn.

Tôn An đã cố ý xin từ chối.Trang vương nói:

– Ta đã quyết định như thế, nhà ngươi chớ nên từ chối.

Tôn An nói

– Nếu đại vương nghĩ đến chút công lao của tôi, mà muôn cho tôi được ấm no thì xin phong cho tôi ở đất TâmẩKhâu là đủ.

Trang vương nói:

– Khi cha tôi gần mất có dặn tôi như vậy, nếu không phong cho đất Tảm Khâu thì tôi không dám nhận.

Trang vương theo lời.Về sau, người ta thấy rằng Tẩm Khâu là một nơi đất xấu, không ai muốn tranh đoạt.Con cháu Tôn Thúc Ngao cứ nối đời được hưởng lộc ấy.

Tuân Lâm Phủ nước Tấn nghe tin Tôn Thúc Ngao chết, biết là quân Sở chưa có thể đi cứu Trịnh được, mới tâu với vua Tấn xin đem quân đi đánh Trịnh, nhưng chỉ cướp phá biên giới nước Trịnh, rồi thu quân trở về.Các tướng nói với Tuân Lâm Phủ xin vây kín thành nước Trịnh.Tuân Lâm Phủ nói:

– Ta vây kín thành nước TRịnh, cũng chưa chắc đã lấy nổi, vạn nhất nước Sở đem quân đến cứu thì lại thành ra thêm việc, chi bằng ta hãy để cho người nước Trịnh phải sợ ta.

Trịnh Tương công thấy vậy, quả nhiên sợ lắm, sai sứ sang bàn mưu với nước Sở và đưa người em là công tử Chương sang nước Sở, đổi lấy công tử Khứ Tật về về nước TRịnh để cùng cầm quyền chính trong nước.Sở Trang vương nói:

– Nếu nước Trịnh biết thủ tín, thì chẳng cần gì phải giữ người làm tin.

Sở Trang vương nói xong, liền cho cả hai người đều về, rồi hợp các quan triều thần lại để thương nghị.

Chương 55: Giắt dao lẻn vào dinh quân Sở – Kết cỏ bắt được tướng nước Tần

Sở Trang vương họp triều thần lại để thương nghị việc cùng chống quân Tấn.Công tử Trác nói với Sở Trang vương rằng:

– Nước Tống xưa nay vẫn một lòng theo Tấn, nay ta đem quân đi đánh Tống thì Tấn tất phải sang cứu, khi nào còn dám tranh nước Trịnh của ta.

Sở Trang vương nói:

– Nhà ngươi bàn dẫu phải, nhưng ta chưa có cớ gì mà đánh Tống được.Tiên quân ta ngày xưa đánh Tống một trận ở sông Hoằng Thủy, vua Tống bị thương chết, thế mà nước Tống cũng chịu nhịn ta; đến khi ta hội chư hầu ở đất Quyết Lạc, vua Tống lại hết sức cung phụng nước ta.Sau đó Tống Chiêu công bị giết, công tử bão lên nối ngôi, nay đã mười tám năm rồi, ta muốn đánh Tống mà chưa tìm được cớ gì cả.

Công tử Anh Tề nói:

– KHó gì điều ấy ! Vua Tề đã mấy lần Triều sính nước ta, mà ta chưa đáp lại nay ta mượn đường nước Tống để sang sứ nước Tề, nếu Tống không hco hay là vô lễ với sứ nước ta thì sẽ gây sự mà đem quân sang đánh.

Sở Trang vương nói:

– Bây giờ sai ai đi sứ?

Công tử Anh Tề nói:

– Thân Vô Úy khi trước đã có theo tiên quân ta sang hội ở đất Quyết Lạc.Người ấy nên sai đi.

Sở Trang vương liền sai Thân Vô Úy đi sứ nước nước Tề.Thân Vô Úy tâu với Sở Trang vương rằng:

– Sang sứ nước Tề, tất phải đi qua nước Tống, xin đại vương cấp cho một đạo văn thư để mượn đường.

Trang vương nói:

– Khi trước tiên quân ta hội chư hầu ở Quyết Lạc, rồi cùng với các vua chư hầu đi săn ở Mạnh Chư, vua Tống trái lệnh, tôi bắt người thị vệ mà giết đi, bởi vậy nước Tống oán giận tôi lắm.Nay tôi qua nước Tống, nếu đại vương không cấp cho một đội văn thư mượn đường thì nước Tống tất giết tôi.

Trang vương nói:

– Trong đạo văn thư gửi sang Tề, ta để tên là Thân Chu, mà không dùng tên cũ Thân Vô Úy của nhà ngươi nữa !

Thân Vô Úy vẫn chưa chịu đi, nói rằng:

– Tên đổi được, nhưng mặt không thể đổi được.

Trang vương nổi giận nói:

– Nếu nước Tống giết nhà ngươi thì ta quyết vì nhà ngươi báo thù mà đem quân diệt nước Tống.

Thân Vô Úy không dám từ chối nữa.Ngày hôm sau đưa người con là Thân Tề vào yết kiến Trang vương mà kêu rằng:

– Tôi chết vì việc nước, xin đại vương trông nom cho con tôi.

Trang vương nói:

– Đó là việc của ta, nhà ngươi chớ lo ngại?

Thân Vô Úy từ giả rồi đi.Người con là Thân Tề tiễn ra đến ngoài cõi.Thân Vô Úy dặn rằng:

– Cha đi chuyến này, tất chết ở nước Tống, con nên tâu với đại vương báo thù cho cha, con chớ quên lời cha dặn.

Hai cha con cùng ứa nước mắt mà từ giả với nhau.Vô Úy đi đến địa giới nước Tống.Quan trấn thủ nước Tống biết là sứ nước Sở, đòi xem văn thư, Vô Úy nói:

– Ta phụng mệnh vua Sở, chỉ có đạo văn thư sang sứ nước Tề, chứ không có đạo văn thư mượn đường nước Tống.

Quan trấn thủ giam giữ sứ giả là Thân Chu, rồi sai người phi báo với Tống Văn Công.Bấy giờ Hoa Nguyên đang cầm quyền chính với nước Tống liền tâu với Tống Văn công rằng:

– Nước Sở là một nước cừu địch với ta, nay sai sứ sang nước ta, mà không có văn thư mượn đường, thế là khinh ta quá lắm, xin chúa công bắt sứ nước Sở mà giết đi.

Tống Văn công nói:

– Ta giết sứ nước Sở thì tất nước Sở đem quân sang đánh, biết làm thế nào?

Hoa Nguyên nói:

– Chẳng thà bị quân Sở đem quân sang đánh, còn hơn là để cho nước Sở khinh ta, nước Sở đã khinh ta thì rồi thế nào cũng đem quân sang đánh. Đằng nào ta cũng bị quân Sở đánh, chi bằng ta hãy giết sứ nước Sở đi, để cho khỏi hổ thẹn.

Hoa Nguyên bèn sai người áp giải sứ giả là Thân Chu về trong triều.Hoa Nguyên trông thấy Thân Chu thì nhận được ngay là Thân Vô Úy, lại càng tức giận mà mắng rằng:

– Ngày trước nhà ngươi dám giết thị vệ của tiên quân ta, nay lại đổi tên là Thân Chu toan tránh khỏi tội chết hay sao?

Thân Vô Úy biết mình thế nào cũng chết, mới quát to lên mà mắng rằng:

– Thằng Bão (tên Tống Văn công )kia, mày thông gian với tổ mẫu lại giết chết đích điệt, may mà thóat nạn, lại còn dám vô lễ với sứ thần nước lớnQuân Sở ta kéo sang đây thì vua tôi mày tan xác ra như cám !

Hoa Nguyên sai cắt lưỡi Thân Chu trước, rồi sau mới chém, lại đốt văn thư của nước Sở, đem tro ném ra ngoài cõi.Người theo hầu Thân Chu về báo với Sở Trang vương, Sở Trang vương đang ăn cơm, nghe tin Thân Chu bị giết, thì ném đủa xuống chiếu, rồi đứng ngay dậy, sai quân tư mã là công tử Trắc sửa soạn binh mã để thân hành sang đánh Tống, lại cho Thân Tề (con Thân Chu )làm chức quân chính để theo đi đánh.Quân nước Sở vây kín thành Thư Dương (kinh thành nước Tống ), làm ra những cái thang cao bằng mặt thành, bốn mặt đánh vào.

Hoa Nguyên cố sức chống giữ, lại sai quân đại phu là Nhạc Anh Tề lẻn sang cáo cấp với nước Tấn;Tấn Cảnh công toan đem quân đi cứu.Mưu thần là Bá Tôn can rằng:

– Tuân Lâm phủ đem đại quân đi đánh quân Sở mà bị thua ở đất Bí Thành, ấy là lòng trời gíup cho nước Sở đó ! Nay ta đi cứu Tống, vị tất đã nên việc.

Cảnh công nói:

– Hiện bây giờ chỉ có nước Tống là thân với ta, nếu ta không cứu thì bỏ mất nước Tống !

Tấn Cảnh công khen phải, hỏi các quan trong triều xem có ai dám sang sứ nước Tống.Quan đại phu là Giải Dương xin đi.Tấn Cảnh công nói :

– Việc này trừ phi Tử Hồ (tên tự của Giải Dương )thì không còn ai đương nổi !

Giải Dương mặc quần áo thường dân đi sang nước Tống, bị quân Sở bắt được, đem nộp Sở Trang vương.Sở Trang vương nhận biết lé tướng nước Tấn, tên gọi Giải Dương, mới hỏi Giải Dương rằng:

– Nhà ngươi đến đây có việc gì,

Giải Dương nói:

– Tôi phụng mệnh chúa công tôi đến dụ nước Tống cứ cố sức chống giữ để đợi quân cứu viện.

Sở Trang vương nói:

– Ngày trước nhà ngươi đã bị tướng nước ta là Vĩ Giả bắt được, ta đã không nỡ giết mà tha cho về, nay nhà ngươi lại chui đầu vào lưới thế là nghĩa lý gì, nhà ngươi thử nói ta nghe !

Giải Dương nói:

– Tấn và Sở là cừu địch, thì tôi bị giết là phải lắm, còn nói gì !

Trang vương khám trong mình GIải Dương, bắt được đạo văn thư, liền mở ra xem, xem xong bảo rằng:

– Kinh thành nước Tống, chẳng qua chỉ nay mai thì ta sẽ phá vỡ mà thôi, bây giờ nhà ngươi phải nói trái lại những lời đã viết trong văn thư mà bảo nước Tống rằng: “Nước Tấn ta ngày nay có nhiều việc cần kíp, không thể nào sang cứu nước Tống được, sợ để cho nước Tống phải mong đợi mãi thì lỡ công việc, vậy chúa công tôi có sai tôi đến nói cho nước ngươi biết !”Như thế thì người nước Tống không còn mong đợi gì nữa, tất phải ra hàng, nhân dân hai nước sẽ tránh khỏi được vạ chiến tranh khổ sở.Khi việc đã thành rồi, ta sẽ trọng thưởng nhà ngươi và cho làm quan ở nước Sở ta.

Giải Dương cùi đầu nín lặng, không nói gì cả.Sở Trang vương nói:

– Nếu nhà ngươi không nghe lời thì ta sẽ chém đầu.

Giải Dương vốn không muốn nghe lời, nhưng sợ mình chết ở trong đám quân Sở thì không có ai đem lời vua Tấn mà truyền báo cho nước Tống biết, mới gỉa cách xin vâng mệnh.Sở Trang vương để Giải Dương đứng ở trên xe, bắt phải ra truyền bão cho người nước Tống.Giải Dương liền gọi người nước Tống mà bảo rằng:

– Ta là sứ nước Tấn, tên gọi Giải Dương, bị quân Sở bắt được, bảo ta dụ nước ngươi ra hàng, nhưng nước ngươi chớ nghe, chúa công ta sắp sửa đem đại binh đến cứu đó !

Sở Trang vương nghe tiếng, liền sai lôi xuống mà mắng rằng:

– Nhà ngươi đã nhận với ta mà lại bội ước thế là ngươi thất tín, chớ trách ta tàn ác.

Sở Trang vương truyền cho vũ sĩ đem Giải Dương ra chém.Giải Dương chẳng sợ hải chút nào cả, thong dong mà đáp rằng:

– Sao đại vương lại bảo là tôi thất tín ! Nếu tôi theo lời đại vương thì lại thất tín với nước Tống tôi lắm.Giả sử nước Sở có người bề tôi nào ăn lễ của nước khác mà trái lời đại vương thì đại vương cho là người biết thủ tín hay sao?Tôi xin chịu chết để tỏ ra rằng chữ tín của nước Sở là ở bên ngoài chứ không ở bên trong !

Sở Trang vương khen rằng:

– Nhà ngươi là một trung thần không sợ chết !

Nói xong, liền tha cho về.Hoa Nguyên nghe thấy Giải Dương nói là quân Tấn sắp sửa sang cứu, lại càng cố sức chống cự với quân Sở.Công tử Trắc (tướng nước Sở )sai quân sĩ làm một cái chòi cao ở phía ngoài thành nước Tống mà ở phía ngoài thành nước Tống mà ở, để dứng trên nhìn vào trong thành, xem tình hình nước Tống.Hoa nguyên cũng làm một cái chòi ở phía trong thành để nhìn ra.Hai bên giữ nhau từ tháng chín năm trước đến tháng năm năm sau, trong thành nước Tống, lương thực hết sạch cả, nhiều người bị chết đói.Hoa Nguyên đem những lời trung nghĩa khuyên bão kẻ dưới, người nước Tống đều cảm động mà khóc đổi con cho nhau mà ăn, lượm lặt xương người chết mà nấu.

Sở Trang vương không biết làm thế nào.Quân sĩ lại tâu rằng:

– Lương thực trong dinh, chỉ còn bảy ngày nữa thì hết.

Sở Trang vương nói:

– Ta không ngờ nước Tống mà đánh khó như thế.

Nói xong, liền đứng lên trên xe để xét xem tình hình quân sĩ nước Tống, thì thấy quân sĩ giữ thành rất nghiêm chỉnh.Sở Trang vương bèn thở dài, rồi triệu công tử Trắc để bàn việc rút quân về.Thân Tề (con Thân Vô Úy )sụp lạy, trước xe Sở Trang vương, khóc mà nói rằng:

– Cha tôi liều chết để phụng mệnh đại vương, nay đại vương lại thất tín với cha tôi hay sao !

Sở Trang vương có ý hổ thẹn.Thân THúc THời bấy giờ đang cầm cương trên xe Sở Trang vương, mới hiến kế rằng:

– Nước Tống không chịu hàng là vì biết chừng quân ta không ở lâu được, nếu ta truyền cho quân sĩ làm nhà ở, và cầy ruộng để lấy thóc ăn, tỏ cho nước Tống biết là quân ta còn ở đây lâu thế thì nước Tống tất sợ mà phải đầu hàng.

Sở Trang vương khen phải, truyền cho quân sĩ đi đốn gỗ làm nhà ở xung quanh thanéh.Trong mười ngươì thì để năm người vây thành, còn năm người cày ruộng, cứ mười ngày lại thay đổi nhau một lần.Hoa Nguyên nghe thấy tin ấy, nói với Tống Văn công rằng:

– Quân Sở không có ý rút về mà quân Tấn cũng không thấy đến cứu, biết làm thế nào, âu là tôi xin lẻn vào dinh quân Sở để hiếp công tử Trắc, bắt phải cho giảng hoà thì họa chăng mới được việc.

Tống Văn công nói:

– Nước ta còn hay mất, quan hệ ở việc này lắm, tướng quốc phải cẩn thận mới được!

Hoa Nguyên dò biết là công tử Trắc vẫn ngủ ở trên chòi cao, lại dò biết hết cả họ tên những người thị vệ của Sở Trang vương. Đêm hôm ấy Hoa Nguyên thay hình đổi dạng làm người thị vệ, dòng dây xuống thành, lẻn đến dinh quân Sở.Gặp quân Sở đang đi tuần, Hoa Nguyên hỏi rằng:

– Quan nguyên soái có ở trên chòi không?

Quân Sở nói:

– Có !

Hoa nGuyên lại hỏi:

– Ngài đã ngủ chưa,

Quân Sở nói:

– Mấy ngày hôm nay, ngài khó nhọc quá, hôm nay đại vương ban cho một thẩu rượu, ngài uống xong đã đi nghĩ rồi !

Hoa Nguyên vội trèo thẳng lên trên chòi.Quân Sở ngăn lại Hoa Nguyên nói:

– Hôm nay đại vương có việc cơ mật, cần phải dặn bảo quan nguyên soái, mới rồi lại có cho quan nguyên soái uống rượu, đại vương sợ quan nguyên soái uống rượu mà ngủ quên đi mất, nên phải sai tôi đến đây để dặn lại cho thất cặn kể rồi về nói ngay cho đại vương biết.

Quân Sở tưởng thực, để cho Hoa Nguyên trèo lên.Trên chòi đèn thấp còn sáng, công tử TRắc cởi áo, nằm ngủ đã say, Hoa Nguên trèo ngay lên giường nắm se sẽ lấy tay lay công tử Trắc.Công tử Trắc tỉnh dậy, bị Hoa nGuyên nắm lấy hai cánh tay.Công tử Trắc vội vàng hỏi:

– Ai thế này?

Hoa Nguyên nói sẽ mà đáp rằng:

– Nguyên soái chớ sợ ! Tôi là Hoa Nguyên nước Tống đây ! Tôi phụng mệnh chúa công tôi lên sang đây để xin giảng hòa nếu quan nguyên soái nghe lời thì hai nước cùng nhau đời đời giao hiếu, nhươc bằng quan nguyên soái không nghe thì tôi và nguyên soái cùng chết đêm nay.

Hoa Nguyên tay trái giữ lấy công tử Trắc, tay phải rút một con dao nhọn ở trong mình ra.Trong dưới bóng đèn, thấy lưỡi dao sáng quắc, công tử Trắc vội vàng đáp rằng:

– Có việc thì thương lượng với nhau, cần gì mà phải thô lỗ.

Hoa nguyên rụt lưỡi dao lại mà xin lỗi rằng:

– Nguyên soái chớ lấy làm lạ ! Vì sự thế gấp quá, cho nên tôi phải làm như vậy.

Công tử Trắc nói:

– Tình hình nước Tống bây giờ thế nào?

Hoa Nguyên nói:

– Chẳng nói giấu gì nguyên soái, nước tôi đổi con cho nhau mà ăn, nhặt xương người mà nấu, cùng khốn lắm rồi !

– Tình hình nước Tống đã đến nỗi cùng khốn quá như vậy kia à?Sao nhà ngươi lại chịu đem thực tình mà báo cho ta biết?

Hoa Nguyên nói:

– NGười quân tử thấy người ta cùng khốn thì có lòng thương, tôi chắc quan nguyên soái là người quân tử, vậy nên tôi không dám giấu.

Công tử Trắc nói:

– Thế thì vì cớ gì mà nước Tống còn không chịu đầu hàng?

Hoa Nguyên nói:

– Tình hình nước tôi dẫn cùng khốn, nhưng chí khí dân nước tôi vẫn chưa sờn, cho nên vua và dân nước tôi cố sức chống giữ, thà rằng cùng chết với nhau, còn hơn cái nhục đầu hàng ở dưới chân thành.Nếu quan nguyên soái có lòng thương dân mà rút quân ra ngoài ba mươi dặm, thì chúa công tôi cũng xin một lòng thần phục quý quốc, không bao giờ dám trái lời.

Công tử Trắc nói:

– Ta cũng chẳng dấu gì nhà ngươi, quân Sở ta cũng chỉ còn có lương ăn trong bảy ngày mà nước người không đầu hàng thì quân Sở cũng phải rút về thôi.Mới rồi, ta sai quân sĩ làm nhà ở và cày ruộng, là lập kế khiến cho nước ngươi sợ đó mà thôi.Sáng mai ta tâu với vua Sở lui quân ba mươi dặm, vua tôi nhà ngươi chớ có thất tín.

Hoa Nguyên nói:

– Tôi xin cùng với Nguyên soái ăn thề, hai bên đều không sai lời nhau !

Công tử Trắ cùng Hoa Nguyên ăn thề xong, lại xin kết nghĩa anh em.Công tử Trắc lấy một chiếc lệnh tiễn trao cho Hoa Nguyên, dặn phải đi mau.Hoa Nguyên có chiếc lệnh tiễn ấy thì cứ công nhiên đi thẳng đến dướu thành, làm ám hiệu cho trên thành thả dây xuống rồi kéo l ên, đi thẳng vào trong cung, đem lời công tử Trắc tâu với Tống Văn công.Sáng hôm sau, công tử Trắc cũng đem lời Hoa Nguyên thuật lại cho Sở Trang vương nghe, và tâu rằng:

– Xuýt nữa thì mệnh tôi chết về lưỡi dao của Hoa Nguyên đêm hôm qua rồi, may mà Hoa Nguyên có lòng nhân từ đem tình hình trong nước bảo thực với tôi và xin tôi rút quân, tôi đã nhận lời rồi, xin đại vương xuống chỉ.

Sở Trang vương nói:

– Nước Tống cùng khốn như thế, ta nên cố đánh cho kỳ được !

Công tử Trắc sụp lạy mà tâu rằng:

– Quân ta chỉ còn có lượng ăn trong bảy ngày, tôi đã trót bảo thực với Hoa Nguyên rồi.

Trang vương nổi giận mà nói rằng:

– Sao nhà ngươi lại nói thực với quân giặc?

Công tử Trắc nói:

– Một nươc Tống nhỏ mọn như vậy, còn có người bề tôi không chịu nói dối, huống chi đường đường nước Sở ta mà lại không có người bề tôi như thế hay sao !

Trang vương nguôi cơn giận mà bảo rằng:

– Quan tư mã nói phải lắm!

Trang vương bèn hạ lệnh rút quân, ra đóng ở ngoài ba mươi dặm.Thân Tề thấy Trang vương đã hạ lệnh rút quân về, không dám ngăn trở, nhưng vật mình ôm bụng mà kêu khóc.Trang vương sai người khuyên bảo Thân Tề rằng:

– Nhà ngươi chớ phiền ! Thế nào ta cũng làm cho tỏ được lòng hiếu của nhà ngươi !

Hoa Nguyên phụng mệnh Tống Văn công đến dinh quân Sở để làm tờ giao ước.Công tử Trắc theo Hoa Nguyên vào thành nước Tống, cùng với Tống Văn công ăn thề.Tống Văn công sai Hoa Nguyên đưa linh cửu Thân Chu sang trả quân Sở và sang ở lại nước Sở đế làm tin.Sở Trang vương rút về nước Sở, làm lễ an táng cho Thân Chu rất trọng thể.Các quan trong triều đều đi đưa tất cả.Sở Trang vương lại cho Thân Tề được nối chức cha làm quan đại phu.Hoa Nguyên ở nước Sở, chơi thân với công tử Trắc và nhân đó lại kết giao với công tử Anh Tề.

Một hôm hai người ngồi chơi với nhau, bàn đến thời sự, công tử Anh Tề thở dài mà than rằng:

– Nay Tấn và Sở tranh nhau, binh hoà liên miên biết bao giờ cho thiên hạ được thái bình !

Hoa Nguyên nói:

– Tôi nghĩ đang khi Tấn và Sở tranh nhau, không bên nào chịu thua, như bây giờ nếu được một người đứng lên nói cho hai bên giảng hòa với nhau, các nước phụ thuộc của hai bên nào thì triều cống về bên ấy, rồi cùng nhau yên nghĩ, khiến cho nhân dân trách khỏi lầm than khổ sở, như thế cũng chẳng may cho đời lắm ru !

Công tử Anh Tề nói:

– Việc ấy nhà ngươi có làm nổi hay không?

Hoa Nguyên nói:

– Ta có giao du với tướng quân nước Tấn là Loan Thư, năm trước tôi sang sứ nước Tấn, Loan Thư cũng có nói đến việc ấy, tiếc rằng không có ai ở giữa mà liên hợp hai nước với nhau được.

