Chương 60: Tuân dinh hiến kế chia quân ngạch chư hầu đem binh vây bức dương

Sở Cung vương dùng mưu kế của qua hữu doãn là công tử Nhâm Phu, thống suất đại binh, cùng với Trịnh Thành công sang đánh Tống, sai bọn Ngư Thạch đi dẫn đường, đánh được đất Bành Thành, cho bọn Ngư Thạch đóng quân ở đấy . Cung vương bảo bọn Ngư Thạch rằng:

– Nước Tấn đang giao thiệp với nước Ngô để chống cự nước Sở ta, mà đất Bành Thành này lại là chỗ tiếp giáp Ngô và Tấn . Nay ta cho các ngươi đóng quân ở đây tiến đánh thì có thể xâm chiếm được địa giới nước Tống; lui giữ thì cũng có thể ngăn trở được đường lối đi lại của quân Tấ và quân Ngô, vậy các ngươi nên cẩn thận; chớ phụ lòng uỷ thác của ta! Dặn bảo xong, Cung vương trở về nước Sở .

Cuối năm ấy, Tống Thành công sai quan đại phu là Lão Tá đem quân vây đất Bành Thành . Ngư Thạch đem quân ra nghênh chiến, bị Lão Tá đánh thua . Quan lệnh doãn nước Sở là công tử Anh Tề nghe tin đất Bành Thành bị vây, đem quân đến cứu . Lão Tá cậy có sức mạnh, xông vào trong đám quân Sở, liền bị tên bắn chết . Công tử Anh Tề tiến binh sang xâm phạm nước Tống . Tống Thành công kinh sợ, sai quan hữu sư là Hoa Nguyên sang cáo cấp với nước Tấn . Hàn Quyết nói với Tấn Điệu công rằng:

– Ngày xưa vua Văn công ta làm được bá chủ cũng bởi có việc cứu nước Tống . Cơ hay dở ở một việc này, ta nên đem quân sang cứu mới phải .

Hàn Quyết liền sai sứ đi mượn quân chư hầu . Tấn Điệu công thống suất đại binh đến đóng ở đất Đài Cốc . Công tử Anh Tề nghe tin quân Tấn kéo đến, tức khắc rút quân trở về Sở . Đến năm sau, Tấn Điệu công đem quân 8 nước là: Tống, Lỗ, Vệ, Tào, Cử, Châu, Đằng và Tiết đến vây đất Bành Thành . Quan đại phu nước Tống là Hướng Thú sai quân sĩ đứng lên trên xe, gọi người trong thành mà bảo rằng:

– Ngư Thạch là một đứa phản tặc, không thể dung tha được . Nay nước Tấn sắp đem 20 vạn quân, đạp đổ thành này, không để sót một ngọn cỏ . Bọn các ngươi, nếu biết lẽ phải, nên bắt đứa phản tặt ấy đem nộp, chớ để cho những người vô tội cùng bị chết lây .

Dân trong Bành Thành nghe thấy, biết là Ngư Thạch trái lẽ, liền mở cửa thành ra để đón quân Tấn . Tấn Điệu công tiến vào trong thành . Quân Sở bỏ chạy cả . Hàn Quyết bắt được Ngư Thạch; Loan Áp và Tuân Yển bắt được Ngư Phủ; Hướng Thú bắt được Hướng Vi Nhân và Hướng Đãi; Trọng Tôn Miệt đại phu nước Lỗ bắt được Lân Chu, đều giải đến nộp Tấn Điệu công . Tấn Điệu công truyên đem bọn Ngư Thạch ra chém, rồi kéo quân sang hỏi tội nước Trịnh . Quan hữu doãn nước Sở là công tôn Nhâm Phu đem quân sang xâm phạm địa giới nước Tống, để làm kế cứu Trịnh . Các nước lại đem quân sang cứu Tống, rồi cùng nhau rút quân về nước cả .

Năm ấy Chu Giản vương mất, thái tử Tiết Tâm lên nối ngôi, tức là Chu Linh vương . Chu Linh vương từ khi mới sinh ra, phía trên miệng đã có râu ria mọc, bởi vậy người nhà Chu cũng gọi là Tỳ vương . Năm đầu đời vua Tỳ vương nhà Chu cũng gọi là Tỳ vương . Năm đầu đời vua Tỳ vương nhà Chu, Trịnh Thành công ốm nặng, bảo quan thượng khanh là công tử Phi rằng:

– Vua Sở vì đem quân sang cứu nước ta mà bị thương hỏng mất một mắt, ơn ấy không bao giờ ta dám quên . Sau khi ta chết, các ngươi chớ có bội nước Sở .

Trịnh Thành công nói xong thì chết . Bọn công tử Phi lập thế tử Khôn Ngoan lên nối ngôi, tức là Trịnh Hi công . Tấn Điệu công thấy người nước Trịnh chưa phục, mới đại hội chư hầu ở Thích Địa (đất nước Vệ) để bàn việc đánh Trịnh . Quan đại phu nước Lỗ là Trọng Tôn Miệt hiến kế rằng:

– Đất nước Trịnh không đâu hiểm bằng cửa quan Hổ Lao, đó là một chỗ xung yếu, tiếp giáp nước Trịnh và nước Sở, nếu ta đắp một cái thành ở đấy, rồi đóng quân để chặn ngang thì nước Trịnh tất phải theo ta .

Vu Thần hiến kể rằng:

– Sở và Ngô chỉ cách nhau có một con sông, năm trước tôi sang sứ nước Ngô, có ước với Ngô để cùng đánh Sở . Từ bấy giờ Ngô thường sang quấy nhiễu những thuộc quốc của Sở, người nước sở lấy làm khổ lắm . Nay ta lại sai sứ sang bảo Ngô đánh Sở; nước Sở, phía đông đanh khổ với quân Ngô thì phía bắc tất không cùng ta tranh nhau nước Trịnh được .

Tấn Điệu công theo cả hai kế . Bấy giờ Tề Linh công cùng sai thế tử Quang, cùng với quan thượng khanh là Thôi Trứ sang dự hội để tuân theo mệnh lệnh của nước Tấn . Tấn Điệu công họp quân các nước để đáp thành ở cửa quan Hổ Lao, rồi lấy quân các nước cứ mỗi nước lớn một nghìn quân, mỗi nước nhỏ năm trăm hoặc ba trăm quân, cho đóng giữ ở đấy . Trịnh Hi công sợ hãi, xin giảng hoà với nước Tấn . Lúc bấy giờ quan trung quân uý nước Tấn là Kỳ Hề, đã ngoại bảy mươi tuổi, cáo lão về nghỉ . Tấn Điệu công hỏi:

– Có người nào thay nhà ngươi đựơc không ?

Kỳ Hề nói:

– Không ai bằng Giải Hổ .

Tấn Điệu công nói:

– Ta nghe nói Giải Hổ là người thù của nhà ngươi, sao nhà ngươi lại còn tiến dẫn ?

Kỳ Hề nói:

– Chúa công hỏi ai là ngươi giỏi, chứ có hỏi ai là người thù của tôi đâu!

Tấn Điệu công sai người đi triệu Giải Hổ . Giải Hổ chưa kịp đến nhận chức thì đã ốm chết . Tấn Điệu công lại hỏi Kỳ Hề rằng:

– Trừ Giả Hổ ra không kể, nhà ngươi còn biết ai nữa không ?

Kỳ Hề nói:

– Sau Giải Hổ thì không ai bằng Kỳ Ngọ .

Tấn Điệu công nói:

– Thế Kỳ Ngọ không phải là con nhà ngươi sao ?

Kỳ Hề nói:

– Chúa công hỏi ai là người giỏi, chứ có hỏi ai là con của tôi đâu!

Tấn Điệu công nói:

– Nay quan trung quân phó uý là Dương Thiệt Chức cũng chết, nhà ngươi lại chọn cho ta một người khác để thay .

Kỳ Hề nói:

– Dương Thiệt Chức có hai con là: Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật . Hai người ấy đều gỉoi cả, chúa công muốn dùng người nào thì dùng .

Tấn Điệu công theo lời, cho Kỳ Ngọ làm trung quân uý, Dương Thiệt Xích làm trung quân phó uý . Các quan đại phu, đều lấy làm bằng lòng .

Con Vu Thần là Vu Hồ Dung phụng mệnh Tấn Điệu công sang sứ nước Ngô, vào yết kiến vua Ngô là Thọ Mộng, xin mượn quân để đánh Sở . Thọ Mộng thụân cho, sai thế tử Chư Phàn làm tướng, luyện quân ở bên sông Trường Giang . Quan lệnh doãn nước Sở là công tử Anh Tề nghe tin ấy, liền tâu với Sở Cung vương rằng:

– Quân Ngô chưa sang nước Sở ta bao giờ, nếu đã sang được một lần thì rồi lại sang quấy mãi, chi bằng ta đánh trước đi là hơn .

Sở Cung vương khen phải . Công tử Anh Tề tuyển hai vạn thủy quân, cho qua sông Trường Giang, phá vỡ đất Cưu Tư của nước Ngô; lại toan thuận dòng kéo quân thẳng xuống . Tướng nước Sở là Đặng Sưu nói với công tử Anh Tề rằng:

– Sông Trường Giang này nước chảy xiết, tiến dễ mà lui khó, tôi xin đem một toán quân đi trước, nếu thuận lợi thì tiến, mà không thuận lợi thì cũng chẳng đến nỗi thua to . Quan nguyên sóai cứ đóng quân ở

Hách Sơn, tuỳ cơ ứng biến, mới giữ vẹn toàn được .

Công tử Anh Tề khen phải, tức khắc cho Đặng Sưu đem một toán quân tinh nhuệ cùng một trăm chiếc thuyền đi trước . Thế tử Chư Phàn nghe tin đất Cưu Tư bị quân Sở chiếm mất; liền bảo các tướng rằng:

– Quân Sở đã chiếm được đất Cưu Tư thì tất thừa thế kéo xuống, ta phải phòng bị mới được .

Thế tử Chư Phàn sai công tử Di Muội đem một toán quân với vài mươi chiếc thuyền ra Lương Sơn để làm kế dụ quân Sở; còn công tử Dư Sái (em công tử Chư Phàn) đem một toán quân ra phục sẵn ở Thái Thạch cảng . Đặng Sưu (tướng nước Sở) đem quân ra Hách Sơn, trông thấy ở Lương Sơn có binh thuyền của nước Ngô, vội vàng ra sức tiến đánh . Công tử Di Muội giả cách thua chạy . Đặng Sưu thúc quân đuổi theo, qua Thái Thạch cảng, lại gặp đại binh của công tử Chư Phàn đến . Hai bên giao chiến được mười hợp thì công tử Dư Sái ở Thái Thạch càng đem phục binh đổ ra, theo phía sau đánh ập trở lại, tên bắn như mưa . Đặng Sưu bị ba phát tên bắn vào mặt, nhưng rút tên ra mà cố sức đánh .

Bấy giờ công tử Di Muội, cưỡi chiếc thuyền lớn đến, truyền cho quân sĩ cầm giáo dài đâm vào thuyền quân Sở . Thuyền quân Sở vỡ đắm rất nhiều . Đặng Sưu bị bắn, không chịu khuất phục mà chết . Quân Sở cũng chết hại rất nhiều . Công tử Anh Tề sợ tội, toan giấu sự thua trận đi, không tâu cho Sở Cung vương biết, ai ngờ thế tử Chư Phàn thừa thắng đem quân tiến đánh, công tử Anh Tề thua to chạy về và đất Cưu Tư lại thuộc về nước Ngô . Công tử Anh Tề tức giận thành bệnh, chưa về đến kinh thành nước Sở thì chết . Sở Cung vương bèn đưa quan hữu doãn là công tử Nhâm Phu lên làm chức lệnh doãn . Công tử Nhâm Phu tính tham lam, thường bắt các nước phụ thuộc phải lễ đút, Trần Thành công không thể chịu được, mới sai Viên Kiểu Như (cháu bốn đời Viên Đào Đồ) sang xin theo Tấn . Sở Cung vương thấy nước Trần theo Tấn, đổi tội cho công tử Nhâm Phu, đem giết đi; lại dùng người con là công tử Trịnh (tên tự là Tử Nang) làm lệnh doãn cử binh sang đánh Trần .

Bấy giờ Trần Thành công (Ngọ) chết, thế tử Nhược lên nối ngôi, tức là Trần Ai công . Trần Ai công thấy nước Sở thế mạnh, lại xin theo Sở . Tấn Điệu công nghe tin giận lắm, toan cử binh cùng Sở tranh nhau nước Trần, bỗng nghe báo có vua nước Vô Chung là Gia Phủ sai quan đại phu là Mạnh Lạc đem da hổ, da báo cả thảy một trăm chiếc đến dâng và tâu rằng:

– Các nước Sơn Nhung, trước kia Tề Hoàn công đã dẹp yên tất cả, mới rồi nhân nước Yên và nước Tần suy yếu, các nước Sơn Nhung thấy Trung quốc không có bá chủ lại xâm nhiễu . Chúa công tôi nghe nói nhà vua anh minh, sắp nối được bá nghiệp của Tề Hoàn công và Tấn Văn công thuở xưa, vì vậyt chúa công tôi đã tuyên bá uy đức của nhà vua cho Sơn Nhung biết, các nước ấy đều muốn giảng hoà, xin nhà vua định đoạt .

Tấn Điệu công họp các tướng lại để thương nghị . Các tướng đều nói rằng:

– Quân rợ mọi ấy, không biết lẽ phải, ta phải dùng binh uy với nó mới được . Vua Tề Hoàn công thuở xưa, cũng phải trước đánh Sơn Nhung, sau đánh nước Sở, mới làm nên nghiệp bá được .

Quan tư mã là Ngụy Giáng can rằng:

– Không nên! nay ta mới thu phục được chư hầu, mà đã đem quân đi đánh Sơn Nhung thì quân Sở tất thừa hư quấy nhiễu, như vậy thì chư hầu lại bỏ Tấn theo Sở mà thôi . Sơn Nhung là cầm thú, chư hầu là anh em ta theo đuổi quân cầm thú mà bỏ mất cái tình anh em, sao gọi là kế hay được!

Tấn Điệu công nói:

– Vậy thì ta có nên giảng hoà với các nước Sơn Nhung không ?

Ngụy Giáng nói:

– Giảng hoà với các nước Sơn Nhung, có năm điều lợi: Sơn Nhung tiếp giáp với nước ta, nhiều đất bỏ hoang, ta có thể mở rộng đất được, đó là một điều lợi; Sơn Nhung không quấy nhiễu ta nữa thì những dân ở bờ cõi được yên nghiệp làm ăn, đó là hai điều lợi; quân sĩ của ta không phải khó nhọc về sự đánh dẹp, đó là ba điều lợi; Sơn Nhung đã thần phục thì các nước chư hầu cũng phải sợ hãi, đó là bốn điều lợi; ta không phải lo về mặt bắc (tức là phía Sơn Nhung) thì có thể dốc sức về mặt nam (tức là phía nước Sở) được, đó là năm điều lợi . Có năm điều lợi ấy sao chúa công không theo ?

Tấn Điệu công bằng lòng, liền sai Ngụy Giáng làm sứ thần để đi giảng hoà với các nước Sơn Nhung . Nguỵ Giáng cùng với Mạnh Lạc (quan đại phu nước Vô Chung) đến nước Vô Chung, để cùng với vua nước Vô Chung là Gia Phủ thương nghị việc giảng hoà . Gia Phủ sai người đi triệu các nước Sơn Nhung mà bảo rằng:

– Nay vua nước Tấn làm bá chủ ở Trung nguyên, có sai sứ thần sang đây, để cùng với các nước Sơn Nhung giảng hoà . Các ngươi nên một lòng thần phục, từ đây trở đi, không được quấy nhiễu .

Các nước Sơn Nhung đều xin ăn thề, lại bảo nhau đem thổ sản đến dâng Ngụy Giáng . Ngụy Giáng nhất định không lấy gì cả . Các nước Sơn Nhung đều khen Ngụu Giáng là liêm khiết, lại càng có ý kính trọng . Ngụy Giáng về tâu lại với Tấn Điệu công . Tấn Điệu công bằng lòng .

Bấy giờ quan lệnh dõan nước Sở là công tử Trịnh, đã thu phục được Trần, lại đem quân đi đánh Trịnh, chỉ vì cửa quan Hổ Lao có quân Tấn đóng, nên không dám kéo qua sông Dĩ Thủy, phải theo đường nước Hứa mà tiến sang nước Trịnh .

Trịnh Hi công (Khôn Ngoan) sợ lắm, họp sáu quan khanh lại để thương nghị . Trong sáu quan khanh kể tên sau này: 1. công tử Phi, tên tự là Tử Tứ; 2. công tử Phát, tên tự là Tử Quốc; 3. công tử Gia, tên tự là Tử Khổng; (ba người này đều là con Trịnh Mục công, đối với Trịnh Hi công thì là hàng thúc tổ phụ); 4. công tử Chiếp, tên tự là Tử Nhĩ (con công tử Khứ Tật); 5. công tôn Mại, tên tự là Tử Kiều (con công tử Yển); 6. công tôn Xá, tên tự là Tử Triền (con công tử Hi); (ba người này đều là cháu Trịnh Mục công, đối với Trịnh Hi công thì là hàng thúc phụ).

Sáu quan khanh ấy đều là bậc tôn trưởng của Trịnh Hi công cả, từ lau vẫn giữ quyền chính nước Trịnh . Trịnh Hi công là người kiêu ngạo, không biết tôn trọng các bậc tôn trưởng, bởi vậy vua tôi vẫn bất hoà với nhau, nhất là công tử Phi lại càng bất hoà lắm . Trong khi hội nghị, Trịnh Hi công chú ý muốn cố giữ để đợi quân Tấn đến cứu . Công tử Phi nói:

– Tục ngữ có câu rằng: “Nước xa không cứu được lửa gần”, vậy chi bằng ta theo Sở là hơn .

Hi công nói:

– Nếu ta theo Sở, quân Tấn lại sang đánh ta, lấy gì mà chống cự lại ?

Công tử Phi nói:

– Tấn vả Sở chẳng nước nào thương ta cả, ta cũng chẳng cứ phải chọn nước nào, hễ nước nào mạnh thế thì ta theo. Nay ta cứ đem lễ vật ra đợi sẵn ở ngoài cõi, Sở đến thì ta hội thề với Sở, mà Tấn đến thì ta hội thề với Tấn . Hai nước mạnh chọi nhau mãi thì tất có một nước thua, bấy giờ mạnh yếu phân biệt rõ ràng, ta xem nước nào thắng thì theo, để giữ cho nhân dân được yên ổn, thế là hay hơn cả!

Trịnh Hi công không theo kế đó, nói:

– Cứ như nhà ngươi nói, thì tại sao nước Trịnh ta chỉ những hội thề mà không năm nào đựơc yên cả .

Trịnh Hi công sai sứ sang nước Tần cầu cứu . Các quan đại phu đều sợ trái ý công tử Phi, không ai dám đi sứ . Trịnh Hi công giận lắm, thân hành đi sứ . Đêm hôm ấy Trịnh Hi công ngủ ở quán xá, công tử Phi sai người đến giết đi, rồi nói thác rằng Trịnh Hi công bị bạo bệnh mà chết, rồi lập người em là Gia lên nối ngôi, tức là Trịnh Giản công .

Công tử Phi sai người nói dối quân Sở rằng:

– Việc theo Tấn đều là tự ý Không Ngoan (tức là Trịnh Hi công), nay Không Ngoan đã chết rồi, vậy nước tôi lại xin theo thượng quốc .

Công tử Trịnh nước Sở lại cho nước Trịnh giảng hoà . Tấn Điệu công nghe tin nước Trịnh lại theo Sở, liền hỏi các quan đại phu rằng:

– Nay Trần và Trịnh cùng theo Sở cả, ta nên đánh nước nào trước ?

Tuân Dinh nói:

– Nước Tần nhỏ mọn, dẫu có theo ta hay không cũng không có gì là quan trọng cả; còn nước Trịnh là một nước trọng yếu, nếu muốn làm bá chủ, tất phải thu phục lấy nước Trịnh . Thà mất người nước Trần, chứ không nên bỏ mất một nước Trịnh!

Hàn Quyết nói:

– Tử Vũ (tên tự của Tuân Dinh) là người có kiến thức, tất thu phục đựơc nước Trịnh, tôi nay tuổi gia sức yếu, xin đem chức trung quân nguyên soái nhường lại cho Tử Vũ .

Tấn Điệu công bất đắc dĩ phải cho Tuân Dinh thay Hàn Quyết làm trung quân nguyên soái, đem đại binh đi đánh Trịnh . Quân Tấn kéo thẳng đến cửa quan Hổ Lao . Người nước Trịnh xin thề . Tuân Dinh thuận cho . Đến lúc quân Tấn về, Sở Cung vương lại thân hành đem quân sang đánh Trịnh . Người nước Trịnh lại theo Sở . Tấn Điệu công giận lắm, hỏi các quan đại phu rằng:

– Người nước Trịnh phản phúc, quân ta đến thì theo, quân ta về, lại phản, nay muốn làm cho người nước Trịnh phải một lòng theo ta thì nên dùn kế gì ?

Tuân Dinh hiến kế rằng:

– Nước Tấn ta không thu phục được nước Trịnh là vì người nước Sở cố sức mà tranh nước Trịnh với ta . Nay muốn thu phục được nước Trịnh thì tất phải đối địch với Sở, mà muốn làm cho Sở phải khốn quẫn thì nên dùng kế “dĩ giật đãi lao” .

Tấn Điệu công nói:

– Thế nào gọi là “dĩ giật đãi lao” ?

Tuân Dinh nói:

– Quân nước mình không nên dùng luôn, dùng luôn thì người mình nhọc; quân chư hầu không nên điều động luôn, điều động luôn thì chư hầu oán . Trong nhọc mà ngoài oán, cứ như thế thì không bao giờ thắng được nước Sở . Tôi xin đem quân ta mà chia ra làm ba đạo, mỗi đạo quân có mấy nước chư hầu phụ thuộc vào, thay đổi nhau mà đối địch với quân Sở, Sở tiến thì ta lui, Sở lui thì ta tiến, đem một đạo quân của ta mà làm cho cả nước Sở không lúc nào được yên, như thế thì nước Sở khốn quẫn, bấy giờ nước Trịnh tất phải một lòng theo ta .

Tấn Điệu công khen phải liền sai Tuân Dinh luyện quân ở đất Khúc Lương chia làm ba đạo, định phép thay phiên nhau . Tuân Dinh lên tướng đàn . Trên tướng đàn có cắm một lá cờ đại bái sắc vàng, trên đề mấy chữ “Trung quân nguyên sóai Trí”, dưới tướng đài chia quân làm ba đạo: đạo thứ nhất, thượng quân nguyên soái là Tuân Yển, phó tướng là Hàn Khởi, ba nước: Lỗ, Tào, Châu đem quân theo đạo ấy; trung quân phó tướng là Phạm Mang (tức là Sĩ Mang, đổi họ Phạm) đi tiếp ứng . Đạo thứ hai, hạ quân nguyên soái là Loan Áp, phó tướng là Sĩ Phường, ba nước: Tề, Đằng, Tiết đem quân theo đạo ấy; trung quân thượgn đại phu là Ngụy Hiệt đi tiếp ứng . Đạo thứ ba, tân quân nguyên soái và Triệu Vũ, phó tướng là Nguỵ Tướng, ba nước: Tống, Vệ, Nghê đem quân theo đạo ấy; trung quân hạ đại phu là Tuân Hội đi tiếp ứng .

Tuân Dinh truyền lệnh rằng:

– Ba đạo quân, cứ thay phiên nhau đi đánh Trịnh, hễ Trịnh chịu giảng hoà thì lại rút về ngay, nhất thiết không được giao chiến với quân Sở .

Công tử Dương Can là em cùng mẹ với Tấn Điệu công, mới mười chín tuổi, đang làm chức trung quân nhung ngự, tính khí hãy còn hăng hái, chưa từng ra trận bao giờ, nghe nói Tuân Dinh luyện quân để sắp đi đánh Trịnh, múa tay hoa chân, chỉ mong được ra nơi chiến trường, nhưng không thấy Tuân Dinh dùng đến mình, mới tình nguyện xin đi tiên phong . Tuân Dinh nói:

– Ngày nay ta luyện quân là chỉ muốn tiến cho chóng, lại thoái cho mau, không cần đánh quân giặc, tiểu tướng quân dẫu có sức khoẻ, cũng không dùng làm gì!

Công tử Dương Can cố ý xin mãi . Tuân Dinh nói:

– Tiểu tướng quân đã cố xin như vậy thì quyền cho làm bộ hạ quan Tuân đại phu (tức là Tuân Hội) để tiếp ứng đạo tân quân .

Công tử Dương nói:

– Đạo tân quân đến lần thứ ba mới ra đánh thì tôi đợi sao được, xin cho tôi thuộc vào đạo thượng quân .

Tuân Dinh không cho . Công tử Dương Can cậy thế là em Tấn Điệu công, đem ngay quân bạn bộ của mình, đi theo toán quân Phạm Mang . Quan tư mã là Ngụy Giảng trông thấy công tử Dương Can dám rẽ hàng quân để đi lên trước, liền đánh trống mà tuyên cáo với các tướng rằng:

– Công tử Dương Can dám trái tướng lệnh, đi loạn hàng quân, tội đáng chết chém, nay nể là em chúa công, vậy phải giết người dong xe để thay mạng .

Ngụy Giáng truyền cho quân sĩ bắt người dong xe đem chém . Công tử Dương Can căm tức vô cùng, vội vàng vào thuật chuyện lại cho Tấn Điệu công biết, và khóc mà nói rằng:

– Ngụy Giáng khinh bỉ em như vậy thì em không còn mặt mũi nào mà trông thấy các tướng nữa!

Tấn Điệu công vốn có lòng yêu em, không kịp hỏi rõ, liền nổi giận mà nói rằng:

– Nguỵ Giáng làm nhục em ta, khác nào như làm nhục ta, ta tất phải giết, không thể tha được!

Tấn Điệu công bèn truyền gọi quan trung quân phó súy là Dương Thiệt Chức, sai đi bắt Ngụy Giáng . Dương Thiệt Chức nói với Tấn Điệu công rằng:

– Ngụy Giáng là người có chí khí, có việc thì không tránh khó khăn, có tội thì không trốn hình phạt . Khi việc quân đã xong, tất nhiên đến đây tạ tội, bất tất phải cho đi triệu .

Được một lúc thì quả nhiên Ngụy Giáng đến, tay phải cầm kiếm, tay trái cầm tờ tâu, sắp sửa vào triều để tạ tội . Ngụy Giáng đến triều môn thì nghe tin Tấn Điệu công toan sai người đi bắt mình, liền giao tờ tâu cho người nhà, rồi toan cầm kiếm tự tử . Bỗng có hai viên quan ở đâu hối hả chạy đến, tức là quan hạ quân phó tướng Sĩ Phường và quan chư hậu đại phu Trương Lão . Sĩ Phường và Trương Lão trông thấy Ngụy Giáng toan tự tử, vội vàng giằng lấy thanh kiếm mà nói rằng:

– Chúng tôi nghe nói quan tư mã (trỏ Ngụy Giáng) vào triều, tất là vì việc công tử Dương Can, vậy chúng tôi vội vàng tới đây, định cùng nhau vào tâu để chúa công biết, chẳng hay vì cớ gì mà quan tư mã lại liều mình như thế ?

Ngụy Giáng thuật lại việc Tấn Điệu công toan sai Dương Thiệt Chức đi bắt mình . Sĩ Phường và Trương Lão nói:

– Quan tư mã một lòng giữ phép, không tư vị ai, can gì lại phải liều mình! âu là để chúng tôi vào tâu với chúa công .

Sĩ Phường và Trương Lão đem tờ tâu của Nguỵ Giáng vào dâng Tấn Điệu công . Tấn Điệu công mở ra xem, đại lược nói rằng:

“Chúa công không chê tôi là bất tài mà cho sung vào chức tư mã . Tôi nghe nói tính mệnh của ba quân là ở trong tay quan nguyên soái, mà quyền của quan nguyên sóai là ở trong mệnh lệnh; chỉ vì không tuân mệnh lệnh mà quân ta bị thua ở Hà Khắc và ở Bí Thành . Mới rồi, tôi có giết một kẻ không tuân theo mệnh lệnh ấy là để làm hết chức phận tư mã . Việc ấy xúc phạm đến ngự đệ, tôi biết tội đáng chết, vậy xin liều thân với lưỡi gươm trước mặt chúa công, để tỏ rõ tấm lòng thân ái của chúa công đối với ngự đệ”.

Tấn Điệu công xem xong, hỏi Sĩ Phường và Trương Lão rằng:

– Ngụy Giáng bây giờ ở đâu ?

Sĩ Phường và Trương Lão nói:

– Nguỵ Giáng sợ tôi đã toan tự tử, chúng tôi cố can mãi, hiện bây giờ đang đứng ở ngoài cửa cung .

Tấn Điệu công hoảng hốt dứng dậy, chân không kịp xỏ giày bước ngay ra ngoài cửa cung, cầm lấy ta Ngụy Giáng mà bảo rằng:

– Câu nói của ta là tình riêng; việc làm của nhà ngươi là phép công . Ta không biết dạy em để phạm đến phép công, đó là lỗi tại ta, chứ nhà ngươi có lỗi gì!

Dương Thiệt Chức ở bên cạnh, nói to lên rằng:

– Chúa công đã xá tội cho thì Ngụy Giáng nên lui ra .

Ngụy Giáng lạy tạ . Dương Thiệt Chức cùng với Sĩ Phường và Trương Lão cùng sụp lạy Tấn Điệu công mà chúc mừng rằng:

– Chúa công có người bề tôi biết giữ phép như thế, chắc là thành được nghiệp bá!

Bốn người cùng cáo từ Tấn Điệu công rồi lui về . Điệu công vào cung, xỉ mắng công tử Dương Can rằng:

– Nhà ngươi không biết giữ phép, suýt nữa thì khiến ta mang tiếng xấu, giết lầm một đại tướng của ta!

Lại sai nội thị giải công tử Dương Can đến nhà quan công tộc đại phu là Hàn Vô Ky, bắt họ lễ trong ba tháng, rồi mới được trở về yết kiến . Công tử Dương Can lấy làm hổ thẹn vô cùng .

Tuân Dinh chia quân xong, vừa toan đi đánh Trịnh, bỗng có sứ thần nước Tống đưa văn thư đến, Tấn Điệu công mở xem, mới biết nước Sở và nước Trịnh thường đem quân đi qua Bức Dương sang xâm lược địa giới nước Tống . Vì thế nước Tống phải sai sứ sang cáo cấp với nước Tấn . Quan thượng quan nguyên soái là Tuân Yển nói với Tấn Điệu công rằng:

– Nước Sở đã thu phục được Trần và Trịnh rồi mà lại còn sang xâm phạm nước Tống là có ý muốn cùng nước Tấn ta tranh nghiệp bá . Nay Bức Dương là con đường quân Sở sang đánh một trận có thể chiếm lấy được, rồi phong cho quan đại phu nước Tống là Hướng Thú ở đấy, (vì Hướng Thú đã có công ở trận Bành Thành), để chẹn đường quân Sở, cũng là một kế hay đó!

Tuân Dinh nói:

– Bức Dương dẫu nhỏ, nhưng thành quách vững bền lắm, nếu ta đánh mà không được, tất bị các nước chê cười .

Quan trung quân phó tướng là Sĩ Mang nói:

– Trận Bành Thành, ta đang đánh Trịnh thì Sở xâm Tống để cứu Trịnh; trận Hổ Lao, ta đang cùng với Trịnh giảng hoà thì Sở lại xâm Tống để báo thù, vậy ta muốn phục nuớc Trịnh thì trước hết phải lập mưu giữ nước Tống mới được . Tuân Yển nói phải lắm!

Tuân Dinh nói:

– Hai người có chắc là diệt được Bức Dương hay không!

Tuân Yển và Sĩ Mang đồng thanh đáp rằng:

– Xin nguyên soái cứ chắc ở hai chúng tôi, nếu không thành công thì hai chúng tôi xin chịu tội .

Tấn Điệu công nói:

– Bá Du (tên tự của Tuân Yển) khởi xướng lên mà Bá Hà (tên tự của Sĩ Mang) giúp vào thì lo gì không thành công!

Tấn Điệu công liền phái đạo quân thứ nhất đi đánh Bức Dương, nước Lỗ, nước Tào và nước Châu đem quân theo đạo ấy . Quan đại phu Bức Dương nói với vua Bức Dương rằng:

– Quân Lỗ đóng ở thành cửa bắc, ta giả cách mở cửa thành ra đánh, khiến cho quân Lỗ kéo vào; chờ khi vào được nửa chừng, bấy giờ ta hạ cánh cửa treo ở trên xuống mà chắn ngang . Quân Lỗ đã thua thì quân Tào và quân Châu tất sợ, tự khắc khí thế của nước Tấn cũng phải nhụt đi!

Vua Bức Dương dùng kế ấy . Tướng nước Lỗ là Mạnh Tôn Miệt (tức là Trọng Tôn Miệt) đem bộ thuộc của mình là Thúc Lương Ngột, Tần Cận Phụ và Địch Tây Di đánh cửa bắc . Tần Cận Phụ và Địch Tây Di trông thấy cánh cửa treo mở, liền cậy sức khoẻ tiến vào trước, Thúc Lương Ngột đi theo sau . Bỗng nghe trên mặt thành có tiếng cót két rồi cánh cửa từ từ đẩy lên . Toán hậu đội nước Lỗ thấy vậy liền nổi hiệu thu quân . Tần Cận Phụ và Địch Tây Di vội vàng quay mình trở ra . Tướng Bức Dương là Văn Ban ở trong thành đem quân đuổi theo, trông thấy Thúc Lương Ngột đang giơ tay đỡ cánh cửa treo để cho quân Lỗ rút lui thì kinh hãi, nghĩ thầm rằng: “cánh cửa treo tự trên buông xuống, nặng kể có nghìn cân, nếu tướng kia không có sức khoẻ hơn người thì đỡ lên thế nào cho nổi ? nay ta ra tới đấy mà bị người ây buông xuống thì phỏng còn gì là tính mệnh!” Văn Ban không dám đuổi theo nữa, mới dừng xe lại đứng xem . Thúc Lương Ngột đợi cho quân mình lui ra hết, rồi quát to lên rằng:

– Ta đây là một danh tướng nước Lỗ, tên gọi Thúc Lương Ngột có ai muốn ra đối địch thì nhân khi ta chưa buông tay này mau mau ra đi!

Người trong thành không ai dám nói gì cả . Văn Ban giương cung toan bắng . Thúc Lương Ngột nghiêm mình trở ra, rồi buông hai tay không đỡ nữa . Cánh cửa lại sập thẳng xuống tận đất . Thúc Lương Ngột về dinh bảo Tần Cận Phụ và Địch Tây Di rằng:

– Tính mệnh hai tướng vừa rồi, thật ở trong tay ta!

Tần Cận Phụ nói:

– Nếu hậu đội không nổi hiệu thu quân thì chúng ta cố sức xông vào, đã phá vỡ thành Bức Dương rồi!

Địch Tây Di nói:

– Để đến ngày mai chỉ một mình ta phá vỡ thành Bức Dương cho họ biết sức khoẻ của người nước Lỗ .

Ngày hôm sau Mạnh Tôn Miệt lại đem quân đến dưới thành để khiêu chiến, chia quân ra từng đội, mỗi đội một trăm người . Địch Tây Di nói:

– Ta không cần phải ai giúp, một mình ta làm một đội cũng đủ rồi!

Địch Tây Di lấy một cái áo giáp trùm lên một cái bánh xe, giương lên làm cái mộc, rồi cầm một cái kích thật dài, vừa múa vừa xông vào, chạy nhanh như bay . Quân Bức Dương đứng trên mặt thành, trông thấy Địch Tây Di dũng mạnh như vậy, mới dòng tấm vải xuống mà bảo rằng:

– Ta dòng dây cho mà lên, có dám lên thì mới cho là giỏi!

Nói chưa dứt lời thì trong đám quân Lỗ có một viên tướng bước ra nói:

– Khi nào lại không dám!

Viên tướng ấy tức là Tần Cận Phụ . Tần Cận Phụ lấy ta bíu tấm vải, tay phải tay trái lần thay nhau mà leo lên . Khi gần đến mặt thành thì quân Bức Dương lấy dao cắt đứt tấm vải . Tần Cận Phụ đang ở lưng chừng ngã lăn xuống đất . Thành Bức Dương cao kể mấy nhận (mỗi nhận tám thước),cứ như người khác mà ngã thì chẳng chết cũng bị trọng thương, thế mà Tần Cận Phụ không hề chi cả . Qúân Bức Dương lại dòng tấm vải xuống mà bảo rằng:

– Còn dám lên nữa không ?

Tần Cận Phụ lại bíu tấm vải mà len lên, cũng lại bị quân trên mặt thành cắt đức tấm vải mà ngã lăn xuống đất . Tần Cận Phụ vừa đứng dậy thì quân trên mặt thành lại dòng tấm vải xuống mà hỏi rằng:

– Nào! nào! còn dám lên nữa hay là thôi đấy!

Tần Cận Phụ lại hăng hái nói:

– Nếu không dám lên thì sao gọi là giỏi được!

Nói xong, lại leo lên như trước . Quân Bức Dương ở trên mặt thành trông thấy Tần Cận Phụ đã hai lần ngã mà vẫn dám lên, không chút sợ hãi, thì có ý lo, liền giơ dao cắt tấm vải, ngờ đâu Tần Cận Phụ đã nắm được một người mà vứt xuống, chết ngay lập tức . Tần Cận Phụ cũng ngã theo xuống, lại gọi quân trên mặt thành mà bảo rằng:

– Các người còn dám dòng vải xuống nữa hay thôi ?

Quân Bức Dương đáp:

– Đã biết tài sức của tướng quân rồi, không dám dòng vải xuống nữa!

Tần Cận Phụ sai lấy ba đoạn vải ấy đưa khắp cho quân sĩ xem, mọi người đều lắc đầu lè lưỡi . Mạnh Tôn Miệt khen rằng:

– Kinh thi có câu “sức khoẻ như hổ”, ba tướng (trỏ Thúc Lương Ngột, Tần Cận Phụ và Địch Tây Di) nay thật xứng đáng với câu ấy!

Văn Ban thấy các tướng nước Lỗ đều mạnh tợn như thế, không dám ra đánh, truyền cho quân sĩ cố giữ thế thủ . Quân các nước vây thành Bức Dương đã hai mươi ngày mà chưa phá nổi, bỗng trời mưa to lắm, mặt đất bị nước ngập sâu ba thước, quân sĩ hoảng sợ . Tuân Yển và Sĩ Mang (tướng nước Tấn) vội vàng vào thương nghị với Tuân Dinh để xin rút quân về .

Chương 61: Tấn Điệu Công cử binh đánh Sở – Tôn Lâm Phủ nổi loạn đuổi vua

Quân Tấn và quân chư hầu vây thành Bức Dương trong hai mươi bốn ngày mà chưa phá vỡ, bỗng trời mưa to lắm, mặt đất bị nước ngập sâu ba thước, Tuân Yển và Sĩ Mang lo sợ, vào nói với Tuân Dinh rằng:

– Chúng tôi vẫn tưởng là thành nhỏ dễ đánh, ai ngờ vây mãi không phá được, mà trời lại mưa to; nay đang mùa hạ, lại là mùa nước lên, sông Bào ở phía tây, sông Tiết ở phía đong, sông Khoách ở phía đông bắc, ba sông ấy đều nhau với sông Tứ, vạn nhất trời mưa mãi, nước mấy sông ấy tràn đến thì khó lòng mà thu quân được, chi bằng ta tạm rút về, rồi sau sẽ liệu .

Tuân Dinh nổi giận, cầm cái ghế đang ngồi, ném xuống trước mặt Tuân Yển và Sĩ Mang mà mắng rằng:

– Ta vẫn bảo thành ấy dẫu nhỏ mà vững bền lắm, chưa dễ phá nổi, các ngươi dám tự quyết là đánh được; khi ở trước mặt chúa công, các ngươi cố ý xin đi đánh, khiến cho ta phải đem quân tới đây . Nay đánh mãi không được, vừa gặp trời mưa, đã muốn rút quân về; các ngươi muốn đến đây thì dễ, chứ muốn rút về thì khó, ta hạn cho bảy ngày nữa, nếu không phá vỡ thành Bức Dương thì sẽ chiếu theo quân pháp mà chém đầu . Muốn tốt thì đi đi cho mau chớ đến đây nữa!

Tuân Yển và Sĩ Mang sợ hãi, xám xanh cả mặt, vâng vâng dạ dạ, luôn mồm mà lui ra, bảo các tướng bộ thuộc của mình rằng:

– Quan nguyên sóai nghiêm hạn trong bảy ngày nữa, nếu không phá vỡ thành Bức Dương thì chém đầu chúng ta, nay ta cũng nghiêm hạn cho các ngươi, nếu trong sáu ngày nữa mà không phá vỡ được thành cũng chém đầu các ngươi trước rồi ta sẽ tự tử để giữ lấy quân pháp .

Các tướng đều sợ hãi nhìn nhau . Tuân Yển và Sĩ Mang nói:

– Quân pháp không phải là nói đùa, chúng ta phải xông pha tên đạn, ngày đêm đánh riết, có tiến mà không thoái!

Nói xong, sai người ước với quân nước Lỗ, nuớc Tào và nước Châu cùng nhau ra sức . Bấy giờ thế nước đã hơi lui, Tuân Yển và Sĩ Mang thúc quân tiến đánh: tên đạn ở trên mặt thành bắn xuống như mưa, mà Tuân Yển và Sĩ Mang nhất định không đánh . Đến ngày thứ năm, trong thành hết cả tên đạn . Tuân Yển mới bắc thang trèo lên, Sĩ mang cũng lên theo, quân tướng các nước đều lục tục kéo nhau lên cả . Văn Ban tiếp chiến trong các ngõ hẻm, kiệt sức mà chết . Tuân Dinh vào thành, vua Bức Dương đem thần thuộc ra xin hàng .

Lúc bấy giờ Tấn Điệu công lo không đánh được thành Bức Dương, lại đem hai nghìn tinh binh đến để trợ chiến . Khi đi đến đất Sở Khâu (đất nước Vệ), nghe tin Tuân Dinh đã hạ được thành Bức Dương rồi, liền sai sứ đến nước Tống, đem thành Bức Dương phong cho quan đại phu nước Tống là Hướng Thú . Hướng Thú cùng với Tống Bình công thân hành đến đất Sở Khâu, yết kiến Tấn Điệu công . Hướng Thú chối từ không dám nhận phong . Tấn Điệu công liền giả đất cho Tống Bình công . Tuân Dinh thuật lại sự dũng cảm của ba tướng nước Lỗ, Tấn Điệu công ban xe và áo cho mỗi người . Các tướng nước Lỗ lạy tạ, rồi thu quân về . Tấn Điệu công trách vua Bức Dương về tội khi trước giúp Sở, giáng làm thứ nhân, lại chọn một người trong họ của vua Bức Dương cho ở đất Hoắc Thành để giữ lấy việc cúng tế .

Mùa thu năm ấy, Tuân Hội tạ thế, Tấn Điệu công thấy Ngụy Giáng là người biết giữ phép, bèn nhấc lên chức tân quân phó tướng; cho Trương Lão thay Ngụy Giáng làm chức tư mã .

Mùa đông năm ấy, đạo quân thứ hai của Tấn lại sang đánh Trịnh, đóng đồn ở đất Ngưu Thủ (đất nước Trịnh) và đất Hổ Lao, vừa lúc ấy, người nước Trịnh là Uý Chỉ nổi loạn, giết công tử Phi, công tử Phát và công tử Triệt ở tây cung . Con công tử Phi là công tôn Hạ (tên tự là Tử Tây) và con công tử Phát là công tôn Kiều (tên tự là Tử Sản) đều đem bọn vũ sĩ trong nhà đi đánh Uý Chỉ . Uý Chỉ chạy về Bắc cung . Công tôn Mại cũng đem quân đuổi đánh, giết chết được Uý Chỉ, rồi lập công tử Gia làm thượng khanh . Loan Áp nói với Tuân Dinh rằng:

– Ta nên nhân lúc nước Trịnh có loạn mà tiến đánh ngay thì tất có thể phá được .

Tuân Dinh nói:

– Nhân lúc người ta có loạn mà đánh là bất nghĩa .

Tuân Dinh truyền hoãn binh không đánh vội . Quan thượng khanh nước Trịnh là công tử Gia xin giảng hoà . Tuân Dinh thuận cho . Đến lúc công tử Trịnh nước Sở đem quân cứu Trịnh thì quân Tấn đã rút về rồi . Nước Trịnh lại cùng với nước Sở giảng hoà . Năm sau, Tấn Điệu công lại cho đạo quân thứ ba sang đánh Trịnh . Toán quân của Hướng Thú nước Tống kéo đến cửa đông . Quan thượng khanh nước Vệ là Tôn Lâm Phủ cũng đem quân đóng ở phía bắc . Quan hạ quan nguyên soái nước Tấn là Triệu Vũ đem quân đóng ở phía tây . Tuân Dinh đem đại binh tự đất Bắc Lâm kéo qua phía tây, tiến đến cửa nam, rồi sai người ước với các toán quân cùng vây nước Trịnh . Trịnh Giản công sợ lắm, lại xin giảng hoà . Tuân Dinh thuận cho, rồi lui quân về địa giới nước Tống . Trịnh Giản công thân hành đến khoao thưởng quân sĩ, cùng với Tuân Dinh hội thề . Sở Cung vương giận lắm, sai công tử Trịnh sang mượn quân Tần để về đánh Trịnh .

Bấy giờ vì Sở Cung vương phu nhân là em gái Tần Cảnh công (con Tần Hoàn công) nên hai nước có tình thân gia với nhau, Tần Cảnh công bèn sai đại tướng là Doanh Thiêm đem quân sang giúp nước Sở . Sở Cung vương đem đại binh thẳng đường tiến sang Huỳnh Dương và nói quả quyết rằng:

– Lần này không diệt được nước Trịnh thì không chịu rút quân về .

Trịnh Giản công từ khi giảng hoà với Tấn, biết chắc rằng thế nào Sở cũng lại đem binh sang đánh, mới họp triều thần lại để thương nghi .

Các quan đại phu đều nói:

– Hiện nay thế lực nước Tấn cường thịnh, nước Sở không bằng, nhưng quân Tấn đi thì mua mà đến thì chậm, cho nên hai nước chưa gặp được nhau để quyết một trận trống mái, thành ra cứ tranh nhau mãi; nếu quân Tấn chịu giúp ta thực sự mà đánh Sở thì quân Sở tự biết sức kém mà phải tránh xa, bấy giờ ta có thể một lòng theo Tấn được .

Công tôn Xá Chi hiến kế rằng:

– Ta muốn cho Tấn thực sự giúp ta thì phải làm cho Tấn tức giận, mà muốn làm cho Tấn tức giận thì không gì bằng đánh Tống . Nay Tống đang giao hiếu với Tấn, vậy ta buổi sớm đánh Tống thì buổi chiều quân Tấn tất sang đánh ta . Quân Tấn đến mau được, quân Sở không đến mau được, bấy giờ ta sẽ có cớ mà nói với quân Sở .

Các quan đại phu đều khen phải . Trong khi đang họi nghị thì có người báo tin nước Sở sang mượn quân nước Tần . Công tôn Xá Chi mừng mà nói rằng:

– Đó là lòng trời khiến cho ta theo Tấn!

Các quan đại phu đều không hiểu ý . Công tôn Xá Chi nói:

– Sở và Tấn cùng sang đánh thì nước Trịnh ta chịu thế nào nổi, chi bằng ta sai người ra nghênh tiếp vua Sở, rồi xui sang đánh Tống . Một là tránh khỏi cái hại quân Sở, hai là làm cho quân Tấn tức giận mà đến mau, có phải là được cả đôi đường không .