Ngày hôm sau, công tử Anh Tề đem lời Hoa Nguyên nói với công tử Trắc.Công tử Trắc nói:

– Hai nước còn chưa chán sự tranh chiến, việc ấy đã bàn đến thế nào được.

Hoa Nguyên ở Sở đã được sáu năm thì Tống Văn công (Bão)chết, con là Tống Cung công(Cố)lên nối ngôi.Hoa Nguyên mới về nước Tống để chịu tang.

Lại nói chuyện Tấn Cảnh công nghe tin quân Sở vây quân Tống đã hơn một năm, mới bảo Bá Tôn rằng:

– Nước Tống cố giữ được như vậy, cũng đã mỏi mệt lắm rồi, ta chớ nên thất tín, phải đem quân đi cứu mới được;

Tấn Cảnh công đem quân đi cứu Tống.Bỗng nghe báo có sứ nước Lộ đưa mật thư đến.Nguyên xưa nước Lộ tức là một giống Xích Địch, ở tiếp giáp với nước Lê, đến đời Chu Bình vương, vua nước Lộ đuổi vua nước Lê mà chiếm lấy đất, từ đó mỗi ngày một cường thịnh.Bấy giờ vua nước Lộ tên gọi Anh Nhi , lấy người chị Tấn Cảnh công là Bá Cơ làm phu nhân.Anh Nhi hèn yếu, quan tướng quốc là Phong Thư chuyên quyền, khi trước có Hồ Xạ Cô là công thần nước Tấn trốn sang ở nước Lộ, Phong Thư còn e sợ, không dám hoành hành lắm, từ lúc Hồ Xạ Cô chết rồi, Phong THư không còn e sợ ai cả, muốn cho vua Lộ tuyệt giao với Tấn, liền vu tội cho Bá Cơ, bảo vua nước Lộ giết đi.

Một hôm, Phong Thư cùng với vua nước Lộ (tức là Anh Nhi) đi săn ở ngoài cõi, nhân khi uống rượu say, thinhau bắn chim, Phong Thư bắn sẩy tay khiến vua nước Lộ bị thương ở mắt.Phong thư ném cung xuống đất, cười mà nói rằng:

– Tôi bắn không trúng nên phạt một chén rượu.

Vua nước Lộ không thể nhịn được, nhưng liệu sức mình không làm gì nổi Phong Thư mới làm tờ mật thư đưa sang nước Tấn, xin nước Tấn đem quân sang hỏi tội Phong Thư.Mưu thần nước Tấn là Bá Tôn nói với Tấn Cảnh công rằng:

– Nay ta giết Phong Thư, chiếm lấy đất nước Lộ và cả mấy nước xung quanh nữa thì phía tây nam nước Tấn ta mỗi ngày một mở rộng, cơ hội ấy chớ nên bỏ phí !

Tấn Cảnh công cũng giận vua nước Lộ về việc giết vợ là Bá Cơ (chị Tấn Cảnh công), mới sai Tuân Lâm Phủ làm đại tướng.Nguy Khóa (con Ngụy Thù) làm phó tướng, đem quân đi đánh nước Lộ.Phong Thư đem quân ra đất Khúc Lương để chống cự với quân Tấn, bị quân Tấn đánh thua, bỏ chạy sang nước Vệ.Vệ Mục công (Tốc) đang củng với nước Tấn giao hiểu, liền bắt Phong Thư đưa sang nộp quân Tấn.Tuân Lâm Phủ sai giải Phong Thư về Giáng Đô(kinh thành nước Tấn)mà giết đi.Quân Tấn kéo thẳng vào kinh thành nước Lộ.Vua nước Lộ là Anh Nhi ra đón.Tuân Lâm Phủ ra đón.Tuân Lâm Phủ kể tội Anh Nhi giết oan Bá Cơ , rồi bắt đem về nước Tấn, lại mượn cớ, dân nước Lê nhớ vua cũ, liều tìm con cháu vua nước Lê, daađp thành cho ở một chỗ, tiếng là khôi phục nước Lê, kỳ thực là dể diệt nước Lộ.Vua nước Lộ là Anh Nhi nghĩ đến nước mà thương xót, rồi tự vẫn chết.Người nước Lộ lập đền thờ.Tấn Cảnh công sợ Tuân Lâm Phủ chưa đánh được nước Lộ, mới đem đại binh đóng ở Tắc Sơn để tiếp ứng.

Khi Tuân Lâm Phủ đánh được nước Lộ rồi, đến Tắc Sơn báo tin thắng trận, mới lưu phó tướng là Ngụy Khóa ở lại nước Lộ, để giữ lấy nước ấy.Bỗng có một tóan quân kéo đến nước Lộ, hỏi ra mới biết là đại tướng nước Tấn tên gọi là Đỗ Hồi.Nguyên từ khi Tần Khang công chết, con là Tấn Cung công (Đạo)nối ngôi, nhân việc Triệu Xuyên sang đánh Sùng, là một nước phụ thuộc của Tần, bởi vậy Tần mới kết giao với Phong Thư để chống nhau với Tấn. Được bốn năm thì Tần Cung công chết, con là Tần Hoàn công (Vinh) lên nối ngôi, bấy giờ, bấy giờ đang là năm thứ mười một đời Tần Hoàn công, nghe tin nước Tấn sang đánh Phong Thư, Tần toan đem quân đến cứu, nhưng lại nghe tin nước Tấn đã giết Phong Thư và bắt vua nước Lộ, Tần bèn sai Đỗ Hồi đem quân sang để tranh lấy địa giới nước Lộ.

Đỗ Hồi vốn là một người lực sĩ đã có danh tiếng ở nước Tần, hàm răng nhọn hoắt, khóe mắt tròn xoe, tay cứng như đồng, mặt đen tựa sắt, râu xòm tóc quăn, mình cao hơn trượng, lại có sức khỏe, vẫn thường cầm một cái búa khai sơn, nặng một trăm hai mươi cân.Nguyên Đỗ Hồi thuộc giống Bạch Địch, khi trước đã có một lần ở Thanh My sơn Đỗ Hồi đâm chết luôn ba con hổ, rồi lột da đem về, Tần Hoan công nghe nói là người vũ dũng, cho lamé xa hữu tướng quân, lại một lần nữa, Đỗ Hồi chỉ đem b atrăm người mà phá vỡ được hơn một vạn giặc cướp ở Xa Nga Sơn, bởi vậy uy danh mỗi ngày một lừng lẫy, thân làm đến đại tướng.

Ngụy Khỏa thấy Đỗ Hồi đem quân đến, tức khắc bày trận để đợi giao chiến. Đỗ Hồi tay cầm búa khai sơn, đem ba trăm quân đến tận nơi, chém giết quân Tấn, khác nào như một vị thiên thần giáng hạ.Quân Tấn sợ hải, bỏ chạy tán loạn.Ngụy Khỏa vội vàng rút quân vào trại, rồi giữ thế thủ, không dám ra đánh nữa. Đỗ Hồi đến khiêu chiến luôn trong ba ngày mà Ngụy Khỏa nhất định không ra.Bỗng nghe báo có tướng nước Tấn là Ngụy Kỳ(em Ngụy Khỏa) đem quân đến tiếp ứng.Ngụy Kỳ nói với Ngụy Khỏa rằng:

– Chúa công sợ bọn Xích Địch kết liên với nước Tần mà sinh biến, vậy có sai tôi đến đây để tiếp ứng.

Ngụy Khỏa thuật lại những chuyện vũ dũng của tướng nước Tần là Đỗ Hồi cho là không ai địch nổi.Ngụy Kỳ không tin, nói rằng:

– Làm gì đám giặc cỏ ấy !Ngày mai tôi r atrận, thế nào cũng quyết đánh tan được !

Ngày hôm sau, Đỗ Hồi lại đến khiêu chiến.Ngụy Kỳ tức giận, toan xông ra đánh.Ngụy Khỏa cố ý ngăn lại.Ngụy Kỳ không nghe, đem quân ra giao chiến với Đổ Hồi. Đổ Hồi lại múa búa khai sơn, tả xung hữu đột, chém chết quân Tấn.Ngụy Kỳ thua to, may nhờ có Ngụy Khỏa đem quân ra tiếp ứng, mới về được trong trại. Đêm hôm ấy, Ngụy Khỏa đang ngồi trong trại, ngh’ quanh nghĩ quẩn, không biết dùng mưu kế gì, đang mơ mơ mòng mòng, bỗng nghe tiếng người ghé vào tai mà đọc ba tiếng: “Thanh Thảo bi”, đến lúc tỉnh dậy, không hiểu là nghĩa làm sao, mà chợp mắt ngủ đi thì lại thấy như trước, bèn đem chuyện nói với Ngụy Kỳ.

Ngụy Kỳ nói:

– Cách đây độ mười dặm, có một cái bãi cỏ, tên gọi “Thanh Thảo bi”hay là quân Tần sau này tất sẽ phải thua trận ở đấy chăng, vậy tôi xin đem một toán quân đến đó mai phục sẵn, rồi anh lập kế đem quân giặc đến, hai bên cùng đánh thì mới phá vỡ được.

Ngụy Kỳ liền đem quân đến mai phục sẵn ở Thanh Thảo bi.Ngụy KHỏa giả cách thua chạy, dụ Đỗ Hồi đến gần Thanh Thảo bi.Quân mai phục của Ngụy Kỳ ở hai bên đổ ra, cùng với Ngụy Khỏa vây chặt lấy Đỗ Hồi. Đổ Hồi chẳng sợ hải chút nào cả, vẫn cầm búa khai sơn, tả xung hữu đột, dần dần tiến đến phía Thanh Thảo bi.Bỗng thấy Đổ Hồi mỗi bước lại ngã một cái, khác nào như người trượt nước băng.Quân Tấn thấy vậy, reo ầm cả lên.Ngụy Khỏa ngừng trông, thấy một ông lão già, mình mặc áo vải, chân đi giày đay, đang kết những dây cỏ lại, để làm cho vướng chân Đỗ Hồi.Quân Đỗ Hồi thấy chủ tướng bị bắt, đều bỏ chạy tán loạn cả, bị quân Tấn đuổi bắt, số ba trăm người chỉ trốn thóat được độ bốn năm chục người mà thôi.

Ngụy Khỏa hỏi Đỗ Hồi rằng:

– Ngươi cậy có sức khỏe, cớ sao cũng để bị bắt thế này?

Đỗ Hồi nói:

– Không biết hai chân ta vướn gphải vật gì mà thành ra khó cử động quá. Đó là trời hại ta, chứ không phải sức ta không đánh nổi.

Ngụy Khỏa nghĩ lấy làm lạ.Ngụy Kỳ nói với Ngụy Khỏa rằng:

– Đỗ Hồi đã có sức khoe, nếu ta để y sống thì e sẽ sinh biến.

Ngụy Khỏa nói:

– Ý ta cũng nghĩ như vậy !

Nói xong, truyền chém Đỗ Hồi, rồi đem đầu về Tắc Sơn nộp Tấn Cảnh công để lấy công. Đêm hôm ấy, Ngụy Kỳ nằm ngủ, lại thấy ông lão già ngày hôm trước đến mặt vái chào mà nói rằng:

– Tướng quân có biết vì cớ gì mà Đổ Hồi bị bắt hay không? Vì tôi kết cỏ lại để làm cho Đổ Hồi vướng chân mà ngã đó.

Ngụy Khỏa kinh sợ , nói rằng:

– Tôi chưa được biết cụ bao giờ, sao cụ lại giúp tôi như vậy, tôi biết lấy gì mà trả ơn cụ?

Ông lão già nói:

Nàng tiếp cận hắn, sát cánh hóa giải bao vụ án, đâu ngờ thân thế và mục đích của nàng có nhiều uẩn khúc

Bị cô lập trong chính GĐ mình, cô gai góc với thế giới nhưng lại là công chúa nhỏ của riêng anh

Tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa, nàng vừa chạy thoát gã đàn ông đáng chết, thì lại đúng trúng một kẻ vô lại hơn!

Nổi máu anh hùng cứu cô một lần, 3 năm sau, tình cờ gặp lại, hai từ duyên phận dường như trở nên càng trớ trêu
– Tôi là thân phụ nàng Tổ Cơ.Tướng quân biết theo lời dặn sáng suốt của tiền nhân mà gả chồng cho con gái tôi, vậy tôi cảm cái ơn ấy, đến đây để giúp tướng quân.Sau này con cháu tướng quân được đời đời vinh hiển mãi.

Nguyên xưa thân phụ Ngụy Khỏa là Ngụy Thù có một người thiếp yêu, tên gọi Tổ Cơ.Mỗi khi Ngụy Thù đi đánh giặc lại dặn Ngụy Khỏa rằng:

– Nếu ta ra trận mà chết đi, mày nên cho Tổ Cơ đi lấy chồng được nơi xứng đáng, khiến Tổ Cơ có chổ nương tựa, chớ để cho hắn phải khổ sở thì ta dẫu chết cũng được yên lòng !

Đến lúc Ngụy Thù ốm nặng, lại dặn Ngụy Khỏa rằng:

– Tổ Cơ là người thiếp yêu của ta;khi ta chết rồi, mày phải đem nàng ấy chôn theo ta, cho ta ở dưới suối vàng có người bầu bạn.

Nói xong thì chết.Ngụy Khỏa an táng cho cha, nhưng lại không bắt Tổ Cơ chôn theo.Ngụy Kỳ nói:

– Anh không nhớ lời cha dặn lúc gần mấy hay sao?

Ngụy KHỏa nói:

– Thân phụ ta lúc thường vẫn dặn ta sau này gã chồng cho Tổ Cơ, đến lúc gần mất, lại dặn phải đem nàng đem chôn theo, đó chỉ là lời dặn lúc mê hoảng mà thôi, người hiếu tử nên theo lời dặn của cha khi còn sáng suốt, chớ theo lời trối khi lúc mê hoảng.

Về sau, Ngụy Khỏa gả Tổ Cơ cho một nho sĩ.Vì NGụy Khỏa có âm đức ấy, cho nên linh hồn thân phụ Tổ Cơ mới hiện lên kết cỏ lại để báo ơn.Ngụy Khỏa thuật chuyện chiêm bao cho NGụy Kỳ nghe.Ngụy Kỳ lấy làm chuyện lạ lùng.

Vua tôi nước Tần nghe tin Đổ Hồi thua trận, đều sợ hãi mất vía.Tấn Cảnh công thưởng cho Ngụy Khỏa đất Linh Hồ, để làm thái ấp, lại đúc một quả chuông để ghi công thắng trận.Vì quả chuông là “Cảnh chung”.Tấn Cảnh công lại sai Sĩ Hội đem quân đi diệt nước Điền Thị, nước Lưu Vu và nước thuộc Lưu Vu là nước Đạc Thần.Mấy nước ấy đều là của người Xích Địch, từ đó đất đai Xích Địch đều thuộc về nước Tấn tất cả.

Bấy giờ nước Tấn mất mùa, trộm cướp nổi lên như ong.Tuân Lâm Phủ dùng được một người có tài dò xét kẻ trộm, người ấy tên gọi Khước Ưng.KHước Ưng thường ra chơi chợ, trỏ vào ai mà bảo là kẻ trộm; đem bắt về tra hỏi thì quả nhiên là kẻ trộm thật.Tuân Lâm Phủ hỏi Khước Ưng rằng:

– Tại sao nhà ngươi lại biết được như vậy?

KHước Ưng nói:

– Tôi trong con mắt người ấy, khi thấy hàng hóa ở chợ thì có ý tham, thấy người ở chợ thì có ý thẹn, sao thấy tôi tới nơi thì có ý sợ, bởi thế mà tôi biết đích là kẻ trộm.

Khước Ưng mỗi ngày bắt được mấy chục đứa kẻ trộm, nhưng số kẻ trộm lại càng ngày càng nhiều.Quan đại phu là Dương Thạch Chức nói với Tuân Lâm Phủ rằng:

– Nguyên Soái dùng Khước Ưng để bắt trộm, nhưng tôi e rằng kẻ trộm chưa bắt được hết mà KHước Ưng đã chết đến nơi !

Tuân Lâm Phủ giật mình kinh sợ hỏi rằng:

– Sao thế?

Chương 56: Tề Khoảnh Công bày cuộc mua cười – Phùng Sửu Phủ thay hình cứu chủ

Tuân Lâm Phủ dùng Khước Ung để bắt kẻ trộm, Dương Thạch Chức biết là tất có kẻ sẽ giết chết Khước Ung, bèn nói với Tuân Lâm Phủ . Tuân Lâm Phủ hỏi cớ làm sao, Dương Thạch Chức nói:

– Khước Ung cậy có tài dò xét, nhưng một mình không thể bắt hết được kẻ trộm; thế nào rồi đây kẻ trộm cũng bày mưu lập kế để hại Khước Ung, còn gì mà không chết!

Được ba ngày nữa, Khước Ung đang đi chơi, bị một lũ mấy mươi đứa kẻ trộm túm lại đánh chết; chúng cắt đầu Khước Ung đem đi mất . Tuân Lâm Phủ lo lắm, cũng ốm nặng mà chết . Tấn Cảnh công nghe thấy Dương Thạnch Chức khi trước có nói với Tuân Lâm Phủ về việc Khước Ung, mới triệu vào mà hỏi rằng:

– Nhà ngươi đã đoán trước được việc Khước Ung, vậy thì nhà ngươi có biết dùng mưu kế gì mà dẹp yên được lũ trộm cắp kia không ?

Dương Thạch Chức nói:

– Dùng mưu trí mà trị kẻ trộm khác nào lấy đá chặn xuống cỏ, cỏ vẫn mọc lách vào khe đá được; dùn vũ lực mà trị quân trộm, khác nào lấy đá mà chọi với đá, hai bên tất cùng phải vỡ . Nay muốn dẹp yên quân trộm thì phải làm thế nào khiến chúng biết liêm sĩ, chứ bắt nhiều cũng không ích gì! Xin chúa công tôn trọng những thiện nhân ở trong triều, khiến cho kẻ bất thiện trông thấy mà biết sửa đổi, như thế thì lo gì chẳng có ngày dẹp yên được quân trộm .

Tấn Cảnh công lại hỏi rằng:

– Thiện nhân nước Tấn ta ngày nay, ai là hơn cả, nhà ngươi thử nói cho ta biết .

Dương Thạch Chức nói:

– Không ai bằng Sĩ Hội . Sĩ Hội là người tín nghĩa, ôn hoà mà không nhu nhược, uy nghiêm mà không dữ tợn, chúa công nên dùng .

Đến lúc Sĩ Hội có công dẹp được mấy nước thuộc về giống Xích Địch, thì Tấn Cảnh công tâu với Chu Định vương . Chu Định vương cho Sĩ Hội phẩm phục chức thượng khanh, Sĩ Hội được thay quyền Tuân Lâm Phủ, lại kiêm chức thái phó, được phong ở đất Phạm, sau thành ra tổ họ Phạm . Sĩ Hội đem những khoa điều bắt trộm, xóa bỏ tất cả, chỉ chuyên đem giáo hóa mà khuyên dân làm điều thiện, từ bấy giờ bai nhiêu quân trộm nước Tấn đều trốn sang nước Tần, nước Tấn mỗi ngày một cường thịnh . Tấn Cảnh công lại có ý muốn làm bá chủ . Bá Tôn nói với Tấn Cảnh công rằng:

– Đời Văn công ta hội chư hầu ở Tiền Thổ, đến đời Tương công ta hội chư hầu ở Tân Thành, chư hầu đều một lòng theo Tấn cả . Từ khi ta thất tín ở Lịnh Hồ, thành ra tuyệt giao với Tấn; đến lúc Tề, Tống có kẻ giết vua mà ta không sang hỏi tội, bởi vậy các nước ở Sơn Đông mới khinh nước Tấn ta mà theo Sở . Sau nước Sở đánh Trịnh và Tống, ta cũng không sang cứu, thành ra Trịnh và Tống lại theo Sở nốt; chỉ còn mấy nước nhỏ như Vệ, Tào là theo Tấn mà thôi . Nay chúa công muốn làm bá chủ, tất phải kết thân với nước Lỗ và nước Tề rồi rình xem nước Sở có biến cố gì, ta sẽ thừa cơ sang đánh mới có thể đắc chí được .

Tấn Cảnh công khen phải, liền sai thượng quân nguyên sóai là Khước Khắc đem nhiều lễ vật sang sứ nước Lỗ và nước Tề .

Lỗ Tuyên công cảm cái ơn Tề Huệ công định vị cho mình, bởi vậy thường sai người sang sính lễ nước Tề; đến đời Tề Khoảnh công (Vô Giá) lên nối ngôi, nước Lỗ vẫn theo lệ cho người sang sính lễ . Khước Khắc phụng mệnh Tống Cảnh công sang sứ nước Lỗ, rồi cáo từ Lỗ Tuyên công sang sứ nước Tề . Lỗ Tuyên công nhân tiện đến kỳ sang sính lễ nước Tề, mới sang quan thượng khanh là Quý Tôn Hàng Phủ cùng đi với Khước Khắc .

Khi Khước Khắc cùng Quý Tôn Hàng Phủ sang đến nước Tề, thì vừa gặp có sứ nước Vệ là Tôn Lương Phu và sứ nước Tào là công tử Thủ, cũng sang sính lễ nước Tề . Sứ thần bốn nước cùng vào triều kiến Tề Khoảnh công và dâng lễ vật . Tề Khoảnh công trông thấy hình dáng bốn vị sứ thần, nghĩ thầm lấy làm quái lạ, mới nói với bốn vị sứ thần rằng:

– Xin mời các ngài về nghỉ ở nhà công quán, rồi ngày mai cùng dự tiệc cho vui!

Sứ thần bốn nước cáo từ lui ra . Tề Khoảnh công vào cung, trông thấy mẹ là Tiêu Thái phu nhân, vẫn hãy còn nhịn cười không được . Nguyên Tiêu Thái phu nhân là con gái Tiêu Quân, kết duyên với Tề Huệ công . Khi Tề Huệ công chết rồi, Tiêu Thái phu nhân ngày đêm thương khóc . Tề Khoảnh công là người có hiếu, việc gì cũng cố làm cho mẹ được vui lòng . Phàm những chuyện buồn cười ở chốn dân thôn, đều thuật lại cho mẹ nghe, để cho mẹ được tươi cười vui vẻ . Hôm ấy, Tề Khoảnh công cứ cười ngặt nghẽo mà không nói là việc gì . Tiêu Thái phu nhân hỏi rằng:

– Có chuyện gì mà con vui cười như vậy ?

Tề Khoảnh công nói:

– Hôm nay có một chuyện rất quái lạ là: Tấn, Lỗ, Vệ, Tào bốn nước đều sai sứ thần đến sính lễ nước ta, mà sứ thần nước Tấn là Khước Khắc thì chột, chỉ nhìn được bằng một mắt mà thôi; sứ thần nước Lỗ là Qúy Tôn Hàng Phủ thì hói, trên đầu chẳng có một sợi tóc nào; sứ thần nước Vệ là Tôn Lương Phu thì khiễng chân, một bên cao và một bên thấp; sứ thần nước Tào là công tử Thủ thì gù lưng, mặt cúi xuống đất . Con thiết tưởng người ta có tật là thường, nhưng bốn người mỗi người một tật, mà lại cùng đến nước ta một lúc, chuyện quái lạ như vậy, tài nào chẳng phải buồn cười!

Tiêu Thái phu nhân không tin, nói rằng:

– Ta muốn xem có được không ?

Tề Khoảnh công nói:

– Cứ theo lệ thì sứ thần đến nước mình, sau khi công yến, tất có tư yến . Ngày mai con bày tiệc ở vườn hoa, mời sứ thần bốn nước vào ăn yến, tất họ phải đi qua dưới Sùng Đài; bấy giờ thân mẫu mắc màn ngồi ở trên Sùng Đài mà nom trộm phỏng có khó gì!