Trịnh Giản công theo kế ấy, liền sai công tôn Xá Chi đi nghênh tiếp quân Sở . công tôn Xá Chi qua sông Dĩnh, đi chưa được một xá thì gặp quân Sở . Xá Chi sụp lạy trước xe Cung vương . Cung vương cau mày quắc mắt mà hỏi rằng:

– Nước Trịnh ngươi phản phúc không thường, ta định đem quân đến hỏi tội, nay nhà ngươi tới đây là có ý gì ?

Công tôn Xá Chi nói:

– Chúa công tôi vẫn mến cái đức của đại vương, vẫn sợ cái uy của đại vương muốn suốt đời nương tựa ở dưới bóng đại vương, không bao giờ dám hai lòng; ngặt vì nước Tấn bạo ngược, cùng với nước Tống xâm nhiễu nước tôi . Chúa công tôi sợ nước nhà tàn phá bất đắc dĩ phải giảng hoà để quân Tấn lui về, khi quân Tấn đã lui rồi thì nước tôi lại là một nước phụ thuộc của đại vương . Chúa công tôi sợ đại vương không thấu cái nông nổi ấy, vậy phải sai tôi đến đây để giải bày tâm sự nếu đại vương sang hỏi tội nước Tống thì chúa công tôi xin đi làm tiên phong .

Sở Cung vương đổi giận làm lành mà bảo rằng:

– Nếu vua Trịnh muốn theo ta đánh Tống thì còn nói gì nữa!

Công tôn Xá Chi nói:

– Khi tôi tới đây thì chúa công đã sửa soạn quân sĩ để chực đón đại vương ở phía đông bờ cõi rồi!

Sở Cung vương nói:

– Đã đành rằng thế, nhưng quân Tần hẹn ta hội ở đất Huỳnh Dương, ta phải đợi quân Tần mới được .

Công tôn Xá Chi nói:

– Nước Tần xa cách, tất phải qua Tấn và Chu mới sang đến nước tôi, đại vương sai sứ đi ngăn lại, cũng có thể kịp; cứ như uy linh đại vương và thế lực quân Sở thì cần gì phải mượn đến quân Tần!

Sở Cung vương bằng lòng, liền sai sứ đi từ tạ quân Tần, rồi cùng với công tôn Xá Chi đi về phía đông . Đi đến đất Hữu Sầm thì thấy Trịnh Giản công đã đem quân ra nghênh tiếp, liền cùng nhau sang đánh Tống, cướp phá một phen, rồi rút quân về . Tống Bình công sai Hướng Thú sang cáo cấp với nước Tấn, và kể chuyện nước Trịnh hợp quân với nước Sở . Quả nhiên Tấn Điệu công nổi giận, lại truyền cho đạo quân thứ nhất tiến sang đánh Trịnh . Tuân Dinh bàn rằng:

– Nước Sở phỉ sang mượn quân nước Tần là vì nước Sở trong mấy năm nay chỉ những đi lại mà không thể chịu được sự lao khổ; lần này sang đánh, ta nên tỏ cho nước Trịnh biết sự cường thịnh của ta thì tự khắc nước Trịnh không dám theo Sở nữa!

Điệu công khen phải, liền hội họp các nước: Tống, Lỗ, Vệ, Tề, Tào, Cử, Châu, Đằng, Tiết, Kỷ và Tiểu Châu cùng đem quân sang đánh Trịnh, diễu quân ở phía đông nước Trịnh, bắt được quân dân nước Trịnh rất nhiều . Trịnh Giản công bảo công tôn Xá Chi rằng:

– Nhà ngươi muốn làm cho nước Tấn tức giận, đem quân đến ngay, nay quả nhiên quân Tống đến thật, nhà ngươi tính thế nào ?

Công tôn Xá Chi nói:

– Tôi xin một mặt sai người giảng hoà với Tấn, một mặt sai người cầu cứu với Sở . Quân Sở đến thì tất phải giao chiến với Tấn, bấy giờ ta chọn nước nào thắng thì theo; nếu quân Sở không đến thì ta giảng hoà với Tấn rồi đem vàng ngọc làm lễ đút cho Tấn, để Tấn giúp ta thực sự thì còn lo gì nước Sở nữa!

Trịnh Giản công khen phải, liền sai quan đại phu là Bá Biền sang giảng hoà với quân Tấn, và sai công tôn Lương Tiêu cùng quan thái tể là Thạch Sước sang nói với Sở Cung vương rằng:

– Hiện nay nước Tấn lại đem quân mười một nước chư hầu đến đánh nước tôi, chúng tôi khó lòng mà giữ nổi . Nếu đại vương lấy binh lực mà thị uy với nước Tấn thì đó là sở nguyện của chúng tôi . Nếu không thì xã tắc chúng tôi lâm nguy, chúng tôi không còn có cách gì hơn là xin hoà với Tấn, xin đại vương mở lòng thương mà tha thứ cho chúng tôi .

Sở Cung vương nổi giận, gọi công tử Trinh đến để hỏi kế .

Công tử Trinh nói:

– Quân ta mới rút về, chưa được nghỉ ngoi, đã đi thế nào được ? Chi bằng ta hãy nhương nước Trịnh cho Tấn, lo gì không có ngày lấy lại .

Sở Cung vương vẫn chưa nguôi cơn giận, truyền giam công tôn Lương Tiêu và Thạch Sước lại, không cho về nước . Tấn Điệu công đóng quân ở đất Tiêu Ngư, sứ nước Trịnh là Bá Biền xin vào yết kiến . Tấn Điệu công cho vào, rồi lên tiếng nạt nộ mà hỏi rằng:

– Nước ngươi chỉ mượn việc giảng hoà mà nói dối ta đã nhiều lần rồi! lần này lại còn muốn dùng kế hoãn binh hay sao!

Bá Biền sụp lạy mà nói rằng:

– Chúa công tôi hiện đã sai sứ sang tuyệt giao với quân Sở có đâu dám hai lòng!

Tấn Điệu công nói:

– Ta đem lòng thành tín mà đãi ngươi, nếu nước còn phản phúc nữa thì chẳng những một mình ta tức giận mà các nước chư hầu cùng tức giận cả . Thôi thì nhà ngươi hãy về mà bàn lại với vua Trịnh xem đã .

Bá Biền lại nói:

– Chúa công tôi thành kính mà sai tôi tới đây, thật là muốn một lòng thần phục nhà vua, xin nhà vua chớ nghi ngại .

Tấn Điệu công nói:

– Nếu vậy thì vua Trịnh phải cùng ta hội thề!

Liền sai quan tân quân nguyên soái là Triệu Vũ cùng với Bá Biền vào thành để hội thề với Trịnh Giản công . Trịnh Giản công xin thân hành đến dinh Tấn để cùng với các nước chư hầu hội thề . Tấn Điệu công nói:

– Nếu vua Trịnh có lòng thành tín thì tự khắc quỉ thần chứng giám, hà tất phải thề một lần nữa!

Tấn Điệu công truyền tha hết quân dân nước Trịnh bị bắt, và nghiêm cấm quân sĩ không được xâm phạm một chút gì của Trịnh, lại truyền cho toán quân ở Hổ Lao rút về hết, để cho quân Trịnh giữ lấy cửa ải . Chư hầu đều can rằng:

– Chưa có thể tin được nước Trịnh, nếu họ lại đem lòng phản phúc thì ta lại cho quân sang đóng ở Hổ Lao, chẳng cũng thêm khó một lần nữa sao ?

Tấn Điệu công nói:

– Lâu nay binh hoả liên miên, tướng sĩ các nước khó nhọc ở nơi chiến trường . Bây giờ ta muốn đem lòng thành tín mà đãi nước Trịnh, ta đã không phụ nước Trịnh thì lẽ nào nước Trịnh lại nỡ phụ ta!

Nói xong, liền bảo Trịnh Giản công rằng:

– Ta biết nước Trịnh cũng khổ sở về cuộc binh đao, nay ta muốn cùng nước Trịnh yên nghỉ; từ nay trở đi, theo Tấn hay theo Sở là tuỳ ý nước Trịnh, ta cũng không cưỡng .

Trịnh Giản công cảm động, ứa nước mắt mà nói rằng:

– Nhà vua thành tín như vậy, đến giống cầm thú cũng phải cảm kích, huống chi tôi cũng còn là loài người, lẽ nào dám phụ bạc quên ơn . Tôi còn ăn ở hai lòng thì xin quỉ thần tru diệt!

Trịnh Giản công cáo từ lui ra . Ngày hôm sau, Trịnh Giản công sai công tôn Xá Chi đem ba người nhạc sư, mười sáu người nữ nhạc, ba mươi sáu cái chuông và cái khánh, ba mươi người nữ công, cùng các thứ binh xa, đến dâng Tấn Điệu công . Tấn Điệu công nhận, rồi đem tám người nữ nhạc, mười hai cái chuông thửơng cho Ngụy Giáng mà bảo rằng:

– Nhà ngươi khuyên ta giảng hoà với các nước Sơn Nhung, để chỉnh đốn trung nguyên, nay chư hầu hoà mục với ta, như âm nhạc hoà hài, vậy ta xin cùng nhà ngươi hưởg nhạc .

Tấn Điệu công lại đem một phần binh xa thưởng cho Tuân Dinh và bảo rằng:

– Nhà ngươi khuyên ta chia quân để làm cho Sở phải khốn quẫn; nay nước Trịnh chịu thần phục ta, cũng là công của nhà ngươi .

Ngụy Giáng và Tuân Dinh đều từ chối mà nói rằng:

– Đó là nhờ uy linh của chú công, và công lao của chư hầu, chúng tôi có tài lực gì!

Tấn Điệu công nói:

– Nếu không có hai ngươi thì sao ta được như thế này, hai ngươi chớ từ chối .

Ngụy Giáng và Tuân Dih cùng lạy tạ, chư hầu đều rút quân về nước . Tấn Điệu công lại sai người sang sứ các nước để tạ lại công khó nhọc đem quân đi giúp . Các nước đều bằng lòng . Từ bấy giờ nước Trịnh một lòng theo Tấn . Lúc bấy giờ Tần Cảnh công đánh Tấn để cứu Trịnh, thắng một trận ở đất Lịch, sau nghe tin nước Trịnh đã đầu hàng nước Tấn, liền rút quân về .

Năm sau, vua nước Ngô là Thọ Mộng ốm nặng, gọi bốn con trai là: Chư Phàn, Dư Sai, Di Muội và Quí Trát đến bên cạnh giường nằm mà bảo rằng:

– Trong bốn anh em mày, chỉ có Quí Trát được lên làm vua mà giữ lấy cơ nghiệp, ai trái mệnh ta, là bất hiếu đó .

Vua nước Ngô nói xong thì chết . Chư Phàn nhường ngôi cho Trát và nói:

– Đó là ta theo ý muốn của thân phụ chúng ta đó!

Quí Trát nói:

– Khi phụ thân hãy còn, em đã cố từ ngôi thế tử, huống chi nay phụ thân đã mất rồi, em lại nhận lấy ngôi vua hay sao! nếu anh cố nhường thì em xin trốn sang nước khác .

Chư Phàn bất đắc dĩ phải lên nối ngôi . Tấn Điệu công sai sứ sang nước Ngô để viếng tang vua cũ và chúc mừng vua mới . Qua năm sau tướng nước Tấn là Tuân Dinh, Lỗ Phường, và Ngụy Tướng đều ốm chết cả . Tấn Điệu công lại luyện quân ở Miêu Sơn, muốn cho Sĩ Mang làm trung quân nguyên soái . Sĩ Mang từ chối mà nói rằng:

– Bá Du (tên tự của Tuân Yển) còn nhiều tuổi hơn tôi, tôi xin nhường Bá Du .

Tấn Điệu công liền cho Tuân Yển được thay Tuân Dinh làm trung quân nguyên soái, Sĩ Mang làm trung quân phó tướng; lại muốn cất nhắc Hàn Khởi lên chức thượng quán nguyên soái . Hàn Khởi nói:

– Triệu Vũ giỏi hơn tôi, tôi xin nhường Triệu Vũ .

Tấn Điệu công liền cho Triệu Vũ thay Tuân Yển làm thượng quân nguyên sóai; Hàn Khởi làm thượng quân phó tướng . Loan Áp vẫn làm hạ quân nguyên soái như cũ, Ngụy Giáng làm hạ quân phó tướng . Còn đạo tân quân chưa có ai làm nguyên soái . Tấn Điệu công nói:

– Chẳng thà để ngôi không mà đợi người giỏi, còn hơn dùng những người không xứng chức!

Bèn truyền cho quân lại đem quan, lính, xe cộ của đạo tàn quân mà nhập vào đạo hạ quân . Các quan đại phu đều nói:

– Chúa công ta dùng người, thật là thận trọng!

Từ bấy giờ ai cũng cố giữ chức phận, không dám trễ biếng . Nước Tấn lại cường thịnh, nối được bá nghiệp của Tấn Văn công và Tấn Tương công thuở xưa . Sau Tấn Điệu công lại bỏ bớt đạo tàn quân, chỉ còn ba đạo (thượng quân, trung quân và hạ quân) để giữ đúng lễ chư hầu .

Năm ấy Sở Cung vương (Thẩm) chết, thế tử Chiêu lên nối ngôi, tức là sở Khanh vương . Vua nước Ngô là Chư Phàn sai quan đại tướng là công tử Đảng đem quân đi đánh Sở . Tướng nước Sở là Dưỡng Do Cơ đem quân ra nghênh chiến, bắn chết công tử Đảng . Quân nước Ngô bị thua rút về . Chư Phàn sai sứ sag cáo cấp với Tấn Điệu công . Tấn Điệu công hội chư hầu ở Hướng Địa để thương nghị . Quan đại phu nước Tấn là Dương Thiệt Bật (con thứ Dương Thiệt Chức) nói với Tấn Điệu công rằng:

– Nước Ngô nhân khi nước Sở có tang đem quân sang đánh thì thua là phải, can gì mà giúp; còn Tần là một nước láng giềng với ta, và cùng ta có tình thân gia, khi trước lại theo Sở cứu Trịnh, đánh bại quân ta ở Lịch Địa, việc ấy nên báo thù . Nếu ta đánh được quân Tần thì thế lực nước Sở phải suy kém đi .

Tấn Điệu công khen phải, liền sai Tuân Yển đem quân cùng với chư hầu đi đánh Tần, còn mình thì đóng quân ở ngoài cõi để đợi tin tức . Tần Cảnh công nghe nói quân Tấn sắp đến thì sai người đem mấy bì thuốc độc bỏ chìm ở thượng lưu sông Kinh Thủy . Quan đại phu nước Lỗ là Thúc Tôn Báo cùng với quân nước Cử sang đò trước, nhiều người uống phải nước sông, đều trúng độc mà chết . Các toán quân khác không ai dám sang đò nữa . Quan đại phu nước Trịnh là công tôn Kiền đem quân tiến sang, Bắc Cung Quát theo sau, từ bấy giờ các toán quân đều kéo nhau sang cả, đóng đồn ở Vực Lâm . Quan trung quân nguyên soái nước Tấn là Tuân Yển truyền lệnh cho các quân rằng: “Gà gáy thì xuất quân, cứ theo đầu ngựa ta quay về phía nào thì đi phía ấy”. Quan hạ quân nguyên sóai là Loan Áp vốn không phục Tuân Yển, nghe thấy truyền lệnh như vậy, nổi giận mà rằng:

– Việc quân phải có nhiều người tham gia ý kiến mà dầu nếu Tuân Yển có độc đóan thì cũng phải nói rõ cho người ta biết cách tiến thoái như thế nào, có lẽ nào tất cả mọi người ta biết cách tiến thoái như thế nào, có lẽ nào tất cả mọi người trong ba đạo quân mà chỉ nom về đầu ngựa của một người! đây ta cũng là hạ quân nguyên soái, đầu ngựa ta chỉ muốn quay về phái đông .

Loan Áp liền đem quân bộ thuộc rút về phía đong . Quan hạ quân phó tướng là Ngụy Giáng nói:

– Chức phận ta là phải theo quan nguyên soái của ta, không theo lệnh Tuân Yền được!

Nguỵ Gíang cũng theo Loan Áp mà rút quân về, Tuân Yển nói:

– Ta truyền lệnh không rõ, đó là lỗi của ta, nay các tướng đã không theo lệnh thì còn thành công làm sao được!

Nói đọan truyền cho các nước đều rút quân về cả . Nước Tấn cũng rút quân về . Bấy giờ Loan Hàm làm chức nhung hữu ở đạo hạ quân, nhất định không chịu, bảo người con Phạm Mang (tức là Sĩ Mang) là Phạm Uởng rằng:

– Ngày nay ta chỉ cốt sang báo thù nước Tần, nếu không thành công thì thật là xấu hổ . Hai anh em ta (Loan Hàm là em Loan Áp) lẽ nào lại cùng rút quân về, nhà ngươi có dám cùng ta sang đánh quân Tần hay không ?

Phạm Uởng nói:

– Nhà ngươi còn biết nghĩ đến điều quốc sĩ, sao ta lại không theo .

Phạm Uởng cùng với Loan Hàm đem quân sang đánh quân Tần . Tần Cảnh công đang sai người đi do thám xem tình hình quân Tấn thế nào, bỗng thấy có một toán quân tiến đến, Tần Cảnh công sai công tử Vô Địa đem quân ra nghênh chiến . Loan Hàm và Phạm Uởng hai người cùng cố sức tiến đánh, giết được quân Tần nhiều lắm . Quân Tần sợ hãi, đã toan bỏ chạy, nhưng trông thấy toán quân của Loan Áp và Phạm Uởng không có quân tiếp ứng, liền nổi hiệu trống rồi đem quân vây kín xung quanh . Phạm Uởng bảo Loan Hàm rằng:

– Quân Tân thế mạnh lắm, ta không thể đương nổi!

Loan Hàm không nghe, lại gặp có đại binh của tướng nước Tần là Doanh Thiềm kéo đến, Loan Hàm lại cố sức xung đột, một tay giết chết được mấy người nữa, rồi bị luôn bảy mũi tên mà chết . Phạm Uởng cố sức phá vòng vây chạy thóat . Loan Áp trông thấy Phạm Uởng về một mình, liền hỏi:

– Em ta đâu ?

Phạm Uởng nói:

– Đã mắc nạn ở trong đám quân Tần rồi .

Loan Áp nổi giận, cầm giáo đâm Phạm Uởng, Phạm Uởng không dám chống lại, ù té bỏ chạy, Loan Áp đuổi theo . Thân phụ Phạm Uởng là Phạm Mang ngăn Loan Áp lại mà bảo rằng:

– Sao hiền tế lại quá giận như vậy!

Loan Áp vẫn còn hầm hầm nổi giận, quát to lên mà đáp rằng:

– Con ông rủ em tôi cùng sang đánh quân Tần, nay em tôi chết trận mà con ông sống về, thế có phải là con ông giết em tôi hay không ? ông chịu đuổi nó đi, tôi còn có thể tha thứ được, nếu không thì tôi tất phải giết nó để đền mạng cho em tôi!

Phạm Mang nói:

– Việc đó ta không được biết, âu là để ta đuổi nó đi!

Phạm Uởng nghe nói, liền bỏ trốn sang nước Tần, đem sự tình đầu đuôi thuật lại cho Tần Cảnh công nghe . Tần Cảnh công mừng lắm, đãi Phạm Uởng theo lễ thượng khanh . Một hôm, Tần Cảnh công hỏi Phạm Uởng rằng:

– Vua Tấn là người thế nào ?

Phạm Uởng nói:

– Là một ông vua hiền biết nguời và có tài dùng người .

Tần Cảnh công lại hỏi:

– Các quan đại phu nước Tân, ai giỏi hơn cả ?

Phạm Uởng nói:

– Triệu Vũ, Ngụy Giáng, Dương Thiệt Bật, Trương Lão, Kỳ Ngọ và cha tôi là Phạm Mang đều là những bậc tài gỉoi cả; còn các quan công khanh khác, cũng đều biết giữ phép, làm trọn chức phận của mình, tôi không dám khinh xuất mà ban hết được .

Tần Cảnh công lại hỏi:

– Thế thì trong các quan đại phu nước Tấn, người nào có cơ suy vong trước ?

Phạm Uởng nói:

– Họ Loan có cơ suy vong truớc .

Tần Cảnh công nói:

– Ý chừng vì cớ xa xỉ có phải không ?

Phạm Uởng nói:

– Loan Áp dẫu xa xỉ cũng chưa việc gì, đến đời con là Loan Doanh thì tất không tránh khỏi nạn được!

Tần Cảnh công nói:

– Tại sao ?

Phạm Uởng nói:

– Loan Thư ngày xưa thương dân trọng sĩ, lòng người ai cũng yêu mến, bởi vậy dẫu có việc giết vua mà trong nước không ai nói đến, vì nhờ có ân đức cũ; nay Loan Áp chế đi, đến đời Loan Doanh thì ân đức của Loan Thư đã hết rồi, Loan Doanh lại là người không có nhân chính, tài nào giữ cho khỏi suy vong được!

Tần Cảnh công khen rằng:

– Nhà ngươi thật là một người hiểu lễ lắm!

Tần Cảnh công nhân có Phạm Uởng, liền giao kết với Phạm Mang, rồi sai người sang giảng hoà với nước Tấn và xin cho Phạm Uởng được phục chức . Tấn Điệu công thuận cho . Phạm Uởng về nước Tấn, Điệu công cho cùng Loan Doanh đều làm quan công tộc đại phu, và bảo Loan Áp không được báo thù oán Phạm Uởng nữa . Từ bấy giờ Tần và Tấn lại giảng hoà với nhau . Năm ấy Loan Áp chết, con là Loan Doanh thay làm hạ quân phó tướng .

Lại nói chuyện Vệ Hiến công tên là Hãn, thay cha là Vệ Đinh công, lên nối ngôi vua, trong khi có tang mà không tỏ vẻ thương xót chút nào . Bà đích mẫu Vệ Hiến công thấy vậy, biết là Hiến công không thể làm vua được, vẫn thường đem lời khuyên bảo, mà Vệ Hiến công không nghe . Đến lúc hết tang, Vệ Hiến công lại càng phóng túng lắm, chỉ tin dùng đứa du nịnh, và ham mê chơi bời, chẳng thiết gì đến chính sự cả . Vệ Đinh công ngày xưa có người em cùng mẹ là công tử Hắc Bối, vẫn cậy thế chuyên quyền; con công tử Hắc Bối là công tôn Phiếu lại nối tước của cha là quan đại phu, cũng là một người có quyền lược . Quan thượng khanh là Tôn Lâm Phủ, quan á khanh là Ninh Thực thấy Vệ Hiến công vô đạo, bèn cùng với công tôn Phiếu kết giao . Tôn Lâm Phủ lại mật kết với nước Tấn để làm ngoại viện, và đem những đồ bảo ngọc thiên vào Thích Địa, (ấp ăn lộc của Tôn Lâm Phủ), cho vợ con về ở đấy . Vệ Hiến công nghi Tôn Lâm Phủ có ý làm phản, mà chưa dám nói ra . Một hôm, Vệ Hiến công hẹn Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực cùng đến ăn cơm trưa, Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực mặc triều phục đứng đợi ở ngoài cửa cung từ sáng đến trưa mà không thấy lệnh truyền cho vào; ở trong cung cũng không thấy có một người nào đi ra cả .

Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực sinh nghi . Trời đã xế chiều, hai người vừa đói vừa nhọc, mới cùng nhau gõ cửa xin vào yết kiến . Nội thị nói:

– Chúa công đang tập bắn ở sau vườn . Hai ngài muốn yết kiến thì mời hai ngài vào đấy .

Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực nổi giận, nhưng cũng cố nhịn đói mà vào thẳng sao vườn, trông thấy Vệ Hiến công đang đội cái mũ da (thứ mũ dùng để đi săn) cùng với xạ sư là công tôn Đinh thi bắn . Vệ Hiến công trông thấy Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực đến trước mặt, không bỏ mũ da xuống, lại đeo cung vào nách mà hỏi rằng:

– Hai ngưoi hôm nay đến đây có việc gì ?

Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực đồng thanh đáp:

– Chúng tôi thấy chúa công hẹn cho ăn cơm trưa, chầu chực đến giờ, bụng đã đói lắm, không dám trái lệnh, vậy phải vào đây .

Vệ Hiến công nói:

– Ta ham bắn quá, thành ra quên mất, thôi thì hai ngươi hãy lui về, để đến hôm khác!

Vệ Hiến công nói xong thì vừa có đàn chim bay qua, vừa bay vừa kêu, Vệ Hiến công bảo công tôn Đinh rằng:

– Ta cùng nhà ngươi bắn thi đàn chim này!

Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực hổ thẹn lui ra . Tôn Lâm Phủ nói riêng với Ninh Thực rằng:

– Chúa công không biết kính trọng các quan đại thần, chúng ta sau này khó lòng mà khỏi bị hại, biết làm thế nào ?

Ninh Thực nói:

– Chúa công vô đạo thì chỉ hại thân mà thôi, chứ hại chúng ta thế nào nổi ?

Tôn Lâm Phủ nói:

– Ta muốn lập công tôn Phiếu lên làm vua, nhà ngươi nghĩ thế nào ?

Ninh Thực nói:

– Việc ấy rất phải! Ta cùng nhà ngươi sẽ liệu thế mà làm .

Hai người từ biệt nhau rồi về . Tôn Lâm Phủ về nhà ăn cơm xong, ngay đêm hôm ấy sai người sang Thích Địa gọi bọn gia thần là Dữu Công Sai và Doãn Công Đà sửa soạn quân mã để định nổi loạn; lại sai con trưởng là Tôn Khoái vào yết kiến Vệ Hiến công, để dò xét ý tứ . Tôn Khoái vào tâu với Vệ Hiến công rằng:

– Cha tôi là Tôn Lâm Phủ bị cảm phong, phải về dưỡng bệnh ở bến sông Hà, xin chúa công tha thứ cho .

Vệ Hiến công cười mà bảo rằng:

– Cha ngươi chỉ vì đói quá mà thành bệnh đó thôi, nay ta không dám để cho nhà ngươi lại đóai nữa!

Nói xong truyền nội thị đem rượu ra cho Tôn Khoái uống, lại gọi nhạc công ra để hát . Quan thái sư tâu với Vệ Hiến công rằng:

– Chẳng hay chúa công dạy hát bài gì ?

Vệ Hiến công nói:

– Có chương cuối cùng trong thơ “Xảo ngôn”, thật hợp với thời sự ngày nay, nhà ngươi hát bài ấy .

Quan thái sư tâu rằng:

– Bài thơ ấy ý không được hay, tôi thiết tưởng trong khi tiệc vui, không nên hát đến .

Có một nhạc công là Sư Tào nói át đi rằng:

– Chúa công dạy hát bài gì thì cứ hát bài ấy, can gì lại nói lôi thôi!

Nguyên Sư Tào gẩy đàn cầm hay lắm, Vệ Hiến công sai dạy một người thiếp yêu . Người thiếp yêu không nghe lời dạy bị Sư Tào đánh cho mười roi . Người ấy bèn vào mách với Vệ Hiến công . Vệ Hiến công đánh Sư Tào ba trăm roi ở trước mặt người thiếp yêu, bởi vậy Sư Tào căm tức, bấy giờ biết bài thơ ấy không hay, mà cố ý muốn hát, để làm cho Tôn Khoái phải tức giận . Sư Tào liền cất giọng hát rằng:

“Kẻ kia là ai,

Ở bến sông Hà;

Không tài lực gì,

Mà muốn nỏoi loạn”.

Chủ ý Vệ Hiến công là nhân thấy Tôn Lâm Phủ ở bến sông Hà có ý muốn nổi loạn, vậy nên định mượn câu hát, khiến cho Tôn Lâm Phủ phải sợ . Tôn Khoái nghe câu hát, trong lòng áy náy, xin cáo từ lui ra . Vệ Hiến công nói:

– Bài hát của Sư Tào, vừa rồi ngươi về nên thuật lại cho cha ngươi biết; cha ngươi dẫu ở xa, nhưng có điều gì, đây ta cũng biết cả, nên phải cẩn thận mà giữ gìn bệnh thể .

Tôn Khoái sụp lạy lui ra, về nói chuyện lại với Tôn Lâm Phủ . Tôn Lâm Phủ nói:

– Chúa công ghét ta đã quá lắm, chẳng lẽ ta cứ ngồi mà chịu chết hay sao! nay có Cừ Viên (tên tự là Bá Ngọc, làm quân đại phu nước Vệ) là người gỉoi, nếu người ấy chịu đồng mưu với ta thì làm gì mà chẳng xong việc!

Tôn Lâm Phủ lẻn đến yét kiến Cừ Viên mà bảo rằng:

– Chúa công vô đạo, nhà ngươi cũng đã biết, ta chỉ e rằng có ngày mất nước thì làm thế nào ?

Cừ Viên nói:

– Bề tôi thờ vua, điều gì can được thì can, điều gì không can đuợc thì đành bỏ mà đi, còn điều khác tôi không dám biết!

Tôn Lâm Phủ liệu chừng không thể lay động Cừ Viên được, mới cáo từ trở về . Ngay ngày hôm ấy, Cừ Viên bỏ trốn sang nước Lỗ . Tôn Lâm Phủ họp quân ở Khâu Cung, sắp sửa đánh Vệ Hiến công . Vệ Hiến công sợ, sai người đến Khâu Cung giảng hoà với Tôn Lâm Phủ . Tôn Lâm Phủ bắt người ấy giết đi, Vệ Hiến công sai người rình xem Ninh Thực làm gì thì thấy Ninh Thực đang sắp quân để tiếp ứng cho Tôn Lâm Phủ . Vệ Hiến công lại sai người gọi Bắc Cung Quát . Bắc Cung Quát cáo ốm không đến . Công tôn Đinh nói với Vệ Hiến công rằng:

– Bây giờ việc đã nguy cấ, nên mau mau trốn sang nước khác, còn có ngày lại trở về được .

Vệ Hiến công liền đem một toán quân mở cửa đông, định thẳng đương trốn sang nước Tề . Công tôn Đinh mang cung tên đi theo . Tôn Khoái và Tôn Gia (con thứ của Tôn Lâm Phủ) đuổi theo đến Hà Trạch, đánh giết một trận, toán quan của Vệ Hiến công bỏ chạy tán loạn cả, chỉ còn độ hơn mười người mà thôi; may nhờ có công tôn Đinh bắn gỉoi lắm, không sai một phát nào, người nào đến gần, đều bị tên mà chết, bởi vậy mới bảo toàn cho Vệ Hiến công chạy thóat được .

Tôn Khoái và Tôn Gia không dám đuổi theo nữa, quay trở về, vừa đi được ba dặm thì thấy Dữu Công Sai và Doãn Công Đà đem quân đến, nói là vâng lệnh Tôn Lâm Phủ đi đuổi bắt Vệ Hiến công . Tôn Khoái và Tôn Gia nói:

– Có một người bắn gỉoi lắm, các tướng phải phòng bị mới được!

Dữu Công Sai nói:

– Người ấy chắc là thầy ta, tên gọi công tôn Đinh đó!

(Nguyên Doãn Công Đà học nghề bắn với Dữu Công Sai, Dữu Công Sai lại họ nghề bắn với công tôn Đinh, ba người cùng một môn phái, cho nên đều biết tài nhau cả ).

Doãn Công Đà nói:

– Hôn quân đi cũng chưa xa, ta hãy cố đuổi theo .

Bèn đuổi theo mười lăm dặm nữa thì vừa kịp Vệ Hiến công . Người dong xe của Vệ Hiến công bị thương, công tôn Đinh phải cầm cương xe cho Vệ Hiến công, Công tôn Đinh ngảnh lại, trông thấy Dữu Công Sai ở đằng xa, mới bảo Vệ Hiến công rằng:

– Người đuổi theo ấy là học trò của tôi đó . Có lẽ nào học trò lại hại thầy, chúa công chớ ngại!

Công tôn Đinh dừng xe lại để đợi . Dữu Công Sai đi đến nơi, ngảnh lại bảo Doãn Công Đà rằng:

– Thật là thầy ta rồi!

Nói xong, liền xuống xe sụp lạy . Công tôn Đinh chào lại, rồi vẫy tay bảo đi . Dữu Công Sai trèo lên xe mà nói rằng:

– Công việc ngày nay, người nào cũng vì chủ mà làm . Nếu ta bắn thì là bội thầy, mà không bắn thì bội chủ; nay ta có một cách khiến cho trọn vẹn được cả đôi đàng!

Dữu Công Sai liền cầm cái tên gõ xuống bánh xe, bẻ đầu mũi nhọn đi, rồi nói to lên rằng:

– Xin thấy chớ sợ!

Dữu Công Sai nói xong, bắn luôn bốn phát tên: phát trước trúng vào cái thức (cái chắn ngang ở trước mặt), phát sau trúng vào cái chẩn (cái chắn ngang ở sau lưng), còn hai phát nữa trúng vào hai bên tả hữu, chỉ trừ có Vệ Hiến công và công tôn Đinh ngồi ở giữa xe là không can gì! Dữu Công Sai bắn xong, tức khắc quay xe trở về . Công tôn Đinh cũng giục ngựa tiến đi mau . Doãn Công Đà lúc trước trông thấy Vệ Hiến công đã toan giương cung ra bắn, nhưng vì có Dữu Công Sai là thầy mình ở đấy vậy phải nhường thầy . Khi về đến nửa đường, có ý hối lại, mới bảo Dữu Công Sai rằng:

– Thầy cùng với công tôn Đinh là nghĩa thầy trò, vậy phải dụng tình như thế, còn tôi đã cách đi một từng rồi, thế thì ơn thầy chưa trọng bằng mệnh chủ, nếu không cố cho thành công thì chẳng hóa bội chủ lắm sao!

Dữu Công Sai nói:

– Thầy ta (trỏ công tôn Đinh) bắn giỏi lắm, không kém gì Dưỡng Do Cơ, nhà ngươi không địch nổi đâu, khéo chẳng có mất mạng!

Doãn Công Đà không tin lời Dữu Công Sai, lại quay đi đuổi theo Vệ Hiến công.

Chương 62: Chư hầu đem quân vây Tề quốc – Vua Tấn lập kế đuổi Loan Doanh

Doãn công Đà không tin lời Dữu Công Sai, quay lại đuổi theo Vệ Hiến công, được hơn hai mươi dặm thì kịp . Công tôn Đinh hỏi rằng:

– Nhà ngưoi theo ta để làm gì ?

Dõan công Đà nói:

– Thầy ta là Dữu công Sai, cùng với nhà ngươi có tình thầy trò; ta đây dẫu là học trò thầy ta, nhưng chưa hề có học nhà ngươi một ngày nào cả, vậy thì ta coi nhà ngươi khác nào người qua đường, lẽ nào ta lại vì người qua đường mà bỏ công nghĩa hay sao!

Công tôn Đinh nói:

– Nhà ngươi đã học nghề bắn của Dữu công Sai thì cũng nên biết cái nghề ấy tự đâu mà ra! làm người chớ nên quên gốc, mau mau trở về kẻo mất cả lòng tử tế đi!

Doãn công Đà không nghe lời, giương cung ra bắn Công tôn Đinh . Công tôn Đinh chẳng sợ hãi chút nào, sẽ đưa dây cương cho Vệ Hiến công, rồi chờ mũi tên đến, giơ tay bắt lấy, lại để vào cung mà bắn trả lại Doãn công Đà . Doãn công Đà nghiêng mình tránh thì mũi tên trúng ngay vào cánh tay tả, vội vàng bỏ chạy . Công tôn Đinh lại bắn thêm một phát nữa . Doãn công Đà chết ngay . Quân sĩ sợ hãi, bỏ xe chạy trốn .

Vệ Hiến công bảo công tôn Đinh rằng:

– Nếu không nhờ có mũi tên thần của nhà ngươi thi tính mệnh ta còn gì!

Công tôn Đinh lại cầm dây cương giục ngựa đi mau . Đi được hơn mười dặm, lại thấy phía sau có một toán quân kéo đến, Vệ Hiến công nói:

– Lại có quân đuổi theo thì làm thế nào ?

Khi toán quân ấy đi gần đến nơi thì hóa ra quân của người em cùng mẹ với Vệ Hiến công là công tử Chuyên cố theo để hộ giá . Vệ Hiến công mới yên lòng, liền cùng nhau chạy sang nước Tề . Tề Linh công cho ở Lai Thành . Tôn Lâm Phủ đã đuổi Vệ Hiến công rồi, mới bàn nhau với Ninh Thực, lập công tôn Phiếu lên nối ngôi, tức là Vệ Thương công . Tôn Lâm Phủ lại sai người báo tin cho Tấn Điệu công biết . Tấn Điệu công hỏi Tuân Yển rằng:

– Nước Vệ đuổi vua họ lập vua kia là không phải đạo, ta nên xử trí như thế nào ?

Tuân Yển nói:

– Vua Vệ vô đạo, chư hầu ai cũng biết, nay quân dân nước Vệ đều bằng lòng lập công tử Phiếu, âu là ta cứ để mặc thì hơn .

Tấn Điệu công theo lời . Tề Linh công nghe tin Tấn Điệu công không trị tội đuổi vua của Ninh Thực nước Vệ, liền thở dài mà nói rằng:

– Vua Tấn đã có ý lười biếng rồi! ta không nhân dịp này mà tranh lấy nghiệp bá thì còn đợi đến bao giờ!

Tề Linh công đem quân sang cướp phá ấp thành của nước Lỗ . Nguyên Tề Linh công lấy con gái nước Lỗ là Nhân Cơ làm phu nhân, không có con; người thiếp là Dung Cơ, sinh được một con tên là Quang, Tề Linh công lập làm thế tử . Sau Tề Linh công lại có một người thiếp yêu là Nhưng Tử cũng không có con, em gái Nhung Tử là Trọng Tử, sinh được một người con tên là Nha . Nhung Tử nhận Nha làm con mình . Tề Linh công lại có người vợ khác nữa sinh ra công tử Chử Cữu, nhưng Tề Linh công không có lòng yêu . Nhung Tử cậy thế Tề Linh công yêu, đòi lập Nha làm thế tử . Tề Linh công thuận cho . Trọng Tử can rằng:

– Chúa công lập Quang làm thế tử, kể đã lâu ngày! thế tử Quang lại đã nhiều lần dự hội với chư hầu, nay tự nhiên vô cớ mà bỏ đi thì e rằng người trong nước không phục, sau không hối lại được nữa!

Tề Linh công nói:

– Bỏ hay lập là quyền ở ta, ai dám không phục!

Tề Linh công sai thế tử Quang đem quân ra trấn thủ ở Tức Mặc . Thế tử Quang vừa đi xong thì Tề Linh công truyền lệnh bỏ thế tử Quang mà lập Nha làm thế tử; lại cho quan thượng khanh là Cao Hậu (con Cao Quốc) làm thái phó, và kẻ tự nhân (họan quan) là Túc Sa Vệ làm thiếu phó để dạy thế tử Nha . Lỗ Tương công nghe tin thế tử Quang bị bỏ, thì sai sứ sang hỏi xem vì cớ gì . Tề Linh công không thể trả lời được, lại lo nước Lỗ giúp thế tử Quang mà tranh nhau với thế tử Nha, liền đem quân đánh Lỗ, có ý muốn doạ nước Lỗ, rồi sau sẽ giết thế tử Quang . Lỗ Tương công sai người sang cáo cấp với Tấn Điệu công nhưng gặp lúc Tấn Điệu công ốm nặng, không sang cứu Lỗ được . Cuối năm ấy Tấn Điệu công mất, thế tử Bưu lên nối ngôi tức là Tấn Bình công . Lỗ Tương công lại sai sứ sang viếng tang và cáo cấp với Tấn Bình công . Tuân Yển nói với Tấn Bình công rằng:

– Đợi sang mùa xuân, ta sẽ đại hội chư hầu, nếu nước Tề không đến, bấy giờ sẽ đem quân đi đánh, cũng chưa lấy gì làm chậm .

Năm sau, Tấn Bình công đại hội chư hầu ở đất Khứu Lương . Tề Linh công không đến, cho quan đại phu là Cao Hậu đi thay . Tuân Yển nổi giận, toan bắt giam Cao Hậu . Cao Hậu trốn về, lại đem quân cướp phá ấp Phường của nước Lỗ, giết quan trấn thủ ở ấp Phường là Tang Niên . Thúc Tôn Báo nước Lỗ lại sang nước Tấn cầu cứu . Tấn Bình công liền sai Tuân Yển họp quân các nước cùng sang đánh Tề . Tuân Yển vừa điểm duyệt quân mã xong, đêm hôm ấy nằm mộng thấy một sứ giả mình mặc áo vàng, tay cầm một cuốn văn thư, đến bắt Tuân Yển đi đối chứng . Tuân Yển đi theo sứ giả . Đi đến một nơi dinh toà to lớn, trên có đấng vương giả ngồi, mũ cao áo dài, sứ giả liền bảo Tuân Yển quỳ xuống ở dưới sân . Tuân Yển trông thấy những người cùng quì với mình là: Tấn Lệ công, Loan Thư, Trình Hoạt, Tư Đồng, Trường Ngư Kiểu và một bọn người nhà của ba người họ Khước . Tuân Yển lấy làm quái lạ, lại nghe thấy bọn Tư Đồng cùng với ba người họ Khước cãi lý nhau lâu lắm, nhưng nghe không được rõ . Được một lúc thì thấy ngục tốt giải bọn ấy đi chỗ khác, chỉ còn có bốn người ở lại là: Tấn Lệ công, Loan Thư, Trình Hoạt, và Tuân Yển mà thôi . Tấn Lệ công kể hết sự tình đầu đuôi trong khi bị giết . Loan Thư cãi rằng: “Việc ấy tự Trình Hoạt hạ thủ!” Trình Hoạt nói: “Việc ấy chủ mưu tự Loan Thư, tôi chẳng qua phụng mệnh mà làm, sao lại đổ tội cho tôi được!” Đấng vương giả ở trên điện giáng chỉ rằng: “Lúc bấy giờ Loan Thư cầm quyền chính, nên trị tội thủ ác, làm cho trong năm năm nữa thì con cháu phải tuyệt diệt” . Tấn Lệ công có vẻ tức giận mà rằng: “Việc ấy cũng bởi tay Tuân Yển, sao Tuân Yển lại được vô tội ?” Nói đoạn đứng dậy, cầm giáo đánh vào đầu Tuân Yển . Tuân Yển thấy đầu mình rơi xuống trước mặt, vội vàng lấy tay nhặt đầu, quì xuống mà đặt lên cổ, rồi chạy ra ngoài cửa điện . Tuân Yển đang chạy thì gặp người thầy đồng ở đất Ngạch Dương tên gọi Linh Cao .

Linh Cao bảo Tuân Yển rằng: “Sao đầu nhà ngươi lại lệch đi như thế kia ?” Nói đoạn Linh Cao bèn lấy tay sửa lại . Tuân Yển đau quá, sực tỉnh dậy, thành ra một giấc chiêm bao, nghĩ thầm lấy làm lạ . Ngày hôm sau, Tuân Yển vào triều, quả nhiên lại gặp Linh Cao ở giữa đường . Tuân Yển cho Linh Cao lên ngồi cùng xe, rồi kể chuyện chiêm bao cho nghe . Linh Cao nói:

– Thế là oan gia có báo, sắp chết đến nơi!

Tuân Yển nói:

– Nay ta sang đánh Tề, phỏng có kịp hay không ?

Linh Cao nói:

– Còn có thể đánh được nước Tề!

Tuân Yển nói:

– Nếu đánh được Tề thì dẫu chết cũng thoả!

Tuân Yển liền hội quân chư hầu cùng sang đánh Tề . Cả thảy có mười hai đạo quân là: 1. Tấn, 2. Tống, 3. Lỗ, 4. Vệ, 5. Trịnh, 6. Tào, 7. Cử, 8. Châu, 9. Đằng, 10. Tiết, 11. Kỷ, 12. Tiểu Châu .

Tề Linh công sai quan thượng khanh là Cao Hậu giúp thế tử Nha giữ nước, còn mình thì đem đại binh ra đóng ở thành Bình Âm . Phía nam thành Bình Âm có cái trạm phòng thủ, có cổng . Tề Linh công sai Kỳ Qui Phủ đào một dãy hào sâu ở ngoài cổng, bề ngang bề rộng đều một dặm, rồi tuyển quân tinh nhuệ ra phòng giữ ở đấy . Tự nhân Túc Sa Vệ nói với Tề Linh công rằng:

– Quân mười hai nước, vị tất đã đồng tâm được, ta nên nhân lúc mới đến mà ra đánh ngay, phá được một đạo thì các đạo đều sợ mất vía cả; nếu không đánh thì phải tìm nơi hiểm yếu mà giữ, chứ chắc gì ở một dãy hào phía ngoài cửa trạm . Tề Linh công nói:

– Một dãy hào sâu như thế, có họa bay thì mới sang được!

Tuân Yển nghe nói quân Tề đào hào để giữ, thì cười mà nói rằng:

– Quân Tề sợ ta rồi, tất không dám giao chiến, ta nên dùng kế mà phá vỡ!

Bèn truyền cho quân Lỗ, Vệ đi đường Tu Câu; quân Châu, Củ đi đường Thành Dương, đều qua đất Lang Gia mà tiến vào, còn mình thì đem đại binh qua đất Bình Âm, hẹn nhau cùng hội tại dưới thành Lâm Tri (kinh thành nước Tề) . Bốn nước (Lỗ, Vệ, Châu, Cử) đều phụng mệnh đem quân đi . Tuân Yển lại sai quan tư mã là Trương Quân Thần (con Trương Lão) đi cắm cờ ở các nơi rừng núi, bó cỏ làm hình người, rồi mặc áo giáp vào, đặt ngồi trên xe, và đem cành cây buộc ở sau xe, khiến cho khi xe đi thì cát bụi bay mù cả lên, để làm nghi binh . Tuân Yển truyền cho quân sĩ, xe nào cũng phải chất đầy gỗ đá, và mỗi người lại mang thêm một bì đất; khi đến cửa trạm, bao nhiêu gỗ đá trong xe đều đem ném cả xuống hào, lại bỏ mấy vạn cái bì đất xuống đấy nữa, để lấp bằng như mặt đất . Quân Tấn kéo ồ cả sang . Quân Tề không thể đương nổi, chết hại rất nhiều . Kỳ Qui Phủ xuýt nữa bị quân Tấn bắt, phải bỏ trốn vào trong thành Bình Âm, tâu với Tề Linh công . Tề Linh công kinh sợ, mới trèo lên núi Vu Sơn đứng xem thì thấy ở trong rừng, chỗ nào cũng có cờ cắm, giật mình mà nói rằng:

– Quân chư hầu sao nhiều như vậy, âu là ta phải bỏ chạy .

Tề Linh công mới hỏi các tướng xem ai dám đi đoạn cuối, Túc Sa Vệ nói:

– Tôi xin đem một toán quân đi sau cùng, chúa công chớ lo ngại!

Tề Linh công mừng lắm . Bỗng có hai viên tướng tâu rằng:

– Đường đường một nước Tề ta, không có người dũng sĩ nào, lại phải dùng đến kẻ tự nhân (trỏ Túc Sa Vệ) đi đoạn cuối hay sao! các nước người ta sẽ cười cho! hai chúng tôi xin để cho Túc Sa Vệ đi trước .

Hai viên tướng ấy tức là Thực Xước và Quách Tối, vốn là hai tay dũng sĩ, sức địch muôn người . Tề Linh công nói:

– Nếu được hai tướng quân đi sau cho thì ta còn lo gì nữa!

Túc Sa Vẹ thấy Tề Linh công không dùng mình thì hổ thẹn muôn phần, bất đắc dĩ phải theo Tề Linh công đi trước . Đi được hơn hai mươi dặm, đến Thạch Môn sơn là một nơi hiểm yếu, hai bên đều núi đá cả, chỉ có một lối đi ở giữa, Túc Sa Vệ căm tức Thực Xước và Quách Tối, có ý muốn làm hại, mới đợi cho quân Tề đi hết, rồi đem hơn ba mươi cỗ ngựa, giết chết cả đi mà bỏ lấp ở ngang đường, lại đem mấy cỗ xe lớn, cũng bỏ ở đấy . Thực Xước và Quách Tối lững thững đem quân đi sau, khi đến Thạch Môn sơn, thấy ngựa chết và xe lổng chổng giữa đường, không đi qua được mới bảo nhau rằng:

– Đây tất là Túc Sa Vệ căm thù hai ta mà làm ra thế này đây!

Hai người vội vàng truyền cho quân sĩ khiêng những xác ngựa và xe ấy bỏ đi chỗ khác, nhưng đường hẹp khó khiêng, thành ra tốn nhiều công lắm, mãi không đi được . Tướng nước Tấn là Châu Xước đem quân đuổi tới . Thực Xước vừa toan quay xe lại để nghênh chiến thì Châu Xước bắn ngay một phát tên, trúng vả vai bên tả Thực Xước . Quách Tối giương cung toan bắn Châu Xước . Thực Xước lấy ta gạt đi khong cho bắn . Châu Xước thấy vậy, cũng không bắn nữa . Thực Xước không sợ hãi gì cả, giơ tay rút mũi tên ra mà hỏi Châu Xước rằng:

– Nhà ngươi là ai mà bắn trúng được vai Thực Xước này, cũng đáng khen cho là người giỏi! xin nói rõ họ tên ?

Châu Xước nói:

– Tướng quân nói dẫu phải, nhưng người nào vì chủ người ấy, thế tất phải như vậy . Nếu tướng quân chịu đầu hàng đi thì tôi có thể bảo toàn được cho tướng quân .

Thực Xước nói:

– Có quả thật như vậy không ?

Châu Xước nói:

– Tướng quân không tin thì tôi xin thề: “Nếu tôi không bảo toàn được cho tướng quân, thì tôi xin chết theo tướng quân”.

Thực Xước nói:

– Tính mệnh Quách Tối, tôi cũng trao cho tướng quân đó!

Thực Xước cùng với Quách Tối và quân sĩ đều xin đầu hàng cả . Châu Xước đem Thực Xước và Quách Tối về nộp Tuân Yển, lại nói cho Tuân Yển biết hai tướng là người tài giỏi nên dùng . Tuân Yển truyền giam lại để đợi khi thu quân về sẽ định liệu . Đại binh nước Tấn qua thành Bình Âm, thẳng đường tiến vào kinh thành nước Tề . Quân Lỗ, Vệ, Châu, Cử cũng đều đến cả, vây kín bốn mặt thành Lâm Tri đốt phá nhiều nơi . Tề Linh công sợ hãi, mở cửa đông ra chạy . Cao Hậu nghe nói, vội vàng chạy theo, rút gươm cắt dây cương xe đi rồi khóc mà can rằng:

– Quân các nước dẫu hăng hái, nhưng đi xa như vậy, tất sẽ sinh biến, chẳng bao lâu rồi cũng phải rút về . Nay chúa công bỏ đi thì kinh thành không thể giữ nổi, xin chúa công hãy ở lại mười ngày nữa, nếu lực cùng quá, bấy giờ sẽ chạy, cũng chưa lấy gì làm chậm .

Tề Linh công mới ở lại, không bỏ chạy nữa . Cao Hậu đốc suất quân dân hết sức chống giữ . Quân các nước vây thành, đến ngày thứ sáu, bỗng có sứ nước Trịnh đem một phong thư của quan đại phu nước Trịnh là công tôn Xá Chi và công tôn Hạ đến phi báo với Trịnh Giản công, nói có việc cơ mật khẩn yếu . Trịnh Giản công mở ra xem, đại lược nói rằng:

“Tôi là công tôn Xá Chi và công tôn Hạ phụng mệnh chúa công, cùng với Tử Khổng (tức là công tử Gia) giữ nước, chẳng ngờ Tử Khổng có lòng phản nghịch, tư thông với Sở, toan làm nội ứng để cho quân Sở vào đánh Trịnh . Hiện nay quân Sở đã đóng ở đất Ngư Lăng, chẳng bao lâu sẽ kéo đến, việc nguy cấp lắ, vậy xin chúa công tức khắc rút quân về mà cứu lấy nước nhà”.

Trịnh Giảnh công sợ lắm, đem ngay bức thư ấy vào trình Tấn Bình công, Tấn Bình công triệu Tuân Yển đến để thương nghi . Tuân Yển nói:

– Quân ta thẳng đường kéo vào Lâm Tri, đang muốn thừa cơ phá vỡ nước Tề, nay nước Tề chưa phá vỡ được, mà nước Trịnh lại có quân Sở đến đánh; nếu để cho Trịnh mất nước thì lỗi tại ta, chi bằng ta hãy rút quân về cứu Trịnh . Lần này ta dẫu không phá vỡ được nước Tề, nhưng vua Tề chắc cũng kinh sợ, từ sau không dám xâm phạm nước Lỗ nữa!

Tấn Bình công khen phải, liền rút quân về . Trịnh Giản công cáo từ Tấn Bình công rồi xin về nước . Tấn Bình công thấy quân Sở lại sang đánh Trịnh, thì lấy làm lo, khi về đến đất Chúc A, cùng với các vua chư hầu uống rượu, dáng không được vui vẻ . Quan thái sư coi việc âm nhạc, là Sư Khoáng tâu với Tấn Bình công rằng:

– Tôi xin dùng âm luật mà bói xem tốt xấu thế nào .

Sư Khoáng liền thổ sáo, hát khúc nam phong, thấy có nhiều tiếng nghiêm ngặt, sát phạt; lại há khúc bắc phong, thì thấy êm ái dễ nghe . Sư Khoáng nói:

– Khúc nam phong (nước Sở ở về phương nam) không mạnh thì quân Sở chẳng những vô công mà lại sắp có tai vạ, chỉ trong ba ngày nữa, ta sẽ biết tin .

Sư Khoáng, tên tự là Tử Giã, là một học giả thông minh bậc nhất ở nước Tấn, lúc bé học âm luật, thường bực mình về nỗi không được chuyên, mới phàn nàn rằng:

– Nghề không tinh là tại lòng không chuyên nhất, lòng không chuyên nhất là tại con mắt hay nhìn .

Liền lấy lá ngải đốt mù mắt đi, để chuyên tâm về nghệ thuật, bởi vậy tinh thông âm luật lắm, có thể biết khí hậu biến hóa, âm dương lên xuống, sự lành dữ trong việc trời việc người, trong tiếng chim tiếng gió . Bây giờ Sư Khóang làm quan thái sư ở nuớc Tấn, coi về việc nhạc . Tấn Bình công tin yêu lắm, hành quân ở đâu cũng đem đi theo . Bình công nghe Sư Khoáng nói vậy, liền đóng quân lại rồi sai người đi dò thám tin tức quân Sở . Chưa được ba ngày, có quan đại phu nước Trịnh là công tôn Mại đến báo tin quân Sở đã lui rồi . Bình công lấy làm lạ, liền hỏi kỹ đầu đuôi . Công tôn Mại nói:

– Nước Sở, từ khi Tử Canh (tức là công tử Ngọ) thay Tử Mang (tức là công tử Trinh) làm lệnh doãn, muốn báo thù đời trước, mới lập mưu đánh Trịnh . Công tử Gia (nước Trịnh) tư thông với Sở, hẹn khi quân Sở đến thì giả cách nghênh chiến để đem quân ra đón . May nhờ có công tôn Xá Chi và công tôn Hạ biết mưu ấy, đem quân giữ thành, rồi nghiêm cấm những kẻ ra vào; công tử Gia không dám ra đón quân Sở . Tử Canh đem quân qua sông Dinh, không thấy công tử Gia ra đón, liền đóng đồn ở dưới núi Ngư Sĩ, gặp trời mưa tuyết, mấy ngày không thôi, trong dinh nước sâu hơn thước, quân sĩ đều tìm chỗ cao để ẩn mưa, rét quá, chết rất nhiều, ai cũng có lòng oán . Tử Canh bất đắc dĩ phải rút quân về . Nay chúa công tôi đã trị tội giết chết công tử Gia rồi, sợ phiền đến quân các nước, vậy có sai tôi đi đến đây, để tâu với nhà vua .

Tấn Bình công mừng lắm, nói:

– Từ Giã (tên tự Sư Khoáng) thật là thánh về âm luật!

Tấn Bình công truyền cho chư hầu rút quân về . Tuân Yển về đến nữa đường, bỗng nhiên trên đầu nảy ra một cái ung, đau không thể chịu được, mới ở lại đất Chước Ung . Được hai tháng thì cái ung ấy vỡ, rồi lòi mắt ra mà chết . Thực Xước và Quách Tối nhân dịp Tuân Yển chết, phá cũi mà ra, trống về nước Tề, Phạm Mang và con Tuân Yển là Tuân Ngô đưa linh cữu Tuân Yển về nước Tấn, Tấn Bình công cho Phạm Mang thay Tuân Yển làm trung quân nguyên soái và cho Tuân Ngô thay Phạm Mang làm trung quân phó tướng . Tháng năm năm ấy, Tề Linh công ốm nặng, quan đại phu là Thôi Trữ bàn mưu với Khánh Phong, sai người đem xe đón thế tử Quang ở Tức Mặc về .

Khánh Phong đang đêm đem quân gọi cửa nhà quan thái phó là Cao Hậu . Cao Hậu mở cửa ra đón . Khánh Phong bắt giết đi . Thế tử Quang và Thôi Trữ vào cung, giết nàng Nhung Tử (mẹ nuôi thế tử Nha), lại giết cả thế tử Nha . Tề Linh công nghe tin kinh sợ, hộc máu ra mà chết . Thế tử Quang lên nối ngôi, tức là Tề Trang công . Tự nhân là Túc Sa Vệ đem gia quyến chạy sang ở Cao Đường . Tề Trang công sai Khánh Phong đem quân đi đuổi . Túc Sa Vệ chiếm cứ Cao Đường mà chống cự lại . Tề Trang công đem đại binh đến vây, đã hơn một tháng mà chưa phá vỡ được . Công Lũ người Cao Đường vốn có dũng lực, Túc Sa Vệ dùng để giữ cửa đông . Công Lũ biết Túc Sa Vệ không làm nên việc được, mới đứng trên mặt thành bắn một lá thư xuống, ước với Tề Trang công, xin đến nửa đêm hôm ấy thì làm nội ứng cho quân Tề trèo qua phía đông bắc vào thành . Tề Trang công có ý không tin, Thực Xước và Quách Tối nói với Tề Trang công rằng:

– Việc ấy hai chúng tôi xin đi, để báo lại cái thù Túc Sa Vệ làm hại hai chúng tôi ở Thạch Môn khi trước .

Tề Trang công nói:

– Các ngươi đi trước, phải cẩn thận mới được, rồi ta sẽ đem quân tiếp ứng .

Thực Xước và Quách Tối đem quân tới phía đông bắc chờ đến nửa đêm, bỗng thấy ở trên mặt thành có dòng mấy cái thừng xuống . Thực Xước và Quách Tối cùng quân sĩ bíu thừng leo lên . Công Lũ đưa vào bắt Túc Sa Vệ . Quách Tối mở cửa thành cho quân Tề kéo ồ vào . Trong thành náo động, chém giết lẫn nhau, ước độ một trống canh mới thôi . Tề Trang công vào thành . Công Lũ và Thực Xước trói Túc Sa Vệ giải đến trước mặt Tề Trang công . Tề Trang công xỉ mắng Túc Sa Vệ rằng:

– Ta có phụ bạc gì mày, mà mày lại giúp công tử Nha để hại ta, nay công tử Nha còn đâu! mày đã giúp công tử Nha thì cho xuống âm phủ mà giúp một thể!

Túc Sa Vệ cúi đầu không nói gì cả . Tề Trang công truyền đem Túc Sa Vệ ra chém, lấy thịt ướp, chia cho các quan mỗi người một ít; lại cho Công Lũ trấn thủ Cao Đường, rồi rút quân trở về .

Quan thượng khanh nước Tấn là Phạm Mang vì lần trước đánh Tề chưa được thành công, lại tâu với Tấn Bình công, xin đem quân sang đánh . Khi kéo quân đén sông Hoàng Hà, nghe tin Tề Linh công mất, bảo quân sĩ rằng:

– Nước Tề mới có tang mà ta đem quân sang đánh là bất nhân!

Nói xong, liền đem quân về . Quan đại phu nước Tề là Án Anh nói với Tề Trang công rằng:

– Nước Tấn thấy ta có tang mà không sang đánh, nếu ta bội Tấn thì là bất nghĩa, chi bằng ta cùng Tấn giảng hoà, khiến cho hai nước khỏi sự binh đao khổ sở là hơn .

Án Anh tên tự là Bình Trọng, mình cao không đầy năm thước, vốn là hiền sĩ bậc nhất ở nước Tề . Tề Trang công cũng sợ quân Tấn lại đến đánh, mới nghe lời Án Anh, sai nguời sang tạ tội với nước Tấn . Tấn Bình công đại hội chư hầu ở đất Thiền Uyên, cùng với Tề Trang công làm lễ ăn thề, từ bấy giờ hai nước giảng hoà với nhau .

Lại nói chuyện quan hạ quân phó tướng là Loan Doanh, tức là con Loan Áp . Loan Áp là con rễ Phạm Mang . Con gái Phạm Mang gả cho Loan Áp tên gọi nàng Loan Kỳ . Bấy giờ họ Loan kể từ Loan Tân, Loan Thành, Loan Chi, Loan Thũẫn, Loan Thư, Loan Áp cho đến Loan Doanh, cả thảy bảy đời cùng làm khanh tướng, quyền qúi không ai bằng, các văn vũ trong triều, nửa là môn hạ, nửa là thân thuộc . Loan Doanh lại là người biết khiêm kính, phóng tiền kết khách, vậy nên bọn dũng sĩ cảm tử như Châu Xước, Hình Khoái, Hoàng Uyên, và Cơ Di đều về với Loan Doanh cả, lai có Đốc Nhung là một người vũ dũng, sức mạnh nổi mấy nghìn cân, tay cầm hai kích, đâm đâu trúng đấy, không ai địch nổi, lúc nào cũng theo hầu ở bên mình Loan Doanh . Còn bọn gia thần của Loang Doanh như: Hạnh Du và Châu Tân (em Châu Xước) và những kẻ bôn tẩu dâng công thì không biết mấy mà kể . Khi Loan Áp chết thì vợ là nàng Loan Kỳ mới bốn mươi tuổi, chưa dứt hẳn được lòng dục, mỗi khi Châu Tân vào phủ để trình bẩm với Loan Doanh việc gì thì nàng Loan Kỳ lại đứng đằng sau bình phong dòm ra . Thấy Châu Tân là người đẹp trai, Loan Kỳ liền sai một thị nữ ngỏ ý, rồi cùng Châu Tân tư thông với nhau . Loan Kỳ lại đem những qúy vật trong nhà tặng cho Châu Tân . Khi Loan Doanh theo Tấn Bình công đi đánh Tề, Châu Tân công nhien ngủ ở trong phủ, không còn sợ hãi gì nữa . Loan Doanh về, nghe biết chuyện ấy, nhưng ngại vì thể diện thân mẫu mình, mới mượn việc khác để trừng trị những quân sĩ canh cửa, nghiêm cấm bọn gia thần, không cho được tự do ra vào trong phủ nữa . Nàng Loan Kỳ bấy giờ một là thẹn quá hóa giận, hai là tình dục khôn cầm, ba là sợ Loan Doanh làm hại đến tính mệnh Châu Tân, nhân khi về mừng sinh nhật cha là Phạm Mang liền nói với cha rằng:

– Loan Doanh sắp nổi loạn, biết làm thế nào ?

Phạm Mang hỏi:

– Đầu đuôi thế nào con kể cho ta biết ?

Loan Kỳ nói:

– Loan Doanh thường vẫn nói: “Phạm Uởng giết chú ta (trở Loan Hàm), cha ta khi trước đuổi đi, sau lại cho về nước, đã khỏi tội chết, lại được làm quan, họ Phạm mỗi ngày một thịnh thì họ Loan mỗi ngày một suy, ta thề không đội trời chung với họ Phạm”. Bởi vậy Loan Doanh thường vẫn ngày đem cùng với bọn Trí Khởi, Dương Thiệt Hổ tụ họp ở trong nhà, bàn mưu muốn đuổi hết các quan đại phu đi để lập bè cánh mình . Vì nó sợ con tiết lộ việc ấy, nên truyền quân sĩ canh cửa, cấm con, không cho về thăm nhà . Hôm nay may mà con về được chứ ngày khác vị tất đã lại đuợc trông thấy thân phụ, vì tình cha con, con xin nói thật .

Bấy giờ Phạm Uởng đứng bên cạnh cũng nói thêm vào:

– Con cũng có nghe nói như vậy, nay việc đã quả nhiên! vậy cánh nó nhiều lắm, ta phải phòng bị trước mới được .

Một con trai và một con gái, cùng nói như nhau, tài nào mà Phạm Mang chẳng phải tin lời . Phạm Mang liền mật tâu với Tấn Bình công, xin đuổi họ Loan, Tấn Bình công hỏi riêng quan đại phu là Dương Tất, Dương Tất vốn ghét họ Loan mà yêu họ Phạm, mới nói với Tấn Bình công rằng:

– Loan Thư ngày xưa chính vì giết vua Lệ Công ta mà được truyền đời cho đến Loan Doanh, nay chúa công trừ họ Loan, để tỏ rõ tội thí nghịch của y, thì thật là một đìều đại phúc cho nước nhà .

Tấn Bình công nói:

– Loan Thư có cái tiếng lập tiên quân ta, còn tội trạng Loan Doanh thì chưa được rõ, làm thế nào mà trừ được ?

Dương Tất nói:

– Loan Thư mượn tiếng lập tiên quân ta để che tội ác của mình . Tiên quân ta quên cái thù chung mà nhớ cái ơn riêng, nay chúa công lại ngơ đi thì càng hại to lắm! nếu tội trạng của Loan Doanh chưa rõ thì ta nên trừ bỏ những vây cánh mà xá tội cho hắn, đợi khi hắn mưu sự nổi loạn, bấy giờ ta sẽ trị .

Tấn Bình công khen phải, triệu Phạm Mang vào cung để ban về việc trừ cánh họ Loan . Phạm Mang nói:

– Loan Doanh ở nhà mà mình trừ bỏ vây cánh hắn thì khác nào như giục hắn nổi loạn, chi bằng chúa công sai hắn đi đắp thành ở Trứ ấp . Hắn đã đi rôi thì bọn hắn không có ai làm chủ, mới có thể trừ được!

Tấn Bình công khen phải, liền sai Loan Doanh đi đắp thành ở Trứ ấp . Khi Loan Doanh sắp đi, người trong cánh Loan Doanh là Cơ Di can rằng:

– Họ Loan ta nhiều người oán lắm, hẳn ngài cũng đã biết . Việc đắp thành này không phải là việc gấp, can gì phải sai đến ngài, âu là ngài thử chối từ, dò xem ý chúa công ra sao mà phòng bị .

Loan Doanh nói:

– Mệnh vua, sao ta lại chối từ! ta có tội thì dẫu chết cũng không nên tránh; nhược bằng không có tội thì người trong nước đều có lòng thương ta, ai hại ta nổi!

Loan Doanh liền sai Đốc Nhung dong xe, thẳng đường tiến sang Trứ ấp . Loan Doanh đi được ba ngày, Tấn Bình công ra coi triều, bảo các quan đại phu rằng:

– Xưa kia Loan Thư phạm tội thí nghịch mà không bị trừng phạt, nay con cháu đầy trong triều, ta lấy làm xấu hổ lắm, các quan nghĩ thế nào ?

Các quan đại phu đồng thanh mà đáp rằng:

– Nên đuổi họ Loan đi!

Tấn Bình công truyền đem tội trạng Loan Doanh yết thị ở cửa thàn, rồi sai Dương Tất đem quân đi đuổi Loan Doanh . Bao nhiêu vây cánh, thân thuộc trong nước đều bị đuổi cả . Loan Nhạc và Loan Phường đem người nhà cùng với Châu Xước, Hình Khoái đi theo Loan Doanh . Còn bọn Dương Thiệt Hổ thì đi sau, khi ra đến cửa thành thì cửa thành đã đóng chặt rồi, lại nghe tin quan quân đang đi tìm bắt phe phái họ Loan, mới tụ họp người nhà, định đến đêm hôm ấy thì nổi loạn, phá cửa đông mà ra . Họ Triệu có người môn khách tên là Chương Giám ở cạnh nhà Dương Thiệt Hổ, nghe được mưu ấy, đến báo với họ Triệu . Họ Triệu sang nói với Phạm Mang . Phạm Mang liền sai con là Phạm Uởng đem ba trăm quân đến vây nhà Dương Thiệt Hổ.

Chương 63: Kỳ Hề ra sức cứu Dương Thiệt – Phạm Ưởng lập kế hiếp Ngụy Thư

Cơ Di đang ở trong nhà Dương Thiệt Hổ, đợi Hoàn Uyên đến để định nửa đêm hôm ấy thì nổi loạn; chẳng ngờ Phạm Uởng đem quân vây nhà Dương Thiệt Hổ ở mặt ngoài, cho nên không dám tụ tập nữa, đều bỏ đi cả . Dương Thiệt Hổ bắc thang trèo lên mặt tường hỏi Phạm Uởng rằng:

– Tiểu tướng quân đem quân tới đây có việc gì ?

Phạm Uởng nói:

– Nhà ngươi xưa nay vẫn về phe với Loan Doanh, nay lại định mưu phá vỡ cửa thành để ra tiếp ứng cho Loan Doanh, đó tức là tội phản nghịch, ta phụng mệnh chúa công đến đây để bắt nhà ngươi .

Dương Thiệt Hổ nói:

– Ta có thế bao giờ! việc này tự ai nói ra ?

Phạm Uởng liền gọi Chương Giám đến truớc mặt để làm chứng . Dương Thiệt Hổ vốn người khỏe lắm, lấy tay cạy một viên đá trên mặt tường, ném trúng Chương Giám vỡ đầu ra . Phạm Uởng giận lắm, truyền quân sĩ phóng hỏa đốt nhà . Dương Thiệt Hổ vội vàng nói với Cơ Di rằng:

– Chúng ta chẳng thà liều chết, còn hơn ngồi yên để chịu trói .

Nói đoạn bèn cầm kích xông ra trước . Cơ Di cầm kiếm theo sau . Hai người vừa hò hét om sòm vừa xông qua đám lửa mà ra . Phạm Uởng nhận được mặt hai người trong ánh lửa bèn truyền cho quân sĩ bắn dồn vào . Hai người bị tên ngã xuống, quân sĩ dùng câu liêm loi ra thì đã gần chết rồi, liền trói lại mà để lên xe . Lúc bấy giờ, quan trung quân phó tướng là Tuân Ngô cũng đem quân đi tiếp ứng . Đi đến nửa đường thì gặp Hoàng Uyên, Hoàng Uyên cũng bị Tuân Ngô bắt được . Bấy giờ Phạm Uởng và Tuân Ngô hợp quân làm một, rồi giải Dương Thiệt Hổ, Cơ Di và Hoàng Uyên đến nộp quan trung quân nguyên soái là Phạm Mang . Phạm Mang nói:

– Cánh họ Loan còn nhiều, chỉ bắt có ba người này thì chưa trừ hết được .

Phạm Mang bèn chia quân đi tầm nã các nơi . Trong thành Giáng Đô đêm hôm ấy xiết bao huyên náo . Khi trời sáng rõ . Phạm Mang bắt được Trí Khởi, Tịch Yển và Châu Tân; Tuân Ngô bắt được bọn Trung Hàng Hỉ, Tân Du, Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật đều giải đến triều môn để đợi lệnh Tấn Bình công.

Lại nói chuyện Dương Thịêt Xích, tên tự là Bá Hoa, Dương Thiệt Bật, tên tự là Thúc Hướng, cùng với Dương Thiệt Hổ dẫu đều là con Dương Thiệt Chức cả, nhưng Dương Thiệt Hổ là con người thứ mẫu sinh ra . Mẹ Dương Thiệt Hổ nguyên trước là thị tì của vợ Dương Thiệt Chức, rất có nhan sắc . Dương Thiệt Chức muốn lấy, nhưng vợ Dương Thiệt Chức không cho . Bấy giờ Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật đều đã lớn tuổi, can mẹ không nên ghen . Người mẹ cười mà bảo rằng:

– Ta có phải là người ghen đâu: nhưng ta nghe nói đẹp lắm thì hại nhiều, chỗ núi cao vực thẳm thường hay sinh ra giống long xà . Ta e rằng lúc đã sinh ra giống long xà thì lại làm tai vạ cho chúng bay về sau đó .

Bọn Dương Thiệt Xích cố ý nói mãi, mẹ mới cho Dương Thiệt Chức lấy, sau sinh ra Dương Thiệt Hổ .

Khi Dương Thiệt Hổ lớn lên, mặt đẹp như mẹ mà có sức khỏe lạ thường, Loan Doanh yêu lắm . Bởi Dương Thiệt Hổ là người thân của Loan Doanh, thành ra Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật đều bị bắt cả . Quan đại phu là Nhạc Vương Phụ, tên tự là Phúc Ngư, vốn là người tin yêu của Tấn Bình công, xưa nay nghe tiếng anh em Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật là người giỏi, vẫn muốn kết giao mà chưa được, bấy giờ thấy nói hai người bị bắt, mới vội vàng vào triều, thì vừa gặp Dương Thiệt Bật, Nhạc Vương Phụ bèn vái chào và lấy lời an ủi rằng:

– Nhà ngươi chớ lo! ta vào yết kiến chúa công thế nào cũng cố sức xin cho nhà ngươi .

Dương Thiệt Bật nín lặng, không đáp . Nhạc Vương Phụ có ý thẹn . Dương Thiệt Xích nghe nói, liền trách mắng Dương Thiệt Bật rằng:

– Anh em ta ngày nay mà chết thì họ Dương Thiệt không còn một ai nữa! Nhạc Vương Phụ nay đang được chúa công tin yêu, nói gì nghe đấy, nếu nhờ hắn nói dùm một tiếng, may ra có được tha chăng, cớ sao em lại nín lặng, để mích lòng nguời ta như vậy ?

Dương Thiệt Bật cười mà nói rằng:

– Người ta sống chết đã có số mệnh . Nếu lòng trời giúp ta thì trông nhờ vào quan lão đại phu họ Kỳ (tức là Kỳ Hề) chứ Nhạc Vương Phụ làm gì được!

Dương Thiệt Xích nói:

– Nhạc Vương Phụ lúc nào cũng hầu liền bên cạnh chúa công, sao em lại bảo rằng không làm gì được ? còn quan lão đại phu họ Kỳ đã cáo lão về rồi, em lại bảo rằng có thể nhờ người ấy, ta thật lòng không hiểu ra làm sao!

Dương Thiệt Bật nói:

– Nhạc Vương Phụ chẳng qua chỉ là người du nịnh mà thôi, chúa công bảo phải thì rằng phải, bảo trái thì rằng trái; còn như quan lão đại phu họ Kỳ, thấy ai là bậc hiền tài thì bất cứ kẻ thù hay người thân, cũng đều tiến cử lên chúa công cả, lẽ nào lại bỏ sót họ Dương ta!

Lát sau, Tấn Bình công ra ngự triều . Phạm Mang đem những tên người bị bắt trong cánh họ Loan, mà tâu lên . Tấn Bình công trông thấy tên mấy anh em Dương Thiệt Xích, cũng có ý nghĩ, mới hỏi Nhạc Vương Phụ rằng:

– Dương Thiệct Xích và Dương Thiệt Bật có dự gì đến âm mưu của Dương Thiệt Hổ không ?

Nhạc Vương Phụ vẫn căm về việc Dương Thiệt Bật không thèm nói với mình, mới tâu với Tấn Bình công rằng:

– Còn ai thân hơn anh em, lẽ nào lại không biết .

Tấn Bình công bèn truyền đem giam cả bọn vào ngục, để giao cho quan tư khấu nghị tội .

Bấy giờ Kỳ Hề đã cáo lão về ở đất Kỳ, con là Kỳ Ngọ là bạn đồng liêu với Dương Thiệt Xích liền sai người phi báo cho cha biết, để Kỳ Hề viết thư đưa về cho Phạm Mang mà xin tha cho Dương Thiệt Xích . Hỳ Hề nghe tin, giật mình nói:

– Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật đều là người giỏi ở nước Tấn ta, nay có việc oan lạ lùng thế này, ta nên thân hành đi cứu .

Kỳ Hề liền tức khắc đi xe tới khinh thành, không đến nhà Kỳ Ngo, mà đi thẳng vào yết kiến Phạm Mang . Phạm Mang nói:

– Quan đại phu già yếu mà chịu dầm sương dãi gió tới đây, tất muốn chỉ báo tôi điều gì chăng ?

Kỳ Hề nói:

– Tôi vi việc mất còn của xã tắc mà tới đây, chứ không phải việc gì khác!

Phạm Mang kinh sợ mà bảo rằng:

– Chẳng hay việc gì khiến cho lão đại phu phải phiền lòng như vậy ?

Kỳ Hề nói:

– Người hiền tài là chỗ dựa của xã tắc . Dương Thiệt Chức khi trước có công với nước Tấn ta, còn Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bất đều nối được nghiệp cha, nay chỉ vì một người con thứ không ra gì mà giết tất cả, chẳng phải đáng tiếc lắm sao ? Ngày xưa Khước Nhuế phảnh nghịch mà con là Khước Khuyết vẫn được quan . Cha con tội cũng còn không liên can với nhau nữa là anh em! nhà ngươi đem một lòng thù riêng mà giết hại kẻ vô tội, ta lấy làm nguy cho nước Tấn lắm!

Phạm Mang vội vàng đứng dậy xin lỗi mà rằng:

– Quan lão đại phu dạy phải lắm! nhưng chúa công còn chưa nguôi cơn giận, xin quan lão đại phu cùng tôi vào triều để tâu với chúa công .

Phạm Mang bèn cùng Kỳ Hề lên xe vào triều, tâu với Tấn Bình công rằng:

– Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật không giống tính Dương Thiệt Hổ, tất không dự biết đến việc họ Loan . Vả lại công lao của Dương Thiệt Chức thuở xưa, chúa công chớ nen vội quên!

Tấn Bình công tỉnh ngộ, tuyên chỉ tha cho Dương Thiệt Xích và Dương Thiệt Bật, lại cho phục hồi nguyên chức, còn Trí Khởi, Trung Hàng Hỉ, Tịch Yển, Châu Tân và Tân Du đều phải giáng làm thứ nhân; chỉ có Dương Thiệt Hổ, Cơ Di và Hoàng Uyên phải xử tử mà thôi . Dương Thiệt Xich và Dương Thiệt Bật được tha, vào triều lạy tạ; khi trở về, Dương Thiệt Xích bảo Dương Thiệt Bật rằng:

– Ta nên đến tạ ơn quan lão đại phu họ Kỳ .

Dương Thiệt Bật nói:

– Quan lão đại phu họ Kỳ vì nước nhà mà nói, có phải vì riêng ta đâu, cần gì mà phải tạ!

Nói xong, liền lên xe về nhà . Dương Thiệt Xích không đành lòng, thân hành đến nhà Kỳ Ngọ, để xin yết kiến Kỳ Hề . Kỳ Ngọ nói:

– Thân phụ tôi vào yết kiến chúa công, rồi trở về đất Kỳ ngay, có ở lại đây đâu!

Dương Thiệt Xích nói:

– Quan lão đại phu họ Kỳ vốn không nghĩ gì đến sự làm ơn cho ta. Thế mới biết kiến thức của ta lại không bằng Dương Thiệt Bật!

Châu Tân từ khi bị cách chức, lại vẫn đi lại với nàng Loan Kỳ . Phạm Mang nghe biết việc ấy, sai kẻ lực sĩ đến tận nhà đâm chết Châu Tân .

Quan trấn thủ đất Khúc Ốc tên gọi Tư Ngọ, nguyên trước là môn khách của Loan Thư, khi Loan Doanh đi qua Khúc Ốc, Tư Ngọ cung cấp rất trọng hậu . Loan Doanh nói đến việc đắp thành ở Trứ ấp . Tư Ngọ hẹn xin đem quân ở Khúc Ốc sang giúp . Loan Doanh ở lại Khúc Ốc trong ba ngày . Bọn Loan Nhạc đến báo tin, nói Dương Tất đã đem quân đuổi theo . Đốc Nhung là người dong xe của Loan Doanh nói:

– Nếu Dương Tất đến đây thì ta chống cự lại, vị tất đã làm gì ta nổi!

Châu Xước và Hình Khóai nói:

– Chính vì sợ ân chủ thiếu người, nên chúng tôi đã đến đây để giúp ân chủ đó .

Loan Doanh nói:

– Ta có tội gì đâu, chẳng qua họ thù óan mà vu tội cho ta, nếu ta chống cự thì kẻ thù lại có cớ mà nói, chi bằng ta trốn đi, đợi khi chúa công xét lại .

Tư Ngọ cũng nói không nên chống cự . Loan Doanh vội vàng từ biệt Tư Ngọ, rồi trốn sang nước Sở . Khi Dương Tất đem quân đến Trứ ấp, người trứ ấp nói với Dương Tất rằng:

– Loan Doanh chưa tới đây, mới đến Khúc Ốc, đã bỏ trốn rồi .

Dương Tất lại thu quân về, trong khi đi đường, tuyên bố tội trạng của họ Loan .

Dân nước Tấn đều biết họ Loan là công thần, và Loan Doanh là người quảng đại bác ái, cho nên ai cũng thương xót . Phạm Mang nói với Tấn Bình công nghiêm cấm họ Loan, không cho đi theo Loan Doanh, ai theo thì bắt tội chết . Kẻ gia thần của Loan Doanh là Tân Du nghe tin Loan Doanh ở nước SỞ, liền đem mấy xe gia tài đi theo . Ra đến cửa thành, bị quân sĩ bắt được, đem nộp Tấn Bình công . Tấn Bình công hỏi Tân Du rằng:

– Ta đã có lệnh nghiêm cấm, sao nhà ngươi dám trái ?

Tân Du sụp lạy mà nói rằng:

– Tôi ngu dốt không hiểu việc chúa công cấm theo họ Loan có ý nghĩa gì ?

Tấn Bình công nói:

– Theo họ Loan tức là vô quân, nên ta cấm .

Tân Du nói:

– Nếu cấm kẻ vô quân thì tôi tất là khỏi chết! tôi nghe nói mình làm tôi người nào thì người ấy tức là vua mình; ông cha nhà tôi đã ba đời làm tôi họ Loan thì họ Loan tức là vua của tôi, chính vì tôi không dám quên vua, cho nên theo họ Loan, cớ sao lại cấm ? Vả Loan Doanh dẫu có tội, chúa công chỉ đuổi đi mà không nỡ giết, cũng là nghĩ đến cái công lao đời trước của họ Loan, mà muốn bảo toàn cho Loan Doanh; nay Loan Doanh bơ vơ ở nơi đất khách, đồ dùng không có, áo mặc không đủ, nếu một mai vì thế mà chết đi, thì có phải cái nhân đức của chúa công không được trọn vẹn không ? Tôi đi chuyến này là muốn giữ cho hết cái trung nghĩa của tôi, mà hoàn thành được cái nhân đức của chúa công đó!

Tấn Bình công bằng lòng mà bảo rằng:

– Nhà ngươi nên ở lại đây với ta, ta sẽ đem cái lộc của họ Loan mà cho nhà ngươi .

Tân Du nói:

– Thôi đã có nói họ Loan là vua của tôi, nếu tôi bỏ vua ấy mà theo vua khác thì sao cấm được những kẻ vô quân! chúa công giữ tôi thì tôi xin chết .

Tấn Bình công nói:

– Thôi thì ta cũng nghe lời mà cho nhà nguơi đi, để nhà ngươi giữ được cái chí ấy .

Tân Du lạy tạ, rồi đem mấy xe gia tài, ngang nhiên thẳng cửa thành mà đi ra . Loan Doanh ở địa giới nước Sở, đã được mấy tháng, toan vào Sính Đô để yết kiến vua Sở, bỗng nghĩ rằng ông cha mình mấy đời giúp Tấn là thế thù của nước Sở, nếu vua Sở không dung thì làm thế nào; lại toan đi sang nước Tề, chỉ vì tiền lưng hết cả, không thể đi được, may gặp Tân Du đem mấy xe gia tài đến, bấy giờ Loan Doanh mới sửa soạn để đi sang nước Tề . Tề Trang công từ khi thua trận ở trận Bình Âm, lấy làm xấu hổ, muốn thu dùng những kẻ dũng sĩ, đặt ra một đội gọi là “dũng nước”, cho ăn lộc bằng các quan đại phu, tìm những người nào mang nổi nghìn cân, bắn trúng quan bảy lần áo giáp cho sung vào đội ấy . Trước đã có Thực Xước và Quách Tối, sau lại được bọn Gia Cử, Bính Cư, công tôn Ngao, Phong Cụ, Tác Phủ, Tướng Doãn và Lâu Yên, cả thảy chín người . Tề Trang công ngày nào cũng triệu vào cung cùng bắn bia hoặc đấu kiếm mua vui .

Một hôm, Tề Trang công ngự triều, nghe báo có quan đại phu nước Tấn là Loan Doanh bị đuổi, trốn sang nước Tề, liền mừng mà nói rằng:

– Ta vẫn muốn báo thù nước Tấn, nay có Loan Doanh đến thì thật là được việc cho ta!

Nói đoạn toan sai người đi nghênh tiếp Loan Doanh . Quan đại phu là Án Anh can rằng:

– Không nên! nước nhỏ thờ nước lớn, nên phải giữ điều tín . Ta mới cùng nước Tấn ăn thề mà nay lại dung nạp Loan Doanh, nếu người nước Tấn đến trách thì ta biết nói thế nào ?

Tề Trang công cười to lên mà nói rằng:

– Nhà ngươi nói thế là sai lắm! nước Tề ta cùng nước Tấn ngang hàng với nhau, sao lại gọi là lớn và nhỏ ? ngày trước ta chịu thề với Tấn, chẳng qua chỉ vì sự nguy cấp trong một thời mà thôi, chứ lẽ nào lại chịu thần phục nước Tấn mãi như Lỗ, Vệ, Tào, và Châu ?

Tề Trang công bèn không nghe lời Án Anh, sai người đi đón Loan Doanh vào triều . Loan Doanh sụp lạy, vừa khóc vừa kể hết những nông nổi bị đuổi . Tề Trang công nói:

– Nhà ngươi chớ lo! ta sẽ giúp cho nhà ngươi được về nước Tấn .

Loan Doanh lạy tạ . Tề Trang công bày tiệc thết đãi . Trong khi ăn tiệc, Châu Xước và Hình Khoái đứng hầu ở bên cạnh Loan Doanh, Tề Trang công trông thấy Châu Xước và Hình Khoái hình vóc cao lớn, liền hỏi họ tên . Hai người nói thực cả . Tề Trang công nói:

– Trận đánh ở Bình Âm khi trước, bắt được Thực Xước và Quách Tối của ta, có phải là hai người đó không ?

Châu Xước và Hình Khoái sụp lạy tạ tội . Tề Trang công nói:

– Ta mến tiếng các ngươi đã lâu lắm .

Nói xong truyền dọn cơm rượu cho hai người ăn uống . Lại bảo Loan Doanh rằng:

– Ta muốn phiền nhà ngươi một điều, nhà ngươi chớ nên từ chối .

Loan Doanh nói:

– Nếu chúa công có cần dùng điều gì thì dẫu xương óc chúng tôi, chúng tôi cũng không dám tiếc .

Tề Trang công nói:

– Ta không dám phiền gì cả, chỉ xin mượn hai người dũng sĩ để làm bạn với ta .

Loan Doanh không dám từ chối, phải nhận lời ngay, rồi lên xe, mặt buồn rười rượi, than thầm rằng: may mà vua Tề chưa trông thấy Đốc Nhung, chẳng có thì cũng chiếm mất mà thôi .

Tề Trang công cho Châu Xước và Hình Khoái sung vào cuối hàng dũng tước, Châu Xước và Hình Khoái có ý không phục . Một hôm Châu Xước và Hình Khoái cùng với Thực Xước và Quách Tối đứng hầu bên cạnh Tề Trang côg . Châu Xước và Hình Khóai giả cách ngạc nhiên trỏ vào mặt Thực Xước và Quách Tối mà bảo rằng:

– Hai ngươi là tù nhân nước ta, sao lại được đến đây ?

Quách Tối nói:

– Ngày trước chúng ta bị Túc Sa Vệ đánh lừa, chứ không như các ngươi phải theo người ta đi trốn .

Châu Xước giận lắm, nói:

– Mày như con rận ở trong miệng ta, lại còn dám cựa quậy hay sao!

Thực Xước cũng nổi giận nói:

– Ngày nay mày ở nước ta, tức là miếng thịt ở trong mâm cơm của ta đó!

Hình Khóai nói:

– Các ngươi đã không bằng lòng với ta thì ta lại xin về với chủ cũ .

Quách Tối nói:

– Đường đường nước Tề ta, lẽ nào cứ phải nhờ đến hai ngươi mới được hay sao!

Bốn người lớn tiếng cãi nhau, mặt đỏ bừng bừng, tay mó chuôi gươm, toan sự đánh nhau . Tề Trang công dùng lời nói ngọt để khuyên can, và đem rượu cho uống, lại bảo Châu Xước và Hình Khoái rằng:

– Ta vẫn biết hai ngươi không chịu ở dưới người!

Tề Trang công bèn chia đội dũng tước làm hai ban: 1. Hữu ban là Long tước thì Châu Xước và Hình Khóai đứng đầu, lại chọn được người nước Tề là Lư Bồ Quí và Vương Hà thuộc về ban ấy; 2. Tả ban là Hổ tước, thì Thực Xước và Quách Tối đứng đầu, bọn Gía Cử thuộc về ban ấy . Các người được dự vào trog hai ban ấy đều lấy làm vinh hạnh, chỉ có Châu Xước và Hình Khóai, Thực Xước và Quách Tối, bốn người ấy là không hoà thuận với nhau mà thôi .

Bấy giờ Thôi Trữ và Quách Phong có công lập Tề Trang công, đều được làm thượng khanh, cầm quyền chính trong nước . Tề Trang công thường vẫn đến nhà hai người để uống rượu mua vui, hoặc bắn bia đấu kiếm, không còn phân biệt vua tôi nữa . Vợ cả Thôi Trữ sinh được hai con là Thôi Thành và Thôi Cương; cách mấy năm sau thì người vợ ấy chết, Thôi Trữ lại kết duyên với em gái Đông Quách Yển . Em gái Đông Quách Yển nguyên trước là vợ Đường Công, vẫn gọi là nàng Đường Khương, sinh được một con, tên gọi Đường Vô Cữu . Khi Đường Công chết, Thôi Trữ đến viếng ta, trông thấy Đường Khương có nhan sắc, mới nói với Đông Quách Yển xin cưới làm vợ kế, cũng sinh được một con, tên gọi Thôi Minh .

Thôi Trữ yêu nàng Đường Khương lắm, liền dùng Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu làm gia thần, đem con nhỏ là Thôi Minh uỷ thác cho hai người, lại bảo nàng Đường Khương rằng:

– Đợi khi nào Thôi Minh khôn lớn, sẽ lập làm đích tử .

Một hôm, Tề Trang công uống rượu ở nhà Thôi Trữ . Thôi Trữ sai Đường Khương ra mời rượu . Tề Trang công trông thấy Đường Khương nhan sắc, liền đút nhiều tiền cho Đông Quách Yển, để tư thông với nàng Đường Khương . Thôi Trữ dần dần biết chuyện, hỏi Đường Khương . Nàng nói:

– Thật có như vậy! kẻ kia cậy thế là vua một nước mà bắt thiếp thì thiếp cự lại thế nào được!

Thôi Trữ nói:

– Vậy thì sao nàng không nói với ta ?

Đường Khương nói:

– Thiếp tự nghĩ mình có tội, nên không dám nói .

Thôi Trữ nín lặng hồi lâu, rồi nói:

– Việc ấy không can dự gì đến nàng!

Từ bấy giờ Thôi Trữ có ý muốn giết Tề Trang công .

Vua nước Ngô là Chư Phàn sai người sang nước Tấn cầu hôn . Tấn Bình công gả con gái cho . Tề Trang công bàn với Thôi Trữ rằng:

– Ta muốn giúp Loan Doanh trở về nước Tấn mà chưa được dịp nào, nghe nói quan trấn thủ ở Khúc Ốc là người thân với Loan Doanh, nay ta muốn mượn việc tống dắng mà đưa Loan Doanh về Khúc Ốc, khiến Loan Doanh nổi lên đánh nước Tấn, phỏng có nên chăng ?

Thôi Trữ đang căm tức Tề Trang công, muốn cho Tề Trang công kết oán với Tấn, đợi khi nước Tấn đem quân sang đánh thì đổ lỗi cho Tề Trang công mà giết đi, để du nịnh nước Tấn . Nay Tề Trang công lại muốn giúp Loan Doanh, chính là trúng phải kế ấy . Thôi Trữ liền nói với Tề Trang công rằng:

– Người Khúc Ốc có lòng với họ Loan, nhưng vị tất đã làm gì nổi, chúa công nên đem một toán quan đi tiếp ứng, giả cách nói sang đánh Vệ, rồi cùng với Loan Doanh hai mặt đánh ập vào, mới có thể phá vỡ được nước Tấn .

Tề Trang công khen phải, rồi đem mưu ấy nói với Loan Doanh . Loan Doanh mừng lắm . Gia thần của Loan Doanh là Tân Du can rằng:

– Tôi theo ngài tới đây, là để tận trung với ngài, vậy thì tôi cũng muốn ngài tận trung với vua Tấn .

Loan Doanh nói:

– Nhưng vua Tấn không nhận ta là bề tôi thì biết làm thế nào ?

Tân Du nói:

– Ngày xưa vua Trụ giam Văn vương ở ngục Dữu Lý, mà Văn vương vẫn một lòng thần phục vua Trụ; nay vua Tấn chẳng nghĩ đến công lao họ Loan ta trước mà đuổi ngài, khiến ngài phải lưu lạc ở nước ngoài, ai là người không thương xót . Nếu ngài làm điều bất trung thì trong khoảng trời đất, còn ai dung ngài nữa!

Loan Doanh không nghe . Tân Du khóc mà nói rằng:

– Nếu vậy thì ngài đi chuyến này, thế nào cũng chết, tôi xin chết để tiễn chân ngài .

Tân Du nói xong, liền rút gươm đâm cổ mà chết . Tề Trang công chọn một người con gái trong họ để làm dắng nữ, sai quan đại phu là Tích Quy Phủ đưa sang nước Tấn, rồi dùng nhiều xe kín, để Loan Doanh và thân thuộc ngồi ở trong xe, đưa đến Khúc Ốc . Châu Xước và Hình Khóai xin theo Loan Doanh . Tề Trang công sợ Châu Xước và Hình Khoái về nước Tấn mất, mới sai Thực Xước và Quách Tối đi thay, lại dặn Thực Xước và Quách Tối rằng:

– Hai ngươi theo quan tướng quân họ Loan cũng tức như là theo ta!

Khi đến Khúc Ốc, bọn Loan Doanh lén vào trong thành, đang đêm gọi cửa nhà quan trấn thủ ở đấy là Tư Ngọ, Tư Ngọ kinh sợ không biết việc gì . Khi mở cửa ra, trông thấy Loan Doanh, liền giật mình hỏi rằng:

– Sao ngài lại đến đây được ?

Loan Doanh nói:

– Xin vào nhà kín để nói chuyện .

Tư Ngọ liền mời vào trong nhà kín . Loan Doanh cầm lấy tay Tư Ngọ, muốn nói mà chưa nói, bất giác nước mắt chảy xuống ròng ròng . Tư Ngọ nói:

– Ngài có việc gì, xin cứ nói cho biết, chớ nên thương khóc như vậy!