Khi các sứ thần cùng dự công yến xong, Tề Khoảnh công lại mời vào vườn hoa để dự tư yến . Cứ theo như lệ cũ: sứ thần chư hầu đến nước nào thì nước ấy phải cung ứng xe ngựa và người hầu, để cho kẻ tùy tùng của sứ giả được tạm nghỉ . Tề Khoảnh công chú ý muốn làm cho mẹ buồn cười, mới mặt truyền chọn lấy bốn người: một người chột mắt, một người hói đầu, một người khiễng chân va một người gù lưng để dong xe cho sứ thần bốn nước:

1. Khước Khắc (sứ thần nước Tấn) chột mắt thì lại dùng người chột mắt dong xe .

2. Qúy Tôn Hàng Phủ (sứ thần nước Lỗ) hói đầu thì lại dùng người hói đầu dong xe .

3. Tôn Lương Phủ (sứ thần nước Vệ) khiễng chân thì lại dùng người khiễng chân dong xe .

4. Công tử Thủ (sứ thần nước Tào) gù lưng thì lại dùng người gù lưng dong xe .

Quan thượng khanh nước Tề là Quốc Tá (con Quốc Qúy Phú) can rằng:

– Việc tiếp đãi sứ thần các nước là một việc lớn, nên phải kính cẩn mới được, không phải chuyện đùa!

Tề Khoảnh công không nghe . Bấy giờ sứ thần các nước đi xe qua dưới Sung Đài, thành ra một xe có hai người chột mắt, một xe có hai người hói đầu, một xe có hai người khiễng chân, và một xe nữa có hai người gù lưng . Tiêu Thái phu nhân ngồi ở trên đài mở màn ra trông, bỗng bật cười to lên . Các thị nữ hầu xung quanh cũng đều bưng miệng cười cả . Tiếng cười vang ra đến ngoài . Khước Khắc lúc mới trông thấy người dong xe chột mắt, cũng cho là sự ngẫu nhiên, không lấy làm lạ, đến lúc nghe tiếng phụ nữ ở trên đài, thì trong lòng nghi hoặc, chỉ uống qua loa mấy chén rượu, rồi cáo từ lui ra . Về đến nhà công quá, sai người hỏi xem ai ở trên đài mà cười như vậy, mới biết là Tiêu Thái phu nhân .

Được một lúc, sứ thần nước Lỗ, nước Vệ và nước Tào đều đến thuật chuyện với Khước Khắc và bảo Khước Khắc rằng:

– Nước Tề cố ý chọn người cầm cương để bỡn cợt chúng ta, mà làm trò vui cho đàn bà, thế thì còn ra nghĩa lý gì nữa!

Khước Khắc nói:

– Chúng ta vì lòng tốt mà đến sính lễ, lại bị họ làm nhục, nếu không báo thù thì sao gọi là trượng phu ?

Bọn Quý Tôn Hàng Phủ ba người đồng thanh đáp rằng:

– Nếu ngài đem quân đánh Tề thì chúng tôi xin tâu với chúa công tôi dốc hết sức nước tôi mà đánh giúp .

Khước Khắc nói:

– Các ngài đã đồng tâm như vậy thì xin cùng nhau quệt máu ăn thề .

Thề rằng: “Khi khởi binh đánh Tề, hễ ai không chịu cố sức thì quỉ thần tru diệt!”

Sứ thần bốn nước đêm hôm ấy họp nhau thương nghị suốt sáng: đến sáng hôm sau, nước nào về nước ấy, chẳng vào cáo từ với Tề Khoảnh công nữa . Quốc Tá (quan thượng khanh nước Tề) thở dài mà than rằng:

– Tai vạ nước Tề ta sinh ra từ việc này!

Bấy giờ Qúy Tôn Hàng Phủ đang cầm quyền chính nước Lỗ, từ khi đi sứ nước Tề về, mới quyết chí báo thù Tề . Nghe tin Khước Khắc nói với Tấn Cảnh công xin khởi binh đánh Tề, chỉ vì cùng với quan thái phó là Sĩ Hội không hợp ý nhau, cho nên Tấn Cảnh công chưa cho . Qúy Tôn Hàng Phủ lại càng nóng nảy, liền tâu với Lỗ Tuyên công cho người sang mượn quân nước Sở . Vừa lúc bấy giờ Sở Trang vương (Lữ) ốm chết, thế tử Thẩm nối ngôi, mới lên mười tuổi, tức là Sở Cung vương . Sở Cung vương đang có tang, mới từ chối không cho nước Lỗ mượn quân . Quý Tôn Hàng Phủ đang lúc tức giận thì bỗng có người ở nước Tấn về thuật chuyện Khước Khắc ngày đêm khuyên bảo Tấnh Cảnh công đánh Tề, nói là đánh Tề có lợi, nếu không đánh Tề thì không làm được bá chủ, bởi vậy Tấn Cảnh nghe lời . Sĩ Hội biết là không thể nói cho Khước Khắc làm trung quân nguyên soái, cầm quyền chính nước Tấn, chẳng bao lâu nữa sẽ khởi binh đi đánh . Quý Tôn Hàng Phủ mừng lắm, liền sai công tôn Quy Phủ (con Trọng Toại) sang sứ nước Tấn, hẹn ngày khởi binh . Bấy giờ họ Mạnh Tôn, Thúc Tôn và Quý Tôn ở nước Lỗ, con cháu mỗi ngày một cường thịnh . Lỗ Tuyên công lo lắm, mới nhân khi công tôn Quy Phủ sang sứ nước Tấn, mới cầm tay Quy Phủ mà dặn rằng:

– Ba họ Hoàn mỗi ngày một cường thịnh, mà nhà vua mỗi ngày một suy yếu, nhà ngươi cũng đã biết cả . Nay nhà ngươi sang sứ Tấn, nên đem sự tình nói với vua Tấn, nhờ binh lực mà trừ ba họ ấy đi thì xin mỗi năm một lần công hiến, không bao giờ dám quên ơn . Nhà ngươi phải cẩn thận, chớ tiết lộ cho ai biết .

Công tôn Quy Phủ phụng mệnh đem nhiều lễ vật sang nước Tấn, nghe nói Tấn Cảnh công đang tin yêu Đồ Ngạn Giả, cho làm quan tư khấu, mới đem lễ vật vào biếu Đồ Ngạn Giả và nói việc Lỗ Tuyên công muốn đuổi ba họ Hoàn . Đồ Ngạn Giả khi trước đắc tội với Triệu Thuẫn, mới kết giao với Long Thư và Khước Khắc rất thân mật, liền đem lời công tôn Quy Phủ nói với Loan Thư . Loan Thư nói:

– Quan nguyên soái ta (trỏ Khước Khắc) đang giao hiếu với Quý Tôn Hàng Phủ để cùng đánh Tề thì việc ấy khó lòng làm được, âu là ta thử dò ý xem sao .

Loan Thư nhân lúc thong thả, nói chuyện với Khước Khắc . Khước Khắc nói:

– Công tôn Quy Phủ muốn làm loạn nước Lỗ, ta chớ nên nghe!

Khước Khắc bèn viết một tờ mật thư sai người phi báo với Qúy Tôn Hàng Phủ ở nước Lỗ . Qúy Tôn Hàng Phủ nổi giận, nói:

– Ngày trước giết công tử Ác và công thử Thị, đều là mưu của Trọng Toại, ta đã làm ngơ, không thèm nói đến, nay con là công tôn Quy Phủ lại lập mưu để định đuổi ta, thế mới thật là nuôi hổ có ngày di hại!

Nói xong, liền lấy tờ mật thư của Khước Khắc đưa cho Thúc Tôn Kiều Như xem . Thúc Tôn Kiều Như nói:

– Chúa công không ra coi triều, đã một tháng nay, nói là đang ốm, chẳng qua chỉ là giả dối mà thôi . Bây giờ chúng ta cùng vào thăm, đến tận trước giường nằmg để hỏi xem việc này ra sao .

Thúc Tôn Kiều Như lại sai người mời Trọng Tôn Miệt đến để cùng vào một thể . Trọng Tôn Miệt từ chối nói rằng:

– Vua tôi không có phép đối chất phải trái với nhau, tôi không dám đi .

Qúy Tôn Hàng Phủ và Thúc Tôn Kiều Như lại rủ quan tư khấu là Tang tôn Hứa (con Tang Văn Trọng) cùng đi . Ba người vào đến cửa cung, nghe tin Lỗ Tuyên công ốm nặng, thì không vào yết kiến nữa, mà lại rủ nhau cùng về . Ngày hôm sau, Lỗ Tuyên công mất . Qúy Tôn Hàng Phủ lập thế tử Hắc Quang lên nối ngôi (bấy giờ mới mười ba tuổi), tức là Lỗ Thành công . Lỗ Thành công tuổi hãy còn nhỏ, việc gì cũng giao quyền cho Quý Tôn Hàng Phủ . Qúy Tôn Hàng Phủ họp các quan đại phu lại thương nghị rằng:

– Nay vua thi nhỏ, nước thì yếu, tất phải chỉnh đốn hình pháp lại mới được . Trọng Toại ngày trước giết vua nọ lập vua kia để cố ý du nịnh nước Tề, khiến ta cùng với nước Tấn bất hoà với nhau, bây giờ ta nên xét lại mà trị tội .

Các quan đại phu đều vâng dạ xin theo mệnh . Quý Tôn Hàng Phủ liền sai quan tư khấu là Tang tôn Hứa đuổi hết những tộc đảng của Trọng Toại . Khi công tôn Quy Phủ ở nước Tấn về chưa đến địa giới nước Lỗ, đã nghe tin Lỗ Tuyên công mất, Quý Tôn Hàng Phủ đang trị tội người nhà mình, tức khắc bỏ trốn sang nước Tề . Tề Khoảnh công nghe tin Lỗ cùng Tấn hợp mưu đánh Tề, thì một mặt sai người giao hiếu với Sở, còn một mặt đem quân sang đánh Lỗ, tiếp binh qua đất Bình Âm, kéo thẳng đến thành Long Ấp . Tướng nước Tề là Lư Bồ Tựu Khôi bị quân ở cửa bắc thành Long Ấp bắt được . Tề Khoảnh công sai người gọi quân Lỗ ở trên mặt thành mà bảo rằng:

– Hễ chịu trả lại Lư Bồ tướng quân tức là Lư Bồ Tựu Khôi của ta thì ta sẽ rút quân về!

Quân Lỗ không tin, giết chết Lư Bồ Tựu Khôi, đem căng xác ở trên mặt thành . Tề Khoảnh công nổi giận, truyền cho quân sĩ bốn mặt ra sức cố đánh . Khi phá vỡ được thành Long Ấp rồi, Tề Khoảnh công đem bao nhiêu người ở cửa bắc, bất cứ quân dân, đều giết chết sạch cả, để báo cái thù giết chết Lư Bồ Tựu Khôi . Tề Khoảnh công toan tiến binh thì nghe báo có tướng nước Vệ là Tôn Lương Phu đã đem quân vào địa giới nước Tề . Tề Khoảnh công nói:

– Nước Vệ rình lúc ta đem quân đi vắng mà đến xâm phạm nước ta, nay ta nên tức khắc quay về để đón đánh quân Vệ .

Tề Khoảnh công lưu một toán quân đóng giữ Long Ấp còn đại binh thì rút về phía nam . Đi đến đất Tân Trúc (đất nước Vệ) bỗng gặp quân nước Vệ . Quan phó tướng nước Vệ là Thạch Tắc nói với Tôn Lương Phu rằng:

– Ta phụng mệnh sang đánh Tề là nhân lúc vua Tề đem quân đi vắng; nay vua Tề đã về, thì ta không nên đánh vội, hãy chờ quân Tấn và quân Lỗ đến để cùng hợp sức mới có thể toàn thắng được .

Tôn Lương Phu nói:

– Ta chỉ cốt báo cái thù vua Tề cười ta khi trước, nay gặp vua Tề, có lẽ nào lại không đánh .

Tôn Lương Phu không nghe lời Thạch Tắc, đêm hôm ấy đem quân tiến sang đánh dinh quân Tề . Quân Tề biết là quân Vệ thế nào cũng lẻn đến đánh, đã phòng bị trước cả . Khi Tôn Lương Phu vào đến dinh quân Tề, thì là mộtcái dinh bỏ không . Tôn Lương Phu toan quay trở ra thì phái tả có Quốc Tá, phía hữu có Cao Cố đem quân vây kín lại . Tề Khoảnh công cũng kéo đại binh đến, quát to lên rằng:

– Thằng khiễng chân kia, liệu mà nộp đầu đi!

Tôn Lương Phu liều chết chống lại, may sao có toán quân của Ninh Tướng và Hướng Cầm đến tiếp ứng, mới chạy theo được . Tề Khoảnh công giục quân đuổi theo, lại vừa gặp có toán quân của Thạch Tắc (tướng nước Vệ) kéo đến . Thạch Tắc bảo Tôn Lương Phu rằng:

– Quan nguyên soái cứ đi trước, để mặc tôi đối địch với quân Tề .

Tôn Lương Phu vội vàng kéo quân chạy thẳng . Chạy chưa được một dặm, lại thấy ở trước mặt có một toán quân kéo đến . Tôn Lương Phu thở dài mà nói rằng:

– Ở đây mà có quân Tề mai phục, thì ta khó lòng mà sống được .

Khi gần đến nơi, có một viên tướng ngồi ở trong xe, cúi đầu chào mà nói rằng:

– Chúng tôi không biết là nguyên soái giao chiến với quân Tề, vậy nên không kịp đến tiếp ứng, xin nguyên soái tha lỗi .

Tôn Lương Phu hỏi:

– Nhà ngươi là ai ?

Viên tướng ấy đáp rằng:

– Tôi là quan trấn thủ ở đất Tân Thúc, tên gọi Trọng Thúc Vu Hề . Quân sĩ của tôi đem theo đây, cũng đủ giao chiến với Tề một trậnn, xin nguyên soái chới ngại!

Tôn Lương Phu mới được yên lòng, bảo Trọng Thúc Vu Hề rằng:

– Quan phó tướng quân Thạch Tắc còn ở phía sau, nhà người nên đem quân tiếp ứng .

Trọng Thúc Vu Hề vâng lời, liền đem quân đi ngay . Lại nói chuyện Tề Khoảnh công gặp quân Thạch Tắc, vừa toan giao chiến thì nghe báo có quân của Trọng Thúc Vu Hề đến tiếp ứng . Tề Khoảnh công sợ ở đất nước Vệ, binh lực không tiếp viện được, mới rút quân trở về . Thạch Tắc và Trọng Thúc Vu Hề cũng không đuổi theo nữa . Tôn Lương Phu thu thập quân thua, vào trong thành Tân Trúc yên nghỉ mấy ngày . Các tướng hỏi Tôn Lương Phu, xin cho biết hôm nào thì rút quân về .

Tôn Lương Phu nói:

– Ta vốn định báo thù nước Tề, nay lại bị nước Tề đánh thua, còn mặt mũi nào về trông thây chúa công ta nữa! Nay ta định sang mượn quân nước Tấn để bắt cho được vua Tề thì ta mới thoả lòng!

Tôn Lương Phu liền lưu bọn Thạch Tắc đóng quân ở Tân Trúc, còn mình thì thân hành sang nước Tấn để mượn quân . Gặp bấy giờ quan tư khấu nước Lỗ là Tang Tôn Hứa cũng sang mượn quân nước Tấn, mới cùng Tôn Lương Phu vào gặp Khước Khắc trước, rồi sau mới yết kiến Tấn Cảnh công . Trong ngoài đồng lòng, một xướng một hoạ dù Tấn Cảnh công muốn không nghe cũng không được, bèn cho Khước Khắc cử đại binh đi đánh Tề . Tang Tôn Hứa về nước Lỗ để báo trước cho Quý Tôn Hàng Phủ biết, Qúy Tôn Hàng Phủ cũng đem quân sang hội ở đất Tân Trúc . Tôn Lương Phủ lại sai người sang ước với công tử Thủ ở nước Tào . Công tử Thủ cũng đem quân đến Tân Trúc để bàn việc đánh Tề . Quân thám tử của Tề Khoảnh công nghe tin quan tư khắc nước Lỗ là Tang Tôn Hứa mượn được quân Tấn, về báo Tề Khoảnh công . Tề Khoảnh công nói:

– Nếu để cho quân giặc vào đất ta thì dân trong nước đều sợ hãi, âu là ta đem quân ra ngoài cõi để mà đón đánh .

Tề Khoảnh công bèn đem quân đi đón quân Tấn, nghe nói quân Tấn đã đóng ở núi Ma Kê, mới sai sứ sang thỉnh chiến . Khước Khắc hẹn đến ngày hôm sau thì khai chiến . Quan đại tướng nước Tề là Cao Cố nói với Tề Khoảnh công rằng:

– Nước ta cùng với nước Tấ, xưa nay chưa giao chiến bao giờ, không biết người nước Tấn bạo dạn hay là nhát gan để tôi xin sang trước, thử xem ra làm sao .

Cao Cố bèn lên xe đi thẳng sang dinh quân Tấn để khiêu chiến . Trong dinh quân Tấn có một viên tiểu tướng đi xe ra . Cao Cố cầm một miếng đá lớn, ném trúng vào đầu viên tiểu tướng ấy . Viên tiểu tướng ấy ở trên xe ngã lăn xuống . Người dong xe sợ hãi, vội vàng bỏ chạy . Cao Cố nhảy ngay lên xe của quân Tấn, tay cầm dây cương, đánh ngựa kéo thẳng về dinh quân Tề; lại đi diễu một vòng nữa, vừa đi vừa reo rầm lên rằng:

– Ai có mua sức khoẻ, ta bán bớt cho!

Quân Tề đều vỗ tay cười . Khi quân Tấn biết mà ra đuổi theo thì đã không kịp . Cao Cố vào nói với Tề Khoảnhg công rằng:

– Quân Tấn dẫu nhiều, nhưng ít người có can đảm, không có gì đánh sợ .

Ngày hôm sau, Tề Khoảnh công xông vào trong trận, truyền cho quân sĩ giương cung ra bắn . Quân Tấn chết hại rất nhiều . Giải Trương (tướng nước Tấn) cánh tay bị hai mũi tên, máu chảy dòng dòng xuống bánh xe, mà vẫn cố gắng cầm cương ngựa . Khước Khắc đang đánh trống thúc quân tiến vào, cũng bị một mũi tên trúng sườn bên tả, máu chảy xuống đến tận giầy . Tiếng trống nghe đã hơi chầm chậm . Giải Trương nói:

– Dẫu bị thương, nhưng chưa đến nỗi chết thì cũng phải cố sức mà đánh .

Trịnh Khâu Hoãn (quan xa hữu nước Tấn) khen lời Giải Trương nói phải, bảo Khước Khắc rằng:

– Chết sống tại số, không can chi mà sợ hãi!

Khước Khắc lại ra sức đánh trống để thúc quân, Giải Trương giục ngựa, nhằm thẳng phía tên bắn mà tiến vào . Trịnh Khâu Hoãn tay trái cầm nón che cho Khước Khắc, tay phải cầm giáo để đánh giặc . Quân Tấn nghe tiếng trống, tưởng là thắng trận, tranh nhau tiến vào, quân Tề không thể địch nổi, vội vàng bỏ chạy . Hàn Quyết thấy Khước Khắc bị thương nặng, liền nói rằng:

– Quan nguyên sóai hãy tạm nghỉ, để mặc tôi đuổi theo quân giặc .

Hàn Quyết đem quân đuổi theo . Quân Tề sợ hãi, bỏ chạy tán loạn . Tề Khoảnh công vòng quanh núi Hoa Bất Trú mà chạy . Hàn Quyết trông thấy cỗ xe thếp vàng của Tề Khỏanh công, liền cố sức đuổi đánh . Phùng Sửu Phủ (quan xa hữu nước Tề) bảo viên tướnng dong xe cho Tề Khoảnh công là Bính Hạ rằng:

– Tướng quân giao cương ngựa cho tôi, rồi tháo ra ngoài vòng vây, để lấy quân cứu viện .

Bấy giờ quân Tấn kéo đến nhiều lắm, vây núi Hoa Bất Trú ba vòng . Phùng Sửu Phủ bảo Tề Khoảnh công rằng:

– Bây giờ đã nguy cấp lắm rồi! chúa công nên cởi ngay áo cẩm bào ra để tôi mặc, tôi giả cách làm chúa công, còn chúa công thì mặc áo của tôi mà cầm cương xe, để đánh lừa quân Tấn . Không may có điều gì, tôi xin chết thay chúa công, chúa công mới có thể trốn thóat được .

Tề Khoảnh công theo lời, vừa đổi áo xong thì quân Hàn Quyết kéo đến . Hàn Quyết trông thấy người mặc áo cẩm bào, tưởng là Tề Khoảnh công, mới nắm lấy cương ngựa cúi đầu hai xá mà nói rằng:

– Chúa công tôi theo lời xin của nước Lỗ và nước Vệ, có sai tôi đem quân tới đây; nay được gặp nhà vua, tôi xin cầm ngựa để rước nhà vua quá bộ sang nước tôi một chút .

Phùng Sửu Phủ giả cách kêu khát nước, không thể nói được, rồi cầm cái bầu đưa cho Tề Khoảnh công mà bảo rằng:

– Phùng Sửu Phủ! Nhà ngươi đi lấy cho ta bầu nước .

Tề Khoảnh công xuống xe, giả cách ra suối lấy nước, khi lấy được nước, Phùng Sửu Phủ lại kêu là nước đục, Tề Khoảnh công lại đi tìm chỗ nước trong, rồi lần đi quanh về phía hữu mà trốn; may lại gặp có tướng nước Tề là Trịnh Chu Phủ vừa đi xe đến, bảo Tề Khoảnh công rằng:

– Bính Hạ nay đã bị hãm ở trong đám quân Tấn, không ra được rồi! Thế lực quân Tấn bây giờ to lắm, có con đường này là ít quân giặc mà thôi, chúa công nên thừa cơ đi mau .

Trịnh Chu Phủ tức thì đưa dây cương cho Tề Khoảnh công . Tề Khoảnh công lên xe chạy thoát . Hàn Quyết sai người báo với Khước Khắc rằng:

– Đã bắt được vua Tề rồi!

Khước Khắc mừng lắm . Khi Hàn Quyết giải Sửu Phủ đến . Khước Khắc trông thấy biết là không phải vua Tề liền nổi giận mà hỏi Phùng Sửu Phủ rằng:

– Nhà ngươi là ai ?

Phùng Sửu Phủ nói:

– Tôi là quan xa hữu nước Tề, tên gọi Phùng Sửu Phủ, còn chúa công tôi tức là người lúc nãy xuống suối đi lấy nước đó .

Khước Khắc giận lắm, nói:

– Nhà ngươi dám mạo nhận làm vua Tề, để đánh lừa quân ta thì tất phải chiếu quân pháp mà trị tội .

Khước Khắc truyền cho quân sĩ đem Phùng Sửu Phủ ra chém . Phùng Sửu Phủ kêu to lên rằng:

– Quân sĩ nước Tấn hãy nghe ta nói: từ nay chớ ai có thay vua trong lúc hoạn nạn như Phùng Sửu Phủ này mà chết mất mạng đó .

Khước Khắc sai cởi trói cho Phùng Sửu Phủ mà nói rằng:

– Người ta đã biệt tận trung với vua, ta không nên giết! Nói đoạn truyền lấy xe chở lương thực và quân dụng chở Phùng Sửu Phủ đi theo sau quân Tề . Khoảnh công về đến dinh quân Tề, nghĩ cái ơn Phùng Sửu Phủ, ra rồi lại vào, cả thảy đến ba lần . Quốc Tá và Cao Cố nghe tin Khoảnh công thua trận, vội vàng đem quân đến tiếp ứng, thấy Khoảnh công ở trong đám quân Tấn ra, giật mình hỏi rằng:

– Sao chúa công lại khinh thường mà xông vào trong chỗ hang hổ như vậy .

Khoảnh công nói:

– Phùng Sửu Phủ vì ta thay ta mà bị hãm ở trong đám quân giặc, chưa biết sống chết thế nào cho nên ta ngồi không yên được, lại phải xông vào để tìm .