Loan Doanh liền gạt nước mắt mà nói rằng:

– Tôi chỉ vì các nhà họ Phạm, họ Triệu thù oán nhau mà đến nổi phải lưu lạc nước ngoài, nay vua Tề thương tôi là người vô tội, đưa tôi tới đây, mà quân Tề cũng sắp sửa đến sau . Nếu nhà ngươi chịu đem quân Khúc Ốc vào đánh Giáng Đô thì quân Tề đánh mặt ngoài, chúng ta đánh mặt trong, chắc là phải vỡ . Bấy giờ ta sẽ bắt những kẻ thù với ta mà giết chết đi, rồi phụng mệnh vua Tấn để giảng hoà với Tề . Họ Loan mà nổi lên được, chỉ cốt ở một việc này thôi .

Tư Ngọ nói:

– Thế nước Tấn đang mạnh, các nhà họ Phạm và họ Triệu vẫn hoà thuận với nhau, tôi sợ chưa làm gì nổi, lại thêm hại cho mình .

Loan Doanh nói:

– Ta có kẻ dũng sĩ là Đốc Nhung, một người có thể đương nổi được một toán quân . Vả Thực Xước và Quách Tối đều là những kiện tướng ở nước Tề bây giờ; còn Loan Nhạc và Loan Phường cũng đều sức khỏe bắn gỉoi, như thế thì nước Tấn dẫu mạnh cũng chẳng sợ gì! ngày xưa ta giúp Ngụy Giáng ở đạo hạ quân, cháu hắn là Ngụy Thư có nhờ vả điều gi, ta vẫn săn sóc cho cả, hắn vẫn muốn báo ơn ta; nếu được họ Ngụy làm nội ứng thì mười phần xong được đến tám chín . Vạn nhất việc không thành mà phải chết, ta cũng được thoả lòng!

Tư Ngọ nói:

– Đợi ngày mai, tôi dò xem lòng người thế nào, mới có thể làm được .

Bọn Loan Doanh cùng nhan ẩn trong nhà kín . Ngày hôm sau, Tư Ngọ giả cách nói nằm mộng thấy Cung thế tử (tức là Thân Sinh), rồi sửa lễ vào nhà thờ Cung thế tử để tế . Tế xong, mời tất cả các quan thuộc đến uống rượu . Loan Doanh phục sẵn ở sau bình phong . Rượu được ba tuần thì âm nhạc nổi lên . Tư Ngọ liền gạt đi mà rằng:

– Ngày xưa Cung thế tử bị oan, bây giờ chúng ta nỡ nào ngồi mà nghe nhạc được!

Mọi người nghe nói, đều có ý cảm động . Tư Ngọ lại nói:

– Bề tôi cũng như là con . Nay họ Loan mấy đời có công to, mà cả triều cố ý dèm pha, để đến nỗi phải đuổi, thì có gì khác Cung thế tử ?

Mọi người đều nói:

– Việc ấy cả nước ai cũng bất bình! chẳng hay chàng nhụ tử họ Loan còn có thể về nước được không ?

Tư Ngọ nói:

– Giả sử nhụ tử họ Loan bây giờ đã về ở đây thì các người định xử ra làm sao ?

Mọi người đều nói:

– Nếu được chàng nhụ tử họ Loan làm chủ thì chúng tôi xin hết sức, dẫu chết cũng đành lòng!

Trong bọn ngồi đấy, có nhiều người chảy nước mắt . Tư Ngọ nói:

– Các ngươi chớ phiền! chàn nhụ tử họ Loan hiện ở đây rồi!

Tư Ngọ vừa nói xong thì Loan Doanh ở phía sau bình phong đi ra, vái chào mọi người . Mọi người đều sụp lạy . Loan Doanh thuật lại đầu đuôi vì cớ gì mà về được nước Tấn, lại nói với mọi người rằng:

– Nếu được trở về Giáng Đô thì dẫu chết cũng thoả lòng!

Mọi người đều hớn hở xin theo . Ngày hôm ấy, uống rượu rất vui rồi tan . Đến hôm sau, Loan Doanh viết một tờ mật thư, nhờ người lái buôn tại Khúc Ốc đưa đến cho Ngụy Thư ở Giáng Đô . Ngụy Thư cũng thấy việc họ Triệu và họ Phạm làm tàn ác quá, khi tiếp được mật thư của Loan Doanh, liền viết thư trả lời rằng:

– “Chúng tôi vẫn mặc sẵn áo giáp ở trong mình để đợi . Khi nào quân Khúc Ốc đến, xin ra nghênh tiếp “.

Loan Doanh được tin mừng lắm . Tư Ngọ kiểm điểm giáp binh ở Khúc Ốc cả thảy được hai trăm hai mươi binh xa rồi giao cho Loan Doanh . Bè cánh họ Loan, người nào tráng kiện đều xin theo cả, chỉ có người già yếu mới chịu ở lại Khúc Ốc . Đốc Nhung làm tiên phong, Thực Xước và Loan Nhạc ở bên hữu . Quách Tối và Loan Phường ở bên tả . Đêm hôm ấy thẳng đường tiến về Giáng Đô . Khúc Ốc và Giáng Đô chỉ cách nhau có sáu mươi dặm, quân Loan Doanh đi một đêm đến nơi ngay, rồi phá lần thành ngoài mà vào, tiến thẳng đến cửa nam, người Giáng Đô không ai biết gì cả . Quân sĩ canh giữ ở cửa thành, không kịp phòng bị, chỉ một giờ là bị Đốc Nhung phá vỡ . Quân Loan Doanh kéo ồ vào thành, như vào một nơi không có người ở .

Bấy giờ Phạm Mang ở nhà, vừa ăn bữa sáng xong, bỗng thấy Nhạc Vương Phụ hoảng hốt chạy đến, báo việc Loan Doanh đã vào cửa nam . Phạm Mang giật mình kinh sợ, liền gọi con là Phạm Uởng đem quân ra chống cự . Nhạc Vương Phụ nói:

– Việc đã nguy cấp lắm! ta nên đưa chúa công chạy vào Cố Cung thì mới có thể giữ vững được .

Phạm Mang lo rằng trong nước có người làm nội ứng cho họ Loan . Nhạc Vương Phụ nói:

– Các quan đại phu đều ghét họ Loan cả, chỉ đáng lo có một mình họ Ngụy mà thôi; nếu ta phụng mệnh chúa công đi triệu ngay đến đây thì còn có thể giữ được .

Phạm Mang khen phải, liền sai Phạm Uởng phụng mệnh đến triệu Ngụy Thư . Nhạc Vương Phụ nói:

– Việc chưa rõ thế nào, hãy nên kín tiếng mới được!

Bấy giờ Tấn Bình công đang có tang, Phạm Mang và Nhạc Vương Phụ đều mặc áo giáp ở trong, rồi phủ đồ tang phục ở ngoài, trùm kín đầu lại, đi thẳng vào cung, tâu với Tấn Bình công, rồi đưa Tấn Bình công chạy vào Cố Cung . Phạm Uởng đến nhà Ngụy Thư, trông thấy quân sĩ ở nhà Ngụy Thư đã đứng sắp hàng cả ở ngòai cửa, Ngụy Thư mặc đồ nhung phục ngồi trên xe, toan đi đóan Loan Doanh . Phạm Uởng chạy ngay đến trước mặt bảo Ngụy Thư rằng:

– Họ Loan nổi loạn, nay chúa công ở Cố Cung, cha tôi và các quan đại thần đều họp ở đấy cả, có sai tôi đến đây đón ngài .

Nguỵ Thư chưa kịp trả lời, Phạm Uởng nhảy ngay lên xe tay phải cầm gươm, tay trái nắm lấy đai Ngụy Thư, làm cho Ngụy Thư kinh sợ không biết nói thế nào được nữa, rồi Phạm Uởng truyền cho người dong xe đi mau . Người dong xe hỏi đi về phía nào, Phạm Uởng quát to lên rằng:

– Đi sang Cố Cung!

Xe Ngụy Thư liền đi thẳng sang Cố Cung.

Chương 64: Loan Doanh diệt tộc thành Khúc Ốc – Kỷ Lương tử chiến cửa Thả Vu

Phạm Mang dẫu sai con là Phạm Uởng đi triệu Ngụy Thư, nhưng chưa biết hay dở thế nào, trong lòng áy náy không yên, mới trèo lên mặt thành để trông, thấy Phạm Uởng và Ngụy Thư cùng ngồi một xe ở phía xa đi đến, liền mừng mà nói rằng:

– Thế là họ Loan thật là cô thế, chẳng làm gì nổi !

Nói xong, truyền mở cửa cung đóng vào . Ngụy Thư trông thấy Phạm Mang thì mặt lộ vẻ hoang mang . Phạm Mang cầm lấy tay mà bảo rằng:

– Người ngoài không hiểu rõ, bảo là tướng quân tư thông với họ Loan, nhưng tôi đây vẫn biết tướng quân không phải là người như thế . Nếu tướng quân giúp sức với tôi mà diệt họ Loan, thì tôi xin đem đất Khúc Ốc đền công cho tướng quân .

Bấy giờ Ngụy Thư đã vào tròng của Phạm Mang rồi, bất đắc dĩ phải vân mệnh, cùng vào yết kiến Tấn Bình công để bàn mưu dẹp giặc . Được một lúc thì Triệu Vũ, Tuân Ngô, Trí Sóc, Hàn Vô Kỵ (con trưởng Hàn Quyết), Hàn Khởi (con thứ hai của Hàn Quyết), Kỳ Ngọ, Dương Thiệct Xích, Dương Thiệt Bật và Trương Mạnh Địch đều lục tục đến cả . Mỗi người lại đem theo một toán quân, thanh thế rất mạnh! Cố Cung có hai cửa . Phạm Mang sai Triệu Vũ và Tuân Ngô giữ cửa nam; anh em Hàn Vô Kỵ giữ cửa bắc, còn bọn Kỳ Ngọ thì đi tuần bốn mặt . Hai cha con Phạm Mang và Phạm Uởng cứ ở liền bên cạnh Tấn Bình công . Loan Doanh tiến quân vào trong thành, không thấy Ngụy Thư ra đón thì trong lòng nghi ngại, bèn đóng quân ở Thị Khẩu rồi sai người đi dò tin tức . Quân thám tử về báo rằng:

– Vua Tấn đã chạy vào Cố Cung, nhân dân đều theo vào đấy cả, cả Nguỵ Thư cũng vào .

Loan Doanh nổi giận, nói:

– Ngụy Thư đánh lừa ta! gặp mặt ta quyết làm cho một nhát!

Liền vỗ vào lưng Đốc Nhung mà bảo rằng:

– Nhà ngươi phá vỡ được Cố Cung thì ta sẽ cùng hưởng phú qúi với nhà ngươi!

Đốc Nhung nói:

– Xin chia quân làm đôi, tôi đánh cửa nam; còn ân chủ thì đem các tướng đánh cửa bắc, thử xem ai vào được trước!

Bấy giờ Thực Xước và Qúach Tối dẫu theo Loan Doanh, nhưng vẫn căm tức Châu Xước và Hình Khoái, vì Châu Xước và Hình Khoái là người của Loan Doanh đem sang Tề, mà lại được Tề Trang công tin yêu . Châu Xước và Hình Khóai lại tỏ ý khinh bỉ Thực Xước và Quách Tối . Huống chi Loan Doanh động mở miệng thì chỉ khoe cái tài giỏi của Đốc Nhung mà không nghĩ gì đến Thực Xước và Quách Tối cả, cho nên hai người không hề có lòng sốt sắng với Loan Doanh mà chỉ ngồi chờ xem bên nào được bên nào thua . Loan Doanh chỉ trông cậy vào một mình Đốc Nhung . Bấy giờ Đốc Nhung tay cầm hai cái kích, ngồi xe đi thẳng đến Cố Cung, dừng ngoài cửa nam xem ngắm hình thế, rồi đi đi lại lại, uy phong lẫm liệt, khác nào như một vị hung thần giáng hạ . Quân Tấn vốn biết Đốc Nhung là người vũ dũng, nên ai trông thấy cũng đều sợ khiếp đảm . Triệu Vũ cũng tấm tắc khen tài . Bộ hạ của Triệu Vũ có hai viên dũng tướng, tên gọi Giải Ung và Giải Túc là hai anh em ruột, xưa nay đã có tiếng là người giỏi đánh giáo . Giải Ung và Giải Túc nghe thấy chủ tướng mình khen Đốc Nhung, có ý không phục, nói với Triệu Vũ rằng:

– Đốc Nhung dẫu giỏi, anh em tôi cũng xin đem một toán quân ra để bắt sống .

Triệu Vũ nói:

– Nhà ngươi nên cẩn thận, chớ có khinh thường .

Giải Ung và Giải Túc mở cửa ra, đứng ở phía trong lần hào, quát to lên mà bảo Đốc Nhung rằng:

– Nhà ngươi có phải là Đốc Nhung đó không ? Ta tiếc cho nhà ngươi là một người anh hùng mà lại đi theo đứa phản nghịch! mau mau đầu hàng đi thì còn có thể đổi hoạ làm phúc được!

Đốc Nhung nghe nói nổi giận, truyền cho quân sĩ lấp một khúc hào để sang . Quân sĩ còn đang đội đất vác dá để lấp hào, Đốc Nhung nóng nảy, cầm hai ngọn kích chống thẳng xuống đất, rồi nhảy tót qua bên kia hào . Giải Ung và Giải Túc kinh hãi, cùng cầm giáo đến đánh Đốc Nhung . Đốc Nhung hai ta múa giáo, chạy thẳng đến mà nghênh chiến . Con ngựa kéo xe của Giải Ung bị một đòn kích của Đốc Nhung gãy một xương sống, xe không đi được . Con ngựa kéo xe của Giải Túc thấy vậy liền rí rầm lên, không chịu chạy nữa . Anh em họ Giải nhảy xuống xe để đánh bộ . Bị Đốc Nhung đánh gãy cái giáo, Giải Túc bỏ chạy . Giải Ung hoảng sợ run tay, bị Đốc Nhung đâm cho một kích ngã lăn xuống đất . Đốc Nhung lại đuổi theo Giải Túc . Giải Túc giỏi chạy, bon thẳng đến cửa bắc, leo thành mà vào . Đốc Nhung không đuổi kịp liền quay lại định đâm chết Giải Ung thì quân sĩ nước Tấn đã cứu Giải Ung đem vào cửa rồi . Đốc Nhung tức giận, chống kích xuống đất mà quát to lên rằng:

– Còn ai dám ra đối địch với ta nữa không ?

Trong cửa không ai dám ra cả . Đốc Nhung về dinh, truyền cho quân sĩ sửa soạn để ngày mai lại đánh . Giải Ung bị thương nặng quá, đêm hôm ấy chết . Triệu Vũ thương xót vô cùng . Giải Túc nói:

– Ngày mai, tôi xin ra quyết chiến một trận nữa để báo thù cho anh tôi, dẫu chết cũng thoả lòng!

Tuân Ngô nói với Triệu Vũ rằng:

– Bộ hạ tôi, là lão tướng Mâu Đăng, có hai con là Mâu Cương và Mâu Kính . Hai người ấy đều có sức khoẻ mang nổi nghìn cân, hiện đang ở trong đội thị vệ của chúa công . Tôi xin bảo Mâu Đăng tức khắc gọi hai con đến, để sáng mai cùng ra trận với Giải Túc . Ba người đánh một thì thua làm sao được!

Triệu Vũ nói:

– Nếu vậy thì hay lắm!

Tuân Ngô bảo Mâu Đăng đi gọi hai co . Sáng sớm hôm sau, Mâu Cương và Mâu Kính đều đến cả . Triệu Vũ trông thấy hai người vóc dáng cao lớn, khí thế hùng hổ, liền phủ dụ mấy câu, rồi sai cùng với Giải Túc ra trận . Sáng hôm sau, quân Đốc Nhung đã lấp bằng được một khúc hào, tiến thẳng đến tận dưới cửa để khiêu chiến . Mâu Cương, Mâu Kính và Giải Túc mở cửa mà ra . Đốc Nhuung quát to lên rằng:

– Chúng bay không sợ chết à ?

Ba người không nói năng gì cả, xúm lại đánh Đốc Nhung . Đốc Nhung chẳng sợ hãi chút nào, đang ngồi trên xe, nhảy xô xuống đất, hai tay cầm hai cái kích, múa lên mà đánh . Trục xe của Mâu Cương bị Đốc Nhung đánh gãy . Mâu Cương bất đắc dĩ cũng phải ở trên xe nhảy xuống, lại bị Đốc Nhung đánh một ngọn kích chết ngay . Mâu Kính giận lắm, cố sức xông vào, nhưng không thể được . Mâu Đăng ở trên cửa quan, liền nổi hiệu thu quân, rồi mở cửa cho Mâu Cương và Giải Tú vào . Đốc Nhung truyền cho quân sĩ phá cửa . Trên cửa bắn xuống, tên đạn như mưa, quân sĩ nhiều người bị thương mà Đốc Nhung vẫn không sợ hãi chút nào, thật là một viên dũng tướng! Triệu Vũ và Tuân Ngô thua luôn hai trận, sai người cáo cấp với Phạm Mang . Phạm Mang nói:

– Một mình Đốc Nhung, còn không đánh nổi thì dẹp thế nào được cánh họ Loan .

Đêm hôm ấy, Phạm Mang đốt đèn mà ngồi, nét mặt buồn bã . Có một kẻ gia nô đứng hầu bên cạnh, sụp lạy mà hỏi rằng:

– Quan nguyên soái có ý buồn bã, hay là ngài lo về việc Đốc Nhung ?

Phạm Mang nhìn xem ai thì tức là Phi Báo . Phi Báo nguyên là một thủ hạ của Đồ Ngạn Giả, tên gọi Phi Thành, sau vì việc Đồ Ngạn Giả mà phải tội, bị sung làm nô lệ nhà quan . Phạm Mang nghe Phi Báo nói, lấy làm lạ, liền hỏi Phi Báo rằng:

– Nhà ngươi có kế gì trừ được Đốc Nhung thì ta sẽ trọng thưởng cho .

Phi Báo nói:

– Tôi là một người có tên trong sở tội án, dẫu tài gỉoi đến đâu, cũng không bao giờ tiến thân được . Nếu quan nguyên soái xoá tên tôi ở trong sở tội án đi thi tôi xin giết Đốc Nhung để đền ơn lại .

Phạm Mang nói:

– Nhà ngươi giết được Đốc Nhung thì ta sẽ tâu với chúa công đốt cả sổ tội án đi, mà dùng nhà người làm trung quân nha tướng .

Phi Báo nói:

– Quan nguyên soái chớ nên thất tín!

Phạm Mang thề rằng:

– Nếu ta thất tín thì xin có mặt trời soi xét! nhưng chẳng hay nhà ngươi phải dùng bao nhiêu binh mã ?

Phi Báo nói:

– Khi trước Đốc Nhung còn ở Giáng Đô, có quen với tôi, vẫn cùng tôi đấu vũ . Người ấy tính nóng nảy, chỉ thích đánh nhau độc lực, nếu dùng binh mã thì không thể đánh được . Tôi xin đi một mình, tự khắc có kế bắt được Đốc Nhung .

Phạm Mang nói:

– Hay là nhà ngươi định trốn đi mà không trở lại nữa!

Phi Báo nói:

– Tôi còn có mẹ già, năm nay bảy mươi tám tuổi, còn có con nhỏ, vợ dại, sao tôi lại chịu làm điều bất trung bất hiếu ấy, để phạm tội lần nữa! nếu tôi trái lời thì cũng xin có mặt trời soi xét!

Phạm Mang mừng lắm, cho ăn cơm uống rượu, và thưởng cho một bộ áo giáp . Phi Báo trong mặc áo giáp, ngoài mặc áo nhung, đầu đội mũ cao, chân đi giày cỏ, lưng giắt dao nhọn, tay cầm cái dùi đồng nặng năm mươi hai cân, từ biệt Phạm Mang mà nói rằng:

– Tôi đi chuyến này, giết được Đốc Nhung thì thôi, bằng không thì cũng chết về tay Đốc Nhung, quyết không cùng sống được!

Phạm Mang nói:

– Ta cũng thân hành ra để xem nhà ngươi ra sức .

Phạm Mang truyền thắng xe, rồi cùng với Phi Báo đi đến cửa nam . Triệu Vũ và Tuân Ngô ra tiến kiến Phạm Mang, kể chuyện Đốc Nhung tài giỏi, làm hại mất hai tướng . PHạm Mang nói:

– Ngày nay Phi Báo xin một mình ra trận, chỉ còn mong nhờ vào hồng phúc của chúa công ta .

Phạm Mang nói chưa dứt lời thì Đốc Nhung đã đến khiêu chiến ngoài cửa . Phi Báo đứng trên cửa, gọi Đốc Nhung mà bảo rằng:

– Nhà ngươi có còn nhớ Phi Đại hay không ?

Đốc Nhung nói:

– Nay Phi Đại cũng định liều chết mà ra đó chăng ?

Phi Báo nói:

– Ai sợ nhà ngươi, chứ Phi Báo quyết không sợ! nhà ngươi nên truyền cho quân sĩ lui lại phía sau, rồi hai ta cùng nhau giao chiến, hai tay chọi với hai tay, binh khí chọi với binh khí, thử xem ai sống ai chết, để lưu tiếng anh hùng về mai sau!

Đốc Nhung nói:

– Nhà ngươi nói hợp ý ta lắm!

Đốc Nhung bèn truyền cho quân sĩ lui lại phía sau . Phi Báo mở cửa, ra giao chiến với Đốc Nhung . Hai bên đánh nhau hơn hai mươi hợp, chưa phân thắng phụ . PHi Báo giả cách nói:

– Khoan đã! ta còn dở có một chút việc cần!

Phi Báo trông thấy phía tây có một chỗ tường thấp, liền chạy thẳng vào đấy . Đốc Nhung đuổi theo, quát to lên rằng:

– Chạy đằng nào cho thoát!

Bọn Phạm Mang đứng trên cửa, trông thấy Đốc Nhung đang đuổi Phi Báo, đều sợ toát mồ hôi ra, ai ngờ Phi Báo dụng kế, khi chạy đến chỗ tường thấp, bèn nhảy qua vào phía trong, Đốc Nhung cũng nhảy vào theo, Phi Báo nấp ở dưới cây lớn, chờ khi Đốc Nhung nhảy vào, nhân lúc bất ngờ, cầm cái dùi đồng nặng năm mươi hai cân đánh ngay một cái, trúng vào giữa đầu . Đốc Nhung vỡ óc ngã ngay xuống đất, mà còn giơ chân phải đá vào ngực Phi Báo, bật mất một mảnh áo giáp . Phi Báo rút lưỡi dao nhọn, cắt lấy đầu Đốc Nhung, rồi lại nhảy qua tường ra . Trên cửa mọi người thấy Phi Báo tay xách một cái đầu lâu, đầm đìa những máu, biết là Phi Báo đã giết được Đốc Nhung, liền mở rộng cửa cho Giải Túc và Mâu Cương đem quân ra đuổi đánh . Quân họ Loan thua chạy, một nửa bị giết, một nửa đầu hàng, không mấy người trốn thoát . Phạm Mang rót chén rượu, ngửa mặt lên trời, rưới rượu mà nói rằng:

– Thế này mới thật là nhờ hồng phúc của chúa công ta!

Nói xong, lại rót một chén rượu nữa thưởng cho Phi Báo, rồi đưa Phi Báo vào yết kiến Tấn Bình công . Tấn Bình công ghi công Phi Báo vào bậc thứ nhất .

Trước đó, Loan Doanh đem quân đánh cửa bắc, liên tiếp được tin thắng trận của Đốc Nhung, mới bảo các tướng sĩ rằng:

– Nếu ta có hai Đốc Nhung thì Cố Cung này có gì mà không phá vỡ nổi!

Thực Xước nghe nói, lấy chân giẫm vào chân Quách Tối, Quách Tối cũng đưa mắt để đáp lại, hai người đều cúi đầu, chẳng nói câu gì . Loan Nhạc và Loan Phường muốn lập công trạng, cố xông pha tên đạn để đánh cửa bắc . Hàn Vô Kỵ và Hàn Khởi nhân thấy cửa nam thua luôn, cũng không dám ra đánh, chỉ giữ thế thủ mà thôi . Đến ngày thứ ba, Loan Doanh tiếp được tin Đốc Nhung bị giết, quân sĩ đều tan mất cả, thì tay chân bủn rủn, không biết làm ra thế nào, mới gọi Thực Xước và Quách Tối để thương nghị . Thực Xước và Quách Tối cười mà nói rằng:

– Đốc Nhung còn bị thua, huống chi là chúng tôi!

Loan Doanh ứa nước mắt hồi lâu . Loan Nhạc nói:

– Chúng ta nên liều chết cố đánh . Canh ba đêm hôm nay truyền cho quân sĩ phóng hỏa đốt cửa quan, may ra có thể vào được!

Loan Doanh theo kế ấy, Tấn Bình công thấy Đốc Nhung chết, mở tiệc ăn mừng . Hàn Vô Kỵ và Hàn Khởi cũng đều đến dự tiệc . Khi tiệc vừa tan, Hàn Vô Kỵ và Hàn Khởi trở về cửa bắc, bỗng thấy lửa cháy ngất trời, quân si của Loan Doanh phá cửa tiến vào, Loan Nhạc đi trước, Loan Phường theo sau, chiếm được một lần cửa ngoài . Bọn Hàn Vô Kỵ lui vào giữ lần cửa trong, rồi sai người cáo cấp với Phạm Mang. Phạm Mang sai Nguỵ Thư ra cửa nam, để thay cho Tuân Ngô đem quân đến cửa bắc đánh giúp . Anh em Hàn Vô Kỵ cùng với Tấn Bình công trèo lên trên đài, trông thấy quân Loan Doanh đóng ở lần cửa ngoài im lặng như tờ . Phạm Mang nói:

– Đó tất là có kế! nên truyền cho quân sĩ ra sức phòng giữ .

Đêm hôm ấy, quân Loan Doanh lại phóng hoả đốt cửa quan, nhưng quân Tấn đã phòng bị sẵn, chăng mấy lần da trâu có tẩm nước, lửa không bén được . Phạm Mang nói:

– Giặc đã tiến đến tận nơi, nếu ta để lâu không dẹp được thì quân Tề lại thừa kế sang đánh, thật là nguy cho nước nhà lắm!

NÓi đoạn sai con là Phạm Uởng cùng Phi Báo đem một toán quân, đi qua cửa nam, vòng sang cửa bắc, để đánh mặt ngoài, hẹn đúng thời khắc cho anh em Hàn Vô Kỵ biết, trong khi đó thì Tuân Ngô cùng Mâu Cương đem một toán quân mở cửa quan đán ra, khiến cho quân Loan hai mặt bị đánh, không thể xoay kịp . Lại sai Triệu Vũ và Nguỵ Thư đem quân đóng ở ngoài phía nam để đón đường Loan Doanh khi thua chạy . Phạm Mang truyền bảo đâu đấy, lại rước Tấn Bình công lên đài để đứng xem . Phạm Uởng lúc đi, nói với Phạm Mang rằng:

– Con hãy còn trẻ tuổi, chưa có uy vọng, vậy xin cha cho mượn hiệu cờ của đạo quân trung .

Phạm Mang thuận cho, Phạm Uởng cầm kiếm lên xe, cắm cờ đại bái mà đi ra cửa nam qua; lúc sắp đi, Phạm Uởng bảo thuộc hạ rằng:

– Trận đấu ngày nay, chỉ có tiến chứ không có thoái . Chẳng may mà thua thì ta quyết tự vẫn trước, chứ không thể cho các ngươi chết một mình .

Quân sĩ nghe nói: đều vui lòng xin theo . Tuân Ngô vâng lời Phạm Mang, truyền cho quân sĩ sửa soạn sẵn để đợi lệnh khai chiến . Được một lúc, Tuân Ngô trông thấy quân Loan Doanh rối loạn, lui ra lần cửa ngoài, biết là toán quân của Phạm Uởng đã đến, liền nổi hiệu trống, mở rộng cửa quan . Mâu Cương đi trước, Tuân Ngô theo sau, đem quân ra đánh . Loan Doanh cũng sợ quân Tấn trong ngoài giáp công, đã sai Loan Phường đem xe sắt lấp lần cửa ngoài, chia quân canh giữ .

Toán quân của Tuân Ngô không thể ra được . Khi Phạm Uởng đem quân đến, Loan Doanh trông thấy là cờ đại bái, giật mình kinh sợ mà nói rằng:

– Nguyên soái nước Tấn thân hành đến đây hay sao! bèn sai người đi dò thám, mới biết là toán quân của Phạm Uởng . Loan Nhạc nói:

– Nếu bậy thì không sợ!

Bèn truyền cho quân sĩ giương cung ra bắn . Em Loan Nhạc là Loan Vinh can rằng:

– Quân ta nên hà tiện tên mới được, bắn hão vô ích!

Loan Nhạc mới không bắn nữa . Được một lúc Loan Vinh trông thấy một cái xe ở đằng xa đi tới, trong xe có một viên tướng mũ da áo đũi, hình dung cổ quái, liền trỏ mà bảo Loan Nhạc rằng:

– Người ấy tên gọi Phi Báo, tức là người giết Đốc Nhung của ta đó, nên bắn chết đi!

Loan Nhạc nói:

– Đợi hắn đến gần độ một trăm thước bấy giờ ta sẽ bắn .

Nói chưa dứt lời, lại thấy có một cái xe ở bên đi ngang qua . Loan Nhạc nhìn rõ trong xe có Phạm Uởng, mới nghĩ thầm rằng:

– Ta bắn chết Phạm Uởng, chẳng hơn bắn chết Phi Báo hay sao!

Liền đuổi theo Phạm Uởng mà bắn . Loan Nhạc xưa nay bắn cung, trăm phát trúng cả trăm, chẳng ngờ phát tên ấy lại không trúng . Phạm Uởng ngảnh lại, trông thấy Loan Nhạc, bèn quát to lên rằng:

– Phản tặc! mày gần chết đến nơi, lại còn bắn ta!

Loan Nhạc quay xe lui chạy, không phải là sợ Phạm Uởng, mà nhân phát tên ấy bắn không trúng, muốn dụ hắn đuổi theo đến gần, rồi sẽ bắn phát khác . Thực Xước và Quách Tối trông thấy, sợ Loan Nhạc bắn trúng, thành công mất, mới reo rầm lên rằng:

– Quân họ Loan thua rồi!

Người dong xe nghe tiếng kêu, lại ngỡ là toán quân khác bị thua, ngẩng đầu trông thấy bốn mặt, cầm cương không vững, ngựa lồng chạy quanh, bánh xe va phải cây hoè ở bên đường, làm xe đổ . Loan Nhạc ngã lăn xuống đất, vừa gặp Phi Báo đi đến, tức khắc đâm chết Loan Nhạc .

Loan Vinh sợ hãi, vội vàng bỏ chạy . Thực Xước và Qúach Tối cũng không dám trở về nước Tề . Thực Xước chạy sang nước Vệ, Quách Tối chạy sang nước Tần . Loan Doanh nghe tin Loan Nhạc chết, vật mình lăn khóc, quân sĩ đều có lòng thương xót . Loan Phường cùng với Loan Doanh chạy về phía nam . Tuân Ngô và Phạm Uởng họp quân đuổi theo . Loan Phường liều chết cố đánh một trận, quân Tấn mới chịu lui về . Loan Doanh và Loan Phường đều bị trọng thương, đi được một quãng đường, lại gặp toán quân của Nguỵ Thư . Loan Doanh ứa nước mắt mà bảo Ngụy Thư rằng:

– Tướng quân không nhớ năm xưa cùng ở với tôi ở hạ quân hay sao ? Nay tôi đành phận chết, nhưng không đáng chết vào tay tướng quân .

Nguỵ Thư trong lòng bất nhẫn, liền tránh cho Loan Doanh đi . Loan Doanh và Loan Phường chạy về Khúc Ốc . Được một lúc, Triệu Vũ đến, hỏi Ngụy Thư rằng:

– Loan Doanh đi qua, sao không đuổi theo mà bắt lấy ?

Ngụy Thư nói:

– Kẻ kia như con cá trong hũ, đã có nhà bếp làm thịt . Tôi nghĩ đến cái tình của tiên nhân tôi ngày xưa, không nỡ cầm dao mà giết .

Triệu Vũ nghe nói, cũng động lòng thương, không đuổi theo nữa . Phạm Mang biết là Loan Doanh đã chạy qua mà Ngụy Thư tha cho đi, nhưng làm ngơ không nói đến, liền bảo Phạm Uởng rằng:

– Quân của Loan Doanh đều là người Khúc Ốc . Kẻ kia vây cánh đã hết cả, nhà người chỉ đem một toán quân vây Khúc Ốc thì tự khắc dẹp xong .

Tuân Ngô cũng xin theo đi . Phạm Mang thuận cho Phạm Uởng và Tuân Ngô đem quân vây Khúc Ốc . Phạm Mang lại mời Tấn Bình công trở về cung cũ, rồi đem sổ tội án đốt bỏ đi, thành ra vì một Phi Báo mà cả thảy hơn hai mươi nhà cùng được khỏi tội . PHạm Mang lại xin cho Phi Báo làm trung quân nha tướng .

Tề Trang công từ khi giúp quân cho Loan Doanh trở về nước Tấn, cũng sửa soạn quân mã, cho Vương Tôn Huy làm đại tướng, Thân Tiên Ngu là phó tướng, Châu Xước và Hình Khoái làm tiên phong, Án Ly làm hợp hậu, còn bọn Giả Cử thì cho đi hộ giá, chọn ngày cất quân sang đánh nước Vệ . Người nước Vệ cố giữ không dám ra đánh . Quân Tề kéo thẳng qua đất Đế Khâu sang địa giới nước Tấn, đánh lấy đất Triều Ca . Tề Trang công lên núi Triêu Dương để khao quân, rồi chia quân làm hai đạo: Vương Tôn Huy đi về phía tả, qua ải Mạnh Môn; Tề Trang công cùng hai đạo long tước và hổ tước đi về phía hữu, qua Cơ Sơn . Hai đạo hẹn nhau cùng kéo đến núi Thái Hàng thì hợp làm một .

Khi Tề Trang công đi đến Côn Sơn, Hình Khóai ngủ đêm giữa trời dưới chân núi, bị con rắn độc cắn, sưng bụng lên mà chết . Tề Trang công thương tiếc vô cùng . Khi hai đạo quân đến núi Thái Hàng, Tề Trang công trèo lên đỉnh núi, nom về Giáng Đô (kinh thành nước Tấn) để nghĩ kế đánh Tấn; bỗn nghe Loan Doanh đã thua chạy về Khúc Ốc, đại binh nước Tấn đuổi theo, cũng sắp đến nơi, liền thở dài mà nói rằng:

– Nếu vậy thì hỏng việc rồi, còn làm gì được nữa!

Nói xong, truyền rút quân về . Quan trấn thủ đất Hàm Đan là Triệu Thắng (con Triệu Chiên) đem quân đuổi theo . Tề Trang công tưởng là đại binh nước Tấn, vội vàng bỏ chạy chỉ để Án Ly ở lại sau đối địch . Án Ly thua trận, bị Triệu Thắng chém chết .

Phạm Uởng và Tuân Ngô vây thành Khúc Ốc hơn một tháng, bọn Loan Doanh đánh lại không nổi, trong thành chết mất quá nửa, đành chịu tan vỡ . Tư Ngọ rút gươm đâm cổ mà chết . Loan Doanh và Loan Vinh đều bị bắt cả . Loan Doanh than rằng:

– Tiếc thay, ta không nghe lời Tân Du, đến nổi thế này!

Tuân Ngô muốn giam Loan Doanh để giải về Giáng Đô . Phạm Uởng bảo Tuân Ngô rằng:

– Chúa công ta không quyết đoán, vạn nhất hắn kêu van mà lại tha ra thì kẻ thù của ta bao giờ trừ được!

Đêm hôm ấy, Phạm Uởng mật sai người thắt cổ Loan Doanh giết đi, lại giết cả Loan Vinh nữa . Bao nhiêu người họ Loan đều đem giết sạch cả, chỉ có Loan Phường trèo qua thành trốn sang nước Tống được . Bọn Phạm Uởng rút quân về, Tấn Bình công đem việc họ Loan bá cáo cho các nước biết . Nhiều nước, sai người đến chúc mừng . Phạm Mang xin cáo lão về nghỉ . Tấn Bình công cho Triệu Vũ thay cầm quyền chính .

Tề Trang công chưa đánh được nước Tấn vẫn còn căm tức, khi về đến địa giới nước Tề, không chịu vào vội mà bảo tướng sĩ rằng:

– Trận Bình Âm ngày trước, phải báo lại mới được!

Bèn đóng đồn ở ngoài thành để kiểm duyệt quân mã . Bọn Châu Xước và Giả Cử được thưởng mỗi người năm cỗ xe, gọi la ngũ thặng tân .

Giả Cử khen hai người ở Lâm Tri là Hoa Chu và Kỷ Lương là dũng sĩ, Tề Trang công tức khắc cho đi triệu Hoa Chu và Kỷ Lương . Hai người vào yết kiến . Tề Trang công cho hai người chung nhau một cỗ xe, để đi theo quân mà lập công . Hoa Chu lui về, giận lắm không ăn cơm mà bảo Kỷ Lương rằng:

– Chúa công đặt ra ngũ thặng tân là để đãi người vũ dũng, nay thấy chúng ta là dũng sĩ triệu ta đến, cho chúng ta hai người chung nhau một cỗ xe có phải là biết dùng ta đâu, chẳng qua chỉ là làm nhục ta đó thôi, chi bằng ta từ chối mà đi phương khác .

Kỷ Lương về hỏi mẹ . Mẹ nói:

– Mày sống mà vô nghĩa, chết mà vô danh thì dẫu được dự vao ngũ thặng tân, người ta cũng cười cho . Mày nên phải cố gắng, chớ có trái mệnh vua .

Kỷ Lương đem lời nói của mẹ, thuật lại cho Hoa Chu nghe . Hoa Chu nói:

– Người đàn bà còn không quên mệnh vua, huống chi là ta .

Bèn cùng với Kỷ Lương ngồi chung một xe theo hầu Tề Trang công . Tề Trang công nghỉ trong ba ngày, rồi để Vương Tôn Huy đóng quân ở lại, còn mình thì đem đại binh đi đánh nước Cử . Hoa Chu và Kỷ Lương cùng xin đi tiền đội . Tề Trang công hỏi rằng:

– Hai ngươi muốn dùng bao nhiêu giáp binh ?

Hoa Chu và Kỷ Lương nói:

– Chúa công cho hai chúng tôi chung nhau một cỗ xe, cũng đã đủ rồi, chúng tôi xin đi trước .

Tề Trang công muốn thử tài hai người bèn cười mà cho đi . Hoa Chu và Kỷ Lương thay đổi nhau cầm cương xe . Khi sắp đi, hai người phàn nàn rằng:

– Giá được một người nữa làm xa hữu thì có thể đương nổi một đội!

Một người lính trẻ tuổi chạy đến nói rằng:

– Tôi muốn xin theo hai tướng quân, chẳng hay hai tướng quân có thuận cho hay không ?

Hoa Chu hỏi họ tên . Người lính trẻ tuổi ấy nói:

– Tôi là người bản quốc, tên gọi Thấp Hầu Trọng vì mến lòng nghĩa dũng của hai tướng quân, cho nên muốn theo .

Ba người cùng ngồi một xe, thẳng đường tiến sang nước Cử . Ngày hôm sau, vua nước Cử là Lê Tị công biết quân Tề sắp đến, thân hành đem ba trăm giáp sĩ ra đi tuần, gặp xe Hoa Chu và Kỷ Lương, toan bắt lại hỏi . Hoa Chu và Kỷ Lương trừng mắt quát to lên rằng:

– Hai ta là tướng nước Tề, có ai dám cùng ta quyết chiến hay không ?

Lê Tị công kinh hãi, nhưng trông thấy, không có quân tiếp ứng, mới truyền cho quân sĩ vây kín lại . Hoa Chu và Kỷ Lương bảo Thấp Hầu Trọng rằng:

– Nhà ngươi cứ đánh trống luôn cho ta!

Hai người nói xong, mỗi người cầm một cái kích, xuống xe xông vào đánh quân nước Cử . Ba trăm quân giáp sĩ nước Cử chết đến một nửa . Lê Tị công nói:

– Ta đã biết dũng lực của hai tướng quân rồi, hai tướng quân chớ nên tử chiến, ta xin cùng với hai tướng quân chia nhau nước Cử .

Hoa Chu và Kỷ Lương đồng thanh đáp rằng:

– Nếu bỏ nước mà theo giặc thì sao gọi là trung ? đã phụng mệnh vua mà không hết lòng thì sao gọi là tín ? tôi chỉ biết xông vào mà giết cho nhiều là chức phận làm tướng; còn cái lợi nước Cử, tôi nào dám nghĩ đến!

Hai người lại cầm kích tiến đánh . Lê Tị công không thể đương nổi, vội vàng bỏ chạy . Đại binh của Tề Trang công đến nơi, nghe nói Hoa Chu và Kỷ Lương thắng được quân Cử, thì sai sứ đi triệu đến mà bảo rằng:

– Ta đã biết tài của hai tướng quân rồi, hai tướng quân bất tất phải tiến đánh nữa, ta xin cùng với hai tướng quân chia nhau nước Tề .

Hoa Chu và Kỷ Lương đồng thanh đáp rằng:

– Chúa công đặt ra ngũ thặng tân mà tôi không được dự, thế là bỉ cái tài của tôi; nay lại lấy lợi mà dụ, thế là khinh cái bụng của tôi . Tôi chỉ biết xông vào mà giết cho nhiều là chức phận làm tướng; còn cái lợi nước Tề, tôi nào dám nghĩ đến !

Hai người liền chắp tay vái sứ giả rồi lại thẳng đường tiến vào cửa thành nước Cử . Lê Tị công sai người đào sẵn một cái rãnh chặn ngang đường rồi đốt than ở dưới, lửa cháy ngùn ngụt . Hoa Chu và Kỷ Lương không thể qua được . Thấp Hầu Trọng nói:

– Người ta dám liều chết thì mới được tiếng về sau . Tôi có thể giúp hai tướng quân qua rãnh được!

Thấp Hầu Trọng bèn cắp cái một nằm đè lên trên đống than lửa để cho Hoa Chua và Kỷ Lương giẫm mà đi qua . Hoa Chu và Kỷ Lương bước qua được cái rãnh, ngoảnh lại thì thấy người Thấp Hầu Trọng đã cháy sém cả rồi! Hoa Chu và Kỷ Lương đứng nhìn mà khóc . Được một lúc, Kỷ Lương gạt nước mắt, Hoa Chu còn khóc chưa thôi . Kỷ Lương nói:

– Nhà ngươi sợ chết hay sao! làm sao mà khóc lâu như thế ?

Hoa Chu nói:

– Nào có phải ta sợ chết đâu! chỉ tiếc thay cho người này cũng vũ dũng như ta, mà lại chết trước ta, nên ta thương lắm!

Lê Tị công thấy Hoa Chu và Kỷ Lương đã qua được cái rãnh than lửa, vộivàng truyền cho quân sĩ phục sẵn ở bên cửa thành đợi khi hai người gần đến thì bắn . Hoa Chu và Kỷ Lương tiến thẳng đến cửa . Quân sĩ hai bên bắn ra như mưa . Hoa Chu và Kỷ Lương đến nơi, lại giết chết được hai mươi bảy người nữa . Quân sĩ ở trên mặt thành cùng chõ xuống mà bắn . Kỷ Lương bị thương nặng mà chết . Hoa Chu bị mấy mươi mũi tên không thể đánh được nửa, chịu cho ngươi nước Cử bắt, nhưng chưa tắt hơi . Lê Tị công sai đem vào thành .

Tề Trang công tiếp được tin của sứ giả, biết là Hoa Chu và Kỷ Lương có lòng quyết tử, liền dẫn đại binh tiến theo . Khi đến cửa thành nước Cử, nghe nói ba người đều chết cả, tức thì nổi giận, toan thúc quân tiến đánh . Lê Tị công sai sứ đến tạ tội rằng:

– Chúa công tôi chỉ thấy một cái xe vào cõi, không biết là đại quốc sai đến, vậy nên trót lầm lỡ mà xâm phạm . Vả đại quốc chết có ba người mà nước tôi bị giết đã hơn trăm người rồi; ba người kia cố ý xông vào chỗ chết, chứ không phải nước tôi dám gây việc binh đao, chúa công tôi sợ uy đại quốc sai tôi đến đây tạ tội, từ nay trở đi, xin một lòng triều cống nước Tề, không dám sai lời .

Tề Trang công còn chưa nguôi cơn giận, không thuận cho giảng hoà . Lê Tị công lại sai sứ ra cố nài, xin đưa Hoa Chu và thi thể Kỷ Lương sang trả, lại xin đem vàng, lụa sang khao thưởng quân sĩ . Tề Trang công còn chưa thuận cho, bỗng tiếp được tin cấp báo của Vương Tôn Huy, nói:

– Vua Tấn cùng với vua các nước Tống, Lỗ, Vệ, Trịnh hội nhau ở đất Di Nghi, để bàn mưu đánh Tề, xin mời chúa công mau mau rút quân về .

Tề Trang công mới cho nước Cử giảng hoà . Lê Tị công đem vàng lụa sang khao thưởng quân nước Tề, lại đưa Hoa Chu và thi thể Kỷ Lương sang trả . Còn thi thể Thấp Hầu Trọng ở trong đống lửa đã hoá ra tro rồi, không còn gì nữa . Ngay ngày hôm ấy Tề Trang công truyền rút quân về, sai đem thi thể Kỷ Lương quàn ở ngoài cõi nước Tề . Khi về đến kinh thành gặp vợ Kỷ Lương là nàng Mạnh Khương ra đón thi thể chồng ở ngoài cõi . Tề Trang công dừng xe, sai xứ đến viếng . Nàng Mạnh Khương nói với sứ giả rằng:

– Chồng thiếp mà có tội thì không dám nhận lời viếng của chúa công; nhược bằng vô tội thì chồng thiếp cũng còn chỗ viếng ta, thiếp không dám nhận .

Tề Tràng công có ý thẹn nói rằng:

– Đó là điều lỗi của ta!

Bèn sai người làm bài vị ở nhà Kỷ Lương mà đến viếng . Nàng Mạnh Khương rước linh cữu chồng để đem chôn ở ngoài thành, ngủ giữa trời ba đêm, ôm linh cữu mà khóc, đến nỗi hết cả nước mắt, chảy máu tươi ra . Bỗng thành nuớc Tề sụt lở mất mấy thước, người ta bảo rằng đó là vì nàng Mạnh Khương khóc lóc thảm thiết, nỗi tình thành của nàng cảm động đến trời đất như vậy .

Hoa Chu về đến nước Tề, vết đau nặng quá, chưa được bao lâu cũng chết . Vợ Hoa Chu khóc chồng cũng bội phần thảm thiết .

Năm ấy nước lên to lắm, sông Hoàng Hà đầy tràn, mặt đất nước sâu hơn thước . Tấn Bình công lại thôi không dám đánh Tề nữa .

Quan hữu khanh nước Tề là Thôi Trữ, ghét Tề Trang công dâm loạn, vẫn muốn đợi quân Tấn đến đánh để thừa cơ khởi sự, đã cùng với quan tả khanh là Khánh Phong thương nghị , định khi nào thành việc, sẽ chia đôi nước Tề . Sau nghe tin Tấn Bình công vì nước lụt mà hoãn việc đánh Tề , thì Thôi Trữ rất là thất vọng . Bấy giờ Tề Trang công có một người nội thị tên gọi Giả Thụ, vì một việc nhỏ mà bị Tề Trang công đánh một trăm roi . Thôi Trữ biết là Giả Thụ oán giận, liền đút tiền cho, để kết làm tâm phúc, phàm Tề Trang công làm việc gì thì Giả Thụ đều đến báo cho Thôi Trữ biết cả.

Chương 65: Giết Tề Quang, Thôi, Khánh cướp quyền – Rước Vệ Khản, Ninh Hỉ chuyên chính

Vua nước Cử là Lê Tị công nhân vì giảng hoà với nước Tề, năm ấy thân hành ang Lâm Tri (kinh thành nước Tề) để triều cống . Tề Trang công mừng lắm bày tiệc ở Bắc Bỉ để thiết đãi Lê Tị công . Phủ đệ của Thôi Trữ cũng ở Bắc Bỉ . Thôi Trữ định thừa cơ giết Tề Trang công, mới giả cách cáo ốm, không đến dự tiệc, rồi mật sai người tâm phúc đến hỏi tin Giả Thụ . Giả Thụ mật báo rằng:

– Chúa công định tiệc xong thì đến thăm quan tướng quốc .

Thôi Trữ cười mà nói rằng:

– Chúa công có nghĩ đến bệnh của ta, ta có bệnh thì chúa công càng lợi . Chẳng quan chỉ muốn đến để làm việc vô sĩ đó thôi!

Thôi Trữ lại bảo vợ là nàng Đường Khương rằng:

– Ngày nay ta muốn trừ bỏ đứa hôn quân vô đạo ấy đi, nàng chịu theo kế ta thì ta sẽ không nói đến sự xấu của nàng nữa, ngày sau lại lập con nàng làm đích tử . Nếu nàng không theo lời nói của ta thì ta chém đầu mẹ con nàng trước .

Nàng Đường Khương nói:

– Vợ thì phải theo chồng . Phu quân bảo gì mà thiếp chẳng nghe!

Thôi Trữ sai Đường Vô Cữu phục quân ở hai bên cạnh nhà, Thôi Thành và Thôi Cương phục quân ở bên trong cửa, Đông Quách Yển phục quân ở bên ngoài cửa, hẹn nhau đến bấy giờ thì rung chuông làm hiệu; lại sai người mật báo cho Giả Thụ biết . Tề Trang công say mê nàng Đường Khương, quên ăn quên ngủ, không lúc nào không nghĩ đến, chỉ vì Thôi Trữ phòng giữ nghiêm mật, nên không dám thường thường đi lại . Hôm ấy nghe nói Thôi Trữ cáo ốm, thì lấy làm may lắm, thần hồn vơ vẩn bay đến với nàng Đườn Khương trong khi ngự yến với Lê Tị công, nên chỉ thù tiếp qua loa cho xong việc, rồi đi thẳng đến nhà Thôi Trữ để thăm bệnh . Người canh cửa nhà Thôi Trữ nói dối rằng:

– Quan tướng quốc tôi đau nặng quá, hiện vừa uống thuốc xong, mới đi nằm .

Tề Trang công hỏi:

– Nằm ở chỗ nào ?

Người canh cửa nói:

– Nằm ở nhà ngoài .

Tề Trang công mừng lắm, đi thẳng vào nhà trong . Bấy giờ Châu Xước, Giả Tử, công tôn Ngao và Lũ Nhân đi theo hầu . Giả Thụ bảo rằng:

– Chúa công đến đây làm gì, hẳng các ngươi đã biết, sao không đứng cả ở bên ngoài, theo vào làm gì để kinh động quan tướng quốc .

Bọn Châu Xước khen phải, liền đứng cả ở ngoài cửa . Chỉ có Giả Cử không chịu ra ngoài mà nói rằng:

– Một mình ta ở đây thì phỏng có hại gì!

Nói xong liền đứng ở nhà giữa . Giả Thụ đóng cửa giữa, rồi đi trở vào . Người canh cửa cũng đóng cửa lớn ở ngoài mà khóa chặt lại . Tề Trang công vào đến nội thất, nàng Đường Khương trang điểm rất lịch sự ra đón, nhưng chưa kịp nói một câu nào thì có thị tỳ chạy đến bảo:

– Quan tướng quốc kêu khô miệng, muốn uống nước ngọt .

Đường Khương nói với Tề Trang công rằng:

– Thiếp đi lấy nước ngọt đã, rồi sẽ đến ngay .

Đường Khương theo thị tỳ rón rén qua cửa ngang mà đi . Tề Trang công tựa bao lan đứng đợi, mãi không thấy Đường Khương ra, bỗng nghe dưới nhà có tiếng gươm giáo . Tề Trang công ngạc nhiên nói:

– Quái lạ, ở đây lại có quân sĩ hay sao!

Nói xong liền gọi Giả Thụ, không thấy Giả Thụ thưa . Được một lúc quân sĩ hai bên đổ ra . Tề Trang công kinh hãi, biết là có biến, vội vàng chạy ra cửa sau thì cửa sau đã đóng chặt rồi, Tề Trang công sức khoẻ, phá cửa mà ra, trèo lên trên một cái lầu . Đường Vô Cữu đem quân giáp sĩ vây lầu, quát to lên rằng:

– Ta phụng mệnh quan tướng quốc đến bắt dâm tặc!

Tề Trang công đứng trên lầu bảo Đường Vô Cữu rằng:

– Ta là vua nhà ngươi, nhà ngươi tha cho ta!

Đường Vô Cữu nói:

– Quan tướng quốc truyền như vậy, ta không dám trái lệnh .

Tề Trang công nói:

– Quan tướng quốc ở đâu ? ta xin thề rằng ta không làm hại gì quan tướng quốc cả !

Đường Vô Cữu nói:

– Quan tướng quốc ốm, không thể đến đây được!

Tề Trang công nói:

– Ta biết tội của ta rồi! nhà ngươi khoan cho ta được vào nhà thái miếu tự tử để tạ tội với quan tướng quốc, phỏng có nên chăng ?

Đường Vô Cữu nói:

– Chúng ta chỉ biết bắt đứa dâm tặc, chứ không biết vua là ai cả; thôi thì liệu mà tự tử ngay đi, chớ để phải chịu nhục!

Tề Trang công bất đắc dĩ phải nhảy ra cửa sổ, trèo lên hoa đài toan leo tường để chạy . Đường Vô Cữu giương cung bắn theo, trúng ngay vào đùi bên tả . Tề Trang công từ trên tường cao ngã lăn xuống đất . Quân giáp sĩ kéo đến, đâm chết Tề Trang công . Đường Vô Cữu sai người rung mấy tiếng chuông làm hiệu . Bấy giờ trời đã mờ tối, Giả Cử ở nhà giữa, lắng tai nghe thấy mấy tiếng chuông, lại thấy Giả Thụ tay cầm đèn mở cửa đi ra mà nói rằng:

– Trong nhà có giặc, chúa công sai triệu nhà ngươi, nhà ngươi vào trước đi để ta còn ra báo với bọn Châu Xước .

Giả Cử nói:

– Đưa đèn cho ta!

Giả Thụ đưa đèn cho Giả Cử, giả cách buột tay để rơi xuống đất . Đèn tắt . Giả Cử cầm kiếm đi rờ mà vào . Vào đến cửa giữa, vướng dây ngã xuống đất . Thôi Cương ở bên cửa chạy ra, giết chết Giả Cử . Bọn Châu Xước ở ngoài cửa, không biết chuyện gì cả, Đông Quách Yển giả cách thân tình, mời sang một cái nhà bên thắp đèn uống rượu cho vui; lại cho cả các người theo hầu đều được ngồi vào tiệc . Đang vui chén, bỗng nghe thấy trong nhà Thôi Trữ có tiếng chuông rung . Đông Quách Yển nói:

– Chắc bây giờ chúa công ta đang uống rượu!

Châu Xước nói:

– Vậy chúa công ta không e quan tướng quốc à ?

Đông Quách Yển nói:

– Quan tướng quốc ốm nặng, còn phải e gì nữa!

Được một lúc, lại nghe có tiếng chuông rung . Đông Quách Yển nói:

– Để tôi vào xem có việc gì ?

Đông Quách Yển vừa đi khỏi thì quân giáp sẽ đổ ra . Bọn Châu Xước vội vàng tìm gươm thì Đông Quách Yển đã sai người lấy trộm mất từ bao giờ rồi! Châu Xước giận lắm, trông thấy trước cửa có viên đá, liền vác lấy để đánh; chẳng ngờ Lũ Nhân vừa đi đến nơi, Châu Xước đánh lầm phải, Lũ Nhân gãy một chân . Châu Xước sợ hãi bỏ chạy . Công tôn Ngao nhổ cái cọc buộc ngựa mà múa . Quân giáp sĩ nhiều người bị thương . Mọi người cầm đuốc xông vào công tôn Ngao cháy hết cả râu tóc .

Bấy giờ cừa lớn bỗng thấy mở toang, Thôi Thành và Thôi Cương lại đem quân giáp sĩ từ trong kéo ra . Công tôn Ngao giơ tay bóp gãy cánh tay của Thôi Thành . Thôi Cương cầm kích đâm chết công tôn Ngao, lại giết chết cả Lũ Nhân nữa . Châu Xước cướp được cái kich của quân giáp sĩ, quay lại để đánh . Đông Quách Yển quát to lên rằng:

– Hôn quân dâm loạn đã bị giết rồi! không can dự gì đến các ngươi cả, sao các ngươi chẳng biết lưu cái thân lại, để mà thờ vua mới ?

Châu Xước ném cái kích xuống đất mà nói rằng:

– Ta là một người đi trốn, chịu ơn của vua Tề, nay đã không cứu được vua Tề, lại làm hại Lũ Nhân, chẳng qua cũng là tại trời! ta nên liều mình báo ơn vua Tề, chứ nỡ nào tham sống để mua tiếng cười ở nước Tề và nước Tấn hay sao!

Nói xong, liền đập đầu vào tường đá . Ba bốn viên đá vỡ tung ra; đầu Châu Xước cũng vỡ . Bính Sư nghe tin Tề Trang công chết, cũng tự đâm cổ ở ngoài triều, Phong Cụ thắt cổ ở ngoài nhà . Đạc Phủ và Trương Doãn rủ nhau đến khóc Tề Trang công, đi đến nửa đường, nghe tin bọn Giả Cử chết cả, cũng đều tự sát . Vương Hà rủ Lư Bồ Quí cùng chết, Lư Bồ Quí nói:

– Chết cũng vô ích! chi bằng ta trốn đi, rồi sau sẽ liệu, may ra có một người nào phục quốc được thì ta lại tiến dẫn cho nhau .

Vương Hà nói:

– Nếu vậy thì ta cùng thề .

Thề xong, Vương Hà bỏ trốn sang nước Cử . Lư Bồ Quí sắp đi, bảo em là Lư Bồ Miết rằng:

– Chúa công đặt ra dũng tước là cần để có người hộ giá; nay ta vì chúa công mà chết, cũng không ích gì cả . Ta đi rồi, nhà ngươi cố cầu cạnh vào làm tôi Thôi Trữ và Khánh Phong để xin cho ta về, ta sẽ nhân đó mà báo thù cho chúa công, như thế thì dẫu chết cũng không uổng .

Lư Bồ Miết nhận lời . Lư Bồ Qúi liền trốn sang nước Tấn . Lư Bồ Miết xin vào làm tôi Khánh Phong . Khánh Phong dùng làm gia thần . Thân Tiên Ngu trốn sang nước Sở, sau làm quan hữu doãn ở nước Sở . Bấy giờ các quan đại phu nước Tề, nghe tin Thôi Trữ nổi loạn, đều đóng cửa đợi tin, không ai dám đến cả, chỉ có Án Anh đến thẳng tận nhà Thôi Trữ, gối đầu vào đùi Tề Trang công mà khóc . Khi Án Anh trở ra, Đường Vô Cữu bảo Thôi Trữ rằng:

– Tất phải giết Án Anh đi thì mới tránh khỏi lời phỉ báng của mọi người!

Thôi Trữ nói:

– Án Anh vốn có tiếng là người giỏi, nếu ta giết đi thì sợ mất lòng người trong nước .

Án Anh đến bảo Trần Tu Vô (cháu tằng tôn Trần Kính Trọng) rằng:

– Sao nhà ngươi không bàn lập vua mới ?

Trần Tu Vô nói:

– Thế thần nước Tề ta thì có họ Cao, họ Quốc, mà cầm quyền chính ngày nay thì có họ Thôi, họ Khánh, chứ tôi làm gì nổi !

Án Anh về, Trần Tu Vô nói:

– Loạn tặc ở trong triều, ta không nên cùng hắn đồng sự .

Nói xong, liền bỏ sang nước Tống . Án Anh lại đến nói với Cao Chỉ và Quốc Hạ . Cao Chỉ và Quốc Hạ đều nói:

– Việc ấy quyền ở họ Thôi và họ Khánh, tôi làm gì nổi!

Án Anh thở dài mà về . Khánh Phong sai con là Khánh Xá đi bắt vây cánh của Tề Trang công, đuổi giết gần hết, rồi đem xe đón Thôi Trữ vào triều . Thôi Trữ sai người triệu họ Cao và họ Quốc đến để bàn lập vua mới . Họ Cao và họ Quốc nhường quyền cho Thôi Trữ và Khánh Phong . Khánh Pong lại nhường quyền cho Thôi Trữ . Thôi Trữ nói:

– Con vua Linh Công là công tử Chử Cữu, năm nay đã lớn tuổi . Người mẹ là con gái quan đại phu nước Lỗ tên gọi Thúc Tôn Kiều Như . Lập người ấy thì nước ta có thể giao hiếu với nước Lỗ .

Triều thần đều vâng dạ xin theo . Thôi Trữ lập công tử Chử Cữu, tức là Tề Cảnh công . Bấy giờ Tề Cảnh công hãy còn nhỏ . Thôi Trữ tự lập làm hữu tướng, lại lập Khánh Phong làm tả tướng; cùng với triều thần thề ở nhà thái miếu rằng:

– Các ngươi, hễ ai không cùng lòng với họ Thôi và họ Khánh thì đã có mặt trời soi xét!

Thôi Trữ thề xong đến Khánh Phong, rồi đến họ Cao và họ Quốc . Đến lượt Án Anh, Án Anh ngửa mặt lên trời mà thề rằng:

– Nếu các ngươi biết tận trung với vua để làm lợi cho nước mà tôi không cùng lòng thì đã có trời sôi xét!

Thôi Trữ và Khánh Phong đều biến sắc . Cao Chỉ và Quốc Hạ nói:

– Việc hai tướng quốc làm ngày nay, chính là việc trung vua lợi nước!

Thôi Trữ và Khánh Phong mới bằng lòng . Bấy giờ vua nước Cử là Lê Tị hãy còn ở nước Tề . Thôi Trữ và Khánh Phong phụng Tề Cảnh công hội thề với Lê Tị côg . Lê Tị công trở về nước Cử . Thôi Trữ sai Đường Vô Cữu đem thi thể bọn Châu Xước và Tề Trang công cùng chôn ở Bắc Quách, giảm bớt nghi lễ, không cho giáp binh đi hộ tang, nói rằng sợ lại loạn ở dưới âm phủ! Thôi Trữ truyền cho quan thái sử Bá vào chép sử là Tề Trang công bị bệnh sốt rét mà chết . Quan thái sử Bá không nghe, chép vào thẻ rằng:

– “Ngày ất hợi, tháng 5, mùa hạ, Thôi Trữ giết vua là Quang” .

Thôi Trữ nổi giận, giết thái sử Bá . Thái sử Bá có ba người em là Trọng, Thúc, Quí . Trọng lại chép như trước . Thôi Trữ lại giết đi . Thúc cũng chép thế . Thôi Trữ lại giế . Quí lại chép như vậy . Thôi Trữ cầm lấy cái thẻ mà bảo Qúi rằng:

– Ba anh mày đều chết cả, còn mày không sợ chết à ? Nếu mày chịu chép khác đi thì ta tha chết cho .

Quí nói:

– Chép đúng sự thực là chức phận của người làm sử, nếu trái chức phận mà sống thì chẳng thà chết còn hơn! ngày xưa Triệu Xuyên giết Tấn Linh công, quan thái sử là Đổng Hổ cho rằng Triệu Thuẫn là chính khanh mà không biết trị tội qân giặc, bèn chép rằng: “Triệu Thuẫn giết vua là Di Cao” thế mà Triệu Thuẫn không lấy làm quái . Thế thì biết chức phận của người làm sử không thể bỏ được! nếu tôi không chép, trong thiên hạ tất cũng có người khác chép! tôi không chép cũng không có thể che được sự xấu của quan tướng quốc, mà lại để cho thức giả chê cười, nên tôi liều chết mà chép, xin tướng quốc cứ tuỳ ý định đọat!

Thôi Trữ thở dài mà nói rằng:

– Ta sợ nước nhà nghiêng đổ, bất đắc dĩ mà phải làm việc này! nhà ngươi dẫu chép thẳng, thiên hạ cũng xét tấm lòng cho ta!

Nói xong, liền ném cái thẻ đưa trả Quí . Quí cầm cái thẻ đi ra, sắp đến cửa sử quán, lại gặp Nam Sử Thị, Quí hỏi đi đâu, Nam Sử Thị nói:

– Ta nghe nói anh em nhà ngươi đều chết cả, sợ bỏ mất cái việc ngày ất hợi, tháng 5, mùa hạ mới rồi, vậy nên ta cầm thẻ đến để chép .

Quí đưa cái thẻ của mình chép cho Nam Sử Thị xem . Nam Sử Thị mới cáo từ mà về .

Thôi Trữ lấy việc thái sử Quí chép thẻ làm xấy hổ, mới đổ tội cho Giả Thụ mà giết đi .

Cũng trong tháng ấy, Tấn Bình công thấy nước sông đã rút xuống, lại họp chư hầu ở Di Nghi, để bàn mưu đánh Tề . Thôi Trữ sai quan tả tướng là Khánh Phong đem việc Tề Trang công bị giết mà cáo với quân Tấn và nói rằng:

– Triều thần chúng tôi sợ đại quốc hỏi tội thì nguy cho xã tắc chúng tôi, cho nên đã thay đại quốc mà trừ kẻ có tội và đã lập vua mới là Chử Cữu . Từ nay xin một lòng thần phục đại quốc . Khi trước đại quốc đã chiếm đất Triều Ca thì xin đem đất ấy dâng đại quốc, ngoài ra còn có những tế khí và nhạc khí cũng xin đại quốc thu nạp cho .

Lại đem lễ vật biếu các vua chư hầu nữa . Tấn Bình công bằng lòng, rút quân về nước . Các vua chư hầu cũng đều về cả . Từ bấy giờ Tề và Tấn lại giảng hoà với nhau . Thực Xước ở nước Vệ, nghe nói Châu Xước và Hình Khóai đều chết cả, lại trở về nước Tề . Khi Vệ Hiến công (Hãn) trống sang nước Tề, vốn biét Thực Xước là người vũ dũng, bèn sai công tôn Đinh đem lễ vật đến triệu . Thực Xước lại theo Vệ Hiến công .

Năm ấy vua nước Ngô là Chư Phàn sang đánh Sở đi qua nước Sào, đem quân đánh cửa thành . Tướng nước Sào là Ngưu Thần đứng nấp ở bên cái tường thấp bắn chết Chư Phàn . Triều thần nước Ngô theo lời dặn của Thọ Mộng khi gần chết, mới lập em Chư Phàn là Dư Sái lên làm vua . Dư Sái nói:

– Anh ta không phải vì đất Sào mà chết, chẳng qua theo lời dặn của tiên vương (tro Thọ Mộng) mà cố ý liều chết, để ngôi chóng truyền đến Qui Trát (em Dư Sái) đó mà thôi!

Từ bấy giờ Dư Sái đêm nào cũng khấn trời để cầu cho mình chóng chết . Các quan đều nói:

– Người ta ai cũng muốn thọ, nay đại vương lại muốn mình chóng chết, chẳng cũng trái nhân tình lắm sao ?

Dư Sái nói:

– Vua Thái vương ta ngày xưa bỏ con lớn lập con nhỏ, mới nên được đại nghiệp, nay anh em ta bốn người, cứ theo thứ tự mà truyền ngôi cho nhau, nếu ai cũng thọ cả thì Quí Trát già mất! bởi vậy ta phải cầu cho chóng chết .

Lại nói chuyện quan đại phu nước Vệ là Tôn Lâm Phủ và Ninh Thực đã đuổi Vệ Hiến công (Hãn), mới lập em Vệ Hiến công lên làm vua (tức là Vệ Thương công) . Sau Ninh Thực ốmg nặng, bảo con là Ninh Hi rằng:

– Họ Ninh ta, mấy đời nay vẫn một lòng trung quân . Việc đuổi vua này là tự họ Tôn cả, chứ ta không có ý gì, thế mà người trong nước đều bảo là họ Tôn và họ Ninh đuổi vua, ta không thể nào giải tỏ ra được, còn mặt mũi nào mà trông thấy tổ phụ ở dưới đất! con làm thế nào mà đem được vua cũ về để chuộc lỗi cho ta, thế mới là hiếu tử; nếu không thì dẫu con có cúng tế, cha cũng không hưởng đâu!

Ninh Hi sụp lạy, vừa khóc vừa nói:

– Con xin cố gắng!

Ninh Hi nối cha làm chức tả tướng, từ bấy giờ có chí muốn đem Vệ Hiến công về, ngặt vì Thương Công vẫn đi dự hội với các vua chư hầu, trong nước không có biến cố gì cả; quan thượng khanh là Tôn Lâm Phủ lại là cừu địch với Vệ Hiến công, bởi vậy không thể làm thế nào được . Năm thứ 24 đời Chu Linh vương, Vệ Hiến công chiếm được đất Di Nghi, mới sai công tôn Đinh lẻn vào thành Đế Khâu bảo Ninh Hi rằng:

– Nhà ngươi biết đổi lại cái ý của cha mà giúp cho ta về nước thì quyền chính nước Vệ, ta giao hết cho nhà ngươi, ta chỉ giữ một việc cúng tế mà thôi .

Ninh Hi vẫn nhớ lời cha dặn, nay lại thấy Vệ Hiến công nói giao hết quyền chính cho, thì lấy làm mừng lắm, nhưng nghĩ thầm rằng: bây giờ vua Vệ đang mong về nước, cho nên dỗ ngọt ta, đến khi về rồi, lại sinh lòng khác, bấy giờ biết làm thế nào ? nay có công tử Chuyên là người hiền mà thủ tín, nếu hắn nhận cho một lời thì sau này mới không thể sai được . Nghĩ xong liền viết một tờ mật thư đưa lại cho Vệ Hiến công, đại lược nói rằng:

– “Đó là việc lớn nước nhà, một mình tôi không thể làm nổi . Người trong nước ngày nay ai cũng có lòng tin lời Tử Tiên (tên tự công tử Chuyên), nếu được công tử nhận cho một lời thì mới có thể bàn định được”.

Vệ Hiến công bảo công tử Chuyên rằng:

– Ta có phục quốc được là nhờ tay Ninh Hi, vậy em nên gắng đi cho ta một chuyến .

Công tử Chuyên tuy nhận lời, nhưng vẫn nấn ná không chịu đi . Vệ Hiến công cố giục mãi . Công tử Chuyên nói:

– Thiên hạ có vua nào lại không nắm quyền chính! chúa công bảo rằng giao hết quyền chính cho Ninh Hi, tôi chắc sau này không giữ lời được, chẳng khiến cho tôi thất tín với Ninh Hi lắm sao! bởi vậy tôi không dám vâng lệnh .

Vệ Hiến công nói:

– Nay ta nương náu ở đây thì lấy đâu làm quyền chính! nếu ta giữ được việc cúng tế tiền nhân, thì cũng là mãn nguyện rồi, khi nào lại dám sai lời để lụy đến em .

Công tử Chuyên nói:

– Chúa công đã nhất quyết thì tôi nào dám từ chối để hỏng việc của chúa công .

Nói xong, liền lẻn sang Đế Khâu, vào yết kiến Ninh Hi, lại thuật cái ước của Vệ Hiến công . Ninh Hi nói:

– Nếu công tử nhận lời cho thì tôi xin hết sức!

Công tử Chuyên ngửa mặt lên trời mà thề rằng:

– Nếu tôi trái lời thì không được ăn thóc của nước Vệ!

Ninh Hi nói:

– Lời thề của công tử vững như núi Thái Sơn!

Công tử Chuyên về, thuật lại cho Vệ Hiến công nghe, Ninh Hi đem lời dặn của cha nói với Cử Viên . Cử Viên bưng tai mà chạy, vừa chạy vừa nói:

– Tôi đã không dự đến việc vua đi, có đâu dám biết đến việc vua về!

Cử Viên liền bỏ nước Vệ sang ở nước Lỗ . Ninh Hi lại đem chuyện nói với quan đại phu là Thạch Ác (con Thạch Giả, cháu Thạch Tắc) và Bắc Cung Di (con Bắc Cung Quát) . Thạch Ác và Bắc Cung Di đều tán thành . Ninh Hi lại đem chuyện nói với hữu tề Cốc .

Hữu tề Cốc gạt đi mà bảo rằng:

– Không nên! lập vua mới đã mười một năm rồi, vua mới chưa có điều gì thất đức, nay định đem vua cũ về, tất phải bỏ vua mới . Nếu vậy thì cha con nhà ngươi, hai đời đều có tội cả, thiên hạ còn ai tha được nữa!

Ninh Hi nói:

– Ta chịu lời dặn của tiền nhân ta, không thể không làm việc này được .

Hữu tể Cốc nói:

– Ta thử đi yết kiến vua cũ, xem đức tính có hơn ngày xưa không, rồi mới có thể bàn được .

Ninh Hi khen phải . Hữu tể Cốc bèn lẻn sang Di Nghi, xin vào yết kiến Vệ Hiến công, Vệ Hiến công đang rửa chân, nghe tin hữu tể Cốc đến, không kịp xỏ giày, đi chân đất mà ra, hớn hở bảo hữu tể Cốc rằng:

– Nhà ngươi từ chỗ quan tả tướng (trỏ Ninh Hi) mà đến đây, tất có tin hay .

Hữu tể Cốc nói

– Tôi tiện đường sang thẳng đây, quan tả tướng không biết .

Vệ Hiến công nói:

– Nhà ngươi chỉ có việc nói giúp cho ta với quan tả tướng rằng nên mau mau làm xong việc lớn ấy đi . Quan tả tướng dẫu không muốn đem ta về, nhưng há lại không muốn được cầm quyền chính nước Vệ hay sao ?

Hữu tể Cốc nói:

– Làm vua chỉ thích vì có quyền chính trong tay, nếu không có quyền chính thì làm vua làm gì ?

Vệ Hiến công nói:

– Không phải thế! làm vua chỉ cốt được cái danh hiệu tôn qúi, ăn ngon mặc tốt, lên xe xuống ngựa, cửa cao nhà rộng, của lắm tiền nhiều, vào trong thì vui thú với đám phi tần, ra ngòai thì dong chơi về sự săn bắn, cứ gì phải có cầm quyền chính, mới là sướng hay sao!

Hữu tể Cốc nín lặng mà lui ra, lại vào yết kíên công tử Chuyên, và thuật những lời nói của Vệ Hiến công cho công tử Chuyên nghe . Công tử Chuyên nói:

– Bởi chúa công lưu lại lâu ngày, mong được về nước, cho nên nói như vậy! chứ làm vua thì cốt phải kính lễ đại thần, thu dụng hiền tài, làm việc gì phải có lòng nhân, nói câu gì phải giữ chữ tín, như vậy thì mới giữ được cái danh hiệu tôn quí . Chúa công còn lại gì mà không biết điều ấy!

Hữu tể Cốc bảo Ninh Hi rằng:

– Ta vào yết kiến chúa công, nghe câu nói thêm bẩn cả tai! chúa công vẫn giữ thói cũ .

Ninh Hi nói:

– Thế nhà ngươi có vào yết kiến công tử Chuyên hay không ?

Hữu tể Cốc nói:

– Công tử Chuyên nói phải lắm nhưng chắc chúa công không theo được!

Ninh Hi nói:

– Ta trông cậy vào công tử Chuyên, và lại ta vâng lời dặn của cha ta thuở xưa, thế nào ta cũng phải giúp!

Hữu tể Cốc nói:

– Có muốn khởi sự cũng còn phải chờ cơ hội đã .

Bấy giờ Tôn Lâm Phủ đã già, cùng với con trưởng là Tôn Khoái về ở Thích Ấp; mà để cho con thứ là Tôn Gia và Tôn Tương ở trong triều . Tôn Gia phụng mệnh Vệ Thương công sang sứ nước Tề, chỉ có một mình Tôn Tương ở nhà . Nhân bấy giờ Vệ Hiến công lại sai công tôn Đinh đến giục Ninh Hi khởi sự, hữu tể Cốc mới bảo Ninh Hi rằng:

– Nhà ngươi muốn khởi sự, nên nhân dịp này! ta bắt được Tôn Tương thì xong việc!

Ninh Hi khen phải, liền sai hữu tể Cốc và công tôn Đinh đem quân đến bắt Tôn Tương . Phủ đệ của họ Tôn kiên cố lắm, không kém gì cung vua, có gia giáp một nghìn người, lại có hai viên gia tướng là Ung Thư và Chử Đái thay nhau đi tuần phòng . Hôm ấy, Chử Đái đang đi tuần, trông thấy hữu tể Cốc đem quân đến, vội vàng đóng cửa, trèo lên trên lầu đứng hỏi . Hữu tể Cốc nói:

– Ta có việc cần muốn thương nghị với Tôn tướng quân .

Chử Đái nói:

– Muốn thương nghị, sao lại đem quân đến ?

Nói xong, toan giương cung ra bắn . Hữu tể Cốc vội vàng lui lại, rồi thúc quân phá cửa . Tôn Tương cũng thân hành đứng ở trên cửa để đốc quân chống giữ . Chử Đái truyền cho quân sĩ giương cung chõ ra cửa sổ mà bắn, có mấy người chết .

Ung Thư nghe nói có giặc, cũng đem quân đến tiếp ứng .

Hữu tể Cốc biết chừng không đánh nổi, bèn rút quân trở về . Tôn Tương thúc quân đuổi theo . Khi đến nơi, Tôn Tương cầm cái câu liêm móc vào xe hữu tể Cốc mà lôi lại . Hữu tể Cốc kêu to, bảo công tôn Đinh bắn mau . Công tôn Đinh trông thấy Tôn Tương, liền giương cung ra, bắn trúng vào ngực . Ung Thư và Chử Đái vội vàng đến cứu đem về . Hữu tể Cốc về nói với Ninh Hi rằng:

– Nhà họ Tôn khó đánh lắm . Nếu không nhờ về thần tiễn của công tôn Đinh bắn trúng Tôn Tương thì hắn còn đuổi theo ta mãi .

Ninh Hi nói:

– Lần thứ nhất mà đã không đánh được hắn thì lần sau càn khó đánh nữa! nhưng đã bắn trúng được Tôn Tương thì quân sĩ tất nhiên rối loạn, đêm hôm nay ta lẻn đến mà đánh, nếu không thành công, thì phải tức khắc trốn đi, để tránh tai vạ . Ta cùng họ Tôn quyết không thể cùng sống đựơc .

Nói xong, liền một mặt sắp sửa đồ đạc, cho vợ con ra ngoài cõi trước, vì sợ thua quân, thóat thân không kịp; lại một mặt sai người đi do thám tin tức nhà họ Tôn . Quân thám tử về bảo rằng:

– Trong nhà họ Tôn, có tiếng kêu khóc . Kẻ ra người vào coi bộ bối rối lắm .

Ninh Hi nói:

– Đó tất là Tôn Tương bị thương nặng đã chết rồi!

Nói chưa dứt lời thì bỗng thấy Bắc Cung Di đến, nói Tôn Tương đã chết, nên đánh ngay mới được . Canh ba đêm hôm ấy, Ninh Hi cùng với Bắc Cung Di, hữu tể Cốc và công tôn Đinh đem quân đến nhà họ Tôn . Ung Thư và Chử Đái đang ôm lấy thi thể Tôn Tương mà khóc, nghe báo có quân họ Ninh đến liền mặc áo giáp lên ngựa, thì quân họ Ninh đã phá vỡ lần cửa ngoài . Bọn Ung Thư vội vàng đóng cửa giữ lại, nhưng quân sĩ bỏ chạy tán loạn cả, không có người chống giữ, cũng bị quân họ Ninh phá vỡ . Ung Thư trèo qua tường sau mà trốn, chạy say Thích Ấp . Chử Đái chết trong đám loạn quân .

Bấy giờ trời đã sáng rõ . Ninh Hi chém lấy đầu Tôn Tương, đem vào yết kiến Vệ Thương công mà nói rằng:

– Họ Tôn chuyên quyền đã lâu, vẫn có ý phản nghịch, tôi đã đem quân đến đánh chém được đầu Tôn Tương đây rồi .

Vệ Thương công nói:

– Họ Tôn phản nghịch, sao nhà ngươi không nói trước với ta ? Nhà ngươi đã chẳng coi ta ra gì thì còn đến yết kiến ta làm gì nữa!

Ninh Hi đứng dậy, rút gươm mà nói rằng:

– Chúa công là bởi họ Tôn lập lên, không phải là do phụng mệnh tiên quân, nay dân nước Vệ đều có lòng nhớ vua cũ, xin chúa công nhường ngôi lại, để nên được cái đức Nghiêu Thuấn .

Vệ Thương công nổi giận nói:

– Nhà ngươi tự tiện giết kẻ thế thần, toan sự bỏ vua, chính là người bề tôi phản nghịch! ta lên làm vua đã mười ba năm trời nay, thà chết thì thôi chứ không chịu nhục!

Vệ Thương công tức thì cầm giáo đuổi theo Ninh Hi . Ninh Hi lui ra ngoài công môn . Vệ Thương công trông thấy quân họ Ninh đã đứng đầy cả ở ngoài cửa, mới lùi trở lại . Ninh Hi hô quân xông lên bát Vệ Thương công . Thế tử Dốc tiến ra ngăn quân sĩ bị công tôn Đinh giết chết . Quân sĩ của Ninh Hi bắt Vệ Thương công giam lại, sau đó buộc Thương công uống thuốc độc chết .

Vệ Hiến công về thành Đế Khâu cho Ninh Hi làm tướng quốc; bọn công tôn Đinh, công tử Chuyên, Bắc Cung Di, Tề Ác, Thạch Ác, công tôn Miễn Dư, Hữu tể Cốc, Cử Viên đều được phong quan tước cả .

Riêng Thái Thúc Nghi là con Thành công, cháu Văn công không đến gặp Vệ Hiến công và không chịu nhận quan tước Hiến công phải sai người thuyết phục mãi Thái Thúc Nghi mới nghe lệnh .

Tôn Gia đi sứ ở Tề về nghe tin có biến liền không về Đế Khâu mà đến với Tôn Lâm Phủ ở Thích Ấp . Tôn Lâm Phủ, Ung Thư, Tôn Gia biết không chống nổi Vệ Hiến công liền sai người sang Tấn xin thần phục Tấn và xin Tấn đem quân đánh Vệ . Vua Tấn chỉ cho ba trăm quân sang Vệ . Ninh Hi sai tướng đem quân vây chặt ba trăm quân Tấn . Tôn Lâm Phủ bàn với Tôn Gia và Ung Thư:

– Chỉ có ba trăm quân Tấn thì làm sao chống được quân Vệ, chi bằng cứ để Ninh Hi giết hết đám quân Tấn này, Tấn Bình công sẽ căm giận mà mang đại quân diệt Vệ .

Thế là Tôn Lâm Phủ không cho người tiếp cứu quân Tấn và ba trăm quân Tấn bị tiêu diệt hoàn toàn.

Chương 66: Miễn Dư giết hại nhà Ninh Hi – Thôi Trữ mắc lừa mưu Khánh Phóng

Sau khi giết chết ba trăm quân Tấn, Ninh Hi sai Thực Xước đem quân đến Thích Ấp tìm cha con Tôn Lâm Phủ hỏi tội . Tôn Khoái biết Thực Xước sức khỏe muôn người khôn địch nên phàn nàn với Tôn Lâm Phủ . Tôn Lâm Phủ nổi giận mắng Tôn Khóai rằng:

– Chỉ mới mộ tên vô danh nước Tề mà đã lo sợ hết vía thì làm sao chống lại được quân Vệ . Thôi liệu mà đem quân ra trận chiến thắng trở về .

Tôn Khóai buồn rầu mà lui ra, cùng với Ung Thư thương nghị, Ung Thư nói:

– Thực Xước một mình địch nổi muôn người, khó lòng đánh nổi, ta nên phải dùng kế mà lừa thì mới được .

Tôn Khóai nói:

– Phía tây đất Mao Thị, có một chỗ tên gọi Vi Thôn, chung quanh cây cối rậm rạp; giữa thon có một cái núi đất nhỏ, ta sai người đào hố ở trên núi, lấy cỏ phủ lên cho kín . Nhà ngươi dụ hắn đến đấy, rồi ta đóng quân ở trên núi, xỉ mắng hắn một lúc, tất nhiên hắn phải nổi giận mà xông lên đánh, tất là mắc kế của ta đó!

Ung Thư theo lời, đem quân sang đất Mao Thị, giả cách đi do dám . Khi gặp quân Thực Xước, Ung Thư làm ra dáng sợ hãi, quay đầu bỏ chạy . Thực Xước cậy có sức khoẻ, lại thấy Ung Thư ít quân, tức khắc đuổi theo . Ung Thư chạy quanh mãi về đến Vi Thôn, rồi đi tắt vào trong đám cây rậm . Thực Xước nghi trong đám cây rậm có quân phục, không dám tiến vào; bỗng thấy trên ngọn núi đất có một toán quân và một viên tướng hãy còn trẻ tuổi . Viêng tướng ấy réo tên Thực Xước mà mắng rằng:

– Mày là một đứa không ra gì ở nước Tề . Họ Loan đã xem mày như đồ bỏ, không thể dùng được; nay mày đem thân sang ăn hại nước Vệ, chẳng biết xấu hổ, lại còn thò mặt ra . Mày không biết họ Tôn ta là một nhà thế thần để tám đời rồi hay sao, mà dám xâm phạm, thật là không bằng giống cầm thú!

Thực Xước nghe nói nổi giận . Trong quân có người biết mặt Tôn Khóai, mới nói với Thực Xước rằng:

– Viên tướng ấy là con trưởng Tôn Lâm Phủ, tên gọi Tôn Khóai .

Thực Xước nói:

– Ta bắt được Tôn Khoái, tức là trừ được nửa Tôn Lâm Phủ!

Thực Xước tức thì giục ngựa thẳng tới chân núi, chẳng ngờ cả người lẫn ngựa, ngã lăn xuống hố . Tôn Khoái đã sai quân sĩ sắp sẵn cung tên, để khi Thực Xước ngã xuống thì xún lại mà bắn . Thực Xước chết ở dưới hố . Tôn Khoái dùng câu liêm kéo thi thể lên rồi cắt lấy đầu đem về nộp Tôn Lâm Phủ . Tôn Lâm Phủ nói:

– Bây giờ nếu nước Tấn trách ta không cứu để cho quân Tấn bị giết thì ta có lỗi, chi bằng ta giấu việc này đi mà nói là thua .

Nói xong, liền sai Ung Thư sang cáo cấp với nước Tấn . Tấn Bình công nghe tin quân Tấn bị giết, có ý giận, sai quan chính khanh là Triệu Vũ đại hội chư hầu ở đất Thiều Uyên, sắp đem quân đánh Vệ . Vệ Hiến công và Ninh Hi thân hành sang nước Tấn kể tội Tôn Lâm Phủ . Tấn Bình công bắt giam lại . Quan đại phu nước Tề là Án Anh nói với Tề Cảnh công rằng:

– Vua Tấn vì Tôn Lâm Phủ mà bắt vua Vệ, như thế thì những đứa cường thần đều cậy quyền mà làm càn! chúa công nen sang xin với vua Tán, khiến cho trọn cái ơn khi ở Lai Thành .

Tề Cảnh công khen phải, liền sai sứ ước với Trịnh Giản công để cùng sang nước Tấn xin hộ cho vua Vệ . Tấn Bình công dẫu có ý nể, nhưng trước đã nghe lời Tôn Lâm Phủ, cho nên chưa kịp tha vua Vệ . Án Anh nói riêng với Dương Thiệt Bật rằng:

– Nước Tấn là bá chủ thì chức phận của nước Tấn là phải đè nén kẻ cường bạo, bênh vực kẻ hèn yếu . Tôn Lâm Phủ khi trước đuổi vua, ta đã không đem quân đến đánh, nay lại còn bắt giam vua Vệ để giúp Tôn Lâm Phủ, như thế phỏng còn ai dám làm vua nữa ? ngày xưa Tấn Văn công nghe lầm lời nói của Nguyên Huyến mà bắt Vệ Thành công đem nộp thiên tử nhà Chu, thiên tử nhà Chu còn chê là trái lễ, Văn công xấu hổ mà phải tha, huống chi mình là chư hầu mà lại bắt giam vua chư hầu là nghĩa làm sao ? các ngài không biết can, thế là tư vị bề tôi mà đè nén vua, tài nào cho khỏi mang tiếng! tôi chỉ sợ nước Tấn không giữ được nghiệp bá nữa, cho nên phảii nói riêng với ngài .

Dương Thiệt Bật liền nói với Triệu Vũ để cố xin với Tấn Bình công . Tấn Bình công tha cho Vệ Hiến công về nước, nhưng vẫn không chịu tha Ninh Hi . Hữu tể Cốc bảo Vệ Hiến công đem mười hai nữ nhạc công sang dâng vua Tấn để xin chuộc Ninh Hi . Tấn Bình công bằng lòng, tha cho Ninh Hi về . Ninh Hi từ khi về, càng có ý tự phụ, việc gì cũng tự tiện quyết đoán, không bẩm mệnh Vệ Hiến công . Các quan đại phu vẫn đến họp ở nhà riêng Ninh Hi để bàn việc chính tri . Vệ Hiến công chỉ ngồi khoanh tay, không dự một việc gì cả .

Bấy giờ quan tá sư nước Tống là Hướng Thú (cháu huyền tôn của Tống Hoàn công) quen thân với Triệu Vũ nước Tấn, lại quen thân cả với quan lệnh doãn nước Sở là Khuất Kiến nữa . Hướng Thú sang sứ nước Sở, nói đến việc Hoa Nguyên nước Tống ngày xưa, muốn cho Tấn và Sở giảng hoà với nhau . Khuất Kiến nói:

– Việc ấy rất hay! chỉ vì chư hầu chia rẽ mà cuộc giảng hoà không thành, bây giờ làm sao cho các thuộc quốc của Tấn và Sơ đều giao hiếu với nhau, coi nhau như một nhà, thì nạn binh đao mới có thể dẹp yên được .

Hướng Thú khen phải, liền xướng nghị vua Tấn và vua Sở hội nhau ở nước Tống để cùng nhau giảng hoà . Nước Sở từ đời Cung Vương đến bấy giờ, thường bị nước Ngô xâm nhiễu . Khuất Kiến muốn kết liên với Tấn để được chuyên một mặt chống cự nước Ngô; còn Triệu Vũ thì nhân thấy quân Sở hay sang đánh Trịnh, cũng muốn giảng hoà cho được yên việc, bởi vậy hai bên đều đồng ý sai sứ đi báo ngày hội với các thuộc quốc của mình . Khi sứ nước Tấn đến nước Vệ, Ninh Hi không báo cho Vệ Hiến công biết, mà sai Thạch Ác đi dự hội . Vệ Hiến công nghe nổi giận lắm, phàn nàn với công tôn Miễn Dư . Công tôn Miễn Dư nói:

– Tôi xin lấy lẽ phải đến trách bảo Ninh Hi .

Rồi đến bảo Ninh Hi rằng:

– Hội với chư hầu là một việc lớn, sao ngài lại không báo cho chúa công biết ?

Ninh Hi phật ý nói:

– Khi trước công tử Chuyên đã có ước với ta, ta ví như các bề tôi khác thế nào được!

Công tôn Miễn Dư về nói với Vệ Hiến công rằng:

– Ninh Hi vô lễ quá lắm, sao chúa công không giết đi .

Vệ Hiến công nói:

– Nếu khong có Ninh Hi thì sao ta được thế này! ta đã có lời ước, không nên hối lại .

Công tôn Miễn Dư nói:

– Tôi chịu ơn chúa công, không biết lấy gì mà đền lại được, xin tự đem gia thuộc trừ bỏ họ Ninh đi, nếu việc thành thì lợi cho chúa công, mà không thành thì chỉ một mình tôi chịu hại mà thôi . Vệ Hiến công nói:

– Nhà ngươi liệu mà làm, chớ để di lụy đến ta .

Công tôn Miễn Dư đến bảo hai người em họ là công tô Vô Địa và công tôn Thần rằng:

– Quan tướng quốc (trở Ninh Hi) chuyên quyền, các ngươi hẳn đã biết! chúa công ta câu nệ một chữ tín, ẩn nhẫn không chịu nói, mai sau thế lực hắn một ngày một to thì tai vạ cũng chẳng kém gì họ Tôn trước, biết làm thế nào ? công tôn Vô Địa và công tôn Thần nói:

– Sao không giết đi ?

Công tôn Miễn Dư nói:

– Ta đã nói với chúa công, nhưng chúa công không theo chi bằng chúng ta nổi lên mà giết hắn, may mà thành sự thì là phúc cho chúa công, nhược bằng không thành thì chúng ta chẳng qua cũng đến trốn sang nước khác là cùng!

Công tôn Vô Địa nói:

– Hai anh em tôi xin đi tiên phong!

Công tôn Miễn Dư xin cùng thề . Bấy giờ nhà Ninh Hi đang mở tiệc xuân yến, công tôn Vô Địa bảo công tôn Miễn Dư rằng:

– Nhà Ninh Hi đang mở tiệc xuân yến, tất không có phòng bị, để tôi xin thử vào trước, rồi nhà ngươi vào theo sau .

Công tôn Miễn Dư nói:

– Sao không bói xem ?

Công tôn Vô Địa nói:

– Việc tất phải làm, còn bói chi nữa!

Công tôn Vô Địa và công tôn Thần đem quân đến nhà Ninh Hi . Phía trong cửa nhà Ninh Hi xưa nay vẫn có đặt một cái cạm . Cái cạm ấy, là một cái hố sau, trên lát ván gỗ, dưới có cựa gà; hễ chạm phải cựa gà thì ván gỗ ấy bật lên mà người ngã xuống hố . Thường thì cái cạm ấy ban ngày cất đi, đêm lại đem ra, để phòng giữ quân gian .

Ngày hôm ấy, nhà Ninh Hi nhân có mở tiệc xuân yến; người nhà tụ họp cả ở nhà trong, đang xem làm trò, không có ai trông cửa, nên mới đặt cái cạm ấy để khỏi phải canh giữ . Công tôn Vô Địa không biết, chạm phải cựa gà, ngã lăn xuống hố . Người nhà Ninh Hi kinh động tranh nhau kéo ra, bắt được công tôn Vô Địa . Công tôn Thần cầm giáo đến cứu, nhưng người nhà Ninh Hi đông lắm, không thể nào địch nổi, liền bị giết chết .

Ninh Hi hỏi công tôn Vô Địa rằng:

– Ai xui nhà ngươi đến đây ?

Công tôn Vô Địa trừng mắt mắng rằng:

– Mày cậy công chuyên quyền, làm tôi không trung . Anh em ta vì nước giết mày, nay việc không thành là tại số mệnh, ai xui ta được!

Ninh Hi giận lắm, trói công tôn Vô Địa vào cột, đánh cho đến chết, rồi mới đem chém . Hữu tể Cốc nghe tin Ninh Hi bắt được quân gian, đang đêm đi xe đến để hỏi thăm . Người nhà Ninh Hi vừa mới ra mở cửa thì gặp công tôn Miễn Dư đem quân đến; công tôn Miễn Dư thưa cơ lẻn vào, chém ngay hữu tể Cốc ở bên ngoài cửa . Người nhà Ninh Hi bấy giờ náo động cả lên . Ninh Hi trong khi hoảng hốt, chưa hiểu đầu đuôi, liền hỏi:

– Người nào nổi loạn làm vậy ?

Công tôn Miễn Dư nói:

– Cả nước đều một lòng như thế, định hỏi người nào!

Ninh Hi sợ hãi bỏ chạy . Công tôn Miễn Dư cầm gươm đuổi theo, chạy quanh cái cột ba vòng . Ninh Hi bị hai mũi gươm, chết ở chân cột . Công tôn Miễn Dư giết hết người nhà Ninh Hi, rồi về báo với Vệ Hiến công . Vệ Hiến công truyền đem thi thể Ninh Hi và hữu tể Cốc bày ở trong triều . Công tử Chuyên nghe nói, vội vàng đi chân vào thẳng trong triêu, ôm lấy thi thể Ninh Hi mà khóc rằng:

– Không phải là chúa công thất tín, chính tại ta lừa nhà ngươi! nhà ngươi chết, ta còn mặt mũi nào đứng ở triều đình nước Vệ này nữa!