Nói chưa dứt lời thì nghe báo quân Tấn đã kéo đến . Quốc Tá nói với Khoảnh công rằng:

– Nay quân ta đã bất lợi, chúa công chớ ở đây lâu, nên mau mau rút quân về nước, để đợi quân Sở đến cứu!

Tề Khoảnh công theo lời, rút quân về Lâm Tri (kinh thành nước Tề) Khước Khắc đem đại binh cùng với quân Lỗ, Vệ, Tào kéo thẳng sang nước Tề, đi qua quan ải nào, cũng đốt phá tàn hại, thẳng đến kinh đô, định diệt hẳn nước Tề .

Chương 57: Vu Thần kết duyên với Hạ Cơ – Trình Anh đền ơn cho Triệu Thuẫn

Quân Tấn đuổi theo Tề Khoảnh công đến đất Viên Lân . Tề Khoảnh công sợ hãi, họp các tướng lại để hỏi kế . Quốc Tá nói rằng:

– Tôi xin đem cái lò nghiễn (lò hai tầng, trên chưng, dưới nấu) của Kỷ hầu và cái khánh ngọc sang lễ nước Tấn để xin giảng hoà; còn những đất ta xâm chiếm của nước Lỗ và nước Vệ khi trước thì trả lại cho hai nước ấy .

– Như thế là ta xử với Tấn quá phải lắm rồi, nếu Tấn không nghe thì thế nào cũng phải cố sức đánh!

Quốc Tá vâng lệnh đem lò nghiễn và khánh ngọc sang dinh quân Tấn, vào nói trước với Hàn Quyết . Hàn Quyết nói:

– Vì Lỗ và Vệ than phiền bị Tề luôn luôn xâm chiếm, cho nên chúa công tôi thương tình mà đến cứu, chứ chúa công tôi có thù gì với nước Tề!

Quốc Tá nói:

– Tôi xin tâu với chúa công tôi trả lại những đất xâm chiếm của Lỗ và Vệ thì tướng quân nghĩ thế nào ?

Hàn Quyết nói:

– Việc ấy quyền tại quan nguyên soái (trò Khước Khắc) tôi chứ tôi không dám quyết .

Nói xong, liền đưa Quốc Tá vào yết kiến Khước Khắc . Khước Khắc trông thấy Quốc Tá, hầm hầm nổi giận . Quốc Tá đối đáp vẫn có lễ phép . Khước Khắc nói:

– Nước ngươi đã sắp mất đến nơi, lại còn muốn dùng lời nói khéo để làm kế hoãn binh hay sao! Nếu thực lòng xin giảng hoà thì phải theo ta hai điều .

Quốc Tá nói:

– hai điều đó là gì, xin ngài cho biết .

Khước Khắc nói:

– Một là nước ngươi phải đưa người con gái của Tiêu Quân sang ở nước ta để làm tin; hai là trong địa giới nước Tề phải đắp một con đường từ tây sang đông, để vạn nhất sau này nước Tề có bội ước thì ta giết người làm con tin ấy, và khi đem quân sang đánh ta có thể đi suốt từ tây sang đông được .

Quốc Tá nổi giận mà nói rằng:

– Nguyên sóai nghĩ sai rồi! Con gái của Tiêu Quân là ai, tức là thân mẫu chúa công tôi, cũng chẳng khác gì thân mẫu vua Tấn, lẽ nào lại đem quốc mẫu làm con tin bao giờ! Còn ruộng đất ở trong nước tôi là phải tuỳ theo địa thế mà đắp, nếu vì nước Tấn mà đổi lại tất cả thì khác gì một nước đã mất rồi . Nguyên soái nói như thế là ý không muốn cho nước tôi giảng hoà .

Khước Khắc nói:

– Không muốn cho giảng hoà thì nước ngươi làm gì ?

Quốc Tá nói:

– Nguyên soái chớ có khinh nước Tề tôi quá! Nước tôi dẫu bị thua một trận, nhưng chưa lấy gì làm tổn hại cho lắm, nguyên soái không cho hoà thì chúng tôi xin thu thập quân mã, cùng với nguyên soái quyết chiến một trận . Một trận không được thì hai trận; hai trận không được thì ba trận, nếu ba trận cũng không được thì bấy giờ cả nước Tề tôi là của nước Tấn, cần gì còn phải gửi người làm tin và đắp đường từ tây sang đông làm gì ? Ngay bây giờ, tôi xin từ biệt nguyên soái .

Quốc Tá liền đặt cái lò nghiễn và cái khánh ngọc xuống đất, rồi chắp tay vái chào mà lui ra . Qúy Tôn Hàng Phủ và Tôn Lương Phu đứng ở sau màn nghe nói, chạy ra bảo Khước Khắc rằng:

– Làm như vậy thì nước Tề giận ta quá lắm, tất cố sức mà đánh, không lẽ ta thắg mãi, chi bằng ta theo lời giảng hoà là hơn .

Khước Khắc nói:

– Sứ nước Tề đã đi rồi thì biết làm thế nào ?

Qúy Tôn Hàng Phủ nói:

– Ta nên sai người đuổi theo mà gọi lại .

Khước Khắc liền sai người đuổi theo, mời Quốc Tá hãy trở lại dinh quân Tấn . Khước Khắc bảo Quý Tôn Hàng Phủ và Tôn Lương Phu cùng Quốc Tá làm lễ tương kiến, rồi lại nói với Quốc Tá rằng:

– Tôi sợ không làm nổi việc ấy thì có lỗi với chúa công tôi, cho nên tôi chưa dám nhận lời; nay hai quan đại phu nước Lỗ và nước Vệ (trở Quý Tôn Hàng Phủ và Tôn Lương Phu) đã cùng nói với tôi, thì tôi cũng không dám trái ý . Vậy tôi xin nghe lời đại phu .

Quốc Tá nói:

– Nguyên soái đã thuận cho nước tôi giảng hoà thì xin ăn thề:

“Nước Tề nhận phải triều cống nước Tấn, lại trả những đấ xâm chiếm của nước Lỗ và nước Vệ . Nước Tấn nhận phải rút quân về và không được xâm phạm của cải nước Tề”.

Hai bên đều phải lập tờ thệ văn, Khước Khắc truyền đem tiết sinh ra, cùng nhau ăn thề rồi từ biệt . Khước Khắc lại tha cho Phùng Sửu Phủ trở về nước Tề . Tề Khoảnh công cho Phùng Sửu Phủ làm thượng khanh .

Bọn Khước Khắc thắng được quân Tề, trở về nước Tấn . Tấn Cảnh công đều gia phong thái ấp cho; lại cho Hàn Quyết làm tân trung quân nguyên soái, Triệu Quát làm phó; Củng Sóc làm tân thượng tuân nguyên soái, Hàn Xuyên làm phó; Tuân Trụ làm tân hạ quân nguyên soái, Triệu Chiên làm phó, mọi người đều được phong tước quan khanh cả .

Quan tư khấu là Đồ Ngạn Giả thấy họ Triệu hưng phấn càng đem lòng ghen ghét, ngày đêm chỉ cố tìm sự lầm lỗi của họ Triệu để dèm pha với Tấn Cảnh công; lại mật kết với họ Loan và họ Khước, khiến cho hai họ ấy cùng về bè với mình .

Tề Khoảnh công từ khi bị thua về, hết lòng sửa sang chính trị, để định báo thù nước Tấn . Vua tôi nước Tấn cũng sợ nước Tề báo thù, không giữ được nghiệp bá chủ, lại bắt các nước phải trả lại cho nước Tề những đất xâm chiếm mà nước Tề đã phải trả lại cho họ khi trước (theo minh ước) . Từ bấy giờ các nước chư hầu cho rằng nước Tấn không có tín nghĩa, bèn không tin phục nước Tấn nữa .

Lại nói chuyện Hạ Cơ nước Tần từ khi kết duyên với quan liên doãn nước Sở là Tương Lão, chưa được một năm thì Tương Lão phải đi đánh trận ở Bí Địa . Hạ Cơ mới cùng với con riêng của Tương Lão là Hắc Sái tư thông; đến lúc Tương Lão chết trận, Hắc Sái say mê Hạ Cơ, bỏ không đi tìm xá Tương Lão, người trong nước ai cũng chê cười . Hạ Cơ lấy làm xấu hổ, muốn mượn tiếng đi tìm xác Tương Lão để trở về nuớc Trịnh, (nguyên Hạ Cơ là con gái nước Trịnh, trước lấy chồng ở nước Tần), Tước thân công ở nước Sở là Khuất Vu thuê người mật báo với Hạ Cơ rằng:

– Thân công có lòng yêu mến nàn lắm, nàng về nước Trịnh hôm nào thì hôm ấy thân công sẽ sang xin cưới ngay .

Khúất Vu lại sai người nói với Trịnh Tương công rằng:

– Hạ Cơ muốn về nước nhà, sao nhà vua không sai người đón về ?

Trịnh Tương công quả nhiên sai sứ sang nước Sở để xin đón Hạ Cơ . Sở Trang vương hỏi các quan đại phu rằng:

– Hạ Cơ muốn tìm xác Tương Lão, người nước Trịnh có ý muốn giúpp cho được việc, vậy nên mới sai người sang đón về .

Trang vương nói:

– Xác Tương Lão chết ở nước Tấn, người nước Trịnh giúp thế nào được ?

Khuất Vu nói:

– Tuân Dinh là con yêu của Tuân Thủ, nay bị giam ở nước Sở ta . Tuân Thủ thương nhớ lắm! Bây giờ Tuân Thủ mới được lên làm chức trung quân phó tướng ở nước Tấn, lại quen biết với quan đại phu nước Trịnh là Hoàng Thủ, thì tất thế nào rồi cũng nhờ Hoàng Thủ điều đình với nước Sở ta, xin đem thi thề công tử Cốc Thần (con Sở Trang vương) và Tương Lão sang đổi lấy Tuân Dinh về . Vua nước Trịnh vì việc giao chiến ở Bí Địa, sợ nước Tấn đem quân sang hỏi tội, cũng muốn nhân việc này để lấy lòng nước Tấn, đó là tình thực, chứ không còn nghi ngờ gì nữa!

Nói chưa dứt lời thì Hạ Cơ vào từ biệt Sở Trang vương, tâu việc xin về nước Trịnh, vừa tâu vừa khóc, nước mắt như mưa . Lại nói với Sở Trang vương rằng:

– Nếu không tìm được Tuơng Lão thì thiếp xin thề không về nước Sở nữa!

Sở Trang vương có lòng thương mà cho đi . Hạ Cơ đi sang nước Trịnh . Khuất Vu lại mật đưa thư cho Trịnh Tương công, xin cưới Hạ Cơ làm vợ . Trịnh Tương công biết việc Sở Trang vương và công tử Anh Tề khi trước muốn lấy Hạ Cơ, lại thấy Khuất Vu đang được trọng dụng ở nước Sở, cũng muốn kết thân, mới nhận lễ và cho cưới . Người nước Sở không ai biết chuyện ấy cả . Khuất Vu lại sai người sang bảo Tuân Thủ nước Tấn đem thi thể công tử Cốc Thần và Tương Lão sang đổi lấy Tuân Dinh về . Tuân Thủ viết thư nhờ Hoàng Thủ (quan đại phu nước Trịnh) ở giữa nói hộ với Sở Trang vương .

Sở Trang vương muốn được thi thể con mình là công tử Cốc Thần, mới tha cho Tuân Dinh về và nước Tấn cũng giả lại hai thi thể . Đến lúc quân nước Tấn đánh Tề, Tề Khoảnh công sai sứ sang cầu cứu nước Sở, chính gặp lúc nước Sở mới có tang, chưa đem quân sang cứu, sau nghe tin quân Tề thua trận và quan đại phu nước Tề là Quốc Tá đã phải xin giảng hoà với Tấn, Sở Cung vương mới bảo triều thần rằng:

– Nước Tề theo Tấn là vì nước Sở ta chưa kịp đến cứu, đó không phải là bản tâm nước Tề . Nay ta nên cử binh đi đánh Lỗ và Vệ để báo thù cho nước Tề, có ai dám vì ta đem cái ý ấy sang nói cho vua Tề biết ?

Khuất Vu xin đi . Sở Cung vương nói:

– Nhân tiện nhà ngươi đi qua nước Trịnh, nên nước với vua Trịn đến tháng mười đem quân sang hội nhau ở địa giới nước Vệ, và cũng nói cho vua Tề biết .

Khuất Vu về nhà thu xếp tiền của và cho gia quyến đi trước còn mình thì ở lại sau, rồi thẳng đường tiến sang nước Trịnh . Khuất Vu đem lời nói của vua Sở vào ước với vua Trịnh, rồi lui ra nhà quán xá cùng với Hạ Cơ làm lễ thành thân . Đêm hôm ấy Hạ Cơ nỉ non bên gối, hỏi Khuất Vu rằng:

– Việc này khi trước phu quân có tâu với vua Sở không ?

Khuất Vu đem chuyện Sở Trang vương và công tử Anh Tề khi trước đều muốn lấy Hạ Cơ nói lại cho Hạ Cơ nghe, lại bảo Hạ Cơ rằng:

– Ta vì ái khanh mà chịu phí bao nhiêu tâm cơ, ngày nay ba sinh mới phỉ mười thuyền, ta không dám về nước Sở nữa; sáng mai ta cùng với ái khanh tìm chốn nương thân, cùng nhau bách niên giai lão, ái khanh nghĩ thế nào ?

Hạ Cơ nói:

– Phu quân đã không về nước Sở thì việc đi sứ Tề này biết làm thế nào ?

Khuất Vu nói:

– Ta chẳng đi sứ Tề nữa! Ngày nay, cùng với nước Sở chống nhau, chỉ có nước Tấn, âu là ta cùng ái khanh sang ở nước Tấn .

Ngày hôm sau, Khuất Vu viết một đạo biểu giao cho người hầu đem về tâu với Sở Cung vương, rồi cùng Hạ Cơ trốn sang nước Tấn . Tấn Cảnh công đanh lấy việc thua nước Sở làm xấu hổ, nghe tin Khuất Vu đến, mừng lắm nói rằng:

– Thế này thì thật là trời đem người ấy đến giúp ta!

Tấn Cảnh công nói xong, liền cho Khuất Vu làm quan đại phu, lại phong cho đất Hình Địa để làm thái ấp . Khuất Vu mới bỏ họ Khuất, lấy chữ Vu làm họ, đặt tên là Thần . Từ bấy giờ vẫn gọi là Vu Thần . Sở Cung vương tiếp được tờ biểu của Vu Thần, mở ra đọc, đại lược nói rằng:

“Vua Trịnh đem Hạ Cơ gả cho tôi, tôi trót dại, không thể từ chối được . Nay tôi sợ đại vương trị tội, vậy phải tạm trốn sang nước Tấn; còn việc sứ Tề, xin đại vương chọn sai người khác . Tôi cam chịu tội chết!”

Sở Cung vương nổi giận, triệu công tử Anh Tề và công tử Trắc vào đưa tờ biểu cho xem . Công tử Trắc nói:

– Nước Sở ta và nước Tấn xưa nay vôn là cừu định với nhau, nay Vu Thần trốn sang nước Tấn, tức là làm phản, phải trừng phạt để làm gương .

Công tử Anh Tề nói:

– Hắc Sái thông dâm với kế mẫu là Hạ Cơ, cùng là có tội, cũng phải trừng phạt mới được .

Sở Cung vương theo lời, liền sai công tử ÁnhTê đem quân đến vây bắt gia tộc của Vu Thần, và sai công tử Trắc đến bắt Hắc Sái mà chém đi . Bao nhiêu gia tài của Vu Thần cùng Hắc Sái đều bị công tử Anh Tề và công tử Trắc chiếm lấy hết cả . Vu Thần nghe tin ấy mới đưa thư cho công tử Anh Tề và công tử Trắc, đại lược nói rằng:

“Các ngươi xui giục vua Sở làm những việc tham tàn, giết hại kẻ không có tội; ta quyết làm cho các người phải khổ sở ở nơi đường sá mà chết!”

Bọn công tử Anh Tề giấu bức thư ấy đi, không dám nói cho Sở Cung vương biết . Vu Thần bày mưu lập kế cho nước Tấn để sang thông hiếu với nước Ngô; rồi đem những phép xa chiến dạy người nước Ngô; lại cho con là Hồ Dung sang làm quan hành nhân ở nước Ngô, để thông tin tức cho nước Ngô và nước Tấn . Từ bấy giờ nước Ngô mỗi ngày một cường thịnh, chiếm lấy những thuộc quốc ở phía đông của nước Sở; vua nước Ngô là Trọng Mộng tiếm hiệu xưng vương . Sở Cung vương cho công tử Anh Tề làm đại tướng cùng với quân nước Trịnh sang đánh Vệ, tàn phá bờ cỡ nước Vệ, rồi lại đem quân sang xâm chiếm nước Lỗ, đóng đồn ở đất Dương Kiều . Trọng Tôn Miệt (tướng nước Lỗ) đem thợ khéo và con gái dệt cửi thêu thùa giỏi của nước Lỗ, mỗi hạng một trăn người sang dâng nước Sở và được giảng hoà . Nước Tấn cũng sai sứ ước với Lỗ Thành công cùng sang đánh Trịnh . Lỗ Thành công nhận lời .

Năm thứ 20 đời Chu Định vương, Trịnh Tương Công (Kiên) mất, thế tử Phi lên nối ngôi, tức là Trịnh Nhiệu công . Trịnh Nhiệu công cùng với nước Hứa tranh nhau địa giới . Vua nước Hứa sang kêu với Sở Cung vương . Sở Cung vương cho vua Hứa là phải lẽ, sai người trách Trịnh Nhiệu công . Trịnh Nhiệu công tức giận, mới bỏ Sở theo Tấn . Năm ấy, Khước Khắc nước Tấn bị thương, què mất cánh tay trái, liền cáo lão về nhà, chẳng được bao lâu thì mất . Loan Thư thay làm chức trung quân nguyên soái (tức là tướng quốc). Năm sau công tử Anh Tề nước Sở sang đánh Trịnh, Loan Thư đem quân đi cứu .

Lúc bấy giờ Tấn Cảnh công thấy nước Trịnh và nước Tề đều thần phục mình, thì sanh lòng kiêu ngạo, lại tin dùng Đồ Ngạn Giả, và ham sự chơi bời săn bắn như Tấn Linh công thuở xưa . Triệu Đồng và Triệu Quát có ý bất hoà với anh là Triệu Anh, vu cho việc dâm loạn, rồi đuổi sang nước Tề, Tấn Cảnh công cũng không thể nào mà ngăn cấm nổi . Bấy giờ núi Lương Sơn tự nhiên sụt đá xuống làm nghẽn một khúc sông, nước sông ba ngày không chảy được . Tấn Cảnh công sai quan thái sử bói xem tốt xấu thế nào . Đồ Ngạn Giả đút tiền cho quan thái sử để nói về việc hình phạt không hợp lẽ . Tấn Cảnh công nói:

– Ta dùng hình phạt, chưa hề có làm quá bao giờ, sao lại bảo là không hợp lẽ ?

Đồ Ngạn Giả nói với Tấn Cảnh công rằng:

– Hình phạt không hợp lẽ nghĩa là không đán tội mà trị tội, cũng như đán tội mà không trị tội . Triệu Thuẫn giết vua Linh công ta ở Đào Viên, việc ấy chép vào sử sách, đó là một tội không thể dung tha được; thế mà Thành công không trị tội, lại giao quyền chính trong nước cho kẻ phạm tội, dây dưa mãi đến bây giờ, con cháu của kẻ phạm tội làm quan, đầy khắp trong triều, thế thì lấy gì làm răn cho kẻ khác được ? và tôi nghe tin bọn Triệu Đồng và Triệu Quát cậy nhiều vây cánh, có ý muốn làm phản, Triệu Anh can ngăn không được, phải chạy ra nước ngoài; còn họ Loan và họ Khước, cũng sợ thế họ Triệu, không dám nói ra . Việc núi Lương Sơn đồ này, chính là ý trời muốn khiến chúa công giải tỏ nỗi oan của Linh công trước và trị tội họ Triệu đó!

Tấn Cảnh công từ trận đánh nhau ở Bí Địa đã ghét bọn Triệu Đồng và Triệu Quát chuyên quyền xấc xược, nay nghe lời noi của Đồ Ngạn Giả thì xiêu lòng bèn đem lời nói ấy mà hỏi Hàn Quyết . Hàn Quyết nói:

– Việc giết vua Linh công ở Đào Viên không dự gì đến Triệu Thuẫn . Và họ Triệu từ Triệu Thôi trở xuống, đời đời có công to với nước Tấn, sao chúa công lại nghe lời nói của đứa tiểu nhân mà nghi con cháu công thần ?

Cảnh công vẫn còn hồi nghi, lại hỏi Loan Thư và Khước Kỳ . Đồ Ngạn Giả đã dặn Loan Thư và Khước Kỳ trước, bởi vậy Loan Thư và Khước Kỳ cứ hàm hồ, không chịu biện bạch cho họ Triệu . Cảnh công mới cho lời nói của Đồ Ngạn Giả là thực liền ghi tội Triệu Thuẫn vào cái mộc bài, giao cho Đồ Ngạn Giả mà bảo rằng:

– Nhà ngươi liệu thế nào cho khỏi kinh động người trong nước thi cứ việc mà làm .

Hàn Quyết biết mưu của Đồ Ngạn Giả, đêm hôm ấy đến bảo với Triệu Sóc, bảo Triệu Sóc nên đi trốn . Triệu Sóc nói:

– Thân phụ tôi ngày xưa chỉ vì không chịu để cho tiên quân giết, đến nỗi mang tiếng xấu về sau, nay Đồ Ngạn Giả phụng mệnh chúa công để giết tôi thi tôi đâu dám trách . Nhưng vợ tôi hiện đang có thai, đã gần đến tháng, nếu sinh gái, thì chẳng nói làm chi, may mà sinh trai thì còn có thể giữ được dòng giống họ Triệu . Một giọt máu thừa ấy, xin tướng quân bảo toàn cho thì tôi dẫu hồn về chín suối, cũng được hả dạ!

Hàn Quyết khóc rằng:

– Tôi chịu ơn Triệu tướng quốc (trỏ Triệu Thuẫn) ngày xưa, chẳng khác tình cha con . Ngày nay tôi sức hèn tài mọn, không thể chém được đầu giặc (trỏ Đồ Ngạn Giả), tôi đã lấy làm xấu hổ lắm, nay còn một việc này, tôi xin hết sức! Nhưng quân giặc căm tức đã lâu, nay nhân dịp báo thù, không còn phân biệt ngọc đá vàng thau, tôi có làm gì cũng là vô ích, chi bằng ngài hãy cho công chúa (vợ Triệu Sóc, con gái Tấn Thành công) tránh nạn vào ở trong cung, mai sau sinh đặng con trai thì tất có cơ báo thù được .

Triệu Sóc vâng lời, rồi hai người gạt nước mắt mà từ biệt nhau . Triệu Sóc ước riêng với vợ là Trang Cơ rằng:

– Ngày sau sinh con gái thì đặt tên là Văn, nếu sinh con trai, nên đặt tên là Vũ, bởi vì văn thì vô dụng mà có vũ thì mới báo thù được!

Triệu Sóc lại nói chuyện cho Trình Anh biết . Trình Anh hộ tống cho Trang Cơ ra cửa sau đi một cái xe kín lên trốn vào cung ở với mẹ là Thành phu nhân (mẹ Tấn Cảnh công) . Sáng hôm sau, Đồ Ngạn Giả đem quân vây nhà họ Triệu, lấy cái mộc bài của Tấn Cảnh công ghi tội Triệu Thuẫn treo ở trước cửa, rồi kể tội họ Triệu phảnh nghịch, bắt bọn Triệu Sóc, Triệu Đồng, Triệu Quát, Triệu Chiên, cùng bao nhiêu già trẻ trai gái trong nhà đem giết tất cả . Con Triệu Chiên là Triệu Thắng bấy giờ đang ở đất Hàm Đan, nhờ vậy thóat nạn, bỏ trốn sang nước Tống . Đồ Ngạn Giả không tìm thấy Trang Cơ liền nói:

– Trang Cơ không cần phải bắt vội, nhưng nghe đâu đã có thai, vạn nhất sinh con trai thì vẫn còn cái giống phản nghịch, thêm di họa về sau!