Khóc xong, lại kêu trời ba tiếng thật to, rồi về nhà, tức khắc đem cả vợ con trốn sang nước Tấn . Vệ Hiến công sai người mời ở lại . Công tử Chuyên không nghe . Khi đi đến sông Hà, Vệ Hiến công lại sai quan đại phu là Tề Ác đuổi theo mời lại . Công tử Chuyên nói:

– Muốn cho ta trở về nước Vệ . Phải làm thế nào cho Ninh Hi sống lại mới được .

Tề ác biết là không thể nói được, phải quay trở về . Công tử Chuyên trốn sang nước Tấn, ẩn ở đất Hàm Đan . Vợ chồng con cái làm nghề khâu giày để kiếm ăn, cả đời không nói gì đến chuyện nước Vệ nữa . Tề Ác về nói với Vệ Hiến công . Vệ Hiến công thở dài, truyền mai táng cho Ninh Hi và hữu tể Cốc, lại muốn lập công tôn Miễn Dư làm chức chính khanh . Công tôn Miễn Dư nói:

– Tôi chưa có danh vọng gì cả, xin chúa công hãy dùng Thái Thúc Nghi .

Vệ Hiến công liền cho Thái Thúc Nghi coi giữ quyền chính . Từ bấy giờ nước Vệ mới hơi được yên ổn .

Lại nói chuyện quan tả sứ nước Tống xướng nghị Tấn, Sở bãi binh . Bấy giờ quan chính khanh nước Tấn là Triệu Vũ, quan lệnh doãn nước Sở là Khuất Kiến, đều đến hội ở nước Tống . Các quan đại phu các nước cũng đều lục tục đến cả . Thuộc quốc của nước Tấn và Lỗ, Vệ, Trịnh theo nước Tấn đóng dinh ở phía tả . Thuộc quốc của nước Sở là Sái, Trần, Hứa theo nước Sở đóng dinh ở phía hữu . Nướg Tống là chủ .

Hai bên nghị định : cứ chiếu lệ đến kỳ triều sinh thì thuộc quốc nước Sở đến triều sinh nước Tấn, thuộc quốc nước Tấn đến triều sinh nước Sở . Còn nước lớn như Tề, Tống thì cho là ngang hàng, không thể vào số thuộc quốc . Thuộc quốc nhỏ của Tấn như Châu, Cử, Đằng, Tiết; thuộc quốc nhỏ của Sở như Đốn, Hổ, Thẩm, Mi nước nào có đủ vật lực triều sính được thì tuy ý, bằng không thì cho phụ theo với các nước lân cận . Nghị định như vậy, rồi sắp sửa làm lễ ăn thề ở cửa tây nước Tống . Khuất Kiến nước Sở mật truyền cho quân sĩ đều mặc áo giáp ở trong mình, để định đến lúc thề thì xông vào mà giết Triệu Vũ nước Tấn . Bá Châu Lê cố can, Khuất Kiến mới thôi . Triệu Vũ nghe nói quân Sở mặc áo giáp ở trong, mới hỏi Dương Thiệt Bật để nghĩ cách phòng bị . Dương Thiệt Bật nói:

– Hội thề lần này là cốt để bãi binh, nếu nước Sở làm như vậy thì nước Sở thất tín với chư hầu trước, chư hầu còn ai phục nữa . Ngài nên thủ tín, không can chi mà lo ngại!

Đến lúc sắp hội thề, Khuất Kiến nước Sở muốn vào sáp huyết trước, mới sai Hướng Thú truyền bảo cho nước Tấn biết . Hướng Thú đến dinh quân Tấn, không dám nói ra, người theo hầu phải nói thay cho Hướng Thú . Triệu Vũ nói:

– Tiên quân ta là vua Văn công ngày xưa, phụng mệnh thiên tử nhà Chu ở đất Tiễn Thổ, làm chủ chư hầu, thì sao nước Sở lại sáp huyết trước nước Tấn được ?

Hướng Thú về, thuật chuyện lại với Khuất Kiến, Khuất Kiến nói:

– Nếu nói đến vương mệnh thì nước Sở ta cũng phụng mệnh vua Huệ vương nhà Chu . Tấn và Sở ngang hàng với nhau, Tấn làm chủ đã lâu ngày nên phải nhường lại cho Sở, nếu không thì hóa ra Sở vẫn phải chịu kém Tấn, sao gọi là ngang hàng được!

Hướng Thú lại sang nói lại với Triệu Vũ . Triệu Vũ nhất định không nghe . Dương Thiệt Bật bảo Triệu Vũ rằng:

– Làm bá chủ cốt ở đức, chứ không ở thề! có đức thì dẫu sáp huyết sau, chư hầu cũng vẫn tin theo; không có đức thì dẫu sáp huyết trước, chư hầu cũng làm phản . Vả chăng hội thề lần này là chủ ý để bãi binh, mà bãi binh là một việc lợi cho thiên hạ, nếu tranh nhau sáp huyết thì phải dụng binh, dụng binh thì phải thất tín, ngài nên nhường cho Sở sáp huyết trước .

Triệu Vũ nghe lời, nhường cho nước Sở sáp huyết trước . Hai bên quyệt máu, cùng thề, rồi đâu về đấy . Quan đại phu nước Vệ là Thạch Ác đang dự hội, nghe tin Ninh Hi bị giết, không dám trở về nước Vệ, liền theo Triệu Vũ sang ở nước Tấn . Quan hữu tướng nước Tề là Thôi Trữ từ khi giết vua Trang công, lập vua Cảnh công, uy danh lừng lẫy nước Tề . Quan tả tướng là Khánh Phong, tính hay uống rượu, lại hay đi săn bắn, không mấy khi ở nhà, bởi vậy quyền chính ở tay Thôi Trữ cả . Thôi Trữ lại càng ngang ngược lắm . Khánh Phong trong lòng cũng có ý ghét . Thôi Trữ nguyên trước có hẹn với nàng Đường Khương định lập Thôi Minh là đích tử, nhưng thấy trưởng là Thôi Thành bị gãy cánh tay, không nỡ nói ra . Thôi Thành biết y, xin nhường ngôi đích tử lại cho Thôi Minh, mà xin cho mình đất Thôi Ấp để dưỡng lão . Thôi Trữ thuận cho, Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu không nghe mà nói rằng:

– Thôi Ấp tất phải để cho đích tử!

Thôi Trữ bảo Thôi Thành rằng:

– Ta muốn định đem Thôi Ấp phong cho nhà người, nhưng Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu không nghe, biết làm thế nào!

Thôi Thành nói chuyện với Thôi Cương. Thôi Cương nói:

– Ngôi đích tử anh đã nhường cho, mà lại còn tiếc một chỗ Thôi Ấp hay sao ? cha ta hãy còn mà bọn Đông Quách Yển đã ngang ngược như thế; huống chi khi cha ta mất rồi thì anh em chúng ta dẫu cầu làm đầy tớ vị tất đã được!

Thôi Thành nói:

– Ta hãy nhờ quan tả tướng (tức là Khánh Phong) xin hộ cho!

Thôi Thành và Thôi Cương bèn đến nói với Khánh Phong . Khánh Phong nói:

– Thân phụ các ngươi chỉ một mực nghe lời Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu, dẫu ta có nói, cũng vị tất đã nghe . Ta e sau này bọn ấy lại làm hại thân phụ các ngươi mà thôi, sao các ngươi không trừ đi ?

Thôi Thành và Thôi Cương nói:

– Chúng tôi cũng muốn như vậy, nhưng sức hèn tài mọn, không thể làm nổi .

Khánh Phong nói:

– Để thong thả ta nghĩ xem đã!

Thôi Thành và Thôi Cương về . Khánh Phong đem chuyện ấy nói với Lư Bồ Miết . Lư Bồ Miết nói:

– Họ Thôi loạn thì họ Khánh ta càng lợi chứ sao!

Khánh Phong mới nghĩ ra . Được mấy ngày nữa, Thôi Thành và Thôi Cương lại đến, kể những điều ác của Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu . Khánh Phong nói:

– Nếu nhà ngươi xử sự thì ta giúp binh khí cho .

Nói xong, liền đưa cho Thôi Thành và Thôi Cương một trăm chiếc áo giáp rất tốt và binh khí đủ số . Thôi Thành và Thôi Cương mừng lắm, đêm hôm ấy đem quân mặc áo giáp, cầm binh khí, đến phục chung quanh nhà Thôi Trữ . Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu ngày nào cũng đến yết kiến Thôi Trữ . Thôi Thành và Thôi Cương chờ khi Đông Quách Yển và Đường Vô Cữu vào cửa, truyền cho quân sĩ đổ ra đâm chết . Thôi Trữ nghe tin giận lắm, vội vàng gọi người nhà thắng xe để đi thi người nhà đã bỏ trốn sạch cả rồi, chỉ còn có một người nuôi ngựa ở chuồng ngựa, liền sai người ấy thắng xe và cho một tiểu thụ giong xe, đến yết kíến Khánh Phong, kể lại việc biến ở trong nhà . Khánh Phong giả cách không biết, ngạc nhiên nói:

– Họ Thôi và họ Khánh cũng như một nhà . Mấy đứa trẻ con, sao dám càn dỡ như vậy! ngài có muốn bắt, tôi xin giúp sức .

Thôi Trữ tưởng thật, tạ ân mà nói rằng:

– Nếu ngài trừ hộ hai đứa nghiệt tử ấy để nhà họ Thôi tôi được yên ổn thì tôi xin bắt Thôi Minh phải thờ ngài làm cha .

Khánh Phong liền triệu Lư Bồ Miết đến, sai đem quân đi, rồi dặn kế riêng cho biết, để cứ theo kế đó mà làm . Lư Bồ Miết phụng mệnh, tức khắc đem quân đi ngay . Thôi Thành và Thôi Cương thấy Lư Bồ Miết đem quân đến, đóng cửa không cho vào . Lư Bồ Miết dụ rằng:

– Ta phụng mệnh qua tả tướng (tức là Khánh Phong) tới đây là để làm lợi cho các ngươi, chứ có làm hại gì nhà các ngươi đâu!

Thôi Thành bảo Thôi Cương rằng:

– Hay là quan tả tướng muốn trừ khử Thôi Minh đó chăng ?

Thôi Cương nói

– Cũng có lẽ!

Thôi Cương bèn mở cửa cho Lư Bồ Miết vào . Lư Bồ Miết vào trước, giáp sĩ kéo ồ theo sau . Thôi Thành và Thôi Cương ngăn lại không được, mới hỏi Lư Bồ Miết rằng:

– Quan tả tướng ngài dạy thế nào ?

Lư Bồ Miết nói:

– Thân phụ các ngươi đến kêu với quan tả tướng, quan tả tướng sai ta đi lấy đầu các ngươi .

Nói xong, truyền cho quân giáp sĩ chém lấy đầu Thôi Thành và Thôi Cương . Thôi Thành và Thôi Cương chưa kịp trả lời thì đầu đã rơi xuống đất . Lư Bồ Miết thả cho quân giáp sĩ cướp bóc trong nhà, xe ngựa, phục sức, không còn cái gì, lại đem cửa ngõ phá tan . Nàng Đường Khương sợ hãi, thắt cổ ở trong phòng mà chết; chỉ có Thoi Minh đi vắng, nên không mắc nạn . Lư Bồ Miết treo đầu Thôi Thành và Thôi Cương ở trên xe, rồi về nói lại với Thôi Trữ . Thôi Trữ trông thấy hai đầu con, vừa thương vừa giận, hỏi Lư Bồ Miết rằng:

– Chẳng hay có kinh động nội thất ta hay không ?

Lư Bồ Miết nói:

– Bẩm không, hiện người đang ngủ yên chưa dậy .

Thôi Trữ có ý mừng, bảo Khánh Phong rằng:

– Ta muốn về, ngặt vì đứa tiểu thụ này không quen giong xe, xin cho mượn một người khác .

Lư Bồ Miết nói:

– Để tôi xin giong xe hầu quan tướng quốc .

Thôi Trữ tạ ơn Khánh Phong hai ba lần, rồi lên xe trở về . Khi đến phủ, thấy cửa mở toang cả, không có một người nào, liền đi thẳng vào, đến phòng trong thì thấy nàng Đường Khương thắt cổ, hãy còn treo ở đấy . Thôi Trữ chẳng còn hồn vía nào, toan quay lại hỏi Lư Bồ Miết thì Lư Bồ Miết đã về từ bao giờ rồi! Thôi Trữ đi tìm khắp cả, không thấy Thôi Minh đâu, liền khóc oà lên rằng:

– Nay ta bị Khánh Phong đánh lừa, cửa nhà tan nát, còn sống làm chi nữa!

Nói xong, cũng thắt cổ mà chết . Nửa đêm hôm ấy Thôi Minh lẻn về phủ, lấy trộm thi thể Thôi Trữ và Đường Khương bỏ vào trong một cai áo quan, để lên xe đem ra, đào một cái huyệt ở bên cạnh tổ mộ mà chôn giấu xuống đấy . Chỉ có một mình người coi ngựa biết mà thôi, ngoài ra không ai biết cả . Chôn xong, Thôi Minh trốn sang nước Lỗ .

Khánh Phong tâu với Tề Cảnh công rằng:

– Thôi Trữ có tội giết tiên quân ta thuở xưa, vậy nên tôi phải trừ bỏ .

Tề Cảnh công chỉ ư ừ mà thôi . Từ bấy giờ Khánh Phong một mình làm tướng quốc, sai người đi triệu Trần Tu Vô trở về nước Tề . Trần Tu Vô cáo lão . Con là Trần Vô Vũ được nối chức cha .

Bấy giờ Ngô và Sở thường đánh nhau luôn . Sở Khang vương luyện tập thủy sư để sang đánh Ngô, nhưng Ngô có phòng bị, Sở không làm gì nổi, lại phải rút về . Vua nước Ngô là Dư Sái mới lên làm vua được hai năm, vốn là người cậy có sức khoẻ, hay liều chết, giận nước Sở đến đánh mình, liền sai quan tướng quốc là Khuất Hồ Dung (con Vu Thần) sang dụ nước Thư Cưu là thuộc quốc nước Sở làm phản nước Sở .

Quan lệnh doãn nước Sở là Khuất Kiến đem quân đánh nước Thư Cửu . Dưỡng Do Cơ (tướng nước Sở) nói với Khuất Kiến xin đi làm tiên phong, Khuất Kiến nói:

– Tướng quân già lắm rối! Thư Cưu là một nước nhỏ, đánh tất phải được, không dám phiền đến tướng quân .

Dưỡng Do Cơ nói:

– Nước ta đánh Thư Cưu thì Ngô tất đem quân sang cứu, tôi đã nhiều lần đánh nhau với quân Ngô, biế hết tình hình, vậy xin theo đi, dẫu chết cũng thoả !

Khuất Kiến thấy Dưỡng Do Cơ nói đến chết, trong lòng cũng hơi áy náy . Dưỡng Do Cơ nói:

– Tôi chịu ơn tiên vương thuở trước vẫn muốn liều mình để báo đáp mà chưa có dịp nào, nay đầu râu đã khác xưa cả, nếu một mai ốm chết ở xó nhà, thì chẳng hóa ra ngài phụ lòng tôi lắm sao!

Khuất Kiến thấy ý Dưỡng Do Cơ đã nhất quyết mới thuận cho đi, sai quan đại phu là Tức Hoàn đi giúp . Dưỡng Do Cơ đi đến Ly Thành (kinh thành nước Thư Cưu) . Em vua Ngô là Di Muội cùng quan tướng quốc là Khuất Hồ Dung đem quân sang cứu nước Thư Cưu . Tức Hoàn muốn đợi đại bih nước Sở kéo đến, rồi mới khai chiến . Dưỡng Do Cơ nói:

– Người nước Ngô chỉ giỏi nghề đánh thuỷ, nay bỏ thuyền lên cạn, mà lại không giỏi bắn cung và giong xe, ta nên nhân lúc họ mới đến mà đánh ngay đi thì có thể phá vỡ được .

Dưỡng Do Cơ tay mang cung tên, xông vào đánh trước, bắn chỗ nào thì chỗ ấy có người chết . Quân Ngô lui chạy, Dưỡng Do Cơ đuổi theo, trông thấy Khuất Hồ Dung ở trên xe, liền mắng rằng:

– Thằng giặc phản quốc kia! mày còn mặt mũi nào mà trông thấy ta nữa!

Dưỡng Do Cơ toan bắn Khuất Hồ Dung . Khuất Hồ Dung quay xe trở lại, đi nhanh như bay . Dưỡng Do Cơ kinh sợ mà nói rằng:

– Người nước Ngô cũng tài nghề dong xe hay sao! tiếc thay ta không bắn ngay một phát!

Nói chưa dứt lời thì quân Ngô đã đem xe vay kín bốn mặt . Các tướng sĩ ở trên xe đều là những tay bắn giỏi cả, hàng vạn cung nỏ cùng bắn một lúc, Dưỡng Do Cơ chếtngay dưới trận mưa tên . Tức Hoàn chạy về báo với Khuất Kiến . Khuất Kiến thở dài mà rằng:

– Dưỡng thúc (tức là Dưỡng Do Cơ) thật là muốn tìm cái chết .

Khuất Kiến liền phục quân ở Nhi Sơn, rồi sai Tử Cương đem quân đi dụ quân Ngô . Tử Cương giao chiến với quân Ngô dược hơn mười hợp thì vội vàng bỏ chạy . Khuất Hồ Dung nghi là có quân phục, không dám đuổi theo . Di Muội trèo lên chỗ cao đứng trông, không thấy quân Sở, bèn bảo Khuất Hồ Dung rằng:

– Quân Sở đã trốn hết rồi!

Di Muội liền kéo ra đuổi . Đuổi đến chân núi Nhi Sơn thì Tử Cương quay lại đánh, phục binh bốn mặt đổ ra, vây kín Di Muội lại . Di Muội cố sức đánh giải vây mà không ra nổi . May nhờ có quân Khúât Hồ Dung đến, mới phá vỡ vòng vây, đem được Di Muội ra . Quân Ngô bị thua bỏ về . Khuất Kiến liền diệt nước Thư Cưu .

Năm sau, Sở Khang vươnng lại muốn đánh Ngô, sai sứ sang mượn quân nước Tấn . Tấn Cảnh công sai em là công tôn Hàm sang giúp . Nước Ngô đem quân giữ vững cửa sông . Quân Sở không thể vào được, liền sang xâm Trịnh vì nước Trịnh lâu nay vẫn thần phục nước Tấn . Quan đại phu nước Sở là Xuyên Phong Thú, bắt được tướng nước Trịnh là Hoàng Hiệt ở trận tiền . Công tử Vi muốn tranh lấy để nhận công . Xuyên Phong Thú không nghe . Công tử Vi lại vào kêu với Sở Khanh vương rằng:

– Tôi đã bắt được tướng nước Trịnh là Hoàng Hiệt, lại bị Xuyên Phong Thú tranh mất .

Được một lúc, Xuyên Phong Thú giải Hoàng Hiệt đến nộp và cũng nói là công tử Vi muốn tranh công . Sở Khanh vương không biết quyết đóan thế nào, mới sai quan thái tể là Bá Châu Lê xét việc ấy . Bá Châu Lê tâu rằng:

– Tù nước Trịnh (trỏ Hoàng Hiệt) là quan đại phu, chứ không phải dân thường, ta hỏi tù nhân thì khắc biết .

Bá Châu Lê để Hoàng Hiệt đứng ở dưới sân, Bá Châu Lê đứng ở bên hữu, công tử Vi và Xuyên Phong Thú đứng ở bên tả, Bá Châu Lê chắp tay hướng vào công tử Vi mà bảo Hoàng Hiệt rằng:

– Ông này là công tử Vi, là em đại vương ta đó .

Lại hướng vào Xuyên Phong Thú, là quan huyện doãn ở ngoài Phương Thành! trong hai ông này, ông nào bắt được nhà ngươi, nhà ngươi phải nói thực .

Hoàng Hiệt nghe nói, hiểu ý Bá Châu Lê thiên vị công tử Vi, mới giả cách trừng mắt nhìn kỹ công tử Vi mà nói rằng:

– Tôi bị công tử bắt được .

Xuyên Phong Thú giận lắm, liền rút ngay cái giám cắm ở giá gần đó, toan đâm chết công tử Vi . Công tử Vi sợ hãi bỏ chạy Xuyên Phong Thú đuổi theo không kịp . Bá Châu Lê khuyên giải mãi, Xuyên Phong Thú mới thôi . Bá Châu Lê nói với Sở Khang vương chia đôi công ấy, rồi lại bày một tiệc rượu, bắt hai người phải giảng hoà với nhau .

Nước Việt giáp giới nước Ngô . Vua nước Việt là dòng dõi vua Vũ nhà hạ, được phong tử Vô Dư, truyền mãi cho đến Doãn Thường . Doãn Thường chăm lo chính sự, nước Việt mới cường thịnh . Nước Ngô thấy nước Việt cường thịnh, lấy làm lo lắm . Vua nước Ngô là Dư Sái lên nối ngôi, mới được bốn năm, đã đem quân sang đánh nước Việt, bắt được một người tôn tộc nước Việt, đem về chặt chân, sai giữ chiếc thuyền Dư Hoàng . Một hôm, Dư Sái đi chơi thuyền, say rượu nằm ngủ, người tôn tộc cởi thanh gươm của Dư Sái, đâm chết Dư Sái, bấy giờ nội thị mới biết, liền giết người tôn tộc ấy đi . Em Dư Sái là Di Muội theo thứ tự lên nối ngôi, giao quyền chính cho Qui Trát . Quí Trát xin bãi việc chiến tranh và thông hiếu với các nước lớn . Di Muội theo lời, liền sai Quí Trát sang sứ nước Lỗ, để xét xem âm nhạc của đời Ngũ đại và của các nước; Quí Trát xem đến đâu, bình phẩm đến đấy, câu nào cũng đích đáng, người nước Lỗ phục là một tay tri âm . Sau sang sứ nước Trịnh, chơi thân với công tôn Kiều; sang nước Vệ, chơi thân với Cử Viên; sang nước Tấn, chơi thân với Triệu Vũ, Hàn Khởi và Ngụy Thư, toàn là những bậc hiền thần đời bấy giờ, xem thế cũng đủ biết Quí Trát là một người hiền đức.

Chương 67: Lư Bồ Quí đuổi được Khánh Phong – Sở Linh Vương tranh làm bá chủ

Con trưởng vua Linh vương nhà Chu tên là Tấn, tên tự là Tử Kiều, vốn người thông minh trời phú, hay thổi ống sinh, theo tiếng chim phượng hoàng . Chu Linh vương lập làm thái tử . Năm mười bảy tuổi, đi chơi sông Y và sông Lạc, lúc về ốm chết . Linh vương thương xót vô cùng . Có người báo rằng:

– Chúng tôi trông thấy thái tử cưỡi con hạc trắng, đang thổi ống sinh, lại nhắn bảo cư dân nói lại với thiên tử rằng thái tử the Phù Khâu (một vị tiên) đi chơi Tung Sơn, vui vẻ lắm, thiên tử chớ nên thương nhớ .

Chu Linh vương sai đào mộ lên xem thì chỉ thấy có áo quan không, mới biết là đã lên tiên rồi . Mấy năm sau, Linh vương nằm một thấy thái tử Tấn cưỡi hạc đến đón; khi tỉnh dậy, còn nghe văng vẳng có tiếng sinh ở ngoài cửa . Linh vương nói:

– Con ta đã đến đón thi ta nên đi!

Bèn truyền ngôi cho con thứ là Quí, rồi không bệnh mà chế . Qúi lên nối ngôi, tức là Chu Cảnh vương . Năm ấy, Sở Khang vương cũng chết . Quan lệnh doãn là Khuất Kiến liền lập người em cùng mẹ với Sở Khang vương lên làm vua . Chưa được bao lâu Khuất Kiến cũng chết . Công tử Vi thay làm lệnh doãn .

Lại nói chuyện quan tướng quốc nước Tề là Khánh Phong từ khi chuyên giữ quyền chính, càng sinh ra hoang dâm vô độ . Một hôm, uống rượu ở nhà Lư Bồ Miết . Lư Bồ Miết sai vợ ra mời rượu . Khánh Phong trông thấy làm vừa ý, liền cùng với vợ Lư Bồ Miết tư thông, rồi gia cả quyền chính cho con là Khánh Xá, đem vợ cùng nàng hầu và của cải sang ở nhà Lư Bồ Miết . Khánh Phong tư thông với vợ Lư Bồ Miết . Lư Bồ Miết cũng cùng với vợ và nàng hầu của Khánh Phong tư thông, hai bên không kiêng kỵ gì nữa, nhiều khi họp nhau uống rượu đùa bỡn, khi đã say thì chung chạ lăng nhăng, các người xung quanh ai cũng phải bưng miệng mà cười . Lư Bồ Miết nói với Khánh Phong xin triệu nguời anh là Lư Bồ Quí ở nước Lỗ về, Khánh Phong thuận cho . Khi Lư Bồ Quí về đến nước Tề, Khánh Phong để cho theo hầu người con là Khánh Xá . Khánh Xá sức khoẻ hơn người, thấy Lư Bồ Quí cũng có sức khoẻ và lại khéo nói, nên có lòng yêu, bèn gả con gái là Khánh Khương cho Lư Bồ Quí . Lư Bồ Quí chỉ dốc một lòng báo thù cho Tề Trang công, nhưng không biết ai là người cùng lòng, mới nhân khi theo Khánh Xá đi săn, hết sức khen tài vũ dũng của Vương Hà . Khánh Xá hỏi:

– Vương Hà bây giờ ở đâu ?

Lư Bồ Quí nói:

– Hiện đang ở nước Cử .

Khánh Xá sai nguời đi triệu Vương Hà về, Vương Hà về nước, Khánh Xá cũng có lòng yêu . Từ khi Thôi Trữ và Khánh Phong nổi loạn, hai người sợ bị ám sát, nên đi đâu cũng có quân sĩ cầm giáo hộ vệ, sau thành ra lệ quen . Khánh Xá tin yêu Lư Bồ Qúi và Vương Hà, mới dùng hai người ấy cầm giáo theo hầu ở bên cạnh .

Theo lễ cũ, nhà công dọn bữa ăn cho các quan khanh và đại phu thì mỗi ngày dùng hai con gà . Bấy giờ Tề Cảnh công hay ăn chân gà, một bữa hết mấy chục con; các quan đại phu cũng đều bắt chước, thành ra gà là một món ăn quí, giá mua vọt lên, nhà bếp chi tiêu không đủ, phải sang nói với Khánh Xá để xin thêm .

Lư Bồ Quí muốn tỏ điều ác của Khánh Xá, mới xui Khánh Xá không cho, bảo rằng:

– Đồ ngự thiện (món ăn của vua) tuỳ ý mà làm, cứ gì phải gà!

Vì vậy nhà bếp lấy thịt vịt thế vào . Lũ nhà bếp lại tưởng thịt vịt không phải là đồ ngự thiện nên đã ăn vụng đi cả . Ngày hôm ấy, quan đại phu là Cao Mại (tên tự là Tử Vĩ) và Loan Táo (tên tự là Tử Nhã) ngồi hầu cơm . Tề Cảnh công trông thấy mâm cơm không có món chân gà, chỉ có xương vịt mà thôi bèn nổi giận nói rằng:

– Họ Khánh cầm quyền chính mà dám bớt ngự thiện, khinh ta đến thế là cùng!

Nói xong liền bỏ ăn mà đi ra . Cao Mại toan đến trách Khánh Phong . Loan Táo can ngăn mãi, Cao Mại mới thôi . Sau có người nói chuyện với Khánh Phong . Khánh Phong bảo Lư Bồ Miết rằng:

– Cao Mại và Loan Táo có ý giận ta, biết làm thế nào ?

Lư Bồ Miết nói:

– Giết thì giết đi, can chi mà sợ!

Lư Bồ Miết đem chuyện nói với anh là Lư Bồ Quí . Lư Bồ Quí bàn mưu với Vương Hà rằng:

– Cao Mại và Loan Táo đang giận nhau với họ Khánh, ta có thể nhờ sức được .

Đêm hôm ấy, Vương Hà đến yết kiến Cao Mại, nói với Cao Mại rằng:

– Họ Khánh đang muốn trị họ Cao và họ Loan .

Cao Mại nổi giận nói:

– Khánh Phong ngày xưa đồng mưu với Thôi Trữ để giết Trang công, nay họ Thôi đã diệt rồi, chỉ còn có họ Khánh, ta nên báo thù cho tiên quân .

Vương Hà nói:

– Tôi vẫn có chí ấy! quan đại phu mưu việc ngoài, tôi mưu việc trong, làm gì mà không nổi!

Cao Mại liền đi bàn mưu với Loan Táo định thừa cơ khởi sự . Bọn Trần Vô Vũ, Bão Quốc (cháu Bão Thúc Nha) và Án Anh đều biết cả, nhưng ai cũng ghét họ Khánh chuyên quyền, không ai chịu nói . Lư Bồ Quí và Vương Hà bói việc đánh họ Khánh, trong quẻ có câu rằng:

– “Con hổ dời huyệt con bưu thấy huyết”.

Lư Bồ Quí đem đến hỏi Khánh Xá rằng:

– Có người muốn đánh kẻ thù, bói được quẻ này không biết tốt hay xấu ?

Khánh Xá nói:

– Đánh được! Hổ cùng bưu là cha con, đã phải dời huyệt và thấy huyết, còn gì mà không đánh được! chẳng hay kẻ thù là ai ?

Lư Bồ Quí nói:

– Một người trong đám hương lý .

Khánh Xá không nghi hoặc gì cả . Tháng tám năm ấy Khánh Phong đem Khánh Tự và Khánh Di đi săn bắn ở Đổng Lai; lại cho Trần Vô Vũ đi theo . Trần Vô Vũ từ biệt cha là Trần Tu Vô . Trần Tu Vô bảo rằng:

– Họ Khánh nguy đến nơi! ta e rằng nếu con cùng đi thì sẽ mắc nạn, sao không từ chối đi ?

Trần Vô Vũ nói:

– Nếu từ chối thì hắn sinh nghi, vậy nên con không dám từ chối . Để khi con đã đi rồi, thân phụ sẽ lấy cớ khác mà triệu con về .

Nói xong, liền đi thao Khánh Phong . Khi Khánh Phong đã ra đi, Lư Bồ Quí mừng lắm, nói:

– Trong quẻ bói có câu “con hổ dời huyệt” thật là nghiệm lắm!

Lư Bồ Qúi định chờ khi Khánh Xá ra tế thu thì khởi sự . Trần Tu Vô biết tin, sợ con là Trần Vô Vũ mắc nạn với Khánh Phong, liền nói dối là vợ mình ốm, sai người đi triệu Trần Vô Vũ về . Trần Vô Vũ nhờ Khánh Phong bói hộ một quẻ, nhưng trong lòng khấn thầm xin bói sự lành dữ của họ Khánh .

Khánh Phong bói xong, đoán rằng:

– Quẻ này là quẻ diệt thân . Bệnh của lão phu nhân chưa khỏi được .

Trần Vô Vũ nước mắt chảy xuống ròng ròng . Khánh Phong thương lắm, liền cho về . Khánh Tự, trông thấy Trần Vô Vũ lên xe, hỏi rằng:

– Nhà ngươi đi đâu ?

Trần Vô Vũ nói:

– Mẹ tôi ốm, vậy nên tôi phải về .

Khánh Tự nói với Khánh Phong rằng:

– Trần Vô Vũ nói dối, chứ không phải mẹ ốm! tôi sợ trong nước có biến, tướng công nên chóng về .

Khánh Phong nói:

– Đã có con ta ở nhà, còn lo gì nữa!

Trần Vô Vũ về qua sông Hà, phá cầu mà đục thuyền ra, khíến cho Khánh Phong không có đường về, Khánh Phong vẫn không biết . Bấy giờ đã thượng thần tháng tám . Lư Bồ Qúi tụ tập quân sĩ để khởi sự . Vợ là nàng Khánh Khương (con gái Khánh Xá) hỏi rằng:

– Phu quân làm việc mà không bàn với thiếp thì tất không thành .

Lư Bồ Quí cười mà nói rằng:

– Đàn bà biết gì mà đòi dự bàn!

Nàng Khánh Khương nói:

– Phu quân không nghe nói có người đàn bà tài trí hơn đàn ông hay sao! vua Vũ vương có mười người bề tôi giỏi; trong mười người ấy có bà Áp Khương . Sao lại bảo đàn bà không dự bàn được ?

Lư Bồ Quí nói:

– Ngày xưa quan đại phu nước Trịnh là Ung Củ, đem mật mưu của vua Trịnh tiết lộ ra cho vợ là nàng Ung Cơ biết, mà đến nỗi bị giết, lại hại cả vua, ta rất lấy làm sợ .

Nàng Khánh Khương nói:

– Đàn bà phải theo chồng, chồng nói thì vợ nghe, huống chi lại có mệnh vua . Nàng Ung Cơ nghe mẹ mà hại chồng, đó là con sâu trong đám khuê các, không đáng kể .

Lư Bồ Quí nói:

– Giả sử nàng là Ung Cơ thì nàng xử thế nào ?

Nàng Khánh Khương nói:

– Giúp được thì giúp, bằng không thì thôi, cũng không tiết lộ cho ai biết .

Lư Bồ Quí nói:

– Nay chúa công ta ghét họ Khánh chuyên quyền, có bàn mưu với họ Cao và họ Loan để đuổi họ Khánh nàng, nên ta phải phòng bị, nàng chớ tiết lộ cho ai biết .

Nàng Khánh Khương nói:

– Quan tướng quốc (trỏ Khánh Phong) vừa mới đi săn có thể thừa cơ được .

Lư Bồ Quí nói:

– Ta muốn đợi đến ngày thu tế .

Nàng Khánh Khương nói:

– Thân phụ thiếp vốn người ngang ngạnh, lại đam mê tửu sắc, không có ai nói khích thì hoặc giả lại không đi, biết làm thế nào ? Thiếp xin về bên ấy cố ý ngăn lại thì việc đi tế thu tế mới xong được .

Lư Bồ Qúi nói:

– Ta đem tính mệnh mà phó thác cho nàng, nàng chớ bắt chước Ung Cơ ngày trước .

Nàng Khánh Khương đến bảo Khánh Xá rằng:

– Con nghe nói họ Cao và họ Loan định đến ngày thu tế này thì hại thân phụ, xin thân phụ chớ đi .

Khánh Xá nổi giận, nói:

– Hai họ ấy như giống cầm thú, sống chết ở trong tay ta, khi nào dám như vậy ! mà dẫu có thế nữa, ta cũng không sợ!

Nàng Khánh Khương về nói với Lư Bồ Quí . Đến kỳ tế thu, Tề Cảnh công vào làm lễ ở nhà thái miếu . Các quan đại phu đều đi theo cả . Khánh Thăng hiến tước . Quân họ Khánh đóng giữ chung quan nhà thái miếu . Lư Bồ Qúi và Vương Hà cầm giáo đứng ở bên cạnh Khánh Xá, không rời một bước . Họ Trần và họ Bão, hai nhà ấy có một người coi ngựa, khéo làm trò, cho ra múa hát ở đường Ngư Ly, cố ý làm cho ngựa của Khánh Xá phải lồng chạy . Quân họ Khánh đuổi theo bắt được ngựa, rồi đem buộc một chỗ và cởi áo giáp ra, xúm lại xem làm trò .

Quân họ Cao, họ Loan, họ Trần và họ Bão họp cả ở trước cửa nhà thái miếu . Lư Bồ Qúi giả cách ra ngoài, mật truyền cho quân sĩ vây kín xung quanh, rồi lại trở vào, đứng ở sau lưng Khánh Xá, cầm ngược ngọn giáo, để ra hiệu cho Cao Mại biết . Cao Mại hiểu ý, sai người nhà gõ cửa ba tiếng, quân sĩ kéo ồ cả vào .

Khánh Xá kinh sợ đứng dậy . Lư Bồ Quí ở sau lưng đâm ngay một cái, trúng vào cạnh sườn . Vương Hà cầm giáo đánh vào vai bên tả, gãy hẵn bả vai . Khánh Xá trông thấy Vương Hà, liền nói:

– Thế ra chúng bay nổi loạn à ?

Nói xong, giơ tay phải cầm cái hồ rượu ném vào Vương Hà . Vương Hà chết ngay lập tức . Lư Bồ Miết truyền cho giáo sĩ bắt ngay Khánh Thăng giết đi . Khánh Xá bị thương nặng, đau quá không thể chịu được, ôm lấy cột nhà thái miếu mà rung, chuyển động cả nhà thái miếu, rồi kêu to lên một tiếng mà chết . Tề Cảnh công thấy vậy, kinh sợ toan chạy . Án Anh mật tâu rằng:

– Các quan triều thần vì tiên quân mà diệt họ Khánh để yên nước nhà, chứ không có ý gì khác cả .

Tề Cảnh công mới yên lòng, lên xe về cung . Lư Bồ Miết đem quân đi trừ họ Khánh, rồi chia giữ các cửa thành để chống nhau với Khánh Phong . Khánh Phong đi săn, về đến nửa đường, gặp người nhà đến báo tin, giận lắm, tiến quân vào phía cửa tây, nhưng trong thành canh phòng nghiêm mật, không thể phá nổi . Quân Khánh Phong dần dần bỏ trốn hết cả . Khánh Phong sợ hãi chạy sang nước Lỗ . Tề Cảnh công sai người nói với nước Lỗ, chớ nên dung nạp đứa phản nghịch . Người nước Lỗ toan bắt Khánh Phong đưa trả nước Tề . Khánh Phong nghe tin sợ hãi, chạy sang nước Ngô .

Vua Ngô là Di Muội để cho Khánh Phong ở đất Chu Phương, và cấp lương cho rất hậu, có phần hơn khi ở nước Tề, để khiến Khánh Phong dò xét tình hình nước Sở . Quan đại phu nước Lỗ là Tử Phục Hà nghe tin, báo Thúc Tôn Bảo rằng:

– Khánh Phong sang ở Ngô, lại càng giàu lắm, chẳng lẽ, trời giáng phúc cho đứa dâm nhân hay sao!

Thúc Tôn Báo nói:

– Người thiện mà giàu thì là phúc, đứa dâm mà giàu thì là hoạ . Cái họa của Khánh Phong sắp đến nơi, sao gọi là phúc được ?

Nước Tề từ khi Khánh Phong trốn thì Cao Vĩ cùng Loan Táo cầm quyền chính, mới tuyên bá tội trạng của Thôi Trữ và Khánh Phong cho người trong nước biết, rồi đem phơi thây Khánh Xá ở trong triều; lại treo giải thưởng để tìm áo quan của Thôi Trữ, hễ ai biết mà cáo tố ra thì cho một viên ngọc bích của Thôi Trữ ngày trước . Người coi ngựa nhà Thôi Trữ tham được ngọc bích, liền chỉ dẫn chỗ chôn Thôi Trữ . Đào lên thì thấy hai cái thây (Thôi Trữ và nàng Đường Khương). Tề Cảnh công toan đem cả hai cái thây ấy mà phơi ra . Án Anh can rằng:

– Hành hạ thi thể của người đàn bà là không hợp lễ .

Tề Cảnh công mới truyền đem thây Thôi Trữ căng ra giữa chợ . Người nước Tề xúm lại xem, nhiều người còn nhớ mặt, bảo nhau rằng:

– Chính là thây Thôi Trữ đó!

Các quan đại phu chia nhau các thái ấp của Thôi Trữ và Khánh Phong, thấy gia tài của Khánh Phong đều ở nhà Lư Bồ Miết, liền trị Lư Bồ Miết về tội dâm loạn, đuổi sang ở nước Bắc Yên . Lư Bồ Qúi cũng theo sang . Bao nhiêu gia tài của hai họ ấy, các quan triều thần mỗi người lấy một ít, tan nát cả, chỉ có Trần Vô Vũ không lấy một tí gì . Nhà Khánh Phong còn hơn trăm xe gỗ, các quan đại phu bàn để cho Trần Vô Vũ . Trần Vô Vũ lại đem phân phát cho người trong nước tất cả . Bởi vậy người trong nước đều ca tụng Trần Vô Vũ là người nhân đức .

Năm sau, Loan Táo chết, con là Loan Thi nối làm quan đạii phu, cùng với Cao Mại cùng cầm quyền chính . Cao Mại ghét con Cao Hậu là Cao Chỉ, và không muốn trong một nước mà hai người họ Cao đắc dụng, mới đuổi Cao Chỉ . Cao Chỉ cũng chạy sang Bắc Yên . Con Cao Chỉ là Cao Kiên chiếm giữ đất Lư Ấp . Tề Cảnh công sai quan đại phu là Lư Khâu Anh đem quân đến vây . Cao Kiên nói:

– Ta không phải làm phản, chỉ vị sợ họ Cao không có người cúng tế .

Lư Khâu Anh hứa lời lập hậu cho họ Cao . Cao Kiên bỏ trốn sang nước Tấn . Lư Khâu Anh về nói với Tề Cảnh công . Tề Cảnh công truyền lập Cao Yên để giữ việc cúng tế họ Cao . Cao Mại căm tức mà rằng:

– Sai Lư Khâu Anh đi là cốt để trừ bỏ họ Cao, nay bỏ một người lại lập một người, nào có khác gì ?

Cao Mại mật sai người giết chết Lư Khâu Anh . Các công tử như bọn Tử Sơn, Tử Thương và Tử Chu thấy vậy, đều có ý bất bình, thường thường nghị luận về việc ấy . Cao Mại giận lắm, mượn việc khác mà đuổi hết các công tử đi . Người trong nước ai cũng sợ hãi . Chưa được bao lâu, Cao Mại chết, con là Cao Cương nối làm đại phu . Cao Cương hãy còn ít tuổi, chưa được làm thượng khanh, vậy nên quyền chính nước Tề về cả một tay Loan Thi .

Bấy giờ Tấn và Sở giảng hoà, các nước đều được yên nghỉ . Quan đại phu nước Trịnh là Lương Tiêu (tên tự là Bá Hữu, con công tôn Triếp, cháu công tử Khứ Tật) đang làm thượng khanh, cầm quyền chính nước Trịnh . Lương Tiêu kiêu ngạo xa xỉ, lại thích uống rượu, mỗi bận uống rượu thường uống suốt đêm; trong khi uống rượu, không muốn tiếp một người nào, không muốn nghe một việc gì, mới sai làm một cái nhà hầm ở dưới đất, đem đồ uống rượu và nhạc khí xuống đấy để uống rượu, cả bọn gia thần đến cũng không được vào yết kiến . Một hôm đang giữa trưa, Lương Tiêu nhân khi say rượu, vào triều nói với Trịnh Giản công, định sai công tôn Hắc (tên tự là Từ Tích, con công tử Tứ, sau đổi là họ Từ) sang sứ nước Sở . Công tôn Hắc đang cùng với công tôn Hạ (tên tự là Từ Nam, con công tôn Mại) tranh nhau định lấy em gái Từ Ngô Phạm, cho nên không muốn đi xa, mới đến yết kiến Lương Tiêu để xin miễn cho việc đi sứ . Người canh cửa không cho vào mà bảo rằng:

– Quan tướng quốc đã xuống nhà hầm rồi, tôi không dám vào hầm .

Công tôn Hắc giận lắm, đêm hôm ấy cùng với Ấn Đoàn (con công tử Phong) đem quân vây nhà Lương Tiêu, rồi phóng hoả đốt cháy .

Lương Tiêu đang say rượu, người nhà vực lên xe, chạy sang đất Ung Lương (đất nước Trịnh) . Khi tỉnh rượu, nghe tin công tôn Hắc đem quân đánh mình, Lương Tiêu căm tức vô cùng . Ở Ung Lương được mấy ngày thì các gia thần dần dần kéo đến, thuật lại chuyện trong nước, nói các họ đang kết ước với nhau để chống cự họ Lương, chỉ có họ Quốc và họ Hãn là không dự vào việc ấy . Lương Tiêu mừng mà nói rằng:

– Tất thế nào họ Quốc và họ Hãn cũng có lòng giúp ta!

Nói xong, liền đem quân về đánh cửa bắc nước Trịnh . Công tôn Hắc sai cháu là Tử Đái cùng với Ấn Đoàn đem quân ra đánh . Lương Tiêu thua, trốn vào trong hàng thịt dê, bị quân Tử Đái giết chết . Bao nhiêu gia thần Lương Tiêu cũng bị giết sạch cả . Công Tôn Kiều (tên tự là Từ Sản, con công tử Phát) nghe tin Lương Tiêu chết, vội vàng đi sang Ung Lương, ôm lấy thi thể Lương Tiêu mà khóc rằng:

– Anh em cùng hại nhau! trời ơi! sao mà thảm vậy!

Công tôn Kiều thu thập thi thể bọn gia thần đem chôn chung với Lương Tiều ở thôn Đẩu Thành . Công tôn Hắc giận lắm, nói:

– Tử Sản (tức công tôn Kiều) lại vào cánh với họ Lương hay sao!

Nói đoạn toan đem quân đi đánh công tôn Kiều . Quan thượng khanh là Hãn Hổ (tên tự là Tử Bì, con công tôn Xá) can rằng:

– Từ Sản biết giữ lễ cả với người chết, huống chi là người sống! đìều lễ là gốc trong nước, giết người biết giữ lễ là không hay . Công tôn Hắc mới thôi .

Trịnh Giản công giao quyền chính cho Hãn Hổ . Hãn Hổ nói:

– Tôi không bằng Tử Sản .

Trịnh Giản công liền giao cho công tôn Kiều cầm quyền chính . Công tôn Kiều lên cầm quyền chính nước Trịnh, chính đốn pháp luật, phong tục và cách thứ làm ruộng; lại kể tội công tôn Hắc mà giết đi, đúc ra hình thư để dân biết sợ phép; lập ra hương hiệu để dân biết lỗi mình, bởi vậy người trong nước ai cũng ca tụng công đức .

Một hôm, một người nước Trịnh đi ra cửa bắc, trong khi hoảng hốt, trông thấy Lương Tiêu mình mặc áo giáp, đầu đội mũ trụ, tay cầm cái giáo, vừa đi vừa nói:

– Tử Đái và Ấn Đoàn hại ta, ta tất phải giết chết!

Người ấy về thuật chuyện với người khác, rồi thành bệnh ốm . Bấy giờ trong nước huyên truyền nhau, cho là hồn Lương Tiêu hiện lên, kéo nhau chạy trốn như chạy loạn . Chưa được bao lâu thì Tử Đái bị bệnh mà chết . Mấy ngày nữa Ấn Đoàn cũng chết . Người trong nước đều sợ, ngày đêm náo động . Công tôn Kiều nói với Trịnh Giản công, cho con Lương Tiêu là Lương Chỉ làm đại phu, để giữ việc cúng tế họ Lương; lại lập con công tử Gia là công tử Tiết . Từ bấy giờ người trong nước mới không huyên náo nữa . Chức hành nhân là Du Cát (tên tự là Tử Vũ) hỏi công tôn Kiều rằng:

– Lập hậu cho Lương Tiêu mà trong nước khỏi huyên náo là cớ làm sao ?

Công tôn Kiều nói:

– Phàm những đứa hung ác, khi chết đi thì hồn phách không tan được, hay làm tai làm quái, nếu có chỗ nương tựa thì không thế nữa . Ta lập hậu cho y là muốn cho y có chỗ nương tựa .

Du Cát nói:

– Nếu vậy thì lập Lương Chi mà thôi, cần gì phải lập đến công tôn Tiết, chẳng lẽ lại lo công tử Gia cũng hiện lên làm tai làm quái nữa sao ?

Công tôn Kiều nói:

– Lương Tiêu có tội, không nên lập hậu, nếu nhân việc làm tai làm quái mà lập hậu thì người trong nước tất mê hoặc về chuyện quỷ thần, cho nên ta mượn cớ khác mà lập hậu cả cho họ Lương và họ Khổng, để cho người trong nước khỏi mê hoặc .