Quân sĩ báo rằng:

– Nửa đêm hôm qua, có người đi một cái xe kín vào cung .

Đồ Ngạn Giả nói:

– Đó tất là Trang Cơ .

Nói xong, vào tâu với Tấn Cảnh công rằng:

– Toàn gia bọn phản nghịch đã trừ hết được rồi, chỉ còn có công chúa (trỏ Trang Cơ) trốn vào trong cung, xin tâu để chúa công định đoạt .

Cảnh công nói:

– Mẹ ta yêu công chúa lắm, không hỏi được đâu!

Đồ Ngạn Giả nói:

– Công chúa có mang sắp đẻ, nếu sinh hạ con trai, thì để lại giống phản nghịch, ngày sau lớn lên thế nào cũng báo thù, việc Đào Viên tất nhiên lại xảy ra một lần nữa, chúa công nên nghĩ cho kỹ!

Cảnh công nói:

Để sau này hễ sinh con trai thì ta sẽ trừ đi cũng được!

Đồ Ngạn Giả ngày đêm sai người dò thăm xem Trang Cơ sinh trai hay sinh gái . Mấy hôm sau, Trang Cơ quả nhiên sinh được con trai . Thành phu nhân truyền cho cung nhân nói dối là sinh con gái . Đồ Ngạn Giả không tin, muốn sai một người vú vào cung để khám nghiệm xem . Trang Cơ sợ hãi, cùng với Thành phu nhân thương nghị, nói dối là đứa con gái sinh ra, đã chết mất rồi . Bấy giờ Tấn Cảnh công say mê tửu sắc, chính sự trong nước để mặc Đồ Ngạn Giả muốn làm gì thì làm . Đồ Ngạn Giả nghi Trang Cơ không phải sinh con gái, và con cũng chưa chết, mới thân hành đem nữ bộc vào khám xét trong cung . Trang Cơ đem đứa cô nhi buộc vào trong đũng quần, rồi khấn rằng: “Nếu lòng trời định làm tuyệt họ Triệu thì hãy khiến đứa cô nhi này khóc; nhược bằng họ Triệu không đến nỗi tuyệt tự thì xin cho đứa cô nhi này cứ nằm im như không”.

Khi nữ bộc dắt Trang Cơ ra ngoài rồi vào khám xét trong cung thì chẳng thấy gì cả . Đứa cô nhi ở trong quần cứ nằm im, không kêu khóc chút nào . Đồ Ngạn Giả khám xong trở về, nhưng trong lòng vẫn còn ghi hoặc . Có người bảo là cô nhi đã được đem ra khỏi cung rồi . Đồ Ngạn Giả liền yết thị rằng: “Hễ ai phát giác được đứa cô nhi ấy thì thưởng cho một nghìn nén vàng; nếu biết mà không nói thì cũng coi như là kẻ chứa giấu đồ gian, phạm tội phản nghịch, toàn gia sẽ bị xử trảm” .

Đồ Ngạn Giả lại truyền cho quân sĩ canh giữ cửa cung rất nghiêm mật; ai ra vào đều phải khám xét thật kỹ .

Triệu Thuẫn khi trước có hai người môn khách tâm phúc, một người là Công tôn Chử Cữu, một người là Trình Anh . Công tôn Chử Cữu được biết tin Đồ Ngạn Giả vây nhà họ Triệu trước Trình Anh liền bàn với Trình Anh cùng đến chịu nạn với họ Triệu, Trình Anh nói:

– Kẻ kia giả mệnh chúa công đến bắt họ Triệu thì dù chúng ta có đến để chịu chết, cũng chẳng ích gì cho họ Triệu cả .

Công tôn Chử Cữu nói:

– Vẫn biết là không ích gì, nhưng ân nhân mình có nạn, lẽ nào mình lại tránh cái chết cho được ?

Trình Anh nói:

– Trang Cơ (vợ Triệu Sóc) hiện đang có thai, nếu sinh con trai thì ta cùng nhà ngươi hết lòng mà ủng hộ, chẳng may mà sinh con gái thì bấy giờ chúng ta hãy chết, cũng chưa chậm kia mà!

Đến lúc nghe tin Trang Cơ sinh con gái, công tôn Chử Cữu khóc mà than rằng:

– Lòng trời định làm tuyệt họ Triệu hay sao!

Trình Anh nói:

– Chưa lấy gì làm chắc, âu là ta hãy dò xét xem đã!

Trình Anh liền đút tiền cho các cung nhân để báo tin cho Trang Cơ . Trang Cơ biết Trình Anh là người trung nghĩa, mới viết một chữ “Vũ” đưa ra . Trình Anh mừng thầm rằng:

– Công chúa quả nhiên sinh con trai rồi!

Sau Đồn Ngạn Giả vào khám xét trong cung, không thấy gì cả . Trình Anh mới bảo công tôn Chử Cữu rằng:

– Cô nhi họ Triệu vẫn ở trong cung mà Đồ Ngạn Giả không tìm thấy, đó mới thật là lòng trời . Nhưng giấu như thế chẳng qua cũng chỉ giấu được một lúc mà thôi, sau này việc tiết lộ ra, Đồ Ngạn Giả tất lại khám xét, âu là ta phải lập kế đem ra giấu ở một nơi xa thì mới bảo toàn được .

Công tôn Chử Cữu ngẫm nghĩ trong nửa ngày, rồi hỏi Trình Anh rằng .

Trình Anh nói:

– Liều chết thì dễ, chứ giữ lấy cô nhi là một việc khó .

Công tôn Chử Cữu nói:

– Nhà ngươi nhận lấy việc khó, để ta làm việc dễ cho . Nhà ngươi nghĩ thế nào ?

Trình Anh nói:

– Bây giờ nhà ngươi định kế gì ?

Công tôn Chử Cữu nói:

– Làm thế nào tìm được một đứa cô nhi khác, nói dối là cô nhi của họ Triệu, ta ẵm được vào giấu ở trong núi Thú Dương, rồi nhà ngươi ra thú, để cho Đồ Ngạn Giả vào bắt . Khi hắn đã bắt được cô nhi giả ấy rroi thì đứa cô nhi thật kia mới có thể thóat nạn được .

Trình Anh nói:

– Tìm đứa cô nhi khác không khó, chỉ khó một nỗi làm thế nào đem cô nhi thật ở trong cung ra cho được toàn vẹn ?

Công tôn Chử Cữu nói:

– Trong bọn các tướng, chỉ có Hàn Quyết là chịu ơn họ Triệu rất nhiều, việc đem đứa cô nhi ở trong cung ra, có thể nhờ Hàn Quyết được .

Trình Anh nói:

– Ta mới sinh con trai, cũng gần ngày với đứa cô nhi họ Triệu, có thể thay được; nhưng nhà ngươi đã có cái tội giấu đứa cô nhi ấy, tất nhiên se bị giết . Nhà ngươi chết trước ta thì ta sao đành lòng!

Trình Anh nói xong, hai hàng nước mắt chảy xuống ròng ròng .

công tôn Chử Cữu nổi giận mà nói rằng:

– Đó là một việc hay cho ta, sao nhà ngươi lại khóc!

Trình Anh liền gạt nước mắt, rồi từ giã lui về . Đêm hôm ấy, Trình Anh ẳm con giao tay cho công tôn Chử Cữu; lại sang yết kiến Hàn Quyết, đưa cho Hàn Quyết xem chữ “Vũ” rồi sau mới nói đến cái mưu của công tôn Chử Cữu cho Hàn Quyết nghe . Hàn Quyết nói:

– Trang Cơ đang có bệnh, sai ta đi tìm thầy thuốc, nếu nhà ngươi đánh lừa cho Đồ Ngạn Giả đi vào núi Thú Dương, tự khắc ta có kế đem được cô nhi họ Triệu ra .

Trình Anh liền phao lên cho mọi người biết rằng:

– Quan tư khấu họ Đồ (tức là Đồ Ngạn Giả) muốn bắt cô nhi họ Triệu, sao lại tìm ở trong cung ?

Người nhà Đồ Ngạn Giả nghe nói, liền hỏi Trình Anh rằng:

– Nhà ngươi có biết chỗ cô nhi họ Triệu ở đâu không ?

Trịnh Anh nói:

– Cho ta một nghìn nén vàng, ta mới chịu bảo .

Người nhà Đồ Ngạn Giả liền đưa Trình Anh vào yết kiến Đồ Ngạn Giả . Đồ Ngạn Giả hỏi họ tên là gì . Trình Anh nói:

– Tôi họ Trình tên Anh, cùng với công tôn Chử Cữu cùng làm tôi họ Triệu, nay công chúa (trỏ Trang Cơ) sinh con trai, có sai người ẵm ra giao cho hai chúng tôi đem giấu . Nhưng tôi sợ sau này có người tố giác thì nghìn nén vàng thưởng về tay họ được, mà cả nhà tôi tất bị chết oan, vậy nên tôi phải thú được .

Đồ Ngạn Giả nói:

– Đứa cô nhi ấy nay giấu ở đâu ?

Trình Anh nói:

– Ngài cho đuổi hết người xung quanh đi, rồi tôi xin nói .

Đồ Ngạn Giả tức khắc truyền cho tả hữu lui ra . Trình Anh nói với Đồ Ngạn Giả rằng:

– Hiện nay giấu ở trong núi Thú Dương, đi ngay mới bắt được, nếu chậm thì y trốn sang nước Tần mất! Nhưng ngài nên thân hành đi, người khác phần nhiều là thân tình với họ Triệu, chớ nên ủy thác cho ai cả .

Đồ Ngạn Giả nói:

– Nhà ngươi cứ đưa ta đi . Nếu là việc thực thì ta trọng thưởng cho, nếu không thì có tội đó!

Trình Anh nói:

– Tôi cũng vừa ở trong núi về đây, bụng đói quá, xin ngài cho ăn một bữa .

Đồ Ngạn Giả sai người dọn cơm cho ăn . Trình Anh ăn xong, lại giục Đồ Ngạn Giả đi ngay . Đồ Ngạn Giả đem ba nghìn quân theo Trình Anh thẳng đường đi vao núi Thú Dương . Đường đi quanh co, kể hàng mấy dặm, trông thấy ở bên kia suối có mấy gian nhà gianh, cửa đóng kín mít . Trình Anh trỏ cái nhà ấy mà bảo Đồ Ngạn Giả rằng:

– Đây tức là chỗ công tôn Chử Cữu giấu đứa cô nhi!

Trình Anh đến trước gọi cửa . công tôn Chử Cữu mở cửa ra đón, trông thấy quân sĩ, giả cách hoảng hốt chạy trốn . Trình Anh gọi mà bảo rằng:

– Nhà ngươi chớ chạy, quan tư khấu họ Đồ đã biết đứa cô nhi họ Triệu ở đây rồi; ngài thân hành đến bắt, nhà ngươi nên mau mau đem nộp đi .

Trình Anh nói chưa dứt lời thì quân sĩ đã trói ngay công tôn Chử Cữu lại, đem đến trước mặt Đồ Ngạn Giả . Đồ Ngạn Giả hỏi:

– Đứa cô nhi họ Triệu bây giờ để đâu ?

Công tôn Chử Cữu đáp:

– Thực quả không có!

Đồ Ngạn Giả sai người lục sóat trong nhà thì thấy cửa buồng khóa kỹ lắm . Giáp sĩ phá cửa mà vào . Trong buồng rất tối, nghe như có tiếng trẻ con sợ khóc ở trên một cái giường, bèn ẵm ra ngoài thì thấy tã lót toàn bằng gấm vóc, rõ là một đứa bé con nhà quý phái . Công tôn Chử Cữu trông thấy, muốn chạy đến giành lấy, nhưng bị trói không làm gì được, mới quát to lên mà mắng Trịnh Anh rằng:

– Trình Anh thật là một đứa tiểu nhân! Khi trước họ Triệu bị bắt, ta ước với mày cùng nhau liều chết mà đến cứu, mày có bảo ta rằng công chúa (trỏ Trang Cơ) đang có thai, nếu chết đi thì sau này ai là người phù tá cho cô nhi . Nay công chúa đem cô nhi giao cho mày với ta cùng giấu vào chỗ núi này, bây giờ mày lại tham nghìn nén vàng mà đi tố giác . Ta dẫu chết cũng chẳng tiếc gì, chỉ tiếc rằng không đền được cái ơn của họ Triệu mà thôi!

Công tôn Chử Cữu xỉ mắng Trình Anh luôn miệng, một điều tiểu nhân, hai điều tiểu nhân, khiến Trình Anh hổ thẹn, mặt đỏ bừng, bảo Đồ Ngạn Giả rằng:

– Sao ngài không giết chết nó đi!

Đồ Ngạn Giả truyền đem công tôn Chử Cữu ra chém, rồi xách đứa cô nhi họ Triệu ném mạnh xuống đất chết tươi . Trong khi Đồ Ngạn Giả thân hành vào núi Thú Dương để băt cô nhi họ Triệu, thì ở khắp khinh thanh không có chỗ nào là không bàn tán xôn xao về việc này, người thi mừng thay cho Đồ Ngạn Giả, người thi thương thay cho họ Triệu, bởi vậy quân sĩ canh giữ cửa cung, cũng hơi trễ nải việc khám xét . Hàn Quyết sai một người tâm phúc, giả cách làm thầy thuốc vào cung xem bệnh cho Trang Cơ, đem cái mảnh giấy có chữ “Vũ” của Trình Anh đưa khi trước dán ở trên cái đẫy đựng thuốc . Trang Cơ trông thấy chữ “Vũ” liền hiểu ý ngay . Người thầy thuốc bắt mạch xong, giả cách theo lối đoán bệnh, nói qua mấy câu: thai tiền sản hậu v…vv.. Trang Cơ thấy cung nhân đứng xung quanh đều là người tâm phúc cả, liền đem đứa cô nhi đặt vào đẫy thuốc . Đứa cô nhi kêu khóc rầm lên . Trang Cơ lấy tay vỗ ở ngoài đẩy thuốc mà khấn rằng:

– Triệu Vũ! Triệu Vũ! Nhà ta trăm mạng chết oan, sự việc báo thù chỉ trông vào một thân con đó thôi, khi con ra cửa cung, chớ có kêu khóc!

Trang Cơ dặn xong thì đứa cô nhi không khóc nữa; khi đem ra cửa cung, cũng chẳng ai khám xét gì cả . Hàn Quyết đem được cô nhi họ Triệu ra, khác nào như người được của báu, liền giấu vào một nơi nhà kín, giao cho vú nuôi, dẫu người trong nhà cũng chẳng ai biết được .

Đỗ Ngạn Giả về dinh, đem nghìn nén vàng thưởng cho Trình Anh . Trình Anh từ chối, không chịu nhận thưởng . Đồ Ngạn Giả nói:

– Nhà ngươi chỉ vì cầu thưởng mà ra thú, cớ sao lại còn chối từ ?

Trình Anh nói:

– Tôi trước làm môn khách họ Triệu đã lâu, nay giết cô nhi họ Triệu để gỡ tội, đã làm một điều bất nghĩa, nay lại còn dám tham vàng hay sao . nếu nghĩ đến cái công nhỏ mọn của tôi thì xin dùng số vàng ấy để thu táng cho một nhà họ Triệu, gọii là chút tình của tôi đối với họ Triệuu ngày xưa .

Đồ Ngạn Giả bằng lòng mà nói rằng:

– Nhà ngươi thật là một người có nghĩa! Những thây rơi của họ Triệu, ta cho phép nhà ngươi được dùng số vàng này mà thu táng .

Trình Anh lạy tạ, nhận lấy nghìn nén vàng, rồi thu táng thây rơi họ Triệu, ở bên cạnh mộ Triệu Thuẫn . Khi thu táng đã xong, lại đến tạ ơn, thì Đồ Ngạn Giả muốn giữ lại để bổ dụng . Trình Anh ứa nước mắt mà nói rằng:

– Tôi chỉ vì tham sống sợ chết mà làm cái việc bất nghĩa này, còn mặt mũi nào trông thấy người nước Tấn nữa! Từ đây, chỉ xin bỏ cửa nhà để đi kiếm ăn nuôi miệng ở phương xa mà thôi!

Trình Anh cáo từ Đồ Ngạn Giả, rồi đến yết kiến Hàn Quyết . Hàn Quyết đem đứa cô nhi họ Triệu và một người vú nuôi giao cho Trình Anh . Trình Anh nhận làm con mình, đem vào núi Mạnh Sơn để nuôi giấu . Về sau người ta gọi núi ấy là Tàng Sơn .

Đến ba năm sau, Tấn Cảnh công ra chơi Tân Điền, thấy chỗ ấy ruộng đất tốt lắm, mới thiên đô ra ở đấy, gọi là Tân Giáng, còn đô thành cũ thì gọi là Cố Giáng . Triều thần làm lễ chúc mừng . Cảnh công đặt tiệc ở nội cung để khoản đãi . Trời đã gần tối, nội thị sắp sửa thắp nến, thì bỗng có một trận gió dữ, cuốn vào trong cung điện, hơi lạnh buốt người, ai cũng kinh sợ . Trận gió vừa qua thì Tấn Cảnh công thấy một con ma đầu bù, mình dài hơn trượng, xoã tóc đến tận đất, ở ngoài cửa bước vào, quát tó lên mà mắng rằng:

– Trời ơi! con cháu ta có tội gì mà nhà ngươi giết đi, ta đã tâu với Ngọc hoàng thượng đế, cho đến đây để đánh chết nhà ngươi .

Nói xong, giơ đùi đồng đánh Tấn Cảnh công . Tấn Cảnh công kêu rầm lên rằng:

– Các quan cứu ta với!

Miệng kêu, tay rút thanh kiếm để chém con ma, chẳng ngờ lại chém phải ngón tay của mình . Triều thần không hiểu ra làm sao, vội vàng xúm lại giật lấy thanh kiếm . Tấn Cảnh công hộc máu tươi ra đằng miệng, rồi ngã lăn xuống đất.

Chương 58: Ngụy Tướng sang Tần đón thầy thuốc – Dưỡng Thúc vì vua bắn kẻ thù

Tấn Cảnh công bị con ma đánh, hộc máu tươi ra đằng miệng, ngã lăn xuống đất . Nội thị vực vào trong phòng, giờ lâu mới dần dần tỉnh lại . Các quan đều không được vui mà tan về cả . Cảnh công ốm nặng không dậy được . Nội thị tâu rằng ở đất Tang môn có người thầy cúng cao tay lắm, ban ngày trông thấy ma quỷ được, xin cho đi triệu đến . Tấn Cảnh công cho đi triệu . Thầy cúng đất Tang Môn mới vào cửa phòng, đã nói ngay là có ma quỷ . Cảnh công hỏi hình dáng ma quỷ ấy thế nào . Thầy cúng nói:

– Đầu bù tóc xoã, mình cao hơn trượng, thường hay lấy tay đánh vào ngực, trông rất hung tợn!

Cảnh công nói:

– Thầy cúng nói chính hợp với măt ta trông thấy . Con ma ấy bảo là ta giết oan con cháu nó, không biết nó là ai ?

Thầy cúng nói:

– Tất là người công thần đời trước mà nay con cháu bị chết oan!

Cảnh công ngạc nhiên nói rằng:

– Ý chừng người ấy là tổ họ Triệu!

Đồ Ngạn Giả đứng bên cạnh, liền tâu với Cảnh công rằng:

– Thầy cúng này nguyên là môn khách họ Triệu, nên mượn chuyện này để nói gỡ cho họ Triệu, chúa công chớ nên nghe .

Cảnh công nín lặng . Được một lúc lại hỏi thầy cúng rằng:

– Con ma ấy có thể cúng được không ?

Thầy cúng nói:

– Con ma ấy đang có lòng căm tức, dẫu cúng cũng vô ích .

Cảnh công nói:

– Vậy thì cái hạn lớn của ta thế nào ?

Thầy cúng nói:

– Tôi xin liều chết mà nói thẳng rằng cứ như bệnh tình của chúa công thì e không kịp nếm lúa mạch mới .

Đồ Ngạn Giả bảo thầy cúng rằng:

– Chỉ trog một tháng nữa thì lúa mạch chín . Chúa công dẫu có bệnh, nhưng tinh thần còn tráng kiện, đã đến nỗi nào! Nếu chúa công được nếm lúa mạch mới thì ta chém đầu nhà ngươi!

Đồ Ngạn Giả nói xong, liền đuổi thầy cúng ra . Sau đó bệnh Tấn Cảnh mỗi ngày một nặng thêm . Y sinh nước Tấn vào xem, không biết là chứng bệnh gì, không dám cho thuốc . Quan đại phu là Nguỵ Tướng (con Ngụy Kỳ) nói với mọi nguời rằng:

– Ta nghe nói nước Tần có hai người danh y là Cao Hoà và Cao Hoãn, được Biển Thước truyền nghề cho, chữa bệnh tài lắm, hiện đang làm chức thái y ở nước Tần . Nay muốn chữa bệnh cho chúa công thì tấ phải mời người ấy mới được .

Mọi người đều nói:

– Tần là một nước cừu địch với ta, khi nào lại chịu cho thầy thuốc sang chữa bệnh cho chúa công ta!

Nguỵ Tướng nói:

– Có tai nạn gì thì giúp đỡ lẫn nhau, ấy là việc hay của nước láng giềng! Tôi dẫu hèn mọn, cũng xin đem ba tấc lưỡi mà báo được nước Tần phải cho danh y sang cứu chữa cho chúa công .

Mọi người đều nói:

– Nếu được như vậy thì cả triều đều cám ơn ông lắm .

Ngụy Tướng tức khắc thẳng đường đi sang nước Tần . Tần Hoàn công hỏi đến có việc gì .

Ngụy Tướng tâu rằng:

– Chúa công tôi chẳng may bị bệnh, nghe nói quý quốc có hai danh y là Cao Hoà và Cao Hoãn, có tài khởi tử hồi sinh, vậy tôi sang mời, để về chữa bệnh cho chúa công tôi .

Tần Hoàn công nói:

– Nước Tấn đã nhiều lần vô lý đánh nhau với quân ta; nước ta dẫu có danh y, khi nào lại chịu chữa bệnh cho vua Tấn!

Nguỵ Tướng nghiêm nét mặt đáp rằng:

– Nhà vua nghĩ thế là sai lắm! Quý quốc cùng tôi là láng giềng, bởi vậy vua Hiến công tôi ngày xưa cùng vua Mục công ở bên quý quốc đã kết thân với nhau, để định đời đời cùng nhau giao hiếu, thế mà vua Mục công lúc trước dẫu có giúp vua Huệ công tôi về nước, lại gây việc tranh chíên ở đất Hàn Nguyên; lúc sau dẫu có giúp vua Văn công về nước, lại bội lời thề ước ở sông Dĩ Thuỷ, có phải là những sự thù oán đều tự quý quốc ra cả đó không ? Khi vua Văn công tôi tạ thế đi rồi, Tần Mục công lại quá nghe lời Mạnh Minh, khinh vua Tương công tôi hãy còn trẻ tuổi, đem quân qua núi Hào Sơn, đánh lén nước phụ thuộc của nước tôi, để đến nỗi thua quân; nước tôi bắt được ba quan nguyên sóai mà đều tha cho về, rồi sau qúy quốc lại trái lời thề, đem quân sang đi đánh Sùng mà quý quốc lại đem quân cùng với nước tôi giao chiến; đến chúa công tôi bây giờ, sang hỏi tội nước Tề thì nhà vua lại sai Đỗ Hồi đem quân cứu Tề . Lúc thua không chừa, lúc được không thôi; những mối thù oán, đều là tại qúy quốc cả ! Nhà vua thử nghĩ xem như thế là nước tôi xâm phạm quý quốc, hay là quý quốc xâm phạm nuớc tôi ? Nay chúa công tôi có bệnh, muốn cầu danh y của quý quốc, các quan triều thần nước tôi đều nói: “Tần là một nước cừu địch với ta, khi nào chịu cho” ! Tôi cãi rằng: “Không phải! Vua Tần đã làm nhiều việc trái lẽ, chắc đâu không biết hối, chúyến này, tôi sẽ nhân việc cầu danh y mà nối lại cái tình hoà hảo của đấng tiên quân ta thuở xưa”. Nay nhà vua không cho thì lời nói của các quan triều thần nước tôi là trúng lắm rồi . Thế là cái đạo láng giềng nên phải giúp nhau mà nhà vua không giúp; cái đạo làm thầy thuốc là phải cứu sống người mà nhà vua ngăn thầy thuốc đi cứu sống người, tôi dám chê nhà vua lắm!

Tần Hoàn công thấy Nguỵ Tướng lời lẽ khảng khái, bày tỏ rành mạch thì bất giác sinh lòng kính trọng mới bảo Nguỵ Tướng rằng:

– Nhà ngươi trách ta như thế là phải, ta xin vâng lời .

Nói đoạn truyền cho thái y là Cao Hoãn sang ngay nước Tấn . Ngụy Tướng tạ ơn, rồi cùng với Cao Hoãn ngay đêm ấy rời khỏi Ung Chân mà tiến thẳng về Tân Giáng . Tấn Cảnh công ốm nặng, ngày đêm mong đợi thầy thuốc nước Tần, bỗng nằm mộng thấy hai đứa bé con ở trong lỗ mũi chui ra . Một đứa nói: “Cao Hoãn nước Tần là danh y đời bây giờ, nếu hắn đến chữa thuốc thì chúng ta tất bị hại, biết làm thế nào mà tránh được ?” Đứa kia nói: “Chúng ta tránh vào phía trên mạng mỡ, phía dưới quả tim thì hắn làm gì ta nổi!”

Được một lúc thì Tấn Cảnh công kêu đau bụng rầm rĩ cả lên, không thể chịu được . Nguỵ Tướng đưa Cao Hoãn vào . Cao Hoãn xem mạch xong, nói với Tấn Cảnh công rằng:

– Bệnh này không thể nào mà chữa được nữa!

Tấn Cảnh công hỏi:

– Tại sao ?

Cao Hoãn nói:

– Bệnh này ở phía trên mạng mỡ, phía dưới quả tim, dẫu đốt cũng không thấu được, dẫu châm cũng không tới được, còn chữa làm sao, chẳng qua cũng là mệnh trời!

Tấn Cảnh công khen rằng:

– Nhà ngươi thật là danh y! Lời nói hợp với trong mộng của ta lắm!

Nói xong truyền đem lễ vật tiễn đưa Cao Hoãn trở về nước Tần . Bấy giờ có một người tiểu nội thị tên gọi Giang Trung, hầu hạ mỏi mệt quá, đang giữa ban ngày, bỗng chợp mắt ngủ đi, thấy mình công Tấn Cảnh công bay lên trên trời; khi tỉnh dậy, nói chuyện với những người xung quanh, lại vừa gặp Đồ Ngạn Giả vào cung thăm bệnh, nghe được cái mộng ấy liền nói với Cảnh công rằng:

– Trời là dương minh, bệnh là âm ám, nay thấy bay lên trên trời, thế là bỏ chỗ âm ám mà tới chỗ dương minh, bệnh chúa công tất gần đến ngày khỏi .

Tấn Cảnh công hôm ấy thấy trong mình cũng hơi dễ chịu, lại nghe lời nói của Đồ Ngạn Giả, có ý mừng thầm . Bỗng có kẻ điền nhân đem lúa mạch mới vào dâng . Tấn Cảnh công muốn ăn ngay, liền sai nhà bếp đem một nữa giã nhỏ ra để nấu cháo . Đồ Ngạn Giả căm tức người thầy cúng về việc nói họ Triệu chết oan, mới tâu với Cảnh công rằng:

– Ngày trước thầy cúng nói: chúa công không kịp nếm lúa mạch mới, nay câu nói ấy không nghiệm, xin triệu đến mà bảo cho hắn biết .

Tấn Cảnh công theo lời, triệu người thầy cúng đất Tang Môn vào, rồi sai Đồ Ngạn Giả quở trách rằng:

– Lúa mạch mới đã để đây rồi, nhà ngươi còn dám bảo là chúa công không kịp nếm nữa hay thôi ?

Thầy cúng nói:

– Chưa chắc!

Tấn Cảnh công nghe nói tức thì biến sắc . Đồ Ngạn Giả nói:

– Bề tôi mà dám nguyền rủa vua thì tội đáng chém!

Đồ Ngạn Giả truyền đem người thầy cúng ra chém . Người thầy cúng thở dài mà than thân rằng:

– Thương hại cho ta, vì giỏi một nghề nhỏ mọn mà đến nỗi thiệt đời!

Quân sĩ đem đầu người thầy cúng đất Tang Môn vào nộp, lại vừa gặp nhà bếp dâng bát cháo lúa mạch; bấy giờ trời đang trưa, Tấn Cảnh công toan cầm lấy bát cháo lúa mạch để ăn, tự nhiên bụng phát chướng lên, muốn đi ra ngoài, vội vàng gọi Giang Trung, bảo cõng ra nhà xí . Giang Trung cõng ra đến nơi thì Tấn Cảnh công đau bụng quá, chân đứng không vững, ngã lăn xuống hố xí . Giang Trung lóp ngóp ẵm lên thì đã tắt hơi . Chung qui vẫn là không kịp nấu lúa mạch mới mà giết oan người thầy cúng cao tay ở đất Tang Môn, đó đều là cái tội của Đồ Ngạn Giả . Quan thượng khanh là Loan Thư cùng triều thần lập thế tử Châu Bồ lên nối ngôi, tức là Tấn Lệ công . Triều thần công nghị rằng:

– Giang Trung khi trước đã nằm mộng thấy cõng vua Cảnh công ta lên trời, sau có cõng ra nhà xí, chính là ứng cái mộng ấy, bèn đem Giang Trung tuẫn táng . Người nước Tấn nhân việc Cảnh công chết về bệnh ma quỷ, đều bàn tán về nỗi oan ức của họ Triệu, nhưng họ Loan và họ Khước đều thân thiện với Đồ Ngạn Giả còn Hàn Quyết một mình thế cô, nên cũng không dám nói .

Bấy giờ, Tống Cung sai quan thượng khanh là Hoa Nguyên sang nước Tấn để viếng vua cũ và mừng vua mới . Hoa Nguyên cùng với Loan Thư thương nghị, muốn cho Tấn và Sở giảng hoà với nhau, để khỏi gây ra việc tranh chiến . Loan Thư nói:

– Nước Sở không nên tin!

Hoa Nguyên nói:

– Tôi với công tử Anh Tề nước Sở là chỗ quen thân, việc này tôi có thể đảm nhiệm được .

Loan Thư liền sai con là Loan Hàm cùng với Hoa Nguyên sang nước Sở, vào yết kiến công tử Anh Tề . Công tử Anh Tề trông thấy Loan Hàm hãy còn trẻ tuổi, mặt mũi khôi ngô, liền hỏi Hoa Nguyên . Hoa Nguyên nói là con quan trung quân nguyên soái ở nước Tấn, công tử Anh Tề muốn thử tài, mới hỏi Loan Hàm rằng:

– Phép dùng quân của qúy quốc thế nào ?

Loan Hàm nói:

– Nghiêm chỉnh .

Công tử Anh Tề lại hỏi:

– Còn có cái gfi hay hơn nữa không ?

Loan Hàm nói:

– Nhàn hạ .

Công tử Anh Tề nói:

– Người ra rối loạn mà mình nghiêm chỉnh, người ta vội vàng mà mình nhàn hạn thì đánh đâu mà chẳng được . Câu nói ấy thật giản dị mà có thể tóm tắt hết được phép dùng quân .

Vì vậy công tử Anh Tề càng thêm kính trọng Loan Hàm, và đưa vào yết kiến Sở Cung vương, để bàn định việc giảng hoà của hai nước . Sở Cung vương bằng lòng rồi hẹn ngày cho ăn thề . Ngày hôm ấy Sĩ Nhiếp nước Tấn và công tử Bỉ nước Sở cùng làm lễ quệt máu ăn thề ở ngoài cửa tây nước Tống .

Quan tư mã nước Sở là công tử Trắc không được dự bàn về việc ấy, mới nổi giận mà nói rằng:

– Nam bắc từ xưa vẫn không giao thông với nhau, nay công tử Anh Tề lại muốn chuyên cái công hợp nhất, làm thế nào ta cũng phải phá mới được .

Công tử Trắc dò thám biết tin Vu Thần hợp với vua nước Ngô là Thọ Mộng cùng các quan đại phu nước Tấn, nước Lỗ, nước Tề, nước Tống, nước Vệ và nước Trịnh, hội ở đất Chung Ly, mới nói với Sở Cung vương rằng:

– Nước Tấn giao thông với nước Ngô, tất là có ý mưu hại nước Sở ta . Nay Tống và Trịnh đều theo Tấn thì các nước phụ thuộc của Sở ta không còn gì nữa!

Sở Cung vương nói:

– Ta muốn đánh Trịnh, chỉ ngại về lời thề ở Tây Môn .

Công tử Trắc nói:

– Công việc ngày nay, đàng nào lợi thì làm, cần gì lời thề!

Sở Cung vương liền sai công tử Trắc đem quân đi đánh Trịnh . Nước Trịnh lại bỏ Tấn theo Sở . Tấn Lệ công giận lắm, họp các quan đại phu để bàn việc đánh Trịnh . Bấy giờ Loan Thư dẫu làm trung quân nguyên soái, nhưng quyền chính ở tay ba người họ Khước:

1. Khước Kỳ (con Khước Khắc) làm thượng quân nguyên soái .

2. Khước Thù (em họ Khước Khắc) làm thượng quân phó tướng .

3. Khước Chí (cháu Khước Bộ Dương) làm tân quân phó tướng .

Con Khước Thù là Khước Nghị và em Khước Chí là Khước Khất đều làm quan đại phu . Bá Tôn là người ngay thẳng, đã nhiều lần đem việc họ Khước chuyên quyền nói với Tấn Lệ công, bảo nên chọn người nào tài giỏi, hãy cho làm quan, để nén bớt quyền thế họ Khước đi thì mới bảo toàn được con cháu công thần . Lệ công không nghe lời . Ba người họ Khước căm tức Bá Tôn, mới dèm pha Bá Tôn hay chê bai triều chính . Tấn Lệ công bèn bắt Bá Tôn đem giết đi . Con Bá Tôn là Bá Châu Lê trốn sang nước Sở . Nước Sở dùng làm quan thái tề, để bàn mưu làm hạii nước Tấn . Tấn Lệ công vốn có tính kiêu ngạo xa xỉ, ngoài thì tin yêu bọn Tư Đồng (con Tư Khắc, cháu Tư Giáp) là một lũ thiếu niên mà đều được làm quan đại phu cả; còn trong thì những mỹ cơ ái tỳ, không biết bao nhiêu mà kể, ngày đêm vui chơi, chẳng thiết gì đến triều chính . Bởi vậy triều thần ai cũng có ý chán nản . Sĩ Nhiếp thấy triều chính mỗi ngày một dỡ, nên không muốn đánh Trịnh nữa . Khước Chí nói:

– Nếu không đánh Trịnh thì sao cho chư hầu phục ?

Loan Thư nói:

– Ngày nay bỏ mất nước Trịnh thì Tống và Lỗ tất cũng ly tán mà thôi, Ôn Qúy (tức là Khước Chí) nói phải lắm!

Miêu Bí Hoàng (hàng tướng nước Sở, sang làm quan ở nước Tấn) cũng khuyên Tấn Lệ công nên đánh Trịnh . Tấn Lệ công nghe lời, liền giao quốc chính cho Tuân Dinh, rồi đem quân tiến sang nước Trịnh; lại một mặt sai Khước Thù cùng Loan Áp sang mượn thêm quân Lỗ và Vệ .

Trịnh Thành công nghe nói quân Tấn thế mạnh thì toan sai người ra xin hàng . Quan đại phu là Diêu Câu Nhĩ nói:

– Nước Trịnh ta nhỏ mọn, ở và giữa khoảng hai nước lớn, chỉ nên chọn một nước mạnh mà theo, cớ sao lại nay Sở mai Tấn, để đến nỗi năm nào cũng phải chịu cái tai vạ chiến tranh .

Trịnh Thành công nói:

– Vậy thì biết làm thế nào ?

Diêu Câu Nhĩ nói:

– Cứ như ý tôi thì không gì bằng sang nước Sở cầu cứu, hễ quân Sở đến thì ta cùng với Sở cố sức mà đánh vỡ quân Tấn, mới có thể giữ yên được trong mấy năm .

Trịnh Thành công liền sai Diêu Câu Nhĩ sang nước Sở để cầu cứu . Sở Cung vương vẫn ngại về lời thề ở Tây Môn, không muốn cất quân, mới hỏi công tử Anh Tề . Công tử Anh Tề nói:

– Vì ta thất tín, Tấn mới đem quân đánh Trịnh, nay ta lại cứu Trịnh đánh Tấn thì làm khổ dân mà vị tất đã đánh được, chi bằng ta hãy đợi thời .

Công tử Trắc nói:

– Người nước Trịnh không nỡ bội nước Sở ta, vậy nên mới đến cầu cứu . Nước ta trước đã không cứu Tề, nay lại không cứu Trịnh thì chư hầu, ai còn muốn theo ta nữa . Tôi dẫu hèn mọn, cũng xin đem một toán quân theo đại vương đi cứu Trịnh .

Sở Cung vương bằng lòng, cho công tử Trắc làm đại tướng, rồi đem quân tiến sang nước Trịnh . Sĩ Nhiếp nghe tin quân Sở sang cứu Trịnh, bảo Loan Thư rằng:

– Chúa công ta còn trẻ tuổi, không biết việc nước, nay ta giả cách sợ nước Sở mà lui quân, khiến cho chúa công ta biết nghĩ lại, mới có thể giữ yên được nước nhà .

Loan Thư nói:

– Sợ nước Sở mà lui quân việc ấy tôi không dám làm!

Sĩ Nhiếp lui ra, rồi thở dài mà nói rằng:

– Chuyến này thua là may, nếu thắng trận thì ta chỉ e rằng trong nước lại sinh ra biến loạn .

Bấy giờ quân Sở đã kéo đến đất Yên Lăng . Quân Tấn không tiến binh được nữa, phải đóng lại ở Bành Tổ Cương . Ngày hôm sau nhằm vào ngày nguyệt tận, gọi là ngày hối . Theo như binh pháp thì ngày hối phải kiêng không cất quân, bởi vậy quân Tấn chẳng phòng bị gì cả . Gần hết canh năm, vào báo rằng quân Sở đã bày trận hò hét om sòm, quân canh vào báo rằng quân Sở đã bày trận ở phía ngoài dinh, Loan Thư giật mình kinh sợ mà nói rằng:

– Quân Sở đã kéo đến tận dinh ta mà bày trận, nếu ta giao chiến, tất là bất lợi, chi bằng ta hãy họp các tướng lại để thương nghị .

Các tướng mỗi người nói một cách: người thì nói nên chọn quân tinh nhuệ mà xông vào quân Sở; người thì nói nên rút về phía sau . Bấy giờ con Sĩ Nhiếp là Sĩ Mang, mới 16 tuổi, nghe các tướng bàn mãi không xong, liền vào nói với Loan Thư rằng:

– Nguyên soái lo không có chỗ bày trận hay sao, tôi thiết tưởng đó là một việc rất dễ!

Loan Thư nói:

– Nhà ngươi có kế gì ?

Sĩ Mang nói:

– Ta mật truyền quân sĩ đóng chặt cửa dinh lại, rồi đem bao nhiêu những bếp đun, san phẳng cả đi, còn giếng thì dùng ván bắc ngang lên mà lấy kín lại, như thế thì chỉ trong một hồi lâu là có thừa chỗ bày trận mà thôi . Khi đã bày trận xong sẽ mở cửa dinh ra để giao chiến, thì quân Sở làm gì ta nổi!

Loan Thư nói:

– Bếp và giếng là những chỗ cần dùng, nếu san bếp lấp giếng thì lấy gì mà ăn ?

Sĩ Mang nói:

– Ta hãy truyền cho quân sĩ sắ sẵn lương khô và ước uống đủ dùng trong một, hai ngày, đợi khi bày trận xong, sẽ cho những quân già yếu ra phía sau dinh, làm bếp khác và khai giếng khác .

Sĩ Nhiếp vốn không muốn đánh, thấy con hiến kế, nổi giận mà mắng rằng:

– Việc binh thắng hay là phụ quan hệ ở mệnh trời . Mày biết gì mà dám nói láo!

Nói xong cầm giáo đuổi theo . Các tướng vội vàng đổ ra, ôm Sĩ Nhiếp lại, Sĩ Mang mới chạy thoát . Loan Thư cười mà bảo rằng:

– Trí khôn của đứa trẻ ấy lại có phần hơn Phạm Mạnh (tức là Sĩ Nhiếp)!

Loan Thư theo kế Sĩ Mang, truyền cho quân sĩ san bếp lấp giếng, rồi định ngày để giao chiến với quân Sở . Sở Cung vương tiến áp đến dinh quân Tấn mà bày trận, trong lòng nghĩ thầm rằng ta nhân lúc bất ngờ mà làm như thế, tất nhiên quân Tấn phải rối loạn, sau thấy quân Tấn vẫn im lặng như tờ, mới hỏi quan thái tể là Bá Châu Lê rằng:

– Tại sao quân Tấn im lặng như vậy, nhà ngươi là người nước Tấn, tất biết rõ cớ ấy ?

Bá Châu Lê nói:

– Xin đại vương trèo lên xe chòi mà xem

Sở Cung vương trèo lên xe chòi, cho Bá Chân Lê đứng ở bên cạnh . Sở Cung vương hỏi:

– Quân Tấn làm gì mà lúc thì chạy sang phía tả, lúc thì chạy sang phía hữu như thế kia ?

Bá Châu Lê nói:

– Đó là đang gọi quân lại .

Sở Cung vương nói:

– Sao bây giờ lại họp cả ở trung quân như vậy ?

Bá Châu Lê nói:

– Đó là họp để bàn mưu .

Sở Cung vương nói:

– Căng màn ra làm gì thế kia ?

Bá Châu Lê nói:

– Đó là làm lễ cáo với tiên quân .

Sở Cung vương nói:

– Sao bây giờ lại cất màn đi ?

Bá Châu Lê nói:

– Đó là đang tuyên bố hiệu lệnh .

Sở Cung vương nói:

– Tại sao trong quân huyên náo, lại có nhiều cát bụi bay mù lên như vậy ?

Bá Châu Lê nói:

– Quân Tấn đang san bếp lấp giếng để lấy chỗ bày trận .

Sở Cung vương nói:

– Xe đều đóng ngựa rồi! Tướng sĩ đều lên xe rồi!

Bá Châu Lê nói:

– Đó là đã kết thành trận thế .

Sở Cung vương nói:

– Tướng sĩ đã lên xe, sao lại còn xuống ?

Bá Châu Lê nói:

– Đó là sắp giao chiến mà còn cúng thần .

Sở Cung vương nói:

– Ta xem quân Tấn khí thế hùng dũng lắm! hay là có vua Tấn ở đó chăng ?

Bá Châu Lê nói:

– Đó là họ Loan và họ Phạm lấy uy danh vua Tấn mà bày trận, ta chớ nên khinh thường .

Sở Cung vương biết hết tình hình quân Tấn, mới truyền cho quân sĩ phải sửa soạn sẵn sàng, để đến ngày hôm sau giao chiến . Hàng tướng nước Sở là Miêu Bí Hoàng (con Đấu Việt Lâm trống sang làm quan ở nước Tấn) cũng đứng hầu ở bên cạnh Tấn Lệ công, tâu với Tấn Lệ công rằng:

– Từ khi quan lệnh doãn nước Sở là Tôn Thúc Ngao chết đi, quân chính nước Sở chẳng có phép tắc gì cả, hai đạo tinh binh gọi là Lưỡng Quảng, lâu ngày không tuyển mộ thêm, nhiều người già yếu không thể giao chiến được, hai quan nguyên soái thì bất hoà với nau, tôi chắc rằng ta chỉ đánh một trận là phá được quân Sở .

Ngày hôm ấy, hai bên vẫn còn giữ thế chưa giao chiến, tướng nước Sở là Phan Đảng ra sau dinh tập bắn, vừa bắn trúng luôn ba phát, các tướng đều reo mừng, khen ngợi rầm rĩ lại vừa gặp có Dưỡng Do Cơ đến, các tướng trông thấy đều nói:

– Lại có một tay thần tiễn nữa đến kia!

Phan Đảng nổi giận nói rằng:

– Ta bắn như thế, phỏng đã kém Dưỡng Thúc (tức là Dưỡng Do Cơ) cái gì ?

Dưỡng Do Cơ nói:

– Nhà ngươi bắn trúng cái đích kia, chưa lấy gì làm lạ, ta đây có thể bắn “bách bộ xuyên dương” kia!

Các tướng đều hỏi:

– “Bách bộ xuyên dương” là thế nào ?

Dưỡng Do Cơ nói:

– Trước đây có người lấy thuốc màu đánh dấu một cái lá trên một cây dương, ta đứng ở ngoài trăm bước bắn một phát mà trúng vào giữa cái lá ấy, bởi thế mới gọi là “bách bộ xuyên dương”.

Các tướng nói:

– Ở đây cũng có cây dương, nhà ngươi thử bắn xem có được không ?

Dưỡng Do Cơ nói:

– Sao lại không được!

Các tướng mừng lắm nói:

– Ngày nay ta lại được xem mũi tên thần của Dưỡn thúc!

Các tướng lấy mực bôi vào một cái lá ở trên cây dương, để cho Dưỡng Do Cơ đứng ngòai trăm bước mà bắn thử . Dưỡng Do Cơ đứng bắn một phát . Các tướng không thấy cái tên rơi xuống đất, liền xúm lại xem thì ra cái tên ấy vướng ở trên cành cây dương mà mũi tên xuyên qua cái lá đã bôi mực . Phan Đảng nói:

– May mà trúng đó thôi! Bay giờ ta theo thứ tự mà đánh dấu vào ba cái lá, nhà ngươi lại theo thứ tự mà bắn trúng được cả ba thì mới là tay giỏi!

Dưỡng Do Cơ nói:

– Ta chưa dám chắc, nhưng hãy xin bắn thử!

Phan Đảnhg đánh dấu ba cái lá ở trên cây dương, ở ba chỗ cao thấp khác nhau: cái đề chữ “nhất”, cái đề chữ “nhị” và cái đề chữ “tam” . Dưỡn Do Cơ nhìn qua một lượt, rồi lui ra ngoài trăm bước, lấy ba cái tên, cũng ghi số hiệu nhất, nhị, tam, rồi theo thứ tự mà bắn luôn ba phát, đều trúng tất cả . Các tướng cùng chắp tay vái Dưỡng Do Cơ mà khen rằng:

– Nhà ngươi thật là người thần!

Phan Đảng dẫu trong lòng khen thầm, nhưng lại muốn khoe tài của mình, mới bảo Dưỡn Do Cơ rằng:

– Dưỡng thúc bắn như thế cũng cho là giỏi, nhưng nghề bắn lại cần phải có sức khỏe mới được; ta đây có thể bắn suốt qua được mấy lần áo giáp, để ta thử bắn cho các ngươi xem .

Các tướng đều nói:

– Chúng tôi muốn xem lắm!

Phan Đảng sai quân sĩ xếp liền với nhau năm lần áo giáp .

Các tướng nói:

– Thôi thế cũng đã đủ rồi!