Du Cát nghe nói, mới chịu phục là người giỏi .

Sái Cảnh công cưới con gái nước Sở là Vu thị làm vợ thế tử Ban, rồi lại tư thông với Vu thị . Thế tử Ban giận lắm nói:

– Cha đã chẳng ra gì thì con cần gì phải giữ đạo con!

Thế tử Ban lập kế nói dối đi săn, rồi cùng với mấy người nội thị tâm phúc phục sẵn ở trong phòn Vu thị . Sái Cảnh công tưởng là thế tử Ban đi vắng, liền đi thẳng vào phòng Vu thị . Thế tử Ban và mấy người nội thị đổ ra đâm chết, rồi sai người cáo với chư hầu là Sái Cảnh công ngộ cảm mà chết . Ban lại tự lập lên làm vua, tức là Sái Linh công .

Năm ấy trong cung nước Tống đang đêm thất hỏa . Các cung nữ trông thấy lửa cháy, bẩm với vợ vua Tống là nàng Bá Cơ (con gái nước Lỗ) để tránh ra nơi khác . Bá Cơ nói:

– Theo lễ thì người đàn bà, nếu không có phó mẫu ở bên cạnh thì đang đêm không được đi đâu cả . Dẫu lửa cháy dữ dội đến đâu, ta đây cũng không nên trái lễ .

Khi phó mẫu đến nơi thì Bá Cơ đã chết cháy rồi, người nước Tống ai cũng thương tiếc . Tấn Bình công thương nước Tống có cái công hợp thành mà lại bị hoả hoạn, mới họp chư hầu ở đất Thiên Uyên, quyên tiền để giúp nước Tống .

Năm thứ tư đời Chu Cảnh vương, Tấn và Sở vì khi trước hội thề ở nước Tống, nay lại định hội nhau ở đất Quắc (đất nước Trịnh). Bấy giờ công tử Vi nước Sở thấy Khuất Kiến làm lệnh doãn . Công tử Vi là thứ tử của Sở Cung vương, là người lớn tuổi hơn hết, tính tình ngang ngược ngạo mạn cậy tài không muốn ở dưới người . Công tử Vi thấy vua sở hèn yếu, việc gì cũng chuyên quyết cả; thấy Viễn Yên là người trung thực, thì vu cho tội phản nghịch, bắt đem giết đi mà cướp lấy nhà, lại giao kết với quan đại phu là Viễn Bãi và Ngũ Cử, để âm mưu làm những sự phản nghịch . Một hôm, công tử Vi đi săn, dùng tinh kỳ của vua Sở . Đi đến Vu Ấp, quan trấn thủ đất Vu Ấp là Thần Vô Vũ kể tội công tử Vi tiếm phận, thu lấy tinh kỳ cất vào kho, bởi vậy công tử Vi hơi nhụt . Đến bấy giờ công tử Vi sắp sang dự hội ở đất Quắc, liền nói với vua Sở, xin sang nước Trịnh trước, để định hỏi con gái họ Phong làm vợ . Lúc công tử Vi sắp đi, tâu với vua Sở là Hùng Mi rằng:

– Nước Sở ta đã xưng vương thì ngôi ở trên chư hầu . Phàm sứ thần nước Sở ra ngoài xin cho dùng lễ vua chư hầu, để cho các nước biết nước Sở là đấng tôn trọng .

Vua Sở thuận cho . Công tử Vi tiếm dùng nghi vệ của vua chư hầu có hai người cầm giáo đi dàn mặt . Khi đến địa giới nước Trịnh, người nước Trịnh tưởng là vua Sở, vội vàng phi báo với vua Trịnh .

Vua Trịnh sợ hãi, thân hành ra ngoài thành để nghênh tiếp, khi trông thấy, mới biết là công tử Vi . Công tôn Kiều thấy vậy, có ý ghét công tử Vi, sợ để hắn vào thành thì sinh biến, liền sai chức hành nhân là Du Cát từ chối rằng nhà công quán trong thành đổ nát, chưa kịp chữa lại, xin mời ở tạm ngoài thành . Công tử Vi sai Ngũ Cử vào trong thành để xin cưới con gái họ Phong . Vua nước Trịnh, thuận cho . Khi sắp cưới, công tử Vi lại nảy ra ý muốn đánh lẻn nước Trịnh, định mượn tiếng đón con gái họ Phong rồi sắm sửa xe cột rất nhiều để thừa cơ đánh Trịnh . Công tôn Kiều nói:

– Công tử Vi, là người bất trắc, ta phải bắt để quân sĩ ở cả ngoài thành rồi mới cho vào .

Du Cát nói:

– Để tôi ra thương thuyết với công tử Vi .

Du Cát ra yết kiến công tử Vi, nói rằng:

– Quan lệnh doãn (trỏ công tử Vi) định đem quân vào đón con gái họ Phong, nhưng thành nước tôi nhỏ hẹp, không thể dùng nổi, xin dọn một chỗ ở ngoài thành để làm lễ cưới .

Công tử Vi nói:

– Chúa công đã có lòng yêu tôi mà cho cưới con gái họ Phong, nếu lại đón ở ngoài thành sao cho thành lễ ?

Du Cát nói:

– Cứ theo như lễ thì đồ binh khí không được đem vào thành, nay quan lệnh doãn muốn dùng quân để đón dâu cho trọng thể thì nên bỏ binh khí đi .

Ngũ Cử mật nói với công tử Vi rằng:

– Người nước Trịnh đã phòng bị rồi, ta bỏ binh khí đi .

Ngũ Cử bèn truyền cho quân sĩ bỏ hết binh khí mà vào đón con gái họ Phong .

Lễ cưới xong, công tử Vi mới ra dự hội với chư hầu . Triệu Vũ nước Tấn cùng với các quan đại phu Tống, Lỗ, Vệ, Trần, Sái, Trịnh và Hứa đều đã có đấy cả . Công tử Vi sai người nói với Triệu Vũ rằng:

– Sở và Tấn khi trước đã hội thề với nhau, ngày nay bất tất phải sáp huyết nữa, chỉ đem hoà ước cũ mà tuyên bá lại để cho các ngài chớ quên mà thôi .

Kỳ Ngọ bảo Triệu Vũ rằng:

– Công tử Vi nói thế là có ý sợ nước Tấn ta vào sáp huyết trước, bởi vì lần trước ta nhường cho Sở, lần này Sở tất phải nhường cho ta, nếu chỉ đọc lại minh ước cũ thì bao giờ Sở cũng vẫn ở trước, ngài nghĩ thế nào ?

Triệu Vũ nói:

– Công tử Vi sang dự hội mà nghi vệ theo như vua Sở, không những chống đối với nước ngoài, mà còn có mưu gian ở trong nước, vậy ta hãy theo lời nó, để cho nó sinh kiêu .

Kỳ Ngọ nói:

– Đành vậy, nhưng lần trước Khuất Kiến cho quân sĩ mặc áo giáp ở trong để đến dự hội, may mà không xảy ra chuyện gì; nay công tử Vi lại quá hơn nữa, ngài nên phòng bị mới được .

Triệu Vũ nói:

– Việc hội chư hầu này cốt để theo cái ước bãi binh, ta chỉ biết thủ tín mà thôi, còn điều khác ta không biết .

Khi khai hội, công tử Vi xin đọc lại minh ước cũ . Triệu Vũ vâng lời . Khi tan hội, công tử Vi vội về . Các quan đại phu đều biết công tử Vi rồi sau tất nhiên làm vua nước Sở . Trong lòng Triệu Vũ vẫn lấy việc đọc lại bản ước cũ, để Sở đứng trước Tấn làm xấu hổ, sợ người ta nghị luận, mới đem cái nghĩa thủ tin, nói đi nói lại mãi cho quan đại phu các nước nghe . Khi Triệu Vũ về đi qua nước Trịnh, có quan đại phu nước Lỗ là Thúc Tôn Báo cùng đi . Triệu Vũ lại nói với Thúc Tôn Báo .

Thúc Tôn Báo nói:

– Có phải tướng công cho rằng cái ước bãi binh có thể giữ được mãi không ?

Triệu Vũ nói:

– Chúng ta giữ được ngày nào hay ngày ấy, việc gì mà lo đến chuyện lâu dài .

Thúc Tôn Báo nói riêng với quan đại phu nước Trịnh và Hàn Hổ rằng:

– Triệu Vũ sắp chết đến nơi! ta nghe lời nói thấy có ý trễ biếng lắm không nghĩ gì đến chuyện lâu dài . Vả lại Triệu Vũ chưa đầy năm mươi tuổi, mà đã bo bo như ông già tám mươi, còn sống lâu sao được!

Chưa được bao lâu thì Triệu Vũ quả nhiên ốm chết . Hàn Khởi thay cầm quyền chính nước Tấn .

Công tử Vi nước Sở về nước gặp Hùng Mi đang ốm ở trong cung, bèn vào cung hỏi thăm, giả cách nói có việc cơ mật, đuổi hết nội thị đi, rồi cởi giải mũ, buộc vào cổ Hùng Mi mà thắt . Một lúc thì Hùng Mi chết . Hùng Mi có hai con là Hùng Mô và Hùng Bình, nghe có biến cầm gươm vào đâm công tử Vi; nhưng công tử Vi sức khoẻ lắm, hai người không thể địch nổi, đều bị công tử Vi giết chết . Em Hùng Mi là Hùng Tị (tên tự là Tử Can) và Hùng Hắc Quang (tên tự là Tử Tích) nghe tin cha con Hùng Mi bị hại, sợ mắc tai vạ, đều trốn đi cả . Hùng Tị trống sang nước Tấn . Hùng Hắc Quang trốn sang nước Trịnh .

Công tử Vi báo tang với chư hầu rằng:

– “Vua nướcc tôi là Hùng Mi thất lộc đi, quan đại phu là công tử Vi là người thừa kế”.

Ngũ Cử đổi lại rằng:

– “Các con vua Cung vương tôi thì có công tử Vi nhiều tuôi hơn cả”.

Bấy giờ công tử Vi lên làm vua, đổi tên là Hùng Kiền, tức là Sở Linh vương . Sở Linh vương cho Viễn Bãi làm lệnh doãn, Trịnh Đan làm hữu doãn, Ngũ Cử làm tả doãn, Đấu Thành Nhiên làm giao doãn . Quan thái tể là Bá Châu Lê, bấy giờ đang có việc công ở đất Giáp . Sở Linh vương sợ Bá Châu Lê không phục, sai người đi giết chết, rồi cho Viễn Khải Cương làm quan thái tể . Lại lập trưởng tử là Hùng Lộc lên làm thế tử . Sở Linh vương từ khi đắc chí lại càng kiêu căng, ngang ngược, muốn làm bá chủ ở trung nguyên, sai Ngũ Cử sang nước Tấn đòi họp chư hầu; lại nghĩ con gái họ Phong hèn hạ, không đáng làm phu nhân, mới sai người sang cầu hôn ở nước Tấn, Tấn Bình công thấy Triệu Vũ mới mất, sợ thế nước Sở, không dám trái ý, điều gì cũng nghe cả . Năm ấy Trịnh Giản công và Hứa Điệu công sang nước Sở . Sở Linh vương lưu lại để đợi tin báo của Ngũ Cửu . Khi Ngũ Cửu về Sở, nói vua Tấn thuận cả hai việc . Sở Linh vương bằng lòng, sai sứ ước với chư hầu đến tháng ba năm sau thì đại hội ở đất Thân . Trịnh Giản công xin đến đất Thân trước, để nghênh tiếp chư hầu . Sở Linh vương thuận cho . Mùa xuân năm sau, chư hầu lục tục đến dự hội, chỉ có Lỗ và Vệ mượn cớ khác từ chối không đến . Nước Tống sai quan đại phu là Hướng Thú đi thay, còn các nước nhỏ như Sái, Trần, Từ và Đằng đều đến cả . Sở Linh vương đem quân đến đất Thân . Chư hầu đều lại yết kiến .

Quan tả doãn là Ngũ Cửu tâu rằng:

– Tôi nghe nói muốn làm bá chủ, tất phải được lòng chư hầu; muốn được lòng chư hầu, tất phải giữ lễ . Nay đại vương mới hội chư hầu, có Hướng Thú nước Tống và công tôn Kiều nước Trịnh đều là người biết lễ, ta càng phải nên cẩn thận mới được .

Sở Linh vương nói:

– Đời xưa, lễ hội chư hầu như thế nào ?

Ngũ Cửu nói:

– Vua Khải nhà Hạ hội chư hầu ở Quân Đài, vua Thang nhà Thương hội chư hầu ở Cảnh Bạc, vua Vũ vương nhà Chu hội chư hầu ở Mạch Tân, vua Thành vương hội chư hầu ở Kỳ Dương, vua Khang vương hội chư hầu ở Phong cung, vua Mục vương hội chư hầu ở Đồ Sơn, Tề Hoàn công hội chư hầu ở Thiệu Lăng, Tấn Văn công hội chư hầu ở Tiễn Thổ . Sáu vua thiên tử và hai vua chư hầu ấy làm cuộc hội minh, đều có đặt ra lễ, tuỳ ý đại vương chọn đấy mà dùng .

Sở Linh vương nói:

– Nay ta muốn làm bá chủ thì nên dùng lễ của Hoàn công nước Tề hội chư hầu ở Thiệu Lăng, nhưng chẳng hay lễ ấy thế nào ?

Ngũ Cửu nói:

– Tôi nghe nói Hoàn công nước Tề đánh được Sở lui quân về Thiệu Lăng . Nước Sở sai quan đại phu Khuất Hòan sang quân Tề . Vua Hoàn công dàn quân tám nước để cho Khuất Hoàn biết là Tề cường thịnh, rồi mới họp chư hầu cùng với Khuất Hoàn cùng thề . Nay chư hầu mới phục, đại vương cũng nên phô trương thế lực, khiến cho chư hầu sợ hãi, không còn nước nào dám trái mệnh nữa .

Sở Linh vương nói:

– Ta muốn dùng binh để ra uy với chư hầu, bắt chước như việc Hoàn công nước Tề đánh Sở khi xưa, chẳng hay trước hết nên đánh nước nào ?

Ngũ Cửu nói:

– Khánh Phong nước Tề giết vua, trốn sang nước Ngô; nước Ngô đã không trị tội lại cấp lương vào cho ở đất Chu Phường, khiến cho hắn lại giàu có hơn trước, bởi vậy người nước Tề oán giận lắm! nước Ngô là cừu địch với ta, nếu ta mượn tiếng hỏi tội Khánh Phong mà đem quân đánh Ngô thì thật là nhất cử lữơng đắc .

Sở Linh vương khen phải, liền dàn quân để doạ chư hầu, rồi hội thề ở đất Thân . Sở Linh vương thấy mẹ vua nước Từ là con gái nước Ngô, nghi vua Từ cùng cánh với nước Ngô, bắt giam lại trong ba ngày . Vua Từ xin đi hướng đạo để đánh Ngô . Sở Linh vương mới tha cho rồi sai quan đại phu là Khuất Thân, đem quân chư hầu đi đánh Ngô, vây đất Chu Phương, bắt KhánhPhong và giết hết gia thuộc . Khuất Thân nghe nói người nước Ngô có phòng bị, liền thu quân về, đem Khánh Phong nộp Sở Linh vương, Sở Linh vương toan giết Khánh Phong để tuyên bá cho chư hầu biết .

Ngũ Cửu can rằng:

– Mình không có điều gì trái thì mới để tội người khác được, nếu ta giết Khánh Phong thì tất thế nào hắn cũng quai mồm kể xấu ta .

Sở Linh vương không nghe, truyền trói Khánh Phong đem ra trước hàng quân, kề dao vào cổ, rồi bắt Khánh Phong phải tự mình kể tội mình rằng: “quan đại phu các nước nghe ta nói: chớ ai như Khánh Phong nước Tề, giết vua đi rồi hiếp con mồ côi mà hội thể với các quan đại phu”.

Khánh Phong quát to lên rằng:

– Quan đại phu các nước có nghe ta nói: “Chớ ai như thứ tử Sở Cung vương, tên là Vi, giết vua là Hùng Mi, rồi cướp lấy ngôi vua mà hội thề với chư hầu”.

Các người đứng xem, đều bưng miệng cười . Sở Linh vương hổ thẹn, truyền giết ngay Khánh Phong . Sở Linh vương tự đất Thân trở về nước Sở, thấy Khúât Thân ở đất Chu Phương đã rút quân trở về, không chịu tiến binh, liền nghi là tư thông với Ngô, bắt đem giết đi, rồi cho Khuất Sinh (con Khuất Kiến) thay làm quan đại phu . Viễn Bãi sang nước Tấn đón nàng Cơ thị về, lập làm Sở Linh vương phu nhân . Năm ấy, vua Ngô là Di Muội đem quân đánh Sở, tiến vào đất Cúc, đất Linh và đất Ma, để báo thù trận đánh ở Chu Phương . Sở Linh vương giận lắm, đem quân chư hầu sang đánh Ngô .

Vua nước Việt là Doãn Thường giận nước Ngô hay sang quấy nhiễu, cùng quan đại phu là Thường Thọ Qúa đem quân đến hội với nước Sở . Tướng nước Sở là Viễn Khải Cương đi tiên phong, đem quân thủy đến Thước Ngạn, bị người nước Ngô phá vỡ . Sở Linh vương thân hành đem đại quân đến đất La Nhuế . Vua Ngô là Di Muội sai người em họ là Quệ Do đến khao thưởng quân sĩ nước Sở . Sở Linh vương giận lắm, bắt Quệ Do, toan giết để lấy máu bôi vào mặt trống trận nhưng sai sứ giả ra hỏi trước một câu rằng:

– Khi nhà ngươi sang đây, có bói xem tốt xấu thế nào không ?

Quệ Do nói:

– Bói được qủe tốt lắm!

Sứ giả nói:

– Đại vương ta định lấy máu nhà ngươi đem bôi mặt trống, còn tốt về nỗi gì!

Quệ Do nói:

– Nước tôi chỉ bói việc chung của nhà nước chứ có bói sự xấu tốt riêng của một người đâu! chúa công tôi sai tôi sang tới đây khao thưởng quân sĩ là để dò xem đại vương nóng nảy hay là khoan hoà mà nghĩ cách đối đãi . Đại vương vui vẻ mà nghênh tiếp sứ thần thì nước tôi sinh lòng trễ biếng, tất có ngày phải suy mất; nếu dùng máu sứ thần mà bôi mặt trống, thì nước tôi biết là đại vương căm tức, mà hết sức phòng bị thì chắc là đủ sức để chống với đại vương, còn gì tốt hơn điều ấy!

Sở Linh vương nói:

– Người ấy thật là hiền sĩ!

Nói xong, liền tha cho về, Sở Linh vương đem quân đến địa giới nước Ngô, thấy nước Ngô phòng bị nghiêm mật lắm, không thể đánh nổi, liền rút quân về . Bây giờ Sở Linh vương mới thở dài mà nói rằng:

– Ngày trước ta giết oan Khuất Thân!

Sở Linh vương từ khi về nước, xấu hổ về việc đánh trận vô công, mới bày ra việc thổ mộc, muốn đem của cải và công binh để khoe với chư hầu . Sở Linh vương truyền làm một cái cung gọi là cung Chương Hoa, dài rộng bốn mươi dặm; ở giữa xây một cái đài cao, trông ra bốn mặt, gọi là Chương Hoa đài, cũng gọi là Tam Hưu đài .

Trong cái cung ấy cửa nhà rất là mỹ lệ, cho dân chúng ở chung quanh . Bao nhiêu kẻ có tội trốn đi, đều gọi cho về ở đấy . Khi làm xong cái cung ấy, Sở Linh vương sai sứ đi triệu chư hầu đến để khánh thành.

Chương 68: Tấn Bình Công thích nghe âm nhạc – Trần Vô Vũ chịu phóng gia tài

Sở Linh vương có tính thiên là yêu người lưng nhỏ . Bất cứ trai gái, phàm người nào vòng lưng thô lớn thì Sở Linh vương ghét, không muốn nhìn . Khi đã dựng xong cung Chương Hoa, liền truyền những gái đẹp có vòng lưng nhỏ, cho vào ở đấy, lại đặt tên là Tế Yêu cung . Các cung nhân muốn được Linh vương yêu, đều ăn ít hoặc nhịn đói để cho lưng nhỏ lại, thậm chí có người đói quá, đến nỗi chết mà cũng đành . Người trong nước bắt chước, đều cho lưng to là xấu, không ai dám ăn no; dẫu các quan trong khi triều, cũng dùng dây nịt thắt chặt lại để cho vua khỏi ghét . Linh vương luôn ở Tế Yêu cung, ngày đêm uống rượu mua vui, tiếng ca tiếng nhạc không lúc nào ngớt . Một hôm, Linh vương đang uống rượu ở trên đài, bỗng thấy ở dưới đài có tiếng huyên náo, lúc sau thì Phan Tử Thần điệu một viên quan đến trước mặt nhà vua Linh vương nhìn xem ai thì là quan trấn thủ ở Vu Ấp tên gọi Thân Vô Vũ . Linh vương kinh hãi hỏi cớ gì .

Phan Tử Thần nói:

– Thân Vô Vũ không phụng mệnh mà dám tự tiện vào chốn vương cung, bắt tên lính canh, thế là một người vô lễ, vậy nên tôi bắt giải tới đây, để đại vương trị tội .

Linh vương hỏi Thân Vô Vũ rằng:

– Nhà ngươi bắt ai vậy ?

Thân Vô Vũ nói:

– Tôi bắt một tên lính canh của tôi . Nguyên trước tôi sai nó canh cửa, nó lấy trộm tửu khí của tôi, rồi trèo tường trốn đi; tôi tìm đã hơn một năm nay mà không bắt được, bây giờ nó sung vào làm lính canh ở đây, vậy nên tôi bắt .

Linh vương nói:

– Hắn đã làm lính canh ở đây thì nhà ngươi nên tha cho hắn .

Thân Vô Vũ nói:

– Tôi nghe nói trong một nước có người trên kẻ dưới, kẻ dưới có phục tùng người trên thì nước mới khỏi loạn . Tôi có một tên lính canh cửa mà tôi không thi hành được pháp lệnh, khiến nó ẩn núp vào chỗ vương cung . Một đứa như vậy mà có chỗ ẩn núp, thì trộm cướp sẽ hoành hành còn ai ngăn cấm được nữa . Chẳng thà tôi chịu tội chết, chứ không dám vâng mệnh .

Sở Linh vương khen phải, liền bắt tên lính ấy giao giả Thân Vô Vũ và xá cái tội tự tiện vào chốn vương cung . Thân Vô Vũ lạy tạ, lui ra .

Qua mấy ngày nữa, quan đại phu nước Sở là Viễn Khải Cương sang nước Lỗ, mời được Lỗ Chiêu công đến nước Sở . Linh vương mừng lắm . Viễn Khải Cương tâu rằng:

– Vua Lỗ lúc trước không chịu đi, tôi đem cái tình hoà hiếu của Lỗ Thành công khi trước với quan đại phu nước ta là Anh Tề hai người cùng nhau hội thề ở đất Thục, mà kể lại hai ba lần và lấy nạn binh đao ra dọa, bấy giờ vua Lỗ mới sợ mà phải đi . Vua Lỗ là người hiểu lễ phép lắm, xin đại vương phải lưu tâm, chớ để cho vua Lỗ chê cười .

Linh vương hỏi:

– Vua Lỗ là người thế nào ?

Viễn Khải Cương nói:

– Vua Lỗ mặt trắng mình cao, râu dài hơn thước, rất là uy nghi .

Sở Linh vương liền mật truyền chọn lấy mười người to lớn râu dài, cho đội mũ mặc áo thật đẹp bắt tập lễ trong ba ngày, rồi sai làm chức thấn tướng, để ra tiếp kiến Lỗ Chiêu công .

Lỗ Chiêu công thoắt thấy thì lấy làm lạ, trong lòng tấm tắc mãi bèn cùng với người ấy vào chơi cung Chương Hoa . Khi vào đến cung Chương Hoa, Lỗ Chiêu công trông thấy lâu đài mỹ lệ, thì khen ngợi không ngớt mồm! Sở Linh vương hỏi rằng:

– Bên quí quốc có cái cung nào đẹp như thế này không ?

Lỗ Chiêu công đứng khúm núm mà đáp lại rằng:

– Nước tôi nhỏ mọn có đâu dám sánh với quí quốc .

Sở Linh vương không khỏi lộ vẻ tự kiêu, bèn cùng với Lỗ Chiêu công trèo lên Chương Hoa đài . Đài cao chót vót, mỗi tầng lại có một bọn mỹ đồng múa hát và chuốc rượu; khi lên đến tầng cao nhất, tiếng tơ tiếng trúc, nghe văng vẳng như ở lưng chừng trời, chẳng khác gì một nơi thiên tiên động phủ . Lỗ Chiêu công uống rượu say, cáo từ lui ra . Sở Linh vương đem một cái cung Đại Khuất đưa tặng Lỗ Chiêu công. Hôm sau, Sở Linh vương nghĩ đếnc cái cung ấy, lại có ý tiếc mới nói chuyện với Viễn Khải cương . Viễn Khải Cương nói:

– Tôi xin báo vua Lỗ trả lại cái cung ấy .

Viễn Khải Cương liền đến yết kiến Lỗ Chiêu công, giả cách không biết mà hỏi rằng:

– Hôm qua nhà vua ngự tiệc với đại vương tôi, đại vương tôi có tặng nhà vua cái gì không ?

Lỗ Chiêu công đưa cái cung cho Viễn Khải Cương xem . Viễn Khải Cương trông thấy cái cung, sạp lạy mà chúc mừng, Lỗ Chiêu công nói:

– Làm gì một cái cung mà phải chúc mừng ?

Viễn Khải Cương nói:

– Cái cung này có danh tiếng lắm . Khi trước Tề, Tấn và Việt đều sai người đến cầu, mà đại vương tôi vẫn không cho ai cả, ngày nay lại đưa tặng nhà vua, tất thế nào Tề, Tấn và Việt cũng có lòng ghen tức; qúi quốc nên phòng bị ba nước kia mà giữ lấy của báu này, vậy tôi xin chúc mừng .

Lỗ Chiêu công có ý buồn mà nói rằng:

– Tôi không biết cái cung này qúi đến thế, nếu vậy thì tôi không dám nhận .

Lỗ Chiêu công liền sai người đem cái cung ấy trả lại Sở Linh vương, rồi cáo từ về . Ngũ Cử nghe thấy chuyện ấy, thở dài mà nói rằng:

– Đại vương ta khó lòng mà toàn được! vì viẹc khánh thành, sai sứ đi triệu chư hầu, không nước nào chịu đến, chỉ có một mình nước Lỗ, mà lại còn tiếc một cái cung để thất tín với người ta . Đã tiếc của mình như thế tất muống lấy của người, tài nào không có kẻ thù oán, giữ sao cho toàn được !

Tấn Bình công nghe tin nước Sở vì việc khánh thành cung Chương Hoa mà sai sứ đi triệu chư hầu mới bảo các quan đại phu rằng:

– Sở là một nước rợ mọi mà còn biết đem lâu đài mỹ lệ khoe với chư hầu, huống chi nước Tấn ta lại chịu kém hay sao!

Quan đại phu là Dương Thiệt Bật nói:

– Bá chủ mà được chư hầu tâm phục là cốt ở đức, chứ không ở lâu đài . Cung Chương Hoa là một điều dở của nước Sở, sao chúa công lại muốn bắt chước ?

Tấn Bình công không nghe, liền sai dựng một cái cung ở bên sông Phần, thuộc địa giới Khúc Ốc, làm theo kiều cung Chương Hoa nước Sở, to lớn không bằng, nhưng tinh xảo thì có phần hơn, đặt tên là Kỳ cung; cũng sai sứ đi bá cáo chư hầu . Các vua chư hầu nghe tin ấy, đều lấy làm chê cười, nhưng cũng phải sai sứ đến chúc mừng . Chỉ có Trịnh Giản công khi trước sang dự hội với Sở Linh vương, chưa đến triều nước Tấn bao giờ và Vệ Linh công mới lên nối ngôi cũng chưa đến triều nước Tấn, hai vua ấy đều định nhân việc khánh thành Từ Kỳ cung để thân hành đến yết kiến Tấn Bình công . Vệ Linh công đi đến sông Bộc Thủy, trời tối, nằm ngủ ở quán xá . Đêm hôm ấy, nằm mãi không ngủ được, nghe văng vẳng có tiếng đàn cầm, liền khóac áo trở dậy, ngồi tựa gối mà nghe . Tiếng đàn ty tỷ rất nhỏ mà có thể nghe rõ được, xưa nay chưa có ai gảy được như thế! Vệ Linh công hỏi các người xung quanh thì đều tâu là không nghe thấy tiếng gì cả .

Vệ Linh công vốn là người thích âm nhạc có quan thái sư tên là Quyên, tinh nghề âm nhạc, Vệ Linh công yêu lắm, đi đâu cũng đem đi theo, bấy giờ sai người triệu Sư Quyên (tức là quan thái sư tên là Quyên) . Sư Quyên đến . Tiếng đàn vẫn chưa dứt, Vệ Linh công bảo Sư Quyên rằng:

– Nhà ngươi thử lắng tai nghe, tựa hồ tiếng ma qủi .

Sư Quyên nghe một hồi lâu thì tiếng đàn im .

Sư Quyên nói:

– Tôi đã nhận được đại lược rồi . Nếu nghe thêm một đêm nữa thì tôi có thể gảy được .

Vệ Linh công truyền ở thêm lại một đêm nữa . Nửa đêm hôm ấy, lại nghe có tiếng đàn . Sư Quyên lấy đàn cầm mà tập gảy theo, bắt chước được hết cái thần diệu của tiếng đàn . Khi đến nước Tấn, triều kiến xong rồi, Tấn Bình công bày tiệc ở trên đài Từ Kỳ để thết đãi Vệ Linh công .

Rượu đã ngà ngà say, Tấn Bình công nói với Vệ Linh công rằng:

– Tôi vẫn nghe noi nước Vệ có Sư Quyên là người tinh nghề âm nhạc, chẳng hay nhà vua có cho theo đó không ?

Vệ Linh công nói:

– Hiện đang đứng ở dưới đài .

Tấn Bình công nói:

– Cho gọi lên đây .

Vệ Linh công bèn cho gọi Sư Quyên lên . Tấn Bình công cũng cho gọi Sư Khoáng đến . Người hầu tức khắc dắt Sư Khoáng đến . Sư Quyên và Sư Khoáng hai người chào nhau . Tấn Bình công cho Sư Khoáng ngồi, rồi bảo Sư Quyên ngồi ở bên cạnh Sư Khoáng, và hỏi Sư Quyên rằng:

– Độ này có khúc âm nhạc nào mới không ?

Sư Quyên nói:

– Mới rồi trong khi đi đường, tôi có được nghe một khúc đàn, xin cho tôi mượn cây đàn cầm để gảy .

Tấn Bình công sai người bắc ghế, đem một cây đàn cầm để ở trước mặt Sư Quyên . Sư Quyên lên dây gảy . Mới gảy được mấy tiếng, Tấn Bình công đã khen hay . Khi gảy đến nửa chừng, Sư Khóang lấy tay gạt đi mà bảo rằng:

– Thôi thôi, khúc nhạc vong quốc ấy chớ nên gảy!

Tấn Bình công nói:

– Tại sao biết ?

Sư Khoáng nói:

– Về cuối đời nhà Ân, có Sư Diên là quan âm nhạc, cùng với vua Trụ làm ra khúc nhạc uỷ mị, vua Trụ nghe lấy làm thích lắm, tức là khúc này . Đến khi Vũ vương ta đánh vua Trụ, Sư Diên ôm đàn chạy về phía đông, nhảy xuống sông Bộc Thuỷ . Từ bấy giờ có ai thích âm nhạc đi qua đấy thì lại có tiếng đàn văng vẳng ở dưới nước . Khúc này Sư Quyên nghe được ở trong khi đi đường, tất là khúc đàn ở trên sông Bộc .

Vệ Linh công nghĩ thầm lấy làm lạ . Tấn Bình công lại bảo Sư Khóang rằng:

– Đó là âm nhạc của đời trước, dẫu gảy nghe chơi, phỏng có hại gì!

Sư Khoáng nói:

– Vua Trụ vì mê khúc đàn ấy mà đến nỗi mất nước, đó là một thứ âm nhạc bất tường, vậy chớ nên gảy .

Tấn Bình công nói:

– Ta thích nghe âm nhạc mới, Sư Quyên hãy vì ta gảy nốt khúc đàn ấy .

Sư Quyên lại lựa dây rồi gảy nốt khúc đàn ấy . Tiếng đàn êm ái, lên bổng xuống trầm, như than như khóc .

Tấn Bình công bằng lòng, hỏi Sư Khoáng rằng:

– Khúc đàn này là điệu gì ?

Sư Khoáng nói:

– Đó là điệu Thanh thương .

Tấn Bình công nói:

– Điệu Thanh thương nghe bi ai như thế à ?

Sư Khoáng nói:

– Điệu Thanh thương dẫu bi ai, cũng chưa bằng điệu Thanh chuỷ .

Tấn Bình công nói:

– Nhà ngươi có thể gảy cho ta nghe điệu Thanh chuỷ được không ?

Sư Khoáng nói:

– Không nên! ông vua có đức mới được nghe điệu ấy, nay chúa công bạc đức, không nên nghe .

Tấn Bình công nói:

– Ta thích nghe âm nhạc mới, nhà ngươi chớ nên chối từ .

Sư Khoáng bất đắc dĩ phải cầm lấy đàn mà gảy . Mới gảy được một khúc, thì có một đàn chim hạc ở phương nam bay đến, đậu trước cung môn, đếm cả thảy được tám đôi . Gảy khúc nữa thì chim hạc bay xuống, đứng sắp hàng ở dưới thềm, mỗi bên tám con . Gảy thêm khúc nữa thì chim hạc vỗ cánh mà múa, vươn cổ mà kêu, theo vần cung thương, tiếng vang đến tận trời . Tấn Bình công vỗ tay mà khen . Các người đứng xem ai cũng lắc đầu lè lưỡi, lấy làm sự lạ . Tấn Bình công truyền lấy chén bạch ngọc, rót đầy rượu vào, rồi đứng dậy cầm đưa cho Sư Khoáng . Sư Khoáng đỡ lấy uống .

Tấn Bình công khen rằng:

– Âm nhạc đến như điệu Thanh chuỷ thì không còn gì hơn nữa!

Sư Khóang nói:

– Còn chưa bằng điệu Thanh dốc .

Tấn Bình công ngạc nhiên mà hỏi rằng:

– Lại còn có điệu hay hơn Thanh thuỷ nữa! sao nhà ngươi không cho ta nghe nốt ?

Sư Khóang nói:

– Điệu Thanh dốc không như điệu Thanh chuỷ, tôi không dám gảy . Ngày xưa vua Hoàng đến hội các thần ở núi Thái Sơn, rồi làm ra điệu Thanh dốc; vua đời sau đức bạc, không sai khiến được các thần, vậy nên thần và người cách biệt nhau . Nếu bây giờ gảy khúc ấy thì các thần lại hiện xuống cả, không khéo thì có tai vạ .

Tấn Bình công nói:

– Ta nay đã già rồi, nếu được nghe điệu Thanh dốc mà chết thì cũng thoả lòng!

Sư Khóang nhất định không chịu gảy . Tấn Bình công đứng dậy, hai ba lần cố ý nài ép . Sư Khoáng bất đắc dĩ lại phải ômg cầm mà gảy . Mới gảy một khúc, có đám mây đen ở phương tây hiện lên; gảy khúc nữa thì bỗng nổi một cơn dông, bao nhiêu ngói ở trên nóc điện bay tung lên và cột hiên gãy hết, lại thấy có tiếng sét dậy trời, rồi mưa như trút nước . Dưới đài ngập mấy thước, trong đài chỗ nào cũng ước cả, Tấn Bình công sợ hãi, cùng với Vệ Linh công nằm phục vào một nơi . Khi mưa gió đã im lặng rồi, nội thị mới vực Tấn Bình công và Vệ Linh công ở trên đài xuống . Đêm hôm ấy, Tấn Bình công vì sợ mà thành bệnh, nằm mộng thấy một vật sắc vàng, to bằng cái xe, lù lù đến trước mặt . Trông kỹ ra thì hình như con ba ba, phía trước hai chân, phía sau một chân, đi dến đâu thì nước tuôn ra đến đấy . Tấn Bình công kêu lên một tiếng, rồi giật mình tỉnh dậy .

Sáng hôm sau, các quan vào cung vấn an . Tấn Bình công kể chuyện chiêm bao cho các quan nghe . Các quan đều không hiểu ra làm sao cả . Được một lúc, nghe báo có Trịnh Giản công đến, hiện đã ở ngoài công quán . Tấn Bình công sai Dương Thiệt Bật ra tiếp kiến . Dương Thiệt Bật mừng mà nói rằng:

– Nếu vậy thì cái mộng của chúa công có thể đóan ra được .

Các quan đều xúm lại hỏi cớ . Dương Thiệt Bật nói:

– Quan đại phu nước Trịnh là Tử Sản (tên tự của công tôn Kiều) vốn người học rộng biết nhiều, tất thế nào vua Trịnh cũng cho người ấy đi theo . Ta sẽ đem mộng của chúa công ta mà hỏi người ấy .

Dương Thiệt Bật ra tiếp kiến Trịnh Giản công và nói cho Trịnh Giản công biết là vua Tấn có bệnh, không thể ra tiếp kiến được . Bấy giờ Vệ Linh công cũng vì sợ mà hơi mệt trong mình, mới cáo từ về nước . Trịnh Giản công cũng cáo từ xin về, cho công tôn Kiều ở lại, để hỏi han bệnh tình của Tấn Bình công . Dương Thiệt Bật hỏi công tôn Kiều rằng:

– Chúa công tôi nằmg mộng thấy một vật hình như con ba ba, mình vàng mà ba chân, không hiểu là thế nào ?

Công tôn Kiều nói:

– Ngày xưa vua Nghiêu sai ông Cổn đi trị thuỷ, ông Cổn làm không được việc, vua Nghiêu mới chặt một chân mà đem đầy ra Đông Hải . Về sau, hồn ông Cổn hóa làm con rồng vàng . Từ khi con ông Cổn là Vũ lên nối ngôi, cho đến bây giờ vẫn tế thần ấy; nhà Chu suy đồi, quyền chính ở bá chủ, bá chủ nên giúp thiên tử để tế các thần, hoặc giả vua Tấn bấy giờ chưa tế thần ấy chăng ?

Dương Thiệt Bật đem lời công tôn Kiều tâu lại với Tấn Bình công . Tấn Bình công sai quan đại phu là Hàn Khởi đi tế thần Cổn, bấy giờ bệnh mới hơi bớt . Tấn Bình công khen công tôn Kiều rằng:

– Tử Sản thật là một người bác vật!

Khi công tôn Kiều sắp về nước Trịnh, thì nói riêng với Dương Thiệt Bật rằng:

– Nhà vua không biết thương dân mà lại bắt chước sự xa xỉ của nước Sở, thế là cái tâm đã thiên đi rồi, nếu cơn bệnh trở lại, thì không cứu được nữa! mới rồi, tôi nói chuyện thần Cồn là muốn mượn chuyện ấy để khiến cho nhà vua được nguôi lòng đó mà thôi .

Bấy giờ có người hành khách đang buổi sáng sớm đi qua đất Ngụy Du (đất nước Tấn), nghe ở dưới chân núi có tiếng mấy người họp bàn việc nước Tấn; khi tới gần, nom kỹ thì chẳng thấy người nào cả, chỉ có hơn chục viên đá mà thôi . Đi khỏi rồi, lại nghe thấy như trước . Người ấy vội vàng ngảnh cổ lại thì ra tiếng nói ở trong viên đá mà ra, mới giật mình kinh sợ, rồi thuật chuyện lại cho người ở đấy biết . Người bản xứ nói:

– chúng tôi nghe thấy đá nói đã mấy ngày nay rồi, chỉ vì chuyện quái dị nên không dám nói đến .

Sau có tiếng đồn đến Giáng Đô (kinh thành nước Tấn). Tấn Bình công triệu Sư Khóang đến mà hỏi rằng:

– Tại sao đá lại biết nói ?

Sư Khóang tâu rằng:

– Đó tất là quỷ thần xui khiến ra như vậy . Quỷ thần dựa vào dân, dân có yên thì quỷ thần mới yên, nay chúa công sửa sang lâu đài, khiến cho dân tốn tiền hao sức, bởi thế mà đá biết nói .

Tấn Bình công nín lặng . Sư Khóang lui ra, bảo Dương Thiệt Bật rằng:

– Thần và nguời đều oán giận cả thì chúa công chắc không sống lâu được .

Được hơn một tháng nữa, Tấn Bình công lại ốm nặng rồi chết . Các quan triều thần lập thế tử Di lên nối ngôi, tức là Tấn Chiêu công .

Lại nói đến chuyện quan đại phu nước Tề là Cao Mại đuổi Cao Chỉ và giết Lư Khâu Anh, cả triều ai cũng không bằng lòng, đến đời con là Cao Cương nối cha làm chức đại phu, đang ít tuổi mà lại nghiện rượu, bấy giờ Loan Thi cũng nghiện rượu, bởi vậy hai người rất là tương đắc với nhau, mà không có ý thân thiết với Trần Vô Vũ và Bão Quốc . Bốn họ Cao, Loan, Trần, Bão ấy chia làm hai cánh . Họ Cao cùng họ Loan, mỗi khi họp nhau uống rượu say, lại nói xấu họ Trần và họ Bão . Họ Trần và họ Bão biết chuyện, mới đem lòng nghi kỵ họ Cao và họ Loan .

Một hôm, Cao Cương nhân khi say rượu, đánh đứa hầu trai . Loan Thi đã không xin hộ, lại xúc thêm vào . Đứa hầu trai căm tức, đêm hôm ấy sang báo với Trần Vô Vũ rằng:

– Họ Cao cùng họ Loan đang họp quân, để định đến sáng ngày mai thì sang đánh họ Trần và họ Bão .

Nói xong, nó lại sang báo với Bão Quốc . Bão Quốc tin lời, vội vàg sai đứa hầu đến ước với Trần Vô Vũ để cùng đánh họ Cao và họ Loan . Trần Vô Vũ tức khắc trao áo giáp cho bọn người nhà rồi cùng lên xe, định sang nhà Bão Quốc . Đi đến nửa đường, gặp Cao Cương đang đi xe . Cao Cương đã ngà ngà say, ngồi trên xe chắp tay chào và hỏi rằng:

– Đem người nhà mặc áo giáp đi đâu ?

Trần Vô Vũ nói:

– Tôi đi bắt một đứa đầy tớ làm phản .

Trần Vô Vũ lại hỏi Cao Cương rằng:

– Ngài định đi đâu ?

Cao Cương nói:

– Tôi định sang uống rượu với họ Loan .

Trần Vô Vũ từ biệt Cao Cương, rồi thẳng tới nhà Bão Quốc, đã thấy Bão Quốc đang họp quân để sắp đi . Trần Vô Vũ thuật lại lời Cao Cương cho Bão Quốc nghe và nói với Bão Quốc rằng:

– Không biết hắn có sang uống rượu với họ Loan thật không ? Âu là ta thử sai người đi dò xem .

Bão Quốc sai người nhà sang dò thám nhà Loan . Người nhà về báo rằng:

– Họ Cao và họ Loan đang cởi hết cả mũ áo ra, rồi cùng nhau ngồi xổm uống rượu .

Bão Quốc nói:

– Nếu vậy thì đứa hầu kia nói càn rồi .

Trần Vô Vũ nói:

– Đứa tiểu thụ dẫu nói càn, nhưng Cao Cương gặp ta ở giữa đường, thấy ta đem quân đi, có hỏi ta đi đâu thì ta trả lời là đi đánh đứa đầy tớ làm phản . Nay Cao Cương thấy ta không đánh ai cả, tất sinh lòng nghi, hoặc lập mưu mà đuổi ta trước thì bấy giờ ta hối lại sao kịp, chi bằng ta nhân lúc này hắn uống rượu say mà đánh trước thì hơ .

Bão Quốc khen phải, tức khắc cùng với Trần Vô Vũ đem quân đến nhà Loan thi, vây kín cả bốn mặt . Loan Thi đang cầm chén rượu sắp uống, nghe tin họ Trần và họ Bão đem quân đến vây, thì giật mình kinh hãi, đánh rơi chén rượu xuống đất . Cao Cương dẫu say rượu, nhưng còn có chủ kiến, bảo Loan Thi rằng:

– Chúng ta vào triều, phụng mệnh chúa công để đánh họ Trần và họ Bão thì tất phải được .

Loan Thi tức khắc cùng với Cao Cương đem quân mở cửa sau, phá vòng vây chạy vào tới cung môn . Trần Vô Vũ và Bão Quốc đem quân đuổi theo . Tề Cảnh công ở trong cung, thấy bốn họ đem quân kéo đến, không biết là việc gì, vội vàng truyền cho quân sĩ đóng chặt cửa Hổ Môn lại . Cao Cương và Loan Thi không được vào, mới đóng quân ở bên hữu Hổ Môn . Trần Vô Vũ và Bão Quốc cũng đóng quân ở bên tả . Hai bên cùng chống giữ nhau . Được một lúc thì Án Anh đi xe đến . Bốn họ đều sai người gọi .

Án Anh không ngảnh lại, nói rằng:

– Tôi chỉ biết theo mệnh vua, không dám có ý riêng với ai cả .

Quân sĩ mở cửa cho Án Anh vào . Án Anh vào yết kiến Tề Cảnh công . Tề Cảnh công hỏi rằng:

– Nay bốn họ cùng đánh nhau, đem quân tới đây, ta nên xử ra thế nào ?

Án Anh nói:

– Họ Cao và họ Loan chuyên quyền cậy thế, kể đã lâu ngày, đuổi Cao Chi, giết Lư Khâu Anh, người trong nước ai cũng tức giận, nay lại đem quân tiến vào Hổ Môn, tội ấy không thể tha được; còn họ Trần và họ Bão chưa phụng mệnh vua mà dám đem quân đến đây, cũng không phải là vô tội, xin chúa công định đoạt .

Tề Cảnh công nói:

– Tội của họ Cao, họ Loan nặng hơn tội họ Trần, họ Bão, ta nên trừ họ Cao, họ Loan đi . Nhưng bây giờ biết sai ai cho được ?

Án Anh nói:

– Quan đại phu là Vương Hắc có thể sai được .

TỀ Cảnh công truyền cho Vương Hắc đem quân giúp họ Trần cùng họ BÃo, để đánh họ Cao và họ Loan . Cao Cương và Loan Thi đánh thua, rút lui ra đường cái . Người trong nước ghét Cao Cương và Loan Thi, đều xúm lại đánh . Cao Cương vẫn chưa tỉnh rượu, không thể đánh nổi . Loan Thi chạy ra cửa đông . Cao Cương cũng chạy theo, Vương Hắc cùng với họ Trần và họ Bão đuổi kịp đến nơi, lại cùng nhau giao chiến ở cửa đông . Quân Cao Cương và Loan Thi bỏ chạy tán loạn cả . Cao Cương và Loan Thi trốn sang nước Lỗ . Trần Vô Vũ cùng với Bão Quốc đuổi hết vợ con họ Cao và họ Loan đi, rồi chiếm lấy gia sản . Án Anh bảo Trần Vô Vũ rằng:

– Nhà người tự tiện đuổi kẻ thế thần mà lại chiếm lấy của cải, rồi thế nào người ta cũng nghị luận; sao không biết đem những của cải ấy mà nộp vào công khố, như thế có phải ai cũng bảo nhà ngươi là người có đức, sẽ có ích cho nhà ngươi về sau này nhiều lắm .

Trần Vô Vũ nói:

– Đa tạ lời ngài chỉ giáo, tôi xin vâng mệnh .

Trần Vô Vũ liền đem những của cải đã chiếm được của họ Cao và họ Loan mà biên và một quyển sổ, rồi đem dâng Tề Cảnh công . Tề Cảnh công bằng lòng . Trần Vô Vũ lại có lễ vật riêng đem dâng bà Mạnh Cơ là thân mẫu Tề Cảnh công, bà Mạnh Cơ nói với Tề Cảnh công rằng:

– Trần Vô Vũ trừ bỏ kẻ quyền thần khiến cho nước nhà được cường thịnh, mà bao nhiêu tài lợi, lại nộp vào công khố cả . Cái nhượng đức ấy thật là đánh khen! Sao không đem đất Cao Đường mà phong cho hắn ?

Tề Cảnh công theo lời . Từ đó họ Trần thành ra giàu có . Trần Vô Vũ muốn được tiếng là người tốt, mới nói với Tề Cảnh công, xin triệu các công tử về, vì các công tử khi trước bị Cao Mại đuổi, thật là vô tội . Tề Cảnh công nghe lời . Trần Vô Vũ sai người đi triệu các công tử về, phàm những mùng màn đồ đạc của các công tử và áo quần dày dép của các người hầu đều do Trần Vô Vũ xuất của nhà ra để cung đốn cả . Các công tử thấy vậy, cảm kích vô cùng . Trần Vô Vũ lại thi ân với họ nhà vua, phàm các công tử, công tôn người nào không có lương, đều xuất của nhà mà chu cấp cho . Những người ngheo khổ trong nước đến vay thóc, lúc cho vay thì đong đấu lớn, lúc đem trả thì đong đấu nhỏ; người nào cùng quá, không thể trả được thì đốt văn tự đi . Bởi vậy, người trong nước ai cũng ca tụng lòng nhân đức của Trần Vô Vũ .

Tề Cảnh công dùng Án Anh làm tướng quốc . Án Anh thấy lòng dân đều mến phục họ Trần, thường nói riêng với Tề Cảnh công và khuyên Tề Cảnh công phải mở lòng làm ơn với dân thì mới thu được nhân tâm, nhưng Tề Cảnh công không biết theo .

Lại nói chuyện Sở Linh vương khánh thành cung Chương Hoa, các vua chư hầu đến ít lắm, sau nghe nói nước Tấn khánh thành cung Từ Kỳ, chư hầu đều đến đông cả, thì có ý bất bình, mới triệu Ngũ Cửu vào để thương nghị, muốn cất quân sang đánh Trung nguyên . Ngũ Cửu nói:

– Đại vương lấy nghĩa lý triệu chư hầu, nếu chư hầu không đến thì mới nên trách, chứ lấy việc thổ mộc triệu chư hầu, mà trách chư hầu không đến thì sao cho người ta phục ? đại vương muốn đánh trung nguyên, thì nên tìm kẻ nào có tội mà đánh, mới khỏi mang tiếng .

Sở Linh vương nói:

– Ngày nay nước nào là nước có tội nên đánh ?

Ngũ Cửu nói:

– Thế tử Ban nước Sái giết cha mà cướp lấy ngôi vua, đến nay đã chín năm . Lúc đại vương mới hội chư hầu, vua Sái có đến dự hội, bởi vậy ẩn nhẫn mà không giết, nhưng những đứa loạn tặc, dẫu đến đời con cháu cũng không khỏi tội, huống chi là đang đời mình . Nước Sái lại tiếp giáp với nước Sở ta, nếu đánh Sái mà chiếm lấy đất thì nghĩa và lợi đều trọn cả đôi đường .

Ngũ Cửu nói chưa dứt lời thì có tin báo Trần Ai Công (Nịch) chết, con là công tử Lưu lên nối ngôi . Ngũ Cửu nói với Sở Linh vương rằng:

– Thế tử Yển Sư nước Trần đã có tên ở trong sổ sách của chư hầu, nay lại lập công tử Lưu, thì thế tử Yển Sư ở vào địa vị nào! cứ như ý tôi, thì tất là nước Trần lại có biến loạn.Được đề xuất cho bạn.

Chương 69: Sở Linh Vương cậy thế hùng cường – Án Bình trọn thi tài ăn nói

Trần Ai công tên là Nịch . Người chánh phi là Trịnh Cơ, sinh con là Yển Sư, đã được lập làm thế tử . Còn người thứ phi sinh ra công tử Lưu; người thứ ba sinh ra công tử Thắng . Người thứ phi khéo nịnh được yêu, khi đã sinh được công tử Lưu thì Trần Ai công yêu lắm, trong lòng những muốn cho làm thế tử, nhưng vì trót đã lập Yển Sư làm thế tử, không vì cớ gì mà bỏ được, mới lấy người em là công tử Chiêu làm thái phó, công tử Quá làm thiếu phó để giúp cho công tử Lưu, và dặn Yển Sư ngày sau phải truyền ngôi cho công tử Lưu . Năm ấy Trần Ai công ốm nặng, đã lâu không ra coi triều, công tử Chiêu bảo công tử Qúa rằng:

– Con thế tử Yển Sư là công tôn Ngô, năm nay đã lớn tuổi . Nếu thế tử Yển Sư lên nối ngôi thì tất là lập công tôn Ngô làm thế tử, bao giờ truyền đến công tử Lưu được . Nay chúa công ốm nặng, quyền chính ở trong tay chúng ta, chi bằng ta giả cách phụng mệnh chúa công giết thế tử Yển Sư đi mà lập công tử Lưu thì sau mới khỏi hối .

Công tử Qúa khen phải, liền cùng với quan đại phu là Trần Khổng Hoán thương nghị . Trần Khổng Hoán nói:

– Thế tử Yển Sư ngày nào cũng vào cung hỏi thăm chúa công ba lần, sớm tối ở bên cạnh chúa công, ta không thể nói dối được, chi bằng sai người nấp ở cửa cung, đợi khi ra vào mà đâm chết đi là hơn .

Công tử Qúa ban nhau với công tử Chiêu, rồi giao việc ấy cho Trần Khổng Hoán, và ước với Trần Khổng Hóan rằng khi đã lập công tử Lưu rồi, sẽ phong cho một ấp lớn .

Trần Khổng Hóan sai một lực sĩ tâm phúc đứng lẫn vào trong đám quân sĩ canh cửa . Quân sĩ canh cửa tưởng là người theo hầu thế tử Yển Sư, không nghi ngờ gì cả . Thế tử Yển Sư vào thăm bệnh xong, đang đêm ra đến cửa cung, người lực sĩ bèn tắt đèn, rồi đâm chết đi . Cửa cung náo loạn . Được một lúc, công tử Chiêu và công tử Quá đến, giả cách kinh sợ, một mặt sai người tầm nã quân giặc, còn một mặt nói vua Trần ốm nặng, nên lập công tử Lưu lên nối ngôi .

Trần Ai công biết chuyện, giận quá thắt cổ mà chết . Công tử Chiêu phụng công tử Lưu đứng chủ tang, rồi lập lên làm vua; lại sau quan đại phu là Vu Trưng Sư đến cáo với vua Sở là Trần Ai công ốm nặng mà chết . Bấy giờ Ngũ Cử đang đứng hầu ở bên cạnh Sở Linh vương thấy nói nước Trần đã lập công tử Lưu lên làm vua, không biết thế tử Yển Sư đi đâu, có ý nghi hoặc, bỗng nghe báo có người con thứ ba của Trần Ai công là công tử Thắng và người cháu gọi bằng chú là công tôn Ngô (con thế tử Yển Sư) xin vào yết kiến . Sở Linh vươg cho vào . Công tử Thắng và công tôn Ngô sụp lạy, khóc lóc mà nói rằng:

– Đích huynh tôi là thế tử Yển Sư bị công tử Chiêu và công tử Qúa bày mưu giết đi, để đến nỗi thân phụ tôi phải thắt cổ mà chết, rồi bọn kia lại tự tiện lập công tử Lưu lên làm vua . Chúng tôi sợ bị hại, vậy phải đem nhau sang đây để nhờ ơn qúi quốc .

Sở Linh vương hỏi Vu Trưng Sư . Vu Trưng Sư còn chối, nhưng bị công tử Thắng biện bác, không thể cãi lại được . Sở Linh vương nổi giận mà mắng rằng:

– Nhà ngươi tức là vây cánh công tử Chiêu và công tử Quá!

Nói xong truyền quân đao phủ trói lại đem ra chém . Hành hình xong, Ngũ Cử tâu rằng:

– Đại vương đã giết Vu Trưng Sư thì nên giúp công tôn Ngô để trị tội công tử Chiêu và công tử Quá, danh chính ngôn thuận, ai mà không phục . Đã dẹp yên nước Trần rồi, sẽ đến lượt nước Sái, như thế tôi chắc rằng có thể noi theo được sự nghiệp của vua Trang vương ta thuở xưa .

Sở Linh vương bằng lòng, mới đem quân sang đánh Trần . Công tử Lưu nước Trần nghe tin Vu Trưng Sư bị giết, sợ có tai vạ, không dám lên làm vua, liền trốn sang nước Trịnh . Có người bảo công tử Chiêu sao không đi theo công tử Lưu . Công tử Chiêu nói:

– Nếu quân Sở đến, ta sẽ có kế làm cho phải lui .

Sở Linh vương đem quân đến nước Trần . Người nước Trần đều thương thế tử Yển Sư chết oan, trông thấy công tôn Ngô về, ai cũng mừng rỡ, kéo nhau ra mà đón rước . Công tử Chiêu thấy việc đã nguy cấp lắm, sai người mời công tử Quá đến thương nghị . Công tử Quá đến, hỏi công tử Chiêu rằng:

– Khi trước ngài nói có kế làm cho quân Sở phải lui, chẳng hay là kế gì ?

Công tử Chiêu nói:

– Tất phải dùng một vật mới lui được quân Sở, ta muốn mượn nhà ngươi vật đó .

Công tử Quá hỏi:

– Chẳng hay vật gì ?

Công tử Chiêu nói:

– Cái đầu nhà ngươi!

Công tử Quá kinh sợ, vừa toan đứng dậy thì quân hầu xúm lại đánh chết mà chém lấy đầu . Công tử Chiêu đem đầu công tử Quá sang quân Sở, sụp lạy Sở Linh vương mà tâu rằng:

– Việc giết thế tử Yển Sư mà lập công tử Lưu, đều là công tử Quá làm . Tôi núp dưới uy của đại vương, chém đầu công tử Quá mà đem nộp, xin đại vương xá tội .

Sở Linh vương thấy công tử Chiêu nói năng khiêm tốn, đã có ý bằng lòng . Công tử Chiêu lại quỳ gần ở trước mặt, mà mật tâu rằng:

– Vua Trang vương nước Sở ngày xưa dẹp yên nước Trần, đã lấy nước Trần làm quận huyện, sau lại phong cho nước Trần, thành ra uổng công; nay công tử Lưu sợ tội bỏ trốn, nước Trần không có ai làm chủ, xin đại vương lấy làm quận huyện, chớ để cho lại về quyền họ khác .

Sở Linh vương mừng rỡ nói rằng:

– Lời nói nhà ngươi chính hợp ý ta ? nhà ngươi hãy về trước, quét dọn cung thất để đợi ta đến .

Công tử Chiêu lạy tạ rồi lui ra . Công tử Thắng nghe nói Sở Linh vương tha cho công tử Chiêu về nước, lại vào tâu với Sở Linh vương rằng:

– Việc giết thế tử Yển Sư, thủ mưu tự công tử Chiêu, đến lúc định khởi sự thì công tử Quá sai quan đại phu là Trần Khổng Hoán làm . Nay Chiêu lại đổ tội cho công tử Quá để mong được khỏi chết, như thế thì tiên quân và tiên thế tử tôi ở dưới suối vàng, sao cho được hả lòng ?

Công tử Thắng vật mình lăn khóc, quân sĩ trông thấy, ai cũng cảm động .

Sở Linh vương dỗ bảo rằng:

– Công tử chớ lo, ta sẽ liệu cách phân xử .

Ngày hôm sau, công tử Chiêu sắp sửa xa giá ra đón Sở Linh vương vào thành . Sở Linh vương ngồi ở trên triều đường, các quan văn võ đều đến yết kiến . Sở Linh vương gọi Trần Khổng Hoán đến trước mặt mà mắng rằng:

– Việc giết thế tử Yển Sư, đều bởi tay nhà ngươi, nếu không giết nhà ngươi thì sao làm gương cho kẻ khác được!

Nói xong truyền cho quân sĩ đem Trần Khổng Hoán ra chém, rồi đem đầu Trần Khổng Hoán và đầu công tử Quá bêu ở cửa thành . Sở Linh vương lại bảo công tử Chiêu rằng:

– Ta cũng mốn dung tha cho nhà ngươi, nhưng vì công luận, không thể dùng được . Nay ta tha tội chết cho, nhà ngươi phải đem ngay gia quyến ra xứ Đông Hải mà ở .

Công tử Chiêu sợ quá, không dám cãi lạ, sụp lạy rồi lui ra . Sở Linh vương sai người đem công tử Chiêu ra an trí ở nước Việt . Công tử Thắng và công tôn Ngô sụp lạy Sở Linh vương, tạ cái ơn dẹp hộ quân giặc . Sở Linh vương bảo công tôn Ngô rằng:

– Ta vẫn muốn lập nhà ngươi lên làm vua nước Trần, nhưng vây cánh công tử Chiêu và công tử Quá còn nhiều, tất lại thù oán, làm hại nhà ngươi, nhà ngươi nên theo ta về nước Sở .

Bèn truyền đổi nước Trần làm quận huyện nước Sở . Sở Linh vương thấy Xuyên Phong Thú khi trước dám tranh cái công bắt Hoàng Hiệt nước Trịnh, thế là người không siềm nịnh, mới cho Xuyên Phong Thú trấn thủ ở đó, gọi là Trần Công . Người nước Trần đều không bằng lòng . Sở Linh vương đem công tôn Ngô về nước, nghỉ quân một năm rồi mới đi đánh Sái . Ngũ Cử hiến kế rằng:

– Cái tội ác của vua Sái, nay đã lâu ngày, nếu ta đem quân hỏi tội thì hắn tất cãi lại, chi bằng ta dụ đến mà giết đi .

Sở Linh vương theo kế ấy, mới giả cách ra tuần du Thân Địa và sai người đem lễ vật sang mời Sái Linh công . Sứ nước Sở đem quốc thư đệ trình Sái Linh công, đại lược nói rằng:

“Tôi trông mong được thấy mặt nhà vua, xin mời nhà vua dời gót đến đất Thân . Theo đây, gọi là có những lễ vật nhỏ mọn để khao thưởng kẻ hầu hạ nhà vua, xin nhà vua nhận cho”.

Sái Linh công truyên sắp xa giá để đi . Quan đại phu là công tôn Quí Sinh can rằng:

– Vua Sở là người tham mà không thực, nay sai sứ tới đây, lễ nhiều nói ngọt, tất có ý dụ ta. Chúa công chớ nên đi .

Sái Linh công nói:

– Nước Sái ta không bằng một huyện của nước Sở, nếu vua Sở triệu mà ta không đi, tất người ta đem quân đến đánh, tài nào mà địch lại nổi!

Công tôn Quí Sinh nói:

– Nếu vậy xin lập thế tử rồi hãy đi .

Sái Linh công nghe lời, lập con là Hữu làm thế tử, và giao cho công tôn Qúi Sinh giúp thế tử Hữu giữ nước, rồi tức khắc đi xe sang đất Thân, xin vào yết kiến Sở Linh vương . Linh vương nói:

– Tôi cùng nhà vua biệt nhau, thấm thoát đã tám năm, mừng cho nhà vua thần sắc vẫn còn như cũ .

Sái Linh công nói:

– Nước tôi nhờ ơn đại vương mà được dự hội với chư hầu, chưa biết lấy gì đền ơn lại . Mới rồi, nghe nói đại vương đánh được nước Trần, đã toan sang mừng, chẳng ngờ đại vương lại cho sứ đến triệu, vậy tôi xin sang đây để bái yết .

Sở Linh vương bày tiệc thết đãi, hát xướng linh đình, chủ khách thù tạc rất là vui vẻ, lại sai Ngũ Cử cho các người theo hầu Sái Linh công uống rượu ở ngoài quán . Sái Linh công vui chén uống mãi thành ra qúa say . Khi SỞ Linh vướng ném chén rượu làm hiệu thì quân sĩ ở xung quanh đổ ra, trói Sái Linh công lại, mà Sái Linh công vẫn còn say rượu chẳng biết gì cả . Sở Linh vương sai người tuyên bố rằng:

“Vua Sái giết cha cướp ngôi, nay ta phải thay trời mà trị tội, còn những người theo hầu vua Sái, ai xin hàng thì có thưởng và cũng tha cho được về”.

Sái Linh công xưa nay tiếp đãi các tướng sĩ rất có ân lễ, bởi vậy các tướng sĩ không ai chịu hàng cả . Sở Linh vương truyền cho quân Sở vây kín lại rồi bắt tất cả . Bấy giờ Sái Linh công đã hơi tỉnh rượu, mới biết mình bị trói, trừng mắt nhìn Sở Linh vương mà hỏi rằng:

– Tôi có tội gì ?

Sở Linh vương nói:

– Mày giết cha cướp ngôi, thật là một đứa vô đạo, bây giờ mới chết, cũng là muộn lắm rồi!

Sái Linh công thở dài mà nói rằng:

– Tiếc thay ta không nghe lời công tôn Qúi Sinh!

Sở Linh vương truyền đem Sái Linh công nện đá cho chết, những người tuỳ tùng, dẫu đến kẻ lao dịch; đẩy xe cũng đều bị giết, cả thảy là bảy mươi người . Sở Linh vương ghi tội Sái Linh công vào một cái mộc bản, đem yết lên cho người trong nước biét, và sai công tử Khí Tật đem quân thẳng đường sang nước Sái .

Thế tử Hữu nước Sái, từ khi Sái Linh công sang Thân Địa rồi, vẫn sai người dò thám tin tức, bỗng nghe báo Sái Linh công bị giết, quân Sở sắp sang đến nơi, liền sửa soạn quân mã để phòng giữ . Quân Sở kéo đến, vây kín thành nước Sái đến hai ba vòng . Công tôn Qúi Sinh nói với thế tử Hữu rằng:

– Nước Sái ta dẫu phụ thuộc nước Sở đã lâu, nhưng khi Tấn và Sở giao ước bãi binh với nhau, tôi cũng dự vào đó, chi bằng ta sai sứ sang càu cứu nước Tấn, nước Tấn nghĩ đến lời giao ước ấy tất phải cứu ta .

Thế tử Hữu nghe lời, muốn tìm một người để sai sang sứ nước Tấn . Nguyên trong số bảy mươi người bị Sở Linh vương giết ở Thân Địa khi trước, có một người tên gọi Sái Lược, tức là thân phụ Sái Vi . Sái Vi muốn báo thù cho cha, mới nói với thế tử Hữu xin sang sứ nước Tấn . Sái Vi đang đem trèo qua thành ra, đi sang nước Tấn, vào yết kiến Tấn Chiêu công, vừa khóc vừa kể hết nông nỗi Sái Linh công bị giết . Tấn Chiêu công họp triều thần lại để thương nghị . Tuân Ngô (con Tuân Yển) nói rằng:

– Nước Tấn ta làm bá chủ thì chức trách là phải bênh vực chư hầu . Trước đã không cứu Trần, nay lại không cứu Sái thì sao gọi là bá chủ được!

Tấn Chiêu công nói:

– Vua Sở tàn bạo, nhưng binh lực ta không địch nổi thì biết làm thế nào ?

Hàn Khởi nói:

– Dẫu biết là không địch nổi, nhưng chẳng lẽ cứ ngồi yên hay sao! ta nên họp quân chư hầu mà đi đánh mới phải .

Tấn Chiêu công liền sai Hàn Khởi hội chư hầu ở đất Quyết Ngận . Tống, Tề, Lỗ, Vệ, Trịnh và Tào đều sai quan đại phu đến để dự hội . Hàn Khởi nói đến việc cứu Sái, quan đại phu các nước đều lắc đầu cả, không ai dám nhận lời . Hàn Khởi nói:

– Các ngài sợ nước Sở như thế, là muốn để mặc nước Sở cứ mỗi ngày một lấn dần như tằm ăn dâu hay sao! nếu quân Sở đánh xong Trần Sái, rồi dần dần đến các nước thì bấy giờ chúa công tôi cũng không dám bàn gì nữa!

Mọi người đều nhìn nhau, không ai trả lời . Bấy giờ quan hữu sư nước Tống là Hoa Hợi cũng dự hội . Hàn Khởi bảo Hoa Hợi rằng:

– Khi trước quna hữu sư nước Tống là Hoa Nguyên xướng nghị lên mà khiến họ Tấn và SỞ hội nhau ở nước Tống để gia ước bãi binh, nếu nước nào trái lời thì các nước cùng đánh . Nay nước Sở bội ước đánh Trần và Sái mà nhà ngươi cứ khoanh tay không nói một câu nào, thế thì không phải, là tại nước Sở thất tín, chính là tại nước ngươi khinh mạn chư hầu đó!

Hoa Hợi sỡ hãi mà đáp rằng:

– Khi nào nước tôi lại dám khinh mạn chư hầu, chẳng qua là tại nước Sở mọi rợ, không nghĩ gì đến tín nghĩa, nước tôi cũng không thể làm thế nào được . Nay các nước nghĩ quân đã lâu mà bỗng nhiên khơi sự chiến tranh thì vị tất đã thắng được Sở, chi bằng ta theo lời giao ước ấy mà sai sứ đến xin vua Sở tha cho nước Sái, chắc vua Sở không thể chối từ được .

Hàn Khởi thấy quan đại phu các nước đều sợ nước Sở, liệu việc cứu Sái không thể thành được, mới bàn viết một bức thư sai quan đại phu là Hồ Phủ sang đất Thân Địa đệ trình Sở Linh vương . Sái Hữu thấy các nước không chịu đem quân cứu Sái, khóc mà trở về . Hồ Phủ sang đến Thân Địa, vào yết kiến Sở Linh vương, đệ trình bức thư, đại lược nói rằng:

“Ngày trước hai nước Sở, Tấn hội thề ở nước Tống, có giao ước cùng nhau bãi binh, đến khi hội thề ở đất Quắc lại nhớ lại ước cũ, đã có qúi thần chứng giám . Chúa công tôi cùng chư hầu noi theo lời giao ước ấy, không dám gây việc chiến tranh . Nay Trần, Sái có tội, quí quốc đem quân đi đánh, dẫu bởi việc nghĩa, nhưng chẳng qua cũng là tòng quyền . Chư hầu thấy đã giết được tội nhân rồi, mà việc binh hãy còn chưa bãi, đều đến trách chúa công tôi sao không biết bênh vực những kẻ hèn yếu, chúa công tôi lấy làm xấy hổ lắm, nhưng vẫn chưa dám cất quân, là vì sợ trái lời giao ước, vậy phải sai tôi là Hàn Khởi, cùng với quan đại phu các nước, đưa bức thư này, xin đại vương tha cho nước Sái . Nếu đại vương nghĩ đến lời giao ước mà để cho nước Sái được toàn vẹn thì chẳng những là người nước Sái mà chúa công tôi và các nước đồng minh đều cám ơn đại vương lắm”.

Cuối bức thư, quan đại phu các nước đều ký tên cả . Sở Linh vương trông thấy cười mà nói rằng:

– Ta đã sắp phá vỡ được nước Sái mà các ngươi muốn đem một câu nói lại đến giải vây, coi ta như đứa trẻ con hay sao! nhà ngươi về nói lại cho vua Tấn biết: Trần Sái là nước phụ thuộc của ta, không phiền các nước phương bắc phải trông nom hộ .

Hồ Phủ toan cố ý nàn xin thì Sở Linh vương đứng dậy trở vào, cũng không viết thư hồi đáp . Hồ Phủ căm tức mà trở về . Vua tôi nước Tấn dẫu giận nước Sở nhưng cũng không biết làm thế nào . Sái Hữu về đến nước Sái, bị quân Sở bắt được, giải đến nộp công tử Khí Tật . Công tử Khí Tật bắt hiếp Sái Hữu phải đầu hàng . Sái Hữu không chịu, Khí Tật bèn đem giam ở hậu quân . Công tử Khí Tật biết quân Tấn không đến cứu, lại càng cố sức đánh thành nước Sái .

Công tử Qúi Sinh nói với thể tử Hữu rằng:

– Bây giờ việc đã nguy cấp rồi, tôi xin liều mình sang dinh quân Sở để xin quân Sở rút về, nếu quân Sở nghe cho thì dân ta không đến nỗi tàn hại .

Thế tử Hữu nói:

– Công việc trong thành, trông cậy ở một tay đại phu, sao đại phu nỡ bỏ tôi mà đi .

Công tôn Qúi Sinh nói:

– Nếu thế tử không bằng lòng cho tôi đi thì con tôi là Triều Ngô, có thể sai đi được .

Thế tử Hữu gọi Triều Ngô đến, khóc mà sai đi . Triều Ngô vào yết kiến công tử Khí Tật . Công tử Khí Tật tiếp đãi tử tế . Triều Ngô nói:

– Công tử đem quân đánh nước tôi, nước tôi chắc thế nào cũng mất, nhưng chưa được rõ là vì tội gì ? nếu vì tội tiên quân tôi thất đức thì thế tử nước tôi có tội gì ? tôn xã nước tôi có tội gì ? xin công tử thương mà xét cho .

Công tử Khí Tật nói;

– Ta cũng biết nước Sái không đáng phải tuyệt diệt, nhưng ta phụng mệnh vua SỞ sang đây, nếu không thành công thì tất phải chịu tội .

Triều Ngô nói:

– Tôi còn có một câu nữa, xin đuổi hết người xung quanh, cho tôi được nói .

Công tử Khí Tật nói;

– Nhà ngươi cứ noi, người xung quanh ta không hề chi cả .

Triều Ngô nói:

– Vua Sở lên ngôi, không do đường chính, công tử hẳn cũng đã biết . Phàm người biết nghĩ, ai là không giận . Nay lại trong làm khổ dân về việc thổ mục, ngoài là khổ dân về việc can qua, lòng tham không chán, năm trước diệt Trần, năm sau lừa Sái . Công tử không nghĩ đến thù vua mà lại ra sức để giúp, tôi e rằng đến khi ta vạ, chắc là công tử cũng phải chịu một phần . Công tử vốn có tiếng là người hiền hậu, sáng suốt, lại có cái điềm đương bích, người nước Sở ai cũng muốn cho công tử lên làm vua; nay công tử đem quân quay về mà trị tội kẻ giết vua hại dân ấy thì còn ai dám chống lại với công tử nữa . Chẳng hơn là thờ một ông vua vô đạo, mà mua oán với thiên hạ hay sao! nếu công tử nghe lời tôi, thì tôi xin đem quân nước tôi đi làm tiên phong giúp công tử .

Công tử Khí Tật nổi giận, nói:

– Đứa thất phu kia, dám đem lời nói khéo để chia rẽ vua tôi nước ta, tội đáng chém chết, nhưng ta hay gửi cái đầu ở trên cổ nhà ngươi đó, cho nhà ngươi về truyền báo thế tử Hữu mau mau ra hàng đi thì còn được toàn tính mệnh!

Công tử Khí Tật truyền quân sĩ đuổi Triều Ngô ra . Nguyên khi trước Sở cung vương có một người thiếp yêu, sinh được năm con: con trưởng là Hùng Chiêu, tức là Sở Khang vương; người thứ hai là Vi, tức là Sở Linh vương; người thứ ba là Tị, tên tự là Tử Can; người thứ tư là Hắc Quang, tên tự là Tử Tích; còn người thứ năm là công tử Khí Tật . Trong năm người con ấy, Sở Cung vương muốn chọn một người để lập làm thế tử mà chưa biết lập ai, muốn tế các thần, rồi chôn một viên ngọc bích ở giữa ở trong sân nhà thái miếu, đánh dấu chỗ chôn rồi đến canh năm cho năm người con vào yết tổ, xem người nào đứng làm lễ đúng vào chỗ chôn ngọc bích, thì người ấy được qủi thần chọn làm vua . Khang vương vào trước, đứng cách ngọc bích xa lắm . Công tử Khí Tật bấy giờ tuổi hãy còn nhỏ, người vú ẵm vào lễ đứng chính giữa ở trên ngọc bích, Sở Cung vương biết là có thần giúp, bởi vậy rất yêu công tử Khí Tật . Khi Sở Cung vương chết, công tử Khí Tật hãy còn nhỏ, thành ra Khang vương lên nối ngôi, nhưng các quan đại phu nước Sở nghe thấy việc chôn ngọc bích ấy, ai cũng biết rằng về sau công tử Khí Tật tất lên làm vua .

Bấy giờ Triều Ngô nước Sái nói đến cái điềm “đương bích”, công tử Khí Tật sợ lời nói ấy truyền bá ra thì tất Sở Linh vương ghen ghét, vậy nên giả cách đuổi Triều Ngô ra, Triều Ngô trở vào trong thành, thuật lại lời nói của công tử Khí Tật cho thế tử Hữu nghe . Thế tử Hữu nói:

– Làm vua thì phải vì nước mà chết, đó là lẽ chính, ta đây dẫu chưa nối ngôi, nhưng cũng là phụng mệnh giữ nước, thì cũng nên vì nước mà liều mình, chẳng hơn chịu cúi đầu làm nô lệ mà thờ kẻ cừu địch hay sao!

Thế tử Hữu nói thế, rồi lại càng cố sức chống với quân Sở . Thành nước Sái bị vây từ tháng bảy mùa hạ, đến tháng mười một mùa đông, công tôn Qúi Sinh mệt nhọc thành bệnh, nằmg không dậy được . Trong thành lương hết, chết đói mất quá nửa . Quân Sở trèo lên mặt thành đông như đàn kiến, liền phá vỡ thành nước Sái . Thế tử Hữu đành ngồi mà chịu trói . Công tử Khí Tật vào thành phủ dụ nhân dân, rồi bắt thế tử Hữu và Sái Hựu giải về nộp Sở Linh vương, còn Triều Ngô vì có câu nói “đương bích” mà được tha . Chưa được bao lâu, công tôn Quí Sinh chết, Triều Ngô mới theo công tử Khí Tật .

Bấy giờ Sở Linh vương đã về Sính Đô nằmg mộng thấy một người vào yết kiến, tự xưng là thần Cửu Cương sơn, bảo Sở Linh vương rằng:

– Nhà ngươi tế ta, ta cho nhà ngươi được thiên hạ!

Khi SỞ Linh vương tỉnh dậy, mừng lắm, liền sắp xa giá ra Cửu Cương sơn nhân gặp công tử Khí Tật báo tin đã diệt được nước Sái . Sở Linh vương toan giết thế tử Hữu để tế thần . Thân Vô Vũ can rằng:

– Ngày xưa, Tống Tương công giết vua Tắng để tế thần Thư Thuỷ mà chư hầu làm phản, đại vương chớ nên theo điều dở ấy .

SỞ Linh vương nói:

– Thế tử Hữu là con một người có tội, ta cũng coi như là giống súc sinh mà thôi .

Thân Vô Vũ lui ra, thở dài mà nói rằng:

– Đại vương bạo ngược như vậy thì toàn vẹn làm sao cho được!

Thân Vô Vũ liền cáo lão về làm ruộng . Sái Vi thấy thế tử Hữu bị giết, thương khóc trong ba ngày . Sở Linh vương cho là trung, rồi tha tội và thu dụng . Sái Vi nghĩ đến cha là Sái Lược khi trước cũng bị Sở Linh vương giết, vẫn còn nuôi lòng báo thù bảo Sở Linh vương rằng:

– Các nước theo Tấn mà không theo Sở, là vì Tấn gần mà Sở xa, nay đại vương đã đánh được Trần, Sái, tiếp giáp với trung nguyên nếu đắp thành cho cao rộng, rồi đặt thêm quân để thị uy với chư hầu thì nước nào không phải sợ . Bấy giờ tiến sang đánh Ngô và Việt, trước tự phía đông nam, sau đến phía tây bắc, tôi chắc có thể thay nhà Chu mà làm thiên tử được .

Sở Linh vương nghe nói bằng lòng, từ bấy giờ mới có ý tin dùng Sái Vi . Rồi truyền đắp thành ở Trần, Sái, cao rộng thêm ra, lại cho công tử Khí Tật trấn thủ ở nước Sái, để đền lại cái công diệt Sái . Lại đắp hai cái thành ở phía đông và phía tây, gọi là Bất Lang thành, để giữ chỗ hiểm yếu của nước Sở . Sở Linh vương cho rằng thiên hạ không nước nào cường thịnh bằng nước Sở, chẳng bao lâu nước Sở sẽ thu được cả thiên hạ, mới gọi quan thái bốc vào để bói xem bao giờ thì được làm thiên tử . Quan thái bốc nói:

– Nhà vua đã xưng vương tức là thiên tử rồi, còn bói làm gì ?

Sở Linh vương nói:

– Nay còn có nhà Chu thì Sở ta chưa phải là vương thật; có lấy được hết thiên hạ mới thật là vương .

Quan thái bốc hơ mai rùa để bói . Tự nhiên mai rùa vỡ . Quan thái bốc nói:

– Thế này là việc không thành!

Sở Linh vương cầm mai rùa ném xuống đất, rồi vùng vằng đứng dậy mà kêu to lên rằng:

– Trời ơi! trời tiếc gì mà không cho ta được thiên hạ! nếu vậy thì trời sinh ta làm gì !

Sái Hựu tâu rằng:

– Việc cốt tại người, chứ cái xương khô ấy biết gì!

Sở Linh vương bằng lòng . Chư hầu thấy nước Sở cường thịnh, đều có ý sợ hãi, sai sứ đến triều cống . Quan đại phu nước Tề là Án Anh (tên tự là Bình Trọng) phụng mệnh Tề Cảnh công sang sứ nước Sở . Sở Linh vương bảo triều thần rằng:

– Án Anh mình không đầy năm thước, mà chư hầu đều khen là người giỏi . Nay các nước chỉ có Sở ta là cường thịnh hơn cả, ta muốn làm cho Án Anh phải sỉ nhục, để nâng cao cái uy của nước Sở, các ngươi thử nghĩ xem có kế gì ?

Quan thái tể là Viễn Khải Cương mật tâu rằng:

– Án Anh là người tài ứng đối, tất phải dùng nhiều cách mới sỉ nhục được hắn .

Viễn Khải Cương liền đem mưu kế nói với Sở Linh vương . Sở Linh vương nghe lời . Đêm hôm ấy, Viễn Khải Cương đem quân ra khoét một cái lỗ nhỏ ở bên cửa đông, vừa vặn độ năm thước, rồi truyền cho quân canh cửa, đợi khi nào sứ nước Tề đến thì đóng chặt cửa giữ lại, rồi bảo chui qua cái lỗ nhỏ ấy mà vào . Được một lúc, Án Anh mặc áo cừu rách, đi cái xe xấu và con ngựa gầy, đến cửa đông, trông thấy cửa thành đóng, liền dừng xe lại, sai người gọi cửa . Quân canh cửa trỏ vào cái lỗ nhỏ ở bên cạnh mà bảo Án Anh rằng:

– Ngài đi qua cái chỗ ấy, cũng rộng rãi chán, cần gì phải mở cửa!

Án Anh nói:

– Đó là chỗ chó chui, chứ không phải chỗ người đi . Có sang sứ nước chó thì mới vào cửa chó, chứ sang sứ nước người thì tất phải đi cửa người .

Quân canh cửa đem lời nói ấy phi báo với Sở Linh vương . Sở Linh vương nói:

– Ta muốn dỡn hắn, ai ngờ lại bị hắn dỡn lại!

Nói xong truyền mở cửa thành cho Án Anh vào . Án Anh vào trong thành, thấy có một toán xa kỵ, người nào cũng to lớn lực lưỡng và rậm râu, tay cầm một ngọn giáo thật dài, trông như vị thiên thần, đến đón Án Anh, có ý muốn tỏ rõ Án Anh là người thấp lùn bé nhỏ, Án Anh nói:

– Ta sang sứ hôm nay là vì việc giao hiếu, chứ không phải là muốn gây việc chiến tranh, dùng làm chi những kẻ vũ sĩ ấy!

Án Anh nói xong bão vũ sĩ đứng ra một bên, rồi giục xe thẳng tới cửa triều . Ngoài cửa triều có hơn mười viên quan, đều mũ cao áo dài, đứng sắp hàng hai dãy . Án Anh xuống xe, chắp tay vái chào . Trong hàng các quan, có một viên trẻ tuổi hỏi Án Anh rằng:

– Ngài có phải là Án Bình Trọng, người ở đất Di Duy (tức là Lai Địa) đó không ?

Án Anh nhìn xem ai thì tức là con Đấu Vi Qúi, tên gọi Đấu Thành Nhiên, hiện đang làm quan giao doãn . Án Anh đáp rằng:

– Phải! chính tôi đó! chẳng hay ngài định dạy điều gì ?

Đấu Thành Nhiên nói:

– Nước Tề, kể từ đời Thái công thuở xưa, vốn là một nước cường thịnh, sao từ khi Hoàn công mất đi rồi, trong nước nhiều loạn, tranh cướp lẫn nhau, hết bị Tấn đánh, lại bị Tống đánh . Vua Tề ngày nay, cũng chẳng kém gì Hoàn công, mà cái hiền đức của ngài phỏng có thua gì Quản Trọng (tức là Quản Di Ngô), sao ngài không biết giúp vua Tề để chấn hưng cơ nghiệp cũ, mà chịu cúi đầu thờ nước lớn như đám nô bộc, thật tôi không hiểu ra làm sao!

Án Anh đáp rằng:

– Có biết thời thế mới gọi là tuấn kiệt, có thông cơ biến mới gọi là anh hào . Từ khi nhà Chu suy, Tề và Tấn làm bá chủ ở Nam Man, dẫu bởi có nhân tài, nhưng chẳng qua cũng là do khí vận . Kìa như Tấn Tương công và Tần Mục công cường thịch biết bao mà sau cũng phải hèn yếu; nước Sở từ khi vua Trang vương mất đi, cũng thường bị quân Tấn và quân Ngô đến đánh, cứ gì một nước Tề! chúa công tôi hiểu lẽ ấy, cho nên vẫn luyện tập quân mã để đợi thời; nay sai tôi sang đây là theo lễ giao hiếu với lân quốc, sao gọi là nô bộc được ? ngài có phải là dòng dõi Tử Văn đó không ? Tử Văn khi xưa là một bậc danh thần ở nước Sở, biết thời thế, thông cơ biến, mà sao lời nói của ngài nghe trái với Tử Văn nhiều lắm!

Đấu Thành Nhiên thẹn đỏ mặt lên, cúi đầu lui ra . Được một lúc, trong hàng bên tả lại có người hỏi Án Anh rằng:

– Án Bình Trọng tự phụ là người biết thời thế, thông cơ biến, nhưng trong khi Thôi Trữ và Khán Phong nổi loạn, thì triều thần nước Tề, tử Giải Cử trở xuống, bao nhiêu tử tiết, Trần Văn Tử cũng bỏ cả cơ nghiệp mà đi . Ngài là thế gia nước Tề, đã không dám đánh giặc, cũng không biết tử tiết, còn bo bo giữ lấy danh vị làm chi!

Án Anh nhìn xem ai thì tức là quan thượng đại phu nước Sở, tên gọi Dương Mang, tên tự là Tử Hà . Án Anh đáp rằng:

– Người có tiết lớn thì không cần những điều nhỏ mọn, người biết lo xa thì không nghĩ đến những sự tầm thường . Ông vua vì nước mà chết thì bề tôi nên chết theo, nay vua Trang công tôi không phải vì nước mà chết, những người chết theo, toàn là vì tình riêng, tôi dẫu hèn mạt, có đâu dám liều chết để mua lấy cái hư danh ấy! vả bề tôi gặp lúc trong nước có nạn không thể làm gì được thì mới nên bỏ đi, tôi không đi là để lập vua mới mà giữ lấy nước, chứ có phải là vì tham danh vị đâu! huống chi việc biến loạn, nước nào chẳng có, ngài chắc các quan triều thần nước Sở đều là những người một lòng tử tiết cả hay sao!, sao ngài chỉ biết trách người mà không biết trách mình ?

Dương Mang nín lặng không đáp được nữa . Bỗng thấy trong hàng bên hữu lại có một người ra hỏi Án Anh rằng:

– Ngài nói là ngài muốn lập vua mới để giữ lấy nước, câu nói ấy có ý khoe khoang quá! trong khi họ Thôi và họ Khánh giết nhau, họ Trần và họ Bão tranh quyền nhau, chẳng thấy ngài có mưu kế gì lại cả, nếu quả ngài có lòng báo quốc thì sao lại như thế!

Án Anh cười mà nói rằng:

– Ngài biết điều ấy, nhưng chưa biết điều khác! lúc bấy giờ, tôi ở liền bên cạnh chúa công, tôi bày mưu lập kế, để giữ yên nước nhà, những kẻ bàng quan tài nào biết rõ được ?

Trong hàng bên tả lại có một người ra bảo Án Anh rằng:

– Đại trượng phu gặp thời, đã có đại tài lược, tất có đại qui mô! tôi xem ra thì ngài khó lòng mà tránh khỏi được cái tiếng bỉ lận .

Án Anh nhìn xem ai thì là quan thái tể nước Sở tên gọi Viên Khải Cương . Án Anh nói:

– Tại sao ngài lại biết là tôi bỉ lận ?

Viễn Khải Cương nói:

– Thân danh ngài làm tướng quốc thì mũ áo và xe ngựa, tưởng cũng nên trang sức để tỏ cái ân huệ của vua, cớ sao lại mặc áo cừu rách, cưỡi con ngựa gầy, mà đi xứ nước ngoài như vậy, chẳng lẽ lương ăn không đủ hay sao ? tôi nghe nói cái áo cừu của ngài, may từ thuở bé, đã ba mươi năm nay không thay; mà mỗi khi tế lễ, ngài dùng con lợn nhỏ quá, đến nỗi vai lợn không chật mâm, như thế không phải bỉ lận là gì!

– Án Anh vỗ tay cười rầm lên mà nói rằng:

– Sao kiến thức của ngài thiển cận như vậy! tôi từ khi làm tướng quốc đến giờ, suốt trong họ hàng nhà tôi đều được mặc áo đẹp, ăn miếng ngon, không ai phải đói rét; những nguời hàn sĩ nhờ tôi mà được ấm no, cả thẩy đến hơn bảy mươi nhà, thế thì muốn tỏ cái ân huệ của vua, còn gì bằng điều ấy!

Án Anh nói chưa dứt lời thì trong hàng bên hữu lại thấy có một người trỏ tay vào mặt Án Anh mà cười vừa nói:

– Tôi nghe nói vua Thành Thang mình cao chín thước là bậc hiền vương, Tử Trang sức địch muôn người là bậc danh tướng . Nay ngài mình thấy không đầy năm thước, sức yếu không tròi nổi một con gà, chỉ nghề bẻo lẻo mồm miệng, tự phụ là tài gỉoi, tôi tưởng nên lấy làm xấu hổ lắm mới phải!

Án Anh nhìn xem ai thì tức là cháu công tử Chân, tên gọi Nang Ngoã, tên tự là Tử Thường, hiện đang làm chức xa hữu . Án Anh tủm tỉm cười mà đáp rằng:

– Tôi nghe nói cái quả cân dẫu nhỏ, bao giờ cũng đè được nghìn cân; cái chèo dẫu dài, bao giờ cũng ngâm ở dưới nước . Trương Địch người cao mà bị giết ở Lỗ, Nam Cung Trường vạn sức khỏe mà bị giết ở Tống; túc hạ mình dài sức khỏe, có lẽ cũng giống hai người ấy . Tôi biết thân không có tài cái gì, nhưng hỏi thì phải nói, sao ngài lại chê là bẻo lẻo mồm miệng ?

Nang Ngoã không biết nói thế nào nữa . Bỗng nghe báo cáo quan lệnh doãn và Viễn Bái đến . Các quan đều sắp hàng đứng đợi . Ngũ Cử mời Án Anh vào triều, rồi bảo các quan đại phu rằng:

– Án Bình Trọng là hiền sĩ nước Tề, sao các ngài lại nói quá như vậy ?

Được một lúc Sở Linh vương ra ngự triều . Ngũ Cử đưa Án Anh vào yết kiến . Sở Linh vương trông thấy Án Anh liền hỏi rằng:

– Nước Tề quả thật không có người hay sao ?

Án Anh nói:

– Người nước Tề tôi, hà hơi thì thành ra mây, vẩy mồ hôi thì thành ra mưa, đi thì phải chen vai, đứng thì phải chen chân, sao gọi là thiếu người ?

Sở Linh vương nói:

– Thế thì sao lại sai tiểu nhân sang sứ nước ta ?

Án Anh nói:

– Nước tôi vẫn có lệ: người hiền sang sứ nước hiền, người ngu sang sứ nước ngu, đại nhân sang sứ đại quốc, tiểu nhân sang sứ tiểu quốc . Tôi là tiểu nhân, bất tài bất đức, vậy mới phụng mệnh sang sứ nước Sở .

Sở Linh vương nghe nói có ý hổ thẹn, nhưng trong lòng lấy làm lạ . Gặp bấy giờ có người ở ngoại thành đem dâng hộp hoan quất (quít). Sở Linh vương vỗ tay cười ầm lên mà bảo rằng:

– Người nước Tề dễ thường không ăn quít bao giờ! cớ sao lại không bóc vỏ ?

Án Anh nói:

– Cứ theo trong lễ thì vua đưa cho quả gì, bề tôi cũng không được bóc võ mà quẳng đi . Nay đại vương đưa cho tôi, cũng như là chúa công tôi đưa cho tôi vậy . Đại vương không truyền cho bóc võ, nên tôi phải ăn cả .

Sở Linh vương bất giác kính phục, mời ngồi uống rượu . Được một lúc, có ba bốn vũ sĩ giải một tên tù đi qua dưới thềm . Sở Linh vương nói:

– Tên tù ấy người ở đâu ?

Vũ sĩ tâu:

– Người nước Tề .

Sở Linh vương hỏi:

– Phạm tội gì ?

Vũ sĩ tâu :

– Tội ăn trộm .

Sở Linh vương ngảnh lại bảo Án Anh rằng:

– Người nước Tề dễ thường quen tính ăn trộm hay sao!

Án Anh biết là Sở Linh vương cố ý bày ra chuyện ấy để chế nhạo mình, mới đáp lại rằng:

– Tôi nghe nói giống quít ở xứ Giang Nam, đem sang trồng ở xứ Giang bắc thì hóa ra chua, là tại thổ nghi không giống nhau . Nay người nước Tề, khi ở nước Tề thi không ăn trộm, khi sang Sở thì hóa ra ăn trộm, thế là tại thổ nghi nước Sở, chứ có tại gì người nước Tề!

Sở Linh vương nín lặng hồi lâu rồi nói rằng:

– Ta định chế nhạo nhà ngươi, chẳng ngờ lại bị nhà ngươi chế nhạo!

Bèn tiếp đãi Án Anh rất trọng thể, cho đến khi về nước Tề . Tề Cảnh công khen công Án Anh, tôn làm thượng tướng, ban cho một cái áo câu giá nghìn lạng vàng, lại muốn phong thêm thái ấp cho nữa, nhưng Án Anh đều từ chối cả . Tề Cảnh công lại muốn lam cho Án Anh một cái nhà mới . Án Anh cũng cố xin thôi .

Một hôm, Tề Cảnh công ra chơi nhà, trông thấy vợ Án Anh, mới hỏi Án Anh rằng:

– Đó là nội tử của khanh đấy à ?

Án Anh tâu rằng:

– Phải!

Tề Cảnh công cười mà nói rằng:

– Chao ôi! già mà xấu lắm! ta có đứa ái nữ, trẻ mà đẹp, để ta gả cho khanh .

Án Anh nói:

– Lúc trẻ trung, người ta lấy mình, là mong lúc già nua có thể nhờ vả được; vợ tôi dẫu già mà xấu, nhưng khi nào tôi nỡ phụ!

Tề Cảnh công khen rằng:

– Vợ con chẳng nỡ phụ, huống chi là vua!

Từ bấy giờ Tề Cảnh công có lòng tin cậy Án Anh lắm.