Phan Đảng lại sai để thêm hai lần nữa, cả thảy là bảy lần . Các tướng đều nghĩ thầm: bảy lần áo giáp, có khi dày gần tới một thước, tài nào bắn xuyên qua được! Phan Đảng sai đem bảy lần áo giáp treo lên trên cái đích bia, rồi đứng ở ngoài trăm bước, cố sức thẳng cánh giương cung bắn ngay một phát, chỉ nghe tiếng tên bay vụt đi, không thấy rơi xuống đất . Các tướng xúm lại xem, ai nấy đều reo rầm lên rằng:

– Bắn giỏi quá! giỏi quá!

Nguyên Phan Đảng bắn mạnh quá, cái tên ấy suốt qua bảy lần áo giáp, như đang đóng cột, không thể lay động được . Phan Đảng nét mặt có ý khoe khoang, bảo quân sĩ đem mấy lần áo giáp ấy xuống, và cứ để cái tên y nguyên như vậy, định đưa khắp cho cả dinh cùng xem . Dưỡng Do Cơ mới bảo các tướng rằng:

– Khoan đã! đừng hạ xuống vội, để ta thử bắn một phát nữa xem sao!

Các tướng nói:

– Ừ, phải đó! để chúng ta xe tài Dưỡng thúc chuyến nữa!

Dưỡng Do Cơ giương cung lên, toan bắn lại thôi . Các tướng hỏi:

– Sao Dưỡng thúc lại không bắn ?

Dưỡng Do Cơ nói:

– Nếu cứ theo lối cũ mà bắn thì không lấy gì làm lạ; ta đây có một cách bắn khác .

Dưỡng Do Cơ nói xong, liền bắn ngay một phát . Phát tên ấy không cao, không thấp, không lệch về hai bên, lại cắm thẳng ngay vào cái đốc tên của Phan Đảng mà đẩy sang phía bên kia, còn cái tên của Dưỡng Do Cơ thì lại thế vào chỗ thủng ấy . Các tướng trông thấy, ai cũng lắc đầu lè lưỡi mà khen là tài . bấy giờ Phan Đảng mới chịu phục mà nói rằng:

– Dưỡng thúc thật là một tay tuyệt vời, ta không thể theo kịp!

Các tướng nói:

– Nay Tấn, Sở hai nước sắp giao chiến với nhau, chính là lúc cần dùng tài bắn, hai vị tướng quân có tài như vậy, ta nên tâu lên đại vương biết .

Các tướng bèn sai quân sĩ khiêng mấy lần áo giáp ấy đến trước mặt Sở Cung vương . Dưỡng Do Cơ và Phan Đảng cũng cùng đến cả . Các tướng đem những việc hai người bắn thi với nhau thuật lại cho Sở Cung vương nghe, và tâu với Sở Cung vương rằng:

– Nước ta có người bắn giỏi như thế thì dẫu trăm vạn quân Tấn cũng chẳng làm gì nổi ?

Sở Cung vương nổi giận mà mắng rằng:

– Làm tướng đánh giặc, cần phải dùng mưu kế, chứ sao lại cầu may ở một mũi tên! nhà ngươi tự phụ như thế thì tất có ngày lại chết về nghề!

Sở Cung vương liền thu lấy cái tên của Dưỡng Do Cơ, không cho bắn nữa . Dưỡng Do Cơ hổ thẹn lui ra .

Đầu trống canh năm hôm sau, Tấn Lệ công và Sở Cung vương cùng truyền cho quân sĩ nổi hiệu trống đem quân ra trận . Trịnh Thành công cũng đem quân đến tiếp ứng cho quân Sở . Tấn Lệ công đem quân ra, tiến thẳng đến trận địa quân Sở, chẳng ngờ có một chỗ bùn lầy, xe Tấn Lệ công sụt bánh, ngựa không thể nào kéo lên nổi . Con Sở Cung vương là Hùng Phiệt tuổi trẻ hăng hái trông thấy Tấn Lệ công sa lầy, liền thúc quân đến đánh . Tướng nước Tần là Loan Hàm vội vàng ở trên xe nhảy xuống, đứng giữa bùn lấy hết sức bình sinh, hai tay nâng hai bánh xe lên, bấy giờ ngựa mới ra khỏi được . Khi Hùng Phiệt đem quân đến nơi thì vừa gặp có toán quân của Loan Thư đến . Loan Thư quát to lên rằng:

– Tiểu tướng không đựơc vô lễ!

Hùng Phiệt trông thấy trên lá cờ để bốn chữ: “Trung quân nguyên soái”, biết là đại binh, giật mình khinh sợ, vội vàng bỏ chạy . Loan Thư đuổi theo, bắt sống được Hùng Phiệt . Quân Sở thấy Hùng Phiệt bị bắt, đều đổ xô lại cứu, nhưng vừa lúc ấy thì Sĩ Nhiếp và Khước Chí cũng đem quân đến, quân Sở sợ có mai phục, lại phải thu quân trở về . Quân Tấn cũng không đuổi theo quan Sở nữa . Loan Thư giải Hùng Phiệt về nộp Tấn Lệ công . Tấn Lệ công toan chém . Miêu Bí Hoàng nói với Tấn Lệ công rằng:

– Vua Sở nghe tin con bị bắt, ngày mai tất nhiên đem quân đến đánh, ta nên bỏ Hùng Phiệt vào tù xa, đem ra trước trận mà dụ vua Sở .

Tấn Lệ công khen phải . Sáng hôm sau, Loan Thư truyền mở cửa dinh để sửa soạn khai chiến với quân Sở . Quan đại tướng là Nguỵ Kỳ báo Loan Thư rằng:

– Đêm qua tôi nằm mộng thấy tôi giương cung bắn trúng vừng trăng, một dải hào quang ở trong mặt trăng toé thẳng xuống đất, tôi vội vàng lùi lại, chẳng ngờ trượt chân sa xuống chỗ bùn lầy, rồi giật mình tỉnh dậy, không biết đó là điềm gì ?

Loan Thư đóan rằng:

– Cùng họ với nhà Chu ta là mặt trời thi khác họ tất là mặt trăng, bắn trúng mặt trăng, tất là bắn trúng vua Sở; nhưng lùi lại mà sa vào bùn lầy thì không phải là điềm lành, tướng quân nên cẩn thận mới được!

Nguỵ Kỳ nói:

– Nếu phá vỡ quan Sở thì tôi dẫu chết, cũng được thoả lòng!

Loan Thư liền cho Ngụy Kỳ đem quân ra trận, gặp tướng nước Sở là Doãn Tương ra nghênh chiến . Hai người đánh nhau mới được mấy hợp thì quân Tấn đem tù xa chở Hùng Phiệt ra . Sở Cung vương trông thấy, hầm hầm nổi giận, tức khắc giục ngựa tiến vào, định cướp lấy Hùng Phiệt đem về . Ngụy Kỳ trông thấy Sở Cung vương, thì không giao chiến với Doãn Tương nữa, mà quay lại đuổi theo Sở Cung vương, bắn một phát trúng ngay vào mắt bên tả . Sở Cung vương vội vàng bỏ chạy, cố nghiến răng mà rút cái tên ra, cầm ném xuống đất, con ngươi xóc ở đầu mũi tên . Có một đứa tiểu tốt nhặt lấy dâng lên Sở Cung vương và nói rằng:

– Đây là mắt rồng, đại vương không nên bỏ!

Sở Cung vương cầm lấy mà bỏ vào trong túi tên . Quân Tấn thấy Ngụy Kỳ thắng trận, đều cùng nhau tiến binh . Nguyên soái nước Sở là công tử Trắc cố sức chống cự, mới cứu thoát được Sở Cung vương . Khước Chí (tướng nước Tấn) đem quân vây Trịnh Thành công, người dong xe của Trịnh Thành công đem lá cờ đại tỉnh giấu vào trong túi cung . Trịnh Thành công mới chạy thoát được . Bấy giờ Sở Cung vương giận lắm, truyền gọi thần tiễn tướng quân là Dưỡn Do Cơ đến để cứu giá . Dưỡng Do Cơ vâng lệnh chạy đến, nhưng trong mình chẳng có một cái tên nào cả . Sở Cung vương rút hai cái tên đưa cho Dưỡng Do Cơ và bảo rằng:

– Người bắn ta vừa rồi là người râu xồm, mặc áo bào màu lục, tướng quân báo thù cho ta . Tướng quân đã là người bắn giỏi, tưởng cũng không cần phải dùng đến nhiều tên .

Dưỡng Do Cơ lĩnh lấy hai cái tên ấy, rồi tức khắc tiến sang quân Tấn, gặp một người râm xồm, mặc áo bào lục, tức là Ngụy Kỳ . Dưỡng Do Cơ quát to lên mà mắng Ngụy Kỳ rằng:

– Đứa thất phu kia! sao mày dám bắn đại vương ta!

Ngụy Kỳ vừa toan trả lời thì Dưỡng Do Cơ bắn một phát tên trúng ngay vào cổ . Nguỵ Kỳ ngã phục xuống mà chết ngay . Loan Thư tức khắc đem quân đến, cướp lại được thi thể Ngụy Kỳ đưa về . Dưỡng Do Cơ còn thừa một cái tên, đem về nộp Sở Cung vương và tâu rằng:

– Tôi nhờ uy linh của đại vương, đã bắn chết được viên tướng râu xồm mặc áo bào màu lục rồi .

Sở Cung vương mừng lắm, liền cởi ngay áo cẩm bào ban cho Dưỡng Do Cơ, lại ban cho một trăn cái tên bằng ngà . Bấy giờ quân Sở đều gọi Dưỡng Do Cơ là Dưỡng Nhất Tiễn, nghĩa là chỉ bắn một phát tên thứ nhất đã trúng được ngay, không phải bắn đến phát thứ hai . Bấy giờ quân Tấn đuổi theo quân Sở gấp lắm . Dưỡng Do Cơ đứng chắn ngang đường giương cung ra bắn . Quân Tấn không dám đến gần . Tướng nước Sở là công tử Anh Tề và công tử Nhâm Phu nghe tin Sở Cung vương bị thương, đều đem quân đến tiếp ứng, lại hỗn chiến một chập nữa, rồi quân Tấn mới chịu lui về . Loan Hàm trông thấy hiệu cờ lệnh doãn, biết là toán quân của công tử Anh Tề, mới nói với Tấn Lệ công rằng:

– Khi trước tôi sang sứ nước Sở, quan lệnh doãn nước Sở là công tử Anh Tề có hỏi tôi về việc dùng binh của nước Tấn ta, tôi đáp rằng nghiêm chỉnh và nhàn hạ . Nay hai bên hỗn chiến, chưa thấy cái gì là nghiêm chỉnh; hai bên tháo lui, chưa thấy cái gì là nhàm hạ, tôi xin sai người đem rượu sang dâng công tử Anh Tề, để theo được như lời ngày trước .

Tấn Lệ công khen phải . Loan Hàm sai một người mang hũ rượu sang công tử Anh Tề mà nói với công tử Anh Tề rằng:

– Chúa công tôi thiếu người, Loan Hàm đang phải cầm giáo hộ vệ ở trên xe, vì vậy Loan Hàm không thể đến đây mà khao quân quý quốc được, có sai tôi thay mặt đem dâng hũ rượu này .

Công tử Anh Tề nhớ đến câu nói về sự nghiêm chỉnh và nhà hạ khi trước, mới khen rằng:

– Tiểu tướng quân thật là nhớ việc lắm!

Nói xong, liền nhận hũ rượu ấy, rót một chén uống mà bảo sứ giả rằng:

– Ngày mai ta sẽ ra trước trận để tạ lại .

Sứ giả nước Tấn về thuật lại cho Loan Hàm nghe . Loan Hàm nói:

– Vua nước Sở bị mũi tên như thế, mà quân Sở còn chưa chịu lui thì biết làm thế nào ?

Miêu Bí Hoàng nói:

– Ta cứ sửa soạn sẵn để sáng sớm mai quyết một trận thắng phụ, chứ có sợ gì quân Sở .

Bấy giờ Khước Thù cùng Loan Áp đi mượn quân nước Lỗ và Vệ đã trở về, nói là hai nước hiện đã cất quân sang gần đến nơi, chỉ còn cách đây độ 20 dặm . Thám tử báo tin cho Sở Cung vương biết . Sở Cung vương kinh sợ mà nói rằng:

– Quân Tấn đã nhiều mà nay lại có quân Lỗ và quân Vệ đến giúp, biết làm thế nào ?

Sở Cung vương tức khắc sai người đi triệu quan trung quân nguyên soái đến để thương nghị.

Chương 59: Tư Đồng cậy thế tấn Lệ Công – Triệu Vũ báo thù Đồ Ngạn Giả

Trung quân nguyên sóai nước Sở là công tử Trắc, vốn là người nghiện rượu, mỗi lần uống kể hàn trăm bầu không thôi, mỗi lần say kể hàng suốt ngày không tỉnh . Sở Cung vương vẫn biết như vậy, nên trong khi đi trận, thường nghiêm cấm không cho công tử Trắc uống rượu . Bấy giờ Tấn và Sở gây việc tranh chiến, công tử Trắc đang làm trung quân nguyên sóai, không dám uống một hớp rượu nào cả . Khi Sở Cung vương bị mũi tên trở về, vừa thẹn vừa giận, công tử Trắc nói với Sở Cung vương rằng:

– Nay quân hai bên đều đã mỏi mệt, ngày mai đại vương hãy cho đình chiến một hôm, để tôi xin nghĩ mưu kế báo thù .

Công tử Trắc về dinh, ngồi đến nửa đêm, chưa nghĩ được mưu kế gì . Có một tên người nhà là Cốc Dương vốn là người thân cận của công tử Trắc thấy công tử Trắc lo nghĩ buồn rầu, nhân có giấu được ba lọ rượu thật ngon, liền hâm một lọ, đem dâng lên công tử Trắc . Công tử Trắc cầm chén ngửi ngạc nhiên mà hỏi rằng:

– Rượu à ?

Cốc Dương dẫu biết là công tử Trắc muốn uống, nhưng sợ người xung quanh lộ chuyện ra ngoài, mới giả cách nói:

– Không phải rượu, đây là nước tiêu thang đó .

Công tử Trắc hiểu ý, uống một hơi hết ngay, vị ngọt hương thơm, không biết thế nào mà kể! công tử Trắc uống xong lại hỏi:

– Còn nước tiêu thang không ?

Cốc Dương nói:

– Bẩm còn!

Cốc Dương lại rót một chén đầy nữa dâng lên . Công tử Trắc lâu nay thèm rượu quá, cứ gọi Cốc Dương lấy nước tiêu thang mãi . Rót xong liền uống, uống xong lại rót, thành ra uống nhiều quá, say lử người ra, rồi nằm phục ở trên chiếu mà ngủ . Sở Cung vương nghe tin quân Tấn định đến gà gáy hôm sau thì giao chiến, có quân Lỗ và quân Vệ cũng đến đánh giúp, vội vàng sai nội thị đi triệu công tử Trắc để bàn mưu kế . Ai ngờ công tử Trắc đã say tít cung thang, gọi cũng chẳng thưa, lôi cũng chẳng dậy, chỉ thấy mùi rượu nồng sực cả lên . Nội thị vào tâu với Sở Cung vươg . Sở Cung vương lại sai người gọi, cả thảy đến mười tin luôn, nhưng càng gọi gấp bao nhiêu thì công tử Trắc lại càng ngủ lỳ bấy nhiêu . Cốc Dương thấy vậy, khóc mà nói rằng:

– Ta yêu nguyên soái mà dâng rượu, ai ngờ thành ra hại nguyên sóái! nay đại vương biết thì tính mệnh ta cũng khó lòng mà toàn vẹn đuợc, chi bằng ta bỏ trốn đi là hơn .

Sở Cung vương thấy công tử Trắc không đến, không biết làm thế nào, phải sai người triệu công tử Anh Tề . Công tử Anh Tề vốn bất hoà với công tử Trắc, liền tâu với Sở Cung vương rằng:

– Tôi đã biết là quân Tấn mạnh thế lắm, không thể đánh được, cho nên từ trước tôi vẫn không muốn cứu Trịnh . Việc này đều tại quan tư mã (trỏ và công tử Trắc) cả, nay quan tư mã tham chén quá say, tôi cũng không biết dùng mưu kế gì cho được, chi bằng đêm hôm nay ta rút quân về, để khỏi chịu thua nhục nhã .

Sở Cung vương nói:

– Đã đành như thế, nhưng nay quan tư mã say rượu quá, nếu bị quân Tấn bắt được, thì nhục quốc thể lắm đấy!

Nói xong gọi Dưỡng Do Cơ vào mà bảo rằng:

– Ta trông cậy vào thần tiễn của nhà ngươi để hộ vệ quan tư mã ra khỏi địa giới . Chỉ còn Dưỡng Do Cơ ở lại sau . Dưỡng Do Cơ nghĩ thầm nếu đợi quan tư mã tỉnh rượu thì biết đến bao giờ!

Bèn sai nguời vực công tử Trắc dậy, đem dây da trói lại, rồi đặt lên trên xe, cho đi trước còn mình thì cùng với ba trăm quân cung tên, thong thả đi sau . Sáng hôm sau, quân Tấn mở cửa dinh ra để giao chiến, kéo thẳng đến dinh quân Sở, chẳng thấy một người nào cả, biết là quân Sở đã trốn đi rồi . Loan Thư toan đem quân đuổi theo . Sĩ Nhiếp cố ý can . Loan Thư lại nghe báo rằng khắp địa giới nước Trịnh, chỗ nào cũng có quân phòng thủ, biết là thế không làm gì nổi, mới truyền rút quân trở về nước Tấn . Quân Lỗ và quân Vệ cũng đều về nước cả .

Công tử Trắc đi được 50 dặm đường, dần dần tỉnh rượu, thấy tay chân đều vướng bận, mới kêu rầm lên rằng:

– Ô hay! ai trói ta thế này!

Quân sĩ nói:

– Quan tư mã say rượu quá, Dưỡng tướng quân sợ đi xe không vững, vậy nên phải làm như thế .

Nói xong, liền cởi trói cho công tử Trắc . Công tử Trắc hai mắt hãy còn hoa mờ cả lên, ngoảnh lại hỏi quân sĩ rằng:

– Xe ngựa ta đi đâu thế này ?

Quân sĩ nói:

– Đường về nước ta đó!

– Tại sao lại về ?

Quân sĩ nói:

– Đêm qua đại vương mấy lần ra triệu quan tư mã, vì quan tư mã say rượu quá, vậy nên đại vương sợ quân Tấn đến đánh, không có ai chống lại nổi, đã phải rút quân trở về rồi!

Công tử Trắc khóc mà nói rằng:

– Cốc Dương làm hại ta rồi!

Công tử Trắc truyền gọi Cốc Dương thì Cốc Dương đã bỏ trốn đi đâu mất . Sở Cung vương đi khỏi hai trăm dặm, mới được yên lòng . Lại sợ công tử Trắc lo tội mà tự tử, mới sai người truyền bảo rằng:

– Ngày xưa Tử Ngọc (tên tự Thành Đắc Thần) thua trận mà bị tội, là vì lúc bấy giờ tiên quân ta không đi, nay ta thân hành đem quân đi thì tội tại ta, không dự gì đến quan tư mã .

Công tử Anh Tề muốn cho công tử Trắc tự tử chết, bèn sai người nói với công tử Trắc rằng:

Việc Tử Ngọc ngày xưa thua trận mà tự tử, hẳn quan tư mã cũng đã biết; giả sử đại vương không trị tội, quan tư mã còn mặt mũi nào đối với quân sĩ nước Sở ngày nay!

Công tử Trắc thở dài mà nói rằng:

– Quan lệnh doãn (tức là công tử Anh Tề) trách ta thế là phải lắm, có lẽ nào ta lại dám tham sống làm gì!

Nói xong, thắt cổ mà chết . Sở Cung vương rất là thương tiếc .

Tấn Lệ công thắng được quân Sở, tự cho mình là thiên hại vô địch, càng có ý kiêu ngạo lắm . Sĩ Nhiếp biết là nước Tấn thế nào cũng loạn, đem lòng lo nghĩ, thành ra ốm nặng, liền sai quan thái thúc cúng thần, để khẩn xin cho được chóng chết . Chưa được bao lâu thì Sĩ Nhiếp chết .

Bấy giờ Tư Đồng là người khéo nịnh hót, Tấn Lệ công có lòng tin yêu, muốn cho làm quốc khanh, nhưng ngặt vì một nỗi chức quốc khanh không khuyết, Tư Đồng mới tâu với Tấn Lệ công rằng:

– Nay ba người họ Khước đều giữ binh quyền, vây cánh to lắm, làm nhiều điều trái phép, chỉ sợ sau lại sinh lòng phản nghịch, ta nên trừ trước đi; nếu trừ được họ Khước thì chức khanh khuyét nhiều, bấy giờ tuỳ ý chúa công, yêu ai thì cho người ấy .

Tấn Lệ công nói:

– Họ Khước chưa làm sự gì phản nghịch cả, mà ta giết đi thì e rằng triều thần không ai phục .

Tư Đồng lại tâu rằng:

– Trận đánh ở Yên Lăng, Khước Chí đã vây vua Trịnh, lại cùng vua Trịnh tư ước, rồi tha cho đi, xem thế thì biết là tất có tư thông với Sở . Chúa công nên gọi Hùng Phiệt (con Sở Cung vương bị quân Tấn bắt được) vào mà hỏi thì tự khắc biết rõ sư. thực .

Tấn Lệ công sai Tư Đồng đi gọi Hùng Phiệt . Tư Đồng bảo Hùng Phiệt rằng:

– Công tử có muốn về nước Sở không ?

Hùng Phiệt nói:

– Muốn lắm, nhưng làm thế nào mà về được ?

Tư Đồng nói:

– Công tử nghe ta điều này thì ta sẽ xin cho công tử được về .

Hùng Phiệt nói:

– Ngài bảo gì, tôi xin vâng lệnh!

Tư Đồng liền ghé tai nói nhỏ với Hùng Phiệt, để khi vào yết kiến Tấn Lệ công thì vu tội cho Khước Chí . Khi Hùng Phiệt vào yết kiến, Tấn Lệ công đuổi hết người xung quanh đi, rồi hỏi Hùng Phiệt rằng:

– Khước Chí có tư thông với nước Sở hay không ? Nhà ngươi nên nói thật thì ta sẽ cho nhà ngươi về nước .

Hùng Phiệt tâu rằng:

– Chúa công có tha tội thì tôi mới dám nói .

Tấn Lệ công nói:

– Ta đang muốn nghe nhà ngươi nói thật, khi nào lại còn bắt tội .

Hùng Phiệt nói:

– Khuớc Chí cùng công tử Anh Tề nước tôi, hai người chơi thân với nhau, vẫn có thư tín đi lại, nói: “Nhà vua không tin quan đại thần, ngày đêm chơi bời, nhân dân đều oán, không đáng làm vua! hiện nay ai cũng nhớ đến vua Tương công ngày xưa, vua Tương công có người cháu tên là Chu, nếu quân Tấn thua trận thì ta sẽ lập Chu lên làm vua mà thần phục nước Sở” . Tôi chỉ biết có một việc ấy, còn việc gì khác, thật quả tôi không được biết .

Hùng Phiệt nói chưa dứt lời thì Tư Đồng lại tâu rằng:

– Thảo nào mà trận đánh nhau ở Yên Lăng ngày trước, Khước Thù cùng công tử Anh Tề đối trận mà không bắn một phát tên nào, đủ biết là có ý tư thông với nước Sở . Xem thế thì việc Khước Chí tha vua Trịnh, còn ngờ gì nữa! nếu chúa công chưa tin thì nên sai Khước Chí sang nhà Chu báo tin thắng trận, rồi cho người đi rình, nếu Khước Chí quả có âm mưu, thì thế nào cũng tìm đến công tôn Chu để cùng nhau thương nghị .

Tấn Lệ công khen phải, liền sai Khước Chí sang nhà Chu báo tin thắng trận . Tư Đồng mật sai ngươi báo Công tôn Chu rằng:

– Quyền chính nước Tấn, một nửa ở tay họ Khước, nay Khước Chí sang báo tin thắng trận, công tôn nên nhân tiện cùng với Khước Chí giao kết thì sau này công tôn về nước, có phải cũng thêm vây cánh không ?

Công tôn Chu lấy làm phải . Khi Khước Chí đến, Công tôn Chu vào yết kiến, rồi hỏi thăm những công việc nước nhà . Khước Chí đều bảo thật tất cả . Hai người cùng nhau thương nghị, trong nửa ngày trời, Tấn Lệ công sai người rình, biết sự thể như vậy, liền cho lời nói Hùng Phiệt là thật, mới có ý muốn trừ vây cánh họ Khước . Một hôm, Tấn Lệ công cùng với cung nữ uống rượu, sai nguời nội thị là Mạnh Chương đi mua thịt hươu gấp lắm, để vội về làm việc . Bấy giờ trong chợ hết cả thịt hươu, lại vừa gặp Khước Chí đi săn về qua đến chợ, trên xe có mang theo một con hươu, Mạnh Chương chẳng hỏi gì cả, cướp ngay con hươu ấy đem đi . Khước Chí giận lắm, giương cung bắn chết Mạnh Chương, rồi lấy lại con hươu . Tấn Lệ công nghe tin nổi giận mà nói rằng:

– Khước Chí khinh ta quá lắm!

Nói xong, liền triệu bọn Tư Đồng, Di Dương Ngũ, và Trường Ngưu Kiểu đến để bàn việc giết Khước Chí . Tư Đồng nói:

– Ta giết Khước Chí thì Khước Kỳ và Khước Thù tất làm phản, chi bằng ta trừ cả đi .

Di Dương Ngũ nói:

– Đêm hôm nay ta nhân lúc bất ngờ, phụng mệnh chúa công đem quân lẻn đến thì có thể bắt được .

Trường Ngưu Kiểu nói:

– Quân sĩ của ba người họ Khước gấp đôi quân sĩ trong cung, nếu ta đến bắt mà không được thì lại đi họa đến chúa công . Nay Khước Chí kiêm chức tư khấu, Khước Thù kiêm chức sĩ sư, chi bằng ta giả cách vào hầu kiện, để nhân tiện mà giết đi, rồi các người đem quân tiếp ứng .

Tấn Lệ công nói:

– Kế ấy hay lắm! để ta sai kẻ lực sĩ là Thanh Phí Khôi đi giúp nhà ngươi .

Trường Ngưu Kiểu dò biết hôm ấy ba người họ Khước hội nghị ở nhà giảng vũ, liền cùng với Thanh Phí Khôi đem tiết gà bôi vào mặt, giả hình làm hai người đánh nhau, mỗi người tay cầm một con dao, kéo vào nhà giảng vũ để kiện nhau . Khước Thù không biết là mưu kế, mới ngồi hỏi kiện . Thanh Phí Khôi giả cách đến gân để bẩn nhỏ, rồi rút dao đâm trúng vào lưng Khước Thù, Khước Thù ngã lăn xuống đất . Khước Kỳ vội vàng giơ dao chém Thanh Phí Khôi, lại bị Trường Ngưu Kiểu xông đến, hai người giao chiến với nhau, Khước Chí tức khắc chạy ra, lên xe bỏ trốn . Thanh Phí Khôi vội vàng đâm thêm Khước Thù một nhát nữa thấy Khước Thù đã chết rồi, cũng xông lại để đánh Khước Kỳ . Khước Kỳ dẫu là vũ tướng, nhưng Thanh Phí Khôi có sức khoẻ lạ thường, và Trường Ngưu Kiểu cũng là một tay nhanh nhẹn, một mình Khước Kỳ địch sao nổi hai người, cũng bị Thanh Phí Khôi đâm chết . Trường Ngưu Kiểu thấy Khước Chí bỏ chạy, liền đuổi theo . Khước Chí đang chạy, lại gặp Tư Đồng và Di Dương Ngũ đem quân đến tiếp ứng . Tư Đồng và Di Dương Ngũ quát to lên rằng:

– Ta phụng mệnh chúa công đi bắt bọn phản nghịch là họ Khước, chớ để cho nói chạy thóat được!

Khước Chí sợ hãi, quay xe trở lại vừa gặp Trường Ngưu Kiểu đi đến nơi . Trường Ngưu Kiểu nhảy ngay lên xe Khước Chí, rồi chém lấy đầu . Thanh Phí Khôi cũng chém lấy đầu Khước Kỳ và Khước Thù để đem về nộp Tấn Lệ côg . Quan thượng quân phó tướng là Tuân Yển nghe tin chủ sóai của mình là Khước Kỳ bị hại, không biết người nào nổi loạn, tức thì đi xe thẳng tới triều môn, định vào tâu với Tấn Lệ công, rồi xin phụng mệnh dẹp giặc quan trung quân nguyên soái là Loan Thư nghe tin ấy cũng vội vàng thẳng tới triều môn . Khi Loan Thư và Tuân Yển tới triều môn thì vừa gặp Tư Đồng kéo đến, Loan Thư và Tuân Yển nổi giận mà mắng rằng:

– Ta tưởng là người nào nổi loạn, chẳng ngờ lại là lũ chuột này! triều môn là nơi cấm địa, sao nhà ngươi lại dám đem quân tới đây!

Tư Đồng chẳng trả lời làm sao cả, chỉ gọi quân sĩ mà bảo rằng:

– Loan Thư và Tuân Yển cùng với ba người họ Khước hợp mưu phản nghịch, quân sĩ xông vào mà bắt, ai bắt được sẽ có trọng thưởng .

Quân sĩ xúm lại nắm lấy Loan Thư và Tuân Yển kéo vào trong triều . Tấn Lệ công nghe tin bọn Trường Ngưu Kiểu đã giết được ba người họ Khước rồi, vội vàng ra ngự triều, lại trông thấy quân sĩ kéo đến, giật mình kinh sợ mà hỏi Tư Đồng rằng:

– Tội nhân đã giết được rồi, sao quân sĩ còn tụ hội đông như vậy ?

Tư Đồng tâu rằng:

– Hiện bắt được kẻ đồng mưu với bọn phản nghịch là Loan Thư và Tuân Yển, xin chúa công xử đoán .

Tấn Lệ công nói:

– Việc này có can dự gì đến Loan Thư và Tuân Yển ?

Trương Ngưu Kiểu quỳ gần ở trước mặt Tấn Lệ công mà mật tuân rằng:

– Loan Thư vốn là người cùng cánh với họ Khước, Tuân Yển lại là bộ tướng của Khước Kỳ, nay ba người họ Khước bị giết thì Loan Thư và Tuân Yển tất không yên tâm, thế nào cũng báo thù cho họ Khước; nếu chúa công không giết Loan Thư và Tuân Yển đi thì khó lòng yên việc được!

Tấn Lệ công nói:

– Một lúc mà giết ba người họ Khước, lại giết lây đến họ khác nữa thì ta không đành lòng!

Tấn Lệ công truyền tha cho Loan Thư và Tuân Yển . Loan Thư và Tuân Yển tạ ơn lui ra . Trường Ngưu Kiểu thở dài mà nói rằng:

– Chúa công không nỡ giết hai người ấy, nhưng ta chỉ e hai người ấy lại giết chúa công mà thôi .

Nói xong liền bỏ trốn sang nước Tây Nhung . Tấn Lệ công trọng thưởng cho quân sĩ, rồi truyền đem ba cái đầu họ Khước ra bêu ở chốn triều môn trong ba ngày . Bao nhiêu người cùng cánh với họ Khước còn đang làm quan ở trong triều, đều phải cách chức đuổi về cả; lại phong chức cho Tư Đồng, Di Dương Ngũ và Thanh Phí Khôi: Tư Đồng thay Khước Kỳ làm thượng quân nguyên soái, Di Dương Ngũ thay Khước Thù làm tân quân nguyên soái, Thanh Phí Khôi thay Khước Chí làm tân quân phó tướng . Công tử Hùng Phiệt được tha về nước Sở . Loan Thư va Tuân Yển không muốn đồng sự với Tư Đồng, thường cáo ốm không vào triều . Tư Đồng cậy có Tấn Lệ công, cũng không để ý . Một hôm, Tấn Lệ công và Tư Đồng ra chơi nhà Tượng Lệ Thị ở phía nam núi Thái Âm, cách kinh thành hơn 20 dặm, đã ba hôm chưa về . Tuân Yển nói riêng với Loan Thư rằng:

– Chúa công vô đạo, nhà ngươi cũng đã biết . Nay chúng ta cáo ốm không vào triều, dẫu không việc gì, nhưng sau này bọn Tư Đồng sinh nghi thì tất cả lại vu cho ta có lòng oán vua, ta e rằng cái vạ họ Khước, ta khó lòng mà tránh khỏi đuợc!

Loan Thư nói:

– Vậy thì biết làm thế nào ?

Tuân Yển nói:

– Làm quan đại thần, nên lấy nước làm trọng, lấy vua làm khinh . Nay trong tay nhà ngươi cũng có kể hàng trăm vạn quân, nếu lập vua khác, ai là người dám trái ý .

Loan Thư nói:

– Có chắc làm nổi không ?

Tuân Yển nói:

– Con giao long còn ở dưới vực sâu thì không ai dám làm gì, chứ đã lên trên cạn, chỉ một đứa trẻ con cũng có thể trị nổi! nay chúa công ra chơi nhà Tượng Lệ Thị, ba ngày chưa về, ấy tức là con giao long đã lên trên cạn đó, còn ngại gì!

Loan Thư thở dài mà rằng:

– Nhà ta mấy đời nay trung với Tấn, nay vì việc nước mà phải dùng kế này, thế nào mai sau cũng mang cái tiếng thí nghịch đây .

Loan Thư và Tuân Yển thương nghị với nhau giả cách nói đã khỏi bệnh, có việc cần kíp, muốn yết kiến Tấn Lệ công, rồi mật sai Trình Hoạt đem ba trăm quân phục sẵn ở núi Thái Âm . Rồi hai người đến nhà Tượng Lệ Thị tâu với Tấn Lệ công rằng:

– Chúa công bỏ việc triều chính, đi chơi đã ba ngày nay chưa về, khiến cho quan dân đều có lòng trông đợi, vậy chúng tôi đến đây để đón thánh giá về triều .

Tấn Lệ công không thể từ chối được, phải lên xe về triều, Tư Đồng đi trước, Loan Thư và Tuân Yển theo sau . Đi đến núi Thái Âm, bỗng nghe có tiếng pháo nổ, phục binh đổ ra giết chết Tư Đồng . Tấn Lệ công kinh sợ, ở trên xe ngã lăn xuống đất . Loan Thư và Tuân Yển truyền cho quân sĩ bắt đem giam vào một nơi, rồi đóng quân ở núi Thái Âm . Loan Thư bảo Tuân Yển rằng:

– Ta chỉ e Sĩ Mang và Hàn Quyết sau này lại có ý khác, chi bằng ta sai người giả cách phụng mệnh chúa công triệu hai người ấy đến đây .

Tuân Yển khen phải, liền sai người đi triệu Sĩ Mang và Hàn Quyết . Sứ giả đến triệu Sĩ Mang, Sĩ Mang hỏi:

– Chúa công triệu ta có việc gì ?

Sứ giả luống cuống, không biết đằng nào mà trả lời .

– Việc này đáng nghi lắm!

Sĩ Mang bèn sai người nhà dò thám xem Hàn Quyết có đi hay không thì ra Hàn Quyết cũng cáo ốm không chịu đi . Sĩ Mang nói:

– Thế mới biết kiến thức của người trí giả thường vẫn giống nhau!

Loan Thư thấy Sĩ Mang và Hàn Quyết không đến, lại hỏi Tuân Yển rằng:

– Việc này giờ tính thế nào ?

Tuân Yển nói:

– Nhà ngươi đã cưỡi lên lưng hổ, lại còn định xuống hay sao!

Loan Thư hiểu ý gật đầu, ngay đêm ấy sai Trình Hoạ dâng thuốc độc cho Tấn Lệ công . Tấn Lệ công uống vào chết ngay . Loan Thư truyền làm lễ an táng ở ngoài cửa đông . Sĩ Mang và Hàn Quyết nghe tin, cũng vội vàng đến để chịu tang, nhưng không hỏi gì về việc tại sao Tấn Lệ công chết . Khi lễ an táng đã xong, Loan Thư họp các quan đại phu lại, để bàn lập vua mới . Tuân Yển nói:

– Ngày trước ba nguời họ Khước bị giết, là vì Tư Đồng nói dèm bảo họ Khước muốn lập công tôn Chu lên làm vua, điều đó thành ra một lời sấm, vậy ta nên đón mà lập công tôn Chu .

Các quan đạ phu đều bằng lòng cả . Loan Thư liền sai Tuân Doanh sang nhà Chu, để đón công tôn Chu về làm vua . Bấy giờ công tôn Chu đã 14 tuổi, thông minh đĩnh ngộ, thấy Tuân Doanh đến đón, hỏi hết sự thể đầu đuôi, rồi cùng với Tuân Doanh trở về nước Tấn . Về đến đất Thanh Nguyên, Loan Thư, Tuân Yển, Sĩ Mang, Hàn Quyết cùng các quan đại phu đều họp ở đấy để nghênh tiếp . Công tôn Chu bảo các quan rằng:

– Tá đây ở nước ngoài đã lâu, cũng chẳng muốn được về nước, huống chi lại còn mong làm vua! nhưng làm vua chỉ qúy về một điều chính lệnh ở trong tay mình, nếu lập lên làm vua mà không theo chính lệnh thì chẳng thà đừng lập! các ngươi có chịu một lòng tin theo chính lệnh của ta hay không, cốt ở lúc này, bằng không thi các ngươi lập người khác, chứ ta không muốn đeo một cái hư danh như Châu Bồ ngày trước đâu!

Bọn Loan Thư đều sợ hãi sụp lạy mà nói rằng:

– Chúng tôi mong được vua hiền để mà thờ, có đâu lại dám trái lệnh .

Khi lui ra ngoài, Loan Thư bảo các quan rằng:

– Vua mới ngày nay, không ví như vua cũ được, chúng ta nên giữ gìn cẩn thận mới được!

Công tôn Chu tiến vào kinh thành, làm lễ cáo nhà Thái miếu, rồi lên nối ngôi, tức là Tấn Điệu công . Ngày hôm sau, Tấn Điệu công kể tội bọn Di Dương Ngũ và Thanh Phí Khôi truyền cho quân sĩ đem ra chém tại triều môn, còn những bè cánh đều đuổi sang nước khác; lại đem việc Tấn Lệ công chết, đổi tội cho Trình Hoạt, bắt đem căng thây ở ngoài chợ . Loan Thư thấy vậy, khiếp đảm kinh hồn, suốt đêm không ngủ, ngày hôm sau tức khắc xin cáo lão, rồi tiến dẫn Hàn Quyết để thay mình . Chưa được bao lâu Loan Thư sợ quá, thành bệnh nặng rồi chết . Điệu công nghe nói Hàn Quyết là người hiền, cho làm chức trung quân nguyên sóai để thay Loan Thư . Hàn Quyết giả cách vào tạ ơn, rồi tâu riêng với Điệu công rằng:

– Chúng tôi nhờ công đời trước, mới đuợc thế này, mà công đời trước thì không ai hơn họ Triệu: Triệu Thôi giúp vua Văn công, Triệu Thuẫn giúp vua Tương công, đều một lòng vì nước, dựng nên bá nghiệp; đến đời vua Linh công, tin dùng kẻ gian thần là Đồ Ngạn Giả, Đồ Ngạn Giả lập mưu giết Triệu Thuẫn, Triệu Thuẫn phải chạy trốn, mới được thóat nạn . Sau vua Linh công bị giết, vua Cảnh công nối ngôi, lại tin dùng Đồ Ngạn Giả; Đồ Ngạn Giả nhân khi Triệu Thuẫn đã chết rồi, vu cho tội thí nghịch, rồi bắt chết cả nhà họ Triệu . Việc ấy dân trong nước ai cũng tức thay, may mà họ Triệu còn sót được một người con tên gọi Triệu Vũ, nay chúa công đã trị tội bọn Di Dương Ngũ thì cũng nên nghĩ lại cho cái công họ Triệu ngày xưa!

Điệu công nói:

– Việc ấy ta cũng nghe nói, hiện nay Triệu Vũ ở đâu ?

Hàn Quyết nói:

– Lúc bấy giờ Triệu Vũ mới đẻ, Đồ Ngạn Giả tìm bắt gấp lắm, có hai người môn khách họ Triệu là công ton Chử Cữu và Trình Anh: công tôn Chử Cữu đem thay một đứa trẻ khác rồi liều mình chịu chết để cứu Triệu Vũ; còn Trình Anh thì đem Triệu Vũ vào giấu ở trong núi Mạnh Sơn đã 15 năm nay rồi!

Điệu công nói:

– Nhà ngươi vì ta đi triệu về đây!

Hàn Quyết nói:

– Đồ Ngạn Giả còn ở trong triều, chúa công nên bí mật mới được .

Điệu công nói:

– Ta đã biết rồi!

Hàn Quyết cáo từ lui ra, rồi thân hành đến núi Mạnh Sơn để đón Triệu Vũ và Trình Anh . Hàn Quyết đưa Triệu Vũ vào yết kiến Điệu công . Điệu công giấu Triệu Vũ ở trong cung rồi giả cách ốm . Hàn Quyết đem các quan triều thần vào cung để vấn an . Đồ Ngạn Giả cũng theo vào . Điệu công nói:

– Các ngươi có biết vì cớ gì mà ta ốm hay không ? chỉ vì trong sổ công thần có một điều chưa minh, vậy nên trong lòng ta không được khoan khoái .

Các quan đại phu đều sụp lạy mà hỏi rằng:

– Chẳng hay trong sổ công thần có điều gì chưa minh, xin chúa công dạy cho biết ?

Điệu công nói:

– Triệu Thôi và Triệu Thuẫn đều có công to với nước, nỡ nào để cho tuyệt tự !

Các quan đồng thanh đáp rằng:

– Họ Triệu bị diệt tộc đã 15 nay, bây giờ chúa công dẫu nhớ công họ triệu, cũng chẳng còn ai mà phong được!

Điệu công truyền gọi Triệu Vũ ra chào các quan . Các quan đều hỏi:

– Chẳng hay tiểu lang quân này là người nào ?

Hàn Quyết nói:

– Đó tức là cô nhi họ Triệu, tên gọi Triệu Vũ! còn đứa cô nhi bị giết ngày trước là con Trình Anh, chứ không phải Triệu Vũ .

Đồ Ngạn Giả bấy giờ chẳng còn hồn vía nào cả, cứ phủ phục ở dưới đất, không biết nói ra làm sao . Tấn Điệu công nói:

– Việc này đều tại Đồ Ngạn Giả gây ra, nếu không diệt tộc Đồ Ngạn Giả thì sao cho thoả cái oan hồn họ Triệu!

Điệu công truyền đem Đồ Ngạn Giả ra chém, lại sai Hàn Quyết và Triệu Vũ đem quân vây nhà Đồ Ngạn Giả ra tến ở trước mộ Triệu Sóc . Người nước Tấn ai cũng lấy làm hả lòng . Điệu công đã giết Đồ Ngạn Giả rồi, liền cho Triệu Vũ thay Đồ Ngạn Giả làm chứ tư khấu . Bao nhiêu lộc điền khi trước, đều trả cho tất cả . Tấn Điệu công lại nghe nói Trình Anh là người có nghĩa, muốn dùng chức quân chính .

Trình Anh nói chuyện với mọi người rằng:

– Lúc trước ta không chết vội là vì có cô nhi họ Triệu, nay cô nhi họ Triệu đã báo thù xưa rồi, lẽ nào ta dám tham phú quý để cho công tôn Chử Cữu chịu chết một mình, âu là ta thác xuống suối vàng mà báo tin cho Chử Cữu biết .

Trình Anh nói xong liền đâm cổ mà chết . Triệu Vũ ôm lấy thi thể Trình Anh mà khóc, rồi tâu với Tấn Điệu công, xin gọi là “nghĩa trủng” . Triệu Vũ nhớ ơn Trình Anh, để tang ba năm . Điệu công đã phong chức cho Triệu Vũ, lại sai người sang nước Tống gọi Triệu Thắng về, phong cho đất Hàm Đan . Điệu công biết dùng người hiền tài, trong đám triều thần, người nào cũng xứng đáng cả . Hãy kể mấy viên quan có danh tiếng như sau:

1. Hàn Quyết làm trung quân nguyên soái; 2. Sĩ Mang làm trung quân phó tướng; 3. Tuân Doanh làm thượgn quân nguyên sóai; 4. Tuân Yển làm thượng quân phó tướng; 5. Loan Áp (con Loan Thư) làm hạ quân nguyên soái; 6. Sĩ Phường (con Sĩ Hội) làm hạ quân phó tướng; 7. Triệu Vũ làm tân quân nguyên sóai; 8. Ngụy Tướng (con Ngụy Xứng) làm tân quân phó tướng; 9. Kỳ Hề làm trung quân uý; 10. Dương Thiệt Chức làm trung quân phó uý; 11. Ngụy Giáng (con Nguỵ Thù) làm trung quân tư mã, coi việc thuởng phạt quân sĩ; 12. Chương Lão làm chức hậu yêm, coi việc tùân phòng; 13. Hàn Võ Kỵ (con Hàn Quyết) làm công tộc đại phu, coi việc dạy bảo con em các nhà công tộc; 14. Giả Tâm làm tư không; 15. Sĩ Ốc Trọc làm thái phó, coi việc dạy bảo thế tử; 16. Loan Củ làm thân quân nhung ngự; 17. Tuân Tân làm xa hữu tướng quân; 18. Trình Trịnh làm tán bộc, coi việc ngựa xe của vua; 19. Đạc Át Khấu làm dư uý; 20. Tịch Yển làm dư tư mã .

Nhờ có những người hiền tài giúp, Điệu công chỉnh đốn lại chính sự trong nước, trăm họ bằng lòng . Các nước Tống, Lỗ, v..v. đểu đến triều cống . Chỉ có Trịnh Thành công cảm cái ơn Sở Cung vương vì mình mà phải tổn thương mất một con mắt, bởi vậy không chịu theo Tấn .

Sở Cung vương nghe tin Tấn Lệ công bị giết rất là mừng rỡ, đang nghĩ kế để báo thù, lại nghe nói Tấn Điệu công biết dùn người hiền tài, trong ngòai ai cũng mến phục, có cơ lại làm được bá chủ, liền họp triều thần để thương nghị, muốn tìm cách làm nhiễu loạn trung nguyên, khiến cho nước Tấn không làm bá chủ được . Quan lệnh doãn là công tử Anh Tề chịu bó tay, không nghĩ được mưu kế gì cả . Công tử Nhâm Phu nói với Sở Cung vương rằng:

– Trong các nước trung nguyên, có nước Tống là một nước lớn, lại ở vào giữa khỏang nước Ngô và nước Tấn, nếu ta muốn nhiễu loạn trung nguyên thì nên bắt đầu tự nước Tống trước . Nay quan đại phu nước Tống là Ngư Thạch, Hướng Vi Nhân, Lâm Chu, Hướng Đái và Ngư Phủ, cả thảy năm người, có thù oán với quan hữu sư là Hoa Nguyên bỏ trốn sang nươc Sở ta, ta nên giúp binh lực cho bọn ấy, sai về đánh Tống, hễ đánh quân giặc . Nếu Tấn không cứu Tống thì bỏ mất chư hầu, mà cứu Tống thì phải giao chiến với bọn Ngư Thạch, bấy giờ ta chỉ việc ngồi mà đợi xem thắng bại .

Sở Cung vương theo mưu ấy, liền sai công tử Nhâm Phu làm đại tướng, dùng bọn Ngư Thạch đi dẫn đường, đem đại binh tiến sang đánh nước Tống.